TLBB pt19

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

KHƯỚC THÍ VẤN – KỶ THỜI BẢ SI TÂM ĐOẠN

Ai ơi tự hỏi lòng mình,

Bao giờ mới dứt nợ tình được đây?

*

* *

Cưu Ma Trí biết rằng ra tay đấu vơi chú tiểu này, thắng cũng chẳng hay ho gì mà thua thì thiên hạ cười chê nhưng ở vào tình thế bắt buộc, không thể nào tránh né được, lập tức múa chưởng đánh ra, chưởng phong có tiếng vụt vụt véo véo, tư thế thủ pháp, chính là công phu thượng thừa của Bát Nhã chưởng.

Vi Đà Chưởng là võ công căn bản của phái Thiếu Lâm, đệ tử bái sư nhập môn, bài đầu tiên học là La Hán Quyền, bài thứ hai là Vi Đà Chưởng. Bát Nhã chưởng là chưởng pháp tối tinh áo, từ Vi Đà Chưởng học lên đến Bát Nhã chưởng, tuần tự nhi tiến, thông thường cũng phải mất ba bốn chục năm công phu. Bát Nhã chưởng là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, luyện rồi sẽ không bao giờ hết, chưởng lực càng luyện càng mạnh mẽ, chiêu số càng luyện càng tinh thuần, quả đúng là không bờ không bến.

Từ khi phái Thiếu Lâm thành môn lập phái, lấy Vi Đà Chưởng đấu với Bát Nhã chưởng thực chưa từng có bao giờ. Hai bên nông sâu tinh thô, đúng là hai thái cực của phái Thiếu Lâm, một nhà sư bậc tiền bối không bao giờ lại dùng Bát Nhã chưởng để đấu với một đệ tử mới học Vi Đà Chưởng, dù cho thầy trò mớm chiêu dạy dỗ, nếu sư phụ đã dùng Bát Nhã chưởng thì đệ tử ít lắm cũng phải dùng các loại Đạt Ma chưởng, Phục Hổ chưởng hay Như Lai Thiên Thủ Pháp... ra hầu tiếp.

Hư Trúc thấy chưởng lực đối phương ào tới, hơi nghiêng người tránh qua, song chưởng tống ra chính là một chiêu trong Vi Đà Chưởng, tên gọi Sơn Môn Hộ Pháp, chiêu thức tuy bình bình nhưng nội lực cực kỳ hồn hậu.

Cưu Ma Trí thân hình lưu chuyển, sử dụng hai môn Tụ Lý Càn Khôn, Vô Tướng Kiếp Chỉ nhắm đối phương điểm tới. Hư Trúc vừa lách qua, Cưu Ma Trí đã đoán trước được vị trí y di động, Đại Kim Cương quyền đánh ra, nghe bình một tiếng trúng ngay vai đối phương, Hư Trúc loạng choạng lùi về sau hai bước. Cưu Ma Trí cười ha hả nói:

- Tiểu sư phụ đã phục chưa?

Y liệu rằng chưởng đó có sức vỡ bia tan đá, ắt đánh gãy vụn xương vai của Hư Trúc rồi, ngờ đâu Hư Trúc có Bắc Minh Thần Công hộ thể nên chỉ cảm thấy đầu vai đau ê ẩm rồi lại tiến lên, song chưởng vung ra từ trái sang phải đánh chéo xuống một chiêu tên gọi Hằng Hà Nhập Hải, hai tay chứa đầy chân khí, thật chẳng khác gì một trận hồng thủy dâng tràn, cuồn cuộn đổ vào biển cả.

Cưu Ma Trí thấy y chịu mình đấm một quyền mà như không hay biết, song chưởng đánh tới lực đạo hồn hậu như thế, trong lòng không khỏi kinh dị ngầm, vung chưởng gạt qua, thân hình đi theo, hai chân đá liên hoàn, trong nháy mắt đã đá luôn sáu cái đều trúng ngực Hư Trúc. Đó chính là một trong các tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm gọi là Như Ảnh Tùy Hình Thoái, đá một cái thì chân sau như bóng với hình cũng ra theo, cú đá thứ hai vừa từ ảnh biến thành hình, chân bên kia lại như ảnh tiếp tục đá tới, đến cái thứ sáu Hư Trúc mới bật ngửa ra.

Cưu Ma Trí không để cho y kịp thở, liên tiếp tung ra hai chỉ, vụt vụt hai tiếng, chính là Đa La chỉ pháp. Hư Trúc xoạc cẳng xuống tấn đấm lại một cái, sử dụng chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm trong La Hán Quyền. Chiêu đó quyền pháp cực kỳ thô thiển, thế nhưng có Tiểu Vô Tướng Công phụ vào khiến cho ngón Đa La chỉ có sức xuyên kim phá thạch kia phải tiêu giải giữa chừng.

Cưu Ma Trí có ý phô trương, sử dụng Đa La chỉ xong, lập tức biến chiêu, một tay chém xuống, tuy chỉ tay không nhưng sử dụng chính là Nhiên Mộc Đao Pháp. Lộ đao pháp này khi luyện thành rồi, nếu chém vào một khúc gỗ khô chín chín tám mươi mốt đao liền, đao không làm khúc gỗ tổn hại nhưng phát xuất hơi nóng, có thể làm gỗ bốc cháy được. Năm xưa, sư phụ của Tiêu Phong là Huyền Khổ đại sư luyện được công phu này, từ khi ông viên tịch rồi, trong chùa không còn ai biết nữa. Nhiên Mộc đao pháp là phép sử đơn đao, khác hẳn với Hỏa Diễm đao pháp dùng lăng hư chưởng lực mà Cưu Ma Trí sử dụng ở Thiên Long tự.

Hiện giờ y dùng chưởng lực thay giới đao, hung hăng chém chặt, toàn là võ công của phái Thiếu Lâm. Một đao của y bổ xuống, nghe bộp một tiếng, tay phải Hư Trúc trúng chiêu, kêu lên:

- Nhanh thật!

Quyền bên phải liền đánh ra, vừa đến giữa chừng thì cánh tay đã trúng đòn. Chân lực Cưu Ma Trí dồn vào cạnh bàn tay nên y chặt xuống không khác gì đao thép, có thể đứt đầu đứt tay, thế nhưng tay phải Hư Trúc trúng liên tiếp hai lần mà vẫn như không, còn dội lại khiến tay y ngâm ngẩm đau.

Cưu Ma Trí kinh ngạc hết sức, trong lòng nghĩ ngay: “Gã tiểu hòa thượng này dù cho có luyện được Kim Chung Tráo, Thiết Bố Sam thì cũng không thể nào chịu nổi trọng thủ của ta, như thế là cớ gì? À, đúng rồi, chắc là bên trong tăng y gã có mặc bảo giáp hộ thân”. Y nghĩ đến việc đó, ra chiêu chỉ tấn công vào mặt, Đại Trí Vô Định Chỉ, Khứ Phiền Não Chỉ, Tịch Diệt Trảo, Nhân Đà La Trảo, liên tiếp sáu bảy môn công phu Thiếu Lâm, chộp vào mắt vào cổ họng Hư Trúc.

Cưu Ma Trí tấn công một loạt cực kỳ nhanh nhẹn như thế khiến cho Hư Trúc chân tay luống cuống, không sao chống đỡ được, chỉ còn nước thoái lui liên tiếp, đến Vi Đà Chưởng cũng không còn sử dụng nổi, chỉ đấm ra hết quyền nọ đến quyền kia duy nhất một chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm, nhưng mỗi quyền đều ép cho Cưu Ma Trí phải lùi lại nửa thước, nhưng chính vì cách xa nửa thước đó mà những chiêu số kỳ diệu của Cưu Ma Trí không trúng vào người y được.

Chỉ trong khoảnh khắc, Cưu Ma Trí đã sử dụng mười sáu môn tuyệt kỹ Thiếu Lâm, quần tăng xem mà hoa cả mắt, nghĩ thầm: “Người này tự xưng kiêm thông bảy mươi hai tuyệt kỹ bản phái, quả nhiên không phải là nói khoác”. Thế nhưng Hư Trúc chỉ dùng một môn La Hán Quyền để ứng phó, đối phương tấn công nhanh như điện nhưng cũng không biết cách nào biến chiêu, cứ Hắc Hổ Thâu Tâm rồi lại Hắc Hổ Thâu Tâm, trước sau có một chiêu cứ đánh ra mãi, quyền pháp vụng về, dẫu bọn võ sư đầu đường xó chợ trông thấy cũng phải bật cười.

Thế nhưng kình lực chứa trong chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm không ngừng gia tăng, hai người mỗi lúc một rời xa thêm, thủ chỉ thủ trảo của Cưu Ma Trí giờ đây đã cách Hư Trúc đến một thước.

Cưu Ma Trí cũng đã thấy được nội lực trong quyền của Hư Trúc có ngầm chứa Tiểu Vô Tướng Công mà xem ra còn cao hơn mình nhiều, có điều không biết sử dụng nên uy lực không phát huy được. Lại thấy Hư Trúc đánh ra một chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm nữa, đột nhiên thủ chưởng trầm xuống hai tay chộp ra đã nắm được quyền của Hư Trúc, chính là tuyệt kỹ Long Trảo Công của phái Thiếu Lâm, tay trái nắm ngón tay út của Hư Trúc, tay phải cầm ngón tay cái, vận lực bẻ ngược lên, toan bẻ gãy hai ngón tay của Hư Trúc.

Hư Trúc bị nắm hai ngón tay rồi, không còn có thể đánh ra chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm nữa, ngón tay đau nhói lên, tự nhiên sử dụng Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, cổ tay xoay một vòng, lật ngược tay lại nắm luôn cổ tay Cưu Ma Trí.

Cưu Ma Trí vừa chộp trúng, đang mừng thầm, không ngờ tay đối phương lại sinh ra một luồng lực đạo quái dị, bắt ngược lại tay mình. Hiểu biết về võ học của y cực kỳ uyên bác nhưng lại không biết lai lịch của Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, trong bụng chột dạ, thấy cổ tay mình như bị giữ trong hai gọng kềm không cách nào giằng ra được nữa. Cũng may Hư Trúc hoảng hốt chỉ mong tự cứu mình không biết phản công, thành thử cứ khư khư giữ lấy cổ tay Cưu Ma Trí, chỉ mong sao y không còn bắt tay mình được nên không biết nắm vào mạch môn. Chỉ trong khoảnh khắc, nội lực Cưu Ma Trí đã phát sinh, y hơi giựt tay về rồi nhả tới, toan đánh rách hổ khẩu của Hư Trúc.

Bàn tay Hư Trúc tê đi, sợ đối phương thoát ra được rồi sẽ lại giở những thủ pháp lợi hại khác, vội vàng vận kình, Bắc Minh chân khí trong người như sóng triều dâng lên. Võ công y và Đoàn Dự vốn cùng một gốc nhưng chưa từng học cách hút nội lực người khác, thành thử tuy đã nắm được cổ tay Cưu Ma Trí rồi nhưng không hút được nội lực của y. Dẫu thế, Cưu Ma Trí ba lần vận kình vẫn không thoát ra được, trong bụng sợ hãi, tay phải thành chưởng phạt xéo xuống cổ Hư Trúc. Y trong cơn nguy cấp không còn nghĩ mình phải sử dụng võ công phái Thiếu Lâm, cú chặt ngang này là võ học của Thổ Phồn.

Hư Trúc vội vàng dùng tay trái sử dụng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng hóa giải, chưởng kế tiếp của Cưu Ma Trí vừa tới, Hư Trúc liên tiếp sử dụng lục dương chưởng chặn đứng thế đánh ào ào như gió táp mưa sa đối phương.

Lúc này hai người đứng sát nhau, đến tiếng thở của nhau cũng còn nghe thấy, khi đánh ra phải cong tay thu chỏ, mỗi chưởng chỉ ra chừng bảy tám tấc. Thế nhưng tuy gần thật, chưởng lực cũng vẫn mạnh phi thường. Cưu Ma Trí chưởng thanh vù vù, quần tăng ai cũng thấy lực tạt vào buốt như dao, khí lạnh phả vào người tưởng như đang ở trên đỉnh núi cao, gió bốn bề thổi tới. Những nhà sư bối phận tương đối thấp của chùa Thiếu Lâm dần dần cảm thấy chịu không nổi, ai nấy lùi lại sau, đứng sát vào tường. Những cao tăng hàng chữ Huyền không sợ chưởng lực tấn công nhưng cũng phải vận nội lực để chống lại.

Hư Trúc từ khi giải trừ Sinh Tử Phù cho quần hào ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo, sử dụng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng rất nhiều, bao nhiêu biến hóa đều thuộc như cháo chảy, lại thêm xem những đồ phổ trong thạch thất dưới hầm cung Linh Thứu nên đã hiểu hết những áo diệu trong đó. Có điều y chưa từng vận dụng để cùng người khác quá chiêu đối sách, lại ít tập luyện, vừa ra tay đã gặp ngay một cao thủ số một số hai trên đời, chưởng pháp tuy cao, nội lực tuy mạnh nhưng sử dụng chỉ được một hai thành mà thôi.

Cưu Ma Trí chưởng lực mỗi lúc một sát phạt, còn Hư Trúc thì chỉ mong tự bảo lấy thân nên chiêu nào cũng đều thế thủ. Y không có ý định bắt giữ Cưu Ma Trí, thấy đối phương võ công gấp mười mình, đơn chưởng tấn công đã lợi hại như thế, nếu để y dùng cả hai tay thì mình thể nào cũng táng mạng ngay tại chỗ thành ra sống chết nhất định giữ cổ tay Cưu Ma Trí không chịu buông để y không thể nào xuất chiêu bằng tay trái được.

Ý niệm đó của Hư Trúc tuy ngớ ngẩn thật nhưng lại thật hữu ích. Tay trái Cưu Ma Trí bị nắm rồi, y không còn có thể sử dụng song chưởng liên hoàn biến hóa, chiêu số hỗ tương đắp đổi. Chưởng pháp Hư Trúc vốn dĩ không thuần thục thành ra dùng một tay lại thấy thuận hơn dùng cả hai tay. Một người hai tay mất một, mười thành chỉ còn được năm, còn người kia công phu chỉ hai ba nay lại lên được thành bốn năm. Thời gian đốt một nén hương rồi, hai người trao đổi đã mấy trăm chiêu nhưng vẫn vào thế ngang ngửa.

Huyền Từ, Huyền Độ, Thần Sơn, Quán Tâm, Triết La Tinh... các cao tăng thấy Cưu Ma Trí tay trái bị nắm chặt, dãy dụa không thoát được, còn Hư Trúc dùng tay trái nên ở vào thế yếu, chỉ còn đỡ gạt, không cách gì đánh trả, hai người đều ở vào thế bên phải mạnh, bên trái yếu.

Lối đánh như thế, các cao tăng tuy biết nhiều hiểu rộng nhưng trong đời cũng chưa từng thấy bao giờ. Các cao tăng Thiếu Lâm lại càng vừa ngạc nhiên vừa lo lắng, Hư Trúc từ nhỏ lớn lên trong chùa Thiếu Lâm, hạ sơn mới nửa năm, không biết học ở đâu ra những tài nghệ kinh người như thế đem về, thấy y nắm được kẻ địch rồi nhưng không chế ngự được, chưởng nào chưởng nấy của Cưu Ma Trí đều có thể đứt gân gãy xương, chứa đầy uy lực nội gia chân khí, nếu trúng phải thể nào cũng tắt thở chết ngay.

Lúc này trong chùa Thiếu Lâm, dù bất cứ ai nếu muốn giúp đỡ Hư Trúc, chỉ cần dùng một ngón tay đã có thể giết chết Cưu Ma Trí được rồi, thế nhưng cuộc đấu vốn không phải để giết chết đối phương, mà là để bảo vệ thanh danh phái Thiếu Lâm, nếu có ai tiến lên giết Cưu Ma Trí thì ắt sẽ tổn hại lớn đến tiếng tăm của ngôi chùa. Quần tăng ai nấy thấp thỏm lo âu, lòng bàn tay toát mồ hôi chăm chú quan sát hai người.

Lại trao đổi thêm trên trăm chiêu nữa, nỗi sợ trong lòng Hư Trúc lắng xuống dần, chỗ tinh diệu trong Thiên Sơn Lục Dương Chưởng càng lúc càng nhiều, mười chiêu thì thủ ngự chín nhưng cũng trả lại được một. Y tấn công một chiêu, Cưu Ma Trí dĩ nhiên phải chống đỡ, thế công không khỏi hơi lúng túng. Tuy chênh lệch chỉ một chút đỉnh nhưng kẻ đi lên, người đi xuống, càng lúc càng có lợi cho Hư Trúc. Lại thêm thời gian ăn một bữa cơm nữa, Hư Trúc đã có thể mười chiêu tấn công lại được ba, quần tăng Thiếu Lâm thấy y dần dần ra khỏi khốn cảnh không khỏi mừng thầm.

Từ khi Cưu Ma Trí xuất hiện, Thần Sơn thượng nhân trong lòng nảy sinh hai tâm tình đối nghịch, một mặt muốn cho Cưu Ma Trí tiêu diệt uy phong phái Thiếu Lâm, mặt khác lại không muốn phiên tăng dị bang đến Trung Thổ hoành hành như chỗ không người, nhưng khổ nỗi chính mình cũng không đủ sức chế phục y. Đến khi Cưu Ma Trí cùng Hư Trúc hai người vào thế giằng co không ai thắng, y lại mong hai người lưỡng bại câu thương, đồng qui ư tận, tuy ông ta không còn hi vọng có được tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm từ Ba La Tinh nhưng bí quyết Bát Nhã chưởng, Ma Ha chỉ, Đại Kim Cương quyền đã nhớ trong lòng rồi, trở về chùa sẽ nghiên cứu thêm, một người thông minh trí tuệ như y sẽ có thể thêm thắt biến hóa, yếu chỉ tuy giống nhưng chiêu thức bên ngoài hoàn toàn khác hẳn, biến thành tuyệt kỹ của chùa Thanh Lương, mà mình thì sẽ thành tị tổ sáng tạo ra ba môn này.

Về phần Ba La Tinh cũng có một ý nghĩ khác. Trong thời gian qua, y nghiên tập Bát Nhã chưởng, Ma Ha chỉ, Đại Kim Cương quyền, thấy bên trong vô cùng áo diệu. Hôm nay sư huynh Triết La Tinh đến đây đón y ra khỏi chùa, nghĩ những gì mình nhớ được chưa đầy một nửa thành võ công phái Thiếu Lâm, trở về cố hương tuy vui mừng thật nhưng thấy trong chùa cất giữ nhiều đồ quí giá như thế, một khi đã ra khỏi sơn môn rồi từ nay sẽ không còn bao giờ được quay trở lại lòng không khỏi bùi ngùi. Đến sau y lại thấy Hư Trúc đấu với Cưu Ma Trí, hai người nội lực hùng mạnh, chiêu số lạ kỳ, hoàn toàn không mò ra được chút đầu mối nào. Y có biết đâu Hư Trúc sử dụng không phải võ công phái Thiếu Lâm, lại tưởng một thanh niên tăng nhân trong chùa mà đã ghê gớm đến thế, mình vạn lý bôn ba, có cái duyên may được ra vào Tàng Kinh Các, thế mà chỉ nhớ được có vài bộ kinh thư đem về, tuy chẳng đến nỗi vào trong núi ngọc mà về tay không nhưng những gì mình lấy được không phải là thứ quí trọng thực sự, rồi đây e rằng cả đời sẽ ngày đêm âu sầu tiếc nuối.

Võ học cũng không khác gì cầm kỳ thư họa, Phật học, Dịch lý là những công phu phức tạp áo diệu, càng đi sâu vào nghiên cứu, càng thích thú, nếu đã thấy trên đời có người hơn mình một mức thì bằng trăm mưu ngàn kế nhất định phải xem cho bằng được. Ba La Tinh là một cao tăng Thiên Trúc rất có tài trí, khi mới đến chùa Thiếu Lâm thì chỉ có ý trộm võ kinh để đem về làm rạng rỡ cho võ học Thiên Trúc, đến khi thấy võ học chùa Thiếu Lâm bao la như trời như biển, đâm ra lưu luyến không muốn rời, chẳng còn tính chuyện về nước nữa.

Đến lúc này Hư Trúc đã tăng lên được thế công bốn phần, tuy vẫn còn phải chống đỡ nhiều, tấn công ít nhưng vì nội lực đã phát huy, những chiêu số độc địa của phái Tiêu Dao cũng hùng hổ đem ra sử dụng. Những người đứng xem chung quanh ai nấy không khỏi lạnh người, nghĩ thầm: “Nếu như ta trúng phải một đòn ắt sẽ chết một cách cực kỳ thảm khốc”. Xưa nay chưa bao giờ trong đệ tử tăng tục chùa Thiếu Lâm có một người đàn bà nào, bao nhiêu đời đều chỉ có một đường dương cương, nhưng vì là Phật môn võ công, ra tay chỉ nhằm chế địch chứ không phải để giết người, hoàn toàn tương phản với chiêu số của Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy. Huyền Từ và những cao tăng Thiếu Lâm thấy Hư Trúc sử dụng võ công đi dần vào chỗ âm hiểm độc địa, không khỏi cau mày.

Cưu Ma Trí liên tiếp vận cường kình ba lần, muốn thoát ra khỏi bàn tay phải của Hư Trúc, để sử dụng tuyệt kỹ Hỏa Diễm Đao, thế nhưng bên mình càng mạnh bao nhiêu thì chỉ lực của đối phương cũng tăng chừng ấy, trong cơn gấp gáp, sát ý nổi lên, tay trái vù vù vù đánh ra ba chưởng, Hư Trúc vung tay hóa giải, Cưu Ma Trí rụt tay về, khom người xuống, rút phắt trong vớ ra một con dao găm, đâm thẳng vào đầu vai Hư Trúc.

Sở học của Hư Trúc toàn là tay không sách chiêu, đột nhiên ánh sáng lóe lên, chủy thủ đã đâm tới, không biết cách nào chống đỡ được, vội vàng vung tay toan chộp luôn cổ tay phải Cưu Ma Trí. Chảo đó chính là cầm nã thủ pháp trong Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, vừa nhanh vừa chuẩn, ba ngón tay vừa chạm vào cổ tay y, ngón tay cái và ngón tay út đã cụp lại. Ngay lúc đó nội lực từ chưởng tâm Cưu Ma Trí nhả ra, chiếc dao găm liền phóng tới. Hư Trúc hai tay đang bận nắm hai cổ tay y, xoẹt một tiếng chủy thủ đã cắm ngập vào đầu vai, suốt đến tận cán.

Những nhà sư đứng xem ai nấy kinh hoảng kêu lên, bọn Quán Tâm không nhịn được lắc đầu, nghĩ bụng: “Với thân phận như Cưu Ma Trí, đấu không thắng được một thanh niên tăng nhân của chùa Thiếu Lâm thì thanh danh cũng đã đổ xuống sông xuống biển rồi, huống hồ lại dùng binh khí đánh lén nữa thì còn ra thể thống gì?”.

Đột nhiên từ trong đám đông vọt ra bốn nhà sư, thanh quang lấp loáng, bốn thanh trường kiếm cùng đâm vào yết hầu Cưu Ma Trí. Bốn nhà sư cùng nhảy ra, cùng xuất thủ, cả bốn thanh kiếm cũng cùng một phương vị, kiếm pháp cực nhanh lại cực kỳ độc địa. Cưu Ma Trí vận lực vào hai chân muốn nhảy ngược trở lại nhưng nhún mình rồi mà Hư Trúc vẫn đứng trơ trơ không chuyển động chút nào, lại thấy cổ họng đau nhói, bốn mũi kiếm đã đụng vào da thịt. Chỉ nghe bốn nhà sư cùng quát lên:

- Đồ mặt dầy không biết thẹn, mau nạp mạng đi.

Thanh âm trong trẻo, dường như tiếng đàn bà. Hư Trúc quay đầu nhìn, thì ra tứ tăng chính là Mai Lan Cúc Trúc, mặc tăng y chùa Thiếu Lâm đầu đội tăng mạo chùm hết làn tóc xanh, nên kinh ngạc vạn phần, kêu lên:

- Đừng hại mạng y!

Bốn cô gái cùng đáp:

- Vâng!

Tuy nhiên mũi kiếm vẫn kề vào cổ Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí cười ha hả nói:

- Phái Thiếu Lâm không chỉ cậy đông thắng ít mà còn ám tàng xuân sắc, mấy trăm năm thanh danh, hóa ra là thế, hôm nay ta mới được biết đến.

Hư Trúc trong lòng hoảng hốt, không biết phải làm sao bèn buông tay Cưu Ma Trí. Cúc Kiếm liền rút con dao cắm trên vai y, máu tươi vọt ra. Cô gái vội vàng bỏ kiếm xuống lấy trong túi ra chiếc khăn tay buộc vết thương cho Hư Trúc, còn mũi kiếm ba nàng Mai Lan Trúc vẫn kề vào yết hầu Cưu Ma Trí. Hư Trúc bàng hoàng hỏi:

- Các... các cô đấy ư? Sao lại đến đây?

Cưu Ma Trí chưởng bên phải vòng một vòng, thần công Hỏa Diễm Đao tung ra, keng keng keng ba tiếng, ba thanh trường kiếm gãy ra làm đôi. Ba cô gái kinh hãi nhảy vọt về sau một trượng, nhìn lại trên tay, trường kiếm người nào cũng chỉ còn một khúc. Cưu Ma Trí ngẩng mặt lên cười một hồi dài, quay sang nói với Huyền Từ:

- Phương trượng đại sư có còn nói gì được nữa hay không?

Huyền Từ mặt xám ngoét nói:

- Nguyên do ở bên trong, lão nạp quả không biết gì cả, để rồi sẽ tra hỏi ngọn ngành, theo giới luật bản tự mà xét xử. Quốc sư và chúng vị sư huynh đường xa mệt nhọc, xin mời vào khách xá dùng cơm chay.

Cưu Ma Trí đáp:

- Đã vậy thì xin phiền một bữa.

Nói xong y chắp tay cảm tạ, Huyền Từ cũng đáp lại một lễ. Cưu Ma Trí hai tay tạt sang hai bên, ám vận Hỏa Diễm Đao thần công, xoẹt xoẹt xoẹt xoẹt bốn tiếng, bốn nàng Mai Lan Cúc Trúc cùng hoảng hốt kêu lên, tăng mạo trên đầu không có gió mà rơi xuống, để lộ làn tóc mượt đen nhánh, mấy trăm sợi tóc theo mũ bay lả tả xuống.

Cưu Ma Trí hiển thị một chút công phu, vừa để khoe tài cắt đứt tóc mà không đả thương người, lại muốn cho mọi người thấy rõ bốn người là con gái khiến cho tăng chúng chùa Thiếu Lâm không còn cãi vào đâu được.

Huyền Từ mặt mày lại càng khó coi, chỉ nói:

- Chúng vị sư huynh, xin mời!

Thần Sơn, Quán Tâm, Dương Thiên, Dung Trí... các nhà sư thấy trong chùa Thiếu Lâm đột nhiên có nữ tử mặc tăng trang, ai nấy hết sức kinh ngạc, không nói gì Thiếu Lâm tự là một danh sơn cổ sát trước nay tiếng tăm danh vọng, mà dù chỉ là một cái miếu nhỏ cũng không đâu lại bỏ qua một hành vi phạm giới trầm trọng đến thế, bây giờ nghe Huyền Từ mời, đều đứng dậy. Tri khách tăng phân biệt đưa vào khách xá, dọn đồ chay lên.

Những khách ngoài chưa ra khỏi đại điện, Mai Kiếm đã nói:

- Chủ nhân, chị em tiểu tì tự ý hạ sơn đến đây hầu hạ, chủ nhân đừng trách nhé!

Lan Kiếm cũng nói:

- Gã thầy chùa Duyên Căn vô lễ với chủ nhân, chị em tiểu tì đã tẩn cho y một trận đích đáng, có thế y mới biết phải quấy, ôi, có ngờ đâu gã sư Tây Vực kia lại đả thương chủ nhân.

Hư Trúc “A” lên một tiếng, bấy giờ mới hiểu ra, Duyên Căn trước phách lối sau sun xoe, thì ra đã bị bốn chị em này bức bách, nếu như thế bọn họ giả làm sư, ẩn thân trong chùa cũng đã lâu, nhịn không nổi giậm chân nói:

- Phá rối thật! Phá rối thật!

Y quì xuống trước tượng Phật Như Lai nói:

- Đệ tử kiếp trước tội nghiệt thâm trọng, kiếp này lại không giữ được thanh qui giới luật, gây cho bản tự họa hoạn vô cùng, cúi xin phương trượng trách phạt thật nặng.

Cúc Kiếm nói:

- Chủ nhân đi tu làm gì cho khổ, tất cả bọn mình quay về Phiêu Miểu Phong đi, ở đây ăn toàn rau đậu, chẳng có chút mỡ màng, lại bị người ta quản thúc, chẳng thú vị chút nào!

Trúc Kiếm chỉ vào Huyền Từ:

- Này ông sư già kia, nếu ông mà nói gì đắc tội với chủ nhân thì bốn chị em ta không nể nang đâu nhé, ông khôn hồn thì phải biết giữ gìn.

Hư Trúc liên tiếp quát tháo chặn lại:

- Các ngươi không được vô lễ, sao lại vào trong chùa mà phá rối? Thôi! Im ngay.

Bốn chị em vẫn mỗi người một câu, ríu ra ríu rít, coi những vị cao tăng chẳng vào đâu. Quần tăng Thiếu Lâm lại càng kinh ngạc, thấy bốn cô gái giống hệt nhau, xinh đẹp vui tươi, hoạt bát lanh lợi lại vô pháp vô thiên không biết họ gốc gác ra thế nào.

Thì ra bốn cô gái là con của một nhà nghèo dưới chân Đại Tuyết Sơn, bà mẹ trước đã có bảy đứa con, lại mang thai sinh tư, không cách gì nuôi nổi, khi đẻ xong đem bỏ ngoài tuyết. Khi đó Đồng Mỗ xuống núi hái thuốc nghe tiếng trẻ khóc, gặp bốn đứa hài nhi mặt mũi giống hệt nhau, thấy thú vị liền đem về cung Linh Thứu nuôi cho khôn lớn, dạy cho võ công.

Bốn cô gái trước nay chưa hề xuống Phiêu Miểu Phong nên đâu có biết gì về nhân tình thế thái, vai vế lớn nhỏ? Cả đời họ chỉ nghe lời một mình Đồng Mỗ, đến khi Hư Trúc lên làm chủ nhân cung Linh Thứu thì họ lại hết tâm hết sức hầu hạ. Có điều Hư Trúc tính tình ôn hòa khiêm tốn, không như Đồng Mỗ đối xử với thuộc hạ dùng uy quyền thành thử họ không sợ Hư Trúc mà chỉ nghĩ rằng miễn sao trung thành tận lực với chủ nhân, chứ không hiểu làm náo loạn như thế có gì là không phải.

Huyền Từ nói:

- Ngoại trừ huynh đệ hàng chữ Huyền ra, tất cả lui về tăng phòng. Tuệ Luân ở lại.

Chúng tăng đồng thanh đáp ứng, theo thứ tự trên dưới một hàng đi xuống. Chỉ trong chốc lát, trong Đại Hùng Bảo Điện chỉ còn hơn ba chục lão tăng hàng chữ Huyền, sư phụ Hư Trúc Tuệ Luân, thêm Hư Trúc và tứ nữ Linh Thứu Cung.

Tuệ Luân quì ngay xuống trước Phật đài nói:

- Đệ tử giáo huấn không có phương pháp đến nỗi tọa hạ có một đứa nghiệt đồ như thế này, xin phương trượng phạt nặng.

Trúc Kiếm cười khúc khích nói:

- Cái thứ tài nghệ dở òm như ông mà đòi làm sư phụ chủ nhân ta ư? Đêm hôm trước ở trong rừng tùng, người bịt mặt khoèo chân ông ngã tám lần chính là nhị tỉ của ta đó. Ta bảo nè, công phu ông dở ơi là dở.

Hư Trúc kêu khổ ngầm: “Chết rồi! Chết rồi! Đến cả sư phụ ta mà bọn họ cũng còn chọc ghẹo nữa”. Lại nghe Lan Kiếm tiếp:

- Ta nghe Duyên Căn nói ông là sư phụ của chủ nhân nên đến thử ông chơi đấy thôi. Tam muội hôm nay không nói ra chắc là suốt đời ông chẳng biết người đã đẩy mình ngã bổ chững tám lần là ai đâu! Ha ha! Hi hi! Thích thật! Thích thật!

Huyền Từ nói:

- Huyền Tiệm, Huyền Quí, Huyền Niệm, Huyền Tịnh bốn vị sư đệ, xin đứng ra bảo bốn nữ thí chủ không được vọng ngôn vọng động.

Bốn lão tăng khom lưng đáp:

- Vâng!

Quay sang nói với bốn cô gái:

- Phương trượng pháp chỉ, xin bốn vị không được nói bậy làm càn.

Mai Kiếm cười nói:

- Bọn ta cứ muốn nói bậy làm càn, ông làm gì được nào?

Bốn nhà sư cùng nói:

- Vậy xin đắc tội!

Tăng bào vung lên, hai tay mỗi người chia ra chộp vào cổ tay bốn cô gái, Huyền Tiệm sử dụng Long Trảo Công, Huyền Quí sử dụng Hổ Trảo Thủ, Huyền Niệm sử dụng Ưng Trảo Công còn Huyền Tịnh thì dùng Thiếu Lâm Cầm Nã Thập Bát Đả, chiêu số tuy có khác nhưng đều là võ công tinh diệu của phái Thiếu Lâm. Trong bốn nàng ngoài Cúc Kiếm ra, trường kiếm đều đã bị Cưu Ma Trí đánh gãy rồi. Cúc Kiếm múa trường kiếm hộ vệ ba người chị em, Mai Lan Trúc ba nàng cũng múa kiếm gãy, theo kiếm quang của Cúc Kiếm tấn công ra.

Hư Trúc kêu lên:

- Vứt kiếm mau! Vứt kiếm mau! Không được động thủ!

Bốn cô gái nghe chủ nhân quát tháo đều ngạc nhiên, binh khí trong tay không còn dám sử dụng toàn lực nữa. Võ công bốn nàng vốn dĩ kém xa các cao tăng hàng chữ Huyền, vừa mất tiên cơ, lập tức bị bốn nhà sư nắm được ngay. Mai Kiếm dãy mạnh một cái nhưng không thoát phụng phịu nói:

- Bọn ta nghe lời chủ nhân mới nể nang các ông đấy thôi! Ui da! Đau quá, sao ông nắm mạnh thế?

Lan Kiếm cũng kêu lên:

- Giặc trọc con, có bỏ ta ra không nào?

Người nắm được cô ta là Huyền Quí đại sư, râu tóc bạc phơ, đã ngoài bảy mươi rồi, vậy mà cô ta gọi là “giặc trọc con”. Trúc Kiếm cũng nói:

- Ông không buông ta ra, ta gọi vợ ông ra chửi đó!

Cúc Kiếm nói:

- Ta nhổ nước miếng đó!

Cô gái phun một bãi nước bọt vào Huyền Tịnh, Huyền Tịnh nghiêng qua tránh, tay bóp lại, Cúc Kiếm đau đến kêu “Ui da! Ui da” liên tiếp. Đại Hùng Bảo Điện vốn là cõi Phật trang nghiêm, bỗng chốc thành nơi oanh kêu yến réo ầm ỹ cả lên.

Huyền Từ nói:

- Bốn vị nữ thí chủ chớ có nóng nảy, nếu còn nói nữa, bốn vị sư đệ hãy điểm vào huyệt câm của họ.

Bốn nàng nghe nói điểm vào á huyệt đều cảm thấy không thú vị gì, dẩu môi không dám nói gì thêm. Bọn bốn vị đại sư Huyền Tiệm liền buông tay họ ra đứng ở một bên giám thị. Huyền Từ nói:

- Hư Trúc, ngươi đem mọi chuyện đã xảy ra, từ đầu chí cuối nói cho mọi người nghe, không được giấu giếm gì cả.

Hư Trúc đáp:

- Vâng! Đệ tử thành tâm bẩm cáo.

Y kể lại được phương trượng sai đi gửi thiếp ra sao, gặp được Huyền Nạn. Tuệ Phương chúng tăng như thế nào, rồi vô tình lạng quạng làm sao giải được ván cờ Trân Lung để thành chưởng môn phái Tiêu Dao, Huyền Nạn làm sao chết vì chất kịch độc của Đinh Xuân Thu, bị A Tử đánh lừa cho phá giới ăn phải đồ mặn, đến khi gặp được Thiên Sơn Đồng Mỗ, vào trong hầm sâu hoàng cung nước Tây Hạ để rồi thành chủ nhân Linh Thứu Cung.

Y từng trải bao nhiêu chuyện rắc rối, mồm miệng lại vụng về, mất bao nhiêu là thời giờ, ấp a ấp úng mãi mới xong, tuy rằng lôi thôi dài dòng, nói không rõ ràng minh bạch nhưng không dấu một chút gì, kể cả chuyện cùng “người trong mộng” phạm vào dâm giới dưới hầm băng, cũng lắp bắp kể lại.

Các cao tăng càng nghe cành kinh ngạc, những gì gã tiểu đệ tử này gặp phải sao khéo léo lạ lùng, trong võ lâm trước nay chưa hề nghe thấy. Các nhà sư mới rồi chứng kiến y đấu với Cưu Ma Trí không còn hoài nghi gì những lời y vừa thuật lại, đều nghĩ thầm: “Nếu không phải y được ba đại cao thủ phái Tiêu Dao truyền thần công, lại không được học thần kỹ nơi vách núi cung Linh Thứu thì làm sao có thể chống trả được với tuyệt thế thần thông của quốc sư nước Thổ Phồn?”.

Hư Trúc kể xong, quay sang tượng Phật lạy phục xuống khấn:

- Đệ tử chướng ngại vô minh còn nặng, bụi trần chưa rửa sạch, vừa gặp phải ngoại ma thì đã không còn giữ nổi, liên tiếp phạm vào huân giới, tửu giới, sát giới, dâm giới, phản bội bản môn, học luyện võ công bàng môn ngoại đạo, lại khiến cho bốn vị cô nương vào trong chùa, làm bại hoại thanh danh bản tự, tội đại ác cực, chồng chất hết chuyện nọ chuyện kia, chỉ cầu xin lòng từ bi của Phật tổ, từ bi của phương trượng.

Y càng nghĩ càng đau lòng, nhịn không nổi khóc rống lên. Mai Kiếm và Cúc Kiếm cùng hứ hứ mấy tiếng, định lên tiếng khuyên y chẳng cần làm hòa thượng nữa. Huyền Tiệm, Huyền Tịnh hai người lập tức vươn tay, lẩn dưới ống tay áo nắm luôn cổ tay hai cô gái. Hai nàng không biết làm sao, lời đến cửa miệng lại rụt ngay về, lườm hai vị lão tăng, trong bụng chửi thầm: “Thầy chùa chết toi, đồ sư trọc thối”.

Huyền Từ trầm ngâm một hồi lâu rồi nói:

- Chúng vị sư huynh, sư đệ, những gặp gỡ của Hư Trúc phen này quả không phải tầm thường, có liên quan đến thanh dự hàng nghìn năm của bản tự, một mình bản tọa không thể nào quyết định được, xin các vị cùng góp ý.

Huyền Sinh dõng dạc nói:

- Khải bẩm phương trượng, lỗi lầm của Hư Trúc tuy lớn thật nhưng công lao cũng không phải ít. Nếu trong lúc nguy cấp không có y ngăn chặn gã Phiên tăng thì bản tự còn mặt mũi nào mà đứng trong võ lâm? Tên Phiên tăng kia bảo chúng ta giải tán, chạy qua đầu nhập các chùa Thanh Lương, Phổ Độ, thật là kỳ sỉ đại nhục toàn do Hư Trúc cứu vãn. Cứ như ý kiến tiểu tăng, bắt y sám hối những sai quấy khi trước để tiêu trừ tội nghiệp, sau đó cho vào Đạt Ma Viện nghiên cứu võ kỹ, từ nay không ra khỏi chùa, cũng không tham gia ngoại vụ như thế là đủ.

Đưa vào Đạt Ma Viện nghiên cứu võ học là một chức vụ cực kỳ tôn vinh của chư tăng, nếu không đạt tới cảnh giới võ công cực cao thì không có tư cách. Trong số hơn ba chục cao tăng hàng chữ Huyền, được vào nơi đây chỉ có tám người, ngay cả Huyền Sinh cũng chưa được vào. Ông ta đề nghị đưa Hư Trúc vào Đạt Ma Viện thực sự không phải là trừng trị mà là tưởng thưởng rất cao.

Thủ tọa Giới Luật Viện Huyền Tịch nói:

- Cứ như trình độ võ công của y thì vào Đạt Ma Viện cũng được rồi. Thế nhưng sở học của y lại là võ công bàng môn, trong Đạt Ma Viện chùa Thiếu Lâm có thể dung được bàng môn cao thủ hay không? Huyền Sinh sư đệ đã nghĩ tới chi tiết này hay chưa?

Câu đó nói ra, quần tăng đều thấy ý kiến của Huyền Sinh xem chừng không ổn. Huyền Sinh nói:

- Thế theo sư huynh thì phải làm sao?

Huyền Tịch nói:

- Hừm, của ta ư! Ta thực không biết phải làm sao. Hư Trúc có công mà cũng có lỗi, có công thì thưởng, có tội thì phạt. Bốn cô nương này vào trong bản tự, mặc giả làm sư, không phải do chủ ý của Hư Trúc, mình nên nói rõ cho Cưu Ma Trí, Thần Sơn các vị đó hay, thế là xong. Họ tin cũng được, mà không tin cũng chẳng sao, chúng ta không thẹn với lòng, dẫu người ngoài có nghĩ xằng đoán bậy, thì cũng chẳng cần phải phí lời. Thế nhưng Hư Trúc bỏ môn phái đi học võ công bàng môn, chùa Thiếu Lâm e rằng không thể nào còn dung chứa y được nữa.

Ông ta nói vậy là có ý trục xuất Hư Trúc ra khỏi chùa. “Phá môn xuất giáo” là cách trừng trị nặng nhất của cửa Phật, quần tăng nghe nói thế, ai nấy đều thảng thốt. Huyền Tịch lại tiếp:

- Hư Trúc đã liên tiếp phạm những giới luật như thế, đúng ra là phải phế hết công phu rồi trục xuất sơn môn. Thế nhưng võ công của y vốn đã bị người ta hóa tán hết rồi, trên người y hiện giờ không phải là công phu bản môn nữa, chúng ta không có quyền phế bỏ.

Hư Trúc mếu máo cầu khẩn:

- Phương trượng, các vị thái sư bá, thái sư thúc, xin vì chư Phật mà từ bi khai ân, cho đệ tử có được một phen cải quá tự tân. Dù trách phạt cách nào, đệ tử cũng cam tâm nhận chịu nhưng đừng đuổi đệ tử ra khỏi chùa.

Các vị lão tăng người nọ nhìn người kia, không biết phải làm thế nào, nghe Hư Trúc nói thế, biết y thực sự thành khẩn sám hối. Những gì gọi là “bỏ đao đồ tể xuống là sẽ có đường thành Phật” hay “bể khổ không bờ, quay đầu là bến” , cửa Phật rộng mở, phổ độ chúng sinh dẫu là kẻ cùng hung cực ác, chấp mê bất ngộ cũng còn phải trăm phương nghìn kế điểm hóa cho y, huống chi là kẻ biết mình lầm đường quay về, lại là đệ tử xuất gia từ tấm bé, không lẽ không cho y một đường hướng thiện hay sao?

Chùa Thiếu Lâm thuộc về Thiền tông, xưa nay giảng về “đốn ngộ”, dù cho chửi Phật mắng tổ cũng không cấm kỵ, không như bên Luật Tông lúc nào cũng nghiêm thủ giới luật. Hôm nay nếu như không có người ngoài ở đây, chúng tăng thấy y thành tâm sám hối cũng không nỡ nào đuổi ra khỏi sư môn. Thế nhưng việc trước mắt không những liên can đến bọn Hồ tăng Cưu Ma Trí, Triết La Tinh, mà cao tăng nhiều chùa lớn của Trung Nguyên như Thanh Lương, Phổ Độ cũng có mặt, nếu đối với Hư Trúc trách phạt không nghiêm, thiên hạ sẽ nói rằng chùa Thiếu Lâm bênh nhau, coi trọng môn hộ, không phân phải trái, chỉ nói chuyện võ công mà không cần biết đến giới luật, những lời đàm tiếu đó lưu truyền ra bên ngoài thì bao nhiêu thanh danh của chùa Thiếu Lâm đều đổ xuống sông xuống biển.

Ngay lúc đó một vị lão tăng được hai đệ tử đỡ hai bên, từ hậu điện chậm rãi đi vào, chính là Huyền Độ. Ông ta bị chỉ lực của Cưu Ma Trí đả thương, quay về tăng phòng nghỉ ngơi nhưng vẫn quan tâm đến kết cục hai bên giao đấu ở ngoài đại điện nên sai đệ tử chạy đi chạy lại nghe ngóng, đến khi nghe Cưu Ma Trí đã tạm thời bị đẩy lui, quần tăng chất vấn Hư Trúc có chiều kết tội nên vội bảo người đỡ vào Đại Hùng Bảo Điện nói:

- Phương trượng, cái mạng già của ta là do Hư Trúc cứu. Ta có một câu không biết có nói được không?

Huyền Độ tuổi tác đã cao, phẩm đức vốn được cả chùa kính trọng, Huyền Từ liền đáp:

- Mời sư huynh ngồi xuống, rồi từ từ nói chuyện sau, để khỏi động đến vết thương.

Huyền Độ đáp:

- Cứu mạng ta thì chẳng nói làm gì. Thế nhưng trước mắt có sáu chuyện lớn còn chưa giải quyết xong, nếu giữ Hư Trúc trong chùa thì rất có lợi, còn như đuổi y ra khỏi môn phái, cái đó... đó.. thật... khó.

Huyền Tịch nói:

- Sư huynh nói đến sáu việc trọng đại, việc thứ nhất là Cưu Ma Trí chưa đẩy lui xong, việc thứ hai là việc Ba La Tinh ăn trộm võ kinh của bản tự, việc thứ ba là việc tân nhiệm bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền đòi làm võ lâm minh chủ. Còn lại ba việc nữa xin sư huynh chỉ điểm cho.

Huyền Độ thở dài một tiếng nói:

- Tính mạng của Huyền Bi, Huyền Khổ, Huyền Thống, Huyền Nạn bốn vị sư đệ.

Ông vừa nhắc đến tên của bốn nhà sư, chúng tăng ai nấy chắp tay niệm Phật:

- A Di Đà Phật!

Mọi người nhận định rằng Huyền Khổ chết về tay Kiều Phong, còn Huyền Thống, Huyền Nạn là do Đinh Xuân Thu làm hại, hai kẻ đối đầu này quá mạnh, đại cừu chưa báo xong mà kẻ giết Huyền Bi là ai thì vẫn chưa biết được. Ai nấy chỉ biết Huyền Bi bị trúng phải Vi Đà Chử nơi ngực mà chết, Vi Đà Chử là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, chính là công phu Huyền Bi khổ luyện mấy chục năm. Trước đây họ vẫn cho rằng do nhà Mộ Dung Cô Tô sử dụng “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân” để hạ độc thủ, về sau bọn Tuệ Phương, Tuệ Kính thuật lại việc kết giao với đám Công Dã Can, Đặng Bách Xuyên thì mới rõ họ Mộ Dung không có ý thù nghịch với võ lâm, mà bọn thủ hạ nhà Mộ Dung cũng không phải là phường gian hiểm.

Vừa rồi nhìn thấy thân thủ của Cưu Ma Trí, y biết sử dụng mọi tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm thì chiêu Vi Đà Chử kia dĩ nhiên có thể do y đánh, hoặc còn người khác cũng biết thì quả không có gì lạ.

Bốn vị cao tăng chết dưới tay ba kẻ đối đầu, chính thế mà Huyền Độ bảo là ba việc trọng đại. Huyền Từ nói:

- Lão nạp giữ chức phương trượng bản tự, thế nhưng trong cả sáu việc đại sự này, chẳng việc nào có thể giải quyết ổn thỏa, quả thực không còn mặt mũi nào. Có điều võ công trong người Hư Trúc, đều là võ công phái Tiêu Dao, không lẽ... không lẽ việc lớn của chùa Thiếu Lâm...

Ông nói đến đây, lời nói ngập ngừng đứt quãng nhưng quần tăng ai ai cũng hiểu, Hư Trúc võ công tuy cao thật nhưng là của bàng môn lẽ nào lại sai y đi giải quyết đại sự, người hiểu biết đều thấy rằng chuyện phái Thiếu Lâm do người khác làm, không dựa vào sức phái Tiêu Dao thì không xong, chẳng hóa ra nhẹ thể phái Thiếu Lâm hay sao? Dẫu rằng mình có che dấu thật toàn vẹn, người ngoài không biết nhưng đây toàn là cao tăng, lẽ nào lại làm hành động lừa dối kẻ khác?

Trong nhất thời các nhà sư ai nấy đều yên lặng. Qua một hồi sau, Huyền Độ mới nói:

- Thế theo ý kiến phương trượng thì phải làm sao?

Huyền Từ đáp:

- A Di Đà Phật! Chúng ta tiếp thừa y bát của liệt tổ liệt tông , hôm nay gặp phải chuyện khó khăn vô cùng to lớn, theo ý lão nạp thì cứ theo chính đạo mà hành sự, thà làm hòn ngọc vỡ chứ không làm viên ngói lành. Nếu mọi người tận tâm tận lực bảo vệ được danh dự chùa Thiếu Lâm thì cũng là nhờ lòng từ bi của chư Phật, phúc ấm của tổ tông, còn như ma thịnh đạo suy, lão nạp cùng chư huynh đệ dĩ mạng hộ giáo, dĩ thân tuẫn tự, miễn sao hỏi lòng không thẹn, không vi phạm chính lý của đạo Phật là đủ rồi. Chùa Thiếu Lâm trong nghìn năm qua tạo phúc cho thiên hạ không phải là ít, thiện duyên thâm hậu, dẫu có nhất thời bị tỏa chiết thì cũng không đến nỗi một chốc thành tro, không bao giờ còn có ngày hưng phục.

Câu nói đó tuy thật là bình hòa nhưng đầy chính khí. Mọi người ai nấy khom lưng nói:

- Cao kiến của phương trượng, xin tuân theo pháp chỉ.

Huyền Từ quay sang Huyền Tịch nói:

- Sư đệ, xin sư đệ chấp hành giới luật của bản tự.

Huyền Tịch đáp:

- Tuân lệnh!

Ông quay sang nói với tri khách tăng:

- Ra mời quốc sư nước Thổ Phồn và các vị cao tăng.

Huyền Độ, Huyền Sinh mọi người đều ngậm ngùi, tuy có ý muốn bảo hộ Hư Trúc nhưng phương trượng đã nói vậy, phải coi đại nghĩa là trọng, không thể để quyền nghi nhất thời hủy đi tiếng tăm giới luật của nhà chùa. Mọi người ai nấy đều rõ ràng, nếu tha tội cho Hư Trúc thì tuy thắng mà là bại, còn như theo công đạo mà chấp pháp thì dẫu bại cũng còn vinh. Phương trượng đã nhắc đến “ dĩ mạng hộ giáo, dĩ thân tuẫn tự” ấy là ý đã quyết một trận mất còn, không còn cầu may, Hư Trúc chịu tội cách nào không còn là việc quan trọng nữa.

Hư Trúc cũng thấy việc đã xong không còn có thể thu hồi, có khóc lóc van xin cũng vô ích, nghĩ thầm: “Mọi người ai cũng lấy thanh danh bản tự làm trọng, ta mình làm mình chịu, không thể để trước mặt người ngoài tỏ ra hèn nhát, khiến cho họ coi thường sư sãi chùa Thiếu Lâm”.

Một hồi sau, Cưu Ma Trí, Thần Sơn, Triết La Tinh tất cả cùng vào đại điện. Chuông đánh lên, hàng chữ Tuệ, hàng chữ Hư, hàng chữ Không quần tăng theo vai vế đi vào, đứng ở hai bên. Huyền Từ chắp tay nói:

- Xin thưa với quốc sư nước Thổ Phồn và liệt vị sư huynh: hàng chữ Hư của chùa Thiếu Lâm là Hư Trúc, thân phạm sát giới, dâm giới, huân giới, tửu giới tứ đại giới luật, lại đi học võ công phái khác, nhận làm chưởng môn bàng môn. Thủ tọa Giới Luật Viện chùa Thiếu Lâm Huyền Tịch, cứ theo đúng luật mà xét xử, không được nể nang.

Cưu Ma Trí và bọn Thần Sơn nghe nói thế ai nấy thật ngoài dự liệu, thấy Mai Lan Cúc Trúc mặc giả làm sư lại tưởng Hư Trúc chỉ lớn mật làm càn, oa tàng đàn bà con gái trong chùa, phạm vào dâm giới mà thôi, ngờ đâu phương trượng còn tuyên bố tội trạng còn nhiều hơn thế nữa. Đạo Thanh đại sư của chùa Phổ Độ đến tuổi trung niên mới xuất gia nên rất thông đạt nhân tình thế thái, lại thêm tính tình hiền hòa, thích giúp đỡ người khác, liền nói:

- Phương trượng sư huynh, bốn vị cô nương đây eo thẳng mi cau, lưng nhô cổ nhỏ, rõ ràng là xử nữ giữ mình như ngọc , vừa rồi khi ra tay đấu với quốc sư lại sử dụng công phu Đồng Trinh Công, người học võ chúng ta thấy là biết ngay. Hư Trúc tiểu sư huynh hành vi không kiểm soát cũng có thể dung tha được, hai tiền “dâm giới” e rằng có nặng quá không?

Huyền Từ nói:

- Đa tạ sư huynh vạch rõ. Hư Trúc phạm vào dâm giới, không phải chỉ ở bốn cô đây. Hư Trúc gia nhập phái khác, làm chủ nhân cung Linh Thứu trên Thiên Sơn Phiêu Miểu Phong, bốn cô này là hộ chủ thị tì của cung Linh Thứu, lén vào bản tự, cốt ý phụng sự tân chủ, Hư Trúc không hề hay biết. Chùa Thiếu Lâm canh gác không kỹ càng, quả thật đáng xấu hổ, không thể vì thế mà bắt tội y.

Đồng Mỗ võ công cao cường nhưng xưa nay chưa hề đặt chân vào Trung Thổ, chỉ giao thiệp với bàng môn dị sĩ, chúa động chúa đảo nơi biên cương hải ngoại thành thử cái tên Linh Thứu Cung, quần tăng mới nghe thấy lần đầu. Chỉ có Cưu Ma Trí ở Thổ Phồn là đã từng nghe đến, nhưng cũng không biết rõ ngọn ngành. Đạo Thanh đại sư nói:

- Nếu đã như thế, người ngoài không tiện xen vào.

Cưu Ma Trí, Triết La Tinh, và Thần Sơn thượng nhân vốn dĩ không có thiện cảm với chùa Thiếu Lâm, nhưng thấy Huyền Từ xử sự công bằng, không hề lấp liếm, việc Hư Trúc phạm vào giới luật người ngoài vốn không hay biết nhưng ông vẩn nói toạc ra trước mặt mọi người, trong bụng không khỏi khâm phục.

Huyền Tịch tiến lên một bước dõng dạc hỏi:

- Hư Trúc, những tội phương trượng kể ra, ngươi có nhận không? Có gì biện bạch không?

Hư Trúc đáp:

- Đệ tử thừa nhận, tội nặng nghiệt lớn, không có gì để biện bạch, xin cam chịu thái sư thúc trừng phạt.

Quần tăng trong lòng hoang mang đưa mắt nhìn Huyền Tịch, không hiểu ông sẽ xử phạt thế nào. Huyền Tịch lại lớn tiếng nói:

- Hư Trúc phạm vào sát, dâm, huân, tửu tứ đại giới luật, phạt đánh một trăm côn ngay tại đây. Hư Trúc, ngươi có tâm phục không?

Hư Trúc nghe nói chỉ đánh một trăm gậy, so với những đại giới mình đã phạm thực không nặng chút nào, vội đáp:

- Đa tạ thái sư thúc từ bi, Hư Trúc tâm phục.

Huyền Tịch lại tiếp:

- Ngươi chưa được phương trượng và thụ nghiệp ân sư bằng lòng, dám học võ nghệ bàng môn, tội phạt phế hết võ công phái Thiếu Lâm, từ nay trở đi, không còn là đệ tử Thiếu Lâm nữa. Ngươi có tâm phục không?

Hư Trúc lòng đau như cắt, biết rằng không còn có thể van xin gì được nữa đành nói:

- Đệ tử quả là đáng chết, thái sư thúc xử vậy thật là công chính.

Những nhà sư phái khác mới rồi thấy y kịch đấu với Cưu Ma Trí, dùng Vi Đà Chưởng và La Hán Quyền đại hiển thần uy, vì không ai biết võ công chân chính của y ra sao nên đâu biết rằng y sử dụng không phải chỉ của Thiếu Lâm mà thôi. Cưu Ma Trí tự xưng một thân tinh thông đủ bảy mươi hai tuyệt kỹ, thực ra chỉ là chiêu thức bên ngoài, còn nội công chân chính của phái Thiếu Lâm y biết rất ít. Hư Trúc khi đấu với y sử dụng Tiểu Vô Tướng Công, y dĩ nhiên biết rõ, thế nhưng còn Bắc Minh chân khí, Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, Thiên Sơn Chiết Mai Thủ các loại cao thâm, y lại tưởng đó cũng là võ công phái Thiếu Lâm, nghe Huyền Tịch nói phế trừ võ công Thiếu Lâm của Hư Trúc, trong bụng khấp khởi mừng thầm nghĩ bụng: “Các ngươi tự xô đổ bức trường thành, trừ cho ta cái mối lo tâm phúc, thực hay biết mấy”. Giác Hiền, Đạo Thanh mấy vị cao tăng thì lại suýt xoa trong lòng: “Tiếc quá! Tiếc quá!”.

Huyền Tịch lại tiếp:

- Ngươi đã là chưởng môn phái Tiêu Dao, làm chủ nhân cung Linh Thứu Phiêu Miểu Phong, thì phải xuất giáo hoàn tục, không còn là đệ tử cửa Phật nữa, từ nay trở đi ngươi không còn là tăng lữ chùa Thiếu Lâm nữa. Ta xử như thế, ngươi có tâm phục không?

Hư Trúc không cha không mẹ, xuất gia từ khi ấu thơ, lớn lên trong chùa Thiếu Lâm, yếu chỉ Phật pháp tuy lãnh ngộ không nhiều nhưng chùa Thiếu Lâm là nơi duy nhất mà y từng an thân lập mệnh, nay bị trục xuất khỏi chùa, buồn bã không sao kể xiết nước mắt chảy như mưa, phục xuống nức nở, nghẹn ngào nói:

- Chùa Thiếu Lâm từ phương trượng đại sư trở xuống, chư vị thái sư bá, thái sư thúc, chư vị sư bá, sư thúc cho đến ân sư, ai ai cũng đối với đệ tử ân nghĩa thâm trọng, đệ tử chẳng ra gì, phụ lòng chư vị giáo huấn.

Đạo Thanh đại sư nhịn không nổi lại nói giúp:

- Phương trượng sư huynh, Huyền Tịch sư huynh, cứ như lão nạp thấy, vị tiểu Phất huynh này đi vào đường mê nhưng biết quay đầu lại, quả thực có bụng hối cải, sao không cho y một dịp đổi mới?

Huyền Từ đáp:

- Sư huynh chỉ điểm phải lắm. Thế nhưng cửa Phật rộng mở, nơi nào mà chẳng có chỗ dung thân? Hư Trúc, chúng ta phạt ngươi phá môn xuất tự nhưng không phải vì có ác ý muốn ngươi không còn theo đuổi việc tu hành. Trang nghiêm bảo sát trong thiên hạ, nào phải chỉ có hàng nghìn hàng vạn thôi đâu? Nếu quả ngươi vẫn có bụng qui y tam bảo, sau khi hoàn tục rồi vẫn còn có thể đến xin thế phát được cơ mà! Cũng mong ngươi được vào nơi danh tự, bái được cao tăng làm thầy, hoằng dương thệ nguyện, thanh tĩnh thân tâm sớm thành chính đẳng chính giác. Còn như sau này không xuất gia làm sư nữa, ở nhà làm một cư sĩ chuyên cần tu tập lục độ vạn hạnh thì cũng có thể chứng đạo, thành đại bồ tát, thành Phật được.

Ông nói đến khúc sau cùng, ngôn ngữ từ hòa khẩn thiết, có ý khuyên bảo ân cần. Hư Trúc lại càng đau lòng, hành lễ nói:

- Những điều giáo huấn của phương trượng thái sư bá, đệ tử không bao giờ dám quên.

Huyền Tịch lại nói:

- Tuệ Luân nghe đây!

Tuệ Luân tiến lên mấy bước, chắp tay quì xuống. Huyền Tịch nói:

- Tuệ Luân, ngươi thân là nghiệp sư của Hư Trúc, thường ngày dạy dỗ chểnh mảng, cái hại của tam độc lục căn không giảng giải cho kỹ càng, cho nên mới gây ra cái họa hôm nay. Tội ngươi đáng phạt ba mươi côn, vào diện bích sám hối trong Giới Luật Viện ba năm. Ngươi có tâm phục không?

Tuệ Luân run run đáp:

- Đệ tử... đệ tử tâm phục.

Hư Trúc vội nói:

- Thái sư bá, đệ tử xin được lãnh thay cho sư phụ ba mươi trượng đòn.

Huyền Tịch gật đầu nói:

- Nếu thế, Hư Trúc chịu tổng cộng cả thảy một trăm ba mươi côn. Chưởng hình đệ tử, lấy côn ra đây. Lúc này Hư Trúc không còn là sư chùa Thiếu Lâm nữa, gia hình không được nhẹ tay. Sau khi ra khỏi chùa rồi, Hư Trúc là chưởng môn phái khác, không còn dính dấp gì với bản tự nữa, người trên kẻ dưới trong bản phái phải giữ lễ kính với y.

Bốn tên chưởng hình đệ tử nhận lệnh đi ra, không bao lâu quay về đại điện, mỗi người cầm trong tay một cây gậy bằng gỗ đàn. Huyền Tịch vừa toan ra lệnh trừng phạt, đột nhiên một nhà sư ở ngoài hấp tấp đi vào trong điện, trong tay cầm một xấp danh thiếp dày, hay tay dâng lên giao cho Huyền Từ nói:

- Khải bẩm phương trượng, quần hùng Hà Sóc bái sơn.

Huyền Từ liếc qua danh thiếp, phải đến trên ba chục chiếc, trên đó đều là những anh hùng hào kiệt thành danh phương Bắc, đột nhiên cùng đến một lượt, không hiểu có chuyện gì. Chỉ nghe bên ngoài chùa tiếng người nói xôn xao, quần hào đã đến cổng rồi. Huyền Từ bèn nói:

- Huyền Sinh sư đệ, xin hãy ra ngoài nghinh tiếp.

Ông lại tiếp:

- Liệt vị sư huynh, khách quí quang lâm, việc thanh lý môn hộ của bản phái thôi xin hoãn lại một chút để khỏi khinh mạn người từ xa đến.

Ông nói rồi đứng lên đi ra phía màn cửa ngoài đại điện. Chẳng bao lâu, mấy chục hào kiệt được Huyền Sinh và tri khách tăng dẫn đường đã đến trước đại điện. Huyền Từ, Huyền Tịch, Huyền Sinh mọi người tuy đều là những cao tăng cần tu Phật pháp, nhưng dẫu sao cũng là hảo thủ võ học, gặp được đồng đạo võ lâm, đều cảm thấy có sự gần gũi quyến luyến, lúc này gặp bao nhiêu là anh hùng hào kiệt đến đây, tuy đang gặp lúc thanh lý môn hộ, trong lòng buồn bực nhưng cũng cảm thấy phấn chấn tinh thần.

Quần tăng phái Thiếu Lâm ra ngoài hành đạo, bằng hữu bốn phương rất đông, những người đến đây không ít đã từng kết giao với những nhà sư hàng chữ Huyền, chữ Tuệ, chắp tay chào nhau, vui vẻ thăm hỏi chuyện cũ, nghênh đón vào trong đại điện, dẫn kiến với phía Cưu Ma Trí, Triết La Tinh, Thần Sơn, Quán Tâm... Những người đó đều có tiếng tăm, quần hào dẫu chưa quen biết nhưng cũng ngưỡng mộ từ lâu.

Huyền Từ đang định hỏi xem có chuyện gì mà đến đây, tri khách tăng lại tiến vào bẩm báo, có mấy chục nhân vật võ lâm ở Sơn Đông, Hoài Nam đến bái sơn. Huyền Tiệm liền đi ra ngoài đón vào đại điện. Một hán tử đen đủi dõng dạc nói:

- Bang chủ Cái Bang mời chúng tôi đến xem trò vui, thế chính ông ta chưa đến hay sao?

Một gã khác giọng nhừa nhựa nói:

- Lão huynh việc gì phải nóng ruột? Đã đến đây muốn xem trò vui không lẽ còn sợ mất phần hay sao? Đương nhiên bọn tép riu chúng mình phải đến trước, còn vai chính thì đến muộn muộn một chút đã sao.

Huyền Từ lớn tiếng nói:

- Chư vị không hẹn mà cùng giá lâm tệ tự, chùa Thiếu Lâm quả thực vinh hạnh xiết bao. Có điều tiếp đãi không được chu đáo, xin rộng lòng tha thứ cho.

Quần hào cùng đáp:

- Không dám! Không dám! Phương trượng chẳng việc gì phải khách sáo.

Đến lúc đó những hào khách có giao hảo với quần tăng chùa Thiếu Lâm đã nói cho biết lý do tại sao họ lại đến. Ai nấy đều nhận được anh hùng thiếp của bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền nói rằng Cái Bang và phái Thiếu Lâm trước nay cùng đứng đầu võ lâm Trung Nguyên, hiện nay Trang Tụ Hiền mới đảm nhiệm chức vụ bang chủ Cái Bang, có ý muốn suy cử một vị võ lâm minh chủ, cùng lập ra những qui luật để tiện cho các đồng đạo tuân theo, định rằng ngày rằm tháng sáu sẽ đến chùa Thiếu Lâm để thương lượng cùng Huyền Từ phương trượng. Những người nhận được anh hùng thiếp thấy ngôn ngữ tuy khiêm tốn nhưng hầu như nói rõ ra rằng minh chủ võ lâm không phải là ta thì còn ai vào đây? Trang Tụ Hiền đến chùa Thiếu Lâm hiển nhiên muốn dùng võ công đánh bại quần tăng, áp đảo uy phong mấy trăm năm qua của ngôi chùa.

Trong thiếp cũng không mời quần hùng đến chùa Thiếu Lâm tham dự, thế nhưng nhân vật võ lâm nào chẳng hiếu động, đại sự Cái Bang và Thiếu Lâm tranh hùng á, ai ai chẳng muốn chính mắt được xem, đời nào chịu bỏ qua? Thành thử mọi người không hẹn mà cùng tấp nập đi tới. Khi đó trong điện câu cửa miệng của mọi người đều là:

- Trang Tụ Hiền là ai thế?

Ai cũng hỏi nhưng không ai có câu trả lời. Huyền Từ phương trượng và các sư huynh sư đệ đã hội thương mấy hôm liền, ai cũng đoán ngầm chắc Trang Tụ Hiền chính là Kiều Phong hóa danh, với võ công cơ mưu của y, muốn giết những trưỏng lão thù nghịch với y trong Cái Bang, đoạt lại chức vụ bang chủ không phải là khó khăn gì, nếu không Cái Bang và chùa Thiếu Lâm trước nay giao hảo, bỗng nhiên sao lại giở quẻ như thế này?

Kiều Phong đại chiến tại Tụ Hiền Trang thiên hạ ai ai cũng biết, y lại đổi tên thành Trang Tụ Hiền chính là ỡm ờ nói lên cái lai lịch của mình.

Chẳng bao lâu, anh hùng các vùng Lưỡng Hồ, Giang Nam cũng đều tới nơi, rồi tới Xuyên Thiểm, Lưỡng Quảng cũng lục tục kéo đến. Quần hùng Nam Bắc xa nhau hàng nghìn dặm, vậy mà chưa đầy một ngày cũng đều có đủ, hiển nhiên Cái Bang chuẩn bị kỹ càng, gửi anh hùng thiếp cả mấy tháng trước rồi.

Huyền Từ và chư tăng tuy miệng không nói ra nhưng trong bụng rất là bực bội, lại thêm lo lắng vì mấy hôm trước đã có người tự xưng là Trang Tụ Hiền bang chủ Cái Bang gửi thư đến nói muốn tuyển minh chủ võ lâm, lại nói nội trong ngày một ngày hai sẽ thân đến bái sơn để cung kính nghe lời giáo huấn của Huyền Từ nhưng trong thư không nói rõ ngày đó là ngày nào, cũng không đề cập đến việc có mời anh hùng thiên hạ, vậy mà đột nhiên quần hiền tụ tập khiến cho chùa Thiếu Lâm phải lúng túng không kịp trở tay.

*

* *

Phái Thiếu Lâm tuy trên giang hồ quen biết rộng rãi, vậy mà không hay biết gì trước, thành thử chưa tỉ thí đã rơi vào thế hạ phong rồi. Việc này của Cái Bang thật không thể tưởng tượng nổi, họ không nói trắng ra là mời quần hùng vì không tiện thay mặt phái Thiếu Lâm đứng ra làm chủ nhưng gửi anh hùng thiếp nhiều như thế thực chẳng mời cũng thành ra mời. Các nhà sư ai nấy đều nghĩ bụng: “Cái Bang không mời bọn ta đến tổng đà của họ ngoài mặt thì làm ra cung kính đấy, nhưng bang chủ của họ lại tự mình đến đây, ắt hẳn muốn cho chùa Thiếu Lâm không chuẩn bị gì, đến đánh cho mình trở tay không kịp”. Huyền Sinh quay sang người bạn thân là Thần Đàn Tử Gia Cát Trung ở Hà Bắc nói:

- Hay nhỉ, Gia Cát lão huynh, lão huynh nghe được tin này lại không cho người mang tin đến cho ta, thôi cái giao tình ba mươi năm đến đây một bút sổ toẹt.

Mặt Gia Cát Trung đỏ bừng, luôn mồm phân trần:

- Ta … ta mới nhận được thiếp ba hôm trước, đến bát cơm đang ăn cũng còn bỏ dở, suốt ngày suốt đêm chạy đến đây, đi đường chết mất bốn con hảo mã, chỉ sợ lỡ ngày lỡ giờ, không kịp giúp cho bọn trọc thối các ngươi một tay, sao … sao lại trách ngược ta là cớ gì?

Huyền Sinh hừ một tiếng nói:

- Gớm ngươi tử tế nhỉ?

Gia Cát Trung nói:

- Sao lại không tử tế? Phái Thiếu Lâm nhà ngươi võ công cao thật, lão ca ca có đến dù chỉ hò hét trợ uy thì cũng đâu có phải là xấu xa gì! Phương trượng nhà ngươi dẫu sao thì cũng đã phát thiếp mời ta mồng chín tháng chín đến chùa Thiếu Lâm để gặp bọn Cô Tô Mộ Dung, ca ca chỉ đến sớm vài tháng, cũng đâu có gì là lầm lỗi với ngươi đâu.

Huyền Sinh lúc đó mới dịu xuống, hỏi ra mới biết những người nào ở xa thì nhận đựợc thiếp sớm, còn người nào gần thì nhận trễ hơn thành thử ai ai cũng chạy hộc tốc đến đây mới kịp. Bấy nhiêu bằng hữu mà không một ai đến báo trước được cho chùa Thiếu Lâm, đủ biết Cái Bang sắp đặt chu đáo, tính toán chính xác muốn đến được đây phải mất bao nhiêu thời giờ, khiến cho họ có muốn tới sớm hơn cũng không được. Quần tăng thấy như thế đủ biết Cái Bang đã tính toán rồi mới hành động, bang chủ và bang chúng chưa đến đã hư trương thanh thế hẳn là sẽ còn nhiều đòn lợi hại tiếp theo nữa.

Ngày hôm đó chính là ngày rằm tháng sáu, khí trời oi bức. Các nhà sư chùa Thiếu Lâm vốn đã ứng phó với Thần Sơn thượng nhân và bọn Triết La Tinh các cao tăng, rồi kế đó đấu với Cưu Ma Trí, tra hỏi Hư Trúc, hao phí biết bao nhiêu tinh thần, đột nhiên bốn bề tám hướng anh hùng hào kiệt ùn ùn kéo đến, trong chùa sư sãi tuy đông thật nhưng việc quá gấp gáp, không khỏi lúng túng chẳng biết xoay trở ra sao. Cũng may thủ tọa Tri Khách Viện Huyền Tịnh đại sư là người tháo vát, lại thêm nhà chùa cũng phong túc, vật liệu tích trữ đầy đủ, quần tăng dưới quyền phân phối của Huyền Tịnh tiếp đãi mọi người cũng không đến nỗi khiếm lễ.

Bọn Huyền Từ nghênh tiếp tân khách tíu tít, không thì giờ đâu mà bàn thảo, chỉ đành chắc lưỡi than thầm. Bỗng nghe tri khách tăng chạy vào báo:

- Đoàn điện hạ Trấn Nam Vương nước Đại Lý đến.

Từ khi Huyền Bi đại sư trúng phải Vi Đà Chử mà chết, Đoàn Chính Thuần từng phụng mệnh hoàng huynh đến bái phỏng Huyền Từ phương trượng. Họ Đoàn Đại Lý là bằng hữu của chùa Thiếu Lâm, giời này đến quả thực được một trợ thủ mạnh mẽ, Huyền Từ trong lòng mừng rỡ nói:

- Đoàn vương gia nước Đại Lý cũng đang ở tại Trung Nguyên sao?

Ông vội vã dẫn mọi người ra nghênh đón. Huyền Từ đã từng gặp Đoàn Chính Thuần và các tùy tòng của ông như Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần hai lần, hàn huyên mấy câu rồi đưa vào trong điện, giới thiệu với quần hùng.

Người đầu tiên ông đưa đến gặp là quốc sư nước Thổ Phồn Cưu Ma Trí. Đoàn Chính Thuần lập tức biến sắc, ôm quyền nói:

- Khuyển tử Đoàn Dự được Minh Vương yêu mến, dẫn qua phương Đông, nghe khuyển tử bảo rằng, trên đường đi được dạy dỗ rất nhiều, quả thật có ích lắm, Đoàn mỗ vô cùng cảm kích, nhân đây xin tạ ơn.

Cưu Ma Trí mỉm cười đáp:

- Không dám! Đoàn công tử sao không đi theo điện hạ đến đây?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Khuyển tử không biết lưu lạc nơi đâu? Không chừng lại rơi vào tay kẻ gian hay ác tăng nào, đang định thỉnh giáo quốc sư.

Cưu Ma Trí lắc đầu quầy quậy nói:

- Tung tích của Đoàn công tử, tiểu tăng quả thực không hay biết. Ôi, tiếc thay, thật tiếc thay!

Tim Đoàn Chính Thuần nhảy rộn lên, sợ không biết Đoàn Dự gặp chuyện gì bất trắc, vội hỏi:

- Lời của quốc sư nghĩa là làm sao?

Ông tuy đã từng trải nhiều biến cố nhưng vì khắc khoải chuyện an nguy của đứa con yêu, giọng không khỏi có chiều lo lắng. Mấy tháng trước hai cha con gặp nhau, sau đó Đoàn Dự đi tham dự hội cờ của Lung Á tiên sinh, ai ngờ trên đường về đi đâu mất, đã mấy tháng nay, Đoàn Chính Thuần không nhận được tin tức gì, e rằng anh chàng lại gặp phải độc thủ của Đoàn Diên Khánh, Cưu Ma Trí hay có khi Đinh Xuân Thu không chừng nên trong lòng lúc nào cũng bồn chồn.

Hôm đó ông nghe tin tân nhiệm bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền tính chuyện tranh đoạt chức võ lâm minh chủ với phái Thiếu Lâm, lập tức lật đật chạy đến, luôn thể tìm con. Họ Đoàn là một thế gia trong võ lâm nên việc tranh đoạt minh chủ võ lâm tại Trung Nguyên đương nhiên phải quan tâm. Cưu Ma Trí nói:

- Tiểu tăng tại Thiên Long bảo sát, được gặp Khô Vinh đại sư, phương trượng Bản Nhân cùng lệnh huynh, người nào cũng thần định khí nhàn, trang nghiêm an tường quả thực là hữu đạo chi sĩ. Trấn Nam Vương uy danh lừng lẫy thiên hạ, sao lại lưu luyến thâm tình có thái độ của đàn bà như thế?

Đoàn Chính Thuần cố gắng định thần nghĩ thầm: “Dự nhi nếu có gặp chuyện không may thì kinh hoảng cũng vô ích, lại khiến cho gã phiên tăng này coi thường mình”. Ông bèn đáp:

- Yêu thương con cái là chuyện thường tình của thế gian. Trên đời này nếu không sinh con đẻ cái, hú hí với nhau thì đâu còn ai nữa. Chúng tôi là kẻ phàm phu tục tử, sao sánh được với một vị cao tăng từ bi hữu đức như quốc sư tứ đại giai không?

Cưu Ma Trí mỉm cười nói:

- Tiểu tăng mới gặp lệnh lang thấy y góc trán gồ cao, biết y sau này thể nào cũng làm cho họ Đoàn rạng rỡ, rồi đây sẽ thành một vị minh quân thật là đại phúc cho bách tính cõi trời Nam.

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Không dám!

Ông nghĩ thầm: “Thằng giặc trọc này quả là đáng ghét, giả vờ nói chuyện đâu đâu để cho mình thêm nóng ruột”. Cưu Ma Trí thở dài một tiếng nói:

- Ôi, quả là đáng tiếc! Vị Đoàn quân kia tiếc thay phúc trạch lại không được dày!

Y lại thấy Đoàn Chính Thuần mặt càng tái đi, lúc ấy mới mỉm cười nói:

- Y đến Trung Nguyên, gặp được một cô nương xinh đẹp, thế là cứ lẽo đẽo đi theo bóng quần hồng, bao nhiêu hùng tâm tráng chí, một bụng văn chương cũng đều quên sạch. Cô gái kia đi về hướng đông, y cũng theo qua phía đông, cô gái kia đi về hướng tây, y cũng chạy theo hướng tây. Ai thấy thế cũng bảo đúng là một tên ăn bơ làm biếng, lêu lổng bê tha, thế không phải đáng tiếc lắm hay sao?

Bỗng nghe khúc khích, ai đó bật lên một tiếng cười, giọng đàn bà. Mọi người quay qua nhìn về phía đó thì thấy một hán tử trung niên mặt mũi ti tiện. Người đó chính là Nguyễn Tinh Trúc, mấy tháng qua bà ta kè kè ở bên cạnh Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần đi đến chùa Thiếu Lâm, bà ta cũng đi theo, biết qui củ chùa Thiếu Lâm không cho đàn bà con gái vào nên mặc giả làm đàn ông. Bà ta là mẹ của A Châu, trời sinh cũng có chút tài cải trang, lúc này ăn mặc nam trang, hình dung cử chỉ giống hệt, chẳng phải như bốn nàng cung Linh Thứu mặc giả người ta trông là biết ngay, có điều bà ta giọng nói yểu điệu, không được như A Châu giả đàn ông. Bà ta thấy mọi người lom lom nhìn mình vội vàng đổi giọng ồm ồm nói:

- Tiểu hoàng tử họ Đoàn gia học uyên nguyên, tướng môn hổ tử, quả là có chỗ hơn người!

Cái tiếng trăng hoa đi đến đâu lưu tình đến đấy của Đoàn Chính Thuần đã truyền khắp giang hồ, quần hào nghe bà ta ví von Đoàn Dự mê say Vương Ngữ Yên là “gia học uyên nguyên, tướng môn hổ tử” không khỏi đưa mắt nhìn nhau. Đoàn Chính Thuần cũng cười ha hả, nói với Cưu Ma Trí:

- Cái đứa con không ra gì …

Cưu Ma Trí vội chặn lại:

- Nào đâu có không ra gì, ra gì lắm chứ!

Đoàn Chính Thuần biết y mỉa mai mình phong lưu phóng đãng nhưng cũng không phật lòng, nói tiếp:

- Không biết y lúc này đang ở đâu, quốc sư nếu biết tung tích của nó, xin cho biết.

Cưu Ma Trí lắc đầu:

- Đoàn công tử không phá nổi cái lưới tình, đêm ngày vò võ tương tư. Khi tiểu tăng gặp y thì đã thân tàn ma dại, mặt mày tiều tụy, mình hạc xác ve, lúc này sống hay chết, thật khó mà nói lắm.

Đột nhiên một nhà sư thanh niên chạy ra, cung kính hành lễ với Đoàn Chính Thuần nói:

- Vương gia chẳng phải lo lắng, tam đệ của tiểu tăng tinh thần vui vẻ, thân thể an hảo lắm.

Đoàn Chính Thuần trả lại một lễ, trong bụng lạ lùng, nhìn cách phục sức của y rõ ràng là một nhà sư vai vế thấp kém trong chùa Thiếu Lâm, sao lại gọi Đoàn Dự là “tam đệ”, bèn hỏi:

- Tiểu sư phụ gần đây mới gặp đứa con của ta chăng?

Thanh niên tăng nhân đó chính là Hư Trúc, liền đáp:

- Đúng thế! Hôm đó cháu cùng tam đệ ở trên cung Linh Thứu uống một trận say sưa …

Đột nhiên có tiếng Đoàn Dự từ ngoài điện vọng vào:

- Gia gia! Hài nhi ở đây, lão nhân gia khoẻ mạnh chứ?

Giọng vừa dứt một người đã chạy vụt vào, sà vào lòng Đoàn Chính Thuần, chính là Đoàn Dự. Chàng nội công thâm hậu, tai rất thính, vừa đến cửa đã nghe cha mình đối đáp với Hư Trúc nên không nhịn nổi, lập thức thi triển Lăng Ba Vi Bộ chạy tới.

Cha con gặp nhau, vui mừng nói sao cho xiết. Đoàn Chính Thuần thấy con tuy có nhuốm chút phong sương nhưng thần thái sảng lãng, không phải như Cưu Ma Trí nói là “mặt mày tiều tụy, mình hạc xác ve”. Đoàn Dự quay lại Hư Trúc nói:

- Nhị ca lại trở về làm hòa thượng rồi sao?

Hư Trúc đã quì trước Phật tượng cả nửa ngày thành tâm sám hối về những sai quấy của mình, thế nhưng vừa gặp lại Đoàn Dự, lập tức lại nghĩ ngay đến “người trong mộng”, tự nhiên mặt đỏ tía tai, thần tình cực kỳ bẽn lẽn, nhưng nào có dám mở mồm hỏi dò. Cưu Ma Trí nghĩ thầm chắc lúc này Vương Ngữ Yên đang ở đâu đây, nếu không thì dù chùa Thiếu Lâm có muôn vàn chuyện ghê gớm cũng không thể nào dẫn dụ được anh chàng “si tình công tử” Đoàn Dự đến núi Thiếu Thất, mà Vương Ngữ Yên đối với biểu ca một mối thâm tình, không thể nào chia tay với Mộ Dung Phục được, lập tức đề khí lớn tiếng nói:

- Mộ Dung công tử, nếu đã lên đến núi Thiếu Thất, sao không vào chùa lễ Phật?

Tiếng tăm của Cô Tô Mộ Dung nổi như cồn, quần hùng ai nấy ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Thì ra Mộ Dung công tử đất Cô Tô đã đến đây. Chắc là đã cùng với gã phiên tăng này ước hẹn trước, cùng rủ nhau đến làm khó chùa Thiếu Lâm chăng?”.

Thế nhưng ngoài chùa không nghe tăm hơi gì, một hồi sau mới từ triền núi xa xa vọng lại: “Mộ Dung công tử … đến núi Thiếu Thất … vào chùa lễ Phật?”. Cưu Ma Trí nghĩ thầm: “Phen này ta đoán sai rồi, thì ra Mộ Dung Phục chưa đến núi Thiếu Thất, nếu không nghe thấy tiếng của ta lẽ nào lại không trả lời”.

Nghĩ thế y bèn ngửa cổ lên cười ha hả, toan nói mấy câu lấp liếm, bỗng nghe bên ngoài cửa có tiếng người lạnh tanh nói:

- Mộ Dung công tử còn đang ác đấu với Đinh lão quái, đợi giết được lão quái rồi, sẽ đến chùa Thiếu Lâm đảnh lễ Như Lai.

Cha con Đoàn Chính Thuần, Đoàn Dự nghe thấy thế mặt liền biến sắc, giọng nói đó chính là của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Vừa tới đó, Đoàn Diên Khánh mặc áo bào xanh, tay chống thiết trượng đã tiến vào điện, đằng sau y là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương, Hung Thần Ác Sát Nam Hải Ngạc Thần và Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc. Tứ đại ác nhân cùng đến một lượt.

Huyền Từ phương trượng đối với khách không kể thiện hay ác, ai ai cũng dùng lễ tiếp đãi. Chùa Thiếu Lâm tuy có qui củ không tiếp khách đàn bà nhưng Huyền Từ phương trượng thấy Diệp Nhị Nương dẫu hơi ngạc nhiên nhưng cũng không nói gì đến. Quần hùng đều nghĩ: “Hôm nay kẻ địch đông như thế này, so sánh nặng nhẹ, qui củ không tiếp nữ khách chỉ là chuyện nhỏ, chẳng nên gây thêm phiền toái làm gì”.

Nam Hải Ngạc Thần vừa trông thấy Đoàn Dự mặt đã đỏ lên, quay mình định chạy. Đoàn Dự cười nói:

- Này học trò ngoan, hồi này khỏe chứ?

Nam Hải Ngạc Thần nghe thấy chàng gọi mình là “học trò ngoan” biết là chạy không xong, mặt hầm hầm nói:

- Con mẹ nó gã sư phụ thối tha kia, sao ngươi chưa chết à?

Đa số quần hùng trong điện không rõ nội tình, thấy gã này thần thái hung ác, vậy mà người ôn văn nho nhã như Đoàn Dự lại gọi y là học trò, quả đã là lạ, thế nhưng y lại mở miệng gọi Đoàn Dự là thầy, ngôn ngữ cực kỳ vô lễ lại càng lạ hơn. Diệp Nhị Nương mỉm cười nói:

- Đinh Xuân Thu đại hiển thần thông, đánh cho Mộ Dung công tử không còn cách gì chống đỡ. Mọi người có muốn đi xem trò vui không?

Đoàn Dự kêu lên:

- Chao ôi!

Chàng là người đầu tiên chạy ra khỏi cửa.

Hôm đó Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác và Vương Ngữ Yên sáu người rời Phiêu Miểu Phong. Cả bọn thấy mình vô cớ xen vào việc tranh chấp bên trong cung Linh Thứu đã xôi hỏng bỏng không mà lại chẳng vẻ vang gì, ai nấy đều cụt hứng. Riêng có Vương Ngữ Yên nói năng ríu rít, được ở bên cạnh biểu ca là sung sướng nhất trần đời rồi.

Sáu người theo hướng đông quay về Trung Nguyên. Hôm đó xế trưa đi qua một khu rừng rậm tối mò mò, Phong Ba Ác đột nhiên kêu lên:

- Có mùi máu tanh!

Y rút phắt đơn đao, theo mùi chạy tới nghĩ thầm: “Có mùi máu tức là có đánh nhau”. Càng chạy mùi máu tanh càng nồng, thấy trên mặt đất nằm la liệt đến mấy chục người, binh khí rơi vãi, máu chưa khô, đủ biết người chết chưa lâu, thế nhưng trận đánh đã xong rồi. Phong Ba Ác dậm chân nói:

- Tiếc quá! Đến chậm một bước.

Bọn Mộ Dung Phục cũng chạy đến nơi, thấy những người chết áo quần lam lũ, lưng đeo túi vải toàn là người của Cái Bang. Công Dã Can nói:

- Có người là đệ tử bốn túi, có người năm túi, không biết trúng phải độc thủ của ai?

Đặng Bách Xuyên nói:

- Thôi chúng mình đem những xác chết này chôn cất đi thôi.

Công Dã Can đáp:

- Đúng thế! Công tử gia, Vương cô nương, hai người sang bên kia ngồi nghỉ một chút. Bốn người chúng tôi lo liệu được rồi.

Y cầm một cây thiết côn dưới đất lên, bắt đầu đào đất. Đột nhiên trong đám người chết có một tiếng rên phát ra. Vương Ngữ Yên sợ quá, vội nắm chặt lấy tay Mộ Dung Phục. Phong Ba Ác liền xông ra hỏi lớn:

- Này lão huynh, lão huynh chưa chết hẳn phải không?

Từ trong đống xác chết có một người từ từ ngồi dậy, nói:

- Chưa chết hẳn, có điều … có điều cũng chẳng … cũng chẳng được bao lâu!

Người đó là một gã ăn mày già chừng trên dưới năm mươi, đầu tóc hoa râm, trên mặt trên ngực đầy vết máu, trông thật ghê rợn. Phong Ba Ác vội lấy trong túi ra một viên thuốc, nhét vào mồm y.

Người ăn mày liền nuốt viên thuốc nói:

- Chẳng … chẳng ăn thua gì đâu! Bụng ta trúng hai dao, không … không sống nổi.

Phong Ba Ác nói:

- Thế ai làm hại các ông thế?

Người ăn mày lắc đầu nói:

- Nói ra thật xấu hổ, đó là … là người trong Cái Bang chúng tôi tranh chấp, tàn sát … lẫn nhau.

Phong Ba Ác, Bao Bất Đồng cả bọn cùng kêu lên kinh ngạc. Lão ăn mày lại tiếp:

- Chuyện này … chuyện này đáng lý không nên nói cho người ngoài nghe, có điều … có điều đã làm ầm ỹ lên rồi, cũng chẳng còn dấu ai được nữa. Không hiểu tôn tính đại danh các vị, đa tạ … đa tạ đã cứu viện, ôi, đệ tử Cái Bang tàn sát lẫn nhau, xem ra không bằng võ lâm đồng đạo không quen không biết. Mới rồi … mới rồi nghe các vị định chôn cất các xác chết chúng tôi, bụng dạ nhân hiệp, lão này cực kỳ cảm kích…

Bao Bất Đồng nói:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Ngươi đã chết đâu, đâu đã là xác chết, chúng ta cũng chưa chôn ngươi, chẳng việc gì mà phải cảm kích.

Người ăn mày nói:

- Người trong Cái Bang tự giết lẫn nhau, đến … đến xác cũng không chôn, thế … thế thì còn nói anh em gì nữa? Nói thật đến cầm thú cũng chưa bằng …

Bao Bất Đồng toan cãi lại là cầm thú đâu có biết chôn cất lẫn nhau, thế nhưng Mộ Dung Phục đã đưa mắt lườm y một cái, y liền ngưng lại không dám nói nữa.

Lão ăn mày nói tiếp:

- Lão nhi xin các vị đem tin đến … đến Ngô trưởng lão của tệ bang, nói rằng tân bang chủ Trang Tụ Hiền tiểu tử đó chỉ là cái bung xung, mọi … mọi việc đều do tên gian tặc … Toàn Quan Thanh giựt giây. Bọn tôi không phục gã họ Trang làm bang chủ, Toàn Quan Thanh phái … phái người đến giết … giết chúng tôi. Bọn chúng lại định đến thanh toán Ngô trưởng lão, vậy xin lão nhân gia … hết sức cẩn thận.

Mộ Dung Phục gật đầu, nghĩ thầm: “Thì ra là thế”. Y bèn nói:

- Lão huynh cứ yên tâm, tin tức đó bọn ta sẽ tìm cách đưa tới nơi, có điều Ngô trưởng lão của quí bang hiện nay đang ở nơi nào?

Lão ăn mày mắt lờ đờ nhìn về phía xa xa, chậm rãi lắc đầu nói:

- Ta … ta cũng không biết nữa.

Mộ Dung Phục nói:

- Cũng không sao. Chúng tôi sẽ đem cái tin đó loan truyền rộng rãi trên giang hồ, thể nào cũng đến tai Ngô trưởng lão, không chừng Toàn Quan Thanh nghe được rồi lại không dám hạ độc thủ với Ngô trưởng lão nữa đâu.

Lão ăn mày gật đầu liên tiếp nói:

- Đúng thế! Đúng thế! Đa tạ.

Mộ Dung Phục hỏi lại:

- Tân bang chủ quí bang Trang Tụ Hiền lai lịch ra sao? Chúng tôi cô lậu quả văn, hôm nay mới nghe đến tên đó lần đầu tiên.

Lão ăn mày hậm hực nói:

- Tên đầu sắt đó …

Bọn Mộ Dung Phục đều giật mình, cùng hỏi dồn:

- Y là quái nhân đầu sắt đó sao?

Lão ăn mày đáp:

- Ta vừa mới ở Tây Hạ trở về, cũng chưa gặp tiểu tử đó bao giờ, chỉ nghe anh em trong bang kể lại, tên tiểu tử đó vốn … vốn có đội một cái lồng sắt, sau này Toàn Quan Thanh tìm cách gỡ ra cho y, khuôn mặt … ôi, còn ghê hơn cả quỉ quái. Chuyện đó cũng không đáng nói làm gì. Tiểu tử đó võ công ghê gớm lắm, mấy tháng trước đại hội Cái Bang ở Quân Sơn, tất cả suy tuyển bang chủ, tranh chấp mãi không xong, sau đành phải lấy võ công mà phân cao thấp, tên đầu sắt đó đánh chết mười một cao thủ trong bang, nên … nên được làm … làm bang chủ nhưng nhiều anh em không phục, tên gian tặc Toàn Quan Thanh … tên gian tặc Toàn Quan Thanh …

Y càng nói càng nhỏ dần, dường như sắp tắt hơi. Đặng Bách Xuyên nói:

- Lão huynh, để cho huynh đệ xem vết thương của lão huynh, mình tìm cách trị thương rồi tính sau.

Người ăn mày đáp:

- Bụng vỡ rồi, ruột cũng lòi cả ra … đa tạ, có điều …

Y nói rồi đưa tay vào bọc dường như muốn lấy ra vật gì, nhưng lực bất tòng tâm đành nói:

- Phiền … phiền ông …

Công Dã Can đoán được ý của y bèn hỏi:

- Phiền ta lấy ra vật gì, phải không?

Lão ăn mày gật đầu, Công Dã Can lập tức đưa tay vào bọc y lấy hết ra, để trên tay, nào là hỏa đao, bùi nhùi, ám khí, thuốc men, lương khô, bạc vụn các loại, đủ thứ, tất cả đều dính đầy máu me.

Lão ăn mày nói:

- Ta … ta không xong rồi. Cái trương … trương bảng văn này, hết sức quan trọng, khẩn thỉnh ân công nghĩ đến tình nghĩa giang hồ, giao cho … giao cho bất cứ một vị trưởng lão nào trong Cái Bang cũng được … nhưng đừng giao cho gã đầu sắt và … và tên gian tặc Toàn Quan Thanh. Tiểu lão nhi có ở dưới cửu tuyền, cũng còn hết sức cảm kích.

Y vừa nói vừa giơ tay run run cầm lấy trên tay Công Dã Can một xấp giấy màu vàng. Mộ Dung Phục nói:

- Các hạ cứ yên tâm, nếu vết thương của ông quả không khỏi được, cái tờ giấy gì đây, bọn ta đảm bảo sẽ giao lại cho trưởng lão quí bang.

Vừa nói vừa cầm lấy tờ giấy màu vàng. Lão ăn mày thều thào:

- Tại hạ họ Dịch, tên gọi Dịch Đại Bưu. Xin phiền … xin phiền túc hạ phao lên rằng, ta từ nước Tây Hạ trở về, đây là … đây là bảng văn kén rể của quốc vương nước Tây Hạ. Việc này … việc này quan trọng ghê gớm, có liên can đến khí vận an nguy nhà Đại Tống. Thế nhưng vừa về đến Trung Nguyên chúng tôi đã gặp gian mưu, chỉ mong gặp được Ngô trưởng lão để cho hay … cho ông ta hay, ngờ đâu … ngờ đâu không còn gặp ông ta được nữa. Chỉ mong túc hạ thương đến muôn vạn sinh linh … sinh linh … sinh linh …

Y lắp bắp nói luôn ba tiếng “sinh linh” nhưng vẫn không sao nói thêm được. Y càng gấp gáp, lại càng không nói nên lời, đột nhiên hộc ra một ngụm máu, mắt trợn ngược, bỗng thấy Mộ Dung Phục hình dung tuấn nhã, chợt nghĩ ra một người liền hỏi:

- Các hạ là ai! Có phải Cô Tô … Cô Tô …

Mộ Dung Phục đáp:

- Không sai! Tại hạ là Cô Tô Mộ Dung Phục.

Lão già ăn mày kinh hoảng kêu lên:

- Ngươi … ngươi là kẻ đại cừu của bản bang …

Y thò tay chộp lấy tờ giấy vàng trong tay Mộ Dung Phục, cố sức giựt về. Mộ Dung Phục buông tay cho y giựt lấy, nghĩ thầm: “Cái Bang một mực nghi cho ta làm hại Phó bang chủ Mã Đại Nguyên, gần đây tuy lời đồn đã bớt nhưng người này vẫn coi ta là đại cừu nhân. Y sắp chết rồi, chẳng cần tranh cãi với y làm gì nữa”.

Chỉ thấy lão ăn mày cố sức toan xé tờ giấy, đột nhiên hai chân duỗi một cái, máu chảy ọc ra rồi chết. Phong Ba Ác gỡ tay y, thấy tờ giấy đầy những chữ loằng ngoằng viết bằng son, dưới cùng đóng một dấu đỏ lớn. Công Dã Can khá thông thạo nhiều thứ tiếng, coi qua từ đầu tới cuối một lượt rồi nói:

- Quả nhiên là bảng văn chiêu phò mã của quốc vương Tây Hạ. Trong thư viết rằng:

Văn Nghi công chúa nước Tây Hạ đã đến tuổi cập kê, quốc vương muốn trưng tuyển một vị nam tử chưa vợ văn võ toàn tài, tuấn nhã anh hùng để làm phò mã, định vào ngày Trung Thu tháng tám này sẽ tuyển chọn. Bất luận nhân sĩ nước nào, tự tin rằng mình là loại nhân tài hạng nhất thì trước ngày đó cứ viết thư xin yết kiến, quốc vương sẽ cho gặp mặt. Nếu dẫu không được trúng tuyển phò mã thì cũng theo tài mà lục dụng, phong cho quan tước, còn dưới một mức thì thưởng vàng bạc …

Công Dã Can chưa đọc hết, Phong Ba Ác đđã cười sằng sặc nói:

- Cái vị nhân huynh Cái Bang này quả cũng tức cười, y lật đật mang bản văn này từ Tây Hạ chạy về, không lẽ muốn một vị trưởng lão nào trong bang đi ứng tuyển để làm phò mã Tây Hạ hay sao?

Bao Bất Đồng đáp:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Tứ đệ có chỗ chưa tường, các trưởng lão trong Cái Bang dĩ nhiên vừa già vừa xấu, thế nhưng đệ tử trẻ tuổi trong bang, thiếu gì kẻ văn võ toàn tài, thông minh anh tuấn. Nếu như có một đệ tử Cái Bang được làm phò mã Tây Hạ, Cái Bang chẳng cũng lên như diều hay chăng?

Đặng Bách Xuyên cau mày nói:

- Ta thường nghe hảo hán trong Cái Bang không màng công danh phú quí, sao cái gã Dịch Đại Bưu này lại để cho lửa tham hun đốt cõi lòng?

Công Dã Can đáp:

- Đại ca, gã này nói: “Việc này quan trọng ghê gớm, có liên can đến khí vận an nguy nhà Đại Tống”. Y lại còn nói đến sinh linh gì gì đó, chưa chắc chỉ cầu công danh phú quí cho Cái Bang không thôi đâu!

Bao Bất Đồng lắc đầu quầy quậy:

- Sai bét rồi! Không phải vậy!

Công Dã Can hỏi lại:

- Tam đệ lại có cao kiến gì khác?

Bao Bất Đồng đáp:

- Nhị ca hỏi tiểu đệ “lại có cao kiến gì khác”, chữ “lại” đó nghĩa là mỗ đã từng biểu lộ cao kiến rồi. Thế nhưng mỗ đã có cao kiến gì đâu, đủ biết nhị ca không tin rằng tiểu đệ có cao kiến. Nhị ca hỏi mỗ “lại có cao kiến gì khác” chẳng qua hàm ý muốn bảo rằng: “Bao lão tam lại định nói nhăng nói cuội gì nữa đây?”, có phải không nào?

Phong Ba Ác tuy thích đánh nhau nhưng anh em trong nhà thì lại không gây hấn, Bao Bất Đồng thích tranh biện, chẳng cần biết thân sơ tôn ti, một câu không hợp là phải cãi cho bằng được mới xong. Công Dã Can biết rõ tính nết người em kết nghĩa, chỉ mỉm cười nói:

- Tam đệ trước nay nói ra rất nhiều cao kiến, ta bảo “lại” quả thật là mong muốn ngươi nói ra cao kiến nữa.

Bao Bất Đồng lại lắc đầu:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Mỗ thấy nhị ca khi nói nhếch mép mỉm cười, ý tứ xem ra không thành thực …

Y còn đang nói, Đặng Bách Xuyên đã chặn ngang nói:

- Tam đệ, gã Dịch Đại Bưu này mang bức bảng văn kén phò mã từ nước Tây Hạ về, trịnh trọng ủy thác như thế, nhờ bọn ta mang đến cho trưởng lão Cái Bang, theo ý ngươi, y có dụng ý gì?

Bao Bất Đồng đáp:

- Cái đó tiểu đệ không phải Dịch Đại Bưu, làm sao biết được y có dụng ý gì?

Mộ Dung Phục đưa mắt nhìn Công Dã Can có ý dò hỏi xem y ý kiến ra sao. Công Dã Can mỉm cười đáp:

- Theo như ta tưởng, thì hoàn toàn khác hẳn tam đệ.

Y biết rõ dù mình nói thế nào chăng nữa, Bao Bất Đồng ắt sẽ nói ngược lại, chi bằng chặn trước là hơn. Quả nhiên Bao Bất Đồng liền kêu lên:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Lần này nhị ca đoán trật lất, tiểu đệ nghĩ hoàn toàn y chang nhị ca, không có gì khác cả.

Công Dã Can mỉm cười nói:

- Thế thì hay biết mấy!

Mộ Dung Phục nói:

- Nhị ca, theo ý anh thì là thế nào?

Công Dã Can đáp:

- Hiện thời Đại Liêu, Đại Tống, Thổ Phồn, Tây Hạ, Đại Lý năm nước sánh vai, trừ Đại Lý ở nơi hẻo lánh nam cương, không tranh giành với ai, còn lại bốn nước đều có bụng dòm ngó, thôn tính thiên hạ …

Bao Bất Đồng nói:

- Cái này nhị ca nói không phải. Nước Đại Yên ta tuy không có đất đai, nhưng công tử gia thời thời khắc khắc lúc nào cũng có chí khôi phục, biết đâu Đại Yên ta sau này sẽ chẳng có lúc trùng chấn cơ nghiệp tổ tông, trung hưng phục quốc?

Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Phong Ba Ác tất cả cùng đứng lên, thần sắc nghiêm trang trịnh trọng, cùng cất tiếng:

- Cái chí phục quốc, không lúc nào quên!

Năm người, kẻ rút yêu đao, người giơ trường kiếm, cầm binh khí để ngang trên ngực. Tổ tiên Mộ Dung Phục là họ Mộ Dung vốn thuộc bộ tộc Tiên Ti. Năm xưa khi có loạn Ngũ Hồ, họ Mộ Dung Tiên Ti xâm nhập Trung Nguyên, uy phong rất lớn, đã từng lập nên nhà Tiền Yên, Hậu Yên, Nam Yên, Tây Yên nhiều triều đại. Về sau họ Mộ Dung bị diệt vào thời Bắc Ngụy, tán loạn khắp nơi, nhưng ông cha truyền cho con cháu, đời này sang đời khác, lúc nào trong đầu cũng toan tính trung hưng phục quốc. Trải qua đời Tùy đời Đường, mỗi ngày họ Mộ Dung một suy vi, tuy cái hùng tâm tráng chí “Trùng Kiến Đại Yên” vẫn còn, viễn ảnh thừa long xem ra ngày càng mờ mịt.

Đến cuối đời Ngũ Đại, nhà Mộ Dung nảy sinh một vị võ học kỳ tài là Mộ Dung Long Thành, sáng tạo ra môn võ công cao siêu Đẩu Chuyển Tinh Di trên đời không ai địch nổi, danh dương thiên hạ. Ông ta không quên di huấn của tổ tông, tập hợp hảo hán có ý đồ phục quốc, thế nhưng thiên hạ chia lâu rồi lại hợp, Triệu Khuông Dận lập nên nhà Đại Tống, bốn bể thanh bình, lòng người quay về một mối, Mộ Dung Long Thành võ công cao cường nhưng không có cách nào xây dựng cơ sở, uất hận mà chết.

Mấy đời sau, hùng tâm và võ công của Mộ Dung Long Thành lại truyền đến Mộ Dung Phục. Đại Yên đồ mưu phục quốc, đối với Tống triều là chuyện bất đạo, làm loạn phản nghịch, tuy họ Mộ Dung lén lút qui tụ đồng đảng, gom tiền tài, tích lương thảo nhưng không dám để lộ ra ngoài chút nào. Trong võ lâm khi nói đến Cô Tô Mộ Dung chỉ biết họ võ công cực cao, hành tung ngụy bí, chẳng khác gì yêu tà. Nhà Mộ Dung trong lòng mang chí lớn, khác hẳn với hành vi của giới giang hồ, dưới mắt kẻ tầm thường coi không hợp nhãn, lại thêm môn “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân” lưu truyền, dần dần bao nhiêu tiếng ác đều đổ lên đầu họ.

Khi đó giữa nơi đồng không mông quạnh, không người nào khác, Bao Bất Đồng đề cập đến việc trung hưng Đại Yên, mọi người không ai nhịn nổi, rút kiếm đứng lên, hiên ngang khẳng khái nói toạc ý hướng của mình ra.

Vương Ngữ Yên chậm rãi quay đầu khoan thai đi ra ngoài, cách xa mọi người. Mẹ nàng xưa nay vốn phản đối âm mưu của nhà Mộ Dung tác loạn tạo phản, toan bề xưng vương xưng đế, cho rằng cái si tâm vọng tưởng của họ mấy trăm năm qua, lấy lại nước thì chẳng thấy đâu, cái họa cả họ bị rơi đầu thì ngay trước mắt. Thành thử trước nay mẹ nàng không bao giờ cho Mộ Dung Phục đặt chân vào nhà, một mình ẩn cư nơi hồ lăng hẻo lánh, không lai vãng qua lại gì với nhà Mộ Dung.

Công Dã Can nhìn theo sau lưng Vương Ngữ Yên nói:

- Liêu Tống hai nước chinh chiến liên miên, Đại Liêu tuy thắng thế thật nhưng muốn diệt nước Tống thì không sao làm nổi. Tây Hạ, Thổ Phồn hùng cứ biên thùy phía tây, nước nào cũng có hùng binh mấy chục vạn, bất luận nếu đem binh trợ Liêu thì Tống triều ắt sẽ lâm nguy, còn nếu giúp Tống thì nước Liêu có chiều vong quốc.

Phong Ba Ác lớn tiếng nói:

- Nhị ca nói có lý lắm. Cái Bang đối với Tống triều vốn dĩ một dạ trung thành, gã Dịch Đại Bưu đem bảng văn về, chắc mong mỏi Đại Tống có một thanh niên anh hùng nào sang ứng tuyển phò mã Tây Hạ. Nếu như Tống Hạ hai nước liên minh thì ắt sẽ thành thiên hạ vô địch.

Công Dã Can gật đầu nói:

- Quả là thiên hạ vô địch nhưng không phải chỉ có thế mà thôi đâu. Bất quá Đại Tống tài nguyên phong túc, Tây Hạ binh mã tinh cường, một khi hai nước liên binh, Đại Liêu, Thổ Phồn không địch nổi đã đành, cái nước Đại Lý nhỏ bé kia hẳn là không đáng nói tới nữa. Cứ như ta suy đoán, Tống Hạ liên binh rồi, bước thứ nhất là thôn tính Đại Lý, bước thứ hai mới tấn công nước Liêu.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Cái tính toán của Dịch Đại Bưu e rằng thật là như thế, thế nhưng Tống Hạ liên hôn, đâu có dễ dàng. Liêu quốc, Thổ Phồn, Đại Lý nghe tin, thể nào chẳng tìm cách phá hoại.

Công Dã Can nói:

- Không phải chỉ tìm cách phá hoại mà nước nào chẳng muốn lấy được cô công chúa đó.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Không biết cô công chúa Tây Hạ kia xấu hay đẹp, tính tình có hòa nhã, hay lại ngang ngược dữ dằn.

Bao Bất Đồng cười ha hả nói:

- Đại ca việc gì mà phải lo chuyện đó, không lẽ đại ca muốn sang Tây Hạ cầu hôn, định làm phò mã hay sao?

Đặng Bách Xuyên cười:

- Nếu như Đặng đại ca nhà ngươi mà trẻ lại hai chục tuổi, võ công cao gấp mười, đẹp trai gấp trăm, thì ta lập tức chạy đến Tây Hạ ngay.

Y nói xong liền nghiêm mặt:

- Nước Đại Yên ta muốn khôi phục, đồ mưu đã mấy trăm năm, nhưng vẫn như tìm hoa trong gương, mò trăng đáy nước, khó mà thành công. Nói cho cùng, chẳng qua cũng bởi mình không có một nơi nào có thế lực để nhờ cậy. Nếu như nước Tây Hạ là chỗ thân gia với nhà Mộ Dung thì một khi ta ở Trung Nguyên giương ngọn nghĩa kỳ, viện binh Tây Hạ liền gửi qua ngay, liệu đại sự có thành hay không?

Công Dã Can nói:

- Đúng thế! Ngày trước thời Xuân Thu, hai nước Tần Tấn đời đời lấy lẫn nhau, Tấn công tử Trùng Nhĩ mất nước, phải lưu vong bên ngoài, Tần Mục Công phát binh giúp Tấn, sau thành nghiệp bá cho Tấn Văn Công.

Bao Bất Đồng vốn dĩ chuyện gì cũng phải cãi chầy cãi cối một phen mới xong, thế nhưng bây giời nghe Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can hai người nói chuyện, lại cứ liên tiếp gật gù, nói:

- Không sai! Nếu như việc này giúp cho Đại Yên chúng ta trung hưng phục quốc, thật không kể gì công chúa Tây Hạ xấu hay đẹp, tốt hay xấu, miễn là cô nàng chịu lấy Bao lão tam, thì dù có là con lợn sề, Bao lão tam này cũng nhắm mắt lấy bừa cho xong.

Mọi người ai nấy cười sằng sặc, đồng thời đưa mắt nhìn Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục hiểu rõ ràng, bốn người muốn mình đi qua Tây Hạ, ứng tuyển phò mã. Nói đến tuổi tác tướng mạo, văn tài võ công, thật quả đương thế chưa chắc có thanh niên nào hơn được mình. Nếu mình đi qua Tây Hạ cầu thân, mười phần cũng có hi vọng bảy tám. Thế nhưng nếu quốc vương Tây Hạ lại chọn theo gia thế môn đệ, tuy mình dòng dõi vương tôn qúi tộc Đại Yên, nhưng dẫu sao cũng đã suy bại từ lâu, ở Đại Tống chỉ là một người áo vải, nếu như Đại Tống, Đại Lý, Đại Liêu, Thổ Phồn các nước đều gửi thân vương công hầu sang cầu hôn, mình chỉ là một chân bạch đinh không tước lộc, chẳng thể nào sánh với người ta được. Nghĩ đến chuyện đó, quay sang nhìn trương bảng văn.

Công Dã Can theo y đã lâu, có thể đoán được tâm ý Mộ Dung Phục, bèn nói:

- Trên bảng văn nói rất rõ ràng, kẻ ứng tuyển không kể tước lộc môn đệ mà chỉ xem nhân phẩn tài năng. Khi thành phò mã rồi thì tước vị cũng đi theo, còn như nhân phẩm tài năng dẫu có thánh chỉ cũng không ban cho được. Công tử gia, cái hùng tâm của họ Mộ Dung mấy trăm năm qua, muốn … muốn vào tay công tử …

Y nói đến mấy câu cuối, tâm thần khích động, giọng thành run run. Bao Bất Đồng nói:

- Công tử gia nếu làm Tấn Văn Công thì bốn anh em ta cũng thành Hồ Mao, Hồ Yển, Giới Tử Thôi …

Y chợt nhớ ra Giới Tử Thôi sau này bị Tấn Văn Công phóng hỏa cho chết cháy, việc đó quả là bất tường, lập tức ngưng bặt. Mộ Dung Phục sắc mặt trắng bệch, ngón tay rung rung, y biết đây quả là một lương cơ nghìn năm khó gặp, xưa nay công chúa trưng hôn, đều do đại thần được vua sai đi làm mai mối, tuyển chọn trong đám đệ tử công thần thế gia, phong cho làm phò mã, chứ chẳng đời nào trương bảng bố cáo cho bàn dân thiên hạ, công khai kén rể bao giờ. Y không tự chủ nổi nhìn về phía sau lưng Vương Ngữ Yên, thấy nàng đứng dưới một tàn cây liễu, đưa tay cầm một cành liễu rủ xuống, mắt nhìn vào dòng sông, áo quần đơn bạc, trông thật tội nghiệp.

Mộ Dung Phục biết rằng biểu muội từ tấm bé đã nặng tình với mình, tuy rằng bà mợ với cha mẹ mình không hoà thuận, nhiều lần ngăn trở không cho hai người gặp nhau, thế nhưng nàng là một cô gái mảnh mai không biết võ công, vậy mà dám liều lĩnh ra đi, lưu lạc giang hồ để đi tìm mình, cái tình ý đó quả thực trên đời hiếm có.

Mộ Dung Phục bôn tẩu bốn phương, chỉ một lòng mong trung hưng phục quốc, đến cả võ công cũng chẳng mấy chuyên tâm, còn chuyện nhi nữ chi tình lại càng coi nhẹ. Thế nhưng biểu muội đối với mình một lòng quyến luyến như thế, lẽ nào lại không động tâm?

Nay bỗng nhiên muốn bỏ nàng mà đi kiếm một cô công chúa chưa từng gặp mặt để cầu hôn, tuy đó là chuyện ắt phải như thế nhưng cũng không khỏi thấy mình bất nhẫn.

Công Dã Can tằng hắng một cái nói:

- Công tử, từ xưa đến nay những người muốn thành đại sự không nề tiểu tiết, đại anh hùng đại hào kiệt đều phải qua được cái cửa “tình”.

Bao Bất Đồng cũng tiếp theo:

- Một khi Đại Yên khôi phục được rồi, công tử trở thành trung hưng chi chủ, tam cung lục viện thì có ai nói gì được? Tây Hạ công chúa là chính cung nương nương, còn vị Vương gia biểu cô nương kia, phong nàng làm tây cung nương nương là xong. Lúc đó công tử có thương mến, sủng ái nàng thì còn ai dám nói năng gì?

Y bình thời chỉ luôn luôn cà khịa với người khác, lúc này thương lượng đại sự, nói năng mạch lạc đâu ra đấy. Mộ Dung Phục gật đầu, nghĩ đến cha mình trước kia luôn luôn dặn dò, ngoài việc trung hưng Đại Yên trên đời không còn việc gì quan trọng nữa, nếu vì đại nghiệp thì dẫu có phải giết cha giết anh cũng không từ, con cái đệ tử cũng không tha, dù người chí thân hay bạn bè cũng tru sát, chuyện tình ái gái trai lại càng không coi vào đâu. Vương Ngữ Yên tuy đối với mình một mối thâm tình, nhưng mình chỉ coi nàng như cô em nhỏ, không có chỗ nào đặc biệt, dẫu rằng trong lòng vẫn đinh ninh sẽ lấy biểu muội làm vợ, nhưng bình thời chẳng mấy khi nghĩ đến chuyện này, vì y vẫn coi đó là chuyện ắt phải là như thế, chẳng cần nghĩ ngợi gần xa. Chỉ cần đại sự hoàn thành, đúng như Bao Bất Đồng nói, tương lai biểu muội làm phi làm tần mình sủng ái hơn một chút là xong.

Y hơi trầm ngâm một chút, bèn gạt Vương Ngữ Yên qua một bên nói:

- Các vị nói có lý lắm, đây quả là một dịp may để phục hưng Đại Yên, có điều đại trượng phu nói phải giữ lời, bảng văn này, mình phải đưa đến tận tay Cái Bang mới được.

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Đúng thế! Không nói gì trong Cái Bang chẳng có mặt nào có thể sánh với công tử gia được, dẫu có kình địch thực sự, chúng mình cũng không nên tư tàng bảng văn, làm chuyện hèn hạ đáng khinh như thế.

Phong Ba Ác nói:

- Cái đó đương nhiên rồi. Đại ca, nhị ca bảo vệ công tử gia đi Tây Hạ cầu thân, tam ca và mỗ đem bảng văn này cho Cái Bang. Từ nay đến rằm tháng tám, thời gian còn dài, Cái Bang nếu muốn kiếm người thì cũng còn kịp, chẳng có thể nói mình hớt tay trên.

Mộ Dung Phục nói:

- Chúng ta hành sự phải cho quang minh lỗi lạc, cứ để ta tự tay đưa đến cho các trưởng lão Cái Bang, sau đó hãy đi Tây Hạ.

Đặng Bách Xuyên vỗ tay nói:

- Lời của công tử gia phải lắm. Mình nhất định không để ai có cơ dè bỉu sau lưng được.

Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác ba người đều gật đầu khen phải, sau đó cùng nhau chôn cất những người trong Cái Bang. Mộ Dung Phục vẫy Vương Ngữ Yên lại gần nói:

- Biểu muội, những đệ tử Cái Bang đây bị người ta giết, bên trong có liên quan đến một việc hệ trọng, ta phải đích thân đến tổng đà Cái Bang. Ta nghĩ nên đưa cô về Mạn Đà Sơn Trang trước.

Vương Ngữ Yên hoảng hốt, dãy nảy lên:

- Em … em không về nhà đâu, mẹ em thấy em thể nào cũng giết em mất.

Mộ Dung Phục cười nói:

- Mặc dù cô mẫu nóng tính nhưng chỉ có một mụn con, lẽ nào lại giết cô bao giờ? Cùng lắm mắng mỏ vài câu thôi.

Vương Ngữ Yên ấp úng:

- Không … không đâu! Tiểu muội không về đâu. Để em theo biểu huynh đi gặp Cái Bang.

Mộ Dung Phục đã quyết ý đi Tây Hạ cầu hôn, trong bụng không khỏi xốn xang, nghĩ thầm: “Thôi tạm thời cứ chiều theo ý nàng, để rồi tính sau”. Y bèn nói:

- Thế cũng được! Cô là con nhà khuê các, theo bọn ta luân lạc giang hồ, xem ra không ổn, tổng đà Cái Bang cô chẳng nên tới làm gì. Nếu cô không muốn quay về Mạn Đà Sơn Trang, chi bằng đến Yến Tử Ổ nhà ta ở tạm vậy, khi nào việc xong, ta sẽ về thăm cô, được chăng?

Vương Ngữ Yên mặt mày bẽn lẽn, mừng thầm trong bụng. Trong đời nàng chỉ có một nguyện vọng là được thành hôn với biểu ca, sống với nhau ở Yến Tử Ổ, bây giờ Mộ Dung Phục bảo nàng về đó, tuy chưa chính thức ngỏ lời nhưng sự tình cũng rõ như ban ngày rồi. Nàng chẳng nói bằng lòng hay không, chỉ e thẹn cúi đầu, mắt long lanh một niềm sung sướng lạ lùng.

Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can nhìn tới, thấy chuyện đánh lừa cô gái thiên chân lạn mạn này trong lòng vô cùng áy náy. Bỗng nghe bộp một tiếng, Phong Ba Ác tự tay vả mình một cái thật mạnh. Vương Ngữ Yên ngẩng đầu lên, lạ lùng hỏi:

- Phong tứ ca làm gì thế?

Phong Ba Ác đáp:

- Có … có con muỗi chích mồm ta.

Sau đó cả sáu người đi về hướng đông. Đi chưa được hai ngày đã thấy Đoàn Dự cười khúc khích từ sau chạy tới nói:

- Chao ôi! Quả là khéo thật, Mộ Dung công tử, Đặng đại gia, Công Dã nhị gia, Bao tam gia, Phong tứ gia, Vương cô nương, lại gặp các vị rồi. Tôi cũng đang về hướng đông, thôi mình đi chung một đoàn vậy, trên đường càng vui.

Bao Bất Đồng đối với chàng tuy ghét bỏ nhưng Đoàn Dự trước sau đã từng cứu mạng Phong Ba Ác, Vương Ngữ Yên nên không tiện xua đuổi, đi đường lạnh nhạt mỉa mai, có điều Đoàn Dự nghe mà bỏ ngoài tai, làm như không biết.

Đoàn người lại nhận được tin, Cái Bang và Thiếu Lâm hai phái tranh đoạt chức minh chủ võ lâm. Mộ Dung Phục và bọn Đặng Bách Xuyên mới bàn nhau, nếu như Cái Bang và Thiếu Lâm hai bên giao chiến đến thành lưỡng bại câu thương, nhà Mộ Dung sẽ thành ngư ông đắc lợi, đoạt được danh hiệu minh chủ võ lâm không chừng, dùng nó để hiệu lệnh hào kiệt giang hồ thì quả là một cơ duyên để khởi sự, không thể nào bỏ qua cho được, thành thử vội chuyển qua đi về hướng chùa Thiếu Lâm. Ngờ đâu vừa đến chân núi Thiếu Thất, lại đụng đầu Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu.

Mấy tháng qua, Đinh Xuân Thu đại khai môn hộ, thu nhận đệ tử rất đông, không kể hắc đạo lục lâm, bàng môn yêu tà, hễ ai chịu đến làm môn hạ, nghe hiệu lệnh của lão là nhận ngay không cự tuyệt, thành thử chỉ trong vài tháng, bọn thổ phỉ giang hồ Trung Nguyên tranh nhau đến đón ở bên đường đông như kiến cỏ.

Trong cuộc cờ của Tô Tinh Hà, Mộ Dung Phục bị Đinh Xuân Thu làm hại, kế đến đại chiến nơi khách điếm, may mà chạy thoát, lần này gặp lại, thấy đối phương đồ đảng ùn ùn kéo tới, trong bụng cũng e ngại thầm. Thế nhưng Phong Ba Ác lại là kẻ trời không sợ, đất không kiêng, mới hai ba câu đã xông ngay vào đánh với bọn môn đệ Tinh Tú Lão Quái. Đoàn Dự toan dẫn Vương Ngữ Yên tránh ra, nhưng cô nàng lo lắng cho biểu ca, không chịu rời xa. Đồ đệ của phái Tinh Tú tràn lên như nước triều, lập tức vây chặt bọn Mộ Dung Phục lại.

Đoàn Dự thi triển Lăng Ba Vi Bộ, tránh các môn nhân phái Tinh Tú bất chợt nghe tiếng của phụ thân vội chạy vào chùa tương kiến, đến khi nghe Diệp Nhị Nương nói rằng Mộ Dung Phục bị đánh không còn hơi sức đâu mà chống trả, nghĩ thầm: “Ta phải cõng Vương cô nương chạy ngay mới được”, lập tức chạy như bay xuống.

YÊN VÂN THẬP BÁT PHI KỴ

BÔN ĐẰNG NHƯ HỔ PHONG YÊN CỬ

Yên vân ngựa chạy như tên,

Lung linh sương khói đến bên chân đồi.

Trên lưng tráng sĩ ai ngồi,

Hùm beo xuống núi vẫn đầy uy nghi.

*

* *

Đinh Xuân Thu sát hại Huyền Thống, Huyền Nạn nhị tăng, là đại cừu của phái Thiếu Lâm. Quần tăng nghe nói y đã đến núi Thiếu Thất lập tức nhao nhao cả lên. Huyền Sinh quát lớn:

- Hôm nay mọi người ai cũng phải gắng hết sức, bắt sống cho bằng được lão quái, để báo thù cho Huyền Nạn, Huyền Thống hai vị sư huynh.

Huyền Từ cũng sang sảng nói:

- Người xa đến là khách, mình phải tiên lễ hậu binh.

Quần tăng cùng đáp:

- Tuân lệnh!

Huyền Từ lại tiếp:

- Các vị sư huynh, các vị bằng hữu, chúng ta cùng ra xem cao chiêu của Tinh Tú Lão Quái và họ Mộ Dung, liệu có được chăng?

Quần hùng vốn dĩ đang sốt ruột mà chưa biết làm thế nào, trông chờ câu này từ nãy giờ. Những thanh niên anh hào vai vế hơi thấp một chút, tính tình bộp chộp lập tức túa ra như đàn ong. Sau đó là Tứ Đại Ác Nhân, hảo hán các lộ, họ Đoàn Đại Lý, cao tăng các chùa, cùng nhau ùn ùn đi ra. Chỉ nghe tiếng loảng xoảng leng keng liên tiếp, những người chữ Tuệ trong phái Thiếu Lâm mang binh khí ra cho sư phụ, sư thúc, sư bá.

Huyền, Tuệ, Hư, Không bốn đời tăng chúng ai nấy cầm binh khí, xếp thành hàng đội đi ra khỏi chùa. Vừa đến sơn môn, những sư sãi được chỉ định canh gác ở lưng chừng núi chạy lên báo:

- Đồ chúng phái Tinh Tú hơn nghìn người, ở lương đình giữa núi đang vây đánh bọn Mộ Dung công tử, hiện còn ác đấu.

Huyền Từ gật đầu bước ra ngoài con đường lát đá nhìn xuống dưới, thấy lố nhố đầy những đầu người, xem chừng chẳng phải chỉ hơn nghìn người mà thôi đâu. Trong tiếng quát tháo, theo gió bay lên:

- Tinh Tú lão tiên hôm nay đích thân đốc chiến, dĩ nhiên bách chiến bách thắng.

- Chúng bay chỉ là mấy đứa yêu ma tiểu xú, dám ương ngạnh chống lại lão tiên, quả thực to gan lớn mật!

- Mau mau quăng bỏ binh khí, lạy lục lão tiên tha mạng đi thôi!

- Tinh Tú lão tiên giá lâm núi Thiếu Thất, chỉ cần di đầu ngón tay là chùa Thiếu Lâm đổ ngay lập tức.

Những đệ tử mới gia nhập chưa học được bản lãnh gì thì phải học thói xu nịnh sư phụ trước, thành thử hơn nghìn người gào lên nghe điếc cả tai, trên núi Thiếu Thất chỉ nghe rặt giọng ca công tụng đức. Chùa Thiếu Lâm xây dựng đã nghìn năm nay , bao nhiêu đời toàn thể tăng chúng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” gom cả lại, xem ra cũng chưa bằng đám đệ tử phái Tinh Tú đang rầm rĩ ca ngợi sư phụ. Đinh Xuân Thu vuốt chòm râu bạc, mắt lim dim, vừa phởn phơ, vừa lơ mơ đầy vẻ say sưa.

Huyền Sinh vận khí vào đan điền, lớn tiếng quát:

- Kết La Hán Đại Trận!

Năm trăm tăng nhân đáp lời nhắc lại:

- Kết La Hán Đại Trận!

Áo đỏ thấp thoáng, áo xám dật dờ, năm trăm tăng nhân đội chạy bên đông, đội chạy bên tây, túa ra đầy khắp mọi nơi. Quần hùng nghe tiếng La Hán Đại Trận từ lâu nhưng hơn một trăm năm qua, chùa Thiếu Lâm chưa từng thi diễn cho người bên ngoài thấy, ngoài tăng nhân bản tự, chưa một ai được xem qua.

Bấy giờ mới thấy quần tăng áo mũ chia theo từng màu, kẻ đỏ người xám, kẻ vàng người đen, binh khí cũng khác nhau, hoặc đao hoặc kiếm, hoặc trượng hoặc sạn, ai nấy chạy băng băng, trong khoảnh khắc đã vây chặt phái Tinh Tú vào giữa.

Phái Tinh Tú đông hơn phái Thiếu Lâm nhiều nhưng đại đa số là đệ tử mới thu ô hợp, đánh lẻ một mình thì cũng còn có chút bản lãnh, thế nhưng hợp chiến thành trận như thế này thì chưa từng trải qua bao giờ, thành thử ai nấy cuống quít, hoảng loạn, tiếng ca tụng Tinh Tú Lão Tiên nghe giảm hẳn đi, lắm người im bặt, trong bụng đã tính chuyện chuyển sang ca tụng “Thiếu Lâm thần tăng”.

Huyền Từ phương trượng nói:

- Tinh Tú phái Đinh tiên sinh giá lâm núi Thiếu Thất, ấy là gây hấn với phái Thiếu Lâm. Các lộ anh hùng, xin mời dựa tường đứng coi, xem chùa Thiếu Lâm đối địch với cao nhân phương Tây được chăng?

Các lộ anh hùng Hà Sóc, Giang Nam, Xuyên Thiểm, Hồ Quảng liền nhao nhao lên:

- Tinh Tú Lão Quái làm hại võ lâm, tất cả chúng ta ai ai cũng là kẻ thù, phải tru sát tên khốn kiếp đó mới được.

Mọi người rút phắt binh khí ra, toan cùng phái Thiếu Lâm chung vai giết giặc. Khi đó Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên cả bọn đã giết được đến hơn hai chục môn nhân Tinh Tú, lại thấy đại viện đến nơi, lập tức nhảy ra ngoài mấy trượng, tạm thời ngừng tay không đấu nữa còn người phái Tinh Tú trong bụng cũng chột dạ không dám tiến lên.

Đoàn Dự lạng bên đông, lách bên tây xông vào trong đám người, chạy đến bên cạnh Vương Ngữ Yên nói:

- Vương cô nương, khi nào tình thế trở nên hung hiểm, tôi lại cõng cô chạy ra.

Vương Ngữ Yên bẽn lẽn nói:

- Tôi nào có bị thương, cũng chẳng bị người ta điểm huyệt, tôi … tôi tự mình đi được rồi …

Nàng đưa mắt liếc Mộ Dung Phục, nói thêm:

- Biểu ca tôi võ công cao cường, thừa sức bảo hộ cho tôi. Đoàn công tử, công tử nên ra khỏi đây đi.

Đoàn Dự thấy trong lòng chán chường, nghĩ thầm: “Ta làm gì có bản lãnh, so với biểu ca cô ta sao được?”. Thế nhưng bảo chàng đi ra thì lại lưu luyến không muốn rời, lầu bầu nói:

- Cái đó … cái đó … A, này Vương cô nương, cha tôi đến rồi, cũng ở bên ngoài kia.

Chàng cùng Vương Ngữ Yên bao lần cùng chung hoạn nạn, đã từng đi với nhau những quãng dài, ở cạnh nhau không phải là ít, thế nhưng Đoàn Dự chưa từng nói cho nàng hay thân thế lai lịch của mình thế nào. Trong mắt chàng, Vương Ngữ Yên là tiên trên trời, còn mình chỉ là kẻ phàm phu tục tử, chàng vốn dĩ chưa từng coi cái vị vương tử là vinh, huống chi dưới mắt thiên tiên, con vua cháu chúa hay dân ngu khu đen thì có khác gì nhau?

Vương Ngữ Yên thấy Đoàn Dự mấy lần chẳng kể tính mạng cứu mình, trong bụng cũng có lòng cảm mến cái thành tâm của anh chàng. Tuy nàng cảm kích thật nhưng xưa nay không để hình bóng Đoàn Dự trong lòng, chỉ coi như một gã đồ gàn học được bộ pháp xảo diệu, có chút khí công kiếm pháp lúc được lúc không, lại sợ biểu ca để bụng nên muốn chàng đi càng xa càng tốt. Bấy giờ nghe anh ta nói gia gia đã đến đây, cũng hơi tò mò bèn hỏi:

- Lệnh tôn từ Đại Lý đến đấy ư? Hai cha con đã lâu lắm không gặp nhau, có phải không?

Đoàn Dự vui mừng nói:

- Đúng thế! Vương cô nương, để tôi đưa cô đến gặp cha tôi nhé? Cha tôi gặp cô hẳn là thích lắm.

Vương Ngữ Yên mặt lại đỏ lên, lắc đầu:

- Tôi không gặp đâu.

Đoàn Dự hỏi:

- Sao lại không gặp?

Chàng thấy Vương Ngữ Yên không trả lời, lại muốn nàng vui bèn nói tiếp:

- Vương cô nương, người anh kết nghĩa Hư Trúc của tôi cũng ở đây nữa, y lại đi tu rồi. Lại thêm cả đồ đệ của tôi cũng có mặt, quả thật vui quá.

Vương Ngữ Yên biết đồ đệ của anh chàng là Nam Hải Ngạc Thần, thế nhưng tại sao y lại thu ác nhân đứng thứ ba có cái danh Hung Thần Ác Sát kia làm đồ đệ, thì xưa nay nàng chưa từng hỏi, nghĩ đến Nam Hải Ngạc Thần hình thù quái dị, bất giác nhếch mép nở một nụ cười. Đoàn Dự thấy mình làm cho nàng vui, trong lòng mừng lắm, tuy lúc này đang bị người của phái Tinh Tú vây quanh nhưng được Vương Ngữ Yên ban cho vài câu thì việc có tày trời chàng cũng chẳng coi vào đâu.

Quần tăng Thiếu Lâm bày La Hán Đại Trận xong, bên trái bên phải hai cánh bảo vệ, đằng trước đằng sau hai mặt tiếp ứng. Có mấy tên môn nhân phái Tinh Tú xông qua hướng tây, chỉ vừa giao phong đã lập tức bị thương. Đinh Xuân Thu nói:

- Tất cả tạm thời đừng động thủ vội.

Y lớn tiếng nói:

- Huyền Từ phương trượng, phái Thiếu Lâm nhà ngươi tự xưng là thủ lãnh võ lâm Trung Nguyên, thế nhưng dưới mắt ta, thật chẳng đáng quái gì cả.

Các đệ tử của y liền nhao nhao phụ họa:

- Đúng thế! Tinh Tú Lão Tiên đã đến thì bọn sư sãi chùa Thiếu Lâm chết không có đất mà chôn.

- Võ công các môn các phái trong thiên hạ đều phát nguyên từ phái Tinh Tú mà ra, chỉ có phái Tinh Tú võ công mới là chính thống, còn ngoài ra đều là tà ma ngoại đạo hết ráo.

- Các ngươi không học võ công phái Tinh Tú, chẳng qua chỉ là quỉ trâu thần rắn, rồi cũng sẽ bị diệt vong.

Đột nhiên có kẻ cao giọng hát lên:

Phái Tinh Tú lão tiên xuất thế,

Tài đức kia như thể đất trời.

Uy danh lừng lẫy cõi đời,

Cổ kim chưa có ai người sánh ngang.

Hơn nghìn người cùng một giọng phụ họa, lại có kẻ lấy thanh la não bạt, đàn sáo trống chiêng ra, kẻ thổi người gõ, thật là náo nhiệt. Quần hùng xưa nay chưa từng thấy phái Tinh Tú diệu võ dương oai, ai nấy vừa ngạc nhiên, vừa nực cười.

Trong tiếng trống chiêng tơ trúc, bỗng từ chân núi vọng lại tiếng vó ngựa dồn dập. Tiếng khua mỗi lúc một dòn, chẳng mấy chốc thấy bốn lá cờ vàng lớn từ sườn núi hiện lên, bốn con ngựa chạy lên núi, người cưỡi mỗi người cầm một cây cờ, đón gió bay phần phật. Bốn lá cờ vàng đều viết năm chữ đen lớn:

Cái Bang Bang Chủ Trang

Bốn kỵ sĩ đó dừng ngay ở sườn núi, nhảy xuống ngựa, cắm lá cờ nơi cao nhất ở ngang vách đá. Cả bốn đều mặc theo lối Cái Bang, lưu đeo bị vải, tay cầm cán cờ không nói không rằng. Quần hùng đều nói:

- Bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền đến rồi đây!

Mọi người thấy thanh thế bốn gã cầm cờ vàng đầy vẻ ngạo nghễ, thân pháp nhanh nhẹn nhẹ nhàng, so với bọn đồ đệ phái Tinh Tú khoe tài khoe mẽ, tự nhiên ai nấy cảm thấy có phần nể vì. Cờ vàng vừa dựng lên, khoảng một trăm mấy chục con ngựa phóng lên núi, hơn một trăm người đầu tiên là đệ tử sáu túi, ngoài ra là mấy chục người đệ tử bảy túi, hơn chục đệ tử tám túi. Dưới một chút là bốn người trưởng lão trên vai chín túi, tất cả không nói không rằng nhảy xuống ngựa, chia ra làm hai hàng. Người trong Cái Bang trừ khi có việc khẩn cấp, không bao giờ cưỡi ngựa ngồi xe, bây giờ thấy dương uy như thế quả không khác gì hào khách giang hồ. Nhiều kỳ túc trong võ lâm thấy thế, không khỏi thầm lắc đầu.

Lại nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, hai con ngựa màu trắng xám khỏe mạnh chạy đến. Bên trái là một thiếu nữ mặc áo màu tím, xinh đẹp nho nhã nhưng đôi mắt vô quang. Nguyễn Tinh Trúc trông thấy lập tức kêu lên:

- A Tử!

Bà ta quên rằng mình đang giả làm đàn ông, tiếng kêu buột ra là nữ thanh. Người cưỡi con ngựa bên phải mặc bách kết cẩm bào, vẻ mặt trơ trơ chẳng khác gì xác chết. Quần hùng những người kiến văn rộng rãi thoạt nhìn đã biết ngay y đeo mặt nạ da người, không muốn cho ai biết bộ mặt thật của mình, ai nấy nghĩ thầm: “Người này chắc là bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền đây! Y muốn cùng phái Thiếu Lâm tranh đoạt võ lâm minh chủ, sao lại không chịu hiển lộ chân tướng?”.

Lại cũng có người đoán ngầm: “Xem ra gã này phải là nhân vật thành danh trong võ lâm, Trang Tụ Hiền chỉ là tên giả. Y đã làm đến bang chủ Cái Bang thì đâu phải loại xoàng”. Lại có người đoán: “Xem chừng y cũng chẳng tài cán bao nhiêu, nếu đánh trận này có thua các nhà sư chùa Thiếu Lâm thì cũng dấu hình tích chạy mất để khỏi bẽ mặt”. Người khác thì đoán chừng: “Hay là y chính là tiền nhiệm bang chủ Cái Bang Kiều Phong? Y trở lại nắm đại quyền trong bang nên mới đi kiếm chùa Thiếu Lâm và quần hùng Trung Nguyên gây sự”.

Thế nhưng cũng có người từ ba chữ Trang Tụ Hiền mà liên tưởng đến Tụ Hiền Trang, nhưng lại chỉ đoán già đoán non là Kiều Phong, còn Du thị huynh đệ đã chết về tay Kiều Phong rồi, về sau đến trang viện cũng bị người ta đốt cháy thành tro, có ai lại dám nghĩ kẻ đang làm bang chủ Cái Bang chính là thiếu trang chủ Du Thản Chi.

A Tử nghe thấy tiếng mẫu thân gọi nhưng lúc này nàng đang có viêc quan trọng, chưa muốn gặp lại mẹ, ỉ ôi chuyện nọ chuyện kia nên làm như không nghe nói:

- Hiền ca, ở đây đông người quá nhỉ? Tiểu muội nghe đâu có người mới hát cái gì: “Tinh Tú Lão Tiên, đức phối thiên địa, uy chấn hoàn vũ, cổ kim vô tỉ.” Gã tiểu tử Đinh Xuân Thu với đám binh tôm tướng cá của y cũng đến đây hay sao?

Du Thản Chi đáp:

- Đúng đó! Môn hạ của y quả không phải ít.

A Tử vỗ tay reo lên:

- Thế thì hay quá! Mình đỡ phải đi xa, nghìn dặm bôn ba đến biển Tinh Tú đòi nợ máu.

Khi đó bang chúng Cái Bang đi bộ đã lục tục kéo lên núi, đều là năm túi, bốn túi, ba túi chia thành hàng lối đứng sau lưng Du Thản Chi và A Tử. A Tử quay lại vẫy tay, hai tên đệ tử Cái Bang lấy trong bọc ra món gì đó màu tím, buộc vào gậy, vung lên, thì ra đó là hai lá cờ lớn, mở bung ra trên không, mỗi lá cờ thêu sáu chữ đỏ chót như máu:

Tinh Tú Phái Chưởng Môn Đoàn

Hai là cờ tím đó trương lên rồi, các môn nhân phái Tinh Tú đều rối loạn, lập tức có kẻ kêu lên:

- Chưởng môn phái Tinh Tú là Đinh lão tiên, bốn bể ai chẳng biết, sao lại có đứa nào họ Đoàn đòi làm chưởng môn nhân?

- Chỉ nhận càn, thật không biết thẹn.

- Chức vị chưởng môn đâu phải tự phong là được?

- Đứa tiểu yêu nào tự xưng là chưởng môn phái ta, có giỏi thì đứng ra, ông không băm vằm như tương chớ kể làm người!

Những kẻ nói đó đều là những môn nhân mới thu của phái Tinh Tú, còn như Sư Hống Tử, Thiên Lang Tử những người cũ, ai cũng biết lai lịch của A Tử, nghĩ bụng cô nàng có Kiều Phong đứng sau lưng, không khỏi kinh sợ.

Những nhà sư và các anh hùng tục gia thấy tự nhiên xuất hiện thêm một chưởng môn phái Tinh Tú, không khỏi ngạc nhiên, nhưng cũng mừng thầm trong bụng, phen này bọn tà ma sâu từ trong ruột sâu ra quả hay biết chừng nào.

A Tử vỗ tay ba lượt, lớn tiếng nói:

- Môn hạ đệ tử phái Tinh Tú nghe đây: Bản phái xưa nay có qui củ, chức vị chưởng môn nhân, ai khỏe thì được. Trong bản phái, người nào võ công cao nhất người đó được làm chưởng môn. Nửa năm trước, Đinh Xuân Thu đấu với ta bị ta đánh cho tơi bời hoa lá, quì mọp dưới đấy lạy ta mười tám cái, bái ta làm thầy, đem chức vụ chưởng môn, hai tay cung kính bưng lên dâng cho ta. Không lẽ y không cho các ngươi biết hay sao? Đinh Xuân Thu! Ngươi dám lớn mật làm càn, là đại đệ tử của bản phái, đáng lẽ phải làm gương cho các sư đệ, sao lại dám khi sư diệt tổ, dối trá các đàn em?

Giọng nào trong trẻo, từng chữ từng chữ rõ ràng, tất cả mọi người đều nghe thấy. Ai nấy kinh ngạc vạn phần, thấy nàng chỉ là một cô gái nhỏ tuổi chừng mười sáu, mười bảy, hai mắt lại lòa, sao có thể làm chưởng môn được? Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc lại càng kinh hãi. Hai người biết rằng con gái mình vốn là môn hạ của Đinh Xuân Thu, điêu ngoa cổ quái, cực kỳ bướng bỉnh, nhưng võ công chỉ bình thường, sao lại dám phản đồ vi sư, vuốt râu hùm Đinh Xuân Thu, chuyện này khó mà yên ổn. Với vài người nước Đại Lý đang ở trên núi Thiếu Thất đây, thật không sao đủ sức kháng cự lại phái Tinh Tú, cứu nàng thoát hiểm.

Đinh Xuân Thu thấy ở giữa đám đông quần hùng tụ tập, bao nhiêu con mắt người ta trông vào thế này mà A Tử dám ngang nhiên giương cờ “Tinh Tú phái chưởng môn”, thì làm sao nhịn nổi? Ông ta cơn giận bừng bừng nhưng ngoài mặt vẫn cười hì hì, ra vẻ hiều hậu từ hòa nói:

- Tiểu A Tử, chức vị chưởng môn bản phái, ai khỏe là được, ngươi nói thế quả không sai. Ngươi có bụng muốn chức chưởng môn, ắt hẳn có bản lãnh chân thực, vậy lại đây tiếp ta ba chiêu xem có được không?

Đột nhiên trước mắt hoa lên một cái, trước mặt chừng ba thước đã có thêm một người, chính là Du Thản Chi. Việc xảy ra quả là xuất kỳ bất ý, đến nhãn lực bén nhạy như Đinh Xuân Thu cũng không nhìn rõ y đến cách nào, trong bụng kinh hoảng, vội lùi lại một bước.

Y vừa lùi vừa nhảy phải đến năm thước, ngờ đâu Du Thản Chi cũng vẫn còn cách mình chừng ba thước, hẳn là khi mình nhảy lùi một bước, đối phương cũng tiến tới một bước, hiển nhiên khi y thấy mình lùi y mới tiến, đi sau mà cùng đến, không lộ hình tích, người này võ công cao cường như thế khiến cho ai nấy phải e dè.

Đinh Xuân Thu thấy khuôn mặt y vàng khè trơ trơ như gỗ đến sát mình rồi chưa kịp mở miệng hỏi: “Ta muốn tỉ võ với A Tử, can gì đến ngươi mà nhúng tay vào?” vội lùi lại thêm một bước, thò tay về sau chộp luôn một môn nhân, ném luôn vào người y.

Du Thản Chi ứng biến cực nhanh, lập tức nhảy ngược về một trượng, cũng giơ tay chộp ngay một tên đệ tử ba túi Cái Bang, vận kình ném tới. Tên đệ tử ba túi ấy chẳng khác gì một ám khí cực lớn, bay thẳng vào Đinh Xuân Thu, đụng phải gã môn nhân phái Tinh Tú giữa chừng, nghe bình một tiếng. Người ngoài nhìn thấy kình lực mạnh mẽ như thế đều nghĩ thầm: “Hai gã đệ tử này chắc hẳn đụng nhau nát xương đứt gân mà chết”.

Ngờ đâu hai người đụng nhau rồi, chỉ nghe sèo sèo mấy tiếng, rồi có mùi khét lẹt bay vào mũi khiến ai nấy muốn mửa, quần hùng vội vàng nín hơi, có người lùi lại, có kẻ đưa tay bịt mũi, có người vội uống thuốc giải, biết rằng Đinh Xuân Thu và Trang Tụ Hiền đều dùng công phu âm độc truyền lên người hai gã đệ tử. Hai người đụng nhau đã mềm nhũn rơi bịch xuống, không còn cục cựa gì, hiển nhiên chết toi rồi.

Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi trao đổi một chiêu, chưa phân được ai cao ai thấp, trong bụng đều ngán thầm, cùng lùi lại mấy thước, lại vói tay về sau chộp một tên đệ tử khác ném ra. Hai tên đệ tử lại đụng nhau trên không, phát ra mùi khét, rồi cùng chết. Hai người cùng sử dụng một môn võ công âm độc của phái Tinh Tú tên là Hủ Thi Độc, chộp một người sống ném vào địch nhân, thực ra vừa chộp được là đã khiến người kia chết rồi, chất độc trên móng tay liền truyền vào máu huyết, biến người đó thành một khối thuốc độc, địch nhân nếu như lấy tay gạt ra, thể nào cũng bị trúng phải thi độc. Dẫu có lấy binh khí đỡ, thì chất độc cũng dính vào binh khí rồi truyền vào tay. Thậm chí nếu có tránh né hay dùng võ công kiểu như Phách Không Chưởng đánh bật ra thì cũng khó mà không bị nhiễm độc.

Du Thản Chi hôm đó cùng Toàn Quan Thanh kết bạn đồng hành, bụng dạ đã ngu ngơ lại kém kinh lịch, chỉ hai ngày là Toàn Quan Thanh đã tra xét được mọi việc ngọn ngành. Toàn Quan Thanh nghĩ thầm: “Gã này nội lực tuy hùng mạnh vô tỉ, võ công lại thật tầm thường, xem ra chẳng làm được trò gì cả”. Đến sau y lại biết được A Tử là môn đồ của Đinh Xuân Thu phái Tinh Tú, y chợt nghĩ ra một mẹo bảo Du Thản Chi theo học A Tử võ công, thế nhưng trước mặt A Tử thì tâng bốc Du Thản Chi võ công trên đời hiếm có, thiên hạ vô song rồi bảo A Tử đem hết võ công ra biểu diễn để cho Du Thản Chi có dịp chỉ điểm thêm.

Du Thản Chi và A Tử đều còn trẻ, người thì si mê, kẻ lại mù lòa nên rơi ngay vào kế của y. A Tử đem võ công bản môn từng môn một ra diễn lại, lại nói rõ cách tu tập như thế nào. Môn công phu Hủ Thi Độc của Du Thản Chi chính vì thế mà học được. Yếu chỉ của công phu này toàn dùng nội lực thâm hậu để dẫn chất độc, khiến chộp vào ai là chết ngay, xác người lập tức nhiễm đầy chất độc chứ công phu vốn dĩ không có gì là kỳ diệu.

Cái đạo lý đó người nào trong phái Tinh Tú cũng biết cả nhưng chỉ vì không luyện được nội lực mạnh như thế mà thôi. A Tử khi ở ngoài thành Nam Kinh bắt được độc trùng độc xà về tu luyện nhưng đến công phu độc chưởng cũng còn chưa luyện xong thì làm sao sử dụng môn Hủ Thi Độc này được.

A Tử tuy là kẻ lanh lợi láu lỉnh nhưng mắt đã mù rồi nên không nhìn được vẻ mặt của Du Thản Chi mà tính mạng mình thì quả là do Trang công tử cứu thoát từ tay những môn hạ của Đinh Xuân Thu, lại thêm Toàn Quan Thanh mồm mép trơn như mỡ, đưa Du Thản Chi lên tận mây xanh nêu dẫu nàng thông minh tuyệt đỉnh cũng không đoán nổi vị Trang công tử võ công cái thế này lại đang học lén võ công của mình.

Mỗi khi A Tử nói ra một chiêu, Du Thản Chi lại theo đúng như thế mà thí diễn, trong người y có hàn độc của con băng tàm, lại có nội công thượng thừa của Dịch Cân Kinh, bao gồm sở trường của cả chính lẫn tà, nội lực cực kỳ hùng hậu nên chiêu nào y đánh ra cũng đều gẫy cây vỡ đá, uy lực không biết bao nhiêu mà kể, A Tử nghe thấy hết sức khâm phục. Du Thản Chi cũng truyền thụ cho nàng một số tâm pháp tu luyện Dịch Cân Kinh, A Tử theo đó mà luyện, tuy không tiến bộ bao nhiêu nhưng cũng thấy người nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, gân cốt linh hoạt, nghĩ bụng rồi cũng sẽ có lúc thần hiệu.

Khi đó Du Thản Chi cũng đã hiểu rõ thần công của mình ắt có liên hệ mật thiết với nhà sư cởi trần trong cuốn quái thư kia nên nếu muốn cho có thể khoe tài khoe mẽ với A Tử, y phải đi vào những chỗ vắng vẻ chuyên cần tập luyện. Một hôm kia, y đang theo đường những sợi chỉ trên hình vẽ luyện công, đột nhiên có một cơn gió lốc thổi bay cuốn sách ra ngoài mấy trượng. Du Thản Chi vừa quay người lại, nội tức trong kinh mạch lập tức chuyển động, ngửng đầu lên thấy cuốn sách đã lọt vào tay một nhà sư trugn niên. Du Thản Chi hoảng hốt kêu lên:

- Của tôi đó, mau trả lại …

Y nhất thời vừa kinh hãi vừa giận dữ, nội tức lập tức chạy ngược, không còn cử động gì được nữa, chỉ thấy gã hòa thượng kia cười khì khì quay mình bỏ đi khiến y càng thêm sốt ruột, chân tay mình mẩy cứng đơ như khúc gỗ.

Người đoạt cuốn Dịch Cân Kinh của y chính là Cưu Ma Trí. Y tinh thông tiếng Phạn, lại thêm thông tuệ, ngộ tính cao, khác hẳn Tiêu Phong hay A Châu chỉ giương mắt ngó mà không hiểu gì cả, Du Thản Chi lạng quạng làm ướt cuốn kinh nên hiện ra đồ hình, không thể nào sánh với y được.

Du Thản Chi phải mất đến sáu giờ sau các huyệt đạo mới giải khai, thổ ra một bụm máu, người uể oải chẳng khác gì mới ốm dậy. Cũng may là y đã luyện tập những hình vẽ trong quyển kinh mười phần cũng được sáu bảy, lại cũng đã lâu nên nhớ được hết, sau đó cứ thế mà tiếp tục luyện, nội công càng lúc càng tăng.

Sau đó Toàn Quan Thanh tìm cách gỡ cái đầu sắt cho Du Thản Chi, dùng mặt nạ da người che những lỗ hổng bị sắt nóng làm lỗ chỗ, sau đó mới đưa y đi dự đại hội Cái Bang ở Quân Sơn, Động Đình Hồ. Với nội công thâm hậu như Du Thản Chi, lại thêm võ công quái dị, trong Cái Bang nào ai có thể địch nổi, đoạt chức bang chủ dễ như chơi. Đồng thời Toàn Quan Thanh cũng chính thức trở lại Cái Bang, thăng lên chức trưởng lão chín túi. Du Thản Chi tuy là bang chủ thật nhưng mọi việc trong bang toàn do Toàn Quan Thanh sắp xếp lo liệu.

Toàn Quan Thanh thấy trong bang những trưởng lão, đệ tử không phục Du Thản Chi rất đông, trong bụng lo lắng, nhưng chẳng lẽ đem ra giết sạch, mới hiến kế tranh chức minh chủ võ lâm Trung Nguyên với phái Thiếu Lâm, để khi bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền thành thiên hạ võ công đệ nhất rồi thì với công đức uy vọng đó sẽ chế ngự được những kẻ bất bình trong Cái Bang.

A Tử tính tình ham vui, hiếu thắng, tuy đã mù nhưng vẫn chứng nào tật nấy, Toàn Quan Thanh hiến kế đó thật đúng ý nàng. Du Thản Chi cũng đâu có muốn chức võ lâm minh chủ nhưng A Tử hết sức tán thành, nên cũng đành bấm bụng tuân hành. Toàn Quan Thanh gia công tính toán bố trí mọi việc cực kỳ cẩn mật. Bao nhiêu anh hùng hảo hán các lộ đến chùa Thiếu Lâm đúng ngày rằm tháng sáu chính là do kiệt tác của y.

A Tử nghĩ bụng đã có một người thiên hạ võ công đệ nhất là Trang Tụ Hiền đỡ đầu thì còn sợ gì Tinh Tú Lão Quái, lập tức tự phong cho mình chức vụ “chưởng môn phái Tinh Tú”, sai người giương lá cờ tím, đến núi Thiếu Thất diệu võ dương oai.

Người của Cái Bang đến nơi, thấy trên núi phái Tinh Tú đông nghẹt, việc này quả là ngoài dự liệu của Toàn Quan Thanh, y liền quay sang bàn với Du Thản Chi, một khi Đinh Xuân Thu vừa mở miệng, lập tức xông ra động thủ ngay để y khỏi gây khó khăn cho A Tử.

Đinh Xuân Thu thấy đối phương lợi hại như thế, lập tức sử dụng môn võ công tối âm độc Hủ Thi Độc ra. Môn công phu này mỗi lần sử dụng đều phải hi sinh một môn đệ, nhưng đối phương dù tránh né hay đỡ gạt, đều bị thảm họa, dẫu kẻ võ công cao minh bực nào cũng chỉ còn nước thi triển khinh công tuyệt đỉnh, chạy ra ngoài mươi trượng thì mới khỏi độc thủ mà thôi. Thế nhưng hai bên giao đấu mà bỏ chạy như thế thì đâu còn là đánh nữa.

Ngờ đâu Du Thản Chi cũng học của A Tử môn công phu này, lập tức hi sinh tính mạng đệ tử Cái Bang, chống đỡ tấn công của Đinh Xuân Thu. Hai người cứ ném hết đệ tử này đến đệ tử khác, chỉ nghe bịch bịch liên tiếp, trong giây lát hai bên mỗi người đã ném chín tên đệ tử, mười tám cái xác nằm la liệt trên mặt đất, mặt mũi người nào người nấy tím ngắt, trông thật dễ sợ, không dám nhìn.

Đệ tử phái Tinh Tú ai nấy sợ chết điếng, cố hết sức tránh cho xamong sao sư phụ khỏi chộp được, nhưng miệng vẫn tiếp tục ca tụng công đức, có điều giọng lập cập run như cầy sấy, đâu còn vẻ gì hoan hô cổ võ cho sư phụ?

Đệ tử Cái Bang thấy bang chủ đột nhiên sử dụng võ công âm độc đó, tuy nói là bị bức bách phải làm thế nhưng ai nấy ngán ngẩm nghĩ thầm: “Bản bang hành sự, xưa nay lấy nhân nghĩa làm đầu, lý đâu bang chủ trước mặt anh hùng thiên hạ lại thi triển môn võ công vô lại này, có khác gì cũng cá mè một lứa với phái Tinh Tú?”. Thế nhưng cũng có người lại nghĩ: “Giá như Kiều bang chủ còn làm, thể nào cũng dùng chính đạo đối phó với tà thuật của lão quái”.

Đinh Xuân Thu vừa vói tay lại toan chộp tên đệ tử thứ mười, ngời đâu chộp phải quãng không, quay đầu lại thấy đám đệ tử đã chạy ra xa, lại nghe vù một tiếng, Du Thản Chi đã ném một người tới. Đinh Xuân Thu vừa sợ vừa tức, trong cơn nguy cấp liền nhảy vọt trở vào giữa đám môn nhân. Cái xác của gã đệ tử Cái Bang bay vụt tới, người trong phái Tinh Tú muốn bỏ chạy thì không còn kịp nữa rồi, bảy tám người chỉ kịp rú lên “Ối mẹ ơi!” thì đã bị các xác đụng phải. Cái xác người đó cực kỳ độc địa, mặt những người kia liền bao phủ một làn hắc khí, lăn ra đất, dãy dụa mấy cái rồi chết ngay.

A Tử nghe Toàn Quan Thanh đứng bên cạnh kể lại tình trạng, sướng quá cười khanh khách, kêu lên:

- Đinh Xuân Thu! Trang bang chủ là hộ pháp của chưởng môn nhân, ngươi đánh bại được y rồi sau động thủ với chưởng môn cũng chưa muộn. Thế ngươi được hay ngươi thua?

Đinh Xuân Thu giận lắm, trận vừa rồi nào phải vì mình công phu kém hơn, xem lối ném và kình lực của Trang Tụ Hiền, nội lực y mạnh thật nhưng thủ pháp lần nào cũng như lần nấy, đủ biết y chỉ học được của A Tử một chút xíu vỏ ngoài, bao nhiêu biến hóa tinh diệu đều không biết gì cả. Sở dĩ y thua cũng bởi vì đám đệ tử phái Tinh Tú sợ chết, đứa nào đứa nấy bỏ chạy cho nhanh, không khẳng khái tựu nghĩa như bọn đệ tử Cái Bang, gặp nguy không trốn tránh. Y chợt nghĩ ra một kế ngửng mặt lên trời cười ha hả.

A Tử nhíu mày hỏi:

- Cười ư? Ngươi còn cười được sao? Có gì đáng cười?

Đinh Xuân Thu vẫn cười dài liên tiếp, đột nhiên vù vù vù bảy tám tên đệ tử Tinh Tú bị y dùng liên châu thủ pháp nhanh nhẹn dị thường chộp lấy ném ra, hết đứa này tới đưa khác về phía Du Thản Chi, chẳng khác gì bắn liên châu tiễn.

Du Thản Chi nào có biết công phu Liên Châu Hủ Thi Độc, chỉ chộp được ba tên đệ tử Cái Bang ném ra, đến tên thứ tư thì vươn tay không kịp, trong cơn khẩn cấp bèn nhảy vọt lên, cách tránh né này không phải nhảy về sau, không thể tính là bỏ chạy nên không ai dám nói là đã thua.

Đinh Xuân Thu đang muốn cho y tránh né, tay trái liền vẫy một cái, A Tử kinh hoảng kêu lên, thân hình nhảy vọt về phía Đinh Xuân Thu. Người đứng chúng quanh thấy thế không khỏi thất sắc. Cầm Long Công, Khống Hạc Công các loại công phu nếu luyện đến mức thượng thừa đều có thể lăng không thu vật, nhưng có giỏi lắm cũng chỉ bắt người, đoạt binh khí trong vòng bốn năm thước. Trong võ thuật cũng có môn Cách Sơn Đả Ngưu là để hình dung cao thủ dùng Phách Không Chưởng, Vô Hình Thần Quyền sử dụng hư kình mà đả thương được người khác, nhưng dẫu có là cao thủ tuyệt đính, cũng chẳng cách nào vận nội lực ra xa đến hai trượng.

Đinh Xuân Thu lúc này ở cách A Tử đến sáu bảy trượng, vậy mà vẫy tay một cái đã khiến nàng ngã xuống ngựa, kèó lại bắt, võ công cao siêu như thế quả là ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Trong đám người vây quanh không ít cao thủ nhưng nếu so sánh chiêu này với Đinh Xuân Thu thì quả không thể nào bì kịp, ai nấy vừa kinh hãi vừa khâm phục.

Thế nhưng có ai biết đâu Đinh Xuân Thu bắt giữ A Tử nào có phải là công phu chân thực mà toàn nhờ vào Nhu Ti Sách, một trong Tinh Tú Tam Bảo. Nhu Ti Sách lấy từ tơ của con tằm tuyết ở gần bên biển Tinh Tú. Con tằm tuyết này trời sinh sống trên các cây dâu, nhỏ hơn những con tằm thường nhiều, không có độc tính nhưng nhả ra một loại tơ bền chắc hơn tơ thường, một sợi tơ cũng không dễ gì bứt đứt được. Thế nhưng giống tuyết tàm này không biết làm kén, nhả tơ rất ít lại cũng cực kỳ khó kiếm. Hôm trước A Tử dùng một chiếc lưới cá trong suốt để bắt Chử Vạn Lý, ép ông ta nhục quá phải tự tận, cái lưới đó cũng chỉ có một phần nhỏ loại tơ này. Cái lưới của Đinh Xuân Thu hoàn toàn làm bằng tơ con tuyết tàm, vửa mỏng mảnh lại vừa trong suốt, mắt thường không sao thấy được, y ném liên tiếp chín tên môn đệ lại đồng thời tung chiếc Nhu Ti Sách ra. Chín cái thây độc kia vừa đẩy Du Thản Chi phải lùi ra xa lại vừa mà mắt mọi người, khiến cho ai nấy chú ý đến Liên Châu Hủ Thi Độc nên khi Nhu Ti Sách tung ra không ai phát giác.

Đến khi A Tử thấy tơ mềm quấn quanh người mình rồi thì đã bị Đinh Xuân Thu kéo đi. Nói là Đinh Xuân Thu ma mãnh nhưng cái lưởi nhỏ và nhẹ như không ấy ném ra xa sáu bảy trượng mà các cao thủ không ai hay biết, chỉ một chiêu đã bắt được người, công lực quả thật phi phàm. Y giơ tay nắm lấy sau lưng A Tử, tay phải điểm các huyệt đạo, Nhu Ti Sách đã rút về trong tay áo rồi. Ném xác chết, tung lưới ra, vẫy tay thu về, bắt người tất cả chỉ trong vòng một tiếng cười ha hả, đến khi nắm được A Tử trong tay tiếng cười vẫn còn chưa dứt. Tiếng cười đó cũng là để dẫn dụ mọi người trong thuật che mắt của y.

Du Thản Chi còn đang ở trên không đã thấy A Tử bị bắt rồi, kinh hoàng liền tung người về trước, sáu cái xác người vùn vụt dưới chân y. Chân trái y vừa chạm đất, hữu chưởng đã đánh về phía Đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu giơ tay trái ra, lập tức đưa A Tử ra đỡ chiêu vỡ bia tan đá của Du Thản Chi. Du Thản Chi tuy võ công cao cường nhưng kinhn nghiệm ứng biến lâm địch lại hoàn toàn chưa có gì cả, thấy chưởng lực của mình ắt sẽ đánh cho A Tử tan xương nát thịt, lập tức vội thu hồi.

Thế nhưng khi y phát chưởng đã dùng toàn lực, làm sao có thể thu về một cách gấp rút? Vốn dĩ những người võ công bậc trung cũng biết được chỉ cần lệch qua một bên là sẽ không làm A Tử bị thương, có điều Du Thản Chi đối với A Tử quá mức kính yêu, vừa thấy không xong chỉ biết thu chưởng hồi lực, không còn nghĩ ngợi gì khác, đem tất cả chưởng lực thu về có khác nào dùng chưởng đó tự đánh vào ngực mình. Y lập tức loạng choạng, oa lên một tiếng hộc ra một ngụm máu tươi.

Nếu như người nội lực yếu, một chưởng đó ắt đã mất mạng rồi, thế nhưng cũng may y tu tập Dịch Cân Kinh có chút thành tựu, chưởng đó tuy chẳng nhẹ nhàng, vừa toan hít một hơi nhưng Đinh Xuân Thu đời nào để cho y có thì giờ mà thở, vù vù vù vù đánh luôn ra bốn chưởng. Nội tức của Du Thản Chi từ đan điền chưa vận lên được, chỉ đành múa chưởng đánh ra, tiếp luôn bốn chưởng, mỗi lần lại hộc máu, bốn chưởng hộc máu đen bốn lần.

Đinh Xuân Thu đắc thế đời nào nhường ai, đánh luôn chưởng thứ năm toan lấy mạng Du Thản Chi. Chỉ nghe chung quanh mấy người kêu lên:

- Đinh lão quái chớ vội hành hung!

- Ngừng tay!

- Tiếp ta một chiêu!

Huyền Từ, Quán Tâm, Đạo Thanh các vị cao tăng, luôn những anh hùng hiệp sĩ các lộ, không ai nỡ nhìn bang chủ Cái Bang chết dưới tay Đinh Xuân Thu, vừa quát mắng vừa ào ra cứu viện.

Ngờ đâu chưởng thứ năm của Đinh Xuân Thu đánh ra, Du Thản Chi trả lại một chưởng, Đinh Xuân Thu thân hình lảo đảo phải lùi lại một bước. Các cao thủ thấy thế biết ngay chiêu này Đinh Xuân Thu đã bị lép vế rồi, lập tức dừng lại không tiến lên giúp đỡ nữa. Thì ra Du Thản Chi hộc ra bốn ngụm máu bầm rồi, nội tức đã thông, chưởng thứ năm đã vận được chất kỳ độc của con băng tàm và nội công Dịch Cân Kinh ra.

Nếu Đinh Xuân Thu dùng chưởng chống lại thì không phải là địch thủ nhưng vì Đinh Xuân Thu chiếm được tiên cơ đánh Du Thản Chi bị thương rồi khiến cho nội lực của y suy giảm nhiều, nếu không song chưởng đụng nhau thể nào y cũng phải lùi lại đến năm sáu bước.

Đinh Xuân Thu trong ngực trộn trạo, những vẫn chưa chịu thua, lập tức vận đủ mười thành công lực, quát lên một tiếng, râu tóc dựng ngược, ào một chưởng đánh ra. Du Thản Chi tiến lên một bước, đón lấy chưởng của y, kêu lên:

- Mau bỏ Đoàn cô nương xuống!

Vù vù vù vù liên tiếp bốn chưởng, mỗi lần đánh ra lại tiến lên một bước. Năm bước đó tiến lên rồi, mặt đã sát ngay mặt Đinh Xuân Thu, vừa vươn tay là đã nắm được A Tử rồi. Đinh Xuân Thu chưởng lực đã không địch lại, thấy khuôn mặt như xác chết của y trong bụng cũng hoảng, mỉm cười nói:

- Ta lại sử dụng Hủ Thi Độc công phu, ngươi cẩn thận nhé.

Nói xong nhắc A Tử lên, nhứ nhứ mấy cái. Du Thản Chi vội lêu lên:

- Chớ! Chớ! Chớ có làm thế!

Giọng y run rẩy đủ biết kinh hoàng cực điểm, biết rằng nếu Đinh Xuân Thu dùng công phu Hủ Thi Độc thì A Tử sẽ thành một xác chết ngay. Đinh Xuân Thu nghe thấy giọng y hoảng hốt như thế, lập tức hiểu ngay: “Thì ra thằng nhỏ mê tít con bé thối tha này, ha ha, hay lắm, quả thực hay biết mấy”. Y bắt giữ A Tử vốn chỉ muốn xử tử nàng trước mặt mọi người để khỏi ai tranh giành chức chưởng môn phái Tinh Tú, bây giờ thấy điệu bộ của Du Thản Chi, nẩy ra ý định dùng A Tử làm con tin, hiếp chế gã bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền võ công còn cao hơn cả mình này, bèn nói:

- Ngươi không muốn nó chết phải không?

Du Thản Chi kêu lên:

- Ông … ông … ông mau thả cô ta ra, cái đó … cái đó nguy hiểm lắm …

Đinh Xuân Thu lại cười lên một tiếng nói:

- Ta muốn giết nó thật chẳng tốn chút hơi, sao lại phải thả là sao? Nó là phản đồ của bản phái, không coi tôn trưởng vào đâu, không giết thì còn giết ai bây giờ?

Du Thản Chi đáp:

- Cái đó … cái cô nương A Tử này, dù gì chăng nữa ông cũng không nên hại cô ta, ông đã làm mù mắt cô ta rồi, vậy xin, tôi van ông, thả cô ta xuống, ta … ta sẽ tạ ơn thật hậu.

Y nói năng chẳng đâu vào đâu đủ biết đối với A Tử hết sức quan tâm, thật chẳng còn vẻ gì là bang chủ Cái Bang nữa. Đinh Xuân Thu thấy y nội lực âm hàn hùng mạnh, nghe giọng nói, giống hệt gã đầu sắt, nhưng trên đầu y nào có cái lồng đâu, mà gã đầu sắt sao bây giờ lại làm bang chủ Cái Bang? Thế nhưng y không có rảnh đâu mà nghĩ ngợi bèn nói:

- Muốn ta tha cái mạng nhỏ của cô nàng thì cũng không có gì là khó, chỉ cần nghe lời ta vài việc thôi.

Du Thản Chi vội vàng đáp:

- Để tôi làm, để tôi làm! Dù có trăm việc, nghìn việc tôi cũng làm.

Đinh Xuân Thu nghe y nói thế, trong bụng mừng thầm, gật đầu nói:

- Hay lắm! Việc đầu tiên là, ngươi phải lập tức lạy ta làm thầy, từ nay thành đệ tử phái Tinh Tú.

Du Thản Chi chẳng chần chừ chút nào, quì ngay xuống nói:

- Sư phụ ở trên, đệ tử … đệ tử Trang Tụ Hiền khấu đầu.

Y trong bụng nghĩ thầm: “Ta vốn dĩ là đệ tử của ông rồi, cũng đã rập đầu rồi, có lạy thêm một lần nữa thì cũng đã sao đâu?”. Y vừa quì xuống, quần hùng đã nhốn nháo cả lên. Trong Cái Bang từ các trưởng lão đổ xuống, ai nấy phẫn nộ cùng cực, nghĩ thầm: “Bang chúng ta là đại bang số một thiên hạ, xưa nay vẫn làm chuyện hiệp nghĩa, ai đời bang chủ lại đi lạy một gã nổi tiếng tà ác làm thầy. Mình không còn có thể coi y là bang chủ được nữa”.

Bỗng nghe chiêng trống, đàn sáo nổi lên, môn nhân phái Tinh Tú lớn tiếng reo hò, tiếng ca tụng Tinh Tú lão tiên tưởng như vang lên đến chín tầng mây, bao nhiêu những lời nịnh bợ nghe mà ngứa cả tai, không một ai có thể tưởng nổi, nào là nhật nguyệt không sáng bằng Tinh Tú lão tiên, trời đất không vĩ đại bằng Tinh Tú lão tiên, từ khi họ Bàn Cổ khai thiên lập địa đến giờ, không một ai uy đức hơn lão tiên được. Chu Công, Khổng Tử, Phật Tổ, Lão Quân, chó chí Ngọc Hoàng đại đế, Thập Điện Diêm Vương cũng phải chịu lép một bề.

Khi A Tử bị Đinh Xuân Thu bắt giữ, Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc hai người tái mặt, tự biết mình bản lĩnh không địch nổi Tinh Tú Lão Quái không thể nào cứu con ra khỏi tay ông ta được, lại thấy Trang Tụ Hiền vì nàng mà uốn lưng cong gối, nghe lời sai bảo, quả thực ra ngoài ý muốn. Nguyễn Tinh Trúc vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, nói nhỏ:

- Ông xem người ta tình sâu nghĩa nặng đến thế, có đâu như ông … như ông vạn phần không được một.

Đoàn Dự đưa mắt liếc Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Ta đối với Vương cô nương một mối thâm tình, có thể nói không còn đâu hơn nữa. Thế nhưng nếu so với vị Trang bang chủ này thì còn kém xa. Y quả là bậc thánh hiền trong tình trường! Ví thử Vương cô nương bị Tinh Tú Lão Quái bắt giữ, liệu ta có dám trước đông đủ mọi người quì xuống hay không?”. Nghĩ đến đây, trong người khí huyết như sôi lên, thấy rằng vì Vương Ngữ Yên thì dù có chết vạn lần cũng cam lòng, chuyện chịu nhục trước mặt người khác thì nào có đáng gì đâu, buột miệng kêu lên:

- Dám chứ! Dám lắm chứ!

Vương Ngữ Yên lạ lùng hỏi:

- Anh dám làm gì?

Đoàn Dự mặt đỏ lên, bẽn lẽn nói:

- Ồ, cái đó …

Du Thản Chi rập đầu mấy cái rồi đứng lên, thấy Đinh Xuân Thu vẫn nắm A Tử chưa chịu thả, gương mặt cô gái nhăn lại xem chừng cực kỳ thống khổ vội nói:

- Sư phụ! Xin lão nhân gia thả nàng ra.

Đinh Xuân Thu cười khẩy nói:

- Con tiểu a đầu này lớn mật nói càn, đâu có thể dễ dàng tha cho nó được? Trừ khi ngươi lấy công chuộc tội, làm cho ta vài chuyện mà thôi.

Du Thản Chi vội đáp:

- Được, được! Sư phụ muốn đệ tử lập công lao gì?

Đinh Xuân Thu nói:

- Ngươi ra khiêu chiến với Huyền Từ phương trượng của phái Thiếu Lâm, giết quách y đi.

Du Thản Chi ngập ngừng:

- Đệ tử và phái Thiếu Lâm không thù không oán, Cái Bang tuy muốn tranh hùng cùng phái Thiếu Lâm, nhưng chắc không cần phải giết người.

Đinh Xuân Thu sầm mặt xuống, giận dữ quát:

- Ngươi chống lại sư mệnh, đủ biết lạy ta làm thầy đều chỉ là láo toét.

Du Thản Chi chỉ mong sao A Tử được bình yên thoát hiểm, nào còn lý gì đến đạo nghĩa giang hồ, thị phi công luận vội đáp:

- Vâng! Thế nhưng phái Thiếu Lâm võ công cao lắm, đệ tử hết sức mà làm … sư phụ … lời sư phụ không thể không tính, xin đừng gia hại A Tử cô nương!

Đinh Xuân Thu thản nhiên đáp:

- Giết hay không giết Huyền Từ là do ngươi, giết hay không giết A Tử là quyền ở ta.

Du Thản Chi xoay người lại, lớn tiếng nói:

- Huyền Từ phương trượng của phái Thiếu Lâm, phái Thiếu Lâm đứng đầu các môn các phái còn Cái Bang là bang lớn nhất trên giang hồ, trước nay vốn cùng sánh vai đứng tại trung nguyên, không ai thống thuộc được ai. Hôm nay mình phân xem bên nào cao, bên nào thấp, bên thắng là minh chủ võ lâm, còn bên thua phải phục tòng hiệu lệnh minh chủ, không được trái lời.

Ánh mắt y quét qua quần hào nói tiếp:

- Các vị anh hùng hảo hán trong thiên hạ, hôm nay tụ tập dưới núi Thiếu Thất, nếu có vị nào không phục thì cứ việc đứng ra khiêu chiến với minh chủ võ lâm.

Y nói thế, tưởng như mình đã là minh chủ võ lâm rồi. Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi đối đáp với nhau, thanh âm tuy không lớn lắm nhưng những người nội công thâm hậu đều nghe rõ từng câu từng chữ. Các cao tăng chùa Thiếu Lâm nghe thấy Đinh Xuân Thu công khai sai Du Thản Chi ra giết phương trượng Huyền Từ, không ai không tức tối, nhưng vừa xem hai người hiển thị công lực, Du Thản Chi vừa tà vừa mạnh, Huyền Từ phương trượng có địch nổi hay không cũng còn chưa thể nói được vì các loại độc công tà thuật không phải dễ dàng gì đối phó.

Huyền Từ vốn không muốn cùng y động thủ, nhưng Du Thản Chi đã công nhiên khiêu chiến mình trước mặt quần hùng, không còn cách gì có thể từ chối, đành phải chắp tay nói:

- Cái Bang mấy trăm năm qua, đều theo con đường hiệp nghĩa ở trung nguyên, anh hùng thiên hạ không ai là không kính ngưỡng. Bang chủ tiền nhiệm của quí bang Uông Kiếm Thông bang chủ, có giao tình với tệ phái không ít. Trang thí chủ mới đảm nhiệm chức bang chủ, tệ phái được tin trễ nên không kịp sai người đến chúc mừng, không khỏi có tội sơ xuất, nay xin tạ lỗi. Các đệ tử tăng tục của tệ phái trước nay đối với quí bang cực kỳ tôn kính, cái giao tình mấy trăm năm giữa Thiếu Lâm và Cái Bang chưa từng mất hòa khí bao giờ. Không hiểu vì cớ gì hôm nay Trang bang chủ lại hưng binh vấn tội, xin nói cho biết. Anh hùng thiên hạ hôm nay có mặt đông đủ nơi đây, phải trái ngay cong, ắt có công luận.

Du Thản Chi tuổi trẻ kiến thức nông cạn, bất học vô thuật, làm sao biện luận được với Huyền Từ? Thế nhưng trước khi y đến chùa Thiếu Lâm cũng đã được Toàn Quan Thanh dạy cách ăn nói, lập tức trả lời:

- Nước Đại Tống ta nam có nước Liêu, tây có Tây Hạ, Thổ Phồn, bắc có Đại Lý, bốn bề tứ di dòm ngó, cái đó … cái đó …

Y đem Bắc có nước Liêu, Nam có Đại Lý nói trật phương hướng, khiến cho người nghe có tiếng cười khúc khích. Du Thản Chi biết mình nói sai nhưng không sao rút lại được, không khỏi mười phần sượng sùng, cũng may có mang mặt nạ da người nên không ai nhìn thấy sắc diện y ra sao. Y ngượng nghịu ậm ừ mấy tiếng rồi lại nói tiếp:

- Nước Đại Tống ta binh thưa tướng ít, quốc thế suy yếu, chỉ còn trông vào võ lâm nghĩa sĩ, giang hồ đồng đạo chúng ta một lòng khuông phù, có thế mới có thể ngoài chống cường địch, trong trừ kẻ gian.

Quần hùng nghe y nói có lý cùng tấm tắc:

- Phải lắm! Phải lắm!

Du Thản Chi lên tinh thần, lại hùng hồn tiếp:

- Có điều mấy năm nay cái họa từ bên ngoài mỗi lúc một sâu, cái gánh nặng trên vai chúng ta, mỗi ngày thêm nặng, nếu không tề tâm hợp lực cùng đối phó với nguy nan thì không thể nào làm nổi. Có điều các môn các phái, các bang các hội, người này đánh lẫn người kia, rồi mình lại đánh mình, nói chung ra là không sao có thể một lòng một dạ. Gã Kiều Phong Khất Đan kia chỉ đơn thương độc mã đến đánh cho một trận thì hào kiệt Trung Nguyên đã thua rồi, huống hồ gì đến Tây Vực Tinh Tú Hải Tinh Tú lão … Tinh Tú lão … Tinh Tú lão … cái Tinh Tú lão..,hèm, y từng sát hại hai cao tăng của phái Thiếu Lâm … cái đó … cái đó …

Toàn Quan Thanh vốn đã dậy cho y rằng “Tây Vực Tinh Tú hải Tinh Tú Lão Quái đã từng sát hại hai cao tăng của phái Thiếu Lâm, vậy mà phái Thiếu Lâm đành bó tay không làm gì được”, Du Thản Chi đã thuộc làu làu, bây giờ lời ra đến cửa miệng xem chừng không ổn, nên cứ ấp úng mãi “Tinh Tú lão..”.

Trong đám quần hùng có người kêu lên:

- Y là Tinh Tú Lão Quái, còn người thì là Tinh Tú tiểu yêu!

Lập tức có một số đông cười lên ha hả. Môn nhân phái Tinh Tú lập túc hát vang:

Phái Tinh Tú lão tiên xuất thế,

Tài đức kia như thể đất trời.

Uy danh lừng lẫy cõi đời,

Cổ kim chưa có ai người sánh ngang.

Cả nghìn người cùng cất tiếng gào lên, bao nhiêu tiếng cười của quần hùng liền bị át đi. Tiếng hát chưa dứt, trong đám người liền có tiếng rè rè thật khó nghe cũng hát theo:

Phái Tinh Tú lão tiên xuất thế,

Tài đức kia như thể đất trời.

Uy danh lừng lẫy cõi đời,

Mấy câu đó và điệu hát giống hệt bọn người của phái Tinh Tú. Môn nhân phái Tinh Tú thấy có người ngoài cũng có người ca công tụng đức lão tiên bản phái, việc này xưa nay chưa từng có, thật còn hơn người trong nhà tự mình ca tụng mình. Bọn họ mừng rỡ, vội vàng khua chiên đánh trống, đàn sáo vang lừng, đột nhiên câu thứ tư chuyển sang ngay xuống:

Khác chi rắm chó ai người thối hơn.

Các môn nhân còn đang sững sờ, đàn sáo chống chiêng phụ họa nửa chừng không kịp thu hồi, vẫn tiếp tục chập choeng cho tới hết khiến câu “Khác chi rắm chó ai người thối hơn” nghe thật lọt tai.

Quần hùng cười đền bò lăn bò càng, còn người trong phái Tinh Tú thì ngoạc mồm chửi rủa, Vương Ngữ Yên cũng phải mỉm cười:

- Bao tam ca hát hay quá!

Bao Bất Đồng đáp:

- Không dám! Dở eẹc hà!

Bốn câu đó chính là kiệt tác của Bao Bất Đồng. Du Thản Chi lợi dụng khi mọi người đang náo loạn cả lên vội cúi xuống thì thầm với Toàn Quan Thanh mấy câu, rồi lại dõng dạc nói tiếp:

- Nước Đại Tống ta quốc bộ gian nguy, giang hồ dồng đạo lại không tề tâm hiệp lực, để đến nỗi bị Phiên bang ức hiếp. Vì thế Cái Bang chủ trương lập ra một vị minh chủ võ lâm để cho mọi người nghe theo hiệu lệnh, nếu như có đại sự phát sinh thì không đến nỗi rối loạn. Huyền Từ phương trượng, ngài có tán thành không?

Huyền Từ khoan thai nói:

- Lời của Trang bang chủ quả là có lý. Thế nhưng lão nạp có một chuyện chưa được tỏ tường, muốn xin thỉnh giáo.

Du Thản Chi hỏi lại:

- Chuyện gì?

Huyền Từ đáp:

- Trang bang chủ đã bái Đinh tiên sinh làm thầy, hẳn phải là môn nhân phái Tinh Tú, có phải thế không?

Du Thản Chi nói:

- Chuyện đó … chuyện đó là việc riêng của mỗ, đâu có liên quan gì đến đại sư.

Huyền Từ nói:

- Phái Tinh Tú là môn phái bên Tây Vực, đâu có phải đồng đạo võ lâm với Đại Tống chúng ta. Việc Đại Tống lập hay không lập minh chủ võ lâm, không có liên can gì đến phái Tinh Tú. Nếu như võ lâm đồng đạo Trung Nguyên muốn suy cử một vị minh chủ để dễ bề thống lĩnh trù tính, các hạ là người của phái Tinh Tú cũng không thể nào tham dự được.

Các vị anh hùng liền nhao nhao lên:

- Đúng lắm!

- Lời của phương trượng chùa Thiếu Lâm thật phải.

- Ngươi là chó săn đầy tớ của môn phái Phiên bang, sao lại vọng tưởng chức minh chủ võ lâm Trung Nguyên được?

Du Thản Chi không biết phải đối đáp làm sao, đưa mắt nhìn Đinh Xuân Thu, rồi lại quay sang Toàn Quan Thanh mong hai người lên tiếng gỡ cho mình. Đinh Xuân Thu tằng hắng một tiếng nói:

- Lời của phương trượng chùa Thiếu Lâm sai rồi. Lão phu vốn người đất Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, sinh trưởng ở xứ của thánh nhân, phái Tinh Tú một mình lão phu sáng lập, sao lại bảo là Phiên bang Tây Vực được? Phái Tinh Tú tuy ở Tây Vực, chẳng qua là nơi tạm thời ẩn cư của lão phu mà thôi. Ngươi bảo phái Tinh Tú là môn phái Phiên bang, thế thì Khổng phu tử cũng là người Phiên bang sao, nực cười ơi là nực cười? Nói đến Tây Vực Phiên bang, võ công Thiếu Lâm vốn là do tổ sư Đạt Ma người Thiên Trúc, ngay cả Phật giáo cũng là từ Phiên bang Tây Vực mà ra, ta xem chính phái Thiếu Lâm mới thực là môn phái Phiên bang đó!

Lời của y nói ra, cả Huyền Từ lẫn quần hùng đều cảm thấy khó mà cãi lại được. Toàn Quan Thanh cũng dõng dạc nói:

- Võ công trong thiên hạ, nguồn gốc từ đâu mà ra cũng thật khó mà biết. Võ công từ Tây Vực truyền sang Trung Thổ cũng có mà võ công Trung Thổ truyền sang Tây Vực cũng có. Trang bang chủ của chúng tôi là người Trung Thổ, Cái Bang vốn cũng là môn phái Trung Nguyên, dĩ nhiên y phải là nhân vật lãnh tụ của võ lâm Trung Nguyên rồi. Huyền Từ phương trượng, việc hôm nay lấy võ công cường nhược ra định hơn thua, chứ không thể lấy miệng lưỡi ngôn từ để phân thắng bại được. Cái Bang và Thiếu Lâm ai yếu ai mạnh, chỉ cần hai vị thủ lãnh ra tay so tài, kẻ cao người thấp biết ngay, chứ nói dông nói dài thì phỏng có ích gì đâu? Còn như nếu ông biết thân biết phận, không muốn động thủ với tệ bang chủ thì chỉ cam chịu nước lép, nhường cho bang chủ chúng tôi chức võ lâm minh chủ là xong, còn như không ra tay không thể được.

Lời nói đó rõ ràng y muốn bảo là Huyền Từ biết mình địch không lại nên dùng dằng từ chối. Huyền Từ tiến lên hai bước, nói:

- Trang bang chủ, nếu như ngươi nhất định đòi lão nạp ra tay, nếu như lão nạp vẫn cứ chấp nê vào cái tình cố cựu của quí bang với tệ phái mà không chịu nghe thì lại hóa ra bất kính với quí bang.

Ông đưa mắt nhìn khắp quần hùng một lượt rồi dõng dạc nói:

- Anh hùng thiên hạ, hôm nay tất cả mọi người ai cũng thấy rồi, phái Thiếu Lâm quyết không có ý tranh hùng đấu thắng với Cái Bang, nhưng vì bang chủ Cái Bang nhất định dồn ép, lão nạp không còn đường nào mà lùi, không còn cách nào mà tránh.

Quần hùng liền nhao nhao lên:

- Phải lắm, tất cả chúng ta làm chứng, phái Thiếu Lâm thật không đuối lý chút nào.

*

* *

Du Thản Chi lo cho an nguy của A Tử, chỉ chăm chăm sao sớm giết được Huyền Từ để làm tròn lời Đinh Xuân Thu sai bảo bèn dõng dạc nói:

- Tỉ võ giao đấu, mạnh sống yếu chết, nói quái gì đến đuối lý hay không đuối lý, mau mau ra tay đi thôi.

Y lúc bé lười học, bản chất tuy chẳng phải là đứa thuần lương nhưng cũng chỉ là một thanh niên ngờ nghệch. Đến khi cha chết rồi, lang bạt giang hồ, bị người ta khinh khi hiếp đáp, chẳng có một ai thông minh chính trực dạy cho điều hay lẽ phải, mấy năm gần đây lại kề cận A Tử sớm hôm, gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, huống chi y nhất tâm nhất y sùng kính A Tử, rau nào sâu nấy, đâu có phân biệt thị phi thiện ác thành thử học rặt một đường của phái Tinh Tú.

Môn phái Tinh Tú võ công nào cũng toàn do độc ác đểu cáng mà thủ thắng, lại được Toàn Quan Thanh hết sức giúp đỡ để giựt cho bằng được cái chức vị bang chủ Cái Bang, dạy y toàn những thủ đoạn giết người không nể nang, năm chầy tháng cũ tích góp lại, từ một cậu ấm con nhà danh môn đệ tử Trung Nguyên biến thành một gã cậy mạnh hiếp người, không phân thiện ác.

Huyền Từ lớn tiếng nói:

- Lời của Trang bang chủ, so với cái tiếng nhân hiệp mấy trăm năm của Cái Bang thật không xứng chút nào.

Du Thản Chi nhún người một cái đã nhảy vọt ra hơn một trượng nói:

- Muốn đánh thì ra đây, nếu không thì dang ra một bên cho rồi.

Y vừa nói vừa liếc qua nhìn Đinh Xuân Thu và A Tử, áng chừng vô cùng sốt ruột. Huyền Từ đáp:

- Được, hôm nay lão nạp xin lãnh giáo Hàng Long Thập Bát Chưởng và Đả Cẩu Bổng Pháp hai tuyệt kỹ của Trang bang chủ để anh hùng thiên hạ được chiêm ngưỡng công phu đích truyền của Cái Bang mấy trăm năm qua.

Du Thản Chi sững sờ, không tự chủ nổi phải thụt lùi hai bước. Y tuy tiếp nhiệm chức vụ bang chủ Cái Bang nhưng hai tuyệt kỹ Hàng Long Thập Bát Chưởng và Đả Cẩu Bổng Pháp chẳng biết một chiêu nào, có điều cũng đã nghe các trưởng lão Cái Bang xầm xì rằng hai môn này là Trấn Bang Thần Công. Hàng Long Thập Bát Chưởng thì đôi khi cũng truyền cho người không phải là bang chủ, còn Đả Cẩu Bổng Pháp thì nhất định chỉ truyền cho bang chủ mà thôi, trong mấy trăm năm qua không một bang chủ nào của Cái Bang không biết môn này.

Huyền Từ lại tiếp:

- Lão nạp xin sử dụng Đại Kim Cương Chưởng của bản phái ra tiếp Hàng Long Thập Bát Chưởng và dùng Hàng Ma thiền trượng để tiếp Đả Cẩu Bổng của bang chủ. Ôi, phái Thiếu Lâm và quí bang đời đời giao hảo, hai môn võ công này trước nay rèn luyện thì có nhưng chưa bao giờ dùng để đối địch quá chiêu, lão nạp vô đức, thật hổ thẹn với các đời bang chủ Cái Bang cùng các đời chưởng môn phái Thiếu Lâm từ trước tới nay.

Ông chắp hai tay lại, chính là chiêu Lễ Kính Như Lai, khởi thủ thức của Đại Kim Cương Chưởng, vẻ mặt hiền hòa nhưng tăng y phồng ra hai bên, đủ biết trong chiêu này uẩn tàng đầy nội lực thật cao thâm.

Du Thản Chi không nói năng gì, tay trái lăng không chém ra, chưởng phải cũng nhanh nhẹn vô cùng đẩy tới, chưởng lực bên trái ra trước mà đền sau, chưởng lực bên phải ra sau tới trước, hai luồng lực đâo đan chéo nhau, cực kỳ lạ lùng, chưởng lực hai bên giữa đường đụng nhau, nghe ầm một tiếng cùng tiêu tan nhưng nghe bựt bựt hai tiếng, đai lưng của Huyền Từ hai đầu đều đứt, bay vụt qua hai bên cả trượng. Hai luồng chưởng lực của Du Thản Chi phạm vi rất rộng, lực đạo tấn công tới bị chiêu Lễ Kính Như Lai tiêu giải nhưng ở hai bên lực đạo của y cũng ép tới làm đứt sợi dây đai.

Tăng lữ phái Thiếu Lâm và quần hùng thấy thế cùng nhao nhao kêu lên:

- Đây là công phu tà môn của phái Tinh Tú.

- Không phải là Hàng Long Thập Bát Chưởng.

- Không phải công phu của Cái Bang.

Trong Cái Bang cũng có đệ tử kêu lên:

- Chúng ta tỉ võ với phái Thiếu Lâm, không được dùng công phu tà môn.

- Bang chủ phải sử dụng Hàng Long Thập Bát Chưởng mới phải.

- Sử dụng công phu tà môn thì thật mất mặt cho Cái Bang.

Du Thản Chi nghe chung quanh la ó, trong bụng không khỏi chần chừ, chiêu thứ hai không sử ra được nữa. Thế nhưng người trong phái Tinh Tú cũng nhao nhao lên:

- Thần công phái Tinh Tú so với Hàng Long Thập Bát Chưởng của Cái Bang mạnh hơn nhiều, sao lại không được sử dụng mà lại dùng thứ kém hơn?

- Trang sư huynh, lên nữa đi. Đương nhiên là dùng công phu thần công của ân sư Tinh Tú lão tiên truyền cho, tiến lên làm thịt lão sư già.

- Tinh Tú thần công, trên đời số một, đánh đâu thắng đó, vào đâu cũng lọt. Hàng Long xú chưởng, thối như rắm chó.

Trong khi tiếng người còn nhao nhao rức lác, bỗng nghe từ dưới chân núi có tiếng hùng tráng vọng lên:

- Ai dám bảo là võ công phái Tinh Tú lại hơn được Hàng Long Thập Bát Chưởng của Cái Bang?

Thanh âm đó không có gì là vang dội nhưng rõ ràng từng tiếng truyền vào tai mọi người, ai nấy ngạc nhiên, lập tức im bặt. Chỉ nghe thấy tiếng vó ngựa rồn rã, hơn chục người giục ngựa chạy lên, trên lưng người nào cũng khoác áo choàng đen mỏng bằng lông cừu, bên trong là áo vải cũng màu đen, nhưng người thì như hổ, ngựa thì tựa rồng, kẻ cưỡi đã dắn dỏi mà tọa kỵ cũng là tuấn mã, con nào con nấy đầu ngẩng cao, chân dài, toàn thân đen tuyền, khi chạy đến gần quần hùng thấy sáng lóe lên, ánh vàng lấp lánh, thì ra móng những con ngựa đều đóng bằng hoàng kim. Chạy đến tất cả là mười chín con ngựa, tuy người không đông nhưng khí thế hùng tráng chẳng khác gì thiên quân vạn mã, mười tám con ngựa đi trước chạy tới nơi lập tức tẽ ra thành hai hàng đứng hai bên chỉ còn người sau cùng giục ngựa chạy tới.

Một số lớn người trong Cái Bang reo ầm lên:

- Kiều bang chủ! Kiều bang chủ!

Lập tức có mấy trăm bang chúng chạy vụt ra, dừng chân trước con ngựa của người kia khom lưng tham kiến.

Người đó chính là Tiêu Phong. Từ khi ông ta bị trục xuất ra khỏi Cái Bang vẫn tưởng anh em trong bang ai nấy coi mình như khấu thù, không ngờ tuy bạn thù phân biệt rồi vẫn còn rất nhiều huynh đệ cũ nhiệt tình chạy đến ra mắ khiến cho máu nóng bất giác trào lên, hổ mục hàm lệ, xoay mình nhảy xuống ôm quyền hoàn lễ nói:

- Tiêu Phong người Khất Đan đã bị trục xuất, cùng Cái Bang không còn liên can gì nữa, chúng vị sao còn xưng họ như thuở nào là sao? Các anh em từ khi từ biệt tới nay vẫn mạnh khỏe chứ?

Mấy câu sau cùng, tình cũ nghĩa xưa chan chứa, không khỏi bồi hồi. Những người chạy ra tham kiến chỉ toàn là đệ tử ba, bốn túi. Những người một hai túi là những đệ tử mới gia nhập, ít có cơ hội gặp được Tiêu Phong, còn năm sáu túi trở lên thì dè chừng kẻ Di người Hạ, tuổi tác cũng lớn, chức vụ cũng cao, không như những người trẻ nghĩ gì làm nấy, không biết ý tứ gì.

Mấy trăm đệ tử nghe ông nói thế mới tỉnh ngộ biết mình quá ư xung động, kẻ gọi là Kiều bang chủ kia chính là người Khất Đan đại đối đầu, trong bang trên dưới đều biết rõ,chẳng qua vì vừa thấy ông đột nhiên xuất hiện, cái tình quyến luyến xưa kia vẫn còn nên chạy ra quên cả chuyện lớn. Một số kẻ cúi đầu lùi về nhưng cũng không ít người vẫn còn ấp úng:

- Kiều … Kiều lão nhân gia khỏe chứ, từ khi từ biệt tới nay, không ngày nào … không ngày nào không nhớ tới lão nhân gia.

Hôm đó đột nhiên A Tử đi ra không thấy quay về, mấy ngày liền không nghe tin tức gì cả, Tiêu Phong nóng ruột vô cùng, phái rất nhiều thám tử đi dò xét. Qua mấy tháng, sau cùng mới có hồi báo, nói nàng thân bị hãm tại Cái Bang, gã đầu sắt kia cũng ở chung với nàng một chỗ.

Tiêu Phong nghe nói thế trong lòng kinh hoảng, nghĩ Cái Bang hận mình tới xương tủy, lần này bắt được A Tử rồi, ắt hẳn dùng nàng làm con tin để uy hiếp mình, nên phải làm sao cứu nàng ra ngay mới được. Ông bèn tâu lên Liêu đế, xin nghỉ hai tháng đem quân chính sự vụ của Nam Viện giao cho Nam Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Mạc Ca thay mặt điều hành, tự mình xuôi nam.

Lần này Tiêu Phong trở lại Trung Nguyên là có chuẩn bị trước, Yên Vân Thập Bát Kỵ tùy tòng đều là những cao thủ hạng nhất tuyển trong các bộ tộc Khất Đan. Lần trước ông độc chiến quần hùng ở Tụ Hiền Trang, may nhờ có một vị đại anh hùng ra tay cứu nếu không thì đã bị loạn đao phân thây rồi, đủ biết dù võ công cao cường thế nào chăng nữa mà một địch trăm thì cũng không chịu nổi nên lần này dẫn Yên Vân Thập Bát Kỵ theo, người nào cũng có thể một chống mười, lại thêm ngựa cưỡi đều là thiên lý lương câu, nếu như gặp nguy, nếu chỉ mong thoát thân thì không phải là chuyện khó.

Đoàn người đi đến Hà Nam, Tiêu Phong bắt một đệ tử Cái Bang hạng thấp tra hỏi, biết được là A Tử đã lòa hai mắt, ngàng ngày cùng tân bang chủ như hình với bóng, lúc này đã đi theo y tới chùa Thiếu Lâm rồi. Tiêu Phong vừa lo vừa tức, nghĩ bụng mắt A Tử bị người ta làm mù rồi, chẳng nói cũng biết là sẽ bị người trong Cái Bang tra khảo đánh đập vô cùng thảm thiết, lập tức vội vã chạy theo, hi vọng trên đường gặp được thì ra tay cướp lấy để khỏi phải hội diện với các cao tăng phái Thiếu Lâm.

Đến núi Thiếu Thất, nghe văng vẳng môn nhân phái Tinh Tú la hét om sòm, nào là phái Tinh Tú võ công hơn xa Hàng Long Thập Bát Chưởng, không khỏi nổi cơn lôi đình. Ông tuy không còn là bang chủ Cái Bang nhưng Hàng Long Thập Bát Chưởng là do ân sư Uông Kiếm Thông đích thân truyền thụ, sao có thể để cho người ngoài khinh rẻ coi thường được?

Ông giục ngựa chạy lên, chào hỏi bọn đệ tử Cái Bang ba bốn túi xong, liếc mắt nhìn qua, thấy Đinh Xuân Thu tay nắm một cô gái áo tím, thân hình mảnh dẻ, khuôn mặt trái soan trắng ngần, chính là A Tử. Thế nhưng mắt nàng vô quang, đồng tử bị hủy rồi hiển nhiên đã mù.

Tiêu Phong trong lòng hết sức xót xa, lại thêm phẫn nộ, lập tức hùng dũng tiến tới, tay trái vạch một vòng, tay phải nhắm thẳng vào Đinh Xuân Thu đánh vù ra một chưởng, chính là chiêu Kháng Long Hữu Hối trong Hàng Long Thập Bát Chưởng. Khi ông ra chiêu còn cách Đinh Xuân Thu đến mười lăm, mười sáu trượng nhưng nói đến là đến ngay, khi chưởng đánh ra thì hai người chỉ còn cách nhau bảy tám trượng.

Võ thuật trong thiên hạ dù chưởng lực có hùng mạnh đến bực nào thì cũng không đánh ra ngoài năm trượng. Đinh Xuân Thu đã từng nghe danh Bắc Kiều Phong Nam Mộ Dung nên không dám coi thường chút nào, thấy ông từ ngoài xa mười lăm, mười sáu trượng đánh tới, đâu có ngờ rằng chưởng đó đánh vào mình, lại càng không ngờ rằng chưởng Tiêu Phong vừa đánh ra thì thân hình đã tiến đến chỉ còn ba bốn trượng, lại tiếp theo một chiêu Kháng Long Hữu Hối nữa, chưởng sau đè lên chưởng trước, hai luồng chưởng lực cùng ập tới một lượt chẳng khác gì bài sơn đảo hải.

Chỉ trong một nháy mắt, Đinh Xuân Thu thấy hơi thở như nghẹn lại, chưởng lực đối phương chẳng khác gì sóng triều ụp tới, thế không sao đương cự nổi, lại chẳng như một bức tường vô hình giạt vào người. Y còn đang kinh hãi, đâu có thì giờ suy nghĩ cách chống đỡ, nhưng biết nếu giơ đơn chưởng ra nghinh địch thể nào cũng gãy tay, trật xương, không chừng gân cốt toàn thân nát nhừ, vội vàng cầm A Tử ném tới trước, song chưởng vạch liên tiếp ba hình bán nguyệt trước mặt để hộ vệ thân mình, đồng thời gót chân nhún một cái nhảy lùi về sau.

Tiêu Phong lại đánh thêm một chiêu Kháng Long Hữu Hối, chưởng lực chiêu trước chưa hết thì chiêu sau lại đến rồi. Đinh Xuân Thu không dám chống đỡ mũi nhọn từ chính diện, chưởng phải xeo xéo tung ra đánh vào chưởng lực của Tiêu Phong nhưng thấy cánh tay phải tê đi, khí tức trong ngực nặng như chì, vội vàng mượn thế nhảy ra ngoài xa ba trượng, lại sợ địch nhân tiếp tục truy kích, giơ chưởng lên che ngực, ám vận độc khí lên lòng bàn tay.

Tiêu Phong nhẹ nhàng vươn tay ra bắt lấy A Tử đang từ trên không rơi xuống, tiện tay giải huyệt cho nàng. A Tử tuy mắt không nhìn thấy, bị Đinh Xuân Thu bắt giữ không nói được nhưng những gì xảy ra ở chung quanh đều nghe rõ ràng, huyệt đạo trên người vừa giải khai lập tức mừng rỡ nói:

- Hảo tỉ phu, may quá có anh đến cứu em.

Tiêu Phong trong lòng hết sức xót xa, dịu dàng an ủi:

- A Tử, những ngày qua chắc ngươi khốn khổ lắm nhỉ, cũng tại tỉ phu làm lụy đến cô.

Ông vẫn tưởng các thủ lãnh Cái Bang hận thù ghê gớm nhưng không làm gì được, biết rằng A Tử là thân nhân duy nhất của ông nên đến Nam Kinh bắt cóc đem về, hành hạ một phen, có đâu ngờ mọi chuyện của A Tử đều do mình làm mình chịu.

Khi Tiêu Phong lên đến trên núi, quần hùng lập tức rúng động. Hôm đó đại chiến Tụ Hiền Trang, ông một thân một mình một lúc đánh chết mấy chục hảo thủ, quả là uy chấn thiên hạ. Quần hùng Trung Nguyên giận ông tận xương tủy nhưng ai nấy nghe tới cũng bạt vía kinh hồn, bây giờ đột nhiên thấy ông lên núi Thiếu Thất, chắc mẩm không thể tránh khỏi một trường ác chiến. Những người khi trước có tham dự đại hội Tụ Hiền Trang, nhớ lại cái cảnh máu chảy thịt rơi vung vãi nơi đại sảnh, bụng vẫn còn phập phồng, không khỏi ớn lạnh. Lại vừa thấy ông chỉ ra một chiêu Kháng Long Hữu Hối đã đánh cho kẻ số một đời nay là Tinh Tú Lão Quái phải cụp đuôi bỏ chạy, càng thêm sợ hãi, trên núi người nào người nấy mặt mày bần thần, không ai nói được lời nào.

Chỉ có độ vài chục môn nhân phái Tinh Tú vẫn nhơn nhơn nói không biết ngượng:

- Họ Kiều kia, trên người mi đã trúng phải tiên thuật của Tinh Tú Lão Tiên, chưa đầy mười ngày sẽ biến thành đống mủ mà chết.

- Tinh Tú Lão Tiên thấy ngươi là đồ hậu sinh tiểu bối nên mới nhường cho ngươi ba chiêu đấy thôi.

- Tinh Tú Lão Tiên thân phận nhường nào mà thèm động thủ với ngươi? Nếu mi không biết hối cải, lập tức quì xuống van xin tha mạng, sau này ắt chết không có đất mà chôn.

Có điều thanh âm tiếng được tiếng mất, không còn lớn lối như trước nữa. Du Thản Chi trông thấy Tiêu Phong trong bụng khiếp hãi, tới khi thấy ông vươn tay ôm A Tử vào lòng mà mặt nàng đầy vui sướng, cực kỳ thân thiết, không còn nhẫn nại được nữa liền nhảy tới kêu lên:

- Ông mau … mau bỏ A Tử cô nương xuống!

Tiêu Phong đặt A Tử xuống đất hỏi lại:

- Các hạ là ai?

Du Thản Chi gặp phải đôi mắt lẫm lẫm sinh uy của ông chiếu vào, lập tức chột dạ, ấp úng:

- Tại hạ … tại hạ là bang chủ Cái Bang … Trang Tụ Hiền … tức là Trang bang chủ.

Trong Cái Bang có người kêu lên:

- Ngươi đã bái nhập làm môn hạ phái Tinh Tú, sao còn làm bang chủ Cái Bang được?

Tiêu Phong giận dữ quát lớn:

- Sao ngươi dám làm hỏng đôi mắt của A Tử cô nương?

Du Thản Chi bị uy thế của ông trấn nhiếp, giật mình lùi lại hai bước nói:

- Không … không phải tôi … quả thực không phải …

A Tử nói:

- Tỉ phu, mắt em là do lão tặc Đinh Xuân Thu làm mù đó, anh mau mau móc mắt lão ra báo thù cho tiểu muội.

Tiêu Phong nhất thời không hiểu chân tướng mọi việc ra sao, đảo mắt một vòng, thấy trong đám đông có Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc, trong lòng chua xót, nhưng cũng mừng thầm lớn tiếng nói:

- Đại Lý Đoàn vương gia, lệnh ái thiêm kim ở đây, mong ông chăm sóc cho tử tế.

Ông dắt tay A Tử đi đến trước mặt Đoàn Chính Thuần, nhẹ nhàng đẩy nàng một cái. Nguyễn Tinh Trúc khóc đã đẫm cả cánh tay áo, lúc này nước mắt như mưa, vội vàng chạy ra ôm lấy A Tử nói:

- Cục cưng ơi, mắt … mắt con sao thế này?

Đoàn Dự thấy Tiêu Phong đột nhiên xuất hiện, trong lòng mừng rỡ đã toan chạy ra tương kiến nhưng ông vừa tiến lên đã vung chưởng đánh Đinh Xuân Thu, cứu A Tử rồi lại hội kiến Du Thản Chi, không có lúc nào lơi ra được. Đến khi Nguyễn Tinh Trúc ôm A Tử khóc òa lên, chàng không khỏi toát mồ hôi: “Sao Kiều đại ca lại bảo cô nương mù kia là lệnh ái thiên kim?”. Thế nhưng chàng đã hằng nghe cha mình đi đến đâu tình rơi đến đó, nên cũng đoán ngay được nội vụ, vội vàng rảo bước đi ra kêu lên:

- Đại ca, lâu nay vẫn khỏe chứ? Tiểu đệ nhớ đại ca biết chừng nào!

Tiêu Phong từ khi cùng chàng thi rượu kết nghĩa nơi thành Vô Tích đến nay, tuy mới gặp chốc lát mà tưởng chừng quen biết đã lâu, đem hết ruột gan đối đãi, ý hợp tâm đầu, lập tức tiến lên nắm chặt hai tay nói:

- Huynh đệ, từ khi xa nhau biết bao nhiêu chuyện, một lời không thể hết, may sao anh em ta đều bình yên cả.

Bỗng nghe trong đám người có tiếng ai đó quát lớn:

- Họ Kiều kia, ngươi giết huynh trưởng ta, mối huyết cừu đó chưa trả được, hôm nay ta phải cùng ngươi thí mạng.

Lại có người khác cũng kêu:

- Gã Kiều Phong kia là Hồ Lỗ Khất Đan, ai ai cũng phải tru diệt, hôm nay quyết không để cho y chạy thoát xuống núi Thiếu Thất.

Rồi tiếng người la ó rầm rĩ cả lên, kẻ thì chửi Tiêu Phong giết con, người thì bảo ông giết bố. Tiêu Phong hôm trước đại chiến Tụ Hiền Trang, giết người quả không phải ít. Bây giờ các lộ anh hùng tụ tập tại chùa Thiếu Lâm, lắm người có cha anh thân thuộc, tri giao cố hữu, tuy sợ Tiêu Phong nhưng nghĩ đến mối huyết cừu cũng phải chửi toáng lên. Tiếng rủa sả càng lúc càng to, mọi người thấy Tiêu Phong tùy hành chỉ có mười tám người, vốn cùng Cái Bang và Thiếu Lâm có thâm thù đại oán, mới rồi lại đánh chưởng đẩy lui Đinh Xuân Thu nên cũng đã thành kẻ địch của phái Tinh Tú, mấy nghìn người vây đánh mười chín kẻ Khất Đan thì dẫu ông có bản lảnh thông thiên cũng khó mà thoát khỏi trùng vi. Thanh thế càng lúc càng thịnh, đảm khí mọi người cũng tăng dần.

Quần hùng đông người nhiều miệng lưỡi, có kẻ thô lỗ, bụng oán thù không khỏi ăn nói tục tằn, chủi rủa càng lúc càng thêm độc địa. Mấy chục người rút binh khí, múa đao vung kiếm, toan xông cả lên băm vằm Tiêu Phong ra.

Mười chín người của bọn Tiêu Phong đến Trung Nguyên vốn định đột nhiên tập kích, cứu lấy A Tử trở về Nam Kinh, đâu có ngờ rằng lại có nhiều đối đầu tụ tập một chỗ đến thế. Ông từ bé đã hành tẩu giang hồ ở Trung Nguyên, cùng các lộ anh hùng không quen thuộc thì cũng đã nghe danh, biết những người đó đều là hiệp nghĩa, sở dĩ kết oán với mình, một là mình là người Khất Đan, hai nữa có kẻ đứng trong xúc xiểm nên hiểu lầm nhau.

Cuộc chiến nơi Tụ Hiền Trang không phải do tâm nguyện của ông, nếu như hôm nay thêm một lần đại chiến nữa, sát thương thêm một số người thì chỉ càng thêm đau lòng, dẫu mình có toàn mạng chạy thoát nhưng những anh em trong Yên Vân Thập Bát Kỵ đi theo không khỏi thương vong nặng nề, trong bụng tính toán thầm: “Cũng may mình đã cứu được A Tử giao cho cha mẹ cô ta rồi, tâm nguyện của A Châu coi như đã xong, ta chỉ mau mau tính chuyện thoát thân, việc gì phải dây dưa với họ làm chi?”. Nghĩ thế ông bèn quay lại nói với Đoàn Dự:

- Huynh đệ, hiện nay tình hình gay cấn, anh em ta không thể thăm hỏi nhau nhiều, hiền đệ tạm thời lui ra, núi cao sông rộng, có ngày sẽ gặp lại nhau.

Ông muốn Đoàn Dự đứng qua một bên để khi phá vòng vây chạy xuống, người ngoài khỏi ra tay đánh nhầm chàng. Đoàn Dự thấy anh hùng các lộ phải đến mấy nghìn người, ai nấy muốn giết nghĩa huynh bông dưng nổi lòng nghĩa hiệp, dõng dạc nói:

- Đại ca, đứa em này kết nghĩa đệ huynh với anh đã từng nói những gì? Có phải là có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu, không mong sinh ra cùng tháng cùng năm nhưng nguyện chết cùng năm cùng tháng cùng ngày. Hôm nay đại ca lâm nạn, huynh đệ lẽ nào mong được sống lấy một mình?

Trước đây mỗi lần chàng gặp nguy nan đều thi triển bộ pháp xảo diệu Lăng Ba Vi Bộ, từ trong đám đông chạy ra. Lúc này tình thế hung hiểm, máu nóng trong ngực sôi lên, quyết tâm cùng chết với Tiêu Phong để toàn tình anh em kết nghĩa, dù có chuyện gì cũng nhất định không bỏ chạy.

Phần lớn các hào kiệt đều không biết Đoàn Dự là hạng người nào, thấy chàng tự xưng là anh em kết nghĩa của Tiêu Phong, nhất quyết cùng ông ta liên thủ đối địch với mọi người, vẻ người văn nhược nho nhã, tuổi lại trẻ nên chẳng ai thèm coi chàng vào đâu, tiếng la ó lại càng rầm rĩ. Tiêu Phong nói:

- Huynh đệ, hảo ý của chú, người anh này hết sức cảm tạ. Bọn họ muốn giết ta cũng không phải dễ. Ngươi mau tránh sang một bên, kẻo ta lại phải chia tay bảo hộ cho chú đâm ra vướng víu khó nghinh địch.

Đoàn Dự nói:

- Đại ca không phải bảo hộ tiểu đệ làm chi. Bọn họ cùng đệ không thù không oán, lẽ nào lại giết em?

Tiêu Phong vẻ mặt chua chát, trong lòng thấy thật thê lương nghĩ thầm: “Nếu như không thù không oán thì chẳng hại nhau, thù oán trên thế gian này từ đâu mà có?”.

Đoàn Chính Thuần hạ giọng nói với Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch các người:

- Vị Tiêu đại hiệp này đối với ta có ơn cứu mạng, đến lúc nguy cấp, bọn mình xông vào giúp y thoát hiểm.

Phạm Hoa đáp:

- Tuân lệnh!

Y liếc sang mấy nghìn hào kiệt đang lăm lăm binh khí mấy lần, nói:

- Đối phương đông quá, không biết chúa công có diệu sách gì không?

Đoàn Chính Thuần lắc đầu nói:

- Đại trượng phu ân oán phân minh, cứ hết sức mà làm, đành lấy cái chết để báo đền thôi.

Chúng sĩ Đại Lý cùng đáp:

- Cũng mong được như thế!

Phía bên kia bọn người nhà Mộ Dung Yến Tử Ổ cũng thì thầm thương nghị. Công Dã Can từ khi đối chưởng thi rượu với Tiêu Phong ở thành Vô Tích, trong lòng hết sức ngưỡng mộ, chủ trương ra tay tương trợ. Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác cũng hết sức bội phục Tiêu Phong, cũng loi choi toan nhảy ra giúp ông một tay. Mộ Dung Phục bèn nói:

- Chúng vị huynh trưởng, với chúng ta việc hưng phục là chuyện quan trọng nhất, chẳng lẽ chỉ vì một gã Tiêu Phong mà đắc tội với anh hùng thiên hạ hay sao?

Đặng Bách Xuyên nói:

- Lời của công tử chí phải, vậy thì mình phải làm thế nào đây?

Mộ Dung Phục đáp:

- Thu phục lòng người để trợ giúp cho ta.

Đột nhiên y hú lên một tiếng dài bước ra lớn tiếng nói:

- Tiêu huynh là anh hùng Khất Đan nên coi hào kiệt Trung Nguyên chẳng ra gì, hôm nay Cô Tô Mộ Dung Phục này mong được lãnh giáo cao chiêu của các hạ. Tại hạ gục ngã dưới chưởng của Tiêu huynh thì âu cũng vì hào kiệt Trung Nguyên bỏ chút công mọn, dẫu chết cũng vinh.

Mấy câu y nói cốt để cho quần hào Trung Nguyên nghe thấy, có thế thì dù thua dù được từ nay anh hùng hào kiệt cũng sẽ coi Cô Tô Mộ Dung là chỗ sinh tử chi giao.

Quần hùng tuy đã quyết ý rồi nhưng chưa một ai dám xông lên khiêu chiến. Ai cũng biết rằng, đánh nhau sau cùng rồi cũng giết được Kiều Phong nhưng mấy chục người đầu tiên thể nào cũng bỏ mạng, lúc này đột nhiên thấy Mộ Dung Phục thượng trường, ai nấy thở phào nhẹ nhõm, lên tinh thần. Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung hai người vốn dĩ tề danh, Mộ Dung Phục xông ra đánh trước, dẫu không địch nổi thì cũng khiến cho đối phương phải hết sức chống đỡ, hao phí nội lực. Liền theo đó tiếng hò reo vang dậy bốn bề.

Tiêu Phong bỗng thấy Mộ Dung Phục bước ra khiêu chiến, không khỏi kinh ngạc, vòng hai tay ôm quyền tương kiến nói:

- Đã từng nghe anh danh của công tử, hôm nay gặp được cao hiền, quả là thỏa nguyện bình sinh.

Đoàn Dự vội nói:

- Mộ Dung huynh, việc này xem ra ngươi không phải. Đại ca ta mới gặp ngươi lần đầu, vốn không hiềm khích, sao ngươi lại thừa lúc nước đục thả câu? Huống chi lúc người khác nghi oan cho ngươi lại chính đại ca ta vì ngươi mà phân biện?

Mộ Dung Phục cười khẩy một tiếng nói:

- Đoàn huynh nếu muốn tỏ ra anh hùng hảo hán can thiệp vào chuyện bất bình thì cứ việc tiến lên tứ giáo luôn thể.

Y thấy Đoàn Dự cứ luẩn quẩn bên cạnh Vương Ngữ Yên nên đã bực từ lâu, lúc này được dịp nói cho hả tức. Đoàn Dự đáp:

- Ta có bản lãnh gì mà tứ giáo Mộ Dung huynh được? Chỉ có mấy câu công đạo nói ra thôi.

Đinh Xuân Thu bị Tiêu Phong mấy chưởng đánh bật ra thật là bẽ mặt, bao nhiêu tuyệt kỹ của mình chưa có dịp thi thố, lập tức nhảy ra cười ha hả nói:

- Họ Tiêu kia, lão phu thấy ngươi còn trẻ nên lúc nãy mới nhường ngươi ba chiêu, chiêu thứ tư này không nhường nữa đâu nhé!

Du Thản Chi tiến lên nói:

- Họ Trang này đa tạ ngươi cứu được A Tử cô nương, thế nhưng mối thù giết bố, không đội trời chung. Họ Tiêu kia, hôm nay chúng mình giải quyết cho xong.

Huyền Sinh đại sư của phái Thiếu Lâm cũng ngầm truyền hiệu lệnh: “La Hán Đại Trận chặn hết các ngả đường hạ sơn. Tên ác đồ này giết chết Huyền Khổ sư huynh, nhất quyết không để cho y xuống núi Thiếu Thất lần nữa”.

Tiêu Phong thấy ba đại cao thủ đứng thành thế chân vạc vây quanh mình rồi mà quần tăng Thiếu Lâm thì đông một đoàn, tây một tụm xem ra tưởng chừng tạp loạn không thành đường lối nhưng bên trong ám tàng trận pháp cực kỳ lợi hại, tình hình so với ở Tụ Hiền Trang còn nguy hiểm bội phần. Bỗng nghe mấy tiếng ngựa hí lên bi thảm, mười chín con tuấn mã từng con từng con ngã xuống, miệng sùi bọt mép, chết lăn ra.

Mười tám võ sĩ Khất Đan luôn mồm xí xố, vung đao xuất chưởng, chỉ chốc lát chém chết bảy tám tên môn đệ phái Tinh Tú nhưng cũng có mấy tên chạy được. Thì ra Đinh Xuân Thu tiến lên khiêu chiến, các môn nhân của lão liền chia nhau hạ độc, ám toán tọa kỵ của người Khất Đan để cho Tiêu Phong không thể dựa vào tuấn mã mà xông ra khỏi trùng vi.

Tiêu Phong trong một thoáng thấy con ngựa yêu trước khi chết còn đưa mắt nhìn mình, lộ vẻ thê lương luyến chủ, nghĩ mình cưỡi con ngựa đã lâu, nghìn dặm xuôi nam, sớm tối không rời, ngờ đâu giờ phút này bỏ mạng về tay kẻ gian, ngực sôi lên, nổi máu anh hùng hú một tiếng dài nói:

- Mộ Dung công tử, Trang bang chủ, Đinh lão quái, cả ba vị cùng tiến lên, Tiêu mỗ này há sợ gì đâu?

Ông hận phái Tinh Tú ra tay tàn độc, vù một tiếng phóng chưởng đánh vào Đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu đã lãnh giáo chưởng lực lợi hại của ông rồi nên hai bàn tay cùng đưa ra đem toàn lực chống đỡ. Tiêu Phong thuận thế kéo một cái, đem chưởng lực của cả mình lẫn người dẫn lệch ra, xiên xiên đánh vào Mộ Dung Phục.

Bản lãnh tối cao siêu của Mộ Dung Phục là môn Đẩu Chuyển Tinh Di để chuyển hoán phương vị đối phương đánh tới quay ngược về bên địch, thế nhưng chiêu của Tiêu Phong lại bao gồm lực đạo của cả hai người quá là hùng hồn, vừa xoay chuyển, không biết ông muốn đánh vào đâu, thành thử không cách nào dẫn được đành phải ngưng vận nội lực, song chưởng đẩy ra, đồng thời nhẹ nhàng vọt về sau ba trượng.

Tiêu Phong hơi nghiêng mình tránh khỏi chưởng lực của Mộ Dung Phục, quát lên một tiếng, chẳng khác gì sét đánh giữa trời, tay phải nhằm Du Thản Chi đấm ra một quyền. Ông thân thể cao to, so với Du Thản Chi hơn hẳn một cái đầu nên quyền đó đánh thẳng vào mặt y. Du Thản Chi vốn sẵn úy kỵ, nghe tiếng quát như sấm rền khiến cho chân tay bủn rủn, quyền của Tiêu Phong lại đến quá nhanh, chưởng đánh Đinh Xuân Thu, tránh đòn Mộ Dung Phục, quyền đả Du Thản Chi tuy có trước có sau thật nhưng ba chiêu đó liền lạc với nhau, nhanh như ánh chớp, Du Thản Chi muốn chống đỡ thì quyền lực đã đến trước mặt. Cũng may y chuyên cần luyện Dịch Cân Kinh nên thể lực tự nhiên sinh ra phản ứng, đầu lập tức ngửa về sau, lộn mèo hai vòng, tránh được cú đấm nghìn cân của Tiêu Phong chỉ trong đường tơ kẽ tóc.

Du Thản Chi thấy mặt mát rượi, nghe quần hùng “Ồ” lên một tiếng, rồi thấy từng mảng như đàn bướm tung vãi khắp nơi, thì ra chiếc mặt nạ Du Thản Chi che trên mặt đã bị quyền của Tiêu Phong đánh tan nát. Người đứng xem thấy mặt bang chủ Cái Bang lồi lồi lõm lõm, chỗ đỏ chỗ đen, mặt mày vằn vện đầy sẹo, ngũ quan méo mó, xấu xí đáng sợ ai nấy đều bở vía.

Tiêu Phong trong ba chiêu đã ép cho ba đại cao thủ phải dạt ra, hào khí dâng lên, thét lớn:

- Mang rượu ra đây!

Một tên võ sĩ Khất Đan liền cởi trên lưng một con tuấn mã đã chết ra một túi da, rảo bước đi tới, hai tay dâng lên. Tiêu Phong mở nút bình, cầm túi giơ cao lên, hơi nghiêng xuống, một dòng rượu trắng chảy ồng ộc xuống. Ông ngửa cổ uống ừng ực không ngừng.

Chiếc bình đựng đầy rượu, ít ra cũng phải hai chục cân, nhưng Tiêu Phong uống một hơi cạn sạch không còn một giọt. Chỉ thấy bụng ông hơi phồng lên một tí nhưng mặt vẫn đen đủi như bình thời không có vẻ gì say cả. Quần hùng còn đang ngơ ngác, Tiêu Phong phất tay phải một cái, mười bảy tên võ sĩ còn lại người nào cũng cầm một bầu rượu mang đến trước mặt.

Tiêu Phong nói với mười tám tên võ sĩ:

- Này các huynh đệ, vị Đại Lý Đoàn công tử đây, là anh em kết nghĩa của ta. Hôm nay chúng mình bị hãm trong trùng vi, quả bất địch chúng, thế quả khó mà thoát thân.

Ông mới rồi cùng bọn Mộ Dung Phục trao đổi một chiêu, tuy đã chiếm được thượng phong, nhưng cũng biết ba đại cao thủ đều là những người thân mang tuyệt kỹ, ba người đánh một, mình ắt không thể địch nổi, huống chi ngoài những kẻ đang hầm hè kia bên cạnh còn hàng nghìn hàng trăm hào kiệt đứng chờ sẵn đó.

Ông nắm tay Đoàn Dự nòi:

- Huynh đệ, ta với ngươi sống chết có nhau, quả không uổng một trường kết nghĩa, chết cũng được mà sống cũng được, chúng mình uống với nhau một trận cho thống khoái đã nào!

Đoàn Dự bị hào khí của ông khích động, cũng cầm ngay lấy bao da nói:

- Phải lắm, đang muốn cùng đại ca uống một phen đây.

Từ đám tăng nhân Thiếu Lâm một người mặc áo màu tro chạy ra, dõng dạc nói:

- Đại ca, tam đệ, hai người uống rượu, sao không rủ ta?

Người đó chính là Hư Trúc. Y ở trong đám đông thấy Tiêu Phong cưỡi ngựa chạy lên, quả nhiên anh khí hơn người, coi quần hùng chẳng đáng vào đâu, không khỏi sờn lòng, lại thấy Đoàn Dự nghĩ tình kết nghĩa, nguyện cùng nhau chết chung một chỗ, nhớ tới hôm trước trên ngọn Phiêu Miểu cùng Đoàn Dự kết bái, cũng đã từng đem cả Tiêu Phong vào. Đại trượng phu một lời nói ra, sinh tử chẳng nề, nghĩ đến hào khí khẳng khái cùng Đoàn Dự một trận say mèm nơi cung Linh Thứu, bao nhiêu an nguy sinh tử, thanh qui giới luật, bèn bỏ hết qua một bên.

Tiêu Phong chưa từng gặp Hư Trúc bao giờ, bỗng nghe y gọi mình “đại ca” không khỏi sững sờ. Đoàn Dự bèn bước qua cầm tay Hư Trúc, nói với Tiêu Phong:

- Đại ca, đây là kết nghĩa ca ca của tiểu đệ. Khi y xuất gia pháp danh là Hư Trúc, hoàn tục gọi là Hư Trúc Tử. Khi hai người chúng em kết bái cũng có để luôn cả đại ca vào. Nhị ca, mau mau bái kiến đại ca.

Hư Trúc lập tức tiến lên, quì xuống rập đầu nói:

- Đại ca ở trên, tiểu đệ khấu đầu ra mắt.

Tiêu Phong mỉm cười, nghĩ thầm: “Nghĩa đệ ta có phần gàn dở nên khi cùng người kết bái đem luôn cả ta vào. Ta sống chết trong khoảnh khắc, tình thế cực kỳ hung hiểm, vậy mà người này không sợ nguy nan, dám xông ra, đủ biết là bậc đại trượng phu, hảo hán tử trọng nghĩa khinh sinh. Tiêu Phong được kết nghĩa với những người như thế này, quả không uổng một đời”.

Ông lập tức quì xuống nói:

- Huynh đệ, Tiêu mỗ được kết nghĩa với một bậc anh hùng hảo hán như ngươi, quả thật vui mừng.

Hai người lạy nhau tám cái, ngang nhiên trước mặt anh hùng thiên hạ kết nghĩa kim lan. Tiêu Phong không biết Hư Trúc thân mang võ công tuyệt thế, thấy y chỉ là một tăng nhân thấp kém trong phái Thiếu Lâm, đoán chừng võ công hữu hạn nhưng dám khẳng khái phó nghĩa, nếu như bảo y đứng tránh sang một bên e rằng coi thường y quá, bèn cầm túi da nói:

- Hai vị huynh đệ, mười tám võ sĩ Khất Đan đây đối với ca ca trung thành son sắt, lúc bình thời đối xử với nhau chẳng khác gì chân tay, tất cả cùng uống một trận cho đã đời rồi ra tay đại sát.

Ông mở nắp túi da, uống một ngụm lớn, giao bình rượu cho Hư Trúc. Hư Trúc trong lòng máu nóng dâng lên, còn coi ngũ giới lục giới, thất giới bát giới cửa Phật ra gì nữa, cũng cầm túi da lên uống một ngụm, giao cho Đoàn Dự. Đoàn Dự uống một ngụm rồi, giao lại cho một võ sĩ Khất Đan. Các võ sĩ liền cùng cầm túi da lên uống một mạch cho thỏa chí.

Hư Trúc nói với Tiêu Phong:

- Đại ca, gã Tinh Tú Lão Quái kia làm hại sư phụ, sư huynh môn phái sau của đệ, lại làm hại thái sư thúc Huyền Nạn, Huyền Thống đại sư thuộc môn phái trước của đệ là phái Thiếu Lâm. Huynh đệ muốn báo thù.

Tiêu Phong trong bụng lạ lùng hỏi:

- Ngươi …

Chưa nói được tiếng thứ hai, Hư Trúc song chưởng vù vù, đã đánh về phía Đinh Xuân Thu. Tiêu Phong thấy y chưởng pháp tinh kỳ, nội lực hồn hậu, không khỏi vừa mừng rỡ, vừa ngạc nhiên nghĩ thầm: “Thì ra nhị đệ võ công ghê gớm như thế, quả thật không thể ngờ được”. Ông cũng quát lên:

- Coi quyền đây!

Vù vù hai tiếng, chia ra đấm vào Mộ Dung Phục và Du Thản Chi. Du Thản Chi và Mộ Dung Phục chia ra xuất chiêu chống đỡ. Mười tám tên võ sĩ Khất Đan biết được tâm ý chúa công, liền chia ra vây quanh Đoàn Dự hộ vệ.

Hư Trúc sử dụng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng múa tít lên, liên tiếp tấn công. Đinh Xuân Thu hôm đó lẻn vào căn nhà gỗ dùng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán ám hạ độc thủ Tô Tinh Hà và Hư Trúc, Tô Tinh Hà trúng độc bỏ mạng nhưng Hư Trúc vẫn không sao, Đinh Xuân Thu đối với y e dè sợ sệt thầm, nên lúc này không dám sử dụng độc công, sợ Hư Trúc đẩy chất độc ngược trở về mình, hại người không xong lại vạ cho mình, bèn đem chưởng pháp bản môn ra đối phó, nghĩ thầm: “Thằng trọc này giải được thế cờ Trân Lung, ắt đã được lão tặc truyền thụ, trở thành chưởng môn phái Tiêu Dao. Lão tặ quỉ kế đa đoan, thể nào chẳng ngầm an bài kế sách hại ta trong đó, mình phải hết sức đề phòng mới được”.

Võ công phái Tiêu Dao cốt ở chỗ nhẹ nhàng phiêu dật, nhàn nhã thanh thoát, Đinh Xuân Thu cùng Hư Trúc một khi giao thủ rồi người ta chỉ thấy một bên đồng nhan bạch phát, như thể thần tiên, một bên tay áo phất phơ, đi mây về gió. Hai bên cứ vừa chạm vào nhau thì lại dang ra, chẳng khác gì một đôi bướm giữa muôn hoa, chập chờn bất định, hai chữ “tiêu dao” phát huy đến cùng cực.

Quần hùng đứng xem phần nhiều chưa từng thấy võ công phái Tiêu Dao bao giờ, khiến cho ai nấy tâm hồn bay bổng, nghĩ thầm: “Hai người này chiêu nào cũng đầy hung hiểm, tấn công vào nơi yếu hại của địch nhân, vậy mà tư thức sao lại thanh nhã dễ coi, chẳng khác gì đang múa. Cái lối chưởng pháp nặng mà tợ nhẹ, tiêu sái như ý quả mình chưa thấy bao giờ, không hiểu đó là công phu chi vậy? Tên gọi ra sao?”.

Ở bên kia Tiêu Phong một mình đánh với Mộ Dung Phục và Du Thản Chi, mười chiêu đầu tiên hơi thắng thế một chút, thế nhưng đến mười chiêu sau, thấy Du Thản Chi mỗi quyền đấm ra, mỗi chưởng đánh ra đều chứa đầy khí âm hàn. Tiêu Phong còn phải dùng toàn lực chống đỡ Mộ Dung Phục, Du Thản Chi tiếp tục tấn công, không khỏi khí lạnh phả vào người, khó mà chịu nổi. Khi đó Băng Tàm hàn độc trong người Du Thản Chi đã được nội công Dịch Cân Kinh bồi dưỡng, chính tà hỗ trợ, thủy hỏa đắp đổi đã trở thành một môn nội công lợi hại vào bậc nhất thiên hạ, lại thêm Mộ Dung Phục sử dụng Đẩu Chuyển Tinh Di áo diệu khôn lường, khiến cho Tiêu Phong đấu với hai đại cao thủ, so với hôm trước ở Tụ Hiền Trang cùng hàng trăm hảo hán võ lâm giao chiến cũng hung hiểm chẳng khác gì.

Thế nhưng ông vốn người thần võ, vào cảnh ngộ càng bất lợi, dũng lực tiềm ẩn trong người càng có dịp phát dương, dùng chưởng lực dương cương số một thiên hạ là Hàng Long Thập Bát Chưởng đánh ra, khiến cho Mộ Dung Phục và Du Thản Chi không có cách gì đến gần mà hàn độc Băng Tàm cũng không thể vào người ông được. Thế nhưng Tiêu Phong phát chưởng như thế, nội lực tiêu hao rất nhiều về sau thể nào chưởng lực cũng phải suy giảm.

Du Thản Chi không nhìn ra yếu quyết bên trong nhưng Mộ Dung Phục thì rõ như ban ngày, biết rằng cứ đấu tiếp thì mình và gã Trang bang chủ kia chỉ cần giữ cho được nửa giờ, về sau thể nào cũng chiếm thượng phong. Thế nhưng Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung vốn dĩ tề danh, hôm nay lần đầu trước mặt quần hùng giao đấu, bên mình phải nhờ bang chủ Cái Bang tương trợ, dù có giết được Tiêu Phong thì Nam Mộ Dung hiểu nhiên không bằng được Bắc Kiều Phong rồi.

Mộ Dung Phục trong bụng tính toán mấy lượt, nghĩ thầm: “Hưng phục mới là chuyện lớn, tiếng tăm chỉ là chuyện nhỏ. Nếu ta giúp cho anh hùng võ lâm Trung Nguyên trừ được một tên đại hại thì bao nhiêu hào kiệt Đại Tống dù quen biết hay không, ai nấy cũng sẽ hoài ân cảm đức, xem ra cái chức võ lâm minh chủ, chẳng vào tay mình thì còn tay ai? Khi đó chỉ cần giơ tay hô một tiếng, việc khôi phục Đại Yên có cơ thành tựu. Huống chi khi đó Kiều Phong chết rồi, dẫu Nam Mộ Dung có không bằng Bắc Kiều Phong thì cũng đã là chuyện đã qua”.

Y lại nghĩ sang: “Sau khi giết được Kiều Phong rồi, Trang Tụ Hiền sẽ thành đại địch, nếu như chức võ lâm minh chủ bị y đoạt mất, mình ngược lại phải nghe lệnh của hắn thì thật là đại đại bất ổn”. Thành thử khi ra chiêu phát chưởng, Mộ Dung Phục ngầm giữ lại vài phần nội lực, để phần lớn bắt Du Thản Chi phải chịu. Mộ Dung Phục thân pháp tinh kỳ, người đứng xem không một ai nhìn ra được.

Chỉ trong giây lát, ba người qua qua lại lại trao đổi đến hơn trăm chiêu. Tiêu Phong luôn luôn sử dụng xảo kình dụ cho Du Thản Chi mắc hỡm. Du Thản Chi rất ít kinh nghiệm, mấy lần suýt nữa vào tròng, may được Mộ Dung Phục ở bên lo liệu, hóa giải kịp thời nhưng những chưởng lực cương mãnh vô tỉ của Tiêu Phong thì Du Thản Chi vẫn phải đem toàn lực nội công thâm hậu ra mới chống đỡ nổi.

Đoàn Dự đứng trong vòng vây của mười tám võ sĩ Khất Đan, thấy nhị ca từng bước từng bước lấn lướt, không bị hạ phong chút nào, còn phía đại ca một đánh hai, tuy nhiên thần uy lẫm lẫm nhưng chưởng nào chưởng nấy tựa như cuồng phong gầm hú, cát chạy đá bay, xem ra khó mà được lâu, nghĩ bụng: “Ta mồm loa mép giải lúc nào cũng bảo cùng hai vị ca ca chịu chung hoạn nạn, đến khi có việc lại trốn giữa đám đông, để cho người ta bảo hộ thì còn nói gì là nghĩa khí? Nói gì đồng sinh cộng tử? Đằng nào thì cũng chết, lão tam này thật chẳng ra trò trống gì. Ta tuy không có chút võ công gì thật, nhưng dùng Lăng Ba Vi Bộ quấy phá Mộ Dung Phục một phen, để cho đại ca rảnh tay đánh bại gã Trang bang chủ xấu xí kia trước, thế cũng hay lắm”.

Chàng suy nghĩ đã quyết, lách người lòn ra khỏi vòng vây của mười tám gã võ sĩ Khất Đan, lớn tiếng nói:

- Mộ Dung công tử, ngươi và đại ca ta tề danh, đáng ra phải đánh tay đôi với đại ca ta mới phải, sao lại để người tương trợ mới ráng mà chống đỡ nổi? Nếu quả miễn cưỡng bình thủ, chẳng thấy ê mặt với thiên hạ hay sao? Mau mau ra đây, nếu ngươi có giỏi thì đánh ta một quyền xem nào.

Nói xong thân hình lạng một cái, lẻn ra sau lưng, giơ tay chộp vào cổ Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục thấy y đến nhanh như chớp, xoay tay đánh ngược lại một chưởng, vả trúng ngay mặt chàng, má bên phải Đoàn Dự lập tức sứt da chảy máu, đau đến ứa nước mắt. Lăng Ba Vi Bộ của chàng vốn dĩ thần diệu, khi thi triển ra, người nào muốn đánh trúng người chàng thật khó bằng trời, thế nhưng đây là lần đầu chàng ra tay đánh người khác. Chàng đưa tay quờ quạng chụp một cái, làm sao trúng được một người võ công tuyệt đính là Cô Tô Mộ Dung? Bị y đánh ngược lại một chưởng, Đoàn Dự lại không biết tránh né, thành thử vỡ mày vỡ mặt đau không sao kể xiết.

Thế nhưng bàn tay Mộ Dung Phục chỉ lướt qua mặt chàng, bỗng thấy nội lực tuôn ra ngoài, rồi không còn tung tích gì cả, bàn tay cánh tay lập tức tê đi, giật mình kinh hãi: “Môn yêu thuật của phái Tinh Tú nổi tiếng thiên hạ tiểu tử này cũng học được rồi, mình phải cẩn thận”. Y bèn chửi:

- Tiểu tử họ Đoàn kia, ngươi đầu nhập phái Tinh Tú bao giờ thế?

Đoàn Dự ngơ ngác:

- Ngươi nói …

Chưa dứt lời, ngờ đâu Mộ Dung Phục đá ra một cái khiến chàng lộn mèo. Mộ Dung Phục cũng không nghĩ mình đánh lén một cái lại dễ dàng đến thế, trong bụng mừng thầm, lập tức nhảy tới, chân phải đạp lên ngực Đoàn Dự, quát lớn:

- Ngươi muốn sống hay muốn chết?

Đoàn Dự nghiêng đầu qua thấy Tiêu Phong còn đang ác đấu với Trang Tụ Hiền, nghĩ bụng nếu mình nói bướng, y sẽ giết mình ngay, rồi lại rảnh tay tương trợ cho Trang Tụ Hiền, đại ca sẽ lại khó khăn nên phải cùng y diên trì được chút nào hay chút nấy, liền đáp:

- Chết thì có gì thú? Đương nhiên là sống trên cõi đời so ra vẫn hơn chứ.

Mộ Dung Phục thấy Đoàn Dự đến nước này vẫn còn nói bông lơn, sầm mặt xuống, quát:

- Nếu muốn sống thì …

Y định bảo Đoàn Dự lạy mình một trăm cái cho y nhục nhã một phen trước đông người, nhưng chợt nghĩ ra y có bộ pháp xảo diệu, nếu thả ra thật chẳng dễ gì bắt lại, liền đổi giọng nói:

- … gọi ta một trăm tiếng “ông ơi!”.

Đoàn Dự cười nói:

- Ngươi chỉ hơn ta vài tuổi, làm sao là ông nội ta được? Nghe thối bỏ mẹ.

Mộ Dung Phục đánh vù ra một chưởng, trúng ngay bên cạnh đầu Đoàn Dự, lập tức bụi đất bay mù mịt, đất hằn thành một cái vũng, nếu chỉ nhích sang vài phân thì đầu Đoàn Dự sẽ nát nhừ. Mộ Dung Phục lại quát:

- Có gọi không thì bảo?

Đoàn Dự nghiêng đầu qua, tránh đất đá văng vào mặt, trong chớp mắt thấy đằng xa Vương Ngữ Yên đứng cạnh Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác, đôi mắt đăm đăm nhìn mình nhưng vẻ mặt không một chút gì quan thiết, hiển nhiên trong lòng nàng đang nghĩ chẳng qua là: “Biểu ca có giết Đoàn công tử không nhỉ?”. Nếu biểu ca nàng có giết Đoàn Dự chăng nữa, nàng cũng chẳng có gì phải thương tâm.

Chàng vừa thấy vẻ mặt Vương Ngữ Yên, đột nhiên trong lòng chán nản, chỉ mong sao lập tức chết dưới tay Mộ Dung Phục, để khỏi phải chịu mối tương tư dày vò, bèn ảo não đáp:

- Sao ngươi không gọi ta một trăm tiếng “ông ơi” đi?

Mộ Dung Phục giận quá, giơ chưởng phải lên, nhắm thẳng ngay mặt Đoàn Dự đánh xuống, bỗng thấy hai bóng người bay vụt đến như tên. Một người kêu lên:

- Đừng hại con ta!

Một người kêu lên:

- Đừng hại sư phụ ta!

Hai người tuy nhanh thật nhưng thế đến không thể nào cản kịp chưởng lực đánh xuống Đoàn Dự. Có điều Đoàn Chính Thuần và Nam Hải Ngạc Thần đều là những nhân vật võ công cực cao, hai luồng chưởng lực trước sau đánh vào chỗ yếu hại của Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục nếu không thu về chống đỡ, chưởng của y tuy đánh chết Đoàn Dự thật nhưng chính mình cũng bị trọng thương. Y lập tức rút tay phải về, gạt song chưởng của Đoàn Chính Thuần ra, tay trái khua lên một vòng sau lưng, hóa giải thế đánh của Nam Hải Ngạc Thần. Ba người chưởng lực chạm nhau, đều kinh hãi thấy đối phương võ công quả là ghê gớm. Đoàn Chính Thuần nóng lòng giải cứu con yêu, ngón tay trỏ bên phải dùng Nhất Dương Chỉ điểm ra, chiêu số đã quang minh chính đại mà nội lực lại hùng hồn.

Vương Ngữ Yên kêu lên:

- Biểu ca cẩn thận, đây là Nhất Dương Chỉ của nhà họ Đoàn Đại Lý, không nên khinh địch.

Nam Hải Ngạc Thần rống lên ồ ồ:

- Con bà ngươi chứ, cái gã sư phụ bỏ mẹ của ta tuy chẳng ra đếch gì, nhưng cũng là thầy của Nhạc lão nhị. Ngươi đánh sư phụ ta thì có khác gì đánh Nhạc lão nhị? Nếu như sư phụ ta tham sống sợ chết, gọi ngươi một tiếng ông ơi, thì Nhạc lão nhị này từ nay còn ra cái giống gì nữa? Gặp ngươi biết gọi là gì cho phải? Chẳng phải là ngươi cao hơn ta đến ba bậc hay sao? Hóa ra ta thành thằng chắt rồi còn gì? Thế quả khinh người quá đỗi, hôm nay ta phải sống mái với ngươi.

Y mồm thì chửi rủa, tay lấy ngạc chủy tiễn ra, cắt bên trái, cắt bên phải, không ngừng xông vào Mộ Dung Phục. Y bình sinh sợ nhất là chuyện vai vế phải đứng dưới người, ngay trong Tứ Đại Ác Nhân mà cái tiếng lão nhị, lão tam cũng đã tranh giành với Diệp Nhị Nương. Hôm nay nếu như Đoàn Dự gọi Mộ Dung Phục một tiếng ông ơi, Nam Hải Ngạc Thần sẽ biến thành “thằng chắt” thì còn làm sao mà ngóc đầu lên nổi, thà đầu rơi xuống đất còn hơn chứ cái tiếng “chắt” không thể nào chịu nổi.

Mộ Dung Phục không biết y xí xố cái gì, chân phải vẫn đạp trên Đoàn Dự, hai tay chia ra đánh hai người. Sách giải đến hơn chục chiêu, thấy Nam Hải Ngạc Thần tuy có một món binh khí lợi hại nhưng lại dễ đối phó, còn Nhất Dương Chỉ của Đoàn Chính Thuần không thể coi thường, thành thử y chính diện chăm chú đấu với Đoàn Chính Thuần, còn dư lực mới hóa giải ngạc chủy tiễn, thỉnh thoảng mới dùng một hai chiêu đánh ép cho Nam Hải Ngạc Thần phải nhảy ra ngoài vài trượng tránh né.

Đoàn Dự bị y đạp xuống, cố gắng dãy dụa định nhỏm lên nhưng làm sao nổi? Đoàn Chính Thuần thấy con bị chế ngự, nghĩ thầm chân y chỉ cần nhấn xuống một cái, nhi tử ắt sẽ hộc máu chết ngay, trước mắt phải làm cách nào tốc chiến, cốt sao cứu được con ra đã rồi tính sau, nên thi triển Nhất Dương Chỉ vù vù đánh ập vào. Bỗng nghe có tiếng người eo éo nói:

- Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý vốn dĩ khí tượng sâm nghiêm, ung dung tiêu mục, trong cái uy mãnh vẫn không mất phong độ đế vương. Xem cái bộ ngươi đánh thí mạng như đứa ăn mày chưa có túi nào, sao gọi là Nhất Dương Chỉ được? Ha ha, ha ha, thế chẳng phải là để cho người ta coi rẻ họ Đoàn Đại Lý hay sao?

Đoàn Chính Thuần nghe tiếng chính là kẻ đại đối đầu Đoàn Diên Khánh, câu nói của y vốn chẳng sai, nhưng ái tử bị nạn, trong bụng rối bời, còn hơi sức đâu mà lo chuyện khí tượng ung dung, với chẳng phong độ vương giả? Nhất Dương Chỉ tung ra mỗi lúc một nặng, lúc này biến thành độc địa có thừa mà trầm ổn không đủ, vừa lúc một chỉ điểm ra, Mộ Dung Phục lại nhích tới, nghe soẹt một tiếng, điểm trúng ngay xương đòn gánh Nam Hải Ngạc Thần.

Nam Hải Ngạc Thần kêu oai oái, chửi:

- Con bà …

Nghe tiếng loảng xoảng, ngạc chủy tiễn tuột tay, rơi xuống trúng ngay ống quyển. Y vừa đau vừa tức, đang định ngoạc mồm rủa xả nhưng lại nghĩ ra: “Y là ông già của sư phụ, nếu ta chửi y, có phải làm loạn bối phận hay sao? Người này giết thì được nhưng không thể chửi, sau này nếu có cơ duyên, ta cắt soẹt cái đầu lâu y đi là xong …”.

Ngay khi đó, Mộ Dung Phục nhân lúc Đoàn Chính Thuần đánh nhầm đối thủ, tâm thần hơi nhãng, ngón tay giữa bên trái đâm ra, nhanh như điện điểm trúng ngay huyệt Trung Đình trên ngực Đoàn Chính Thuần.

Huyệt Trung Đình nằm bên dưới huyện Đãn Trung một tấc sáu phân. Huyệt Đãn Trung là khí hải của toàn thân, hội tụ của bách tức, hết sức trọng yếu, bị địch điểm trúng rồi, lập tức khí tức đóng chặt. Mộ Dung Phục biết đối phương tài giỏi, nếu như điểm được vào huyệt Đản Trung thì mới xong nhưng dẫu lệch ra như thế, Đoàn Chính Thuần cũng thấy ngực đau nhói, nội tức khó mà vận lên được.

Vương Ngữ Yên thấy biểu ca xuất chỉ trúng địch thủ rồi, vỗ tay reo lên:

- Biểu ca, chiêu Dạ Xoa Thám Hải đó hay quá!

Đúng ra phải điểm trúng biển khí ở huyệt Đãn Trung mới gọi là Dạ Xoa Thám Hải, nhưng nàng đối với ý trung nhân không khỏi vài phần rộng lượng, tuy chiêu dó còn sai một tấc sáu phân nhưng cũng nhập nhằng gọi là Dạ Xoa Thám Hải.

Mộ Dung Phục cũng biết chiêu này không điểm trúng yếu huyệt của địch, lập tức giáng thêm một đòn, hữu chưởng đánh ra, trúng ngay ngực Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần chưa kịp đổi hơi, không cách gì chống đỡ bị Mộ Dung Phục đánh mạnh một cái, một ngụm máu tươi hộc ra. Ông lo cho con nên vẫn không chịu lùi lại, vội vàng vận khí thì chiêu thứ hai của Mộ Dung Phục đã đánh tới.

Đoàn Dự đang bị đè dưới chân Mộ Dung Phục bỗng thấy phụ thân hộc máu mồm, chưởng thứ hai của Mộ Dung Phục lại đánh tiếp, trong lòng hoảng hốt, ngón tay trỏ bên phải chỉ vào y kêu lên:

- Sao dám đánh cha ta?

Trong cơn nguy cấp, nội lực tự nhiên theo ngón tay trỏ bật ra chính là Thương Dương Kiếm trong Lục Mạch Thần Kiếm, chỉ soẹt một tiếng, cánh tay áo của Mộ Dung Phục đã bị vô hình kiếm khí cắt đứt, kế đó kiếm khí đụng vào chưởng lực của Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục chỉ thấy cánh tay tê rần, giật mình kinh hãi, vội vàng nhảy lùi lại.

Đoàn Dự được tự do rồi, lập tức nhỏm ngay lên, ngón tay út bên trái điểm ra, dùng chiêu Thiếu Trạch Kiếm bắn thẳng vào y. Mộ Dung Phục vội vung tay trái lên nghinh địch, soẹt soẹt hai tiếng, tay áo bên trái cũng bị kiếm khí cắt đứt. Đặng Bách Xuyên kêu lên:

- Công tử cẩn thận, đây là vô hình kiếm khí, dùng binh khí nhé?

Y rút kiếm khỏi bao, xoay cán kiếm lại ném cho Mộ Dung Phục. Đoàn Dự nghe thấy Vương Ngữ Yên reo hò khi Mộ Dung Phục đánh ngã cha mình, trong bụng đau xót, nội lực cuồn cuộn tuôn ra, cùng một lúc Thiếu Thương, Thương Dương, Trung Xung, Quan Xung, Thiếu Xung, Thiếu Trạch lục mạch kiếm pháp tung hoành múa may, tùy tâm ứng thủ tưởng như có thần nhập vào.

LÃO MA TIỂU XÚ - KHỞI KHẢM NHẤT KÍCH

THẮNG CHI BẤT VÕ

Thầy trò chiêng trống khua vang,

Gặp bùa sinh tử cũng hàng mà thôi.

Bao năm che lấp chuyện đời,

Mây tan trăng tỏ biết người biết ta.

*

* *

Mộ Dung Phục bắt được trường kiếm Đặng Bách Xuyên ném cho, lên tinh thần, lập tức sử dụng kiếm pháp gia truyền của họ Mộ Dung, chiêu chiêu liên miên bất tuyệt, chẳng khác gì nước chảy mây trôi, chỉ trong phút chốc một màn kiếm quang đã bao quanh toàn thân. Nhân sĩ võ lâm xưa nay chỉ nghe tiếng nhà Mộ Dung võ công uyên bác, mọi nhà mọi phái không đâu không biết, đâu có ngờ kiếm pháp tinh diệu đến thế.

Thế nhưng chiêu số của Mộ Dung Phục dù cho lợi hại cách nào cũng không sao tiến được đến gần Đoàn Dự trong vòng một trượng. Chỉ thấy Đoàn Dự hai tay chỉ chỉ trỏ trỏ đã ép cho Mộ Dung Phục phải nhảy lên hụp xuống, né đông tránh tây. Đột nhiên nghe cách một tiếng, trường kiếm trong tay Mộ Dung Phục đã bị vô hình kiếm khí của Đoàn Dự chấn gãy thành hai ba chục mảnh vụn chừng một tấc, bay tung tóe lên không, ánh tà dương chiếu vào, lấp lánh từng điểm trắng xóa.

Mộ Dung Phục hết sức kinh hãi nhưng không hoảng loạn, tả chưởng vội vàng đánh ra, biến những mảnh kiếm gãy kia thành ám khí, dùng thủ pháp Mãn Thiên Hoa Vũ bắn ra. Đoàn Dự kêu lên: “Ối trời!”, chân tay cuống quít không biết làm sao đành nằm mọp xuống đất khiến những mảnh kiếm gãy bay xớt ngang đầu chàng. Cao thủ tỉ võ mà như ra chiêu “chó ăn phân” thế kia thật là bẽ mặt, khó coi biết bao. Mộ Dung Phục tuy trường kiếm gãy rồi nhưng chuyển bại thành thắng, tiêu sái ung dung, so ra còn nở mày nở mặt hơn Đoàn Dự.

Phong Ba Ác kêu lên:

- Công tử, tiếp đao!

Y liền cầm đơn đao trong tay ném tới. Mộ Dung Phục cầm đao rồi, thấy Đoàn Dự đứng lên bèn cười nói:

- Cái chiêu “Ác Cẩu Ngật Xí” của Đoàn huynh có phải là tuyệt kỹ gia truyền của họ Đoàn Đại Lý hay chăng?

Đoàn Dự ngẩn người đáp:

- Không phải!

Ngón út tay phải điểm tới, một chiêu Thiếu Xung Kiếm đâm ra. Mộ Dung Phục múa đao đề ngự, chỉ thấy y lúc thì sử dụng Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao, lúc thì Bát Quái Đao nhưng chỉ vài chiêu lại đổi qua Lục Hợp Đao, trong khoảnh khắc đã liên tiếp sử dụng tám chín lộ đao pháp, lộ nào cũng đến chỗ cùng yếu thâm sâu, hiển hiện được cái tinh nghĩa của nó, những danh gia sử đao đứng ngoài ai nấy đều phải tấm tắc.

Thế nhưng tuy đao pháp của y tinh kỳ thật, thủy chung vẫn không sao đến sát Đoàn Dự được. Đoàn Dự dùng một chiêu Thiếu Xung Kiếm trừ trái vòng qua, đụng phải đao của Mộ Dung Phục, nghe keng một tiếng, thanh đao sắc bén đó đã gãy đôi.

Công Dã Can liền thẩy một cái , hai ngọn phán quan bút đã bay tới tay Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục vứt chiếc đao gãy xuống, bắt lấy phán quan bút ra chiêu điểm huyệt, đầu bút vùn vụt tiếng gió, đủ biết trong đó có chứa nội lực. Đoàn Dự đánh đến hơn trăm chiêu rồi, nỗi sợ trong lòng dần dần biến mất, nhớ lại nội công tâm pháp bá phụ và Khô Vinh đại sư truyền cho, sáu luồng thần kiếm sử dụng càng lúc càng nhuần nhuyễn, tròn trịa. Bỗng nghe Tiêu Phong nói:

- Tam đệ, Lục Mạch Thần Kiếm của chú chưa được thuần thục, sáu luồng kiếm khí cùng sử dụng, khi thay qua đổi lại không khỏi có chỗ sơ hở, thành thử đối phương thừa cơ tránh được. Hiền đệ chỉ sử dụng một ngọn kiếm pháp xem sao.

Đoàn Dự đáp:

- Dạ, đa tạ đại ca chỉ điểm.

Chàng liếc qua thấy Tiêu Phong khoanh tay đứng bên cạnh, ra vẻ nhàn nhã, Trang Tụ Hiền nằm lăn dưới đất, hai chân gãy lìa, lớn tiếng rên rỉ. Thì ra Tiêu Phong giảm được một cường địch là Mộ Dung Phục, đơn đả độc đấu với Du Thản Chi, lập tức hơn hẳn, chỉ cùng y đấu thêm mấy chiêu, song chưởng chạm nhau đều lạnh run lên, hàn khí nhập thể, thực là khó chịu, lập tức vù vù đánh luôn mấy cái, nhân lúc Du Thản Chi đem toàn lực chống đỡ liền đá quét ngang.

Sở trường của Du Thản Chi là Băng Tàm hàn độc và nội công Dịch Cân Kinh còn công phu quyền cước toàn học của A Tử, hết sức tầm thường, chỉ thấy chân đau nhói, lách cách một tiếng, hai bên đùi đều gãy , ngã lăn quay ra. Tiêu Phong nghiêm nghị nói:

- Cái Bang xưa nay vốn lấy nhân hiệp làm đầu, ngươi thân là chủ một bang, sao lại cùng bọn Tinh Tú yêu nhân cá mè một duộc? Chẳng phải làm ô danh mấy trăm năm qua của Cái Bang hay sao?

Du Thản Chi sở dĩ được làm bang chủ Cái Bang đều do võ công hơn người, còn như kiến thức khí độ không đủ để bang chúng kính phục, huống chi lại đeo mặt nạ, thần thần bí bí, thập thà thập thò, chuyện gì cũng do A Tử và Toàn Quan Thanh sai sử, bọn ăn mày vốn đã bất mãn từ lâu. Hôm nay lại liên tục chộp chết đệ tử bản bang, khấu đầu trước Đinh Xuân Thu, gia nhập môn hạ phái Tinh Tú, người trong Cái Bang không còn coi y là bang chủ nữa.

Tiêu Phong đá gãy hai chân y rồi, bọn ăn mày mừng thầm trong bụng, chẳng một ai tiến ra tương trợ. Toàn Quan Thanh và một số ít phe cánh của y tuy có ý muốn ra cứu viện nhưng thấy Tiêu Phong uy phong lẫm lẫm, dại gì mà ra nạp mạng?

Tiêu Phong đánh ngã Du Thản Chi xong đứng xem Hư Trúc đấu với Đinh Xuân Thu có chừng thắng thế, Đoàn Dự tuy biết Lục Mạch Thần Kiếm, có lúc tinh xảo, có lúc lại thật vụng về, bao nhiêu cơ hội thắng lại để vuột mất nên nhịn không nổi phải lên tiếng chỉ điểm.

Đoàn Dự vừa nghiêng đầu nhìn Tiêu Phong và Du Thản Chi hai người, tinh thần hơi nhãng ra, Lục Mạch Thần Kiếm lập tức có chỗ sơ hở, Mộ Dung Phục hết sức tinh tế, tay trái vung ra, một thanh phán quan bút bay vụt ra như gió bắn thẳng vào ngực Đoàn Dự, xem chừng thủng ngực đến nơi. Đoàn Dự thấy thế bay của phán quan bút thật đáng sợ, chân tay luống cuống kêu lên:

- Đại ca, hỏng rồi!

Tiêu Phong từ bên cạnh đánh ra một chiêu Hiện Long Tại Điền , phán quan bút bị chưởng phong đánh giạt đi, cán cong vòng nên bay sượt qua đầu Đoàn Dự rồi quay ngược trở về Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục vội vàng vung đơn bút trong tay gạt ra, nghe keng một tiếng, hai bút chạm nhau, chấn động khiến cánh tay ê ẩm. Y không để cho cây bút cong rơi xuống liền vươn tay trái chộp lấy múa lên thành ra đơn câu câu pháp.

Quần hùng thấy chưởng lực Tiêu Phong mạnh như thế, lại thấy Mộ Dung Phục ứng biến thật nhanh, câu pháp tinh kỳ, nhịn không nổi lớn tiếng reo hò, biết hôm nay được coi những kỳ tài đương thế ra tay, quả thực đại khai nhãn giới, không uổng công một chuyến du hành lên núi Thiếu Thất.

Đoàn Dự thoát được cái họa bút xuyên qua ngực, vội giơ ngón tay cái lên sử động Thiếu Thương kiếm pháp. Lộ kiếm pháp này đóng mở rộng rãi, khí mạch hoằng vĩ, mỗi kiếm đâm ra đều như trời long đất lở, gió táp mưa sa, Mộ Dung Phục một bút một câu xem chừng khó bề chống đỡ. Đoàn Dự được Tiêu Phong chỉ điểm nên chỉ sử dụng một đường Thiếu Thương kiếm pháp, quả nhiên kết cấu nghiêm cẩn không còn chút sơ hở nào.

Vốn dĩ Lục Mạch Thần Kiếm sáu đường kiếm pháp đắp đổi tới lui, uy lực so với một đường mạnh mẽ gấp bội, thế nhưng Đoàn Dự không biết yếu quyết bên trong, sử dụng một đường lại thành thục hơn, nên chỉ hơn một chục kiếm đã thấy Mộ Dung Phục toát mồ hôi trán, liên tiếp thối lui, tới khi gặp một cây hòe mới tựa vào đó mà chống đỡ.

Đoàn Dự sử dụng xong Thiếu Thương kiếm pháp, ngón cái co lại, ngón trỏ bung ra biến thành Thương Dương kiếm pháp. Thương Dương kiếm pháp so với Thiếu Thương không hoằng đại bằng nhưng lại khinh linh huyền ảo, ngón tay trỏ vận động, từng kiếm từng kiếm bắn ra nhanh nhẹn không gì sánh kịp.

Sử kiếm toàn nhờ cổ tay linh hoạt, nhưng tung ra thu về, dù có nhanh nhẹn cỡ nào, cũng phải cách nhau vài thước, còn chàng dùng ngón tay vận dụng kiếm khí vô hình, chỉ dùng ngón tay chuyển động trong vài tấc, đâm ra điểm tới thật tiện lợi biết bao? Huống chi Mộ Dung Phục bị chàng đẩy lùi ra ngoài hơn một trượng, không cách gì hoàn thủ được. Đoàn Dự nếu như cùng y từng chiêu sách giải thì chưa đến chiêu thứ hai đã bị Mộ Dung Phục lấy mạng rồi, bây giờ chỉ công mà không cần thủ, sử dụng Thương Dương kiếm pháp học được nơi chùa Thiên Long quả thật tiện nghi quá đỗi.

Vương Ngữ Yên thấy biểu ca tình thế nguy cấp, trong bụng lo lắng vô cùng, tuy nàng am tường võ công chiêu số mọi môn phái trong thiên hạ nhưng Lục Mạch Thần Kiếm lại chẳng biết gì, không làm sao buông lời chỉ điểm được, chỉ biết quýnh quít mà thôi.

Tiêu Phong thấy vô hình kiếm khí của Đoàn Dự càng lúc càng thần diệu, cảm thấy khoan tâm, lại thêm bội phục nhưng chạnh nhớ đến A Châu lòng thêm chua xót: “A Châu hôm đó cam nguyện chết thay cho phụ thân, cũng chỉ vì sợ ta giết phụ thân nàng rồi, họ Đoàn Đại Lý sẽ tìm ta báo thù, e rằng ta chống đỡ không nổi môn Lục Mạch Thần Kiếm này. Tam đệ kiếm pháp thần kỳ như thế, nếu ta ở vào địa vị của Mộ Dung Phục quả thực cũng không chống đỡ nổi. A Châu đem tính mạng nàng ra cứu ta khỏi chết, ta … ta chỉ là một kẻ vũ phu Khất Đan, làm sao báo đáp thâm ân hậu tình của nàng cho được?”.

Quần hùng thấy Mộ Dung Phục bị Đoàn Dự đẩy vào thế quẫn bách, có người đang định chạy lên giúp đỡ bỗng nghe phía tây nam có tiếng đàn bà quát lên:

- Tinh Tú Lão Quái, sao ngươi dám cùng chủ nhân cung Linh Thứu ngọn Phiêu Miểu động thủ? Mau mau quì xuống khấu đầu đi thôi.

Mọi người ngó qua thấy bên sườn núi đứng lố nhố đến mấy trăm người đàn bà, chia thành tám đội, mỗi đội mặc một loại quần áo khác màu, đỏ vàng xanh tím, trông thật đẹp mắt. Bên cạnh tám đội đàn bà đó còn thêm mấy trăm hào khách giang hồ, ăn mặc phục sức khác hẳn người thường. Những hào khách đó cũng nhao nhao lên:

- Chủ nhân, cấy cho y mấy miếng Sinh Tử Phù.

- Đối phó với Tinh Tú Lão Quái thì Sinh Tử Phù là thần hiệu hơn cả.

Võ công nội lực Hư Trúc đều hơn hẳn Đinh Xuân Thu, vốn dĩ đã có thể thủ thắng rồi, nhưng có điều kinh nghiệm lâm địch còn ít quá, công lực bản thân chỉ phát huy được sáu bảy thành, hai nữa y có lòng từ bi, nhưng chiêu sát thủ lấy mạng người khác đều chỉ ra đòn một nửa rồi rút về, ba là toàn thân Đinh Xuân Thu đều có chất độc, Hư Trúc cũng hơi e dè, không dám để cho đụng vào người, có biết đâu rằng mình có nội công thâm hậu, chất kịch độc của Đinh Xuân Thu không làm gì nổi thành thử đấu đã lâu mà chưa hạ được y.

Bỗng nghe có tiếng đàn ông đàn bà cùng reo hò như thế, hoan hô trợ uy cho mình, Hư Trúc đưa mắt nhìn về phía thanh âm, không khỏi vừa mừng rỡ vừa kinh ngạc. Chỉ thấy chư nữ Cửu Thiên đã có tám lộ đến nơi, riêng Loan Thiên Bộ chắc ở lại thủ ngự cung Linh Thứu. Còn đàn ông kia thì là động chủ ba mươi sáu động, đảo chủ bảy mươi hai đảo và các bộ thuộc, nhân số không phải là ít, dù các động chủ đảo chủ không đến đủ thì cũng phải đến tám chín phần.

Hư Trúc kêu lên:

- Dư bà bà, Ô tiên sinh, các vị cũng đã đến rồi đấy ư?

Dư bà bà đáp:

- Khải bẩm chủ nhân, thuộc hạ nhận được thư truyền của bốn vị cô nương Mai Lan Cúc Trúc mới hay bọn giặc trọc chùa Thiếu Lâm toan làm khó chủ nhân, thành thử cùng các động các đảo bộ thuộc, đêm ngày chạy đến. Nhờ trời chủ nhân không sao, thuộc hạ mừng sao cho xiết.

Hư Trúc nói:

- Phái Thiếu Lâm là sư môn của ta, bà bà không được nói năng vô lễ, mau mau tạ tội cùng phương trượng chùa Thiếu Lâm đi.

Y miệng nói nhưng tay vẫn sử dụng Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, Thiên Sơn Lục Dương Chưởng thật là tuyệt diệu. Dư bà bà tỏ vẻ hoảng hốt, khom lưng nói:

- Dạ, mụ già này biết tội rồi.

Bà ta đi đến trước mặt Huyền Từ phương trượng, quì hai gối xuống, cung kính rập đầu bốn lần nói:

- Thuộc hạ của chủ nhân Linh Thứu Cung là Hạo Thiên Bộ Dư bà, ngôn ngữ vô lễ, mạo phạm chúng vị cao tăng chùa Thiếu Lâm, cung kính khấu đầu tạ tội trước phương trượng, cẩn lãnh đại sư xử phạt.

Bà ta nói giọng tuy thành khẩn nhưng tiếng thật vang động đủ biết nội lực sung mãn, đã đạt tới trình độ nhất lưu cao thủ. Huyền Từ phất tay áo một cái nói:

- Không dám, xin nữ thí chủ đứng lên.

Cái phất tay đó sử dụng đến năm phần nội lực, tưởng sẽ nhắc được Dư bà lên, ngờ đâu Dư bà chỉ hơi nhúc nhích một chút nhưng không đứng dậy. Bà ta lại khấu đầu nói:

- Lão bà tử mạo phạm đến sư môn của chủ nhân, tội đáng muôn thác.

Lúc đó mới chậm rãi đứng lên, quay trở về đội mình. Những nhà sư trong vai vế chữ Huyền đã nghe Hư Trúc thuật lại việc y lên làm chủ nhân Linh Thứu Cung nên hiểu ra, còn quần hùng và những nhà sư khác đều hết sức lạ lùng: “Mụ già này nội lực tu tập quả là ghê gớm, những người kia xem ra cũng chẳng phải vừa, sao lại là bộ hạ của tiểu hòa thượng chùa Thiếu Lâm, quả là kỳ quái”. Có người thấy Hư Trúc tương trợ Tiêu Phong, mà y lại có một bầy thủ hạ nam nữ kéo tới, Tiêu Phong thêm nhiều cường viện, muốn giết được ông cũng không phải dễ đâm ra lo lắng.

Môn nhân phái Tinh Tú thấy trong chư nữ bát bộ có nhiều đàn bà con gái trẻ đẹp, lập tức giở giọng bông lơn chớt nhả. Các động chủ đảo chủ cũng toàn là bọn thô lỗ, lập tức chửi lại ngay, lập tức hai bên nói qua nói lại rầm rĩ vang cả núi. Các động chủ, đảo chủ loạt soạt rút đao rút kiếm thách bên kia nhưng môn nhân phái Tinh Tú chưa được lệnh sư phụ, không dám bước ra ứng chiến, chỉ còn nước chửi già, càng lúc càng tục tĩu gấp bội. Có kẻ thấy sư phụ đánh lâu chưa thắng, cục diện chưa hẳn đã hay, mắt trước mắt sau chấp chới toan tìm đường chạy xuống núi.

Đoàn Dự không chú ý đến bên ngoài nên chư nữ cung Linh Thứu lên chàng không hề hay biết, tập trung tinh thần sử động Thương Dương kiếm pháp, từng chiêu từng chiêu đánh ép vào Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục lúc này nhìn không ra đạo lộ của vô hình kiếm khí, chỉ còn nước múa tít một bút một câu gió mưa không lọt, hộ vệ toàn thân.

Bỗng nhiên nghe soẹt một tiếng, kiếm khí của Đoàn Dự đã đâm thủng vòng vây, mũ của Mộ Dung Phục bị cắt đứt, tóc xõa tung ra trông thật thảm thương. Vương Ngữ Yên kinh hoảng kêu lên:

- Đoàn công tử, xin nhẹ tay cho!

Đoàn Dự trong lòng chột dạ, thở dài một tiếng, kiếm thứ hai không tung ra nữa, rút tay về ôm ngực nghĩ thầm: “Ta biết lòng nàng chỉ nghĩ đến một người là biểu ca, nếu như ta lỡ tay giết y, nàng sẽ vô cùng đau đớn, từ nay không bao giờ nở một nụ cười. Đoàn mỗ kính nàng yêu nàng, không thể nào để cho nàng đau thương không chịu nổi”.

Mộ Dung Phục sắc mặt như chàm, nghĩ đến hôm nay trên núi Thiếu Thất đấu kiếm bị thua, quả là kỳ sỉ đại nhục, lại phải để một cô gái mở miệng van xin đối phương mới tha mạng cho mình, từ nay sao còn chỗ đứng trên giang hồ nữa? Y rống lên:

- Đại trượng phu có chết thì chết, ai cần mi mua chuộc nhường chiêu.

Y vũ động cương câu, xông thẳng vào Đoàn Dự. Đoàn Dự hai tay xua lia lịa nói:

- Chúng mình không thù không oán, tái đấu làm gì? Không đánh nữa, không đánh nữa.

Mộ Dung Phục tính tình cao ngạo, vẫn coi người bằng nửa con mắt, hôm nay trước bao nhiêu hào kiệt, bị Đoàn Dự đánh cho không trả lại được miếng nào, nhờ Vương Ngữ Yên nên đối phương mới dung tha, mối hận đó làm sao chịu nổi? Cương câu của y móc vào mặt còn phán quan bút thì đâm thẳng vào ngực địch thủ, trong bụng tính thầm: “Ngươi dùng kiếm khí vô hình giết ta đi, thôi cả hai đồng qui ư tận, còn hơn lê kiếp sống thừa”. Y xông lên không còn coi tính mạng mình ra gì nữa.

Đoàn Dự thấy Mộ Dung Phục hung hăng xông đến, nếu dùng Lục Mạch Thần Kiếm đâm vào chỗ yếu hại của y e rằng sẽ bỏ mạng, nhất thời luống cuống, đứng chết sững, không nghĩ ra phải dùng Lăng Ba Vi Bộ tránh né. Mộ Dung Phục chí đã muốn chết, xốc tới nhanh biết chừng nào, chỉ thấy bóng người thấp thoáng, phụp một cái, phán quan bút đã đâm vào người Đoàn Dự. Cũng may trong cơn nguy cấp Đoàn Dự né qua bên trái, tránh được chỗ yếu hại trên ngực, bút đâm ngập vào vai phải. Đoàn Dự rú lên một tiếng, sợ đến run lẩy bẩy đứng không vững. Mộ Dung Phục liền dùng cương câu bên tay trái móc ngang ót Đoàn Dự, chiêu Đại Hải Liệu Châm là một chiêu số lợi hại của Ngư Tẩu Câu Pháp của họ Thác Bạt ngoài Bắc Hải, lấy từ cách móc cá đánh cá ngoài bể khơi biến hóa thành, vừa chính xác, vừa hiểm độc.

Đoàn Chính Thuần và Nam Hải Ngạc Thần thấy tình thế không xong, cả hai lại cùng nhào tới, lúc này lại có thêm Ba Thiên Thạch và Thôi Bách Tuyền. Lần này Mộ Dung Phục quyết tâm giết cho bằng được Đoàn Dự, dù cho chính mình có bị trọng thương cũng chẳng ngừng tay nên chẳng thèm để ý gì đến bọn bốn người Đoàn Chính Thuần. Xem ra đầu cương câu bổ vào sau ót Đoàn Dự tới nơi, đột nhiên sau lưng y tê đi, Huyệt Thần Đạo bị chộp trúng lập tức hai tay ê ẩm, cầm cương câu không còn vững nữa, thân hình đã bị ai đó xách lên cao. Y chỉ nghe Tiêu Phong nghiêm nghị quát lên:

- Người ta tha mạng cho mi, mi lại trả lại bằng độc thủ, còn gì là anh hùng hảo hán?

Thì ra Tiêu Phong thấy Mộ Dung Phục hung hăng xông tới, để hở hết cả phía trước, nghĩ thầm Đoàn Dự chỉ cần sử dụng một chiêu vô hình kiếm khí là lấy mạng y ngay, đâu có ngờ rằng chàng lại đứng chết sững, thế của Mộ Dung Phục nhanh quá, mặc dù Tiêu Phong ra tay rất nhanh nhưng cũng không sao giải cứu được thế đâm của thanh bút. Thế nhưng khi Mộ Dung Phục sử dụng chiêu Đại Hải Liệu Châm, Tiêu Phong lập tức xuất thủ, chộp ngay huyệt Thần Đạo ở sau lưng.

Võ công Mộ Dung Phục vốn có kém Tiêu Phong một chút nhưng cũng không đến nỗi chỉ một chiêu đã bị bắt, có điều khi đó y đang phẫn khích, chỉ chăm chăm vào việc giết cho được Đoàn Dự, không lo gì cho chính mình. Chiêu của Tiêu Phong lại là một chiêu cầm nã thủ rất tinh diệu, đã nắm được yếu huyệt rồi, Mộ Dung Phục còn cử động sao được.

Tiêu Phong thân hình to lớn, tay dài chân cao, cầm Mộ Dung Phục nhắc lên bông bênh trên không, thật chẳng khác gì diều hâu bắt gà con. Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác bốn người cùng kêu lên:

- Đừng giết công tử nhà ta!

Cả bọn cùng xông lên, Vương Ngữ Yên cũng từ đám đông chạy ra kêu lên:

- Biểu ca! Biểu ca!

Mộ Dung Phục hận không thể chết ngay tại chỗ cho khỏi nhục nhã đến mực này. Tiêu Phong cười khẩy đáp:

- Tiêu mỗ thân đại hảo nam nhi vậy mà lại bị xếp ngang hàng với cái quân này!

Ông vẫy tay một cái, ném bịch y ra ngoài. Mộ Dung Phục bay thẳng ra đến bảy tám trượng, vặn người một cái nhắc người lên, ngờ đâu khi Tiêu Phong nắm huyệt Thần Đạo của y, nội lực đã ngấm vào các kinh mạch, không cách gì trong nháy mắt giải trừ được tê dại trên tay chân, nghe bình một tiếng, sống lưng giáng xuống, ngã bò lăn bò càng.

Bọn Đặng Bách Xuyên vội đổi hướng chạy sang phía Mộ Dung Phục, Mộ Dung Phục vận chuyển nội tức, không đợi bọn thủ hạ chạy tới, đã đứng lên được rồi. Y mặt tái nhợt, rút phắt thanh kiếm đeo nơi hông Bao Bất Đồng, tay trái vung ra một vòng, gạt bọn Đặng Bách Xuyên dạt ra mấy thước, cổ tay phải lật lại đưa kiếm cứa ngang cổ một cái. Vương Ngữ Yên kêu lên:

- Biểu ca! Chớ có …

Ngay lúc đó, có tiếng gió rít xé không, một món ám khí từ mươi trượng xa vọt ngang quảng trường, đụng vào thanh kiếm trên tay Mộ Dung Phục, nghe keng một tiếng, thanh kiếm tuột tay văng ra, bàn tay đầy máu, hổ khẩu đã bị rách rồi.

Mộ Dung Phục kinh hãi không sao kể xiết, ngửng đầu nhìn lên chỗ ném ám khí ra thấy trên sườn núi có một nhà sư mặc áo xám đứng đó, mặt bịt khăn vải cũng màu tro. Tăng nhân đó nhanh nhẹn tiến đến bên cạnh Mộ Dung Phục hất hàm hỏi:

- Ngươi có con cái gì chưa?

Giọng nói có vẻ già cả. Mộ Dung Phục đáp:

- Tôi chưa lấy vợ, làm sao có con?

Tăng nhân áo xám lạnh lùng hỏi:

- Thế ngươi có tổ tông không nhỉ?

Mộ Dung Phục bực bội, lớn tiếng đáp:

- Dĩ nhiên là có! Tôi tự nguyện tìm cái chết, có liên can gì đến ông? Sĩ khả sát bất khả nhục, Mộ Dung Phục đường đường nam tử, đâu để cho người ta nói lời vô lễ như thế.

Nhà sư áo xám nói:

- Ông cố ngươi có con có cái, ông cụ ngươi, ông nội ngươi, cha ngươi ai cũng có con cái, chỉ có ngươi là không có con cái. Ha ha! Nước Đại Yên xưa kia có Mộ Dung Hoảng, Mộ Dung Khác, Mộ Dung Thùy, Mộ Dung Đức anh hùng nhường nào, ngờ đâu lại thành đoạn chủng tuyệt đại không ai nối dõi.

Mộ Dung Hoảng, Mộ Dung Khác, Mộ Dung Thùy, Mộ Dung Đức đều là những anh quân, danh chúa của nước Đại Yên ngày trước, uy chấn thiên hạ, sự nghiệp hết sức lẫy lừng, chính là liệt tổ liệt tông của Mộ Dung Phục. Y trong lúc đầu óc quay cuồng, tức giận như điên đột nhiên nghe nhắc đến tên bốn vị tiên nhân, thật chẳng khác gì dội một chậu nước lạnh lên đầu, nghĩ thầm: “Tiên phụ năm xưa dặn đi dặn lại, bảo ta lấy chuyện hưng phục Đại Yên làm chí nguyện suốt đời, hôm nay ta vì cái phẫn uất nhất thời, tính toán nông cạn, họ Mộ Dung nước Tiên Ti từ nay tuyệt đại. Đến con cái ta cũng chưa có, nói gì đến chuyện quang tông phục quốc?”. Y không khỏi trán toát mồ hôi lạnh, lập tức lạy phục xuống đất nói:

- Mộ Dung Phục kiến thức thô thiển, được cao tăng chỉ dạy bến mê, đại ân đại đức đó suốt đời không dám quên.

Nhà sư áo xám thản nhiên để cho y quì lạy nói:

- Xưa nay những người làm nên đại công nghiệp, có ai không phải trải qua trăm đắng nghìn cay? Hán Cao Tổ bị khốn đành cầu hòa ở Bạch Đăng, Đường Cao Tổ phải chịu nhục hàng phục Đột Quyết, nếu cũng như ngươi rút kiếm tự vẫn thì cũng chỉ là một kẻ tâm địa hẹp hòi mà thôi, nói gì đến chuyện khai quốc kiến cơ? Đến như Câu Tiễn, Hàn Tín ngươi cũng chưa sánh kịp, quả thật là vô tri vô thức.

Mộ Dung Phục quì đó nghe giảng dạy, bỗng nhiên kinh hoảng: “Vị thần tăng này xem chừng biết hết những chuyện ấp ủ trong ruột gan ta nên mới đen Hán Cao Tổ, Đường Cao Tổ là những khai quốc đế vương ra so sánh”. Y bèn nói:

- Mộ Dung Phục biết sai rồi!

Nhà sư áo xám nói:

- Đứng lên đi!

Mộ Dung Phục cung kính khấu đầu ba lần rồi mới đứng dậy. Nhà sư áo xám lại tiếp:

- Võ công gia truyền của họ Cô Tô Mộ Dung nhà ngươi thần kỳ tinh áo, không đâu sánh kịp, chỉ có điều ngươi học chưa đến đầu đến đũa chứ lẽ nào lại không bằng Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn Đại Lý hay sao? Xem kỹ này!

Ông ta vươn ngón tay trỏ, lăng hư điểm ba cái. Khi đó Đoàn Chính Thuần và Ba Thiên Thạch hai người đứng ngay bên cạnh Đoàn Dự, Đoàn Chính Thuần đã dùng Nhất Dương Chỉ phong bế các huyệt đạo chung quanh vết thương, còn Ba Thiên Thạch đang định rút chiếc phán quan bút ra khỏi vai Đoàn Dự, không ngờ chỉ phong của nhà sư điểm tới, hai người ngực ê ẩm, ngã vật xuống, còn cây bút phán quan cũng bật ra, nghe cạch một tiếng cắm phập xuống đất.

Nhà sư áo xám hiển nhiên thủ hạ lưu tình, nếu không hư điểm đã lấy mạng hai người rồi. Chỉ nghe nhà sư sang sảng nói:

- Đây chính là Tham Hợp Chỉ của nhà Mộ Dung ngươi! Năm xưa lão nạp học được của tiên nhân ngươi, nhưng cũng chỉ biết lờ mờ một chút vỏ ngoài, ngoài ra họ Mộ Dung còn biết bao nhiêu môn võ công thần diệu khác. Ha ha! Không lẽ chỉ mới thứ trẻ con học qua chút ít như ngươi mà sáng tạo được cái phép “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân” lừng danh thiên hạ hay sao?

Quần hùng trước nay vẫn chấn động trước uy danh Cô Tô Mộ Dung, bây giờ thấy Mộ Dung Phục bị Đoàn Dự đánh bại, rồi lại thua cả Tiêu Phong, trong lòng ai cũng nghĩ: “Tai nghe không bằng mắt thấy! Tuy không dám nói là y chỉ được cái danh hão nhưng cũng chẳng có gì gọi là kinh thế hãi tục, không ai sánh kịp cả”. Đến lúc này thấy nhà sư áo xám kia hiển thị chút thần công bảo là đó mới chỉ là chút vỏ ngoài của Tham Hợp Chỉ không khỏi kính ngưỡng trở lại bốn chữ Cô Tô Mộ Dung nhưng ai ai cũng lấy làm lạ: “Nhà sư áo màu tro này là ai nhỉ? Ông ta có liên hệ gì đến nhà Mộ Dung?”.

Nhà sư áo xám quay sang chắp tay hành lễ với Tiêu Phong:

- Kiều đại hiệp võ công trác tuyệt, quả nhiên danh bất hư truyền, lão nạp mong được lãnh giáo vài chiêu.

Tiêu Phong vốn đã đề phòng nên khi ông ta chắp tay hành lễ, lập tức vòng tay nói:

- Không dám!

Hai luồng nội lực đụng nhau, cả hai thân hình đều hơi rung động. Ngay lúc đó từ trên không một bóng đen chẳng khác gì một con diều hâu sà xuống, đáp ngay vào giữa Tiêu Phong và nhà sư áo xám. Người đó đột ngột từ trên trời bay xuống, mọi người ai nấy kinh ngạc, reo ầm cả lên, đến khi hai chân ông ta chạm đất rồi mới nhìn rõ. Thì ra trong tay ông ta cầm một sợi dây dài, một đầu buộc vào một cây to cách ngoài mươi trượng. Chỉ thấy người đó đầu trọc áo đen, vải đen che mặt, chỉ để lộ đôi mắt sáng quắc như điện, cũng lại là một nhà sư nữa.

Hai nhà sư áo xám áo đen đứng đối diện nhau, qua một hồi lâu, thủy chung không ai nói một lời nào. Quần hùng thấy hai nhà sư này thân hình ai cũng cao nghệu, có điều nhà sư áo đen có hơi vạm vỡ, còn nhà sư áo xám thì rất là mảnh khảnh.

Tiêu Phong rất vui mừng, lại thêm cảm kích, vừa thấy thân pháp nhà sư áo đen dùng dây đánh đu từ đằng xa xuống đã nhìn ra ngay đó là đại hán áo đen cứu mình ở Tụ Hiền Trang hôm nào nhưng khi đó người áo đen đầu bịt khăn, mặc quần áo người thường, còn bây giờ đã thay tăng trang. Những người hiện đang trên núi Thiếu Thất không ít người năm xưa đã tham dự đại hội Tụ Hiền Trang, nhưng đại hán áo đen đến là đi ngay không ai nhìn ra thân pháp ông ta thế nào nên bây giờ không nhận ra thôi.

Một hồi lâu, hai nhà sư áo đen áo xám cùng cất tiếng:

- Ngươi …

Thế nhưng chỉ một tiếng “ngươi” ra khỏi miệng, hai bên cùng ngưng lại. Lại một hồi nữa, nhàsư áo xám mới hỏi:

- Ngươi là ai?

Nhà sư áo đen cũng hỏi lại:

- Thế ngươi là ai?

Quần hùng nghe nhà sư áo đen hỏi đều nghĩ thầm: “Hòa thượng này thanh âm già cả, hóa ra là một lão tăng”. Tiêu Phong nghe thanh âm nhận ra ngay chính là người ở nơi hoang sơn đã giáo huấn mình, tim đập thình thình, chỉ muốn lập tức tiến lên nhận nhau, lạy ta cái ơn cứu mạng.

Nhà sư áo xám nói:

- Ngươi trốn ở trong chùa Thiếu Lâm mấy chục năm là để làm chi?

Nhà sư áo đen cũng hỏi lại:

- Ta cũng đang định hỏi ngươi, ngươi trốn ở trong chùa Thiếu Lâm mấy chục năm là để làm gì?

Hai nhà sư vừa mở miệng, quần tăng Thiếu Lâm từ phương trượng Huyền Từ đổ xuống ai nấy kinh ngạc vô cùng, mặt mày bần thần, nghĩ bụng: “Sao hai lão tăng này ở trong chùa Thiếu Lâm mấy chục năm mà mình không hay biết gì cả? Có chuyện đó thật chăng?”.

Chỉ nghe nhà sư áo xám đáp:

- Ta tàng thân trong chùa Thiếu Lâm là để đi tìm một vật.

Nhà sư áo đen cũng đáp:

- Ta tàng thân trong chùa Thiếu Lâm cũng là để đi tìm một vật. Món ta cần tìm ta đã kiếm ra rồi, món ngươi định kiếm chắc cũng đã tìm thấy. Nếu không như thế thì tại sao ba lần mình so tài mà lại chẳng ai hơn ai.

Nhà sư áo xám nói:

- Đúng thế! Tôn giá võ công thật cao siêu, tại hạ bình sinh ít thấy, hôm nay mình có tỉ thí nữa hay thôi?

Nhà sư áo đen đáp:

- Huynh đệ cũng mười phần bội phục võ công các hạ, dẫu có tỉ thí nữa, e rằng cũng khó mà biết được ai hơn ai.

Mọi người thấy hai nhà sư đổi giọng xưng hô “các hạ, huynh đệ”, không phải ngôn ngữa của kẻ xuất gia, lại càng không hiểu đầu đuôi sao cả. Nhà sư áo xám nói:

- Hai chúng ta cùng khâm phục lẫn nhau, chẳng cần phải so tài thêm nữa.

Nhà sư áo đen đáp:

- Hay lắm!

Hai người cùng gật đầu, sánh vai đi tới một gốc cây to ngồi xuống, nhắm mắt như đang nhập định, không nói gì thêm nữa. Mộ Dung Phục vừa sượng sùng, vừa cảm kích nghĩ thầm: “Vị cao tăng này quen biết với tiên nhân nhà Mộ Dung, không biết đó là ông nội hay là cha ta? Việc hưng phục đại nghiệp không thể không nhờ vị cao tăng này chỉ điểm, để từ rày về sau chẳng đển tái phạm lỗi lầm”. Nghĩ vậy y đứng tránh qua một bên, không dám tới làm phiền, định đợi khi nào nhà sư áo xám kia đứng lên sẽ đến rập đầu xin học hỏi.

Vương Ngữ Yên nghĩ đến việc y mới rồi toan cứa cổ tự tử, bây giờ vẫn còn hoảng vía chưa yên, cầm tay áo y mà nước mắt tuôn rơi lã chã. Mộ Dung Phục trong lòng khó chịu nhưng biết nàng vì lòng tốt với mình nên không nỡ giựt tay ra đuổi đi.

Kể từ khi hai nhà sư áo xám, áo đen liên tiếp xuất hiện rồi đến gốc cây đả tọa thì bên kia Hư Trúc và Đinh Xuân Thu vẫn tiếp tục đánh nhau kịch liệt. Bấy giờ quần hùng lại quay qua xem hai người.

Cúc Kiếm trong Linh Thứu Tứ Chu bỗng nhiên nghĩ ra một việc, đến trước mười tám võ sĩ Khất Đan nói:

- Chủ nhân ta đấu với người cần uống chút rượu cho tăng thêm lực khí.

Một tên võ sĩ Khất Đan đáp:

- Rượu đây nhiều lắm, xin cô nương cứ việc dùng.

Nói xong đưa ra hai túi da lớn. Cúc Kiếm cười nói:

- Đa tạ! Chủ nhân chúng tôi tửu lượng không mấy cao, một túi cũng đủ rồi.

Cô ta cầm một bầu liệt tửu, mở nút gỗ ra, chậm rãi đi đến gần nơi Hư Trúc và Đinh Xuân Thu đang đấu, kêu lên:

- Chủ nhân cấy Sinh Tử Phù cho Tinh Tú Lão Quái, dùng rượu đây cũng được rồi.

Cô ta để ngang túi da, dùng sức hắt mạnh một cái, rượu vọt ra thành một cái vòi bắn vào Hư Trúc. Mai Lan Trúc ba cô liền vỗ tay reo hò:

- Cúc muội, hay lắm.

Bỗng nghe dưới sườn núi có tiếng đàn bà yểu điệu hát rằng:

Một cành hoa thắm sương ngựng đọng,

Ân ái non Vu luống chạnh lòng.

Bệ hạ ôi!

Rượu ngon ta cạn chén,

Cho thần thiếp họ Dương,

Say sưa chân lảo đảo,

Quỵ xuống lầu Trầm Hương.

Hư Trúc đấu với Đinh Xuân Thu đã lâu nhưng chưa có cách nào chế ngự y, nghe nam nữ bộ hạ cung Linh Thứu nhắc đến là bùa Sinh Tử, thấy Cúc Kiếm hắt rượu tới, vừa giơ tay chộp lấy một nắm, đã thấy từ sau núi tám người đi ra, chính là Cầm Điên Khang Quảng Lăng, Kỳ Ma Phạm Bách Linh, Thư Ngai Cẩu Độc, Họa Cuồng Ngô Lãnh Quân, Thần Y Tiết Mộ Hoa, Xảo Tượng Phùng A Tam, Hoa Si Thạch Thanh Lộ, Hí Mê Lý Khổi Lỗi trong Hàm Cốc bát hữu.

Tám người đó thấy Hư Trúc trao quyền đổi cước với Đinh Xuân Thu đang lúc mê mải, lập tức cùng reo lên trợ uy:

- Chưởng môn sư thúc hôm nay đại hiển thần thông, mau giết gã Đinh Xuân Thu để báo thù cho tổ sư gia và sư phụ chúng đệ tử.

Khi đó rượu trong tay Cúc Kiếm không ngớt hắt về phía Hư Trúc, nàng võ công bình thường nên một phần lại tạt sang hướng Đinh Xuân Thu. Tinh Tú Lão Quái ác đấu với Hư Trúc, qua lại đã hơn nửa giờ thấy những chiêu số cao siêu của đối phương không hề giảm đi chút nào khiến ông ta bó chân bó tay, bao nhiêu tà thuật không cách gì thi triển được. Lúc này thấy rượu bắn tới, chợt nghĩ ra liền phất tay áo bên trái, hất vòi rượu thành muôn ngàn hạt mưa tung tóe tạt vào Hư Trúc.

Khi đó toàn thân Hư Trúc nội công kình lực bung ra, hàng nghìn hàng vạn giọt rượu bắn tới vừa tới gần bâu áo, đã bị bắn văng ra, nghe “A! A!” hai tiếng Cúc Kiếm đã khuỵu ngay xuống. Đinh Xuân Thu biến rượu thành những hạt mưa hất ra thì đã nhiễm chất kịch độc rồi, Cúc Kiếm đứng gần bị trúng độc vũ nên ngã gục.

Hư Trúc lo cho Cúc Kiếm, hết sức kinh hoảng nhưng không biết phải làm thế nào để cứu cô thị tì, bỗng nghe Tiết Mộ Hoa kêu lên:

- Sư thúc, chất độc này lợi hại lắm, mau mau chế ngự lão tặc để ép y đưa giải dược ra cứu chữa.

Hư Trúc kêu lên:

- Đúng đó!

Tay phải vung lên, liên tiếp tấn công Đinh Xuân Thu, chưởng tâm bên trái ngầm vận nội lực, nghịch chuyển Bắc Minh chân khí chẳng mấy chốc rượu nơi lòng bàn tay đã đọng thành bảy tám phiến hàn băng, tay phải liên tiếp đánh luôn ba chưởng.

Đinh Xuân Thu bỗng thấy gió lạnh ùa tới, hết sức kinh hãi: “Tên trọc con này nội lực dương cương, sao tự nhiên lại biến đổi thế này?’. Y vội vàng tập trung toàn lực chống đỡ, đột nhiên huyệt Khuyết Bồn trên vai hơi lạnh như chạm phải một bông hoa tuyết, rồi tới huyệt Thiên Khu nơi bụng dưới, huyệt Phục Thố trên đùi, huyệt Thiên Tuyền trên vai ba nơi cũng thấy tê tê.

Đinh Xuân Thu càng ra sức đẩy chưởng lực ra đề kháng, đột nhiên huyệt Thiên Trụ sau cổ, huyệt Thần Đạo sau lưng, huyệt Chí Thất ở ngang eo ba nơi cũng thấy lành lạnh, Đinh Xuân Thu lạ lùng: “Chưởng lực của y dù có âm hàn thực nhưng không thể nào lại có thể vòng qua sau lưng, huống chi những chỗ đó lại đều là những huyệt đạo, không biết tên giặc trọc con này có tà môn cổ quái gì đây? Mình phải cẩn thận mới được”.

Hai tay áo phất tới dấu chân bên trong nhắm ngay Hư Trúc đá một cái. Ngờ đâu chân phải đá tới nửa chừng đột nhiên huyệt Phục Thố và huyệt Dương Giao đều ngứa không chịu nổi, nhịn không nổi kêu lên “Ối chà” một tiếng. Mũi chân phải rõ ràng đã chạm đến tăng y của Hư Trúc rồi nhưng vì hai nơi huyệt đạo ngứa quá, tự nhiên lại phải trụt xuống. Y lại kêu “Ối ối!” rồi lại thêm “Ối ối! Ối ối!” hai tiếng nữa.

Bọn môn nhân liền cao giọng tán dương:

- Tinh Tú Lão Tiên thần thông quảng đại, hai tay chỉ phẩy nhẹ một cái là thằng nhãi kia trúng phép ngã lăn quay.

- Lão tiên nhân gia đá một cái trời long đất lở, vẫy cánh tay nhật nguyệt mịt mờ.

- Cánh tay áo lão tiên vẫy động, miệng thổ chân ngôn, khiến chúng bay bàng môn tả đạo, ngưu quỉ xà thần chết không có đất mà chôn.

Tiếng ca công tụng đức xen lẫn mấy tiếng “Ối ối!” rồi lại “Ui chao!” kêu la thật chẳng ăn khớp chút nào. Những môn nhân tinh ý kinh ngạc vội ngừng bặt nhưng phần đông vẫn cứ tiếp tục gào rống lên.

Đinh Xuân Thu trong giây lát đã thấy bảy nơi huyệt đạo Khuyết Bồn, Thiên Khu, Phục Thố, Thiên Tuyền, Thiên Trụ, Thần Đạo, Chí Thất cùng ngứa không chịu nổi, chẳng khác gì hàng nghìn hàng vạn con kiến bò tới cắn. Rượu kia biến thành những mảnh băng có chứa nội lực của Hư Trúc, hàn băng nhập thể lập tức tan ngay nhưng nội lực vẫn giữ lại nơi các huyệt đạo kinh mạch. Đinh Xuân Thu chân tay cuống cuống, mò vào trong bọc lấy ra bảy tám loại thuốc giải uống ngay, lại vận liền năm sáu lần nội tức nhưng huyệt đạo càng lúc lại càng ngứa. Nếu gặp phải người khác chắc đã ngã lăn quay ra rồi nhưng Đinh Xuân Thu thần công kinh người vẫn gắng gượng chịu được, chân loạng choạng tưởng như đang say rượu, mặt lúc đỏ lúc trắng, hai tay múa loạn lên tình trạng hết sức khiếp đảm.

Bảy nơi huyệt đạo đều bị Hư Trúc dùng rượu hóa thành Sinh Tử Phù cấy vào, so với hàn băng tầm thường có khác. Môn nhân phái Tinh Tú thấy sư phụ khổ sở như thế, từng đứa từng đứa im dần, chỉ còn vài người cố gượng thêm vài câu:

- Tinh Tú Lão Tiên đang vận dụng Đại La Kim Tiên Vũ Khiêu Công để cho chú tiểu kia nếm mùi.

- Tinh Tú Lão Tiên mỗi lần kêu “Ối ối!” thì đã hút hết một phần trong ba hồn bảy vía của chú tiểu rồi.

Thế nhưng những kẻ đó dù mặt dày mày dạn mà nói thế nhưng giọng cũng yếu xìu, chỉ lý nhí không ra hơi. Lý Khổi Lỗi lại lớn tiếng hát lên:

Ngựa đốm hoa năm sắc,

Áo cừu giá nghìn vàng.

Kêu con mau đổi rượu.

Cùng tiêu sầu mênh mang.

Ha ha!

Ta là Lý Thái Bạch đây! Trong ẩm trung bát tiên, đứng đầu là Thi Tiên Lý Thái Bạch, thứ hai là Tinh Tú Lão Tiên Đinh Xuân Thu.

Quần hùng thấy Đinh Xuân Thu lảo đảo lại nghe Lý Khổi Lỗi hát như thế, cười ồ cả lên. Chẳng bao lâu, Đinh Xuân Thu không còn chịu đựng được nữa rồi, đưa tay bứt râu, vặt từng nắm râu đẹp trắng như cước, theo gió thả bay tung tóe, kế đó xé rách áo, để lộ làn da trắng nõn, y tuổi đã già nhưng thân thể vẫn mịn màng như thanh niên, ngón tay đến đâu, máu tươi tươm ra đến đấy, hết sức cào cấu, miệng không ngớt rên la:

- Ngứa chết ta mất! Ngứa chết ta mất!

Một hồi sau, đầu gối trái sụm xuống, tiếng kêu càng thêm thảm thiết. Hư Trúc hơi hối hận: “Người này tuy tội có báo ứng nhưng khổ sở phải chịu quả ghê gớm thật. Nếu ta biết thế chỉ cần cấy một hai lá bùa Sinh Tử cũng đủ rồi”.

Quần hùng thấy một võ lâm cao nhân, đồng nhan hạc phát trông như thần tiên kia chỉ chốc lát biến thành chẳng khác gì quỉ mị, kêu rống lên như dã thú, ai nấy kinh hãi thất sắc, đến Lý Khổi Lỗi cũng sợ quá phải ngậm miệng không hát tiếp được nữa. Chỉ có hai nhà sư áo xám, áo đen ngồi dưới gốc cây vẫn nhắm mắt tĩnh tọa, làm như không nghe thấy.

Huyền Từ phương trượng nói:

- Thiện tai! Thiện tai! Hư Trúc, ngươi hãy giải khổ nạn cho Đinh thí chủ đi thôi.

Hư Trúc đáp:

- Vâng ! Cẩn tuân pháp chỉ của phương trượng!

Huyền Tịch vội nói:

- Khoan đã! Phương trượng sư huynh, Đinh Xuân Thu tác ác đa đoan, hai sư huynh Huyền Nạn, Huyền Thống chết dưới tay y, lẽ nào tha y dễ dàng như thế?

Khang Quảng Lăng nói:

- Chưởng môn sư thúc đứng đầu bản phái việc gì phải nghe lời người ngoài? Đại cừu của sư tổ, sư phụ chúng tôi lẽ nào không báo?

Hư Trúc nhất thời không biết tính sao cho phải. Tiết Mộ Hoa nói:

- Sư thúc, lấy thuốc giải của y trước là việc quan trọng hơn.

Hư Trúc gật đầu:

- Chính thế. Mai Kiếm cô nương, cô đem cho y uống nửa viên Trấn Dưỡng Hoàn.

Mai Kiếm đáp:

- Tuân lệnh!

Cô gái lấy trong túi ra một chiếc bình màu xanh lục, đổ ra một viên thuốc to bằng hạt đậu nhưng thấy Đinh Xuân Thu như điên như cuồng không dám tới gần. Hư Trúc cầm lấy viên thuốc, bẻ ra làm đôi kêu lên:

- Đinh tiên sinh, há mồm ra để ta cho uống thuốc chống ngứa.

Đinh Xuân Thu thở phì phò há mồm, Hư Trúc búng nhẹ một cái, nửa viên thuốc liền bắn tới, chui tọt vào cổ họng y. Dược lực nhất thời chưa ngấm, Đinh Xuân Thu ngứa đến lăn lộn trên mặt đất, phải đến thời gian một bữa ăn bớt rồi mới đứng lên được.

Y thần trí trước sau không mất, biết không thể phản kháng được, chẳng đợi Hư Trúc mở lời, tự lấy thuốc giải ra giao cho Tiết Mộ Hoa nói:

- Thuốc đỏ bôi bên ngoài, thuốc trắng để uống.

Y kêu gào đã lâu, nói giọng khàn khàn không thành tiếng. Tiết Mộ Hoa tin chắc y không dám tác quái, theo đúng thế mà cho Cúc Kiếm bôi thuốc uống thuốc. Mai Kiếm lớn tiếng nói:

- Tinh Tú Lão Quái, nửa viên thuốc Chỉ Dưỡng Hoàn tạm cho ngươi hết ngứa ba ngày. Sau ba ngày sẽ lại ngứa trở lại, lúc đó chủ nhân ta sẽ lại ban thêm linh dược, để xem ngươi có tuân phục không.

Đinh Xuân Thu toàn thân run rẩy không nói nên lời. Môn nhân phái Tinh Tú lập tức có mấy trăm người chen nhau chạy ra quì xuống trước mặt Hư Trúc, khẩn cầu được thu lục, có kẻ nói:

- Chủ nhân cung Linh Thứu anh hùng vô địch, tiểu nhân trung thành qui phụ, có chết cũng cam, mong được đem thân khuyển mã báo đáp.

Có kẻ nói:

- Cái ghế võ lâm minh chủ trong thiên hạ chẳng chủ nhân thì còn ai. Chỉ cần chủ nhân ra lệnh động thủ, tiểu nhân dù phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa cháy, vạn tử bất từ.

Lại thêm bao nhiêu kẻ khác muốn tỏ ra mình là kẻ lòng dạ son sắt nên chỉ vào Đinh Xuân Thu mà chửi bới, nào là “ánh lửa đuốc đèn mà đòi tranh với hai vầng nhật nguyệt”, nào là “tâm tính lươn lẹo, tà ác gian manh”, lại có kẻ giục Hư Trúc mau mau xử tử Đinh Xuân Thu để trừ cho thế gian một kẻ vô loài. Lại nghe tiếng chiêng trống đàn sáo nổi lên, các môn nhân lớn tiếng hát rằng:

Linh Thứu cung chủ nhân xuất thế,

Tài đức kia như thể đất trời.

Uy danh lừng lẫy cõi đời,

Cổ kim chưa có ai người sánh ngang.

Chỉ đổi câu đầu thay vì Tinh Tú Lão Tiên thì biến thành Linh Thứu chủ nhân, các câu khác đều giữ nguyên không khác gì bài Tinh Tú Lão Tiên Tụng. Hư Trúc tuy là người chất phác nhưng nghe môn nhân phái Tinh Tú ca tụng mình như thế cũng cảm thấy tâm hồn lâng lâng, hởi lòng hởi dạ. Lan Kiếm quát:

- Các ngươi quả là tiểu nhân ti bỉ, sao dám đem mấy câu cũ rích, ngôn ngữ vô sỉ dùng để ca tụng Tinh Tú Lão Quái, để quay sang ca tụng chủ nhân ta? Thật là vô lễ.

Môn nhân phai Tinh Tú ai nấy sợ hãi, có kẻ đáp:

- Vâng! Vâng! Để tiểu nhân lập tức sửa lại văn chương cho thêm phần huê dạng, bao giờ tiên cô mãn ý mới thôi.

Có kẻ nói:

- Bốn vị tiên cô nguyệt thẹn hoa nhường, hơn Tây Thi, Dương quí phi xa lắc.

Các môn nhân phái Tinh Tú khấu đầu bái kiến Hư Trúc rồi, lập tức tự ý chạy qua đứng phía sau các động chủ, đảo chủ, đứa nào đứa nấy mặt mày câng câng ra chiều vinh dự lắm, coi quần hào Trung Nguyên, bang chúng Cái Bang, chư tăng Thiếu Lâm bằng nửa con mắt.

Huyền Từ nói:

- Hư Trúc, ngươi tự lập môn hộ, ngày sau nên đi theo con đường hiệp nghĩa chính đạo, ước thúc môn nhân đệ tử, đừng để cho họ làm điều càn rỡ, làm hại giang hồ, tích phúc đức tư lương, trồng nhân lành, dù tại gia hay xuất gia cũng chẳng có gì khác cả.

Hư Trúc nghẹn ngào đáp:

- Vâng! Hư Trúc nguyện tuân theo lời giáo huấn của phương trượng.

Huyền Từ lại tiếp:

- Nghi thức phá môn không thể bỏ qua nhưng những roi đòn thì có thể miễn cho được.

Bỗng nghe có người cười ha hả nói:

- Ta vẫn tưởng chùa Thiếu Lâm trọng thị giới luật, chấp pháp như sơn có ngờ đâu cũng một phường a dua xu nịnh. Ha ha! Linh Thứu chủ nhân, Đức phối thiên địa. Uy chấn đương thế, Cổ kim vô tỉ.

Mọi người quay qua nhìn người vừa nói, thì ra chính là quốc sư nước Thổ Phồn Cưu Ma Trí. Huyền Từ mặt biến sắc nói:

- Quốc sư đem đại nghĩa trách cứ, lão nạp biết sai rồi. Huyền Tịch sư đệ, lấy pháp trượng ra.

Huyền Tịch đáp:

- Vâng!

Ông quay qua nói:

- Pháp trượng đã sẵn sàng!

Rồi nói với Hư Trúc:

- Hư Trúc, ngươi hiện tại vẫn còn là đệ tử Thiếu Lâm, mau cúi xuống chịu đòn.

Hư Trúc khom lưng đáp:

- Vâng!

Y quì xuống hành lễ với Huyền Từ và Huyền Tịch nói:

- Đệ tử Hư Trúc, vi phạm đại giới bản tự, cung lãnh trượng trách của phương trượng và thủ tọa Giới Luật Viện.

Môn nhân phái Tinh Tú đột nhiên la hét ầm lên:

- Sao bọn sư sãi chùa Thiếu Lâm dám mạo phạm quí thể của lão nhân gia?

- Các ngươi dám động vào một sợi lông măng của lão nhân gia, thì thể nào ta cũng một phen sống mái, dù phải vì lão nhân gia tan xương nát thịt, chết cũng còn vinh.

- Ta chữ trung làm đầu, cái thân huyết nhục này nguyện dâng lên cho chủ nhân cung Linh Thứu.

Dư bà bà quát lớn:

- “Chủ nhân bọn ta” bốn chữ đó đâu có phải bọn yêu ma quỉ quái các ngươi được quyền xưng hô? Mau câm cái mõm chó chúng bay lại.

Môn nhân phái Tinh Tú nghe bà ta quát mắng, lập tức lặng như tờ, đến thở mạnh cũng không dám. Các nhà sư chấp pháp trong Giới Luật Viện chùa Thiếu Lâm nghe Huyền Tịch quát:

- Dụng trượng!

Lập tức vén tăng y Hư Trúc lên để lộ lưng trần, một tăng nhân liền giơ Thủ Giới Côn lên. Hư Trúc nghĩ thầm: “Ta chịu đòn cũng vì ta không giữ giới luật, mỗi một gậy tội nghiệt tiêu giải một phần. Nếu như vận khí đề ngự, tuy thân không đau đớn nhưng trượng đó có đánh cũng như không”.

Bỗng nghe tiếng đàn bà rít lên lanh lảnh:

- Khoan đã! Khoan đã! Ngươi … ngươi trên lưng có gì thế?

Mọi người quay sang nhìn lưng Hư Trúc, thấy trên vùng ngang thắt lưng có chín nốt hương đốt thật ngay ngắn. Tăng nhân thụ giới, vết hương đốt bao giờ cũng ở trên đỉnh đầu, ai ngờ Hư Trúc ngoài vết hương trên đầu trên lưng cũng có sẹo nữa. Vết đốt trên lưng to bằng đồng tiền, đủ biết đốt từ khi còn nhỏ, càng lớn lên vết sẹo càng to dần, đến bây giờ không còn tròn trịa như cũ.

*

* *

Từ trong đám đông một phụ nữ trung niên mặc trường bào xanh nhạt chạy ra, trên má trái phải mỗi bên có ba vết cào, chính là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương trong Tứ Đại Ác Nhân. Bà ta hấp tấp chạy đến, giơ tay gạt hai nhà sư chấp pháp của Giới Luật Viện chùa Thiếu Lâm ra, rồi đưa tay cầm quần Hư Trúc định lột ra.

Hư Trúc hết sức hoảng hốt, bật nhỏm dậy, nhảy vọt về sau mấy trượng lắp bắp:

- Bà … bà làm gì thế?

Diệp Nhị Nương run bắn người, kêu lên:

- Con … con ta ơi!

Bà ta giang tay, định ôm lấy Hư Trúc. Hư Trúc lách một cái, Diệp Nhị Nương chộp vào khoảng không. Mọi người nghĩ thầm: “Mụ này phát khùng rồi chăng?”. Diệp Nhị Nương liên tiếp chộp mấy bận đều bị Hư Trúc nhẹ nhàng tránh được. Bà ta như điên như cuồng, kêu lên:

- Con ơi! Sao con không nhận mẹ?

Hư Trúc trong lòng bàng hoàng, một ánh chớp lóe lên, run rẩy hỏi lại:

- Bà … bà là mẹ tôi ư?

Diệp Nhị Nương kêu lên:

- Con ơi! Mẹ sinh con chưa bao lâu thì đã điểm giới hương trên lưng và hai bên mông con. Có phải hai bên mông con cũng có chín vết sẹo không hả?

Hư Trúc vô cùng kinh hãi, trên hai bên mông y quả có chín vết hương thật. Y từ bé đã có như thế, trước nay chẳng hiểu vì sao lại sợ đồng môn chê cười, lúc tắm rửa trông thấy, cho rằng mình có duyên với cửa Phật, trời sinh ra thế, lại càng dốc lòng mộ đạo bây giờ nghe Diệp Nhị Nương nói, thật chẳng khác gì sét đánh ngang trời, lập cập hỏi:

- Đúng! Đúng! Hai … hai bên mông tôi quả có chín vết hương, do bà … do mẹ … do mẹ điểm cho con đấy ư?

Diệp Nhị Nương khóc òa lên, kêu la:

- Đúng rồi! Đúng rồi! Nếu không phải ta châm cho con thì làm sao mà biết được? Ta … ta tìm được con rồi, tìm được đứa con thân yêu của ta rồi!

Bà ta vừa khóc, vừa giơ tay vuốt ve khuôn mặt Hư Trúc. Hư Trúc không tránh né nữa, để cho bà ta ôm vào lòng. Y từ bé không cha không mẹ, cứ tưởng mình là đứa con côi được tăng nhân trong chùa nuôi dưỡng, những vết hương trên người chỉ một mình y biết, Diệp Nhị Nương đã nói như thế thì còn giả làm sao được? Y chưa từng biết được tấm lòng mẹ hiền thương yêu như thế nào, nay bỗng dưng cảm nhận, nước mắt chảy ròng ròng, kêu lên:

- Mẹ … mẹ! Bà đúng là mẹ của con rồi!

Việc xảy ra quá đột ngột, người đứng coi ai nấy lạ lùng nhưng thấy hai mẹ con ôm nhau khóc, vừa buồn vừa vui, một bên lòng mẹ bao la, một bên tình con chan chứa, quần hùng không ít kẻ phải mủi lòng. Diệp Nhị Nương nói:

- Hài tử, năm nay con hai mươi bốn rồi, trong hai mươi bốn năm qua, không ngày nào mẹ không thương nhớ đến con, đêm khuya nghĩ tới con, ta lại ghen với người khác, con yêu của ta bị tên trời đánh nào đó trộm mất rồi. Ta … ta đành đi ăn cắp con người khác, thế nhưng … thế nhưng … con người ta chứ có phải con mình rứt ruột đẻ ra đâu?

Nam Hải Ngạc Thần cười sằng sặc nói:

- Tam muội! Ngươi vẫn thường đi ăm trộm những đứa con nít mập mạp hồng hào về đùa chơi, đùa chán rồi giết chết, hóa ra con ngươi bị người ta ăn trộm mất. Nhạc lão nhị vặn hỏi ngươi, ngươi nhất định chẳng chịu nói ra! Hay lắm! Hay thiệt! Hư Trúc tiểu tử, má má ngươi là nghĩa muội của ta, ngươi mau gọi ta Nhạc nhị bá đi nào!

Y nghĩ đến vai vế mình còn cao hơn cả chủ nhân cung Linh Thứu thật sung sướng không để đâu cho hết. Vân Trung Hạc gãi đầu nói:

- Không được, không được! Hư Trúc Tử là bả huynh của sư phụ ngươi, ngươi phải gọi y là sư bá. Ta là nghĩa đệ của mẫu thân y, vai vế cao hơn ngươi hai bậc, ngươi mau gọi ta là “sư thúc tổ”.

Nam Hải Ngạc Thần ngẩn ngơ, nhổ bẹt một bãi đờm chửi:

- Con bà ngươi chứ, lão tử không gọi.

Diệp Nhị Nương thả đầu Hư Trúc ra, cầm lấy vai y, nhìn qua nhìn lại, mừng không sao kể xiết, quay sang nói với Huyền Tịch:

- Y là con ta, ngươi không được đánh y nữa.

Nói xong quay lại Hư Trúc lên giọng:

- Tên cẩu tặc trời đánh nào ăn trộm con ta, để cho mẹ con mình phải hai mươi bốn năm xa cách. Hài nhi! Hài nhi, mẹ con mình đi khắp chân trời góc biển để tìm cho được đưa chó má đó, băm vằm nó ra muôn nghìn mảnh. Mẹ đánh không lại thì đã có con võ công cao cường giúp mẹ báo thù tuyết hận.

Nhà sư áo đen từ nãy giờ vẫn ngồi bất động dưới gốc cây bỗng đứng lên, chậm rãi hỏi:

- Thế con ngươi là do người ta ăn cắp, hay là bị người ta ăn cướp? Sáu vết sẹo trên mặt ngươi là do đâu?

Diệp Nhị Nương đột nhiên biến sắc, kêu rú lên:

- Ngươi … ngươi là ai? Sao … sao ngươi biết?

Nhà sư áo đen nói:

- Không lẽ mụ không nhận ra ta sao?

Diệp Nhị Nương lại thảng thốt kêu lên:

- A! Thì ra là ngươi, chính là ngươi.

Bà ta xông tới, còn cách ông ta chừng một trượng, đột nhiên đứng lại, giơ tay chỉ vào mặt nghiến răng nghiến lợi cực kỳ phẫn nộ nhưng không dám tới gần hơn. Nhà sư áo đen nói:

- Đúng đó! Con ngươi chính là ta đã cướp đi, sáu vết huyến ngấn trên mặt ngươi cũng do ta cào đó.

Diệp Nhị Nương kêu lên:

- Vì cớ gì? Sao ngươi lại cướp đứa con ta? Ta với ngươi chưa từng quen biết, vô oán vô cừu. Ngươi … ngươi … ngươi làm ta khổ quá. Ngươi làm ta hai mươi bốn năm qua, ngày đêm lòng đau như cắt, quả là vì cớ gì? Vì … vì cớ gì?

Nhà sư áo đen chỉ vào Hư Trúc, hỏi:

- Thế cha đứa bé đó là ai?

Diệp Nhị Nương run bắn lên ấp úng:

- Y … y … ta không nói được.

Hư Trúc hoang mang, chạy lại trước mặt Diệp Nhị Nương gọi lớn:

- Mẹ, mẹ nói cho con hay, cha con là ai?

Diệp Nhị Nương lắc đầu quầy quậy nói:

- Mẹ không thể nói được.

Nhà sư áo đen chậm rãi nói:

- Diệp Nhị Nương, ngươi vốn dĩ là một cô nương con nhà gia giáo, ôn nhu xinh đẹp, đoan trang trinh thục. Thế nhưng năm ngươi mười tám tuổi lại bị một gã đàn ông võ công cao cường, thân phận cực lớn dụ dỗ, thất thân với y mới sinh ra đứa con này, có phải vậy không?

Diệp Nhị Nương đứng sững như trời trồng, một hồi lâu sau mới gật đầu nói:

- Đúng thế! Có điều không phải y dụ dỗ ta mà là ta đến dụ dỗ y.

Nhà sư áo đen nói:

- Gã con trai đó chỉ biết tới thanh danh tiền trình của mình, chẳng đoái hoài đến một cô gái thanh xuân, chưa chồng mà chửa, tình huống thê thảm biết dường nào.

Diệp Nhị Nương vội cãi:

- Không, không! Y lo cho ta lắm chứ, y cho ta rất nhiều tiền, sắp xếp cho ta ung dung sinh sống.

Nhà sư áo đen nói:

- Thế sao y lại để ngươi phải lang thang phiêu bạt giang hồ một thân một mình?

Diệp Nhị Nương nói:

- Ta không thể lấy y. Y cũng làm sao lấy ta cho được? Y là người rất tốt, trước sau đối với ta rất tốt. Chính ta không muốn liên lụy đến y. Y … y là người rất tử tế.

Giọng điệu bà ta đối với kẻ tình lang đã ruồng rẫy mình vẫn đầy vẻ trìu mến thiết tha, tình xưa nghĩa cũ không vì tháng năm khổ sở, hoa niên phôi pha mà buông lời hối tiếc. Mọi người đều nghĩ: “Diệp Nhị Nương tiếng ác vang lừng ngờ đâu đối với người tình năm xưa lại thâm sâu đến thế. Không biết người đàn ông đó là ai?”.

Đoàn Dự, Nguyễn Tinh Trúc, Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch tất cả những người Đại Lý nghe hai người nói chuyện phong lưu thuở xa xưa, không khỏi len lén liếc Đoàn Chính Thuần một cái, ai nấy thấy người tình lang của Diệp Nhị Nương, thân phận, tính tình, xử sự, tuổi tác không chỗ nào là không giống ông. Lại có người nghĩ ra: “Hôm đó cả Tứ Đại Ác Nhân đều đến Đại Lý, chắc là đi tìm Trấn Nam Vương để đòi món nợ oan khiên này”.

Đến cả Đoàn Chính Thuần cũng hồ nghi: “Những người đàn bà ta quen rất là đông, không lẽ cũng có cả bà ta nữa hay sao? Sao mình không nhớ được chút nào? Nếu đúng là ta làm lụy đến nàng như thế, thì dẫu thanh danh một đời bỏ đi trước mặt anh hùng hào kiệt, Đoàn mỗ cũng quyết không bao giờ ruồng rẫy nàng. Chỉ có điều … có điều … sao mình không nhớ ra được tí gì nhỉ?”.

Nhà sư áo đen dõng dạc nói:

- Phụ thân của đứa bé đó, hiện giờ cũng có mặt nơi đây, sao bà không chỉ y ra cho mọi người biết?

Diệp Nhị Nương kinh hoảng lắp bắp:

- Không! Không! Ta không thể nói được.

Nhà sư áo đen hỏi lại:

- Vì cớ gì trên lưng, trên mông đứa bé kia lại điểm ba chín hai mươi bảy dấu giới hương?

Diệp Nhị Nương ôm mặt đáp:

- Tôi không biết! Tôi không biết! Tôi van ông, đừng hỏi tôi nữa.

Giọng nhà sư áo đen vẫn thản nhiên như không động tâm chút nào, hỏi tiếp:

- Khi con bà sinh ra bà muốn cho nó đi tu à?

Diệp Nhị Nương đáp:

- Không phải, không phải thế!

Nhà sư áo đen lại tiếp:

- Vì sao? Vì sao bà lại điểm trên người y dấu giới hương của Phật môn?

Diệp Nhị Nương chối bai bải:

- Ta không biết! Ta không biết!

Nhà sư áo đen sang sảng nói:

- Ngươi không chịu nói, ta cũng biết rồi. Chỉ vì cha đứa bé đó cũng là đệ tử cửa Phật, là một cao tăng hữu đạo rất … rất là nổi danh.

Diệp Nhị Nương rên lên một tiếng, không còn chịu nổi nữa ngã lăn ra bất tỉnh. Quần hùng ai nấy xôn xao, thấy tình cảnh Diệp Nhị Nương như thế, đủ biết lời nhà sư áo đen không phải là sai, thì ra người tư thông với bà ta lại chính là một nhà sư, một cao tăng nổi danh. Mọi người ghé tai nhau thì thầm, bàn tán ầm ỹ.

Hư Trúc đỡ Diệp Nhị Nương, kêu lên:

- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Tỉnh lại mẹ ơi.

Một hồi sau, Diệp Nhị Nương từ từ tỉnh lại, nói nhỏ:

- Hài nhi, mau mau đỡ mẹ xuống núi. Người đó … người đó là yêu quái, sao … sao y lại biết được. Ta không muốn thấy y nữa. Mối thù … mối thù này không cần báo nữa.

Hư Trúc đáp:

- Được rồi mẹ ạ! Mẹ con mình đi thôi.

Nhà sư áo đen nói:

- Khoan đã, ta đã nói xong đâu. Ngươi không muốn báo thù nhưng ta lại muốn báo thù. Diệp Nhị Nương, tại sao ta cướp con ngươi, ngươi có biết không? Chỉ vì … chỉ vì có người đã cướp con ta, làm ta nhà tan người mất, vợ chồng cha con không được đoàn viên. Ta vì thế mà báo thù.

Diệp Nhị Nương hỏi lại:

- Có người cướp con của ngươi ư? Vì thế mà ngươi phải báo thù?

Nhà sư áo đen đáp:

- Đúng thế, ta cướp đưa con ngươi, bỏ vào trong vườn rau chùa Thiếu Lâm, để cho sư chùa Thiếu Lâm nuôi dưỡng y khôn lớn, dạy cho y võ nghệ cũng chỉ vì con của ta cũng bị người ta cướp mất, nuôi cho khôn lớn, cũng do sư chùa Thiếu Lâm dạy y võ công. Ngươi có muốn nhìn bộ mặt thật của ta không?

Không đợi Diệp Nhị Nương trả lời, nhà sư áo đen giơ tay gỡ khăn che mặt. Quần hùng kinh ngạc “Ồ” lên một tiếng, thấy y mặt vuông tai to, râu quai nón rậm rạp, tướng mạo mười phần uy võ, tuổi chừng trên dưới sáu mươi.

Tiêu Phong vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, tiến tới lạy phục dưới đất, run run hỏi:

- Ông … ông là cha tôi …

Người kia cười ha hả nói:

- Hảo hài tử, hảo hài tử, ta chính là cha con đây. Cha con mình thân hình tướng mạo giống hệt nhau, chẳng cần phải nói thì ai cũng biết ta là cha ngươi rồi.

Ông đưa tay, vạch ngực mình ra, lộ ra một cái đầu sói xâm nơi đó, tay trái nhắc Tiêu Phong lên. Tiêu Phong cũng vạch ngực mình ra cũng để lộ một đầu sói màu xanh nhe răng. Hai người ngồi xuống, đột nhiên cùng ngẩng lên hú, tiếng như gió táp gầm rít truyền ra chấn động cả sơn cốc, hàng nghìn hào kiệt nghe tiếng, ai nấy đều nổi da gà. Yên Vân Thập Bát Kỵ rút phắt trường đao, cùng lên tiếng phụ họa, tuy chỉ có hai mươi người nhưng thanh thế lẫy lừng, tưởng như thiên quân vạn mã.

Tiêu Phong lấy trong bọc một cái bao vải dầu, mở đem ra một mảnh vải trắng lớn gồm nhiều mảnh khâu lại với nhau, chính là miếng vải đồ di văn trên vách đá, đầy những chữ Khất Đan rỗng ruột hòa thượng Trí Quang cho ông ta. Ông già râu xồm chỉ vào mấy chữ sau cùng cười nói:

- Tiêu Viễn Sơn tuyệt bút, Tiêu Viễn Sơn tuyệt bút! Ha ha! Này con, hôm đó ta đau lòng quá, nhảy xuống vực tự tận, ngờ đâu mạng chưa tận, rơi ngay một cành cây ở dưới đáy sơn cốc, cho nên không chết. Khi đó cha lại không muốn chết nữa mà lại muốn báo thù. Hôm đó ở ngoài Nhạn Môn Quan, quần hào Trung Nguyên không hỏi đầu đuôi, liền giết mẹ ngươi dù nàng không biết võ công, con thử nghĩ xem thù này có nên báo hay không?

Tiêu Phong nói:

- Thù cha mẹ không đội trời chung, lẽ nào không báo?

Tiêu Viễn Sơn nói:

- Năm xưa kẻ hại mẹ con, hầu hết ta đã giết ngay tại chỗ. Nhà sư Trí Quang và gã tự xưng là Triệu Tiền Tôn kia thì con đã giết rồi. Bang chủ tiền nhiệm Cái Bang Uông Kiếm Thông bị bệnh mà chết, thật may cho lão. Chỉ còn tên “đại ác nhân” đầu sỏ, đến nay vẫn còn. Hài nhi, con thử nghĩ xem mình bắt được hắn rồi làm gì?

Tiêu Phong vội hỏi:

- Người đó là ai?

Tiêu Viễn Sơn lại hú lên một tiếng dài, quát lớn:

- Người đó là ai ư?

Mục quang ông như điện, quét ngang quần hùng từng người một. Quần hào gặp ánh mắt của ông ai nấy khiếp sợ, mặc dù họ đối với việc ngoài Nhạn Môn Quan năm nào không liên can gì, nhưng thấy thần tình cha con họ Tiêu, ai nấy nín thở không dám cựa quậy, chỉ sợ họa đổ lên đầu mình.

Tiêu Viễn Sơn nói:

- Hài nhi, hôm đó ta và mẹ con bồng con trên tay, sang bên bà ngoại, nào ngờ khi đến Nhạn Môn Quan lại bị mấy chục tên võ sĩ Trung Thổ đột nhiên nhảy ra, giết mẹ con lẫn bọn tùy tòng. Đại Tống có thù với Khất Đan, hai bên giết lẫn nhau không phải là chuyện lạ nhưng bọn võ sĩ Trung Thổ mai phục ở sau núi, hẳn có dự mưu. Này con, con có biết vì duyên cớ gì chăng?

Tiêu Phong đáp:

- Con nghe Trí Quang đại sư kể lại, bọn họ nghe tin tưởng nhầm là võ sĩ Khất Đan định đến chùa Thiếu Lâm cướp đoạt kinh điển võ học, nằm trong âm mưu nước Liêu xâm chiếm giang sơn Đại Tống nên mới nhảy ra tấn công giết chết mẹ con.

Tiêu Viễn Sơn cười thê thảm:

- Ha ha! Ha ha! Năm xưa cha ngươi nào có ý đoạt võ học điển tịch, bọn họ nghi oan cho ta. Được, được! Tiêu Viễn Sơn đã làm thì làm luôn thể, người ta nghi oan ta, thì ta làm cho mà biết. Trong ba mươi năm qua, Tiêu Viễn Sơn ẩn thân trong chùa Thiếu Lâm, đọc hết ráo kinh điển của bọn chúng rồi. Chư vị cao tăng Thiếu Lâm ơi, bọn ngươi có giỏi thì giết Tiêu Viễn Sơn này đi, nếu không võ học sẽ lưu truyền qua Đại Liêu đó. Các ngươi dẫu có ra Nhạn Môn Quan mai phục thì cũng không kịp nữa rồi.

Quần tăng Thiếu Lâm nghe thế, ai nấy biến sắc, xem chừng lời của y không phải là giả, võ công bản phái nếu lưu truyền qua nước Liêu thì người Khất Đan khác gì hổ thêm cánh, biết làm sao đây? Trong quần hào võ lâm, ai nấy đều nghĩ thầm: “Hôm nay không thể nào để cho gã này sống sót xuống núi được”.

Tiêu Phong nói:

- Gia gia! Tên đại ác nhân giết mẹ con, có thể nói rằng vì năm xưa nhầm lẫn, tuy lỗ mãng thật nhưng không phải cố ý làm việc ác. Thế nhưng y lại đến giết cả ông bà họ Kiều nghĩa phụ nghĩa mẫu con khiến cho con mang tiếng xấu cái đó mới thật là tệ hại. Vậy người đó là ai, xin cha cho con biết.

Tiêu Viễn Sơn lại cười ha hả nói:

- Hài nhi, cái đó con sai rồi.

Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại:

- Con sai ư?

Tiêu Viễn Sơn gật đầu nói:

- Không đúng, vợ chồng họ Kiều là do ta giết đó.

Tiêu Phong kinh hoảng lắp bắp:

- Do cha giết ư? Vì … vì sao thế?

Tiêu Viễn Sơn đáp:

- Ngươi là con ruột của ta, vốn dĩ cha con vợ chồng đoàn tụ một nhà, sung sướng biết bao? Thế mà bọn võ nhân Nam triều coi người Khất Đan không bằng chó lợn, chẳng làm gì họ cũng giết, bắt con ta đi, giao cho người khác làm con nuôi. Vợ chồng họ Kiều mạo xưng là cha mẹ con, cướp đoạt cái thiên luân chi lạc của ta, lại không nói rõ cho con nghe, thế quả là đáng chết.

Tiêu Phong trong lòng xót xa nói:

- Nghĩa phụ nghĩa mẫu đãi con cực kỳ ân nghĩa, hai vị lão nhân gia quả là người tử tế. Như thế kẻ đốt Đơn gia trang, giết Đàm công, Đàm bà mọi việc, chắc cũng …

Tiêu Viễn Sơn đáp:

- Đúng thế! Đều do cha con làm cả. Kẻ đàn anh đứng đầu vụ giết mẹ con ở Nhạn Môn Quan năm xưa là ai, những kẻ đó rõ ràng là biết, lại không chịu nói, còn cố gắng che đậy cho y, không đáng giết hay sao?

Tiêu Phong lặng thinh, bồi hồi nghĩ thầm: “Ta mất bao nhiêu công sức truy tầm kẻ “đại ác nhân”, hóa ra lại chính là cha ta, làm … làm thế nào bây giờ?”. Ông chậm rãi nói:

- Huyền Khổ đại sư đích thân truyền thụ võ công cho hài nhi, mười năm trời nắng không chừa, mưa không ngại, con được như hôm nay, đều do ân sư vun đắp …

Nói đến đây, ông cúi đầu nước mắt rưng rưng. Tiêu Viễn Sơn nói:

- Bọn võ nhân Nam triều gian trá âm hiểm, có tốt lành gì đâu? Huyền Khổ bị ta đánh một chưởng chết đấy.

Quần tăng Thiếu Lâm cùng cất tiếng tụng:

- A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!

Thanh âm cực kỳ bi phẫn tuy nhất thời không ai bước ra khiêu chiến với Tiêu Viễn Sơn nhưng tiếng kinh chứa đầy tâm tình trầm thống đủ biết đã bao hàm quyết tâm, không thể bỏ qua việc này. Mọi người đều nghĩ thầm: “Hóa ra xưa nay mình trách nhầm Tiêu Phong, thế nhưng cha con là một, cha ăn mặn, con khát nước có đổ lên đầu y cũng phải”.

Tiêu Viễn Sơn lại tiếp:

- Trong số những kẻ đại cừu giết vợ yêu của ta, đoạt con cưng của ta có bang chủ Cái Bang, cũng có cả cao thủ phái Thiếu Lâm nữa, ha ha, bọn chúng tưởng có thể mãi mãi che dấu cái tội lỗi tanh hôi kia, biến con ta thành người Hán, bảo con ta bái kẻ thù làm thầy, kế vị kẻ đại cừu làm bang chủ Cái Bang. Ha ha, hài nhi, tối hôm đó ta đánh Huyền Khổ một chưởng xong, ẩn thân ở bên cạnh, chẳng mấy chốc ngươi lại đến thăm lão trọc. Gã Huyền Khổ thấy cha con ta tướng mạo giống nhau, cứ tưởng là ngươi ra tay, đến chú tiểu cũng không phân biệt được cha con mình. Con ơi, người Khất Đan mình bị họ khinh khi hiếp đáp có phải là ít đâu?

Tiêu Phong bấy giờ mới vỡ lẽ ra, tại sao Huyền Khổ đại sư tối hôm đó thấy mình lại kinh ngạc quá đỗi, đến tiểu sa di cũng khăng khăng chính mình đã đánh chết nhà sư. Có ai ngờ được rằng kẻ hành hung kia với mình lại tướng mạo tương tự, huyết nhục tương liên? Ông bèn nói:

- Những người đó do cha giết hay do con giết thì có khác gì đâu, hài nhi có bị cái tiếng thì cũng chẳng oan uổng. Thế kẻ đại ác đứng đầu võ nhân Trung Nguyên mai phục ở Nhạn Môn Quan, cha đã tìm ra là ai chưa?

Tiêu Viễn Sơn cười:

- Ha ha! Lẽ nào lại không tìm ra cho rõ được? Kẻ đó hại ta nhà tan người chết, nếu ta một chưởng đánh chết y thì chẳng tiện nghi cho y lắm hay sao? Diệp Nhị Nương, khoan đã.

Ông ta thấy Diệp Nhị Nương vịn vào Hư Trúc, hai mẹ con đang đi ra, lập tức gọi giật lại, nói tiếp:

- Kẻ cùng với ngươi sinh đứa con đó là ai, nếu ngươi không nói thì ta sẽ nói. Ta ẩn náu trong chùa Thiếu Lâm ba mươi năm, có chuyện gì qua khỏi mắt ta đâu? Các ngươi gặp nhau trong Tử Vân Động, y mời Kiều bà bà đến đỡ đẻ cho ngươi, mọi chuyện đầu đuôi, ngươi có muốn ta nói rành rọt tất cả cho mọi người nghe không?

Diệp Nhị Nương quay lại chạy đến cách Tiêu Viễn Sơn mấy bước, quì phục xuống nói:

- Tiêu lão anh hùng, xin ông đại nhân đại nghĩa, giơ cao đánh sẽ bỏ qua cho y. Con tôi và quí công tử có tình bát bái chi giao, kết làm kim lan huynh đệ, y … y … trong võ lâm tiếng tăm cực lớn, với thân phận địa vị đó … tuổi cũng lớn rồi, ông muốn đánh muốn giết, chỉ một mình tôi chịu, xin đừng … đừng làm khó đến y.

Quần hùng nghe Tiêu Viễn Sơn nói cha của Hư Trúc là một “hữu đạo cao tăng”, bây giờ lại nghe Diệp Nhị Nương nói ông ta trong võ lâm thanh danh cực lớn, địa vị cực cao, bấy nhiêu việc ghép lại, không lẽ đây là một nhà sư vai vế rất cao trong chùa Thiếu Lâm? Ai nấy không hẹn mà cùng đưa mắt nhìn vào những nhà sư râu tóc bạc phơ.

Bỗng nhiên Huyền Từ phương trượng cất tiếng nói:

- Thiện tai! Thiện tai! Đã tạo nghiệp nhân thì phải chịu nghiệp quả. Hư Trúc, ngươi lại đây.

Hư Trúc đi đến trước mặt phương trượng quì xuống. Huyền Từ chăm chăm nhìn y một hồi lâu, giơ tay vuốt đầu y, mặt đầy vẻ ôn nhu từ ái, nói:

- Ngươi ở trong chùa hai mươi bốn năm, vậy mà ta nào có biết ngươi chính là con ta.

Lời đó vừa nói ra, quần tăng và các anh hùng hào kiệt ai nấy nhốn nháo cả lên. Kẻ ngạc nhiên, người kinh hãi, kẻ khinh thị, người phẫn nộ, kẻ khủng khiếp, người xót thương, đủ mọi vẻ khó mà hình dung. Huyền Từ phương trượng đức cao vọng trọng, trong võ lâm không ai là không khâm phục, ai ngờ lại ra nông nỗi này? Một hồi lâu sau, lời bàn tán mới dần dần dịu xuống.

Huyền Từ giọng vẫn an tĩnh trấn định không khác gì lúc bình thời chậm rãi nói:

- Tiêu lão thí chủ, thí chủ và lệnh lang xa cách ba mươi năm không được gặp nhau nhưng đã sớm biết y võ công tinh tiến, thanh danh lừng lẫy, là một anh hùng hảo hán bậc nhất trên giang hồ, trong lòng cũng có chút an ủi.

Còn ta với con ta ngày ngày thấy nhau, nhưng vẫn tưởng y đã bị cường đạo cướp mất rồi, sống chết không hay, đêm ngày nhớ mong khắc khoải.

Diệp Nhị Nương khóc nói:

- Ông ... ông khỏi cần nói nữa, bây … bây giờ biết tính sao đây? Làm thế nào đây?

Huyền Từ ôn tồn đáp:

- Nhị nương, nếu đã làm nên nghiệp ác, có hối cũng vô ích, dấu diếm cũng vô ích. Bao nhiêu năm qua, thật khổ cho nàng!

Diệp Nhị Nương khóc đáp:

- Thiếp không khổ! Ông khổ mà không nói ra được, cái đó mới gọi là khổ.

Huyền Từ chậm rãi lắc đầu, quay sang Tiêu Viễn Sơn:

- Tiêu lão thí chủ, chiến dịch ngoài Nhạn Môn Quan, lão nạp tính toán quả thực hết sức sai lầm. Bao nhiêu huynh đệ vì lão nạp che đậy chuyện này đều táng mạng cả. Lão nạp hôm nay có chết cũng là muộn rồi.

Đột nhiên ông cao giọng:

- Mộ Dung Bác Mộ Dung lão thí chủ, hôm đó ông loan truyền tin thất thiệt, bảo rằng người Khất Đan đem đại đội binh mã đến chùa Thiếu Lâm cướp võ học điển tịch, để rồi tạo thành một sai trái rất lớn, có khi nào ông hổ thẹn với lòng hay chăng?

Mọi người nghe ông đột nhiên nói đến “Mộ Dung Bác” lại càng ngạc nhiên. Ai ai cũng biết cha của Mộ Dung công tử đơn danh là Bác, nghe nói người đó chết đã lâu, sao Huyền Từ lại bất ngờ gọi tên y ra? Không lẽ người báo tin giả lại là Mộ Dung Bác?

Quần hào theo hướng ánh mắt ông thấy Huyền Từ chăm chăm nhìn vào nhà sư áo xám ngồi dưới gốc cây. Nhà sư đó cười dài một tiếng, đứng dậy nói:

- Phương trượng đại sư nhãn quang quả là lợi hại đã nhận ra mỗ rồi.

Ông ta kéo khăn che để lộ khuôn mặt thần thanh mục tú, hai hàng lông mi bạc rủ xuống. Mộ Dung Phục vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ kêu lên:

- Gia gia! Cha … cha chưa … chưa chết?

Trong đầu nổi lên bao nhiêu nghi vấn, hôm xưa phụ thân từ trần, đâu phải y chỉ thăm hơi thở một lần mà thôi, lại đích thân tẫn liệm an táng, làm sao sống lại được? Hẳn là ông dùng thần công bế khí giả chết. Thế nhưng tại sao ông lại phải giả chết? Tại sao lại phải đánh lừa cả chính con ruột mình?

Huyền Từ nói:

- Mộ Dung lão thí chủ, ta với ông giao hảo lâu năm, trước nay vẫn kính trọng ông là một hảo hán. Hôm đó ông cho ta hay tin, lão nạp không nghi ngờ gì cả, để đến giết lầm người tốt, về sau không còn thấy ông trở lại. Lại nghe tin ông bị bệnh qui tiên, lão nạp càng thêm đau khổ, cho rằng ông cũng như ta chẳng qua chỉ vì tin lời người khác, để đến nỗi sai xẩy nên trong lòng dằn vặt mà qua đời lúc tuổi thanh xuân. Có biết đâu … ôi!

Nhà sư thở dài một tiếng, tiếng thở dài chất chứa biết bao oán than hối hận. Tiêu Viễn Sơn và Tiêu Phong hai người nhìn nhau, đến lúc này hai cha con mới biết kẻ giả truyền âm tấn, xúc xiểm thọc gậy bánh xe chính là Mộ Dung Bác. Tiêu Phong lại nổi lên một ý niệm: “Năm xưa thảm sự xảy ra nơi Nhạn Môn Quan, tuy Huyền Từ là kẻ đứng đầu, nhưng ông ta thân phận là phương trượng chùa Thiếu Lâm, quan tâm đến an nguy nhà Đại Tống và điển tịch bản tự nên làm hết sức mình, âu cũng là vì chữ nghĩa mà ra. Đến khi thấy sai lầm rồi ông liền tận lực sửa chữa, như vậy kẻ đại ác nhân đích thực phải là Mộ Dung Bác chứ không phải là Huyền Từ”.

Mộ Dung Phục nghe Huyền Từ nói như thế, lập tức hiểu ra: “Cha ta đưa tin giả, cốt để khiêu khích cho võ nhân Liêu Tống đánh nhau, Đại Yên mình đứng giữa thủ lợi. Sau đó Huyền Từ thể nào cũng chất vấn cha ta, cha ta biết không thể nào biện giải được, thân phận đại anh hùng đại hào kiệt như ông không thể nào thú nhận để hủy mất anh danh. Ông đoán được tính cách của Huyền Từ nên đành giả chết, biết rằng Huyền Từ sẽ không nói huỵch toẹt mọi chuyện ra làm tổn hại tiếng tăm người đã khuất.

Y lại nghĩ thêm một mức: “Đúng rồi! Cha ta chết rồi tiếng tăm nhà Mộ Dung không suy suyển, ta vẫn có thể tiếp tục hưng phục đại nghiệp. Nếu không như thế, anh hào Trung Nguyên tất cả cùng coi nhà Mộ Dung là kẻ thù, tự tồn đã khó nói gì chuyện phục quốc? Khi đó ta còn bé, nếu như biết rằng cha mình giả chết, thể nào cũng để lộ ra thành ra đến cả con ruột cha ta cũng dấu”. Nghĩ đến phụ thân phải tính toán khổ sở như thế, chỉ vì hưng phục Đại Yên mà phải bỏ hết mọi chuyện, y càng thấy trọng trách trên vai nặng nề.

Huyền Từ lại chậm rãi tiếp:

- Mộ Dung lão thí chủ, hôm nay lão nạp nghe những lời ông khuyên dạy lệnh lang mới biết họ Cô Tô Mộ Dung là hậu duệ đế vương, có mưu tính rất lớn. Thành thử việc ông giả truyền âm tấn cái dụng ý đã rõ ràng. Thế nhưng đại sự ông mưu đồ rồi cũng không đến đâu, chẳng khỏi uổng mạng bao nhiêu sinh linh vô tội đấy ư?

Mộ Dung Bác đáp:

- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.

Vẻ mặt Huyền Từ buồn bã nói:

- Huyền Bi sư đệ phụng mệnh ta đến Cô Tô hỏi chuyện này, chắc là ngôn ngữ có điều đắc tội, lúc ở quí phủ lại nhìn thấy đầu mối gì, đoán được âm mưu tạo phản cho nên thí chủ đã giết y diệt khẩu. Thế nhưng sao ông đã ẩn nhẫn lâu năm, lại phải đợi đến khi y đi Đại Lý mới ra tay hạ thủ? Ôi, ông định gây sự để cho họ Đoàn Đại Lý và chùa Thiếu Lâm tương tranh, chắc hẳn khi đánh lén Huyền Bi sư đệ đã dùng Nhất Dương Chỉ của Đoàn gia nhưng vì sở học chưa tinh nên không làm gì được, sau cùng đành phải dùng ngón gia truyền “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân” của nhà Mộ Dung ra đối phó giết chết sư đệ của ta.

Mộ Dung Bác cười khẩy, người hơi nghiêng đi, đánh một quyền về phía cây cổ thụ bên cạnh, cách cách mấy tiếng, hai cành to từ trên cây gãy xuống. Ông ta đánh vào thân cây, mà hai cành cây cách cả trượng lại chấn động rơi ra, thần công như thế quả phi phàm.

Hơn chục lão tăng Thiếu Lâm cùng kêu lên:

- Vi Đà Chử!

Giọng nói đầy vẻ kinh hãi. Huyền Từ gật đầu:

- Ông ở tệ tự lâu năm, quả đã luyện được một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm là Vi Đà Chử thần công. Thế nhưng chiêu Thiên Linh Thiên Liệt của phái Phục Ngưu tỉnh Hà Nam, với thân phận võ công như thí chủ chắc chẳng đời nào chịu mất thì giờ để luyện. Ông giết Kha Bách Tuế Kha thí chủ quả đã sử dụng võ công gia truyền chân chính của họ, không biết là làm thế nào?

Mộ Dung Bác cười lạnh lẽo nói:

- Lão phương trượng tinh minh vô tỉ, chân không ra khỏi chùa vậy mà việc trên giang hồ rành rẽ như chỉ bàn tay khiến người ta phải bội phục. Chuyện đó xin đại sư đoán xem …

Mới nói tới đây, đột nhiên hai người ở đâu cùng rống lên, nhảy xổ vào ông ta, chính là Kim Toán Bàn Thôi Bách Tuyền và sư điệt là Quá Ngạn Chi. Mộ Dung Bác phất tay áo một cái, Thôi Quá hai người đã bị hất văng ra mấy trượng, nằm gục dưới đất không động đậy gì được, trong nháy mắt đã bị ông ta dùng Tụ Trung Chỉ điểm huyệt rồi. Huyền Từ nói:

- Vị Kha thí chủ kia gia tài giàu có, hành sự xưa nay vốn kỹ lưỡng. Ôi, ông chiêu binh mãi mã, tích thảo đồn lương thấy Kha thí chủ có tiền nên muốn lấy để dùng, hẳn là Kha thí chủ đã không khứng chịu, không chừng còn toan đi báo quan phủ.

Mộ Dung Bác cười ha hả, giơ ngón tay cái lên khen ngợi:

- Lão phương trượng giỏi thật, giỏi thật! Tiếc thay ngài trôn kim thì nhìn rõ mà lại không thấy cái cột đình. Tại hạ và Tiêu huynh đây ẩn trong quí tự bao nhiêu năm thì ông lại không biết.

Huyền Từ chậm rãi lắc đầu, thở dài một tiếng nói:

- Chuyện người thì sáng, chuyện mình thì tối. Khắc địch đã khó mà khắc phục được tham sân si tam độc trong lòng mình lại càng khó thay.

Mộ Dung Bác nói:

- Lão phương trượng, niệm cái giao tình bao nhiêu năm giữa hai ta, chuyện gì cũng nói thẳng hết, ông có còn điều gì phải hỏi nữa không?

Huyền Từ đáp:

- Cứ người như Tiêu Phong Tiêu thí chủ thì Mã Đại Nguyên Mã phó bang chủ Cái Bang, Mã phu nhân, Bạch Thế Kính trưởng lão ba vị chắc không phải ông ta giết đâu, không biết là do Mộ Dung lão thí chủ hay Tiêu lão thí chủ ra tay?

Tiêu Viễn Sơn đáp:

- Mã Đại Nguyên là do vợ y cùng Bạch Thế Kính đồng mưu giết chết, Bạch Thế Kính do ta giết. Chuyện đầu đuôi bên trong, Đoàn vương gia nước Đại Lý chính mắt trông thấy, chính tai nghe thấy. Phương trượng muốn biết rõ ngọn ngành xin hỏi Đoàn vương gia.

Tiêu Phong tiến lên hai bước, chỉ vào mặt Mộ Dung Bác quát lớn:

- Mộ Dung lão tặc, ngươi mới chính là tội khôi họa thủ, mau tiến ra chịu chết.

Mộ Dung Bác cười một tiếng dài, nhảy vọt ra chạy lên núi. Tiêu Viễn Sơn và Tiêu Phong cùng hét:

- Đuổi theo!

Hai người chia hai bên rượt theo. Ba người đều võ công đến mức đăng phong tạo cực, chỉ một thoáng đã chạy thật xa rồi. Mộ Dung Phục kêu lên:

- Gia gia! Gia gia!

Y cũng đuổi theo, tuy khinh công cũng ghê gớm thật nhưng so với ba người kia hiển nhiên còn kém một mức. Chỉ thấy Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn, Tiêu Phong một người chạy trước, hai người đuổi theo cùng chạy về hướng chùa Thiếu Lâm. Một bóng xám, hai bóng đen trong phút chốc đã mất hút sau những tòa tự viện tường vàng ngói biếc.

Quần hùng hết sức kinh ngạc, nghĩ thầm: “Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Sơn võ công không phân hơn kém, hai người đều có con tiếp tay nhưng nhà Mộ Dung hẳn không thể nào địch nổi, sao Mộ Dung Bác không chạy xuống chân núi mà lại chạy lên chùa Thiếu Lâm?”.

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác, cả đến mười tám võ sĩ Khất Đan cũng định chạy lên trên núi tương trợ chủ nhân nhưng vừa dợm bước đã nghe Huyền Tịch quát lên:

- Kết trận chặn họ lại!

Hơn trăm nhà sư Thiếu Lâm cùng đáp lời, dàn ngang đường, người cầm thiền trượng, kẻ giơ giới đao không cho ai vượt qua. Huyền Tịch nghiêm nghị nói:

- Chùa Thiếu Lâm là nơi Phật môn thiện địa, đâu có phải là đấu trường, chúng vị thí chủ xin đừng tiến lên nữa.

Bọn Đặng Bách Xuyên thấy thanh thế những nhà sư Thiếu Lâm biết rằng không cách nào có thể xông qua được, tuy lòng lo cho chủ thâät nhưng cũng đành dừng bước. Bao Bất Đồng nói:

- Đúng quá! Không trật vào đâu được! Chùa Thiếu Lâm là nơi đất lành cửa Phật…

Y xưa nay hễ mở mồm là nói: “Sai bét rồi! Không phải vậy!” tự nhiên lần này lại nói: “Đúng quá! Không trật vào đâu được!” khiến những người biết y ai nâáy ngạc nhiên, thì đã nghe nói tiếp:

- … chỉ nuôi con hoang là tốt nhất.

Y vừa nói ra, mấy trăm cặp mắt hầm hầm đổ dồn vào nhưng Bao Bất Đồng to gan lớn mật, tuy biết trong số các nhà sư Thiếu Lâm cao thủ rất đông, người nào trong hàng chữ Huyền y cũng không phải là địch thủ, nhưng y thích là nói, xưa nay chẳng kiêng nể gì. Mấy trăm nhà sư gườm gườm nhìn y, y cũng trợn mắt đáp lại.

Huyền Từ lớn tiếng nói:

- Lão nạp phạm vào đại giới Phật môn, làm ô uế thanh danh chùa Thiếu Lâm. Huyền Tịch sư đệ, cứ theo bản tự giới luật thì phải xử thế nào?

Huyền Tịch ấp úng:

- Cái đó … sư huynh …

Huyền Từ nói:

- Nước có phép nước, nhà có luật nhà. Xưa nay môn phái bang hội, tông tộc tự viện đâu đâu chẳng có những kẻ sai quấy. Thanh danh có bảo toàn được hay không chẳng phải là do không có ai lầm lỗi mà là việc nào ra việc nấy, xử trí nghiêm minh, không lấp liếm. Chấp pháp tăng, đánh cho Hư Trúc một trăm ba mươi côn, một trăm côn là tội của y, ba mươi côn là do y cam nguyện chịu thay cho nghiệp sư.

Chấp pháp tăng đưa mắt nhìn Huyền Tịch. Huyền Tịch gật đầu, Hư Trúc quì xuống chịu đánh. Chấp pháp tăng liền giơ hình trượng, từng gậy từng gậy đánh lên lưng, lên mông Hư Trúc, đánh một hồi đã xé da nát thịt, máu me đầm đìa. Diệp Nhị Nương đau lòng nhưng bà ta vốn sợ Huyền Từ uy nghiêm, không dám mở miệng van xin.

Đánh xong một trăm ba mươi côn rồi, Hư Trúc vì không vận nội công đề ngự nên đau đến đứng không nổi. Huyền Từ nói:

- Từ giờ trở đi ngươi đã phá môn hoàn tục, không còn là sư chùa Thiếu Lâm nữa.

Hư Trúc nhỏ lệ đáp:

- Vâng!

Huyền Từ lại nói:

- Huyền Từ phạm phải dâm giới, tội không khác gì Hư Trúc, thân là phương trượng, tội càng gấp bội. Chấp pháp tăng đánh cho Huyền Từ hai trăm côn. Danh dự chùa Thiếu Lâm không thể thiên vị che đậy được.

Nói xong quì phục xuống, quay mặt về phía tượng Phật nơi đại hùng bảo điện, tự mình cởi tăng bào, để lộ lưng ra.

Quần hùng ai nấy sửng sốt, phương trượng chùa Thiếu Lâm thụ hình trước mặt mọi người, quả chưa ai từng nghe từng thấy, không phải là chuyện thường tình chút nào. Huyền Tịch nói:

- Sư huynh …

Huyền Từ nghiêm giọng nói:

- Thanh dự của chùa Thiếu Lâm hàng nghìn năm qua, lẽ nào để hỏng về tay ta sao?

Huyền Tịch ngậm nước mắt đáp:

- Vâng! Chấp pháp tăng, dụng hình!

Hai người chấp pháp tăng chắp tay khom lưng nói:

- Phương trượng, xin đắc tội!

Nói rồi đứng thẳng người, giơ hình trượng lên đánh xuống lưng Huyền Từ. Hai nhà sư biết rằng phương trượng chịu phạt, cái khó nhất là phải chịu nhục trước mặt mọi người chứ không phải cái đau đớn xác thân, nếu như hạ thủ dung tình khiến bên ngoài trông thấy, đưa tiếng dèm pha thì chuyện phương trượng chịu nhục hóa ra công cốc. Thành thử côn nào côn nấy đánh xuống, chát chát thật mạnh, trong chốc lát trên lưng trên mông Huyền Từ đã đầy những lằn gậy, máu thấm đẫm cả tăng bào.

Quần tăng nghe chấp pháp tăng đếm “năm, mười” số gậy đánh xuống, ai nấy cúi đầu trầm tư lẩm nhẩm niệm Phật. Đạo Thanh đại sư của chùa Phổ Độ bỗng nói:

- Huyền Tịch sư huynh, quí tự tôn trọng giới luật Phật môn, cả đến phương trượng cũng thụ hình, bần tăng hết sức kính phục. Có điều Huyền Từ sư huynh tuổi tác đã cao, lại không vận công hộ thân, hai trăm gậy e rằng không chịu nổi. Bần tăng mạo muội xin nể tình, bây giờ đã đánh đến tám mươi côn, số còn lại xin cho khất.

Quần hùng vô số người cũng hùa theo:

- Phải lắm, phải lắm, tất cả chúng ta cùng xin nể chút tình.

Huyền Tịch chưa kịp trả lời, Huyền Từ đã dõng dạc nói:

- Đa tạ thịnh ý của quí vị, có điều giới luật nặng như núi, không thể khoan dung. Chấp pháp tăng, mau mau dụng trượng.

Hai người chấp pháp tăng vốn đã ngừng tay chờ, nghe phương trượng ngữ khí kiên quyết, lại đành tiếp tục năm, mười đánh xuống. Đánh thêm chừng bốn mươi trượng nữa, Huyền Từ chịu không nổi, hai tay chống dưới đất nhũn ra ngã sấp mặt xuống. Diệp Nhị Nương khóc òa:

- Chuyện này đừng trách phương trượng, chỉ ở ta không ra gì! Ta bị người ta khinh khi nên cố ý đến dụ dỗ phương trượng … Những … những … côn còn lại, để ta chịu cho.

Bà ta vừa khóc vừa chạy đến toan nằm đè lên người Huyền Từ chịu đòn thay. Huyền Từ tay trái điểm ra, nghe soẹt một tiếng nhỏ, phong trụ huyệt đạo của Diệp Nhị Nương, miệng mỉm cười nói:

- Kẻ mê muội kia ơi, ngươi không phải ni cô cửa Phật, chẳng hề phá giới ái dục, có tội gì đâu?

Diệp Nhị Nương đứng sững tại chỗ không cử động được nhưng nước mắt vẫn chảy ròng ròng. Huyền Từ lại quát:

- Hành trượng!

Đến khi hai trăm trượng đánh đủ số, máu me chảy đầy mặt đất, Huyền Từ mới miễn cưỡng đề khí hộ tâm để khỏi đau đến ngất đi. Hai nhà sư chấp pháp giơ trượng lên nói với Huyền Tịch:

- Bẩm báo thủ tọa, Huyền Từ phương trượng chịu đòn đã xong.

Huyền Tịch gật đầu, không biết nói sao cho phải. Huyền Từ gắng gượng đứng lên, điểm một chỉ vào Diệp Nhị Nương định giải huyệt cho bà ta, ngờ đâu bị thương quá nặng, chân khí không thể ngưng tụ nên không công hiệu.

Hư Trúc thấy thế vội vàng chạy đến giải huyệt cho mẫu thân. Huyền Từ nhìn hai người vẫy tay, Diệp Nhị Nương và Hư Trúc liền chạy đến bên cạnh. Hư Trúc ngần ngừ, không biết nên gọi là “gia gia” hay vẫn gọi là “phương trượng”.

Huyền Từ đưa tay ra, tay phải cầm cổ tay Diệp Nhị Nương, tay trái nắm Hư Trúc nói:

- Hơn hai mươi năm qua, ta đêm ngày mong nhớ mẹ con bà, biết mình thân phạm đại giới, lại không dám sám hối cùng tăng chúng, hôm nay thế là được giải thoát rồi, từ giờ không còn sợ hãi băn khoăn, tâm được an lạc.

Rồi ông đọc một bài kệ:

Con người nơi trần thế,

Hễ tham muốn yêu thương.

Ắt phiền não khổ sở,

Cực lạc lòng không vương.

Đọc xong ông từ từ nhắm mắt lại, nở một nụ cười hiền hòa. Diệp Nhị Nương và Hư Trúc không dám cử động, chờ xem ông còn nói gì nữa nhưng thấy bàn tay ông lạnh dần. Diệp Nhị Nương kinh hãi vội đưa tay thăm mũi thì hơi thở đã ngừng từ bao giờ, biến sắc kêu:

- Ông … ông … sao ông bỏ tôi ông ơi!

Đột nhiên bà ta nhảy vọt lên cao, từ trên không lao xuống, nghe bình một tiếng rơi ngay bên chân Huyền Từ, dãy mấy cái rồi cũng bất động. Hư Trúc kêu lên:

- Mẹ, mẹ ơi! Mẹ … mẹ đừng .. đừng …

Y đưa tay đỡ mẹ lên thì thấy một thanh chủy thủ đâm ngập vào tim, chỉ còn hở cái chuôi ra ngoài, xem ra không còn sống nữa. Hư Trúc vội điểm huyệt đạo chung quanh vết thương, lại đem chân khí truyền vào Huyền Từ phương trượng, chân tay luýnh quýnh muốn cứu một lượt cả hai người.

Tiết Thần Y chạy tới giúp nhưng thấy hai người tim đã ngừng đập, hơi thở đã tắt không còn cách gì nữa bèn khuyên:

- Sư thúc đừng buồn. Hai vị lão nhân gia không còn cứu được nữa rồi.

Hư Trúc vẫn không nản chí, vận Bắc Minh chân khí một hồi lâu nhưng cha mẹ không ai động đậy gì nữa. Nỗi buồn dâng lên, nhịn không nổi khóc rống lên. Hai mươi bốn năm qua, y vẫn nghĩ mình là đứa con côi không cha không mẹ, chưa bao giờ được hưởng cái đầm ấm gia đình, hôm nay được gặp cha mẹ ruột, ngờ đâu chưa đầy một giờ thì cả hai đã thảm vong.

Quần hùng mới đầu nghe Huyền Từ nhận mình là cha Hư Trúc, ai nấy thấy ông không giữ thanh qui nên cũng có bụng coi rẻ, đến khi ông thản nhiên đương chúng thụ hình để bảo toàn thanh dự cho chùa Thiếu Lâm, đại dũng đó người thường không ai làm nổi. Ai cũng tưởng ông thụ trọng hình là để đền tội năm xưa lỡ bước, có ngờ đâu khi chịu đòn xong lại lập tức tuyệt kinh mạch.

Xưa nay nếu đã chết rồi thì coi như muôn việc đều xong, ông vốn đã có ý tìm cái chết thì cái nhục hai trăm trượng kia chẳng cần phải nhận, thế nhưng ông lại chịu đòn trước để duy trì cái tiếng cho chùa Thiếu Lâm, sau đó mới tự tận, quả là thái độ của kẻ anh hùng hảo hán. Quần hùng kính ngưỡng ông quả là người nên không ít kẻ tiến lên khom lưng lạy di thể.

Nam Hải Ngạc Thần mếu máo:

- Nhị tỉ chết mất rồi, Nhạc lão tam không tranh giành cái thứ bậc với chị nữa, để tỉ tỉ làm lão nhị cho xong.

Bao nhiêu năm nay, y nhất định đòi đứng trên Diệp Nhị Nương, nghĩ mình võ công hơn bà ta, xứng đáng là kẻ Thiên Hạ Đệ Nhị Ác Nhân, bây giờ chịu nhường quả không phải dễ. Một phần y đau lòng cái chết của Diệp Nhị Nương nhưng một phần khác cũng vì kính trọng sự nghĩa liệt của tỉ tỉ.

VƯƠNG BÁ HÙNG ĐỒ – HUYẾT HẢI THÂM HẬN

TẬN QUI TRẦN THỔ

Dẫu ôm mộng xưng vương xưng đế,

Nuôi hận thù vay trả trả vay.

Một khi nhắm mắt xuôi tay,

Sang hèn âu cũng đã hay kiếp người.

*

* *

Cả bọn Cái Bang hùng hùng hổ hổ kéo đến chùa Thiếu Lâm những tưởng phen này nhờ vào tài nghệ “thâm bất khả trắc” của bang chủ mà đoạt được chức minh chủ, Cái Bang sẽ đứng trên phái Thiếu Lâm trở thành lãnh tụ võ lâm Trung Nguyên. Ngờ đâu Trang bang chủ đã bái Đinh Xuân Thu làm thầy thì chớ, lại bị Tiêu Phong đá gãy hai chân, ai nấy cụt hứng không còn gì để vênh váo nữa.

Ngô trưởng lão lớn tiếng nói:

- Chúng vị huynh đệ, mình còn ở đây làm gì nữa? Không lẽ còn muốn xin cơm thừa canh cặn nữa hay sao? Thôi mình xuống núi.

Quần cái đáp ứng vang dậy, lục tục kéo nhau đi. Bao Bất Đồng đột nhiên gọi giật lại:

- Khoan đã! Khoan đã! Bao mỗ có một việc muốn cáo tri với Cái Bang.

Trước đây Trần trưởng lão đã từng ác đấu với Bao Bất Đồng ở thành Vô Tích, biết được gã này mồm miệng chẳng bao giờ nói được câu nào cho tử tế, dậm chân một cái hầm hè hỏi:

- Họ Bao kia, có gì cần nói thì nói chứ đừng đổ rắm đổ rít ra nữa.

Bao Bất Đồng giơ tay bịt mũi kêu ầm lên:

- Thối quá! Thối quá! Này, tên ăn mày hay đổ rắm kia, trong bang của ngươi có tên ăn mày già nào tên là Dịch Đại Bưu chăng?

Trần trưởng lão nghe y nhắc đến Dịch Đại Bưu lập tức chăm chú nghe, hỏi lại:

- Có thì đã sao? Mà không có thì sao?

Bao Bất Đồng nói:

- Ta đang nói chuyện với một thằng ăn mày thích rắm rít sao ngươi lại chõ mồm vào, hay là tự nhận mình hay vãi rắm?

Trần trưởng lão quan tâm đến chuyện đại sự trong bản bang, chẳng hơi đâu mà đôi co những việc chẳng đâu vào đâu với y bèn nói:

- Ta hỏi ông Dịch Đại Bưu ra sao rồi? Y quả là đệ tử bản bang, phái sang Tây Hạ công cán, các hạ có tin tức gì của y chăng?

Bao Bất Đồng đáp:

- Ta đang định nói với ngươi một chuyện đại sự ở nước Tây Hạ, có điều Dịch Đại Bưu đã đi chầu Diêm Vương rồi.

Trần trưởng lão nói:

- Lời đó có thật không? Xin hỏi có liên quan gì đến đại sự nước Tây Hạ?

Bao Bất Đồng đáp:

- Ngươi chửi ta ăn nói như rắm thối, thế bây giờ có muốn ta đánh rắm đánh rít không?

Trần trưởng lão tức đến rung cả hàm râu bạc nhưng nghĩ đến đại sự quan trọng hơn, đành phải cười hề hề nói:

- Mới rồi nói năng đắc tội với các hạ, lão phu xin lỗi.

Bao Bất Đồng đáp:

- Cũng chẳng cần phải xin lỗi, từ rày ngươi nên đánh rắm cho nhiều, nói in ít thôi thế là được rồi.

Trần trưởng lão ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Y nói thế là sao nhỉ?”. Thế nhưng hiện đang có việc phải cầu đến y, chẳng muốn nói năng dây dưa bèn mỉm cười, không nói gì thêm nữa. Bao Bất Đồng đột nhiên kêu ầm lên:

- Thối quá! Thối quá! Ngươi thật chẳng ra cái đếch gì.

Trần trưởng lão ngạc nhiên:

- Sao lại bảo ta chẳng ra gì?

Bao Bất Đồng đáp:

- Ngươi không chịu mở mồm, hơi không có chỗ nào ra, phải tìm đường phát tiết.

Trần trưởng lão nghĩ thầm: “Gã này quả là rầy rà, ta chỉ một câu vô lễ, y liền nói qua nói lại tìm cách bắt bẻ mãi. Hay nhất là mình không nói năng gì cả, chứ không y sẽ nói quanh nói co không đi vào đề mục chính”. Nghĩ thế y bèn mỉm cười, không nói gì thêm.

Bao Bất Đồng lắc đầu:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Ngươi cứ nhất định gây sự với ta thật không ra gì cả.

Trần trưởng lão mỉm cười:

- Tại hạ chẳng mở miệng, sao lại bảo là gây sự với các hạ được?

Bao Bất Đồng đáp:

- Ngươi không mở miệng, chỉ đánh rắm, đâu cần phải mở miệng nữa.

Trần trưởng lão cau mày đáp:

- Chỉ đùa thôi!

Bao Bất Đồng thấy y càng lúc càng nhịn, mình đã chiếm được thượng phong rồi liền nóiL

- Ngươi đã mở miệng nói rồi, ấy là không còn gây sự với ta nữa. Thế thì ta nói cho ngươi nghe. Vài tháng trước, ta cùng công tử nhà ta, Đặng đại ca, Công Dã nhị ca tất cả một đoàn, trên đường đi Cam Lương ngang qua một rừng cây, gặp phải một bọn ăn mày, chết nằm la liệt, kẻ thì đầu một nơi mình một nẻo, kẻ thì lòi ruột vỡ bụng, thật là tội nghiệp, đáng thương làm sao.

Những người đó ai ai cũng đeo túi vải, kẻ ba cái, kẻ bốn cái, kẻ năm cái, kẻ sáu cái không chừng.

Trần trưởng lão nói:

- Chắc là anh em trong tệ bang rồi.

Bao Bất Đồng tiếp:

- Khi ta gặp họ thì các lão huynh đó chết đã lâu, chẳng biết lúc đó đã ăn cháo lú chưa, lên Vọng Hương Đài chưa, hay đang ở trong điện nào của Thập Đại Diêm Vương chịu tra khảo. Bọn họ không ai nói được, dĩ nhiên ta làm sao hỏi họ hỏi tên, quê quán nơi nào, bang nào phái nào, vì sao mà chết? Nếu không ắt là khi thành ma rồi thể nào chẳng chửi ta một câu: “Có gì cần nói thì nói chứ đừng đổ rắm đổ rít ra nữa” thì oan cho ta biết mấy?

Trần trưởng lão nghe y kể có rất nhiều anh em trong bang bị chết nên hết sức quan tâm, không dám mở mồm mà cũng không dám cà khịa với y, chỉ đành nói vớt vát:

- Bao huynh nói phải lắm.

Bao Bất Đồng lắc đầu:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Họ Bao này bình sinh chúa ghét những đứa a dua phụ họa, mồm ngươi thì nói “Bao huynh nói phải lắm!” nhưng trong bụng thì đang réo “con mẹ mày, đồ rùa đen đê tiện” ấy là “nghĩ một đằng nói một nẻo”, là thói của bọn vô sỉ phái Tinh Tú.

Chứ như đã là nam tử hán, đại trượng phu, đúng thì nói đúng, sai thì bảo sai, người ta có ý kiến gì thì kệ xác người ta, mình có ý kiến của mình. “Tự phản nhi xúc, tuy thiên vạn nhân, ngô vãng hĩ!”. Một mình mình làm, một mình mình đứng, không hùa theo ai, có thế mới là anh hùng hảo hán.

Y lên tiếng dạy dỗ Trần trưởng lão một chập, lúc ấy mới nói:

- Trong số đó có một vị lão huynh bị thương nhưng chưa chết, tuy chưa ngủm củ tỏi nhưng cũng chẳng còn được bao lăm hơi. Y tự xưng là tên Dịch Đại Bưu, từ bên nước Tây Hạ trở về, mang theo một trương bảng văn của quốc vương nước Tây Hạ, có liên quan trọng đại, giao cho bọn ta nhờ bọn ta giao lại cho trưởng lão quí bang.

Tống trưởng lão nghĩ thầm: “Trần huynh đệ ăn nói đắc tội với y, chi bằng mình đi ra lo liệu việc này cho xong”. Y lập tức tiến ra vái một cái nói:

- Bao tiên sinh trượng nghĩa truyền tin, tệ bang trên dưới ai ai cũng cảm đại đức.

Bao Bất Đồng đáp:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Chưa chắc gì tất cả trên dưới trong quí bang đã cảm cái đại đức của ta đâu.

Tống trưởng lão ngỡ ngàng hỏi:

- Bao tiên sinh nói như thế là do đâu mà ra?

Bao Bất Đồng chỉ vào Du Thản Chi nói:

- Bang chủ quí bang chưa chắc đã có cảm tình với tại hạ mà trong lòng còn hận ta không đâu cho hết.

Tống Trần hai trưởng lão cùng kêu lên:

- Thế là vì cớ gì? Xin Bao tiên sinh chỉ giáo.

Bao Bất Đồng đáp:

- Gã Dịch Đại Bưu khi sắp chết có nói rằng, bọn họ cả bầy đã bị Trang bang chủ của quí bang sai người giết chết, chỉ vì họ không phục tên tiểu tử họ Trang làm bang chủ, nên tiểu tử đó sai người đuổi theo tàn sát. Ôi! Đáng thương xiết bao. Dịch Đại Bưu nhờ bọn ta truyền ngôn, dặn Ngô trưởng lão và các vị trưởng lão phải hết sức đề phòng.

Bao Bất Đồng vừa dứt lời, quần cái ai nấy rúng động. Ngô trưởng lão rảo bước đến trước Du Thản Chi, hầm hè quát hỏi:

- Lời đó có thật hay không?

Du Thản Chi bị Tiêu Phong đá gãy hai chân, nãy giờ vẫn ngồi dưới đất, không nói không rằng tiềm vận nội lực cho bớt đau, đột nhiên nghe Bao Bất Đồng nói lộ bí mật đó ra, không khỏi hết sức kinh hoàng, lại nghe Ngô trưởng lão chất vấn bèn ấp úng:

- Đó là Toàn … Toàn Quan Thanh ra lệnh, chẳng … chẳng liên quan gì đến tôi cả.

Tống trưởng lão không muốn vạch áo cho người xem lưng trước mặt quần hùng, hầm hầm nhìn Toàn Quan Thanh trừng mắt, nghĩ thầm: “Chuyện trong bang từ từ mình tính lại cũng không muộn”. Y bèn quay sang Bao Bất Đồng:

- Bảng văn Dịch Đại Bưu huynh đệ giao cho tiên sinh, không biết tiên sinh có mang theo trong người không?

Bao Bất Đồng quay lại nói:

- Không mang!

Tống trưởng lão hơi biến sắc, nghĩ thầm ngươi nói năng tự nãy giờ mà lại toan không đưa bảng văn ra, không lẽ định đem mình làm trò đùa hay sao? Bao Bất Đồng vái một cái thật sâu nói:

- Thanh sơn bất cải, lục thủy trường lưu, mình sau này có lúc gặp lại.

Nói xong quay mình đi ra. Ngô trưởng lão vội gọi:

- Bức bảng văn của Tây Hạ kia, vì cớ gì các hạ không chịu chuyển giao?

Bao Bất Đồng đáp:

- Cái đó lạ nhỉ? Sao ngươi biết là Dịch Đại Bưu giao tấm bảng văn đó vào tay ta? Sao lại dùng hai chữ “chuyển giao” được? Không lẽ hôm đó chính mắt ngươi trông thấy hay sao?

Tống trưởng lão cố nén giận nói:

- Bao huynh vừa mới nói, Dịch Đại Bưu Dịch huynh đệ từ Tây Hạ trở về, mang theo một trương bảng văn của quốc vương nước này, nhờ Bao huynh giao lại cho trưởng lão tệ bang. Câu nói đó có bao nhiêu anh hùng hảo hán cùng nghe cả, Bao huynh tự nhiên lại đổi giọng là sao?

Bao Bất Đồng lắc đầu:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Ta có nói thế bao giờ đâu?

Y thấy Tống trưởng lão biến sắc liền tiếp:

- Ta từng nghe các trưởng lão Cái Bang ai ai cũng là hảo hán mặt sắt đen sì, sao nay trước mặt anh hùng thiên hạ nói trắng thành đen, đen thành trắng, hỗn loạn thị phi, có phải là đem thanh danh một đời để trôi theo dòng nước hay chăng?

Tống Trần Ngô ba người đưa mắt nhìn nhau, mặt mày đăm chiêu ngơ ngáo, chẳng biết nên lập tức ra tay động thủ hay cố nhịn thêm chút nữa. Trần trưởng lão nói:

- Các hạ đã nói thế thì chúng tôi cũng chẳng biết phải làm sao, thị phi ắt có công luận, chứ chỉ bẻm mép suông, cưỡng từ đoạt lý thì cũng chẳng đến đâu.

Bao Bất Đồng đáp:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Ngươi bảo “chỉ bẻm mép suông thì chẳng đến đâu” thế xưa kia Tô Tần chỉ nhờ tài miệng lưỡi mà đeo tướng ấn sáu nước thì sao? Tại sao Trương Nghi cũng chỉ nhờ tài ăn nói mà dùng kế liên hoành, giúp cho nước Tần gồm thâu lục quốc?

Tống trưởng lão thấy y càng nói càng xa đề, chỉ đành cười gượng nói:

- Bao tiên sinh giá mà sinh vào thời Chiến Quốc, ắt đã ăn đứt Tô Trương, thân đeo tướng ấn bảy nước, tám nước.

Bao Bất Đồng đáp:

- Như vậy là ngươi mỉa mai ta sinh bất phùng thời chứ gì? Bảo ta số đen như mõm chó chăng? Được rồi, họ Bao này nếu như từ nay về sau có chuyện xui xẻo, nhức đầu nóng sốt, đau lưng bại chân, ho hen kéo cữ thì cũng bởi cái miệng ngươi trù ẻo.

Trần trưởng lão chán nản hỏi:

- Thế thì quả thực Bao huynh muốn gì? Cứ nói thẳng ra cho biết!

Bao Bất Đồng đáp:

- Ôi, sao ngươi nóng tính thế? Trần trưởng lão, hôm đó ở rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, ngươi cùng Phong tứ đệ của ta tỉ thí võ công, tay ngươi cầm một cái túi vải lớn, trong đó có một con bò cạp lớn, đuôi bò cạp có một cái kim độc, cái kim độc đó chích vào ai thì sưng thành một cục u to, cục u đó sẽ làm cho đối phương táng mạng, có phải thế không?

Trần trưởng lão nghĩ thầm: “Có một câu mà nói vòng vo, chuyện nhỏ chuyện lớn gì ngươi cũng ba hoa chích chòe thành đủ chuyện”. Y bèn đáp:

- Đúng thế!

Bao Bất Đồng nói:

- Hay lắm! Ta đánh cuộc với ngươi, nếu ngươi thắng thì ta lập tức đem tin tức gã ăn mày già họ Dịch từ Tây Hạ về nói cho ngươi hay. Còn như ta thắng thì ngươi phải lấy cái túi vải, lẫn con bò cạp trong cái túi vải đó, cả cái bình thuốc tiêu giải chất độc, tất cả đưa cho ta, ngươi có dám không?

Trần trưởng lão hỏi lại:

- Bao huynh muốn đánh cuộc chuyện gì?

Bao Bất Đồng đáp:

- Các trưởng lão quí bang vu hãm cho ta, khăng khăng bảo là ta cất dấu bảng văn Dịch Đại Bưu đem từ Tây Hạ về, nhờ ta chuyển giao lại cho các trưởng lão. Thực ra ta nào có nói thế bao giờ, vậy hai người mình đánh cuộc. Nếu quả đúng là ta có nói thế thì là ngươi thắng, còn như ta không có nói thế, ấy là ta thắng.

Trần trưởng lão đưa mắt nhìn Tống, Ngô trưởng lão, hai người gật đầu, ý muốn nói: “Có mấy nghìn người ở đây làm chứng, dù y có cãi nhăng cãi cuội cách nào thì cũng khó mà chây được. Cứ việc đánh cuộc đi!”.

Trần trưởng lão nói:

- Được rồi, tại hạ cùng Bao huynh đánh bạc. Thế nhưng không biết Bao huynh làm sao chứng minh ai thua ai được? Không lẽ mình phải suy cử vài vị đức cao vọng trọng ra làm công chứng nhân xét xử cho công bình hay sao?

Bao Bất Đồng lắc đầu:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Ngươi bảo suy cử ra vài vị đức cao vọng trọng làm công chứng nhân xét xử, ví thử đưa ra được tám người, mười người, không lẽ ngoài tám người mười người đó, hàng nghìn hàng trăm người còn lại không phải anh hùng hảo hán, đức không cao, vọng không trọng hay sao? Nếu đức không cao, vọng không trọng thì hóa ra là kẻ ti bỉ hạ lưu, vô danh tiểu tốt chăng? Vậy là coi rẻ anh hùng thiên hạ, Cái Bang các ngươi quả thật vô lễ.

Trần trưởng lão nói:

- Bao huynh chỉ đùa, tại hạ nào dám có ý đó. Vậy thì theo sở kiến của Bao huynh mình phải thế nào?

Bao Bất Đồng đáp:

- Trái phải ngay cong, một lời là xong, để tại hạ mổ xẻ cho các vị. Đưa đây!

Y vừa nói “Đưa đây!” vừa chìa tay ra. Trần trưởng lão hỏi lại:

- Đưa cái gì?

Bao Bất Đồng đáp:

- Túi vải, con bò cạp, thuốc giải độc.

Trần trưởng lão nói:

- Bao huynh chưa chứng minh được, sao đã coi là mình thắng?

Bao Bất Đồng đáp:

- Chỉ sợ ngươi thua rồi lại lần khân không chịu đưa.

Trần trưởng lão cười ha hả nói:

- Một con độc vật nho nhỏ thì có đáng gì? Nếu Bao huynh muốn, tại hạ lập tức dâng lên, việc gì phải đánh đố thua được cho thêm phiền?

Nói xong cởi một chiếc túi sau lưng, lấy trong túi ra một chiếc bình nhỏ, giao cả hai món cho y. Bao Bất Đồng không khách khí gì đưa tay nhận ngay, mở miệng túi ra nhìn vào thấy trong túi có bảy tám con bò cạp rằn ri, liền thắt miệng túi lại nói:

- Để bây giờ ta cho ngươi coi chứng cứ, cho ngươi biết tại sao ta thắng mà ngươi lại thua.

Y vừa nói, vừa cởi thắt lưng trường bào, xăn tay áo lên, vạch túi ra, cho mọi người nhìn thấy trên người y ngoài vài lượng bạc, hỏa đao, hỏa thạch ra, không còn vật gì khác. Tống Trần Ngô ba người không hiểu ý tứ y ra sao, vẻ mặt hoang mang. Bao Bất Đồng nói:

- Nhị ca cầm bảng văn trong tay cho bọn họ nhìn qua một chút.

Công Dã Can từ nãy đến giờ vẫn lo cho an nguy cha con Mộ Dung Bác nhưng thấy không cách gì có thể vượt qua được La Hán Đại Trận của quần tăng Thiếu Lâm, nên cũng chỉ đành nóng ruột suông, nghe thế liền lấy bảng văn ra cầm trên tay. Quần hùng nhìn bảng văn, thấy đó là một tờ giấy vàng lớn trên có dấu son đỏ, viết đầy những chữ ngoại quốc, tuy khó mà biết thật hay giả nhưng xem chừng không phải là đồ mạo hóa.

Bao Bất Đồng nói:

- Khi trước ta đã nói “Dịch Đại Bưu có đem một trương bảng văn nước Tây Hạ giao lại cho bọn ta, nhờ bọn ta giao lại cho trưởng lão quí bang” có đúng không nào?

Tống Trần Ngô ba trưởng lão thấy y đột nhiên thừa nhận việc đó vui mừng đáp:

- Đúng thế!

Bao Bất Đồng nói:

- Thế mà Tống trưởng lão lại chỉ ta mà nói “Dịch Đại Bưu có đem một trương bảng văn nước Tây Hạ giao lại cho ta, nhờ ta giao lại cho trưởng lão quí bang” có phải không nào?

Ba trưởng lão cùng đáp:

- Đúng thế! Nói thế thì có gì sai đâu?

Bao Bất Đồng lắc đầu:

- Sai chứ, sai chứ! Sai bét đi chứ! Đầu trâu làm sao gắn với mõm ngựa được. Sai một ly đi một dặm! Ta nói là “bọn ta”, Tống trưởng lão lại bảo là “ta”. Nói đến “bọn ta”, họ Cô Tô Mộ Dung có biết bao nhiêu người, bên trong có cả Mộ Dung công tử, có Đặng đại ca, Công Dã nhị ca, Phong tứ ca, lại có cả Vương cô nương. Còn như “ta” là chỉ có một thân một mình Bao Bất Đồng này, cái thằng ba trợn mở mồm ra là “Sai bét rồi! Không phải vậy!” thôi. Các vị anh hùng thử nhìn xem, Vương cô nương hoa dung nguyệt mạo, là một đại khuê nữ, với cái tên “phi dã phi dã” Bao Bất Đồng Bao lão tam khác hẳn nhau làm sao có thể nhập làm một được?

Tống Trần Ngô ba trưởng lão mặt mày ngơ ngẩn, có ngờ đâu y chẻ sợi tóc ra làm tư, hai chữ “bọn ta” với “ta” mà giải thích khác nhau xa lắc. Lại nghe Bao Bất Đồng nói tiếp:

- Cái trương bảng văn đó, Dịch Đại Bưu giao tận tay Công Dã nhị ca. Ta báo tin cho quí bang là do chủ ý của Mộ Dung công tử. Ta nói “bọn ta” cái đó không có gì sai. Còn như nếu nói “ta” thì thế là không đúng sự thật. Tại hạ không biết văn tự Tây Hạ, nhận bảng văn này làm gì? Tại hạ đã từng đụng với người của quí bang bên ngoài thành Vô Tích, bị đánh cho thua một vố đau, không đến tìm quí bang báo thù thì thôi, chứ đến báo tin làm gì? Nói tóm lại, hay tóm lại mà nói, nhận trương bảng văn đến quí bang báo tin đều là “bọn ta” Cô Tô Mộ Dung toàn thể, chứ không phải chỉ mình “ta” Bao Bất Đồng này mà thôi.

Y quay lại nói với Công Dã Can:

- Nhị ca, bọn họ thua rồi, cất bảng văn đi.

Trần trưởng lão nghĩ thầm: “Ngươi đi vòng vèo, nói qua nói lại, chẳng qua cũng chưa quên cái sỉ nhục bị thua nơi ngoài thành Vô Tích”. Y bèn vòng tay nói:

- Hôm xưa Bao huynh tay không đánh với Hề trưởng lão của bản bang cầm cương trượng nặng sáu mươi cân mà cũng hơn đứt. Tệ bang thấy không địch nổi mới kết “Đả … đả … đả …” cái trận pháp đó, mới chế ngự nổi Bao huynh. Bang chủ tệ bang thời đó là Kiều Phong phải đem hết những quân tinh nhuệ nhất xông lên, vậy mà cũng phải đấu một hồi lâu mới miễn cưỡng thắng được nửa chiêu.

Đến khi Bao huynh hùng tráng vừa hát vừa phiêu nhiên ra đi, đấu đã cao minh, đi cũng tiêu sái, tệ bang trên dưới mỗi khi nhắc tới, ai cũng tấm tắc quả là người khoáng đạt, không thể không không phục. Bao huynh sao lại quá khiêm, nói trớ ra là thua dưới tay tệ bang, àm gì có chuyện đó cho được. Gã Kiều Phong kia giờ này không còn liên quan gì đến tệ bang nữa, thậm chí có thể nói là kẻ thù chung rồi.

Y có biết đâu Bao Bất Đồng nói hươu nói vượn, chẳng qua chỉ để bắt bẻ cái câu sau cùng của y, chứ không phải vì cái nhục đánh thua nơi rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, cũng chẳng phải để vặn mấy tiếng “có gì cần nói thì nói chứ đừng đổ rắm đổ rít ra nữa”. Bao Bất Đồng luôn luôn dùng cái thuật tiện đâu đánh đó, lựa gió giương buồm, bèn nói:

- Nếu đã thế thì thật tốt quá. Vậy chúng mình cùng chung cừu địch, ngươi tất lãnh huynh đệ trong bang tóm cổ gã Kiều Phong lại. Khi đó bọn ta sẽ niệm tình bằng hữu mà đem bảng văn hai tay dâng lên. Lão huynh nếu không biết thứ văn tự hi kỳ cổ quái kia, Công Dã nhị ca ta sẽ nghĩ tình làm ơn cho trót, từ đầu chí cuối, không sót một chữ giảng giải cho nghe, ngươi nghĩ sao?

Trần trưởng lão đưa mắt nhìn Tống trưởng lão, lại dò ý Ngô trưởng lão, chưa biết tính sao. Đột nhiên có người cao giọng nói:

- Cứ thế mà làm còn nghi ngại gì nữa?

Mọi người cùng nhìn qua thấy kẻ vừa nói đó chính là Thập Phương Tú Tài Toàn Quan Thanh. Y lúc đó đã được thăng lên trưởng lão chín túi, lại nghe y tiếp tục:

- Liêu quốc là tử cừu đại địch của Đại Tống ta. Cha Tiêu Phong là Tiêu Viễn Sơn đã thú nhận là y ẩn trốn trong chùa ba mươi năm qua, tham duyệt hết võ công bí tịch của Thiếu Lâm tự. Nếu hôm nay mình không đồng tâm hiệp lực trừ đi, để y trở về nước Liêu, truyền bá võ công thượng thừa của Trung Thổ, người Khất Đan như hổ thêm cánh, lúc đó trở sang tấn công Đại Tống, bọn con cháu Viêm Hoàng chúng ta lúc đó sẽ thành kẻ vong quốc mất thôi.

Quần hùng nghe y nói quả là hữu lý, có điều Huyền Từ viên tịch rồi, Trang Tụ Hiền đã gãy chân, hai cây cột lớn của võ lâm Trung Nguyên là Thiếu Lâm và Cái Bang nay như rắn mất đầu, không còn ai chủ trì đại cuộc.

Toàn Quan Thanh tiếp:

- Vậy xin mời ba vị cao tăng chữ Huyền của phái Thiếu Lâm, với Tống Trần Ngô ba vị trưởng lão Cái Bang chung phát hiệu lệnh, tất cả mọi người cùng nghe sai khiến. Trước hết phải giết cho được cha con Tiêu Viễn Sơn, Tiêu Phong để trừ cái đại hoạn trong gan ruột của Đại Tống. Những việc khác cần làm, từ từ tính sau.

Y thấy Du Thản Chi thân bại danh liệt, mình đã mất chỗ dựa trong bang rồi, việc giết Dịch Đại Bưu và những người kia đã bị tiết lộ, trong lòng hết sức lo lắng nên vội vàng xúc xiểm gây chuyện phong ba để che lấp tội lỗi để hòng tìm cách thoát thân. Y tuy cũng nằm trong tứ trưởng lão của Cái Bang nhưng lúc này không dám đứng ngang hàng với Tống Trần Ngô ba người nữa.

Quần hùng liền nhao nhao lên:

- Lời đó nghe phải lắm, xin mời ba vị cao tăng, ba vị trưởng lão ra lệnh.

- Chuyện này liên quan đến an nguy thiên hạ, lục vị tiền bối đương nhân bất nhượng , nghĩa bất dung từ.

- Chúng ta cùng nghe hiệu lệnh xông lên giết cho được hai tên Liêu cẩu.

Chỉ trong giây lát, tiếng loảng xoảng vang lên, ai nấy rút binh khí, có người đã toan xông vào giết mười tám võ sĩ Khất Đan. Dư bà bà kêu lên:

- Các vị huynh đệ Khất Đan, xin qua đây nói chuyện.

Mười tám võ sĩ chưa biết Dư bà bà có dụng ý gì nên không đi qua, người nào cũng cầm đao trên tay, đứng xếp hàng, quả bất địch chúng nhưng cũng quyết một phen tử chiến. Dư bà bà quát:

- Bát bộ Linh Thứu Cung hãy hộ vệ mười tám vị bằng hữu.

Chư nữ tám bộ liền xông lên chặn trước mặt mười tám võ sĩ Khất Đan, các động chủ, đảo chủ cũng xếp chung quanh. Các môn nhân phái Tinh Tú muốn lập công cho chủ mới, lập tức phất cờ la ó, thanh thế trông thật dữ dội.

Dư bà bà khom lưng nói với Hư Trúc:

- Chủ nhân, mười tám võ sĩ này là hạ thuộc của nghĩa huynh chủ nhân, nếu để họ bị loạn đao phân thi trước mặt chủ nhân thì quả là mất mặt cho cung Linh Thứu. Chúng ta nên trông coi lo liệu cho họ, kính xin chủ nhân phát lạc.

Hư Trúc đau thương cha mẹ vừa mất, không còn lòng dạ nào mà nghĩ ngợi điều gì, liền gật đầu đáp:

- Cung Linh Thứu ta và phái Thiếu Lâm là bạn chứ không phải địch, mọi người đừng để tổn thương hòa khí, tàn sát lẫn nhau.

Huyền Tịch thấy thanh thế của cung Linh Thứu như vậy, biết đây là một đại kình địch, nghe Hư Trúc nói liền bảo:

- Mười tám võ sĩ Khất Đan này giết họ hay không cũng chẳng liên quan gì đến đại cuộc, nể mặt Hư Trúc tiên sinh, tạm để đó đã. Hư Trúc tiên sinh, chúng ta cầm sát Tiêu Phong, tiên sinh tương trợ phe nào?

Hư Trúc trù trừ đáp:

- Phái Thiếu Lâm là xuất thân chi địa của tại hạ, Tiêu Phong là nghĩa huynh của tại hạ, một bên thì là ân, một bên thì là nghĩa. Tôi … tôi … chẳng tương trợ bên nào. Chỉ mong … mong …, tại hạ mong sư thúc tổ để cho Tiêu đại ca ra đi, tại hạ sẽ khuyên y không đem quân công đả Đại Tống.

Huyền Tịch nghĩ thầm: “Uổng cho ngươi võ công cao cường, lại là chủ của một phái, nói năng nghe như đứa con nít lên ba”. Ông bèn đáp:

- Ba chữ “sư thúc tổ”, từ nay Hư Trúc tiên sinh đừng đề cập đến nữa.

Hư Trúc đáp:

- Vâng, vâng, tại hạ quên mất.

Huyền Tịch nói:

- Linh Thứu Cung hai bên không tương trợ bên nào, phái Thiếu Lâm cùng quí phái là bạn chứ không phải thù, hai bên không tổn thương hòa khí lẫn nhau.

Ông quay sang nói với ba trưởng lão Cái Bang:

- Ba vị trưởng lão, tất cả chúng ta cùng đến tệ tự xem động tĩnh ra sao, được chăng?

Tống Trần Ngô ba trưỡng lão cùng đáp:

- Hay lắm! Hay lắm! Chúng huynh đệ Cái Bang, tất cả cùng lên chùa Thiếu Lâm.

Thế là tăng lữ Thiếu Lâm đi trước, Cái Bang cùng quần hùng Trung Nguyên tất cùng reo hò đi lên trên núi. Đặng Bách Xuyên vui mừng nói:

- Tam đệ, ngươi quả giỏi thật, chỉ mấy câu của ngươi mà khiến cho chúa công cùng công tử có thêm bao nhiêu người giúp đỡ.

Bao Bất Đồng đáp:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Tiểu đệ nói dây dưa bấy lâu, không biết ấy là họa hay phúc cho chúa công và công tử, ai được ai thua.

Vương Ngữ Yên vội nói:

- Mau đi theo! Đừng có lải nhải “phi dã, phi dã” nữa.

Nàng vừa nói vừa rảo bước đi lên, đã thấy Đoàn Dự đi lẽo đẽo bên cạnh bèn hỏi:

- Đoàn công tử, công tử định giúp nghĩa huynh để làm khó biểu ca tôi phải không?

Giọng nói có vẻ bực bội. Mới rồi Mộ Dung Phục hoành kiếm tự vẫn, suýt chết cũng chỉ vì thua Đoàn Dự và Tiêu Phong, thẹn quá hóa liều, Vương Ngữ Yên hỏi thế là có vẻ giận Đoàn Dự. Đoàn Dự ngẩn ngơ, dừng chân lại. Chàng từ khi quen biết Vương Ngữ Yên đến nay, đối với nàng thiên y bách thuận, biết bao lần vì nàng xả thân nguy hiểm không nề sống chết, chưa bao giờ thấy nàng có vẻ không vui với mình như thế, nhất thời hoảng hốt cuống quít, bụng rối như tơ vò, một lúc lâu sau mới đáp:

- Tôi … tôi nào có định làm khó cho Mộ Dung công tử …

Khi chàng ngửng lên chỉ thấy quần hùng đang lũ lượt kéo qua, Vương Ngữ Yên và bọn Đặng Bách Xuyên đã rời từ hồi nào, chẳng biết đi đâu.

Anh chàng lại ngơ ngẩn nghĩ thầm: “Vương cô nương đã có bụng nghi ngờ, mình hà tất phải đi lên cho thêm khó chịu?”. Nhưng Đoàn Dự lại nghĩ: “Cả nghìn người như đàn ong kéo lên, định vây đánh Tiêu đại ca, anh ta ở vào cảnh ngộ cực kỳ hung hiểm. Hư Trúc nhị ca đã nói rõ là không giúp bên nào, nếu ta không hết sức ra tay giúp đỡ thì cái tình kim lan kết nghĩa còn đâu? Dẫu cho Vương cô nương có giận thì mình cũng đành chịu vậy thôi”. Chàng bèn đi theo quần hào chạy lên trên núi.

Khi đó Đoàn Chính Thuần thấy Đoàn Diên Khánh gườm gườm nhìn mình, lập tức để tay lên đốc kiếm, vận khí chờ địch. Quần hào Đại Lý cũng chăm chăm dè chừng nên việc Đoàn Dự tất tưởi chạy đi chẳng một ai chú ý.

Đoàn Dự đến được chùa Thiếu Lâm rồi một mình đi vào trong cổng. Chùa Thiếu Lâm khuôn viên cực rộng, tiền điện hậu xá, không biết bao nhiêu trăm nghìn gian, chỉ thấy tăng lữ và quần hùng Trung Nguyên qua qua lại lại nơi các điện đường, lao xao bàn tán đi tìm cha con Tiêu Viễn Sơn và cha con Mộ Dung Bác.

Một số người nhảy lên mái nhà từ trên cao nhìn xung quanh, bốn phía người chạy lung tung, loạn cả lên. Mọi người vào phòng này, sang phòng khác, chạy qua chạy lại ai ai cũng hỏi nhau:

- Ở đâu thế? Đã kiếm thấy chưa?

Tòa Thiếu Lâm cổ sát trang nghiêm bỗng chốc ồn ào náo nhiệt như phiên chợ. Đoàn Dự chạy lăng quăng một hồi, đột nhiên trông thấy hai Hồ tăng lẻn từ cửa hông ra, mắt chấp chới nhìn ngang nhìn ngửa, lấp ló thập thò. Đoàn Dự trong lòng chợt động: “Hai nhà sư người Hồ này không phải sư chùa Thiếu Lâm, họ đang lén lút làm trò gì đây?”. Bụng hiếu kỳ nổi lên, lập tức thi triển Lăng Ba Vi Bộ lẳng lặng theo sau hai người chạy ra ngoài khu rừng bên cạnh chùa.

Đi hết một con đường mòn, chạy về hướng tây bắc, qua mấy chỗ ngoẹo, trước mắt bỗng thấy một khoảng không, nghe tiếng nước chảy róc rách, bên cạnh giòng suối là một tòa lầu, trên lầu có một biển ngạch viết ba chữ: “Tàng Kinh Các”. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Tàng Kinh Các của chùa Thiếu Lâm vang danh thiên hạ, thì ra kiến lập ở nơi đây. Phải rồi, tòa nhà này xây ngay bên cạnh giòng suối, xa cách chùa chiền để phòng khi có hỏa tai không hủy mất những kinh điển trân quí”.

Hai gã Hồ tăng rùn người xuống len lén lần tới Tàng Kinh Các, Đoàn Dự lập tức đuổi theo. Đột nhiên có hai nhà sư trung niên ở đâu vọt ra, cùng tằng hắng một tiếng nói:

- Hai vị đến nơi đây có việc gì?

Một người Hồ tăng đáp:

- Sư huynh ta đã ngưỡng mộ Tàng Kinh Các của chùa Thiếu Lâm từ lâu, nên muốn đến ngắm một chút.

Người nói đó chính là Ba La Tinh. Y và sư huynh Triết La Tinh thấy chùa Thiếu Lâm đang lúc hỗn loạn, toan bề nước đục thả câu, định lẻn đến Tàng Kinh Các ăn trộm kinh. Một nhà sư Thiếu Lâm nói:

- Kính xin đại sư lưu bộ, đây là trọng địa tàng kinh của bản tự, người ngoài không thể vào được.

Còn đang nói qua lại thì đã thấy thêm bốn nhà sư cầm thiền trượng, chặn ngay cửa. Triết La Tinh và Ba La Tinh hai người đưa mắt nhìn nhau, biết rằng mưu tính khó mà thành công, đành bỏ cuộc lui ra. Đoàn Dự cũng quay lại, đang định đi kiếm Tiêu Phong bỗng nghe một giọng già cả từ trên lầu cao truyền xuống:

- Ngươi trông thấy y chạy về hướng nào?

Y nhận ra đó chính là giọng của Huyền Tịch. Lại một người khác nói:

- Chúng đệ tử bốn người canh tại đây thì nhà sư áo xám xông vào, ra tay điểm huyệt mê của cả bọn, đến khi sư bá cứu tỉnh thì nhà sư áo xám kia đi đâu không biết.

Lại một giọng già nua khác nói:

- Ở đây cửa sổ bị rách, chắc hẳn y chạy ra hậu sơn.

Huyền Tịch nói:

- Đúng vậy!

Lão tăng kia lại tiếp:

- Nhưng không biết bọn chúng có ăn trộm cuốn kinh thư nào trong các hay không?

Huyền Tịch nói:

- Hai gã này tiềm phục nơi bản tự mấy chục năm rồi thế mà cả chùa từ trên xuống dưới ngu ngơ có ai biết gì đâu, đủ biết mình chẳng tài cán gì cả. Bọn họ muốn ăn trộm kinh, mấy chục năm qua ngày nào chẳng được, việc gì phải đợi đến hôm nay?

Lão tăng kia nói:

- Sư huynh nói phải lắm.

Hai nhà sư cùng buông tiếng thở dài. Đoàn Dự nghĩ chừng hai người đang nói về chuyện mất mặt của chùa Thiếu Lâm, không tiện nghe lóm, có biết đâu các nhà sư nói rất khẽ, chỉ vì chàng nội lực thâm hậu nên mới nghe được mà thôi. Đoàn Dự chầm chậm lẻn ra nghĩ thầm: “Bọn họ nói Tiêu đại ca đi ra sau núi, mình đi xem ra thế nào?”.

Sau núi Thiếu Thất địa thế hiểm trở, rừng rậm đường khó đi, Đoàn Dự đi được mấy dặm thì không còn nghe tiếng lao xao từ trong chùa truyền ra nữa, núi rừng tĩnh mịch, chỉ còn tiếng chim ríu rít trên cành cây. Trong rừng sâu giữa núi không có ánh mặt trời, nên hơi lành lạnh. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cha con Tiêu đại ca đã ra đến đây thì thoát thân quá dễ dàng, quần hùng khó mà vây đánh được”. Chàng thấy yên tâm hơn nhưng nghĩ đến vẻ mặt oán hờn của Vương Ngữ Yên, trong lòng lại bàng hoàng: “Nếu như đại ca giết được Mộ Dung công tử, thì … thì … mình phải làm sao đây?’. Sau lưng không khỏi toát mồ hôi lạnh, nghĩ thầm: “Nếu như Mộ Dung công tử chết rồi, Vương cô nương hẳn đau lòng, cả đời uất hận khôn nguôi”.

Chàng như tỉnh như mê đi lang thang trong rừng rậm, lúc thì nghĩ đến Mộ Dung Phục, lúc lại nghĩ đến Tiêu đại ca, khi nghĩ đến gia gia, má má và bá phụ nhưng nghĩ đến nhiều hơn cả vẫn là Vương Ngữ Yên, nhất là gương mặt oán hận của nàng nhìn mình.

Không biết chàng suy nghĩ miên man như thế trong bao lâu, bỗng nghe theo gió truyền đến văng vẳng có tiếng niệm Phật tụng kinh:

Tâm kia tức là Phật,

Phật kia cũng là tâm.

Tâm sáng thì thấy Phật,

Thấy Phật ắt minh tâm.

Rời tâm không còn Phật,

Rời Phật đâu còn tâm …

Thanh âm rõ ràng hồn hậu nhưng trước nay chàng chưa hề nghe bao giờ. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Thì ra ở đây lại có một nhà sư, mình thử đến hỏi xem ông ta có gặp Tiêu đại ca không?” rồi lần theo thanh âm đi tới.

Qua khỏi một khu rừng trúc thấy trên một bãi cỏ tụ tập không ít người. Một nhà sư mặc thanh bào đã cũ ngồi trên một tảng đá xoay lưng lại, tiếng niệm kinh chính là do ông ta phát ra, phía trước thật đông người ngồi, trong đó có cả cha con Tiêu Viễn Sơn, Tiêu Phong, Mộ Dung Bác, Mộ Dung Phục, rồi cả hai nhà sư người Hồ là Ba La Tinh, Triết La Tinh chàng mới thấy ở Tàng Kinh Các, những cao tăng từ các chùa khác đến, và vài nhà sư chữ Huyền của chùa Thiếu Lâm, tất cả cùng ngồi dưới đất chắp tay, rủ mi cúi đầu, cung kính nghe thuyết pháp. Bên ngoài xa chừng năm sáu trượng đứng lố nhố có cả quốc sư nước Thổ Phồn Cưu Ma Trí, vẻ mặt khinh khỉnh xem chừng trong lòng bất phục.

Đoàn Dự xuất thân từ nơi Phật quốc, từ bé đã cùng các cao tăng tìm hiểu Phật pháp, nghĩa lý kinh điển thông hiểu khá nhiều, có điều Phật pháp Đại Lý từ phương nam truyền lên, gần với tiểu thừa, không phải Thiền tông như của Thiếu Lâm, sở học có chỗ không giống nhau, nghe nhà sư đọc kệ, tưởng như nông cạn nhưng bao hàm lý lẽ thâm sâu, nghĩ thầm: “Nhìn phục sắc vị cao tăng này thì có vẻ là tăng lữ trong chùa Thiếu Lâm nhưng chức vị thấp kém, chỉ là loại tạp dịch quét nhà pha nước, sao các cao tăng lẫn Tiêu đại ca cũng đều lắng nghe ông ta giảng kinh thuyết pháp là sao?”.

Chàng mon men đến, muốn xem thử vị cao tăng này dung mạo ra sao, là hạng người gì. Thế nhưng nếu muốn nhìn tận mặt vị cao tăng kia thì phải đi vòng ra phía sau lưng bọn Tiêu Phong, chàng không dám kinh động mọi người, rón rén đi vòng một quãng xa, đang định rùn người lẻn tới gần bên, đột nhiên thấy Cưu Ma Trí quay người lại mỉm cười. Đoàn Dự cũng cười đáp lại.

Đột nhiên một luồng kình phong cực kỳ lăng lệ xốc tới ngực, Đoàn Dự kêu lên:

- Chao ôi!

Đang muốn dùng Lục Mạch Thần Kiếm để chôáng đỡ nhưng không kịp nữa rồi, chỉ thấy ngực nhói lên, trong cơn mơ màng nghe tiếng người niệm A Di Đà Phật rồi không còn biết gì nữa.

*

* *

Mộ Dung Bác bị Huyền Từ vạch rõ chân tướng là người năm xưa giả truyền tin tức gây ra vụ huyết án Nhạn Môn Quan, biết rằng chẳng những hai cha con họ Tiêu phải bắt được mình mới cam tâm mà cả quần hào Trung Nguyên cũng không tha nên lập tức phi thân chạy về hướng chùa Thiếu Lâm.

Chùa Thiếu Lâm phòng ốc rất nhiều, ông ta quen thuộc địa hình nên dù ẩn náu nơi đâu thì cha con họ Tiêu cũng chưa dễ tìm ra được. Thế nhưng Tiêu Viễn Sơn và Tiêu Phong hai người hận ông ta tận xương tủy, như bóng với hình đuổi nà theo. Tiêu Viễn Sơn và ông hai người tuổi tác tương đương, công lực cũng ngang ngửa, Mộ Dung Bác chạy trước một chút, Tiêu Viễn Sơn không dễ gì đuổi kịp. Thế nhưng Tiêu Phong đang lúc tráng niên, võ công tinh lực đến mức tuyệt đỉnh, ra sức đuổi theo nên khi Mộ Dung Bác chạy đến cổng chùa rồi, Tiêu Phong từ xa mấy trượng đánh ra một chưởng, chưởng lực đã đến sau lưng.

Mộ Dung Bác hồi chưởng chống đỡ, toàn thân chấn động, cánh tay ngâm ngẩm đau, không khỏi kinh hãi: “Tên tiểu cẩu Khất Đan này công lực lợi hại thật”. Ông ta liền nghiêng người lách vào trong cửa chùa.

Tiêu Phong đâu để ông ta thoát thân, vọt lên chặn lại. Thế nhưng Mộ Dung Bác đã vào trong chùa rồi, chỗ nào cũng có điện đường hành lang, chưởng lực Tiêu Phong tuy mạnh thật nhưng đánh cũng không trúng ông ta được.

Ba người một chạy trước, hai đuổi theo, trong chốc lát đã chạy đến Tàng Kinh Các. Mộ Dung Bác phá cửa sổ nhảy vào, vừa ra tay đã điểm huyệt mê bốn nhà sư canh giữ các, quay người lại cười khẩy nói:

- Tiêu Viễn Sơn, cả hai cha con ngươi cùng tiến lên hay lại vẫn hai lão già đơn đả độc đấu một phen sống chết?

Tiêu Viễn Sơn chặn ngay cửa các nói:

- Hài nhi, con chặn cửa sổ đừng để y chạy thoát.

Tiêu Phong đáp:

- Vâng!

Ông nhảy đến bên cửa sổ, giang tay, hai cha con cùng vây lại, xem chừng Mộ Dung Bác không cách gì thoát thân được. Tiêu Viễn Sơn nói:

- Thâm cừu đại oán của ta với ngươi, không chết thì không cởi được. Đây không còn là tỉ thí võ công xem ai cao ai thấp mà là hai cha con ta cùng xông vào lấy mạng của ngươi.

Mộ Dung Bác cười ha hả, đang định trả lời bổng nghe tiếng chân người ở cầu thang rồi thấy một người đi lên, chính là Cưu Ma Trí. Y quay sang Mộ Dung Bác chắp tay chào nói:

- Mộ Dung tiên sinh, năm xưa từ biệt, đến sau lại nghe tiên sinh tây qui, tiểu tăng đau lòng khôn xiết, thì ra tiên sinh ẩn cư không ra ngoài là có thâm ý, hôm nay được trùng phùng khiến cho tiểu tăng vui mừng khôn tả.

Mộ Dung Bác ôm quyền hoàn lễ cười nói:

- Tại hạ vì chuyện nước chuyện nhà đành phải giả chết, phiền đại sư phải mong nhớ, quả đáng hổ thẹn xiết bao.

Cưu Ma Trí đáp:

- Không dám, không dám! Năm xưa tiểu tăng cùng tiên sinh giải cấu tương phùng, đàm võ luận kiếm, may được tiên sinh chỉ điểm cho mấy ngày, bao nhiêu nghi nghĩa bình sinh đều khai thông cả, lại được tiên sinh tặng cho yếu chỉ bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, vẫn hằng khắc tạc trong lòng.

Mộ Dung Bác cười đáp:

- Cái chuyện nhỏ nhặt đó có đáng gì mà phải nhắc tới?

Ông ta quay sang cha con họ Tiêu nói:

- Tiêu lão hiệp, Tiêu đại hiệp, đây là Cưu Ma Trí thần tăng, Đại Luân Minh Vương của nước Thổ Phồn, Phật pháp đã cực kỳ uyên thâm mà võ công còn cao hơn tại hạ bội phần, có thể nói trên đời hiếm ai sánh kịp.

Tiêu Viễn Sơn và Tiêu Phong hai người nhìn nhau, nghĩ thầm: “Gã phiên tăng này chưa chắc đã hơn Mộ Dung Bác đâu nhưng chắc cũng phải tài giỏi lắm. Y với Mộ Dung Bác uyên nguyên thật sâu xa, thể nào chẳng tương trợ y, cuộc chiến này ai thắng ai thua cũng còn khó nói lắm”.

Cưu Ma Trí đáp:

- Mộ Dung tiên sinh quá khen. Đương niên tiểu tăng nghe tiên sinh luận kiếm pháp, nói là Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn Đại Lý là thiên hạ đệ nhất, tiếc rằng chưa được xem qua để cho trở thành mối hận bình sinh. Tiểu tăng nghe tin chẳng lành của tiên sinh, nên đã đến chùa Thiên Long Đại Lý, mong xin được kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm đem về phàn hóa trước mộ tiên sinh, báo tình tri kỷ. Ngờ đâu lão sư già Khô Vinh của chùa Thiên Long giảo hoạt mưu mô, gặp lúc khẩn cấp quan đầu liền dùng nội lực thiêu hủy kiếm phổ. Tiểu tăng tuy vẫn mong được theo gương Quí Trát treo gươm, ngờ đâu không được toại nguyện, quả là mối hận sâu xa.

Mộ Dung Bác nói:

- Đại sư có ý đó tại hạ cũng đã cảm kích lắm rồi. Huống hồ Lục Mạch Thần Kiếm họ Đoàn vẫn còn tồn tại nơi dương thế, mới rồi Đoàn công tử nước Đại Lý cùng khuyển tử giao đấu, kiếm khí tung hoành, quả là danh bất hư truyền cái tiếng thiên hạ đệ nhất kiếm.

Ngay lúc đó một bóng người thấp thoáng, trong Tàng Kinh Các đã có thêm một người, chính là Mộ Dung Phục. Y chậm hơn mấy bước, khi đến chùa thì đã mất dấu phụ thân và cha con Tiêu Phong, khi tìm được Tàng Kinh Các thì Cưu Ma Trí đã đến trước rồi. Y nghe loáng thoáng cha mình nói chuyện mình bị Đoàn Dự dùng Lục Mạch Thần Kiếm đánh thắng không khỏi cực kỳ ngượng ngập.

Mộ Dung Bác lại tiếp:

- Ở đây cha con họ Tiêu nhất định phải giết mỗ mới cam lòng, chẳng hiểu ý của đại sư ra sao?

Cưu Ma Trí đáp:

- Cái tình tri kỷ, lẽ nào lại tụ thủ được sao?

Tiêu Phong thấy Mộ Dung Phục đã đến, biến thành bên địch ba người mà mình chỉ có hai, Mộ Dung Phục tuy kém hơn một chút nhưng cũng không phải là dở, e rằng cái chuyện không thể không giết Mộ Dung Bác lại biến thành hai cha con bỏ mạng nơi gác chứa kinh. Thế nhưng ông can đảm dũng mãnh, chẳng vì chuyện thân lâm nghịch cảnh mà sờn lòng, quát lớn:

- Chuyện hôm nay không kẻ sống người chết thì không xong. Tiếp chiêu đây!

Nghe vù một chưởng, Tiêu Phong đã nhắm Mộ Dung Bác đánh tới. Mộ Dung Bác phất tay trái, ngưng vận công lực, định hóa giải chưởng lực của ông. Lách cách lách cách, một giá sách phía bên trái đã vỡ tan nát thành mấy mảnh, sách vở kinh điển trên kệ rơi ập xuống.

Chưởng của Tiêu Phong kình lực hùng hồn, Mộ Dung Bác tuy đã đẩy giạt ra được nhưng không tiêu giải, chỉ có thể chuyển hướng phương vị đánh vào cái kệ sách.

Mộ Dung Bác mỉm cười nói:

- Nam Mộ Dung, bắc Kiều Phong quả nhiên tiếng đồn không ngoa. Tiêu huynh, ta có một lời, không biết huynh đệ có chịu nghe không?

Tiêu Viễn Sơn đáp:

- Ngươi đừng có định dùng hoa ngôn xảo ngữ mà bảo ta bỏ qua mối thù giết vợ.

Mộ Dung Bác nói:

- Ngươi định giết ta báo thù, với cục diện hôm nay e rằng chưa chắc gì làm được. Bên ta ba người địch với cha con ngươi hai người, thử hỏi xem bên nào thắng thế hơn?

Tiêu Viễn Sơn đáp:

- Đương nhiên bên ngươi thắng thế. Đại trượng phu dĩ quả địch chúng, có gì mà phải sợ?

Mộ Dung Bác nói:

- Cha con họ Tiêu anh danh cái thế, trên đời này còn sợ gì nữa? Có điều sợ thì chẳng sợ, hôm nay muốn giết được ta quả khó lắm thay. Ta muốn đánh đổi với ngươi một chuyện, ta để cho ngươi toại nguyện báo thù nhưng cha con ngươi phải bằng lòng làm cho ta một việc.

Tiêu Viễn Sơn và Tiêu Phong hai người hết sức ngạc nhiên: “Lão tặc này không biết có ngụy kế gì đây?”. Mộ Dung Bác lại tiếp:

- Miễn là cha con ngươi bằng lòng làm cho ta một việc thì lập tức tiến lên giết ta báo thù. Tại hạ bó tay chịu chết, quyết không kháng cự, Cưu Ma sư huynh và Phục nhi cũng không được tiến lên cứu viện.

Y vừa dứt lời, cha con Tiêu Phong ngỡ ngàng mà Cưu Ma Trí và Mộ Dung Phục cũng không hiểu nổi. Mộ Dung Phục kêu lên:

- Gia gia, bên ta đông, bên kia ít …

Cưu Ma Trí cũng nói:

- Mộ Dung tiên sinh sao lại nói thế? Tiểu tăng còn một hơi thở cũng không bao giờ để người ta đụng một ngón tay vào tiên sinh.

Mộ Dung Bác đáp:

- Cao nghĩa của đại sư, tại hạ được kết giao với một bằng hữu như thế, có chết cũng còn gì mà tiếc nuối nữa? Tiêu huynh, tại hạ có một chuyện thỉnh giáo. Năm xưa ta giả truyền tin tức để đến nỗi gây ra đại họa, thế Tiêu huynh có biết tại hạ làm một việc vô hạnh bại đức như thế là vì cớ gì chăng?

Tiêu Viễn Sơn giận bừng bừng, chỉ tay mắng chửi:

- Ngươi là kẻ ti bỉ tiểu nhân, làm điều càn rỡ, hạnh tai lạc họa thì còn có dụng ý gì nữa?

Ông tiến lên một bước bụp một tiếng đánh ra một quyền. Cưu Ma Trí nghiêng qua chặn lại, song chưỡng đẩy ra biïch một tiếng quyền phong chưởng lực chạm nhau, dội ngược lên trên khiến bụi trên mái lả tả rơi xuống. Quyền chưởng đụng nhau tuy chưa phân cao hạ nhưng hai bên đều phục ngầm lẫn nhau.

Mộ Dung Bác nói:

- Tiêu huynh tạm dằn nộ khí, để nghe tại hạ nói hết lời. Mộ Dung Bác tuy là kẻ chẳng vào đâu nhưng trên giang hồ cũng tạo được chút danh con con, chưa từng quen biết Tiêu huynh, ắt là vô oán vô cừu. Đến như Huyền Từ phương trượng của phái Thiếu Lâm, tại hạ cũng có tình giao hảo lâu năm, vậy mà tại hạ hết công hết sức xúc xiểm gây rối để cho hai bên lưỡng bại câu thương, cứ theo lý thường mà nói, ắt phải có một nguyên do cực kỳ trọng đại.

Tiêu Viễn Sơn đôi mắt dường như đổ lửa, quát lớn:

- Còn có nguyên do trọng đại gì? Nói … nói mau!

Mộ Dung Bác nói:

- Tiêu huynh là người Khất Đan, còn Cưu Ma Trí minh vương là người nước Thổ Phồn. Bọn võ nhân Trung Thổ kia đều bảo các vị là phiên bang di địch, không biết ăn mặc theo thượng quốc y quan. Lệnh lang rõ ràng là bang chủ Cái Bang, tài lược võ công đều vượt trội, hơn hẳn mọi người, quả là một anh hùng hào kiệt xưa nay hiếm có trong Cái Bang. Thế mà trong bang vừa mới biết y là dòng dõi Khất Đan dị tộc, lập tức lật mặt không còn tình nghĩa gì, chẳng nhận y là bang chủ nữa đã đành, mà còn nhất định phải giết cho bằng được mới cam tâm. Tiêu huynh thử nghĩ chuyện đó có công bằng không?

Tiêu Viễn Sơn đáp:

- Tống Liêu đời đời oán thù, hai nước chiến tranh công phạt đã hơn một trăm năm. Ở nơi biên cương, người Tống người Liêu gặp nhau là giết, trước nay vẫn thế. Người Cái Bang biết được con ta là người Khất Đan, làm sao có thể tôn kẻ thù làm chủ được? Cái đó cũng là thường lý mà thôi, có gì bảo là không công bằng đâu?

Ông ngừng một chút lại tiếp:

- Huyền Từ phương trượng, Uông Kiếm Thông bọn họ giết vợ ta, thuộc hạ ta vốn không phải do bản ý. Mà dẫu có cái bụng dạ đó chăng nữa, thì cũng là Tống Liêu tương tranh, không có gì lạ, còn như ngươi bày mưu tính kế hãm hại thì không thể bỏ qua cho được.

Mộ Dung Bác nói:

- Cứ như ý kiến Tiêu huynh, hai nước tương tranh, giao chiến sát phạt, chỉ cần làm sao thắng địch lập nên đại công, chứ không cần phải nói chuyện nhân nghĩa đạo đức chứ gì?

Tiêu Viễn Sơn đáp:

- Binh bất yếm trá, từ xưa đến nay vẫn vậy. Ngươi nói chuyện không liên quan gì đến là làm sao?

Mộ Dung Bác mỉm cười nói:

- Tiêu huynh thử xem Mộ Dung Bác mỗ đây là người nước nào?

Tiêu Viễn Sơn hơi kinh ngạc nói:

- Ngươi Cô Tô Mộ Dung thị, hẳn phải là người Hán Nam triều chứ còn gì nữa, không lẽ lại là người ngoại quốc hay sao?

Huyền Từ học thức uyên bác, khi nghe Mộ Dung Bác ngăn trở Mộ Dung Phục đừng tự sát, chỉ qua vài câu ông ta nói ra liền đoán ngay ra thân thế lai lịch. Tiêu Viễn Sơn là một võ nhân Khất Đan, không biết chuyện xưa tích cũ nên chẳng biết bên trong nghĩa lý thế nào.

Mộ Dung Bác lắc đầu đáp:

- Tiêu huynh đoán thế là sai rồi.

Ông ta quay sang nói với Mộ Dung Phục:

- Hài nhi, chúng ta là người nước nào thế?

Mộ Dung Phục đáp:

- Chúng ta họ Mộ Dung vốn là bộ tộc Tiên Ti, năm xưa nước Đại Yên danh chấn Hà Sóc, lập nên giang sơn gấm vóc, tiếc rằng kẻ địch hung hiểm tàn ác, lật đổ bản quốc.

Mộ Dung Bác hỏi tiếp:

- Cha đặt tên con dùng một chữ “Phục” là có hàm nghĩa gì?

Mộ Dung Phục đáp:

- Gia gia bảo hài nhi không giờ phút nào được quên di huấn của liệt tổ tông, phải cố hưng phục Đại Yên lấy lại giang sơn.

Mộ Dung Bác nói:

- Ngươi đem truyền quốc ngọc tỉ của nước Đại Yên ra cho Tiêu lão hiệp xem.

Mộ Dung Phục đáp:

- Vâng!

Y cho tay vào túi lấy ra một quả ấn tạc bằng một khối ngọc đen. Chiếc ngọc tỉ đó trên núm khắc một đầu báo rất sinh động, Mộ Dung Phục lật lên để lộ ấn văn. Cưu Ma Trí thấy chữ trên đó khắc thành sáu chữ Đại Yên Hoàng Đế Chi Bảo. Cha con họ Tiêu không biết chữ triện nhưng thấy ngọc tỉ điêu khắc tinh mỹ, các góc cũng đã sứt mẻ, đủ biết có từ lâu, qua nhiều trắc trở, tuy không biết thật giả ra sao nhưng không phải vật tầm thường, cũng không phải mới chế tạo.

*

* *

Mộ Dung Bác lại tiếp:

- Ngươi đem Đại Yên hoàng đế thế hệ phổ cho Tiêu lão hiệp xem qua.

Mộ Dung Phục đáp:

- Vâng!

Y cất ngọc tỉ vào trong bọc, thuận tay lấy một bao bằng vải dầu, mở ra để lộ một bức lụa vàng, hai tay trương lên. Mọi người thấy trên tấm lụa viết đầy hai loại văn tự bằng bút son, bên phải là chữ ngoằn ngoèo, chẳng ai đọc được, chắc là chữ nước Tiên Ti. Phía bên trái là chữ Hán, dòng đầu tiên viết: Thái Tổ Văn Minh Đế húy Hoảng, bên dưới là Liệt Tổ Cảnh Chiêu Đế húy Tuyến, dưới nữa là U Đế húy Vĩ. Lại đến một hàng chữ viết Thế Tổ Võ Thành Đế húy Thùy, bên trên viết Liệt Tông Huệ Mẫn Đế húy Bảo, bên dưới viết Khai Phong Công húy Tường, Triệu Vương húy Lân.

Bên dưới tấm lụa viết Trung Tông Chiêu Võ Đế húy Thịnh, Chiêu Văn Đế húy Hi v. ..v… các loại danh húy Hoàng Đế, tất cả đều thiếu nét . Đến năm Thái Thượng thứ sáu nhà Đại Yên Mộ Dung Siêu mất nước, các đời sau đều là dân thường, không còn là công hầu đế vương nữa. Niên đại đã lâu, con cháu đầy rẫy, Tiêu Viễn Sơn, Tiêu Phong và Cưu Ma Trí ba người không hơi sức đâu mà coi cho kỹ. Thế nhưng xem đến thế hệ biểu người sau cùng thì là Mộ Dung Phục, bên trên là Mộ Dung Bác.

Cưu Ma Trí nói:

- Thì ra Mộ Dung tiên sinh là vương tôn nước Đại Yên, quả là thất kính.

Mộ Dung Bác thở dài:

- Kẻ vong quốc lưu lạc, còn giữ được cái đầu trên cổ ấy cũng là may mắn lắm rồi. Có điều bao đời tổ tông di huấn, ai nấy dặn dò con cháu hưng phục, Mộ Dung Bác vô năng, bôn ba giang hồ hơn nửa đời người mà cũng chẳng nên cơm cháo gì. Tiêu huynh, họ Mộ Dung Tiên Ti ta có ý quang phục cố quốc, ngươi thử nghĩ có nên không?

Tiêu Viễn Sơn đáp:

- Được làm vua, thua làm giặc. Quần hùng đuổi hươu ở Trung Nguyên, có gì để bảo là nên hay không nên?

Mộ Dung Bác đáp:

- Hay lắm! Lời của Tiêu huynh quả đúng như lòng ta nghĩ. Họ Mộ Dung muốn hưng phục Đại Yên, ắt cần có cơ hội mà nương theo. Nghĩ đến họ Mộ Dung ta nhân đinh đơn bạc, thế lực sơ sài, muốn lấy lại nước có phải là chuyện dễ dàng đâu? Cái cơ duyên duy nhất là thiên hạ đại loạn, bốn bề giặc giã như ong.

Tiêu Viễn Sơn sầm mặt xuống:

- Ngươi ngụy tạo âm tấn, xúi bị giục nguyên, cốt để Tống Liêu hục hặc đại chiến chứ gì?

Mộ Dung Bác đáp:

- Chính thế! Nếu như Tống Liêu hai bên nổi cơn binh lửa, Đại Yên có thể lựa gió phất cờ. Năm xưa nhà Đông Tấn có cái loạn tám vương tranh chấp, họ Tư Mã tự tàn sát lẫn nhau, Ngũ Hồ ta mới có dịp cát cứ một mảnh đất của Trung Nguyên. Cuộc diện hôm nay, cũng gần như thế.

Cưu Ma Trí gật đầu nói:

- Không sai! Nếu như Tống triều có họa hoạn từ bên ngoài, ắt sẽ sinh nội biến, không những cái mộng phục quốc của Mộ Dung tiên sinh có cơ thành hình, nước Thổ Phồn ta cũng được húp chút canh.

Tiêu Viễn Sơn cười khẩy một tiếng, liếc xéo hai người. Mộ Dung Bác nói:

- Lệnh lang đang giữ chức Nam Viện Đại Vương, tay cầm binh phù, trấn thủ Nam Kinh, nếu như xua quân xuống phương nam, chiếm tất cả đất của Nam triều mạn Bắc sông Hoàng Hà, kiến lập một công nghiệp hiển hách, tiến thì tự lập làm chủ một cõi, thoái cũng phú quí lâu dài. Lúc đó thuận tay gom cả quần hào Trung Nguyên giết sạch thì cũng chẳng khác gì đạp lên đàn kiến, mối bực tức năm xưa bị Cái Bang trục xuất có phải chỉ một buổi là rửa sạch hay không?

Tiêu Viễn Sơn hỏi lại:

- Ngươi tưởng con ta sẽ vì thế mà tận lực cho các ngươi có dịp nước đục thả câu, thực hiện dã tâm hưng phục Đại Yên hay sao?

Mộ Dung Bác đáp:

- Đúng thế! Khi đó họ Mộ Dung sẽ giương ngọn nghĩa kỳ, hưởng ứng tiếng gọi của Đại Liêu, đem binh từ Sơn Đông đánh ra đồng thời Thổ Phồn, Tây Hạ, Đại Lý ba nước cùng nổi lên, chúng ta năm nước qua phân Đại Tống không phải là chuyện khó. Nước Đại Yên ta nhất quyết không dám lấy một phân một thước đất của Đại Liêu, nếu có kiến quốc cũng chỉ lấy đất của Nam triều. Việc này đối với Đại Liêu có lợi rất lớn, Tiêu huynh còn gì mà không vui vẻ thuận theo?

Ông ta nói đến đây, đột nhiên lật ngửa tay phải, trong tay đã thêm một con dao găm sáng loáng, vung lên cắm phập vào chiếc bàn gần bên nói:

- Tiêu huynh chỉ cần bằng lòng nghe theo đề nghị đó, lập tức xin lấy mạng tại hạ để báo thù cho phu nhân, mỗ nhất quyết không phản kháng.

Soạt một tiếng Tiêu Viễn Sơn đã mở phanh áo, lộ ngực ra. Câu nói đó quả ngoài dự liệu của cha con Tiêu Phong, người này đang chiếm ưu thế rất lớn nhưng lại bó tay chịu chết, nhất thời không biết phải trả lời sao. Cưu Ma Trí nói:

- Mộ Dung tiên sinh, người đời vẫn nói rằng: Không phải cùng giống mình thì tâm tình cũng khác. Huống chi quân quốc đại sự thì lại càng dễ cơ trá. Ví như Mộ Dung tiên sinh cam tâm chịu chết rồi sau đó cha con họ Tiêu không làm theo lời tiên sinh, cái … chết của tiên sinh chẳng hóa ra nhẹ tợ lông hồng hay sao?

Mộ Dung Bác nói:

- Tiêu lão hiệp ẩn cư mấy chục năm, cái tiếng hiệp nghĩa nhân gian ít người biết tới. Thế nhưng Tiêu đại hiệp thanh danh vang lừng thiên hạ, một lời nặng như chín cái đỉnh, lẽ nào lại hối hận? Tiêu dại hiệp chỉ vì một thiếu nữ vô thân vô cố mà còn dám mạo hiểm một mình đến Tụ Hiền Trang cầu chữa bệnh, lẽ nào cầm đao đâm vào lão hủ rồi lại nuốt lời? Tại hạ trù tính đã lâu, đây chính là lương cơ thiên tải nhất thời. Chút tàn niên của lão hủ như ngọn đèn trước gió, đem một mạng đổi lấy cơ nghiệp vạn đại, cái giá hời như thế đời nào bỏ qua?

Ông ta nở một nụ cười, chăm chăm nhìn Tiêu Phong chỉ mong ông sớm ra tay hạ thủ. Tiêu Viễn Sơn nói:

- Này con, cái ý của người này xem chừng không phải là giả, con thấy sao?

Tiêu Phong đáp:

- Không được.

Đột nhiên ông giơ chưởng đánh xuống cái bàn gỗ, nghe chát một tiếng vỡ thành mấy mảnh, thanh chủy thủ rơi ngay xuống đất, lạnh lùng nói:

- Mối thù giết mẹ đâu có thể đem làm món hàng trao đổi? Thù này báo được thì báo, nếu không trả được thì cha con ta cùng chịu chết nơi đây. Cái trò nhơ bẩn này đâu phải là việc cha con Tiêu mỗ có thể nhúng tay vào được!

Mộ Dung Bác ngẩng mặt lên cười ha hả, lớn tiếng nói:

- Ta từng nghe Tiêu Phong Tiêu đại hiệp tài lược cái thế, kiến thức hơn người, có biết đâu hôm nay gặp được lại chỉ là kẻ không biết đại nghĩa, hành vi chí khí chỉ là một kẻ dũng phu. Ha ha, nực cười ơi là nực cười!

Tiêu Phong biết y dùng lời khích mình, lạnh lùng nói:

- Tiêu Phong là anh hùng hào kiệt cũng được, mà có là phàm phu tục tử cũng chẳng hề gì, miễn là không vào tròng của ngươi, trở thành con dao giết người để ngươi lợi dụng.

Mộ Dung Bác nói:

- Ăn lộc vua thì phải hết mình báo chúa. Ngươi là trọng thần một nước, mà chỉ nhớ đến mối thù cha mẹ, không nghĩ bề tận trung báo quốc, liệu có phải với Đại Liêu hay không?

Tiêu Phong tiến lên một bước hiên ngang đáp:

- Ngươi đã thấy cảnh Tống Liêu thù hận giết lẫn nhau ở biên quan chưa? Đã thấy người Tống người Liêu vợ lìa chồng, con mất cha, nhà tan người chết chưa? Hai nước Liêu Tống bãi binh mấy chục năm nay, nếu như binh đao trở lại, thiết kỵ Khất Đan xâm nhập Nam triều, ngươi có biết sẽ thêm bao nhiêu người Tống chết thảm hay không? Bao nhiêu người Liêu chết chẳng toàn thây hay không?

Ông nói tới đây, nghĩ lại cảnh tượng tàn khốc lính Tống binh Liêu “đi gặt” nên càng lúc càng lớn tiếng:

- Binh hung chiến nguy, trên đời này làm gì có cái chuyện bảo là tất thắng? Đại Tống binh nhiều tiền bạc lắm, chỉ cần một hai danh tướng dẫn binh hết sức đánh, Đại Liêu Thổ Phồn hợp lại chắc gì đã thắng được? Chúng ta đánh một trận máu chảy thành sông, xác chất như núi để cho họ Mộ Dung nhà ngươi thừa cơ hưng phục nước Yên. Ta đối với Đại Liêu tận trung báo quốc là ở giữ gìn bờ cõi, vỗ yên trăm họ, chứ đâu phải lo chuyện vinh hoa phú quí cho bản thân để mà giết người cướp đất, kiến công lập nghiệp?

Bỗng nghe từ bên ngoài trường song tiếng nói già cả của ai đó vọng vào:

- Thiện tai! Thiện tai! Tiêu cư sĩ trạch tâm nhân thiện, nghĩ đến thương sinh thiên hạ quả là có lòng bồ tát.

Năm người nghe nói, đều kinh hãi, sao ở bên ngoài có người mà mình không hay biết? Nghe giọng nói của người này, tựa hồ ở bên ngoài cửa sổ đã lâu. Mộ Dung Phục quát lên:

- Ai đó?

Không đợi đối phương trả lời, bình một chưởng hai cánh cửa bật tung bay mất, rơi ra ngoài các. Chỉ thấy bên ngoài hành lang một nhà sư già gầy ốm mặc áo bào xanh tay cầm cây chổi, đang khom lưng quét dọn. Nhà sư đó tuổi tác đã cao, cằm lưa thưa mấy sợi râu cũng đã bạc trắng, hành động chậm chạp, hữu khí vô lực, không ra vẻ người có võ công. Mộ Dung Phục lại hỏi:

- Ông trốn ở nơi đây bao lâu rồi?

Vị lão tăng từ từ ngẩng đầu lên nói:

- Thí chủ hỏi ta trốn ở nơi đây … đã … đã bao lâu ư?

Năm người cùng đăm đăm nhìn ông già, thấy đôi mắt đục lờ không chút tinh thần nhưng giọng nói chính là người mới vừa lên tiếng ca ngợi Tiêu Phong. Mộ Dung Phục đáp:

- Chính thế, ta hỏi ông trốn ở nơi đây từ bao giờ?

Nhà sư già bấm đốt ngón tay lẩm nhẩm tính toán một hồi lâu, lắc đầu, vẻ mặt ra chiều hoang mang nói:

- Ta … ta không nhớ rõ nữa, chẳng biết là bốn mươi hai năm, hai là bốn mươi ba năm. Tối hôm đầu tiên khi vị Tiêu lão cư sĩ này đến xem kinh thì … thì ta cũng đã ở đây hơn chục năm. Về sau … về sau Mộ Dung lão cư sĩ cũng đến, rồi mấy năm trước, nhà sư Thiên Trúc Ba La Tinh cũng lại đến trộm kinh. Ôi! Kẻ đến người đi lục lạo kinh thư trong các loạn cả lên chẳng biết để làm cái gì?

Tiêu Viễn Sơn hết sức kinh ngạc, nghĩ bụng khi mình đến chùa Thiếu Lâm lén nghiên cứu võ công, tăng nhân toàn chùa nào có ai hay, làm sao nhà sư này lại biết nhỉ? Chắc hẳn ông ta ở ngoài nghe trộm lời mình nói, rồi giả vờ nói khuếch nói khoác, bèn đáp:

- Thế sao trước nay ta không hề gặp ông?

Vị lão tăng đáp:

- Cư sĩ chỉ chăm chăm vào võ học điển tịch, đâu có để ý gì đến chuyện ngoài thành thử đâu có trông thấy lão tăng. Ta còn nhớ tối hôm đầu cư sĩ đến đây mượn đọc là bản “Vô Tướng Kiếp Chỉ Phổ”. Ôi, thế là từ đó cư sĩ rơi vào ma đạo mất rồi, tiếc thay, tiếc thay!

Tiêu Viễn Sơn sợ hãi không đâu cho hết, tối đầu tiên đến đọc lén trong Tàng Kinh Các quả là tìm được một bản Vô Tướng Kiếp Chỉ Phổ là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, tưởng chỉ một mình mình biết, không lẽ lúc đó vị lão tăng này trông thấy thật hay sao?

Ông chỉ biết ấp úng:

- Ông … ông … ông …

Nhà sư già nói tiếp:

- Lần thứ hai cư sĩ đến mượn xem là bản Bát Nhã Chưởng Pháp . Khi đó lão tăng thầm tắc lưỡi, biết rằng cư sĩ đã nhập ma càng lúc càng sâu, trong lòng không nỡ nên để một bộ Pháp Hoa và một bộ Tạp A Hàm ở nơi cư sĩ thường hay lấy kinh mong cho cư sĩ mượn để nghiên cứu tìm đường giải thoát.

Ngờ đâu cư sĩ trầm mê trong võ công, không lý gì đến Phật pháp chính tông, bỏ hai bộ đó sang một bên tìm được một quyển Phục Ma Trượng Pháp, hí hửng đem đi. Ôi, đắm chìm vào trong biển khổ, không biết đến bao giờ mới biết quay đầu?

Tiêu Viễn Sơn nghe ông ta thuận mồm nói ra, thuật lại chuyện ba mươi năm trước mình vào Tàng Kinh Các xem kinh thế nào không sai một mảy, từ ngạc nhiên biến sang sợ hãi, từ sợ hãi biến thành kinh hoàng, mồ hôi lạnh toát đầy lưng, trái tim tưởng chừng ngừng đập.

Vị lão tăng chầm chậm quay đầu lại nhìn Mộ Dung Bác. Mộ Dung Bác thấy mắt ông lờ đờ tưởng nhìn mà không thấy nhưng dường như những gì bí mật ẩn dấu trong tâm khảm mình, chuyện gì cũng biết rõ mồn một, không khỏi nổi gai ốc, cực kỳ bối rối. Chỉ nghe nhà sư thở dài một tiếng nói:

- Mộ Dung cư sĩ tuy là người bộ tộc Tiên Ti, nhưng đã di cư đến Giang Nam mấy đời rồi, lão tăng chắc mẩm cũng đã tập nhiễm văn thái phong lưu của Nam triều, ngờ đâu khi đến Tàng Kinh Các cũng chẳng coi chút vi ngôn pháp ngữ của tệ phái tổ sư cùng ngữ lục các vị cao tăng đời trước vào đâu cả, nhất thiết bỏ qua như chiếc dép rách, kiếm ra một bản Niêm Hoa Chỉ Pháp lại coi như châu bảo. Truyện đời xưa có người mãi độc hoàn châu , để tiếng cười chê muôn thuở. Hai vị cư sĩ là đương thế cao nhân, sao cũng làm chuyện ngu si như vậy. Ôi, dù cho mình hay cho người thì cũng chỉ có hại mà thôi.

Mộ Dung Bác trong lòng thảng thốt, quả thực khi vừa vào Tàng Kinh Các bộ võ công bí tịch đầu tiên ông tìm xem, đúng là Niêm Hoa Chỉ Pháp nhưng lúc đó ông đã tra xét bốn bề, rõ ràng trong Tàng Kinh Các không có một ai, sao vị lão tăng này lại trông thấy nhỉ?

Lại nghe vị lão tăng kia tiếp:

- Bụng dạ cư sĩ so với Tiêu cư sĩ lại còn ôm đồm hơn. Tiêu cư sĩ tu tập chẳng qua cũng chỉ những cách làm thế nào khắc chế võ công phái Thiếu Lâm, còn Mộ Dung cư sĩ thì gom tất cả bảy mươi hai tuyệt kỹ của bản tự đem đi, sao ra, rồi sau mới quay lại Tàng Kinh Các trả lại chỗ cũ. Hẳn là trong bao nhiêu năm qua cư sĩ đã tận tâm kiệt lực để dung hợp quán thông cả bảy mươi hai môn, không chừng đã truyền lại cho lệnh lang nữa kìa.

Ông ta nói đến đây, đưa mắt nhìn sang Mộ Dung Phục liếc một cái, rồi lắc đầu, lại nhìn sang Cưu Ma Trí, lúc ấy mới gật gù nói:

- Đúng rồi, lệnh lang niên kỷ còn nhỏ, công lực chưa đủ không cách gì nghiên tập bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, thì ra truyền cho vị cao tăng Thiên Trúc này đây. Đại Luân Minh Vương sai rồi, hoàn toàn sai lầm rồi, thứ tự điên đảo, đại nạn chỉ trong sớm tối mà thôi.

Cưu Ma Trí chưa từng vào trong Tàng Kinh Các nên không kính sợ gì vị lão tăng này, lạnh lùng đáp:

- Cái gì mà thứ tự đảo lộn, đại nạn chỉ trong sớm tối? Lời của đại sư, chẳng phải là toan hù dọa người ta hay sao?

Vị lão tăng nói:

- Không phải nguy ngôn tủng thính đâu. Xin Minh Vương giao trả lại bộ Dịch Cân Kinh đi.

Cưu Ma Trí bấy giờ mới hoảng, nghĩ thầm: “Sao lão lại biết ta cướp được của gã đầu sắt bộ Dịch Cân Kinh? Bảo ta trả lại đâu có dễ dàng như thế?”. Miệng vẫn nói cứng:

- Cái gì mà Dịch Cân Kinh? Lời của đại sư khiến chẳng ai hiểu gì cả!

Nhà sư già tiếp:

- Võ công bản phái truyền từ Đạt Ma lão tổ. Môn đệ nhà Phật học võ cốt để cường thân kiện thể, bảo hộ đạo pháp, hàng phục yêu ma. Dù cho tu tập võ công gì chăng nữa cũng phải giữ lòng từ bi nhân thiện. Nếu không chịu lấy Phật học làm cơ sở thì khi luyện võ sẽ làm tổn thương mình trước. Công phu luyện càng thâm sâu, thân mình bị thương càng nặng. Nếu như luyện tập chỉ là tay đấm chân đá, binh nhận ám khí các loại ngoại công thì cũng chẳng sao, có hại cho thân thể cũng chỉ chút ít, nếu như thân thể cường tráng thì cũng có thể vượt qua được …

Bỗng dưới lầu có tiếng người lao xao, rồi lộp cộp mấy tiếng lên cầu thang, tám chín tăng nhân nhảy lên trên các. Đi đầu là hai vị cao tăng Huyền Sinh, Huyền Diệt, theo sau là Thần Sơn thượng nhân, Đạo Thanh đại sư, Quán Tâm đại sư mấy vị cao tăng từ ngoài đến, rồi đến hai nhà sư Thiên Trúc Triết La Tinh, Ba La Tinh huynh đệ, kế nữa là hai nhà sư chữ Huyền Huyền Cấu, Huyền Tịnh.

Các nhà sư thấy cha con Tiêu Viễn Sơn, cha con Mộ Dung Bác, cả Cưu Ma Trí năm người đều ở trong các, chăm chú nghe một lão tăng mặt mũi tầm thường, đều hết sức ngạc nhiên. Những nhà sư đó đều là những người công phu tu tập cao minh nên không tiến lên làm rộn mà cùng đứng sang một bên, nghe ông ta nói gì.

Mọi người đi lên nhưng nhà sư kia làm như không hay biết, vẫn tiếp tục nói:

- Nếu như luyện võ công thượng thừa của bản phái, chẳng hạn như Niêm Hoa Chỉ, Đa La Diệp Chỉ , Bát Nhã Chưởng các loại mà không dùng lòng từ bi của nhà Phật ngày ngày hóa giải thì lệ khí thấm vào tạng phủ mỗi lúc một sâu, còn hại gấp trăm lần chất độc từ bên ngoài. Đại Luân Minh Vương vốn dĩ là đệ tử nhà Phật, tinh nghiên Phật pháp, hiểu biết lý luận trên đời có một không hai, thế nhưng nếu không giữ tâm từ bi bố thí, phổ độ chúng sinh thì dù cho điển tịch yêm thông, biện bác không có chỗ nào vướng mắc nhưng rồi cũng không thể tiêu giải được cái khí chất tai ngược mà khi luyện công phu thượng thừa kia nhiễm vào.

Quần tăng mới nghe qua mấy câu đã thấy những lời nhà sư già nói ra chứa đầy tinh nghĩa, những điều đó trước nay chưa từng được nghe qua, trong bụng ai nấy bàng hoàng. Có mấy người liền chắp tay tán thán:

- A Di Đà Phật! Thiện tai, thiện tai!

Lại nghe nhà sư nói tiếp:

- Chùa Thiếu Lâm từ khi kiến tạo nghìn năm qua, cổ vãng kim lai, chỉ có Đạt Ma tổ sư là một thân kiêm thông đủ các tuyệt kỹ, sau đó không một vị cao tăng nào biết hết bấy nhiêu võ công, là bởi tại đâu? Điển tịch của bảy mươi hai tuyệt kỹ đều có đủ trong các này, xưa nay không cấm đoán môn nhân đệ tử tham duyệt, Minh Vương có biết vì sao hay không?

Cưu Ma Trí đáp:

- Chuyện đó là riêng của bảo sát, làm sao người ngoài biết được?

Huyền Sinh, Huyền Diệt, Huyền Cấu, Huyền Tịnh đều nghĩ thầm: “Vị lão tăng này ăn mặc chỉ là một phục sự tăng lo việc quét dọn lặt vặt, sao lại biết nhiều hiểu rộng đến thế nhỉ?”.

Phục sự tăng tuy cũng là sư trong chùa Thiếu Lâm nhưng chỉ cạo đầu mà không bái sư, không được truyền thụ võ công, không tu thiền định, chẳng được liệt vào Huyền Tuệ Hư Không các hàng vai vế, ngoài việc tụng kinh lễ Phật chỉ nhóm lửa, cuốc đất, quét nhà, bổ củi. Bọn Huyền Sinh là cao tăng đệ nhất trong chùa, không biết nhà sư này cũng không phải là chuyện lạ, có điều nghe ông ta nói năng cao nhã, kiến thức trác tuyệt, không khỏi toát mồ hôi.

Vị lão tăng lại nói tiếp:

- Bảy mươi hai hạng tuyệt kỹ của bản tự, công phu nào cũng có thể làm tổn thương chỗ yếu hại, lấy mạng người khác, độc ác ghê gớm không hợp với tính từ hòa của trời đất, thành thử mỗi hạng tuyệt kỹ đều phải có Phật pháp từ bi tương ứng để hóa giải. Cái đạo lý đó không phải tăng nhân trong chùa ai cũng biết, chỉ có những ai đã luyện đến bốn năm môn tuyệt kỹ rồi, khi đó lãnh ngộ thiền lý tự nhiên sẽ thấy có chướng ngại. Trong phái Thiếu Lâm ta, cái đó gọi là Võ Học Chướng, so với Tri Kiến Chướng của các tông phái khác thì cũng thế thôi.

Nêu biết Phật pháp là để cứu độ thế gian, còn võ công lại để giết người, hai đằng ngược chiều nhau, khắc chế lẫn nhau. Chỉ những người Phật pháp càng cao, lòng từ bi càng thịnh thì võ công tuyệt kỹ mới luyện được nhiều nhưng cao tăng đạt tới cảnh giới tu tập đó, lại chẳng còn ham muốn đi học thêm những pháp môn giết người lợi hại nữa rồi.

Đạo Thanh đại sư gật đầu nói:

- Được nghe lão sư phụ thuyết giảng, tiểu tăng hôm nay quả là như vén đám mây mù.

Nhà sư già chắp tay đáp:

- Không dám, lão nạp có chỗ nào nói sai mong các vị chỉ điểm cho.

Quần tăng cùng đáp lễ:

- Thỉnh sư phụ tiếp tục giảng Phật pháp cho nghe.

Cưu Ma Trí nghĩ thầm: “Bảy mươi hai tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm bị Mộ Dung tiên sinh ăn trộm, tiết lộ ra ngoài rồi, các nhà sư Thiếu Lâm lòng không cam chịu, chẳng biết làm sao nên bày đặt đưa một lão tăng ra làm ma làm quỉ, để dọa cho người khác không dám luyện võ công của họ. Ha ha, Cưu Ma Trí này đâu có dễ gì mà mắc mưu?’.

Vị lão tăng lại tiếp:

- Trong bản tự dĩ nhiên cũng có người Phật pháp tu hành chưa đủ nhưng đã cố gắng luyện tập võ công thượng thừa thành ra đến khi luyện rồi nếu không tẩu hỏa nhập ma thì cũng nội thương không chữa được. Huyền Trừng đại sư của bản tự một thân siêu phàm tuyệt tục về võ học, so với tất cả các cao tăng hai trăm năm qua thì là người võ công số một. Vậy mà chỉ qua một đêm đột nhiên cân mạch đứt hết, thành kẻ phế nhân cũng vì lẽ đó mà ra.

Huyền Sinh, Huyền Diệt hai người đột nhiên quì xuống nói:

- Đại sư có cách nào cứu được Huyền Trừng sư huynh hay không?

Nhà sư lắc đầu:

- Chậm mất rồi, không thể cứu được nữa. Năm xưa khi Huyền Trừng đại sư đến Tàng Kinh Các lấy kinh điển, lão nạp đã từng ba lần nhắc nhở ông ta nhưng thủy chugn vẫn chấp mê không tỉnh ngộ. Bây giờ kinh mạch đứt rồi, đâu có cách gì nối lại? Thực ra, ngũ uẩn giai không, cái sắc thân này thụ thương rồi từ nay không còn luyện võ được nữa sẽ khiến ông ta cần tu Phật pháp, vì thế mà được khai ngộ ấy là nhân họa mà được phúc. Sở kiến hai vị đại sư xem ra còn chưa theo kịp Huyền Trừng đại sư.

Huyền Sinh, Huyền Diệt cùng đáp:

- Quả thế! Đa tạ đại sư khai thị.

Đột nhiên soẹt soẹt soẹt ba tiếng nhỏ nhưng sau đó không thấy gì khác. Bọn Huyền Sinh ai nấy đều biết đây là công phu Vô Tướng Kiếp Chỉ của bản môn nên cùng quay sang Cưu Ma Trí, thấy y mặt hơi biến sắc nhưng vẫn gượng mỉm cười.

Thì ra Cưu Ma Trí càng nghe càng không phục nghĩ thầm: “Ngươi bảo bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm không thể cùng học một lượt, thế ta chẳng học hết cả rồi hay sao? Thế sao cân mạch không đứt đoạn thành người tàn phế?”. Y dấu hai tay trong áo, ngầm vận Vô Tướng Kiếp Chỉ, thần không hay, quỉ không biết nhắm ngay nhà sư búng ra. Ngờ đâu chỉ lực chỉ đến cách nhà sư chừng ba thước liền đụng phải một bức tường mềm nhũn, nhưng cũng hết sức cứng rắn chặn lại, chỉ lực liền tan biến không còn dấu vết gì, nhưng cũng không bật ngược lại. Cưu Ma Trí cực kỳ kinh hãi, nghĩ thầm: “Nhà sư này quả nhiên có tà thuật, không phải chỉ khoác lác lòe người”.

Nhà sư già vẫn như không hay biết, chỉ nói:

- Xin hai vị đứng lên. Lão nạp ở chùa Thiếu Lâm để cho các vị sai khiến, hai vị hành đại lễ như thế, làm sao dám nhận?

Huyền Sinh, Huyền Diệt không thấy nhà sư giơ tay hay phất tay gì cả nhưng thấy một luồng lực khí nhu hoà nhẹ nhàng nhắc mình lên không gượng được quả là lạ lùng, nghĩ thầm thần công tiềm vận như thế này, tâm đến đâu, lực đến đó, có lẽ đây là bồ tát hóa thân, nếu không sao có thần thông quảng đại, Phật pháp vô biên như vậy?

Vị lão tăng nói tiếp:

- Bảy mươi hai tuyệt kỹ của bản tự đều chia ra “thể” và “dụng” hai đường. Thể là nội lực bản thể, dụng là vận dụng pháp môn. Tiêu cư sĩ, Mộ Dung cư sĩ, Đại Luân Minh Vương, Thiên Trúc Ba La Tinh sư huynh bản thân vốn dĩ nội công thượng thừa đầy đủ rồi nên khi đến tập ở bản tự, chỉ cần học phép vận dụng bảy mươi hai tuyệt kỹ thành thử dù có tổn hại nhưng nhất thời cũng không hiện ra. Nội công của Minh Vương đã luyện, có phải là Tiểu Vô Tướng Công của phái Tiêu Dao chăng?

Cưu Ma Trí hoảng hốt, y vốn học trộm Tiểu Vô Tướng Công của phái Tiêu Dao trước nay có ai biết đâu, sao lão tăng này lại nhìn ra được? Y xoay chuyển ý nghĩ lập tức hiểu ra: “Mới rồi Hư Trúc đấu với ta đã từng sử dụng Tiểu Vô Tướng Công. Chắc là Hư Trúc nói cho ông ta hay, chứ có gì đâu?”. Y bèn đáp:

- Tiểu Vô Tướng Công nguyên xuất phát từ Đạo gia nhưng gần đây Phật môn đệ tử học cũng nhiều lắm, rồi trở nên kiêm thông cả hai bên Phật và Đạo. Chẳng hạn như trong quí tự đây, cũng có vô khối cao thủ theo đường đó.

Vị lão tăng tỏ vẻ ngạc nhiên nói:

- Trong chùa Thiếu Lâm cũng có người biết Tiểu Vô Tướng Công sao? Lão nạp hôm nay mới nghe nói lần đầu.

Cưu Ma Trí nghĩ thầm: “Ngươi vờ vĩnh bịp bợm cũng ra vẻ lắm” bèn mỉm cười nhưng không nói toạc ra. Vị lão tăng tiếp tục nói:

- Tiểu Vô Tướng Công tinh vi uyên thâm, lấy đó làm căn bản, còn bảy mươi hai tuyệt kỹ của bản tự được dùng để sử dụng, có điều những chỗ tế vi khúc chiết, ắt không khỏi có điểm tưởng là thế mà không phải thế.

Huyền Sinh quay sang nói với Cưu Ma Trí:

- Minh Vương tự xưng là kiêm thông bảy mươi hai tuyệt kỹ của tệ tự, hóa ra là ở cái phép đó.

Trong lời nói có vẻ mỉa mai châm chọc. Cưu Ma Trí làm như không nghe, chẳng trả lời. Nhà sư già lại tiếp:

- Minh Vương nếu như chỉ học phép sử dụng những tuyệt kỹ đó thì thương thế chỉ ẩn phục, tuy có hại đấy nhưng nhất thời không nguy hại tới bản nguyên. Có phải lúc này huyệt Thừa Khấp có màu đo đỏ, huyệt Văn Hương có màu tim tím lộ ra, huyệt Giáp Xa cân mạch hay giựt giựt, những dấu hiệu đó cho thấy sau khi Minh Vương luyện bảy mươi hai tuyêt kỹ rồi, lại cưỡng luyện nội công trong bí cập Dịch Cân Kinh …

Ông ta nói tới đây, nhè nhẹ lắc đầu, trong ánh mắt lộ vẻ thương cảm xót xa. Cưu Ma Trí mấy tháng trước đoạt được của gã đầu sắt cuốn Dịch Cân Kinh, biết là võ học chí bảo, lập tức kiếm một nơi an tĩnh để khổ luyện. Y đọc được Phạn văn nên thông hiểu kinh nghĩa có điều luyện tới luyện lui, vẫn không tiến bộ được chút nào, nghĩ bụng nội công thượng thừa, không thể chỉ sớm chiều mà xong. Dịch Cân Kinh của chùa Thiếu Lâm và Lục Mạch Thần Kiếm của chùa Thiên Long đứng ngang hàng, Mộ Dung Bác đã bảo đây là hai môn vô thượng chí tôn của võ học, chắc phải luyện tám năm mười năm khi đó mới quán thông được. Có điều trong những lúc luyện công gần đây, hơi thấy tâm thần phiền não, bụng dạ bồn chồn, đầu óc lung tung, không kiềm hãm được, hay là vị lão tăng này nói đúng, mình quả “thứ tự điên đảo, đại nạn chỉ trong sớm tối” thực chăng?

Nhưng y lại nghĩ: “Kẻ tu luyện nội công không thành đến nỗi tẩu hỏa nhập ma âu cũng là chuyện thường, thế nhưng ta tinh thông nội ngoại võ học bí áo, đâu có phải như người thường? Ông sư già này nói thánh nói tướng, nếu ta trúng kế y thì cái anh danh một đời của Cưu Ma Trí trôi theo dòng nước”.

Vị lão tăng thấy y lúc đầu có vẻ hơi lo, sau lại nhướng mày, rồi lại đầy vẻ nhơn nhơn tự phụ, hiển nhiên coi lời mình như gió thổi ngang tai, thở dài nhè nhẹ, nói với Tiêu Viễn Sơn:

- Tiêu cư sĩ, gần đây các huyện Lương Môn, Thái Ất nơi bụng dưới có phải hơi ngâm ngẩm đau chăng?

Tiêu Viễn Sơn giật bắn người nói:

- Thần tăng minh kiến, quả đúng là như thế.

Nhà sư già lại tiếp:

- Thế huyệt Quan Nguyên lâu nay chai đi không có cảm giác, bây giờ ra sao rồi?

Tiêu Viễn Sơn lại càng kinh hãi, run run đáp:

- Chỗ chai đó mười năm trước chỉ bằng đầu ngón tay út, bây giờ … bây giờ to bằng miệng chén uống trà rồi!

Tiêu Phong nghe thế biết rằng triệu chứng tại ba nơi huyệt đạo của phụ thân là do cố gượng luyện tập tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm mà ra, nghe lời nói thì đã làm phiền ông ta nhiều năm nhưng không có cách gì khu trừ trở thành một mối ưu tư lớn nên lập tức tiến lên hai bước, quì xuống lạy vị lão tăng:

- Thần tăng nếu đã biết bệnh căn của gia phụ, xin mở lòng từ bi cứu chữa cho.

Vị lão tăng chắp tay đắp lễ nói:

- Xin thí chủ đứng lên. Thí chủ trạch tâm nhân thiện, nghĩ đến thiên hạ thương sinh, không vì tư cừu mà làm hại quân dân hai nước Liêu Tống, tấm lòng đại nhân đại nghĩa đó thì dù có sai bảo chuyện gì lão nạp cũng nghe theo, không phải đa lễ.

Tiêu Phong mừng lắm lại khấu đầu hai lần nữa mới đứng lên. Vị lão tăng thở dài một tiếng nói:

- Tiêu lão thí chủ trước đây giết người quá nhiều, quả thương tổn đến những người vô tội, chẳng hạn như vợ chồng Kiều Tam Hòe, Huyền Khổ đại sư là những người không nên giết.

Tiêu Viễn Sơn là anh hùng Khất Đan, tuổi tuy già nhưng vẫn còn hung hăng, nghe vị lão tăng trách cứ mình như thế liền lớn tiếng nói:

- Lão phu tự biết mình thụ thương đã nặng nhưng tuổi cũng đã ngoài lục tuần rồi, con cũng đã thành nhân, dù trong khoảnh khắc có chết chăng nữa thì có gì đáng tiếc? Thần tăng muốn lão phu nhận sai sám hối, thì không thể nào được.

Nhà sư lắc đầu:

- Lão nạp nào có dám bảo lão thí chủ nhận sai sám hối. Có điều thương thế của lão thí chủ là do luyện võ công Thiếu Lâm mà ra, nếu muốn hóa giải thì phải tìm trong Phật pháp.

Ông ta nói tới đây, quay sang Mộ Dung Bác nói:

- Mộ Dung lão thí chủ coi cái chết như trở về nhà, chắc chẳng cần lão nạp lắm lời nhiều chuyện. Thế nhưng nếu như lão nạp chỉ cho con đường giúp cho thí chủ thoát cái khổ vạn kim châm chích nơi các huyệt Dương Bạch, Liêm Tuyền, Phong Phủ mỗi ngày ba bận thì thí chủ nghĩ sao?

Mộ Dung Bác sắc mặt đại biến, tự nhiên thân hình run bắn lên. Ba nơi huyệt đạo Dương Bạch, Liêm Tuyền, Phong Phủ cứ lúc sáng sớm, giữa trưa và nửa đêm quả đúng là như hàng vạn chiếc kim đâm vào, đau không chịu nổi, dù uống linh đan diệu dược gì chăng nữa cũng không hiệu nghiệm mà vận nội công thì cơn đau lại ngấm vào tận xương tủy. Mỗi ngày chết đi sống lại ba lần thì còn gì là nhân sinh lạc thú?

Những cơn đau đó gần đây lại càng tệ hại, ông ta cam nguyện chịu chết để đổi lấy việc Tiêu Phong hưng binh đánh Tống, tuy nói là vì đại nghiệp hưng phục nước Yên nhưng một phần cũng vì cái ác tật không tên kia khó lòng mà chịu đựng nổi. Lúc này bỗng nghe vị lão tăng đề cập đến căn bệnh của mình, quả thực ông kinh ngạc không đâu kể hết.

Với một người võ công cao thâm như Mộ Dung Bác, dù cho có tiếng sét nổ ngay mang tai giữa thanh thiên bạch nhật thì cũng không kinh hãi chút nào, mà có đến mười tiếng sấm liền thì cũng chỉ coi như tiếng trung tiện của nhà trời, chẳng thèm để ý. Thế mà mấy câu nói thật bình thường của vị lão tăng kia lại khiến cho ông ta hoảng hốt run bần bật, sợ hãi không biết là dường nào.

Ông ta run rẩy mấy cái, bỗng thấy ba nơi huyệt đạo Dương Bạch, Liêm Tuyền, Phong Phủ đau nhói như ai lấy kim đâm vào, thì ra lại phát tác. Đúng ra lúc này không phải là thời điểm lên cơn nhưng vì tâm thần chấn đãng nên bị hành, chỉ đành nghiến răng cố chịu đựng. Thế nhưng răng không khép chặt được, hàm trên hàm dưới đụng nhau kêu lên lách cách.

Mộ Dung Phục biết tính cha sính cường hiếu thắng, thà chết chứ không tỏ ra hèn yếu trước mặt người khác, còn y cũng không muốn làm như Tiêu Phong quì xuống cầu khẩn nhà sư chữa trị cho phụ thân, bèn quay sang cha con Tiêu Phong vòng tay nói:

- Núi xanh không đổi, nước biếc chảy hoài, hôm nay tạm thời từ biệt. Hai vị nếu muốn kiếm cha con mỗ báo thù, chúng tôi ở Tham Hợp trang, Yến Tử Ổ đất Cô Tô cung kính chờ đón đại giá.

Y nắm tay Mộ Dung Bác nói:

- Gia gia, mình đi thôi!

Vị lão tăng hỏi:

- Ngươi nhẫn tâm để cho cha mình phải chịu cái đau đớn quái đản tận xương tủy kia ư?

Mộ Dung Phục mặt tái nhợt, cầm tay Mộ Dung Bác dợm bước đi. Tiêu Phong quát lớn:

- Ngươi định chạy hay sao? Trên đời này làm gì có chuyện dễ dàng như thế? Phụ thân ngươi đang cơn đau, đại trượng phu không nhân lúc người ta nguy nan mà nước đục thả câu, ta tha cho y được, còn ngươi đâu có bệnh tật đau đớn gì?

Mộ Dung Phục cũng nổi hung lên quát lại:

- Vậy thì để mỗ tiếp cao chiêu của Tiêu huynh.

Tiêu Phong không nói năng sử chiêu Hiện Long Tại Điền trong Hàng Long Thập Bát Chưởng nhắm ngay Mộ Dung Phục đánh vù ra. Ông thấy trong Tàng Kinh Các chật hẹp, cao thủ đánh nhau không nên kéo dài thành thử sử dụng đủ mười thành công lực cốt sao chỉ vài chiêu đã lấy mạng địch thủ rồi. Mộ Dung Phục thấy chưởng thế của Tiêu Phong hung mãnh liền vận hết công lực bình sinh định dùng thuật Đẩu Chuyển Tinh Di để hóa giải.

Lão tăng chắp hai tay nói:

- A Di Đà Phật, cửa Phật đất lành, hai vị thí chủ chớ nên vọng động vô minh.

Hai tay ông ta chỉ vừa sáp lại đã có một luồng lực đạo như một bức tường chặn giữa hai người, chưởng lực bài sơn đảo hải của Tiêu Phong chạm phải lập tức vô ảnh vô tung không còn hình bóng gì nữa.

Tiêu Phong trong bụng sợ hãi, bình sinh trong đời ông chưa từng gặp địch thủ, thế nhưng trước mắt thì vị lão tăng này công lực so với mình mạnh hơn nhiều, nếu ông ngăn trở mối thù hôm nay khó mà có thể báo được. Ông nghĩ đến nội thương của cha lại khom lưng nói:

- Tại hạ là kẻ thất phu lỗ mãng, vốn hàng thảo dã không biết lễ nghi, mạo phạm đến thần tăng xin được tha thứ.

Vị lão tăng đáp:

- Nói quá đấy thôi! Lão tăng đối với thí chủ có bụng tương kính, chẳng thẹn là bản sắc của bậc đại anh hùng.

Tiêu Phong đáp:

- Gia phụ phạm tội nghiệt sát nhân cũng đều từ tại hạ mà ra, khẩn cầu thần tăng trị thương cho gia phụ, bao nhiêu tội lỗi nợ nần đều do tại hạ lãnh chịu, dù vạn tử cũng cam lòng.

Vị lão tăng mủm mỉm cười nói:

- Lão nạp đã nói rồi, nếu muốn hóa giải nội thương của Tiêu lão thí chủ thì phải tìm trong Phật pháp. Phật do tâm sinh, Phật tức thị giác. Người ngoài có thể chỉ điểm nhưng không thể chịu thay được. Ta hỏi Tiêu lão thí chủ một câu: Nếu như ông biết cách trị thương thì nội thương của Mộ Dung lão thí chủ ông có chịu chữa hay không?

Tiêu Viễn Sơn ngạc nhiên lắp bắp:

- Ta … ta trị thương cho … cho Mộ Dung lão … lão thất phu ư?

Mộ Dung Phục quát lên:

- Ngươi liệu mà giữ mồm!

Tiêu Viễn Sơn nghiến răng hậm hực nói:

- Mộ Dung lão thất phu giết chết ái thê của ta, hủy cả một đời ta, ta hận không được băm vằm y thành muôn nghìn mảnh, xẻo y từng miếng thịt.

Vị lão tăng nói:

- Chẳng lẽ ông không thấy Mộ Dung lão thí chủ chết không toàn thây thì không tiêu mối hận trong lòng hay sao?

Tiêu Viễn Sơn đáp:

- Chính thế! Lão phu trong ba mươi năm qua, trong lòng đêm ngày canh cánh mối huyết hải thâm cừu này.

Vị lão tăng gật đầu:

- Thế thì dễ lắm.

Ông chậm rãi đi lên, giơ chưởng ra vỗ lên đầu Mộ Dung Bác một cái. Mộ Dung Bác lúc đầu thấy nhà sư đến gần cũng không để ý, đến khi ông ta đánh lên thiên linh cái rồi mới giơ tay trái lên gạt ra, lại sợ đối phương võ công quá ư lợi hại, tay giơ lên đỡ liền nhảy về sau một bước. Võ học gia truyền nhà họ Cô Tô Mộ Dung vốn dĩ rất cao siêu, lại nghiên cứu bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm thật chẳng khác gì hổ thêm cánh. Khi ông ta gạt tay, nhảy ra trông thì bình thường không có gì lạ nhưng chưởng đó đỡ được mọi chiêu tấn công trong thiên hạ, còn nhảy ra thì dù bị truy kích cách nào cũng chạy thoát, thế thủ nghiêm mật phiêu dật đã đến mức tận cùng rồi, không còn sao hơn được nữa.

Trong các ai ai cũng là cao thủ võ học, thấy ông ta sử dụng hai chiêu đó đều phải khen thầm đến cả cha con Tiêu Viễn Sơn cũng phải tấm tắc. Ngờ đâu vị lão tăng chưởng nhẹ nhàng đánh xuống, nghe bịch một tiếng nhỏ trúng ngay huyệt Bách Hội, còn thế gạt tay nhảy lùi của Mộ Dung Bác toàn nhiên không hiệu lực. Huyệt Bách Hội là nơi quan yếu nhất trên cơ thể con người, dù người không biết chút võ công nào đánh trúng thì cũng thụ thương, nên nhà sư đánh xuống rồi, Mộ Dung Bác chỉ dãy được một cái, ngã bật ngửa ra tắt thở ngay.

Mộ Dung Phục kinh hãi, xông ra đỡ lên kêu:

- Gia gia! Gia gia!

Thế nhưng cha y miệng mím chặt, mắt nhắm nghiền, mũi không còn hơi thở vội đưa tay rờ ngực thì tim cũng đã ngừng đập rồi. Mộ Dung Phục vừa tức vừa buồn, thật không ngờ vị lão tăng miệng luôn nói chuyện từ bi Phật pháp lại đột nhiên hạ độc thủ, kêu lên:

- Ngươi … ngươi … thằng giặc trọc!

Y để xác cha dựa vào cột, phi thân nhảy lên, song chưởng cùng đánh vào vị lão tăng. Nhà sư dường như không nghe cũng không thấy, chẳng hề để ý. Chưởng của Mộ Dung Phục đánh đến trước ngực ông ta chừng hai thước bỗng như chạm phải một bức tường vô hình, lại như rơi vào một cái lưới cá, chưởng lực tuy mạnh nhưng không có cách nào thi triển mà bị bức tường kia bật ngược lại đụng vào một giá sách.

Chưởng lực của y vốn cương mãnh sức bật trở lại hẳn rất khủng khiếp ngờ đâu bị bức tường vô hình hóa giải tất cả, rồi nhẹ nhàng đẩy y ra, lưng đụng vào kệ sách nhưng không đổ mà những sách trên kệ cũng không rơi xuống.

Mộ Dung Phục hết sức cơ cảnh, tuy đau lòng vì cha chết nhưng biết rằng vị lão tăng tài nghệ cao gấp mười lần mình, nếu nhào lên đánh thì chẳng làm gì được ông ta, nên đứng dựa vào giá sách, giả vờ thở hồng hộc, trong bụng tính toán làm cách nào tìm được lúc ông ta vô ý mà đánh trộm.

Vị lão tăng quay sang Tiêu Viễn Sơn thản nhiên nói:

- Tiêu lão thí chủ muốn chính mắt trông thấy Mộ Dung lão thí chủ chết ngay tại chỗ cho hả mối thù mấy chục năm qua. Bây giờ Mộ Dung lão thí chủ chết rồi đó, mối hận đó đã tan chưa?

Tiêu Viễn Sơn thấy nhà sư đánh một chưởng chết Mộ Dung Bác, vốn dĩ kinh ngạc hết sức, lại nghe ông ta hỏi như vậy, không khỏi bàng hoàng, há hốc mồm không nói nên lời. Trong ba mươi năm qua, ông lúc nào cũng chăm chăm nung nấu chuyện trả mối thù giết vợ sao cho hả dạ. Đến khi mọi việc đã sáng tỏ như ban ngày, bao nhiêu hào kiệt Trung Nguyên tham gia chiến dịch Nhạn Môn Quan năm xưa ông từng người giết sạch, đến cả Huyền Khổ đại sư và vợ chồng Kiều Tam Hòe cũng chết dưới tay ông. Sau khi biết được kẻ “đàn anh đứng đầu” chính là phương trượng Huyền Từ của chùa Thiếu Lâm, ông đã nói toạc gian tình của ông ta với Diệp Nhị Nương trước mặt quần hùng để cho thân bại danh liệt dồn nhà sư vào chỗ phải tự sát, mối thù như thế là báo đến cùng rồi.

Thế nhưng Huyền Từ chết cũng quang minh lỗi lạc, không mất vẻ anh hùng khí khái, trong tâm khảm Tiêu Viễn Sơn không khỏi thấy mình đi hơi quá đà, rồi Diệp Nhị Nương cũng chết theo làm cho ông thấy áy náy không yên.

Thế nhưng kẻ gian đồ loan truyền tin giả để gây ra thảm biến năm xưa lại chính là nhà sư áo xám Mộ Dung Bác, người cùng ông ẩn phục trong chùa Thiếu Lâm, đã từng ba lần giao thủ không phân cao hạ. Bao nhiêu hận thù tức tối nay trút lên đầu y, hận không thể ăn thịt lột da, rút gân nghiền xương cho hả dạ. Ai ngờ đâu tự nhiên lại xuất hiện một lão tăng, một chưởng nhẹ như chơi đánh chết kẻ đại cừu. Chỉ trong chốc lát, ông thấy mình như rơi vào đám mây mù, hoang mang vô định không còn chỗ đứng trên cõi đời này.

Tiêu Viễn Sơn khi còn trẻ hào khí can vân, học được võ công xuất thần nhập hóa, một lòng một dạ vì nước nỗ lực kiến lập công danh để mai hậu tên ghi trong sử sách. Ông và vợ vốn có tình thanh mai trúc mã từ thuở còn thơ, hai bên thương yêu lẫn nhau, thành hôn chẳng bao lâu đã sinh được một cậu con trai kháu khỉnh. Tiêu Viễn Sơn tính tình sảng lãng thầm cho rằng việc gì trên đời cũng có thể thành tựu, ngờ đâu nơi Nhạn Môn Quan gặp phải kỳ biến nên khi rơi xuống sơn cốc mà không chết tính tình ông trở nên khác hẳn, công danh sự nghiệp, tiền tài danh vọng nay dưới mắt ông chẳng khác gì đất bùn, trong lòng ngày đêm chỉ nghĩ tới việc làm sao được đâm mũi dao vào tim kẻ thù mới thỏa được cái đại hận.

Ông vốn dĩ là một đại hán hào sảng thuần phác miền sa mạc, chẳng để bụng chuyện gì lâu, bây giờ lòng đầy thù hận, tính tình càng lúc càng cay nghiệt. Sau khi tiềm cư trong chùa Thiếu Lâm mấy chục năm, ngày ẩn đêm ra, cần luyện võ công, cả năm không nói chuyện với ai một câu nào, tính tình dĩ nhiên biến đổi.

Đột nhiên bao nhiêu kẻ ông thù hận tận xương tận tủy mấy chục năm qua lần lượt chết trước mắt mình, đúng lý ra phải vui sướng lắm mới phải nhưng không hiểu sao trong đáy lòng ông thấy thật là tịch mịch thê lương, thấy trên đời này không còn gì để làm, có sống cũng thật là vô vị.

Ông đưa mắt nhìn cái xác Mộ Dung Bác nay đang dựa vào cột, thấy khuôn mặt bình hòa, khóe môi như điểm một nụ cười, tưởng như chết rồi lại sung sướng hơn lúc còn sống. Tiêu Viễn Sơn trong lòng dường như có chiều ước mơ được có phúc như y, thấy rằng chết là xong, mọi sự đều kết thúc không còn gì vướng mắc nữa. Trong khoảnh khắc ông thấy lòng mang mang trống vắng: “Kẻ thù chết cả rồi, mối thù của ta đã báo. Bây giờ ta biết đi đâu đây? Trở lại Đại Liêu chăng? Để làm gì? Ra ngoài Nhạn Môn Quan ẩn cư chăng? Để làm gì? Cùng với Phong nhi đi tận chân trời, vân du bốn bể chăng? Để làm gì?

Nhà sư già nói:

- Tiêu lão thí chủ, ông muốn đi đâu, xin cứ tùy tiện.

Tiêu Viễn Sơn lắc đầu:

- Ta … ta đi đâu bây giờ? Ta chẳng có chỗ nào mà về.

Lão tăng lại tiếp:

- Mộ Dung lão thí chủ chính tay ta đánh chết rồi, ông không được chính tay trả thù nên lòng ấm ức không yên chứ gì?

Tiêu Viễn Sơn đáp:

- Không phải vậy! Ví như ông không đánh chết y, tôi cũng chẳng còn muốn giết y nữa.

Nhà sư gật gù:

- Đúng thế! Mộ Dung thiếu hiệp đây đau lòng vì cái chết của phụ thân, thể nào cũng kiếm ta và thí chủ báo thù, thì biết làm sao đây?

Tiêu Viễn Sơn trong lòng chán nản nói:

- Đại hòa thượng thay ta xuất thủ, Mộ Dung thiếu hiệp muốn báo thù cho cha thì cứ việc giết ta đi.

Ông thở dài một tiếng nói:

- Thôi để y lấy mạng ta cho xong. Phong nhi, con trở về đại mạc cho rồi, mọi việc mình coi như đã làm xong, đường đã đi đến cuối rồi.

Tiêu Phong kêu lên:

- Gia gia …

Vị lão tăng nói:

- Mộ Dung thiếu hiệp nếu như giết ông, con ông thể nào cũng giết Mộ Dung thiếu hiệp trả thù, cứ thế oan oan tương báo, đến bao giờ mới dứt được? Chi bằng bao nhiêu tội nghiệt đều đổ lên đầu ta cho xong.

Nói xong tiến lên một bước, giơ chưởng lên đánh xuống đầu Tiêu Viễn Sơn. Tiêu Phong kinh hãi, nhà sư đã một chưởng đánh chết Mộ Dung Bác ắt cũng đánh chết cha mình liền quát lên:

- Ngừng tay!

Song chưởng cùng nhắm ngay ngực vị lão tăng đánh ra. Ông vốn dĩ cực kỳ kính trọng nhà sư nhưng lúc này vì phải cứu phụ thân nên dùng hết sức. Vị lão tăng đưa tay trái, chống đỡ song chưởng của Tiêu Phong, tay phải vẫn tiếp tục đánh xuống đầu Tiêu Viễn Sơn. Tiêu Viễn Sơn không nghĩ tới chống đỡ, trước mắt chưởng của nhà sư đánh xuống đỉnh đầu, nhà sư đột nhiên quát lớn một tiếng, hữu chưởng chuyển qua đánh vào Tiêu Phong.

Song chưởng của Tiêu Phong đang chịu tay trái ông ta, đột nhiên tay phải xoay qua đánh vào mình, vội vàng rụt tay trái về gạt, đồng thời kêu lên:

- Gia gia! Chạy mau, chạy mau!

Ngờ đâu chiêu của nhà sư giữa đường đổi hướng chỉ là hư chiêu, cốt để dụ cho Tiêu Phong giơ tay gạt ra để giảm lực đạo đánh vào mình. Tiêu Phong tay trái rụt về, hữu chưởng của lão tăng cũng vòng trở lại, nghe bịch một cái trúng ngay đỉnh đầu Tiêu Viễn Sơn.

Đồng thời lúc đó chưởng của Tiêu Phong cũng đánh ra rồi, bình một tiếng trúng ngực nhà sư nghe tiếng lách cách gân cốt mấy chỗ gãy. Vị lão tăng mỉm cười:

- Công phu ghê gớm thật! Hàng Long Thập Bát Chưởng quả nhiên đứng đầu thiên hạ.

Vừa dứt lời miệng hộc máu ra. Tiêu Phong sững sờ, chạy đến đỡ cha lên thì thấy ông đã ngừng thở, tim không còn đập, dĩ nhiên khí tuyệt rồi trong lòng dau đớn nhưng nhất thời không biết phải làm sao. Vị lão tăng nói:

- Thôi đến lúc rồi, mình đi thôi.

Ông ta tay phải nắm cổ Tiêu Viễn Sơn, tay trái nắm cổ Mộ Dung Bác lướt đi, chỉ mấy bước đã vọt ra ngoài cửa sổ. Tiêu Phong và Mộ Dung Phục cùng kêu:

- Ông … ông làm gì thế?

Hai người cùng vung chưởng nhắm ngay lưng nhà sư đánh tới. Mới đây hai người còn không đội trời chung, nhất định sống mái cho bằng được, bây giờ phụ thân bị hại đâm ra cùng phe, lập tức liên thủ đuổi theo kẻ đối đầu. Chưởng lực hai người hợp lại, lực đạo quả là rất lớn. Nhà sư bị chưởng phong hai người đẩy tới chẳng khác gì một con diều giấy bay vèo ra ngoài mấy trượng, hai tay vẫn còn nắm chặt hai tử thi, cả ba người cùng tà tà tưởng như không phải là cái thân huyết nhục nữa.

Tiêu Phong tung mình nhảy theo thấy lão tăng đó tay cầm hai cái xác chạy thẳng lên núi vội vàng gia tăng cước bộ, nghĩ bụng chỉ vài bước sẽ đuổi tới sau lưng ngờ đâu khinh công nhà sư lạ lùng trên đời chưa từng thấy, không khác gì kẻ có tà thuật.

Tiêu Phong hết sức đuổi theo, gió núi vù vù bên tai như dao cắt, đủ biết nhanh là chừng nào, nhưng vẫn cách nhà sư chừng hai ba trượng, tuy liên tiếp đánh ra nhưng chưởng vẫn chỉ vào khoảng không.

Nhà sư chạy nơi núi hoang lúc rẽ trái, lúc quẹo phải đến một nơi bằng phẳng trong rừng mới bỏ hai cái xác xuống một gốc cây, dựng họ ngồi xếp bằng, rồi ngồi sau lưng đè song chưởng lên sau lưng hai người. Ông ta vừa ngồi xong thì Tiêu Phong đã đến nơi.

Tiêu Phong thấy nhà sư cử chỉ có chiều lạ lùng nên không tiến lên động thủ. Bỗng nghe vị lão tăng nói:

- Ta xách họ chạy đi một hồi cho máu huyết lưu thông.

Tiêu Phong không còn tin vào tai mình được nữa, người chết rồi còn máu huyết lưu thông nỗi gì, thế nghĩa là sao đây? Ông thuận mồm hỏi:

- Máu huyết lưu thông ư?

Vị lão tăng đáp:

- Bọn họ nội thương quá nặng, trước hết phải để cho họ ngủ thiếp đi theo lối qui tức, rồi mới có thể giải cứu được.

Tiêu Phong trong bụng bàng hoàng: “Không lẽ cha ta chưa chết? Ông ta … ông ta đang trị thương cho gia gia chăng? Trên đời này sao lại có chuyện đánh chết trước rồi chữa bệnh sau bao giờ?”.

Chẳng bao lâu, Mộ Dung Phục, Cưu Ma Trí, Huyền Sinh, Huyền Diệt cùng bọn Thần Sơn thượng nhân trước sau chạy đến, thấy trên đầu hai xác chết đột nhiên bốc ra những luồng bạch khí.

Nhà sư lúc đó mới quay hai người lại cho mặt đối mặt, hai tay người nọ nắm hai tay người kia. Mộ Dung Phục kêu lên:

- Ông … ông … làm gì thế?

Nhàsư không trả lời, chầm chậm chạy quanh hai người, liên tiếp vung chưởng đánh ra, khi thì vào huyệt Đại Trùy của Tiêu Viễn Sơn, khi thì vào huyệt Ngọc Trẩm của Mộ Dung Bác nhưng hơi trắng trên đỉnh đầu hai người càng lúc càng đậm.

Qua chừng thời gian uống một chén trà, cả Tiêu Viễn Sơn lẫn Mộ Dung Bác đều hơi cục cựa. Tiêu Phong và Mộ Dung Phục vừa mừng rỡ vừa ngạc nhiên, cùng kêu lên:

- Cha ơi!

Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác chầm chậm mở mắt ra, nhìn đối phương rồi lại nhắm mắt. Chỉ thấy Tiêu Viễn Sơn mặt đỏ bừng còn mặt Mộ Dung Bác thì hơi men mét. Mọi người bấy giờ mới hiểu ra, ở Tàng Kinh Các vị lão tăng đánh chết hai người chỉ là để hai người tạm thời đình chỉ hô hấp, tim không nhảy, chính là một pháp môn trọng đại để trị nội thương. Rất nhiều kẻ sĩ cao thâm đã từng luyện môn qui tức, ấy là tự mình ngừng hô hấp còn như đánh người khác cho ngừng thở mà không chết thì chưa ai dám nghĩ đến. Vị lão tăng vốn dĩ có lòng tốt, sao không nói trước, hà cớ gì phải đùa như thế khiến cho Tiêu Phong, Mộ Dung Phục tức giận như điên cuồng, để đến nỗi thân mình bị một chưởng của Tiêu Phong phải hộc máu? Mọi người ai nấy nghi hoặc nhưng thấy vị lão tăng tập trung hết tinh thần vừa chuyển động vừa xuất chưởng nên không ai dám mở miệng.

Tiếng thở của Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác mới đầu còn nhẹ sau mạnh dần, càng lúc càng hổn hển, mặt Tiêu Viễn Sơn càng lúc càng đỏ về sau tưởng như muốn bật máu ra, còn Mộ Dung Bác thì mặt càng lúc càng tái đi, xanh lét đáng sợ. Người đứng chung quanh ai cũng biết một người dương khí thái vượng, hư hỏa thượng xung còn người kia âm khí thái thịnh, phong hàn nhập thể. Huyền Sinh, Huyền Diệt, Đạo Thanh trong người ai cũng mang diệu dược trị thương, nhưng không biết thứ nào dùng cho phải.

Đột nhiên vị lão tăng quát lên:

- Thôi!

Hai tay nắm lấy hai tay, nội tức hai bên tương ứng.

Âm này giúp đỡ dương kia, dương kia hóa giải âm này.

Hùng tâm mưu bá đồ vương, rồi ra cũng thành cát bụi.

Dù cho huyết hải thâm thù, tiêu tan hình bóng cũng không.

Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Sơn đang tay nắm tay, nghe nhà sư quát lên, lập tức bóp chặt lại, nội tức trong cơ thể đổ dồn qua đối phương, hòa lẫn với nhau, lấy hữu dư bổ bất túc, mặt hai người đỏ thì giảm bớt, xanh thì hồng lên rồi cùng trắng bệch, một lúc lâu sau mở mắt ra nhìn nhau mỉm cười.

Tiêu Phong và Mộ Dung Phục thấy cha mình đã mở mắt mỉm cười, sung sướng không đâu cho hết. Chỉ thấy Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác nắm tay nhau đứng lên, cùng quì xuống trước vị lão tăng. Nhà sư hỏi:

- Hai đứa ngươi từ chỗ sống đi vào chỗ chết, rồi lại từ chỗ chết đi ra, trong lòng có còn gì không cởi được nữa chăng? Nếu như các ngươi chết đi rồi thì cái gì hưng phục Đại Yên, báo phục thê cừu có còn nữa chăng?

Tiêu Viễn Sơn đáp:

- Đệ tử ở chùa Thiếu Lâm ba mươi năm làm hòa thượng cũng chỉ là giả, trong lòng chẳng có chút gì từ tâm của nhà Phật, nay mong sư phụ thu lục.

Vị lão tăng đáp:

- Thế mối thù giết vợ ngươi không còn muốn trả nữa hay sao?

Tiêu Viễn Sơn đáp:

- Đệ tử bình sinh giết kẻ vô tội có đến hàng trăm, nếu như quyến thuộc những người bị đệ tử sát hại cũng chăm chăm đòi mạng phục thù thì đệ tử dẫu chết trăm lần e rằng chưa đủ.

Vị lão tăng quay sang Mộ Dung Bác hỏi:

- Còn ngươi thì sao?

Mộ Dung Bác mỉm cười nói:

- Thứ dân cũng là cát bụi mà vua chúa cũng là cát bụi. Không khôi phục Đại Yên cũng là không mà có khôi phục được thì cũng là không.

Nhà sư cười ha hả nói:

- Quả là đại triệt đại ngộ! Thiện tai! Thiện tai!

Mộ Dung Bác nói:

- Cầu sư phụ thu làm đệ tử để sớm được khai đường mở lối.

Vị lão tăng nói:

- Các ngươi muốn xuất gia làm sư thì phải nhờ các vị đại sư chùa Thiếu Lâm thế độ. Ta có mấy lời để cho các ngươi nghe.

Nói xong ngồi xuống thuyết pháp. Tiêu Phong và Mộ Dung Phục thấy cha mình quì xuống cũng quì theo. Huyền Sinh, Huyền Diệt, Thần Sơn, Đạo Thanh, Ba La Tinh nghe thấy nhà sư nói những lời tinh diệu không khỏi vui mừng, tự nhiên sinh lòng kính ngưỡng, ai nấy đều quì xuống. Khi Đoàn Dự đến nơi thì đang lúc nhà sư giảng Phật nghĩa cho mọi người nghe, định vòng qua trước mặt xem hình dung thế nào, ngờ đâu Cưu Ma Trí thốt nhiên hạ độc thủ, ngực trúng phải Hỏa Diễm Đao của y.

NIỆM UỔNG CẦU MỸ QUYẾN

LƯƠNG DUYÊN AN TẠI

Mong sao thành được lương duyên,

Kết thân hai nước giữ yên cõi bờ.

Tưởng đâu phận gái cống Hồ,

Thân trai giờ cũng trông nhờ đục trong.

*

* *

Đoàn Dự hôn mê không biết bao lâu mới từ từ tỉnh dậy, mở mắt ra vật đầu tiên chàng thấy là một cái đình màn bằng vải rồi phát giác mình đang nằm trên giường giữa đống chăn mền. Chàng nhất thời đầu óc chưa tỉnh táo nên không rõ ràng, chỉ mang máng nhớ là mình bị Cưu Ma Trí ám toán, còn tại sao lại nằm trên giường thì không sao nghĩ ra được. Đoàn Dự khát khô cả cổ đang định ngồi dậy nhưng vừa cựa mình thì ngực đau nhói, nhịn không nổi kêu “A” lên một tiếng.

Chỉ thấy bên ngoài có tiếng một thiếu nữ reo lên:

- Đoàn công tử tỉnh dậy rồi, Đoàn công tử tỉnh dậy rồi!

Giọng đầy vẻ vui mừng. Đoàn Dự nghe tiếng cô gái có vẻ quen quen nhưng không nghĩ ra được là ai, rồi một thiếu nữ mặc áo xanh rảo bước vào phòng. Cô gái mặt bầu bầu, khóe miệng có núm đồng tiền, chính là Chung Linh, người năm xưa chàng từng gặp nơi núi Vô Lượng.

Cha nàng là Kiến Nhân Tựu Sát Chung Vạn Cừu có thù với cha chàng nên tính chuyện gia hại, ngờ đâu khi Đoàn Dự từ thạch thất đi ra lại ôm trong tay một cô gái quần áo xốc xếch chính là Chung Linh, khiến cho kẻ hại người kia hóa ra hại mình, làm Chung Vạn Cừu tức muốn chết. Trong địa đạo nơi Vạn Kiếp Cốc, mọi người co kéo xô đẩy, Đoàn Dự ngu ngơ vô tình hút không ít nội lực người khác, chẳng bao lâu sau đã bị Cưu Ma Trí bắt đem qua Trung Nguyên, xa cách cả năm có đâu ngờ lại gặp nhau ở chỗ này.

Chung Linh vừa nhìn thấy Đoàn Dự mặt đã đỏ bừng, nũng nịu hỏi:

- Công tử quên em rồi chăng? Có còn nhớ tiểu muội họ gì không?

Đoàn Dự vừa nhìn thấy nàng, trong đầu đã hiện ra ngay một bức tranh. Hôm đó nàng ngồi trên xà nhà tại Vô Lượng Cung, hai chân đong đưa, miệng cắn hạt dưa, trên đầu đôi hài xanh mỗi bên thêu một đóa hoa vàng nho nhỏ bây giờ hiện ra rõ mồn một, chàng liền buột miệng hỏi:

- Đôi giày xanh có thêu đóa hoa vàng của cô đâu rồi?

Chung Linh mặt ửng đỏ, hết sức vui mừng mỉm cười nói:

- Đi rách rồi, công tử còn nhớ được sao? Hóa ra … anh … anh chưa quên em.

Đoàn Dự cười nói:

- Sao cô không cắn hạt dưa nữa?

Chung Linh đáp:

- Hay nhỉ, mấy hôm nay phục thị anh dưỡng thương lo lắng muốn chết, ai ở không mà cắn hạt dưa?

Nàng buột miệng nói hớ để lộ tâm tình khiến cho mặt lại đỏ lên. Đoàn Dự ngẩn ngơ nhìn nàng, nghĩ bụng nàng vốn dĩ đã mong làm vợ mình, về sau lại phát giác chính là em gái, bèn thở dài một tiếng nói:

- Hảo muội tử, sao cô đến được nơi đây?

Chung Linh vẫn bẽn lẽn nhưng ánh mắt lóe lên một vẻ vui mừng nói:

- Dự ca rời khỏi Vạn Kiếp Cốc rồi chẳng hề quay lại, khiến tiểu muội giận ơi là giận.

Đoàn Dự vội hỏi:

- Giận ta chuyện gì?

Chung Linh liếc xéo chàng một cái nói:

- Giận ai đó quên em chứ sao?

Đoàn Dự thấy mắt nàng đầy vẻ tình tứ, bỗng chạnh lòng kêu lên:

- Hảo muội tử!

Chung Linh ra vẻ ngúng nguẩy nói:

- Tiểu muội chắc là bấy lâu nay Dự ca cùng ai thân mật nên không thèm thăm em một lần, giận quá tìm đến Trấn Nam Vương phủ nghe ngóng mới hay anh bị một gã ác hòa thượng bắt đi. Tiểu muội … tiểu muội sốt ruột quá, nên mới đi ra ngoài tìm.

Đoàn Dự hỏi:

- Chuyện của cha ta với má má cô, mẹ cô đã kể lại cho cô nghe chưa?

Chung Linh đáp:

- Chuyện gì thế? Tối hôm đó công tử cùng vương gia đi rồi, mẹ em liền lăn ra bất tỉnh, từ đó người không khỏe, mỗi lần thấy em lại sụt sùi, gợi chuyện thì mẹ em chẳng nói gì hết.

Đoàn Dự ngập ngừng:

- Ôi, phu nhân không nói gì với cô ư? Hóa ra … hóa ra cô chưa biết gì cả.

Chung Linh hỏi:

- Không biết cái gì?

Đoàn Dự đáp:

- Không biết cô chính là … chính là …

Chung Linh mặt đỏ ửng, cúi đầu, khe khẽ nói:

- Làm sao em biết được? Hôm đó ở trong thạch thất, công tử đang bồng em, bỗng dưng thấy bao nhiêu là người, tiểu muội sợ muốn chết, lại thêm xấu hổ, chỉ còn nước nhắm mắt lại, những gì cha anh nói, tiểu muội … tiểu muội nghe thấy rõ ràng.

Cả hai cùng nghĩ đến hôm ở bên ngoài căn nhà đá, Đoàn Chính Thuần đã từng nói với Chung Vạn Cừu: “Lệnh ái ở trong thạch thất với tiểu nhi cũng đã lâu. Cô nam quả nữ cởi trần cởi truồng ở trong một căn phòng tối tăm thế này, làm gì còn trong trắng cho nổi? Con ta là thế tử Trấn Nam Vương tuy chưa chắc đã lấy con gái ngươi làm chính phi được, nhưng năm thê bảy thiếp có gì mà chẳng xong? Ta với ông thế cũng là chỗ thông gia rồi còn gì? Ha ha! Ha ha! Ha ha ha!”

Đoàn Dự thấy nàng mặt càng lúc càng đỏ, nên nhỏ nhẹ nói:

- Hảo muội tử, … hóa ra cô … cô chưa biết những nguyên do bên trong … cô em ơi! Cái đó … cái đó không được đâu.

Chung Linh hoảng hốt:

- Bộ Mộc tỉ tỉ không bằng lòng ư? Có phải Mộc tỉ tỉ không?

Đoàn Dự đáp:

- Không đâu, cô ấy … cô ấy cũng là …

Chung Linh mỉm cười nói:

- Thì cha anh đã chẳng bảo trai năm thê bảy thiếp, đâu có dám không nhường cho chị ấy, chị ấy hung dữ lắm, em có dám tranh giành gì đâu?

Vừa nói vừa le lưỡi. Đoàn Dự thấy nàng đầy vẻ thơ ngây trong trắng, ngực lại nhói lên nhưng lúc này không tiện cho nàng biết sự thật bèn hỏi:

- Thế sao cô đến được chốn này?

Chung Linh đáp:

- Em đi tìm anh, đất Trung Nguyên chạy đông chạy tây chẳng nghe tin tức gì. Mấu bữa trước khéo làm sao lại gặp gã học trò của Dự ca là Nhạc lão tam nhưng y không thấy em. Em nghe thấy y nói chuyện với người ta rằng các lộ hảo hán đang đi lên chùa Thiếu Lâm, có trò vui lắm, bọn họ cũng đi nữa. Gã ác nhân Vân Trung Hạc mới ghẹo y là thể nào cũng có dịp gặp sư phụ. Nhạc lão tam nổi cọc, bảo là vừa gặp Dự ca là sẽ bẻ cổ ngay.

Em vừa vui mừng, vừa lo lắng nên len lén đi theo nhưng sợ Nhạc lão tam và Vân Trung Hạc trông thấy nên không dám đến gần, chỉ lang thang dưới chân núi, gặp ai cũng hỏi thăm tin tức định dặn anh cẩn thận kẻo đồ nhi sẽ bẻ cổ. Em thấy một căn nhà không có ai ở, chẳng ngại ngùng gì vào ở luôn.

Đoàn Dự nghe cô gái nói qua loa như thế nhưng dung nhan nhuốm vẻ phong sương, không còn vẻ ngây thơ không lo không buồn như lần đầu gặp nàng nơi núi Vô Lượng, nghĩ bụng nàng mới bấy nhiêu tuổi đầu đã lặn lội đi tìm mình, một thân bôn tẩu giang hồ, trong những ngày qua ắt hẳn phải chịu bao nhiêu khổ sở, tình ý đối với mình sâu đậm biết bao, nhịn không nổi giơ tay cầm tay nàng, nói khẽ:

- Hảo muội tử, cũng may trời còn thương cho ta được gặp cô.

Chung Linh mỉm cười nói:

- Cũng may trời còn thương nên cho em được gặp Dự ca. Hì hì, nói vậy chẳng thừa sao? Anh gặp em dĩ nhiên em cũng gặp anh rồi.

Nàng ngồi xuống giường hỏi:

- Sao anh lại đến được nơi đây thế?

Đoàn Dự mở to mắt nói:

- Ta đang định hỏi cô đây, tại sao ta lại đến được chỗ này? Ta chỉ còn nhớ gã ác hòa thượng đột nhiên ám toán, ngực ta trúng phải đao khí vô hình của y, bị thương rất nặng, rồi sau chẳng còn biết gì nữa.

Chung Linh nhíu mày nói:

- Thế thì quả là kỳ quái. Hôm qua lúc xế chiều, em đi ra vườn hái rau, đem vào bếp rửa sạch sẽ, đang định nấu ăn, nghe thấy trong phòng có tiếng rên. Em sợ hết hồn, cầm con dao thái rau chạy vào phòng thấy trên giường đã có người nằm. Em hỏi luôn mấy câu: “Ai thế? Ai thế?” không nghe trả lời. Em chắc mẩm là kẻ tồi bại, giơ dao lên định chém xuống giường. May sao … may sao anh nằm ngửa nên em nhìn thấy mặt anh … lúc đó … lúc đó tưởng như muốn ngất đi, đến con dao bầu cũng rớt xuống đất mà không hay.

Nàng nói tới đây đưa ta đấm nhè nhẹ lên ngực mình, chắc là nghĩ đến tình hình hung hiểm lúc bấy giờ, nghĩ lại vẫn còn khiếp đảm. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nơi đây cách chùa Thiếu Lâm không xa, có lẽ mình thụ thương rồi,có người nào đưa mình đến đây”. Chung Linh nói tiếp:

- Em gọi anh mấy tiếng nhưng anh chỉ rên, chẳng mở mắt nhìn em. Em sờ đầu thấy nóng ơi là nóng, trên áo lại dính đầy máu, biết anh đã bị thương nên cởi áo ra xem thương thế ra sao thì đã băng bó kỹ càng. Em sợ động đến vết thương nên không dám cởi dây buộc. Đợi mãi mà anh không tỉnh lại. Ôi, em vừa mừng lại vừa lo, không biết phải làm sao đây!

Đoàn Dự nói:

- Để khiến cô phải lo, thật quả là áy náy lắm.

Đột nhiên mặt Chung Linh sầm xuống nói:

- Anh là người chẳng ra gì, nếu sớm biết anh vô lương tâm như thế thì em chẳng thèm nhớ tới anh làm gì. Bây giờ thôi em mặc kệ, anh sống chết gì cũng vậy, em không nhìn anh nữa đâu.

Đoàn Dự nói:

- Sao thế? Sao tự nhiên cô lại nổi giận là sao?

Chung Linh hứ một tiếng, bĩu môi nói:

- Anh tự mình biết, còn phải hỏi em làm gì?

Đoàn Dự hốt hoảng:

- Ta … ta quả không biết thật. Hảo muội tử, cô nói cho ta nghe đi nào.

Chung Linh hậm hực đáp:

- Hứ, ai là hảo muội tử của anh? Khi anh nằm mơ anh nói những gì? Anh tự biết chứ, việc gì phải hỏi tôi? Quả là gớm thật.

Đoàn Dự lập cập nói:

- Khi ta nằm mơ nói những gì? Đó là những lời nói nhăng nói cuội, đừng có coi là thật. A, ta nghĩ ra rồi, chắc là ta nằm mơ gặp được cô, vui mừng quá đỗi nên ăn nói vô ý vô tứ, xúc phạm đến cô chứ gì?

Chung Linh đột nhiên ứa nước mắt, cúi đầu nói:

- Đến giờ phút này mà sao anh vẫn còn muốn lừa dối tôi. Trong giấc mộng anh gặp ai?

Đoàn Dự thở dài:

- Sau khi ta bị thương, từ đó hôn mê bất tỉnh, thật chẳng biết nói lảm nhảm những gì.

Chung Linh đột nhiên sẵng giọng:

- Thế ai là Vương cô nương? Vương cô nương là người nào? Tại sao khi anh hôn mê chỉ gọi tên cô ta là sao?

Đoàn Dự trong lòng chua xót hỏi lại:

- Ta quả gọi tên Vương cô nương thật sao?

Chung Linh đáp:

- Còn gì mà không gọi? Anh hôn mê bất tỉnh cũng gọi, hừ, đủ biết lúc nào cũng nhớ đến cô ta. Được, anh đi gọi Vương cô nương nhà anh đến hầu hạ anh đi, tôi không lo cho anh nữa.

Đoàn Dự thở dài một tiếng nói:

- Trong tim Vương cô nương đâu có hình bóng ta, ta có nhớ đến cô ấy cũng chỉ bằng không.

Chung Linh hỏi lại:

- Sao lại thế?

Đoàn Dự nói:

- Cô ta chỉ thích biểu ca nàng thôi, còn với ta có lý gì đến đâu.

Chung Linh đang giận đổi sang mừng rỡ, cười nói:

- Tạ ơn trời đất, đúng là ác giả ác báo.

Đoàn Dự hỏi:

- Bộ ta là người ác sao?

Chung Linh nghiêng đầu, một bên mái tóc xõa ra, cười nói:

- Học trò anh Nhạc lão tam là đại ác nhân, đến học trò đã ác thế, sư phụ đương nhiên còn ác hơn gấp bội.

Đoàn Dự cười nói:

- Thế còn sư nương thì sao? Nhạc lão tam đã chẳng gọi cô là sư nương đấy ư?

Chàng buột miệng nói ra bỗng cảm thấy hối hận: “Sao mình lại nói với em gái mình những câu bông lơn như thế được?”. Chung Linh đỏ mặt, hứ một tiếng nhưng trong lòng vô cùng sung sướng, đứng lên, xuống bếp múc bưng lên một tô cháo gà nói:

- Nồi cháo này nấu đã lâu lắm rồi, chờ anh tỉnh dậy vậy mà lửa vẫn chưa tắt.

Đoàn Dự nói:

- Thật chẳng biết lấy gì tạ ơn cô được.

Chàng thấy Chung Linh bưng cháo đến, gượng ngồi lên, động đến vết thương, nhịn không nổi phải suýt soa. Chung Linh vội nói:

- Anh không phải ngồi dậy, để em đến đút cháo cho ông cha phường gian ác.

Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi:

- Cái gì mà lại ông cha phường gian ác?

Chung Linh đáp:

- Thì anh là sư phụ của đại ác nhân, không phải ông cha phường gian ác thì là gì?

Đoàn Dự cười:

- Thế còn cô …

Chung Linh giơ thìa cháo đang bốc hơi nghi ngút lên, để ngang mặt Đoàn Dự nghiêm giọng nói:

- Anh thử nói quàng nói xiên xem em có hắt muỗng cháo vào người không nào?

Đoàn Dự le lưỡi đáp:

- Không dám đâu! Không dám đâu! Ác nhân đại tiểu thư, ác nhân cô cô quả là gớm thật, quả là ác quá.

Chung Linh phì cười, lúc đó muỗng cháo đã đến gần Đoàn Dự sợ đổ nên vội vàng tập turng tâm thần, đưa lên môi nếm thử một tí thấy không nóng quá lúc ấy mới đưa vào mồm Đoàn Dự.

Đoàn Dự húp mấy muỗng cháo, thấy mặt nàng đỏ au, môi trên lấm tấm mấy giọt mồ hôi. Khi ấy đang lúc tháng sáu trời nóng gắt, cánh tay nàng thò ra ngoài, trắng nõn như ngọc, Đoàn Dự tâm hồn lãng đãng nghĩ thầm: “Tiếc thay nàng lại là em gái ta! Nàng là em gái ta cũng chẳng hề chi … ôi, giá như người đút cháo cho ta mà là Vương cô nương, thì dù có là thuốc độc nát gan đứt ruột ta cũng thấy ngọt như đường”.

Chung Linh thấy chàng ngẩn ngơ nhìn mình, đâu có nghĩ rằng Đoàn Dự đang nghĩ tới người khác, mỉm cười hỏi:

- Có gì mà phải nhìn?

Bỗng nghe kẹt một tiếng, ai đó đã đẩy cửa bước vào, rồi nghe tiếng một thiếu nữ:

- Thôi mình ở đây nghỉ một lát.

Rồi có tiếng đàn ông đáp:

- Phải lắm! Cô nương chắc mệt lắm rồi, tôi … tôi rất áy náy.

Cô gái đáp:

- Chỉ nói tầm xàm!

Đoàn Dự nghe tiếng hai người nói chính là A Tử và bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền. Chàng tuy chưa từng gặp mặt hay nói chuyện với A Tử lần nào nhưng đã từng nghe bọn Chu Đan Thần kể lại, cô bé này chính là con riêng của phụ thân, cũng lại là một cô em khác của mình nữa, lạy trời lạy đất may mà không có thêm một mối tình nghiệt với mình. Cô em đó từ bé đã đầu nhập môn hạ phái Tinh Tú nên tiêm nhiễm tà ác, muốn làm gì là làm, một trong Tứ Đại Vệ Hộ của phủ Trấn Nam Vương là Chử Vạn Lý đã bị cô ta làm nhục tức quá mà chết. Đoàn Dự từ nhỏ đã cùng Chử Cổ Phó Chu bốn Hộ Vệ giao tình rất thân thiết, nghĩ đến cái chết của Chử Vạn Lý nên cũng không muốn gặp cô em bướng bỉnh này làm gì, huống chi hôm qua chính mình đã tương trợ Tiêu Phong đối địch với Trang Tụ Hiền, nếu như bây giờ y trông thấy e rằng tính mạng khó mà an toàn nên vội đưa tay ra hiệu đừng lên tiếng.

Chung Linh gật đầu, cầm lăm lăm bát cháo gà không dám đặt xuống bàn, e sợ mình gây ra một tiếng động nhỏ. Bỗng nghe A Tử kêu lên:

- Này, có ai không đấy? Có ai không?

Chung Linh nhìn Đoàn Dự không lên tiếng nghĩ thầm: “Người này chắc là Vương cô nương, cô ta đi cùng với biểu ca cho nên Đoàn lang không muốn gặp đây mà”. Nàng rất muốn ra xem Vương cô nương người như thế nào, dung hoa nguyệt mạo ra sao mà khiến cho Đoàn Dự thần hồn điên đảo nhưng không dám bước đi, nghĩ thầm nếu như Đoàn lang gặp lại cô nàng, e rằng không hay nên để cô ta gọi một hồi, không nghe tiếng trả lời ắt sẽ cùng biểu ca bỏ đi.

A Tử lại kêu to:

- Trong nhà bộ chết hết rồi sao không ai ra? Còn không chịu ra, cô nương đốt nhà các ngươi bây giờ.

Chung Linh nghĩ thầm: “Vương cô nương này quả là ngang ngược”. Du Thản Chi nói nhỏ:

- Đừng lên tiếng nữa, có người đến đó!

A Tử hỏi:

- Ai vậy? Cái Bang chăng?

Du Thản Chi đáp:

- Chưa biết nữa. Có bốn năm người, không chừng là người Cái Bang. Họ đang đi về hướng này.

A Tử nói:

- Bọn trưởng lão Cái Bang đều thối tha, ngoài Toàn trưởng lão ra không có kẻ nào tốt cả. Bọn họ đang có bụng tạo phản, nếu để họ thấy thì hai đứa mình hỡi ôi.

Du Thản Chi hỏi:

- Vậy biết làm sao?

A Tử đáp:

- Vào trong phòng trốn đã rồi tính sau, ngươi bị thương nặng, không nên cùng họ động thủ.

Đoàn Dự kêu khổ thầm, vội vàng ra hiệu cho Chung Linh bảo nàng tìm cách lẩn trốn. Thế nhưng nhà cửa miền núi, phòng bé nhỏ, vừa vào là thấy ngay, không có chỗ nào mà ẩn náu cả. Chung Linh đưa mắt nhìn bốn bề, chưa biết tính sao thì đã nghe tiếng chân, từ ngoài sảnh có hai người tiến vào phòng bèn nói nhỏ:

- Chui xuống dưới gầm giường.

Nàng đặt bát cháo xuống, không đợi Đoàn Dự bằng lòng hay không, liền ôm chàng lên cả hai chui xuống. Trên núi Thiếu Thất cứ đến mùa thu, mùa đông khí trời lạnh buốt, dân chúng ai cũng đốt lửa dưới gầm giường cho ấm , lúc này đang mùa nóng nên không chụm lửa nhưng dưới gầm giường đầy tro than, Đoàn Dự vừa chui vào đã bay đầy mặt, không chịu nổi muốn hắt hơi nhưng cố gượng lại.

Chung Linh thò đầu ra xem thấy một đôi chân nhỏ nhắn mang giày bằng gấm tím vào phòng, rồi nghe tiếng đàn ông nói:

- Ồ, tôi cứ bảo cô cõng tới cõng lui, quả là cực nhọc cô quá đỗi.

Thiếu nữ nói:

- Chúng ta người thì mù, người thì què, phải lo liệu cho nhau chứ.

Chung Linh ngạc nhiên nghĩ thầm: “Thì ra Vương cô nương là người mù, cô ta cõng biểu ca trên lưng thành thử mình không nhìn thấy chân gã này”. A Tử đẩy Du Thản Chi lên trên giường nói:

- Ồ, đã có người ngủ trên giường này rồi, chiếu vẫn còn ấm.

Chỉ nghe bình một tiếng, cửa đã bị ai đó đá tung ra, có mấy người xông vào. Một người ồm ồm nói:

- Trang bang chủ, chuyện đại sự trong bang chưa xong, sao đã buông xuôi bỏ đi, có ý gì đây?

Người đó chính là Tống trưởng lão. Ông ta dẫn theo hai đệ tử bảy túi, hai đệ tử sáu túi, đuổi theo Du Thản Chi. Cha con Tiêu Phong, cha con Mộ Dung Phục cùng quần tăng chùa Thiếu Lâm và quần hùng Trung Nguyên chạy vào chùa rồi, bọn ăn mày thấy hôm nay mất mặt quá nếu không sắp xếp cho ổn thỏa e rằng bang hội lớn nhất Trung Nguyên không còn đất đứng trong võ lâm. Việc oán thù giữa cha con họ Tiêu và cha con họ Mộ Dung người trong Cái Bang không quan tâm đến nên không muốn nhúng tay vào, tuy nói với Bao Bất Đồng rằng đồng cừu địch khái thật, muốn kiếm Tiêu Phong rửa hờn nhưng bản bang từ nay làm sao an thân lập mệnh mới thực sự là việc quan trọng hơn cả, người nào cũng chỉ nghĩ tới làm sao lập được một bang chủ anh minh để trùng chấn hùng phong, vãn hồi lại thanh danh cho Cái Bang.

Thế nhưng khi tìm Trang Tụ Hiền thì trong lúc hỗn loạn không biết y đã bỏ đi đâu mất. Quần cái vẫn tưởng hai chân y gãy rồi không cách gì chạy được xa, thành thử chia nhau đi tìm. Còn như tìm ra y sẽ tính sao thì chưa quyết định, cũng chưa ai biết làm sao bắt được y nhưng chắc chắn không thể để y làm bang chủ được nữa, ai nấy đều đồng ý không dị nghị. Có người lên tiếng chửi rủa y đã bái Tinh Tú Lão Quái làm thầy, làm mất mặt Cái Bang; có người thì chửi y sai người ám hại anh em trong bang, nhất định phải kiếm y đòi nợ máu. Còn Toàn Quan Thanh thì cũng đã bị Tống trưởng lão và Ngô trưởng lão hợp lực bắt được, trói lại chờ khi bắt được Trang Tụ Hiền rồi xử tội luôn thể.

Tống trưởng lão dẫn bốn người theo hướng đông nam núi Thiếu Thất đi tìm, nhìn thấy xa xa có bóng người áo tím thấp thoáng đi vào một nhà nông, cho rằng chính là A Tử, lại thấy lưng nàng có cõng một người, trông giống như Trang Tụ Hiền lập tức đuổi tới, quả nhiên thấy hai người ngồi sóng đôi trên giường.

A Tử lạnh lùng nói:

- Tống trưởng lão, nếu ngươi vẫn gọi y là bang chủ, sao lại la ó om sòm không ra vẻ gì là qui củ yết kiến ?

Tống trưởng lão chưng hửng, nghĩ bụng lời của nàng không phải là vô lý bèn đấu dịu:

- Bang chủ, mấy nghìn huynh đệ hiện còn đang ở trên núi Thiếu Thất tính toán để xem bang chủ chỉ thị thế nào.

Du Thản Chi đáp:

- Các ngươi vẫn còn coi ta là bang chủ hay sao? Các ngươi bảo ta quay lại, cốt để giết ta cho bõ tức chứ gì? Ta không đi đâu.

Tống trưởng lão quay sang bốn tên đệ tử nói:

- Mau đi báo tin, bang chủ đang ở nơi đây.

Bốn tên đệ tử cùng đáp:

- Vâng!

Rồi quay mình đi ra. A Tử quát lên:

- Ra tay!

Du Thản Chi nghe lời một chưởng đánh ra, dưới gầm giường Chung Linh và Đoàn Dự thấy khí lạnh buốt thấu xương, bốn tên đệ tử Cái Bang không kịp hự lên một tiếng, lăn ra chết liền. Tống trưởng lão vừa tức giận vừa sợ hãi, giơ tay lên che ngực, quát lên:

- Ngươi … ngươi … đối với anh em trong bang mà hạ độc thủ như vậy sao?

A Tử nói:

- Giết luôn cả y đi.

Du Thản Chi lại đánh ra một chưởng, Tống trưởng lão giơ tay gạt, kêu lên một tiếng văng ra ngoài cửa. A Tử cười khanh khách nói:

- Gã này không sống nổi nữa rồi! Ngươi có đói không? Mình đi kiếm xem có gì ăn không?

Nàng ta lại cõng Du Thản Chi lên lưng, hai người cùng đi xuống bếp, lấy đồ ăn Chung Linh đã nấu sẵn đem lên trên sảnh ngồi ăn. Chung Linh ghé tai Đoàn Dự:

- Hai đứa này không biết xấu, ăn hết nồi cháo em nấu cho anh rồi.

Đoàn Dự cũng nói nhỏ:

- Bọn họ thật là độc địa, vừa ra tay đã giết người, ăn xong thể nào cũng vào đây. Mình mau mau theo cửa sau chạy đi thôi.

Chung Linh không muốn Đoàn Dự gặp cái “cô nàng họ Vương” kia, nghe nói thế quả thật đúng là cầu được ước thấy. Hai người rón rén từ dưới gậm giường chui ra, Chung Linh thấy Đoàn Dự đầu tóc đầy tro than, tức cười quá phải lấy tay bịt mồm lại. Ra khỏi phòng rồi, đi ngang qua bếp vừa mới bước ra cửa sau, Đoàn Dự ngứa mũi quá, nhịn không nổi phải “Ách xì” một tiếng. Chỉ nghe tiếng Du Thản Chi kêu lên:

- Có người!

Chung Linh thấy bốn bề không chỗ nào có thể trốn được chỉ có sau bếp là một gian phòng chứa củi, vội vàng lôi Đoàn Dự chui vào trong đám rơm củi kia. Lại nghe A Tử quát hỏi:

- Người nào đó? Sao lại thập thò, có mau ra đây không?

Du Thản Chi nói:

- Chắc là mấy người nhà nông, ta nghĩ mình chẳng cần phải để ý.

A Tử nói:

- Sao lại không cần phải để ý? Ngươi sao đoảng thế, mai sau ắt có lúc nguy to, thôi đừng lên tiếng nữa.

Nàng từ khi mắt mù, tai lại càng thêm linh mẫn, nghe thấy tiếng sột soạt trong đống rơm liền nói:

- Trong đống củi có người.

Chung Linh trong lòng kinh hoảng, bỗng thấy có nước nhỏ xuống mặt mình, giơ tay sờ, thấy nhờn nhờn lại ngửi thấy mùi tanh, giật mình hỏi nhỏ:

- Anh … vết thương anh ra sao?

Đoàn Dự đáp:

- Đừng lên tiếng.

A Tử chỉ vào phòng chứa củi kêu lên:

- Ở phía đó.

Du Thản Chi đánh vù ra một chưởng, nghe rắc rắc, cánh cửa vỡ tan cùng với rơm củi bay tung tóe. Chung Linh kêu lên:

- Chớ có đánh, chớ có đánh, để chúng tôi chui ra.

Nàng đỡ Đoàn Dự, từ trong đống củi bò ra. Đoàn Dự trước đây bị Cưu Ma Trí đánh một chiêu Hỏa Diễm Đao thụ thương khá nặng, đã chui xuống gầm giường, lại chui ra ẩn sau đống củi, di động mấy lần vết thương lại vỡ ra. Chàng bị thương rồi không còn bụng dạ nào mà đánh nhau, tuy nội lực cực kỳ hồn hậu nhưng cho rằng mạng mình sắp chết đến nơi, không nghĩ đến việc dùng Lục Mạch Thần Kiếm để ngự địch.

A Tử nói:

- Sao lại có giọng của một tiểu cô nương?

Du Thản Chi đáp:

- Có một gã con trai dắt một cô gái, trốn trong đống củi, người đầy máu, cô gái mắt long lanh đang nhìn cô đó.

A Tử từ khi bị mù, ghét nhất là nghe ai nói tới “mắt”, Du Thản Chi không những đã nói tới mắt mà lại còn bảo “cô gái mắt long lanh” khiến cho chạm tới vết thương lòng của nàng, bèn hỏi:

- Cái gì mà mắt long lanh? Bộ mắt cô ta đẹp lắm hay sao?

Du Thản Chi có ngờ đâu A Tử đang tức tối lắm nói:

- Cô ta người dơ dáy lắm, chắc là con nhà nông, còn đôi mắt thì đen lay láy, cực kỳ linh hoạt.

Chung Linh chui xuống gầm giường người dính đầy mồ hóng, bụi bậm nhưng đôi mắt vẫn đen nháy long lanh như nước mùa thu. A Tử giận quá, nói:

- Được, Trang công tử, ngươi mau mau móc mắt nó ra.

Du Thản Chi ngạc nhiên hỏi:

- Đang yên lành sao lại móc mắt người ta?

A Tử thuận miệng đáp:

- Mắt của ta bị Đinh lão quái làm mù rồi, ngươi móc mắt cô ta ra lắp vào cho ta để ta lại nhìn thấy chẳng hay lắm sao?

Du Thản Chi ngầm kinh hãi, nghĩ thầm: “Nếu như mắt cô ta sáng ra, thấy hình dáng như quỉ của ta thì sẽ không còn để ý đến ta nữa, không chừng lại nhìn ra bộ mặt thật, biết ta chính là “thằng hề sắt”, thế thì hỡi ôi. Chuyện naà nhất định không thể nào được”. Y bèn nói:

- Nếu như có thể chữa được đôi mắt cho cô thì thật hay biết mấy … có điều, cái cách của cô, e rằng … e rằng không hữu hiệu.

A Tử biết thừa là móc mắt người khác ráp vào cho mình đâu có được nhưng từ khi nàng bị mù, lòng bực tức oán hận, chỉ mong tất cả thiên hạ ai ai cũng mù cả thế mới vừa lòng liền đáp:

- Ngươi chưa thử qua, sao biết là không được? Động thủ mau, móc mắt nó ra xem nào.

Nàng vẫn đang cõng Du Thản Chi trên lưng nên lập tức xông về phía Đoàn Dự và Chung Linh. Chung Linh nghe hai người nói qua nói lại, trong bụng hãi lắm, vội vàng bỏ chạy, trong nháy mắt đã chạy xa hơn chục trượng. A Tử mắt đã mù, lại phải cõng Du Thản Chi trên lưng, dĩ nhiên làm sao đuổi kịp, huống chi Du Thản Chi cũng chẳng muốn đuổi theo Chung Linh làm gì nên chỉ đường có lệch đi một chút, nói năng lại ấm a ấm ớ cố tình bỏ lỡ cơ hội.

A Tử nghe tiếng chân của Chung Linh, biết rằng đuổi không kịp được, quay lại quát lên:

- Con bé đó chạy mất rồi, thôi quay về giết thằng đàn ông vậy.

Chung Linh nghe nàng nói vậy, kêu hoảng lên, dừng chân lại, quay đầu thấy Đoàn Dự đang nằng lăn dưới đất, máu bên người vẫn tiếp tục chảy ra. Nàng liền quay trở lại kêu lên:

- Con nhỏ đui kia! Chớ có hại anh ta.

Khi đó nàng đang nhìn thẳng vào mặt A Tử, thấy A Tử dung mạo đẹp đẽ, quả là một tiểu mỹ nhân có ngờ đâu bụng dạ lại tàn độc đến thế. A Tử quát:

- Điểm huyệt nó!

Du Thản Chi tuy không muốn nhưng nàng đã bảo gì thì đâu dám cãi lời, khi ở Nam Viện vương phủ ở Nam Kinh nước Liêu đã vậy mà đến khi làm bang chủ Cái Bang rồi cũng thế, lập tức cúi xuống giơ ngón tay điểm Chung Linh ngã lăn ra. Chung Linh kêu lên:

- Vương cô nương, cô chớ có làm hại anh ta, anh ta … trong giấc mơ vẫn nhắc đến tên cô, đối với cô quả thành tâm thành ý.

A Tử lạ lùng:

- Ngươi nói sao? Ai là Vương cô nương?

Chung Linh đáp:

- Cô … cô không phải là Vương cô nương sao? Thế thì cô là ai?

A Tử cười nhạt nói:

- Hừ, ngươi gọi ta là “con nhỏ đui”, thì ngươi cũng sắp biến thành “con nhỏ đui” đây, còn hỏi đông hỏi tây gì nữa? Nhân lúc còn đôi mắt, cố nhìn thêm vài cái mới là cần.

Nàng bỏ Du Thản Chi xuống nói:

- Móc hai mắt tiểu cô nương này cho ta.

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Y giơ tay nắm cổ Chung Linh. Chung Linh sợ quá kêu lên:

- Đừng có móc mắt ta, đừng có móc mắt ta.

Đoàn Dự nằm nửa mê nửa tỉnh dưới đất nhưng cũng biết hai người này đang toan móc mắt Chung Linh để ráp vào mắt cho A Tử. Chàng cũng biết đáng lẽ Chung Linh chạy thoát rồi, chỉ vì muốn cứu mình mà quay đầu trở vào miệng hùm nanh cọp. Đoàn Dự liền hít một hơi cố nói:

- Các ngươi … hãy móc mắt ta đi, ta với nó … ta với nó cùng một nhà … dùng hợp hơn.

A Tử không hiểu anh chàng nói gì nên chẳng thèm để ý, chỉ thúc giục Du Thản Chi:

- Sao ngươi còn chưa động thủ?

Du Thản Chi không còn biết sao hơn, đành đáp lời:

- Vâng!

Y liền kéo Chung Linh lại gần, ngón tay trỏ đưa ra toan đâm vào mắt phải của Chung Linh. Bỗng có tiếng đàn bà nói:

- Này, các ngươi ở đây làm gì thế?

Du Thản Chi ngửng đầu lên, vẻ mặt lập tức đại biến, thấy bên cạnh giòng suối có hai người đàn ông cùng bốn cô gái đứng đó. Hai người đàn ông là Tiêu Phong và Hư Trúc, còn bốn thiếu nữ chính là thị nữ Mai Lan Cúc Trúc tứ kiếm.

Chỉ trong chớp mắt, Tiêu Phong đã thấy Đoàn Dự nằm dưới đất, lập tức xốc tới bồng chàng lên, chau mày:

- Vết thương lại vỡ ra, chảy nhiều máu lắm.

Ông quì xuống để Đoàn Dự dựa vào đùi, xem xét vết thương. Hư Trúc cũng chạy tới, xem vết thương của Đoàn Dự nói:

- Đại ca không phải hốt hoảng, Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn của đệ đây trị thương cực kỳ linh nghiệm.

Y liền điểm huyệt chung quanh vết thương cho máu ngừng chảy rồi cho Đoàn Dự uống thuốc. Đoàn Dự kêu lên:

- Đại ca, nhị ca, … mau … mau cứu người … đừng để họ móc mắt Chung cô nương. Chung cô nương là … là … em gái của đệ đó.

Tiêu Phong và Hư Trúc cùng quay sang Du Thản Chi. Du Thản Chi trong lòng sợ hãi, huống chi vốn đã không muốn móc mắt Chung Linh, lập tức thả nàng ra. A Tử nói:

- Tỉ phu, khi chị em sắp chết nói những gì? Những gì chị ấy dặn dò lúc sắp chết không còn nhớ gì nữa hay sao?

Tiêu Phong nghe nàng nhắc đến A Châu, vừa đau lòng vừa tức tối, hừ một tiếng, không trả lời. A Tử lại tiếp:

- Tỉ phu chẳng lo liệu cho em, đến như Đinh lão quái đánh mù mắt mà cũng chẳng ngó ngàng gì đến. Tỉ phu ơi, ai ai cũng bảo anh là đại anh hùng số một đời nay, vậy mà không bảo vệ nổi một cô em vợ. Hay là anh chẳng có tài cán gì chăng? Hứ, rõ ràng Đinh lão quái đánh không lại anh, có điều anh chẳng thèm bảo vệ tiểu muội, chẳng thèm lo lắng gì đấy mà thôi.

Tiêu Phong buồn bã nói:

- Ngươi bị người trong Cái Bang bắt đi để đến nỗi hai mắt phải mù cũng bởi ta bảo vệ không chu đáo, quả là có lỗi với ngươi thật.

Mới đầu ông thấy A Tử ngang ngược đòi móc mắt Chung Linh trong bụng khó chịu nhưng khi nhìn thấy đôi mắt vô quang của nàng, lại nhớ đến lời dặn dò của A Châu lúc lâm chung. Cái đêm hôm mưa gió bão bùng bên cái cầu đá xanh kia, A Châu sau khi bị đánh một chưởng chí mạng, nằm gục trong lòng ông dặn dò: “Thiếp chỉ có một đứa em gái, hai đứa từ nhỏ đã không được ở gần nhau, xin chàng trông nom cho nó, thiếp chỉ lo nó đi chẳng đi vào đường ngay nẻo chánh.” Khi đó mình đã từng nói: “Nói gì một điều, dẫu có trăm điều, nghìn điều ta cũng bằng lòng”. Thôi đành vậy, A Tử dẫu sao cũng đã bị mù, dù cô ta có xấu xa bậc nào thì cũng bởi vì mình bảo vệ không chu đáo. Nghĩ đến đây ông trong lòng chua chát, sắc mặt tự nhiên dịu lại, ánh mắt trở nên hiền từ.

A Tử đã ở với ông lâu ngày hiểu rõ tính tình Tiêu Phong, biết rằng chỉ cần mình nhắc đến A Châu, thì dù cho việc gì có khó khăn đến đâu ông cũng làm, trăm lần không sai một. Nàng cực kỳ thù hận Chung Linh gọi mình là “con nhỏ đui”, nghĩ bụng: “Ta phải cho ngươi nếm mùi trở thành “con nhỏ đui” cho ngươi biết tay”. Nghĩ thế bèn thở dài buồn bã, nói với Tiêu Phong;

- Tỉ phu, mắt em mù mất rồi, chẳng còn nhìn thấy gì cả, chi bằng chết quách cho xong.

Tiêu Phong nói:

- Ta đã giao ngươi lại cho cha ngươi rồi, sao bây giờ lại đi với gã Trang bang chủ này là sao?

Bấy giờ ông đã nhìn ra, A Tử đi với Trang Tụ Hiền là do tự nguyện, bởi vì Trang Tụ Hiền tuyệt đối nghe lời nàng bèn bảo:

- Thôi ngươi theo cha ngươi về Đại Lý đi. Mắt ngươi tuy mù nhưng trong vương phủ có rất nhiều tì bộc hầu hạ, cũng không khó chịu lắm đâu.

A Tử nói:

- Mẹ em có phải là Vương Phi đâu, tiểu muội đến Đại Lý, trong vương phủ người này kèn cựa người kia, biết bao nhiêu chuyện, thủ hạ của cha em ai ai cũng thù em bằng chết, mắt em lại mù, thể nào cũng bị người ta mưu hại.

Tiêu Phong nghĩ thầm lời nàng quả là có lý, liền nói:

- Thế thì ngươi theo ta về Nam Kinh, sống cho yên lành, hơn là mạo hiểm đi lại trên giang hồ.

A Tử hỏi lại:

- Quay trở lại vương phủ của tỉ phu ư? Ôi chao, trước kia mắt em chưa mù cũng đã chán muốn bịnh luôn, đời nào em quay lại nữa? Anh đâu có được như Trang bang chủ đây, xưa nay chưa hề trái lời em bao giờ. Em thà ở trên giang hồ lênh đênh trôi giạt trong lòng còn thoải mái hơn.

Tiêu Phong nhìn Du Thản Chi một cái nghĩ thầm: “Xem chừng A Tử thích cái gã bang chủ này”. Bèn nói:

- Gã Trang bang chủ này lai lịch ra sao, ngươi đã hỏi y chưa?

A Tử đáp:

- Dĩ nhiên là tiểu muội có hỏi rồi. Có điều người ta nói về lai lịch của mình đâu dễ gì mà tin được. Tỉ phu, hồi trước khi anh làm bang chủ Cái Bang, lẽ nào lại nói với người khác mình là người Khất Đan sao?

Tiêu Phong nghe nàng nói có chiều châm chọc, hừ một tiếng không nói nữa, trong bụng chưa biết có nên để nàng đi theo gã Trang bang chủ tính tình hèn hạ này hay chăng?

A Tử nói:

- Tỉ phu, anh chẳng coi sóc gì em nữa sao?

Tiêu Phong nhíu mày:

- Thế thì ngươi muốn thế nào?

A Tử đáp:

- Tiểu muội muốn tỉ phu móc mắt cô gái kia lắp vào cho em.

Nàng ngừng một lát lại tiếp:

- Trang bang chủ đang định làm chuyện đó cho em, nếu anh không đến phá rối thì y đã làm xong rồi. Hứ, tỉ phu làm cho em thì làm, để xem anh đối với em tốt hay Trang bang chủ đối với em tốt. Ngày trước anh bồng em đi Quan Đông chữa thương, khi đó bảo gì làm nấy, em đòi gì anh cũng chiều ngay. Mình ở trong lều, dù ngày hay đêm, lúc nào anh cũng bồng em không rời. Tỉ phu, sao bây giờ anh quên hết cả rồi?

Đôi mắt Du Thản Chi bỗng phát ra những tia oán độc, trừng trừng nhìn Tiêu Phong như muốn nói: “A Tử cô nương là của ta, từ nay trở đi đừng hòng đụng vào cô ta nữa”. Tiêu Phong không để ý đến y nói:

- Khi đó ngươi đang bị thương nặng, ta dùng chân khí truyền vào để giữ mạng cho ngươi nên không thể không chiều ngươi. Cô nương đây là bằng hữu của người em kết nghĩa, sao lại có thể móc mắt cô ta ra cho ngươi được? Huống chi trên đời này làm gì có y thuật nào được như thế, cái ý tưởng của ngươi quả là quái đản.

Hư Trúc đột nhiên xen vào:

- Tiểu đệ xem hai mắt của Đoàn cô nương chẳng qua chỉ là bị hỏng lớp vỏ ngoài, nếu có đôi mắt người sống đem thay vào, không chừng có thể sáng trở lại.

Y thuật của phái Tiêu Dao cực kỳ cao minh, Diêm Vương Địch Tiết Thần Y chính là sư điệt của Hư Trúc. Về chữa bệnh tuy Hư Trúc biết chẳng bao nhiêu nhưng ở với Thiên Sơn Đồng Mỗ mấy tháng, những phương pháp nối chân, thay tay đã từng nghe bà ta nói qua rồi.

A Tử reo lên một tiếng, hết sức mừng rỡ:

- Hư Trúc tiên sinh, ông không đánh lừa tôi đấy chứ?

Hư Trúc đáp:

- Người xuất gia đâu dám nói …

Y chợt nghĩ lại mình không còn là “xuất gia nhân” nữa rồi, mặt mày bẽn lẽn, nói:

- Lẽ dĩ nhiên ta chẳng lừa cô làm gì, có điều … có điều …

A Tử hỏi lại:

- Có điều làm sao? Hư Trúc tiên sinh tốt bụng ơi, ông kết nghĩa kim lan với tỉ phu của tiểu nữ, hai chúng ta là người nhà rồi. Tiên sinh nên nghe lời tỉ phu ta, anh ấy cưng ta lắm. Tỉ phu, tỉ phu, dù gì chăng nữa, anh cũng năn nỉ nghĩa đệ chữa mắt cho tiểu muội.

Hư Trúc đáp:

- Ta có nghe sư bá nói rằng nếu như mắt không hoàn toàn bị hủy, thay đôi tròng mắt người sống vào thì có thể sáng ra. Có điều phương pháp thay con ngươi thì ta lại chưa được học.

A Tử nói:

- Thế thì chắc sư bá của tiên sinh phải biết phương pháp đó, xin tiên sinh cầu khẩn lão nhân gia giùm cho.

Hư Trúc thở dài một tiếng nói:

- Sư bá ta bất hạnh qua đời rồi.

A Tử dậm chân kêu lên:

- Thế ra ngươi nói nhăng nói cuội để cho vui vậy thôi.

Hư Trúc lắc đầu quầy quậy nói:

- Không phải đâu! Không phải đâu! Trên cung Linh Thứu, núi Phiêu Miểu có rất nhiều y thư dược điển, phương pháp thay mắt chắc tàng trữ trên đó. Tuy nhiên … tuy nhiên …

A Tử nửa mừng nửa lo nói:

- Sao ông là một đại nam nhân mà ăn nói ấp a ấp úng, còn “tuy nhiên” với chả “có điều” gì nữa?

Hư Trúc nói:

- Tuy nhiên … tuy nhiên … con mắt quí báu biết là chừng nào, có ai mà lại bằng lòng cho cô được?

A Tử cười hì hì nói:

- Ta lại tưởng chuyện gì khó khăn chứ muốn có mắt người sống thì dễ ợt! Ông cứ móc mắt cô bé kia là xong ngay.

Chung Linh kêu ré lên:

- Không được, không được! Các ngươi không được móc mắt ta.

Hư Trúc đáp:

- Đúng thế! Suy bụng ta ra bụng người, cô không muốn bị mù, Chung cô nương lẽ nào lại muốn mất đôi mắt. Tuy rằng đức Thích Ca kiếp trước khi còn là bồ tát đã từng đem mắt mũi máu thịt, xương tủy chân tay bố thí cho người khác thật nhưng Chung cô nương làm sao có thể sánh được với Phật tổ Như Lai? Hơn nữa, Chung cô nương là bạn tốt của tam đệ ta …

Đột nhiên y thấy chấn động: “Chết rồi! Không xong! Hôm trước ở trong cung Linh Thứu, ta và tam đệ uống rượu say thổ lộ nỗi niềm, thì ra ý trung nhân của y chính là “Mộng Cô”. Xem ra thế này, tam đệ đối với Chung cô nương tốt như thế, vừa rồi mới nghe y nói với A Tử, thà để móc mắt y ra còn hơn là làm hại tới Chung cô nương. Con người có ngũ quan tứ chi, mắt là trọng yếu hơn cả, tam đệ vì Chung cô nương dám bỏ cả đôi mắt chẳng nói cũng biết là tình ý thâm trọng lắm. Không lẽ Chung cô nương đây chính là Mộng Cô, người đã cùng mình vui vầy ba đêm ở trong hầm băng hay sao?”.

Y nghĩ tới chuyện đó, không khỏi run lên, quay đầu lén liếc Chung Linh một cái, thấy nàng tuy mặt mũi dính đầy tro than, rơm rạ nhưng không dấu được vẻ yêu kiều. Hư Trúc ở với Mộng Cô một thời gian khá lâu, có điều trong hầm băng tối thui không có ánh sáng nên mặt mũi Mộng Cô ra sao, y hoàn toàn không nhận biết được, ngoại trừ giơ tay mò mò trên mặt nàng thì may ra còn có chút mối manh, hay vòng tay ôm chiếc eo thon, cũng có chút đầu dây mối nhợ. Thế nhưng đang ở nơi thanh thiên bạch nhật, bao nhiêu cặp mắt đổ dồn vào, ai lại dám giơ tay sờ mặt Chung Linh? Còn như chuyện ôm ngang lưng thì lại càng không dám.

Nghĩ đến chuyện ôm Mộng Cô trong tay, mặt Hư Trúc liền đỏ bừng, giọng của Chung Linh so với Mộng Cô có khác nhau thật nhưng lại cho rằng người nói chuyện trong hầm băng với ở ngoài đồng không mông quạnh dĩ nhiên phải khác, huống chi những lời Mộng Cô nói với y chỉ là ỏn thót ái ân, còn Chung Linh lúc này đang kêu ré lên vì sợ, tình hình dĩ nhiên khác xa, ngữ âm có đổi thì cũng không phải là chuyện lạ. Hư Trúc châm bẩm nhìn Chung Linh, chỉ muốn thò tay ra vuốt má nàng một cái, để xem nàng có phải là “Mộng Cô” của mình hay chăng? Y trong lòng tình ý dâng tràn, vẻ mặt tự nhiên đầy vẻ say sưa đắm đuối.

Chung Linh thấy anh chàng có vẻ dễ chịu thân cận, xem ra không muốn móc mắt mình nên cũng yên tâm. A Tử nói:

- Hư Trúc tiên sinh, ta là em ruột của tam đệ ông, còn Chung cô nương kia chẳng qua chỉ là bạn bè. Em gái và bằng hữu hai bên dĩ nhiên phải khác xa chứ?

Đoàn Dự được uống Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn của cung Linh Thứu, trong giây lát máu không còn chảy ra nữa, thần trí dần dần tỉnh lại, việc thay mắt nghe không rõ ràng nhưng câu sau cùng của A Tử thì nghe rõ mồn một, nhịn không nổi hừ lên một tiếng nói:

- Thì ra ngươi đã sớm biết là em gái của ta rồi, vậy sao còn gọi người định giết hại ta?

A Tử cười nói:

- Tiểu muội trước nay đã nói chuyện với ca ca đâu, làm sao nhận ra tiếng nói được? Hôm qua nghe gia gia, má má nói, mới biết được vị đại anh hùng cùng anh rể mình và Hư Trúc tiên sinh kết nghĩa anh em, đánh cho Mộ Dung công tử thua liểng xiểng lại chính là anh ruột, quả thực hay biết bao. Tỉ phu em cũng là đại anh hùng, mà anh ruột cũng là đại anh hùng, thật sướng quá!

Đoàn Dự xua tay nói:

- Có gì đâu mà đại anh hùng? Chả bõ làm trò cười cho người khác.

A Tử cười đáp:

- Chao ôi, ca ca sao khách sáo thế! Anh hai ơi, anh chui trong đống củi, tiểu muội làm sao biết được ai với ai? Mắt em lại không nhìn thấy gì, đến khi nghe gọi tỉ phu em là “đại ca” lúc đó mới biết là anh hai.

Đoàn Dự nghĩ thầm cô ta nói quả không sai bèn nói:

- Nhị ca nếu đã biết cách chữa mắt, thể nào cũng tìm cách chữa cho ngươi, còn mắt của Chung cô nương thì nhất định không thể nào xâm phạm được. Cô ấy … cô ấy cũng là em gái ta.

A Tử cười khanh khách:

- Mới rồi khi ở trên núi, em thấy anh hai hết sức lấy lòng Vương cô nương, sao bây giờ trong chớp mắt lại chuyển qua Chung cô nương rồi? Cả đến “em gái ta” mà cũng dám mở mồm nói được thì tiểu ca ca ơi, anh quả là không biết hổ ngươi chút nào.

Đoàn Dự bị nàng nói khiến mặt đỏ như gấc vội vàng khỏa lấp đi:

- Chỉ nói nhăng nói cuội!

A Tử nói:

- Ví như Chung cô nương là chị dâu em thì dĩ nhiên không ai dám đụng đến mắt cô ta, còn như không phải chị dâu em thì sao lại không đụng chạm gì được? Tiểu ca ca, hỏi lại nè, cô ấy có phải chị dâu em không?

Hư Trúc liếc mắt thăm dò Đoàn Dự, trống ngực đánh thùng thùng, không biết Chung Linh có phải là Mộng Cô hay chăng, nếu không phải thì chẳng nói làm gì, còn như nếu quả là Mộng Cô mà lại để Đoàn Dự lấy làm vợ thì thật không biết nói sao? Y trong bụng thấp thỏm đợi câu trả lời của Đoàn Dự, chỉ một giây mà tưởng chừng như mấy giờ liền.

Chung Linh cũng đợi Đoàn Dự trả lời nghĩ thầm: “Hóa ra con nhỏ đui này là em gái anh chàng, đến cô ta cũng nói là anh ta lấy lòng Vương cô nương, xem ra chuyện anh ta mê cô ả họ Vương không phải là giả. Thế sao mới đây lại bảo ta là sư nương của Nhạc lão tam? Sao anh ta lại đành lòng đem mắt mình để chịu thế cho mắt của ta ? Sao trước mặt bao nhiêu người lại bảo ta là “em gái” ?”.

Chỉ nghe Đoàn Dự đáp:

- Dầu gì chăng nữa cũng không thể để ngươi làm hại đến Chung cô nương. Ngươi còn ít tuổi mà đã không chịu làm điều tốt. Chử Vạn Lý Chử đại ca của nước Đại Lý cũng do ngươi chọc tức mà chết. Ngươi còn có bụng dạ xấu xa, nhị ca ta sẽ không chữa bệnh cho ngươi đâu.

A Tử vênh mặt lên bĩu môi nói:

- Xí, làm ra vẻ anh hai lắm. Mới nói chuyện với nhau lần đầu, đã không ân cần thì thôi, lại ra chiều lên mặt dạy đời.

Tiêu Phong thấy Đoàn Dự vẫn còn nhợt nhạt nhưng nói năng rành mạch, trung khí tạm thời hưng vượng, biết rằng Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn của cung Linh Thứu đã cấp kỳ hiệu nghiệm, tính mệnh không còn gì đáng lo liền nói:

- Tam đệ, thôi tất cả cùng vào ntrong nhà nghỉ ngơi một lát rồi bàn tính xem phải làm gì.

Đoàn Dự nói:

- Hay lắm!

Chàng liền đứng lên định bước đi. Chung Linh vội kêu:

- Ấy chết, Dự ca chớ nên loạn động khiến cho vết thương lại vỡ ra.

Giọng nàng đầy vẻ lo lắng. Tiêu Phong mừng rỡ nói:

- Nhị đệ, linh dược trị thương của ngươi quả là thần kỳ không gì sánh bằng.

Hư Trúc ậm ừ, trong bụng vẫn phập phồng về mấy câu nói quan thiết của Chung Linh, hoang mang như kẻ mất hồn. Mọi người đi vào trong nhà, Đoàn Dự lên giường nằm, còn bọn Tiêu Phong ngồi ở đằng trước. Khi đó trời đã nhá nhem, bốn nàng Mai Lan Cúc Trúc liền châm đèn, kẻ pha trà người nấu cơm phục thị Tiêu Phong, Hư Trúc, Đoàn Dự và Chung Linh, còn A Tử và Du Thản Chi thì không ngó ngàng gì tới. A Tử trong bụng tức tối, ngựa quen đường cũ tính chuyện gia hại bốn người nhưng nghĩ đến muốn cho mắt được sáng trở lại thì phải cầu khẩn Hư Trúc nên đành nén giận.

Tiêu Phong chẳng thèm để ý đến A Tử có giận hay không, tiện tay mở chiếc ô kéo ở bàn bên cạnh giường, không khỏi ngẩn ngơ. Đoàn Dự và Hư Trúc thấy ông mặt mày khác lạ, nhìn vào thấy bên trong đầy đồ chơi của trẻ con, hoặc con hổ bằng gỗ, chó nặn bằng đất, cái giỏ đan bằng cỏ, ống tre đựng dế … và vài con dao rỉ. Những vật đó vẫn thường thấy nơi các nhà nông, không có gì là lạ. Tiêu Phong cầm con hổ lên, chăm chăm xuất thần.

A Tử không biết ông đang làm gì, trong bụng tức tối, giơ tay vò đầu, cạch một tiếng khuỷu tay đụng phải cái guồng quay tơ ở bên cạnh. Cô ta liền rút phắt thanh kiếm đeo bên hông, soẹt một tiếng, chém đứt đôi chiếc guồng tơ.

Tiêu Phong mặt biến sắc, quát lớn:

- Ngươi … ngươi làm gì đó?

A Tử đáp:

- Cái guồng đó đụng làm đau tiểu muội, chặt nó đi thì đã sao?

Tiêu Phong giận dữ nói:

- Ngươi cút ra ngoài đi! Những đồ vật trong nhà này, ai cho ngươi tùy tiện phá hủy?

A Tử nói:

- Ra thì ra đã sao nào?

Nàng rảo bước đi ra, trong cơn cuồng nộ nên hơi vội, bình một tiếng trán đụng ngay vào khung cửa. A Tử chẳng nói chẳng rằng, đưa tay mò đường, hấp tấp đi ra. Tiêu Phong trong lòng ái ngại, liền bước ra đỡ tay nàng, nhỏ nhẹ nói:

- A Tử, em đụng có đau không?

A Tử quay người lại sà vào lòng ông, khóc nức nở. Tiêu Phong nhè nhẹ vỗ lên lưng cô gái, nói nhỏ:

- A Tử, ta thật không phải, mới rồi lớn tiếng nói nặng cô.

A Tử vẫn thút thít:

- Anh đổi khác rồi! Đổi khác rồi! Không còn tốt với em như xưa nữa.

Tiêu Phong dịu dàng nói:

- Thôi ngồi xuống nghỉ đi, uống chút trà, có được không?

Ông bưng chén trà của mình lên, để ghé vào miệng A Tử, tay trái vòng qua lưng nàng. Năm xưa khi A Tử bị ông đánh đứt gân cốt rồi, Tiêu Phong chăm chút cho nàng cả đến hơn một năm, không nói cho ăn cho uống, đến cả thay áo chải đầu, đại tiểu tiện cũng phải lo cho cô gái. Khi đó gân cốt nàng đã đứt không thể nào ngồi dậy được, mỗi khi cho nàng uống thuốc, ăn cháo, bao giờ tay trái cũng vòng qua hông, lâu dần thành thói, bây giờ cho nàng uống trà cũng một lối đó. A Tử nằm trong tay ông uống mấy ngụm trà, trong lòng sung sướng, bật cười khúc khích nói:

- Tỉ phu có còn xua đuổi em nữa hay thôi?

Tiêu Phong bỏ nàng ra, quay lại để chén trà xuống bàn, trong bóng đêm đột nhiên thấy một cặp mắt đầy oán độc, hung tợn như loài dã thú, trừng trừng nhìn mình. Tiêu Phong hơi ngạc nhiên, thấy Du Thản Chi ngồi thu lu một góc nhà, nghiến răng, mũi phập phồng, tưởng như muốn xông lên cắn xé mình. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Gã này không biết lai lịch ra sao nhưng mọi việc đều cực kỳ cổ quái”. Lại nghe A Tử nói tiếp:

- Tỉ phu, em chặt đứt cái guồng quay tơ, sao anh lại tức giận đến thế?

Tiêu Phong thở dài một tiếng nói:

- Đây chính là nhà của nghĩa phụ, nghĩa mẫu ta, ngươi chặt đứt chính là cái guồng quay tơ của mẹ nuôi ta đó.

Mọi người đều kinh ngạc. Tiêu Phong cầm con hổ nhỏ bằng gỗ lên, chăm chú nhìn. Dưới ánh đèn vàng vọt, cái bóng to cao của ông chiếu lên tường. Ông lấy ngón tay giữa và ngón tay trỏ vuốt ve món đồ chơi, vẻ mặt hết sức trìu mến nói:

- Con hổ này chính tay cha nuôi ta gọt cho ta, năm đó ta vừa lên năm, nghĩa phụ … khi đó ta gọi ông là gia gia … cũng ở dưới ánh đèn vàng như thế này, gọt cho ta con hổ gỗ. Má má ở bên cạnh se tơ, còn ta ngồi bên cạnh cha, thấy cái tai cái mũi con hổ gọt thành, trong lòng hết sức cao hứng …

Đoàn Dự hỏi:

- Đại ca cứu tiểu đệ đến đây phải không?

Tiêu Phong gật đầu:

- Đúng thế!

Thì ra khi nhà sư vô danh kia đang thuyết pháp, Cưu Ma Trí đột nhiên hạ độc thủ đả thương Đoàn Dự. Vô danh lão tăng liền phất tay áo, đẩy Cưu Ma Trí bật ra ngoài mấy trượng. Cưu Ma Trí không dám ở lại, quay mình chạy như bay xuống chân núi.

Tiêu Phong thấy Đoàn Dự bị thương nặng, vội vàng cứu chữa. Huyền Sinh liền lấy linh dược trị thương bôi lên vết thương. Hỏa Diễm Đao của Cưu Ma Trí thế đạo cực kỳ lăng lệ, nếu không phải Đoàn Dự nội lực thâm hậu, đao thế chạm vào ngực lập tức phát sinh ám kình đề ngự thì đã chết tươi ngay tại đương trường rồi.

Tiêu Phong thấy trên núi gió thổi mạnh, Đoàn Dự đã bị thương không nên ở ngoài gió, nên đã bồng chàng đến nơi mình ở xưa kia. Ông đặt Đoàn Dự nằm trên giường rồi lập tức quay lại định gặp phụ thân và sắp xếp cho mười tám võ sĩ Khất Đan, có ngờ đâu ngôi nhà bỏ không của cha mẹ nuôi mấy hôm nay lại có người ở, mà người đó với Đoàn Dự cũng từng quen biết.

Ông lên trở lại núi Thiếu Lâm thì mọi việc đã ổn thỏa. Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác sau khi được nhà sư vô danh điểm hóa Phật pháp đã qui y tam bảo, xuất gia tại chùa Thiếu Lâm. Hai người không những đã xóa hết oán thù mà nay còn là sư huynh đệ.

Võ học Thiếu Lâm của Tiêu Viễn Sơn chưa truyền sang nước Liêu, quần hùng Trung Nguyên vì thế cũng an lòng. Tiêu Phong không thấy bóng dáng cha đâu, mười tám võ sĩ Khất Đan được bộ thuộc cung Linh Thứu bảo vệ cũng bình an, không ai gia hại được. Các lộ anh hùng thấy mọi việc đã xong cũng lục tục hạ sơn. Tiêu Phong không muốn gặp ai để lại gây thêm tranh chấp nên trốn ở một cái hang bên cạnh chùa, đến chiều tối mới đến cửa chùa xin cầu kiến, xin được gặp phụ thân.

Tri khách tăng chùa Thiếu Lâm quay vào bẩm báo, một hồi sau quay trở ra nói:

- Tiêu thí chủ, lệnh tôn đã ở lại bản tự xuất gia làm sư rồi. Ông muốn ta chuyển cáo với thí chủ là việc trần duyên đã dứt, tâm đã giải thoát, thực là bình an vui vẻ, từ nay nhất tâm học Phật tham Thiền, xin thí chủ chẳng nên nhớ đến nữa. Tiêu thí chủ làm đại quan nước Liêu, chỉ mong sao Tống Liêu không bao giờ gậy chuyện can qua. Nếu như Liêu đế có bụng xâm lăng Đại Tống, xin thí chủ mở lòng từ bi nghĩ đến nghìn vạn sinh linh hai nước.

Tiêu Phong chắp tay đáp:

- Vâng!

Trong lòng cực kỳ bi thương nghĩ thầm: “Gia gia tuổi tác đã lớn, hôm nay không muốn gặp mặt ta nữa, e rằng từ nay không còn bao giờ gặp lại nhau”. Tiêu Phong lại nghĩ: “Ta là Nam Viện Đại Vương nước Đại Liêu, cả một dãy nam cương đều ở trong tay. Nếu như Đại Tống tính chuyện xâm lăng nước Liêu, ta dĩ nhiên phải điều binh khiển tướng chặn lại, còn như nếu hoàng thượng muốn phát binh đánh xuống Đại Tống thì ta cũng cực lực ngăn trở”.

Còn đang suy nghĩ đã nghe tiếng chân người rầm rập bảy tám lão tăng trong chùa đi ra trong đó gồm Thần Sơn thượng nhân, cùng bọn Triết La Tinh cao tăng bên ngoài. Huyền Tịch, Huyền Sinh mọi người hành lễ từ biệt, Ba La Tinh đứng ở sau lưng tất cả cùng chắp tay tiễn khách.

*

* *

Triết La Tinh nói:

- Sư đệ, ta trở về Thiên Trúc, hôm nay chia tay rồi cách xa nghìn trùng, không biết bao giờ mới có dịp gặp lại. Ngươi quyết ý không về cố hương, định ở cho tới chết già ở Trung Thổ hay sao?

Y dường như muốn cho các nhà sư Thiếu Lâm khỏi hồ nghi nên dùng tiếng Hoa nói chuyện với sư đệ. Ba La Tinh mỉm cười:

- Sư huynh sao vẫn còn chưa tham ngộ? Thiên Trúc cũng là Trung Thổ, Trung Thổ cũng là Thiên Trúc, chính là ý của Đạt Ma sư tổ khi đông lai.

Triết La Tinh hơi thảng thốt nói:

- Một lời của sư đệ đã khiến ta thức tỉnh. Ngươi không còn là sư đệ mà là sư phụ ta rồi.

Ba La Tinh cười đáp:

- Nhập môn có người trước kẻ sau, ngộ đạo có kẻ sớm người muộn. Sớm cũng tốt mà muộn cũng tốt, được tham ngộ lại càng tốt hơn.

Hai người nhìn nhau cười xòa. Tiêu Phong náu mình ở một bên, đợi cho Thần Sơn, Đạo Thanh, Triết La Tinh tất cả hạ sơn rồi, ông mới mon men đi phía sau. Mới được mấy bước thì có một người trong chùa đi ra, chính là Hư Trúc. Y trông thấy Tiêu Phong mừng rỡ vô cùng tiến đến gần nói:

- Tiểu đệ đang đi khắp nơi tìm đại ca, nghe nói tam đệ bị thương nặng, không hiểu thương thế ra sao?

Tiêu Phong đáp:

- Ta cứu y hạ sơn, để nằm trong một gia trang.

Hư Trúc hỏi:

- Thế thì mình cùng đi thăm y có được chăng?

Tiêu Phong đáp:

- Thế thì hay lắm, hay lắm.

Hai người sóng vai cùng đi, được mươi trượng thì bốn nàng Mai Lan Cúc Trúc ở trong rừng chạy ra, đi phía sau Hư Trúc. Hư Trúc cho Tiêu Phong hay chư nữ cung Linh Thứu cùng quần hào bảy mươi hai đảo, ba mươi sáu động đã xuống núi cả rồi, mười tám võ sĩ Khất Đan cũng đi cùng, xem chừng quần hào Trung Nguyên không dễ gì dám gây sự. Tiêu Phong lập tức tạ ơn, nghĩ thầm: “Vị nghĩa đệ của ta đây quả là kỳ lạ, do tam đệ thay ta kết bái kim lan chi giao, ngờ đâu đến khi hoạn nạn lại giúp sức thật nhiều”.

Hư Trúc cũng cho hay đã bắt Đinh Xuân Thu giao cho Giới Luật Viện chùa Thiếu Lâm giám quản, mỗi năm hai tiết Đoan Ngọ và tiết Trùng Dương, các nhà sư chùa Thiếu Lâm sẽ cho y uống thuốc của cung Linh Thứu để cho y khỏi bị Sinh Tử Phù phát tác. Cái mạng y ở trong tay người khác rồi, xem chừng không còn dám làm điều sai quấy nữa. Tiêu Phong vỗ tay cười ha hả nói:

- Nhị đệ đã trừ được một đại hại cho võ lâm. Gã Đinh Xuân Thu kia được Phật pháp điểm hóa, mai sau những điều xấu xa tàn ác bớt dần, không biết sẽ đi về đâu.

Hư Trúc vẫn rầu rĩ không vui nói:

- Tiểu đệ nguyện xuất gia nơi chùa Thiếu Lâm nhưng sư phụ sư tổ lại đuổi ra ngoài, còn gã Đinh Xuân Thu thương thiên hại lý, làm không biết bao nhiêu điều ác độc thì lại được ở chùa Thiếu Lâm thanh tu, sao cái nghiệp báo sướng khổ hai người lại chẳng giống nhau?

Tiêu Phong mỉm cười nói:

- Nhị đệ, ngươi mong được như Đinh lão quái nhưng Đinh lão quái còn mong gấp trăm gấp nghìn lần để được như ngươi. Ngươi thân là chủ nhân cung Linh Thứu, thống suất ba mươi sáu động chủ, bảy mươi hai đảo chủ, uy chấn thiên ha, sao lại bảo là không hay?

Hư Trúc lắc đầu:

- Trong cung Linh Thứu toàn là đàn bà con gái, tiểu đệ chỉ là một chú tiểu, ở chung với họ thật cực kỳ bất tiện.

Tiêu Phong cười ha hả nói:

- Ngươi vẫn còn là tiểu hòa thượng hay sao?

Hư Trúc lại tiếp:

- Cái bọn tâng bốc bợ đỡ phái Tinh Tú vẫn cứ luẩn quẩn bên tiểu đệ, không biết làm sao đuổi được chúng đi.

Tiêu Phong đáp:

- Những kẻ đó không phải bẩm tính trời sinh như thế, chỉ vì làm môn hạ lão quái mà ra, nếu không tâng bốc bợ đỡ thì khó lòng mà sống được. Nhị đệ, từ rày ngươi cố gắng quản giáo, nếu họ vẫn khăng khăng không chịu đổi thay, lúc đó hãy tống cổ đi cũng vừa.

Hư Trúc nghĩ đến cha mẹ mình trong một ngày đã tìm ra được nhưng lại rồi cùng chết cả, lại càng bi thương, nhịn không nổi lệ nhỏ ròng ròng. Tiêu Phong an ủi:

- Nhị đệ, những việc không vừa ý trên đời này rất nhiều. Năm xưa ta bị trục xuất khỏi Cái Bang, anh hùng hào kiệt khắp thiên hạ ai ai cũng muốn giết ta cho rảnh, trong lòng ta hết sức chua xót, sau một thời gian từ từ rồi cũng nguôi ngoai.

Hư Trúc chợt nói:

- Đúng thế! Đúng thế! Năm xưa đức Như Lai thuyết pháp trong thành Vương Xá nơi núi Linh Thứu, như vậy hai chữ Linh Thứu cũng có liên quan đến Phật pháp. Rồi cũng có ngày tiểu đệ sẽ đổi cung Linh Thứu thành chùa Linh Thứu, dạy cho các bà bà, tẩu tẩu, cô nương thành ni cô hết thảy.

Tiêu Phong ngửa mặt cười sằng sặc nói:

- Trong chùa hòa thượng lại đầy ni cô, quả là chưa hề nghe nói đến.

Hai người vừa đi vừa nói, đến nhà Kiều Tam Hòe vùa đúng lúc Du Thản Chi đang định móc mắt Chung Linh nên may mà ngăn lại kịp. Đoàn Dự hỏi:

- Đại ca, nhị ca có thấy gia gia của đệ không?

Tiêu Phong đáp:

- Về sau thì không gặp lại nữa.

Hư Trúc nói:

- Trong khi hỗn loạn quần hùng tứ tán khắp nơi, tiểu huynh không kịp đến bái kiến lão bá, quả thực thất lễ.

Đoàn Dự đáp:

- Nhị ca chẳng phải khách sáo. Gã Đoàn Diên Khánh kia là đại đối đầu của gia đình tiểu đệ, chỉ sợ y sẽ làm khó cho gia gia của đệ thôi.

Tiêu Phong nói:

- Việc đó không thể không lo, thôi để ta đi tìm lão bá có gì tiếp ứng.

A Tử chen vào:

- Sao tỉ phu cứ luôn mồm lão bá, tiểu bá, chẳng gọi một tiếng “nhạc phụ đại nhân”?

Tiêu Phong thở dài:

- Đây chính là mối hận một đời của ta đó, còn có gì để nói đâu?

Nói xong ông đứng lên định ra khỏi phòng. Khi đó Mai Kiếm vừa bưng một bát cháo gà vào phòng định đút cho Đoàn Dự ăn, nghe mọi người nói thế bèn nói:

- Tiêu đại hiệp không phải nhọc công đi tìm nữa, để tì tử truyền hiệu lệnh của chủ nhân, sai thuộc hạ cung Linh Thứu truy tầm bốn phía, nếu thấy Đoàn Diên Khánh có ý hành hung thì lập tức bắn pháo bông làm hiệu, mình sẽ chạy tới cứu viện, liệu có được không?

Tiêu Phong mừng rỡ đáp:

- Hay lắm! Cung Linh Thứu thuộc hạ cả hơn nghìn người, chia nhau ra lo liệu so với chúng ta chỉ có vài người thì hẳn hơn nhiều.

Thế rồi Mai Kiếm lập tức ra lệnh. Các bộ của cung Linh Thứu liên lạc với nhau cực kỳ mau chóng, Hư Trúc vừa đến nhà của Kiều Tam Hòe thì chư nữ thuộc Huyền Thiên Bộ do Phù Mẫn Nghi tất lãnh đã biết rồi, liền chạy đến gần đó, ngầm bảo vệ.

Đoàn Dự vì thế cũng đỡ lo, lại nhớ đến Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Trong lòng nàng hận ta biết chừng nào, chỉ e sau này gặp lại không thèm nhìn mặt mình nữa”. Nghĩ đến đây tự nhiên thở dài một tiếng.

Chung Linh hết sức quan hoài liền hỏi:

- Dự ca vết thương lại đau ư?

Đoàn Dự đáp:

- Cũng không đau lắm.

A Tử nói:

- Chung cô nương, tuy cô thích tiểu ca ca ta thật nhưng đâu có biết được tâm sự của y. Ta xem tấm lòng tương tư của cô rồi cũng chẳng đến đâu hết.

Chung Linh nói:

- Ta đâu có thèm nói chuyện với ngươi, sao lại xía vào làm gì?

A Tử cười đáp:

- Ta chẳng thèm xía vào, cũng chẳng có liên can chi hết. Chỉ e rằng có người xinh đẹp gấp mười ngươi, dịu dàng gấp mười ngươi, hấp dẫn gấp mười ngươi xen vô, lúc đó anh hai ta chẳng còn nhớ gì đến ngươi nữa. Ca ca ta vì cớ gì thở dài, ngươi không biết hay sao? Thở dài là bởi trong lòng có chỗ chưa vừa ý. Ngươi được săn sóc ca ca ta, trong lòng vui sướng lắm rồi nên mới không thở dài. Còn anh hai ta thở lên thở xuống, cũng bởi vì nghĩ đến người khác.

A Tử không còn cách gì móc mắt Chung Linh được nên lấy lời châm chọc, miễn sao cho nàng đau lòng mới hả dạ. Chung Linh nghe nói thế, hết sức tức tối, nhưng nghĩ lại lời cô ta quả không sai, bao nhiêu bực bội biến thành buồn phiền. Cũng may tuổi nàng còn nhỏ, vốn dĩ ngây thơ hoạt bát, tuy đối với Đoàn Dự có mối thâm tình nhưng cũng chưa đến nỗi khắc ghi trong xương tủy, chỉ sao được ở cùng một chỗ với tình lang là đã thoải mái lắm rồi, trong lòng Đoàn Dự nghĩ đến người khác, không nhớ đến mình, tuy đau lòng thật nhưng ngoài chuyện đó ra cũng không đến nỗi nào.

Đoàn Dự vội nói:

- Chung … Chung … Linh muội muội, cô đừng có nghe A Tử nhắm mắt đoán mò.

Chung Linh nghe Đoàn Dự gọi mình là muội muội chứ không còn là Chung cô nương, đủ biết thân mật chừng nào, mặt mày tươi như hoa bèn nói:

- Cô ta thích châm chọc người khác, em cũng chẳng thèm để ý.

A Tử nổi giận đùng đùng, từ khi mắt nàng mù đến nay, ghét nhất ai nhắc đến chữ “mắt”, chữ “mò”, thà rằng Đoàn Dự bảo nàng nói nhăng, nói ẩu thì nàng chỉ cười ruồi, nào ngờ lại dùng mấy chữ “nhắm mắt đoán mò”, bèn hỏi:

- Nè anh hai, quả thực ca ca thích Vương cô nương hơn hay thích Chung cô nương hơn? Vương cô nương đã ước hẹn với tiểu muội, để khi gặp lại anh sẽ chính miệng nói ra hay để em phải nói?

Đoàn Dự nghe nói thế, lập tức nhỏm dậy hỏi dồn:

- Cô có ước hẹn gặp lại Vương cô nương sao? Ở nơi nào? Bao giờ? Có chuyện gì phải nói?

Chỉ cần xem bộ dạng anh chàng bồn chồn như thế, chẳng cần nói thêm, Chung Linh đã hiểu ngay trong bụng Đoàn Dự thế nào, Vương cô nương kia quả hơn mình không biết bao nhiêu lần. Nàng xưa nay bụng dạ rộng rãi, trước kia tuy có lúc tha thiết thật nhưng đến lúc này cũng đã nhạt nhòa. Nếu như Vương Ngữ Yên ở vào địa vị nàng, thấy ý trung nhân yêu thương người khác, ắt sẽ đau lòng muốn chết quách cho xong, Mộc Uyển Thanh thì sẽ bắn ngay cho Đoàn Dự một mũi tên, A Tử thì sẽ tìm cách giết chết đối thủ. Chung Linh chỉ nói:

- Đừng cử động, cẩn thận không vết thương lại vỡ ra, chảy máu nữa.

Hư Trúc ở bên cạnh nghe ba người nói, nghĩ thầm: “Chung cô nương đối với tam đệ tình ý thân mật thế, chắc không phải là Mộng Cô của mình. Nếu không khi cô ta nghe giọng của mình, sao chẳng có gì khác lạ cả?”. Chợt y nghĩ lại bèn kêu thầm: “Chết rồi! Không phải! Đồng Mỗ sư bá, Lý Thu Thủy sư thúc, cho chí Dư bà, Thạch tẩu, Phù cô nương … tất cả đàn bà con gái, người nào người nấy bụng dạ khôn lường, khác xa với đám đàn ông con trai. Không chừng Chung cô nương quả là Mộng Cô, đã sớm nhận ra ta rồi nhưng chỉ chôn sâu trong dạ”.

Còn Đoàn Dự thì vẫn cứ hỏi tới xem A Tử ước hẹn với Vương Ngữ Yên gặp nhau ở đâu. A Tử thấy anh chàng nôn nao như thế, tính toán trong bụng xem làm sao đùa rỡn anh ta một phen, có khi được lợi không chừng, thành thử cứ thuận mồm đưa đẩy.

Lan Kiếm quay trở vào báo, cho hay Huyền Thiên Bộ đã truyền lệnh ra rồi xin Đoàn Dự cứ yên tâm. Đoàn Dự nói:

- Đa tạ tỉ tỉ nhọc lòng, tại hạ cảm kích không đâu cho hết.

Lan Kiếm thấy chàng ở ngôi vị vương tử nước Đại Lý tôn quí như thế nhưng lời ăn tiếng nói, hành động cử chỉ không ra vẻ gì ta đây, tự nhiên sinh lòng mến mộ, lại nghe Đoàn Dự hỏi dò A Tử về việc ước hẹn, nhịn không nổi xen vào:

- Đoàn công tử, cô em công tử nói đùa chơi với ông đấy thôi, chớ có coi là thật.

Đoàn Dự hỏi:

- Sao tỉ tỉ lại biết xá muội nói đùa?

Lan Kiếm cười đáp:

- Nếu tiểu tì nói ra e rằng Đoàn cô nương sẽ bảo là tiểu tì lắm lời, cũng không biết chủ nhân có cho phép hay chăng?

Đoàn Dự vội quay sang Hư Trúc:

- Nhị ca cho cô ta nói đi.

Hư Trúc gật đầu nói với Lan Kiếm:

- Tam đệ và ta đâu còn phân biệt ai với ai, các cô chớ có dấu diếm điều gì.

Lan Kiếm nói:

- Mới đây chúng tôi thấy cả bọn Mộ Dung công tử cùng nhau xuống núi Thiếu Thất, nghe họ bàn nhau đi qua Tây Hạ, Vương cô nương cũng đi theo biểu ca, khi đó cũng đã cách xa đến vài chục dặm làm sao ngày mai còn gặp Đoàn cô nương được nữa?

A Tử gắt lên:

- Đồ nha đầu thối tha, đã biết ta sẽ bảo ngươi lắm chuyện sao còn nói ra? Bốn chị em ngươi toàn là lũ hay thèo lẻo, chủ nhân nói chuyện, chẳng biết qui củ là gì dám ghé vào nói leo.

Bỗng nhiên từ ngoài cửa sổ có tiếng con gái vọng vào:

- Đoàn cô nương sao dám la mắng tỉ tỉ bọn ta? Chìa khóa Thần Nông Các trên cung Linh Thứu do ta chưởng quản, cô nương có biết chăng? Chủ nhân muốn tìm phương cách chữa mắt cho cô nương, không thể không đến Thần Nông Các lục tìm sách vở để chế tác thuốc men.

Người nói đó chính là Trúc Kiếm. A Tử chột dạ nghĩ thầm: “Con xú a đầu này xem chừng nói thật, trước khi thằng cha sư chết toi Hư Trúc chữa mắt cho ta, mình không nên đắc tội với mấy đứa đầy tớ của hắn, khiến chúng giở quẻ ngầm thay mấy món thuốc thì mắt mình hết đường chữa. Hừ hừ, để khi mắt ta trị xong rồi sẽ cho chúng bay biết tay A Tử”. Cô nàng bèn ngồi yên không nói gì nữa.

Đoàn Dự nói với Lan Kiếm:

- Đa tạ tỉ tỉ đã cho hay. Bọn họ đi Tây Hạ ư? Không biết để làm gì thế?

Lan Kiếm đáp:

- Tiểu tì cũng không nghe họ nói gì về việc này.

Hư Trúc nói:

- Tam đệ, việc này thì ta biết. Ta nghe Công Dã tiên sinh nói với các trưởng lão Cái Bang là trên đường đi có gặp một đệ tử Cái Bang từ Tây Hạ trở về Trung Thổ, mang theo một trương bảng văn của quốc vương Tây Hạ, thông tri là công chúa nước này đã đến tuổi cập kê nên định vào ngày Trung Thu tháng tám năm nay kén rể. Nước Tây Hạ lập quốc bằng cánh cung vó ngựa nên mời anh hùng hào kiệt thiên hạ đến biểu diễn võ công để quốc vương có dịp tuyển được một phò mã tài mạo song toàn.

Mai Kiếm nhịn không nổi lại chen vào:

- Sao chủ nhân không đến Tây Hạ thử một phen? Chỉ cần Tiêu đại hiệp và Đoàn công tử không tranh giành thì cái chức phò mã gia quả dễ như trở bàn tay.

Mai Lan Cúc Trúc bốn nàng tính tình vốn dĩ lí lắt, Đồng Mỗ vẫn coi các cô chẳng khác gì con cái trong nhà, tuy danh nghĩa là chủ tớ nhưng tình nghĩa thì chẳng khác gì bà với cháu. Có điều Đồng Mỗ tính tình nghiêm nghị, mỗi khi gặp chuyện chẳng vừa lòng liền trừng phạt ra oai ngay thành thử bốn chị em lúc nào cũng nơm nớp không dám phóng túng. Còn Hư Trúc tính tình lại thật hiền hòa, bình thời ở gần họ chẳng có chút gì ra vẻ chủ nhân tôn nghiêm, vừa giản dị lại vừa kính trọng bọn họ, thành thử các cô nghĩ sao nói vậy, chẳng còn e ngại gì nữa.

Hư Trúc liên tiếp xua tay nói:

- Không đi đâu! Không đi đâu! Ta là người xuất gia …

Y thuận mồm nói ra là kẻ tu hành nhưng chưa dứt câu mặt đã đỏ ửng, đưa mắt nhìn trộm Chung Linh một cái, thấy nàng đang ngẩn ngơ nhìn Đoàn Dự, dường như không để ý gì đến câu nói của mình. Bỗng dưng lòng y lại nghĩ: “Nếu mình đi qua Tây Hạ, ta … ta và Mộng Cô vốn gặp nhau ở hầm băng trong hoàng cung, Mộng Cô không chừng hiện cũng đang ở Linh Châu, tam đệ không nói cho ta hay nàng đang ở nơi nào, sao mình không qua Tây Hạ nghe ngóng xem sao?”.

Y vừa tính như thế thì Đoàn Dự đã lên tiếng:

- Nhị ca, cung Linh Thứu và nước Tây Hạ rất gần nhau, cũng cùng đường về, sao mình không nhân tiện đi Tây Hạ một chuyến? Cái vị tỉ tỉ chẳng biết là gì Kiếm kia … ấy chết xin lỗi, bốn cô tướng mạo giống nhau quá, quả thực tại hạ không thể nào phân biệt … vị tỉ tỉ kia bảo nhị ca đi ứng tuyển phò mã, tuy nghe như nói đùa nhưng nghĩ ra ngày rằm tháng tám, hào kiệt bốn phương tụ tập ở Linh Châu, chắc là náo nhiệt lắm.

Đại ca cũng chẳng cần phải trở về Nam Kinh gấp, tất cả chúng mình cùng đi Tây Hạ du ngoạn, sau đó quay trở lại cung Linh Thứu thưởng thức rượu ngon trăm năm của Thiên Sơn Đồng Mỗ, thực là một dịp vui biết mấy. Hôm trước tiểu đệ ở Linh Thứu Cung cùng nhị ca hai người uống một trận sau khướt, quả là khoái hoạt.

Khi Tiêu Phong đi lên núi Thiếu Thất, mười tám tên võ sĩ Khất Đan đều mang theo liệt tửu thế nhưng lúc này các võ sĩ không có mặt nơi đây, ông đã lâu chưa uống rượu, nghe Đoàn Dự nhắc đến bách niên giai nhưỡng của Thiên Sơn Đồng Mỗ trên cung Linh Thứu không khỏi ứa nước dãi, góc miệng nhếch một nụ cười.

A Tử chen vào:

- Đi, đi thôi! Tỉ phu, thôi tất cả mình cùng đi nha.

Nàng biết rằng muốn chữa lành mắt mình thì phải theo Hư Trúc lên cung Linh Thứu nhưng nếu không có Tiêu Phong che chở cho mình thì Hư Trúc dù có muốn chữa cũng bị bốn cô ả thủ hạ mồm năm miệng mười làm khó, không khỏi đêm dài lắm mộng. Nàng nghe Tiêu Phong trầm ngâm không trả lời nghĩ thầm: “Tỉ phu bề ngoài thô hào nhưng trong lòng cực kỳ tinh tế, hẳn anh ta đã biết rõ dụng tâm của mình, chi bằng nói thẳng ra cầu xin thì mới dễ nhận lời”. Nghĩ thế nàng bèn đứng lên, nắm vạt áo Tiêu Phong lắc lắc mấy cái năn nỉ:

- Tỉ phu, nếu anh không đưa em lên cung Linh Thứu, thì em … thì em mãi mãi không bao giờ còn được thấy ánh mặt trời.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Việc chữa sáng đôi mắt cho cô ta quả là một việc lớn”. Rồi lại tính toán: “Ta ở Đại Liêu chức vị tuy cao thật nhưng chung quanh chẳng có bạn bè nào mà nói chuyện. Hào kiệt Trung Nguyên thì mình đắc tội đã nhiều, cũng may kết giao được với hai người huynh đệ khẳng khái hào hiệp, ở với nhau thêm vài hôm cũng là đại khoái sự. Vả lại mình đã kiếm được A Tử rồi, bây giờ dù có trở về Nam Kinh cũng không có việc gì làm, thật chán muốn chết”. Ông bèn nói:

- Được, nhị đệ, tam đệ, tất cả chúng mình đi Tây Hạ một chuyến, sau đó sẽ lên Linh Thứu Cung, uống vài ngày cho đã đời rồi nhờ nhị đệ chữa mắt cho Đoàn cô nương.

Hôm sau tất cả cùng lên đường. Hư Trúc lại đến sơn môn chùa Thiếu Lâm khấu đầu vái lạy, lẩm nhẩm khấn tạ ân đức tổ sư và công lao của chư tăng dưỡng dục hơn hai mươi năm trời cùng vong linh phụ thân Huyền Từ và mẫu thân Diệp Nhị Nương.

Khi xuống chân núi thì chư nữ cung Linh Thứu đã chuẩn bị xe lừa để cho Đoàn Dự và Du Thản Chi nằm trong xe dưỡng thương. Du Thản Chi trong lòng tức tối lắm nhưng đành bấm bụng chịu đựng vì không đành chia tay với A Tử. Giá như A Tử thỉnh thoảng vén rèm xe lên, nói với y một hai câu thì cũng đủ khiến y lên tinh thần một hồi lâu, khổ nỗi A Tử lại cưỡi ngựa, khi trước khi sau nhưng lúc nào cũng ở bên cạnh Tiêu Phong. Du Thản Chi trong bụng khó chịu lắm nhưng đâu có dám tỏ vẻ không vui với A Tử.

Đi được hai ngày, quần nữ trong cung Linh Thứu dần dần tụ lại. Thủ lãnh Loan Thiên Bộ bẩm với Hư Trúc và Đoàn Dự rằng họ đã gặp Trấn Nam Vương, cho ông hay thương thế Đoàn Dự đã đỡ nhiều, không có gì phải lo lắng. Trấn Nam Vương yên tâm nhờ Loan Thiên Bộ nói với Đoàn Dự mau sớm trở về Đại Lý. Chư nữ Loan Thiên Bộ lại nói:

- Đoàn người của Trấn Nam Vương đi về hướng đông bắc, còn Đoàn Diên Khánh, Nam Hải Ngạc Thần và Vân Trung Hạc lại đi về hướng tây hai bên không thể nào chạm mặt được.

Đoàn Dự mừng lắm, cảm ơn chư nữ Loan Thiên Bộ. Chung Linh hỏi Đoàn Dự:

- Lệnh tôn muốn công tử trở về Đại Lý nhưng sao chính họ lại đi về phía đông bắc là sao?

Đoàn Dự mỉm cười, chưa kịp trả lời, A Tử đã cười nói:

- Gia gia chắc là bị mẹ em giữ rịt lấy rồi, không cho về Đại Lý nữa. Chung cô nương nếu như định giữ rịt trái tim ca ca ta thì phải học cách của má má ta.

Hai ngày qua, Đoàn Dự suy đi tính lại, mấy lần toan nói rõ cho Chung Linh hay nàng chính là em gái mình, nhưng thấy chuyện này nói ra quả là xấu mặt, đã làm Chung Linh đau lòng lại tổn hại đến thanh danh phụ thân nên nghĩ bụng tạm không nói ra là hơn.

Chung Linh cũng biết rõ Đoàn Dự sở dĩ muốn đến Tây Hạ chẳng qua cũng chỉ mong gặp lại cái cô nàng họ Vương kia, thế nhưng ngày ngày nàng được kề cận bên Đoàn Dự cũng thỏa tâm nguyện nên không cần nghĩ đến ngày sau khi Đoàn Dự và Vương cô nương gặp nhau thì sẽ ra sao, còn những lời chua ngoa khích bác của A Tử nàng chỉ bỏ ngoài tai.

Khi đó trời đang lúc viêm nhiệt, trưa đến nắng chang chang, cũng may còn lâu mới tới Trung Thu, đoàn người chỉ đi lúc sáng sớm và khi chiều tối, mỗi ngày chỉ được sáu bảy chục dặm còn thì phải nghỉ. Đi đường xa đâu phải chỉ một ngày, thương thế Đoàn Dự khỏi rất nhanh. Hư Trúc ghép xương gãy lại cho Du Thản Chi, dùng kẹp ép hai bên buộc chặt xem ra cũng có cơ hồi phục. Du Thản Chi không nói chuyện với ai, đến Hư Trúc chữa chân cho y mà chỉ lầm lầm lì lì đến tiếng “cảm ơn” cũng không mở miệng.

Hôm đó đoàn người đi đến đường cũ Hàm Dương, Đoàn Dự kể cho bọn Tiêu Phong nghe chuyện xưa kia Lưu Bang, Hạng Vũ tranh bá như thế nào. Tiêu Phong và Hư Trúc không từng đọc sách, nghe Đoàn Dự giơ roi thuật lại các anh hào đời trước cảm thấy cực kỳ hứng thú.

Đột nhiên có tiếng vó ngựa rầm rập, từ phía sau có hai người cưỡi ngựa vượt qua. Bọn Tiêu Phong giục ngựa tránh qua bên vệ đường nhường đường cho họ. Riêng A Tử còn đứng sừng sững giữa đường, đợi đến khi hai con ngựa kia chạy đến sau lưng mới vung roi quất một cái đánh vào đầu con ngựa vừa chạy đến.

Người cưỡi ngựa giơ roi lên cản roi A Tử lại, miệng kêu lên:

- Đoàn công tử, Tiêu đại hiệp!

Đoàn Dự quay lại nhìn, hóa ra là Ba Thiên Thạch, người phía sau là Chu Đan Thần. Ba Thiên Thạch giơ roi hất mã tiên của A Tử ra rồi cùng Chu Đan Thần nhảy xuống, quay về phía Đoàn Dự lạy phục xuống. Đoàn Dự cũng vội vàng xuống ngựa hoàn lễ hỏi:

- Cha ta bình an chứ?

Chỉ nghe vút một tiếng, A Tử lại vung roi đánh xuống đầu Ba Thiên Thạch. Ba Thiên Thạch chưa kịp đứng lên,thân hình nghiêng qua, một bên vẫn còn quì dưới đất. A Tử đánh không trúng, Ba Thiên Thạch đầu gối ấn xuống, chặn đầu roi lại. A Tử cố sức giựt ra nhưng không sao nhúc nhích. Nàng biết rằng nội lực mình không thể nào bì kịp đối phương, lập tức vung tay lên ném chiếc cán roi vào đầu Ba Thiên Thạch.

Ba Thiên Thạch ghét cô ta chọc cho Chử Vạn Lý tức quá mà chết, vốn đã có bụng trừng trị một mẻ, ngờ đâu mắt nàng tuy mù rồi nhưng hành động cực kỳ cơ biến, cán roi đến thật nhanh, Ba Thiên Thạch vừa nghe hơi gió, vội nghiêng đầu tránh qua, tuy không trúng mặt nhưng cạch một tiếng, cán roi cũng trúng ngay vai.

Đoàn Dự quát lớn:

- Tử muội, không được phá rối.

A Tử đáp:

- Tiểu muội có phá rối gì đâu? Y muốn lấy roi của ta thì ta cho y đấy chứ.

Ba Thiên Thạch cười hì hì nói:

- Đa tạ cô nương ban cho cây roi.

Y đứng lên lấy trong túi ra một phong thư, hai tay trình cho Đoàn Dự. Đoàn Dự cầm lấy nhìn qua thấy trên đề ba chữ: “Dự nhi lãm”, chính là thủ bút của phụ thân vội vàng hai tay nâng lên, sửa lại áo quần, cung kính mở ra, thấy trong đó Trấn Nam Vương bảo chàng đi qua Tây Hạ, nếu có cơ duyên thì tìm cách lấy công chúa nước này làm vợ. Trong thư viết:

Nước Đại Lý ta lánh riêng một cõi Nam cương, quốc tiểu binh nhược, khó lòng mà kháng cự ngoại địch, nếu như kết làm xuôi gia với Tây Hạ thì được thêm một cường viện, là thượng sách giữ đất an dân. Con phải coi cơ nghiệp tổ tông là quí, lấy xã tắc bách tính làm trọng mà ra sức làm cho xong.

Đoàn Dự đọc hết lá thư rồi, mặt lúc thì đỏ, lúc thì trắng, bẽn lẽn nói:

- Cái đó … cái đó …

Ba Thiên Thạch lại lấy ra một phong thư lớn, trên bao thư đóng dấu đỏ chót: Đại Lý Quốc Hoàng Thái Đệ Trấn Nam Vương Bảo Quốc Đại Tướng Quân, nói:

- Đây là biểu cầu thân do chính tay vương gia viết, sau khi đến Linh Châu xin công tử trình lên hoàng đế Tây Hạ.

Chu Đan Thần cũng cười mủm mỉm nói:

- Xin chúc công tử mã đáo thành công, cưới một cô công chúa như hoa tựa ngọc về Đại Lý để cho giang sơn nước nhà được vững như bàn thạch.

Đoàn Dự ngượng ngùng hỏi lại:

- Sao gia gia lại biết là ta đi sang Tây Hạ?

Ba Thiên Thạch đáp:

- Vương gia được tin Mộ Dung công tử đi sang Tây Hạ cầu thân, liệu rằng công tử … cũng … cũng đi qua để xem trò náo nhiệt. Vương gia dặn rằng, công tử phải xem chuyện quốc gia đại sự làm trọng, lấy tư tình nhi nữ làm khinh.

A Tử cười khúc khích nói:

- Thiệt đúng là biết con không ai bằng cha. Gia gia nghe tin Mộ Dung Phục qua Tây Hạ, chắc là Vương cô nương cũng đi cùng, đứa con trai cưng của ổng hẳn là lót tót đằng sau. Hứ, kèo vênh thì cột cũng lệch, chính ông ta cũng có lấy quốc gia đại sự làm trọng, tư tình nhi nữ làm khinh đâu? Cớ sao ông ấy cũng đi mất đất, bao lâu nay không về Đại Lý?

Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần, Đoàn Dự nghe thấy A Tử mở lời bất kính với cha ruột của mình như thế, ai nấy mặt mày biến sắc. Những điều cô ta nói tuy là chuyện thực nhưng đời ai phận con gái lại mở miệng nói điều không phải của cha ra?

A Tử lại tiếp:

- Ca ca, trong thư gia gia còn viết gì nữa? Có nhắc gì đến em không?

Đoàn Dự đáp:

- Gia gia đâu có biết cô cũng ở chung với ta.

A Tử đáp:

- Xí, vậy đó, ông ấy không biết. Thế gia gia có dặn ca ca đi tìm em không? Có dặn dò anh tìm cách lo liệu cho đứa em gái đui mù không?

Trong thư Đoàn Chính Thuần đâu có đề cập những chuyện đó nhưng Đoàn Dự nghĩ như nếu mình nói thẳng ra không khỏi đau lòng cô em, bèn quay sang đưa mắt cho Ba Chu hai người để họ thừa nhận phụ vương có ra lệnh cho mình đi tìm A Tử. Ngờ đâu Ba Chu hai người làm như không hiểu nên không hùa theo. Chu Đan Thần nói:

- Trấn Nam Vương bảo hai chúng tôi đi theo phục thị công tử, để công tử gia sai bảo cốt làm sao lấy được công chúa nước Tây Hạ. Nếu không khi trở về Đại Lý, dẫu vương gia không trách tội thì chúng tôi cũng chẳng còn mặt mũi nào mà trông thấy ai.

Lời nói đó ám chỉ Đoàn Chính Thuần sai hai người đi theo giám thị Đoàn Dự, không thể không đi Tây Hạ ứng tuyển phò mã. Đoàn Dự gượng cười nói:

- Ta vốn không biết võ công, lại thêm trọng thương mới khỏi, chân khí không đề lên được, làm sao sánh được với anh hùng hảo hán trong thiên hạ.

Ba Thiên Thạch quay sang khom mình thi lễ với Tiêu Phong, Hư Trúc nói:

- Trấn Nam Vương sai tiểu nhân bái kiến Tiêu đại hiệp, Hư Trúc tiên sinh xin hai vị niệm tình kết nghĩa kim lan, giúp cho công tử chúng tôi một tay. Trấn Nam Vương cũng nói: “Trên núi Thiếu Thất lật đật vội vã nên không kịp gần gũi thăm hỏi hai vị, thật là thiếu sót” nên đặc biệt sai tiểu nhân dâng lên chút lễ bạc.

Nói xong lấy ra một con sư tử chạm bằng bích ngọc hai tay đưa cho Tiêu Phong. Chu Đan Thần cũng lấy ra một chiếc quạt xếp làm bằng ngà voi, trên có thư pháp của Đoàn Chính Thuần, trình lên Hư Trúc.

Hai người cảm ơn nhận lấy cùng nói:

- Việc của tam đệ, chúng tôi dĩ nhiên hết sức tương trợ, chẳng cần Đoàn bá phụ phải dặn dò! Được ban cho vật quí thế này, thật quả không dám.

A Tử nói:

- Bộ mấy người tưởng gia gia tốt bụng đó hả? Đó là biểu hai người đừng có giành chức phò mã của anh hai đó. Gia gia sợ cục cưng không đánh lại hai người, hai người nhận lời ấy là mắc vô cái rọ của gia gia.

Tiêu Phong thở hắt ra một hơi nói:

- Từ khi chị ngươi chết đi, ta nào có nghĩ đến chuyện lấy ai được nữa?

A Tử đáp:

- Ngoài miệng thì anh nói vậy nhưng biết anh bụng dạ thế nào? Hư Trúc tiên sinh, ông trung hậu thực thà, không phải như anh hai tôi phong lưu hiếu sắc, đáo xứ lưu tình, trước nay ông chưa hề có tình ý với cô nương nào, qua lấy công chúa Tây Hạ đi chẳng phải hay lắm sao?

Hư Trúc mặt đỏ bừng, liên tiếp xua tay:

- Không! Không! Ta … ta quyết không đâu, ta và đại ca giúp cho tam đệ hoàn thành việc cầu thân.

Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần hai người nhìn nhau, quay sang bái tạ Tiêu Phong và Hư Trúc nói:

- Đa tạ hai vị đáp lời.

Trong võ lâm khi một lời đã nói ra thì ngựa tứ cũng không đuổi kịp, Tiêu Phong và Hư Trúc cùng nhận tương trợ rồi thì dẫu có chuyện gì, Ba Chu hai người cũng không sợ họ nuốt lời đứng ta tranh giành với Đoàn Dự.

Đoàn người đi về hướng tây càng lúc càng gần thành Linh Châu, trên đường người trong võ lâm càng lúc càng gặp thêm nhiều. Tây Hạ tuy cương thổ so với Đại Liêu, Đại Tống có nhỏ hơn thật nhưng cũng là một nước lớn ở biên thùy, khi đó quốc vương nước này đã xưng đế, đương kim hoàng đế là Lý Càn Thuận, sử gọi là Sùng Tông Thánh Văn Đế niên hiệu Thiên Hựu An Dân, thời đó quốc thái dân an, triều chính thanh bình.

Người trong võ lâm nếu như lấy được công chúa Tây Hạ, vinh hoa phú quí thật dễ dàng, trên đời còn gì hơn được nữa? Có điều trong võ lâm nhân vật thành danh phần lớn đã lấy vợ sinh con, còn những thanh niên mới lớn thì võ công lại chẳng cao nên không hiếm lão niên anh hùng dẫn dắt con cháu đệ tử, đi thử vận may xem sao. Cũng vô số cướp sông cướp biển, hào khách bang hội, một thân một mình tuy chẳng một mảy hi vọng gì cũng nườm nượp hướng về phía thành Linh Châu. Không hiếm người nhủ thầm: “Nhân duyên một sợi xích thằng, Trời già đã buộc ai giằng cho ra. Biết đâu chừng mình có số lấy được công chúa Tây Hạ, chó ngáp phải ruồi, võ công không thắng được người khác nhưng hai người có duyên, gặp ta vừa mắt thế là có hi vọng làm phò mã gia”.

Trên đường đi vô số anh hào trẻ tuổi, ai nấy áo quần tươm tất, đến binh khí dụng cụ cũng đều sang trọng, tưởng như đi thi võ không bằng. Người đời vẫn nói: Nghèo học văn, giàu học võ, con nhà võ phần lớn nhà cửa khá giả, những kẻ phẩm hạnh không đoan chính thì tiền bạc lại càng dễ dàng, thành thử đi qua Tây Hạ mười người đến chín y phục hoa lệ, mong được lọt vào mắt xanh của công chúa. Những người quen biết, gặp nhau chọc ghẹo xong, không thể không dò hỏi xem dung mạo công chúa thế nào, võ nghệ cao hay thấp. Còn người không quen thì trừng mắt hầm hầm nhìn nhau, coi người kia như kẻ thù.

Hôm đó bọn Tiêu Phong đang đi trên đường bỗng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, một con ngựa từ trước mặt chạy đến, người trên lưng ngựa cánh tay phải treo bằng một mảnh vải trắng vòng lên cổ, quần áo tả tơi, trông thật thảm hại. Bọn Tiêu Phong không để tâm nghĩ bụng người này nếu không phải là té ngã thì cũng bị ai đó đả thương, chuyện đó cũng là bình thường. Ngờ đâu thêm một hồi nữa, lại có thêm ba người cưỡi ngựa chạy tới, người nào cũng bị trọng thương, không gãy tay thì cũng què chân. Ba người đó mặt mày bơ phờ, cực kỳ ngượng ngập, cúi gầm xuống chạy ngang, không dám ngẩng lên nhìn bọn Tiêu Phong. Mai Kiếm hỏi:

- Trước mặt có đánh nhau chăng? Sao có nhiều người bị thương thế?

Nói chưa dứt câu, lại có hai người nữa chạy đến. Hai người này không cưỡi ngựa, mặt mày đầy máu me, một người đầu bịt khăn xanh máu vẫn còn rỉ ra không ngớt. Trúc Kiếm nói:

- Này, ngươi có cần thuốc trị thương không? Sao lại bị thương thế?

Người kia hầm hầm nhìn cô gái, nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất, lầm lũi đi thẳng. Cúc Kiếm giận quá, rút phắt trường kiếm, định xông vào chém y. Hư Trúc lắc đầu nói:

- Thôi bỏ qua đi! Người này bị thương nặng lắm rồi, đừng chấp làm gì.

Lan Kiếm nói:

- Trúc muội hỏi y có cần thuốc trị thương không, người này vô lễ như thế, để cho y chết vì đau cho đáng kiếp.

Vừa lúc đó từ đằng trước bốn con ngựa vùn vụt chạy tới, phía trái hai người, phía phải hai người. Người trên lưng ngựa to mồm chửi bới, một người nói:

- Cũng chỉ vì ngươi cóc tía mà đòi ăn thịt thiên nga, không biết lượng sức mình được bao lăm mà đòi đi Linh Châu làm phò mã.

Lại một người khác chửi lại:

- Ngươi có bản lãnh sao không qua được cửa ải đó đi? Đánh thua rồi quay qua vặc với ta là sao?

Người bên kia đáp lời:

- Nếu không phải vì ngươi ở phía sau ám tiễn thương nhân, ta thua làm sao được?

Bốn người đó phóng ngựa chạy nhanh, không hiểu cãi nhau chuyện gì, chỉ chốc lát đã đến trước mặt. Bọn họ thấy bọn Tiêu Phong đông, không dám giành đường nên lách ngựa qua hai bên lề nhưng vẫn tiếp tục chỉ trỏ sỉ mắng nhau, nghe loáng thoáng thì cả bốn người đều tính chuyện đi Linh Châu mong làm phò mã, nhưng gặp cái cửa ải nào đó, cả bốn đều không qua nổi, người nọ đùn người kia để đến nỗi bị đánh tả tơi chạy về.

Đoàn Dự nói:

- Đại ca, tiểu đệ xem …

Nói chưa dứt câu, đằng trước lại có mấy người chạy bộ đến, người nào cũng bị thương, người thì vỡ đầu chảy máu, kẻ thì khập khiễng què chân. Chung Linh tính hiếu kỳ nhịn không nổi giục ngựa chạy lên hỏi:

- Này, kẻ giữ ải phía trước lợi hại lắm hay sao?

Một hán tử trung niên đáp:

- Hừ, ngươi là con gái có qua cũng không ai ngăn trở. Thế nhưng đàn ông thì nên quay về là hơn.

Y nói như thế khiến Tiêu Phong, Hư Trúc cả bọn đều ngạc nhiên cùng nói:

- Đi lên xem thế nào!

Rồi giục ngựa chạy tới. Cả đoàn đi thêm chừng bảy tám dặm thấy sơn đạo hiểm trở, chỉ còn một con đường bên cạnh là vực sâu ngoằn ngoèo chạy lên trên, vòng qua mấy khúc quanh đã thấy người đứng lố nhố. Bọn Tiêu Phong đến gần, thấy trên đường đứng kế nhau là hai đại hán, người nào cũng cao hơn sáu thước , to lớn dị thường, một người cầm thiết chử, một người hai tay cầm đôi đồng chùy, giận dữ nhìn đoàn người đang tiến đến.

Trước mặt hai người đó là khoảng mười bảy mười tám người, bàn tán xôn xao, mỗi người một câu. Có kẻ dùng lời cung kính lễ độ:

- Xin tránh ra một chút! Bọn ta đang định đi Linh Châu, xin hai vị nhường đường cho.

Lại có người khích động lòng tham:

- Hai vị định thu tiền mãi lộ chăng? Không hiểu một lượng một người, hay là hai lượng một người? Miễn là hai vị tránh ra, chuyện gì cũng có thể thương lượng được.

Lại có người lấy lời mà uy hiếp:

- Các ngươi nếu không tránh ra, để lão tử nổi cọc lên băm vằm chúng bay ra, lúc đó có muốn trở lại như cũ thì cũng không được nữa, chi bằng ngoan ngoãn tránh ra để khỏi đại họa lâm đầu.

Lại có kẻ lấy sắc ra dụ:

- Hai vị tướng mạo đường đường, uy phong lẫm lẫm, sao không đến Linh Châu ứng tuyển phò mã? Nếu như để nàng công chúa đẹp như hoa kia vào tay người khác, chẳng tiếc lắm sao?

Bọn người mồm năm miệng mười nhưng hai gã nọ thủy chung không lý gì tới. Đột nhiên trong đám người có kẻ quát lên:

- Tránh ra!

Hàn quang lấp loáng, một lưỡi kiếm đã nhắm ngay người bên trái đâm tới. Đại hán đó thân hình cực lớn, binh khí cũng cực kỳ nặng nề, ngờ đâu hành động lại thật nhanh nhẹn, song chùy gõ vào nhau, chính là định kẹp trường kiếm vào giữa. Hai thanh đồng chùy hình bát giác kia mỗi thanh phải nặng đến bốn chục cân, nghe keng một tiếng, trường kiếm gẫy thành mươi mảnh. Đại hán đó nhảy qua một bước, đá luôn vào bụng dưới người nọ. Người kia chỉ kêu lên một tiếng, văng ra đến bảy tám trượng, ngã dúi xuống không đứng dậy nổi.

Lại thấy một người xông lên hai tay múa song đao thành một luồng bạch quang, bảo vệ toàn thân. Khi vừa đến trước hai đại hán, người kia quát lên một tiếng, đột nhiên biến thành địa đường đao pháp, lăn xuống dưới đất tiến tới, song đao nhắm ngay chân hai đại hán mà chém. Đại hán cầm thiết chử xem thế đánh của người kia, giơ chiếc chày lên, đánh mạnh xuống vòng ánh sáng một cái. Chỉ nghe “A” một tiếng thảm khốc, song đao của người kia bị chày sắt đánh gãy, mũi đao cắm luôn vào ngực, lăn long lóc xuống dưới vực.

Hai dại hán liên tiếp đả thương hai người, những người còn lại không ai dám tiến lên nữa. Bỗng nghe tiếng vó lộp cộp, từ bên đường hẻm có một con lừa chạy ra. Trên lưng lừa là một thanh niên thư sinh, tuổi chỉ chừng mười tám, mười chín, quần chùng áo dài, dáng vẻ nho nhã, dung mạo cực kỳ tuấn mỹ. Y cưỡi lừa chạy ngang bọn Tiêu Phong, ai cũng thấy người này so với hào khách gặp trên đường không giống chút nào, nên không khỏi liếc nhìn y mấy bận. Đoàn Dự đột nhiên buột miệng “A” lên một tiếng, lắp bắp:

- Ngươi … ngươi … ngươi …

Thư sinh kia không thèm nhìn đến chàng, vượt qua mọi người tiến lên trước. Chung Linh ngạc nhiên hỏi:

- Anh nhận ra vị tướng công này ư?

Đoàn Dự bẽn lẽn đáp:

- Không đâu! Ta lầm người rồi. Y … y là đàn ông, làm sao ta nhận ra được?

Câu trả lời của chàng xem ra có vẻ hơi sàm sỡ, A Tử nghe thế bèn cười rộ lên nói:

- Hóa ra ca ca chỉ nhận được đàn bà con gái chứ không nhận được đàn ông con trai.

Nàng ngừng lại một chút rồi hỏi lại:

- Không lẽ đó lại là đàn ông sao? Rõ ràng là đàn bà mà.

Đoàn Dự hỏi gặng:

- Ngươi bảo đây là đàn bà à?

A Tử nói:

- Đương nhiên là thế. Người cô ta có mùi thơm, đúng là mùi đàn bà rồi.

Đoàn Dự nghe nói đến “mùi thơm”, tim đập thình thình: “Không lẽ … không lẽ đúng là cô ta sao?”. Khi đó thư sinh kia đã cưỡi lừa chạy đến trước mặt hai đại hán, quát lên:

- Tránh ra!

Mấy tiếng đó giọng trong trẻo, đúng là của đàn bà. Đoàn Dự không còn hoài nghi gì nữa, kêu lên:

- Mộc cô nương, Uyển Thanh muội tử! Cô … cô … cô … ta … ta …

Chàng miệng thì gọi loạn cả lên, tay thì thúc ngựa chạy tới. Hư Trúc kêu lên:

- Tam đệ coi chừng vết thương!

Y liền cùng Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần cùng giục ngựa chạy lên. Thư sinh kia ngồi trên lưng lừa chỉ trừng trừng nhìn hai đại hán, không quay đầu lại, Chu Đan Thần từ bên hông ngó qua thấy y dung nhan đẹp đẽ, chính là Mộc Uyển Thanh, người năm xưa Đoàn Dự đã dẫn về Trấn Nam Vương phủ nước Đại Lý. Hai người kêu thầm: “Xấu hổ thật, bọn mình mắt sáng mà không tinh tường bằng một cô gái mù”. Có biết đâu A Tử không nhìn thấy nhưng tai mũi đều nhạy bén hơn người thường, Mộc Uyển Thanh người có mùi hương nên cô ta ngửi qua là biết ngay đàn bà. Còn người khác chỉ thấy đây là một thư sinh, trong nhất thời không để ý là nam hay nữ.

Đoàn Dự giục ngựa chạy đến bên cạnh Mộc Uyển Thanh, giơ tay để lên đầu vai, dịu dàng nói:

- Muội tử, lâu nay cô ở đâu? Ta nhớ cô biết là chừng nào.

Mộc Uyển Thanh rụt về tránh bàn tay của chàng, quay đầu nhìn lại, lạnh lùng hỏi:

- Anh nhớ đến tôi? Vì cớ gì anh lại nhớ đến tôi? Có thực anh nhớ tôi không?

Đoàn Dự sững sờ, ba câu hỏi của nàng chàng không trả lời được câu nào. Người cầm chày cười ha hả nói:

- Hay lắm, thì ra ngươi là một cô gái, vậy ta để ngươi đi qua.

Đại hán cầm chùy cũng kêu lên:

- Đàn bà con gái thì qua được còn bọn đàn ông thối tha thì đừng hòng. Này, ngươi mau cút về đi, cút về đi.

Y vừa nói vừa chỉ Đoàn Dự, quát lên:

- Cái thứ mặt trắng đĩ đực kia, lão tử vừa trông thấy đã muốn nổi hung. Mi lên thêm một bước, ta không đánh cho nhừ tử chớ kể làm người.

Đoàn Dự đáp:

- Tôn huynh nói thế là sai rồi! Đây là đại đạo ai ai cũng có quyền đi, tôn huynh cớ gì lại không cho ta qua? Mong được chỉ rõ.

Đại hán kia đáp:

- Tông Tán vương tử nước Thổ Phồn có lệnh: Cửa ải này đóng mười ngày, sau kỳ Trung Thu tháng tám mới mở trở lại. Trước tiết Trung Thu thì đàn bà qua được, đàn ông không được, sư sãi qua được, tục gia không được, già cả qua được, trẻ tuổi không được, người chết qua được, người sống không được. Ấy gọi là “bốn hạng người qua được, bốn hạng người không qua được”.

Đoàn Dự nói:

- Như thế thì còn đạo lý gì nữa?

Gã kia lớn tiếng đáp:

- Đạo lý ư? Đạo lý ư? Cái chùy đồng của lão tử đây, cái chày sắt của lão nhị đây thì là đạo lý chứ còn phải hỏi. Lời của Tông Tán vương tử là đạo lý. Ngươi là nam nhân, không phải hòa thượng, tuổi cũng chưa già, muốn qua khỏi ải thì chỉ có thể là người chết thì mới được thôi.

Mộc Uyển Thanh giận dữ nói:

- Hừm, sao lại có những qui củ thối tha tầm bậy tầm bạ gì lắm thế?

Tay phải vung ra, soẹt soẹt hai tiếng, hai mũi tên nhỏ chia ra bắn vào hai đại hán, chỉ nghe bộp bộp như trúng vào da bò, hai mũi tên rõ ràng bắn trúng ngực hai người nhưng không tổn hại gì cả. Gã cầm chùy giận dữ quát lên:

- Tiểu cô nương quả không biết tốt xấu, dám phóng ám tiễn phải không?

Mộc Uyển Thanh kinh hãi nghĩ thầm: “Hai gã này chắc là có mặc nhuyễn giáp, độc tiễn của ta bắn chúng chẳng ăn thua gì”. Người cầm thiết chử giơ bàn tay to xù chộp vào Mộc Uyển Thanh. Gã đó thân hình cao to, Mộc Uyển Thanh tuy cưỡi trên lưng lừa nhưng khi tay y vươn ra đã chộp vào ngực nàng. Đoàn Dự kêu lên:

- Tôn huynh chớ có vô lễ.

Tay trái vung ra gạt tay y, gã đại hán lật bàn tay một cái, nắm ngay được cổ tay Đoàn Dự. Đại hán cầm chùy kêu lên:

- Hay lắm! Anh em ta xé đôi thằng lỏi mặt trắng ra đi.

Y đưa song chùy sang tay trái, tay phải chộp ngay cổ tay trái Đoàn Dự, dùng sức kéo mạnh. Mộc Uyển Thanh hốt hoảng kêu lên:

- Không được đả thương ca ca ta.

Soẹt soẹt lại thêm mấy mũi tên bắn ra nhưng đều như hòn đá ném xuống biển, tuy trúng người hai đại hán thật nhưng chẳng tổn hại chút nào. Nàng định bắn vào đầu vào mắt hai gã nọ nhưng ở giữa có Đoàn Dự, e rằng khiến chàng bị thương. Hai bên là hai vách núi sừng sững, Hư Trúc, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần ba người bị tọa kỵ của Mộc Uyển Thanh chắn ngang, không có cách gì lên cứu được.

Hư Trúc phi thân rời khỏi yên ngựa nhảy đến bên cạnh gã cầm chày, giơ tay toan điểm vào sườn y nhưng nghe Đoàn Dự cười ha hả nói:

- Nhị ca không phải kinh hoảng, bọn họ không đả thương được tiểu đệ đâu.

Chỉ thấy hai đại hán cao to như cột đình kia từ từ sụm xuống, đầu lắc lư, đứng không vững chẳng bao lâu đã nghe bình bình hai tiếng ngã gục xuống đất. Bắc Minh thần công của Đoàn Dự chuyên hút nội lực địch nhân, nội lực hai đại hán nọ kiệt rồi, dù có thần lực trời sinh cũng đành vô dụng, khi đã gục xuống chỉ còn như hai mớ giẻ rách. Đoàn Dự nói:

- Các ngươi đánh chết bao nhiêu người, phải trừng trị như thế này để về sau không còn tái phạm được nữa.

Chung Linh lúc này mới chạy được tới nơi, cười nói:

- Chỉ sợ sau này hai người không còn bản lãnh đánh ai cho được.

Nàng quay sang nói với Mộc Uyển Thanh:

- Mộc tỉ tỉ, em không ngờ lại là chị.

Mộc Uyển Thanh lạnh lùng đáp:

- Ngươi là em gái ta, chỉ gọi “tỉ tỉ” cũng đủ rồi, việc gì phải thêm một chữ “Mộc” nữa?

Chung Linh ngạc nhiên:

- Mộc tỉ tỉ, chị nói đùa đấy ư? Em tại sao lại là em gái của tỉ tỉ được?

Mộc Uyển Thanh chỉ vào Đoàn Dự nói:

- Ngươi đi hỏi y xem sao?

Chung Linh quay sang Đoàn Dự đợi nghe giải thích. Đoàn Dự mặt đỏ bừng, ấp úng:

- Phải, phải … có điều … có điều lúc này không tiện nói rõ …

Thì ra những người bị hai đại hán kia chặn lại, lúc này đang lách qua người chàng, rảo bước chạy về phía thành Linh Châu. A Tử kêu lên:

- Ca ca, vị cô nương có mùi thơm kia, cũng lại là “người quen cũ” đấy ư? Sao anh hai không dẫn em lại giới thiệu?

Đoàn Dự đáp:

- Chớ có nói càn, đây là … đây là chị … chị ruột ngươi, mau lại đây chào hỏi.

Mộc Uyển Thanh giận dữ đáp:

- Ta làm gì có phúc như thế!

Nàng vỗ nhẹ vào mông con lừa, chạy thẳng về phía trước. Đoàn Dự cũng giục ngựa đuổi theo hỏi:

- Trong bao lâu nay cô ở nơi nào? Muội tử, cô … cô … sao độ này xanh xao thế.

Mộc Uyển Thanh tâm cao khí ngạo, hơi một tí là ra tay giết người, thế nhưng nghe những lời dịu ngọt, trong lòng xót xa, hơn một năm qua lênh đênh không nhà, chịu biết bao nhiêu sương pha nắng gội, chua chát đắng cay, bây giờ nỗi niềm dâng lên, không cầm được nước mắt, hai giòng lệ trào ra tuôn rơi lã chã. Đoàn Dự nói:

- Hảo muội tử, chúng ta nhiều người lo liệu cho nhau được, muội tử đi cùng với bọn ta nhé.

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Ai cần anh lo liệu cho tôi? Không có anh, tôi một thân một mình cũng vẫn sống được bấy lâu nay.

Đoàn Dự đáp:

- Ta có biết bao nhiêu chuyện cần nói với cô. Hảo muội tử, cô bằng lòng đi chung với bọn ta đi thôi!

Mộc Uyển Thanh hỏi lại:

- Anh có gì mà bảo là cần nói với tôi? Chắc chỉ toàn chuyện tầm phào chứ gì?

Miệng tuy không bằng lòng nhưng giọng điệu đã dịu lại. Đoàn Dự hết sức mừng rỡ vội tán tỉnh:

- Hảo muội tử, tuy cô dạo này hơi gầy đi nhưng càng ngày càng đẹp ra.

Mộc Uyển Thanh sầm mặt xuống nói:

- Anh là huynh trưởng của tôi, không được ăn nói như thế nữa.

Nàng trong lòng rối như tơ vò, biết rõ Đoàn Dự là anh em cùng cha khác mẹ với mình nhưng lòng thương nhớ yêu đương không vì thế mà tiêu giảm mà càng ngày lại càng tăng. Đoàn Dự cười nói:

- Ta nói cô càng lớn càng xinh thì có gì mà không được? Hảo muội tử, vì cớ gì cô lại cải nam trang để đến Linh Châu? Đi ứng tuyển phò mã chăng? Một thư sinh tuấn tú như cô, công chúa Tây Hạ vừa trông thấy là sẽ mê ngay.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Thế sao anh cũng đến Linh Châu làm gì?

Đoàn Dự sượng sùng đáp:

- Ta đi xem trò vui chứ không có gì khác.

Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng nói:

- Anh đừng có nói dối. Gia gia bảo anh đi Tây Hạ ứng tuyển phò mã, sai họ Ba, họ Chu đưa thư đến cho anh, anh tưởng tôi không biết hay sao?

Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi lại:

- Ồ, thế ra cô cũng biết thế à?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Mẹ em gặp cha chúng ta, em đi cùng với má má lẽ dĩ nhiên chuyện gì chả biết.

Đoàn Dự nói:

- Thì ra là thế! Cô biết ta đi Linh Châu nên chạy theo để kiếm ta có phải không?

Mộc Uyển Thanh hơi đỏ mặt, lời Đoàn Dự nói đúng tâm sự nàng nhưng vẫn cãi bướng:

- Em đi kiếm anh làm gì? Em đi là để xem công chúa Tây Hạ đẹp cỡ nào mà làm cho thiên hạ náo loạn cả lên như thế.

Đoàn Dự định nói: “Ví như chỉ cần đẹp bằng nửa cô thì cũng đã đẹp lắm rồi”. Thế nhưng nghĩ lại câu đó nói với tình nhân thì được,còn với em gái mình thì không nên, lời ra đến đầu môi vội vàng hãm lại. Mộc Uyển Thanh nói:

- Em cũng định đi xem Đoàn vương tử của nước Đại Lý ta, có vói được cành quế hay chăng?

Đoàn Dự nói khẽ:

- Ta nhất quyết không làm phò mã Tây Hạ đâu. Muội muội, câu đó cô chớ có tiết lộ cho ai đấy nhé. Nếu như gia gia ép ta nữa, ta lại bỏ nhà ra đi.

Mộc Uyển Thanh hỏi lại:

- Không lẽ gia gia đã ra lệnh như thế, anh lại dám kháng cự hay sao?

Đoàn Dự đáp:

- Ta nào có kháng lệnh, ta chỉ bỏ đi thôi.

Mộc Uyển Thanh cười nói:

- Đào tẩu và kháng lệnh có gì khác nhau đâu? Một công chúa cành vàng lá ngọc sao anh lại không thích?

Từ khi gặp lại nhau, đây là lần đầu tiên nàng nở một nụ cười, Đoàn Dự trong lòng vui lắm nói:

- Thế cô tưởng ta cũng giống như gia gia sao? Gặp ai yêu nấy, đến sau rứt ra không được.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Hừ, em xem anh và gia gia cũng có khác gì nhau đâu, quả đúng là cha nào con nấy. Có điều anh không được may mắn như gia gia mà thôi.

Nàng thở dài một tiếng nói tiếp:

- Như mẹ em chẳng hạn, ở sau lưng nói tới gia gia thì hận ông lắm lắm. Thế nhưng vừa thấy mặt nhau thì đã tươi như hoa, chuyện gì cũng tha thứ cả. Các cô trẻ tuổi bây giờ có còn ai được như mẹ em đâu.

KHÔ TỈNH ĐỂ, Ô NÊ XỨ

Đáy khô má tựa lòng thêm ấm,

Lá mục môi kề dạ ngát hương.

*

* *

Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần cả bọn liền đến chào Mộc Uyển Thanh rồi dẫn cô ta đến bái kiến Tiêu Phong, Hư Trúc. Ba Chu hai người tuy biết đây là con gái của Trấn Nam Vương nhưng vì chưa chính thức cử hành nghi lễ nhận con nên vẫn chỉ gọi là Mộc cô nương.

Đoàn người đi được mấy dặm, bỗng từ phía trái có tiếng quát tháo, rồi có người kêu cứu nghe ra là Nam Hải Ngạc Thần, dường như có chuyện gì nguy hiểm. Đoàn Dự nói:

- Đồ đệ ta đó!

Chung Linh kêu lên:

- Bọn mình mau chạy lại xem, đồ đệ của ca ca xem ra cũng không phải là người đốn mạt lắm đâu.

Hư Trúc cũng hùa theo:

- Phải đó!

Mẫu thân y là Diệp Nhị Nương cũng cùng bọn với Nam Hải Ngạc Thần nên không khỏi có chút tình hương lửa. Mọi người giục ngựa chạy đến phía có tiếng kêu, qua khỏi vài khúc quanh thấy trước mặt là một khu rừng rậm, huyền nhai phía bên kia xẩy ra một cảnh tượng kinh hoàng.

Một khối đá lớn thò ra ngoài vực, trên mỏm núi mọc chơ vơ một cây tùng, hình thù cổ quái. Cây tùng có một rễ lớn mọc đâm ra, một người mặc áo bào xanh cầm gậy móc vào rễ cây, chính là Đoàn Diên Khánh. Tay trái y nắm cây gậy, tay phải cầm một đầu gậy khác, phía đằng kia là một người nắm chặt, chính là Nam Hải Ngạc Thần. Nam Hải Ngạc Thần một tay lại nắm mớ tóc dài của một người khác, chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc.

Hai tay Vân Trung Hạc chia ra hai bên cầm hai tay một cô gái, bốn người như kết thành một sợi dây, treo lơ lửng giữa trời, quả thực hung hiểm, dù bất cứ người nào tuột tay thì người bên dưới cũng rớt ngay xuống đáy vực sâu mấy chục trượng. Dưới đáy cốc là đá tai mèo lởm chởm, trông như những mũi dao cắm ngược lên, nếu rơi xuống chắc chắn không thể nào sống sót.

Vừa lúc đó một ngọn gió thổi đến nơi, khiến cho Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc và cô gái kia đong đưa quay một nửa vòng. Cô gái vốn dĩ xoay lưng lại, bấy giờ mới nhìn rõ mặt, Đoàn Dự bất giác “Ối chao!” một tiếng, từ trên ngựa nhảy ngay xuống.

Người con gái kia nào phải ai xa lạ, chính là Vương Ngữ Yên, người chàng hằng ngày mong đêm nhớ, không lúc nào quên. Đoàn Dự sau khi định thần, thấy mỏm đá thò ra cực kỳ hiểm trở, không thể nào giục ngựa lên được nên lập tức nhảy xuống chạy tới. Chàng đến trước cội tùng, thấy ngay một gã đầu to vừa lùn vừa mập, cầm đại phủ đang chặt cây. Đoàn Dự thấy thế kinh hãi không để đâu cho hết kêu lên:

- Này, này! Ngươi làm gì đó?

Gã lùn mập không thèm để ý, vẫn từng búa từng búa chém xuống, nghe bình bình, gỗ vụn bay tung tóe. Đoàn Dự vung ngón tay ra, đề khởi chân khí định dùng Lục Mạch Thần Kiếm đả thương y, ngờ đâu môn kiếm khí này lúc cần thì lại không dùng được, chỉ trỏ mấy cái, chẳng thấy gì hết kinh hoàng kêu lớn:

- Đại ca, nhị ca, hai cô em gái ơi, bốn cô nương tốt bụng ơi, mau mau đến cứu người.

Còn đang kêu gọi thì Tiêu Phong và Hư Trúc đã chạy đến. Thì ra gã mập đó khuất sau tảng đá, đứng bên ngoài không ai thấy. Cũng may cây tùng đó to lớn, nhất thời chặt chưa đứt được. Bọn Tiêu Phong thấy tình hình như thế, ai nấy hết sức kinh dị, không hiểu vì sao lại thành một cảnh quái lạ nhường này. Hư Trúc kêu lên:

- Này lão huynh mập ơi, mau ngừng tay không được chặt cây nữa.

Gã mập đáp:

- Cây này do ta trồng, ta muốn chặt đem về nhà đóng một cỗ quan tài để nằm, ngươi làm sao ngăn ta được?

Y miệng nói nhưng tay nào có ngừng, còn bên dưới thì Nam Hải Ngạc Thần vẫn kêu réo luôn mồm. Đoàn Dự nói:

- Nhị ca, người này không thể nói phải quấy, nhị ca mau chế ngự y rồi tính sau.

Hư Trúc đáp:

- Hay lắm!

Y vừa nói vừa chạy xuống. Đột nhiên có một người chống hai cây gậy, chạy vụt qua bên cạnh, nhún nhẩy mấy cái, đã đến trước mặt gã mập, chính là Du Thản Chi, không biết y từ xe lừa lẻn ra lúc nào. Du Thản Chi chống một cây gậy xuống đất, một cây giơ lên lạnh lùng nói:

- Không người nào được qua đây.

Mộc Uyển Thanh trước nay chưa hề gặp người này, đột nhiên thấy khuôn mặt xấu xí đáng sợ, không khỏi thất sắc “A” lên một tiếng. Đoàn Dự vội nói:

- Trang bang chủ mau mau chế ngự nhân huynh mập kia để y không chặt cây nữa.

Du Thản Chi cười khẩy hỏi lại:

- Tại sao ta lại phải chế ngự y? Có được lợi gì không?

Đoàn Dự đáp:

- Cây tùng mà gãy thì người bên dưới đều rơi xuống vực chết cả.

Hư Trúc thấy tình thế hung hiểm, tung mình nhảy tới, định bụng dù không chế ngự được gã mập thì cũng cứu được Đoàn Diên Khánh, Nam Hải Ngạc Thần và mấy người ở dưới lên. Y nghĩ đến trước đây sở dĩ giải được thế cờ Trân Lung toàn là nhờ có Đoàn Diên Khánh chỉ điểm, rồi sau học được một thân bản lãnh cũng từ đó mà khởi đầu, bao nhiêu chuyện khác tiếp theo chưa biết là phúc hay họa nhưng Đoàn Diên Khánh đối với y cũng là hảo ý.

Du Thản Chi cắm cây gậy bên phải xuống đất, tay đánh ra một luồng chưởng lực âm hàn. Hư Trúc tuy không sợ độc phong của y nhưng cũng biết y công lực thâm hậu, không thể coi thường lập tức ngưng thần đánh lại một chưởng. Du Thản Chi lập tức nhắm ngay cây tùng đánh ra một chưởng thứ hai, cành cây rung động, bốn người ở dưới huyền nhai đong đưa không ngừng.

Đoàn Dự hoảng hốt kêu lên:

- Nhị ca đừng tiến lên nữa, có chuyện gì mình bàn lại với nhau không nên làm dữ. Trang bang chủ có thù oán với ai? Sao lại hại người?

Du Thản Chi nói:

- Đoàn công tử nếu muốn ta ngăn chặn gã mập này thì cũng không khó, nhưng công tử làm được gì cho ta nào?

Đoàn Dự đáp:

- Chuyện … chuyện gì ta cũng làm … cho … ngươi … ngươi muốn gì ta cho nấy. Ta nhất quyết không cò kè nói qua nói lại gì đâu. Mau lên, mau lên, chậm chút nữa là không kịp đó.

Du Thản Chi nói:

- Ta chế ngự gã mập này rồi sẽ lập tức cùng A Tử cô nương ra đi, công tử và Tiêu Phong, Hư Trúc các người không ai được ngăn trở. Chuyện đó có bằng lòng không?

Đoàn Dự đáp:

- A Tử ư? Cô ấy … cô ấy đang muốn nhờ nhị ca ta chữa mắt cho sáng lại, nếu đi với ngươi thì tính làm sao đây?

Du Thản Chi nói:

- Nếu Hư Trúc tiên sinh có thể chữa cho cô ta sáng mắt trở lại thì ta sẽ tìm cách trị được cho cô ấy.

Đoàn Dự đáp:

- Chuyện đó … chuyện đó …

Trong khi đó gã mập vẫn hết búa này tới búa khác chặt xuống cây tùng, trong lúc nghìn cân treo trên sợi tóc này, việc cứu người mới là quan trọng nên chàng bèn nói:

- Ta bằng lòng … ta bằng lòng đó! Ngươi … ngươi … mau …

Du Thản Chi lập tức vung hữu chưởng đánh vào gã mập. Gã kia cười khẩy, buông búa, xuống tấn, quát lên một tiếng song chưởng cùng đỡ, chưởng phong vù vù thế đạo cực kỳ mãnh liệt, trong khi chưởng của Du Thản Chi lại hoàn toàn không có một chút tăm hơi.

Đột nhiên gã mập biến sắc, thần thái đang từ cao ngạo đổi sang kinh ngạc như trông thấy một việc hết sức kỳ quái không tin nổi, rồi hai dòng máu từ mép chảy ra, thân hình rúm lại, ngã bổ chửng xuống vực sâu. Phải mất một hồi lâu mới nghe bịch một tiếng vọng từ đáy cốc lên, dường như va phải loạn thạch, mọi người nghĩ đến cảnh y tan xương nát thịt, không khỏi lạnh mình.

Hư Trúc phi thân nhảy xuống cành tùng, thấy gậy sắt của Đoàn Diên Khánh cắm sâu vào thân cây, toàn dùng nội lực dính chặt vào đó mà treo lủng lẳng bốn người, thâm hậu như thế quả là trên đời hiếm có. Hư Trúc vươn tay nắm lấy cương trượng, nhắc lên.

Nam Hải Ngạc Thần ở bên dưới tấm tắc khen:

- Chú tiểu này, ta biết ngay ngươi là một kẻ tốt bụng. Ngươi là con trai tỉ tỉ ta, ấy là điệt nhi của Nhạc lão nhị, mà đã là điệt nhi của Nhạc lão nhị thì bản lãnh đương nhiên phải giỏi rồi. Nếu không có ngươi đến giúp một tay, bọn ta chắc phải ở đây đến ba ngày ba đêm, thật chẳng thích thú chút nào.

Vân Trung Hạc nói:

- Gã kia chỉ được cái khoác lác chứ làm sao chịu nổi ba ngày ba đêm?

Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp:

- Ta nếu chịu không nổi thì buông tay thả ngươi ra, thế là xong. Ngươi có muốn thử không thì bảo?

Hai người đang trong cơn nguy cấp nhưng vẫn tiếp tục cãi vã không thôi. Chỉ trong giây lát, Hư Trúc đã kéo được Đoàn Diên Khánh lên, kế đó là Nam Hải Ngạc Thần và Vân Trung Hạc, sau cùng là Vương Ngữ Yên. Nàng hai mắt nhắm nghiền, chỉ còn thoi thóp đã mê man từ bao giờ.

Đoàn Dự đã yên tâm nhưng lại thương xót, thấy hai cổ tay nàng bầm tím, in sâu vết tay của Vân Trung Hạc, nghĩ đến gã này hung tàn hiếu sắc, từng có ý định phi lễ với Mộc Uyển Thanh và Chung Linh, lần nào cũng may có Nam Hải Ngạc Thần cứu kịp. Ngày hôm nay việc tái diễn, chàng nổi cơn thịnh nộ hậm hực nói:

- Đại ca, nhị ca, gã Vân Trung Hạc này tính tình gian ác, mình giết quách y cho xong.

Nam Hải Ngạc Thần kêu lên:

- Không đâu! Không đâu! Đoàn … cái anh chàng sư phụ ơi… hôm nay chính là nhờ lão tứ cứu … cứu được … được mụ vợ của ngươi … được sư nương … nếu không thì, con vợ ngươi chết ngoẻo rồi còn đâu.

Tuy mấy câu đó y nói chẳng đâu ra đâu nhưng mọi người đều hiểu rõ ràng. Mới rồi Đoàn Dự vì Vương Ngữ Yên mà lập cập hốt hoảng, bọn Mộc Uyển Thanh ai ai cũng thấy tận mắt, khi chưa cứu được Vương Ngữ Yên lên người nào cũng thầm chua xót, đến khi thấy nàng thần thanh cốt tú, dung mạo đoan lệ vô song, lại càng đau lòng khôn tả.

Chỉ thấy Vương Ngữ Yên từ từ mở mắt, “Ôi” một tiếng hỏi khẽ:

- Đây có phải là chốn hoàng tuyền địa phủ hay chăng? Ta … ta đã chết chưa?

Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp:

- Cái con nhỏ này nói năng tầm bậy tầm bạ. Nếu đây là hoàng tuyền địa phủ, không lẽ bọn ta cũng chết hết ráo hay sao? Hiện giờ ngươi chưa làm vợ sư phụ ta, ta có đắc tội mấy câu thì không tính là phạm thượng được. Có điều thời giờ không có bao nhiêu, theo ta nghĩ, sớm muộn gì ngươi cũng thành sư nương, dịp may chớ để vuột mất, gọi ngươi vài câu “con nhỏ” cho sướng mồm.

Này, ta hỏi con nhỏ kia, đời nhà ai đang khi không lại đi tìm cái chết là sao? Ngươi có chết là do ngươi chọn, cũng mặc xác ngươi nhưng lại kéo thêm gã bả đệ Vân Trung Hạc của ta nữa. Vân Trung Hạc có chết thì cũng đành, Đoàn lão đại của bọn ta cũng chết theo, thật đáng tiếc biết mấy. Mà dẫu Đoàn lão đại có chết thì cũng còn được, Nhạc lão nhị cũng bị vạ lây, ấy là một chuyện không thể chấp nhận được.

Đoàn Dự dịu dàng an ủi:

- Vương cô nương còn chưa hoàn hồn, thôi ngồi xuống dựa vào gốc cây nghỉ một lát.

Vương Ngữ Yên lại khóc òa lên, hai tay ôm mặt nức nở:

- Các ngươi bỏ mặt ta, ta … ta … ta không muốn sống làm chi nữa.

Đoàn Dự kinh hoảng: “Hóa ra nàng toan đi tìm cái chết thật, không hiểu là vì cớ gì? Không lẽ … không lẽ …”. Chàng đưa mắt liếc Vân Trung Hạc, thấy y hung hăng dữ tợn, trong bụng kêu thầm: “Chết rồi! Chắc Vương cô nương bị y làm nhục cho nên mới tính chuyện hủy mình”.

Chung Linh tiến lên một bước chào:

- Nhạc lão tam khỏe chứ?

Nam Hải Ngạc Thần vừa thấy nàng mừng quá kêu lên:

- Tiểu sư nương cũng bình an chứ? Hiện nay ta đã lên Nhạc lão nhị rồi, không còn là Nhạc lão tam nữa.

Chung Linh nói:

- Ngươi đừng gọi ta là tiểu gì gì đó, khó nghe lắm. Nhạc lão nhị, ta hỏi đây, vị cô nương này vì cớ gì mà lại đi tìm cái chết? Có phải do cái cây tre miễu kia gây ra họa chăng? Để ta thọc léc y một mẻ.

Nàng vừa nói vừa đưa tay lên, thổi phù phù mấy cái. Vân Trung Hạc hoảng hốt, lùi lại hai bước. Nam Hải Ngạc Thần lắc đầu quầy quậy nói:

- Không phải, không phải đâu! Tạ trời tạ đất, chẳng hiểu sao lão tứ bây giờ lại đổi tính đổi nết, làm một chuyện tốt. Bọn chúng ta thiếu mất Diệp Nhị Nương, ai nấy trong lòng không vui, nên đi ra ngoài cho khuây khỏa. Đến nơi đây, bỗng thấy con nhỏ này nhảy xuống vực tự tận, thị nhảy mạnh quá nên lão tứ chụp không kịp, ôi chao, y vốn dĩ là đứa cùng hung cực ác, sao đột nhiên thay đổi, có điều không biết lượng sức mình …

Vân Trung Hạc hầm hầm xen vào:

- Con bà ngươi chứ, ta có thiện tâm bao giờ mà làm chuyện tốt? Họ Vân chỉ thích gái đẹp, thấy Vương cô nương nhảy xuống vực tìm cái chết, bỏ qua rất uổng nên kéo trở lại lấy làm vợ vài ngày.

Nam Hải Ngạc Thần tính nóng như lửa, chỉ mặt Vân Trung Hạc chửi ngay:

- Con bà ngươi thì có, Nhạc lão nhị tưởng ngươi đổi tính ra tay cứu người, nghĩ tình cùng là bọn đại ác trong thiên hạ nên mới thò tay nắm tóc ngươi, nếu sớm biết vậy thì để cho ngươi rơi xuống chết quách cho rồi.

Chung Linh cười nói:

- Nhạc lão nhị, ngươi vốn dĩ có ngoại hiệu Hung Thần Ác Sát chuyên làm điều xấu xa, không làm chuyện tốt, sao lại đổi tính từ bao giờ? Học của sư phụ ngươi chăng?

Nam Hải Ngạc Thần giơ tay gãi đầu nói:

- Không phải, không phải! Ta nào có đổi tính, nhất định không đổi. Có điều Tứ Đại Ác Nhân thiếu mất một người, thành thử có chiều hụt hẫng. Ta vừa nắm được tóc Vân lão tứ bị y giựt một cái cũng nhào xuống dưới vực, may nhờ Đoàn lão đại võ công cao cường, vung trượng ra cho ta chụp được. Thế nhưng ba người nặng đến bốn trăm cân, kẻ lôi người kéo khiến cho lão đại cũng suýt nữa té theo. Y mới vung gậy ra móc vào cây tùng, định từ từ tính nước trèo lên, ngờ đâu có gã lùn mập người Thổ Phồn vác búa chạy đến chặt cây.

Chung Linh hỏi:

- Gã lùn mập đó người nước Thổ Phồn ư? Sao y lại định hại mạng bọn ngươi?

Nam Hải Ngạc Thần nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất nói:

- Bọn ta Tứ Đại Ác Nhân là cao thủ hạng nhất hạng nhì của Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ, ý không, không, chỉ là hạng ba hạng tư, các ngươi đã ngưỡng mộ từ lâu rồi, phải không? Lần này hoàng thượng tuyển phò mã cho công chúa, sai các cao thủ Nhất Phẩm Đường ra ngoài tuần tra, không để cho bọn rỗi hơi ăn hại đến khuấy phá.

Có ngờ đâu vương tử nước Thổ Phồn ngang ngược không coi ai vào đâu, cho người chặn hết các ngả vào Tây Hạ, không cho một ai vào ứng tuyển, chỉ tiểu tử đó một mình một chợ thôi. Bọn ta dĩ nhiên không chịu, hai bên đánh nhau một trận, đánh chết hơn chục võ sĩ Thổ Phồn, thành ra tam đại ác nhân trở thành kẻ thù của võ sĩ Thổ Phồn, không còn bạn bè gì nữa.

Y nói mấy câu đó mọi người mới nghe ra chút đầu mối nhưng Vương Ngữ Yên vì cớ gì mà quyên sinh thì chưa hiểu rõ. Nam Hải Ngạc Thần lại tiếp:

- Vương cô nương, sư phụ ta đến rồi đó, hai người kết thành vợ chồng đi thôi, cô đừng có tìm cái chết nữa.

Vương Ngữ Yên quay đầu lại, khóc rưng rức:

- Ngươi còn ăn nói lăng nhăng coi thường ta, ta … ta sẽ đập đầu chết ngay tại chỗ.

Đoàn Dự vội khuyên:

- Ấy chớ có làm thế, không nên!

Chàng quay sang nói với Nam Hải Ngạc Thần:

- Nhạc lão tam, ngươi chớ có …

Nam Hải Ngạc Thần sửa lại:

- Nhạc lão nhị!

Đoàn Dự đáp:

- Thì Nhạc lão nhị cũng được! Ngươi không được ăn nói tầm phào nữa. Thế nhưng ngươi vì thầy cứu người quả là có công lao, sau này ta sẽ dạy ngươi một chút công phu.

Nam Hải Ngạc Thần giương đôi mắt ti hí, liếc Vương Ngữ Yên nói:

- Ngươi không chịu làm sư nương của ta, nào có phải thiếu gì đâu? Đây là đại sư nương, đây là tiểu sư nương, cũng đều là sư nương của ta cả.

Y vừa nói vừa chỉ vào Mộc Uyển Thanh và Chung Linh. Mộc Uyển Thanh ngượng ngập, đánh trống lảng:

- Ồ cái tên xú bát quái đâu rồi?

Mọi người mới rồi chăm chăm để ý xem Hư Trúc cứu người, bấy giờ nhìn lại quả nhiên Du Thản Chi và A Tử không biết đã đi đâu mất. Đoàn Dự hỏi:

- Đại ca, bọn họ đi rồi sao?

Tiêu Phong đáp:

- Hai đứa đi rồi. Ngươi đã bằng lòng nên ta không tiện ngăn trở.

Giọng điệu nhuốm vẻ buồn rầu, không biết A Tử theo Du Thản Chi mà đi rồi sẽ ra sao. Nam Hải Ngạc Thần kêu lên:

- Lão đại, lão tứ, mình đi về ư?

Y thấy Đoàn Diên Khánh và Vân Trung Hạc đã đi về hướng tây vội vàng quay lại nói với Đoàn Dự:

- Thôi ta cũng đi đây!

Y hấp tấp chạy theo Đoàn Diên Khánh và Vân Trung Hạc đi về phía thành Linh Châu. Chung Linh nói:

- Vương cô nương, chúng mình ngồi xe nhé!

Nàng đỡ Vương Ngữ Yên lên chiếc xe lừa trước đây dành cho A Tử. Thế là đoàn người cùng về hướng tây đến sẩm tối đã vào nội thành Linh Châu.

Khi đó Tây Hạ đang lúc cường thịnh, tổng cộng có hai mươi hai châu. Phía nam Hoàng Hà thì có Linh Châu, Hồng Châu, Ngân Châu, Hạ Châu. Phía tây Hoàng Hà thì có Hưng Châu, Kinh Châu, Cam Châu, Túc Châu nay là một dải Cam Túc, Ninh Hạ, Tuy Viễn. Nơi đây nhờ có nước sông Hoàng Hà nên cây cỏ tốt tươi, mùa màng phong thịnh. “Hoàng Hà trăm nơi hại, chỉ một khúc cong lợi”, nước Tây Hạ chính là chỗ này. Lại thêm binh cường mã tráng, tổng cộng có đến năm mươi vạn quân. Sĩ tốt Tây Hạ dũng mãnh thiện chiến, Tống sử có chép là:

Người Tây Hạ thích dùng hư binh, mai phục bao vây quân địch. Họ dùng thiết kỵ để tấn công, cưỡi ngựa tốt, giáp dày đâm không thủng, người buộc chặt vào tọa kỵ nên dẫu có chết cũng không rơi xuống đất. Khi chiến đấu họ dùng thiết kỵ xung trận trước, khi nào trận loạn rồi liền xua quân đánh lên, bộ binh đi chung với kỵ binh cùng tiến.

Hoàng đế Tây Hạ tuy họ Lý nhưng chính thực là họ Thác Bạt đời Đường Thái Tông được ban họ Lý là họ nhà vua. Người Tây Hạ luôn luôn đánh nhau với các nước chung quanh nên cương giới thay đổi, quốc đô cũng di chuyển. Linh Châu là thành lớn của Tây Hạ nhưng so với thành thị Trung Nguyên thì còn kém xa.

Tối hôm đó bọn Tiêu Phong không thể nào tìm ra được khách điếm. Linh Châu vốn là chỗ phồn hoa, lại đang lúc gần tiết Trung Thu, hào kiệt bốn phương đông nườm nượp, mấy căn khách điếm lớn đều chật ních. Bọn Tiêu Phong không muốn ra ngoài thành, đành vào một cái miếu ở tạm, đàn ông bên phía đông, đàn bà bên phía tây.

Đoàn Dự từ khi gặp lại Vương Ngữ Yên, vừa hoan hỉ, vừa buồn bã, tối hôm đó trằn trọc mãi không ngủ được. Chàng trong bụng tự hỏi: “Vì cớ gì mà Vương cô nương lại muốn quyên sinh? Làm cách nào khuyên giải nàng đây? Ôi, ta không biết vì sao nàng chán đời thì làm sao mà khuyên giải được?”.

Trước mắt trăng sáng vằng vặc chiếu qua cửa sổ xuống đất. Chàng rón rén trở dậy đi ra ngoài sân, vầng trăng chưa tròn hẳn đang từ từ lên khỏi ngọn hai cây ngô đồng bên cạnh tường. Khi đó mùa nực mới qua nhưng một dải Cam Lương buổi tối đã hơi trở lạnh, Đoàn Dự quanh quẩn dưới gốc cây vài vòng thấy vết thương trên ngực lại ngâm ngẩm đau, biết rằng vì ban ngày chạy nhanh quá nên lại động đến vết thương, không khỏi tự hỏi: “Sao nàng lại đi tìm cái chết nhỉ?”.

Chàng thuận chân đi ra ngoài miếu, dưới ánh trăng thấy xa xa bên cạnh bờ ao thấp thoáng một người đàn bà áo trắng trông như thể Vương Ngữ Yên. Đoàn Dự kinh hãi kêu thầm: “Không xong rồi, nàng lại tự tử nữa”. Lập tức thi triển khinh công, xông ngay tới chỉ nháy mắt đã đến sau lưng người đàn bà kia.

Dưới ao nước xanh biếc phẳng như mặt gương, phản chiếu bóng người, quả chính là Vương Ngữ Yên thật. Đoàn Dự không dám mạo muội tiến lên, nghĩ thầm: “Ở trên núi Thiếu Thất nàng chán ghét ta, lần này gặp lại, vẻ mặt vẫn chưa vui chút nào, chắc là cơn giận chưa hết. Nàng sở dĩ toan bề quyên sinh, không chừng là vì bực với mình. Ôi, Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, ngươi đường đột đắc tội với giai nhân để nàng buồn bã muốn lìa đời, thì dù có trăm lần chết cũng không đủ chuộc lỗi lầm”.

Chàng đứng náu sau một gốc cây, tự oán tự thán, càng nghĩ càng thấy tội nghiệt thâm trọng. Nếu trên đời này có người muốn kết liễu đời mình thì người đó phải là Đoàn Dự mới phải chứ không thể là cô gái đang đứng trước mặt tên gọi Vương Ngữ Yên.

Bỗng thấy mặt nước trong xanh như ngọc tự nhiên khuấy động, có mấy vòng tròn từ từ loang ra. Đoàn Dự ngưng thần nhìn kỹ, thì chính là những giọt lệ của Vương Ngữ Yên nhỏ xuống. Đoàn Dự càng thêm đau lòng, nghe nàng buồn bã thở dài, nói nhỏ:

- Thôi … thôi ta đành đi tìm cái chết cho xong, để khỏi phải chịu nỗi thống khổ vô cùng vô tận này.

Đoàn Dự lại càng nhịn không nổi, từ sau gốc cây bước ra nói:

- Vương cô nương, nghìn lần không nên, vạn lần không nên, mọi sự chẳng qua chỉ vì Đoàn Dự này không ra gì, xin để tại hạ chịu thay. Cô nương … cô nương nếu như vẫn còn giận, tại hạ xin tạ tội trước mặt cô nương.

Chàng nói đến đây, hai gối khuỵu xuống, quì ngay trước mặt nàng. Vương Ngữ Yên giật nảy mình, vội nói:

- Công tử … công tử làm chi đó? Mau đứng lên, chớ để mọi người nhìn thấy thì còn thể thống gì nữa?

Đoàn Dự nói:

- Bao giờ cô nương tha thứ cho tôi, không còn giận nữa lúc đó tại hạ mới đứng lên.

Vương Ngữ Yên lạ lùng:

- Ta tha thứ cho công tử chuyện chi? Trách cứ chuyện chi? Có liên can gì đến anh đâu?

Đoàn Dự nói:

- Ta thấy cô nương đau lòng, nghĩ bụng cô nương mọi chuyện đều vui vẻ, chỉ vì ta đắc tội với Mộ Dung công tử khiến y khó chịu để đến nỗi cô cũng bực mình lây. Lần tới nếu gặp lại y, y muốn đánh muốn giết ta cũng chỉ bỏ chạy, quyết không hoàn thủ.

Vương Ngữ Yên dậm chân thở dài:

- Ôi, anh … anh sao mà ngốc thế, ta thương tâm là chuyện của ta, nào có liên quan gì đến anh đâu.

Đoàn Dự hỏi lại:

- Nếu nói thế có nghĩa là cô nương không trách gì ta phải không?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Dĩ nhiên là không rồi.

Đoàn Dự nói:

- Thế thì ta cũng yên tâm.

Chàng đứng một hồi, đột nhiên cảm thấy chán phèo chẳng còn ra gì nữa. Nếu như Vương Ngữ Yên vì ghét mình mà đau lòng tính chuyện quyên sinh, cho chí đánh chàng chửi chàng, hay rút kiếm đâm cho một cái, vung đao chém cho một nhát thì hẳn mười phần sung sướng, ngờ đâu nàng chỉ hững hờ: “Ta thương tâm là chuyện của ta, nào có liên quan gì đến anh đâu”, thật chẳng khác gì bị dội một gáo nước lạnh, cuộc đời nhạt nhẽo làm sao.

Lại thấy Vương Ngữ Yên cúi đầu, từng giọt từng giọt lệ rơi xuống ngực, không thấm vào áo nên lăn xuống đất. Đoàn Dự cảm thấy sôi lên nói:

- Cô nương có chuyện gì đau lòng, nói cho tôi nghe. Tôi sẽ tận tâm kiệt lực để làm cho cô, nhất quyết sẽ khiến cô hết giận thành vui.

Vương Ngữ Yên chậm rãi ngửng đầu lên, dưới ánh trăng mắt nàng long lanh đẫm lệ trông như hai viên thủy tinh. Hai khối thủy tinh đó lóe lên một tia vui mừng, nhưng lại tắt ngay. Vương Ngữ Yên rầu rĩ nói:

- Đoàn công tử đãi thiếp thật tốt bụng, trong lòng thiếp … trong lòng thiếp cảm kích biết bao. Có điều chuyện này công tử không thể nào làm được, công tử dẫu muốn giúp cũng không xong.

Đoàn Dự nói:

- Bản thân ta quả chẳng tài cán gì, thế nhưng Tiêu đại ca, Hư Trúc nhị ca ai cũng đầy võ công, đều ở đây cả. Tại hạ với hai vị huynh đệ kim lan kia tình như cốt nhục, dù có cầu chuyện gì chăng nữa cũng sẽ bằng lòng. Cô nương có chuyện gì thương tâm, nói cho ta nghe. Nếu quả đành phải bó tay không cách nào vãn hồi được thì sau khi nói ra những chuyện đau lòng nỗi buồn cũng nhẹ bớt phần nào.

Khuôn mặt trắng bệch của Vương Ngữ Yên bỗng hơi ửng đỏ, nàng quay sang chỗ khác không dám nhìn thẳng vào Đoàn Dự nữa, nhỏ nhẹ nói, tiếng chỉ vo ve như muỗi kêu:

- Y … y muốn làm phò mã Tây Hạ. Công Dã nhị ca đến khuyên thiếp, bảo là … bảo là vì công cuộc hưng phục Đại Yên phải quên đi chuyện nhi nữ tư tình.

Nàng nói mấy câu đó xong rồi quay lại gục đầu vào vai Đoàn Dự, khóc nức nở. Đoàn Dự được nàng thân cận như thế đâm ra hoảng vía, đứng như trời trồng không dám động đậy chút nào, vừa chợt hiểu ra bỗng thấy ngẩn ngơ, không biết nên vui mừng hay nên đau xót. Thì ra Vương Ngữ Yên đau lòng chỉ vì Mộ Dung Phục muốn ứng tuyển phò mã Tây Hạ, nếu lấy được công chúa Tây Hạ dĩ nhiên không màng gì đến Vương Ngữ Yên nữa.

Đoàn Dự tự nhiên nghĩ ngay: “Nếu nàng không lấy biểu ca, không chừng sẽ đổi thái độ với mình. Ta cũng không dám mong nàng hạ cố lấy mình, chỉ mong được thường trông thấy nàng cũng đủ thỏa lòng thỏa dạ. Nàng thích thanh tĩnh ta sẽ dẫn nàng đi những nơi không dấu chân người, hoang sơn cô đảo, sáng chiều thấy nhau, sung sướng biết bao?”. Nghĩ đến chuyện được như thế không khỏi hoa chân múa tay.

Vương Ngữ Yên giật mình, lùi lại một bước, thấy Đoàn Dự mặt tươi như hoa, giận dỗi nói:

- Anh … anh … ta vẫn tưởng anh là người tốt nên mới ngỏ lời tâm sự. Ai ngờ đâu công tử hạnh tai lạc họa quay lại chế nhạo ta.

Đoàn Dự vội đáp:

- Không, không đâu! Vương cô nương, có trời có đất chứng giám, nếu Đoàn Dự này có nửa phần hạnh tai lạc họa đối với cô nương thì xin cho sét đánh bửa đôi đầu, nghìn vạn mũi tên bắn trúng.

Vương Ngữ Yên hỏi:

- Nếu anh không có ý xấu thì cũng chẳng sao, việc gì phải thề thốt thế? Vậy vì cớ gì anh lại cao hứng?

Nàng vừa buột mồm hỏi xong chợt hiểu ngay ra, Đoàn Dự sở dĩ hớn hở ra mặt, chỉ vì Mộ Dung Phục lấy được công chúa Tây Hạ thì anh chàng sẽ bớt một kẻ tình địch, may ra có hi vọng kết thân với mình. Đoàn Dự vì nàng say đắm, tình ý nồng nàn, lẽ nào Vương Ngữ Yên lại không biết?

Có điều bao nhiêu tình cảm của nàng từ trước tới nay dồn hết cho biểu ca, có khi nghĩ tới mối tình si của Đoàn Dự, cũng hơi tội nghiệp nhưng bảo là “yêu” thì chưa từng có chuyện đó. Nàng hiểu rõ vì sao Đoàn Dự hoa chân múa tay rồi, thẹn thùng lại thêm ngượng ngập, hai má đỏ bừng hậm hực nói:

- Anh tuy không cười tôi, thế nhưng bụng dạ cũng không tốt lành gì. Tôi … tôi … tôi …

Đoàn Dự kinh hoảng, nghĩ thầm: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, sao ngươi chợt nảy ra cái tính nhỏ nhen ti tiện, toan bề dậu đổ bìm leo như thế? Thế hóa ra là một kẻ tiểu nhân vô sỉ hay sao?”.

Chàng thấy nàng thật yếu đuối đáng thương, nếu như có thể làm cho nàng được một đời bình an vui vẻ thì dù có chết vạn lần cũng cam lòng, tự nhiên hào khí nổi lên nghĩ thầm: “Vừa rồi ta chỉ nghĩ đến làm sao được cùng nàng rong chơi nơi hoang sơn cô đảo, sớm tối bên nhau, vui vầy sung sướng. Có biết đâu rằng “vui vầy sung sướng” kia là của Đoàn Dự mà thôi chứ nào có phải là của Vương Ngữ Yên? Cái vui của Đoàn Dự chính là nỗi buồn của Vương Ngữ Yên, ta cầu niềm vui cho mình như thế chỉ là yêu mình, còn như phải làm thế nàng cho nàng vui, ấy mới thực là yêu nàng, lo lắng cho nàng”.

Vương Ngữ Yên hạ giọng:

- Có phải ta nói sai chăng? Công tử giận ta chăng?

Đoàn Dự vội đáp:

- Không, không đâu! Ta làm gì mà giận nàng?

Vương Ngữ Yên nói:

- Thế sao công tử không nói gì cả?

Đoàn Dự đáp:

- Ta đang nghĩ đến một chuyện.

Chàng trong lòng không ngớt tính toán: “Ta so với Mộ Dung công tử, văn tài võ công không kịp mà nhân phẩm phong thái cũng kém, đến tiêu sái tiếng tăm cũng không bằng, có thể nói mặt nào cũng thua xa lắc. Huống chi hai người lại là anh em cô cậu, từ tấm bé có tình thanh mai trúc mã, gắn bó đã lâu ta thật không thể nào sánh được. Thế nhưng có một chuyện ta hơn được Mộ Dung công tử, ta phải cho Vương cô nương hay rằng nói đến chân tâm thành ý lo lắng cho nàng thì Mộ Dung công tử không thể nào bì kịp ta. Hai mươi năm sau khi Vương cô nương cùng Mộ Dung công tử sinh con đẻ cái, có cháu có chắt rồi thì trong tấm lòng sâu thẳm của nàng, mỗi khi nghĩ đến Đoàn Dự, biết rằng trên đời không có kẻ thứ hai thật tình được như ta”.

Chàng trong bụng đã quyết liền nói:

- Vương cô nương, cô không phải đau lòng, để ta đến khuyên Mộ Dung công tử đừng đi ứng tuyển phò mã Tây Hạ, mau mau trở về thành hôn với cô đi thôi.

Vương Ngữ Yên giật mình nói:

- Không, làm thế sao được? Biểu ca ta hận công tử thấu xương, y không nghe công tử khuyên giải gì đâu.

Đoàn Dự nói:

- Ta sẽ nói chuyện đại nghĩa để chỉ vẽ cho y quay về nẻo sáng, trên đời này quan trọng nhất là vợ chồng phải tâm đầu ý hợp, hai bên cùng vui. Y và công chúa Tây Hạ hai người chẳng ai biết ai, cũng chẳng biết cô ta đẹp hay xấu, thiện hay ác, vừa mới gặp nhau đã nên duyên thật không ổn chút nào. Ta cũng sẽ nói với y, Vương cô nương thanh nhã xinh đẹp tuyệt trần, trên đời này ít ai sánh kịp, lại thêm ôn nhu trinh thục, kiếm khắp thiên hạ cũng chẳng ra được một người thứ hai. Người như thế kiếm một nghìn năm cũng chẳng ra, mà có kiếm thêm một nghìn năm nữa cũng không có. Huống chi Vương cô nương đối với ngươi Mộ Dung công tử một mối thâm tình, sao ngươi nỡ trở thành một gã lang quân bạc hãnh, khiến cho tất cả những người đang yêu trên đời này mắng chửi, để cho hảo hán anh hùng trên giang hồ cười chê?

Vương Ngữ Yên nghe chàng nói một thôi như thế, thật là cảm động, buồn bã nói:

- Đoàn công tử, công tử khen thiếp như thế chẳng qua tại chàng có lòng ái mộ, yêu mến thiếp …

Đoàn Dự vội cãi:

- Sai bét rồi! Không phải vậy!

Chàng vừa mở miệng nhớ ngay là mình đã tập nhiễm cái giọng của Bao Bất Đồng, học được câu đầu môi chót lưỡi của y, nhịn không nổi cười hộc lên một tiếng, nói tiếp:

- Ta chỉ một tấm lòng thành, câu nào cũng từ trong gan ruột mà ra.

Vương Ngữ Yên nghe câu:”Phi dã, phi dã” của chàng khiến cho đang khóc cũng phải bật cười đáp:

- Chuyện hay anh không học, lại học cái lối cù nhầy của Bao tam ca.

Đoàn Dự thấy nàng mặt mày rạng rỡ, hết sức hoan hỉ nói:

- Ta sẽ hết sức tìm đủ mọi cách khuyên giải Mộ Dung công tử để y không còn ý muốn làm phò mã Tây Hạ mà sớm sớm cùng cô nương thành hôn.

Vương Ngữ Yên đáp:

- Anh làm thế là vì sao? Có chỗ nào lợi cho anh đâu?

Đoàn Dự đáp:

- Chỉ cần sao cô nương vui tươi nhí nhảnh, trong bụng thoải mái, ấy là cái lợi cho ta đó.

Vương Ngữ Yên trong lòng rung động, nghe một câu hết sức vu vơ như thế cũng đủ biết chàng đối với mình một mối chân tình. Thế nhưng nàng vốn nhất tâm nhất ý chỉ có một mình Mộ Dung Phục, tuy cảm kích nhưng chỉ thoáng qua rồi quên ngay, thở dài một tiếng nói:

- Anh không biết tấm lòng của biểu ca. Trong lòng y việc hưng phục Đại Yên là chuyện to lớn nhất trong thiên hạ. Công Dã nhị ca nói với ta rằng, biểu ca có nói: Phận nam nhi phải lấy đại nghiệp làm trọng, nếu lại như nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản thì còn đâu là anh hùng nữa.

Anh ta còn nói: Công chúa Tây Hạ dù có xấu như Chung Vô Diệm, chanh chua tai ngược thì y cũng chẳng để vào đâu, chỉ có hưng phục Đại Yên mới là quan trọng hơn cả.

Đoàn Dự trầm ngâm đáp:

- Cái đó chắc là thật đấy. Họ Mộ Dung nhất tâm nhất ý mong làm hoàng đế, nước Tây Hạ có thể giúp họ hưng binh phục quốc, chuyện này … chuyện này … quả là khó thực.

Lại thấy Vương Ngữ Yên nước mắt doanh tròng sắp sửa trào ra, Đoàn Dự nghĩ mình dù có phải lên núi đao, xuống vạc dầu cũng chẳng sá gì bèn ưỡn ngực nói:

- Cô nương cứ yên tâm đi, để ta đi làm phò mã Tây Hạ. Biểu ca cô không làm phò mã thì lúc đó không thể không thành hôn với cô nương.

Vương Ngữ Yên vừa mừng rỡ vừa kinh ngạc, hỏi lại:

- Cái gì?

Đoàn Dự đáp:

- Để ta đi giật lấy cái chức phò mã đô úy là xong.

Vương Ngữ Yên chính mắt nhìn thấy trên núi Thiếu Thất Đoàn Dự đã từng dùng Lục Mạch Thần Kiếm đánh cho Mộ Dung Phục không cách gì trở tay, nghĩ thầm võ công Đoàn Dự quả cao hơn biểu ca, nếu chàng có bụng đi giành chức phò mã e rằng chưa chắc đã vào tay Mộ Dung Phục được, nói khẽ:

- Đoàn công tử, chàng đối với thiếp thật hết lòng, nhưng nếu như thế, biểu ca sẽ hận chàng không đâu kể xiết.

Đoàn Dự đáp:

- Thế thì đã sao? Hiện bây giờ y cũng đã hận ta rồi.

Vương Ngữ Yên nói:

- Thế nhưng công tử vừa mới nói, không biết công chúa Tây Hạ xấu hay đẹp, thiện hay ác, vậy sao chàng lại vì thiếp mà thành thân với cô ta, chẳng hóa ra … chẳng hóa ra … thiệt thòi cho công tử lắm hay sao?

Đoàn Dự định nói: “Chỉ vì nàng, dù ta có phải thiệt thòi thế nào chăng nữa cũng cam gánh chịu” nhưng lại nghĩ ra: “Ta làm cho nàng nhưng lại khiến cho nàng phải chịu ơn thì đâu còn là hành vi của người quân tử nữa”. Chàng bèn đáp:

- Ta nào có vì nàng mà chịu thiệt thòi đâu. Cha ta đã ra lệnh bảo ta đi tìm cách lấy công chúa Tây Hạ làm vợ, đó là ta tuân lệnh gia gia, có liên quan gì đến cô nương đâu?

Vương Ngữ Yên là người cực kỳ thông tuệ, mối thâm tình của Đoàn Dự đối với mình, lẽ nào không thấu đáo? Chỉ vì chàng say mê mình mà cam nguyện thành hôn với một người chưa từng quen biết, vì mình mà làm một chuyện hết sức trái với tâm tư, lại không kể công, trong lòng càng thêm cảm kích, đưa tay ra nắm tay Đoàn Dự nói:

- Đoàn công tử, thiếp … thiếp … kiếp này không biết lấy gì báo đáp, thôi đành để kiếp sau …

Nàng nói đến đây, giọng nghẹn ngào không nói tiếp được nữa. Hai người mấy lần cùng chung hoạn nạn, giúp đỡ nâng dắt lẫn nhau, đụng da chạm thịt không phải chỉ một lần nhưng trước nay chỉ là chuyện bất đắc dĩ. Còn lần này chính là vì trong lòng Vương Ngữ Yên cảm động, đưa tay ra nắm tay Đoàn Dự. Đoàn Dự cảm thấy bàn tay mềm mại nhẵn nhụi của nàng cầm lấy tay mình, trong nhất thời thật dẫu có lên tiên cũng không sướng bằng, niềm vui dâng tràn thấy nàng đãi mình như thế thì dù có phải lấy cả một lượt công chúa Tây Hạ, công chúa Đại Tống, công chúa nước Liêu, công chúa Thổ Phồn, công chúa Cao Ly chàng cũng không nề. Chàng bị thương chưa khỏi, trong cơn sung sướng như điên như cuồng, nhiệt huyết dâng lên, tinh thần xem chừng không chịu nổi, bỗng nhiên đầu váng mắt hoa, trời đất quay cuồng, thân hình lảo đảo, ùm một tiếng đã lộn nhào xuống ao.

Vương Ngữ Yên kinh hãi quá kêu lên:

- Đoàn công tử! Đoàn công tử!

Nàng vội vàng đưa tay ra nắm lấy Đoàn Dự. Cũng may cái ao đó rất nông, Đoàn Dự bị ngấm nước nên đầu óc tỉnh lại, ướt lướt thướt trèo lên. Tiếng kêu của Vương Ngữ Yên khiến cho những người trong miếu đều thức giấc. Tiêu Phong, Hư Trúc, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần tất cả cùng túa ra, thấy tình trạng Đoàn Dự như thế, còn Vương Ngữ Yên thì ngượng ngập đứng một bên, vẻ mặt cực kỳ bẽn lẽn, ai cũng cho rằng hai người hò hẹn lúc canh khuya, không khỏi cười thầm nhưng không tiện dò hỏi. Đoàn Dự tuy muốn chống chế vài câu nhưng cũng không biết phải làm thế nào.

Hôm sau là ngày mười hai tháng tám, chỉ còn ba ngày nữa là đến tiết Trung Thu. Ba Thiên Thạch mới sáng sớm đã đi vào thành lo liệu công việc. Đến giờ tị, y lật đật quay về bẩm với Đoàn Dự:

- Công tử, lá thư cầu thân của vương gia gửi hoàng đế Tây Hạ, tiểu nhân đã trình cho bộ Lễ rồi. Cũng may đích thân Lễ Bộ thượng thư trông thấy, hết sức khách khí, nói là được công tử đến cầu thân, nước Tây Hạ vô cùng vinh dự hi vọng công tử sẽ hoàn thành sở nguyện.

Chẳng bao lâu, một đoàn người ngựa chạy đến trước miếu rồi có tiếng người gọi. Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần liền chạy ra đón vào, thì ra đó là Đào thị lang của bộ Lễ cùng với nhân viên đến nghinh tiếp Đoàn Dự, mời vào tân quán nghỉ ngơi. Tiêu Phong là Nam Viện Đại Vương của nước Liêu, thịnh thế nước Liêu hơn Đại Lý nhiều, nếu Tây Hạ biết được có cả ông ở đây, ắt là tiếp đón còn long trọng hơn nữa. Có điều ông đã dặn mọi người đừng hở phong thanh là có cả ông cùng đi, chỉ cùng Hư Trúc nhận là tùy tùng của Đoàn Dự, tất cả vào nhà khách.

Mọi người yên vị rồi, bỗng nghe trong viện có kẻ cất giọng thô lỗ chửi rủa:

- Ngươi là cái thá gì mà đòi ngấm nghé công chúa Tây Hạ? Cái chức phò mã Tây Hạ, tiểu vương tử bọn ta đã định chiếm rồi, bọn chúng bay mau mau cúp đuôi cút đi thôi.

Bọn Ba Thiên Thạch nghe nói thế ai nấy nổi hung lên, nghĩ thầm kẻ nào sao dám vô lễ như thế, dám đến trước cửa nhục mạ? Mở cửa ra thấy có đến mười bảy mười tám đại hán, đứng đầy trong viện kêu la om sòm.

Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần đều là những bầy tôi cực kỳ tinh tế trong triều đình Đại Lý, chỉ khác là Chu Đan Thần có vài phần nho nhã văn chương, còn Ba Thiên Thạch thì bặm trợn hơn một chút. Hai người không ai nói gì, chỉ đứng ở cửa.

Chỉ thấy bọn kia càng chửi càng thô tục, trong đó xen vào nhiều tiếng Phiên không ai hiểu gì nhưng mồm năm miệng mười “tiểu vương tử nhà ta” thế này thế khác, xem chừng là hạ thuộc của vương tử nước Thổ Phồn.

Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần hai người nhìn nhau cười mỉm, đang định ra tay đánh đuổi bọn chúng đi, đột nhiên cửa bên cánh trái mở toang, một người áo vàng, một người áo đen xông ra, tay đấm chân đá, trong nháy mắt đã có ba đại hán bò lê bò càng kêu la rầm rĩ, ngoài ra còn mấy người khác bị đánh văng ra ngoài ngõ.

Người áo đen nói:

- Khoái quá! Khoái quá!

Gã áo vàng nói:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Chưa đủ gọi là khoái!

Một người chính là Phong Ba Ác còn người kia là Bao Bất Đồng. Bỗng nghe những võ sĩ Thổ Phồn chạy được ra khỏi cửa lớn tiếng:

- Họ Mộ Dung kia, ta khuyên ngươi nên sớm về Cô Tô cho xong. Ngươi định lấy công chúa Tây Hạ làm vợ sẽ khiến tiểu vương tử bọn ta bực mình, sử dụng môn “ăn miếng trả miếng”, cưới quách con em ngươi làm vợ bé là ngươi bỏ mẹ.

Phong Ba Ác lại chạy vụt ra như gió, nghe tiếng bì bộp đánh đấm, ối ối mấy tiếng, những tên võ sĩ Tây Hạ bỏ chạy tán loạn, tiếng chửi vọng lại càng lúc càng xa. Vương Ngữ Yên ngồi ở trong phòng, nghe tiếng Bao Phong cùng bọn võ sĩ Thổ Phồn, lông mày nhíu lại, giọt châu rưng rưng, không biết phải làm thế nào, có nên đi ra gặp bọn họ hay không?

Bao Bất Đồng chắp tay chào Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần nói:

- Ba huynh, Chu huynh đến Tây Hạ để xem trò vui chăng, hay còn có mưu tính chuyện gì khác?

Ba Thiên Thạch cười nói:

- Bao Phong hai vị làm gì thì hai người chúng ta cũng làm chuyện ấy.

Bao Bất Đồng biến sắc hỏi:

- Đoàn vương tử nước Đại Lý cũng tới cầu thân ư?

Ba Thiên Thạch đáp:

- Chính thế! Công tử gia bọn ta là thế tử của hoàng thái đệ nước Đại Lý, ngày sau thân đăng đại vị, là vua một cõi ngoảnh mặt về phương nam, cùng với Tây Hạ kết thân, quả là môn đương hộ đối. Mộ Dung công tử chỉ chân bạch đinh, nhân phẩm tuy cao nhưng gia cảnh xem ra không xứng đôi vừa lứa.

Mặt Bao Bất Đồng lại càng khó coi nói:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Ngươi biết một mà chẳng biết hai. Công tử nhà ta là phượng hoàng trong loài người, cái tên ngốc họ Đoàn nhà ngươi làm sao bì được?

Phong Ba Ác lại xông ra nói:

- Tam ca hà tất phải tranh hơi cãi vã làm gì? Để mai đây kim điện tỉ thí, hai bên thi triển tài nghệ là biết ngay.

Bao Bất Đồng đáp:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Tỉ thí nơi kim điện ấy là chuyện của công tử gia, còn cãi vã hơn thua chính là việc của bọn mình.

Ba Thiên Thạch cười nói:

- Cãi vã hơn thua thì Bao huynh là số một trong thiên hạ, cổ vãng kim lai không ai bì kịp. Tiểu đệ đành chịu nước lép, chi bằng nhận thua trước cho xong.

Y vừa nói vừa cùng Chu Đan Thần lui vào trong phòng, nói:

- Chu hiền đệ, nghe gã Bao Bất Đồng nói ra thì công tử gia phải tham dự cái gì gọi là kim điện tỉ thí. Công tử gia bị thương nặng chưa hoàn toàn khỏi hẳn, võ công lại lúc được lúc không, đâu có gì chắc chắn, nếu khi tỉ thí Lục Mạch Thần Kiếm không dùng được, đã không thành phò mã mà lại còn nguy đến tính mạng, mình phải tính sao đây?

Chu Đan Thần cũng bó tay, hai người đành đi tìm Tiêu Phong, Hư Trúc để bàn tính. Tiêu Phong nói:

- Việc thi ở điện vàng kia không biết tỉ thí cách nào? Một đánh một chăng, hay là bao nhiêu bộ thuộc cũng xuất trận? Nếu như người đi theo cũng tham dự giác đấu được thì không có gì phải lo.

Ba Thiên Thạch đáp:

- Quả đúng thế. Chu hiền đệ, bọn mình đến gặp Đào thượng thư hỏi xem cách thức kén rể, tỉ thí ra sao cho rõ ràng, lúc đó hãy bàn tính lại.

Hai người bèn khăn gói ra đi. Tiêu Phong, Hư Trúc, Đoàn Dự ba người ngồi uống rượu, chén chú chén anh thật là hào sảng. Tiêu Phong nhân dịp hỏi Đoàn Dự học Lục Mạch Thần Kiếm như thế nào, định truyền cho chàng những pháp môn vận chuyển chân khí để có thể tùy ý mà sử dụng. Ngờ đâu Đoàn Dự chẳng biết một tí nội công, ngoại công nào cả thì làm sao có thể học được trong một ngày một buổi? Tiêu Phong thấy không cách gì hơn chỉ còn nước lắc đầu, giơ bát lên uống ừng ực. Hư Trúc và Đoàn Dự tửu lượng kém xa, uống hết năm sáu bát liệt tửu thì đã say mèm không còn biết trời trăng gì nữa.

Đoàn Dự mơ mơ hồ hồ tỉnh lại, thấy giấy dán trên cửa sổ in hình cành cây rõ mồm một, ánh trăng chiếu vào thì ra đã khuya lắm. Chàng trong lòng rung động: “Hôm qua ta và Vương cô nương nói chuyện chưa xong, chỉ vì sơ ý nên lộn cổ xuống ao, không biết nàng có còn gì để nói với mình nữa hay không? Hay là vẫn ở bên ngoài chờ mình? Chết rồi, không xong! Nếu để nàng đợi một hồi lâu thấy mình không ra, chắc chán nản quay về ngủ mất, hóa ra chẳng hỏng hết đại sự hay sao?”. Chàng vội vàng nhỏm dậy, rón rén mở cửa phòng đi qua sân đang toan mở then cổng chính, bỗng nghe đằng sau có người nói khẽ:

- Đoàn công tử lại đây, ta có chuyện muốn nói.

Đoàn Dự bất thần nghe tiếng người giật bắn lên, giọng nói lạnh lùng dường như không có ý tốt, định quay lại xem là ai bỗng thấy sau lưng bị nắm chặt rồi. Đoàn Dự nhận ra tiếng, hỏi lại:

- Có phải Mộ Dung công tử đó không?

Người kia đáp:

- Không dám, chính là mỗ đây, xin Đoàn huynh di giá ra ngoài nói chuyện.

Quả đúng là Mộ Dung Phục. Đoàn Dự nói:

- Mộ Dung công tử đã sai bảo, tại hạ đâu dám không phụng bồi? Xin bỏ tay ra đã.

Mộ Dung Phục đáp:

- Cũng chẳng cần phải buông ra làm chi.

Đoàn Dự đột nhiên thấy mình nhẹ bỗng, người bay bổng như đằng vân giá vụ, đã bị Mộ Dung Phục nắm sau lưng nhảy lên mái nhà. Đoàn Dự nếu như há mồm kêu thì cũng đánh thức Tiêu Phong, Hư Trúc và những người khác chạy ra cứu viện nhưng lại nghĩ: “Nếu ta kêu lên thì Vương cô nương cũng nghe tiếng, nàng thấy hai người lại hục hặc nhau, hẳn sẽ không hài lòng. Nàng không bao giờ trách biểu ca đâu, bao nhiêu tội vạ lại đổ lên đầu ta, lẽ nào ta lại để nàng phải bực tức?”. Chàng nghĩ thế nên không la ó, để mặc cho Mộ Dung Phục xách trên tay chạy băng băng ra ngoài.

Khi đó tuy là canh khuya nhưng cũng sắp tới ngày Trung Thu, ánh trăng vằng vặc, thấy Mộ Dung Phục lúc đầu chạy trên đường lót đá xanh rồi sau đến một con đường mòn đất thịt, hai bên là cỏ cao nửa xanh nửa vàng.

Mộ Dung Phục chạy được một lát rồi ngừng lại, cầm Đoàn Dự ném phịch xuống đất một cái khá mạnh, bình một tiếng, vai và hông Đoàn Dự chạm vào đất nhưng không đau lắm. Chàng nghĩ thầm: “Gã này mặt mũi trông cũng văn nhã nhưng hành động lại như kẻ dã man” bèn lồm cồm bò dậy nói:

- Mộ Dung huynh có điều gì thì nói đâu cần phải hung hăng như thế.

Mộ Dung Phục cười khẩy đáp:

- Tối hôm qua ngươi nói gì với biểu muội ta?

Đoàn Dự đỏ mặt, ngượng ngập đáp:

- Cũng … cũng đâu có chuyện gì? Chẳng qua vô tình chạm mặt nhau nói vài câu chuyện tầm phào thôi mà.

Mộ Dung Phục nói:

- Ngươi là nam tử hán, đại trượng phu, người quang minh không làm điều lén lút, đã nói chuyện gì, làm việc gì thì hà tất phải chối quanh?

Đoàn Dự bị y khích bác, máu nóng nổi lên nói:

- Đương nhiên việc gì ta phải dấu diếm, ta nói với Vương cô nương là muốn đến khuyên nhủ ngươi một chuyện.

Mộ Dung Phục cười nhạt nói:

- Có phải ngươi muốn khuyên ta: “Trên đời này quan trọng nhất là vợ chồng phải tâm đầu ý hợp, hai bên cùng vui. Ta và công chúa Tây Hạ chẳng ai biết ai, cũng chẳng biết cô ta đẹp hay xấu, thiện hay ác, vừa mới gặp nhau đã nên duyên thật không ổn chút nào”, có phải thế không?

Ngươi lại còn nói: “Huống hồ biểu muội đối với ta một mối thâm tình, nếu như trở thành một gã lang quân bạc hãnh, sẽ khiến cho tất cả những người đang yêu trên đời này mắng chửi, để cho hảo hán anh hùng trên giang hồ cười chê?” có phải thế không?

Y nói một câu Đoàn Dự đã ngẩn người, đến khi nói hết chàng mới lắp bắp:

- Vương … Vương cô nương kể lại cho ngươi rồi ư?

Mộ Dung Phục đáp:

- Đời nào nàng lại dám nói cho ta nghe?

Đoàn Dự hỏi lại:

- Thế tối hôm qua ngươi đứng náu ở một bên nghe được ư?

Mộ Dung Phục lại cười nhạt:

- Ngươi có lừa là lừa được một cô nương ngây thơ không hiểu chuyện đời chứ tính chuyện xí gạt ta sao nổi.

Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi lại:

- Ta lừa ngươi chuyện gì?

Mộ Dung Phục đáp:

- Nói thế mà chưa rõ hay sao? Ngươi bản thân muốn được làm phò mã Tây Hạ, sợ ta đến tranh giành nên mới đặt điều định dụ ta vào tròng. Ha ha, Mộ Dung Phục này có phải là đứa trẻ lên ba đâu, không lẽ lại vào bẫy của ngươi được? Ngươi … ngươi đừng có nằm mơ nữa.

Đoàn Dự thở dài:

- Ta chỉ có lòng tốt, mong cho Vương cô nương và ngươi thành hôn, kết thành thần tiên quyến thuộc, nâng án ngang mày, trăm năm đầu bạc đấy thôi.

Mộ Dung Phục lại cười khẩy:

- Đa tạ cái miệng vàng của ngươi. Họ Đoàn Đại Lý với Cô Tô Mộ Dung vô thân vô cố, cũng chẳng giao tình, sao ngươi lại chúc tụng những điều tốt đẹp đến thế? Chỉ cần ta bị vướng mắc với biểu muội không thoát ra được, thế là ngươi thong dong quần là áo lượt, hiên ngang đi nhận cái chức phò mã Tây Hạ chứ gì?

Đoàn Dự giận dữ đáp:

- Ngươi thốt ra như thế không phải là ăn càn nói bậy hay sao? Ta thân vương tử nước Đại Lý, tuy chỉ là tiểu quốc nhưng có đến nỗi phải coi cái chức “phò mã” kia to như trời đâu? Mộ Dung công tử, ta có lòng tốt khuyên ngươi, vinh hoa phú quí, chỉ chớp mắt là qua không còn gì nữa, dù cho ngươi có thành phò mã Tây Hạ thì rồi lại mong được làm hoàng đế Đại Yên, phải giết không biết bao nhiêu mạng người? Dẫu cho người Trung Nguyên máu chảy thành sông, xương chất như núi, cái chức hoàng đế Đại Yên thành hay không, thực đâu có gì chắc chắn.

Mộ Dung Phục không lấy gì tức giận, chỉ lạnh lùng nói:

- Ngươi nói ra toàn chuyện nhân từ đạo đức, thế nhưng bụng dạ thì rắn rết sài lang.

Đoàn Dự vội đáp:

- Ngươi không tin ta có hảo ý thì là chuyện của ngươi, nói gì thì nói, ta không nhường ngươi lấy công chúa Tây Hạ đâu. Ta không đành lòng thấy Vương cô nương đứt ruột, phải tìm cách quyên sinh.

Mộ Dung Phục hỏi lại:

- Ngươi không nhường ta lấy ư? Ha ha, liệu ngươi có tài cán làm chuyện đó không? Ta cứ lấy thì ngươi làm gì ta?

Đoàn Dự đáp:

- Ta sẽ tận tâm kiệt lực, ngăn trở cho việc không thành. Nếu như ta vô năng vô lực thì sẽ nhờ bạn bè giúp.

Mộ Dung Phục hơi chột dạ. Tiêu Phong, Hư Trúc hai người võ công đến đâu, y biết rõ rồi, thậm chí bản thân Đoàn Dự, khi thi triển Lục Mạch Thần Kiếm chính mình đã không cách gì chống đỡ, cũng may kiếm pháp của y lúc được lúc không, không thể nghĩ sao làm vậy, nên phải lợi dụng lúc sơ hở. Y nghĩ thế bèn ngửng đầu lên cao giọng:

- Biểu muội, ngươi lại đây, ta có chuyện muốn nói.

Đoàn Dự vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, vội vàng quay lại nhưng cả một vùng đồng không mông quạnh, nào có thấy bóng dáng Vương Ngữ Yên đâu? Chàng ngưng thần nhìn quanh quất, xem ở nơi cây cối um tùm trước mặt có gì động đậy không, đột nhiên sau lưng bóp lại, lại bị Mộ Dung Phục nắm được huyệt đạo nhắc lên, lúc ấy mới biết mình bị mắc hỡm, cười gượng nói:

- Ngươi đã hung hăng lại thêm trí trá, thực không phải hành vi của người quân tử.

Mộ Dung Phục cười nhạt:

- Đối phó với những đứa tiểu nhân như ngươi việc gì phải dùng thủ đoạn quân tử?

Y nhắc Đoàn Dự lên chạy qua một bên đường có lẽ định đi tìm một cái hố nào đó, đánh cho một chưởng chết tươi vứt xuống vùi lại. Y chạy được mấy trượng chỉ thấy một cái giếng khô, giơ lên ném luôn chàng xuống dưới đó. Đoàn Dự chỉ kịp kêu lên: “Trời ơi!” thì đã rơi bịch xuống dưới đáy. Mộ Dung Phục định đi tìm thêm vài tảng đá lấp miệng giếng lại cho chàng chết đói, bỗng nghe có tiếng đàn bà:

- Biểu ca thấy tiểu muội rồi ư? Muốn nói chuyện gì? Ối chao, biểu ca làm gì Đoàn công tử đó?

Người đó chính là Vương Ngữ Yên. Mộ Dung Phục sững sờ, mày cau lại. Y gọi vói ra sau lưng Đoàn Dự, chẳng qua chỉ cốt dẫn dụ chàng quay đầu nhìn để dễ bề nắm lấy huyệt đạo sau lưng, ai ngờ đâu quả có Vương Ngữ Yên ở gần bên thật.

Thì ra đêm hôm đó Vương Ngữ Yên lòng buồn rười rượi không sao ngủ được nên ngồi bên song cửa ngắm trăng, tình cảnh Mộ Dung Phục bắt giữ Đoàn Dự thế nào nàng đều thấy cả, e ngại hai người tranh chấp, Mộ Dung Phục không địch lại Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự nên lập tức đuổi theo sau. Hai người tranh biện những gì từng câu từng câu nàng đều nghe rõ. Nàng thấy những lời Đoàn Dự nói ra đều tự tâm can phế phủ nhưng Mộ Dung Phục lại cho rằng chàng có dụng tâm. Đến khi Mộ Dung Phục buông lời đánh lừa Đoàn Dự, Vương Ngữ Yên vẫn tưởng y trông thấy mình thật, nên mới hiện thân.

Vương Ngữ Yên chạy đến bên miệng giếng, cúi xuống xem xét gọi lớn:

- Đoàn công tử! Đoàn công tử! Công tử có bị thương không?

Đoàn Dự khi bị ném, đầu lộn xuống dưới chân chổng lên trên, trán va vào bùn khô đã ngất đi từ bao giờ. Vương Ngữ Yên gọi luôn mấy bận không nghe tiếng đáp lại, cho rằng Đoàn Dự đã chết rồi, nghĩ đến bình thời chàng đối với mình thật hết lòng hết dạ, lần này cũng vì mình mà bỏ mạng, nhịn không nổi khóc òa lên kêu réo:

- Đoàn công tử, chàng … chàng sao lại … sao lại chết thảm như thế này?

Mộ Dung Phục lãnh đạm nói:

- Ngươi đối với y quả là một mối thâm tình.

Vương Ngữ Yên nghẹn ngào đáp:

- Anh ta có lòng tốt khuyên bảo biểu ca, nghe hay không là quyền mình, có gì mà phải giết anh ta như thế?

Mộ Dung Phục đáp:

- Người này là đại đối đầu của ta, ngươi không nghe y nói là sẽ tận tâm kiệt lực ngăn trở không cho ta lấy được công chúa Tây Hạ hay sao? Hôm trước trên núi Thiếu Thất, y làm ta mất mặt không còn đường nào đứng trên cõi giang hồ, ta không thể nào dung tha cho nổi.

Vương Ngữ Yên nói:

- Việc trên núi Thiếu Thất thì quả là anh ta không phải, tiểu muội đã từng trách cứ, anh ta cũng nhận là mình sai quấy.

Mộ Dung Phục cười khẩy:

- Hừ, hừ! Tự nhận là sai quấy? Chỉ nói bâng quơ một câu thế thôi là tưởng xóa được món nợ này hay sao? Ta Mộ Dung Phục hành tẩu giang hồ, để cho người ta đứng sau lưng chỉ chỉ trỏ trỏ, bảo ta thua vì Lục Mạch Thần Kiếm họ Đoàn Đại Lý, ngươi thử tưởng tượng xem từ nay ta có còn làm người được nữa chăng?

Vương Ngữ Yên nhỏ nhẹ nói:

- Biểu ca, chuyện thua được nhất thời, sao lại cứ ghi nhớ mãi trong tim? Chuyện đấu kiếm trên núi Thiếu Thất hôm đó chính dượng cũng đã khai mở cho biểu ca rồi, việc đã qua còn nói lại làm chi?

Nàng không biết Đoàn Dự đã chết thật chưa, lại thò đầu xuống giếng gọi thêm:

- Đoàn công tử! Đoàn công tử!

Thế nhưng không nghe thấy tăm hơi gì cả. Mộ Dung Phục nói:

- Ngươi quan tâm đến y như thế sao không lấy quách y cho xong? Hà tất lại còn lẽo đẽo chạy theo ta?

Vương Ngữ Yên trong lòng chua xót nói:

- Biểu ca, thiếp đối với chàng một mối chân tâm, không lẽ … không lẽ chàng chưa tin được hay sao?

Mộ Dung Phục cười nhạt:

- Ngươi đối với ta một tấm lòng thành, ha ha! Hôm xưa ở tại bên bờ Thái Hồ, nơi máy xay lúa, ngươi trần truồng cùng gã họ Đoàn chui dưới đống rơm để làm gì thế? Cái đó chính mắt ta trông thấy, không lẽ lại còn giả hay sao? Khi đó ta đã định một đao chém chết tiểu tử đó đi, nhưng chính ngươi chỉ điểm cho y làm khó ta, thế trong lòng ngươi nghĩ tới ai vậy? Ha ha, ha ha!

Y nói đến đây rồi buông tiếng cười sằng sặc. Vương Ngữ Yên kinh hãi đến chết sững, run run hỏi:

- Nơi nhà máy xay lúa bên cạnh Thái Hồ … cái người … cái người võ sĩ Tây Hạ che mặt … che mặt …

Mộ Dung Phục cướp lời:

- Đúng vậy, kẻ giả làm võ sĩ Tây Hạ Lý Diên Tông, chính là ta đó.

Vương Ngữ Yên nói nhỏ:

- Thảo nào, tiểu muội vốn đã nghi. Hôm đó biểu ca còn nói: “Nếu như một ngày nào đó ta lên làm Hoàng Đế Trung Nguyên…” giọng điệu đó … đúng … đúng là của biểu ca rồi, đáng lẽ phải sớm nhận ra mới phải.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro