TLBB pt20 (END)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

KHÔ TỈNH ĐỂ, Ô NÊ XỨ (TT)

Đáy khô má tựa lòng thêm ấm,

Lá mục môi kề dạ ngát hương.

*

* *

Mộ Dung Phục cười nhạt:

- Ngươi đáng lẽ sớm nhận ra hay bây giờ mới nhận ra thì cũng đâu có trễ.

Vương Ngữ Yên vội nói:

- Biểu ca, hôm đó tiểu muội trúng phải hơi độc của bọn võ sĩ Tây Hạ, may được Đoàn công tử cứu, giữa đường gặp mưa ướt hết cả quần áo, thành thử mới phải vào trong nhà máy xay đó đụt mưa, biểu ca …biểu ca … chớ có đa nghi.

Mộ Dung Phục đáp:

- May sao lại có cái nhà máy xay lúa để đụt mưa. Vậy mà khi ta đến nơi rồi, hai đứa vẫn còn lấp la lấp ló, gã họ Đoàn đưa tay sờ mặt ngươi, ngươi nào có tránh né. Khi đó ta nói những gì, ngươi có còn nhớ được hay chăng? Chỉ e ngươi toàn tâm toàn ý chỉ còn biết đến gã họ Đoàn, lời ta nói nào có lọt vào tai đâu.

Vương Ngữ Yên hơi xao xuyến, nhớ lại cảnh tượng ở trong nhà xay lúa, những lời của gã võ sĩ Tây Hạ bịt mặt Lý Diên Tông còn rõ mồn một bên tai, lẩm bẩm:

- Khi đó.. khi đó … biểu ca cười khẩy mấy tiếng, nói gì nhỉ? Biểu ca nói … nói … là “Ta bảo ngươi lên học võ công để giết ta chứ có bảo hai đứa chúng bay … hai đứa chúng bay …”.

Nàng nhớ rành rọt hôm đó Mộ Dung Phục còn nói: “… hai đứa chúng bay lên đó cười cợt, ôm ấp nhau đâu.” nhưng không sao nói ra được.

Mộ Dung Phục nói:

- Hôm đó ngươi cũng bảo là nếu như ta giết gã tiểu tử họ Đoàn thì ngươi sẽ quyết ý giết ta báo thù cho y. Vương cô nương, ta nghe cô nương nói mấy câu đó nên mới tha mạng cho y, ngờ đâu dưỡng hổ di hoạn, để đến nỗi trước mặt bao nhiêu anh hùng hảo hán trên núi Thiếu Thất bị nhục nhã không còn mặt mũi gì.

Vương Ngữ Yên thấy y đột nhiên không còn gọi mình là “biểu muội” nữa mà đổi giọng thành “Vương cô nương”, trong lòng xót xa, run run nói:

- Biểu ca, hôm đó nếu như em biết được đó là biểu ca thì không bao giờ lại nói những điều như thế. Quả thực, biểu ca ơi, em … nếu em biết được… quyết chẳng dám nói. Chàng cũng biết em một lòng một dạ đối với chàng … hết sức thương yêu.

Mộ Dung Phục nói:

- Ví phỏng như vì ta đeo mặt nạ ngươi không nhận ra tướng mạo, ví như ta giả vờ ú ớ, ngươi không nhận ra khẩu âm, thế nhưng không lẽ đến cả võ công ngươi cũng nhận không ra? Ha ha! Trong võ học ngươi là kẻ uyên bác phi phàm, ai sử chiêu gì thế gì, ngươi biết ngay lai lịch, gia số, thế mà ta cùng tiểu tử kia động thủ đến trên trăm chiêu, ngươi cũng vẫn không nhận ra ta ư?

Vương Ngữ Yên nói nhỏ:

- Tuy thiếp có nghi tâm thật, nhưng … nhưng biểu ca, chúng ta lâu lắm không gặp nhau, võ công tiến cảnh của biểu ca thiếp đâu có nghĩ …

Mộ Dung Phục không lấy làm căm giận, mấy câu đó của Vương Ngữ Yên, rõ ràng cho rằng võ công của mình tiến bộ quá chậm, không như nàng mong đợi, bèn nói:

- Hôm đó ngươi nói: “Lúc đầu ta thấy đao pháp ngươi phức tạp quả có bội phục thật, nhưng coi độ năm chục chiêu rồi thấy chẳng qua cũng chỉ đến đó, bảo là “Kiềm lô kỹ cùng” thì có hơi khắc bạc nhưng nói trắng ra hiểu biết của ngươi còn kém xa ta.”. Vương cô nương, hiểu biết của ta kém cô nương xa thật, … ngươi … ngươi viêc gì mà phải di theo ta? Trong bụng ngươi đã coi ta chẳng vào đâu, đúng thế, Mộ Dung Phục này đường đường trượng phu, vậy mà lại để một cô nương coi chẳng ra gì.

Vương Ngữ Yên tiến lên mấy bước, dịu dàng nói:

- Biểu ca, hôm đó quả là em nói sai, thôi để tiểu muội bồi tội nơi đây.

Nói rồi khom lưng quì xuống hành lễ, nói tiếp:

- Thiếp thật không biết đó là biểu ca … chàng đại nhân đại lượng, chẳng nên để trong lòng. Thiếp từ nhỏ kính trọng biểu ca, từ nhỏ vẫn một niềm ngoan ngoãn, bảo sao nghe vậy, từ nay không dám vi phạm điều gì. Hôm đó thiếp nói năng lăng nhăng, xin chàng niệm tình xưa nghĩa cũ, tha thứ cho thiếp một phen.

Những lời nói của Vương Ngữ Yên nơi nhà máy xay lúa, Mộ Dung Phục tâm cao khí ngạo, nghe rồi hết sức khó chịu, hậm hực mãi không quên. Từ đó đến nay, hai người tuy gần nhau lâu ngày nhưng y vẫn để bụng, đối với nàng không khỏi có phần gượng gạo.

Bây giờ nghe nàng dịu dàng câàu khẩn, dưới ánh trăng một cô nương xinh đẹp tuyệt trần mà tình ý triền miên với mình như thế, lại biết chắc giữa nàng và Đoàn Dự không có gì, nói năng đụng chạm chẳng qua vô tâm, nghĩ đến tình thanh mai trúc mã, Mộ Dung Phục không khỏi động tâm bèn giơ tay ra cầm lấy tay Vương Ngữ Yên gọi nhỏ:

- Biểu muội!

Vương Ngữ Yên mừng quá, biết rằng biêåu ca đã tha thứ cho mình rồi, bèn sà vào lòng y, tựa đầu lên vai Mộ Dung Phục, nói khẽ:

- Biểu ca giận em, muôán đánh muốn chửi gì cũng được, nhưng đừng bao giờ dể trong lòng không nói ra nhé.

Mộ Dung Phục ôm tấm thân mềm mại ấm áp của nàng vào lòng, nghe những lời dịu ngọt thiết tha, không khỏi tâm thần lãng đãng, đưa tay vuốt tóc Vương Ngữ Yên ôn tồn nói:

- Ta đời nào lại mắng chửi em? Ấy là trước kia ta giận đấy thôi chứ bây giờ hết giận rồi.

Vương Ngữ Yên nói:

- Biểu ca, chàng đừng đi làm phò mã Tây Hạ nữa nhé?

Mộ Dung Phục nghe vậy toàn thân rúng động, nghĩ thầm: “Chết rồi! Không được! Mộ Dung Phục ơi! Sao ngươi nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản như thế, suýt nữa thì làm hỏng đại sự. Đến chút tình riêng ngươi còn không bỏ được thì còn nói gì đến chuyện “đả thiên hạ” để gây dựng đại nghiệp nữa?”.

Nghĩ như thế y bèn giơ tay đẩy Vương Ngữ Yên ra, cứng rắn trở lại, lắc đầu:

- Biểu muội, duyên phận đôi ta đến đây chấm dứt. Cô biết chứ, ta xưa nay thù dai lắm, những gì cô đã nói ra, những gì sai quấy, ta không đời nào quên được.

Vương Ngữ Yên buồn bã nói:

- Vừa rồi biểu ca mới nói là hết giận rồi mà.

Mộ Dung Phục đáp:

- Ta không giận nữa nhưng có điều … có điều cuộc đời này chúng ta không đi xa hơn tình anh em cô cậu được.

Vương Ngữ Yên nói:

- Như thế anh nhất định không tha thứ cho tôi ư?

Trong lòng Mộ Dung Phục “tư tình” và “đại nghiệp” hai đàng giằng xé, y ngần ngừ một phút, rồi cương quyết lắc đầu. Vương Ngữ Yên bao nhiêu tâm tình tắt lịm, hỏi thêm lần nữa:

- Anh định đi lấy công chúa Tây Hạ nên không ngó ngàng gì đến tôi nữa chứ gì?

Mộ Dung Phục thu hết can đảm, gật đầu. Vương Ngữ Yên trước đây biết chuyện Mộ Dung Phục định ứng tuyển phò mã Tây Hạ là do Công Dã Can nói lại, tuyệt vọng định tìm cái chết nên cố ý rơi lại phía sau, tránh được bọn Đặng Bách Xuyên rồi bèn nhảy xuống vực tự tận, may được Vân Trung Hạc cứu thoát.

Đến lúc này do chính miệng ý trung nhân cự tuyệt, nàng đau lòng như điên như cuồng, tưởng chừng hộc máu, đột nhiên nghĩ ra: “Đoàn công tử đối với ta một dạ si mê, vậy mà từ trước tới giờ, đến liếc mắt đưa tình vờ vịt ta cũng chưa làm, lần này y lại bỏ mạng vì ta, quả đãi anh ta hết sức bạc bẽo. Thôi bây giờ ta cũng không muốn sống nữa làm gì, Đoàn công tử chết nơi chiếc giếng sâu, ắt bên dưới là mỏm nhọn đá cứng. Chi bằng ta chết cùng một chỗ với anh ta, để đáp đền lại phần nào mối thâm tình”.

Nàng nghĩ thế bèn từ từ đi đến bờ giếng, quay lại nói:

- Biểu ca, tôi chúc cho anh được toại nguyện, lấy được công chúa Tây Hạ để mai này lên ngôi Đại Yên hoàng đế.

Mộ Dung Phục biết Vương Ngữ Yên đi tìm cái chết, tiến lên một bước định nắm lấy cánh tay nàng, toan ngăn lại: “Không được!”. Thế nhưng trong lòng y lại biết rằng nếu mình lên tiếng, giơ tay giữ lại thì từ nay có thể thoát ra khỏi tấm nhu tình quấn quít của biểu muội nữa hay không quả khó mà biết được. Biểu muội ôn nhu xinh đẹp, trên đời khó kiếm, được người vợ như vậy còn ân hận nỗi gì? Huống chi nàng từ bé với mình ái tình thâm trọng, nếu như một phút yếu lòng, kết thành mối nghiệt duyên thì việc hưng phục Đại Yên sẽ bị sứt mẻ. Y trong lòng nghĩ thế, miệng há ra nhưng không thành tiếng, tay vươn ra nhưng lại không giữ ghịt Vương Ngữ Yên.

Vương Ngữ Yên nhìn thần sắc Mộ Dung Phục cũng đoán được tâm tình, những tưởng dẫu không còn đằm thắm thì cũng vẫn còn là anh em cô cậu chí thân, nào ngờ thấy mình đi tìm cái chết y vẫn không có ý gì ngăn trở, thật còn kém cả đứa cùng hung cực ác là Vân Trung Hạc, kẻ bạc bẽo như thế thì còn nói gì thêm, nên kêu lên:

- Đoàn công tử, thiếp xin được chết ở bên chàng!

Nàng tung mình nhảy lên, lao đầu xuống miệng giếng. Mộ Dung Phục kêu lên một tiếng tiến lên, giơ tay định nắm lấy chân nàng. Với võ công như y, muốn chộp được Vương Ngữ Yên thật dễ như trở bàn tay nhưng vì ngần ngừ chưa quyết nên vẫn để mặc cho nàng tự tận. Y thở dài một tiếng, lắc đầu:

- Biểu muội, lòng ngươi vốn yêu thương Đoàn công tử, hai người sống không được thành vợ chồng nhưng khi chết chôn chung một huyệt, thế cũng thỏa nguyện rồi.

Đột nhiên sau lưng có tiếng người nói:

- Giả dối thật! Ngụy quân tử!

Mộ Dung Phục kinh hãi: “Sao có người đến bên cạnh mình mà mình không hề hay biết?”. Y vung tay đánh ngược lại một chưởng, rồi mới quay đầu, dưới ánh trăng thấy một bóng mờ theo chưởng bay đi, thân pháp khinh linh thực là hiếm có.

Mộ Dung Phục phi thân tới, không đợi cho người kia rơi xuống, vừa đánh thêm một chưởng vừa giận dữ quát lên:

- Ai đó? Sao đám đùa rỡn với công tử nhà ngươi?

Người kia ở trên không cũng đánh xuống, chạm phải chưởng lực của Mộ Dung Phục, lại bay vọt ra ngoài thêm hơn một trượng nữa mới rơi xuống đất, hóa ra là quốc sư nước Thổ Phồn Cưu Ma Trí.

Lại nghe y nói tiếp:

- Rõ ràng ngươi bức bách Vương cô nương lao đầu xuống giếng tự tận, vậy mà dám mở mồm nói là để cho nàng thỏa nguyện. Mộ Dung công tử, như thế liệu có âm hiểm tàn nhẫn quá hay chăng?

Mộ Dung Phục cáu tiết đáp:

- Đó là chuyện riêng của ta, ai khiến ngươi phải rỗi hơi xen vào?

Cưu Ma Trí đáp:

- Ngươi làm chuyện thương thiên hại lý như thế, hòa thượng này đành phải chen vào. Huống chi ngươi lại còn toan ứng tuyển phò mã Tây Hạ thì đó đâu còn là chuyện riêng nữa?

Mộ Dung Phục nói:

- Thế bộ hòa thượng như ngươi mà cũng mong được làm phò mã hay sao?

Cưu Ma Trí cười rộ lên đáp:

- Hòa thượng đi làm phò mã, làm gì có chuyện đó bao giờ?

Mộ Dung Phục cười nhạt:

- Ta vốn đã biết nước Thổ Phồn có bụng bất lương, có phải ngươi vì tiểu vương tử mà ra mặt hay không?

Cưu Ma Trí hỏi lại:

- Cớ gì mà lại bảo là “có bụng bất lương”? Nếu định cưới công chúa Tây Hạ làm vợ là có bụng bất lương, thế thì các hạ lương hay không lương thiện nào?

Mộ Dung Phục đáp:

- Ta muốn cưới công chúa Tây Hạ đều do năng lực bản thân để tranh đoạt chức phò mã chứ không phải sai thủ hạ hô phong hoán vũ, quấy rối làm càn khiến cho anh hùng hào kiệt ở Linh Châu này ai ai cũng mỉa mai khinh bỉ.

Cưu Ma Trí cười nói:

- Bọn ta đánh dẹp hết những đứa du thủ du thực để cho kinh thành Linh Châu bớt đi những kẻ quang côn, mặt dày mày dạn, rơm rác bụi bậm, không lượng sức mình, trông mà phát ghét. Thế cũng là dọn đường giúp cho các hạ còn mong gì nữa?

Mộ Dung Phục đáp:

- Nếu quả là như thế thì thật đẹp. Vậy chắc vương tử nước Thổ Phồn sẽ dùng bản lãnh chân thực mà tranh đoạt với người ta chăng?

Cưu Ma Trí đáp:

- Chính thị.

Mộ Dung Phục thấy y nhơn nhơn ra chiều không ngại ngùng gì, làm như chắc ăn rồi, trong bụng không khỏi nghi nan, bèn hỏi:

- Như thế tiểu vương tử quí quốc hẳn là võ công cao cường, anh hùng vô địch, đã cầm chắc cái thắng trong tay chăng?

Cưu Ma Trí đáp:

- Tiểu vương tử điện hạ là học trò ta, võ công tuy không dở, anh hùng vô địch thì chưa hẳn nhưng bảo là chắc ăn thì có thể.

Mộ Dung Phục lại càng kinh ngạc nghĩ thầm: “Nếu ta hỏi thẳng chắc y không trả lời đâu, chi bằng khích tướng mới được”. Y bèn nói:

- Thế thì lạ thật, tiểu vương tử quí quốc cũng chắc ăn mà ta đây cũng chắc ăn, không biết hai người ai mới thực là ăn chắc.

Cưu Ma Trí cười đáp:

- Tiểu vương tử chúng ta có cái gì mà bảo là chắc thắng, hẳn ngươi cũng muốn biết qua, phải vậy chăng? Chi bằng ngươi nói trước cái phương cách của ngươi ra, sau đó ta sẽ cho biết cách của ta. Hai bên trao đổi xem bên nào cao minh hơn bên nào.

Mộ Dung Phục tự thị vốn chỉ là võ công cao cường, hình mạo tuấn nhã, còn như bảo là cách nào chắc thắng thì chưa có, bèn nói:

- Ngươi là kẻ ngụy kế đa đoan, nói ra không ai tin được. Nếu ta nói phương pháp của ta ra, rồi ngươi không chịu nói có phải mắc hỡm ngươi hay không?

Cưu Ma Trí cười khà khà nói:

- Mộ Dung công tử, bề gì ta cũng quen biết lệnh tôn lâu năm, hai bên tương kính lẫn nhau. Nói quá một chút, ta dẫu sao cũng là trưởng bối của các hạ, ngươi nói thế không phải là đi quá phận mình hay sao?

Mộ Dung Phục khom lưng hành lễ:

- Minh Vương trách cứ quả là đúng lẽ, kẻ hậu sinh mong được tha thứ một phen.

Cưu Ma Trí cười đáp:

- Công tử thông minh thật, đã chịu nhận là vãn bối rồi, ta nể tình cha ngươi nên không thể nào chiếm tiện nghi được. Cái điểm tất thắng của tiểu vương tử nước Thổ Phồn, nói ra cũng chẳng đáng đồng xu. Ấy là những ai định tranh chức phò mã, ta sẽ giải quyết từng người một. Nếu như không còn ai tranh giành thì lẽ nào tiểu vương tử lại không trúng tuyển? Ha ha, ha ha!

Mộ Dung Phục lập tức biến sắc ấp úng:

- Nếu nói như thế, ta …

Cưu Ma Trí cướp lời:

- Ta với lệnh tôn giao tình không phải nhẹ, dĩ nhiên không lấy mạng ngươi đâu. Ta thành ý khuyên công tử, lập tức rời Tây Hạ ngay đi, đó là thượng sách.

Mộ Dung Phục nói:

- Nếu như ta không chịu bỏ đi thì sao?

Cưu Ma Trí mỉm cười:

- Ta cũng chẳng thèm giết công tử, chỉ cần móc hai mắt, hay chặt một chân một tay thành người tàn phế. Công chúa Tây Hạ dĩ nhiên chẳng đời nào hạ mình đi lấy một đứa ngũ quan không đủ, chân tay què quặt dù cho có là bậc anh hùng hảo hán.

Y dài giọng khi nói đến bốn chữ “anh hùng hảo hán”, ra chiều châm chọc mỉa mai.

Mộ Dung Phục hết sức tức tối nhưng còn e ngại y võ công cao cường, không dám tiến lên động thủ, cúi đầu suy tính xem phải đối phó cách nào. Dưới ánh trăng bỗng thấy bên chân có vật gì hơi rung động, ngưng thần quan sát, hóa ra đó là bóng cánh tay phải của Cưu Ma Trí. Mộ Dung Phục kinh hãi, cho rằng đối phương đang ngựng tụ công lực, trong chớp mắt sẽ đánh ra, lập tức cũng ngầm vận kình, chuẩn bị chống đỡ. Lại nghe Cưu Ma Trí nói tiếp:

- Công tử bức bách lệnh biểu muội tự tận, quả là thương tổn âm đức quá nhiều. Nếu như ngươi rời khỏi Tây Hạ ngay thì chuyện bức tử Vương cô nương, ta sẽ bỏ qua không truy cứu.

Mộ Dung Phục hừ một tiếng đáp:

- Ấy là cô ta đâm đầu xuống giếng tuẫn tình, có liên can gì đến ta đâu?

Tuy mồm y nói thế nhưng vận chăm chăm nhìn vào cái bóng dưới đất, thấy hai tay Cưu Ma Trí vẫn rung động liên tiếp. Mộ Dung Phục trong lòng khởi nghi: “Võ công của y cao cường như thế, nếu như muốn ra tay đả thương người, việc gì phải liên tiếp ngưng tụ chân lực? Không lẽ y khệnh khạng ra chiêu định dọa cho mình bỏ chạy hay sao?”.

Y chăm chăm nhìn kỹ hơn nữa, thấy vạt áo, ống quần của ông ta cũng hơi rung động đủ biết đang run lên không tự chủ được. Mộ Dung Phục chợt nghĩ ra: “Hôm trước nơi Tàng Kinh Các trong chùa Thiếu Lâm, lão tăng vô danh có nói rằng Cưu Ma Trí luyện bảy mươi hai tuyệt kỹ Thiếu Lâm rồi, lại gắng gượng luyện thêm Dịch Cân Kinh chi đó, đã bảo ông ta “thứ tự điên đảo, đại nạn chỉ trong sớm tối”, nếu tu luyện tuyệt kỹ Thiếu Lâm mà không giữ tâm từ bi, lại vun trồng lệ khí thì họa sẽ không sao lường được. Vị lão tăng đó đã nói đúng bệnh của gia gia và Tiêu Viễn Sơn, cực kỳ linh nghiệm, vậy thì những lời nói về Cưu Ma Trí xem ra cũng chẳng phải hư ngôn”. Y nghĩ đến đó bỗng dưng hết sức vui mừng: “Ha ha, gã hòa thượng này chính mình đại họa lâm đầu, vậy mà còn dở trò dọa dẫm ta, bảo nào là khoét mắt, cắt chân chặt tay”.

Thế nhưng y không dám chắc, bèn thử một chuyến, liền nói:

- Ôi, thứ tự điên đảo, đại nạn chỉ trong sớm tối! Đã luyện môn công phu thượng thừa này mà lâm vào đường tẩu hỏa nhập ma thì thật ghê gớm biết mấy.

Cưu Ma Trí đột nhiên kêu rống lên như tiếng sói tru, như bò rống, thanh âm cực kỳ ghê rợn, giơ tay chộp Mộ Dung Phục, quát lên:

- Ngươi nói gì? Ngươi … ngươi bảo ai?

Mộ Dung Phục nghiêng người tránh ra, Cưu Ma Trí liền quay người lại, dưới ánh trăng chiếu lên khuôn mặt y thấy hai mắt đỏ ngầu, lông mày dựng ngược, sắc mặt cực kỳ hung tợn, thần khí tuy dũng mãnh thật nhưng không dấu được vẻ hoảng hốt.

Mộ Dung Phục không còn hoài nghi gì nữa nói:

- Ta có một câu lương ngôn thành ý khuyên ông. Minh Vương tức tốc rời khỏi Tây Hạ trở về Thổ Phồn, miễn là đừng vận khí, không nổi giận, chẳng ra tay đánh nhau thì may ra hồi qui cố thổ, còn không, lời vị thần tăng Thiếu Lâm kia xem chừng ứng nghiệm rồi.

Cưu Ma Trí kêu lên khè khè, cái vẻ ung dung bình thời không còn đâu nữa, lớn tiếng:

- Ngươi … ngươi biết những gì? Ngươi biết những gì?

Mộ Dung Phục thấy vẻ mặt y hết sức hung dữ, chẳng còn chút gì ra vẻ thánh tăng, không khỏi sợ hãi, vội lùi lại một bước. Cưu Ma Trí quát lên:

- Ngươi biết những gì? Mau nói ra cho ta nghe.

Mộ Dung Phục cố gắng trấn tĩnh, thở dài một tiếng:

- Nội tức Minh Vương chạy vào đường rẽ rồi, đang lúc cực kỳ hung hiểm, nếu không lập tức quay về Thổ Phồn thì hãy chạy lên chùa Thiếu Lâm xin vị thần tăng kia cứu chữa, may ra cũng còn chút hi vọng.

Cưu Ma Trí cười nham hiểm nói:

- Làm sao ngươi biết được là nội tức ta chạy vào đường rẽ? Chỉ nói năng tầm bậy tầm bạ.

Nói xong vươn tay trái ra chộp vào mặt Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục thấy năm ngón tay ông ta hơi run run nhưng trảo pháp nghiêm cẩn, trầm ổn lão luyện chẳng có vẻ gì là nội lực bất túc, trong bụng kinh hãi thầm: “Không lẽ mình đoán trật hay sao?”. Y lập tức vận nội lực lên, ngưng thần tiếp chiến, tay phải gạt ra rồi lập tức biến thành móc nắm lấy cổ tay Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí quát lớn:

- Nghĩ đến cha ngươi, trong mười chiêu đầu ta không dùng sát thủ, ấy là giữ chút tình hương hỏa với cố nhân.

Nghe vù một tiếng đấm thẳng vào vai bên phải Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục nhẹ nhàng tránh được, chiêu thứ hai của Cưu Ma Trí đã đến rồi, giữa hai chiêu không có chút gì sơ hở. Mộ Dung Phục tuy giỏi về Đẩu Chuyển Tinh Di dùng sức đánh sức nhưng chiêu số đối phương quá ư tinh diệu, mỗi chiêu chỉ sử dụng một nửa, còn nửa sau biến hóa, y những toan tá lực thì không biết phải tựa vào đâu, chỉ đành nghiêm thủ những chỗ yếu hại để chờ cơ hội đánh trả.

Thế nhưng chiêu số của Cưu Ma Trí cực kỳ linh động, quả là bình sinh chưa thấy bao giờ, quyền đánh ra giữa chừng lại biến thành chỉ, thủ trảo ra đến bên người lại chuyển thành chưởng. Đến khi mười chiêu xong rồi, Cưu Ma Trí liền quát lên:

- Hết mười chiêu, ta lấy mạng mi đây!

Mộ Dung Phục chỉ thấy mắt hoa lên, bốn phương tám hướng chỗ nào cũng thấy bóng của Cưu Ma Trí, bên trái đá một cái, bên phải đấm một quyền, đằng trước đánh một chưởng, phía sau đâm một chỉ, dường như mọi chiêu số cùng đến một lượt, không biết chống đỡ cách nào, đành múa song chưởng, ngưng vận nội lực, thủ mà không công, dùng quyền pháp tự bảo lấy mình.

Bỗng nghe Cưu Ma Trí thở hồng hộc, tiếng nghe phì phò, càng thở càng nhanh, Mộ Dung Phục lên tinh thần nghĩ thầm: “Lão hòa thượng này nội tức loạn rồi, thở không ra hơi nữa. Ta chỉ cần giữ cho được một hồi lâu không để cho y đánh ngã, thời khắc diên trì, y thể nào cũng ngã lăn ra chết”.

Thế nhưng tuy Cưu Ma Trí thở rốc thật, chiêu số càng lúc càng gia tăng, đột nhiên quát lên một tiếng, Mộ Dung Phục thấy huyệt Tích Trung ngang hông, Thương Khúc ở bụng đồng thời đau nhói, đã bị điểm trúng, chân tay liền tê bại, không còn cử động được nữa.

Cưu Ma Trí cười khẩy mấy tiếng, vẫn thở hổn hển, nói:

- Ta đã bảo ngươi cút đi, vậy mà không chịu nghe, không còn trách gì được ta nữa nhé. Ta … ta … ta phải làm gì đây nhỉ?

Y chúm môi huýt lên một tiếng. Một hồi sau, từ trong rừng bốn võ sĩ Thổ Phồn chạy ra, khom lưng hỏi:

- Xin cẩn nghe pháp chỉ của Minh Vương.

Cưu Ma Trí nói:

- Đem gã tiểu tử này chặt đầu.

Bốn tên võ sĩ đáp:

- Tuân lệnh!

Mộ Dung Phục không cử động được nhưng tai vẫn nghe rõ mọi chuyện, trong bụng kêu khổ thầm: “Mới đây giá như ta nhận lời biểu muội, không đi tranh chức phò mã Tây Hạ, hai bên khắng khít vui vầy thì đâu có bị cái họa rơi đầu? Ta chết đi rồi thì còn gì là hi vọng khôi phục Đại Yên nữa?”. Y cố gắng mở miệng định tình nguyện rời khỏi Linh Châu không tranh cái chức phò mã nữa, khổ nỗi không sao nói được thành lời mà Cưu Ma Trí lại quay đi nơi khác không nhìn nhõi gì đến y, thành thử Mộ Dung Phục muốn đưa mắt van xin cũng không sao làm được.

Bốn tên võ sĩ Tây Hạ nắm lấy Mộ Dung Phục, một tên rút phắt loan đao, toan chặt cổ. Cưu Ma Trí bỗng kêu:

- Khoan đã! Ta với phụ thân tiểu tử này vốn quen biết nhau, thôi cho y chết được toàn thây. Các ngươi đem vứt y xuống dưới cái giếng khô kia, rồi đi tìm mấy tảng đá lớn chèn miệng giếng lại để y khỏi xung khai huyệt đạo bò ra được.

Các võ sĩ Thổ Phồn liền đáp:

- Tuân lệnh!

Rồi cầm Mộ Dung Phục bỏ xuống giếng khô, nhìn quanh quất bốn bề chẳng thấy khối đá nào lớn, vội vàng chạy ra sau núi kiếm đá tảng. Còn Cưu Ma Trí đứng bên bờ giếng, thở hổn hển không ngớt, ngực tức dường như không chịu nổi.

Hôm đó sau khi y dùng Hỏa Diễm Đao ám toán Đoàn Dự rồi, sợ các cao thủ vây đánh, lập tức bỏ chạy xuống núi, chưa khỏi núi Thiếu Thất đã thấy trong đan điền hơi nóng như sôi lên, lập tức ngừng lại điều hòa hơi thở nhưng thấy nội lực vận chuyển khó khăn, không khỏi kinh hãi thầm: “Lão giặc trọc kia bảo là ta cưỡng luyện bảy mươi hai tuyệt kỹ Thiếu Lâm, đã nhiễm lệ khí khiến cho mầm họa sinh ra rồi, sau lại còn luyện Dịch Cân Kinh, gốc ngọn đảo ngược, đại nạn chỉ trong sớm tối. Không lẽ … không lẽ lời lẽ quái quỉ của lão trọc kia, lại ứng nghiệm thực hay sao?”. Y vội vàng đi tìm một sơn động, tĩnh tọa nghỉ ngơi, nếu không vận nội công thì hơi nóng dần dần bình phục, còn như chỉ hơi sử kình, thì từ đan điền hơi nóng lại bốc lên, tưởng như lửa đốt.

Đến tối hôm đó, không thấy chùa Thiếu Lâm có ai đuổi theo, y mới chậm rãi xuôi nam. Những thám tử liên lạc của Thổ Phồn trên đường tìm được y, cho hay quốc vương đã sai tiểu vương tử sang Linh Châu cầu thân, ứng tuyển phò mã. Thám tử còn nói rằng tiểu vương tử lần này ra đi dẫn theo rất đông cao thủ võ sĩ, kim ngân châu báu và các đồ vật quí giá, danh mã bảo đao. Ngựa tốt đao quí là để dâng lên hoàng đế Tây Hạ đồ vật quí giá là để biếu công chúa, còn tiền bạc châu báu là để đút lót hậu phi thái giám và các quan lớn nhỏ.

Cưu Ma Trí là quốc sư nước Thổ Phồn, lo liệu mọi việc quân chính đại sự, tuy thân mang bệnh nhưng việc cầu thân thành hay bại liên quan đến hưng suy của Thổ Phồn nên lập tức lên đường đi Tây Hạ ngay để chủ trì toàn cục, điều đồng sai phái các cao thủ đối phó với những địch thủ toan tranh giành chức phò mã của tiểu vương tử.

Vào khoảng trên dưới mồng mười tháng tám, võ sĩ Thổ Phồn đã đánh đuổi đến mấy trăm thanh niên dị tộc, giang hồ hào khách. Những người đến đây tuy đông thật nhưng phần lớn chỉ là có ý định riêng tư, khi chạm địch nào có giúp đỡ gì nhau thành thử chẳng một ai có thể chống được với bọn võ sĩ Thổ Phồn vây đánh.

Cưu Ma Trí đến Linh Châu rồi liền tìm nơi tĩnh dưỡng, hơi nóng bừng bừng như lửa trong người dần dần dịu trở lại, thế nhưng mỗi khi tâm thần khích động thì chân tay mình mẩy lại run lên, không tự chủ được. Đến về sau, dẫu cho tâm định thần nhàn mà ngón tay, lông mày, khóe miệng, đầu vai vẫn cứ giật giật, không lúc nào yên.

Y không muốn cho ai thấy cái tình trạng quái lạ ấy nên bình thời sống riêng rẽ không chung đụng với ai, rất ít tiếp xúc. Hôm đó y nghe võ sĩ thủ hạ bẩm báo là Mộ Dung Phục đã đến Linh Châu, rồi có mấy võ sĩ Thổ Phồn bị thủ hạ của y đả thương. Cưu Ma Trí nghĩ bụng Mộ Dung Phục dung mạo anh tuấn, văn võ toàn tài, là một nhân vật tài ba vào bậc nhất đương thời, nếu không đánh đuổi y đi, tiểu vương tử thể nào cũng phải cùng y tỉ thí. Xét trong đám võ sĩ thủ hạ, Cưu Ma Trí không thấy người nào có thể địch lại Mộ Dung Phục, nên y đành phải tự mình xuất mã. Y nghĩ võ công mình cao siêu cỡ nào, Mộ Dung Phục cũng đã biết rồi, chắc chẳng cần động thủ chỉ dọa cho y bỏ đi cũng đủ cho nên mới tìm vào tân quán.

Khi y đến nơi thì Mộ Dung Phục đã bắt được Đoàn Dự đem đi rồi. Chung quanh nhà khách có võ sĩ Thổ Phồn mai phục giám thị, Cưu Ma Trí liền hỏi phương hướng theo đó đuổi theo. Khi đến khu rừng thì Mộ Dung Phục đã ném Đoàn Dự xuống giếng, đang nói chuyện với Vương Ngữ Yên. Sau dó hai bên động thủ, tuy Cưu Ma Trí bắt được Mộ Dung Phục nhưng nội tức cũng dâng tràn như sóng biển, xung đột lung tung nơi các kinh mạch huyệt đạo, muốn bung khỏi cơ thể nhưng không có đường ra, quả là khó chịu.

Y giơ tay cào trên ngực nhưng nội tức vẫn tiếp tục bành trướng, tưởng như đầu, ngực, bụng các nơi đều phình ra sắp sửa nổ tung, vỡ tan thành mảnh nhỏ. Y cúi đầu xem xét bụng ngực thấy vẫn bình thường, không phồng thêm chút nào vậy mà trong người thì thấy căng tròn như quả bóng, nội tức vẫn cuồn cuộn đổ thêm vào.

Cưu Ma Trí hết sức kinh hoàng, giơ ngón tay đâm vào vai trái và hai bên đùi, để mong chân khí theo ba cái lỗ đó tiết ra. Ba vết thương đó máu chảy như suối nhưng nội tức lại chẳng bớt đi chút nào. Lời của vị lão tăng Thiếu Lâm nơi Tàng Kinh Các như vang vọng bên tai, lúc này mới biết không phải hư ngôn, vì mình tham lam muốn được cho thật nhiều, luyện sai bảy mươi hai tuyệt kỹ và Dịch Cân Kinh, gốc ngọn ngược ngạo, đại họa đã đến rồi.

Y tuy hoảng hốt nhưng dẫu sao cũng đã tu luyện lâu năm, công phu thiền định Phật gia thâm hậu, thành thử thần trí không đến nỗi thác loạn, trong đầu chợt thoáng một ý nghĩ: “Y … y tự mình sao không luyện? Sao y chỉ luyện một vài môn, còn bao nhiêu bí quyết của bảy mươi hai tuyệt kỹ giao lại cho ta? Ta với y chỉ bèo mây gặp gỡ, dẫu có trò chuyện tâm đầu ý hợp, nhất kiến như cố thì cũng đâu đã có giao tình đến vậy?”.

Cưu Ma Trí gặp phải nguy nan mới hiểu rõ dụng ý của Mộ Dung Bác khi trao tặng cho mình “Thiếu Lâm thất thập nhị tuyệt kỹ bí quyết”. Khi Mộ Dung Bác trao tặng cho y bí quyết rồi, y cũng suy nghĩ rất lâu, e ngại đối phương không có hảo ý. Thế nhưng khi đọc đi đọc lại, môn tuyệt kỹ nào cũng vô cùng tinh diệu, với kiến thức cao siêu như y, thật giả biết ngay, nhìn kỹ lại bí cập, thấy giấy không tẩm thuốc độc nên bao nhiêu nghi ngại đều tan biến, lập tức khổ luyện, mỗi khi xong một môn thì lại cảm kích Mộ Dung Bác thêm một phần.

Đến lúc này sống không được, chết không xong, y mới hiểu rõ dụng tâm độc ác của Mộ Dung Bác: “Y ẩn phục trong chùa Thiếu Lâm mấy chục năm, chắc hẳn cũng đã nghe các nhà sư bàn luận là các tuyệt kỹ không thể luyện hết, nên khi gặp mình, thấy võ công tài lược có phần đáng ngại nên mới đem bí quyết giao lại cho ta. Y vốn dĩ một mặt muốn thử xem nếu luyện hết mọi tuyệt kỹ thì hậu hoạn thế nào, hai nữa muốn ta kết thù oán với chùa Thiếu Lâm, khích bác cho Thổ Phồn và Đại Tống hai bên tranh chấp. Khi đó họ Mộ Dung sẽ đục nước béo cò, hưng phục Yên quốc. Bảy mươi hai tuyệt kỹ hẳn y cũng sao lục phó bản rồi, điều đó hiển nhiên chẳng nói cũng biết”.

Y mới rồi bắt được Mộ Dung Phục, không khỏi không nghĩ đến ân tình phụ thân y tặng mình bí cập bảy mươi hai tuyệt kỹ, nên tuy biết y là mối lo tâm phúc nhưng cũng không lập tức chém đầu, chỉ vứt y xuống giếng cho được toàn thây. Bây giờ hiểu rõ cái dụng ý của Mộ Dung Bác khi tặng sách cho mình, nghĩ bụng mình phải chịu khổ sở thế này toàn là ác quả y gieo cấy, tức tối đến điên cuồng, cúi xuống miệng giếng liên tiếp đánh ra ba chưởng.

Ba chưởng đánh ra bên dưới không nghe tiếng gì cả, đủ biết giếng sâu lắm, chưởng lực không thể tới đáy được. Cưu Ma Trí vẫn như điên dại, lại một quyền hết sức đấm xuống. Quyền đó đánh ra rồi, nội tức lại bùng lên như nước vỡ bờ, tưởng như đang muốn theo mười vạn tám nghìn lỗ chân lông trào ra, nhưng lại chạm phải bức tường chặn lại không thoát được.

Y đang kinh hãi lại thêm giận dữ, đột nhiên trước ngực rung động, một vật gì đó từ trong áo rơi vào trong miệng giếng. Cưu Ma Trí đưa tay ra bắt nhưng không kịp, vội vàng vận “Cầm Long Thủ” lăng không chộp ra. Nếu phải bình thời, y đã giựt lại được vật đó rồi nhưng lúc này nội kình không thể sử dụng như ý muốn, chỉ phồng lên căng ra nhưng không vận vào chưởng tâm được, nghe bạch một tiếng, vật đó đã rơi xuống đáy. Cưu Ma Trí kêu thầm: “Hỏng rồi!”, giơ tay mò vào bọc, quả nhiên vật vừa rơi xuống chính là cuốn Dịch Cân Kinh.

Y biết rằng nội tức của mình vận hành lệch lạc cũng bởi luyện Dịch Cân Kinh mà ra, người buộc chuông mới có thể cởi chuông được, muốn trừ tai họa này thì cũng phải nghiên cứu Dịch Cân Kinh mới xong. Đây là một vật liên hệ đến sống chết, làm sao có thể để thất lạc được? Y không nghĩ ngợi gì nữa, lập tức tung mình nhảy vào trong giếng.

Y sợ dưới đáy có đá nhọn hay cành cây gì chăng có thề làm đau chân, lại sợ Mộ Dung Phục có khi giải huyệt được rồi, mai phục đánh lén nên khi hai chân chưa rơi tới đất, tay phải đã đánh trước hai chưởng cho giảm sức rơi, tay trái sử chiêu Hồi Phong Lạc Diệp bảo vệ các chỗ yếu hại chung quanh người.

Có ngờ đâu nội tức của y đã biến đổi hẳn, chiêu số tuy tinh vi nhưng lực đạo đánh ra đã tản mạn xiêu vẹo, không còn chuẩn xác nữa. Hai chưởng đó không những không giảm được lực đạo rơi xuống, lại khiến cho thân hình y nhồi một cái, bình một tiếng, đầu va mạnh vào lớp gạch lót ở thành giếng.

Với công lực của một người như y, tuy không dám nói là đã luyện thành mình đồng da sắt, nhưng đầu đập vào như thế cũng không đến nỗi bị thương, trái lại gạch còn vỡ tan mới phải. Thế nhưng lúc này thật là chó cắn áo rách, chỉ có vậy mà mắt nổ đom đóm, đầu óc quay cuồng, nằm mọp xuống đáy giếng.

Cái giếng này bỏ không dùng đã lâu, lá khô cỏ mục chất đống nát mủn thành bùn, mấy chục năm qua, bùn đọng dưới đáy càng lúc càng dày. Cưu Ma Trí vừa ngã xuống, mặt lao ngay vào đống bùn đen, rồi thân hình từ từ chìm xuống, cố gắng vùng vẫy để ngoi lên nhưng chân tay không có hơi sức. Y còn đang kinh hoàng, bỗng nghe bên trên có tiếng người gọi:

- Quốc sư! Quốc sư!

Chính là bốn tên võ sĩ Thổ Phồn. Cưu Ma Trí vội kêu:

- Ta ở dưới này!

Y vừa mở mồm, bùn đất liền tràn vào mồm làm sao kêu ra tiếng được? Chỉ loáng thoáng nghe bốn tên võ sĩ ở bên trên nói với nhau:

- Quốc sư không có ở đây, không biết ngài đi đâu?

Người khác nói:

- Chắc là quốc sư đợi lâu quá không chờ được, lão nhân gia đã dặn mình lấy đá chèn miệng giếng, mình cứ theo lệnh mà làm là xong.

Gã khác đáp:

- Đúng thế!

Cưu Ma Trí kêu lớn:

- Ta ở dưới đây, mau cứu ta lên!

Y càng hoảng hốt, bùn chui vào mồm càng nhiều, chưa kịp lưu thần đã nuốt mất hai ngụm, thối tha không chịu nổi. Chỉ nghe bình bình mấy tiếng thật lớn, bốn tên võ sĩ Thổ Phồn đã vần một tảng đá lớn chặn miệng giếng. Mấy gã đó xưa nay kính trọng Cưu Ma Trí như thần, quốc sư đã ra lệnh thật đâu có kém gì chỉ dụ của quốc vương, một khối đá e chưa đủ, lại vần thêm khối nữa chồng lên, trong giây lát đã bịt kín miệng giếng tổng cộng phải đến mười hai mười ba cục mỗi cục nặng cả trăm cân.

Bọn võ sĩ vần đá lấp giếng xong rồi, reo hò ra đi. Cưu Ma Trí nghĩ thầm mấy nghìn cân đá tảng chặn miệng giếng rồi, đừng nói mình võ công đã mất, dẫu còn như xưa ở bên dưới dễ gì đẩy lên được, e rằng đành bỏ mạng nơi chiếc giếng khô này.

Y võ công Phật học, tài ba mưu mẹo, không phải chỉ xưng hùng một cõi Tây Vực mà còn đứng đầu đương thế, ai có ngờ đâu lại chết rục nơi một đống bùn đen. Trên đời có ai mà không chết, thế nhưng chết như vầy thì thật không vẻ vang chút nào? Nhà Phật coi thân thể chỉ là một cái túi da hôi thối, sắc là vô thường mà vô thường là khổ, cái thân này nào phải là chân ngã nên phải chán ghét xa rời, cái đạo lý cơ bản đó, Cưu Ma Trí đã từng thuyết pháp, biện bác rõ ràng minh bạch, chỗ nào cũng đầy đạo lý, người nghe có ai không hoan hỉ tán thán?

Thế nhưng lúc này thân ở dưới đáy chiếc giếng khô, trên đầu bị đá bịt cứng, miệng đầu bùn đất, so với nơi pháp đàn hương trầm nghi ngút, mùi sen ngào ngạt thật khác nhau xa, những gì thường lạc ngã tịnh nơi cõi niết bàn, tự tại vô ngại tất cả đều bỏ ra ngoài thọ tưởng hành thức, chỉ thấy ngũ uẩn đều là thực cả, tâm hữu quái ngại đâm ra hết sức hoảng hốt, yết đế yết đế, ba la tăng yết đế, không sao qua khỏi được cái nguy khốn khổ sở ở chốn giếng sâu.

Nghĩ đến chỗ bi thương đó, nước mắt không khỏi trào ra. Người y đầy bùn đen, vốn dĩ không còn ra hình thù gì, nhưng theo thói quen, giơ tay gạt nước mắt, tay giơ lên bỗng mò thấy một vật gì đó, thuận tay cầm lên chính là cuốn Dịch Cân Kinh. Đến nước này thật dở khóc dở cười, kinh thư tìm được rồi nhưng bây giờ có còn dùng được việc gì nữa đâu?

Bỗng nghe có tiếng đàn bà nói:

- Chàng xem, võsĩ Thổ Phồn dùng đá bịt miệng giếng lại rồi, chúng mình làm sao ra được?

Nghe giọng nói chính là Vương Ngữ Yên. Cưu Ma Trí nghe thấy tiếng người, tinh thần phấn khởi, nghĩ thầm: “Thì ra nàng ta chưa chết, không biết đang nói chuyện với ai? Nếu có thêm người khác, mấy người hợp lực lại, may ra có thể đẩy được đá thoát ra được”. Lại nghe tiếng đàn ông trả lời:

- Chỉ cần được ở bên cạnh nàng, chẳng cần phải ra cũng có sao đâu? Nếu có nàng ở kề bên, giếng bùi hôi hám cũng thành Chúng Hương Quốc. Dù cho Đông Phương Lưu Ly thế giới, Tây Phương Cực Lạc thế giới, hay là cung trời Đâu Suất, Dạ Ma các thiên đường lạc thổ, cũng không sung sướng được như nơi đây.

Cưu Ma Trí hơi kinh hãi: “Cả gã họ Đoàn cũng chưa chết hay sao? Tên này bị trúng Hỏa Diễm Đao, ta với y cừu hận cực thâm. Hiện giờ nội lực ta vận lên không được, nếu như y thừa cơ báo thù thì biết làm thế nào đây?”.

Người đang nói chuyện chính là Đoàn Dự. Khi chàng bị Mộ Dung Phục vứt xuống thì đã ngất xỉu, chân tay không cử động gì được, tuy rơi vào đống bùn nhưng không đến nỗi bị khốn khổ như Cưu Ma Trí. Đáy giếng địa thế nhỏ hẹp, đến khi Vương Ngữ Yên nhảy xuống rồi, thật may làn sao, đầu nàng va phải lại đúng ngay huyện Đãn Trung trên ngực Đoàn Dự, chàng liền tỉnh lại. Vương Ngữ Yên rơi đúng ngay lòng Đoàn Dự nên không bị thương, đến bùn nhơ cũng không bị dính nhiều.

Đoàn Dự thấy trong lòng mình có thêm một người, hết sức ngạc nhiên, bỗng nghe từ trên miệng giếng tiếng Mộ Dung Phục vọng xuống:

- Biểu muội, lòng ngươi vốn yêu thương Đoàn công tử, hai người sống không được thành vợ chồng nhưng khi chết chôn chung một huyệt, thế cũng thỏa nguyện rồi.

Mấy câu đó truyền vào trong giếng rõ rành rành, Đoàn Dự nghe thế, không khỏi ngơ ngẩn, lẩm bẩm:

- Cái gì? Không, không! Ta … ta … Đoàn Dự ta nào có được may mắn đến thế?

Đột nhiên người nằm ở trong lòng chàng dịu dàng nói:

- Đoàn công tử, thiếp quả thực hồ đồ không đâu cho hết, chàng xưa nay đối với thiếp tử tế dường nào, thiếp … thiếp lại …

Đoàn Dự ngạc nhiên đến đờ người ra, hỏi lại:

- Vương cô nương đấy ư?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Chính thiếp đây.

Đoàn Dự đối với nàng vốn dĩ mười phần tôn kính, không bao giờ dám có ý sỗ sàng, nghe tiếng vừa mừng vừa sợ, vội vàng trỗi dậy, buông nàng ra. Thế nhưng đáy giếng rất hẹp, lại đầy bùn nhơ, Đoàn Dự vừa đứng lên, hai chân liền tụt xuống, bùn dâng lên đến tận ngực, nếu buông Vương Ngữ Yên vào trong đống bùn thì thật không ổn chút nào nên đành bồng nàng nằm ngang, luôn mồm xin lỗi:

- Đắc tội! Đắc tội! Vương cô nương, chúng mình đang ở trong đống bùn đành phải tòng quyền vậy.

Vương Ngữ Yên thở dài một tiếng, trong lòng cảm kích. Nàng hai lần từ cõi sống sang cõi chết, lại từ cõi chết trở về cõi sống, bụng dạ Mộ Dung Phục nàng hiểu quá rõ rồi, bây giờ dẫu có muốn tự tận lần nữa cũng không còn năng lực, lại thêm Đoàn Dự đối với mình thành tâm thành ý, so sánh hai bên thấy rõ một bên tình sâu nghĩa nặng, một bên bạc bẽo như vôi. Từ trên miệng giếng xuống đến đáy, tuy chỉ trong chớp mắt, nội tâm thay đổi biết bao nhiêu, khi trước tự thương thân mình, quyết tìm cái chết báo đền ân tình của Đoàn Dự, có ngờ đâu cả chàng lẫn mình đều không chết, thật ra ngoài dự liệu, trong lòng hết sức hân hoan. Nàng trước nay nhàn nhã lễ độ, đoan trang giữ gìn, nhưng lúc này qua cơn biến chuyển trong lòng khích động, nhịn không nổi phải thổ lộ nỗi niềm cùng Đoàn Dự:

- Đoàn công tử, thiếp lại tưởng chàng đã qua đời, nghĩ lại đối với thiếp bao nhiêu ân nghĩa, thành thử đã hết sức thương tâm, lại thêm hối tiếc, cũng may trời già có mắt, gia hộ cho chàng được bình an. Thiếp ở trên kia nói những gì, chắc hẳn chàng cũng đã nghe rồi?

Nàng nói đến đây không khỏi thẹn thùng, dụi đầu vào cổ Đoàn Dự. Đoàn Dự trong một thoáng, cảm thấy tâm hồn bay bổng lên tận mây xanh, như vào cõi mộng. Cái cảnh tượng mà chàng ngày đêm trông đợi kia bây giờ đã thành sự thực, trong cơn mừng rỡ, hai chân bủn rủn, đứng không vững, lưng tựa vào thành giếng, hai tay ôm lấy người Vương Ngữ Yên. Ngờ đâu mấy sợi tóc của Vương Ngữ Yên lại chạm vào mũi chàng, khiến cho Đoàn Dự phải liên tiếp “Ách xì” mấy cái. Vương Ngữ Yên hỏi:

- Chàng … chàng sao thế? Bị thương ư?

Đoàn Dự đáp:

- Không … không đâu … ách xì …ách xì … ta không có bị thương, ách xì … cũng không trúng gió, chỉ vì vui quá. Vương cô nương … ách xì … ta sướng đến muốn xỉu luôn.

Trong cái giếng tối đen như mực, hai bên nào có nhìn thấy nhau. Vương Ngữ Yên mỉm cười không nói gì, trong lòng cũng hết sức êm đềm hoan lạc. Nàng từ bé si mê biểu huynh thế nhưng chưa bao giờ được y yêu lại, cho đến lúc này mới được hưởng cái phong vị hai kẻ yêu nhau.

Đoàn Dự ấp úng hỏi:

- Vương cô nương, lúc nãy nàng ở trên kia nói những gì? Ta không nghe thấy.

Vương Ngữ Yên mỉm cười:

- Thiếp vẫn tưởng chàng là người quân tử chí thành, hóa ra cũng biết ỡm ờ. Chàng rõ ràng nghe thấy rồi, lại còn muốn thiếp nhắc lại hay sao? Mắc cở lắm, thiếp không nói đâu.

Đoàn Dự vội nói:

- Ta … ta quả thực không nghe thấy, nếu ta nghe được thì trời phạt …

Chàng đang tính thề thốt thì môi bỗng ấm đi, Vương Ngữ Yên đã đưa tay bịt miệng rồi nghe tiếng nàng nói:

- Không nghe thấy thì thôi, đâu có phải chuyện gì to lớn mà phải thề thốt?

Đoàn Dự mừng quá, từ khi biết nàng tới nay, nàng chưa bao giờ đối với mình ân cần như thế liền nói:

- Thế thì khi ở trên kia nàng nói những gì?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Thiếp nói …

Nàng bỗng thấy e thẹn, mỉm cười nói:

- Thôi để chuyện đó mình nói sau, ngày rộng tháng dài, có gì mà phải gấp gáp?

“Ngày rộng tháng dài, có gì mà phải gấp gáp?” Câu nói đó lọt vào tai Đoàn Dự, thật không khác gì được uống thuốc tiên, e rằng bao nhiêu chim Già Lăng nơi chốn tây phương cực lạc cùng cất tiếng hót cũng nghe không êm ái được như thế, ý rõ ràng muốn bảo là từ nay hai người sẽ chung sống mãi mãi bên nhau. Đoàn Dự nghe thế dường như không tin nổi tai mình hỏi lại:

- Nàng bảo từ nay lúc nào mình cũng kề cận bên nhau chăng?

Vương Ngữ Yên giơ tay bá cổ chàng, ghé vào tai nói nhỏ:

- Đoàn lang, chỉ cần chàng đừng ghét bỏ em, không giận em trước đây hờ hững với chàng, thiếp nguyện chung thân sẽ ở bên chàng, không … không bao giờ lìa xa chàng nữa.

Trái tim Đoàn Dự tưởng như muốn nhảy ra ngoài, vội vàng hỏi lại:

- Thế còn biểu ca nàng thì sao? Nàng vốn dĩ … vốn dĩ yêu thương Mộ Dung công tử mà?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Trước nay y đâu có để ý đến thiếp. Cho đến giờ phút này thiếp mới hiểu ra rằng ở trên đời ai là người thực bụng yêu thương thiếp, thương xót thiếp, ai là người coi mạng thiếp hơn mạng mình.

Đoàn Dự run run hỏi lại:

- Nàng nói đến ta chăng?

Vương Ngữ Yên rưng rưng đáp:

- Đúng thế! Biểu ca thiếp cả đời chỉ mơ làm hoàng đế Đại Yên. Thế nhưng cũng chẳng trách y được, họ Mộ Dung đời này sang đời khác, người nào cũng mang giấc mơ đó cả. Tổ tông mấy chục đời nhà y đã mơ tưởng chuyện đó rồi, truyền đến đời y, làm sao nghĩ rằng y có thể tỉnh thức được? Biểu ca thiếp vốn dĩ không phải là người xấu, chỉ vì quá mơ tưởng được làm hoàng đế Đại Yên, nên không coi việc gì vào đâu nữa.

Mộ Dung Phục nghe Vương Ngữ Yên dường như muốn trần tình cho Mộ Dung Phục, trong bụng bồn chồn hỏi lại:

- Vương cô nương, nếu như biểu ca nàng hồi tâm, bỗng dưng tốt lại với nàng, liệu … liệu sẽ ra sao?

Vương Ngữ Yên thở dài:

- Đoàn lang, thiếp tuy là một người đàn bà ngu xuẩn nhưng đâu có phải là kẻ đức hạnh chẳng ra gì. Hôm nay thiếp đã cùng chàng đính ước tam sinh, nếu như vẫn còn lòng kia dạ nọ luống chẳng hoen ố danh tiết hay sao? Như thế thì làm sao bù đắp được thâm tình hậu ý của chàng?

Đoàn Dự như cởi tấm lòng, ôm lấy Vương Ngữ Yên nhảy lên, nghe bọp bẹp một tiếng, lại rơi phịch xuống đống bùn, ghé mồm định hôn lên môi nàng một cái. Vương Ngữ Yên cũng theo đà đáp lại, hai miệng vừa sắp chạm nhau, đột nhiên trên đầu có tiếng gió vù vù, vật gì đó đang rơi xuống.

Hai người cực kỳ kinh hãi, vội vàng nép vào một bên, bình một tiếng ai đó đã rơi vào trong giếng. Đoàn Dự hỏi:

- Ai đó?

Người kia hừ một tiếng đáp:

- Ta đây!

Chính là Mộ Dung Phục. Thì ra sau khi Đoàn Dự tỉnh lại rồi, cùng Vương Ngữ Yên trò chuyện, hai người toàn tâm toàn ý chỉ nghĩ đến nhau, thật dẫu có trời long đất lở cũng không nghe thấy, thành thử Mộ Dung Phục và Cưu Ma Trí ở trên kia hô hoán ác đấu, cả hai đều không biết gì cả. Đến khi Mộ Dung Phục rơi xuống rồi, cả hai cùng kinh hoàng, tưởng y nhảy xuống tính xen vào chuyện của mình.

Vương Ngữ Yên run run hỏi:

- Biểu ca … biểu ca xuống đây làm gì? Tấm thân em giờ đây đã thuộc Đoàn công tử, nếu như biểu ca định giết anh ta, thì giết luôn cả tiểu muội nữa đi.

Đoàn Dự mừng quá, chàng vốn không sợ Mộ Dung Phục nhảy xuống gia hại mình, chỉ sợ Vương Ngữ Yên gặp lại Mộ Dung Phục rồi, tình cũ trỗi dậy, lại quay về với biểu ca. Chàng nghe nàng nói thế bấy giờ mới yên lòng, lại thấy Vương Ngữ Yên đưa tay ra nắm lấy tay mình, lại càng tin tưởng gấp bội bèn nói:

- Mộ Dung công tử, ngươi đi tranh chức phò mã Tây Hạ đi, ta nhất quyết không ngăn trở. Biểu muội nhà ngươi nay thuộc về ta rồi, ngươi không đoạt lại được đâu. Ngữ Yên, nàng xem có phải không?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Chính thế. Đoàn lang, bất luận dù sống dù chết, thiếp lúc nào cũng theo chàng.

Mộ Dung Phục bị Cưu Ma Trí điểm trúng huyệt đạo, nghe được nói được nhưng lại không cử động được, thấy hai người nói thế nghĩ thầm: “Hai đứa này đâu đã biết Cưu Ma Trí đánh ta xơ xác, bị chế ngự rồi, ngược lại đâm ra úy kỵ, sợ ta ra tay làm hại. Thế thì tốt quá, ta phải tính kế dùng họ làm viện thủ”. Nghĩ thế y bèn nói:

- Biểu muội, ngươi thành hôn với Đoàn công tử rồi, chúng mình thành người nhà với nhau, Đoàn công tử sẽ thành em rể ta, lẽ nào ta còn hại y nữa?

Đoàn Dự tâm tính trung hậu còn Vương Ngữ Yên tính tình ngây thơ, cả hai đều không thông hiểu chuyện đời, nghe y nói thế, cả hai hết sức mừng rỡ một người nói:

- Đa tạ Mộ Dung huynh.

Còn người kia nói:

- Đa tạ biểu ca.

Mộ Dung Phục nói:

- Đoàn huynh đệ, chúng mình đã thành người nhà, nếu như ta đi ứng tuyển phò mã Tây Hạ, ngươi sẽ không xen vào nữa chứ?

Đoàn Dự đáp:

- Cái đó dĩ nhiên rồi. Tiểu đệ đã cùng lệnh biểu muội thành quyến thuộc thật không còn tâm nguyện gì khác nữa. Dù có là thần tiên, là la hán tiểu đệ cũng không màng.

Vương Ngữ Yên khe khẽ tựa vào người chàng, vui mừng vô hạn. Mộ Dung Phục ngầm vận khí định xung khai những huyệt bị Cưu Ma Trí điểm nhưng nhất thời không sao làm được nhưng lại không muốn Đoàn Dự giúp mình, trong lòng hơi tức tối: “Người ta đã bảo đàn bà có mới nới cũ, quả nhiên đúng thật. Nếu lúc bình thời, biểu muội đã chạy đến bên ta, đỡ ta dậy rồi, còn bây giờ chẳng thèm ngó ngàng gì đến”.

Đáy giếng đó chẳng qua chỉ tròn chưa đầy một trượng, ba người rất gần bên nhau. Vương Ngữ Yên thấy Mộ Dung Phục nằm trên đống bùn nhưng cũng không ngồi dậy. Nàng chỉ cần tiến lên một bước là đã đến bên cạnh Mộ Dung Phục đỡ y dậy được rồi nhưng lại sợ Mộ Dung Phục có mưu kế gì để hại Đoàn Dự, lại e ngại Đoàn Dự nghĩ ngợi nọ kia nên dù một bước cũng không tiến tới.

Mộ Dung Phục trong lòng bấn loạn, huyệt đạo càng khó mở ra hơn nên vội vàng định tâm, vận khí giải khai những huyệt đạo bị phong, đưa tay vịn vào thành giếng đứng lên, nghe bạch một tiếng, có vật gì đó rơi xuống bên cạnh mình, chính là cuốn Dịch Cân Kinh của Cưu Ma Trí. Trong bóng tối y không biết đó là vật gì nên vội tránh sang một bên. Cũng may nhờ tránh ra như thế nên Cưu Ma Trí nhảy xuống mới không đạp lên người y.

Cưu Ma Trí nhặt được quyển kinh rồi, đột nhiên cười ha hả. Cái giếng đó cực kỳ chật hẹp, tiếng cười cứ chạy loanh quanh chấn động ở bên trong khiến ba người tai ù ù, thật là khó chịu. Tiếng cười của Cưu Ma Trí không sao ngừng được, nội tức bành trướng, thần trí hỗn loạn, ở trong đống bùn tay đấm chân đá, chân tay đụng vào thành gạch, khi thì sức mạnh vô cùng khiến cho gạch vỡ tan tành, có khi lại hoàn toàn không một chút khí lực.

Vương Ngữ Yên cực kỳ kinh hãi, nép chặt vào người Đoàn Dự, nói nhỏ:

- Y điên rồi! Y điên rồi!

Đoàn Dự đáp:

- Quả là y điên thật.

Mộ Dung Phục vội vàng thi triển công phu Bích Hổ Du Tường theo thành giếng trèo lên. Cưu Ma Trí vẫn cười sằng sặc, rồi lại thở hổn hển, quyền cước càng lúc càng nhanh. Vương Ngữ Yên cố thu hết dũng khí khuyên giải:

- Đại sư ngồi xuống nghỉ một lát cho định thần lại.

Cưu Ma Trí chửi mắng:

- Ta … ta định.. định thần được thì đã phúc. Có định cái đầu ngươi này.

Y vung tay chộp vào nàng. Trong khuôn viên đáy giếng, làm gì có chỗ nào tránh né? Trảo chụp tới trúng ngay đầu vai Vương Ngữ Yên. Vương Ngữ Yên kinh hoảng kêu lên một tiếng, vội vàng rụt về. Đoàn Dự vội vàng xông lên che cho nàng kêu lớn:

- Nàng ẩn vào sau lưng ta.

Ngay khi đó, hai bàn tay Cưu Ma Trí đã chộp được yết hầu chàng, dùng sức bóp lại. Đoàn Dự thấy bị nghẹt thở, không nói ra lời. Vương Ngữ Yên kinh hãi, vội vàng đưa tay ghì lấy cánh tay y. Khi đó Cưu Ma Trí như điên như cuồng, nội tức tuy không vận dụng như ý được, khí lực vẫn đâu phải tầm thường, Vương Ngữ Yên vít tay y xuống thật chẳng khác gì chuồn chuồn lay cột đá, không sao chuyển động được chút nào lại càng kinh hãi, sợ Cưu Ma Trí giết Đoàn Dự bèn kêu lên:

- Biểu ca, biểu ca! Mau mau giúp một tay, hòa thượng này … hòa thượng này giết Đoàn công tử mất.

Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Gã tiểu tử Đoàn Dự trên núi Thiếu Thất đánh ta không còn mặt mũi nào, khiến cho uy danh ta trên giang hồ từ nay trôi theo dòng nước, y chết mặc y, ta ra tay cứu y làm gì? Huống chi gã hung tăng đó võ công vô cùng cao cường, ta làm sao sánh kịp, chi bằng để hai đứa đánh nhau lưỡng bại câu thương, tốt nhất là đồng qui ư tận. Ta bây giờ mà chen vào thì quả là bất trí”. Y nghĩ thế năm ngón tay vẫn bấu chặt vào khe gạch, dán cứng bên thành giếng, không nói tiếng nào. Vương Ngữ Yên gọi đến rát cả cổ, Mộ Dung Phục vẫn làm như không nghe tiếng.

Vương Ngữ Yên nắm tay đấm loạn xạ lên đầu lên lưng Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí vừa thở hồng hộc, vừa cười sằng sặc, bóp cổ Đoàn Dự càng lúc càng mạnh thêm.

TỬU BÃI VẤN QUÂN TAM NGỮ

Chàng đòi kết tóc se tơ,

Ba câu thiếp hỏi đáp cho vừa lòng.

*

* *

        S áng sớm hôm sau, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần hai người tỉnh giấc không thấy Đoàn Dự đâu, chạy đến phòng Vương Ngữ Yên gọi mấy tiếng không nghe trả lời, thấy cửa chỉ khép hờ, gõ thử mấy cái rồi đẩy cửa bước vào, trong phòng nào thấy một ai.

Ba Chu hai người luôn mồm kêu khổ. Chu Đan Thần nói:

- Vị tiểu vương tử nhà ta thật như hệt tính vương gia, đáo xứ lưu tình, chắc hẳn đã cùng Vương cô nương nửa đêm lẻn đi, không biết về hướng nào.

Ba Thiên Thạch gật đầu:

- Tiểu vương tử phong lưu tiêu sái, quả đúng là thứ “giang sơn coi nhẹ, tình coi nặng”. Y phải lòng Vương cô nương, chuyện đó ai mà chẳng biết, bảo y đi ứng tuyển phò mã Tây Hạ … ôi, vị tiểu vương tử này có chịu nghe ai bao giờ, năm xưa hoàng thượng và vương gia muốn y luyện võ, y nhất quyết không luyện, đối đế quá bèn bỏ nhà ra đi.

Chu Đan Thần nói:

- Thôi mình chỉ đành có nước chia nhau ra đuổi theo rồi hết lời khuyên giải y.

Ba Thiên Thạch giang hai tay gượng gạo nở một nụ cười. Chu Đan Thần lại tiếp:

- Ba huynh, nhớ lại năm xưa vương gia sai tiểu đệ đi kiếm tiểu vương tử, may sao tìm được, ai ngờ tiểu vương tử …

Nói tới đây, y hạ giọng nói nhỏ:

- … tiểu vương tử lại mê cái cô nàng Mộc Uyển Thanh, hai người nửa đêm lẻn ra, tiểu đệ hay tin, đã chặn sẵn trên đường có thế mới giữ anh chàng lại được.

Ba Thiên Thạch vỗ đùi nói:

- Ồ, Chu hiền đệ, thế thì đây là lỗi chú mày. Nếu ngươi đã có kinh nghiệm đó rồi, sao nay lại để đi vào vết xe cũ? Đã thế thì mình phải chia phiên mà canh giữ y suốt đêm mới phải chứ.

Chu Đan Thần thở dài một tiếng nói:

- Ta vẫn tưởng công tử nhà ta trông vào nghĩa khí với Tiêu đại hiệp và Hư Trúc tiên sinh, không đến nỗi dứt áo bỏ đi, có ai ngờ.. có ai ngờ công tử lại …

Mấy chữ “lấy nữ sắc làm trọng mà bạn bè coi khinh” đem ra bình phẩm e rằng phạm thượng, hơn nữa Đoàn Dự có giao tình với Chu Đan Thần rất hậu nên không tiện nói ra.

Hai người không biết tính sao, đành đến báo cho Tiêu Phong và Hư Trúc rồi chia nhau đi tìm, suốt cả một ngày vẫn không thấy tăm hơi đâu cả.

Đến chiều tối, cả bọn tụ tập ở chiếc phòng để không của Đoàn Dự cùng nhau bàn thảo. Còn đang lo lắng thì một vị chủ sự của bộ Lễ Tây Hạ đến tân quán, gặp Ba Thiên Thạch cho hay chiều tối hôm sau ngày rằm tháng tám hoàng thượng sẽ thiết yến ở Tây Hoa Cung để đãi các giai khách đến cầu thân, xin mời Đoàn vương tử nước Đại Lý quang lâm. Ba Thiên Thạch thật như người câm ăn ớt, chỉ đành vâng vâng dạ dạ nhận lời.

Gã chủ sự đó đã được lót tay rồi nên thái độ hết sức thân thiết, lúc cáo từ Ba Thiên Thạch lại đích thân tiễn chân ra cửa, bấy giờ mới ghé tai thì thầm:

- Ba tư không, ta có tin này nói riêng cho ông. Đêm mai hoàng thượng tứ yến cốt để xem xét tài mạo cử chỉ những kẻ rắp ranh, sau khi ăn xong không chừng sẽ có những trò vui như bắn cung, đấu võ để khách anh hùng phân tài cao thấp. Chuyện đó với việc lựa chọn ai là phò mã, xứng đáng gá nghĩa cùng công chúa nương nương rất có liên quan, mong Đoàn vương tử để tâm một chút.

Ba Thiên Thạch chắp tay bái tạ, lấy từ tay áo ra một đĩnh hoàng kim nặng nhét vào tay y. Khi quay vào tân quán, Ba Thiên Thạch thuật lại cho mọi người nghe, thở dài:

- Trấn Nam Vương căn dặn hàng nghìn hàng vạn lần là phải làm mọi cách để cho tiểu vương tử lấy được công chúa đem về, anh em mình làm không xong việc thì còn mặt mũi nào mà về bái kiến vương gia?

Trúc Kiếm đột nhiên nhoẻn miệng cười nói:

- Ba lão gia, tiểu tì muốn nói một câu có được không?

Ba Thiên Thạch đáp:

- Xin tỉ tỉ cứ tự tiện.

Trúc Kiếm mỉm cười:

- Phụ vương Đoàn công tử muốn lấy cho được công chúa Tây Hạ chẳng qua cũng chỉ để kết thân, hai nước Tây Hạ, Đại Lý thành hôn nhân chi quốc, có gì lo liệu nâng đỡ lẫn nhau, phải không nào?

Ba Thiên Thạch đáp:

- Quả là như thế.

Cúc Kiếm nói:

- Còn như cô công chúa Tây Hạ đẹp như Tây Thi hay xấu như Chung Vô Diệm, ông bố chồng Đoàn vương gia kia cũng đâu cần biết, có đúng không?

Ba Thiên Thạch nói:

- Con người ta là vai công chúa tôn quí như thế dẫu không có nhan sắc trầm ngư lạc nhạn thì chắc cũng phải bậc trung.

Mai Kiếm nói:

- Chị em chúng tôi có một chủ ý, miễn là lấy được công chúa về Đại Lý, còn có kịp thời tìm ra Đoàn công tử hay không thì cũng đâu có liên quan gì đến đại cuộc.

Lan Kiếm cười:

- Đoàn công tử và Vương cô nương đi du ngoạn giang hồ cho chán chê, qua một năm sáu tháng, hai năm ba năm lúc đó mới về Đại Lý, khi đó cùng công chúa động phòng hoa chúc cũng đâu có muộn.

Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần vừa king ngạc vừa mừng rỡ, cùng hỏi:

- Không có tiểu vương tử ở đây, làm cách nào mà lấy công chúa về Đại Lý được? Bốn vị cô nương có diệu kế gì, xin nói rõ cho.

Mai Kiếm nói:

- Mộc cô nương đây nếu ăn mặc giả trai thành một thư sinh, có phải còn đẹp trai hơn Đoàn công tử nhiều không? Nhờ cô ta đi phó yến tối mai thì trên bàn tiệc dù có trăm ngàn thanh niên anh hùng thì cũng đâu có ai anh tuấn tiêu sái hơn được?

Lan Kiếm nói:

- Mộc cô nương là em ruột của Đoàn công tử, thay ca ca đi lấy chị dâu về, lập đại công cho quốc gia khiến gia gia hoan hỉ, thế có phải là nhất cử tam tứ tiện hay không?

Trúc Kiếm nói:

- Mộc cô nương đoạt được chức phò mã, bái đường thành thân thì cũng còn phải mất một thời gian, đến lúc đó chắc cũng kiếm ra Đoàn công tử rồi.

Cúc Kiếm nói:

- Dẫu cho lúc đó Đoàn công tử chưa hiện thân, Mộc cô nương phải thay anh bái đường thì làm sao?

Vừa nói cô ta vừa che miệng, cả bốn cô cùng cười ngặt nghẽo. Bốn nàng cùng một tâm tư, cùng một giọng nói, bốn người mà chẳng khác gì một người.

Ba Chu hai người tần ngần, đều cảm thấy kế này thật là táo bạo, nếu như bị lộ tẩy, thân gia chẳng xong lại thành oan gia, hoàng đế Tây Hạ nổi giận hưng binh, mối họa đó thật lớn quá đỗi. Mai Kiếm đoán được tâm sự hai người bèn nói:

- Thực ra Đoàn công tử có vị nghĩa huynh là Tiêu đại hiệp thì chẳng cần phải ve vãn Tây Hạ làm gì, có điều đây là lệnh của vương gia, không thể không theo. Nếu quả như có chuyện gì xảy ra, Tiêu đại hiệp là Nam Viện Đại Vương nước Liêu, mấy chục vạn hùng binh trong tay, lúc đó chỉ cần nói vài lời phân giải là Tây Hạ không còn dám sinh sự với Đại Lý nữa.

Tiêu Phong mỉm cười, gật đầu. Ba Thiên Thạch là Tư Không nước Đại Lý, chấp chưởng chính sự, việc Tiêu Phong là cường viện của Đại Lý y cũng đã nghĩ đến rồi, có điều chính mình nói ra thì không tiện, nghe Mai Kiếm nói thế, Tiêu Phong lại gật gù, biết rằng thế nước vững như bàn thạch, nếu cầu thân không xong thì quốc gia cũng không đến nỗi nào, nghĩ thầm: “Mưu kế của bốn cô nhỏ này thoạt nghe thì tưởng như trò đùa, thế nhưng ngoài ra, thật không còn cách nào hay hơn nữa, chỉ không biết Mộc cô nương có dám mạo hiểm hay không?”. Y bèn đáp:

- Những lời đề nghị của bốn vị côn nương quả là diệu kế nhưng làm việc này quả là hung hiểm thái quá, chẳng may sơ hở để lộ ra, e rằng Mộc cô nương sẽ bị bắt giữ. Huống chi anh tài thiên hạ tu tập lại đây, dẫu rằng ngoại mạo Mộc cô nương đúng là bậc nhất thật, thế nhưng nếu tỉ thí võ công, muốn lấn áp quần hùng thì e rằng cũng không phải dễ.

Mọi người cùng nhìn vào Mộc Uyển Thanh xem ý định cô ta thế nào. Mộc Uyển Thanh nói:

- Ba tư không chẳng cần khích ta làm gì, cái người anh đó, cái người anh đó …

Nàng ấp úng được hai câu “cái người anh đó”, đột nhiên nước mắt ròng ròng, nghĩ đến Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên hai người trốn đi với nhau, thật không khác gì năm xưa cùng mình nắm tay rong ruổi, nếu y không phải là huynh trưởng của mình thì chắc chẳng thay lòng đổi dạ đâu, thế mà hôm nay y cùng người khác chàng chàng thiếp thiếp, sung sướng khác nào thần tiên, còn mình ở đây đơn chiếc lạnh lùng, thần tử nước Đại Lý lại nhờ mình thay y đi lấy vợ. Nàng càng nghĩ càng tủi thân, lại thêm tức tối, giơ tay ra đập mạnh lên chiếc bàn trước mặt, khiến cho ấm trà, chén trà loảng xoảng nhảy cả lên, rồi đứng phắt dậy đi ra khỏi phòng.

Mọi người ai cũng chưng hửng, mất cả hứng. Ba Thiên Thạch điềm nhiên nói:

- Chuyện này cũng bởi ta cả, nếu như nói nhỏ nhẹ cầu xin, chắc Mộc cô nương cũng nhận lời, nhưng ta lại nói câu khích bác khiến nàng ta bực mình.

Chu Đan Thần lắc đầu:

- Mộc cô nương bực tức nào phải vì mấy câu của Ba huynh đâu, mà có nguyên nhân khác. Ôi, một lời không sao nói hết được.

Hôm sau mọi người chia nhau đi tìm Đoàn Dự, thấy nơi phố phường thanh niên phục sức hoa lệ diêm dúa, xem chừng phải đến quá nửa là sắp đến hoàng cung dự yến đêm Trung Thu, thỉnh thoảng lại gặp người chửi mắng cãi vã, xem ra các võ sĩ Thổ Phồn vẫn đang hết lòng hết sức vì chủ mà thanh trừ địch thủ. Còn như Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên thì vẫn không thấy đâu cả.

Đến xế chiếu hôm đó, mọi người trước sau trở về tân quán. Tiêu Phong nói:

- Tam đệ nếu đã đi rồi, chúng mình cũng về thôi, dù cho ai làm phò mã thì cũng chẳng liên can gì đến cả.

Ba Thiên Thạch nói:

- Tiêu đại hiệp nói phải lắm, thôi để khỏi thấy người khác làm phò mã thêm bực mình.

Chung Linh bỗng nói:

- Chu tiên sinh, ông có vợ chưa nhỉ? Đoàn công tử không chịu làm phò mã, sao ông không thử một phen? Nếu ông lấy được công chúa Tây Hạ thì cũng vẫn giúp được Đại Lý chớ gì?

Chu Đan Thần cười nói:

- Cô nương chỉ đùa, vãn sinh đã có vợ lớn vợ bé rồi, con trai con gái đầy đủ.

Chung Linh le lưỡi, Chu Đan Thần lại tiếp:

- Tiếc rằng cô nương tướng mạo yêu kiều quá, má núm đồng tiền, không có vẻ gì đàn ông, nếu không đưa cô ra thay, lấy công chúa Tây Hạ thay cho ca ca …

Chung Linh ngạc nhiên:

- Cái gì? Thay cho anh trai ta ư?

Chu Đan Thần biết mình lỡ lời, nghĩ thầm: “Cô là con riêng của Trấn Nam Vương, việc này chưa nên công khai, không tiện nói càn”. Y vội đáp:

- Tại hạ nói là thay tiểu vương tử làm việc lớn …

Bỗng nghe ngoài cửa có tiếng người nói:

- Ba tư không, Chu tiên sinh, mình đi chưa nào?

Cánh cửa mở ra, một thanh niên anh tuấn tiến vào, chính là Mộc Uyển Thanh ăn vận nam trang theo lối thư sinh. Mọi người vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ cùng nói:

- Cái gì? Mộc cô nương bằng lòng ư?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Tại hạ họ Đoàn tên Dự, là thế tử của Trấn Nam Vương nước Đại Lý, các vị nói năng cũng nên giữ ý giữ tứ một chút.

Giọng nói sang sảng, tuy vẫn còn chút nữ nhân nhưng người còn trẻ âm điệu có hơi trong trẻo cũng không phải là lạ. Mọi người thấy nàng giả vờ giống lắm, ai nấy cười khanh khách.

Thì ra Mộc Uyển Thanh nổi giận lên, trở về phòng ngồi khóc một hồi, nghĩ đi nghĩ lại, thấy mình đắc tội với quá nhiều người, quả là áy náy, lại thấy nếu mình giả làm Đoàn Dự đi lấy được công chúa Tây Hạ thật là thú vị, trong lòng cũng tính thầm: “Ngươi tưởng cùng Vương cô nương hai người cao chạy xa bay để vui vầy với nhau là đã xong ư? Để ta thay ngươi lấy công chúa Tây Hạ về, mai mốt đánh nhau cãi nhau cho ngươi biết thân”.

Nàng nhớ lại khi mới vào thành Đại Lý, cha mẹ Đoàn Dự đúng là “Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng”, gặp nhau trăm đường ngượng ngập, Đoàn Dự nếu có một nàng công chúa minh môi chính thú làm vợ cả rồi, Vương Ngữ Yên còn làm sao là phu nhân được. Mình không lấy được Đoàn Dự thì cũng đành nhưng lẽ nào lại để cái cô nàng họ Vương õng a õng ẹo kia ngang nhiên phỗng tay trên. Nàng càng nghĩ càng đắc ý bèn đứng lên cải trang đi phó yến thay Đoàn Dự.

Bọn Ba Thiên Thạch ai ai cũng lên tinh thần, vội vàng chuẩn bị mọi việc. Ba Thiên Thạch nghĩ thầm, gã Lễ Bộ thị lang kia đến tân quán đã từng gặp Đoàn Dự rồi, nên lấy ra ba trăm lạng hoàng kim, nhờ Chu Đan Thần đem cho Đào thị lang.

Đúng ra lễ vật cũng đã đem đến rồi, đây là món quà đặc biệt cho thêm, dặn Chu Đan Thần đừng nói gì hết, vì biết Đào thị lang nếu có thấy gì sơ hở ắt cũng làm lơ, biết ngay ba trăm lạng kia là để chặn họng mình, ấy chính là “ngậm miệng ăn tiền”.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Tiêu đại ca, Hư Trúc nhị ca, tốt hơn hết hai vị cùng đi với tiểu đệ phó yến, có thế mới không sợ gì. Nếu không lỡ phải động thủ, tiểu đệ làm sao đánh nổi người ta? Bên trong hoàng cung, nếu bắn độc tiễn giết người thì đâu còn thể thống gì nữa.

Lan Kiếm cười nói:

- Đúng đó! Nếu như Đoàn công tử dùng tên độc bắn lung tung, hoàng cung Tây Hạ thây chất thành đống, công chúa nương nương chắc tởn quá chẳng dám lấy đâu.

Tiêu Phong cũng cười:

- Ta và nhị đệ đã được Đoàn bá phụ ủy thác, dĩ nhiên phải tận lực rồi.

Thế là mọi người thay đổi y phục, cùng vào hoàng cung dự tiệc. Tiêu Phong và Hư Trúc ăn mặc giả làm tùy tòng trong phủ Trấn Nam Vương đi theo Đoàn Dự. Chung Linh và bốn cô gái cung Linh Thứu toan ăn mặc giả trai đi xem trò vui nhưng Ba Thiên Thạch nói:

- Mộc cô nương một người cải trang cũng đã sợ người ta nhìn ra, lại thêm năm cô nương khác giả trai nữa thể nào cũng lộ chuyện.

Chung Linh và bốn nàng đành phải chịu vậy. Đoàn người ra khỏi tân quán, Ba Thiên Thạch đột nhiên kêu lên:

- Chết rồi, suýt nữa làm hỏng hết đại sự. Gã Mộ Dung Phục kia cũng đi tranh chức phò mã, y sẽ nhận ra Đoàn công tử, làm thế nào đây?

Tiêu Phong mỉm cười nói:

- Ba huynh chẳng phải lo, Mộ Dung công tử cũng như Đoàn tam đệ, không từ biệt mà đi đâu mất. Ta mới vừa thăm dò, Đặng Bách Xuyên, Bao Bất Đồng cũng đang bồn chồn như kiến bò trong chảo nóng.

Mọi người mừng quá, đều thở phào:

- Kể cũng khéo thật!

Chu Đan Thần tiếp lời:

- Tiêu đại hiệp quả là chu đáo, đã đi tra xét tình hình Mộ Dung công tử rồi.

Tiêu Phong mỉm cười:

- Ta cũng chẳng phải chu đáo gì, chỉ nghĩ Mộ Dung công tử dáng người tuấn nhã, võ công cao cường, quả là kình địch của Mộc cô nương, ha ha, ha ha!

Ba Thiên Thạch cười theo:

- Thế ra Tiêu đại hiệp định đến khuyên y hôm nay đừng đi phó yến chứ gì?

Chung Linh trợn tròn đôi mắt hỏi lại:

- Y nghìn dặm đường xa diệu vợi đến đây, chỉ cốt được làm phò mã, lẽ nào lại nghe lời khuyên của đại hiệp? Tiêu đại hiệp chắc có giao tình rất thân thiết với Mộ Dung công tử?

Ba Thiên Thạch cười đáp:

- Tiêu đại hiệp và gã kia giao tình cũng chẳng có gì đặc biệt, có điều Tiêu đại hiệp nói chuyện bằng chân tay, không nghe không được.

Chung Linh bấy giờ mới rõ, cười nói:

- Nếu như đem thượng cẳng chân, hạ cẳng tay ra nói chuyện thì ai mà chẳng phải nghe?

Thế rồi Mộc Uyển Thanh, Tiêu Phong, Hư Trúc, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần năm người cùng đến cửa hoàng cung. Ba Thiên Thạch đưa danh thiếp của Đoàn Dự vào, thượng thư bộ Lễ của nước Tây Hạ đích thân ra ngoài nghinh tiếp.

Vào đến điện Trung Hòa đã thấy người đến dự cũng phải hơn trăm, ngồi rải rác ở khắp các nơi. Chính giữa điện là một mâm tiệc, bàn ghế đều phủ nhiễu vàng thêu rồng, chính là ngự tọa của hoàng đế Tây Hạ. Hai bàn đông tây đều phủ gấm tía, phía đông ngồi ngất ngưởng một đại hán mi rậm mắt to, thân thể cao to, hình dáng uy võ, mặc áo bào đại hồng, trên áo bào thêu một con hổ giơ nanh múa vuốt, đằng sau là tám võ sĩ đứng hầu. Ba Thiên Thạch vừa nhìn đã biết ngay đây là Tông Tán vương tử của nước Thổ Phồn.

Lễ bộ thượng thư dẫn Mộc Uyển Thanh đến mâm tiệc phía tây, không phải ngồi chung với ai còn bọn Tiêu Phong đứng đằng sau nàng. Xem như thế trong những người đến ứng tuyển hôm nay, chỉ có vương tử nước Thổ Phồn vàvương tử nước Đại Lý là tôn quí hơn hết nên hoàng đế Tây Hạ mới kính trọng đến vậy. Ngoài ra các tử đệ con nhà quyền quí cũng đều ngồi xen lẫn với các thanh niên dân gian ở các mâm khác. Mọi người lục tục tiến vào chia nhau ra ngồi.

Sau khi các mâm đã ngồi chật, hai người Trị Điện tướng quân liền hô lớn:

- Tân khách đến đủ rồi, đóng cửa lại.

Trong tiếng chiêng trống, hai phiến cửa dày của điện môn được bốn người vệ sĩ cầm kích đóng lại. Trong số binh sĩ cầm võ khí sáng loáng, một đoàn vệ sĩ giáp vàng cầm kích đi ra, mũi kích lấp lánh dưới ánh lửa đuốc bập bùng.

Rồi lại tiếng nhạc, tiếng trống, hai đội nội thị từ trong nội đường tiến ra, tay người nào cũng cầm một đỉnh hương bằng bạch ngọc, trong lò hương bay nghi ngút. Mọi người đều biết hoàng đế sắp xuất hiện, ai nấy nín thở không dám nói gì nữa.

Sau cùng là bốn tên nội thị mặc cẩm bào, tay không cầm gì cả, chia ra đứng hai bên ngự tọa. Tiêu Phong thấy bốn người đó huyệt Thái Dương gồ lên, biết đây là thị vệ đứng bảo vệ hoàng đế, võ công không phải dở. Một tên nội thị lớn tiếng xướng:

- Vạn tuế đến, nghinh giá!

Tất cả mọi người liền quì xuống. Rồi có tiếng giày lẹp kẹp, một người từ bên trong đi ra, ngồi lên trên ngự ỷ. Gã nội thị kia lại xướng:

- Bình thân!

Mọi người lúc đó mới đứng thẳng lên. Tiêu Phong liếc qua hoàng đế Tây Hạ, thấy ông ta thân hình không cao lắm, vẻ mặt cũng có đôi chút tinh nhanh, trông như một nhân vật anh hùng trong giới thảo mãng. Viên Lễ bộ thượng thư đứng bên cạnh ngự tọa, giở một quyển trục ra, lớn tiếng đọc:

Pháp thiên ứng đạo, quảng thánh thần võ, Tây Hạ hoàng đế sắc viết:

Chư quân ứng chiếu viễn lai, trẫm kỳ gia hứa, kỳ tứ chỉ tửu

Khâm tai

Mọi người quì xuống tạ ơn. Gã nội thị lại xướng:

- Bình thân!

Mọi người lại đứng dậy. Nhà vua liền nâng chén lên, đưa lên môi nhấp rồi rời chỗ ngồi, quay vào nội đường. Cả đoàn nội thị cũng theo sau, chỉ một thoáng đã đi hết không còn ai nữa.

Mọi người hết sức ngạc nhiên, không ngờ vị hoàng đế đó lại không nói câu nào, không uống ngụm rượu nào, cũng không ở qua bữa tiệc. Ai nấy nghĩ thầm: “Tướng mạo bọn ta ra sao, y chưa nhìn một người nào, làm sao mà tuyển con rể đây?”.

Viên Lễ bộ thượng thư nói:

- Xin chư quân ngồi xuống, tùy tiện uống rượu ăn uống.

Thái giám liền bưng các đĩa đồ ăn lên. Tây Hạ là vùng đất rất lạnh miền tây bắc, ăn uống thường ngày dùng thịt bò, thịt trừu là chính, tuy là ngự yến trong hoàng cung nhưng thịt bò thịt trừu miếng nào miếng nấy cắt thành cục lớn.

Mộc Uyển Thanh thấy bọn Tiêu Phong đứng hầu ở bên cạnh, trong lòng áy náy không yên, hạ giọng nói nhỏ:

- Tiêu đại ca, Hư Trúc nhị ca, hai người ngồi xuống ăn đi.

Tiêu Phong và Hư Trúc cùng cười lắc đầu. Mộc Uyển Thanh biết Tiêu Phong thích rượu, nghĩ ra một kế, vẫy tay một cái nói:

- Rót rượu!

Tiêu Phong liền theo lệnh rót rượu ra. Mộc Uyển Thanh nói:

- Ngươi uống một bát trước ta xem.

Tiêu Phong mừng quá, một hơi uống hết ngay bát rượu. Mộc Uyển Thanh lại ra lệnh:

- Uống nữa xem nào!

Tiêu Phong lại uống thêm một bát nữa.

Gã vương tử nước Thổ Phồn ngồi ở bàn phía đông uống mấy ngụm rượu rồi liền cầm một tảng thịt bò lớn trong bát lên gặm, gặm được mấy miếng còn một cục xương to, tiện tay liệng ra, không biết vô tình hay cố ý quăng luôn về phía Mộc Uyển Thanh, kình phong ném ra cực kỳ mãnh liệt.

Chu Đan Thần liền xòe quạt hất cái xương bò, cục xương liền quay ngược lại bắn về phía Tông Tán vương tử. Một tên võ sĩ Thổ Phồn giơ tay chụp lấy chửi một tiếng, cầm chiếc bát trên bàn ném luôn về phía Chu Đan Thần. Ba Thiên Thạch vung chưởng đánh ra, chưởng phong đánh chiếc bát vỡ tan tành trên không thành mấy chục mảnh, văng trở về đám võ sĩ Thổ Phồn. Một tên võ sĩ Thổ Phồn lập tức cởi áo khoác ngoài, cuốn một cái túm lại, thu hết mấy chục mảnh bát vỡ vào trong trường bào, thủ pháp cực kỳ nhanh nhẹn.

Những người đến phó yến tại hoàng cung ai nấy đều nghĩ bụng đã đến đây ai cũng mong được làm phò mã, gặp nhau ắt phải hầm hè, lúc dự tiệc thể nào cũng có tranh chấp, nhưng có ngờ đâu chưa nói đã đánh, vừa vào bàn đã động thủ nhanh như thế. Chỉ nghe loảng xoảng leng keng rầm rĩ cả lên.

Đột nhiên có tiếng chuông kêu boong boong, từ nội đường hai hàng người tiến ra, người thì quần áo bó chẽn, kẻ lại quần chùng áo dài, phần lớn ai cũng cầm những loại binh khí kỳ dị. Một viên quí quan Tây Hạ mặc cẩm bào lớn tiếng nói:

- Hoàng cung nội viện, chư quân không được vô lễ. Những người này đều ở trong Nhất Phẩm Đường của tệ quốc, nếu các vị có hứng thì chia nhau ra tỉ thí xem sao, chứ loạn đả quần đấu thì nhất định không thể được.

Bọn Tiêu Phong ai cũng biết Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ là nơi tuyển mộ anh hùng hảo hán, nhân tài không phải là ít nên lập tức ngừng tay. Những chén bát bọn võ sĩ Thổ Phồn liệng tới, bọn Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần chỉ bắt lấy rồi để xuống chứ không ném trả lại. Thế nhưng bọn võ sĩ Thổ Phồn nào có chịu thôi, đến thịt bò, thịt cừu cũng cầm ném sang phía Mộc Uyển Thanh.

Viên quan mặc cẩm bào liền nói với vương tử nước Thổ Phồn:

- Xin điện hạ ra lệnh cho họ ngừng tay, để chúng tôi phải can thiệp vào thì thật bất tiện.

Tông Tán vương tử thấy Nhất Phẩm Đường ít ra cũng phải trên trăm người, huống chi mình đang ở trong cung cấm của đối phương, lập tức vẫy tay một cái bảo thuộc hạ ngừng lại. Lễ bộ thượng thư Tây Hạ liền quay sang viên quan mặc cẩm bào chắp tay:

- Hách Liên Chinh Đông, không biết công chúa nương nương sai bảo thế nào?

Viên quí quan mặc áo gấm kia là tổng quản Nhất Phẩm Đường Hách Liên Thiết Thụ, quan phong Chinh Đông đại tướng quân, năm ngoái đã từng suất lãnh các võ sĩ Nhất Phẩm Đường đi qua Trung Nguyên, bị Mộ Dung Phục mặc giả Lý Diên Tông, dùng Bi Tô Thanh Phong làm cho mê man. Cả bọn Hách Liên Thiết Thụ sau đó bị Cái Bang bắt giữ, may nhờ có Đoàn Diên Khánh cứu thoát, lủi thủi quay về. Y từng nhìn thấy A Châu giả làm Kiều Phong và Đoàn Dự giả làm Mộ Dung Phục nhưng Tiêu Phong thật và Đoàn Dự giả có mặt ở trong điện hôm nay thì chưa từng gặp qua. Bọn Đoàn Diên Khánh, Nam Hải Ngạc Thần tuy cũng là cao thủ Nhất Phẩm Đường nhưng họ đã thương lượng trước, không chịu trong vòng quản thúc.

Hách Liên Thiết Thụ lớn tiếng nói:

- Công chúa nương nương có dụ rằng, xin quí vị tân khách sau khi ăn uống, cùng vào thư phòng bên ngoài Thanh Phượng Các để dùng trà.

Mọi người nghe nói thế, ai nấy kêu lên kinh ngạc. Ngân Xuyên công chúa ở gác Thanh Phượng, nhiều người đã biết rồi, nếu như nàng ta mời tất cả đến uống trà, hẳn là để chính mắt xem xét, tự mình kén chồng. Các thanh niên nghe nói thế ai nấy cực kỳ cao hứng, nghĩ thầm: “Dẫu cho công chúa không chọn ta thì mình cũng chính mắt thấy nàng. Người Tây Hạ ai nấy đều bảo rằng công chúa của họ thiên kiều bách mị, dung mạo trên đời có một không hai, mình được ngó thấy cũng không uổng công đường xa cất bước đến đây”.

Vương tử nước Thổ Phồn liền đưa tay áo chùi miệng, đứng phắt lên nói:

- Lúc nào ăn thịt uống rượu mà chẳng được? Bây giờ cần gì ăn, mình đi xem công chúa đi thôi.

Tám tên võ sĩ tùy tòng cùng lên tiếng đáp ứng:

- Tuân lệnh!

Vương tử nước Thổ Phồn quay sang nói với Hách Liên Thiết Thụ:

- Ngươi dẫn đường đi!

Hách Liên Thiết Thụ đáp:

- Được, xin mời điện hạ.

Y quay sang chắp tay nói với Mộc Uyển Thanh:

- Xin mời Đoàn điện hạ.

Mộc Uyển Thanh cũng nói giọng ồm ồm:

- Mời tướng quân.

Cả đoàn người được Hách Liên Thiết Thụ dẫn đường, đi ngang một cái vườn hoa lớn, vài khúc quẹo, qua một dãy giả sơn, Mộc Uyển Thanh bỗng thấy bên cạnh mình có thêm một người, liếc mắt nhìn xem, không khỏi giạât mình kêu lên một tiếng kinh ngạc. Người đó đai ngọc, áo gấm, chính là Đoàn Dự chứ còn ai!

Đoàn Dự nhoẻn miệng cười nói nhỏ:

- Đoàn điện hạ có sợ không?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Dự ca biết rồi ư?

Đoàn Dự cười nói:

- Không phải biết hết mọi chuyện nhưng xem xét tình hình cũng đoán được một hai. Quả là khó cho Đoàn điện hạ thật.

Mộc Uyển Thanh liếc qua hai bên xem có quan viên Tây Hạ nào không, thấy ngay sau lưng Đoàn Dự có thêm hai thanh niên công tử. Một người chừng ba mươi, hai lông mày xếch lên, thái độ ra chiều cao ngạo, còn người kia dung mạo tuyệt đẹp. Mộc Uyển Thanh nhìn kỹ lại, nhận ra ngay người thanh niên đẹp trai kia chính là Vương Ngữ Yên giả trang, nàng giận sôi máu nói:

- Anh giỏi nhỉ, không nói không rằng cùng Vương cô nương bỏ đi, để tôi phải thay anh đứng mũi chịu sào.

Đoàn Dự đáp:

- Hảo muội tử, cô chớ có nổi cáu, chuyện này nói ra dài lắm. Ta bị người ta vứt xuống một giếng bùn, suýt nữa thì chết đói dưới đó rồi.

Mộc Uyển Thanh nghe chàng nói từng bị nguy hiểm, lập tức bớt giận mà lại đâm lo, vội hỏi:

- Thế Dự ca không bị thương chứ? Ta xem khí sắc anh không được khỏe.

Thì ra khi đó ở dưới đáy giếng Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí bóp cổ, ngạt thở tưởng chừng sắp ngất đi. Mộ Dung Phục bám trên tường cao của thành giếng, hạnh tai lạc họa, mừng thầm trong bụng, chỉ mong Cưu Ma Trí bóp chết Đoàn Dự. Vương Ngữ Yên hết sức xông vào đánh Cưu Ma Trí nhưng y nào có buông tay, trong cơn nguy cấp, đột nhiên ghé miệng cắn lên cánh tay phải Cưu Ma Trí một cái.

Cưu Ma Trí thấy huyệt Khúc Trì nơi cánh tay đau nhói lên, nội lực đang căng phồng trong người lập tức tuôn thẳng vào chưởng tâm chảy vào đầu vào cổ Đoàn Dự. Nội tức của y vốn dĩ bành trướng toàn thân như muốn vỡ tan, bây giờ có chỗ thoát ra liền cảm thấy thoải mái ngay, bàn tay đang bóp cổ Đoàn Dự lập tức nới lỏng.

Y luyện công đã đến mức cực kỳ ổn định, kình lực ngưng tụ không dễ gì mà bị khuấy động, tuy đã tiếp xúc với cơ thể Đoàn Dự nhưng vì không chạm vào những huyệt đạo trên ngón tay cái hay cổ tay mà Đoàn Dự lại không biết vận dụng Bắc Minh thần công thành thử không thể nào hút nội lực của y được.

Thế nhưng khi Vương Ngữ Yên cắn vào huyệt Khúc Trì, Cưu Ma Trí giật mình, các mạch trong người lập tức thư giãn, nội lực liên miên bất tuyệt cuồn cuộn chảy vào huyệt Liêm Tuyền nơi yết hầu Đoàn Dự. Huyệt Liêm Tuyền thuộc Nhâm Mạch, đi qua các huyệt Thiên Đột, Tuyền Ki, Hoa Cái, Tử Cung, Trung Đình rồi vào biển khí nơi huyệt Đãn Trung.

Cưu Ma Trí thần trí đang mơ mơ hồ hồ, nội tức vừa thoát ra lập tức tỉnh táo, chột dạ nghĩ thầm: “Chết rồi! Chân khí của ta bị y hút ào ào như thế này, chẳng mấy chốc sẽ thành người tàn phế, biết làm sao đây?”. Y lập tức vận kình hết sức chống lại nhưng trễ mất rồi. Nội lực của y vốn dĩ đã không mạnh bằng Đoàn Dự, lại thêm non nửa đã chảy vào cơ thể đối phương, bên tiêu bên trưởng, mạnh yếu chênh lệch mỗi lúc một xa, tuy cố sức đề kháng nhưng không cách gì giữ lại được.

Trong đêm tối, Vương Ngữ Yên thấy mình cắn Cưu Ma Trí một cái rồi y không còn xiết cổ Đoàn Dự nữa cũng thấy đỡ lo, nhưng sao bàn tay y vẫn cứ dính chặt vào cổ Đoàn Dự, dù nàng cố sức giằng ra vẫn không được.

Vương Ngữ Yên tuy biết hết các danh gia danh phái trong thiên hạ nhưng nào có đoán ra được môn công phu này của Cưu Ma Trí nhưng chắc hẳn chẳng phải là chuyện tốt lành gì, ắt có hại cho Đoàn Dự nên lại càng hết sức kéo ra.

Cưu Ma Trí thì chỉ mong sao nàng lôi được mình ra, còn Vương Ngữ Yên thì chợt rùng mình một cái, nội lực cũng tuôn ra ngoài. Thì ra Bắc Minh thần công của Đoàn Dự đâu có phân biệt bạn thù, đến chút nội lực thô thiển của Vương Ngữ Yên cũng bị hút mất. Chẳng bao lâu, cả ba người Đoàn Dự, Vương Ngữ Yên lẫn Cưu Ma Trí đều ngất đi.

Qua một hồi sau, Mộ Dung Phục thấy cả ba người không còn động tĩnh gì, gọi mấy tiếng không nghe trả lời nghĩ thầm: “Xem chừng ba người đồng qui ư tận cả rồi”. Y lúc đầu thì vui sướng lắm, đến lúc nghĩ lại thân tình của mình với Vương Ngữ Yên, không khỏi thương xót. Y chợt nghĩ ra: “Chết rồi, miệng giếng bị đá tảng lấp mất, nếu như ba người kia không chết, bốn người hợp lực thì may ra còn thoát ra được, bây giờ chỉ còn một mình ta thì còn khó hơn nhiều. Ôi, các ngươi chết sao không ra đến ngoài rồi hãy chết, để mình ta sống có phải hay không?”.

Y giơ tay đẩy lên nhưng hàng chục tảng đá chồng lên miệng giếng, còn đang xem xét bỗng nghe bên trên có tiếng người nói lao xao, thanh âm thô tạp, hẳn là nông dân nước Tây Hạ. Thì ra bốn người náo loạn hồi lâu bây giờ trời đã sáng, dân chúng chung quanh thành đang gánh rau đem vào Linh Châu bán, đi ngang qua giếng.

Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Nếu mình gọi họ đến giúp, những tên nhà quê này chắc gì đã hăng hái đến vần những tảng đá mỗi cục cả mấy trăm cân, lay vài cái thấy không đến đâu chắc họ sẽ bỏ đi mất, ta phải lấy lợi để dụ mới được”. Nghĩ thế y bèn lớn tiếng kêu:

- Bao nhiêu vàng bạc châu báu đều là của ta, các ngươi không được nổi lòng tham. Nếu chúng bay muốn ta chia cho ba nghìn lượng bạc thì ta cũng đành chịu vậy.

Nói xong y lại đổi giọng eo éo:

- Dưới đây biết bao nhiêu là kim ngân tài bảo, ai tìm thấy cũng có phần, cứ người nào có mặt là có một chút.

Nói xong y lại chuyển giọng khàn khàn:

- Ấy chớ có để ai nghe thấy, ai cũng có phần, dù vàng bạc châu báu nhiều thật nhưng chia ra rồi cũng chẳng được mấy tí.

Những lời đối đáp y đều dùng nội lực truyền ra ngoài. Những người nhà quê nghe thấy thế, ai nấy mừng rỡ, xúm lại như đàn ong vần những tảng đá. Đá tuy nặng thật nhưng bấy nhiêu người hợp lực nên hết cục nọ đến cục kia đều được nhắc ra, Mộ Dung Phục không đợi cho tảng đá lớn kéo ra hoàn toàn, vừa thấy khe hở đủ lọt thân mình liền bò men theo thành giếng, quát một tiếng nhún mình vọt ra ngoài.

Bọn người nhà quê chỉ thấy y thấp thoáng rồi biến mất không còn đâu nữa, kinh hãi không biết thần hay quỉ, tuy sợ hãi nhưng máu tham vẫn còn, hì hục vần hơn chục tảng đá qua một bên, dùng dây buộc rau nối lại thòng một gã bạo dạn nhất xuống.

Gã nọ đến đáy giếng rồi, thấy bọn Cưu Ma Trí ba người nằm gục nơi đó không cục cựa gì cả, nghĩ bụng chắc chết cả rồi, sợ đến mất hồn mất vía, vội vàng giựt giây cho đồng bọn kéo lên.

Tất cả ai nấy thất vọng, bàn tán một hồi, đốt mấy cành cây, lại xuống giếng soi thêm lần nữa. Chỉ thấy ba người không cử động nằm trong đống bùn, chắc hẳn chết đã lâu, chứ nào có thấy tiền bạc gì đâu? Bọn nhà quê nghĩ bụng chết người không phải chuyện nhỏ, nếu để cho quan phủ biết được, không chừng các ngài lại vu cho mình giết người cướp của. Thế là ai nấy run lên bần bật, lập cập chạy về nhà, kẻ phát sốt kẻ phát rét.

Chẳng bao lâu có kẻ thêm mắm dặm muối, đồn ầm lên trong đám dân ngu khu đen rằng cứ mỗi độ trăng tròn, bên miệng giếng lại có bốn con quỉ người đầy bùn tác yêu tác quái, ai trông thấy sẽ nhiễm bệnh lên cơn sốt, phải cúng kiến ngay mới khỏi. Từ đó trở đi bên miệng giếng quanh năm khói hương lúc nào cũng nghi ngút.

Mãi đến lúc quá trưa, ba người dưới giếng mới từ từ tỉnh lại. Người mở mắt đầu tiên là Vương Ngữ Yên, cô nàng công phu thô thiển, nội lực tuy mất hết nhưng vốn dĩ cũng chẳng bao nhiêu nên không tổn hại gì mấy. Nàng tỉnh dậy nghĩ ngay đến Đoàn Dự, tuy lúc đó là ban ngày trời sáng nhưng dưới đáy giếng vẫn tối om om. Nàng vừa mò ra đụng ngay phải Đoàn Dự, kêu lên:

- Đoàn lang, Đoàn lang! Chàng … chàng … chàng … sao ra nông nỗi này?

Vương Ngữ Yên không nghe Đoàn Dự trả lời, nghĩ bụng chắc chàng đã bị Cưu Ma Trí bóp cổ chết rồi, không khỏi ôm “thây” tình nhân khóc òa lên, ôm chặt vào ngực:

- Đoàn lang! Đoàn lang! Chàng đối với thiếp tình sâu nghĩa nặng, nhưng thiếp nào đã được một ngày dịu ngọt, thân mật với chàng. Những tưởng từ nay liễu bồ tùng quân quấn quít bên nhau để bù lại những gì thiếu sót. Ai ngờ đâu … ai ngờ đâu … chàng lại vắn số, chết dưới tay tên ác tăng …

Bông nghe tiếng Cưu Ma Trí nói:

- Cô nương nói đúng một nửa thôi! Lão nạp tuy là ác tăng thật nhưng Đoàn công tử không phải chết vì tay ta.

Vương Ngữ Yên kinh hãi hỏi:

- Không lẽ … không lẽ do biểu ca ta hạ độc thủ hay sao? Sao y … y nỡ nào tàn nhẫn thế?

Cũng vừa lúc đó nội tức Đoàn Dự thuận lợi trở lại nên cũng tỉnh dậy, nghe tiếng Vương Ngữ Yên thánh thót bên tai, sung sướng quá đỗi, thấy được nàng ôm trong lòng nên không động đậy gì cả e nàng phát giác sẽ buông mình ra. Lại nghe Cưu Ma Trí nói tiếp:

- Đoàn lang của cô không phải chết vì tay ác tăng mà ngược lại, ác tăng suýt nữa chết về tay Đoàn lang của cô.

Vương Ngữ Yên thút thít khóc:

- Đến nước này mà ông còn nhẫn tâm đùa cợt được hay sao? Ông có biết lòng ta tan nát, chi bằng ông giết nốt ta đi để cho ta được theo Đoàn lang xuống suối vàng.

Đoàn Dự nghe nàng nói mấy câu thâm tình như thế thật như mở cờ trong bụng, sung sướng không đâu cho hết. Cưu Ma Trí nội lực tuy mất nhưng đầu óc vẫn cực kỳ tinh tế, kiến thức vẫn trác tuyệt như xưa, nghe tiếng thở nhè nhẹ của Đoàn Dự, đủ biết chàng đang hết sức kiềm chế, cũng đoán được dụng ý, thở dài nói:

- Đoàn công tử, bảy mươi hai tuyệt kỹ Thiếu Lâm ta học sai đường đến nỗi tẩu hỏa nhập ma, ở vào tình trạng cực kỳ hung hiểm, nếu không nhờ có công tử hút hết nội lực, lão nạp chắc đã lên cơn điên mà chết. Bây giờ lão nạp tuy võ công mất hết rồi nhưng tính mệnh lại còn, phải bái tạ cái ơn cứu mạng của công tử mới được.

Đoàn Dự vốn là người khiêm khiêm quân tử, bỗng nghe ông ta nói chuyện bái tạ mình nhịn không nổi vội vàng lên tiếng:

- Đại sư việc gì phải khiêm nhường như thế? Tại hạ có tài đức gì đâu mà cứu được mạng đại sư?

Vương Ngữ Yên bỗng nhiên nghe Đoàn Dự mở miệng, hết sức mừng rỡ nhưng lại sững sờ, chợt hiểu ngay ra anh chàng cố ý nằm yên để cho mình ôm vào lòng, không khỏi bẽn lẽn đẩy một cái, hứ một tiếng nói:

- Cái anh này!

Đoàn Dự bị nàng nhìn ra dụng ý cũng ngượng ngập, mặt đỏ bừng vội đứng lên tựa vào tường phía bên kia. Cưu Ma Trí thở dài:

- Lão nạp tuy ở trong cửa Phật nhưng cái tâm tranh cường hiếu thắng còn gấp mấy người thường, cái quả hôm nay ấy là do nhân đã trồng từ ba mươi năm trước. Ôi, tham,, sân, si tam độc không qua được cửa nào, thế mà dám tự cho là cao tăng, đã kiêu ngạo, lại ngã mạn, không biết thẹn, không biết ngượng. Ôi, khi chết đi rồi ắt sẽ thân đọa địa ngục, vạn kiếp chẳng được siêu sinh.

Đoàn Dự trong lòng lo lắng không biết Vương Ngữ Yên có giận mình không, nghe Cưu Ma Trí nói mấy lời chán chường như thế, cảm thấy thương hại, hỏi lại:

- Sao đại sư lại buông những lời như thế? Đại sư mới rồi không được khỏe, bây giờ đã đỡ hơn chưa?

Cưu Ma Trí không nói gì, một hồi sau ám vận chân khí, quả nhiên công phu gian khổ mấy chục năm nay chỉ một buổi đã hết sạch rồi. Ông ta vốn là người đại trí đại tuệ, tu tập Phật học cực kỳ tinh thâm, chỏ vì học võ mà tâm hiếu thắng nổi lên, Phật tâm nhạt dần nên mới có cảnh hôm nay. Ông ta ngồi nơi đống bùn lầy bỗng nhiên tỉnh ngộ: “Như Lai dạy đệ tử rằng việc đầu tiên là phải khứ tham, khứ ái, khứ thu, khứ triền  mới mong có thể giải thoát. Còn ta thì chưa bỏ được cái gì, bị danh bị lợi trói cứng không sao thoát ra được. Hôm nay võ công tuy mất, biết đâu chẳng là do đấng Thế Tôn điểm hóa, bảo ta cải tà qui chánh để được thanh tĩnh giải thoát?”. Ông ta nghĩ lại những điều mình đã từng làm mấy chục năm qua, mồ hôi trán nhỏ xuống ròng ròng, vừa hổ thẹn lại vừa chua xót.

Đoàn Dự không nghe thấy ông ta trả lời, quay sang hỏi Vương Ngữ Yên:

- Mộ Dung công tử đâu rồi?

Vương Ngữ Yên kêu lên một tiếng nói:

- Biểu ca ư? Ôi chao! Thiếp quên khuấy đi mất.

Đoàn Dự nghe nàng nói “Thiếp quên khuấy đi mất”, thật chẳng khác gì được nghe tiếng nhạc nhà trời, không gì hay bằng. Vốn dĩ Vương Ngữ Yên toàn tâm toàn ý chỉ nghĩ đến Mộ Dung Phục, bây giờ cả nửa ngày không nhớ gì đến y, đủ biết nàng đối với mình bằng cái lòng chí thành, trong tâm khảm bây giờ hình ảnh mình đã thay Mộ Dung Phục rồi.

Lại nghe Cưu Ma Trí tiếp:

- Lão nạp trước đây sai lầm đã nhiều, nay xin tạ tội.

Nói xong chắp tay cúi đầu hành lễ. Đoàn Dự tuy không nhìn thấy ông ta cúi chào nhưng cũng vội vàng đáp lễ nói:

- Nếu vãn sinh không được đại sư dẫn tới Trung Nguyên thì làm sao có dịp gặp được Vương cô nương? Vãn sinh đối với đại sư quả là cực kỳ cảm kích.

Cưu Ma Trí đáp:

- Cái đó chẳng qua là phúc báo của công tử nên những điều ác lão nạp làm lại hóa thành trợ duyên. Công tử tâm địa nhân hậu, mai sau phúc đức vô cùng. Lão nạp hôm nay xin cáo biệt, từ nay vạn dặm cách xa, e rằng không còn có dịp gặp lại nhau nữa. Cuốn kinh thư này, sau này nếu công tử thuận tiện, xin thay lão nạp trao trả về cho chùa Thiếu Lâm. Cung chúc hai vị cử án tề mi, bạch đầu giai lão.

Nòi xong đưa cuốn Dịch Cân Kinh dính đầy bùn đất cho Đoàn Dự. Đoàn Dự nói:

- Đại sư định trở về Thổ Phồn chăng?

Cưu Ma Trí đáp:

- Ta muốn quay về nơi chốn cũ của mình nhưng đâu có phải chỉ ở Thổ Phồn mới có.

Đoàn Dự đáp:

- Vương tử quí quốc đang định cầu thân công chúa Tây Hạ, đại sư không đợi cho việc kết thúc rồi về cùng ư?

Cưu Ma Trí mỉm cười đáp:

- Đã đứng ngoài cuộc đời rồi lẽ nào còn để những tục sự đó vướng mắc hay sao? Lão nạp từ nay đi đâu ở đâu đều không định trước, chỉ tùy theo gặp gỡ mà an bài thôi. Tâm đã trụ vào chỗ an lạc rồi thì thân ắt cũng ở vào chỗ an lạc.

Nói xong cầm sợi dây thừng những người nhà quê để lại, giựt giựt thử biết chắc bên trên buộc vào một tảng đá, từ từ trèo lên. Kể từ đó, Cưu Ma Trí đại triệt đại ngộ, về sau thành một vị cao tăng, chuyên tâm dịch kinh luận từ tiếng Thiên Trúc sang Tạng văn, hoằng dương Phật pháp độ được cho rất nhiều người.

Về sau Phật pháp Thiên Trúc suy vi, kinh luật luận ba tạng đều bị thất tán nhưng còn giữ được nhiều ở Tây Tạng cũng do công lao của Cưu Ma Trí một phần lớn.

Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên hai người nhìn nhau đến tiếng thở cũng nghe thấy, tuy đắm chìm trong chỗ bùn đen nhưng trong lòng đầy nỗi vui sướng, không ai còn nghĩ đến việc trèo ra khỏi giếng. Hai người chầm chậm đưa tay ra nắm lấy tay nhau, hai bên cùng một lòng một ý.

Một lúc lâu sau, Vương Ngữ Yên nói:

- Đoàn lang, không biết cổ họng chàng có bị thương không? Đi về xem thế nào?

Đoàn Dự đáp:

- Ta chẳng thấy đau chút nào cả, không cần phải đi vội.

Vương Ngữ Yên dịu dàng nói:

- Chàng không muốn rời khỏi nơi đây, thiếp cũng ở lại với chàng.

Nàng quả là thiên y bách thuận, không trái ý một điều gì. Đoàn Dự cảm thấy thương nàng quá, cười nói:

- Người như nàng mà dầm mình trong đám bùn đen chẳng uổng lắm ru?

Tay trái chàng vòng qua ôm ngang chiếc eo thon, tay phải cầm rợi dây rút một cái, ngờ đâu lực mạnh vô cùng, chỉ hơi dùng sức hai người đã vọt lên đến mấy thước. Đoàn Dự ngạc nhiên, có biết đâu sau chàng vừa hút được nội lực tu tập cả một đời của Cưu Ma Trí, cứ tưởng mình vui quá nên tinh thần phấn chấn, lại được nằm ngủ một giấc cho nên công lực gia tăng.

Hai người ra khỏi giếng rồi, dưới ánh mặt trời thấy người kia mình đầy bùn đất, trông thật nhem nhuốc, liệu tưởng mặt mũi mình chắc cũng chẳng hơn gì, bật cười khanh khách. Hai người bèn tìm một khe nước nhảy xuống tắm rửa hồi lâu, bao nhiêu đất bùn trên đầu tóc, mũi miệng, quần áo, giày dép đều sạch sẽ. Sau đó hai anh chị mới ướt lướt thướt bước ra khỏi suối, nghĩ lại đêm trước Đoàn Dự rơi xuống ao tình cảnh cũng không khác gì, có điều tâm tình hai lần khác nhau xa, thật quả như ở một kiếp nào.

Vương Ngữ Yên nói:

- Hai chúng ta hình dáng thế này không khỏi để người ta dòm ngó, thật là mắc cỡ biết mấy.

Đoàn Dự đáp:

- Chi bằng mình ở lại đây phơi cho khô, đợi đến tối hãy vào thành.

Vương Ngữ Yên gật đầu khen phải, ngồi tựa vào một tảng đá. Đoàn Dự thấy giai nhân như ngọc, mái tóc xanh ướt đẫm trong lòng hết sức hoan hỉ. Vương Ngữ Yên thấy tình lang đăm đăm nhìn mình, e thẹn quay đầu sang một bên. Hai người trong lòng lâng lâng, bao nhiêu chuyện trên đời đều gác bỏ, cảm thấy thời gian sao qua thật mau, trong nháy mắt vầng thái dương đã khuất sau dãy núi phương đoài, mà quần áo giày vớ cũng đã khô từ bao giờ.

Đoàn Dự trong lòng vui sướng chợt nghĩ đến Mộ Dung Phục bèn nói:

- Yên muội, hôm nay tâm nguyện ta đã thỏa rồi, thật thần tiên cũng chưa bằng, không biết biểu ca nàng cầu hôn công chúa Tây Hạ có thành hay không?

Vương Ngữ Yên trước nay mỗi khi nghĩ đến chuyện đó thì đau lòng muốn quyên sinh nhưng lúc này tâm tình đã chuyển biến, đối với Mộ Dung Phục lại cảm thấy có điều áy náy, mong sao cho y lấy được công chúa Tây Hạ bèn nói:

- Đúng đó, chúng mình đi xem thử coi sao.

Hai người lật đật trở về nghinh tân quán, vừa đến cổng bỗng nghe bên kia tường có tiếng người nói:

- Các ngươi cũng về rồi đấy ư?

Chính là tiếng của Mộ Dung Phục. Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên cùng vui mừng nói:

- Phải đó! Thì ra tôn huynh cũng ở nơi đây.

Mộ Dung Phục hừ một tiếng nói:

- Mới vừa đánh nhau với bọn võ sĩ Thổ Phồn, giết được hơn chục tên nhưng cũng làm ta mất bao nhiêu thời giờ. Họ Đoàn kia, sao ngươi không đến hoàng cung phó yến mà lại để cô nương kia giả làm ngươi đi thay? Ta … ta không thể nào để cho ngươi giở trò trí trá, nhất định phải tới tố giác mới được.

Y từ trong giếng chạy ra sau khi tắm rửa, giặt quần áo, nằm ngủ một giấc, lúc tỉnh dậy gặp ngay bọn võ sĩ Thổ Phồn, hai bên đánh nhau một trận, tuy đắc thắng nhưng cũng phí mất bao nhiêu hơi sức, chạy về tân quán thì đã thấy bọn Mộc Uyển Thanh, Tiêu Phong, Ba Thiên Thạch một đoàn đi ra. Y nép vào góc tường quan sát động tĩnh, đang định đi tìm bọn Đặng Bách Xuyên thương nghị kế sách đã thấy Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên hai người sóng đôi đi vào.

Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi lại:

- Sao lại có cô nương nào giả mạo làm tiểu đệ? Thật đệ không hề hay biết chuyện gì.

Vương Ngữ Yên cũng nói:

- Biểu ca, chúng em vừa mới chui trong giếng ra …

Nàng chợt nghĩ ra những lời của mình không hoàn toàn đúng sự thật, mình và Đoàn Dự đã ngồi bên khe suối hủ hỉ với nhau cả nửa ngày, đâu có thể nói là vừa ở giếng chui ra, không khỏi sượng sùng. Cũng may trời đang sâm sẩm tối nên Mộ Dung Phục không nhìn thấy vẻ mặt nàng bẽn lẽn, y chỉ mong mau tới hoàng cung chứ chẳng để ý rằng quần áo hai người không còn chút bùn đất nào nữa, không thể nào vừa mới trong giếng chui ra. Lại nghe Vương Ngữ Yên nói tiếp:

- Biểu ca, y … y … Đoàn công tử … cùng em, quả đối với anh không phải chút nào, chỉ mong biểu ca lấy được công chúa Tây Hạ làm vợ.

Mộ Dung Phục tinh thần phấn chấn, vui mừng hỏi lại:

- Ngươi nói thật chứ? Đoàn huynh quả thực không tranh chức phò mã với ta?

Y trong bụng nghĩ thầm: “Chắc thằng ngốc này nổi tính gàn lên, không nghĩ đến chuyện làm phò mã nữa, chỉ nhất định lấy cho bằng được biểu muội, trên đời này sao lại có kẻ hồ đồ như thế, thật là nực cười. Y có Tiêu Phong, Hư Trúc tương trợ, nếu không còn tranh ngôi phò mã với mình, thì đã bớt được một kình địch thực lợi hại”.

Đoàn Dự nói:

- Ta quyết không tranh công chúa Tây Hạ với tôn huynh nhưng tôn huynh cũng không được tranh Yên muội của mỗ. Đại trượng phu đã nói ra thì không bao giờ hối hận.

Chàng gặp lại Mộ Dung Phục trong lòng không khỏi băn khoăn. Mộ Dung Phục vui mừng nói:

- Vậy thì chúng mình mau mau tới hoàng cung. Ngươi sẽ bảo cô nương kia không được giả làm ngươi đi tranh chức phò mã.

Thế rồi y hối hả kể lại chuyện Mộc Uyển Thanh giả trang làm sao, Đoàn Dự hiểu ngay vì mình thất tung, Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần vì đã được Trấn Nam Vương giao phó nên mới xúi Mộc Uyển Thanh thay huynh trưởng đi cầu thân. Thế là hai người lập tức đi theo Mộ Dung Phục về nơi cư ngụ.

Bọn Đặng Bách Xuyên đang bồn chồn nóng ruột, vừa thấy công tử trở về, thật mừng hết cỡ. Trước mắt thấy thời giờ cấp bách, mọi người lật đật thay đổi y phục. Đoàn Dự nói thế nào cũng không chịu cách xa Vương Ngữ Yên, thà rằng không tới hoàng cung còn hơn. Mộ Dung Phục không còn đường nào khác đành bảo Vương Ngữ Yên cải trang làm đàn ông cùng nhập cung.

Ba người cùng Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác đến được cung vua thì cửa đã đóng nhưng bọn Mộ Dung Phục đâu có vì thế mà bỏ cuộc, len lén đi đến một khúc vắng vẻ trèo tường mà vào. Phong Ba Ác nhảy lên đầu tường, đưa tay kéo Đoàn Dự. Đoàn Dự một tay nắm Vương Ngữ Yên, tay phải thò ra nắm tay Phong Ba Ác dùng sức nhảy lên. Ngờ đâu khi vừa nhún một cái, hai người đã nhẹ nhàng vượt qua đầu Phong Ba Ác, còn cao hơn đến ba bốn thước mới nhẹ nhàng rơi xuống như chiếc lá, không một tiếng động. Mộ Dung Phục đang ở bên trong hoàng cung, Phong Ba Ác ở trên đầu tường, luôn Công Dã Can, Đặng Bách Xuyên bên ngoài cùng cất tấm tắc:

- Hảo khinh công!

Chỉ riêng Bao Bất Đồng nói:

- Ta xem cũng chỉ bình thường.

Bảy người lẻn vào ngự hoa viên tìm nơi tân khách dự yến, định vào đại sảnh cùng ăn tiệc, ngờ đâu những tân khách vừa ngồi xuống đã đi ngay, bao nhiêu thanh niên được Ngân Xuyên công chúa mời uống trà đều tới Thanh Phượng Các. Thành thử Đoàn Dự, Mộ Dung Phục, Vương Ngữ Yên ba người mới gặp lại Mộc Uyển Thanh ở hoa viên.

Tiêu Phong, Ba Thiên Thạch cả bọn thấy Đoàn Dự thần xuất quỉ một ra mặt nơi đây, ai nấy vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Mọi người vội thì thầm thương nghị, cho rằng người cầu hôn đông thế này, quan viên Tây Hạ vị tất đã phát giác, tất cả cứ đi tới Thanh Phượng Các trước rồi tính sau. Đoàn Dự đã tới thì không còn ngại gì bị lộ nữa.

Cả đoàn người đi qua ngự hoa viên, thấy xa xa thấp thoáng một góc lâu đài dưới tàn cây, bên dưới treo hai ngọn cung đăng. Hách Liên Thiết Thụ dẫn mọi người đến nơi rồi, lớn tiếng nói:

- Giai khách bốn phương đến yết kiến công chúa.

Cửa mở toang, bốn cung nữ đi ra, mỗi người cầm một ngọn đèn lồng bằng sa mỏng, đằng sau là một nữ quan mặc áo dài tím nói:

- Các vị gian khổ từ xa đến đây, công chúa mời các vị vào Thanh Phượng Các dùng trà.

Tông Tán vương tử nói:

- Hay lắm, hay lắm! Ta đang khát đây. Được gặp công chúa thì có đi thêm một chút đâu có đáng chi? Có gì mà bảo gian khổ hay không gian khổ? Ha ha, ha ha!

Y cười hô hố ngang nhiên đi ngang qua người vị nữ quan kia vào trong các. Những người còn lại cũng chen vai thích cánh đi theo, ai cũng mong chiếm được một chỗ tốt, càng gần công chúa càng hay.

Chỉ thấy bên trong các là một toà đại sảnh, dưới sàn trải thảm dày dệt bằng lông cừu, trên thêu hoa năm sắc, cực kỳ đẹp đẽ. Những kỷ trà nhỏ bày thành hàng, trên xếp những chén có nắp   bằng men hoa xanh. Bên cạnh mỗi chiếc chén có một đĩa thanh hoa, bên trong đựng kẹo sữa, bánh ngọt những loại điểm tâm. Ở tận cùng sảnh đường là một cái sàn cao chừng ba bốn thước, trải thảm màu vàng nhạt, trên bày một chiếc ghế đẩu lót gấm. Mọi người ai nấy tin chắc đây chính là chỗ ngồi của công chúa nên người nọ chen người kia cốt sao cho được ngồi gần bình đài một chút. Chỉ có Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên nắm tay nhau, ngồi ở một góc khuất nẻo thì thầm to nhỏ, mặt mày hớn hở nói chuyệng riêng.

Mọi người yên chỗ rồi, vị nữ quan mới giơ lên một chiếc búa đồng nhỏ, gõ vào một chiếc khánh ngọc kêu lên coong coong coong ba tiếng, sảnh đường lập tức lặng yên không một tiếng động, đến cả Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên cũng không nói nữa, đợi công chúa xuất hiện.

Một hồi sau, chỉ nghe tiếng hoàn bội leng keng, từ nội đường đi ra tám cung nữ áo lục, chia thành hai hàng đứng hai bên, rồi sau một lát là một thiếu nữ mặc áo xanh uyển chuyển bước ra.

Mọi người ai nấy trố mắt nhìn, chỉ thấy thiếu nữ đó thân hình mảnh dẻ, cử chỉ nhàn nhã, diện mạo cực kỳ xinh đẹp. Mọi người ai nấy tấm tắc khen thầm: “Người ta thường bảo Ngân Xuyên công chúa tuyệt sắc vô song, quả thực danh bất hư truyền”. Mộ Dung Phục nghĩ bụng: “Ta trước đây vẫn lo Ngân Xuyên công chúa không được xinh đẹp, hóa ra nàng ta tuy so với biểu muội có sút một tí, nhưng cũng là người trong nghìn, vạn người có một, những gì mình e ngại đều là thừa. Xem hình mạo nàng đoan chính thế kia, mai sau có làm hoàng hậu nước Yên, mẫu nghi thiên hạ thì cũng đáng. Ta cùng nàng sinh con đẻ cái, đời đời làm chủ nước Đại Yên”.

Thiếu nữ kia chậm rãi đi lên bình đài, hơi khom lưng hành lễ với mọi người. Mọi người thấy nàng đi ra cũng đã đứng dậy, thấy nàng cúi chào đều đáp lễ, có người thấy công chúa khiêm tốn như thế, không có chút gì ra vẻ ta đây, lại càng tấm tắc khen ngợi. Người con gái đó, mắt nhìn mũi, mũi nhìn tâm, mục quang trước sau không để mắt vào ai cả, hiển nhiên cực kỳ e thẹn. Mọi người đến thở mạnh cũng không dám, e rằng kinh động giai nhân, ai nấy nghĩ thầm: “Công chúa cành vàng lá ngọc trước nay ở trong cung cấm, đột nhiên thấy biết bao nhiêu là đàn ông, dĩ nhiên là phải như thế mới hợp với thân phận tôn quí của mình”.

Qua một lúc sau, thiếu nữ kia mới bẽn lẽn nhỏ nhẹ nói:

- Công chúa điện hạ chỉ dụ rằng: Chư vị giai khách từ xa đến đây, tiếc thay Thanh Phượng Các không có trà thơm và đồ ăn ngon đãi khách, quả là giản phác, vậy xin quí vị tùy tiện.

Mọi người ai nấy chưng hửng nhìn nhau, không khỏi kêu thầm: “Quả là hổ thẹn, hóa ra nàng ta không phải công chúa, xem ra chỉ là một cung nữ hầu hạ công chúa mà thôi”. Thế nhưng ai nấy nghĩ lại: “Mới chỉ là một thị nữ mà đã thế này, công chúa ắt còn phải hơn nhiều”. Sau cơn ngỡ ngàng ai nấy lại thêm vài phần phấn khởi.

Tông Tán vương tử nói:

- Thì ra nàng không phải công chúa, vậy mau mau mời công chúa ra đi. Rượu ngon thịt béo ta còn không thèm ăn, ham gì cái thứ trà thơm với lại điểm tâm?

Cung nữ kia đáp:

- Để các vị dùng trà và điểm tâm xong, công chúa điện hạ sẽ có chỉ dụ.

Tông Tán cười nói:

- Được lắm, được lắm, công chúa điện hạ đã bảo như thế thì ta cứ theo thôi.

Y nhắc chén trà lên, mở nắp ra, nghiêng chén đổ tọt cả lá trà lẫn trà vào mồm, nhai trệu trạo rồi nuốt ực xuống bụng. Người Thổ Phồn uống trà có cho thêm muối, sữa đông, cả trà lẫn lá đều nhai nuốt cả. Y uống trà chưa xong đã bốc những món điểm tâm, nhét vào mồm, ú ớ nói:

- Xong rồi! Ta vâng lệnh ăn xong rồi, mời công chúa ra đi.

Cung nữ kia nhỏ nhẹ đáp:

- Vâng!

Thế nhưng vẫn đứng yên đó không cử động. Tông Tán biết nàng đợi cho những người khác ăn xong mới chịu vào thông báo, trong bụng bồn chồn khó chịu, luôn mồm giục:

- Này, tất cả ăn mau lên chứ, lẹ lẹ đi thôi! Lá trà chứ có gì đâu mà không ăn được?

Đến khi hầu hết mọi người đã uống trà ăn điểm tâm xong, Tông Tán vương tử lại hỏi:

- Thế đã được chưa?

Nàng cung nữ mặt hơi ửng đỏ, thần sắc thẹn thùng nói:

- Công chúa điện hạ mời chúng vị giai khách dời gót vào nội thư phòng, thưởng ngoạn thư họa.

Tông Tán hừ một tiếng nói:

- Thư họa thì có gì đáng coi đâu? Mỹ nữ trong tranh đâu có đẹp bằng người thật? Sờ không được, ngửi không được, toàn là giả.

Tuy nói thế nhưng y cũng đứng lên. Mộ Dung Phục trong lòng mừng thầm: “Thế thì hay quá, công chúa muốn mình đến thư họa phòng, ngoài thì nói là quan thưởng thư họa mà kỳ thực là để khảo nghiệm văn tài, cái thứ thô lỗ quê mùa như Tông Tán vương tử, biết đếch gì là thi từ ca phú, thư pháp hội họa? Chỉ e nói ra vài lời thì đã bị công chúa đuổi ra khỏi thư phòng”. Y lại nghĩ thầm: “Chỉ riêng tỉ thí võ công ta cũng đủ áp đảo quần hùng, bây giờ lại thêm khảo nghiệm văn tài, thế thì mình ăn đứt”. Y nghĩ thế mặt dương dương hớn hở đứng lên.

Cung nữ kia lại tiếp:

- Công chúa điện hạ có dụ rằng: Phàm là các cô nương nữ nhân mặc giả nam trang, những người trên bốn mươi tuổi xin ngồi lại Ngưng Hương Đường này nghỉ ngơi uống trà. Còn ngoài ra các vị giai khách xin mời vào nội thư phòng.

Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên đều kinh hãi thầm: “Thì ra ta là gái giả trai họ đã biết cả rồi”. Bỗng nghe có tiếng người nói:

- Sai bét rồi! Không phải vậy!

Người cung nữ mặt đỏ bừng, nàng ta từ bé nhập cung, mấy năm sau chỉ gặp những thái giám bán nam bán nữ, chưa bao giờ gặp đàn ông con trai thực sự, đến hoàng đế và hoàng thái tử cũng chưa thấy, bây giờ gặp nhiều đàn ông đến thế này, trong lòng không khỏi thắc thỏm, lại thêm e thẹn nên một hồi sau mới đáp:

- Không biết vị tiên sinh đây có cao kiến gì?

Bao Bất Đồng nói:

- Cao kiến thì không có, nhưng đê kiến thì có.

Những người nói năng mồm năm miệng mười như Bao Bất Đồng thì cung nữ này chưa từng gặp qua nên nàng không biết phải ứng phó ra sao. Bao Bất Đồng lại tiếp theo:

- Chắc hẳn cô nương muốn hỏi ta: Không biết vị tiên sinh đây có đê kiến gì? Ta thấy cô sượng sùng e thẹn, thôi ta miễn cho khỏi phải hỏi, để ta nói ra cũng được rồi.

*

* *

        C ung nữ nọ mỉm cười:

- Đa tạ tiên sinh.

Bao Bất Đồng nói:

- Bọn ta đường sá xa xôi, bôn ba đến gặp công chúa, trên đường đi, có kẻ táng thân nơi gió cát sa mạc, có kẻ bỏ mình nơi miệng cọp hàm sư, có người bị thủ hạ của vương tử Thổ Phồn giết chết, đến được Linh Châu, mười phần chỉ còn một hai. Ai ai cũng chỉ mong được nhìn dung nhan công chúa một lần, ngờ đâu chiû vì cha mẹ sinh sớm mất vài năm thành thử tại hạ quá bốn mươi rồi, bao nhiêu công lao trở thành công cốc. Nếu biết thế này, ta ắt chẳng ra đời sớm làm gì.

Người cung nữ che miệng cười khúc khích nói:

- Tiên sinh nói đùa đấy thôi, con người sinh ra sớm hay muộn, nào có phải do chủ ý của mình đâu?

Tông Tán nghe Bao Bất Đồng lèm bèm nói mãi, hầm hầm nhìn y, quát lớn:

- Công chúa điện hạ đã truyền như thế, tất cả cứ tuân lệnh là xong, ngươi còn lải nhải nỗi gì?

Bao Bất Đồng thản nhiên nói:

- Vương tử điện hạ, ta nói thế là cốt cho điện hạ đấy thôi. Năm nay ngươi đã bốn mươi mốt tuổi, tuy không phải là già nhưng cũng đã là ngoại tứ tuần, không được vào gặp công chúa. Hôm trước ta coi số bát tự   dùm điện hạ, ngươi sinh năm bính dần, tháng canh tí, ngày ất sửu, giờ đinh mão, tính ra là vừa đúng bốm mươi mốt.

Tông Tán vương tử kỳ thực chỉ mới hai mươi tám, có điều râu ria xồm xoàm, thành thử bao nhiêu tuổi khó mà biết. Cung nữ kia mới gặp đàn ông lần này là lần đầu dĩ nhiên không sao đoán được, nghe Bao Bất Đồng nói đâm ra bán tín bán nghi, thấy Tông Tán vương tử nghiến răng nghiến lợi như muốn ăn sống nuốt tươi, định xông lên đánh Bao Bất Đồng, trong lòng sợ hãi ấp úng:

- Ta nói … ta nói a, người nào sinh năm nào thì người đó nhớ rõ, nếu quá bốn mươi thì ở lại nơi đây, chưa đến bốn mươi thì mời vào nội thư phòng.

Tông Tán nói:

- Hay lắm, ta đến ba mươi cũng chưa tới, đương nhiên được vào nội thư phòng.

Vừa nói y vừa hùng dũng đi vào nội đường. Bao Bất Đồng cũng bắt chước giọng y nói:

- Hay lắm, ta đến tám mươi cũng chưa tới, đương nhiên được vào nội thư phòng. Tuy ta không dấu tuổi nhưng tính cách thì không thể không dấu, dấu nhiều hay dấu ít mà thôi.

Y lách người tiến vào, cung nữ kia định ngăn lại nhưng rụt rè không dám. Thế là đoàn người ùn ùn kéo vào, không nói gì đến bốn mươi mà năm mươi sáu mươi cũng không ít. Chỉ có độ mươi ông già trang nghiêm ổn trọng, hành xử đoan chính mới ở lại ngoài sảnh đường.

Mộc Uyển Thanh và Vương Ngữ Yên cũng không vào. Đoàn Dự vốn dĩ muốn ở lại bầu bạn với Vương Ngữ Yên nhưng cô nàng giục mãi, muốn chàng đi vào giúp đỡ Mộ Dung Phục nên dùng dằng mãi mới chịu vào, bước đi một bước lại quay đầu chẳng khác gì một chuyến đi xa vạn dặm, ba năm năm năm mới gặp lại nhau.

Đoàn người đi xuyên qua một đường hầm dài, trong bụng ai nấy thầm ngán ngẩm: “Tòa Thanh Phượng Các này từ bên ngoài nhìn vào, không thấy có vẻ gì hùng vĩ thế mà bên trong lại có những kiến trúc to lớn thế này”. Thông đạo đó dài đến mấy chục trượng, đi hết rồi tới hai cánh cửa đá thật lớn.

Cô cung nữ lấy ra một món đồ bằng kim loại nhỏ, gõ vào cửa đá leng keng mấy tiếng, thạch môn từ từ mở ra. Mọi người thấy cánh cửa là một phiến đá dày chừng một thước, kiên cố dị thường, ai nấy chột dạ nghĩ thầm: “Cả bọn vào trong này một khi cửa đóng lại có phải là bị họ quét một mẻ vét sạch hay sao? Biết đâu nước Tây Hạ chẳng lấy cớ chiêu thân cho công chúa để dụ anh hùng hảo hán trong thiên hạ vào vòng la võng?”. Thế nhưng thôi thì một liều ba bảy cũng liều, đã đến đây có ai lại lui ra để người ta bảo mình là nhát.

Tất cả vào trong rồi, thạch môn từ từ đóng lại, bên trong lại là một đường hầm khác, hai bên hang treo đèn dầu. Đi hết thông đạo, lại đến một cửa đá khác, qua khỏi cửa lại là một đường hầm, liên tiếp ba đại thạch môn, ba thông đạo. Đến lúc này thì những người can đảm nhất cũng rợn người. Đi qua một khúc quanh, bỗng nghe có tiếng róc rách, tới bên một khe nước sâu.

Ở trong cung cấm nay lại gặp một dòng suối như thế này, quả thực không ai ngờ nổi. Mọi người ngơ ngẩn nhìn nhau, có kẻ tính nóng đã toan nổi cọc. Cung nữ kia nói:

- Muốn vào nội thư phòng thì phải đi ngang qua U Lan Giản này, xin mời các vị.

Nói rồi hăng hái lội ngang dòng nước. Hai bên suối cắm bốn ngọn đuốc sáng choang, ai nấy nhìn rõ cô ta vừa bước tới đã vào ngay con suối, không khỏi kinh hãi kêu lên.

Chỉ thấy nàng cung nữ uyển chuyển bước đi như lướt trên mặt nước. Mọi người sau cơn ngạc nhiên, biết ngay dòng suối ắt có xích sắt hay thứ gì tương tự để làm cầu đi qua, chứ ai mà có thể lăng không đi qua bao giờ. Ai nấy cúi đầu nhìn kỹ quả nhiên có một sợi dây sắt bắc ngang mặt nước từ bờ bên này sang bờ suối bên kia, có điều sợi dây đó rất nhỏ, lại sơn đen, trong đêm tối, dưới ánh lửa chập chờn thật khó mà nhìn ra được.

Con suối này xem chừng rất sâu, nếu như trượt chân rơi xuống thì dù không mất mạng cũng thật nguy hiểm, thế nhưng những người tới Tây Hạ cầu thân hoặc tùy tùng đều là những người võ công cao siêu, lập tức có người thi triển khinh công, đạp lên sợi dây chạy qua bên kia.

Đoàn Dự võ công thì chẳng bằng ai nhưng môn Lăng Ba Vi Bộ luyện đã cực kỳ thành thục, Ba Thiên Thạch cầm tay chàng, nhẹ nhàng kéo một cái hai người đã chạy ngang qua. Mọi người qua xong rồi, cung nữ kia không biết ấn vào cơ quan nào trên vách đá, chỉ nghe soạt một tiếng, sợi cương ti đã rút vào trong đám cỏ, chẳng hiểu đi đâu. Ai nấy thấy vậy đều kinh hãi, nghĩ thầm cái suối này đã sâu lại rộng, khó lòng nhảy qua, không lẽ nước Tây Hạ quả có ý xấu chăng? Chứ lẽ nào nơi thâm khuê của công chúa lại có bố trí cơ quan? Ai nấy bắt đầu dè chừng nhưng không người nào dám mở miệng. Có người thầm hối hận: “Sao mình lại ngu đến thế, khi vào cung không mang theo binh khí, ám khí?”.

Cung nữ kia lại nói:

- Mời các vị đi vào đây.

Mọi người lại theo cô ta đi vào một khu rừng tùng, đến trước một sơn động, người cung nữ gõ mấy cái, cửa hang mở ra. Cô gái nói:

- Xin mời!

Nàng ta đi trước dẫn đường. Chu Đan Thần hỏi nhỏ Ba Thiên Thạch:

- Tính sao?

Ba Thiên Thạch cũng không biết có nên bảo Đoàn Dự ở ngoài hay cứ mạo hiểm, khổ nỗi nếu không vào trong sơn động thì không có hi vọng gì trúng tuyển. Hai người còn đang trù trừ, Đoàn Dự đã sóng vai cùng Tiêu Phong đi vào. Ba Chu hai người vội vàng cũng nắm tay nhau đi theo.

Vào sơn động lại đi xuyên qua một đường hầm nữa, bỗng thấy trước mắt sáng lòa, mọi người đã vào trong một đại sảnh. Sảnh đường đó so với chỗ uống trà hồi nãy phải to gấp ba, hiển nhiên là một hang động thiên nhiên chìm sâu trong núi, lại thêm nhân công tu bổ mà thành. Vách đá mài thật nhẵn nhụi, chỗ nào cũng treo đầy tự họa. Thường thường hang núi bao giờ cũng ẩm thấp rỉ nước nhưng cái động này lại khô ráo lạ thường, những tranh treo trên tường không có vẻ gì bị mốc. Một bên để một bàn viết lớn bằng gỗ tử đàn, trên để văn phòng tứ bảo, bi thiếp cổ ngoạn, lại thêm mấy chiếc giá sách và vài ba chiếc đôn đá, ghế đá.

Cung nữ kia nói:

- Đây chính là nội thư phòng của công chúa điện hạ, xin quí vị tùy ý quan thưởng thư họa.

Mọi người thấy sảnh đường này từ hình dáng đến cách bài trí cực kỳ khác thường, tất cả trống trơn, không có hơi hướm son phấn, vậy mà bảo là thư phòng của công chúa thì kể cũng lạ. Những người ở đây mười phần đến chín là võ biền thô lỗ, bảo đọc vài chữ đã khó thì còn biết gì đến thư họa? Thế nhưng trên tường treo đúng là tự họa thật thì còn đọc làm sao nổi.

Tiêu Phong, Hư Trúc võ công tuy cao nhưng nghệ thuật thì chẳng biết tí gì, hai người sóng đôi ngồi bệt xuống, lưu thần xem xét động tĩnh những người kia. Kiến thức kinh lịch Tiêu Phong gấp trăm lần Hư Trúc, tuy bề ngoài ông ra vẻ thản nhiên như không, làm như chẳng chú ý gì đến những bức thư họa treo trên vách, nhưng thực ra mắt không lúc nào rời nàng cung nữ áo xanh. Ông biết rằng nàng cung nữ này là đầu giây mối nhợ, nếu bên trong nước Tây Hạ có gian kế thì nhất định phải do người con gái mảnh mai ẻo lả này ra tay.

Tiêu Phong lúc này như một con báo rình mồi, tuy bề ngoài toàn vô động tĩnh nhưng thực ra đang vểnh tai giương mắt, toàn thần chăm chú, từng sợi gân, từng thớ thịt đều chứa đầy kình lực, nếu thấy có biến cố gì lập tức bay tới chế ngự nàng cung nữ, quyết không để cô ta giở trò.

Đoàn Dự, Chu Đan Thần, Mộ Dung Phục, Công Dã Can cả bọn kéo đến các bức tường xem tự họa. Đặng Bách Xuyên xem xét kỹ các trục treo tranh có lỗ nhỏ nào khả dĩ có thể phun hơi độc, môn Bi Tô Thanh Phong của Tây Hạ quả là lợi hại, nhân vật võ lâm Trung Nguyên đã từng nghe tiếng. Ba Thiên Thạch cũng giả vờ đi coi tranh, nhưng thực ra là tra xét những bức tường, góc nhà xem có cơ quan hay lối ra vào gì không?

Chỉ riêng có Bao Bất Đồng là ba hoa thiên địa, mở miệng chê bai các bức tự họa treo trên vách, bức thì bố cục không hay, bức thì bút lực chưa đủ. Nước Tây Hạ tuy ở biên thùy, lập quốc chưa lâu, trong cung tự họa tàng trữ so ra không thể bằng Đại Tống, Đại Liêu được, thế nhưng trong nhà hoàng đế, tinh phẩm cất giữ không phải là ít. Trong thư phòng của công chúa cũng có thư pháp đời Tấn, đời Bắc Ngụy, tranh vẽ đời Đường, đời Ngũ Đại nhưng đều bị Bao Bất Đồng chê không đáng một xu.

Thời đó phép viết chữ của Tô, Hoàng   lưu truyền khắp thiên hạ, trong hoàng cung nước Tây Hạ cũng có vô số tự tích của Tô Đông Pha, Hoàng Sơn Cốc   nhưng qua lời bình phẩm của Bao Bất Đồng thì không những Nhan Liễu Tô Hoàng  cũng chỉ tầm thường mà đến cả Chung Vương Trương Chử   cũng không đáng để mắt.

Nàng cung nữ thấy y đại ngôn phê bình loạn cả lên, không khỏi kinh ngạc vạn phần, vội tiến đến nhỏ nhẹ nói:

- Bao tiên sinh, những bức thiếp này quả thật không đúng phép ư? Vậy mà công chúa điện hạ bảo là đẹp tuyệt trần.

Bao Bất Đồng đáp:

- Công chúa điện hạ ở Tây Hạ, chưa từng xem thư pháp những đại tài tử, những danh sĩ chân chính của Trung Nguyên, sau này có dịp cũng nên qua lại để mở mang kiến thức. Tiểu muội tử, ngươi nên theo công chúa điện hạ du ngoạn Trung Nguyên một chuyến để khỏi mang tiếng là cô lậu quả văn.

Nàng cung nữ gật đầu khen phải, mỉm cười nói:

- Muốn được đi Trung Nguyên du ngoạn thật không phải dễ.

Bao Bất Đồng đáp:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Công chúa điện hạ lấy được anh hùng Trung Nguyên thì chẳng đi đến Trung Nguyên thì là gì?

Đoàn Dự đi xem những bức tự họa trên vách, đột nhiên thấy một bức vẽ một người đàn bà ăn mặc theo lối xưa đang múa kiếm, không khỏi kinh ngạc vô cùng, kêu lên một tiếng. Người mỹ nữ trong tranh dung mạo giống hệt Vương Ngữ Yên, chỉ y phục trang sức là khác, trông hao hao thần tiên tỉ tỉ trong sơn động núi Vô Lượng. Người trong tranh tay phải cầm kiếm, tay trái bắt kiếm quyết, múa kiếm bên cạnh một chiếc hồ, thần thái phiêu dật, xinh đẹp kiều mị không sao tả xiết.

Đoàn Dự trông thấy bức tranh hồn vía bay bổng, có lúc tưởng chừng như đã quay trở lại bên cạnh Vương Ngữ Yên, có lúc thì tưởng như trở về thạch động trên núi Vô Lượng, ngơ ngẩn hồi lâu đột nhiên kêu lên:

- Nhị ca, lại đây mà xem.

Hư Trúc đáp lời chạy tới, vừa thoạt nhìn, cũng hết sức kinh ngạc, nghĩ thầm sao ở đây lại có một bức tranh Vương cô nương, mặt mũi giống hệt hình vẽ sư phụ giao cho mình, chỉ có tư thức là khác thôi.

Đoàn Dự càng xem càng thấy lạ, bất giác đưa tay sờ vào bức tranh, cảm thấy tường đá phía sau dường như chỗ lồi chỗ lõm, cũng có hình vẽ trên đó. Chàng nhè nhẹ gạt bức tranh qua một bên, quả nhiên trên vách đá khắc rất nhiều đường chỉ, xem kỹ lại hóa ra có rất nhiều hình người, kẻ thì ngồi hành công, người nhảy lên, tư thức đủ mọi hình dạng. Những hình vẽ đó bao quanh một vòng tròn, bên cạnh đa số có chú thích số mục bằng thiên can địa chi.

Hư Trúc vừa trông thấy đã nhận ra ngay, những hình vẽ này cùng với hình vẽ khắc trên cung Linh Thứu đại đồng tiểu dị, chỉ xem vài bức, trong bụng nghĩ thầm: “Đây xem chừng như là võ công của Lý Thu Thủy sư thúc”. Bất chợt hiểu ra ngay: “Lý sư thúc là Hoàng thái phi nước Tây Hạ, trong cung khắc những đồ hình này cũng không có gì lạ”. Y nghĩ đến đồ hình còn đây mà người nay mất rồi, không khỏi chạnh lòng. Hư Trúc biết rằng đây là bí quyết võ công thượng thừa của phái Tiêu Dao, nếu như nội lực tu tập chưa đủ, xem vào sẽ mê man, nặng thì tẩu hỏa nhập ma, nhẹ cũng hôn mê bất tỉnh, hôm trước Mai Lan Cúc Trúc bốn nàng cũng vì coi các hình vẽ trên thạch bích mà bị thương.

Y sợ Đoàn Dự cũng bị tổn hại vội nói:

- Tam đệ, những hình vẽ này không nên coi.

Đoàn Dự hỏi lại:

- Sao thế?

Hư Trúc nói khẽ:

- Đây là võ công cực kỳ cao thâm, nếu như tập luyện không đúng phương pháp, chỉ thêm tổn hại chứ không ích lợi gì cả.

Đoàn Dự vốn dĩ không ham thích võ công, chỉ muốn xem bức tiếu tượng Vương Ngữ Yên chứ chẳng coi đồ phổ làm gì, bèn để bức tranh lại chỗ cũ, tiếp tục coi “Hồ Bạn Vũ Kiếm Đồ”. Thân hình dung mạo của Vương Ngữ Yên chàng nhớ kỹ từng li từng tí, thành thử khi nhìn lại người trong tranh thấy quả có đôi chỗ khác biệt. Người trong tranh hơi đẫy đà hơn một chút, đầu mày cuối mắt nhuốm vẻ tinh anh, không như Vương Ngữ Yên dịu dàng văn nhã, niên kỷ cũng phải hơn nàng ba bốn tuổi, so với pho tượng thần tiên tỉ tỉ trên núi Vô Lượng xem chừng giống hơn.

Bao Bất Đồng tuy mồm nói lăng nhăng tầm phào nhưng Hư Trúc và Đoàn Dự làm gì nói gì y không để sót một mảy, nghe nói hình vẽ trên vách là võ công rất cao thâm, lập tức khịt mũi một cái nói:

- Có quái gì đâu mà bảo là võ học cao thâm? Chú tiểu chỉ giỏi lòe người.

Y liền vạch đồ họa ra một bên, chăm chú xem những hình vẽ. Đoàn Dự nghiêng người hiếng mắt, kiễng chân lên tiếp tục coi mỹ nữ trong tranh. Nàng cung nữ liền nói:

- Bao tiên sinh, những hình vẽ này không được coi. Công chúa điện hạ có nói là, nếu như công phu chưa đủ, xem chỉ có hại mà thôi.

Bao Bất Đồng đáp:

- Công phu nếu đủ thì sao? Thế thì có ích chứ gì? Công phu của ta có thừa là khác.

Y sính cường hiếu thắng, vốn chẳng có bụng coi trộm võ học của người ta, ngờ đâu vừa xem mấy tư thức bên trong vòng tròn thấy quả thiên biến vạn hóa, không nhịn nổi giơ tay nắm lấy chân, bắt chước hình vẽ.

Chỉ trong giây lát đã có người khác nhìn thấy hình thù quái dị của y, lại phát giác trên tường có đồ hình. Rồi nghe có tiếng người nói:

- Ồ, ở đây cũng có đồ họa.

Phía bên kia cũng có tiếng nói:

- Bên này cũng có đồ hình.

Mọi người ai nấy vội gạt những tự họa qua một bên, xem những hình vẽ khắc trên vách đá, chỉ một chốc đã hoa chân múa tay làm theo.

Hư Trúc kinh hãi thầm vội chạy đến bên cạnh Tiêu Phong nói:

- Đại ca, những hình vẽ này không nên coi, chỉ coi thêm chút nữa e rằng mọi người sẽ bị trọng thương, nếu như có người phát điên thì tình hình sẽ thành đại loạn.

Tiêu Phong nghe vậy hoảng hốt, quát lên:

- Tất cả không được coi hình vẽ trên tường, chúng ta đang ở nơi hiểm địa, mau mau họp nhau lại bàn tính xem sao.

Ông vừa nói xong lập tức có mấy người chạy đến gần nhưng những hình vẽ trên vách quá ư hấp dẫn, vừa suy nghĩ đã cảm thấy dường như hình vẽ đang xem chính là đáp án của những nạn đề võ học mình thường khổ tâm suy nghĩ, thế nhưng tư thức đó ra sao thì chỉ mơ mơ hồ hồ, không rõ ràng, vội vàng ngưng thần suy nghĩ. Tiêu Phong thấy mọi người đờ đẫn như bị ma nhập, trong bụng không khỏi kinh hoàng.

Bỗng có người rú lên, quay quay mấy vòng, lảo đảo ngã lăn ra. Lại có người miệng kêu hà hà, xông vào cào cấu vách đá, tưởng như muốn móc những hình vẽ đó xuống. Tiêu Phong suy nghĩ một chút đã tìm ra một kế, đưa tay ra chộp một chiếc ghế bẻ cắc một cái đã gẫy chỗ dựa lưng, để vào tay vò vò mấy cái nghiền thành mấy chục mảnh, vung tay ném ra. Chỉ nghe vèo vèo liên tiếp, mỗi tiếng lại có một chiếc đèn dầu hoặc ngọn nến tắt phụp, ném hết mấy chục miếng rồi bao nhiêu đèn đóm tắt ngóm, thư phòng tối đen như mực.

Trong đêm đen chỉ nghe tiếng người thở phì phò, có người nói nhỏ:

- Nguy hiểm thực! Nguy hiểm thực!

Có người thì kêu:

- Mau đốt đèn lên! Ta chưa đọc kỹ.

Tiêu Phong sang sảng nói:

- Xin các vị ở đâu ngồi đó, không được tùy ý chạy đi chạy lại để khỏi chạm vào cơ quan trong nhà. Đồ hình trên vách mê hoặc tâm thần, không được đưa tay lên mò kẻo mắc vào vòng tai họa.

Trước khi ông nói vẫn có người đang rờ rẫm những đường vẽ trên thạch bích, nghe nói thế vội vàng thu nhiếp cố gượng lại. Tiêu Phong nói nhỏ:

- Tha lỗi cho đã đắc tội! Mau mau mở thạch môn thả bọn ta ra.

Thì ra trước khi ông ném tắt đèn đuốc đã nhanh như cắt, xông tới nắêm ngay cổ tay người cung nữ. Cô gái kinh hãi giơ tay lên định đánh, Tiêu Phong thuận tay bắt luôn. Người cung nữ vừa sợ vừa thẹn, không dám cử động nữa, bây giờ nghe Tiêu Phong nói thế liền đáp:

- Ông … ông bỏ tay tôi ra đã.

Tiêu Phong buông nàng ra nhưng trong đêm tối vẫn có thể thính thanh biện hình, không sợ cô ta giở trò gì. Người cung nữ nói:

- Tiện thiếp đã bảo Bao tiên sinh không thể coi đồ hình trên vách, nếu như công phu chưa đủ, có xem cũng chỉ tổn hại mà không ích lợi gì cả. Vậy mà ông ta nhất định phải xem.

Bao Bất Đồng ngồi dưới đất, thấy đầu nhức như búa bổ, bụng dạ trộn trạo, tức ngực tưởng chừng muốn ói, cố gắng trấn tĩnh nói:

- Ngươi bảo ta xem thì ta không xem, còn như bảo ta đừng xem, thì ta nhất định xem.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người cung nữ này quả có khuyên mọi người đừng nên xem những đồ hình trên vách đá, xem ra không phải có ý gia hại. Thế nhưng công chúa Tây Hạ mời bọn mình tới đây là có dụng ý gì?”.

Ngay lúc đó đột nhiên mọi người ngửi thấy một mùi thơm dìu dịu, thật sảng khoái. Tiêu Phong kinh hãi, vội đưa tay bịt mũi, nghĩ đến năm xưa bang chúng Cái Bang bị mê man vì trúng phải Bi Tô Thanh Phong của Nhất Phẩm Đường Tây Hạ, vận thử nội tức may không thấy có gì đáng ngại.

Lại nghe tiếng một cung nữ khác dìu dặt uyển chuyển xướng:

- Công chúa điện hạ giá lâm.

Mọi người nghe thấy công chúa đến, ai nấy vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, có điều trong phòng tối đen nên không ai trông thấy mặt mũi công chúa thế nào. Lại nghe tiếng kiều mị của thiếu nữ kia nói tiếp:

- Công chúa điện hạ có dụ: Đồ hình võ học khắc trên thạch bích thư phòng, nhân sĩ phái khác không nên coi thành thử phải dùng tự họa treo lên che khuất, không ngờ lại có người khám phá ra được. Công chúa điện hạ truyền rằng: Tất cả các vị không được đốt đèn lên, cũng không được đánh lửa, nếu không sẽ gặp nguy hiểm. Công chúa điện hạ phải nói trước như thế, nếu trong đêm tối có gì thất kính, xin các vị tha lỗi cho.

Chỉ thấy tiếng kẹt kẹt, cửa đá mở ra. Thiếu nữ kia lại tiếp:

- Nếu như các vị không muốn lưu lại nơi đây thì xin trở ra, quay về Ngưng Hương Điện dùng trà nghỉ ngơi. Trên đường sẽ có người đưa đón, không sợ lạc đường.

Mọi người nghe thấy công chúa đã đến thì làm sao còn trở lui nổi? Lại nghe cung nữ đó giọng điệu bình hòa xem ra không có gì ác ý, cửa phòng cũng mở toang ai muốn ra vào tùy tiện nên bao nhiêu sợ hãi đều giảm hẳn không một ai bỏ đi.

Một hồi sau, cung nữ kia lại tiếp:

- Các vị từ xa đến đây, công chúa điện hạ hết sức cảm kích thịnh tình. Tệ quốc chiêu đãi không chu đáo, xin rộng lượng cho. Công chúa xin kính cẩn đem những thư pháp hội họa bình thời rất trân quí tặng cho mỗi vị một bức để xin tạ tội. Những bức vẽ đây đều là chân tích của danh gia, xin các vị thu nạp. Trước khi các vị đi cứ việc tháo trên vách xuống.

Những giang hồ hào khách nghe nói công chúa tặng lễ vật, tưởng gì hóa ra tự họa, ai nấy không khỏi thất vọng. Cũng có người sành đời, biết rằng những tự họa này đem về Trung Nguyên, đều rất có giá, còn hơn hoàng kim châu báu, trong bụng mừng thầm. Chỉ riêng Đoàn Dự là sướng nhất, nhất định lấy bức Hồ Bạn Vũ Kiếm Đồ để mai này cùng Vương Ngữ Yên hai người sánh vai thưởng ngoạn.

Tông Tán vương tử nghe qua nghe lại, toàn là cung nữ thay mặt công chúa nói mà thôi, đâm ra nóng ruột, lớn tiếng nói:

- Công chúa điện hạ, nếu như trong đây không tiện đốt đèn, vậy mình đến chỗ khác kiến diện có được chăng? Ở đây tối mò mò, nàng chẳng thấy ta, mà ta cũng chẳng thấy nàng.

Cung nữ kia đáp:

- Các vị muốn thấy công chúa điện hạ cũng không có gì khó.

Trong bóng đêm, hàng trăm miệng người cùng cất tiếng:

- Chúng tôi muốn thấy mặt công chúa! Chúng tôi muốn thấy mặt công chúa!

Lại cũng có người la lối om xòm:

- Mau đốt đèn lên, chúng tôi nhất định không xem đồ hình trên vách đá đâu.

- Chỉ cần đốt vài ngọn đèn chung quanh công chúa cũng đủ rồi, chúng tôi chỉ ngắm công chúa, không xem đồ hình.

- Đúng đó! Đúng đó! Xin công chúa điện hạ hiện thân.

Lao xao một lúc lâu, tiếng ồn ào mới dần dần lắng xuống. Cung nữ kia lại chậm rãi nói:

- Công chúa điện hạ mới các vị đến Tây Hạ, vốn dĩ muốn được hội kiến giai khách. Công chúa có ba câu hỏi, kính mong các vị trả lời. Nếu ai đáp đúng ý công chúa, sẽ xin mời gặp mặt.

Mọi người nghe thế rất lấy làm hào hứng, có kẻ nói:

- Thì ra công chúa ra đề khảo thí.

Có kẻ nói:

- Mỗ chỉ biết múa thương sử đao, bảo mỗ trả lời đề mục thơ văn thì khó cho mỗ quá! Có hỏi thì hỏi võ công chiêu số đi!

Cung nữ kia nói:

- Đề mục công chúa định hỏi đã nói cho tì tử biết cả rồi. Không biết vị tiên sinh nào muốn lên trả lời trước?

Mọi người chen nhau, ai nấy đều nói:

- Để nhường ta! Ta đáp trước! Ta đáp trước!

Cung nữ kia cười khúc khích nói:

- Các vị không cần phải tranh nhau. Người trả lời trước có khi lại đâm ra thiệt thòi.

Mọi người lúc ấy nghĩ lại xem chừng có lý, trả lời sau được nghe câu trả lời của những người khác, thu thập kinh nghiệm ứng đối mà thêm bớt. Đến lúc đó lại chẳng một ai chen lên nữa. Đột nhiên có một người kên tiếng:

- Nếu tất cả mọi người tranh nhau lên thì mỗ ở lại sau, còn như bây giờ ai cũng sợ lên trước bị hố, thì mỗ lại thân tiên sĩ tốt xông lên trước. Tại hạ là Bao Bất Đồng, có vợ có con rồi, chỉ mong được thấy phương dung công chúa chứ không có ý gì khác.

Cung nữ kia nói:

- Bao tiên sinh quả là sảng trực. Công chúa điện hạ có ba vấn đề muốn thỉnh giáo. Câu hỏi thứ nhất: Trong đời Bao tiên sinh thì ở nơi đâu cảm thấy tiêu dao khoái lạc nhất?

Bao Bất Đồng suy nghĩ một chập rồi nói:

- Ở trong một cửa hàng đồ sứ. Khi còn nhỏ ta học việc trong một nhà làm đồ gốm, bị người chủ tiệm hành hạ quá sức, ngày nào cũng đánh cũng chửi. Một bữa kia ta nổi sùng lên, đem bao nhiêu đồ sành đồ sứ, bát đĩa bình trà, bồn hoa, nhân tượng đập tan nát hết. Trong đời ta có lần đó là thống khoái nhất. Cung nữ cô nương, ta trả lời thế có đúng không nào?

Cung nữ kia đáp:

- Trúng hay không, tì tử không biết mà phải do công chúa điện hạ quyết định. Câu hỏi thứ hai: Người Bao tiên sinh thương yêu nhất đời, kẻ đó tên gì?

Bao Bất Đồng không suy nghĩ đáp ngay:

- Tên là Bao Bất Tịnh.

Cung nữ kia lại tiếp:

- Câu hỏi thứ ba: Người Bao tiên sinh yêu thương nhất đó tướng mạo ra sao?

Bao Bất Đồng đáp:

- Người đó vừa tròn sáu tuổi, mắt thì bên to bên bé, tai đón gió, mũi huyếch lên trời, Bao mỗ bảo gì thì nó nhất định không nghe, bảo nó khóc thì nó cười,bảo nó cười thì nó khóc, mỗi lần khóc hai giờ liền chưa nín, chính là đứa con gái cưng của mỗ tên là Bao Bất Tịnh.

Cung nữ kia cười khúc khích, các hào khách cũng cười rộ lên. Cung nữ kia nói:

- Xin mời Bao tiên sinh đứng ra một nơi nghỉ ngơi, mời vị thứ hai.

Đoàn Dự nóng ruột muốn sớm gặp lại Vương Ngữ Yên, gặp công chúa hay không chẳng có gì quan trọng, lập tức tiến lên, trong bóng đêm khom người vái một cái nói:

- Tại hạ là Đoàn Dự nước Đại Lý, xin thành tâm hỏi thăm công chúa điện hạ. Tại hạ náu mình ở chốn nam cương, hôm nay tới thăm thượng quốc, được hậu đãi như thế này, quả là cảm kích thịnh tình.

Cung nữ kia nói:

- Hóa ra đây là thế tử Trấn Nam Vương nước Đại Lý, vương tử không phải quá khiêm. Vương tử từ xa khó nhọc đến đây, tệ quốc tiếp đón quá ư giản mạn, nơi chật hẹp này không đủ để đãi quí khách, xin vương tử rộng lòng cho.

Đoàn Dự đáp:

- Tỉ tỉ không phải khách sáo quá như thế, công chúa nếu hôm nay không thư thả thì để hôm khác ban ơn cho gặp cũng chẳng hề chi.

Cung nữ kia nói:

- Vương tử đã lên đến đây, xin trả lời ba câu hỏi. Câu thứ nhất: Trong đời vương tử thì ở nơi đâu cảm thấy tiêu dao khoái lạc nhất?

Đoàn Dự buột miệng đáp:

- Nơi vũng bùn nát tại một cái giếng khô.

Mọi người nghe thấy thế cười ầm cả lên, ngoài một mình Mộ Dung Phục ra, không ai hiểu tại sao ở nơi vũng bùn nát trong một cái giếng khô mà lại tiêu dao khoái lạc được? Có kẻ hạ giọng phê bình:

- Không lẽ y là một con rùa đen, nên ở trong bùn mới sung sướng chăng?

Cung nữ kia che miệng cười khúc khích, hỏi tiếp:

- Người vương tử thương yêu nhất đời, kẻ đó tên gì?

Đoàn Dự đang định trả lời, đột nhiên thấy cánh tay áo bên trái, chéo áo bên phải đồng thời có ai giật lại. Ba Thiên Thạch ghé tai chàng thì thầm:

- Trả lời Trấn Nam Vương.

Chu Đan Thần ở bên kia cũng kề tai nói nhỏ:

- Trả lời Trấn Nam Vương phi.

Hai người nghe Đoàn Dự trả lời câu đầu cực kỳ thất lễ, chỉ sợ câu thứ hai nói ra cũng làm trò cười cho thiên hạ. Hơn nữa mình đang tới đây cầu thân với công chúa, nếu như chàng lại trả lời người trên đời này yêu thương nhất là Vương Ngữ Yên hay Mộc Uyển Thanh, hoặc một cô gái nào khác thì đời nào công chúa lại chịu lấy? Người bảo chàng nói yêu cha, trung quân hiếu phụ ấy là suy nghĩ của tam công trong triều, người kia bảo chàng nói yêu mẹ, kính mến từ mẫu ấy là suy nghĩ của văn học chi sĩ.

Đoàn Dự nghe nàng cung nữ hỏi ai là người mình yêu thương nhất, đang định buột miệng nói là Vương Ngữ Yên, nhưng Ba Chu hai người đã nhắc thế rồi, Đoàn Dự liền nghĩ mình là phận vương tử Trấn Nam Vương nước Đại Lý, sang đến Tây Hạ nhất cử nhất động đều có liên quan đến thanh danh bản quốc, mình bẽ mặt cũng chẳng hề chi nhưng làm mất thể diện nước Đại Lý thì không được, bèn đáp:

- Người ta yêu thương nhất dĩ nhiên là gia gia, má má rồi.

Chàng vừa nhắc đến cha mẹ trong lòng tự nhiên dâng lên tâm tình kính mến hai đấng sinh thành, thấy lòng hiếu thảo và tình yêu trai gái thật khác nhau xa, không thể nói bên nào nông bên nào sâu được, có nói mình yêu thương phụ mẫu nhất trên đời cũng không phải là nói ngoa.

Người cung nữ hỏi tiếp:

- Thế thì lệnh tôn lệnh đường tướng mạo ra sao? Có giống vương tử không?

Đoàn Dự đáp:

- Cha ta mặt vuông, mi rậm mắt to, hình mạo cực kỳ uy võ, thế nhưng thực ra tính tình lại rất hiền hòa …

Chàng nói tới đây chợt hơi xao xuyến: “Thì ra mặt ta giống mẹ chứ không giống cha chút nào. Chi tiết đó đến lúc này ta mới nghĩ tới”. Cung nữ kia nghe chàng nói chỉ một nửa, còn nửa sau ngập ngừng không trả lời nghĩ thầm mẹ chàng là một vương phi tôn quí, chàng không tiện trình bày tướng mạo mẹ mình trước đám đông, bèn tiếp:

- Đa tạ vương tử, mời vương tử ra bên cạnh nghỉ ngơi.

Tông Tán vương tử nghe thấy cung nữ đó nói chuyện với Đoàn Dự hết sức khách sáo, ra chiều thân thiết, cảm thấy ghen tị nghĩ thầm: “Ngươi là vương tử, ta cũng là vương tử. Nước Thổ Phồn so với Đại Lý còn to lớn cường thịnh hơn nhiều. Không lẽ để tên mặt trắng kia chiếm lợi thế hay sao?”. Y không đợi thêm nữa, hung hăng chen lên trước nói:

- Tông Tán vương tử nước Thổ Phồn xin được hội diện với công chúa.

Cung nữ kia đáp:

- Vương tử quang lâm, tất cả người trên kẻ dưới trong tệ quốc ai nấy đều vinh hạnh. Công chúa tệ quốc có ba câu hỏi xin được chất vấn.

Tông Tán tính nết cực kỳ bộc tuệch, cười hềnh hệch nói:

- Ba câu hỏi của công chúa ta nghe cả rồi, ngươi không cần phải hỏi lại nữa, ta cứ việc trả lời luôn cho tiện. Trong đời ta nơi khoái lạc tiêu dao hơn cả là sau này được làm phò mã, động phòng cùng công chúa, kết nghĩa phu thê. Người ta bình sinh yêu quí nhất, ắt là Ngân Xuyên công chúa. Nàng đương nhiên họ Lý, khuê danh lúc này ta chưa biết, mai sau khi thành vợ chồng lúc đó mới cho ta hay. Còn như tướng mạo công chúa ra sao, hẳn là đẹp như tiên, trên trời đã hiếm mà dưới đất thì chẳng ai bằng. Ha ha, ta trả lời thế có đúng không nào?

Trong đám người có đến quá nửa cũng định bụng trả lời ba câu hỏi tương tự như Tông Tán, nghe thấy y nói rồi, không khỏi hối tiếc nghĩ thầm: “Biết thế mình tranh lên trả lời trước, bây giờ nếu cũng nói thế chẳng ra học mót của y hay sao?”.

Tiêu Phong đứng nghe cung nữ kia hỏi ba câu, người nào cũng cố hết sức nịnh nọt, lấy lòng công chúa, kẻ thì khoe tài khoe mẽ càng nghe càng chán ngắt nên không muốn theo cho đến cùng định lẻn ra ngoài trước.

Đang lúc khó chịu bỗng nghe thấy tiếng Mộ Dung Phục:

- Tại Cô Tô Yến Tử Ổ Mộ Dung Phục, đã ngưỡng mộ phương danh công chúa từ lâu, nay xin bái hội.

Cung nữ kia nói:

- Thì ra đây là Mộ Dung công tử với môn “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân”, tì tử tuy ở thâm cung nhưng cũng nghe đến đại danh công tử.

Mộ Dung Phục trong bụng mừng thầm: “Đến một cung nữ cũng còn nghe đến tên ta, đương nhiên công chúa phải biết, không chừng đã bàn tán về mình rồi là khác”. Nghĩ thế y bèn trả lời:

- Không dám, tiện danh không đáng để vào tai.

Cung nữ kia lại tiếp:

- Nước Tây Hạ chúng tôi tuy ở nơi biên thùy nhưng cũng đã từng nhiều lần nghe đến anh danh “Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung”. Nghe nói Bắc Kiều Phong Kiều đại hiệp đã đổi sang họ Tiêu, làm quan lớn ở Đại Liêu, không hiểu chuyện đó có thực hay không?

Mộ Dung Phục đáp:

- Chính thị.

Y vốn đã thấy Tiêu Phong cùng đến Thanh Phượng Các nhưng không muốn nói ra. Cung nữ kia hỏi tiếp:

- Công tử và Tiêu đại hiệp cùng đứng ngang tên, ắt hẳn hai người thân nhau lắm. Không biết vị Tiêu đại hiệp đó nhân phẩm thế nào? Võ công so với công tử ai hơn ai kém?

Mộ Dung Phục nghe hỏi thế mặt đỏ tía tai. Y và Tiêu Phong đấu với nhau trên chùa Thiếu Lâm, bị Tiêu Phong xách như con gà, giáng xuống một cái thật mạnh, võ công thua ông xa lắc, chuyện đó bao nhiêu người cùng trông thấy, làm sao dám phủ nhận để cho hào kiệt thiên hạ chê cười. Thế nhưng y lại không muốn thú thực không bằng Tiêu Phong nên sẵng giọng hỏi lại:

- Cô nương hỏi như thế có nằm trong ba câu hỏi của công chúa hay chăng?

Cung nữ kia vội đáp:

- Không phải. Công tử đừng trách, tì tử mấy năm nay nghe đến anh danh của Tiêu đại hiệp, ngưỡng mộ đã lâu nên tò mò hỏi thêm đấy thôi.

Mộ Dung Phục đáp:

- Tiêu quân hiện giờ cũng ở bên cạnh cô nương, cô nương nếu có hứng thì xin hỏi chính ông ta là hơn.

Lời đó nói ra, sảnh đường liền nhốn nháo. Uy danh Tiêu Phong vang lừng, võ lâm nhân sĩ ai ai cũng chấn động. Cung nữ đó nghe thế cũng nao nao, run run nói:

- Thì ra Tiêu đại hiệp cũng không hiềm ngôi vị cao quí của mình đến viếng tệ bang, chúng tôi không biết trước nên quá ư giản mạn, Tiêu đại hiêp khoan hồng đại lượng chắc cũng bỏ qua cho.

Tiêu Phong ậm ừ không trả lời. Mộ Dung Phục nghe giọng nói của cung nữ này xem ra đối với Tiêu Phong có vẻ coi trọng hơn mình, không khỏi hoang mang: “Cái gã Tiêu Phong kia cũng chưa vợ, thân ở ngôi Nam Viện Đại Vương nước Đại Liêu, chưởng ác binh quyền, một tên bạch đinh như mình làm sao sánh kịp? Võ công y lại cao hơn ta nhiều, mình không thể nào tranh được với y, biết … biết làm sao đây?”.

Cung nữ kia nói:

- Để tì tử hỏi Mộ Dung công tử trước, xin Tiêu đại hiệp chờ một chút, quả là đắc tội, đắc tội.

Nàng ta luôn mồm xin lỗi rồi mới quay sang hỏi Mộ Dung Phục:

- Thỉnh vấn công tử, trong đời công tử thì ở nơi nào tiêu dao khoái lạc hơn cả?

Câu này Mộ Dung Phục đã nghe hỏi bốn năm chục người thế mà khi đến lượt mình cũng ú ớ không biết phải trả lời ra sao. Y võ công cao cường, danh mãn thiên hạ, trên giang hồ không ai là không kính sợ, hẳn là công thành danh toại, thế nhưng trong thâm tâm thực ra chưa bao giờ cảm thấy vui vẻ thực sự. Y ngẩn ngơ một lúc mới đáp:

- Nếu bảo ta sung sướng thực sự thì chắc là trong tương lai chứ không phải ở quá khứ.

Cung nữ kia nghĩ bụng Mộ Dung Phục cũng trả lời tương tự như Tông Tán vương tử và những người khác, để đến khi thành phò mã rồi, cùng công chúa thành thân, lúc đó mới vui sướng thực sự, có ngờ đâu Mộ Dung Phục nói về vui sướng chân chính ấy là nói về sau này thân đăng đại bảo, trở thành hoàng đế trung hưng nước Đại Yên. Nàng ta mỉm cười, hỏi tiếp:

- Người công tử yêu quí nhất đời tên gọi là gì?

Mộ Dung Phục sững sờ, trầm ngâm giây lát, thở dài một tiếng đáp:

- Ta không có ai gọi là yêu quí nhất cả.

Cung nữ kia nói:

- Nếu như thế câu hỏi thứ ba không cần đề cập đến nữa.

Mộ Dung Phục đáp:

- Ta mong được sau khi gặp công chúa rồi sẽ có thể trả lời cho thư thư câu hỏi thứ hai và thứ ba.

Cung nữ kia nói:

- Mời công tử tránh qua một bên nghỉ ngơi. Tiêu đại hiệp giá lâm tệ quốc chỉ đành có gì tiếp nấy. Tì tử có ba vấn đề muốn đem mạo phạm hổ uy, mong được rộng lượng hải hà, tì tử xin tạ lỗi trước.

Cô ta nói luôn mấy lần nhưng không nghe tiếng trả lời. Hư Trúc nói:

- Đại ca chúng tôi đã đi khỏi rồi, xin cô nương miễn trách.

Cung nữ kia kinh ngạc hỏi lại:

- Tiêu đại hiệp đi khỏi rồi ư?

Hư Trúc đáp:

- Đúng thế!

Tiêu Phong thấy công chúa Tây Hạ sai cung nữ hỏi anh hùng thiên hạ ba câu, liệu tưởng chắc bên trong có thâm ý nhưng quả không phải để gia hại mọi người, nghĩ đến lượt mình thì phải đối đáp ra sao đây? Nhớ tới A Châu lòng đau như cắt, lại không muốn thổ lộ tâm tình trước mặt người khác, ông bèn quay người lẻn ra khỏi thạch thất. Khi đó cửa động đã mở, ông rón rén đi ra thật nhẹ nhàng, không một ai hay biết.

Cung nữ kia hỏi thêm:

- Không biết tại sao Tiêu đại hiệp lạ bỏ đi? Hay là trách chúng tôi làm thế này vô lễ chăng?

Hư Trúc đáp:

- Đại ca chúng tôi chẳng phải là người tính khí nhỏ nhen, không vì vậy mà phiền lòng. Ồ, chắc hẳn con sâu trong bụng phát tác nên đi ra ngoài kiếm rượu uống đấy thôi.

Cung nữ kia bật cười:

- Chắc hẳn thế đấy. Từng nghe Tiêu đại hiệp là người hào ẩm, tửu lượng trên đời ít có ai hơn, chúng tôi không chuẩn bị nên không giữ được khách quí, thực quá giản mạn. Tiên sinh khi nào gặp lại Tiêu đại hiệp cho chúng tôi chuyển lời công chúa điện hạ xin tạ lỗi.

Người cung nữ đó nói năng đâu ra đấy, ngôn ngữ quả là đắc thể, so với cô gái thẹn thùng đón khách ở bên ngoài thì lưu loát hơn nhiều. Hư Trúc đáp:

- Khi chúng tôi gặp lại đại ca thể nào cũng chuyển lời như thế.

Cung nữ kia hỏi tiếp:

- Tiên sinh tôn tính đại danh là gì?

Hư Trúc ấp úng:

- Tại hạ … tại hạ … đạo hiệu Hư Trúc Tử. Ta là … là … người xuất … không phải đến đây cầu thân, chỉ đi theo tam đệ mà thôi.

Cung nữ kia hỏi thêm:

- Trong đời tiên sinh thì ở nơi nào khoái lạc nhất?

Hư Trúc thở dài đáp:

- Ở trong một hầm nước đá tối om om.

Bông nghe có tiếng đàn bà kinh ngạc khẽ kêu lên rồi có tiếng loảng xoảng, dường như một chiếc chén sứ rơi xuống đất vỡ tan tành. Cung nữ kia hỏi tiếp:

- Người tiên sinh yêu nhất trên đời tên gọi là gì?

Hư Trúc đáp:

- Ôi! Ta … ta … cũng chẳng biết tên cô nương đó là gì.

Mọi người cười lên ha hả, ai nấy nghĩ rằng người này quả đúng là một gã ngốc, đối phương tên gì cũng không biết mà lại thương yêu mê mẩn. Cung nữ kia tiếp:

- Không biết tên cô nương kia cũng không phải chuyện lạ. Ngày xưa hiếu tử Đổng Vĩnh gặp tiên nữ hạ phàm, cũng đâu có biết tên cô ta là gì mà vẫn đem lòng yêu thương. Hư Trúc Tử tiên sinh, cô nương đó dung mạo đẹp đẽ lắm chăng?

Hư Trúc đáp:

- Mặt mũi nàng ra sao, ta cũng chưa từng trông thấy.

Nghe nói thế cả thạch thất tiếng cười phá lên như sấm động, quả là trên đời chưa từng nghe tới, có người lại cho rằng Hư Trúc cố tình nói bông lơn. Trong khi mọi người còn đang huyên náo bỗng có tiếng đàn bà hỏi thật khẽ:

- Chàng … chàng có phải Mộng Lang đấy không?

Hư Trúc vô cùng kinh ngạc, lắp bắp hỏi:

- Nàng … nàng … có phải Mộng Cô chăng? Ta nhớ nàng biết chừng nào.

Y không tự chủ nổi chạy vội lên mấy bước, mũi ngửi thấy một mùi thơm ngát, đồng thời một bàn tay mềm mại thò ra nắm lấy tay y, một giọng nói quen thuộc rót vào tai:

- Mộng Lang, thiếp không kiếm được chàng đành phải xin phụ hoàng hạ bảng văn mới mời được chàng tới đây.

Hư Trúc lại càng kinh ngạc hơn nữa run run hỏi:

- Nàng … nàng … chính là …

Thiếu nữ kia đáp:

- Thôi mình đi vào đây nói chuyện. Mộng Lang, thiếp ngày ngày đêm đêm, chỉ mong sao được có phút này …

Nàng vừa nhỏ nhẹ nói, vừa cầm tay Hư Trúc lặng lẽ kéo qua khỏi màn trướng, bước trên tấm thảm dày đi vào nội đường. Trong thạch thất mọi người vẫn còn ồn ào cười nói như họp chợ.

Người cung nữ vẫn tiếp tục hỏi ba câu hỏi từng người một cho đến khi hết hẳn mới nói:

- Xin mời các vị ra ngoài Ngưng Hương Điện dùng trà nghỉ ngơi. Những đồ họa trên vách dùng để kính tặng, xin các vị thu nhận. Công chúa điện hạ nếu muốn gặp vị nào sẽ cho người ra mời.

Lập tức có rất nhiều người nhao nhao lên:

- Chúng tôi muốn gặp công chúa.

- Bọn ta muốn gặp ngay bây giờ.

- Cứ bảo bọn ta đi tới đi lui, bộ tưởng định dỡn mặt hay sao?

Người cung nữ đáp:

- Các vị nên ra ngoài ngồi nghỉ là hơn, đừng để công chúa điện hạ phải phiền lòng.

Câu sau cùng quả là hiệu nghiệm, mọi người tới Linh Châu ai ai cũng mong được làm phò mã, nếu như không nghe lời công chúa ắt sẽ chẳng được gọi vào gặp mặt, đã không gặp mặt thì còn mong gì phò mã hay không phò mã? Ngay đến cả phò ngưu, phò dương cũng chẳng tới lượt. Mọi người nghe vậy liền lắng xuống, lũ lượt theo nhau đi ra khỏi thạch thất, bên ngoài đốt đuốc sáng trưng, ai nấy theo đường cũ quay về Ngưng Hương Điện uống trà.

Đoàn Dự gặp lại Vương Ngữ Yên, kể lại cho nàng nghe công chúa hỏi ba câu. Vương Ngữ Yên nghe chàng nói là bình sinh trong đời nơi giếng khô, chỗ bùn nhơ là khoái lạc nhất, không khỏi bật cười khúc khích, hai má hây hây, khẽ nói:

- Thiếp cũng nghĩ như chàng.

Mọi người uống trà, bàn tán xôn xao, nhắc lại bao nhiêu câu trả lời rồi tự hỏi ai là người được lọt vào mắt xanh của công chúa. Qua một hồi sau, nội giám bưng những quyển trục thư họa ra, mời mỗi người lấy một bức. Những người ngồi đây ai nấy bụng dạ bồn chồn, hoạn đắc hoạn thất, khắc khoải không biết công chúa có gọi đến mình không, còn bụng dạ nào mà nghĩ đến thư họa. Đoàn Dự dễ dàng kiếm ngay được bức Hồ Bạn Vũ Kiếm Hồ, không một ai đến tranh giành.

Chàng và Vương Ngữ Yên sóng vai quan thưởng, Vương Ngữ Yên thở dài:

- Người trong tranh trông thật giống mẫu thân thiếp.

Nàng nghĩ đến đã xa mẹ lâu ngày trong lòng nhớ nhung khôn xiết. Đoàn Dự nghĩ đến Hư Trúc cũng có một bức tranh tương tự, định bảo y đem ra so sánh nhưng đưa mắt nhìn quanh, không thấy hình bóng Hư Trúc đâu cả. Chàng gọi:

- Nhị ca, nhị ca!

Không nghe thấy tiếng trả lời. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Y và đại ca cùng đi đâu mất rồi, không lẽ gặp chuyện gì hung hiểm chăng?”. Còn đang lo lắng đột nhiên có một cung nữ đi đến bên cạnh thưa:

- Hư Trúc tiên sinh có lá thư gửi Đoàn vương tử.

Nói xong đưa trình ra một phong bì kim nhũ. Đoàn Dự cầm lấy, ngửi thấy một mùi thơm ngát, mở ra coi thấy trên thư viết:

Ta khỏe lắm, cực kỳ khỏe, sung sướng không sao kể xiết. Để ngươi phải tay không trở về, quả thật có lỗi, lại thất tín với Đoàn lão bá nhưng đành vậy. Thư gửi tam đệ.

Bên dưới viết hai chữ “Nhị ca”. Đoàn Dự vẫn biết ông anh “chú tiểu” này chữ nghĩa chẳng có bao nhiêu, văn lý không được trơn tru, lá thư viết chẳng đầu đuôi, không biết định nói gì, cầm trong tay mà ngơ ngẩn.

Tông Tán vương tử từ xa nhìn thấy người cung nữ giao thư cho Đoàn Dự, hẳn là công chúa muốn gặp anh chàng này, nổi cơn ghen tức, nghĩ thầm: “Giỏi nhỉ, quả nhiên tên mặt trắng này phỗng tay trên, ta đâu có để cho y ngon ăn như thế”. Y liền quát lên:

- Không thể tha cho ngươi được.

Y huỳnh huỵch chạy tới, tay trái giựt phắt lá thư, tay phải thoi ra một quyền vào ngực Đoàn Dự. Đoàn Dự còn đang suy nghĩ xem thư Hư Trúc viết thế là có ý gì, quyền của Tông Tán vương tử đánh tới, không nghĩ đến tránh né, mà dẫu có muốn tránh thì võ công như chàng cũng không sao tránh được cú đấm nhanh như điện của Tông Tán.

Bình một tiếng trúng ngay giữa ngực, nội lực căng tràn trong người Đoàn Dự lập tức phát ra một sức bật dội ngược lại, nghe vù một tiếng, rồi nào là lách cách, loảng xoảng, ui da loạn cả lên, thì ra Tông Tán vương tử đã bay vọt ra đụng vỡ một chiếc bàn trà, bao nhiêu ấm, chén trên đó vỡ tan tành.

Tông Tán kêu “Ui da!” rồi, chưa kịp ngồi dậy đã giơ lá thư ra lớn tiếng đọc:

- Ta khỏe lắm, cực kỳ khỏe, sung sướng không sao kể xiết.

Mọi người thấy y rõ ràng bị Đoàn Dự hất văng ra, ngã huỵch xuống bò lê bò càng, sao lại thốt lên: “Ta khỏe lắm, cực kỳ khỏe, sung sướng không sao kể xiết”, không khỏi ngạc nhiên. Vương Ngữ Yên vội đến bên Đoàn Dự hỏi:

- Y đánh chàng có đau không?

Đoàn Dự đáp:

- Không hề chi. Nhị ca gửi cho ta một lá thư, gã vương tử cai lại hiểu lầm, tưởng là công chúa mới ta hội kiến.

Bọn võ sĩ Thổ Phồn thấy chủ bị đánh ngã, lập tức kẻ thì chạy lại đỡ lên, người thì hung hăng sấn sổ đến khiêu chiến với Đoàn Dự. Đoàn Dự nói:

- Nơi đây là chỗ thị phi, ở thêm cũng chẳng ích gì, chúng ta về đi thôi.

Ba Thiên Thạch vội ngăn lại:

- Công tử đã đến được đây, có gấp gáp gì đâu?

Chu Đan Thần cũng nói:

- Trong nội viện hoàng cung Tây Hạ có sợ gì bọn Thổ Phồn hành hung gây hấn? Không chừng công chúa sẽ cho mời mình bây giờ, nếu bỏ đi có phải là thất lễ hay không?

Hai người không ngớt khuyên giải cố giữ Đoàn Dự lại. Quả nhiên người trong Nhất Phẩm Đường liền đi ra, quát nạt bọn võ sĩ Thổ Phồn không được vô lễ. Tông Tán vương tử bò dậy, thấy lá thư không phải là giấy mời Đoàn Dự tương kiến, trong bụng cũng dịu lại.

Còn đang nhốn nháo, Mộc Uyển Thanh bỗng dưng nhìn Đoàn Dự ngoắc ngoắc, trong tay cầm một tờ giấy đưa lên. Đoàn Dự gật đầu, vội đi qua cầm lấy. Tông Tán vương tử lại thấy Đoàn Dự mở một tờ giấy khác ra coi, cảm thấy hoang mang nghĩ thầm: “Chắc đây mới là giấy mời của công chúa”. Y quát lớn:

- Lần đầu ngươi đã đánh lừa ta, lần này còn lừa được nữa hay thôi?

Y nhún một cái lại nhảy tới, giựt ngay lá thư trên tay Đoàn Dự. Lần này y có kinh nghiệm, không dám giơ quyền đánh vào ngực Đoàn Dự nữa, giựt được tờ giấy liền giơ chân phải đá luôn vào bụng dưới đối phương. Nơi đây chính là đan điền ở dưới rốn, căn nguyên nội tức của những người luyện khí, không cần vận chuyển nội kình lập tức tự nhiên sinh ra, chỉ nghe bình một cái, rồi lại lách cách, loảng xoảng, ui da rầm cả lên, Tông Tán vương tử vượt qua đầu mấy chục người bay vọt ra ngoài, đổ vỡ bảy tám cái bàn trà rồi mới lăn quay ra đất.

Gã vương tử đó dày da lắm thịt, Đoàn Dự lại không cố ý vận khí đả thương y nên tuy ngã mạnh thật nhưng cũng chẳng hề hấn gì. Y vừa ngã xuống đã giơ ngay tờ giấy vừa giựt được của Đoàn Dự lớn tiếng đọc:

Có kẻ ghê gớm lắm đang tính chuyện giết cha tôi, cũng là cha anh, mau mau đi cứu.

Mọi người nghe thế lại càng chẳng hiểu đầu đuôi, Tông Tán vương tử nói: “Cha tôi cũng là cha anh”, thế là làm sao? Thế nhưng Đoàn Dự, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần cả bọn đều hoảng hốt, những dòng đó do Mộc Uyển Thanh viết, cái mà nàng bảo là “cha tôi, cũng là cha anh” kia là chỉ Đoàn Chính Thuần, thành thử liền sà tới vây quanh Mộc Uyển Thanh hỏi cho ra lẽ.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Các vị vào trong đó chưa lâu thì hai tỉ tỉ Mai Kiếm và Lan Kiếm cũng tiến cung, có chuyện cần bẩm báo với Hư Trúc tiên sinh. Hư Trúc Tử không thấy ra, bọn họ liền cho tiểu muội hay, nói là nhận được tin có mấy nhân vật lợi hại định giăng một cái bẫy để làm hại gia gia. Cái bẫy đó bố trí suốt một dãy Thục Nam, là nơi khi trở về Đại Lý gia gia sẽ phải ngang qua. Linh Thứu Cung đã phái Huyền Thiên, Chu Thiên hai bộ đi tìm gia gia dặn ông phải đề phòng, đồng thời cho người sang phương tây báo tin.

Đoàn Dự sốt ruột nói:

- Mai Kiếm, Lan Kiếm hai vị tỉ tỉ đâu rồi? Sao ta không thấy đâu cả?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Trong mắt ông anh chỉ thấy có một mình Vương cô nương thì còn nhìn thấy ai khác nữa? Mai Kiếm, Lan Kiếm hai vị tỉ tỉ vốn dĩ định nói với huynh trưởng, lên tiếng gọi mấy lần, không biết ca ca cố ý không màng tới, hay là không trông thấy thật.

Đoàn Dự mặt đỏ lên ấp úng:

- Ta …ta quả thực không trông thấy họ.

Mộc Uyển Thanh lại khinh khỉnh nói:

- Bọn họ sốt ruột đi tìm Hư Trúc nhị ca, nên không thể đợi Dự ca được. Tiểu muội gọi mấy lần, ca ca cũng chẳng thèm ngó tới, đành phải viết thư định giao lại cho ông anh.

Đoàn Dự ngượng ngập, biết mình không còn chú ý gì đến mọi chuyện xảy ra chung quanh, mắt chỉ còn biết nỗi buồn điệu vui của giai nhân, tai chỉ còn nghe tiếng cười giọng nói của người đẹp, dù cho trời sập chàng cũng không thèm để ý, thành thử Mộc Uyển Thanh gọi từ xa, dĩ nhiên thị nhi bất kiến, nếu không có Tông Tán vương tử đấm cho một cái thì chắc cũng không ngẩng đầu lên để trông thấy Mộc Uyển Thanh ngoắc ngoắc tay. Chàng liền quay sang nói với Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần:

- Chúng mình ngày đêm lên đường, đuổi theo gia gia.

Ba Chu hai người cùng đáp:

- Chính thế!

Mọi người đều nghĩ nếu Trấn Nam Vương gặp chuyện nguy nan thì không còn việc gì khác quan trọng hơn nữa, Đoàn Dự có làm phò mã hay không cũng phải gác sang một bên. Thành thử cả bọn liền đứng dậy đi ra ngoài cửa.

Đoàn Dự về đến tân quán gặp lại Chung Linh, thu thập hành lý lập tức lên đường. Ba Thiên Thạch đến cáo biệt với Lễ bộ thượng thư nước Tây Hạ, bảo là Trấn Nam Vương trên đường đi bị nhuốm bệnh nặng, thế tử phải quay về ngay để săn sóc thuốc men, không kịp vào khấu biệt hoàng đế. Phụ thân bị bệnh, làm con phải ngày đêm chạy về lo liệu cho cha, quả là thiên kinh địa nghĩa, viên Lễ bộ thượng thư tấm tắc hết lời đại loại như : “Lòng hiếu của vương tử động đến trời, Đoàn vương gia thể nào cũng gặp thầy gặp thuốc…”. Ba Thiên Thạch từ biệt xong, lật đật đi ra cửa thành Linh Châu, thi triển khinh công đuổi theo Đoàn Dự, khi bắt kịp thì đã cách kinh thành hơn ba chục dặm.

VI THÙY KHAI, TRÀ HOA MÃN LỘ

Chạnh nhớ hương xưa hoa hé nụ,

Thầm thương chốn cũ nét vờn tranh.

*

* *

   C ả bọn Đoàn Dự ngựa không dừng vó nhưng từ Linh Châu đi Cao Châu, Tần Châu qua phương đông về Hán Trung, ngang qua Quảng Nguyên, Kiếm Các rồi tới Thục Bắc đường đi nào chỉ một ngày.

Trên đường liên tiếp nhận được tin tức của quần nữ hai bộ Huyền Thiên, Chu Thiên cung Linh Thứu truyền tới cho biết Trấn Nam Vương đang đi về hướng nam. Có một lần tin tức nói là hai nữ quyến Trấn Nam Vương dẫn theo, ở Tử Đồng đánh nhau một trận không phân thắng bại.

Đoàn Dự biết là hai phu nhân, một người là mẫu thân của Mộc Uyển Thanh Tần Hồng Miên còn người kia là mẹ của A Châu, A Tử Nguyễn Tinh Trúc. Luận võ công thì Tần Hồng Miên có vẻ giỏi hơn, về mưu trí thì Nguyễn Tinh Trúc lại vượt trội nhưng nhờ có cha mình ở giữa hòa giải nên không thành lớn chuyện. Quả nhiên cách hai ngày sau lại có tin truyền đến, hai vị phu nhân đã làm lành với nhau, cùng Trấn Nam Vương uống rượu tại một tửu quán. Huyền Thiên Bộ cũng đã cáo tri với Trấn Nam Vương là có kẻ đối đầu đang tính đường gia hại.

Trên đường đi Đoàn Dự đã cùng Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần thương nghị mấy lần, ai cũng thấy kẻ thù trừ người số một trong Tứ Đại Ác Nhân là Đoàn Diên Khánh ra không còn ai khác. Đoàn Diên Khánh võ công cực cao, nước Đại Lý trừ chính Bảo Định Đế ra không ai có thể địch nổi, nếu y đuổi theo gây chuyện với Trấn Nam Vương thì quả thật đáng lo.

Trước mắt chỉ còn cách cố gắng đi thật nhanh để gặp được Trấn Nam Vương, cùng góp sức để có thể đấu với Đoàn Diên Khánh. Ba Thiên Thạch nói:

- Chúng mình một khi gặp Đoàn Diên Khánh, thì một liều ba bảy cũng liều, tất cả cứ xông lên lấy đông đánh ít, đừng để lâm vào vết xe cũ nơi Tiểu Kính Hồ, để y đơn đả độc đấu với vương gia.

Chu Đan Thần nói:

- Chính thế! Bọn mình ở đây có Đoàn thế tử, Mộc cô nương, Chung cô nương, Vương cô nương, hai chúng ta, thêm vương gia và hai vị phu nhân, lại còn Hoa tư đồ, Phạm tư mã, Cổ đại ca tất cả bấy nhiêu người, có thêm các cô nương trong Linh Thứu Cung tương trợ. Người nhiều thế mạnh, nếu không giết nổi Đoàn Diên Khánh thì cũng không thể để cho y hiếp đáp được.

Đoàn Dự gật đầu đáp:

- Ta cũng nghĩ thế.

Đoàn người đến Cẩm Châu bỗng nghe có tiếng vó ngựa dồn dập từ phía trước, hai kỵ mã chạy đến. Hai người đàn bà từ trên lưng ngựa nhảy xuống kêu lên:

- Thuộc hạ Huyền Thiên Bộ cung Linh Thứu tham kiến Đại Lý Đoàn công tử.

Đoàn Dự vội vàng hạ mã đáp lễ:

- Hai vị quả là gian khổ, không biết đã gặp gia phụ chưa?

Người đàn bà trung niên bên phải đáp:

- Khải bẩm công tử, Trấn Nam Vương sau khi nhận được lời cảnh giác của chúng thuộc hạ thì đã đổi đường đi qua hướng đông, nói là sẽ vòng một vòng lớn trước khi về Đại Lý để khỏi gặp phải kẻ đối đầu.

Đoàn Dự nghe nói thế mới yên tâm, vui mừng nói:

- Thế thì hay lắm. Thân thể vàng ngọc của gia gia, lẽ nào lại đi tranh hơi với bọn hung đồ? Tránh voi chẳng xấu mặt nào, thứ hùm beo rắn rết

mình kiềng mặt chúng là hơn chứ có phải sợ gì đâu. Thế hai vị có biết đối đầu là ai không? Tin tức từ đâu mà có?

Người đàn bà đáp:

- Đầu tiên là Cúc Kiếm cô nương nghe một cô nương khác cho hay. Vị cô nương đó tên gọi A Bích …

Vương Ngữ Yên vui mừng ngắt lời:

- Thì ra là A Bích. Đã lâu nay ta không gặp cô ấy.

Đoàn Dự tiếp lời:

- À, thì ra A Bích cô nương, ta biết cô đó. Cô ta vốn dĩ là thị tì của Mộ Dung công tử.

Người đàn bà nói:

- Quả đúng như thế. Cúc Kiếm cô nương nói rằng, A Bích cô nương và cô ta tuổi tác chẳng chênh lệch bao nhiêu, mặt mũi xinh xắn thật dễ thương, có điều giọng Giang Nam nên nói chuyện nghe chẳng hiểu rõ cho lắm. A Bích cô nương là đệ tử của Khang Quảng Lăng, sư điệt của chủ nhân chúng tôi, nói đúng ra với cung Linh Thứu cũng là người một nhà. Cúc Kiếm cô nương nói là chủ nhân cùng đi với công tử đến hoàng cung để cầu thân, A Bích cô nương cũng định đi Tây Hạ gặp Mộ Dung công tử. Trên đường nghe được tin có một nhân vật cực lợi hại muốn gây sự với Trấn Nam Vương, cô ta bảo Đoàn công tử đãi cô rất tốt nên nhờ chúng tôi tìm cách đưa tin đến công tử.

Đoàn Dự nhớ lại lần mới gặp A Bích ở Cô Tô, cũng nhờ cô ta và A Châu dẫn đường nên mới biết đến Vương Ngữ Yên, lần này lại chính nàng truyền tin, trong lòng hết sức cảm kích bèn hỏi:

- Vị A Bích cô nương đó bây giờ đang ở đâu?

Người đàn bà trung niên đáp:

- Thuộc hạ không biết. Đoàn công tử, cứ như lời của Mai Kiếm cô nương, kẻ gây chuyện với Đoàn vương gia thật là lợi hại. Chính vì thế Mai Kiếm cô nương không đợi chủ nhân ra lệnh đã sai Huyền Thiên, Chu Thiên hai bộ ra tay, công tử cũng nên cẩn thận.

Đoàn Dự nói:

- Đa tạ đại tẩu phí tâm tận lực, quí tính đại tẩu là chi, lần sau nếu ta có gặp nhị ca sẽ nhắc tới.

Người đàn ba kia cực kỳ hoan hỉ, cười nói:

- Bọn thuộc hạ Huyền Thiên, Chu Thiên tất cả mọi người trong hai bộ đều cùng làm, công tử chẳng cần phải đề cập tiện danh làm gì. Công tử gia có hảo tâm như thế, tiểu phụ nhân xin đa tạ.

Nói rồi cùng người đàn bà kia kéo vạt áo lên hành lễ, cất tiếng chào những người khác rồi lên ngựa ra đi. Đoàn Dự hỏi Ba Thiên Thạch:

- Ba thúc thúc nghĩ chuyện này ra sao?

Ba Thiên Thạch đáp:

- Vương gia nếu đã đi vòng qua hướng đông thì mình cứ tiếp tục xuôi nam, có lẽ sẽ gặp vương gia ở Thành Đô.

Đoàn Dự gật đầu đáp:

- Chính thế.

Cả đoàn đi qua Cẩm Châu, đến Thành Đô. Thành Cẩm Quan phồn hoa trù phú ở phía tây nam. Bọn Đoàn Dự ở trong thành du ngoạn mấy ngày vẫn không thấy Đoàn Chính Thuần đến nơi, ai nấy thầm nghĩ: “Trấn Nam Vương có hai vị phu nhân bầu bạn, trên đường du sơn ngoạn thủy hưởng cái thú ôn nhu diễm phúc nên có đi chậm một chút cũng không sao. Về đến Đại Lý thì đâu còn có thể tiêu dao khoái lạc được nữa”.

Cả đoàn lại tiếp tục đi về hướng nam, mỗi một bước lại gần Đại Lý thêm một bước, trong lòng cũng cảm thấy thư thái hơn. Trên đường đi qua nhiều thành thị hoa lệ nhưng Đoàn Dự không dám thân mật với Vương Ngữ Yên sợ Mộc Uyển Thanh và Chung Linh khó chịu, cũng không dám nhạt nhẽo với hai cô em gái. Mộc Uyển Thanh trên đường đi đã cho Chung Linh hay Đoàn Dự chính là huynh trưởng của hai người, Chung Linh đích thực là con Đoàn Chính Thuần nên hai nàng đổi sang chị chị em em, thấy Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên hai người nói nói cười cười,

thần thái thân mật chỉ đành ngậm đắng nuốt cay chứ biết làm sao bây giờ.

Đến chiều hôm đó lúc sắp đến Dương Liễu Trường thì tiết trời thay đổi, mưa từng giọt to bằng hạt đậu rơi ào xuống. Mọi người vội vàng giục ngựa chạy cho nhanh tìm chỗ trú mưa, qua một rặng liễu thấy bên bờ sông có bảy tám căn nhà tường trắng ngói đen, ai nấy mừng rỡ vội đánh ngựa chạy đến. Đến nơi thấy một ông già chắp tay sau lưng đang nhìn mây đen ùn ùn dâng lên ở cuối chân trời.

Chu Đan Thần nhảy xuống ngựa, tiến lên chắp tay nói:

- Chào lão trượng, tại hạ một đoàn người đi đường xa, mong được vào bảo trang đụt mưa một lát.

Ông lão đáp:

- Không dám! Không dám! Ai chả có lúc cơ nhỡ có người nào đi đường mà vác theo cả cái nhà mình bao giờ? Mời liệt vị quan nhân, cô nương vào.

Chu Đan Thần nghe ông ta ăn nói rõ ràng, không phải giọng miền nam, hai mắt lấp lánh hữu thần, trong bụng không khỏi dè dặt, chắp tay nói:

- Vậy xin đa tạ.

Mọi người vào cửa rồi, Chu Đan Thần chỉ Đoàn Dự nói:

- Vị này là Dư công tử chủ nhân chúng tôi đi lên Thành Đô thăm song thân trở về. Vị này là Thạch lão ca, còn tại hạ họ Trần. Không dám lão trượng quí tính là chi?

Lão hán kia cười ha hả nói:

- Lão hủ họ Giả. Dư công tử, Thạch đại ca, Trần đại ca, mấy vị cô nương, xin mời vào nội đường uống chén trà. Cứ xem điệu này chắc mưa sắp đổ xuống rồi đây.

Bọn Đoàn Dự thấy Chu Đan Thần xưng tên họ giả biết ngay có chuyện gì đáng ngờ thành thử ai nấy đều lưu tâm. Ông già họ Giả dẫn mọi người đến một căn phòng. Trong phòng trên tường treo mấy bức tự

họa, trần thiết có chiều nhã khiết, xem ra không phải là nhà của một dân quê, Chu Đan Thần và Ba Thiên Thạch hai người vừa thoáng thấy, lại càng giữ ý.

Đoàn Dự thấy những bức họa đều do tay tầm thường vẽ nên cũng chẳng xem kỹ làm gì. Ông già họ Giả nói:

- Để lão đi ra bảo người đun trà.

Chu Đan Thần đáp:

- Không dám làm phiền lão trượng.

Giả lão cười nói:

- Chỉ e tiếp đãi quí nhân không chu đáo thôi.

Nói xong quay mình đi ra, khép cửa phòng lại. Cửa vừa đóng rồi, đằng sau cánh cửa lộ ra một bức tranh, trên vẽ mấy đóa sơn trà thật lớn, một đóa màu đỏ tươi mơn mởn, một đóa màu trắng cành tuy gầy guộc nhưng mạnh mẽ xanh tươi.

Đoàn Dự nhìn đóa hoa trong lòng tự nhiên vui vẻ, thấy bên cạnh bức tranh có đề một hàng chữ:

Trà hoa tối giáp hải nội, chủng loại thất thập hữu nhất, đại ư mẫu đơn, nhất vọng nhược hỏa ( ) vân ( ), thước nhật chưng ( ).

Cả câu viết để trống mấy chỗ, chính là một câu trích trong Điền Trung Trà Hoa Ký, Đoàn Dự vốn đã thuộc lòng, rõ ràng “hoa trà có bảy mươi loại, trong đó có hai” thì lại viết là “bảy mươi loại, trong đó có một”. Chàng liếc mắt thấy trên bàn có sẵn văn phòng tứ bảo, nhịn không nổi giơ bút chấm mực ngay chữ “nhất” vạch thêm một nét ngang thành chữ “nhị”, dưới chữ “hỏa” thêm một chữ “tề”, dưới chữ “vân” thêm một chữ “cẩm”, dưới chữ “chưng” thêm một chữ “hà”.

Thêm vào mấy chữ rồi, câu đề biến thành:

Đại Lý trà hoa tối giáp hải nội, chủng loại thất thập hữu nhị, đại ư mẫu đơn, nhất vọng nhược hỏa tề vân cẩm, thước nhật chưng hà.2

Những chữ đó viết theo lối của Chử Toại Lương, Đoàn Dự cũng theo đúng kiểu đó thêm vào, không dấu vết gì để người khác biết được là đã sửa đổi. Chung Linh vỗ tay reo lên:

- Dự ca thêm vào như thế, bức tranh mới hoàn toàn không còn khuyết điểm gì nữa.

Đoàn Dự bỏ bút xuống chưa lâu thì Giả lão đã đẩy cửa bước vào, thuận tay đóng lại, thấy bức họa đã điền vào đầy đủ, mặt mày tươi rói, cười nói:

- Thật quí hóa quá! Tiểu lão nhi quả là thất kính. Bức tranh này do một người bạn cũ vẽ nhưng trí nhớ lại không tốt, lúc đề tự quên mất mấy chữ bảo là về nhà tra lại sách vở, lần sau đến sẽ viết thêm vào. Ôi, ngờ đâu y về nhà chưa lâu, bị bệnh không trở dậy được nữa, từ đó không ai điền vào được. Đâu có ngờ Dư công tử thông kim bác cổ, giúp cho lão hủ và người bạn quá cố hoàn thành tâm nguyện, dọn rượu, dọn rượu mau.

Y vừa nói vừa đi ra quát người nhà làm cơm. Chẳng mấy chốc, ông già họ Giả đã thay một trường bào mới ra mời bọn Đoàn Dự vào trong sảnh uống rượu. Mọi người nhìn ra ngoài cửa sổ thấy trời mưa như trút, làm thành hàng trăm dòng suối nhỏ chảy về phía đông, biết không thể nào ra đi được lại thấy Giả lão ý thành, không thể nào từ chối được đành phải vào trong nhà thấy trên mâm đã bày cá tươi, thịt heo, gà vịt, rau cỏ xếp đầy hàng chục bát. Đoàn Dự cả bọn cám ơn rồi ngồi vào bàn.

Ông già rót rượu ra cười nói:

- Chỉ có cây nhà lá vườn, ăn chẳng vừa miệng. Dư công tử, tiểu lão nhi vốn người đất Giang Nam, khi còn trẻ cũng có học qua một chút võ công thô thiển, đánh nhau với người ta lỡ tay giết chết hai kẻ thù, không thể ở cố hương được nữa đành phải trốn đến Tứ Xuyên. Ôi, thấm thoát

mấy chục năm rồi, bụng nhớ nhà lắm, rượu vùng quê lão so với loại rượu ủ bằng men này thì không mạnh bằng.

Ông ta vừa nói vừa rót rượu. Mọi người nghe ông già kể chuyện thân thế, tuy không tin hẳn nhưng thấy ông ta tự xưng là biết võ công cũng bớt hẳn nghi kỵ, sau khi rót xong lại nói:

- Xin uống trước để tỏ lòng kính trọng.

Nói xong uống một hơi cạn chén, mọi người lúc ấy yên tâm tận tình ăn uống. Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần uống rất ít, đến món ăn cũng đợi Giả lão gắp trước rồi mới đụng đũa gắp theo. Ăn uống xong trời vẫn chưa dứt hạt, ông già lại hết sức giữ khách lại, bọn Đoàn Dự đành ngủ qua đêm.

Trước khi ngủ, Ba Thiên Thạch nói khẽ với Mộc Uyển Thanh:

- Mộc cô nương, tối nay mình nên đề phòng, ta xem nơi này có điều gì tà môn.

Mộc Uyển Thanh gật đầu, để nguyên quần áo ngủ trên giường, trong tay áo dấu sẵn độc tiễn, nghe thấy bên ngoài vẫn mưa tí tách, chập chờn cho đến khi trời sáng nhưng không thấy chuyện gì khác lạ.

Mọi người rửa mặt xong thấy mưa đã ngớt nên lập tức cáo từ. Giả lão tiễn ra đến mấy chục trượng, cử chỉ hết sức cung kính. Mọi người đi một quãng xa vẫn còn tấm tắc lấy làm lạ. Ba Thiên Thạch nói:

- Giả lão đây không biết lai lịch thế nào mà sao cổ quái đến thế? Lần này ta quả đoán không ra!

Chu Đan Thần đáp:

- Ba huynh, đệ đoán lão già họ Giả này có bụng bất lương thế nhưng sau khi thấy công tử điền thêm mấy chữ khuyết trên bức họa, tự nhiên đổi hẳn thái độ. Công tử thử nghĩ bức tranh đó với mấy hàng chữ đề có liên can thế nào?

Đoàn Dự lắc đầu nói:

- Hai đóa sơn trà đó thật bình thường. Một đóa Phấn Hầu, một đóa Tuyết Tháp, tuy nói là danh chủng thật nhưng đâu phải là loại hiếm có.

Mọi người đoán mãi không ra nên đành bỏ mặc không lý tới nữa. Chung Linh cười nói:

- Tốt nhất là trên đường đi gặp thêm vài bức vẽ thiếu chữ nữa, Đoàn công tử nhà ta cứ tiếp tục điền thêm vào, vung bút một cái là mình có ngay hai bữa rượu thịt, ngủ qua một đêm mà chẳng tốn xu teng nào cả.

Mọi người nghe thế cười rộ cả lên. Thế nhưng lạ làm sao, câu nói đùa của Chung Linh trên đường đi lại mấy lần xảy ra thật. Trên bức tranh nào cũng vẽ hoa trà, có khi đề từ bị khuyết, có khi viết chữ sai, có khi lại có cành mà chẳng có hoa, có hoa mà chẳng có lá. Đoàn Dự vừa gặp phải liền cầm bút thêm vào ngay. Mỗi khi đề xong, chủ nhân lập tức bước ra ân cần khoản đãi, rượu thịt ê hề mà không hề lấy đồng tiền nào cả.

Chu Đan Thần và Ba Thiên Thạch mấy lần gặng hỏi, đối phương người nào cũng có cùng một câu trả lời, ấy là người vẽ còn thiếu sót, khuyết chữ, may nhờ Đoàn Dự giúp cho nên thực là cảm kích.

Đoàn Dự và Chung Linh tính còn trẻ con, thấy vậy vui lắm nên chỉ mong càng nhiều tự họa thiếu nét, thiếu chữ càng tốt. Vương Ngữ Yên thấy Đoàn Dự vui vẻ nên cũng thấy vui theo. Còn Mộc Uyển Thanh trước nay trời không sợ, đất không kiêng nên đối phương có ý tốt cũng được, mà có ý xấu nàng cũng chẳng coi vào đâu. Chỉ riêng Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần càng lúc càng lo âu, thấy bên địch bố trí rất chặt chẽ, bên trong hẳn có ý đồ trọng đại nhưng không nhìn ra được chút manh mối gì.

Ba Chu hai người mỗi khi được tiếp đãi ân cần đều hết sức quan sát từng ly từng tí, xem rượu thịt có chất độc gì không. Thế nhưng loại mạn tính độc dược thật khó mà biết được, bị phục độc đến cả chục lần mới phát ra. Ba Thiên Thạch hiểu nhiều biết rộng, nếu như đối phương hạ độc thì cũng khó mà qua mắt được y nhưng trước sau cơm rượu không thấy có gì khác lạ mà chủ nhân bao giờ cũng ăn uống trước để khỏi ai nghi ngại.

Càng đi càng về hướng nam nên tuy đã thượng tuần tháng mười mà khí trời cũng chưa đến nỗi lạnh. Đường càng lúc càng nhiều rừng rậm, núi sâu, cỏ cao so với khung cảnh của Tây Hạ ở phương bắc thật khác xa. Buổi chiều hôm đó cả bọn đến một cánh đồng cỏ thật lớn, màu xanh tít

mù đến tận cuối trời, bên trái là một khu rừng, xem ra cả chục dặm đường không người ở. Ba Thiên Thạch nói:

- Công tử, nơi đây địa thế hiểm ác, mình nên tìm chỗ nào trú chân là hơn.

Đoàn Dự gật đầu:

- Đúng thế! Hôm nay mình chắc không thể nào vượt qua được cánh đồng này, không biết kiếm chỗ nào mà nghỉ đây?

Chu Đan Thần nói:

- Trong đồng cỏ muỗi mòng rắn rết nhiều lắm, lại thêm chướng khí. Xem ra quế hoa chướng sắp qua, phù dung chướng đang tới, hai loại chướng khí trộn với nhau càng thêm độc địa. Nếu mình không tìm ra chỗ nghỉ thì chỉ còn nước trèo lên cây cao ngủ tạm, chướng khí không xông tới, trùng độc muỗi độc cũng ít đi.

Thế là cả đoàn rẽ qua bên trái nhắm hướng rừng già mà tới. Vương Ngữ Yên nghe Chu Đan Thần nói chướng khí ghê gớm lắm mới hỏi quế hoa chướng, phù dung chướng là thế nào? Chu Đan Thần đáp:

- Chướng khí là hơi độc từ núi non đầm lầy bốc lên, tháng ba thì có đào hoa chướng, tháng năm thì có lựu hoa chướng là lợi hại nhất. Thực ra chướng khí nào cũng như nhau nhưng thời tiết không giống nên cứ theo nguyệt lệnh mùa hoa nào thì đặt tên thế. Từ tháng ba đến tháng năm trời nóng, độc trùng muỗi mòng sinh sản nhiều nên ghê gớm nhất. Sở dĩ lúc đó đáng ngại vì chưng khí hậu ẩm thấp hơn cả nên cỏ mục tích chứa nhiều, chướng khí vì vậy rất mạnh mẽ.

Vương Ngữ Yên hỏi:

- Ồ, thế thì có trà hoa chướng không?

Bọn Đoàn Dự, Ba Thiên Thạch đều cười ồ. Chu Đan Thần đáp:

- Người Đại Lý chúng tôi rất thích hoa trà nên không đem chướng khí đáng ghét kia gộp chung với hoa trà.

Vừa đi vừa nói đã đến bìa rừng. Chân ngựa đạp vào bùn lầy, phọp phẹp khó đi thật là bất tiện. Ba Thiên Thạch nói:

- Xem chừng mình chẳng nên vào sâu thêm nữa, tối nay làm tổ trên cây ngủ qua đêm vậy. Đợi sáng mai mặt trời lên, chướng khí tan hết lúc đó lại lên đường.

Vương Ngữ Yên hỏi:

- Mặt trời mọc thì chướng khí không độc nữa hay sao?

Ba Thiên Thạch đáp:

- Đúng thế!

Chung Linh đột nhiên chỉ về phía đông bắc, thất thanh kêu lên:

- Trời ơi, hỏng rồi! Bên kia chướng khí bốc lên cao quá, đó là chướng gì đây?

Mọi người nhìn theo hướng cô ta chỉ quả nhiên thấy một đám mây cuồn cuộn bốc lên. Ba Thiên Thạch đáp:

- Cô nương, đây là thiêu phạn chướng.

Chung Linh thấp thỏm hỏi:

- Thiêu phạn chướng là chướng gì? Có ghê gớm lắm không?

Ba Thiên Thạch cười nói:

- Cái này không phải chướng khí, mà là khói người ta nấu cơm bốc lên.

Quả nhiên trong khói xanh có lẫn màu đen, lại tỏa màu trắng đúng là do củi đốt. Mọi người ai nấy cười ồ, cảm thấy lên tinh thần cùng nói:

- Mình đi kiếm chỗ thiêu phạn chướng xem sao.

Chung Linh bị mọi người chế riễu, bẽn lẽn đỏ mặt. Vương Ngữ Yên liền an ủi:

- Linh muội, cũng may muội muội nhìn thấy … nhìn thấy khói nấu cơm nên mình khỏi phải trèo lên cây ngủ.

Cả đoàn người đi về hướng khói bốc lên, đến gần mới thấy trong rừng có bảy tám căn nhà, bên cạnh nhà chất đầy gỗ súc, hiển nhiên là nơi ở của thợ mộc. Chu Đan Thần giục ngựa lên trước, lớn tiếng gọi:

- Các đại ca thợ mộc ơi, chúng tôi đi đường xa muốn ngủ nhờ một đêm có được không?

Đợi một hồi không thấy tiếng ai trả lời, Chu Đan Thần lại gọi thêm lần nữa nhưng cũng không ai đáp lại. Khói từ trên mái nhà vẫn tiếp tục bốc lên, hẳn là trong nhà phải có người. Chu Đan Thần lấy trong bọc ra chiếc quạt nan thép dùng làm binh khí cầm trong tay, nhè nhẹ đẩy cửa đi vào nhà.

Trong nhà không một bóng người nhưng vẫn nghe tiếng củi nổ lép bép. Chu Đan Thần đi xuống nhà sau vào trong bếp thấy bên cạnh lò có một bà lão đang đun nấu. Chu Đan Thần nói:

- Lão bà bà, ở đây còn ai khác nữa không?

Bà lão giương mắt nhìn làm như nghe mà không hề hay biết. Chu Đan Thần hỏi tiếp:

- Chỉ có mình bà ở đây hay sao?

Bà già chỉ vào tai, rồi chỉ vào mồm ú ớ mấy tiếng biểu thị mình vừa câm vừa điếc. Chu Đan Thần quay trở vào thì bọn Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh đã đi tra xét một vòng những căn nhà khác, trong bảy tám căn ngoài bà lão ra không còn một ai khác. Trong gian nhà nào cũng có ván gỗ nhưng chẳng thấy chăn mền gì xem ra lúc này thợ thuyền chưa khai công. Ba Thiên Thạch ra ngoài đi vòng vòng hai lượt, xem xét các nơi không thấy gì khác lạ.

Chu Đan Thần nói:

- Bà lão này vừa câm vừa điếc, không có cách nào hỏi chuyện bà ta được. Vương cô nương kiên nhẫn hơn hết, cô thử vào ra hiệu hỏi xem sao?

Vương Ngữ Yên mỉm cười gật đầu nói:

- Được, để ta thử xem.

Nàng đi vào trong bếp, giơ tay giơ chân ra hiệu cho bà lão, lấy ra một đĩnh bạc cho bà ta cho đến khi hiểu rõ mọi chuyện. Mọi người chờ cho bà ta nấu cơm xong mới hỏi gạo đun cơm, trong đây không rượu không thịt, tất cả chỉ đành ăn cơm trắng cho qua bữa.

Ba Thiên Thạch nói:

- Chúng mình ngủ trong nhà này đừng phân tán.

Thế là đàn ông qua bên cánh đông, con gái ngủ bên cánh tây, bà lão thắp ở phòng giữa một ngọn đèn dầu. Mọi người vừa định ngủ bỗng có tiếng cạch cạch ở phòng giữa, có ai đó đang dùng hỏa đao, hỏa thạch đánh lửa nhưng đánh tới đánh lui mãi vẫn không xong. Ba Thiên Thạch lấy đồ đánh lửa trong túi mình ra, cạch một tiếng đánh lửa lên đi qua châm vào ngọn đèn. Bà lão vẻ mặt mừng rỡ, ra hiệu muốn mượn hỏa đao, hỏa thạch chỉ xuống bếp làm như muốn dóm lửa. Ba Thiên Thạch đưa cho bà ta rồi quay về phòng nằm ngủ.

Một hồi sau, lại nghe có tiếng cạch cạch cạch nữa, bọn Đoàn Dự nhắm mắt đang định ngủ lại bị tiếng động khiến mở choàng mắt ra nhìn qua khe cửa không thấy ánh sáng chiếu ra, thì ra chiếc đèn dầu đã tắt rồi. Chu Đan Thần cười nói:

- Bà lão này già cả lẩm cẩm mất rồi.

Y định mặc kệ bà ta nhưng tiếng đánh lửa cạch cạch cạch mãi, tưởng chừng suốt cả buổi chưa xong, vẫn tiếp tục thêm một buổi nữa. Chu Đan Thần nghe thế khó chịu trở dậy đi vào phòng, thấy mờ mờ trong bóng đêm bà già đang lịch kịch đưa lên đưa xuống, cạch cạch đánh lửa.

Chu Đan Thần lấy hỏa đao hỏa thạch của mình ra, đánh lửa châm vào ngọn đèn dầu. Bà lão nhe răng cười, giơ tay làm hiệu muốn mượn đồ đánh lửa đem xuống bếp dùng. Chu Đan Thần liền đưa cho bà lão rồi quay về phòng.

Ngờ đâu chỉ một lúc sau, phòng giữa lại có tiếng cạch cạch vọng ra. Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần đều bực tức cất tiếng chửi:

- Mụ già này không biết làm trò quái quỉ gì đây!

Thế nhưng cứ nghe tiếng cạch cạch mãi không thôi, Ba Thiên Thạch nhỏm dậy, đi ra giựt bộ đánh lửa trên tay bà ta đánh thử, cạch cạch mấy cái không thấy đốm lửa nào bắn ra, mò mò thử thấy không phải bộ đồ đánh lửa của mình, lớn tiếng hỏi:

- Hỏa đao, hỏa thạch của ta đâu?

Y vừa mở miệng không khỏi bật cười: “Sao mình lại nổi giận với một bà lão vừa câm vừa điếc làm gì?”. Khi đó Mộc Uyển Thanh cũng đã dậy, lấy đồ đánh lửa ra nói:

- Ba thúc thúc muốn đốt đèn ư?

Ba Thiên Thạch đáp:

- Bà lão này thật là cổ quái, có một ngọn đèn mà cứ châm rồi lại tắt, tắt rồi lại châm tới tận nửa đêm.

Y cầm lấy hỏa đao, hỏa thạch đánh một cái châm vào ngọn đèn. Bà già coi bộ mãn nguyện, cười khì khì chăm chăm nhìn ngọn lửa. Ba Thiên Thạch nói với Mộc Uyển Thanh:

- Cô nương đi đường cũng mệt, thôi đi ngủ cho khỏe.

Nói xong liền quay trở về phòng. Ngờ đâu chỉ chừng thời gian uống một chén trà, lại nghe cạch cạch cạch tiếng đánh lửa vọng vào. Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần cùng đứng lên, định chạy ra nhưng chợt nghĩ ra: “Trên đời này làm gì có bà già nào quái lạ đến vậy? Hẳn là có ngụy kế gì đây!”. Hai người nhẹ nhàng nắm tay nhau, rón rén ra khỏi phòng, chia ra hai bên ập vào vừa định xông lên, đột nhiên mũi ngửi thấy một mùi thơm nhè nhẹ, thì ra người đang đánh lửa kia chính là Mộc Uyển Thanh. Hai người lập tức rụt về, Ba Thiên Thạch nói:

- Cô nương đấy ư?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Đúng thế! Tôi thấy ở nơi đây có vẻ không bình thường, định đốt đèn lên soi xem có chuyện gì.

Ba Thiên Thạch đáp:

- Để tôi châm lửa cho.

Nào ngờ đánh cạch cạch mấy cái không thấy có lửa tóe ra. Ba Thiên Thạch kinh ngạc kêu lên:

- Hỏa thạch này không phải, bị bà lão kia tráo mất rồi.

Chu Đan Thần nói:

- Mau đi kiếm, không để cho mụ ta chạy mất.

Mộc Uyển Thanh chạy xuống bếp còn Ba Chu hai người chạy ra ngoài nhưng chỉ mới một thoáng mà bà lão kia đã biến đâu mất rồi. Ba Thiên Thạch nói:

- Đừng đuổi xa, bảo hộ công tử quan trọng hơn.

Hai người trở vào nhà, Đoàn Dự, Vương Ngữ Yên, Chung Linh cũng nghe tiếng động tỉnh dậy rồi. Ba Thiên Thạch nói:

- Ai có hỏa đao, hỏa thạch? Đốt đèn lên rồi tính sau.

Chỉ nghe Vương Ngữ Yên và Chung Linh cùng kêu lên:

- Hỏa đao hỏa thạch của tôi bà lão kia mượn mất rồi.

Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần cùng kêu khổ ngầm: “Mình đề phòng từng li từng tí, đâu có ngờ ở nơi đây lại trúng ngụy kế của địch nhân”. Đoàn Dự lấy trong túi đồ đánh lửa ra, đánh cạch cạch mấy tiếng nhưng cũng nào có cháy lên đâu? Chu Đan Thần nói:

- Mụ già kia cũng mượn của công tử để dùng rồi chứ gì?

Đoàn Dự đáp:

- Đúng thế! Ngay lúc trước khi ăn cơm, bà ta đánh lửa xong liền trả lại cho ta.

Chu Đan Thần nói:

- Thế thì đá lửa cũng bị tráo mất rồi.

Trong nhất thời mọi người ai nấy lặng thinh, nghe tiếng côn trùng kêu trong đêm. Hôm ấy đúng ngày đầu tháng nên không có bóng trăng, sáu người tụm lại một chỗ, chỉ thấy lờ mờ bóng những người kia, ai nấy đều cảm thấy ở vào một tình cảnh cực kỳ nguy hiểm. Từ khi Đoàn Dự điền chữ lên những bức tranh được ông già họ Giả tiếp đãi ân cần đến giờ, sáu người tưởng như bị ai bịt mắt, không chủ định được tự đi vào tròng, biết rằng kẻ địch bày mưu tín khế thế nhưng độc địa đến chừng nào thì không hề hay biết. Ai nấy nghĩ thầm: “Nếu kẻ địch xông ùa lên thì đã không sợ, còn đằng này lấp ló thập thò, khiến cho không sao đề phòng được”.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Mụ già kia lấy hết hỏa đao hỏa thạch của mình cốt để mình không sao đốt lửa được, bọn chúng trong đêm tối thi hành ngụy kế.

Chung Linh đột nhiên rú lên:

- Tiểu muội sợ nhất là bọn chúng sẽ thả rết hay kiến ra đốt mình.

Ba Thiên Thạch chột dạ nói:

- Trong đêm tối mà những vật bé nhỏ như thế đến tấn công thì thật khó đề phòng.

Đoàn Dự đáp:

- Hay là mình đi ra ngoài ngủ trên cây?

Chu Đan Thần đáp:

- E rằng trên cây cũng đã gài sẵn độc vật rồi.

Chung Linh lại “A” lên một tiếng, níu chặt lấy tay Mộc Uyển Thanh. Ba Thiên Thạch nói:

- Cô nương không việc gì phải sợ, mình đốt đèn lên rồi tính sau.

Chung Linh hỏi lại:

- Không có đá lửa lấy gì mà đốt đèn?

Ba Thiên Thạch đáp:

- Địch nhân có dụng ý gì đến lúc này thật chưa biết được. Thế nhưng họ không muốn mình đốt lửa nếu mình cứ đốt đèn thì hẳn cũng không phải là sai.

Y nói xong quay mình đi xuống bếp, lấy hai khúc củi lên đưa cho Chu Đan Thần:

- Chu huynh đệ cắt vụn cây củi này ra càng nhỏ càng tốt.

Chu Đan Thần nghe thế hiểu ngay đáp:

- Đúng vậy, mình đâu để bó tay chờ họ đến tấn công.

Y lấy trong túi ra một con dao nhỏ, cắt khúc củi thành từng miếng. Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên, Chung Linh cũng tiếp tay

lấy chủy thủ tiểu đao ra cắt gỗ, kẻ băm người nghiền thành một đống mạt nhỏ. Đoàn Dự than:

- Tiếc rằng ta không có thần công như Khô Vinh sư tổ ở chùa Thiên Long truyền nội công vào là bén lửa lên ngay, hiện giờ chỉ có Cưu Ma Trí mới có tài ba như thế.

Thực ra nội lực súc tích trong người chàng lúc này còn cao hơn Khô Vinh đại sư và Cưu Ma Trí nhiều, có điều không biết vận dụng mà thôi. Mấy người luôn tay băm gỗ ra thật nhuyễn nhưng trong lòng ai nấy thấp thỏm không an, chẳng một ai nói năng gì, chỉ lắng tai nghe xem bên ngoài có động tĩnh gì không, nghĩ thầm: “Mụ già kia đánh lừa lấy được hỏa đao hỏa thạch của mình rồi, chắc không để lâu, e rằng lập tức phát động”.

Ba Thiên Thạch mò thấy mạt gỗ đã được khoảng một bát ăn cơm rồi liền vun lại thành một đống, hai tay cầm hai thanh đao đập vào nhau nghe keng một tiếng, sống đao chạm nhau, lửa tóe ra bén vào mạt gỗ. Có điều vừa lửa bùng lên lại tắt ngay không cháy vào bùi nhùi được, mọi người còn đang tiếc rẻ thì Ba Thiên Thạch đã liên tiếp cọ đao vào nhau, leng keng không dứt, đến độ mươi cái thì mới cháy được miếng giấy dầu.

Cả bọn vui mừng reo lên, lấy lửa châm vào đèn. Chu Đan Thần sợ một ngọn đèn có thể bị gió thổi tắt nên bao nhiêu đèn đóm dưới bếp và các phòng bên lấy cả về đốt lên. Ngọn lửa yếu ớt nhợt nhạt chiếu lên mặt người, khói lại dầy xông vào mũi thật khó ngửi. Thế nhưng có được ngọn lửa rồi ai nấy tinh thần phấn chấn như vừa thắng một trận lớn.

Căn nhà gỗ cực kỳ giản lậu, gió theo khe cửa thổi vào. Sáu người nhìn nhau, ai nấy tay cầm sẵn binh khí, lắng tai nghe. Thế nhưng chỉ thấy tiếng gió thổi vào cây xào xạc, trộn lẫn với tiếng giun dế kêu vang bên ngoài không có gì khác.

Ba Thiên Thạch thấy một hồi lâu không động tĩnh gì, tra xét kỹ càng mọi nơi trong căn nhà gỗ, thấy mấy cây cột có bao bằng đệm rơm, bên ngoài dùng cỏ buộc lại, nhớ lại khi mới vào nhà không như thế, bèn chặt đứt những dây bện, đệm cỏ rơi xuống. Đoàn Dự thấy hai bên cột có khắc hai hàng câu đối, câu trên là:

Xuân câu thủy động trà hoa ( )

Câu dưới là: Hạ cốc ( ) sinh lệ chi hồng.

Mỗi bên đều thiếu mất một chữ. Chàng quay lại thấy Chu Đan Thần đã gỡ bỏ những đệm cỏ bao quanh hai cây cột khác để lộ trên cột khắc một đôi câu đối khác:

Thanh quần ngọc ( ) như tương thức

Cửu ( ) trà hoa mãn lộ khai.

Đoàn Dự nói:

- Ta đi trên đường điền thêm chữ cho tới nay là họa hay phúc cũng chưa biết được. Bọn chúng lấy đệm cỏ bao quanh cột cốt là để ta không nhìn thấy những câu đối này, vậy mình cứ làm ngược lại, để xem đối phương có kế gì.

Chàng nói xong đưa tay ra, nghe soẹt soẹt, bên dưới chữ “hoa” viết thêm một chữ “bạch”, bên dưới chữ “cốc” viết thêm một chữ “vân” biến thành một câu đối toàn vẹn:

Xuân câu thủy động trà hoa bạch

Hạ cốc vân sinh lệ chi hồng

(Khe xuân nước động hoa trà trắng

Cốc hạ mây đùn vải đỏ tươi)

Chàng nội lực thâm hậu, chỉ lực đến đâu mạt gỗ bay lả tả đến đó. Chung Linh vỗ tay reo lên:

- Nếu biết sớm, ca ca lấy ngón tay vạch vào gỗ mấy cái là có mạt vụn ngay, việc gì mình phải mất công như thế.

Chỉ thấy chàng lại tiếp tục điền vào câu đối còn lại, miệng ngâm nga:

Thanh quần ngọc diện như tương thức

Cửu nguyệt trà hoa mãn lộ khai.

(Quần xanh mặt ngọc dường quen thuộc

Tháng chín hoa trà nở khắp nơi)

Chàng vừa nghiêng đầu ngâm nga, vừa liếc Vương Ngữ Yên. Vương Ngữ Yên hai má ửng hồng, quay đầu sang chỗ khác. Chung Linh nói:

- Không biết cột này làm bằng gỗ gì mà thơm quá!

Mọi người hít mấy cái, quả nhiên thấy những ngấn tay Đoàn Dự khắc lên gỗ xông mùi thơm lừng, tưởng như hoa quế mà không phải hoa quế, tựa như hoa hồng mà không phải hoa hồng. Đoàn Dự nói:

- Thơm thật!

Chỉ thấy mùi thơm càng lúc càng nồng, ngửi vào thật khoan khoái, tinh thần sảng lãng. Chu Đan Thần mặt biến sắc nói:

- Hỏng rồi, mùi hương này coi chừng có độc, tất cả bịt mũi lại.

Mọi người được y nhắc nhở, vội vàng lấy khăn tay hoặc tay áo bịt chặt mũi miệng nhưng lúc đó đã hít khá nhiều hương khí rồi, nếu quả là hơi độc thì phải đầu váng mắt hoa, tức ngực khó chịu chứ có lý đâu lại thoải mái.

Qua một hồi sau, ai nấy ngộp thở, nhịn không nổi đành phải há mồm ra thở mấy hơi nhưng không thấy gì khác. Mọi người từ từ bỏ tay bịt mũi ra, lao xao bàn bạc, không đoán ra được kẻ địch có dụng ý gì.

Thêm một lúc nữa, bỗng nghe có tiếng ù ù. Mộc Uyển Thanh kinh hãi kêu lên:

- Trời ơi! Chất độc phát tác rồi, tai tôi có tiếng gì lạ quá.

Chung Linh đáp:

- Em cũng thế!

Ba Thiên Thạch nói:

- Không phải trong tai có tiếng gì lạ đâu mà dường như một đàn ong đang bay tới.

Quả nhiên tiếng ù ù mỗi lúc một lớn, dường như hàng ngàn hàng vạn con ong từ bốn phương tám hướng đang bao vây. Ong mật vốn không có gì đáng sợ nhưng bay nhiều đến thành tiếng động lớn như thế thì chưa

từng nghe bao giờ, cũng không biết có phải là ong hay không. Trong phút chốc ai nấy đều sững sờ không biết phải làm sao. Tiếng u u càng lúc càng gần, tưởng chừng như vô số yêu ma quỉ quái kêu gào gầm thét, nhảy múa toan đến cắn người ta. Chung Linh nắm chặt tay Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên nắm chặt tay Đoàn Dự. Mọi người tim đập thình thình, tuy biết có kẻ địch phục sẵn nhưng không sao tưởng tượng được trước khi tấn công lại có tiếng quái đản như thế này.

Đột nhiên nghe bạch một tiếng, một vật gì bé nhỏ đập vào vách căn nhà gỗ, rồi tiếp theo bạch bạch bạch bạch liên tiếp, không biết bao nhiêu vật gì đập vào, Mộc Uyển Thanh và Chung Linh cùng kêu lên:

- Ong đó!

Ba Thiên Thạch chạy ra đóng chặt cửa sổ lại, bỗng nghe bên ngoài tiếng ngựa hí lên thảm thiết, rồi tiếng rống lên lao xao. Chung Linh kêu:

- Ong đốt ngựa.

Chu Đan Thần nói:

- Để ta ra ngoài cắt dây cương.

Y cởi trường bào trùm lên đầu, tay trái vừa đẩy cánh cửa bên ngoài đã có một trận gió ập tới, hàng nghìn hàng vạn con ong bay vào trong nhà. Chung Linh và Vương Ngữ Yên cả hai cùng rú lên.

Ba Thiên Thạch vội vàng kéo Chu Đan Thần trở vào, đưa đầu gối chặn lấy cánh cửa, thế nhưng trong nhà đã đầy ong rồi. Những con ong đó vừa vào được trong nhà lập tức túa ra đốt mọi người, chỉ trong nháy mắt trên đầu, trên tay, trên mặt người nào cũng bị ong đốt bảy tám chỗ. Chu Đan Thần xòe quạt ra đập lấy đập để còn Ba Thiên Thạch thì cởi áo ra quật túi bụi, Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên, Chung Linh bốn người cũng phải cố nhịn đau xông ra đập.

Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần, Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh khi ra tay ai nấy vận hết kình lực, chẳng bao lâu trong nhà chỉ còn hai ba chục con ong, nhưng thật lạ lùng những con ong đó thật chẳng khác gì thiêu thân thấy đèn, cứ xông vào chích bất kể sống chết nhưng chỉ một lát sau bao nhiêu ong đều bị đập chết cả.

Chung Linh và Vương Ngữ Yên đau đến ứa nước mắt, tai vẫn nghe tiếng ong đập vào cửa rào rào như mưa rào, không biết bao nhiêu ngàn vạn con ong vẫn tiếp tục tấn công căn nhà gỗ. Mọi người sợ hãi mặt nhợt nhạt, quên cả đau, vội vàng xé vạt áo, tay áo chèn các khe cửa.

Cả sáu người trên mặt, trên tay, chỗ thì đỏ chỗ thì sưng, trông thật thảm hại. Đoàn Dự nói:

- Cũng may ở đây có căn nhà gỗ dung thân, nếu như ở nơi đồng trống, hàng nghìn hàng vạn con ong đến đốt mình thì chắc chết đứ đừ.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Những con ong này do kẻ địch xua tới, bọn chúng đâu đã để cho mình yên? Không lẽ họ không biết phá nhà ra hay sao?

Chung Linh kinh hãi kêu lên:

- Tỉ tỉ.. tỉ tỉ nói họ sẽ phá nhà ư?

Mộc Uyển Thanh chưa kịp trả lời đã nghe trên đầu bình một tiếng, một tảng đá rơi xuống nóc nhà, rui mè rung rinh nhưng may chưa gãy. Thế nhưng lại nghe cách cách, hai khối đá đã chọc thủng mái rơi xuống khiến ngọn đèn tắt phụp.

Đoàn Dự vội vàng ôm Vương Ngữ Yên vào lòng để che chở khuôn mặt nàng. Thế nhưng nghe tiếng vù vù muốn điếc cả tai, ai nấy đều biết mình có xua đuổi chúng cũng vô ích, chỉ còn nước kéo áo lên trùm đầu trùm mặt. Trong nháy mắt bàn chân, bàn tay, cánh tay, đùi đều bị châm hàng vạn chỗ, trong phút chốc cả sáu người đã hôn mê không còn biết gì nữa.

Đoàn Dự đã ăn được con mãng cổ chu cáp vốn dĩ bách độc bất xâm, nhưng những con ong này là do người nuôi, cái kim của nó ngoài chất độc ra còn có thuốc tê, ai bị mấy trăm con ong chích cũng đều mê man cả. Chàng nội lực thâm hậu hơn cả nên trong sáu người thì là người tỉnh lại trước tiên. Đoàn Dự vừa hồi phục tri giác đã đưa tay ra nắm lấy Vương Ngữ Yên nhưng tay không sao cử động được mà Vương Ngữ Yên cũng không còn ở trong lòng mình nữa.

Chàng mở mắt ra thấy tối đen như mực. Thì ra hai chân hai tay đã bị trói chặt còn mắt thì bị người ta dùng vải đen che lại, miệng cũng bị nhét một hạt dẻ hô hấp cũng đã khó khăn huống hồ nói năng. Chàng thấy khắp mình mẩy hàng trăm hàng nghìn chỗ đau nhói, đó là những chỗ bị ong đốt, lại thấy mình đang ngồi dưới đất nhưng ở nơi nào, ngất đi bao lâu thì không sao biết được.

Còn đang hoang mang bỗng nghe tiếng đàn bà gay gắt hỏi:

- Ta mất bao nhiêu công lao cốt để bắt con chó già họ Đoàn nước Đại Lý, sao chúng bay lại bắt thằng chó con là sao?

Đoàn Dự nghe giọng nói quen lắm nhưng nhất thời không nghĩ ra là ai. Tiếng một người đàn bà già nua đáp:

- Tì tử nhất nhất theo đúng lời tiểu thư sai bảo mà làm, không sai một mảy.

Người đàn bà kia nói:

- Hừ, ta xem bên trong phải có gì khác thường. Con chó già kia từ Tây Hạ xuôi nam phải theo đường cái ngang qua Tây Xuyên mới phải, sao lại đột nhiên chuyển qua hướng đông là sao? Bao nhiêu rượu thuốc ta sắp đặt trên đường hóa ra thằng chó con này uống sạch.

Đoàn Dự biết ngay kẻ mà mụ ta gọi “con chó già” chính là để chỉ phụ thân Đoàn Chính Thuần, còn “thằng chó con” chẳng phải chính mình thì còn ai vào đây nữa. Tiếng người đàn bà nói chuyện với mụ lão bộc dường như còn cách một bức tường, có lẽ ở căn phòng bên cạnh.

Người lão phụ nói:

- Đoàn vương gia lần này đến Trung Nguyên thời giờ ở lại cũng không phải ít, nửa đường quay sang hướng đông …

Người đàn bà kia giận dữ nói:

- Ngươi còn gọi y là Đoàn vương gia được sao?

Bà lão đáp: - Vâng, trước kia … tiểu thư bảo gọi là Đoàn công tử, nhưng bây giờ y tuổi cũng cao rồi …

*

* *

   N gười đàn bà quát lên:

- Thôi đừng nói nữa.

Bà lão đáp: - Vâng!

Người đàn bà thở dài một tiếng, nhắc lại:

- Y … y bây giờ tuổi đã cao rồi …

Giọng nói đầy vẻ thê lương. Đoàn Dự bấy giờ cũng yên tâm, nghĩ thầm: “Ta cứ tưởng ai? Thì ra lại là một người tình cũ của gia gia. Bà ta đi tìm gia gia chẳng qua vì nổi cơn ghen lồng ghen lộn. Đúng rồi, bà ta sắp đặt ong mật cốt để bắt cho bằng được cha ta, ngờ đâu bị ta thay cha làm hỏng hết mọi việc. Nếu quả như thế thì chắc không đến nỗi hạ độc thủ với bọn mình. Thế nhưng bà dì này là ai mới được chứ? Ta nhất định đã từng nghe giọng bà ta rồi”.

Chỉ nghe người đàn bà nói tiếp:

- Chúng ta ở các nơi khách điếm, sơn trang đều treo những tự họa thiếu chữ, thiếu nét, ngươi bảo tên “chó con” này điền vào được cả ư? Ta không tin nổi, sao những câu “con chó già” kia thuộc lòng, “thằng chó con” cũng lại nhớ trong bụng? Sao lại có chuyện lạ lùng đến thế?

Người lão phụ đáp:

- Thơ phú ông bố thuộc lòng, con nghe cũng nhớ được thì có gì là lạ đâu?

Người đàn bà giận dữ nói:

- Con tiện tì Đao Bạch Phượng là giống man di, làm sao sinh được đứa con thông minh thế? Ta không thể nào tin được.

Đoàn Dự nghe bà ta nhục mạ mẫu thân không khỏi nổi cơn thịnh nộ, toan lên tiếng cãi lại nhưng miệng vừa mấp máy đã nhận ra trong miệng có nhét hạt dẻ làm sao nói năng gì được?

Chỉ nghe bà già lên tiếng khuyên nhủ:

- Tiểu thư, chuyện xảy ra cũng đã lâu, sao tiểu thư còn để bụng làm gì? Huống chi người không phải với tiểu thư là Đoàn công tử chứ có phải con y đâu? Cô … cô … cũng nên tha cho y trẻ người non dạ, “túy nhân phong” của mình đốt đau lắm rồi, xem ra cũng đủ.

Người đàn bà rít lên:

- Ngươi bảo ta tha cho tên tiểu tử họ Đoàn ư? Chậc chậc, ta băm vằm nó ra thành nghìn vạn mảnh rồi mới tha được.

Đoàn Dự nghĩ thầm: ‘Cha ta đắc tội với bà chứ ta có làm gì đâu, sao lại hận ta đến thế? Thì ra giống ong này tên gọi “túy nhân phong”, không biết bà ta làm sao kiếm được nhiều đến thế để xua ra chích bọn mình? Người đàn bà này là ai vậy? Đây đâu phải Chung phu nhân, hai người khẩu âm khác nhau xa”.

Bỗng có tiếng đàn ông nói:

- Thưa mợ, sanh nhi  xin khấu đầu bái kiến.

Đoàn Dự giật mình, bao nhiêu nghi vấn trong đầu đều vỡ lẽ, giọng nam nhân kia chính là Mộ Dung Phục. Y gọi bà ta là mợ, dĩ nhiên đây là Vương phu nhân của Mạn Đà Sơn Trang ở Cô Tô, mẹ ruột của Vương Ngữ Yên, nhạc mẫu tương lai của mình.

Trong nháy mắt, Đoàn Dự cảm thấy mình như bị dội mười lăm mười sáu thùng nước lạnh lên đầu, đầu quay mòng mòng rối như tơ vò, bao nhiên hình ảnh của Mạn Đà Sơn Trang cùng hiện ra trước mắt:

Hoa trà còn gọi là hoa Mạn Đà La, nổi tiếng nhất là những chủng loại trồng nơi Đại Lý. Hoa trà vùng Cô Tô không lấy gì làm đẹp, trong Mạn Đà Sơn Trang trồng nhiều hoa trà nhưng danh chủng thì chẳng có bao nhiêu, lại trồng không đúng cách nên ra hoa rất nhỏ, cây thì còi cọc. Thế nhưng sao tòa trang viện đó lại lấy tên là Mạn Đà Sơn Trang? Trong sơn trang đó ngoài hoa trà ra không trồng một loại hoa nào khác là vì cớ gì? Mạn Đà Sơn Trang lại có luật hễ nam nhân vào trong trang thì sẽ bị chặt hai chân. Vương phu nhân còn bảo:

- Hễ cứ người Đại Lý hoặc họ Đoàn mà vào đây thì sẽ bị chôn sống.

Gã đệ tử Vô Lượng Kiếm bị Vương phu nhân bắt đâu có phải người Đại Lý, chỉ có tội là nhà ở cách Đại Lý chưa quá bốn trăm dặm nên cũng bị chôn sống. Vương phu nhân còn bắt một gã công tử ép y phải về giết ngay người vợ kết tóc se tơ, lấy cô gái y đang trăng hoa về làm vợ chính, gã kia không chịu bà ta toan giết khiến y đành phải nghe theo. Đoàn Dự cũng nhớ khi đó Vương phu nhân căn dặn đầy tớ:

- Ngươi áp tống y trở lại thành Tô Châu, chính mắt thấy y giết vợ, bái đường thành thân với Miêu cô nương, sau đó hãy trở lại.

Gã công tử kia van xin:

- Chuyết kinh với bà không thù không oán, bà cũng không biết Miêu cô nương là ai, sao lại bênh cô ấy, ép tôi giết vợ lấy người khác làm chi?

Khi đó Vương phu nhân trả lời:

- Ngươi đã có vợ rồi, sao lại còn lân la ngon ngọt tán tỉnh con gái nhà người ta. Đã chim chuột thì không thể không lấy.

Cứ như lời bà ta thì chỉ riêng con tì nữ Tiểu Thúy ở các vùng Thường Thục, Đan Dương, Vô Tích, Gia Hưng đã thực hiện bảy vụ án như thế. Chàng là người Đại Lý, lại họ Đoàn chỉ vì biết trồng hoa trà nên Vương phu nhân mới không xử tử lại còn thiết yến khoản đãi ở Vân Cẩm Lâu. Có điều khi Đoàn Dự và bà ta đàm luận, đề cập đến một loại sơn trà cánh trắng có sợi chỉ màu đỏ tên gọi “Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm”. Khi đó chàng nói:

- Cánh hoa trắng nhưng có lẩn sắc đỏ tên gọi là Hồng Trang Tố Lý. Còn cánh trắng nhưng có quầng mầu xanh, thêm vạch mờ mờ màu đỏ thì gọi là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm. Thế nhưng nếu những vạch đỏ đó có nhiều thì lại không còn là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm nữa mà là Ỷ Lan Kiều.

Phu nhân thử nghĩ xem, đã là mỹ nhân thì phải ôn tĩnh nhàn nhã, trên mặt thỉnh thoảng bị sước một đường hẳn là khi chải đầu soi gương vô tình

cào phải mặt, hoặc giả không phải do mình thì cũng chỉ chơi đùa với con anh vũ, bị chim quẹt trúng âu cũng là chuyện thường.

Thành thử vết chàm trên cánh hoa kia không thể không có, đó là lông chim vương phải. Còn như nếu đầy mặt chỗ nào cũng tươm máu thì nàng con gái đẹp kia hẳn đã đánh nhau với ai, như thế còn gọi là đẹp nỗi gì?

Câu đó khiến Vương phu nhân nổi cơn thịnh nộ, mắng chàng:

- Ngươi nghe đứa nào xúi bẩy mà đến gặp ta ăn nói những lời nhăng cuội như thế? Ai bảo đàn bà con gái học võ công thì không còn đẹp nữa? Nhàn nhã ôn tĩnh thì có gì là hay?

Chỉ vì thế mà bà ta đuổi chàng ra khỏi tiệc rượu, suýt nữa thì bị giết chết. Bao nhiêu chuyện đó, lúc đó chàng chỉ nghĩ rằng vị phu nhân này hành sự không theo tình người ngoài mấy chữ “có lý nào như thế được” không còn gì khác để mà hình dung. Đến bây giờ thấy người đàn bà kia là Vương phu nhân, chàng bỗng hiểu ngay:

Thì ra bà ta là người tình cũ của gia gia, thảo nào đối với hoa trà thì yêu như tính mạng còn đối với họ Đoàn Đại Lý lại thù hận tận xương. Vương phu nhân thích hoa trà, hẳn là khi gia gia cùng bà ta qua lại có liên quan gì đến loại hoa này. Còn bà ta bắt được người họ Đoàn Đại Lý là chôn sống ngay, chỉ vì cha ta người Đại Lý, họ Đoàn ruồng rẫy bà ta nên tức tối, bao nhiêu thù hận trút lên người họ Đoàn.

Bà ta bức bách những ai có tính trăng hoa giết vợ cả lấy tình nhân, chính là nói lên cái nguyện vọng thầm kín trong tâm khảm, chỉ mong gia gia giết chính thất để lấy bà ta. Mình trong câu chuyện nói là đàn bà thích đánh nhau thì không còn đẹp nữa đã khiến bà ta nổi trận lôi đình, có lẽ năm xưa khi cùng cha ta tư tình đã từng đánh nhau một trận nhưng hẳn là cha mình nhường nhịn đấy thôi.

Đoàn Dự suy nghĩ thấy bao nhiêu chuyện hoài nghi đều trở thành rõ ràng minh bạch nhưng không phải vì thế mà trút được mối lo, trái lại càng lúc càng nặng như chì. Vì lý do gì, nhất thời chàng không nói ra được chỉ thấy việc mẹ Vương Ngữ Yên và cha mình có tình ý với nhau trước đây thật không ổn chút nào, trong tâm khảm sâu xa dâng lên một nỗi sợ

khủng khiếp nhưng không dám nói lên cái điều ám ảnh mình mà chỉ thấy tâm thần càng lúc càng bực bội, âu lo.

Lại nghe Vương phu nhân nói:

- Phục quan đấy chăng, gớm nhỉ! Ngươi mong ước được làm hoàng đế Đại Yên, thế đã đăng cơ chưa vậy?

Nghe giọng có vẻ mỉa mai chế riễu. Thế nhưng Mộ Dung Phục vẫn trang nghiêm đáp lại:

- Đó là di chí của tổ tông, sanh nhi không có khả năng, bôn ba giang hồ đến bây giờ vẫn chưa nên cơm cháo gì, đang muốn xin mợ chỉ điểm.

Vương phu nhân cười nhạt nói:

- Ta có gì mà chỉ điểm được? Nhà ta là họ Vương, nhà ngươi là họ Mộ Dung, họ Vương có liên can gì đến mộng làm hoàng đế của họ Mộ Dung đâu? Ta không cho ngươi đến Mạn Đà Sơn Trang, không cho Ngữ Yên gặp mặt ngươi cũng vì sợ nó bị vướng mắc liên lụy với nhà Mộ Dung. Còn Ngữ Yên? Ngươi dẫn nó đi tới chốn nào rồi?

“Còn Ngữ Yên?” Ba tiếng đó chẳng khác gì sấm động bên tai, Đoàn Dự nãy giờ vẫn lo về chuyện này. Khi ong độc đến chích thì chàng đang ôm Vương Ngữ Yên ở trong lòng, vậy lúc này nàng ở đâu? Nghe giọng nói của Vương phu nhân xem chừng bà ta không biết thật. Chỉ nghe Mộ Dung Phục đáp:

- Biểu muội đi đâu, cháu làm sao biết được? Nàng vẫn đi cùng Đoàn công tử nước Đại Lý, không chừng hai người đã bái đường thành vợ chồng rồi.

Vương phu nhân run run nói:

- Ngươi … ngươi chỉ nói tầm xàm.

Bình một tiếng, bà ta vỗ mạnh xuống bàn giận dữ nói:

- Sao ngươi không chăm sóc nó? Để cho một đứa con gái nhỏ hành tẩu giang hồ? Ngươi không nghĩ gì đến chút tình anh em cô cậu nữa hay sao?

Mộ Dung Phục đáp:

- Sao mợ lại nổi giận như thế? Mợ sợ cháu lấy biểu muội, sợ nàng sẽ thành con dâu nhà Mộ Dung để đi theo cháu mơ tưởng thành hoàng đế. Bây giờ thế là ổn rồi, biểu muội lấy Đoàn công tử, tương lai đường đường chính chính làm hoàng hậu Đại Lý, không phải là duyên trời khéo se ư?

Vương phu nhân lại giơ tay đánh xuống mặt bàn lần nữa, quát lên:

- Chỉ láo! Cái gì mà duyên trời khéo se? Nhất quyết không được.

Đoàn Dự ở bên này đang lo, nghe thấy “nhất quyết không được” trong bụng kêu trời luôn mồm: “Khổ quá, khổ quá! Ta với Vương Ngữ Yên phải trải qua trăm cay nghìn đắng mới được thế này, bây giờ mẹ nàng lại nhất định không chịu thì làm sao”.

Bỗng nghe ngoài song có tiếng người:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Vương cô nương và Đoàn công tử là một cặp trời sinh, một đôi đất khiến, phu nhân nói nhất quyết không được là trật lất rồi.

Vương phu nhân giận dữ nói:

- Bao Bất Đồng! Ai cho ngươi vô phép vô tắc dám cãi lại ta? Ngươi không nghe ta sai người giết con gái ngươi lập tức.

Bao Bất Đồng vốn dĩ là kẻ không sợ trời, sợ đất gì cả nhưng khi nghe Vương phu nhân gay gắt trách mắng thì im bặt không còn dám lèm bèm nữa. Đoàn Dự trong bụng khấn thầm: “Bao tam ca, Bao tam thúc, Bao tam gia, Bao tam thái gia, lạy ngài xin ngài cãi với phu nhân vài câu nữa. Bà ta nói năng chẳng đâu vào đâu, chỉ có ngài mới anh hùng hảo hán, dám đấu lý với bà ta thôi”.

Ngờ đâu bên ngoài không một tiếng động, Bao Bất Đồng không còn mở miệng thêm câu nào. Thực ra Bao Bất Đồng không phải là sợ gì Vương phu nhân giết đứa con gái Bao Bất Tịnh, có điều gia đình y mấy đời theo họ Mộ Dung, là bộ thuộc một lòng son sắt, Vương phu nhân là trưởng bối chí thân của Mộ Dung Phục, cũng không khác gì chủ nhân, nếu như đứng ra cãi tay đôi thì không khỏi bất phân thượng hạ.

Vương phu nhân thấy Bao Bất Đồng đã im, cơn giận cũng hạ bớt, hỏi Mộ Dung Phục:

- Phục quan, ngươi đến tìm ta là có ý chàng màng chuyện gì? Hẳn lại có mưu đồ chi chăng?

Mộ Dung Phục cười đáp:

- Thưa mợ, sanh nhi là kẻ chí thân nên trong bụng cũng khắc khoải nhớ đến mợ, không lẽ đến thăm cũng không được hay sao? Hà tất cứ phải có mưu đồ gì mới được?

Vương phu nhân cười khẩy đáp:

- Ha ha, ngươi quả là tốt bụng quá, lại còn nhớ đến cả bà mợ. Nếu ngươi quả là thương nhớ ta như thế thì đời ta đâu đến nỗi thê lương như thế này.

Mộ Dung Phục cười:

- Mợ có chuyện không vui sao không nói cho sanh nhi nghe, thể nào cháu cũng làm cho mợ vừa lòng.

Vương phu nhân nói:

- Chậc, chậc, chậc! Mới có mấy năm không gặp mà ngươi học đâu được cái thói miệng trơn như mỡ thế?

Mộ Dung Phục hỏi lại:

- Sao lại bảo là miệng trơn như mỡ? Người khác có tâm sự gì thì còn khó đoán chứ mợ trong bụng nghĩ đến ai, sanh nhi đoán chẳng đủ mười phần thì cũng được tám. Muốn cho mợ xứng tâm toại ý, cháu chẳng nói ngoa chứ cũng hiểu được bảy tám phần.

Vương phu nhân nói:

- Thế ngươi đoán thử xem, nếu nói năng tầm bậy tầm bạ, xem ta có nắm tai đánh cho một trận không nào.

Mộ Dung Phục dài giọng ra ngâm:

Thanh quần ngọc diện như tương thức,

Cửu nguyệt trà hoa mãn lộ khai.

Vương phu nhân giật nảy người ấp úng:

- Ngươi … ngươi sao lại biết? Ngươi đã vào trong mấy căn nhà gỗ ở đồng cỏ rồi chăng?

Mộ Dung Phục đáp:

- Việc gì mợ phải hỏi cháu tại sao lại biết mà chỉ nên hỏi làm thế nào để gặp người kia thôi?

Vương phu nhân lắp bắp:

- Gặp … gặp người đó ư?

Giọng bà ta trở nên hết sức nhu mì, xem ra có vẻ cầu khẩn, so với thanh âm uy nghiêm, lãnh đạm mới rồi thật khác xa. Mộ Dung Phục nói:

- Người mà sanh nhi nói là người mà mợ vẫn hằng thương nhớ đó.

Xuân câu thủy động trà hoa bạch

Hạ cốc vân sinh lệ chi hồng

Vương phu nhân run run hỏi:

- Ngươi bảo là ta có thể gặp được y ư?

Mộ Dung Phục đáp:

- Mợ tốn biết bao nhiêu công lao định bắt cho bằng được người này, có ngờ đâu cờ đi sai một nước khiến y tránh được. Sanh nhi nghĩ rằng gặp được y nào có khó chi đâu nhưng để mà làm gì. Chi bằng bắt y phải ngoan ngoãn nghe lời của mợ, ấy mới là hơn cả. Mợ bảo sang đằng đông y không dám đi đằng tây, mợ bảo vẽ lông mày, y không được dồi phấn.

Hai câu sau cùng y nói cực kỳ khinh bạc nhưng Vương phu nhân tâm tình khích động không hề để tâm, chỉ thở dài một tiếng nói:

- Cái bẫy ta dương ra sắp đặt cực kỳ khít khao, vậy mà y vẫn chạy thoát, ta không còn nghĩ được cách nào tốt hơn được nữa.

Mộ Dung Phục nói:

- Sanh nhi biết được chỗ ở của người này, nếu như mợ tin cháu, đem bao nhiêu chuyện sắp đặt nói rõ cho cháu nghe, không chừng cháu có thể làm cho kiến hiệu.

Vương phu nhân đáp:

- Mình nói gì thì cũng là người nhà, có gì mà bảo không tin nhau nữa? Lần này ta sử dụng ấy là kế “túy nhân phong”. Ở Mạn Đà Sơn Trang ta có nuôi mấy trăm tổ ong, trong trang ngoài hoa trà ra không còn một loại hoa nào khác. Sơn trang cách xa đất liền, ong không thể nào bay vào đâu để kiếm mật.

Mộ Dung Phục reo lên:

- Phải rồi, túy nhân phong ngoài hoa trà ra không thích những loại hương nào khác.

Vương phu nhân nói:

- Nuôi cho được những tổ ong này làm ta hao tốn mười năm tâm huyết. Trong mật dùng để nuôi ong ta có trộn thêm thuốc mê, lại thêm một loại dược vật khiến cho ong này chích rồi sẽ làm cho mê man, bất tỉnh nhân sự bốn năm ngày liền.

Đoàn Dự nghe nói giật mình: “Không lẽ ta đã ngất đi bốn năm ngày rồi hay sao?”. Mộ Dung Phục nói:

- Mợ quả là thần cơ diệu toán, người ngoài quả thực không sao bì kịp, có điều làm thế nào mà xua chúng đi chích người ta được?

Vương phu nhân đáp:

- Cái đó là ở đồ ăn ta có bỏ thêm một loại dược vật, loại thuốc đó không có chất độc, không mùi không vị chỉ hơi đắng nên không dám cho ăn nhiều một lần. Ngươi cũng biết gã đó tinh linh như quỉ, bọn đầy tớ thủ hạ của y lại thông minh tài trí, nếu dùng thuốc mê, thuốc độc gì chăng nữa để đối phó với y thì không cách nào làm được. Thành thử ta mới nghĩ cách sai người trên đường cung ứng rượu thịt, bên trong có ngầm rải thuốc.

Đoàn Dự bấy giờ mới vỡ lẽ: “Thì ra trên đường bao nhiêu tự họa thiếu nét, thiết chữ là do Vương phu nhân dụ cho gia gia điền vào, nếu điền đúng thì người mà bà ta bố trí sẵn biết ngay đây là Đại Lý Đoàn vương gia, liền dâng lên đồ ăn thức uống có bỏ dược vật”. Vương phu nhân lại tiếp:

- Ai ngờ trời xui đất khiến, gã đó đi đường khác, thằng con hắn lại xông vào. Tên tiểu quỉ đó bao nhiêu thơ phú của cha y thuộc nằm lòng, quả đúng là một lãng tử phong lưu hiếu sắc, phóng đãng vô hạnh. Bao nhiêu tự họa thiếu nét, thiếu chữ trên đường tên tiểu quỉ đó đều điền đúng cả, tham ăn thích uống, nốc hết sạch dược tửu dành cho ông già nó, mò được đến mấy căn nhà gỗ nơi đồng cỏ.

Trong nhà đó những đèn dầu đã có sẵn dược liệu, các cột nhà cũng để sẵn dược liệu, đến khi tên tiểu quỉ đó làm thủng mấy cây cột, mấy loại hương khí liền trộn với nhau dụ cho túy nhân phong bay đến. Ôi, kế của ta thì không sai, chỉ có người đến là sai thôi. Tên tiểu quỉ đó làm hỏng hết việc của ta! Hừ, nếu không đem chặt y ra làm mười bảy mười tám mảnh thì làm sao mà phát tiết được nỗi hận trong lòng?

Đoàn Dự nghe giọng điệu oán độc như thế, không khỏi rợn người, nghĩ thầm: “Cái bẫy của bà ta bố trí cực kỳ chặt chẽ, bên trong cột cũng để sẵn dược phấn để dụ cho ta điền thêm những chữ còn khuyết, làm vỡ cây cột để cho bột bay ra. Ôi, Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, ngươi từng bước từng bước rơi vào tròng của người ta, vậy mà không hề biết chút gì, quả thật hồ đồ đến cực điểm”.

Thế nhưng chàng liền nghĩ lại: “Ta trên đường điền vào những tự họa thiếu nét thiếu chữ khiến cho nha trảo của Vương phu nhân tưởng ta là gia gia, bao nhiêu tinh thần đều nhằm vào ta cả, vì thế mà gia gia mới thoát hiểm. Ta thay mặt cho cha để chịu đại họa thì có gì mà phải oán trách nữa đâu? Chuyện đó đúng là cầu còn chưa được nữa kìa”.

Chàng nghĩ như thế thấy lòng dịu xuống nhưng lại không khỏi nghĩ thêm: “Vương phu nhân bắt được ta rồi thì muốn băm chém ta thành mười bảy mười tám mảnh, còn như bắt được cha ta thì lại hết sức ngoan ngoãn chiều chuộng ông. Hai cha con mà sao đối đãi khác nhau một trời một vực”.

Chỉ nghe Vương phu nhân hậm hực hỏi:

- Ta đã bảo đứa tì tử này giả làm một bà già câm điếc để chủ trì đại cuộc, mụ cũng không phải là không nhận ra được y, vậy mà sao còn để xảy ra cái chuyện trớ trêu như thế này?

Người lão phụ biện bạch:

- Tiểu thư, tì tử đã bẩm cáo với tiểu thư là trong số những người này không có Đoàn công tử trong đó, thành thử mới đánh tráo hết hỏa đao hỏa thạch của họ để họ không đốt đèn dầu lên được, lại cũng dùng đệm cỏ che đi các câu đối trên cột nhà để khỏi dụ túy nhân phong bay đến. Ai bảo bọn chúng tự mua cái họa vào thân, cố tìm cách đốt lửa để đọc thấy đôi câu đối.

Vương phu nhân hừ một tiếng nói:

- Nói gì thì nói ngươi cũng là đồ vô tích sự.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Lão bà bà này đánh lừa lấy hết đồ đánh lửa lại dùng đệm cỏ bao các cột lại, là do lòng tốt với mình, nào có biết đâu”.

Mộ Dung Phục nói:

- Thưa mợ, loại ong này đốt người ta rồi không còn dùng được nữa hay sao?

Vương phu nhân đáp:

- Ong chích người ta xong chẳng bao lâu sẽ chết. Thế nhưng ta nuôi ong hàng nghìn hàng vạn, mất vài trăm con thì thấm vào đâu?

Mộ Dung Phục vỗ tay reo lên:

- Thế thì được rồi. Trẻ bắt trước, già bắt sau thì đã sao? Sanh nhi nghĩ rằng nếu đem y quan bội ngọc hay binh khí đồ dùng của tiểu tử kia, đem đến cho … cho … người ấy của mợ coi, dụ cho y vào trong căn nhà gỗ trong đồng cỏ thì nào có khó gì?

Vương phu nhân “A” lên một tiếng, đứng phắt dậy nói:

- Hảo sanh nhi, ngươi còn trẻ đầu óc quả là sáng suốt. Kế của mợ không xong đầu óc đâm ra lú lẫn, không còn nghĩ ra nước cờ nào khác. Đúng lắm! Đúng lắm! Y cha con nghĩa nặng nếu biết con mình rơi vào tay ta thể nào chẳng chạy đến cứu, lúc đó ta lại dùng túy nhân phong cũng đâu có muộn màng gì.

Mộ Dung Phục cười đáp:

- Đến lúc đó e rằng chẳng cần đến túy nhân phong cũng xong. Mợ chỉ cần bỏ thuốc mê vào rượu, mời y ba chén lẽ nào y lại từ chối? Nói trắng ra, chỉ cần y trông thấy dung nhan hoa nhường nguyệt thẹn của mợ rồi thì cần gì ong, cần gì rượu? Lúc đó y mê man ngây ngất làm gì chẳng xong?

Vương phu nhân hứ một tiếng, mắng:

- Chỉ láo nào, với mợ mà ăn nói cười cợt được sao?

Thế nhưng khi bà nghĩ đến lúc được gặp lại Đoàn Chính Thuần, chuốc rượu cho tình lang, không khỏi tâm hồn điên đảo, liền dịu dàng nói:

- Phải đó! Ngươi nói không sai, cứ theo như thế mà làm.

Mộ Dung Phục nói:

- Thưa mợ, cái chủ ý của cháu có dùng được chăng?

Vương phu nhân cười:

- Nếu như mọi việc êm xuôi, ta sẽ không quên lòng tốt của cháu đâu. Việc trước tiên là phải tra xét xem hiện nay gã vô lương tâm kia đang ở chỗ nào?

Mộ Dung Phục đáp:

- Sanh nhi cũng nghe phong thanh nên việc này nếu có làm cũng còn hai điều khó.

Vương phu nhân cau mày nói:

- Có cái gì mà khó? Sao ngươi cứ hay kín kín hở hở tính chuyện ra giá là sao?

Mộ Dung Phục đáp:

- Người đó hiện nay đang bị bắt giữ, tính mạng chỉ trong sớm tối.

Loảng xoảng một tiếng, tay áo Vương phu nhân chạm phải chén trà rơi xuống đất vỡ tan tành. Đoàn Dự cũng giật mình kinh hãi, nếu trong miệng không bị nhét hạt dẻ thì đã kêu lên thành tiếng. Vương phu nhân lắp bắp:

- Bị … bị người ta bắt giữ ư? Sao không nói sớm? Mình phải tìm cách cứu y ngay mới được.

Mộ Dung Phục lắc đầu:

- Thưa mợ, kẻ đối đầu võ công cực cao, sanh nhi không phải là địch thủ của y, mình chỉ nên dùng trí, không nên dùng sức.

Vương phu nhân nghe giọng y dường như cũng chưa có gì gấp gáp lắm, tuy hung hiểm thật nhưng cũng khoan tâm hỏi dồn:

- Dùng trí là thế nào? Dùng mẹo nào đây?

Mộ Dung Phục đáp:

- Cái kế dùng túy nhân phong của mợ vẫn còn dùng được. Chỉ cần thay mấy cái cột, khắc lại trên cột mấy chữ khác, chẳng hạn như vế trên là “Đại Lý quốc đương kim thiên tử Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh”, người kia trông thấy ắt hẳn nổi cơn thịnh nộ, xóa những chữ Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh đi, hương khí sẽ từ trong cột bay ra.

Vương phu nhân hỏi:

- Thế ngươi nói người đang bắt giữ y là kẻ tranh ngôi vua Đại Lý với Đoàn Chính Minh, tên là Đoàn Diên Khánh gì đó phải không?

Mộ Dung Phục đáp:

- Chính hắn.

Vương phu nhân kinh hãi nói:

- Y … y … y rơi vào tay Đoàn Diên Khánh, hẳn là dữ nhiều lành ít. Đoàn Diên Khánh lúc nào cũng chăm chăm giết chết y, không chừng … không chừng giờ này đã xử tử y rồi …

Mộ Dung Phục đáp:

- Xin mợ chớ có quá lo, bên trong còn có một điểm cực quan trọng mà mợ chưa nghĩ đến.

Vương phu nhân hỏi:

- Điểm quan trọng gì?

Mộ Dung Phục đáp:

- Hiện nay hoàng đế nước Đại Lý là Đoàn Chính Minh. Đoàn công tử của mợ vốn được phong làm hoàng thái đệ, toàn dân Đại Lý ai ai cũng đều biết cả. Đoàn Chính Minh đánh thuế nhẹ, ít lao dịch, chăm lo chính sự, thương yêu trăm họ người người đều ca tụng ông ta là thánh minh thiên tử, Trấn Nam Vương cũng được nhân dân tin cậy, hoàng vị đó khó mà lay chuyển nổi. Đoàn Diên Khánh muốn giết ông ta thật chỉ cần nhắc tay là xong nhưng một đao chém xuống rồi, thế nước Đại Lý ắt loạn to, ngôi bảo tọa hoàng đế Đại Lý chắc đâu đã vào tay Đoàn Diên Khánh?

Vương phu nhân nói:

- Ngươi nói vậy nghe cũng có lý, nhưng làm sao mà biết?

Mộ Dung Phục đáp:

- Có cái thì do sanh nhi nghe được mà cũng có chỗ thì suy đoán ra.

Vương phu nhân nói:

- Ngươi cả đời chỉ mơ tưởng được làm hoàng đế, những chỗ lắt léo đó, ắt đã nghiền ngẫm cho thật tỏ tường.

Mộ Dung Phục đáp:

- Cám ơn mợ đã quá khen. Thế nhưng sanh nhi liệu tưởng rằng Đoàn Diên Khánh bắt được Trấn Nam Vương, quyết không thể nào giết ngay mà thể nào cũng tìm cách cho y đăng cơ làm hoàng đế trước, sau đó mới nhường ngôi cho mình. Có thế mới danh chính ngôn thuận, quan dân Đại Lý mới không dị ngôn.

Vương phu nhân hỏi lại:

- Thế nào mà danh chính ngôn thuận?

Mộ Dung Phục đáp:

- Phụ thân Đoàn Diên Khánh vốn là hoàng đế Đại Lý, chỉ nhân gian thần soán vị, trong cơn hỗn loạn y không biết lạc đi đâu mất. Đoàn Chính Minh lên ngôi hoàng đế nhưng Đoàn Diên Khánh mới đích thực mười mươi “Diên Khánh thái tử”, nhân dân Đại Lý ai mà chẳng biết. Trấn Nam Vương lên ngôi hoàng đế rồi, y không có người nối dõi, lập Đoàn Diên

Khánh làm hoàng thái đệ, thế thì thật là hợp tình hợp lý, danh chính ngôn thuận.

Vương phu nhân ngạc nhiên hỏi:

- Y … y … rõ ràng có con trai, sao lại bảo là không người nối dõi?

Mộ Dung Phục cười đáp:

- Mợ vừa mới nói sao thoáng cái đã quên rồi? Chẳng phải mợ bảo là sẽ đem tiểu tử họ Đoàn chặt ra thành mười bảy mười tám mảnh hay sao? Trên đời này làm gì có hoàng thái tử nào mười bảy mười tám mảnh bao giờ?

Vương phu nhân vui mừng nói:

- Phải lắm! Đây là thứ dã tạp chủng do con tiện tì Đao Bạch Phượng sinh ra, để nó sống ta cứ nghĩ đến là lộn tiết lên rồi.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Lần này đúng là hung đa cát thiểu, Ngữ Yên không biết ở nơi đâu? Nếu không Vương phu nhân may ra thương con mà tha mạng cho mình”.

Vương phu nhân nói:

- Nếu trước mắt mạng sống của y chưa có gì đáng lo thì ta cũng yên tâm. Ta cũng chẳng cần y phải đi làm hoàng đế Đại Lý gì cho cực nhọc, chỉ cần y ở cạnh ta nơi Mạn Đà Sơn Trang mà thôi.

Mộ Dung Phục đáp:

- Trấn Nam Vương nhường ngôi xong, đương nhiên sẽ theo mợ về Mạn Đà Sơn Trang, lúc đó ông ta có ở lại Đại Lý cũng chẳng có gì hứng thú mà Đoàn Diên Khánh lẽ nào tha cho y sống để thành mầm họa sau này? Có điều Trấn Nam Vương thể nào cũng phải lên làm hoàng đế, dăm bữa cũng được, nửa tháng cũng hay, nhưng nhất định là phải qua sông thì mới chặt cầu, nếu không thì Đoàn Diên Khánh sẽ không khứng chịu.

Vương phu nhân nói:

- Hứ, y khứng chịu hay không khứng chịu thì có liên quan gì đến ta? Mình bắt được Đoàn Diên Khánh rồi, cứu Đoàn công tử xong thì trước hết chém cho y một dao, y còn chịu hay không chịu gì nữa?

Mộ Dung Phục thở dài một tiếng nói:

- Mợ vẫn còn quên một điều, chúng ta đã bắt được Đoàn Diên Khánh đâu, từ giờ tới lúc đó còn là một quãng dài.

Vương phu nhân hỏi:

- Y đang ở đâu, ngươi chắc phải biết rồi. Hảo sanh nhi, bụng dạ cháu thế nào mợ chẳng lẽ không biết hay sao? Ngươi giúp ta làm chuyện đó muốn ta đáp lại những gì? Thôi mình cứ hai năm rõ mười, mất lòng trước được lòng sau, muốn gì cứ nói trắng ra đi.

Mộ Dung Phục đáp:

- Mình là chỗ người nhà, cháu giúp mợ một chút đâu có dám đòi hỏi công lao gì? Sanh nhi cứ làm hết sức chẳng dám xin xỏ gì cả.

Vương phu nhân nói:

- Bây giờ ngươi không nói, sau này nếu đề cập đến mà ta không bằng lòng thì đừng có trách đấy nhé!

Mộ Dung Phục cười đáp:

- Cháu đã bảo không đòi hỏi công lao là không đòi hỏi gì cả. Nếu lúc đó nếu như mợ thấy vui lòng, thưởng cho vài vạn lạng vàng, hay cho vài bộ võ học bí điển trong Lang Hoàn Các, thế là quá đủ.

Vương phu nhân hừ một tiếng, nói:

- Ngươi cần tiền tiêu thì cứ đến nói với ta, có bao giờ ta lại không cho? Ngươi muốn xem võ học bí yếu trong Lang Hoàn Các, ta lúc nào cũng hoan nghênh. Chỉ buồn ngươi không lo chuyện chính đáng, lêu lổng chẳng màng chuyện tiến thân, ta thật không biết trong bụng ngươi tính toán những gì? Thôi được, làm sao bắt được Đoàn Diên Khánh, làm sao cứu người, ngươi sắp xếp ra sao?

Mộ Dung Phục đáp:

- Bước thứ nhất là dụ cho Đoàn Diên Khánh đem Trấn Nam Vương đến căn nhà gỗ trong đồng cỏ, có phải thế không?

Vương phu nhân hỏi:

- Đúng thế! Ngươi có cách nào dụ được Đoàn Diên Khánh không?

Mộ Dung Phục đáp:

- Chuyện này thật dễ dàng. Đoàn Diên Khánh muốn được làm hoàng đế Đại Lý, ắt phải làm được hai chuyện: Thứ nhất là bắt được Đoàn Chính Thuần ép cho ông ta phải nhường ngôi, thứ hai làgiết Đoàn Dự để cho Đoàn Chính Thuần trở thành “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”.

Chuyện thứ nhất thì Đoàn Diên Khánh đã làm xong, bắt được Đoàn Chính Thuần rồi. Còn Đoàn Dự thì vẫn còn đây. Ta lấy một món gì của Đoàn Dự đem cho Đoàn Chính Thuần coi, Đoàn Chính Thuần thể nào cũng tìm cách cứu con, Đoàn Diên Khánh sẽ theo y đến. Việc mợ bắt được tên tiểu tử họ Đoàn kia đâu có gì là sai, chính là có việc dùng, không có mồi thơm làm sao bắt được con ba ba?

Vương phu nhân cười nói:

- Ngươi bảo tên tiểu tử họ Đoàn là cái mồi thơm à?

Mộ Dung Phục cũng cười đáp:

- Cháu xem chừng y nửa thơm nửa thối.

Vương phu nhân hỏi lại:

- Thế là sao?

Mộ Dung Phục đáp:

- Một nửa do Trấn Nam Vương sinh ra thì là thơm, còn một nửa do con tiện nhân Trấn Nam Vương phi thì là thối.

Vương phu nhân cười khanh khách nói:

- Ngươi quả là một tiểu tử mồm trơn như mỡ, biết cách làm cho ta vui lòng.

Mộ Dung Phục cười đáp:

- Thì chỉ mong sao ngựa đã hay lại ra roi mà chạy, làm xong sớm chừng nào thì mợ vui lòng chừng nấy. Xin mợ cho đem tiểu tử đó ra đây.

Vương phu nhân nói:

- Y bị túy nhân phong chích rồi, tối thiểu cũng phải ba ngày mới tỉnh lại được. Nếu không tiểu tử đó nhốt ở ngay vách bên kia mình nói lớn như thế y nghe được cả hay sao? Ta còn một chuyện nữa muốn hỏi ngươi, gã … gã Trấn Nam Vương kia tuy là kẻ vô lương tâm nhưng cũng là kẻ cứng cỏi, Đoàn Diên Khánh làm thế nào mà ép y nhường ngôi cho được? Không lẽ y lại hành hạ dày vò … khiến y phải khổ sở hay sao?

Bà ta nói tới đây giọng đầy vẻ lo lắng. Mộ Dung Phục thở dài một tiếng nói:

- Thưa mợ, chuyện đó việc gì còn phải hỏi, có nói ra chỉ làm cho mợ thêm bực mình.

Vương phu nhân hỏi dồn:

- Nói mau, nói mau, ngươi còn định trao đổi cái gì nữa đây?

Mộ Dung Phục thở dài:

- Nếu bảo gã họ Đoàn Đại Lý vô lương tâm, ấy là đúng lắm. Một người dung nhan như mợ, văn võ song toàn, đốt đèn kiếm khắp thiên hạ liệu có tìm được người thứ hai chăng? Không biết kiếp trước y tu thế nào mà lại được người như mợ chiếu cố đến, vậy mà không biết chung thủy một lòng, lại đi … ôi, trên đời này với những thứ sâu bọ không biết phải quấy như thế, có phúc không biết hưởng, Hằng Nga nơi cung nguyệt không yêu, lại màng đến con lợn nái vũng bùn lầy …

Vương phu nhân tức tối hỏi lại:

- Ngươi bảo là y … y … cái gã vô lương tâm kia, lại đèo bòng con đàn bà khác hay sao? Đứa nào thế? Đó là đứa nào?

Mộ Dung Phục đáp:

- Ối, cái thứ đàn bà hạ tiện liễu ngõ hoa tường, không đáng xách dép cho mợ kia, chỉ đáng là vợ con những thằng cha căng chú kiết, việc gì phải hạ mình bực tức với những đồ như thế.

Vương phu nhân nổi cơn tam bành, giơ tay đập bàn thình thình, quát tháo:

- Nói mau! Thằng khốn kiếp, nó bỏ ta về Đại Lý làm cái thứ vương gia gì gì thì ta không thèm trách. Y có sẵn vợ nhà, ta cũng không thèm trách, vì chưng lúc ta biết y thì hắn đã là chồng người khác rồi! Thế nhưng … thế nhưng … ngươi bảo y lại đi giăng dện với những con đàn bà khác, thế đó là đứa nào? Là đứa nào?

Đoàn Dự ở bên này thấy bà ta nổi cơn lôi đình, không khỏi phát sốt phát rét, nghĩ thầm: “Ngữ Yên ôn nhu hòa thuận bao nhiêu sao mà bà mẹ lại dữ dằn đến thế? Gia gia có thể chiều bà ta được, quả không phải dễ”. Chàng lại nghĩ ngay: “Sao những cựu tình nhân của cha ta người nào tính tình cũng kỳ quái, Tần a di sai con đến giết mẹ ta, Nguyễn a di thì sinh được A Tử muội muội, tính nết không chịu nổi, Cam a di đã lấy Chung Vạn Cừu rồi mà vẫn còn vương vấn gia gia. Bà vợ của Mã phó bang chủ Cái Bang thì khỏi nói. Ngay cả đến má má mình, bà nhất định không ở chung với cha ta, ra đạo quan bên ngoài thành làm đạo cô, dẫu Hoàng bá phụ, Hoàng bá mẫu khuyên lơn cũng không chịu. Ôi, sao cả mẹ mình mà cũng cá mè một lứa thế nhỉ?”.

Mộ Dung Phục nói:

- Thưa mợ, làm gì mà phải nổi cơn tam bành lên thế? Mợ nghỉ một lát, sanh nhi sẽ từ từ kể hết đầu đuôi.

Vương phu nhân nói:

- Ngươi chẳng nói thì ta cũng đoán ra rồi, có phải Đoàn Diên Khánh bắt được một con đàn bà đê tiện của tiểu tử họ Đoàn, ép y sau khi làm hoàng đế phải nhường ngôi, nếu không bằng lòng thì sẽ làm khó con tiện nhân, phải không nào?

Tính khí gã tiểu tử họ Đoàn ta đã biết thừa. Người khác bức bách y làm gì, dù có dao kề cổ, y thà chết cũng không hạ mình, thế nhưng ai đụng vào kẻ y thương yêu thì việc gì cũng làm, đến mạng mình cũng chẳng coi vào đâu.

Hừ, thế con tiện nhân đó mặt mũi thế nào? Cái thứ hồ li tinh đó không biết dùng thủ đoạn gì để rù quến y? Nói mau, con đàn bà hư đốn đó là ai?

Mộ Dung Phục đáp:

- Thưa mợ, thôi cháu đành phải nói thôi, mong mợ bớt giận làm lành, thứ đàn bà đê tiện kia đâu phải chỉ một đứa mà thôi.

Vương phu nhân vừa ngạc nhiên vừa tức tối, bình một tiếng vỗ xuống bàn một cái thật mạnh nói:

- Cái gì? Không lẽ lại những hai đứa hay sao?

Mộ Dung Phục thở dài một tiếng u uẩn đáp:

- Đâu phải chỉ có hai.

Vương phu nhân càng lồng lộn lên:

- Cái gì? Chẳng lẽ y đi đường lại còn bạ đâu xâu đó, hoa hái đầy tay, một người chưa đủ lại phải hai ba hay sao?

Mộ Dung Phục lắc đầu ngán ngẩm:

- Trước mắt là phải đến bốn người đàn bà đi cùng với y. Thưa mợ, mợ việc gì mà phải giận cho nhọc người? Sau này y lên ngôi hoàng đế, tam cung lục viện muốn bao nhiêu mà chẳng được? Dẫu rằng Đại Lý là nước nhỏ, chẳng thể sánh được với Đại Tống, Đại Liêu, “hậu cung giai lệ” chẳng được ba nghìn thì cũng phải đến ba trăm.

Vương phu nhân gắt:

- Hừ hừ! Chính thế mà ta đâu có muốn y làm hoàng đế. Ngươi nói ta nghe bốn con tiện nữ đó là những đứa nào?

Đoàn Dự cũng thấy lạ lùng, chàng chỉ biết có Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc hai người đi theo phụ thân, sao nay lại có thêm hai bà nào nữa?

Chỉ nghe Mộ Dung Phục nói tiếp:

- Một người họ Tần, một người họ Nguyễn …

Vương phu nhân ngắt lời:

- Hừ, Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc, hai con hồ li tinh đó lại quấn lấy y.

Mộ Dung Phục tiếp:

- Còn một người đàn bà đã có chồng, nghe bọn họ gọi là Chung phu nhân, hình như là đi tìm con gái thì phải. Vị Chung phu nhân này giữ gìn khuôn phép lắm, không hề tỏ vẻ âu yếm Trấn Nam Vương, Trấn Nam Vương cũng lấy lễ đãi lại, có điều đầu mày cuối mắt mỗi khi gọi bà ta “Bảo Bảo, Bảo Bảo”, xem chừng cực kỳ thân mật.

Vương phu nhân lại bùng lên:

- Đó là con tiện nhân Cam Bảo Bảo, cái gì mà “lấy lễ đãi lại”? Chỉ vờ vịt vải thưa che mắt thánh, nếu quả thực giữ gìn khuôn phép thì tránh cho xa có được không, việc gì mà phải sán lại? Thế con tiện nữ thứ tư là ai?

Mộ Dung Phục đáp:

- Còn người thứ tư không phải tiện nữ tử, đó chính là nguyên phối chính thất của Trấn Nam Vương, tức là Trấn Nam Vương phi.

Cả Đoàn Dự lẫn Vương phu nhân đều sửng sốt. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Sao má má lại đến đó?” còn Vương phu nhân thì kêu lên một tiếng, hiển nhiên thật ngoài dự liệu. Mộ Dung Phục cười đáp:

- Mợ thấy lạ lắm chăng? Thực ra mợ thử nghĩ mà xem, chẳng có gì là lạ. Trấn Nam Vương rời Đại Lý hơn một năm nay chưa về, gái đẹp Trung Nguyên vô số, đã có những người xinh đẹp như mợ, lại thêm nào là Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc những con hồ li tinh, Trấn Nam Vương phi làm sao yên bụng được?

Vương phu nhân hừ một tiếng nói:

- Sao ngươi dám xếp ta chung một bầy với những con hồ li tinh? Bốn mụ đàn bà hiện nay cùng ở cạnh y ư?

Mộ Dung Phục cười nói:

- Xin mợ cứ yên tâm. Trên bãi Hồng Sa, bên bờ Song Phượng hai bên ác đấu một trận, Trấn Nam Vương hoàn toàn thất bại. Đoàn Diên Khánh một mẻ lưới vét sạch, cả nam lẫn nữ bị y điểm trúng huyệt đạo, bắt hết cả rồi. Đoàn Diên Khánh chỉ cốt đối phó với bọn Trấn Nam Vương, đâu có để ý đến sanh nhi náu ở một bên, nhìn thấy hết từ đầu chí cuối. Sanh nhi vội vàng hộc tốc chặn đầu trước một trăm dặm. Thưa mợ,

việc không nên trì hoãn, một mặt mình bố trí mê dược và túy nhân phong, một mặt sai người đến dụ Đoàn Diên Khánh…

Chữ “Khánh” vừa nói xong, từ đằng xa có một giọng the thé cực kỳ khó nghe truyền đến:

- Ta đã đến đây rồi, chẳng cần phải dụ nữa, túy nhân phong và mê dược cứ việc bố trí đi.

VƯƠNG TÔN LẠC PHÁCH, CHẨM SINH TIÊU ĐẮC

DƯƠNG CHI NGỌC LỘ

Một thân lưu lạc dãi dầu,

Nào đâu địa ngục nào đâu thiên đường.

Đâu là ngọc lộ cành dương,

Đâu là nước mắt mang mang bể sầu.

*

*          *

   T iếng nói đó ít ra cũng phải ngoài mươi trượng nhưng truyền vào tai Mộ Dung Phục và Vương phu nhân tưởng chỉ cách chưa đầy một thước. Hai người mặt tái đi, bên ngoài tiếng Phong Ba Ác, Bao Bất Đồng cùng quát tháo, xông về phía có thanh âm. Mộ Dung Phục lẻn ra ngoài, dưới ánh trăng một bóng màu xanh lay động, tiếp theo một bóng màu xám, một bóng màu vàng từ bên cạnh lướt tới chính là Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can từ hai bên chia ra tấn công.

Đoàn Diên Khánh chống gậy xuống đất, trượng bên kia quét ngang điểm vào Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can, soẹt soẹt soẹt mấy cái, trong nháy mắt tung ra sát thủ liên tiếp. Đặng Bách Xuyên miễn cưỡng đối phó được, còn Công Dã Can chịu không nổi, liên tiếp lùi lại hai bước. Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác hai người cũng xông vào trợ chiến. Đoàn Diên Khánh tuy một mình đánh với bốn người nhưng vẫn ung dung, thế lấn lướt hẳn.

Mộ Dung Phục rút phắt trường kiếm đeo ngang hông, múa lên thành một vùng ánh sáng xanh đâm vào Đoàn Diên Khánh. Đoàn Diên Khánh bị năm người vây đánh, Mộ Dung Phục lại là một cao thủ hạng nhất nhưng trượng ảnh vẫn vù vù, ra chiêu cực kỳ lăng lệ.

Thuở Vương phu nhân và Đoàn Chính Thuần hai người ái tình nồng thắm, khi dạo nguyệt, lúc xem hoa, ngoài việc thề non hẹn biển cũng còn đàm luận võ công. Đoàn Chính Thuần cũng đã đem Nhất Dương Chỉ và kiếm pháp họ Đoàn các loại thí diễn cho tình nhân xem. Lúc này Vương phu nhân sử dụng chiêu thức chẳng khác gì Đoàn lang thuở nào, làm sao không khỏi thương tâm?

Bà nghĩ đến người tình hiện đã bị bắt, chắc cũng gần đâu đây, sao không nhân dịp này đi cứu chàng ra? Bà vừa toan ra ngoài đi tìm bỗng nghe Phong Ba Ác kêu rú lên một tiếng. Chỉ thấy y nằm lăn trên mặt đất, cương trượng trên tay Đoàn Diên Khánh còn cách y chừng một thước vạch qua vạch lại nhưng không tấn công vào chỗ yếu hại. Binh khí của bọn Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên tấn công Đoàn Diên Khánh đều bị binh khí của y đánh bật ra. Tình thế đó hiển nhiên cho thấy nếu Đoàn Diên Khánh muốn lấy mạng Phong Ba Ác thật dễ như trở bàn tay nhưng tạm thời thủ hạ lưu tình đấy thôi.

Mộ Dung Phục nhảy lùi về sau kêu lên:

-          Khoan đã!

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng ba người cũng lùi lại. Mộ Dung Phục hỏi:

-          Đoàn tiên sinh, đa tạ tiên sinh đã nới tay, hai chúng ta xưa nay không thù không oán, từ rày về sau, Cô Tô Mộ Dung cam chịu hạ phong.

Phong Ba Ác kêu lên:

-          Họ Phong học nghệ không tinh xảo, một mạng này có đáng gì? Công tử gia đừng vì họ Phong mà phải chịu nước lép.

Đoàn Diên Khánh từ cổ họng phát ra một tiếng cười ú ớ nói:

-          Họ Phong quả là một hảo hán tử.

Y vừa nói vừa rút trượng về. Phong Ba Ác dùng thế Lý Ngư Đả Đĩnh, vụt một cái tung người lên vung đơn đao chém thẳng xuống đầu Đoàn Diên Khánh, quát:

-          Nếm một đao của ta.

Đoàn Diên Khánh hất trượng lên, cuốn lấy đơn đao. Phong Ba Ác thấy một lực đạo cực mạnh chấn động bàn tay, thanh đao tuột khỏi tay rồi hông đau nhói, đã bị đối phương điểm một gậy, hất ra ngoài hàng chục trượng. Tay trái Đoàn Diên Khánh hơi chếch xuống, nội lực từ cương trượng truyền xuống đơn đao, leng keng leng keng mấy tiếng đã gẫy thành hàng chục mảnh, đụng vào nhau bay tung tóe. Vương phu nhân, Mộ Dung Phục cả bọn kẻ nhảy lên, người hụp xuống tránh né, trong bụng ai nấy khiếp đảm.

Mộ Dung Phục vòng tay nói:

-          Đoàn tiên sinh thần công cái thế, bội phục, bội phục! Chúng mình bây giờ đổi thù thành bạn, nên chăng?

Đoàn Diên Khánh nói:

-          Ngươi vừa bảo là sẽ bố trí túy nhân phong để hại ta, bây giờ thấy không địch nổi nên nói nhũn, thế là có ý gì đây?

Mộ Dung Phục đáp:

-          Nếu tiên sinh và tại hạ hai người nắm tay cùng mưu tính thì có lợi hơn nhiều. Diên Khánh thái tử, tiên sinh là đích hệ trữ quân của nước Đại Lý, ngôi báu bị người ta cướp mất, sao không tìm cách đoạt lại?

Đôi mắt quái đản của Đoàn Diên Khánh liếc nhìn y, lạnh lùng hỏi:

-          Chuyện đó có liên can gì đến ngươi đâu?

Mộ Dung Phục nói:

-          Nếu tiên sinh muốn làm hoàng đế Đại Lý thì không thể không nhờ tại hạ tương trợ.

Đoàn Diên Khánh cười khẩy nói:

-          Ta không tin ngươi lại muốn giúp ta, e rằng trong bụng chỉ mong đâm ta một kiếm.

Mộ Dung Phục đáp:

-          Tại hạ muốn giúp tiền bối lên ngôi hoàng đế Đại Lý, cũng là do tính toán cho mình nữa. Thứ nhất, tại hạ hận tên tiểu tử Đoàn Dự, trên núi Thiếu Thất ép cho tại hạ phải xấu hổ toan tự tận, khiến họ Mộ Dung không còn đất đứng trên giang hồ nên muốn giết gã đoạt lại hoàng vị cho tiền bối để rửa mối hận lòng. Thứ hai, tiền bối lên ngôi hoàng đế Đại Lý rồi, tại hạ cũng có việc nhờ giúp lại.

Đoàn Diên Khánh biết rõ Mộ Dung Phục là kẻ túc trí đa mưu, với mình chẳng có bụng tốt lành gì, nhưng nghe y nói thế, cũng phải tin đến bảy tám phần. Hôm trước trên núi Thiếu Thất, Đoàn Dự dùng Lục Mạch Thần Kiếm đánh cho Mộ Dung Phục không còn đường chống đỡ là chuyện chính mắt Đoàn Diên Khánh chứng kiến. Y nhớ lại chuyện cũ, trong bụng cực kỳ lo âu, tuy đã bắt được Đoàn Chính Thuần rồi nhưng biết mình không thể nào địch lại Đoàn Dự, nếu như hai bên đụng độ thì thể nào cũng bỏ mạng dưới kiếm khí vô hình của đối phương, cách đối phó duy nhất là đem tính mạng vợ chồng Đoàn Chính Thuần ra uy hiếp, rồi tìm cách chế ngự Đoàn Dự nhưng cũng không lấy gì làm chắc. Y bèn hỏi:

-          Các hạ đã không phải là đối thủ của Đoàn Dự rồi thì lấy cách gì chế phục y?

Mộ Dung Phục ngượng ngập đáp:

-          Sức không đánh nổi thì dùng mưu. Nói gì thì nói, miễn là tại hạ bắt được Đoàn Dự giao lại cho các hạ là xong.

Đoàn Diên Khánh mừng rỡ, chuyện y lo âu nhất là võ công Đoàn Dự quá cao siêu không sao địch nổi, nếu Mộ Dung Phục có thể bắt được y, ấy là trừ khử cho mình một mối họa cực lớn nhưng lại sợ Mộ Dung Phục chỉ khoác lác để lòe mình, không thể dễ dàng mắc hỡm y được liền nói:

-          Ngươi bảo là bắt được Đoàn Dự, nói thế chẳng là không tưởng, khẩu thuyết vô bằng hay sao?

Mộ Dung Phục mỉm cười nói:

-          Vị Vương phu nhân đây là cữu mẫu[1] của tại hạ, gã tiểu tử Đoàn Dự đã bị mợ tôi bắt được rồi. Bà ta đang định đem Đoàn Dự để đổi với các hạ một người, bọn tôi muốn dụ các hạ đến đây cũng vì lẽ đó.

Khi đó Vương phu nhân đã đưa mắt nhìn bốn bề để tìm xem Đoàn Chính Thuần ở chỗ nào, nghe Mộ Dung Phục nói thế vội vàng quay lại. Đoàn Diên Khánh cất tiếng eo éo từ trong bụng ra:

-          Chẳng hay phu nhân định đổi lấy ai thế?

Vương phu nhân mặt đỏ lên, người mà bà ngày đêm nhung nhớ, lúc nào cũng nghĩ đến chính là Đoàn Chính Thuần, ngặt nỗi thân phận đàn bà góa mà lại công nhiên thổ lộ tâm sự với người ngoài thì không tiện, ngần ngại không biết phải trả lời sao. Mộ Dung Phục nói:

-          Phụ thân của tiểu tử Đoàn Dự là Đoàn Chính Thuần, năm xưa đắc tội với mợ tôi, quả thực thù sâu như biển. Mợ tôi chỉ mong các hạ thuận cho một điều, sau khi được nhường ngôi vua Đại Lý thì giao lại Đoàn Chính Thuần, lúc đó lột da xẻ thịt, vạc dầu, nướng than tùy ý phu nhân định liệu.

Đoàn Diên Khánh cười ặc ặc nghĩ thầm: “Y nhường ngôi rồi, ta vốn định đem y ra xử tử, nay ngươi thay ta làm chuyện đó thì còn gì bằng”. Thế nhưng xem chừng chuyện này quá dễ dãi, e rằng bên trong có ngụy trá gì đây bèn hỏi:

-          Mộ Dung công tử, ngươi bảo khi ta đăng cơ xong sẽ có chuyện nhờ ta giúp, không biết việc đó tại hạ có đủ sức không, xin nói ra trước, để khỏi sau này ta làm không xong, thành kẻ tiểu nhân vô tín nghĩa.

Mộ Dung Phục đáp:

-          Đoàn điện hạ đã nói như thế càng làm cho tại hạ tin tưởng vạn phần. Chúng ta đã trao đổi với nhau một chuyện tày trời như thế này, việc trong tâm khảm của tại hạ lẽ nào còn dấu diếm điện hạ làm chi? Họ Mộ Dung ở Cô Tô là hậu duệ của hoàng tộc nước Đại Yên, liệt tổ liệt tông từng di huấn phải hết sức hưng phục cơ nghiệp. Tại hạ lực lượng đơn bạc, khó mà thành được đại sự. Đợi cho điện hạ chính vị ngôi vua Đại Lý rồi, Mộ Dung Phục mong được quốc chủ cho mượn một vạn binh, đầy đủ lương thực để dùng vào việc hưng phục Đại Yên.

Việc Mộ Dung Phục là hoàng duệ nước Đại Yên, khi Mộ Dung Bác ngăn trở việc y tự vẫn trên núi Thiếu Thất, Đoàn Diên Khánh ở ngoài nhìn vào đã đoán được bảy tám phần, nay lại nghe Mộ Dung Phục thổ lộ đại bí mật của mình, đủ biết trong lòng thành thực, nghĩ thầm: “Y muốn hưng phục Đại Yên thì phải cùng một lúc đối địch với cả Đại Tống, Đại Liêu. Nước Đại Lý ta đất hẹp người thưa, tự bảo vệ mình còn chưa xong, làm sao lại dám gây sự với các đại quốc? Huống chi ta vừa mới lên ngôi, nhân tâm chưa ổn định, lẽ đâu lại gây chuyện binh đao? Thôi được, bây giờ mình cứ giả vờ ưng thuận, đến lúc đó tính kế trừ y đi là xong, bụng người quân tử há lại nhỏ nhen, tâm kẻ trượng phu sao không độc địa?”. Y bèn đáp:

-          Đại Lý nước nhỏ dân nghèo, một vạn binh e rằng khó mà cung đốn nổi, chỉ có thể có được năm nghìn thôi. Mong rằng một khi đại công cáo thành, Đại Yên, Đại Lý hai nước sẽ mãi mãi có tình hôn nhân huynh đệ.

Mộ Dung Phục phục xuống lạy một cái thật sâu, nhỏ lệ đáp:

-          Mộ Dung Phục nếu khôi phục được cơ nghiệp tổ tông, đời đời thế thế sẽ làm bình phong cho Đại Lý, quyết không dám quên đại ân đại đức của bệ hạ.

Đoàn Diên Khánh thấy y đổi giọng gọi mình là “bệ hạ”, hết sức sung sướng, lại nghe y nói tới câu sau cùng giọng nghẹn ngào vô cùng thành khẩn, vội vàng đưa tay đỡ lên nói:

-          Công tử bất tất đa lễ. Không biết tên tiểu tử Đoàn Dự nay ở đâu?

Mộ Dung Phục chưa kịp hồi đáp, Vương phu nhân đã tiến lên hai bước hỏi:

-          Đoàn Chính Thuần gã kia bây giờ ở đâu?

Mộ Dung Phục nói:

-          Xin bệ hạ dẫn các tùy tòng đến nhà cữu mẫu tại hạ nghỉ chân. Đoàn Dự dĩ nhiên đã trói sẵn dâng lên ngay lập tức.

Đoàn Diên Khánh vui mừng nói:

-          Thế thì hay lắm.

Đột nhiên từ trong bụng y phát ra một tiếng rít rền rĩ. Vương phu nhân còn đang kinh ngạc đã nghe từ xa có tiếng chân dồn dập, lọc cọc, mấy chiếc xe lừa chạy đến. Chẳng bao lâu đã thấy bốn người cưỡi ngựa, áp tống ba cỗ xe từ đường cái chạy vào. Vương phu nhân nhún người nhảy tới, chắc mẩm Đoàn Chính Thuần ắt đang ở trong xe nên bồn chồn tiến tới mở ngay rèm che chiếc xe thứ nhất.

Đột nhiên một người mồm rộng mắt hí, đầu hói tai vểnh từ đâu đã nhảy ra chặn ngay trước mặt, cất tiếng eo éo quát lên:

-          Làm gì thế?

Vương phu nhân giật mình nhảy ra ngoài, nhìn lại thấy gã xấu xí kia tay cầm roi, chính là người đánh xe. Đoàn Diên Khánh nói:

-          Tam đệ, vị này là Vương phu nhân, tất cả chúng ta cùng đến trang viện của phu nhân nghỉ ngơi. Những người khách trong xe cũng đem theo luôn.

Người xa phu đó chính là Nam Hải Ngạc Thần. Rèm xe vén ra, một người uy nghi bước xuống. Vương phu nhân thấy ông ta dung nhan tiều tụy, mặc một chiếc áo bào nhăn nhúm, chính là Đoàn lang người không ngày nào bà không nghĩ đến, ngực nóng hổi, nước mắt ròng ròng, vội vàng tiến lên kêu khẽ:

-          Đoàn … Đoàn … chàng … chàng khỏe chứ?

Đoàn Chính Thuần nghe tiếng kinh hãi hết sức, quay lại thấy Vương phu nhân, mặt liền biến sắc. Ông đi đến đâu cũng để lại những món nợ phong lưu, nhưngï chỉ có Vương phu nhân là gay go hơn hết. Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc thì cũng chỉ muốn ông bầu bạn sớm hôm là đủ mãn nguyện còn Vương phu nhân thì thật là đanh đá, xuất quyền động đao, nhất định ép ông phải về giết nguyên phối Đao Bạch Phượng để lấy bà ta làm vợ, chuyện đó Đoàn Chính Thuần làm sao thực hiện được? Bà ta làm dữ đến nỗi ông không thể công khai từ giã mà phải lén trốn đi, tưởng đã thoát nợ, ngờ đâu ngay lúc mình trong cơn quẫn bách lại gặp phải oan gia.

Đoàn Chính Thuần tuy không phải là kẻ chuyên nhất một mối tình nhưng được cái đối với ai cũng hết sức chân thành, qua cơn hoảng hốt, lập tức nghĩ ngay đến nguy nan của người tình cũ, vội vàng kêu lên:

-          A La! Chạy cho mau! Lão già áo xanh đây là đại ác nhân, chớ để rơi vào tay y.

Ông nghiêng người, chắn giữa Đoàn Diên Khánh và Vương phu nhân, luôn mồm giục giã:

-          Chạy mau! Chạy mau!

Thực ra ông đã bị Đoàn Diên Khánh điểm trúng trọng huyệt rồi, cử động cực kỳ khó khăn, còn hơi sức nào mà che chở cho Vương phu nhân?

Thế nhưng chỉ lên tiếng gọi “A La” đầy vẻ trìu mến chân thành, bao nhiêu oán hận trong lòng Vương phu nhân trong nháy mắt biến thành muôn vạn mối nhu tình, có điều trước mặt Đoàn Diên Khánh và Mộ Dung Phục không thể nào lộ ra được, lập tức cười khẩy một tiếng nói:

-          Thật là tượng đất qua sông, mình chẳng lo được cho mình còn lo cho ai? Y là đại ác nhân, không lẽ ngươi là đại hảo nhân chăng?

Bà ta quay sang Đoàn Diên Khánh:

-          Điện hạ, xin mời!

Đoàn Diên Khánh biết rõ tính nết Đoàn Chính Thuần, bây giờ nhìn cử động thần sắc của ông, rõ ràng đối với Vương phu nhân yêu thương nồng nàn nhưng Vương phu nhân lại đầy lòng oán hận, hẳn là yêu quá hóa thù, nghĩ thầm: “Hai người này có quan hệ với nhau không phải tầm thường, mình chớ có mắc hỡm của chúng”. Y tài cao mật lớn nên đâu có sợ hãi gì, ngang nhiên tiến vào trong nhà.

Đây là một tòa trang việc Vương phu nhân kiến tạo đặc biệt đễ bắt giữ Đoàn Chính Thuần, kiến trúc qui mô không phải nhỏ, vào bên trong là một tòa nhà lớn, trồng đầy hoa trà, dưới ánh trăng bóng hoa lung linh, cực kỳ nhã khiết.

Đoàn Chính Thuần thấy hoa trà bài trí giống hệt như khu vườn ở Mạn Đà Sơn Trang ngày nào hai người liền cành chắp cánh, trong lòng xót xa, nói khẽ:

-          Thì ra … thì ra đây là nơi nàng ở.

Vương phu nhân cười nhạt đáp:

-          Ngươi cũng nhận được ra sao?

Đoàn Chính Thuần nói:

-          Sao lại không nhận ra. Ta chỉ tiếc năm xưa không cùng nàng ăn ở đến răng long đầu bạc ở Mạn Đà Sơn Trang …

Nam Hải Ngạc Thần và Vân Trung Hạc cũng dẫn hết tất cả những người bị bắt để trong hai cỗ xe kia vào trong nhà. Một cỗ xe là Đao Bạch Phượng, Chung phu nhân Cam Bảo Bảo, Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc bốn người đàn bà, còn một cỗ xe là bọn Phạm Hoa ba người công thần của Đại Lý, lại thêm Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi. Cả chín người đều bị Đoàn Diên Khánh điểm trúng trọng huyệt.

Thì ra Đoàn Chính Thuần phái Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần hộ tống Đoàn Dự sang Tây Hạ cầu thân rồi, chẳng bao lâu lại tiếp được sứ giả của Bảo Định Đế gửi sang đem chỉ dụ đòi ông ta phải về Đại Lý ngay tức khắc để đăng cơ tiếp vị, còn Bảo Định Đế định lên chùa Thiên Long xuất gia.

Hoàng thất nước Đại Lý sùng tín Phật pháp, những vì vua về già nhường ngôi đi tu rất nhiều, thành thử Đoàn Chính Thuần khi nhận được chỉ dụ trong lòng thương cảm nhưng cũng không lấy gì làm lạ, lập tức cùng Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc thủng thẳng xuôi nam, định sẽ bí mật sắp xếp cho hai bà ở một nơi trong thành Đại Lý, không cho vương phi Đao Bạch Phượng hay biết. Ngờ đâu Đao Bạch Phượng và Cam Bảo Bảo hai người trước sau lại đến. Đến khi nhân được tin báo của chư nữ cung Linh Thứu cảnh giác, nói là có kẻ đối đầu lợi hại đang giăng bẫy, khuyên Đoàn Chính Thuần gia tâm đề phòng.

Đoàn Chính Thuần cùng bọn Phạm Hoa thương nghị, ai nấy đều cho rằng kẻ “đối đầu lợi hại” kia ắt là Đoàn Diên Khánh chứ không còn ai, người này khó mà đối phó chi bằng tránh mặt là hơn nên lập tức chuyển đường qua hướng đông. Ông có ngờ đâu tin tức trên là do A Bích nghe được của thị tì Vương phu nhân, mà chỉ biết là Vương phu nhân đang giăng bẫy nhưng có biết đâu tuyệt nhiên không có ý làm hại Đoàn Chính Thuần.

Đoàn Chính Thuần đổi đường đi rồi, bao nhiêu những sắp xếp của Vương phu nhân đều trút lên đầu Đoàn Dự, còn Đoàn Chính Thuần thì lại đụng đầu Đoàn Diên Khánh. Ở nơi bãi Hồng Sa, bến Phượng Hoàng[2] hai bên đánh nhau, cả bọn Đoàn Chính Thuần bị thua to, Cổ Đốc Thành bị Nam Hải Ngạc Thần đánh văng xuống sông, chết mất xác những người còn lại đều bị Đoàn Diên Khánh điểm huyệt, giải về phương nam.

Mộ Dung Phục sai bọn Đặng Bách Xuyên bốn người canh gác ở bên ngoài, còn chính y ngang nhiên đóng vai chủ nhân, quát tháo tì bộc khoản đãi khách.

Vương phu nhân chăn chăm nhìn Đao Bạch Phượng, Cam Bảo Bảo, Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc, thấy bốn người người nào cũng có nét yêu kiều xinh đẹp, tuy bản thân mình không kém cạnh gì nhưng gọi họ bằng những chữ “tao hồ ly”, “tiện nữ nhân” xem ra không ổn, cái cảnh “trông người mà nghĩ đến ta”, tự nhiên có lòng thương cảm.

Đoàn Dự ở vách bên kia thấy cả cha lẫn mẹ cùng rơi vào tay địch, trong bụng tuy có chút vui mừng nhưng không khỏi lo âu. Chỉ nghe Đoàn Diên Khánh nói:

-          Vương phu nhân, để khi đại sự xong rồi, ta sẽ giao lại Đoàn Chính Thuần cho bà xử trí sao cũng được. Còn gã tiểu tử Đoàn Dự nay ở đâu?

Vương phu nhân vỗ tay ba tiếng, hai đứa thị tì liền chạy ra ngoài cửa, khom lưng chờ lệnh. Vương phu nhân nói:

-          Đem tiểu tử họ Đoàn ra đây!

Đoàn Diên Khánh ngồi trên ghế, tay trái giữ vai Đoàn Chính Thuần. Y cực kỳ úy kỵ Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự, lại sợ Vương phu nhân và Mộ Dung Phục dùng ngụy kế, đem Đoàn Dự ra đối phó với mình, hoặc giả Vương phu nhân và Mộ Dung Phục có thành ý nhưng Đoàn Dự võ công cao siêu, một khi thoát khốn thì không thể nào chế phục được nữa, nếu hờm sẵn trên vai Đoàn Chính Thuần thì Đoàn Dự nghĩ đến tình cha con không dám làm dữ.

Chỉ nghe tiếng chân người rầm rập, bốn đứa thị tì đỡ ngang người Đoàn Dự khiêng ra. Chàng tay chân đều bị trói chặt bằng gân bò, miệng lại nhét hạt dẻ, mắt bị che bằng vải đen, nhìn vào chẳng biết còn sống hay đã chết. Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng thất thanh kêu lên:

-          Dự nhi!

Rồi toan xông ra đoạt con lại. Vương phu nhân giơ tay đẩy vào vai bà một cái, quát lên:

-          Ta bảo ngồi xuống đây.

Đao Bạch Phượng bị điểm trọng huyệt rồi bao nhiêu lực khí mất hết, bị xô một cái, lập tức ngã phịch xuống ghế, không cử động gì được. Vương phu nhân nói:

-          Tiểu tử này bị phục thuốc mê rồi, tuy không chết nhưng tri giác chưa khôi phục. Diên Khánh thái tử, ông xem lại xem có nhầm người khác không?

Đoàn Diên Khánh gật đầu:

-          Đúng rồi!

Vương phu nhân vẫn tưởng đàn ong độc lợi hại có biết đâu Đoàn Dự đã ăn phải con mãng cổ chu cáp, chỉ hôn mê không lâu đã tỉnh lại, có điều bị trói chặt nên tỉnh hay không tỉnh thỉ cũng vậy thôi. Đoàn Chính Thuần gượng cười nói:

-          A La, nàng bắt Dự nhi làm gì thế? Y có đắc tội với nàng đâu.

Vương phu nhân hừ một tiếng không trả lời, bà không muốn để cho người khác thấy tấm lòng mình với Đoàn Chính Thuần, lại cũng không muốn nói đụng đến ông. Mộ Dung Phục sợ tình cảm cũ của Vương phu nhân khêu dậy làm hỏng đại sự liền nói:

-          Sao lại không đắc tội với mợ ta? Y … dụ dỗ biểu muội Ngữ Yên, làm hoen ố tấm thân thanh bạch của nàng. Thưa mợ, tên tiểu tử này chết là đáng lắm, chẳng cần phải đợi y tỉnh lại …

Y nói chưa dứt câu, Đoàn Chính Thuần và Vương phu nhân cùng hoảng hốt kêu lên:

-          Cái gì? Y … y và …

Đoàn Chính Thuần mặt tái nhợt, quay sang Vương phu nhân, hỏi nhỏ:

-          Đứa con gái đó tên là Ngữ Yên ư?

Tính nết Vương phu nhân vốn dĩ nóng nảy, trước nay chưa từng nín nhịn lâu như thế này bao giờ, không còn cách nào chế ngự được nữa, khóc òa lên, chu chéo:

-          Cũng tại ông là đồ bạc bẽo vô lương tâm, hại đời tôi chưa đủ lại còn làm hại cả đời con gái ông. Ngữ Yên, Ngữ Yên … nó … nó chính là hòn máu của ông.

Bà quay lại giơ chân đá túi bụi lên người Đoàn Dự, miệng chửi:

-          Cái con quỉ hiếu sắc thật không bằng cầm thú, đồ lãng tử táng tận lương tâm, đến em gái mình cũng không tha, ta … ta hận không thể băm vằm thứ súc vật như ngươi thành muôn ngàn mảnh.

Bà ta chân đá miệng kêu, người trong sảnh ai nấy kinh ngạc. Đao Bạch Phượng, Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo, Nguyễn Tinh Trúc bốn người ai cũng biết tính hạnh của Đoàn Chính Thuần, lập tức hiểu ngay, biết rằng ông và Vương phu nhân kết mối tư tình, sinh được một đứa con gái đặt tên “Ngữ Yên”, ngờ đâu Đoàn Dự lại gắn bó với nàng. Tần Hồng Miên cũng nghĩ ngay đến con mình Mộc Uyển Thanh, Cam Bảo Bảo nghĩ đến Chung Linh, cùng cảm thấy vừa ngượng ngập, vừa hổ thẹn. Còn lại Đoàn Diên Khánh, Mộ Dung Phục cũng chỉ thoáng suy nghĩ đều hiểu ngay.

Tần Hồng Miên kêu lên:

-          Con giặc cái kia, hôm trước hai mẹ con ta đến Cô Tô định giết con hồ li tinh mà mi trốn mất, sai binh tôm tướng cá ra chặn bọn ta. Tiếc rằng hôm đó ta không giết được mi, bây giờ còn đá được ai?

Vương phu nhân không để ý vẫn tiếp tục đá Đoàn Dự liên tiếp. Nam Hải Ngạc Thần thấy người nằm lăn dưới đất chính là sư phụ mình, vội đưa tay đẩy vào vai Vương phu nhân một cái, quát lên:

-          Này, đây là sư phụ của ta. Mụ đá sư phụ ta thì có khác gì đá ta? Mụ chửi sư phụ ta là cầm thú thì có khác gì chửi ta là cầm thú? Mụ dữ dằn như thế, ta lại lách cách một tiếng, bẻ cái cổ trắng ngồn ngộn của mụ bây giờ.

Đoàn Diên Khánh quát:

-          Nhạc lão tam, không được vô lễ với Vương phu nhân. Gã tiểu tử họ Đoàn là quân vô sỉ, hoa ngôn xảo ngữ đánh lừa bắt ngươi gọi bằng sư phụ để ngươi không còn mặt mũi nào mà nhìn anh em trên giang hồ, hôm nay chính là dịp trừ y đi.

Nam Hải Ngạc Thần đáp:

-          Y chính hiệu mười mươi là sư phụ của ta chứ có lừa bịp gì đâu, sao lại giết y được?

Y vừa nói vừa đưa tay cởi sợi dây trói Đoàn Dự. Đoàn Diên Khánh nói:

-          Lão tam, ngươi mau nghe lời ta, lấy ngạc chủy tiễn ra, cắt đầu tiểu tử này đi.

Nam Hải Ngạc Thần lắc đầu quầy quậy đáp:

-          Không được! Lão đại, hôm nay lão tam này không nghe lời đâu, nhất quyết phải cứu sư phụ mới được.

Vừa nói y vừa giựt mạnh, đứt ngay một sợi dây gân bò. Đoàn Diên Khánh hoảng hốt, nghĩ thầm nếu Đoàn Dự thoát thân, y sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm thì còn ai chống đỡ nổi, không những đại sự cũng hỏng mà tính mạng mình cũng chưa chắc đã còn, trong cơn gấp rút, vù một tiếng giơ trượng nhắm ngay lưng Nam Hải Ngạc Thần đâm ra, nội lực kèm theo, cây gậy lập tức xuyên qua ngực.

Nam Hải Ngạc Thần thấy lưng đau nhói, rồi một đầu gậy thò ra đằng trước ngực. Y nhất thời kinh ngạc, quay lại nhìn Đoàn Diên Khánh, ánh mắt đầy vẻ hồ nghi, không hiểu sao lão đại bất ngờ tung ra sát thủ với mình. Đoàn Diên Khánh vốn dĩ hung ác nên mới đứng đầu được Tứ Đại Ác Nhân, ra tay độc địa là dĩ nhiên, hai nữa vốn úy kỵ Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự, sợ rằng Nam Hải Ngạc Thần cởi trói cho chàng thành thử tuy không có ý giết Nam Hải Ngạc Thần nhưng một trượng đâm ngay vào chỗ yếu hại.

Đoàn Diên Khánh nhìn ánh mắt của người nghĩa đệ, thoáng dâng lên một niềm hối tiếc, thấy mình quả là sai lầm nhưng chỉ gợn lên rồi qua ngay, tay phải rung một cái, rút cây gậy về quát lên:

-          Lão tứ, đem y đi chôn. Người nào không nghe lời ta là thế đó.

Nam Hải Ngạc Thần kêu lên một tiếng nằm gục xuống, vết thương nơi ngực và lưng máu tuôn xối xả, đôi mắt trợn tròn, quả là chết không nhắm mắt. Vân Trung Hạc xách xác y chạy ra ngoài. Y với Nam Hải Ngạc Thần tuy cũng cùng trong Tứ Đại Ác Nhân nhưng xưa nay không hòa thuận, Nam Hải Ngạc Thần đã từng nhiều lần kỳ đà cản mũi, có điều võ công không bằng nên đành phải nhịn, bây giờ thấy Nam Hải Ngạc Thần bị lão đại giết y thấy cực kỳ hả hê.

Mọi người đều biết Nam Hải Ngạc Thần là đồng đảng của Đoàn Diên Khánh, thế mà chỉ một câu không hợp đã lấy mạng y rồi, hung ác tàn nhẫn, quả là trên đời khó gặp, ai nấy bàng hoàng.

Đoàn Dự thấy máu Nam Hải Ngạc Thần bắn tung tóe cả lên mặt mình, cổ mình, nghĩ đến mình tuy mang danh là sư phụ đã lâu nhưng chưa từng dạy y được điều gì cho ra hồn, thế nhưng y lại mấy lần cứu mình, hôm nay vì thầy mà bỏ mạng, trong lòng hết sức thương xót. Đoàn Diên Khánh cười khẩy nói:

-          Theo ta thì sống, chống ta thì chết.

Y giơ trượng lên toan đâm vào ngực Đoàn Dự. Bỗng nghe tiếng đàn bà ngâm lên:

Chùa Thiên Long, cội bồ đề,

Ăn mày nhếch nhác cận kề Quan Âm.[3]

Đoàn Diên Khánh nghe thấy bốn chữ “Ngoài chùa Thiên Long”, cây gậy liền giữ lại không đâm xuống, nghe xong cả bốn câu, tay run run, từ từ rút về. Y quay lại, nhìn Đao Bạch Phượng, thấy ánh mắt bà ta dường như có trăm ngàn điều muốn nói, trong lòng chấn động, run run hỏi:

-          Quan … Quan Thế Âm Bồ Tát …

Đao Bạch Phượng gật đầu, nói khẽ:

-          Ngươi … ngươi có biết thằng bé này là ai không?

Đoàn Diên Khánh đầu óc quay cuồng, chỉ thấy một hình ảnh mơ hồ, tưởng chừng trở lại một đêm trăng tròn hơn hai mươi năm trước.

Hôm đó y từ Đông Hải trở về Đại Lý, đến bên ngoài chùa Thiên Long. Trên đường Hồ Quảng, Đoàn Diên Khánh bị kẻ thù vây đánh, tuy giết sạch được kẻ địch nhưng chính mình cũng bị trọng thương, gẫy hai chân, mặt mày bị hủy, cổ họng bị cắt một đao, không còn nói năng gì được nữa. Y trông không còn ra người, toàn thân ô uế, khắm khú, vết thương đầy ròi bọ, hàng chục con ruồi nhặng bay vần vũ chung quanh.

Y vốn dĩ là hoàng thái tử nước Đại Lý, khi trước phụ hoàng bị gian thần giết chết, trong cơn hỗn loạn chạy thoát được học thành võ công mới quay về. Đương kim hoàng đế Đại Lý Đoàn Chính Minh là anh họ nhưng đích thực ngôi vua phải là của y chứ không phải là Đoàn Chính Minh. Y biết rằng Đoàn Chính Minh thương dân, nhân từ rất được lòng bách tính, từ văn võ bách quan trong triều, đến sĩ tốt dân đen ai cũng hết lòng kính trọng nhà vua, không còn nhớ đến hoàng thái tử tiền triều, ví thử y công khai hiện thân ở Đại Lý, nếu có người nào muốn lập công với hoàng đế ắt sẽ giết y ngay. Y vốn dĩ võ nghệ cao cường, vạn người khôn địch nhưng lúc này đang bị trọng thương, đến một binh sĩ tầm thường cũng không địch nổi.

Y cố gắng lê lết đến được chùa Thiên Long chỉ còn một hi vọng cuối cùng là nhờ Khô Vinh đại sư chủ trì công đạo. Khô Vinh đại sư là một cao tăng hữu đạo, em ruột của cha y, chú họ của Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh. Chùa Thiên Long vốn dĩ là bình phong che chở cho họ Đoàn Đại Lý, bao nhiêu đời mỗi khi hoàng đế thoái vị vi tăng đều đến tu ở đây. Y không dám ra mặt tại thành Đại Lý mà phải đến chùa Thiên Long cầu kiến Khô Vinh đại sư trước.

Thế nhưng tri khách tăng chùa Thiên Long bảo là Khô Vinh đại sư đang tu khô thiền, nhập thất đã năm ngày, phải nửa tháng mười ngày nữa không biết đã xuất định chưa, mà dẫu có xuất định thì cũng không gặp người ngoài. Y hỏi Đoàn Diên Khánh có chuyện gì cần nhắn lại, hoặc muốn nhờ y bẩm với phương trượng không? Đối với một gã ăn mày hôi hám, người không ra người, quỉ không ra quỉ, tri khách tăng tiếp đãi như thế cũng là khách khí lắm rồi.

Thế nhưng Đoàn Diên Khánh làm sao dám thổ lộ thân phận mình? Y đành chống cùi chỏ xuống đất, lết ra được một gốc cây bồ đề bên cạnh chùa, đợi Khô Vinh đại sư, trong bụng nghĩ thầm: “Gã hòa thượng này bảo là Khô Vinh đại sư xuất định rồi cũng chưa chắc đã chịu tiếp người ngoài. Ta ở Đại Lý thêm giờ phút nào là nguy hiểm thêm phút ấy, nếu như bị ai nhận ra … liệu có lập tức bỏ chạy không?”.

Người y đang lên cơn sốt, những vết thương đau đớn khôn tả, lại ngứa ngáy, thực không sao chịu nổi, nghĩ thầm: “Ta chịu bao nhiêu dày vò hành hạ, làm sao qua nổi đây? Nếu mình không chết thì cũng nên tự tận cho xong”.

Y cố gượng đứng lên toan đập đầu vào gốc cây mà chết nhưng toàn thân không còn một chút hơi sức nào,vừa đói vừa khát, nằm gục xuống không muốn cử động, sống chẳng nổi mà chết cũng không xong.

Mặt trăng đã lên đến đỉnh đầu, bỗng dưng y nhìn thấy một bóng người đàn bà mặc áo trắng toát từ trong đám sương mù từ từ đi đến …

Trong đám cây cỏ phủ một làn sương mỏng, người đàn bà kia tóc xõa xuống vai, chân bồng bềnh như không hề chấm đất. Khuôn mặt nàng ngược với ánh trăng mờ mờ ảo ảo nhìn không rõ nhưng dáng vẻ tú mỹ yêu kiều khiến Đoàn Diên Khánh kinh ngạc vô chừng. Y chỉ thấy bóng người đàn bà không khác gì nét đoan chính thanh khiết của Phật Quan Thế Âm, nghĩ thầm: “Thánh thiên tử có bách thần phù hộ. Nhất định đây là bồ tát hạ phàm đến cứu độ cho một chân mệnh đế vương lâm nạn. Nam mô Quan Thế Âm bồ tát cứu khổ cứu nạn, xin người giúp ta giành lại ngôi báu, trẫm nguyện sẽ tô tượng lập miếu, đời đời hương khói thờ phụng người”.

Người đàn bà chậm rãi đến gần. Đoàn Diên Khánh chỉ nhìn nghiêng thấy khuôn mặt trắng toát không một chút huyết sắc. Bỗng dưng nghe nàng lẩm bẩm: “Ta hết lòng hết dạ với ngươi, ngươi … ngươi lại chẳng coi ta vào đâu cứ hết người đàn bà này đến người đàn bà khác, những lời thề nguyền khi quì trước Phật điện đều quên sạch. Ta tha thứ cho ngươi đã bao lần, bây giờ không còn tha thứ cho ngươi được nữa. Ngươi đối với ta chẳng vào đâu, ta cũng chẳng coi ngươi ra gì. Ngươi phản bội ta để đi với người khác, ta cũng đi tìm người khác mà trao thân. Bọn người Hán các ngươi không coi đàn bà Bãi Di chúng ta vào đâu, khinh khi phụ rẫy, coi ta như chó như mèo, như bò như lợn, ta … ta nhất định phải báo thù, đàn bà Bãi Di ta cũng chẳng coi bọn người Hán các ngươi là người nữa”.

Giọng nàng hết sức khẽ, chỉ tự nói một mình nhưng trong ngữ khí chứa đầy vẻ tức tối. Đoàn Diên Khánh trong lòng nguội lạnh nghĩ thầm: “Hóa ra không phải Quan Âm bồ tát mà chỉ là một người đàn bà Bãi Di bị người Hán ruồng rẫy”.

Bãi Di là một chủng tộc lớn của Đại Lý, giống người này đàn bà phần lớn xinh đẹp, da dẻ trắng trẻo nhưng đàn ông thì yếu đuối, nhân số lại ít nên hay bị người Hán hiếp đáp. Người đàn bà kia đi càng lúc càng gần, Đoàn Diên Khánh chợt nghĩ: “Không phải rồi, người Bãi Di tuy con gái nổi tiếng là đẹp nhưng làm gì có ai trông như thần tiên thế này! Huống chi áo trên người dường như là lụa bạch, người Bãi Di lấy đâu ra quần áo tinh nhã như thế? Đây hẳn là bồ tát hóa thân, ta … ta không nên bỏ lỡ cơ hội”.

Y lúc đó ở vào tình trạng cận kề sống chết, cùng đường chỉ có bồ tát hiện ra thì mới giải thoát cho y khỏi khốn cảnh được thôi, ở vào tình trạng, thấy Phật bà càng lúc càng xa, hết sức nhỏm dậy định kêu lên:

-          Xin bồ tát cứu tôi với!

Thế nhưng yết hầu đã đứt rồi nên chỉ tru lên được mấy tiếng u ú. Người đàn bà áo trắng thấy dưới gốc cây bồ đề có tiếng sột soạt, quay đầu lại, thấy trong đống đất cát có một vật gì người chẳng ra người, thú chẳng ra thú đang vùng vẫy, nhìn kỹ lại thấy đó là một gã ăn mày thối tha, thân thể đầy máu me thật kinh tởm. Nàng đến gần thêm chút nữa, nhìn kỹ thấy tên ăn mày đó trên đầu trên cổ, tay chân chỗ nào cũng đầy vết thương còn đang rỉ máu, ròi bọ lúc nhúc xông mùi gớm ghiếc.

Người đàn bà đó lúc này tấm lòng thù hận lên đến cực điểm, quyết ý báo thù cái tính trăng hoa của đức ông chồng, càng hết sức muốn làm cho mình trở nên nhơ nhớp. Nàng nhìn thấy gã ăn mày hình dạng ghê rợn như thế, lúc đầu cũng kinh hãi định bỏ chạy nhưng chợt nghĩ lại: “Ta định đi kiếm một người xấu xí nhất trần gian, ô uế không đâu bằng, ti tiện hết chỗ nói để trao thân cho y. Ngươi là vương gia, là đại tướng quân, đã vậy ta gần gũi với tên ăn mày cho biết”.

Nàng không nói một lời, từ từ cởi bỏ y phục, đến trước mặt Đoàn Diên Khánh, buông mình vào trong lòng y, đưa bàn tay trắng muốt như cánh sơn trà ra ôm lấy cổ …

Một đám mây lững lờ bay ngang, tưởng như Hằng Nga e thẹn nên vẫy vầng mây lại che cho mình để khỏi nhìn thấy tình cảnh kỳ quái của người đàn bà cao quí đem tấm thân kiều diễm như những cánh hoa kia trao cho một kẻ ăn mày người đầy máu me bê bết.

Bạch y nữ tử đi đã lâu rồi, Đoàn Diên Khánh vẫn mơ màng tưởng chừng trong giấc mộng, thật hay hư? Vì bản thân y thần trí mơ màng, hay là bồ tát giáng trần thực sự? Mũi y vẫn còn ngửi thấy mùi thơm dìu dịu từ thân hình người đàn bà áo trắng, nghiêng qua trên đất vẫn còn mấy chữ y dùng ngón tay vạch lên:

-          Bà có phải là Quan Thế Âm Bồ Tát chăng?

Y viết mấy chữ đó hỏi nàng, vị bồ tát đó gật đầu. Đột nhiên mấy giọt nước nhỏ xuống bên cạnh những hàng chữ, đó là nước mắt của người đàn bà kia, hay là nước cam lồ của Phật bà rưới lên người y? Đoàn Diên Khánh từng nghe người ta kể rằng, Phật Quan Âm thường hiện thành nữ thân, phổ độ cho chúng sinh đang trầm luân trong bể khổ, là vị bồ tát từ bi hơn hết. Y nghĩ thầm: “Nhất định đây là Quan Thế Âm bồ tát hóa thân, đến điểm hóa cho ta, bảo ta đừng thất vọng. Ta không phải người thường, ta là chân mệnh thiên tử, nếu không sao lại gặp được Phật bà?”.

Đoàn Diên Khánh đang ở trong cảnh dở sống dở chết, đột nhiên được vị Quan Âm bồ tát tóc dài hiện ra an ủi, lập tức tinh thần phấn khởi, tin tưởng thiên mệnh đã đến với mình, ngày sau ắt lên ngôi báu, những nguy nan trước mắt thể nào cũng qua. Y trong lòng kiên định thấy một tia sáng lóe lên trước mặt, sáng hôm sau không còn hỏi xem Khô Vinh đại sư đã xuất định chưa, quì xuống gốc cây bồ đề lạy tạ ân đức của Phật Bà Quan Âm, bẻ hai cành cây làm nạng kẹp dưới nách lặng lẽ ra đi.

Y không dám ở trong địa giới Đại Lý mà xuống tận vùng hoang dã phương nam, dưỡng thương khỏi rồi, khổ luyện võ công gia truyền. Năm năm đầu tiên chỉ tập dùng trượng thay chân, đem công phu Nhất Dương Chỉ biến thành trượng pháp, lại luyện thêm năm năm nữa sau đó mới đến cùng Lưỡng Hồ, bao nhiêu kẻ thù giết sạch không còn một mống, thủ đoạn độc ác tàn nhẫn khiến ai nghe đến cũng phải rùng mình, thành thử dạt được danh hiệu”Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân”. Sau đó y thu dụng Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc ba người làm vây cánh. Y cũng đã mấy phen lẻn về Đại Lý, toan chuyện khôi phục nhưng lần nào cũng thấy Đoàn Chính Minh căn cơ vững chãi không thể nào lay chuyển nổi, nên đành ngậm đắng nuốt cay ra đi.

Lần sau cùng y cùng Hoàng Mi Tăng tỉ đấu nội lực, đã tưởng thắng thế, ngờ đâu tên tiểu tử Đoàn Dự nửa chừng xông lên phá đám, khiến y thất bại, xôi hỏng bỏng không. Lần này y đang định dùng trượng đâm chết Đoàn Dự để cho tuyệt dòng Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần, đột nhiên Đoàn phu nhân lại ngâm mấy câu thơ:

Chùa Thiên Long, cội bồ đề,

Ăn mày nhếch nhác cận kề Quan Âm.

Mấy câu đó tuy rất khẽ nhưng Đoàn Diên Khánh nghe rồi thật không khác gì sấm nổ giữa lúc trời quang. Y nhìn thần sắc Đoàn phu nhân, trong lòng tự hỏi: “Không lẽ … không lẽ … bà ta là vị Quan Âm bồ tát …”. Chỉ thấy Đao Bạch Phượng chậm rãi giơ tay lên cởi dây buộc, những sợi tóc mượt như tơ xõa xuống, trải dài trên vai, rủ trên mặt, chính là hình tượng của Phật Bà y gặp đêm nào ngoài chùa Thiên Long dưới cội bồ đề. Đoàn Diên Khánh không còn hoài nghi gì nữa: “Ta vẫn tưởng đấy là bồ tát, ai ngờ lại là Trấn Nam Vương phi”.

Thực ra hồi đó sau mấy ngày, thương thế đã bớt, cơn sốt qua đi, thần trí tỉnh táo lại, cũng đã biết người đàn bà áo trắng đêm đó trao thân cho mình chính là người chứ không phải bồ tát, nhưng y không muốn tâm nguyện của mình thành bọt nước trôi sông, nên vẫn cố tự nhủ lòng: “Đấy là bạch y Quan Âm, đấy là bạch y Quan Âm”.

Đến lúc này y đã rõ mọi chuyện, trong lòng lại nổi lên một nghi vấn thật to lớn: “Sao bà ta lại làm như thế? Sao bà ta lại biết được mình chính là gã ăn mày ô uế năm xưa?”. Y cúi đầu suy nghĩ, đột nhiên thấy mấy giọt nước nhỏ xuống, nghĩ đến năm nào, đây là lệ thủy hay là ngọc lộ dương chi?

Y ngẩng đầu nhìn lên, thấy Đoàn phu nhân nước mắt rưng rưng, bụng dạ chai đá của y bỗng dịu xuống, ú ớ hỏi:

-          Bà muốn ta tha mạng cho con bà ư?

Đao Bạch Phượng lắc đầu, nói nhỏ:

-          Trên cổ … cổ nó có đeo một kim bài nhỏ, khắc ngày giờ sinh.

Đoàn Diên Khánh ngạc nhiên:

-          Bà không muốn ta tha mạng cho con bà mà lại bảo ta xem kim bài, thế là ý gì?

Từ lúc y hiểu rõ việc “Ngoài chùa Thiên Long, Dưới cội bồ đề” là thế nào rồi, trong lòng nẩy ra một mối cảm kích kính yêu Đoàn phu nhân nên giơ gậy lên giải huyệt cho bà trước, sau đó mới cúi xuống nhìn cổ Đoàn Dự, thấy chàng có đeo một sợi dây chuyền thật nhỏ, giơ tay cầm lấy dưới cùng là một kim bài hình chữ nhật, một bên khắc “Trường Mệnh Bách Tuế”, lật qua bên kia thấy khắc một hàng chữ nhỏ: “Đại Lý Bảo Định nhị niên Quí Hợi thập nhất nguyệt trấp tam nhật sinh”.[4]

Đoàn Diên Khánh thấy mấy chữ “Bảo Định nhị niên”, trong bụng thảng thốt: “Bảo Định năm thứ hai? Chính tháng hai năm đó ta bị người vây đánh trọng thương, đến ngoài chùa Thiên Long. Trời ơi! Y … y sinh tháng mười một, cách đó đúng mười tháng, không lẽ mười tháng hoài thai, y … y.. y chính là con của ta chăng?”.

Trên mặt y bị mấy vết thương gân cốt đứt đoạn, những kinh hãi ngạc nhiên không ai thấy được nhưng trong một thoáng mặt cũng tái đi, trong lòng hết sức khích động, quay lại nhìn Đoàn phu nhân, chỉ thấy bà lặng lẽ gật đầu, nói khẽ:

-          Oan nghiệt! Oan nghiệt!

Đoàn Diên Khánh cả đời chưa biết đến ái tình trai gái, nỗi vui nghi thất nghi gia, bây giờ biết được là mình có một đứa con trai, trong bụng sung sướng không thể nào hình dung cho hết, thấy trên đời này dù cho danh lợi vinh hoa, ngôi vua tước chúa cũng không quí bằng một đứa con, mừng mừng tủi tủi, muốn nhảy cẫng lên, keng một tiếng cương trượng đã tuột tay rơi xuống đất.

Y bỗng thấy đầu óc quay cuồng, tay trái không còn hơi sức, keng một tiếng nữa, cây gậy bên kia cũng rơi theo, trong lòng như có tiếng reo vang:

-          Ta có một đứa con! Ta có một đứa con!

Y nhìn lại Đoàn Chính Thuần thấy ông ta ngơ ngác, hiển nhiên những câu của vợ mình hoàn toàn không hiểu gì cả. Đoàn Diên Khánh nhìn Đoàn Chính Thuần, lại nhìn Đoàn Dự, thấy một bên mặt vuông, một bên mặt trái soan, hai bên hoàn toàn không giống, trái lại hình mạo tuấn tú của Đoàn Dự so với mặt mũi mình lúc thanh niên xem ra lại giống đến bảy tám phần, trong lòng không còn hoài nghi gì nữa, thầm so sánh: “Dù ngươi có làm hoàng đế Đại Lý mà ta không được làm chăng nữa, thì cũng có đáng gì? Ta có con trai, ngươi không có”. Y thấy đầu óc đê mê, mắt nhòa đi nghĩ bụng: “Ta thật sung sướng không đâu cho hết”.

Bỗng nghe huỵch một tiếng, ai đó đã ngã ngay bên ngạch cửa, chính là Vân Trung Hạc. Đoàn Diên Khánh kinh hãi kêu thầm: “Hỏng rồi!”. Tay trái lăng không chộp ra, định dùng hư kình thu cây trượng về, ngờ đâu nội lực không thể nào vận lên được, chiếc gậy dưới đất không hề nhúc nhích. Đoàn Diên Khánh lại càng hoảng hốt nhưng bề ngoài vẫn làm ra vẻ thản nhiên, tay phải lại vận kình chộp ra nhưng không sao đề khí được, biết rằng trong lúc mình sơ ý đã trúng kế của người rồi.

Chỉ nghe Mộ Dung Phục nói:

-          Đoàn điện hạ, bên phòng kia có người cần gặp, xin mời điện hạ di giá qua tiếp một chút.

Đoàn Diên Khánh đáp:

-          Người đó là ai? Sao Mộ Dung công tử không đưa y qua đây?

Mộ Dung Phục nói:

-          Y không thể nào cử động được, xin phiền điện hạ quá bộ một chút.

Chỉ nghe câu đó Đoàn Diên Khánh hiểu ngay, người lén dùng thuốc mê hại mình chính là Mộ Dung Phục chứ không ai. Y ngại mình võ công lợi hại, sợ dược lực không đủ không dám công nhiên trở mặt nên muốn mình cử động thử xem kình lực còn hay mất. Y cũng đã dè dặt đề phòng, từ khi bước vào nhà không hề uống qua một ngụm trà, cũng không ngửi thấy mùi gì khác lạ, sao lại trúng phải độc kế của y? Đoàn Diên Khánh nghĩ thầm: “Có lẽ khi mình nghe Đoàn phu nhân nói rồi, mừng quá nên nhãng ra không đề phòng chung quanh, nên bị y giở trò”. Y bèn thản nhiên nói:

-          Mộ Dung công tử, họ Đoàn Đại Lý ta không giỏi dùng độc, ngươi phải dùng Nhất Dương Chỉ đối phó với ta mới phải.

Mộ Dung Phục mỉm cười nói:

-          Đoàn điện hạ một đời anh kiệt, đâu có phải như những người thường? Món Bi Tô Thanh Phong của tại hạ trước đây lấy từ Tây Hạ, nhưng có thêm thắt ít nhiều nên khi sử dụng không bị cay chảy nước mắt. Đoàn điện hạ từng có tên trong Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ, tại hạ dùng Bi Tô Thanh Phong để tiếp đãi, đâu có đến nỗi mất gia phong “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân”.

Đoàn Diên Khánh ngầm kinh hãi, năm xưa cao thủ Nhất Phẩm Đường Tây Hạ dùng Bi Tô Thanh Phong làm cho vô số bang chúng Cái Bang hôn mê, tất cả bị bắt sạch, sau đó cả bọn luôn cả tướng quân Hách Liên Thiết Thụ, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc đều bị trúng độc, bị Cái Bang bắt trở lại, may nhờ mình đoạt được thuốc giải, cứu cả bọn ra. Khi đó trên tường có đề “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân”, kẻ sử dụng chất độc hiển nhiên là Cô Tô Mộ Dung, như thế trong tay Mộ Dung Phục hẳn là phải có độc dược nhưng vì chuyện đã lâu rồi nên y quên không nghĩ đến. Y chỉ còn trách mình sơ xẩy không lưu ý, nên nhắm mắt không trả lời, nghĩ cách đẩy chất độc ra khỏi người.

Mộ Dung Phục cười nói:

-          Muốn giải chất độc Bi Tô Thanh Phong, vận công ngưng khí đều vô ích …

Câu nói chưa dứt, Vương phu nhân đã quát lên:

-          Sao đến ta mà ngươi cũng hạ độc, mau đem thuốc giải ra đây.

Mộ Dung Phục đáp:

-          Thưa mợ, sanh nhi đắc tội, một lát nữa sẽ đem thuốc giải ra cho mợ.

Vương phu nhân giận dữ hỏi lại:

-          Cái gì mà lát nữa với không lát nữa? Mau mau đem thuốc giải cho ta.

Mộ Dung Phục đáp:

-          Quả thật có lỗi với mợ, thuốc giải cháu lại không mang theo trong người.

Đoàn phu nhân Đao Bạch Phượng bị điểm trọng huyệt vốn dĩ đã được giải rồi nhưng chẳng bao lâu lại trúng Bi Tô Thanh Phong. Trong sảnh đường chỉ có Mộ Dung Phục đã dự bị sẵn hít thuốc giải trước và Đoàn Dự bách độc bất xâm là không bị trúng độc mà thôi. Thế nhưng Đoàn Dự thì đang bị dày vò, trong lòng đau khổ không sao kể xiết. Chàng đã nghe Vương phu nhân nói:

-          Cũng tại ông là đồ bạc bẽo vô lương tâm, hại đời tôi chưa đủ lại còn làm hại cả đời con gái ông. Ngữ Yên, Ngữ Yên … nó … nó chính là hòn máu của ông.

Khi đó máu chàng dâng lên chặn lấy ngực, tưởng chừng như muốn ngất đi. Khi chàng còn ở vách bên kia nghe Mộ Dung Phục và Vương phu nhân kể chuyện tư tình giữa cha mình và bà ta, trong lòng chàng đã bồn chồn lo lắng, hết sức sợ hãi rồi đây Vương Ngữ Yên cũng lại như Mộc Uyển Thanh, cũng là một đứa em của mình. Đến khi chính miệng Vương phu nhân công khai nói trước mặt mọi người thì chàng còn hoài nghi gì nữa? Trong nháy mắt chàng thấy trời đất quay cuồng, nếu như chân tay không bị trói, miệng không bị chặn, ắt đã vùng vẫy đập đầu, kêu la ầm ỹ.

Chàng trong lòng đau khổ, thấy ngực như nghẹn lại, khí tức không sao vận chuyển được, chân tay lạnh ngắt càng lúc càng cứng đơ, hết sức sợ hãi: “Chết rồi, cái này chắc là tẩu hỏa nhập ma như bá phụ nói, nội công càng thâm hậu thì lúc bị càng hung hiểm. Ta … ta sao lại bị tẩu hỏa nhập ma nhỉ?”.

Chỉ thấy hơi lạnh trong giây lát đã chạy lên đến cùi chỏ, khoeo chân, Đoàn Dự lúc đầu sợ hãi nhưng lại nghĩ ngay: “Nếu như Ngữ Yên là anh em cùng cha với mình, mối tương tư của ta rồi cũng hóa ra bọt nước, sống trên đời có còn thú vị gì nữa đâu? Chi bằng tẩu hỏa nhập ma trong phút chốc trở thành tro bụi, vô tri thức để khỏi cả đời phiền não”.

Đoàn Diên Khánh vận nội tức ba lần nhưng đều chẳng đi đến đâu, ngực chỉ càng thêm trộn trạo nên đành không nói nửa lời, ngồi yên nhắm mắt. Mộ Dung Phục nói:

-          Đoàn điện hạ, tại hạ tuy bỏ thuốc mê cho ông nhưng tuyệt nhiên không có ý gia hại, chỉ mong điện hạ đáp ứng một việc, tại hạ không những đem thuốc giải dâng lên mà còn khấu đầu bồi tội.

Lời y nói ra cực kỳ khiêm cung. Đoàn Diên Khánh cười khẩy nói:

-          Họ Đoàn này sống đến hôm nay, bao nhiêu gió to sóng cả đã từng, đâu lại để người ta áp chế bức bách phải chịu bằng lòng hay sao?

Mộ Dung Phục nói:

-          Tại hạ nào có dám áp chế bức bách điện hạ đâu? Ở đây có bao nhiêu người làm chứng, tại hạ bồi tội với điện hạ trước, sau đó mới cung kính cầu khẩn một việc.

Nói xong hai chân quỳ xuống, bình bình bình bình rập đầu bốn cái, bộ điệu cực kỳ cung thuận. Mọi người thấy Mộ Dung Phục đột nhiên hành đại lễ, ai nấy không khỏi ngạc nhiên. Y hiện đang khống chế toàn cục, chết sống mọi người đều do một mình y, dẫu y có theo nghĩa khí giang hồ, đối với một vị tiền bối như Đoàn Diên Khánh không muốn thất lễ thì cũng chỉ vái sâu một cái cũng đủ rồi, lẽ nào hạ mình quì xuống khấu đầu.

Đoàn Diên Khánh cũng không hiểu tại sao nhưng thấy y cung kính như thế, nỗi tức tối cũng giảm được vài phần nói:

-          Người đời thường nói: “Lễ hạ ư nhân, tất hữu sở cầu”. Công tử hành đại lễ như thế, tại hạ quả không dám nhận, không biết công tử có điều gì sai bảo?

Trong ngôn ngữ đã có phần khách khí. Mộ Dung Phục đáp:

-          Tâm nguyện của tại hạ, điện hạ vốn dĩ đã biết rồi. Thế nhưng muốn hưng phục Đại Yên, không phải một sớm một chiều mà xong. Vậy thì hôm nay tại hạ xin khuông phù điện hạ lên ngôi hoàng vị Đại Lý trước. Điện hạ không con không cái, xin điện hạ thu tại hạ làm nghĩa tử. Nếu hai người mình đồng tâm hợp lực để hoàn thành đại sự có phải là lưỡng toàn kỳ mỹ hay chăng?

Đoàn Diên Khánh nghe y nói “điện hạ không con không cái”, nhịn không nổi đưa mắt nhìn Đoàn phu nhân một cái, bốn mắt chạm nhau, trong chớp mắt mà như trao đổi muôn ngàn lời nói. Đoàn Diên Khánh cười ục ục nhưng không trả lời, nghĩ thầm: “Nếu ngươi nói câu đó trước đây một lúc thì đúng là “lưỡng toàn kỳ mỹ”. Thế nhưng lúc này ta đã biết ta có con trai, lẽ nào lại đem ngôi vua truyền cho ngươi?”.

Lại nghe Mộ Dung Phục nói tiếp:

-          Giang sơn nhà Đại Tống vốn từ ở họ Sài nhà Hậu Chu. Năm xưa Chu Thái Tổ Quách Uy vô hậu nhận Sài Vinh làm con. Sài Thế Tông hùng tài đại lược, chỉnh đốn binh bị, dương danh nhà Hậu Chu. Họ Quách được hưởng huyết thực[5] biết bao nhiêu năm, trở thành một giai thoại cho đời sau. Chuyện đó xảy ra chưa lâu, xin điện hạ nhủ lòng xem xét.

Đoàn Diên Khánh nói:

-          Có thực ngươi muốn ta thu làm nghĩa tử hay không?

Mộ Dung Phục đáp:

-          Chính thế!

Đoàn Diên Khánh nghĩ thầm: “Hiện giờ ta trúng phải thuốc độc, chỉ còn nước miễn cưỡng chấp nhận, đến khi giải được độc tính rồi sẽ lập tức giết quách y đi”. Y bèn thản nhiên trả lời:

-          Như thế thì ngươi phải đổi qua họ Đoàn chứ? Khi ngươi lên ngôi hoàng đế Đại Lý rồi thì hãy bỏ ý niệm hưng phục nước Yên đi. Họ Mộ Dung từ nay vô hậu, những chuyện đó ngươi có làm được không?

Y biết rõ Mộ Dung Phục đã có tính toán rồi, chỉ muốn một khi lên làm vua Đại Lý, trong vài năm sẽ gài người thân tín khắp nơi, giết sạch những người còn trung với họ Đoàn và những kẻ chống mình, khôi phục lại họ Mộ Dung, không chừng còn cải quốc hiệu Đại Lý là Đại Yên. Bây giờ sở dĩ hỏi y ba điều khó như thế, ấy là lấy tiến làm thoái, để y tin tưởng không nghi ngờ gì chứ nếu mình bằng lòng dễ dàng quá, y sẽ biết ngay là có ý xấu không thành thực.

Mộ Dung Phục trầm ngâm giây lát, trù trừ nói:

-          Cái đó …

Thực ra y đã nghĩ đến việc sau này lên ngôi vua Đại Lý sẽ phải làm gì rồi, so với việc Đoàn Diên Khánh đòi hỏi cũng không khác lắm nhưng cũng biết nếu mình vội vàng bằng lòng ngay thì cũng lộ cái ý giả trá bất lương, nên cũng vờ vịt suy nghĩ rồi mới đáp:

-          Tại hạ tuy không phải là kẻ vong bản bất hiếu, nhưng muốn thành đại sự không nên nề hà tiểu tiết, đã bái điện hạ làm cha thì phải trung với họ Đoàn, một lòng một dạ.

Đoàn Diên Khánh cười khằng khặc nói:

-          Hay lắm, hay lắm! Lão phu phiêu bạt giang hồ, không vợ không con, không ngờ đến cuối cuộc đời lại có được một đứa con xứng ý, quả là thỏa nguyện bình sinh. Con ta trẻ tuổi anh tuấn, quả là sung sướng biết chừng nào. Trong đời ta thật không có chuyện gì sung sướng hơn. Có Phật Bà ở trên, đệ tử cảm kích đến rơi nước mắt, dù phải tan xương nát thịt cũng không báo đáp được một trong muôn vàn ân đức của bạch y Quan Thế Âm bồ tát.

Y trong lòng khích động, hai hàng lệ tuôn rơi trên hai gò má, cúi đầu chắp tay, chính là hướng về phía Đoàn phu nhân. Đao Bạch Phượng chậm rãi gật đầu, ánh mắt nhìn về đứa con đang nằm dưới đất.

Mấy câu đó của Đoàn Diên Khánh là nói về đứa con ruột của y Đoàn Dự, ngoại trừ Đoàn phu nhân ra, không ai hiểu ý tại ngôn ngoại thế nào. Mọi người thấy giọng chân thành cứ tưởng y thu nghĩa tử, tương lai sẽ truyền ngôi cho, nên không một ai nghi ngờ. Kẻ gọi là thiên hạ đệ nhất đại ác nhân rơi lệ trước mặt mọi người, quả là chưa từng nghe đến. Mộ Dung Phục mừng rỡ nói:

-          Điện hạ là tiền bối anh hiệp trong võ lâm, một lời nói ra nặng như chín cái đỉnh, quyết không hối hận. Nghĩa phụ ở trên, hài nhi xin khấu đầu.

Hai gối khuỵu lại liền quì xuống.

Bỗng ngoài cửa có người lớn tiếng nói:

-          Sai bét rồi! Không phải vậy! Việc này nhất định là không nên.

Cửa mở ra, một người hùng hổ tiến vào, chính là Bao Bất Đồng. Mộ Dung Phục đứng bật dậy, mặt hơi biến sắc, quay lại nói:

-          Bao tam ca có chuyện gì muốn nói?

Bao Bất Đồng đáp:

-          Công tử gia đường đường là hậu duệ của hoàng tộc họ Mộ Dung nhà Đại Yên, sao lại đổi thành họ Đoàn được? Đại nghiệp hưng phục nước Yên tuy gian nan vạn phần, nhưng chúng ta cũng đành cúc cung tận tụy, hết sức mà làm. Thành đại sự dĩ nhiên là tốt nhất, nhưng nếu không thành công thì cũng đường đường chính chính là hảo hán tử.

Còn như công tử gia nếu như lạy kẻ người không ra người, quỉ không ra quỉ kia làm cha nuôi, dẫu mai sau có làm hoàng đế cũng chẳng vinh hạnh gì, huống chi một người họ Mộ Dung lên làm hoàng đế Đại Lý thì quả là khó càng thêm khó.

Mộ Dung Phục nghe y ăn nói vô lễ, trong lòng tức tối nhưng Bao Bất Đồng là người thân tín tâm phúc, cái khéo của dùng người là không nên nói thẳng vào mặt nên chỉ thản nhiên nói:

-          Bao tam ca, có rất nhiều sự tình mà tam ca nhất thời chưa minh bạch, để sau này ta sẽ từ từ giải thích cho tam ca nghe.

Bao Bất Đồng lắc đầu:

-          Sai bét rồi! Không phải vậy! Công tử gia, Bao Bất Đồng này tuy khù khờ thật nhưng dụng ý của công tử mười phần cũng đoán được một hai. Công tử định học Hàn Tín luồn trôn, tạm nhẫn nhịn cái nhục nhất thời, chờ mai này phi hoàng đằng đạt. Công tử nghĩ rằng hôm nay đổi qua họ Đoàn, đến khi chưởng ác đại quyền lúc đó quay lại họ Mộ Dung, thậm chí đến quốc hiệu Đại Lý cũng có thể đổi thành Đại Yên là khác, hoặc giả hưng binh chinh Tống phạt Liêu, khôi phục cương vực cũ của Yên quốc.

Công tử gia, tuy chủ tâm của công tử có tốt thật nhưng nếu làm như thế, há chẳng thành kẻ bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa, đâm thẹn với lòng, để cho thiên hạ mai mỉa. Theo thuộc hạ thì cái ngôi hoàng đế ấy cũng chẳng nên màng làm chi.

Mộ Dung Phục cực kỳ tức tối, lớn tiếng nói:

-          Bao tam ca nói nặng nhỉ, ta có gì mà bảo là bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa?

Bao Bất Đồng đáp:

-          Công tử đầu nhập Đại Lý, mai sau toan chuyện phản bạn, ấy là bất trung. Công tử bái Đoàn Diên Khánh làm cha ắt phải hiếu với họ Đoàn, đối với họ Mộ Dung là bất hiếu, còn như hiếu với họ Mộ Dung thì bất hiếu với họ Đoàn. Mai sau đại sát quần thần và người vô tội, ấy là bất nhân, công tử …

Y chưa nói dứt câu, đột nhiên nghe bộp một tiếng, sau lưng đã bị đánh một chưởng, rồi có tiếng Mộ Dung Phục lạnh lẽo nói:

-          Còn ta mãi hữu cầu vinh, ấy là bất nghĩa chứ gì?

Chưởng đó y sử dụng âm nhu nội kình đến cực điểm, trúng ngay giữa hai đại huyệt Linh Đài, Chí Dương là một chưởng chí mạng. Bao Bất Đồng không thể ngờ vị công tử gia mình phù trợ từ bé đến giờ lại đột nhiên ra tay độc ác như thế, oa lên một tiếng hộc máu ngã lăn ra chết ngay.

Khi Bao Bất Đồng lên tiếng cãi lẫy với Mộ Dung Phục thì Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Phong Ba Ác đứng ở ngoài cửa lắng nghe, ai cũng thấy giọng lưỡi Bao Bất Đồng tuy có quá phận mình một chút nhưng đạo lý quả thực không sai, đột nhiên thấy Mộ Dung Phục đánh Bao Bất Đồng, ba người hoảng hốt vội xông ngay vào.

Phong Ba Ác ôm lấy Bao Bất Đồng gọi rối rít:

-          Tam ca! Tam ca! Sao thế này?

Chỉ thấy từ trên má Bao Bất Đồng hai giọt lệ nhỏ xuống, đưa tay thăm mũi thì không còn thở nữa, biết y khi lâm tử đau lòng vô hạn. Phong Ba Ác khóc rống lên:

-          Tam ca, có phải anh tắt thở rồi nhưng vẫn còn muốn hỏi công tử gia: “Vì cớ gì lại hạ độc thủ giết ta?”

Nói xong y quay đầu lại gườm gườm nhìn Mộ Dung Phục, ánh mắt đầy oán hận. Đặng Bách Xuyên lớn tiếng nói:

-          Công tử gia, Bao tam đệ xưa nay vẫn thường hay cà khịa với người ngoài, công tử cũng đã biết rồi. Ví như y có nói năng hơi vô lễ, không biết trên dưới thì cũng chỉ nên trách cứ là đủ, lẽ nào lại hại mạng y?

*

*          *

      T hực ra Mộ Dung Phục bực tức chẳng phải vì Bao Bất Đồng nói năng vô lễ, mà là vì ghét y nói huỵch toẹt ra những gì mình mưu tính trong lòng. Nếu như thế Đoàn Diên Khánh ắt sẽ không chịu thu y làm con nuôi nữa, cũng chẳng truyền ngôi, mà dẫu lập y làm hoàng thái tử thì cũng bố trí tay chân khiến cho âm mưu khôi phục Đại Yên của y càng thêm khó, cái vương miện đã đến tận tay, lại theo gió bay lên trời thành thử trong khi gấp gáp, không thể không hạ độc thủ. Y nghe Phong Đặng hai người nói thế, nghĩ thầm: “Việc hôm nay tiến thoái lưỡng nan, đành phải đắc tội với Phong Đặng hai người chứ không thể để thái tử Diên Khánh có bụng nghi ngờ được”. Y bèn nói:

- Bao Bất Đồng ăn nói hỗn hào thì có đáng gì đâu? Y theo ta đã lâu năm, lẽ nào vì một vài câu cãi lẫy mà sát hại y cho đành? Có điều ta một dạ chí thành, bái Đoàn điện hạ làm cha, vậy mà y dám đâm thọc ly gián tình cha con, làm sao có thể dung tha được?

Phong Ba Ác dõng dạc nói:

- Đối với công tử gia, hơn một chục năm vào sinh ra tử của Bao Bất Đồng mà lại kém xa một Đoàn Diên Khánh ư?

Mộ Dung Phục đáp:

- Phong tứ ca chẳng nên nổi giận. Ta đổi qua họ Đoàn Đại Lý, ấy là toàn tâm toàn ý, không hề có bụng dạ nào khác. Bao tam lấy lấy tâm địa tiểu nhân để đo lòng người quân tử, nên ta không thể không dùng trọng thủ.

Công Dã Can lạnh lùng nói:

- Công tử gia tâm ý đã quyết rồi, không còn thay đổi được nữa hay sao?

Mộ Dung Phục đáp:

- Đúng thế.

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Phong Ba Ác người nọ nhìn người kia, cả ba một lòng, cùng gật đầu. Đặng Bách Xuyên dõng dạc nói:

- Công tử gia, bốn người chúng tôi tuy không kết bái thành huynh đệ nhưng cũng nguyện sống chết có nhau, tình như cốt nhục, công tử chắc cũng biết rồi.

Mộ Dung Phục nhướng đôi lông mày dài, lạnh lùng hỏi:

- Đặng đại ca muốn báo thù cho Bao tam ca chăng? Ba vị cứ cùng tiến lên, Mộ Dung Phục này há lại sợ hay sao?

Đặng Bách Xuyên thở dài một tiếng nói:

- Chúng tôi xưa nay vẫn là gia thần của nhà Mộ Dung, lẽ nào lại đám mạo phạm công tử gia? Người xưa có nói rằng: “Hợp nhau thì ở, không hợp thì đi”. Ba người chúng tôi không còn hầu hạ công tử được nữa. Quân tử tuyệt giao, bất xuất ác thanh, mong công tử gia tự lo cho mình được chu toàn.

Mộ Dung Phục thấy ba người định bỏ mình mà đi, nghĩ đến sau này về Đại Lý không còn ai là người tâm phúc, hành sự cực kỳ khó khăn, không thể không giữ họ lại. Y liền nói:

- Đặng đại ca, Công Dã nhị ca, Phong tứ ca, các vị biết ta là người như thế nào, trong tương lai nhất định không phản bội họ Đoàn, ta đối với ba người cũng không hẹp hòi, sao lại nỡ chia tay? Năm xưa gia phụ đối với các vị cũng không có gì sai quấy, ba vị cũng đã từng bằng lòng tận tâm kiệt lực giúp đỡ ta, nay dứt áo ra đi, chẳng phải là phản bội lại lời hứa năm xưa hay chăng?

Đặng Bách Xuyên mặt đanh lại nói:

- Công tử không đề cập đến lão tiên sinh thì chẳng nói làm gì, còn như nhắc đến lão tiên sinh thì việc nhận người ngoài làm cha, đổi họ phản quốc kia còn làm sao mà nhìn lão tiên sinh nữa? Chúng tôi quả đã từng lập thệ với lão tiên sinh, kiếp này nhất quyết tận tâm kiệt lực phò tá công tử khôi phục Đại Yên, quang đại thanh danh nhà Mộ Dung, chứ nào phải giúp công tử làm vẻ vang cho nước Đại Lý, quang đại thanh danh cho họ Đoàn?

Câu đó khiến cho Mộ Dung Phục mặt lúc thì tái nhợt, lúc lại trắng bệch không còn biết trả lời làm sao nữa. Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Phong Ba Ác ba người vái một cái rạp tận đất nói:

- Bái biệt công tử.

Phong Ba Ác vác xác Bao Bất Đồng lên vai, cả bọn xăm xăm đi ra không ngoái đầu lại nữa.

Mộ Dung Phục cười khẩy mấy tiếng, quay sang nói với Đoàn Diên Khánh:

- Nghĩa phụ minh giám, bốn người đó là gia thần của hài nhi, khuông phò đã lâu năm nhưng hài nhi vì trung với họ Đoàn Đại Lý mà chính tay giết một người, đuổi ba người đi. Hài nhi một thân một mình gia nhập Đại Lý đủ biết không hề nhị tâm, không có ý khác.

Đoàn Diên Khánh gật đầu đáp:

- Tốt, tốt! Hay lắm!

Mộ Dung Phục nói:

- Vậy hài nhi giải độc cho nghĩa phụ.

Y đưa tay vào túi, lấy ra một chiếc bình sứ nhỏ, đang định đưa ra bỗng chợt nghĩ: “Ta giải độc Bi Tô Thanh Phong cho y rồi thì từ nay không còn thể nào uy hiếp cái gì được nữa, chỉ còn lấy lòng y, không dám làm gì trái ý. Y hận nhất là tiểu tử Đoàn Dự, chi bằng giết y trước”. Nghĩ thế bèn soẹt một tiếng, trường kiếm rút ra khỏi vỏ nói:

- Nghĩa phụ, công lao đầu tiên là giết tên tiểu tử này để cho tuyệt hậu tự của Đoàn Chính Thuần khiến y không thể không truyền ngôi cho nghĩa phụ.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ngữ Yên nay biến thành em gái ta rồi, ta cũng chẳng muốn sống nữa, ngươi một kiếm giết ta thì tốt quá”. Một là chàng đang muốn chết quách cho xong, hai nữa khí tức đang tắc nghẹn, dẫu muốn kháng cự cũng không có hơi sức, đành vươn cổ chịu chém.

Đoàn Chính Thuần và những người kia thấy y vung kiếm qua phía Đoàn Dự, ai nấy thất sắc. Đoàn phu nhân kêu rú lên thảm thiết. Đoàn Diên Khánh vội nói:

- Hài nhi, lòng hiếu của con quả thực đáng khen. Thế nhưng tiểu tử này cực kỳ đáng ghét, đã nhiều lần đắc tội với cha. Bác hắn, cha hắn đoạt ngôi vua của ta hại ta toàn thân tàn phế, hình thể chẳng còn nguyên vẹn nên ta muốn chính tay giết tên tiểu tặc này thì mới phát tiết được nỗi hận trong tim.

Mộ Dung Phục đáp:

- Vâng!

Y xoay lại toan đưa kiếm cho Đoàn Diên Khánh nói:

- Chết thật, hài nhi quả là hồ đồ, phải giải độc cho nghĩa phụ trước mới phải.

Nói xong tra kiếm vào vỏ, lại lấy cái bình sứ ra, trong một thoáng y thấy ánh mắt Đoàn Diên Khánh lóe lên ra chiều đắc ý, dường như đưa mắt cho ai. Mộ Dung Phục nhìn theo thấy Đoàn phu nhân hơi gật đầu, vẻ mặt vừa cảm kích vừa mừng rỡ.

Mộ Dung Phục thấy thể nổi dạ nghi ngờ nhưng dẫu có nằm mơ cũng không bao giờ tưởng tượng được Đoàn Dự lại là con của Đoàn Diên Khánh và Đoàn phu nhân. Đoàn Diên Khánh thà phải bỏ mạng chứ nhất quyết không để ai làm hại đến đứa con yêu quí của y, ngay cả ngôi vua cũng chỉ là thân ngoại chi vật.

Thế nhưng Mộ Dung Phục lại nghĩ ngay: “Hay là Đoàn Diên Khánh và Đoàn Chính Thuần có cấu kết ngầm với nhau? Dẫu sao họ cũng cùng một nhà họ Đoàn Đại Lý, lại là anh em họ, người đời thường bảo sơ bất gián thân, anh em họ Đoàn có lý đâu lại coi một kẻ chẳng dây mơ rễ má gì như mình ở trong lòng?”. Thế nhưng y lại nghĩ: “Tình thế hôm nay, chỉ có nước lập một số đại công với Đoàn Diên Khánh để cho y thêm phần tin tưởng”. Y quay sang nói với Đoàn Chính Thuần:

- Trấn Nam Vương, ông về đến Đại Lý, trong bao lâu sẽ tiếp nhiệm ngôi vua, sau khi lên ngôi rồi, trong bao lâu sẽ truyền ngôi cho nghĩa phụ ta?

Đoàn Chính Thuần hết sức khinh bỉ gã này nên chỉ lạnh lùng nói:

- Hoàng huynh ta nội công thâm hậu, tinh lực dồi dào, ít ra cũng phải làm vua ba mươi năm nữa. Khi truyền ngôi cho ta rồi, ta cũng phải làm một thời gian để tạo phúc cho dân, ít naht cũng phải ba mươi năm. Sáu mươi năm sau, con ta Đoàn Dự cũng đã tám mươi, nếu như làm vua hai chục năm thôi thì cũng phải tám mươi năm nữa …

Mộ Dung Phục quát lên:

- Chỉ nói bá láp, ai mà đợi được lâu như thế? Ta kỳ hạn cho ngươi một tháng phải đăng cơ lên ngôi báu, sau một tháng nữa là phải nhường ngôi cho Diên Khánh thái tử.

Đoàn Chính Thuần đã hiểu rõ tình thế trước mắt, Mộ Dung Phục và Đoàn Diên Khánh muốn dùng mình làm cái thang để trèo lên ngôi vua Đại Lý, một khi truyền ngôi cho Đoàn Diên Khánh rồi bọn họ lập tức giết mình ngay. Thế nhưng lúc này thì họ chẳng dám, nếu như có kẻ địch tới làm hại mình thì bọn chúng còn hết sức bảo vệ, còn Đoàn Dự thì cực kỳ nguy ngập. Ông cất tiếng cười ha hả nói:

- Ngôi vua ta chỉ truyền cho con ta Dự nhi, nếu muốn ta truyền ngôi sớm thì cũng được còn bảo truyền ngôi cho người ngoài thì nhất định là không thể được.

Mộ Dung Phục giận dữ nói:

- Giỏi nhỉ, ta đâm cho tên tiểu tử Đoàn Dự một kiếm để xem ngươi có truyền ngôi cho cái hồn ma ấy được không?

Nói xong lại soẹt một tiếng rút kiếm ra khỏi bao. Đoàn Chính Thuần vẫn cười sằng sặc nói:

- Ngươi tưởng Đoàn Chính Thuần này là hạng người nào? Ngươi sát hại con ta, ta vẫn còn cam tâm để cho ngươi sắp xếp được hay sao? Ngươi muốn giết thì cứ giết, giết hết cả bọn ta đi.

Mộ Dung Phục nhất thời trù trừ chưa biết tính sao, lúc này muốn giết Đoàn Dự thì chỉ cất tay là xong, thế nhưng lại sợ Đoàn Chính Thuần hận y giết con mình, đến tính mệnh cũng chẳng màng, lúc đó đến việc Đoàn Diên Khánh lên ngôi vua cũng không xong. Đoàn Diên Khánh không thành hoàng đế, dĩ nhiên mình không thể nào đụng tới cái ngôi vua Đại Lý được. Y tay cầm trường kiếm, mũi kiếm thanh quang lấp lánh chiếu lên khuôn mặt trắng trẻo của y một màu xanh lục, nghiêng đầu nhìn Đoàn Diên Khánh chờ lệnh.

Đoàn Diên Khánh nói:

- Gã này tính khí quật cường, nếu vì chuyện này mà y tự tận thì bao nhiêu tâm kế của mình sẽ tan ra bọt nước. Thôi được, tên tiểu tử Đoàn Dự tạm thời chưa giết vội, y dẫu sao cũng trong tay cha con ta rồi, còn sợ y bay lên trời hay sao. Ngươi đưa thuốc giải cho ta rồi tính sau.

Mộ Dung Phục đáp:

- Vâng!

Y lại nghĩ: “Mới rồi Diên Khánh thái tử dưa mắt cho Đoàn phu nhân, không biết có dụng ý gì? Cái nghi vấn đó chưa hiểu rõ, mình chớ nên đưa thuốc giải cho y vội. Thế nhưng nếu mình vẫn diên trì ắt là y sẽ nổi nóng, vậy mình biết làm sao đây?”.

Ngay lúc đó Vương phu nhân đã kêu lên:

- Mộ Dung Phục, ngươi bảo đầu tiên sẽ giải độc cho ta, thế sao vừa mới lạy người ta làm cha thế là chỉ biết hết lòng hết dạ chiều chuộng tên xú bát quái đó. Ngươi không sợ ta đem những tiếng thô tục ra chửi y hay sao, cái đồ người không ra người …

Mộ Dung Phục nghe thế đâm chột dạ vội quay sang Đoàn Diên Khánh cười nịnh:

- Nghĩa phụ, cữu mẫu của hài nhi tính tình cương cường, nếu có ăn nói đắc tội đến lão nhân gia, xin cũng nới cho một hai … Để cho bà ta khỏi buông lời vô lễ, hài nhi giải độc cho cữu mẫu trước, sau đó lập tức hóa giải cho nghĩa phụ ngay.

Nói xong đưa chiếc bình để vào mũi Vương phu nhân. Vương phu nhân ngửi thấy một mùi hôi thối kinh khủng, tưởng chừng muốn mửa, đang toan chửi mắng bỗng thấy tứ chi kình lực dần dần khôi phục, đưa mắt nhìn Đoàn Chính Thuần, Đoàn phu nhân, cùng Tần Nguyễn Cam ba người đàn bà, máu ghen xông lên không còn chịu nổi, lớn tiếng nói:

- Phục nhi, mau mau giết hết bốn con đàn bà đê tiện này đi cho ta.

Mộ Dung Phục chợt nghĩ ra: “Cữu mẫu đã nói rằng Đoàn Chính Thuần tính tình cương cường, quyết không chịu cho ai uy hiếp, thế nhưng đối với vợ con, còn coi trọng hơn cả tính mạng mình. Sao mình không thử uy hiếp xem sao?”. Y bèn cầm kiếm đến trước mặt Nguyễn Tinh Trúc, quay lại hỏi Đoàn Chính Thuần:

- Trấn Nam Vương, mợ ta bảo giết mụ này, ý ông ra sao?

Đoàn Chính Thuần hết sức bối rối nhưng không biết làm sao, chỉ đành quay sang Vương phu nhân:

- A La, từ nay nàng muốn gì ở ta, ta sẽ làm vậy, mọi điều đều nghe theo nàng. Không lẽ nàng muốn hai ta kết một mối thù chung thân không cởi được? Nếu như nàng bảo người ta giết những người này, từ rày về sau ta còn yêu thương nàng được nữa sao?

Vương phu nhân tuy có máu ghen rất nặng nhưng nghe Đoàn Chính Thuần nói thế quả không sai, vì ông ruồng rẫy mình nên mười mấy năm qua thù hận tận xương tủy, đến nỗi khi gặp người Đại Lý họ Đoàn đều giết hết ngay, thế nhưng lúc này khi thấy mặt ông thì tình xưa ý cũ lại trỗi dậy, bèn nói:

- Hảo sanh nhi, khoan hãy động thủ, để ta tính lại xem sao.

Mộ Dung Phục nói:

- Trấn Nam Vương, chỉ cần ông bằng lòng truyền ngôi cho Diên Khánh thái tử, ta sẽ bảo toàn các chính phi trắc phi của ông, không để ai đụng đến một sợi lông măng.

Đoàn Chính Thuần cười khẩy mấy tiếng không thèm lý gì đến. Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Gã này nổi tiếng phong lưu, trên đời ai mà chẳng biết, quả là kẻ bất ái giang sơn, ái mỹ nhân. Nếu muốn y truyền ngôi thì phải dùng thủ đoạn đối phó với những người đàn bà của y mới xong”. Y giơ kiếm lên, mũi kiếm chỉ thẳng vào ngực Nguyễn Tinh Trúc nói:

- Trấn Nam Vương, ông là nam tử hán đại trượng phu, chỉ cần nói một lời là đủ. Nếu như ông gật đầu, tại hạ lập tức đem thuốc giải ra cho những người này, sau đó thiết yến tạ tội, hóa địch thành bạn, thế có phải là chuyện cực kỳ tốt đẹp không? Còn như ông không bằng lòng, kiếm ta sẽ đâm ngay xuống.

Đoàn Chính Thuần đưa mắt nhìn Nguyễn Tinh Trúc, thấy đôi mắt đẹp của bà ta lộ vẻ kinh hoàng, trong lòng hết sức thương xót, nghĩ thầm: “Ta có bằng lòng thì cũng chẳng hề chi, ngôi vua Đại Lý làm sao sánh bằng Trúc muội được? Thế nhưng gã gian tặc này muốn lấy lòng Diên Khánh thái tử ắt sẽ giết Dự nhi ngay lập tức”. Ông không đành lòng bèn quay đầu sang chỗ khác.

Mộ Dung Phục kêu lên:

- Ta đếm một, hai, ba nếu như ngươi không gật đầu thì đừng trách Mộ Dung Phục này thủ hạ vô tình.

Y dài giọng ra đếm:

- Một … hai …

Đoàn Chính Thuần quay lại nhìn Nguyễn Tinh Trúc, trên mặt đầy vẻ trìu mến nhưng không biết làm sao hơn. Mộ Dung Phục đếm tiếp:

- Ba … Trấn Nam Vương, ngươi nhất định không chịu ư?

Đoàn Chính Thuần đang mơ màng nghĩ đến khi ông và Nguyễn Tinh Trúc hai người mới gặp nhau, đôi bên quấn quít, đột nhiên bên tai nghe một tiếng rú lên thảm thiết, trường kiếm của Mộ Dung Phục đã đâm suốt qua ngực nàng.

Vương phu nhân thấy các bắp thịt trên mặt Đoàn Chính Thuần giựt giựt đủ biết ông đau lòng đến chừng nào, dẫu nhát kiếm đó có đâm qua người ông cũng còn dễ chịu hơn, kêu lên:

- Mau, mau cứu sống lại, ta có bảo ngươi giết nó đâu, chỉ cốt uy hiếp gã vô lương tâm kia đấy thôi?

Mộ Dung Phục lắc đầu nghĩ thầm: “Đằng nào thì ta cũng kết thù chuốc oán rồi, giết hơn một người, kém một người cũng có khác gì đâu?”. Mũi kiếm y chỉ sang Tần Hồng Miên, quát lên:

- Trấn Nam Vương, uổng cho cái tiếng giang hồ khen ngươi là đa tình đa nghĩa, vậy mà không dám nói lên một tiếng để cứu tình nhân. Một, hai, ba.

Tiếng “ba” vừa dứt, nghe soẹt một tiếng lại giết luôn Tần Hồng Miên. Đến lúc đó Cam Bảo Bảo sợ đến mặt tái mét không còn giọt máu nhưng cố gắng trấn tĩnh lớn tiếng nói:

- Ngươi muốn giết thì cứ giết, việc gì phải uy hiếp Trấn Nam Vương. Ta là vợ của Chung Vạn Cừu, có liên hệ gì đến Trấn Nam Vương đâu? Ngươi chớ có làm điếm nhục thanh danh của Chung gia Vạn Cừu Cốc.

Mộ Dung Phục cười khẩy một tiếng đáp:

- Ai chẳng biết Đoàn Chính Thuần hoa hái đầy tay, khuê nữ cũng tốt, sương phụ cũng hay, gái có chồng cũng được, bé chẳng tha già chẳng thương.

Y vừa hỏi mấy câu lại giết luôn Cam Bảo Bảo. Vương phu nhân trong lòng không biết tính sao, tuy bình thời giết người không nháy mắt nhưng thấy Mộ Dung Phục chỉ trong khoảnh khắc đã giết chết ba người tình nhân của Đoàn Chính Thuần, tim không khỏi đập thình thình, đâu còn dám nhìn Đoàn Chính Thuần nữa, không hiểu giờ này khuôn mặt ông ra thế nào.

Bỗng nghe Đoàn Chính Thuần dịu dàng nói:

- A La, nàng cùng ta một thời thân ái, sao chưa hiểu được lòng ta? Trong biết bao nhiêu đàn bà ở thế gian này, ta lúc nào cũng chỉ yêu một mình nàng thôi. Dẫu cho hoa hái đầy tay nhưng cũng chỉ là để mua vui trong chốc lát, có để tâm đến ai đâu! Ngoại sanh nàng giết ba người tình của ta cũng có đáng gì, miễn là y đừng đụng đến nàng là ta yên tâm.

Mấy câu đó ông nói hết sức ngọt ngào nhưng Vương phu nhân nghe vào tai lại cực kỳ sợ hãi, biết rằng Đoàn Chính Thuần hận mình biềt chừng nào, muốn dụ cho Mộ Dung Phục giết bà ta, kêu lên:

- Hảo sanh nhi, ngươi chớ có tin lời y.

Mộ Dung Phục bán tín bán nghi, trường kiếm tự nhiên quay sang chỉ vào ngực Vương phu nhân, máu ròng ròng nhỏ xuống vạt áo. Vương phu nhân biết Mộ Dung Phục thủ đoạn độc ác, để thỏa nguyện được lên làm vua thì có còn nghĩ gì đến tình mợ cháu nữa? Chỉ cần Đoàn Chính Thuần tiếp tục nói thêm mấy câu trìu mến, ắt y sẽ dùng tính mạng mình để uy hiếp, run run u oán nói:

- Đoàn lang, Đoàn lang! Không lẽ chàng hận thiếp đến như thế, không giết được thiếp thì không xong ư?

Đoàn Chính Thuần thấy ánh mắt Vương phu nhân khiếp sợ, khuôn mặt đầy vẻ xót xa, nhớ lại mối ân tình năm xưa, cảm thấy mềm lòng, cất tiếng chửi:

- Ngươi là đồ đàn bà đê tiện, vẫn còn cái tính ghen lồng ghen lộn năm nào, bụng dạ nhỏ nhen để đến nỗi ba người đàn bà ta yêu thương phải chết đau chết đớn, chân tay ta mà được tự do thì nhất quyết sẽ băm vằm ngươi ra. Mộ Dung Phục, mau mau đâm một nhát, sao không giết con mụ khốn kiếp kia đi?

Ông biết càng chửi nặng chừng nào thì Mộ Dung Phục lại càng không muốn giết Vương phu nhân. Vương phu nhân trong lòng minh bạch, lúc đầu Đoàn Chính Thuần giả vờ yêu thương bà hết mực cốt là để xúi cho Mộ Dung Phục giết mình, báo thù cho Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo, bây giờ đổi qua mắng mỏ, thế là đã tha thứ rồi. Thế nhưng mười mấy năm qua, bà vẫn thường ngày đêm thương nhớ Đoàn Chính Thuần, hôm nay mới được gặp lại tình lang, trong lòng hết sức rối ren, nhìn trước mắt ba người đàn bà chết trên mặt đất, mũi kiếm đầy máu chỉ vào ngực mình, đầu óc không khỏi hoang mang. Đến khi nghe Đoàn Chính Thuần buông lời rủa xả, nào là “đàn bà đê tiện”, nào là “mụ khốn kiếp”, so với những lời thề non hẹn biển, nưng như nưng trứng, hứng như hứng hoa năm xưa thật một trời một vực, nhịn không nổi giọt châu lã chã, nghẹn ngào nói:

- Đoàn lang, năm xưa chàng đã nói thế nào, bây giờ không còn nhớ gì nữa sao? Sao chàng không còn nghĩ gì đến thiếp? Đoàn lang, thiếp một lòng một dạ thương yêu chàng, chúng mình xa cách bao năm, đâu có dễ gì gặp lại, chàng … chàng lẽ nào chẳng nói với em được một lời yêu thương? Em sinh cho chàng đứa con gái Ngữ Yên, chàng đã gặp nó chưa? Chàng có thích nó không?

Đoàn Chính Thuần thầm kinh hãi: “A La hẳn là đầu óc mê muội mất rồi, nếu như ta nói một câu nhắc đến tình yêu cũ thì nàng còn sống sao nổi?”. Ông lập tức hầm hầm quát mắng:

- Ngươi làm chết ba người ta yêu thương, ta hận ngươi tận xương tủy. Tình cảm giữa hai chúng ta, mười mấy năm trước đã cắt đứt rồi, tình đoạn nghĩa tuyệt, bây giờ chỉ hận không được đá cho mi mấy cái cho hả mối thù đấy thôi.

Vương phu nhân khóc òa lên:

- Đoàn lang! Đoàn lang!

Đột nhiên bà lao người tới, đâm thẳng vào mũi kiếm trước mặt. Mộ Dung Phục nhất thời không biết nên rút kiếm hay không, chỉ hơi ngần ngừ một chút thì trường kiếm đã đâm suốt qua ngực Vương phu nhân. Mộ Dung Phục vội rút kiếm về, máu tươi vọt ra như suối.

Vương phu nhân run rẩy hỏi:

- Đoàn lang! Quả thực chàng hận em đến thế sao?

Đoàn Chính Thuần thấy mũi kiếm đâm trúng chỗ yếu hại, biết bà ta không thể nào sốngn ổi, nhịn không nổi nước mắt tuôn rơi trên hai gò má, nghẹn ngào đáp:

- A La, ta chửi nàng như thế, chẳng qua chỉ mong cứu được nàng. Hôm nay mình gặp lại nhau, ta sung sướng không biết đâu mà kể, lẽ nào lại hận nàng? Lòng ta đối với em mãi mãi như ngày nào hái tặng cho nhau một đóa mạn đà hoa.

Vương phu nhân khóe miệng nhếch một nụ cười, thều thào:

- Nếu thế thì hay lắm, thiếp vẫn … vẫn biết trong lòng chàng, mãi mãi có hình bóng em, không bao giờ quên em. Lòng em cũng thế, mãi mãi chỉ yêu chàng … chàng đã từng bằng lòng, hai đứa sẽ cùng nhau lên núi Vô Lượng ở Đại Lý, đến thạch động hồi nhỏ em ở với mẹ em, hai đứa mình chung sống bên nhau không bao giờ ra ngoài nữa. Chàng có nhớ không?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- A La, dĩ nhiên ta nhớ chứ, chúng mình mai sẽ đi ngay, đi xem pho ngọc tượng của mẹ em.

Vương phu nhân vẻ mặt sáng bừng lên, nói khẽ:

- Vậy … vậy thì hay lắm … Trên thạch bích, có bóng một thanh bảo kiếm, xanh xanh đỏ đỏ, đẹp ơi là đẹp. Chàng xem kìa, xem kìa, chàng có thấy không …

Tiếng nói bà ta nhỏ dần, đầu ngoẹo đi, tắt thở. Mộ Dung Phục lạnh lùng nói:

- Trấn Nam Vương, bao nhiêu tình nhân của ông, đều vì ông mà chết cả rồi, không lẽ cuối cùng cả nguyên phối vương phi, cũng muốn để cho chết hay sao?

Nói xong y chậm rãi chỉ mũi kiếm vào ngực Đoàn phu nhân. Đoàn Dự nằm dưới đất, tai nghe thấy Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo, Vương phu nhân từng người chết dưới kiếm của Mộ Dung Phục, Vương phu nhân nói đến thạch động nơi Vô Lượng sơn, đến tượng ngọc, đến kiếm ảnh trên vách đá, tuy có nghe vào tai nhưng không còn thời giờ đâu mà suy nghĩ, đến lúc Mộ Dung Phục lại đem tính mạng mẹ chàng ra uy hiếp phụ thân, khiến chàng nóng như lửa đốt, nhịn không nổi kêu lên:

- Không được giết mẹ ta! Không được giết mẹ ta!

Thế nhưng miệng chàng đã bị nhét hạt dẻ, không phát xuất ra được tiếng nào, chỉ đành cố gắng vùng vẫy nhưng toàn thân nội tức bị bế tắc, đến cục cựa một chút cũng không được. Chỉ nghe Mộ Dung Phục gay gắt nói:

- Trấn Nam Vương, ta lại đếm một, hai, ba nếu như ngươi không chịu nhường ngôi cho thái tử Diên Khánh thì vương phi của ngươi ta cũng giết ngay.

Đoàn Dự kêu to:

- Đừng giết mẹ ta.

Văng vẳng có tiếng Đoàn Diên Khánh nói:

- Khoan đã chớ có động thủ, việc này cần phải tính kỹ xem sao.

Mộ Dung Phục đáp:

- Nghĩa phụ, việc này can hệ rất lớn, nếu như Trấn Nam Vương không chịu truyền ngôi cho cha thì bao nhiêu tính toán của mình đều ra sông ra biển. Một…

Đoàn Chính Thuần nói:

- Nếu ngươi muốn ta bằng lòng thì phải làm cho ta một việc.

Mộ Dung Phục hỏi:

- Bằng lòng thì bằng lòng, không bằng lòng thì không bằng lòng, ta không để mắc kế hoãn binh của ngươi đâu. Hai … Sao đây?

Đoàn Chính Thuần thở dài một tiếng nói:

- Ta một đời làm nhiều tội nghiệt, tất cả cùng chết một lượt thì cũng đúng thôi.

Mộ Dung Phục hỏi:

- Thế có nghĩa là ngươi không bằng lòng? Ba …

Mộ Dung Phục đếm đến tiếng thứ ba, thấy Đoàn Chính Thuần quay mặt đi nơi khác không nhìn nữa, đang định đâm vào ngực Đoàn phu nhân thì nghe Đoàn Diên Khánh quát lên:

- Khoan đã!

Mộ Dung Phục hơi ngần ngừ, quay sang nhìn Đoàn Diên Khánh, đột nhiên thấy Đoàn Dự từ dưới đất nhảy bật lên, lấy đầu húc vào bụng dưới mình. Mộ Dung Phục nghiêng qua tránh được, hết sức kinh ngạc: “Tên tiểu tử này đã bị Túy Nhân Phong chích rồi, lại thêm trúng độc Bi Tô Thanh Phong, hai món đó càng làm thêm mê man, sao lại nhảy lên được nhỉ?”.

Thì ra lúc đầu Đoàn Dự nghĩ đến chuyện Vương Ngữ Yên lại chính là em gái mình, trong lòng sầu khổ, nội tức đi vào đường rẽ, đến khi thấy Mộ Dung Phục định giết mẫu thân chàng, lập tức chẳng còn nghĩ gì đến tình nhân nữa, cũng chẳng cần biết mình có bị tẩu hỏa nhập ma hay không, nội tức lại tự nhiên quay về chính đạo.

Phàm người tu tập nội công thì phải nghĩ đến việc dẫn nội tức theo các kinh mạch mà đi nhưng khi bị tẩu hỏa nhập ma rồi thì đều muốn dẫn các luồng nội tức đã sai đường quay trở lại nên trong lòng không khỏi chỉ chú tâm vào những kinh mạch nhỏ, bụng dạ càng bồn chồn thì nội tức lại càng tán phát.

Đến lúc này chàng chỉ nghĩ đến an nguy của mẹ, nội tức không còn bị ý chí làm rối loạn nữa, nên lại quay trở lại vận hành như bình thường. Chàng nghe thấy Mộ Dung Phục đếm đến “ba”, không còn nghĩ rằng mình đang bị trói chặt, vội vàng nhảy lên, lao vào bụng Mộ Dung Phục, thì ra thân thể đã hoạt động được rồi. Đoàn Dự húc một cái không trúng, đầu vai đụng mạnh vào cạnh bàn, hai tay vận lực giằng mạnh ra, những sợi gân bò liền đứt đoạn.

Hai tay chàng vừa được tự do đã nghe Mộ Dung Phục chửi:

- Tiểu tử này giỏi thật!

Đoàn Dự liền vung tay điểm ra, sử dụng Thương Dương Kiếm trong Lục Mạch Thần Kiếm đâm luôn vào Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục nghiêng qua tránh, đâm ngược lại một kiếm. Đoàn Dự mắt bị vải đen che. Miệng lại bị nhét hạt dẻ, không nói được đã đành mà cũng không nhìn thấy Mộ Dung Phục ở đâu, trong cơn hoảng loạn, quên cả giơ tay kéo tấm vải che mặt, hai tay múa lung tung, sợ Mộ Dung Phục tiến đến làm hại mẹ mình.

Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Gã này đã thoát ra rồi, ghê gớm lắm, mình phải thừa cơ y còn bị che mắt giết y ngay”. Y lập tức sử chiêu Đại Giang Đông Khứ, trường kiếm đâm thẳng vào ngực Đoàn Dự. Đoàn Dự đang múa may loạn xạ, nghe thấy tiếng gió rít lên, vội vàng tránh qua, soẹt một tiếng mũi kiếm đã đâm trúng vai, đau quá, vội tung mình nhảy ra. Ở trong chiếc giếng khô đã hút được nội lực thâm hậu của Cưu Ma Trí nên chỉ nhảy nhẹ một cái đã vọt lên cao hơn một trượng, bình một tiếng, đầu va vào xà nhà. Chàng còn đang ở trên không, nghĩ thầm: “Mắt ta không thấy thành thử y giết ta được mà ta không giết được y, làm sao bây giờ? Y giết ta thì cũng chẳng hề gì nhưng ta không cứu được mẹ được cha”. Hai chân lại dãy dụa, nghe roạt một cái, những sợi gân bò trói chân cũng đứt rời.

Đoàn Dự mừng rỡ nghĩ thầm: “Hay quá! Hôm trước ở nơi nhà máy xay, y giả trang làm Lý tướng quân nước Tây Hạ, ta dùng Lăng Ba Vi Bộ né tránh, y không giết được ta”. Chân trái vừa chấm đất, lập tức chuyển sang nửa bước, thân hình hơi nghiêng đã tránh được kiếm của Mộ Dung Phục vừa đâm tới chỉ cách chừng vài tấc. Đoàn Diên Khánh, Đoàn Chính Thuần, Đoàn vương phi ba người thấy ánh kiếm lấp loáng vù vù chung quanh người Đoàn Dự, hung hiểm hết sức, ai nấy sợ đến sững sờ, lại thấy phương pháp tránh né của chàng khéo léo không thể hình dung. Sự việc quả là xảo diệu, nếu như mắt nhìn thấy mà lại không dùng Lăng Ba Vi Bộ thì một người không biết võ công như Đoàn Dự không thể nào tránh được một nhát kiếm của Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục càng tung ra càng nhanh nhưng trước sau vẫn không thể nào chạm được đến người Đoàn Dự. Y càng gấp gáp, lại thêm hổ thẹn, thấy Đoàn Dự vẫn không chịu gỡ tấm vải che mặt ra, lại tưởng chàng cố tình bỡn cợt, không coi mình ra gì có biết đâu Đoàn Dự vội quá nên đâm ra hồ đồ. Y nghĩ thầm: “Đến một người bịt mắt mà ta còn không thắng được thì còn mặt mũi nào sống thừa ở trên đời?”. Đôi mắt y như tóe lửa, thanh quang thấp thoáng, trường kiếm sử dụng chẳng khác gì một trái cầu xanh, trong sảnh đường lăn qua lăn lại, trong nháy mắt đã bao chặt Đoàn Dự trong vòng kiếm khuyên, chiêu nào cũng đều sát thủ chí mạng.

Đoàn Diên Khánh, Đoàn Chính Thuần, Đoàn phu nhân, Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Thôi Bách Tuyền mọi người bị kiếm quang ép tới, chỉ thấy hàn khí phả vào mặt, lông tóc trên mặt rơi lả tả, tay áo bâu áo cũng bị cắt thành từng mảnh nhỏ. Đoàn Dự trong vòng kiếm quang nhảy qua bước lại, nghiêng đông tránh tây chẳng khác gì người đang dạo mát trong sân, vậy mà lưỡi kiếm sắc bén của Mộ Dung Phục cũng không cắt được một mảnh dây lưng. Thế nhưng tuy bước chân Đoàn Dự có vẻ nhàn nhã, trong lòng lại hết sức rối ren: “Ta chỉ thủ mà không công, mắt không nhìn thấy, nếu như y lấy kiếm đâm cha mẹ ta thì biết làm thế nào?”.

Mộ Dung Phục biết rằng chỉ có Đoàn Dự mới đích thực là mối lo to lớn nhất của mình nên đâu có để ý tới việc giết Đoàn phu nhân, thấy đã hơn trăm chiêu kiếm đánh ra nhưng không cách nào đả thương được đối phương, nghĩ thầm: “Tên tiểu tử này giỏi tài “nghe gió tránh ám khí”, nếu như ta sử dụng Liễu Nhứ kiếm pháp, nhẹ nhàng không có tiếng động để xem y có còn tránh né được không?”. Kiếm pháp của y lập tức biến đổi, chậm rãi đâm ra. Y có biết đâu Lăng Ba Vi Bộ của Đoàn Dự chỉ tự mình mình đi, không cần biết kẻ địch tấn công như thế nào, dù cho đối phương ra chiêu ầm ầm cũng thế, mà nhẹ nhàng lững lờ cũng thế chẳng liên can gì đến chàng.

Với kiến thức cao minh như Đoàn Diên Khánh thì cũng có thể nhìn ra được yếu quyết ở bên trong nhưng quan tâm quá hóa ra bối rối, y thấy Mộ Dung Phục đổi sang chậm rãi dấu hết những tiếng gió của binh khí, trong bụng kinh hãi, ú ớ lên tiếng:

- Hài nhi, ngươi mau mau giết gã Đoàn Dự kia đi. Nếu như y gỡ được miếng vải che mắt xuống thì e cha con mình sẽ chết vì tay y.

Mộ Dung Phục ngạc nhiên nghĩ bụng: “Lão già này thật hồ đồ, như thế có khác gì nhắc cho y?”. Quả nhiên câu nói đó khiến Đoàn Dự như từ cơn mơ tỉnh dậy, chàng liền chợt nhớ ra đưa tay giựt mảnh vải che mắt xuống, trước mắt thấy sáng lòa, mắt hoa lên, thấy một mũi kiếm lặng lẽ đâm vào mặt. Chàng không biết võ công lại không quen ứng biến, vừa kinh hãi chân tay đã cuống quít, soẹt một tiếng, chân trái đã bị trúng kiếm, nằm lăn ra.

Mộ Dung Phục mừng quá, giơ kiếm đâm xuống. Đoàn Dự nằm nghiêng dưới đất, phóng lại một đường Thiếu Trạch Kiếm, Mộ Dung Phục vội vàng nhảy ngược trở về tránh được. Tuy máu trên đùi Đoàn Dự vẫn chảy xối xả nhưng Lục Mạch Thần Kiếm sử dụng vẫn khí thế tung hoành, chỉ trong chốc lát đã khiến cho Mộ Dung Phục lách tả né hữu trông thật thảm hại.

Hôm trước ở trên núi Thiếu Thất, Mộ Dung Phục đã không địch lại Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự rồi, bây giờ Đoàn Dự lại có thêm nội lực thâm hậu của Cưu Ma Trí, uy lực của kiếm pháp càng thêm mãnh liệt. Chỉ trong vài chiêu đã nghe keng một tiếng nhỏ, trường kiếm của Mộ Dung Phục tuột khỏi tay bắn tung lên cắm ngập vào xà nhà. Tiếp theo nghe vụt một tiếng, kiếm khí đã trúng vai Mộ Dung Phục. Y biết rằng nếu chỉ lưu lại giây lát sẽ bị Đoàn Dự giết ngay, kêu rống lên phóng qua cửa sổ chạy như bay như biến.

Đoàn Dự vịn vào cạnh bàn cố đứng lên, kêu to:

- Mẹ ơi! Cha ơi! Hai vị lão nhân gia không bị thương chứ?

Đoàn phu nhân nói:

- Con mau mau xé vạt áo buộc vết thương lại.

Đoàn Dự đáp:

- Chưa cần vội.

Chàng lấy trong tay Vương phu nhân chiếc bình sứ đưa cho cha mẹ ngửi để giải thuốc mê, sau đó theo đúng lời phụ thân chỉ điểm, dùng nội lực giải cho họ những huyệt đạo bị phong. Sau đó Đoàn phu nhân băng bó vết thương cho con.

Đoàn Chính Thuần tung mình nhảy lên, nhổ thanh kiếm còn cắm trên xà nhà. Lưỡi kiếm đó đã nhuốm máu Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo, Vương phu nhân bốn người đàn bà, người nào cũng đã từng ông ước hẹn đến bạc đầu, thịt da chung đụng. Đoàn Chính Thuần tuy trời sinh tính phong lưu, không phải là kẻ chuyên nhất nhưng mỗi khi yêu thương ai cũng thắm thiết, một dạ chí thành, muốn đem trao hẳn trái tim cho tình nhân. Lúc này ông thấy bốn người đàn bà chết nằm dưới đất, Vương phu nhân đầu tựa vào đùi Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo gục trong lòng Nguyễn Tinh Trúc. Cả bốn người khi sống ai cũng thương yêu nhớ nhung mình, ruột đau như cắt, vui ít lo nhiều, đến cuối cùng lại vì mình mà chết một cách thảm thiết. Khi Nguyễn Tinh Trúc bị Mộ Dung Phục giết, trong bụng Đoàn Chính Thuần đã nguyện sẽ tuẫn tình, bây giờ lại càng kiên định nghĩ thầm: “Dự nhi đã khôn lớn thành người rồi, văn võ song toàn, nước Đại Lý không sợ chẳng có một vị anh chủ minh quân, ta còn có lo gì nữa?”. Ông quay lại nói với Đoàn phu nhân:

- Phu nhân, ta quả thật đối với nàng chẳng ra gì. Trong lòng ta những người đàn bà này với nàng thật cũng không khác gì, ai ai cũng là tâm can bảo cụ, ta yêu họ với một tấm lòng thành thực mà đối với nàng cũng thật chí tình.

Đoàn phu nhân kêu lên:

- Thuần ca! Chàng … chàng không nên …

Bà lập tức nhào về phía chồng. Đoàn Dự vừa rồi lo chuyện cứu mẹ nên xông ra đánh với Mộ Dung Phục, đến khi địch thủ bỏ chạy rồi, chàng mới hoàn hồn, đột nhiên nghĩ ra: “Ta rõ ràng bị tẩu hỏa nhập ma, sao lại khỏi rồi?”. Chàng bàng hoàng, lập tức toàn thân mềm nhũn, người xụm xuống không sao đứng lên được nữa.

Chỉ nghe Đoàn phu nhân kêu lên thảm thiết, thì ra Đoàn Chính Thuần đã đâm ngược mũi kiếm vào ngực rồi. Đoàn phu nhân vội vàng rút trường kiếm, tay trái chặn trên vết thương, sụt sùi:

- Thuần ca! Thuần ca! Dù chàng có đến một nghìn, một vạn người đàn bà, thiếp vẫn một mực yêu chàng. Cũng có lúc em lòng dạ u mê, nổi cơn tức tối, đó cũng … đó cũng là chuyện đã qua … nhưng cũng chính vì yêu chàng …

Thế nhưng mũi kiếm đó Đoàn Chính Thuần đã nhắm đúng tâm tạng đâm vào nên tắt thở ngay đâu còn có nghe ai nói gì nữa. Đoàn phu nhân quay mũi kiếm, định đâm vào ngực mình bỗng nghe Đoàn Dự kêu lên:

- Mẹ! Mẹ!

Một phần vì kiếm quá dài, phần khác vì nhãng ra nên mũi kiếm hơi lệch đi, đâm ngay xuống bụng. Đoàn Dự thấy cả cha lẫn mẹ cùng tự tận, sợ đến hồn vía lên mây, hai chân tưởng như nhúng vào thùng cường toan, vừa tê vừa xót không còn chút hơi sức nào, chỉ còn nước chống hai tay, bò đến gần kêu lên:

- Mẹ ơi! Cha ơi! Hai người … sao …

Đoàn phu nhân nói:

- Hài nhi, cha và mẹ cùng đi, con … con cố lo cho mình …

Đoàn Dự khóc đáp:

- Mẹ ơi! Mẹ đừng chết! Mẹ đừng chết! Còn cha con ? Sao … sao thế?

Chàng đưa tay ôm chặt lấy đầu mẹ, định rút thanh kiếm ra, lại sợ rút ra chỉ càng làm cho bà thêm chóng chết nên lại không dám. Đoàn phu nhân thều thào:

- Con nên học theo bá phụ, làm một ông vua tốt …

Đột nhiên nghe Đoàn Diên Khánh nói:

- Mau lấy thuốc giải cho ta ngửi, để ta cứu mẹ ngươi.

Đoàn Dự giận dữ, quát lớn:

- Cũng bởi tên gian tặc là ngươi, bắt giữ cha ta để bao nhiêu người phải chết thảm. Ta với ngươi có thù bất cộng đái thiên.

Chàng vùng dậy, nhặt một cây gậy sắt dưới đất lên, định đập xuống đầu Đoàn Diên Khánh. Đoàn phu nhân kêu rú lên:

- Không được.

Đoàn Dự ngẩn ngơ, quay lại hỏi:

- Mẹ, gã này là đại đối đầu của mình, hài nhi muốn giết y báo thù cho cha con.

Đoàn phu nhân lại thét lên:

- Không được! Con … con không nên phạm vào đại tội đó.

Đoàn Dự trong bụng nghi hoặc, hỏi lại:

- Con … con không thể … phạm đại tội đó là sao?

Chàng nghiến răng hậm hực quát:

- Không thể không giết tên gian tặc này.

Vừa giơ gậy lên, Đoàn phu nhân liền nói:

- Con cúi xuống đây ta nói cho nghe.

Đoàn Dự ghé tai vào sát miệng mẹ mình, chỉ thấy mẫu thân thều thào:

- Hài nhi, gã Đoàn Diên Khánh kia, mới chính thực là cha ruột của con. Cha con tệ bạc với mẹ, mẹ giận quá nên cũng không phải với cha con. Sau đó mới sinh ra con. Cha con không biết đâu, vẫn tưởng con là con ruột thực ra không phải. Cha con không phải là cha ruột, người đó mới là cha con, con không giết y được, nếu không … nếu không sẽ phạm tội giết cha.

Ta không bao giờ thương yêu gã đó cả, nhưng vì … nhưng vì không muốn con phạm tội, mai sau chết đi, phải đọa a tì địa ngục, không sang được Tây phương cực lạc thế giới. Ta … ta cũng chẳng muốn nói cho con nghe, để khỏi làm tổn thương danh dự cha con, thế nhưng không còn cách nào khác, không thể không nói …

Chỉ trong không đầy một giờ, biết bao nhiêu chuyện không ngờ được cùng xảy ra, chẳng khác gì sét đánh ngang tai, liên tiếp tiếng này sang tiếng khác, khiến cho Đoàn Dự kinh ngạc đến há hốc mồm. Chàng ôm chặt lấy mẹ, kêu lên:

- Mẹ, mẹ! Chuyện này không thể có, không thể có!

Đoàn Diên Khánh nói:

- Mau đưa thuốc giải cho ta để ta cứu mẹ ngươi.

Đoàn Dự thấy hơi thở Đoàn phu nhân mỗi lúc một yếu, không còn dám suy nghĩ gì thêm, nhặt chiếc bình dưới đất lên đưa cho Đoàn Diên Khánh giải độc. Đoàn Diên Khánh vừa khôi phục kình lực, lập tức giơ cương trượng lên, vèo vèo vèo mấy cái, điểm luôn các huyệt đao chung quanh vết thương của Đoàn phu nhân. Đoàn phu nhân lắc đầu:

- Ngươi không được chạm đến mình ta nữa.

Bà cauy sang Đoàn Dự nói:

- Hài nhi, ta còn muốn nói với con một chuyện.

Đoàn Dự vội vàng ghé tai vào miệng bà. Đoàn phu nhân khẽ mấp máy:

- Người đó tuy với cha con cùng họ, cùng hàng nhưng không phải là anh em. Những người con của cha con, nào là Mộc cô nương, Vương cô nương, Chung cô nương, con thích người nào thì đều có thể lấy người đó … Những gì người Đại Tống không làm, cái gì đồng tính bất hôn, người Đại Lý mình không tính đến, chỉ cần không phải anh em ruột là đủ. Bao nhiêu cô nương đó con lấy ai cũng được, thật là hay lắm. Con … con có thích không?

Đoàn Dự nước mắt ròng ròng, đâu nghĩ gì đến chuyện thích hay không thích. Đoàn phu nhân thở dài một tiếng nói:

- Con ngoan ơi, tiếc thay mẹ không được chính mắt trông thấy con mặc long bào, ngồi trên bảo tọa hoàng đế, để làm … làm một đấng minh quân. Thế nhưng mẹ biết chắc rằng con sẽ là ông vua tốt …

Đột nhiên bà cầm cán kiếm ấn mạnh, kiếm xuyên qua người. Đoàn Dự kêu lên:

- Mẹ ơi!

Chàng ôm chầm lấy mẹ nhưng mắt mẫu thân từ từ khép lại, khóe miệng vẫn còn nở một nụ cười. Đoàn Dự khóc rống lên:

- Mẹ ơi! …

Đột nhiên lưng chàng tê đi, rồi kế đó ngang hông, trên đùi, cạnh vai mối chỗ đại huyệt đều bị điểm trúng, có tiếng vo ve truyền vào tai:

- Ta là phụ thân ngươi Đoàn Diên Khánh, vì muốn bảo toàn thanh danh cho Trấn Nam Vương, bây giờ ta dùng thuật truyền âm nhập mật để nói chuyện với ngươi. Lời mẹ ngươi nói, ngươi nghe cả rồi chứ?

Hai câu sau cùng Đoàn phu nhân nói với con tuy rất nhỏ nhưng lúc đó Đoàn Diên Khánh được giải độc rồi, nội kình đã khôi phục nên đều nghe thấy cả, biết rằng Đoàn phu nhân đã tiết lộ bí mật thân thế cho con.

Đoàn Dự kêu lên:

- Ta không nghe, ta hoàn toàn không nghe! Ta chỉ biết đến cha mẹ của ta thôi.

Chàng nói “chỉ biết đến cha mẹ của ta thôi” thì đã vô hình chung thừa nhận lời mẫu thân rồi Đoàn Diên Khánh nổi giận nói:

- Thế ngươi không nhận ta sao?

Đoàn Dự gào to:

- Không nhận! Ta không tin, ta nhất định không tin!

Đoàn Diên Khánh nói nhỏ:

- Hiện giờ tính mạng ngươi nằm trong tay ta, giết ngươi dễ như trở bàn tay. Huống chi ngươi là con ta thật, ngươi không nhận cha ruột của mình chẳng là đại bất hiếu hay sao?

Đoàn Dự không biết trả lời sao, biết rằng lời mẹ chàng không phải giả nhưng hơn hai mươi năm gọi Đoàn Chính Thuần là cha rồi, ông đối với mình hết sức từ ái, lẽ nào lại đi nhận một người không liên can gì làm cha? Huống chi cái chết của cha mẹ mình có thể nói là đầu giây mối nhợ ở Đoàn Diên Khánh mà ra, bảo chàng nhận kẻ thù làm cha thì nhất định không thể được. Chàng nghiến răng đáp:

- Ngươi muốn giết thì cứ giết, ta mãi mãi không bao giờ nhận ngươi đâu.

Đoàn Diên Khánh càng giận thêm, lại thất vọng, nghĩ thầm: “Ta tuy có con nhưng con mình không nhận mình thì cũng có khác gì không con?”. Nhất thời hung tính nổi lên, y giơ trượng lên toan đâm vào người Đoàn Dự nhưng trượng vừa chạm vào áo chàng, không khỏi mềm lòng, thở dài một tiếng, nghĩ thầm: “Đời ta khổ bao nhiêu rồi, trên đời này chẳng có ai là người thân, bây giờ có được đứa con, lẽ nào lại chính tay mình giết nó cho đành? Y nhận ta cũng được, không nhận ta cũng được, dẫu sao nó cũng là con ta”. Y lại nghĩ ra: “Đoàn Chính Thuần chết rồi, ta không còn cách nào tranh ngôi vua với Đoàn Chính Minh được nữa. Thế nhưng hoàng vị nước Đại Lý, sau cùng rồi cũng vào tay con ta. Ta tuy không làm hoàng đế nhưng có khác gì làm vua, mơ ước coi như cũng toại nguyện rồi”.

Đoàn Dự kêu lên:

- Ngươi muốn giết ta, sao không mau mau hạ thủ?

Đoàn Diên Khánh giải huyệt cho chàng rồi dùng truyền âm nhập mật nói:

- Ta không giết đứa con ruột của ta! Nếu ngươi không nhận ta thì dùng Lục Mạch Thần Kiếm giết ta báo thù cho Đoàn Chính Thuần và mẹ ngươi đi.

Nói xong y ưỡn ngực, chờ Đoàn Dự ra tay. Từ thuở năm xưa bị người ta đâm chém, y cảm thấy thương xót cho thân phận, nỗi đau đớn dày vò nên phát tiết ra bằng những hành vi tàn ác, đến bây giờ nhìn lại cuộc đời chẳng thành được công nghiệp gì, cuối cùng lại chết trong tay chính con mình, thôi thì mọi việc cũng là xong.

Đoàn Dự giơ tay quệt nước mắt, trong lòng cảm thấy hoang mang, toan dùng Lục Mạch Thần Kiếm giết gã nguyên hung cự ác trước mặt báo thù cho cha mẹ, nhưng lời của mẫu thân còn văng vẳng bên tai, nói y chính là cha ruột mình, thế thì làm sao xuống tay cho được?

Đoàn Diên Khánh đợi một hồi, thấy Đoàn Dự giơ gậy lên rồi lại hạ xuống, bỏ xuống lại giơ lên, không sao quyết định được, buồn bã nói:

- Nam tử hán đại trượng phu, ra tay là ra tay, còn sợ gì nữa?

Đoàn Dự nghiến răng, rụt tay về nói:

- Má má không thể lừa dối ta, ta không thể giết ngươi được.

Đoàn Diên Khánh mừng rỡ, cười khà khà, biết rằng đứa con sau cùng đã nhận mình là cha, lòng như mở cờ trong bụng, cầm hai cây gậy điểm xuống đất, chạy vụt đi, chẳng thèm quay đầu nhìn Vân Trung Hạc còn đang nằm dưới đất.

Đoàn Dự trong lòng vẫn còn một chút hi vọng mong manh, vội chạy đến bắt mạch cha mẹ, thăm hơi thở, biết rằng không còn cách gì có thể hồi sinh lúc ấy mới lăn ra đất khóc òa lên. Khóc một hồi lâu, bỗng nghe đằng sau có tiếng đàn bà nói:

- Đoàn công tử xin chớ quá bi lụy. Chúng tôi đến cứu viện chậm trễ, tội đáng muôn thác.

Đoàn Dự quay đầu nhìn lại, thấy trước cửa có bảy tám người đàn bà đứng đó, hai người đầu tiên tướng mạo giống hệt nhau, nhận ra là hai trong tứ nữ cung Linh Thứu, thủ hạ Hư Trúc nhưng không biết là hai người nào trong Mai Lan Cúc Trúc. Trên mặt chàng nước mắt nước mũi lem nhem, nghẹn ngào nói:

- Cả cha ta, mẹ ta đều bị người ta giết cả rồi.

Nhị nữ cung Linh Thứu đến đây là Trúc Kiếm, Cúc Kiếm. Trúc Kiếm nói:

- Đoàn công tử, chủ nhân chúng tôi nghe tin tôn đại nhân trên đường gặp nạn, sai tì tử suất lãnh mọi người chạy đến cứu viện. Rủi thay lại chậm mất một bước.

Cúc Kiếm nói:

- Bọn Vương Ngữ Yên cô nương bị giam trong địa lao đã cứu được rồi, không sao cả, xin công tử yên tâm.

Bỗng từ xa có tiếng còi tu tu truyền đến, Trúc Kiếm nói:

- Mai thư và Lan thư cũng đến rồi đây.

Chẳng bao lâu đã nghe tiếng vó ngựa rầm rập, hơn chục kỵ mã chạy đến, đi đầu chính là Mai Kiếm, Lan Kiếm. Hai người chạy đến trước nhà, thấy đầy tử thi, liên tiếp dậm chân kêu:

- Trời ơi! Trời ơi!

Mai Kiếm hành lễ với Đoàn Dự xong liền nói:

- Chủ nhân chúng tôi gửi lời chào Đoàn công tử, nói là có một chuyện quả là hết sức có lỗi với công tử, nhưng không thể nào khác hơn. Chủ nhân chúng tôi phải nuốt lời nên không dám gặp công tử, xin công tử thứ tội.

Đoàn Dự chẳng hiểu cô ta nói về chuyện gì, sụt sùi đáp:

- Chúng ta là kim lan huynh đệ, còn cái gì của ta của ngươi? Cha ta, mẹ ta đều chết cả rồi, ta còn nghĩ gì đến chuyện khác nữa?

Khi đó Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Phó Tư Qui, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi năm người cũng đã được ngửi giải dược, những huyệt đạo bị điểm cũng đã giải rồi. Hoa Hách Cấn thấy Vân Trung Hạc nằm dưới đất, cơn giận xông lên, vung đao chém xuống, Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc đầu một nơi, mình một nẻo. Cả bọn năm người liền quì xuống lạy di thể vợ chồng Đoàn công tử rồi khóc rống lên.

Sáng sớm hôm sau, bọn Phạm Hoa ra ngoài chia nhau đi tìm mua quan tài. Đến trưa, chư nữ Chu Thiên Bộ cung Linh Thứu dẫn Vương Ngữ Yên, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần, Mộc Uyển Thanh, Chung Linh tất cả đến. Bọn họ trúng phải chất kịch độc túy nhân phong, vẫn còn mơ mơ màng màng, chưa hồi tỉnh.

Sau đó Đoàn Dự và bọn Phạm Hoa tẫn liệm các thi thể. Chốn này đã là đất của Đại Lý rồi, Phạm Hoa liền truyền lệnh cho các châu huyện. Các châu quan, huyện quan nghe nói vợ chồng Trấn Nam Vương bị “bạo bệnh từ trần” ngay trên đất mình, sợ đến trợn tròn đôi mắt, tưởng chừng muốn ngất đi, nghĩ thầm cái gì chứ tội “xao nhãng việc quan, tiếp đón không chu đáo” thì không sao thoát được. Cũng may Phạm Tư Mã không trách mắng gì, vội vàng lật đật chiêu tập phu phen đưa linh cữu vợ chồng Trấn Nam Vương về kinh đô. Chư nữ cung Linh Thứu sợ trên đường về còn xảy ra chuyện gì không hay nên đi tiễn Đoàn Dự về đến tận kinh thành. Vương Ngữ Yên, Ba Thiên Thạch cả bọn trên đường đi cũng lần lượt tỉnh lại.

Cái tin vợ chồng Trấn Nam Vương chết trên đường, thế tử phù linh cữu về đã truyền đến kinh thành Đại Lý. Trấn Nam Vương có công với đất nước, rất được lòng dân, quan lại bách tính ra đón tận ngoài thành mười dặm, chỗ nào tiếng khóc cũng vang lên không dứt. Đoàn Dự, Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch lập tức nhập cung, bẩm lại cho hoàng thượng về cái chết của Trấn Nam Vương. Vương Ngữ Yên và bọn Mai Kiếm được Chu Đan Thần đưa ra tân quán nghỉ ngơi.

Đoàn Dự vào cung, thấy Đoàn Chính Minh hai mắt đỏ mọng, định lạy phục xuống, Đoàn Chính Minh liền hỏi:

- Hài tử, sao … sao lại xảy ra cớ sự?

Ông đưa tay ra, hai bác cháu ôm chặt lấy nhau. Đoàn Dự không dấu diếm chút nào, kể lại mọi việc đầu đuôi, kể cả di ngôn của Đoàn phu nhân cũng không bỏ sót. Chàng nói xong quì xuống lạy, khóc nói:

- Nếu như cha cháu không phải là thân sinh của cháu, hài nhi chỉ là nghiệt chủng, cũng không thể nào … không thể nào sống ở Đại Lý được nữa.

Đoàn Chính Minh kinh hãi, chỉ còn biết luôn miệng thở dài:

- Oan nghiệt! Oan nghiệt!

Ông đưa tay đỡ Đoàn Dự lên nói:

- Hài nhi, những duyên nghiệp bên trong, trên đời này chỉ có mình con và Đoàn Diên Khánh biết mà thôi, cháu chẳng cần phải bẩm lại cho ta làm gì. Thế nhưng cháu không hề dấu diếm, đủ biết thành thực là bao. Ta và cha cháu đều không có con nối dõi, không nói gì cháu là người họ Đoàn, mà dù có không phải họ Đoàn chăng nữa thì ta cũng nhất quyết chọn cháu làm người thừa kế. Ngôi vua của ta đây, vốn dĩ là của Diên Khánh thái tử, ta đã ăn trộm của y mấy chục năm nay, trong lòng vẫn thường áy náy, nay có hoàng thiên an bài vậy thì thật hay biết bao.

Ông nói xong giở chiếc hoàng mạo xuống, thấy đầu đã cạo nhẵn thín, trên đỉnh thiêu mười hai vết hương. Đoàn Dự hết sức kinh hãi, kêu lên:

- Bá phụ sao lại …

Đoàn Chính Minh nói:

- Hôm trước khi đề ngự Cưu Ma Trí nơi chùa Thiên Long, sư phụ đã thế phát truyền giới cho ta rồi, việc này chính mắt ngươi trong thấy.

Đoàn Dự nói:

- Vâng!

Đoàn Chính Minh nói:

- Ta thân đã vào cửa Phật, đáng lẽ truyền ngôi cho cha cháu. Chỉ vì khi đó cha cháu đang ở Trung Nguyên, nước không thể một ngày không có vua, ta đành phải trái lời sư phụ mà tạm nhiếp đế vị. Cha cháu trên đường về chẳng may từ trần, hôm nay ta truyền ngôi cho cháu.

Đoàn Dự càng kinh ngạc hơn vội đáp:

- Hài nhi tuổi trẻ, kiến thức nông cạn, làm sao đảm nhận ngôi vị lớn được? Huống chi hài nhi thân thế chưa minh bạch, hài nhi … cháu … cháu muốn vào nơi rừng sâu núi thẳm …

Đoàn Chính Minh quát lớn:

- Chuyện thân thế từ nay trở đi không được đề cập đến nữa. Cha cháu, mẹ cháu đối với cháu ra sao?

Đoàn Dự nghẹn ngào đáp:

- Ơn cha mẹ sâu nặng như trời như bể.

Đoàn Chính Minh nói:

- Nếu đã thế, cháu phải lo báo đáp ơn sinh thành bảo toàn thanh danh cho cha mẹ. Làm vua cháu phải nhớ kỹ hai điều. Điều thứ nhất là thương dân, điều thứ hai là nghe lời can gián. Cháu thiên tính nhân hậu, đối với bách tính chắc là không bạo ngược. Có điều khi lớn tuổi rồi, nhất quyết chớ có tự thị mình là người thông minh, việc nước sằng bậy, gây động can qua với lân quốc.

TỆ TỈ VINH HOA, PHÙ VÂN SINH TỬ, THỬ THÂN HÀ CỤ

Giàu sang phú quí mà chi,  Xem như dép cũ bỏ đi cho rồi.

Cuộc đời mây nổi ai ơi,  Đến như sống chết đã coi ra gì.

*

* *

   Trong hoàng cung Đại Lý, Đoàn Chính Minh truyền ngôi cho cháu là  Đoàn Dự, dặn dò phải biết ái dân, nạp gián, lại nhắn nhủ việc nước  không được bừa bãi làm càn, dấy động binh đao. Cũng vào thời kỳ đó, nơi  kinh đô Biện Lương nhà Đại Tống,  trong hoàng cung ở hậu các Sùng  Khánh điện, thái hoàng thái hậu Cao thị bệnh nặng, đang trăn trối cho  cháu là Triệu Hú(1) :

- Hài nhi, tổ tông sáng nghiệp thật gian nan vất vả, nhờ phúc trạch  ông cha thâm hậu nên mới có cảnh tượng thái bình như ngày hôm nay.  Thế nhưng cha ngươi khi trị nước để cho dân tình sôi sục, suýt nữa gây ra  đại biến, đến giờ trăm họ nghĩ đến còn kinh, ngươi có biết vì do đâu  chăng?

Triệu Hú đáp:

- Hài nhi thường nghe nãi nãi2 nói rằng, phụ hoàng nghe lời Vương  An Thạch, sửa đổi phép tắc cũ khiến cho dân chúng không đủ sống.

Khuôn mặt khô héo của thái hoàng  thái hậu hơi rung động, thở dài  nói:

- Vương An Thạch là người có học vấn, có tài năng, vốn không phải  là kẻ xấu. Dụng tâm tuy là vì nước  vì dân, có điều … ôi … chỉ bởi cha  ngươi, vốn dĩ tính tình nóng nảy, chỉ mong sao chóng thành công, có biết  đâu việc trên đời này dục tốc tắc bất đạt, thành ra rối loạn hỏng việc.

Bà lão nói đến đây ho sù sụ một hồi rồi mới tiếp:

- Thứ đến … thứ đến y không bao giờ muốn nghe câu nào trái tai, chỉ  thích người ngoài ca công tụng đức, gọi y là thánh minh thiên tử y mới vui  lòng, còn như bảo y sai lầm không đúng, can gián một câu thì lập tức nổi  cơn lôi đình, kẻ thì bãi chức, người thì đi đày, cứ như thế, còn ai dám trực  ngôn can gián nữa?

Triệu Hú đáp:

- Bà ơi, tiếc thay di chí của phụ hoàng chưa thành, bao nhiêu lương  pháp mỹ ý của tiên đế đều bị kẻ tiểu nhân làm hỏng cả.

Thái hoàng thái hậu hoảng hốt, run rẩy hỏi lại:

- Cái … cái gì mà lương pháp mỹ ý? … Ai … ai là tiểu nhân?

Triệu Hú đáp:

- Phụ hoàng đặt ra phép thanh miêu, phép bảo mã, phép bảo giáp …  chẳng phải là phú quốc cường binh lương pháp thì là gì? Chỉ hận bọn hủ  nho Tư Mã Quang, Lã Công Trứ, Tô Thức làm hỏng đại sự.

Thái hàng thái hậu biến sắc,  chống tay cố ngồi lên nhưng đã suy  nhược quá rồi, thân hình chỉ nhỏm lên được một hai tấc rồi không gượng  nổi nữa, ho sù sụ. Triệu Hú nói:

- Bà nội đừng tức tối, hãy nằm xuống nghỉ đi, sức khỏe mới là quan  trọng.

Tuy miệng y thì khuyên bảo như thế nhưng giọng điệu chẳng có chút  nào thân cận. Thái hoàng thái hậu ho một hồi, tạm bình tĩnh lại nói:

- Hài nhi, cháu làm hoàng đế cũng đã chín năm rồi, thế nhưng trong  chín năm đó … trong chín năm đó, người làm vua đích thực là bà nội đây,  chuyện gì cháu cũng nghe lời bà mà làm, trong bụng … trong bụng cháu  chắc tức tối lắm, ghét bà lắm, có phải không?

Triệu Hú đáp:

- Bà nội làm hoàng đế giùm cháu,  ấy là thương cháu chứ, sợ cháu  làm hỏng việc đấy thôi. Dùng người cũng bà dùng, thánh chỉ cũng bà đưa  xuống, hài nhi thật là rảnh rỗi, có gì không thích đâu? Sao cháu lại trách  bà được?

Thái hoàng thái hậu thở hắt ra, khẽ nói:

- Mày thật giống cái thằng cha mày, cứ cho là mình thông minh tài  trí phải làm nên một đại sự nghiệp. Trong bụng ngươi ghét ta lắm, không  lẽ … không lẽ ta lại không biết hay sao?

Triệu Hú mỉm cười khinh khỉnh nói:

- Bà nội chuyện gì chẳng biết.  Trong cung ngự lâm quân cũng là  người thân tín của bà, chỉ huy nội thị thái giám cũng là tâm phúc của bà,  trong triều văn võ đại thần cũng do bà sắp đặt. Hài nhi ngoài việc ngoan  ngoãn nghe lời bà dặn bảo ra, có dám tùy tiện làm gì đâu, có dám nói gì  đâu?

Thái hoàng thái hậu nhìn lên đình màn nói:

- Ngươi ngày ngày mong mỏi chuyện hôm nay, chờ tới khi ta bệnh  chết rồi, lúc đó … lúc đó mới tha hồ mặc sức bay nhảy.

Triệu Hú đáp:

- Chuyện gì cũng do bà ban cho hài nhi, trước đây nếu không có bà  nội chủ trì, khi phụ hoàng băng giá, triều đình nếu chẳng lập Ung Vương  thì cũng lập Tào Vương. Ơn sâu của  bà nội, hài nhi đâu thể nào quên  được? Có điều … có điều…

Thái hoàng thái hậu nói:

- Có điều cái gì? Ngươi muốn nói gì thì cứ nói ra, sao lại còn ấp úng  mãi thế?

Triệu Hú đáp:

- Hài nhi từng nghe người ta nói rằng,  sở dĩ bà muốn lập cháu lên  làm vua, chỉ vì hài nhi còn nhỏ, có thế mới dễ cho bà tự mình đảm trách  việc triều chính.

Y thu hết can đảm nói được câu đó ra, tim đập thình thình, nhìn trộm ra  ngoài cửa mấy lượt, thấy những thái giám canh gác ngoài điện môn đều  là người tâm phúc của mình, thủ vệ nghiêm mật, thế mới yên tâm.

Thái hoàng thái hậu chậm rãi gật đầu nói:

- Ngươi nói quả không sai. Ta quả muốn chính mình cai trị quốc gia,  trong chín năm qua ta làm việc ra thế nào?

Tây Hạ lấy trong túi ra một cuộn giấy nói:

- Bà ơi, những lời ca công tụng đức của văn sĩ trong triều ngoài nội,  trong chín năm qua không biết là bao nhiêu, chắc bà nghe đã phát chán  rồi. Hôm nay ở phương bắc có người xuống đây, nói rằng tể tướng nước  Liêu có một bản tấu chương dâng lên Liêu đế, có đề cập đến việc thi  hành chính sách của bà nội. Đây là nghị luận của đại thần nước Liêu, nãi  nãi có muốn nghe không?

Thái hoàng thái hậu thở dài:

- Cả thiên hạ khen thì cũng thế mà cả thiên hạ chê thì cũng vậy, lão  … lão thân chắc chẳng sống được tới chiều nay đâu. Ta … ta chẳng biết có  còn thấy mặt trời mọc ngày mai nữa không? Tể tướng Liêu quốc … y … y  nói về ta thế nào?

Tây Hạ mở cuốn trục ra nói:

- Trong tấu chương gã tể tướng đó nói thái hoàng thái hậu: Từ khi ở  sau rèm đến nay3, tuyển dụng danh thần, bãi bõ chính sách hà khắc của  tân pháp, trông coi triều chính chín năm qua, triều đình sáng sủa, Hoa hạ  yên ổn. Ngăn chặn các thăng thưởng vô lối, bãi bỏ các ân sủng cho người

nhà, các tấu chương trình lên, lớn  nhỏ đều coi xét kỹ lưỡng, suốt đời  không tơ hào một li …

Y đọc đến đây, ngừng lại một chút, thấy ánh mắt lờ đờ của thái hoàng  thái hậu lóe lên một vẻ phấn khởi, liền đọc tiếp xuống:

- … người đời gọi bà ta là nữ trung Nghiêu Thuấn!

Thái hoàng thái hậu lẩm bẩm:

- Người đời gọi là nữ trung Nghiêu Thuấn! Người đời gọi là nữ trung  Nghiêu Thuấn! Dù có thực là Nghiêu Thuấn chăng nữa thì cũng không  thể không chết.

Đột nhiên trong đầu óc mỗi lúc một mơ hồ chậm lụt của bà nảy ra một  điểm linh quang, bèn hỏi:

- Tại sao tể tướng nước Liêu lại nhắc đến ta? Hài nhi, cháu … cháu  phải lưu tâm, bọn họ biết ta chết rồi là sẽ chèn ép cháu ngay.

Trên khuôn mặt non trẻ của Triệu Hú lộ vẻ kiêu ngạo nói:

- Định chèn épcháu ư? Hừ, đúng thế đấy nhưng chắc không phải dễ  đâu. Bọn Khất Đan có thám tử ở Đông Kinh, biết nãi nãi đang bệnh nặng,  bộ mình không có người dò thám ở Thượng Kinh hay sao? Tấu chương  của tể tướng bọn chúng mình chả có trong tay là gì? Quân dân Khất Đan  bàn tính, một khi bà … một khi bà thiên thu vạn tuế rồi, nếu như văn võ  đại thần không có gì thay đổi, không  thi hành tân pháp, bảo vệ bờ cõi,  nhân dân yên ổn thì không sao. Còn như nếu hài nhi … hà hà … có gì làm  ẩu làm liều … khinh suất vọng động, thì bọn chúng cũng lớn mật làm càn  một phen.

Thái hoàng thái hậu hoảng hốt hỏi:

- Họ định sẽ xua quân xuống phương nam ư?

Tây Hạ đáp:

- Đúng vậy.

Y quay người đi ra phía cửa sổ, nhìn theo cái cán chòm sao Bắc đẩu  thấy ngôi đế tọa lấp lánh trên bầu trời, lẩm bẩm nói một mình:

- Đại Tống ta binh tinh mã nhuệ, lương thảo đầy đủ, dân số lại đông,  lẽ nào lại sợ bọn Khất Đan? Bọn chúng không đem quân xuống nam thì  ta cũng xua quân lên bắc thử một keo cho biết.

Thái hoàng thái hậu tai nghễnh ngãng nghe không rõ hỏi lại:

- Ngươi nói gì? Cái gì mà thử một keo cho biết?

Triệu Hú đi đến bên giường bệnh nói:

- Nãi nãi, người Đại Tống chúng ta so với người Liêu đông gấp  mười, lương thảo gấp ba mươi lần,  có phải thế không? Lấy mười chọi  một, không lẽ đánh không lại chúng sao?

Thái hoàng thái hậu run run hỏi:

- Ngươi định gây chiến với nước Liêu chăng? Chân Tông hoàng đế  năm xưa anh vũ là dường nào, ngự giá thân chinh vậy mà còn phải lập  minh ước Thiền Uyên, ngươi … ngươi  lẽ nào lại dám tính chuyện đao  binh?

Triệu Hú hậm hực đáp:

- Bà vẫn cứ coi thường hài nhi, cứ coi cháu như đứa trẻ miệng còn  hơi sữa, chẳng biết chuyện gì. Hài nhi tuy không bằng vua Thái Tổ, Thái  Tông nhưng chưa chắc đã kém gì Chân Tông hoàng đế!

Thái hoàng thái hậu nói nhỏ:

- Đến như Thái Tông hoàng đế, năm xưa cũng còn thua Bắc quốc,  trọng thương phải quay về, vết thương  không khỏi nên chính vì thế mà  băng hà.

Triệu Hú nói:

- Chuyện trong thiên hạ, đâu phải cứ có một bề mà luận. Trước kia  mình đánh không lại bọn Khất Đan đâu phải mãi mãi lúc nào cũng thua.

Thái hoàng thái hậu có biết bao nhiêu điều muốn nói, nhưng thấy tinh  lực càng lúc cào hao kiệt dần, trước mắt chỉ thấy một quầng mây trắng  bay qua bay lại, trong óc trống rỗng, nói năng đã cực kỳ gian nan nhưng  trong đáy lòng bà ta vẫn có một tiếng nói hết sức rõ ràng vọng lên: “Việc

chiến tranh là nguy hiểm, sinh linh đồ thán, nhất quyết không thể khinh  suất làm càn”.

Một lúc sau bà ta mới lấy hơi, chậm rãi nói:

- Hài nhi, trong chín năm qua ta nắm hết đại quyền, chưa từng cùng  ngươi phân tích cho rõ ràng, nãi nãi quả là thiếu sót. Ta vẫn tưởng mình  chắc còn sống được lâu, đợi đến khi ngươi khôn lớn rồi, lúc đó mới chỉ  bảo cho cháu, ắt ngươi sẽ hiểu biết tường tận, có ngờ đâu … có ngờ đâu …

Bà lão ho khan mấy tiếng nói tiếp:

- Chúng ta người đông lương đủ, điều đó không sai. Có điều người  Đại Tống văn nhược, không dũng  mãnh như người Khất Đan. Hơn nữa  một khi đánh nhau rồi, quân dân gan óc đầy đất, không biết bao nhiêu  người chết, cháy không biết bao nhiêu nhà cửa, thiên hạ không biết bao  nhiêu gia đình nhà tan người chết, vợ chồng chia lìa, con cái ly tán. Làm  vua thì lúc nào cũng phải nghĩ đến điều “nhân”, không nói gì chuyện  thắng bại chưa liệu trước được, mà  dẫu ở thế tất thắng chăng nữa nếu  không phải đánh thì vẫn hơn.

Triệu Hú đáp:

- Yên Vân thập lục châu của ta bị bọn người Liêu chiếm mất, hàng  năm mình còn phải tiến cống cho chúng vàng bạc lụa là, chẳng khác gì  phiên thuộc, lại như nước bầy tôi, hài tử thân làm thiên tử Đại Tống, cái  nhục đó làm sao nuốt nổi? Không lẽ  mình mãi mãi chịu người Liêu áp  chế hay sao?

Giọng y càng lúc càng to:

- Trước đây Vương An Thạch biến pháp, thi hành phép bảo giáp, bảo  mã, chẳng phải là để cho quốc phú dân cường, tẩy rửa cái nhục tổ tông  hay sao? Làm con làm cháu, phải rửa nhục cho ông cha, ấy mới là đại  hiếu. Phụ hoàng một đời chuyên cần chăm lo chẳng phải vì lẽ đó đấy ư?  Hài tử định rằng sẽ kế thừa chí hướng của gia gia. Chí đó không thành  nguyện như chiếc ghế này.

Đột nhiên y rút phắt bội kiếm đeo  ở hông, chém đứt đôi một chiếc  ghế. Hoàng đế trừ khi tập luyện duyệt binh, xưa nay không đeo đao kiếm.  Thái hoàng thái hậu đột nhiên thấy thằng bé rút kiếm ra chém chiếc ghế,

không khỏi hoảng hồn, mơ mơ hồ hồ nghĩ bụng: “Y tại sao lại đeo kiếm?  Định đến giết ta chăng? Hay y không muốn ta thùy liêm thính chính?  Thằng bé này lớn mật làm càn, ta phải phế bỏ y đi”. Bà ta tuy tính tình từ  ái nhưng chưởng ác quyền bính đã lâu, nay thấy quyền lực lung lay, lập  tức nghĩ ngay đến loại trừ địch thủ, dẫu cho là kẻ cốt nhục chí thân cũng  không khoan thứ, trong một thoáng bà quên rằng mình đang vào cảnh đèn  khô dầu kiệt, trong chốc lát sẽ lìa đời.

Còn Triệu Hú đang chú tâm vào việc làm sao phá trận sát địch, thu  phục lại Yên Vân mười sáu châu, huyễn tưởng mình đang ngồi trên lưng  ngựa, thống suất trăm vạn hùng binh, đánh vào Thượng Kinh, Liêu chúa  Gia Luật Hồng Cơ cởi trần ra hàng. Y giơ thanh bội kiếm lên, ngang  nhiên nói:

- Quốc gia đại sự đều bị bọn hủ nho nhát gan làm hỏng việc. Bọn họ  tự xưng quân tử, thực ra chỉ là đồ tiểu nhân tham sống sợ chết, tự tư tự lợi,  ta … ta phải trừng trị bọn chúng một phen cho hả tức.

Thái hoàng thái hậu tỉnh táo trở lại, nghĩ thầm: “Thằng bé này là  đương kim hoàng đế, y có chủ ý riêng, ta không còn bảo nó phải nghe lời  mình nữa rồi. Ta bây giờ chỉ là một bà lão sắp chết, còn y là một ông vua  đang lúc thanh niên khỏe mạnh, y là vua, y là vua”. Bà cố hết sức nói  thêm một câu:

- Hài nhi, cháu có tâm chí như thế, nãi nãi sung sướng lắm.

Triệu Hú mừng rỡ, tra kiếm trở vào bao nói:

- Bà ơi, cháu nói thế là đúng rồi, phải không?

Thái hoàng thái hậu đáp:

- Thế cháu có biết thế nào là kế sách vạn toàn, nhất định phải thắng  hay không?

Triệu Hú cau mày nói:

- Tuyển tướng luyện binh, tích trữ lương thảo cùng người Liêu một  trận thư hùng thì có thể thắng nhưng bảo là nhất định là thắng thì chưa  chắc.

Thái hoàng thái hậu nói:

- Cháu cũng biết rằng hai bên ra  trận không có cái gì gọi là “tất  thắng chi lý”. Thế nhưng người Tống chúng ta còn biết phép không cần  đánh mà vẫn khuất phục được người.

Triệu Hú đáp:

- Cho dân nghỉ ngơi, thi hành nhân chính, ấy là không cần đánh mà  vẫn khuất phục người, có phải thế không? Bà ơi, đó là kiến thức hủ nát  của bọn thư sinh Tư Mã Quang, làm sao nên nổi đại sự cho được?

Thái hoàng thái hậu thở dài một tiếng, chậm rãi nói:

- Tư Mã tướng công kiến thức trác việt, sao cháu lại bảo là kiến thức  hủ nát của bọn thư sinh? Ngươi là chủ của một nước, phải luôn luôn chịu  khó đọc Tư Trị Thông Giám của Tư Mã tướng công soạn ra. Hơn nghìn  năm qua, những triều đại sở dĩ hưng suy bại vong ra sao, trong sách đều  có viết rõ ràng. Đất nước Đại Tống chúng ta đất đai màu mỡ, dân số đông  đảo, gấp mười nước Liêu, nếu không có chiến tranh, chỉ trong mười, hai  mươi năm chúng ta càng thêm phú  túc. Người Liêu dũng mãnh hiếu  chiến, chúng ta chỉ cần nghiêm thủ biên cảnh, các bộ lạc của chúng ắt sẽ  tàn sát lẫn nhau, giao tranh qua lại, khi đó nguyên khí sẽ cực kỳ thương  tổn. Cái loạn Sở vương năm trước, bao nhiêu tinh binh nhuệ tốt của nước  Liêu chết không phải là ít …

Triệu Hú vỗ đùi nói:

- Đúng đó, lúc đó hài nhi đã tính  xua quân lên miền Bắc, để nội  ngoại giáp công, người Liêu đang có mối lo trong gan ruột không dễ gì  ứng phó. Ôi, tiếc thay lại để mất một dịp may nghìn năm một thuở.

Thái hoàng thái hậu gắt lên:

- Ngươi lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện đánh nhau với nước Liêu,  ngươi … ngươi … ngươi …

Đột nhiên bà ngồi nhỏm dậy, ngón tay phải giơ ra chỉ thẳng vào Triệu  Hú. Thái hoàng thái hậu tích uy đã lâu, Triệu Hú sợ quá lùi lại ba bước,  chân lập cập tưởng như ngã đến nơi, tay để lên đốc kiếm, tim đập thình  thình, kêu lên:

- Mau lên, các ngươi mau vào đây.

Bọn thái giám nghe thấy hoàng thượng gọi, vội vàng chạy vào điện.  Triệu Hú run rẩy nói:

- Bà … bà ấy … các ngươi xem bà ấy ra sao rồi?

Y mới rồi hùng tâm đại chí, muốn cùng người Khất Đan một trận tử  chiến, thế nhưng một bà lão sắp chết vừa phát uy, thì đã sợ đến hồn bất  phụ thể, chân tay luống cuống. Một tên thái giám tiến lên mấy bước,  chăm chăm nhìn thái hoàng thái hậu  một hồi, thu hết can đảm, giơ tay  cầm mạch bà ta rồi nói:

- Khải tấu hoàng thượng, thái hoàng thái hậu đã thừa long qui thiên.

Triệu Hú mừng rỡ, cười ha hả, thở phào:

- Hay lắm! Hay lắm! Ta là hoàng đế rồi! Ta là hoàng đế rồi!

Y tuy đã làm vua chín năm nhưng thực ra chỉ hữu danh vô thực, đại  quyền nằm trong tay thái hoàng thái hậu, cho đến lúc này mới thực là  được làm vua.

Triệu Hú thân lý chính vụ, việc đầu tiên là cách chức Lễ Bộ thượng  thư Tô Thức4, biếm xuất ra làm tri phủ Định Châu. Tô Thức văn chương  nổi danh thiên hạ, người đương thời ai ai cũng trọng vọng. Ông là kẻ đối  đầu số một của Vương An Thạch, xưa nay luôn luôn phải đối tân pháp.  Thời Nguyên Hựu, thái hoàng thái hậu thùy liêm thính chính, trọng dụng  Tư Mã Quang, và hai anh em Tô Thức, Tô Triệt. Bây giờ thái hoàng thái  hậu chết rồi, hoàng đế liến biếm trục Tô Thức, trong triều cho chí dân  gian ai nấy đều lo sợ, bụng bảo dạ: “Hoàng đế chắc lại định thi hành tân  chính, làm khổ trăm họ lần nữa”. Thế nhưng cũng có những kẻ trong  bụng mừng thầm, hoàng đế thi hành  chính sách mới thì họ lại có dịp  thăng quan phát tài.

Vào thời đó chấp chính trong triều đều là cựu thần của thái hoàng thái  hậu. Hàn Lâm học sĩ Phạm Tổ Vũ5 tâu lên:

Tiên thái hoàng thái hậu lấy tấm lòng đại công chí chính, bãi bỏ tân  pháp của bọn Vương An Thạch, Lã Huệ Khanh mà thi hành chính sách cũ của tổ tông khiến cho xã tắc đang nguy trở lại thành an, lòng người đang  ly trở về thành hợp. Đến ngay cả Liêu chúa cũng bàn với tể tướng rằng:  “Nam triều tuân hành chính sự của Nhân Tông, giữ vững Yên Kinh, ước  thúc quân lính đóng ở biên giới, không sinh sự”. Bệ hạ quan sát tình hình  nước địch như thế ắt cũng biết được lòng dân Trung quốc như thế nào rồi.

Đến nay bệ hạ trông coi triều chính, kẻ tiểu nhân ắt mong có thay đổi,  kẻ tham lợi ắt cũng ngóng trông. Thần mong mỏi bệ hạ nghĩ đến công lao  gian khổ của tổ tông và tiên thái hoàng thái hậu, đau lòng nhức óc, ghi  lòng tạc dạ rằng phải làm sao hết sức tránh xa kẻ tiểu nhân, tuân thủ  phép nước đời Thiên Hựu, một lòng vững chãi như kim thạch, nặng như  sơn nhạc, để trong triều ngoài nội ai ai một lòng, quay về đường ngay nẻo  chính, thế thì quả là cái may cho thiên hạ.

Triệu Hú càng coi càng tức tối, vứt tấu chương xuống bàn nói:

- “Đau lòng nhức óc, ghi lòng tạc dạ rằng phải làm sao hết sức tránh  xa kẻ tiểu nhân”, câu này đúng lắm. Thế nhưng biết ai là quân tử, ai là  tiểu nhân?

Nói xong mặt hầm hầm nhìn Phạm Tổ Vũ. Phạm Tổ Vũ khấu đầu đáp:

- Bệ hạ minh sát: Khi thái hoàng thái hậu vừa mới thính chính, trong  triều ngoài nội quan dân dâng biểu vô số, ai ai cũng nói rằng chính lệnh  không hợp lòng người, khổ hại cho dân đen. Thái hoàng thái hậu thuận  theo dân tâm thiên hạ, thay đổi chính sách, những ai có tội thì đuổi đi, bệ  hạ và thái hoàng thái hậu đều theo ý dân mà làm, những người bị biếm  trục ắt phải là kẻ tiểu nhân.

Triệu Hú cười nhạt, lớn tiếng nói:

- Chuyện thái hoàng thái hậu trách phạt đuổi về nào có liên can gì  đến ta?

Y liền phất tay áo bãi triều. Tuy Triệu Hú căm ghét quần thần nhưng  vì mới thân chính chưa lâu, không tiện đuổi hết bao nhiêu đại thần nên  mới hạ chiếu thăng cho nội thị Nhạc Sĩ Tuyên, Lưu Duy Giản, Lương  Tòng Chính … lên làm quan, tưởng thưởng công lao phò tá mình, rồi thác  bệnh lâu ngày không nhập triều.

Thái giám đưa vào một phong tấu chương, nét chữ mập mạp cứng cỏi,  thự danh Tô Thức. Triệu Hú nói:

- Gã râu rậm họ Tô này viết  chữ đẹp nhỉ, không biết lại nói lăng  nhăng gì đây?

Thấy trên sớ viết:

Thần hầu hạ trong trướng bệ hạ đã lâu, nay được sai ra nơi biên cảnh,  mong sao được diện kiến long nhan trước khi lên đường. Tiểu thần nay  phải xa bệ hạ, trong lòng bịn rịn, quả là khó thay.

Triệu Hú nói:

- Ta không muốn gặp cái lão râu rậm này, suốt đời không muốn gặp  lại y.

Y tiếp lấy tờ sớ đọc xuống dưới thấy viết:

Thế nhưng thần không dám vì cái lòng ngu trung mà không ra sức.  Thánh nhân thời cổ đã từng làm tướng, ắt trước hết phải ở nơi chỗ tối mà  quan sát chỗ sáng, ở vào chỗ tĩnh mà quan sát chỗ động, ắt là mọi vật  trước mắt đều rõ ràng. Bệ hạ thánh trí hơn người, tuổi đang lúc thanh niên  …

Triệu Hú mỉm cười, nghĩ thầm: “Gã râu rậm này quả là giảo hoạt,  cũng biết giở trò bợ đỡ, nói ta là”thánh trí tuyệt nhân”. Thế nhưng y lại  thêm “tuổi đang thanh niên” chẳng phải bảo ta còn nhỏ, mà tuổi trẻ thì  chẳng biết gì hay sao?”. Đọc tiếp xuống viết:

Thần nguyện sẽ để lòng trống không để xem xét cho rõ lý lẽ, mọi việc  để nguyên chưa làm gì vội, cố gắng quan sát chỗ chính tà của bề dưới,  xem chỗ lợi, chỗ hại, ba năm sau rõ ràng mọi chuyện, lúc đó mới tùy theo  tình hình mà làm, có như thế thiên hạ mới không oán hận, bệ hạ không  phải hối tiếc. Xem như thế thì cũng rõ ràng những việc bệ hạ cần làm, chỉ  sợ quá sớm chứ không sợ trễ. Thần chỉ sợ những kẻ ham điều lợi muốn  tiến nhanh, chưa tính toán kỹ đã giục bệ hạ cải biến nên phải nói ra, chỉ  mong bệ hạ lưu tâm thì đó là điều đại hạnh của thiên hạ, đại phúc cho  tông miếu xã tắc.

Triệu Hú đọc xong tấu chương nghĩ thầm: “Người người ai cũng bảo  gã râu rậm họ Tô thông minh tuyệt đỉnh, quả nhiên danh bất hư truyền. Y  biết ta nhất quyết đi theo tiên đến khôi phục lại tân pháp nên không dám  đến ngăn cản, chỉ khuyên ta tạm hoãn ba năm. Ôi, cái gì mà “đến lúc thi  hành thiên hạ mới không oán  giận, bệ hạ không phải hối tiếc”. Y nói  quanh nói co nhưng ý thì cũng vậy thôi chứ có khác gì? Y bảo ta nếu như  mong cái lợi gấp gáp, nóng nảy muốn làm chuyện lớn ắt thiên hạ sẽ oán  hận, rồi sau ta sẽ hối hận mà thôi”. Triệu Hú giận dữ, cầm bản tấu  chương xé tan nát.

Mấy ngày sau vào triều, Phạm Tổ Vũ lại dâng sớ tâu lên:

Đầu thời Hi Ninh, Vương An Thạch, Lã Huệ Khanh đặt ra ba tân pháp,  thay đổi chính sách của tổ tông dẫn đến kẻ tiểu nhân làm hỏng việc quốc  gia. Nếu những người ủng hộ đường lối cũ không được dùng, những kẻ sĩ  trung chính bị đẩy đi xa. Kế đó lại dùng binh nơi biên cảnh, kết oán với  ngoại di, thiên hạ sầu khổ, bách tính bỏ đi.

Triệu Hú đọc đến đây hết sức tức tối nghĩ thầm: “Ngươi chê trách  Vương An Thạch, Lã Huệ Khanh nhưng kỳ thực chẳng là chê phụ hoàng  hay sao?”. Y đọc xuống dưới thấy viết:

Sái Xác liên tiếp xây thêm nhà ngục, Vương Thiều thu phục Hi Hà,  Chương Đôn6 khơi năm khe nước, Thẩm Khởi làm phiền đất Giao7, Thẩm  Quát 8 hưng binh Tây sự, dân binh chết không dưới hai chục vạn người.  Tiên đế lâm triều khi đó mới hối hận, chỉ dụ triều đình từ nay không được  phạm vào những sai lầm đó nữa …

Triệu Hú càng đọc càng thêm giận dữ, bỏ qua mấy hàng, bên dưới  tiếp:

… dân chúng ai nấy buồn đau, nhà nhà chỉ mong làm loạn, may được  bệ hạ và thái hoàng thái hậu cứu cho, người trong thiên hạ, tưởng chừng  trút được …

Triệu Hú đọc đến đây không còn nhẫn nại thêm được nữa, vỗ long án  đứng phắt dậy. Y lúc này vừa mười tám tuổi, ở trong vai hoàng đế tôn quí  lại càng thêm oai nghi, ở giữa triều nổi nóng, triều thần không ai là  không kinh hãi, nghe y gay gắt nói:

- Phạm Tổ Vũ, tấu chương của ngươi như thế này chẳng là phỉ báng  tiên đế hay sao?

Phạm Tổ Vũ liên tiếp khấu đầu tâu:

- Bệ hạ minh giám, vi thần vạn lần không dám.

Triệu Hú vừa mới nắm đại quyền thấy quần thần ai nấy run sợ, cực kỳ  đắc ý, nộ khí giảm dần nhưng mặt vẫn làm ra vẻ hung dữ, lớn tiếng nói:

- Tiên đế thiên tính tài ba, hùng tâm đại chí có ý dẹp giống man di,  thống nhất thiên hạ, rủi thay đương lúc thịnh niên bất hạnh băng hà, trẫm  kế thừa di chí của tiên đế, có gì là không phải? Vậy mà các ngươi lèm  bèm nói mãi, dám bảo biến pháp của tiên đế là sai lầm.

Trong đám quần thần một người bước ra, tướng mạo thanh tú thoạt  trông đã có uy, chính là Tể Tướng Tô Triệt. Triệu Hú trong lòng không  vui, nghĩ thầm: “Gã này là em của lão râu rậm họ Tô, hai anh em hung  hăng kết đảng, thứ miệng chó làm sao mọc ngà voi được”. Chỉ nghe Tô  Triệt tâu lên:

- Bệ hạ minh sát, tiên đế đã thi hành rất nhiều việc, quả là vượt xa  tiền nhân. Chẳng hạn như tiên đế tại vị mười hai năm, vậy mà suốt đời  không đặt tôn hiệu, bọn thần dâng tấu chương ca tụng công đức, tiên đế  khiêm tốn không nhận. Còn như chính sự có điều không phải, thì có triều  đại nào lại không tránh được chỗ sơ sót? Đời cha làm, đời con chữa, ấy là  đức hiếu của người xưa.

Triệu Hú hừ một tiếng, lạnh nhạt hỏi lại:

- Cái gì mà bảo là “đời cha làm, đời con chữa”?

Tô Triệt tâu:

- Đó là lời của Tỉ Phương nói về  chuyện Hán Võ Đế. Hán Võ Đế  bên ngoài gây chuyện với tứ di, bên trong xây cất cung điện, quốc khố  trống rỗng, thành thử phải đặt ra  thuế muối, thuế sắt, độc quyền rượu,  quân du9, chiếm đoạt tài nguyên lợi vật của bách tính khiến cho mấy lần  dân nổi loạn lớn. Sau khi Võ Đế băng hà, Chiêu Đế nối ngôi, trong dụng  Hoắc Quang, bãi bỏ những chính sách hà khắc nên cơ nghiệp nhà Hán  mới an định được.

Triệu Hú lại hừ một tiếng nghĩ thầm: :Ngươi dám ví phụ hoàng với  Hán Võ Đế”. Tô Triệt thấy hoàng đế vẻ mặt không vui, sự tình có chiều  hung hiểm, nghĩ thầm: “Nếu còn nói thêm, hoàng thượng nổi giận, ta sẽ  mất mạng không chừng, nhưng nếu cứ hùa theo thì thiên hạ lại trở nên  khốn khó. Hàng nghìn hàng vạn người sẽ đói rét lầm than, lưu vong thất  thổ, đương quốc đại thần như ta lẽ nào lại ngồi yên? Hôm nay chính là lúc  ta lấy cái tính mạng nhỏ bé báo đáp thâm ân của thái hoàng thái hậu”.  Ông bèn tiếp:

- Thời Hậu Hán, vua Minh Đế để ý từng li từng tí, lấy việc bói toán  để quyết đoán mọi sự, lại tin những lời huyền hoặc quái lạ, tra xét ngôn  ngữ cử chỉ các bầy tôi, chuyện gì cũng xét nét, thiên hạ ai ai cũng sợ hãi,  bụng dạ phập phồng. Chương Đế nối ngôi, hiểu rõ những thất bại của đời  trước nên dùng chính sách nhân hậu khoan thứ, lòng người vui vẻ, thiên  hạ đại trị, ấy cũng là con mà chống đỡ được cái sai sót của cha, thi hành  cái đại hiếu của thánh nhân.

Tô Triệt đoán chừng Triệu Hú tức vị khi mới lên mười, chín năm qua  mọi việc đều nghe lời thái hoàng thái hậu, trong bụng thể nào cũng oán  hận, quyết ý hủy chính sự của thái hoàng thái hậu mà khôi phục biến  pháp đời Thần Tông để tỏ lòng hiếu đối với cha, thành thử mới nhắc đến  “thánh nhân chi đại hiếu” để khuyên nhủ hoàng đế.

Triệu Hú lớn tiếng nói:

- Hán Minh Đế tôn sùng nho thuật, có gì bảo là không hay đâu?  Ngươi dám đem Hán Võ Đế để đem so sánh với tiên đế, ấy là có dụng ý  gì? Không phải là công nhiên phỉ báng hay sao? Hán Võ Đế hiếu chiến  làm khổ dân, hành vi hoang tàn bị đời sau cười chê, cuối đời phải tự hạ  chiếu trách cứ mình thật là thống thiết, sao lại sánh với tiên đế được?

Y càng nói càng lớn tiếng, giọng điệu cực kỳ gay gắt. Tô Triệt liên  tiếp khấu đầu, lui xuống giữa sân quì xuống chịu tội, không còn dám nói  thêm câu nào nữa. Nhiều người trong đám đại thần nghĩ thầm: “Biến  pháp của tiên đế làm cho dân khốn khổ, buổi sớm không biết có sống  được đến chiều không, Hán Võ Đế còn khá hơn ông ta nhiều”. Thế nhưng  có ai dám nói ra, lại cũng có ai dám phân trần biện giải cho Tô Triệt?

Một vị đại thần râu bạc tiến ra, chính là Phạm Thuần Nhân, ung dung  nói:

- Xin bệ hạ bớt giận. Tô Triệt nói năng tuy có điều thất thố nhưng  cũng chỉ vì có ý tốt tỏ bụng ái  quốc trung quân. Bệ hạ mới vừa thân  chính, đối với đại thần cũng nên lễ mạo, không thể coi như đầy tớ. Huống  chi Hán Võ Đế cuối đời hối hận về việc sai lầm đã qua, tri quá năng cải,  cũng không phải là một ông vua tồi bại.

Triệu Hú nói:

- Người đời ai ai cũng bảo “Tần Hoàng, Hán Võ”, Hán Võ Đế đứng  ngang với Tần Thủy Hoàng bạo ngược, không phải là kẻ cực kỳ vô đạo  thì là gì?

Phạm Thuần Nhân đáp:

- Lời luận của Tô Triệt ấy là nói về thời thế và sự tình chứ không  phải nói về người.

Triệu Hú thấy Phạm Thuần Nhân bẻ lại mình, lại càng giận hơn nữa  không sao dằn nổi, quát lên:

- Tô Triệt vào đây!

Tô Triệt từ sân đình tiến vào trong điện, không dám đứng vào vị trí cũ,  quì xuống cuối hàng nói:

- Vi thần đắc tội với bệ hạ, xin được bãi chức.

Hôm sau có chiếu, giáng Tô Triệt xuống làm Đoan Minh Điện học sĩ,  đưa ra trấn nhậm tri châu Nhữ Châu, đường đường một vị tể tướng nay  xuống làm một chức quan nhỏ bé.

Động tĩnh ở Nam Triều lập tức có tế tác báo về Thượng Kinh. Liêu  chúa Gia Luật Hồng Cơ được tin thái hoàng thái hậu băng hà, thiếu quân  Triệu Hú cách chức đại thần, hiển nhiên muốn trở lại thi hành tân chính,  trong bụng mừng lắm nói:

- Ta phải xuống Nam Kinh ngay, cùng Tiêu đại vương nghị sự.

Gia Luật Hồng Cơ lại tiếp:

- Nam triều có không ít gián điệp  ở Thượng Kinh, nếu biết ta đi  xuống Nam Kinh, ắt sẽ đề phòng. Chúng ta chỉ nên chuẩn bị giản dị, ít kẻ  tùy tòng, đi cho nhanh, không cần  phải thông tri cho Nam Viện Đại  Vương.

Lập tức dẫn ba nghìn giáp binh, đi về hướng nam. Để tránh cái cảnh  Sở vương làm loạn năm nào hoàng đế để Tiêu hậu thống lãnh tất cả binh  mã còn lại Thượng Kinh, chỉ đem mười vạn tinh binh hộ giá chia đường đi  theo xuống.

Chỉ một ngày, ngự giá đến ngoài thành Nam Kinh. Hôm đó Tiêu  Phong đem theo hai mươi vệ binh đi săn ở mạn bắc, bỗng nghe Liêu chúa  đến, vội vàng ruổi ngựa chạy lên nghinh giá, từ xa trông thấy tàn vàng  tán tía, lập tức xuống ngựa, hối hả chạy đến, lạy phục xuống.

Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả, giục ngựa lên nói:

- Huynh đệ, ta với ngươi danh thì là quân thần, tình thực thì như ruột  thịt, việc gì phải hành đại lễ như thế?

Y lập tức đưa tay đỡ lên, cười hỏi:

- Có săn được nhiều dã thú không?

Tiêu Phong đáp:

- Mấy hôm nay trời lạnh ngắt, bao nhiêu thú chạy xuống phương  nam tránh lạnh, đi săn đã lâu chỉ được mấy con chó sói, mấy con cheo  chứ không được thú lớn.

Gia Luật Hồng Cơ vốn rất thích săn bắn liền nói:

- Vậy mình xuống phía nam xem sao!

Tiêu Phong đáp:

- Ngoại thành phía nam tiếp giáp với Nam triều, thần sợ làm mất hòa  khí giữa hai nước nên nghiêm cấm hạ thuộc săn bắn nơi đây.

Gia Luật Hồng Cơ hơi nhíu mày hỏi lại:

- Thế thì còn đi “gặt lúa” thì làm sao?

Tiêu Phong đáp:

- Thần cũng cấm tuyệt rồi.

Gia Luật Hồng Cơ nói:

- Hôm nay anh em mình gặp nhau, phá lệ một chuyến, có được  không?

Tiêu Phong đáp:

- Vâng!

Tiếng tù và thổi u u, Gia Luật Hồng Cơ và Tiêu Phong hai người cưỡi  ngựa chạy song song, vòng qua thành Nam Kinh đi thẳng về phương nam.  Ba nghìn giáp binh tùy tòng cũng chạy theo. Chạy được chừng hai chục  dặm, các giáp binh cùng reo hò, chia ra hai bên đông tây thành hình cánh  quạt vây lại. Chỉ nghe tiếng ngựa hí chó sủa rầm rĩ, bốn phía thắt vòng  vây, trong đám cỏ có mấy con thỏ, con chồn chạy ra.

Gia Luật Hồng Cơ không muốn bắn thú nhỏ, đợi một lúc lâu, vẫn  không thấy những loại gấu hay hổ nào chạy ra, còn đang bẽ bàng bỗng  nghe tiếng người kêu la, từ phía đông nam chừng mươi hán tử chạy đến,  nhìn y phục ra vẻ tiều phu thợ săn Nam triều. Liêu binh không đuổi được  dã thú, biết rằng hoàng thượng mất vui, liền đi kiếm mấy kẻ nam nhân  vây lại, hò hét xua đuổi, dồn họ đến trước ngựa của hoàng đế.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói:

- Thật tốt quá!

Y liền cởi chiếc cung nạm vàng  khảm ngọc, lắp lang nha tiễn lông  điêu, liên tiếp bắn ra, vèo vèo vèo mấy tiếng, không mũi tên nào trật, trúng sáu Nam nhân. Những người còn lại sợ đến mất hết hồn vía, quay  mình bỏ chạy nhưng lại bị lính Liêu dùng mâu chặn đuổi trở lại.

Tiêu Phong thấy vậy hết sức bất nhẫn, kêu lên:

- Bệ hạ!

Gia Luật Hồng Cơ cười nói:

- Những kẻ còn lại để cho ngươi, để ta xem thần tiễn của huynh đệ  thế nào!

Tiêu Phong lắc đầu:

- Những người này có tội gì đâu, tha cho họ đi.

Gia Luật Hồng Cơ cười:

- Người nam nhiều quá, cần phải giết sạch thì thiên hạ mới thái bình.  Bọn chúng đầu thai lầm chỗ làm người phương nam, thế là có tội rồi.

Nói xong lại liên tiếp bắn ra, mỗi mũi tên là một người, túi đựng tên  bắn đến một nửa hơn chục người Hán không ai thoát được, kẻ thì chết  ngay, kẻ thì trúng bụng chưa tắt thở nằm gục xuống rên la. Đám quân  Liêu reo hò ầm ỹ cùng hô:

- Vạn tuế!

Tiêu Phong lúc ấy nếu như ra tay ngăn cản thì thừa sức đánh giạt  những vũ tiễn của Liêu đế nhưng công nhiên làm mất mặt nhà vua trước  mắt quân lính thì quả là đại nghịch bất đạo, nhưng vẻ khó chịu không thể  không tỏ ra nét mặt. Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi:

- Sao thế?

Y đang định cất cung đi, bỗng thấy một con ngựa vượt vòng săn, chạy  vùn vụt tới. Gia Luật Hồng Cơ thấy người ngồi trên ngựa ăn vận theo  kiểu Hán nhân, không cần hỏi han, tra tên vào loan cung bắn vụt ra phía  người kia. Người kia giơ hai ngón tay kẹp được ngay mũi tên. Ngay khi  đó mũi tên thứ hai của Gia Luật Hồng Cơ cũng đã bắn tới, tay trái người  kia lại thò ra, kẹp được ngay. Thế nhưng con ngựa không chậm lại, vẫn  băng băng chạy về phía Liêu chúa. Gia Luật Hồng Cơ tên bắn liên tiếp,  hết mũi nọ đến mũi kia tưởng chừng như đầu tên nọ nối đuôi mũi tên kia.

Thế nhưng y bắn đã nhanh mà đối phương bắt tên lại còn nhanh hơn, chỉ  trong khoảnh khắc, người bắn ra bảy mũi tên thì người kia bắt đủ bảy.

Liêu binh bảo vệ hoàng đế liền la  ó, cùng giơ trường mâu ra chặn  ngang trước mặt Gia Luật Hồng Cơ, en ngại kẻ kia phạm giá. Khi đó hai  bên còn cách nhau chẳng bao xa, Tiêu Phong nhì rõ được mặt người kia  rồi, giật mình kinh hãi kêu lên:

- A Tử, ngươi đấy ư? Không được vô lễ với hoàng thượng.

Người trên ngựa cười khanh khách, ném bảy mũi tên bắt được cho bọn  vệ binh, nhảy xuống ngựa, quay sang Gia Luật Hồng Cơ quì xuống hành  lễ nói:

- Hoàng thượng, tiểu nữ bắt tên của hoàng thượng, xin đừng trách.

Gia Luật Hồng Cơ cười đáp:

- Hảo thân thủ! Hảo bản sự!

A Tử đứng thẳng dậy kêu lên:

- Tỉ phu ra đón tiểu muội đấy ư?

Hai chân nàng nhún một cái nhảy ngay tới trước mặt con ngựa Tiêu  Phong đang cưỡi. Tiêu Phong thấy hai mắt cô gái lóng lánh có thần, vừa  kinh ngạc, vừa mừng rỡ kêu lên:

- A Tử, sao mắt cô sáng lại rồi?

A Tử cười đáp:

- Đó là nhị đệ của tỉ phu chữa cho em đó, anh thử nghĩ có giỏi  không?

Tiêu Phong lại chăm chú nhìn cô gái, đột nhiên rùng mình một cái,  dường như trong ánh mắt A Tử có điều gì hết sức u uẩn thương tâm. Nói  cho đúng ra mắt nàng đã khỏi, lại gặp lại mình thì phải mười phần hoan  hỉ mới phải, vậy mà sao lại toát ra một vẻ buồn khổ như thế? Chỉ có tiếng  cười của nàng là đầy vẻ sung sướng mà thôi. Tiêu Phong nghĩ thầm:  “Chắc là trên đường đi tiểu A Tử gặp nhiều điều khốn khó”.

Đột nhiên A Tử kêu rú lên một tiếng, vọt lên phía trước. Tiêu Phong  cũng cảm thấy có người ở sau lưng mình đột nhiên ra tay ám toán, lập tức quay lại, thấy một cái chĩa ba dùng để đi săn đang lao về mình. A Tử thò  tay ra chộp lấy, thuận tay ném lại, chiếc đinh ba liền đâm thẳng vào ngực  một người đang nằm dưới đất. Người đó là một thợ săn Hán nhân, bị Gia  Luật Hồng Cơ bắn trúng nhưng chưa chết, thu hết tàn lực, phóng chiếc  đinh ba vào lưng Tiêu Phong. Y thấy Tiêu Phong ăn mặc theo lối cao  quan nước Liêu, chỉ mong giết được ông để rửa mối thù bị người ta sát  hại.

A Tử chỉ vào cái xác gã thợ săn chửi:

- Đồ chó lợn không biết lượng sức mình kia, sao dám tính chuyện ám  hại tỉ phu ta?

Gia Luật Hồng Cơ thấy A Tử phóng chiếc chĩa ba giết gã thợ săn,  trong bụng mừng rỡ nói:

- Hảo cô nương, cô thân thủ nhanh nhẹn, quả là tài giỏi thật. Mũi xoa  đó dĩ nhiên không thể nào làm gì được Nam Viện Đại Vương, nhưng nếu  như vì thế mà bị thương nhẹ thì không  khỏi làm hỏng đại sự của trẫm.  Hảo cô nương, cô muốn ta thưởng gì đây?

A Tử đáp:

- Hoàng thượng phong cho tỉ phu của tiểu nữ làm quan to, cũng cho  tiểu nữ một chức quan đi nhé? Chẳng cần phải to như của tỉ phu nhưng  cũng đừng nhỏ quá để người ta coi thường thiếp.

Gia Luật Hồng Cơ cười đáp:

- Bên nước Liêu nữ nhân chỉ làm việc nhà chứ không làm quan. Nếu  đã thế, ngươi vốn đã là quận chúa rồi, ta thăng ngươi lên một cấp, phong  ngươi làm công chúa, gọi là công chúa gì đây nhỉ? Được rồi, gọi là Bình  Nam công chúa.

A Tử dẩu miệng nói:

- Công chúa thì không làm.

Gia Luật Hồng Cơ ngạc nhiên:

- Sao lại không làm?

A Tử đáp:

- Hoàng thượng kết nghĩa anh em  với tỉ phu thiếp, nếu phong cho  tiểu nữ làm công chúa thì có khác gì con gái của hoàng thượng, như vậy  hóa ra bị tụt một vai hay sao?

Gia Luật Hồng Cơ thấy A Tử đối với Tiêu Phong thần tình thân thiết  mà Tiêu Phong lại không gần nữ sắc, cứ theo tục thường của người Liêu,  làm quan to như thế, chẳng nói tam thê tứ thiếp mà đến ba chục vợ bốn  chục nàng hầu cũng còn được, ắt hẳn cũng có tình ý với A Tử, nhưng vì  chưng nàng còn nhỏ tuổi nên không tiện thành thân. Y bèn cười đáp:

- Công chúa của ngươi đây là trưởng công chúa, ngang vai với em  gái ta, chứ không phải ngang với con gái ta. Chẳng những ta phong ngươi  làm Bình Nam công chúa mà cả tâm nguyện của ngươi ta cũng sẽ thành  toàn cho, vậy đã được chưa?

Khuôn mặt xinh xắn của A Tử hơi ửng hồng nói:

- Tiểu nữ có tâm nguyện gì đâu? Làm sao bệ hạ biết được? Bệ hạ là  thân hoàng đế sao cũng lại bạ đâu nói đấy như thế?

Nàng xưa nay chẳng sợ trời sợ đất, không biết kiêng nể ai đối với Gia  Luật Hồng Cơ cũng chẳng giữ lễ quân thần. Nước Liêu lễ pháp vốn còn  thô sơ, Tiêu Phong lại là quí nhân được Gia Luật Hồng Cơ cực kỳ sủng  tín, A Tử nói thế mà y chỉ cười khì khì nói:

- Nếu chức Bình Nam công chúa  ngươi còn không chịu thì ta đành  chịu thôi. Một, hai, ba, có chịu hay không thì bảo?

A Tử khoan thai lạy phục xuống, nói nhỏ:

- A Tử tạ ân.

Tiêu Phong cũng khom lưng hành lễ nói:

- Tạ bệ hạ ân điển.

Ông coi A Tử chẳng khác gì em gái mình, nàng được Liêu đế phong  thưởng, Tiêu Phong cũng phải cảm  ơn. Gia Luật Hồng Cơ áng chừng  mình đoán không sai nghĩ thầm: “Để ta  tổ chức cho y một lễ cưới thật  long trọng, sau đó mới sai đi đánh Tống, lúc đó ắt sẽ tận lực mà làm”.  Còn Tiêu Phong trong bụng cũng tự hỏi: “Hoàng thượng phen này xuôi  nam là có dụng ý gì? Sao lại phong cho A Tử cái danh hiệu Bình Nam công chúa? Bình Nam, chẳng lẽ hoàng thượng muốn động đao binh với  Nam triều chăng?”. Gia Luật Hồng Cơ nắm tay Tiêu Phong nói:

- Huynh đệ, anh em ta lâu ngày không gặp, phải tâm tình với nhau  một lúc.

Hai người cưỡi ngựa cùng chạy về hướng nam, ngựa hay, đường lại  phẳng nên chỉ chốc lát đã ra ngoài chục dặm. Cả một cánh đồng mênh  mông bỏ hoang, trên ruộng mọc đầy gai góc cỏ dại. Tiêu Phong nghĩ  thầm: “Người Tống sợ ta xua quân ra “đi gặt”, đến nỗi cả chục vạn mẫu  ruộng tốt thế này mà không ai cày cấy”.

Gia Luật Hồng Cơ giục ngựa chạy  lên trên một cái gò nhỏ, ghìm  cương đứng trên đỉnh đồi, nhìn quanh quất đầy vẻ tự hào. Tiêu Phong  cũng lên theo, đưa mắt nhìn về phương nam, chỉ thấy núi non trùng điệp,  không biết đến đâu là bến bờ.

Gia Luật Hồng Cơ giơ roi chỉ xuống nói:

- Huynh đệ, nhớ lại hơn ba mươi năm trước, phụ hoàng cũng đã từng  dắt ta đến đây, chỉ về phương nam cho ta thấy giang sơn của người Tống  quả là gấm vóc.

Tiêu Phong đáp:

- Quả đúng vậy!

Gia Luật Hồng Cơ nói:

- Ngươi tự nhỏ lớn lên ở đất nam man, hiểu biết nhiều sơn xuyên  nhân vật, ở phương nam hẳn là thoải mái hơn chúng ta phương bắc lạnh  ngắt chứ gì?

Tiêu Phong đáp:

- Địa phương ở nơi nào thì cũng vậy. Nói đến “thoải mái” thì chỉ cần  không phải lo lắng, trong lòng vui sướng là được rồi. Người phương bắc  không quen ở phương nam, người phương nam cũng không quen ở phương  bắc. Ông trời đã sắp đặt như thế rồi, nêá nhất định đổi chỗ cho nhau thì chỉ  thêm phiền não.

Gia Luật Hồng Cơ nói:

- Ngươi là người Bắc nhưng cư ngụ ở phương nam, lâu quá hóa quen  rôài, nay phải di cư lên phía bắc, không thấy bực bội hay sao?

Tiêu Phong đáp:

- Thâàn là kẻ lãng đãng giang hồ,  bốn bể đâu cũng là nhà, không  phải như bọn nhà nông hay kẻ chăn nuôi. Thần được bệ hạ ban cho nơi ăn  chốn ở, cao quan hậu lộc vẫn hằng thâm cảm ân đức, còn có gì đâu mà  phiền não?

Gia Luật Hồng Cơ quay lại, nhìn chăm chăm vào mặt ông. Tiêu Phong  không tiện bốn mắt nhìn nhau, mỉm cười rồi đưa mắt sang chỗ khác. Gia  Luật Hồng Cơ chậm rãi nói:

- Huynh đệ, ngươi với ta tuy kẻ chúa người tôi, nhưng là anh em kết  nghĩa, lâu ngày không gặp nhau sao có vẻ hờ hững thế?

Tiêu Phong đáp:

- Trước đây vi thần không biết bệ hạ là thiên tử nước Liêu này, nên  đã không khỏi mạo muội, ngạo mạn vói cao, nhưng sau này biết rồi, lẽ  nào còn dám coi như huynh đệ kết nghĩa?

Gia Luật Hồng Cơ thở dài:

- Làm hoàng đế hóa ra chẳng có thể kết giao được với vài người tâm  phúc, nghĩa khí thâm trọng hay sao? Huynh đệ, ví như ta theo ngươi hành  tẩu giang hồ, không gì câu thúc, có khi lại sung sướng hơn!

Tiêu Phong mừng rỡ đáp:

- Bệ hạ nếu thích có bạn bè, cũng đâu có khó gì. Thần có hai người  anh em kết nghĩa ở Trung Nguyên, một người là Hư Trúc Tử ở cung Linh  Thứu, một người là Đại Lý Đoàn Dự, đều là những người nhiệt tình can  đảm. Nếu như bệ hạ bằng lòng gặp họ, thần sẽ mời đến thăm Liêu quốc  một chuyến.

Ông từ khi trở lại Nam Kinh, ngày ngày chung sống với đám thuộc hạ  lính tráng, ngôn ngữ tính nết đều không hợp nhau, nên càng thêm nhớ  nhung Hư Trúc, Đoàn Dự, chỉ mong hai người đến đây hàn huyên một  phen.

Gia Luật Hồng Cơ mừng rỡ đáp:

- Nếu đã là anh em kết nghĩa của huynh đệ, thì cũng là anh em của  ta. Ngươi mau mau sai người đưa thư, bảo hai người đó đến Liêu quốc,  trẫm sẽ phong quan chức to cho họ.

Tiêu Phong mỉm cười nói:

- Mời họ qua đây chơi thì không khó nhưng bảo qua đây làm quan thì  chắc họ không đi đâu.

Gia Luật Hồng Cơ trầm ngâm một chút rồi nói:

- Huynh đệ, ta xem thần tình ngôn ngữ nhà ngươi, trong lòng dường  như có điều gì rầu rĩ không vui. Ta có cả thiên hạ, đưa binh đi bốn bể chỗ  nào chả được, có chuyẹân gì lo cho ngươi mà không xong? Sao hiền đệ  không nói cho người anh này biết?

Tiêu Phong trong lòng cảm động nói:

- Không dám dấu bệ hạ, chuyện này là mối hận bình sinh của thần,  đã gây ra một sai lầm rất lớn, không thể nào vãn hồi được.

Nói rồi ông đem chuyện ngộ sát A Châu kể lại qua loa. Gia Luật Hồng  Cơ vỗ đùi một cái lớn tiếng nói:

- Thảo nào huynh đệ đã ngoài ba mươi mà không lấy vợ, thì ra chỉ vì  không quên được người cũ. Huynh đệ, ngươi sở dĩ gây ra cái sai lầm đó,  chẳng qua cũng bởi bọn nam man người  Hán tệ bạc, thêm bọn ăn mày  người Hán vong ân phụ nghĩa.

Chú mày không việc gì phải buồn rầu, ta lập tức hưng binh, đánh cho  bọn nam man một trận, bắt sạch bọn võ lâm Trung Nguyên, luôn cả bọn  Cái Bang đem giết hết, để cho hả cái thù chết mẹ của huynh đệ nơi Nhạn  Môn Quan, và cái hận bị vây khốn  nơi Tụ Hiền Trang. Nếu chú mày  thích gái đẹp người nam, ta sẽ chọn cho một nghìn đứa, hai nghìn đứa đến  hầu hạ, có gì khó đâu?

Tiêu Phong trên mặt thoáng hiện  vẻ gượng gạo, nghĩ thầm: “Ta đã  giết lầm A Châu, kiếp này còn lấy ai nữa? A Châu là A Châu, tứ hải liệt  quốc, thiên thu vạn tải cũng chỉ có một nàng A Châu mà thôi. Dù cho một  nghìn, một vạn mỹ nữ người Hán cũng đâu có thể thay thế nàng? Hoàng thượng quen với cảnh hậu cung hàng trăm hàng nghìn cung nga phi tần,  đâu có biết “tình” là thế nào?”. Ông bèn nói:

- Đa tạ hậu ân của bệ hạ, nhưng cừu oán của thần với võ lâm Trung  Nguyên đã một bút sổ toẹt rồi. Dưới tay vi thần đã giết không ít người  trong võ lâm Trung Nguyên, lấy oán báo oán, quả là vô cùng vô tận.  Chiến tranh xảy ra, liên miên không  dứt, họa nọ tiếp họa kia, sự việc  không biết sẽ đến chừng nào.

Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả nói:

- Người Tống văn nhược, chỉ giỏi ăn to nói lớn, đến khi ra trận chưa  đánh đã thua. Huynh đệ anh hùng vô địch, thống suất binh mã nam chinh,  chỉ vài ngày là định được đất nam man, làm gì có chuyện binh liên họa  kết? Huynh đệ, ca ca lần này xuống miền nam, ngươi có biết tại vì cớ gì  không?

Tiêu Phong đáp:

- Cũng đang mong được bệ hạ chỉ thị cho rõ ràng.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói:

- Chuyện thứ nhất là muốn được cùng hiền đệ gặp nhau cho bõ  những ngày xa cách. Hiền đệ mới  rồi đi qua phương tây, nước Tây Hạ  hình thế khó hay dễ, binh mã yếu hay mạnh, ắt đã ghi nhớ trong lòng rồi.  Theo ý kiến của hiền đệ, liệu có thu được Tây Hạ hay không?

Tiêu Phong bàng hoàng, nghĩ thầm: “Hoàng thượng đồ mưu quả không  phải nhỏ, đã có bụng nam chiến Đại  Tống, lại còn tính cả tây thu Tây  Hạ”. Ông liền đáp:

- Thần tử chuyến vừa qua tây du, chỉ định xem trò náo nhiệt công  chúa Tây Hạ chiêu thân, đâu có nghĩ gì đến chiến trận công thủ. Bệ hạ  minh giám, thần tử qua lại giang hồ lâu năm, cận chiến quyền cước thì  cũng có chút kinh nghiệm, còn hành binh bố trận, thật chẳng biết tí gì.

Gia Luật Hồng Cơ cười đáp:

- Hiền đệ việc gì phải khiêm tốn quá như thế? Quốc vương Tây Hạ  kỳ này đánh trống khua chiêng tuyển phò mã, ai ngờ đầu voi đuôi chuột,  không đâu vào đâu, thật chẳng bõ cười. Biết vậy kỳ đó hiền đệ dẫn theo mười vạn tinh binh, lấy quách cô công chúa Tây Hạ đem về Nam Kinh,  thế mới thật là hay đấy.

Tiêu Phong mỉm cười, nghĩ thầm: “Hoàng thượng cứ nghĩ binh hùng  tướng mạnh trong tay là muốn gì được nấy”. Gia Luật Hồng Cơ nói tiếp:

- Ca ca sở dĩ lần này xuống đây, ấy là để thăng tước thăng quan cho  hiền đệ. Hiền đệ nghe đây.

Tiêu Phong đáp:

- Vi thần thụ ân như thế đã quá nhiều, không dám vọng tưởng …

Gia Luật Hồng Cơ lớn tiếng nói:

- Nam Viện Đại Vương Tiêu Phong nghe đây!

Tiêu Phong chỉ đành nhảy xuống ngựa, quì phục xuống đất. Gia Luật  Hồng Cơ nói:

Nam Viện Đại Vương Tiêu Phong tận trung thể quốc, phò tá trẫm như  tay chân, nay thăng tước lên Tống Vương, Bình Nam đại nguyên soái,  thống suất ba quân.

Khâm thử.

Tiêu Phong trong bụng ngần ngừ, không biết phải làm sao, nói:

- Vi thần không có công lao gì, thực không dám nhận trọng ân như  thế.

Gia Luật Hồng Cơ lạnh lùng hỏi:

- Sao thế? Ngươi cự mệnh không nhận chăng?

Tiêu Phong thấy giọng y có vẻ gay gắt, biết rằng không thể nào từ  chối, chỉ đành khấu đầu nói:

- Thần Tiêu Phong tạ ân.

Hồng Cơ cười ha hả nói:

- Có thế mới là hảo huynh đệ của ta chứ.

Y đưa tay đỡ Tiêu Phong dậy nói:

- Huynh đệ, ta lần này xuống nam không phải chỉ đến Nam Kinh mà  còn muốn ngự giá đến tận Biện Lương.

Tiêu Phong lại càng kinh hãi, run run hỏi:

- Bệ hạ muốn đến Biện Lương? Chẳng … chẳng phải là …

Gia Luật Hồng Cơ cười nói:

- Huynh đệ là Bình Nam đại nguyên soái thống suất ba quân, vì ta đi  trước, chúng mình đánh thẳng tới Biện Lương. Sau này hoàng cung của  thằng nhãi Triệu Hú kia sẽ là phủ Tống Vương của hiền đệ.

*

* *

   Tiêu Phong hỏi lại:

- Thế có nghĩa là bệ hạ định khai chiến với Nam triều ư?

Hồng Cơ đáp:

- Không phải là ta muốn gây sự với Nam triều mà là bọn Nam man  muốn cùng ta so tài cao thấp. Thời con mụ già thái hoàng thái hậu của  Nam triều còn chấp chính, mọi việc chuyện gì đâu ra đó, ta tuy có bụng  nam chinh nhưng không chắc ăn. Bây giờ bà lão đó chết rồi, thằng nhãi  Triệu Hú miệng còn hôi sữa kia lại cho người sang dò thám phương bắc,  huấn luyện quân đội, chiêu binh mãi mã, tích thảo đồn lương, ha ha,  thằng nhãi đó không phải muốn đối phó ta thì còn ai nữa?

Tiêu Phong đáp:

- Nam triều huấn luyện sĩ tốt mình cũng chẳng cần phải để ý làm gì.  Mấy năm qua Tống Liêu không giao tranh, hai nước thái bình, Triệu Hú  đến xâm phạm thì mình sẽ đánh cho chúng một trận tan tành. Còn như  nếu y sợ thanh uy của bệ hạ, không dám vọng động khinh suất thì mình  cũng chẳng cần chấp nhất tên tiểu tử đó làm chi.

Gia Luật Hồng Cơ nói:

- Huynh đệ có chỗ chưa am tường, Nam triều đất rộng người đông,  sản vật phong phú, nếu như có được một minh chúa, nhất định đối phó với  Đại Liêu thì chúng ta không thể nào địch nổi. May sao gã Triệu Hú kia  hành động càn rỡ, biếm trục trung thần, đến cả gã râu rậm họ Tô cũng bị  đuổi rồi. Lúc này vua tôi không hòa thuận, lòng người không theo, quả  đúng là cái cơ hội nghìn năm một thuở. Lúc này không khởi sự thì còn  chờ đến bao giờ?

Tiêu Phong đưa mắt nhìn xuống phương  nam, trước mắt như hiện ra  một cảnh tượng huyễn ảo: Hàng nghìn  hàng vạn quân Liêu đang ào ào  tiến xuống, nhà cửa cháy ngút trời, bao nhiêu là nam phụ lão ấu rên xiết  dưới vó ngựa, tên bay khắp nơi, binh lính Tống Liêu chém giết, xác người  rơi từ trên mình ngựa xuống, máu hòa lẫn với nước sông cuốn đi, xương  trắng đầy đồng …

Gia Luật Hồng Cơ lớn tiếng nói:

- Liệt tổ tông người Khất Đan chúng ta ai ai cũng mong thu đất Nam  triều vào bản đồ, nhưng mấy lần đều thất bại. Hôm nay mệnh trời đã đến,  đại công sẽ thành ở trong tay ta. Hảo huynh đệ, tên vua tôi hai chúng ta  sẽ mãi mãi ghi trong thanh sử, chẳng phải là chuyện hay lắm sao?

Tiêu Phong quì phục xuống, liên tiếp khấu đầu nói:

- Bệ hạ, vi thần có một việc khẩn cầu.

Gia Luật Hồng Cơ hơi kinh ngạc hỏi:

- Ngươi muốn điều chi? Nếu ca ca có thể làm được thì không chối từ  một chuyện gì hết.

Tiêu Phong đáp:

- Xin bệ hạ vì muôn vạn sinh linh hai nước Tống Liêu, thu hồi thánh  ý Nam chinh. Người Khất Đan chúng ta xưa nay sinh sống bằng đường du  mục, dẫu có lấy được đất của Nam triều cũng chẳng làm gì. Huống chi  binh đao là chuyện hung hiểm, chiến tranh là chỗ nguy nan đâu có nhất  định chắc thắng, nếu như thất bại, lại khiến cho tổn thương đến uy danh  của bệ hạ.

Gia Luật Hồng Cơ nghe giọng điệu của Tiêu Phong từ đầu chí cuối  không muốn nam chinh, nghĩ đến vương công quí nhân, tướng soái đại  thần Khất Đan trước nay hễ nghe đến “nam chinh” thì ai nấy nhảy cỡn  lên reo hò, sao chỉ riêng Tiêu Phong lại ngăn trở? Y liếc nhìn Tiêu Phong  thấy ông lông mày nhíu lại tỏ vẻ lo lắng nghĩ thầm: “Ta phong y làm  Tống Vương, Bình Nam đại nguyên soái, ở Đại Liêu là một cao quan, chỉ  dưới một người, ở trên vạn người, sao y lại không thấy vui là thế nào?  Đúng rồi, y tuy là người Liêu  nhưng từ bé được giống Nam man nuôi  nấng lớn khôn, có thể nói một nửa là giống Nam man. Đại Tống là phụ

mẫu chi bang của y, nghe ta phát binh chinh phạt nên vội vàng hết sức  ngăn trở. Xem như thế này, nếu ta miễn cưỡng ép y cầm binh tiến về  nam, chỉ sợ y không tận lực”. Y bèn nói:

- Ý định nam chinh của ta đã quyết rồi, huynh đệ không nên nhiều  lời.

Tiêu Phong đáp:

- Chinh chiến là đại sự của quốc gia, xin bệ hạ suy nghĩ cho kỹ. Nếu  như hoàng thượng nhất quyết nam chinh xin giao cho người hiền năng thì  hơn. Để thần thống lãnh đại binh, e rằng làm hỏng việc của bệ hạ.

Phen này Gia Luật Hồng Cơ hùng hùng hổ hổ xuống phương nam,  phong thưởng quyền cao tước trọng cho Tiêu Phong, sai ông thống suất  hùng binh, ấy là nghĩ đến tình anh em kết nghĩa, ban cho Tiêu Phong một  ân điển cực lớn, vẫn tưởng chắc ông sẽ sung sướng lắm, nào ngờ ông nói  như thế chẳng khác nào đổ một thùng nước lạnh vào mặt mình, lại không  chịu nhận chức Bình Nam đại nguyên soái, trong lòng hết sức bất mãn,  lạnh lùng nói:

- Trong lòng ngươi Nam triều coi hơn  cả nước Liêu ư? Ngươi thà  trung với Nam triều chứ không chịu trung với Đại Liêu chăng?

Tiêu Phong lạy phục xuống nói:

- Bệ hạ minh giám. Tiêu Phong là  người Khất Đan, dĩ nhiên phải  trung với Đại Liêu rồi. Đại Liêu nếu gặp nguy nan, Tiêu Phong này dù  phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa cháy, tận trung báo quốc, vạn tử  bất từ.

Gia Luật Hồng Cơ hỏi:

- Thằng nhãi con Triệu Hú đã có bụng thôn tính lãnh thổ Đại Liêu.  Người đời thường bảo: Tiên hạ thủ vi cường, hậu hạ thủ tao ương. Nếu  chúng ta không tiên phát chế nhân, không chừng có cái họa vong quốc  diệt chủng. Ngươi bảo là tận trung báo quốc, vạn tử bất từ, vậy sao ta bảo  ngươi vì nước thống lĩnh hùng binh, ngươi lại không phụng mệnh?

Tiêu Phong đáp:

- Thần bình sinh giết người đã nhiều, thật không muốn hai tay dính  thêm máu tanh nữa, xin bệ hạ bằng lòng cho thần từ quan, ẩn cư nơi rừng  sâu núi thẳm.

Gia Luật Hồng Cơ nghe ông đòi từ quan, lại càng phẫn nộ, bụng nảy  ra sát ý, tay liền để lên cán đao, muốn rút phắt ra chém đầu Tiêu Phong  nhưng lập tức nghĩ lại: “Người này võ công ghê gớm, ta chém y một cái  không chết thể nào cũng bị y làm hại. Huống chi trước đây y có công lớn  dẹp loạn, lại cùng ta kết nghĩa anh em, bây giờ một lời không hợp đã giết  công thần, như thế làm tổn đến ân đức”. Y bèn thở dài một tiếng, buông  cán đao ra nói:

- Ngươi với ta sở kiến không giống nhau, nhất thời không thể miễn  cưỡng. Thôi ngươi quay về suy nghĩ lại cho kỹ, mong sẽ hồi tâm chuyển  ý, nhận lệnh nam chinh.

Tiêu Phong tuy bái phục trên mặt đất nhưng người ở bên cạnh dù chỉ  nhướng mày, giơ một ngón tay ông cũng đã cảnh giác ngay, huống chi  Gia Luật Hồng Cơ tay để lên cán đao, trong lòng nổi ý định giết người thì  làm gì ông không biết? Ông biết rằng nếu như mình còn nói thêm nữa,  càng nói thì càng thêm hục hặc, e sẽ nghịch nhau bèn đáp:

- Tuân chỉ.

Ông liền đứng lên, dắt con ngựa của Gia Luật Hồng Cơ lại. Gia Luật  Hồng Cơ không nói một lời, nhảy lên ngựa, phóng vụt đi. Lúc trước xuôi  nam, hai người quân thần cưỡi ngựa song song nay trở về bắc người sau  kẻ trước, cách nhau cả dặm. Tiêu  Phong biết Gia Luật Hồng Cơ đã có  bụng nghi mình, nếu đi quá gần không khỏi khiến y bất an mà lỡ đề cập  đến chuyện nam chinh, không lẽ không trả lời nên chỉ theo ở xa xa.

Về đến thành Nam Kinh, Tiêu Phong mời Liêu đế vào ở trong vương  phủ Nam Viện Đại Vương, Gia Luật Hồng Cơ cười đáp:

- Ta không đến làm phiền ngươi đâu, để ngươi bình tĩnh lại, suy nghĩ  cho kỹ họa phúc lợi hại, ta quay về ngự doanh nghỉ được rồi.

Tiêu Phong liền cung kính tiễn Gia Luật Hồng Cơ trở về ngự doanh.  Gia Luật Hồng Cơ đem từ Thượng Kinh rất nhiều bảo đao lợi kiếm, tuấn  mã mỹ nữ ban thưởng cho ông, Tiêu Phong tạ ơn đem cả về vương phủ.

Tiêu Phong bình thời rất ít khi đích thân giải quyết chính vụ, các loại  văn vật thư tịch không màng đến, thành ra vương phủ không có thư  phòng. Ông chỉ thường cùng chư tướng ngồi bệt xuống trong đại sảnh, gọi  đem rượu ra uống, cắt lấy thịt mà ăn, không mất cái phong vị hào sảng  trước đây khi ở cùng bọn Cái Bang. Người Khất Đan sinh sống trong sa  mạc, nơi trướng phủ cũng đều như thế, thấy đại vương cũng hòa hợp với  mình, đối xử thân thiết nên ai nấy đều hoan hỉ.

Lúc Tiêu Phong từ ngự doanh trở về thì trời đã tối, vừa bước chân vào  đại sảnh, đã thấy dưới ánh đuốc mỡ bò bập bùng, một thiếu nữ áo tím  nằm phục trên tấm da hổ, chính là A Tử.

Nàng nghe tiếng chân người vội vàng nhỏm dậy, nhào tới ôm cổ Tiêu  Phong, nhìn vào mắt ông hỏi:

- Em trở về tỉ phu có mừng không? Sao mặt mày lại có vẻ khó chịu  như thế?

Tiêu Phong lắc đầu nói:

- Ta buồn là vì chuyện khác. A Tử, ngươi trở về, ta mừng lắm chứ. Ở  trên đời này, ta chỉ còn khắc khoải một mình cô thôi, sợ không biết cô có  gặp chuyện gì nguy hiểm không? Ngươi trở lại ở bên cạnh ta, mắt lại  chữa khỏi rồi, chẳng còn gì phải lo lắng.

A Tử cười nói:

- Tỉ phu, không những mắt em khỏi rồi mà hoàng thượng lại còn  phong em làm công chúa, anh có thấy vui không?

Tiêu Phong đáp:

- Có phong công chúa hay không thì tiểu A Tử vẫn là tiểu A Tử.  Hoàng thượng cũng vừa thăng quan cho ta, ôi!

Ông vừa nói vừa thở dài sườn sượt, nhắc một chiếc túi da bò đựng đầy  rượu lên, mở nắp tu một hơi. Trong đại sảnh chỗ nào cũng để toàn là túi  rượu, mỗi khi Tiêu Phong thèm là  uống, chẳng cần ai phục dịch. A Tử  cười nói:

- Chúc mừng tỉ phu được thăng quan.

Tiêu Phong lắc đầu nói:

- Hoàng thượng phong ta làm Tống Vương, Bình Nam đại nguyên  soái, sai ta đem binh đi công đả Nam triều. Ngươi thử nghĩ xem, một khi  chinh chiến thì biết bao nhiêu quan quân bách tính sẽ phải chết? Ta  không chịu bái mệnh, thành thử hoàng thượng bực tức lắm.

A Tử đáp:

- Tỉ phu quả là quái lạ. Tiểu muội nghe nói ở Tụ Hiền Trang tỉ phu  đã từng giết vô số hào kiệt Trung Nguyên, chẳng thấy thở dài chút nào.  Bọn man tử võ lâm Trung Nguyên ức hiếp anh đến thế, hôm nay được  hoàng thượng cho thổ khí dương mi, sai suất lãnh đại quân về giết sạch  sành sanh bọn khốn kiếp đó, đại ca lại không vui là sao?

Tiêu Phong giơ chiếc bao da lên uống một ngụm lớn, lại thở dài một  tiếng nói:

- Hôm đó ta và tỉ tỉ ngươi bị họ vây đánh, nếu không hết sức chiến  đấu thì sẽ bị loạn đao phân thi, đó là thế chẳng đặng đừng. Hôm đó  những người bị ta giết có vô số bạn cũ của ta, sau này nghĩ lại trong lòng  hết sức xót xa.

A Tử kêu lên một tiếng:

- Ồ, tiểu muội biết rồi, năm xưa tỉ phu vì chị A Châu nên mới đành  lòng giết người. Thế như bây giờ tiểu muội năn nỉ tỉ phu đi giết bọn man  tử Nam triều, liệu có được không?

Tiêu Phong lườm cô ả, gắt lên:

- Mạng người là chuyện lớn, vậy mà ngươi nói ra tưởng như giết bò  giết cừu không bằng. Cha ngươi  tuy là người Đại Lý nhưng mẹ ngươi  cũng là người nước Tống Nam triều.

A Tử bĩu môi quay mặt đi nói:

- Tiểu muội đã biết trong lòng tỉ phu, dù một nghìn em cũng chẳng  bằng được chị ấy, một vạn A Tử sống cũng chẳng bằng được một A Châu  đã qua đời. Xem ra chỉ có nước em chết quách cho xong, lúc đó anh mới  mủi lòng được một chút. Giá biết  thế … em … em chẳng hơi đâu phải  đường sá xa xôi lặn lội đi tìm anh. Anh … anh có bao giờ coi ai ra gì đâu?

Tiêu Phong nghe nàng nói giọng lưỡi ra chiều u oán, không khỏi bàng  hoàng, nhớ đến khi trước cô ta phát xạ độc châm ám toán mình, cũng chỉ  cốt để mình mãi mãi ở bên cạnh nàng, bèn đáp:

- A Tử, ngươi còn nhỏ, chỉ được cái bướng bỉnh ngang ngược, không  hiểu chuyện người lớn …

A Tử cướp lời:

- Cái gì mà người lớn với chẳng trẻ con? Em không còn là con nít  nữa. Tỉ phu đã nhận lời tỉ tỉ lo liệu cho em, anh … anh chỉ lo cho em cơm  ăn, áo mặc, chứ có … chứ có bao giờ lo đến lòng dạ em đâu? Anh có bao  giờ hỏi đến tâm sự em thế nào đâu?

Tiêu Phong càng nghe càng thêm kinh hoảng, không dám tiếp lời. A  Tử quay lưng lại, nói tiếp:

- Khi mắt em bị mù, em biết là tỉ phu sẽ chẳng bao giờ thích em nên  có dám gần gũi đâu? Bây giờ mắt em sáng lại rồi, anh cũng chẳng thèm  ngó ngàng gì đến, em … em có chỗ  nào không bằng A Châu? Mặt mũi  không xinh đẹp ư? Hay là không thông  minh bằng? Cũng bởi vì chị ấy  chết rồi nên anh mới ngày đêm khắc khoải. Em … em … tiếc thay hôm đó  không bị anh một chưởng đánh chết, như thế anh sẽ mãi mãi nhớ đến em  như nhớ A Châu …

Nàng nói đến tâm sự đau lòng đó, đột nhiên quay lại sà vào lòng Tiêu  Phong, khóc nức nở. Tiêu Phong lúng túng, không biết phải nói thế nào  cho phải.

A Tử thút thít một hồi rồi nói:

- Thế tiểu muội còn trẻ con ở chỗ nào? Hôm ở bên chiếc cầu đêm  mưa bão sấm sét, thấy anh đánh chết chị em rồi, khóc lóc thật não lòng,  em cảm thấy thương mến không biết  chừng nào. Em tự nhủ: “Đại ca  chẳng nên khổ sở như thế. Không có A Châu thì em sẽ là A Châu, hết  lòng hết dạ yêu thương anh”. Em đã nhất định rồi, nguyện sẽ suốt đời ở  bên anh. Thế nhưng đại ca lại cứ duỗi ra khiến tiểu muội phải tự nói với  mình: “Giỏi nhỉ, anh không cho tôi đi theo, đã thế tôi sẽ làm cho anh tàn  phế, mọi việc sẽ phải tùy thuộc vào tôi, sẽ phải theo tôi mãi mãi”.

Tiêu Phong lắc đầu:

- Chuyện cũ không cần phải nhắc lại nữa.

A Tử gắt lên:

- Sao lại là chuyện cũ? Trong lòng em thì lúc nào nó cũng như mới  ngày hôm nay. Em không nói với tỉ phu nữa, xưa nay anh vẫn nào có coi  em ra gì đâu?

Tiêu Phong nhẹ nhàng vuốt mái tóc mềm mại của cô gái nói khẽ:

- A Tử, tuổi của ta hơn gấp đôi tuổi cô, lo liệu cho cô như chú như  anh. Trong đời ta chỉ yêu thương có một người con gái, đó là chị cô thôi.  Mãi mãi sẽ không có người đàn bà  nào thay thế cho A Châu được, ta  cũng quyết không yêu thương một người thứ hai nào. Hoàng thượng ban  cho ta hơn một trăm mỹ nữ, đến nay  ta cũng chưa nhìn thẳng vào mặt  người nào. Ta lo lắng cho cô cũng chỉ vì A Châu mà thôi.

A Tử tức tối, đột nhiên giơ tay tát bốp một cái lên mặt Tiêu Phong.  Tiêu Phong nếu như muốn tránh thì chưởng đó làm sao trúng mặt được?  Chỉ vì ông thấy A Tử tức giận đến mặt tái nhợt, trong ánh mắt đầy vẻ thê  lương, càng nhìn càng thấy xót xa nên không tránh né để nàng tát một cái  cho hả dạ.

A Tử đánh được một cái lại đâm hối hận, kêu lên:

- Tỉ phu, em quả là tệ hại, anh … anh đánh lại đi, đánh lại đi!

Tiêu Phong nói:

- Thế chẳng phải tính trẻ con thì là gì? A Tử, trên đời này có chuyện  gì gọi là lớn đâu, cũng chẳng phải đau lòng đến thế. Sao ánh mắt ngươi  lại có vẻ bi thương như vậy? Tỉ phu là một hán tử thô lỗ, ngươi quả như  muốn bầu bạn với ta thì chỉ thêm bực mình.

A Tử đáp:  - Có thực mắt em tỏa ra vẻ bi thương đau đớn hay chăng? Ôi, cũng  tại cái tên xú bát quái đó làm khổ em.

Tiêu Phong hỏi lại:

- Cái gì mà bảo tên xú bát quái đó làm khổ ngươi?

A Tử đáp:

- Đôi mắt của em đây, chính là của tên đầu sắt xấu như ma cho em  đó.

Tiêu Phong nhất thời chưa rõ nàng nói chuyện gì nên nhắc lại:

- Tên đầu sắt? Xấu như ma?

A Tử đáp:

- Cái gã bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền, tỉ phu có biết đó là ai  không? Nói ra quả khiến người ta cười đến vỡ bụng, y chính là kẻ em đã  đeo cho một cái mặt nạ sắt Du Thản Chi. Y chính là con của nhị trang chủ  Tụ Hiền Trang Du Câu, đã từng  dùng vôi bột ném vào anh đó. Cũng  chẳng biết y học ở đâu được môn võ công cổ quái cứ lẽo đẽo theo em, cố  hết sức làm cho em vui lòng. Em bị y đánh lừa thật khổ quá, khi đó mắt  em mù, cũng chẳng ai săn sóc nên  cứ một Trang công tử ơi, hai Trang  công tử hỡi. Bây giờ nghĩ lại thật là mắc cở.

Tiêu Phong lạ lùng:

- Thì ra gã Trang bang chủ của Cái Bang chính là người bị ngươi bắt  làm Thiết Sửu, thảo nào mặt mày đầy sẹo, chắc là lúc y gỡ chiếc mặt nạ  ra nên mới bị thương. Gã hề sắt đó là Du Thản Chi đấy sao? Ôi, ngươi  quả thực tai quái hết cỡ, hành hạ người ta đến mức ấy. Gã đó không thù  ngươi, lại chăm lo săn sóc ngươi, quả là hiếm có.

A Tử cười khẩy đáp:

- Hứ, cái gì mà hiếm có? Y có tốt lành gì đâu? Y chỉ muốn em lấy y  đấy thôi.

Tiêu Phong nhớ lại tình cảnh ánh mắt Du Thản Chi nhìn A Tử trên núi  Thiếu Thất quả là đầy mối thâm tình, có điều khi ấy ông không chú ý bèn  nói:

- Ngươi biết rõ mọi sự rồi, tức quá liền giết y đi rồi móc hai mắt y  chứ gì?

A Tử lắc đầu:

- Không phải, em nào có giết y, đôi mắt này do y tự nguyện cho em  đó.

Tiêu Phong lại càng không hiểu:

- Vì cớ gì y lại bằng lòng móc mắt mình ra đem cho ngươi?

A Tử đáp:

- Quả thực chưa thấy ai ngu như gã này. Tiểu muội cùng y đến Phiêu  Miểu Phong cung Linh Thứu rồi, tìm được nghĩa đệ của tỉ phu là Hư Trúc  Tử, nhờ ông ta chữa mắt. Hư Trúc Tử lục sách thuốc đọc thật kỹ, nói là  phải kiếm cho được mắt người sống còn tươi thay vào mới được.

Trên cung Linh Thứu ai ai cũng là hạ thuộc của Hư Trúc Tử, em có  cầu y chữa, y cũng chẳng bằng lòng móc mắt họ ra. Em lại bảo Du Thản  Chi xuống dưới núi bắt một người nào đó đem lên thì gã liền khóc lóc,  bảo là sau khi em chữa khỏi mắt rồi, nhìn rõ bộ mặt của hắn sẽ không  còn ngó ngàng gì đến y nữa. Em bảo em sẽ không bỏ y, y không tin.

Có ngờ đâu y kiếm một con dao đến tìm Hư Trúc Tử nguyện ý tặng  đôi mắt cho em. Hư Trúc Tử nhất định không chịu, gã đầu sắt liền lấy dao  rạch ngang vạch dọc mấy đường trên người, trên mặt mình bảo là nếu Hư  Trúc Tử không bằng lòng y sẽ tự sát ngay. Hư Trúc Tử không biết làm  sao, chỉ đành lấy đôi mắt y thay vào cho em.

Nàng kể có vẻ giản dị tưởng như một chuyện thật bình thường nhưng  Tiêu Phong nghe rồi hết sức kinh hãi, những chuyện hung hiểm kinh tâm  động phách ông từng trải cũng không sao hơn được. Hai tay ông run run,  bịch một tiếng vứt túi ruợu trên tay xuống nói:

- A Tử, có thật Du Thản Chi cam tâm tình nguyện đem đôi mắt thay  cho ngươi hay chăng?

A Tử đáp:  - Đúng vậy.

Tiêu Phong nói:

- Ngươi … ngươi quả là lòng lim dạ đá, người ta đem đôi mắt cho  ngươi mà ngươi cũng nhận hay sao?

A Tử nghe ông nói có vẻ gay gắt, mắt chớp chớp, lại muốn khóc, đột  nhiên nói:

- Tỉ phu, nếu như mắt anh bị mù thì em cũng cam tâm tình nguyện  đem mắt tặng cho anh ngay.

Tiêu Phong nghe nàng nói thật hết sức sắt đá, không phải chuyện đùa,  trong lòng hết sức cảm động, dịu dàng nói:

- A Tử, vị Du quân đó đối với ngươi một mối thâm tình, ngươi quả là  có phúc mà không biết hưởng. Ngoài y ra trên đời này kiếm đâu ra được  một tình lang như thế nữa? Hiện giờ y đang ở đâu?

A Tử đáp:

- Hẳn y vẫn còn ở cung Linh Thứu. Y không có mắt, ngọn Phiêu  Miểu hiểm trở như thế làm sao xuống được?

Tiêu Phong nói:

- Ồ, không chừng nhị đệ đã kiếm được mắt của một tử tù nào thay  mắt cho y rồi.

A Tử đáp:

- Không thể được, chú tiểu đó … ấy quên, Hư Trúc Tử có nói, mắt  của tiểu muội chỉ bị lão tặc Đinh Xuân Thu làm hỏng giác mạc nhưng cân  mạch không sao thành ra mới thay được. Thiết Sửu thì mắt bị móc ra rồi,  gân mạch đứt hết, không thể nào thay được nữa.

Tiêu Phong nói:

- Vậy ngươi mau mau trở lại bầu bạn với y, từ nay không bao giờ rời  xa y nữa.

A Tử lắc đầu:

- Tiểu muội không đi, em chỉ đi theo tỉ phu thôi, cái thứ người xấu  như yêu quái kia, trông thấy đã buồn nôn, ai lại ở với hạng người như thế  bao giờ?

Tiêu Phong giận dữ nói:

- Người ta mặt mũi tuy xấu nhưng lòng dạ còn đẹp gấp trăm lần  ngươi. Ta không cần ngươi phải ở với ta, không muốn thấy mặt ngươi nữa.

A Tử dậm châm khóc òa lên:

- Em … em …

Chỉ nghe ngoài cửa có tiếng chân người, hai tên vệ sĩ cùng hô lớn:

- Thánh chỉ đến!

Sau đó sảnh môn mở ra, Tiêu Phong và A Tử cùng quay lại, thấy một  sứ giả của hoàng đế đang tiến vào. Lễ nghi triều đình nước Liêu không  phiền phức như của Đại Tống, thần tử trông thấy sứ giả của nhà vua, chỉ  cần đứng thẳng nghe đọc thánh chỉ, không phải chạy đi thay triều phục,  bày hương án, quì xuống tiếp chỉ. Gã sứ giả lớn tiếng đọc:

- Hoàng thượng cho gọi Bình Nam công chúa kiến giá.

A Tử đáp:

- Vâng!

Nàng vội vàng quệt nước mắt, theo sứ giả đi ra. Tiêu Phong nhìn theo  sau lưng A Tử, nghĩ thầm: “Gã Du Thản Chi đối với cô nàng tình ái thâm  trọng, trên đời xưa nay hiếm có. Chỉ vì ta đối với A Tử là mối tình đầu,  lại ở bên cạnh ngày đêm không rời, sau khi nàng trọng thương, chẳng tị  hiềm nam nữ, hết sức chiếu liệu, thành thử cô ả mới nảy sinh ra một tình  quyến luyến thật trẻ con. Ta phải làm thế nào khuyên A Tử quay trở lại  bên cạnh Du quân chứ người ta đối  với cô nàng như thế, một người đã  móc mắt tặng cho mình bây giờ bỏ rơi thì trời đất còn dung sao được”.

Tiếng chân của sứ giả và A Tử xa dần, sau cùng không còn nghe thấy  nữa, lại nhớ đến chỉ ý của Gia Luật Hồng Cơ sai mình đi chinh phạt Tống  triều: “Hoàng thượng gọi A Tử có chuyện gì thế nhỉ? Chắc là bảo nàng  khuyên ta nhận lời chinh phạt nhà Tống. Nếu như ta nhất quyết không  phụng chiếu thì còn gì là quốc pháp nữa? Vừa rồi ở nam giao tranh chấp,  hoàng thượng để tay lên cán đao, đã toan giết ta, có lẽ còn nghĩ tình quân  thần, nghĩa huynh đệ mà phải cố khắc chế. Nếu như ta phụng mệnh phạt  Tống, đem binh sang giết hàng nghìn hàng vạn người thì sao đành lòng?  Huống chi cha ta đang xuất gia ở chùa Thiếu Lâm, nghe tin ta đem quân  xuống phương nam, ắt sẽ thất vọng lắm. Ôi, nếu ta kháng lại mệnh vua  thì là kẻ bất trung, không coi tình kim lan vào đâu thì là bất nghĩa, còn  như tấn công xuống phương nam, tàn sát bách tính thì lại là kẻ bất nhân,  vi phạm vào chí hướng của cha thì là kẻ bất hiếu. Trung hiếu nan toàn,  nhân nghĩa không thể hai bề vẹn cả, bây giờ mình phải làm sao? Bỏ, bỏ, bỏ đi thôi! Cái chức Nam Viện Đại Vương này ta không thèm làm nữa,  chi bằng treo ấn đóng kho, không từ  biệt hoàng thượng mà đi là xong.  Thế nhưng đi đâu bây giờ? Trời đất mang mang, sao lại không có chỗ cho  Tiêu Phong này dung thân?”.

Ông cầm chiếc túi rượu lên tu hai ngụm, nghĩ thầm: “Thôi mình đợi A  Tử về, cùng nàng đi lên Phiêu Miểu Phong, một là đưa nàng đến gặp Du  quân, hai là cùng nhị đệ hàn huyên một chuyến, sau đó tính lại”.

A Tử theo sứ giả đi tới ngự doanh, vừa gặp Gia Luật Hồng Cơ đã lanh  chanh nói ngay:

- Hoàng thượng, cái tước Bình Nam công chúa ban cho tiểu nữ, tiểu  nữ không nhận đâu.

Gia Luật Hồng Cơ cho đòi A Tử đến quả đúng như Tiêu Phong dự  liệu, chính là để bảo nàng khuyên Tiêu Phong phụng chỉ nam chinh, gặp  nàng chưa gì đã nói phủ đầu như thế không khỏi nhíu mày, hậm hực nói:

- Triều đình phong thưởng là chuyện quốc gia đại sự, chứ có phải trò  đùa của trẻ con đâu mà để ngươi thích thì lấy, không thích thì thôi.

Ông vốn dĩ nghĩ đến cái tình với Tiêu Phong, yêu ai yêu cả đường đi,  thành thử đối với A Tử luôn luôn dịu ngọt, bây giờ nói thế là nặng lắm  rồi. A Tử oa lên một tiếng khóc hu hu. Gia Luật Hồng Cơ giậm chân quát:

- Quá lắm rồi! Quá lắm rồi! Chẳng ra thể thống gì cả.

Bỗng nghe từ sau trướng có tiếng đàn bà yểu điệu nói:

- Hoàng thượng, sao lại giận thế? Lẽ nào lại dọa một cô bé con đến  khóc òa lên thế kia?

Kế đó nghe tiếng vòng kêu leng keng, một phụ nữ sang trọng đủng  đỉnh đi ra. Người đàn bà đó đôi mắt long lanh, vừa chải đầu vừa cười nửa  miệng, A Tử nhận ra đó chính là Mục quí phi, người được hoàng thượng  sủng ái nhất, liền sụt sùi nói:

- Mục quí phi, tỉ tỉ lại đây xem thử có công bình không nào? Tiểu  muội chỉ nói là không nhận chức Bình Nam công chúa, thế mà hoàng  thượng liền la tiểu muội ngay.

Mục quí phi thấy nàng khóc lóc  thật đáng thương, hai người đã lâu  không gặp, thân hình A Tử đã cao lớn hơn nhiều, mặt mày cũng thêm  xinh đẹp, bèn nháy mắt cho Gia Luật Hồng Cơ, nhếch mép cười nói:

- Hoàng thượng, nếu cô ấy không chịu làm Bình Nam công chúa thì  hoàng thượng phong cho cô ấy làm Bình Nam quí phi đi.

Gia Luật Hồng Cơ vỗ đùi quát:

- Chỉ nói xàm! Ta phong cho đứa bé này là vì Tiêu Phong huynh đệ,  một người là Bình Nam đại nguyên soái, một người là Bình Nam công  chúa để cho hai người nở mày nở mặt mà thành hôn. Có ngờ đâu Tiêu  Phong không chịu làm Bình Nam đại nguyên soái, còn cô nhỏ này thì  không chịu làm Bình Nam công chúa. Phải rồi, ngươi là người nam man  nên không chịu vì ta mà bình nam, phải vậy không?

Trong giọng nói có ẩn ý uy hiếp. A Tử đáp:

- Tiểu nữ chẳng cần biết bình nam hay không bình nam! Bệ hạ bình  đông cũng được, bình tây cũng được, tiểu nữ chẳng cần biết đến. Có điều  tỉ phu của tiểu nữ … tỉ phu lại ép tiểu nữ lấy một gã mù hai mắt xấu như  ma.

Hồng Cơ và Mục quí phi hai người nghe thế hết sức lạ lùng, cùng hỏi:

- Sao thế?

A Tử không muốn nói rõ đầu đuôi, chỉ đáp:

- Tỉ phu không thích tiểu nữ nên ép lấy người khác.

Ngay khi đó, ngoài trướng có người gọi nhỏ:

- Hoàng thượng!

Gia Luật Hồng Cơ đi ra thấy tên vệ sĩ thân tín của Tiêu Phong, gã kia  nói nhỏ:

- Khải bẩm hoàng thượng: Tiêu  đại vương dán một bao thư bên  ngoài kho, còn chiếc ấn vàng dùng vải bao lại treo tại xà nhà, xem như  thế, chắc … chắc là có ý bỏ đi không từ biệt rồi.

Gia Luật Hồng Cơ nghe thế, lập tức nổi cơn thịnh nộ kêu lên:

- Phản rồi, phản rồi! Y có còn coi ta là hoàng đế nữa hay thôi?

Y suy nghĩ rồi nói:

- Mau triệu Đô Chỉ Huy ngự doanh lại đây.

Chỉ giây lát Đô Chỉ Huy ngự doanh đã đến nơi. Gia Luật Hồng Cơ nói:

- Ngươi dẫn binh mã, vây bốn phía Nam Viện vương phủ lại cho ta.

Y lại hạ chỉ:

- Truyền lệnh đóng chặt cửa thành, không cho bất cứ ai xuất nhập.

Y lại sợ Tiêu Phong dẫn binh làm phản nên không ngớt ra lệnh, truyền  cho các đại tướng bộ hạ của Nam Viện đại vương đến chầu. Mục quí phi  ở trong trướng nghe thấy tiếng tù và  bên ngoài từng hồi nổi lên không  dứt, tiếng vó ngựa lộp cộp, hiển nhiên đang có biến cố. Người Khất Đan  giới hạn nam nữ rất nhẹ nên bà ta liền đi ra ngoài hỏi nhỏ Gia Luật Hồng  Cơ:

- Bệ hạ, có chuyện gì thế? Làm gì mà nộ khí xung thiên như vậy?

Gia Luật Hồng Cơ giận dữ đáp:

- Gã Tiêu Phong không biết phải quấy, toan tính phản ta bỏ đi. Gã  này lòng vẫn hướng về Nam triều, chắc hẳn định báo cho bọn Nam man.  Y biết nhiều chuyện quân quốc bí mật của Đại Liêu, nếu sang Tống triều  sẽ trở thành mối lo trong gan ruột.

Mục quí phi trầm ngâm nói:

- Từng nghe bệ hạ nói rằng, người đó võ công ghê gớm lắm, nếu như  không bắt được, để y thoát vòng vây thì quả là mầm họa lớn.

Gia Luật Hồng Cơ đáp:

- Chính thế.

Y quay sang nói với vệ sĩ:

- Truyền lệnh Phi Long Doanh, Phi Hổ Doanh, Phi Báo Doanh, hỏa  tốc đến tăng viện cho Nam Viện Đại Vương phủ.

Ngự doanh vệ sĩ nghe lệnh vội vàng truyền xuống. Mục quí phi lại  nói:

- Bệ hạ, thiếp có một kế.

Bà ta ghé tai Gia Luật Hồng Cơ nói một hồi. Gia Luật Hồng Cơ gật  gù:

- Sử dụng được đấy. Nếu việc này xong, trẫm sẽ trọng thưởng.

Mục quí phi mỉm cười nói:

- Chỉ cần bệ hạ vui lòng, đó là trọng thưởng rồi. Bệ hạ đãi thiếp như  thế này còn mong mỏi gì hơn nữa?

Việc điều động binh mã ngự doanh bên ngoài tuy A Tử ngồi trong  trướng nhưng chẳng thèm để ý. Người Khất Đan hò hét chạy qua chạy lại  xưa nay nàng nghe đã nhiều, mỗi khi ra ngoài đi săn cũng đã rầm rĩ lên  rồi, có biết đâu là Gia Luật Hồng Cơ đang chỉ huy lùng bắt Tiêu Phong.  Nàng ngồi trên một chiếc yên lạc đà, bụng dạ rối bời: “Lòng ta đối với tỉ  phu đâu phải là anh ta không biết, chỉ có điều … có điều y không để ý đến  ta đấy thôi, lại bảo ta đi bầu bạn với tên người không ra người, ngợm  không ra ngợm kia. Ta … ta thà chết còn hơn chứ nhất định không chịu,  không chịu, muôn vạn lần không chịu”. Trong bụng nàng nghĩ như thế,  bàn chân không ngớt đá vào hình đầu con hổ dệt trên tấm thảm lót dưới  sàn.

Đột nhiên có một bàn tay nhẹ nhàng để lên vai nàng, A Tử hoảng hốt  ngẩng đầu lên, nhận ra đôi mắt dịu dàng thân mật của Mục quí phi, nghe  bà ta cười hỏi:

- Tiểu muội muội nghĩ ngợi gì mà thẫn thờ như thế? Lại nghĩ đến tỉ  phu có phải không?

A Tử nghe nhắc đến tâm sự của mình, tự nhiên bẽn lẽn cúi đầu không  nói. Mục quí phi ngồi xuống ngang với nàng, cầm bàn tay nhẹ nhàng vuốt  ve, nhỏ nhẹ nói:

- Tiểu muội muội, đàn ông người nào cũng thô lỗ nóng nảy, hoàng  thượng đây cũng như Nam Viện Đại Vương, hai người đều là anh hùng  hảo hán đương thế, muốn thu phục họ quả không dễ chút nào.

A Tử gật đầu thấy bà ta nói quả là hữu lý. Mục quí phi lại tiếp:

- Đàn bà trong cung hàng trăm hàng nghìn, thiếu gì kẻ đẹp hơn chị,  chiều chuộng hoàng thượng hơn chị. Thế nhưng hoàng thượng sủng ái chị hơn cả, tuy một phần cũng là duyên phận nhưng một phần cũng là do vị  lão hòa thượng chùa Thánh Đức ở Thượng Kinh chiếu cố. Tiểu muội tử,  hiện giờ lòng của tỉ phu không quyến luyến em thì cũng chẳng nên rầu rĩ.  Đợi khi về Thượng Kinh rồi, em đi với chị đến chùa Thánh Đức xin với vị  cao tăng kia may ra ngài có giúp được chăng?

A Tử lạ lùng hỏi:

- Thế lão hòa thượng kia có cách gì thế?

Mục quí phi đáp:

- Việc này chị nói riêng với em, em không được nói cho một người  thứ hai nào biết. Em phải thề độc quyết không tiết lộ bí mật mới được.

A Tử liền nói:

- Nếu tôi đem bí mật của Mục quí phi nói cho ai nghe thì sẽ bị loạn  đao phân thi, chết không yên lành.

Mục quí phi trầm ngâm rồi nói:

- Không phải chị không tin em có điều việc này liên hệ rất lớn, em  phải thề độc một lần nữa.

A Tử lại nói:

- Được, nếu như em tiết lộ việc bí mật chị nói cho em hay, thì em..  thì em sẽ bị tỉ phu một chưởng đánh chết tươi.

Nàng nói tới đây, trong lòng vừa ngọt ngào lại vừa chua chát. Mục quí  phi gật đầu nói:

- Bị một người mình thương yêu một chưởng đánh chết còn thê thảm  gấp trăm lần loạn đao phân thi. Vậy thì chị tin em rồi. Hảo muội tử, vị  cao tăng đó Phật pháp vô biên, thần thông quảng đại, sau khi ta quì  xuống khẩn cầu, ông ta cho chị hai lọ nước thánh, bảo chị thành tâm khấn  vái cầu xin, len lén cho người mình thương yêu uống một bình. Người đàn  ông đó từ nay sẽ mãi mãi thương yêu, đến chết cũng không thay đổi. Ta  đã cho hoàng thượng uống một lọ rồi, nay còn lại một bình.

Bà ta nói xong lấy trong túi ra một cái bình sứ màu hồng, nắm chặt  trong tay, dường như sợ mất. Thực ra dưới sàn trải thảm thật dày, dẫu có  rơi cũng chẳng hề chi. A Tử vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, cầu khẩn:

- Hảo tỉ tỉ, chị cho em xem đi.

Nàng từ nhỏ đã làm môn hạ phái Tinh Tú những loại bùa mê thuốc lú  hớp hồn người ta nàng vốn tin sẵn từ lâu. Mục quí phi nói:

- Xem thì được nhưng đừng làm đổ đấy nhé.

Hai tay cầm chặt, trịnh trọng đưa ra. A Tử cầm lấy, mở nắp ra đưa lên  mũi ngửi, thấy có mùi thơm nhè nhẹ. Mục quí phi vội đưa tay lấy lại,  đóng nắp, vặn kỹ mấy lần, dường như sợ dược tính bay mất nói:

- Thực ra chị có chia cho em cũng chẳng hề chi. Có điều chị sợ nếu  như hoàng thượng thay lòng đổi dạ thì phải dùng đến thứ nước thánh này.

A Tử nói:  - Chị đã bảo hoàng thượng uống một lọ rồi thì vĩnh viễn không thay  đổi mà?

Mục quí phi mỉm cười đáp:

- Nói thì thế nhưng làm sao biết được thứ nước thánh này có hiệu quả  bao lâu, nếu không vị thánh tăng kia sao lại cho chị đến hai lọ? Chị cũng  sợ nếu như nước thánh lạc vào tay một phi tần khác, họ lại len lén cho  hoàng thượng uống, hoàng thượng đối với chị dẫu không đổi dạ nhưng e  lại hai lòng …

Vừa nói tới đây bỗng có tiếng Gia Luật Hồng Cơ ở ngoài trướng gọi  lớn:

- A Mục, nàng ra đây. Ta có chuyện muốn nói.

Mục quí phi liền đáp:

- Thiếp ra đây.

Bà ta lật đật đi ra, cạch một tiếng nhẹ, chiếc bình sứ từ trong bọc rơi  ra, nhưng nào có biết gì đâu. A Tử mừng rỡ, đợi cho bà ta ra khỏi trướng,  vội vàng nhỏm dậy nhặt chiếc bình lên, bỏ luôn vào túi nghĩ bụng: “Mình  mau mau cho tỉ phu uống, sau đó lấy nước lạnh đổ vào, trả lại cho Mục quí phi. Thực ra hoàng thượng đã sủng ái bà ta lắm rồi, thứ nước thánh  này đâu có còn cần nữa”. Nàng nghĩ vậy rồi mở phía sau len lén bò ra,  chạy vụt trở về Nam Viện Đại Vương phủ.

Chỉ thấy xung quanh vương phủ sĩ tốt tràn ngập tưởng chừng Nam  Viện Đại Vương đang điều động binh mã. A Tử vào đến đại sảnh đã thấy  Tiêu Phong chắp tay sau lưng, đang đi qua đi lại trước hàng hiên, ra vẻ  sốt ruột lắm. Ông vừa trông thấy A Tử mừng rỡ kêu lên:

- A Tử, ngươi đã trở về, thật tốt quá. Ta chỉ sợ ngươi bị hoàng thượng  bắt giữ rồi không chạy thoát được. Mình phải đi ngay, nếu chậm trễ e  không kịp.

A Tử ngạc nhiên hỏi:

- Đi đâu bây giờ? Sao lạ sợ trễ thì không kịp? Vì cớ gì mà hoàng  thượng lại bắt em?

Tiêu Phong đáp:

- Ngươi nghe thì biết.

Hai người yên lặng lắng tai thấy chung quanh vương phủ tiếng vó  ngựa rầm rập, rồi tiếng áo giáp loảng xoảng, binh khí leng keng, bốn bề  đông nam tây bắc chỗ nào cũng có. A Tử hỏi:

- Sao thế? Tỉ phu định đem quân đi đánh trận hay sao?

Tiêu Phong gượng cười:

- Những binh lính này đâu phải do ta điều động đâu. Hoàng thượng  có ý nghi ta nên sai người đến bắt đó.

A Tử reo lên:

- Hay lắm! Mình lâu ngày không đánh nhau, hai người mình xung sát  vượt vòng vây nhé.

Tiêu Phong lắc đầu:

- Hoàng thượng đãi ta ân đức không phải nhỏ, phong làm Nam Viện  Đại Vương, lần này lại đích thân đến đây để thăng quan tiến tước cho ta,  bây giờ sở dĩ nghi ngờ, cũng bởi vì ta nhất quyết không chịu nam chinh.  Nếu ta sát hại bộ thuộc của y thì làm mất đi tình huynh đệ khiến cho anh hùng thiên hạ chê cười, bảo Tiêu Phong này vong ân phụ nghĩa, đối xử  không ra gì. A Tử, thôi mình đành đi vậy, len lén bất biệt nhi hành, để y  khỏi bắt được ta thế cũng xong thôi.

A Tử đáp:

- Ừ đi thì đi. Tỉ phu, thế mình đi đâu đây?

Tiêu Phong đáp:

- Sự tình khẩn cấp, có đến được Phiêu Miểu Phong hay không, phải  qua khỏi nơi hiểm địa rồi mới biết được.

A Tử nghĩ thầm: “Thì ra anh chàng định đưa mình đến ngọn Phiêu  Miểu, đủ biết chẳng coi ta vào đâu, vậy mình phải cho y uống nước thánh  mới xong. Chỉ cần làm sao cho anh ta thương yêu mình, nghe lời mình là  được. Nếu còn chần chừ, e rằng Mục quí phi đến lấy lại mất”. Nàng bèn  nói:

- Cũng được, để em đi lấy mấy bộ quần áo.

Nói xong nàng lật đật đi vào hậu đường, lấy một chiếc chén, đổ nước  thánh trong chiếc lọ ra, rồi rót thêm rượu vào cho đầy, trong bụng khấn  nguyện: “Xin Bồ Tát linh thiêng phù hộ cho Tiêu Phong sau khi uống  nước thánh rồi, hết lòng hết dạ yêu thương A Tử, lấy thiếp làm vợ, không  còn nhớ gì đến A Châu tỉ tỉ nữa”. Nàng quay lại đại sảnh nói:

- Tỉ phu uống chút rượu cho lên tinh thần. Lần này mình đi sẽ không  bao giờ còn quay trở lại nữa.

Tiêu Phong cầm lấy bát rượu, dưới ánh đuốc thấy bàn tay A Tử run  run, ánh mắt lộ vẻ khác thường, mặt mày lại ra chiều phấn khởi, đầy vẻ  ôn nhu, trong lòng không khỏi xúc động: “Năm xưa A Châu đối với ta hết  lòng thương mến, vẻ mặt cũng như thế này. Ôi, xem ra A Tử quả thực hết  dạ say mê ta rồi”. Ông liền cầm bát rượu lên uống một hơi cạn sạch hỏi  thêm:

- Ngươi đã lấy đủ quần áo chưa?

A Tử thấy Tiêu Phong đã uống hết  thánh thủy, trong bụng mừng rỡ  nói:

- Thôi chẳng cần lấy quần áo, mình đi được rồi.

Tiêu Phong đeo một cái bao lên lưng, trong túi chỉ có vài bộ quần áo,  ít tiền bạc, nói nhỏ:

- Bọn họ sợ ta chạy xuống miền nam, chi bằng mình chạy lên miền  bắc.

Ông nắm tay A Tử, nhẹ nhàng mở cửa hông, thò đầu ra ngoài thám  thính, thấy hai vệ sĩ sóng vai đi tuần qua. Tiêu Phong nấp vào sau cửa,  tằng hắng một cái, hai tên vệ sĩ vội vàng chạy đến xem xét. Tiêu Phong  giơ ngón tay điểm cho hai người ngã xuống kéo luôn vào trong bụi rậm,  nói nhỏ:

- Mau thay đổi khôi giáp của hai người này.

A Tử mừng rỡ:

- Hay lắm!

Hai người liền lột mũ áo của hai vệ sĩ ra mặc vào người, tay cầm  trường mâu, song song đi tuần. A Tử kép chiếc mũ sụp xuống che lông  mày, len lén nhìn Tiêu Phong, thấy ông rụt người lại mà đi không khỏi  tức cười. Hai người đi được chừng hai chục bước thì thấy một tên thập phu  trưởng ở soái doanh dẫn mươi tên lính đi tuần ngang. Tiêu Phong và A Tử  vội đứng nép sang một bên giơ giáo lên chào kính.

Gã thập phu trưởng gật đầu, đi ngang qua, dưới ánh lửa bập bùng, thấy  A Tử áo quần lê thê quét đất, chẳng vừa vặn chút nào, không khỏi đưa  mắt nhìn nàng, lại thấy yêu đao trễ xuống, tức giận giơ tay đấm vào vai  cô gái, quát lên:

- Ngươi ăn mặc quần áo kiểu gì thế này?

A Tử lại tưởng hành tung đã bị lộ, vòng tay móc một cái, chộp trúng  cổ tay, chân đá bật lên trúng ngay hông y. Tên thập phu trưởng chỉ kêu  lên được một tiếng đã văng ra tận đằng xa.

Tiêu Phong nói:

- Chạy mau!

Ông nắm tay A Tử xông lên. Mười tên thân binh cùng la ó om xòm:

- Có thích khách! Có gian tế!

Họ vẫn không biết hai người chính là Tiêu Phong và A Tử. Hai người  chạy được một quãng thì thấy từ phía trước có độ mươi kỵ binh chạy đến,  Tiêu Phong giơ trường mâu lên  quét ngang một cái, những người ngồi  trên lưng ngựa lịch bịch ngã xuống, tay phải hất mạnh, ném A Tử lên trên  yên, chính mình cũng nhảy lên một con, gò cương quay lại chạy thẳng về  phía cửa bắc.

Khi đó tướng sĩ trong Nam Viện Đại Vương phủ đã nghe được tin nên  từ bốn phía vây lại. Tiêu Phong giục ngựa chạy nhanh, quả nhiên đúng  như ông dự liệu, quân lính mười phần đến tám dồn xuống phía nam đề  phòng ông chạy về Nam triều, phía bắc chỉ lưa thưa có mấy người. Bọn  đó bụng vốn đã khiếp tuy phải theo quân lệnh tiến ra ngăn trở nghe Tiêu  Phong quát lên một tiếng thì liền dạt cả ra, chỉ từ xa xa hô hoán rượt đuổi,  đến khi Ngự Doanh Đô Chỉ Huy tăng viện người tới, Tiêu Phong và A Tử  đã chạy xa rồi.

Tiêu Phong giục ngựa chạy đến cửa  bắc, thấy cửa thành đóng chặt,  đằng trước lố nhố đến hơn trăm tên  lính, ai nấy cầm trường mâu chặn  đường. Nếu như Tiêu Phong xung sát tiến qua, một trăm tên lính làm sao  chặn nổi ông thế nhưng chỉ cầu thoát thân, thực không muốn sát hại quân  sĩ bản quốc, lập tức vòng tay qua ôm lấy A Tử, chân phải điểm lên bàn  đạp, hai chân đã đứng sừng sững trên lưng ngựa, hít một hơi, nhảy ngay  lên trên đầu thành. Nhảy một cái vốn không thể lên cao như thế được  nhưng ông đã dự bị từ trước, khi thân hình vừa hơi trầm xuống, trường  mâu bên phải đã chống vào tường, tá lực hất một cái người vọt lên trên.

Ông nhìn ra ngoài thấy tối đen như mực không một ánh lửa, quả không  ai ngờ ông chạy ra cửa bắc nên không có binh sĩ thủ ngự. Tiêu Phong hú  lên một tiếng dài quay lại nói với người trong thành:

- Các ngươi quay về bẩm với hoàng thượng là Tiêu Phong đắc tội với  đấng chí tôn, không dám gặp để từ  biệt. Đại ân đại đức của hoàng  thượng, Tiêu Phong này mãi mãi không quên.

Ông nắm ngang hông A Tử, quay người lại chỉ cần nhảy xuống khỏi  thành thì chim sổ lồng đã tìm về trời cao, cá thoát lưới đã ra được bể  rộng, không còn gì câu thúc nữa.Ông lòng mừng thầm, đang định nhún  mình đột nhiên thấy bụng đau quặn lên, hai cánh tay mềm nhũn, tay cầm ngang lưng A Tử lỏng ra, rồi hai đầu gối sụm xuống, ngồi bệt dưới đất,  tưởng chừng có hàng nghìn hàng vạn lưỡi dao nhỏ đang đậm chém trong  người, nhịn không nổi kêu ối lên một tiếng. A Tử kinh hãi, kêu lên:

- Tỉ phu sao thế?

Tiêu Phong toàn thân co quắp, hai hàm răng đập vào nhau, hổn hển  nói:

- Ta … ta … ta trúng … chất kịch độc … Đợi ta … vận khí … vận khí đẩy  chất độc …

Ông lập tức vận khí vào đan điền, toan trục chất độc trong bụng ra.  Ngờ đâu không vận khí thì còn đỡ, vừa mới đề khí thì tứ chi luôn cả toàn  thân đau nhói lên, nội tức trong đan điền chỉ đưa lên được vài tấc, lại tụt  ngay xuống. Tiêu Phong nghe tiếng vó ngựa dồn dập, mấy nghìn kỵ binh  từ phía nam chạy lên, lại cố gắng đề khí một lần nữa, thấy chân tay tê dại  không còn biết gì, biết mình trúng phải chất độc cực kỳ lợi hại, không thể  nào dùng nội lực tống ra được liền nói:

- A Tử, em mau mau chạy đi. Anh … anh không thể nào đi cùng với  cô được nữa rồi.

A Tử chỉ suy nghĩ qua liền hiểu ngay đã trúng phải ngụy kế của Mục  quí phi, nước thánh bà ta đánh lừa mình đem cho Tiêu Phong uống nào  phải bùa bả gì đâu mà là thuốc độc. Nàng vừa kinh hoàng vừa hối hận,  ôm chặt lấy cổ Tiêu Phong, khóc nức nở:

- Tỉ phu, … em hại anh rồi, chất độc đó chính là em đã cho anh uống.

Tiêu Phong hoang mang không hiểu cô ta nói gì hỏi lại:

- Vì cớ gì mà cô lại muốn giết ta?

A Tử khóc òa lên:

- Không! Không! Mục quí phi đưa cho em một lọ nước, bảo là nếu  anh uống thì sẽ mãi mãi thương yêu em, sẽ … sẽ lấy em làm vợ. Em sao  ngu ngơ quá, tỉ phu ơi, thôi em cùng chết với anh, từ nay hai đứa mình  không còn rời xa nhau nữa.

Nói xong nàng rút phắt yêu đao, định đưa lên cứa ngang cổ mình. Tiêu  Phong vội ngăn lại:

- Khoan … khoan đã!

Ông toàn thân như đang chìm trong bể lửa, lại như đang có muôn ngàn  lưỡi dao xẻ da lóc thịt, cả ngoài lẫn trong cực kỳ đau đớn, không còn tính  toán gì được nhưng chỉ suy nghĩ qua đã hiểu ngay tâm tư của A Tử liền  nói:

- Ta không đến nỗi nào đâu, cô chớ có tìm cái chết.

Chỉ nghe tiếng kẹt kẹt hai cánh cửa nặng của bắc môn mở toang, mấy  trăm kỵ mã chạy ra xí xố bày trận, rồi từng đội từng đội từ phía nam tiếp  ứng đi ra khỏi thành. Tiêu Phong ngồi trên đầu thành nhìn về phương bắc  thấy ánh lửa dài đến mấy dặm như những con rồng đang ngoằn ngoèo bò  lên, nhìn lại phương nam đến non nửa thành đều có ánh đuốc bập bùng,  nghĩ thầm: “Hoàng thượng đem bao nhiêu binh mã ngự doanh điều động  ra cả, chỉ cốt bắt được một mình ta”. Chỉ nghe bên trong bên ngoài thành  tướng sĩ hô lớn:

- Phản tặc Tiêu Phong, mau mau đầu hàng.

Tiêu Phong lại thấy trong bụng đau nhói, nói nhỏ:

- A Tử, cô tìm cách chạy đi thôi.

A Tử đáp:

- Chính tay em hạ độc giết anh, làm sao sống một mình cho được?

E.m … em … em nguyện cùng chết ở bên anh.

Tiêu Phong gượng gạo nở một nụ cười:

- Đây không phải là độc dược giết người mà chỉ làm cho người ta bị  trọng thương, không thể cử động thôi.

A Tử mừng rỡ hỏi:

- Thật không?

Cô gái quay lại kéo Tiêu Phong nằm phục lên lưng mình. Thế nhưng  nàng thân hình mảnh khảnh, Tiêu Phong lại cực kỳ cao to, A Tử cõng ông  đứng lên, hai chân Tiêu Phong vẫn còn lệt sệt dưới đất. Ngay lúc đó, hơn  chục tên võ sĩ Khất Đan đã trèo được lên đầu thành, kẻ thì cầm đao, kẻ thì cầm đuốc giơ lên nhưng vẫn sợ Tiêu Phong không dám đến gần. Tiêu  Phong nói:

- Kháng cự vô ích, thôi để bọn chúng bắt mình đi.

A Tử nức nở:

- Không, không đâu! Ai đụng đến một sợi lông của anh, em sẽ giết  nó ngay.

Tiêu Phong đáp:

- Đừng để vì ta mà phải giết người. Nếu như ta chịu giết người thì đã  phụng chỉ lãnh binh nam chinh cho xong, việc gì mà phải náo loạn để gây  ra nông nỗi này.

Ông cao giọng quát:

- Làm gì mà thập thà thập thò như thế, còn đâu khí độ nam nhi Khất  Đan? Tất cả theo ta đi yết kiến hoàng thượng.

Chúng võ sĩ ngạc nhiên, cùng khom lưng cung kính đáp:

- Tuân lệnh! Chúng tôi phụng chỉ sai khiến nên vô lễ với đại vương,  xin đại vương miễn trách.

Tiêu Phong làm Nam Viện Đại  Vương không lâu nhưng hậu đãi bộ  thuộc, uy vọng bao trùm phương bắc, tướng sĩ Khất Đan rất là kính phục.  Trong đám người những kẻ trước đây phụ họa “phản tặc Tiêu Phong” bây  giờ ai nấy ngượng ngập, sinh lòng sợ sệt không ai còn dám vô lễ.

Tiêu Phong vịn vào vai A Tử, cố gượng đứng lên, lục phủ ngũ tạng  tưởng như bị ai xoắn lại cắn xé, các binh sĩ đứng cách xa cả trượng tra đao  vào vỏ, nhìn theo ông từng bậc, từng bậc xuống thành. Các tướng sĩ thấy  Tiêu Phong hạ thành rồi, ai nấy vội vàng xuống ngựa, hàng nghìn hàng  vạn người đột nhiên im phăng phắc.

Trong ánh lửa lập lòe, Tiêu Phong nhìn những khuôn mặt chất phác  nghiêm cẩn kia, trong lòng nổi lên một tình cảm ấm áp: “Nếu như ta nam  chinh thì hơn một vạn tướng sĩ nơi đây, chẳng biết có được tới một nửa  quay về Bắc quốc hay không? Nếu như  ta thực sự cứu được bấy nhiêu  sinh linh thì dù hoàng thượng đem ra xử tử cũng không có gì hối hận. Chỉ  sợ rằng hoàng thượng giết ta xong  lại sai người khác lãnh binh xuống phương nam thôi”. Nghĩ đến đó, ngực  lại đau nhói lên thân hình dường  như sắp sửa gục xuống.

Một viên tướng dắt ngay con ngựa  mình đang cưỡi tới, đỡ cho Tiêu  Phong lên yên. A Tử cũng cưỡi một con đi theo sau. Một đoàn người tiền  hô hậu ủng, quay về vương phủ. Các tướng sĩ tuy bắt được Tiêu Phong,  đúng ra là lập đại công nhưng chẳng một ai ra chiều vui vẻ. Chỉ nghe  thấy tiếng giáp sắt loảng xoảng, hàng vạn con ngựa chạy lộp cộp trên  đường lát đá nhộn nhịp cả lên nhưng tuyệt nhiên không một ai cất tiếng  reo hò.

Đoàn người đi qua con đường cái ở cửa bắc, đến bên cầu Bạch Mã,  Tiêu Phong giục ngựa lên cầu. A Tử  đột nhiên nhảy vọt lên, hai chân  nhún vào yên nghe tùm một tiếng đã nhảy xuống sông.

Tiêu Phong thấy vậy thật ngoài dự liệu, không khỏi kinh hãi nhưng lập  tức lại mừng thầm, nhớ lại lần đầu tiên gặp cô bé bướng bỉnh này, nàng  đã lặn xuống dưới Tiểu Kính Hồ giả chết, bơi lội giỏi như thế trên đời  hiếm có, đến cả cha mẹ cô ta cũng còn mắc lừa, bây giờ nếu như cô ta  theo dòng nước mà trốn đi thì còn gì hơn, có điều từ nay trở đi e rằng khó  có ngày gặp lại, trong lòng không khỏi bùi ngùi, lớn tiếng nói:

- A Tử, cô việc gì phải nông cạn thế? Hoàng thượng có làm khó gì  em đâu, hà tất phải nhẩy xuống sông tự tận?

Chúng tướng sĩ nghe Tiêu Phong nói thế, đợi một hồi thấy A Tử không  trồi lên, tin tưởng rằng nàng quả thực trầm mình rồi. Hoàng đế chỉ hạ chỉ  bắt Tiêu Phong, A Tử có chết cũng vậy, có chạy cũng vậy không một ai  thèm để tâm, đứng trên cầu trông ngóng một lúc thấy dòng sông không  động tĩnh gì bèn cùng Tiêu Phong đi tiếp.

____________

1 Sử gọi là vua Triết Tông. Đoạn này mâu thuẫn với những chi tiết ở trước. Đoàn Dự  sinh năm 1083, tới lúc này khoảng trên dưới 20, vậy phải vào năm 1102 tức là đời vua  Huy Tông (lên ngôi 1101). Vua Triết Tông lên ngôi từ 1086 lúc 10 tuổi, bà Thái hậu  Cao thị nhiếp chính, khi Cao thị mất (1093) thì Đoàn Dự chỉ mới 10. (Xin xem thêm  Hậu Cảnh Thiên Long Bát Bộ của Nguyễn Duy Chính)

2 bà nội, tiếng gọi thân mật và kính trọng

3 thùy liêm (thính chính) là buông rèm xuông ngồi đằng sau nhà vua nhắc việc nước

4 tức Tô Đông Pha

5 1041-1098

6 (1035-1105) được Vương An Thạch dùng làm Tam Ti Sứ (quan trông coi việc tài  chánh, thuế má và khai thác các mỏ), là một nhân vật trong yếu trong việc thi hành  Tân Pháp. 7 Thẩm Khởi muốn tâng công với Vương An Thạch dâng sớ xin đánh Giao Châu (tức  nước ta) để thị uy chư hầu. Triều đình nhà Tống sai Lưu Gi chuẩn bị, đặt ra nhiều lề  luật sách nhiễu nước nam nên vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt và Tôn Đảng  đánh sang tận châu Khâm, châu Liêm. 8  (1031-1095) là một nhà bác học lỗi lạc của Trung Hoa tác giả bộ Mộng Khê Bút  Đàm không biết có phải Thẩm Quát này không? Người dịch chưa tìm ra ông sai lầm  gì trong việc thi hành chính sách mà bị chỉ trích ở đây. Đoạn này chỉ tạm dịch theo  nguyên văn, khi nào tìm thấy thêm chi tiết mới chúng tôi sẽ bổ cứu.

9 quân du: nhà nước mua những chỗ có hàng hóa dư, đem phân phối chỗ thiếu cho  khỏi bị đầu cơ tích trữ làm giá của con buôn (xem thêm Hậu Cảnh TLBB, biên khảo  của Nguyễn Duy Chính)

GIÁO ĐƠN VU CHIẾT TIỄN, LỤC QUÂN TÍCH DỊCH, PHẤN ANH HÙNG NỘ

Tống Liêu thoát khỏi một trường can qua.

Nhân, tình, nghĩa vẹn cả ba,

Thân kia dẫu thác danh đà lưu phương.

*

* *

Về đến vương phủ, Gia Luật Hồng Cơ không cho Tiêu Phong gặp mà  chỉ hạ lệnh cho Ngự Doanh Đô Chỉ Huy Sứ đem ông giam lại. Ngờ đâu  Đô Chỉ Huy Sứ lại tưởng Tiêu Phong trời sinh thần lực, những nhà ngục  tầm thường nhốt sao nổi ông ta, bèn sai người đi lấy những loại khóa sắt,  xích sắt to lớn nhất, cùm chân tay Tiêu Phong rồi nhốt vào một cái cũi  lớn. Cái cũi đó ngày xưa A Tử dùng để nhốt sư tử, chấn song cái nào cái  nấy to bằng cánh tay trẻ con.

Bên ngoài cũi lại sai một trăm thân binh, tay cầm giáo dài vây quanh  mấy tầng, nếu Tiêu Phong ở trong cũi có gì khác lạ thì bọn thân binh sẽ  lập tức dùng mâu đâm ngay, dù ông có khỏe đến mấy cũng không thể  trong nháy mắt đã tháo được xích sắt, khóa sắt, phá được cũi chui ra. Bên  ngoài vương phủ lại có thêm một tầng thân binh canh gác nghiêm nhặt.  Những tướng sĩ trước đây ở Nam Kinh đều bị Gia Luật Hồng Cơ điều đi  nơi khác để phòng bọn họ còn trung thành với Tiêu Phong mà nổi loạn  cứu ông ta ra.

Tiêu Phong níu chặt lấy lan can bên trong chiếc cũi, nghiến răng cố  chịu đựng cơn đau, không còn hơi đâu mà suy nghĩ chuyện gì khác. Mãi  tận chiều hôm sau, độc tính của thuốc độc mới dần dần tiêu giải, cơn đau  giảm đi. Tiêu Phong lực khí hơi khôi phục lại rồi nhưng vào tình cảnh này thì làm cách nào mà thoát nổi? Ông nghĩ thầm có buồn rầu cũng chẳng  đến đâu, vả lại trong đời nguy nan kinh lịch cũng nhiều, không lẽ Tiêu  Phong này một đời hào kiệt lại đành chịu chết trong cái chuồng sắt này  hay sao? Cũng may các thân binh kính trọng ông là người anh hùng, canh  gác tuy dám không lơ là nhưng vẫn đem đồ ăn thức uống đến cho ông, đối  xử không kém phần lễ mạo. Tiêu Phong cứ việc uống tì tì, mấy ngày sau  chung quanh đầy những bình không.

Gia Luật Hồng Cơ trước sau không hề đến thăm nhưng lại sai mấy  người khéo mồm khéo miệng đến khuyên  giải, nào là hoàng thượng  khoan hồng đại lượng, còn nghĩ đến tình cũ nghĩa xưa nên không nỡ gia  hình, mong Tiêu đại vương hối hận  xin tha. Tiêu Phong coi bọn thuyết  khách này không bằng nửa con mắt, chỉ tự rót rượu uống một mình.

Cứ như thế đến hơn một tháng, bốn tên thuyết khách đó vẫn chưa chịu  chán, ngày ngày cũng chỉ có bấy nhiêu, nói qua nói lại lèm bèm mãi, nào  là “Hoàng thượng đãi Tiêu đại vương ân đức như núi, chỉ có đường nghe  theo lời của hoàng thượng mới mong sống sót mà thôi”, nào là “Hoàng  thượng thần võ có thể trông thấu  suốt chuyện ngoài vạn dặm, cho đến  một trăm đời sau, thánh thiên tử đã đoán thì không thể nào sai trật, đại  vương nên theo con đường hoàng thượng đã vạch ra là hơn” … Bọn thuyết  khách đó rõ ràng biết rằng không thể nào khuyến dụ được Tiêu Phong,  vậy mà vẫn cứ lải nhải mãi không ngừng.

Đến một ngày kia Tiêu Phong đột nhiên nổi bụng nghi ngờ: “Hoàng  thượng đâu phải người hồ đồ, sao lại cứ phải cho người đến ỉ ôi khuyên  dụ ta? Bên trong hẳn có điều gì khúc mắc”. Ông suy nghĩ một chút, đột  nhiên nghĩ ra: “Đúng rồi, hoàng thượng đã điều binh khiển tướng, cử đại  quân nam chinh nên giả vờ sai mấy tên dấm dớ này đến đây cầm chân ta.  Rõ ràng ta đâu còn phản kháng gì được nữa, y muốn giết lúc nào thì giết,  việc gì còn phải phí công như thế?”.

Tiêu Phong lại suy nghĩ thêm một chút, đã hiểu ngay: “Hoàng thượng  tự cho mình là anh hùng, muốn ta phải tâm phục khẩu phục nên ngự giá  thân chinh bình nam, sau khi thu giang sơn nhà Đại Tống sẽ đòi mình lên  huênh hoang một phen. Y sợ ta nổi máu cương cường, tuyệt thực tự tận  nên mới sai bọn tiểu nhân này đến đây nói trời nói đất”.

Ông vốn đã chẳng còn coi an nguy sinh tử vào đâu nên dẫu bị giam  vào lồng, cũng chẳng thèm tức tối. Tuy không muốn đốc quân nam chinh  nhưng Tiêu Phong đâu phải là hạng lo cái lo trước thiên hạ, nghĩ đến Gia  Luật Hồng Cơ đã phát binh rồi, không thể nào vãn hồi đại kiếp được nữa,  chỉ đành thở dài một tiếng, uống liền tù tì mươi bát rượu cho sướng miệng  rồi gác sang một bên không nghĩ đến nữa.

Chỉ thấy bốn gã thuyết khách kia cứ leo lẻo nói mãi, Tiêu Phong bất  chợt hỏi:

- Đại quân của Khất Đan chúng ta đã qua sông Hoàng Hà chưa vậy?

Bốn tên thuyết khách hết sức ngạc nhiên, chưng hửng nhìn nhau một  hồi, một tên đáp:

- Tiêu đại vương nói thật đúng quá, đại quân của ta đợi ngày sẽ tiến,  tuy chưa qua sông Hoàng Hà nhưng chắc cũng chỉ nay mai.

Tiêu Phong gật đầu:

- Thế ra đại quân chưa xuất phát, không biết đến bao giờ mới là  ngày Hoàng Đạo?

Bốn tên thuyết khách đưa mắt nhìn nhau, một tên nói:

- Bọn chúng tôi chỉ là thứ tiểu lại hạ liêu, không nghe biết gì về  quân tình.

Một gã tiếp lời:

- Chỉ mong Tiêu đại vương hồi tâm chuyển ý, hoàng thượng sẽ đích  thân đến gặp đại vương để bàn chuyện quân quốc đại sự.

Tiêu Phong hừ một tiếng, không hỏi thêm nữa, nghĩ thầm: “Nếu hoàng  thượng tiến quân thế như chẻ tre, chiếm được Đại Tống rồi sẽ giải ta đến  Biện Lương đẩ gặp. Còn như thua trận trở về thì còn mặt mũi nào mà gặp  ta, người đầu tiên phải xử tử ấy chính là mình. Nếu thế thì mình mong y  lấy được Đại Tống, hay mong y bại trận? A ha! Tiêu Phong hỡi Tiêu  Phong, chính ngươi cũng chẳng phải biết nói sao bây giờ!”.

Hôm sau vào lúc chiều tối, bốn tên thuyết khách lại lọt tọt đi vào.  Những thân binh canh gác Tiêu Phong vốn đã nghe mấy tên này nói lèm  bèm phát chán ngấy, vừa trông thấy bọn chúng đã cau mặt, tránh ra mấy bước. Hơn một tháng qua Tiêu Phong không hề có vẻ gì tỏ ra định đào  thoát, nên việc giám thị không còn nghiêm nhặt như lúc đầu. Tên thuyết  khách đi đầu tằng hắng một cái mở màn:

- Tiêu đại vương, hoàng thượng hạ chỉ, xin đại vương nghinh tiếp:  Nếu đại vương cự tuyệt không phụng mệnh, ấy là tội đại ác cực.

Câu này Tiêu Phong nghe đến cả trăm lần rồi, nhưng lần này nghe  giọng có vẻ bất thường như thể bị sưng cổ họng, không khỏi đưa mắt nhìn  y, vừa thoạt trông đã thấy khác lạ. Chỉ thấy tên thuyết khách đó nhướng  mày đảo mắt, vẻ mặt có chiều  quái đản, Tiêu Phong nhìn thêm, thấy  người đó tướng mạo không giống trước, nhìn kỹ hơn nữa không khỏi vừa  ngạc nhiên vừa mừng rỡ, những sợi râu loe hoe của y đều là râu giả gắn  vào, mặt mày bôi nham nhở, lem luốc thật khó coi nhưng bên dưới làn da  vàng ệch là cái miệng anh đào, mũi thon xinh xinh, chính là A Tử. Chỉ  nghe nàng hạ giọng ậm à ậm ừ:

- Hoàng thượng đã nói ắt không thể nào sai, đại vương nếu bằng  lòng tuân theo sẽ có chỗ hay. Đây là thánh dụ của Đại Liêu hoàng đế, đại  vương đọc kỹ vài lần thì biết.

Y nói xong lấy trong tay áo ra một tờ giấy đưa cho Tiêu Phong. Lúc đó  trời đã nhá nhem, đèn đuốc trong sảnh đã được mấy tên thân binh thắp  sáng. Tiêu Phong soi lên ánh đèn thấy trên giấy viết tám chữ: “Đại viện  đến rồi, tối nay thoát hiểm”. Tiêu Phong hừ một tiếng ngao ngán lắc đầu.  A Tử nói:

- Lần này bên ta phát binh, quân mã không phải là ít, sĩ cường mã  tráng, thể nào cũng kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công, đại vương  không phải lo gì cả.

Tiêu Phong đáp:

- Bản ý ta chẳng muốn chết thêm sinh linh nên hoàng thượng mới  giam ta lại.

A Tử nói:  - Nếu muốn thắng trận phải nhờ vào thần cơ diệu toán chứ đâu phải  chỉ giết người mà thôi.

Tiêu Phong lại đưa mắt nhìn vào ba tên thuyết khách còn lại thấy đứa  thì cầm quạt phe phẩy, hoặc đưa tay áo rộng hở hở kín kín, không dám  nhìn thẳng vào người khác, hẳn là những người A Tử gọi đến tiếp tay.  Tiêu Phong thở dài một tiếng nói:

- Hảo ý của các ngươi, Tiêu mỗ cực kỳ cảm kích, có điều kẻ địch thủ  ngự nghiêm mật, công thành chiếm đất, thật chẳng có hi vọng gì …

Còn đang nói, bỗng nghe những tên thân binh thất thanh la hoảng:

- Rắn độc! Rắn độc! Sao rắn ở đâu nhiều thế này?

Chỉ thấy từ cửa cái, cửa sổ vô số rắn bò lổm ngổm, ngóc đầu lè lưỡi,  ngoằn ngoèo tiến vào, trong sảnh lập tức rối loạn cả lên. Tiêu Phong chợt  hiểu: “Xem trận thế của độc xà dường như do anh em Cái Bang đích thân  chỉ huy”.

Các thân binh giơ trường mâu, yêu đao vừa đập vừa chém. Người cai  quản đội thân binh quát lên:

- Những ai đang hầu hạ Tiêu đại vương không được di động một  bước, vi lệnh sẽ bị chém đầu.

Gã quản đội đó cực kỳ bén nhạy, thấy bầy rắn có vẻ khác thường, chỉ  sợ lúc đang lộn xộn, Tiêu Phong sẽ thừa cơ thoát thân.. Những thân binh  vây quanh cái cũi lập tức đứng yên, dùng trường mây chĩa thẳng vào lồng  nhưng vẫn đưa mắt xem chừng những con rắn độc, có con nào bò đến gần  liền dùng giáo đập ngay.

Còn đang hỗn loạn, bỗng nghe phía sau vương phủ có tiếng người la ó:

- Lấy nước ra, mau mau cứu hỏa, mau mau cứu hỏa.

Tên quản đội lại quát:

- Khải Hổ Nhi, mau đi bẩm với Chỉ huy Sứ đại nhân, có di chuyển  Tiêu đại vương đi không?

Khải Hổ Nhi là một bách phu trưởng, đáp lời quay đi, đang định chạy  ra bỗng nghe tiếng người từ sảnh môn hầm hè truyền vào:

- Chớ có trúng phải kế điệu hổ ly sơn của bọn gian tế, nếu có người  cướp ngục thì đâm chết Tiêu Phong trước.

Người đó chính là Chỉ Huy Sứ Ngự Doanh Quân. Y tay cầm trường  đao, uy phong lẫm lẫm đứng chặn ngay trước cửa. Đột nhiên có một bóng  xanh thấp thoáng, ai đó cầm một con rắn xanh ném vào mặt y. Gã chỉ huy  sứ liền giơ đao gạt ra, chỉ nghe vèo vèo liên tiếp, có người bắn ám khí,  bao nhiêu đèn đuốc trong đại sảnh tắt phụp, căn phòng tối đen như mực.  Gã chỉ huy sứ kêu lên một tiếng, trúng phải ám khí, ngã bật ngửa.

A Tử lấy trong tay áo ra một thanh bảo đao thò vào trong cũi, lách  cách mấy tiếng, chặt đứt những sợi dây xích sắt trói Tiêu Phong. Tiêu  Phong nghĩ thầm: “Những song sắt cái chuồng này vừa to vừa cứng, bảo  đao đó chưa chắc đã chặt được”. Vừa lúc đó, sàn dưới chân bỗng sụp  xuống, A Tử ở bên ngoài chiếc cũi sắt nói nhỏ:

- Theo địa đạo chạy ra.

Kế đó một người nào đó từ dưới hố thò tay nắm chân Tiêu Phong kéo  một cái, cả thân hình ông liền rơi tụt vào, thì ra tay thợ lành nghề đào đất  của Đại Lý là Hoa Hách Cấn đã  đến. Y phải mất hơn mười ngày công  phu mới đào được một địa đạo luồn tới cái chuồng đang nhốt Tiêu Phong.

Hoa Hách Cấn nắm được Tiêu Phong rồi liền theo đường hầm bò  ngược trở ra, nhanh chẳng khác gì người ta đi trên mặt đất, trong khoảnh  khắc đã được hơn trăm trượng, lúc đó mới đỡ Tiêu Phong đứng lên, từ  trong hang chui ra.

Chỉ thấy bên ngoài có ba người mặt  mũi tươi tỉnh ùa đến, chính là  Đoàn Dự, Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch. Đoàn Dự kêu lên:

- Đại ca!

Vừa nói vừa xông đến ôm chầm lấy Tiêu Phong. Tiêu Phong cười ha  hả nói:

- Đã nghe đến thần kỹ của Hoa tư  đồ từ lâu, hôm nay chính mình  được thử, quả là bội phục.

Hoa Hách Cấn vui vẻ đáp:

- Được kim khẩu của Tiêu đại vương khen một lời, quả là vinh hoa  đệ nhất trong đời tiểu nhân.

Nơi đây cách Nam Viện Đại Vương phủ không xa, bốn bề có tiếng  Liêu binh huyên náo. Bỗng nghe có tiếng tù và, kỵ mã từ ngoài chạy tới  lớn tiếng kêu la:

- Quân địch đánh vào cửa Đông, thân binh ngự doanh ở đâu thì ở đó,  không được di chuyển.

Phạm Hoa nói:

- Tiêu đại vương, mình chạy ra cửa tây.

Tiêu Phong gật đầu:

- Hay lắm, bọn A Tử đã thoát hiểm chưa?

Phạm Hoa chưa kịp trả lời, tiếng của A Tử từ dưới hang đã vọng lên:

- Tỉ phu, thì ra anh vẫn còn nhớ đến em.

Giọng nói đầy vẻ sung sướng. Nghe tiếng loạt soạt, từ dưới hang chui  lên, mặt dán râu, đầu cổ đầy đất cát tro than, cực kỳ dơ dáy, thế nhưng  dưới mắt Tiêu Phong, từ khi biết nàng đến nay, bây giờ là hình ảnh đẹp  hơn cả. Nàng rút bảo đao, định chặt còng cho Tiêu Phong nhưng cái còng  đó dính sát vào tay, nếu chỉ lệch đi một chút thì ắt sẽ bị thương, không  phải dễ cắt. Nàng bèn đưa bảo đao cho Đoàn Dự:

- Ca ca chặt đi.

Đoàn Dự cầm lấy bảo đao, truyền nội lực vào, chặt cái khóa sắt thật  chẳng khác gì gỗ mục. Vừa lúc đó trong hang lại chui ra thêm ba người  nữa, một người là Chung Linh, một người là Mộc Uyển Thanh còn người  thứ ba là một đệ tử tám túi trong Cái Bang. Y là một hảo thủ giỏi nghề sai  khiến rắn, vừa rồi độc xà chạy lung tung trong đại sảnh chính là do y trổ  tài. Gã đó thấy Tiêu Phong không hề hấn gì mừng đến chảy nước mắt ấp  úng:

- Bang chủ, lão nhân gia …

Tiêu Phong đã lâu không nghe ai gọi mình là bang chủ, thấy thần tình  của gã đệ tử Cái Bang, trong lòng hết sức xúc động, nói:

- Thật mất công ngươi quá nhỉ?

Ông khen một câu khiến gã ăn mày lại càng cảm kích, lại vừa vinh dự,  nước mắt ròng ròng. Phạm Hoa nói:

- Nhân mã nước Đại Lý đang động thủ tại cửa đông, mình nên thừa  cơ hỗn loạn chạy đi thôi. Tiêu đại vương tốt hơn hết đừng ra tay để người  ta có thể nhận ra được.

Tiêu Phong đáp:

- Phải lắm.

Chín người lập tức từ cửa lớn xông ra. Tiêu Phong quay đầu lại nhìn,  thì ra đây là một căn nhà gạch đổ nát, bên ngoài trông rất bệ rạc. A Tử  dùng tiếng Khất Đan kêu lớn:

- Lấy nước mau! Lấy nước mau!

Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn cả bọn bắt chước nàng, cũng la lối theo. Ba  Thiên Thạch, Phạm Hoa nhìn quanh quất không thấy tên Liêu binh nào  nên đến đâu châm lửa đến đó, chẳng mấy chốc đã đốt đến bảy tám chỗ.

Chín người chạy về hướng tây. Bọn Đoàn Dự vốn đã thay y phục Khất  Đan rồi, trong thành lại đang đại loạn thành thử chẳng ai chú ý, chỉ khi  nào thấy đại đội binh mã Khất Đan đuổi theo thì mới kiếm những chỗ tối  tăm ẩn náu. Chạy qua khỏi hơn chục con đường đã nghe phương bắc có  tiếng tù và rầm rĩ, tiếng người lao xao, kêu la:

- Chao ôi, quân địch đánh vào cửa bắc, hoàng thượng bị địch bắt rồi.

Tiêu Phong hoảng hốt vội ngừng chân hỏi:

- Liêu đế bị bắt ư? Tam đệ, Liêu đế là anh kết nghĩa của ta, y tuy đối  với ta bất nhân nhưng ta không thể đối với y bất nghĩa, nhất định không  nên giết y …

A Tử cười đáp:

- Tỉ phu yên tâm, đây là ba mươi sáu động động chủ, bảy mươi hai  đảo đảo chủ của cung Linh Thứu. Tiểu muội dạy họ thuộc lòng mấy câu  Khất Đan, bây giờ la lên để phao tin nhảm làm loạn lòng người đấy thôi.  Trong thành Nam Kinh trọng binh trú  đóng, hoàng đế có đến hơn vạn  thân binh bảo hộ, làm sao bắt được?

Tiêu Phong mừng rỡ hỏi:

- Thuộc hạ của nhị đệ cũng đến rồi hay sao?

A Tử đáp:

- Nào chỉ thuộc hạ của tiểu hòa thượng thôi đâu, chính chú tiểu cũng  đến nữa, luôn cả vợ y cũng đi theo.

Tiêu Phong ngạc nhiên:

- Cái gì mà lại vợ chú tiểu?

A Tử cười đáp:

- Tỉ phu không biết đâu, vợ của Hư Trúc Tử chính là công chúa Tây  Hạ, có điều mặt lúc nào cũng lấy khăn che kín mít, trừ một mình tiểu hòa  thượng ra, không một ai thấy cả. Tiểu mưội có hỏi y: “Vợ nhị ca đẹp  không?” thì y chỉ cười không trả lời.

Tiêu Phong khi đó bỏ đi bây giờ lại nghe chuyện lạ lùng thế này, tuy  mừng thầm cho Hư Trúc, nhưng không khỏi đưa mắt dò ý Đoàn Dự. Đoàn  Dự cười nói:

- Đại ca chớ có lo xa, tiểu đệ không để bụng đâu, nhị ca cũng không  phải là thất tín. Chuyện này nói ra  dài dòng, mình sẽ từ từ nói chuyện  sau.

Nói tới đây thì đoàn người đã chạy thêm được một quãng, thấy đằng  trước trên một bãi đất rộng có một cái đài cao, lửa cháy ngút trời, hai cột  cờ lớn trước mặt lửa đang cháy lem lém. Tiêu Phong biết khu đất này là  đại hiệu trường, dùng cho Liêu binh tập luyện, không biết cái đài này  dựng lên từ bao giờ mà mình không hay biết.

Ba Thiên Thạch nói với Đoàn Dự:

- Bệ hạ, điểm tướng đài và soái tự  kỳ của Liêu đế bị đốt thế này,  quả là điềm gở cho quân Liêu, chuyến hành quân phạt Tống của Gia  Luật Hồng Cơ e rằng không xong.

Đoàn Dự gật đầu:

- Quả đúng như thế.

Tiêu Phong nghe y gọi là “bệ hạ” mà Đoàn Dự cũng gật gù, trong  bụng lấy làm lạ hỏi:

- Tam đệ, ngươi … ngươi đã lên ngôi hoàng đế rồi đấy ư?

Đoàn Dự buồn bã đáp:

- Tiên phụ bất hạnh giữa đường băng tồ, hoàng bá phụ lại bỏ ngai  vàng đi tu, xuất gia ở chùa Thiên Long nên ép tiểu đệ tiếp vị. Tiểu đệ  không tài không đức, ở ngôi cao thế này, thực là xấu hổ.

Tiêu Phong kinh hãi:

- Ối trời, bá phụ khứ thế rồi ư? Tam đệ, ngươi là chúa một nước Đại  Lý, sao lại vì ta mà đem thân vào chỗ nguy nan, mạo hiểm thế này? Nếu  bị tổn thương, thì ta … ta… thật không phải với quân dân Đại Lý.

Đoàn Dự cười khì khì nói:

- Đại Lý chỉ là một nước nhỏ ở một góc nam cương, hai chữ “hoàng  đế” kể cũng quá đáng. Tiểu đệ ngờ nghệch, trông chẳng ra vẻ ông vua,  có chút nào giống hoàng đế đâu? Để người ta gọi là “bệ hạ” quả thật xấu  hổ. Anh em ta tình như cốt nhục, đại ca bị nạn, tiểu đệ lẽ nào không chia  xẻ với nhau một chút hay sao?

Phạm Hoa nói:

- Tiêu đại vương lần này hết sức can ngăn Liêu đế, khuyên đừng  phạt Tống, tệ quốc từ trên xuống dưới ai ai cũng thâm cảm đại đức. Liêu  đế nếu lấy được Đại Tống rồi, bước kế tiếp ắt sẽ thu Đại Lý. Tệ quốc  binh ít tướng yếu, làm sao chống chọi được với tinh binh Đại Liêu? Tiêu  đại vương cứu Đại Tống mà cũng là cứu Đại Lý, Đại Lý từ rày hết lòng  hết dạ ra sức vì đại vương thì cũng là chuyện đương nhiên thôi.

Tiêu Phong nói:

- Ta chỉ là một kẻ dũng phu, chỉ vì không đành lòng để hai nước giao  chiến, hại thương bách tính, chứ đâu có công lao gì?

Vừa nói đến đây, bỗng thấy phía nam lửa bốc lên ngút trời, một đoàn  người tay xách nách mang, chen vào  đoàn quân cùng chạy qua, ai nấy  kêu la:

- Các hòa thượng chùa Thiếu Lâm cùng vô số hảo hán đang đánh  vào cửa nam.

Lại có người nói:

- Nam Viện Đại Vương Tiêu Phong làm loạn, hàng nhà Tống rồi, đã  giết mất hoàng đế Đại Liêu.

Lập tức có mấy người Khất Đan nghiến răng trợn mắt nói:

- Gã Tiêu Phong phản quốc hàng địch, bọn ta hận không được lột da  ăn thịt y.

Một người khác liền hoảng hốt hỏi lại:

- Có thực là vạn tuế gia bị tên gian tặc Tiêu Phong sát hại không?

Một người liền đáp:

- Sao lại không thực? Chính mắt ta thấy gã Tiêu Phong cưỡi một con  ngựa trắng, xông đến trước mặt vạn tuế, đâm một giáo từ ngực vạn tuế  gia suốt tận bên kia.

Một ông già nói:

- Tên cẩu tặc Tiêu Phong đó sao vô lương tâm thế? Thế thì quả thực  y là người Khất Đan hay là người Hán?

Một hán tử đáp:

- Nghe nói y là man tử Nam triều giả làm người Khất Đan, tên cẩu  tặc đó thật gian ác, quả không bằng loài cầm thú.

A Tử nghe những người đó nhục mạ Tiêu Phong nổi giận, vung roi  đánh ngựa, tính quật vào gã Khất Đan ở bên cạnh. Tiêu Phong vội giơ tay  gạt ra, lắc đầu nói nhỏ:

- Cứ để cho họ nói gì thì nói.

Ông hỏi thêm:

- Có thực là các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm đã đến rồi chăng?

Gã đệ tử tám túi đáp:

- Xin bẩm với bang chủ: Đoàn cô nương từ Nam Kinh đi ra gặp ngay  Ngô trưởng lão của bản bang, nói là bang chủ vì sinh mạng của bách tính Đại Tống nên nhất định khuyên Liêu đế đừng xuất quân chinh phạt nên  đã bị cầm tù. Ngô trưởng lão không tin, bảo là bang chủ người Liêu, lẽ  nào lại lo cho người Tống? Y bèn lẻn vào Nam Kinh đích thân nghe  ngóng, thấy lời của Đoàn cô nương quả không sai. Ngô trưởng lão lập tức  truyền “Thanh Trúc Lệnh” của bản bang, đem hành vi đại nhân đại nghĩa  của bang chủ truyền khắp anh hùng thiên hạ. Võ lâm Trung Nguyên cảm  kích ân đức nên do các cao tăng Thiếu Lâm thống lãnh tất cả đều đến cứu  viện bang chủ.

Tiêu Phong nghĩ đến năm xưa nơi Tụ Hiền Trang đối địch với quần  hùng Trung Nguyên, giết không ít anh hùng hảo hán, hôm nay họ lại đi  cứu mình, trong lòng không khỏi băn khoăn, lại thêm cảm kích. A Tử nói:

- Tin tức do các bạn ăn mày trong Cái Bang truyền ra thảo nào  nhanh đến thế! Chao ôi, hỏng rồi, tiếc quá, tiếc quá!

Đoàn Dự hỏi lại:

- Tiếc cái gì?

A Tử đáp:  - Cái tòa Thần Mộc Vương Đỉnh của em, đốt hương để trong đại  sảnh để dụ rắn, lập cập quá nên quên mang theo.

Đoàn Dự cười nói:

- Cái thứ bàng môn tả đạo đó, quên thì thôi, mang theo làm gì?

A Tử đáp:

- Hứ, cái gì mà bàng môn tả đạo? Không có món bảo vật đó, làm sao  dụ được nhiều rắn độc đến mau như vậy, để cho tỉ phu có thể dễ dàng  thoát thân?

Còn đang nói chuyện đã nghe tiếng binh khí chạm nhau leng keng  leng keng không dứt, dưới ánh lửa thấy vô số Liêu binh đánh lẫn nhau.  Tiêu Phong lạ lùng:

- Ồ, sao bên mình …

Đoàn Dự đáp:

- Đại ca, người nào cổ có buộc vải trắng là phe ta.

A Tử lấy ra một manh vải trắng đưa cho Tiêu Phong nói:

- Tỉ phu buộc vào đi.

Trong một thoáng, Tiêu Phong biết là Liêu binh không phân biệt ai là  bạn, ai là thù không biết phải giết ai. Đánh nhau một hồi trở thành người  Liêu tàn sát lẫn nhau. Những người cổ có buộc vải trắng chém đao nào,  đâm mũi giáo nào cũng nhằm binh sĩ nước Liêu. Tiêu Phong thấy người  Liêu chết nằm ngổn ngang, máu đầy mặt đất, tay cầm miếng vải mà run  lên bần bật, trong lòng nghe như có  tiếng vang lên: “Ta là người Khất  Đan, không phải người Hán! Ta là người Khất Đan, không phải người  Hán!”. Miếng vải đó ông không làm sao buộc lên cổ mình được.

Ngay lúc đó có tiếng kẹt kẹt vang lên, hai cánh cửa thành nặng nề từ  từ mở. Đoàn Dự và Phạm Hoa kèm Tiêu Phong cùng chạy ra. Ngoài  thành dưới ánh lửa đuốc bập bùng, vô số người của Cái Bang dắt ngựa  chờ sẵn, vừa thấy Tiêu Phong xông ra lập tức reo hò ầm ỹ:

- Kiều bang chủ! Kiều bang chủ!

Lửa sáng rực cả bầu trời, tiếng người vang động mặt đất. Lại thấy hai  con rồng lửa uốn éo ở hai bên, một người cưỡi ngựa từ chính giữa chạy  thẳng đến. Ngồi trên ngựa là một người ăn mày già hai tay cầm cây gậy  đánh chó, tín vật của bang chủ Cái Bang giơ lên khỏi đầu, chính là Ngô  trưởng lão. Y chạy đến trước mặt Tiêu Phong, nhảy xuống ngựa, quì dưới  đất nói:

- Ngô Trường Phong được chúng huynh đệ ủy thác, giao đả cẩu bổng  của bản bang lại cho bang chủ. Chúng tôi quả thực hồ đồ đáng chết, đầu  óc lú lẩn, nghi oan cho người ngay, khiến cho bang chủ phải chịu muôn  vàn khổ sở. Chúng tôi thật không bằng con heo con chó, chỉ mong bang  chủ không chấp nhất lỗi lầm của kẻ tiểu nhân, thương hại bọn chúng tôi  bơ vơ côi cút, không nơi nương tựa mà quay trở lại nhận chức bang chủ.  Chúng tôi bị kẻ gian xúi biểu, bảo bang chủ là Hồ cẩu Khất Đan, quả là  đáng chết. Chúng tôi đã đem tên gian đồ Toàn Quan Thanh loạn đao  phân thi để rửa hờn cho bang chủ rồi.

Nói xong y đưa chiếc gậy đánh chó cho Tiêu Phong. Tiêu Phong trong  lòng chua chát nói:

- Ngô trưởng lão, tại hạ quả thực  là người Khất Đan. Được các vị  trọng nghĩa đối đãi như thế, tại hạ cảm kích không đâu cho hết nhưng  chức vị bang chủ quả vạn lần không dám đảm đương.

Ông vừa nói vừa đưa tay đỡ Ngô trưởng lão lên. Ngô Trường Phong  thần tình hoang mang, vò đầu bứt tai ấp úng:

- Ông … ông cũng bảo ông là người Khất Đan ư? Ông … không nhận  chức bang chủ? Kiều bang chủ, xin ông rộng lượng đừng giận chúng tôi  nữa.

Bỗng nghe phía trong thành tiếng trống nổi lên rồi đại đội Liêu binh  xông ra. Tiêu Phong kêu lên:

- Ngô trưởng lão, chúng mình chạy  đi thôi. Liêu binh dũng mãnh,  nếu kết thành trận thế thì không thể nào chống nổi.

Tiêu Phong biết rằng Cái Bang và quần hùng Trung Nguyên nhất thời  chiếm được thượng phong, chẳng qua là do tấn công bất ngờ khiến đối  phương trở tay không kịp, còn như thực  sự hai bên giao chiến thì một  nghìn, vài trăm nhân vật giang hồ làm sao chống nổi với hàng vạn quân  tinh nhuệ? Huống chi nếu đã hỗn chiến rồi, hai bên tử thương đều nặng  như thế trái với bản ý của mình, bèn nói:

- Ngô trưởng lão, vấn đề bang chủ, để từ từ rồi tính sau cũng chưa  muộn. Ông mau truyền lệnh cho các anh em rút lui về hướng tây.

Ngô Trường Phong đáp:

- Vâng!

Y lập tức truyền lệnh ra, bang chúng Cái Bang hậu đội đổi thành tiền  đội, chạy về hướng tây. Chẳng bao lâu Hư Trúc Tử cũng suất lãnh các  thuộc hạ chư nữ cùng các dị sĩ bảy mươi hai đảo, ba mươi sáu động đánh  rốc qua để cùng nhau hợp lại. Chạy được mấy dặm, các võ sĩ Đại Lý dưới  quyền điều động của Phó Tư Qui, Chu Đan Thần cũng chạy đến. Thế  nhưng quần tăng Thiếu Lâm và quần hào Trung Nguyên thì vẫn không  thấy đâu. Chỉ nghe văng vẳng tiếng chém giết trong thành Nam Kinh  vọng ra.

Tiêu Phong nói:

- Quần hào và phái Thiếu Lâm bị kẹt lại trong thành rồi, mình chịu  khó chờ thêm chút nữa.

Một hồi sau, tiếng la ó trong thành càng thêm rầm rĩ. Đoàn Dự nói:

- Đại ca đợi ở đây để tiểu đệ đi vào tiếp ứng bọn họ chạy ra.

Chàng liền dẫn võ sĩ Đại Lý chạy trở vào thành Nam Kinh. Khi đó trời  đã sáng dần, Tiêu Phong trong lòng lo lắng, không biết quần hào Nam  Kinh có thoát hiểm chăng, lại nghe sát thanh càng lúc càng lớn, các võ sĩ  Đại Lý quay trở vào đã lâu mà không thấy một ai chạy ra được.

Một tên thám tử Cái Bang cưỡi ngựa chạy ra báo:

- Mấy nghìn quân thiết giáp Liêu binh chặn cửa Tây rồi, võ sĩ Đại  Lý không qua nổi, mà quần hào Trung Nguyên cũng không ra được.

Hư Trúc phất tay một cái nói:

- Linh Thứu Cung chúng ta xông vào tiếp ứng.

Y liền dẫn hai nghìn hảo hán các lộ, cùng cửu bộ chư nữ quay trở lại.  Tiêu Phong cưỡi trên mình ngựa, nhìn qua hướng đông, thấy trong thành  Nam Kinh khói bốc khắp nơi, đông một ngọn lửa, tây một ngọn lửa không  biết hỗn loạn như thế nào rồi. Đợi đến hơn nửa giờ, lại thêm một tên  thám tử nữa chạy ra báo:

- Đoàn hoàng gia Đại Lý và Hư Trúc Tử tiên sinh cung Linh Thứu đã  mở một đường máu vào được trong thành rồi.

Trước đây mỗi khi có giao chiến Tiêu Phong bao giờ cũng thân tiên sĩ  tốt, lần này lại phải đứng ở xa xa chỉ biết sốt ruột lo lắng, thật chịu không  nổi, bèn nói:

- Để ta đi xem!

A Tử, Mộc Uyển Thanh, Chung Linh ba người cùng khuyên:

- Người Liêu phải bắt được đại ca mới thôi, nhất định chớ nên mạo  hiểm.

Tiêu Phong đáp:

- Không sao!

Ông giục ngựa chạy lên, các bang chúng Cái Bang liền theo sau. Đến  bên ngoài cửa tây thành Nam Kinh thấy dưới chân thành, trên bờ thành  cùng dưới hào có đến mấy trăm người chết, cả binh tướng nước Liêu lẫn  bộ thuộc của Đoàn Dự và Hư Trúc. Cửa thành còn đang đóng hờ, hai tên  đảo chủ tay cầm đại đao, chặn ngay cửa thành đang đánh nhau với quân  Liêu không cho chúng đóng cửa lại.

Bỗng nghe từ phía nam phía bắc tiếng vó ngựa dồn dập, Tiêu Phong  kinh hãi:

- Không xong rồi, đại đội Liêu binh đang chia hai đường bao vây lại,  chúng mình không nên chịu khốn ở nơi đây.

Ông cầm lấy một cái giáo gẫy nhảy vọt lên, chống mũi giáo vào  tường, mượn sức nhảy thêm lần nữa, liên tiếp mấy lần đã lên được đầu  thành, nhìn vào bên trong, thấy trong khoảng mấy dặm vuông ở mạn tây,  chỗ này một đám, chỗ kia một đám, hào kiệt Trung Nguyên bị quân Liêu  vây đánh, xem ra nơi nào cũng chỉ ở đâu lo đấy. Quần hào tuy võ công  cao cường nhưng mỗi người phải đánh  với bảy tám, có khi mười người  không chừng, một hồi lâu đều lâm vào thế quả bất địch chúng.

Tiêu Phong đứng ở trên đầu thành, nhìn vào trong thành rồi lại nhìn ra  ngoài, thực không biết phải chọn bên nào. Quần hào vì cứu mình mà đến,  không lẽ lại đứng giương mắt trơ trơ nhìn  họ bị Liêu binh giết hại, thế  nhưng nếu nhảy xuống cứu, thì là công khai chống lại nước Liêu, thành  kẻ Liêu gian phản quốc, không những bất hiếu bất mục với tổ tông mà  còn để cho muôn đời sỉ tiếu. Còn như chạy khỏi Nam Kinh bỏ nước tị  nạn, người ngoài chẳng qua chỉ mỉa mai “Tiêu Phong bất trung” chứ nếu  quay giáo chống Liêu thì tội lỗi đối với đất nước trở thành cực kỳ to lớn.

Tiêu Phong hành sự xưa nay hào sảng thẳng thắn, quyết đoán cực  nhanh, bây giờ ở vào thế hai mặt đều là đường cùng, trong một thoáng đã  thấy bên tường thành bảy tám tên võ sĩ Khất Đan vây đánh hai nhà sư  Thiếu Lâm. Một nhà sư múa giới  đao, miệng hộc máu, đủ biết đã bị  thương nặng, Tiêu Phong chăm chú nhìn nhận ra đó là Huyền Minh, còn  nhà sư kia múa thiền trượng hết sức hộ vệ, chính là Huyền Thạch. Hai tên  Liêu binh múa trường đao chém xuống Huyền Minh. Huyền Minh đã bị  trọng thương, không đỡ nổi. Huyền Thạch vội đảo thiền trượng, hất cán lên, đánh giạt hai thanh đao ra. Chỉ nghe Huyền Minh kêu rú lên một  tiếng, vai trái đã trúng đao. Huyền Thạch vội tạt trượng ra đánh tên lính  Liêu xương gân gãy nát. Thế nhưng cũng vì thế mà ngực bị trống, một tên  võ sĩ Khất Đan liền cầm mâu đâm vào, trúng ngay bụng Huyền Thạch.  Thiền trượng Huyền Thạch liền đập xuống, tên lính kia nát đầu nhưng  xem ra y cũng chỉ chết trước ông giây lát. Huyền Minh múa loạn thanh  đao chẳng còn chiêu số gì nữa, nước mắt chảy dài kêu lên:

- Sư đệ! Sư đệ!

Tiêu Phong thấy thế nhiệt huyết dâng tràn, không còn nhịn thêm được  nữa quát lớn:

- Tiêu Phong ở đây, muốn giết thì đến giết ta đi, chớ có hại người vô  tội.

Ông từ trên tường thành nhảy xuống, còn ở trên không đã đá văng hai  tên lính Liêu ra xa, chân vừa chấm đất đã một tay chộp Huyền Minh, tay  kia tiếp lấy thiền trượng của Huyền Thạch, kêu lên:

- Tại hạ cứu viện quá chậm, tội nghiệt quả là thâm trọng.

Ông liền vung thiền trượng hất hai tên võ sĩ Khất Đan ra ngoài mấy  trượng. Huyền Thạch gượng gạo đáp:

- Chúng tôi vu oan cho cư sĩ là người Khất Đan, tội nghiệt còn nặng  hơn, thiện tai, thiện tai! Hôm nay cạn ao bèo …

Hai chữ “xuống đất” chưa nói hết đã hộc máu, đầu ngoẹo qua tắt thở.  Tiêu Phong tay đỡ Huyền Minh, xông qua bên trái vào nơi mấy tên võ sĩ  Đại Lý đang bị vây. Binh tướng nước Liêu thấy Nam Viện Đại Vương  thần uy lẫm lẫm xuất hiện, ai nấy khiếp đảm. Tiêu Phong vũ động thiền  trượng, xa thì đâm, gần thì đánh, tuy không giết người nhưng ai gặp phải  cũng đều bị thương. Lính Liêu vội vàng bỏ chạy, Tiêu Phong tả xung hữu  đột, trong khoảnh khắc đã tụ được hai trăm người lại một chỗ. Ông lớn  tiếng kêu:

- Các vị chớ có tách rời nhau.

Ông cùng hai trăm người đó chạy khắp nơi, thấy dâu có người bị vây  liền xông đến, cứu người ra, chẳng khác gì tuyết lăn, càng lúc càng lớn, đến lúc được trên nghìn người rồi thì Liêu binh không còn ngăn cản được  nữa. Sau đó Tiêu Phong cùng Hư Trúc, Đoàn Dự và Huyền Độ đại sư của  phái Thiếu Lâm dẫn quần hào Trung Nguyên xông ra cửa thành.

Tiêu Phong tay cầm thiền trượng, đứng bên cổng thành, nhường cho  quần hào Đại Lý, Linh Thứu và Trung Nguyên lần lượt đi ra. Binh tướng  nước Liêu chỉ đứng xa xa hò hét, không ai dám xông lên tấn công. Tiêu  Phong đợi cho mọi người ra hết rồi mới ra sau cùng, ra khỏi cửa thành  quay đầu nhìn lại, thấy xác chết khắp nơi, trận chiến này chết không biết  bao nhiêu người, còn thấy hai nữ  tướng cung Linh Thứu nằm gục trong  đống máu rên rỉ quằn quại, ông lại quay vào chộp lưng hai người đó xách  chạy ra.

Bỗng nghe tiếng trống đánh rầm trời, hai đội kỵ binh theo hai bên nam  bắc xông tới. Tiêu Phong trông thấy mà rùng mình, hai đội này mỗi đội  phải trên một vạn người, bên mình đánh đã lâu, người nào không bị  thương thì cũng mỏi mệt lắm rồi  làm sao ngự địch được nữa? Ông bèn  kêu lên:

- Bang chúng Cái Bang đoạn hậu,  nhường ngựa cho các anh em bị  thương chạy trước.

Những người Cái Bang lớn tiếng đáp ứng, lục tục xuống ngựa. Tiêu  Phong lại quát:

- Kết thành Đả Cẩu Đại Trận.

Bang chúng Cái Bang miệng đọc bài “Liên Hoa Lạc”, sắp thành một  bức tường người. Tiêu Phong hô tiếp:

- Huyền Độ đại sư, nhị đệ, tam đệ, mau mau suất lãnh các bằng hữu  rút lui về hướng tây để cho Cái Bang đi sau chặn đường.

Mặt trời lúc ấy vừa mới lên, chiếu vào lưỡi đao mũi giáo quân Liêu  lấp loáng, hàng vạn vó ngựa nhịp trên mặt đất khiến cho núi đồi rung  chuyển. Hư Trúc và Đoàn Dự thấy thế của quân Liêu, biết Đả Cẩu Đại  Trận của Cái Bang không thể nào ngăn chặn nổi, liền đứng hai bên Tiêu  Phong nói:

- Đại ca, anh em mình kết nghĩa, có  nạn cùng chịu, sống chết bên  nhau.

Tiêu Phong đáp:

- Vậy các ngươi mau bản bản bộ nhân mã rút lui trước đi.

Hư Trúc, Đoàn Dự lập tức truyền lệnh. Thế nhưng bộ thuộc Linh Thứu  Cung nhất định không bỏ chủ nhân ở lại, tướng sĩ Đại Lý cũng không chịu  để hoàng đế ở nơi hiểm địa, bỏ chạy lấy mình. Trước mắt thấy quân Liêu  mỗi lúc một gần, tên bắn rơi chỉ còn cách bọn Tiêu Phong chừng mươi  trượng, Huyền Độ vốn dĩ đã dẫn quần hào Trung Nguyên chạy được một  quãng, lúc này thấy tình hình hung hiểm, lại có mấy chục người quay trở  lại trợ chiến.

Tiêu Phong bụng ngầm than khổ, nghĩ thầm: “Những người này ai nấy  võ công cao cường nhưng tụ tập một nơi cũng chỉ là một bầy ô hợp, không  theo binh pháp bố trí thì đánh sao lại quân Liêu? Ta có chết cũng chẳng  hề chi, nhưng tất cả mọi người sẽ  đều chết bên ngoài thành Nam Kinh  này, thế mới … thế mới …”.

Còn đang chưa biết tính sao, đột nhiên trong đại quân Liêu phèng la  rầm rĩ, chính là tiếng chiêng thu quân. Đám quân Liêu đang hùng hổ  phóng tới nghe tiếng phèng la, vội vàng chuyển đầu ngựa, hậu đội biến  thành tiền đội, chia ra hai hướng nam bắc quay trở về. Tiêu Phong ngạc  nhiên không hiểu vì lý do gì, chỉ thấy phía sau đoàn quân tiếng hò reo  rầm rĩ, bụi bay mù mịt, dường như có  quân mã đang tấn công vào hậu  diện, lại càng kỳ quái: “Sao phía sau quân Liêu lại có binh mã, không lẽ  có kẻ nào nổi loạn hay sao? Hoàng thượng trước mặt sau lưng đều thụ  địch, e rằng có chuyện không hay”. Ông thấy quân Liêu bị khốn lập tức  nghĩ đến an nguy của Gia Luật Hồng Cơ.

Tiêu Phong nhảy lên lưng ngựa, nhìn qua trận thế quân Liêu, thấy  khắp nơi cờ trắng phất phới, tên bắn như mưa rào, quân Liêu lả tả rơi  xuống ngựa. Tiêu Phong lập tức hiểu ra: “À, các bằng hữu của bộ tộc Nữ  Chân đã đến rồi đây, không biết vì sao họ lại biết tin?”.

Người Nữ Chân tiễn pháp thật thần kỳ, lại thêm dũng mãnh, cứ một  trăm người thành một tiểu đội, nằm nép qua một bên ngựa, hò hét vang  rân xông vào xung sát, trong chốc lát đã làm loạn thế trận của quân Liêu.  Người Nữ Chân tuy nhân số không đông nhưng dũng mãnh thiện chiến,  lại tấn công bất ngờ nên viên chỉ huy quân Liêu thấy tình hình bất lợi, sợ nhân mã của Tiêu Phong tấn công phía trước vội vàng thu binh rút lui vào  trong thành.

Phạm Hoa là đại tư mã của Đại Lý, tinh thông binh pháp, thấy có thể  khai thác cơ hội vội vàng bẩm với Tiêu Phong:

- Tiêu đại vương, mình nên mau mau xung sát, bây giờ chính là  lương cơ để phá giặc.

Tiêu Phong lắc đầu. Phạm Hoa lại nói:

- Nơi đây còn cách Nhạn Môn Quan rất xa, nếu không thừa cơ phá  tan quân Liêu thì sẽ để lại hậu hoạn. Quân địch đông, quân ta ít thực khó  mà rút lui cho an toàn được.

Tiêu Phong lại lắc đầu. Phạm Hoa không hiểu tại sao, nghĩ thầm:  “Tiêu đại vương không muốn đuổi tận sát tuyệt, không lẽ còn muốn giữ  lại chút tình trước đây với Liêu đế chăng?”.

Trong đám khói bụi mù mịt, một đoàn người Nữ Chân kẻ thì cởi trần  thân trên, kẻ thì khoác da thú, cưỡi ngựa xông tới chém giết, tên nỏ bắn  vèo vèo không để sót một ai. Khoảng hơn một nghìn quân Liêu đi sau  cùng không kịp vào thành đều bị người Nữ Chân bắn chết nằm gục dưới  chân thành.

Người Nữ Chân cạo sạch tóc phía trước trán, đằng sau tết thành đuôi  sam, ai nấy mặt mày dữ tợn, người đầy máu, bắn chết địch thủ rồi liền  vung dao chặt luôn thủ cấp, đeo vào lưng, có người đeo đến hơn chục cái  đầu lâu. Quần hào ở trên giang  hồ từng chứng kiến xung sát đã nhiều  nhưng hung ác tàn nhẫn của những người man rợ này bây giờ mới thấy  lần đầu, không ai là không kinh hãi.

Một gã thợ săn cao lớn đứng trên mình ngựa, lớn tiếng gọi:

- Tiêu đại ca, Tiêu đại ca, Hoàn Nhan A Cốt Đả đến giúp đại ca đây.

Tiêu Phong phóng ngựa chạy vụt lên, hai người bốn bàn tay nắm chặt  lấy nhau. A Cốt Đả vui mừng nói:

- Tiêu đại ca, hôm đó đại ca không từ biệt mà đi mất khiến cho  huynh đệ ngày ngày thương nhớ, về sau nghe thám tử nói Tiêu đại ca làm  quan to bên nước Liêu, cũng yên tâm. Có điều người Liêu giảo hoạt, đại ca làm quan e không được lâu bền. Quả nhiên hôm trước nghe báo: đại ca  bị tên hoàng đế chó má kia giam tại trong ngục, huynh đệ vội đem binh  mã tới cứu, may quá ca ca không chết cũng không bị thương, huynh đệ  vui mừng lắm.

Tiêu Phong đáp:

- Đa tạ người anh em tới cứu.

Nói chưa dứt câu, trên đầu  thành tên bắn xuống như mưa nhưng hai  người đứng khá xa nên tên không thể bắn tới được. A Cốt Đả giận dữ nói:

- Đồ Khất Đan chó má! Ta đang cùng ca ca nói chuyện lại dám phá  đám.

Y giương cung lên, vèo vèo vèo từ chân thành bắn luôn ba mũi tên,  chỉ nghe ba tiếng kêu thảm thiết, ba tên Liêu binh trúng tiễn, từ bên trên  lộn nhào xuống. Liêu binh bắn không tới y trong khi y dùng cung cứng  tên dài bắn được xa hơn, ba phát trúng cả ba. Trên đầu thành lính Liêu  kêu la rầm rĩ, vội vàng lấy cung về đưa khiên ra đỡ. Chỉ nghe trong thành  tiếng trống đánh thùng thùng, thì ra quân Liêu đã tập hợp binh lính, kiểm  điểm tướng sĩ.

A Cốt Đả lớn tiếng nói:

- Bầy sói nghe đây! Bọn chó má Khất Đan đang tính chui ra khỏi cái  lỗ chó đó, mình xông vào giết chúng một mẻ nữa cho sướng tay.

Người Nữ Chân lớn tiếng reo hò  tưởng chừng như hàng vạn con thú  cùng tru lên. Tiêu Phong nghĩ bụng nếu hai bên đánh trận này, tử thương  ắt là rất nặng vội can:

- Huynh đệ, ngươi tới cứu ta, lúc này ta đã thoát hiểm rồi, còn đánh  nữa làm gì? Hai anh em ta lâu ngày không gặp, đi tìm chỗ nào an tĩnh  uống một trận cho túy lúy xem nào.

Hoàn Nhan A Cốt Đả nói:

- Nếu đại ca đã nói thế thì thôi mình đi.

Chỉ thấy cửa thành mở toang, một đội thiết giáp quân Liêu cưỡi ngựa  phóng ra. A Cốt Đả cất tiếng chửi:

- Giết cho sạch bọn Khất Đan chó má.

Y lắp tên giương cung bắn vụt ra, trúng ngay mặt tên đi đầu, lập tức  ngã xuống ngựa. Những người Nữ Chân còn lại cũng bắn ra, bắn phát nào  cũng trúng mặt người Liêu. Những người đó tiễn pháp rất tinh xảo, đầu  mũi tên lại tẩm thuốc độc, người trúng tên không kip hự lên tiếng nào đã  lăn ra chết ngay, chỉ phút chốc ngoài cửa thành đã có đến mấy trăm  người chết, người ngựa khôi giáp chất thành một cái gò nhỏ, chặn mất  cửa thành. Những người Liêu còn lại sợ đến hết hồn vội đóng chặt cửa  thành không dám ra thêm nữa.

Hoàn Nhan A Cốt Đả liền suất lãnh người trong bộ tộc mình dưới chân  thành diệu võ dương uy, to mồm chửi rủa. Tiêu Phong nói:

- Huynh đệ, thôi mình đi.

A Cốt Đả đáp:

- Được!

Y chỉ tay lên thành chửi:

- Bọn chó Khất Đan nghe đây, may cho các ngươi không đụng tới  một sợi lông măng của Tiêu đại ca nên hôm nay tha cho khỏi chết. Nếu  không ta đã phá thành bắt bọn chó chúng bay từng đứa một ra bắn bỏ.

Sau đó y cùng Tiêu Phong cưỡi ngựa song song đi về hướng tây, đi hơn  chục dặm đến một ngọn đồi. A Cốt Đả nhảy xuống ngựa, từ bên yên ngựa  lấy ra một túi rượu đưa cho Tiêu Phong nói:

- Ca ca, uống rượu.

Tiêu Phong cầm lấy, uống ừng ực một hơi hết nửa bình rồi giao lại cho  A Cốt Đả. A Cốt Đả uống sạch chỗ còn lại nói:

- Ca ca, chi bằng ca ca theo huynh đệ đến núi Trường Bạch, săn bắn  uống rượu, tiêu dao khoái hoạt.

Tiêu Phong biết rõ tính khí Gia Luật Hồng Cơ, hôm nay bị A Cốt Đả  đánh thua một trận ở Nam Kinh lại lên tiếng nhục mạ, thật là mất mặt, ắt  sẽ không bỏ qua, thể nào cũng đem binh sang đánh. Người Nữ Chân tuy  dũng mãnh thật nhưng dẫu sao cũng ít  người, thắng bại thực không thể  biết trước chi bằng không đánh nhau là hơn. Ông nghĩ đến hồi trước ở núi Trường Bạch, ngoài việc trị thương cho A Tử ra không phải lo nghĩ gì,  cũng chẳng tranh danh đoạt lợi với ai, nếu từ nay ở với người Nữ Chân thì  sẽ tránh được bao nhiêu phiền nhiễu bèn nói:

- Huynh đệ, những anh hùng hào kiệt từ Trung Nguyên đến đây cũng  đều vì cứu ta mà ra, để ta tiễn họ đến Nhạn Môn Quan rồi sẽ cùng người  anh em gặp lại.

A Cốt Đả mừng rỡ đáp:

- Bọn man tử Trung Nguyên xí xa xí xô phần nhiều không phải người  tốt, ta cũng chẳng muốn gặp họ làm chi.

Nói xong dẫn tất cả tộc nhân chạy về hướng bắc. Quần hào Trung  Nguyên thấy những người Nữ Chân đó đến đi nhanh như gió thoảng, cực  kỳ táo tợn nghĩ thầm: “Bọn người Phiên này còn ghê gớm hơn cả bọ Liêu  cẩu, cũng may họ là bằng hữu của Kiều bang chủ, nếu không thì nguy  to”.

Các lộ nhân mã dần dần tụ lại một chỗ, bàn tán xôn xao về trận ác  chiến dưới thành Nam Kinh mới rồi. Tiêu Phong cúi rạp tận đất nói:

- Đa tạ các vị đại nhân đại nghĩa, không nhớ chuyện ác cũ của Tiêu  mỗ, nghỉn dăm bôn ba đến cứu, ân đức này Tiêu mỗ mãi mãi không thể  nào báo đền nổi.

Huyền Độ nói:

- Kiều bang chủ nói thế là thế nào? Những chuyện ngày trước cũng  đều vì hiểu lầm mà sinh ra cớ sự,  võ lâm đồng đạo gặp nạn tương trợ  cũng là chuyện đương nhiên. Huống chi Kiều bang chủ không nề sinh tử  an nguy, từ bỏ vinh hoa phú quí cũng chỉ vì sinh linh bách tính Trung  Nguyên, nhân đức ấy thấm nhuần thiên hạ, chúng tôi phải cảm ơn Kiều  bang chủ mới phải.

Phạm Hoa lớn tiếng nói:

- Chúng vị anh hùng, tại hạ xem xét binh thế quân Liêu, e rằng họ  chưa chịu thua đâu, thể nào cũng truy kích, không biết các vị có cao kiến  gì không?

Quần hùng đồng thanh đáp ứng:

- Chúng tôi quyết cùng bọn Liêu binh một trận sống mái, há lại sợ  chúng hay sao?

Phạm Hoa nói:

- Bên địch nhiều, bên ta ít, giao phong trên đồng bằng chúng ta quả  thật bất lợi. Theo ý kiến tại hạ chúng mình nên lui về hướng tây, một là  gần với nơi quân Tống trú đóng, có gì tiếp ứng lẫn nhau, hai nữa quân  địch đuổi càng xa nhân số càng giảm đi, chúng ta có thể thừa cơ phản  kích.

Quần hào ai nấy khen phải. Sau đó Hư Trúc dẫn bộ thuộc cung Linh  Thứu đi thành một toán, Đoàn Dự dẫn binh mã Đại Lý đi một toán khác,  còn Huyền Độ dẫn quần hào Trung Nguyên thành toán thứ ba, còn Tiêu  Phong cùng bang chúng Cái Bang đoạn hậu. Bốn lộ nhân mã, mỗi đoàn  cách nhau chừng vài ba dặm, thám tử cưỡi ngựa chạy tới chạy lui truyền  tin, nếu có quân địch sẽ cứu ứng  lẫn nhau. Đi suốt ngày hôm đó, buổi  chiều ở nơi sơn dã nghỉ ngơi, đến tối cũng không thấy quân Liêu đuổi tới  ai nấy mới yên tâm.

Sáng sớm hôm sau mọi người lại lên đường, Tiêu Phong hỏi A Tử:

- Vị Du quân kia có còn ở cung Linh Thứu nữa hay không?

A Tử bĩu môi nói:

- Ai mà biết? Chắc là còn, y mù hai mắt, làm sao xuống núi được?

Nghe giọng nàng dường như chẳng hề quan tâm đến y. Hôm đó cả bọn  đến Bạch Lạc Bảo dưới chân Ngũ Đài Sơn, đào hố nấu cơm. Đi đến đâu  Phạm Hoa cũng cắt đặt người mai phục khắp nơi, chặt cầu ngăn đường,  để kéo dài thì giờ Liêu binh truy kích. Đến ngày thứ ba, bỗng thấy phía  đông khói phân sói1 bay thẳng vút lên, chính là tín hiệu quân Liêu đang  đuổi theo. Quần hào ai nấy giật mình, những hào kiệt trẻ tuổi đã toan  quay lại trợ giúp những tiểu đội mai phục dọc đường, nhưng bị Huyền Độ,  Phạm Hoa ngăn trở.

Đến chiều hôm đó, quần hào nghỉ lại một triền núi. Ngủ đến nửa đêm,  bỗng có người kinh hoàng kêu lên khiến ai nấy tỉnh dậy, thấy phương bắc đỏ rực cả một góc. Tiêu Phong và Phạm Hoa hai người nhìn nhau, trong  bụng thầm biết hẳn là có chuyện chẳng lành. Phạm Hoa nói nhỏ:

- Tiêu đại vương nghĩ có phải quân Liêu đi vòng qua giáp công  chăng?

Tiêu Phong gật đầu. Phạm Hoa nói:

- Lửa lớn thế, không biết đốt mất bao nhiêu nhà của dân chúng?  Than ôi!

Tiêu Phong không muốn kể xấu Gia Luật Hồng Cơ nhưng biết ngay  lần này bị thua dưới tay người Nữ Chân, bao nhiêu tức tối trong lòng trút  lên đầu bách tính, trên đường tiến quân tây chinh, gặp ai giết nấy, nhà  cửa đốt sạch.

Lửa cháy mãi tới khi trời sáng cũng chưa tắt. Đến trưa hôm đó, phương  nam cũng có lửa bốc lên, dưới ánh nắng chang chang không thấy lửa mà  chỉ thấy khói mù mịt bốc lên tận mây. Đoàn của Huyền Độ vốn dĩ đi đầu  thấy phương nam lửa bốc cao như thế liền gò cương đứng lại bên đường  đợi Tiêu Phong tới nơi bèn hỏi:

- Kiều bang chủ, quân Liêu chia ba mặt tấn công, Nhạn Môn Quan  liệu có giữ nổi không? Ta đã liên tiếp sai người chạy đến báo tin nhưng  thống soái giữ ải nhu nhược, không  dám phát binh sợ không chống nổi  thiết kỵ Liêu binh.

Tiêu Phong không biết phải trả lời thế nào, Huyền Độ lại tiếp:

- Xem ra chỉ có người Nữ Chân là có thể chống lại quân Liêu, trong  tương lai nếu như Đại Tống liên thủ với Nữ Chân, nam bắc giáp công thì  may ra sẽ khiến cho thiết kỵ Khất Đan không tiến xuống nam thôi.

Tiêu Phong hiểu ý ông ta muốn mình tìm cách liên lạc với thủ lãnh Nữ  Chân Hoàn Nhan A Cốt Đả nhưng nghĩ mình vốn là người Khất Đan, làm  sao có thể cấu kết ngoại địch đánh lại nước mình. Ông đột nhiên nhớ ra  hỏi lại:

- Huyền Độ đại sư, phụ thân tôi ở quí bảo sát có bình an không?

Huyền Độ ngạc nhiên nói:

- Lệnh tôn qui y tam bảo, thanh tu ở hậu viện chùa Thiếu Lâm, trước  khi đi Nam Kinh chúng tôi không gặp lệnh tôn để khỏi làm động lòng  trần của người.

Tiêu Phong nói:

- Tại hạ quả là muốn gặp gia gia, hỏi ông một câu.

Huyền Độ ồ lên một tiếng. Tiêu Phong nói:

- Tại hạ muốn thỉnh vấn lão nhân gia: Nếu như quân Liêu tiến đánh  chùa Thiếu Lâm, thì phải xử trí thế nào?

Huyền Độ đáp:

- Thì phải hết sức kháng địch, hộ tự vệ pháp, còn gì khác nữa?

Tiêu Phong nói:

- Thế nhưng cha tôi là người Khất Đan làm sao có thể bảo ông ta vì  người Hán mà giết người Khất Đan cho được?

Huyền Độ trầm ngâm rồi nói:

- Thì ra bang chủ quả thực là người Khất Đan. Bỏ chỗ tối ra chỗ  sáng, quả là đáng kính đáng phục.

Tiêu Phong nói:

- Đại sư là người Hán thì nói Hán  là sáng, Khất Đan là tối. Thế  nhưng người Khất Đan chúng tôi thì lại bảo Đại Liêu là sáng, Đại Tống là  tối. Nghĩ đến tổ tông người Liêu chúng tôi bị người Yết2 tàn sát, bị người  Tiên Ti hiếp đáp, chạy đông chạy tây, khổ không kể đâu cho hết. Thời  nhà Đại Đường, võ công người Hán các ông cực thịnh, giết không biết  bao nhiêu dũng sĩ Khất Đan, bắt bao nhiêu đàn bà con gái Khất Đan. Đến  bây giờ người Hán võ công không được như cũ thì người Khất Đan lại  quay trở lại tấn công người Hán. Cứ như thế giết qua giết lại không biết  đến bao giờ mới thôi?

Huyền Độ lặng thinh, qua một lúc mới niệm:

- A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!

Đoàn Dự giục ngựa chạy đến, chỉ nghe được phần sau của câu chuyện  giữa hai người bèn ngâm nga:

Lửa hồng kia chửa tắt,

Chinh chiến hẳn chưa nguôi.

Tráng sĩ giờ đây đã thác rồi,

Ngửng đầu tiếng ngựa hí bi ai.

Sĩ tốt phơi thây ngọn cỏ,

Tướng quân trơ trọi một ngươi.

Kên kên rỉa xác nơi đồng nội,

Cành khô vất vưởng ruột tanh hôi.

Than ôi!

Xưa nay binh lửa là hung khí,

Thánh nhân chẳng đặng mới dùng thôi.3

Tiêu Phong khen ngợi:

Xưa nay binh lửa là hung khí,

Thánh nhân chẳng đặng mới dùng thôi.

- Hiền đệ, ngươi làm thơ hay thật.

Đoàn Dự đáp:

- Không phải thơ đệ làm đâu, đó là của đại thi nhân Lý Bạch đời  Đường đó.

Tiêu Phong nói:

- Ta ở đây cũng nghe người trong bộ tộc hát một khúc như vầy.

Nói xong ông cao giọng hát:

Núi Kỳ Liên đã mất rồi,

Trâu bò gia súc mệt nhoài kiếm ăn.

Gò Yên Chi cũng mất tăm,

Đàn bà con gái hom hem gầy mòn.4

Ông trung khí sung túc, tiếng hát vang vang mãi tận xa nhưng giọng  đầy vẻ thê lương. Đoàn Dự gật đầu:

- Đó là điệu hát của người Hung Nô. Năm xưa Hán Võ Đế chinh  phạt Hung Nô, cướp mất một phần  lớn đất đai của họ, người Hung Nô  khốn khổ đáng thương, chắc hẳn tiếng hát vẫn còn truyền đến tận ngày  nay.

*

* *

Tiêu Phong đáp:

- Tổ tiên người Khất Đan chúng ta thời đó cũng khổ chẳng khác gì  người Hung Nô.

Huyền Độ thở dài một tiếng nói:

- Chỉ khi nào tất cả vua chúa tướng lãnh trong thiên hạ đều sùng tín  Phật pháp, giữ lòng từ bi thì lúc đó mới hết được cái thảm cảnh chiến  tranh.

Tiêu Phong đáp:

- Không biết đến năm nào tháng nào mới có được một thế giới thái  bình như thế.

Cả đoàn người tiếp tục đi về hướng tây, thấy ba phía đông nam bắc  chỗ nào cũng lửa đỏ rực, suốt đêm chưa tắt, quân Liêu vẫn đốt phá chém giết đuổi theo. Quần hùng trong dạ ai ai cũng phẫn nộ, luôn mồm chửi  rủa, nguyện cùng quân địch một trận tử chiến. Phạm Hoa nói:

- Quân Liêu càng đuổi càng gần, cuối cùng rồi mình sẽ vào cảnh lui  cũng không xong. Theo ý kiến của huynh đệ, chi bằng chúng ta phân tán  ra khắp nơi khiến bọn chúng không biết hướng nào mà đuổi.

Ngô Trường Phong lớn tiếng nói:

- Thế thì có khác gì chịu thua? Phạm tư mã, ông chớ có làm tăng khí  thế địch mà làm giảm uy phong mình, thắng cũng được mà thua cũng  được, nhất quyết phải cùng bọn Liêu cẩu kia một mất một còn.

Còn đang nói chuyện đột nhiên nghe vút một tiếng, một mũi vũ tiễn từ  góc đông nam bắn tới, một bang chúng Cái Bang trúng tên ngã xuống, kế  đó từ sau núi một đội Liêu binh hò hét xông ra. Toán quân đột kích đó  chừng độ năm trăm tên, vượt qua những người đoạn hậu, chạy một mạch  theo đường tắt tấn công ngang hông. Ngô Trường Phong gào lên:

- Giết!

Y xông lên trước tiên. Quần hùng nén giận đã lâu, ai nấy hết sức  chiến đấu, người đã đông hơn lại ai nấy võ nghệ cao cường, vừa la hét  vừa chém giết thế như chặt dưa tàn sát quân Liêu, chỉ chừng nửa giờ hơn  năm trăm lính Liêu đã bị giết không còn một mống. Độ hơn chục tên trèo  núi bỏ trốn nhưng đều bị những hào kiệt khinh công cao cường đuổi theo  giết nốt.

Quần hào đánh thắng một trận, reo hò vang dội, tinh thần phấn chấn.  Phạm Hoa len lén thương nghị với Huyền Độ, Hư Trúc, Đoàn Dự:

- Chúng ta chỉ mới thắng được một đội nhỏ quân Liêu, một trận đánh  rồi, đại quân Liêu sẽ đến ngay, mình mau chạy về hướng tây.

Nói chưa dứt lời đã nghe phía đông có tiếng ầm ầm vọng đến. Quần  hào cùng quay sang thấy bụi bay mù mịt như một đám mây đang bốc lên  che cả bầu trời. Chỉ trong khoảnh khắc, ai nấy mặt mày bần thần, không  nói năng gì nữa, nghe tiếng rầm rầm chẳng khác gì sấm động truyền từ  xa, hiển nhiên đại đội binh mã đang kéo tới, không biết bao nhiêu vạn  người.

Quần hào đã từng chứng kiến chém giết nhiều lần nhưng đại quân tiến  như thế này thì chưa từng nghe, so với cuộc chiến ngoài thành Nam Kinh  quân Liêu đông không biết gấp bao nhiêu lần. Ai nấy tuy đều là những  tráng sĩ lớn mật nhưng thấy quân uy chấn động đất trời đều không khỏi  khiếp vía, toát mồ hôi lạnh.

Phạm Hoa kêu lớn:

- Chúng vị huynh đệ, địch nhân thế  lớn, chết chỉ uổng mạng. Núi  xanh vẫn còn đó, Không sợ thiếu củi đun. Hôm nay chúng ta tạm nhường  chúng rồi tìm cách phản kích sau.

Quần hào lập tức lên ngựa, chạy về hướng tây nhưng tiếng rầm rầm  vẫn đuổi theo không ngớt. Tối hôm đó mọi người không nghỉ ngơi, mỗi  lúc thấy một gần Nhạn Môn Quan  nên càng ra roi, biết rằng nếu qua  được cửa ải rồi, cố găng thủ ngự, quân địch tuy đông nhưng phá được cửa  quan cũng không phải dễ.

Trên đường ngựa liên tiếp ngã lăn ra chết, người thì thi triển khinh  công, kẻ thì hai người cưỡi chung một con. Chạy đến khi trời sáng thì chỉ  còn cách Nhạn Môn Quan chừng mươi dặm, ai nấy lúc ấy mới yên tâm,  xuống ngựa cầm cương chậm rãi đi bộ  để cho con vật lấy lại sức. Thế  nhưng tiếng rầm rầm của binh mã đuổi theo đằng sau thì vẫn còn, mỗi lúc  một thêm vang dội.

Tiêu Phong từ sơn lãnh trở xuống sườn núi bất chợt thấy một tảng đá  lớn không khỏi giật mình nghĩ thầm: “Năm xưa Huyền Từ phương trượng,  Uông bang chủ đã thống lãnh quần hào Trung Nguyên, phục kích cha ta,  giết chết mẹ ta cùng không ít võ sĩ Khất Đan cũng là ở chỗ này”. Ông  nghiêng đầu nhìn thấy tên vách núi vẫn còn dấu búa bạt chữ đi, chính là  nơi Huyền Từ xóa bỏ tự tích của Tiêu Viễn Sơn.

Tiêu Phong chậm rãi quay đầu lại, thấy bên cạnh thạch bích có một  cây hoa, tai còn văng vẳng nghe tiếng A Châu nấp sau cây này nói:

- Kiều đại gia, ông còn đánh nữa, chắc ngọn núi này cũng sẽ đổ mất  thôi.

Ông ngơ ngẩn, mấy câu nói nhu mì của A Châu vẫn còn vang vang  trong đầu:

- Thiếp... thiếp ở đây chờ đại gia đã năm ngày năm đêm, chỉ sợ ông  không đến. Ông... ông quả nhiên đến rồi, nhờ trời phù hộ nên ông vẫn  khỏe mạnh bình thường.

Tiêu Phong nước mắt ròng ròng, đi đến bên cạnh, giơ tay xoa xoa thân  cây thấy nay đã cao hơn khi ông gặp lại A Châu nhiều, nhất thời trong  lòng thương cảm quên hết cả mọi  sự chung quanh. Bỗng nghe có tiếng  lảnh lót gọi:

- Tỉ phu! Mau chạy thôi! Chạy thôi!

A Tử chạy đến nắm áo Tiêu Phong. Tiêu Phong ngẩng đầu nhìn thấy ở  xa xa đông nam bắc ba mặt trường mâu quân Liêu chĩa lên trời tua tủa  như rừng, hiển nhiên đang vây mình lại. Tiêu Phong gật đầu nói:

- Được, mình lui vào trong Nhạn Môn Quan rồi tính sau.

Khi đó quần hào đã tụ tập ở trước cửa ải rồi. Tiêu Phong và A Tử cưỡi  ngựa song song chạy đến nhưng cửa vẫn đóng chặt. Trên cửa quan một  viên quan người Tống đứng trên đầu thành, lớn tiếng nói:

- Phụng mệnh Trương tướng quân chỉ huy sứ trấn thủ Nhạn Môn  Quan có ra lệnh rằng: Các ngươi nếu là bách tính Trung Nguyên thì được  nhập quan nhưng không biết có cấu kết với quân Liêu làm gian tế hay  không, thành thử các ngươi vứt binh khí xuống để tra xét từng người. Nếu  trên người không có dấu quân khí, Trương tướng quân sẽ khai ân, để cho  các ngươi vào trong ải.

Câu nói vừa dứt, quần hào liền nhao nhao lên. Có người nói:

- Bọn ta nghìn dặm bôn ba, hết sức chống với quân Liêu, sao lại nghi  làm gian tế là thế nào?

Có người nói:

- Bọn ta mang theo binh khí là để giúp tướng quân kháng Liêu. Nếu  như không có binh khí trong tay thì làm sao đánh với quân Liêu được?

Gặp người tính tình nóng nảy táo tợn liền chửi ngay:

- Mẹ ngươi chứ, không mở cho ông vào hả? Tất cả tấn công vào bây  giờ.

Huyền Độ vội vàng ngăn lại, quay sang gã quan quân nói:

- Phiền các hạ bẩm lại với Trương tướng quân: Chúng tôi đều là  bách tính trung nghĩa của Đại Tống.  Địch quân chớp mắt sẽ đến ngay,  nếu còn tra xét thì sẽ mất thời giờ, khi đó cửa mở ra sẽ rất nguy hiểm.

Gã quan quân đã nghe có tiếng người  chửi rủa, lại thấy quần hào  không hiếm những người ăn mặc quái lạ, không giống nhân sĩ Trung Thổ  bèn nói:

- Lão hòa thượng, ông bảo tất cả đều là lương dân Trung Thổ, ta xem  nhiều người đâu phải dân Trung Quốc? Được rồi, ta mở cho một mặt lưới,  người Đại Tống thì được vào ải, còn không phải dân Đại Tống thì không  được vào.

Quần hào ngơ ngẩn nhìn nhau, ai nấy phẫn nộ. Bộ thuộc của Đoàn Dự  là thần dân nước Đại Lý, còn bộ thuộc của Hư Trúc thì có đủ các bộ tộc,  Tây Vực có, Tây Hạ có, Thổ Phồn có, Cao Ly có, nếu chỉ người Đại Tống  mới được vào thì đại bộ phận của nước Đại Lý và cung Linh Thứu sẽ bị  chặn lại. Huyền Độ nói:

- Tướng quân minh giám: Chúng tôi ở đây có rất nhiều đồng bạn, có  kẻ là người Đại Lý, có kẻ là người Tây Hạ, tất cả liên thủ chống lại quân  Liêu, đều là anh em cả, chứ đâu có phân biệt ai là người Tống, ai không?

Lần này Đoàn Dự dẫn bộ thuộc lên phương bắc giữ gìn cực kỳ bí mật,  không tiết lộ mình là chủ một nước, để phòng đại thần Tống triều gia hại  hay bắt giữ làm con tin, vả lại Đại Lý và Liêu quốc hai bên cách nhau xa  thật nhưng cũng không muốn công khai đối địch nên Huyền Độ không đề  cập đến việc Đại Lý có một nhân vật cực trọng yếu nơi đây.

Gãn quan quân kia khinh khỉnh nói:

- Nhạn Môn Quan là yết hầu của Đại Tống, quan trọng là dường  nào? Đại đội binh mã quân Liêu sẽ tới ngay, nếu như ta tùy tiện mở cửa  quan, Liêu binh thừa cơ xông vào, cái tội tày trời đó rồi sau này ai chịu  cho?

Ngô Trường Phong không còn nhịn nổi nữa, lớn tiếng quát nạt:

- Ngươi bớt la lối một câu, mau sớm mở cửa, có phải mọi sự xong  xuôi hay không?

Gã quan quân cáu tiết quát lại:

- Thằng ăn mày già kia, trước mặt bản quan, ai cho ngươi được mở  mồm?

Y phất tay một cái, trên thành lập tức xuất hiện hơn nghìn cung thủ,  cung tên giương sẵn, nhắm thẳng xuống dưới. Gã quan quân lại hét:

- Mau mau lui ra, các ngươi còn ở đây nói lời xằng bậy mê hoặc lòng  người, nhiễu loạn lòng quân thì ta sẽ ra lệnh phát tiễn đó.

Huyền Độ thở dài một tiếng, không biết phải tính sao. Nhạn Môn  Quan hai bên núi cao vút tận mây, cửa ải này có tên là Nhạn Môn, ý nói  hồng nhạn khi bay về phương nam, cũng phải theo khe giữa hai ngọn núi  mà bay đủ biết địa thế hiểm yếu dường nào. Quần hào tuy không hiếm kẻ  khinh công cao cường có thể trèo non vượt lãnh nhưng phần đông không  thể nào chạy được ắt sẽ bị quân Liêu giết chết.

Chỉ thấy quân Liêu đi theo đường núi từ hai mặt đông tây càng lúc  càng khép lại dần cùng theo chính diện tiến tới. Thế nhưng ngoài tiếng  vó ngựa, tiếng giáp sắt, tiếng gió thổi không nghe một tiếng hò reo nào,  quân kỷ quả thực nghiêm minh, đúng là một quân lữ tinh nhuệ. Từng đội  quân Liêu xếp thành trận thế ép tới cửa ải, tới khi trong tầm bắn tên rồi  liền dừng lại. Nhìn ra ba phía đông tây  bắc chỗ nào cũng cờ quạt phất  phới, nhân mã không biết là bao nhiêu mà kể.

Tiêu Phong lớn tiếng nói:

- Các vị ở đâu tại đó không nên di động, chờ tại hạ phân giải với  Liêu đế.

Ông không đợi Đoàn Dự, A Tử ngăn trở, đã một mình một ngựa chạy  lên. Hai tay ông giơ cao khỏi đầu, ý cho biết không có binh khí cung tên,  sang sảng cất tiếng:

- Tiêu Phong có vài lời muốn tâu lên Đại Liêu hoàng đế, xin bệ hạ  ra mặt.

Mấy câu đó ông dùng nội lực truyền ra, thanh âm vang vọng tận xa,  mấy vạn quân Liêu ai nấy đều nghe rõ ràng không khỏi biến sắc. Một hồi  sau, từ trong quân Liêu tiếng tù và vang dậy, thiên quân vạn mã tựa như  sóng bể dạt sang hai bên, tám lá cờ vàng do tám kỵ sĩ từ trong trận cầm  chạy ra phần phật tung bay trước gió. Sau tám lá hoàng kỳ là những đội  quân cầm trường thương, đao phủ, cung tên, thuẫn bài chia thành hai đội,  cuối cùng mới đến mười đại tướng mặc giáp sắt bảo vệ Gia Luật Hồng Cơ  tiến ra khỏi trận.

Quân Liêu liền hô to:

- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Tiếng hô vang dậy chấn động cả sơn cốc. Quân Tống trên ải thấy uy  thế Liêu binh không khỏi bàng hoàng. Gia Luật Hồng Cơ tay cầm bảo  đao giơ cao, quân Liêu lập tức im bặt, trừ tiếng ngựa hí, không còn một  tiếng nào khác. Gia Luật Hồng Cơ hạ bảo đao xuống, cười ha hả nói:

- Tiêu đại vương, ngươi bảo sẽ dẫn quân Liêu nhập quan, sao cửa ải  chưa thấy mở?

Lời vừa nói ra, trên ải lập tức có người thông dịch lại cho viên quan  trấn thủ nghe. Quan quân giữ thành lập tức huyên náo, chỉ mặt Tiêu  Phong chửi bới ầm ĩ. Tiêu Phong biết là Gia Luật Hồng Cơ tính dùng kế  ly gián, để quân Tống không mở cửa cho bên mình vào, trong lòng chua  xót, lập tức nhảy xuống ngựa tiến lên mấy bước nói:

- Bệ hạ, Tiêu Phong này phụ bạc ân điển thâm hậu khiến cho hoàng  thượng phải ngự giá thân chinh, quả là đáng chết.

Còn đang nói bỗng có hai bóng người lao vụt tới nhanh như ánh chớp,  xông thẳng vào Gia Luật Hồng Cơ, chính là Hư Trúc và Đoàn Dự. Hai  người thấy tình thế có chiều bất lợi, biết rằng việc ngày hôm nay chỉ còn  cách bắt lấy Liêu đế để uy hiếp thì mới mong bảo trì được đại cục, ra dấu  cho nhau rồi chia hai bên tiến vào.

Khi Gia Luật Hồng Cơ ra trận đã hờm trước đề phòng Tiêu Phong lại  giở lối cũ bắt sống cha con Sở vương năm nào. Chỉ huy sứ đội thân binh  liền quát lên một tiếng, hơn ba trăm tên lính cầm khiên lập tức tụ lại xếp  thành một bức tường, chắn ngay trước mặt vua Liêu. Lính cầm trường mâu, lính cầm đao phủ cũng đứng xếp hàng khít khao ngay trước mặt đội  thuẫn bài.

Thế nhưng Hư Trúc không phải còn như ngày trước, nay đã được chân  truyền của Thiên Sơn Đồng Mỗ, lại từng nghiên cứu tất cả các võ học bí  áo trên vách đá Linh Thứu Cung, võ công cao siêu tới mức tùy tâm sở  dục. Đoàn Dự thì sau khi hút được trọn vẹn công lực một đời của Cưu Ma  Trí, nội lực thâm hậu, cũng vào loại chấn cổ thước kim, thi triển Lăng Ba  Vi Bộ thì làm sao quân sĩ nước Liêu ngăn nổi?

Đoàn Dự chẳng khác gì con chạch  lách đông lượn tây, lẻn qua đám  lính cầm giáo cầm đao khít khao chỉ cách chưa đầy một thước. Bọn lính  cầm mâu đã không đâm trúng được Đoàn Dự lại vì quá gần nên vướng  lẫn nhau, người nọ đụng phải người kia.

Hư Trúc liên tiếp vươn tay, chộp ngực chộp lưng quân Liêu, ném ra  bên ngoài, càng lúc càng xông vào gần Gia Luật Hồng Cơ. Hai viên đại  tướng giục ngựa xông ra, mũi thương cùng đâm vào ngực Hư Trúc. Hư  Trúc đột nhiên nhảy vọt lên, hai chân chia ra đá vào đầu hai mũi giáo.  Hai viên tướng Liêu cùng quát lên, rung thương một cái định chấn động  cho Hư Trúc rớt xuống. Hư Trúc liền mượn ngay sức bật của ngọn giáo,  nhảy vọt lên thêm một lần nữa, từ trên không nhảy bổ xuống đầu Hồng  Cơ.

Một người thì trơn tuột như cá lượn, một người thì vùn vụt như chim  bay, cùng tấn công khiến Gia Luật Hồng Cơ hoảng hốt, vung bảo đao lên  chém vào Hư Trúc đang còn ở trên không. Tay trái Hư Trúc lập tức vươn  ra, chộp được sống đao, thừa thế đang rơi cuộn lại bắt luôn cổ tay Liêu  đế. Ngay lúc đó Đoàn Dự cũng đã vượt qua được rừng người, xông vào  nắm được vai Gia Luật Hồng Cơ. Hai người cùng quát:

- Đi thôi!

Cả hai cùng đưa tay vật một cái đã lôi được thân thể cao to của y  xuống khỏi lưng ngựa, quay đầu chạy ra. Quân Liêu bốn phía thấy hoàng  đế bị bắt, kinh hãi la hoảng lên, nhất thời không biết phải làm thế nào.  Mấy chục thân binh liều mạng xông lên cứu chúa đều bị Hư Trúc, Đoàn  Dự đá văng ra xa.

Hai người bắt được Liêu đế rồi, trong bụng mừng rỡ đột nhiên thấy  Tiêu Phong phi thân ra chặn lại, cùng kêu lên:

- Đại ca!

Ngờ đâu Tiêu Phong song chưởng đánh tới, vù vù hai tiếng chia ra tập  kích hai bên. Hai người kinh hãi, thấy chưởng lực chẳng khác gì bài sơn  đảo hải, đành phải giơ tay lên đỡ, bình bình bốn chưởng đụng nhau.  Chưởng phong rung chuyển, Tiêu Phong tiến lên thừa thế nắm ngay Gia  Luật Hồng Cơ.

Khi đó quân Liêu và quần hào Trung Thổ cũng đã từ hai bên ùa tới,  một bên định cứu hoàng đế, một bên muốn tiếp ứng cho Tiêu Phong, Hư  Trúc, Đoàn Dự.

Tiêu Phong quát lớn:

- Không ai được động đậy. Ta muốn  nói chuyện với hoàng đế Đại  Liêu.

Liêu quân và quần hào lập tức dừng lại, bên nào cũng sợ bên mình bị  thương nên chỉ đứng xa xa hò hét  không dám xung sát, cũng không ai  dám buông tên. Hư Trúc và Đoàn Dự cũng đã lui ra ba bước, chia ra đứng  sau lưng Gia Luật Hồng Cơ đề phòng y chạy trở về, đồng thời ngăn trở  cao thủ Khất Đan xông lên cứu giá.

Gia Luật Hồng Cơ mặt cắt không còn giọt máu, nghĩ thầm: “Tiêu  Phong này tính tình cực kỳ táo tợn, ta nhốt y vào chuồng sư tử, làm nhục y  quá đỗi. Bây giờ rơi vào tay y rồi, chắc hẳn y sẽ báo thù không để cho ta  sống sót”. Bỗng nghe Tiêu Phong nói:

- Bệ hạ, hai người này là anh em kết nghĩa của thần, không làm hại  bệ hạ đâu, hoàng thượng cứ yên tâm.

Gia Luật Hồng Cơ hừ một tiếng quay lại nhìn Hư Trúc, rồi quay sang  nhìn Đoàn Dự. Tiêu Phong tiếp:

- Nhị đệ của thần là Hư Trúc, chủ nhân cung Linh Thứu, còn tam đệ  là Đoàn công tử nước Đại Lý, vi thần đã từng tâu lên bệ hạ rồi.

Gia Luật Hồng Cơ gật đầu:

- Quả là giỏi thật.

Tiêu Phong nói:

- Chúng tôi sẽ thả bệ hạ về trận, chỉ mong bệ hạ ban thưởng cho.

Gia Luật Hồng Cơ tưởng chừng không tin vào tai mình nữa, nghĩ thầm:  “Trên đời này sao lại có chuyện dễ dàng thế nhỉ? A, đúng rồi, Tiêu  Phong đã hồi tâm chuyển ý, cầu ta phong cho ba người làm quan”. Y đổi  mặt tươi cười nói:

- Các ngươi cầu khẩn chuyện gì, ta tự nhiên không gì không thuận.

Y vốn dĩ giọng nói run run nhưng hai câu này đã trở lại vẻ tôn nghiêm  của một hoàng đế. Tiêu Phong nói:

- Bệ hạ đã là tù binh của hai vị huynh đệ, cứ theo qui củ của người  Khất Đan chúng ta, bệ hạ phải lấy tài hóa đem ra chuộc.

Gia Luật Hồng Cơ nhíu mày:

- Các ngươi muốn gì?

Tiêu Phong đáp:

- Vi thần mạo muội thay hai vị huynh đệ mở lời, chỉ xin kim khẩu bệ  hạ bằng lòng thôi.

Hồng Cơ cười ha hả nói:

- Trên cõi đời này, những gì ta  kiếm không ra chắc cũng chẳng  nhiều, con mãnh sư kia cứ việc nói ra đi.

Tiêu Phong đáp:

- Chỉ xin bệ hạ bằng lòng lập tức thoái binh, trong đời bệ hạ không  để một tên quân, một tên lính vượt qua biên giới Liêu Tống.

Đoàn Dự nghe nói hết sức hả dạ, nghĩ thầm: “Liêu quân không vượt  biên giới Tống Liêu thì đâu có thể chắp cánh mà bay sang xâm phạm Đại  Lý mình được”. Chàng liền đáp ngay:

- Đúng thế, chỉ cần hoàng thượng đáp lời là chúng tôi sẽ thả về ngay.

Lại chợt nghĩ: “Bắt giữ hoàng đế nước Liêu, công lao nhị ca còn nhiều  hơn ta, không biết y muốn gì?”. Đoàn Dự liền quay sang hỏi Hư Trúc:

- Nhị ca muốn hoàng đế Khất Đan chuộc thân bằng gì?

Hư Trúc lắc đầu nói:

- Ta cũng chỉ muốn y bằng lòng điều đó thôi.

Khuôn mặt Gia Luật Hồng Cơ sầm xuống, trầm giọng hỏi:

- Các ngươi dám lớn mật uy hiếp ta sao? Nếu ta không bằng lòng thì  thế nào?

Tiêu Phong dõng dạc nói:

- Nếu thế thì thần xin được cùng bệ hạ đồng qui ư tận, ngọc đá đều  tan. Hai chúng ta năm xưa kết nghĩa đã  từng có lời thề chỉ mong cùng  năm, cùng tháng, cùng ngày chết chung với nhau.

Gia Luật Hồng Cơ chột dạ, nghĩ thầm: “Gã Tiêu Phong này không sợ  trời, không sợ đất, là đồ vong mệnh, xưa nay nói một là một, hai là hai.  Nếu như ta không chịu ắt thể nào cũng mạo phạm, chết dưới tay tên  mãng phu này thì quả là uổng quá”.

Y bèn cười ha hả lớn tiếng nói:

- Chỉ một mạng Gia Luật Hồng Cơ  này mà đổi lấy mấy chục năm  bình an của hai nước Tống Liêu. Hảo huynh đệ, ngươi coi mạng ta quả là  đáng trọng.

Tiêu Phong đáp:

- Bệ hạ là chúa tể Đại Liêu, khắp thiên hạ còn gì quí trọng hơn được  nữa?

Gia Luật Hồng Cơ lại cười nói:

- Nếu nói thế, năm xưa người Nữ Chân đòi ta ba mươi xe vàng, ba  trăm xe bạc, ba nghìn tuấn mã thế là còn ít, phải không?

Tiêu Phong chỉ hơi khom lưng, không dám trả lời. Gia Luật Hồng Cơ  quay đầu lại thấy tướng sĩ thủ hạ, kẻ gần nhất cũng phải cách mình đến  hơn trăm bước, không cách nào có thể cứu mình thoát hiểm, tính toán hơn  thiệt, trên đời này có gì quí hơn tính mạng, lập tức từ ống tên rút ra một  mũi điêu vũ lang nha tiễn, hai tay bẻ gập lại, cắc một tiếng, gãy ra làm  đôi, vứt xuống đất nói:

- Ta bằng lòng đó!

Tiêu Phong khom lưng đáp:

- Đa tạ bệ hạ.

Gia Luật Hồng Cơ quay người lại, cất bước toan đi thấy Hư Trúc và  Đoàn Dự vẫn trừng trừng nhìn mình, không có vẻ gì muốn tránh ra  nhường lối, quay lại nhìn Tiêu Phong, thấy ông cũng không nói năng gì,  lập tức hiểu ra, biết ba người sợ mình sau này nuốt lời, lập tức rút phắt  bảo đao giơ lên cao lớn tiếng nói:

- Ba quân Đại Liêu nghe đây!

Trong quân Liêu tiếng trống trận thúc lên rộn rã, vừa hết một hồi, lập  tức ngưng lại. Gia Luật Hồng Cơ nói:

- Đại quân trở lại phương bắc, không tiếp tục nam chinh nữa.

Y ngừng lại một chút nói tiếp:

- Trong suốt đời ta sẽ không để một người lính của nước Liêu xâm  phạm biên giới Đại Tống.

Y nói xong hạ đao xuống, tiếng trống trong quân lại nổi lên. Tiêu  Phong khom lưng nói:

- Vi thần cung kính tiễn đưa bệ hạ về trận.

Hư Trúc và Đoàn Dự tránh sang hai bên, đi vòng ra sau lưng Tiêu  Phong. Gia Luật Hồng Cơ vừa mừng vừa sợ, lại thêm hổ thẹn tuy muốn ra  khỏi nơi hiểm địa cho mau nhưng không muốn để cho Tiêu Phong và  quân Liêu thấy mình kém thế nên cố gắng trấn tĩnh, khoan thai trở về.

Trong đám quân Liêu có vài mươi thân binh phi ngựa chạy ra nghinh  tiếp. Gia Luật Hồng Cơ lúc đầu bước đi còn chậm rãi nhưng càng lúc  càng nhanh, chân lảo đảo dường như không còn hơi sức, tay run lẩy bẩy,  mồ hôi trán tươm ra ròng ròng, khi thị vệ xuống ngựa dắt tọa kỵ của y  đến thì Gia Luật Hồng Cơ người mềm như bún, chân trái đã đặt vào bàn  đạp rồi mà không sao lên yên nổi. Hai tên thị vệ liền đỡ sau lưng, dụng  lực nhấc bổng lên, Gia Luật Hồng Cơ mới lên ngựa được.

Quân Liêu thấy hoàng đế bình yên trở về, cùng cất tiếng reo hò:

- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Khi đó binh lính người Tống trên Nhạn Môn Quan, quần hào ở dưới đã  cùng nghe thấy Liêu đế hạ lệnh thoái binh, lại thề suốt đời không đem  quân phạm giới, ai nấy hoan hỉ reo hò như sấm động. Mọi người đều biết  người Khất Đan tuy hung tàn hiếu sát nhưng lại cực kỳ thủ tín, đã giao  ước gì với Đại Tống rồi, rất hiếm khi nuốt lời, huống chi Liêu đế đứng  trước trận tiền chính miệng hạ chỉ, ngày sau trở mặt thì dân chúng cùng  bách quan trên dưới còn ai coi ông ta ra gì nữa, cái ngôi hoàng đế chưa  chắc đã yên.

Gia Luật Hồng Cơ vẻ mặt uất hận, nghĩ thầm phen này mình bị Tiêu  Phong bức bách, đáp lời một chuyện trọng đại như thế mới được yên thân  trở về, thật không còn mặt mũi nào nữa, vô cùng tổn thương đến quốc uy  nước Đại Liêu. Thế nhưng nghe tiếng hò reo vạn tuế của quân Liêu đầy  vẻ chí thành, y đưa mắt nhìn khắp lượt sĩ tốt, thấy ai nấy mặt mày hớn hở,  niềm vui lộ hẳn ra mặt.

Các sĩ tốt nghĩ đến mọi người lập tức ban sư, trở về đoàn viên cùng  cha mẹ vợ con, không phải vạn dặm xa xôi chinh chiến, bỏ thân nơi xứ lạ  quê người, mừng không sao kể xiết. Người Khất Đan tuy dũng mãnh  thiện chiến, nhưng binh hung chiến nguy, ai dám chắc là mình không  chết, hôm nay được miễn cái thảm  họa này, ngoài một số tướng lãnh  muốn chinh chiến để có dịp thăng quan phát tài, người người đều hoan hỉ.

Gia Luật Hồng Cơ trong dạ bàng hoàng: “Thì ra tướng sĩ của ta cũng  chẳng mấy ai muốn tiến đánh Nam  triều, nếu như xua binh nam chinh,  chưa hẳn chỉ một trận đã toàn thắng”. Y lại chợt nghĩ: “Cái bọn man tử  Nữ Chân kia cực kỳ khả ố, để chúng ở sau lưng Khất Đan, thực là mối lo  trong gan ruột, ta sẽ phái binh quét sạch chúng đi rồi tính sau”. Y liền giơ  bảo đao lên, cao giọng nói:

- Bắc Viện Đại Vương mau mau truyền lệnh, hậu đội biến thành tiền  đội, ban sư Nam Kinh.

Trong quân tiếng kèn trống vang lừng, ngự chỉ truyền xuống, tiếng hò  reo mới đầu ở gần dần dần truyền mỗi lúc một xa. Gia Luật Hồng Cơ  quay đầu lại thấy Tiêu Phong vẫn còn đứng sừng sững tại chỗ cũ, cười  khẩy một tiếng lớn tiếng nói:

- Tiêu đại vương, ngươi lập đại công cho Đại Tống như vầy, cao  quan hậu lộc kể là nắm chắc trong tay rồi.

Tiêu Phong nói lớn:

- Bệ hạ, Tiêu Phong là người Khất Đan, hôm nay uy hiếp bệ hạ,  thành đại tội nhân của nước Liêu, còn mặt mũi nào đứng trong trời đất?

Ông cúi xuống nhặt hai nửa mũi tên gãy, vận nội công vào, hai cánh  tay giựt mạnh một cái, nghe phụp một tiếng cắm thẳng vào tim. Gia Luật  Hồng Cơ kêu lên một tiếng kinh hoàng, giục ngựa chạy lên mấy bước  nhưng lại gò cương dừng vó. Hư Trúc và Đoàn Dự hồn phi phách tán,  cùng chồm tới kêu lên:

- Đại ca! Đại ca!

Thế nhưng hai nửa mũi lang nha tiễn đã cắm trúng tim, Tiêu Phong  đôi mắt nhắm nghiền tắt thở rồi. Hư Trúc vội xé áo ông ra toan cứu chữa  nhưng vết thương ở ngay tâm tạng không còn làm gì được nữa. Chỉ thấy  trên ngực ông xâm hình một con thanh lang nhe răng, thần tình cực kỳ dữ  tợn. Hư Trúc và Đoàn Dự khóc rống lên, phục xuống lạy.

Người trong Cái Bang cùng xông lên, vây quanh sì sụp, Ngô Trường  Phong đấm ngực kêu than:

- Kiều bang chủ, tuy ông là người Khất Đan nhưng so với bọn người  Hán vô dụng chúng tôi còn anh hùng gấp vạn lần.

Quần hào Trung Nguyên cũng xúm xít, có kẻ hạ giọng nghị luận:

- Kiều bang chủ quả thực là người Khất Đan sao? Thế sao ông ta lại  quay sang tương trợ Đại Tống? Xem ra người Khất Đan cũng có anh hùng  hào kiệt.

- Y từ nhỏ lớn lên với người Hán nên học được cái tính đại nhân đại  nghĩa của người Hán.

- Hai nước bãi binh, ông ta trở thành một đại công thần hòa giải khó  khăn, sao lại tự tìm cái chết nhỉ?

- Y tuy có công với Đại Tống nhưng ở nước Liêu thì thành tên giặc  bán nước, phản quốc trợ địch, cho nên sợ tội tự sát.

- Cái gì mà sợ với chẳng không sợ? Kiều bang chủ anh hùng như thế,  trên đời này còn sợ gì nữa?

Gia Luật Hồng Cơ thấy Tiêu Phong  tự tận rồi, trong lòng hết sức  hoang mang nghĩ thầm: “Y đối với Đại Liêu ta có công hay có tội? Y hết  sức khuyên ta đừng phạt Tống, thế là vì người Tống hay vì người Khất  Đan? Y cùng ta kết nghĩa anh em, trước sau đối với ta trung thành son sắt,  hôm nay chết trước Nhạn Môn Quan, đâu phải vì tham cái công danh phú  quí của Nam triều, thế … thế là thế nào?”. Y gượng nở một nụ cười, lắc  đầu, quay ngựa đi thẳng vào đám Liêu binh.

Tiếng vó ngựa dồn dập trổi lên, hàng nghìn hàng vạn quân Liêu đi về  hướng bắc. Tướng sĩ không ngừng quay đầu, ái ngại nhìn thi thể Tiêu  Phong nằm dưới đất. Chỉ nghe tiếng quác quác, một đoàn hồng nhạn bay  ngang trên đầu đại quân qua Nhạn Môn Quan.

Hư Trúc, Đoàn Dự tất cả mọi người đứng vây quanh xác Tiêu Phong,  người thì khóc nức nở, kẻ ngậm ngùi âm thầm rơi nước mắt. Bỗng nghe  tiếng một thiếu nữ lanh lảnh kêu lên:

- Tránh ra, tránh ra! Tất cả tránh cả ra! Các người làm chết tỉ phu  của ta rồi, còn ở đây giả vờ khóc lóc để làm gì?

Nàng vừa nói vừa hết sức xô mọi người ra chen vào, chính là A Tử.  Bọn Hư Trúc chẳng ai muốn tranh cãi với nàng, thấy vậy vội dạt ra. A Tử  trừng trừng nhìn vào thi thể Tiêu Phong, ngẩn ngơ một hồi, dịu dàng nói:

- Tỉ phu ơi, tất cả mọi người đều xấu xa, chẳng nên chấp họ làm gì,  chỉ có A Tử là thực bụng yêu thương tỉ phu thôi.

Nói xong cúi xuống ôm lấy xác Tiêu Phong bồng lên. Tiêu Phong thân  thể cao to, nửa trên cô gái kéo lên được nhưng hai chân vẫn lệt xệt dưới  đất. A Tử lại tiếp:

- Tỉ phu bây giờ mới thực là ngoan, thiếp ôm chàng, chàng không  đẩy thiếp ra. Phải thế chứ, thế mới là hay chứ.

Hư Trúc và Đoàn Dự hai người  nhìn nhau nghĩ thầm: “Nàng thương  tâm quá đỗi, xem ra thần trí thất thường”. Đoàn Dự sụt sùi nói:

- Tiểu muội, Tiêu đại ca khẳng khái tựu nghĩa, người chết không thể  nào sống lại được, em … em …

Chàng tiến đến toan đỡ lấy xác Tiêu Phong. A Tử sừng sộ gắt lên:

- Anh đừng đến đây cướp tỉ phu của tôi, anh ấy là của tôi, không ai  được đụng đến.

Đoàn Dự quay đầu nháy mắt với Mộc Uyển Thanh. Mộc Uyển Thanh  hiểu ý đi đến bên cạnh A Tử, dịu dàng nói:

- Tiểu muội tử, Tiêu đại ca qua đời, chúng mình bàn chuyện chôn cất  anh ấy ra sao…

A Tử đột nhiên rú lên lanh lảnh khiến Mộc Uyển Thanh giật nảy  người vội nhảy ngược trở ra. A Tử thét:

- Cút ra, cút ra ngay! Ngươi còn đến gần là ta một kiếm đâm chết  tươi.

Mộc Uyển Thanh chau mày nhìn Đoàn Dự lắc đầu. Bỗng từ trong dãy  núi bên cạnh cửa ải có tiếng người gọi:

- A Tử, A Tử, ta nghe thấy tiếng cô rồi, cô nương ở đâu đó? Cô  nương ở đâu đó?

Giọng nói cực kỳ thê thảm, một số đông nhận ra đó là tiếng của Du  Thản Chi, người giả tên Trang Tụ Hiền cũng là bang chủ Cái Bang. Mọi  người quay qua nhìn về phía có tiếng nói, thấy Du Thản Chi hai tay cầm  hai cây gậy trúc, gậy bên trái dò đường, gậy bên phải móc vào vai một  hán tử trung niên, từ thung lũng đi lên. Người đàn ông trung niên kia  chính là kẻ được chỉ định ở lại giữ Linh Thứu Cung Ô Lão Đại. Chỉ thấy y  hình dung tiều tụy, áo quần rách rưới, thần tình ra chiều cam chịu, bọn Hư  Trúc thoạt nhìn đã biết ngay Du Thản Chi ép y phải dẫn đi tìm A Tử, trên  đường hẳn phải chịu nhiều đắng cay.

A Tử giận dữ đáp:

- Ngươi đến đây làm chi? Ta không muốn thấy ngươi, ta không muốn  gặp ngươi.

Du Thản Chi vui mừng nói:

- A, quả nhiên cô nương ở đây, tôi nghe được tiếng cô nương rồi, sau  cùng rồi cũng kiếm được cô nương.

Gậy bên phải vận kình đẩy một cái, Ô Lão Đại không tự chủ chạy vọt  về phía trước. Hai người chạy thật nhanh, chỉ trong khoảnh khắc đã đến  trước mặt A Tử. Hư Trúc và Đoàn Dự còn chưa biết tính sao, thấy Du  Thản Chi cùng nghĩ thầm người này cam nguyện đem hai mắt tặng cho A  Tử, có liên hệ với nàng cực kỳ sâu xa, may ra có thể khuyên giải cô gái,  liền lùi lại mấy bước để mặc hai người trò truyện với nhau. Du Thản Chi  nói:

- A Tử cô nương, cô khỏe chứ? Có ai coi rẻ cô nương không?

Trên khuôn mặt xấu xí hiện lên một nét tươi vui, lại ra chiều quan  thiết. A Tử đáp:

- Nếu có người coi thường ta thì ngươi làm gì được họ?

Du Thản Chi vội đáp:

- Kẻ nào dám đắc tội với cô nương? Cô nương mau bảo tôi, tôi sẽ thí  mạng với hắn.

A Tử cười nhạt một tiếng, chỉ vào mọi người đứng chung quanh nói:

- Tất cả bọn họ ai ai cũng khinh khi ta, ngươi giết sạch họ đi xem  nào.

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Y hỏi Ô Lão Đại:

- Lão Ô, ai là kẻ đắc tội với cô nương?

Ô Lão Đại đáp:

- Đông người lắm, ngươi giết không hết đâu.

Du Thản Chi đáp:

- Giết không hết cũng cứ giết, ai bảo họ dám đắc tội với cô nương.

A Tử bực tức nói:

- Ta hiện nay ở chung với tỉ phu, vĩnh viễn không bao giờ ngăn cách.  Ngươi mau mau cút cho xa, ta không muốn thấy mặt ngươi nữa.

Du Thản Chi hết sức đau lòng, lắp bắp:

- Cô … cô nương không còn muốn gặp tôi …

A Tử cao giọng đáp:

- À, phải rồi, mắt ta là do ngươi tặng cho. Tỉ phu bảo là ta còn nợ  ngươi một mối ân tình, bảo ta phải tử tế với ngươi, ta nghe thế không vui  chút nào.

Nàng nói tới đây đưa tay phải lên  đâm luôn vào mắt mình, đã móc  được đôi con ngươi, hết sức ném vào Du Thản Chi kêu lên:

- Trả ngươi đó! Trả ngươi đó! Từ nay về sau, ta chẳng còn nợ nần gì  ngươi nữa. Có thế tỉ phu ta mới khỏi ép ta, bảo ta phải đi theo ngươi.

Du Thản Chi tuy không nhìn thấy gì nhưng nghe tiếng người chung  quanh la hoảng, thanh âm đầy vẻ hoảng hốt, biết ngay đã có đột biến,  nghẹn ngào nói:

- A Tử cô nương! A Tử cô nương!

A Tử ôm xác Tiêu Phong, nhỏ nhẹ nói:

- Tỉ phu, chúng mình chẳng còn nợ nần ai điều gì. Hồi trước thiếp  dùng độc châm bắn chàng, chỉ vì muốn chàng mãi mãi ở cạnh em, hôm  nay quả đã được như tâm nguyện.

Nói xong lệt sệt ôm xác Tiêu Phong bước đi. Quần hào thấy máu từ  đôi mắt nàng chảy ròng ròng trên khuôn mặt trắng bệch không khỏi kinh  hãi nên đi đến đâu mọi người tránh ra đến đó. Chỉ thấy cô gái đi thẳng về  phía sơn cốc ở bên sườn núi. Mọi người ai nấy kêu lên:

- Dừng lại! Dừng lại! Trước mặt là vực sâu.

Đoàn Dự phi thân chạy tới kêu lên:

- Tiểu muội, em …

Thế nhưng A Tử càng chạy nhanh hơn, đột nhiên chân đạp hẫng vào  chỗ không, nhào người xuống vực sâu  vạn trượng. Đoàn Dự giơ tay ra  nắm lại, soẹt một tiếng chỉ nắm được chút vạt áo, đột nhiên bên cạnh có tiếng gió gấp gáp, ai đó đã bổ nhào tới, vội vàng nghiêng qua thấy Du  Thản Chi cũng đã lao theo. Đoàn Dự kêu lên:

- Ối trời!

Chàng đưa mắt nhìn xuống chỉ thấy mây mù bao phủ, không biết vực  núi sâu tới đâu. Quần hào đứng bên sơn cốc, ai nấy ngậm ngùi thở dài,  người võ công hơi kém thấy vách đá đầy những đá tai mèo lởm chởm,  nhọn hoắt như dao, không khỏi kinh tâm.

Những người tuổi cao như Huyền Độ, nhớ lại năm xưa Huyền Từ,  Uông bang chủ phục kích võ sĩ Khất Đan ngoài Nhạn Môn Quan, biết  mẫu thân Tiêu Phong cũng chết ở ngay cái vực này.

Bỗng nghe từ trên ải tiếng trống đánh thì thùng, gã quan quân kia lại  lớn tiếng nói:

- Phụng đô chỉ huy sứ trấn thủ Nhạn Môn Quan truyền tướng lệnh:  Các ngươi quả không phải là gian tế  nước Liêu nên đặc biệt cho nhập  quan nhưng phải an phận giữ gìn, không được ồn ào, nhất mực tuân thủ  phép nước.

Quần hào đứng dưới liền nhao nhao chửi rủa:

- Bọn ta thà chết chứ không đi qua cái cửa ải do tên quan chó má kia  trấn giữ.

- Nếu chẳng vì tên cẩu quan khiếp nhược kia thì Tiêu đại hiệp đâu  có đến nỗi phải chết.

- Tất cả xông vào giết quách tên chó má kia đi!

Mọi người hung hăng chỉ vào cửa ải, hoa tay dậm chân không tiếc lời.  Hư Trúc, Đoàn Dự cúi xuống vực sâu lạy mấy lạy, sau đó vượt qua núi  mà đi.

Gã trấn thủ Nhạn Môn Quan thấy quần hào uy thế dũng mãnh vội đổi  lệnh đóng chặt cửa không cho ai vào nữa, đợi cho mọi người chán lời, bỏ  đường cái trèo qua núi xuôi nam cả rồi lúc ấy mới yên lòng. Y lập tức  viết biểu báo tin thắng trận, cho khoái mã đưa về Biện Lương, nói là đích  thân thống lãnh bộ hạ tướng sĩ, huyết chiến mấy ngày với hơn một chục  vạn quân Liêu, nhờ hồng phúc tề thiên của hoàng thượng cùng chỉ bảo đúng đắn của đại thần trong triều  nên đã xả thân giết được đại tướng  nước Liêu là Nam Viện Đại Vương  Tiêu Phong cùng mấy nghìn quân  địch, Liêu chúa Gia Luật Hồng Cơ phải cụp đuôi chạy dài.

Tống đế Triệu Hú nhận được biểu hết sức mừng rỡ, truyền chỉ khao  thưởng quân sĩ đóng ở chung quanh cửa quan, từ chỉ huy sứ trở xuống ai ai  cũng được thăng quan tấn tước. Triệu Hú tự cho mình là anh minh vũ  dũng, vượt xa Thái Tổ Thái Tông, ngày đêm cùng triều thần yếm ẩm,  hoan lạc với các phi tần ở hậu cung, tiếng ca công tụng đức nghe đầy cả  tai, biểu văn khánh chúc đại thắng gửi về nườm nượp.  *

* *

Đoàn Dự cùng Hư Trúc, Huyền Độ, Ngô trưởng lão và quần hùng chia  tay rồi liền cùng Mộc Uyển Thanh, Chung Linh, Hoa Hách Cấn, Phạm  Hoa, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần trở về Đại Lý. Vào đến quốc cảnh,  Vương Ngữ Yên và thị vệ võ sĩ Đại Lý đã ra tận biên giới nghênh tiếp,  nghe Đoàn Dự kể lại tình trạng Tiêu Phong và A Tử ai nấy đều ngậm  ngùi. Cả đoàn về nam, Đoàn Dự không muốn kinh động bách tính nên  truyền lệnh không mặc sắc phục bách quan, ra đi thế nào cứ để nguyên  như thế mà lên đường.

Hôm đó về đến kinh thành, Đoàn Dự muốn lên chùa Thiên Long để  bái kiến Khô Vinh đại sư và bá phụ Đoàn Chính Minh nhưng trời đã sắp  tối mà còn cách chùa đến hơn sáu mươi dặm, đành phải kiếm chỗ nghỉ  ngơi. Bỗng nghe trong rừng có tiếng trẻ con reo lên:

- Bệ hạ! Bệ hạ! Chúng tôi lạy bệ hạ rồi, sao bệ hạ không cho kẹo?

Mọi người nghe thế ai nấy đều ngạc nhiên: “Sao lại có người nhận ra  được hoàng thượng nhỉ?”. Cả bọn tiến vào xem xét, nghe thấy trong rừng  có người nói:

- Các ngươi phải xướng: Nguyện ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn  vạn tuế, thế mới có kẹo.

Tiếng nói đó cực kỳ quen thuộc, chính là Mộ Dung Phục. Đoàn Dự và  Vương Ngữ Yên hoang mang, vội nắm lấy tay nhau, nép vào sau gốc cây, nhìn về phía có thanh âm, thấy Mộ Dung Phục ngồi trên một cái gò đất,  đầu đội mũ giấy cao nghệu, thần sắc nghiêm trang.

Bảy tám đứa trẻ con nhà quê quì trước đống đất, lao xao nhắc lại:

- Nguyện ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!

Bọn chúng vừa chúc tụng rầm rĩ  vừa lạy như tế sao, có đứa thò tay  giục:

- Cho kẹo đi, cho bánh đi!

Mộ Dung Phục đáp:

- Chư khanh bình thân, trẫm đã hưng phục được Đại Yên, lên ngôi  đại bảo rồi, mọi người ai cũng được phong thưởng.

Bên cạnh gò đất một cô gái đứng ủ rũ, chính là A Bích. Nàng mặc một  chiếc áo dài màu xanh lợt, khuôn mặt xinh xắn nhuốm vẻ tiều tụy buồn  rầu, lấy kẹo bánh từ trong một chiếc giỏ, chia cho đám trẻ con miệng nói:

- Các cháu ngoan lắm, mai ra chơi nữa, lại được kẹo được bánh.

Giọng nàng nghẹn ngào, mấy giọt nước  mắt lã chã rơi trên giỏ tre.  Bọn trẻ con vỗ tay reo hò giải tán cùng nói:

- Mai lại ra nữa!

Vương Ngữ Yên biết rằng biểu ca thần trí đã thất thường, cái mộng đế  vương càng lúc càng sâu, không khỏi bùi ngùi. Đoàn Dự nhìn thấy thần  tình A Bích như thế, nỗi thương xót dâng tràn, định lên tiếng gọi nàng và  Mộ Dung Phục cùng về Đại Lý để tính đường sắp xếp cho ổn thỏa nhưng  thấy cô gái nhìn Mộ Dung Phục hết sức nhu tình, còn Mộ Dung Phục thì  mặt mày đầy vẻ đắc ý thỏa mãn, trong bụng bàng hoàng: “Mỗi người có  một duyên pháp khác nhau, Mộ Dung huynh và A Bích như thế này, với  người khác thì thấy họ đáng thương, có biết đâu trong lòng họ lại hết sức  hoan lạc không chừng? Ta việc gì phải lắm chuyện?”. Chàng nhẹ nhàng  cầm tay áo Vương Ngữ Yên ra hiệu.

Mọi người lặng lẽ lui ra. Chỉ thấy Mộ Dung Phục ngồi chễm chệ quay  mặt về hướng nam, miệng vẫn lảm nhảm không thôi.

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro