TLBB pt16

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Mãng Thương Đạp Tuyết Hành

Vi vu tuyết thổi mịt mùng,

Ngổn ngang tâm sự biết cùng ai đây.

*

* *

Tiêu Phong đi được khoảng trên mười dặm, thấy bên cạnh đường có một cái miếu nhỏ liền đi vào trong điện, ngồi dựa lưng vào tường đánh một giấc đến hơn hai giờ, bao nhiêu mệt mỏi đều tiêu tan, lại tiếp tục đi về hướng bắc. Đi thêm bốn chục dặm nữa đi đến nơi cửa ải quan yếu của miền bắc là Trường Đài quan. Việc đầu tiên là đi kiếm một quán rượu gọi ngay mười cân rượu trắng, hai cân thịt bò, một con gà quay, một mình ngồi ăn uống. Hết mười cân rồi lại gọi thêm năm cân nữa, còn đang uống dở bỗng nghe tiếng bước chân

một người nào đó đi vào, chính là A Tử. Tiêu Phong nghĩ thầm: Con bé này đến làm mình uống rượu mất hết cả hứng thú. Ông quay mặt đi làm như không nhìn thấy. A Tử mỉm cười, đến ngồi ngay trước bàn đối diện với ông, gọi lớn:

- Điếm gia, điếm gia, đem rượu lên đây!

Một tên hầu bàn vội vàng chạy đến cười nói:

- Tiểu cô nương, cô cũng uống rượu sao?

A Tử mắng liền:

- Cô nương là cô nương, hà cớ gì lại phải thêm một chữ tiểu? Ta sao lại không uống rượu được? Mau đem lên cho ta mười cân rượu trắng trước, sau đó lấy thêm năm cân, còn đồ nhắm lấy hai cân thịt bò, một con gà quay, mau, mau!

Tên tửu bảo le lưỡi một hồi, kêu lên:

- ối mẹ ơi! Cô nương nói thật hay nói chơi, còn bé thế này làm gì mà ăn nhiều vậy?

Y vừa nói vừa liếc Tiêu Phong, nghĩ thầm: Cô nương này đang châm chọc ông đó, ông uống gì cô ta uống nấy, ông ăn gì cô ta gọi nấy. A Tử đáp:

- Ai bảo ta còn bé? Bộ ngươi không có mắt hay sao? Hay là ngươi sợ ta ăn uống không tiền trả?

Nói xong lấy một đĩnh bạc trong túi ra, cạch một tiếng vứt ngay lên trên bàn, nói:

- Ta uống không hết, ăn không hết, cho chó ăn không được hay sao? Việc gì đến ngươi mà phải lôi thôi?

Tên hầu bàn cười nịnh đáp:

- Dạ! Dạ!

Y lại liếc Tiêu Phong một cái nghĩ thầm: Cô này quả là định gây chuyện, nói bóng nói gió để chửi ông đó. Chỉ một chốc đồ ăn thức uống đã dọn lên, gã tửu bảo đem một cái bát lớn đặt ngay trước mặt cô gái cười nói:

- Cô nương, để tôi rót rượu cho cô nhé!

A Tử gật đầu nói:

- Hay lắm!

Tên tửu bảo liền rót cho cô gái một bát rượu đầy, trong bụng nghĩ thầm: Cô mà uống hết bát rượu này, không lăn quay ra sàn nhà thì mới là lạ. A Tử hai tay bưng bát rượu lên, để vào môi nhắp một ngụm, nhăn mặt nói:

- Cay quá, cay quá! Liệt tửu này khó uống quá. Trên đời này nếu không có mấy đứa ngu xuẩn chịu uống thì rượu các ngươi bán được cho ai?

Người hầu bàn liếc trộm Tiêu Phong một cái, thấy ông trước sau mặc kệ không lý đến không khỏi cười thầm. A Tử lại xé hai chiếc đùi gà, cắn một miếng nói:

- Xì, thịt gì ươn quá!

Tên tửu bảo liền cãi lại:

- Con gà béo ngậy thơm nức mũi thế này, mới sáng nay còn kêu cục cục, thịt mới nguyên nóng sốt, sao lại ươn được?

A Tử nói:

- Hừ, thế thì chắc người mi hôi, hoặc giả khách khứa trong tửu điếm này hôi.

Khi đó ngoài trời bông tuyết đang rơi, trên đường nào có ai, trong quán rượu này chỉ có Tiêu Phong và cô nàng là hai người khách. Tên tửu bảo vội cười:

- Thân thể tôi hôi hám đó, đương nhiên là người tôi hôi rồi. Cô nương ăn nói nên cẩn thận kẻo vô ý mích lòng người khác.

A Tử đáp:

- Thế thì đã sao? Mích lòng người ta không lẽ một chưởng đánh chết ta chăng?

Nói xong cầm đũa gắp một miếng thịt bò, cắn một miếng, chưa kịp nhai đã nhổ toẹt xuống sàn, kêu lên:

- ối trời, sao thịt bò gì chua thế, cái này đâu phải thịt bò mà là thịt người. Các ngươi bán thịt người, bộ đây là hắc điếm hay sao?

Tên tửu bảo quýnh quáng vội nói:

- Chao ôi, cô nương làm ơn làm phước đừng có la ầm lên thế. Thịt này là thịt bò tươi, sao lại bảo là thịt người? Thịt người làm gì mà thớ to như thế? Làm gì mà đỏ au như thế này?

A Tử nói:

- Giỏi nhỉ, ngươi biết cả màu sắc lẫn thớ thịt người. Ta hỏi ngươi, quán của các ngươi giết bao nhiêu người rồi?

Gã hầu bàn gượng cười đáp:

- Gớm sao cô nương này thích nói bông lơn quá. Trường Đài quan phủ Tín Dương là một thị trấn lớn, chúng tôi mở quán đã trên sáu chục năm, làm gì có chuyện giết người bán thịt bao giờ?

A Tử nói:

- Được rồi, giả tỉ như không phải thịt người thì cũng giống gì hôi rình, chỉ có mấy đứa khùng mới chịu ăn. ối chà, giày ta đi trời tuyết sao dơ quá chừng.

Nói rồi cô ta liền cầm một miếng thịt bò xào đang còn bốc hơi thơm phức, chà lên giày bên trái. Mũi giày vốn đầy những bùn bị cô ta quệt đi, một nửa bên liền sạch bùn đất, mỡ màng xoa lên lập tức bóng lộn. Gã tửu bảo thấy cô gái dùng miếng thịt mà đại sư phụ nơi nhà bếp đã dụng công nấu nướng để chùi giày, tiếc hùi hụi, đứng một bên mà luôn mồm suýt soa. A Tử hỏi:

- Ngươi suýt soa gì thế?

Tên hầu bàn đáp:

- Thịt bò xào của tiểu điếm xưa nay vẫn được coi là một tuyệt phẩm của Trường Đài trấn, chung quanh đây một trăm dặm, ai ai nghe tiếng cũng giơ ngón tay cái lên ca ngợi, nuốt nước miếng ừng ực, vậy mà cô nương lại đem dùng chùi giày, cái đó ... cái đó ...

A Tử trừng mắt nhìn y hỏi:

- Cái đó làm sao?

Gã tửu bảo đáp:

- Xem chừng coi nhẹ quá.

A Tử nói:

- Ngươi bảo ta coi nhẹ đôi giày ư? Thịt cũng ở con bò mà ra, da đóng giày cũng ở con bò mà ra, có bên nào nhẹ hơn bên nào đâu. Này, quán đây còn món gì ngon đặc biệt nữa? Nói cho ta nghe thử xem nào.

Tên tửu bảo đáp:

- Món đặc biệt thì dĩ nhiên là có. Có điều giá cả không phải rẻ.

A Tử lấy trong túi ra một thỏi bạc, quăng xuống bàn kêu cạnh một tiếng hỏi lại:

- Bây nhiêu đủ không?

Tên hầu bàn thấy đĩnh bạc đó nặng phải đến năm lượng, dẫu đến hai mâm rượu thịt cũng đủ, vội vàng cười nịnh:

- Đủ chứ, đủ chứ, quá đủ là khác! Những món đặc biệt của tiểu điếm, có cá chép nấu rượu, thịt cừu non xắt lát, thịt heo hầm tương ...

A Tử cướp lời:

- Được lắm, mỗi thứ làm cho ta ba tô.

Tên tửu bảo nói:

- Cô nương nếu muốn nếm thử, chắc là mỗi thứ gọi một tô cũng đủ ...

A Tử mặt sầm xuống nói:

- Ta bảo ba tô là ba tô, việc gì đến ngươi?

Gã hầu bàn vội đáp:

- Dạ, dạ!

Lập tức dài giọng ngân nga kêu xuống:

- Cá chép nấu rượu ba tô! Cừu non xắt lát ba tô ...

Tiêu Phong ở bên cạnh thản nhiên ngồi xem, biết tiểu cô nương này gây chuyện làm phiền gã hầu bàn, cốt để cho mình ở ngoài chõ vào can thiệp nên cứ làm như không nghe không thấy, thản nhiên uống rượu thưởng tuyết. Một hồi sau, thịt cừu bốc hơi nghi ngút bưng lên, A Tử nói:

- Để một bát ở đây, một bát đem qua mời vị gia đài ngồi bên còn một bát nữa để nơi bàn kia. Bên đó cũng dọn đũa bát, để sẵn rượu ngon cho ta.

Tên hầu bàn bèn hỏi:

- Bộ có khách sắp đến hay sao?

A Tử trừng mắt nhìn y nói:

- Ngươi sao lắm lời, coi chừng ta cắt lưỡi ngươi đó.

Gã tửu bảo le lưỡi, đùa lại:

- Muốn cắt lưỡi tiểu nhân chỉ e cô nương không đủ bản lãnh.

Tiêu Phong thót ruột, liếc y một cái nghĩ thầm: Bộ ngươi muốn tìm cái chết hay sao? Sao dám ăn nói kiểu đó với con tiểu ma đầu này? Tửu bảo mang thịt cừu lên đặt trên bàn Tiêu Phong, ông chẳng nói chẳng rằng cầm đũa gắp ăn. Lại một lát sau, cá chép nấu rượu, thịt heo kho tương cũng đem lên, mỗi thứ ba tô, một tô đưa cho Tiêu Phong, một tô cho A Tử, còn một tô để riêng một bàn bên cạnh. Tiêu Phong hễ thấy đồ ăn đem tới đều không từ chối, lập tức ăn uống tự nhiên. A Tử mỗi bát chỉ gắp một miếng rồi chê:

- Hôi quá, thịt rữa cả rồi, chỉ đáng cho chó ăn.

Vừa nói vừa cầm thịt cừu, cá chép, thịt heo đem ra chùi giày. Tên hầu bàn tuy sót ruột thật nhưng đành chịu, biết làm sao. Tiêu Phong trông ra ngoài cửa sổ, nghĩ thầm: Con tiểu ma đầu này quả là đáng ghét, để nó lẽo đẽo theo mình thì hậu hoạn không biết đâu lường được. A Châu gửi ta lo cho nó, con này thuộc loại quỉ thành tinh, thị lo cho mình thừa sức, chẳng cần đến mình phải lo. Chi bằng mình tránh trước là hơn, cứ làm như không thấy. Còn đang nghĩ ngợi, bỗng thấy từ xa trên con đường đầy tuyết một người đi tới. Trời đang mùa đông tháng giá vậy mà y chỉ phong phanh một chiếc áo chùng đơn bằng vải gai màu vàng, tưởng chừng không biết lạnh là gì. Chỉ chốc lát đã đến gần, thấy y chừng bốn mươi tuổi, hai tai đeo hai cái vòng lớn bằng vàng sáng choang, mồm rộng mũi to như mũi lân, hình dáng vừa dữ dằn vừa ngụy bí, hiển nhiên không phải người Trung Thổ. Người đó đi tới trước cửa quán, vén màn bước vào chợt thấy A Tử hơi có vẻ ngạc nhiên nhưng lập tức tỏ ra vui mừng, dường như định nói gì lại thôi, rồi ngồi xuống cái bàn bên cạnh. A Tử nói:

- Có rượu thịt, sao không ăn đi?

Người kia thấy một chiếc bàn bỏ không nhưng bày đầy thức ăn liền nói:

- Để dành cho ta đấy ư? Đa tạ sư muội.

Nói xong đi đến bàn đó ngồi xuống, lấy trong túi ra một chiếc dao nhỏ, cán vàng, cắt thịt bò ra, lấy tay nhón ăn, ăn vài miếng lại uống một bát rượu, tửu lượng xem ra không dở. Tiêu Phong nghĩ thầm: Thì ra gã này cũng là học trò của Tinh Tú Lão Quái. Ông vốn không ưa hình mạo cử chỉ của người kia, nhưng thấy y uống rượu cũng khá nên cảm thấy không đến nỗi hoàn toàn đáng ghét. A Tử thấy y uống cạn một hồ rượu rồi, quay sang nói với gã tửu bảo:

- Lấy chỗ rượu này đem qua cho vị gia đài kia.

Nói xong thò hai tay vào trong bát rượu trước mặt, xoa xoa vài cái, rửa sạch dầu mỡ dính trên tay, sau đó đẩy cái bát ra. Gã hầu bàn nghĩ thầm: Rượu này còn uống thế nào được nữa?. A Tử thấy có vẻ ngần ngại không dám bưng bát rượu đi liền giục:

- Mau bưng qua bên kia, người ta đang đợi.

Gã tửu bảo cười:

- Cô nương có nói chơi không chứ rượu này làm sao uống nữa?

A Tử vênh mặt lên nói:

- Ai bảo là không uống được? Ngươi cho là tay ta dơ phải không? Đã vậy, ngươi uống một hớp, ta cho ngươi một đĩnh bạc.

Nói xong thò tay vào túi lấy ra một đĩnh bạc nhỏ chừng một lượng, quẳng xuống bàn. Tên hầu bàn mừng quá nói:

- Uống một hớp được một lượng bạc, thế thì tốt quá. Chẳng nói rượu này cô nương rửa tay qua, mà dẫu có nước rửa chân, tiểu nhân cũng uống.

Nói xong bưng bát rượu lên, nốc ngay một ngụm lớn. Ngờ đâu rượu vào trong mồm thật chẳng khác nào một cục sắt nung đỏ chạm vào lưỡi, gã tửu bảo rát quá chịu không nổi, rống lên một tiếng há hốc mồm, rượu phun tung tóe, hai chân nhảy chồm chồm, kêu toáng lên:

- ối mẹ ơi! Trời ơi là trời! ối mẹ ơi!

Tiêu Phong thấy thần tình y như vậy cũng giật mình kinh hãi, thấy tiếng kêu của y càng lúc càng ú ớ khó nghe hiển nhiên đầu lưỡi đã sưng tấy lên rồi. Trong quán từ chưởng quĩ đến đầu bếp chính, đứa quạt lò, cùng những tên hầu bàn khác nghe tiếng kêu đều chạy ra, hỏi rối rít:

- Cái gì thế? Cái gì thế?

Tên tửu bảo hai tay ôm mặt, không còn nói năng gì được nữa, lè lưỡi ra, thấy sưng to bằng ba lần bình thường, màu đen kịt. Tiêu Phong lại càng hoảng hốt: Đây là y bị trúng độc cực mạnh. Con tiểu ma đầu này chỉ nhúng ngón tay vào trong rượu một chốc mà rượu đã độc đến như thế. Mọi người thấy đầu lưỡi của gã hầu bàn quái lạ như vậy ai cũng kinh hoàng, nhốn nháo cả lên:

- Trúng phải chất độc gì vậy?

- Có phải bị rết cắn không?

- Trời ơi, không thể chần chờ, mau mau đi mời thầy thuốc.

Tên tửu bảo giơ tay chỉ A Tử, đột nhiên chạy đến trước mặt cô ta, quì xuống rập đầu lạy như tế sao. A Tử cười nói:

- ấy chết! Ta không dám nhận, ngươi cầu xin ta chuyện gì?

Người hầu bàn ngẩng lên, chỉ chỉ vào miệng mình, rồi lại tiếp tục khấu đầu. A Tử cười hỏi:

- Muốn ta trị cho ngươi, có phải không?

Tên tửu bảo đau đến toát mồ hôi hột, hai tay cào vào người liên tiếp, lại tiếp tục rập đầu, rồi chắp tay vái. A Tử thò tay vào bọc, lấy ra một chiếc dao nhỏ cán vàng, giống hệt chiếc dao của gã mũi lân, một tay nắm sau gáy tên tửu bảo, tay phải múa kim đao, soẹt một tiếng nhỏ đã cắt đứt một khúc lưỡi của y. Người chung quanh thất thanh kêu la, thấy máu tên hầu bàn phun ra như suối, y kinh hãi nhưng máu chảy ra rồi, độc tính liền giảm hẳn, bao nhiêu đau đớn trên đầu lưỡi đều hết ngay, chỉ trong giây lát vết sưng liền xẹp xuống. A Tử lại lấy trong túi ra một chiếc bình nhỏ, mở nắp ra, dùng móng tay khều một chút bột vàng, búng lên đầu lưỡi tên tửu bảo, máu nơi vết thương liền chảy chậm lại. Tên tửu bảo tuy tức lắm nhưng không dám nổi giận, tạ ơn thì không đành lòng, vẻ mặt cực kỳ ngượng nghịu, chỉ ú ớ:

- Ngươi ... ngươi ...

Đầu lưỡi y đã bị cắt một khúc, nói năng không còn rõ ràng. A Tử thò tay cầm lại đĩnh bạc, cười nói:

- Ta bảo ngươi uống một hớp rượu sẽ cho ngươi một lượng bạc, nhưng vừa rồi ngươi đã nhổ rượu ra rồi, thành thử không tính, ngươi uống lại đi.

Gã hầu bàn xua tay liên tiếp, ú ớ nói:

- Ta ... ta không muốn, ta không uống.

A Tử bỏ đĩnh bạc vào túi, cười nói:

- Thế hồi nãy ngươi bảo sao? Hình như là Muốn cắt lưỡi tiểu nhân ư? Chỉ e cô nương không đủ bản lãnh, có phải không? Thế sao ngươi lại lạy lục ta xin ta cắt lưỡi? Ta hỏi ngươi: Cô nương có đủ bản lãnh không?

Tên tửu bảo bấy giờ mới hiểu ra, tất cả mọi việc chẳng qua chỉ vì mình lỡ lời một câu, trong lòng giận đến cực độ, toan xông lên đánh cho cô nàng một trận nhừ đòn, nhưng hai bàn bên cạnh, bàn nào cũng có một người đàn ông cao to hùng tráng, xem ra cùng bọn với cô ta nên cũng khiếp. A Tử lại tiếp:

- Thế ngươi có chịu uống không?

Gã hầu bàn giận dữ đáp:

- Ông ... ông không ...

Y toan chửi mấy câu nhưng chợt nghĩ lại e rằng lại làm cho cô ta nổi nóng, vừa giận vừa sợ, quay mình chạy vào nội đường, không dám thò đầu ra nữa. Bọn chưởng quĩ ai nấy xôn xao, hầm hầm nhìn A Tử rồi quay trở về chỗ làm, sai một gã tửu bảo khác ra tiếp khách. Tên này thấy tình cảnh vừa rồi, run như cầy sấy, một câu cũng không dám hở môi. Tiêu Phong cực kỳ tức tối: Tên tửu bảo kia chẳng qua chỉ nói đùa một câu, vậy mà ngươi trừng trị y đến chung thân tàn phế, từ nay không còn nói năng rõ ràng được. Mới tí tuổi đầu, hành sự sao lại độc ác đến thế. Chỉ nghe A Tử nói:

- Tửu bảo, đem bát rượu này qua cho vị gia đài kia uống.

Nói xong giơ tay chỉ vào gã mũi lân. Gã hầu bàn thấy nàng chỉ vào bát rượu, giật nảy mình, đến khi thấy nàng bảo đem qua cho người khác uống, lại càng khiếp vía. A Tử cười nói:

- à, đúng rồi. Ngươi không chịu đem rượu cho khách uống, chắc là muốn tự mình uống chứ gì? Có gì không được, ngươi cứ việc uống đi.

Tên tửu bảo sợ đến mặt xám ngoét, ấp úng:

- Không, không! Tiểu nhân ... tiểu nhân không uống!

A Tử nói:

- Vậy thì mau đem đi.

Tên tửu bảo đáp:

- Vâng! Vâng!

Hai tay trịnh trọng bưng bát rượu, lập cập đi qua bàn bên gã mũi lân ngồi, chỉ sợ sóng sánh đổ ra ngoài, tay run rẩy, lúc bát rượu đặt xuống vẫn còn lạch cạch mãi. Gã mũi lân hai tay bưng bát rượu lên, chăm chăm nhìn, còn cách miệng chừng một thước thì ngừng lại không đem tới gần hơn nữa, cũng không để lại trên bàn. A Tử cười nói:

- Nhị sư ca, sao thế? Tiểu muội mời sư ca uống rượu, sao sư ca nể mặt chút nào?

Tiêu Phong nghĩ thầm: Bát rượu này độc ghê gớm, người này đương nhiên không để bị khích mà bỏ mạng lãng nhách. Nội công dù cao cường cách mấy cũng khó mà kháng cự lại được chất độc trong rượu này. Ngờ đâu gã mũi lân vẫn chăm chăm nhìn thêm một lát rồi đưa bát lên môi, ùng ục ùng ục uống vào ruột. Tiêu Phong kinh ngạc, nghĩ thầm: Người này không lẽ có nội lực cực kỳ thâm hậu, có thể hóa giải chất kịch độc đó?. Còn đang kinh nghi đã thấy y uống cạn bát rượu, để bát xuống bàn, tiện tay chùi hai ngón tay cái lên vạt áo. Tiêu Phong hơi suy nghĩ, hiểu ngay: Đúng rồi, trước khi y uống rượu đã thò hai ngón tay vào, cầm chén một hồi chưa uống, chắc là ngón tay có thuốc giải, hóa tán kịch độc trong rượu. A Tử thấy y uống hết chỗ rượu độc rồi vẻ mặt liền hoảng hốt, gượng cười nói:

- Bản lãnh hóa độc của nhị sư ca tiến bộ thật, quả đáng mừng!

Gã mũi lân không đáp, lại hùng hục ăn uống nhồm nhoàm, chỉ một chốc đồ ăn trên bàn mười phần còn một hai, giơ tay vỗ bụng, đứng lên nói:

- Thôi đi!

A Tử đáp:

- Xin sư ca tự tiện, chúng mình sẽ gặp lại sau.

Tên mũi lân trợn tròn đôi mắt quái dị nói:

- Cái gì mà gặp lại sau? Ngươi phải đi theo ta.

A Tử lắc đầu:

- Tiểu muội không đi.

Cô ta chạy sang bàn Tiêu Phong nói:

- Tiểu muội và vị đại ca này có hẹn trước, phải cùng nhau đi Giang Nam một chuyến.

Gã mũi lân trừng trừng nhìn Tiêu Phong, hỏi lại:

- Thằng cha này là ai?

A Tử đáp:

- Cái gì mà thằng cha với chả thằng mẹ? Sư ca phải nói năng cho lễ phép. Đây là anh rể của tiểu muội, còn tiểu muội là em vợ của anh ấy, hai người là chỗ chí thân.

Gã mũi lân nói:

- Ngươi ra đề mục ta đã làm văn rồi, ngươi phải vâng lời ta. Ngươi định vi phạm môn qui của bản môn chăng?

Tiêu Phong nghĩ thầm: Thì ra khi A Tử bảo y uống rượu độc, ấy ra ra một thai đố, có ngờ đâu y ngang nhiên tiếp nhận. A Tử đáp:

- Ai bảo là tiểu muội ra đề mục? Sư ca bảo chuyện uống rượu ấy à? Ha ha, cười đến chết được, bát rượu đó là để cho gã tửu bảo uống. Còn đường đường môn hạ Tinh Tú phái, lẽ đâu lại đi uống rượu thừa của một tên hầu bàn? Tên tửu bảo dơ dáy kia uống không chết, sư ca lại uống nữa thì có gì là ghê gớm? Tiểu muội hỏi sư ca, tên xú tửu bảo kia có chết không? Không chứ gì? Đến hạng người đó uống còn được, lẽ nào đề mục lại dễ dàng đến thế?

Câu nói đó quả là cãi chầy cãi cối nhưng muốn vặn lại cô ta cũng không phải dễ. Gã mũi lân cố nén giận nói:

- Sư phụ ra lệnh cho ta dẫn ngươi về, ngươi dám chống lại sư môn chăng?

A Tử cười đáp:

- Sư phụ cưng em lắm, xin nhị sư ca về bẩm lại với sư phụ là tiểu muội trên đường gặp ông anh rể, muốn cùng đi Giang Nam chơi một chuyến, tiện thể tìm mua biếu sư phụ ít món châu báu cổ vật, sau đó sẽ về.

Gã mũi lân lắc đầu:

- Không được, ngươi lấy của sư phụ ...

Nói đến đây y liếc Tiêu Phong dò chừng, dường như sợ tiết lộ chuyện cơ mật, ngừng lại một chút nói tiếp:

- Sư phụ nổi cơn lôi đình, bảo ngươi phải về ngay lập tức.

A Tử năn nỉ:

- Nhị sư ca đã biết sư phụ nổi giận rồi sao còn ép tiểu muội phải trở về, có phải định cho em nếm mùi khổ sở hay sao? Lần sau sư phụ trách mắng nhị sư ca, tiểu muội sẽ không xin xỏ giùm cho đâu nhé!

Câu đó dường như khiến cho gã mũi lân chạnh lòng, lập tức tỏ ra do dự ắt hẳn Tinh Tú Lão Quái có chiều sủng ái cô ta, nói gì sư phụ cũng chiều theo. Y trầm ngâm giây lát nói:

- Nếu ngươi bướng bỉnh không chịu quay về thì đưa cái vật đó cho ta. Ta đem về giao hoàn cho sư phụ để làm bằng, có thế cơn giận của lão nhân gia mới hạ xuống.

A Tử nói:

- Sư huynh nói chi? Cái vật đó là vật gì? Tiểu muội chẳng hiểu gì cả.

Gã mũi lân sầm mặt xuống nói:

- Này sư muội, ta không động thủ mạo phạm ngươi vì nghĩ đến tình nghĩa đồng môn, ngươi phải biết phải biết quấy chứ?

A Tử cười đáp:

- Tiểu muội đương nhiên biết phải biết quấy, sư ca đến ăn nhậu với tiểu muội, cái đó là phải; còn sư ca ép ta quay về gặp sư phụ, cái đó là quấy.

Gã mũi lân nói:

- Vậy ngươi muốn sao? Nếu ngươi không giao lại cái vật đó thì theo ta về.

A Tử đáp:

- Ta không về, cũng chẳng hiểu sư ca nói cái gì. Sư ca muốn có cái gì trên người tiểu muội chăng? Được rồi ...

Nói xong rút trên tóc một cái trâm cài nói:

- Nếu sư ca muốn có vật gì làm tin để giao lại cho sư phụ thì cầm cái châu thoa này vậy.

Gã mũi lân hầm hè:

- Ngươi nhất định ép ta phải ra tay hay sao?

Nói xong y liền tiến lên một bước. A Tử thấy y thản nhiên uống cạn bát rượu độc, bản lãnh sử độc so với mình cao hơn nhiều, đến cả nội lực võ công, không môn gì mình có thể địch với y được. Phái Tinh Tú võ công âm độc tàn ác, đã ra tay là không có nể nang gì, địch nhân trúng đòn không chết cũng trọng thương, bị thương rồi còn phải bị biết bao dày vò, lúc chết thật là thảm khốc. Sư huynh đệ trừ khi tranh đoạt vị thứ cao thấp trong môn phái phải đem tính mạng ra đánh đổi, trước nay không bao giờ cùng nhau sách chiêu luyện quyền vì đã sách chiêu là có hơn thua, đã phân hơn thua ắt có kẻ chết. Thành thử trong đám sư phụ đệ tử với nhau không ai thi diễn công phu bao giờ. Tinh Tú Lão Quái truyền thụ yếu quyết luyện công xong, ai nấy tự mình tu luyện, cao thấp sâu nông chỉ một

mình mình biết, chỉ đến khi đối địch mới biết ai mạnh ai yếu. Cứ theo đúng môn qui của phái Tinh Tú cô ta đã đem độc tửu ra để thử tài đồng môn, ấy là một chuyện hết sức quan trọng, nếu gã mũi lân chịu thua thì mọi sự đều phải để nàng sai khiến, còn đây không do dự uống bát rượu độc vào bụng, nếu A Tử không có cách gì phản bại vi thắng, thì phải nhất nhất nghe lời y, nếu không sẽ bị cái họa sát thân ngay. Cô nàng thấy sự tình gấp gáp, vội nắm tay áo Tiêu Phong, kêu lên:

- Tỉ phu ơi, y định giết em kìa! Tỉ phu cứu em với.

Tiêu Phong thấy cô ta đầu một tiếng tỉ phu, cuối một tiếng tỉ phu, không khỏi thảng thốt, nghĩ đến lời trối trăn của A Châu nên định bụng sẽ đánh đuổi gã mũi lân đi. Thế nhưng vừa ngó qua thấy trên máu me đầy mặt đất, nhớ lại A Tử đối phó với tên hầu bàn độc ác như thế, phải để cho cô nàng chịu ít nhiều đau khổ, bị trừng trị một phen cho đáng kiếp, nên vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ làm như không biết. Gã mũi lân cũng chẳng muốn hạ sát thủ với A Tử, chỉ muốn cô ta biết mình ghê gớm cỡ nào, mất vía một phen mà ngoan ngoãn theo mình về, lập tức vươn tay phải ra chộp ngay cổ tay trái Tiêu Phong. Tiêu Phong thấy vai phải của y hơi chuyển động, biết ngay y định xuất thủ đánh mình, cũng chẳng thèm để ý, để cho y chộp cổ tay. Da cổ tay ông vừa chạm vào vào tay y, liền thấy nóng như than, biết ngay lòng bàn tay đối phương có tẩm thuốc độc, vội vàng vận chân khí lên cổ tay, cười nói:

- Cái gì thế? Các hạ muốn uống rượu với ta chăng?

Ông đưa tay rót hai bát rượu nói:

- Xin mời!

Gã mũi lân liên tiếp vận nội lực nhưng thấy Tiêu Phong vẫn như không, làm như không hay biết gì cả, nghĩ thầm: Ngươi đừng đắc ý vội, rồi coi độc chưởng của ta ghê gớm cỡ nào. Y bèn nói:

- Uống thì uống, có gì không dám?

Y cầm bát rượu lên, uống ngay một ngụm lớn. Ngờ đâu rượu vào đến cổ họng, đột nhiên một luồng nội tức từ trong ngực dội ngược trở lên, nhịn không nổi Oa lên một tiếng, bao nhiêu rượu phun ra hết khiền cho vạt áo trước ướt đầm đìa, sau đó ho sặc sụa một hồi lâu. Việc xảy ra khiến y kinh hãi thất sắc, nội tức nghịch lưu rõ ràng là do nội lực của đối phương truyền vào thân thể mình, nếu như muốn lấy mạng mình thật dễ như trở bàn tay. Y kinh hãi vội buông tay Tiêu Phong ra. Ngờ đâu cổ tay Tiêu Phong như có một sức hút thật mạnh, bàn tay y dính chặt vào đó, không cách nào thoát ra được. Gã mũi lân sợ quá, dùng sức dãy dụa, Tiêu Phong ngồi yên không động đậy mà y vẫn chẳng khác gì lay cột đá. Tiêu Phong lại rót bát rượu khác nói:

- Vừa rồi lão huynh chưa uống rượu, vậy uống cạn bát này đi rồi chúng ta sẽ chia tay, được chăng?

Gã mũi lân lại cố gắng giựt tay về nhưng không cách nào thoát được, tay trái liền nhắm ngay mặt Tiêu Phong đánh ra một chưởng. Chưởng lực chưa đến, Tiêu Phong đã ngửi thấy một mùi tanh tưởi thối tha chẳng khác gì một con cá chết sình, tay phải liền nhẹ nhàng vung lên gạt ra. Chưởng đó gã mũi lân sử dụng toàn lực, ngờ đâu thế đánh đi được nửa chừng, bị đẩy xéo đi, không cách gì có thể thu về được, biết ngay đối phương đã mượn sức khiến cánh tay y không thể nào điều khiển được nữa, đẩy tới đánh mạnh vào vai phải của chính mình, chỉ nghe lốp cốp, khớp xương vai đã bị trật ra rồi. A Tử cười nói:

- Sao nhị sư ca tự đánh mình mạnh như thế, chẳng nhân nhượng gì cả? Tiểu thật muội không hiểu có dụng ý gì?

Gã mũi lân tức giận đến cực điểm, khổ nỗi bàn tay phải dính cứng vào cổ tay Tiêu Phong rồi, không sao thoát ra được, tay trái đâu đám đánh tiếp, giãy dụa lần thứ ba không thoát, bèn thúc đẩy nội lực, truyền chất độc súc tích trong lòng bàn tay vào cơ thể đối phương. Ngờ đâu luồng nội lực đó vừa đến cổ tay địch nhân, lập tức bị dội ngược trở về, lại không chỉ ngừng lại tại thủ chưởng, mà vẫn tiếp tục chạy lên khiến gã cực kỳ kinh hãi vội vàng vận nội lực đề kháng. Thế nhưng luồng nội lực chứa đầy chất độc đó thật chẳng khác nào sóng biển tràn vào sông, chỉ khoảnh khắc đã đến khuỷu tay, rồi chạy thẳng lên nách, từ từ đổ vào lồng ngực. Gã mũi lân làm gì chẳng biết chất độc của mình lợi hại là nhường nào, chỉ cần xâm nhập tâm tạng là chết ngay, khiến y sợ đến mồ hôi đổ ra như tắm, nhỏ tong tỏng xuống sàn nhà. A Tử cười nói:

- Nội công nhị sư ca cao cường thật. Trời đông giá rét thế này, vậy mà vẫn mồ hôi mồ kê đầm đìa, tiểu muội thật bội phục hết sức.

Gã mũi lân còn thì giờ đâu mà để ý tới câu nói châm chọc của A Tử, biết mình đường cùng nhưng chẳng lẽ bó tay chịu chết, càng hết sức thúc đẩy nội lực, hi vọng giữ lâu thêm được chút nào hay chút ấy. Tiêu Phong nghĩ thầm: Người này với mình không thù không oán, tuy y ra tay hạ độc thủ với mình trước nhưng cũng chẳng cần giết y làm gì!. Đột nhiên ông thu nội lực về. Gã mũi lân thấy sức hút nơi tay mình không còn nữa, nội lực cùng chất độc đang kề bên tâm tạng lập tức chảy ngược về chưởng tâm, vừa mừng vừa sợ, vội vàng lùi lại hai bước, mặt tái mét không còn giọt máu, thở hồng hộc, nhưng không dám tiến đến gần Tiêu Phong. Y mới rồi chết đi sống lại, thực đúng là đến quỉ môn quan lại quay về. Gã tửu bảo hoàn toàn nào có biết gì, vội đến rót rượu cho y. Gã mũi lân tung ra một chưởng, đánh trúng ngay mặt y, gã hầu bàn chỉ kêu lên được một tiếng, ngã ngửa ra. Tên mũi lân liền chạy vọt ra cửa, chạy thẳng về hướng tây nam, rồi nghe một hồi còi thật mơ hồ, thật sắc nhọn từ xa truyền đến. Tiêu Phong lại coi gã tửu bảo thấy mặt y đen sì, chỉ giây lát đã chết ngay, không khỏi nổi cơn thịnh nộ, quát lên:

- Tên này quả là đáng ghét, ta đã tha mạng cho y, cớ sao lại ra tay giết người?

Ông đẩy bàn toan đuổi theo. A Tử kêu lên:

- Tỉ phu, tỉ phu, ngồi xuống đã, để tiểu muội nói cho nghe.

Nếu như A Tử chỉ gọi ông Này, hay Kiều bang chủ, Tiêu đại ca gì đó, Tiêu Phong cũng chẳng thèm nghe đâu, thế nhưng hai tiếng tỉ phu khiến ông nhớ đến A Châu, lòng chua xót hỏi lại:

- Cái gì?

A Tử đáp:

- Nhị sư ca không phải đáng ghét đâu, y ra tay không đả thương được anh, chất độc không thể tán phát, không giết một người không được.

Tiêu Phong biết trong võ công tà phái có một môn gọi là tán độc, chất độc tụ vào bàn tay rồi, nếu không tống được vào địch nhân thì cũng phải đánh con bò con ngựa gì đó, giết chết một con vật, nếu không chất độc chạy ngược trở vào mình, bèn nói:

- Nếu muốn tán độc, sao y không kiếm một con vật mà đánh? Sao lại vô duyên vô cố giết người là sao?

A Tử liếc xác người hầu bàn nằm dưới đất, cười nói:

- Những kẻ ngu độn như thế có khác gì bò ngựa, giết y với giết một con vật cũng vậy thôi.

Cô ta thuận miệng nói ra như một chuyện đương nhiên là thế. Tiêu Phong cảm thấy lạnh người: Con bé này tính tình tàn nhẫn quá, mình lo cho nó làm gì?. Ông thấy người trong quán lại chạy ra, không muốn thêm phiền phức, vội lẻn ra khỏi cửa tiệm chạy về hướng bắc. Ông nghe thấy tiếng bước chân A Tử đuổi theo, lại càng gia tăng cước bộ, chỉ nhảy mấy bước đã bỏ cô ta thật xa, bỗng nghe tiếng A Tử uyển chuyển từ xa vọng tới:

- Tỉ phu ơi, đợi em với, em ... em không theo kịp.

Lúc trước Tiêu Phong đối diện nói chuyện với cô ta, thấy thần tình cử chỉ cô nàng sinh bụng chán ghét, lúc này nghe từ phía sau gọi tới, nghe êm ái chẳng khác gì giọng A Châu lúc sinh thời. Hai người chị em cùng một bọc tuy mới sinh ra đã chia tay, nhưng cùng cha cùng mẹ, nên cách ăn nói, giọng điệu cũng hệt nhau. Tiêu Phong trong lòng rung động, dừng chân quay đầu lại, mắt rưng rưng thấy mờ mờ hình ảnh một thiếu nữ trên tuyết địa chạy tới, thật không khác gì A Châu sống lại. Ông giang cánh tay ra, thốt lên tiếng gọi nho nhỏ:

- A Châu! A Châu!

Chỉ trong giây lát, ông tưởng chừng mình và A Châu đang từ Nhạn Môn Quan quay về Trung Nguyên, đường đi hai người thân mật, má tựa vai kề, rồi một thân hình mềm mại ấm áp sà vào lòng, kêu lên:

- Tỉ phu, sao không đợi em?

Tiêu Phong giật mình choàng tỉnh, giơ tay nhè nhẹ đẩy nàng ra nói:

- Ngươi đi theo ta làm chi?

A Tử nói:

- Tỉ phu đánh đuổi nhị sư ca giúp em, em phải tạ ơn chứ?

Tiêu Phong thản nhiên nói:

- Chẳng cần phải cảm ơn. Cũng chẳng phải ta có ý giúp ngươi mà vì y ra tay đánh ta, ta chỉ tự vệ để khỏi chết dưới tay y.

Nói xong lại quay người bước đi. A Tử chạy lên nắm cánh tay ông, Tiêu Phong hơi nghiêng người, A Tử liền chộp hụt, lỡ trớn ngã xoài về phía trước. Cứ như võ công cô ta ắt có thể tự mình đứng lên được, thế nhưng cô nàng được dịp nhõng nhẽo, ngã xuống rồi, liền nằm luôn trên tuyết, kêu lên:

- ối chao! Đau muốn chết được!

Tiêu Phong biết cô ta giả vờ, nhưng nghe giọng kiều mị của A Tử, trong lòng lại nhớ đến A Châu, cảm thấy thật là êm ái, lập tức quay người, đưa tay nắm cổ áo nàng kéo dậy, thấy cô gái đang mủm mỉm cười. A Tử nói:

- Tỉ phu ơi, chị em xin anh lo lắng cho em, sao anh không nghe lời chị ấy? Em chỉ là một cô gái nhỏ, cô khổ lênh đênh, biết bao nhiêu người định hiếp đáp em, sao anh không ngó ngàng gì tới?

Mấy lời đó nghe thật là thiết tha Tiêu Phong biết là mười phần đến chín là giả dối nhưng vẫn thấy mềm lòng hỏi lại:

- Ngươi theo ta thì được gì? Ta trong lòng u uất, không thiết gì nói chuyện với ai. Ngươi làm chuyện sái quấy thì ta lại ngăn cản.

A Tử đáp:

- Tỉ phu trong lòng u uất có tiểu muội đi theo giúp anh giải sầu, dần dần chẳng khuây khỏa hơn sao? Mỗi khi tỉ phu uống rượu, em sẽ rót rượu cho, khi nào thay quần áo ra, tiểu muội sẽ may vá giặt giũ. Nếu tiểu muội làm gì sai có tỉ phu ngăn cản thì còn gì hơn. Tiểu muội từ bé cha mẹ đã không thèm nuôi, không ai dạy dỗ, việc gì cũng không thông ...

Nói đến đây cô nàng dường như nghẹn ngào, ứa nước mắt. Tiêu Phong nghĩ thầm: Chị em cô này quả là có thiên tài đóng kịch, tài nghệ đánh lừa người khác đã đến mức lô hỏa thuần thanh, thật là cao minh. Cũng may ta đã biết cô ta hành sự độc ác, nên không để mắc mưu. Cô ta định theo mình không biết có mưu tính gì? Hay là sư phụ cô ta sai đến ám hại ta chăng? Ông cảm thấy hơi chột dạ: Hay là kẻ đại cừu của ta có liên quan đến Tinh Tú Lão Quái? Có khi chính là y không chừng?. Nhưng ông lại nghĩ ngay: Tiêu Phong đường đường nam tử, không lẽ lại sợ một đứa con gái nhỏ lén hạ độc thủ hay sao? Chi bằng tương kế tựu kế, cứ cho nó theo để xem nó còn giở trò gì, đâu biết chừng nhờ có nó mà mình báo được mối thù. Ông liền nói:

- Nếu đã thế, ngươi cùng đi với ta. Mình nói trước với nhau, nếu như ngươi giết người đánh người càn rỡ thì ta không tha đâu nhé.

A Tử le lưỡi nói:

- Nếu như người ta hại em trước thì sao? Nếu như người em giết là kẻ xấu thì sao?

Tiêu Phong nghĩ thầm: Con nhãi con này giảo hoạt lắm, nếu như nó ra tay giết người thể nào chẳng mồm năm miệng mười bảo là người ta đánh nó trước, đối phương rõ ràng là người ngay, nó sẽ bảo là nhận lầm. Ông bèn nói:

- Dù xấu hay tốt ngươi cũng chẳng phải lo đến. Nếu như ngươi đi cùng với ta thì không ai làm gì được ngươi cả, nói đi nói lại, ngươi tuyệt đối không được động thủ với ai.

A Tử vui mừng nói:

- Được rồi, tiểu muội quyết không động thủ, chuyện gì cũng do tỉ phu chống đỡ hết.

Nói rồi thở dài:

- Ôi, anh bất quá chỉ là anh rể mà đã quản thúc em chặt chẽ đến thế. Chị em nếu không chết mà lấy phải anh, chắc còn bị giám sát chặt chẽ đến chừng nào?

Tiêu Phong nổi giận, toan lớn tiếng la rầy một phen nhưng lại cảm thấy đau lòng, thấy ánh mắt A Tử lóe ra đầy vẻ tinh quái, tự hỏi: Mình nói thế sao con bé này lại có vẻ hả hê vậy nhỉ?. Ông nhất thời chưa nghĩ ra nên không để bụng nữa, hăng hái bước đi, được chừng một dặm mới chợt nghĩ ra: Chết rồi! Chắc là cô ta có đại đối đầu, đại cừu nhân đang định gây chuyện nên đánh lừa để cho mình nhận lời bảo vệ cho. Mình bảo Nếu như ngươi đi cùng với ta thì không ai làm gì được ngươi cả thì có nghĩa là nhận lời trông nom cô ả rồi. Thực ra không cần biết cô ta đúng hay sai, dẫu mình chẳng nói ra chăng nữa thì một khi đã ở bên cạnh mình, mình lẽ nào lại để cô ả bị lép vế". Đi thêm một dặm nữa, A Tử nói:

- Tỉ phu ơi! Để em hát cho tỉ phu nghe, được chăng?

Tiêu Phong đã có chủ ý: Dù cô nàng có ý định gì mình cũng nhất định không nghe. Mình càng gắt gao cô ta càng có lợi. Ông bèn đáp:

- Không được.

A Tử nói:

- Thế em ra câu đố để tỉ phu đoán, được chăng?

Tiêu Phong đáp:

- Không được.

A Tử nói:

- Vậy tỉ phu kể chuyện vui cho em nghe, được chăng?

Tiêu Phong đáp:

- Không được.

A Tử nói:

- Vậy tỉ phu hát cho em nghe, được chăng?

Tiêu Phong đáp:

- Không được.

Cô ta liên tiếp hỏi đến mười bảy, mười tám câu liền, Tiêu Phong không cần nghĩ ngợi đều nhất nhất cự tuyệt. A Tử lại nói:

- Vậy em chẳng thổi địch cho tỉ phu nghe, được chăng?

Tiêu Phong thuận mồm đáp:

- Không được.

Hai tiếng đó vừa buột mồm liền biết ngay mình nói hớ, cô ta hỏi là Vậy em chẳng thổi địch cho tỉ phu nghe, được chăng? mà lại trả lời Không được, thì hóa ra là mình bắt nàng phải thổi sáo rồi. Ông nói rồi cũng không để ý nữa, nếu ngươi muốn thổi sáo thì cứ thổi đi. A Tử thở dài nói:

- Cái gì cũng không chịu, thật khó chiều quá, nếu nhất định bắt em phải thổi sáo thì cũng đành phải chiều.

Nói xong rút trong tút ra một chiếc địch bằng ngọc. Cái ngọc địch đó ngắn lạ lùng, chỉ dài chừng bảy tấc, toàn thân trắng tinh, bóng lộn thật đẹp đẽ. A Tử đưa lên môi, nhẹ nhàng thổi, một âm thanh sắc nhọn truyền ra thật xa. Mới rồi gã mũi lân bỏ đi, cũng có phát ra một tiếng còi lanh lảnh như thế. Tiếng sáo vốn dĩ nhẹ nhàng êm ái nhưng tiếng từ chiếc địch ngọc này nghe thật thê lương, không có vẻ gì vui thú. Tiêu Phong chỉ hơi suy nghĩ đã biết ngay lý do, trong bụng cười khẩy: Đúng rồi, thì ra ngươi ước định đồng đảng, mai phục chung quanh đâu đây, định tập kích ta, Tiêu mỗ lẽ nào lại sợ cái bọn hồ quần cẩu đảng này? Có điều không có gì thích lắm. Ông biết môn hạ Tinh Tú Lão Quái võ công cực kỳ âm độc, nếu chỉ sơ sẩy một chút là trúng ám toán ngay. Chỉ nghe tiếng địch của A Tử lúc thì cao, lúc thì thấp, như heo bị cắt tiết, như ma quỉ kêu gào, hết sức khó nghe. Một cô gái xinh xắn hoạt bát như thế, cầm một ống sáo ngọc bóng loáng dễ thương nhưng lại thổi ra một điệu cực kỳ rùng rợn càng làm tăng thêm vẻ tà ác của phái Tinh Tú. Tiêu Phong cứ mặc cô ta vẫn tiếp tục đi, chẳng mấy chốc đến một đường núi dài và hẹp vắt ngang một đỉnh núi, nghĩ thầm: Địch nhân nếu như phục kích thì hẳn phải ở chỗ này. Quả nhiên lên trên núi rồi, vừa qua một vùng đất bằng đã thấy bốn người chặn đằng trước. Cả bốn người đó đều mặc áo dài bằng vải gai màu vàng, phục sứ giống hệt gã mũi lân vừa

gặp trong quán rượu. Bốn người đó không đứng hàng ngang, mà kẻ trước người sau một dãy, trong tay người nào cũng cầm cương trượng dài ngoằng. A Tử không thổi sáo nữa, dừng chân lại, gọi:

- Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca, bát sư ca, các vị khỏa cả chứ? Sao thật khéo quá, mọi người ai cũng tụ lại đây là sao?

Tiêu Phong cũng ngừng bước, tựa lưng vào vách núi, nghĩ thầm: Để xem chúng bay giở trò gì?. Trong bốn người, gã đứng đầu là một người trung niên mập mạp, nhìn Tiêu Phong từ đầu xuống chân đánh giá một hồi rồi mới hỏi:

- Tiểu sư muội khỏe chứ? Ngươi sao lại đả thương nhị sư ca?

A Tử thất kinh kêu lên:

- Nhị sư ca bị thương sao? Ai đả thương thế? Vết thương có nặng hay không?

Người đứng sau cùng trong bốn người lớn tiếng đáp:

- Ngươi còn giả ngây giả dại nữa sao? Nhị sư ca bảo là chính ngươi gọi người đả thương y đó.

Người nói lùn xủn, lại đứng sau cùng, toàn thân bị ba người đứng trước che khuất, Tiêu Phong không nhìn thấy y hình dáng ra sao nhưng nghe y nói năng liến thoắng cũng đủ biết tính tình nóng nảy nhưng cương trượng y cầm vừa dài vừa to đủ biết cánh tay rất khỏe, nhưng vì trời sinh thấp lùn nên muốn tìm cách nổi trội hơn người. A Tử nói:

- Bát sư ca nói gì đó? Nhị sư ca bảo là anh gọi người đánh y sao? Chao ôi, sao anh lại nỡ nào hạ độc thủ? Sư phụ lão nhân gia mà biết thì chẳng thể nào tha thứ cho bát sư ca đâu, không lẽ anh không sợ hay sao?

Gã lùn kia nổi cơn lôi đình nhảy nhổm lên, tay cầm cương trượng động xuống đá ầm ầm, miệng gào lên:

- Là ngươi đánh y chứ nào phải ta đâu.

A Tử nói:

- Cái gì? Là ngươi đánh y chứ nào phải ta đâu! Đúng quá, sư ca thú nhận rồi. Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca ba người chính tai nghe thấy nhé, bát sư ca nói là y giết chết nhị sư ca, phải rồi, chắc là bát sư ca dùng Tam Âm Ngô Công Trảo giết chết nhị sư ca.

Gã lùn lại gào lên:

- Ai bảo nhị sư ca chết đâu! Y chưa chết, thụ thương đâu phải do Tam Âm Ngô Công Trảo...

A Tử cướp lời:

- Không phải Tam Âm Ngô Công Trảo sao? Thế hẳn là do Trừu Tủy Chưởng, ngón nghề ruột của bát sư ca, nhị sư ca sơ xẩy không để ý nên bị trúng ám toán, ngươi ... ngươi quả là ghê gớm thật.

Gã lùn càng nổi điên lên, quát lớn:

- Tam sư ca mau động thủ, bắt con tiểu tiện nhân này về, về để bắt lại, xin sư phụ phát lạc, nó ... nó ... nó, nói lăng nhăng láo lếu, chẳng biết nói những gì, chẳng đâu ra đâu ...

Giọng y vốn đã khó nghe, lại thêm gấp gáp càng lắp bắp, không hiểu muốn nói gì. Gã mập liền nói:

- Động thủ thì chưa cần, tiểu sư muội xưa nay vốn ngoan ngoãn, chịu nghe lời. Tiểu sư muội, ngươi đi theo bọn ta thôi.

Gã mập đó nói năng chậm rãi, xem ra vẻ người dễ tính. A Tử cười đáp:

- Được rồi, tam sư ca bảo sao thì tiểu muội làm vậy, xưa nay em vẫn nghe lời sư ca.

Gã mập cười khà khà nói:

- Nếu thế thì hay lắm, chúng mình đi thôi.

A Tử đáp:

- Được rồi, xin chư vị cứ tự tiện.

Gã lùn ở phía sau lại rống lên:

- ấy, ấy, chư vị tự tiện là thế nào? Ngươi phải đi cùng với bọn ta.

A Tử cười nói:

- Các vị cứ đi trước đi, tiểu muội sẽ theo sau.

Gã lùn nói:

- Không được! Không được! Ngươi phải đi chung với bọn ta mới xong.

A Tử nói:

- Thế cũng được! Có điều ông anh rể của tiểu muội lại không chịu.

Nói rồi chỉ vào Tiêu Phong. Gã lùn nói:

- Ai là anh rể ngươi? Sao ta không thấy đâu cả?

A Tử cười nói:

- Bát sư ca cũng cao quá nên anh rể tiểu muội cũng không thấy đâu cả.

Chỉ nghe coong một tiếng, cương trượng của gã lùn đã giáng xuống đất, thân hình bay vọt lên, cả người lẫn gậy đã vọt qua khỏi đầu ba người đứng trước rơi xuống trước mặt A Tử, quát lên:

- Mau theo bọn ta trở về.

Vừa nói y vừa vươn tay chộp vào đầu vai cô gái. Gã này tuy lùn tịt nhưng hông to vai nở, nhìn ngang trông cũng khá vạm vỡ, động tác thật là nhanh nhẹn. A Tử không tránh, không né cứ để mặt y chộp tới. Bàn tay to lớn của gã lùn sắp sửa chạm vào đầu vai cô ta bỗng y hơi chần chừ rồi ngừng lại, hỏi:

- Ngươi đã dùng nó rồi ư?

A Tử hỏi:

- Dùng cái gì?

Gã lùn đáp:

- Tự nhiên là Thần Mộc Vương Đỉnh ...

Bốn chữ Thần Mộc Vương Đỉnh vừa buột khỏi miệng, ba người kia đã cùng quát lên:

- Bát sư đệ, ngươi nói gì đó?

Thanh âm cực kỳ gay gắt, gã lùn lật đật lùi lại một bước, mặt lộ vẻ hoảng hốt. Tiêu Phong lập tức suy tính: Thần Mộc Vương Đỉnh là cái gì thế? Bốn gã này vẻ mặt cực kỳ trịnh trọng, quyết không phải chuyện đùa. Bọn chúng mai phục nơi đây sao không ra tay mà còn cãi nhau ỏm tỏi, không lẽ sợ không địch lại mình, hay còn đang chờ thêm ngoại viện?. Chỉ thấy gã lùn giơ tay ra nói:

- Đưa đây!

A Tử hỏi lại:

- Đưa cái gì?

Gã lùn đáp:

- Là cái Thần ... Thần ... cái đó đó.

A Tử chỉ vào Tiêu Phong nói:

- Tiểu muội đưa cho tỉ phu rồi.

Câu đó vừa nói ra, ánh mắt cả bốn người liền quay về phía Tiêu Phong, đầy vẻ giận dữ. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn này quả là đáng ghét, mình cũng chẳng nên dây dưa với chúng làm chi. Ông chậm rãi đứng lên, bất thần hai chân búng một cái bay vọt qua đầu bốn người kia. Hành động đó vừa kỳ quái, vừa nhanh nhẹn, cả bọn không thấy ông chạy hay cong chân nhún lấy đà, chỉ thấy trước mắt thấp thoáng, gió trên đầu hơi động, Tiêu Phong đã ở phía sau bốn người rồi. Cả bọn hốt hoảng kêu la om sòm, xoay người lại đuổi theo nhưng chỉ chớp mắt Tiêu Phong đã chạy xa đến mấy trượng. Bỗng nghe vù một tiếng thật mạnh, một món binh khí nặng nề phóng vào sau lưng. Tiêu Phong không cần quay đầu lại, biết là có người dùng cương trượng ném tới, lật ngược tay trái đón ngay lấy chiếc gậy. Cả bốn người cùng hung hăng quát tháo, lại có thêm hai chiếc cương trượng nữa ném theo, Tiêu Phong lại đưa tay về sau bắt được. Mỗi chiếc gậy phải đến năm chục cân, cả ba chiếc ở trong tay cũng phải đến trăm sáu, trăm bảy cân nhưng bước chân ông không chậm lại chút nào, chỉ nghe vụt một tiếng, lại một chiếc nữa ném tới. Chiếc gậy này bay tới tiếng kêu mạnh hơn cả, rõ ràng nặng nề hơn hết ắt hẳn là do gã lùn ném ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: Mấy thằng mọi này chẳng biết phải quấy, phải cho chúng biết tay mới được. Ông nghe thấy tiếng gió bay tới sau ót, chỉ còn cách chừng hai thước liền thò tay về sau bắt được. Bốn người ném gậy ra đã tính toán nếu như đối phương tránh né cũng không phải dễ, trong bốn cái thể nào cũng có một hai chiếc gậy trúng vào người chứ đời nào lại để binh khí rời khỏi tay? Có ai ngờ đâu Tiêu Phong thản nhiên như không bắt được tất cả, ai nấy vừa kinh hãi vừa tức tối, lập tức lao xao chạy đuổi theo. Tiêu Phong dụ cho chúng chạy theo một quãng, bất thần đứng chựng lại. Bốn gã kia đang ra sức đuổi theo, không hãm kịp lao cả vào người ông, vội vàng đứng lại ai nấy thở hồng hộc. Tiêu Phong theo tiếng gậy ném tới và cách bọn chúng chạy theo biết rằng võ công chỉ bình thường, mỉm cười hỏi:

- Các vị đuổi theo tại hạ có điều gì dạy bảo chăng?

Gã lùn lắp bắp:

- Ngươi ... ngươi ... ngươi là ai? Võ ... võ công ... ngươi thật là ghê gớm.

Tiêu Phong cười đáp:

- Có gì ghê gớm đâu.

Ông vừa nói vừa vận sức vào bàn tay, ấn một cây cương trượng lún xuống dưới tuyết. Sơn đạo đó đất thật cứng, chỉ thấy chiếc gậy ngắn dần, đến khi chỉ còn khoảng hai thước bấy giờ Tiêu Phong mới buông ra, giơ chân phải lên dậm xuống một cái, cả cây gậy liền lún tịt xuống. Bốn người kẻ thì mắt trợn tròn, kẻ thì mồm há hốc. Tiêu Phong cứ từng chiếc một ấn xuống, sau cùng đạp một cái cắm thẳng vào mặt đất. Đến chiếc sau cùng, gã lùn liền nhảy tới, quát lên:

- Chớ có đụng đến binh khí của ta.

Tiêu Phong cười nói:

- Được, trả lại ngươi đây.

Tay phải cầm cương trượng lên, nhắm thẳng vào vách núi phóng một cái, nghe keng một tiếng, chiếc gậy tám thước phải đến năm thước lún vào trong đá. Nơi chiếc gậy cắm vào đá là một vùng đá đen cực kỳ cứng rắn, vậy mà Tiêu Phong ném sâu đến thế, chính ông cũng phải ngạc nhiên bụng bảo dạ: Mấy tháng nay mình có biết bao chuyện ưu phiền, lo lắng mà công phu không sút chút nào, ngược lại còn tiến bộ nhiều là khác. Nửa năm trước e rằng ta ném không được mạnh đến như vậy. Bốn người kia không hẹn mà cùng kêu la rầm rĩ, vẻ mặt hết sức kinh hoàng. A Tử từ phía sau chạy tới gọi:

- Tỉ phu, công phu đó của anh thật là hay, dạy cho em nhé!

Gã lùn giận dữ nói:

- Ngươi là môn hạ đệ tử phái Tinh Tú sao lại còn đi nhờ người ngoài dạy võ nghệ là thế nào?

A Tử nói:

- Y là anh rể ta đâu có phải người ngoài?

Gã lùn nóng lòng lấy lại binh khí, tung mình nhảy lên, thò tay chộp lấy cây cương trượng. Ngờ đâu Tiêu Phong đã tính toán tài nghệ khinh công của y nông sâu cỡ nào, nơi cương trượng cắm vào vách đá phải cách mặt đất đến một trượng bốn năm thước, bàn tay gã lùn còn cách cây trượng khoảng một thước, chưa chạm được tới nơi. A Tử vỗ tay reo lên:

- Hay lắm, bát sư ca ơi, nếu như anh nhổ được binh khí cầm tay tiểu muội sẽ theo sư ca đi gặp sư phụ liền, nếu không thì đừng hòng.

Gã lùn lần nhảy vừa rồi đã sử dụng hết sức bình sinh, nhưng khinh công y có hạn nên nhảy cao hơn một tấc đã khó khăn biết là chừng nào, nghe A Tử giở giọng khích bác, trong bụng tức lắm, lại phóng mình nhảy lên lần nữa, đầu ngón tay giữa quả nhiên chạm được vào cây trượng. A Tử cười nói:

- Chạm đến không tính, phải nhổ ra được kìa.

Gã lùn cực kỳ giận dữ, công phu so với bình thường tăng vọt lên, hai chân dùng hết sức, tấm thân lùn xủn to bè bè của y liền bung lên, hay tay chộp vội quả nhiên đã nắm được cây gậy rồi. Thế nhưng tới đây thân hình y lủng lẳng giữa trời, lúc lắc đong đưa nhưng không cách nào xuống được. Y hết sức lay chiếc cương trượng nhưng chiếc gậy dài tám thước này đã cắm sâu vào nham thạch đến năm thước, dù có lắc đến ba ngày ba đêm cũng chẳng ăn thua gì, cảnh tượng đó trông thoạt kê biết mấy. Tiêu Phong cười nói:

- Tiêu mỗ xin lỗi không thể chờ được.

Nói xong ông quay bước ra đi. Gã lùn kia bằng giá nào cũng không chịu buông tay, y đối với võ công mình cũng biết thừa, vừa rồi nhảy lên nắm được cây gậy cũng là may lắm, nếu như rơi xuống đất rồi, lần sau nhảy lên khó mà cách nào với tới được. Cây cương trượng đó là món võ khí y hết sức quí mến, nặng cũng vừa, cầm gọn tay, dẫu có đánh cái khác cũng chưa chắc được như thế. Y lay cây gậy mấy lần nhưng không chuyển động chút nào bèn kêu lên:

- Này này, mau bỏ Thần Mộc Vương Đỉnh lại, nếu không thì hậu hoạn không biết đâu mà kể.

Tiêu Phong hỏi:

- Thần Mộc Vương Đỉnh là cái gì thế?

Ba người đệ tử phái Tinh Tú cùng tiến lên một bước nói:

- Các hạ võ công xuất thần nhập hóa, chúng tôi hết sức bội phục. Cái đỉnh nhỏ kia bản môn coi rất trọng nhưng người ngoài thì chẳng dùng được vào việc gì, mong các hạ giao lại, chúng tôi ắt sẽ hậu tạ.

Tiêu Phong xem bộ dạng bọn họ xem chừng không phải giả dối, cũng không phải mai phục nơi đây để tấn công mình liền nói:

- A Tử, mau đem cái Thần Mộc Vương Đỉnh đưa ra ta coi xem đó là cái gì nào?

A Tử nói:

- Trời ơi, tiểu muội đưa cho tỉ phu rồi mà? Đưa ra hay không đưa ra là toàn do tỉ phu thôi. Tỉ phu ơi, hay là tỉ phu giữ luôn cho được việc.

Tiêu Phong nghe nói đoán chừng cô ả đã ăn cắp bảo vật của sư môn, bây giờ bảo là giao lại cho mình rồi ắt hẳn muốn đứng ra chịu trận, bèn tương kế tựu kế, cất tiếng cười ha hả nói:

- Ngươi giao cho ta biết bao nhiêu món, ta nào có biết cái nào là Thần Mộc Vương Đỉnh đâu!

Gã lùn đang bông bênh giữa lưng chừng trời, lập tức chõ miệng vào:

- Đó là một cái đỉnh gỗ nho nhỏ, cao chừng sáu tấc màu vàng sậm.

Tiêu Phong kêu lên:

- ồ, cái đó ư? Ta biết rồi, chẳng qua chỉ là một món đồ chơi be bé chứ có dùng làm việc gì được đâu?

Gã lùn nói:

- Ngươi biết gì mà bảo là đồ chơi be bé? Cái mộc đỉnh ...

Y chưa nói hết câu, gã mập đã quát lên:

- Sư đệ chớ có nói nhăng nói càn.

Y quay sang nói với Tiêu Phong:

- Tuy đó chỉ là một món đồ chơi không dùng làm gì được, nhưng là của ... là của ... phụ thân gia sư ban cho, thành thử không thể để mất, xin các hạ làm ơn trả lại cho, chúng tôi cực kỳ cảm kích.

Tiêu Phong đáp:

- Ta tiện tay quăng bỏ, không biết vứt đâu mất rồi, có kiếm lại được không kể cũng khó nói. Nếu các ngươi quả thực muốn lấy lại thì ta phải quay lại Tín Dương kiếm thử xem, có điều đường sá xa xôi, bây giờ quay lại thì thật phiền quá đi mất.

Gã lùng liền láu táu xen vào:

- Quả muốn lắm chứ, sao lại không muốn lấy? Chúng mình mau ... mau ... quay về Tín Dương đi thôi.

Y nói xong liền thả tay rơi xuống, đến binh khí của mình cũng không còn ngó ngàng gì nữa. Tiêu Phong giơ tay vỗ vỗ lên đầu nói:

- Hừ, mấy hôm nay chẳng uống được bao nhiêu rượu, trí nhớ sao kém quá, cái mộc đỉnh nhỏ kia, không biết vứt ở Tín Dương hay ở tại Đại Lý, hừ, không chừng ở Tấn Dương ...

Gã lùn vội kêu lên:

- ấy, ấy, ngươi nói gì đó? Xem lại xem ở Đại Lý hay tại Tấn Dương nào? Thiên nam địa bắc, không phải chuyện đùa đâu nhé!

Gã mập biết Tiêu Phong cố tình gây khó khăn bèn nói:

- Các hạ chẳng cần phải cố tình bỡn cợt làm chi, nếu như chiếc đỉnh đó hoàn hảo trở về, chúng tôi thể nào cũng hậu tạ, quyết không nuốt lời.

Tiêu Phong đột nhiên thất kinh kêu lên:

- Chết rồi, không xong, ta nghĩ ra rồi.

Cả bốn người kinh hãi hỏi dồn:

- Gì thế?

Tiêu Phong đáp:

- Cái mộc đỉnh đó ở nhà Mã phu nhân, mới rồi ta châm lửa, đốt cháy rụi rồi còn đâu, không biết cháy to thế có hỏng mất không?

Gã lùn thất thanh kêu lên:

- Sao lại không hỏng, cái đó ... cái đó ... tam sư ca, tứ sư ca, bây giờ biết làm sao. Ta không biết, sư phụ nếu trách phạt, không liên quan gì đến ta cả. Tiểu sư muội, ngươi đích thân đến bẩm với sư phụ, ta, ta không dám đâu.

A Tử cười nói:

- Tiểu muội nhớ hình như không phải ở nhà Mã phu nhân. Các vị sư ca, tiểu muội xin lỗi, các vị ở đây nói chuyện với tỉ phu.

Nói xong nghiêng người lách qua chen lên trước mặt Tiêu Phong. Tiêu Phong quay lại giang tay chặn bốn người kia nói:

- Các ngươi nếu nói cho rõ ràng lai lịch Thần Mộc Vương Đỉnh cùng dùng để làm gì không chừng ta sẽ giúp các ngươi đi tìm, nếu không, tại hạ xin lỗi không thể hầu tiếp được.

Gã lùn liên tiếp xoa tay nói:

- Tam sư ca, không còn cách nào khác, chi bằng nói cho y hay cho xong!

Gã mập nói:

- Được, để ta nói cho các hạ hay ...

Tiêu Phong đột nhiên lao mình tới bên cạnh gã lùn, vươn tay chộp luôn vào nách y nói:

- Mình đi tới đằng kia, ta chỉ nghe ngươi nói, không nghe y.

Ông biết rằng gã mập trông mặt mũi thực thà, kỳ thực cực kỳ giảo hoạt, không câu nào nói thật, chỉ có gã lùn tính thẳng lại nhanh mồm nhanh miệng, không quen nói láo. Ông xách gã lùn lên, chạy vọt lên trên vách núi. Vách núi thật là cheo leo, vốn dĩ không thể nào bám víu vào đâu mà trèo lên được, nhưng Tiêu Phong đề khí chạy thẳng lên, chỉ một hơi đã chạy được hơn chục trượng, thấy một mỏm đá thò ra, liền đặt gã lùn ngồi ngay đó, còn mình một chân đứng một chân giơ ra ngoài không nói:

- Ngươi nói ta nghe đi!

Gã lùn ở chỗ giữa lưng chừng trời, đưa mắt nhìn xuống, không khỏi hoa mắt choáng váng, vội nói:

- Mau ... mau thả tôi xuống!

Tiêu Phong cười nói:

- Ngươi tự mình nhảy xuống đi!

Gã lùn đáp:

- Chỉ nói lăng nhăng! Nhảy xuống có mà nát thây!

Tiêu Phong thấy y tính tình thẳng thắn cũng có đôi phần hảo cảm hỏi:

- Ngươi tên là chi?

Gã lùn đáp:

- Ta là Xuất Trần Tử.

Tiêu Phong mỉm cười, nghĩ bụng: Cái tên đó phong nhã quá, chỉ có điều không xứng với thân hình lão huynh chút nào. Ông bèn nói:

- Xin lỗi ta không thể bồi tiếp, gặp lại sau vậy.

Xuất Trần Tử lớn tiếng kêu lên:

- Không được, không được! Trời ôi, ta ... ta ngã xuống thì chết.

Hai tay y bám chặt lấy vách đá, ám vận nội kình định ôm lấy tảng đá nhưng chung quanh chỗ nào cũng trơn tuột, làm gì có chỗ nào mà tựa vào? Võ công y tuy không kém nhưng ở vào chỗ ba mặt chênh vênh như thế này, không khỏi cực kỳ kinh hãi. Tiêu Phong nói:

- Nói mau, Thần Mộc Vương Đỉnh dùng để làm gì? Nếu ngươi không nói là ta bỏ đi đó.

Xuất Trần Tử vội vàng đáp:

- Ta ... ta không nói không được hay sao?

Tiêu Phong đáp:

- Không nói không được, thôi để gặp lại sau vậy.

Xuất Trần Tử vội vàng níu tay áo ông lại nói:

- Để ta nói, để ta nói. Thần Mộc Vương Đỉnh là một trong tam bảo của môn phái chúng ta, dùng để tu tập Hóa Công Đại Pháp. Sư phụ có nói là, người trong võ lâm Trung Nguyên nghe đến Hóa Công Đại Pháp đều sợ đến mất cả hồn vía, nếu thấy tòa Thần Mộc Vương Đỉnh ắt sẽ đập cho tan nát, cái đó ... cái đó là một bảo vật hiếm có trên thế gian, không biết nói sao cho hết ...

Tiêu Phong đã từng nghe đến Hóa Công Đại Pháp từ lâu, biết đó là một môn tà thuật vô cùng bẩn thỉu, bây giờ nghe nói Thần Mộc Vương Đỉnh có tác dụng như thế, không cần phải hỏi thêm, giơ tay cầm ngay nách Xuất Trần Tử, chạy bon bon xuống. Chạy từ trên vách núi dựng đứng xuống, so với chạy lên còn nguy hiểm hơn nhiều, Xuất Trần Tử sợ đến la hét rầm lên, tiếng kêu chưa dứt, hai chân đã chạm đất rồi, mặt tái mét không còn hột máu, hai đầu gối run lập cập. Gã mập hỏi:

- Bát sư đệ, ngươi đã nói chưa?

Xuất Trần Tử hàm răng vẫn còn đánh vào nhau kêu lốp cốp, không nói nên lời. Tiêu Phong quay sang nói với A Tử:

- Đưa ra đây!

A Tử hỏi lại:

- Đưa cái gì?

Tiêu Phong đáp:

- Thần Mộc Vương Đỉnh!

A Tử đáp:

- Thì anh đã chẳng bảo là để ở nhà Mã phu nhân hay sao? Sao lại còn hỏi tiểu muội?

Tiêu Phong ngắm cô gái, thấy nàng eo thon, áo quần mỏng mảnh, bên người xem ra không thể dấu chiếc một đỉnh cao sáu tấc được, nghĩ thầm: Con bé con này tinh quái lắm. Việc môn phái của nó mình vốn không muốn nhúng tay vào, bọn tà ma ngoại đạo này chẳng nên dây dưa để chúng cứ như oan hồn không tan luẩn quẩn bên mình, thật là khó chịu. Ông liền nói:

- Cái vật chi đó Tiêu mỗ có cũng vô ích, không thể nào lấy mà không chịu trả. Các ngươi tin cũng được, không tin cũng không sao, Tiêu mỗ cáo lỗi vậy.

Nói xong phi thân chạy đi, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã bỏ cả năm người ở lại thật xa. Bọn bốn người kia thấy ông thần uy như thế, đuổi theo thì không dám, còn đang bàn cãi Tiêu Phong đã không biết chạy tận nơi nào. Tiêu Phong chạy một mạch hơn bảy chục dặm lúc ấy mới tìm được một cái quán ghé vào ăn cơm uống rượu. Chiều tối hôm đó, ông nghỉ lại Chu Vương điếm, vận nội công một hồi rồi đi ngủ. Đến nửa đêm, trong giấc mơ nghe thấy mấy tiếng còi rít lên, lập tức tỉnh dậy. Một lát sau, phía tây nam cũng nghe mấy tiếng còi khác, rồi phía đông nam cũng có tiếng đáp lại, tiếng còi chói tai nghe thật ghê rợn, chính là tiếng ngọc địch của phái Tinh Tú. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn chúng đã đến rồi đây, mặc kệ, chẳng việc gì đến mình. Đột nhiên có hai tiếng sáo ti ti vọng lên nghe thật gần, ngay tại trong khách điếm này, rồi có tiếng người nói:

- Dậy đi thôi, đại sư ca đến rồi, chắc là đã bắt được tiểu sư muội.

Lại một người khác nói:

- Bắt được rồi ư? Ngươi thử nghĩ thị liệu có sống được chăng?

Người trước nói:

- Làm sao biết được? Đi mau, đi mau!

Rồi có tiếng hai người đẩy cửa sổ, nhảy ra khỏi phòng. Tiêu Phong nghĩ thầm: Lại thêm hai môn hạ đệ tử nữa của phái Tinh Tú, té ra trong cái quán này có hai tên ẩn sẵn nơi đây, chắc là bọn chúng đến trước ta, không nói năng gì thành ra mình không biết. Hai đứa đó hỏi nhau A Tử có sống được không, tiểu cô nương này tuy tàn nhẫn độc ác thật nhưng không thể để cho cô nàng bị giết chết, nếu không thì thật không phải đối với A Châu. Nghĩ thế ông cũng nhảy ra khỏi phòng đuổi theo. Bỗng nghe tiếng địch nổi lên liên tiếp, chỗ này vừa thổi thì chỗ kia đáp lại, từ từ chuyển qua tây rồi xuống phía nam. Ông theo tiếng địch mà lần theo, chỉ giây lát đã đuổi kịp hai người từ khách điếm đi ra. Ông lặng lẽ theo sát hai gã đó giữ khoảng cách chừng mươi trượng, vượt qua hai ngọn núi thì thấy dưới sơn cốc có một đống lửa. Ngọn lửa cao chừng năm thước, màu xanh biếc trông cực kỳ ngụy bí khác hẳn lửa bình thường. Hai người kia chạy thẳng đến chỗ đốt lửa, vừa tơi nơi đã quì phục xuống vái lạy. Tiêu Phong rón rén tới gần, ẩn thân sau một tảng đá nhìn vọng ra, thấy chung quanh đám lửa tụ tập đến hơn chục người, ai nấy đều mặc áo gai màu vàng, ánh lửa xanh chiếu lên đầy vẻ ma quái. Phía bên trái đống lửa có một người mặc áo dài màu tím đứng đó, chính là A Tử. Hai tay nàng đã bị khóa bằng xích sắt, khuôn mặt trắng trẻo dưới ánh lửa bập bùng trông thật thần bí. Mọi người không ai nói một lời chỉ chăm chăm nhìn ngọn lửa, tay trái để trên ngực, miệng lẩm bẩm không biết đang tụng niệm gì. Tiêu Phong biết rằng đây là nghi thức quái dị của bọn tà ma ngoại đạo nên chẳng thèm để ý. Mới đây ông nghe hai tên đệ tử phái Tinh Tú bàn với nhau :Đại sư ca đến rồi, chắc là đã bắt được tiểu sư muội, nhìn lại hơn mười người này, già có trẻ có, phục sức hoàn toàn giống nhau, động tác thần thái không ai có gì đặc biệt tỏ ra là một kẻ đứng đầu.

Bỗng nghe u u u mấy tiếng địch nhu hòa từ phía đông bắc vọng tới, mọi người đều quay lại cùng hướng về phía có tiếng sáo kia khom lưng hành lễ. A Tử bĩu môi, nhưng không thèm quay lại. Tiêu Phong nhìn về phía có tiếng địch thấy một người áo trắng thong dong đi tới, bộ pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chỉ thoáng một cái đã đến trước đống lửa, đưa một đầu

chiếc ngọc địch dài chừng hai thước lên môi, thổi vào đống lửa một cái, đám lửa lập tức tắt ngúm, rồi đột nhiên bừng lên thật to, nghe bùng một tiếng bay vọt lên trên không phải chừng hơn một trượng, lúc ấy mới từ từ rơi xuống. Mọi người cùng cất tiếng hô to:

- Đại sư huynh pháp lực thần kỳ, khiến chúng ta ai nấy được một phen mở mắt.

Tiêu Phong nhìn vào gã đại sư huynh kia, hơi ngạc nhiên, người này đứng đầu cả bọn, tưởng phải là một lão già năm sáu chục tuổi, ngờ đâu chỉ là một thanh niên chừng hăm bảy hăm tám, thân hình cao gầy, gương mặt xanh mét có ẩn màu vàng, trông cũng khá anh tuấn. Tiêu Phong mới thấy y phiêu hành đến đây cùng công phu thổi tắt ngọn lửa, biết y nội lực không phải là kém nhưng cung cách thổi ngọn lửa xanh, kế đó bùng lên ắt không phải do nội công mà có lẽ trong ống sáo có để dược liệu dẫn hỏa gì đặc biệt. Gã đó quay sang nói với A Tử:

- Tiểu sư muội, ngươi quả là nở mày nở mặt, vì ngươi mà biết bao nhiêu người phải lao sư động chúng, từ biển Tinh Tú nghìn dặm xa xôi tới tận Trung Nguyên.

*

* *

A Tử đáp:

- Đến cả đại sư ca cũng phải ra tay, tiểu muội quả thực vinh hạnh, thế nhưng nếu biết được cái chỗ dựa của tiểu muội thì e rằng cả bây nhiêu người xem ra chưa phải là đủ.

Gã đại sư huynh kia hỏi:

- Sư muội còn chỗ dựa ư? Không biết kẻ đó là ai thế?

A Tử đáp:

- Chỗ dựa ư, thì phải là gia gia, bá phụ, má má, tỉ phu của tiểu muội chứ còn ai.

Gã đại sư huynh hừ một tiếng nói:

- Sư muội từ tấm bé do sư phụ nuôi dưỡng cho đến lớn khôn, không cha không mẹ, sao tự nhiên lại ở đâu ra lắm thân thích đến thế?

A Tử đáp:

- Trời ơi, có ai mà lại không cha không mẹ, chẳng lẽ nứt trong đá ra hay sao? Có điều tên tuổi của cha mẹ tiểu muội là một đại bí mật không thể để cho mọi người ai cũng biết được đấy thôi.

Gã đại sư huynh hỏi:

- Thế thì cha mẹ của sư muội là ai?

A Tử đáp:

- Nói ra chỉ sợ mọi người sợ mất vía. Sư ca muốn tiểu muội nói ra thì phải mở khóa cho tiểu muội trước đã.

Tên đại sư huynh nói:

- Mở khóa thì cũng chẳng khó khăn gì, nhưng ngươi phải giao Thần Mộc Vương Đỉnh ra trước.

A Tử đáp:

- Vương đỉnh ở trong tay tỉ phu tiểu muội. Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca, bát sư ca cũng đã đòi tỉ phu tiểu muội đưa ra, tiểu muội còn cách nào hơn được?

Gã đại sư huynh liền quay sang bốn người Tiêu Phong mới gặp lúc ban ngày, hơi mỉm cười, thần sắc ôn hòa nhưng bốn gã kia mặt liền biến sắc, hiển nhiên cực kỳ sợ hãi. Xuất Trần Tử lắp bắp:

- Đại ... đại ... đại sư ca, chuyện này không liên quan gì đến sư đệ. Tỉ phu ... của thị tài giỏi quá, chúng tôi ... chúng tôi đuổi theo không kịp.

Gã đại sư huynh nói:

- Tam sư đệ, ngươi nói đi.

Gã mập đáp:

- Dạ, dạ!

Y liền thuật lại gặp Tiêu Phong thế nào, y bắt được bốn cái gậy của họ ra sao, rồi sau đó bắt Xuất Trần Tử đem lên đỉnh núi ép buộc phải nói ra tất cả kể rõ không dám dấu diếm chút nào. Y vốn dĩ hành sự nói năng chậm rãi ra chiều kẻ cả nhưng lúc này giọng run run, chẳng khác gì đang ở vào cảnh đại họa lâm đầu. Xuất Trần Tử ấp úng:

- Sư đệ ... sư đệ ...

Gã đại sư huynh hỏi:

- Ngươi nói những gì nào? Nói lại cho ta nghe.

Xuất Trần Tử đáp:

- Sư đệ ... sư đệ nói ... cái Thần Mộc Vương Đỉnh đó là một trong tam bảo của bản môn, để ... để ... luyện đại pháp đó. Đệ lại nói là sư phụ từng nói người trong võ lâm Trung Nguyên nghe đến Hóa Công Đại Pháp của bản môn ai ai cũng bạt hồn bạt vía, nếu như thấy được cái đỉnh thể nào cũng đập cho tan nát. Đệ nói đó là một bảo vật hiếm có trên thế gian, không biết nói sao cho hết ... vì thế nên xin y làm ơn trả lại. Gã đại sư huynh nói:

- Hay lắm! Thế y trả lời sao?

Xuất Trần Tử đáp:

- Y ... y chẳng nói gì cả, chỉ thả sư đệ xuống thôi.

Gã đại sư huynh kia nói:

- Ngươi giỏi lắm! Ngươi nói cho y hay cái Thần Mộc Vương Đỉnh kia dùng để luyện Hóa Công Đại Pháp, lại còn sợ y không biết Hóa Công Đại Pháp là môn gì nên nhấn mạnh hễ võ lâm Trung Nguyên nghe đến tên nó là ai cũng bạt hồn vía. Quả là hay thực, hay thực, chẳng hay y có phải là người trong võ lâm Trung Nguyên không nhỉ? Xuất Trần Tử lắp bắp:

- Sư đệ ... sư đệ ... không biết nữa.

Gã đại sư huynh hỏi vặn lại:

- Có thực là ngươi không biết, hay là ngươi biết?

Giọng y ôn hòa nhưng gã Xuất Trần Tử tính tình bộp chộp kia lại hồn bất phụ thể, hai hàm răng đập vào nhau kêu lách cách, nói:

- Đệ ... lách cách ... đệ ... lách cách ... không ... biết ... lách cách ... nữa.

Tiếng lách cách là do hàm răng y chạm vào nhau, vì y không thể nào giữ cho khỏi kêu được. Gã đại sư huynh hỏi:

- Vậy y có bạt hồn bạt vía không? Hay là chẳng sợ gì cả.

Xuất Trần Tử lập cập đáp:

- Dường như là ... y ...y ... lách cách ...chẳng có gì ... chẳng có vẻ gì ... sợ cả.

Gã đại sư huynh hỏi thêm:

- Ngươi đoán thử xem vì cớ gì y lại không sợ?

Xuất Trần Tử đáp:

- Sư đệ đoán không ra, xin ... xin đại ... sư ca cho biết.

Gã đại sư huynh trả lời:

- Võ nhân Trung Nguyên sợ Hóa Công Đại Pháp của chúng ta lắm, nhưng để luyện môn Hóa Công Đại Pháp này thì không thể không dùng Thần Mộc Vương Đỉnh. Nay tòa Thần Mộc Vương Đỉnh lọt vào tay y rồi, Hóa Công Đại Pháp của chúng ta còn luyện sao được nữa, thành ra y chẳng sợ nữa.

Xuất Trần Tử vội hùa theo:

- Dạ, dạ, đại sư ca minh kiến vạn lý, liệu địch như thần, sư đệ ... sư đệ vạn vạn không thể theo kịp.

Lúc ban ngày Tiêu Phong gặp các môn nhân đệ tử phái Tinh Tú, thấy trong tất cả có gã Xuất Trần Tử này là người tính tình bộc trực hơn cả, đối với y cũng có chút hảo cảm, thấy y sợ đại sư huynh đến như thế, có ý ra tay cứu y, ngờ đâu càng nghe càng thấy y chẳng đâu vào đâu, gã lùn này câu nào câu nấy hèn hạ, nịnh bợ hết chỗ nói. Tiêu Phong liền nghĩ: Gã này không phải là hảo hán tử, y chết hay sống chẳng mắc mớ gì đến ta. Gã đại sư huynh quay sang A Tử hỏi thêm:

- Tiểu sư muội, anh rể ngươi là ai thế?

A Tử đáp:

- Y ư? Nói ra e rằng khiến đại sư huynh phải giật mình.

Gã đại sư huynh nói:

- Ngươi cứ việc nói, nếu quả là một nhân vật anh hùng danh tiếng lừng lẫy, Trích Tinh Tử này sẽ để tâm lưu ý.

Tiêu Phong thấy y tự thông báo đạo hiệu, nghĩ thầm: Trích Tinh Tử! Cái tên nghe lớn lối nhỉ?1 Xem thân pháp y phiêu hành mới rồi, khinh công tuy khá thật nhưng đâu có hơn được Ba Thiên Thạch nước Đại Lý hay Vân Trung Hạc trong Tứ Đại ác Nhân. Lại nghe A Tử nói:

- Y ấy ư? Đại sư ca, trong võ lâm Trung Nguyên thì ai là người đứng đầu?

Gã đại sư huynh Trích Tinh Tử đáp:

- Mọi người đều nói Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, không lẽ cả hai người này đều là anh rể ngươi hay sao?

Cơn giận Tiêu Phong xông lên nghĩ thầm: Tên tiểu tử này ăn nói lếu láo, để rồi ta cho ngươi biết phải biết quấy. A Tử cười khanh khách nói:

- Đại sư ca ăn nói quả là thú vị, tiểu muội chỉ có một người chị, làm thế nào có hai ông anh rể được?

Trích Tinh Tử mỉm cười đáp:

- Ta nào có biết ngươi chỉ có một người chị. Ôi, dẫu quả chỉ có một tỉ tỉ nhưng có đến hai ông anh rể cũng có gì là lạ lùng đâu.

A Tử nói:

- Tỉ phu của tiểu muội tính nóng lắm, lần sau nếu gặp lại anh ta, nếu tiểu muội nhắc lại câu nói của đại sư ca cho y nghe thì sư ca hẳn sẽ phải khổ thân. Tiểu muội nói cho sư ca nghe, tỉ phu của tiểu muội là bang chủ Cái Bang, uy chấn Trung Nguyên Bắc Kiều Phong đó.

Lời đó vừa nói ra, những người trong phái Tinh Tú đã từng gặp Tiêu Phong ai nấy kinh hoàng, nhịn không nổi cùng A lên một tiếng. Gã mũi lân nhị sư ca nói:

- Thảo nào! Thảo nào! Thua dưới tay y ta cũng đành lòng.

Trích Tinh Tử hơi nhíu mày nói:

- Thần Mộc Vương Đỉnh rơi vào tay Cái Bang thì kể cũng khó xoay sở.

Xuất Trần Tử tuy sợ hãi lắm nhưng cái tính lanh chanh cũng không chừa liền chõ mồm vào:

- Đại sư ca, gã Kiều Phong kia không còn làm bang chủ Cái Bang nữa, sư ca mới ở phương tây qua chắc là chưa nghe chuyện đại sự mới đây của võ lâm Trung Nguyên. Gã Kiều Phong kia, gã Kiều Phong kia đã bị bọn Cái Bang trục xuất ra khỏi bang rồi.

Việc không liên quan gì đến y ăn nói lại lưu loát hơn nhiều. Trích Tinh Tử thở phào một cái, khuôn mặt đang căng thẳng liền dãn ra, hỏi lại:

- Kiều Phong bị trục xuất khỏi Cái Bang rồi ư? Có thật thế không?

Gã mập tam đệ tử liền đáp:

- Trên giang hồ ai cũng nói thế, còn nói y không phải người Hán mà là người Khất Đan, anh hùng Trung Nguyên ai cũng muốn giết y mới hả dạ. Nghe nói người này giết cha, giết mẹ, giết sư phụ, giết bạn bè, hèn hạ đáng khinh, không chuyện ác gì là không làm.

Tiêu Phong ẩn nấp sau sơn thạch, nghe y kể lại những chuyện bất hạnh mình gặp phải trong mấy tháng qua, không khỏi đau lòng, dẫu ông võ công cái thế, can đảm hơn người nhưng thanh danh trên giang hồ tệ mạt như vậy, bị tất cả anh hùng thiên hạ coi khinh, sống trên đời thật là vô vị hết sức. Chỉ nghe Trích Tinh Tử hỏi A Tử:

- Sao chị ngươi lại chịu lấy một đứa như thế? Không lẽ người trên đời này chết hết không còn ai hay sao? Hay là bị y tiên gian hậu thú, cưỡng bức bắt phải làm vợ?

A Tử mỉm cười nói:

- Tại sao lại lấy y, tiểu muội cũng không biết nữa, có điều tỉ tỉ của tiểu muội bị y đánh một chưởng chết tươi.

Mọi người nghe thế đều kinh ngạc A lên một tiếng. Bọn này lòng dạ trơ trơ như gỗ đá, hành sự độc ác nhưng nghe Kiều Phong giết cha, giết mẹ, giết thầy, giết bằng hữu chưa đủ, lại giết cả vợ con, thủ đoạn tàn nhẫn đến như thế thiên hạ quả là hiếm thấy mình quả không thể nào bằng được đành chịu ở vào thế hạ phong. Trích Tinh Tử nói:

- Cái Bang người nhiều thế mạnh quả là không phải dễ đối phó, nay Kiều Phong đã bị trục xuất khỏi bang rồi, mình còn sợ gì y nữa? Ha ha!

Y cười khẩy mấy tiếng nói tiếp:

- Cái gì mà Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, chẳng qua bọn võ lâm Trung Nguyên tự trương bảng huênh hoang, ta chẳng tin rằng hai gã đó lại chống nổi với thần công diệu thuật của phái Tinh Tú chúng ta đâu.

Gã mập liền hùa theo:

- Đúng thế! Đúng thế! Bọn sư đệ cũng nghĩ vậy. Đại sư ca võ công siêu phàm nhập thánh, lần này đến Trung Nguyên, chính là lúc đem hai gã Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung kia giết quách để làm nhụt nhuệ khí võ lâm Trung Nguyên, cho chúng biết phái Tinh Tú lợi hại là dường nào.

Trích Tinh Tử hỏi:

- Tên Kiều Phong kia đi về hướng nào?

A Tử đáp:

- Y nói y định ra ngoài Nhạn Môn Quan, nếu mình cứ đuổi theo thể nào rồi cũng bắt gặp.

Trích Tinh Tử nói:

- Đúng vậy! Nhị, tam, tứ, thất, bát năm vị sư đệ lần này gặp địch để bị thua, các ngươi tội đó tội gì?

Năm người khom lưng đáp:

- Cung lãnh đại sư ca trách phạt.

Trích Tinh Tử nói:

- Bọn chúng ta đến Trung Nguyên, có biết bao nhiêu việc phải làm, nếu cứ tội nào trị nấy thì không khỏi làm giảm số người của mình đi. Ôi, ta xem, thế thì đành ...

Y nói chưa hết câu tay trái đã vung lên, từ trong tay áo bay vụt ra năm đốm lửa màu xanh, chẳng khác gì năm con đom đóm, chia ra bắn vào đầu vai năm người, vừa đụng phải lập tức phát tiếng xèo xèo. Tiêu Phong ngửi thấy mùi khét lẹt của thịt cháy, nghĩ thầm: Tên này gớm thật, không lẽ y thiêu sống mấy người đó hay sao?. Đốm lửa chỉ giây lát liền tắt ngúm nhưng nét đau đớn trên khuôn mặt năm người càng lúc càng khủng khiếp. Tiêu Phong nghĩ thầm: Vật y ném ra là loại hỏa dược có chất lưu hoàng, lân tinh gì đó, xem chừng bên trong còn chứa chất độc, nên khi lửa tắt rồi, độc tính mới lan ra trong thân thể khiến cho càng thêm đau đớn khó chịu. Chỉ nghe Trích Tinh Tử nói:

- Đây là Luyện Tâm Đạn. Các ngươi trải qua một phen mài dũa, tính chịu đựng sẽ tăng thêm, lần sau có gặp kình địch thì chẳng vừa đánh đã chịu thua, làm mất mặt phái Tinh Tú chúng ta.

Gã mũi lân và gã mập cùng đáp:

- Vâng, vâng! Đa tạ đại sư ca giáo huấn.

Ba người còn lại vẫn tiếp tục vận nội lực chống lại cơn đau, không cách gì mở miệng nói năng được. Độ chừng tàn một nén hương, tiếng rên rỉ và tiếng thở hắt ra của năm người lắng xuống dần. Trong thời gian đó những đệ tử phái Tinh Tú đứng nhìn năm người nghiến răng chịu đựng, ai nấy đều kinh hoàng run rẩy. Trích Tinh Tử đưa mắt chầm chậm nhìn sang Xuất Trần Tử nói:

- Bát sư đệ, ngươi tiết lộ chuyện cơ mật trọng đại khiến cho trọng bảo của bản môn có nguy cơ bị hủy diệt, thì phải chịu xử tội thế nào?

Xuất Trần Tử mặt mày biến sắc, đột nhiên hai đầu gối khuỵu xuống, quì dưới đất van xin:

- Đại sư ... đại sư ca, khi đó ... khi đó tiểu đệ hoảng hốt buột miệng khai ra ... xin ... xin sư ca tha mạng, từ nay ... từ nay làm trâu làm ngựa, không dám nửa lời oán trách, không ... không dám để bụng ...

Nói xong y liên tiếp khấu đầu. Trích Tinh Tử thở dài một tiếng nói:

- Bát sư đệ, ngươi với ta là chỗ đồng môn, nếu như tài sức ta có thể làm được thì cũng muốn tha cho ngươi. Có điều ... ôi, nếu như tha cho ngươi lần này thì từ nay còn ai chịu tuân theo giới lệnh của sư phụ nữa? Ngươi ra tay đi vậy! Qui củ của bản môn, ngươi biết rồi, chỉ cần ngươi đánh bại được chấp pháp tôn giả thì bao nhiêu tội nghiệt cũng xóa sạch.

Thôi ngươi đứng lên động thủ đi.

Thế nhưng Xuất Trần Tử đời nào dám đối địch với sư ca? Y vẫn tiếp tục rập đầu binh binh. Trích Tinh Tử nói:

- Nếu như ngươi không chịu ra tay trước thì hãy tiếp chiêu của ta.

Xuất Trần Tử kêu rống lên một tiếng, cúi xuống nhặt luôn hai hòn đá, sử kình ném về phía Trích Tinh Tử, kêu:

- Đại sư ca, tiểu đệ đành đắc tội!

Y lại nhặt hai cục đá khác ném tiếp, đồng thời nhảy vọt về phía đông bắc, nghe vù vù hai tiếng, ném thêm hai cục đá nữa, thân hình trông như trái cầu thịt của y đã chạy ra xa. Y tự biết võ công so với Trích Tinh Tử chênh lệch quá xa, chỉ mong sáu cục đá đó cản y lại được một chút để có dịp đào tẩu rồi từ nay ẩn tính mai danh ngõ hầu môn hạ phái Tinh Tú

không tìm ra được. Cánh tay áo bên phải của Trích Tinh Tử vung lên, phất vào viên đá bay tới trước tiên, cục đá liền quay ngược lại, bắn thẳng vào sau lưng Xuất Trần Tử. Tiêu Phong nghĩ thầm: Công phu mượn sức đánh sức của gã này kể cũng khá cao, đây là bản lĩnh chân thực chứ không phải tà pháp. Xuất Trần Tử nghe tiếng gió rít ở phía sau, nhảy qua một bên tránh né, Trích Tinh Tử liền phất cục đá kế tiếp bắn tới, không để cho y kịp thở. Xuất Trần Tử vừa đặt chân xuống đất đã nghe kình phong thổi tới sau lưng, viên đá thứ ba đã tới rồi. Mỗi viên đá lại ép Xuất Trần Tử nhảy về bên trái thêm một bước, sáu bước nhảy xong y đã quay trở lại bên cạnh đống lửa. Chỉ nghe cạch một tiếng, viên đá thứ sáu rơi ở xa xa. Xuất Trần Tử mặt tái mét, lật tay một cái đã rút trong túi ra một con dao găm, đâm thẳng vào ngực mình. Trích Tinh Tử phất nhẹ tay áo, một đốm lửa xanh bắn vào cổ tay y, đốt huyệt đạo nơi đó nghe sèo sèo, bàn tay Xuất Trần Tử lỏng ra, con dao đã rơi xuống đất. Y la lớn:

- Xin đại sư ca mở lòng từ bi! Xin đại sư ca mở lòng từ bi!

Tay áo Trích Tinh Tử lại vung lên, một luồng kình phong bắn vào đống lửa, ngọn lửa liền vươn ra một ngọn lửa nhỏ lao vào người Xuất Trần Tử, vừa chạm phải liền bùng lên lem lém, quần áo đầu tóc liền bốc cháy. Chỉ thấy y lăn lộn trên mặt đất, kêu la thảm thiết nhưng chưa chết ngay, mùi khét lẹt bay ra trông thật kinh hoàng. Người trong môn phái Tinh Tú sợ đến nỗi không dám thở mạnh. Trích Tinh Tử nói:

- Không nghe ai nói gì cả, ôi, các ngươi nghĩ ta ra tay quá độc ác, Xuất Trần Tử chết thật là oan, phải không?

Mọi người vội vàng tranh nhau đáp lời:

- Xuất Trần Tử tội thật đáng chết, đại sư ca giúp y luyện thể hóa cốt, đối với đồng môn quả là nhân chí nghĩa tận.

- Đại sư ca anh minh quyết đoán, xử trí thật là thích đáng, không rộng rãi mà cũng chẳng hẹp hòi, chúng sư đệ hết sức kính phục.

- Tên đó tiết lộ chuyện cơ mật của bản môn khiến cho món chí bảo trong việc luyện công của sư tôn lâm nguy, đáng ra phải lóc da xẻo thịt, để y chịu đựng bảy ngày bảy đêm rồi mới giết chết. Đại sư ca cố giữ nghĩa khí đồng môn, gã có thành ma cũng còn cảm kích ân huệ.

- Bọn chúng ta ai ai cũng có tội, xin đại sư ca khoan dung tha thứ.

Bao nhiêu lời vô sỉ chen lẫn tiếng kêu thảm khốc của Xuất Trần Tử vang vọng trong đêm. Tiêu Phong cảm thấy cực kỳ chán ghét, quay mình, chân phải búng một cái, không một tiếng động đã vọt ra xa hơn hai trượng, đến tài ba như Trích Tinh Tử cũng không hề hay biết. Ông đang định bỏ đi bỗng nghe Trích Tinh Tử cất tiếng dịu dàng hỏi:

- Tiểu sư muội, ngươi ăn trộm bảo đỉnh của sư tôn giao cho người ngoài thì phải chịu tội gì?

Tiêu Phong kinh hãi nghĩ thầm: E rằng hình phạt A Tử phải chịu so với Xuất Trần Tử còn thảm khốc gấp mười, nếu ta xuôi tay bỏ đi thì lòng dạ đâu yên được?. Nghĩ thế ông quay lại lén lén trở về chỗ ẩn thân khi nãy. Chỉ nghe A Tử đáp:

- Tiểu muội phạm vào qui củ của sư phụ, chuyện đó không sai, nhưng chẳng hay đại sư ca có muốn lấy lại bảo đỉnh hay chăng?

Trích Tinh Tử đáp:

- Đó là một trong tam bảo của bản môn, đương nhiên không thể không thu hồi, làm sao để rơi vào tay người ngoài được?

A Tử nói:

- Tính nết của ông anh rể em không mấy dễ chịu. Cái bảo đỉnh đó do chính tiểu muội giao cho anh ta, nếu như em lên tiếng đòi lại, anh ấy sẽ giao hoàn không sứt mẻ. Còn như người khác hỏi ư, đại sư ca liệu y có chịu giao không?

Trích Tinh Tử hừm một tiếng đáp:

- Cái đó cũng khó nói lắm. Nếu như bảo đỉnh có gì hư hại thì tội nghiệt nhà ngươi càng nặng.

A Tử nói:

- Nếu như các vị đòi y, nhất định y sẽ không giao trả. Đại sư ca võ công tuy cao thật, giỏi lắm cũng chỉ giết được y thôi, còn như muốn thu hồi bảo đỉnh thì thật khó bằng lên trời.

Trích Tinh Tử trầm ngâm rồi đáp:

- Theo như ngươi thì phải làm sao?

A Tử đáp:

- Các vị thả tiểu muội ra để một mình ra ngoài Nhạn Môn Quan nói với tỉ phu trả lại chiếc bảo đỉnh. Cái đó gọi là đái công chuộc tội nhưng đại sư ca phải hứa là sau này không trách phạt gì tiểu muội nữa.

Trích Tinh Tử đáp:

- Lời nói của ngươi nghe cũng có lý. Thế nhưng, cô em nhỏ ơi, nếu làm như thế thì có khác gì bôi tro trát trấu vào mặt người anh này, từ rày về sau ta có còn làm đại sư huynh của phái Tinh Tú nữa được chăng? Ta thả cô ra rồi, cô sẽ cao bay xa chạy, cùng với ông anh rể trốn mất biệt, bóng chim tăm cá ta biết nơi mô mà tìm? Còn cái bảo đỉnh kia, có chí thì nên, cố là phải được, chỉ cần không tiết lậu phong thanh, gã họ Kiều kia chưa chắc đã dám vô cớ hủy đi. Tiểu sư muội, ngươi ra tay đi vậy, chỉ cần ngươi đánh thắng ta thì ngươi sẽ lên là đại sư tỉ của phái Tinh Tú lúc đó ta lại nghe hiệu lệnh của cô, để cô muốn làm gì thì làm.

Tiêu Phong bấy giờ mới rõ: Thì ra thứ bậc trên dưới của bọn chúng là do công phu mạnh yếu mà định chứ không phải nhập môn trước hay sau, thành thử tuy y tuổi còn trẻ mà lại là đại sư huynh, biết bao nhiêu người tuổi lớn hơn y lại là sư đệ. Nếu cứ như thế, nội bộ ắt luôn luôn tranh đoạt tàn sát, còn gì là tình đồng môn, nghĩa anh em nữa?. Ông không biết rằng đó chính là phương pháp của phái Tinh Tú để người sau phải giỏi hơn người trước. Đại sư huynh quyền lực rất lớn, nếu sư đệ bất phục có thể dùng võ lực phản kháng, dùng công phu để định thấp cao. Nếu đại sư huynh đắc thắng thì muốn đánh muốn giết gã sư đệ kia cũng đành chịu, không thể kháng cự. Còn như sư đệ đắc thắng, y lập tức nhảy lên làm đại sư huynh, quay lại xử tử gã đại sư huynh cũ. Sư phụ cũng chỉ chống mắt đứng nhìn, quyết không can thiệp. Vì có qui củ như thế nên ai ai cũng phải nỗ lực tu tập cốt để tự bảo tính mạng của mình, ngoài mặt thì thản nhiên làm như kém cỏi để khỏi bị đại sư huynh nghi ngờ. Xuất Trần Tử cánh tay rất khỏe, cây cương trượng y đúc vừa to vừa dài, vừa nặng, tuy đứng hàng thứ tám nhưng cũng đã khiến cho Trích Tinh Tử đố kỵ, nay nhân cớ này trừ khử y. Người môn phái khác thường chỉ luyện tới một mức nào đó là ngừng lại không còn tiến thêm được nữa, còn môn đệ phái Tinh Tú đến nửa ngày cũng không dám bê trễ, lúc nào cũng phải chuyên cần luyện tập. Đại sư huynh phải dè chừng sợ sư đệ đến khiêu chiến với mình đã đành, đến ngay cả các sư đệ cũng sợ đại sư huynh tìm chuyện đổ lên đầu mình, nếu như công phu luyện đến mức cao, đại sư huynh không chắc ăn thì sẽ không dám gây sự. A Tử nghĩ rằng Trích Tinh Tử sợ mất bảo đỉnh sẽ không dám mạnh tay, nào ngờ y không mắc bẫy, lập tức đòi động thủ khiến cho mặt hoa tái mét, nghe tiếng rên rỉ của Xuất Trần Tử chưa dứt hẳn, cái số phận đó chỉ chớp mắt sẽ đến với mình, đành bậm môi run run nói:

- Chân tay ta đều bị khóa chặt, làm sao động thủ quá chiêu với ngươi được? Nếu như ngươi muốn hại ta sao không dùng cách quang minh chính đại mà lại giở trò đê hèn này?

Trích Tinh Tử đáp:

- Được lắm! Để ta thả ngươi ra.

Y phất tay áo một cái, một luồng kình phong phóng thẳng vào đống lửa. Từ đống lửa một ngọn lửa xanh nhỏ bay ra, chẳng khác gì một tia nước xịt thẳng vào dây xích nối hai tay A Tử. Tiêu Phong nhìn rất kỹ, thấy đốm lửa đó quả không bắn vào người A Tử. Chỉ nghe thấy tiếng xì xì, chẳng bao lâu, hai tay A Tử bung ra, sợi xích đã đứt ngay giữa nhưng hai chiếc vòng vẫn còn ở nơi cổ tay. Ngọn lửa xanh lại thu về, rồi lại phóng tới lần này bắn vào sợi xích dưới chân, chỉ một lát sợi xích đó cũng bị cắt đứt. Tiêu Phong lúc đầu thấy ngọn lửa nung chảy được dây xích không khỏi kinh ngạc nội lực Trích Tinh Tử quả thực ghê gớm, đến lúc nhìn vào ngọn lửa đốt dây xích dưới chân mới thấy rõ, ngọn lửa tới đâu dây xích liền biến sắc, xem ra ngọn lửa này có điều gì cổ quái chứ không phải chỉ thuần nhờ vào nội lực. Các môn đệ phái Tinh Tú không ngớt tấm tắc ca ngợi:

- Nội lực đại sư ca đã đến mức siêu phàm nhập thánh, quả thực kinh người.

- Bọn chúng ta thực thấy chưa từng thấy, nghe chưa từng nghe, đời nay ngoài sư tôn ra, đại sư ca nhất định thiên hạ vô địch.

- Bọn gì Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung có xách dép cho đại sư ca cũng không đáng.

- Tiểu sư muội, ngươi bây giờ đã thấy lợi hại chưa? Thế nhưng có hối hận cũng muộn rồi.

Người này một câu, người kia một câu, tranh nhau nói. Trích Tinh Tử nghe những lời nịnh hót đó, mặt tươi như hoa, khẽ gật gù, liếc mắt nhìn A Tử. A Tử tuy tâm cơ linh xảo nhưng cũng chưa tìm ra cách nào thoát được cái họa trước mắt, chỉ mong bọn chúng nức lòng ca tụng khiến cho Trích Tinh Tử ra tay chậm lúc nào hay lúc nấy nhưng nói qua nói lại một hồi, không còn thêm được ý gì mới mẻ, giọng cũng lắng dần. Trích Tinh Tử chậm rãi nói:

- Tiểu sư muội, ngươi xuất chiêu đi thôi.

A Tử run run đáp:

- Ta không xuất chiêu.

Trích Tinh Tử hỏi lại:

- Vì sao vậy? Ta xem ngươi cử động được rồi mà.

A Tử đáp:

- Ta không đấu với ngươi, biết chắc đánh không lại, việc gì phải phí hơi phí sức? Ngươi muốn giết ta thì cứ giết đi.

Trích Tinh Tử thở dài đáp:

- Ta cũng chẳng muốn giết ngươi làm chi. Một tiểu cô nương xinh đẹp dễ thương như thế, giết đi quả là đáng tiếc, có điều không còn cách nào hơn. Tiểu sư muội, ngươi ra tay đi, ngươi giết được ta thì sẽ trở thành đại sư tỉ. Trong phái Tinh Tú, khi đó ngoài sư phụ ra có ai chẳng phải nghe lời ngươi.

A Tử đáp:

- Ta là một cô gái nhỏ, cả đời cũng không bao giờ hơn ngươi được, có gì phải e ngại mà ngươi lại muốn giết ta.

Trích Tinh Tử thở dài:

- Nếu như ngươi không phạm phải tội tày trời như thế này, ta nhất quyết không bao giờ làm khó ngươi đâu, thế nhưng lúc này ... ôi ... ta thật tiếc không giúp gì được nữa. Tiểu sư muội, tiếp chiêu!

Nói xong y phất tay áo một cái, một luồng kình phong ập vào đống lửa, đẩy một tia lửa xanh từ từ phóng tới cô gái, nhưng dường như chưa muốn giết A Tử ngay nên đốm lửa bay thật chậm. A Tử kinh hãi kêu lên một tiếng, nhảy qua bên trái hai bước. Tia lửa lập tức đuổi theo, A Tử lại lùi một bước nữa, lưng dựa ngay vào tảng đá Tiêu Phong đang náu sau đó. Trích Tinh Tử thúc đẩy nội lực, ngọn lửa lại ép tới, A Tử không còn đường lui đang tính nhảy sang bên cạnh nhưng tay áo Trích Tinh Tử đã múa lên, hai luồng kình phong chia ra tấn công tả hữu khiến cô gái không còn đường chạy nữa trong khi ngọn lửa trước mặt càng lúc càng gần. Tiêu Phong thấy ngọn lửa chỉ còn cách mặt A Tử chừng hai thước, rồi gần thêm một tấc, một tấc nữa bèn nói khẽ:

- Đừng sợ, có ta đến giúp ngươi đây!

Ông vừa nói vừa thò tay từ sau tảng đá ra để vào lưng cô gái, nói:

- Ngươi vận chưởng lực đánh thẳng vào ngọn lửa.

A Tử đang sợ đến mất cả hồn vía, đột nhiên nghe thấy tiếng Tiêu Phong, mừng không sao kể xiết, không kịp suy nghĩ gì liều vung chưởng đánh ra. Khi đó nội lực Tiêu Phong đã truyền vào thân thể cô ta rồi, chưởng đó đánh ra thật là hùng hậu, ngọn lửa xanh liền dội lại hai thước. Trích Tinh Tử hết sức kinh hãi, thấy A Tử đã như cá nằm trên thớt, đang định mãi lộng công phu cho ngọn lửa vờn qua vờn lại trên mặt cô gái, dọa cho kêu la một hồi để hiển thị uy phong trước đám đồng môn lúc đó mới ra tay hạ sát nhưng có ngờ đâu cô ta tuổi còn nhỏ mà nội lực lại mạnh dường ấy, thực ngoài dự liệu. Võ công của phái Tinh Tú, sau khi sư phụ truyền thụ rồi, mỗi người tự tu luyện riêng, cao siêu tới mức độ nào, chỉ đến khi gặp địch hay khi đồng môn tàn sát lẫn nhau mới hiển lộ, ngoài ra không ai biết được. Thành thử khi A Tử một chưởng đánh ra lại có thể dồn cho ngọn lửa dội ngược lại, ai nấy A lên một tiếng, tuy ngạc nhiên nhưng chẳng nghi ngờ có người ám trợ, chỉ nghĩ A Tử thiên tư thông minh tự luyện được công phu cực cao thâm. Trích Tinh Tử vận lực đẩy ra, ngọn lửa xanh lại nhắm ngay mặt A Tử phóng tới, lần này y dùng sức cực kỳ mãnh liệt, thế đi thật nhanh. A Tử hốt hoảng không biết tính sao để ngăn ngọn lửa, vội vàng né qua bên trái. Cũng may lúc này kình lực Trích Tinh Tử dùng chặn hai bên đã hết, nàng vừa né qua, ngọn lửa xanh bắn thẳng vào tảng đá, soẹt soẹt mấy tiếng. Tiêu Phong hạ giọng nói nhỏ:

- Tả chưởng đánh ra cắt đôi ngọn lửa đi.

A Tử nghĩ thầm: Cách này hay quá!, tay trái liền giơ lên, một luồng chưởng lực đẩy vào giữa cắt đứt sợi dây lửa, phần trước không còn tiếp nối phía sau nên chỉ cháy tại tảng đá được một hồi rồi tàn dần. Trích Tinh Tử nghĩ thầm: Nếu để tắt sợi dây lửa này thì ta đã thua một trận trước mặt đồng môn, bao nhiêu uy phong mất sạch còn gì. Nghĩ vậy y bèn thúc đẩy chưởng lực, đưa sợi dây lửa bắn vào tảng đá, định nối lại đầu kia để thu về. A Tử chỉ thấy từ sau lưng nội lực cuồn cuộn đổ vào, nếu không phát tiết chỉ sợ thân mình sẽ nổ tung lập tức vung ta phải đánh thẳng ra. Nội lực Tiêu Phong vô cùng hùng hậu, tuy đổ vào người A Tử uy lực đã giảm nhiều nhưng nếu nàng khéo sử dụng, xuất kỳ bất ý tấn công Trích Tinh Tử thì chỉ một đòn là xong. Có điều nàng chưa hết sợ hãi, chưởng đó lập cập đánh ra, nghe vù một tiếng, ngọn lửa xanh lập tức tắt phụp, tuy thắng thế nhưng không làm Trích Tinh Tử tổn hao chút nào. Việc xảy ra, đám đồng môn phái Tinh Tú ai nấy không khỏi mặt màythất sắc. Riêng gã thất đệ tử chẳng hiểu ngô khoai, ù ù cạc cạc, vẫn tiếptục lên tiếng bợ đỡ:

- Đại sư ca công lực ghê gớm thật, chưởng của tiểu sư muội giỏi lắm cũng chỉ tắt được thần hỏa chứ có làm gì được đại sư ca đâu?

Câu nói đó y bản tâm bốc thơm sư huynh nhưng Trích Tinh Tử nghe vào tai, thật chẳng khác gì châm chọc, đột nhiên phất tay áo một cái, đám lửa tạt qua, nghe suỵt một tiếng, như một mũi tên bắn thẳng vào mặt gã sư đệ. Ngọn lửa chỉ chạm vào rồi lại thu về ngay nhưng gã kia đã hai tay bưng mặt, nhào xuống đất kêu la chẳng khác gì heo bị chọc tiết. Trích Tinh Tử trừng trị gã thất sư đệ rồi tả chưởng liền đánh xéo ra, luồng lửa xanh lại tấn công về phía A Tử. Lần này ngọn lửa to hơn nhiều, tiếng kêu ù ù, chiếu lên khiến cho khuôn mặt cô gái trở thành xanh lè. A Tử đẩy song chưởng ra ngăn chặn, ngọn lửa lập tức ngừng lại trên không, cứ xông tới được một hai tấc, lại lùi về một hai tấc. Trong bóng đêm ngọn lửa trông chẳng khác gì một con rắn dài màu xanh lơ lửng vắt ngang, chỉ hơi uốn éo, màu sắc vừa rực rỡ, lại vừa ngụy bí, ánh sáng khi mờ khi tỏ,lấp lánh bất định. Trích Tinh Tử liên tiếp thôi động chưởng lực ba lần nhưng đều bị A Tử đẩy lui, không khỏi sốt ruột, lại thêm tức tối. Y thúc đẩy thêm hai lần nữa vẫn không đến đâu, một luồng hơi lạnh theo sống lưng chạy dài lên đến cổ: Dư lực ... dư lực ... của con bé này vẫn còn, thì ra nó định đùa rỡn mình, không lẽ sư phụ thiên vị, bí mật truyền công phu thượng thừa của bản môn cho nó? Ta ... ta làm sao chống nổi?. Y nghĩ thế, trong lòng không khỏi hoảng sợ, chưởng lực lập tức yếu đi, con rắn xanh liền quay vụt về đống lửa. Trích Tinh Tử gầm lên một tiếng, chưởng lực mạnh thêm, ngọn lửa biến thành một khối hỏa cầu to bằng cái đấu, bay về phía A Tử. A Tử vội vàng đánh chưởng bên phải ra nhưng không chặn nổi khối cầu lửa, vội vàng đẩy thêm chưởng bên trái, song chưởng hợp lực mới chống đỡ được. Chỉ thấy một cục lửa tròn lung linh trên không chuyển động vô cùng nhanh nhẹn, các đệ tử vội vàng cất tiếng reo hò:

- Đại sư ca công lực thần kỳ, con tiểu a đầu lần này chỉ có chết!

- Tiểu sư muội, ngươi còn hung hăng được nữa thôi? Mau ngoan ngoãn chịu thua, không chừng đại sư ca cũng cho ngươi một con đường sống.

A Tử liên tiếp thúc đẩy chưởng lực, mặc dù sức của Tiêu Phong đưa vào mạnh mẽ thật, nhưng dẫu sao cũng chỉ từ bên ngoài, nàng không thể nào vận dụng được như ý muốn. Trích Tinh Tử cùng nàng cầm cự một hồi liền phát giác được chỗ yếu của cô gái, đột nhiên lông mày dựng lên, ngón tay trỏ bên phải điểm luôn hai chỉ. Từ đống lửa nghe hai tiếng soẹt soẹt phóng ra hai đốm hỏa hoa, thế đi thật nhanh chẳng khác gì sao băng chia ra hai bên tấn công A Tử. A Tử kêu lên Chao ôi! một tiếng, hai tay nàng đang ngưng tụ chặn hỏa cầu, làm sao chia ra để chống đỡ được? Nàng không còn cách gì hơn đành né sang một bên, nhưng hai đốm lửa dưới sức thôi động của Trích Tinh Tử lập tức đuổi theo. Tiêu Phong thấy A Tử không còn cách nào kháng cự được, lập tức tay trái hơi giơ lên, một luồng chưởng lực nhè nhẹ phóng ra, vừa lúc thân hình A Tử hơi chuyển động, tà thắt lưng tung bay, nhởn nhơ phần phật, hai đốm lửa hoa nhanh nhẹn dị thường bắn ngược trở về Trích Tinh Tử. Trích Tinh Tử sợ đến há mồm trợn mắt, còn đang ngỡ ngàng, hai đốm lửa đã bắn tới người y, vội vàng nhảy vọt lên, một đóa hỏa hoa bay xẹt dưới chân. Hai tên sư đệ liền lên tiếng reo hò:

- Hảo công phu, đại sư huynh quả là giỏi thật.

Tiếng hoan hô chưa dứt, đốm lửa thứ hai đã bắn vào bụng dưới, Trích Tinh Tử còn đang ở trên không, làm sao có thể lên cao hơn được nữa? Chỉ nghe soẹt một tiếng nhỏ, hỏa hoa đã trúng bụng, Trích Tinh Tử rống lên một tiếng, rơi bịch xuống đất, quả cầu liền quay ngay trở lại đống lửa. Các đệ tử nhìn A Tử, ai nấy lộ vẻ kinh hãi, nghĩ thầm: Xem ra tiểu sư muội công lực không phải tệ, đại sư huynh chưa chắc đã thắng, mình chẳng nên reo hò quá đáng. Trích Tinh Tử thần sắc ảm đạm, giơ tay gỡ búi tóc, mái tóc dài liền xõa xuống che mặt, tiếp theo cắn đứt đầu lưỡi, phun một ngụm máu vào đống lửa. Ngọn lửa đang le lói lập tức bùng lên, ánh sáng chói lòa khiến mọi người không mở mắt nổi. Đám đệ tử không nhịn nổi lại reo hò:

- Công lực đại sư ca quả là ghê gớm khiến chúng ta một phen đại khai nhãn giới.

Trích Tinh Tử chẳng khác gì một con vụ thân hình quay tít đến hơn chục vòng, tay áo phất động, bốc đống lửa dướt đất bay lên, chẳng khác gì một bức tường lửa đổ xuống người A Tử. Tiêu Phong biết Trích Tinh Tử đang ngưng tụ công lực bình sinh vào một đòn, sử dụng một tà thuật rất lợi hại. Gã này tuy gian ác thật nhưng với ông không thù không oán, việc gì phải quyết tử với y, lập tức biến chưởng thành trảo, chộp luôn sau lưng A Tử, định kéo nàng chạy đi. Đột nhiên A Tử kêu lên:

- A Châu tỉ tỉ, A Châu tỉ tỉ, đứa em gái đang bị người ta ức hiếp, sao chị không rửa hờn cho em?

Tiêu Phong ngạc nhiên: Sao nàng lại kêu réo A Châu, ta ... ta ... làm sao bỏ đi được?. Tiêu Phong còn hơi chần chừ, khối lửa xanh kia đã đến thật nhanh, dường như muốn chồm lên, liền song chưởng tung ra một luồng kình phong luồn vào tay áo A Tử. Dưới ánh sáng xanh, hai cánh tay áo màu tím phần phật căng phồng, kình lực của Tiêu Phong ra theo, đẩy vào bức tường lửa. Ngọn lửa xanh chựng lại trên không, rồi từ từ tiến trở về phía Trích Tinh Tử. Trích Tinh Tử kinh hãi quá, nghiến răng cắn đầu lưỡi lần nữa, một ngụm máu khác phun vào, lửa lại bừng lên, quay ngược trở lại nhưng chỉ được độ hai thước thì bị nội lực của Tiêu Phong đẩy lui. Bọn đệ tử thấy cánh tay áo A Tử chẳng khác gì một cánh buồm no gió, đều tưởng nội lực vị tiểu sư muội này mạnh quá đỗi, có ai ngờ sau lưng nàng có người ám trợ. Lúc này mặt Trích Tinh Tử tái mét không còn hột máu, cứ từng ngụm từng ngụm máu phun ra. Mỗi lần như thế nội công lại giảm đi một phần nhưng ở vào thế cưỡi hổ rồi chỉ đành còn nước còn tát, cốt sao đốt chết được A Tử sau đó sẽ bỏ đi ngay từ từ tìm cách khôi phục lại nguyên khí, nếu không bọn sư đệ nhìn ra chỗ yếu, thừa cơ dậu đổ bìm leo tiến đến khiêu chiến. Y liên tiếp phun máu ra nhưng đối với nội lực hùng hồn của Tiêu Phong, ngọn lửa đâu có cách gì tiến thêm được lấy nửa thước? Tiêu Phong theo nội kình đối phương mà nhận xét thấy chân khí của y càng lúc càng yếu, dầu cạn đèn khô, liền ngưng khí nói với A Tử:

- Ngươi bảo y chịu thua đi, đừng đấu tiếp nữa.

A Tử kêu lên:

- Đại sư ca, ngươi đấu không lại ta đâu, mau mau quì xuống van xin, ta sẽ tha không giết. Ngươi chịu thua chưa?

Trích Tinh Tử hoảng hốt dị thường, biết mạng mình chỉ còn trong giây lát, nghe A Tử nói thế, vội vàng gật đầu. A Tử hỏi lại:

- Sao ngươi không chịu mở miệng? Ngươi không nói nghĩa là không chịu thua, phải không?

Trích Tinh Tử lại liên tiếp gật đầu, nhưng không sao nói được. Y đang ngưng tụ toàn lực chống đỡ chưởng lực của Tiêu Phong, chỉ vừa há miệng, chân khí thoát ra ngọn lửa biếc sẽ quay ngược về nướng sống y ngay. Các đồng môn thấy thế lập tức nhao nhao lên chửi rủa:

- Trích Tinh Tử, ngươi thua rồi sao chưa quì xuống rập đầu đi?

- Cái thứ bị thịt như ngươi mà ra ngoài thì phái Tinh Tú còn mặt mũi nào nữa?

- Tiểu sư muội khoan hồng đại lượng tha mạng cho ngươi, sao còn bướng bỉnh? Mau mau mở miệng van xin đi thôi.

- Trích Tinh Tử, mười năm trước ta đã biết ngươi là đứa tệ hại nhất trong phái Tinh Tú. Tiểu sư muội hôm nay thanh lý môn hộ, lập được công lớn, quả là đại công thần làm rạng danh bản phái.

- Ngươi âm mưu ám toán sư tôn, toan gia nhập phái Thiếu Lâm, may có tiểu sư muội nhìn thấy gian mưu của ngươi. Ngươi thật đúng là đồ thú vật, vô sỉ không đâu kể xiết.

- Tiểu sư muội thần công cái thế, ngoài sư tôn ra thì sư muội là người tài giỏi nhất, ta đã biết từ lâu rồi.

- Trích Tinh Tử, chính ngươi là đứa ăm trộm Thần Mộc Vương Đỉnh, lại dám mở mồm vu vạ cho tiểu sư muội, bộ không muốn sống nữa hay sao?

Tiêu Phong thấy bọn chúng lựa gió đổi chiều, thấy Trích Tinh Tử vừa vào thế hạ phong, lập tức hùa theo nước đục thả câu, mới vừa đây ca tụng đại sư huynh như kẻ anh hùng cái thế, bây giờ thì chửi như trâu như ngựa, thực tư cách không bằng tuồng chó lợn, nghĩ thầm: Tinh Tú Lão Ma thu được bọn đệ tử nhân phẩm kém cỏi thế này, A Tử lăn lộn với chúng từ nhỏ, thảo nào hành vi cũng chẳng ra gì. Ông thấy Trích Tinh Tử thảm hại quá rồi, không nỡ làm quá, nội kình thu về, hai cánh tay áo A Tử lập tức xẹp xuống. Trích Tinh Tử thần sắc thiểu não, thân hình lảo đảo lắc lư, đột nhiên hai gối nhũn đi ngồi phịch xuống đất. A Tử hỏi:

- Đại sư ca sao thế? Phục ta chưa?

Trích Tinh Tử nói nhỏ:

- Ta chịu thua. Ngươi ... ngươi đừng ... đừng gọi ta là đại sư ca nữa, ngươi là đại sư tỉ của tất cả.

Các đệ tử cùng cất tiếng hoan hô:

- Hay thật! Hay thật! Đại sư tỉ võ công cái thế, phái Tinh Tú có truyền nhân như vậy thể nào cũng dương danh.

- Đại sư tỉ mau mau đi giết sạch bọn Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung để phái Tinh Tú chúng ta độc tôn thiên hạ.

Một gã khác liền cãi:

- Ngươi chỉ nói năng tầm bậy! Bắc Kiều Phong là anh rể của sư tỉ, sao lại giết đi?

- Sao lại không giết được? Trừ phi y mở mồm chịu thua, đầu nhập môn phái Tinh Tú.

A Tử liền mắng:

- Các ngươi ồn ào gì thế? Không ai được mở mồm.

Cả bọn liền im bặt không xôn xao nữa. A Tử cười hì hì nhìn Trích Tinh Tử:

- Qui củ của bản môn, sau khi thay đổi truyền nhân rồi thì người truyền nhân cũ xử tội như thế nào?

Mồ hôi trán Trích Tinh Tử nhỏ xuống tong tỏng, run rẩy đáp:

- Đại ... đại ... đại sư tỉ, xin ... xin sư tỉ ...

A Tử cười khanh khách:

- Ta cũng muốn tha cho ngươi lắm, có điều qui củ bản môn không thể bị hủy hoại nơi tay ta được. Ngươi xuất chiêu đi thôi! Có tài cán gì hãy hết sức đem ra thi triển.

Trích Tinh Tử biết số mạng mình đã quyết định rồi, không thể van xin thêm được nữa, ngưng khí vào song chưởng nhắm ngọn lửa đẩy tới. Thế nhưng nội lực của y đã hết rồi, song chưởng đánh ra ngọn lửa chỉ hơi lay động một chút rồi không thôi. A Tử cười nói:

- Vui thật! Thích quá đi thôi! Đại sư ca, pháp thuật của ngươi sao không còn linh nghiệm nữa?

Nàng tiến lên hai bước, đẩy song chưởng một luồng lửa biếc phun ra, bắn thẳng vào người Trích Tinh Tử. A Tử nội lực bình thường, làn lửa xanh đi cũng chậm, lại tung tóe khắp nơi nhưng Trích Tinh Tử lúc ấy không còn hơi sức nào chống trả, đến đứng lên bỏ chạy cũng không xong. Ngọn lửa vừa chạm vào người y, lập tức đầu tóc, áo quần bốc cháy, kêu la thảm thiết luôn mồm, toàn thân biến thành một cây đuốc sống. Bọn đệ tử lại cất tiếng ca tụng, cùng tán dương đại sư tỉ võ công xuất thần nhập hóa, mừng cho phái Tinh Tú trừ được một tên bại hoại lâu nay, theo đúng ý nguyện của sư tôn, lập nên công lớn. Tiêu Phong tuy đã từng chứng kiến nhiều cảnh hung tàn thảm khốc trên giang hồ, nhưng chưa từng thấy một cô gái xinh đẹp tú lệ, trong trắng ngây thơ như A Tử lại hành sự tàn nhẫn độc ác đến thế. Ông cảm thấy chán chường, khẽ thở dài, cất bước bỏ đi. A Tử kêu lên:

- Tỉ phu, tỉ phu, đừng đi vội, đợi em chút nào.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú đột nhiên thấy một người ở sau tảng đá bước ra, bọn nhị đệ tử, tam đệ tử nhận ra là Tiêu Phong, không khỏi ngạc nhiên thất sắc. A Tử lại gọi:

- Tỉ phu, đợi em với.

Nàng cất bước chạy đến bên Tiêu Phong. Lúc đó tiếng kêu rú của Trích Tinh Tử, thêm tiếng vang từ sơn cốc vọng lại càng lúc càng thêm ghê rợn. Tiêu Phong nhíu mày:

- Ngươi theo ta làm chi? Ngươi là truyền nhân của phái Tinh Tú, là đại sư tỉ của cả bầy, chưa thấy hả lòng hả dạ hay sao?

A Tử cười nói:

- Không!

Nàng hạ giọng thì thầm:

- Cái chức đại sư tỉ của tiểu muội là đồ giả, có gì thích thú đâu? Tỉ phu, cho em theo anh ra ngoài Nhạn Môn Quan nhé!

Tiêu Phong nghe thấy tiếng kêu la của Trích Tinh Tử, không muốn lưu lại đây thêm nữa, rảo bước đi về hướng bắc. A Tử đi song song với ông, quay đầu lại nói:

- Nhị sư đệ, ta có việc phải đi lên mạn bắc, các ngươi quanh quẩn đâu đây đợi ta về, không được người nào tự ý bỏ đi, nghe rõ chưa?

Cả bọn cùng tiến lên hai bước, cung kính khom lưng nói:

- Cẩn tuân pháp chỉ của đại sư tỉ, chúng sư đệ không dám trái lời.

Tiếp đó bọn chúng lại nhao nhao tán tụng:

- Cung chúc đại sư tỉ lên đường bình an.

- Cung chúc đại sư tỉ mọi sự như ý.

- Cung chúc đại sư tỉ kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công.

- Đại sư tỉ mang trong người thần công như thế, có việc gì trong thiên hạ mà chẳng xong? Những câu chúc tụng chỉ bằng thừa.

A Tử giơ tay vẫy vẫy mấy cái, khuôn mặt đầy vẻ đắc ý. Dưới ánh tuyết chiếu lên, Tiêu Phong thấy cô gái xinh đẹp, vẻ mặt ngây thơ dễ thương kia mỉm cười, thật chẳng khác gì đứa bé mới được món đồ chơi hay một cục kẹo, nếu ông không chính mắt nhìn thấy, thì ai

dám tin rằng nàng vừa ra tay giết đại sư huynh, mới được chức truyền nhân của một tà phái đứng đầu thiên hạ. Tiêu Phong khẽ thở dài, bỗng thấy trên đời chuyện gì cũng chán chường hết sức. A Tử hỏi:

- Tỉ phu, sao anh lại thở dài? Hay là tại em cứng đầu bướng bỉnh?

Tiêu Phong đáp:

- Ngươi đâu có bướng bỉnh, chỉ hung ác tàn nhẫn thôi. Bọn ta là đàn ông đã ra đời, nếu có hung ác thì cũng đành. Còn ngươi chỉ là một cô bé con, sao hạ thủ lại không dung tình như thế?

A Tử ngạc nhiên hỏi lại:

- Anh biết rồi mà còn vờ vịt, hay là không biết thật?

Nói xong nàng nghiêng ngó đầu, chăm chăm nhìn Tiêu Phong, khuôn mặt đầy vẻ dò hỏi. Tiêu Phong hỏi:

- Sao ta lại biết rồi mà còn vờ vịt?

A Tử đáp:

- Cũng lạ nhỉ, không lẽ tỉ phu không biết hay sao? Cái chức đại sư tỉ của tiểu muội là giả, là do anh tranh đoạt dùm em nhưng bọn chúng chưa nhìn ra đấy thôi. Nếu như tiểu muội không giết y, thể nào cũng có lúc y tìm ra chân tướng, lúc ấy chắc gì có tỉ phu ở bên cạnh, tính mạng em sẽ đi đời nhà ma. Em muốn sống không thể không giết y cho xong.

Tiêu Phong nói:

- Được rồi! Thế ngươi theo ta ra ngoài Nhạn Môn Quan làm gì thế?

A Tử đáp:

- Tỉ phu ơi, để em nói thực cho anh nghe, có được chăng? Tỉ phu có chịu nghe không nào?

Tiêu Phong nghĩ thầm: Giỏi nhỉ! Hóa ra xưa nay ngươi chỉ toàn nói láo với ta thôi, bây giờ mới nói thực. Ông bèn đáp:

- Dĩ nhiên là được, ta chỉ sợ ngươi không nói thực thôi.

A Tử cười khúc khích mấy tiếng, nắm cánh tay ông đáp:

- Tỉ phu cũng còn sợ em nữa hay sao?

Tiêu Phong thở dài:

- Ta có nhiều chuyện sợ ngươi lắm, sợ ngươi gây ra tai họa, sợ ngươi vô cớ giết người, sợ ngươi giở trò tinh ma, nghịch ngợm ...

A Tử nói:

- Thế anh có sợ người ta ăn hiếp tiểu muội, bị người ta giết hay không nào?

Tiêu Phong đáp:

- Ta nhận lời gửi gấm của chị cô, dĩ nhiên phải chiếu cố cho cô rồi.

A Tử hỏi lại:

- Vậy như nếu tỉ tỉ không gửi gấm thì sao? Nếu như thiếp không phải là em gái của chị A Châu thì sao?

Tiêu Phong hừ một tiếng đáp:

- Nếu thế thì ta việc gì phải lo cho ngươi làm gì?

A Tử hỏi:

- Chị em có gì tốt vậy? Sao anh lại chẳng coi em ra gì?

Tiêu Phong đáp:

- Chị ngươi so với ngươi tốt gấp nghìn lần vạn lần! A Tử, người như ngươi vĩnh viễn chẳng bao giờ bì kịp được nàng đâu.

Ông nói tới đây mắt lại rưng rưng, thanh âm có chiều nghẹn ngào. A Tử bĩu môi, hờn dỗi nói:

- Nếu chị A Châu hay như thế, sao tỉ phu không gọi chị ấy đi chung với anh, tiểu muội không đi nữa đâu.

Nói xong quay mình bỏ đi. Tiêu Phong chẳng ngó ngàng gì đến cô nàng, cũng cất bước, trong lòng không khỏi chua xót: Giá như có được A Châu cùng đi với ta trên tuyết địa này, nếu như nàng hờn giận ta, quay mình bỏ đi như thế thì ta se lập tức đuổi theo ngay, ngon ngọt dỗ dành nàng một hồi. Không đâu, ta chẳng bao giờ để nàng phải bực mình, chuyện gì cũng chiều theo nàng cả. Ôi, A Châu đối với ta nhu thuận dịu dàng, có bao giờ lại giận ta được?. Đột nhiên nghe tiếng chân người đuổi theo, A Tử đã chạy lại nói:

- Tỉ phu ơi, anh quả là người lòng lang dạ sói, nói không là không, không có một chút nhân từ nào.

Tiêu Phong bật cười hỏi lại:

- Người như ngươi mà nói gì chuyện bụng dạ nhân từ? Này A Tử, ngươi nghe ai nói đến hai chữ nhân từ thế?

A Tử đáp:

- Em nghe mẹ em nói, bà ấy bảo đối với người khác không nên quá tàn nhẫn bá đạo, phải có lòng nhân từ.

Tiêu Phong nói:

- Mẹ ngươi nói thế là phải lắm, chỉ tiếc rằng từ bé ngươi đã không ở với mẹ nên chỉ học được ở sư phụ những chuyện tàn ác xấu xa.

A Tử cười hỏi:

- Hay lắm! Thế từ nay em ở bên cạnh tỉ phu sẽ học ở anh những điều hay, điều tốt.

Tiêu Phong giật nảy người, liên tiếp xua tay, lật đật đáp:

- ấy chết, không được đâu! Ngươi đi theo một gã thô lỗ mãng phu như ta để làm gì? Này A Tử, ngươi đi đi! Ngươi ở gần bên ta chỉ khiến ta thêm phiền não, có muốn ngồi không một chút để suy nghĩ chuyện gì cũng không xong.

A Tử hỏi:

- Nếu như tỉ phu muốn suy nghĩ chuyện gì, chi bằng nói cho em hay, em sẽ giúp anh suy nghĩ. Anh tốt bụng quá dễ bị người ta cho vào tròng.

Tiêu Phong vừa bực mình, vừa tức cười nói:

- Ngươi chỉ là một đứa bé con, biết gì mà nói? Không lẽ chuyện ta suy tính không ra mà ngươi lại nghĩ được hay sao?

A Tử đáp:

- Cái đó đương nhiên rồi, có biết bao nhiêu chuyện, dẫu cách nào tỉ phu cũng chẳng nghĩ ra.

Cô ta bốc một nắm tuyết dưới đất, nặn thành một cục, vung tay ném ra xa hỏi:

- Tỉ phu ra ngoài Nhạn Môn Quan để làm gì thế?

Tiêu Phong lắc đầu:

- Chẳng làm gì cả. Săn bắn thả cừu, sống cho qua ngày, có vậy thôi.

A Tử nói:

- Thế ai nấu cơm cho anh ăn? Ai may áo cho anh mặc?

Tiêu Phong ngỡ ngàng, trước nay ông chưa hề tính đến chuyện đó, tiện mồm đáp:

- Nấu ăn may áo chẳng phải dễ đâu? Người Khất Đan ăn thịt bò thịt cừu, mặc áo da bò da cừu, đâu đâu cũng là nhà, tiện đâu hay đó, chẳng có gì phải lo lắng cả .

A Tử nói:

- Thế lúc anh cô đơn một thân một mình, ai nói chuyện với anh?

Tiêu Phong đáp:

- Ta trở về với người cùng bộ tộc, sẽ có bằng hữu ở nơi đó.

A Tử hỏi:

- Nếu có nói qua nói lại cũng chỉ toàn chuyện đi săn, cưỡi ngựa, giết bò, xẻ cừu nói mãi cũng nhàm, còn có gì là thú vị đâu?

Tiêu Phong thở dài, biết nàng nói đúng không biết phải trả lời ra sao. A Tử nói:

- Anh không quay về Liêu quốc không được hay sao? Thôi đừng về nữa, ở lại đây uống rượu đánh lộn, chết cũng được, sống càng tốt, chẳng phải oanh liệt, thống khoái hơn nhiều ư?

Tiêu Phong nghe nàng nói ở lại đây uống rượu đánh lộn, chết cũng được, sống càng tốt, chẳng phải oanh liệt, thống khoái hơn nhiều ư? bỗng thấy máu nóng dâng trào, hào khí sôi sục, ngẩng đầu, hú lên một tiếng dài nói:

- Ngươi nói phải lắm!

A Tử giật giật cánh tay ông ta nói:

- Tỉ phu ơi, thôi anh đừng đi nữa, tiểu muội cũng không về Tinh Tú Hải, đi theo anh uống rượu đánh lộn.

Tiêu Phong cười:

- Ngươi là đại sư tỉ của phái Tinh Tú, ngươi đi rồi họ không có truyền nhân, không có đại sư tỉ thì đâu có được?

A Tử nói:

- Cái chức đại sư tỉ đó của em chẳng qua nhập nhoạng đánh lừa mà có, đến khi lộ ra thì tính mạng ắt khó mà còn, tuy thích thật nhưng cũng chẳng đáng gì. Đi theo tỉ phu uống rượu đánh nhau còn vui gấp bội.

Tiêu Phong mỉm cười đáp:

- Nói đến uống rượu, ngươi có biết uống đâu, chỉ e uống chưa đến một bát đã say mèm. Còn đánh lộn thì tài nghệ cũng không ra gì, giúp ta không xong, ta lại phải giúp ngươi thì có.

A Tử mặt mày bần thần không vui, lông mày cau lại, đi qua đi lại mấy bước, đột nhiên ngồi phịch xuống khóc òa lên. Tiêu Phong thấy thế sợ hết hồn, vội hỏi:

- Ngươi ... ngươi ... ngươi sao thế?

A Tử không trả lời, lại càng khóc to thêm nghe thực thảm thiết. Tiêu Phong thấy chuyện gì cô bé cũng lấn lướt thiên hạ, ngay cả khi bị phái Tinh Tú bắt giữ, thái độ vẫn ngang tàng bất khuất, có ngờ đâu lại khóc lóc bi ai đến vậy, không khỏi cuống quít, hỏi gặng:

- Này, này! A Tử, cô sao thế?

A Tử vẫn sụt sùi, nghẹn ngào nói:

- Anh đi đi, khỏi lo cho em làm gì, để em ở đây khóc đến chết luôn, có thế anh mới vừa lòng.

Tiêu Phong mỉm cười:

- Đang khỏe khoắn thế này, có khóc cũng không chết được.

A Tử vẫn khóc:

- Nếu em muốn khóc cho chết thì sẽ khóc cho anh coi.

Tiêu Phong cười nói:

- Thế ngươi ngồi đây khóc cho chán đi nhé, ta không ở đây với ngươi được đâu.

Nói xong ông bỏ đi, chỉ được mấy bước thấy cô ta đã nín bặt, không còn nghe gì nữa. Tiêu Phong lạ lùng, quay đầu lại nhìn, thấy cô bé đã nằm phục dưới tuyết, không cử động gì cả. Ông trong bụng cười thầm: Trẻ con hay nhõng nhẽo, mình mà đến hỏi thăm là mình thua kế nó. Nghĩ thế ông vẫn tiếp tục đi thẳng. Ông đi được mấy dặm rồi, quay đầu lại nhìn, nơi vùng này địa thế bằng phẳng, không có cây cối núi đồi gì ngăn trở, thấy dường như A Tử vẫn còn nằm yên nơi đó. Tiêu Phong trong bụng băn khoăn: Con bé này tính tình cực kỳ quái dị, xem chừng nó sẽ nằm luôn nơi đây không bao giờ trở dậy nữa. Ông lại nghĩ: Ta đã làm chết chị nó rồi, nếu không theo lời dặn dò của A Châu, chẳng quay lại lo cho nó, bảo hộ nó e rằng sẽ khiến cô nàng tức đến cũng chết theo. Tiêu Phong vừa nghĩ đến A Châu, ngực không khỏi sôi lên, lập tức rảo bước quay lại. Ông chạy đến bên cạnh A Tử, thấy cô ta vẫn nằm y nguyên chỗ cũ, hình dáng vẫn hệt lúc đầu không xê xích một chút nào. Tiêu Phong đến gần hơn nữa, đột nhiên kinh hoàng thấy tuyết trên người nàng đã đóng đến mấy tấc, ở chung quanh cũng không tan, không lẽ chết thật rồi sao? Ông vội đưa tay sờ vào mặt cô gái, thấy da thịt lạnh như băng, thăm mũi quả nhiên không còn hô hấp. Tiêu Phong đã thấy nàng trá tử đánh lừa cha mẹ, biết phái Tinh Tú có môn qui tức công phu, có thể ngừng thở, nhưng cũng không khỏi hoảng hốt, lập tức giơ tay điểm luôn vào mạng sườn mấy cái, nội lực theo huyệt đạo của nàng truyền vào. A Tử ậm ự một tiếng, chậm rãi mở mắt, bất thần há miệng, một mũi kim xanh biếc phun thẳng vào giữa hai lông mày Tiêu Phong. Tiêu Phong với nàng cách nhau chỉ chừng một thước, không thể nào ngờ cô ta đột nhiên ám toán, mũi độc châm đó bắn thật nhanh, võ công ông tuy cao thật nhưng chỉ trong nháy mắt, lại cận kề nếu muốn tránh né cũng không thể nào kịp được. Ông không kịp suy nghĩ, tay phải vung lên, đánh ra một luồng kình lực cực kỳ hồn hậu. Chưởng đó kết tụ một đời công lực, chiếc kim nhỏ kia chỉ cách một thước bắn tới muốn dùng kình phong vô hình vô ảnh đánh tạt ra thì chưởng lực phải kinh người biết chừng nào. Chưởng đánh ra thân hình Tiêu Phong đồng thời nghiêng qua bên phải, mũi ngửi thấy thoang thoảng một mùi tanh hôi, chiếc kim độc đã sượt qua bên má, chỉ cách chừng một tấc, quả thật hung hiểm. Cũng khi đó, thân hình A Tử bị chưởng lực đánh trúng, không kêu được tiếng nào, chỉ lặng lẽ bay tung ra, rơi xuống bịch cách đến hơn mười trượng. Thân hình nàng rơi xuống tuyết rồi còn trượt đi một quãng dài mới ngừng lại.

XÍCH THỦ ĐỒ HÙNG TRÓC HỔ

Xa xôi vạn dặm đường trường,

Tay không bắt cọp như tuồng mèo con.

Anh hùng giữa cảnh núi non,

Can vân hào khí vẫn còn như xưa.

*

* *

Tiêu Phong trong lúc ngàn cân treo trên sợi tóc thoát được hiểm nghèo

như thế, kêu thầm: Hú vía, ý niệm đầu tiên nghĩ đến là: Con tiểu yêu

nữ này tâm địa độc ác thật, dám dùng cách đó ám toán ta. Ông biết ám

khí phái Tinh Tú thật là lợi hại, độc địa đến cực điểm, nếu như bị bắn

trúng thì thật khó mà sống được, không khỏi tim đập thình thình.

Đến khi ông nhìn lại A Tử bị một chưởng đánh văng xa hơn chục

trượng, đột nhiên thất kinh: Chết rồi, chưởng đó cô ta làm sao chịu nổi?

E rằng bị mình đánh chết rồi. Ông nhún một cái phóng mình nhảy tới,

thấy nàng hai mắt nhắm nghiền, máu từ hai bên khóe miệng ứa ra, mặt

vàng khè như đồ hàng mã, lần này quả là ngừng thở thật rồi.

Tiêu Phong ngẩn ngơ nghĩ bụng: Ta đã đánh chết A Châu, bây giờ lại

giết luôn cả cô em gái của nàng. Nàng ... nàng khi sắp chết đã dặn ta lo

lắng cho muội muội, ngờ đâu ... ngờ đâu ... ta lại đánh chết luôn cả nó.

Tuy ý nghĩ đó chỉ vụt qua đầu nhưng bởi ông tâm thần hoảng hốt nên

tưởng như trải qua một thời gian thật dài. Ông lắc đầu, vội vàng giơ

chưởng đè vào sau lưng A Tử, đem chân khí nội lực hết sức truyền vào.

Một lúc sau, thân hình A Tử hơi rung động, Tiêu Phong mừng quá gọi:

- A Tử, A Tử, em đừng chết, bằng giá nào ta cũng nhất định sẽ cứu

em.

Thế nhưng A Tử chỉ cựa một cái rồi lại nằm yên. Tiêu Phong hết sức

bồn chồn, lập tức ngồi xếp bằng ngay trên mặt tuyết, nhè nhẹ đỡ A Tử

lên, để ngồi trước mặt đưa song chưởng để vào sau lưng, đem chân lực từ

từ truyền vào người cô gái. Ông biết rằng A Tử bị thương rất nặng, lúc

này chỉ cốt sao giữ cho nàng còn thoi thóp, tạm thời không chết rồi tìm

cách cứu chữa sau thành thử truyền chân khí vào người nàng cũng hết sức

chậm rãi. Độ chừng thời gian một bữa ăn, trên đầu ông tỏa ra những làn

hơi trắng đủ biết đã dùng toàn lực rồi.

Cứ như thế liên tục hành công chừng nửa giờ A Tử mới hơi động đậy,

rên khẽ lên một tiếng:

- Tỉ phu!

Tiêu Phong mừng quá, tiếp tục truyền vào nhưng không nói chuyện

với nàng, thấy thân thể cô ta dần dần ấm lại, mũi đã có hơi thở nhè nhẹ.

Tiêu Phong e ngại có chuyện không hay nên không dám ngừng chuyển

nội lực, đến mãi giữa trưa, hơi thở của A Tử mới đều đặn mặc dù mặt vẫn

xanh mét không một chút máu. Ông liền bồng ngang nàng trên tay, rảo

bước chạy đi.

Ông gia tăng cước bộ, cố sao vừa nhanh vừa ổn, tay trái vẫn để lên sau

lưng A Tử, không ngừng chuyển chân khí vào. Chạy đến hơn một giờ mới

đến một tiểu thị trấn, nơi đó không có khách điếm, đành phải tiếp tục đi

về hướng bắc, chạy đến hơn hai chục dặm, mới tìm ra được một nhà trọ

thật sơ sài. Khách điếm đó không có tiểu nhị, do chính chủ nhân tự hầu

hạ khách hàng. Tiêu Phong bảo người chủ đem lại cho ông một bát cháo

nóng, dùng thìa múc đút vào mồm A Tử. Thế nhưng nàng chỉ uống được

ba thìa, rồi lại ói ra cả, trong nước cháo có lẫn máu bầm.

Tiêu Phong cực kỳ lo lắng, nghĩ bụng A Tử bị thương kỳ này xem ra

khó mà trị được, Diêm Vương Địch Tiết Thần Y nào có biết đang ở nơi

nao, mà dẫu có ở gần bên, cũng chưa chắc đã làm được gì. Hôm trước A

Châu bị thương không trực tiếp do chưởng lực của phương trượng chùa

Thiếu Lâm mà đã nguy hiểm vạn phần, lại được bôi linh cao của Đàm

Công Thái Hàng sơn, rồi được Tiết Thần Y cứu chữa, có thế mới khỏi.

Tuy ông biết tính mạng A Tử khó mà bảo tồn nhưng không vì thế mà chịu

bó tay, chỉ nghĩ: Dù ta phải hết lòng hết sức, chân khí nội lực hao kiệt

hoàn toàn cũng cố còn nước còn tát. Không phải ta muốn cứu cô ta mà

chính là vì không muốn phụ lời trăn trối của A Châu.

Ông vẫn biết A Tử ra tay ám toán mình trước, trong hoàn cảnh đó, nếu

không đánh chưởng đó ra, tính mạng ắt không còn. Người võ công cao

cường như ông, mỗi khi gặp nguy đâu còn kịp suy nghĩ gì lập tức ra tay

chống đỡ giải nạn. Ông bị bắt buộc phải đả thương A Tử, ví như A Châu

có mặt nơi đây thì cũng không trách cứ gì được vì chính A Tử tự gây ra

họa cho mình chứ không liên quan đến ai, có điều vì A Châu không biết

nên ông cảm thấy có lỗi với nàng.

Đêm hôm đó ông không chợp mắt được chút nào, thâu đêm không

ngừng truyền chân khí để duy trì tính mạng cho A Tử. Hôm trước A Châu

bị thương, chỉ khi nào hơi thở thoi thóp Tiêu Phong mới ra tay, còn hiện

giờ bàn tay ông không lúc nào rời khỏi lưng A Tử, nếu không sẽ lập tức

chết ngay.

Tối hôm sau cũng y như thế. Tiêu Phong công lực tuy mạnh thật nhưng

hai ngày hai đêm hao tốn hơi sức cũng mệt mỏi vô cùng. Hai vò rượu mà

tiểu khách điếm trữ được đã bị ông uống sạch không còn một giọt, muốn

bảo chủ quán đi mua thêm nhưng túi đã cạn.

Ông một ngày không ăn cơm cũng chẳng hề gì nhưng một buổi không

có rượu thì thật khó chịu, lúc này trong bụng đang buồn bực lại càng cần

có rượu cho tỉnh táo, nghĩ thầm: Trên người A Tử ắt có mang theo tiền

bạc.

Ông cởi cái bị của nàng ra, quả nhiên có ba đĩnh vàng nhỏ, vài đĩnh

bạc lẻ. Ông lấy ra một đĩnh bạc, buộc cái túi lại, thấy cái túi có một sợi

dây vải màu tím, một đầu buộc vào ngang hông. Tiêu Phong nghĩ thầm:

Gớm cô bé này cẩn thận quá, sợ cái túi bị rơi mất, không biết cái gì mà

buộc dính chặt vào người thế này mới yên bụng. Ông cởi cái nút buộc

vào lưng, cái nút đó tết thật kỹ, dùng một tay phải mất bao nhiêu công

lao mới gỡ ra được. Cái dây vừa tuột ra dường như đầu kia còn có vật gì

dấu trong quần.

Ông buông tay ra nghe cách một tiếng, vật đó rơi xuống sàn, chính là

một chiếc đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm. Tiêu Phong thở dài, cúi

xuống nhặt lên đặt trên bàn. Chiếc đỉnh đó điêu khắc cực kỳ tinh mỹ

bằng một loại gỗ bóng loáng như ngọc, trong thớ có thấp thoáng vân đỏ.

Tiêu Phong biết ngay đây là vật mà phái Tinh Tú dùng để luyện Hóa

Công Đại Pháp, cảm thấy chán ghét nên chỉ liếc qua rồi không màng tới

nữa, nghĩ thầm: Tiểu cô nương này quả là giảo hoạt, mồm năm miệng

mười bảo là Thần Mộc Vương Đỉnh đã giao cho ta rồi, có ai ngờ vẫn dấu

trong ống quần. Có lẽ đồng môn của nàng tưởng đã giao lại cho ta thật,

hoặc giả không tiện tra xét đàn bà con gái nên trước sau không ai khám

phá ra được. Ôi, hôm nay tính mạng nàng cũng chẳng giữ được, cái thứ

thân ngoại chi vật này có làm gì?.

Ông bèn gọi chủ quán vào bảo y cầm lượng bạc đi mua rượu thịt, còn

mình tiếp tục dùng nội lực bảo trì tính mạng cho A Tử. Đến sáng ngày thứ

tư, ông không còn chịu đựng được nữa, chỉ còn nước hai tay nắm một bàn

tay A Tử, ôm nàng vào lòng cho dựa lên người mình, đem nội lực truyền

theo chưởng tâm, chỉ được một lát hai mắt không còn mở nổi, lơ mơ ngủ

luôn.

Thế nhưng ông khắc khoải tính mạng A Tử nên chỉ chợp mắt một tí rồi

lại choàng tỉnh, cũng may trong khi nằm ngủ, chân khí lưu động miễn sao

lòng bàn tay không xa rời A Tử nên hơi thở của cô ta không bị đứt quãng.

Cứ như thế thêm hai ngày nữa, tuy A Tử miễn cưỡng không tắt hơi

nhưng thương thế chẳng bớt chút nào, dẫu nằm chết bẹp trong tiểu điếm

này cũng chẳng đi đến đâu? Thỉnh thoảng A Tử cũng mở được mắt nhưng

thần thái lờ đờ, hiển nhiên không biết gì cả, cũng không nói năng được

câu nào. Tiêu Phong hết sức suy nghĩ nhưng không tìm ra kế sách, nghĩ

thầm: Thôi đành ôm nàng lên đường, may ra còn có cơ hội chứ ở trong

khách điếm này rồi cũng vô phương.

Ông bèn tay trái ôm A Tử, tay phải cầm cái túi của nàng bỏ vào bọc,

thấy cái đỉnh trên bàn nghĩ thầm: Cái thứ đồ này chỉ dùng để hại người,

chi bằng đập vỡ nó đi cho xong. Ông định giơ chưởng đánh xuống bỗng

chợt nghĩ lại: A Tử trăm đắng nghìn cay mới ăn trộm được cái vật này.

Bây giờ xem ra thương thế nàng không thể nào chữa được, lúc sắp chết

hồi quang phản chiếu, có thể tỉnh táo lại trong phút chốc, không chừng lại

hỏi đến cái mộc đỉnh, lúc đó ta đem ra cho nàng xem để nàng an tâm mà

chết còn hơn ôm hận xuống tuyền đài.

Ông bèn cầm cái đỉnh gỗ lên, vừa chạm phải cảm thấy dường như bên

trong có cái gì cựa quậy, hết sức lạ lùng, chăm chú nhìn, mới hay chung

quanh có năm cái lỗ to bằng đồng tiền, còn nơi cổ đỉnh có đường ngấn,

xem ra có thể tháo ra. Ông lấy ngón út và ngón vô danh kẹp chiếc đỉnh,

dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ xoay phía trên qua bên trái, quả nhiên

chuyển động được. Xoay được mấy vòng, mở nắp nhìn vào trong không

khỏi ngạc nhiên, lại thấy kinh khiếp. Thì ra bên trong có hai con độc

trùng, một con rết và một con bò cạp, đang cắn nhau hết sức dữ dội.

Mấy hôm trước khi ông bỏ chiếc đỉnh trên bàn, trong đỉnh rõ ràng có

gì đâu, xem ra con rết và con bò cạp này mới ở đâu bò vào. Tiêu Phong

đoán chừng đây là phương pháp tìm bắt độc trùng độc vật của phái Tinh

Tú nên nghiêng chiếc đỉnh đổ hai con vật xuống đất, lấy chân dẵm chết,

sau đó đóng nắp lại, bỏ lại vào trong túi vải. Tiêu Phong tính toán tiền

nong xong xuôi rồi, ôm A Tử lên xông gió đạp tuyết đi về hướng bắc.

Ông kết oán thù cực kỳ sâu xa với hào kiệt Trung Nguyên, đường đi

càng lúc càng gần kinh đô Biện Lương nhà Đại Tống, thể nào cũng đụng

đầu nhân vật võ lâm. Ông không muốn giết người kết thêm thù oán, lại

không muốn cải trang, thêm trên tay ôm A Tử nếu phải động thủ với

người thực là bất tiện thành thử tránh đường lớn, chỉ tìm những đường

mòn hẻo lánh ở chốn sơn dã mà đi nên suốt mấy trăm dặm vẫn bình an

vô sự.

Hôm đó đến một thị trấn lớn, thấy một tiệm thuốc bên ngoài có treo

bảng: Nho y gia truyền Vương Thông Trị chẩn bệnh miễn phí, nghĩ

bụng: Địa phương nhỏ chắc không có danh y đâu nhưng mình cũng cứ

vào thử xem thế nào. Ông liền ôm A Tử đi vào xin chữa trị.

Nho y Vương Thông Trị cầm tay A Tử đưa mắt nhìn Tiêu Phong, lại

bắt mạch A Tử lần nữa, lại nhìn Tiêu Phong, vẻ mặt cực kỳ khác lạ, đột

nhiên đưa tay bắt mạch Tiêu Phong. Tiêu Phong bực tức nói:

- Này thầy lang, ta nhờ ông chữa bệnh cho em gái ta chứ nào có nhờ

thầy chữa cho ta đâu.

Vương Thông Trị lắc đầu nói:

- Ta xem ông cũng có bệnh, đầu óc khật khùng, tâm thần rối loạn

đảo điên, cần phải chữa trị ngay đi.

Tiêu Phong đáp:

- Ta làm gì mà đầu óc khật khùng?

Vương Thông Trị đáp:

- Vị cô nương này mạch đã ngừng, vốn dĩ chết rồi, có điều thân thể

chưa cứng đấy thôi. Ngươi ôm cô ta đi tìm thầy thuốc làm gì? Thế chẳng

phải tâm thần rối loạn hay sao? Này lão huynh, người chết không thể

sống lại, ngươi cũng chẳng nên quá thương tâm mà ôm xác lệnh muội, chi

bằng mau mau đem chôn, thế cũng là xong.

Tiêu Phong dở khóc dở cười nhưng ngẫm lại lời ông lang này cũng có

lý, đúng là A Tử chết rồi, chỉ còn nhờ chân khí của mình mà thoi thóp,

thầy lang tầm thường làm sao biết được? Ông đứng lên quay người đi ra.

Bỗng thấy một người ăn mặc theo lối quản gia hấp tấp chạy vào tiệm

thuốc giục giã:

- Mau lên! Mau lên! Cho loại lão sơn nhân sâm1 tốt nhất. Lão thái

gia nhà ta bị trúng phong, sắp tắt hơi đến nơi, cần nhân sâm để giữ cho

khỏi chết.

Dược điếm chưởng quĩ vội đáp:

- Có đây! Có đây! Thượng hảo hạng lão sơn nhân sâm đây.

Tiêu Phong nghe nói lão sơn nhân sâm để giữ cho khỏi chết lập tức

nhớ ra cũng từng nghe người bệnh nặng sắp tắt thở nếu cho uống mấy

ngụm sâm thang sắc đặc thì có thể cầm hơi, sống thêm được một lúc, trối

trăn vài câu, có điều không nghĩ tới để dùng cho A Tử. Gã chưởng quĩ lấy

ra một cái hộp gỗ gụ, trịnh trọng mở nắp trong đó có ba củ sâm to bằng

ngón tay. Tiêu Phong cũng nghe nói nhân sâm càng to càng tốt, bên

1 Nhân sâm mọc hoang lâu năm

ngoài nhăn nhúm càng quí nếu lại thành hình người, đủ cả đầu mình chân

tay ấy là loại già dặn cực phẩm. Ba củ sâm này chỉ là loại thường, trông

chẳng có gì đặc biệt, gã quản gia lấy một củ lật đật đi ngay.

Tiêu Phong lấy đĩnh vàng ra, mua luôn hai củ còn lại. Trong tiệm

thuốc có sẵn dụng cụ sắc thuốc giùm khách hàng, lập tức bảo nấu sâm

thang đút cho A Tử uống mấy hớp. Lần này may quá nàng không nôn ra.

Lại cho nàng uống thêm mấy ngụm nữa, Tiêu Phong cảm thấy mạch

nhảy mạnh hơn, hơi thở cũng đều hòa được một chút, trong bụng không

khỏi mừng thầm.

Gã nho y Vương Thông Trị đứng bên cạnh, liên tiếp lắc đầu nói:

- Lão huynh, nhân sâm không phải dễ kiếm, phí phạm thế thật uổng.

Nhân sâm cũng chẳng phải linh chi tiên thảo, nếu như cứu người chết

sống lại được thì kẻ có tiền chắc sống đời đời.

Mấy hôm nay Tiêu Phong không hề rời xa A Tử được lấy một bước,

trong lòng buồn bực đã lâu, nghe gã Vương Thông Trị đứng kế bên lèm

bèm rặt giọng bàn ra, tức khí xông lên, vung tay toan đánh cho y một

chưởng. Thế nhưng ông vừa cất tay thì cố nhịn: Đánh bừa bãi kẻ không

biết võ công thì đâu phải anh hùng hảo hán?. Ông bèn rụt tay về, ôm A

Tử lên đi ra khỏi tiệm thuốc bắc, văng vẳng nghe Vương Thông Trị vẫn

còn khinh khỉnh nói theo:

- Hán tử này quả là hồ đồ, ôm cái xác chết chạy ngược chạy xuôi,

xem ra tính mạng y cũng chẳng được bao lâu.

Ông thầy lang có biết đâu mình vừa đến quỉ môn quan lại quay trở lại,

nếu như Tiêu Phong tức giận đánh cho bõ tức thì dẫu có mười Vương

Thông Trị cũng thành bất trị.

Tiêu Phong ra khỏi dược điếm rồi nghĩ thầm: Nghe nói lão sơn nhân

sâm chỉ có ở nơi cực lạnh trong dãy Trường Bạch, chi bằng mình lên đó

cầu may. Vẫn biết cứu sống A Tử quả là thiên nan vạn nan, nhưng giữ

cho nàng sống thêm được ngày nào, A Châu ở trên trời có linh thiêng thì

trong lòng cũng vui vẻ thêm được chừng nấy.

Nghĩ thế ông chuyển qua bên phải tìm đường đi về phía đông bắc.

Trên đường đi mỗi khi gặp tiệm thuốc liền đi vào mua nhân sâm, đến sau

tiền bạc tiêu hết, chẳng ngại ngùng gì vào lấy không, vài tên phổ ky2 làm

gì ngăn nổi? A Tử uống một lượng lớn nhân sâm rồi, thỉnh thoảng cũng

có thể mở mắt ra, kêu khẽ: Tỉ phu! đến tối cũng ngủ được vài giờ

không cần tiếp chân khí mà vẫn tự mình thoi thóp được. Cứ như thế càng

đi càng lạnh, sau cùng Tiêu Phong cũng bế A Tử đến được núi Trường

Bạch. Tuy nói là trong dãy Trường Bạch có nhiều nhân sâm nhưng nếu

không phải là người chuyên môn đã quen thuộc địa thế, trong nghề sành

sỏi lâu năm, thì dẫu có một năm sáu tháng cũng chưa chắc tìm ra một củ.

Tiêu Phong tiếp tục lên hướng bắc, người đi đường càng lúc càng thưa,

đến sau chung quanh chỉ là rừng sâu cỏ dày, núi cao đồi tuyết, luôn mấy

ngày cũng không gặp một ai, trong lòng không khỏi kêu khổ thầm: Chết

rồi! Khắp nơi chỗ nào cũng băng tuyết, làm thế nào mà tìm được sâm?

Chi bằng trở về nơi nào có buôn bán, có tiền thì mua, không tiền thì

cướp. Nghĩ thế ông ôm A Tử tìm đường quay trở về.

Khi đó khí trời lạnh ngắt, mặt đất đầy băng, tuyết đóng cao mấy thước

thật là khó đi, nếu ông không phải là người võ công trác tuyệt thì dù

không chết cóng cũng bị sa lầy vào trong tuyết trắng chẳng thoát ra được.

Đi đến ngày thứ ba, trời u ám, xem ra bão tuyết đang kéo đến, đưa

mắt trái phải trước sau chỗ nào cũng trắng xóa, trên mặt đất không thấy

một dấu chân người, đến vết dã thú cũng không. Tiêu Phong trong bụng

hoang mang, tựa hồ đang ở giữa biển khơi bao la không bờ không bến chỉ

có tiếng gió rít thổi ù ù bên tai.

Tiêu Phong biết mình đã bị lạc, mấy bận nhảy lên trên cây cao nhìn

bốn bề, chung quanh chỉ toàn cây cối rậm rạp tuyết phủ trắng xóa nào có

biết đâu là đông, là tây, là nam, là bắc? Ông sợ A Tử bị lạnh, cởi trường

bao ra bọc nàng lại ôm vào lòng. Ông tuy trước nay không sợ trời sợ đất

gì cả nhưng lúc này ở chốn thiên địa mang mang, tưởng như chỉ còn lại

một thân một mình, không khỏi chột dạ. Nếu quả như chỉ mình ông thôi

thì cũng đành, biển tuyết tuy mênh mông nhưng cũng không đến nỗi

tuyệt vọng, thế nhưng khỗ nỗi trong tay lại ôm một nàng A Tử đang mê

man, sống dở chết dở.

2 khỏa kế, tức người giúp việc trong tiệm

Đã ba hôm nay ông không ăn uống gì, tính chuyện bắt một con gà

rừng hay con thỏ dại chi đó nhưng cũng không thấy nghĩ thầm: Mình cứ

chạy lung tung thế này chẳng đi đến đâu, chi bằng ngủ lại một đêm trong

rừng, đợi tuyết ngừng rơi, nhìn trăng sao sẽ có thể tìm ra phương hướng.

Ông kiếm một nơi khuất gió, kiếm ít củi khô, đốt một đống lửa. Lửa

cháy to rồi, trong lòng cũng cảm thấy ấm áp nhưng bụng đói đến sôi sùng

sục, nhìn dưới gốc cây có những cây nấm dại màu trắng xám xem chừng

không độc liền hái nướng lên ăn đỡ dạ.

Ăn đến hơn hai chục tai nấm rồi tinh thần cũng hơi phấn chấn, bèn đỡ

A Tử nằm dựa vào ngực mình để sưởi. Đang toan nhắm mắt ngủ bỗng

nghe một tiếng à uôm thật lớn, chính là tiếng hổ gầm. Tiêu Phong

mừng quá: Xem ra có thú lớn đến đây, mình có thịt hổ ăn rồi.

Ông lắng tai nghe, thấy có hai con hổ từ tuyết địa chạy tới, kế đó có

tiếng lao xao, dường như có người đang đuổi theo. Ông nghe thấy tiếng

người thật mừng hết cỡ, lắng tai nghe thấy hai con dã thú chạy về hướng

tây, lập tức đặt A Tử xuống bên cạnh đống lửa, thi triển khinh công, đi tắt

chặn đầu chúng lại. Khi đó tuyết đổ đang nhiều, gió bấc thổi mạnh, khiến

cho khắp trời chỗ nào cũng mù mịt.

Chỉ mới chạy được độ mươi trượng đã thấy trên mặt tuyết hai con hổ

vằn vện đang chạy thục mạng, phía sau là một đại hán lưng khoác da thú,

tay cầm đinh ba đang rượt nà theo. Hai con cọp đó thật lớn, chạy được

một quãng thì một con gầm lên quay phắt lại chồm vào người thợ săn.

Hán tử đó liền giơ chĩa lên, nhắm thẳng cổ họng mãnh thú đâm tới. Con

cọp đó hết sức nhanh nhẹn, hất đầu qua tránh được thiết xoa, cùng lúc đó

con hổ kia cũng xông tới vồ.

Người thợ săn lập tức đảo đinh ba lại, nghe bịch một tiếng đã dùng cán

chĩa quật ngang bụng con vật. Con vật bị đau, rống lên một tiếng, cụp

đuôi bỏ chạy. Con hổ còn lại cũng không màng lập tức chạy theo.

Tiêu Phong thấy người thợ săn thân thể cao to, cánh tay thật khỏe

nhưng không biết võ công, chỉ quen với tập tính dã thú nên hổ chưa vồ y

đã để thiết xoa đón trước, chính là cách liệu địch cơ tiên nhưng muốn

đâm chết hai con cọp quả không phải dễ.

Tiêu Phong kêu lên:

- Lão huynh, ta đến giúp ngươi đây.

Ông từ trong phóng ra chặn đường hai con hổ. Người thợ săn thấy Tiêu

Phong xông ra, hết sức kinh hãi, lớn tiếng la lối om sòm, không phải Hán

ngữ. Tiêu Phong chẳng hiểu y nói gì cũng chẳng để ý, giơ tay phải lên,

nhắm ngay đầu một con cọp đánh cho một chưởng, bình một tiếng, con

vật tung lên, lộn tùng phèo, kêu rống lên rồi phóng thẳng vào ông.

Chưởng mới rồi Tiêu Phong sử dụng đến bảy thành lực, dù là kẻ võ

công cao cường, nếu trúng đòn thì thể nào cũng vỡ đầu nhưng mãnh hổ sọ

cứng xương thô, chưởng lực liệt thạch khai bi kia cũng chỉ khiến nó lộn đi

một vòng rồi lại xông vào. Tiêu Phong khen thầm: Giỏi nhỉ, mi quả là

gớm thật! nghiêng người né qua, tay phải từ trên chém xéo xuống, nghe

bụp một tiếng, trúng ngay ngang sườn con vật.

Cú chém đó ông tăng thêm một thành công lực, con mãnh hổ loạng

quạng mấy bước, rồi bỏ chạy. Tiêu Phong tiến lên, tay phải vươn ra chộp

trúng ngay đuôi con cọp, tay trái cũng phụ vào, quát lên một tiếng, thi

triển thần lực kéo ghì con hổ lại. Con cọp đang phóng về phía trước bị

Tiêu Phong giữ ghịt, hai luồng lực đạo chõi nhau khiến con vật bị hất tung

lên.

Người thợ săn cầm đinh ba đang đấu với con hổ kia, thấy Tiêu Phong

quăng con cọp lên kinh ngạc không sao kể xiết. Con cọp ở trên không

nhe răng, giương vuốt, từ cao vồ xuống. Tiêu Phong lại quát lên một

tiếng, song chưởng cùng tung ra, nghe hự một tiếng, trúng ngay bụng dưới

con vật. Bụng hổ là nơi thịt mềm, chiêu Bài Vân Song Chưởng đó chính

là công phu đắc ý của Tiêu Phong, ngũ tạng con cọp liền vỡ nát, lăn lộn

một hồi trên mặt tuyết rồi chết tươi.

Người thợ săn trong lòng hết sức kính phục, người ta tay không đánh

cọp, mình dùng đinh ba giết một con không xong, chẳng khiến người ta

coi thường lắm ru? Nghĩ thế y bèn đâm trái một cái, đâm phải một cái,

hết nhát nọ đến nhát kia nhằm ngay mình hổ mà nhử. Con cọp bị trúng

mấy nhát, hung tính nổi lên, nhe hàm răng nhọn hoắt, tung mình vồ tới.

Gã thợ săn nghiêng qua tránh được, đinh ba đảo ngang, nghe phụp một

tiếng đã đâm ngay vào cổ con thú, hai tay đẩy một cái, con vật rống lên

thảm thiết ngã lăn ra đất. Người đó vận sức lên cánh tay, đè chặt con cọp

xuống mặt tuyết. Chỉ nghe tiếng soạt soạt liên tiếp, quần áo bằng da thú

trên người y đã bục ra một mảng lớn, để lộ cái lưng trần, bắp thịt cuồn

cuộn trông thật hùng vĩ.

Tiêu Phong nhìn thấy khen thầm: Hảo hán tử!. Con hổ nằm chổng

bốn chân lên trời, móng vuốt cào cấu vùng vẫy, chỉ một lát không còn

động đậy gì nữa. Người thợ săn rút chiếc đinh ba ra, cười lên ha hả, quay

người lại, nhìn Tiêu Phong giơ lên một ngón tay cái, nói xí xố mấy câu.

Tiêu Phong tuy không hiểu y nói gì nhưng nhìn thần tình của y cũng biết

đang khen ngợi mình quả là anh hùng, bèn bắt chước bộ dạng của y, cũng

giơ hai ngón tay cái lên nói:

- Anh hùng! Anh hùng!

Người đó mừng lắm, chỉ chỉ vào đầu mũi mình nói:

- Hoàn Nhan A Cốt Đả!

Tiêu Phong nghĩ chắc đây là tên y, cũng chỉ vào đầu mũi mình nói:

- Tiêu Phong!

Người kia hỏi lại:

- Tiêu Phong? Khất Đan?

Tiêu Phong gật đầu nói:

- Khất Đan! Ngươi?

Rồi đưa tay chỉ vào y để hỏi. Người kia đáp:

- Hoàn Nhan A Cốt Đả! Nữ Chân!

Tiêu Phong đã từng nghe ở phía đông nước Liêu, phía bắc nước Cao

Ly có một giống người tên gọi Nữ Chân, tộc nhân dũng mãnh thiện

chiến, thì ra gã Hoàn Nhan A Cốt Đả này là người thuộc giống này3. Tuy

ngôn ngữ không thông nhưng giữa cảnh tuyết trắng mịt mùng gặp được

một đồng bạn cũng vui mừng khôn xiết, lập tức hoa chân múa tay cho y

3 tức Mãn Châu sau này

biết là còn một người nữa, sau đó vác con hổ chết lên đi lại phía A Tử

đang nằm. A Cốt Đả cũng vác con hổ của y lên đi theo ở đằng sau.

Hổ mới chết máu chưa kịp đông, Tiêu Phong lật con thú lại cắt cổ cho

máu chảy vào mồm A Tử. A Tử không mở mắt được nhưng vẫn biết

uống, đến trên chục ngụm mới thôi. Tiêu Phong rất mừng, cắt hai đùi

nướng trên lửa. A Cốt Đả thấy ông tay không xé con vật như người ta xé

con gà, thủ kình như thế y chưa từng thấy, chưa từng nghe, ngơ ngẩn nhìn

hai cánh tay ông một hồi rồi nhẹ nhàng vuốt ve cổ tay, cánh tay ông, nét

mặt đầy vẻ kính phục.

Thịt hổ nướng chín rồi, Tiêu Phong và A Cốt Đả ăn đến no. A Cốt Đả

mới ra hiệu hỏi ông đến đây làm gì, Tiêu Phong cũng chỉ trỏ ý nói đi tìm

nhân sâm để trị bệnh cho A Tử nhưng bị lạc lối. A Cốt Đả cười ha hả, lại

múa may lung tung nói là muốn có nhân sâm thì rất dễ, đi theo y bao

nhiêu cũng có. Tiêu Phong mừng quá, đứng dậy, tay trái bồng A Tử, tay

phải xách một con hổ chết. A Cốt Đả giơ tay lên khen:

- Khỏe thật!

Địa thế vùng này A Cốt Đả rất quen thuộc tuy trời gió bão lớn nhưng

không lầm lẫn chút nào. Hai người đi đến chiều tối thì ngủ lại trong rừng,

đến sáng hôm sau lại đi. Cứ như thế đi về hướng tây hai ngày, đến trưa

ngày thứ ba, Tiêu Phong thấy trên mặt tuyết rất nhiều dấu chân. A Cốt

Đả liên tiếp ra hiệu nói là đã đến gần tộc nhân rồi. Quả nhiên đi qua hai

cái thung lũng, thấy bên triền núi phía đông nam lấm tấm đến mấy trăm

căn lều bằng da thú. A Cốt Đả chúm môi huýt một tiếng, từ trong doanh

trướng lập tức có người ra đón.

Tiêu Phong theo A Cốt Đả tới gần, thấy trước mỗi căn lền đều có một

đống lửa, vô khối đàn bà ngồi đầy chung quanh kẻ thì may da thú, người

thì sấy thịt khô. A Cốt Đả dẫn Tiêu Phong đến căn lều to nhất ngay chính

giữa, vén màn đi vào. Tiêu Phong cũng đi theo y. Bên trong lều có chừng

mươi người đàn ông ngồi thành vòng tròn, đang uống rượu, vừa thấy mặt

A Cốt Đả đã lớn tiếng reo hò ầm ỹ. A Cốt Đả chỉ vào Tiêu Phong, nói

huyên thuyên, nhìn bộ dạng đoán chừng đang kể lại chuyện ông tay

không đánh chết hổ.

Mọi người liền vây quanh Tiêu Phong, ai nấy giơ ngón tay cái lên,

không ngớt tấm tắc khen ngợi. Còn đang xôn xao, một gã người Hán ăn

mặc theo lối con buôn bước vào, quay sang hỏi Tiêu Phong:

- Vị gia đài này có nói được tiếng Hán không?

Tiêu Phong mừng rỡ đáp:

- Được chứ! Đươc chứ!

Hỏi ra mới biết căn lều này là doanh trướng của tộc trưởng Nữ Chân.

Người ngồi giữa có râu đen là trưởng tộc Hòa Lý Bố. Ông ta có cả thảy

mười một người con, người nào cũng anh hùng, A Cốt Đả là con trai thứ.

Người Hán đó tên là Hứa Trác Thành, năm nào đến mùa đông cũng tới

đây thu mua nhân sâm, da thú đến đầu mùa xuân mới quay về. Hứa Trác

Thành biết nói tiếng Nữ Chân nên làm thông dịch cho Tiêu Phong.

Người Nữ Chân với người Khất Đan thường thường vẫn đánh lẫn nhau

nhưng rất kính trọng những bậc anh hùng hảo hán. Hoàn Nhan A Cốt Đả

là người lanh lợi giỏi giang, rất được phụ thân yêu thích, người trong bộ

lạc cũng kính trọng y, nay luôn mồm ca ngợi Tiêu Phong nên không ai

hiềm rằng ông là người Khất Đan mà đều đối xử như khách quí.

A Cốt Đả nhường căn lều của mình cho Tiêu Phong và A Tử ở, Tiêu

Phong chối từ mấy câu nhưng A Cốt Đả nhất định không chịu. Tiêu

Phong thấy y thành thực nên đành chấp nhận.

Tối hôm đó người Nữ Chân mở một đại tiệc để đón chào Tiêu Phong,

thịt hai con mãnh hổ đương nhiên trở thành món ăn trân quí. Đã nửa

tháng nay môi Tiêu Phong không được chạm đến một giọt rượu, bây giờ

người Nữ Chân đem túi da này đến túi da khác, đến đâu hết đó, Tiêu

Phong được một bữa thỏa thuê. Rượu của người Nữ Chân vị cay sè cực

mạnh, người thường chỉ cần nửa bao đã say nhưng Tiêu Phong uống luôn

một chục túi mà sắc mặt vẫn như không. Người Nữ Chân xưa nay vẫn

xem lượng rượu uống nhiều ít mà coi là hảo hán, chuyện ông tay không

đánh cọp chỉ nghe kể chưa thấy tận mắt nhưng cách uống rượu thế này,

mười hảo hán Nữ Chân đến uống thi mà chẳng một ai hơn khiến tất cả

đều kính phục.

Hứa Trác Thành thấy người Nữ Chân nể sợ ông nên cũng hết sức

chiều đãi. Tiêu Phong nhàn rỗi không việc gì làm, ban ngày cùng với A

Cốt Đả đi săn, đến tối về lại học tiếng Nữ Chân với Hứa Trác Thành.

Học được bốn năm thành rồi, nghĩ bụng mình là người Khất Đan, không

lẽ không biết nói tiếng Khất Đan xem ra thật không phải nên lại nhờ y

dạy. Hứa Trác Thành đi lại nhiều nơi, chẳng nói tiếng Nữ Chân mà tiếng

Tây Hạ, tiếng Khất Đan cũng đều lưu loát. Tiêu Phong học ngôn ngữ vốn

không thông minh nhưng tiếng Nữ Chân và tiếng Khất Đan so với tiếng

Hán thì giản dị hơn nhiều, ngày rộng tháng dài rồi cũng đủ cho người ta

hiểu không cần phải thông dịch nữa.

Thấm thoát đã mấy tháng qua, đông đi xuân tới, A Tử ngày ngày dùng

nhân sâm thay cơm, thương thế cũng đỡ. Người Nữ Chân đào nhân sâm

nơi hoang sơn dã lãnh, đều là loại sâm già hạng nhất, còn quí hơn cả

hoàng kim. Mỗi lần Tiêu Phong đi săn đều giết được rất nhiều dã thú,

đem đổi lấy nhân sâm cho A Tử dùng, nếu vào người khác dẫu là hào

phú có một tiểu thư ăn uống sâm nhiều như thế e rằng cũng đến khánh

tận.

Tiêu Phong vẫn ngày ngày dùng nội lực giúp nàng vận khí, bây giờ

một ngày chỉ cần hai lần chứ không phải như trước đây chưởng bất ly

thân. A Tử cũng có lúc nói chuyện được vài câu nhưng chân tay tê bại

không cử động, thành thử đi đứng nằm ngồi, chuyện ăn chuyện uống đều

do Tiêu Phong lo liệu cả. Ông nghĩ đến mối thâm tình của A Châu nên

không hiềm lo toan mệt nhọc, ngược lại còn thấy chăm sóc A Tử thêm

một lần là báo đáp được A Châu thêm một chút nên trong lòng thấy thật

an ủi.

Ngày hôm đó A Cốt Đả dẫn mươi người cùng bộ tộc định đi lên miền

tây bắc săn gấu rủ Tiêu Phong đi cùng nói là gấu da dày lông rậm, rất

nhiều mỡ, bàn chân gấu ăn thật ngon còn mật gấu trị thương rất là linh

nghiệm. Tiêu Phong thấy A Tử tinh thần đã khá nhiều, cũng yên tâm đi

săn nên vui vẻ nhận lời. Đoàn người trời chưa sáng đã ra đi, thẳng đường

về hướng bắc.

Lúc đó đã vào đầu mùa hạ, băng tuyết đang tan đấy bùn trơn trượt,

trong rừng đầu những cành nát lá mục cực kỳ khó đi nhưng những người

Nữ Chân nhẹ nhàng nhanh nhẹn đi đứng vẫn thật mau. Đến khoảng trưa,

một người thợ săn già kêu lên:

- Gấu kìa! Gấu kìa!

Mọi người đưa mắt theo hướng tay y chỉ thấy ở xa xa trên đất lầy có

những vết chân lớn, cách không xa lại có một dấu nữa chính là dấu chân

gấu. Mọi người ai nấy cao hứng lập tức theo vết chân lần theo.

Vết chân gấu dẵm xuống bùn cái nào cái nấy sâu đến mấy tấc nên trẻ

con cũng theo được, cả đoàn người hò hét la ó, rảo bước tiến lên. Những

vết chân đó đi về hướng tây, về sau ra khỏi bùn lầy trong rừng ra ngoài

thảo nguyên mọi người đi càng nhanh hơn nữa.

Còn đang rảo bước đuổi theo bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, xa

xa đằng trước bụi bay mù mịt một đại đội nhân mã đang phóng tới. Lại

cũng thấy một con gấu đen thật lớn chạy lên, đằng sau là bảy tám người

cưỡi ngựa to cao vừa hét vừa đuổi, ai nấy tay cầm trường mâu, có kẻ tay

cầm cung tên ra chiều hăm hở.

A Cốt Đả kêu lớn:

- Người Khất Đan đó, bọn chúng đông người, chạy mau, chạy mau!

Tiêu Phong nghe thấy là người đồng bộ tộc với mình, trong lòng cảm

thấy thân cận, tuy bọn A Cốt Đả quay đầu bỏ chạy, nhưng không chạy

theo mà đứng lại xem ra thế nào. Thế nhưng bọn người Khất Đan đã hét

lên:

- Bọn mọi Nữ Chân, bắn tên! Bắn tên!

Chỉ nghe tiếng rít lên liên tiếp, vũ tiễn bắn tới như mưa. Tiêu Phong

trong bụng bực tức nghĩ thầm: Chẳng có lý do gì vừa thấy đã bắn là sao?

Cớ chi không hỏi cho rõ ràng?. Mấy mũi tên bắn đến mặt ông đều bị

ông đưa tay gạt ra cả. Bỗng nghe một tiếng A thảm thiết, người thợ săn

Nữ Chân già lưng đã trúng tên, gục xuống chết ngay.

A Cốt Đả cùng cả bọn chạy qua khỏi một ngọn đồi, nằm mọp xuống,

cũng lắp tên vào cung bắn gục hai gã Khất Đan. Tiêu Phong ở giữa,

không biết phải giúp bên nào cho phải. Vũ tiễn của bọn Khất Đan vẫn

tiếp tục bắn vào Tiêu Phong như mưa bấc, Tiêu Phong bắt lấy một mũi

tên thuận tay múa lên, bao nhiêu tên bắn tới đều bị gạt ra, lớn tiếng kêu:

- Làm gì đó? Không nói năng gì đã ra tay giết người là sao?

A Cốt Đả ở đằng sau cái gò gọi:

- Tiêu Phong, Tiêu Phong, chạy lại đây ngay! Bọn chúng không biết

ngươi là người Khất Đan đâu!

Ngay lúc đó, hai tên Khất Đan cầm trường mâu, giục ngựa xông vào

Tiêu Phong, hai ngọn giáo cùng giơ lên chia ra đâm vào hai bên tả hữu.

Tiêu Phong không muốn giết người cùng bộ tộc mình, hai tay chộp hai

cán giáo, hẩy nhẹ một cái, hai gã Khất Đan cùng từ trên yên ngựa ngã

phịch xuống đất. Tiêu Phong lại dùng cán mâu hất hai người lên, hai gã

kia kêu rú lên, tung bay trở về rơi xuống một hồi lâu không dậy nổi. A

Cốt Đả cùng bọn người Nữ Chân liền reo hò khen ngợi.

Một người trung niên mặc áo bào đỏ trong bọn Khất Đan liền lớn

tiếng xí xố ra lệnh gì đó. Mấy chục tên Khất Đan liền chia thành hai

cánh, bao vây bọn Nữ Chân lại để chặn đường rút lui của A Cốt Đả,

nhưng người áo đỏ vẫn còn mấy chục người đứng bảo vệ chung quanh.

A Cốt Đả thấy tình hình bất lợi, lớn tiếng kêu la, vẫy gọi tộc nhân và

Tiêu Phong bỏ chạy. Người Khất Đan bắn tên ra như mưa, chết thêm hai

người Nữ Chân nữa. Bên phía Nữ Chân cung mạnh tên cứng bắn không

trật mũi nào, trong khoảnh khắc đã bắn hạ được khoảng chục kỵ sĩ Khất

Đan, có điều quả bất địch chúng nên phải vừa bắn vừa chạy.

Tiêu Phong thấy bọn người Khất Đan ngang ngược chẳng biết phải trái

gì, tuy là người cùng bộ tộc với mình nhưng cũng chịu không nổi, cướp

lấy một cánh cung, vụt vụt vụt vụt, bắn liền bốn mũi tên, mũi tên nào

cũng trúng vai hay đùi một gã Khất Đan, cả bốn người đều ngã xuống

ngựa nhưng không ai chết. Người mặc hồng bào lại quát tháo lập tức có

kẻ phóng ngựa xông ra cực kỳ dũng mãnh.

Tiêu Phong thấy bên mình nay chỉ còn A Cốt Đả và năm thanh niên

đang hết sức bôn đào, vừa chạy vừa bắn trả còn những người khác bị

trúng tên chết cả rồi. Trên thảo nguyên không chỗ nào có thể ẩn nấp,

xem chừng nếu tiếp tục đánh thêm ngay cả A Cốt Đả cũng sẽ bị giết nốt.

Ông nghĩ người Nữ Chân trước nay đối với mình như quí khách, nay bạn

tốt cũng không bảo vệ được thì làm sao còn gọi là anh hùng hảo hán?

Thế nhưng ra tay đại sát một phen để cho bọn người Khất Đan thấy khó

mà lui ắt phải giết rất nhiều người cùng bộ tộc với mình, chi bằng bắt lấy

người thủ lãnh áo đỏ kia, ép y phải hạ lệnh triệt thoái thì mới mong hai

bên bãi đấu được.

Ông định bụng như thế rồi nên dùng tiếng Khất Đan kêu lớn:

- Này, các ngươi mau mau rút lui! Nếu không thoái binh ta sẽ không

nể nang gì nữa đâu nhé!

Soẹt soẹt soẹt ba tiếng, ba mũi giáo đã nhắm ngay mặt ông ném tới.

Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn chúng bay quả không còn biết phải quấy là

gì. Ông rùn mình xuống, xông thẳng về phía người mặc hồng bào. A Cốt

Đả thấy bạn mình mạo hiểm liền kêu lên:

- Tiêu Phong, không được đâu, mau quay lại!

Tiêu Phong không để ý tới, tiếp tục phóng tới thật nhanh. Bọn người

Khất Đan lập tức nhốn nháo, trường mâu vũ tiễn đều nhắm ông mà tấn

công tới. Tiêu Phong chộp lấy một thanh trường mâu, bẻ làm đôi cầm

thanh mâu gãy sử dụng như một thanh trường kiếm, gạt tất cả những binh

khí phóng tới, bước chân vẫn như bay, xông ngay đến trước ngựa người

áo đỏ.

Người đó mặt đầy râu ria, thần tình uy võ, thấy Tiêu Phong xông đến

không tỏ vẻ gì hoảng sợ, giựt lấy ba thanh tiêu thương4 của thủ hạ chung

quanh, vụt một tiếng phóng vào Tiêu Phong. Tiêu Phong khua tay bắt

được ngay mũi lao, mũi thứ hai bay đến cũng bắt luôn. Ông vung tay một

cái hai mũi lao bay ra, đâm luôn hai gã hộ vệ hai bên người áo đỏ ngã

xuống ngựa. Người mặc hồng bào kêu lên:

- Giỏi lắm!

Mũi thương thứ ba liền ném ra, Tiêu Phong giơ tả chưởng lên, đẩy đầu

mũi lao, tá lực đả lực, mũi lao vụt bay ngược lại bắn thẳng vào ức con

ngựa y đang cưỡi. Người áo đỏ hoảng hốt kêu lên: Ối trời! vội vàng

4 mũi lao (javelin)

nhảy khỏi lưng ngựa. Tiêu Phong tung mình xông tới, tay trái vươn ra

chộp ngay được đầu vai bên phải của y. Ông nghe phía sau có tiếng gió

ập tới, vội vàng nhún một cái, nhảy vụt về phía trước hơn một trượng,

nghe phập phập, hai thanh trường mâu đã cắm thẳng xuống đất. Tiêu

Phong ôm người áo đỏ nhảy sang bên tả, rơi xuống sau lưng một kỵ sĩ

Khất Đan, vung tay đánh y một chưởng văng xuống rồi giục ngựa chạy ra.

Người áo đỏ giơ quyền lên đấm vào mặt Tiêu Phong, ông giơ tay trái

lên kẹp một cái, gã đó không còn cử động gì được nữa. Tiêu Phong quát

lên:

- Ngươi bảo bọn chúng rút lui ngay, nếu không ta kẹp chết ngươi

chết tươi bây giờ.

Người mặc hồng bào không còn cách gì khác hơn, đành kêu lên:

- Tất cả lui ngay, không được đánh nữa.

Bọn người Khất Đan xôn xao tiến đến trước mặt Tiêu Phong, toan ra

tay cứu người. Tiêu Phong để mũi chiếc giáo gãy vào má gã áo đỏ, quát

lớn:

- Các ngươi muốn ta đâm chết y chăng?

Một lão già Khất Đan quát lên:

- Mau thả thủ lãnh của bọn ta ra, nếu không ngươi sẽ bị ngũ mã phân

thi ngay lập tức.

Tiêu Phong cười ha hả, vù một tiếng, nhắm ngay lão già kia lăng

không đánh ra một chưởng. Chưởng đó ông cố tình ra oai dọa cho bọn

chúng một mẻ để khỏi phải giết người nhiều hơn nữa nên kình lực sử

dụng đủ mười thành. Chỉ nghe bình một tiếng lớn, lão già Khất Đan kia

trúng chưởng, từ trên lưng ngựa ngã văng ra mấy trượng, hộc máu mồm

xem ra không còn sống được nữa.

Bọn Khất Đan xưa nay chưa từng chứng kiến thần kỹ phách không

chưởng, lực đạo vô ảnh vô tung thật chẳng khác gì yêu pháp, ai nấy

hoảng hốt ghìm cương lùi lại, vẻ mặt kinh hoàng, chỉ sợ Tiêu Phong đánh

trúng mình. Tiêu Phong quát lớn:

- Các ngươi không lui ra, ta sẽ một chưởng đánh y chết trước.

Nói xong giơ tay lên làm như định đánh xuống đầu người áo đỏ. Người

áo đỏ vội kêu:

- Các ngươi lùi ra ngay, ta sẽ ra sau!

Cả bọn lập tức lùi ra mấy bước nhưng không chịu bỏ đi. Tiêu Phong

nghĩ thầm: Khu vực này chỗ nào cũng là đồng cỏ mênh mông, nếu mình

thả thủ lãnh của chúng về, bọn họ cưỡi ngựa đuổi theo thì mình không thể

nào chạy thoát được. Ông quay sang nói với người áo đỏ:

- Ngươi bảo chúng đem lại đây tám con ngựa.

Y theo đúng thế ra lệnh, các kỵ sĩ Khất Đan liền dắt đến tám con tuấn

mã giao cho A Cốt Đả. A Cốt Đả căm hận bọn này giết đồng bọn mình,

đấm một tên dắt ngựa nghe bình một tiếng khiến y lăn chòng chọc. Bọn

Khất Đan tuy đông người nhưng không dám đánh trả. Tiêu Phong lại tiếp:

- Ngươi hạ lệnh bảo bọn chúng giết con ngựa đang cưỡi, không để

sót con nào.

Người mặc hồng bào cực kỳ dứt khoát, không tranh biện lớn tiếng

truyền lệnh:

- Mọi người xuống ngựa, giết ngay con ngựa của mình đi.

*

* *

Tất cả các kỵ sĩ không ai chần chừ gì, lập tức nhảy xuống, kẻ dùng bội

đao, kẻ dùng trường mâu giết ngay con ngựa của mình. Tiêu Phong không

ngờ quân sĩ tuân lệnh lẹ làng đến thế, trong lòng ngầm bội phục nghĩ

thầm: Gã mặc áo đỏ này xem ra chức vị không phải là thấp, mở miệng

nói ra một câu, các võ sĩ không ai dám trái lệnh. Quân lệnh của người

Khất Đan nghiêm minh thật, thảo nào giao chiến với người Tống bao giờ

cũng thắng nhiều thua ít. Ông bèn nói:

- Ngươi bảo tất cả quay trở về, không ai được đuổi theo. Nếu một

người đuổi theo, ta chặt ngươi một cánh tay, hai người đuổi theo ta chặt

hai cánh tay, bốn người đuổi theo thì tứ chi đều chặt hết.

Gã áo đỏ tức đến râu ria dựng ngược lên, nhưng bị kẹp chặt không thể

làm gì khác chỉ đành truyền lệnh:

- Các ngươi quay trở về, điều động nhân mã kéo đến sào huyệt

người Nữ Chân.

Các võ sĩ hô to:

- Tuân lệnh!

Tất cả cùng khom lưng hành lễ. Tiêu Phong quay đầu ngựa, đợi cho

bọn A Cốt Đả sáu người lên yên rồi cả bọn theo đường cũ trở về. Đi được

mấy dặm, Tiêu Phong thấy người Khất Đan quả nhiên không đuổi theo,

bèn nhảy lên yên một con ngựa, để cho người áo đỏ cưỡi một mình một

con. Tám con ngựa không dừng bước chạy thẳng về đại doanh, A Cốt Đả

bẩm lại cho phụ thân Hòa Lý Bố việc gặp địch như thế nào, được Tiêu

Phong cứu, bắt được thủ lãnh bọn Khất Đan ra sao. Hòa Lý Bố rất vui

mừng nói:

- Hay lắm, đem tên chó Khất Đan lên đây ta xem.

Người áo đỏ bước vào trong trướng nhưng thần thái vẫn uy võ, đứng

hiên ngang không chịu khuất phục. Hòa Lý Bố biết y là quí nhân của

Khất Đan bèn hỏi:

- Ngươi tên gì? Tại nước Liêu làm chức quan chi?

Gã kia ương ngạnh đáp:

- Có phải ngươi bắt được ta đâu, làm gì có quyền hỏi ta?

Người Khất Đan và người Nữ Chân đều có tập quán, mỗi khi bắt được

ai thì kẻ đó là nô lệ của mình. Hòa Lý Bố cười ha hả nói:

- Ngươi nói đúng lắm!

Người áo đỏ đi đến trước mặt Tiêu Phong, khuỵu chân phải, một bên

gối quì xuống, tay phải để lên trán nói:

- Chủ nhân quả thực là anh hùng, ta đánh không lại ông, bên ta đông

mà vẫn thua. Ta bị ông bắt được, không có điều gì oán hận, nếu ông chịu

thả ta về, ta sẽ đền lại năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba

chục con tuấn mã.

Chú của A Cốt Đả là Phả Lạp Tô nói:

- Ngươi là đại quí nhân của Khất Đan, tiền chuộc bấy nhiêu ít quá.

Tiêu huynh đệ, ngươi bảo y đem đến năm trăm lượng vàng, năm nghìn

lượng bạc, ba trăm con tuấn mã.

Phả Lạp Tô là người lanh lợi khôn ngoan, đem giá cả tăng lên gấp

mười, cốt để hai bên trả giá. Với lối sống giản dị của người Nữ Chân, cái

giá năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba chục con tuấn mã đã

là một tài sản hãn hữu. Người Nữ Chân giao chiến với người Khất Đan

mấy chục năm qua, chưa bao giờ có món tiền chuộc nào lớn đến thế, nếu

người áo đỏ không chịu tăng thêm cứ theo đúng những gì y hứa trả đã là

một món hoạnh tài khổng lồ.

Ngờ đâu người áo đỏ không cần suy nghĩ đáp ngay:

- Được rồi, cứ thế mà tính.

Những người Nữ Chân trong trướng nghe vậy không khỏi giật mình,

tưởng như không tin ở tai mình nữa. Người Nữ Chân hay Khất Đan nói láo

để đánh lừa nhau không phải là không có, thế nhưng trong giao dịch mua

bán, hoặc đã hứa với ai điều gì thì một là một, hai là hai không bao giờ

nuốt lời. Huống chi đang nói đây là tiền chuộc, một khi người Khất Đan

không giao đủ, hoặc như nói rồi lại không muốn làm thì người áo đỏ

không thể nào trở về bản tộc được thành thử có hứa cuội cũng vô ích.

Phả Lạp Tô sợ rằng y bị bắt rồi kinh hoảng mất trí, đầu óc rối loạn

bèn nói:

- Này, ngươi đã nghe rõ chưa? Ta nói là hoàng kim năm trăm lượng,

bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã ba trăm con!

Người áo đỏ vẻ đầy kiêu ngạo, lạnh lùng nói:

- Hoàng kim năm trăm lượng, bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã

ba trăm con thì đã là bao? Nước Đại Liêu chúng ta giàu có bậc nhất thiên

hạ, con số đó coi chẳng vào đâu.

Y quay sang nói với Tiêu Phong, đổi sắc mặt cung kính nói:

- Chủ nhân, ta chỉ nghe lệnh một mình ông thôi, người khác nói ta

không thèm nghe đâu.

Phả Lạp Tô nói:

- Tiêu huynh đệ thử hỏi y xem y ở nước Liêu làm quan chức gì?

Tiêu Phong chưa kịp mở lời người kia đã nói:

- Chủ nhân nếu muốn hỏi thân thế lai lịch, ta sẽ đặt điều nói láo

đánh lừa ông, ông cũng không biết thật hay giả. Thế nhưng ông là anh

hùng hảo hán, ta cũng anh hùng hảo hán, ta không muốn lừa ông thành

thử xin đừng hỏi làm gì.

Tiêu Phong tay trái lật một cái, rút phắt thanh đao đeo nơi hông, tay

phải vỗ vào sống đao, nghe cạch một tiếng lưỡi đao đó liền cong lại, hầm

hè quát:

- Ngươi lớn mật không nói chăng? Nếu bàn tay ta chém xuống đầu

ngươi thì sẽ ra sao?

Người áo đỏ không tỏ vẻ gì sợ hãi, đưa ngón cái tay phải lên nói:

- Tài giỏi thật! Ghê gớm thật! Hôm nay ta được gặp đương thế đệ

nhất anh hùng, quả không uổng! Tiêu anh hùng, nếu ông dùng lực uy

hiếp muốn ta phải chịu khuất phục thì không xong đâu. Ông muốn giết cứ

việc giết, người Khất Đan tuy đánh không lại nhưng cũng cứng cỏi không

kém gì ông đâu.

Tiêu Phong cười ha hả nói:

- Giỏi, giỏi lắm! Ta không giết ngươi ở đây đâu. Nếu ta một đao giết

ngươi, ngươi chắc không tâm phục. Chi bằng mình ra chỗ xa xa, ác đấu

một trận nữa.

Hòa Lý Bố và Phả Lạp Tô cùng lên tiếng khuyên giải:

- Tiêu huynh đệ, người này giết đi thật uổng, chi bằng để y sống lấy

tiền chuộc tốt hơn. Nếu như ngươi tức giận, chi bằng dùng gậy gỗ roi da

đánh cho y một chập thật đau là được.

Tiêu Phong đáp:

- Không được! Y muốn cho mình là anh hùng hảo hán thì ta để cho y

toại nguyện.

Ông quay sang mượn người Nữ Chân hai cây trường mâu, hai bộ cung

tên, nắm tay người áo đỏ cùng ra khỏi trướng, nhảy lên ngựa ra lệnh:

- Lên ngựa mau!

Người mặc hồng bào không một chút sợ hãi, biết chắc đấu với Tiêu

Phong thì chỉ có chết mà thôi, y đòi đấu thêm một trận nữa chẳng qua chỉ

là mèo vờn chuột, muốn đùa rỡn một hồi rồi mới giết mình nhưng không

sờn lòng lập tức lên ngựa chạy về hướng bắc.

Tiêu Phong theo sau, hai người chạy được mấy dặm, Tiêu Phong nói:

- Quay qua hướng tây!

Người áo đỏ đáp:

- Nơi đây phong cảnh tuyệt đẹp, ta muốn chết tại nơi đây.

Tiêu Phong nói:

- Tiếp lấy!

Ông cầm trường mâu và cung tên ném qua, người kia đều bắt được cả,

lớn tiếng nói:

- Tiêu anh hùng, ta biết chắc không phải là đối thủ nhưng người Khất

Đan thà chết không chịu khuất phục! Ta ra tay đây!

Tiêu Phong đáp:

- Hãy khoan! Tiếp lấy đã!

Ông lại cầm cây giáo và cung tên còn lại trên tay mình thẩy qua, chỉ

còn hai tay không, môi nở một nụ cười khó hiểu. Người áo đỏ cực kỳ giận

dữ, gầm lên:

- Hừ, ngươi định tay không đấu với ta, chẳng phải làm nhục ta quá

lắm hay sao?

Tiêu Phong lắc đầu:

- Không phải thế! Tiêu mỗ bình sinh kính trọng bậc anh hùng, yêu

thích người hảo hán. Võ công ngươi tuy không bằng ta thật nhưng là kẻ

đại đại anh hùng, hảo hán, Tiêu mỗ muốn kết bạn với ngươi! Thôi ngươi

trở về bộ tộc của mình đi.

Người áo đỏ hết sức kinh ngạc, hỏi lại:

- Cái ... cái gì?

Tiêu Phong mỉm cười đáp:

- Ta nói Tiêu mỗ coi ngươi là một hảo bằng hữu, để cho ngươi bình

an quay trở về.

Người mặc hồng bào tưởng chết đến nơi lại bình yên vô sự, vui sướng

không sao kể xiết hỏi lại:

- Có thực ngươi thả ta về chăng? Ngươi ... chẳng hay ngươi ... muốn

gì? Ta về rồi sẽ đem tiền chuộc gấp mười, gửi sang cho ngươi.

Tiêu Phong hiên ngang đáp:

- Ta coi ngươi là bạn, sao ngươi lại không coi ta là bạn? Tiêu mỗ

đường đường hán tử thế này, lẽ đâu lại còn tham ngoại thân tài vật hay

sao?

Người áo đỏ đáp:

- Đúng thế!

Y ném binh khí đi, nhảy xuống ngựa, quì phục xuống đất vái lạy nói:

- Đa tạ ân công tha mạng!

Tiêu Phong quì xuống hoàn lễ đáp:

- Tiêu mỗ không giết bằng hữu, cũng không nhận bạn bè vái lạy.

Còn như là phận nô lệ, thì dẫu có lạy lục Tiêu mỗ, Tiêu mỗ cũng chẳng

tha đâu.

Người áo đỏ lại càng mừng hơn nữa, đứng lên nói:

- Tiêu anh hùng, ông luôn mồm nhận ta là bè bạn, vậy ta cùng ông

kết làm anh em, nên chăng?

Tiêu Phong học nghệ xong liền gia nhập Cái Bang. Trong bang vai vế

phân biệt thật nghiêm minh, từ bang chủ, phó bang chủ trở xuống, còn có

Truyền Công, Chấp Pháp, tứ đại hộ pháp trưởng lão, rồi đến hương chủ

các đà, xuống đến đệ tử tám túi, đệ tử bảy túi cho chí kẻ chưa được mang

túi nào. Thế nhưng ông chỉ lo lập công để được thăng cấp, chưa từng giao

bái anh em với ai, mãi đến sau này ở thành Vô Tích cùng Đoàn Dự đấu

rượu với nhau, có lòng cảm mến bấy giờ mới kết nghĩa kim lan. Bây giờ

nghe người mặc hồng bào nói như thế, nghĩ đến trước đây ở Trung

Nguyên giao thiệp với đủ mọi loại anh hùng, hôm nay lưu lạc, ăn nhờ ở

đậu nơi đất man di, quả thực thất thế biết bao. Bây giờ nghe đề cập đến

chuyện này, ông không khỏi cảm khái, lại thấy người áo đỏ khí độ hào

hùng, quả là một hảo hán liền đáp:

- Hay lắm! Hay lắm! Tại hạ Tiêu Phong, năm nay ba mươi mốt tuổi.

Tôn huynh quí canh bao nhiêu?

Người kia cười đáp:

- Tại hạ là Gia Luật Cơ, so với ân công thì lớn hơn mười ba tuổi.

Tiêu Phong nói:

- Huynh trưởng sao vẫn còn gọi tiểu đệ là ân công? Huynh trưởng là

đại ca, xin nhận một lạy của đệ.

Nói xong bèn phục xuống lạy, Gia Luật Cơ vội vàng hoàn lễ.

Hai người bèn lấy ba mũi tên cắm xuống đất, đốt cháy lông đuôi làm

hương, hướng lên trời lạy tám lạy, kết làm anh em. Gia Luật Cơ trong

lòng cực kỳ vui sướng nói:

- Huynh đệ họ Tiêu cũng chẳng khác gì người Khất Đan chúng ta.

Tiêu Phong đáp:

- Chẳng dấu gì huynh trưởng, tiểu đệ chính là gốc người Khất Đan.

Nói xong cởi áo ra, để lộ chiếc đầu sói xanh xâm trên ngực. Gia Luật

Cơ vừa thấy thật mừng nói:

- Quả nhiên đúng vậy, ngươi thuộc về họ bên hoàng hậu Khất Đan.

Huynh đệ, đất Nữ Chân lạnh lắm, chi bằng theo ta đi về Thượng Kinh,

chung hưởng phú quí.

Tiêu Phong đáp:

- Đa tạ hảo ý của ca ca, có điều tiểu đệ trước nay nghèo hèn, xem ra

không hợp đời sống giàu sang. Tiểu đệ sống với người Nữ Chân, săn bắn

uống rượu thấy tiêu dao khoái hoạt hơn. Ngày sau nếu nhớ ca ca, thể nào

cũng có lúc qua nước Liêu đi kiếm.

Ông xa cách A Tử cũng đã lâu, khắc khoải không hiểu thương thế

nàng thế nào bèn nói:

- Ca ca nên sớm quay về để người nhà và bộ thuộc khỏi trông đợi.

Sau đó hai người hành lễ cáo biệt. Tiêu Phong quay ngược đầu ngựa

đã thấy A Cốt Đả cùng hơn chục người nghênh tiếp. Thì ra A Cốt Đả thấy

Tiêu Phong đi lâu không về, e ngại không biết có trúng phải ngụy kế của

người áo đỏ hay chăng, trong bụng không an nên đến tiếp ứng. Tiêu

Phong kể lại đã thả y trở về nước Liêu, A Cốt Đả là kẻ rất hiểu biết, rất

anh hùng thấy Tiêu Phong khinh tài trọng nghĩa, khoan hồng đại lượng

như thế lại càng thán phục.

Một ngày kia, Tiêu Phong nhàn rỗi nói chuyện chơi với A Cốt Đả, cho

y hay sở dĩ A Tử thụ thương vì lỡ trúng phải chưởng lực của mình, tuy

dùng nhân sâm có thể duy trì tính mạng nhưng đã lâu không thuyên giảm,

hết sức buồn phiền. A Cốt Đả nói:

- Tiêu đại ca, thì ra cô em của đại ca bị ngoại thương, người Nữ Chân

chúng tôi trị ngoại thương sai khớp xưa nay vẫn dùng ba vị thuốc gân hổ,

xương hổ và mật gấu rất là hiệu nghiệm. Sao đại ca không thử xem thế

nào?

Tiêu Phong mừng quá nói:

- Cái gì chứ gân hổ, xương hổ ở đây thiếu gì? Còn như mật gấu ư, ta

sẽ cố gắng giết ít con là xong.

Ông hỏi kỹ cách dùng, lấy gân hổ, xương hổ nấu thành cao đút cho A

Tử. Sáng hôm sau, Tiêu Phong một mình đi vào núi hoang, đầm lớn kiếm

gấu. Ông đi một mình, có thể thi triển khinh công, so với cùng đi cả đoàn

tiện hơn nhiều. Hôm đầu không thấy dấu vết gấu, hôm thứ hai săn được

một con. Ông mổ lấy mật, chạy về nơi đóng doanh, đút cho A Tử uống.

Gân hổ, xương hổ, mật gấu và nhân sâm lâu năm kiếm nơi rừng sâu núi

thẳm đều là những dược phẩm cực kỳ trân quí dùng để trị thương, mật

gấu tươi lại càng khó kiếm bội phần. Tiết Thần Y tuy nói là y đạo như

thần nhưng không có thuốc thỉ cũng đành chịu, nếu phải dùng lão sơn

sâm cho bệnh nhân dùng thay cơm thì ông cũng không thể nào làm nổi,

còn như Tiêu Phong, cứ vài ngày đi đánh chết một con gấu lấy mật tươi

cho A Tử uống thì càng khó hơn.5

Hôm đó, Tiêu Phong đang ngồi trong trướng nấu xương hổ, gân hổ làm

cao, một gã Nữ Chân hấp tấp chạy đến nói:

- Tiêu đại ca, có khoảng chục tên Khất Đan đem lễ vật đến cho đại

ca.

Tiêu Phong gật đầu, biết là do nghĩa huynh Gia Luật Cơ sai người đem

tới. Chỉ nghe tiếng vó ngựa dồn dập, một đoàn ngựa chậm rãi tiến vào,

trên lưng ngựa chất đầy phẩm vật. Tên đội trưởng Khất Đan đi đầu đã

nghe Gia Luật Cơ mô tả diện mạo Tiêu Phong nên vừa trông thấy từ xa

đã vội vàng nhảy xuống ngựa, rảo bước tới trước mặt, lạy phục nói:

- Chủ nhân từ khi từ biệt Tiêu đại gia đến nay, nhớ nhung lắm lắm,

đặc biệt sai tiểu nhân Thất Lý đem chút bạc lễ, lại mời Tiêu đại gia đến

Thượng Kinh hàn huyên.

Nói xong khấu đầu mấy lượt, hai tay trình lễ đơn6, thần thái cực kỳ

cung kính. Tiêu Phong đưa tay cầm danh sách cười nói:

- Quả là có lòng, xin hãy đứng dậy đã.

Ông mở tờ lễ đơn ra thấy toàn là chữ Khất Đan liền nói:

- Ta không biết chữ, chẳng cần xem làm gì.

Thất Lý nói:

- Chút bạc lễ này gồm năm nghìn lượng hoàng kim, năm vạn lượng

bạch ngân, một nghìn súc cẩm đoạn, một nghìn thạch lúa mạch hạng

ngon, một nghìn con bò, năm nghìn con cừu, ba nghìn con tuấn mã, ngoài

ra còn một số quần áo đồ dùng.

Tiêu Phong càng nghe càng kinh ngạc, lễ vật như thế gấp mười tiền

chuộc Phả Lạp Tô đòi hôm trước. Ông thấy hơn chục con ngựa chở đến

5 sự thực nhân sâm, hùng đảm, hổ cốt là những vị thuốc, dược tính rất mạnh, việc điều

chế và dụng pháp phức tạp không phải là thực phẩm mà có thể dùng thay cơm. Ở đây

tác giả viết theo lối kết cấu của tiểu thuyết, xin độc giả đừng tin là thật.

6 lễ đơn là danh sách viết những vật phẩm mang tới

đã quá nhiều, nếu cứ theo đúng danh sách viết đây thì không biết phải

bao nhiêu ngựa xe mới đủ.

Thất Lý khom lưng nói:

- Chủ nhân sợ các sinh vật đi đường xa mất mát, cho nên cừu bò

ngựa đều sai mang thêm một phần trừ hao nhưng may nhờ hồng phúc chủ

nhân và Tiêu đại gia, bọn chúng tôi đi đường không bị gió bão dã thú,

sinh khẩu7 tổn thất rất ít.

Tiêu Phong thở dài:

- Gia Luật ca ca tính toán thật chu đáo, nếu ta không nhận thì phụ

tấm lòng tốt của anh ta, còn nếu nhận tất cả, thì e quá đáng, không biết

sao cho phải.

Thất Lý nói:

- Chủ nhân dặn đi dặn lại, nếu như Tiêu đại gia khách sáo không

nhận, tiểu nhân trở về thể nào cũng bị phạt nặng.

Bỗng nghe tiếng tù và u u thổi, người Nữ Chân các doanh trướng đều

cầm đao thương cung tên nhốn nháo chạy ra. Có tiếng truyền lệnh:

- Quân địch đến tấn công, dự bị nghênh chiến.

Tiêu Phong nhìn về phía tiếng tù và thổi thấy bụi bay mù mịt, tưởng

chừng vô số quân mã đang tràn đến. Thất Lý lớn tiếng kêu:

- Các vị đừng hoảng hốt, đây là bò cừu ngựa của Tiêu đại gia đó.

Y dùng tiếng Nữ Chân liên tiếp gọi mấy lần nhưng những người kia

chẳng ai chịu tin, Hòa Lý Bố, Phả Lạp Tô, A Cốt Đả chia nhau ra chỉ huy

tộc nhân dàn thành trận thế ở phía tây doanh trại.

Tiêu Phong lần đầu tiên thấy người Nữ Chân bố trí trận mạc, nghĩ

thầm: Bộ tộc Nữ Chân không đông nhưng người nào cũng nhanh nhẹn

dữ dằn, các kỵ sĩ Khất Đan dưới quyền Gia Luật ca ca xem chừng không

ghê gớm lắm, chưa bằng được khí thế người Nữ Chân, còn như quan binh

nhà Đại Tống thì còn kém hơn nữa. Thất Lý kêu lên:

7 con vật còn sống

- Để tiểu nhân đi bảo bộ thuộc tạm ngừng không tiến lên nữa để

khỏi hiểu lầm.

Y chuyển thân lên ngựa, phóng về hướng tây. A Cốt Đả giơ tay một

cái, bốn tên thợ săn Nữ Chân liền đuổi theo sau. Năm người rong ngựa

chầm chậm tiến tới thấy trên đồng cỏ bụi mù toàn là bò cừu ngựa, hơn

trăm mục nhân Khất Đan dùng sào dài xua đuổi, ngoài ra không có quân

sĩ.

Bốn người Nữ Chân cười rộ lên quay về, bẩm lại cho Hòa Lý Bố.

Chẳng bao lâu, đội gia súc đến gần hơn, tiếng bò kêu ngựa hí rầm rĩ, át

cả tiếng người không nghe thấy gì cả.

Tối hôm đó Tiêu Phong bảo người Nữ Chân giết cừu xẻ bò để đãi

khách phương xa. Hôm sau, ông lấy một phần vàng bạc gấm vóc, thưởng

cho bọn người đưa lễ vật đến. Đợi khi người Khất Đan cáo từ rồi, ông

đem hết tất cả bò cừu ngựa, vàng bạc giao lại cho A Cốt Đả bảo y chia

cho người trong bộ tộc. Người Nữ Chân tụ tập sống chung với nhau,

không có của riêng, một người được thì toàn thể bộ tộc hưởng chung, thấy

Tiêu Phong khẳng khái như thế không cho là lạ lùng nhưng tự nhiên ở

trên trời rơi xuống nhiều tài vật như thế, ai nấy đều vui vẻ. Toàn bộ tộc

ăn uống vui chơi mấy ngày liền, người người đều cảm kích lòng tốt của

Tiêu Phong.

Qua mùa hạ rồi sang mùa thu, bệnh của A Tử cũng đỡ được vài phần,

thần trí vừa tỉnh táo thấy ngày ngày phải nằm trong trướng dưỡng thương

thật chán ngán, thường bảo Tiêu Phong đưa nàng ra ngoài cưỡi ngựa rong

chơi cho thư thái tâm hồn. Hai người cưỡi chung một con, nàng ngồi đằng

trước dựa vào ngực Tiêu Phong nên không tốn một chút hơi sức nào. Tiêu

Phong chiều chuộng cô gái hết mực, trong mấy tháng liền, trừ những

ngày gió lớn, bão to hai người ngày nào cũng cùng nhau nhàn du. Về sau

những nơi gần đi mãi cũng chán, hai người mang theo cả lều chăn dựng

trại ngủ ở bên ngoài, mấy ngày liền không về. Tiêu Phong cũng nhân dịp

đó đánh hổ, săn gấu, đào nhân sâm. Chỉ vì A Tử bắn lén một mũi độc

châm, gấu đen, mãnh hổ cả một dãy Trường Bạch bị chết khá nhiều,

không biết bao nhiêu con táng mạng dưới chưởng của Tiêu Phong.

Tiêu Phong vì muốn đi đào sâm nên mỗi lần đều theo hướng đông

hoặc hướng bắc. Hôm đó A Tử bảo rằng phía đông phía bắc phong cảnh

coi đã nhiều, nay muốn qua phía tây chơi. Tiêu Phong nói:

- Phía tây chỉ là một thảo nguyên thật rộng, chẳng có núi non sông

ngòi gì mà coi.

A Tử đáp:

- Đại thảo nguyên cũng thích chứ, chẳng khác gì biển cả, tiểu muội

chưa từng được thấy biển cả thực bao giờ. Tinh Tú Hải tuy nói là biển

nhưng vẫn còn bến còn bờ.

Tiêu Phong nghe nàng đề cập đến biển Tinh Tú cũng thấy chột dạ.

Trong một năm qua sống chung với người Nữ Chân, những chuyện võ

lâm đã dần dần quên lãng, A Tử không hành động được, muốn làm

chuyện xấu xa cũng chẳng có cách gì. Còn ông chỉ cố hết sức giúp nàng

trị thương cứu mạng, nhưng lại sợ rằng một khi thuyên giảm, ác tính cả

nàng lại phát tác, lúc đó biết làm sao?

Ông quay đầu nhìn A Tử, thấy khuôn mặt tái mét không một chút

máu, má hóp lại, đôi mắt to đen lõm vào, dung sắc cực kỳ tiều tụy, người

gầy tong teo chỉ còn da bọc xương. Tiêu Phong không khỏi chua xót trong

lòng: Nàng vốn dĩ là một cô bé con khả ái hoạt bát biết là dường nào, bị

ta đánh đến chết đi sống lại, có khác gì một bộ xương khô, sao ta lại chỉ

nghĩ đến những điều xấu của nàng?. Ông bèn mỉm cười:

- Nếu cô thích đi qua hướng tây thì mình đi qua đó xem sao. A Tử,

khi nào bệnh em đỡ nhiều rồi, ta sẽ đưa em đến biên giới nước Cao Ly để

xem biển cả thực sự, nước biếc mênh mông, nhìn không thấy bến bờ,

cảnh đó coi mới thật là hùng vĩ.

A Tử vỗ tay reo lên:

- Hay quá! Hay quá! Thực ra chẳng cần phải đợi cho bệnh của em

khỏi hẳn lúc ấy mình mới đi.

Tiêu Phong kêu lên một tiếng, vừa mừng vừa sợ hỏi:

- A Tử, hai tay của em cử động được như thường rồi.

A Tử cười đáp:

- Nửa tháng trước hai tay tiểu muội đã cử động được, hôm nay lại

càng linh hoạt hơn nhiều.

Tiêu Phong mừng rỡ nói:

- Thế thì hay lắm! Ngươi quả là một con bé cứng đầu, vậy mà sao lại

dấu ta?

Đôi mắt A Tử lóe lên một vẻ tinh quái, mỉm cười đáp:

- Em chỉ mong được vĩnh viễn không cử động, có thế tỉ phu mới ngày

ngày ở bên cạnh em. Chú nếu như thương thế em khỏi rồi, tỉ phu sẽ lại

đuổi em đi.

Tiêu Phong nghe nàng nói thật chân thành, trong bụng không khỏi

thương hại nói:

- Ta là một hán tử lỗ mãng, hôm đó không cẩn thận, lỡ tay đánh cô

ra nông nỗi này. Cô ngày ngày ở bên cạnh ta có gì vui đâu?

A Tử không trả lời, một lát sau mới khẽ hỏi:

- Sao hôm đó tỉ phu xuất chưởng đánh em mạnh như thế?

Tiêu Phong không muốn nhắc lại chuyện cũ, lắc đầu đáp:

- Chuyện đó vốn đã qua rồi, nhắc lại làm gì? A Tử, ta đánh cô đến bị

thương như thế này, trong lòng cảm thấy thật áy náy, em có giận ta

không?

A Tử đáp:

- Lẽ dĩ nhiên tiểu muội không giận, có việc gì em phải giận tỉ phu

đâu? Em vốn chỉ mong được anh ở kề cận bên mình, bây giờ chẳng phải

được như thế hay sao? Trong lòng em hết sức sung sướng là khác.

Tiêu Phong nghe nàng nói như thế, tuy thấy ý nghĩ của tiểu cô nương

này thật là quái lạ, nhưng gần đây thấy nàng trở nên tử tế hơn trước, nghĩ

bụng mình hết sức lo lắng cho cô ta đã làm cái tính độc ác của nàng giảm

đi thật nhiều. Ông quay về dự bị ngựa xe, màn trướng, lương khô mọi thứ.

Sáng sớm hôm sau, hai người đi về hướng tây. Đi được trên chục dặm,

A Tử bỗng hỏi:

- Tỉ phu có đoán ra được chưa?

Tiêu Phong hỏi lại:

- Đoán ra cái gì?

A Tử nói:

- Hôm đó em đột nhiên dùng độc châm đả thương anh, tỉ phu có biết

vì cớ gì không?

Tiêu Phong lắc đầu nói:

- Tâm tư cô thần xuất quỉ một, làm sao ta đoán nổi?

A Tử thở dài một tiếng nói:

- Nếu anh không đoán ra, thì chi bằng đừng nghĩ tới nữa. Tỉ phu xem

thử sao những con vịt trời kia, sao lại làm thành một đoàn bay về hướng

nam là sao?

Tiêu Phong ngửng đầu lên, thấy bên trời hai đoàn đại nhạn, bay thành

hình chữ nhân, quả thực đang bay về hướng nam bèn nói:

- Trời sắp sang đông, chim nhạn sợ lạnh nên bay về phương nam

tránh tuyết.

A Tử hỏi:

- Thế sao đến mùa xuân, chúng lại bay trở về? Mỗi năm bay đi bay

lại chẳng khổ sở khó nhọc lắm ru? Bọn chúng nếu sợ lạnh sao không ở

luôn phương nam, cần gì phải quay lại.

Tiêu Phong trước nay chuyên tâm học võ, chưa bao giờ từng suy nghĩ

về tập tính của cầm thú côn trùng, bị nàng hỏi như thế, không sao trả lời

được, lắc đầu cười nói:

- Ta cũng chẳng hiểu sao chúng lại không ngại gian khổ, chắc có lẽ

là chim nhạn sinh nơi phương bắc, lưu luyến cố hương đấy thôi.

A Tử gật đầu nói:

- Chắc là thế. Anh xem con nhạn sau cùng kia, tuy còn nhỏ vậy mà

cũng ráng bay về phương nam. Mai này cha nó, mẹ nó, chị nó, anh rể nó

cùng bay về phương bắc, dĩ nhiên nó cũng đi theo.

Tiêu Phong nghe nàng nói "chị nó, anh rể nó", trong lòng chợt động

đưa mắt nhìn A Tử, thấy cô bé đang ngẩng đầu mơ màng nhìn về phía

đàn chim nơi chân trời, hiển nhiên câu đó nói ra không có ý gì, nghĩ

thầm: "Nàng buột miệng nói ra, vậy mà đem ta cùng với cha mẹ bỏ

chung một giỏ, đủ biết trong lòng nàng coi mình là một người rất thân, từ

nay không thể nào tùy tiện bỏ rơi nàng. Để đến khi nàng khỏi bệnh rồi, ta

sẽ đưa nàng trở về Đại Lý, giao lại cho cha mẹ, lúc đó gánh nặng trên vai

mới trút đi được.

Trên đường, hai người vừa đi vừa nói chuyện. Đến khi A Tử mệt mỏi,

Tiêu Phong liền bồng nàng từ trên lưng ngựa xuống, bỏ vào thùng xe ở

đằng sau cho nàng ngủ. Khi dêm xuống, hai người tìm rừng cây dựng lều.

Cứ như thế mấy ngày liền, đã đến bên bờ đồng cỏ. A Tử đưa mắt nhìn

quanh thấy đại thảo nguyên không bờ không bến, trong lòng hết sức cao

hứng nói:

- Mình nhìn qua hướng tây chẳng thấy đâu là tận cùng, còn như biển

cả mênh mông thì nhìn bốn bề đông tây nam bắc chỗ nào cũng không bờ

không bến.

Tiêu Phong biết A Tử muốn đi sâu vào giữa đồng cỏ, không muốn trái

ý nàng, giơ roi lên quất một cái giục ngựa đi tiếp về hướng tây.

Hai người đi trong đại thảo nguyên mấy ngày liền, quả đến lúc nhìn

chung quanh bốn phía, không còn thấy biên giới dồng cỏ là đâu. Khi đó

vào mùa thu khí hậu mát mẻ, nghe tiếng rì rào, xào xạc thật là dễ chịu.

Trong đồng cỏ những thú nhỏ rất nhiều, Tiêu Phong săn bắt con nào ăn

con đó, không lo không sầu.

Lại đi thêm mấy ngày nữa, hôm ấy đến trưa, nhìn đằng xa thấy có vô

số doanh trướng, lại thêm cờ xí mao tiết, dường như chỗ đóng quân, lại

trông như nơi bộ lạc sống chung với nhau. Tiêu Phong nói:

- Trước mặt đông người lắm, không biết họ đang làm gì, mình đi về

dể khỏi gây thêm rắc rối.

A Tử nói:

- Không! Không! Em muốn đến xem. Hai chân em còn chưa cử động

được, đâu có thể gây rắc rối gì cho anh?

Tiêu Phong cười nói:

- Chuyện rắc rối đâu có phải chỉ do ngươi mà ra, có khi người khác

gây cho mình, ngươi có muốn tránh cũng không được.

A Tử cười nói:

- Thế thì mình đến xem cũng chẳng sao cả.

Tiêu Phong biết cái tính trẻ con thích chỗ náo nhiệt của nàng nổi lên,

nên giục ngựa đi chầm chậm. Trên thảo nguyên địa thế phẳng lì, những

doanh trướng đó từ đằng xa đã nhìn thấy nhưng đi cho tới nơi, lộ trình

cũng không phải ngắn. Đi đến bảy tám dặm rồi, bỗng nghe tiếng kèn

hiệu thổi u u, tiếp theo bụi bay mù mịt, hai hàng nhân mã mở ra, một đội

đi về hướng bắc, một đội phóng về phía nam.

Tiêu Phong hơi kinh hãi nói:

- Không xong, đây là kỵ binh người Khất Đan.

A Tử nói:

- Là người của anh đấy ư? Thế thì hay quá chứ có gì bảo là không

hay?

Tiêu Phong đáp:

- Nhưng ta không biết họ là ai, thôi mình quay về.

Ông ghìm cương ngựa quay đầu, theo đường cũ để trở về. Chưa được

mấy bước, bỗng nghe tiếng trống đánh tùng tùng, lại có mấy đội kỵ binh

Khất Đan nữa xông ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bốn bề không thấy có

địch nhân đâu cả, không lẽ họ thao luyện tập trận chăng?.

Chỉ nghe tiếng người vang lên:

- Bắn hươu đi! Bắn hươu đi!

Phía tây, phía bắc, phía nam chỗ nào cũng nghe tiếng người giục bắn

hươu. Tiêu Phong nói:

- Thì ra họ vây để săn thú, thanh thế như vậy quả không phải nhỏ.

Ông bèn bồng A Tử đặt lên yên ngựa, ghìm cương đứng ở phía đông

nhìn ra. Chỉ thấy kỵ binh Khất Đan người nào cũng mặc cẩm bào, bên

trong có áo giáp sắt. Cẩm bào màu sắc đội thì đỏ, đội thì xanh, đội thì

vàng, đội thì tím, cờ quạt với áo cùng màu, tới lui nhanh chậm, mã tráng

binh cường trông thật đẹp mắt, Tiêu Phong và A Tử đứng coi mà khen

ngợi thầm. Quân sĩ nghe theo quân lệnh dọc ngang tiến thoái, giơ trường

mâu ra xua hươu, trông thấy Tiêu Phong và A Tử, cũng chỉ liếc một cái

rồi không để ý gì tới nữa. Bốn đội kỵ binh chia ra bao vây bốn bên, dồn

mấy chục con hươu vào giữa. Thỉnh thoảng có một con theo khe hở chạy

được ra ngoài thì lập tức có một toán quân nhỏ đi ra cản, vây thành vòng

tròn đuổi trở lại vào trong.

KIM QUA ĐÃNG KHẤU AO BINH

Thiên quân vạn mã vào ra,

Trước là cứu chúa, sau là cứu thân.

Cuộc đời như giấc mộng lành,

Hôm nay khất cái mai thành đại vương.

*

* *

Tiêu Phong còn đang đứng xem bỗng nghe có người lớn tiếng gọi:

- Bên kia có phải Tiêu đại gia đấy chăng?

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Ai mà lại nhận ra ta nhỉ?”. Ông quay lại

thấy từ đội áo xanh một người phóng ngựa chạy thẳng tới, thì ra là gã

đội trưởng Thất Lý, người mấy tháng trước Gia Luật Cơ sai đem lễ vật

đến cho mình.

Y chạy đến còn cách Tiêu Phong hơn chục trượng đã vội vàng nhảy

xuống ngựa, đi bộ lên, quì đầu gối phải xuống nói:

- Chủ nhân chúng tôi đang ở đằng trước không xa là mấy. Chủ nhân

thường vẫn nhớ mong nhắc đến Tiêu đại gia luôn. Hôm nay không biết

ngọn gió lành nào thổi Tiêu đại gia đến đây? Xin mời đại gia đến gặp

chủ nhân chúng tôi.

Tiêu Phong nghe nói Gia Luật Cơ cũng ở gần đây, thật là hoan hỉ

nói:

- Ta chỉ tùy ý ngao du, có ngờ đâu nghĩa huynh cũng ở quanh đây,

thế thì hay lắm. Được rồi, nhờ ngươi dẫn đường đến gặp anh ta.

Thất Lý chúm môi huýt một tiếng, hai tên kỵ binh cưỡi ngựa chạy

đến. Y dặn dò:

- Các ngươi mau đi bẩm báo nói là Tiêu đại gia ở núi Trường Bạch

qua thăm.

Hai tên kỵ binh khom lưng nhận lệnh, phóng ngựa chạy đi ngay.

Những người còn lại tiếp tục cuộc săn hươu, riêng Thất Lý tất lãnh một

đội kỵ binh áo xanh, hộ tống Tiêu Phong và A Tử đi về hướng tây.

Khi Gia Luật Cơ gửi cho Tiêu Phong vàng bạc bò cừu, ông đã biết y

ắt phải là một đại quí nhân người Khất Đan, bây giờ lại thấy thanh thế

như vậy xem chừng vị nghĩa huynh này phải là tướng quân, đại quan chi

đó.

Trên thảo nguyên ngựa chạy đi chạy lại như mắc cửi, người nào

cũng y giáp mới tinh. Thất Lý nói:

- Tiêu đại gia hôm nay đến chơi quả là đúng lúc, sáng sớm mai ở

đây có một buổi hội thật là vui nhộn.

Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Tử, thấy nàng mặt tươi hẳn lên liền hỏi:

- Cái gì mà vui nhộn?

Thất Lý đáp:

- Ngày mai là ngày hội diễn võ. Hai đội vệ quân Vĩnh Xương, Thái

Hòa đều khiếm khuyết chức vụ thống lãnh. Người Khất Đan chúng tôi ai

nấy sẽ ra sức biểu diễn võ nghệ để xem ai là người vận may, được giữ

hai chức vụ này.

Tiêu Phong nghe nói đến tỉ võ, tự nhiên thấy hào khí bừng bừng nổi

lên, hết sức cao hứng, cười nói:

- Thế thì đúng là khéo thật, được dịp xem võ nghệ người Khất Đan

như thế nào.

A Tử cười nói:

- Đội trưởng ơi, vậy ông ra đại hiển thân thủ, chúc mừng ông đoạt

được một chức thống lãnh.

Thất Lý lè lưỡi nói:

- Tiểu nhân nào có cái gan đó?

A Tử lại cười:

- Đoạt được chức thống lãnh thì đã sao? Chỉ cần tỉ phu ta dạy cho

ông dăm ba miếng võ là ông đoạt được chức đó ngay chứ gì.

Thất Lý vui mừng nói:

- Tiêu đại gia nếu bằng lòng chỉ cho tiểu nhân thì quả là cầu còn

không được. Còn chức thống lãnh gì kia, tiểu nhân không có phúc phận

chẳng dám mơ tưởng tới.

Đoàn người vừa đi vừa nói chuyện, đi độ mươi dặm đã thấy trước

mặt một đoàn kỵ binh gấp rút chạy tới. Thất Lý nói:

- Đây là đội Phi Hùng trong bì thất quân của đại trướng.1

Những người đó đều mặc áo, đội mũ làm bằng da gấu, áo ngoài

bằng lông gấu đen, mũ cao làm bằng lông gấu trắng, hình dáng thật là

uy võ. Đội binh đó chạy đến gần, cùng lên tiếng reo hò, đồng thời hạ

mã, chia ra đứng hai bên nói:

- Cung nghinh Tiêu đại gia.

Tiêu Phong đáp:

- Không dám! Không dám!

Ông giơ tay chào, giục ngựa chạy lên trước, đội Phi Hùng cũng lục

tục theo sau. Đi được hơn chục dặm, lại có một đội binh khác, mặc áo da

hổ, mũ da hổ là đội Phi Hổ Binh chạy đến nghinh tiếp. Tiêu Phong nghĩ

thầm: “Không biết Gia Luật ca ca làm chức quan gì lớn thế mà sao nghi

vệ rầm rộ thế này”. Có điều Thất Lý không nói, mà lần gặp trước Gia

Luật Cơ nhất định không thổ lộ thân thế mình, Tiêu Phong đành chịu

không hỏi nữa.

Đi đến xế chiều tới một nơi đóng quân thật lớn thì người trong đội

Phi Báo, tất cả đều mặc áo đội mũ da báo chạy ra nghinh tiếp, đón Tiêu

Phong và A Tử vào trong căn lều lớn ở chính giữa. Tiêu Phong vẫn

tưởng vào trong lều này ắt sẽ được gặp Gia Luật Cơ, ngờ đâu trong

trướng giường nệm khí mãnh đều là đồ sang trọng, trên bàn nhỏ để đầy

đồ ăn, hoa quả nhưng không thấy chủ nhân đâu. Đột trưởng đội Phi Báo

nói:

- Chủ nhân mời Tiêu đại gia ở đây nghỉ lại một đêm, ngày mai sẽ

tương kiến.

Tiêu Phong cũng không hỏi thêm, đến bên bàn cầm bát rượu lên

uống. Bốn tên quân sĩ, kẻ rót rượu, người cắt thịt, hầu hạ rất cung kính.

Sáng hôm sau trở dậy lại tiếp tục đi, ngày hôm dó đi về hướng tây phải

đến hai trăm dặm, đến tới lại ngủ lại một nơi đóng quân lớn.

Đến trưa ngày thứ ba, Thất Lý nói:

- Đi qua khỏi triền núi phía trước mặt thì mình sẽ tới.

Tiêu Phong thấy ngọn núi đó thật là hùng vĩ, một con sông lượn

dưới chân núi chảy cuồn cuộn về hướng nam. Cả đoàn người vòng qua

sườn núi, trước mắt cờ sí rợp trời, trên đại thảo nguyên chỗ nào cũng đầy

doanh trướng, có đến hàng vạn kỵ binh, bộ tốt, bao chung quanh một

khoảng đất trống ngay chính giữa. Các đội Phi Hùng, Phi Hổ, Phi Báo hộ

tống Tiêu Phong liền lấy kèn ra, thổi lên nghe u u u.

Đột nhiên tiếng trống đánh tùng tùng vang lên dữ dội, thêm tiếng

pháo hiệu nổ ầm ầm, trên bãi đất trống quan binh rẽ ra hai bên, một con

ngựa vàng cao to từ trong chạy ra, trên lưng là một đại hán râu xồm,

chính thị Gia Luật Cơ. Y giục ngựa thẳng đến chỗ Tiêu Phong kêu lớn:

- Tiêu huynh đệ, có nhớ ca ca chăng?

Tiêu Phong cũng phóng ngựa chạy lên, hai người cùng nhảy xuống,

bốn tay nắm chặt, mừng rỡ không sao kể xiết. Chỉ nghe bốn bề chung

quanh quân sĩ reo hò vang dội:

- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!

Tiêu Phong giật mình tự hỏi: “Binh sĩ lại kêu vạn tuế là sao?”. Ông

đưa mắt nhìn khắp nơi, thấy quân quan sĩ tốt ai nấy khom lưng, cầm đao

chống xuống đất, Gia Luật Cơ cầm tay ông đứng ngay chính giữa, nhìn

ngang nhìn ngửa, vẻ mặt cực kỳ đắc ý. Tiêu Phong hiểu ra lắp bắp:

- Ca ca, thì ra ca ca ... là ... là ...

Gia Luật Cơ cười ha hả nói:

- Nếu như ngươi biết ta là đương kim hoàng đế nước Đại Liêu, e

rằng sẽ chẳng cùng ta kết nghĩa đệ huynh đâu. Tiêu huynh đệ, tên thực

của ta là Gia Luật Hồng Cơ. Cái ơn cứu mạng của ngươi ta vĩnh viễn

không bao giờ quên.

Tiêu Phong tuy khoáng đạt hào sảng nhưng trong đời chưa từng diện

kiến hoàng đế bao giờ, hôm nay thấy nghi vệ như thế, không khỏi bối

rối, ấp úng:

- Tiểu nhân không biết bệ hạ, mạo phạm đã nhiều, quả là tội đáng

muôn thác.

Nói xong quì xuống. Ông là thần dân nước Khất Đan, gặp bản quốc

hoàng đế dĩ nhiên phải quì xuống.

Gia Luật Hồng Cơ vội đỡ dậy, cười nói:

- Không biết thì không có tội. Này huynh đệ, ngươi với ta là anh em

kim lan, ngày hôm nay chỉ tính chuyện nghĩa khí, ngày mai hãy dùng lễ

vua tôi cũng không muộn.

Ông ta giơ tay trái lên vẫy một cái, trong quân lập tức chiêng trống

đánh lên để chào mừng khách quí. Gia Luật Hồng Cơ dắt tay Tiêu Phong

hai người cùng đi vào đại trướng.

Doanh trướng của hoàng đế Khất Đan dựng thành mấy tầng toàn

bằng da bò, trang trí đủ loại màu sắc vàng bạc, cực kỳ rực rỡ, gọi là bì

thất đại trướng. Gia Luật Hồng Cơ ngồi ngay chính giữa, bảo Tiêu Phong

ngồi ngay bên cạnh, chẳng mấy chốc bách quan văn võ cũng lục tục vào

tham kiến, Bắc Viện Đại Vương, Bắc Viện Khu Mật Sứ, Vu Việt, Nam

Viện Khu Mật Sứ, Bì Thất Đại Tướng Quân, Tiểu Tướng Quân, Mã

Quân Chỉ Huy Sứ, Bộ Quân Chỉ Huy Sứ ... Tiêu Phong nhất thời không

thể nào nhớ cho hết tên bao nhiêu người.

Tối hôm đó mở đại tiệc ăn mừng, người Khất Đan tôn trọng đàn bà

con gái nên A Tử cũng được dự phần tại bì thất đại trướng. Quả đúng là

rượu đổ thành ao, thịt chất thành núi, A Tử thấy thế cực kỳ hứng thú, mặt

tươi như hoa. Rượu đã mềm môi, hơn chục tên võ sĩ Khất Đan ra trước

mặt vua vật nhau làm trò, người nào cũng cởi trần, bắt nắm khoèo vật,

thật là kịch liệt. Tiêu Phong thấy những võ sĩ Khất Đan ai nấy đều thân

hình rắn chắc, cánh tay cuồn cuộn, đưa tay thò chân đều có dáng con

nhà võ, biến hóa xảo diệu tuy không được bằng võ sĩ người Hán nhưng

miếng nào miếng nấy đều sát phạt, thẳng thừng dùng trong chiến trận

quần đấu xem chừng kiến hiệu hơn võ của Trung Nguyên.

Các quan viên văn võ nước Liêu tiến ra mời Tiêu Phong uống rượu.

Tiêu Phong thì ai cũng không từ chối, đến đâu cạn bôi đến đó, trước sau

phải đến hơn ba trăm chén, vậy mà sắc mặt vẫn như không, mọi người

hết sức kinh ngạc.

Gia Luật Hồng Cơ xưa nay vẫn tự phụ là người dũng lực, lần này bị

Tiêu Phong bắt, cả nước ai cũng biết nên cũng có ý muốn Tiêu Phong

biểu lộ cái năng lực phi phàm để che dấu cái nỗi thẹn bị thất bại. Ngờ

đâu chưa cần phải ngày hôm sau Tiêu Phong đại hiển tài nghệ võ công

nơi tỉ võ đại hội, bây giờ chỉ lộ chút tửu lượng đã áp đảo quần hùng

khiến ai nấy đều kính phục. Gia Luật Hồng Cơ cực kỳ sung sướng nói:

- Huynh đệ, ngươi là đệ nhất anh hùng hảo hán của nước Liêu ta.

A Tử đột nhiên xen vào:

- Không đâu, anh ấy chỉ mới thứ nhì.

Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi lại:

- Tiểu cô nương, y mới chỉ thứ hai thôi sao? Thế thì vị đệ nhất đại

anh hùng là ai?

A Tử đáp:

- Vị anh hùng hảo hán số một ư, cái dó dĩ nhiên phải là bệ hạ rồi.

Tài nghệ của tỉ phu tiểu nữ tuy giỏi thật nhưng vẫn phải nghe lời bệ hạ,

không dám trái lệnh, thế thì bệ hạ chẳng là đệ nhất anh hùng thì là gì?

Nàng là môn hạ của Tinh Tú lão nhân, nghệ thuật tâng bốc đã

thuộc hàng siêu đẳng, nói ra câu đó thật chẳng khác gì dùng dao mổ trâu

để giết gà. Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả nói:

- Cô nói thế thật hay lắm! Tiêu huynh đệ, ta muốn phong cho ngươi

một chức quan thật lớn, để ta nghĩ xem đã, phong ngươi làm gì cho

xứng?

Khi đó y đã uống say đến bảy tám phần mười, đưa ngón tay gõ gõ

lên trán. Tiêu Phong vội nói:

- Không đâu! Không đâu! Tiển nhân tính tình giản phác, khó mà

hưởng phú quí được, xưa nay vẫn lang thang bốn phương, vãng lai vô

định, quả là không thích làm quan.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói:

- Được rồi! Để ta phong ngươi một chức quan chỉ uống rượu không

phải làm gì cả...

Ông nói chưa dứt lời bỗng từ xa truyền lại một hồi tù và u u u inh ỏi,

nghe thật gấp rút. Những người Liêu vốn dĩ đang ngồi bệt dưới đất, uống

rượu ăn thịt, vừa nghe tiếng hiệu giác, ai nấy kêu toáng lên, cùng nhỏm

dậy, mặt lộ vẻ kinh hoàng. Tiếng tù và truyền đến thật nhanh, lúc mới

nghe còn cách khoảng hơn chục dặm, lần thứ hai đã gần thêm vài dặm,

lầm thứ ba lại gần thêm vài dặm nữa. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Trên đời

này làm gì có con ngựa nào chạy lẹ thế, dẫu có đệ nhất đẳng khinh công

thì cũng không thể nhanh như vậy được. Đúng rồi, chắc là có những trạm

truyền tin bố trí sẵn từ trước để cấp báo quân tình, một khi nghe tiếng tù

và lập tức truyền ngay xuống trạm kế tiếp”. Chỉ thấy tiếng hiệu giác cứ

truyền tới, trong nháy mắt đến ngoài bì thất đại trướng thì ngừng lại.

Mấy trăm người ngồi trong trướng vốn dĩ đang ăn uống hò reo, ồn ào

như chợ vỡ, lúc này đột nhiên lặng như tờ.

Gia Luật Hồng Cơ thần sắc trấn tĩnh, chầm chậm nâng kim bôi lên,

uống cạn chén rượu nói:

- Có phản đồ làm loạn ở Thượng Kinh, thôi mình đành phải về vậy.

Nhổ trại!

Hành quân đại tướng lập tức ra khỏi trướng truyền lệnh, hai tiếng

“Nhổ trại” truyền ra một thành mười, mười thành trăm, trăm thành nghìn,

thanh âm càng lúc càng lớn nhưng vẫn nghiêm chỉnh thứ tự không có vẻ

gì náo loạn mất trật tự. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nước Đại Liêu ta lập

quốc đã hơn hai trăm năm, quốc uy vang dậy thiên hạ, lúc này tuy có nội

loạn nhưng không có vẻ gì bối rối, đủ biết Liêu chúa bình thời chỉ huy

quân đội có phép tắc hẳn hòi”.

Bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, đội tiền phong xích hậu quân2

ra trước, tiếp theo là hai đội tả hữu tiên phong cũng lên đường, rồi tiền

quân, tả quân, hữu quân từng đội từng đội đi về hướng nam hồi kinh.

Gia Luật Hồng Cơ nắm tay Tiêu Phong nói:

- Mình ra xem thế nào!

Hai người ra khỏi trướng, chỉ thấy trong đêm đen mỗi lá quân kỳ

đều có gắn một chiếc đèn lồng, đỏ, vàng, xanh, trắng màu sắc lấp lánh,

hơn một chục vạn quân xuôi nam nhưng chỉ nghe tiếng vó ngựa lộp cộp,

không một tiếng người. Tiêu Phong hết sức thán phục nghĩ thầm: “Trị

quân như thế này thì trong thiên hạ còn ai địch nổi? Hôm đó hoàng

thượng cậy mạnh đi săn một mình nên ta mới bắt được. Ví như đại quân

cùng đi, người Nữ Chân tuy dũng mãnh thật nhưng ít cũng không chống

nổi với số đông.

Hai người vừa ra khỏi trướng, các vệ sĩ lập tức rỡ lều, chỉ một

thoáng đã đâu đó gọn gàng sạch sẽ, hành lý tùy theo nặng nhẹ mà chất

lên xe ngựa, xe lạc đà. Trung quân nguyên soái liền ra lệnh, mọi người

lập tức khởi hành. Bắc Viện Đại Vương, Vu Việt, Thái Sư, Thái Phó

bách quan theo hầu đằng trước đằng sau Gia Luật Hồng Cơ, mặt mày ai

nấy nghiêm trọng nhưng cũng không nói lời nào. Tin tức về vụ nổi loạn

trong kinh tuy đã truyền ra nhưng nội vụ thế nào, tình huống ra sao hiện

giờ vẫn chưa rõ rệt.

Đại đội nhân mã theo đường về nam được ba ngày, tối hôm đó vừa

đóng quân xong thì một tên thám tử phóng ngựa chạy đến bẩm với Gia

Luật Hồng Cơ:

- Nam Viện Đại Vương nổi loạn, chiếm cứ hoàng cung, từ hoàng

thái hậu, hoàng hậu trở xuống đến các vương tử, công chúa cùng gia

quyến bách quan đều đã bị chúng bắt giữ cả rồi.

Gia Luật Hồng Cơ hoảng hốt, vẻ mặt lập tức biến sắc.

Việc quân quốc trọng sự nước Liêu do hai viện Nam Bắc chia ra

cáng đáng. Lần này Bắc Viện Đại Vương tùy giá đi săn để Nam Viện

Đại Vương ở lại trấn thủ kinh thành. Nam Viện Đại Vương Gia Luật

Niết Lỗ Cổ, tước phong Sở Vương, bản thân y không nói làm gì nhưng

cha y Gia Luật Trọng Nguyên, đương kim Hoàng thái thúc, quan phong

Thiên Hạ Binh Mã Đại Nguyên Soái, ấy mới thực là đáng ngại.

Ông nội của Gia Luật Hồng Cơ là Gia Luật Long Tự, Liêu sử gọi là

Thánh Tông. Con trai trưởng của Thánh Tông là Tông Chân, con trai thứ

là Trọng Nguyên. Tông Chân tính nết hiền lành, bụng dạ rộng rãi còn

Trọng Nguyên lại rất võ dũng, có tài thao lược. Khi Thánh Tông băng hà

có di mệnh truyền ngôi cho con trưởng Tông Chân. Thế nhưng hoàng

hậu lại thương con trai thứ hơn nên âm mưu lập Trọng Nguyên lên ngôi.

Nước Liêu từ xưa tới nay, hoàng thái hậu quyền thế rất lớn thành thử

ngôi vua của Tông Chân xem ra không vững, ngay cả tính mạng cũng

khó bảo toàn. Thế nhưng Trọng Nguyên đem mật mưu của mẫu hậu báo

cho huynh trưởng khiến cho bao nhiêu tính toán của hoàng thái hậu đều

không thành. Tông Chân vì chuyện đó nên đối với em cực kỳ cảm kích,

lập Trọng Nguyên lên làm Hoàng thái đệ, có nghĩa là sau này sẽ truyền

ngôi cho ông ta để báo đền ân đức.

Liêu sử gọi Gia Luật Tông Chân là Hưng Tông, nhưng khi ông ta

qua đời, hoàng vị lại không truyền cho Hoàng thái đệ Trọng Nguyên, mà

lại truyền cho con ruột là Hồng Cơ.

Sau khi Gia Luật Hồng Cơ tiếp vị, trong bụng cũng thấy bất an, nên

phong cho Trọng Nguyên làm Hoàng thái thúc, để minh định rằng chú

mình sẽ kế thừa ngôi vua của nước Liêu, lại phong thêm chức Thiên Hạ

Binh Mã Đại Nguyên Soái, lúc lâm triều miễn lạy, miễn xưng tên, ban

cho kim khoán thệ thư, mũ bốn chỏm, áo bào hai màu trong triều phải

nói là người được tôn sủng bậc nhất. Con ông ta là Niết Lỗ Cổ được

phong Sở Vương, chấp chưởng mọi việc quân chính yếu vụ Nam Viện

nên được gọi là Nam Viện Đại Vương.

Năm xưa Gia Luật Trọng Nguyên rõ ràng là được ngôi vua nhưng

nhường cho huynh trưởng đủ biết ông ta là người trọng nghĩa khí, lại tốt

nhịn. Mỗi khi Gia Luật Hồng Cơ ra ngoài đi săn, bao nhiêu việc quân

quốc trọng vụ ở kinh thành đều giao cho Hoàng thái thúc, không nghi

ngại chút nào. Bây giờ nghe tin truyền đến kẻ mưu phản là Nam Viện

Đại Vương Gia Luật Niết Lỗ Cổ, Gia Luật Hồng Cơ vừa lo lắng vừa kinh

hoàng, vốn biết tính tình Niết Lỗ Cổ hung ác bạo ngược, xử sự rất là tàn

nhẫn, nếu y mưu phản thì cha y ắt không đứng ngoài.

Bắc Viện Đại Vương tâu rằng:

- Bệ hạ đừng lo vội, Hoàng thái thúc ắt nhìn vấn đề rõ ràng, không

thể nào tha cho tên nghịch tử phạm thượng tạo phản, không chừng lúc

này đã đem quân bình loạn rồi.

Gia Luật Hồng Cơ đáp:

- Cũng mong là thế.

Mọi người ăn cơm tối xong, tên thám tử thứ hai lại đến bẩm báo:

- Nam Viện Đại Vương lập Hoàng thái thúc lên làm vua, đã ra

chiếu cáo tri thiên hạ.

Y không dám tâu tiếp phần bên dưới, chỉ hai tay dâng lên chiếu của

tân hoàng đế. Hồng Cơ cầm lấy xem qua thấy chiếu thư tố cáo đích danh

Gia Luật Hồng Cơ là soán vị ngụy đế, nói là tiên đế đã lập Gia Luật

Trọng Nguyên làm Hoàng thái đệ, trong hai mươi bốn năm ai ai cũng

biết, nhưng khi băng hà, Gia Luật Hồng Cơ sửa di chiếu, ăn trộm ngôi

đại bảo, người người ai ai cũng phẫn nộ, hiện Hoàng thái đệ đã chính vị

lên làm vua, đốc suất binh mã thiên hạ đi trừ nghịch ngụy ...

Gia Luật Hồng Cơ trong cơn cuồng nộ, cầm chiếu thư vứt luôn vào

đống lửa, nhưng trong bụng cực kỳ lo lắng nghĩ thầm: “Đạo ngụy chiếu

này lời đanh thép đâu ra đấy, quân dân Liêu quốc xem chỉ e lòng người

hoang mang. Hoàng thái thúc ở địa vị Thiên Hạ Binh Mã Đại Nguyên

Soái, trong tay cầm binh phù, có thể điều động hơn tám mươi vạn binh

mã, chưa kể thêm quân dưới tay con ông ta là Nam Viện Đại Vương. Ở

đây tùy giá ta chỉ có chưa đầy mười vạn, quả bất địch chúng, làm thế

nào bây giờ đây?”. Tối hôm đó ông trằn trọc cả đêm, không sao ngủ

được.3

Tiêu Phong nghe thấy Liêu đế định phong cho ông một chức quan

đã toan nhân lúc đêm khuya dẫn theo A Tử không từ biệt lẻn đi, thế

nhưng lúc này thấy nghĩa huynh gặp cảnh nguy nan, chẳng nỡ bỏ rơi ông

ta, bằng giá nào cũng phải ra tay giúp nhau một chuyến cho khỏi phụ

tấm lòng anh em kết nghĩa. Đêm hôm đó ông ra ngoài doanh dạo chơi,

nghe thấy các quan binh thì thầm to nhỏ, đều nói cha mẹ vợ con đang ở

Thượng Kinh bị Hoàng thái thúc bắt giữ cả, e rằng tính mạng không còn.

Có kẻ nghĩ đến gia đình, đột nhiên khóc rống lên. Tiếng khóc dao động

lòng người, quan binh khác trong doanh đồng cảnh ngộ cũng không ít kẻ

sụt sùi. Quan tướng thống binh tuy cực lực ngăn trở, chém đầu mấy kẻ

khóc to hơn cả làm gương nhưng cũng không sao dứt hết được.

Gia Luật Hồng Cơ nghe thấy tiếng khóc vang động biết rằng lòng

quân có chiều ly tán, lại càng lo lắng.

Sáng sớm hôm sau, thám tử lại đến báo rằng Hoàng thái thúc và Sở

Vương dẫn binh năm mươi vạn, đang tiến lên phía bắc mưu toan phạm

giá. Hồng Cơ nghĩ thầm: “Việc đến nước này chỉ có tiến chứ không còn

đường lui, nếu như bại trận thì cũng đành một phen tử chiến cho xong”.

Ông lập tức chiêu tập bách quan để thương nghị. Quần thần ai nấy một

lòng trung thành với Gia Luật Hồng Cơ, nguyện cùng chết với chủ nhưng

chỉ lo lòng quân không còn vững chãi.

Hồng Cơ truyền lệnh xuống:

Tất cả các quan binh hãy ra sức bình nghịch thảo tặc, khi dẹp yên

được giặc rồi, ngoài việc thăng quan còn được trọng thưởng.

Ông mặc giáp trụ bằng vàng, tự mình đốc suất ba quân nghinh chiến

với quân của Hoàng thái thúc. Các quan binh thấy hoàng thượng tự mình

cầm quân ra chống địch lập tức dũng khí bùng lên, hô vạn tuế ba lần

quyết lấy cái chết báo đền ơn chúa. Mười vạn quân chia thành bốn bộ

phận tiền quân, tả quân, hữu quân, trung quân, binh giáp sáng choang

tiến về phía nam, thêm những tiểu đội du kỵ đi tuần ở hai bên.

Tiêu Phong cũng đeo cung cầm mâu đi sau Gia Luật Hồng Cơ đóng

vai hộ vệ tùy giá. Thất Lý dẫn một đội Phi Hùng binh bảo hộ cho A Tử ở

hậu quân. Tiêu Phong thấy Gia Luật Hồng Cơ lông mày nhăn tít lại, biết

ông chưa có được kế hoạch gì trong trận chiến này.

Quân đi đến giữa trưa bỗng nghe đằng trước tiếng tù và nổi lên.

Tướng chỉ huy trung quân ra lệnh:

- Xuống ngựa!

Các kỵ binh ai nấy nhảy xuống, tay cầm cương dẫn ngựa đi, chỉ còn

Gia Luật Hồng Cơ và các đại thần là còn ngồi trên yên. Tiêu Phong

không hiểu sao các kỵ binh lại hạ mã, còn đang thắc mắc, Gia Luật

Hồng Cơ cười hỏi:

- Huynh đệ ở tại Trung Nguyên lâu ngày nên không biết phương

pháp hành quân của người Khất Đan, phải không?

Tiêu Phong đáp:

- Thần đang mong được bệ hạ chỉ điểm.

Hồng Cơ cười đáp:

- Ha ha, cái hai chữ bệ hạ kia không biết có còn được tới lúc mặt

trời lặn ngày hôm nay nữa hay không? Ta với ngươi dùng tình anh em

mà xưng hô, việc gì phải gọi là bệ hạ?

Tiêu Phong nghe tiếng cười của ông nhuốm vẻ cay đắng bèn nói:

- Hai bên chưa giao tranh, bệ hạ hà tất phải lo lắng quá như vậy.

Hồng Cơ nói:

- Giao phong trên đất bằng, quan trọng nhất là sức ngựa, sức người

chỉ đứng hàng thứ hai.

Tiêu Phong bấy giờ mới hiểu nói:

- À, thì ra thế! Kỵ binh xuống ngựa để cho tọa kỵ khỏi mệt mỏi.

Hồng Cơ gật đầu nói:

- Dưỡng sức cho ngựa khi lâm địch xung phong hãm trận vẫn còn

khỏe như lúc đầu. Người Khất Đan đông chinh tây thảo, đánh đâu thắng

đó chính là nhờ cái bí quyết quan trọng này.

Ông ta nói tới đây, từ xa xa đằng trước bụi bay mù mịt, bốc lên cao

đến mươi trượng, chẳng khác gì một đám mây vàng cuồn cuộn kéo tới.

Hồng Cơ chỉ roi về phía đó nói:

- Hoàng thái thúc và Sở Vương đều chinh chiến lâu năm, là những

tướng tài của nước Liêu ta sao lại xua binh kéo đến ầm ầm, không dưỡng

sức cho ngựa là sao? Hừ, thì ra bọn chúng hữu thị vô khủng4 cho rằng thể

nào cũng thắng nên không úy kỵ gì cả.

Ông còn đang trù trừ đã nghe tù và tả quân và hữu quân cùng trổi

lên. Tiêu Phong đưa mắt nhìn thấy phía đông cũng có hai cánh quân,

phía tây cũng có hai cánh quân, địch từ năm phía công tới. Gia Luật

Hồng Cơ mặt liền biến sắc quay sang vị tướng chỉ huy trung quân ra

lệnh:

- Kết trận lập trại mau!

Trung quân tướng quân đáp lời:

- Tuân lệnh!

Y giục ngựa chạy ra truyền lệnh, lập tức tiền quân, tả quân, hữu

quân cùng quay đầu lại đồng thời một toán quân dùng búa đóng các cột

dùng để dựng bì thất đại trướng xuống, căng da lên, bốn bề dựng chông,

chỉ chốc lát đã ghép gỗ thành một bức tường cực lớn giữa thảo nguyên,

tiền hậu tả hữu chỗ nào cũng có kỵ binh trấn thủ, mấy vạn cung thủ ẩn

sau thành, cung trong tay sẵn sàng, đợi giờ buông tên.

Tiêu Phong nhíu mày nghĩ thầm: “Trận đại chiến này dù cho ai

thắng ai bại thì người Khất Đan đồng tộc của ta cũng thây đầy đồng nội.

Hay hơn hết vẫn là nghĩa huynh đắc thắng, nếu như chẳng may thua trận

thì ta cũng cố tìm cách cứu cho được nghĩa huynh và A Tử đến được nơi

an toàn, còn chuyện có còn làm hoàng đế hay không cũng chẳng sao”.

Doanh trại của Liêu đế kết xong chưa bao lâu thì đội tiền phong của

loạn quân đã tới nhưng không tiến lên khiêu chiến mà dừng lại xa xa nơi

cung nỏ bắn không tới được. Thế nhưng vẫn nghe tiếng trống tiếng kèn

liên miên bất tuyệt, từng đội, từng đội loạn quân tiến đến vây quanh,

bốn phương tám hướng chỗ nào cũng kết thành trận thế. Tiêu Phong đưa

mắt nhìn ra thấy đầy mặt đất chỗ nào cũng là quân địch không biết đâu

là cùng nghĩ thầm: “Binh thế nghĩa huynh kém xa, quả bất địch chúng,

xem chừng thua mất thôi. Trời sáng không tiện xung đột trùng vây đào

tẩu, chỉ còn nước cố giữ cho đến tối lúc đó ta tìm cách cứu y”. Thế nhưng

bóng nắng những cây gỗ đóng trại chiếu xuống đất còn ngắn ngủn, mặt

trời đang chói chang chỉ mới xế trưa một chút.

Chỉ nghe tiếng cạp cạp cạp mấy tiếng, một đàn vịt nước bay thành

đội giữa lưng trời. Gia Luật Hồng Cơ ngửng đầu nhìn ngơ ngẩn, cười

gượng nói:

- Chỉ có nước biến thành con nhạn chứ có chắp cánh cũng không

bay khỏi nơi đây được.

Bắc Viện Đại Vương và Trung quân tướng quân nhìn nhau biến sắc,

biết là hoàng đế thấy binh thế loạn quân trong lòng khiếp sợ. Quân địch

đánh trống vang rền, mấy trăm chiếc trống da cùng gõ một lượt. Tướng

chỉ huy trung quân hét lớn:

- Đánh trống!

Mấy trăm chiếc trống trong ngự doanh cũng tùng tùng vang lên.

Phía bên kia tiếng trống bỗng ngưng bặt, mấy vạn kỵ binh gầm thét vang

trời dậy đất, cầm mâu xông thẳng qua. Khi thấy tiền phong quân của

địch sắp tới nơi, lệnh kỳ của Trung quân tướng quân phất xuống, tiếng

trống của ngự doanh lập tức ngừng, mấy vạn mũi tên đồng thời bắn ra,

quân tiền phong của địch lả tả ngã xuống. Thế nhưng quân địch kẻ trước

ngã người sau tiến lên, quân mã đi trước biến thành tấm mộc chắn cho

kẻ đi sau. Bộ binh cung tiễn của địch có thuẫn bài hộ thân xông được tới

nơi bắn tên vào ngự doanh.

Gia Luật Hồng Cơ lúc đầu quả có hơi khiếp sợ nhưng khi tiếp chiến

rồi, dũng khí lập tức tăng gia gấp bội, đứng trên cao tay cầm trường đao,

ra lệnh chỉ huy. Tướng sĩ ngự doanh thấy hoàng thượng đích thân đốc

chiến đều hô lớn:

- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!

Bên địch nghe thấy “Vạn tuế!” ngẩng đầu lên thấy Gia Luật Hồng

Cơ hoàng bào kim giáp, đứng ngay tại đài cao trong ngự doanh, nhất thời

sợ uy của ông nên ngần ngừ không dám tiến. Hồng Cơ thấy có dịp may

liền quát lớn:

- Kỵ binh tả quân xông ra vây lại.

Tả quân do Bắc Viện Khu Mật Sứ chỉ huy, nghe thấy hoàng thượng

ra lệnh, ba vạn kỵ binh liền từ ngang hông đánh ra vây quân địch. Loạn

quân còn đang do dự, ngự doanh quân đã tới nơi, trận thế lập tức đại

loạn. Trống của ngự doanh quân đánh liên hồi như sấm, quân địch chỉ

tiếp chiến được một lát phải rút về, ngự doanh quân liền xông lên truy

sát, khí thế cực kỳ hung tợn.

Tiêu Phong mừng lắm kêu lên:

- Đại ca, trận này mình đại thắng rồi.

Gia Luật Hồng Cơ xuống đài, nhảy lên ngựa đích thân đem quân

tiếp viện. Đột nhiên nghe tiếng tù và nổi lên, chủ lực của quân phản

loạn xông tới, tiền phong quân liền quay lại đánh, chỉ trong một thoáng

vũ tiễn trường mâu phóng tới vèo vèo, tiếng hò hét vang động cả bầu

trời, máu me vung vãi. Tiêu Phong xem mà trong bụng hãi thầm: “Cảnh

ác đấu như thế này ta bình sinh chưa từng thấy bao giờ. Một người dù võ

công thiên hạ vô địch, vào trong chốn thiên quân vạn mã thì cũng chẳng

dùng được vào việc gì, cùng lắm cũng chỉ tự bảo vệ được mình là may.

Cảnh đại quân giao chiến với cảnh tỉ đấu trong võ lâm, không thể nào có

thể so sánh với nhau được”.

Bỗng nghe tiếng phèng la từ phía sau phản quân vang lên ra hiệu

thu binh. Kỵ binh của đối phương rút lui rồi, tên chặn đường liền bắn ra

như mưa, Trung Quân tướng quân và Bắc Viện Khu Mật Sứ ba lần xung

phong nhưng không qua khỏi được trận thế của địch, ngược lại còn bị

bắn chết mấy ngàn binh sĩ. Gia Luật Hồng Cơ nói:

- Sĩ tốt chết nhiều quá, tạm thời thu binh.

Lập tức ngự doanh quân cũng gióng chiêng thu binh.

Phản quân thấy thế bèn phái hai đội kỵ binh xông đến tập kích

nhưng trung quân đã phòng bị trước, giả như thua chạy, hai cánh quân

liền đánh ập vào vây luôn ba nghìn quan quân vào giữa, còn mấy trăm

người khác xuống ngựa đầu hàng. Hồng Cơ vẫy tay một cái, ngự doanh

quân liền đâm trường mâu ra, giết sạch mấy trăm người. Trận ác đấu đó

chưa đầy một giờ nhưng chém giết nhau cực kỳ thảm khốc.

Chủ lực hai bên đều lui lại vài chục trượng, khoảng đất trống giữa

hai bên đầy xác người, những người bị thương rên rỉ kêu la thật là thê

thảm. Lại thấy hai bên mỗi bên xông ra một đội áo đen khoảng ba trăm

người, ngự doanh quân đầu đội mũ vàng còn bên địch đầu đội mũ trắng

kiểm tra những người bị thương. Tiêu Phong tưởng những người này ra

tìm người bị thương để cứu chữa, nào ngờ những quan binh áo đen kia rút

phắt trường đao, giết sạch thương binh của đối phương. Những người bị

thương chết cả rồi, sáu trăm người đó rống lên một tiếng hai bên liền

đấu với nhau.

Sáu trăm hắc y quân võ công ai nấy không phải dở, trường đao lấp

loáng, ra sức ác đấu, chẳng mấy chốc đã có hai trăm người bị chém chết

lăn ra. Những người áo đen đội mũ vàng thuộc đội ngự doanh võ công

tương đối cao hơn, số bị giết chỉ độ vài chục người khiến cục thế biến

thành hai ba người đánh một và như thế việc thắng phụ đã rõ ràng. Đấu

thêm một lúc nữa, biến thành ba bốn người hợp đấu một người. Thế

nhưng quan binh hai bên chỉ hò hét trợ oai, mấy chục vạn quân phản

loạn tụ thủ bàng quan chứ không cho thêm người ra tăng viện. Cuối cùng

ba trăm phản quân áo đen mũ trắng đều bị giết sạch, ngự doanh quân

còn sống sót khoảng hai trăm kéo về. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc là

người Liêu có cái phép tắc như thế”.

Lần ác đấu dọn dẹp chiến trường này tuy qui mô không lớn như lần

trước nhưng lại kinh tâm động phách hơn nhiều. Hồng Cơ giơ cao trường

đao, lớn tiếng nói:

- Quân phản loạn tuy đông nhưng không có chí chiến đấu. Đánh

thêm một trận nữa, bọn chúng ắt phải thua chạy mà thôi.

Quân ngự doanh cùng la to:

- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!

Bỗng từ phía trong phản quân có tiếng tù và, năm người cưỡi ngựa

chầm chậm đi ra, người đi giữa hai tay bưng một mảnh da cừu, lớn tiếng

đọc bản chiếu thư của Hoàng thái thúc ban bố:

Gia Luật Hồng Cơ soán vị, là một ngụy quân, hiện nay Hoàng thái

thúc đã lên ngôi chính thống. Phàm là quan binh trung thành của nước

Liêu ta thì ngay hôm nay phải về kinh qui phục, ai nấy được thăng ba

cấp...

Quân ngự doanh lập tức có hơn một chục binh sĩ bắn tên ra, nghe

kêu vút vút. Bốn gã đứng bên liền giơ thuẫn lên bảo vệ. Gã kia vẫn tiếp

tục đọc, đột nhiên năm con ngựa cùng bị bắn ngã, nhưng năm người vẫn

đứng nấp sau thuẫn bài đọc cho hết “chiếu thư” của Hoàng thái thúc, lúc

đó mới quay về.

Bắc Viện Đại Vương thấy thuộc hạ nghe ngụy chiếu xong có vẻ

động lòng liền quát lớn:

- Ra chửi lại đi!

Ba chục tên lính liền bước ra hơn chục trượng, hai chục người cầm

thuẫn bài bảo hộ, còn lại là mười tên “thợ chửi”, đứa nào cũng mồm to

giọng lớn, tên thứ nhất liền bắt đầu, nào là “phản quốc gian tặc, chết

không có đất mà chôn” ... tên thứ hai lại tiếp, đến sau toàn những câu

hết sức thô tục. Tiếng Khất Đan Tiêu Phong biết chẳng bao nhiêu, ngôn

từ của những tay “thợ chửi” này ông phần lớn không hiểu nhưng thấy

Gia Luật Hồng Cơ luôn luôn gật gù, có vẻ thích thú, ắt là những “mạ

thủ” này chửi cũng có đầu có đuôi.

Tiêu Phong nhìn qua phía trận thế bên địch, thấy xa xa dưới lọng

vàng tiết mao rực rỡ có hai người cưỡi ngựa, tay cầm roi chỉ trỏ. Một

người toàn thân hoàng bào, đầu đội mũ xung thiên, râu hoa râm dài, còn

người kia mặc hoàng kim giáp trụ, gương mặt gầy choắt, dáng điệu tinh

anh. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Xem ra hai người này hẳn là cha con

Hoàng thái thúc và Sở Vương rồi”.

Đột nhiên mười tên “thợ chửi” kia hạ giọng thì thầm bàn tán một

hồi, rồi cùng cất cao giọng vạch trần những chuyện xấu xa của Hoàng

thái thúc và Sở Vương. Hoàng thái thúc dường như là người đứng đắn,

không có chuyện gì có thể bới móc thành ra cả mười tên chỉ lôi toàn

chuyện Sở Vương, nói y gian dâm phi tử của phụ thân, cậy quyền thế

cha làm điều càn rỡ. Những lời đó hiển nhiên cốt để đâm thọc, ly gián

cha con. Cả mười người cùng cao giọng, luận điệu cũng na ná như nhau

truyền ra xa đến mấy dặm nên trong đám mấy chục vạn quân không ít

người nghe rõ ràng.

Sở Vương giơ roi vẫy một cái, phản quân cùng gào lên một lượt,

người nào cũng a a ầm ỹ, ồn ào rức lác lập tức át hết giọng mười tên

“thợ chửi” kia.

Hai bên loạn lên một hồi, bên địch bỗng tẽ thành hai, đẩy ra mấy

chục chiếc xe đến trước quân ngự doanh thì ngừng lại. Những quân lính

đẩy xe lôi từ trong xa ra mấy chục người đàn bà, có người thì tóc trắng

như bông, có người tuổi còn non choẹt, quần áo ai nấy cực kỳ sang trọng.

Những người đó vừa ra khỏi xe, tiếng chửi hai bên lập tức ngừng bặt.

Gia Luật Hồng Cơ kêu lên:

- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Thể nào con cũng sẽ bắt bọn phản đồ, băm chúng

ra thành vạn mảnh để cho mẹ vui lòng hả dạ.

Bà lão tóc bạc kia chính là Tiêu thái hậu, mẹ của Gia Luật Hồng

Cơ tức đương kim Hoàng Thái Hậu, ngoài ra là Tiêu hoàng hậu và các

phi tần, công chúa. Hoàng thái thúc và Sở Vương thừa cơ Hồng Cơ ra

ngoài đi săn nổi loạn, vây chặt cung cấm bắt Hoàng thái hậu và tất cả

những người kia.

Hoàng thái hậu lớn tiếng nói:

- Bệ hạ đừng nghĩ gì đến mẹ già vợ con, cứ ra sức trừ loạn giết giặc

đi.

Mấy chục tên quân sĩ liền rút trường đao nhứ vào cổ các hậu phi,

những phi tần tuổi trẻ ai nấy kinh hãi khóc òa lên. Gia Luật Hồng Cơ nổi

giận, quát lên:

- Bắn chết bọn đàn bà đang khóc cho ta!

Chỉ nghe vèo vèo, hơn chục mũi vũ tiễn bắn ra, những phi tần đang

khóc bị trúng tên ngã xuống chết ngay. Hoàng hậu reo lên:

- Bệ hạ bắn giỏi lắm, giỏi lắm! Cơ nghiệp tổ tông không thể nào để

hủy diệt trong tay gian tặc được.

Sở Vương thấy Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đều cứng cổ như thế,

không thể bức bách được Hồng Cơ, ngược lại còn làm dao động quân

tâm bên mình bèn ra lệnh:

- Đẩy bọn đàn bà lên xe, lui lại.

Các binh sĩ liền áp giải Hoàng thái hậu, Hoàng hậu mọi người lên

xe đẩy về phía sau. Sở Vương lại hạ lệnh:

- Đem gia quyến quân địch ra.

Chỉ nghe tu tu tu tiếng còi tre thổi lên nghe thật thê lương, quân mã

lại giạt sang hai bên, rồi tiếng xích kêu loảng xoảng không ngớt, một

đoàn người già trẻ lớn bé từ phía sau được đưa ra. Chỉ giây lát tiếng

khóc hai bên vang dậy. Thì ra đây là gia quyến của ngự doanh quân.

Ngự doanh quân vốn là quân sĩ thân tín của Liêu đế, Gia Luật Hồng Cơ

đặc biệt ưu đãi nên cho gia đình của họ ở trong kinh thành, một là để cho

binh lính cảm kích, khi có việc ra sức liều thân, thứ nữa cũng để canh

chừng khiến đội quân tinh nhuệ này xuất chinh không dám hai lòng, ngờ

đâu lần này đi săn mầm họa lại ở ngay sát nách. Gia nhân quyến thuộc

của ngự doanh quân phải đến hơn hai chục vạn người, giải đến trận tiền

bất quá chỉ chừng ba vạn, trong đó vô khối người bị bắt oan nhưng chưa

phân biện được thành thử bồng con bế cháu, người nọ níu người kia loạn

cả lên.

Một tên tướng của Sở Vương giục ngựa chạy ra lớn tiếng nói:

- Chúng quan binh ngự doanh quân nghe đây: Người nhà các ngươi

lớn nhỏ đã bị bắt cả rồi, ai đầu hàng thì được xum họp với gia đình,

thăng quan ba cấp lại có thưởng. Còn như không đầu hàng thì tân hoàng

đế đã có chỉ dụ sẽ giết sạch hết gia quyến chúng bay.

Người Khất Đan xưa nay tàn nhẫn hiếu sát, nay nói đến “giết sạch”

thì không phải là chuyện dọa xuông. Trong đám ngự doanh quân có

người nhận ra thân thuộc mình “Cha ơi, mẹ ơi, con ơi, mình ơi, em ơi ...”

hai bên gọi nhau ơi ới rầm rĩ.

Trong đám phản quân trống đánh vang lừng, hai nghìn đao phủ thủ

hung hăng bước ra, tay cầm đao sáng quắc. Tiếng trống vừa ngừng lại,

hai nghìn thanh đao cùng giơ lên, nhắm ngay đầu gia thuộc của ngự

doanh quân. Gã tướng quân kia lại quát lên:

- Kẻ nào đầu hàng tân hoàng đế thì có trọng thưởng, bằng không,

bao nhiêu người thân bị giết sạch.

Y giơ tay lên, tiếng trống lại đánh inh ỏi. Ngự doanh quân biết rằng

một khi y phất tay, tiếng trống sẽ ngừng, hai nghìn thanh đao sáng quắc

kia sẽ chém xuống. Đám thân binh kia xưa nay trung thành với Gia Luật

Hồng Cơ, dẫu Hoàng thái thúc và Sở Vương có đem “thăng quan” “trọng

thưởng” ra dụ, cũng không ăn thua, nhưng lúc này thấy cha mẹ vợ con

vươn cổ chờ chém, làm gì mà không hoảng sợ?

Tiếng trống vẫn tùng tùng không ngớt, tim trong lồng ngực đám ngự

doanh quân cũng thình thình đập theo. Đột nhiên trong đám quân có kẻ

kêu lên:

- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Đừng giết mẹ tôi!

Y quăng trường mâu xuống, chạy bổ nhào về một bà lão trong đám

địch quân. Vút một tiếng, một mũi tên từ phía ngự doanh quân bắn ra,

trúng ngay giữa lưng người nọ. Người đó chưa chết ngay vẫn còn tiếp tục

lao về phía người mẹ. Chỉ nghe thấy tiếng ”Mẹ ơi! Con ơi!” ồn ào vang

dậy, mấy trăm người trong ngự doanh quân cùng chạy ùa lên. Những

tướng lãnh thân tín của Gia Luật Hồng Cơ rút kiếm chém loạn xạ nhưng

làm sao ngăn nổi? Mấy trăm người đó chạy qua rồi, chẳng mấy chốc

thành mấy nghìn người. Sau mấy nghìn người đó trận thế liền hỗn loạn,

trong số mười lăm vạn thân quân của nhà vua có đến sáu bảy vạn người

qua bên kia.

Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng biết rằng đại thế đã hỏng, thừa

cơ thân quân gặp gỡ gia quyến tình hình đang náo loạn chặn lối đối

phương lập tức ra lệnh:

- Lui quân về phía đất bằng trên núi cao mạn tây bắc.

Các tướng trong quân lập tức truyền lệnh ra, số chưa chịu hàng cũng

còn khoảng hơn tám vạn người, hậu quân đổi thành tiền quân, rút lui về

hướng tây bắc. Sở Vương vội vàng sai kỵ binh đuổi theo nhưng trên

chiến trường toàn là đàn bà trẻ con và người già yếu, ngựa chạy không

nhanh được, đến khi dẹp được bọn họ ra thì Gia Luật Hồng Cơ cùng ngự

doanh quân đã đi xa rồi.

Tám vạn thân quân khi đến được chân núi thì đã về chiều, quân sĩ

vừa đói vừa mệt, đóng trại ở ngang sườn núi, từ cao trông xuống để làm

thế phòng ngự. Sau khi doanh trại đã xong, chưa kịp nấu cơm thì Sở

Vương đã dẫn quân tinh nhuệ đến chặn dưới chân núi, lập tức đánh lên.

Quân ngự doanh bắn tên lăn đá xuống như mưa, đẩy lùi quân phản loạn.

Sở Vương thấy từ dưới công lên không có lợi nên đành thu binh, an

doanh ở chân núi.

Tối hôm đó, Gia Luật Hồng Cơ đứng cạnh mỏm núi nhìn về phía

nam thấy lửa trong trại phản quân đầy như đom đóm, xa xa lại có ba con

rồng lửa ngoằn ngoèo, đó là ba đạo quân kéo đến tiếp viện vi công.

Hồng Cơ trong lòng buồn bã, đang định vào trướng thì Bắc Viện Khu

Mật Sứ đến bẩm:

- Một vạn năm nghìn quân của thần đã chạy xuống dưới núi đầu

hàng quân phản nghịch. Thần trị quân không ra gì, thật đáng chết.

Gia Luật Hồng Cơ xua tay, lắc đầu nói:

- Cái dó không phải lỗi nhà ngươi, thôi xuống đi nghỉ.

Ông quay đầu lại thấy Tiêu Phong đang xuất thần nhìn về phía xa

xa bèn nói:

- Khi trời sáng, phản quân sẽ đem toàn lực đánh lên, chúng mình sẽ

bị bắt cả. Ta là vua một nước, không thể nào chịu nhục với bọn phản đồ,

đành tự vẫn báo đền xã tắc. Huynh đệ nhân lúc trời tối xông ra đi, ngươi

võ nghệ cao cường, phản quân không ngăn nổi đâu.

Ông nói tới đây vẻ mặt cực kỳ buồn bã, lại tiếp:

- Ta vốn định phong cho ngươi một chức quan thật lớn để hưởng phú

quí, có ngờ đâu người anh này cái thân cũng chẳng bảo toàn được, lại

làm lụy đến cả ngươi.

Tiêu Phong đáp:

- Đại ca, đại trượng phu lúc co lúc duỗi, hôm nay chiến trận không

lợi, để tiểu đệ bảo vệ đại ca ra khỏi nơi đây, chiêu tập bộ thuộc cũ rồi

lại tính sau.

Hồng Cơ lắc đầu:

- Đến mẹ già vợ con ta còn không bảo vệ nổi, nói gì đến đại trượng

phu? Dưới mắt người Khất Đan, kẻ thắng là kẻ anh hùng, kẻ thua là kẻ

phản nghịch. Ta đã thua sạch rồi còn cách gì ngoi lên nổi nữa? Ngươi

hãy một mình đi thôi.

Tiêu Phong biết ông ta thực tình liền khẳng khái đáp:

- Nếu đã thế thì tiểu đệ nguyện cùng với ca ca, ngày mai một trận

tử chiến với bọn phản khấu. Ca ca và đệ nghĩa kết kim lan, ca ca là

hoàng đế cũng vậy, là dân thường cũng vậy, đối với Tiêu mỗ cũng đều

là nghĩa huynh. Huynh trưởng có nạn thì người em này nguyện cùng anh

đồng sinh cộng tử chứ lẽ nào lại bỏ chạy bao giờ?

Gia Luật Hồng Cơ nước mắt rưng rưng, nắm chặt hai tay ông nói:

- Hảo huynh đệ, cám ơn em.

Tiêu Phong quay trở vào trong trướng thấy A Tử nằm co tại một

góc, mở tròn đôi mắt to, hóa ra vẫn chưa ngủ. A Tử hỏi:

- Tỉ phu có giận em không?

Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại:

- Giận ngươi chuyện gì?

A Tử đáp:

- Cũng tại em chẳng ra đâu, nếu như em không đòi ra đại thảo

nguyên du ngoạn thì anh đâu có bị khốn khổ ở nơi đây. Tỉ phu, chúng

mình sẽ chết ở đây có phải không?

Ánh lửa từ bên ngoài lều chiếu lên mặt nàng, trong vẻ xanh xao có

thoáng một chút hồng đầy vẻ ngây thơ trẻ con. Tiêu Phong trong lòng

cực kỳ thương xót dịu dàng đáp:

- Ta lẽ nào lại trách em? Nếu như ta không đả thương cô thì chúng

mình đâu có đến chỗ này.

A Tử mỉm cười nói:

- Nếu không vì em bắn kim độc vào anh thì anh đâu có đả thương

em.

Tiêu Phong giơ bàn tay thô kệch vuốt tóc nàng. A Tử bị trọng

thương rồi, tóc rụng đến quá nửa, vừa vàng vừa thưa. Tiêu Phong thở dài

một tiếng nói:

- Em còn nhỏ quá vậy mà theo ta chi cho khổ.

A Tử nói:

- Tỉ phu ơi, trước kia em không hiểu vì lẽ gì tỉ tỉ lại thích anh, bây

giờ thì em hiểu rồi.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chị cô đối với ta tình nghĩa thật sâu nặng,

một đứa bé con như cô thì biết gì. Thực ra, vì cớ gì A Châu lại yêu một

kẻ thô lỗ như ta, chính ta cũng còn chưa rõ thì ngươi làm sao mà hiểu

được đây?”. Ông nghĩ tới đây buồn bã lắc đầu.

A Tử nghiêng ngó nhìn ông rồi nói:

- Tỉ phu có đoán được vì sao hôm đó em lại bắn độc châm vào anh

chưa? Em thực chẳng muốn bắn chết anh mà chỉ cốt anh không còn cử

động được để em được hầu hạ anh thôi.

Tiêu Phong lạ lùng:

- Thế để làm gì?

A Tử mỉm cười đáp:

- Anh không cử động được thì mãi mãi không bao giờ xa em. Nếu

không anh đâu có coi em vào đâu, lúc nào cũng bỏ em mà đi được,

không ngó ngàng gì đến em nữa.

Tiêu Phong nghe nàng nói thật rặt giọng trẻ con nhưng biết không

phải bạ đâu nói đấy, cảm thấy chột dạ nghĩ thầm: “Thôi thì đằng nào

sáng mai cũng chết hết, an ủi cô ta vài câu cũng chẳng sao”. Ông bèn

nói:

- Em thật đúng là trẻ con. Nếu quả như cô muốn theo ta thì cứ nói

thẳng lẽ nào ta lại không bằng lòng.

Đôi mắt A Tử đột nhiên sáng bừng lên, vui mừng nói:

- Tỉ phu ơi, sau khi em khỏi bệnh rồi, em muốn đi theo anh, mãi mãi

không quay lại với sư phụ và phái Tinh Tú nữa. Anh đừng bỏ rơi em nhé!

Tiêu Phong biết cô ta đã gây đại họa tại phái Tinh Tú, quả thực

chẳng dám quay lại đâu nên cười nói:

- Cô là truyền nhân đại sư tỉ của môn phái, nếu không quay về thì

quần long vô thủ biết làm sao bây giờ?

A Tử cười khanh khách đáp:

- Để cho bọn chúng loạn bát nháo lên cũng hay. Em mặc kệ họ.

Tiêu Phong cầm chiếc mền kéo lên đắp tới cổ cho cô gái, xong xuôi

rồi mới kiếm một góc trướng trải chăn da nằm ngủ. Lửa bên ngoài lúc

mờ lúc tỏ, lấp loáng bất định nghe có tiếng khóc văng vẳng, biết là ngự

doanh quân nhớ người thân. Ai cũng biết một trận sáng mai tính mạng sẽ

chẳng còn, có điều trung với hoàng thượng nên không phản bội.

Mới sớm hôm sau Tiêu Phong đã dậy rồi, dặn Thất Lý chuẩn bị

ngựa sẵn sàng lo cho A Tử, còn mình cũng xong xuôi, ăn một cân thịt

cừu, uống ba cân rượu rồi đi ra ngoài sườn núi. Khi đó chung quanh trời

còn tối mịt, nhưng chẳng bao lâu phương đông đã ửng hồng, ngự doanh

quân thổi tù và u u, tiếng leng keng của binh giáp võ khí chạm nhau

không dứt. Trong doanh từng đội binh mã đi ra, thủ ngự những nơi xung

yếu. Tiêu Phong từ cao nhìn xuống thấy phía đông, phía nam và phía

đông nam ba mặt chỗ nào cũng đầy người, đều là phản quân cả. Ở phía

xa xa một làn sương trải dài, thành thử loạn quân không biết đâu là cuối.

Ngay khi đó vầng thái dương từ chân trời nhô lên như một vòng

cung tỏa ra thành muôn ngàn tia nắng chiếu thẳng vào màn bạch lộ,

sương tan dần thấy ẩn dưới đám mây mù đâu đâu cũng là quân mã.

Khắp nơi tiếng trống đánh vang rền, từ trong quân địch hai đội cầm cờ

vàng chạy ra, sau đó là Hoàng thái thúc và Sở Vương cưỡi ngựa đến

dưới chân núi, cầm roi ngựa chỉ trỏ lên trên cao bàn tán.

Gia Luật Hồng Cơ dẫn thị vệ đứng ngay sườn núi, thấy tình hình đó

cơn giận dâng lên, cầm ngay cung tiễn trong tay lính hầu giương thẳng

cánh nhắm vào Sở Vương bắn ra một mũi tên. Từ trên cao nhìn xuống

tưởng chừng như hai bên không xa, thực ra còn cách đến mấy đường tên

mới tới, mũi tên chưa được nửa đường thì đã hết sức, rơi xuống rồi.

Sở Vương cười ha hả lớn tiếng nói:

- Hồng Cơ, ngươi soán đoạt ngôi vua của cha ta, làm ngụy quân bao

nhiêu lâu rồi, bây giờ phải nhượng vị thôi. Ngươi mau mau đầu hàng cha

ta sẽ tha cho khỏi chết, còn giả nhân giả nghĩa phong cho ngươi làm

Hoàng thái điệt nữa đấy! Ha ha ha!

Mấy câu đó hiển nhiên mỉa mai Hồng Cơ phong Trọng Nguyên làm

Hoàng thái thúc chỉ là giả nhân giả nghĩa. Hồng Cơ cơn giận xung thiên,

chửi lại:

- Đồ phản tặc vô liêm sỉ, còn bẻo mép nữa ư?

Bắc Viện Khu Mật Sứ kêu lên:

- Chúa bị nhục thì bầy tôi đành phải chết! Chúa thượng đối với thần

ơn nặng tày non, hôm nay chính là lúc bọn thần báo đền ơn nghĩa.

Y liền dẫn ba nghìn thân binh, cùng gầm lên từ trên cao xông

xuống. Ba nghìn người đó đều là dũng sĩ trong bộ tộc Khất Đan, lần này

có ý quyết tử thành thử một có thể đánh mười, chỉ nghe tiếng gào thét

vang trời động đất, máu chảy thịt rơi. Ba nghìn người càng đánh càng ít

dần, đến sau đều chết cả. Bắc Viện Khu Mật Sứ giết được vài người, rồi

tự cắt cổ mà chết. Hồng Cơ, Tiêu Phong cùng các đại thần từ trên cao

nhìn xuống thấy rõ ràng nhưng không làm sao cứu được nghĩ đến lòng

trung nghĩa của Bắc Viện Khu Mật Sứ, ai nấy đều nhỏ lệ.

Sở Vương lại giục ngựa đến chân núi cười nói:

- Hồng Cơ, ngươi có chịu hàng hay không thì bảo? Cái đám quân

lưa thưa của ngươi thì làm được gì? Thủ hạ ngươi đều là dũng sĩ Đại

Liêu, sao nỡ để họ phải chết theo ngươi? Là nam nhi đại trượng phu, hãy

cho đâu ra đấy, hàng thì hàng, chiến thì chiến, còn như biết rằng khí số

hết rồi, sao chưa tự vẫn để tạ thiên hạ, khỏi làm chết thêm sĩ tốt.

Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng, hổ nhãn rưng rưng, rút đao

cầm tay nói:

- Giang sơn gấm vóc này thôi đành nhường cho cha con chúng bay

vậy. Ngươi nói quả không sai, chúng ta chú cháu anh em, cốt nhục tương

tàn, việc gì phải làm chết thêm dũng sĩ Khất Đan.

Nói xong ông giơ đao lên đâm vào cổ mình. Tiêu Phong vươn tay ra,

đoạt ngay con dao nói:

- Đại ca, kẻ anh hùng hảo hán có chết cũng chết nơi chiến trường,

lẽ nào lại tự tận bao giờ?

Hồng Cơ thở dài:

- Huynh đệ, bao nhiêu tướng sĩ đây theo ta đã lâu, ta đành chết còn

hơn là để cho họ phải vì ta mà bỏ mạng.

Sở Vương lại lớn tiếng giục:

- Hồng Cơ, ngươi còn chờ đến bao giờ mới tự vẫn?

Ngọn roi trong tay y chỉ thảng vào mặt, thái độ cực kỳ phách lối.

Tiêu Phong thấy y càng đến càng gần, trong lòng chợt động, nói nhỏ:

- Đại ca nói chuyện cầm chừng với y, tiểu đệ lẻn tới gần, bắn y một

mũi.

Hồng Cơ biết ông tài nghệ cao cường, mừng rỡ nói:

- Thế thì hay lắm, nếu bắn chết được y rồi ta có chết cũng nhắm

mắt.

Nói rồi cao giọng kêu lên:

- Sở Vương, ta đãi cha con ngươi không bạc, nếu cha ngươi quả

muốn làm vua thì có gì là không được, việc gì phải làm chết bao nhiêu

dũng sĩ, dân đen bản quốc, làm tổn thương nguyên khí cho nước Đại

Liêu?

Tiêu Phong cầm một bộ cung cứng, lấy mười mũi lang nha trường

tiễn, dẫn một con tuấn mã len lén qua bên núi, rùn người xuống chui

dưới bụng ngựa, hai chân quặp vào yên, lấy gót chân dậm một cái, con

vật liền chạy thẳng xuống.

Phản quân dưới núi thấy một con ngựa trên lưng không có người, lại

tưởng bị sút dây cương đi lạc là chuyện cực kỳ tầm thường nên chẳng ai

để ý. Thế nhưng chẳng mấy chốc quân sĩ đã thấy dưới bụng ngựa có

người lập tức hô hoán rầm rĩ.

Tiêu Phong dùng đầu ngón chân thúc ngựa, xông thẳng vào Sở

Vương, thấy chỉ còn cách y chừng hai trăm bước, nằm dưới bụng ngựa

giương cung lên, nghe vút một tiếng bắn y một mũi. Vệ sĩ đứng bên cạnh

Sở Vương liền giơ thuẫn bài lên đỡ được mũi tên. Tiêu Phong giục ngựa

chạy tới, tên bắn liên tiếp, giết ngay tên vệ sĩ kia, mũi tên thứ hai lại

nhắm vào ngực Sở Vương.

*

* *

Sở Vương mắt tinh tay lẹ, roi ngựa vung ra gạt mũi tên. Thuật dùng

roi gạt tên vốn dĩ là bản lãnh của Sở Vương, nhưng có ngờ đâu người

bắn tên không những sức cánh tay đã mạnh, lại thêm nội kình đưa vào

đầu tên, roi ngựa tuy đánh trúng đuôi nhưng chỉ làm cho đầu tên lệch đi

một chút, nghe soẹt một tiếng đã cắm ngay vào vai y. Sở Vương kêu lên

“Chao ôi!” một tiếng, đau đến gục xuống yên ngựa.

Vũ tiễn của Tiêu Phong lại tiếp theo, lần này khoảng cách thật gần,

mũi tên trúng vào hông, xuyên thẳng qua ngực. Sở Vương chỉ dãy được

một cái, từ trên ngựa ngã xuống ngay.

Tiêu Phong vừa ra tay đã thành công, nghĩ thầm: “Sao mình không

thừa cơ bắn chết luôn Hoàng thái thúc”.

Sở Vương trúng tên ngã ngựa, quân địch ai nấy kêu la, mấy trăm

mũi tên nhắm ngay Tiêu Phong mà bắn, chỉ nháy mắt con ngựa đã trúng

đầy tên thật chẳng khác gì một con nhím. Tiêu Phong lăn dưới đất mấy

vòng, lòn ngay dưới bụng ngựa một tên quân, thi triển công phu tiểu xảo,

cứ lăn một vòng lại luồn từ bụng con ngựa này sang bụng con ngựa khác.

Quan binh không sao bắn tên được, lập tức dùng trường mâu mà chọc.

Tiêu Phong lẻn qua trái, lách qua phải, toàn là ẩn dưới bụng ngựa. Quân

địch loạn cả lên, mấy nghìn quân người nọ xô người kia tưởng chừng như

dẫm phải nhau nhưng không làm sao đâm trúng ông được.

Tiêu Phong sử dụng chẳng qua chỉ là địa đường công phu thật tầm

thường của võ lâm Trung Nguyên. Dù là địa đường quyền, địa đường

đao, hay địa đường kiếm cũng đều là lăn lộn dưới đất, tấn công vào hạ

bàn bên địch. Bây giờ ông dùng vào trong chiến trận, mắt sáng tay

nhanh, tránh khỏi không bị ngựa giày. Ông nhắm kỹ nơi Hoàng thái thúc

đang đứng, lăn về hướng đó, nhắm thẳng vào y vút vút vút bắn ra ba mũi

tên.

Vệ sĩ của Hoàng thái thúc đã nhìn thấy Sở Vương bị trúng tên rồi

nên đã phòng bị, hơn ba chục người cùng giơ mộc lên chặn trước Hoàng

thái thúc kín mít, nghe keng keng keng ba mũi tên đều đụng phải thuẫn

bài rơi xuống đất. Mười mũi tên Tiêu Phong đem theo đã bắn hết bảy

mũi rồi, chỉ còn lại ba, thấy ba chục tên quân dùng thuẫn bảo vệ chủ, ba

mũi tên bắn chết ba tên vệ sĩ đã khó, huống hồ lại bắn được Hoàng thái

thúc.

Lúc này Tiêu Phong đã vào sâu trong trận của địch, phía sau mấy

nghìn người cầm mâu đuổi tới, trước mặt là thiên quân vạn mã quả đúng

là rơi vào tuyệt cảnh. Hôm xưa ông một mình chống lại quần hùng Trung

Nguyên đối phương chẳng qua chỉ vài trăm người, cũng đã cực kỳ hung

hiểm, may có người khác cứu còn hôm nay bi mấy vạn người vây khốn

làm sao chạy thoát được đây?

Trong tình hình nguy ngập đó, ông hú lên thật to, tung mình nhảy

lên, nghe vù một tiếng đã nhảy vọt qua ba chục người cầm thuẫn, rơi

xuống ngay trước đầu ngựa Hoàng thái thúc. Hoàng thái thúc hoảng hốt,

giơ roi ngựa lên đánh luôn vào mặt ông. Tiêu Phong nghiêng người rơi

xuống đúng ngay yên ngựa Hoàng thái thúc đang cưỡi, giơ tay chộp luôn

sau lưng y, giơ lên cao kêu lớn:

- Ngươi muốn sống hay muốn chết? Mau mau bảo mọi người bỏ

binh khí xuống.

Hoàng thái thúc sợ đến cứng đơ người, những gì ông nói y không

nghe thấy gì cả. Lúc đó tiếng xôn xao của loạn quân inh ỏi điếc cả tai,

hàng nghìn vạn người ai cũng lắp tên giương cung nhắm ngay Tiêu

Phong nhưng Hoàng thái thúc bị ông bắt giữ rồi ai mà dám vọng động

khinh suất?

Tiêu Phong vận khí vào đan điền kêu lớn:

- Hoàng thái thúc có lệnh, ba quân mau bỏ binh khí xuống để nghe

tuyên đọc thánh chỉ. Hoàng đế khoan hồng đại lượng, xá tội cho tất cả

quan binh, không truy cứu bất cứ ai.

Mấy câu đó át hết tất cả tiếng người đang ồn ào, qua đến mấy dặm

còn nghe thấy, đến quá nửa trong số mấy chục vạn người trước núi sau

núi nghe được rõ ràng. Tiêu Phong đã trải qua kinh nghiệm người trong

Cái Bang nổi loạn chống lại mình, biết rõ tâm tư loạn quân, sau khi thoát

khỏi nghịch cảnh rồi, việc đáng quan tâm nhất là làm sao được miễn tội,

nếu như được bảo đảm không truy cứu lỗi lầm thì ý chí chiến đấu lập tức

tiêu tan. Hiện giờ phản quân thế mạnh, bên cạnh Gia Luật Hồng Cơ

chẳng qua chỉ bảy tám vạn người, bên ít bên nhiều làm sao địch lại,

trong lúc cục diện khẩn cấp không kịp thỉnh thị ý kiến Hồng Cơ nên nói

liều mấy câu cho bên phản loạn yên tâm.

Mấy câu đó vang vang truyền ra, bao nhiêu tiếng huyên náo của

quân phản loạn liền lắng xuống, người nọ nhìn người kia, không ai định

được chủ ý ra thế nào. Tiêu Phong biết rằng tình thế hiện nay cực kỳ

nguy hiểm, trong đám quân địch chỉ cần một người kêu lên không phục,

mấy chục vạn quân như rắn mất đầu kia sẽ đại biến, thành thử không thể

diên trì một giờ khắc nào, lại lớn tiếng nói:

- Hoàng thượng có chỉ dụ, trong đám phản quân bất luận quan chức

lớn bé thế nào chăng nữa, tất cả đều vô tội, hoàng đế khai ân quyết

không truy cứu. Quan quân binh lính ai giữ nguyên chức ấy, tất cả hãy

mau mau bỏ binh khí xuống.

Tất cả lặng như tờ, đột nhiên loảng xoảng, loảng xoảng, có mấy

người liệng bỏ trường mâu. Tiếng vứt bỏ binh khí kia dường như lây qua

người khác, chỉ trong giây lát, loảng xoảng vang dậy, có đến một nửa số

người vứt binh khí, phần còn lại trù trừ chưa quyết định.

Tiêu Phong tay trái cầm Hoàng thái thúc giơ lên cao, giục ngựa

chạy lên núi, quân phản loạn nào ai dám ngăn trở, ngựa ông đến đâu lập

tức tránh ra nhường đường đến đó. Tiêu Phong cưỡi ngựa đến lưng chừng

núi rồi, hai toán ngự doanh quân liền chạy xuống nghinh tiếp, trên núi

trống chiêng đồng thời nổi lên. Tiêu Phong nói:

- Hoàng thái thúc, ông mau mau ra lệnh, bảo bộ thuộc bỏ binh khí

xuống đầu hàng thì sẽ được tha mạng.

Hoàng thái thúc run run hỏi lại:

- Ngươi đảm bảo tha mạng cho ta chứ?

Tiêu Phong nhìn xuống chân núi, thấy vô số phản quân vẫn còn

cung tên trường mâu trong tay, lòng quân chưa định, nguy hiểm chưa hết

nghĩ thầm: “Bây giờ an lòng quân là việc quan trọng nhất. Hoàng thái

thúc một người sống chết có đáng gì đâu, chỉ cần cho người canh gác kỹ

càng, để từ rày y không còn làm điều càn rỡ được nữa”. Ông liền nói:

- Đây là cơ hội duy nhất để ông đái tội lập công. Bệ hạ biết rằng

chỉ tại con ông tệ hại, nhất định sẽ tha chết cho ông.

Hoàng thái thúc vốn không có lòng tranh đoạt ngôi vua, chỉ vì con

ông ta Sở Vương có dã tâm mà gây họa, lúc này rơi vào tay người ta rồi,

chỉ mong sao khỏi chết bèn đáp:

- Được, ta sẽ làm theo lời ngươi.

Tiêu Phong để ông ta an tọa trên yên ngựa rồi mới sang sảng nói:

- Ba quân nghe đây, Hoàng thái thúc có lời nhắn nhủ.

Hoàng thái thúc lớn tiếng nói:

- Sở Vương gây nên họa loạn hiện đã đền tội rồi. Hoàng thượng

khoan hồng đại lượng tha cho tất cả mọi người. Các ngươi mau mau bỏ

binh khí xuống, quay về phía hoàng thượng mà cầu xin.

Hoàng thái thúc đã nói như thế, đám loạn quân trở thành như rắn

mất đầu, tuy cũng có kẻ hung hăng ngoan cố nhưng không người nào

dám chống lại, lập tức nghe thấy loảng xoảng liên hồi, bao nhiêu loạn

quân đều vứt binh khí xuống đất.

Tiêu Phong áp giải Hoàng thái thúc lên tới khu núi trống trải, Gia

Luật Hồng Cơ mừng không để đâu cho hết, chẳng khác gì đang nằm mơ,

tiến đến bên cạnh Tiêu Phong cầm hai tay ông nói:

- Huynh đệ, huynh đệ, giang sơn này của ca ca từ nay cùng ngươi

chung hưởng.

Ông nói đến đây tâm thần khích động, tự nhiên nước mắt ròng ròng.

Hoàng thái thúc quì gục dưới đất nói:

- Kẻ loạn thần này cầu xin bệ hạ thứ tội, xin bề trên nhủ lòng

thương xót.

Gia Luật Hồng Cơ trong lòng hết sức vui sướng quay sang hỏi Tiêu

Phong:

- Huynh đệ nghĩ mình phải làm sao đây?

Tiêu Phong đáp:

- Phản quân người nhiều thế mạnh đang cần an định quân tâm, cầu

xin bệ hạ tha tội chết cho Hoàng thái thúc để cho mọi người yên lòng.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Ngươi nói sao thì làm vậy!

Ông quay lại nói với Bắc Viện Đại Vương:

- Ngươi truyền thánh chỉ, phong Tiêu Phong làm Sở Vương, giữ

chức Nam Viện Đại Vương đốc suất phản quân trở về Thượng Kinh.5

Tiêu Phong hoảng hốt, ông giết Sở Vương, bắt Hoàng thái thúc

chẳng qua chỉ mong cứu mạng nghĩa huynh đâu phải có lòng ham muốn

tước lộc, Gia Luật Hồng Cơ phong cho chức quan lớn như thế khiến cho

chân tay luống cuống, sững sờ không biết phải nói sao. Bắc Viện Đại

Vương quay sang chắp tay chào Tiêu Phong:

- Chúc mừng! Chúc mừng! Tước vị Sở Vương xưa nay không phong

cho người ngoài hoàng tộc, Tiêu đại vương mau mau tạ ơn hoàng thượng

đi.

Tiêu Phong nói với Gia Luật Hồng Cơ:

- Mọi việc hôm nay toàn nhờ hồng phúc của ca ca, lòng quân hướng

về bệ hạ nên bình định được quân phản loạn, tiểu đệ chỉ bỏ chút hơi sức

nhỏ nhoi, đâu có gì gọi là công lao. Huống chi tiểu đệ không biết làm

quan, lại cũng chẳng muốn làm quan, xin ca ca thu hồi thành mệnh.

Gia Luật Hồng Cơ cười vang, giơ tay nắm vai Tiêu Phong nói:

- Chức Sở Vương, Nam Viện Đại Vương ở nước Liêu ta là tước lộc

cao quí nhất rồi, nếu như huynh đệ hiềm là chưa đủ không chịu thần

phục thì người anh này ngoài việc nhường ngôi cho ngươi không còn

cách nào khác nữa.

Tiêu Phong lại càng kinh hãi, nghĩ thầm: “Ca ca vui quá, nói năng

chẳng giữ gìn gì nữa, xem ra có chiều lung tung, mọi việc lúc này cần

quả quyết gấp rút, không thể chần chờ gì nữa để khỏi sinh họa”. Ông

đành quì xuống nói:

- Thần Tiêu Phong lãnh chỉ, đa tạ ân điển vạn tuế.

Gia Luật Hồng Cơ vui vẻ đưa tay đỡ dậy. Tiêu Phong nói:

- Thần không dám vi chỉ nên phải lãnh nhận quan tước. Có điều là

kẻ thô bỉ thảo dã, không hiểu pháp độ triều đình, nếu có điều gì sai sẩy

xin bệ hạ rộng lòng tha thứ.

Gia Luật Hồng Cơ giơ tay vỗ lên vai ông mấy cái cười nói:

- Quyết không sao cả.

Ông quay sang nói với Tả quân tướng quân Gia Luật Mạc Ca:

- Gia Luật Mạc Ca, ta phong ngươi làm Nam Viện Khu Mật Sứ, phò

tá Tiêu đại vương trông coi quân quốc trọng sự.

Gia Luật Mạc Ca mừng rỡ vội vàng quì xuống tạ ơn, sau đó quay

sang Tiêu Phong tham bái nói:

- Tham kiến đại vương!

Hồng Cơ nói:

- Mạc Ca, ngươi theo lệnh Tiêu đại vương, đốc suất quân phản loạn

quay trở về Thượng Kinh. Chúng ta đi thăm Hoàng thái hậu nào.

Trên núi liền chiêng trống nổi lên, Gia Luật Hồng Cơ cùng đoàn

người đi xuống. Lãnh binh tướng quân phe phản loạn lập tức mời Hoàng

thái hậu, Hoàng hậu các người ra, cung kính an trí trong doanh. Gia Luật

Hồng Cơ vào trong trướng rồi, mẹ con vợ chồng gặp nhau, quả là chết đi

sống lại, tưởng chừng như từ một kiếp khác quay về, ai nấy tấm tắc khen

ngợi công lao vĩ đại của Tiêu Phong.

Gia Luật Mạc Ca lại đưa Tiêu Phong đi gặp tất cả các bộ thuộc

Nam Viện. Mới đây Tiêu Phong trong chốn thiên quân vạn mã vào ra,

thần dũng không ai địch nổi, ai nấy đã thấy cả rồi. Các quan quân Nam

Viện tuy đều là cựu bộ thuộc của Sở Vương nhưng một là Tiêu Phong

thần uy lẫm lẫm, mọi người sợ ông là kẻ anh hùng không dám không

phục, thứ nữa Sở Vương bình thời tính tình nóng nảy, không có ân huệ gì

với kẻ dưới, thứ ba mình là kẻ làm loạn phạm thượng, trong bụng đang

nơm nớp lo lắng thành thử Tiêu Phong vừa đến ai ai cũng nhất tề nghe

lệnh của ông.

Tiêu Phong nói:

- Hoàng thượng đã tha tội theo kẻ nghịch mưu phản cho các ngươi,

từ nay tất cả phải ăn năn sám hối, không người nào được có dạ phản

trắc.

Một viên tướng đầu râu tóc bạc tiến lên bẩm:

- Bẩm cáo đại vương, Hoàng thái thúc và thế tử bắt giữ gia quyến

chúng tôi, ép chúng tôi phải theo, nếu như chống lại, thế tử sẽ chém đầu

tất cả, thành thử không biết làm sao, xin đại vương tâu cho vạn tuế rõ.

Tiêu Phong gật đầu:

- Nếu thế, những chuyện đã qua từ nay không nhắc đến nữa.

Ông quay lại nói với Gia Luật Mạc Ca:

- Cho ba quân ai đâu ở đó, nghỉ ngơi ăn uống xong thì nhổ trại hồi

kinh.

Sau đó các quan chức Nam Viện từ lớn xuống nhỏ tiến lên tham

kiến. Tiêu Phong tuy chưa làm quan bao giờ nhưng đã từng là bang chủ

Cái Bang lâu năm, thống lãnh quần hào nên cũng có uy. Thống lãnh hào

kiệt Cái Bang với chỉ huy quân Khất Đan không khác nhau nhiều lắm,

nhưng Liêu binh có qui củ riêng mà Tiêu Phong phải để ý còn ngoài ra

mọi sự do Gia Luật Mạc Ca điều động giải quyết cho nên cũng đâu vào

đấy.

Tiêu Phong dẫn đại quân xuất phát chưa bao lâu thì Hoàng thái hậu

và Hoàng hậu đã sai sứ tới trung quân ban tặng áo đai vàng bạc. Tiêu

Phong tạ ơn xong, Thất Lý cũng đưa A Tử đến. Nàng mặc áo gấm ngồi

trên tuấn mã, nói là những thứ đó đều do Hoàng thái hậu ban cho. Tiêu

Phong thấy thân hình mảnh mai của nàng lọt thỏm vào trong cẩm bào

rộng thùng thình, khuôn mặt thon thon dường như bị cổ áo che khuất đến

một nửa không khỏi tức cười.

A Tử không chính mắt trông thấy Tiêu Phong bắn chết Sở Vương,

bắt sống Hoàng thái thúc chỉ nghe Thất Lý kể lại mà thôi. Hễ ai kể lại

chuyện gì, không khỏi thêm mắm thêm muối nên công lao của Tiêu

Phong lại càng tăng thêm vài phần thần bí.

A Tử vừa gặp ông đã cằn nhằn:

- Tỉ phu lập đại công như thế, sao không nói trước để tiểu muội

đứng ở sườn núi xem đại ca xông ra rồi lại trở về có phải vui không?

Làm em lo ơi là lo.

Tiêu Phong đáp:

- Cái đó là nhờ may mà lập được chút công lao chứ ta nào có định

trước đâu? Cô nói nghe thật trẻ con quá.

A Tử nói:

- Tỉ phu qua đây.

Tiêu Phong đi đến bên cạnh nàng, thấy khuôn mặt xanh xao của

nàng hơi ửng hồng ra chiều phấn khởi, súng sính trong bộ áo váy hoa

gấm kia, trông thật chẳng khác gì một con rối nhỏ, vừa kháu khỉnh lại

vừa dễ thương, khiến ông bật cười ha hả.

A Tử vẻ mặt phụng phịu nói dỗi:

- Em nói chuyện đứng đắn sao anh lại cười, có gì khôi hài đâu?

Tiêu Phong đáp:

- Ta thấy cô mặc y phục này, trông thật chẳng khác gì một hình

nhân, thú vị quá.

A Tử bực bội đáp:

- Anh lúc nào cũng chỉ coi em là một đứa trẻ con, cứ trêu em hoài.

Tiêu Phong vẫn cười:

- Đâu có phải vậy! A Tử ơi, lần này ta tưởng hai anh em mình chắc

chết mười mươi, ai ngờ chết đi sống lại nên mới vui đùa một chút đấy

thôi. Chứ còn cái gì Nam Viện Đại Vương, Sở Vương những tước vị đó ta

nào có ham gì, được khỏi chết là mừng lắm rồi.

A Tử nói:

- Tỉ phu cũng sợ chết sao?

Tiêu Phong chưng hửng rồi gật đầu:

- Gặp lúc hiểm nguy ai mà chẳng sợ chết.

A Tử nói:

- Em lại tưởng anh là anh hùng hảo hán, không sợ chết chứ. Nếu

quả là anh sợ chết, sao trong đám phản quân hàng nghìn hàng vạn lại

dám xông vào?

Tiêu Phong đáp:

- Cái đó gọi là vào chỗ chết để tìm đường sống. Nếu ta không xông

vào thì cầm chắc cái chết, thành thử chẳng có gì là dũng cảm hay không

dũng cảm mà là vào nước đường cùng. Nếu mình vây một con gấu hay

một con cọp, nó chạy không được thể nào cũng liều mạng quay đầu lại

cắn thôi.

A Tử bật cười:

- Anh so sánh mình với loài súc vật.

Lúc đó hai người đang ngồi trên lưng ngựa đi song hàng, đưa mắt

nhìn ra thấy cả một vùng thảo nguyên cờ sí rợp trời, những đội ngũ dài

như rắn bò tới tận cuối trời không biết đâu mới hết, trước sau trái phải

chỗ nào cũng là vệ sĩ bộ thuộc.

A Tử hết sức vui lòng nói:

- Hôm trước anh giúp em đoạt được chức truyền nhân của phái Tinh

Tú, em nghĩ bũng trong phái Tinh Tú từ nhị đại đệ tử, tam đại đệ tử tất

cả mấy trăm người, ngoài sư phụ ra thì em là lớn nhất, đã hết sức đắc ý.

Thế nhưng so với anh chỉ huy thiên quân vạn mã thật chẳng thấm gì. Tỉ

phu ơi, bọn Cái Bang không chịu để anh làm bang chủ, hứ, một cái bang

hội nhỏ xíu, có làm cái quái gì đâu? Anh đem binh mã tới giết sạch bọn

chúng cho được việc.

Tiêu Phong liên tiếp lắc đầu nói:

- Chỉ trẻ con thôi! Ta là người Khất Đan, Cái Bang không chịu cho

ta làm bang chủ là phải rồi. Trong Cái Bang toàn là cựu bộ thuộc, bạn

bè ta, sao lại giết họ?

A Tử đáp:

- Bọn chúng trục xuất anh ra khỏi bang rồi, đối xử tệ bạc nên giết

chúng đi là phải. Tỉ phu, không lẽ giờ này mà họ còn là bằng hữu của

anh nữa hay sao?

Tiêu Phong không biết trả lời thế nào, chỉ lắc đầu, nghĩ đến việc

mình đoạn nghĩa tuyệt giao với bạn bè cũ nơi Tụ Hiền Trang, bao nhiêu

hào khí đều tiêu ma. A Tử lại hỏi tiếp:

- Nếu như bọn chúng nghe tin anh làm Nam Viện Đại Vương nước

Liêu đâm ra hối hận, lại mời anh về làm bang chủ Cái Bang, anh về hay

không về?

Tiêu Phong mủm mỉm cười:

- Trên đời này làm gì có chuyện đó bao giờ? Anh hùng hảo hán

nước Đại Tống coi người Khất Đan là gian đồ chuyện ác gì cũng chẳng

từ, ta ở nước Liêu làm quan càng lớn thì họ lại càng hận ta.

A Tử nói:

- Hứ, thế thì đã sao? Bọn chúng ghét mình thì mình cũng ghét lại.

Tiêu Phong đưa mắt nhìn về hướng nam thấy nơi đất trời giao tiếp ở

xa xa núi non trùng điệp nghĩ bụng: “Qua khỏi dãy núi kia là Trung

Nguyên”. Ông tuy là người Khất Đan nhưng từ nhỏ lớn lên tại phương

nam, trong lòng quả là yêu Đại Tống rất nhiều mà yêu Đại Liêu chẳng

bao nhiêu, nếu như Cái Bang cho ông làm một bang chúng vô danh

không chức phận, không túi nào, e rằng còn sung sướng hơn là chức Nam

Viện Đại Vương.

A Tử nói tiếp:

- Tỉ phu, em thấy hoàng thượng thật là thông minh nên mới phong

anh làm Nam Viện Đại Vương. Từ nay về sau mỗi khi nước Liêu đánh

với nước nào, anh đem quân xuất chinh thì thể nào cũng bách chiến bách

thắng. Chỉ cần anh xông vào quân địch, đánh chết nguyên soái bên kia,

đại đa số quân địch sẽ vứt đao thương, quì xuống đầu hàng, thế là mình

chẳng thắng thì là gì?

Tiêu Phong mỉm cười nói:

- Bộ hạ của Hoàng thái thúc đều là quan binh người Liêu, xưa nay

quen nghe lệnh hoàng thượng rồi thành thử một khi Sở Vương chết đi,

Hoàng thái thúc bị bắt tất cả mới đầu hàng. Còn như hai nước giao tranh

thì chuyện lại khác hẳn. Giết được nguyên soái thì có phó nguyên soái,

giết được tướng này thì còn tướng kia, ai nấy hết sức tử chiến. Ta đơn

thương độc mã xông vào chẳng đi đến đâu.

A Tử gật đầu nói:

- Ồ, thì ra là thế! Tỉ phu ơi, anh bảo là xông vào bên địch, bắn chết

Sở Vương, bắt sống Hoàng thái thúc cũng chưa phải là dũng cảm, thế thì

trong đời anh việc gì mới gọi là dũng cảm thực sự? Nói cho em nghe có

được không?

Tiêu Phong xưa nay không thích kể lại cho người ta nghe những sự

tích võ dũng của mình. Khi xưa còn ở trong Cái Bang ra tay tiêu diệt đại

gian đại ác, dù cho kịch chiến ác đấu cỡ nào, quay trở về bang cũng chỉ

nói gọn một câu: “Đã giết được những ai những ai ...” còn như bao nhiêu

gian hiểm từng trải qua, dù cho người khác vặn hỏi thế nào chăng nữa

ông cũng không chịu nói. Lúc này nghe A Tử hỏi thế, nghĩ mình trong

đởi trải qua hàng trăm trận, khi lâm địch chẳng lúc nào tính chuyện tháo

lui, chuyện dũng cảm quả là chẳng cần nhắc nữa, bèn nói:

- Ta phải đấu với người phần lớn là bị người ta ép, không đấu không

được chứ chẳng có gì gọi là dũng cảm.

A Tử nói:

- Thôi em biết rồi, trong đời anh dũng cảm nhất là trận ác đấu tại

Tụ Hiền Trang.

Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại:

- Làm sao cô biết?

A Tử đáp:

- Hôm trước nơi bờ hồ Tiểu Kính, anh đi một lúc rồi, cha em, mẹ

em cùng các thủ hạ của cha em nói chuyện về anh, ai cũng bội phục võ

công ghê gớm, một thân một mình dám đến đại hội ở Tụ Hiền Trang độc

đấu quần hùng, chỉ cốt để trị thương cho một thiếu nữ. Thiếu nữ đó dĩ

nhiên là chị em rồi. Lúc đó mọi người chưa biết A Châu chính là con

ruột của cha mẹ em, nói anh đối với nghĩa phụ, nghĩa mẫu và thụ nghiệp

ân sư cực kỳ tàn độc nhưng với đàn bà lại một mối tình trường; vong ân

phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc quả là một kẻ tệ hại xấu xa bất cận nhân

tình.

Nói tới đây cô gái bật cười khanh khách. Tiêu Phong lẩm bẩm nhắc

lại:

- Ôi, “vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc”, anh hùng hảo hán

Trung Nguyên đã bình phẩm Tiêu Phong này tám chữ đó sao?

A Tử an ủi ông:

- Tỉ phu đừng tức tối làm chi. Riêng mẹ em hết lời ca tụng anh, nói

là đàn ông miễn sao si tình đã đủ tốt rồi, còn ngoài ra không có gì quan

trọng cả. Mẹ em bảo cha em cũng là loại “vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn

hiếu sắc”, nhưng đối với tình nhân thì lại cũng “phụ nghĩa hiếu sắc”, đối

với con cái thì “tàn nhẫn vô tình” chẳng sao bì kịp với đại ca. Tiểu muội

đứng một bên vỗ tay tán thành.

Tiêu Phong gượng gạo cười lắc đầu.

Đại quân đi mấy ngày thì đến Thượng Kinh. Bách quan và dân

chúng đã nghe tin rồi, đi ra tận xa nghinh tiếp. Lá cờ soái của Tiêu

Phong đến đâu, bách tính thắp hương lạy phục xuống, ca tụng không

ngớt lời. Ông ra tay bình được đại biến loạn khiến cho vô số quân sĩ

nước Liêu bảo toàn tính mạng, tại Thượng Kinh gần nửa dân số là gia

quyến của ngự doanh quân nên đối với ông xiết bao cảm kích. Ngựa

Tiêu Phong đến đâu dân chúng tung hô đến đấy:

- Đa tạ Nam Viện Đại Vương cứu mạng.

- Cầu trời phù hộ cho Nam Viện Đại Vương sống lâu trăm tuổi, đại

phú đại quí!

Tiêu Phong nghe những lời chúc tụng đó thấy dân chúng người nào

người nấy mắt rưng rưng, quả thực thành tâm thành ý nghĩ thầm: “Kẻ ở

trên ngôi cao, nhất cử nhất động đều liên quan đến họa phúc của muôn

vạn người. Khi ta bắn chết Sở Vương, chẳng qua chỉ là sính cái dũng

nhất thời, trước là cứu nghĩa huynh, sau là cứu mình, có ngờ đâu đối với

bách tính lại tốt lành đến thế. Ôi, ở Trung Nguyên ta hết sức làm điều

tốt, vậy mà người ta lại thù oán sàm báng biết bao nhiêu, thành kẻ đệ

nhất đại gian đại ác trên giang hồ. Qua đến Bắc quốc, vô ý lại thành cứu

tinh của muôn dân. Thị phi thiện ác quả là khó nói”.

Ông lại nghĩ: “Nơi đây là đất nước cha mẹ ta, năm xưa cha mẹ chắc

thường qua lại con đường này. Ôi, ta nào có biết hình dáng tướng mạo

cha mẹ ta ra sao, hai ông bà cưỡi ngựa cùng nhau rong ruổi thế nào lại

càng khó tưởng ra nổi”.

Thượng Kinh là kinh đô của nước Liêu. Khi đó Liêu quốc là nước

lớn nhất trong thiên hạ, so với Đại Tống cường thịnh hơn nhiều. Thế

nhưng người Khất Đan du mục là chính, sống rày đây mai đó, tại Thượng

Kinh dân cư, quán xá thật giản lậu thô sơ, so với Trung Nguyên còn kém

xa.

Quan chức thuộc Nam Viện liền ra nghinh đón Tiêu Phong vào Sở

Vương phủ, phủ đệ to lớn, bên trong trần thiết cực kỳ hoa lệ giàu sang.

Tiêu Phong một đời nghèo khổ đã từng ở nơi sang trọng như thế bao giờ?

Ông vào đi rảo một hồi bỗng thấy không quen liền sai quân sĩ thiết lập

hai tòa doanh trướng ở ngay trong quân, ông và A Tử mỗi người ở một

cái, sống thật giản phác chẳng khác gì khi trước.

Đến ngày thứ ba, Gia Luật Hồng Cơ và Hoàng thái hậu, Hoàng hậu,

tần phi, công chúa mọi người mới về đến Thượng Kinh, Tiêu Phong tất

lãnh bách quan tiếp giá. Trong triều liên tiếp bận rộn luôn mấy ngày.

Đầu tiên là lễ mừng bình được đại nạn, luận công thăng thưởng, phủ tuất

các gia đình Bắc Viện Khu Mật Sứ và quan binh mới tử trận. Hoàng thái

thúc tự thấy mình không còn mặt mũi nào nên trên đường về tự tử chết

rồi.

Hồng Cơ tuy vậy vẫn giữ lời, đối với quan binh phản nghịch không

hề truy cứu, chỉ tru sát hai mươi tên thuộc hạ của Sở Vương đầu sỏ mưu

việc phản loạn. Trong hoàng cung mở tiệc khao thưởng công lao binh sĩ,

đại yến liên tiếp ba ngày. Tiêu Phong trở nên anh hùng đệ nhất nơi bàn

tiệc. Các món thưởng của Gia Luật Hồng Cơ, Hoàng thái hậu, hoàng

hậu, các phi tần, công chúa kể cả tặng phẩm của văn võ bách quan, quả

thật chất cao như núi.

Khao thưởng xong rồi, Tiêu Phong mới đến Nam Viện xem xét

công việc. Mấy chục tộc trưởng trong các bộ tộc nước Liêu đều đến

tham kiến, nào là Ô Ngỗi, Bá Đức, Bắc Khắc, Nam Khắc, Thất Vi, Mai

Cổ Tất, Ngũ Quốc, Ô Cổ Lạp ... nhất thời không nhớ hết được. Sau đó là

quan quân bì thất đại trướng của hoàng đế, san quân thuộc hoàng hậu,

rồi các cấp Hoằng Ninh Cung, Trường Ninh Cung, Vĩnh Hưng Cung, Tích

Khánh Cung, Diên Xương Cung lần lượt đến chào. Thuộc quốc của nước

Liêu tổng cộng năm mươi chín nước, bao gồm Thổ Cốc Hỗn, Đột Quyết,

Đảng Hạng, Sa Đà, Ba Tư, Đại Lương, Hồi Cốt, Thổ Phồn, Cao Xương,

Cao Ly, Vu Khuých, Đôn Hoàng ... Những nước đó đều có sứ thần tại

Thượng Kinh, nghe tin Tiêu Phong nắm giữ quân quốc trọng quyền, đều

đến tặng những món quí giá lạ lùng để lấy lòng làm quen.

Tiêu Phong ngày ngày khi thì tiếp khách, khi gặp bộ thuộc, mắt

thấy toàn là vàng bạc châu báu, tai nghe những điều xưng tụng tán

dương, không khỏi chán chường. Cứ như thế đến hơn một tháng Gia Luật

Hồng Cơ mới vời vào điện, bảo:

- Huynh đệ, chức phận ngươi là Nam Viện Đại Vương nên tọa trấn

Nam Kinh6, chờ thời tiến đánh Trung Nguyên. Người anh này tuy không

muốn xa cách ngươi, nhưng để lập kỳ công thiên thu vạn thế, ngươi mau

sớm đem binh xuống phía nam.

Tiêu Phong nghe hoàng thượng sai mình đem quân nam chinh, trong

bụng kinh hoảng nói:

- Tâu bệ hạ, nam chinh là chuyện đại sự, cực kỳ quan trọng, thần

Tiêu Phong chỉ là một võ dũng thất phu, quân lược quả không phải là sở

trường.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói:

- Nước ta vừa trải qua một cơn họa loạn, cần cho sĩ tốt nghỉ ngơi. Ở

Đại Tống hiện nay Thái hậu đang nắm quyền, trọng dụng Tư Mã Quang,

cải cách triều chính không có sơ hở nào để khai thác, chúng ta chưa thể

tính chuyện nam chinh được. Này huynh đệ, ngươi đến Nam Kinh, trong

đầu lúc nào cũng phải nghĩ đến việc thôn tính Nam triều. Chúng ta cần

phải lựa gió phất cờ, hễ Nam triều có nội biến là lập tức đưa binh xuống

phương nam. Còn như nội bộ họ tốt lành không có gì, nước Liêu đem

binh đến đánh có phải là dùng sức nhiều mà thành công ít hay sao?

Tiêu Phong đáp:

- Vâng! Quả là như thế!

Hồng Cơ nói:

- Thế nhưng sao ta lại biết được Nam triều nội chính khéo léo, trăm

họ nhân tâm qui phục?

Tiêu Phong đáp:

- Thần mong được bệ hạ chỉ điểm.

Hồng Cơ cười sằng sặc nói:

- Từ xưa đến nay cũng đều thế cả, cốt sao đem nhiều tiền bạc tài

bạch mua kẻ gian tế gián điệp. Người nam tham tiền, bọn hèn hạ xấu xa

đông lắm, ngươi hãy ra lệnh cho Nam Bộ Khu Mật Sứ đừng tiếc tài bảo,

cố mua được càng nhiều càng tốt.

Tiêu Phong vâng lệnh từ biệt ra về, trong lòng buồn bã. Ông xưa

nay chỉ kết giao anh hùng hào kiệt, tuy những chuyện lén hãm hại nhau,

mai phục hạ độc chứng kiến đã nhiều, nhưng toàn là những việc giết

người đốt nhà một cách sảng khoái chứ chưa từng đem tiền bạc đi mua

chuộc người ngoài bao giờ. Hơn nữa tuy ông là người Liêu nhưng từ nhỏ

lớn lên ở Nam triều, hoàng đế sai ông tính toán tiêu diệt nhà Đại Tống,

trong lòng quả hết sức miễn cưỡng nghĩ thầm: “Ca ca có lòng tốt phong

ta làm Nam Viện Đại Vương, nếu ta chỉ vì chuyện này từ quan, không

khỏi phụ thịnh tình của anh ta, thương tổn nghĩa khí huynh đệ. Đợi ta

xuống Nam Kinh, làm quan sáu tháng một năm, hãy xin từ chức cũng

kịp. Khi đó nếu nghĩa huynh không chịu thì ta mới treo áo, buộc ấn bỏ đi

anh ta không trách gì được”. Nghĩ thế ông tất lãnh bộ thuộc, dắt A Tử

xuống Nam Kinh.

Nam Kinh thời nhà Liêu tức là Bắc Kinh ngày nay, khi đó gọi là

Yên Kinh, còn gọi là U Đô, là kinh đô của U Châu. Thạch Kính Đường

nhà Hậu Tấn tự lập xưng đế được nước Liêu hết sức phù trì nên cắt Yên

Vân mười sáu châu để đền ơn. Yên Vân mười sáu châu bao gồm U, Kế,

Trác, Thuận, Đàn, Doanh, Mạc, Tân, Quy, Nho, Võ, Úy, Vân, Ứng,

Hoàn, Sóc đều là những nơi quan trọng ở Ký Bắc, Tấn Bắc.

Từ khi cắt đất cho nước Liêu rồi, các đời Hậu Tấn, Hậu Chu, Đại

Tống ba triều đại nhiều năm tranh đoạt nhưng vẫn không sao lấy lại

được. Mười sáu châu Yên Vân địa thế hiểm yếu, nước Liêu trú đóng

trọng binh, mỗi lần đem binh xuống đánh phương nam chạy thẳng một

mạch, toàn là bình nguyên khiến Đại Tống không có cách gì thủ ngự.

Tống Liêu giao binh hơn trăm năm qua, nhà Tống không thắng trận nào,

dĩ nhiên chủ yếu là vì binh giáp không bằng nhưng người Liêu từ cao

đánh xuống khống chế được chiến trường quả là đã chiếm được tiện nghi

thật lớn.

Tiêu Phong vào thành rồi, thấy đường sá ở Nam Kinh rộng rãi, thị tứ

phồn hoa hơn xa Thượng Kinh, người qua kẻ lại đều là dân chúng Nam

triều, nghe toàn là tiếng nói Trung Nguyên, thật chẳng khác gì đã quay

về Trung Thổ. Tiêu Phong và A Tử đều rất vui mừng, hôm sau liền ăn

mặc giản dị, đi du ngoạn khắp các nơi.

Thành Yên Kinh vuông vức ba mươi sáu dặm, bao gồm tám cửa.

Phía đông là cửa An Đông, cửa Nghinh Xuân; phía nam là cửa Khai

Dương, cửa Đan Phượng; phía tây là cửa Hiển Tây, cửa Thanh Tấn; còn

phía bắc là cửa Thông Thiên, cửa Củng Thần. Hai cửa phía bắc sở dĩ gọi

là Thông Thiên, Củng Thần7 ý nói thần phục, tuân theo thánh chỉ của

hoàng đế. Vương phủ của Nam Viện Đại Vương ở phía tây nam. Tiêu

Phong và A Tử du ngoạn hồi lâu, thấy phố chợ, công thự, chùa chiền,

đạo quan san sát khắp nơi đi xem một lúc không hết được.

Khi đó Tiêu Phong giữ chức Nam Viện Đại Vương, Yên Vân mười

sáu châu đều dưới quyền ông cai quản, cả phủ Đại Đồng ở Tây Kinh,

phủ Đại Định ở Trung Kinh cũng đều phải nghe hiệu lệnh. Uy vọng lớn

như thế không thể nào ở một chỗ doanh trướng bé nhỏ nên đành phải

dọn vào vương phủ.

Ông coi việc mấy ngày đầu váng mắt hoa, thật là khổ sở thấy Nam

Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Mạc Ca tinh minh mẫn cán, quen thuộc chính

vụ nên bao nhiêu việc giao cho y cả.

Thế nhưng làm quan to cũng có chỗ hay, trong vương phủ những

dược phẩm quí giá nhiều không biết bao nhiêu mà kể, A Tử dùng làm

thức ăn hàng ngày. Nhờ bổ dưỡng như thế, nội thương của nàng mỗi

ngày một đỡ, đến đầu mùa đông đã có thể đi lại một mình. Nàng du

ngoạn trong thành Yên Kinh đã nhiều, về sau lại bảo Thất Lý theo hầu,

đưa đi chơi khắp các nơi chung quanh thành mười dặm.

Hôm đó tuyết đổ vừa ráo hạt, A Tử mặc điêu cừu, đến Tuyên Giáo

Điện nơi Tiêu Phong cư ngụ nói:

- Tỉ phu ơi, em ở trong thành này chán muốn chết, anh đưa em đi

săn nhé.

Tiêu Phong ở trong cung điện đã lâu, cũng thấy phiền muộn, nghe

nàng nói thế, trong bụng cũng mừng bèn sai thuộc hạ chuẩn bị ngựa để

ra ngoài săn bắn. Ông không muốn rềnh rang, chỉ đem theo vài tùy tòng

phục thị A Tử, lại ngại bách tính dòm ngó nên thay áo lông cừu quân sĩ

thường mặc, đem theo một cánh cung, một túi tên, nhảy lên ngựa cùng A

Tử đi ra cửa Thanh Tấn ở phía tây.

Đoàn người ra khỏi thành hơn chục dặm, chỉ săn được vài con thỏ.

Tiêu Phong nói:

- Bọn mình đến biên giới phía nam xem thế nào.

Ông chuyển đầu ngựa, quay sang hướng nam, lại đi hơn hai chục

dặm, thấy một con cheo8 từ trong bụi chạy ra. A Tử cầm mũi tên trên tay

để vào dây, ngờ đâu cánh tay hoàn toàn không có chút hơi sức nào, cánh

cung không giương lên được. Tiêu Phong đưa cánh tay trái từ phía sau

nàng thò qua nắm thân cung, tay phải cầm tay nàng kéo dây, buông tay

nghe vút một tiếng, vũ tiễn phóng ra, con cheo liền ngã ngay xuống.

Những người đi theo reo ầm cả lên.

Tiêu Phong bỏ tay ra nhìn A Tử mỉm cười, thấy nàng mắt rưng rưng,

lạ lùng hỏi:

- Sao thế? Không thích ta giúp em bắn dã thú ư?

A Tử nước mắt chảy dài xuống má thổn thức:

- Em ... em thành phế nhân rồi, đến giương cung ... mà cũng chẳng

xong.

Tiêu Phong dỗ dành:

- Đừng có nóng ruột, từ từ rồi sẽ hồi phục lực khí. Nếu như quả là

tương lai không khỏi, ta sẽ truyền cho cô cách tập nội công, thể nào cũng

tăng gia sức khỏe.

A Tử đang khóc bật cười nói:

- Tỉ phu đã nói thế thì phải giữ lời, thể nào cũng dạy em nội công

đấy nhé.

Tiêu Phong đáp:

- Được mà! Thể nào ta cũng dạy cho cô.

Trong khi đang nói chuyện, bỗng nghe từ phương nam có tiếng chân

ngựa rầm rập, một đại đội nhân mã từ trên mặt tuyết chạy tới. Tiêu

Phong đưa mắt nhìn về phía đó thấy đội này toàn là quan binh người

Liêu nhưng không giương cờ. Bọn quan quân vừa đi vừa nói chuyện xôn

xao, ca hát cực kỳ khoái trá, sau ngựa buộc khá nhiều tù binh, tưởng

chừng như vừa thắng trận trở về. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Mình làm gì có

giao chiến với ai, những người này đánh trận ở đâu trở về thế này?”.

Ông thấy đoàn quan binh chuyển qua phía đông trở về thành liền quay

sang nói với kẻ tùy tòng:

- Ngươi ra hỏi xem đội lính kia làm gì về thế?

Gã tùy tòng liền đáp: “Vâng” rồi hỏi:

- Có phải các anh em “đi gặt” về đấy chăng?

Y giục ngựa chạy thẳng đến chỗ bọn kia. Khi tới gần y nói mấy câu,

bọn quan binh nghe thấy có Nam Viện Đại Vương đang ở tại đây liền

lớn tiếng reo hò, lập tức nhảy xuống ngựa, dây cương cầm tay rảo bước

đi tới trước Tiêu Phong, khom lưng hành lễ cùng nói:

- Đại vương thiên tuế!

Tiêu Phong giơ tay chào lại đáp:

- Miễn lễ!

Ông thấy đội binh này chừng hơn tám trăm người, trên lưng ngựa

chất đầy quần áo khí vật, số người bị bắt cũng phải đếm bảy tám trăm,

phần lớn là đàn bà còn trẻ nhưng cũng có một số thanh niên, ăn mặc đều

theo lối người Tống, người nào người nấy khóc khóc mếu mếu.

Gã đội trưởng nói:

- Hôm nay đến lượt đội Hắc Lạp Đốc chúng tôi “đi gặt”, nhờ phúc

đại vương nên thu được cũng kha khá.

Y quay lại quát:

- Các ngươi đem những thiếu nữ xinh đẹp nhất, vàng bạc châu báu

quí giá nhất tất cả dâng lên, xin đại vương thiên tuế thu dụng.

Các quan binh cùng reo lên:

- Tuân lệnh!

Đem ra hơn hai chục cô gái đẩy đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, lại

lấy ra rất nhiều kim ngân trang sức bỏ đầy một tấm chăn da. Các quan

binh chăm chú nhìn Tiêu Phong, ánh mắt đầy vẻ sùng kính trọng vọng,

hiển nhiên nếu được Nam Viện Đại Vương thu dụng đám con gái và

những món ngọc ngà này thì quả là vinh hạnh.

Hôm xưa Tiêu Phong ở ngoài Nhạn Môn Quan đã thấy quan binh

nhà Đại Tống bắt người Khất Đan, lần này lại thấy người Khất Đan đi

bắt người Đại Tống, những người bị giải đi ai nấy thê thảm khốn khổ

chẳng khác gì nhau. Ông ở nước Liêu đã lâu, hiểu biết quân tình Liêu

quốc. Triều đình nước Liêu không cấp lương cho lính, cũng chẳng trả

tiền, quan binh cần gì đều phải sang đoạt của bên địch, mỗi ngày sai lính

qua cướp của dân bên Đại Tống, Tây Hạ, Nữ Chân, Cao Ly các nước lân

cận, gọi là “gặt hái”, thực ra so với cường đạo cũng chẳng khác gì. Quan

binh Tống triều cũng lại đi qua “gặt hái” của người Liêu để trả thù.

Thành thử dân chúng ở vùng biên giới khốn khổ vô cùng, ngày nào cũng

nơm nớp, sáng lo chiều lo. Tiêu Phong thấy phương thức đó tàn nhẫn vô

đạo, có điều mình không tính chuyện lâu dài nên định bụng sẽ chỉ vờ vịt

làm việc một thời gian rồi xin từ quan ẩn cư, thành thử các việc quân

quốc đại sự không đưa ra chủ trương gì, bây giờ chính mắt thấy thảm

trạng những người bị bắt, không khỏi chạnh lòng thương hại bèn hỏi gã

đội trưởng:

- Các ngươi ở đâu ... “gặt hái” ở đâu về thế?

Gã đội trưởng cung kính đáp:

- Bẩm cáo đại vương, chúng tôi “đi gặt” tại bên ngoài cảnh giới

Trác Châu, phía bên Đại Tống. Từ khi đại vương tới đây, thuộc hạ không

dám đi kiếm lương thực gần quanh bản châu nữa.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nghe y nói, trước đây bọn họ đi cướp của

người Tống ngay tại bản châu”. Ông dùng tiếng Hán hỏi một thiếu nữ

đang đứng trước đầu ngựa:

- Cô là người ở đâu?

Người con gái kia lập tức quì xuống, khóc nói:

- Tiểu nữ là người ở Trương gia thôn, cầu đại vương khai ân, thả cho

tiểu nữ trở về đoàn tụ với cha mẹ.

Tiêu Phong quay đầu nhìn những người kia. Tất cả mấy trăm người

bị bắt đều quì xuống nhưng trong đám người có một thanh niên đứng

sừng sững không chịu quì.

Thanh niên đó trạc độ mười sáu, mười bảy, mặt dài mà gầy, cằm

nhọn, đôi mắt láo liên bất định. Tiêu Phong liền hỏi:

- Cậu bé kia, nhà ngươi ở đâu?

Thanh niên kia đáp:

- Tiểu nhân có một bí mật đại sự, muốn bẩm riêng lên đại vương.

Tiêu Phong đáp:

- Được, ngươi lại đây!

Thanh niên đó hai tay bị dây thừng trói chặt, nói:

- Xin đại vương đứng xa bộ thuộc, việc này không thể để người

khác nghe thấy được.

Tiêu Phong nổi bụng hiếu kỳ nghĩ thầm: “Một đứa bé thế này làm

gì mà biết được chuyện cơ mật đại sự? Phải rồi, ngươi từ biên giới phía

nam qua đây, chắc là biết chuyện gì về quân tình Đại Tống chăng?”. Y

là người Tống, đem chuyện cơ mật bẩm báo cho người Khất Đan, là loại

Hán gian vô liêm sỉ nên ông đã có bụng khinh khi, nhưng y nói là có

chuyện trọng đại, có nghe cũng không mất mát gì, bèn phóng ngựa ra

cách khoảng chục trượng, giơ tay vẫy:

- Lại đây!

Gã thanh niên kia liền đi theo, giơ hai tay lên nói:

- Xin đại vương cắt dây trói, tiểu nhân có vật để trong túi muốn

trình lên.

Tiêu Phong rút phắt yêu đao, giơ lên chém xuống, thế đao tưởng

chừng chặt y ra làm đôi, nhưng lại thật chuẩn xác, chỉ cắt đúng sợi dây

thừng trói hai tay. Gã thanh niên hoảng hốt, lùi lại hai bước, nhìn Tiêu

Phong xuất thần. Tiêu Phong mỉm cười, tra đao vào vỏ hỏi:

- Ngươi có cái gì?

Gã thanh niên đưa tay vào túi, lấy một vật gì đó ra cầm trên tay nói:

- Đại vương xem thì biết.

Nói xong y đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, ông liền đưa tay ra đón

lấy. Đột nhiên, gã thanh niên cầm vật ở trong tay ném thẳng vào mặt

Tiêu Phong, Tiêu Phong liền vung roi lên đánh văng vật đó ra ngoài, thì

ra đó là một cái túi nhỏ. Cái túi đó rơi xuống đất, phấn trắng tung tóe

khắp nơi, là một túi bột vôi sống, nếu trúng mặt vào mắt thì sẽ mù ngay.

Đây là một vật thấp hèn mà bọn giang hồ hạng ba, trộm gà bắt chó

thường dùng.

Tiêu Phong hừ một tiếng, nghĩ thầm: “Thằng bé này lớn mật, thì ra

không phải là Hán gian”. Ông gật đầu hỏi:

- Ngươi tên chi? Cớ sao lại có bụng hại ta?

Thanh niên đó mím chặt môi, không trả lời. Tiêu Phong dịu mặt nói:

- Ngươi mau nói ta nghe, ta sẽ tha mạng cho.

Thanh niên đáp:

- Ta báo thù cho cha mẹ không xong, còn gì để nói nữa.

Tiêu Phong hỏi:

- Cha mẹ ngươi là ai? Không lẽ bị ta giết sao?

Gã thanh niên bước tới hai bước, mặt đầy vẻ bi phẫn, chỉ vào mặt

Tiêu Phong lớn tiếng nói:

- Kiều Phong, ngươi giết chết cha ta, mẹ ta, cả bác ta, ta ... ta giận

không được ăn thịt, rút gân lột da, băm vằm ngươi thành vạn mảnh.

Tiêu Phong nghe y gọi cái tên cũ ngày xưa của mình, lại bảo mình

giết cha mẹ và bá phụ, ắt hẳn là kẻ thù ngày trước ở Trung Nguyên, bèn

hỏi:

- Bá phụ ngươi là ai? Phụ thân là ai?

Thanh niên đáp:

- Ta chẳng muốn sống làm gì nên cũng cần cho ngươi biết, nam nhi

họ Du ở Tụ Hiền Trang có phải là phường tham sống sợ chết đâu!

Tiêu Phong “À” lên một tiếng nói:

- Thì ra ngươi là con cháu của Du thị song hùng, lệnh tôn có phải là

Du Câu Du nhị gia không?

Ông ngừng lại một chút nói tiếp:

- Hôm đó ta bị quần hùng Trung Nguyên vây đánh ở quí trang, bắt

buộc phải ứng chiến, không thể làm cách nào khác hơn. Lệnh tôn và

lệnh bá phụ đều tự vẫn mà chết.

Ông nói tới đây lắc đầu tiếp:

- Ôi, tự vẫn hay bị giết thì cũng vậy. Hôm đó ta đoạt binh khí của

bá phụ và gia gia ngươi để đến nỗi ép họ phải tự vẫn. Tên ngươi là gì?

Gã thanh niên ưỡn ngực, lớn tiếng đáp:

- Ta tên là Du Thản Chi. Ta không cần ngươi phải giết, ta học được

cái gương sáng của bá phụ và gia gia rồi.

Nói xong y thò tay vào ống quần, lấy ra một thanh đoản đao, giơ lên

đâm luôn vào ngực. Roi ngựa của Tiêu Phong lại vung ra, cuốn lấy con

dao, đoạt luôn. Du Thản Chi giận dữ, chửi liền:

- Ta muốn tự vẫn cũng không cho hay sao? Tên Liêu cẩu đáng chết

kia, bụng dạ ngươi độc ác thật.

Lúc này A Tử đã giục ngựa chạy đến bên Tiêu Phong, quát lên:

- Thằng tiểu quỉ kia, sao dám mở miệng nhục mạ người khác?

Ngươi muốn chết ư, ha ha, đâu có dễ thế.

Du Thản Chi đột nhiên nhìn thấy một cô gái xinh đẹp thanh tú, ngơ

ngẩn nhìn, không nói ra lời. A Tử hỏi:

- Tiểu quỉ, cái cảnh mù lòa thật thích thú, rồi đây ngươi sẽ được

nếm mùi.

Nàng quay lại nói với Tiêu Phong:

- Tỉ phu, tên tiểu tử này tàn độc quá, dám dùng vôi sống để hại anh,

vậy mình lấy ngay vôi đó phế đôi mắt nó cho biết.

Tiêu Phong lắc đầu, quay sang nói với tên lãnh binh đội trưởng:

- Bọn người Tống đi gặt bắt được hôm nay, giao lại cho ta có được

chăng?

Gã đội trưởng mừng rỡ không để đâu cho hết vội đáp:

- Được đại vương để mắt tới thì còn gì hơn, xin đa tạ ân điển đại

vương.

Tiêu Phong nói:

- Những quan binh nào hiến tù binh bắt được cho ta, trở về nhớ đến

vương phủ lãnh thưởng.

Các quan binh vui vẻ đáp:

- Chúng bộ thuộc thành tâm dâng lên đại vương, không cần phải

thưởng.

Tiêu Phong nói:

- Các ngươi để những kẻ bắt được lại đây, về thành trước đi, nhớ

đến lãnh thưởng.

Bọn quan binh khom lưng tạ ơn. Gã đội trưởng hỏi:

- Nơi đây dã thú không có bao nhiêu, chắc đại vương muốn dùng

bọn Tống chư làm bia sống chứ gì? Trước đây Sở Vương vẫn thích trò

này lắm. Chỉ tiếc hôm nay chúng tôi bắt được phần lớn là đàn bà, chạy

không nhanh. Lần sau chúng tôi sẽ cố bắt những con lợn Tống khỏe

mạnh.

Nói xong hành lễ dẫn binh đi. “Muốn dùng bọn Tống chư làm bia

sống chứ gì”, câu đó lọt vào tai, Tiêu Phong không khỏi rùng mình, trước

mắt như hình dung ra cái cảnh tàn bạo của Sở Vương năm xưa: mấy trăm

người Tống chạy thục mạng trên mặt tuyết chẳng khác gì dã thú, trong

khi quí nhân người Khất Đan cười sằng sặc, giương cung lắp tên bắn chết

từng người một. Nếu như có người Tống nào chạy được xa, người Khất

Đan cưỡi ngựa rượt theo, chẳng khác gì săn nai, đuổi chồn, rồi thì ai ai

cũng chết cả. Cái thảm cảnh đó, người Khất Đan thuận mồm nói ra,

chẳng có gì là lạ, hẳn là trước đây đã quen. Ông đưa mắt nhìn qua bọn

người bị bắt, thấy ai nấy mặt tái mét, run lẩy bẩy trong gió lạnh. Những

người dân nơi biên tái này có kẻ biết tiếng Khất Đan, đã từng nghe

chuyện “bắn bia sống”, bây giờ sợ đến mất vía.

Tiêu Phong thở dài nhìn xuống núi non trùng điệp ở phương Nam

nghĩ thầm: “Nếu như không có người tiết lộ thân thế thì đến giờ này ta

vẫn nghĩ mình là dân Đại Tống. Ta cùng bọn người này nói chung một

thứ tiếng, ăn cùng một thứ cơm, có khác gì đâu? Vì sao ai cũng là người,

lại phải gượng gạo chia ra nào là Khất Đan, Đại Tống, Nữ Chân, Cao Ly

làm chi? Ngươi sang đất ta ngươi “gặt lúa”, ta sang đất ngươi ta đốt nhà?

Ngươi chủi ta là chó Liêu, ta mắng ngươi là lợn Tống?”. Trong nhất thời,

lòng ông cảm khái dạt dào như sóng biển.

Ông nhìn lại thấy đám quan binh đi kiếm lương kia đã khuất nẻo

không còn đâu nữa bèn quay qua nói với đám nạn dân:

- Hôm nay ta thả các ngươi về, mau mau chạy đi thôi.

Bọn người bị bắt vẫn tưởng Tiêu Phong thả cho họ chạy, sau đó sẽ

bắn chết nên vẫn chần chờ không chịu đi. Tiêu Phong lại tiếp:

- Các ngươi về rồi, tốt nhất rời xa biên giới, để khỏi bị người ta đi

“gặt lúa” bắt lần nữa. Ta chỉ cứu các ngươi được một lần, không cứu

được lần thứ hai đâu.

Những nạn nhân bây giờ mới tin là thật, vui mừng reo hò, tất cả

cùng quì xuống khấu đầu nói:

- Đại vương ân đức tày non, tiểu dân về nhà khấn vái cầu cho đại

vương sống lâu giầu bền, ngôi cao mãi mãi.

Bọn họ sớm biết người dân Tống bị bọn Liêu binh “gặt lúa” bắt

được rồi, trừ người thật giàu có có tiền bạc gấm vóc đem ra chuộc mạng,

còn không đều bỏ thân xứ người đến nắm xương cũng không mang được

về nhà. Tống Liêu hai bên giao tranh lâu năm, người có tiền sớm chạy

vào sâu nội địa rồi, còn lại sống nơi biên cảnh chỉ toàn là dân nghèo

khổ, làm gì có ai giàu có mà đem tiền chuộc mạng? Ai cũng biết mình

thật không bằng con cừu con ngựa, được vị đại vương nước Liêu tha cho

về thật mừng rỡ không đâu kể xiết.

Tiêu Phong thấy những nạn dân mặt tươi rói, người nọ dìu người kia

đi về hướng nam nghĩ thầm: “Người Khất Đan ta bắt họ tới đây, rồi lại

thả cho về, trên đường đi kinh hoàng một phen, lại chịu biết bao khổ sở,

ta nào có gì gọi là ân đức đối với họ?”.

Ông thấy những người khốn khổ kia đi đã xa, còn Du Thản Chi vẫn

đứng sừng sững tại chỗ, bèn nói:

- Sao ngươi không chạy đi? Ngươi trở về Trung Nguyên có tiền bạc

gì không?

Ông vừa nói vừa thò tay vào túi, định cho y ít kim ngân, nhưng trong

mình không mang theo tiền tài, mò vào chỉ thấy một cái bao giấy dầu

nhỏ. Ông trong lòng chua xót, trong chiếc bao chỉ có một bộ Dịch Cân

Kinh viết bằng chữ Phạn mà hôm trước A Châu ăn trộm được ở chùa

Thiếu Lâm, ép mình phải cầm lấy, mà nay người mất kinh còn, làm sao

không buồn bã? Ông tiện tay bỏ chiếc bao trở lại vào túi nói:

- Ta hôm nay đi săn, không mang theo tiền, nếu ngươi không có gì

tiêu thì theo ta vào thành mà lấy.

Du Thản Chi lớn tiếng nói:

- Họ Kiều kia, ngươi muốn giết thì cứ giết, muốn lóc da xẻ thịt thì

cứ việc chứ đừng dùng ngụy kế làm nhục ta? Họ Du này dù có chết đói

cũng không thèm nhận một văn tiền của ngươi đâu!

Tiêu Phong nghĩ lại y nói không sai, mình là kẻ thù giết cha, mối

thâm cừu bất cộng đái thiên kia làm sao hóa giải, có nói thêm cũng vô

ích bèn bảo:

- Ta không giết ngươi đâu! Ngươi muốn báo thù thì lúc nào đến

kiếm ta cũng được.

A Tử vội nói:

- Tỉ phu, thả y không được. Tên tiểu tử này báo thù không dùng

cách thức đàng hoàng chân chính, chỉ dùng thủ đoạn hạ lưu hèn hạ. Chi

bằng nhổ cỏ nhổ tận rễ để khỏi di họa về sau.

Tiêu Phong lắc đầu:

- Trên giang hồ đâu đâu cũng đầy chông gai, chỗ nào cũng toàn

hung hiểm, ta đều đi qua cả rồi. Cỡ người như y không làm gì nổi ta đâu.

Hôm xưa ta khiến cho bá phụ và cha y phải tự vẫn, quả thực không phải

chủ mưu, nhưng món nợ máu đó ta thiếu đã lâu rồi, việc gì phải giết cả

con cháu Du thị song hùng nữa làm chi?

Ông nói tới đây, thấy lòng nguội lạnh bèn bảo:

- Thôi mình đi về, hôm nay chẳng có gì mà săn nữa.

A Tử bĩu môi nói:

- Em thấy nếu như được bắt gã này về hành hạ một phen cho bõ

ghét thì cũng thú vị! Anh thả y rồi, về thành còn có gì để vui đâu?

Thế nhưng nàng không dám cãi lời Tiêu Phong, đành quay đầu

ngựa, cùng Tiêu Phong sóng cương trở về, đi được mấy trượng quay đầu

nói:

- Tiểu tử kia, ngươi về luyện thêm một trăm năm nữa, lúc đó hãy

kiếm tỉ phu ta báo thù.

Nói xong nàng cười khẩy, giơ roi quất ngựa chạy đi.

THẢO MỘC TÀN SINH LÔ CHÚ THIẾT

Chết đi sống lại mấy lần,

Một thân gánh chịu muôn phần khổ đau.

Kim chi ngọc diệp còn đâu,

Đầu đeo lồng sắt xiết bao thảm hình.

*

* *

Du Thản Chi thấy Tiêu Phong cùng đoàn người đi thẳng về hướng

bắc, không thấy quay lại, lúc ấy mới chắc rằng mình thoát chết, nghĩ

thầm: Tên gian tặc này sao không giết ta nhỉ? Hừ, chắc là y coi ta chẳng

vào đâu, giết mình chỉ thêm bẩn tay. Y ... y ở nước Liêu làm cái chức đại

vương quái gì đó, mình sau này báo thù xem ra còn khó hơn. Thế nhưng ít

nhất mình cũng biết được tên gian tặc đó ở chỗ nào.

Y cúi xuống nhặt cái túi vôi sống lên, rồi đi kiếm con dao của y mà

Tiêu Phong đoạt bằng roi ngựa vứt ra, bỗng thấy trong bụi cỏ ở bên trái

có một cái bao vải dầu nhỏ, chính là của Tiêu Phong lấy từ trong bọc ra

rồi lại bỏ trở vào, liền nhặt lên, mở ra thấy bên trong là một cuốn sách,

thuận tay lật lật mấy trang, trang nào cũng viết đầy những chữ ngoằn

ngoèo, không đọc được lấy một chữ.

Thì ra Tiêu Phong thấy vật lại nhớ người, tâm hồn lãng đãng, bỏ bản

Dịch Cân Kinh vào trong túi không kỹ nên khi ngựa lồng lên, cái bao liền

văng ra rơi vào trong đám cỏ mà không hay biết gì cả.

Du Thản Chi nghĩ thầm: Chắc cái này là chữ Khất Đan đây. Quyển

sách này tên gian tặc luôn luôn mang theo trong người, hẳn rất quan

trọng. Ta lấy luôn không trả lại, để y khổ một phen cho đáng kiếp. Y

cảm thấy có phần nào báo được thù nên trong bụng khoái chí, lấy bao vải

dầu gói cuốn sách lại, bỏ vào túi rồi thẳng đường xuôi nam.

Y từ nhỏ theo cha học võ, có điều thân thể gầy gò, cánh tay yếu ớt,

không hợp với công phu cương mãnh ngoại gia của Du Thị Song Hùng,

học ba năm võ công nhưng tiến bộ chẳng mấy tí, thật chẳng đáng gọi là

con cháu danh môn. Y học đến năm mười hai, Du Câu chán nản hết hi

vọng, mới bàn với ca ca là Du Ký. Hai người cùng tính:

- Nếu con cái nhà họ Du mình ra ngoài mà võ nghệ quều quào như

thế chẳng khiến người ta cười đến sái quai hàm hay sao? Huống chi nếu

ai nghe y là con cháu Du Thị Song Hùng, không động thủ thì thôi chứ ra

tay thì phải toàn lực, ngay chiêu đầu đã lấy mạng y rồi. Chi bằng cho y

học văn, có thế mới bảo toàn được tính mạng.

Thành thử Du Thản Chi từ mười hai tuổi trở lên thì không học võ

nữa, Du Câu mới mời một vị túc nho dạy y văn chương. Thế nhưng y học

chữ cũng không chuyên cần, lúc nào hồn vía cũng để đâu đâu. Thầy đồ

dạy:

- Tử viết: Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?1 Y liền đáp:Cái

đó cũng còn phải xem học cái gì mới biết được, gia gia dạy đệ tử đánh

quyền, con học rồi tập luyện, có thấy vui sướng gì đâu.

Thầy đồ cáu tiết nói:

- Khổng phu tử nói là nói chuyện học đạo thánh hiền, đại nghiệp

kinh bang tế thế chứ nào phải là chuyện múa quyền đánh gậy đâu?

Du Thản Chi nói:

- Được, thầy bảo cha con, bác con múa quyền đánh gậy là chẳng ra

gì, để con đi nói cho cha con biết.

Cứ như thế y làm cho thầy đồ tức quá phải bỏ đi. Y liên tiếp chọc

giận hết thầy đồ này tới thầy đồ khác không ai chịu nổi, Du Câu đánh nó

không biết bao nhiêu trận, nhưng thằng bé này càng đánh càng lỳ lợm.

Du Câu thấy con chẳng vâng lời, cứng đầu khó dạy chẳng biết làm sao

chỉ còn nước thở dài sườn sượt, để ra sao thì ra. Thành thử năm nay Du

Thản Chi đã mười tám rồi, tuy dòng dõi danh môn mà thật đúng là văn

dốt võ dát, đến khi bá phụ và phụ thân tự vẫn, mẫu thân đập đầu vào cột

tuẫn phu, y cô khổ lênh đênh, đi lang thang không nhà không cửa, trong

đầu lúc nào cũng chỉ nghĩ đến việc làm sao kiếm được Kiều Phong để

báo thù.

Trận đại chiến Tụ Hiền Trang hôm đó, y náu ở góc nhà xem đánh

nhau, tướng mạo hình dạng Kiều Phong y đã ghi nhớ kỹ càng, nghe nói

ông người Khất Đan bèn tất tưởi đi lên miền bắc. Y thấy trên giang hồ

một tên du thủ du thực ném vôi sống làm mù mắt địch nhân, cảm thấy

cách này có thể dùng được, nên cũng học theo tìm một gói vôi bột dắt

trong người. Y ở biên giới chạy đôn chạy đáo để sao bọn quan binh Khất

Đan đi gặt lúa bắt được thành ra mới gặp Tiêu Phong, có dịp ném bao

vôi bột ra quả thực là cơ hội ngàn năm một thuở.

Y trong bụng nghĩ thầm: Việc trước mắt là chạy sao cho càng xa

càng tốt đừng để y bắt lại được. Rồi mình sẽ tìm cách đi bắt một con rắn

độc hay một con rết lớn, len lén vứt vào giường y, y vừa chui vào chăn là

nó cắn chết tươi. Còn tiểu cô nương kia ... còn tiểu cô nương kia, chao ôi,

sao ... sao mà có người đẹp thế!.

Y vừa nghĩ đến khuôn mặt A Tử, lồng ngực thấy nóng hổi, rồi mặt

cũng bừng bừng chỉ còn nghĩ: Không biết đến bao giờ mình mới được

gặp lại cô gái xinh đẹp có khuôn mặt xanh xao, thân hình ẻo lả kia.

Y cúi đầu rảo bước, chẳng mấy chốc đã vượt qua đoàn người vừa

được Tiêu Phong thả ra. Có người tử tế gọi y nhập bọn đi chung, y cũng

chẳng thèm để ý, cứ lầm lũi mà đi. Đi được hơn chục dặm, bụng đói đến

kêu lên ùng ục, y đưa mắt nhìn ngang nhìn ngửa xem có gì ăn được không

nhưng trên thảo nguyên ngoài cỏ khô và tuyết trắng ra chẳng còn gì khác

nghĩ thầm: Nếu như mình là con bò, con cừu thì tốt biết mấy. Ăn cỏ

uống tuyết thật sung sướng bao nhiêu. Ôi, nếu như mình chỉ là một con

cừu non, người ta đem cha mẹ mình hai con vật già ấy xẻ thịt ăn thì liệu

mình có báo thù không nhỉ? Thù cha mẹ không đội trời chung, dĩ nhiên

phải trả rồi. Thế nhưng báo thù cách nào đây? Lấy hai cái sừng húc gã đồ

tể giết cha mẹ mình ư? Người ta nuôi bò nuôi cừu, vốn là để xẻ ra làm

thịt ăn, sao lại nói đến chuyện trả thù được?.

Y nghĩ ngợi gần xa, lại cất bước đi, đột nhiên nghe tiếng chân ngựa

lộp cộp, ba gã kỵ binh Khất Đan từ trên mặt tuyết chạy tới, vừa thấy y đã

lớn tiếng reo hò. Một tên Khất Đan vung sợi dây thòng lọng trên tay ra,

nghe soạt một tiếng quàng ngay vào cổ Du Thản Chi, kéo một cái sợi dây

liền xiết lại. Du Thản Chi đưa tay toan gỡ, tên Khất Đan huýt một tiếng,

con ngựa liền chạy tới. Du Thản Chi đứng không vững, ngã lăn ra, bị gã

kia lôi đi xềnh xệch. Du Thản Chi kêu lên thảm thiết nhưng chỉ được mấy

tiếng thì cổ họng đã bị dây thừng chẹn rồi, không còn ú ớ được nữa.

Tên Khất Đan cũng sợ y chết ngạt nên dừng cương lại. Du Thản Chi

ở dưới đất cố gắng lồm cồm đứng lên, gỡ chiếc dây đang buộc nơi cổ. Gã

Khất Đan kéo mạnh một cái, Du Thản Chi lảo đảo, lại ngã phịch xuống,

ba tên Khất Đan cùng cười sằng sặc. Tên Khất Đan cầm sợi dây buộc cổ

Du Thản Chi nói mấy tiếng nhưng y không hiểu được câu nào, chỉ biết

lắc đầu. Gã Khất Đan vẫy tay một cái, lại giục ngựa chạy tiếp nhưng lần

này không chạy nhanh. Du Thản Chi sợ bị xiết cổ lần nữa, không thở

được nên đành đi hai bước lại chạy ba bước cho kịp.

Y thấy ba tên lính Khất Đan đi về hướng bắc, trong bụng chột dạ:

Tên khốn kiếp Kiều Phong miệng nói nghe thật dễ nghe, bảo thả mình

về, vừa quay đi quay lại đã sai bộ thuộc bắt lại. Lần này bị bọn chúng bắt

rồi, mạng mình còn sao được nữa?. Khi y bỏ nhà đi lên mạn bắc, trong

bụng chăm chăm lo việc báo thù, chẳng biết trời cao đất dày là gì, nên

khi gặp được Tiêu Phong, hình ảnh thê thảm của cha mẹ hiện ra trước

mắt, cơn giận bùng lên, định dùng vôi bột ném mù mắt ông ta, rồi sẽ rút

dao đâm ông chết. Thế nhưng tấn công mà không trúng, nhuệ khí tiêu

tan, chỉ mong sao thoát thân, ngờ đâu lại bị lính Khất Đan bắt lại.

Khi trước y bị bọn lính Khất Đan đi gặt lúa bắt được, để lẫn trong

đám đàn bà con gái, nữ nhân đi đứng không được nhanh, cước bộ của y

cũng theo kịp nên không bị hành hạ mấy tí, ngoài một sống dao chém

vào lưng lúc bị bắt mà thôi. Lần này thì khác hẳn, bước thấp bước cao,

chạy lên chạy xuống, thở hồng hộc, chưa được mấy bước lại vấp một cái,

mỗi lần vấp ngã xuống, dây thừng lại xiết vào sau ót một đường lằn. Gã

kỵ binh Khất Đan nào có chịu ngừng, cũng chẳng thèm xem coi y còn

sống hay đã chết, kéo y một mạch tới thành Nam Kinh. Vào trong thành

rồi, Du Thản Chi người đầy máu me, chỉ mong sao chết sớm chừng nào

đỡ khổ chừng nấy.

Ba tên lính Khất Đan vào trong thành còn chạy thêm mấy dặm nữa,

lúc ấy mới lôi y vào trong một tòa nhà to. Du Thản Chi thấy dưới đất lót

toàn phiến đá xanh, cột cao cửa rộng, không biết là nơi nào. Ở ngoài cửa

ngừng lại chưa đến thời gian uống một chén trà, tên kỵ binh kéo y vào

trong một tòa đại sảnh, đột nhiên chúm môi huýt một tiếng, hai chân kẹp

thúc mạnh, con ngựa liền chồm tới trước. Du Thản Chi đâu có ngờ gã kia

vào trong viện rồi lại phóng ngựa chạy nhanh, nên chỉ được ba bước đã

ngã lăn ra.

Tên lính Khất Đan luôn mồm giục ngựa, lôi Du Thản Chi chạy ba

vòng trong tòa nhà đó, càng lúc càng nhanh, có thêm mấy chục tên quan

binh đứng chung quanh hò hét trợ uy. Du Thản Chi nghĩ thầm: Thì ra y

định kéo mình lê dưới đất cho chết. Trán, chân tay, thân thể y đụng vào

đá dưới sàn, không chỗ nào không đau.

Trong tiếng reo vang của bọn quan binh Khất Đan, có lẫn tiếng cười

trong trẻo của một thiếu nữ. Du Thản Chi trong cơn mơ mơ màng màng,

loáng thoáng nghe cô gái cười nói:

- Ha ha, cái diều người này e rằng không thả nổi.

Du Thản Chi tự hỏi: Diều người là cái gì thế nhỉ?. Ngay lúc đó y

thấy dây buộc cổ xiết chặt, thân hình tung lên không, lập tức hiểu ra, tên

lính Khất Đan kia cưỡi ngựa chạy cho nhanh để y bay bổng lên, làm như

thả con diều bằng giấy.

Y toàn thân lăng không, sau ót đau buốt, mồm miệng bị gió thổi vào

thật ngộp thở, không còn biết gì nữa, lại nghe thiếu nữ kia vỗ tay reo lên:

- Hay quá! Hay quá! Quả thực đã phóng được con diều người lên

rồi.

Du Thản Chi nhìn ra phía có tiếng nói thấy người vỗ tay reo hò kia

chính là cô gái xinh đẹp mặc áo tím. Y vừa thấy nàng lập tức ngực như bị

chấn động mạnh, không biết nên buồn hay vui, thân hình trên không bay

lạng vù vù không cách gì suy nghĩ được.

Cô gái mỹ miều kia chính là A Tử. Nàng thấy Tiêu Phong thả cho

Du Thản Chi đi, trong bụng không vui, cưỡi ngựa đi được một quãng liền

cố ý tụt ra sau, khẽ dặn tùy tòng quay lại bắt Du Thản Chi đem về nhưng

không được để cho Tiêu đại vương hay biết. Bọn tùy tòng biết nàng được

Tiêu Phong cực kỳ sủng ái, nên vui vẻ tuân lời, giả vờ sửa lại dây buộc

yên ngựa, đứng lại ở triền núi, đợi Tiêu Phong và cả đoàn đi xa mới quay

lại bắt Du Thản Chi.

A Tử trở về Nam Kinh liền đến nơi xa Tiêu Phong ở là Hựu Thánh

Cung ngồi chờ. Đến khi bắt được Du Thản Chi về, nàng mới hỏi bọn Khất

Đan xem có trò gì đánh đập, hành hạ tội nhân mới mẻ thú vị không. Có

người đề nghị thả diều người, trò đó quả là hợp ý A Tử, nàng ra lệnh

thi hành ngay, nên bọn chúng liền đem Du Thản Chi ra thả diều.

A Tử xem thấy thú vị quá, luôn mồm khen hay, nói:

- Để cho ta thả diều một tí.

Nàng nhảy lên yên ngựa tên lính kia, cầm lấy dây thừng nói:

- Ngươi xuống đi.

Tên lính kia liền nhảy xuống ngựa để cho A Tử thả diều người. A

Tử cầm dây thừng giục ngựa chạy một vòng, miệng reo hò, suýt soa:

- Thích quá! Thích quá!

Thế nhưng nàng bị thương mới đỡ, tay vẫn còn yếu, cổ tay chùng ra,

chiếc thừng liền hạ xuống, nghe bình một tiếng, Du Thản Chi rơi bịch

xuống một cái thật đau, lăn trên nền đá, trán va phải góc nhọn của bậc

thềm, sứt thành một cái lỗ, máu chảy túa ra. A Tử cụt hứng, bực tức nói:

- Cái thằng ngốc này sao nặng thế?

Du Thản Chi tưởng chừng ngất xỉu, nghe nàng trách mình thân thể

nặng quá, đang định giãi bày mấy câu nhưng đau quá không nói thành

lời. Một tên quân Khất Đan bước tới, cởi chiếc thòng lọng buộc trên cổ,

một tên khác xé vải trên áo y, buộc qua quít vết thương, nhưng máu tươi

vẫn tiếp tục chảy thấm ra ngoài, làm sao ngừng được?

A Tử nói:

- Thôi thế được rồi, được rồi! Mình thả diều thêm lần nữa cho

vui, càng cao càng thích.

Du Thản Chi không hiểu nàng nói tiếng Khất Đan những gì, nhưng

thấy nàng hoa chân múa tay, chỉ lên trên cao xem ra không phải chuyện

tốt lành. Quả nhiên một tên Khất Đan cầm chiếc dây thừng luồn dưới

nách y, vòng một vòng để y khỏi bị xiết cổ ngộp thở, quát lên một tiếng:

- Lên nào!

Y giục ngựa chạy cho nhanh, kéo lê Du Thản Chi dưới đất mấy

vòng, rồi lại phóng lên. Sợi dây thừng trong tay tên lính Khất Đan mỗi

lúc một dài thêm, thân hình Du Thản Chi cũng mỗi lúc một cao.

Tên lính Khất Đan đột nhiên buông tay, nghe vèo một tiếng, Du

Thản Chi thật chẳng khác gì tên rời khỏi dây cung, bay vút lên trời. A Tử

và các quan binh đều reo hò khen ngợi. Du Thản Chi thân hình tự nhiên

bật văng lên không, trong bụng chỉ nghĩ được: Thôi lần này chết thật

rồi!.

Khi sức văng đã hết, y đầu lộn xuống đất, chân chổng lên trời lao

thẳng xuống, xem ra thể nào cũng lao vào nền đá xanh, bốn tên quan

binh Khất Đan cùng tung thòng lọng ra, buộc chặt ngay hông y, cùng kéo

ghì về bốn phía. Du Thản Chi khi đó đã ngất đi, nhưng bốn luồng lực đạo

giữ y bông bênh giữa trời, chỉ còn cách đất chừng ba thước. Cái cảnh đó

quả thực nguy hiểm cùng cực, trong bốn người chỉ cần một người ra tay

hơi chậm, lực đạo không cân, đầu Du Thản Chi thể nào cũng rơi thẳng

xuống vỡ sọ ngay. Người Khất Đan thường thường đem người Tống ra để

làm trò vui, tù binh bị đem ra thả diều, mười người thì đến tám chín

người chết. Nếu như ở ngoài thảo nguyên đất mềm, từ trên cao như thế

đâm bổ xuống, ví như không vỡ đầu thì cũng gãy cổ chết như nhau.

Trong tiếng hò reo, bốn tên lính Khất Đan hạ Du Thản Chi xuống. A

Tử lấy tiền, thưởng cho mỗi đứa năm lượng bạc. Các quan binh lớn tiếng

tạ ơn, hỏi thêm:

- Cô nương có còn muốn thêm trò vui gì nữa không?

A Tử thấy Du Thản Chi đã ngất xỉu, cũng chẳng biết y còn sống hay

chết rồi, mới đây nàng thả diều, dùng sức quá độ, ngực ngâm ngẩm

đau, không còn hơi đâu mà vui chơi thêm nữa bèn nói:

- Vui thế đủ rồi. Gã tiểu tử này nếu chưa chết, ngày mai lại mang y

đến cho ta, để ta nghĩ cách nào tiêu khiển. Tên này định ám toán Tiêu

đại vương, không thể để y chết dễ dàng quá như thế được.

Các quan binh cùng vâng lời, lôi cổ Du Thản Chi mình mẩy đầy máu

me ra.

Khi Du Thản Chi tỉnh lại, thấy một mùi ẩm mốc hôi hám xông thẳng

vào mũi, mở choàng mắt ra thấy chung quanh tối đen như mực, không

nhìn thấy một chút gì. Ý niệm đầu tiên y nghĩ đến là Không biết mình

đã chết chưa? nhưng lập tức thấy toàn thân chỗ nào cũng đau nhức, cổ

họng khô ran không sao chịu nổi liền rên lên mấy tiếng:

- Nước! Nước!

Thế nhưng nào có ai ngó ngàng gì đến y?

Y kêu được mấy tiếng, lại mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi, thấy nào

bá phụ, phụ thân cùng Kiều Phong đại chiến, giết nhau đến máu văng

đầy mặt đất, rồi mẫu thân ôm mình trong lòng, dịu dàng an ủi, bảo mình

đừng sợ. Rồi kế đó A Tử hiện ra với khuôn mặt thật tú lệ, đôi mắt trong

veo với quang thái thật lạ lùng. Khuôn mặt bỗng nhiên thu nhỏ lại, thành

đầu một con rắn hình tam giác, lè chiếc lưỡi dài đỏ au, lộ hai chiếc nanh

nhọn hoắt mổ vào người y. Du Thản Chi hết sức vùng vẫy nhưng không

cách nào động đậy được, con rắn đó cứ day từng miếng thịt, trên tay, dưới

đùi, cạnh cổ chỗ nào cũng cắn, khi đến trán lại càng đau hơn. Y thấy

mình từng miếng thịt bị nhả xuống, muốn kêu toáng lên, nhưng không

phát ra một tiếng nào ...

Cứ như thế trằn trọc cả đêm, tỉnh dậy thì bị hành hạ đã đành mà

trong giấc mộng cũng thật là khổ sở. Hôm sau hai tên lính Khất Đan lại

áp giải y đến gặp A Tử. Cơn sốt đêm qua chưa lui, bước một bước lại ngã

bổ nhào về trước. Hai tên lính Khất Đan chia nhau xốc hai bên, lớn tiếng

chửi rủa, kéo lê y vào một tòa nhà lớn. Du Thản Chi tự hỏi: Không biết

chúng đưa mình đi đâu? Đem mình đi giết chăng?. Đầu y mê mê mẩn

mẩn, không thể nào suy tính gì được, thấy đi xuyên qua hai hành lang dài,

đến trước một sảnh đường. Hai tên lính Khất Đan đứng ngoài cửa bẩm

báo gì đó mấy câu, bên trong có tiếng một thiếu nữ đáp lại một tiếng,

sảnh môn đẩy ra, lính Khất Đan liền đưa y vào.

Du Thản Chi ngẩng đầu lên, thấy trong sảnh trải một tấm thảm cực

lớn, thêu hoa văn sặc sỡ, một thiếu nữ xinh đẹp ngồi trên một tấm nệm

ngay đầu đằng kia, chính là A Tử. Hai bàn chân nàng để trần, để trên

thảm. Du Thản Chi vừa nhìn thấy hai bàn chân nhỏ nhắn trắng trẻo, mịn

màng như ngọc, mềm mại như gấm của nàng lập tức tim đập thình thình,

hai mắt đăm đăm dính chặt đôi chân, thấy tưởng chừng lưng đôi chân cô

gái có phát ra ánh sáng, lờ mờ mấy đường gân xanh quả muốn chạy đến

vuốt ve cho thỏa dạ.

Hai tên lính Khất Đan thả y ra, Du Thản Chi lảo đảo một hồi, sau

cùng cũng gượng đứng được nhưng mục quang không lúc nào rời bàn

chân A Tử, thấy mười đầu ngón chân nàng sơn màu hồng nhạt, trông

chẳng khác gì mười cánh hoa.

A Tử cũng nhìn ra gã thanh niên xấu xí toàn thân đầy máu me,

khuôn mặt nhăn nhúm, cằm vêu vao kia ánh mắt hau háu một vẻ thèm

thuồng. Nàng nhớ lại một con sói đói mà nàng cùng hai sư huynh săn

được khi còn ở biển Tinh Tú, nàng bắn trúng con vật một mũi tên nhưng

chưa chết hẳn. Con vật đó bị trọng thương, mắt gườm gườm nhìn mình,

lúc bấy giờ chẳng khác gì Du Thản Chi, dường như chỉ muốn xông lên

cắn chết nàng, tuy không nhảy lên được, nhưng vẫn nhe hàm răng nhọn

hoắt gầm gừ.

A Tử thích thú nhìn ánh mắt đầy dã tính đó, lại nghe tiếng gừ gừ

nhưng chẳng làm gì được mình, tiếc rằng Du Thản Chi yếu đuối quá rồi,

không phản kháng gì được nữa quả thực chẳng còn gì thú vị. Ngày hôm

qua y ném túi vôi bột vào Tiêu Phong, lại không chịu quì lạy, ăn nói ra

vẻ ngang tàng, không chịu nhận tiền của Tiêu Phong, A Tử thích thú lắm

tưởng như bắt được một con thú dữ lợi hại. Nàng muốn hành hạ y cho

người y bị thương nhiều như vẩy cá, để y mỗi khi bị thương lại muốn xông

lên cắn mình một cái nhưng dĩ nhiên nàng không để cho y cắn trúng

được.

Đến khi bắt được y làm cái diều người rồi, con dã thú này lại

không chống cự, chết dở sống dở, thật chẳng có gì thích thú. Nàng hơi

nhíu lông mày nghĩ thầm: Có cách nào mới mẻ để hành hạ y cho vui

đây?.

Đột nhiên cổ họng Du Thản Chi phát tiếng hà hà, cũng không biết

một luồng lực đạo từ đâu đến, y chẳng khác gì một con báo nhanh nhẹn

lạ thường phóng đến A Tử, ôm chặt lấy bắp chân nàng, cúi đầu hôn hít

lưng bàn chân cô gái. A Tử hoảng hốt, kêu toáng lên. Hai tên lính Khất

Đan và bốn tì nữ phục thị A Tử cùng quát mắng, xông lên lôi gã ra.

Thế nhưng hai tay y cứ ôm chặt, chết cũng không buông. Tên lính

Khất Đan vừa kéo một cái, kéo luôn cả A Tử tuột khỏi chiếc nệm bông,

ngồi phệt xuống dưới thảm. Hai binh sĩ Khất Đan vừa sợ vừa tức, không

dám kéo thêm nữa, một tên đấm lên lưng y mấy cú thật mạnh, còn một

đứa thì đánh vào mặt. Người Du Thản Chi vẫn còn sưng vều, lại thêm cơn

sốt chưa hết, thần trí mê loạn không khác gì một người điên, những gì

đang gánh chịu dường như không biết đến. Y vẫn ôm chặt lấy chân A Tử,

tiếp tục hôn chân nàng.

A Tử cảm thấy đôi môi vừa nóng hổi, vừa khô khan của y chạm vào

chân mình, trong bụng sợ lắm, lại thêm cảm giác nhột nhạt2 lạ lùng, đột

nhiên kêu hoảng lên:

- Ối trời! Y cắn ngón chân ta.

Nàng quay sang nói với hai tên lính Khất Đan:

- Các ngươi mau ra chỗ khác, người này nổi cơn điên, ối chao, đừng

để y cắn đứt ngón chân ta.

Du Thản Chi mơn man ngậm ngón chân cô gái, A Tử tuy không thấy

đau nhưng lại sợ y bất thần cắn mạnh một cái, trong cơn gấp gáp, biết là

không thể dùng sức mà xong, sợ hai tên lính đánh y, y không kể sống

chết cắn một cái thì khốn.

Hai tên lính Khất Đan không biết làm sao, đành phải buông tay. A

Tử lại kêu:

- Đừng có cắn, ta tha ngươi khỏi chết, ối ối, ta sẽ thả ngươi ra.

Du Thản Chi bấy giờ tâm thần cuồng loạn, có còn biết nàng nói

những gì? Một tên lính Khất Đan cầm chặt yêu đao, định bụng bất thần

rút ra khỏi vỏ chém xuống ót y một nhát, chặt đứt đầu y, nhưng có điều y

ôm chân A Tử chặt quá, một đao chém xuống lại sợ làm nàng bị thương

cho nên ngần ngừ không dám.

A Tử lại tiếp:

- Này này, ngươi nào có phải là dã thú sao lại cắn người là sao?

Mau nhả ra, ta sẽ sai người trị thương, thả ngươi trở về Trung Nguyên.

Du Thản Chi vẫn không lý tới nhưng răng không cắn xuống nên

không làm nàng đau chút nào, hai tay vuốt ve lưng bàn chân, trong lòng

lâng lâng bay bổng, thật chẳng khác gì một cánh diều đang lững lờ giữa

từng mây.

Một tên lính Khất Đan chợt nảy ra một ý, xông vào bóp cổ Du Thản

Chi. Du Thản Chi bị nghẹt thở, tự nhiên há mồm, A Tử vội vàng rụt chân

lại, rút được ngón chân ra khỏi miệng y, đứng phắt dậy, lại sợ y nổi cơn

điên cắn nữa, dấu hai chân vào sau tấm nệm. Hai tên lính Khất Đan liền

giữ chặt Du Thản Chi, đấm liên tiếp vào ngực gã, đánh được độ mươi

quyền, y oa oa há mồm hộc ra mấy ngụm máu, làm bẩn cả tấm thảm rực

rỡ kia.

A Tử quát:

- Ngừng tay! Đừng đánh y nữa.

Sau một trận kinh hoàng, nàng cảm thấy gã tiểu tử này có điều quái

lạ thật vui nên không muốn đánh chết y ngay. Tên lính Khất Đan không

đánh nữa, A Tử ngồi xếp bằng trên tấm nệm, để ngoặt hai bàn chân trần

dưới mông, trong bụng tính toán: Có cách nào hành hạ y cho thật bõ

nhỉ?.

A Tử ngửng đầu lên, thấy Du Thản Chi mắt vẫn chăm chăm nhìn

mình, liền hỏi:

- Ngươi nhìn ta làm chi?

Du Thản Chi vốn chẳng còn kể sống chết vào đâu liền đáp:

- Cô nương đẹp quá đỗi, cho nên tôi thích nhìn.

A Tử bẽn lẽn nghĩ thầm: Tên tiểu tử này lớn mật thật, dám nói với

ta những lời khinh bạc. Thế nhưng trong đời nàng, chưa bao giờ có một

chàng trai nào dám ca tụng nàng đẹp ngay tận mặt. Khi nàng học nghệ ở

phái Tinh Tú, chư sư huynh đều coi nàng là một cô bé con ngang ngược

lanh lợi, còn khi đi cùng với Tiêu Phong, nếu không sợ nàng gây chuyện

thì cũng lo nàng chết bất ngờ, chưa bao giờ để ý xem nàng đẹp hay xấu.

Những lời ca ngợi sống sượng của Du Thản Chi, quả là xuất tự đáy lòng,

nàng không khỏi vui sướng ngầm nghĩ thầm: Ta giữ y lại ở gần bên,

thỉnh thoảng đem ra tiêu khiển cũng thích lắm. Có điều tỉ phu đã bảo là

thả y về, nếu như biết ta sai người bắt lại ắt sẽ bực mình. Chỉ dấu được

anh ấy hôm nay nhưng làm sao dấu được mãi. Nếu muốn tỉ phu không thể

nào biết được thì làm gì đây? Không cho ai nói thì cũng còn được, nhưng

nếu tỉ phu bất thần đi vào, bắt gặp y thì làm sao?.

Nàng trầm ngâm một hồi, bỗng chợt nghĩ tới: A Châu rất giỏi hóa

trang, giả làm cha ta đến nỗi tỉ phu còn không nhận ra, ta đem tiểu tử này

thay hình đổi dạng, anh ta sẽ không nhận ra được. Thế nhưng nếu y

không tự nguyện, mình hóa trang y rồi y sẽ rửa sạch đi, trở lại hình dáng

cũ thế thì có ích gì đâu?.

Đôi hàng mi cong của nàng hơi nhíu lại, lập tức tìm ra ngay, vỗ tay

reo lên:

- Hay lắm! Thật là hay! Cứ thế mà làm.

Nàng quay sang hai tên Khất Đan nói một hồi, hai tên lính đó có chỗ

nào chưa rõ lại hỏi lại. A Tử giải thích thêm rồi gọi thị nữ lấy ra năm

chục lượng bạc đưa cho họ. Hai tên Khất Đan cầm lấy, khom lưng hành

lễ, xốc Du Thản Chi ra khỏi sảnh.

Du Thản Chi kêu lên:

- Ta muốn ngắm nàng! Ta muốn ngắm cô gái xinh đẹp tàn ác kia.

Lính Khất Đan và thị nữ nào có hiểu tiếng Hán nên chẳng ai hiểu y

đang nói gì. A Tử cười mủm mỉm nhìn theo sau lưng y, nghĩ đến chủ định

thông minh của mình, càng thêm đắc ý.

Du Thản Chi bị đem trở về địa lao, vứt trên một đống cỏ khô. Đến

chiều hôm đó, có người đem đến cho y một bát thịt cừu, vài cái bánh bao.

Cơn sốt của Du Thản Chi chưa hạ, luôn mồm lảm nhảm khiến gã kia sợ

quá bỏ vội thức ăn xuống, chạy vội ra ngoài. Du Thản Chi không biết đói

nên chẳng đụng tới thịt hay bánh bao.

Tối hôm đó có ba tên Khất Đan đi vào. Du Thản Chi thần trí mơ hồ,

thấy vẻ mặt ba gã kia đầy vẻ quái đản, xem ra không phải tốt lành gì, chỉ

mang máng biết là nguy đến nơi nên cố gắng lồm cồm đứng lên, tính

chuyện đào tẩu. Hai gã Khất Đan xông đến đè nghiến y xuống, lật ngửa

mặt lên. Du Thản Chi chửi toáng lên:

- Quân Khất Đan chó má, chết đường chết chợ, đại gia sẽ băm vằm

chúng bay ra.

Vừa tới đó, gã Khất Đan thứ ba bưng một cái gì trăng trắng, trông

tựa như bông, lại giống như tuyết, dùng sức ập lên mặt y. Du Thản Chi

thấy mặt mình vừa ẩm vừa mát, đầu óc tỉnh lại nhưng không thở nổi, nghĩ

thầm: Thì ra bọn chúng bịt chặt thất khiếu cho mình chết ngạt.

Thế nhưng xem chừng y đoán không đúng, gã kia lại châm cho thủng

mũi mồm khiến y vẫn thở được nhưng mắt mở không ra, chỉ thấy mặt

dính đầy thứ gì nhão nhoẹt, rồi ai đó nắn khắp mặt y, tưởng như trát lên

một lớp bột nát. Du Thản Chi mơ mơ hồ hồ nghĩ thầm: Không biết tên

ác tặc này dùng cách quái ác gì giết mình đây?.

Một hồi sau, lớp bùn mềm trên mặt được người ta nhẹ nhàng gỡ ra,

Du Thản Chi mở mắt nhìn, thấy một khối bột mì in thành hình một mặt

người, chính là vừa ở mặt mình ra. Tên Khất Đan đó trịnh trọng bưng cái

vật đó, dường như sợ hư mất. Du Thản Chi lại chửi:

- Đồ Liêu cẩu thối tha, chúng mày rồi sẽ chết không có đất mà

chôn.

Ba gã Khất Đan không thèm để ý đến y, bưng cái khối bột nhão đó

đi mất. Du Thản Chi chợt nghĩ ra: Đúng rồi, bọn chúng nó tô lên mặt

mình một lớp thuốc độc, rồi chẳng bao lâu, mặt mình sẽ lở loét thối tha,

da thịt vỡ nát, biến thành quỉ quái .... Y càng nghĩ càng kinh, nghĩ thầm:

So với để bọn chúng hành hạ mình đến chết, chi bằng mình đập đầu

chết còn hơn. Y bèn húc đầu vào tường, bình bình bình ba cái. Ngục tốt

nghe tiếng vội vàng chạy vào, trói chặt chân tay y lại. Du Thản Chi đập

đầu đã thành sống dở chết dở, nay đành nằm yên chịu vậy.

Qua luôn mấy ngày, mặt y không hề đau đớn, cũng không lở lói,

nhưng y đã quyết ý chết, bụng tuy đói nhưng nhất định không ăn thức ăn

ngục tốt mang vào. Đến ngày thứ tư, ba gã Khất Đan kia lại trở vào địa

lao, lôi y đi. Trong cơn đau đớn, Du Thản Chi bỗng nảy ra một ý vị ngọt

ngào, nghĩ thầm chắc A Tử sai đem mình ra xỉ vả đánh đập, tuy thân thể

có phải khổ sở nhưng lại có cơ hội được nhìn khuôn mặt tú lệ kia, trên

khuôn mặt nhăn nhúm thoáng hiện một nụ cười.

Ba tên Khất Đan dẫn y đi qua mấy ngõ hẹp rồi vào trong một căn

nhà đá tối om om. Chỉ thấy lửa bập bùng chiếu sáng một bên vách đá,

một gã thợ rèn gân guốc cởi trần, đứng bên cạnh một cái đe sắt lớn, đang

xăm xoi xem một vật gì đen sì trên tay. Ba tên Khất Đan đẩy Du Thản

Chi đến trước mặt người thợ rèn, hai người chia ra nắm hai tay y, còn một

người giữ chặt sau lưng. Người thợ rèn nghiêng đầu qua, nhìn mặt y, lại

đăm đăm nhìn vào vật trong tay, dường như muốn so sánh.

Du Thản Chi nhìn vào vật trên tay y, thấy đó là một cái mặt nạ bằng

sắt mới đúc xong, trên có đục hai mắt mũi mồm bốn cái lỗ. Y còn đang

suy nghĩ, không biết cái này để làm gì thì tên thợ rèn đã cầm mặt nạ lên,

chụp vào mặt Du Thản Chi. Du Thản Chi tự nhiên hất đầu về sau tránh,

nhưng sau ót đã bị người ta giữ chặt, không cách gì thoát được, chiếc mặt

nạ liền áp vào mặt y. Y cảm thấy trên mặt lạnh ngắt, da thịt chạm vào

kim loại, mà kỳ lạ làm sao, cái mặt nạ đó thật khít khao kể cả mắt mũi

mồm, tưởng chừng như chế riêng cho y vậy.

Du Thản Chi chỉ ngạc nhiên giây lát lập tức hiểu ngay nguyên do,

một làn hơi lạnh chạy thẳng từ đỉnh đầu xuống xương sống: Chết rồi, cái

mặt nạ này chính là để cho ta, hôm trước bọn chúng dùng bột mì nhồi

thành khuôn. Bọn chúng làm cái mặt nạ sắt đó để làm gì? Không lẽ ...

không lẽ .... Y đã đoán ra cái dụng ý ác độc của người Khất Đan, nhưng

để làm gì thì không biết, không còn dám nghĩ thêm chỉ hết sức vùng vẫy

mong sao thoát ra được.

Người thợ rèn bỏ chiếc mặt nạ ra, gật gù tỏ vẻ hài lòng, rồi dùng

một chiếc kìm lớn kẹp bỏ vào lò lửa nung cho đỏ lên, tay phải cầm búa,

đập xuống choang choang. Y đập chiếc mặt nạ một lúc, đưa tay rờ rẫm

xương gò má và trán Du Thản Chi, rồi sửa những chỗ chưa được hoàn

toàn ăn khớp.

Du Thản Chi kêu lên:

- Bọn Liêu cẩu trời đánh kia, các ngươi làm chuyện thương thiên

hại lý, hung tàn ác độc thế này, ông trời sẽ giáng họa xuống tất cả chúng

bay không được chết yên chết lành, đến cả bò ngựa nhà bay cũng chết

nốt, con nít cũng chết non.

Y ngoác mồm chửi rủa nhưng người Khất Đan chẳng hiểu câu nào.

Gã thợ rèn đột nhiên quay phắt lại, hầm hầm nhìn y, cầm chiếc kìm sắt

đang nóng đỏ, dí vào mắt y khiến Du Thản Chi sợ đến hét ầm lên.

Thế nhưng gã thợ rèn chỉ dọa y một mẻ, cười sằng sặc, rút chiếc kìm

về, lại lấy ra một khối sắt hình cong ướm thử vào sau ót Du Thản Chi.

Sau khi gõ cho vừa, tên thợ rèn bèn đem cả mặt nạ lẫn cái chụp hình bán

cầu bỏ vào lửa nung cho đỏ, lớn tiếng nói mấy câu. Ba tên Khất Đan liền

kéo Du Thản Chi lên bắt nằm trên một cái phản gỗ, để đầu y thò ra ngoài

bìa. Lại có thêm hai người Khất Đan khác đến giúp, dùng sức giữ chặt

đầu tóc y, khiến cho y không thể nhúc nhích. Năm người kẻ giữ chân

người nắm tay, thử hỏi Du Thản Chi còn cục cựa làm sao được?

Tên thợ rèn kẹp chiếc mặt nạ nóng đỏ lên, ngừng lại một chút cho

nguội bớt, quát lớn một tiếng, rồi áp lên mặt Du Thản Chi. Khói trắng

xèo xèo bốc lên đồng thời mùi thịt cháy khét bay tứ tán. Du Thản Chi chỉ

kêu lên được một tiếng rồi ngất xỉu. Năm tên Khất Đan lật người y lại, gã

thợ rèn lại kẹp nửa đầu bên kia, để vào sau ót, hai mảnh bán cầu ráp lại

thành một trái cầu sắt bao chặt đầu Du Thản Chi lại. Cái lồng sắt còn

nóng lắm, đụng vào thịt liền đốt cháy thành một khối bầy nhầy. Gã thợ

rèn đó là thiết công khéo léo vào bậc nhất ở thành Yên Kinh, hai nửa

chiếc lồng sắt dính chặt làm một chỗ nào cũng thật khít khao.

Du Thản Chi chẳng khác gì rơi vào địa ngục, bị thiêu đốt trong vạn

trượng lửa không biết bao lâu mới dần dần tỉnh lại nhưng trước mặt và

sau ót đau đớn khôn cùng chịu không nổi, lại ngất đi. Cứ như thế ba lần

tỉnh lại, ba lần ngất xỉu, y lớn tiếng kêu gào nhưng chỉ phát ra những

tiếng ú ớ không ra tiếng người.

Y đành nằm yên cố gắng không suy nghĩ gì khác, nghiến răng cố

chịu đựng nỗi đau đớn ở mặt và ót phải đến hơn hai giờ mới đưa được tay

lên sờ thử, tay đụng phải vật gì vừa cứng vừa lạnh, biết ngay những gì

mình đoán không sai, cái mặt nạ kia đã chụp lên đầu mình rồi. Trong cơn

phẫn khích, y cố giằng nó ra nhưng cái lồng sắt đó đúc thật kiên cố,

không hề suy suyển chút nào. Y càng nghĩ càng thêm tuyệt vọng nhịn

không nổi khóc òa lên.

Thế nhưng dẫu sao y tuổi cũng còn trẻ, nỗi thống khổ tuy lớn lao

nhưng rồi cũng chịu được không đến nỗi chết, qua mấy ngày sau vết

thương dần dần se da, đau đớn cũng bớt, bụng cảm thấy đói. Y ngửi thấy

mùi thịt cừu và bánh bao nhịn không nổi cầm lấy ăn. Lúc này y đã mò kỹ

biết rõ chiếc lồng sắt ấy bao chặt đầu mình như thế nào, không thể nào

thoát ra được, mấy ngày đầu nổi cơn cuồng nộ nhưng rồi cũng bình tĩnh

lại, tự hỏi: Tên cẩu tặc Kiều Phong chụp lên đầu ta cái lồng sắt này,

không biết có dụng ý gì?.

Y vẫn nghĩ tất cả đều do lệnh của Tiêu Phong làm sao có thể đoán ra

rằng sở dĩ A Tử làm cái đầu sắt chính là che dấu để ông không nhận ra y.

Cái công trình đó, tất cả đều do đội trưởng Thất Lý theo lệnh A Tử mà thi

hành.

Ngày ngày A Tử đều hỏi Thất Lý xem Du Thản Chi sau khi đeo cái

lồng sắt tình hình ra sao, lúc đầu thì lo y chết sẽ mất vui, về sau biết y

vẫn còn sống, trong bụng hết sức hoan hỉ. Hôm đó nàng nghe tin Tiêu

Phong đi xuống Nam Giao duyệt binh liền bảo Thất Lý đem Du Thản Chi

đến Đoan Phúc Cung. Gia Luật Hồng Cơ vì muốn cho Tiêu Phong vui

lòng nên đã phong nàng là Đoan Phúc quận chúa, tòa Đoan Phúc Cung

này là ban riêng cho nàng ở.

A Tử vừa nhìn thấy hình dạng Du Thản Chi liền cảm thấy một niềm

vui vô bờ bến từ đáy lòng dâng lên, nghĩ thầm: Cái cách này của ta thật

được việc. Tiểu tử này đeo cái mặt nạ thì tỉ phu dẫu có đứng trước mặt y

cũng không thể nào nhận ra. Du Thản Chi lại đi tới mấy bước, A Tử vỗ

tay khen ngợi nói:

- Thất Lý, cái mặt nạ này đúc khéo quá, ngươi đem năm chục lạng

bạc thưởng thêm cho gã thợ rèn.

Thất Lý đáp:

- Vâng! Đa tạ quận chúa.

Du Thản Chi từ trong hai cái lỗ mắt nhìn ra, thấy A Tử mặt mày tươi

rói, cực kỳ kiều diễm, lại được nghe tiếng nói thanh tao của nàng, không

khỏi ngơ ngẩn như trời trồng. A Tử thấy y đội chiếc mặt nạ, thần tình quái

lạ, nhưng mắt vẫm đăm đăm nhìn mình nên cũng biết được bèn hỏi:

- Này thằng ngốc kia, ngươi nhìn ta làm gì thế?

Du Thản Chi đáp:

- Tôi ... tôi ... không biết nữa. Cô ... cô nương đẹp quá.

A Tử mỉm cười:

- Ngươi đeo cái mặt nạ đó, thích hay không thích?

Du Thản Chi hậm hực hỏi lại:

- Thế cô nghĩ có thích hay không?

A Tử cười khanh khách đáp:

- Ta không nghĩ ra.

Nàng thấy miệng trên cái mặt nạ của y chỉ mở một đường thật hẹp,

miễn cưỡng có thể húp canh ăn cơm, còn như muốn ăn thịt thì phải dùng

tay xé nhỏ mới đút vào được, có muốn cắn ngón chân mình thì cũng

không được bèn cười nói:

- Ta đeo cho ngươi cái mặt nạ đó để ngươi mãi mãi không thể nào

cắn ta được.

Du Thản Chi trong lòng chợt mừng hỏi lại:

- Cô nương sẽ cho tiểu nhân ... cho tiểu nhân ... được ... luôn luôn ở

gần bên hầu hạ hay sao?

A Tử đáp:

- Hứ, ngươi là một tên tiểu tử xấu xa, ở gần bên lúc nào cũng tính

chuyện hại ta thì sao mà chịu được.

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân ... tiểu nhân ... nhất quyết không bao giờ hại cô nương.

Kẻ thù của tiểu nhân chỉ một mình Kiều Phong thôi.

A Tử nói:

- Ngươi muốn hại tỉ phu ta ư? Thế thì cũng như hại ta vậy? Có khác

gì đâu?

Du Thản Chi nghe nàng nói vậy thấy một nỗi chua xót dâng lên

trong lòng, không biết phải trả lời sao. A Tử cười nói:

- Ngươi muốn hại anh rể ta thật còn khó hơn lên trời. Này thằng

ngốc, ngươi có muốn chết không?

Du Thản Chi đáp:

- Lẽ dĩ nhiên tiểu nhân không muốn chết. Thế nhưng bây giờ trên

đầu đeo cái đồ chết tiệt này, người không ra người, quỉ không ra quỉ, so

với chết thì có khác gì bao nhiêu?

A Tử nói:

- Nếu ngươi quả là thà chết sướng hơn, thì cũng được, ta sẽ giúp

ngươi tròn tâm nguyện, có điều không phải muốn chết là chết ngay đâu.

Ta chặt tay trái ngươi trước đã.

Nàng quay sang Thất Lý đang đứng hầu bên cạnh truyền lệnh:

- Thất Lý, ngươi đem y ra, chặt tay trái trước.

Thất Lý đáp lời:

- Vâng!

Y đưa tay ra nắm lấy cánh tay Du Thản Chi. Du Thản Chi sợ quá kêu

lên:

- Đừng! Đừng! Cô nương, tiểu nhân không muốn chết, cô nương ...

cô nương đừng chặt tay tôi.

A Tử cười nhạt nói:

- Ta đã nói rồi không lẽ không tính, trừ phi ... trừ phi ... ngươi quì

xuống khấu đầu.

Du Thản Chi còn hơi ngần ngừ, Thất Lý đã cầm tay y lôi đi. Du Thản

Chi không còn dám lần khân nữa, khuỵu hai đầu gối, lập tức quì xuống

rập đầu, cái lồng sắt đập vào nền gạch, nghe boong một tiếng. A Tử cười

khanh khách nói:

- Tiếng khấu đầu sao dễ nghe quá, ta chưa từng nghe thấy bao giờ,

ngươi sụp lạy ta thêm vài cái nữa xem nào.

Du Thản Chi là tiểu trang chủ của Tụ Hiền Trang, tuy học văn không

được, học võ không thông, trong trang ai cũng biết y là loại ăn hại đái nát

nhưng Du Ký có con lại chết non, Du Câu thì chỉ có một cậu con vàng con

ngọc này, tiểu trang chủ nhất hô bách nặc3, từ nhỏ đã được nuông chiều

tôn kính, có bị khinh khi như thế này bao giờ đâu? Y mới gặp Tiêu Phong

vẫn còn một chút ngạo khí thà chết không chịu khuất phục nhưng mấy

hôm nay, thân thể cũng như tâm linh đều bị những vết thương cực kỳ lợi

hại, bao nhiêu hào khí của tuổi thanh niên đều tiêu tán không còn gì nữa,

nghe A Tử nói như vậy, lập tức liên tiếp khấu đầu, leng keng vang dội,

được vị cô nương trông như nàng tiên này khen mình sụp lạy dễ nghe,

trong lòng thầm hoan hỉ.

A Tử nở một nụ cười duyên dáng nói:

- Hay lắm! Từ nay ngươi phải vâng lời ta, không cưỡng lại thì

không sao, bằng không ta sẽ chặt tay ngươi, nhớ không nào?

Du Thản Chi đáp:

- Vâng! Vâng!

A Tử lại tiếp:

- Ngươi đúng là một thằng ngu, ta cứu mạng ngươi, ngươi lại không

biết ơn. Tiêu đại vương muốn băm vằm ngươi ra, ngươi không biết hay

sao?

Du Thản Chi đáp:

- Y là kẻ thù giết cha tôi, dĩ nhiên không thể tha tôi được.

A Tử nói:

- Ông ta giả vờ tha ngươi ra, nhưng lại sai người đuổi theo bắt lại

để băm ngươi ra thành tương. Ta thấy ngươi không đến nỗi tệ lắm, giết đi

thật tội nghiệp, nên cố gắng che đậy cho ngươi. Thế nhưng nếu như Tiêu

đại vương bắt gặp thì liệu ngươi có sống được hay chăng? Ngay cả ta

cũng phải chịu liên lụy rất lớn.

Du Thản Chi lập tức hiểu ra bèn đáp:

- À, thì ra cô nương đúc cái đầu sắt này cho tiểu nhân đội chính là

vì có lòng tốt, cốt để cứu mạng cho tôi. Tiểu nhân ... tiểu nhân thật là

cảm kích, thật thế ... hết sức cảm kích.

A Tử đánh lừa được y khiến cho y biết ơn mình nên rất đắc ý, mỉm

cười nói:

- Vì thế lần sau ngươi gặp Tiêu đại vương thì không được nói năng

gì để ông ta không nhận ra tiếng ngươi. Nếu như ông ta biết được là

ngươi, hừ, hừ, thì sẽ chặt ngay tay trái, một hồi sau lại chặt luôn tay phải.

Thất Lý, ngươi mau đem y ra thay đổi y phục Khất Đan, tắm cho y một

cái chứ người đầy máu mủ tanh hôi, nặng mùi quá.

Thất Lý đáp lời dẫn y ra ngoài. Chẳng mấy chốc, Thất Lý lại đưa Du

Thản Chi vào, đã thay đổi quần áo Khất Đan cho y. Thất Lý muốn A Tử

vui lòng cố ý mặc cho y thật sặc sỡ, nam chẳng ra nam, nữ chẳng ra nữ,

trông như một thằng hề.

A Tử nhếch mép cười:

- Để ta đặt cho ngươi một cái tên, gọi là ... gọi là ... Hề Sắt. Từ nay

ta gọi Hề Sắt ngươi phải dạ nghe chưa. Hề Sắt!

Du Thản Chi vội vàng đáp:

- Dạ!

A Tử cực kỳ sung sướng, đột nhiên nghĩ ra một việc nói:

- Thất Lý, nước Đại Lương bên Tây Vực có đem qua một con sư tử,

phải không? Ngươi bảo huấn sư đem nó qua đây, lại gọi thêm mười vệ sĩ.

Thất Lý vâng lời ra ngoài truyền lệnh. Mười sáu tên vệ sĩ tay cầm

trường mâu tiến vào trong điện, quay về phía A Tử khom lưng hành lễ,

rồi đứng lên, mười sáu mũi giáo chĩa ra ngoài, bảo vệ chủ nhân. Chẳng

mấy chốc đã nghe ngoài cửa điện có tiếng sư tử gầm, tám người đàn ông

khỏe mạnh khiêng một cái chuồng bằng sắt lớn, trong chuồng là một con

sư tử đực đi qua đi lại, chòm lông đuôi dài rủ xuống, răng nhọn vuốt sắc,

thần tình thật là uy võ. Người luyện thú đi trước, tay cầm roi da.

A Tử thấy con sư tử đó thật là hung dữ đáng sợ, vui mừng nói:

- Hề Sắt, mồm ngươi nói thì nghe hay lắm nhưng chẳng biết có thật

hay không. Để ta thử xem cho biết, coi ngươi có nghe lời ta chăng.

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Y vừa trông thấy con mãnh sư đã hoảng thầm, không biết có dụng ý

gì nghe nàng nói thế, lập tức tim đập thình thình. A Tử nói:

- Không biết chiếc lồng trên đầu ngươi có chắc chắn hay không,

ngươi thử thò đầu vào trong chuồng cho sư tử cắn mấy cái, xem nó có cắn

vỡ được cái lồng sắt đó hay không?

Du Thản Chi hoảng hốt ấp úng:

- Cái đó ... cái đó chẳng nên thử làm gì. Nếu nó cắn vỡ thì đầu tiểu

nhân ...

A Tử nói:

- Cái đồ ngươi thật là vô dụng. Có một việc như thế mà cũng sợ,

nam tử hán đại trượng phu thì phải xem cái chết như trở về nhà4 mới phải

chứ. Ta xem chừng nó cắn không vỡ được đâu.

Du Thản Chi năn nỉ:

- Cô nương, việc này đâu phải trò đùa, ví như nó cắn không vỡ, con

súc sinh này lại làm cái lồng méo đi thì cái đầu tiểu nhân ...

A Tử cười khanh khách nói:

- Thì cùng lắm cái đầu ngươi cũng bị méo thôi. Tên tiểu tử này thật

lắm chuyện, vốn dĩ ngươi cũng đâu có đẹp đẽ gì, dù đầu có méo thì cũng

vẫn còn ở trong cái lồng có ai nhìn thấy đâu mà lo, sợ gì đẹp hay xấu.

Du Thản Chi vội đáp:

- Tiểu nhân nào có thích đẹp hay không đẹp ...

A Tử mặt sầm xuống nói:

- Ngươi không nghe lời ta, được, thôi ta biết rồi. Ngươi có ý đánh

lừa ta, vậy ta sẽ vứt ngươi vào trong lồng cho sư tử ăn thịt.

Nàng dùng tiếng Khất Đan dặn dò Thất Lý, Thất Lý liền đáp:

- Vâng!

Rồi lập tức xông lên nắm tay Du Thản Chi. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Nếu như mình bị đẩy vào chuồng sư tử thì còn sống sao nổi, chi bằng

nghe lời cô nương, đút cái đầu sắt vào thử, may nhờ rủi chịu. Y liền kêu

lên:

- Đừng kéo! Đừng kéo! Cô nương, tôi xin nghe lời.

A Tử cười nói:

- Có thế mới ngoan ngoãn chứ! Ta bảo này, từ rày ta bảo ngươi làm

gì là phải làm ngay, đừng có lừng khừng để cô nương phải bực mình. Thất

Lý, đánh cho y ba chục roi.

Thất Lý đáp:

- Tuân lệnh!

Y cầm chiếc roi da trong tay người dạy sư tử, nghe chát một tiếng đã

quất vào lưng Du Thản Chi. Du Thản Chi đau quá, kêu lên oai oái. A Tử

nói:

- Hề Sắt, ta bảo này, ta sai người đánh ngươi là coi trọng ngươi đó.

Ngươi kêu toáng lên như thế tức là không thích ta đánh chứ gì?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân thích lắm chứ, đa tạ ân điển cô nương.

A Tử nói:

- Thế thì được, đánh đi.

Thất Lý đánh chát chát luôn một chập mười roi, Du Thản Chi chỉ

đành nghiến răng cố chịu, không dám hé răng, thế nhưng nhờ có chụp cái

lồng sắt nên roi không đánh vào đầu, còn roi da đánh vào ngực bụng

cũng đành phải ráng chịu. A Tử thấy y không kêu nữa cảm thấy vô vị nói:

- Hề Sắt, ngươi bảo ngươi thích ta cho người đánh ngươi, phải

không nào?

Du Thản Chi đáp:

- Chính thế!

A Tử nói:

- Ngươi nói thế là thật hay giả? Hay chỉ là nói quấy nói quá để lừa

ta?

Du Thản Chi đáp:

- Đúng là thế, tiểu nhân nào dám đánh lừa cô nương.

*

* *

A Tử nói:

- Nếu quả là ngươi thích thú, sao không cười lên? Sao không nói là

được đánh thật sướng quá?

Du Thản Chi bị nàng hành hạ đến hết hồn hết vía, quên cả phẫn nộ,

chỉ đành xuôi theo:

- Cô nương đối với tiểu nhân thật là tử tế, lại sai người đánh thật là

sướng đời.

A Tử nói:

- Nói thế nghe được đấy, để thử xem sao.

Chát một tiếng, y lại bị thêm một roi, Du Thản Chi vội kêu:

- Đa tạ ơn cứu mạng của cô nương, roi này đánh sướng lắm.

Chẳng bao lâu đã bị đánh hơn hai chục roi, tính cả trận đòn trước thì

đã quá ba chục. A Tử xua tay nói:

- Thôi hôm nay thế đủ rồi. Ngươi mau đút đầu vào chuồng ta coi.

Du Thản Chi toàn thân đau như dần, khập khiễng bước tới bên

chuồng sư tử, nghiến răng đút đầu qua song sắt. Con sư tử thấy y dám tiến

lên khiêu khích như thế, sợ quá giật mình lùi lại hai bước, lom lom nhìn

chiếc đầu sắt một hồi, lại lùi thêm hai bước nữa, miệng gừ gừ ra oai. A

Tử quát:

- Bảo sư tử cắn đi, sao nó chưa cắn?

Gã dạy thú quát lên mấy tiếng, sư tử nhận được hiệu lệnh, liền chồm

tới, há mồm ra, ngoạm vào đầu Du Thản Chi, tiếp theo là tiếng kèn kẹt

răng sư tử cạ vào lồng sắt. Du Thản Chi nhắm chặt hai mắt, cảm thấy một

luồng hơi nóng theo lỗ mắt, lỗ mũi, lỗ mồm phà vào, biết rằng đầu mình

đã lọt thỏm trong mồm con mãnh thú, rồi sau ót và trán đau nhói lên.

Khi y bị chụp cái lồng sắt vào đầu, mặt mũi đầu tóc y đã bị chiếc

lồng nóng đỏ đốt cháy, sau mấy ngày bắt đầu liền da, bây giờ lại bị sư tử

cắn, bao nhiêu vết thương lại vỡ tung ra.

Con sư tử cố sức cắn mấy cái nhưng không được, ngược lại răng còn

bị ê ẩm, bèn ra oai giơ chân phải lên chộp lên vai Du Thản Chi. Du Thản

Chi đầu vai đau điếng, kêu A lên một tiếng. Con sư tử đột nhiên thấy

vật trong mồm mình bỗng rống lên, kinh hoảng nhả đầu y ra, lùi về nép

tại một góc lồng.

Gã dạy sư tử lớn tiếng quát tháo, giục sư tử xông đến cắn Du Thản

Chi lần nữa. Du Thản Chi giận quá, đột nhiên vươn tay ra, chộp luôn ót

gã huấn sư, đẩy mạnh một cái, dúi luôn đầu y vào trong chuồng sư tử,

khiến gã kêu lên inh ỏi. A Tử vỗ tay reo hò nói:

- Hay quá! Hay quá! Không ai được can thiệp, để hai đứa vật nhau

xem ai sống ai chết.

Bọn lính Khất Đan đang định tiến lên nắm tay Du Thản Chi lôi ra,

nghe A Tử nói thế đều đứng tại chỗ không động tĩnh gì. Gã dạy sư tử hết

sức dãy dụa, nhưng dã tính của Du Thản Chi nổi lên, nói gì thì nói nhất

định không buông. Gã huấn sư chỉ còn nước nhờ sư tử giúp mình, kêu lên:

- Cắn! Cắn y ngay!

Con sư tử thấy y thúc giục, gầm lên một tiếng chồm tới. Con vật chỉ

nghe chủ nhân bảo nó cắn đi, nhưng nào có biết cắn cái gì, hai hàm răng

nhọn hoắt há ra ngoạm luôn một nửa đầu gã dạy thú, khiến cho máu lẫn

óc tung tóe đầy mặt đất.

A Tử cười nói:

- Hề Sắt thắng rồi!

Nàng bèn bảo sĩ binh đem cái xác gã dạy thú và lồng sư tử ra ngoài,

nói với Du Thản Chi:

- Thế là phải! Ngươi làm cho ta hoan hỉ, phải thưởng gì mới được!

Thưởng cái gì đây nhỉ?

Nàng chống tay vào cằm nghiêng đầu suy nghĩ. Du Thản Chi nói:

- Cô nương, tiểu nhân không mong cô thưởng tiền, chỉ cầu xin một

việc.

A Tử hỏi:

- Ngươi cầu xin gì?

Du Thản Chi đáp:

- Xin cô cho tiểu nhân được ở bên cạnh hầu hạ, làm đầy tớ cho cô

nương.

A Tử ngạc nhiên:

- Làm đầy tớ cho ta ư? Sao lại thế? Có gì thích thú đâu? Ồ, ta biết

rồi, ngươi định đợi Tiêu đại vương đến thăm ta, thừa cơ hạ thủ, báo thù

cho cha mẹ chứ gì?

Du Thản Chi vội đáp:

- Không! Không! Không phải thế đâu.

A Tử nói:

- Không lẽ ngươi không định báo thù hay sao?

Du Thản Chi đáp:

- Không phải không nghĩ đến, có điều một là báo thù không được,

hai là không muốn để cô nương bị dính líu vào.

A Tử hỏi:

- Thế sao ngươi lại thích làm đầy tớ cho ta?

Du Thản Chi đáp:

- Cô nương là tiên trên trời hạ phàm, là người đẹp nhất trong thiên

hạ. Tiểu nhân ... tiểu nhân ... mong được ngày ngày trông thấy cô nương.

Câu đó cực kỳ vô lễ, ở vào tình trạng y lúc này, thì lại cũng thật là

lớn mật. Thế nhưng A Tử nghe vào tai thì lại rất vừa ý. Nàng tuổi còn

nhỏ, dung mạo tuy đẹp đẽ thật nhưng thân thể chưa trưởng thành, lại

thêm trọng thương mới khỏi, tiều tụy xanh xao mà bảo là người đẹp nhất

trong thiên hạ thì thật quá đáng, nhưng nghe một người vì nhan sắc mình

mà đắm đuối như thế cũng không khỏi mở cờ trong bụng.

Nàng đang toan bằng lòng lời thỉnh cầu của Du Thản Chi thì bỗng

nghe một tên cung vệ lên tiếng báo:

- Đại vương đến thăm.

A Tử đưa mắt cho Du Thản Chi, hạ giọng hỏi:

- Tiêu đại vương đến rồi kìa, ngươi có sợ không?

Du Thản Chi sợ đến mất vía nhưng vẫn run run nói cứng:

- Không sợ!

Điện môn mở toang ra, Tiêu Phong mặc khinh cừu đai lỏng5, chậm

rãi đi vào. Ông vừa vào cửa điện đã thấy trên sàn đầy những máu tươi,

lại thêm Du Thản Chi đầu đeo lồng sắt đứng đó, hình dáng hết sức lạ

lùng bèn vừa cười vừa hỏi A Tử:

- Hôm nay khí sắc cô trông tươi tỉnh lắm, lại có trò chơi gì mới

chăng? Người này trên đầu đeo cái gì lạ thế?

A Tử cười đáp:

Bối cảnh xã hội đời Tống

- Đây là người đầu sắt do nước Cao Xương bên Tây Vực tiến

cống, tên là Hề Sắt. Đầu y cứng lắm, đến sư tử cắn còn không vỡ, anh coi

nè, đây là vết răng sư tử đó.

Tiêu Phong coi kỹ chiếc lồng sắt, quả nhiên còn dấu răng mãnh thú

thật. A Tử lại tiếp:

- Tỉ phu, anh có cách gì gỡ cái lồng sắt này ra được không?

Du Thản Chi nghe nói thế, sợ đến hồn phi phách tán. Y đã từng

chính mắt trông thấy thần dũng của Tiêu Phong một mình đấu với quần

hùng Trung Nguyên, song chưởng đánh ra khiến cương thuẫn của cả bá

phụ và phụ thân đều văng đi, nếu như muốn gỡ cái lồng trên đầu mình thì

thật dễ như trở bàn tay. Khi bị người ta gắn chiếc lồng sắt vào đầu, y đau

khổ thất vọng, đến bây giờ thì lại mong rằng cái lồng sắt đó sẽ mãi mãi ở

trên đầu mình để Tiêu Phong không nhìn thấy bộ mặt thật.

Tiêu Phong giơ ngón tay búng nhẹ vào cái lồng sắt mấy cái, phát

tiếng leng keng cười nói:

- Cái lồng sắt này thật chắc chắn, thật tinh vi, làm hỏng thì uổng

lắm.

A Tử nói:

- Sứ giả nước Cao Xương nói rằng, gã đầu sắt này sinh ra mặt xanh

nanh vàng, ba phần người, bảy phần quỉ, ai trông thấy cũng phải hoảng

hồn tránh xa thành thử cha mẹ y mới đúc cái lồng này cho y đội để khỏi

làm cho người khác tởn thần. Tỉ phu ơi, em muốn xem bộ mặt thực của y

thế nào, có thực là kinh khủng dễ sợ hay không?

Du Thản Chi sợ quá run lẩy bẩy, răng đánh bò cạp kêu lách cách.

Tiêu Phong thấy y kinh hoảng dị thường bèn nói:

- Gã này sợ đến mất vía, thôi đừng bửa đầu y ra làm chi. Người này

từ nhỏ đội đã quen, nếu cố gắng lấy ra e rằng y không sống được.

A Tử vỗ tay reo lên:

- Thế thì thật thú vị. Mỗi khi em thấy con rùa em đều bắt nó đem

lột mai ra để xem rùa không mai có sống được không?

Tiêu Phong chau mày, nghĩ đến con rùa bị lột vỏ, quả là tàn nhẫn

nói:

- A Tử, sao ngươi lại cứ thích những trò tàn ác khiến cho người ta

sống dở chết dở như thế?

A Tử hứ một tiếng nói:

- Anh không thích em chứ gì? Em làm sao tốt được như chị A Châu?

Em mà được như chị A Châu thì đâu có đến nỗi mấy ngày anh không

thèm đến thăm.

Tiêu Phong nói:

- Làm cái chức khốn khổ Nam Viện Đại Vương này, suốt ngày bận

tối tăm mặt mũi. Thế nhưng chẳng phải ngày nào ta cũng đến chơi với cô

một lúc hay sao?

A Tử phụng phịu:

- Chơi với cô một lúc? Hứ, chơi với cô một lúc? Em chẳng thích cái

lối vờ vĩnh đến chơi với cô một lúc cho có chuyện của tỉ phu đâu? Giá

như em là chị A Châu thì ắt hẳn anh luôn luôn ở bên cạnh em không rời

một bước chứ đâu phải chỉ một lúc, nửa lúc mà thôi.

Tiêu Phong nghe nàng nói quả không sai nên không sao trả lời được,

chỉ đành cười trừ nói:

- Tỉ phu là người lớn, đâu có thích chơi đùa với trẻ con, sao em

không kiếm một cô gái nhỏ tuổi nào để trò truyện giải sầu?

A Tử hậm hực đáp:

- Trẻ con, trẻ con ... em nào có còn là trẻ con nữa? Anh không thích

chơi với em, sao còn đến đây làm gì?

Tiêu Phong đáp:

- Ta đến xem cô đã khỏe chưa? Hôm nay uống mật gấu rồi chứ?

A Tử cầm chiếc nệm trên ghế quăng mạnh xuống đất, giơ chân đá

một cái nói:

- Trong lòng em không được vui, dù mỗi ngày uống hàng trăm cái

mật gấu thì cũng chẳng khỏe được.

Tiêu Phong thấy nàng lại giở trò hờn mát, nếu là A Châu ông ắt sẽ

dỗ dành để nàng bớt giận làm lành, còn cô bé điêu ngoa ác độc này thì

càng nghĩ càng chán ghét nên chỉ nói:

- Thôi em đi nghỉ đi thôi.

Ông đứng lên đi ra. A Tử nhìn theo sau lưng ông, ngơ ngẩn muốn

khóc, chợt nhìn thấy Du Thản Chi, cơn giận bùng lên, bao nhiêu bực dọc

muốn trút lên đầu y bèn quát:

- Thất Lý, đánh thêm cho nó ba mươi roi nữa.

Thất Lý vội đáp:

- Vâng!

Y cầm chiếc roi lên. Du Thản Chi thất thanh kêu lên:

- Cô nương, tôi làm lầm lỗi gì thế?

A Tử không đáp, vẫy tay nói:

- Đánh mau!

Vút một tiếng, Thất Lý liền đánh xuống. Du Thản Chi lại kêu:

- Cô nương, quả thực tiểu nhân phạm tội gì, xin cô cho biết để lần

sau khỏi tái phạm.

Thất Lý cứ vút một roi rồi lại một roi nữa. A Tử nói:

- Ta muốn đánh là đánh, ngươi không được hỏi là tội gì, không lẽ ta

đánh sai hay sao? Ngươi hỏi là mình phạm tội gì ư? Thì chính vì ngươi hỏi

cho nên ta mới đánh.

Du Thản Chi nói:

- Tại cô nương đánh trước, tiểu nhân mới hỏi. Tôi chưa hỏi cô

nương đã sai đánh rồi mà.

Vút một roi, lại vút vút vút thêm ba roi nữa. A Tử cười nói:

- Ta đoán là ngươi sẽ hỏi cho nên ta sai người đánh trước. Quả

nhiên ngươi hỏi thật, có đúng là ta liệu sự như thần hay không? Cái đó

chứng minh là ngươi đâu có hết lòng hết dạ với ta. Cô nương bỗng nhiên

muốn đánh người, nếu quả ngươi trung thành thì phải xông lên, tự động

hiến thân cho ta đánh mới phải. Ngươi lầu bầu như thế đủ biết trong lòng

không phục. Được rồi, ngươi không thích ta đánh, thì thôi không đánh

cũng chẳng sao.

Du Thản Chi nghe nàng nói không đánh cũng chẳng sao mà sợ run

lên, người nổi da gà, biết rằng A Tử sẽ nghĩ ra những hình phạt còn đau

đớn khổ sở gấp mười lần đánh, chi bằng ngoan ngoãn chịu ba chục roi

còn hơn, vội nói:

- Tiểu nhân biết sai rồi! Cô nương đánh là đại ân đại đức, có ích

cho thân thể tiểu nhân, xin cô nương đánh thêm nữa, càng nhiều càng tốt.

A Tử nở một nụ cười tươi như hoa nói:

- Xem ra ngươi kể cũng thông minh nhưng ta đâu có để cho người

khác giăng bẫy được, ngươi bảo đánh càng nhiều càng tốt là để cho ta

cao hứng tha cho ngươi chứ gì?

Du Thản Chi đáp:

- Nào có dám thế, tiểu nhân quả không dám giăng bẫy đánh lừa cô

nương.

A Tử nói:

- Thế ngươi bảo đánh càng nhiều càng tốt là phát xuất tự đáy lòng

đấy chăng?

Du Thản Chi đáp:

- Quả đúng như thế, chính là tâm nguyện của tiểu nhân.

A Tử nói:

- Nếu đúng như vậy thì thôi ta cũng chiều ý ngươi. Thất Lý, đánh

cho nó một trăm roi, y thích đánh cho thật nhiều.

Du Thản Chi sợ đến mất mật, nghĩ bụng: Đánh một trăm roi thì

mạng mình còn sao nổi?. Thế nhưng việc đã đến nước này, dù y bảo

mình không muốn, nhưng người ta đánh là đánh cãi lại có ích gì đâu, nên

đành lặng thinh không dám nói gì cả.

A Tử hỏi:

- Sao ngươi không nói gì cả? Có phải trong lòng không phục chứ

gì? Ta sai người đánh ngươi, ngươi thấy không công bình chăng?

Du Thản Chi đành gượng đáp:

- Tiển nhân vui lòng thành khẩn, biết là cô nương đánh là do lòng

tốt muốn thành toàn cho tiểu nhân.

A Tử nói:

- Thế sao ngươi không nói gì cả?

Du Thản Chi không còn cách gì trả lời, ngập ngừng một hồi rồi đáp:

- Cái đó ... cái đó ... tiểu nhân nghĩ đến ơn đức cô nương nặng tày

non, trong lòng cảm kích, không còn biết nói sao nữa, chẳng biết tương lai

làm thế nào để báo đáp.

A Tử nói:

- Tốt lắm! Ngươi hỏi làm cách nào báo đáp ta ư? Mỗi roi ta đánh

ngươi, ngươi lại thêm hận thù một chút nhớ kỹ trong lòng chứ gì.

Du Thản Chi liên tiếp lắc đầu:

- Không! Không! Không đâu! Tiểu nhân nói báo đáp là nói chuyện

báo đáp chân chính. Tiểu nhân một lòng một dạ mong được vì cô nương

tan xương nát thịt, dẫu phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa bỏng cũng

không từ.

A Tử nói:

- Được, thế thì đánh đi.

Thất Lý vội đáp:

- Vâng.

Nghe chát một tiếng, roi da đã quất xuống. Đánh đến hơn năm chục

roi thì Du Thản Chi đau đến tê người, hai đầu gối nhũn đi, từ từ sụm

xuống. A Tử cười khì khì đứng coi, chỉ đợi cho y mở miệng van xin một

tiếng là nàng sẽ kết tội y nói láo, tăng thêm năm chục roi đòn. Có ngờ

đâu lúc này Du Thản Chi đã nửa tỉnh nửa mê, chẳng còn biết gì nữa, chỉ

rên khe khẽ nhưng không van xin câu nào. Đánh đến bảy chục roi thì y đã

ngất xỉu, Thất Lý vẫn không nương tay, đánh cho đủ một trăm roi lúc đó

mới ngừng.

A Tử thấy Du Thản Chi chỉ còn thoi thóp, chín chết một sống không

khỏi cụt hứng. Nàng nghĩ đến thái độ của Tiêu Phong chẳng thèm để ý

đến mình, trong bụng ấm ức nói:

- Lôi y đi! Gã này chẳng có gì vui! Thất Lý, có trò chơi mới nào

nữa không?

Du Thản Chi bị trận đòn đó phải dưỡng thương một tháng trời mới

khỏi. Người Khất Đan thấy A Tử đã quên y rồi nên không lôi y ra hành

hạ nữa, bỏ y vào ở chung với một đám người Tống bị bắt khác, bắt y phải

làm những việc hạ tiện nặng nhọc hơn cả, dọn hố xí, rửa chuồng cừu,

nhặt phân bò, phơi da thú chuyện gì cũng đến tay.

Du Thản Chi đầu đội cái lồng sắt nên ai ai cũng đem y ra chửi mắng

làm trò cười, đến cả đồng bào người Hán cũng coi y như con quái vật.

Thế nhưng y việc gì cũng nhịn, tưởng như biến thành người câm. Người

khác đánh chửi, y cũng không kháng cự, chỉ có khi nào có ai cưỡi ngựa đi

qua thì mới ngửng đầu lên nhìn, trong lòng khắc khoải duy nhất một

chuyện: Không biết đến chừng nào cô nương mới gọi mình lên đánh

đòn?. Y chỉ mong được nhìn thấy A Tử cho dù phải chịu roi vọt cũng

cam lòng chứ tuyệt nhiên chưa bao giờ có ý định đào tẩu.

Cứ như thế hơn hai tháng trời, khí hậu ấm dần. Hôm đó Du Thản Chi

theo mọi người ra phía nam thành Nam Kinh xúc đất khiêng gạch để đắp

thêm cho tường thêm chắc chắn, bỗng nghe thấy tiếng chân ngựa lộp cộp,

mấy người từ trong Nam môn đi ra, có tiếng cười trong trẻo nói:

- Ô kìa, tên Hề Sắt còn sống nhỉ? Ta vẫn tưởng y chết ngỏm từ đời

nào! Hề Sắt, ngươi lại đây.

Chính là tiếng của A Tử. Du Thản Chi ngày mong đêm nhớ, canh

cánh mong tới giờ phút này, nghe tiếng A Tử gọi, hai chân như đóng chặt

xuống đất, không sao di động được, chỉ thấy tim trong ngực đập thình

thình, lòng bàn tay toát mồ hôi.

A Tử lại gọi:

- Hề Sắt, đáng chết thực! Ta gọi ngươi lại đây, ngươi điếc hay sao?

Du Thản Chi lúc ấy mới đáp:

- Thưa cô nương, vâng.

Y đi đến trước đầu ngựa của cô gái. A Tử trong lòng thật vui vẻ, cười

nói:

- Hề Sắt, sao ngươi chưa chết hả?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân vẫn mong ... vẫn mong báo đáp ân điển cô nương mà

chưa được nên không thể chết.

A Tử càng thêm vui, cười khanh khách mấy tiếng nói:

- Ta đang đi tìm một đứa đầy tớ trung thành một lòng một dạ để

làm một chuyện, chỉ sợ người Khất Đan chân tay vụng về làm hỏng việc,

nếu ngươi chưa chết thì thật tốt quá. Ngươi đi theo ta.

Du Thản Chi đáp ngay:

- Vâng!

Lập tức đi theo sau ngựa nàng. A Tử vẫy tay bảo Thất Lý và ba tên

vệ sĩ Khất Đan quay trở về, không phải theo nữa. Thất Lý biết rằng nàng

đã nói gì thì người khác không thể nào khuyên giải được, cũng may tên

đầu sắt này nhút nhát khiếp nhược, đi theo nàng ắt không có chuyện gì

xẩy ra bèn nói:

- Xin cô nương sớm quay về phủ.

Bốn người bèn nhảy xuống ngựa đứng đợi bên cửa thành. A Tử giục

ngựa chạy chậm chậm, đi chừng bảy tám dặm, càng lúc càng hoang dã rẽ

vào một sơn cốc tối om om, gió lạnh từ một khe núi thổi qua khiến hai

người da thịt như se lại.

A Tử nói:

- Thôi, ở đây được rồi!

Nàng ra lệnh cho Du Thản Chi buộc ngựa tại một gốc cây rồi bảo:

- Những chuyện ngươi trông thấy ngày hôm nay, không được tiết lộ

cho ai một tí gì, ngay cả với ta cũng không được đề cập tới, nhớ chưa?

Du Thản Chi vội đáp:

- Vâng! Vâng!

Trong bụng vui muốn phát điên, A Tử chỉ cho một mình mình đi

theo, đến một nơi hẻo lánh như thế, dẫu cho nàng có đánh cho y một chập

thật đau thì cũng vẫn còn cảm thấy ngọt như đường. A Tử cho tay vào bọc

lấy ra một chiếc đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm, để trên mặt đất nói:

- Lát nữa nếu có côn trùng gì quái lạ bò ra, ngươi không được la lối

om sòm, nhất định không được lên tiếng nghe chưa?

Du Thản Chi vội vàng đáp:

- Vâng!

A Tử lại cho tay vào túi lấy ra một cái gói vải nhỏ, mở ra thấy có

mấy cục hương liệu màu vàng, màu đen, màu tím, màu đỏ. Nàng bẻ mỗi

cục một miếng nhỏ, bỏ vào trong đỉnh, dùng hỏa đao, hỏa thạch đánh lên

châm lửa đốt, sau đó đậy nắp lại nói:

- Mình ra dưới gốc cây kia ngồi rình xem.

A Tử ngồi dưới gốc cây, Du Thản Chi đâu dám ngồi bên cạnh nàng,

ra một tảng đá dưới chiều gió. Gió lạnh hiu hiu, trong hơi gió có thoang

thoảng mùi thơm từ người nàng bay ra, Du Thản Chi không khỏi mê mẩn

tâm hồn, thấy rằng được một lúc như thế này, bao nhiêu khổ sở dày vò y

phải chịu những ngày qua kể cũng không uổng. Y mong sao A Tử vĩnh

viễn ngồi dưới gốc cây, còn mình được đời đời kiếp kiếp ở nơi đây hầu

bên cạnh.

Y còn đang say sưa lãng đãng, bỗng nghe thấy có tiếng loạt soạt,

một vật gì đỏ chót đang động đậy trong bụi cỏ xanh, chính là một con rết

thật lớn, toàn thân lấp lánh, trên đầu lồi ra một cái bướu nhỏ, trông khác

xa những con rết thường.

Con rết đó ngửi thấy mùi hương trong mộc đỉnh lập tức trườn tới,

chui theo cái lỗ dưới chiếc đỉnh mà vào rồi không thấy ra nữa. A Tử lấy

trong bọc ra một vuông gấm dày, rón rén tới gần, chụp mảnh gấm lên

trên chiếc đỉnh bao lại thật chặt sợ con rết chui ra mất rồi bỏ vào trong

chiếc bao da treo bên cổ ngựa cười nói:

- Thôi đi!

Nàng lập tức lên ngựa khởi hành. Du Thản Chi lẽo đẽo theo sau nghĩ

thầm: Cái tiểu mộc đỉnh đó thật là kỳ quái, nhưng chắc hẳn là vì đốt

hương liệu mà dụ được con rết đó chui vào. Không biết con rết đó có cái

gì vui mà cô nương lại lận đận vào tận trong sơn cốc để bắt nó?.

A Tử về đến Đoan Phúc Cung sai thị vệ dọn một cái phòng nhỏ ở

bên cạnh làm nơi ở cho Du Thản Chi. Du Thản Chi mừng quá, biết rằng

rồi đây mình sẽ được gặp A Tử luôn. Quả nhiên sáng hôm sau, A Tử đã

sai gọi Du Thản Chi đến, dẫn y vào bên cạnh điện, tự tay đóng cửa, trong

điện chỉ còn hai người. A Tử sang phía tây lấy một chiếc hũ bằng sành,

mở nắp ra cười nói:

- Ngươi xem này, coi có hùng tráng không?

Du Thản Chi thò đầu vào nhìn, thấy chính là con rết bắt được hôm

qua đang chạy lăng quăng trong đó. A Tử lấy ra một con gà trống đã để

san bên cạnh, rút đoản đao chặt đứt mỏ và cựa, vứt vào trong hũ. Con rết

kia liền nhảy lên đầu con gà cắn cổ hút máu, chẳng bao lâu con gà trúng

độc chết liền. Mình con rết từ từ căng lên, cái đầu màu đỏ tưởng như

muốn bật máu ra. A Tử vẻ mặt đầy vui sướng nói nhỏ:

- Thành rồi! Thành rồi! Môn công phu này có thể luyện thành công

được rồi!

Du Thản Chi nghĩ thầm: Thì ra cô đi bắt rết là để luyện một môn

công phu. Công phu đó chắc tên là Ngô Công Công. Cứ như thế nàng

nuôi nó bảy ngày, mỗi ngày cho con rết hút máu một con gà trống lớn.

Đến ngày thứ tám, A Tử lại gọi Du Thản Chi vào trong điện, cười hì hì

hỏi:

- Hề Sắt, ta đối với ngươi thế nào?

Du Thản Chi đáp:

- Cô nương đối đãi tiểu nhân ơn nặng tày non.

A Tử hỏi thêm:

- Ngươi từng bảo sẽ vì ta tan xương nát thịt, nhảy vào nước sôi,

xông vào lửa bỏng cũng không từ, cái đó thực hay giả thế?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân chẳng dám nói láo cô nương. Cô nương sai bảo chuyện

gì tiểu nhân nhất định không từ chối.

A Tử nói:

- Thế thì hay lắm. Để ta nói cho ngươi hay, ta muốn luyện một môn

công phu nhưng phải có người giúp mới xong được. Ngươi có bằng lòng

giúp ta luyện công không? Nếu như luyện thành rồi, ta thể nào cũng

trọng thưởng cho ngươi.

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân đương nhiên nghe cô nương bảo gì làm nấy, chẳng cần

phải thưởng.

A Tử nói:

- Thế thì hay lắm, mình luyện công được rồi.

Nàng ngồi xuống xếp bằng, hai tay xoa vào nhau, nhắm mắt vận khí,

một hồi sau mới nói:

- Ngươi thò tay vào trong hũ, con rết đó thể nào cũng cắn ngươi,

ngươi giá nào cũng không được động đậy, phải để cho nó hút máu, càng

nhiều càng tốt.

Bảy ngày qua ngày nào Du Thản Chi cũng thấy con rết đó hút máu

gà, chỉ giây lát, một con gà trống đang khỏe mạnh đã ngã ra chết ngay,

đủ biết con rết này độc kinh khủng, nghe A Tử bảo thế, không khỏi ngần

ngừ không trả lời. A Tử mặt sầm xuống hỏi lại:

- Chờ gì nữa? Ngươi không muốn làm hay sao?

Du Thản Chi đáp:

- Không phải không muốn, có điều ... có điều ...

A Tử ngắt ngang:

- Cái gì? Có điều con rết này độc tính lợi hại, ngươi sợ chết chứ gì?

Ngươi là người hay ngươi là gà trống?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân không phải là gà trống.

A Tử nói:

- Đúng thế, gà trống bị rết hút máu thì chết, ngươi không phải là

gà, sao lại chết được? Ngươi bảo san lòng vì ta nhảy vào nước sôi, xông

vào lửa bỏng, tan xương nát thịt, vậy mới để rết hút có một chút máu thì

đã gọi là tan xương nát thịt hay chưa?

Du Thản Chi ứ họng không trả lời được, ngẩng đầu nhìn A Tử, thấy

nàng khóe miệng hơi trĩu xuống ra chiều khinh miệt, lập tức ý loạn tình

mê như bị ma nhập liền khẳng khái đáp:

- Được, tiểu nhân nghe lời sai bảo của cô nương.

Y nghiến chặt hàm răng, nhắm mắt lại, tay phải chầm chậm thò vào

trong cái chóe. Bàn tay y vừa lọt vào trong hũ, đầu ngón tay giữa liền bị

đau nhói như kim chích khiến y nhịn không nổi rụt tay lại. A Tử kêu lên:

- Giữ yên đó! Không được động đậy!

Du Thản Chi cố gắng chịu đựng, mở mắt ra, thấy con rết kia đang

cắn đầu ngón tay giữa của mình hút máu. Du Thản Chi toàn thân nổi gai

ốc, chỉ muốn kéo tay ra vẩy cho con rết rơi xuống lấy chân đạp cho chết.

Thế nhưng tuy y không quay đầu lại cũng biết đôi mắt sắc như dao của A

Tử đang nhìn sau lưng mình, chẳng khác gì hai lưỡi kiếm đâm tới thì làm

sao dám cử động?

Cũng may khi con rết hút máu không đau lắm chỉ thấy con vật từ từ

phồng lên, còn đầu ngón tay giữa của Du Thản Chi thì mờ mờ phủ một

lớp màu tím thẫm. Màu tím đó từ nhạt chuyển sang đậm, rồi từ từ biến

thành màu đen, một lát sau, từ ngón tay lan sang bàn tay, rồi chạy lên

cánh tay.

Du Thản Chi lúc này không còn coi sống chết vào đâu, ngược lại còn

thản nhiên như không, mép nở một nụ cười, có điều nụ cười đó dấu sau

tấm mặt nạ thép nên A Tử không nhìn thấy được.

A Tử hai mắt đăm đăm nhìn con rết, hết sức chăm chú không dám

sao nhãng chút nào. Sau cùng con rết nhả tay Du Thản Chi ra, nằm bất

động dưới đáy hũ. A Tử kêu lên:

- Ngươi nhè nhẹ bắt con rết bỏ vào mộc đỉnh cho ta, cẩn thận đó,

đừng làm nó tổn thương.

Du Thản Chi y lời nhặt con rết lên, bỏ vào trong chiếc tiểu mộc đỉnh

để ở trước cẩm đôn. A Tử liền đóng nắp lại, chỉ trong giây lát, từ trong

chiếc lỗ có những giọt máu đen nhỏ ra. A Tử vẻ mặt vui mừng, vội đưa

tay hứng máu đó, ngồi xếp bằng vận công, hút những giọt máu độc đó

vào trong lòng bàn tay. Du Thản Chi nghĩ thầm: Đây là huyết dịch của

ta, bây giờ đi vào trong người nàng. Thì ra cô nương đang luyện Ngô

Công độc chưởng.

Một lúc lâu sau, máu đen từ chiếc đỉnh đã chảy ra hết, A Tử mở nắp

ra thấy con rết kia đã chết rồi. A Tử hai tay xoa vào nhau, nhìn lại bàn

tay thấy chẳng khác gì bạch ngọc không một tì vết, cũng không có vết

máu, biết rằng phương pháp luyện công nàng nghe lóm được của sư phụ

không sai chút nào, trong bụng sung sướng, bưng chiếc một đỉnh lên, trút

con rết ra rồi hấp tấp ra khỏi điện, chẳng thèm nhìn nhõi gì đến Du Thản

Chi, coi y không khác gì con rết chết, không còn dùng vào việc gì được

nữa.

Du Thản Chi nhìn theo sau lưng A Tử cho tới khi nàng đi khuất, lúc

ấy mới cởi áo ra xem thấy sắc đen đã lan lên tới nách, đồng thời cả cánh

tay ngứa ngáy khó chịu, chỉ giây lát đã tưởng chừng như có muôn ngàn

con rận cùng cắn một lượt.

Y kêu rầm lên, nhảy choi choi, đưa tay gãi, nhưng càng gãi thì càng

ngứa, tưởng như từ trong xương tủy, phế phủ đều có sâu bọ chui vào, ngo

ngoe ngọ ngoạy khắp nơi. Đau thì có thể chịu đựng nhưng ngứa lại thật

khó mà nín nhịn. Y nhảy lên nhảy xuống, vừa nhảy vừa kêu, lấy chiếc

đầu sắt húc mạnh vào tường, nghe kêu boong boong, chỉ mong mình ngất

đi, mất hết tri giác, để khỏi phải chịu cái cơn ngứa ngáy kinh khủng này.

Đập đầu thêm mấy cái nữa, nghe cạch một tiếng, cái gói bằng vải

dầu từ trong bọc rơi ra, lộ ra một cuốn sách bìa đã vàng, chính là bản kinh

thư bằng tiếng Phạn hôm nọ y nhặt được. Lúc này trong cơn ngứa ngáy

kịch liệt, y cũng chẳng nghĩ tới chuyện nhặt lên làm gì, chỉ thấy cuốn

sách mở tung. Du Thản Chi toàn thân khó chịu, lăn lộn dưới đất vùng vẫy

như con cá mắc lưới. Một lúc sau, y chỉ còn nằm gục một chỗ thở hồng

hộc, nước mắt, nước mũi, nước dãi từ các chỗ hổng trên chiếc lồng sắt

chảy ra, rơi cả xuống cuốn kinh chữ Phạn.

Trong cơn mơ màng, y thiếp đi không biết bao lâu, cuốn sách dính

đầy dãi nhớt, không hiểu vì sao bỗng từ trên những hàng chữ cong cong

quẹo quẹo, hiện ra hình của một nhà sư. Tăng nhân đó tư thức cực kỳ

quái dị, đầu cúi xuống chui qua háng thò ra ngoài, hay tay đưa xuống nắm

hai cổ chân.

Y nào còn tâm trí đâu mà xem hình thế cổ quái trong sách, chỉ thấy

người ngứa ngáy tưởng chừng thở không nổi, đành lăn ra đất, cào gãi lung

tung, xé vụn quần áo đang mặc trên người để cọ da thịt lên nền đá cho đỡ

ngứa, chỉ chốc lát da dẻ đã rướm máu. Y lăn qua lộn lại ma sát như thế,

đột nhiên vô ý sao, đầu chui tọt vào giữa hai bắp đùi. Đầu y có mang cái

rọ sắt, trong cơn gấp gáp không rút lại được, giơ tay tính đẩy trở ra, tay

phải quều quào sao nắm ngay cổ chân.

Đến lúc đó Du Thản Chi đã mệt ngất ngư chẳng còn hơi sức gì nữa,

không thể động đậy, chỉ đành nghỉ một chốc thở vài hơi, vô tình sao nhìn

thấy cuốn sách mở dưới đất, trong sách vẽ hình một nhà sư gầy gò, tư

thức cũng na ná như y đang làm, trong bụng vừa kinh dị lại cảm thấy tức

cười. Kỳ quái làm sao, y theo tư thức này, tuy thân thể vẫn còn ngứa ngáy

như cũ nhưng hơi thở đã dễ dàng hơn, thành thử cũng không vội chui đầu

ra khỏi háng, mà đành nằm phục dưới đất như hình vẽ, tay trái cũng đưa

ra nắm luôn cổ chân phải, cằm chống xuống đất. Thế là y và đồ hình của

nhà sư trong sách hoàn toàn giống nhau, hơi thở lúc này đã dễ dàng hơn

nhiều.

Y nằm phục như thế, đôi mắt để gần ngay cuốn sách, nhìn vào tăng

nhân thấy ở bên cạnh nhà sư có hai chữ màu vàng cực lớn, hình dáng

quái lạ cong cong quẹo quẹo, nhưng trong nét bút lại có vô số những mũi

tên đỏ nhỏ xíu bắn ra. Du Thản Chi lúc này đang nằm gục xuống hết sức

mỏi mệt nên buông tay ra đứng lên. Y vừa đứng dậy, lập tức lại ngứa đến

ngạt thở, vội vàng lại cúi xuống chui đầu vào giữa hai đùi, hay tay nắm

cổ chân, cằm chống xuống đất. Chỉ có tư thế cổ quái đó y mới lại thấy dễ

chịu mà thôi.

Du Thản Chi không dám động đậy gì nữa, một lúc sau không có việc

gì làm, đưa mắt nhìn nhà sư vẽ trên sách rồi nhìn qua hai chữ quái dị ở

bên cạnh đồ hình. Y xem những mũi tên trên hai chữ đó, tự nhiên đưa

mắt theo những đầu mũi tên quan sát nét bút, bỗng thấy những chỗ ngứa

trên tay phải biến thành một luồng khí ấm, từ cổ họng chạy xuống ngực

bụng, chạy quanh vài vòng theo hai vai lên đỉnh đầu rồi chầm chậm biến

mất.

Y thử nhìn vào đầu mũi tên trên hai chữ quái dị vài bận, lần nào

cũng có một luồng khí ấm chạy lên trên óc, còn cánh tay thì lại bớt ngứa

đi một chút. Du Thản Chi kinh ngạc nhưng chẳng hơi đâu nghĩ đến

nguyên nhân vì sao, cứ theo thế mà làm đến hơn ba chục lần thì cánh tay

chỉ còn hơi ngứa, làm thêm mươi lần nữa, ngón tay, lòng bàn tay, cánh

tay không chỗ nào còn cảm giác gì khác lạ.

Y rút đầu ra khỏi hai đùi, giơ tay xem, hắc khí trên bàn tay đã hoàn

toàn biến mất, y vui mừng khôn xiết đột nhiên kinh hoảng kêu lên:

- Chết rồi, không xong. Chất kịch độc của con rết đều chạy lên óc

cả rồi.

Thế nhưng lúc đó cơn ngứa quái lạ kia đã hết, y nghĩ thầm nếu sau

này có chuyện gì thì cũng không đến nỗi nào. Du Thản Chi tự hỏi: Cuốn

sách này rõ ràng nào có hình vẽ gì đâu, sao tự nhiên lại có một hòa

thượng cổ quái hiện ra? Ta chỉ vô ý sao lại thành tư thế giống hệt như nhà

sư này? Nhà sư này hẳn là bồ tát đến cứu mạng ta đây. Y bèn quì xuống

đất, cung kính khấu đầu trước vị quái tăng trong quyển sách, chiếc lồng

sắt gõ xuống đất kêu boong boong.

Y nào có biết hình trong quyển sách vẽ bằng một chất thảo dược pha

với nước, khi ướt thì hiện ra, còn khô thì biến mất, thành thử cả A Châu

lẫn Tiêu Phong đều không nhìn thấy. Thực ra tuyến lộ luyện công của

hình vẽ trong quyển sách đều có chú thích rõ ràng ở bên cạnh, những nhà

sư Thiếu Lâm thời trước biết chữ Phạn tuy không biết bí mật của đồ hình

vẫn theo đúng lời chỉ bằng chữ luyện thành Dịch Cân Kinh thần công. Du

Thản Chi khi bị cơn ngứa kỳ quái không chịu nổi kia, nước mắt ràn rụa

rơi xuống trang sách nên làm hình vẽ hiện ra. Đây là một môn diệu pháp

trong việc hóa giải ma đầu từ bên ngoài xâm nhập, là bí thuật trong phép

Du Già6 của Thiên Trúc thời cổ.

Y đột nhiên làm được tư thức đó cũng chẳng phải ngẫu nhiên xảo

hợp mà ăn nhanh thì nghẹn, ăn quá thì ói. Trong khi y bị ngứa quá đỗi,

đầu chúi xuống đất cũng là tự nhiên không có gì lạ, có điều nước mắt y

chảy vào đúng quyển sách thì cái đó mới thật khéo làm sao. Y ngơ ngẩn

một hồi, mệt mỏi quá lăn ra đất ngủ thiếp đi.

Sáng sớm hôm sau khi y còn chưa trở dậy, A Tử hấp tấp đi vào trong

điện thấy y trần truồng nằm đó, kêu lên một tiếng hỏi:

- Sao ngươi còn chưa chết?

Du Thản Chi kinh hãi ấp úng:

- Vì ... tiểu nhân ... tiểu nhân còn sống.

Y trong lòng chua xót: Thì ra cô nương mong ta chết cho rồi. A Tử

nói:

- Ngươi chưa chết thì càng hay. Mau đi kiếm quần áo mặc vào theo

ta đi bắt độc trùng lần nữa.

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Đợi cho A Tử đi ra khỏi điện, y mới đi kiếm mấy tên lính Khất Đan

hỏi xin quần áo. Binh sĩ Khất Đan thấy quận chúa có vẻ tử tế với y hơn

một chút liền đi kiếm một bộ quần áo khô sạch cho y mặc.

A Tử dẫn Du Thản Chi đến một nơi hoang dã, lại dùng Thần Mộc

Vương Đỉnh để bắt độc trùng, dùng máu gà để nuôi, sau đó lại cho hút

máu Du Thản Chi rồi dùng để luyện công. Lần thứ hai là một con nhện

màu xanh, lần thứ ba là một con bò cạp lớn. Du Thản Chi lần nào cũng

theo đúng đồ hình trong quyển sách hóa giải chất độc.

Năm xưa A Tử nhìn trộm sư phụ luyện thần công, lần nào cũng thấy

có người chết, đều là dân chúng trong vùng bị đệ tử bản môn theo lệnh sư

phụ đi bắt về, nên tưởng Du Thản Chi trúng độc thể nào cũng chết, ngờ

đâu thấy y vẫn bình thường, không khỏi lấy làm lạ.

Cứ như thế liên tiếp bắt độc trùng luyện công, ba tháng sau, chung

quanh thành Nam Kinh trong vòng hơn mười dặm độc vật càng lúc càng

hiếm, những con bị hương khí dụ được toàn là con nhỏ bé yếu đuối,

không vừa ý A Tử chút nào. Hai người đi bắt độc trùng càng lúc càng

phải đi xa hơn.

Hôm đó họ đi về hướng tây thành Nam Kinh hơn ba chục dặm, A Tử

đốt hương trong mộc đỉnh rồi, chờ đến hơn một giờ, mới nghe tiếng sột

soạt trong cỏ, xem ra có rắn rết gì đây. A Tử kêu lên:

- Nằm xuống!

Du Thản Chi y lời nằm mọp xuống, thấy tiếng động càng lúc càng

lớn, xem ra không phải bình thường. Tiếng động lạ đó kèm theo một mùi

tanh hôi khiến người ta muốn mửa. Du Thản Chi nín hơi không cử động,

thấy đám cỏ cao rẽ ra, một con đại mãng xà7 mình trắng vằn đen lượn

mình bò tới. Đầu con trăn hình tam giác, trên mọc một cục bướu sần sùi.

Phương bắc rắn rết vốn không nhiều, con mãng xà này hình dáng lạ lùng

như thế xưa nay chưa từng thấy.

Con rắn bò đến bên cạnh chiếc đỉnh, trườn quanh. Mãng xà dài đến

hai trượng, to bằng bắp tay, làm sao chui vào trong đỉnh được? Thế nhưng

nó ngửi thấy mùi hương liệu cùng mùi chiếc đỉnh nên không ngớt đưa cái

đầu to lớn húc vào.

A Tử có ngờ đâu lần này lại dụ được một con vật to đến thế, hết sức

kinh hãi, nhất thời không biết phải làm sao, rón rén bò đến bên cạnh Du

Thản Chi nói nhỏ:

- Làm sao đây? Nếu như con trăn làm vỡ mất chiếc đỉnh thì thật hỡi

ôi!

Du Thản Chi nghe nàng ăn nói dịu dàng như thế quả không ngờ tới,

tự nhiên hăng máu lên nói cứng:

- Cô nương chớ lo, để tôi ra đuổi con rắn đi.

Y bèn đứng lên, hùng dũng đi ra chỗ con trăn. Con mãng xà nghe

thấy có tiếng động, lập tức nằm cuộn lại, vươn cao đầu, le chiếc lưỡi đỏ

chót, phát tiếng sì sì, thủ thế mổ ra. Du Thản Chi thấy nó hung dữ như

thế, chột dạ không dám tiến tới nữa.

Ngay lúc đó, bỗng có một trận gió lạnh thổi qua, từ phía tây bắc có

một đường lửa cháy thẳng tới, chỉ giây lát đã tới ngay trước mặt. Đốm

sáng đó chạy tới nơi, nhìn rõ hơn thì ra không phải là một vệt lửa, mà là

trong đám cỏ có một con gì đó chạy tới, cỏ xanh gặp phải lập tức sém

vàng, đồng thời hàn khí càng lúc càng nhiều.

Y lùi lại mấy bước, thấy đường sém vàng đó chạy tới chiếc đỉnh, hóa

ra là một con tằm. Con tằm đó trắng tinh như ngọc, hơi ẩn sắc xanh, so

với tằm thường phải to gấp đôi, lại dài như một con giun, thân hình sáng

bóng như thủy tinh. Con mãng xà vốn dĩ thật hung tợn, lúc này lại xem

chừng sợ đến mất vía, rút đầu chui vào dưới thân.

Con tằm trong như thủy tinh kia nhanh nhẹn dị thường bò thẳng một

mạch lên người con trăn, chẳng khác gì một đường lửa nóng xẻ dọc theo

xương sống con mãng xà, đến đầu thì con rắn đã bị cắt ra làm hai. Con

sâu liền rúc vào túi nọc độc ở hai bên mang con mãng xà hút độc dịch,

chỉ giây lát thân đã căng phồng lên, từ xa nhìn tới thấy giống như một cái

bình trong suốt chứa đầy một thứ nước màu xanh tím.

A Tử vừa mừng vừa sợ, nói nhỏ:

- Con tằm này lợi hại đến thế, xem ra là chúa của các loài độc vật.

Du Thản Chi bụng lại lo thầm: Một con tằm kịch độc như thế này

nếu như hút máu ta thì lần này tính mạng mình chắc không còn. Còn sâu

đó chạy vòng quanh chiếc mộc đỉnh rồi bò lên, chỗ nào nó đi qua, chiếc

đỉnh liền hiện ra một cái ngấn cháy sém. Thế nhưng dường như nó có linh

tính, bò quanh chiếc đỉnh một vòng, biết là nếu chui vào trong đỉnh thì chỉ

còn nước chết nên lại bò xuống chạy về hướng tây bắc.

A Tử vừa cao hứng vừa nóng ruột, kêu lên:

- Đuổi theo ngay! Đuổi theo!

Cô ta lấy vuông gấm bọc cái đỉnh lại rồi chạy đuổi theo con sâu. Du

Thản Chi theo sát đằng sau, cứ theo đường lửa cháy sém mà đuổi. Con

tằm đó tuy nhỏ bé như thế nhưng bò nhanh như gió, chỉ nháy mắt đã xa

đến mấy trượng, cũng may nó đi đến đâu đều để lại một cái ngấn nên

không mất dấu.

Hai người chỉ một thoáng đã đuổi đến ba bốn dặm, nghe phía trước

có tiếng nước chảy róc rách đến bên một dòng suối. Vết cháy sém đến

suối liền biến mất, nhìn qua bờ bên kia không thấy ngấn bò của con tằm

đâu, hiển nhiên con vật đã chui xuống nước trôi đi rồi. A Tử dậm chân

than thở:

- Ngươi đuổi chậm quá, bây giờ biết đi đâu mà tìm? Ta không biết,

ngươi phải tìm cách bắt nó đem về cho ta.

Du Thản Chi trong lòng lo lắng, nhìn ngang nhìn ngửa nhưng nào có

thấy bóng dáng nó đâu? Hai người tìm kiếm một hồi lâu, trời đã sâm sẩm

tối, A Tử cảm thấy mỏi mệt, lại không kiên tâm, giận dữ nói:

- Bằng giá nào ngươi cũng phải bắt nó đem về cho ta, nếu không

thì đừng gặp ta nữa.

Nói xong nàng quay trở về đường cũ một mình về thành. Du Thản

Chi thấp thỏm đành men theo bờ suối đi xuôi xuống hạ lưu, tìm kiếm đến

bảy tám dặm, trong ánh sáng lờ mờ bỗng thấy bờ trên mặt cỏ bên kia lại

có dấu cháy sém. Du Thản Chi mừng quá, mở miệng gọi to:

- Cô nương! Cô nương! Tôi tìm thấy rồi!

Thế nhưng A Tử đã đi thật xa. Du Thản Chi lội nước đi qua, lần theo

vết cháy khô. Chỉ thấy đường sém đó chạy thẳng đến một thung lũng ở

phía trước. Y ráng sức đuổi tới mãi tận cuối thì ra là một tòa cổ miếu kiến

trúc hùng vĩ, rảo bước đến gần thấy biển ngạch trên đề năm chữ Sắc

Kiến Mẫn Trung Tự thật lớn. Du Thản Chi không có thì giờ đâu mà xem

xét miếu này ra thế nào, chỉ tiếp tục đi theo đường ngấn cháy. Vết cháy

sém đó vòng quanh một bên miếu, chạy ra phía sau. Chỉ nghe thấy tiếng

chuông, tiếng mõ, tiếng tụng kinh ở trong chùa vang lên từng chập, tiếng

này dứt tiếng kia nổi lên, quần tăng chính đang vào giờ công khóa.

Y đầu đội lồng sắt, tự xấu hổ mình hình dạng không ra gì, sợ người

trong chùa nhìn thấy, nên chỉ men theo tường mà lần đi, thấy vết cháy

vượt qua một khu đất lầy lội, chạy vào một vườn rau.

Y trong lòng thật vui mừng, chắc mẩm hẳn không có người, chỉ có

con tằm ăn rau mà thôi thì thể nào cũng bắt được nó. Y đi đến bên hàng

rào nghe văng vẳng bên trong vườn rau ai đó đang lớn tiếng chửi mắng

vội vàng đứng lại. Chỉ nghe người kia nói:

- Ngươi cớ sao không biết giữ qui củ, một mình dám đi ra ngoài

chơi khiến cho ông phải lo lắng cả buổi, chỉ sợ mày đi mất không quay

về. Ông đường sá xa xăm mang mày từ đỉnh núi Côn Lôn tới đây, vậy mà

mày chẳng biết phải quấy, không hiểu được rằng lão tử chăm lo cho mày

biết là dường nào. Cứ cái ngữ này, đời mày còn ra thế nào nữa, mai sau

chắc chẳng làm nên trò trống gì, không ai thương đâu con ạ!

Ngữ khí người kia đầy vẻ phẫn nộ nhưng lại có ẩn chút lòng thương

xót kỳ vọng, tưởng chừng như lời của phụ huynh dạy dỗ con cái. Du Thản

Chi nghĩ thầm: Y nói gì mà từ đỉnh núi Côn Lôn xa xôi diệu vợi đem

đến đây, xem chừng chắc là sư phụ hay trưởng bối chứ không phải phụ

thân. Y rón rén đến sát bờ giậu, thấy người đang nói kia là một nhà sư.

Nhà sư đó thật là mập mạp, thân hình lại lùn xủn, trông chẳng khác gì

một trái cầu thịt thật lớn, tay chỉ xuống đất, mồm thì rủa sả liên hồi. Du

Thản Chi theo tay y nhìn xuống, vừa mừng vừa lo, hòa thượng mập kia

đang mắng chửi chính là một con sâu lớn sáng lấp lánh.

Hình dáng nhà sư lùn mập kia kỳ dị thì đã đành nhưng cái lối chửi sa

sả con tằm kia lại còn lạ lùng hơn. Con sâu chạy loăng quăng dưới đất

cực kỳ nhanh nhẹn, tưởng chừng như toan đào tẩu. Có điều dường như nó

chạm phải một bức tường vô hình nào đó nên lại quay đầu qua hướng

khác. Du Thản Chi cố gắng nhìn kỹ hơn, thấy dưới đất có vẽ một cái

vòng màu vàng, con tằm tả xung hữu đột nhưng vẫn không sao qua khỏi

được cái vòng đó, lập tức hiểu ra: Cái vòng đó dùng một loại thuốc vẽ

thành, dược vật hẳn là khắc tinh của con sâu.

Gã hòa thượng lùn mập chửi một hồi xong, lôi trong bọc ra một vật

gì đó, đưa lên miệng ăn nhồm nhoàm, hóa ra một cái đầu dê đã luộc chín,

xem chừng ngon lành lắm. Y lại lấy từ trên cột xuống một cái hồ lô, mở

nắp ra, ngửa cổ lên, ọc ọc uống một mạch. Du Thản Chi ngửi thấy tửu

hương, biết là quả bầu đó đựng đầy rượu nghĩ thầm: Hóa ra đây là một

nhà sư hổ mang. Xem ra con tằm này là của y nuôi, được y cưng chiều

lắm lắm. Làm cách nào ăn trộm được đây?.

Còn đang nghĩ ngợi bỗng nghe từ phía bên kia vườn rau có tiếng

người gọi:

- Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh!

Gã sư lùn mập nghe thế giật mình hoảng hốt, vội vàng đem cái đầu

dê và bầu rượu dấu vào trong bụi cỏ. Lại nghe người kia giục giã:

- Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh! Sao ngươi không tụng kinh chiều, trốn ở đây

làm gì?

Nhà sư lùn mập vội vàng vớ ngay cái cuốc dưới chân, bổ hùng hục

lên luống rau đáp:

- Đệ tử ở đây đang cuốc rau.

Người đi đến là một hòa thượng trung niên, khinh khỉnh nói:

- Kinh sớm kinh chiều, ai ai cũng phải dự. Sao lúc khác không

trồng rau, đến lúc đọc kinh chiều thì lại giở giói ra cuốc đất? Mau lên!

Mau lên! Bao giờ tụng kinh chiều xong, trở lại cuốc cũng vừa. Ở chùa

Mẫn Trung chấp tác thì phải theo qui củ của chùa Mẫn Trung, không lẽ

chùa Thiếu Lâm nhà ngươi không có miếu qui gia pháp gì hay sao?

Nhà sư lùn mập tên Tuệ Tịnh vội đáp:

- Vâng!

Y bỏ cuốc xuống, lật đật đi theo, không dám quay đầu lại nhìn con

tằm, xem chừng sợ nhà sư trung niên phát giác. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Gã sư lùn mập này vốn ở chùa Thiếu Lâm. Sư chùa Thiếu Lâm ai ai

cũng biết võ công, mình ăn cắp con tằm của hắn thì phải thật cẩn thận

mới được!.

Y đợi cho hai người đi xa, nghe ngóng chung quanh không có gì, vội

vàng chui qua hàng rào, thấy con tằm vẫn chạy loanh quanh trong cái

vòng màu vàng, tự hỏi: Làm sao bắt được nó đây?. Y suy nghĩ một hồi

tìm ra một cách, lấy trong bụi cỏ cái bầu rượu ra, lắc lắc thử mấy cái, còn

chừng nửa bình bèn uống luôn mấy ngụm, còn bao nhiêu đổ vào luống

rau, đưa cái miệng hồ lô đến gần cái vòng màu vàng. Miệng bầu rượu

vừa lọt vào trong vòng tròn, chỉ nghe tách một tiếng, con tằm đã chui tọt

vào trong hồ lô. Du Thản Chi mừng quá, vội vàng lấy cái nắp gỗ đóng

chặt lại, hai tay bưng bầu rượu, chui qua hàng rào, ba chân bốn cẳng chạy

về đường cũ.

Ra khỏi chùa Mẫn Trung chừng vài chục trượng bỗng thấy chiếc hồ

lô lạnh một cách khác thường, xem ra còn hơn cả một khối băng, Du

Thản Chi đưa cái bầu rượu từ tay trái sang tay phải, rồi lại từ tay phải đưa

qua tay trái nhưng vẫn lạnh thấu xương không sao chịu nổi. Y không còn

cách gì khác hơn bèn để hồ lô đội lên đầu nhưng lại càng khó chịu, khí

lạnh truyền qua chiếc lồng sắt chui vào trong óc khiến y chịu không nổi,

tưởng như huyết dịch toàn thân đã đóng thành băng. Tình cấp trí sinh, y

liền cởi dây lưng buộc vào chỗ thắt trên hồ lô xách trên tay. Dây lưng

không truyền hơi lạnh nên y cầm được, thế nhưng khí lạnh từ trong cái

bầu tỏa ra, chỉ trong giây lát bên ngoài hồ lô đã bao phủ một tầng sương mỏng.

TRÙNG NGÃI NGƯNG HÀN CHƯỞNG TÁC BĂNG

Ngoài điện nắng hè dường đổ lửa,

Trong nhà lạnh buốt nước thành băng.

Trùng lạ xem chừng chưa đáng sợ,

Dẫu độc sao bằng dạ sói lang.

*

* *

Du Thản Chi xách chiếc hồ lô, rảo bước đi về thành Nam Kinh, bẩm

lại cho A Tử là đã bắt được con băng tàm. A Tử mừng lắm vội vàng bảo y

bỏ con tằm vào trong chiếc hũ sành để nuôi. Lúc đó đang vào tháng bảy,

giữa mùa hè trời nóng gắt ngờ đâu vừa nuôi con băng tàm ở điện phụ, lập

tức trong nhà càng lúc càng lạnh, chẳng bao lâu nước trong bình trà chén

trà cũng kết thành băng.

Đêm hôm đó, Du Thản Chi nằm trong chăn mà run lẩy bẩy, không

sao ngủ được, nghĩ thầm: Con tằm này thật lạ trên đời ít có. Nếu như cô

nương đem nó hút máu mình thì dù không chết vì chất độc, cũng lạnh

cóng mà chết.

A Tử liên tiếp bắt mấy con rắn độc, trùng độc đem đến đấu với nó,

đều bị con băng tàm chạy quanh vài vòng là đông cứng chết ngay để cho

nó hút hết trấp dịch. Đến hơn mười ngày, không giống độc trùng nào

đương cự nổi.

Hôm đó A Tử đến điện phụ nói:

- Hề Sắt, hôm nay mình phải giết con băng tàm, ngươi thò tay vào

trong hũ để cho con tằm hút máu.

Du Thản Chi những ngày qua lúc nào cũng lo ngay ngáy, đêm trằn

trọc sợ cái giờ phút này, quả nhiên cô nương chẳng chút dung tình, rồi

cũng bắt y và con băng tàm cùng hi sinh, trong lòng buồn bã, quay sang

nhìn A Tử một lát không nói năng, không cử động. Về phần A Tử nàng

chỉ nghĩ: Ta vô tình được bảo vật hiếm có này, độc chưởng công phu khi

luyện thành rồi e rằng so với sư phụ còn ghê gớm hơn. Nàng liền giục:

- Ngươi thò tay vào hũ đi thôi.

Nước mắt Du Thản Chi nhỏ ròng ròng, quì xuống khấu đầu nói:

- Cô nương luyện thành độc chưởng rồi, đừng quên tiểu nhân vì cô

nương mà phải chết. Tôi họ Du, tên Thản Chi chứ không phải là Hề Sắt.

A Tử mỉm cười nói:

- Được, tên ngươi là Du Thản Chi, ta nhớ rồi. Ngươi trung thành với

ta, tốt lắm, đúng là một đứa đầy tớ hết lòng với chủ.

Du Thản Chi được nàng khen ngợi mấy câu như thế, cảm thấy hết sức

an ủi, lại khấu đầu thêm hai lần nữa nói:

- Đa tạ cô nương!

Thế nhưng y vẫn không muốn bó tay chịu chết bèn rùn người, vòng

xuống chui đầu qua hai đùi, tay trái nắm cổ chân, tay phải thò vào trong

hũ, trong đầu nghĩ đến những mũi tên nhỏ ở hai chữ quái dị bên cạnh nhà

sư khỏa thể trong cuốn sách. Đột nhiên đầu ngón tay trỏ hơi ngứa, một

làn khí lạnh như băng chạy thẳng lên như tên bắn, theo cánh tay vào

trong ngực. Du Thản Chi trong đầu chỉ nhớ đến hướng của mũi tên, luồng

hàn khí kia đi đúng theo những kinh mạch y đang nghĩ tới, từ ngón tay lên

cánh tay rồi từ ngực chạy lên đỉnh đầu, sợi dây nhỏ đó đi đến đâu tỏa hơi

lạnh buốt thấu xương.

A Tử thấy tư thế cổ quái của Du Thản Chi thật tức cười, qua một lúc

sau, thấy y đứng lộn tùng phèo như thế, không khỏi ngạc nhiên, đến gần

xem thấy con băng tàm vẫn cắn chặt ngón tay trỏ. Thân con tằm óng ánh

trong suốt như thủy tinh, nhìn kỹ thấy có một dòng máu chạy từ miệng đổ

vào, đi vòng qua phía tả, quấn quanh một vòng, rồi từ bên phải chảy

ngược trở về ngón tay trỏ Du Thản Chi.

Thêm một lúc nữa, trên chiếc đầu sắt, y phục, chân tay Du Thản Chi

đều phủ một làn sương mỏng, A Tử nghĩ thầm: Tên nô tài này chắc là

chết rồi. Người sống trên mình phải có hơi ấm, làm sao kết thành sương

được?. Thế nhưng trong người con băng tàm máu vẫn còn lưu chuyển,

hiển nhiên hút máu chưa xong. Đột nhiên trên mình con tằm có những sợi

nhiệt khí như tơ bốc ra.

A Tử còn đang kinh ngạc thì đã nghe bộp một tiếng, con tằm từ ngón

tay Du Thản Chi rơi xuống đáy hũ, vội dùng cây gậy cầm sẵn trong tay

giã xuống một cái. Nàng vẫn tưởng con tằm bản thể linh dị, một gậy như

thế chưa chắc đã giết được nó, ngờ đâu khi rơi xuống rồi, con vật chỉ nằm

phơi bụng không lật lại nổi, thành thử một gậy của A Tử đã đâm băng

tàm nát ngướu.

A Tử mừng lắm vội vàng thò tay vào hũ, bôi huyết dịch con tằm vào

lòng bàn tay, nhắm mắt hành công, hút hết vào trong người. Nàng cứ xoa

lên hết lần này sang lần khác đến khi không còn tí gì mới thôi.

Hành công lâu như thế trong người mệt mỏi, A Tử ngáp dài một

tiếng, đứng dậy, thấy đầu Du Thản Chi vẫn còn lộn ngược chui giữa hai

đùi, toàn thân trắng xóa, kết đầy băng sương. Nàng hết sức sợ hãi, đưa

tay sờ thử người y thấy lạnh buốt, quần áo đóng băng cứng ngắc. Nàng

vừa lạ lùng vừa tức cười, gọi Thất Lý vào bảo đem Du Thản Chi đi chôn.

Thất Lý liền cùng hai tên lính Khất Đan nữa, vứt xác Du Thản Chi

lên một chiếc xe ngựa, chạy ra khỏi thành. A Tử không dặn y phải chôn

cất cho chu đáo, Thất Lý cũng chẳng phí sức đào một cái huyệt, thấy bên

cạnh đường có một khe nước, liền vứt luôn xuống suối, rồi quay về.

Thế nhưng cũng chính vì Thất Lý làm biếng một chút mà lại cứu được

mạng Du Thản Chi. Thì ra ngón tay y bị băng tàm cắn rồi bèn dùng phép

vận công của Dịch Cân Kinh để hóa giải độc khí, huyết dịch bị con tằm

hút ra lại theo ngón tay quay ngược trở về huyết quản đem bao nhiêu tinh

hoa kịch độc của con băng tàm vào người. A Tử sau đó hút huyết tương

của con tằm chỉ mất công toi chứ không còn hiệu dụng gì cả.

Nếu như Du Thản Chi đã học toàn bộ phép hành công của Dịch Cân

Kinh thì sẽ có thể tiêu giải chất độc của con băng tàm nhưng vì y chỉ mới

học được có một pháp môn, thu vào mà không biết đẩy ra nên chất kỳ

độc đệ nhất âm hàn của con sâu kia đã khiến cho người y bị đông cứng.

Còn như Thất Lý đem y chôn xuống đất thì sẽ thành một cái xác ướp

dù có vài trăm năm sau cũng chưa chắc đã rữa được. Du Thản Chi bị vứt

xuống suối trôi theo dòng, hơn một chục dặm sau gặp chỗ uốn khúc,

vướng vào một đám lau sậy. Chẳng bao lâu, nước chung quanh người y đã

biến thành băng chẳng khác gì một chiếc quan tài thủy tinh. Nước suối

tiếp tục soi mòn, tiêu giải từng chút từng chút hàn khí khiến cho khối

băng bao quanh y dần dần tan hết.

Cũng may đầu Du Thản Chi có cái lồng sắt, kim loại mau nóng mà

cũng mau nguội nên đá trên đầu tan ra trước. Nước suối ọc vào mồm y

khiến Du Thản Chi ho sặc sụa, đầu óc tỉnh táo liền từ dưới khe nước bò

lên, nước đá trên người chạm vào nhau kêu loong coong.

Khi thân thể mới biến thành băng không phải y hoàn toàn không biết

gì cả mà chỉ vì bị kết trong khối băng không cử động được mà thôi. Đến

sau y hôn mê không còn biết gì nữa, bây giờ chết đi sống lại thật không

khác một giấc mộng dài.

Du Thản Chi ngồi trên bờ suối, nghĩ mình đối với A Tử một lòng

trung thành sắt son cam nguyện đem thân nuôi độc trùng để giúp nàng

luyện công, vậy mà khi mình chết đi, A Tử chẳng thèm thở dài lấy một

tiếng. Y từ trong băng nhìn ra thấy A Tử mặt mày hớn hở có được huyết

tương của con băng tàm đem chà vào lòng bàn tay, chỉ nghiêng đầu nhìn

mình, thấy y chết xem chừng thú vị, lại hơi kỳ quái, hoàn toàn chẳng có

chút gì thương xót.

Y lại nghĩ: Băng tàm độc địa như thế, đã từng hút chất độc của hàng

nghìn độc trùng độc xà, cô nương nay hút hết vào trong lòng bàn tay rồi,

độc chưởng chắc đã luyện thành. Nếu như ta quay về... Y đột nhiên run

bắn người lên, nổi gai ốc nghĩ thêm: Cô ta vừa thấy mình thể nào chẳng

đem ra thử độc chưởng. Nếu như đã luyện thành thể nào đánh một cái là

mình chết tươi. Còn như luyện chưa xong, thì lại sai mình đi bắt rắn độc,

trùng độc nữa cho đến bao giờ luyện xong một chưởng đánh chết mình

lúc ấy mới thôi. Hai đằng đằng nào cũng chết, quay về làm gì?.

Du Thản Chi đứng lên, nhảy nhót vài cái rũ hết những mảnh băng

còn bám trên người nghĩ thầm: Bây giờ mình biết đi đâu đây?. Đi tìm

Kiều Phong báo thù cho cha ư, điều đó y nào dám nghĩ đến. Nhất thời y

không biết tính sao, chỉ đành lang thang trong đồng rộng núi hoang, hái

trái dại, bắt chim chóc, thú nhỏ mà ăn. Đến chiều hôm sau, không có việc

gì làm, y bèn mang cuốn Dịch Cân Kinh bằng tiếng Phạn ra định học theo

tư thức của nhà sư trần truồng trong sách.

Cuốn sách đó khi rơi xuống suối đã ướt mèm, đến giờ vẫn chưa khô.

Y cẩn thận giở từng tờ, chỉ sợ rách, thấy trang nào cũng có hình một quái

tăng, tư thức mỗi người một khác. Y suy nghĩ một hồi rồi cũng hiểu ra,

hình trong quyển sách gặp nước thì lộ ra chứ chẳng phải bồ tát hiện thân

cứu mạng gì cả, bèn làm theo tư thức thứ nhất trên trang đầu tiên, lần

theo mũi tên đỏ trên những chữ quái lạ thấy có một sợi chỉ nhỏ thật lạnh

chạy ngang chạy dọc khắp tứ chi và xương cốt, chẳng khác gì con băng

tàm còn sống bò trong cơ thể mình. Y kinh hãi vội vàng đứng lên, lập tức

con tằm lạnh trong người liền biến mất.

Suốt hai giờ sau y chỉ nghĩ đến: Không biết con tằm chui vào người

mình đã chạy đi chưa?. Thế nhưng y không sờ thấy, cũng chẳng mò ra,

không hình không bóng, sau cùng nhịn không nổi lại tập theo tư thức cổ

quái kia rồi nghĩ theo mũi tên đỏ trên hai chữ quái lạ, chẳng bao lâu lại

thấy có một con băng tàm bò trong cơ thể. Y kêu lên một tiếng, vội

ngừng lại không còn dám nghĩ thêm lập tức con tằm biến mất nhưng cứ

vừa nghĩ đến thì nó lại bò ra.

Mỗi lần con tằm bò một vòng, y lại thấy toàn thân thoải mái không

biết đâu mà kể. Trong cuốn sách hình những nhà sư khỏa thể rất nhiều, từ

những chữ lạ lùng kia những mũi tên đỏ cái cong cái thẳng, biến hóa

phức tạp. Y cứ theo những tư thức khác nhau mà gọi con tằm, trong người

khi nóng khi lạnh, mỗi lúc có một lối thư thái riêng.

Cứ như thế luôn mấy tháng trời, tay chân y bắt cầm thú càng lúc càng

linh hoạt, nhảy nhót cũng xa hơn, chạy thêm nhanh nhẹn mà trước kia

không thể nào bì kịp. Một buổi chiều, một con chó sói đói ở đâu đi kiếm

mồi, chồm đến vồ Du Thản Chi. Y kinh hãi, đang định bỏ chạy nhưng con

sói đã giương vuốt ra chộp vào đầu vai, nhe răng nhọn hoắt, định ngoặp

vào cổ họng. Du Thản Chi hết sức kinh hoàng, tiện tay đánh một chưởng

trúng ngay đầu con vật. Con chó sói đó văng ra xa, quằn quại mấy cái rồi

nằm thẳng cẳng. Du Thản Chi quay người chạy ra mấy trượng thấy con

chó sói vẫn nằm đó, trong bụng lạ lùng, nhặt một cục đá ném trúng ngay

thân nhưng con lang vẫn nằm yên. Y vừa mừng vừa sợ, rón rén đến gần

xem hóa ra con chó sói đã chết tự bao giờ.

Y thật không dám nghĩ tới chuyện mình chỉ tiện tay đánh một cái mà

ghê gớm đến thế, giơ tay lên lật qua lật lại xem kỹ, không thấy có gì

khác, nhịn không nổi kêu lên:

- Hồn ma con tằm này thiêng quá!

Y vẫn tưởng con tằm kia chết rồi hồn nó nhập vào người mình nên

mới có tài phép như thế chứ có ngờ đâu đó hoàn toàn do công lực từ Dịch

Cân Kinh, lại thêm băng tàm là vật kịch độc hãn hữu, luồng âm hàn ghê

gớm đó bị y hút vào trong người, chứa vào nội công thượng thừa của Dịch

Cân Kinh nên mỗi khi đánh ra đều có chứa âm kình cực kỳ ghê gớm.

Dịch Cân Kinh là bảo điển chí cao vô thượng trong võ học, có điều

pháp môn tu tập không phải dễ dàng, cần phải phá được cảnh giới ngã

tướng, nhân tướng, trong bụng không còn nghĩ đến chuyện tu tập võ

công. Thế nhưng tăng lữ tập môn thượng thừa này, ai chẳng muốn tinh

tiến thật nhanh, mong cho chóng thành để công phu được ích lợi? Muốn

đến được tâm vô sở trụ1 quả thật là thiên nan vạn nan.

Trong mấy trăm năm qua, các cao tăng chùa Thiếu Lâm tu tập Dịch

Cân Kinh không phải là ít, thế nhưng dụng công năm chày tháng tận, vẫn

không mấy ai đạt được thành thử các nhà sư cho rằng kinh này không linh

hiệu, hôm trước A Châu ăn cắp mất, tăng chúng trong chùa tức giận thật

nhưng cũng không coi là chuyện lớn.

Hơn một trăm năm trước, chùa Thiếu Lâm có một nhà sư, xuất gia từ

thuở bé, tâm trí đần độn, điên điên khùng khùng. Sư phụ ông ta khổ công

tu tập Dịch Cân Kinh không thành, giận quá mà tọa hóa2. Nhà sư điên kia

nhặt được quyển kinh ở bên cạnh di thể của sư phụ, hăm hăm hở hở đem

ra luyện, ngẫu nhiên sao thành một đại cao thủ. Thế nhưng võ công ông

ta tại sao cao cường như thế, đến lúc viên tịch tây qui, cũng vẫn không

sao giải thích được, chẳng một ai biết đó là công phu Dịch Cân Kinh.

Đến bây giờ Du Thản Chi vô tâm luyện công phu này, chỉ tưởng là

gọi con băng tàm trong người bò ra bò vào cho đỡ buồn, có biết đâu ngày

một tiến bộ, chính là theo được con đường của nhà sư khùng hồi trước.

Mấy hôm sau y lại liên tiếp đánh chết thêm mấy con dã thú khác, bấy

giờ mới biết chưởng lực của mình rất mạnh, trong bụng cũng can đảm

thêm được một chút. Du Thản Chi tiếp tục đi về hướng nam, trong bụng

ngay ngáy sợ rằng nếu mình bỏ quên không gọi hồn con băng tàm một

ngày, ma tằm sẽ bỏ đi mất, thành thử ngày nào cũng phải kêu nó ra,

không dám lơ là. Com ma tằm bây giờ cực kỳ linh dị, gọi là ra ngay.

Du Thản Chi đi càng lúc càng xa, hôm đó đã đến địa giới tỉnh Hà

Nam ở trung châu. Y cũng biết cái đầu sắt của mình làm người ta sợ hãi

nên ban ngày chỉ ẩn náu tại những sơn động hoang dã hay rừng sâu, bao

giờ trời tối mới mò ra nhà dân chúng ăn trộm đồ ăn. Lúc này thân thủ y

mẫn tiệp dị thường nên không bao giờ bị người ta phát giác.

Ngày hôm đó y chui vào một chiếc miếu hoang bên vệ đường nằm

ngủ, bỗng nghe thấy tiếng bước chân, có ba người đi vào trong am. Y vội

vàng chui xuống dưới bệ thờ, không dám để cho người ta thấy. Ba người

đó đi vào trong miếu, ngồi xuống đất, lục đục ăn uống, nói năng chuyện

trên giang hồ. Bỗng nhiên một người hỏi:

- Ngươi thử nghĩ Kiều Phong bây giờ trốn ở đâu, sao hơn một năm

nay, không ai nghe thấy tin tức gì của y cả?

Du Thản Chi vừa nghe thấy hai tiếng Kiều Phong liền chột dạ, vội

vàng cố lắng tai nghe. Lại nghe một người khác nói:

- Tên đó tác ác đa đoan bây giờ rụt đầu rụt cổ như con rùa, chắc

không kiếm được y đâu.

Người nói lúc nãy lại tiếp:

- Chưa hẳn thế đâu. Y đợi đúng lúc mới ra tay, một khi người ta lơ là,

lúc ấy mới hạ thủ. Ngươi thử nghĩ mà xem, sau khi đại chiến Tụ Hiền

Trang rồi, y còn giết thêm bao nhiêu người nữa? Từ trưởng lão, vợ chồng

Đàm công, Đàm bà, Triệu Tiền Tôn, toàn gia Thái Sơn Thiết Diện Phán

Quan Đơn lão anh hùng, Trí Quang lão hòa thượng của núi Thiên Thai,

rồi Mã phu nhân của Cái Bang, trưởng lão Bạch Thế Kính, ôi, quả là đếm

không hết.

Du Thản Chi nghe đến đại chiến Tụ Hiền Trang, trong lòng đau xót

nên những gì người đó nói sau không nghe thấy gì cả, một lúc sau mới

nghe một giọng già nua:

- Kiều bang chủ xưa nay đãi người nhân nghĩa, không ngờ... ôi...

không ngờ... quả thật là số kiếp nó làm ra thế. Thôi mình đi.

Nói xong ông ta đứng lên. Người kia nói:

- Này lão Uông, ông bảo bản bang đang bầu tân bang chủ, thế thì

phải cử ai đây?

Người già cả kia đáp:

- Nào ta có biết! Bầu tới bầu lui, đã hơn một năm rồi cũng chưa tìm

ra một anh hùng hảo hán nào được toàn bang bội phục. Thôi, chúng mình

đi xem sao.

Người kia nói:

- Thôi tôi biết bụng ông rồi, chắc ông mong Kiều Phong quay trở lại

làm bang chủ chứ gì? Thôi đừng mơ mộng hão huyền nữa, lỡ chuyện đó

truyền ra đến tai Toàn đà chủ thì ông khó sống đó!

Ông già họ Uông hốt hoảng nói:

- Tiểu Tất, câu đó là ngươi nói chứ ta có bao giờ bảo là mong Kiều

bang chủ trở lại làm bang chủ bản bang đâu?

Tiểu Tất cười khẩy:

- Ông mở miệng ra là Kiều bang chủ này, Kiều bang chủ nọ chẳng

phải bụng mong y về làm bang chủ hay sao?

Lão Uông bực tức đáp:

- Ngươi mà còn nói bậy nói bạ xem ta có đập chết cái đồ chó đẻ như

ngươi không?

Người thứ ba can:

- Thôi được rồi! Mình là chỗ anh em, đừng để mích lòng nhau, đi

nhanh lên không lại trễ. Kiều Phong làm sao làm bang chủ của mình

được? Y là giống Khất Đan chó má, mình gặp y là hai bên nhất định một

sống một chết rồi. Vả lại, ví như mình mời y về làm bang chủ, chắc gì y

đã chịu?

Lão Uông thở dài một tiếng nói:

- Ngươi nói thế phải lắm.

Nói xong cả ba người cùng đi ra khỏi miếu. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Cái Bang muốn kiếm Kiều Phong mà kiếm không ra, bọn họ có biết đâu

gã đó đang ở nước Liêu làm Nam Viện Đại Vương, ta phải nói cho họ

biết mới được. Cái Bang người nhiều thế mạnh, lại ước định thêm anh

hùng hảo hán Trung Nguyên may ra có thể giết được tên ác tặc đó. Ta sẽ

theo bọn họ đi giết Kiều Phong. Y nghĩ đến quay lại Nam Kinh sẽ gặp A

Tử, trong ngực lập tức nóng bừng bừng.

Du Thản Chi rón rén từ trong miếu đi ra, thấy ba tên đệ tử Cái Bang

đi đường núi về hướng tây, liền lẳng lặng theo sau. Lúc này trời đã tối

mịt, hoang sơn không một bóng người, đi được vài dặm đến một thung

lũng, nhìn xa xa nơi sơn cốc có một đống lửa. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Cái đầu sắt của mình thật quái đản, bọn họ trông thấy thể nào cũng hô

hoán rầm rĩ lên, chi bằng trốn trong bụi cỏ nghe ngóng rồi hãy tính.

Y chui vào trong đám cỏ dày, bò dần đến gần đống lửa. Bò được mấy

trượng, ngừng lại một chút, lại bò tiếp, nghe thấy tiếng người xôn xao,

xem ra người tụ tập chung quanh đám lửa không phải là ít. Du Thản Chi

lâu nay từng chịu biết bao nhiêu hành hạ dày vò nên không dám sơ sẩy

chút nào, bò càng gần càng chậm lại, tới sau một tảng đá cách chừng vài

trượng thì không dám tiến xa hơn nữa nên nằm phục tại đó lắng tai nghe.

Những người chung quanh đống lửa ai nấy đều đứng nói chuyện, Du

Thản Chi nghe một hồi mới biết ra đây là người của Đại Trí phân đà tụ

hội thương nghị về việc đại hội Cái Bang sắp tới sẽ suy cử ai lên làm

bang chủ. Có người chủ trương đề cử Tống trưởng lão, có người lại muốn

Ngô trưởng lão. Một người nói:

- Nói đến trí dũng song toàn thì phải bầu cho Toàn đà chủ của bản

bang, tiếc rằng Toàn đà chủ hôm trước đã bị tên Kiều Phong giả công vi

tư đuổi ra khỏi bang rồi, việc quay trở lại bang chưa ổn thỏa.

Lại một người khác nói:

- Gian mưu của Kiều Phong chính là do Toàn đà chủ đứng ra vạch

trần, Toàn đà chủ lập được đại công cho bản bang, việc trở lại thật dễ

dàng. Một khi đại hội khai mạc, chúng ta trước hết lo việc Toàn đà chủ

qui bang, sau đó mới nói đến công lao khi trước, rồi bầu ông ta lên làm

bang chủ.

Một giọng sang sảng cất lên:

- Việc bản nhân trở lại bang cũng là chuyện thuận lý. Thế nhưng

việc các huynh đệ bầu mỗ lên làm bang chủ thì chưa nên đề cập đến vội,

nếu không người khác lại tưởng huynh đệ vạch trần gian mưu của Kiều

Phong là có ý đồ riêng tư.

Một người khác lớn tiếng nói:

- Toàn đà chủ, nếu gặp việc thì đương nhân bất nhượng3. Ta xem

trong mấy vị trưởng lão của bản bang, võ công tuy cao cường thật nhưng

kể về mưu trí thì không ai bì kịp với ông được. Chúng ta đối phó với tên

gian tặc Kiều Phong, là việc đấu trí chứ không phải đấu sức, Toàn đà

chủ...

Gã Toàn đà chủ kia ngắt lời:

- Thi huynh đệ, ta chưa chính thức trở lại bang, ba chữ Toàn đà chủ

xin đừng gọi thế vội.

Hơn hai trăm người ăn mày đang đứng quanh đống lửa nhao nhao lên:

- Tống trưởng lão đã có dặn rằng nhờ ông tạm thời giữ chức đà chủ

bản đà, ba chữ Toàn đà chủ kia có gì mà không được?

- Tương lai ông lên làm bang chủ, thì chẳng còn hơn chức đà chủ hay

sao?

- Toàn đà chủ nếu chưa đảm đương bang chủ thì ít nhất cũng phải

lên chức trưởng lão, nhưng khi đó cũng phải kiêm lãnh cả bản đà.

- Đúng lắm, dẫu Toàn đà chủ có làm bang chủ vẫn có thể kiêm luôn

cả chức đà chủ Đại Trí phân đà.

Còn đang bàn luận xôn xao, một bang chúng từ cửa sơn cốc chạy vào,

lớn tiếng báo:

- Khải bẩm đà chủ, Đoàn vương tử nước Đại Lý xin bái phỏng.

Toàn đà chủ Toàn Quan Thanh lập tức đứng bật dậy hỏi:

- Đoàn vương tử nước Đại Lý ư? Bản bang trước nay có giao thiệp gì

với nước Đại Lý đâu?

Y liền lớn tiếng nói:

- Các vị huynh đệ, Đoàn gia nước Đại Lý là thế gia trứ danh trong võ

lâm, Đoàn vương tử tự mình đến đây, tất cả cùng đứng lên nghênh tiếp.

Nói xong tất lãnh mọi người cùng đi ra ngoài sơn khẩu đón khách.

Chỉ thấy một thanh niên công tử mặt mày tươi tỉnh đứng ngay tại đó, đằng

sau có bảy tám người tùy tòng. Thanh niên đó chính là Đoàn Dự, hai

người chắp tay chào, hóa ra biết nhau rồi, đã từng gặp ở trong rừng hạnh

ngoài thành Vô Tích. Toàn Quan Thanh lúc đó chưa biết lai lịch, thân

phận Đoàn Dự, nghĩ lại khi đó mình bị Kiều Phong đuổi ra khỏi bang

Đoàn Dự đều biết cả, không khỏi ngượng ngùng, nhưng lập tức trấn tĩnh

ngay, ôm quyền nói:

- Không biết Đoàn vương tử tới thăm nên không ra xa nghinh tiếp,

xin lượng thứ cho.

Đoàn Dự cười đáp:

- Không dám! Không dám! Vãn sinh phụng mệnh gia phụ, có một

việc muốn phụng cáo quí bang cho nên mới đến làm phiền.

Hai người nói mấy câu khách sáo, Đoàn Dự giới thiệu đi cùng là Cổ

Đốc Thành, Phó Tư Qui, Chu Đan Thần ba người. Toàn Quan Thanh mời

Đoàn Dự đến ngồi tại một phiến đá trước đống lửa, sau đó bang chúng

đem rượu ra mời. Đoàn Dự tiếp lấy uống cạn rồi nói:

- Mấy tháng trước4, gia phụ ở tại Trung Châu có đến phủ của cố Mã

phó bang chủ quí bang, gặp một kỳ sự, chính mắt trông thấy cái chết của

Bạch Thế Kính Bạch trưởng lão. Việc này có liên can trọng đại đến quí

bang, lại cả đến anh hùng võ lâm Trung Nguyên nữa nên muốn trình cho

các nhân vật thủ não của quí vị. Có điều gia phụ thụ thương, dưỡng bệnh

đến nay mới đỡ mà các trưởng lão trong bang hành tung vô định, không

sao gặp được, khiến cho phong thư gia phụ viết vẫn chưa có cách nào

trình lên. Mấy bữa trước gia phụ nghe tin quí đà tụ hội nơi đây nên mới

sai vãn sinh đưa tới.

Nói xong chàng lấy trong tay áo ra một phong thư, đứng lên đưa ra.

Toàn Quan Thanh cũng vội vàng đứng dậy, hai tay nhận lấy nói:

- Phải phiền đến Đoàn công tử đích thân đưa thư, cái tấm lòng

thương yêu của Đoàn vương gia khiến cho tất cả tệ bang từ trên xuống

dưới ai ai cũng cảm đại đức.

Y nhìn thấy phong thư đó gắn rất kỹ, trên phong bì viết tám chữ lớn:

Cái Bang chư vị trưởng lão thân khải5

Y nghĩ thầm tự mình không tiện mở ra xem bèn nói:

- Tệ bang không lâu nữa sẽ khai đại hội, các trưởng lão sẽ đều đến

cả, tại hạ sẽ đem thư của Đoàn vương gia trình lên cho chư vị thủ lãnh.

Đoàn Dự nói:

- Như thế xin phiền vậy, vãn sinh cáo biệt.

Toàn Quan Thanh luôn mồm cảm ơn, tiễn khách ra rồi mới nói:

- Bạch trưởng lão và Mã phu nhân của tệ bang bất hạnh bị gian tặc

Kiều Phong hạ độc thủ, hôm đó chính mắt Đoàn vương gia trông thấy hay

sao?

Đoàn Dự lắc đầu:

- Bạch trưởng lão và Mã phu nhân không phải do Kiều đại ca giết

hại đâu, sát hại Mã phó bang chủ cũng là người khác. Trong phong thư

này của gia phụ có nói rất rõ ràng, sau này Toàn đà chủ đọc thư sẽ biết

rõ mọi chuyện.

Chàng trong bụng nghĩ thầm: Việc này nói ra dài dòng, nhà ngươi

đâu phải là người tốt, không nên nói nhiều làm chi. Ta đoán chừng ngươi

không dám dấu lá thư của cha ta đâu. Đoàn Dự quay sang ôm quyền

chào Toàn Quan Thanh nói:

- Sau này gặp lại, không dám phiền chư vị tiễn ra xa.

Chàng quay mình đi ra sơn cốc, vừa trở đầu đã thấy hai tên bang

chúng Cái Bang dẫn hai hán tử tiến vào. Hai người đó đưa mắt cho nhau,

đi lên mấy bước khom lưng hành lễ với Đoàn Dự, trình lên một tờ danh

thiếp màu đỏ chói. Đoàn Dự cầm lấy xem qua, thấy trên tờ thiếp viết bốn

hàng chữ:

Tô Tinh Hà cung kính mời những vị tinh thông kỳ nghệ6 trong thiên hạ,

đến ngày mồng tám tháng hai giá lâm hang Thiên Lung Địa Á, núi Lôi Cổ,

tỉnh Hà Nam để gặp gỡ một phen.

Đoàn Dự vốn thích đánh cờ thấy bốn hàng chữ đó, tinh thần phấn

chấn vui vẻ nói:

- Thế thì hay lắm, nếu vãn sinh không có chuyện tục vụ gì vướng

bận, thể nào cũng đến. Thế nhưng xin hỏi tại sao hai vị lại biết vãn sinh

thích đánh cờ?

Hai hán tử lộ vẻ vui mừng, mồm ú ớ, giơ tay múa chân, hóa ra hai

người đó bị câm. Đoàn Dự không hiểu hai người đó chỉ trỏ ra hiệu những

gì, mỉm cười hỏi Chu Đan Thần:

- Núi Lôi Cổ có xa lắm không?

Nói xong chàng giao tờ thiếp lại cho ông ta. Chu Đan Thần cầm lấy

xem qua, trước hết vòng tay hành lễ với hai người kia nói:

- Trấn Nam Vương thế tử Đoàn công tử nước Đại Lý, xin gửi lời

chào đến Thông Biện tiên sinh, trước hết tạ ơn bao giờ đến kỳ sẽ đến bái

phỏng.

Ông ta chỉ vào Đoàn Dự, chỉ trỏ mấy cái biểu thị sẽ đến phó hội. Hai

hán từ khom lưng hành lễ với Đoàn Dự, sau đó lại lấy ra một tờ thiếp nữa

đưa cho Toàn Quan Thanh. Toàn Quan Thanh cầm lấy xem qua, cung

kính trả lại xua tay nói:

- Người tạm lãnh chức Phân Đà Chủ Đại Trí phân đà của Cái Bang

là Toàn Quan Thanh, xin kính chào Thông Biện tiên sinh núi Lôi Cổ,

Toàn mỗ kỳ nghệ kém cỏi, chẳng bõ làm trò cười, không dám phó hội,

xin Thông Biện tiên sinh tha lỗi cho.

Hai hán tử khom lưng hành lễ, sau đó quay qua chào Đoàn Dự,

chuyển thân đi ra. Chu Đan Thần lúc đó mới trả lời Đoàn Dự:

- Lôi Cổ Sơn ở phía nam Tung Huyện, đông bắc Khuất Nguyên

Cương, đến đó cũng không xa lắm.

Đoàn Dự từ biệt Toàn Quan Thanh rồi, ra khỏi thung lũng lúc đó mới

hỏi Chu Đan Thần:

- Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà là người thế nào? Là quốc thủ về

đánh cờ ở Trung Nguyên hay sao?

Chu Đan Thần đáp:

- Thông Biện tiên sinh chính là Lung Á tiên sinh7.

Đoàn Dự ồ lên một tiếng, cái tên Lung Á tiên sinh chàng ở Đại Lý đã

từng nghe bá phụ và phụ thân nhắc tới, biết đó là một cao thủ kỳ túc của

võ lâm Trung Nguyên, vừa điếc vừa câm nhưng nghe nói võ công lại rất

cao cường, khi đề cập đến ông ta giọng của bác chàng xem chừng kính

trọng. Chu Đan Thần lại tiếp:

- Lung Á tiên sinh tuy tàn tật nhưng nhất định tự xưng mình là Thông

Biện tiên sinh, cho rằng mình tâm thông, bút biện còn hơn xa người

thường nhĩ thông, thiệt biện.8

Đoàn Dự gật đầu nói:

- Kể cũng có lý.

Chàng đi thêm mấy bước bỗng cất tiếng thở dài. Đoàn Dự nghe Chu

Đan Thần nói Lung Á tiên sinh tâm thông, bút biện hơn cả người thường

nhĩ thông, thiệt biện không khỏi chạnh lòng nhớ tới Vương Ngữ Yên

đánh võ miệng còn giỏi hơn người ta đánh võ tay chân binh khí.

Chàng ở thành Vô Tích cùng A Châu cứu được bọn người Cái Bang

rồi, chẳng bao lâu Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác hai người đến tụ hội với

Vương Ngữ Yên. Năm người đó muốn lên miền bắc đi kiếm Mộ Dung

công tử, Đoàn Dự dĩ nhiên cũng muốn đi theo, Phong Ba Ác nhớ ơn

chàng đã dùng mồm hút nọc độc con bò cạp nên rất hoan nghênh, có điều

Bao Bất Đồng ăn nói cực kỳ sỗ sàng, trách cứ Đoàn Dự giả trang làm Mộ

Dung công tử làm bại hoại tiếng tăm y đi. Đến sau y tỏ ý ngươi không

cút đi, ta sẽ đập cho một trận, trong khi Vương Ngữ Yên chỉ lo bàn với

Phong Ba Ác cách nào kiếm được biểu ca, coi tình cảnh quẫn bách của

Đoàn Dự như không biết đến.

Đoàn Dự chẳng còn biết sao hơn đành phải chia tay cùng Vương Ngữ

Yên nhưng cũng đi lên miền bắc nghĩ bụng: Các ngươi muốn đi Hà Nam

tìm Mộ Dung Phục, ta cũng đang định đi Hà Nam. Hà Nam là đất trung

châu chứ có phải của riêng nhà Mộ Dung các ngươi đâu, Mộ Dung Phục

và Bao Bất Đồng đến được, chẳng lẽ Đoàn Dự không đến được? Nếu như

trên đường chạm trán họ thì cũng là ý trời, Bao tam tiên sinh kia làm sao

trách mình được?.

Thế nhưng trời già nào có cho Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên giải cấu

tương phùng, suốt thời gian đó, Đoàn Dự ở Hà Nam lang thang đi khắp

mọi nơi, tiếng là du sơn ngoạn thủy, nhưng thực ra đến đâu mắt cũng dáo

dác, chỉ mong sao được nhìn thấy mớ tóc dài óng ả, một chéo áo của

Vương Ngữ Yên, còn núi non sông nước chàng nào có để mắt đến.

Một hôm, Đoàn Dự đang ở chùa Bạch Mã thành Lạc Dương đàm luận

với phương trượng về kinh A Hàm, nghiên thảo việc đức Phật giảng về

truyện chuyển luân thánh vương có bảy bảo vật. Đoàn Dự nghe nói

bảo vật ngọc nữ không dài không vắn, không trắng không đen, mùa đông

thân thể ấm áp, mùa hạ thân thể mát mẻ cực kỳ hứng thú nhưng phương

trượng lắc đầu quầy quậy nói:

- Đoàn cư sĩ, đó chẳng qua là thí dụ của nhà Phật đấy thôi, huống chi

Phật dạy thất bảo cũng đều là vô thường...

Vừa nói tới đây, bỗng có ba người vào chùa, chính là Phó Tư Qui, Cổ

Đốc Thành và Chu Đan Thần. Thì ra sau khi Đoàn Chính Thuần rời nhà

họ Mã ở phủ Tín Dương, gặp lại Nguyễn Tinh Trúc, mới đi tìm chỗ dưỡng

thương, nghĩ đến việc Tiêu Phong bị Cái Bang đổ tiếng oan giết Mã Đại

Nguyên không thể không biện bạch giùm cho ông ta nên mới viết một

phong thư, sai bọn Phó Tư Qui ba người đem tới đưa cho Cái Bang.

Bọn Phó Tư Qui đến Lạc Dương tìm tổng đà Cái Bang, không gặp

nhân vật thủ lãnh nào, lại nghe phân đà Đại Trí tụ hội gần bên nên dự

định đem thư đến. Ngờ đâu khi ở tại tửu lâu họ nghe lỏm người ta kể

chuyện một chàng thư sinh gàn dở, hình dáng có phần tương tự như Đoàn

Dự nên mới hỏi xem công tử đó nơi đâu rồi tìm đến Bạch Mã tự.

Bốn người gặp nhau hết sức mừng rỡ. Đoàn Dự nói:

- Để ta theo các vị đi đưa thư, rồi chư vị đưa ta đến bái kiến phụ

vương.

Chàng nghe nói cha mình cũng đang ở Hà Nam nên càng nóng lòng

muốn gặp, nhưng bao lâu nay không nghe tin tức gì về Vương Ngữ Yên

ngày đêm nhung nhớ, chỉ mong nơi Đại Trí phân đà có các nhân vật

giang hồ, may ra thấy được ngọc dung tiên nhan của người đẹp nhưng hỡi

ôi tất cả đều chỉ là một chữ không.

Chu Đan Thần thấy chàng thở vắn than dài, lại tưởng chàng mong

nhớ Mộc Uyển Thanh, việc này không thể nào khuyên giải gì được, nghĩ

bụng cách tốt nhất là làm cho chàng phân tâm qua chuyện khác nên nói:

- Vị Thông Biện tiên sinh này phát thiếp rộng rãi mời thiên hạ đến

đánh cờ, kỳ lực ắt phải cao lắm. Công tử gia sau khi bái kiến Trấn Nam

Vương rồi, cũng nên đến gặp Thông Biện tiên sinh đánh vài ván xem

sao!

Đoàn Dự gật đầu đáp:

- Đúng đó! Cuộc đen trắng cũng là cách tiêu khiển khiến cho con

người bớt ưu phiền. Có điều tuy nàng tinh thông các môn phái võ công

thiên hạ, bụng chứa binh giáp, muôn nhà muôn vẻ nhưng lại không biết

đánh cờ. Buổi hội ngộ đấu cờ của Thông Biện tiên sinh, chắc nàng không

tới đâu!

Chu Đan Thần ngơ ngẩn hoang mang, không biết chàng đang nói đến

ai, trên đường đi thấy công tử hồn vía đâu đâu, câu trước đầu Ngô, câu

sau mình Sở nghe cũng đã nhiều nên không tiện gặng hỏi.

Cả đoàn người rong ruổi chạy về hướng tây bắc. Đoàn Dự ngồi trên

lưng ngựa, lúc thì nhíu tít lông mày, lúc lại cười mủm mỉm, lẩm bẩm một

mình:

- Kinh Phật có dạy rằng: Khi nghĩ đến mỹ nữ thì hãy nhớ thân thể ai

thì cũng chỉ là máu mủ, một trăm năm sau thì cũng thành một bộ xương

trắng mà thôi. Lời nhà Phật tuy không sai nhưng người như nàng dù có

một trăm năm nữa hóa thành bạch cốt, thì mớ xương đó cũng đẹp hơn

những bộ xương người thường.

Chàng còn đang mơ màng nghĩ đến bộ xương trong người Vương Ngữ

Yên ra thế nào, bỗng nghe thấy phía sau có tiếng chân dồn dập, hai con

ngựa ở đâu chạy tới, trên yên mỗi con nằm phục một người, trong lúc trời

tối không nhìn rõ là hạng người nào.

Hai con ngựa đó dường nhưng không ai cầm cương, chạy xông đến

bọn Đoàn Dự. Phó Tư Qui và Cổ Đốc Thành hai người chia ra mỗi người

giữ một con lại, thấy người nằm trên đó không còn cử động gì nữa. Phó

Tư Qui hơi kinh hãi, lại gần xem cho kỹ hóa ra chính là hai sứ giả của

Lung Á tiên sinh, trên mặt nở một nụ cười kỳ bí, đều đã chết cả rồi. Hai

người này vừa mới đây đưa thiếp mời Đoàn Dự còn khỏe như vâm, sao

chỉ quay đi quay lại đã lăn ra chết là sao? Họ đều là sứ giả của Lung Á

tiên sinh, sao nét mặt lại kỳ lạ như thế? Phó Tư Qui vừa thoạt nhìn biết

ngay hai người bị trúng chất cực độc vội kéo cương ngựa lùi lại hai bước

không dám đứng gần hai cái tử thi.

Đoàn Dự giận dữ nói:

- Gã họ Toàn của Cái Bang độc ác thật, tại sao lạ hạ thủ những

người này? Ta phải hỏi cho ra lẽ.

Chàng trở đầu ngựa, toan quay lại tra vấn Toàn Quan Thanh. Phía

trước trong bóng tối có người lên tiếng hỏi:

- Tên tiểu tử kia chẳng biết trời cao đất dày là gì, khắp thiên hạ trừ

môn hạ Tinh Tú lão tiên ra thì có ai mà giết người một cách vô hình như

thế được? Lão già câm điếc rụt đầu rùa trốn một chỗ thì còn được chứ

nếu thò mặt ra thì Tinh Tú lão tiên không tha cho y đâu. Này, thằng bé

kia, chuyện không liên can gì đến ngươi, mau cút đi nơi khác.

Chu Đan Thần ghé tai Đoàn Dự nói nhỏ:

- Công tử, đây là người của phái Tinh Tú, mình không nên dây dưa

với họ, đi thôi!

Đoàn Dự kiếm không thấy Vương Ngữ Yên nên đang rảnh rỗi, hai sứ

giả của Lung Á lão nhân gặp chuyện nguy hiểm, chàng thể nào cũng

xông lên cứu viện, nhưng lúc này lại chết rồi, nên cũng không muốn rắc

rối, thở dài một tiếng nói:

- Nếu chỉ mới miệng câm tai điếc thì cũng chưa đủ, còn phải thêm

mắt mù, mũi không ngửi thấy mùi hương, trong lòng không còn ý niệm gì

thì mới mong giải thoát khỏi phiền não.

Chàng nói đây là nói về nếu gặp lại Vương Ngữ Yên, giọng nói hình

dáng, nhất cử nhất động của nàng đã ăn sâu vào tâm khảm mình rồi, dẫu

có vừa câm vừa điếc thì nỗi nhớ mong cũng đâu có vì thế mà dứt được.

Ngờ đâu người phía bên kia nghe chàng nói thế lại cười hềnh hệch, vỗ

tay nói:

- Đúng đó! Đúng đó! Ngươi nói thật có lý, phải chọc mù mắt y đi, cắt

mũi y đi, rồi đánh cho y đến khi nào phải đổi ý mới xong.

Đoàn Dự thở dài:

- Ngoại lực dù có ép thế nào chăng nữa thì cũng chẳng đến đâu. Phải

chính bản thân mình tu hành sao cho tâm không bám vào những gì nhìn

thấy, nghe thấy, ngửi thấy, nếm thấy, sờ thấy mà phải đạt tới chỗ vô trụ xứ

9 có thế mới rời xa được hình tướng, trở thành bồ tát. Chúng ta là kẻ

phàm phu tục tử, làm sao tu đến mức đó được? Ghét nhau mà phải ở gần

nhau, yêu nhau mà phải xa nhau, muốn mà không được10 năm nhóm11 đó

thiêu đốt con người cho nên sống trên đời mới đầy đau khổ.

Du Thản Chi nằm trong đám cỏ phía sau tảng đá thấy bọn Đoàn Dự đi

rồi quay trở lại, sau đó phía trước có tiếng người quát tháo, vừa lúc đó hai

tên đệ tử Cái Bang chạy đến, nói nhỏ với Toàn Quan Thanh:

- Toàn đà chủ, hai gã câm kia không hiểu sao bị người ta giết rồi, kẻ

hạ thủ tự xưng là thủ hạ của cái gì Tinh Tú lão tiên phái Tinh Tú.

Toàn Quan Thanh kinh hãi, mặt liền biến sắc. Y đã từng nghe tiếng

Tinh Tú Lão Quái ở biển Tinh Tú chuyên sử chất độc cực mạnh, võ công

cũng thật cao cường nghĩ thầm: Bọn họ giết sứ giả của Lung Á lão nhân,

chuyện này không liên can gì đến mình, chẳng nên gây chuyện với họ

làm gì. Y liền nói:

- Ta biết rồi, bọn chúng hai đằng quỉ đánh với ma, mình chẳng dây

vào.

Đột nhiên trước mặt có tiếng người nói:

- Bọn chúng bay ăn nói láo lếu, đã biết ta là môn hạ của Tinh Tú lão

tiên, sao dám chửi ta là ma là quỉ? Bộ ngươi không muốn sống hay sao?

Toàn Quan Thanh kinh hãi, giật mình lùi lại một bước, dưới ánh lửa

thấy một người đứng sừng sững trước mặt, chính là một tên bang chúng

thủ hạ. Y chăm chú quan sát kỹ, gã đó trông cười mà chẳng ra cười, hình

dạng thật kỳ bí, dường như sau lưng y còn có ai nữa thì phải, bèn quát

lên:

- Các hạ là ai, giả ma giả quỉ dọa người để làm gì thế?

Người nấp ở sau gã đệ tử Cái Bang giọng lạnh như tiền nói:

- Quả là to gan! Ngươi lại nói thêm một chữ quỉ. Lão tử là môn hạ

Tinh Tú lão tiên, Tinh Tú lão tiên giá lâm Trung Nguyên, đang cần ngay

hai chục con rắn độc, một trăm con trùng độc. Các ngươi trong Cái Bang

xưa nay lúc nào cũng sẵn độc trùng, độc xà, mau mau dâng lên coi. Tinh

Tú lão tiên thấy các ngươi ngoan ngoãn dễ bảo may ra tha cho bọn ăn

mày khốn khó. Còn nếu không, hà hà, tất cả cũng như tên này thôi.

Nghe bình một tiếng, tên đệ tử Cái Bang đột nhiên bay tung lên, rơi

bịch xuống cạnh đống lửa, không còn động đậy gì nữa, hóa ra chết từ bao

giờ. Gã đệ tử đó vừa văng đi, để lộ ra một gã thấp bé mặc áo vải, không

biết y đã lẻn tới từ lúc nào mà lại giết được một đệ tử Cái Bang rồi náu ở

đằng sau như thế.

Toàn Quan Thanh vừa kinh hãi vừa tức giận, trong giây lát trong đầu

xoay chuyển bao nhiêu ý nghĩ: Tinh Tú Lão Quái đổ lên đầu Cái Bang,

việc trước mắt nếu không khuất phục thì đến phải một mất một còn. Việc

này tuy hung hiểm thật nhưng nếu y chỉ mới dọa một câu, ta đã đem rắn

độc trùng độc dâng lên thì anh em trong bang từ nay còn coi ta vào đâu

nữa. Ta dĩ nhiên không còn dám tơ tưởng cái chức bang chủ mà cũng

chẳng còn mặt mũi nào ở trong bang. Cũng may Tinh Tú Lão Quái chưa

đích thân đến đây, chỉ mới có một mình gã này, không có gì phải sợ cả.

Y nghĩ thế nên cười khì khì nói:

- Thì ra đây là nhân huynh của phái Tinh Tú, cao tính đại danh các

hạ là chi?

Gã lùn đáp:

- Pháp danh ta là Thiên Lang Tử. Ngươi mau mau dự bị cho đủ độc

trùng độc xà đi thôi.

Toàn Quan Thanh cười đáp:

- Các hạ nếu cần độc trùng độc xà thì cũng chỉ là chuyện cỏn con, có

gì mà phải lo lắng?

Y tiện tay cầm một chiếc túi vải ở dưới đất lên nói:

- Trong đây có mấy con rắn, xin các hạ xem thử xem Tinh Tú lão

tiên dùng có được không?

Gã lùn Thiên Lang Tử kia thấy Toàn Quan Thanh mở miệng một điều

Tinh Tú lão tiên hai điều Tinh Tú lão tiên, trong lòng cực sung

sướng, thấy y thần thái cung thuận, nghĩ thầm: Nghe nói gì Cái Bang là

bang lớn số một của Trung Nguyên, vừa nghe tên của sư phụ lão nhân gia

đã sợ đến mất vía. Ta đem mấy con rắn độc trùng độc về, chắc sư phụ

hoan hỉ lắm, sẽ khen ta chu đáo, được việc. Nói gì thì nói, cũng là nhờ uy

danh của sư phụ lão nhân gia.

Nghĩ thế y bèn thò đầu vào túi vải để xem. Đột nhiên mắt tối sầm,

cái túi đó đã chụp lên đầu y, Thiên Lang Tử kinh hãi, vội vàng múa

chưởng đánh ra nhưng không trúng vào đâu cả. Vừa khi đó, trên mặt, trên

trán, sau ót đều đau nhói lên, đã bị độc vật trong túi cắn trúng rồi. Thiên

Lang Tử không kịp bỏ chiếc túi trên đầu xuống, vội đánh ra hai chưởng

nữa rồi bỏ chạy thục mạng. Y trên đầu vẫn còn chiếc túi nên không thấy

đường, tay đánh loạn xạ, chỉ thấy khắp đầu, khắp mặt chỗ nào cũng bị

cắn, càng hoảng hốt thêm cứ tiếp tục chạy cho nhanh, ngờ đâu bước hụt

một cái, lục tục từ trên triền núi lăn xuống, rơi tõm ngay vào khe suối

dưới thung lũng, theo dòng trôi đi.

Toàn Quan Thanh vốn dĩ định giết y bịt miệng, ngờ đâu y lại chạy

mất, tuy y đã bị bò cạp cắn trúng rồi, lại rơi xuống suối, tính mạng khó

bảo toàn, nhưng phái Tinh Tú vốn giỏi sử dụng độc vật, rất có thể y có

cách giải độc, còn ở vùng biển Tinh Tú thì chắc biết bơi. Nếu như gã này

không chết, phái Tinh Tú hay được, thể nào cũng tới báo thù.

Y trầm ngâm giây lát rồi nói:

- Chúng ta bố trí Cự Mãng Trận, hơn thua với phái Tinh Tú một

phen. Không lẽ Kiều Phong đi khỏi, Cái Bang chúng ta không còn đứng

vững được nữa, ai sai bảo gì cũng được hay sao? Phái Tinh Tú biết sử

dụng chất độc, mình không nên dùng quyền cước binh khí mà cũng phải

dĩ độc công độc.

Người của Cái Bang nhao nhao khen phải, lập tức giàn ra bốn bề, bố

trí trận thế cách đống lửa mấy trượng, người người ngồi xuống xếp bằng.

Du Thản Chi thấy Toàn Quan Thanh dùng túi vải đuổi được Thiên

Lang Tử chạy mất nghĩ thầm: Thì ra trong cái túi của y có độc vật, bọn

họ có nhiều túi vải như thế, túi nào cũng toàn là rắn độc trùng độc hay

sao? Bọn ăn mày giỏi nghề bắt trùng bắt rắn không có gì lạ. Nếu mình ăn

cắp được vài cái túi đem về cho A Tử cô nương chắc cô ta vui mừng

lắm.

Y thấy người của Cái Bang ngồi xuống rồi không ai nói năng một lời,

người nào bên cạnh cũng để mấy cái túi, có cái thì thật lớn, bên trong có

gì cục cựa, Du Thản Chi nhìn mà lạnh người. Lúc này bốn bề hoàn toàn

yên tĩnh, nếu như y bò ra thể nào cũng bị người của Cái Bang phát giác,

nghĩ thầm: Nếu bọn họ chụp chiếc túi lên đầu mình, mình có cái lồng

sắt không việc gì phải sợ, thế nhưng nếu chúng bắt mình bỏ luôn vào bao

chung với rắn rết thì mới thực là hỡi ôi!.

Mấy giờ sau đó vẫn không thấy động tĩnh gì, lại thêm một hồi nữa,

trời bắt đầu tờ mờ sáng rồi mặt trời nhô lên, chiếu khắp núi đồi. Trên đầu

cành chim hót líu lo, bỗng nghe Toàn Quan Thanh kêu khẽ:

- Đến rồi! Tất cả anh em đề phòng!

Y ngồi xếp bằng trên một phiến đá bên ngoài xà trận, bên cạnh cũng

để mấy cái túi, tay cầm thiết địch. Chỉ nghe phía tây bắc văng vẳng tiếng

đàn tiếng sáo, một đoàn người chậm rãi đi lên, trong tiếng nhạc có lẫn cả

chiêng trống, nghe rất là réo rắt. Du Thản Chi tự hỏi: Có đám cưới

chăng?.

Tiếng nhạc càng lúc càng gần, đến cách xa chừng mươi trượng thì

ngừng lại, có tiếng mấy người cùng cất lên:

- Tinh Tú lão tiên pháp giá Trung Nguyên, đệ tử Cái Bang mau mau

tiến lên quì xuống nghênh tiếp.

Câu nói vừa dứt, lập tức trống đánh tùng tùng tùng. Ba hồi trống vừa

dứt, thanh la đánh choang một cái, tiếng trống liền ngưng bặt, mấy chục

người cùng cao giọng:

- Cung thỉnh Tinh Tú lão tiên hoằng thi đại pháp, hàng phục bọn tiểu

xú Cái Bang.

Du Thản Chi nghĩ thầm: Nghe như đạo sĩ làm phép trừ tà bắt ma. Y

len lén từ sau tảng đá thò đầu ra nhìn, thấy nơi phía tây bắc có đến hơn

hai chục người xếp thành hàng ngang, kẻ thì cầm chiêng trống nhạc khí,

kẻ thì cầm phướn cầm cờ, cái xanh cái đỏ trông thật đẹp đẽ, xa xa thấy

thấp thoáng trên những lá cờ đó có thêu: Tinh Tú lão tiên, thần thông

quảng đại, pháp lực vô biên, uy chấn thiên hạ... nhiều câu khác

nhau. Trong tiếng tơ tiếng sáo dặt dìu, một ông lão chậm rãi bước ra,

những người đứng sau lưng lập tức chia thành hai hàng, lẽo đẽo đi theo

cách xa ông ta chừng vài trượng.

Ông lão đó tay cầm một chiếc quạt bằng lông ngỗng, ánh mặt trời

chiếu vào, thấy mặt mũi hồng hào, tóc trắng như bông, dưới cằm là ba

chòm râu trắng như cước, đồng nhan hạc phát, thật chẳng khác gì người

trong truyện thần tiên.

Ông lão đó đi đến còn cách bọn ăn mày chừng ba trượng thì ngừng

lại, đột nhiên chúm môi thổi mấy cái, phát ra tiếng thật chói tai, giơ quạt

phất một cái đẩy tiếng sáo tới (?), bốn tên bang chúng Cái Bang ngồi

dưới đất lập tức ngã ngửa ra.

Du Thản Chi kinh hãi: Tinh Tú lão tiên này pháp thuật quả nhiên

quảng đại thật. Ông lão nở một nụ cười, thổi toe một tiếng, quạt phẩy ra,

lại có một người ngã, xem chừng tiếng thổi là một loại ám khí vô hình

cực kỳ lợi hại, chỉ trong phút chốc trong Cái Bang đã có sáu bảy người

lăn quay ra. Lập tức đằng sau ông lão, tiếng người ca tụng rộn lên:

- Công lực sư phụ chói lọi cổ kim! Bọn ăn mày kia dám đối đầu với

mình, thật đúng là đom đóm lập lòe đua tranh cùng vầng nhật nguyệt.

- Châu chấu đá xe quả không biết lượng sức mình, thật tức cười quá

đỗi!

- Sư phụ chỉ nói nói cười cười mà đưa cả bọn yêu ma tiểu xú Cái

Bang vào chỗ chết, thật dễ như bẻ củi mục mà được toàn thắng, đồ nhi

thật chưa từng thấy, đến nghe cũng chưa nghe tới bao giờ.

- Đây là công nghiệp vĩ đại trên đời chưa từng có, nếu sư phụ lão

nhân gia không lộ một chút thân thủ thì bọn võ học Trung Nguyên nào có

biết trên đời lại có công phu ghê gớm đến mức này.

Trong khi cả bọn ca công tụng đức, nghe chối cả tai thì tiếng ti trúc

quản huyền vẫn tấu lên thật là réo rắt. Đột nhiên có mấy tiếng tu tu,

Toàn Quan Thanh đã đưa sáo sắt lên môi thổi mấy tiếng. Du Thản Chi

nghĩ thầm: Y thổi sáo làm gì thế? Để nghênh đón Tinh Tú lão tiên

chăng?.

Bỗng nghe dưới đất có tiếng sột soạt, từ trong những chiếc túi vải

mấy con rắn lớn vằn vện ngũ sắc bò thẳng tới chỗ ông lão. Những đệ tử

chung quanh ông lão kinh hoảng kêu lên:

- Rắn kìa! Có rắn độc!

- Chao ôi! Không xong, sao lắm rắn độc thế này.

- Sư phụ ôi, những con rắn độc này lại xông tới mình là sao?

Chỉ thấy tất cả những cái túi của bọn ăn mày đâu đâu cũng có rắn bò

ra, con lớn con bé đủ cả, phùng mang lè lưỡi, xông tới chỗ ông lão và bọn

đệ tử. Bọn chúng đứa nào đứa nấy quýnh quáng kêu la ỏm tỏi.

Đệ tử phái Tinh Tú liền cầm cương trượng lên, đập túi bụi những con

rắn đang lúc nhúc bò tới, chỉ riêng ông lão thần sắc vẫn bình thường, lại

chúm môi huýt một tiếng, vẫy quạt đánh ra. Toàn Quan Thanh cũng thổi

địch liên tiếp, người trong Cái Bang cũng hò hét trợ uy.

Đàn rắn càng lúc càng đông, chỉ trong phút chốc chung quanh phải

đến hàng trăm con, trong đó có dăm con trăn lớn. Mấy con mãng xà bò

tới gần, dùng đuôi cuốn được hai người, tiếp theo lại quấn chết thêm hai

người nữa. Nếu đệ tử phái Tinh Tú bỏ chạy, những con rắn chắc không

theo kịp, thế nhưng sư tôn còn đang nghinh địch, quần đệ tử nào ai dám

bỏ đi một bước, chỉ đành múa binh khí, đâm chém loạn cả lên, khiến rắn

độc bị chúng giết chết cũng phải đến tám chín chục con, còn người bị rắn

cắn cũng đến bảy tám người.

Những con trăn lớn kia càng lợi hại hơn nữa, da thô thịt dày, gậy đập

vào không thấm đâu, quấn được ai rồi càng lúc càng xiết chặt, nhất định

không buông. Theo tiếng sáo, từ trong túi bò ra mỗi lúc một nhiều, tổng

cộng phải đến hai mươi bảy, hai mươi tám con cự mãng.

Ông lão thấy tình thế không ổn, toan tấn công Toàn Quan Thanh để

rút lui, thì có hai con rắn nhỏ phóng tới cắn vào mặt ông ta. Ông lão quát

lên:

- Gớm nhỉ!

Quạt trong tay phất lên, kình phong đổ ra, đánh bạt hai con rắn

xuống, bỗng thấy một vật gì mềm nhũn cuốn lấy gót chân, biết là không

xong, phi thân vọt lên, bỗng nghe tiếng địch vi vu, bốn con trăn cùng

vung đuôi lên, quật vào người ông ta. Ông lão đang ở trên không, bình

bình đánh ra hai chưởng, đánh bật hai con trăn phía trước và phía trái,

người lắc một cái đã vọt ra ngoài hai trượng. Ngay lúc đó con rắn thứ ba

và thứ tư cùng dùng đuôi tấn công tới. Trong cơn nguy cấp, ông lão vận

kình đánh ra, chưởng phong đánh nát đầu một con trăn lớn.

Thế nhưng bầy rắn vẫn xông vào, ông lão tuy đánh chết được ba con

cự mãng nhưng hông và đùi bên phải đã bị hai con trăn quấn được. Ông

ta vận nội lực lên, quát lớn một tiếng, giơ ngón tay chộp vào bụng con

trăn đang quấn ngang lưng khiến cho máu me tung tóe đầy người. Ngờ

đâu trăn là giống rất dai, tuy bụng đã bị vỡ nhưng không chết ngay, bị

đau liền xiết người lại, tưởng chừng quấn nát người ông lão. Ông ta dùng

sức dãy hai lần, kế đó lại có hai con mãng xà xông tới, quấn thêm mấy

vòng nữa trên người ông ta, đến cánh tay cũng cuốn luôn vào, khiến cho

không còn cách nào kháng cự. Du Thản Chi nằm trong đám cỏ chứng

kiến trận đấu kinh tâm động phách, tưởng chừng thở không ra hơi.

Toàn Quan Thanh trong bụng mừng lắm, thấy bên địch ai nấy bị trăn

quấn cả rồi, chỉ còn rên rỉ, chửi rủa, không còn cách gì kháng cự nữa nên

không tiếp tục thổi sáo, tiến lên cười khì khì hỏi:

- Tinh Tú Lão Quái, phái Tinh Tú ngươi và Cái Bang ta trước nay

đường ai nấy đi, nước sông không phạm nước giếng, sao lại đến gây sự

với bọn ta là sao? Bây giờ còn gì để nói nữa không?

Ông lão đồng nhan hạc phát kia chính là người mà võ lâm nhân sĩ

Trung Nguyên ghét cay ghét đắng Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu. Vì

một trong tam bảo của phái Tinh Tú là Thần Mộc Vương Đỉnh bị nữ đệ tử

A Tử ăn cắp mất, liên tiếp phái các đệ tử ra đuổi bắt, thậm chí cả đại đệ

tử Trích Tinh Tử cũng sai đi nhưng lần nào bồ câu đem thư về cũng thấy

tình thế thật là bất lợi. Về sau ông ta nghe nói A Tử dựa vào thế anh rể là

Kiều Phong của Cái Bang, đánh bại Trích Tinh Tử, Đinh Xuân Thu vừa

tức tối vừa kinh hoàng, biết Cái Bang là bang hội lớn nhất trong võ lâm

Trung Nguyên không dễ gì đối phó, lại nghe Lung Á lão nhân tái xuất

đầu lộ diện cũng đang hoành hành trong võ lâm vài năm qua, mối lo

trong gan ruột kia chưa trừ được thì không yên tâm, một khi đoạt lại được

vương đỉnh rồi phải thừa cơ thanh toán cho xong chuyện cũ, thành thử

đem hết đệ tử đích thân đi vào Trung Nguyên.12

Môn Hóa Công Đại Pháp y luyện thường phải dùng các loại chất độc

của rắn rết bôi lên lòng bàn tay, hút vào trong người, nếu bảy ngày không

có thì không những công lực giảm thiểu mà chất độc tích tụ trong cơ thể

mấy chục năm qua không có chất mới khắc chế có thể dần dần phát tác,

họa hại ghê gớm khó mà hình dung.

Chiếc Thần Mộc Vương Đỉnh trời sinh có một mùi kỳ lạ, lại thêm

hương liệu đốt ở trong đỉnh, chỉ trong giây lát là có thể dẫn dụ độc vật

đến, trong vòng mười dặm chung quanh khó có con vật nào gượng lại nổi

sức thu hút của nó. Đinh Xuân Thu có chiếc kỳ đỉnh đó trong tay nên bắt

trùng độc chẳng khó khăn gì, thành thử Hóa Công Đại Pháp càng luyện

càng cao thâm, càng luyện càng tinh tiến. Năm xưa Đinh Xuân Thu có

một tên đệ tử đắc ý được y đích thân truyền dạy Hóa Công Đại Pháp, đã

có chút thành tựu, ngờ đâu về sau ỷ mình có tài, không còn cung thuận

như trước. Đinh Xuân Thu chế ngự được y rồi, không cần phải dùng đến

đao trượng xử tội, chỉ nhốt y vào một gian thạch thất, khiến y không cách

nào bắt được các loại trùng độc tu luyện thêm, kết quả độc tố trong người

phát tác, nhịn không nổi tự mình cấu từng miếng thịt, rên rỉ mãi, bốn chục

ngày sau mới chết. Tinh Tú Lão Quái tuy đắc ý nhưng cũng thêm phần

cẩn thận, môn Hóa Công Đại Pháp từ đó không truyền cho người nào

nữa. Thành thử bọn Trích Tinh Tử không một ai biết, A Tử muốn luyện

môn thần công này đành phải học lén, ăn cắp bảo đỉnh trốn đi.

A Tử tính toán thật kỹ, ngay hôm sư phụ mới bắt được độc vật luyện

công liền trốn về phương đông, đến khi Tinh Tú Lão Quái phát giác ra

Thần Mộc Vương Đỉnh bị ăn trộm thì đã bảy ngày, A Tử đi đã xa lắm rồi.

Nàng đi toàn theo đường nhỏ, các sư huynh truy nã tuy võ công cao hơn

cô ta nhiều nhưng mưu kế lại kém xa, bị A Tử liên tiếp dùng ngụy kế hư

trương thanh thế, thanh đông kích tây nên đều trốn thoát được.

Vùng Tinh Tú Lão Quái ở là một thâm cốc rậm rạp tối tăm, độc xà

độc trùng không hiếm gì, tuy mất Thần Mộc Vương Đỉnh nhưng muốn đi

bắt rắn để thêm chất độc cũng chẳng khó khăn, nhưng chỉ bắt được những

loại tầm thường, còn những loại đặc biệt, hiếm quí quái lạ, kịch độc lợi

hại như trước thì chỉ còn nước cầu may.

Một chuyện khác cũng khiến ông ta lo lắng là nếu như võ lâm Trung

Nguyên biết được lai lịch chiếc đỉnh thì ai cũng có thể lập tức hủy ngay,

thành thử một ngày chưa lấy lại được thì thêm một ngày không an tâm.

Ông ta gặp lại bọn đệ tử ở Thiểm Tây, đại đệ tử Trích Tinh Tử tuy

không chết nhưng võ công mất hết13 bị bọn đệ tử kia trên đường lăng

nhục chửi bới không còn ra người nữa, còn nhị đệ tử là gã mũi lân Sư

Hống Tử tạm thời lên thay đại sư huynh.

Bọn đệ tử thấy đích thân sư phụ ra tay, ai nấy vừa kinh hoàng vừa sợ

hãi, biết rằng sư mệnh không hoàn thành, tội vạ kỳ này chắc là phải ghê

gớm khó mà chịu nổi. Cũng may Tinh Tú Lão Quái đang cần người nên

tạm thời gác việc trách phạt sang một bên để mọi người có cơ đái tội lập

công.

Đoàn người vừa đi vừa thăm dò tin tức của Cái Bang nhưng một là

bọn họ hình tướng kỳ dị, ngôn ngữ khiến cho người ta ghét bỏ nên chẳng

ai tiết lộ cho họ chuyện gì, thứ nữa Tiêu Phong đã sang nước Liêu làm

Nam Viện Đại Vương, trong võ lâm chẳng mấy ai hay, thành thử dò hỏi

mãi mà không ra đến cả tổng đà Cái Bang dọn đi đâu cũng không biết.

Một hôm Thiên Lang Tử vô tình nghe được phân đà Đại Trí tụ hội,

muốn tâng công liền một thân một mình xông vào nên bị Toàn Quan

Thanh ám toán. Thế nhưng người y vốn đầy chất độc nên nọc bò cạp

không giết nổi, thoát chết rồi liền cấp báo sư phụ. Đinh Xuân Thu lập tức

đi tới, ngờ đâu một thân đầy chất độc và võ công thâm hậu như thế nhưng

bị trăn quấn cũng không sao thoát ra được.

Đinh Xuân Thu không trả lời câu hỏi của Toàn Quan Thanh, chỉ khinh

khỉnh hỏi:

- Trong Cái Bang chúng bay có một gã tên Kiều Phong, bây giờ ở

đâu? Mau gọi y ra gặp ta.

Toàn Quan Thanh trong lòng chợt động, hỏi lại:

- Các hạ muốn gặp Kiều Phong là để làm gì?

Đinh Xuân Thu ngạo mạn hỏi lại:

- Tinh Tú lão tiên hỏi ngươi, sao ngươi không trả lời, lại còn hỏi tới

hỏi lui? Kiều Phong đâu?

Toàn Quan Thanh thấy y đã bị trăn quấn chặt không còn cách gì

kháng cự, vậy mà ăn nói vẫn còn phách lối, khả ố như thế quả trên đời

hiếm có, bèn nói:

- Tinh Tú Lão Quái ai ai cũng nghe nói tới, ngờ đâu chỉ có hư danh,

có mấy con rắn quèn mà đối phó không xong. Thôi đành xin lỗi, chúng ta

vì thiên hạ mà trừ mối hại cho người.

Đinh Xuân Thu mỉm cười nói:

- Lão phu không cẩn thận nên chẳng may bị mấy con súc sinh máu

lạnh này làm hại, hôm nay về chốn tây phương cực lạc, thôi cũng đành...

Y nói chưa dứt câu, một đệ tử phái Tinh Tú đang bị trăn quấn đột

nhiên cất tiếng:

- Đại anh hùng Cái Bang ơi, xin ngài tha cho con có nhiều cái lợi

lắm. Sư phụ con rất nhiều ngụy kế, ngài đề phòng không nổi đâu. Ngài

chỉ sơ ý một chút là bị ông ta lật ngược ngay.

Toàn Quan Thanh cười khẩy hỏi:

- Thả ngươi ra thì có lợi những gì?

Gã kia đáp:

- Phái Tinh Tú có cả thảy ba món bảo vật, gọi là Tinh Tú tam bảo.

Chỉ có Tinh Tú Lão Quái và con là biết chỗ dấu ở đâu thôi. Ngài tha chết

cho con, sau khi giết Tinh Tú lão quái rồi, con sẽ lấy ra dâng lên. Nếu

như ngài giết con thì Tinh Tú tam bảo vĩnh viễn không có được.

Lại một tên đệ tử khác của phái Tinh Tú gào lên:

- Đại anh hùng ơi, đại anh hùng ơi, ngài đừng có mắc lừa tên đó.

Trong Tinh Tú tam bảo thì có một món bị người ta ăn cắp mất rồi. Ngài

tha con ra là hơn cả, chỉ có mình con đối với ngài trung thành không bao

giờ lừa dối mà thôi.

Chỉ trong giây lát, quần đệ tử phái Tinh Tú liền nhao nhao lên:

- Đại anh hùng Cái Bang ơi, ngài tha mạng cho con là hay hơn hết,

bọn kia chẳng có đứa nào trung tâm chỉ có mình con một lòng một dạ, hết

lòng hết sức.

- Đại anh hùng ơi, công phu của môn phái Tinh Tú, chỉ có mình con

biết nhiều nhất, tất mọi thứ con sẽ nói hết cho ngài nghe, không dám dấu

diếm tí gì.

- Bản phái đến Trung Nguyên lần này là có mưu tính ghê gớm lắm,

chủ yếu là để đối phó với Cái Bang. Các vị đại anh hùng ơi, các ngài có

muốn biết rõ không?

- Chúng tôi chôn dấu rất nhiều bạc vàng châu báu ở biển Tinh Tú,

chỗ nào nơi nào nhà cháu cũng biết. Nhà cháu xin dẫn các ngài đến đào,

các vị anh hùng hảo hán Cái Bang từ nay khỏi phải đi ăn xin nữa.

Mấy người đó mồm năm miệng mười, người nào cũng nịnh nọt khoe

mình trung thành, kẻ thì lấy lợi ra dụ, người lại muốn gợi tính tò mò của

đối phương, có đứa thì lại công nhiên nói phét, một tấc lên đến trời. Cả

đến kẻ đã bị rắn độc cắn trúng, hoặc bị trăn cuốn thở không ra hơi cũng

sợ mình đi sau thiên hạ, phều phào van lạy xin tha.

Người trong Cái Bang đâu có ngờ đệ tử phái Tinh Tú lại hèn mạt đến

thế, không khỏi khinh thị, lại thêm hiếu kỳ, lục tục đến gần nghe cho rõ.

Toàn Quan Thanh cười khẩy:

- Các ngươi đối với sư phụ còn chả trung thành, làm gì có chuyện hết

lòng với người ngoài chẳng có liên hệ gì? Nghe thật tức cười quá!

Một tên đệ tử phái Tinh Tú vội nói:

- Không thể so sánh thế được! Hoàn toàn không giống! Hoàn toàn

không giống! Tinh Tú Lão Quái bản lãnh thấp kém, chúng tôi có coi y ra

gì đâu? Trung thành với y để làm gì? Còn các anh hùng Cái Bang võ

công uy chấn thiên hạ, lại có đại pháp thuật khu xà chế địch14, Tinh Tú

Lão Quái làm sao bì kịp?

- Cái Bang nếu thu nạp đệ tử phái Tinh Tú thì võ lâm cả Trung

Nguyên lẫn Tây Vực đều chấn động, ai mà chẳng bội phục Cái Bang anh

hùng?

- Hai chữ anh hùng đâu đã đủ ca ngợi các vị cao nhân hiệp sĩ, mà

phải gọi là đại hiệp, thánh nhân, vị cứu tinh mới đúng.

- Ta nói giỏi làm hay, từ nay chu du bốn phương, đi đâu cũng tuyên

dương uy đức thì danh vọng các đại hiệp Cái Bang ai ai cũng biết.

- Gớm, danh đầu các đại hiệp Cái Bang thiên hạ ai mà chẳng biết,

cần đếch gì đến ngươi ca tụng?

- Mấy tiếng thánh nhân cứu tinh là do tiểu nhân nói trước tiên,

bọn kia chỉ theo đuôi, chẳng có công lao gì.

Một tên đệ tử năm túi của Cái Bang cau mày nói:

- Bọn các ngươi hèn hạ tiểu nhân như thế, nói lèm bèm chỉ thêm bẩn

tai. Tinh Tú Lão Quái, sao ngươi đốn mạt thế, thu nạp toàn bọn đệ tử vô

liêm sỉ là sao? Ta thanh toán ngươi trước, sau đó sẽ đưa luôn cả bọn này

theo ngươi, lão tử hôm nay đại khai sát giới.

Nói xong nghe bình một tiếng đánh thẳng vào Đinh Xuân Thu.

Chưởng đó hơi gió vù vù, kình đạo thật là cương mãnh, trúng ngay ngực

Đinh Xuân Thu. Ngờ đâu Đinh Xuân Thu dường như không sao cả, còn

gã Cái Bang kia hai gối nhũn đi, phục ngay xuống đất, co rúm lại, dãy

dụa mấy cái rồi không còn động đậy gì nữa. Quần cái kinh hãi, cùng kêu

lên:

- Sao thế này?

Lập tức có hai tên ăn mày đến đỡ y dậy, hai gã đó vừa chạm vào

người tên kia, cũng lại lảo đảo mấy cái rồi ngã xuống. Ba tên đệ tử Cái

Bang đứng bên cạnh thuận tay đưa ra giữ lại, cũng chẳng khác gì hai tên

kia, cùng gục xuống. Người Cái Bang còn lại ai nấy kinh hãi đến thất

thần, không còn ai dám xông lên tiếp cứu đồng bọn.

Toàn Quan Thanh quát lên:

- Lão già đó trên người có chất độc, mọi người chớ có chạm vào y.

Ném ám khí!

Tám chín tên đệ tử bốn, năm túi liền móc ám khí ra, cương tiêu, phi

đao, tụ tiễn, phi hoàng thạch cùng vèo vèo ném vào Đinh Xuân Thu.

Đinh Xuân Thu quát lên một tiếng, lắc đầu một cái, tóc bạc trên đầu xổ

tung ra, thật chẳng khác gì một loại nhuyễn tiên ngắn, hất ngược tất cả

hơn chục món ám khí lại. Chỉ nghe ối ối liên tiếp, sáu bảy têm đệ tử Cái

Bang bị bắn trúng. Những ám khí đó không phải cái nào cũng trúng chỗ

yếu hại, có món chỉ trầy xước ngoài da nhưng mấy tên Cái Bang lập tức

ngã lăn ra chết.

Toàn Quan Thanh kêu lớn:

- Lui ra! Lui ra!

Đột nhiên vụt một cái, một mũi cương tiêu phóng thẳng ra, chính là

do Đinh Xuân Thu dùng tóc giữ lại bây giờ vận kình ném vào người y.

Toàn Quan Thanh vội vàng dùng thiết địch trong tay gạt ra, nghe keng

một tiếng, hất bắn mũi cương tiêu ra thật xa. Y thấy Tinh Tú Lão Quái

quả nhiên lợi hại, chi bằng thúc giục trăn quấn chết y cho xong, bèn đưa

ống tiêu lên môi toan thổi, bỗng thấy môi tê đi, đầu choáng váng, mắt

hoa lên, biết là không ổn, vội vàng ném thiết địch, bịch một tiếng ngã lăn

ra.

Người của Cái Bang kinh hãi lập tức có hai người đến đỡ y, Toàn

Quan Thanh mơ mơ hồ hồ kêu lên:

- Ta... ta trúng độc rồi, các... các ngươi... mau chạy... chạy đi.

Quần cái ai nấy mất hồn mất vía, vội dìu y chạy bay chạy biến, để lại

xác chết, túi vải, rắn rết vung vãi khắp nơi.

Du Thản Chi nằm phục trong đám cỏ, hết sức kinh hãi, không dám cử

động. Bốn bề tĩnh mịch, hơn chục tên ăn mày co rút thành một cục, chẳng

khác gì những con nhím gặp phải nguy cơ, hiển nhiên đều chết cả rồi.

Những con trăn không còn nghe thấy tiếng tiêu của Toàn Quan Thanh

thúc giục nữa, không dám giết người, chỉ quấn chặt thầy trò Đinh Xuân

Thu. Người trong phái Tinh Tú không ai dám ngọ ngoạy, chỉ sợ khích

động hung tính của loài rắn, ngoặp cho một cái thì bỏ đời.

Yên lặng một hồi như thế, một tên trong bọn cất giọng nói trước:

- Sư phụ ôi, lão nhân gia thần công độc bộ thiên hạ, chỉ nói nói cười

cười ra tay một cái đã đánh cho bọn ăn mày ăn nhặt vạn ác bất xá kia

chạy cong đuôi...

Y nói chưa dứt câu đã có một tên khác cướp lời:

- Sư phụ đừng nghe y bợ đít, mới vừa đây chính nó gọi bọn ăn xin kia

là đại hiệp, thánh nhân chứ còn ai.

Lại có một đệ tử khác lên tiếng:

- Chúng ta theo sư phụ bao nhiêu năm nay, ai mà chẳng biết thầy

mình có tài thông thiên triệt địa? Vừa rồi chúng mình nói khuếch nói

khoác với bọn ăn mày, chẳng qua là để đánh lừa chúng, để khi chúng ỷ y

không đề phòng, sư phụ lúc ấy mới thi triển pháp lực vô biên.

Đột nhiên một người khóa òa lên:

- Sư phụ ôi! Sư phụ ôi! Đệ tử thật là đáng chết, đệ tử hồ đồ, tham

sống sợ chết, đầu hàng địch nhân, bây giờ hối hận còn làm sao kịp, đành

nguyện cho rắn độc cắn chết chứ không dám xin sư phụ nhiêu dung.

Cả đám bấy giờ mới vỡ lẽ ra, sư phụ ghét nhất là đổ tội cho người

khác, chỉ có cách tự xỉ vả mình hồ đồ đáng chết, đem bao nhiêu tội vạ

trút lên đầu mình may ra được sư phụ khai ân tha thứ. Chỉ trong phút

chốc, ai nấy đều tự chửi mình, nào là có lòng bất lương, nào là tội đáng

muôn thác. Riêng Du Thản Chi nằm trong bụi cỏ thấy hoa mắt nhức đầu,

chẳng hiểu ra sao.

Đinh Xuân Thu ám vận kình lực, định giựt đứt ba con trăn đang quấn

chặt lấy mình. Thế nhưng mãng xà có thể dãn ra co lại, Đinh Xuân Thu

vận sức, ba con rắn chỉ nhỉnh ra một chút, nhưng không đứt được. Người

lão ta chỗ nào cũng đầy chất độc, đến cả quần áo tóc tai cũng có nên bọn

đệ tử Cái Bang bắn ám khí vào lão ta đều bị nhiễm độc. Thế nhưng

những con trăn da dày, vảy trơn, độc tố khó mà xâm nhập. Chỉ nghe bọn

đệ tử lải nhải mãi không thôi, Đinh Xuân Thu bực quá quát lên:

- Đứa nào tìm cách đuổi được rắn đi thì ta tha chết cho đứa ấy.

Không lẽ chúng bay chưa biết tính ta nữa hay sao? Ai mà còn dùng được

thì ta chưa giết. Còn nói năng nhăng cuội có ích gì đâu?

Y vừa nói xong, quần đệ tử bèn lặng như tờ. Một lúc sau có người

nói:

- Chỉ cần có ai đốt một mồi lửa dí vào mấy con rắn thế là bọn súc

sinh này sẽ chạy te ngay.

Đinh Xuân Thu chửi liền:

- Cái con bà mày, nói thối bỏ mẹ. Nơi đây đồng không mông quạnh,

đằng trước không thôn, đằng sau không xóm, có ai qua đây bây giờ? Ví

phỏng có dân đi ngang qua, bọn chúng thấy lắm rắn độc thế này, sợ khiếp

vía chạy còn không kịp, lấy đâu ra chuyện đốt lửa mà hun?

Thế là bọn đệ tử lại rầm rĩ cả lên, nhưng chẳng có cách nào dùng

được, sở dĩ bọn chúng tranh nhau nói, chẳng qua để lấy lòng sư phụ, tỏ ra

mình tuân theo sư mệnh hết sức vắt óc ra để tìm mưu. Cứ như thế một hồi

lâu thì có một tên đệ tử bị trăn quấn nghẹt thở không chịu nổi, trong khi

mê loạn há mồm cắn vào thân mãng xà một cái. Con rắn bị đau, ngoặp

ngay cổ họng y, tên đó chỉ kêu lên thảm thiết rồi chết ngay.

Đinh Xuân Thu càng lúc càng nóng ruột, nếu như bị địch nhân vây

khốn thì trong bấy lâu y đã có thể hạ độc tính mưu tìm cách thoát thân,

thế nhưng những con rắn này vô tri vô thức, dù mưu kế hay cách mấy

cũng không sao thi hành được, chỉ sợ một khi chúng đói rồi, sẽ há mồm

nuốt mình vào bụng.

Mối lo của y quả nhiên đúng thực, một con trăn lâu không nghe thấy

tiếng sáo, bụng đói lắm rồi, há mồm ngoạm tên đệ tử Tinh Tú đang quấn.

Tên đệ tử đó kêu lên:

- Sư phụ cứu con! Sư phụ cứu con!

Hai cái chân y bị trăn nuốt trước rồi đến mình cũng từ từ chui vào,

miệng vẫn kêu la thảm thiết nhưng răng mãng xà hình móc15, chân tên đệ

tử đó chui vào rồi, dần dần đến bụng, lên đến ngực. Y nhất thời chưa

chết, vẫn lớn tiếng kêu la, vang dậy cả cánh đồng.

Mọi người ai nấy biết rằng số phận mình trong chốc lát rồi cũng như

thế, không khỏi sợ đến vỡ mật. Một người thấy Tinh Tú Lão Quái cũng

đành bó tay chịu chết, tự nhiên lòng căm hận nổi lên, lớn tiếng chửi bới,

nói mọi chuyện chẳng qua chỉ vì y ép buộc, mình đang sinh sống yên lành

bằng nghề nuôi cừu ở biển Tinh Tú, bị y vừa uy hiếp vừa dụ dỗ, bắt phải

gia nhập làm môn hạ, hôm nay chết thảm nơi miệng độc xà, xuống đến

cõi âm, thể nào cũng dâng cáo trạng lên Diêm Vương.

Gã đó mở đầu, bao nhiêu người khác cũng chửi theo. Mọi người ngày

thường bị Tinh Tú Lão Quái hành hạ ngược đãi, lòng đầy oán hận, có

điều chỉ để trong bụng mà không dám nói ra lời, hôm nay cũng cùng chết

cả nên chửi một phen cho hả tức. Một người chửi lớn quá thân hình dao

động, khiêu khích con rắn đang quấn, mãng xà liền há mồm ngoạm ngay

đầu vai, y chỉ có nước kêu lên:

- Ối! Ối! Cứu tôi với! Cứu tôi với!

Du Thản Chi thấy cả bọn ai cũng bị mãng xà quấn chặt không thể

nào thoát thân được, trong lòng không sợ hãi gì nữa, từ trong bụi cỏ đứng

lên, thấy nơi này không phải là chỗ tốt lành gì nên định chạy cho mau.

Người trong phái Tinh Tú đột nhiên thấy một quái nhân đầu đội lồng sắt,

ai nấy thất kinh nhưng lập tức có người nghĩ ra là chỉ còn trông vào y để

cứu mạng, liền kêu lên:

- Đại anh hùng ơi, đại hiệp sĩ ơi, nhờ ngài lấy nắm cỏ khô, đốt lửa

lên, đuổi giùm mấy con trăn này cho chúng tôi, mỗ lập tức tặng cho...

tặng cho ngài một nghìn lượng bạc.

Lại một người khác kêu lên:

- Một nghìn lượng đâu có đủ, phải ít nhất một vạn lượng.

Lại một người khác nói:

- Vị tiên sinh đây bụng nhân lòng hiệp, hết sức tử tế, chỉ chuyên

hành hiệp trượng nghĩa, huống chi đốt lửa dọa rắn thì có gì là nguy hiểm.

Chỉ trong giây lát tiếng ca tụng vang lên, còn kẻ hứa thưởng tiền thì

chỉ chớp mắt đã lên đến trăm vạn lượng hoàng kim. Những gã này mồm

miệng chửi ai thì số một đã đành mà nịnh bợ ca tụng thì cũng có bài có

bản. Du Thản Chi trong đời đã có bao giờ nghe ai gọi mình là đại hiệp

sĩ, đại anh hùng, người nhân kẻ hiệp, hảo hán trên đời có một

không hai bao giờ? Bây giờ nghe bọn người này tâng bốc lên tận mây

xanh, y cảm thấy hởi lòng hởi dạ, tưởng chừng như đang bay bổng, tự

nhiên cảm thấy mình có phong độ đại hiệp sĩ, đại anh hùng thật, một

trăm vạn lượng hoàng kim chẳng coi vào đâu, có điều A Tử cô nương

không được chính tai nghe những lời tán tụng mình quả cũng đáng tiếc.

Y bèn gom cỏ khô, mò trong người đồ đánh lửa châm vào nhưng khi

thấy bao nhiêu là trăn lớn trông thật hung dữ, trong bụng cũng sợ lắm,

nghĩ thầm thôi chẳng nên trêu vào những con rắn này, không chừng chính

mình cũng vướng vào trong rọ. Y suy nghĩ một lát bèn đi gom các cành

khô đốt thành một đống lửa thật lớn ở ngay trước mặt, sau đó mới cầm

một cành cây đang cháy, ném vào con trăn lớn gần mình nhất.

*

* *

Y đứng nấp ở sau đống lửa, nép người lại để nếu con mãng xà phóng

tới cắn mình thì sẽ lập tức co giò chạy thoát thân, cái danh đại anh

hùng, đại hiệp sĩ cũng chẳng màng chi nữa.

Trăn quả nhiên sợ lửa, thấy lửa lem lém ở bên cạnh lập tức đang

quấn người liền lỏng ra, chui vào trong cỏ. Du Thản Chi thấy đốt lửa kiến

hiệu, trong tiếng hoan hô của phái Tinh Tú, cầm hết que củi này đến que

củi khác vứt ra. Những con rắn lập tức lúc nhúc bỏ chạy, đến những con

trăn lớn dài mấy trượng cũng không chịu nổi lửa nóng đành thả người ra

chạy mất. Chỉ trong giây lát, mấy trăm con rắn và trăn đã đi hết sạch.

Các đệ tử phái Tinh Tú lớn tiếng ca tụng:

- Minh kiến của sư phụ quả xa vạn dặm, thật là thần cơ diệu toán,

dùng hỏa công linh nghiệm biết bao.

- Sư phụ hồng phúc tề thiên, phùng hung hóa cát.

- Mọi việc đều do sư phụ tính toán mới cứu được cái mạng kiến của

chúng con.

Bao nhiêu lời ca tụng toàn là nhắm vào công đức của sư tôn Tinh Tú

Lão Quái, còn công lao đốt lửa đuổi rắn của Du Thản Chi chẳng ai nhắc

đến một câu. Du Thản Chi đứng ngơ ngẩn như trời trồng, hơi lấy làm lạ,

nghĩ thầm: Mới đây cả bọn chúng bay còn chửi sư phụ không tiếc lời,

bây giờ lại tán tụng tận mây xanh, cái tiếng đại anh hùng, đại hiệp sĩ

của ta nay thành thằng nhãi này, ấy là vì cớ gì?.

Đinh Xuân Thu vẫy tay nói:

- Thằng đầu sắt kia, lại đây, tên ngươi là gì?

Du Thản Chi bị người ta khinh khi đã quen, thấy đối phương vô lễ,

cũng chẳng để bụng nói:

- Tôi tên Du Thản Chi.

Nói xong đi tới mấy bước. Đinh Xuân Thu hỏi:

- Mấy tên ăn mày kia đã chết chưa? Ngươi thử lại sờ mũi y xem có

còn thở không nào?

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Y cúi xuống sờ mũi một tên đệ tử Cái Bang, thấy tay chạm vào lạnh

ngắt, gã đó chết từ lâu rồi. Y lại thăm một gã khác thì cũng đã tắt thở bèn

nói:

- Chết cả rồi, không còn thở tí nào cả.

Chỉ thấy bọn đệ tử phái Tinh Tú mặt mày hớn hở đứa nào đứa nấy ra

chiều hạnh tai lạc họa16. Y không hiểu vì sao, lại nhắc lại lần nữa:

- Chết cả rồi, không còn thở tí nào cả.

Những gã kia khuôn mặt đang nhăn nhở ra chiều diễu cợt bỗng nhiên

biến mất, từ từ chuyển sang lạ lùng, rồi trở thành kinh hãi. Đinh Xuân

Thu nói:

- Mỗi tên ăn mày ngươi thử dò xem có đứa nào còn cứu được không?

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Y bèn thăm dò hết lượt hơn chục tên ăn mày rồi lắc đầu:

- Người nào cũng chết cả rồi. Công lực của lão tiên sinh ghê gớm

thật.

Đinh Xuân Thu cười khẩy:

- Công phu kháng độc của ngươi còn ghê gớm hơn nhiều.

Du Thản Chi lạ lùng hỏi:

- Tôi...cái gì... công phu kháng độc của tôi ư?

Y hoang mang không hiểu ý tứ câu nói của Đinh Xuân Thu ra sao,

cũng chẳng biết rằng mỗi lần mình thò tay xem hơi thở của người trong

Cái Bang là một lần đến quỉ môn quan, sờ thử hơn mười người, là trải qua

hơn mười lần chết đi sống lại. Y nào có biết được rằng, Tinh Tú Lão Quái

bị trăn quấn không sao thoát thân được tất cả đều do tiểu tử này cứu

mạng, nếu như truyền ra trên giang hồ thì chẳng còn mặt mũi nào, thành

thử khi rắn trăn đi khỏi rồi lập tức nảy ra ý định giết y để bịt miệng.

Ngờ đâu trong mấy tháng qua Du Thản Chi tập luyện liên tục nên độc

chất của con băng tàm đã dung hợp trong cơ thể, những gì Đinh Xuân Thu

thổi vào xác những tên đệ tử Cái Bang kia không làm gì y nổi.

Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Cứ nhìn da tay và nghe giọng nói của gã

này thì xem ra còn trẻ lắm, chắc không có bản lãnh gì chân thực đâu, có

lẽ trên người y có chất gì kỵ độc như hùng hoàng châu, tịch tà kỳ hương

chẳng hạn, hay đã uống sẵn thuốc giải nên không bị chất độc xâm nhập.

Y liền nói:

- Du huynh đệ, ngươi lại đây, ta có chuyện muốn nói.

Du Thản Chi thấy y nói ra vẻ thành khẩn nhưng đã từng chứng kiến

thủ đoạn giết bọn Cái Bang thật là tàn độc, thầy trò y khi thì nịnh bợ tâng

bốc, lúc lại chửi bới nhục mạ lẫn nhau, biết hạng người này thật khó mà

đối phó, chi bằng kính nhi viễn chi là hơn bèn đáp:

- Tiểu nhân đang có chuyện cần, không thể phụng bồi, xin cáo từ.

Nói xong chắp tay chào, quay mình đi thẳng. Y mới đi được mấy

bước, đột nhiên thấy bên cạnh người có hơi một chút gió, hai cổ tay ghịt

lại thì ra đã bị nắm chặt. Du Thản Chi quay đầu nhìn, thấy người nắm tay

mình chính là một đệ tử phái Tinh Tú. Y không hiểu đối phương có dụng

ý gì nhưng thấy mặt y nở một nụ cười nham hiểm, xem ra không có hảo

ý, trong lòng kinh hãi kêu lên:

- Bỏ ta ra!

Y giằng mạnh một cái, bỗng thấy có vật gì bay vụt ngang đầu, một

thân hình to lớn từ sau lưng nhảy qua người y, bình một tiếng, giáng mạnh

vào vách đá trước mặt, đầu vỡ tan, nát ngướu thành một cục bầy nhầy.

Du Thản Chi thấy gã đó đụng mạnh như thế, không sao tin nổi, còn

đang ngạc nhiên, nhìn kỹ lại hóa ra chính là gã vừa nắm tay mình, càng

thêm kỳ quái: Gã này đang khỏe mạnh như thường, sao tự nhiên lại lao

đầu vào đá tự tử ? Không lẽ hóa điên chăng?. Y có ngờ đâu chính là vì

mình giãy một cái, một luồng kình lực đưa ra ném gã kia vào trong núi.

Quần đệ tử phái Tinh Tú ai nấy sợ hãi kêu lên, mặt mày biến sắc.

Đinh Xuân Thu thấy y ra tay quật chết đệ tử mình, thủ pháp thật là

vụng về quờ quạng, không phải công phu thượng thừa, chỉ vì sức lực

mạnh lạ lùng mà ra, nghĩ thầm người này trời cho thần lực, võ công lại

tầm thường, lập tức nhún mình một cái, giơ tay chộp vào đầu y. Du Thản

Chi không kịp đề phòng lập tức bị đè đến quì xuống đất, bèn chõi lên

định đứng dậy, nhưng đầu tưởng như đang đội một khối đá vạn cân,

không cách nào động đậy gì được vội vàng van xin:

- Xin lão tiên sinh tha cho.

Đinh Xuân Thu thấy y mở miệng xin tha nên cũng yên tâm hỏi lại:

- Sư phụ ngươi là ai? Sao ngươi dám to gan, giết đệ tử của ta?

Du Thản Chi đáp:

- Tôi... tôi không có sư phụ. Tiểu nhân chẳng bao giờ dám giết đệ tử

của lão tiên sinh.

Đinh Xuân Thu nghĩ bụng chẳng cần nhiều lời với y làm gì, giết

người diệt khẩu cho được việc, nên buông tay ra đợi Du Thản Chi vừa

đứng lên liền múa chưởng đánh vào ngực y. Du Thản Chi kinh hãi vội

vàng đưa tay gạt ra. Thế đánh của Đinh Xuân Thu thật chậm, Du Thản

Chi vừa đưa tay ra đụng ngay phải chưởng tâm của lão. Đinh Xuân Thu

vốn đã tính trước, chất độc trong người theo nội kình lòng bàn tay tống ra,

chính là công phu Hóa Công Đại Pháp thành danh mấy chục năm qua,

trong chưởng hoặc chứa kịch độc, hoặc hóa tán nội lực kẻ địch trong

khoảnh khắc, kẻ thì chết ngay tại chỗ, có kẻ đau đớn quằn quại mấy

tháng mới chết toàn do ý muốn thi triển khác nhau.

Trong đời Đinh Xuân Thu đã từng dùng pháp môn này giết không

biết bao nhiêu người, võ lâm nghe đến Hóa Công Đại Pháp ai ai cũng

căm hận chán ghét, sợ đến bủn rủn cả tay chân. Bắc Minh Thần Công

của Đoàn Dự hút nội lực người khác lấy làm của mình, khác hẳn với Hóa

Công Đại Pháp dùng chất kịch độc hóa tán nội công người khác, nhưng

người bị trúng phải thấy mình trong giây lát tiêu tán hết nội lực, chưa một

ai có kinh nghiệm của cả hai nên đều hiểu lầm. Đinh Xuân Thu thấy gã

đầu sắt sờ mũi hơn chục tử thi Cái Bang mà vẫn không trúng độc nên lập

tức thi triển bản lãnh tối đắc ý của lão ra.

Hai người song chưởng chạm nhau, thân hình Du Thản Chi lảo đảo,

lịch bịch lùi luôn sáu bảy bước, định gượng dậy nhưng cũng phải ngồi

phệt xuống, vậy mà dư lực vẫn còn đẩy y ngã ngửa, đầu va xuống đất,

lộn tùng phèo ba bốn vòng mới ngừng lại được. Y vội vàng liên tiếp khấu

đầu van xin:

- Lão tiên sinh tha mạng! Lão tiên sinh tha mạng!

Đinh Xuân Thu hai tay đụng với y thấy Du Thản Chi nội lực hùng

mạnh, kình đạo âm hàn, thật là quái dị, lại có ngầm chứa chất cực độc,

tuy bị mình đẩy ngã lăn chòng chọc thật là thê thảm, nhưng nếu so sánh

nội lực và độc kình thì không kém gì mình, vậy mà lại van xin cầu tha

mạng? Không lẽ y thực sự không biết? Lão liền tiến lên hỏi lại:

- Ngươi cầu xin ta tha mạng, đó là thực lòng hay là giả ý?

Du Thản Chi vẫn một mực rập đầu van lạy:

- Tiểu nhân một lòng thành thực, cầu xin lão tiên sinh tha mạng cho

tiểu nhân.

Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Gã này không biết dùng cách gì, gặp

được cơ duyên làm sao mà chất độc tích trong người còn hơn cả ta, quả là

một kỳ bảo. Ta phải tìm cách tóm lấy gã dò xem pháp môn luyện công ra

sao sau đó hút hết chất độc trong người y, lúc đó mới xử tử. Còn nếu chỉ

giết y đi thì thật uổng quá!. Ông ta giơ chưởng ấn xuống đầu Du Thản

Chi, hơi vận nội lực nói:

- Trừ phi ngươi bái ta làm thầy, nếu không ta làm sao tha mạng cho

ngươi được?

Du Thản Chi thấy chiếc lồng sắt trên đầu như bị đút vào lò lửa, nóng

đến mặt hừng hực, trong bụng hết sức sợ hãi. Y từ khi bị A Tử hành hạ

dày vò trở nên bảo sao nghe vậy, chẳng còn phân biệt thiện ác thị phi,

bao nhiêu cốt khí cứng cỏi ương ngạnh mất sạch, chỉ sao được bảo toàn

tính mạng nên lật đật nói:

- Sư phụ, đệ tử Du Thản Chi cam nguyện gia nhập môn hạ của sư

phụ, xin lão nhân gia thu nạp cho.

Đinh Xuân Thu mừng lắm, thản nhiên nói:

- Ngươi muốn bái ta làm thầy thì cũng được. Thế nhưng qui củ bản

môn thật nhiều, ngươi có tuân thủ được không? Ví thử sư phụ bảo làm gì,

ngươi có thành tâm thành ý làm hết lòng, quyết không vi kháng chăng?

Du Thản Chi đáp:

- Đệ tử nguyện tuân thủ qui củ, phục tòng mệnh lệnh của sư tôn.

Đinh Xuân Thu hỏi thêm:

- Nếu sư phụ muốn lấy mạng ngươi, ngươi có cam tâm tình nguyện

chịu chết không?

Du Thản Chi ấp úng:

- Cái đó... cái đó...

Đinh Xuân Thu nói:

- Ngươi nghĩ cho chín, cam tâm thì là cam tâm, không bằng lòng thì

nói không bằng lòng.

Du Thản Chi nghĩ thầm: Nếu ông muốn lấy mạng tôi thì dĩ nhiên

không cam tâm rồi. Nếu tới lúc đó trốn được là mình trốn ngay, còn như

chạy không xong thì dù không cam tâm cũng đành vậy chứ biết sao hơn.

Y bèn nói:

- Đệ tử cam tâm chịu chết vì sư phụ.

Đinh Xuân Thu cười ha hả nói:

- Hay lắm, hay lắm! Ngươi đem tất cả mọi chuyện trong đời nói hết

cho ta nghe.

Du Thản Chi không muốn nói rõ hết cho ông ta nghe thân thế và

những gặp gỡ trong đời, chỉ nói mình là con nhà nông bị người Liêu bắt

trong một kỳ đi gặt, đội cho y một cái lồng sắt. Đinh Xuân Thu hỏi y

độc chất vì đâu mà có, Du Thản Chi chỉ thổ lộ vì sao thấy con băng tàm

và nhà sư Tuệ Tịnh, ăn cắp con tằm ra sao rồi nói láo là sơ ý nên bị con

băng tàm trong hồ lô cắn vào tay khiến cho toàn thân đông cứng, còn con

tằm thì chết, còn chuyện A Tử tu luyện độc chưởng y bỏ qua không đề

cập tới.

Đinh Xuân Thu hỏi kỹ lưỡng hình dáng và tình trạng con băng tàm,

trên mặt không khỏi lộ vẻ thèm thuồng thán phục. Du Thản Chi nghĩ

thầm: Nếu ta nói đến cuốn sách ướt hiện hình lên y thể nào cũng cướp

mất không trả lại đâu. Đinh Xuân Thu lại gặng hỏi công phu cổ quái y

luyện thế nào nhưng y nhất quyết không hé răng.

Đinh Xuân Thu vốn dĩ đâu có biết đó là công phu Dịch Cân Kinh thấy

võ công y hết sức kém cỏi lại tưởng vì y luyện được nội kình âm hàn

hoàn toàn chỉ do con băng tàm mà có, trong bụng không khỏi chửi thầm:

Loại thần vật như thế mà lại bị tên tiểu tử này thần xui quỉ khiến làm

sao hút được vào người, thật uổng quá. Y suy nghĩ một chút bèn hỏi

thêm:

- Thế nhà sư mập bắt được con tằm đó, ngươi bảo là nghe người khác

gọi là Tuệ Tịnh ư? Là sư chùa Thiếu Lâm, chấp tác nơi chùa Mẫn Trung

ở Nam Kinh?

Du Thản Chi đáp:

- Quả đúng thế.

Đinh Xuân Thu nói:

- Gã Tuệ Tịnh đó bảo là bắt được con băng tàm ở trên đỉnh núi Côn

Lôn. Thế thì tốt lắm, ở đó đã có một con thì hẳn sẽ có hai con, ba con. Có

điều núi Côn Lôn vuông vức mấy nghìn dặm, nếu không phải người thuộc

đường đưa đi thì không phải dễ gì mà bắt được.

Lão đã đích thân nếm mùi linh nghiệm của con băng tàm, tính ra so

với Thần Mộc Vương Đỉnh còn quí hơn nhiều, thấy chuyện cần kíp trước

mắt phải làm sao ép được nhà sư Tuệ Tịnh dẫn đường đi lên núi Côn Lôn

bắt con trùng quí. Hòa thượng đó thuộc phái Thiếu Lâm, vốn cũng khó

mà động tới được, nay lại ở Nam Kinh thế thì may quá. Sau đó Du Thản

Chi làm lễ bái sư gia nhập phái Tinh Tú.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy sư phụ có chiều thương mến y cho nên

lập tức xúm lại ninh bợ, tán tụng không tiếc lời. Mới rồi cả bọn chửi bới

Tinh Tú Lão Quái, phản nghịch hàng địch nhưng lúc này Đinh Xuân Thu

đang cần người nên giả bộ làm như không nhớ đến, vả lại những chuyện

đó thì y cũng đã biết thừa nên không thấy bực tức chút nào.

Đoàn người liền chuyển qua đi về hướng đông bắc. Du Thản Chi đi

sau Đinh Xuân Thu thấy lão tay áo rộng phất phới, bộ pháp nhẹ nhàng

thật chẳng khác gì thần tiên, trong lòng tự nhiên sinh kính ngưỡng: Ta

bái một vị tài ba thế này làm sư phụ, quả đúng là kiếp trước khéo tu.

Người phái Tinh Tú đi ba ngày liền, đến xế trưa hôm đó, cả bọn ở lại

một tòa lương đình ở bên đường uống nước nghỉ ngơi, bỗng nghe phía sau

có tiếng vó ngựa, bốn kỵ sĩ từ phía đường bên kia chạy tới. Bốn con ngựa

đó chạy tới gần căn nhà mát, người đầu tiên kêu lên:

- Đại ca, nhị ca, trong đây có nước, mình ghé lại uống vài bát cho

ngựa nghỉ một chút.

Y vừa nói vừa nhảy xuống ngựa, đi vào lương đình, ba người còn lại

cũng hạ mã. Bốn người đó thấy bọn Đinh Xuân Thu, hơi gật đầu chào, đi

đến bên chum nước, cầm bát lên múc nước uống. Du Thản Chi thấy người

đi đầu mặc áo đen, bé nhỏ gầy gò, trên mép để hai chòm râu đuôi chuột

vẻ mặt ranh mãnh. Người thứ hai mặc áo bào màu hoàng thổ, cao lỏng

khỏng, hai lông mày xuôi xuống, vẻ mặt cáu kỉnh trông như người ốm dở.

Người thứ ba mặc trường bào màu đỏ cánh kiến, thân hình cao lớn, tai to

mặt vuông, dưới cằm là một bộ râu hoa râm khá rậm trông chẳng khác gì

một phú thương. Người sau cùng mặc áo xanh khăn áo theo vẻ nho sinh,

chừng trên dưới năm mươi, đôi mắt lờ đờ dường như vì đọc sách nhiều

quá nên cập kèm, không uống nước mà cầm chiếc hồ lô lên tu rượu ừng

ực.

Cũng vừa khi đó, từ phía đường trước mặt, một nhà sư xăng xái đi tới,

đến trước lương đình, chắp hai tay cung kính nói:

- Chúng vị thí chủ, tiểu tăng đi đường khát nước, xin được vào trong

đình nghỉ ngơi, uống bát nước.

Người áo đen cười đáp:

- Sư phụ chẳng phải đa lễ, ở đây ai cũng là người qua đường, tòa nhà

mát này có phải chúng tôi dựng lên đâu, xin mời vào nghỉ.

Nhà sư đáp:

- A Di Đà Phật, xin đa tạ.

Nói xong ông ta đi vào trong lương đình. Nhà sư đó tuổi chừng hai

mươi nhăm, hai mươi sáu, mắt to mày rậm, mũi to nhưng tẹt, mặt mày

không lấy gì làm đẹp trai, tăng bào tuy vá nhiều chỗ nhưng sạch sẽ. Y đợi

ba người kia uống xong lúc đó mới đến gần chum nước, dùng bát múc, hai

tay nâng lên, đôi mắt khép lại, cung kính đọc một bài kệ:

Phật quan nhất bát thủy

Bát vạn tứ thiên trùng

Nhược bất trì thử chú

Như thực chúng sinh nhục.

Ở trong lòng bát nước kia,

Phật trông thấy tám muôn tư côn trùng.

Chú này chưa tụng cho xong,

Khác gì ăn thịt một vùng chúng sinh.

Rồi y niệm:

- Am phọc thái ba la ma ni sa ha.

Niệm xong y mới bưng bát nước lên để vào miệng uống. Gã áo đen

lấy làm lạ bèn hỏi:

- Tiểu sư phụ, chú xí xa xí xố niệm chú gì đó?

Nhà sư đáp:

- Tiểu tăng niệm đó là ẩm thủy chú. Phật dạy rằng trong mỗi bát

nước đều có tám vạn bốn ngàn loại côn trùng, người xuất gia giới sát

thành ra phải niệm ẩm thủy chú xong lúc đó mới uống được.

Người áo đen cười sằng sặc nói:

- Nước trong veo, đến một con trùng cũng không có, tiểu sư phụ chỉ

giỏi nói đùa.

Nhà sư nghiêm trang đáp:

- Thí chủ có chỗ không biết. Chúng ta là bọn phàm phu nhìn vào thì

trong nước không có côn trùng nhưng đức Phật nhìn bằng thiên nhãn, thấy

trong nước tiểu trùng hàng nghìn hàng vạn con.

Người áo đen cười hỏi lại:

- Thế chú niệm ẩm thủy chú rồi uống tám vạn bốn nghìn con trùng

kia vào bụng thì tiểu trùng không chết hay sao?

Nhà sư trù trừ rồi đáp:

- Cái... cái đó... sư phụ tiểu tăng chưa dạy. Có lẽ tiểu trùng không

chết đâu.

Người áo vàng chen vào:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Tiểu trùng cũng vẫn chết chứ. Có điều

tiểu sư phụ niệm chú rồi, tám vạn bốn nghìn con trùng kia đi thẳng lên

tây phương cực lạc thế giới, tiểu sư phụ uống một bát nước ấy là siêu độ

cho tám vạn bốn nghìn chúng sinh. Công đức thật là vô lượng! Quả thật là

vô lượng!

Nhà sư kia không biết y nói thật hay nói đùa, hai tay vẫn cầm bát

nước đứng ngơ ngơ ngẩn ngẩn, mồm lẩm bẩm:

- Một lần siêu độ tám vạn bốn ngàn chúng sinh ư? Tiểu tăng làm sao

có pháp lực to lớn dường ấy?

Người áo vàng đi đến bên cạnh nhà sư, cầm lấy bát nước trong tay y,

nhìn chăm chăm miệng đếm:

- Một, hai, ba, bốn, năm, sáu... một nghìn, hai nghìn, một vạn, hai

vạn... Sai bét rồi, không phải vậy! Tiểu sư phụ ơi ơi, trong cái bát này có

cả thảy tám vạn ba nghìn chín trăm chín mươi chín con tiểu trùng, thiếu

đâu mất một con.

Nhà sư nói:

- Nam Mô A Di Đà Phật, thí chủ chắc nói đùa, thí chủ là người phàm

làm sao có thần thông thiên nhãn được?

Người áo vàng đáp:

- Thế chú có thần thông thiên nhãn không?

Nhà sư đáp:

- Tiểu tăng dĩ nhiên cũng không có.

Người áo vàng nói:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Ta xem chú có thiên nhãn thông, nếu

không làm sao chú chỉ mới nhìn thoáng qua đã biết ngay ta là kẻ phàm

phu tục tử mà không phải là bồ tát giáng trần?

Nhà sư nhìn y, nhìn tới nhìn lui đầy vẻ hoang mang. Đại hán mặc áo

màu cánh kiến liền đi tới cầm lấy bát nước, trả lại cho nhà sư cười nói:

- Sư phụ uống nước đi! Thằng em tôi đùa chơi với chú đấy mà, đừng

có coi là thật.

Nhà sư tiếp lấy bát nước cực kỳ cung kính đáp:

- Đa tạ! Đa tạ!

Trong bụng không biết phải làm sao nên không dám uống. Đại hán

kia lại tiếp:

- Ta xem tiểu sư phụ đi đứng nhanh nhẹn chắc biết võ công. Xin hỏi

pháp danh là gì, đang xuất gia tại chùa nào?

Nhà sư liền để bát nước trên nắp chum, hơi khom lưng nói:

- Tiểu tăng là Hư Trúc, xuất gia tại chùa Thiếu Lâm.

Người áo đen kêu lên:

- Hay quá! Hay quá! Hóa ra chú là cao thủ chùa Thiếu Lâm. Ra đây,

ra đây mau! Hai đứa mình làm thử một keo nào.

Hư Trúc cuống quít xua tay nói:

- Tiểu tăng võ công kém cỏi, làm sao dám động thủ cùng thí chủ?

Người áo đen cười:

- Mấy hôm nay không đánh nhau, ngứa tay ngứa chân quá. Chúng

mình làm vài chiêu, không cần đánh thật, có gì đâu mà sợ?

Hư Trúc lùi lại hai bước nói:

- Tiểu tăng tuy có luyện võ mấy năm thật nhưng chỉ cốt để cho thân

thể khỏe mạnh chứ nào có đánh nhau được đâu?

Người áo đen nói:

- Sư chùa Thiếu Lâm ai cũng võ công cao cường, người mới học đâu

có ai được ra khỏi sơn môn. Tiểu sư phụ đã được hạ sơn hẳn là phải nhất

lưu cao thủ. Lại đây nào! Hai đứa mình chỉ trao đổi một trăm chiêu, ai

thua ai được cũng chẳng sao cả.

Hư Trúc lại thoái lui thêm hai bước nữa nói:

- Thí chủ không biết, phen này tiểu tăng xuống núi chẳng phải vì võ

công đã đủ, chỉ vì nhà chùa sai rất đông đệ tử đi đưa thư, thiếu người nên

miễn cưỡng khiến luôn cả tiểu tăng cho đủ số. Tiểu tăng cầm cả thảy

mười trương anh hùng thiếp, sư phụ dặn kỹ là đưa đủ mười cái thiếp xong

là phải về chùa ngay, giá nào cũng không được động võ với ai, hiện nay

đã đưa được bốn lá thiếp rồi, trong người còn sáu cái. Thí chủ võ công

cao cường, vậy xin nhận một trương anh hùng thiếp.

Nói xong lấy trong túi ra một chiếc bao bằng vải dầu, mở lấy ra một

phong bì đỏ chói, cung kính đưa lên nói:

- Xin hỏi cao tính đại danh của thí chủ để tiểu tăng khi về chùa bẩm

lại với sư phụ.

Hán tử áo đen không cầm tờ thiếp chỉ nói:

- Nếu như ngươi không đánh nhau với ta thì ta còn anh hùng cẩu

hùng gì nữa? Hai đứa mình sách giải vài chiêu, ta có thắng ngươi lúc đó

mới dám nhận anh hùng thiếp.

Nói xong y tiến lên hai bước, nhứ tay trái, tay phải đấm luôn vào mặt

Hư Trúc nhưng quyền sắp đến đã thu lại kêu lên:

- Trả đòn mau.

Người cao to từ khi thấy Hư Trúc nói đến ba chữ anh hùng thiếp thì

đã chú ý lắng tai nghe lúc này lên tiếng:

- Tứ đệ, không nên tỉ võ vội, trước hết xem anh hùng thiếp xem nói

những gì.

Y cầm lấy lá thiếp từ tay Hư Trúc thấy trên đó viết:

Trụ trì chùa Thiếu Lâm Huyền Từ, chắp tay cung thỉnh anh hùng

thiên hạ, vào giai tiết Trùng Dương mồng chín tháng chín, xin vui lòng

đến Tung Sơn Thiếu Lâm Tự để kết mối thiện duyên, đồng thời chứng

kiến phong phạm dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân của nhà Mộ Dung Cô

Tô.

Đại hán đó liền kêu lên một tiếng, cầm tờ thiếp giao cho nho sinh

đứng bên cạnh, nói với Hư Trúc:

- Phái Thiếu Lâm chiêu khai anh hùng đại hội, hóa ra là để gây

chuyện với Mộ Dung Cô Tô...

Hán tử áo đen liền la to:

- Hay lắm! Hay lắm! Ta tên là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác, chính

là thủ hạ của họ Mộ Dung Cô Tô đây. Phái Thiếu Lâm muốn làm khó

Mộ Dung Cô Tô thì chẳng việc gì phải mở anh hùng đại hội, ngay bây

giờ ta xin lãnh giáo thân thủ cao chiêu của phái Thiếu Lâm.

Hư Trúc lại lùi thêm hai bước, chân trái đã bước ra khỏi lương đình

nói:

- Thì ra là Phong thí chủ. Sư phụ tiểu tăng có dặn là, tệ tự cung thỉnh

Cô Tô Mộ Dung thí chủ đến chùa, quyết không dám đắc tội. Có điều là

trên giang hồ ai ai cũng xầm xì, trong võ lâm những năm gần đây không

ít anh hùng hảo hán bỏ mình vì thần công dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân

của nhà Mộ Dung Cô Tô. Sư bá tổ của tiểu tăng là Huyền Bi đại sư viên

tịch tại chùa Thân Giới nước Đại Lý, không biết có liên can gì với họ Mộ

Dung không, tệ phái từ phương trượng đại sư giở xuống, ai ai cũng nghi

hoặc, thành ra mới...

Người áo đen liền ngắt lời:

- Chuyện đó vốn dĩ chẳng liên quan gì đến nhà Cô Tô Mộ Dung

chúng ta cả, thế nhưng chúng ta nói các ngươi nào có ai chịu tin đâu, nếu

như nói chuyện không xong thì chỉ còn nước quyền cước phân hơn thiệt.

Ví như thế, hai người mình hôm nay đánh nhau một trận, cũng như trước

khi diễn trò thì đánh phèng la chiêng trống, sắp vào vở tuồng thì nói lối

mấy câu giáo đầu, có thế mới vui. Còn đến tiết Trùng Dương mồng chín

tháng chín, Phong mỗ sẽ đến chùa Thiếu Lâm, từ dưới đánh lên, không

sót một mống, thế mới thống khoái. Có điều chỉ đánh được chừng mười

bảy mười tám mạng là Phong mỗ khắp người thương tích, không còn đánh

tiếp được nữa, muốn giao thủ với Huyền Từ lão phương trượng, chắc là

không thể nào có cơ duyên. Tiếc quá! Tiếc quá!

Y vừa nói vừa xắn tay áo dường như muốn xông lên động thủ. Hán tử

to cao nói:

- Tứ đệ, hãy khoan đã, nói năng cho minh bạch rồi đánh cũng chưa

muộn.

Người áo vàng chặn lại:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Nói cho minh bạch xong thì đâu cần

đánh nữa. Tứ đệ, cơ hội tốt chớ để mất, nếu muốn đánh nhau thì chớ có

nói cho minh bạch.

Người đàn ông to cao kia không nhìn nhõi gì đến y quay sang nói với

Hư Trúc:

- Tại hạ là Đặng Bách Xuyên còn người này là nhị đệ Công Dã Can.

Y vừa nói vừa chỉ vào người nho sinh, rồi chỉ vào người áo vàng:

- Còn đây là tam đệ Bao Bất Đồng, chúng tôi đều là thủ hạ của Mộ

Dung công tử.

Hư Trúc liền chắp tay chào bốn người miệng nói:

- Đặng thí chủ, Công thí chủ...

Bao Bất Đồng chen vào:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Nhị ca ta họ kép là Công Dã, ngươi lại

gọi Công thí chủ, thật sai hết chỗ nói.

Hư Trúc vội nói:

- Xin lỗi! Xin lỗi! Tiểu tăng chẳng có học vấn, xin Công Dã thí chủ

đừng trách. Bao thí chủ...

Bao Bất Đồng lại chặn ngang:

- Nhà ngươi lại cũng sai nữa rồi. Ta tuy họ Bao thật nhưng xưa nay

đã từng bố thí cho sư cho vãi bao giờ đâu, không thể nào gọi ta là Bao thí

chủ được.

Hư Trúc lật đật nói:

- Dạ! Dạ! Bao tam gia, Phong tứ gia.

Bao Bất Đồng liền đáp:

- Ngươi lại sai rồi! Phong tứ đệ của ta muốn cùng người giao đấu,

không kể ai ăn ai thua thì ngươi cũng một phen thêm lịch duyệt, võ công

ắt là trường tiến, thế chẳng phải đã bố thí cho ngươi hay sao?

Hư Trúc vội đáp:

- Vâng! Vâng! Phong thí chủ, có điều là tiểu tăng nhất quyết không

đánh nhau. Người xuất gia tu hành là gốc, học võ chỉ là ngọn, võ công

trường tiến hay không, cũng không quan hệ gì lắm.

Phong Ba Ác thở dài:

- Ngươi coi võ học xem thường như thế, võ công chắc cũng tầm

thường, thôi trận này chẳng cần đấu nữa.

Nói xong lắc đầu quầy quậy ra chiều thất vọng. Hư Trúc chẳng khác

gì trút được gánh nặng trên vai, mặt mày tươi rói nói:

- Phải lắm! Phải lắm!

Đặng Bách Xuyên nói:

- Hư Trúc sư phụ, cánh thiếp anh hùng này, chúng tôi đại diện công

tử nhận. Công tử chúng tôi mấy tháng trước đây đã từng đến bái phỏng

quí tự, không lẽ chưa tới nơi hay sao?

Hư Trúc đáp:

- Chưa thấy đến. Phương trượng đại sư vẫn mong Mộ Dung công tử

đến thăm nhưng đợi lâu quá mà không thấy, đã từng hai lần phái người

đến quí phủ bái phỏng, nghe tin Mộ Dung lão thí chủ qui tây, thiếu thí

chủ ra ngoài. Phương trượng đại sư lần này nhờ thủ tọa Đạt Ma Viện đến

tận tôn phủ ở Tô Châu đưa thư, lại sợ Mộ Dung thiếu thí chủ không có

nhà nên gửi anh hùng thiếp đến đông đảo đồng đạo giang hồ, những điều

thất lễ xin nhờ bốn vị bẩm lại Mộ Dung công tử cho minh bạch. Sang

năm Mộ Dung thí chủ giá lâm tệ tự, phương trượng đại sư sẽ đích thân tạ

tội sau.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Tiểu sư phụ không phải khách sáo quá. Kỳ hội còn đến hơn nửa

năm, tới lúc đó công tử chúng tôi thể nào cũng đến thăm quí tự, bái kiến

phương trượng đại sư.

Hư Trúc chắp tay khom lưng chào nói:

- Mộ Dung công tử cùng các vị giá lâm Thiếu Lâm Tự, phương

trượng đại sư chúng tôi cực kỳ hoan nghênh. Hai chữ bái kiến thật

không dám nhận.

Phong Ba Ác thấy y cực kỳ chấp nê, không có chút gì khẳng khái hào

sảng của võ lâm, tuy cũng là nhà sư đấy nhưng thật chẳng có vẻ gì là

hòa thượng chùa Thiếu Lâm danh tiếng trên đời, trong lòng không lấy

gì làm vui lắm, chẳng ngó ngàng gì đến y nữa, quay sang xem xét bọn

Đinh Xuân Thu. Y thấy quần đệ tử phái Tinh Tú tay cầm binh khí, hiển

nhiên cũng là người trong võ lâm, liền tìm xem có người nào xứng đáng

là đối thủ để mời ra đánh nhau một trận.

Du Thản Chi từ khi thấy bốn người này đi vào lương đình, lập tức nấp

vào đằng sau sư phụ. Đinh Xuân Thu thân thể cao to, che khuất y nên bọn

bốn người Đặng Bách Xuyên không nhìn thấy cái đầu sắt quái dị. Phong

Ba Ác thấy Đinh Xuân Thu đồng nhan hạc phát, tiên phong đạo cốt, trông

ra vẻ thế ngoại cao nhân, trong bụng không khỏi có chiều kính ngưỡng,

thành thử chưa dám ngang nhiên tiến lên khiêu chiến liền hỏi:

- Vị lão tiền bối kia xin hỏi cao tính đại danh là gì?

Đinh Xuân Thu mỉm cười đáp:

- Ta họ Đinh.

Vừa lúc đó Hư Trúc bỗng kêu lên một tiếng nói:

- Sư thúc tổ lão nhân gia cũng đã đến rồi.

Phong Ba Ác quay đầu lại thấy trên đường cái bảy tám hòa thượng đi

tới, đi đầu là hai vị lão tăng, còn lại có hai người khiêng một chiếc cáng,

trên đó có người nằm. Hư Trúc vội vã đi ra khỏi lương đình, hành lễ với

hai nhà sư già rồi bẩm lại lai lịch của bốn người Đặng Bách Xuyên.

Nhà sư phía bên phải gật đầu, đi vào trong đình tiến đến chào bọn

Đặng Bách Xuyên rồi nói:

- Lão nạp là Huyền Nạn.

Ông chỉ về nhà sư già kia nói:

- Còn đây là sư đệ của lão nạp Huyền Thống may mắn được gặp bốn

vị đại hiền của Cô Tô Mộ Dung Trang.

Bọn Đặng Bách Xuyên từng nghe danh Huyền Nạn từ lâu, thấy ông

mặt dăn deo nhưng đôi mắt thần quang thăm thẳm, vội vàng trả lễ. Phong

Ba Ác nói:

- Đại sư phụ là thủ tọa Đạt Ma Viện của chùa Thiếu Lâm, nghe nói

thần công ghê gớm lắm, hôm nay xin được lãnh giáo.

Huyền Nạn mỉm cười đáp:

- Lão nạp và Huyền Thống sư đệ phụng pháp dụ của phương trượng

đến phủ Mộ Dung thí chủ tại Giang Nam cung trình thiếp mời, đây là lần

thứ ba chùa chúng tôi sai người đến Yến Tử Ổ. Thế nhưng may sao ngay

tại đây được cùng quí vị giải cấu tương phùng, duyên pháp quả là không

nhỏ.

Nói xong từ trong túi lấy ra một thiếp mời màu đỏ. Đặng Bách Xuyên

hai tay cầm lấy thấy trên bao thư có viết:

Cung trình Mộ Dung thí chủ ở Yến Tử Ổ đất Cô Tô

Bằng chữ lớn, liệu chừng bên trong thiếp cũng giống như cái thiếp Hư

Trúc vừa đưa cho bèn nói:

- Hai vị đại sư phụ là cao tăng đại đức của chùa Thiếu Lâm, vọng

trọng trong võ lâm mà phải thân lao đại giá đến tệ trang, quả thực Mộ

Dung Cô Tô được nở mày nở mặt quá. Mới đây vị Hư Trúc tiểu sư phụ

cũng đã đưa cho một danh thiếp anh hùng, chúng tôi đã nhận rồi, nhất

định thể nào cũng bẩm lại bề trên. Đến giai tiết Trùng Dương mồng chín

tháng chín, tệ thượng là Mộ Dung công tử thể nào cũng lên chùa lễ Phật,

đích thân cảm tạ các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm rồi trước mặt anh hùng

thiên hạ, nói rõ các chuyện hiểu lầm.

Huyền Nạn nghĩ thầm: Ngươi bảo các chuyện hiểu lầm, hóa ra

Huyền Bi sư huynh không phải do nhà Mộ Dung Cô Tô các ngươi giết

chết hay sao?. Bỗng nghe ở sau có tiếng người kêu lên:

- A, sư phụ, chính y đó!

Huyền Nạn nghiêng đầu nhìn qua, thấy một người hình thù kỳ quái

chỉ vào chiếc cáng, ghé tai một ông lão tóc bạc thì thầm. Du Thản Chi nói

với Đinh Xuân Thu:

- Gã sư mập nằm trên cáng kia chính là người bắt được con băng

tàm, không biết vì sao lại bị phái Thiếu Lâm bắt.

Đinh Xuân Thu nghe nói nhà sư đó là nguyên chủ của con băng tàm,

vui sướng không đâu cho hết, hỏi nhỏ:

- Ngươi không nhìn lầm người chứ?

Du Thản Chi đáp:

- Không đâu, tên y là Tuệ Tịnh. Sư phụ thử xem, cái bụng tròn quay

của y phồng lên thế kia.

Đinh Xuân Thu thấy bụng Tuệ Tịnh còn to hơn đàn bà chửa sắp đẻ,

nghĩ thầm một hòa thượng mập như thế, dù ai gặp y một lần thì suốt đời

không quên, bèn quay sang nói với Huyền Nạn:

- Đại sư phụ, vị hòa thượng Tuệ Tịnh kia có quen với ta, y bị bệnh gì

chăng?

Huyền Nạn chắp tay đáp:

- Cao tính đại danh thí chủ là chi? Không biết nguyên do nào mà lại

biết sư điệt của lão nạp?

Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Gã Tuệ Tịnh kia lại đi cùng với các hòa

thượng Thiếu Lâm, quả thực là phiền. Cũng may gặp ngay trên đường đi,

chặn lại cướp lấy thật dễ hơn vào trong chùa Thiếu Lâm mà bắt, mà lại

dễ dàng hơn nhiều. Y nghĩ đến sự linh dị thần hiệu của con băng tàm,

ngực không khỏi nóng hôi hổi nói:

- Tại hạ là Đinh Xuân Thu.

Ba tiếng Đinh Xuân Thu vừa ra khỏi cửa miệng, Huyền Nạn,

Huyền Thống, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong

Ba Ác sáu người không hẹn mà cùng kinh ngạc kêu lên một tiếng, mặt ai

nấy đều hơi biến sắc. Ác danh Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu vang

dậy thiên hạ, ai ngờ lại gặp nơi đây trông khí độ ung dung, phong thái

tiêu sái đến thế. Sáu người ai nấy lập tức đều có ý phòng bị.

Thế nhưng chỉ trong một nháy mắt Huyền Nạn đã bình tĩnh lại ngay

nói:

- Thì ra là Đinh lão tiên sinh của Tinh Tú Hải. Đã ngưỡng mộ đại

danh từ lâu, quả thực như sấm rền bên tai.

Những câu khách sáo như may mắn thay được gặp ông không nhắc

đến, nghĩ thầm: Người nào gặp phải ngươi đúng là kiếp trước vụng tu.

Đinh Xuân Thu nói:

- Không dám, môn Tụ Lý Càn Khôn của thủ tọa Đạt Ma Viện chùa

Thiếu Lâm nổi danh thiên hạ, lão phu cũng từng ngưỡng mộ lâu rồi. Vị

Tuệ Tịnh sư phụ này, ta đang muốn đi tìm đây, bây giờ gặp được nơi đây

thật là hay quá, hay thật là hay.

Huyền Nạn hơi nhíu mày nói:

- Nói ra quả thật xấu hổ, gã sư điệt Tuệ Tịnh của lão nạp đây, chỉ vì

bổn tự thiếu giáo huấn nên phạm nhiều thanh quy giới luật, hơn một năm

trước trốn ra khỏi chùa, làm nhiều điều ác. Phương trượng sư huynh của

tệ tự sai người đi khắp nơi tìm kiếm, chẳng dễ gì kiếm được y, bắt đem về

chùa. Đinh lão tiên sinh đã từng gặp y rồi ư?

Đinh Xuân Thu đáp:

- Thì ra không phải y bị bệnh mà là bị người ta đả thương, thương thế

có nặng lắm không?

Huyền Nạn không trả lời, một hồi sau mới nói:

- Y không tuân theo pháp dụ của phương trượng, ngược lại còn ra tay

đánh người nữa.

Ông nghĩ thầm: Y kết giao với những loại tà ma ngoại đạo như

ngươi, lại phá thêm một đại giới nữa. Đinh Xuân Thu nói:

- Tại hạ ở núi Côn Lôn, tốn biết bao nhiêu tâm huyết mới bắt được

một con băng tàm, là một loại cực kỳ hữu dụng, ngờ đâu lại bị gã Tuệ

Tịnh sư điệt của đại sư ăn cắp mất. Tại hạ vạn lý xa xôi từ biển Tinh Tú

tới Trung Nguyên, chẳng qua cũng chỉ để lấy lại con băng tàm...

Y nói chưa dứt lời, Tuệ Tịnh đã kêu lên:

- Con băng tàm ư? Này, có phải ngươi trông thấy con băng tàm? Con

tằm đó ta khổ sở mới kiếm thấy được trong núi Côn Lôn... ngươi... ngươi

ăn trộm của ta phải không?

Từ khi Du Thản Chi tiến ra thì thầm, Phong Ba Ác chăm chăm nhìn

cái lồng trên đầu y, mắt láo liên, những gì Huyền Nạn, Đinh Xuân Thu

và nhà sư Tuệ Tịnh đối đáp y hoàn toàn không nghe gì cả. Y đi vòng

quanh Du Thản Chi mấy bận, thấy cái mặt nạ đúc thật khít khao, cứ đeo

mãi trên đầu không bỏ xuống, toan đưa tay ra ra gõ thử, lại coi thêm một

lát mới hỏi:

- Này bồ, khỏe chứ?

Du Thản Chi ấp úng:

- Tôi... tôi khỏe.

Y thấy Phong Ba Ác lúc nào cũng lanh chanh, tay chân không yên,

trong bụng cũng khiếp. Phong Ba Ác lại hỏi:

- Cái mặt nạ của bồ làm sao đúc được vậy? Tôi đi khắp nơi nhưng

chưa bao giờ thấy cái mặt nạ nào như vầy.

Du Thản Chi cực kỳ ngượng ngập, cúi đầu xuống nói:

- Hèm, tôi... tôi bị người ta ép buộc, không... không làm sao được.

Phong Ba Ác nghe y nói thấy thật đáng thương, giận dữ hỏi dồn:

- Sao có người chơi trò gì ác ôn vậy? Họ Phong muốn biết là đứa

nào.

Nói xong y liếc mắt nhìn Đinh Xuân Thu, cho rằng đây là công trình

của lão già này. Du Thản Chi vội kêu:

- Không... không phải sư phụ tôi đâu.

Phong Ba Ác lại nói:

- Ai đời con người ta đang yên lành, nay đem nhốt trong cái mặt nạ

bằng sắt là sao? Lại đây, để ta tháo ra cho ngươi.

Y vừa nói vừa rút trong ống giày ra một con dao găm sáng quắc, đủ

biết cực kỳ sắc bén toan gỡ cái lồng sắt ra. Du Thản Chi biết rằng chiếc

mặt nạ này đã dính liền vào mặt mũi và sau đầu y, nếu cố tháo đi thì có

thể chết được vội vàng nói:

- Không, không tháo được đâu.

Phong Ba Ác đáp:

- Nhà ngươi chớ có sợ, thanh chủy thủ của ta gọt sắt như bùn, để ta

cắt cái mặt nạ, quyết không tổn thương thịt da đâu.

Du Thản Chi kêu lên:

- Không, không được.

Phong Ba Ác nói:

- Ngươi sợ người đội cho ngươi cái mũ sắt này, phải không nào? Kỳ

tới gặp lại y cứ nói là ta đây Nhất Trận Phong Phong Ba Ác tháo cho

ngươi đó, ngươi bị ta ép buộc nếu muốn gì cứ bảo ác nhân đó đi kiếm ta

là xong.

Y nói rồi liền chộp cổ tay Du Thản Chi. Du Thản Chi thấy con dao

găm trong tay y hàn quang lấp loáng, sợ quá quay đầu lại nhìn Đinh Xuân

Thu cầu cứu, kêu lên:

- Sư phụ, sư phụ!

Đinh Xuân Thu đứng ở bên cạnh chiếc cáng, đang khoái trá nhìn Tuệ

Tịnh, tiếng kêu của Du Thản Chi không nghe thấy. Phong Ba Ác giơ

chiếc dao lên toan cắt xuống chiếc mặt nạ. Du Thản Chi quýnh quáng,

tay phải đẩy đối phương ra nghe bịch một tiếng trúng ngay vai trái Phong

Ba Ác.

Phong Ba Ác đang hết sức chú tâm vào việc cắt chiếc mũ sắt, sợ lỡ

tay cắt không chuẩn, chạm vào mặt y, có ngờ đâu bất thần bị đánh một

chưởng. Thế đánh của chưởng đó vốn dĩ cực kỳ tầm thường, Phong Ba Ác

chỉ hự lên một tiếng, ngã sấp mặt xuống. Tay trái y chống xuống đất, đẩy

một cái nhảy vọt lên, ọe một tiếng thổ ra một ngụm máu tươi.

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng ba người thấy Du

Thản Chi đột nhiên hạ độc thủ khiến người em kết nghĩa của mình bị hố

to, mặt trắng bệch, ba người không khỏi lo âu. Công Dã Can vội đưa tay

bắt mạch, thấy mạch dồn dập, xem chừng có dấu hiệu trúng độc liền chỉ

mặt Du Thản Chi mắng:

- Hảo tiểu tử, môn nhân Tinh Tú Lão Quái lấy oán báo đức, vừa ra

tay đã giở thủ đoạn tàn độc hại người.

Y vội lấy trong bọc ra một cái bình nhỏ, mở nắp đổ ra một viên thuốc

giải độc nhét vào mồm Phong Ba Ác còn Đặng Bách Xuyên và Bao Bất

Đồng cùng lạng người xông ra chặn Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi. Bao

Bất Đồng ám vận nội kình vào tay trái, năm ngón tay thành trảo toan

chộp vào ngực gã đầu sắt. Đặng Bách Xuyên kêu lên:

- Tam đệ ngừng tay.

Bao Bất Đồng rụt tay lại không đánh ra, đưa mắt nhìn đại ca, Đặng

Bách Xuyên nói:

- Chúng ta nhà Mộ Dung và phái Tinh Tú không thù không oán, tứ

đệ chỉ vì long tốt muốn giúp y tháo cái mặt nạ ra, sao người của phái Tinh

Tú lại ra tay đả thương là sao? Việc này xin Đinh lão tiên sinh chỉ giáo.

Đinh Xuân Thu thấy gã học trò mới thu chỉ một chưởng đã đánh bại

một hảo thủ của nhà Cô Tô Mộ Dung, đại hiển uy phong cho phái Tinh

Tú nên không khỏi đắc ý ngầm, càng thêm khát khao ham muốn con

băng tàm, mỉm cười nói:

- Vị Phong tứ gia kia hung hăng hiếu đấu, thích nhúng tay vào

chuyện đâu đâu. Người của phái Tinh Tú ta đội trên đầu mũ sắt hay mũ

đồng thì có liên quan gì đến nhà Mộ Dung Cô Tô nhỉ?

Lúc này Công Dã Can đã đỡ Phong Ba Ác ngồi lên, thấy y run lẩy

bẩy, răng đánh vào nhau kêu lách cách, chẳng khác gì rơi vào một hầm

băng, trong giây lát môi tím lại, sắc mặt từ trắng chuyển thành xanh. Giải

độc hoàn của Công Dã Can cực kỳ linh nghiệm nhưng Phong Ba Ác uống

rồi chỉ như hòn đá ném vào biển cả, không còn tung tích gì.

Công Dã Can nóng ruột, giơ tay thăm hơi thở y, đột nhiên một làn gió

thổi buốt thấu xương vào gan bàn tay. Công Dã Can vội vàng rụt tay về

kêu lên:

- Không xong, sao lại lạnh đến thế này?

Y nghĩ thầm hơi trong miệng thở ra đã lạnh đến thế, ắt hẳn hàn độc

trong người phải ghê gớm đến chừng nào. Trong tình thế nguy cấp làm

vậy, không kịp nói chuyện phải quấy, y đành quay sang nói với Đinh

Xuân Thu:

- Người em kết nghĩa của tôi trúng phải độc thủ của đệ tử tiên sinh,

làm ơn ban cho thuốc giải.

Độc tính Phong Ba Ác trúng phải là do nội công Dịch Cân Kinh của

Du Thản Chi dồn chất kịch độc của con băng tàm ra, chẳng nói Đinh

Xuân Thu không có thuốc giải, mà dẫu có giải dược y cũng đời nào chịu

cho? Y ngửng đầu cười ha hả, niệm lớn:

- A ô lục lỗ cộng! A ô lục lỗ cộng!

Tay áo bào phất một cái, một luồng gió xoáy tung ra. Các đệ tử phái

Tinh Tú lập tức cả bọn chạy ra khỏi lương đình, chạy bay chạy biến. Bọn

Đặng Bách Xuyên và tăng chúng Thiếu Lâm biết tay áo y có chứa độc

phấn, thấy cơn gió lốc này như chọc vào mắt, thật là khó chịu, nước mắt

nước mũi ràn rụa, mở mắt không nổi kêu thầm: Không xong rồi!.

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng không hẹn mà cùng

xông tới chặn trước mặt Phong Ba Ác, sợ rằng đối phương thừa cơ hạ độc

thủ. Huyền Nạn nhắm mắt đánh ra một chưởng, trúng ngay cây cột của

tòa lương đình, lập tức gãy đôi, lắc rắc mấy tiếng một bên căn nhà mát

liền nghiêng xuống, ngói đất đổ xuống ào ào. Đến khi mọi người mở

được mắt ra, Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi đã chạy đâu mất.

Mấy nhà sư Thiếu Lâm kêu lên:

- Tuệ Tịnh đâu rồi? Tuệ Tịnh đâu rồi?

Thì ra nhân lúc hỗn loạn, Tuệ Tịnh đã bị Đinh Xuân Thu bắt đi mất

rồi, chiếc cáng chụp lên đầu một nhà sư. Huyền Thống giận dữ quát lớn:

- Đuổi theo!

Ông phi thân chạy ra khỏi lương đình, Đặng Bách Xuyên và Bao Bất

Đồng cũng vội theo, Huyền Nạn phất tay một cái cùng các đệ tử đi sau

tiếp viện. Công Dã Can ở lại nửa mái đình còn chưa sụp lo cho nghĩa đệ

nhưng mắt cũng đau buốt, nước mắt ràn rụa. Phong Ba Ác trán toát mồ

hôi, chỉ trong giây lát liền đóng thành sương. Công Dã Can còn đang

hoang mang bỗng nghe tiếng chân người, ngẩng lên thấy Đặng Bách

Xuyên bế Bao Bất Đồng đang rảo bước quay về. Y kinh hoảng không sao

kể xiết, kêu lên:

- Đại ca, tam đệ cũng bị thương nữa ư?

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Lại trúng phải độc thủ của tên đầu sắt.

Kế đó Huyền Nạn cũng dẫn quần tăng trở lại lương đình. Huyền

Thống nằm phục trên lưng Huyền Từ, lạnh run cầm cập, hai hàm răng

kêu lách cách. Huyền Nạn và Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can ai nấy

bần thần. Đặng Bách Xuyên nói:

- Gã đầu sắt cùng tam đệ đối một chưởng, sau đó y lại cùng Huyền

Thống đại sư đánh một chưởng nữa. Có ngờ đâu... có ngờ đâu hàn độc

chưởng của phái Tinh Tú lại ghê gớm đến thế.

Huyền Nạn lấy trong túi ra một cái hộp gỗ nhỏ nói:

- Lục Dương Chính Khí Đơn của tệ phái có chút công hiệu khắc chế

hàn độc.

Ông mở nắp lấy ra ba viên thuốc đỏ chon chót, đưa cho Đặng Bách

Xuyên hai viên, còn viên thứ ba giao cho Huyền Thống. Sau chừng một

bữa cơm, cơn lạnh của ba người thấy đỡ. Bao Bất Đồng ngoạc mồm ra

chửi:

- Gã đầu sắt kia, con... con mẹ nó chứ, chưởng lực đó là cái gì thế?

Đặng Bách Xuyên vội khuyên:

- Tam đệ, để sau này chửi cũng không muộn, ngươi nên ngồi xuống

hành công đi.

Bao Bất Đồng đáp:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Giờ này không chửi, đợi đến khi ô hô

ai tai rồi thì đâu còn chửi gì được nữa.

Đặng Bách Xuyên mỉm cười nói:

- Chớ có lo, không chết đâu mà sợ.

Nói xong đưa bàn tay đè vào huyệt Chí Dương ở sau lưng y, dùng nội

lực giúp y khu trừ hàn độc. Công Dã Can và Huyền Nạn cũng chia ra

giúp cho Phong Ba Ác và Huyền Thống hai người.

Huyền Nạn, Huyền Thống hai người nội lực thâm hậu, chỉ một lát,

Huyền Thống đã thở một hơi dài nói:

- Khỏe rồi!

Ông đứng lên nói tiếp:

- Lợi hại thật!

Huyền Nạn có bụng muốn giúp cho Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác hai

người trừ hàn độc có điều bên kia chưa lên tiếng yêu cầu, mình tự ý đưa

ra không khỏi coi họ nội công không đủ, trong võ lâm chuyện đó là điều

cấm kỵ.

Đột nhiên Huyền Thống lảo đảo mấy cái, hai hàm răng gõ vào nhau

kêu lách cách, vội vàng ngồi xuống hành công, nói:

- Sư... sư huynh, cái thứ... cái thứ hàn độc này... thật là quái dị...

Huyền Nạn vội vàng vận công tương trợ. Ba người liên tục hành công

nhưng thân thể chỉ dễ chịu được một chút rồi lại phát tác, cho đến khi

chiều tối, mỗi người uống ba viên Lục Dương Chính Khí Đơn mà hàn khí

không thấy bớt chút nào. Huyền Nạn chỉ mang theo mười viên đan dược,

bây giờ còn một viên, đành chia làm ba, đưa cho mỗi người một phần.

Bao Bất Đồng nhất định không uống nói:

- E rằng có uống đến một trăm viên, cũng... cũng chẳng đến đâu...

Huyền Nạn bó tay không còn cách nào khác bèn nói:

- Lời của Bao thí chủ đúng lắm, loại thuốc Lục Dương Chính Khí

Đơn này trị không đúng bệnh mà nội công của chúng ta cũng không đối

phó nổi với môn âm độc này. Lão nạp nghĩ chỉ còn một cách là đi tìm

Tiết Thần Y nhờ chữa cho, không biết bốn vị nghĩ sao?

Đặng Bách Xuyên mừng rỡ nói:

- Đã từng nghe Tiết Thần Y được người đời gọi là Diêm Vương Địch,

dù bệnh nặng cỡ nào ông ta đều có thể chữa khỏi. Đại sư có biết vị thần y

này ở đâu không?

Huyền Nạn nói:

- Tiết Thần Y nhà ở Liễu Tông Trấn, phía tây thành Lạc Dương từ

đây đến đó cũng không xa lắm. Ông ta với lão nạp có duyên gặp gỡ mấy

lần, nếu đến xin chữa trị, có lẽ không chối từ đâu.

Ông lại tiếp:

- Nhà Mộ Dung Cô Tô danh mãn thiên hạ, Tiết Thần Y xưa nay vẫn

ngưỡng mộ, nay có cơ duyên làm bạn với bốn vị anh hùng, ông ta chắc

cũng vui vẻ lắm.

Bao Bất Đồng nói:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Tiết Thần Y thấy bọn ta đến cửa chắc

là không vui vẻ gì. Có điều trong võ lâm ai ai cũng ghét cái môn dĩ bỉ

chi đạo hoàn thi bỉ thân của công tử chúng tôi, riêng có Tiết Thần Y là

không sợ. Mai này ví thử y có... mệnh hệ gì, thì chỉ cần đến cầu công tử

gia chúng tôi dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân, thế là... thế là cái mạng

già... của y có cơ cứu được.

Mọi người ai nấy cười ha hả, lập tức đi ra khỏi đình. Đến thị trấn

trước mặt họ liền mướn ba cỗ xe cho ba người bị thương nằm dưỡng bệnh.

Đặng Bách Xuyên lấy tiền mua thêm mấy con ngựa cho những nhà sư

Thiếu Lâm cưỡi.

Đoàn người cứ đi chừng hai ba giờ thì lại ngừng để trợ giúp ba người

bị thương kháng ngự hàn độc. Đến sau Huyền Nạn không còn tị hiềm gì,

dùng Thiếu Lâm thần công tương trợ Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác. Nơi

đây tuy chỉ cách Liễu Tông Trấn vài trăm dặm đường nhưng đường núi

gập ghềnh, lại phải ngừng luôn, nên đến chiều ngày thứ tư mới đến nơi.

Tiết Thần Y ở trong núi sâu cách Liễu Tông Trấn ba mươi dặm về

phía bắc, cũng may hôm ở Tụ Hiền Trang ông ta đã chỉ vẽ cho Huyền

Nạn rõ ràng đường đi nước bước nên không mất công dò hỏi, đã đến

trước cửa nhà Tiết Thần Y.

Huyền Nạn trông thấy bên cạnh giòng sông nhỏ mấy gian nhà lớn,

tường trắng ngói đen, đằng trước là một vườn cây thuốc rộng, biết ngay là

nơi ở của Tiết Thần Y. Ông giục ngựa chạy đến gần, từ xa đã thấy trước

cửa nhà treo hai chiếc lồng đèn bằng giấy trắng, hơi kinh hãi: Nhà họ

Tiết có bệnh nhân nào trị không được hay sao?. Đi thêm vài trượng nữa,

thấy trên ngạch cửa có đóng mấy vuông vải gai, bên cạnh cửa có mấy cột

phướn chiêu hồn, quả đúng là trong nhà có người chết. Lại thấy trên đèn

lồng viết hai hàng chữ đen:

Tiết Công Mộ Hoa chi tang, hưởng niên ngũ thập ngũ tuế17

Huyền Nạn hoảng hốt: Tiết Thần Y không chữa nổi cho mình, nay

chết mất rồi, thật là bất hạnh làm sao. Nghĩ đến cố nhân nay đã qui tiên,

âm dương đôi ngả, trong lòng không khỏi thương cảm. Vừa lúc đó Đặng

Bách Xuyên và Công Dã Can cũng đã tới nơi, hai người cùng kêu lên:

- Chao ôi!

Bỗng nghe trong nhà có tiếng đàn bà khóc vang lên:

- Ông ơi là ông ơi! Ông y thuật như thần, có ngờ đâu bất ngờ bị bệnh,

bỏ chúng tôi mà đi. Ông ơi! Ông xưng là Diêm Vương Địch, vậy mà sau

cùng cũng không thắng nổi Diêm Vương, e rằng khi xuống cõi âm, Diêm

Vương thể nào cũng đòi nợ cũ, hành hạ khổ sở lắm ông ơi!

Chẳng bao lâu ba cỗ xe và sáu nhà sư Thiếu Lâm trước sau cũng đến.

Đặng Bách Xuyên nhảy xuống ngựa, lớn tiếng nói:

- Thiếu Lâm Tự Huyền Nạn đại sư cùng bè bạn, có việc đặc biệt đến

cầu Tiết Thần Y.

Tiếng của y vang vang như chuông, tiếng khóc trong nhà liền ngưng

bặt. Một lúc sau, một ông già đi ra, ăn mặc theo lối đầy tớ, trên mặt còn

hoen ngấn lệ, sụt sùi cực kỳ thương tâm, đấm ngực nói:

- Lão gia qua đời xế trưa hôm qua, các ông ... các ông không gặp

được nữa rồi.

Huyền Nạn chắp tay hỏi lại:

- Tiết tiên sinh mắc phải chứng bệnh gì mà qua đời?

Người lão bộc khóc nói:

- Cũng chẳng biết bệnh gì nữa, đột nhiên thở hắt ra rồi chết. Lão gia

xưa nay thân thể khang kiện, tuổi cũng chưa già, có ai ngờ nổi. Lão nhân

gia đi trị bệnh cho người ta, bệnh nào cũng khỏi, vậy mà ... vậy mà bệnh

chính mình ...

Huyền Nạn lại gặng thêm:

- Tiết tiên sinh trong nhà còn những ai?

Người đầy tớ già nói:

- Chẳng còn ai cả, không còn một người nào.

Công Dã Can và Đặng Bách Xuyên hai người đưa mắt nhìn nhau,

cùng ngầm thấy người lão bộc này nói mấy câu đó có phần không thành

thực, huống chi vừa mới rồi ai cũng nghe tiếng đàn bà khóc. Huyền Nạn

thở dài nói:

- Chết sống đều có mạng, nếu đã thế thì cho chúng tôi tới trước linh

vị người bạn cũ lạy một lạy.

Người lão bộc ấp úng:

- Cái đó ... cái đó ... vâng vâng!

Y dẫn mọi người vào trong cửa chính. Công Dã Can đi sau một bước

ghé tai hỏi nhỏ Đặng Bách Xuyên:

- Đại ca, tiểu đệ xem chừng có điều gì không minh bạch, tên lão bộc

này dường như ra chiều ỡm ờ.

Đặng Bách Xuyên gật đầu, đi theo tên đầy tớ tới linh đường. Linh

đường trần thiết sơ sài, mọi thứ còn chưa đầy đủ, trên linh bài có viết:

Tiết Công Mộ Hoa chi linh vị

Mấy chữ đó nét bút cứng cỏi, hiển nhiên là thủ thư của một tay túc

học, quyết không phải tên lão bộc này viết được. Công Dã Can xem

nhưng không nói gì. Mọi người hành lễ trước linh vị, Công Dã Can quay

đầu lại thấy nơi sân trong có đến mươi món quần áo phơi trên sào tre, áo

đàn bà cũng có, lại cả quần áo trẻ con nam nữ, nghĩ bụng: Tiết Thần Y

rõ ràng có thân quyến, sao lão bộc này lại bảo là chẳng còn ai?.

Huyền Nạn nói:

- Chúng tôi từ xa xôi đến đây để cầu Tiết Thần Y trị bệnh, có ngờ

đâu Tiết tiên sinh lại đã tiên du, khiến cho không khỏi đau lòng. Trời

cũng tối rồi, đêm nay cho ở lại quí phủ qua đêm.

Người lão bộc xem chừng khó xử nói:

- Cái đó ... cái đó ... thôi, cũng được! Mời chư vị ngồi nghỉ ngoài

sảnh đường, tiểu nhân đi lo cơm nước.

Huyền Nạn nói:

- Quản gia chẳng cần phải lo lắng nhiều, cơm với chút rau dưa là

được rồi.

Người lão bộc đáp:

- Vâng! Vâng! Mời quí vị ngồi nghỉ.

Y dẫn mọi người ra ngoài sảnh đường rồi quay vào trong. Một hồi

lâu, người gia nhân đó vẫn không thấy đem trà ra, Huyền Nạn nghĩ thầm:

Người lão bộc này chủ mới chết, hồn vía để đâu đâu. Ôi! Huyền Thống

sư đệ trúng phải hàn độc, không biết phải làm sao đây?. Mọi người đợi

đến hơn nửa giờ, nhưng vẫn không thấy bóng dáng người đầy tớ già đâu.

Bao Bất Đồng nóng ruột nói:

- Để ta đi kiếm chút nước uống!

Hư Trúc nói:

- Bao tiên sinh, xin ông ngồi nghỉ. Để tiểu tăng đi xuống giúp người

lão bộc nấu nước.

Y đứng lên đi vào nội đường. Công Dã Can cũng muốn quan sát động

tĩnh trong nhà họ Tiết bèn nói:

- Để ta đi với tiểu sư phụ.

Hai người đi ra phía sau nhà, phòng ốc nhà họ Tiết không phải là ít,

trước sau cả thảy năm dãy, nhưng bên trong bên ngoài không thấy một

bóng người. Hai người tìm được nhà bếp nhưng cũng không thấy người

lão bộc đâu.

Công Dã Can biết có chuyện khác thường, rảo bước quay trở về sảnh

nói:

- Nhà này xem chừng không ổn, Tiết Thần Y có thể chỉ giả chết thôi.

Huyền Nạn đứng lên lạ lùng hỏi:

- Sao thế?

Công Dã Can đáp:

- Đại sư, tại hạ nghĩ mình nên đến xem cỗ quan tài.

Y chạy vào linh đường, giơ tay toan nhắc chiếc hòm, đột nhiên chợt

nghĩ ra, rút tay về, lấy ở ngoài sân một chiếc áo dài đang phơi, lót vào

tay. Phong Ba Ác nói:

- Sợ trên quan tài có độc ư?

Công Dã Can đáp:

- Lòng người khó lường, không thể không đề phòng.

Y vận kình nhắc chiếc quan tài lên, thấy cực kỳ trầm trọng, bên trong

nhất định không phải chỉ là một xác người bèn nói:

- Tiết Thần Y quả nhiên giả chết.

Phong Ba Ác rút đơn đao nói:

- Bẩy nắp hòm ra xem sao.

Công Dã Can nói:

- Người này được gọi là thần y, hẳn cũng giỏi sử dụng thuốc độc, tứ

đệ phải cẩn thận.

Phong Ba Ác đáp:

- Tiểu đệ biết rồi.

Y luồn mũi đao vào khe quan tài ấn xuống, nghe tiếng ken két nắp

hòm từ từ bật lên. Phong Ba Ác nín thở, sợ trong quan tài có phấn độc bay

ra. Bao Bất Đồng nhảy ra sân chộp hai con gà mái đang tìm giun bắt dế ở

dưới gốc quế, đem vào linh đường, vung tay ném hai con gà qua ngang

quan tài. Hai con gà kêu quang quác, đáp xuống trước linh tòa, rồi chạy

ra ngoài thiên tỉnh nhưng chỉ được mấy bước, đột nhiên ngã chổng cẳng,

hai chân dãy mấy cái rồi nằm chết đứ đừ. Vừa lúc đó trong hiên nhà một

luồng gió lạnh thổi qua, những chiếc lông trên mình hai con gà lập tức

bay lên phơi phới. Mọi người thấy thế ai nấy kinh hãi, hai con gà vừa

trúng độc chết mà bao nhiêu lông đã rụng sạch, đủ biết độc tính mạnh là

dường nào khiến cho không ai còn dám đến gần chiếc quan tài nữa.

Huyền Nạn nói:

- Đặng thí chủ thử xem thế này là cớ gì? Tiết Thần Y quả thực trá tử

hay sao?

Ông vừa nói vừa nhún mình nhảy lên, tay trái chộp lấy xà ngang, nhìn

vào trong quan tài, thấy bên trong đầy những đá tảng, giữa những cục đá

là một bát lớn đựng đầy nước. Nước ở trong bát hiển nhiên phải là thuốc

độc. Huyền Nạn lắc đầu, buông mình nhảy xuống nói:

- Tiết thí chủ nếu không muốn trị thương, việc gì phải bố trí cơ quan

độc địa như thế này để hãm hại chúng ta. Phái Thiếu Lâm với y không

thù không oán, làm như thế không vô lý quá hay sao? Không lẽ ... không

lẽ ...

Ông ta nhắc lại hai chữ không lẽ rồi lặng thinh, trong lòng nghĩ

thầm: Không lẽ ông ta có thù oán sâu xa với họ Cô Tô Mộ Dung

chăng?. Bao Bất Đồng nói:

- Đại sư chớ có nghĩ ngợi lăng nhăng, Mộ Dung công tử và Tiết Thần

Y xưa nay chưa biết nhau, cũng không thù oán. Nếu như hai bên có

chuyện gì, bọn chúng tôi dù có phải đau đớn gấp mười chăng nữa, cũng

không bao giờ lại hạ mình đi nhờ kẻ thù chữa trị cho đâu. Đại sư coi họ

Bao, họ Phong là người hèn hạ, vô tư cách chăng?

Huyền Nạn chắp tay nói:

- Bao thí chủ nói phải lắm, lão tăng quả đoán sằng đoán bậy.

Ông ta là bậc cao tăng hữu đạo, trong bụng đã nghĩ như thế tuy chưa

nói ra lời nhưng cũng nhận là mình quấy. Đặng Bách Xuyên nói:

- Nơi đây độc khí cực thịnh, không nên rốn lại lâu, mình ra tiền sảnh

ngồi nghỉ.

Tất cả mọi người ra đến bên ngoài, người bàn thế này kẻ nói thế

khác nhưng cũng không ai đoán được tại sao Tiết Thần Y giả chết rồi bố

trí cơ quan giăng bẫy. Bao Bất Đồng nói:

- Gã Tiết Thần Y quả thật đáng ghét, mình cho một mồi lửa đốt rụi

cái tổ quỉ của lão đi.

Đặng Bách Xuyên ngăn lại:

- Ấy chết, không được đâu, dẫu sao Tiết tiên sinh cũng là một bằng

hữu của phái Thiếu Lâm, chúng ta phải nể kim diện Huyền Nạn đại sư

chớ có hồ đồ.

Lúc đó trời đã tối hoẳn, trong sảnh lại không đèn đóm gì, ai nấy vừa

đói vừa khát nhưng chẳng ai dám đụng chạm đến một ngụm nước, một ly

trà trong nhà. Huyền Nạn nói:

- Hay là chúng mình đi ra, tìm một nhà nông nào ở quanh đây xin

ngụm nước bữa cơm, Đặng thí chủ nghĩ thế nào?

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Đúng đó. Thế nhưng chung quanh ba chục dặm tốt hơn hết không

nên ăn uống gì. Thầy lang họ Tiết này mưu kế lắm, quyết chẳng phải chỉ

sắp xếp một cỗ quan tài là xong đâu, nếu như các vị đại sư có chuyện gì,

anh em chúng tôi thật là ân hận.

Y và Công Dã Can tuy chưa biết rõ nguyên ủy ra sao nhưng cũng cho

rằng cái tiếng dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân của nhà Mộ Dung quá vang

dội, trên giang hồ kết biết bao nỗi oan cừu, có lẽ Tiết Thần Y có thân

bằng quyến thuộc bị hại, mối hận này đổ cả lên đầu nhà Cô Tô Mộ

Dung.

Mọi người đứng lên, đi ra cửa chính, đột nhiên trên bầu trời phía tây

bắc có ánh sáng lóe lên, kế đó một đốm lửa đỏ nổ tung ra, lập tức

chuyển sang màu lục thật chẳng khác gì mưa hoa đầy trời, lả tả rơi xuống

cực kỳ diễm ảo. Phong Ba Ác nói:

- Ồ, ai đốt pháo bông kìa!

Lúc đó không phải tiết Nguyên Tiêu, cũng chẳng phải Trung Thu, sao

lại có người đốt pháo bông18 nhỉ? Chẳng mấy chốc, lại có một chiếc pháo

bông màu vàng bay vút lên không, nở ra muôn vạn đóa sao băng, đụng

chạm lẫn nhau.

Công Dã Can chợt nghĩ ra, nói:

- Đây không phải pháo bông đâu, mà là tín hiệu của kẻ địch kéo đến

tấn công đó.

Phong Ba Ác kêu lên:

- Thế thì hay lắm! Đánh một trận cho sướng tay.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Tam đệ, tứ đệ, các ngươi vào trong sảnh canh chừng, ta chặn phía

trước mặt, nhị đệ đoạn hậu. Huyền Nạn đại sư, việc này không liên quan

gì đến phái Thiếu Lâm, xin quí vị cứ dựa lưng vào tường đứng coi, miễn

là đừng giúp bên nào, nhà Mộ Dung thâm cảm đại đức.

Huyền Nạn nói:

- Đặng thí chủ sao lại nói thế? Nếu kẻ địch đến tấn công có thù oán

với chư vị thì phải trái ngay gian, chúng tôi sẽ theo công tâm mà xử,

không để cho họ thừa gió bẻ măng, cậy đông đánh ít. Nếu đúng là cùng

bọn với Tiết Thần Y, lén lút bố trí hầm bẫy để làm hại người thì các vị

với chúng tôi cũng cùng chung cừu địch, lẽ nào lại tụ thủ bàng quan? Này

các tì khưu19, chuẩn bị nghinh địch.

Bọn Tuệ Phương, Hư Trúc cùng lớn tiếng đáp lời. Huyền Thống nói:

- Đặng thí chủ, lão nạp với hai vị sư đệ của thí chủ đồng bệnh tương

lân20 lẽ dĩ nhiên phải cùng nắm tay nhau mà kháng địch.

Còn đang nói chuyện, lại có thêm hai chiếc pháo bông nữa bắn thẳng

lên trời, lần này xem chừng gần hơn. Một hồi nữa, lại có thêm hai cái

pháo bông khác, trước sau như thế là sáu cái rồi. Mỗi chiếc pháo bông

màu sắc hình dáng không giống nhau, có cái giống như một cái bút thật

lớn, có cái thì vuông vức bốn bề, tông như một bàn cờ, cái thì lại giống

hình một chiếc đại phủ, có cái lại giống như một bông hoa mẫu đơn to.

Sau đó bầu trời lại tối đen như mực.

Huyền Nạn ra lệnh cho sáu đệ tử Thiếu Lâm canh chừng bốn phía

nhưng một hồi lâu vẫn không nghe động tĩnh gì. Ai nấy ngưng thần nín

thở, lại sau chừng một bữa ăn nữa, bỗng nghe phía đông có tiếng đàn bà

hát lên rằng:

Lông mày luống tỉa đã bao nhiêu,

Phấn nhạt hoen màu lệ nhỏ tiêu.

Đong đưa biếng chải thêm hờ hững,

Ngọc lấp sao đầy nỗi tịch liêu? 21

Giọng ca dịu dàng uyển chuyển đầy vẻ u oán thê lương. Giọng người

đó vừa hát xong một khúc, lập tức chuyển qua giọng nam rằng:

- Chao ôi ái khanh đấy ư? Quả nhân đã lâu lắm không được gặp

nàng, trong lòng thương nhớ xiết bao. Đây ta ban cho nàng một đấu trân

châu, khanh gia mau nhận lấy.

Người đó nói xong, lại chuyển qua giọng nữ:

- Bệ hạ đã có Dương phi bầu bạn, đến buổi chầu sớm cũng chẳng ra,

còn hơi đâu mà nhớ đến thần thiếp con người bạc mệnh này, than ôi ....

Nói tới đây liền cất tiếng khóc thút thít. Các nhà sư Thiếu Lâm không

biết việc đời, không hiểu sao người này lúc thì là nam, lúc lại là nữ, làm

trò quỉ quái gì đây, chỉ thấy nghe rồi trong lòng cực kỳ buồn bã. Bọn

Đặng Bách Xuyên thì biết người này đang diễn tích Đường Minh Hoàng22

và Mai Phi, khi thì đóng vai Mai Phi lúc lại đóng vai Đường Minh Hoàng,

giọng điệu thanh âm giống hệt, sao lại có người khéo đến thế, ai nấy

trong lòng rộn ràng, không hiểu có dụng ý gì.

Lại nghe người đó tiếp tục:

- Ái phi chớ nên khóc lóc, mau mau dọn yến tiệc ra. Nàng thổi tiêu,

quả nhân sẽ ca một khúc để giải sầu cho ái khanh.

Người kia lại chuyển qua giọng đàn bà nói:

- Tiện thiếp ngày ngày chảy nước mắt ra rửa mặt, chỉ mong được gặp

lại đấng quân vương một lần thôi. Hôm nay được toại nguyện rồi, dẫu có

chết cũng đành nhắm mắt ... hu hu ...hu hu ...

Bao Bất Đồng lớn tiếng nhại lại:

- Cô vương là An Lộc Sơn đây. Này vua nhà Đường Lý Long Cơ ơi,

ngươi là một gã hồ đồ, mau giao Dương Ngọc Hoàn ra cho ta.

Người bên ngoài kêu A lên một tiếng dường như kinh hãi đang

khóc lập tức im bặt. Chỉ trong giây lát, chung quanh bốn bề lặng như tờ.  

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro