TLBB2933

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ngoài điện nắng hè dường đổ lửa,

Trong nhà lạnh buốt nước thành băng.

Trùng lạ xem chừng chưa đáng sợ,

Dẫu độc sao bằng dạ sói lang.

*

* *

Du Thản Chi xách chiếc hồ lô, rảo bước đi về thành Nam Kinh, bẩm

lại cho A Tử là đã bắt được con băng tàm. A Tử mừng lắm vội vàng bảo y

bỏ con tằm vào trong chiếc hũ sành để nuôi. Lúc đó đang vào tháng bảy,

giữa mùa hè trời nóng gắt ngờ đâu vừa nuôi con băng tàm ở điện phụ, lập

tức trong nhà càng lúc càng lạnh, chẳng bao lâu nước trong bình trà chén

trà cũng kết thành băng.

Đêm hôm đó, Du Thản Chi nằm trong chăn mà run lẩy bẩy, không

sao ngủ được, nghĩ thầm: Con tằm này thật lạ trên đời ít có. Nếu như cô

nương đem nó hút máu mình thì dù không chết vì chất độc, cũng lạnh

cóng mà chết.

A Tử liên tiếp bắt mấy con rắn độc, trùng độc đem đến đấu với nó,

đều bị con băng tàm chạy quanh vài vòng là đông cứng chết ngay để cho

nó hút hết trấp dịch. Đến hơn mười ngày, không giống độc trùng nào

đương cự nổi.

Hôm đó A Tử đến điện phụ nói:

- Hề Sắt, hôm nay mình phải giết con băng tàm, ngươi thò tay vào

trong hũ để cho con tằm hút máu.

Du Thản Chi những ngày qua lúc nào cũng lo ngay ngáy, đêm trằn

trọc sợ cái giờ phút này, quả nhiên cô nương chẳng chút dung tình, rồi

cũng bắt y và con băng tàm cùng hi sinh, trong lòng buồn bã, quay sang

nhìn A Tử một lát không nói năng, không cử động. Về phần A Tử nàng

chỉ nghĩ: Ta vô tình được bảo vật hiếm có này, độc chưởng công phu khi

luyện thành rồi e rằng so với sư phụ còn ghê gớm hơn. Nàng liền giục:

- Ngươi thò tay vào hũ đi thôi.

Nước mắt Du Thản Chi nhỏ ròng ròng, quì xuống khấu đầu nói:

- Cô nương luyện thành độc chưởng rồi, đừng quên tiểu nhân vì cô

nương mà phải chết. Tôi họ Du, tên Thản Chi chứ không phải là Hề Sắt.

A Tử mỉm cười nói:

- Được, tên ngươi là Du Thản Chi, ta nhớ rồi. Ngươi trung thành với

ta, tốt lắm, đúng là một đứa đầy tớ hết lòng với chủ.

Du Thản Chi được nàng khen ngợi mấy câu như thế, cảm thấy hết sức

an ủi, lại khấu đầu thêm hai lần nữa nói:

- Đa tạ cô nương!

Thế nhưng y vẫn không muốn bó tay chịu chết bèn rùn người, vòng

xuống chui đầu qua hai đùi, tay trái nắm cổ chân, tay phải thò vào trong

hũ, trong đầu nghĩ đến những mũi tên nhỏ ở hai chữ quái dị bên cạnh nhà

sư khỏa thể trong cuốn sách. Đột nhiên đầu ngón tay trỏ hơi ngứa, một

làn khí lạnh như băng chạy thẳng lên như tên bắn, theo cánh tay vào

trong ngực. Du Thản Chi trong đầu chỉ nhớ đến hướng của mũi tên, luồng

hàn khí kia đi đúng theo những kinh mạch y đang nghĩ tới, từ ngón tay lên

cánh tay rồi từ ngực chạy lên đỉnh đầu, sợi dây nhỏ đó đi đến đâu tỏa hơi

lạnh buốt thấu xương.

A Tử thấy tư thế cổ quái của Du Thản Chi thật tức cười, qua một lúc

sau, thấy y đứng lộn tùng phèo như thế, không khỏi ngạc nhiên, đến gần

xem thấy con băng tàm vẫn cắn chặt ngón tay trỏ. Thân con tằm óng ánh

trong suốt như thủy tinh, nhìn kỹ thấy có một dòng máu chạy từ miệng đổ

vào, đi vòng qua phía tả, quấn quanh một vòng, rồi từ bên phải chảy

ngược trở về ngón tay trỏ Du Thản Chi.

Thêm một lúc nữa, trên chiếc đầu sắt, y phục, chân tay Du Thản Chi

đều phủ một làn sương mỏng, A Tử nghĩ thầm: Tên nô tài này chắc là

chết rồi. Người sống trên mình phải có hơi ấm, làm sao kết thành sương

được?. Thế nhưng trong người con băng tàm máu vẫn còn lưu chuyển,

hiển nhiên hút máu chưa xong. Đột nhiên trên mình con tằm có những sợi

nhiệt khí như tơ bốc ra.

A Tử còn đang kinh ngạc thì đã nghe bộp một tiếng, con tằm từ ngón

tay Du Thản Chi rơi xuống đáy hũ, vội dùng cây gậy cầm sẵn trong tay

giã xuống một cái. Nàng vẫn tưởng con tằm bản thể linh dị, một gậy như

thế chưa chắc đã giết được nó, ngờ đâu khi rơi xuống rồi, con vật chỉ nằm

phơi bụng không lật lại nổi, thành thử một gậy của A Tử đã đâm băng

tàm nát ngướu.

A Tử mừng lắm vội vàng thò tay vào hũ, bôi huyết dịch con tằm vào

lòng bàn tay, nhắm mắt hành công, hút hết vào trong người. Nàng cứ xoa

lên hết lần này sang lần khác đến khi không còn tí gì mới thôi.

Hành công lâu như thế trong người mệt mỏi, A Tử ngáp dài một

tiếng, đứng dậy, thấy đầu Du Thản Chi vẫn còn lộn ngược chui giữa hai

đùi, toàn thân trắng xóa, kết đầy băng sương. Nàng hết sức sợ hãi, đưa

tay sờ thử người y thấy lạnh buốt, quần áo đóng băng cứng ngắc. Nàng

vừa lạ lùng vừa tức cười, gọi Thất Lý vào bảo đem Du Thản Chi đi chôn.

Thất Lý liền cùng hai tên lính Khất Đan nữa, vứt xác Du Thản Chi

lên một chiếc xe ngựa, chạy ra khỏi thành. A Tử không dặn y phải chôn

cất cho chu đáo, Thất Lý cũng chẳng phí sức đào một cái huyệt, thấy bên

cạnh đường có một khe nước, liền vứt luôn xuống suối, rồi quay về.

Thế nhưng cũng chính vì Thất Lý làm biếng một chút mà lại cứu được

mạng Du Thản Chi. Thì ra ngón tay y bị băng tàm cắn rồi bèn dùng phép

vận công của Dịch Cân Kinh để hóa giải độc khí, huyết dịch bị con tằm

hút ra lại theo ngón tay quay ngược trở về huyết quản đem bao nhiêu tinh

hoa kịch độc của con băng tàm vào người. A Tử sau đó hút huyết tương

của con tằm chỉ mất công toi chứ không còn hiệu dụng gì cả.

Nếu như Du Thản Chi đã học toàn bộ phép hành công của Dịch Cân

Kinh thì sẽ có thể tiêu giải chất độc của con băng tàm nhưng vì y chỉ mới

học được có một pháp môn, thu vào mà không biết đẩy ra nên chất kỳ

độc đệ nhất âm hàn của con sâu kia đã khiến cho người y bị đông cứng.

Còn như Thất Lý đem y chôn xuống đất thì sẽ thành một cái xác ướp

dù có vài trăm năm sau cũng chưa chắc đã rữa được. Du Thản Chi bị vứt

xuống suối trôi theo dòng, hơn một chục dặm sau gặp chỗ uốn khúc,

vướng vào một đám lau sậy. Chẳng bao lâu, nước chung quanh người y đã

biến thành băng chẳng khác gì một chiếc quan tài thủy tinh. Nước suối

tiếp tục soi mòn, tiêu giải từng chút từng chút hàn khí khiến cho khối

băng bao quanh y dần dần tan hết.

Cũng may đầu Du Thản Chi có cái lồng sắt, kim loại mau nóng mà

cũng mau nguội nên đá trên đầu tan ra trước. Nước suối ọc vào mồm y

khiến Du Thản Chi ho sặc sụa, đầu óc tỉnh táo liền từ dưới khe nước bò

lên, nước đá trên người chạm vào nhau kêu loong coong.

Khi thân thể mới biến thành băng không phải y hoàn toàn không biết

gì cả mà chỉ vì bị kết trong khối băng không cử động được mà thôi. Đến

sau y hôn mê không còn biết gì nữa, bây giờ chết đi sống lại thật không

khác một giấc mộng dài.

Du Thản Chi ngồi trên bờ suối, nghĩ mình đối với A Tử một lòng

trung thành sắt son cam nguyện đem thân nuôi độc trùng để giúp nàng

luyện công, vậy mà khi mình chết đi, A Tử chẳng thèm thở dài lấy một

tiếng. Y từ trong băng nhìn ra thấy A Tử mặt mày hớn hở có được huyết

tương của con băng tàm đem chà vào lòng bàn tay, chỉ nghiêng đầu nhìn

mình, thấy y chết xem chừng thú vị, lại hơi kỳ quái, hoàn toàn chẳng có

chút gì thương xót.

Y lại nghĩ: Băng tàm độc địa như thế, đã từng hút chất độc của hàng

nghìn độc trùng độc xà, cô nương nay hút hết vào trong lòng bàn tay rồi,

độc chưởng chắc đã luyện thành. Nếu như ta quay về... Y đột nhiên run

bắn người lên, nổi gai ốc nghĩ thêm: Cô ta vừa thấy mình thể nào chẳng

đem ra thử độc chưởng. Nếu như đã luyện thành thể nào đánh một cái là

mình chết tươi. Còn như luyện chưa xong, thì lại sai mình đi bắt rắn độc,

trùng độc nữa cho đến bao giờ luyện xong một chưởng đánh chết mình

lúc ấy mới thôi. Hai đằng đằng nào cũng chết, quay về làm gì?.

Du Thản Chi đứng lên, nhảy nhót vài cái rũ hết những mảnh băng

còn bám trên người nghĩ thầm: Bây giờ mình biết đi đâu đây?. Đi tìm

Kiều Phong báo thù cho cha ư, điều đó y nào dám nghĩ đến. Nhất thời y

không biết tính sao, chỉ đành lang thang trong đồng rộng núi hoang, hái

trái dại, bắt chim chóc, thú nhỏ mà ăn. Đến chiều hôm sau, không có việc

gì làm, y bèn mang cuốn Dịch Cân Kinh bằng tiếng Phạn ra định học theo

tư thức của nhà sư trần truồng trong sách.

Cuốn sách đó khi rơi xuống suối đã ướt mèm, đến giờ vẫn chưa khô.

Y cẩn thận giở từng tờ, chỉ sợ rách, thấy trang nào cũng có hình một quái

tăng, tư thức mỗi người một khác. Y suy nghĩ một hồi rồi cũng hiểu ra,

hình trong quyển sách gặp nước thì lộ ra chứ chẳng phải bồ tát hiện thân

cứu mạng gì cả, bèn làm theo tư thức thứ nhất trên trang đầu tiên, lần

theo mũi tên đỏ trên những chữ quái lạ thấy có một sợi chỉ nhỏ thật lạnh

chạy ngang chạy dọc khắp tứ chi và xương cốt, chẳng khác gì con băng

tàm còn sống bò trong cơ thể mình. Y kinh hãi vội vàng đứng lên, lập tức

con tằm lạnh trong người liền biến mất.

Suốt hai giờ sau y chỉ nghĩ đến: Không biết con tằm chui vào người

mình đã chạy đi chưa?. Thế nhưng y không sờ thấy, cũng chẳng mò ra,

không hình không bóng, sau cùng nhịn không nổi lại tập theo tư thức cổ

quái kia rồi nghĩ theo mũi tên đỏ trên hai chữ quái lạ, chẳng bao lâu lại

thấy có một con băng tàm bò trong cơ thể. Y kêu lên một tiếng, vội

ngừng lại không còn dám nghĩ thêm lập tức con tằm biến mất nhưng cứ

vừa nghĩ đến thì nó lại bò ra.

Mỗi lần con tằm bò một vòng, y lại thấy toàn thân thoải mái không

biết đâu mà kể. Trong cuốn sách hình những nhà sư khỏa thể rất nhiều, từ

những chữ lạ lùng kia những mũi tên đỏ cái cong cái thẳng, biến hóa

phức tạp. Y cứ theo những tư thức khác nhau mà gọi con tằm, trong người

khi nóng khi lạnh, mỗi lúc có một lối thư thái riêng.

Cứ như thế luôn mấy tháng trời, tay chân y bắt cầm thú càng lúc càng

linh hoạt, nhảy nhót cũng xa hơn, chạy thêm nhanh nhẹn mà trước kia

không thể nào bì kịp. Một buổi chiều, một con chó sói đói ở đâu đi kiếm

mồi, chồm đến vồ Du Thản Chi. Y kinh hãi, đang định bỏ chạy nhưng con

sói đã giương vuốt ra chộp vào đầu vai, nhe răng nhọn hoắt, định ngoặp

vào cổ họng. Du Thản Chi hết sức kinh hoàng, tiện tay đánh một chưởng

trúng ngay đầu con vật. Con chó sói đó văng ra xa, quằn quại mấy cái rồi

nằm thẳng cẳng. Du Thản Chi quay người chạy ra mấy trượng thấy con

chó sói vẫn nằm đó, trong bụng lạ lùng, nhặt một cục đá ném trúng ngay

thân nhưng con lang vẫn nằm yên. Y vừa mừng vừa sợ, rón rén đến gần

xem hóa ra con chó sói đã chết tự bao giờ.

Y thật không dám nghĩ tới chuyện mình chỉ tiện tay đánh một cái mà

ghê gớm đến thế, giơ tay lên lật qua lật lại xem kỹ, không thấy có gì

khác, nhịn không nổi kêu lên:

- Hồn ma con tằm này thiêng quá!

Y vẫn tưởng con tằm kia chết rồi hồn nó nhập vào người mình nên

mới có tài phép như thế chứ có ngờ đâu đó hoàn toàn do công lực từ Dịch

Cân Kinh, lại thêm băng tàm là vật kịch độc hãn hữu, luồng âm hàn ghê

gớm đó bị y hút vào trong người, chứa vào nội công thượng thừa của Dịch

Cân Kinh nên mỗi khi đánh ra đều có chứa âm kình cực kỳ ghê gớm.

Dịch Cân Kinh là bảo điển chí cao vô thượng trong võ học, có điều

pháp môn tu tập không phải dễ dàng, cần phải phá được cảnh giới ngã

tướng, nhân tướng, trong bụng không còn nghĩ đến chuyện tu tập võ

công. Thế nhưng tăng lữ tập môn thượng thừa này, ai chẳng muốn tinh

tiến thật nhanh, mong cho chóng thành để công phu được ích lợi? Muốn

đến được tâm vô sở trụ1 quả thật là thiên nan vạn nan.

Trong mấy trăm năm qua, các cao tăng chùa Thiếu Lâm tu tập Dịch

Cân Kinh không phải là ít, thế nhưng dụng công năm chày tháng tận, vẫn

không mấy ai đạt được thành thử các nhà sư cho rằng kinh này không linh

hiệu, hôm trước A Châu ăn cắp mất, tăng chúng trong chùa tức giận thật

nhưng cũng không coi là chuyện lớn.

Hơn một trăm năm trước, chùa Thiếu Lâm có một nhà sư, xuất gia từ

thuở bé, tâm trí đần độn, điên điên khùng khùng. Sư phụ ông ta khổ công

tu tập Dịch Cân Kinh không thành, giận quá mà tọa hóa2. Nhà sư điên kia

nhặt được quyển kinh ở bên cạnh di thể của sư phụ, hăm hăm hở hở đem

ra luyện, ngẫu nhiên sao thành một đại cao thủ. Thế nhưng võ công ông

ta tại sao cao cường như thế, đến lúc viên tịch tây qui, cũng vẫn không

sao giải thích được, chẳng một ai biết đó là công phu Dịch Cân Kinh.

Đến bây giờ Du Thản Chi vô tâm luyện công phu này, chỉ tưởng là

gọi con băng tàm trong người bò ra bò vào cho đỡ buồn, có biết đâu ngày

một tiến bộ, chính là theo được con đường của nhà sư khùng hồi trước.

Mấy hôm sau y lại liên tiếp đánh chết thêm mấy con dã thú khác, bấy

giờ mới biết chưởng lực của mình rất mạnh, trong bụng cũng can đảm

thêm được một chút. Du Thản Chi tiếp tục đi về hướng nam, trong bụng

ngay ngáy sợ rằng nếu mình bỏ quên không gọi hồn con băng tàm một

ngày, ma tằm sẽ bỏ đi mất, thành thử ngày nào cũng phải kêu nó ra,

không dám lơ là. Com ma tằm bây giờ cực kỳ linh dị, gọi là ra ngay.

Du Thản Chi đi càng lúc càng xa, hôm đó đã đến địa giới tỉnh Hà

Nam ở trung châu. Y cũng biết cái đầu sắt của mình làm người ta sợ hãi

nên ban ngày chỉ ẩn náu tại những sơn động hoang dã hay rừng sâu, bao

giờ trời tối mới mò ra nhà dân chúng ăn trộm đồ ăn. Lúc này thân thủ y

mẫn tiệp dị thường nên không bao giờ bị người ta phát giác.

Ngày hôm đó y chui vào một chiếc miếu hoang bên vệ đường nằm

ngủ, bỗng nghe thấy tiếng bước chân, có ba người đi vào trong am. Y vội

vàng chui xuống dưới bệ thờ, không dám để cho người ta thấy. Ba người

đó đi vào trong miếu, ngồi xuống đất, lục đục ăn uống, nói năng chuyện

trên giang hồ. Bỗng nhiên một người hỏi:

- Ngươi thử nghĩ Kiều Phong bây giờ trốn ở đâu, sao hơn một năm

nay, không ai nghe thấy tin tức gì của y cả?

Du Thản Chi vừa nghe thấy hai tiếng Kiều Phong liền chột dạ, vội

vàng cố lắng tai nghe. Lại nghe một người khác nói:

- Tên đó tác ác đa đoan bây giờ rụt đầu rụt cổ như con rùa, chắc

không kiếm được y đâu.

Người nói lúc nãy lại tiếp:

- Chưa hẳn thế đâu. Y đợi đúng lúc mới ra tay, một khi người ta lơ là,

lúc ấy mới hạ thủ. Ngươi thử nghĩ mà xem, sau khi đại chiến Tụ Hiền

Trang rồi, y còn giết thêm bao nhiêu người nữa? Từ trưởng lão, vợ chồng

Đàm công, Đàm bà, Triệu Tiền Tôn, toàn gia Thái Sơn Thiết Diện Phán

Quan Đơn lão anh hùng, Trí Quang lão hòa thượng của núi Thiên Thai,

rồi Mã phu nhân của Cái Bang, trưởng lão Bạch Thế Kính, ôi, quả là đếm

không hết.

Du Thản Chi nghe đến đại chiến Tụ Hiền Trang, trong lòng đau xót

nên những gì người đó nói sau không nghe thấy gì cả, một lúc sau mới

nghe một giọng già nua:

- Kiều bang chủ xưa nay đãi người nhân nghĩa, không ngờ... ôi...

không ngờ... quả thật là số kiếp nó làm ra thế. Thôi mình đi.

Nói xong ông ta đứng lên. Người kia nói:

- Này lão Uông, ông bảo bản bang đang bầu tân bang chủ, thế thì

phải cử ai đây?

Người già cả kia đáp:

- Nào ta có biết! Bầu tới bầu lui, đã hơn một năm rồi cũng chưa tìm

ra một anh hùng hảo hán nào được toàn bang bội phục. Thôi, chúng mình

đi xem sao.

Người kia nói:

- Thôi tôi biết bụng ông rồi, chắc ông mong Kiều Phong quay trở lại

làm bang chủ chứ gì? Thôi đừng mơ mộng hão huyền nữa, lỡ chuyện đó

truyền ra đến tai Toàn đà chủ thì ông khó sống đó!

Ông già họ Uông hốt hoảng nói:

- Tiểu Tất, câu đó là ngươi nói chứ ta có bao giờ bảo là mong Kiều

bang chủ trở lại làm bang chủ bản bang đâu?

Tiểu Tất cười khẩy:

- Ông mở miệng ra là Kiều bang chủ này, Kiều bang chủ nọ chẳng

phải bụng mong y về làm bang chủ hay sao?

Lão Uông bực tức đáp:

- Ngươi mà còn nói bậy nói bạ xem ta có đập chết cái đồ chó đẻ như

ngươi không?

Người thứ ba can:

- Thôi được rồi! Mình là chỗ anh em, đừng để mích lòng nhau, đi

nhanh lên không lại trễ. Kiều Phong làm sao làm bang chủ của mình

được? Y là giống Khất Đan chó má, mình gặp y là hai bên nhất định một

sống một chết rồi. Vả lại, ví như mình mời y về làm bang chủ, chắc gì y

đã chịu?

Lão Uông thở dài một tiếng nói:

- Ngươi nói thế phải lắm.

Nói xong cả ba người cùng đi ra khỏi miếu. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Cái Bang muốn kiếm Kiều Phong mà kiếm không ra, bọn họ có biết đâu

gã đó đang ở nước Liêu làm Nam Viện Đại Vương, ta phải nói cho họ

biết mới được. Cái Bang người nhiều thế mạnh, lại ước định thêm anh

hùng hảo hán Trung Nguyên may ra có thể giết được tên ác tặc đó. Ta sẽ

theo bọn họ đi giết Kiều Phong. Y nghĩ đến quay lại Nam Kinh sẽ gặp A

Tử, trong ngực lập tức nóng bừng bừng.

Du Thản Chi rón rén từ trong miếu đi ra, thấy ba tên đệ tử Cái Bang

đi đường núi về hướng tây, liền lẳng lặng theo sau. Lúc này trời đã tối

mịt, hoang sơn không một bóng người, đi được vài dặm đến một thung

lũng, nhìn xa xa nơi sơn cốc có một đống lửa. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Cái đầu sắt của mình thật quái đản, bọn họ trông thấy thể nào cũng hô

hoán rầm rĩ lên, chi bằng trốn trong bụi cỏ nghe ngóng rồi hãy tính.

Y chui vào trong đám cỏ dày, bò dần đến gần đống lửa. Bò được mấy

trượng, ngừng lại một chút, lại bò tiếp, nghe thấy tiếng người xôn xao,

xem ra người tụ tập chung quanh đám lửa không phải là ít. Du Thản Chi

lâu nay từng chịu biết bao nhiêu hành hạ dày vò nên không dám sơ sẩy

chút nào, bò càng gần càng chậm lại, tới sau một tảng đá cách chừng vài

trượng thì không dám tiến xa hơn nữa nên nằm phục tại đó lắng tai nghe.

Những người chung quanh đống lửa ai nấy đều đứng nói chuyện, Du

Thản Chi nghe một hồi mới biết ra đây là người của Đại Trí phân đà tụ

hội thương nghị về việc đại hội Cái Bang sắp tới sẽ suy cử ai lên làm

bang chủ. Có người chủ trương đề cử Tống trưởng lão, có người lại muốn

Ngô trưởng lão. Một người nói:

- Nói đến trí dũng song toàn thì phải bầu cho Toàn đà chủ của bản

bang, tiếc rằng Toàn đà chủ hôm trước đã bị tên Kiều Phong giả công vi

tư đuổi ra khỏi bang rồi, việc quay trở lại bang chưa ổn thỏa.

Lại một người khác nói:

- Gian mưu của Kiều Phong chính là do Toàn đà chủ đứng ra vạch

trần, Toàn đà chủ lập được đại công cho bản bang, việc trở lại thật dễ

dàng. Một khi đại hội khai mạc, chúng ta trước hết lo việc Toàn đà chủ

qui bang, sau đó mới nói đến công lao khi trước, rồi bầu ông ta lên làm

bang chủ.

Một giọng sang sảng cất lên:

- Việc bản nhân trở lại bang cũng là chuyện thuận lý. Thế nhưng

việc các huynh đệ bầu mỗ lên làm bang chủ thì chưa nên đề cập đến vội,

nếu không người khác lại tưởng huynh đệ vạch trần gian mưu của Kiều

Phong là có ý đồ riêng tư.

Một người khác lớn tiếng nói:

- Toàn đà chủ, nếu gặp việc thì đương nhân bất nhượng3. Ta xem

trong mấy vị trưởng lão của bản bang, võ công tuy cao cường thật nhưng

kể về mưu trí thì không ai bì kịp với ông được. Chúng ta đối phó với tên

gian tặc Kiều Phong, là việc đấu trí chứ không phải đấu sức, Toàn đà

chủ...

Gã Toàn đà chủ kia ngắt lời:

- Thi huynh đệ, ta chưa chính thức trở lại bang, ba chữ Toàn đà chủ

xin đừng gọi thế vội.

Hơn hai trăm người ăn mày đang đứng quanh đống lửa nhao nhao lên:

- Tống trưởng lão đã có dặn rằng nhờ ông tạm thời giữ chức đà chủ

bản đà, ba chữ Toàn đà chủ kia có gì mà không được?

- Tương lai ông lên làm bang chủ, thì chẳng còn hơn chức đà chủ hay

sao?

- Toàn đà chủ nếu chưa đảm đương bang chủ thì ít nhất cũng phải

lên chức trưởng lão, nhưng khi đó cũng phải kiêm lãnh cả bản đà.

- Đúng lắm, dẫu Toàn đà chủ có làm bang chủ vẫn có thể kiêm luôn

cả chức đà chủ Đại Trí phân đà.

Còn đang bàn luận xôn xao, một bang chúng từ cửa sơn cốc chạy vào,

lớn tiếng báo:

- Khải bẩm đà chủ, Đoàn vương tử nước Đại Lý xin bái phỏng.

Toàn đà chủ Toàn Quan Thanh lập tức đứng bật dậy hỏi:

- Đoàn vương tử nước Đại Lý ư? Bản bang trước nay có giao thiệp gì

với nước Đại Lý đâu?

Y liền lớn tiếng nói:

- Các vị huynh đệ, Đoàn gia nước Đại Lý là thế gia trứ danh trong võ

lâm, Đoàn vương tử tự mình đến đây, tất cả cùng đứng lên nghênh tiếp.

Nói xong tất lãnh mọi người cùng đi ra ngoài sơn khẩu đón khách.

Chỉ thấy một thanh niên công tử mặt mày tươi tỉnh đứng ngay tại đó, đằng

sau có bảy tám người tùy tòng. Thanh niên đó chính là Đoàn Dự, hai

người chắp tay chào, hóa ra biết nhau rồi, đã từng gặp ở trong rừng hạnh

ngoài thành Vô Tích. Toàn Quan Thanh lúc đó chưa biết lai lịch, thân

phận Đoàn Dự, nghĩ lại khi đó mình bị Kiều Phong đuổi ra khỏi bang

Đoàn Dự đều biết cả, không khỏi ngượng ngùng, nhưng lập tức trấn tĩnh

ngay, ôm quyền nói:

- Không biết Đoàn vương tử tới thăm nên không ra xa nghinh tiếp,

xin lượng thứ cho.

Đoàn Dự cười đáp:

- Không dám! Không dám! Vãn sinh phụng mệnh gia phụ, có một

việc muốn phụng cáo quí bang cho nên mới đến làm phiền.

Hai người nói mấy câu khách sáo, Đoàn Dự giới thiệu đi cùng là Cổ

Đốc Thành, Phó Tư Qui, Chu Đan Thần ba người. Toàn Quan Thanh mời

Đoàn Dự đến ngồi tại một phiến đá trước đống lửa, sau đó bang chúng

đem rượu ra mời. Đoàn Dự tiếp lấy uống cạn rồi nói:

- Mấy tháng trước4, gia phụ ở tại Trung Châu có đến phủ của cố Mã

phó bang chủ quí bang, gặp một kỳ sự, chính mắt trông thấy cái chết của

Bạch Thế Kính Bạch trưởng lão. Việc này có liên can trọng đại đến quí

bang, lại cả đến anh hùng võ lâm Trung Nguyên nữa nên muốn trình cho

các nhân vật thủ não của quí vị. Có điều gia phụ thụ thương, dưỡng bệnh

đến nay mới đỡ mà các trưởng lão trong bang hành tung vô định, không

sao gặp được, khiến cho phong thư gia phụ viết vẫn chưa có cách nào

trình lên. Mấy bữa trước gia phụ nghe tin quí đà tụ hội nơi đây nên mới

sai vãn sinh đưa tới.

Nói xong chàng lấy trong tay áo ra một phong thư, đứng lên đưa ra.

Toàn Quan Thanh cũng vội vàng đứng dậy, hai tay nhận lấy nói:

- Phải phiền đến Đoàn công tử đích thân đưa thư, cái tấm lòng

thương yêu của Đoàn vương gia khiến cho tất cả tệ bang từ trên xuống

dưới ai ai cũng cảm đại đức.

Y nhìn thấy phong thư đó gắn rất kỹ, trên phong bì viết tám chữ lớn:

Cái Bang chư vị trưởng lão thân khải5

Y nghĩ thầm tự mình không tiện mở ra xem bèn nói:

- Tệ bang không lâu nữa sẽ khai đại hội, các trưởng lão sẽ đều đến

cả, tại hạ sẽ đem thư của Đoàn vương gia trình lên cho chư vị thủ lãnh.

Đoàn Dự nói:

- Như thế xin phiền vậy, vãn sinh cáo biệt.

Toàn Quan Thanh luôn mồm cảm ơn, tiễn khách ra rồi mới nói:

- Bạch trưởng lão và Mã phu nhân của tệ bang bất hạnh bị gian tặc

Kiều Phong hạ độc thủ, hôm đó chính mắt Đoàn vương gia trông thấy hay

sao?

Đoàn Dự lắc đầu:

- Bạch trưởng lão và Mã phu nhân không phải do Kiều đại ca giết

hại đâu, sát hại Mã phó bang chủ cũng là người khác. Trong phong thư

này của gia phụ có nói rất rõ ràng, sau này Toàn đà chủ đọc thư sẽ biết

rõ mọi chuyện.

Chàng trong bụng nghĩ thầm: Việc này nói ra dài dòng, nhà ngươi

đâu phải là người tốt, không nên nói nhiều làm chi. Ta đoán chừng ngươi

không dám dấu lá thư của cha ta đâu. Đoàn Dự quay sang ôm quyền

chào Toàn Quan Thanh nói:

- Sau này gặp lại, không dám phiền chư vị tiễn ra xa.

Chàng quay mình đi ra sơn cốc, vừa trở đầu đã thấy hai tên bang

chúng Cái Bang dẫn hai hán tử tiến vào. Hai người đó đưa mắt cho nhau,

đi lên mấy bước khom lưng hành lễ với Đoàn Dự, trình lên một tờ danh

thiếp màu đỏ chói. Đoàn Dự cầm lấy xem qua, thấy trên tờ thiếp viết bốn

hàng chữ:

Tô Tinh Hà cung kính mời những vị tinh thông kỳ nghệ6 trong thiên hạ,

đến ngày mồng tám tháng hai giá lâm hang Thiên Lung Địa Á, núi Lôi Cổ,

tỉnh Hà Nam để gặp gỡ một phen.

Đoàn Dự vốn thích đánh cờ thấy bốn hàng chữ đó, tinh thần phấn

chấn vui vẻ nói:

- Thế thì hay lắm, nếu vãn sinh không có chuyện tục vụ gì vướng

bận, thể nào cũng đến. Thế nhưng xin hỏi tại sao hai vị lại biết vãn sinh

thích đánh cờ?

Hai hán tử lộ vẻ vui mừng, mồm ú ớ, giơ tay múa chân, hóa ra hai

người đó bị câm. Đoàn Dự không hiểu hai người đó chỉ trỏ ra hiệu những

gì, mỉm cười hỏi Chu Đan Thần:

- Núi Lôi Cổ có xa lắm không?

Nói xong chàng giao tờ thiếp lại cho ông ta. Chu Đan Thần cầm lấy

xem qua, trước hết vòng tay hành lễ với hai người kia nói:

- Trấn Nam Vương thế tử Đoàn công tử nước Đại Lý, xin gửi lời

chào đến Thông Biện tiên sinh, trước hết tạ ơn bao giờ đến kỳ sẽ đến bái

phỏng.

Ông ta chỉ vào Đoàn Dự, chỉ trỏ mấy cái biểu thị sẽ đến phó hội. Hai

hán từ khom lưng hành lễ với Đoàn Dự, sau đó lại lấy ra một tờ thiếp nữa

đưa cho Toàn Quan Thanh. Toàn Quan Thanh cầm lấy xem qua, cung

kính trả lại xua tay nói:

- Người tạm lãnh chức Phân Đà Chủ Đại Trí phân đà của Cái Bang

là Toàn Quan Thanh, xin kính chào Thông Biện tiên sinh núi Lôi Cổ,

Toàn mỗ kỳ nghệ kém cỏi, chẳng bõ làm trò cười, không dám phó hội,

xin Thông Biện tiên sinh tha lỗi cho.

Hai hán tử khom lưng hành lễ, sau đó quay qua chào Đoàn Dự,

chuyển thân đi ra. Chu Đan Thần lúc đó mới trả lời Đoàn Dự:

- Lôi Cổ Sơn ở phía nam Tung Huyện, đông bắc Khuất Nguyên

Cương, đến đó cũng không xa lắm.

Đoàn Dự từ biệt Toàn Quan Thanh rồi, ra khỏi thung lũng lúc đó mới

hỏi Chu Đan Thần:

- Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà là người thế nào? Là quốc thủ về

đánh cờ ở Trung Nguyên hay sao?

Chu Đan Thần đáp:

- Thông Biện tiên sinh chính là Lung Á tiên sinh7.

Đoàn Dự ồ lên một tiếng, cái tên Lung Á tiên sinh chàng ở Đại Lý đã

từng nghe bá phụ và phụ thân nhắc tới, biết đó là một cao thủ kỳ túc của

võ lâm Trung Nguyên, vừa điếc vừa câm nhưng nghe nói võ công lại rất

cao cường, khi đề cập đến ông ta giọng của bác chàng xem chừng kính

trọng. Chu Đan Thần lại tiếp:

- Lung Á tiên sinh tuy tàn tật nhưng nhất định tự xưng mình là Thông

Biện tiên sinh, cho rằng mình tâm thông, bút biện còn hơn xa người

thường nhĩ thông, thiệt biện.8

Đoàn Dự gật đầu nói:

- Kể cũng có lý.

Chàng đi thêm mấy bước bỗng cất tiếng thở dài. Đoàn Dự nghe Chu

Đan Thần nói Lung Á tiên sinh tâm thông, bút biện hơn cả người thường

nhĩ thông, thiệt biện không khỏi chạnh lòng nhớ tới Vương Ngữ Yên

đánh võ miệng còn giỏi hơn người ta đánh võ tay chân binh khí.

Chàng ở thành Vô Tích cùng A Châu cứu được bọn người Cái Bang

rồi, chẳng bao lâu Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác hai người đến tụ hội với

Vương Ngữ Yên. Năm người đó muốn lên miền bắc đi kiếm Mộ Dung

công tử, Đoàn Dự dĩ nhiên cũng muốn đi theo, Phong Ba Ác nhớ ơn

chàng đã dùng mồm hút nọc độc con bò cạp nên rất hoan nghênh, có điều

Bao Bất Đồng ăn nói cực kỳ sỗ sàng, trách cứ Đoàn Dự giả trang làm Mộ

Dung công tử làm bại hoại tiếng tăm y đi. Đến sau y tỏ ý ngươi không

cút đi, ta sẽ đập cho một trận, trong khi Vương Ngữ Yên chỉ lo bàn với

Phong Ba Ác cách nào kiếm được biểu ca, coi tình cảnh quẫn bách của

Đoàn Dự như không biết đến.

Đoàn Dự chẳng còn biết sao hơn đành phải chia tay cùng Vương Ngữ

Yên nhưng cũng đi lên miền bắc nghĩ bụng: Các ngươi muốn đi Hà Nam

tìm Mộ Dung Phục, ta cũng đang định đi Hà Nam. Hà Nam là đất trung

châu chứ có phải của riêng nhà Mộ Dung các ngươi đâu, Mộ Dung Phục

và Bao Bất Đồng đến được, chẳng lẽ Đoàn Dự không đến được? Nếu như

trên đường chạm trán họ thì cũng là ý trời, Bao tam tiên sinh kia làm sao

trách mình được?.

Thế nhưng trời già nào có cho Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên giải cấu

tương phùng, suốt thời gian đó, Đoàn Dự ở Hà Nam lang thang đi khắp

mọi nơi, tiếng là du sơn ngoạn thủy, nhưng thực ra đến đâu mắt cũng dáo

dác, chỉ mong sao được nhìn thấy mớ tóc dài óng ả, một chéo áo của

Vương Ngữ Yên, còn núi non sông nước chàng nào có để mắt đến.

Một hôm, Đoàn Dự đang ở chùa Bạch Mã thành Lạc Dương đàm luận

với phương trượng về kinh A Hàm, nghiên thảo việc đức Phật giảng về

truyện chuyển luân thánh vương có bảy bảo vật. Đoàn Dự nghe nói

bảo vật ngọc nữ không dài không vắn, không trắng không đen, mùa đông

thân thể ấm áp, mùa hạ thân thể mát mẻ cực kỳ hứng thú nhưng phương

trượng lắc đầu quầy quậy nói:

- Đoàn cư sĩ, đó chẳng qua là thí dụ của nhà Phật đấy thôi, huống chi

Phật dạy thất bảo cũng đều là vô thường...

Vừa nói tới đây, bỗng có ba người vào chùa, chính là Phó Tư Qui, Cổ

Đốc Thành và Chu Đan Thần. Thì ra sau khi Đoàn Chính Thuần rời nhà

họ Mã ở phủ Tín Dương, gặp lại Nguyễn Tinh Trúc, mới đi tìm chỗ dưỡng

thương, nghĩ đến việc Tiêu Phong bị Cái Bang đổ tiếng oan giết Mã Đại

Nguyên không thể không biện bạch giùm cho ông ta nên mới viết một

phong thư, sai bọn Phó Tư Qui ba người đem tới đưa cho Cái Bang.

Bọn Phó Tư Qui đến Lạc Dương tìm tổng đà Cái Bang, không gặp

nhân vật thủ lãnh nào, lại nghe phân đà Đại Trí tụ hội gần bên nên dự

định đem thư đến. Ngờ đâu khi ở tại tửu lâu họ nghe lỏm người ta kể

chuyện một chàng thư sinh gàn dở, hình dáng có phần tương tự như Đoàn

Dự nên mới hỏi xem công tử đó nơi đâu rồi tìm đến Bạch Mã tự.

Bốn người gặp nhau hết sức mừng rỡ. Đoàn Dự nói:

- Để ta theo các vị đi đưa thư, rồi chư vị đưa ta đến bái kiến phụ

vương.

Chàng nghe nói cha mình cũng đang ở Hà Nam nên càng nóng lòng

muốn gặp, nhưng bao lâu nay không nghe tin tức gì về Vương Ngữ Yên

ngày đêm nhung nhớ, chỉ mong nơi Đại Trí phân đà có các nhân vật

giang hồ, may ra thấy được ngọc dung tiên nhan của người đẹp nhưng hỡi

ôi tất cả đều chỉ là một chữ không.

Chu Đan Thần thấy chàng thở vắn than dài, lại tưởng chàng mong

nhớ Mộc Uyển Thanh, việc này không thể nào khuyên giải gì được, nghĩ

bụng cách tốt nhất là làm cho chàng phân tâm qua chuyện khác nên nói:

- Vị Thông Biện tiên sinh này phát thiếp rộng rãi mời thiên hạ đến

đánh cờ, kỳ lực ắt phải cao lắm. Công tử gia sau khi bái kiến Trấn Nam

Vương rồi, cũng nên đến gặp Thông Biện tiên sinh đánh vài ván xem

sao!

Đoàn Dự gật đầu đáp:

- Đúng đó! Cuộc đen trắng cũng là cách tiêu khiển khiến cho con

người bớt ưu phiền. Có điều tuy nàng tinh thông các môn phái võ công

thiên hạ, bụng chứa binh giáp, muôn nhà muôn vẻ nhưng lại không biết

đánh cờ. Buổi hội ngộ đấu cờ của Thông Biện tiên sinh, chắc nàng không

tới đâu!

Chu Đan Thần ngơ ngẩn hoang mang, không biết chàng đang nói đến

ai, trên đường đi thấy công tử hồn vía đâu đâu, câu trước đầu Ngô, câu

sau mình Sở nghe cũng đã nhiều nên không tiện gặng hỏi.

Cả đoàn người rong ruổi chạy về hướng tây bắc. Đoàn Dự ngồi trên

lưng ngựa, lúc thì nhíu tít lông mày, lúc lại cười mủm mỉm, lẩm bẩm một

mình:

- Kinh Phật có dạy rằng: Khi nghĩ đến mỹ nữ thì hãy nhớ thân thể ai

thì cũng chỉ là máu mủ, một trăm năm sau thì cũng thành một bộ xương

trắng mà thôi. Lời nhà Phật tuy không sai nhưng người như nàng dù có

một trăm năm nữa hóa thành bạch cốt, thì mớ xương đó cũng đẹp hơn

những bộ xương người thường.

Chàng còn đang mơ màng nghĩ đến bộ xương trong người Vương Ngữ

Yên ra thế nào, bỗng nghe thấy phía sau có tiếng chân dồn dập, hai con

ngựa ở đâu chạy tới, trên yên mỗi con nằm phục một người, trong lúc trời

tối không nhìn rõ là hạng người nào.

Hai con ngựa đó dường nhưng không ai cầm cương, chạy xông đến

bọn Đoàn Dự. Phó Tư Qui và Cổ Đốc Thành hai người chia ra mỗi người

giữ một con lại, thấy người nằm trên đó không còn cử động gì nữa. Phó

Tư Qui hơi kinh hãi, lại gần xem cho kỹ hóa ra chính là hai sứ giả của

Lung Á tiên sinh, trên mặt nở một nụ cười kỳ bí, đều đã chết cả rồi. Hai

người này vừa mới đây đưa thiếp mời Đoàn Dự còn khỏe như vâm, sao

chỉ quay đi quay lại đã lăn ra chết là sao? Họ đều là sứ giả của Lung Á

tiên sinh, sao nét mặt lại kỳ lạ như thế? Phó Tư Qui vừa thoạt nhìn biết

ngay hai người bị trúng chất cực độc vội kéo cương ngựa lùi lại hai bước

không dám đứng gần hai cái tử thi.

Đoàn Dự giận dữ nói:

- Gã họ Toàn của Cái Bang độc ác thật, tại sao lạ hạ thủ những

người này? Ta phải hỏi cho ra lẽ.

Chàng trở đầu ngựa, toan quay lại tra vấn Toàn Quan Thanh. Phía

trước trong bóng tối có người lên tiếng hỏi:

- Tên tiểu tử kia chẳng biết trời cao đất dày là gì, khắp thiên hạ trừ

môn hạ Tinh Tú lão tiên ra thì có ai mà giết người một cách vô hình như

thế được? Lão già câm điếc rụt đầu rùa trốn một chỗ thì còn được chứ

nếu thò mặt ra thì Tinh Tú lão tiên không tha cho y đâu. Này, thằng bé

kia, chuyện không liên can gì đến ngươi, mau cút đi nơi khác.

Chu Đan Thần ghé tai Đoàn Dự nói nhỏ:

- Công tử, đây là người của phái Tinh Tú, mình không nên dây dưa

với họ, đi thôi!

Đoàn Dự kiếm không thấy Vương Ngữ Yên nên đang rảnh rỗi, hai sứ

giả của Lung Á lão nhân gặp chuyện nguy hiểm, chàng thể nào cũng

xông lên cứu viện, nhưng lúc này lại chết rồi, nên cũng không muốn rắc

rối, thở dài một tiếng nói:

- Nếu chỉ mới miệng câm tai điếc thì cũng chưa đủ, còn phải thêm

mắt mù, mũi không ngửi thấy mùi hương, trong lòng không còn ý niệm gì

thì mới mong giải thoát khỏi phiền não.

Chàng nói đây là nói về nếu gặp lại Vương Ngữ Yên, giọng nói hình

dáng, nhất cử nhất động của nàng đã ăn sâu vào tâm khảm mình rồi, dẫu

có vừa câm vừa điếc thì nỗi nhớ mong cũng đâu có vì thế mà dứt được.

Ngờ đâu người phía bên kia nghe chàng nói thế lại cười hềnh hệch, vỗ

tay nói:

- Đúng đó! Đúng đó! Ngươi nói thật có lý, phải chọc mù mắt y đi, cắt

mũi y đi, rồi đánh cho y đến khi nào phải đổi ý mới xong.

Đoàn Dự thở dài:

- Ngoại lực dù có ép thế nào chăng nữa thì cũng chẳng đến đâu. Phải

chính bản thân mình tu hành sao cho tâm không bám vào những gì nhìn

thấy, nghe thấy, ngửi thấy, nếm thấy, sờ thấy mà phải đạt tới chỗ vô trụ xứ

9 có thế mới rời xa được hình tướng, trở thành bồ tát. Chúng ta là kẻ

phàm phu tục tử, làm sao tu đến mức đó được? Ghét nhau mà phải ở gần

nhau, yêu nhau mà phải xa nhau, muốn mà không được10 năm nhóm11 đó

thiêu đốt con người cho nên sống trên đời mới đầy đau khổ.

Du Thản Chi nằm trong đám cỏ phía sau tảng đá thấy bọn Đoàn Dự đi

rồi quay trở lại, sau đó phía trước có tiếng người quát tháo, vừa lúc đó hai

tên đệ tử Cái Bang chạy đến, nói nhỏ với Toàn Quan Thanh:

- Toàn đà chủ, hai gã câm kia không hiểu sao bị người ta giết rồi, kẻ

hạ thủ tự xưng là thủ hạ của cái gì Tinh Tú lão tiên phái Tinh Tú.

Toàn Quan Thanh kinh hãi, mặt liền biến sắc. Y đã từng nghe tiếng

Tinh Tú Lão Quái ở biển Tinh Tú chuyên sử chất độc cực mạnh, võ công

cũng thật cao cường nghĩ thầm: Bọn họ giết sứ giả của Lung Á lão nhân,

chuyện này không liên can gì đến mình, chẳng nên gây chuyện với họ

làm gì. Y liền nói:

- Ta biết rồi, bọn chúng hai đằng quỉ đánh với ma, mình chẳng dây

vào.

Đột nhiên trước mặt có tiếng người nói:

- Bọn chúng bay ăn nói láo lếu, đã biết ta là môn hạ của Tinh Tú lão

tiên, sao dám chửi ta là ma là quỉ? Bộ ngươi không muốn sống hay sao?

Toàn Quan Thanh kinh hãi, giật mình lùi lại một bước, dưới ánh lửa

thấy một người đứng sừng sững trước mặt, chính là một tên bang chúng

thủ hạ. Y chăm chú quan sát kỹ, gã đó trông cười mà chẳng ra cười, hình

dạng thật kỳ bí, dường như sau lưng y còn có ai nữa thì phải, bèn quát

lên:

- Các hạ là ai, giả ma giả quỉ dọa người để làm gì thế?

Người nấp ở sau gã đệ tử Cái Bang giọng lạnh như tiền nói:

- Quả là to gan! Ngươi lại nói thêm một chữ quỉ. Lão tử là môn hạ

Tinh Tú lão tiên, Tinh Tú lão tiên giá lâm Trung Nguyên, đang cần ngay

hai chục con rắn độc, một trăm con trùng độc. Các ngươi trong Cái Bang

xưa nay lúc nào cũng sẵn độc trùng, độc xà, mau mau dâng lên coi. Tinh

Tú lão tiên thấy các ngươi ngoan ngoãn dễ bảo may ra tha cho bọn ăn

mày khốn khó. Còn nếu không, hà hà, tất cả cũng như tên này thôi.

Nghe bình một tiếng, tên đệ tử Cái Bang đột nhiên bay tung lên, rơi

bịch xuống cạnh đống lửa, không còn động đậy gì nữa, hóa ra chết từ bao

giờ. Gã đệ tử đó vừa văng đi, để lộ ra một gã thấp bé mặc áo vải, không

biết y đã lẻn tới từ lúc nào mà lại giết được một đệ tử Cái Bang rồi náu ở

đằng sau như thế.

Toàn Quan Thanh vừa kinh hãi vừa tức giận, trong giây lát trong đầu

xoay chuyển bao nhiêu ý nghĩ: Tinh Tú Lão Quái đổ lên đầu Cái Bang,

việc trước mắt nếu không khuất phục thì đến phải một mất một còn. Việc

này tuy hung hiểm thật nhưng nếu y chỉ mới dọa một câu, ta đã đem rắn

độc trùng độc dâng lên thì anh em trong bang từ nay còn coi ta vào đâu

nữa. Ta dĩ nhiên không còn dám tơ tưởng cái chức bang chủ mà cũng

chẳng còn mặt mũi nào ở trong bang. Cũng may Tinh Tú Lão Quái chưa

đích thân đến đây, chỉ mới có một mình gã này, không có gì phải sợ cả.

Y nghĩ thế nên cười khì khì nói:

- Thì ra đây là nhân huynh của phái Tinh Tú, cao tính đại danh các

hạ là chi?

Gã lùn đáp:

- Pháp danh ta là Thiên Lang Tử. Ngươi mau mau dự bị cho đủ độc

trùng độc xà đi thôi.

Toàn Quan Thanh cười đáp:

- Các hạ nếu cần độc trùng độc xà thì cũng chỉ là chuyện cỏn con, có

gì mà phải lo lắng?

Y tiện tay cầm một chiếc túi vải ở dưới đất lên nói:

- Trong đây có mấy con rắn, xin các hạ xem thử xem Tinh Tú lão

tiên dùng có được không?

Gã lùn Thiên Lang Tử kia thấy Toàn Quan Thanh mở miệng một điều

Tinh Tú lão tiên hai điều Tinh Tú lão tiên, trong lòng cực sung

sướng, thấy y thần thái cung thuận, nghĩ thầm: Nghe nói gì Cái Bang là

bang lớn số một của Trung Nguyên, vừa nghe tên của sư phụ lão nhân gia

đã sợ đến mất vía. Ta đem mấy con rắn độc trùng độc về, chắc sư phụ

hoan hỉ lắm, sẽ khen ta chu đáo, được việc. Nói gì thì nói, cũng là nhờ uy

danh của sư phụ lão nhân gia.

Nghĩ thế y bèn thò đầu vào túi vải để xem. Đột nhiên mắt tối sầm,

cái túi đó đã chụp lên đầu y, Thiên Lang Tử kinh hãi, vội vàng múa

chưởng đánh ra nhưng không trúng vào đâu cả. Vừa khi đó, trên mặt, trên

trán, sau ót đều đau nhói lên, đã bị độc vật trong túi cắn trúng rồi. Thiên

Lang Tử không kịp bỏ chiếc túi trên đầu xuống, vội đánh ra hai chưởng

nữa rồi bỏ chạy thục mạng. Y trên đầu vẫn còn chiếc túi nên không thấy

đường, tay đánh loạn xạ, chỉ thấy khắp đầu, khắp mặt chỗ nào cũng bị

cắn, càng hoảng hốt thêm cứ tiếp tục chạy cho nhanh, ngờ đâu bước hụt

một cái, lục tục từ trên triền núi lăn xuống, rơi tõm ngay vào khe suối

dưới thung lũng, theo dòng trôi đi.

Toàn Quan Thanh vốn dĩ định giết y bịt miệng, ngờ đâu y lại chạy

mất, tuy y đã bị bò cạp cắn trúng rồi, lại rơi xuống suối, tính mạng khó

bảo toàn, nhưng phái Tinh Tú vốn giỏi sử dụng độc vật, rất có thể y có

cách giải độc, còn ở vùng biển Tinh Tú thì chắc biết bơi. Nếu như gã này

không chết, phái Tinh Tú hay được, thể nào cũng tới báo thù.

Y trầm ngâm giây lát rồi nói:

- Chúng ta bố trí Cự Mãng Trận, hơn thua với phái Tinh Tú một

phen. Không lẽ Kiều Phong đi khỏi, Cái Bang chúng ta không còn đứng

vững được nữa, ai sai bảo gì cũng được hay sao? Phái Tinh Tú biết sử

dụng chất độc, mình không nên dùng quyền cước binh khí mà cũng phải

dĩ độc công độc.

Người của Cái Bang nhao nhao khen phải, lập tức giàn ra bốn bề, bố

trí trận thế cách đống lửa mấy trượng, người người ngồi xuống xếp bằng.

Du Thản Chi thấy Toàn Quan Thanh dùng túi vải đuổi được Thiên

Lang Tử chạy mất nghĩ thầm: Thì ra trong cái túi của y có độc vật, bọn

họ có nhiều túi vải như thế, túi nào cũng toàn là rắn độc trùng độc hay

sao? Bọn ăn mày giỏi nghề bắt trùng bắt rắn không có gì lạ. Nếu mình ăn

cắp được vài cái túi đem về cho A Tử cô nương chắc cô ta vui mừng

lắm.

Y thấy người của Cái Bang ngồi xuống rồi không ai nói năng một lời,

người nào bên cạnh cũng để mấy cái túi, có cái thì thật lớn, bên trong có

gì cục cựa, Du Thản Chi nhìn mà lạnh người. Lúc này bốn bề hoàn toàn

yên tĩnh, nếu như y bò ra thể nào cũng bị người của Cái Bang phát giác,

nghĩ thầm: Nếu bọn họ chụp chiếc túi lên đầu mình, mình có cái lồng

sắt không việc gì phải sợ, thế nhưng nếu chúng bắt mình bỏ luôn vào bao

chung với rắn rết thì mới thực là hỡi ôi!.

Mấy giờ sau đó vẫn không thấy động tĩnh gì, lại thêm một hồi nữa,

trời bắt đầu tờ mờ sáng rồi mặt trời nhô lên, chiếu khắp núi đồi. Trên đầu

cành chim hót líu lo, bỗng nghe Toàn Quan Thanh kêu khẽ:

- Đến rồi! Tất cả anh em đề phòng!

Y ngồi xếp bằng trên một phiến đá bên ngoài xà trận, bên cạnh cũng

để mấy cái túi, tay cầm thiết địch. Chỉ nghe phía tây bắc văng vẳng tiếng

đàn tiếng sáo, một đoàn người chậm rãi đi lên, trong tiếng nhạc có lẫn cả

chiêng trống, nghe rất là réo rắt. Du Thản Chi tự hỏi: Có đám cưới

chăng?.

Tiếng nhạc càng lúc càng gần, đến cách xa chừng mươi trượng thì

ngừng lại, có tiếng mấy người cùng cất lên:

- Tinh Tú lão tiên pháp giá Trung Nguyên, đệ tử Cái Bang mau mau

tiến lên quì xuống nghênh tiếp.

Câu nói vừa dứt, lập tức trống đánh tùng tùng tùng. Ba hồi trống vừa

dứt, thanh la đánh choang một cái, tiếng trống liền ngưng bặt, mấy chục

người cùng cao giọng:

- Cung thỉnh Tinh Tú lão tiên hoằng thi đại pháp, hàng phục bọn tiểu

xú Cái Bang.

Du Thản Chi nghĩ thầm: Nghe như đạo sĩ làm phép trừ tà bắt ma. Y

len lén từ sau tảng đá thò đầu ra nhìn, thấy nơi phía tây bắc có đến hơn

hai chục người xếp thành hàng ngang, kẻ thì cầm chiêng trống nhạc khí,

kẻ thì cầm phướn cầm cờ, cái xanh cái đỏ trông thật đẹp đẽ, xa xa thấy

thấp thoáng trên những lá cờ đó có thêu: Tinh Tú lão tiên, thần thông

quảng đại, pháp lực vô biên, uy chấn thiên hạ... nhiều câu khác

nhau. Trong tiếng tơ tiếng sáo dặt dìu, một ông lão chậm rãi bước ra,

những người đứng sau lưng lập tức chia thành hai hàng, lẽo đẽo đi theo

cách xa ông ta chừng vài trượng.

Ông lão đó tay cầm một chiếc quạt bằng lông ngỗng, ánh mặt trời

chiếu vào, thấy mặt mũi hồng hào, tóc trắng như bông, dưới cằm là ba

chòm râu trắng như cước, đồng nhan hạc phát, thật chẳng khác gì người

trong truyện thần tiên.

Ông lão đó đi đến còn cách bọn ăn mày chừng ba trượng thì ngừng

lại, đột nhiên chúm môi thổi mấy cái, phát ra tiếng thật chói tai, giơ quạt

phất một cái đẩy tiếng sáo tới (?), bốn tên bang chúng Cái Bang ngồi

dưới đất lập tức ngã ngửa ra.

Du Thản Chi kinh hãi: Tinh Tú lão tiên này pháp thuật quả nhiên

quảng đại thật. Ông lão nở một nụ cười, thổi toe một tiếng, quạt phẩy ra,

lại có một người ngã, xem chừng tiếng thổi là một loại ám khí vô hình

cực kỳ lợi hại, chỉ trong phút chốc trong Cái Bang đã có sáu bảy người

lăn quay ra. Lập tức đằng sau ông lão, tiếng người ca tụng rộn lên:

- Công lực sư phụ chói lọi cổ kim! Bọn ăn mày kia dám đối đầu với

mình, thật đúng là đom đóm lập lòe đua tranh cùng vầng nhật nguyệt.

- Châu chấu đá xe quả không biết lượng sức mình, thật tức cười quá

đỗi!

- Sư phụ chỉ nói nói cười cười mà đưa cả bọn yêu ma tiểu xú Cái

Bang vào chỗ chết, thật dễ như bẻ củi mục mà được toàn thắng, đồ nhi

thật chưa từng thấy, đến nghe cũng chưa nghe tới bao giờ.

- Đây là công nghiệp vĩ đại trên đời chưa từng có, nếu sư phụ lão

nhân gia không lộ một chút thân thủ thì bọn võ học Trung Nguyên nào có

biết trên đời lại có công phu ghê gớm đến mức này.

Trong khi cả bọn ca công tụng đức, nghe chối cả tai thì tiếng ti trúc

quản huyền vẫn tấu lên thật là réo rắt. Đột nhiên có mấy tiếng tu tu,

Toàn Quan Thanh đã đưa sáo sắt lên môi thổi mấy tiếng. Du Thản Chi

nghĩ thầm: Y thổi sáo làm gì thế? Để nghênh đón Tinh Tú lão tiên

chăng?.

Bỗng nghe dưới đất có tiếng sột soạt, từ trong những chiếc túi vải

mấy con rắn lớn vằn vện ngũ sắc bò thẳng tới chỗ ông lão. Những đệ tử

chung quanh ông lão kinh hoảng kêu lên:

- Rắn kìa! Có rắn độc!

- Chao ôi! Không xong, sao lắm rắn độc thế này.

- Sư phụ ôi, những con rắn độc này lại xông tới mình là sao?

Chỉ thấy tất cả những cái túi của bọn ăn mày đâu đâu cũng có rắn bò

ra, con lớn con bé đủ cả, phùng mang lè lưỡi, xông tới chỗ ông lão và bọn

đệ tử. Bọn chúng đứa nào đứa nấy quýnh quáng kêu la ỏm tỏi.

Đệ tử phái Tinh Tú liền cầm cương trượng lên, đập túi bụi những con

rắn đang lúc nhúc bò tới, chỉ riêng ông lão thần sắc vẫn bình thường, lại

chúm môi huýt một tiếng, vẫy quạt đánh ra. Toàn Quan Thanh cũng thổi

địch liên tiếp, người trong Cái Bang cũng hò hét trợ uy.

Đàn rắn càng lúc càng đông, chỉ trong phút chốc chung quanh phải

đến hàng trăm con, trong đó có dăm con trăn lớn. Mấy con mãng xà bò

tới gần, dùng đuôi cuốn được hai người, tiếp theo lại quấn chết thêm hai

người nữa. Nếu đệ tử phái Tinh Tú bỏ chạy, những con rắn chắc không

theo kịp, thế nhưng sư tôn còn đang nghinh địch, quần đệ tử nào ai dám

bỏ đi một bước, chỉ đành múa binh khí, đâm chém loạn cả lên, khiến rắn

độc bị chúng giết chết cũng phải đến tám chín chục con, còn người bị rắn

cắn cũng đến bảy tám người.

Những con trăn lớn kia càng lợi hại hơn nữa, da thô thịt dày, gậy đập

vào không thấm đâu, quấn được ai rồi càng lúc càng xiết chặt, nhất định

không buông. Theo tiếng sáo, từ trong túi bò ra mỗi lúc một nhiều, tổng

cộng phải đến hai mươi bảy, hai mươi tám con cự mãng.

Ông lão thấy tình thế không ổn, toan tấn công Toàn Quan Thanh để

rút lui, thì có hai con rắn nhỏ phóng tới cắn vào mặt ông ta. Ông lão quát

lên:

- Gớm nhỉ!

Quạt trong tay phất lên, kình phong đổ ra, đánh bạt hai con rắn

xuống, bỗng thấy một vật gì mềm nhũn cuốn lấy gót chân, biết là không

xong, phi thân vọt lên, bỗng nghe tiếng địch vi vu, bốn con trăn cùng

vung đuôi lên, quật vào người ông ta. Ông lão đang ở trên không, bình

bình đánh ra hai chưởng, đánh bật hai con trăn phía trước và phía trái,

người lắc một cái đã vọt ra ngoài hai trượng. Ngay lúc đó con rắn thứ ba

và thứ tư cùng dùng đuôi tấn công tới. Trong cơn nguy cấp, ông lão vận

kình đánh ra, chưởng phong đánh nát đầu một con trăn lớn.

Thế nhưng bầy rắn vẫn xông vào, ông lão tuy đánh chết được ba con

cự mãng nhưng hông và đùi bên phải đã bị hai con trăn quấn được. Ông

ta vận nội lực lên, quát lớn một tiếng, giơ ngón tay chộp vào bụng con

trăn đang quấn ngang lưng khiến cho máu me tung tóe đầy người. Ngờ

đâu trăn là giống rất dai, tuy bụng đã bị vỡ nhưng không chết ngay, bị

đau liền xiết người lại, tưởng chừng quấn nát người ông lão. Ông ta dùng

sức dãy hai lần, kế đó lại có hai con mãng xà xông tới, quấn thêm mấy

vòng nữa trên người ông ta, đến cánh tay cũng cuốn luôn vào, khiến cho

không còn cách nào kháng cự. Du Thản Chi nằm trong đám cỏ chứng

kiến trận đấu kinh tâm động phách, tưởng chừng thở không ra hơi.

Toàn Quan Thanh trong bụng mừng lắm, thấy bên địch ai nấy bị trăn

quấn cả rồi, chỉ còn rên rỉ, chửi rủa, không còn cách gì kháng cự nữa nên

không tiếp tục thổi sáo, tiến lên cười khì khì hỏi:

- Tinh Tú Lão Quái, phái Tinh Tú ngươi và Cái Bang ta trước nay

đường ai nấy đi, nước sông không phạm nước giếng, sao lại đến gây sự

với bọn ta là sao? Bây giờ còn gì để nói nữa không?

Ông lão đồng nhan hạc phát kia chính là người mà võ lâm nhân sĩ

Trung Nguyên ghét cay ghét đắng Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu. Vì

một trong tam bảo của phái Tinh Tú là Thần Mộc Vương Đỉnh bị nữ đệ tử

A Tử ăn cắp mất, liên tiếp phái các đệ tử ra đuổi bắt, thậm chí cả đại đệ

tử Trích Tinh Tử cũng sai đi nhưng lần nào bồ câu đem thư về cũng thấy

tình thế thật là bất lợi. Về sau ông ta nghe nói A Tử dựa vào thế anh rể là

Kiều Phong của Cái Bang, đánh bại Trích Tinh Tử, Đinh Xuân Thu vừa

tức tối vừa kinh hoàng, biết Cái Bang là bang hội lớn nhất trong võ lâm

Trung Nguyên không dễ gì đối phó, lại nghe Lung Á lão nhân tái xuất

đầu lộ diện cũng đang hoành hành trong võ lâm vài năm qua, mối lo

trong gan ruột kia chưa trừ được thì không yên tâm, một khi đoạt lại được

vương đỉnh rồi phải thừa cơ thanh toán cho xong chuyện cũ, thành thử

đem hết đệ tử đích thân đi vào Trung Nguyên.12

Môn Hóa Công Đại Pháp y luyện thường phải dùng các loại chất độc

của rắn rết bôi lên lòng bàn tay, hút vào trong người, nếu bảy ngày không

có thì không những công lực giảm thiểu mà chất độc tích tụ trong cơ thể

mấy chục năm qua không có chất mới khắc chế có thể dần dần phát tác,

họa hại ghê gớm khó mà hình dung.

Chiếc Thần Mộc Vương Đỉnh trời sinh có một mùi kỳ lạ, lại thêm

hương liệu đốt ở trong đỉnh, chỉ trong giây lát là có thể dẫn dụ độc vật

đến, trong vòng mười dặm chung quanh khó có con vật nào gượng lại nổi

sức thu hút của nó. Đinh Xuân Thu có chiếc kỳ đỉnh đó trong tay nên bắt

trùng độc chẳng khó khăn gì, thành thử Hóa Công Đại Pháp càng luyện

càng cao thâm, càng luyện càng tinh tiến. Năm xưa Đinh Xuân Thu có

một tên đệ tử đắc ý được y đích thân truyền dạy Hóa Công Đại Pháp, đã

có chút thành tựu, ngờ đâu về sau ỷ mình có tài, không còn cung thuận

như trước. Đinh Xuân Thu chế ngự được y rồi, không cần phải dùng đến

đao trượng xử tội, chỉ nhốt y vào một gian thạch thất, khiến y không cách

nào bắt được các loại trùng độc tu luyện thêm, kết quả độc tố trong người

phát tác, nhịn không nổi tự mình cấu từng miếng thịt, rên rỉ mãi, bốn chục

ngày sau mới chết. Tinh Tú Lão Quái tuy đắc ý nhưng cũng thêm phần

cẩn thận, môn Hóa Công Đại Pháp từ đó không truyền cho người nào

nữa. Thành thử bọn Trích Tinh Tử không một ai biết, A Tử muốn luyện

môn thần công này đành phải học lén, ăn cắp bảo đỉnh trốn đi.

A Tử tính toán thật kỹ, ngay hôm sư phụ mới bắt được độc vật luyện

công liền trốn về phương đông, đến khi Tinh Tú Lão Quái phát giác ra

Thần Mộc Vương Đỉnh bị ăn trộm thì đã bảy ngày, A Tử đi đã xa lắm rồi.

Nàng đi toàn theo đường nhỏ, các sư huynh truy nã tuy võ công cao hơn

cô ta nhiều nhưng mưu kế lại kém xa, bị A Tử liên tiếp dùng ngụy kế hư

trương thanh thế, thanh đông kích tây nên đều trốn thoát được.

Vùng Tinh Tú Lão Quái ở là một thâm cốc rậm rạp tối tăm, độc xà

độc trùng không hiếm gì, tuy mất Thần Mộc Vương Đỉnh nhưng muốn đi

bắt rắn để thêm chất độc cũng chẳng khó khăn, nhưng chỉ bắt được những

loại tầm thường, còn những loại đặc biệt, hiếm quí quái lạ, kịch độc lợi

hại như trước thì chỉ còn nước cầu may.

Một chuyện khác cũng khiến ông ta lo lắng là nếu như võ lâm Trung

Nguyên biết được lai lịch chiếc đỉnh thì ai cũng có thể lập tức hủy ngay,

thành thử một ngày chưa lấy lại được thì thêm một ngày không an tâm.

Ông ta gặp lại bọn đệ tử ở Thiểm Tây, đại đệ tử Trích Tinh Tử tuy

không chết nhưng võ công mất hết13 bị bọn đệ tử kia trên đường lăng

nhục chửi bới không còn ra người nữa, còn nhị đệ tử là gã mũi lân Sư

Hống Tử tạm thời lên thay đại sư huynh.

Bọn đệ tử thấy đích thân sư phụ ra tay, ai nấy vừa kinh hoàng vừa sợ

hãi, biết rằng sư mệnh không hoàn thành, tội vạ kỳ này chắc là phải ghê

gớm khó mà chịu nổi. Cũng may Tinh Tú Lão Quái đang cần người nên

tạm thời gác việc trách phạt sang một bên để mọi người có cơ đái tội lập

công.

Đoàn người vừa đi vừa thăm dò tin tức của Cái Bang nhưng một là

bọn họ hình tướng kỳ dị, ngôn ngữ khiến cho người ta ghét bỏ nên chẳng

ai tiết lộ cho họ chuyện gì, thứ nữa Tiêu Phong đã sang nước Liêu làm

Nam Viện Đại Vương, trong võ lâm chẳng mấy ai hay, thành thử dò hỏi

mãi mà không ra đến cả tổng đà Cái Bang dọn đi đâu cũng không biết.

Một hôm Thiên Lang Tử vô tình nghe được phân đà Đại Trí tụ hội,

muốn tâng công liền một thân một mình xông vào nên bị Toàn Quan

Thanh ám toán. Thế nhưng người y vốn đầy chất độc nên nọc bò cạp

không giết nổi, thoát chết rồi liền cấp báo sư phụ. Đinh Xuân Thu lập tức

đi tới, ngờ đâu một thân đầy chất độc và võ công thâm hậu như thế nhưng

bị trăn quấn cũng không sao thoát ra được.

Đinh Xuân Thu không trả lời câu hỏi của Toàn Quan Thanh, chỉ khinh

khỉnh hỏi:

- Trong Cái Bang chúng bay có một gã tên Kiều Phong, bây giờ ở

đâu? Mau gọi y ra gặp ta.

Toàn Quan Thanh trong lòng chợt động, hỏi lại:

- Các hạ muốn gặp Kiều Phong là để làm gì?

Đinh Xuân Thu ngạo mạn hỏi lại:

- Tinh Tú lão tiên hỏi ngươi, sao ngươi không trả lời, lại còn hỏi tới

hỏi lui? Kiều Phong đâu?

Toàn Quan Thanh thấy y đã bị trăn quấn chặt không còn cách gì

kháng cự, vậy mà ăn nói vẫn còn phách lối, khả ố như thế quả trên đời

hiếm có, bèn nói:

- Tinh Tú Lão Quái ai ai cũng nghe nói tới, ngờ đâu chỉ có hư danh,

có mấy con rắn quèn mà đối phó không xong. Thôi đành xin lỗi, chúng ta

vì thiên hạ mà trừ mối hại cho người.

Đinh Xuân Thu mỉm cười nói:

- Lão phu không cẩn thận nên chẳng may bị mấy con súc sinh máu

lạnh này làm hại, hôm nay về chốn tây phương cực lạc, thôi cũng đành...

Y nói chưa dứt câu, một đệ tử phái Tinh Tú đang bị trăn quấn đột

nhiên cất tiếng:

- Đại anh hùng Cái Bang ơi, xin ngài tha cho con có nhiều cái lợi

lắm. Sư phụ con rất nhiều ngụy kế, ngài đề phòng không nổi đâu. Ngài

chỉ sơ ý một chút là bị ông ta lật ngược ngay.

Toàn Quan Thanh cười khẩy hỏi:

- Thả ngươi ra thì có lợi những gì?

Gã kia đáp:

- Phái Tinh Tú có cả thảy ba món bảo vật, gọi là Tinh Tú tam bảo.

Chỉ có Tinh Tú Lão Quái và con là biết chỗ dấu ở đâu thôi. Ngài tha chết

cho con, sau khi giết Tinh Tú lão quái rồi, con sẽ lấy ra dâng lên. Nếu

như ngài giết con thì Tinh Tú tam bảo vĩnh viễn không có được.

Lại một tên đệ tử khác của phái Tinh Tú gào lên:

- Đại anh hùng ơi, đại anh hùng ơi, ngài đừng có mắc lừa tên đó.

Trong Tinh Tú tam bảo thì có một món bị người ta ăn cắp mất rồi. Ngài

tha con ra là hơn cả, chỉ có mình con đối với ngài trung thành không bao

giờ lừa dối mà thôi.

Chỉ trong giây lát, quần đệ tử phái Tinh Tú liền nhao nhao lên:

- Đại anh hùng Cái Bang ơi, ngài tha mạng cho con là hay hơn hết,

bọn kia chẳng có đứa nào trung tâm chỉ có mình con một lòng một dạ, hết

lòng hết sức.

- Đại anh hùng ơi, công phu của môn phái Tinh Tú, chỉ có mình con

biết nhiều nhất, tất mọi thứ con sẽ nói hết cho ngài nghe, không dám dấu

diếm tí gì.

- Bản phái đến Trung Nguyên lần này là có mưu tính ghê gớm lắm,

chủ yếu là để đối phó với Cái Bang. Các vị đại anh hùng ơi, các ngài có

muốn biết rõ không?

- Chúng tôi chôn dấu rất nhiều bạc vàng châu báu ở biển Tinh Tú,

chỗ nào nơi nào nhà cháu cũng biết. Nhà cháu xin dẫn các ngài đến đào,

các vị anh hùng hảo hán Cái Bang từ nay khỏi phải đi ăn xin nữa.

Mấy người đó mồm năm miệng mười, người nào cũng nịnh nọt khoe

mình trung thành, kẻ thì lấy lợi ra dụ, người lại muốn gợi tính tò mò của

đối phương, có đứa thì lại công nhiên nói phét, một tấc lên đến trời. Cả

đến kẻ đã bị rắn độc cắn trúng, hoặc bị trăn cuốn thở không ra hơi cũng

sợ mình đi sau thiên hạ, phều phào van lạy xin tha.

Người trong Cái Bang đâu có ngờ đệ tử phái Tinh Tú lại hèn mạt đến

thế, không khỏi khinh thị, lại thêm hiếu kỳ, lục tục đến gần nghe cho rõ.

Toàn Quan Thanh cười khẩy:

- Các ngươi đối với sư phụ còn chả trung thành, làm gì có chuyện hết

lòng với người ngoài chẳng có liên hệ gì? Nghe thật tức cười quá!

Một tên đệ tử phái Tinh Tú vội nói:

- Không thể so sánh thế được! Hoàn toàn không giống! Hoàn toàn

không giống! Tinh Tú Lão Quái bản lãnh thấp kém, chúng tôi có coi y ra

gì đâu? Trung thành với y để làm gì? Còn các anh hùng Cái Bang võ

công uy chấn thiên hạ, lại có đại pháp thuật khu xà chế địch14, Tinh Tú

Lão Quái làm sao bì kịp?

- Cái Bang nếu thu nạp đệ tử phái Tinh Tú thì võ lâm cả Trung

Nguyên lẫn Tây Vực đều chấn động, ai mà chẳng bội phục Cái Bang anh

hùng?

- Hai chữ anh hùng đâu đã đủ ca ngợi các vị cao nhân hiệp sĩ, mà

phải gọi là đại hiệp, thánh nhân, vị cứu tinh mới đúng.

- Ta nói giỏi làm hay, từ nay chu du bốn phương, đi đâu cũng tuyên

dương uy đức thì danh vọng các đại hiệp Cái Bang ai ai cũng biết.

- Gớm, danh đầu các đại hiệp Cái Bang thiên hạ ai mà chẳng biết,

cần đếch gì đến ngươi ca tụng?

- Mấy tiếng thánh nhân cứu tinh là do tiểu nhân nói trước tiên,

bọn kia chỉ theo đuôi, chẳng có công lao gì.

Một tên đệ tử năm túi của Cái Bang cau mày nói:

- Bọn các ngươi hèn hạ tiểu nhân như thế, nói lèm bèm chỉ thêm bẩn

tai. Tinh Tú Lão Quái, sao ngươi đốn mạt thế, thu nạp toàn bọn đệ tử vô

liêm sỉ là sao? Ta thanh toán ngươi trước, sau đó sẽ đưa luôn cả bọn này

theo ngươi, lão tử hôm nay đại khai sát giới.

Nói xong nghe bình một tiếng đánh thẳng vào Đinh Xuân Thu.

Chưởng đó hơi gió vù vù, kình đạo thật là cương mãnh, trúng ngay ngực

Đinh Xuân Thu. Ngờ đâu Đinh Xuân Thu dường như không sao cả, còn

gã Cái Bang kia hai gối nhũn đi, phục ngay xuống đất, co rúm lại, dãy

dụa mấy cái rồi không còn động đậy gì nữa. Quần cái kinh hãi, cùng kêu

lên:

- Sao thế này?

Lập tức có hai tên ăn mày đến đỡ y dậy, hai gã đó vừa chạm vào

người tên kia, cũng lại lảo đảo mấy cái rồi ngã xuống. Ba tên đệ tử Cái

Bang đứng bên cạnh thuận tay đưa ra giữ lại, cũng chẳng khác gì hai tên

kia, cùng gục xuống. Người Cái Bang còn lại ai nấy kinh hãi đến thất

thần, không còn ai dám xông lên tiếp cứu đồng bọn.

Toàn Quan Thanh quát lên:

- Lão già đó trên người có chất độc, mọi người chớ có chạm vào y.

Ném ám khí!

Tám chín tên đệ tử bốn, năm túi liền móc ám khí ra, cương tiêu, phi

đao, tụ tiễn, phi hoàng thạch cùng vèo vèo ném vào Đinh Xuân Thu.

Đinh Xuân Thu quát lên một tiếng, lắc đầu một cái, tóc bạc trên đầu xổ

tung ra, thật chẳng khác gì một loại nhuyễn tiên ngắn, hất ngược tất cả

hơn chục món ám khí lại. Chỉ nghe ối ối liên tiếp, sáu bảy têm đệ tử Cái

Bang bị bắn trúng. Những ám khí đó không phải cái nào cũng trúng chỗ

yếu hại, có món chỉ trầy xước ngoài da nhưng mấy tên Cái Bang lập tức

ngã lăn ra chết.

Toàn Quan Thanh kêu lớn:

- Lui ra! Lui ra!

Đột nhiên vụt một cái, một mũi cương tiêu phóng thẳng ra, chính là

do Đinh Xuân Thu dùng tóc giữ lại bây giờ vận kình ném vào người y.

Toàn Quan Thanh vội vàng dùng thiết địch trong tay gạt ra, nghe keng

một tiếng, hất bắn mũi cương tiêu ra thật xa. Y thấy Tinh Tú Lão Quái

quả nhiên lợi hại, chi bằng thúc giục trăn quấn chết y cho xong, bèn đưa

ống tiêu lên môi toan thổi, bỗng thấy môi tê đi, đầu choáng váng, mắt

hoa lên, biết là không ổn, vội vàng ném thiết địch, bịch một tiếng ngã lăn

ra.

Người của Cái Bang kinh hãi lập tức có hai người đến đỡ y, Toàn

Quan Thanh mơ mơ hồ hồ kêu lên:

- Ta... ta trúng độc rồi, các... các ngươi... mau chạy... chạy đi.

Quần cái ai nấy mất hồn mất vía, vội dìu y chạy bay chạy biến, để lại

xác chết, túi vải, rắn rết vung vãi khắp nơi.

Du Thản Chi nằm phục trong đám cỏ, hết sức kinh hãi, không dám cử

động. Bốn bề tĩnh mịch, hơn chục tên ăn mày co rút thành một cục, chẳng

khác gì những con nhím gặp phải nguy cơ, hiển nhiên đều chết cả rồi.

Những con trăn không còn nghe thấy tiếng tiêu của Toàn Quan Thanh

thúc giục nữa, không dám giết người, chỉ quấn chặt thầy trò Đinh Xuân

Thu. Người trong phái Tinh Tú không ai dám ngọ ngoạy, chỉ sợ khích

động hung tính của loài rắn, ngoặp cho một cái thì bỏ đời.

Yên lặng một hồi như thế, một tên trong bọn cất giọng nói trước:

- Sư phụ ôi, lão nhân gia thần công độc bộ thiên hạ, chỉ nói nói cười

cười ra tay một cái đã đánh cho bọn ăn mày ăn nhặt vạn ác bất xá kia

chạy cong đuôi...

Y nói chưa dứt câu đã có một tên khác cướp lời:

- Sư phụ đừng nghe y bợ đít, mới vừa đây chính nó gọi bọn ăn xin kia

là đại hiệp, thánh nhân chứ còn ai.

Lại có một đệ tử khác lên tiếng:

- Chúng ta theo sư phụ bao nhiêu năm nay, ai mà chẳng biết thầy

mình có tài thông thiên triệt địa? Vừa rồi chúng mình nói khuếch nói

khoác với bọn ăn mày, chẳng qua là để đánh lừa chúng, để khi chúng ỷ y

không đề phòng, sư phụ lúc ấy mới thi triển pháp lực vô biên.

Đột nhiên một người khóa òa lên:

- Sư phụ ôi! Sư phụ ôi! Đệ tử thật là đáng chết, đệ tử hồ đồ, tham

sống sợ chết, đầu hàng địch nhân, bây giờ hối hận còn làm sao kịp, đành

nguyện cho rắn độc cắn chết chứ không dám xin sư phụ nhiêu dung.

Cả đám bấy giờ mới vỡ lẽ ra, sư phụ ghét nhất là đổ tội cho người

khác, chỉ có cách tự xỉ vả mình hồ đồ đáng chết, đem bao nhiêu tội vạ

trút lên đầu mình may ra được sư phụ khai ân tha thứ. Chỉ trong phút

chốc, ai nấy đều tự chửi mình, nào là có lòng bất lương, nào là tội đáng

muôn thác. Riêng Du Thản Chi nằm trong bụi cỏ thấy hoa mắt nhức đầu,

chẳng hiểu ra sao.

Đinh Xuân Thu ám vận kình lực, định giựt đứt ba con trăn đang quấn

chặt lấy mình. Thế nhưng mãng xà có thể dãn ra co lại, Đinh Xuân Thu

vận sức, ba con rắn chỉ nhỉnh ra một chút, nhưng không đứt được. Người

lão ta chỗ nào cũng đầy chất độc, đến cả quần áo tóc tai cũng có nên bọn

đệ tử Cái Bang bắn ám khí vào lão ta đều bị nhiễm độc. Thế nhưng

những con trăn da dày, vảy trơn, độc tố khó mà xâm nhập. Chỉ nghe bọn

đệ tử lải nhải mãi không thôi, Đinh Xuân Thu bực quá quát lên:

- Đứa nào tìm cách đuổi được rắn đi thì ta tha chết cho đứa ấy.

Không lẽ chúng bay chưa biết tính ta nữa hay sao? Ai mà còn dùng được

thì ta chưa giết. Còn nói năng nhăng cuội có ích gì đâu?

Y vừa nói xong, quần đệ tử bèn lặng như tờ. Một lúc sau có người

nói:

- Chỉ cần có ai đốt một mồi lửa dí vào mấy con rắn thế là bọn súc

sinh này sẽ chạy te ngay.

Đinh Xuân Thu chửi liền:

- Cái con bà mày, nói thối bỏ mẹ. Nơi đây đồng không mông quạnh,

đằng trước không thôn, đằng sau không xóm, có ai qua đây bây giờ? Ví

phỏng có dân đi ngang qua, bọn chúng thấy lắm rắn độc thế này, sợ khiếp

vía chạy còn không kịp, lấy đâu ra chuyện đốt lửa mà hun?

Thế là bọn đệ tử lại rầm rĩ cả lên, nhưng chẳng có cách nào dùng

được, sở dĩ bọn chúng tranh nhau nói, chẳng qua để lấy lòng sư phụ, tỏ ra

mình tuân theo sư mệnh hết sức vắt óc ra để tìm mưu. Cứ như thế một hồi

lâu thì có một tên đệ tử bị trăn quấn nghẹt thở không chịu nổi, trong khi

mê loạn há mồm cắn vào thân mãng xà một cái. Con rắn bị đau, ngoặp

ngay cổ họng y, tên đó chỉ kêu lên thảm thiết rồi chết ngay.

Đinh Xuân Thu càng lúc càng nóng ruột, nếu như bị địch nhân vây

khốn thì trong bấy lâu y đã có thể hạ độc tính mưu tìm cách thoát thân,

thế nhưng những con rắn này vô tri vô thức, dù mưu kế hay cách mấy

cũng không sao thi hành được, chỉ sợ một khi chúng đói rồi, sẽ há mồm

nuốt mình vào bụng.

Mối lo của y quả nhiên đúng thực, một con trăn lâu không nghe thấy

tiếng sáo, bụng đói lắm rồi, há mồm ngoạm tên đệ tử Tinh Tú đang quấn.

Tên đệ tử đó kêu lên:

- Sư phụ cứu con! Sư phụ cứu con!

Hai cái chân y bị trăn nuốt trước rồi đến mình cũng từ từ chui vào,

miệng vẫn kêu la thảm thiết nhưng răng mãng xà hình móc15, chân tên đệ

tử đó chui vào rồi, dần dần đến bụng, lên đến ngực. Y nhất thời chưa

chết, vẫn lớn tiếng kêu la, vang dậy cả cánh đồng.

Mọi người ai nấy biết rằng số phận mình trong chốc lát rồi cũng như

thế, không khỏi sợ đến vỡ mật. Một người thấy Tinh Tú Lão Quái cũng

đành bó tay chịu chết, tự nhiên lòng căm hận nổi lên, lớn tiếng chửi bới,

nói mọi chuyện chẳng qua chỉ vì y ép buộc, mình đang sinh sống yên lành

bằng nghề nuôi cừu ở biển Tinh Tú, bị y vừa uy hiếp vừa dụ dỗ, bắt phải

gia nhập làm môn hạ, hôm nay chết thảm nơi miệng độc xà, xuống đến

cõi âm, thể nào cũng dâng cáo trạng lên Diêm Vương.

Gã đó mở đầu, bao nhiêu người khác cũng chửi theo. Mọi người ngày

thường bị Tinh Tú Lão Quái hành hạ ngược đãi, lòng đầy oán hận, có

điều chỉ để trong bụng mà không dám nói ra lời, hôm nay cũng cùng chết

cả nên chửi một phen cho hả tức. Một người chửi lớn quá thân hình dao

động, khiêu khích con rắn đang quấn, mãng xà liền há mồm ngoạm ngay

đầu vai, y chỉ có nước kêu lên:

- Ối! Ối! Cứu tôi với! Cứu tôi với!

Du Thản Chi thấy cả bọn ai cũng bị mãng xà quấn chặt không thể

nào thoát thân được, trong lòng không sợ hãi gì nữa, từ trong bụi cỏ đứng

lên, thấy nơi này không phải là chỗ tốt lành gì nên định chạy cho mau.

Người trong phái Tinh Tú đột nhiên thấy một quái nhân đầu đội lồng sắt,

ai nấy thất kinh nhưng lập tức có người nghĩ ra là chỉ còn trông vào y để

cứu mạng, liền kêu lên:

- Đại anh hùng ơi, đại hiệp sĩ ơi, nhờ ngài lấy nắm cỏ khô, đốt lửa

lên, đuổi giùm mấy con trăn này cho chúng tôi, mỗ lập tức tặng cho...

tặng cho ngài một nghìn lượng bạc.

Lại một người khác kêu lên:

- Một nghìn lượng đâu có đủ, phải ít nhất một vạn lượng.

Lại một người khác nói:

- Vị tiên sinh đây bụng nhân lòng hiệp, hết sức tử tế, chỉ chuyên

hành hiệp trượng nghĩa, huống chi đốt lửa dọa rắn thì có gì là nguy hiểm.

Chỉ trong giây lát tiếng ca tụng vang lên, còn kẻ hứa thưởng tiền thì

chỉ chớp mắt đã lên đến trăm vạn lượng hoàng kim. Những gã này mồm

miệng chửi ai thì số một đã đành mà nịnh bợ ca tụng thì cũng có bài có

bản. Du Thản Chi trong đời đã có bao giờ nghe ai gọi mình là đại hiệp

sĩ, đại anh hùng, người nhân kẻ hiệp, hảo hán trên đời có một

không hai bao giờ? Bây giờ nghe bọn người này tâng bốc lên tận mây

xanh, y cảm thấy hởi lòng hởi dạ, tưởng chừng như đang bay bổng, tự

nhiên cảm thấy mình có phong độ đại hiệp sĩ, đại anh hùng thật, một

trăm vạn lượng hoàng kim chẳng coi vào đâu, có điều A Tử cô nương

không được chính tai nghe những lời tán tụng mình quả cũng đáng tiếc.

Y bèn gom cỏ khô, mò trong người đồ đánh lửa châm vào nhưng khi

thấy bao nhiêu là trăn lớn trông thật hung dữ, trong bụng cũng sợ lắm,

nghĩ thầm thôi chẳng nên trêu vào những con rắn này, không chừng chính

mình cũng vướng vào trong rọ. Y suy nghĩ một lát bèn đi gom các cành

khô đốt thành một đống lửa thật lớn ở ngay trước mặt, sau đó mới cầm

một cành cây đang cháy, ném vào con trăn lớn gần mình nhất.

Ngoài điện nắng hè dường đổ lửa,

Trong nhà lạnh buốt nước thành băng.

Trùng lạ xem chừng chưa đáng sợ,

Dẫu độc sao bằng dạ sói lang.

*

* *

Y đứng nấp ở sau đống lửa, nép người lại để nếu con mãng xà phóng

tới cắn mình thì sẽ lập tức co giò chạy thoát thân, cái danh đại anh

hùng, đại hiệp sĩ cũng chẳng màng chi nữa.

Trăn quả nhiên sợ lửa, thấy lửa lem lém ở bên cạnh lập tức đang

quấn người liền lỏng ra, chui vào trong cỏ. Du Thản Chi thấy đốt lửa kiến

hiệu, trong tiếng hoan hô của phái Tinh Tú, cầm hết que củi này đến que

củi khác vứt ra. Những con rắn lập tức lúc nhúc bỏ chạy, đến những con

trăn lớn dài mấy trượng cũng không chịu nổi lửa nóng đành thả người ra

chạy mất. Chỉ trong giây lát, mấy trăm con rắn và trăn đã đi hết sạch.

Các đệ tử phái Tinh Tú lớn tiếng ca tụng:

- Minh kiến của sư phụ quả xa vạn dặm, thật là thần cơ diệu toán,

dùng hỏa công linh nghiệm biết bao.

- Sư phụ hồng phúc tề thiên, phùng hung hóa cát.

- Mọi việc đều do sư phụ tính toán mới cứu được cái mạng kiến của

chúng con.

Bao nhiêu lời ca tụng toàn là nhắm vào công đức của sư tôn Tinh Tú

Lão Quái, còn công lao đốt lửa đuổi rắn của Du Thản Chi chẳng ai nhắc

đến một câu. Du Thản Chi đứng ngơ ngẩn như trời trồng, hơi lấy làm lạ,

nghĩ thầm: Mới đây cả bọn chúng bay còn chửi sư phụ không tiếc lời,

bây giờ lại tán tụng tận mây xanh, cái tiếng đại anh hùng, đại hiệp sĩ

của ta nay thành thằng nhãi này, ấy là vì cớ gì?.

Đinh Xuân Thu vẫy tay nói:

- Thằng đầu sắt kia, lại đây, tên ngươi là gì?

Du Thản Chi bị người ta khinh khi đã quen, thấy đối phương vô lễ,

cũng chẳng để bụng nói:

- Tôi tên Du Thản Chi.

Nói xong đi tới mấy bước. Đinh Xuân Thu hỏi:

- Mấy tên ăn mày kia đã chết chưa? Ngươi thử lại sờ mũi y xem có

còn thở không nào?

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Y cúi xuống sờ mũi một tên đệ tử Cái Bang, thấy tay chạm vào lạnh

ngắt, gã đó chết từ lâu rồi. Y lại thăm một gã khác thì cũng đã tắt thở bèn

nói:

- Chết cả rồi, không còn thở tí nào cả.

Chỉ thấy bọn đệ tử phái Tinh Tú mặt mày hớn hở đứa nào đứa nấy ra

chiều hạnh tai lạc họa16. Y không hiểu vì sao, lại nhắc lại lần nữa:

- Chết cả rồi, không còn thở tí nào cả.

Những gã kia khuôn mặt đang nhăn nhở ra chiều diễu cợt bỗng nhiên

biến mất, từ từ chuyển sang lạ lùng, rồi trở thành kinh hãi. Đinh Xuân

Thu nói:

- Mỗi tên ăn mày ngươi thử dò xem có đứa nào còn cứu được không?

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Y bèn thăm dò hết lượt hơn chục tên ăn mày rồi lắc đầu:

- Người nào cũng chết cả rồi. Công lực của lão tiên sinh ghê gớm

thật.

Đinh Xuân Thu cười khẩy:

- Công phu kháng độc của ngươi còn ghê gớm hơn nhiều.

Du Thản Chi lạ lùng hỏi:

- Tôi...cái gì... công phu kháng độc của tôi ư?

Y hoang mang không hiểu ý tứ câu nói của Đinh Xuân Thu ra sao,

cũng chẳng biết rằng mỗi lần mình thò tay xem hơi thở của người trong

Cái Bang là một lần đến quỉ môn quan, sờ thử hơn mười người, là trải qua

hơn mười lần chết đi sống lại. Y nào có biết được rằng, Tinh Tú Lão Quái

bị trăn quấn không sao thoát thân được tất cả đều do tiểu tử này cứu

mạng, nếu như truyền ra trên giang hồ thì chẳng còn mặt mũi nào, thành

thử khi rắn trăn đi khỏi rồi lập tức nảy ra ý định giết y để bịt miệng.

Ngờ đâu trong mấy tháng qua Du Thản Chi tập luyện liên tục nên độc

chất của con băng tàm đã dung hợp trong cơ thể, những gì Đinh Xuân Thu

thổi vào xác những tên đệ tử Cái Bang kia không làm gì y nổi.

Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Cứ nhìn da tay và nghe giọng nói của gã

này thì xem ra còn trẻ lắm, chắc không có bản lãnh gì chân thực đâu, có

lẽ trên người y có chất gì kỵ độc như hùng hoàng châu, tịch tà kỳ hương

chẳng hạn, hay đã uống sẵn thuốc giải nên không bị chất độc xâm nhập.

Y liền nói:

- Du huynh đệ, ngươi lại đây, ta có chuyện muốn nói.

Du Thản Chi thấy y nói ra vẻ thành khẩn nhưng đã từng chứng kiến

thủ đoạn giết bọn Cái Bang thật là tàn độc, thầy trò y khi thì nịnh bợ tâng

bốc, lúc lại chửi bới nhục mạ lẫn nhau, biết hạng người này thật khó mà

đối phó, chi bằng kính nhi viễn chi là hơn bèn đáp:

- Tiểu nhân đang có chuyện cần, không thể phụng bồi, xin cáo từ.

Nói xong chắp tay chào, quay mình đi thẳng. Y mới đi được mấy

bước, đột nhiên thấy bên cạnh người có hơi một chút gió, hai cổ tay ghịt

lại thì ra đã bị nắm chặt. Du Thản Chi quay đầu nhìn, thấy người nắm tay

mình chính là một đệ tử phái Tinh Tú. Y không hiểu đối phương có dụng

ý gì nhưng thấy mặt y nở một nụ cười nham hiểm, xem ra không có hảo

ý, trong lòng kinh hãi kêu lên:

- Bỏ ta ra!

Y giằng mạnh một cái, bỗng thấy có vật gì bay vụt ngang đầu, một

thân hình to lớn từ sau lưng nhảy qua người y, bình một tiếng, giáng mạnh

vào vách đá trước mặt, đầu vỡ tan, nát ngướu thành một cục bầy nhầy.

Du Thản Chi thấy gã đó đụng mạnh như thế, không sao tin nổi, còn

đang ngạc nhiên, nhìn kỹ lại hóa ra chính là gã vừa nắm tay mình, càng

thêm kỳ quái: Gã này đang khỏe mạnh như thường, sao tự nhiên lại lao

đầu vào đá tự tử ? Không lẽ hóa điên chăng?. Y có ngờ đâu chính là vì

mình giãy một cái, một luồng kình lực đưa ra ném gã kia vào trong núi.

Quần đệ tử phái Tinh Tú ai nấy sợ hãi kêu lên, mặt mày biến sắc.

Đinh Xuân Thu thấy y ra tay quật chết đệ tử mình, thủ pháp thật là

vụng về quờ quạng, không phải công phu thượng thừa, chỉ vì sức lực

mạnh lạ lùng mà ra, nghĩ thầm người này trời cho thần lực, võ công lại

tầm thường, lập tức nhún mình một cái, giơ tay chộp vào đầu y. Du Thản

Chi không kịp đề phòng lập tức bị đè đến quì xuống đất, bèn chõi lên

định đứng dậy, nhưng đầu tưởng như đang đội một khối đá vạn cân,

không cách nào động đậy gì được vội vàng van xin:

- Xin lão tiên sinh tha cho.

Đinh Xuân Thu thấy y mở miệng xin tha nên cũng yên tâm hỏi lại:

- Sư phụ ngươi là ai? Sao ngươi dám to gan, giết đệ tử của ta?

Du Thản Chi đáp:

- Tôi... tôi không có sư phụ. Tiểu nhân chẳng bao giờ dám giết đệ tử

của lão tiên sinh.

Đinh Xuân Thu nghĩ bụng chẳng cần nhiều lời với y làm gì, giết

người diệt khẩu cho được việc, nên buông tay ra đợi Du Thản Chi vừa

đứng lên liền múa chưởng đánh vào ngực y. Du Thản Chi kinh hãi vội

vàng đưa tay gạt ra. Thế đánh của Đinh Xuân Thu thật chậm, Du Thản

Chi vừa đưa tay ra đụng ngay phải chưởng tâm của lão. Đinh Xuân Thu

vốn đã tính trước, chất độc trong người theo nội kình lòng bàn tay tống ra,

chính là công phu Hóa Công Đại Pháp thành danh mấy chục năm qua,

trong chưởng hoặc chứa kịch độc, hoặc hóa tán nội lực kẻ địch trong

khoảnh khắc, kẻ thì chết ngay tại chỗ, có kẻ đau đớn quằn quại mấy

tháng mới chết toàn do ý muốn thi triển khác nhau.

Trong đời Đinh Xuân Thu đã từng dùng pháp môn này giết không

biết bao nhiêu người, võ lâm nghe đến Hóa Công Đại Pháp ai ai cũng

căm hận chán ghét, sợ đến bủn rủn cả tay chân. Bắc Minh Thần Công

của Đoàn Dự hút nội lực người khác lấy làm của mình, khác hẳn với Hóa

Công Đại Pháp dùng chất kịch độc hóa tán nội công người khác, nhưng

người bị trúng phải thấy mình trong giây lát tiêu tán hết nội lực, chưa một

ai có kinh nghiệm của cả hai nên đều hiểu lầm. Đinh Xuân Thu thấy gã

đầu sắt sờ mũi hơn chục tử thi Cái Bang mà vẫn không trúng độc nên lập

tức thi triển bản lãnh tối đắc ý của lão ra.

Hai người song chưởng chạm nhau, thân hình Du Thản Chi lảo đảo,

lịch bịch lùi luôn sáu bảy bước, định gượng dậy nhưng cũng phải ngồi

phệt xuống, vậy mà dư lực vẫn còn đẩy y ngã ngửa, đầu va xuống đất,

lộn tùng phèo ba bốn vòng mới ngừng lại được. Y vội vàng liên tiếp khấu

đầu van xin:

- Lão tiên sinh tha mạng! Lão tiên sinh tha mạng!

Đinh Xuân Thu hai tay đụng với y thấy Du Thản Chi nội lực hùng

mạnh, kình đạo âm hàn, thật là quái dị, lại có ngầm chứa chất cực độc,

tuy bị mình đẩy ngã lăn chòng chọc thật là thê thảm, nhưng nếu so sánh

nội lực và độc kình thì không kém gì mình, vậy mà lại van xin cầu tha

mạng? Không lẽ y thực sự không biết? Lão liền tiến lên hỏi lại:

- Ngươi cầu xin ta tha mạng, đó là thực lòng hay là giả ý?

Du Thản Chi vẫn một mực rập đầu van lạy:

- Tiểu nhân một lòng thành thực, cầu xin lão tiên sinh tha mạng cho

tiểu nhân.

Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Gã này không biết dùng cách gì, gặp

được cơ duyên làm sao mà chất độc tích trong người còn hơn cả ta, quả là

một kỳ bảo. Ta phải tìm cách tóm lấy gã dò xem pháp môn luyện công ra

sao sau đó hút hết chất độc trong người y, lúc đó mới xử tử. Còn nếu chỉ

giết y đi thì thật uổng quá!. Ông ta giơ chưởng ấn xuống đầu Du Thản

Chi, hơi vận nội lực nói:

- Trừ phi ngươi bái ta làm thầy, nếu không ta làm sao tha mạng cho

ngươi được?

Du Thản Chi thấy chiếc lồng sắt trên đầu như bị đút vào lò lửa, nóng

đến mặt hừng hực, trong bụng hết sức sợ hãi. Y từ khi bị A Tử hành hạ

dày vò trở nên bảo sao nghe vậy, chẳng còn phân biệt thiện ác thị phi,

bao nhiêu cốt khí cứng cỏi ương ngạnh mất sạch, chỉ sao được bảo toàn

tính mạng nên lật đật nói:

- Sư phụ, đệ tử Du Thản Chi cam nguyện gia nhập môn hạ của sư

phụ, xin lão nhân gia thu nạp cho.

Đinh Xuân Thu mừng lắm, thản nhiên nói:

- Ngươi muốn bái ta làm thầy thì cũng được. Thế nhưng qui củ bản

môn thật nhiều, ngươi có tuân thủ được không? Ví thử sư phụ bảo làm gì,

ngươi có thành tâm thành ý làm hết lòng, quyết không vi kháng chăng?

Du Thản Chi đáp:

- Đệ tử nguyện tuân thủ qui củ, phục tòng mệnh lệnh của sư tôn.

Đinh Xuân Thu hỏi thêm:

- Nếu sư phụ muốn lấy mạng ngươi, ngươi có cam tâm tình nguyện

chịu chết không?

Du Thản Chi ấp úng:

- Cái đó... cái đó...

Đinh Xuân Thu nói:

- Ngươi nghĩ cho chín, cam tâm thì là cam tâm, không bằng lòng thì

nói không bằng lòng.

Du Thản Chi nghĩ thầm: Nếu ông muốn lấy mạng tôi thì dĩ nhiên

không cam tâm rồi. Nếu tới lúc đó trốn được là mình trốn ngay, còn như

chạy không xong thì dù không cam tâm cũng đành vậy chứ biết sao hơn.

Y bèn nói:

- Đệ tử cam tâm chịu chết vì sư phụ.

Đinh Xuân Thu cười ha hả nói:

- Hay lắm, hay lắm! Ngươi đem tất cả mọi chuyện trong đời nói hết

cho ta nghe.

Du Thản Chi không muốn nói rõ hết cho ông ta nghe thân thế và

những gặp gỡ trong đời, chỉ nói mình là con nhà nông bị người Liêu bắt

trong một kỳ đi gặt, đội cho y một cái lồng sắt. Đinh Xuân Thu hỏi y

độc chất vì đâu mà có, Du Thản Chi chỉ thổ lộ vì sao thấy con băng tàm

và nhà sư Tuệ Tịnh, ăn cắp con tằm ra sao rồi nói láo là sơ ý nên bị con

băng tàm trong hồ lô cắn vào tay khiến cho toàn thân đông cứng, còn con

tằm thì chết, còn chuyện A Tử tu luyện độc chưởng y bỏ qua không đề

cập tới.

Đinh Xuân Thu hỏi kỹ lưỡng hình dáng và tình trạng con băng tàm,

trên mặt không khỏi lộ vẻ thèm thuồng thán phục. Du Thản Chi nghĩ

thầm: Nếu ta nói đến cuốn sách ướt hiện hình lên y thể nào cũng cướp

mất không trả lại đâu. Đinh Xuân Thu lại gặng hỏi công phu cổ quái y

luyện thế nào nhưng y nhất quyết không hé răng.

Đinh Xuân Thu vốn dĩ đâu có biết đó là công phu Dịch Cân Kinh thấy

võ công y hết sức kém cỏi lại tưởng vì y luyện được nội kình âm hàn

hoàn toàn chỉ do con băng tàm mà có, trong bụng không khỏi chửi thầm:

Loại thần vật như thế mà lại bị tên tiểu tử này thần xui quỉ khiến làm

sao hút được vào người, thật uổng quá. Y suy nghĩ một chút bèn hỏi

thêm:

- Thế nhà sư mập bắt được con tằm đó, ngươi bảo là nghe người khác

gọi là Tuệ Tịnh ư? Là sư chùa Thiếu Lâm, chấp tác nơi chùa Mẫn Trung

ở Nam Kinh?

Du Thản Chi đáp:

- Quả đúng thế.

Đinh Xuân Thu nói:

- Gã Tuệ Tịnh đó bảo là bắt được con băng tàm ở trên đỉnh núi Côn

Lôn. Thế thì tốt lắm, ở đó đã có một con thì hẳn sẽ có hai con, ba con. Có

điều núi Côn Lôn vuông vức mấy nghìn dặm, nếu không phải người thuộc

đường đưa đi thì không phải dễ gì mà bắt được.

Lão đã đích thân nếm mùi linh nghiệm của con băng tàm, tính ra so

với Thần Mộc Vương Đỉnh còn quí hơn nhiều, thấy chuyện cần kíp trước

mắt phải làm sao ép được nhà sư Tuệ Tịnh dẫn đường đi lên núi Côn Lôn

bắt con trùng quí. Hòa thượng đó thuộc phái Thiếu Lâm, vốn cũng khó

mà động tới được, nay lại ở Nam Kinh thế thì may quá. Sau đó Du Thản

Chi làm lễ bái sư gia nhập phái Tinh Tú.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy sư phụ có chiều thương mến y cho nên

lập tức xúm lại ninh bợ, tán tụng không tiếc lời. Mới rồi cả bọn chửi bới

Tinh Tú Lão Quái, phản nghịch hàng địch nhưng lúc này Đinh Xuân Thu

đang cần người nên giả bộ làm như không nhớ đến, vả lại những chuyện

đó thì y cũng đã biết thừa nên không thấy bực tức chút nào.

Đoàn người liền chuyển qua đi về hướng đông bắc. Du Thản Chi đi

sau Đinh Xuân Thu thấy lão tay áo rộng phất phới, bộ pháp nhẹ nhàng

thật chẳng khác gì thần tiên, trong lòng tự nhiên sinh kính ngưỡng: Ta

bái một vị tài ba thế này làm sư phụ, quả đúng là kiếp trước khéo tu.

Người phái Tinh Tú đi ba ngày liền, đến xế trưa hôm đó, cả bọn ở lại

một tòa lương đình ở bên đường uống nước nghỉ ngơi, bỗng nghe phía sau

có tiếng vó ngựa, bốn kỵ sĩ từ phía đường bên kia chạy tới. Bốn con ngựa

đó chạy tới gần căn nhà mát, người đầu tiên kêu lên:

- Đại ca, nhị ca, trong đây có nước, mình ghé lại uống vài bát cho

ngựa nghỉ một chút.

Y vừa nói vừa nhảy xuống ngựa, đi vào lương đình, ba người còn lại

cũng hạ mã. Bốn người đó thấy bọn Đinh Xuân Thu, hơi gật đầu chào, đi

đến bên chum nước, cầm bát lên múc nước uống. Du Thản Chi thấy người

đi đầu mặc áo đen, bé nhỏ gầy gò, trên mép để hai chòm râu đuôi chuột

vẻ mặt ranh mãnh. Người thứ hai mặc áo bào màu hoàng thổ, cao lỏng

khỏng, hai lông mày xuôi xuống, vẻ mặt cáu kỉnh trông như người ốm dở.

Người thứ ba mặc trường bào màu đỏ cánh kiến, thân hình cao lớn, tai to

mặt vuông, dưới cằm là một bộ râu hoa râm khá rậm trông chẳng khác gì

một phú thương. Người sau cùng mặc áo xanh khăn áo theo vẻ nho sinh,

chừng trên dưới năm mươi, đôi mắt lờ đờ dường như vì đọc sách nhiều

quá nên cập kèm, không uống nước mà cầm chiếc hồ lô lên tu rượu ừng

ực.

Cũng vừa khi đó, từ phía đường trước mặt, một nhà sư xăng xái đi tới,

đến trước lương đình, chắp hai tay cung kính nói:

- Chúng vị thí chủ, tiểu tăng đi đường khát nước, xin được vào trong

đình nghỉ ngơi, uống bát nước.

Người áo đen cười đáp:

- Sư phụ chẳng phải đa lễ, ở đây ai cũng là người qua đường, tòa nhà

mát này có phải chúng tôi dựng lên đâu, xin mời vào nghỉ.

Nhà sư đáp:

- A Di Đà Phật, xin đa tạ.

Nói xong ông ta đi vào trong lương đình. Nhà sư đó tuổi chừng hai

mươi nhăm, hai mươi sáu, mắt to mày rậm, mũi to nhưng tẹt, mặt mày

không lấy gì làm đẹp trai, tăng bào tuy vá nhiều chỗ nhưng sạch sẽ. Y đợi

ba người kia uống xong lúc đó mới đến gần chum nước, dùng bát múc, hai

tay nâng lên, đôi mắt khép lại, cung kính đọc một bài kệ:

Phật quan nhất bát thủy

Bát vạn tứ thiên trùng

Nhược bất trì thử chú

Như thực chúng sinh nhục.

Ở trong lòng bát nước kia,

Phật trông thấy tám muôn tư côn trùng.

Chú này chưa tụng cho xong,

Khác gì ăn thịt một vùng chúng sinh.

Rồi y niệm:

- Am phọc thái ba la ma ni sa ha.

Niệm xong y mới bưng bát nước lên để vào miệng uống. Gã áo đen

lấy làm lạ bèn hỏi:

- Tiểu sư phụ, chú xí xa xí xố niệm chú gì đó?

Nhà sư đáp:

- Tiểu tăng niệm đó là ẩm thủy chú. Phật dạy rằng trong mỗi bát

nước đều có tám vạn bốn ngàn loại côn trùng, người xuất gia giới sát

thành ra phải niệm ẩm thủy chú xong lúc đó mới uống được.

Người áo đen cười sằng sặc nói:

- Nước trong veo, đến một con trùng cũng không có, tiểu sư phụ chỉ

giỏi nói đùa.

Nhà sư nghiêm trang đáp:

- Thí chủ có chỗ không biết. Chúng ta là bọn phàm phu nhìn vào thì

trong nước không có côn trùng nhưng đức Phật nhìn bằng thiên nhãn, thấy

trong nước tiểu trùng hàng nghìn hàng vạn con.

Người áo đen cười hỏi lại:

- Thế chú niệm ẩm thủy chú rồi uống tám vạn bốn nghìn con trùng

kia vào bụng thì tiểu trùng không chết hay sao?

Nhà sư trù trừ rồi đáp:

- Cái... cái đó... sư phụ tiểu tăng chưa dạy. Có lẽ tiểu trùng không

chết đâu.

Người áo vàng chen vào:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Tiểu trùng cũng vẫn chết chứ. Có điều

tiểu sư phụ niệm chú rồi, tám vạn bốn nghìn con trùng kia đi thẳng lên

tây phương cực lạc thế giới, tiểu sư phụ uống một bát nước ấy là siêu độ

cho tám vạn bốn nghìn chúng sinh. Công đức thật là vô lượng! Quả thật là

vô lượng!

Nhà sư kia không biết y nói thật hay nói đùa, hai tay vẫn cầm bát

nước đứng ngơ ngơ ngẩn ngẩn, mồm lẩm bẩm:

- Một lần siêu độ tám vạn bốn ngàn chúng sinh ư? Tiểu tăng làm sao

có pháp lực to lớn dường ấy?

Người áo vàng đi đến bên cạnh nhà sư, cầm lấy bát nước trong tay y,

nhìn chăm chăm miệng đếm:

- Một, hai, ba, bốn, năm, sáu... một nghìn, hai nghìn, một vạn, hai

vạn... Sai bét rồi, không phải vậy! Tiểu sư phụ ơi ơi, trong cái bát này có

cả thảy tám vạn ba nghìn chín trăm chín mươi chín con tiểu trùng, thiếu

đâu mất một con.

Nhà sư nói:

- Nam Mô A Di Đà Phật, thí chủ chắc nói đùa, thí chủ là người phàm

làm sao có thần thông thiên nhãn được?

Người áo vàng đáp:

- Thế chú có thần thông thiên nhãn không?

Nhà sư đáp:

- Tiểu tăng dĩ nhiên cũng không có.

Người áo vàng nói:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Ta xem chú có thiên nhãn thông, nếu

không làm sao chú chỉ mới nhìn thoáng qua đã biết ngay ta là kẻ phàm

phu tục tử mà không phải là bồ tát giáng trần?

Nhà sư nhìn y, nhìn tới nhìn lui đầy vẻ hoang mang. Đại hán mặc áo

màu cánh kiến liền đi tới cầm lấy bát nước, trả lại cho nhà sư cười nói:

- Sư phụ uống nước đi! Thằng em tôi đùa chơi với chú đấy mà, đừng

có coi là thật.

Nhà sư tiếp lấy bát nước cực kỳ cung kính đáp:

- Đa tạ! Đa tạ!

Trong bụng không biết phải làm sao nên không dám uống. Đại hán

kia lại tiếp:

- Ta xem tiểu sư phụ đi đứng nhanh nhẹn chắc biết võ công. Xin hỏi

pháp danh là gì, đang xuất gia tại chùa nào?

Nhà sư liền để bát nước trên nắp chum, hơi khom lưng nói:

- Tiểu tăng là Hư Trúc, xuất gia tại chùa Thiếu Lâm.

Người áo đen kêu lên:

- Hay quá! Hay quá! Hóa ra chú là cao thủ chùa Thiếu Lâm. Ra đây,

ra đây mau! Hai đứa mình làm thử một keo nào.

Hư Trúc cuống quít xua tay nói:

- Tiểu tăng võ công kém cỏi, làm sao dám động thủ cùng thí chủ?

Người áo đen cười:

- Mấy hôm nay không đánh nhau, ngứa tay ngứa chân quá. Chúng

mình làm vài chiêu, không cần đánh thật, có gì đâu mà sợ?

Hư Trúc lùi lại hai bước nói:

- Tiểu tăng tuy có luyện võ mấy năm thật nhưng chỉ cốt để cho thân

thể khỏe mạnh chứ nào có đánh nhau được đâu?

Người áo đen nói:

- Sư chùa Thiếu Lâm ai cũng võ công cao cường, người mới học đâu

có ai được ra khỏi sơn môn. Tiểu sư phụ đã được hạ sơn hẳn là phải nhất

lưu cao thủ. Lại đây nào! Hai đứa mình chỉ trao đổi một trăm chiêu, ai

thua ai được cũng chẳng sao cả.

Hư Trúc lại thoái lui thêm hai bước nữa nói:

- Thí chủ không biết, phen này tiểu tăng xuống núi chẳng phải vì võ

công đã đủ, chỉ vì nhà chùa sai rất đông đệ tử đi đưa thư, thiếu người nên

miễn cưỡng khiến luôn cả tiểu tăng cho đủ số. Tiểu tăng cầm cả thảy

mười trương anh hùng thiếp, sư phụ dặn kỹ là đưa đủ mười cái thiếp xong

là phải về chùa ngay, giá nào cũng không được động võ với ai, hiện nay

đã đưa được bốn lá thiếp rồi, trong người còn sáu cái. Thí chủ võ công

cao cường, vậy xin nhận một trương anh hùng thiếp.

Nói xong lấy trong túi ra một chiếc bao bằng vải dầu, mở lấy ra một

phong bì đỏ chói, cung kính đưa lên nói:

- Xin hỏi cao tính đại danh của thí chủ để tiểu tăng khi về chùa bẩm

lại với sư phụ.

Hán tử áo đen không cầm tờ thiếp chỉ nói:

- Nếu như ngươi không đánh nhau với ta thì ta còn anh hùng cẩu

hùng gì nữa? Hai đứa mình sách giải vài chiêu, ta có thắng ngươi lúc đó

mới dám nhận anh hùng thiếp.

Nói xong y tiến lên hai bước, nhứ tay trái, tay phải đấm luôn vào mặt

Hư Trúc nhưng quyền sắp đến đã thu lại kêu lên:

- Trả đòn mau.

Người cao to từ khi thấy Hư Trúc nói đến ba chữ anh hùng thiếp thì

đã chú ý lắng tai nghe lúc này lên tiếng:

- Tứ đệ, không nên tỉ võ vội, trước hết xem anh hùng thiếp xem nói

những gì.

Y cầm lấy lá thiếp từ tay Hư Trúc thấy trên đó viết:

Trụ trì chùa Thiếu Lâm Huyền Từ, chắp tay cung thỉnh anh hùng

thiên hạ, vào giai tiết Trùng Dương mồng chín tháng chín, xin vui lòng

đến Tung Sơn Thiếu Lâm Tự để kết mối thiện duyên, đồng thời chứng

kiến phong phạm dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân của nhà Mộ Dung Cô

Tô.

Đại hán đó liền kêu lên một tiếng, cầm tờ thiếp giao cho nho sinh

đứng bên cạnh, nói với Hư Trúc:

- Phái Thiếu Lâm chiêu khai anh hùng đại hội, hóa ra là để gây

chuyện với Mộ Dung Cô Tô...

Hán tử áo đen liền la to:

- Hay lắm! Hay lắm! Ta tên là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác, chính

là thủ hạ của họ Mộ Dung Cô Tô đây. Phái Thiếu Lâm muốn làm khó

Mộ Dung Cô Tô thì chẳng việc gì phải mở anh hùng đại hội, ngay bây

giờ ta xin lãnh giáo thân thủ cao chiêu của phái Thiếu Lâm.

Hư Trúc lại lùi thêm hai bước, chân trái đã bước ra khỏi lương đình

nói:

- Thì ra là Phong thí chủ. Sư phụ tiểu tăng có dặn là, tệ tự cung thỉnh

Cô Tô Mộ Dung thí chủ đến chùa, quyết không dám đắc tội. Có điều là

trên giang hồ ai ai cũng xầm xì, trong võ lâm những năm gần đây không

ít anh hùng hảo hán bỏ mình vì thần công dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân

của nhà Mộ Dung Cô Tô. Sư bá tổ của tiểu tăng là Huyền Bi đại sư viên

tịch tại chùa Thân Giới nước Đại Lý, không biết có liên can gì với họ Mộ

Dung không, tệ phái từ phương trượng đại sư giở xuống, ai ai cũng nghi

hoặc, thành ra mới...

Người áo đen liền ngắt lời:

- Chuyện đó vốn dĩ chẳng liên quan gì đến nhà Cô Tô Mộ Dung

chúng ta cả, thế nhưng chúng ta nói các ngươi nào có ai chịu tin đâu, nếu

như nói chuyện không xong thì chỉ còn nước quyền cước phân hơn thiệt.

Ví như thế, hai người mình hôm nay đánh nhau một trận, cũng như trước

khi diễn trò thì đánh phèng la chiêng trống, sắp vào vở tuồng thì nói lối

mấy câu giáo đầu, có thế mới vui. Còn đến tiết Trùng Dương mồng chín

tháng chín, Phong mỗ sẽ đến chùa Thiếu Lâm, từ dưới đánh lên, không

sót một mống, thế mới thống khoái. Có điều chỉ đánh được chừng mười

bảy mười tám mạng là Phong mỗ khắp người thương tích, không còn đánh

tiếp được nữa, muốn giao thủ với Huyền Từ lão phương trượng, chắc là

không thể nào có cơ duyên. Tiếc quá! Tiếc quá!

Y vừa nói vừa xắn tay áo dường như muốn xông lên động thủ. Hán tử

to cao nói:

- Tứ đệ, hãy khoan đã, nói năng cho minh bạch rồi đánh cũng chưa

muộn.

Người áo vàng chặn lại:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Nói cho minh bạch xong thì đâu cần

đánh nữa. Tứ đệ, cơ hội tốt chớ để mất, nếu muốn đánh nhau thì chớ có

nói cho minh bạch.

Người đàn ông to cao kia không nhìn nhõi gì đến y quay sang nói với

Hư Trúc:

- Tại hạ là Đặng Bách Xuyên còn người này là nhị đệ Công Dã Can.

Y vừa nói vừa chỉ vào người nho sinh, rồi chỉ vào người áo vàng:

- Còn đây là tam đệ Bao Bất Đồng, chúng tôi đều là thủ hạ của Mộ

Dung công tử.

Hư Trúc liền chắp tay chào bốn người miệng nói:

- Đặng thí chủ, Công thí chủ...

Bao Bất Đồng chen vào:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Nhị ca ta họ kép là Công Dã, ngươi lại

gọi Công thí chủ, thật sai hết chỗ nói.

Hư Trúc vội nói:

- Xin lỗi! Xin lỗi! Tiểu tăng chẳng có học vấn, xin Công Dã thí chủ

đừng trách. Bao thí chủ...

Bao Bất Đồng lại chặn ngang:

- Nhà ngươi lại cũng sai nữa rồi. Ta tuy họ Bao thật nhưng xưa nay

đã từng bố thí cho sư cho vãi bao giờ đâu, không thể nào gọi ta là Bao thí

chủ được.

Hư Trúc lật đật nói:

- Dạ! Dạ! Bao tam gia, Phong tứ gia.

Bao Bất Đồng liền đáp:

- Ngươi lại sai rồi! Phong tứ đệ của ta muốn cùng người giao đấu,

không kể ai ăn ai thua thì ngươi cũng một phen thêm lịch duyệt, võ công

ắt là trường tiến, thế chẳng phải đã bố thí cho ngươi hay sao?

Hư Trúc vội đáp:

- Vâng! Vâng! Phong thí chủ, có điều là tiểu tăng nhất quyết không

đánh nhau. Người xuất gia tu hành là gốc, học võ chỉ là ngọn, võ công

trường tiến hay không, cũng không quan hệ gì lắm.

Phong Ba Ác thở dài:

- Ngươi coi võ học xem thường như thế, võ công chắc cũng tầm

thường, thôi trận này chẳng cần đấu nữa.

Nói xong lắc đầu quầy quậy ra chiều thất vọng. Hư Trúc chẳng khác

gì trút được gánh nặng trên vai, mặt mày tươi rói nói:

- Phải lắm! Phải lắm!

Đặng Bách Xuyên nói:

- Hư Trúc sư phụ, cánh thiếp anh hùng này, chúng tôi đại diện công

tử nhận. Công tử chúng tôi mấy tháng trước đây đã từng đến bái phỏng

quí tự, không lẽ chưa tới nơi hay sao?

Hư Trúc đáp:

- Chưa thấy đến. Phương trượng đại sư vẫn mong Mộ Dung công tử

đến thăm nhưng đợi lâu quá mà không thấy, đã từng hai lần phái người

đến quí phủ bái phỏng, nghe tin Mộ Dung lão thí chủ qui tây, thiếu thí

chủ ra ngoài. Phương trượng đại sư lần này nhờ thủ tọa Đạt Ma Viện đến

tận tôn phủ ở Tô Châu đưa thư, lại sợ Mộ Dung thiếu thí chủ không có

nhà nên gửi anh hùng thiếp đến đông đảo đồng đạo giang hồ, những điều

thất lễ xin nhờ bốn vị bẩm lại Mộ Dung công tử cho minh bạch. Sang

năm Mộ Dung thí chủ giá lâm tệ tự, phương trượng đại sư sẽ đích thân tạ

tội sau.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Tiểu sư phụ không phải khách sáo quá. Kỳ hội còn đến hơn nửa

năm, tới lúc đó công tử chúng tôi thể nào cũng đến thăm quí tự, bái kiến

phương trượng đại sư.

Hư Trúc chắp tay khom lưng chào nói:

- Mộ Dung công tử cùng các vị giá lâm Thiếu Lâm Tự, phương

trượng đại sư chúng tôi cực kỳ hoan nghênh. Hai chữ bái kiến thật

không dám nhận.

Phong Ba Ác thấy y cực kỳ chấp nê, không có chút gì khẳng khái hào

sảng của võ lâm, tuy cũng là nhà sư đấy nhưng thật chẳng có vẻ gì là

hòa thượng chùa Thiếu Lâm danh tiếng trên đời, trong lòng không lấy

gì làm vui lắm, chẳng ngó ngàng gì đến y nữa, quay sang xem xét bọn

Đinh Xuân Thu. Y thấy quần đệ tử phái Tinh Tú tay cầm binh khí, hiển

nhiên cũng là người trong võ lâm, liền tìm xem có người nào xứng đáng

là đối thủ để mời ra đánh nhau một trận.

Du Thản Chi từ khi thấy bốn người này đi vào lương đình, lập tức nấp

vào đằng sau sư phụ. Đinh Xuân Thu thân thể cao to, che khuất y nên bọn

bốn người Đặng Bách Xuyên không nhìn thấy cái đầu sắt quái dị. Phong

Ba Ác thấy Đinh Xuân Thu đồng nhan hạc phát, tiên phong đạo cốt, trông

ra vẻ thế ngoại cao nhân, trong bụng không khỏi có chiều kính ngưỡng,

thành thử chưa dám ngang nhiên tiến lên khiêu chiến liền hỏi:

- Vị lão tiền bối kia xin hỏi cao tính đại danh là gì?

Đinh Xuân Thu mỉm cười đáp:

- Ta họ Đinh.

Vừa lúc đó Hư Trúc bỗng kêu lên một tiếng nói:

- Sư thúc tổ lão nhân gia cũng đã đến rồi.

Phong Ba Ác quay đầu lại thấy trên đường cái bảy tám hòa thượng đi

tới, đi đầu là hai vị lão tăng, còn lại có hai người khiêng một chiếc cáng,

trên đó có người nằm. Hư Trúc vội vã đi ra khỏi lương đình, hành lễ với

hai nhà sư già rồi bẩm lại lai lịch của bốn người Đặng Bách Xuyên.

Nhà sư phía bên phải gật đầu, đi vào trong đình tiến đến chào bọn

Đặng Bách Xuyên rồi nói:

- Lão nạp là Huyền Nạn.

Ông chỉ về nhà sư già kia nói:

- Còn đây là sư đệ của lão nạp Huyền Thống may mắn được gặp bốn

vị đại hiền của Cô Tô Mộ Dung Trang.

Bọn Đặng Bách Xuyên từng nghe danh Huyền Nạn từ lâu, thấy ông

mặt dăn deo nhưng đôi mắt thần quang thăm thẳm, vội vàng trả lễ. Phong

Ba Ác nói:

- Đại sư phụ là thủ tọa Đạt Ma Viện của chùa Thiếu Lâm, nghe nói

thần công ghê gớm lắm, hôm nay xin được lãnh giáo.

Huyền Nạn mỉm cười đáp:

- Lão nạp và Huyền Thống sư đệ phụng pháp dụ của phương trượng

đến phủ Mộ Dung thí chủ tại Giang Nam cung trình thiếp mời, đây là lần

thứ ba chùa chúng tôi sai người đến Yến Tử Ổ. Thế nhưng may sao ngay

tại đây được cùng quí vị giải cấu tương phùng, duyên pháp quả là không

nhỏ.

Nói xong từ trong túi lấy ra một thiếp mời màu đỏ. Đặng Bách Xuyên

hai tay cầm lấy thấy trên bao thư có viết:

Cung trình Mộ Dung thí chủ ở Yến Tử Ổ đất Cô Tô

Bằng chữ lớn, liệu chừng bên trong thiếp cũng giống như cái thiếp Hư

Trúc vừa đưa cho bèn nói:

- Hai vị đại sư phụ là cao tăng đại đức của chùa Thiếu Lâm, vọng

trọng trong võ lâm mà phải thân lao đại giá đến tệ trang, quả thực Mộ

Dung Cô Tô được nở mày nở mặt quá. Mới đây vị Hư Trúc tiểu sư phụ

cũng đã đưa cho một danh thiếp anh hùng, chúng tôi đã nhận rồi, nhất

định thể nào cũng bẩm lại bề trên. Đến giai tiết Trùng Dương mồng chín

tháng chín, tệ thượng là Mộ Dung công tử thể nào cũng lên chùa lễ Phật,

đích thân cảm tạ các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm rồi trước mặt anh hùng

thiên hạ, nói rõ các chuyện hiểu lầm.

Huyền Nạn nghĩ thầm: Ngươi bảo các chuyện hiểu lầm, hóa ra

Huyền Bi sư huynh không phải do nhà Mộ Dung Cô Tô các ngươi giết

chết hay sao?. Bỗng nghe ở sau có tiếng người kêu lên:

- A, sư phụ, chính y đó!

Huyền Nạn nghiêng đầu nhìn qua, thấy một người hình thù kỳ quái

chỉ vào chiếc cáng, ghé tai một ông lão tóc bạc thì thầm. Du Thản Chi nói

với Đinh Xuân Thu:

- Gã sư mập nằm trên cáng kia chính là người bắt được con băng

tàm, không biết vì sao lại bị phái Thiếu Lâm bắt.

Đinh Xuân Thu nghe nói nhà sư đó là nguyên chủ của con băng tàm,

vui sướng không đâu cho hết, hỏi nhỏ:

- Ngươi không nhìn lầm người chứ?

Du Thản Chi đáp:

- Không đâu, tên y là Tuệ Tịnh. Sư phụ thử xem, cái bụng tròn quay

của y phồng lên thế kia.

Đinh Xuân Thu thấy bụng Tuệ Tịnh còn to hơn đàn bà chửa sắp đẻ,

nghĩ thầm một hòa thượng mập như thế, dù ai gặp y một lần thì suốt đời

không quên, bèn quay sang nói với Huyền Nạn:

- Đại sư phụ, vị hòa thượng Tuệ Tịnh kia có quen với ta, y bị bệnh gì

chăng?

Huyền Nạn chắp tay đáp:

- Cao tính đại danh thí chủ là chi? Không biết nguyên do nào mà lại

biết sư điệt của lão nạp?

Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Gã Tuệ Tịnh kia lại đi cùng với các hòa

thượng Thiếu Lâm, quả thực là phiền. Cũng may gặp ngay trên đường đi,

chặn lại cướp lấy thật dễ hơn vào trong chùa Thiếu Lâm mà bắt, mà lại

dễ dàng hơn nhiều. Y nghĩ đến sự linh dị thần hiệu của con băng tàm,

ngực không khỏi nóng hôi hổi nói:

- Tại hạ là Đinh Xuân Thu.

Ba tiếng Đinh Xuân Thu vừa ra khỏi cửa miệng, Huyền Nạn,

Huyền Thống, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong

Ba Ác sáu người không hẹn mà cùng kinh ngạc kêu lên một tiếng, mặt ai

nấy đều hơi biến sắc. Ác danh Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu vang

dậy thiên hạ, ai ngờ lại gặp nơi đây trông khí độ ung dung, phong thái

tiêu sái đến thế. Sáu người ai nấy lập tức đều có ý phòng bị.

Thế nhưng chỉ trong một nháy mắt Huyền Nạn đã bình tĩnh lại ngay

nói:

- Thì ra là Đinh lão tiên sinh của Tinh Tú Hải. Đã ngưỡng mộ đại

danh từ lâu, quả thực như sấm rền bên tai.

Những câu khách sáo như may mắn thay được gặp ông không nhắc

đến, nghĩ thầm: Người nào gặp phải ngươi đúng là kiếp trước vụng tu.

Đinh Xuân Thu nói:

- Không dám, môn Tụ Lý Càn Khôn của thủ tọa Đạt Ma Viện chùa

Thiếu Lâm nổi danh thiên hạ, lão phu cũng từng ngưỡng mộ lâu rồi. Vị

Tuệ Tịnh sư phụ này, ta đang muốn đi tìm đây, bây giờ gặp được nơi đây

thật là hay quá, hay thật là hay.

Huyền Nạn hơi nhíu mày nói:

- Nói ra quả thật xấu hổ, gã sư điệt Tuệ Tịnh của lão nạp đây, chỉ vì

bổn tự thiếu giáo huấn nên phạm nhiều thanh quy giới luật, hơn một năm

trước trốn ra khỏi chùa, làm nhiều điều ác. Phương trượng sư huynh của

tệ tự sai người đi khắp nơi tìm kiếm, chẳng dễ gì kiếm được y, bắt đem về

chùa. Đinh lão tiên sinh đã từng gặp y rồi ư?

Đinh Xuân Thu đáp:

- Thì ra không phải y bị bệnh mà là bị người ta đả thương, thương thế

có nặng lắm không?

Huyền Nạn không trả lời, một hồi sau mới nói:

- Y không tuân theo pháp dụ của phương trượng, ngược lại còn ra tay

đánh người nữa.

Ông nghĩ thầm: Y kết giao với những loại tà ma ngoại đạo như

ngươi, lại phá thêm một đại giới nữa. Đinh Xuân Thu nói:

- Tại hạ ở núi Côn Lôn, tốn biết bao nhiêu tâm huyết mới bắt được

một con băng tàm, là một loại cực kỳ hữu dụng, ngờ đâu lại bị gã Tuệ

Tịnh sư điệt của đại sư ăn cắp mất. Tại hạ vạn lý xa xôi từ biển Tinh Tú

tới Trung Nguyên, chẳng qua cũng chỉ để lấy lại con băng tàm...

Y nói chưa dứt lời, Tuệ Tịnh đã kêu lên:

- Con băng tàm ư? Này, có phải ngươi trông thấy con băng tàm? Con

tằm đó ta khổ sở mới kiếm thấy được trong núi Côn Lôn... ngươi... ngươi

ăn trộm của ta phải không?

Từ khi Du Thản Chi tiến ra thì thầm, Phong Ba Ác chăm chăm nhìn

cái lồng trên đầu y, mắt láo liên, những gì Huyền Nạn, Đinh Xuân Thu

và nhà sư Tuệ Tịnh đối đáp y hoàn toàn không nghe gì cả. Y đi vòng

quanh Du Thản Chi mấy bận, thấy cái mặt nạ đúc thật khít khao, cứ đeo

mãi trên đầu không bỏ xuống, toan đưa tay ra ra gõ thử, lại coi thêm một

lát mới hỏi:

- Này bồ, khỏe chứ?

Du Thản Chi ấp úng:

- Tôi... tôi khỏe.

Y thấy Phong Ba Ác lúc nào cũng lanh chanh, tay chân không yên,

trong bụng cũng khiếp. Phong Ba Ác lại hỏi:

- Cái mặt nạ của bồ làm sao đúc được vậy? Tôi đi khắp nơi nhưng

chưa bao giờ thấy cái mặt nạ nào như vầy.

Du Thản Chi cực kỳ ngượng ngập, cúi đầu xuống nói:

- Hèm, tôi... tôi bị người ta ép buộc, không... không làm sao được.

Phong Ba Ác nghe y nói thấy thật đáng thương, giận dữ hỏi dồn:

- Sao có người chơi trò gì ác ôn vậy? Họ Phong muốn biết là đứa

nào.

Nói xong y liếc mắt nhìn Đinh Xuân Thu, cho rằng đây là công trình

của lão già này. Du Thản Chi vội kêu:

- Không... không phải sư phụ tôi đâu.

Phong Ba Ác lại nói:

- Ai đời con người ta đang yên lành, nay đem nhốt trong cái mặt nạ

bằng sắt là sao? Lại đây, để ta tháo ra cho ngươi.

Y vừa nói vừa rút trong ống giày ra một con dao găm sáng quắc, đủ

biết cực kỳ sắc bén toan gỡ cái lồng sắt ra. Du Thản Chi biết rằng chiếc

mặt nạ này đã dính liền vào mặt mũi và sau đầu y, nếu cố tháo đi thì có

thể chết được vội vàng nói:

- Không, không tháo được đâu.

Phong Ba Ác đáp:

- Nhà ngươi chớ có sợ, thanh chủy thủ của ta gọt sắt như bùn, để ta

cắt cái mặt nạ, quyết không tổn thương thịt da đâu.

Du Thản Chi kêu lên:

- Không, không được.

Phong Ba Ác nói:

- Ngươi sợ người đội cho ngươi cái mũ sắt này, phải không nào? Kỳ

tới gặp lại y cứ nói là ta đây Nhất Trận Phong Phong Ba Ác tháo cho

ngươi đó, ngươi bị ta ép buộc nếu muốn gì cứ bảo ác nhân đó đi kiếm ta

là xong.

Y nói rồi liền chộp cổ tay Du Thản Chi. Du Thản Chi thấy con dao

găm trong tay y hàn quang lấp loáng, sợ quá quay đầu lại nhìn Đinh Xuân

Thu cầu cứu, kêu lên:

- Sư phụ, sư phụ!

Đinh Xuân Thu đứng ở bên cạnh chiếc cáng, đang khoái trá nhìn Tuệ

Tịnh, tiếng kêu của Du Thản Chi không nghe thấy. Phong Ba Ác giơ

chiếc dao lên toan cắt xuống chiếc mặt nạ. Du Thản Chi quýnh quáng,

tay phải đẩy đối phương ra nghe bịch một tiếng trúng ngay vai trái Phong

Ba Ác.

Phong Ba Ác đang hết sức chú tâm vào việc cắt chiếc mũ sắt, sợ lỡ

tay cắt không chuẩn, chạm vào mặt y, có ngờ đâu bất thần bị đánh một

chưởng. Thế đánh của chưởng đó vốn dĩ cực kỳ tầm thường, Phong Ba Ác

chỉ hự lên một tiếng, ngã sấp mặt xuống. Tay trái y chống xuống đất, đẩy

một cái nhảy vọt lên, ọe một tiếng thổ ra một ngụm máu tươi.

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng ba người thấy Du

Thản Chi đột nhiên hạ độc thủ khiến người em kết nghĩa của mình bị hố

to, mặt trắng bệch, ba người không khỏi lo âu. Công Dã Can vội đưa tay

bắt mạch, thấy mạch dồn dập, xem chừng có dấu hiệu trúng độc liền chỉ

mặt Du Thản Chi mắng:

- Hảo tiểu tử, môn nhân Tinh Tú Lão Quái lấy oán báo đức, vừa ra

tay đã giở thủ đoạn tàn độc hại người.

Y vội lấy trong bọc ra một cái bình nhỏ, mở nắp đổ ra một viên thuốc

giải độc nhét vào mồm Phong Ba Ác còn Đặng Bách Xuyên và Bao Bất

Đồng cùng lạng người xông ra chặn Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi. Bao

Bất Đồng ám vận nội kình vào tay trái, năm ngón tay thành trảo toan

chộp vào ngực gã đầu sắt. Đặng Bách Xuyên kêu lên:

- Tam đệ ngừng tay.

Bao Bất Đồng rụt tay lại không đánh ra, đưa mắt nhìn đại ca, Đặng

Bách Xuyên nói:

- Chúng ta nhà Mộ Dung và phái Tinh Tú không thù không oán, tứ

đệ chỉ vì long tốt muốn giúp y tháo cái mặt nạ ra, sao người của phái Tinh

Tú lại ra tay đả thương là sao? Việc này xin Đinh lão tiên sinh chỉ giáo.

Đinh Xuân Thu thấy gã học trò mới thu chỉ một chưởng đã đánh bại

một hảo thủ của nhà Cô Tô Mộ Dung, đại hiển uy phong cho phái Tinh

Tú nên không khỏi đắc ý ngầm, càng thêm khát khao ham muốn con

băng tàm, mỉm cười nói:

- Vị Phong tứ gia kia hung hăng hiếu đấu, thích nhúng tay vào

chuyện đâu đâu. Người của phái Tinh Tú ta đội trên đầu mũ sắt hay mũ

đồng thì có liên quan gì đến nhà Mộ Dung Cô Tô nhỉ?

Lúc này Công Dã Can đã đỡ Phong Ba Ác ngồi lên, thấy y run lẩy

bẩy, răng đánh vào nhau kêu lách cách, chẳng khác gì rơi vào một hầm

băng, trong giây lát môi tím lại, sắc mặt từ trắng chuyển thành xanh. Giải

độc hoàn của Công Dã Can cực kỳ linh nghiệm nhưng Phong Ba Ác uống

rồi chỉ như hòn đá ném vào biển cả, không còn tung tích gì.

Công Dã Can nóng ruột, giơ tay thăm hơi thở y, đột nhiên một làn gió

thổi buốt thấu xương vào gan bàn tay. Công Dã Can vội vàng rụt tay về

kêu lên:

- Không xong, sao lại lạnh đến thế này?

Y nghĩ thầm hơi trong miệng thở ra đã lạnh đến thế, ắt hẳn hàn độc

trong người phải ghê gớm đến chừng nào. Trong tình thế nguy cấp làm

vậy, không kịp nói chuyện phải quấy, y đành quay sang nói với Đinh

Xuân Thu:

- Người em kết nghĩa của tôi trúng phải độc thủ của đệ tử tiên sinh,

làm ơn ban cho thuốc giải.

Độc tính Phong Ba Ác trúng phải là do nội công Dịch Cân Kinh của

Du Thản Chi dồn chất kịch độc của con băng tàm ra, chẳng nói Đinh

Xuân Thu không có thuốc giải, mà dẫu có giải dược y cũng đời nào chịu

cho? Y ngửng đầu cười ha hả, niệm lớn:

- A ô lục lỗ cộng! A ô lục lỗ cộng!

Tay áo bào phất một cái, một luồng gió xoáy tung ra. Các đệ tử phái

Tinh Tú lập tức cả bọn chạy ra khỏi lương đình, chạy bay chạy biến. Bọn

Đặng Bách Xuyên và tăng chúng Thiếu Lâm biết tay áo y có chứa độc

phấn, thấy cơn gió lốc này như chọc vào mắt, thật là khó chịu, nước mắt

nước mũi ràn rụa, mở mắt không nổi kêu thầm: Không xong rồi!.

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng không hẹn mà cùng

xông tới chặn trước mặt Phong Ba Ác, sợ rằng đối phương thừa cơ hạ độc

thủ. Huyền Nạn nhắm mắt đánh ra một chưởng, trúng ngay cây cột của

tòa lương đình, lập tức gãy đôi, lắc rắc mấy tiếng một bên căn nhà mát

liền nghiêng xuống, ngói đất đổ xuống ào ào. Đến khi mọi người mở

được mắt ra, Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi đã chạy đâu mất.

Mấy nhà sư Thiếu Lâm kêu lên:

- Tuệ Tịnh đâu rồi? Tuệ Tịnh đâu rồi?

Thì ra nhân lúc hỗn loạn, Tuệ Tịnh đã bị Đinh Xuân Thu bắt đi mất

rồi, chiếc cáng chụp lên đầu một nhà sư. Huyền Thống giận dữ quát lớn:

- Đuổi theo!

Ông phi thân chạy ra khỏi lương đình, Đặng Bách Xuyên và Bao Bất

Đồng cũng vội theo, Huyền Nạn phất tay một cái cùng các đệ tử đi sau

tiếp viện. Công Dã Can ở lại nửa mái đình còn chưa sụp lo cho nghĩa đệ

nhưng mắt cũng đau buốt, nước mắt ràn rụa. Phong Ba Ác trán toát mồ

hôi, chỉ trong giây lát liền đóng thành sương. Công Dã Can còn đang

hoang mang bỗng nghe tiếng chân người, ngẩng lên thấy Đặng Bách

Xuyên bế Bao Bất Đồng đang rảo bước quay về. Y kinh hoảng không sao

kể xiết, kêu lên:

- Đại ca, tam đệ cũng bị thương nữa ư?

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Lại trúng phải độc thủ của tên đầu sắt.

Kế đó Huyền Nạn cũng dẫn quần tăng trở lại lương đình. Huyền

Thống nằm phục trên lưng Huyền Từ, lạnh run cầm cập, hai hàm răng

kêu lách cách. Huyền Nạn và Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can ai nấy

bần thần. Đặng Bách Xuyên nói:

- Gã đầu sắt cùng tam đệ đối một chưởng, sau đó y lại cùng Huyền

Thống đại sư đánh một chưởng nữa. Có ngờ đâu... có ngờ đâu hàn độc

chưởng của phái Tinh Tú lại ghê gớm đến thế.

Huyền Nạn lấy trong túi ra một cái hộp gỗ nhỏ nói:

- Lục Dương Chính Khí Đơn của tệ phái có chút công hiệu khắc chế

hàn độc.

Ông mở nắp lấy ra ba viên thuốc đỏ chon chót, đưa cho Đặng Bách

Xuyên hai viên, còn viên thứ ba giao cho Huyền Thống. Sau chừng một

bữa cơm, cơn lạnh của ba người thấy đỡ. Bao Bất Đồng ngoạc mồm ra

chửi:

- Gã đầu sắt kia, con... con mẹ nó chứ, chưởng lực đó là cái gì thế?

Đặng Bách Xuyên vội khuyên:

- Tam đệ, để sau này chửi cũng không muộn, ngươi nên ngồi xuống

hành công đi.

Bao Bất Đồng đáp:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Giờ này không chửi, đợi đến khi ô hô

ai tai rồi thì đâu còn chửi gì được nữa.

Đặng Bách Xuyên mỉm cười nói:

- Chớ có lo, không chết đâu mà sợ.

Nói xong đưa bàn tay đè vào huyệt Chí Dương ở sau lưng y, dùng nội

lực giúp y khu trừ hàn độc. Công Dã Can và Huyền Nạn cũng chia ra

giúp cho Phong Ba Ác và Huyền Thống hai người.

Huyền Nạn, Huyền Thống hai người nội lực thâm hậu, chỉ một lát,

Huyền Thống đã thở một hơi dài nói:

- Khỏe rồi!

Ông đứng lên nói tiếp:

- Lợi hại thật!

Huyền Nạn có bụng muốn giúp cho Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác hai

người trừ hàn độc có điều bên kia chưa lên tiếng yêu cầu, mình tự ý đưa

ra không khỏi coi họ nội công không đủ, trong võ lâm chuyện đó là điều

cấm kỵ.

Đột nhiên Huyền Thống lảo đảo mấy cái, hai hàm răng gõ vào nhau

kêu lách cách, vội vàng ngồi xuống hành công, nói:

- Sư... sư huynh, cái thứ... cái thứ hàn độc này... thật là quái dị...

Huyền Nạn vội vàng vận công tương trợ. Ba người liên tục hành công

nhưng thân thể chỉ dễ chịu được một chút rồi lại phát tác, cho đến khi

chiều tối, mỗi người uống ba viên Lục Dương Chính Khí Đơn mà hàn khí

không thấy bớt chút nào. Huyền Nạn chỉ mang theo mười viên đan dược,

bây giờ còn một viên, đành chia làm ba, đưa cho mỗi người một phần.

Bao Bất Đồng nhất định không uống nói:

- E rằng có uống đến một trăm viên, cũng... cũng chẳng đến đâu...

Huyền Nạn bó tay không còn cách nào khác bèn nói:

- Lời của Bao thí chủ đúng lắm, loại thuốc Lục Dương Chính Khí

Đơn này trị không đúng bệnh mà nội công của chúng ta cũng không đối

phó nổi với môn âm độc này. Lão nạp nghĩ chỉ còn một cách là đi tìm

Tiết Thần Y nhờ chữa cho, không biết bốn vị nghĩ sao?

Đặng Bách Xuyên mừng rỡ nói:

- Đã từng nghe Tiết Thần Y được người đời gọi là Diêm Vương Địch,

dù bệnh nặng cỡ nào ông ta đều có thể chữa khỏi. Đại sư có biết vị thần y

này ở đâu không?

Huyền Nạn nói:

- Tiết Thần Y nhà ở Liễu Tông Trấn, phía tây thành Lạc Dương từ

đây đến đó cũng không xa lắm. Ông ta với lão nạp có duyên gặp gỡ mấy

lần, nếu đến xin chữa trị, có lẽ không chối từ đâu.

Ông lại tiếp:

- Nhà Mộ Dung Cô Tô danh mãn thiên hạ, Tiết Thần Y xưa nay vẫn

ngưỡng mộ, nay có cơ duyên làm bạn với bốn vị anh hùng, ông ta chắc

cũng vui vẻ lắm.

Bao Bất Đồng nói:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Tiết Thần Y thấy bọn ta đến cửa chắc

là không vui vẻ gì. Có điều trong võ lâm ai ai cũng ghét cái môn dĩ bỉ

chi đạo hoàn thi bỉ thân của công tử chúng tôi, riêng có Tiết Thần Y là

không sợ. Mai này ví thử y có... mệnh hệ gì, thì chỉ cần đến cầu công tử

gia chúng tôi dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân, thế là... thế là cái mạng

già... của y có cơ cứu được.

Mọi người ai nấy cười ha hả, lập tức đi ra khỏi đình. Đến thị trấn

trước mặt họ liền mướn ba cỗ xe cho ba người bị thương nằm dưỡng bệnh.

Đặng Bách Xuyên lấy tiền mua thêm mấy con ngựa cho những nhà sư

Thiếu Lâm cưỡi.

Đoàn người cứ đi chừng hai ba giờ thì lại ngừng để trợ giúp ba người

bị thương kháng ngự hàn độc. Đến sau Huyền Nạn không còn tị hiềm gì,

dùng Thiếu Lâm thần công tương trợ Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác. Nơi

đây tuy chỉ cách Liễu Tông Trấn vài trăm dặm đường nhưng đường núi

gập ghềnh, lại phải ngừng luôn, nên đến chiều ngày thứ tư mới đến nơi.

Tiết Thần Y ở trong núi sâu cách Liễu Tông Trấn ba mươi dặm về

phía bắc, cũng may hôm ở Tụ Hiền Trang ông ta đã chỉ vẽ cho Huyền

Nạn rõ ràng đường đi nước bước nên không mất công dò hỏi, đã đến

trước cửa nhà Tiết Thần Y.

Huyền Nạn trông thấy bên cạnh giòng sông nhỏ mấy gian nhà lớn,

tường trắng ngói đen, đằng trước là một vườn cây thuốc rộng, biết ngay là

nơi ở của Tiết Thần Y. Ông giục ngựa chạy đến gần, từ xa đã thấy trước

cửa nhà treo hai chiếc lồng đèn bằng giấy trắng, hơi kinh hãi: Nhà họ

Tiết có bệnh nhân nào trị không được hay sao?. Đi thêm vài trượng nữa,

thấy trên ngạch cửa có đóng mấy vuông vải gai, bên cạnh cửa có mấy cột

phướn chiêu hồn, quả đúng là trong nhà có người chết. Lại thấy trên đèn

lồng viết hai hàng chữ đen:

Tiết Công Mộ Hoa chi tang, hưởng niên ngũ thập ngũ tuế17

Huyền Nạn hoảng hốt: Tiết Thần Y không chữa nổi cho mình, nay

chết mất rồi, thật là bất hạnh làm sao. Nghĩ đến cố nhân nay đã qui tiên,

âm dương đôi ngả, trong lòng không khỏi thương cảm. Vừa lúc đó Đặng

Bách Xuyên và Công Dã Can cũng đã tới nơi, hai người cùng kêu lên:

- Chao ôi!

Bỗng nghe trong nhà có tiếng đàn bà khóc vang lên:

- Ông ơi là ông ơi! Ông y thuật như thần, có ngờ đâu bất ngờ bị bệnh,

bỏ chúng tôi mà đi. Ông ơi! Ông xưng là Diêm Vương Địch, vậy mà sau

cùng cũng không thắng nổi Diêm Vương, e rằng khi xuống cõi âm, Diêm

Vương thể nào cũng đòi nợ cũ, hành hạ khổ sở lắm ông ơi!

Chẳng bao lâu ba cỗ xe và sáu nhà sư Thiếu Lâm trước sau cũng đến.

Đặng Bách Xuyên nhảy xuống ngựa, lớn tiếng nói:

- Thiếu Lâm Tự Huyền Nạn đại sư cùng bè bạn, có việc đặc biệt đến

cầu Tiết Thần Y.

Tiếng của y vang vang như chuông, tiếng khóc trong nhà liền ngưng

bặt. Một lúc sau, một ông già đi ra, ăn mặc theo lối đầy tớ, trên mặt còn

hoen ngấn lệ, sụt sùi cực kỳ thương tâm, đấm ngực nói:

- Lão gia qua đời xế trưa hôm qua, các ông ... các ông không gặp

được nữa rồi.

Huyền Nạn chắp tay hỏi lại:

- Tiết tiên sinh mắc phải chứng bệnh gì mà qua đời?

Người lão bộc khóc nói:

- Cũng chẳng biết bệnh gì nữa, đột nhiên thở hắt ra rồi chết. Lão gia

xưa nay thân thể khang kiện, tuổi cũng chưa già, có ai ngờ nổi. Lão nhân

gia đi trị bệnh cho người ta, bệnh nào cũng khỏi, vậy mà ... vậy mà bệnh

chính mình ...

Huyền Nạn lại gặng thêm:

- Tiết tiên sinh trong nhà còn những ai?

Người đầy tớ già nói:

- Chẳng còn ai cả, không còn một người nào.

Công Dã Can và Đặng Bách Xuyên hai người đưa mắt nhìn nhau,

cùng ngầm thấy người lão bộc này nói mấy câu đó có phần không thành

thực, huống chi vừa mới rồi ai cũng nghe tiếng đàn bà khóc. Huyền Nạn

thở dài nói:

- Chết sống đều có mạng, nếu đã thế thì cho chúng tôi tới trước linh

vị người bạn cũ lạy một lạy.

Người lão bộc ấp úng:

- Cái đó ... cái đó ... vâng vâng!

Y dẫn mọi người vào trong cửa chính. Công Dã Can đi sau một bước

ghé tai hỏi nhỏ Đặng Bách Xuyên:

- Đại ca, tiểu đệ xem chừng có điều gì không minh bạch, tên lão bộc

này dường như ra chiều ỡm ờ.

Đặng Bách Xuyên gật đầu, đi theo tên đầy tớ tới linh đường. Linh

đường trần thiết sơ sài, mọi thứ còn chưa đầy đủ, trên linh bài có viết:

Tiết Công Mộ Hoa chi linh vị

Mấy chữ đó nét bút cứng cỏi, hiển nhiên là thủ thư của một tay túc

học, quyết không phải tên lão bộc này viết được. Công Dã Can xem

nhưng không nói gì. Mọi người hành lễ trước linh vị, Công Dã Can quay

đầu lại thấy nơi sân trong có đến mươi món quần áo phơi trên sào tre, áo

đàn bà cũng có, lại cả quần áo trẻ con nam nữ, nghĩ bụng: Tiết Thần Y

rõ ràng có thân quyến, sao lão bộc này lại bảo là chẳng còn ai?.

Huyền Nạn nói:

- Chúng tôi từ xa xôi đến đây để cầu Tiết Thần Y trị bệnh, có ngờ

đâu Tiết tiên sinh lại đã tiên du, khiến cho không khỏi đau lòng. Trời

cũng tối rồi, đêm nay cho ở lại quí phủ qua đêm.

Người lão bộc xem chừng khó xử nói:

- Cái đó ... cái đó ... thôi, cũng được! Mời chư vị ngồi nghỉ ngoài

sảnh đường, tiểu nhân đi lo cơm nước.

Huyền Nạn nói:

- Quản gia chẳng cần phải lo lắng nhiều, cơm với chút rau dưa là

được rồi.

Người lão bộc đáp:

- Vâng! Vâng! Mời quí vị ngồi nghỉ.

Y dẫn mọi người ra ngoài sảnh đường rồi quay vào trong. Một hồi

lâu, người gia nhân đó vẫn không thấy đem trà ra, Huyền Nạn nghĩ thầm:

Người lão bộc này chủ mới chết, hồn vía để đâu đâu. Ôi! Huyền Thống

sư đệ trúng phải hàn độc, không biết phải làm sao đây?. Mọi người đợi

đến hơn nửa giờ, nhưng vẫn không thấy bóng dáng người đầy tớ già đâu.

Bao Bất Đồng nóng ruột nói:

- Để ta đi kiếm chút nước uống!

Hư Trúc nói:

- Bao tiên sinh, xin ông ngồi nghỉ. Để tiểu tăng đi xuống giúp người

lão bộc nấu nước.

Y đứng lên đi vào nội đường. Công Dã Can cũng muốn quan sát động

tĩnh trong nhà họ Tiết bèn nói:

- Để ta đi với tiểu sư phụ.

Hai người đi ra phía sau nhà, phòng ốc nhà họ Tiết không phải là ít,

trước sau cả thảy năm dãy, nhưng bên trong bên ngoài không thấy một

bóng người. Hai người tìm được nhà bếp nhưng cũng không thấy người

lão bộc đâu.

Công Dã Can biết có chuyện khác thường, rảo bước quay trở về sảnh

nói:

- Nhà này xem chừng không ổn, Tiết Thần Y có thể chỉ giả chết thôi.

Huyền Nạn đứng lên lạ lùng hỏi:

- Sao thế?

Công Dã Can đáp:

- Đại sư, tại hạ nghĩ mình nên đến xem cỗ quan tài.

Y chạy vào linh đường, giơ tay toan nhắc chiếc hòm, đột nhiên chợt

nghĩ ra, rút tay về, lấy ở ngoài sân một chiếc áo dài đang phơi, lót vào

tay. Phong Ba Ác nói:

- Sợ trên quan tài có độc ư?

Công Dã Can đáp:

- Lòng người khó lường, không thể không đề phòng.

Y vận kình nhắc chiếc quan tài lên, thấy cực kỳ trầm trọng, bên trong

nhất định không phải chỉ là một xác người bèn nói:

- Tiết Thần Y quả nhiên giả chết.

Phong Ba Ác rút đơn đao nói:

- Bẩy nắp hòm ra xem sao.

Công Dã Can nói:

- Người này được gọi là thần y, hẳn cũng giỏi sử dụng thuốc độc, tứ

đệ phải cẩn thận.

Phong Ba Ác đáp:

- Tiểu đệ biết rồi.

Y luồn mũi đao vào khe quan tài ấn xuống, nghe tiếng ken két nắp

hòm từ từ bật lên. Phong Ba Ác nín thở, sợ trong quan tài có phấn độc bay

ra. Bao Bất Đồng nhảy ra sân chộp hai con gà mái đang tìm giun bắt dế ở

dưới gốc quế, đem vào linh đường, vung tay ném hai con gà qua ngang

quan tài. Hai con gà kêu quang quác, đáp xuống trước linh tòa, rồi chạy

ra ngoài thiên tỉnh nhưng chỉ được mấy bước, đột nhiên ngã chổng cẳng,

hai chân dãy mấy cái rồi nằm chết đứ đừ. Vừa lúc đó trong hiên nhà một

luồng gió lạnh thổi qua, những chiếc lông trên mình hai con gà lập tức

bay lên phơi phới. Mọi người thấy thế ai nấy kinh hãi, hai con gà vừa

trúng độc chết mà bao nhiêu lông đã rụng sạch, đủ biết độc tính mạnh là

dường nào khiến cho không ai còn dám đến gần chiếc quan tài nữa.

Huyền Nạn nói:

- Đặng thí chủ thử xem thế này là cớ gì? Tiết Thần Y quả thực trá tử

hay sao?

Ông vừa nói vừa nhún mình nhảy lên, tay trái chộp lấy xà ngang, nhìn

vào trong quan tài, thấy bên trong đầy những đá tảng, giữa những cục đá

là một bát lớn đựng đầy nước. Nước ở trong bát hiển nhiên phải là thuốc

độc. Huyền Nạn lắc đầu, buông mình nhảy xuống nói:

- Tiết thí chủ nếu không muốn trị thương, việc gì phải bố trí cơ quan

độc địa như thế này để hãm hại chúng ta. Phái Thiếu Lâm với y không

thù không oán, làm như thế không vô lý quá hay sao? Không lẽ ... không

lẽ ...

Ông ta nhắc lại hai chữ không lẽ rồi lặng thinh, trong lòng nghĩ

thầm: Không lẽ ông ta có thù oán sâu xa với họ Cô Tô Mộ Dung

chăng?. Bao Bất Đồng nói:

- Đại sư chớ có nghĩ ngợi lăng nhăng, Mộ Dung công tử và Tiết Thần

Y xưa nay chưa biết nhau, cũng không thù oán. Nếu như hai bên có

chuyện gì, bọn chúng tôi dù có phải đau đớn gấp mười chăng nữa, cũng

không bao giờ lại hạ mình đi nhờ kẻ thù chữa trị cho đâu. Đại sư coi họ

Bao, họ Phong là người hèn hạ, vô tư cách chăng?

Huyền Nạn chắp tay nói:

- Bao thí chủ nói phải lắm, lão tăng quả đoán sằng đoán bậy.

Ông ta là bậc cao tăng hữu đạo, trong bụng đã nghĩ như thế tuy chưa

nói ra lời nhưng cũng nhận là mình quấy. Đặng Bách Xuyên nói:

- Nơi đây độc khí cực thịnh, không nên rốn lại lâu, mình ra tiền sảnh

ngồi nghỉ.

Tất cả mọi người ra đến bên ngoài, người bàn thế này kẻ nói thế

khác nhưng cũng không ai đoán được tại sao Tiết Thần Y giả chết rồi bố

trí cơ quan giăng bẫy. Bao Bất Đồng nói:

- Gã Tiết Thần Y quả thật đáng ghét, mình cho một mồi lửa đốt rụi

cái tổ quỉ của lão đi.

Đặng Bách Xuyên ngăn lại:

- Ấy chết, không được đâu, dẫu sao Tiết tiên sinh cũng là một bằng

hữu của phái Thiếu Lâm, chúng ta phải nể kim diện Huyền Nạn đại sư

chớ có hồ đồ.

Lúc đó trời đã tối hoẳn, trong sảnh lại không đèn đóm gì, ai nấy vừa

đói vừa khát nhưng chẳng ai dám đụng chạm đến một ngụm nước, một ly

trà trong nhà. Huyền Nạn nói:

- Hay là chúng mình đi ra, tìm một nhà nông nào ở quanh đây xin

ngụm nước bữa cơm, Đặng thí chủ nghĩ thế nào?

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Đúng đó. Thế nhưng chung quanh ba chục dặm tốt hơn hết không

nên ăn uống gì. Thầy lang họ Tiết này mưu kế lắm, quyết chẳng phải chỉ

sắp xếp một cỗ quan tài là xong đâu, nếu như các vị đại sư có chuyện gì,

anh em chúng tôi thật là ân hận.

Y và Công Dã Can tuy chưa biết rõ nguyên ủy ra sao nhưng cũng cho

rằng cái tiếng dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân của nhà Mộ Dung quá vang

dội, trên giang hồ kết biết bao nỗi oan cừu, có lẽ Tiết Thần Y có thân

bằng quyến thuộc bị hại, mối hận này đổ cả lên đầu nhà Cô Tô Mộ

Dung.

Mọi người đứng lên, đi ra cửa chính, đột nhiên trên bầu trời phía tây

bắc có ánh sáng lóe lên, kế đó một đốm lửa đỏ nổ tung ra, lập tức

chuyển sang màu lục thật chẳng khác gì mưa hoa đầy trời, lả tả rơi xuống

cực kỳ diễm ảo. Phong Ba Ác nói:

- Ồ, ai đốt pháo bông kìa!

Lúc đó không phải tiết Nguyên Tiêu, cũng chẳng phải Trung Thu, sao

lại có người đốt pháo bông18 nhỉ? Chẳng mấy chốc, lại có một chiếc pháo

bông màu vàng bay vút lên không, nở ra muôn vạn đóa sao băng, đụng

chạm lẫn nhau.

Công Dã Can chợt nghĩ ra, nói:

- Đây không phải pháo bông đâu, mà là tín hiệu của kẻ địch kéo đến

tấn công đó.

Phong Ba Ác kêu lên:

- Thế thì hay lắm! Đánh một trận cho sướng tay.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Tam đệ, tứ đệ, các ngươi vào trong sảnh canh chừng, ta chặn phía

trước mặt, nhị đệ đoạn hậu. Huyền Nạn đại sư, việc này không liên quan

gì đến phái Thiếu Lâm, xin quí vị cứ dựa lưng vào tường đứng coi, miễn

là đừng giúp bên nào, nhà Mộ Dung thâm cảm đại đức.

Huyền Nạn nói:

- Đặng thí chủ sao lại nói thế? Nếu kẻ địch đến tấn công có thù oán

với chư vị thì phải trái ngay gian, chúng tôi sẽ theo công tâm mà xử,

không để cho họ thừa gió bẻ măng, cậy đông đánh ít. Nếu đúng là cùng

bọn với Tiết Thần Y, lén lút bố trí hầm bẫy để làm hại người thì các vị

với chúng tôi cũng cùng chung cừu địch, lẽ nào lại tụ thủ bàng quan? Này

các tì khưu19, chuẩn bị nghinh địch.

Bọn Tuệ Phương, Hư Trúc cùng lớn tiếng đáp lời. Huyền Thống nói:

- Đặng thí chủ, lão nạp với hai vị sư đệ của thí chủ đồng bệnh tương

lân20 lẽ dĩ nhiên phải cùng nắm tay nhau mà kháng địch.

Còn đang nói chuyện, lại có thêm hai chiếc pháo bông nữa bắn thẳng

lên trời, lần này xem chừng gần hơn. Một hồi nữa, lại có thêm hai cái

pháo bông khác, trước sau như thế là sáu cái rồi. Mỗi chiếc pháo bông

màu sắc hình dáng không giống nhau, có cái giống như một cái bút thật

lớn, có cái thì vuông vức bốn bề, tông như một bàn cờ, cái thì lại giống

hình một chiếc đại phủ, có cái lại giống như một bông hoa mẫu đơn to.

Sau đó bầu trời lại tối đen như mực.

Huyền Nạn ra lệnh cho sáu đệ tử Thiếu Lâm canh chừng bốn phía

nhưng một hồi lâu vẫn không nghe động tĩnh gì. Ai nấy ngưng thần nín

thở, lại sau chừng một bữa ăn nữa, bỗng nghe phía đông có tiếng đàn bà

hát lên rằng:

Lông mày luống tỉa đã bao nhiêu,

Phấn nhạt hoen màu lệ nhỏ tiêu.

Đong đưa biếng chải thêm hờ hững,

Ngọc lấp sao đầy nỗi tịch liêu? 21

Giọng ca dịu dàng uyển chuyển đầy vẻ u oán thê lương. Giọng người

đó vừa hát xong một khúc, lập tức chuyển qua giọng nam rằng:

- Chao ôi ái khanh đấy ư? Quả nhân đã lâu lắm không được gặp

nàng, trong lòng thương nhớ xiết bao. Đây ta ban cho nàng một đấu trân

châu, khanh gia mau nhận lấy.

Người đó nói xong, lại chuyển qua giọng nữ:

- Bệ hạ đã có Dương phi bầu bạn, đến buổi chầu sớm cũng chẳng ra,

còn hơi đâu mà nhớ đến thần thiếp con người bạc mệnh này, than ôi ....

Nói tới đây liền cất tiếng khóc thút thít. Các nhà sư Thiếu Lâm không

biết việc đời, không hiểu sao người này lúc thì là nam, lúc lại là nữ, làm

trò quỉ quái gì đây, chỉ thấy nghe rồi trong lòng cực kỳ buồn bã. Bọn

Đặng Bách Xuyên thì biết người này đang diễn tích Đường Minh Hoàng22

và Mai Phi, khi thì đóng vai Mai Phi lúc lại đóng vai Đường Minh Hoàng,

giọng điệu thanh âm giống hệt, sao lại có người khéo đến thế, ai nấy

trong lòng rộn ràng, không hiểu có dụng ý gì.

Lại nghe người đó tiếp tục:

- Ái phi chớ nên khóc lóc, mau mau dọn yến tiệc ra. Nàng thổi tiêu,

quả nhân sẽ ca một khúc để giải sầu cho ái khanh.

Người kia lại chuyển qua giọng đàn bà nói:

- Tiện thiếp ngày ngày chảy nước mắt ra rửa mặt, chỉ mong được gặp

lại đấng quân vương một lần thôi. Hôm nay được toại nguyện rồi, dẫu có

chết cũng đành nhắm mắt ... hu hu ...hu hu ...

Bao Bất Đồng lớn tiếng nhại lại:

- Cô vương là An Lộc Sơn đây. Này vua nhà Đường Lý Long Cơ ơi,

ngươi là một gã hồ đồ, mau giao Dương Ngọc Hoàn ra cho ta.

Người bên ngoài kêu A lên một tiếng dường như kinh hãi đang

khóc lập tức im bặt. Chỉ trong giây lát, chung quanh bốn bề lặng như tờ.

Bề ngoài phiêu dật tiêu dao,

Ra tay một mẻ ai nào thoát đâu.

Gặp khi tụ hội anh hào,

Tâm cơ bố trí cũng sao cho vừa.

*

* *

Một hồi sau, mọi người bỗng ngửi thấy một mùi hương thơm thoang

thoảng, Huyền Nạn kêu lên:

- Địch nhân phóng độc, mau nín thở, ngửi thuốc giải ngay.

Thế nhưng một hồi lâu không thấy có gì khác thường, ngược lại đầu

óc tỉnh táo, dường như mùi hoa thơm không có chất độc gì cả. Người ở

bên ngoài nói:

- Thất tỉ đến đấy ư? Trong nhà ngũ ca có một quái nhân, dám tự

xưng là An Lộc Sơn.

Có tiếng đàn bà đáp:

- Chỉ riêng đại ca là chưa đến. Nhị ca, tam ca, tứ ca, lục ca, bát đệ,

tất cả cùng ra mặt đi thôi.

Bà ta vừa dứt lời bên ngoài cửa đột nhiên sáng lòa, ánh sáng kỳ dị

chiếu vào năm người đàn ông, một người đàn bà. Một ông già râu đen

lớn tiếng nói:

- Lão ngũ, sao chưa chịu ra?

Trong tay ông ta cầm một phiến gỗ hình vuông, người đàn bà là một

mỹ phụ trung niên, trong bốn người còn lại hai người ăn mặc theo lối

nho sinh, một người trông như thợ mộc, tay cầm búa ngắn, vai đeo cưa.

Còn một người mặt xanh nanh vàng, tóc đỏ râu xanh, hình dáng thật là

dữ dằn dễ sợ như yêu quái, trên người mặc cẩm bào sáng lấp lánh.

Đặng Bách Xuyên chăm chú nhìn, biết ngay là mặt người đó vẽ

bằng màu chứ không phải có dị tướng, y ăn mặc chẳng khác gì một

phường tuồng trên sân khấu, người vừa mới đóng cả hai vai Đường

Minh Hoàng lẫn Mai Phi hẳn phải là y bèn lớn tiếng nói:

- Xin hỏi tôn tính đại danh của chư vị, tại hạ là Đặng Bách Xuyên,

môn hạ nhà Cô Tô Mộ Dung.

Bên kia còn chưa kịp trả lời, từ trong đại sảnh một bóng đen đã lao

ra, ánh đao lấp loáng, nhắm ngay người kép hát chém liên tiếp bảy

nhát liền, chính là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác. Người kép hát kia

không kịp đề phòng, né đông tránh tây, tình thế cực kỳ luống cuống.

Bỗng nghe y hát rằng:

Khí cao ngất trời chừ ... sức bạt núi

Thời thôi chẳng còn chừ ... ngựa chồn chân

Ngựa chồn chân chừ ... đành ...Thế nhưng thế công của Phong Ba Ác thật gấp gáp, câu thứ ba y hát

chưa hết thì không còn tiếp được nữa. Người râu đen liền mắng:

- Hán tử kia quả thực vô lý, vừa xông lên đã chém ngang chém

dọc, hãy nếm một chiêu Đại Thiết Võngcủa ta nào!

Chiếc bản vuông trong tay y liền vung ra, nhắm ngay đầu Phong Ba

Ác đập xuống. Phong Ba Ác trong bụng nhủ thầm: "Ta xưa nay đánh

nhau hàng mấy trăm trận lớn nhỏ nhưng chưa thấy ai dùng một phiến

gỗ vuông làm khí giới bao giờ". Đơn đao y liền vung lên chém xuống

bản gỗ. Nghe keng một tiếng, lưỡi đao đụng phải cạnh phiến gỗ, nhưng

phiến gỗ không hề suy suyển, thì ra phiến vuông đó trông tưởng bằng

gỗ nhưng lại bằng thép, bên ngoài sơn giả như thớ gỗ mà thôi.

Phong Ba Ác lập tức thu đao, đang định chuyển thế chém tiếp ngờ

đâu cánh tay giựt lại nhưng đơn đao không kéo về được, lưỡi đao đã bị

thiết bản hút dính cứng. Phong Ba Ác hoảng hồn, vận kình giựt lại, lúc

ấy mới tách được đơn đao khỏi bản thép, quát lên:

- Thật là tà môn! Cái bửng sắt của ngươi làm bằng từ thiết phải

không?

Người kia cười đáp:

- Xin lỗi! Đây là món kiếm cơm của lão phu mà.

Phong Ba Ác trong một thoáng đã nhìn thấy trên phiến sắt đường

dọc, đường ngang rất nhiều vạch thẳng, hóa ra đó là một bàn cờ vâybèn nói:

- Lạ lùng thật! Để ta đấu với ngươi.

Y tiến đao như gió, càng đánh càng nhanh, có điều lưỡi đao không

dám để chạm vào bàn cờ bằng nam châm kia. Người kép hát thở hắt ra

một hơi, cất giọng ồm ồm hát:

Ngựa chồn chân chừ ... đành chịu vậy

Ngu Cơ nàng ơi chừ ... biết cho chăng?Đột nhiên y chuyển sang giọng đàn bà, õng ẹo ỏn thót:

Đại vương ơi! Chớ có ưu phiền,

Trận Cai Hạ hôm nay bất lợi.

Tiện thiếp sẽ một lòng một dạ,

Cùng chàng giục ngựa phá trùng vi.

Bao Bất Đồng quát lên:

Sớm biết phận hãy mau mau tự sát.

Mụ Ngu Cơ vợ Sở Bá Vương ơi,

Đừng để mỗ phải ra tay tru diệt,

Hàn Tín này có giết cũng hoài hơi.

Y tung mình nhảy ra vươn tay chộp vào vai gã kép hát. Người đóng

trò hạ vai xuống tránh qua hát tiếp:

Gió bão bùng chừ ... mây vần vũ

Không lẽ ...

- Ối chao, ta là Hán Cao Tổ giết Hàn Tín đây.

Y đưa tay mò vào thắt lưng lấy ra một cây nhuyễn tiên, soạt một

tiếng đã nhắm vào Bao Bất Đồng đánh tới. Huyền Nạn thấy mấy người

này đánh nhau tưởng như trò trẻ nhưng hai bên võ công đều cao cường,

mình chẳng biết lai lịch đối phương là ai, ông hơi nhíu mày, quát lên:

- Chư vị tạm ngừng tay, trước hết hỏi cho minh bạch đã.

Thế nhưng muốn Phong Ba Ác ngừng đấu thì quả là khó khăn vô

cùng, y biết rằng bị trùng phải hàn độc rồi, thể lực kém xa bình thường,

nhưng hàn độc tùy thời mà phát, cực kỳ nguy hiểm, thành thử thanh

đơn đao của y múa như gió táp mưa sa, mong thắng đối phương càng

sớm càng tốt.

Trong tiếng người hò hét giao đấu, đại sảnh lại xuất hiện thêm một

người, loảng xoảng loảng xoảng, hai thanh giới đao chạm nhau cực kỳ

uy phong, chính là Huyền Thống. Ông quát lớn:

- Bọn chúng bay là đám gian đồ bày độc kế hại người, hôm nay

lão tăng đại khai sát giới.

Ông suốt mấy hôm nay bị hàn độc hành hạ, tức tối không có chỗ

phát tiết, lúc này chẳng cần hỏi han gì nữa, song đao vung tới chém hai

người ăn mặc theo lối nho sinh kia. Một người né qua tránh được, còn

người kia thò tay vào túi, lấy ra một món binh khí hình phán quan bút,

thi triển tiểu xảo công phu đấu với Huyền Thống.

Người nho sinh kia lắc đầu chép miệng:

- Lạ thật! Người xuất gia sao nóng tính đến thế, không biết thế thì

tu ở chỗ nào?

Y cũng thò tay vào túi mò mò, thảng thốt kêu lên:

- Ủa, đâu mất rồi?

Y hết thò tay vào túi bên phải, lại mò vào túi bên trái, rũ rũ tay áo,

vỗ vỗ trên ngực, nhưng không cách nào tìm ra. Hư Trúc nổi tính hiếu

kỳ, hỏi:

- Thí chủ kiếm gì đó?

Nho sinh kia đáp:

- Vị đại hòa thượng này võ công cao cường quá, người anh em ta

đánh không lại nên ta muốn lấy binh khí ra để lấy hai đánh một, ủa, lạ

nhỉ, binh khí của ta đâu mất rồi?

Y gõ gõ trên trán, cố gắng nhớ lại, Hư Trúc nhịn không nổi cười bật

lên một tiếng nghĩ thầm: "Ra trận muốn đánh nhau mà lại quên không

biết để binh khí chỗ nào quả là thú vị". Y bèn hỏi:

- Thí chủ dùng binh khí gì thế?

Nho sinh đáp:

- Người quân tử tiên lễ hậu binh, binh khí thứ nhất của ta là một

bộ sách.

Hư Trúc hỏi:

- Sách gì thế? Võ công bí quyết chăng?

Nho sinh đáp:

- Không phải, không phải. Đó là bộ Luận Ngữ . Ta muốn đem lời

của thánh nhân ra cảm hóa đối phương.

Bao Bất Đồng liền chen vào:

- Ngươi là học trò, đến Luận Ngữ cũng không thuộc, thì còn học

với hành gì?

Nho sinh đáp:

- Lão huynh mới chỉ biết một mà không biết hai. Nói đến Luận

Ngữ, Mạnh Tử, Xuân Thu, Thi Kinh thì ta thuộc như cháo chảy, có điều

đối phương là đệ tử Phật môn, đọc kinh thì nhiều nhưng sách vở nhà

nho chắc gì đã đọc, ta có nói ra, nếu như y không biết thì cũng vô ích

thôi! Thành thử ta muốn đem sách giở cho y xem, y mới không cãi

chầy cãi cối được, thế mới hiệu quả. Người đời thường bảo, nói phải có

sách, mách phải có chứng.

Y vừa nói vừa mầy mò khắp người để kiếm cuốn sách. Bao Bất

Đồng kêu lên:

- Tiểu sư phụ, mau đánh y đi.

Hư Trúc nói:

- Để vị thí chủ kia tìm ra binh khí đã, lúc đó mình động thủ cũng

chưa muộn.

Người nho sinh nói:

- Hai nước Tống Sở đánh nhau ở chỗ nước sâu, quân Sở qua sông

chưa xong, hàng ngũ chưa tề chỉnh, chính là lúc nên đánh nhưng Tống

Tương Công nói: "Đánh lúc này không phải là người quân tử". Tiểu sư

phụ có bụng dạ như thế, quả là đã học được tấm lòng nhân của Tống

Tương Công.

Người trông như thợ mộc thấy song đao của Huyền Thống múa tít

lên, chém trên lia dưới, chiêu số cực kỳ độc địa, sách giải thêm mấy

chiêu nữa e rằng thư sinh cầm phán quan bút có thể mất mạng được,

bèn múa búa xông lên trợ chiến. Công Dã Can lập tức nhắm vào y

đánh vù ra một chưởng. Công Dã Can trông vẻ người nho nhã nhưng

chưởng lực thật hùng hồn, đã được gọi là "Giang Nam đệ nhị", hôm

trước cùng Tiêu Phong tỉ thí uống rượu và chưởng lực, tuy thua đấy

nhưng Tiêu Phong vẫn phải kính trọng y, đủ biết nội lực và tài nghệ

không phải bình thường. Gã thợ nghiêng qua tránh được, vung búa

chém trả lại.

Người nho sinh tuy không tìm thấy quyển Luận Ngữ nhưng thấy

đồng bạn cầm phán quan bút chiêu pháp bắt đầu hỗn loạn, xem ra

chống không nổi song đao của Huyền Thống đại sư, bèn nói với Huyền

Thống:

- Này! Đại hòa thượng, đức Khổng Tử có nói rằng: Quân tử vô

chung thực chi gian vi nhân, tháo thứ tất ư thị, điên bái tất ư thị. Ông

chăm chăm định giết tứ đệ của ta, thế đâu còn là nhân nữa. Nhan Uyên

hỏi điều nhân, đức Khổng Tử trả lời: Khắc kỷ phục lễ vi nhân. Nhất

nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ qui nhân yên. Phu tử lại nói rằng: Phi

lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động. Ông múa

đao loạn cả lên, hung hăng chỉ chăm chăm định giết người, hành động

như thế sao gọi là "khắc kỷ" được? Như thế thật là "phi lễ".

Hư Trúc quay sang hỏi nhỏ nhà sư Tuệ Phương đứng bên cạnh:

- Sư thúc thử nghĩ người này ngớ ngẩn giả hay thật?

Tuệ Phương lắc đầu:

- Ta cũng không biết. Lần này ra khỏi chùa, sư phụ có dặn ai nấy

phải cẩn thận, trên giang hồ người người gian trá, trò quái quỉ gì cũng

có thể làm được cả.

Gã đồ gàn kia lại nói với Huyền Thống:

- Đại hòa thượng, Tử viết: Nhân giả tất hữu dũng, dũng giả tất hữu

nhân. Ông dũng cảm thì có đấy nhưng chắc gì đã có lòng nhân, không

phải là người quân tử chân chính. Đức Khổng tử có nói rằng: Kỷ sở bất

dục, vật thi ư nhân. Nếu người ta giết ông ông có chịu không? Nếu

bản thân ông không muốn chết, sao lại muốn giết người khác?

Huyền Thống xông tới nhảy lui, múa đao vùn vụt, thế nhưng gã đồ

gàn đó tránh đông né tây, khi trái khi phải, khi nào cũng cách ông

chừng ba thước, mồm thì khuyên nhủ đủ biết võ công không phải tầm

thường. Huyền Thống ngầm cảnh giác: "Gã này lải nhải lăng nhăng,

hẳn là để cho ta phân tâm chờ sơ hở là xông ngay vào. Người này võ

công còn cao hơn tên cầm phán quan bút, không thể không phòng bị".

Ông nghĩ như thế nên tinh thần sáu phần đề phòng gã đồ gàn, chỉ dành

bốn phần tấn công thư sinh cầm phán quan bút mà thôi. Chính vì thế

mà tình trạng thư sinh đỡ hẳn đi.

Lại trao đổi thêm hơn chục chiêu nữa, Huyền Thống bắt đầu nóng

ruột, quát lên:

- Tránh ra!

Ông xoay giới đao lại, dùng cán đao tống vào ngực gã đồ gàn. Ông

nhà nho kia vội tránh ra nói:

- Ta xem đại sư võ công cao cường, ta và tứ đệ hai người đánh

một, cũng chưa chắc thắng nổi ông, nên mới đem lời hay ra khuyên

nhủ, cốt để hai bên bãi đấu. Đức thánh Khổng nói rằng: Sâm hồ! Ngô

đạo nhất dĩ quán chi . Tăng Tử trả lời: Phu tử chi đạo, trung thứ nhi dĩ

hĩ.. Phàm làm người như chúng ta, cái đạo " thứ " kia phải nên giữ

cho kỹ, chớ nên quá ư là ngang ngược.Huyền Thống giận quá, nghe vút một tiếng, vung đao chém ngang,

miệng chửi:

- Trung thứ chi đạo cái gì? Nhân nghĩa đạo đức ở đâu? Thế sao

các ngươi lại bỏ thuốc độc vào trong quan tài để hại người? Lão nạp

nếu sơ ý thì giờ đây đã viên tịch tây qui, còn nghe nhà ngươi nói "kỷ sở

bất dục, vật thi ư nhân" nữa chăng? Thế ngươi có muốn trúng độc mà

chết không cơ chứ?

Gã đồ gàn lùi lại hai bước, ngạc nhiên hỏi:

- Lạ thật! Lạ thật! Ai mà lại bỏ thuốc độc vào quan tài? Ở trong

quan tài ắt phải là những món đồ chôn theo người chết. Đức Khổng tử

có nói rằng: Lý dã tử, hữu quan nhi vô quách.Trong quan tài bỏ

thuốc độc có phải giết chết cả cái tử thi hay sao? Ối chà, không phải,

tử thi vốn chết sẵn rồi còn đâu!

Bao Bất Đồng chen vào:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Trong quan tài các ngươi đâu có để

xác chết mà để thuốc độc, cốt là để giết người sống chúng ta đấy chứ!

Người nho sinh gàn dở kia lắc đầu quầy quậy nói:

- Các hạ đem lòng dạ tiểu nhân đo lường bụng người quân tử. Ở

đây đâu có quan tài, cũng chẳng có độc dược.

Bao Bất Đồng đáp:

- Đức Khổng tử nói rằng: Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng

dã. Ngươi chính là tiểu nhân.

Y vừa nói vừa chỉ người mỹ phụ trung niên:

- Còn mụ ta là đàn bà, hai người chúng bay quả thực là khó dạy

quá. Lời đức thánh Khổng, không lẽ còn sai hay sao?

Gã đồ gàn sững sờ nói:

- Vương cố tả hữu nhi ngôn tha, lời của nhà ngươi ta không thèm

để ý, cũng chẳng trả lời làm gì.

Nhân lúc Bao Bất Đồng nói chuyện với anh đồ gàn, Huyền Thống

được thể không còn gì nghi ngại, song đao càng đánh ép tới khiến cho

thư sinh cầm phán quan bút phải luống cuống. Gã đồ gàn lạng người

tiến đến bên cạnh Huyền Thống nói:

- Tử viết: Nhân nhi bất nhân, như lễ hà? Nhân nhi bất nhân, như

nhạc hà?Đại hòa thượng ơi, người mà bất nhân thì thật kém cỏi quá

lắm.

Huyền Thống bực tức đáp:

- Ta là đệ tử Thích gia, bọn hủ nho các ngươi nói gì thi thư lễ nhạc,

người mà bất nhân, không làm động đến tâm ta được đâu.

Gã nho sinh giơ ngón tay lên gõ gõ vào trán nói:

- Đúng lắm! Đúng lắm! Ta quả là nói toàn những chuyện sách vở

của đám nhà nho, quả đúng là anh đồ gàn. Đại hòa thượng rõ ràng là

đệ tử cửa Phật, ta nói chuyện nhân nghĩa đạo đức Khổng Mạnh, thì

đúng là không đâu với đâu.

Phong Ba Ác đấu với người sử dụng bàn cờ làm khí giới đã lâu

nhưng khó mà thắng được, thời gian càng dài trong bụng thấy ngâm

ngẩm hàn độc bắt đầu tấn công. Bao Bất Đồng đấu với gã kép hát,

thấy đối phương võ công không thật là cao nhưng chiêu số biến hóa lại

cực kỳ phức tạp, khi thì đóng vai Tây Thi, nói năng yểu điệu ỏn ẻn,

chau mày ôm bụng, bước chân uyển chuyển như cánh sen, rõ ra là

phong tư của một tuyệt đại giai nhân, thế nhưng trong nháy mắt lại

đóng vai kẻ thơ túi rượu bầu Lý Thái Bạch, chân nam đá chân xiêu,

say sưa loạng choạng. Cái khéo là y đóng vai trò nào đều có võ công

phối hợp theo, nhuyễn tiên trong tay lúc thì biến thành tay áo của

người đẹp, lúc lại biến thành bút hoa của văn sĩ, khiến cho Bao Bất

Đồng cười không xong, khóc cũng dở, nhất thời không biết phải thế

nào.

Gã đồ gàn tự trách mình một hồi, đột nhiên cất tiếng ngâm lớn:

Ký dĩ xá nhiễm lạc, tâm đắc thiện nhiếp bất?

Nhược đắc bất trì tán, thâm nhập thực tướng bất?Huyền Nạn và Huyền Thống hai người cùng kinh ngạc: "Gã đồ gàn

này quả thực uyên bác, ngay cả mấy câu kệ của cao tăng đời Đông

Tấn Cưu Ma La Thậpy cũng thuộc". Lại nghe y ngâm tiếp:

Tất cánh không tướng trung, kỳ tâm vô sở lạc.

Nhược duyệt thiền trí huệ, thị pháp tính vô chiếu.

Hư cuống đẳng vô thực, diệc phi đình tâm xứ.- Này đại hòa thượng, hai câu sau là gì thế nhỉ? Ta quên khuấy

mất rồi.

Huyền Thống đáp:

Nhân giả sở đắc pháp, hạnh nguyện thị kỳ yếu.Gã đồ gàn lúc ấy mới cười ha hả nói:

- Đúng quá! Đúng quá! Này đại sư nhà Phật ơi, đấy chẳng nhắc

đến "người nhân" đấy sao? Mọi đạo lý trong thiên hạ, cũng cùng một

dạng. Ta khuyên ông cũng chỉ là quay đầu lại thấy bờ, bỏ dao đồ tể

xuống mà thôi.

Huyền Thống trong lòng thảng thốt, đột nhiên đại triệt đại ngộ, nói:

- Thiện tai! Thiện tai! Nam Mô A Di Đà Phật! Nam Mô A Di Đà

Phật!

Chỉ thấy loảng xoảng mấy tiếng, hai thanh giới đao đã vứt xuống,

ông ngồi xếp bằng trên mặt nở một nụ cười, đôi mắt khép lại không

nói một lời. Thư sinh kia đang cùng ông ta đấu đến hồi ác liệt, chợt

thấy ông ta làm thế, cũng lại giật mình, tay lăm lăm cầm phán quan bút

nhưng không tấn công nữa. Hư Trúc kêu lên:

- Sư thúc tổ, hàn độc lại phát tác hay sao?

Y đưa tay định đỡ ông ta dậy, Huyền Nạn liền quát lên:

- Không được chạm vào.

Ông đưa tay thăm hơi thở Huyền Thống, thấy hô hấp đã ngừng rồi,

thì ra đã viên tịch. Huyền Nạn chắp hai tay, niệm Vãng Sinh Chú. Các

nhà sư Thiếu Lâm thấy Huyền Thống đã chết rồi, ai nấy khóc ầm lên,

lấy thiền trượng giới đao, toan cùng hai ông nhà nho kia thí mạng.

Huyền Nạn liền nói:

- Ngừng tay! Huyền Thống sư đệ tham ngộ chân như, vãng sinh

cực lạc, như thế là tròn chính quả rồi, các ngươi phải vui mới phải.

Những người đang kịch đấu đột nhiên thấy biến cố đó, ai nấy ngừng

tay nhảy ra ngoài. Gã đồ gàn kêu lên:

- Lão ngũ, Tiết ngũ đệ, mau mau ra đây, có người bị ta khích một

câu mà lăn ra chết đây này. Ngươi Tiết Thần Y cái con mẹ gì mà

không ra cứu người cho mau thì thật chẳng còn ra gì nữa.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Tiết Thần Y không có trong nhà, vị tiên sinh đây ...

Gã đồ gàn bèn mở toang cửa, ngó dáo dác kêu lên:

- Tiết Mộ Hoa, Tiết lão ngũ, Diêm Vương Địch, Tiết Thần Y, có

mau ra cứu người không nào? Tam ca của ngươi chọc tức người ta đến

chết, người ta không để yên cho bọn ta đâu.

Bao Bất Đồng bực tức nói:

- Ngươi làm cho người ta chết còn giả tảng giở trò gì nữa đây?

Vù một chưởng, y vung tay đánh tới, chưởng trái lại tiếp theo lòn

bên dưới tay phải, sử chiêu Lão Long Thám Châu, chưởng biến thành

trảo nắm râu gã kia. Gã đồ gàn nghiêng qua tránh được, Phong Ba Ác,

Công Dã Can lại nổi hứng lên, chưa chịu ngừng tay lại xông ra đánh

tiếp. Đặng Bách Xuyên quát lớn:

- Ngã này!

Tay trái vươn ra, chộp ngay vào sau lưng người kép hát. Đặng Bách

Xuyên là người đứng đầu trong các thủ hạ của Mộ Dung Cô Tô ở Yến

Tử Ổ, võ công cao cường, nội lực hùng hậu, trên giang hồ tuy danh

tiếng không vang dội nhưng những ai biết đến ông ta đều kính trọng.

Ông ta giơ tay nắm lấy người đóng trò, thuận tay ném xuống. Người

kép hát đó thật là nhanh nhẹn, vai trái vừa chạm đất, lập tức xoay đi

nửa vòng, chân phải quét ngang, đá vào đùi Đặng Bách Xuyên. Thế

đánh đó thật là đột ngột, Đặng Bách Xuyên thân thể to béo nên

chuyển động không được nhanh, xem chừng khó mà tránh né, lập tức

dồn khí xuống hạ bàn, ngang nhiên chịu một đá. Chỉ nghe lắc rắc, trong

hai bắp chân có một người gãy đôi rồi.

Người kép hát lại lăn thêm mấy vòng nữa, ra ngoài xa mấy trượng

rồi quát lên:

Ta chửi là chửi mi,

Này Mao Diên Thọ kia.

Ngươi là đồ gian tặc,

Tàn hại kẻ trung lương,

Ối ối ối,

Cái chân tôi ...

Thì ra hai luồng kình lực đụng nhau, người kép hát chịu không nổi,

xương đùi đã gãy lìa. Người đàn bà trung niên xinh đẹp trước sau vẫn

đứng ngoài thản nhiên coi, lúc này thấy người kép hát gãy chân, những

đồng bọn khác cũng bị tấn công thật nguy ngập liền nói:

- Các ông vì cớ gì lại chiếm đóng nhà của ngũ ca ta, chẳng hỏi

đầu đuôi đã ra tay đả thương người là sao?

Bà ta tuy lên tiếng chất vấn đối phương nhưng giọng nói vẫn ôn nhu

dịu dàng. Người kép hát nằm dưới đất, ngửng đầu lên nhìn thấy trước

cửa nhà treo hai cái đèn lồng, kinh hoảng kêu lên:

- Sao thế này? Sao thế này? Tiết công Mộ Hoa chi tang, ngũ ca ta

đã ra người thiên cổ rồi ư?

Người sử dụng bàn cờ, hai nho sinh, người thợ mộc cầm búa và

người đàn bà cùng hướng theo tay y chỉ, thấy hai chiếc đèn lửa đã tắt

từ bao giờ, treo trong đêm tối, mọi người đến cổng nhưng không chú

tâm, mãi đến khi người đóng trò nằm dưới đất lúc ấy mới ngẩng đầu

nhìn ra.

Người kép hát khóc òa lên, hát rằng:

Ca ca ơi!

Anh em ta đào viên kết nghĩa,

Tại cổ thành gặp gỡ một phen.

Mới ngày nào anh quá ngũ quan,

Chém sáu tướng uy danh lừng lẫy ...

Khúc đầu y hát là bài ca Khóc Quan Vũ, đến sau tâm tình khích

động, hát không còn ra vần điệu gì nữa. Năm người còn lại nhao nhao

hỏi:

- Ai làm hại ngũ đệ?

- Ngũ ca ơi là ngũ ca, hung thủ giết anh là đứa nào?

- Hôm nay ta và các ngươi phải một phen sống mái.

Huyền Nạn và Đặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn nhau, cùng nghĩ:

"Những người này xem ra đều là anh em kết nghĩa của Tiết Thần Y".

Đặng Bách Xuyên nói:

- Chúng ta có đồng bạn bị thương nên đến đây cầu Tiết Thần Y

chữa trị, nào ngờ...

Người đàn bà ngắt lời:

- Nào ngờ y không chịu chữa, các ngươi liền giết y đi, phải không

nào?

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Không ...

Chữ "phải" chưa kịp nói ra thì người đàn bà đã phất tay áo, ai nấy

đều ngửi thấy một mùi thơm nồng, đầu óc choáng váng, chân bông

bênh như đi trên mây, đứng không vững nữa. Người mỹ phụ kêu lên:

- Ngã này!

Đặng Bách Xuyên giận quá, quát lớn:

- Hảo yêu phụ!

Ông ta vận sức lên bàn tay, vù một tiếng đánh ra. Người đàn bà

thấy Đặng Bách Xuyên đang loạng choạng, tưởng ông ta đã vào tròng,

ngờ đâu lại còn đủ sức xuất chưởng, đang định nghiêng qua né tránh thì

không còn kịp nữa rồi, chỉ thấy một luồng lực đạo mãnh liệt như bài

sơn đảo hải ập đến, lập tức nghẹn thở, thân hình không còn điều khiển

được nữa bay vụt ra ngoài. Lách cách mấy tiếng, ngực bà ta đã gãy

mấy chiếc xương sườn, chưa rơi tới đất đã ngất đi rồi. Đặng Bách

Xuyên cũng thấy trước mắt tối sầm, ngã lăn ra.

Hai bên mỗi bên ngã một người, những người còn lại đều xông ra

xuất thủ. Huyền Nạn nghĩ thầm: "Việc này bên trong có điều gì thật là

bí mật, trước phải làm sao bắt hết đối phương, có thế mới khỏi thương

vong". Ông bèn ra lệnh:

- Lấy thiền trượng ra.

Tuệ Kính quay lại cầm chiếc thiền trượng dựa nơi cửa đưa cho

Huyền Nạn. Người thư sinh sử dụng phán quan bút tung mình nhảy tới,

cây bút bên phải điểm vào ngực Tuệ Kính. Chưởng trái của Huyền

Nạn liền đánh ra, tay chưa đến, chưởng lực đã trúng hậu tâm y, gã thư

sinh liền ngã ngay xuống. Huyền Nạn cười một tiếng dài, trượng cầm

trên tay tiến lên hai bước, múa gậy đánh vào người cầm bàn cờ.

Người kia thấy thế đánh thật mãnh liệt, thiền trượng chưa đến mà

trượng phong đã bao trùm thân mình, lập tức vận kình lên cánh tay, giơ

bàn cờ lên chịu đòn, nghe keng một tiếng lớn, đốm lửa bắn ra tứ bề.

Người kia thấy cánh tay ê ẩm, hổ khẩu tay rách toạc. Huyền Nạn nhắc

trượng lên, cả chiếc bàn cờ cũng bị nhấc lên theo. Cái bàn cờ đó từ tính

cực mạnh, trước đây chuyên dùng để hút binh khí đối phương, hôm nay

địch mạnh ta yếu, khiến cho lại bị thiền trượng của Huyền Nạn lấy

mất.

Thiền trượng của Huyền Nạn lại đập xuống đầu người kia, y kêu

lên:

- Cái thế Trấn Thần Đầu lại thêm Ỷ Cái, ta đỡ không nổi.

Y lập tức chạy vọt về phía trước. Huyền Nạn đảo ngược thiền

trượng, quát lên:

- Tên đồ gàn, đến lượt ngươi.

Ông vung trượng đánh quét ngang, uy thế mạnh không gì đương cự

được. Người nho sinh kia đáp:

- Phu tử là bậc thánh nhân cũng phải theo thời. Gió thổi thì cỏ rạp

xuống, nằm xuống thì nằm có sao đâu?

Mấy câu đó nói chưa xong, y đã nằm phục xuống, mấy nhà sư

Thiếu Lâm liền xông tới đè nghiến y lại. Thủ tọa Đạt Ma Viện của

chùa Thiếu Lâm quả nhiên không phải tầm thường, chỉ vừa ra tay đã

đánh ngã ba cao thủ của đối phương. Người cầm búa đang phải đánh

với hai người Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng, tránh đông né tây, có

chiều thua đến nơi. Người cầm bàn cờ nói:

- Ngừng lại! Lục đệ, thôi chúng mình chịu thua cho xong, bàn cờ

này không cần phải đi tiếp nữa. Đại hòa thượng, ta hỏi ông, ngũ đệ của

bọn ta phạm tội gì mà các ông lại giết y?

Huyền Nạn đáp:

- Đâu có chuyện đó ...

Hai người chưa dứt câu chuyện, bỗng nghe tính tang hai tiếng đàn từ

xa truyền tới. Hai tiếng đàn đó vào tai mọi người, tim ai nấy nhói lên

hai cái. Huyền Nạn còn đang ngạc nhiên, lại nghe thêm hai tiếng đàn

nữa. Lúc này xem chừng đã gần hơn nhiều, tim mọi người thót càng

mạnh hơn, Phong Ba Ác thấy trong lòng buồn bực, tay phải lơi ra, nghe

keng một tiếng, đơn đao đã rớt xuống. May nhờ có Bao Bất Đồng xuất

chưởng ra đỡ không thì búa của địch nhân đã chém xuống đầu vai y.

Gã đồ gàn kêu lên:

- Đại ca đến mau, mau lên! Thôi đừng có chướng nữa! Sao đại ca

vẫn còn ung dung đàn địch cái quái gì? Tử viết: Quân mệnh triệu, bất

hậu giá hành hĩ.Tiếng đàn liên tiếp vang lên, một ông lão mặc áo tay rộng phất phơ

chậm rãi đi tới, đầu cao trán dồ, hình thù lạ lùng cổ quái, miệng cười

khì dung mạo đầy vẻ hòa nhã dễ thân, trong tay ôm một cỗ dao cầm.Bọn gã đồ gàn cùng kêu lên:

- Đại ca!

Người đó đến gần, ôm quyền chào Huyền Nạn nói:

- Vị cao tăng nào của Thiếu Lâm ở đây thế? Tiểu lão nhi thật là

thất lễ.

Huyền Nạn cũng chắp tay đáp:

- Lão nạp là Huyền Nạn.

Người kia nói:

- Ồ, thì ra là Huyền Nạn sư huynh. Huyền Khổ đại sư của quí phái

có phải sư huynh đệ với đại sư phụ chăng? Tiểu lão nhi với ông ta có

duyên gặp gỡ mấy lần, truyện trò cực kỳ tâm đầu ý hợp, độ này ông ấy

có khang kiện không?

Huyền Nạn buồn bã đáp:

- Huyền Khổ sư huynh bất hạnh bị đứa nghịch đồ ám toán, đã viên

tịch tây qui rồi.

Người kia chết sững một hồi, đột nhiên nhảy vọt lên, phải cao đến

hơn một trượng, chưa rơi tới đất, giữa lưng trời đã khóc òa lên thật là

thảm thiết. Huyền Nạn và bọn Công Dã Can ai nấy kinh ngạc, không

ngờ một người tuổi tác đã cao như thế, vậy mà khóc lóc chẳng khác gì

một đứa trẻ thơ.

Hai chân ông ta vừa chạm đất, lập tức ngồi thụp xuống, tay vặt râu,

hai chân dậm thình thình, khóc lóc:

- Huyền Khổ ơi, sao ông không bảo ta một tiếng rồi hãy chết?

Trên đời này sao lại có chuyện như thế được? Bản đàn Phạn Âm Phổ

An Tấu của ta biết bao nhiêu người nghe rồi nhưng có ai hiểu được đạo

lý bên trong đâu, chỉ mình ông nói được ra rằng trong khúc nhạc này có

chứa rất nhiều thiền ý, đòi nghe hết lần này sang lần khác. Gã Huyền

Nạn sư đệ, chắc gì đã có được ngộ tính như ông, dẫu đàn cho y nghe,

thì khác gì đàn gảy tai trâu, đem hồng ngâm cho chuột vọc. Hu hu, sao

ta khổ thế này!

Huyền Nạn lúc đầu nghe ông ta khóc lóc thảm thiết, lại tưởng là

người chí tính với sư huynh mình, đau lòng vì cái chết của Huyền Khổ,

không khỏi cảm kích, nhưng càng nghe càng không phải, hóa ra y thất

vọng vì trên đời thiếu mất một kẻ tri âm. Tiếng khóc về sau, lại bảo

đàn cho mình nghe có khác gì "đàn gảy tai trâu". Ông là một cao tăng

hữu đạo nên cũng chẳng bực mình, chỉ mỉm cười nghĩ thầm: "Cả bọn

này người nào cũng dở dở ương ương, người này tính tình tâm sự thật là

ăn khớp với đám anh em kết nghĩa, quả đúng là vật dĩ loại tụ".

Lại nghe người kia khóc tiếp:

- Huyền Khổ ơi là Huyền Khổ, ta hết lòng tận lực vì người tri kỷ

sáng tác ra một bản đàn để báo đáp chút tình, đặt tên là Nhất Vi Ngâm

để ca tụng thủy tổ của phái Thiếu Lâm từng qua sông bằng một cành

lau, sao ngươi lại không sống mà nghe?

Đột nhiên y quay đầu lại hỏi Huyền Nạn:

- Phần mộ Huyền Khổ sư huynh ở nơi nào? Ông mau mau đưa ta

đến, mau mau! Càng mau càng tốt. Ta đến trước mồ đàn tân khúc này,

biết đâu y nghe rồi trong lòng thoải mái, sống lại không chừng.

Huyền Nạn đáp:

- Thí chủ chớ nên nói năng loạn xạ, sư huynh ta viên tịch đã hỏa

hóa thành tro rồi còn đâu.

Người kia bần thần, đột nhiên nhảy nhổm lên nói:

- Thế thì càng tốt, ngươi cho ta cốt hôi đó, ta dùng keo trộn với tro

dán vào đáy cây dao cầm, từ nay mỗi khi đàn một bản nào, y cũng đều

được nghe cả. Ngươi thử nghĩ thế có khéo không? Ha ha! Ha ha! Chủ ý

đó hay nhỉ?

Y càng nói càng cao hứng, nhịn không nổi vỗ tay cười ha hả, đột

nhiên nhìn thấy người đàn bà xinh đẹp nằm gục một bên kinh hoảng

kêu lên:

- Ối, thất muội sao vậy? Ai đả thương cô thế?

Huyền Nạn nói:

- Việc này bên trong có chỗ hiểu lầm, bọn ta đang muốn nói năng

cho rành mạch.

Người kia đáp:

- Hiểu lầm thế nào? Ai hiểu lầm? Nói gì thì nói, người đả thương

thất muội không phải là người tốt. Ối trời, bát đệ cũng bị thương nữa,

người đả thương bát đệ cũng không thể là người tốt được. Sao lại tới

mấy người không tốt? Mọi người báo danh tính đi, rồi cho biết ý kiến,

điều đó đã hẳn rồi.

Người kép hát nói:

- Đại ca ơi, bọn họ giết chết ngũ ca, đại ca mau mau trả thù rửa

hận cho anh ta.

Gương mặt của người đánh đàn biến đổi kịch liệt, kêu lên:

- Có chuyện đó sao? Lão ngũ là Diêm Vương Địch, Diêm La

Vương làm gì được y?

Huyền Nạn đáp:

- Tiết Thần Y chết giả đó, trong quan tài chỉ có độc dược, không

có xác người.

Cả bọn phe ông lão đánh đàn đều mừng ra mặt, nhao nhao hỏi dồn:

- Lão ngũ vì cớ gì mà giả chết thế?

- Xác chết bây giờ quàn ở đâu?

- Y chưa chết, lấy đâu ra xác chết bây giờ?

Đột nhiên từ đằng xa có tiếng nhỏ vo ve vọng tới:

- Tiết Mộ Hoa, Tiết Mộ Hoa, sư thúc lão nhân gia của ngươi đã

tới, mau mau ra ngoài nghinh tiếp.

Tiếng nói đó lúc có lúc không, còn cách rất xa thế nhưng vào tai

thật rõ ràng đủ biết người nói câu này nội công thâm hậu không biết

chừng nào. Người kép hát, gã đồ gàn, anh thợ mộc cả bọn kia không

hẹn mà cùng kêu lên kinh hoàng. Ông lão đánh đàn hoảng hốt:

- Ôi thôi, đại họa lâm đầu rồi.

Y dáo dác nhìn quanh, thần sắc cực kỳ sợ hãi miệng lắp bắp:

- Chạy mau kẻo không kịp, mau lên, mau lên, tất cả vào trong nhà

ngay.

Bao Bất Đồng lớn tiếng nói:

- Cái gì mà đại họa lâm đầu? Bộ trời sập hay sao?

Ông già kia run run nói:

- Mau, vào mau! Trời sập cũng không sợ, cái này ...

Bao Bất Đồng đáp:

- Xin lão tiên sinh tự tiện, ta không vào đâu.

Ông già kia đột nhiên vung tay phải ra, chộp vào huyệt đạo trên

ngực Bao Bất Đồng. Y ra tay cực kỳ nhanh nhẹn, Bao Bất Đồng không

kịp đề phòng nên bị chế ngự ngay, hai chân rời mặt đất, lập tức bị ông

ta xách lên kéo chạy vào trong nhà.

Huyền Nạn và Công Dã Can đều thật ngạc nhiên, đang định mở

miệng hỏi, người cầm bàn cờ đã nói nhỏ:

- Đại sư phụ, tất cả chúng mình nên vào trong nhà ngay, có một

tên đại ma đầu cực kỳ ghê gớm chớp mắt sẽ đến đây.

Huyền Nạn một thân thần công, trong võ lâm ít người là đối thủ, có

gì mà phải sợ đại ma đầu, tiểu ma đầu? Ông hỏi lại:

- Có một đại ma đầu ư? Kiều Phong chăng?

Người kia lắc đầu:

- Không phải, không phải! So với Kiều Phong còn ghê gớm, tàn

nhẫn hơn nhiều. Đó là Tinh Tú Lão Quái.

Huyền Nạn hơi nhếch mép:

- Tinh Tú Lão Quái ư? Thế thì hay quá, lão nạp đang muốn đi

kiếm y đây.

Người kia nói:

- Đại sư phụ võ công cao cường, dĩ nhiên không sợ. Có điều ở đây

ai ai cũng sẽ bị y giết sạch, còn mình đại sư sống được thôi, thật là từ bi

quá đỗi.

Y nói câu này đầy vẻ châm chọc nhưng thật công hiệu, Huyền Nạn

ngẫm nghĩ rồi đáp:

- Được rồi, tất cả cùng vào vậy.

Vừa ngay lúc đó, ông già đánh đàn đã bỏ Bao Bất Đồng xuống, từ

trong nhà chạy ra luôn mồm thúc giục:

- Mau! Mau! Còn chờ gì nữa?

Phong Ba Ác quát hỏi:

- Tam ca ta đâu?

Ông già nọ đánh ngược tay trái lại một chưởng, quét ngang má phải

của y. Hàn độc trong người Phong Ba Ác lại vừa phát tác, tưởng chừng

chịu không nổi, thấy ông ta đánh tới, vội vàng hụp xuống. Ngờ đâu

chưởng của ông già nọ chưa hết tay, đột nhiên đổi hướng đánh thấp

xuống, chộp ngay được sau ót Phong Ba Ác, miệng nói:

- Mau, mau đi vào!

Ông ta xách y lên chẳng khác gì một con gà. Công Dã Can tuy thấy

lão già kia xem chừng không có ác ý, nhưng hai người anh em của

mình chỉ một chiêu đã bị chế ngự rồi, lập tức kêu la ỏm tỏi xông lên

toan động thủ. Thế nhưng ông già thân pháp nhanh như gió, đã tới đại

môn. Người thư sinh liền ôm gã kép hát, gã thợ mộc đỡ người đàn bà,

cùng đi vào trong nhà.

Huyền Nạn nghĩ bụng chuyện ngày hôm nay rất nhiều ngụy kế đa

đoan, không nên lỗ mãng làm hỏng việc nên nói:

- Công Dã thí chủ, tất cả cùng vào rồi mình tính sau.

Hư Trúc và Tuệ Phương khiêng xác Huyền Thống, Công Dã Can bế

Đặng Bách Xuyên tất cả cùng tiến vào. Ông già đánh đàn lại ra giục

giã, thấy mọi người đều vào cả, lập tức đóng cổng lại, chặn then cửa.

Người cầm bàn cờ nói:

- Đại ca, cái cổng chính này nên mở ra. Cái đó gọi là thực giả hư

chi, hư giả thực chi khiến cho y không dám ngang nhiên tiến vào.

Ông già kia hỏi:

- Vậy sao? Được, ta nghe lời ngươi. Liệu ... liệu có được không?

Giọng nói ông ta dường như không tự tin chút nào. Huyền Nạn và

Công Dã Can hai người nhìn nhau, cùng nghĩ:

- Lão già này võ công cao cường, sao lúc gặp chuyện hoảng hốt

đến thế? Cái cánh cửa này thì đến trộm cướp tầm thường cũng chẳng

coi vào đâu, huống chi là Tinh Tú Lão Quái, đóng hay không đóng

cũng thế mà thôi. Cái điệu này y đã từng bị thua đậm dưới tay Tinh Tú

Lão Quái thành ra kinh cung chi điểu, vừa mới nghe thấy y ở quanh

đây đã hồn vía lên mây.

Ông già kia lại luôn mồm:

- Lục đệ, ngươi tính xem thế nào? Mau nghĩ cách nào coi?

Huyền Nạn tuy công phu hàm dưỡng khá cao nhưng thấy ông ta

cuống quít như thế cũng không khỏi bực mình bèn nói:

- Lão trượng, người đời có câu: Binh đến thì tướng ngăn, nước lên

thì be bờ. Tinh Tú Lão Quái dẫu có ghê gớm tàn ác cỡ nào, bọn chúng

ta liên thủ kháng địch cũng chưa chắc thua y đâu, việc gì mà phải ...

mà phải ... ờ ... mà phải quá lo xa như thế.

Lúc đó trong sảnh đã đốt lên một ngọn đuốc, chỉ trong một thoáng

ông thấy lão già kia thần sắc kinh hoàng đã đành mà cả người đánh cờ,

gã đồ gàn, anh thợ mộc, người sử dụng phán quan bút cả bọn ai nấy

mặt mày đăm chiêu. Huyền Nạn chính mắt thấy những người này võ

công không phải là kém, lại thêm ương ương gàn gàn xem chừng đều

là những hào sĩ phóng khoáng coi thường thế sự, đột nhiên sợ sệt khiếp

đảm tuồng như những kẻ hèn nhát, quả thực không biết nói sao.

Công Dã Can thấy Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác đều khỏe khoắn

ngồi trên ghế, có điều hàn độc phát tác, người run như cầy sấy, lập tức

đỡ Đặng Bách Xuyên lên trên một chiếc ghế khác, cũng may mạch

ông ta vẫn đều hòa, chỉ lơ mơ như người say rượu xem ra không có gì

nguy hiểm.

Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, một lúc sau người thợ sử dụng đoản

phủ lấy từ trong người ra một cái thước gấp, nhắm nhắm nơi góc nhà,

lắc đầu, cầm cây đèn đi vào hậu sảnh. Mọi người liền đi theo y, thấy

người đó nhìn quanh quất bốn bề tính toán, đột nhiên nhảy lên, vạch

vào xà ngang một cái, lại lắc đầu đi tiếp ra sau, đến trước chiếc quan

tài giả của Tiết Thần Y, nhìn qua nhìn lại, lắc đầu nói:

- Tiếc thay! Tiếc thay!

Ông già đánh đàn hỏi:

- Không dùng được ư?

Người cầm búa ngắn đáp:

- Không được! Sư thúc thể nào cũng nhìn ra.

Ông già đánh đàn giận dữ nói:

- Ngươi ... ngươi còn gọi y là sư thúc ư?

Người cầm búa lại lắc đầu, không nói một lời đi tiếp xuống nhà

dưới. Công Dã Can nghĩ thầm: "Người này ngoài việc lắc đầu chắc

chẳng còn biết làm gì khác". Người thợ lại nhìn góc nhà tính toán, đếm

bước đi, bấm đốt ngón tay, dáng như người đang tính toán việc xây

phòng, đi ra bên ngoài vườn sau. Y cầm cây đuốc, suy nghĩ hồi lâu, đi

đến chỗ đặt một hàng năm cái cối nơi hành lang, lại suy nghĩ một hồi

nữa, vứt cây đuốc xuống, đi tới bên cạnh cái cối đá lớn thứ nhì, bỏ vài

nắm cám và đất vào trong cối, cầm chiếc chày đá ở bên cạnh, bắt đầu

giã, bình một tiếng lại bình một tiếng, chày đá nặng nề rơi xuống cực

kỳ mạnh mẽ.

Công Dã Can thở dài một tiếng nghĩ thầm: "Phen này đúng là số

mình đen như mõm chó, gặp một lũ điên, đến lúc này mà còn rỗi hơi đi

giã gạo. Nếu như giã gạo thì cũng còn được, còn đằng này trong cối

toàn là vỏ trấu với đất bùn, chán thật!". Một hồi sau, hàn độc trong

người Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác tạm bớt, cũng chạy theo ra hậu

viên.

Bình! Bình! Bình! Bình! Bình! Tiếng chày giã gạo cứ liên miên bất

tuyệt. Bao Bất Đồng nói:

- Này lão huynh, ngươi định giã gạo nấu cơm ăn chăng? Trong cối

có gạo gì đâu! Chi bằng tụi mình cuốc đất lên, bỏ ít hạt lúa vào chờ

cho nảy mạ ...

Đột nhiên cách chừng bảy tám trượng nơi góc đông nam khu vườn

hoa có tiếng kẹt kẹt, tuy nhỏ nhưng có chiều lạ lùng. Cả bọn Huyền

Nạn, Công Dã Can theo hướng tiếng động nhìn theo, thấy nơi đó có

bốn cây hoa quế trồng thành một hàng.

Bình một tiếng lại bình một tiếng, người cầm búa vẫn tiếp tục giã

xuống, mà lạ thay, cây quế thứ hai về hướng đông ở bên ngoài mấy

trượng bỗng cành lá dao động, từ từ di chuyển ra bên ngoài. Một lát

sau, mọi người ai cũng thấy rõ, mỗi lần chày nện xuống một cái, cây

quế lại di chuyển một tấc nửa tấc. Ông già đánh đàn reo lên mừng rỡ,

chạy lại phía cây quế kia, nói khẽ:

- Đúng rồi! Đúng rồi!

Mọi người theo ông ta chạy ra, chỉ thấy chỗ cây quế di chuyển ra, lộ

ra một phiến đá lớn, trên thạch bản có cái vòng để cầm tay. Công Dã

Can càng thêm bội phục, lại cũng tẽn tò nói:

- Cơ quan dưới đất này xếp đặt thật là khéo léo, thực khó mà tin

nổi. Vậy mà vị nhân huynh đây trong khoảnh khắc đã phát hiện được

cách mở cơ quan, thông minh tài trí so ra không kém gì người làm ra cơ

quan này.

Bao Bất Đồng nói:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Làm sao nhị ca biết không phải

chính y là người làm ra cơ quan này?

Công Dã Can cười nói:

- Ta nói tài trí so ra không kém người làm ra cơ quan này, nếu quả

đúng là y làm ra, tài trí của y lẽ dĩ nhiên không thể kém tài trí của

chính mình.

Bao Bất Đồng vẫn lắc đầu:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Không kém nhưng cũng không thể

hơn. Tài trí của y làm sao lại có thể hơn chính mình?

Người dùng búa lại giã thêm độ một chục chày nữa, phiến bửng đá

đã hoàn toàn lộ ra. Người đánh đàn cầm chiếc vòng sắt, kéo mạnh lên

nhưng không chuyển động chút nào, đang tính dùng sức kéo thêm lần

nữa, người cầm búa kinh hãi kêu lên:

- Đại ca! Ngừng tay.

Y tung mình nhảy vào trong một cái cối lớn ở bên cạnh, vén quần

lên, tiểu ngay một bãi đồng thời kêu lên:

- Tất cả mau tới đái vào đây.

Lão già đánh đàn sau phút kinh ngạc, vội bỏ chiếc vòng xuống, chỉ

phút chốc người cầm bàn cờ, gã đồ gàn, người sử phán quan bút thêm

cả ông lão đánh đàn và người dùng búa cùng đái vào trong cối.

Bọn Công Dã Can thấy năm người đó đột nhiên lên cơn dở người

cùng tiểu tiện, ai nấy cười nghiêng ngả, nhưng chỉ trong khoảnh khắc

đều ngửi thấy mùi khét lẹt của thuốc nổ. Người cầm búa nói:

- Được rồi, hết nguy hiểm.

Chỉ có ông già đánh đàn đái lâu nhất, vẫn còn tiếp tục chảy tồ tồ,

mồm lẩm bẩm:

- Đáng chết thật! Đáng chết thật! Ta lại làm hỏng mất một cơ

quan. Lục đệ, nếu không nhờ ngươi phát giác cơ quan sớm thì bọn mình

ai nấy tan xương nát thịt rồi.

Bọn Công Dã Can ai nấy chết khiếp, biết rằng mình vừa mới từ quỉ

môn quan quay về, hiển nhiên bên dưới chiếc vòng sắt có nối với hỏa

thạch, hỏa đao, ngòi nổ nên vừa nhắc lên lập tức đốt cháy dây dẫn hỏa,

thuốc nổ chôn sẵn dưới đó sẽ nổ tung, may nhờ người mang búa ngắn

kia cực kỳ cơ cảnh, tất cả đều đái vào làm ướt sợi dây nên mới tránh

được tai họa.

Người mang búa đi tới bên cái cối đá thứ nhất, dùng sức vần chiếc

cối xoay qua bên phải ba vòng, ngẩng đầu lên, miệng lâm râm khẩu

quyết, tính toán một hồi, lại xoay ngược cái cối qua bên trái sáu vòng

bán nguyệt. Chỉ nghe những tiết ken két liên tiếp, chiếc bửng đá chạy

qua một bên, lộ ra một cái hầm. Lần này ông già đánh đàn không còn

dám ẩu tả xông vào mà quay sang người cầm búa vẫy tay, bảo y đi

trước. Người cầm búa quì xuống quan sát kỹ cái cối đá thứ nhất.

Đột nhiên từ dưới đất có tiếng người chửi:

- Tinh Tú Lão Quái, con bà nhà ngươi, quân đê tiện! Được lắm,

được lắm, rồi ra ngươi cũng kiếm được ta, quả là ghê gớm thật. Ngươi

làm điều càn rỡ, rồi sẽ có ngày bị quả báo. Tới đây đi, mau xuống đây

giết ta đi!

Gã thư sinh, người thợ mộc, anh kép hát cả bọn cùng reo lên:

- Lão ngũ quả nhiên chưa chết.

Ông già đánh đàn gọi lớn:

- Ngũ đệ, bọn ta tới đây.

Tiếng nói dưới hầm ngừng bặt rồi có tiếng kêu lên:

- Quả thực là đại ca đó sao?

Giọng nói đầy vẻ vui mừng. Roạt một tiếng, từ trong hầm một người

chui ra, chính là Diêm Vương Địch Tiết Thần Y. Y có ngờ đâu ngoài

những nghĩa huynh nghĩa đệ còn có rất nhiều người ngoài, không khỏi

kinh ngạc quay sang Huyền Nạn nói:

- Đại sư cũng đến nữa! Những vị này cũng là bằng hữu, phải

không?

Huyền Nạn hơi ngần ngừ rồi đáp:

- Phải, đều là bằng hữu.

Trước đây chùa Thiếu Lâm vẫn cho rằng Huyền Bi đại sư chết về

tay Cô Tô Mộ Dung nên vẫn coi họ Mộ Dung là đại đối đầu. Thế

nhưng lần này ông cùng bọn Đặng Bách Xuyên cùng đi cầu thầy chữa

bệnh, trên đường Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can hết sức giải thích

Huyền Bi đại sư quyết không phải do Mộ Dung công tử ra tay, Huyền

Nạn cũng đã tin đến sáu bảy phần, lại thêm lần này cùng gặp nguy

nan, đồng hội đồng thuyền nên đã coi những người này là bạn. Công

Dã Can nghe ông ta nói thế, quay sang gật gù. Tiết Thần Y nói:

- Nếu cũng là bạn cả thì thật tốt quá, tất cả cùng xuống đây. Xin

mời Huyền Nạn đại sư đi trước.

Tuy ông ta nói thế nhưng vẫn nhanh nhẹn xuống hầm đầu tiên. Một

cái hang tối thui như thế này hẳn là cực kỳ hung hiểm, trên giang hồ

lòng người trá ngụy khó dò, có ai lại dám tin ai nên mình phải xuống

trước, ấy là đạo đãi khách.

Tiết Thần Y tiến vào rồi, Huyền Nạn lúc ấy mới xuống, mọi người

đỡ kẻ bị thương theo sau, cả thi thể của Huyền Thống cũng khiêng nữa.

Tiết Thần Y điều khiển máy móc, phiến đá đóng lại, ông ta lại tiếp tục

vận động nghe có tiếng lẹt kẹt vang lên, mọi người liệu rằng ông ta

đang di chuyển cây quế trở về chỗ cũ.

Ở bên dưới là một địa đạo lót đá, ai nấy phải khom lưng mới đi

được, một lát sau đường hầm rộng hơn dẫn đến một cái hang thiên

nhiên, thêm chừng chục trượng thì tới một thạch động rộng rãi. Bên

cạnh một đống lửa ở một góc là khoảng hai chục người, già trẻ lớn bé

đều có cả. Những người đó nghe thấy tiếng chân người đều quay lại

nhìn. Tiết Thần Y nói:

- Đây đều là người nhà của tại hạ, sự tình khẩn bách nên không

bảo họ ra chào quí vị được, thất lễ xin đừng trách. Đại ca, nhị ca, sao

hai người lại đến đây?

Ông ta không đợi ông già đánh đàn trả lời, lập tức xem xét thương

thế cho mọi người. Người đầu tiên ông ta coi là Huyền Thống, Tiết

Thần Y nói:

- Vị đại sư này ngộ đạo viên tịch, quả là đáng mừng.

Y lại coi đến Đặng Bách Xuyên, mỉm cười nói:

- Phấn hoa của thất muội ta chỉ làm cho người say sưa, một hồi

nữa sẽ tỉnh, không có chất độc.

Người đàn bà trung niên và gã kép hát cũng chỉ bị ngoại thương, tuy

không phải nhẹ nhưng Tiết Thần Y chỉ coi là chuyện nhỏ. Ông ta lại

coi mạch cho Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác, ngửng đầu nhắm mắt lại,

hết sức suy nghĩ. Một hồi sau, Tiết Thần Y lắc đầu:

- Lạ thật! Lạ thật! Ai là kẻ đả thương hai vị huynh đài này?

Công Dã Can đáp:

- Là một thanh niên hình mạo cực kỳ cổ quái.

Tiết Thần Y lắc đầu:

- Thanh niên ư? Người này võ công bao gồm cả sở trường hai bên

chính tà, nội công thâm hậu, ít nhất cũng phải có ba mươi năm tu tập,

sao lại còn là thanh niên được?

Huyền Nạn đáp:

- Quả thực là một thanh niên nhưng chưởng lực hùng hậu, Huyền

Thống sư đệ của ta đối chưởng với y, cũng bị hàn độc mà bị thương. Y

là đệ tử của Tinh Tú Lão Quái.

Tiết Thần Y kinh hoảng hỏi lại:

- Đệ tử của Tinh Tú Lão Quái mà lợi hại đến thế sao? Ghê gớm

quá!

Ông ta lắc đầu:

- Thật xấu hổ, hàn độc của hai vị huynh đài này, tại hạ không có

cách nào chữa được. Hai tiếng Thần Y, từ nay không còn dám xưng

nữa.

Đột nhiên nghe tiếng một người nói oang oang:

- Tiết tiên sinh, nếu đã thế, chúng tôi xin cáo từ.

Người đó chính là Đặng Bách Xuyên, ông ta bị phấn hoa làm mê

man, lúc này đã tỉnh lại rồi, nghe Tiết Thần Y nói mấy câu sau cùng.

Bao Bất Đồng cũng phụ họa:

- Đúng thế! Đúng thế! Trốn ở dưới cái hang này làm gì? Đại

trượng phu sinh tử hữu mệnh, lẽ nào lại theo cái thói của con rùa con

chuột, chui dưới cái hang hay sao?

Tiết Thần Y cười nhạt:

- Thí chủ quả là khoa trương. Liệu ngươi có biết ở ngoài đó là ai

không?

Phong Ba Ác đáp:

- Các ngươi sợ Tinh Tú Lão Quái chứ ta cóc sợ. Thật uổng thay

những người võ công cao cường mà mới nghe cái tên của Tinh Tú Lão

Quái đã kinh hồn bạt vía.

Ông già đánh đàn nói:

- Đến ta ngươi đánh còn chưa lại, Tinh Tú Lão Quái là sư thúc của

ta, ngươi nghĩ y lợi hại hay không nào?

Huyền Nạn vội nói lảng sang chuyện khác:

- Những điều lão nạp trông thấy, nghe thấy hôm nay, thật nhiều

chỗ không hiểu, đang muốn thỉnh giáo.

Tiết Thần Y nói:

- Chúng tôi sư huynh đệ tám người, xưng là Hàm Cốc bát hữu.

Ông ta chỉ vào ông già đánh đàn:

- Vị này là đại sư ca của chúng tôi, tôi là thứ năm, còn những việc

khác, một là nói ra thật dài dòng, hai nữa không tiện cho người ngoài

biết ...

Vừa nói tới đây, bỗng có tiếng gọi thật nhỏ truyền tới:

- Tiết Mộ Hoa, sao ngươi chưa ra gặp ta?

Thanh âm đó mong manh như tơ, tưởng chừng chỉ loáng thoáng nghe

thấy nhưng người ở trong hang sâu vẫn nghe thật rõ ràng, tựa hồ một

sợi dây kim loại thật nhỏ, xuyên qua đất dày hơn chục trượng mà

xuống, lại cũng như theo đường hầm quanh co mà chạy vào tai mỗi

người.

Ông già đánh đàn kêu lên một tiếng, nhảy nhổm lên run run nói:

- Tinh ... Tinh Tú Lão Quái!

Phong Ba Ác lớn tiếng:

- Đại ca, nhị ca, tam ca, chúng mình đi ra quyết một phen tử chiến.

Lão già đánh đàn nói:

- Không được đâu, nhất định là không được. Các ngươi ra khỏi đây

dẫu có chết uổng mạng cũng không sao nhưng lại làm lộ cái mật thất ở

dưới đất, trong này mấy chục mạng người cũng sẽ chết vì cái "nhất

dũng chi phu" của các ngươi.

Bao Bất Đồng nói:

- Tiếng nói của y có thể truyền đến tận đây không lẽ không biết

bọn mình chỗ nào hay sao? Ngươi cam nguyện làm con rùa rụt đầu rụt

cổ nhưng y nhất định lôi ngươi ra thì có trốn cũng không được.

Thư sinh sử phán quan bút nói:

- Nhất thời tam khắc y chưa thể vào được, tất cả chúng mình nên

tìm một cách gì cho phải lẽ.

Người cầm búa ngắn hình dáng như thợ thuyền kia trước sau vẫn

không nói năng gì, lúc này mới xen vào:

- Đinh sư thúc tài nghệ tuy cao thật nhưng muốn tìm hiểu được cơ

quan vào địa đạo này, ít ra cũng phải mất hai giờ. Nếu muốn tìm ra

cách tấn công vào lại phải mất thêm hai giờ nữa.

Ông già đánh đàn nói:

- Hay lắm, như thế chúng mình có bốn giờ để bàn tính kế sách, có

phải không nào?

Người cầm búa ngắn đáp:

- Bốn giờ rưỡi.

Ông già đánh đàn ngạc nhiên hỏi lại:

- Sao lại có thêm nửa giờ là sao?

Người cầm búa ngắn đáp:

- Trong bốn giờ đó, tiểu đệ có thể bố trí ba cơ quan, ngăn trở y

thêm được nửa giờ nữa.

Ông già đánh đàn nói:

- Hay lắm! Huyền Nạn đại sư, một khi đại ma đầu tới đây, anh em

tám người chúng tôi chắc không thể nào thoát khỏi độc thủ của y. Các

vị là người ngoài, một khi đại ma đầu kia chuyên tâm đối phó với bọn

sư điệt, các vị ắt có cơ hội bỏ chạy. Các vị nhất định đừng có ỷ mình

anh hùng hảo hán, tranh đấu với y làm gì. Nên biết rằng người nào

chạy thoát được độc thủ của Tinh Tú Lão Quái cũng đã là anh hùng

lắm rồi.

Bao Bất Đồng đáp:

- Thối quá! Thối quá!

Mọi người hít hít nhưng không ai thấy có gì hôi, ai nấy nhìn Bao Bất

Đồng như dò hỏi. Bao Bất Đồng chỉ vào ông già đánh đàn nói:

- Người này đánh rắm thối quá, chịu không nổi.

Y mới rồi chỉ có một chiêu đã bị người đánh đàn chế ngự, trong

bụng vẫn còn ấm ức, tuy lúc đó là lúc đang bị hàn độc phát tác, chân

tay không có sức, nhưng cũng biết võ công mình kém y xa, đối thủ

càng mạnh y lại càng muốn chửi.

Người sử dụng bàn cờ lườm y một cái nói:

- Ngươi muốn thoát khỏi được bàn tay của đại sư huynh ta cũng đã

không phải dễ, huống hồ gì sư thúc ta võ công gấp mười lần đại sư

huynh ta, như vậy thử hỏi ai mới là người đánh rắm thối?

Bao Bất Đồng đáp:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Võ công cao cường với đánh rắm có

liên quan gì đâu. Võ công cao cường không lẽ không đánh rắm? Không

đánh rắm là nhất định phải võ công cao cường hay sao? Khổng phu tử

không biết võ công, không lẽ lão nhân gia là người chuyên đánh rắm ...

Đặng Bách Xuyên nghĩ thầm: "Những người này nói không hẳn

hoàn toàn vô lý, Bao tam đệ cùng với họ cãi qua cãi lại chỉ làm hao phí

thời gian". Y liền nói:

- Lai lịch của chư vị tại hạ chưa được cung kính lắng nghe thành

thử lầm lỡ đã nhiều, đánh nhầm vị nương tử đây, tại hạ muôn phần có

lỗi. Hôm nay nếu cùng chống lại yêu ma, tất cả coi như người nhà. Khi

cường địch tới, thủ hạ Cô Tô Mộ Dung công tử tuy chẳng bằng ai

nhưng bỏ chạy thì quyết không bỏ chạy, nếu quả không chống nổi thì

tất cả chúng ta cũng đành bỏ mạng thôi.

Bề ngoài phiêu dật tiêu dao,

Ra tay một mẻ ai nào thoát đâu.

Gặp khi tụ hội anh hào,

Tâm cơ bố trí cũng sao cho vừa.

*

* *

Huyền Nạn nói:

- Tuệ Kính, Hư Trúc các người nếu có cơ hội thì nên tìm cách

thoát thân, trở về đến chùa, bẩm lại cho phương trượng, để khỏi tất cả

bị yêu nhân quăng một mẻ lưới bắt sạch, đến tin tức cũng không truyền

được ra ngoài.

Sáu nhà sư Thiếu Lâm chắp tay đáp:

- Cung lãnh pháp chỉ.

Bọn Tiết Mộ Hoa và Đặng Bách Xuyên nghe Huyền Nạn nói như

thế, biết ông đã quyết chí cùng mọi người đồng sinh cộng tử, nhưng có

đối phó nổi với Tinh Tú Lão Quái hay không thì cũng không ai biết

được.

Ông già đánh đàn ngẩn ngơ, đột nhiên vỗ tay cười nói:

- Tất cả cùng nhau chết hết. Huyền Khổ sư huynh nếu như giờ này

còn sống thì từ rày về sau cũng không còn bao giờ được nghe vô

thượng chí khúc Nhất Vi Ngâm của ta nữa, ta lẽ nào còn vì cái chết của

y mà thương tâm? Ôi! Có ngưới bảo Khang Quảng Lăng này là một tên

cực kỳ ngốc nghếch, ta vẫn không phục, thế nhưng xem ra nếu không

phải là cực kỳ ngốc thì cũng hơi hơi ngốc.

Bao Bất Đồng nói:

- Nhà ngươi chính hiệu là tên đại ngốc, là tên cực kỳ khù khờ.

Ông già đánh đàn Khang Quảng Lăng đáp:

- Ta cũng chẳng ngốc bằng ngươi.

Bao Bất Đồng đáp:

- Ngươi ngốc gấp mười lần ta.

Khang Quảng Lăng nói:

- Ngươi ngốc gấp trăm lần ta.

Bao Bất Đồng nói:

- Ngươi ngốc gấp ngàn lần ta.

Khang Quảng Lăng nói:

- Ngươi ngốc gấp vạn lần ta.

Bao Bất Đồng nói:

- Ngươi ngốc gấp mười vạn lần, trăm vạn lần, nghìn vạn lần, vạn

vạn lần ta.

Tiết Mộ Hoa chen vào:

- Hai vị kẻ tám lạng, người nửa cân, không người nào ngốc hơn

người nào. Các vị sư phụ phái Thiếu Lâm, các vị về đến chùa rồi,

phương trượng đại sư hỏi đến tiền nhân hậu quả e rằng quí vị không trả

lời được. Việc này vốn dĩ là một điều đáng hổ thẹn của tệ phái, đáng

lẽ không cho người ngoài hay. Thế nhưng để tiêu diệt cái họa hoạn cho

võ lâm, nếu không do các cao tăng Thiếu Lâm chủ trì đại cuộc thì khó

mà thành công. Tại hạ phải thuật lại tỏ tường cho quí vị, có điều các vị

chỉ nói lại cho phương trượng của quí tự chứ đừng nói với ai khác.

Bọn Tuệ Kính, Hư Trúc cùng đáp:

- Những gì Tiết Thần Y nói ra đây, bọn tiểu tăng chỉ nói cho

phương trượng tệ tự nghe, ngoài ra quyết không nói cho ai khác nửa

câu.

Tiết Mộ Hoa nhìn Khang Quảng Lăng nói:

- Đại sư ca, những nguyên do trong vụ này, tiểu đệ muốn nói cho

mọi người nghe.

Khang Quảng Lăng tuy vị trí đứng đầu tám người, võ công cũng cao

hơn các đàn em xa lắc nhưng lại là người tính tình ấu trĩ, Tiết Mộ Hoa

sở dĩ hỏi ông ta một câu cũng chỉ vì có người ngoài nên muốn cho đẹp

mặt. Khang Quảng Lăng đáp:

- Lạ nhỉ, mồm là mồm của ngươi, ngươi muốn nói thì cứ nói, sao

lại hỏi ta?

Tiết Mộ Hoa nói:

- Huyền Nạn đại sư, Đặng sư phó, thụ nghiệp ân sư của chúng tôi

ở trong võ lâm người ta gọi là Thông Biện tiên sinh ...

Huyền Nạn và Đặng Bách Xuyên cả bọn ai nấy ngạc nhiên, cùng

hỏi:

- Vậy sao?

Thông Biện tiên sinh chính là Lung Á lão nhân. Ông ta vừa điếc

vừa câm nhưng lại lấy ngoại hiệu là Thông Biện tiên sinh, đệ tử của

ông ta người nào cũng bị dùi thủng tai cho điếc, cắt lưỡi cho câm trên

giang hồ ai ai cũng biết. Thế nhưng bọn Khang Quảng Lăng ai nấy tai

thính miệng trơn, như thế quả thật lạ kỳ.

Tiết Mộ Hoa nói tiếp:

- Môn hạ đệ tử của gia sư ai ai cũng vừa câm vừa điếc là việc chỉ

mới vài chục năm nay. Còn trước đó, gia sư không phải là người câm,

cũng chẳng điếc, mà vì bị sư đệ là Đinh Xuân Thu khích, biến thành

câm điếc.

Bọn Huyền Nạn ai nấy ồ lên kinh ngạc. Tiết Mộ Hoa nói:

- Tổ sư chúng tôi cả thảy chỉ thu hai người đệ tử, đại đệ tử họ Tô,

tên trên Tinh dưới Hà, đó là gia sư, nhị đệ tử Đinh Xuân Thu. Võ công

hai người vốn ngang ngửa nhau, thế nhưng về sau mới phân thành kẻ

cao người thấp ...

Bao Bất Đồng chen vào:

- Ha ha, chắc hẳn là sư thúc ngươi Đinh Xuân Thu thắng được sư

phụ ngươi, cái đó còn việc gì phải nói.

Tiết Mộ Hoa tiếp:

- Nói ra thì cũng không hẳn vậy. Tổ sư chúng tôi học đủ mọi thứ

trên trời đưới đất, bụng chứa bao la vạn tượng ...

Bao Bất Đồng nói:

- Chưa chắc đâu!

Tiết Mộ Hoa biết người này chuyên môn cà khịa với người khác

nên không ngó ngàng gì đến y, vẫn tiếp tục nói:

- Ban đầu sư phụ chúng tôi và Đinh Xuân Thu chỉ cùng học võ

công, nhưng về sau sư phụ chúng tôi phân tâm, học tổ sư gia đánh đàn,

âm vận ...

Bao Bất Đồng chỉ vào Khang Quảng Lăng nói:

- Ha ha, cái môn đánh đàn quỉ quái của ngươi là học ở đó chứ gì?

Khang Quảng Lăng trừng mắt nhìn y nói:

- Bản lãnh của ta không học sư phụ không lẽ học của ngươi sao?

Tiết Mộ Hoa nói:

- Nếu như sư phụ ta chỉ học một môn đánh đàn thì cũng không có

gì vướng mắc lắm, có điều tổ sư gia sở học quá bao la, cầm kỳ thư họa,

y bốc tinh tướng, công nghệ tạp học, buôn bán cấy trồng, cái gì cũng

biết, cái gì cũng tinh. Sư phụ ta lúc đầu chỉ học đánh đàn, chẳng bao

lâu lại học đánh cờ, rồi sang thư pháp, rồi sang hội họa.

Các vị thử nghĩ xem, mỗi môn môn nào cũng hao phí rất nhiều thời

gian tâm huyết, Đinh Xuân Thu lúc đầu cũng giả vờ học thử, nhưng chỉ

dăm bữa nửa tháng thì bảo là mình tư chất đần độn, khó mà học cho

xong, nên chỉ chuyên tâm về võ công thôi. Cứ như thế tám năm, mười

năm, hai sư huynh đệ võ công liền có kẻ cao người thấp.

Huyền Nạn liên tiếp gật gù nói:

- Chỉ một môn đánh đàn hay chơi cờ không thôi cũng đã hao sinh

lực một nửa đời người, vậy mà Thông Biện tiên sinh tinh thông mấy

loại, quả thực khó thay. Còn Đinh Xuân Thu chuyên tâm một môn, võ

công thắng được sư huynh thì cũng không có gì là lạ.

Khang Quảng Lăng nói:

- Lão ngũ, còn một việc hết sức quan trọng, sao ngươi không nói

ra đi, mau lên, mau lên!

Tiết Mộ Hoa nói:

- Đinh Xuân Thu chuyên tâm học võ, vốn dĩ cũng là chuyện tốt,

có điều ... có điều ... ôi ... chuyện này nói ra, thật xấu xa cho sư môn

quá. Nói tóm lại, Đinh Xuân Thu sử dụng mọi thủ đoạn hèn hạ, không

biết học đâu ra mấy môn tà thuật cực kỳ lợi hại, đột nhiên ra tay đánh

tổ sư gia bọn ta trọng thương.

Tổ sư gia vốn dĩ thân mang tuyệt học, tuy bị ám toán bất ngờ không

kịp đề phòng nhưng vẫn gắng gượng chống trả được cho đến khi sư phụ

bọn ta đến cứu viện. Võ công sư phụ bọn ta không bì được với tên ác

tặc, sau một trận ác đấu, sư phụ ta cũng bị thương còn tổ sư gia rơi

xuống dưới thâm cốc, chẳng biết sống chết thế nào.

Sư phụ ta vì tạp học mà xao nhãng võ công nhưng những môn đó

không phải không có chỗ dùng. Vào lúc nguy nan, sư phụ ta thi triển

thuật kỳ môn độn giáp, ngũ hành bát quái làm loạn tai mắt Đinh Xuân

Thu khiến y không thể giải được.

Đinh Xuân Thu không thể nào phá trận mà vào giết sư phụ ta, hơn

nữa, y cũng biết bản môn còn nhiều thần công áo diệu mà tổ sư gia

chưa truyền cho hai sư huynh đệ, ắt rằng khi lâm tử ắt thể nào cũng nói

cho sư phụ ta biết nơi cất dấu bí cập, cần phải từ từ bức bách sư phụ ta

thổ lộ, vì thế hai người mới đính ước với nhau, nếu như sư phụ ta từ nay

không mở miệng nói một câu nào thì y sẽ không đi tìm sư phụ ta trả

đũa.

Khi đó môn hạ của sư phụ ta chỉ gồm tám đứa đệ tử chưa thành tài.

Sư phụ ta mới viết một phong thư khai trừ cả tám người không nhận

làm học trò nữa, từ đó quả nhiên giả vờ câm điếc, không nghe không

nói, nếu có thu đệ tử cũng chọc tai cắt lưỡi, lập ra Lung Á Môn.

Theo như ta đoán ý của sư phụ, chắc là cực kỳ hối hận năm xưa đã

phân tâm theo đuổi các môn tạp học để đến nỗi võ công không bằng

Đinh Xuân Thu nên sau khi câm điếc rồi, những môn tạp học đó không

hề dạy nữa.

Anh em sư huynh đệ bọn ta tám người, ngoài võ công ra còn học

của sư phụ một môn tạp học. Đó là từ trước khi Đinh Xuân Thu phản

thầy, lúc đó gia sư chưa thấy rõ được cái hại to lớn của phân tâm, nên

không cấm đoán mà còn khuyến khích, gia công chỉ điểm. Khang đại

sư huynh Quảng Lăng học đánh đàn.

Bao Bất Đồng nói:

- Y đúng là "đàn mình mình nghe cũng còn chẳng lọt tai".

Khang Quảng Lăng hầm hầm hỏi lại:

- Ngươi bảo ta đàn không hay phải không? Để ta đàn thử cho

ngươi nghe.

Vừa nói vừa để cây dao cầm lên trên gối. Tiết Mộ Hoa vội vàng

xua tay chặn lại rồi chỉ vào người cầm bàn cờ:

- Phạm nhị sư huynh Bách Linh, học môn cờ vây, trên đời này khó

có ai gọi là địch thủ.

Bao Bất Đồng đưa mắt nhìn Phạm Bách Linh rồi nói:

- Thảo nào ngươi dùng bàn cờ làm binh khí. Có điều bàn cờ làm

bằng từ thiết, hút binh khí người ta, không khỏi lợi thế, chẳng phải là

hành vi của kẻ chính nhân quân tử.

Phạm Bách Linh đáp:

- Trong thuật đánh cờ, cố nhiên là phải đường đường chính chính

nhưng kỳ binh ngụy đạo cũng chẳng cấm đoán.

Tiết Mộ Hoa nói tiếp:

- Bàn cờ của Phạm nhị sư ca sở dĩ dùng nam châm đúc thành, vốn

là để nghiên cứu kỳ thuật. Dù cho đi đứng nằm ngồi, đột nhiên nghĩ

đến một thế cờ đều có thể dùng quân đen quân trắng bày thành trận

ngay. Bàn cờ của anh ta làm bằng từ thiết, để quân cờ bằng sắt lên, dù

trên xe trên ngựa cũng không xê xích, rơi rụng. Về sau để cho tiện với

kỳ nghệ nên dùng luôn bàn cờ làm binh khí, quân cờ dùng làm ám khí

chứ không phải muốn dùng bàn cờ bằng từ thiết để lấn lướt người ta.

Bao Bất Đồng trong bụng cũng đồng ý nhưng mồm vẫn lèm bèm:

- Nói thế thật chẳng thông, không thông chút nào. Với võ công

như Phạm lão nhị, nếu có dùng một bàn cờ gỗ, dùng quân cờ sắt gắn

lên, lẩn hẳn vào trong gỗ thì quân cờ đó còn làm sao rơi ra được?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Thế nhưng cũng không tiện bằng bàn cờ sắt. Còn Cẩu tam sư ca

của ta đơn danh là Độc, tính thích đọc sách, đọc đủ mọi loại, sách gì

cũng ngó đến, là một túc nho bụng đầy chữ nghĩa, chắc các vị cũng đã

lãnh giáo qua rồi.

Bao Bất Đồng nói:

- Tiểu nhân chi nho thì có đáng gì!

Cẩu Độc giận dữ hỏi:

- Cái gì? Ngươi bảo ta là "tiểu nhân chi nho" ư? Không lẽ ngươi là

"quân tử chi nho" chăng?

Bao Bất Đồng đáp:

- Đâu dám! Đâu dám!

Tiết Mộ Hoa biết rằng một khi hai người tranh cãi rồi, có đến ba

ngày ba đêm cũng chưa dứt vội vàng ngắt ngang, chỉ vào thư sinh sử

dụng phán quan bút:

- Còn đây là tứ sư ca của ta, giỏi về nét đan thanh, sơn thủy nhân

vật, cỏ cây hoa lá món gì cũng tinh xảo. Y họ Ngô, trước khi vào làm

môn đệ gia sư, đã từng làm chức lãnh quân của Tống triều thành thử ai

ai cũng gọi y là Ngô lãnh quân.

Bao Bất Đồng nói:

- E rằng lãnh quân đánh đâu thua đó, vẽ vời thì người chẳng ra

người, ngợm chẳng ra ngợm.

Ngô lãnh quân đáp:

- Nếu như phải vẽ tôn dung của các hạ, thì đúng là nhân quỉ nan

phân.

Bao Bất Đồng cười sằng sặc nói:

- Lão huynh khi nào rảnh, lấy dung mạo Bao lão tam này làm mẫu

vẽ một bức Quỉ Thú Đồ thì thật hay lắm.

Tiết Mộ Hoa cười nói:

- Bao huynh anh tuấn tiêu sái, sao lại quá khiêm tốn như thế? Tại

hạ đứng hàng thứ năm, học môn y thuật, trên giang hồ cũng có chút

danh còm, thật không dám quên ơn của sư phụ.

Bao Bất Đồng nói:

- Ho cảm phong hàn thì may ra chữa được, còn gặp phải hàn độc

của tại hạ thì cũng bó tay. Cái đó đúng là bệnh nặng chữa không xong,

bệnh nhẹ chữa không chết. Ha ha, cái tiếng Thần Y quả là danh bất hư

truyền.

Khang Quảng Lăng giơ tay vuốt râu, đưa mắt nhìn Bao Bất Đồng:

- Vị lão huynh này tính tình kỳ khôi, thật đúng là không giống ai.

Bao Bất Đồng đáp:

- Ha ha, ta họ Bao, tên Bất Đồng, thì dĩ nhiên là không giống ai

rồi.

Khang Quảng Lăng cũng cười khà khà nói:

- Ngươi họ Bao thật sao? Tên Bất Đồng thật sao?

Bao Bất Đồng đáp:

- Không lẽ còn giả hay sao? Này, còn vị nhân huynh chuyên chế

tạo cơ quan đây, hẳn là tinh thông mộc nề xây cất, môn hạ của Lỗ Ban

tiên sư chăng?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Chính thế! Lục sư đệ Phùng A Tam, vốn dĩ là thợ mộc xuất thân,

trước khi đầu nhập sư môn từng là một người thợ khéo, về sau lại học

thêm nghề của gia sư, khéo càng thêm khéo. Thất sư muội họ Thạch,

giỏi về hoa cỏ, kỳ hoa dị thảo trong thiên hạ cây nào cô ta trồng cũng

tốt tươi.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Dược vật Thạch cô nương dùng để làm ta mê man ắt hẳn lấy từ

các loại phấn hoa chứ không phải thuốc độc.

Người đàn bà xinh đẹp họ Thạch kia khuê danh là Thanh Lộ, mỉm

cười đáp:

- Mới rồi quả là đắc tội, mong Đặng lão sư tha thứ cho.

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Tại hạ lỗ mãng, ra tay quá nặng, mong cô nương rộng lượng.

Tiết Mộ Hoa chỉ vào người cứ mở miệng là hát xướng nói:

- Bát đệ Lý Khổi Lỗi cả đời chỉ mê diễn trò đóng tuồng, dở dở

ương ương thành thử võ học không khỏi chểnh mảng. Ôi, thế nhưng nào

chỉ mình y đâu! Bọn chúng tôi tám người, ai ai cũng đều thế cả. Thực

ra võ công sư phụ chúng tôi truyền thụ tu tập cũng chưa xong vậy mà

còn ôm đồm nhiều thứ, học cả tuyệt chiêu của người ngoài, đến nỗi ...

ôi ...Lý Khổi Lỗi vẫn nằm dưới đất, hát lên:

Cô vương đây chính thị,

Lý Tồn Húc là ta Giang sơn nào đáng trọng,

Đóng tuồng mới thật ưa.

Ải ải ải!

Thích ơi là thích.

Bao Bất Đồng nhại lại:

Cô vương đây chính thị,

Tên gọi Lý Tự Nguyên,Giang sơn ta lấy được,

Chém đầu đứa hôn quân.

Gã đồ gàn Cẩu Độc chen vào:

- Lý Tồn Húc bị bọn thủ hạ kép hát Quách Tòng Khiêm giết chết

chứ nào phải chết vì tay Lý Tự Nguyên.

Bao Bất Đồng không thông sử sách biết mình cãi không lại Cẩu

Độc bèn cất giọng ngâm:

Ử ử ử,

Nào ai còn phải hỏi,

Quách Tòng Khiêm là ta.

A a a!

Tần Thủy Hoàng cũng mỗ,

Đốt sách chôn học trò.

Học trò ta ghét nhất,

Bọn tiểu nhân chi nho.

Tiết Mộ Hoa nói tiếp:

- Bọn huynh đệ chúng tôi tám người tuy đã bị trục xuất ra khỏi sư

môn nhưng không dám quên ân đức giáo huấn của sư phụ nên mới lấy

cái tên Hàm Cốc bát hữu cốt để ghi nhớ năm xưa được thụ nghệ ở

ngoài ải Hàm Cốc. Người ngoài chỉ tưởng chúng tôi chỉ vì cũng cám

hấp như nhau ...

Bao Bất Đồng khịt khịt mũi nói:

- Hôi thật, hôi thật!

Cẩu Độc nói:

- Hệ Từ trong kinh Dịch có viết: "Lời kẻ đồng lòng, hôi cũng

thành lan". Hôi cũng là thơm, lão huynh chẳng biết gì cả.

Bao Bất Đồng đáp:

- Lời của lão huynh, mùi thơm như rắm.

Tiết Mộ Hoa mỉm cười nói:

- Không ai biết chúng tôi là huynh đệ đồng môn. Chúng tôi cũng

đề phòng Tinh Tú Lão Quái quay trở lại Trung Nguyên một mẻ vét

sạch nên chỉ hai năm gặp nhau một lần, còn lúc bình thường thì ở rải

rác mỗi người một nơi.

Bọn Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên nghe Tiết Thần Y nói rõ lai

lịch tám anh em, những nghi vấn trong lòng giảm đi quá nửa. Công Dã

Can hỏi lại:

- Nếu nói thế Tiết tiên sinh giả vờ chết, trong quan tài bố trí độc

dược cũng chỉ là để đối phó với Tinh Tú Lão Quái mà thôi. Thế tại sao

Tiết tiên sinh biết được là y sẽ đến đây?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Hai hôm trước đây, tôi đang ngồi không trong nhà, bỗng có bốn

người đến xin chữa bệnh, trong đó có một hòa thượng béo trục béo

tròn, trên ngực sau lưng có đến tám chiếc xương sườn bị gãy, bị thương

vì chưởng lực của phái Thiếu Lâm nhưng chỗ gãy đã nối lại rồi chỉ để

một thời gian cũng tự lành được, không có gì hung hiểm. Có điều trong

tạng phủ y có ẩn hàn độc, tuy không liên quan gì đến ngoại thương

nhưng chẳng bao lâu sẽ phát tác mà chết.

Huyền Nạn nói:

- Thật là xấu hổ! Y chính là Tuệ Tịnh hòa thượng, môn hạ phái

Thiếu Lâm. Nhà sư này không giữ thanh qui, làm điều càn rỡ nên tệ tự

đã sai người đi bắt y về để trừng trị theo giới luật, vậy mà y lại ra tay

trước đả thương người. Thì ra trên thân y đã vốn có hàn độc rồi nhưng

chuyện đó chẳng có liên can gì đến bọn ta, không biết ai đã đưa y đến

đây chữa trị?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Đi cùng với y là một bệnh nhân thật kỳ quái, đầu đội một cái

lồng sắt ...

Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác cùng nhảy dựng lên kêu lớn:

- Đả thương bọn ta chính là tên tiểu tử đầu sắt đó.

Tiết Thần Y lạ lùng hỏi:

- Thanh niên đó công lực cao cường vậy sao? Tiếc thay lúc y đến

lật đà lật đật, ta không kịp đưa tay coi mạch, nếu không tình trạng nội

lực của y thế nào ít ra cũng biết được chút đầu dây mối nhợ.

Bao Bất Đồng hỏi thêm:

- Thế tiểu tử đó bị bệnh gì thế?

Tiết Thần Y đáp:

- Y muốn nhờ ta gỡ bỏ cái lồng sắt trên đầu y ra. Thế nhưng lúc ta

coi lại, cái lồng đó dính chặt vào đầu y rồi, không thể gỡ ra được.

Bao Bất Đồng nói:

- Lạ nhỉ? Không lẽ cái đầu sắt đó là do cha sinh mẹ đẻ ra đã có,

từ bé đã thế rồi sao?

Tiết Thần Y nói:

- Không phải thế. Cái lồng đó khi người ta chụp lên đầu y thì còn

nóng hổi thành thử làm lở loét, chín rục thịt ra, đến khi máu đông kết

thành sẹo rồi thì dính chặt vào mặt vào ót. Nếu phá đi thì sẽ lột luôn cả

mí mắt, miệng, mũi không còn ra hình thù gì nữa.

Bao Bất Đồng hạnh tai lạc họa, cười khẩy nói:

- Nếu y đã nhờ ông tháo ra thì cứ làm nát bấy ngũ quan lẫn khuôn

mặt, y đâu có trách gì ông được.

Tiết Thần Y nói:

- Ta còn đang ngẫm nghĩ xem có cách gì không, hai tên đồng bạn

của y bỗng lớn tiếng thúc giục, bảo ta mau mau ra tay. Họ Tiết này cả

đời có cái tính xấu hễ ai nhờ ta trị bệnh thì phải nói ngon nói ngọt, còn

như ỷ mạnh lấn lướt thì Tiết mỗ thà chết dưới đầu đao mũi kiếm chứ

nhất định không chữa chạy gì cả. Nhớ năm xưa anh hùng đại hội ở Tụ

Hiền Trang, gã Kiều Phong kia mạo hiểm đánh liều đưa một tiểu cô

nương đến nhờ ta chữa bệnh. Kiều Phong tuy ngang ngạnh tàn ác vô

cùng nhưng khi đến cầu ta, trong ngôn ngữ cũng không dám có chỗ nào

thất lễ ...

Ông ta nói tới đây, nghĩ đến về sau A Châu điểm huyệt ông ta, cạo

sạch bộ râu, quả là kỳ sỉ đại nhục trong đời nên không nói tiếp nữa.

Bao Bất Đồng nói:

- Ngươi phét lác cái gì? Họ Bao này cũng có cái tính chẳng giống

ai, nếu như ai muốn chữa bệnh cho ta thì phải ngon ngọt cầu xin, còn

như đối phương cậy mạnh áp bức, Bao mỗ thà để cho bệnh đến chết

chứ không cho ai chữa.

Khang Quảng Lăng cười ha hả nói:

- Ngươi là cái quái gì mà báu thế? Người ta muốn chữa bệnh cho

ngươi mà phải năn nỉ, họa chăng ... họa chăng ...

Ông ta chưa nghĩ ra "họa chăng" cái gì thì Bao Bất Đồng đã tiếp:

- Họa chăng ngươi có là con ta thì mới thế.

Khang Quảng Lăng ngơ ngẩn, nghĩ bụng lời y quả không sai, nếu

như cha mình bị bệnh mà không chịu đi thầy lang thì mình đành phải

năn nỉ ông ta vậy. Ông ta là người rất biết đạo lý, không nghĩ đến

chuyện Bao Bất Đồng nói câu đó là chơi trèo mình, liền đáp:

- Đúng thật! Thế nhưng ta nào có phải là con ngươi đâu?

Bao Bất Đồng đáp:

- Ngươi có phải là con ta hay không, chỉ có mẹ ngươi mới biết chứ

ngươi làm sao mà biết được?

Khang Quảng Lăng ngẩn người nhưng rồi cũng gật gù nói:

- Ngươi nói quả có lý.

Bao Bất Đồng cười sằng sặc nghĩ thầm: "Gã này đúng là một tên

đại ngốc, nếu mình còn tiếp tục chơi gác y thì có thắng cũng chẳng

vinh dự gì".

Công Dã Can nói:

- Tiết tiên sinh, hai người kia nếu quả ngôn ngữ vô lễ, ông liền từ

chối hay sao?

Tiết Thần Y gật đầu nói:

- Chính thị. Khi đó ta còn nói: "Tại hạ tài năng hữu hạn, không

làm được, chư quân đi kiếm người khác cao minh hơn". Gã đầu sắt đối

với ta hết sức khiêm cung, lúc ấy mới nói: "Tiết tiên sinh, y đạo của

ông thiên hạ vô song trên giang hồ đặt tên là Diêm Vương Địch, trong

võ lâm ai mà không kính ngưỡng? Tiểu nhân trước nay kính trọng bội

phục tiên sinh, gia phụ vốn cũng là bạn cũ của lão nhân gia, xin tiên

sinh mở lòng từ bi cứu chữa cho đứa con khốn khổ của cố nhân.

Mọi người ai cũng quan tâm đến lai lịch của gã đầu sắt, lập tức sáu

bảy người nhao nhao hỏi:

- Thế phụ thân y là ai?

Lý Khổi Lỗi đột nhiên xen vào:

- Y là con ai thì chỉ có mẹ y mới biết được chứ y làm sao mà biết?

Gã bắt chước giọng của Bao Bất Đồng không sai một mảy. Bao Bất

Đồng cười nói:

- Hay lắm, ngươi học cách nói của ta giống y chang, xem chừng

không cần phải bắt chước mà chính là cha nào con nấy.

Lý Khổi Lỗi lại hát:

Hoàng Đế đích thực mỗ,

Ông tổ cả Trung Nguyên,

Phàm là dân Hoa Hạ,

Có ai không cháu con.

Y muốn đóng vai ai là ý tưởng tuôn ra đóng được ngay vai đó, Bao

Bất Đồng lấn lướt chơi trèo y cũng chẳng để vào tai. Tiết Mộ Hoa tiếp

tục nói:

- Ta nghe gã đầu sắt tự nhận là con của người quen lập tức hỏi

ngay cha y là ai thì gã trả lời: "Tiểu nhân gặp cảnh không may làm

nhục đến tiên nhân cho nên tên của phụ thân không dám nhắc đến.

Thế nhưng khi tiên phụ còn tại thế, quả thực là chỗ chí giao với tiên

sinh, việc đó hoàn toàn có thật, tiểu nhân không dám đem cha mình ra

để đánh lừa ai".

Ta nghe thấy y thành khẩn như thế, chắc không phải là lời nói

không. Có điều tại hạ giao du rất rộng, bằng hữu không phải là ít, nghe

y nói phụ thân đã qua đời rồi, trong nhất thời không đoán ra được là ai.

Ta cũng định khi tháo được cái mặt nạ cho y rồi, xem diện mạo may ra

biết được cha y là người nào.

Thế nhưng để gỡ được cái lồng sắt đó nhưng làm sao cho mặt y ít

bị tổn thương, quả không phải dễ, còn đang trầm ngâm thì một tên

đồng bạn của y liền nói: "Pháp chỉ của sư phụ, việc trước hết là trị cho

lành vết thương của hòa thượng Tuệ Tịnh, còn cái lồng sắt của gã này

tháo được hay không, chẳng quan hệ lắm". Ta nghe nói thế, lửa giận

bốc lên bừng bừng nói: "Tôn sư là ai? Pháp chỉ của ông ta là cho các

ngươi, chứ làm sao bắt ta phải theo cho được?". Gã kia hầm hầm nói:

"Tên sư phụ của ta nói ra, chỉ e ngươi sợ đến vỡ mật. Lão nhân gia bảo

ngươi mau mau trị cho khỏi vết thương của nhà sư mập này, nếu còn

diên trì thời khắc, làm hỏng chuyện của lão nhân gia thì sẽ cho ngươi

đi chầu Diêm Vương ngay".

Khi ta vừa mới nghe y nói, trong bụng tức lắm thế nhưng y nói

xong thấy khẩu âm của y không thuần, lơ lớ giọng người Hồ ở Tây

Vực, nhìn lại diện mạo y thấy mắt sâu tóc quăn, khác hẳn người Trung

Hoa mình, chợt nghĩ ra một người bèn hỏi: "Ngươi từ biển Tinh Tú đến

đây chăng?". Người kia vừa nghe thế, mặt liền biến sắc nói: "Hừ, mắt

của ngươi sắc bén nhỉ? Đúng đó, ta từ Tinh Tú Hải đến đây. Nếu ngươi

đã đoán ra được thì mau mau chữa bệnh đi thôi". Ta thấy y ngang

nhiên nhận là đệ tử của Tinh Tú Lão Quái, nghĩ thầm: "Thâm cừu của

sư môn không thể không báo". Ta liền giả vờ làm như sợ hãi lắm hỏi

thêm: "Đã từ lâu ngưỡng mộ pháp thuật của Đinh lão tiên ở biển Tinh

Tú thông thiên triệt địa, đệ tử khâm phục xiết bao nhưng chưa từng có

duyên bái kiến, không biết lão tiên lão nhân gia có đến Trung Nguyên

hay không?".

Bao Bất Đồng nói:

- Chậc, chậc! Ngươi nói Tinh Tú Lão Quái cũng được mà ngươi

nói Tinh Tú Lão Ma cũng được, hà cớ gì cam tâm hạ mình, gọi y là

"lão tiên"! Thật đáng thẹn ơi là đáng thẹn!

Đặng Bách Xuyên nói:

- Tam đệ, Tiết tiên sinh cố ý dùng lời thăm dò, chứ có phải thực

lòng gọi y là "lão tiên" đâu?

Bao Bất Đồng nói:

- Chuyện đó thì dĩ nhiên đệ biết rồi. Nếu như muốn dò hỏi thì lại

càng phải gọi là "lão quỉ", "lão yêu", "lão tặc" để khích cho bọn yêu

tử tặc tôn gầm lên cũng phải thổ lộ chân tình chứ gì nữa.

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Lời của Bao tiên sinh quả là hữu lý. Lão phu không giỏi dối trá,

miệng vừa gọi y là "lão tiên" nhưng mặt lại lộ vẻ phẫn nộ. Yêu nhân

kia cực kỳ giảo hoạt, vừa thấy thế là nghi ngay, giơ tay chộp lấy mạch

môn của mỗ, quát hỏi: "Ngươi tra vấn hành tung sư phụ ta là dụng ý

gì?". Ta thấy việc bị bại lộ, đối phó với môn hạ phái Tinh Tú không

thể dung tình được, lật tay đâm ra một chỉ điểm ngay vào tử huyệt của

y. Yêu nhân thứ hai rút ngay ra một thanh chủy thủ tẩm thuốc độc,

xông tới đâm.

Ta trong tay không có binh khí, yêu nhân đó võ công cũng ghê gớm

lắm, trong lúc nguy cấp bỗng tên đầu sắt đưa tay đoạt con dao găm nói:

"Sư phụ sai chúng ta đi cầu thầy chữa thuốc chứ nào có bảo mình đi

giết người". Yêu nhân kia giận dữ đáp: "Thập nhị sư đệ bị y giết rồi,

ngươi không thấy hay sao? Sao ... sao ngươi ... ngươi dám che chở cho

người ngoài?". Gã đầu sắt nói: "Nếu ngươi muốn giết vị thần y này là

tùy ngươi, thế nhưng nếu gã sư mập này không cứu chữa, tính mạng

khó toàn. Y không chỉ đường được để đi tìm băng tàm, sư phụ sẽ hỏi

đến ngươi đó".

Ta nhân lúc hai đứa đó cãi nhau, lập tức rút binh khí ra. Yêu nhân

kia thấy giết ta không phải dễ, lại nghe tên đầu sắt nói cũng phải liền

nói: "Nếu đã thế, ngươi bắt lấy tên quỉ y sinh này đem về cho sư phụ".

Gã đầu sắt đáp: "Hay lắm!". Y vừa nói vừa đâm ngay thanh chủy thủ

vào ngực, giết luôn tên kia.

Mọi người ai nấy ồ lên kinh ngạc. Bao Bất Đồng nói:

- Thế thì có gì là lạ. Tên đầu sắt kia có chuyện cầu đến ông nên ra

tay giết đồng môn để lấy lòng.

Tiết Mộ Hoa thở dài một tiếng nói:

- Trong giờ phút đó, ta nào biết được chân ý của y ra sao, không

hiểu vì ta là bạn của phụ thân y, hay vì y muốn tỏ chút ân huệ với

mình. Ta vừa định hỏi, bỗng nghe đằng xa có một tiếng còi, gã đầu sắt

mặt liền biến sắc nói: "Sư phụ tại hạ giục phải quay về. Tiết bá phụ,

tốt hơn cả bá phụ chữa cho gã hòa thượng mập này đi. Sư phụ trong

lòng vui vẻ không chừng sẽ tha cho bá phụ cái tội giết đồ đệ của ông

ta". Ta đáp: "Tinh Tú lão yêu cùng ta thù sâu tợ bể, bất cứ ai có liên

quan với y một chút là ta nhất định không trị. Ngươi có giỏi thì cứ giết

ta đi".

Gã đầu sắt mới nói: "Tiết bá phụ, tiểu điệt quyết không dám đắc tội

với bá phụ". Y đang định giãi bày thì tiếng còi của Tinh Tú lão yêu lại

nổi lên, y bèn cắp gã sư mập hấp tấp chạy đi.

Tinh Tú lão tặc đã đến Trung Nguyên rồi, hai tên đệ tử của lão chết

nơi nhà ta, sớm muộn gì rồi lão cũng tìm đến. Dẫu gã đầu sắt có dấu

giùm ta chăng nữa thì cũng chẳng dấu được lâu. Thành thử ta đành

phải giả chết, trong quan tài ám tàng thuốc độc cực mạnh mong sẽ dụ

được y tới. Toàn gia già trẻ lớn bé đều trốn trong địa đạo này. Khi các

vị đến tệ xá, người lão bộc của tại hạ, tuy trung thành thật đấy nhưng

đầu óc chậm lụt, lại tưởng các vị là kẻ đối đầu mà ta đang e ngại ...

Bao Bất Đồng nói:

- Ha ha, y lại tưởng Huyền Nạn đại sư là Tinh Tú Lão Quái, còn

bọn chúng ta là đồ tử đồ tôn của y trong phái Tinh Tú. Bao mỗ và mấy

người bạn hình dung quái dị, bảo là yêu ma của phái Tinh Tú cũng còn

giống vài phần, thế nhưng Huyền Nạn đại sư cao nhã từ tường, đạo

mạo trang nghiêm, vậy mà lại nhận lầm thành Tinh Tú Lão Quái thì

quả là vô lễ thật.

Mọi người ai nấy cười ồ lên. Tiết Mộ Hoa mỉm cười nói:

- Quả đúng thế, việc đó đáng phải đánh đòn. Thế nhưng lại khéo

làm sao, cũng đúng vào dịp hai năm một lần tám anh em chúng tôi tụ

hội. Người lão bộc thấy tình thế gấp gáp, không đợi dặn dò, đốt ngay

lưu tinh hỏa pháo báo tin cho đồng môn lên. Lưu tinh hỏa pháo đó là

do lục sư đệ khéo léo chế tạo, bắn lên trên không rồi có thể chiếu ra

chung quanh mấy dặm, tám anh em đồng môn, mỗi người một kiểu

không giống nhau.

Chuyện này phải nói là vừa may, vừa không may. May là Hàm Cốc

bát hữu trong lúc nguy nan lại tụ lại một chỗ, chung sức kháng địch, thế

nhưng nếu như thế thì Tinh Tú Lão Quái một mẻ vét sạch, quả là cực

kỳ bất hạnh.

Bao Bất Đồng nói:

- Tinh Tú Lão Quái bản lãnh dẫu có lợi hại cũng chắc gì thắng

được cao tăng chùa Thiếu Lâm là Huyền Nạn đại sư? Lại thêm bao

nhiêu binh tôm tướng cá chúng ta đứng bên hò hét trợ uy, liều chết một

trận thì đã biết mèo nào cắn mỉu nào. Việc gì phải ... việc gì phải ...

phải làm thế ...

Y ấp úng mấy tiếng, hai hàm răng đập vào nhau kêu lộp cộp, hàn

độc đang phát tác nói không nổi nữa. Lý Khổi Lỗi lớn tiếng hát:

Tay Kinh Kha bạo Tần kia phải chết,

Gió thổi hắt hiu chừ, người lạnh ngắt.

Tráng sĩ phều phào chẳng ra hơi,

Người run cầm cập răng lách cách.

Đột nhiên một bóng người thấp thoáng phóng tới dùng đầu húc vào

ngực y. Lý Khổi Lỗi "Ối trời" một tiếng, dùng vai đẩy y ra. Người kia

nắm được y rồi liền đấm đá túi bụi, chính là Nhất Trận Phong Phong

Ba Ác. Đặng Bách Xuyên vội kêu:

- Tứ đệ, không được làm càn.

Y đưa tay lôi Phong Ba Ác lại. Ngay lúc đó, một giọng nhỏ vo ve

truyền vào sơn động:

- Hỡi các đồ tử đồ tôn của Tô Tinh Hà, mau mau ra đầu hàng may

ra còn giữ được tính mạng, nếu còn dùng dằng thì đừng trách lão nhân

gia không nghĩ đến nghĩa khí đồng môn.

Khang Quảng Lăng giận dữ đáp:

- Tên này quả là không biết xấu, vẫn còn nói gì đến nghĩa khí

đồng môn.

Phùng A Tam quay sang nói với Tiết Mộ Hoa:

- Ngũ ca, cái hang này cứ xem thớ gỗ và đất cát thì phải kiến tạo

ít ra cũng ba trăm năm, không biết do thợ khéo của phái nào?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Đây là sản nghiệp tổ truyền của gia đình, là chỗ dùng để tị nạn

đời đời truyền xuống, quả ta không biết ai đã dựng nên.

Khang Quảng Lăng nói:

- Giỏi nhỉ, nhà ngươi có cái hang rùa thế này vậy mà trước nay

chưa từng hở môi cho ai biết.

Tiết Mộ Hoa sượng sùng:

- Đại ca rộng lượng cho. Cái hang này nào có phải cái gì đáng

khoe khoang, thành thử không dám đề cập ...

Nói chưa dứt câu bỗng nghe ầm một tiếng thật lớn, tưởng chừng như

có động đất, mọi người trong hang ai cũng thấy dưới chân lắc lư, đứng

không vững. Phùng A Tam thất sắc nói:

- Không xong rồi, Đinh lão tặc dùng thuốc nổ phá hoại, chỉ phút

chốc sẽ đến đây ngay.

Khang Quảng Lăng hầm hầm:

- Thật là hèn hạ vô sỉ không đâu cho hết. Tổ sư gia và sư phụ đều

là những người tinh thông kiến trúc, giỏi cách sắp đặt cơ quan, coi đó là

bản lãnh chân thực của bản môn. Tên Tinh Tú Lão Quái này không phí

thì giờ giải quyết cách sắp xếp, chỉ dùng thuốc nổ phá vỡ, thế thì còn

xưng là đệ tử bản môn sao được?

Bao Bất Đồng khinh khỉnh nói:

- Y đã giết sư phụ, hại sư huynh, không lẽ ngươi vẫn còn coi y là

sư thúc trong bản môn hay sao?

Khang Quảng Lăng đáp:

- Cái đó ...

Vừa lúc đó lại một tiếng ầm thật lớn, trong sơn động bụi bay mù mịt

khiến cho mọi người không ai mở mắt nổi. Trong động bị bịt mất lỗ

thông hơi, dưới sức chấn động không khí giật thật mạnh khiến người

nào cũng ù cả tai.

Huyền Nạn nói:

- Nếu như y dùng thuốc nổ tấn công vào địa động, chi bằng mình

đi ra thì hơn.

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác cả

bốn người cùng hùa theo khen phải. Phạm Bách Linh nghĩ Huyền Nạn

là một cao tăng Thiếu Lâm, nay trốn dưới hầm sâu để tránh địch, quả

thực tổn thương đến uy danh chùa Thiếu Lâm rất lớn, huống chi nay chỉ

còn một mất một còn, không thể nào ẩn dưới này mãi được bèn nói:

- Nếu đã thế thì tất cả bọn mình đi ra một lượt, cùng lão quái sống

mái một phen.

Tiết Mộ Hoa nói:

- Huyền Nạn đại sư cùng lão quái không thù không oán, chẳng

may bị vướng mắc vào vụ này, vậy xin chư tăng chùa Thiếu Lâm tụ

thủ bàng quan.

Huyền Nạn đáp:

- Mọi việc liên quan đến võ lâm Trung Nguyên, phái Thiếu Lâm

đều muốn nhúng tay vào, xin các vị tha lỗi cho. Huống chi Huyền

Thống sư đệ viên tịch, cũng khởi đầu do trúng phải độc thủ của đệ tử

phái Tinh Tú, phái Thiếu Lâm và phái Tinh Tú nào phải là không thù

không oán đâu.

Phùng A Tam nói:

- Đại sư trượng nghĩa tương trợ, sư huynh đệ chúng tôi cực kỳ cảm

kích. Chúng mình theo đường cũ mà ra để cho lão quái kinh hoảng một

phen.

Mọi người đều gật đầu đồng ý. Phùng A Tam lại nói:

- Gia quyến của Tiết ngũ ca và hai vị Bao Phong có thể ở lại nơi

đây, lão quái chưa chắc đã tìm ra được.

Bao Bất Đồng đưa mắt lườm y nói:

- Sao ngươi không ở lại đi có hay hơn không?

Phùng A Tam vội vàng phân trần:

- Tại hạ nào có dám coi thường hai vị, có điều hai người đang bị

trọng thương, nếu phải ra tay e rằng không thuận lợi lắm.

Bao Bất Đồng đáp:

- Càng bị thương nặng ta đánh ra kình lực càng mạnh thêm.

Bọn Phạm Bách Linh ai nấy lắc đầu, thấy người này quả là ngang

bướng. Kế đó Phùng A Tam vận động cơ quan, nhanh nhẹn tiến lên

trước. Chỉ nghe kẹt kẹt mấy tiếng, cửa hang mở được một khe nhỏ,

Phùng A Tam liền ném hỏa pháo ra, ầm ầm ầm ba tiếng, khói trắng

mù trời. Ba viên hỏa pháo phá vỡ thạch bản đậy miệng hang một lỗ

lớn đủ một người chui lọt, Phùng A Tam lại ném ra thêm ba viên hỏa

pháo nữa, sau đó chuồi người phóng qua.

Hai chân Phùng A Tam chưa chạm đất, trong khói trắng mịt mù một

bóng đen lướt ngang qua mình xông vào đám người đang đứng ở bên

ngoài kêu lớn:

- Tên nào là Tinh Tú Lão Quái, họ Phong muốn gặp ngươi.

Người đó chính là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác. Y thấy trước mặt

có một gã mặc áo gai liền quát:

- Nếm của ta một quyền!

Bình một tiếng đã đánh trúng ngay ngực y. Gã đó là đệ tử thứ chín

của phái Tinh Tú, thân hình lảo đảo, quyền thứ hai của Phong Ba Ác

lại trúng ngay vai. Chỉ nghe chát chát bộp bộp liên miên bất tuyệt,

Phong Ba Ác ra tay cực kỳ nhanh nhẹn, dường như quyền nào chưởng

nào cũng trúng đối phương. Có điều sau khi bị thương rồi không còn

lực khí, đánh không ngã được đệ tử phái Tinh Tú. Huyền Nạn, Đặng

Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa tất cả mọi người đều từ

dưới động chui lên.

Một lão già thân hình cao to đứng ngay nơi góc tây nam, đằng trước

sau lưng, bên trái bên phải cao thấp hai hàng không đều đứng lố nhố,

gã đầu sắt dĩ nhiên cũng ở trong số đó. Khang Quảng Lăng kêu lên:

- Đinh lão tặc, sao ngươi chưa chết? Ngươi còn nhớ ta không?

Lão già đó chính là Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu, y chỉ liếc

mắt đã nhận ra đối phương gồm những ai, quạt trong tay phe phẩy mấy

cái, nói:

- Mộ Hoa hiền điệt, nếu như ngươi có thể chữa khỏi được gã sư

Thiếu Lâm mập thì ta tha cho ngươi khỏi chết, nhưng có điều phải bái

ta làm thầy, gia nhập làm môn hạ phái Tinh Tú.

Y chỉ mong Tiết Mộ Hoa chữa khỏi Tuệ Tịnh để y đưa mình lên

đỉnh núi Côn Lôn bắt con băng tàm, xem giọng lưỡi chẳng coi những

người trước mặt vào đâu, tưởng như sinh tử tồn vong của cả bọn đều do

y muốn làm gì thì làm. Tiết Mộ Hoa biết rõ người sư thúc này rất lợi

hại, trong bụng cũng hơi e dè nhưng vẫn nói cứng:

- Đinh lão tặc, trên đời này ta chỉ nghe lời một người, chỉ có lão

nhân gia bảo ta chữa cho ai thì ta chữa cho người đó. Ngươi muốn giết

ta, thật dễ như trở bàn tay. Thế nhưng bảo ta trị bệnh cho người thì

ngươi phải đi cầu vị lão nhân gia đó mới được.

Đinh Xuân Thu lạnh lùng hỏi lại:

- Ngươi chỉ nghe lời Tô Tinh Hà, có phải thế không?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Chỉ có giống cầm thú mới có dạ khi sư diệt tổ.

Lời của ông ta nói ra, Khang Quảng Lăng, Phạm Bách Linh, Lý

Khổi Lỗi cả bọn cùng reo hò tán trợ. Đinh Xuân Thu nói:

- Được rồi, các ngươi đều là những đứa học trò ngoan của Tô Tinh

Hà, thế nhưng Tô Tinh Hà đã từng cho người đến báo cho ta hay, bảo

là đã đuổi cả tám đứa chúng bay ra khỏi môn tường, không coi là môn

hạ nữa. Hay là họ Tô kia không đếm xỉa đến lời đã nói ra, vẫn lén lút

giữ danh phận sư đồ?

Phạm Bách Linh đáp:

- Nhất nhật vi sư, chung thân như phụ. Sư phụ quả đã đuổi bọn

tám người chúng ta ra khỏi môn phái thật, trong bao nhiêu năm nay

bọn ta chưa hề gặp lại được lão nhân gia một lần, có lên núi bái yết lão

nhân gia cũng không tiếp. Thế nhưng cái bụng kính yêu sư phụ của

chúng ta không vì thế mà giảm chút nào. Họ Đinh kia, tám anh em ta

sở dĩ biến thành thứ ma trơi vất vưởng như thế này, không môn không

phái cũng là do ngươi tên lão tặc mà ra.

Đinh Xuân Thu mỉm cười:

- Ngươi nói đúng lắm. Tô Tinh Hà vì sợ ta hạ độc thủ, đem từng

đứa ra giết sạch nên mới đuổi các ngươi ra khỏi môn tường để mong

bảo toàn cái mạng ong kiến của chúng bay. Y không đục tai, cắt lưỡi

các ngươi đủ biết tình cảm sâu xa là dường nào. Ôi, cứ lèo nhèo như

tuồng đàn bà thì làm sao nên chuyện lớn? Ha ha, hay lắm, hay lắm.

Các ngươi nói lại đi, Tô Tinh Hà có còn là sư phụ chúng bay nữa hay

không?

Bọn Khang Quảng Lăng nghe y nói thế đều hiểu rằng nếu như

không phủ nhận danh hiệu "đệ tử của Tô Tinh Hà" thì Đinh Xuân Thu

sẽ ra tay giết họ ngay, thế nhưng ơn thầy sâu nặng, lẽ nào tham sống

sợ chết mà phản bội sư môn, trong tám người trừ Thạch Thanh Lộ đang

bị thương nặng, còn ở trong địa động không ra ngoài, cả bảy người

đồng thanh nói:

- Bọn ta tuy bị sư phụ trục xuất khỏi môn tường nhưng dạnh phận

thầy trò không bao giờ thay đổi.

Lý Khổi Lỗi đột nhiên lớn tiếng hát:

Ta mẹ ruột của ngươi,

Tinh Tú Lão Quái ơi!

Năm xưa ta tư thông,

Với con Hao Thiên Khuyển,

Đẻ ra loài súc sinh.

Đánh gãy cái cẳng chó,

Đồ khốn kiếp hôi tanh.

Y bắt chước giọng một bà già, kế đó gâu gâu gâu sủa lên mấy

tiếng. Khang Quảng Lăng, Bao Bất Đồng cả bọn ai cũng cười sằng sặc.

Đinh Xuân Thu giận không đâu cho hết, đôi mắt lóe ra một tia sáng lạ

kỳ, tay áo trái phất một cái, một đốm lân tinh màu xanh biếc nhanh

hơn cả sao băng bắn vào người Lý Khổi Lỗi. Lý Khổi Lỗi một bên

chân đã gãy, tay chống gậy nên không còn nhanh nhẹn muốn tránh né

cũng không kịp nữa rồi, nghe soẹt một tiếng, áo quần bốc cháy. Y vội

vàng lăn tròn dưới đất nhưng càng lăn thì đốm lửa lân tinh càng bốc

lên. Phạm Bách Linh vội vàng bốc bùn đất rắc vào người y.

Tay áo của Đinh Xuân Thu lại liên tiếp bắn ra thêm năm đốm hỏa

tinh nữa, chia ra bắn vào năm người Khang Quảng Lăng, chỉ trừ Tiết

Mộ Hoa mà thôi. Khang Quảng Lăng song chưởng cùng vung lên, đánh

bạt đốm lân tinh. Huyền Nạn cũng dao động song chưởng, đánh tan hai

đốm lửa khác. Thế nhưng Phạm Bách Linh, Phùng A Tam hai người

vẫn bị trúng lân hỏa, chỉ trong chốc lát ba người bọn Lý Khổi Lỗi bị

đốt cháy kêu ầm cả lên.

Lời ca tụng sư phụ của bọn đệ tử Đinh Xuân Thu liền vang lên:

- Sư phụ chỉ mới thi triển một trò vặt vãnh đã đốt chúng bay như

heo quay, sao chưa mau mau quì xuống đầu hàng.

- Sư phụ có tài thông thiên triệt địa, tiền vô cổ nhân, hậu vô lai

giả, nay dạy cho bọn chó lợn Trung Nguyên biết tay phái Tinh Tú.

- Sư phụ lão nhân gia đánh đâu được đó, công đâu cũng thắng, anh

hùng hảo hán xưa nay nghe thấy đều chạy giạt hết.

Bao Bất Đồng la lớn:

- Rắm thối quá! Làm ta ngứa muốn chết! Đinh lão tặc, ngươi quả

là đồ mặt dày.

Bao Bất Đồng nói chưa xong, hai điểm hỏa tinh đã bắn thẳng vào y.

Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can vội vàng mỗi người tung ra một

chưởng, đánh giạt hai đốm lửa nhưng cả hai cảm thấy ngực như trúng

phải một búa, hự lên một tiếng, lịch bịch lùi lại ba bước. Thì ra Đinh

Xuân Thu đưa nội lực cực kỳ hùng mạnh của ông ta vào trong đốm lửa,

Huyền Nạn nội lực tương đương nên khi đánh bạt hai đốm lửa vẫn

không bị thương, còn Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can thì chịu

không nổi.

Huyền Nạn lạng người đến trước Lý Khổi Lỗi đánh ra một chưởng,

chưởng lực nhẹ nhàng tống ra, phụp một tiếng áo đã nát bấy văng đi

một mảng lớn, nhưng đốm lân tinh đang cháy trên người y cũng bị đánh

tắt ngúm.

Một tên đệ tử phái Tinh Tú kêu lên:

- Con lừa trọc chưởng lực không phải yếu, so ra cũng được một

phần mười của sư phụ ta.

Một tên khác vội vàng cãi lại:

- Xì, chỉ được một phần trăm của sư phụ thôi.

Huyền Nạn nương theo tiếp thêm hai chưởng nữa, đánh tắt hai đốm

lửa lân tinh trên người Phạm Bách Linh và Phùng A Tam. Khi đó Đặng

Bách Xuyên, Công Dã Can, Khang Quảng Lăng cũng đã nhảy tới tấn

công bọn đệ tử phái Tinh Tú. Đinh Xuân Thu vuốt bộ râu dài nói:

- Thiếu Lâm cao tăng quả thực công lực phi phàm, hôm nay lão

phu xin được lãnh giáo.

Nói xong tiến lên, tả chưởng nhẹ nhàng đánh vào Huyền Nạn.

Huyền Nạn đã biết Đinh lão quái toàn thân đầy chất độc, lại giỏi môn

Hóa Công Đại Pháp nên không dám sơ sẩy, lập tức song chưởng múa

tít lên, đánh liên tiếp mười tám chưởng liền. Mười tám chưởng đó liên

hoàn, tả chưởng chưa thu về hữu chưởng đã đánh ra, nhanh nhẹn dị

thường khiến cho Đinh Xuân Thu không có lúc nào ở không mà sử

dụng độc dược được. Môn Khoái Chưởng của phái Thiếu Lâm, quả

nhiên uy lực cực mạnh ép cho Đinh Xuân Thu phải liên tiếp thối lui,

Huyền Nạn đánh ra mười tám chưởng thì Đinh Xuân Thu phải lùi mười

tám bước. Huyền Nạn đánh xong mười tám chưởng, hai chân lại liên

hoàn uyên ương, nhanh như chớp đá liền ba mươi sáu lần, bóng vùn vụt

khiến không ai biết đó là chân phải hay chân trái.

Đinh Xuân Thu triển động thân hình tránh né thật nhanh, ba mươi

sáu cú đá đó đều vuột ra ngoài, nhưng nghe bạch bạch hai tiếng, đầu

vai đã bị trúng hai quyền, thì ra Huyền Nạn đá hai cú sau cùng cũng

giơ tay đấm luôn hai cái. Đinh Xuân Thu tuy tránh được ngọn cước

nhưng không tránh kịp song quyền, thân hình loạng choạng kêu lên:

- Ghê gớm thật!

Huyền Nạn bỗng thấy choáng váng hoa cả mắt, lảo đảo muốn ngã,

biết có sự chẳng lành, quần áo Đinh Xuân Thu có tẩm thuốc độc, vừa

rồi đánh trúng y hai quyền đã bị ám toán, lập tức thở mạnh một cái,

chân khí trong người lưu chuyển, quyền bên trái lại đánh vào Đinh

Xuân Thu.

Đinh Xuân Thu giơ hữu chưởng chặn cú đấm của Huyền Nạn, tiếp

theo chưởng bên trái tống ra. Huyền Nạn sau khi trúng độc cử động

không còn linh hoạt nữa nên không tránh nổi, đành giơ chưởng ra

chống đỡ. Đến nước đó hai cao thủ chỉ còn cách đấu bằng chân lực,

Huyền Nạn trong bụng hoảng thầm: "Ta không thể đấu nội lực với y

được". Thế nhưng nếu quyền không sử dụng nội kình thì chân khí của

đối phương ào tới ắt tạng phủ sẽ nát ngướu, thành thử biết là đi vào

chỗ chết nhưng vẫn phải vận sức lên chống đỡ. Ông vừa vận kình, bỗng

thấy nội lực cuồn cuộn chảy ra không cách gì giữ lại được nữa.

Chưa đầy thời gian uống một chén trà, Đinh Xuân Thu cười ha hả,

hất vai một cái, nghe bịch một tiếng đã xô Huyền Nạn ngã lăn quay,

toàn thân hư thoát không còn hơi sức. Đinh Xuân Thu đánh ngã Huyền

Nạn rồi đưa mắt nhìn quanh, thấy Công Dã Can và Phạm Bách Linh

hai người cũng nằm dưới đất đang run cầm cập, thì ra đã trúng phải hàn

độc chưởng của Du Thản Chi. Ngoài ra bọn Đặng Bách Xuyên, Tiết

Mộ Hoa thì đang đánh với các đệ tử khác, phái Tinh Tú có đến bảy

người hoặc chết, hoặc bị thương.

Đinh Xuân Thu cười một hồi dài, tay áo rộng phất lên, lướt tới sau

lưng Đặng Bách Xuyên cùng y đối một chưởng lại quay về đá một cái

trúng Bao Bất Đồng. Đặng Bách Xuyên hữu chưởng đụng phải Đinh

Xuân Thu, trong ngực cảm thấy trống trải, muốn hít một hơi ngưng thần

thì Đinh Xuân Thu lại đánh ra thêm một chưởng khác. Đặng Bách

Xuyên không còn cách nào hơn, chỉ còn nước xuất chưỡng ra đỡ, lòng

bàn tay thấy hơi lạnh, toàn thân đã mềm xèo không còn lực khí, trước

mắt chỉ thấy mờ mờ một làn sương trắng. Một tên đệ tử phái Tinh Tú

bước tới giơ tay đẩy một cái, Đặng Bách Xuyên liền ngã lăn ra.

Chỉ trong khoảnh khắc các bộ thuộc của nhà Mộ Dung, chư tăng do

Huyền Nạn dẫn theo, bọn Khang Quảng Lăng Hàm Cốc bát hữu đều bị

Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi hai người chia nhau đánh ngã. Du

Thản Chi vồn dĩ nội lực cực kỳ hồn hậu tuy võ nghệ thật tầm thường

nhưng đã được Đinh Xuân Thu chỉ điểm ít ngày, cũng biết được bảy

tám chiêu chưởng pháp, lấy võ công mà luận thì so với những người

học võ bình thường cũng còn kém xa nhưng nhờ phát huy được hàn độc

của con băng tàm tích kết trong người thành ra uy lực phi phàm. Bọn

Công Dã Can xuất chưởng đánh trúng người y, vừa đụng phải đều bị

hàn độc trong người y phản kích bị thương, lại bị y đánh thêm một

chưởng không còn cách gì chống đỡ.

Khi đó chỉ còn một mình Tiết Mộ Hoa chưa bị thương, ông ta xung

kích mấy lần, bọn đệ tử phái Tinh Tú đều chỉ mủm mỉm cười tránh ra,

cũng không trả đòn. Đinh Xuân Thu cười nói:

- Tiết hiền điệt, võ công ngươi so với các sư huynh đệ giỏi hơn

nhiều.

Tiết Mộ Hoa thấy các sư huynh đệ đồng môn từng người ngã xuống,

chỉ còn mình không sao cả, biết là Đinh Xuân Thu thủ hạ lưu tình. Ông

thở dài một tiếng nói:

- Đinh lão tặc, gã sư mập kia ngoại thương dễ khỏi, nội thương khó

lòng, chỉ còn sống được vài ngày, ngươi nghĩ có thể bức bách ta cứu

người ư, thôi đừng mơ tưởng hão.

Đinh Xuân Thu vẫy tay gọi:

- Tiết hiền điệt lại đây!

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Ngươi muốn giết ta cứ việc giết, dù ngươi nói gì chăng nữa, ta

quyết không nghe lời.

Lý Khổi Lỗi lại hát rằng:

Đại nghĩa thay con người Tiết ngũ,

Há sánh cùng Tô Vũ kém chi.

Hai chục năm nơi đất Hồ di,

Vẫn một dạ hướng về đất Hán.

Đinh Xuân Thu mỉm cười, đi đến cách Tiết Mộ Hoa chừng ba bước

thì đứng lại, tả chưởng để nhẹ lên đầu vai y mỉm cười hỏi:

- Tiết hiền điệt, ngươi tập luyện võ công được bao nhiêu năm rồi?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Bốn mươi nhăm năm.

Đinh Xuân Thu nói:

- Bốn mươi nhăm năm, đông qua hè đến không phải dễ. Nghe nói

ngươi dùng y thuật trao đổi võ học với người, học được không ít các

chiêu thức tinh diệu của nhiều môn phái, có đúng vậy không?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Ta học những chiêu thức đó cũng chỉ mong dùng để giết ngươi,

ngờ đâu ... ngờ đâu dù chiêu thức tinh diệu mực nào, gặp phải tà thuật

cũng đành vô dụng ... ôi!

Nói xong lắc đầu thở dài. Đinh Xuân Thu nói:

- Không phải thế. Dù gì chăng nữa, nội lực mới là gốc rễ, chiêu số

chỉ là lá cành. Gốc rễ có vững chắc, lá cành mới tốt tươi, chiêu số

không phải hoàn toàn vô dụng. Ngươi đầu nhập môn hạ ta, ta sẽ truyền

cho ngươi nội lực thiên hạ vô song, từ nay tung hoành Trung Nguyên

thật dễ như lật bàn tay.

Tiết Mộ Hoa giận dữ đáp:

- Ta đã có sư phụ rồi. Muốn Tiết Mộ Hoa này vào làm môn hạ

ngươi, thà ta đập đầu mà chết còn hơn.

Đinh Xuân Thu mỉm cười:

- Nếu muốn đập đầu mà chết cũng cần phải có sức mới được. Nếu

như nội lực của ngươi bị hủy mất rồi, đi một bước cũng đã khó, nói gì

đến chuyện đập đầu mà chết? Bốn mươi nhăm năm khổ luyện, ha ha,

tiếc nhỉ, thật đáng tiếc.

Tiết Mộ Hoa nghe thế mồ hôi trán vã ra, cảm thấy bàn tay y đặt

trên vai mình hơi nóng lên, hiển nhiên y chỉ cần hơi động tâm một chút

là sử dụng ngay Hóa Công Đại Pháp, bốn mươi nhăm năm cần tu khổ

luyện của mình, lập tức đổ ra sông ra biển. Ông nghiến răng đáp:

- Ngươi lòng lang dạ sói dám giết cả sư phụ, tàn hại sư huynh, có

giết thêm tám người chúng ta thì cũng có là gì đâu? Bốn mươi năm khổ

luyện của ta bị hủy đi trong một buổi quả đáng tiếc thật, nhưng đến

tính mệnh còn chẳng giữ được, nói gì khổ công hay không khổ công?

Bao Bất Đồng reo lên:

- Mấy câu đó quả là cứng cỏi. Môn hạ phái Tinh Tú làm gì có ai

anh hùng như thế?

Đinh Xuân Thu nói:

- Tiết hiền điệt, ta tạm thời không giết ngươi, chỉ hỏi ngươi tám

câu: "Ngươi có chịu chữa cho gã sư mập đó không?". Câu thứ nhất

ngươi trả lời không chữa, ta sẽ giết đại sư huynh Khang Quảng Lăng

của ngươi. Câu thứ hai trả lời không chữa, ta sẽ giết nhị sư huynh Phạm

Bách Linh. Đứa sư muội thích trồng hoa của ngươi trốn đâu rồi? Thể

nào ta cũng kiếm ra nó. Câu thứ sáu hỏi ngươi không chữa ta sẽ giết

đứa sư muội xinh đẹp kia. Câu thứ bảy giết đến bát sư đệ Lý Khổi Lỗi.

Đến câu thứ tám hỏi ngươi, ngươi vẫn còn trả lời không chữa thì ngươi

thử đoán sẽ ra sao?

Tiết Mộ Hoa nghe y đưa ra phương pháp thảm khốc đó, mặt tái nhợt

run run đáp:

- Lúc đó ngươi sẽ giết ta thì cũng đâu có gì là lớn chuyện. Như thế

cả tám người cùng chết mà thôi.

Đinh Xuân Thu mỉm cười:

- Ta đâu có giết ngươi làm gì. Nếu câu thứ tám ngươi vẫn trả lời

không chữa, ta sẽ đi giết một người tự xưng là Thông Biện tiên sinh Tô

Tinh Hà.

Tiết Mộ Hoa thất thanh kêu lên:

- Đinh lão tặc, ngươi có giỏi thì đụng tới một sợi lông sư phụ ta đi.

Đinh Xuân Thu mỉm cười nói:

- Có gì mà không dám? Tinh Tú lão tiên xưa nay hành sự độc lai

độc vãng, hôm nay nói mai đã quên. Ta tuy đáp ứng Tô Tinh Hà là nếu

như y từ nay không mở miệng nói thì ta không giết y. Thế nhưng ngươi

làm ta bực mình, học trò nợ thì thầy phải trả, ta muốn đến giết y thì

trên đời này còn ai ngăn ta nổi?

Tiết Mộ Hoa trong bụng rối như mớ bòng bong, biết rằng tên lão tặc

này bức bách mình chữa chạy cho Tuệ Tịnh là có dụng ý cực kỳ âm

độc, nếu ra tay trị bệnh cho gã sư mập thì có khác gì nối giáo cho giặc,

thế nhưng nếu mình nhất định không bằng lòng, tính mệnh bảy người

anh em không bảo toàn được đã đành, ngay cả sư phụ Thông Biện tiên

sinh cũng phải chết dưới tay y. Ông trầm ngâm một hồi nói:

- Được, ta đành chịu khuất phục, có điều ta chữa khỏi cho gã sư

mập rồi, ngươi không được làm khó các vị bằng hữu nơi đây cùng sư

phụ và các sư huynh đệ của ta.

Đinh Xuân Thu mừng lắm, vội đáp:

- Được, được, được! Ta bằng lòng tha cái mạng chó cho chúng nó.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Đại trượng phu hôm nay trúng phải độc thủ của bọn gian tà, chết

cũng đành, ai cần ngươi tha mạng?

Y vốn dĩ tiếng oang oang như chuông nhưng lúc này chân khí hao

tán hết rồi, ngôn ngữ tuy vẫn khẳng khái hiên ngang nhưng giọng thều

thào chẳng ra hơi. Bao Bất Đồng la to:

- Tiết Mộ Hoa, chớ có tin y, chính miệng tên cẩu tặc này vừa mới

nói, y nói mà chẳng giữ lời.

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Đúng đó, ngươi vừa mới bảo "hôm nay nói mai đã quên".

Đinh Xuân Thu đáp:

- Tiết hiền điệt, ta hỏi ngươi câu thứ nhất: "Ngươi chữa hay không

chữa cho gã sư mập?".

Y vừa nói vừa duỗi chân phải ra, gót chân nhắm vào huyệt Thái

Dương của Khang Quảng Lăng, hiển nhiên nếu Tiết Mộ Hoa chỉ nói:

"Không chữa" là y đạp xuống ngay, giết Khang Quảng Lăng ngay lập

tức. Mọi người ai nấy tim đập thình thình, bỗng nghe một người nói lớn:

- Không chữa.

Người la lên câu đó không phải Tiết Mộ Hoa mà là Khang Quảng

Lăng. Đinh Xuân Thu cười khẩy nói:

- Ngươi tưởng ta đạp một cái lấy mạng ngươi sao, đâu có dễ dàng

như thế.

Y quay lại nói với Tiết Mộ Hoa:

- Ngươi có muốn mượn tay ta giết tên đại sư ca này đi chăng?

Tiết Mộ Hoa thở dài:

- Thôi được! Thôi được! Ta bằng lòng chữa cho gã sư mập kia.

Khang Quảng Lăng chửi liền:

- Tiết lão ngũ, sao ngươi không biết nhục. Đinh lão tặc là đại cừu

nhân của sư môn, ngươi lẽ nào tham sống sợ chết, bị y uy hiếp phải

khuất phục?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Y giết anh em ta tám người cũng không có gì đáng kể. Thế

nhưng tên lão tặc này còn định đến gây chuyện với sư phụ nữa, sư ca

mới rồi không nghe y nói hay sao?

Nghĩ đến an nguy của sư phụ, bọn Khang Quảng Lăng không ai dám

nói thêm câu nào. Bao Bất Đồng nói:

- Nhát ...

Y định nói "nhát như cáy" nhưng y vừa mới nói được một chữ, Đặng

Bách Xuyên đã đưa tay bịt mồm y lại. Bao Bất Đồng đối với vị đại ca

này năm phần kính sợ, cố nhịn không chửi tiếp nữa. Tiết Mộ Hoa nói:

- Họ Đinh kia, ta đành phải khuất phục, trị bệnh cho nhà sư mập,

ngươi đối với bạn bè ta phải nể nang một chút.

Đinh Xuân Thu đáp:

- Được rồi, ta sẽ y lời ngươi.

Đinh Xuân Thu lập tức bảo đệ tử khiêng Tuệ Tịnh lại. Tiết Mộ Hoa

hỏi Tuệ Tịnh:

- Ngươi năm chầy tháng rộng tiếp xúc với các vật lợi hại để đến

nỗi hàn độc xâm nhập tạng phủ, ấy là loại gì thế?

Tuệ Tịnh đáp:

- Đó là băng tàm trên đỉnh Côn Lôn.

Tiết Mộ Hoa lắc đầu, không hỏi thêm nữa, trước hết châm cứu cho

y, sau đó lấy ra hai viên thuốc to màu đỏ chót cho y uống. Kế tiếp

người nào cần tiếp cốt thì ông tiếp cốt, người nào cần trị thương thì trị

thương, mãi đến lúc trời đã sáng bạch bấy giờ mới xong. Những người

bị thương chia nhau ra kẻ nằm trên giường, người nghỉ ngơi trên cánh

cửa tháo ra thay phản. Người nhà họ Tiết nấu mì đem ra cho mọi người

ăn.

Đinh Xuân Thu ăn hết hai tô mì rồi, quay sang cười với Tiết Mộ

Hoa nói:

- Cũng may ngươi hiểu thời vụ không bỏ thuốc độc vào trong đồ

ăn.

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Nói đến sử dụng thuốc độc thì trên đời này còn ai hơn được ông?

Ta cũng có bụng ấy nhưng đâu dám đánh trống qua cửa nhà sấm.

Đinh Xuân Thu cười sằng sặc nói:

- Ngươi bảo gia nhân đi mướn cho ta mươi cỗ xe lừa.

Tiết Mộ Hoa hỏi lại:

- Làm gì mà phải cần mười cỗ xe?

Đinh Xuân Thu trừng mắt lên khinh khỉnh nói:

- Chuyện của ta ngươi hỏi làm gì? Tiết Thần Y ở đây chắc quen

biết nhiều, muốn mướn mười cỗ xe đâu phải là chuyện khó?

Tiết Mộ Hoa không biết làm sao hơn, đành phải dặn dò gia nhân ra

ngoài tìm xe. Đến trưa, mười chiếc xe lừa đã thuê đủ, Đinh Xuân Thu

nói:

- Đem giết hết các phu xe đi.

Tiết Mộ Hoa kinh hãi nói:

- Sao thế?

Chỉ thấy các đệ tử phái Tinh Tú vung chưởng lên, bộp bộp mấy

tiếng, mười người xa phu đã chết lăn dưới đất. Tiết Mộ Hoa giận dữ

nói:

- Đinh lão tặc, những người phu xe này có làm gì nên tội đâu?

Ngươi ... ngươi ... cớ gì lại hạ độc thủ?

Đinh Xuân Thu đáp:

- Phái Tinh Tú muốn giết vài người, không lẽ còn phải xem có tội

hay không có tội, giảng đạo lý nữa hay sao? Tất cả các ngươi lên xe

hết cho ta. Không ai được ở lại! Tiết hiền điệt, ngươi có thuốc men,

sách vở gì thì mang theo người, ta đốt nhà ngươi đây.

Tiết Mộ Hoa lại càng kinh hãi, nhưng nghĩ lão quái này không

chuyện ác gì không làm, có nói cũng phí lời, các loại sách thuốc ông

đã đọc thuộc lòng, chẳng cần phải mang, thế nhưng bao nhiêu cao đơn

hoàn tán dày công chế tạo bằng những dược tài cực kỳ khó kiếm, thành

thử vừa dọn thuốc vừa luôn mồm chửi rủa. Ông chưa thu thập xong, các

đệ tử phái Tinh Tú đã châm lửa đốt phía sau nhà.

Bọn Tuệ Kính, Hư Trúc trong phái Thiếu Lâm vốn đã được Huyền

Nạn dặn dò, muốn về chùa báo tin ngờ đâu Đinh Xuân Thu bố trí

nghiêm nhặt nên chạy chưa xa đã bị bắt lại. Bọn Huyền Nạn cả thảy

bảy người, Cô Tô Mộ Dung trang cả thảy bốn người, Hàm Cốc bát hữu

thêm tám người, tổng cộng mười chín người ngoại trừ Tiết Mộ Hoa

không bị tổn thương, ngoài ra nếu không bị Hóa Công Đại Pháp tiêu

hao nội lực thì cũng bị chưởng lực của Đinh Xuân Thu, hoặc phải hàn

độc băng tàm của Du Thản Chi, hoặc bị trúng độc của đệ tử phái Tinh

Tú thành thử không ai cử động được. Ngoài ra còn người nhà của Tiết

Mộ Hoa cũng chia nhau lên mười cỗ xe đó.

Còn đệ tử phái Tinh Tú chia ra kẻ làm xa phu, số còn lại cưỡi ngựa

đi bên cạnh áp tống. Xe bỏ màn xuống rồi còn dùng thừng buộc chặt,

bên trong tối như bưng, không nhìn thấy bên ngoài như thế nào. Huyền

Nạn cả bọn ai ai cũng nổi dạ nghi ngờ: "Tên lão tặc này đưa mình đi

đâu đây?". Mọi người biết rằng nếu như mở miệng dò hỏi thì chỉ thêm

nhục, phái Tinh Tú nhất định sẽ không trả lời nên đành tự nhủ: "Tạm

thời nhẫn nại, đến đâu khắc biết".

Thành bại hơn thua cũng bởi trời,

Cuộc đời nghĩ lại tưởng như chơi.

Trăm sự chẳng qua do mạng số,

Phúc phận cho mình được đấy thôi.

*

* *

Xe đi lộc cộc ngày đêm không nghỉ. Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên,

Khang Quảng Lăng cả bọn đều là những nhân vật có bản lãnh trong võ

lâm, lúc này võ công đều mất hết, trở thành những người tù tùy thuộc vào

tay người khác bảo sao chịu vậy. Mọi người chỉ đoán chừng đoàn xe đang

đi về hướng đông nam.

Cứ như thế đi tám ngày liền, đến ngày thứ chín, mới sáng sớm đã đi

lên một sơn đạo. Đến trưa hôm đó, địa thế càng lúc càng cao, đến sau xe

lớn không thể lên nổi. Bọn đệ tử phái Tinh Tú gọi bọn Huyền Nạn ra

khỏi xe, đi bộ chừng hơn nửa giờ đến một nơi thấy trúc mọc dầy đặc,

cảnh sắc thanh nhã, bên giòng suối là một tòa lương đình dựng toàn bằng

tre lớn, cấu trúc tinh nhã thật là khéo léo, trúc là đình, đình là trúc khiến

thoạt vừa trông không biết đó là rừng trúc hay đình viện. Phùng A Tam

tấm tắc khen ngợi, nhìn ngang nhìn ngửa trong lòng bán tín bán nghi.

Mọi người liền vào trong đình ngồi nghỉ, từ sơn đạo có bốn người rảo

bước đi xuống. Hai người đi trước là đệ tử của Đinh Xuân Thu, chắc là

khi xe vừa dừng bánh đã lên núi thám thính hoặc báo tin. Đi sau là hai

thanh niên ăn mặc theo lối nhà nông, đến trước mặt Đinh Xuân Thu khom

lưng hành lễ, trình lên một phong thư.

Đinh Xuân Thu mở ra xem qua, cười khẩy nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Ngươi vẫn chưa thoái chí đòi quyết một trận

sinh tử, ta sẽ bồi tiếp.

Người thanh niên lấy trong túi ra một cái pháo hiệu, đốt lửa châm,

nghe bùng một tiếng, chiếc pháo đã bay vọt lên không. Những pháo bình

thường nổ một tiếng bay lên rồi sẽ nổ bạch một tiếng vỡ tung ra, còn

chiếc pháo hiệu này lên trên trời nổ bạch bạch bạch liên tiếp ba tiếng.

Phùng A Tam ghé tai Khang Quảng Lăng nói:

- Đại ca, pháo này do bản môn chế tạo.

Không bao lâu từ sơn đạo một đoàn người đi xuống, tổng cộng phải

đến hơn ba chục người, đều mặc theo lối nhà quê, tay cầm binh khí dài.

Đến gần hơn mới thấy đây không phải là binh khí mà là đòn gánh, cứ hai

chiếc đòn gánh lại có mắc một chiếc võng để cho người ngồi. Đinh Xuân

Thu cười nhạt:

- Chủ nhân chiều khách, các ngươi không phải khách sáo, lên võng

đi thôi.

Bọn Huyền Nạn các người liền lên cáng, những thanh niên đó hai

người khiêng một người, bước đi nhanh nhẹn chạy thẳng lên núi. Đinh

Xuân Thu tay áo rộng phất phới, đi trước. Y đi không có vẻ gì gấp gáp

nhưng cứ theo sơn đạo khúc khuỷu mà vùn vụt như cưỡi gió lướt đi, chân

không chạm đất, chỉ một thoáng đã biến mất trong khu rừng trúc.

Bọn Đặng Bách Xuyên bị trúng Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân

Thu đều phẫn nộ cho rằng mình bị yêu pháp làm hại, chưa đánh đã thua

bây giờ thấy khinh công của y cao siêu như thế, bản lãnh đó không thể

đánh lừa được, ai nấy thán phục nghĩ thầm: "Nếu y không sử dụng công

phu yêu quái chăng nữa thì mình cũng chẳng phải là đối thủ". Phong Ba

Ác khen ngợi:

- Lão yêu này khinh công cao siêu quá, quả thật bội phục hết sức.

Y vừa mở miệng tán thưởng, bọn đệ tử phái Tinh Tú lập tức ùa theo

xưng tụng, nói là võ công Đinh Xuân Thu đương thế không ai sánh kịp đã

đành mà các võ học đại sư từ xưa đến nay, dù cho Đại Ma lão tổ ... cũng

chẳng bằng, toàn những lời nịnh hót chưa ai từng nghe bao giờ. Bao Bất

Đồng nói:

- Này các vị lão huynh, công phu của phái Tinh Tú quả thực hơn hẳn

các môn phái khác, quả đúng là "tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả".

Bọn đệ tử ai nấy mừng rơn, một người liền hỏi lại:

- Theo ý của huynh đài, công phu ghê gớm nhất của môn phái chúng

tôi là công phu gì thế?

Bao Bất Đồng đáp:

- Nào phải chỉ một môn, ít ra cũng phải ba môn.

Bọn đệ tử càng thêm phấn khởi, nhao nhao hỏi:

- Ba môn nào?

Bao Bất Đồng nói:

- Môn thứ nhất là Mã Thí Công1. Công phu này luyện không tinh, e

rằng không sống nổi trong quí phái được một ngày một buổi. Môn thứ hai

là Pháp Loa Công2, nếu không thổi phồng tài ba đức hạnh của quí môn

lên rõ to thì chẳng những bị sư phụ ghét bỏ mà ngay cả đồng môn cũng

chèn ép, không còn đường nào mà ngóc đầu lên. Còn môn công phu thứ

ba là Hậu Nhan Công3. Nếu không biết táng tận lương tâm, mặt dày mày

dạn thì làm sao luyện cho thành được Mã Thí và Pháp Loa hai đại kỳ

công?

Y nói ra rồi, tưởng rằng quần đệ tử phái Tinh Tú sẽ nổi giận đùng

đùng, xông lại tẩn cho một trận, nhưng mấy câu đó đã lên đến cổ, không

1 2 3

nói không chịu được, ngờ đâu bọn kia nghe xong, ai nấy lặng lẽ gật gù.

Một người nói:

- Lão huynh quả thực thông minh, biết rất rõ những kỳ công của bản

phái. Có điều ba môn kỳ công Mã Thí, Pháp Loa, Hậu Nhan tu tập cực kỳ

khó khăn. Những người tầm thường bị nhiễm thói của thế tục, luôn luôn

nghĩ đến tốt, xấu giữ trong lòng cái thói hủ lậu phân biệt thiện ác, chia ra

thị phi thì khi tu tập môn Hậu Nhan Công, cố gắng nhiều, thành tựu chẳng

bao nhiêu, lúc nào cũng thắc thỏm, công phu sẽ kém đi một mức.

Bao Bất Đồng ra lời châm chích, nào có ngờ được bọn này lại thản

nhiên như không, chẳng nghi ngờ gì cả, không khỏi kinh ngạc, cười nói:

- Thần công của quí phái thâm áo không đâu sánh kịp, tiểu tử vốn

thầm ngưỡng mộ, mong được đại tiên mở đường khai lối.

Gã kia nghe Bao Bất Đồng gọi mình là "đại tiên", mặt liền câng câng

đắc ý nói:

- Ngươi không phải là người trong bản môn, cái bí áo của thần công

ta không thể nào truyền thụ cho ngươi được. Thế nhưng cái đạo lý thô

thiển mặt ngoài có nói cho ngươi biết cũng không sao. Bí quyết trọng yếu

hơn cả là phải coi sư phụ không khác gì thần minh, dù cho lão nhân gia có

đánh rắm ...

Bao Bất Đồng liền cướp lời:

- Đương nhiên phải khen thơm rồi. Lại phải hít lấy hít để, ca ngợi hết

lời ...

Gã kia chặn lại:

- Lời của ngươi nói chung thì đúng nhưng vào chi tiết cũng có khuyết

điểm, không phải là "hít lấy hít để" mà phải là "hít rõ mạnh, thở thật

êm".

Bao Bất Đồng khen rối rít:

- Đúng quá! Đúng quá! Đại tiên chỉ điểm thật phải, nếu như thở

phào ra thì có phải đã coi rắm của sư phụ ... không ... không thơm lắm

hay sao.

Người kia gật đầu nói:

- Đúng đó, thiên tư của ngươi cực tốt, nếu như đầu nhập bản phái thì

cũng có triển vọng, tiếc rằng lầm đường lạc lối tả đạo bàng môn. Công

phu bản môn biến hóa vô cùng nhưng công quyết cơ bản thì cũng không

phức tạp lắm đâu chỉ cần nhớ kỹ bốn chữ "rũ sạch lương tâm" là làm gì

cũng không sai sẩy nhiều.

Bao Bất Đồng gật gù liên tiếp nói:

- Quả đúng là:

Nghe ngài nói chuyện một đêm,

Còn hơn đọc sách mười năm dùi mài.4

Tại hạ trong lòng từng ngưỡng mộ quí phái từ lâu, tiếc thay không

được đầu nhập làm môn hạ, không biết đại tiên có vui lòng tiến dẫn

chăng?

Gã kia mặt nhơn nhơn, mỉm cười đáp:

- Gia nhập bản môn nào phải chuyện đùa, phải qua bao nhiêu khảo

nghiệm cực kỳ khó khăn năm này tháng nọ, chỉ sợ ngươi không chịu nổi

mà thôi.

Một tên khác liền chặn lại:

- Nơi đây tai mắt lắm người, không nên nói chuyện nhiều. Họ Bao

kia, nếu ngươi quả có lòng muốn xin vào bản môn, đợi khi nào sư phụ ta

trong lòng khoan khoái, ta sẽ nhân đó nói tốt cho ngươi vài câu. Bản phái

thu nhận đồ đệ rất đông, ta xem ngươi căn cốt cũng không đến nỗi tệ, nếu

được sư phụ mở lòng từ bi, nhận ngươi làm học trò, may ra mai sau cũng

nở mày nở mặt.

Bao Bất Đồng mặt nghiêm lại đáp:

- Đa tạ! Đa tạ! Ân đức của đại tiên, Bao mỗ quyết không bao giờ

quên được.

4

Bọn Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can nghe Bao Bất Đồng phỉnh nịnh

bọn đệ tử phái Tinh Tú, trong bụng không khỏi vừa tức cười, vừa lộn ruột

nghĩ thầm: "Trên đời này sao lại có những kẻ hèn mạt vô sỉ đến thế, lấy

trò bốc thơm, bợ đít làm vinh, quả thực chưa từng nghe đến".

Trong khi nói chuyện, đoàn người đã đi vào một sơn cốc, bên trong

thung lũng toàn là cây tùng, gió núi thổi đến tiếng reo dạt dào như sóng

vỗ. Đi thêm chừng một dặm nữa thì đến ba gian nhà gỗ. Trước nhà là một

cây cổ thụ bên dưới hai người ngồi đối diện nhau. Người phía bên trái có

ba người đứng sau lưng. Đinh Xuân Thu đứng xa xa, ngẩng đầu nhìn trời,

thần tình cực kỳ ngạo mạn.

Đoàn người đến gần, Bao Bất Đồng nghe thấy Lý Khổi Lỗi ở cáng

phía sau ồ lên một tiếng, dường như định nói gì nhưng lại cố nén lại. Bao

Bất Đồng quay đầu lại nhìn, thấy mặt y tái nhợt, thần tình cực kỳ hoảng

hốt. Bao Bất Đồng hỏi:

- Ngươi làm sao thế? Trông thấy ma à? Làm gì mà sợ vậy?

Lý Khổi Lỗi không trả lời, làm như không nghe thấy y nói gì. Đến gần

hơn nữa, thấy giữa hai người ngồi là một phiến đá lớn, bên trên có một

bàn cờ, hai người đang đánh. Người ngồi bên phải là một ông già nhỏ bé

gầy gò, còn phía bên trái là một thanh niên công tử. Bao Bất Đồng nhận

ra thanh niên đó chính là Đoàn Dự, trong lòng chán ngắt, nghĩ thầm: "Ta

đối với tiểu tử này cực kỳ vô lễ, hôm nay y thấy mình thân tàn ma dại thế

này, gã thể nào chẳng buông lời nhạo báng".

Chỉ thấy bàn cờ được khắc vào một phiến đá xanh lớn, quân trắng

quân đen đều bóng lộn, hai bên đã để được đến trên trăm quân. Đinh

Xuân Thu chậm rãi đến gần xem hai người, ông già thấp bé cầm một

quân đen để xuống, đột nhiên đôi lông mày nhướng lên, dường như trông

thấy cuộc cờ đi vào chỗ biến hóa kỳ diệu. Đoàn Dự cầm một quân cờ

trắng, trầm ngâm chưa đặt xuống. Bao Bất Đồng kêu lên:

- Này, tiểu tử họ Đoàn kia, ngươi hỏng rồi, cờ vào thế tiến cũng dở ở

không xong chịu thua quách đi thôi.

Ba người đứng sau lưng Đoàn Dự liền quay lại hầm hầm nhìn y, chính

là bọn Chu Đan Thần ba người hộ vệ. Bất thình lình, Khang Quảng Lăng,

Phạm Bách Linh cả bọn Hàm Cốc bát hữu người nào cũng từ trên cáng

gắng gượng nhảy xuống, đi đến cách bàn cờ bằng đá xanh chừng một

trượng, cùng quì cả xuống. Bao Bất Đồng kinh ngạc nói:

- Làm trò quỉ gì đây?

Vừa mới nói ra khỏi miệng lập tức hiểu ngay, ông già mình hạc xác ve

kia chính là Lung Á lão nhân Thông Biện tiên sinh, sư phụ của Hàm Cốc

bát hữu. Thế nhưng ông ta cũng là kẻ tử đối đầu của Tinh Tú Lão Quái

Đinh Xuân Thu, kẻ đại thù trước mặt sao vẫn còn nhàn hạ ngồi đánh cờ?

Đối thủ của ông ta lại chẳng phải là một nhân vật trọng yếu mà chỉ là

một anh đồ gàn không biết võ công?

Khang Quảng Lăng nói:

- Lão nhân gia xem chừng còn khang kiện hơn xưa, bọn hậu bối tám

người chúng tôi mừng không sao kể xiết.

Hàm Cốc bát hữu đã bị Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà đuổi khỏi sư

môn nên không dám gọi ông bằng thầy. Phạm Bách Linh nói:

- Huyền Nạn đại sư của phái Thiếu Lâm đến thăm lão nhân gia đó.

Tô Tinh Hà đứng bật dậy, quay về mọi người vái một cái thập sâu nói:

- Huyền Nạn đại sư giá lâm, lão hủ Tô Tinh Hà không kịp nghinh

tiếp, thật đáng trách lắm.

Ông ta chỉ liếc ngang mọi người một cái rồi lại quay ngay trở lại bàn

cờ. Mọi người đã nghe Tiết Mộ Hoa kể rõ nguyên nhân tại sao sư phụ

ông ta bị ép phải giả như câm như điếc, lúc này ông ngang nhiên mở

miệng nói năng, xem ra đã quyết cùng Đinh Xuân Thu một mất một còn.

Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa cả bọn không thể không liếc qua nhìn

Đinh Xuân Thu một cái, trong lòng vừa phấn khởi, vừa âu lo.

Huyền Nạn nói:

- Không dám! Không dám!

Ông thấy Tô Tinh Hà coi bàn cờ trọng như thế nghĩ thầm: "Người này

tạp vụ quá nhiều, thư họa cầm kỳ, không môn gì không tinh thông, thảo

nào võ công không bằng sư đệ".

Trong khi không ai nói một tiếng nào, bỗng dưng Đoàn Dự cất tiếng:

- Được rồi, đi vào đây.

Chàng vừa nói vừa đặt một quân cờ trắng xuống bàn cờ. Tô Tinh Hà

mặt lộ vẻ vui mừng, gật đầu, dường như đã hiểu tay đặt một quân cờ đen

khác. Đoàn Dự đã nghĩ xong được mươi nước trước, liền hạ thêm một

quân trắng khác, Tô Tinh Hà lại để một quân cờ đen.

Hai người đặt được hơn mươi quân rồi, Đoàn Dự thở dài một tiếng, lắc

đầu nói:

- Lão tiên sinh bày bàn cờ Trân Lung này quả là thâm áo xảo diệu,

vãn sinh không phá giải nổi.

Xem ra Tô Tinh Hà đã thắng, tuy nhiên mặt ông ta lại lộ vẻ thất vọng

nói:

- Kỳ tứ của công tử quả là tinh mật, mười nước vừa đi thật cao,

nhưng chưa nghĩ được sâu thêm một chút, thật là đáng tiếc! Đáng tiếc

thay! Ôi, thật đáng tiếc thay, đáng tiếc lắm thay!

Ông ta liên tiếp chép miệng, miệng nói bốn lần "đáng tiếc" quả thực

biết bao ngậm ngùi. Đoàn Dự nhặt mười quân cờ trắng mình vừa đi lên,

bỏ trở lại vào hộp, Tô Tinh Hà cũng lấy mười viên cờ đen của mình mới

bỏ xuống, bàn cờ trở lại trận thế như lúc đầu.

Đoàn Dự lùi lại đứng qua một bên, nhìn bàn cờ ngẩn ngơ suy nghĩ:

"Thế cờ Trân Lung này chính là bàn cờ hôm trước ta đã thấy trong thạch

động núi Vô Lượng. Vị Thông Biện tiên sinh này và thần tiên tỉ tỉ trong

động ắt có uyên nguyên, đợi khi nào thuận tiện ta sẽ len lén hỏi ông ta

nhưng không thể để cho người ngoài hay biết. Nếu không mọi người sẽ

tìm đến để nhìn thần tiên tỉ tỉ, chẳng phải khinh mạn nàng lắm hay sao?".

Người thứ hai trong Hàm Cốc bát hữu là Phạm Bách Linh cũng là một

người mê đánh cờ, từ xa đứng nhìn kỳ cục, biết rằng không phải sư phụ

cùng thanh niên kia đánh cờ mà là sư phụ bố trí bàn cờ Trân Lung, còn

thanh niên kia thử vào phá giải nhưng giải không được. Y quì dưới đất

nên nhìn không rõ, đầu gối lập tức nhấc lên, vươn dài cổ định nhìn cho rõ.

Tô Tinh Hà nói:

- Tất cả các ngươi mau đứng dậy! Bách Linh, thế cờ Trân Lung này

có ảnh hưởng rất lớn, ngươi lại đây xem thử, nếu như phá giải được thì

thật hay không đâu cho hết.

Phạm Bách Linh mừng rỡ vội đáp:

- Vâng!

Y liền đứng lên, đi đến bên cạnh bàn cờ, ngưng thần xem xét. Đặng

Bách Xuyên hỏi nhỏ:

- Nhị đệ, sao lại gọi là Trân Lung?

Công Dã Can cũng thì thầm trả lời:

- Trân Lung tức là nạn đề của môn cờ vây. Đó là cờ thế do người ta

cố ý bày chứ không phải do hai người đánh cờ mà thành, do đó hoặc sinh,

hoặc kiếp nước nào cũng thật khó mà đoán được.

Những thế Trân Lung tầm thường, ít thì mươi quân, nhiều có khi lên

đến bốn năm chục quân, thế nhưng bàn cờ này có đến hơn hai trăm, gần

như kín cả bàn cờ rồi. Công Dã Can cũng không hiểu biết bao nhiêu, xem

một hồi chẳng hiểu gì cả nên không coi nữa.

Phạm Bách Linh chuyên tâm nghiên cứu cờ vây mấy chục năm qua,

quả đã là một cao thủ về môn này, thấy trên bàn cờ trong kiếp có kiếp,

lại có cộng hoạt, lại thêm trường sinh, hoặc phản phác, hoặc thu khí, tụm

năm tụm ba mỗi chỗ một nhóm thật là phức tạp. Y cảm thấy tinh thần

phấn khởi, xem thêm một lúc, tự nhiên cảm thấy đầu óc quay cuồng, chỉ

mới suy nghĩ về quân trắng một góc bên phải thắng bại ra sao, đã thấy

khí huyết trong ngực nhộn nhạo.

Y cố gắng định thần, tính lại lần thứ hai mới thấy rằng lúc trước vẫn

tưởng bên trắng ở nơi đó đã hỏng, bây giờ mới hay cũng vẫn còn đường

sống, thế nhưng muốn giết nhóm quân đen ở bên cạnh thì thể nào cũng

dứt dây động rừng, bèn tính toán thêm nữa, đột nhiên mắt tối sầm, cổ

họng mằn mặn, ọc ra một ngụm máu tươi.

Tô Tinh Hà lãnh đạm nhìn y nói:

- Thế cờ này rất ư là khó, ngươi thiên tư có hạn, tuy kỳ lực chẳng dở

nhưng xem chừng giải không nổi đâu, huống chi có thêm tên ác tặc Đinh

Xuân Thu đứng bên cạnh thi triển tà thuật, làm điên đảo hồn vía, quả

thực hung hiểm, ngươi có còn muốn giải nữa hay thôi?

Phạm Bách Linh đáp:

- Sinh tử hữu mệnh, đệ ... tại hạ ... tại hạ ... quyết ý tận tâm tận lực.

Tô Tinh Hà gật đầu nói:

- Vậy ngươi cứ thư thả mà suy nghĩ.

Phạm Bách Linh chăm chú vào cuộc cờ, thân hình lảo đảo, lại phun ra

thêm một ngụm máu nữa. Đinh Xuân Thu cười gằn nói:

- Chỉ bỏ mạng toi, sao việc gì phải khổ sở thế? Lão tặc đó bố trí cơ

quan, cốt là để hành hạ, giết người, Phạm Bách Linh, ngươi đúng là chui

đầu vào rọ.

Tô Tinh Hà đưa mắt hầm hầm nhìn y, hỏi:

- Ngươi gọi sư phụ là gì thế?

Đinh Xuân Thu đáp:

- Y là lão tặc nên ta gọi là lão tặc.

Tô Tinh Hà nói:

- Lung Á lão nhân hôm nay không còn câm điếc, chắc ngươi đã biết

lý do tại sao rồi?

Đinh Xuân Thu đáp:

- Hay lắm! Ngươi tự ý phá lời thề, ấy là tự mình đi tìm cái chết, đừng

trách ta nhé.

Tô Tinh Hà tiện tay nhắc một phiến đá ở bên cạnh, đặt xuống bên

cạnh Huyền Nạn nói:

- Mời đại sư ngồi.

Huyền Nạn thấy tảng đá đó không thể nào dưới hai trăm cân, một ông

lão gầy gò nhỏ thó như Tô Tinh Hà, cả người không đến tám chục cân,

vậy mà làm như trò trẻ, không phí một chút sức lực đã nhắc được cục đá

lên, công lực thực là ghê gớm. Ông nghĩ chính mình khi võ công chưa

mất, muốn nhắc một tảng đá như thế thật không khó khăn gì, nhưng làm

một cách nhẹ nhàng như thế cũng chưa chắc được, bèn chắp tay nói:

- Đa tạ!

Sau đó ngồi xuống. Tô Tinh Hà lại tiếp:

- Thế cờ Trân Lung này là do tiên sư tạo thành. Năm xưa tiên sư

phải mất ba năm tâm huyết mới sắp đặt xong, chỉ mong trên đời có người

hiểu lòng mình mà phá giải. Tại hạ trong ba mươi năm qua khổ công

nghiên cứu, vậy mà vẫn chưa giải được.

Ông ta nói đến đây, ông đưa mắt quét qua cả bọn Huyền Nạn, Đoàn

Dự, Phạm Bách Linh rồi tiếp:

- Huyền Nạn đại sư tinh thông thiền lý, hiểu được yếu chỉ Thiền tông

là ở chỗ đốn ngộ. Khổ công năm này tháng khác, chưa chắc đã bằng được

người đầy đủ căn cốt, huệ tâm vừa thấy đã thông hiểu ngay. Đánh cờ

cũng vậy thôi, đứa trẻ tám chín tuổi có tài trí đầy đủ, đánh cờ vẫn có thể

thắng được hạng nhất lưu cao thủ. Mặc dầu tại hạ nghiên cứu mãi không

ra, nhưng kẻ tài giỏi trong thiên hạ rất nhiều, không phải là không thể

giải được.

Tiên sư năm xưa để lại thế cờ này, nếu như có người hoàn thành được

tâm nguyện của lão nhân gia thì tiên sư tuy không còn tại nhân gian, dưới

cửu tuyền nếu biết được cũng thật là an ủi.

Huyền Nạn nghĩ thầm: "Sư phụ đồ đệ của vị Thông Biện tiên sinh này

cùng một nguồn gốc, những trò chơi cầm kỳ thi họa đều lôi kéo con người

đi vào ma chướng, đem hết cả cái thông minh tài trí một đời tiêu vào cái

việc đâu đâu khiến cho Đinh Xuân Thu ở trong môn phái hoành hành

không còn úy kỵ gì nữa, không ai chế ngự nổi y, cũng thật đáng buồn".

Lại nghe Tô Tinh Hà tiếp tục:

- Gã sư đệ của ta ...

Ông vừa nói vừa chỉ vào Đinh Xuân Thu:

- ... năm xưa phản bội sư môn, khiến cho tiên sư ẩm hận tạ thế, lại

đánh ta không còn đường nào chống đỡ. Tại hạ vốn dĩ đã mong đem cái

chết để đền ơn thầy, nhưng nghĩ lại cái tâm nguyện của sư phụ chưa hoàn

tất, nếu chưa đi tìm người phá giải thì ở dưới suối vàng còn mặt mũi nào

mà nhìn sư phụ, nên đành cố chịu kiếp sống thừa cho đến ngày nay.

Trong bao nhiêu năm qua, tại hạ tuân thủ ước định với sư đệ, không

nói một lời, tự cho mình danh xưng Lung Á lão nhân, ngay cả môn hạ đệ

tử mới thu, cũng ép phải thành người câm điếc. Than ôi, ba mươi năm qua

chẳng thành tựu được chuyện gì, thế cờ này đến nay vẫn chưa ai phá giải

được. Vị Đoàn công tử đây tuy anh tuấn tiêu sái ...

Bao Bất Đồng lại chen vào:

- Vị Đoàn công tử đây chắc gì đã anh tuấn, còn tiêu sái thì nhất định

chẳng có chút nào, huống chi bề ngoài anh tuấn tiêu sái với đánh cờ có gì

liên quan đâu, không thông ơi là không thông!

Tô Tinh Hà đáp:

- Có liên hệ lắm chứ! Thật nhiều là khác!

Bao Bất Đồng đáp:

- Vẻ người lão tiên sinh, ha ha, có thấy chút nào anh tuấn tiêu sái

đâu!

Tô Tinh Hà quay sang chăm chăm nhìn y một hồi, miệng hơi mỉm

cười. Bao Bất Đồng nói:

- Chắc tiền bối định nói Bao Bất Đồng so với lão tiên sinh hình dung

cổ quái xấu xí ...

Tô Tinh Hà không nhìn nhõi gì đến y nữa, tiếp tục:

- Đoàn công tử đi mười bước đầu quả thực cực kỳ tinh diệu khiến cho

lão phu thật là kỳ vọng, có ngờ đâu lỡ mất một nước nên mấy nước sau

đành chịu thua.

Đoàn Dự vẻ mặt sượng sùng nói:

- Tại hạ tư chất ngu độn làm phụ lòng nhã ái của lão trượng, thật

đáng hổ thẹn ...

Lời nói chưa dứt, bỗng nghe Phạm Bách Linh kêu to một tiếng, máu từ

miệng tuôn ra ồng ộc, ngã lật về sau. Tô Tinh Hà hơi nhắc tay trái lên,

soẹt soẹt soẹt, ba quân cờ ném ra đánh trúng ba huyệt đạo trên ngực y

lúc đó mới ngưng thổ huyết.

Mọi người còn đang kinh ngạc bỗng nghe cạch một tiếng, từ trên

không một vật gì trăng trắng bay xuống, trúng ngay bàn cờ. Tô Tinh Hà

nhìn lại, hóa ra một mẩu gỗ tùng còn tươi ai đó mới móc ra, khéo làm sao

trúng ngay khứ vị ở điểm thất cửu, chính là một nước phá giải thế cờ Trân

Lung. Ông ngửng đầu lên thấy trên cây tùng phía bên trái cách chừng

năm sáu trượng, thấp thoáng một tà trường bào màu vàng nhạt, hiển

nhiên có người ẩn nơi đó.

Tô Tinh Hà vừa kinh ngạc vừa vui mừng nói:

- Lại có thêm một vị cao nhân nào giá lâm, lão hủ thật vui mừng

khôn xiết.

Ông đang định đi một quân cờ đen, đột nhiên bên tai một tiếng gió

nhẹ vụt qua, một vật gì đen sì từ sau lưng bay đến, rơi ngay vào khứ vị ở

điểm bát bát, đúng ngay vào nơi Tô Tinh Hà vừa định hạ xuống.

Mọi người ồ lên một tiếng, quay đầu lại nhưng không thấy bóng dáng

ai. Những cây tùng ở phía bên phải không cây nào cao to, nếu trên cây có

người ngồi đó thì thấy ngay, không biết kẻ kia ẩn náu nơi nào. Tô Tinh

Hà nhìn vật đen sì kia chính là một miếng vỏ cây tùng nho nhỏ, điểm rơi

xuống thật chính xác, trong bụng cũng hơi kinh hãi. Quân đen kia vừa hạ

xuống, từ cây tùng bên trái lại đi một mẩu gỗ tùng thay quân trắng vào

khứ vị ngũ lục.

Vèo một tiếng, một vật đen đen bắn thẳng lên trời, rơi thẳng xuống,

không nghiêng không lệch đúng ngay khứ vị tứ ngũ. Quân cờ đen đó khi

lên thì quay vòng vòng như trôn ốc, phát xuất từ đâu thật khó mà nhìn ra

được, ngoằn ngoèo một hồi vậy mà rơi xuống chính xác như thế, công

phu ném ám khí đó đủ đã kinh người. Người đứng chung quanh ai nấy bội

phục, cùng suýt xoa reo hò.

Tiếng khen chưa dứt bỗng nghe một giọng vang vang từ trên cành cây

truyền xuống:

- Mộ Dung công tử đến phá giải thế Trân Lung, tiểu tăng thay người

đi giùm hai nước xin đừng trách tội mạo muội.

Cành lá hơi rung động, nghe tiếng gió thoảng qua, bên cạnh bàn cờ đã

xuất hiện thêm một nhà sư nữa. Hòa thượng đó mặc tăng bào màu xám

tro, thần thái sáng láng, bảo tướng trang nghiêm, trên mặt ẩn một nụ

cười.

Đoàn Dự giật mình kinh hãi nghĩ thầm: "Tên ma đầu Cưu Ma Trí lại

đến rồi". Chàng lại bụng bảo dạ: "Không lẽ quân cờ trắng kia là do Mộ

Dung công tử đi hay sao? Vị Mộ Dung công tử này rồi đến hôm nay ta

cũng sẽ gặp".

Chỉ thấy Cưu Ma Trí chắp hai tay, quay sang Tô Tinh Hà, Đinh Xuân

Thu và Huyền Nạn hành lễ nói:

- Tiểu tăng trên đường nhận được Kỳ Hội Thiếp của Thông Biện

tiên sinh, không tự lượng sức mình nên vội tới gặp mặt thiên hạ cao nhân.

Y lại tiếp:

- Mộ Dung công tử xin cũng hiện thân đi thôi.

Chỉ nghe một tiếng cười trong trẻo, từ sau một cây tùng hai người bước

ra. Đoàn Dự chỉ thấy mắt tối sầm, tai ù đi, miệng đắng ngắt, người nóng

bừng. Người đó uyển chuyển chậm rãi bước tới, chính là giai nhân mà

chàng đêm mong ngày nhớ, không lúc nào quên Vương Ngữ Yên.

Nàng mặt đầy vẻ say mê lưu luyến, ngẩn ngơ nhìn thanh niên công tử

đi bên cạnh. Đoàn Dự theo ánh mắt nàng nhìn theo, thấy người đó chừng

hăm bảy, hăm tám, mặc áo lụa mỏng màu vàng nhạt, trường kiếm đeo

ngang hông, diện mục tuấn tú, đi đứng nhẹ nhàng đầy vẻ tiêu sái nhàn

nhã.

Đoàn Dự vừa trông thấy y lập tức nửa người chết cứng, rưng rưng

dường như muốn rơi nước mắt, nghĩ thầm: "Người ta vẫn thường bảo Mộ

Dung công tử là rồng phượng trong loài người, quả nhiên không phải nói

ngoa. Vương Ngữ Yên đối với y ái mộ như thế cũng chẳng trách nàng

được".

Chàng chỉ biết tự oán mình, than thân trách phận, chẳng muốn ngẩng

lên nhìn Vương Ngữ Yên nhưng rồi không cưỡng nổi cũng len lén liếc

nàng một cái. Chỉ thấy người đẹp mặt mày rạng rỡ, tưởng như toàn thân

chỗ nào cũng đầy hỉ khí, từ khi biết nhau đến nay, chưa từng thấy nàng

vui vẻ đến thế bao giờ.

Hai người đến gần hơn nhưng Vương Ngữ Yên gặp Đoàn Dự mà

dường như thị nhi bất kiến5 cũng chẳng gọi lấy một câu. Đoàn Dự tự nhủ:

"Trong lòng nàng trước nay có bao giờ để ý đến ta đâu, khi ở bên cạnh

mình cũng chĩ nghĩ tới biểu ca mà thôi".

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác tiến ra

nghinh tiếp. Công Dã Can hướng về Mộ Dung Phục hạ giọng bẩm báo lai

lịch Tô Tinh Hà, Đinh Xuân Thu, Huyền Nạn mọi người. Bao Bất Đồng

nói:

- Gã họ Đoàn kia là một tên đồ gàn, không biết võ công, mới rồi đã

đánh cờ thua một trận rồi.

Mộ Dung Phục liền cùng mọi người hành lễ tương kiến, ngôn ngữ

khiêm hòa ra vẻ muốn làm quen. Cô Tô Mộ Dung danh chấn thiên hạ, có

ai ngờ đâu lại là một thanh niên công tử hình dáng tuấn nhã, điệu bộ

thanh quí, nên người nào cũng nói vài lời ngưỡng mộ, ngay cả Đinh Xuân

Thu cũng khách sáo đôi câu.

Người sau cùng Mộ Dung Phục chào là Đoàn Dự:

- Đoàn huynh khỏe chứ?

Đoàn Dự thần tình ủ rũ, lắc đầu:

- Các hạ khỏe chứ ta ... ta ... chẳng khỏe chút nào.

Vương Ngữ Yên ồ một tiếng nói:

- Đoàn công tử hóa ra cũng ở nơi đây.

Đoàn Dự ấp úng:

- Chính ... chính ... tôi đây.

Mộ Dung Phục trừng mắt nhìn chàng mấy bận, không thèm nói đến

nữa, đi đến bên cạnh bàn cờ cầm một quân cờ trắng đặt xuống. Cưu Ma

Trí mỉm cười nói:

5

- Mộ Dung công tử võ công cao cường, nhưng môn cờ vây e rằng

cũng chỉ bình thường.

Nói xong cũng đặt một quân cờ đen. Mộ Dung Phục nói:

- Chưa chắc thua đại sư đâu.

Nói xong cũng hạ một quân cờ đen, Cưu Ma Trí cũng theo đó mà đi

thêm một nước. Mộ Dung Phục đã xem bàn cờ này rất lâu, tự tin rằng

mình đã tìm được giải pháp, ngờ đâu nước cờ của Cưu Ma Trí lại hoàn

toàn ngoài dự tính của y, bao nhiêu những tính toán trong đầu trôi theo

giòng nước, lại phải tính lại từ đầu, một lúc lâu sau mới đi thêm được một

nước.

Cưu Ma Trí suy nghĩ cực nhanh, đặt liền một quân nữa. Hai người một

chậm một nhanh, đi đến hơn hai chục quân, Cưu Ma Trí đột nhiên cười ha

hả nói:

- Mộ Dung công tử, chúng mình kẻ nọ bó chân bó cẳng người kia.

Mộ Dung Phục giận dữ đáp:

- Ngươi đặt cờ loạn xạ, bây giờ có giỏi thì phá giải đi.

Cưu Ma Trí cười đáp:

- Thế cờ này vốn dĩ trên đời không ai giải được, chẳng qua chỉ bày ra

để trêu ngươi. Tiểu tăng biết thân biết phận nên chẳng muốn hao tâm

huyết suy nghĩ những chuyện không đâu. Mộ Dung công tử, đến ta ở một

góc trời kia ngươi còn chưa đụng đến được, vậy mà dám mơ chuyện đuổi

hươu ở Trung Nguyên sao?

Mộ Dung Phục giật mình, trong một thoáng trăm ngàn mối vấn vương,

trăn qua trở lại chĩ nghĩ đến câu Cưu Ma Trí vừa nói: "Đến ta ở một góc

trời kia ngươi còn chưa đụng đến được, vậy mà dám mơ chuyện đuổi

hươu ở Trung Nguyên sao? ".

Trước mắt y chỉ thấy mờ dần, quân trắng quân đen trên bàn cờ nay

biến thành quan quân sĩ tốt, tây một thế trận, ta vây ngươi, ngươi vây ta,

hai bên lẫn lộn chém giết nhau. Mộ Dung Phục trừng trừng nhìn vào, bên

mình cờ trắng giáp trắng bị quân cờ đen, giáp đen vây chặt, tả xông hữu

đột vẫn không sao ra khỏi trùng vi, trong bụng càng lúc càng thêm bồn

chồn: "Họ Mộ Dung ta thiên mệnh đã hết rồi, bao nhiêu tâm cơ nay đành

uổng phí. Ta một đời tận tâm tận lực, nhưng rồi cũng chỉ là một giấc

mộng ảo mà thôi! Thời là thế, mệnh là thế, còn nói năng gì nữa?". Y đột

nhiên hét lên một tiếng, rút phắt trường kiếm đưa lên cổ cứa ngang.

Trong khi Mộ Dung Phục thần sắc bất định, đứng ngơ ngẩn không nói

năng, Vương Ngữ Yên, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can cả bọn chăm

chăm nhìn y. Đến khi Mộ Dung Phục đột nhiên rút kiếm tự vẫn, không ai

có thể ngờ tới, cả bọn liền xông lên giải cứu nhưng công lực hoàn toàn

mất hết rồi, thành ra vẫn chậm một bước. Đoàn Dự vung tay điểm ra kêu

lên:

- Không được làm thế!

Chỉ nghe soẹt một tiếng, trường kiếm trong tay Mộ Dung Phục giật

bắn lên, nghe keng một tiếng đã rơi xuống đất. Cưu Ma Trí cười nói:

- Đoàn công tử, chiêu Lục Mạch Thần Kiếm quả hay thật.

Mộ Dung Phục trường kiếm rời khỏi tay còn đang kinh hãi, từ trong

mơ mơ màng màng tỉnh lại. Vương Ngữ Yên cầm tay y, liên tiếp vừa lắc

vừa kêu:

- Biểu ca, không giải được thế cờ thì có đáng gì đâu? Sao lại nỡ nào

tự tận?

Nàng nói rồi nước mắt chảy dàn dụa trên má. Mộ Dung Phục bàng

hoàng kêu lên:

- Ta sao thế?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Cũng may Đoàn công tử đánh rơi thanh trường kiếm trong tay biểu

ca, nếu không ... nếu không ...

Công Dã Can khuyên nhủ:

- Công tử, bàn cờ này làm mê hoặc lòng người, xem ra bên trong có

cả huyễn thuật, công tử đừng hao phí tâm tư thêm nữa làm gì.

Mộ Dung Phục quay lại nhìn Đoàn Dự nói:

- Kiếm chiêu mới rồi của các hạ có phải thực là Lục Mạch Thần

Kiếm chăng? Tiếc thay tại hạ không được xem, các hạ có thể thử thêm

lần nữa để cho bỉ nhân được dịp mở mắt.

Đoàn Dự quay sang nhìn Cưu Ma Trí, e ngại y thấy mình sử dụng Lục

Mạch Thần Kiếm rồi sẽ lại bắt mình lần nữa. Lộ kiếm pháp đó khi thì

linh, khi thì không, nếu như tên ác hòa thượng này ra tay, thực khó mà

chống trả, trong bụng sợ hãi, tránh ra ba bước cho cách xa Cưu Ma Trí, có

bọn Chu Đan Thần ba người xen vào giữa, lúc đó mới đáp:

- Ta ... ta trong cơn gấp gáp, chó ngáp phải ruồi, muốn sử thêm một

chiêu nữa quả thật khó khăn. Có thực ngươi không nhìn thấy hay chăng?

Mộ Dung Phục vẻ mặt ngượng ngập nói:

- Tại hạ nhất thời tâm thần mê loạn chẳng khác gì ma nhập.

Bao Bất Đồng lớn tiếng kêu lên:

- Đúng đó, hẳn là Tinh Tú Lão Quái đứng bên cạnh thi triển tà pháp,

công tử phải hết sức cẩn thận.

Mộ Dung Phục lườm Đinh Xuân Thu, nói với Đoàn Dự:

- Tại hạ chẳng may trúng phải tà thuật, may được các hạ cứu viện,

trong lòng thật là cảm kích. Đoàn huynh biết được tuyệt kỹ Lục Mạch

Thần Kiếm, có phải là người trong Đoàn gia Đại Lý hay không?

Đột nhiên từ đằng xa một giọng nói văng vẳng truyền đến:

- Có một tên họ Đoàn Đại Lý ở đó hay sao? Có phải Đoàn Chính

Thuần không?

Chính là thanh âm của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Bọn

Chu Đan Thần lập tức biến sắc. Lại nghe một giọng oang oang sắc cạnh

như kim loại chạm nhau:

- Lão đại của anh em ta mới đích thực là họ Đoàn Đại Lý, còn ngoài

ra đều là đồ giả.

Đoàn Dự cười thầm nghĩ bụng: "Tên học trò của ta cũng đến nữa

đây". Tiếng kêu của Nam Hải Ngạc Thần chưa dứt, từ dưới núi chạy lên

một người, thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chính là Vân Trung Hạc, miệng

kêu:

- Thiên hạ Tứ Đại Ác Nhân đúng theo ước hẹn cuộc cờ đến bái

phỏng Thông Biện tiên sinh.

Tô Tinh Hà đáp:

- Hết sức hoan nghênh.

Bốn chữ đó vừa ra khỏi miệng, Vân Trung Hạc đã phiêu phiêu đi đến

trước mặt mọi người. Một lát sau, Đoàn Diên Khánh, Diệp Nhị Nương,

Nam Hải Ngạc Thần ba người cũng sánh vai tới nơi. Nam Hải Ngạc Thần

lớn tiếng nói:

- Lão đại chúng ta xem thiếp mời, cực kỳ hoan hỉ, mọi chuyện khác

gác sang một bên đến đây đánh cờ. Lão đại ta võ công thiên hạ vô địch,

so với Nhạc lão nhị này còn ghê gớm hơn. Kẻ nào không phục cứ lên

đánh thử với y ba ván. Các ngươi muốn một chọi một cũng tốt, mà tất cả

xông lên cũng được. Sao không thấy binh khí đâu cả là sao?

Diệp Nhị Nương vội chặn lại:

- Lão tam chớ có nói năng lếu láo. Đánh cờ nào phải là đánh nhau,

có cần gì binh khí?

Nam Hải Ngạc Thần đáp:

- Có mụ nói lếu láo thì có. Không đánh nhau thì lão đại lật đật đến

đây làm gì?

Đoàn Diên Khánh mắt đăm đăm nhìn bàn cờ, ngưng thần suy nghĩ,

qua một hồi thật lâu, thiết trượng bên trái điểm vào trong hộp quân, đầu

trượng dường như có sức hút, dính chặt một quân cờ trắng, đặt lên trên

bàn cờ. Huyền Nạn khen ngợi:

- Họ Đoàn Đại Lý võ công độc bộ trời nam, quả là không phải chỉ có

hư danh.

Đoàn Dự từng chứng kiến Đoàn Diên Khánh đánh cờ với Hoàng Mi

tăng, biết ông ta không những nội lực thâm hậu mà kỳ lực cũng thật cao,

có thể phá giải thế cờ Trân Lung không chừng. Chu Đan Thần ghé tai

chàng nói nhỏ:

- Công tử, mình đi thôi! Đừng để lỡ cơ hội.

Thế nhưng Đoàn Dự một mặt muốn xem Đoàn Diên Khánh làm thế

nào phá giải ván cờ này, lại thêm dễ dầu gì gặp được Vương Ngữ Yên,

nên dù trời sập chăng nữa cũng chưa chắc khiến cho chàng bỏ nàng mà đi

khỏi, thành thử chỉ ậm ừ mấy tiếng nhưng chân lại nhích dần về chỗ bàn

cờ.

Bàn cờ này thiên biến vạn hóa, bao nhiêu nước Tô Tinh Hà đều đã

thuộc nằm lòng, lập tức đặt ngay một quân đen xuống. Đoàn Diên Khánh

suy nghĩ thêm một lát, lại đặt một quân. Tô Tinh Hà nói:

- Các hạ đi nước này quả là cao minh, để xem có thể phá được cửa

quan tìm ra một lối thoát không nào.

Ông ta đặt một quân đen, chặn ngay đường lại, Đoàn Diên Khánh lại

đi một quân nữa. Hư Trúc bỗng nói:

- Nước cờ đó xem ra không ổn.

Y mới rồi thấy Mộ Dung Phục đã đi quân đó, đi tiếp thêm mấy nước

đột nhiên rút kiếm tự vẫn, sợ rằng Đoàn Diên Khánh cũng rơi vào vết xe

đổ, trong lòng bất nhẫn nên lên tiếng nhắc. Nam Hải Ngạc Thần cực kỳ

giận dữ, quát lớn:

- Cái thứ chú tiểu như ngươi mà dám nói lão đại ta ổn hay không ổn

hay sao?

Y vừa nói vừa chộp vào lưng Hư Trúc, nhắc lên. Đoàn Dự nói:

- Hảo đồ nhi, không được đả thương tiểu sư phụ.

Nam Hải Ngạc Thần khi vừa đến đã trông thấy Đoàn Dự, trong bụng

ngượng ngập, tốt nhất là chàng chẳng nói năng gì, ngờ đâu lại ra lệnh cho

y, bèn hầm hầm nói:

- Không đả thương thì thôi, đã làm sao nào.

Y bèn để Hư Trúc xuống. Mọi người thấy một gã ngang ngược hung

ác như Nam Hải Ngạc Thần lại nghe lời Đoàn Dự, gọi y là "đồ nhi" mà

không thấy cãi lại đều cảm thấy lạ lùng. Chỉ có bọn Chu Đan Thần hiểu

được nguyên do, trong bụng cười thầm.

Hư Trúc ngồi xuống trong lòng suy nghĩ: "Sư phụ ta vẫn thường dạy

rằng Phật tổ truyền xuống bao gồm giới, định, huệ ba tu chứng pháp môn.

Kinh Lăng Nghiêm có viết: "Nhiếp tâm vi giới, nhân giới sinh định, nhân

định sinh huệ 6". Con người chúng ta căn cốt ngu độn, khó lòng nhiếp tâm

để giữ mình, thành thử Đạt Ma tổ sư mới truyền cho phương tiện pháp

môn, dạy chúng ta học võ để nhiếp tâm, mà đánh cờ cũng có thể nhiếp

tâm. Học võ tính chuyện hơn thua, đánh cờ cũng là chuyện thua được

cũng đều ngược lại với thiền lý thành ra dù học võ hay đánh cờ cũng phải

cố giữ cái tâm vô thắng bại. Khi tụng kinh, ăn cơm, đi đường thì vô thắng

bại tâm rất là dễ, còn như tỉ võ, đánh cờ mà đạt được vô thắng bại tâm thì

thật khó thay. Nếu như khi tỉ võ, đánh cờ mà không còn cái tâm thắng bại

thì đã là gần được đạo rồi. Kinh Pháp cú có viết: Thắng ắt bị người ta oán

hận, thua sẽ tự cho mình là thấp hèn. Bỏ được cái tâm thắng bại, không

tranh giành thì lòng mới yên.7 Ta võ công kém cỏi, kỳ thuật tầm thường,

cùng sư huynh đệ tỉ võ, đánh cờ bao giờ cũng thua nhiều thắng ít, vậy mà

sư phụ ngược lại khen ta giữ được không giận không oán, coi chuyện

thắng bại nhẹ như bông. Vậy mà sao hôm nay khi ta thấy vị Đoàn thí chủ

này đi sai nước cờ, lại lo cho y lạc bại nên ra lời chỉ điểm? Huống chi cứ

kỳ thuật như ta thì còn chỉ điểm cho ai được nữa? Y đi nước cờ tuy tương

đồng với Mộ Dung công tử nhưng về sau ắt sẽ khác đi, chính ta không

giải được, sao lại dám mở lời "xem ra không ổn", chẳng hóa ra mang cái

tâm tự cao tự mãn hay sao?".

Đoàn Diên Khánh cứ đi một nước lại suy nghĩ một hồi, từng quân từng

quân càng lúc càng lâu, đặt đến hơn hai chục quân thì mặt trời đã ngả về

tây. Huyền Nạn đột nhiên nói:

- Đoàn thí chủ, mười nước đầu thí chủ đi theo đường chính nhưng từ

thứ mười một trở đi lại vào bàng môn, càng lúc càng sâu, để đến lúc

không còn cứu được nữa rồi.

6 7

Các bắp thịt trên mặt Đoàn Diên Khánh đã cứng không tỏ ra có ý gì

nhưng từ cổ họng phát ra thanh âm nói:

- Phái Thiếu Lâm là danh môn chính tông, theo như chính đạo của

các ông thì giải pháp thế nào?

Huyền Nạn thở dài một tiếng nói:

- Bàn cờ này tưởng như chính mà không phải chính, giống như tà mà

không phải tà, dùng chính đạo mà giải cũng không xong nhưng đi vào con

đường vạy thì cũng không được.

Cây gậy trúc nơi tay trái của Đoàn Diên Khánh ngừng lại giữa lưng

chừng, hơi run run, thủy chung không điểm xuống, qua một hồi lâu mới

nói:

- Đằng trước đã nghẽn lối rồi, đằng sau lại có truy binh, chính cũng

không mà tà cũng không, thật là khó lòng.

Võ công gia truyền của y vốn là chính tông Đoàn gia Đại Lý, nhưng

về sau đi vào đường tà, mấy câu nói của Huyền Nạn khiến y phải chạnh

lòng, cũng chẳng khác gì Mộ Dung công tử dần dần đi vào ma đạo.

Bàn cờ Trân Lung đó biến chuyển hàng trăm lối, tùy theo người mà

thành, kẻ tham tài thì vì tiền bạc mà thất cơ, kẻ nóng tính thì vì sân hận

mà hỏng việc. Đoàn Dự thất bại vì ái tâm quá nặng, không dám bỏ quân;

Mộ Dung Phục thua, chỉ vì chấp trước quyền uy, tuy dám thí quân nhưng

không chịu thất thế. Còn Đoàn Diên Khánh thì mối hận to lớn nhất trên

đời là sau khi tàn phế, đã bỏ võ công chính tông của bản môn, chuyển

sang tập luyện bàng môn tà thuật, đến lúc toàn tâm toàn ý tập trung vào

đó thì ngoại ma xâm nhập, để đến tâm thần hoang mang không còn tự

chế được nữa.

Đinh Xuân Thu cười khì khì tiếp lời:

- Đúng đó! Con người từ chính chuyển sang tà thì dễ, cải tà qui

chánh mới thật gay go, một đời của ngươi thôi đành xôi hỏng bỏng không,

bỏ đi, bỏ đi thật rồi! Ôi, thật là đáng tiếc, một bước sa chân khiến cho

nghìn đời ôm hận, kịp lúc quay đầu mới hay muôn sự lỡ làng.

Lời của y đầy vẻ xót thương. Thế nhưng những đại cao thủ ai ai cũng

biết Tinh Tú Lão Quái nào có ý tốt, chỉ nhân cháy nhà hôi của, định dẫn

Đoàn Diên Khánh vào chỗ tẩu hỏa nhập ma để trừ khử một kẻ đối đầu

lợi hại.

Quả nhiên Đoàn Diên Khánh lặng người thảm thiết nói:

- Ta vốn ở ngôi vị tôn quí hoàng tử nước Đại Lý, hôm nay lưu lạc

giang hồ để tang thương thế này, quả đáng hổ thẹn cùng liệt tổ liệt tông.

Đinh Xuân Thu nói:

- Ngươi chết xuống dưới suối vàng, còn mặt mũi nào mà gặp lại tiên

nhân họ Đoàn, nếu biết xấu hổ, sao không tự tận, cũng còn coi là một

hành vi anh hùng hảo hán, thôi thôi, chi bằng tự tận cho xong, chi bằng tự

tận cho xong!

Giọng nói nhu hòa dễ nghe, những người công lực hơi yếu, nghe mơ

mơ màng màng tưởng như muốn gục xuống. Đoàn Diên Khánh lẩm bẩm

nói một mình:

- Thôi! Chi bằng tự tận cho xong!

Y nhắc thiết trượng lên, chầm chậm nhắm ngay ngực mình điểm vào.

Thế nhưng vốn dĩ y tu tập rất cao siêu, mang máng cảm thấy dường như

có gì không phải, từ nơi đáy lòng có tiếng gọi giật lại:

- Không nên! Không nên! Điểm xuống là hỏng đó.

Thế nhưng đầu trượng vẫn từng tấc từng tấc tiến vào ngực. Y năm xưa

mất nước lưu vong, thân bị trọng thương rồi đã từng có ý định tự tận, chỉ

vì một cơ duyên đặc biệt mà phấn chấn trở lại, đến giờ sức tự chế giảm

đi, cái ý niệm muốn tìm cái chết ẩn dấu trong tim lại hiện đến.

Trong các đại cao thủ đứng chung quanh, Huyền Nạn bụng dạ từ bi, có

ý muốn lên tiếng cảnh tỉnh nhưng muốn dùng "đương đầu bổng hát" 8 cần

phải có nội công tương đương với Đoàn Diên Khánh mới có thể làm cho y

ù tai, còn không thì chẳng đi đến đâu, ngược lại còn mang họa nên tuy

8

nôn nóng cũng đành bó tay. Còn Tô Tinh Hà thì phải tuân theo qui củ của

sư phụ đặt ra năm xưa, không thể cứu viện. Mộ Dung Phục biết Đoàn

Diên Khánh không phải là người tốt, nếu y bị tẩu hỏa nhập ma mà chết,

trong thiên hạ bớt đi một mối hại thì còn gì hơn. Cưu Ma Trí hạnh tai lạc

họa, cười hề hề tụ thủ bàng quan. Đoàn Dự và Du Thản Chi tuy công lực

thâm hậu nhưng không biết Đoàn Diên Khánh đang làm trò gì. Vương

Ngữ Yên tuy hiểu biết về võ học các môn phái rộng rãi thật nhưng thuật

dẫn dụ của Đinh Xuân Thu là tà thuật bàng môn, không phải võ học

thành thử nàng cũng chẳng biết gì cả. Còn Diệp Nhị Nương trước nay vốn

bị Đoàn Diên Khánh đè đầu cưỡi cổ, bình thời hống hách, cực kỳ ngang

ngược nên trong bụng vẫn oán giận ngầm nay thấy y sắp tự tận cũng

chẳng muốn cứu làm gì. Còn bọn Đặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng

không những công lực mất hết, lại cũng chẳng muốn dính vào việc tranh

chấp giữa Tinh Tú Lão Quái và Đệ Nhất Ác Nhân.

Trong đám đó chỉ có mình Nam Hải Ngạc Thần là bồn chồn hơn cả,

thấy đầu trượng chỉ còn cách ngực Đoàn Diên Khánh chừng vài tấc, nếu

nhích thêm chút nữa sẽ điểm ngay vào tử huyệt, thuận tay chộp luôn Hư

Trúc, kêu lên:

- Lão đại, bắt lấy nhà sư này.

Vừa nói y vừa ném luôn vào người Đoàn Diên Khánh. Đinh Xuân Thu

đánh ra một chưởng quát:

- Cút ngay! Đừng có phá đám.

Cái ném đó của Nam Hải Ngạc Thần cực kỳ hồn hậu, Hư Trúc theo

kình phong bay tới bị Đinh Xuân Thu đánh nhẹ một cái lập tức bay ngược

trở ra lao thẳng vào Nam Hải Ngạc Thần.

Nam Hải Ngạc Thần hai tay đỡ lấy, đang toan vứt trở vào Đoàn Diên

Khánh lần nữa, ngờ đâu trong chưởng lực của Đinh Xuân Thu, còn có dấu

ba luồng hậu kình, Nam Hải Ngạc Thần mắt trợn tròn, lịch bịch lùi lại ba

bước, vừa toan gượng lại, luồng kình lực thứ hai đã đến nơi, hai đầu gối

khuỵu xuống, ngồi phịch ngay trên mặt đất, tưởng đã yên, ngờ đâu bấy

giờ luồng kình lực thứ ba mới ập đến. Y không tự chủ được lộn mèo một

vòng, hai tay vẫn còn nắm chặt Hư Trúc, lại đè nhà sư xuống lộn thêm

một vòng nữa. Y sợ chưởng lực của Đinh Xuân Thu còn một luồng kình

đạo thứ tư, vội xô Hư Trúc tới trước để đỡ đòn, nhưng may không còn,

Nam Hải Ngạc Thần liền trợn mắt chửi:

- Con bà ngươi gì mà mạnh thế.

Y liền cầm Hư Trúc vứt xuống đất. Đinh Xuân Thu phát ra chưởng đó

rồi tâm lực hơi nhãng ra, thành thử trượng của Đoàn Diên Khánh ngừng

lại lưng chừng, không di động nữa. Đinh Xuân Thu nói:

- Không kịp nữa rồi! Không kịp nữa rồi! Này Đoàn Diên Khánh, ta

khuyên ngươi nên tự tận cho xong, tự tận cho xong!

Đoàn Diên Khánh thở dài:

- Phải rồi! Sống ở trên đời, có còn ý nghĩa gì đâu? Chi bằng chết cho

xong.

Trong khi y nói thì đầu trượng đã tiến sâu thêm hai tấc nữa. Lòng từ bi

của Hư Trúc nổi lên mãnh liệt, biết rằng muốn giải trừ ma chướng cho

Đoàn Diên Khánh thì phải xen vào bàn cờ, có điều kỳ nghệ của y thấp

kém, muốn giải nạn đề vô cùng phức tạp khó khăn kia, thật không dám

nghĩ đến, thấy trước mắt Đoàn Diên Khánh đang chết sững nhìn bàn cờ,

nguy cơ trong khoảnh khắc, đột nhiên linh cơ nhất động: "Ta không giải

được thế cờ này thật, nhưng quấy phá loạn lên thì thật dễ dàng, chỉ miễn

sao tâm thần y nhãng ra là có cơ cứu được. Đã không có bàn cờ thì đâu

còn gì thắng hay bại?". Hư Trúc liền nói:

- Để cho tiểu tăng giải bàn cờ này.

Y nhanh nhẹn tiến tới gần bên, lấy trong hộp ra một quân cờ trắng,

nhắm mắt lại để bừa xuống bàn cờ.

Y chưa kịp mở mắt ra đã nghe tiếng Tô Tinh Hà quát lớn:

- Chỉ giỏi quấy hôi bôi nhọ! Đi quân bậy bạ, ai đời tự mình giết quân

mình, làm gì có phép đánh cờ nào như thế?

Thành bại hơn thua cũng bởi trời,

Cuộc đời nghĩ lại tưởng như chơi.

Trăm sự chẳng qua do mạng số,

Phúc phận cho mình được đấy thôi.

*

* *

Hư Trúc mở mắt ra nhìn, không khỏi đỏ mặt. Thì ra khi y nhắm mắt để

đại xuống một quân, sao lại trúng ngay một đám quân trắng đang bị quân

đen bao vây không còn hở chỗ nào lọt ra được. Đám quân trắng đó vốn dĩ

còn một nước nữa, quân đen lúc nào đặt xuống cũng ăn sạch, nhưng nếu

như đối phương không rảnh rỗi để hạ kỳ thì cũng còn có đường sống, mà

bên trắng cố gắng vùng vẫy cũng chỉ ở một nước đó mà thôi. Thế nhưng

lúc này y lại đem quân mình ăn quân mình, trong phép chơi cờ chưa từng

có ai đi lối tự sát như thế. Quân trắng chết rồi, phe mình coi như tan rã.

Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự trông thấy thế không khỏi cười

ha hả. Huyền Nạn lắc đầu ái ngại, Phạm Bách Linh tuy đang sống dở

chết dở cũng phải thốt lên:

- Đi nước đó thực đúng là làm trò cười.

Tô Tinh Hà nói:

- Tiên sư có di mệnh, bàn cờ này dù lài ai chăng nữa cũng có thể

nhập cuộc. Tiểu sư phụ đi nước đó quả khác thường không ai nghĩ ra

được, nhưng cũng là đi một nước.

Ông giơ tay lấy những quân cờ bị Hư Trúc tự giết chết bỏ ra ngoài, kế

đó đi một quân đen. Đoàn Diên Khánh kêu lên một tiếng, từ trong huyễn

mộng bừng tỉnh lại, đưa mắt nhìn Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: "Tinh Tú

Lão Quái, ngươi thừa gió bẻ măng, ám thi độc thủ, chuyện này ta nhất

định không bỏ qua đâu".

Đinh Xuân Thu liếc Hư Trúc, ánh mắt đầy oán độc, chửi:

- Giặc trọc con.

Đoàn Diên Khánh thấy nước cờ đã biến hóa, biết mình vừa chết đi

sống lại, cũng là nhờ có Hư Trúc cứu viện, trong lòng dâng lên một niềm

cảm kích, sợ rằng Đinh Xuân Thu sẽ ra tay giết Hư Trúc trả thù nên nghĩ

thầm: "Có cao tăng chùa Thiếu Lâm là Huyền Nạn ở đây, chắc Tinh Tú

Lão Quái không dám gây chuyện với đồ tử đồ tôn của ông ta, thế nhưng

nếu như lão hủ Huyền Nạn tầm thường không bảo vệ được chu đáo, ta sẽ

không để cho tiểu hòa thượng này phải chết vì ta".

Tô Tinh Hà nói với Hư Trúc:

- Tiểu sư phụ, ngươi giết một số quân của mình, quân đen càng thúc

ép thêm nữa, ngươi ứng phó ra sao?

Hư Trúc cười gượng đáp:

- Tiểu tăng kỳ nghệ kém cỏi, đi đại một quân chẳng qua chỉ vì muốn

cứu người. Bàn cờ này tiểu tăng không biết đánh, xin lão tiền bối tha thứ

cho.

Tô Tinh Hà sầm mặt xuống, gằn giọng:

- Tiên sư sắp đặt ván cờ này cung thỉnh cao nhân thiên hạ đến phá

giải. Nếu như phá giải không được thì cũng không sao, còn gặp tai ương

xảy tới, cũng là do mình thu lấy. Thế nhưng nếu người nào đến chỉ để

phá rối bàn cờ, khinh mạn tâm huyết một đời của tiên sư, thì dẫu có

người đông thế mạnh, ha ha, lão phu mặc dầu vừa câm vừa điếc, cũng

vẫn nhất định sẽ đi tới cùng.

Y tên gọi Lung Á lão nhân, thực ra nào có điếc có câm gì đâu, hiện

giờ vểnh tai nghe, mở mồm nói, vậy mà vẫn tự cho mình "vừa câm vừa

điếc", có điều trong khi nói, mày râu dựng ngược, thần tình cực kỳ hung

mãnh nên không ai dám mở miệng cười.

Hư Trúc chắp tay hành lễ thật sâu nói:

- Lão tiền bối ...

Tô Tinh Hà quát lớn:

- Đánh cờ là đánh cờ, nói nhiều có ích gì đâu? Sư phụ ta có phải để

cho ngươi đến phá quấy tiêu khiển chăng?

Ông ta vừa nói vừa vung tay lên đánh ra một chưởng, nghe bình một

tiếng, bụi bay mù mịt, trước mặt Hư Trúc lập tức hiện ra một cái hố lớn.

Chưởng đó mãnh liệt không gì sánh kịp, nếu chỉ nhích lên chừng một

thước thì Hư Trúc đã gân cốt nát nhừ, chết tươi ngay.

Hư Trúc sợ đến tim đập thình thình, đưa mắt nhìn Huyền Nạn, mong sư

bá tổ đứng ra cứu y khỏi cảnh ngộ khó khăn này. Huyền Nạn nước cờ đã

không cao, võ công lại mất hết, làm gì còn cách gì bây giờ? Trong tình

cảnh đó ông chỉ còn một cách là muối mặt xin Tô Tinh Hà nhẹ tay, bỗng

thấy Hư Trúc thò tay vào hộp, lấy ra một quân cờ trắng, đặt lên bàn cờ.

Nơi y để quân, chính là nơi những quân trắng mới mất đi còn bỏ trống.

Nước cờ đó quả là rất cao. Trong ba mươi năm qua, Tô Tinh Hà đã suy

nghĩ tất cả những thiên biến vạn hóa của thế cờ này, sách giải thuộc nằm

lòng, dẫu đối phương đi nước nào cũng không qua khỏi những gì ông ta

đã nghĩ tới. Thế nhưng Hư Trúc thoạt đầu nhắm mắt đặt bừa một quân, tự

mình giết chết một đám quân mình vi phạm phép đánh cờ rất nặng, dù

người chỉ hơi biết đánh cờ cũng không ai lại làm thế.

Cái cách đó chẳng khác gì tự mình giơ kiếm vung đao lên cứa cổ

mình. Ngờ đâu sau khi y nhắm mắt đặt một quân giết của mình một khối

lớn rồi, cục diện lại thấy thông tỏ hơn, bên quân đen tuy có lợi lớn nhưng

quân trắng lúc này cũng còn có cơ chống đỡ, không phải như trước bó

chân bó tay, được chỗ nọ mất chỗ kia. Cục diện mới này Tô Tinh Hà dù

có nằm mơ cũng không sao nghĩ tới được. Ông ta ngạc nhiên, suy nghĩ

một lúc lâu, lúc đó mới đi một quân đen.

Thì ra khi Hư Trúc trông thấy Tô Tinh Hà đánh ra một chưởng uy hiếp,

sư bá tổ cũng không lên tiếng giải vây cho mình, còn đang bàng hoàng lo

lắng, bỗng nghe một tiếng nói nho nhỏ truyền vào trong tai:

- Để vào bình vị ở nước tam cửu.

Hư Trúc chẳng cần biết ai là người chỉ điểm mình, cũng không cần

biết đúng hay sai, cầm ngay quân trắng, theo đúng lời dặn hạ vào bình vị

tam cửu. Đến khi Tô Tinh Hà đi một quân đen nữa rồi, giọng nói đó lại

truyền vào tai Hư Trúc:

- Bình vị nhị bát.

Hư Trúc lại đặt một quân trắng xuống nước bình vị nhị bát. Quân cờ đi

rồi, chỉ nghe Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự cả bọn đều ồ lên một

tiếng. Hư Trúc ngẩng đầu lên, thấy mọi người ai nấy tỏ vẻ ngạc nhiên,

đồng thời khâm phục đủ biết nước đi của mình thật tinh diệu, lại thấy vẻ

mặt Tô Tinh Hà vừa mừng rỡ sung sướng nhưng cũng nóng nảy bồn chồn,

đôi lông mày dài không ngớt nhô lên hụp xuống.

Hư Trúc trong bụng khởi nghi: "Sao ông ta đột nhiên lại cao hứng thế?

Không lẽ nước cờ mình đi sai rồi chăng?". Thế nhưng lại lập tức nghĩ

ngay: "Không cần biết đi đúng hay sai, chỉ cần mình đi được mười nước

trở lên, đủ để biết rằng mình cũng có đường đi nước bước, không phải

đến quấy rối làm loạn nước cờ, hối nhục tiên sư của ông ta, lúc đó sẽ

không trách mình được nữa". Đến khi Tô Tinh Hà đi một quân đen nữa, y

lại theo đúng người nào đó ám trung tương trợ chỉ điểm, hạ một quân

trắng. Hư Trúc một mặt hạ kỳ, một mặt chú tâm quan sát, có phải sư bá

tổ bí mật giúp đỡ mình hay không, nhưng thấy Huyền Nạn thần tình ra

chiều nóng ruột, xem ra không phải, huống chi trước sau ông ta không mở

miệng nói câu nào.

Người đưa tiếng nói truyền vào tai y nội lực phải cực kỳ thâm hậu,

hiển nhiên là "truyền âm nhập mật" dùng thượng thừa nội công truyền lời

nói thẳng vào tai y, người khác dù có đứng ngay bên cạnh cũng không

nghe thấy gì cả.

Thế nhưng dù tiếng nói có nhỏ tới mực nào thì miệng vẫn phải mấp

máy, Hư Trúc lén quan sát môi mọi người, không thấy người nào động

đậy, vậy mà câu: "Để xuống vị trí ngũ lục" vẫn vào tai y thật rõ ràng. Hư

Trúc đúng theo đó mà đi, nghĩ thầm: "Dạy ta ngoài sư bá tổ ra thì còn ai

nữa. Những người khác với mình vô thân vô cố, việc gì phải giúp mình?

Trong những cao thủ ở đây, chỉ có mình sư bá tổ chưa đánh cờ, còn ai

cũng đã thử qua và cũng đã thua rồi. Sư bá tổ thần công phi phàm, thành

ra không mấp máy môi vẫn có thể "truyền âm nhập mật", ta không biết

đến bao giờ mới tu luyện được đến mức đó".

Y có biết đâu người chỉ cho y lại chính là thiên hạ đệ nhất ác nhân có

cái ngoại hiệu Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Vừa rồi Đoàn

Diên Khánh chìm sâu mê mẩn vào cuộc cờ, bị Đinh Xuân Thu thừa cơ

dậu đổ bìm leo, định đẩy y vào chỗ tẩu hỏa nhập ma, tự sát thân vong,

cũng may Hư Trúc làm loạn nước cờ mới cứu mạng cho y được. Y thấy

Tô Tinh Hà nặng lời trách mắng Hư Trúc, có ý muốn giết chú tiểu này

nên buông lời chỉ điểm, cố ý giải vây, để cho nhà sư có dịp thoái lui. Y

giỏi về thuật phúc ngữ, khi nói không cần phải mấp máy môi, lại thêm

nội công thâm hậu nên biết cách "truyền âm nhập mật", tuy bên cạnh có

mấy cao thủ hạng nhất nhưng vẫn không ai khám phá ra.

Thế nhưng sau mấy nước, cuộc diện lại biến hóa mãnh liệt, Đoàn

Diên Khánh nắm ngay được cái bí áo của bàn cờ Trân Lung này. Đó là

bên trắng phải tự giết một số quân của mình trước, sau đó những chỗ kỳ

diệu mới liên tục sinh ra. Trong phép đánh cờ có những nước phản phác,

đảo thoát ngoa, tự mình cố ý đi vào chỗ chết để nhử cho đối phương ăn

quân, sau đó sẽ lật ngược thế cờ nhưng có chết nhiều lắm cũng chỉ tám

chín quân, chứ đời nào lại nhường đến mấy chục quân bao giờ. Phép "tự

mình giết mình" quả là trong môn cờ vây nghìn năm chưa ai thấy, dù cho

loại cao thủ đến mức thần thánh cũng không ai dám nghĩ đến một nước

cờ như vậy. Ai ai cũng chỉ nghĩ đến làm sao thoát khỏi khốn cảnh để tìm

đường sống, chứ có ai lại nghĩ đến nước đi vào cửa tử để tìm đường ra,

nếu không phải Hư Trúc nhắm mắt, thuận tay đặt bừa một nước cực kỳ

ngốc nghếch đó, e rằng một nghìn năm sau, ván cờ Trân Lung này cũng

không ai giải được.

Kỳ thuật của Đoàn Diên Khánh vốn đã cực cao minh, hôm xưa đánh

cờ với Hoàng Mi tăng nước Đại Lý đã làm cho nhà sư này không còn

đường chống đỡ, lúc này bên trắng đã mất đi một mảng lớn, thế đánh

bỗng rộng rãi ra nhiều, chẳng nghĩ tới đám quân mình vừa mất, cũng

không nghĩ tới cục diện bó chân bó cẳng mới rồi, tự nhiên thoải mái mà

đi quân không phải vào cảnh tiến thoái lưỡng nan như trước.

Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục đâu có biết Đoàn Diên Khánh đứng ngoài

chỉ điểm, chỉ thấy Hư Trúc nước nào ra nước nấy, ăn luôn hai khối cờ

đen, nhịn không nổi phải tấm tắc khen ngợi.

Huyền Nạn lẩm bẩm nói một mình:

- Cuộc cờ này vốn quấn quít trong trường thắng bại đắc thất, cho nên

không thể nào phá giải được. Nước cờ của Hư Trúc không còn màng sinh

tử, cũng không chấp trước được thua, hóa ra vượt ra khỏi vòng sống chết,

đạt tới giải thoát ...

Ông mang máng thấy có chỗ sở ngộ, nhưng lại chưa nắm được, biết

mình cả đời chuyên lo võ học, khiếm khuyết công phu thiền môn, bỗng

nghĩ ra: "Lung Á tiên sinh và Hàm Cốc bát hữu chuyên về tạp học, cho

nên võ công không bằng được Đinh Xuân Thu, ta trước đây cười chê họ

đi vào ngã rẽ. Thế nhưng ta cả đời luyện tập võ công, không chăm lo

tham thiền để vượt vòng sinh tử, có phải cũng đi vào sai lầm hay

không?". Ông nghĩ đến đó, tự nhiên toàn thân mồ hôi toát dầm dề.

Đoàn Dự lúc đầu còn chăm chú xem bàn cờ nhưng về sau, đôi mắt

chàng chỉ dán chặt vào người Vương Ngữ Yên, càng nhìn càng thêm đau

lòng, thấy nhãn quang nàng từ đầu đến cuối không lúc nào rời khỏi Mộ

Dung Phục đành bụng bảo dạ: "Thôi mình đi cho xong! Ở đây càng lâu

càng thêm khổ, không chừng lại hộc máu ngay tai đây mất". Thế nhưng

nếu để chàng tự mình rời xa Vương Ngữ Yên thì làm sao cho được?

Chàng nghĩ thầm: "Thôi đợi Vương Ngữ Yên quay đầu lại lúc ấy mình sẽ

nói: Vương cô nương, chúc mừng cô đã gặp được biểu ca, hôm nay tại hạ

được gặp cô nương thêm một lần nữa, quả là có duyên. Tôi xin từ biệt".

Nếu lúc đó nàng nói: "Được, thôi chào công tử" thì mình sẽ ra đi. Còn

nếu như nàng nói: "Sao gấp thế, ta còn có chuyện muốn nói với công tử"

thì mình sẽ nán lại xem nàng muốn nói gì.

Thực ra, Đoàn Dự biết Vương Ngữ Yên sẽ chẳng bao giờ quay đầu lại

nhìn mình, cũng chẳng bao giờ bảo chàng: "Sao gấp thế, ta còn có

chuyện muốn nói với công tử". Bỗng nhiên, đám tóc phất phơ sau cổ

Vương Ngữ Yên hơi lay động, Đoàn Dự tim đập thình thình: "Nàng quay

lại đó!". Thế nhưng chỉ nghe nàng thở dài một tiếng gọi khẽ:

- Biểu ca!

Mộ Dung Phục chăm chú nhìn bàn cờ, thấy bên trắng giờ này đã

chiếm thượng phong, đang dần dần ép lại nghĩ thầm: "Mấy nước cờ đó ta

làm sao nghĩ ra nổi. Vạn sự khởi đầu nan, là một bàn cờ quái lạ bậc nhất,

không sao tưởng được". Vương Ngữ Yên lại khẽ gọi lần nữa nhưng y nào

có nghe thấy gì đâu. Vương Ngữ Yên lúc ấy mới chép miệng, từ từ quay

đầu lại. Đoàn Dự tim đập mạnh: "Nàng quay lại rồi! Nàng quay lại rồi!".

Quả nhiên khuôn mặt tú lệ của Vương Ngữ Yên đã chuyển qua, Đoàn Dự

thấy dung nhan nàng nhuốm một vẻ ưu sầu, trong ánh mắt lại có chiều u

oán, nghĩ thầm: "Từ khi nàng sánh vai cùng Mộ Dung Phục đến đây, thần

sắc trước sau lúc nào cũng hết sức vui vẻ, sao bây giờ nàng bỗng dưng lại

trở nên buồn tủi? Không lẽ ... không lẽ trong lòng nàng cũng có đôi chút

khắc khoải đến ta chăng?". Chỉ thấy mắt nàng đưa qua phía phải, gặp ánh

mắt chàng, Đoàn Dự lập tức tiến lên một bước toan hỏi: "Vương cô

nương, cô có điều gì muốn nói ư?". Thế nhưng ánh mắt Vương Ngữ Yên

lại tiếp tục di chuyển, nhìn bâng khuâng về chốn xa xăm rồi lại quay về

Mộ Dung Phục.

Tâm hồn Đoàn Dự trĩu hẳn xuống, khổ sở không đâu tả xiết: "Nàng

chẳng phải không nhìn ta, mà so với không nhìn ta còn gấp mười lần. Mắt

nàng tuy nhìn ta nhưng chỉ là "thị nhi bất kiến". Tuy mắt nàng để vào ta

nhưng hình ảnh ta nào có vào được tim nàng. Nàng chỉ nghĩ đến biểu ca

chứ Đoàn Dự này có chút nào ở trong tâm khảm nàng đâu! Ôi, thôi đi cho

xong, chi bằng đi cho xong!".

Ở bên kia Hư Trúc nghe lời chỉ điểm của Đoàn Diên Khánh, thấy bên

đen dù đi cách nào cũng bị bên trắng ăn mất một mớ, còn như để hở ra thì

quân trắng sẽ xung sát trùng vi, lúc đó sẽ không còn cách nào chống đỡ

được nữa.

Tô Tinh Hà suy nghĩ một hồi, cười hì hì đặt thêm một quân đen. Đoàn

Diên Khánh liền truyền âm:

- Hạ thượng vị thất bát.

Hư Trúc theo đúng thế mà làm, tuy y hiểu biết về cờ rất nông cạn

nhưng cũng biết là mình đặt quân cờ này xuống rồi là đã phá giải được

thế Trân Lung, vỗ tay cười nói:

- Xem chừng đã xong!

Tô Tinh Hà mặt rạng rỡ, chắp tay nói:

- Tiểu thần tăng trời cho tài ba như thế, quả là đáng mừng.

Hư Trúc vội vàng hoàn lễ nói:

- Không dám, không dám! Cái này không phải tiểu tăng ...

Y vừa định thú thật là do sư bá tổ chỉ điểm, bỗng thấy có tiếng "truyền

âm nhập mật" vào tai:

- Bí mật này, bằng giá nào cũng không được tiết lộ. Hiểm cảnh chưa

thoát đâu, càng phải cẩn thận hơn nữa.

Hư Trúc lại tưởng đó là do Huyền Nạn ra lệnh, bèn cúi đầu đáp:

- Vâng! Vâng!

Tô Tinh Hà đứng thẳng dậy nói:

- Tiên sư sắp đặt thế cờ này, mấy chục năm nay không ai giải được,

nay tiểu thần tăng phá được thế Trân Lung, tại hạ cảm kích không đâu

cho hết.

Hư Trúc không biết nguyên do bên trong, chỉ biết khiêm tốn đáp:

- Tiểu tăng đi lăng nhăng toàn do trưởng bối thương tình, lão tiên

sinh quá khen, quả thực hổ thẹn không dám nhận.

Tô Tinh Hà đi đến trước ba gian nhà gỗ, giơ tay mời khách nói:

- Xin mời tiểu thần tăng bước vào.

Hư Trúc thấy ba gian nhà đó kiến trúc lạ lùng, lại không có cửa,

không biết bảo vào là vào làm sao, cũng chẳng hiểu vào để làm gì, thành

thử đứng ngẩn người ra, không biết thế nào cho phải. Lại nghe thanh âm

kia bảo:

- Thế cờ mở ra một con đường, chính là xung đột đấu tranh mà được.

Nhà không cửa, ngươi hãy dùng ngạnh công Thiếu Lâm phá ra.

Hư Trúc nói:

- Như vậy đành phải đắc tội.

Y xoạc cẳng xuống tấn, giơ tay phải lên, phát chưởng chém xuống

vách gỗ. Hư Trúc võ công thấp kém, hôm đó bị Đinh Xuân Thu phất tay

áo một cái đã ngã lăn ra, lập tức bị môn nhân phái Tinh Tú đè xuống bắt

giữ, cũng nhờ thế nội lực không mất. Dưới mắt biết bao nhiêu cao thủ tại

đương trường, chưởng lực của y thật chẳng bõ cười, cũng may vách nhà

không lấy gì làm kiên cố, chỉ nghe lách cách đã nứt ra một đường. Hư

Trúc lại bổ thêm hai chưởng nữa, lúc đó mới đánh vỡ cánh cửa nhưng bàn

tay cũng ê ẩm.

Nam Hải Ngạc Thần cười khằng khặc nói:

- Ngạnh công của phái Thiếu Lâm thật dở ơi là dở.

Hư Trúc quay lại đáp:

- Tiểu tăng là một đồ đệ chẳng đâu ra đâu của phái Thiếu Lâm,

công phu nông cạn chứ không phải võ công phái Thiếu Lâm không ra gì.

Lại nghe thanh âm kia nói tiếp:

- Mau mau vào đi, không được quay đầu lại, cũng đừng để ý đến

người ngoài.

Hư Trúc đáp:

- Vâng!

Y hăng hái đi vào. Bỗng nghe Đinh Xuân Thu quát lên:

- Đây là môn hộ của bản phái, một chú tiểu như ngươi sao dám bước

vào?

Tiếp theo là hai tiếng bình bình thật lớn, Hư Trúc cảm thấy một luồng

kình phong ập tới cuốn lấy y như muốn nhấc bổng người lên, kế đó là hai

luồng đại lực thúc vào lưng và mông, không còn tự chủ được nữa người

lộn tùng phèo, lăn vào bên trong.

Hư Trúc có biết đâu vừa mới chết đi sống lại, một đằng Đinh Xuân

Thu phát chưởng đánh lén định giết y, mặt khác Cưu Ma Trí vận dụng

Khống Hạc Công định chộp y kéo lại. Thế nhưng Đoàn Diên Khánh đã

dùng ám kình từ đầu trượng tiêu giải chưởng của Đinh Xuân Thu, còn Tô

Tinh Hà đang đứng giữa y và Cưu Ma Trí, đưa tay trái chặn Khống Hạc

Công còn tay phải đánh luôn hai cái, đẩy Hư Trúc tọt vào trong nhà.

Hai luồng lực đạo đó thật cương mãnh, Hư Trúc phá vỡ một mảnh ván

rồi, trán đụng bình một cái, lại va ngay vào một bức vách khác, đầu óc

mịt mù, tưởng chừng muốn ngất đi, phải một lúc sau mới gượng đứng lên

được, giơ tay xoa đầu thấy trán sưng u một cục lớn. Y thấy mình đang

đứng trong một căn phòng trống không có một ai, đang định đi tìm cửa

nhưng gian nhà đó kín mít như bưng, chỉ có mỗi cái lỗ mình vừa phá vỡ đi

vào. Y đứng ngẩn ngơ, đang định theo cái lỗ đó chui trở ra.

Bỗng nghe từ vách phía bên kia một giọng nói già cả khẽ truyền qua:

- Đã vào được đây, sao lại còn muốn đi ra?

Hư Trúc quay người lại nói:

- Xin lão tiền bối chỉ lối cho.

Thanh âm kia nói tiếp:

- Lối đi ngươi đã tự mình xông vào được, có cần gì phải ai chỉ. Ta

sắp xếp bàn cờ đó, mấy chục năm qua không ai phá giải nổi, sau cùng

hôm nay ngươi đã sách khai9 rồi, sao không vào đây.

Hư Trúc nghe thấy ông ta nói "ta sắp xếp bàn cờ đó" không khỏi nổi

da gà, lập cập hỏi:

- Ông ... ông ... ông ...

Y đã nghe Tô Tinh Hà nhắc đi nhắc lại bàn cờ đó do "tiên sư" bày ra,

thế giọng này là người hay ma đây? Lại nghe giọng nói tiếp:

- Thời cơ chỉ vụt qua rồi mất, ta đợi đã ba mươi năm nay, chẳng còn

thì giờ đâu mà đợi ngươi nữa! Này con ơi, mau vào đây thôi.

Hư Trúc nghe tiếng nói cực kỳ thân mật hiền từ, xem ra không có chút

ác ý nào, chẳng suy nghĩ gì thêm, dùng đầu vai huých vào tấm vách,

nghe lách cách một tiếng lớn, tấm vách đó lâu ngày cũng mục rồi nên lập

tức vỡ ngay một miếng.

Hư Trúc đưa mắt nhìn không khỏi hoảng hốt, thấy bên trong cũng là

một gian phòng trống nhưng có một người ngồi giữa lưng chừng trời. Ý

niệm đầu tiên hiện ra là "có ma", sợ quá toan quay mình bỏ chạy thì

nghe người kia nói:

- Ồ, thì ra là một chú tiểu! Ôi, lại là một chú tiểu mặt mày xấu xí!

Chán quá, chán quá, chán quá! Ôi! Chán quá, chán quá, chán quá!

Hư Trúc nghe ông thở dài liên tiếp ba lần, lại nói sáu câu "chán quá"

nên đăm đăm nhìn ông ta, lúc ấy mới rõ, thì ra người ông ta treo bằng

một sợi dây thừng đen, một đầu dây buộc vào sà ngang, nên mới lơ lửng

giữa trời như thế. Chỉ vì bức tường đằng sau lưng ông ta tối om om, dây

thừng lại sẫm màu trộn lẫn vào nhau nên không nhìn ra sợi dây, thoạt

mới nhìn lại tưởng ông ta đang ngồi trên không.

Hư Trúc mặt mũi cũng hơi xấu trai, mày rậm mắt to, mũi huếch, hai

tai đón gió10, đôi môi dày, lại thêm mới va vào tường bị thương thành ra

9 sách chiết sách chiêu chiết chiêusách giải chiết giải nãi nhưng tam thiếu nãi tam thiếu nhưng

lem luốc, quả cũng khó coi thật. Y mồ côi cha mẹ từ nhỏ, những nhà sư

trong chùa Thiếu Lâm thương tình đem vào nuôi dưỡng, trong chùa nếu

người nào không chuyên cần thanh tu thì cũng chăm lo luyện võ, chẳng

một ai để ý xem y xấu hay đẹp. Người trong cửa Phật coi là thân thể chỉ

là "cái túi da hôi thối"11 nếu còn để ý đến cái túi đó dễ coi hay không thì

việc chứng đạo chỉ thêm vướng bận. Thành ra khi nghe người này bảo là

"một chú tiểu mặt mày xấu xí" thì Hư Trúc cũng chỉ mới nghe lần đầu

tiên.

Y len lén ngửng đầu lên nhìn người kia, thấy ông ta râu dài ba thước

không có một sợi bạc nào, mặt như quan ngọc12, chẳng có chút vết nhăn,

tuổi tác dĩ nhiên không còn trẻ nữa nhưng thần tình sảng lãng, phong độ

nhàn nhã. Hư Trúc hơi cảm thấy sượng sùng nghĩ thầm: "Nói đến tướng

mạo thì mình so với ông ta đúng là một trời một vực". Khi đó trong lòng

không còn sợ hãi gì nữa, y liền khom người hành lễ nói:

- Tiểu tăng Hư Trúc xin bái kiến tiền bối.

Người kia gật đầu hỏi:

- Thế ngươi họ gì?

Hư Trúc sựng lại nói:

- Người đã xuất gia không còn tên họ thế tục nữa.

Người kia hỏi lại:

- Thế trước khi xuất gia thì ngươi tên họ là chi?

Hư Trúc đáp:

- Tiểu tăng xuất gia từ nhỏ, xưa nay không có tên họ gì cả.

Người kia chăm chú nhìn y như để suy đoán, thở dài một tiếng nói:

10

11 12

- Ngươi đã phá giải được thế cờ của ta ắt thông minh tài trí phải thật

hơn người, nhưng tướng mạo thế kia, xem chừng không ổn, ôi, thật chán

ngán thay. Ta xem rồi sau cùng nước lã ra sông, uổng tâm tư một đời lại

chỉ làm ngươi bỏ mạng oan thôi. Này chú tiểu ơi, ta cho ngươi một lễ vật

để ngươi đi khỏi đây nhé.

Hư Trúc nghe giọng điệu ông lão kia, xem chừng có một việc rất khó,

không ai giúp mình nên lo phiền, tuy nhiên pháp môn thứ nhất của nhà

Phật là "giúp chúng sinh qua cơn khổ ách"13 nên nói liền:

- Kỳ đạo của tiểu tăng thực ra hết sức nông cạn, cuộc cờ của lão tiền

bối chẳng phải do tiểu tăng sách giải đâu. Thế nhưng lão tiền bối nếu có

chuyện gì phải làm, tiểu tăng tuy bản lãnh kém cỏi nhưng cũng nguyện

hết sức cố gắng, còn như món quà thì tiểu tăng không dám nhận.

Ông lão kia nói:

- Ngươi có bụng dạ hiệp nghĩa như thế, quả là hay lắm. Ngươi kỳ

nghệ không cao, võ công thấp kém, cũng chẳng hề gì nhưng đã đến được

đây, cũng là có duyên. Có điều ... có điều ... tướng mạo nhà ngươi sao

khó coi quá.

Nói rồi ông ta lắc đầu quầy quậy. Hư Trúc mỉm cười nói:

- Tướng mạo đẹp hay xấu cũng là do nghiệp báo từ khi vô thủy đến

nay tụ lại mà thành, chính mình đã không làm chủ được, mà cả cha mẹ

cũng đành chịu vậy mà thôi. Tiểu tăng xấu xí khiến cho tiền bối không

vui, thôi xin cáo từ.

Nói xong lùi lại hai bước. Hư Trúc đang định quay đi thì ông lão kia

nói:

- Hãy khoan!

Tay áo của ông ta phất ra, để lên đầu vai phải của Hư Trúc. Thân hình

y hơi trĩu xuống, thấy cánh tay áo đó chẳng khác gì cánh tay, giữ chặt lấy

người. Ông lão cười:

- Người tuổi trẻ mà có ngạo khí như thế, quả là hay lắm.

13

Hư Trúc đáp:

- Tiểu tăng nào đám cuồng vọng kiêu ngạo, chỉ vì sợ lão tiền bối bực

mình đấy thôi, cho nên cáo thoái sớm cho xong.

Ông già kia gật đầu hỏi thêm:

- Ngày hôm nay đến đây giải thế cờ gồm có những ai?

Hư Trúc kể lại tất cả. Ông lão trầm ngâm một hồi nói:

- Cao thủ trong thiên hạ, mười phần thì đến sáu bảy đến đây rồi. Thế

Khô Vinh đại sư của họ Đoàn Đại Lý có đến không?

Hư Trúc đáp:

- Ngoài tăng chúng trong tệ tự ra, người xuất gia chỉ có một mình

Cưu Ma Trí đại sư thôi.

Ông lão kia lại hỏi:

- Trong những năm gần đây võ lâm nghe nói có một gã tên Kiều

Phong võ công rất khá, y có đến không?

Hư Trúc đáp:

- Không.

Ông già thở dài một tiếng, lẩm bẩm nói một mình:

- Ta đã đợi bao nhiêu năm nay, nếu đợi thêm nữa, chắc gì đã gặp

được người hoàn toàn đẹp đẽ cả bên ngoài lẫn bên trong. Thiên hạ bất

như ý sự thường thất bát, thôi cũng đành như thế mà thôi.

Ông ta trầm ngâm một hồi, dường như tâm ý đã quyết nói:

- Mới rồi ngươi có nói, thế cờ đó không phải ngươi sách giải, thế sao

Tinh Hà lại đưa ngươi vào đây?

Hư Trúc đáp:

- Quân thứ nhất cũng do tiểu tăng lớn mật không biết, nhắm mắt đặt

bừa, còn những nước sau thì do tệ sư bá tổ pháp húy thượng Huyền hạ

Nạn, dùng "truyền âm nhập mật" bí mật chỉ điểm.

Nói rồi đem tình hình phá giải thế cờ ra sao kể lại một lượt. Ông lão

thở dài:

- Quả là ý trời! Quả là ý trời!

Đột nhiên khuôn mặt đang buồn trở nên rạng rỡ, cười nói:

- Nếu đã là ý trời định như thế, ngươi nhắm mắt đặt bừa mà giải

được thế cờ của ta, đủ biết phúc duyên thâm hậu, có thể lo việc đại sự

cho ta cũng chưa biết chừng. Hay lắm, hay lắm, hay lắm! Con ngoan ơi,

ngươi quì xuống khấu đầu đi.

Hư Trúc từ bé lớn lên trong chùa Thiếu Lâm, ngày ngày nếu không

gặp sư phụ thì cũng sư thúc sư bÿ, có khi sư bá tổ, sư thúc tổ các loại

trưởng bối, đến ngay cùng hàng với mình, những sư huynh tuổi tác lớn

hơn, võ công cao hơn cũng biết bao nhiêu, xưa nay phục tòng đã quen.

Đệ tử nhà Phật tập luyện tính khiêm tốn cho nên khi nghe ông lão bảo y

rập đầu, tuy không hiểu vì lý do tại sao, nhưng nghĩ bụng người này là

tiền bối trong võ lâm, có lạy ông ta mấy cái cũng là chuyện đương nhiên,

cho nên cung kính quỳ xuống cộp cộp cộp cộp rập đầu bốn cái liền. Y

vừa định đứng lên thì người kia lại nói:

- Thêm năm cái nữa, đó là qui củ bản môn.

Hư Trúc đáp liền:

- Vâng!

Rồi y lại rập đầu thêm năm lần nữa. Ông lão nói:

- Con ngoan lắm! Con ngoan lắm! Lại đây!

Hư Trúc đứng lên đến trước mặt ông ta. Ông lão nắm cổ tay y, nhìn y

từ đầu đến chân đánh giá. Đột nhiên Hư Trúc thấy mạch môn nóng lên,

một luồng nội lực theo cánh tay chạy lên, nhanh nhẹn dị thường đi thẳng

vào tim, tự nhiên không định mà dùng Thiếu Lâm tâm pháp kháng cự lại.

Nội lực của ông lão liền quay trở ra, trở lại bình thường. Hư Trúc biết

rằng ông già thử xem mình nội lực nông sâu bực nào, không khỏi mặt đỏ

tía tai, ngượng ngập nói:

- Tiểu tăng bình thời hay đọc kinh Phật, lại ham vui chơi, không

chăm chỉ tập luyện nội công sư phụ truyền thụ chẳng bõ làm trò cười cho

tiền bối.

Ngờ đâu ông lão lại cực kỳ hoan hỉ, cười nói:

- Tốt lắm! Tốt lắm! Nội công phái Thiếu Lâm ngươi tập rất ít nên

cũng đỡ mất công cho ta.

Ông ta nói xong Hư Trúc thấy toàn thân mềm ra, tưởng như đang trầm

mình tắm trong một dòng suối ấm, nhiệt khí theo lỗ chân lông mà bốc

hơi, cảm thấy hết sức khoan khoái. Chỉ trong chốc lát, ông lão đã buông

tay y ra, cười nói:

- Xong rồi! Ta đã dùng Bắc Minh Thần Công của bản môn hóa tán

hết nội lực Thiếu Lâm của ngươi đó.

Đoàn Dự hoảng hốt, kêu lên:

- Cái ... cái gì?

Y nhảy nhổm lên nhưng khi rơi xuống đất hai đầu gối mềm oặt, ngồi

phệt xuống đất, bao nhiêu khớp xương rã rời, đầu óc choáng váng, trời

đất quay cuồng, biết là ông già nói không sai, trong lòng thảng thốt, nước

mắt dàn dụa, khóc òa lên:

- Tôi ... tôi ... tôi với ông có thù oán gì đâu, cũng đâu có làm gì đắc

tội, sao ông nỡ lòng nào hại tôi như thế?

Người kia mỉm cười:

- Sao ngươi lại ăn nói vô phép như vậy? Đã không gọi "sư phụ" lại

gì mà "tôi" với "ông", chẳng có qui củ gì cả.

Hư Trúc kinh hoàng lắp bắp:

- Cái gì? Sao ông lại là sư phụ của tôi?

Người kia nói:

- Ngươi vừa mới rập đầu lạy ta chín cái, đó chính là lễ bái sư đó.

Hư Trúc kêu lên:

- Không! Không! Tôi là đệ tử Thiếu Lâm, làm sao có thể bái ông

làm thầy được? Cái môn tà thuật hại người của ông, tôi nhất định không

học đâu.

Nói xong y gắng gượng đứng lên. Người kia cười:

- Có thực ngươi không học hay không?

Hay tay vung lên, tay áo bay ra, chộp vào đầu vai Hư Trúc. Hư Trúc

thấy đầu vai nặng chịch, không cách nào vùng lên được, hai đầu gối lại

nhuyễn ra ngồi phịch xuống, mồm kêu toáng lên:

- Ông có đánh chết tôi, tôi cũng không học.

Người kia cười ha hả, đột nhiên thân hình bay tung lên, lộn một vòng

trên không, chiếc khăn vuông trên đầu bay vào một góc nha, chân trái

đạp vào xà ngang một cái rơi xuống, đầu ông ta trúng ngay đầu Hư Trúc,

hai thiên linh cái đụng nhau. Hư Trúc sợ quá lập cập hỏi:

- Ông ... ông làm gì thế?

Y cố sức lắc đầu, định hất ông ta ra. Thế nhưng tưởng như đầu ông lão

có đinh đóng chặt vào đầu Hư Trúc, dù có vùng vằng thế nào chăng nữa

vẫn không cách nào thoát ra được. Đầu Hư Trúc lắc qua hướng đông thì

cả thân hình ông ta nghiêng qua hướng đông, Hư Trúc lắc qua hướng tây

thì ông ta lại nghiêng về hướng tây, cả hai người liền thành một lắc lư

qua lại không ngớt.

Hư Trúc càng thêm khủng khiếp, đưa hai tay ra, cố đẩy tay trái, tay

phải thì nắm lấy định đẩy đầu ông ta ra khỏi đầu mình. Thế nhưng vừa

đẩy một cái đã thấy tay mình mềm oặt như bông không có một chút khí

lực nào, càng thêm bồn chồn: "Bị trúng phải tà thuật của lão ta rồi, không

những võ công mất sạch, xem chừng đến mặc áo ăn cơm cũng chẳng còn

hơi sức, từ nay mình đã tê liệt, thành người tàn phế, biết làm sao đây?'. Y

càng thêm kinh hoàng thất tán, mở miệng kêu gào, bỗng thấy từ trên

huyệt Bách Hội nơi đỉnh đầu một sợi nhiệt khí đi thẳng vào trong óc,

miệng kêu không ra tiếng, nghĩ thầm: "Hỏng rồi! Chắc mình mất mạng".

Chỉ thấy óc càng lúc càng nóng, rồi thì mơ mơ như muốn căng lên, tưởng

như muốn bốc thành ngọn lửa, luồng nhiệt khí từ trên đi thẳng xuống,

chẳng mấy chốc đã chịu không nổi, ngất đi.

Y thấy người nhẹ nhàng bay bổng tưởng chừng đang đằng vân giá vụ,

lang thang trên không, rồi bỗng nhiên thân trên lạnh buốt, tưởng như rơi

vào biển khơi, đùa dỡn với bầy cá, có lúc lại đang ở trong chùa đọc kinh,

có khi lại đang khổ luyện võ nghệ, nhưng luyện đi luyện lại mãi chưa

được. Còn đang hoang mang, bỗng thấy trời đổ mưa rào, từng giọt từng

giọt rơi đầy người, nhưng những giọt mưa cũng nóng hổi.

Khi đó Hư Trúc cũng đã hơi tỉnh lại, mở mắt ra thấy ông già đó mặt,

cổ, chân tóc chỗ nào cũng có mồ hôi toát ra đầm đìa không ngớt rơi tong

tỏng lên người y. Hư Trúc cũng thấy mình đã nằm gục dưới đất, ông lão

thì ngồi một bên nhưng đầu hai người không còn dính với nhau nữa.

Hư Trúc ngồi dậy nói:

- Ông ... ông ...

Chỉ nói được hai tiếng "ông", chợt giật mình kinh dị, thấy ông lão bây

giờ biến đổi hẳn, khuôn mặt trắng trẻo đẹp đẽ mới rồi, bây giờ nhăn nheo

đầy vết ngang dọc, mái tóc dài đã rụng hết, còn bộ râu trước kia đen

nhánh thì nay bạc trắng. Ý niệm đầu tiên của Hư Trúc là: "Ta ngất đi đã

bao nhiêu năm rồi? Ba mươi năm chăng? Hay năm mươi năm? Sao người

này bỗng nhiên già đi đến vài mươi tuổi?". Ông lão trước mắt giờ đây

hom hem lụ khụ, nếu không phải một trăm hai mươi tuổi thì cũng phải

một trăm.

Ông già kia đôi mắt lờ đờ, cố hết sức nở một nụ cười nói:

- Việc lớn đã xong! Con ngoan ơi, ngươi phúc trạch thâm hậu, vượt

quá kỳ vọng của ta nhiều, người đánh thử một chưởng vào bức vách trống

kia xem nào!

Hư Trúc không hiểu ra sao, y lời đánh ra một chưởng, chỉ nghe lách

cách, mảng tường lớn vỡ tung đến một nửa, thật nếu y dùng hết sức lao

vào đến mươi lần cũng chưa bằng. Hư Trúc kinh hãi đến ngẩn người, ấp

úng:

- Cái ... cái đó là vì sao thế?

Ông lão mặt rạng rỡ, hết sức hoan hỉ, cũng hỏi lại:

- Cái ... cái đó là vì sao thế?

Hư Trúc hoang mang:

- Sao bỗng nhiên ...bỗng nhiên tiểu tăng có lực đạo mạnh đến thế?

Ông già mỉm cười:

- Ngươi chưa được học chưởng pháp của bản môn cho nên lực đạo sử

dụng chưa được tới một thành. Hơn bảy mươi năm cần tu khổ luyện của

sư phụ ngươi không lẽ tầm thường?

Hư Trúc nhảy bật dậy, biết rằng có điều gì không ổn, kêu lên:

- Ông ... ông ... cái gì mà hơn bảy mươi năm cần tu khổ luyện?

Ông lão vẫn mỉm cười:

- Không lẽ đến giờ này ngươi chưa hiểu rõ hay sao? Thực chăng hay

là không dám nghĩ đến?

Hư Trúc dường như mang máng hiểu câu nói của ông già, có điều việc

xảy ra quá đột ngột, quả không bao giờ ngờ tới, không ai tin nổi, khép

nép nói:

- Lão tiền bối truyền một môn thần công ... một môn thần công cho

tiểu tăng ư?

Ông lão vẫn mỉm cười:

- Sao ngươi chưa gọi ta là sư phụ?

Hư Trúc cúi đầu đáp:

- Tiểu tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm, không thể khi tổ diệt tông, đổi

qua phái khác.

Ông lão nói:

- Trong người ngươi không có chút xíu công phu Thiếu Lâm nào, sao

lại còn là đệ tử Thiếu Lâm được? Trong người ngươi súc tích hơn bảy

mươi năm thần công phái Tiêu Dao, sao lại không phải là đệ tử bản phái?

Hư Trúc xưa nay chưa từng nghe nói đến phái Tiêu Dao, hoang mang

hỏi lại:

- Phái Tiêu Dao ư?

Ông lão mỉm cười:

- Thừa thiên địa chi chính, ngự lục khí chi biện, dĩ du ư vô cùng, thị vi

tiêu dao14. Ngươi nhảy lên thử xem nào?

Hư Trúc nổi dạ hiếu kỳ, hai đầu gối cong lại, nhún chân một cái, nhẹ

nhàng nhảy lên. Đột nhiên nghe bình một tiếng, đỉnh đầu đau nhói, mắt

sáng lòa, một nửa người đã xuyên qua nóc nhà mà vẫn tiếp tục bay lên,

vội vàng đưa tay giữ mái nhà ghìm lại, rơi trở xuống đất, còn nhảy tưng

tưng mấy bận, lúc ấy mới ngừng lại được. Khinh công như thế quả là

không dám nghĩ tới, trong nhất thời đã không vui mừng lại đâm ra sợ hãi.

Ông lão nói:

- Thấy thế nào?

Hư Trúc đáp:

- Tiểu tăng ... tiểu tăng bị ma làm chăng?

Ông lão nói:

- Ngươi cứ bình thản ngồi xuống, nghe ta kể hết nguyên nhân. Thời

khắc không còn nhiều, chỉ nói những gì quan trọng. Nếu như ngươi không

bằng lòng gọi ta là thầy, không muốn đổi tông phái thì ta cũng không ép

ngươi được. Tiểu sư phụ, ta cầu ngươi giúp ta một điều, thay ta làm một

chuyện, ngươi có bằng lòng không?

Hư Trúc xưa nay vẫn thích giúp người, nhà Phật tu theo lục độ15, đứng

đầu là bố thí, thế nhân có nạn phải hết sức giúp đỡ bèn nói:

- Tiền bối đã sai bảo ắt tiểu tăng sẽ kiệt lực mà làm.

Câu đó vừa nói ra, bỗng y chợt nghĩ công phu của ông lão này dường

như yêu tà của tả đạo, nên lại tiếp theo:

14

15

- Thế nhưng nếu tiền bối sai tiểu tăng làm chuyện sai quấy thì sẽ

không thể tòng mệnh đâu.

Ông lão kia trên mặt nụ cười gượng gạo hỏi lại:

- Thế ngươi nghĩ thế nào là chuyện sai quấy?

Hư Trúc chựng lại đáp:

- Tiểu tăng là đệ tử cửa Phật, những điều làm tổn hại đến người khác

thì nhất quyết không làm.

Ông già lại hỏi:

- Nếu như trên đời này có kẻ kia chuyên làm điều tổn hại người

khác, những chuyện sai quấy, giết người không gớm tay, ta sai ngươi đi

tiêu diệt kẻ đó, ngươi có bằng lòng không?

Hư Trúc đáp:

- Tiểu tăng sẽ hết lời khuyên y trở về đường ngay nẻo chánh.

Ông lão lại hỏi:

- Thế nhưng nếu chấp mê không nghe thì sao?

Hư Trúc ưỡn ngực nói:

- Phục ma trừ hại, đó là điều đương nhiên phải làm của chúng ta, có

điều tiểu tăng tài nghệ nông cạn, e rằng không gánh vác nổi trọng nhiệm

đó.

Ông lão nói:

- Thế có nghĩa là ngươi bằng lòng chứ gì?

Hư Trúc gật đầu nói:

- Tiểu tăng bằng lòng.

Ông già ra chiều vui sướng nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Ta muốn ngươi đi giết một người, một kẻ đại

đại ác, chính là đệ tử của ta Đinh Xuân Thu, hiện nay trong võ lâm gọi là

Tinh Tú Lão Quái đó.

Hư Trúc thở phào một hơi, tưởng như trút được gánh nặng. Y chính

mắt thấy Tinh Tú Lão Quái chỉ một câu đã giết mười người phu xe, quả

là đại ác, chính sư bá tổ Huyền Nạn cũng bị y dùng tà thuật hóa tán hết

nội lực, liền đáp:

- Trừ khử Tinh Tú Lão Quái quả là công đức vô lượng, có điều tiểu

tăng công phu nhỏ bé, làm sao có thể ...

Nói đến đây y nhìn ông già, bốn mắt chạm nhau, thấy ông dường như

có ý diễu cợt, lập tức nghĩ ra: "Công phu nhỏ bé " xem chừng không đúng

nên im bặt. Ông lão nói:

- Cái công phu nhỏ bé mà ngươi đang có, không kém gì Tinh Tú Lão

Quái đâu, có điều muốn trừ diệt y quả là chưa đủ, thế nhưng ngươi chớ lo

lắng, lão phu đã sắp đặt cả rồi.

Hư Trúc đáp:

- Tiểu tăng từng nghe Tiết Mộ Hoa thí chủ nói về những chuyện ác

của Đinh ... Đinh thí chủ biển Tinh Tú, bảo là tiền bối đã bị ông ta hại

rồi, ngờ đâu lão tiền bối vẫn còn ở trên trần thế, quả ... quả là hay lắm,

hay lắm!

Ông lão thở dài nói:

- Năm xưa tên nghịch đồ đó đột nhiên giở chứng, đánh ta rơi vào

thâm cốc, tưởng ta đã táng mạng rồi. Cũng may người học trò lớn của ta

là Tô Tinh Hà giả câm giả điếc, có thế mới che dấu được tai mắt tên

phản phúc kia, ta mới giữ được chút hơi tàn, sống thêm ba mươi năm. Tư

chất của Tinh Hà cũng không phải dở đâu, có điều bị ta dẫn vào ngã rẽ,

phân tâm tập luyện bàng vụ, đi học cầm kỳ thư họa những trò vui chơi

nhàn nhã nên võ công thượng thừa của ta y không sao học nổi.

Trong ba mươi năm nay ta ngong ngóng một đứa học trò thông minh

mà lại chuyên tâm học hỏi để truyền lại võ học cả một đời, sai đi tru diệt

Đinh Xuân Thu. Thế nhưng cơ duyên không dễ gặp, người thông minh mà

bản tính chẳng ra gì, không chừng lại rơi vào vết xe đổ, dưỡng hổ di

hoạn; còn người tính tình tốt thì ngộ tính lại chẳng đủ. Đến lúc này ta xem

chừng đã tận tuổi trời rồi, không còn chờ thêm được nữa, nên đành phải

công bố cho thiên hạ bàn cờ Trân Lung năm xưa ta bày ra để tìm người

tài tuấn. Đại hạn của ta đã đến rồi, không còn thì giờ truyền thụ võ công

thành thử đứa quan môn đệ tử của ta ắt phải là một người trẻ tuổi thông

minh tuấn tú.

Hư Trúc nghe ông ta nói đến "thông minh tuấn tú", nghĩ thầm mình tư

chất đã chẳng thông minh, còn tuấn tú thì khỏi cần nói đến làm gì, nên

ngượng ngập nói:

- Những người tuấn nhã trên đời có biết bao nhiêu, ngay bên ngoài

kia cũng có hai người, một là Mộ Dung công tử, còn một vị là công tử họ

Đoàn. Tiểu tăng đi ra mời hai người đó vào hội kiến với tiền bối được

chăng?

Ông lão cười khẩy một tiếng nói:

- Ta nghịch vận Bắc Minh Thần Công đem hơn bảy mươi năm công

phu tu tập, trút vào cho ngươi cả rồi, làm sao còn truyền thụ cho người thứ

hai được nữa?

Hư Trúc hoảng hốt nói:

- Có thật là tiền bối ... tiền bối đem công lực cả đời truyền vào tiểu

tăng không? Lẽ ... lẽ nào ...

Ông lão nói:

- Chuyện này đối với ngươi là họa hay phúc, lúc này thật khó nói.

Võ công cao cường chắc gì đã là phúc, trên thế gian những người không

biết chút võ công nào, không lo không sầu, bớt tranh cạnh thì chẳng phải

cũng bớt phiền não hay sao? Nếu như năm xưa ta chỉ học cầm, học kỳ,

học thư, học họa mà chẳng nghiên cứu những môn võ học thì đời ta ắt

khoái hoạt hơn nhiều.

Ông nói tới đây thở dài một tiếng, ngẩng đầu nhìn qua lỗ hổng trên

mái nhà mà Hư Trúc đã đụng vỡ, dường như đang nhớ lại rất nhiều

chuyện đã qua, một lúc sau mới nói:

- Hảo hài tử, Đinh Xuân Thu vẫn tưởng ta đã chết dưới tay y rồi nên

không kiêng nể gì ai nữa. Còn bức tranh đây, bên trên vẽ nơi ta ngày xưa

hưởng thanh phúc ở núi Vô Lượng nước Đại Lý, là chỗ ngươi tìm võ học

điển tịch ta tàng trữ, theo đúng thế mà luyện tập thì võ công sẽ chẳng

kém gì Đinh Xuân Thu. Có điều tư chất ngươi dường như không tốt lắm,

tu tập võ công bản môn, chỉ sợ có nhiều chỗ ngắc ngứ, có thể gặp khó

khăn hung hiểm không chừng.

Vậy ngươi phải đi cầu một người đàn bà ở thạch động trong núi Vô

Lượng chỉ điểm cho. Bà ta thấy ngươi tướng mạo không đẹp, chắc là

không chịu dạy đâu, nhưng xin bà ta hãy nghĩ đến ta ...khục ... khục ...

Ông ta nói đến đây thì ho sù sụ, thở chẳng ra hơi, lấy trong người một

quyển trục nho nhỏ nhét vào tay Hư Trúc. Hư Trúc không khứng chịu,

dùng dằng nói:

- Tiểu tăng học nghệ chưa thành, lần này theo lệnh thầy xuống núi

đưa thư, phải trở về núi ngay để phục mệnh, từ nay về sau có gì cũng

phải theo sư mệnh mà làm. Nếu như phương trượng bản tự và nghiệp sư

không bằng lòng, thì không thể nào tuân theo lời dặn dò của tiền bối

được.

Ông lão gượng nở một nụ cười nói:

- Nếu quả đó là thiên ý muốn cho kẻ ác tự tung tự tác, thì cũng

chẳng còn cách nào hơn, ngươi ... ngươi ...

Ông ta nói được hai chữ "ngươi" bỗng toàn thân run rẩy, từ từ gục

người xuống, hai tay chống dưới đất, tưởng chừng như sắp tắt thở rồi. Hư

Trúc hoảng hốt vội vàng đưa tay đỡ hỏi:

- Lão ... lão tiền bối sao thế?

Ông già đáp:

- Hơn bảy mươi năm tu luyện của ta truyền hết cho ngươi rồi, hôm

nay mệnh đã hết. Này con, ngươi nhất định không chịu gọi ta bằng "sư

phụ" ư?

Ông ta nói tới đây thì hổn hển dường như sắp chết. Hư Trúc nhìn ánh

mắt van xin của ông lão thật đáng thương, nẫu cả ruột buột miệng kêu

lên:

- Sư phụ!

Ông lão mừng quá, cố sức tháo trên ngón tay bên trái ra một chiếc

nhẫn bằng bảo thạch, muốn đeo vào tay cho Hư Trúc, có điều lực khí hao

kiệt, đến nắm cổ tay Hư Trúc cũng không xong. Hư Trúc vội kêu lên:

- Sư phụ!

Rồi cầm chiếc nhẫn đeo luôn vào ngón tay mình. Ông lão phều phào:

- Ngoan ... con ngoan lắm! Con là đệ tử thứ ba của ta, nếu gặp Tô

Tinh Hà thì gọi y ... gọi y là đại sư ca. Con họ gì?

Hư Trúc đáp:

- Con quả thực không biết.

Ông lão thở dài:

- Tiếc thay mặt mũi con không được dễ coi, rồi đây sẽ gặp nhiều

chuyện rắc rối, có điều con là chưởng môn phái Tiêu Dao, người đàn bà

ấy không dám vi kháng mệnh lệnh của con đâu, tốt lắm, tốt lắm ...

Ông ta càng nói thanh âm càng nhỏ, tới câu "tốt lắm" thứ hai thì chỉ

còn mong manh như tơ, nghe không rõ, đột nhiên cười ha ha mấy tiếng,

người bổ nhào về trước, nghe bình một tiếng, trán đập xuống đất, rồi

không động đậy gì nữa.

Hư Trúc vội vàng đỡ ông ta lên, đưa tay thăm dò thì đã tắt thở, vội

vàng chắp tay niệm Phật:

- Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật! Nguyện cầu Phật A

Di Đà, Quan Thế Âm bồ tát, Đại Thế Chí bồ tát tiếp dẫn lão tiên sinh

vãng sinh thế giới tây phương cực lạc.

Y ở với ông lão này chưa đầy một giờ, đúng ra chẳng có bao nhiêu

tình nghĩa, thế nhưng trong người nhận hơn bảy mươi năm công lực của

ông ta, ngấm ngầm cảm thấy ông lão đối với mình thân cận hơn bất cứ ai

khác, nói đúng ra, một phần của ông ta đã biến thành con người mình, đột

nhiên trong lòng buồn bã, khóc òa lên.

Y khóc một lúc rồi mới quì xuống, hướng về di thể của ông lão lạy

mấy lạy, lẩm nhẩm khấn:

- Lão tiền bối, tiểu tăng giả vờ gọi ông là sư phụ đấy thôi, xin ông

đừng coi là thật. Ông tâm thần nếu không mê muội xin đừng trách tôi.

Khấn xong rồi, y mới quay lại theo lỗ hổng đã phá ban nãy chui ra,

nhảy nhẹ một cái, đã vượt qua hai lần vách đến bên ngoài.

Tiêu dao tự tại một thân,

Chẳng ai ước thúc bó chân ra vào.

*

* *

Hư Trúc vừa ra khỏi căn nhà gỗ, không khỏi kinh ngạc, thấy trên khu đất là

một cột lửa thật lớn, còn trên mặt đất cây tùng đổ nằm ngổn ngang. Y vào trong

căn nhà gỗ dường như cũng chẳng bao lâu, thế nhưng bên ngoài đánh nhau long

trời lở đất, ắt là những cây tùng này bị người ta đánh ngã lúc y đang hôn mê

thành ra ở trong nhà không nghe gì cả.

Lại thấy người đứng chung quanh cây cột lửa chia thành hai phe. Lung Á lão

nhân Tô Tinh Hà đứng ở phía bên phải, Huyền Nạn cùng các nhà sư Thiếu Lâm,

Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa cả bọn đứng sau lưng ông ta. Tinh Tú Lão Quái

đứng phía bên trái, gã đầu sắt Du Thản Chi và bọn đệ tử phái Tinh Tú đứng sau

lưng ông ta. Mộ Dung Phục, Vương Ngữ Yên, Đoàn Dự, Cưu Ma Trí, Đoàn Diên

Khánh, Nam Hải Ngạc Thần các người khác thì đứng rải rác ở xa xa.

Tô Tinh Hà và Đinh Xuân Thu hai người đang thúc đẩy chưởng lực, đẩy cây

cột lửa rạp về đối phương, thế nhưng trước mắt ngọn lửa ngả về bên phải, hiển

nhiên Đinh Xuân Thu đang chiếm thượng phong.

Mọi người đăm đăm nhìn cây cột lửa, thành ra khi Hư Trúc từ trong nhà

bước ra chẳng một ai chú ý. Đương nhiên Vương Ngữ Yên chỉ quan tâm một mình

biểu ca Mộ Dung Phục, còn Đoàn Dự thì chỉ nghĩ đến Vương Ngữ Yên, hai người

tuy không nhìn cây cột lửa, nhưng cũng chẳng ngó ngàng gì đến Hư Trúc.

Hư Trúc đi vòng xa xa sau lưng mọi người qua đến bên phải, đứng ở bên

cạnh sư thúc Tuệ Kính, thấy ngọn lửa mỗi lúc một rạp về hướng mình, quần áo Tô

Tinh Hà đều căng phồng chân khí, chẳng khác gì một cánh buồm no gió, song

chưởng không ngừng mãnh liệt đẩy về phía trước.Còn Đinh Xuân Thu thì vẫn thản nhiên như không, tay áo phất nhẹ, làm như

chẳng coi vào đâu. Tiếng tán tụng của bọn đệ tử vang lên đều một nhịp:

- Tinh Tú lão tiên ra tay trông thì nhẹ nhàng mà thật mạnh, thần công cái

thế hôm nay khiến cho bọn chúng mở mắt.

- Sư phụ ta chẳng qua chỉ muốn giáo huấn bọn đứng ngoài, cho nên chậm

rãi thúc đẩy thần công, chứ không thì đã tru diệt lão họ Tô từ đời nào rồi.

- Đứa nào không phục thì cứ ra nếm thử mùi vị thần công của Tinh Tú lão

tiên.

- Chúng bay có giỏi thì cứ liên thủ tiến lên ai sợ gì đâu!

- Cổ vãng kim lại có ai sánh kịp với Tinh Tú lão tiên được đâu! Kẻ nào bọ

ngựa chống xe thật chỉ có mua cái chết!

Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Diên Khánh mọi người đều nghĩ, nếu như

mấy người sát cánh tiến ra, vây đánh Đinh Xuân Thu, Tinh Tú Lão Quái dẫu ghê

gớm thật nhưng làm sao chống được với mấy cao thủ hợp lực. Thế nhưng những

người đó tự trọng thân phận, chẳng đời nào làm chuyện họp nhau vây đánh một

người, hai nữa Tinh Tú Lão Quái và Tô Tinh Hà đồng môn tàn sát lẫn nhau, người

ngoài chẳng nên tham dự làm gì, ba là ai ai cũng e ngại kẻ khác thừa cơ hạ thủ,

cho nên tuy bọn đệ tử phái Tinh Tú đưa sư phụ lên tận mây xanh mà Cưu Ma Trí

vẫn chỉ mủm mỉm cười, không lý tới.

Đột nhiên cây cột lửa đổ ập về phía trước, cuốn lấy người Tô Tinh Hà, mùi

khét lẹt xông lên, bộ râu dài của ông ta đã bị đốt cháy sạch. Tô Tinh Hà hết sức

chống trả mới đẩy lùi được nhưng ngọn lửa cũng chỉ cách người ông chừng hai

thước, không ngừng chồm tới hụp lui, chẳng khác gì một con đại mãng xà há mồm

lè lưỡi, đang định nuốt chửng ông lão. Hư Trúc trong bụng hãi ngầm: "Xem chừng

Tô thí chủ sắp bị Đinh thí chủ đốt đến nơi, mình phải làm gì đây?".

Bỗng nghe phèng phèng, rồi thêm hai tiếng tùng tùng, tiếng trống tiếng

thanh la nổi lên, thì ra bọn đệ tử phái Tinh Tú có mang theo não bạt, trống chiêng

lúc này đem ra, kẻ thổi kèn ti toe, người đánh trống inh ỏi để diệu võ dương oai

cho sư phụ, lại cũng có người vừa phất cờ xanh, cờ vàng, cờ đỏ, cờ tím vừa reo hò

rầm rĩ.

Trong võ lâm hai người tỉ thí nội công lại có người đứng bên khua chiêng

đánh trống trợ uy, quả thực từ thuở khai thiên lập địa đến giờ chưa từng có. Cưu

Ma Trí đứng cười ha hả nói:- Da mặt Tinh Tú Lão Quái quả là dày, đúng là xưa nay chưa ai bì kịp.

Trong tiếng thanh la kèn trống, một tên đệ tử lấy ra một tờ giấy, lớn tiếng

ngâm nga, lên bổng xuống trầm, hóa ra là một thiên "Cung Tụng Tinh Tú Lão

Tiên Dương Uy Trung Nguyên Tán"1. Không biết gã này thuê được tên hủ nho nào

viết bài từ ca công tụng đức, nghe lên vừa bợ đỡ, vừa vênh vang, tiếng chập cheng

phụ họa giữ nhịp cho lời phét lác.

Thế nhưng nếu bỏ qua những lời rặt giọng vô liêm sỉ này, nội lực Tinh Tú

Lão Quái phải nói là ào ào như sóng cả. Cùng với tiếng chiêng trống và lời ca

tụng, cây cột lửa mỗi lúc một vượng, ngả về đằng trước nửa thước nữa.

Đột nhiên có tiếng chân người rầm rập, hơn hai chục người từ căn nhà phía

sau chạy ra, đứng chắn ngay trước mặt Tô Tinh Hà, chính là những hán tử câm

điếc vừa mới cáng bọn Huyền Nạn lên núi khi nãy, đều là môn hạ đệ tử của Lung

Á lão nhân.

Đinh Xuân Thu càng thúc chưởng lực tới, cây cột lửa ập lên hai chục gã kia,

lập tức có tiếng sèo sèo, cả bọn liền bị cháy xém như heo quay. Tô Tinh Hà toan

dùng chưởng đẩy bọn họ ra ngoài nhưng hai bên cách nhau khá xa, chưởng lực

không tới được. Hai chục người đó đứng như trời trồng, cháy như cây đuốc, không

ai cử động chút nào, miệng lại không nói được nên cảnh tượng quả là bi tráng.

Việc xảy ra khiến người bên ngoài ai nấy chấn động, đến cả Vương Ngữ

Yên và Đoàn Dự cũng quay đầu lại. Cây cột lửa vẫn cháy bừng bừng, bao trùm cả

hai chục người trong đó. Đoàn Dự kêu lên:

- Không nên tàn nhẫn như thế.

Tay phải chàng vung ra, toan dùng Lục Mạch Thần Kiếm đâm vào Đinh

Xuân Thu, tuy nhiên chàng vận kiếm không đúng phép tắc, nội lực chứa đầy trong

người nhưng chỉ chạy qua chạy lại không cách nào theo ngón tay bắn ra được.

Chàng toát mồ hôi hột, kêu lên:

- Mộ Dung công tử mau ra tay ngăn chặn họ đi.

Mộ Dung Phục đáp:

- Đã có phương gia Đoàn huynh nơi đây, tiểu đệ nào dám múa búa trước

cửa Lỗ Ban? Đoàn huynh thử Lục Mạch Thần Kiếm lần nữa xem nào!

1 Đoàn Diên Khánh đến chậm nên không nhìn thấy Lục Mạch Thần Kiếm của

Đoàn Dự, nghe Mộ Dung Phục nói thế, trong lòng không khỏi chấn động, liếc mắt

nhìn Đoàn Dự để xem có thần công này thật hay không nhưng chỉ thấy anh chàng

chỉ chỉ trỏ trỏ, xuất thủ xem ra cũng có khuôn phép nhưng không có một chút nội

lực nào, nghĩ thầm: "Cái gì mà Lục Mạch Thần Kiếm, làm ta bở vía một phen. Thì

ra tiểu tử này hư trương thanh thế, hoa chân múa tay để dọa người khác. Mặc dù

người xưa có truyền lại là Đoàn gia nhà mình có kỳ công Lục Mạch Thần Kiếm

nhưng đã thấy ai luyện được đâu?".

Mộ Dung Phục thấy Đoàn Dự không chịu ra tay, lại tưởng chàng cố tình dấu

tài, nên cứ thản nhiên đứng xem động tĩnh biến chuyển thế nào rồi tính sau.

Một hồi sau, hơn hai chục người câm bị lửa thiêu đã chết quá nửa, chỗ còn

lại thì ai cũng trọng thương, lục tục ngã xuống. Trong tiếng trống chiêng, Đinh

Xuân Thu phất tay áo hai lần, cây cột lửa lại ập về phía Tô Tinh Hà. Tiết Mộ Hoa

kêu lên:

- Không được hại sư phụ ta!

Ông ta xông lên toan đứng chặn ngọn lửa, Tô Tinh Hà tung chưởng đẩy

người học trò ra nói:

- Chết vô ích thôi!

Tay trái ông ngưng tụ công lực tàn dư, đánh mạnh vào cây cột lửa. Thế

nhưng lúc này nội lực hao kiệt cả rồi, chưởng đó chỉ chặn ngọn lửa lại một cái, rồi

thấy nóng bừng, trước mắt chỉ toàn màu đỏ rực, đâu đâu cũng là lửa cả. Tô Tinh

Hà ở vào thế dầu cạn đèn khô, nghĩ đến Đinh Xuân Thu sau khi giết được mình rồi

thể nào cũng xông vào, sư phụ giả chết ba mươi năm nay, sau cùng rồi cũng không

thoát khỏi độc thủ của y. Ông bị cây cột lửa ép tới mà trong lòng chua xót không

đâu cho xiết.

Hư Trúc thấy Tô Tinh Hà ở vào cảnh cực kỳ nguy hiểm nhưng vẫn đứng trơ

trơ, không chịu lùi lấy nửa bước. Y càng nhìn càng thấy thương tâm, lập tức xông

ra, nắm lấy lưng ông ta kêu lên:

- Chết chỉ uổng mạng thôi, mau lùi ra đi!

Ngay lúc đó, Tô Tinh Hà đang vận chưởng đánh ra nhưng thế đã yếu lắm

rồi, xem ra cũng chẳng công hiệu, có điều sống mái một trận đến cùng chứ chẳng

lẽ bó tay chịu chết. Ngờ đâu một luồng nội lực hồn hậu vô cùng từ sau lưng truyền

vào, gia số cùng loại với mình không sai một mảy, thành ra chưởng đó tung ra, lựcđạo mạnh hơn không biết bao nhiêu lần. Chỉ nghe vù một tiếng lớn, cây cột lửa

quay ngược trở lại, ập lên người Đinh Xuân Thu, dư lực chưa hết đốt luôn cả một

mớ học trò của lão.

Chỉ nghe thấy tiếng loảng xoảng, leng keng liên hồi cộng thêm tiếng la ó

rầm trời, loạn cả lên:

- Phái Tinh Tú uy chấn Trung Nguyên, ân sư chúng ta đời nay không ai

địch nổi.

Xen lẫn với:

- Ối ối! Mẹ ơi!

- Chết cha rồi! Phái Tinh Tú chạy cho mau!

- Phái Tinh Tú lúc co lúc duỗi, thôi lần sau mình dương uy cũng được.

Đinh Xuân Thu kinh hoảng, thực ra nội lực của Hư Trúc cộng với chưởng

phong của Tô Tinh Hà, chưa hẳn đã thắng được y, có điều y đang chắc mẩm nhơn

nhơn đắc ý không đề phòng, đột nhiên bị phản kích nên một phen bở vía. Y lại

thấy trong chưởng phong hàm chứa nội lực già dặn chín chắn, hơn hẳn sư huynh Tô

Tinh Hà, hiển nhiên là công phu bản phái, không lẽ đó là sư phụ bị mình giết rồi

hiển linh chăng? Là hồn ma sư phụ đến đòi mạng chăng? Y nghĩ đến đó, tâm thần

hoảng loạn, nội lực không còn ngưng tụ được nữa, cây cột lửa liền cuốn vào người

không còn sức đâu đẩy ngược lại, quần áo râu tóc lập tức cháy bùng lên.

Bọn đệ tử liền hô hoán rầm lên:

- Tinh Tú lão tiên xem chừng không xong!

Đinh Xuân Thu hoảng hốt vội gọi:

- Học trò đầu sắt ơi, mau ra tay đi!

Du Thản Chi lập tức múa chưởng đánh vào cây cột lửa, chỉ nghe phụp phụp

mấy tiếng, cây cột lửa gặp phải chưởng lực cực kỳ lạnh lẽo của y, lập tức tắt

ngúm, đến khói xanh cũng tan biến thật nhanh, dưới đất chỉ còn mấy cây gỗ tùng

đã thành than.

Đinh Xuân Thu râu tóc cháy rụi, quần áo cũng rách bươm, mặt hầm hầm

nhưng trong bụng vẫn thấp thỏm chuyện hồn ma sư phụ hiển linh, nên không còn

dám hung hăng nữa, quát lớn:

- Thôi đi!Y nhún mình một cái đã vọt ra ngoài bảy tám trượng. Bọn đệ tử phái Tinh

Tú lập tức chạy theo, thanh la não bạt, chiêng trống đều quăng bỏ hết, còn thiên

"Cung Tụng Tinh Tú Lão Tiên Dương Uy Trung Nguyên Tán" đọc chưa xong,

cũng bị ngọn lửa cháy mất một miếng lớn, theo gió bay vật vờ, tưởng chừng như

đang nhạo báng Tinh Tú Lão Quái "dương uy Trung Nguyên".

Bỗng nghe từ đằng xa một tiếng kêu thảm khốc, rồi một tên đệ tử phái Tinh

Tú bay bổng lên, khi rơi xuống nằm không nhúc nhích. Mọi người mặt mày ngơ

ngẩn, chắc mẩm Tinh Tú Lão Quái bị thua, thẹn quá hóa giận, không biết tên đồ

đệ đó mở miệng chữa thẹn thế nào, bốc thơm không đúng cách, mó phải hàm chó

vó ngựa bị đánh một chưởng chết tươi.

Huyền Nạn, Đoàn Diên Khánh, Cưu Ma Trí ai ai cũng cho rằng Lung Á lão

nhân Tô Tinh Hà dùng kế khổ nhục để dụ cho Đinh Xuân Thu hao phí công lực

tiêu diệt những hán tử câm điếc kia, sau đó mới bất ngờ tấn công một đòn trời long

đất lở, khiến y trở tay không kịp phải cúp đuôi mà chạy.

Lung Á lão nhân về mưu kế cũng như võ công đã nổi tiếng trên giang hồ từ

lâu, mới rồi cùng Tinh Tú Lão Quái một trường ác đấu, đánh ngã những cây tùng

sần sùi đường kính cả thước, ai ai trông thấy cũng kinh tâm động phách. Sau cùng

ông ta lại thi triển thần công, đánh đuổi được Tinh Tú Lão Quái cũng chẳng ai cho

là lạ. Huyền Nạn nói:

- Tô tiên sinh thần công thâm hậu đuổi được lão quái đó đi, xem ra sau trận

ác đấu này hết hồn mất vía, không còn dám bước chân vào Trung Nguyên nữa

đâu. Tiên sinh tạo phúc cho võ lâm quả không phải là nhỏ.

Tô Tinh Hà thoáng thấy trên ngón tay Hư Trúc chiếc nhẫn bằng bảo thạch

của sư phụ, hiểu ngay nguyên do, trong lòng vừa buồn bã, vừa vui mừng, nhìn

quanh thấy đám đệ tử mười người chết chín, còn lại cũng bị thương nặng khó mà

chữa lành, cực kỳ đau khổ, nhưng khắc khoải an nguy của sư phụ nên quay qua

trao đổi với Huyền Nạn, Mộ Dung Phục vài câu khách sáo rồi nắm tay Hư Trúc

nói:

- Mời tiểu sư phụ theo ta vào trong.

Hư Trúc đưa mắt nhìn Huyền Nạn, đợi ông ta ra lệnh. Huyền Nạn nói:

- Tô tiền bối là võ lâm cao nhân, nếu có dặn bảo điều gì, ngươi nhất thiết

nên tuân theo.

Hư Trúc đáp:- Vâng!

Rồi theo Tô Tinh Hà chui qua chỗ bức vách bị vỡ đi vào trong nhà. Tô Tinh

Hà tiện tay cầm một mảnh ván, bịt cái lỗ hổng đó lại. Mọi người từng đi lại trên

giang hồ, hiểu rộng biết nhiều thấy ông ta làm thế là có ý không muốn ai dòm

ngó, nên cũng chẳng ai muốn dính dáng vào chuyện người ngoài. Có lẽ người duy

nhất không hiểu rộng biết nhiều là anh chàng Đoàn Dự, nhưng từ nãy đến giờ chỉ

chăm chăm nhìn vào Vương Ngữ Yên đến Tô Tinh Hà và Hư Trúc đi vào trong

nhà chàng cũng không hay biết, thì còn lòng dạ đâu mà lo đến chuyện gì khác?

Tô Tinh Hà và Hư Trúc dắt tay nhau xuyên qua hai lần vách thấy ông lão

kia nằm phục dưới đất, đưa tay sờ thử thì đã tắt thở. Việc này Tô Tinh Hà đã đoán

được tám chín phần nhưng cũng buồn bã nhịn không nổi, quì xuống rập đầu mấy

cái nói:

- Sư phụ ơi là sư phụ! Rồi sau cùng thầy cũng bỏ con mà đi!

Hư Trúc nghĩ thầm: "Ông lão này quả nhiên là sư phụ của Tô lão tiền bối

thật". Tô Tinh Hà gạt lệ đứng lên, đỡ xác sư phụ ngồi ngay ngắn dựa lưng vào

vách, sau đó lại đỡ Hư Trúc cũng ngồi xuống ngay bên cạnh xác ông lão kia. Hư

Trúc chột dạ: "Ông ta để mình ngồi ngang hàng với xác lão tiên sinh để làm gì thế

này? Không lẽ ... không lẽ ... muốn mình đi theo hầu sư phụ ông ta xuống tuyền

đài chăng?". Y rợn người, toan đứng lên nhưng lại không dám.

Tô Tinh Hà sửa lại áo quần vốn đã bị cháy rách bươm, đột nhiên quì xuống

trước mặt Hư Trúc rập đầu lạy mấy cái nói:

- Kẻ đệ tử không xứng đáng của phái Tiêu Dao là Tô Tinh Hà, tham kiến

tân chưởng môn của bản phái.

Câu nói đó khiến cho Hư Trúc giật nảy người, chân tay như tê liệt, nghĩ

thầm: "Người này điên quá mất thôi! Người này điên quá mất thôi!". Y vội vàng

quì xuống hoàn lễ nói:

- Lão tiền bối hành đại lễ thế này, tiểu tăng không thể nào dám nhận.

Tô Tinh Hà nghiêm mặt nói:

- Sư đệ, ngươi là quan môn đệ tử 2 của sư phụ, lại là chưởng môn của bản

phái. Ta tuy là sư huynh thật nhưng phải khấu đầu trước mặt ngươi.

Hư Trúc ấp úng:

2 - Cái đó ... cái đó ...

Lúc đó y mới biết Tô Tinh Hà không hóa điên nhưng nếu ông ta không mất

trí thì mình lại ở vào cảnh cực kỳ khó xử, trong bụng chỉ biết than trời trách đất. Tô

Tinh Hà nói:

- Sư đệ, cái mạng ta là do ngươi cứu, tâm nguyện của sư phụ cũng do ngươi

hoàn thành, có nhận vài cái lạy thì cũng đúng thôi. Sư phụ bảo ngươi rập đầu chín

cái bái lão nhân gia làm thầy, ngươi đã lạy chưa?

Hư Trúc đáp:

- Khấu đầu thì có đấy, nhưng khi đó tiểu tăng nào có biết đó là bái sư. Tiểu

tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm không thể đổi qua gia nhập phái khác được.

Tô Tinh Hà nói:

- Sư phụ cũng đã nghĩ đến chuyện đó rồi, chắc đã hóa tán võ công cũ của

sư đệ rồi mới truyền công phu bản phái. Sư phụ đem công lực cả một đời truyền

cho ngươi, có phải không?

Hư Trúc đành phải gật đầu nói:

- Đúng thế!

Tô Tinh Hà nói:

- Cái nhẫn bằng bảo thạch dấu hiệu của chưởng môn bản phái này là do sư

phụ rút ra từ tay mình đeo vào cho ngươi, có phải không nào?

Hư Trúc đáp:

- Đúng thế! Có điều ... có điều tiểu tăng nào có biết đó là tiêu ký của

chưởng môn đâu.

Tô Tinh Hà ngồi xếp bằng dưới đất nói:

- Sư đệ, ngươi phúc trạch quả là dày. Ta và Đinh Xuân Thu mơ tưởng đến

cái nhẫn bảo thạch này mấy chục năm qua, nhưng chẳng bao giờ tới tay mình

được, còn ngươi chỉ trong một giờ mà đã được sư phụ để mắt đến rồi.

Hư Trúc vội vàng tháo chiếc nhẫn đưa ra nói:

- Vậy thì tiền bối cầm lấy đi, cái nhẫn này tiểu tăng chẳng dùng được vào

việc gì cả.

Tô Tinh Hà không nhận, mặt sầm xuống:- Sư đệ, ngươi nhận trọng thác của sư phụ lúc lâm chung, sao lại đẩy trách

nhiệm cho người khác? Sư phụ đem chiếc nhẫn giao cho ngươi là để sai ngươi đi

diệt trừ Đinh Xuân Thu, có đúng không?

Hư Trúc đáp:

- Quả có thế thực, thế nhưng tiểu tăng công phu nông cạn, làm sao đảm

đương nổi việc nặng nề to lớn như thế?

Tô Tinh Hà thở dài một tiếng, cầm chiếc nhẫn đeo lại vào tay Hư Trúc nói:

- Này sư đệ, những chuyện bên trong phần lớn ngươi chưa biết gì cả, để ta

giản lược thuật lại cho ngươi nghe. Bản phái gọi là phái Tiêu Dao, trước nay có lệ

là chưởng môn không hẳn phải do đại đệ tử tiếp nhiệm, trong môn hạ ai võ công

cao siêu nhất thì người đó làm chưởng môn.

Hư Trúc vội đáp:

- Đúng! Đúng! Có điều tiểu tăng võ công cực kỳ kém cỏi.

Tô Tinh Hà không lý đến việc y ngắt ngang, nói tiếp:

- Đồng môn với sư phụ chúng ta cả thảy là ba người, sư phụ đứng thứ hai,

thế nhưng võ công lão nhân gia giỏi hơn sư bá thành thử được làm chưởng môn. Về

sau thu ta và Đinh Xuân Thu làm đệ tử, sư phụ mới định ra qui củ, sở học của

người rất là đa tạp, ai muốn làm chưởng môn thì phải tỉ thí mọi môn, không riêng

gì võ nghệ, mà cả cầm kỳ thư họa. Đinh Xuân Thu không thông môn tạp học nào,

thấy không còn hi vọng gì chức vụ chưởng môn thành thử mới bất ngờ ra tay ám

toán đánh sư phụ rơi xuống vực sâu, lại đánh cả ta trọng thương.

Hư Trúc khi còn trong hầm nhà Tiết Mộ Hoa đã từng nghe câu chuyện này,

ngờ đâu bây giờ trách nhiệm lại đổ lên đầu mình gánh vác, trong bụng chỉ biết

than trời trách đất, thuận miệng đẩy đưa:

- Cũng may lúc đó Đinh thí chủ không giết tiền bối.

Tô Tinh Hà đáp:

- Ngươi đừng tưởng là y có bụng nhân từ mà cho ta sống sót. Một là khi đó

y không phá được trận ngũ hành bát quái, kỳ môn độn giáp ta bày ra; hai là ta bảo

với y: "Đinh Xuân Thu, ngươi ám toán sư phụ, võ công lại thắng cả ta, nhưng công

phu thâm áo nhất của phái Tiêu Dao, ngươi chưa biết tí gì. Bộ kinh thư Bắc Minh

Thần Công ngươi có muốn xem chăng? Khinh công Lăng Ba Vi Bộ, ngươi có muốnhọc chăng? Rồi Thiên Sơn Lục Dương Chưởng? Tiêu Dao Chiết Mai Thủ? Tiểu Vô

Tướng Công nữa?".

Đó đều là những công phu tối thượng thừa của bản phái, đến ngay cả sư phụ

chúng ta vì quá màng đến tạp học nên nhiều môn cũng chưa học đến. Đinh Xuân

Thu vừa nghe thấy thế, sung sướng đến run bắn người lên, nói: "Ngươi đem những

võ công bí cập đó giao ra, hôm nay ta tha mạng cho ngươi". Ta mới nói: "Ta làm

sao có được những bí cập đó được? Có điều nơi sư phụ cất dấu những quyển sách

đó thì ta biết. Ngươi muốn giết ta thì cứ ra tay đi". Đinh Xuân Thu đáp: "Bí cập dĩ

nhiên ở bên bờ biển Tinh Tú, chẳng lẽ ta không biết hay sao?". Ta đáp: "Đúng đó,

quả thực ở bên biển Tinh Tú. Ngươi có giỏi thì tự mình đi tìm đi". Y trầm ngâm

một hồi, biết rằng biển Tinh Tú chu vi mấy trăm dặm, mấy bộ bí cập nhỏ xíu đó

biết dấu nơi đâu, quả là khó mà tìm cho ra được, bèn nói: "Được, ta không giết

ngươi. Có điều từ rày trở đi, ngươi phải giả câm giả điếc, không được đem bí mật

của bản phái tiết lộ cho ai hay".

Tại sao y không giết ta? Y để ta sống sót vì còn mong ép buộc ta khai ra còn

nếu giết ta rồi, nơi bí mật tàng trữ những bí cập này trên đời không còn ai biết nữa.

Thực ra những võ công bí cập đó nào có phải ở bờ biển Tinh Tú đâu, mà phân tán

ra cho sư bá, sư phụ, sư thúc ba người.

Đinh Xuân Thu cứ tưởng ở bên bờ biển Tinh Tú, dường như lật hết mọi tảng

đá ở đó rồi nhưng nào có tìm thấy thần công bí cập? Mấy lần y đến tìm ta gây

chuyện, đều bị ta sắp xếp cơ quan, các loại phương thuật kỳ môn độn giáp ngăn

chặn được. Lần này y lại định hỏi nữa, nhưng thấy không hi vọng gì, mà ta lại phá

lời thề rồi, nên định giết ta cho hả tức.

Hư Trúc nói:

- Cũng may tiền bối ...

Tô Tinh Hà ngắt ngang:

- Sư đệ là chưởng môn bản phái, sao còn gọi ta tiền bối, phải gọi ta là sư ca

mới phải.

Hư Trúc nghĩ thầm: "Chuyện này quả là nhức đầu nhức óc, không biết đến

bao giờ mới nói rõ nguồn cơn được". Y bèn đáp:

- Tiên sinh có phải sư huynh của tiểu tăng hay không, tạm thời không đề

cập đến, mà dẫu có là sư huynh thật chăng nữa, thì cũng là "tiền bối".

Tô Tinh Hà gật đầu:- Nói thế cũng đúng. Vậy cũng may ta làm sao?

Hư Trúc đáp:

- Cũng may tiền bối hết sức nhẫn nhịn, dưỡng uy súc nhuệ đến lúc sinh tử

quan đầu mới đột nhiên phản kích trở lại, khiến cho Tinh Tú Lão Quái đại bại bỏ

chạy trối chết.

Tô Tinh Hà xua tay liên tiếp nói:

- Sư đệ, ngươi quả là không phải, rõ ràng ngươi dùng thần công sư tôn

truyền thụ ra tay trợ giúp ta, có thế mới cứu ta khỏi chết, sao lại khiêm tốn không

chịu nhận? Ta với ngươi là sư huynh đệ đồng môn, ngôi thứ đã định rồi, mạng ta

cũng do ngươi cứu, ta không bao giờ có ý định dòm ngó chức vụ chưởng môn. Từ

rày về sau ngươi không được khách sáo như thế nữa.

Hư Trúc chưng hửng hỏi lại:

- Tiểu tăng trợ giúp tiền bối hồi nào? Việc cứu mạng kia ở đâu mà ra mới

được chứ?

Tô Tinh Hà suy nghĩ một chút rồi nói:

- Cũng có thể ngươi vì vô tâm mà làm cũng không biết chừng. Nhưng dẫu

sao chăng nữa, khi bàn tay ngươi đặt lên lưng ta thì thần công bản môn truyền ra

giúp ta phản bại vi thắng.

Hư Trúc đáp:

- Ồ, thì ra là thế. Như vậy là sư phụ tiền bối cứu mạng chứ nào có phải tiểu

tăng đâu.

Tô Tinh Hà nói:

- Thì ta cũng bảo sư tôn mượn tay ngươi cứu ta, ngươi có nhận thế không

nào?

Hư Trúc không còn cách gì phủ nhận được, đành phải gật đầu:

- Cái đó cũng thuận theo nhân tình, không nhận cũng không xong, tiểu

tăng đành phải chịu.

Tô Tinh Hà nói tiếp:

- Khi đó nhân lúc xuất kỳ bất ý thần công của ngươi tung ra đánh Đinh

Xuân Thu, khiến y kinh hoảng bỏ chạy. Nếu như giao đấu thực sự hẳn hòi, hai

người mình hợp lực, cũng chưa phải là địch thủ của y đâu. Nếu không thì sư phụ

chỉ cần trút thần công vào người ta là đã có thể lấy mạng tên phản đồ đó, việc gìphải hao phí biết bao công sức đi tìm truyền nhân? Trong ba mươi năm qua, ta đã

bao lần thử đủ mọi cách, vẫn không sao tìm được người kế thừa võ công của sư

phụ. Đến khi ta thấy sư phụ ngày càng già yếu, việc kiếm truyền nhân càng thêm

khó khăn, phải là một trang thanh niên không những ngộ tính cực cao, mà còn phải

anh tuấn tiêu sái ...

Hư Trúc nghe ông ta đề cập đến "một trang thanh niên anh tuấn", hơi nhíu

mày nghĩ thầm: "Tu luyện võ công có liên quan gì đến xấu hay đẹp đâu? Hai thầy

trò cứ đề cập đến hình mạo kẻ truyền nhân, không hiểu vì lý do gì?". Tô Tinh Hà

đưa mắt đánh giá Hư Trúc, thở dài một tiếng. Hư Trúc nói:

- Tiểu tăng tướng mạo xấu xí, không thể nào đủ tư cách làm truyền nhân

của tôn sư. Lão tiền bối đi kiếm một thanh niên anh tuấn tiêu sái tới đây, tiểu tăng

đem thần công của tôn sư truyền lại cho y, thế là xong.

Tô Tinh Hà sững sờ nói:

- Thần công của bản phái đi liền với tâm mạch khí huyết, công còn người

còn, công mất người mất. Sư phụ truyền thần công cho ngươi xong liền cỡi hạc tiên

du, không lẽ ngươi không thấy hay sao?

Hư Trúc liên tiếp dậm chân nói:

- Thế thì biết làm sao đây? Tôi làm hỏng việc lớn của tôn sư và tiền bối

mất rồi.

Tô Tinh Hà nói:

- Sư đệ, gánh nặng đó giờ đây do ngươi đảm trách. Sư phụ sắp đặt bàn cờ

cốt để khảo sát ngộ tính những người đến phá giải. Bàn cờ Trân Lung đó quá ư

khó khăn, ta hết sức suy nghĩ mấy chục năm nhưng vẫn không sao giải được, chỉ có

sư đệ làm được chuyện đó. "Ngộ tâm kỳ cao" ấy là thế.

Hư Trúc gượng gạo cười:

- Việc ấy chẳng phù hợp chút nào. Bàn cờ Trân Lung, thực ra không phải

do tiểu tăng giải đâu.

Y liền đem chuyện sư bá tổ Huyền Nạn dùng truyền âm nhập mật, bí mật

chỉ điểm cho mình đi nước cờ như thế nào kể lại. Tô Tinh Hà bán tín bán nghi nói:

- Xem hình dạng Huyền Nạn đại sư dường như đã trúng phải độc thủ của

Đinh Xuân Thu, một thân thần công đã bị hóa tán hết rồi, không thể nào còn sử

dụng công phu truyền âm nhập mật được nữa.Ông ta ngừng lại một chút rồi tiếp:

- Thế nhưng phái Thiếu Lâm là võ học chính tông trong thiên hạ, Huyền

Nạn đại sư cố ý giả vờ không chừng, cái kiến thức "ếch ngồi đáy giếng" của ta

không biết được đâu. Sư đệ, ta sai người đem thư mời cao thủ trong thiên hạ đến

giải thế cờ Trân Lung, hễ ai thích đánh cờ, nghe tiếng có hội cờ này, thể nào cũng

mò đến. Có điều tuổi tác đã lớn, mặt mũi ... cái đó ... mặt mũi không tuấn nhã lắm,

hoặc không phải là người trong võ lâm thì ta không mời. Cô Tô Mộ Dung công tử

mặt như quan ngọc, võ kỹ trong thiên hạ môn nào cũng biết, vốn là người xứng

đáng hơn cả, ngờ đâu y lại không phá giải được.

Hư Trúc nói:

- Đúng thế, Mộ Dung công tử giỏi gấp trăm lần tiểu tăng. Lại còn một vị ở

họ Đoàn Đại Lý Đoàn công tử, cũng là người đẹp đẽ phong độ khác phàm.

Tô Tinh Hà nói:

- Ôi, chuyện này chẳng nên đề cập tới nữa. Ta từng nghe Trấn Nam Vương

Đoàn Chính Thuần nước Đại Lý tinh thông thần kỹ Nhất Dương Chỉ, lại là người

phong lưu khó gặp, trên giang hồ dù là gái còn son hay đã nạ dòng, hễ gặp y đều

thần hồn điên đảo, không sao cưỡng được. Ta đã sai mấy tên đệ tử đến Đại Lý

mời, ngờ đâu y không có ở đó, chẳng hiểu đi đâu, người đến lại là cậu ấm ngốc

nghếch ù ù cạc cạc.

Hư Trúc mỉm cười nói:

- Vị Đoàn công tử kia không chớp mắt, đăm đăm như dán vào người Vương

cô nương.

Tô Tinh Hà lắc đầu nói:

- Thật chán quá mất thôi! Đoàn Chính Thuần dập dìu ong bướm, đã được

gọi là kẻ phong lưu lãng tử số một trong võ lâm, đẻ được đứa con chẳng giống bố

lấy một li, thật vô tích sự, làm mất mặt phụ thân. Y chỉ chăm chăm lấy lòng Vương

cô nương, mà Vương cô nương thì có lý gì đến y đâu, trông thật lộn ruột.

Hư Trúc nói:

- Đoàn công tử một dạ thâm tình, còn hơn phong lưu lãng tử, tiền bối sao

lại bảo là "chán quá"?

Tô Tinh Hà đáp:- Cái thứ y chỉ là "dẻ cùi tốt mã", chẳng biết mánh lới gì với đàn bà con

gái, có dùng vào đâu được.

Hư Trúc nói:

- Quả thế!

Y trong bụng mừng thầm: "Thì ra các ông đi tìm một thanh niên đẹp trai để

đối phó với đàn bà con gái, thế thì tốt quá, chắc không thể nào lại kiếm một chú

tiểu xấu như ma là ta đâu". Tô Tinh Hà hỏi thêm:

- Sư đệ, sư phụ có bảo ngươi đi tìm một người hay không? Hay đưa cho

ngươi một địa đồ chẳng hạn?

Hư Trúc sững sờ, thấy việc mình đoán xem chừng không đúng, đang định

chối quanh nhưng y từ nhỏ được các nhà sư chùa Thiếu Lâm dạy dỗ, không được

nói láo, huống chi khi thụ giới tì khưu, vọng ngữ là một đại giới, nên đành ấp úng:

- Cái đó ... cái đó ...

Tô Tinh Hà nói:

- Ngươi là chưởng môn, ngươi hỏi gì ta không thể không trả lời, nếu không

có thể lập tức đem ta ra xử tử. Còn như ta hỏi ngươi điều gì, ngươi thích thì trả lời,

còn không thì có quyền bảo ta đừng lắm mồm hỏi lăng nhăng.

Nghe Tô Tinh Hà nói thế, Hư Trúc không tiện dấu xua tay liên tiếp nói:

- Tiểu tăng nào dám lên mặt kẻ cả với tiền bối? Tiền bối, sư phụ ông giao

cái này cho tôi đây.

Nói xong y lấy quyển trục trong bọc, thấy Tô Tinh Hà hơi rụt người lại, thần

sắc cực kỳ cung kính, không dám thò tay nhận nên đành tự mình mở ra.

Quyển trục trải ra rồi, hai người cùng ngơ ngẩn, không hẹn mà cùng "Ồ" lên

một tiếng. Thì ra trên quyển trục chẳng có bản đồ gì cả, cũng chẳng phải phong

cảnh núi non sông nước mà là một thiếu nữ xinh đẹp ăn mặc theo lối trong cung

vua. Hư Trúc nói:

- Hóa ra là Vương cô nương ở ngoài kia.

Thế nhưng lụa trên cuốn trục đó đã ố vàng, nét đan thanh trên bức tranh

cũng hơi bạc màu, hiển nhiên là một bức họa cũ kỹ, ít ra cũng ba bốn chục năm, so

với tuổi của Vương Ngữ Yên thì lớn hơn nhiều, nếu có người nào trước đấy mấy

chục năm, hay thậm chí cả trăm năm vẽ nên hình mạo nàng thì quả không sao ngờ

nổi. Nét bút vẽ trên đồ họa rất là kỹ lưỡng nhưng cũng hoạt bát sinh động, ngườitrong bức tranh tươi tắn như đang còn sống, tưởng chừng như thu nhỏ Vương Ngữ

Yên để vào trong tranh.

Hư Trúc tấm tắc, nhìn qua Tô Tinh Hà, thấy ông ta đưa ngón tay trỏ tô theo

từng nét trên bức tranh, suýt soa mãi rồi đột nhiên choàng tỉnh nói:

- Sư đệ đừng ngạc nhiên, cái máu đam mê của tiểu huynh lại nổi lên, vừa

thấy đan thanh diệu bút của sư phụ đã muốn học rồi. Ôi, ăn cho nhiều mà nhai

không kỹ, cái gì cũng học mà có nên cơm cháo gì đâu, để đến nỗi bị Đinh Xuân

Thu đánh cho chạy không kịp.

Ông vừa nói, vừa cuộn bức quyển trục lại, trả lại cho Hư Trúc, tưởng chừng

sợ mình coi thêm sẽ bị nét bút mực trong tranh mê hoặc. Ông nhắm mắt suy nghĩ

rồi lắc đầu như muốn xua đuổi những nét đan thanh đã in vào óc, một hồi sau mới

mở mắt ra nói:

- Khi sư phụ giao quyển trục này cho ngươi thì nói gì?

Hư Trúc đáp:

- Ông ta bảo là công phu của tiểu tăng lúc này chưa đủ sức tru diệt Đinh

Xuân Thu, nên phải theo cuốn trục này đi đến núi Vô Lượng nước Đại Lý để tìm

võ học điển tịch ông cất giữ năm xưa, học những công phu đó. Thế nhưng e rằng

tiểu tăng học không được nên phải đi nhờ một người khác chỉ điểm cho. Ông ta

bảo trên quyển trục này vẽ nơi ngày xưa ông hưởng thanh phúc3, tưởng là danh sơn

đại xuyên hay cảnh vật thanh u, có ngờ đâu lại chỉ là tiếu tượng của Vương cô

nương? Hay là ông ta đưa nhầm quyển trục khác?

Tô Tinh Hà đáp:

- Sư phụ hành sự người ta khó mà đoán định được, bao giờ đến việc ngươi

sẽ rõ. Ngươi nên tuân hành sư mệnh tìm cách đi học công phu cho giỏi để trừ Đinh

Xuân Thu.

Hư Trúc ngập ngừng đáp:

- Cái đó ... cái đó ... tiểu tăng là đệ tử Thiếu Lâm, phải trở về chùa phục

mệnh. Đến chùa rồi, từ nay thanh tu chăm lo tìm hiểu thiền lý, lễ Phật tụng kinh,

không ra ngoài nữa.

3 Tô Tinh Hà hoảng hốt, nhảy dựng lên khóc òa lên, nghe bịch một tiếng đã

quì trước mặt Hư Trúc, rập đầu như bổ củi nói:

- Chưởng môn không tuân theo giáo huấn của sư phụ, lão nhân gia có phải

chết uổng hay sao?

Hư Trúc cũng quì xuống đáp lễ nói:

- Tiểu tăng thân đã vào cửa không, giới sân giới sát, trước đây nhận lời tôn

sư đi trừ Đinh Xuân Thu, bây giờ nghĩ lại không ổn. Phái Thiếu Lâm môn qui

nghiêm nhặt, tiểu tăng không thể nào làm chuyện quấy quá, đổi qua phái khác

được.

Thế rồi dù cho Tô Tinh Hà khóc lóc van xin, dụ dỗ, thậm chí uy hiếp cưỡng

bức, Hư Trúc một mực khăng khăng không bằng lòng. Tô Tinh Hà không còn cách

nào khác, vừa đau lòng, vừa tuyệt vọng, quay sang thi thể sư phụ nói:

- Sư phụ ơi, chưởng môn nhân không chịu tuân hành di mệnh của thầy, tiểu

đồ không biết làm sao, thôi đành theo thầy về nơi chín suối.

Nói xong ông ta nhảy lên, đầu lộn xuống, chân chổng lên, từ trên không lao

vào nền đá xanh. Hư Trúc kinh hoảng kêu lên:

- Không được đâu!

Y liền ôm chặt lấy Tô Tinh Hà. Hư Trúc lúc này không những nội lực hồn

hậu mà tay chân cũng nhanh nhẹn lạ thường nên Tô Tinh Hà không sao cử động

được nữa. Tô Tinh Hà nói:

- Sao ngươi không để cho ta tự tận?

Hư Trúc đáp:

- Kẻ xuất gia lấy từ bi làm gốc, tôi không thể bất nhẫn nhìn ông táng

mạng.

Tô Tinh Hà nói:

- Ngươi bỏ ta ra, ta quyết ý không muốn sống nữa rồi.

Hư Trúc đáp:

- Tôi không bỏ.

Tô Tinh Hà hỏi lại:

- Không lẽ ngươi cứ ôm chặt ta mãi thế này không bao giờ buông ra?Hư Trúc nghĩ câu nói này quả không sai nên lật ngược ông ta lại để cho

thuận chiều đầu trên, chân dưới rồi thả ra nói:

- Được rồi, buông thì buông nhưng ông không được tự tận nữa.

Tô Tinh Hà chợt động tâm nói:

- Ngươi không cho ta tự tận ư? Được rồi, xin tuân hành hiệu lệnh của

chưởng môn nhân. Hay lắm, sau cùng ngươi cũng bằng lòng làm chưởng môn bản

phái.

Hư Trúc lắc đầu nói:

- Tôi nào có bằng lòng đâu. Ở đâu mà bảo là tôi bằng lòng?

Tô Tinh Hà cười ha hả nói:

- Chưởng môn nói rồi lại xí xóa đâu có xong. Ngươi vừa ra lệnh cho ta, ta

đã tuân theo rồi là từ nay không được tự tận. Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà là

hạng người nào? Trừ người chưởng môn bản phái ra, có ai dám ra lệnh cho ta đâu?

Ngươi không tin thì thử hỏi Huyền Nạn đại sư xem dẫu Huyền Từ phương trượng

của phái Thiếu Lâm cũng không ra lệnh bảo ta làm thế này thế khác được.

Lung Á lão nhân danh tiếng vang dậy trên giang hồ, trên đường đi Hư Trúc

đã từng nghe sư bá tổ Huyền Nạn nói qua rồi, Tô Tinh Hà bảo không ai dám ra

lệnh cho ông ta cũng không phải là nói ngoa. Hư Trúc nói:

- Tôi nào có dám bảo ông phải làm thế này thế khác, chỉ khuyên ông nên

coi trọng tính mạng đó là hảo ý đấy thôi.

Tô Tinh Hà đáp:

- Ta nào có dám hỏi chưởng môn có hảo ý hay ác ý đâu. Ngươi bảo ta chết,

ta lập tức chết ngay, ngươi bảo ta sống, ta không thể không sống. Cái lệnh sinh sát

đó là quyền bính đệ nhất trong thiên hạ, nếu ngươi không phải là chưởng môn của

ta thì làm sao có thể muốn bảo ta sống cũng được, bảo ta chết cũng được?

Hư Trúc cãi không lại đành nói:

- Nếu như thế thì cứ coi như tôi đã nói sai, xin rút lại vậy.

Tô Tinh Hà nói:

- Ngươi rút lại cái lệnh "không để ta tự tận" có nghĩa là bảo ta tự tận chứ

gì. Tuân lệnh, ta tự tận ngay lập tức.

Cái phép tự tận của ông ta cũng lạ lùng, lại nhảy lên, chúi đầu lao xuống

nền đá xanh. Hư Trúc vội vàng ôm chặt lấy ông ta nói:- Không phải thế, không phải thế! Ta nào có bảo ông tự tận đâu.

Tô Tinh Hà nói:

- Ồ, ngươi lại không cho ta tự tận. Xin kính cẩn tuân lệnh chưởng môn.

Hư Trúc bỏ ông ta ra, giơ tay gãi cái đầu trọc, không biết phải nói thế nào.

Tô Tinh Hà có biệt hiệu là Thông Biện tiên sinh, chuyện đó đâu phải nói không,

mà vốn dĩ là người giỏi biện bác, tuy ba mươi năm qua không nói năng gì, bây giờ

lại dùng đầu môi chót lưỡi, mồm miệng lại trơn như nước chảy, Hư Trúc tuổi còn

trẻ, tính tình chất phác, trước nay ở chùa có bao giờ gây gỗ cãi cọ với ai đâu, làm

sao có thể là đối thủ của Tô Tinh Hà được?

Hư Trúc trong lòng thấy mang mang việc "rút lại lời không cho ông ta tự

tận" dường như không phải là "bảo ông ta tự tận", còn "không để ông ta tự tận" thì

cũng đâu có phải là "không cho phép ông ta tự tận". Có điều Tô Tinh Hà mồm

miệng lanh lợi, câu nào cũng chặn trước, Hư Trúc không biết phải biện bạch thế

nào, chỉ đứng ngẩn ngơ một lát rồi thở dài:

- Tiền bối, ta cãi không lại ông nhưng ông bảo ta cải nhập quí phái thì

không thể nào được.

Tô Tinh Hà đáp:

- Khi mình vào đây, Huyền Nạn đại sư dặn ngươi những gì? Lời Huyền

Nạn đại sư đã dặn ngươi có tuân theo chăng?

Hư Trúc chưng hửng nói:

- Sư bá tổ dặn tiểu tăng ... dặn tiểu tăng ... phải nghe lời tiền bối.

Tô Tinh Hà cực kỳ đắc ý nói:

- Đúng đó, Huyền Nạn đại sư bảo ngươi phải nghe lời ta. Mà lời của ta là

gì, là bảo ngươi phải tuân theo di mệnh của sư phụ làm chưởng môn bản phái. Nếu

ngươi đã là chưởng môn phái Tiêu Dao rồi thì những lời của cao tăng chùa Thiếu

Lâm đâu có còn phải để ý đến nữa. Thành ra, nếu ngươi tuân theo lời của Huyền

Nạn đại sư thì phải làm chưởng môn phái Tiêu Dao, còn như ngươi không theo lời

của Huyền Nạn đại sư, thì cũng vẫn là chưởng môn phái Tiêu Dao. Nếu như ngươi

có làm chưởng môn phái Tiêu Dao thì mới coi lời Huyền Nạn đại sư gác bỏ ngoài

tai được, bằng không, ngươi sao có thể không nghe lời sư bá tổ được?

Luận chứng này, câu nào Hư Trúc nghe thấy cũng có lý, nên không biết phải

trả lời ra sao. Tô Tinh Hà lại tiếp:- Sư đệ, Huyền Nạn đại sư và mấy vị hòa thượng Thiếu Lâm ở ngoài kia,

đều trúng phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, nếu không cứu chữa, tính mệnh chỉ

trong sớm tối. Trong đời nay, chỉ có một người cứu được họ mà thôi, mà cứu hay

không cứu cũng toàn tùy thuộc vào ý của ngươi đó.

Hư Trúc nói:

- Sư bá tổ của tiểu tăng quả đúng là bị độc thủ của Đinh Xuân Thu, các vị

sư bá sư thúc khác cũng thụ thương, có điều ... có điều tài nghệ tiểu tăng nông cạn,

làm sao cứu được họ?

Tô Tinh Hà mỉm cười nói:

- Sư đệ, bản môn trước nay không phải chỉ sở trường về võ học, mà cả về y

bốc tinh tướng, cầm kỳ thư họa, bao trùm các gia các phái. Ngươi có một gã sư điệt

là Tiết Mộ Hoa, y thuật chỉ mới biết chút vỏ bên ngoài, vậy mà giang hồ đã gọi y

là Tiết Thần Y, có cái ngoại hiệu là Diêm Vương Địch, thật có phải tức cười muốn

trẹo quai hàm hay sao? Huyền Nạn đại sư trúng phải Hóa Công Đại Pháp của Đinh

Xuân Thu, nhà sư mặt vuông thì bị trúng phải Băng Tàm Chưởng của gã mặt sắt,

còn sư phụ cao cao gầy gầy thì bị Đinh Xuân Thu đá trúng hông dưới mạng sườn

ba tấc, bị thương kinh mạch ...

Tô Tinh Hà thao thao bất tuyệt, thương thế và nguyên do từng người nói ra

rõ ràng. Hư Trúc cực kỳ bội phục nói:

- Tôi thấy tiền bối chỉ chăm chú vào bàn cờ, không nhìn đến ai, cũng

chẳng chẩn bệnh người nào, sao lại biết rõ như thế?

Tô Tinh Hà đáp:

- Trong võ lâm giao đấu bị thương, nhìn qua là biết thật dễ dàng. Chỉ có

bệnh do trời đất tự nhiên, hư nhược phong tà, thương hàn nóng sốt, cái đó mới khó

chẩn đoán. Sư đệ, ngươi mang trong người hơn bảy mươi năm Tiêu Dao thần công

của sư phụ, dùng nó trị bệnh liệu thương, thật không gì bằng. Nếu muốn khôi phục

công phu bị tiêu hao của Huyền Nạn đại sư, quả không phải dễ, thế nhưng muốn

bảo toàn tính mạng thì chỉ giơ tay là xong.

Nói rồi dạy cho Hư Trúc phép nắn huyệt vận khí, tiêu giải hàn độc, lại chỉ

dẫn rõ ràng muốn cứu Huyền Nạn thì dùng thủ pháp gì, cứu Phong Ba Ác thì dùng

thủ pháp gì, mỗi phép trị một lối bị thương khác nhau.Hư Trúc ghi nhớ kỹ các thủ pháp Tô Tinh Hà dạy cho mình nhưng chỉ mới

biết cách làm chứ chưa hiểu tại sao phải làm như thế. Tô Tinh Hà thấy y đã rành

rọt không sai lầm gì nữa, mỉm cười khen ngợi:

- Trí nhớ của chưởng môn tốt lắm, học là biết ngay.

Hư Trúc thấy ông ta mỉm cười có vẻ ngụy bí, dường như có ý không tốt,

không khỏi nghi ngờ hỏi lại:

- Sao ông lại cười?

Tô Tinh Hà vội vàng nghiêm mặt, cung kính khom lưng:

- Tiểu huynh nào có dám cười, nếu có điều gì thất kính, mong chưởng môn

nhân tha tội cho.

Hư Trúc nóng ruột trị thương cho mọi người nên không hỏi thêm nói:

- Thôi mình ra ngoài xem sao!

Tô Tinh Hà đáp:

- Vâng!

Ông ta liền đi theo Hư Trúc ra khỏi căn nhà. Chỉ thấy những người bị thương

ai nấy ngồi xếp bằng dưới đất, nhắm mắt dưỡng thần. Mộ Dung Phục tiềm vận nội

lực cố gắng làm giảm bớt nỗi đau đớn cho Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng, còn

Vương Ngữ Yên đang săn sóc cho Công Dã Can.

Tiết Mộ Hoa trán mồ hôi thành giọt, chạy tới chạy lui thấy người nào nguy

cấp thì cứu chữa nhưng người này vừa dịu lại thì bên kia đã có người kêu réo. Y

thấy Tô Tinh Hà đi ra cảm thấy yên dạ vội vàng chạy tới kêu lên:

- Sư phụ, xin lão nhân gia mau mau tìm cách cứu chữa cho họ.

Hư Trúc đi đến trước mặt Huyền Nạn thấy ông đang nhắm mắt vận công

liền thõng tay đứng chờ không dám mở miệng. Huyền Nạn chầm chậm mở mắt,

thở dài một tiếng nhè nhẹ nói:

- Sư bá tổ của ngươi vô năng, trúng phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, làm

thương tổn uy danh của bản phái, quả thật hổ thẹn vô cùng. Ngươi trở về bẩm cùng

phương trượng, nói là ta ... ta và sư thúc tổ Huyền Thống của ngươi không còn mặt

mũi nào về chùa nữa.

Hư Trúc từ trước tới giờ thấy vị sư bá tổ này lúc nào cũng đạo mạo trang

nghiêm, không giận mà vẫn có uy, xưa nay chưa dám nhìn thẳng vào ông, bây giờthấy ông ủ rũ, cái cảnh anh hùng mạt lộ trông thật thê lương, ông đã nói vậy hẳn là

đã định tìm con đường kết liễu đời mình nên vội vàng nói:

- Sư bá tổ, lão nhân gia cũng đừng nản lòng. Chúng ta là người học võ, cần

phải giữ cho lòng vô sân nộ, vô tranh cạnh, vô thắng bại, vô đắc thất ...

Y thuận miệng nói ra, đem những lời ngày thường sư phụ giáo huấn dạy lại

cho sư bá tổ, đến lúc nghĩ lại mới thấy lỡ lời vội vàng nín bặt nhưng cũng đã thốt

ra mấy câu rồi. Huyền Nạn mỉm cười, thở dài:

- Ngươi nói đúng lắm, thế nhưng sư bá tổ ngươi nội lực mất hết, năng lực

thiền định cũng không còn nữa.

Hư Trúc nói:

- Vâng! Vâng! Đồ tôn chẳng biết nặng nhẹ, nói năng láo lếu.

Vừa định ra tay trị thương cho ông ta, bỗng nhớ tới nụ cười ngụy bí của Tô

Tinh Hà, trong bụng kinh hãi: "Y dạy ta giơ chưởng lên đánh vào yếu huyệt trên

thiên linh cái sư bá tổ, biết đâu y cố ý hại người thì sao? Nếu như ta đánh xuống

rồi, sư bá tổ công lực đã mất trúng chưởng sẽ chết tươi thì biết làm sao?".

Huyền Nạn nói:

- Ngươi bẩm lại với phương trượng, bản tự sắp có đại nạn, phải hết sức

phòng bị. Trên đường đi ngươi phải cẩn thận, ngươi tính khí đôn hậu, trì giới và

thiền định hai đường không cần phải chăm lo quá, ngày sau công phu cốt ở chữ

"huệ", bốn quyển kinh Lăng Già phải cố sức nghiền ngẫm. Ôi, tiếc rằng sư bá tổ

không còn hơi sức đâu mà chỉ điểm cho ngươi được nữa.

Hư Trúc vội đáp:

- Vâng! Vâng!

Y thấy ông đối với mình quan hoài như thế, trong lòng cảm kích lại tiếp:

- Sư bá tổ, nếu như bản tự có đại nạn thì xin lão nhân gia bảo trọng thân

thể để còn về chùa hiệp lực với phương trượng chống với đại địch.

Huyền Nạn gượng cười chua xót nói:

- Ta ... ta trúng phải Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu đã trở thành

người tàn phế mất rồi, làm sao còn hiệp trợ phương trượng, cùng chống đại địch

được nữa?

Hư Trúc nói:- Sư bá tổ, Thông Biện tiên sinh dạy cho đệ tử một cách trị liệu thương thế,

đệ tử không lượng sức mình, định thử chữa cho Tuệ Phương sư bá, xin sư bá tổ cho

phép.

Huyền Nạn hơi ngạc nhiên, nghĩ thầm Lung Á lão nhân là sư phụ của Tiết

Thần Y, chắc hẳn truyền cho y phương pháp liệu thương phải đúng cách, không

hiểu sao ông không ra tay cũng chẳng bảo Tiết Mộ Hoa chữa trị bèn nói:

- Thông Biện tiên sinh đã dạy thì thể nào cũng cực kỳ cao minh rồi.

Ông nói xong đưa mắt nhìn Tô Tinh Hà rồi nói với Hư Trúc:

- Vậy ngươi cứ theo thế mà làm đi.

Hư Trúc đến trước mặt Tuệ Phương khom lưng nói:

- Sư bá, đệ tử phụng pháp dụ của sư bá tổ đến trị thương cho sư bá, có đắc

tội xin đừng trách.

Tuệ Phương mỉm cười gật đầu. Hư Trúc làm đúng như Tô Tinh Hà đã dạy, sờ

kỹ bộ vị dưới hông bên trái, tay phải vung chưởng đánh ra, đánh vào ngay bên

dưới mạng sườn. Tuệ Phương hự lên một tiếng, thân hình lảo đảo, thấy ngang lưng

mình như có đục một cái lỗ hổng, bao nhiêu máu huyết tinh khí trong người cuồn

cuộn theo cái lỗ đó mà chảy ra, chỉ trong giây lát người thấy trống rỗng, không còn

gì cả nhưng bao nhiêu đau đớn ngứa ngáy do Hàn Băng độc chưởng của Du Thản

Chi cũng vì thế mà tiêu trừ.

Cách chữa của Hư Trúc không phải là dùng nội lực giúp ông ta đối phó với

hàn độc, mà là dùng Bắc Minh chân khí trên bảy mươi năm đánh vào mạng sườn

ông ta, mở một lối thoát cho khí độc tuôn ra, chẳng khác gì người ta bị rắn cắn phải

rạch vết thương cho rộng để nọc độc chảy ra ngoài.

Có điều môn Khí Đao Cát Thể 4 này, bộ vị không thể sai đã đành mà nếu

chân khí nội lực không đủ, đánh không ngấm tới kinh mạch thì độc khí đã không

chảy ra, ngược lại còn dồn vào tạng phủ, bệnh nhân sẽ chết ngay lập tức.

Hư Trúc đánh ra một chưởng rồi, trong lòng hoang mang không biết ra sao,

thấy Tuệ Phương lắc lư nhưng rồi lại vững vàng, nét mặt nhăn nhó chau mày đau

đớn lúc trước dần dần dãn ra tỏ vẻ thoải mái, tuy chỉ trong giây lát nhưng trong

lòng y tưởng như dài đằng đẵng đến mấy giờ. Thêm một hồi nữa, Tuệ Phương thở

ra một hơi, mỉm cười nói:

4 - Hảo sư điệt, lực đạo của chưởng vừa rồi không phải nhỏ.

Hư Trúc mừng lắm vội đáp:

- Không dám.

Y quay lại nói với Huyền Nạn:

- Sư bá tổ, những vị sư bá sư thúc còn lại, đệ tử cũng muốn thử chữa xem

sao, liệu có được không?

Huyền Nạn lúc này mặt tươi như hoa nhưng lại lắc đầu:

- Không nên, ngươi trị cho các vị tiền bối khác trước rồi sau hãy chữa cho

người của mình.

Hư Trúc hơi hoảng sợ vội đáp:

- Vâng!

Y nghĩ thầm: "Người trước, ta sau chính là tấm lòng đại từ đại bi của nhà

Phật lúc nào cũng mong mỏi việc cứu độ chúng sinh". Hư Trúc thấy Bao Bất Đồng

đang run lẩy bẩy, răng đập vào nhau kêu lách cách, lập tức đến trước mặt ông ta

nói:

- Bao tam tiên sinh, Thông Biện tiên sinh dạy tiểu tăng phép trị hàn độc,

hôm nay mới học lần đầu, tuy chưa tinh thục nhưng cũng xin chữa thử cho tiên

sinh. Nếu có điều gì thất kính thì xin lượng thứ.

Nói xong đưa tay mò mò vào ngực Bao Bất Đồng. Bao Bất Đồng cười nói:

- Ngươi làm trò gì thế?

Hư Trúc giơ chưởng phải lên, nghe bình một tiếng đánh trúng ngay ngực ông

ta. Bao Bất Đồng nổi cáu liền chửi:

- Xú hòa ...

Chữ "thượng" chưa ra khỏi miệng, bỗng thấy hàn độc vốn dĩ luẩn quẩn trong

người bao lâu nay, theo nơi bị trúng chưởng trên ngực tuôn ra ào ạt, nên vội vàng

nín bặt, nuốt luôn chữ "thượng" vào bụng không dám chửi tiếp.

Hư Trúc chữa xong những người bị trúng băng tàm hàn độc rồi qua chữa cho

những người bị độc thủ của Đinh Xuân Thu. Những người đó, kẻ thì bị Hóa Công

Đại Pháp tiêu hủy công lực, Hư Trúc chỉ đánh một chưởng vào huyệt Bách Hội

trên thiên linh cái hay tại huyệt Linh Đài trên ngực để vun gốc bón nguồn, kẻ bị

nội lực đả thương thì Hư Trúc dùng ngón tay ấn vào huyệt, hóa giải nội lực phái

Tinh Tú. Được cái y trí nhớ thật tốt, bao nhiêu phương pháp chữa trị Tô Tinh Hàdạy cho đều thuộc lòng, cứ thế mà làm, chỉ trong khoảng một bữa ăn đã giải trừ

hết bao nhiêu đau khổ cho mọi người.

Tiêu dao tự tại một thân,

Chẳng ai ước thúc bó chân ra vào.

*

* *

Người được chữa dĩ nhiên vô vàn cảm kích đã đành, người đứng ngoài cũng

hết sức bội phục tài Lung Á lão nhân nhưng nghĩ lại ông ta là thầy của Tiết Thần

Y nên cũng không lấy gì làm lạ.

Sau cùng Hư Trúc đi đến trước mặt Huyền Nạn khom lưng nói:

- Sư bá tổ, đệ tử làm liều một phen, muốn đánh vào huyệt Bách Hội của sư

bá tổ.

Huyền Nạn mỉm cười đáp:

- Ngươi được lọt vào mắt xanh của Thông Biện tiên sinh, học được tài nghệ

xảo diệu để chữa bệnh, quả là phúc duyên không nhỏ, cứ việc đánh vào huyệt

Bách Hội của ta đi.

Hư Trúc khom lưng đáp:

- Nếu như thế đệ tử đành mạo muội.

Khi y còn ở trong chùa Thiếu Lâm, mỗi khi gặp Huyền Nạn đều phải đứng

xa xa mà nhìn, thỉnh thoảng Huyền Nạn tụ tập tăng chúng, giảng giải tâm pháp võ

công, Hư Trúc chỉ đứng theo địa vị mà nghe, chưa bao giờ được cùng ông nói

chuyện, lần này lại giơ tay đánh lên đầu ông ta, tuy nói là để trị thương, trong bụng

không khỏi phập phồng, thấy nụ cười của ông ta trông có vẻ lạ lùng, không hiểu

có ý gì, bèn cố gắng định thần nói thêm một câu:

- Đệ tử mạo phạm, xin sư bá tổ thứ tội cho.

Y nói xong tiến lên một bước, giơ chưởng nhắm thẳng huyệt Bách Hội của

Huyền Nạn, không nặng không nhẹ, chẳng chậm chẳng nhanh đánh xuống.

Chưởng của Hư Trúc vừa đánh xuống đầu Huyền Nạn, nét mặt Huyền Nạn đột

nhiên lộ một nụ cười quái đản, chỉ kêu lên một tiếng dài, đột nhiên người sụm

xuống, dãy dụa mấy cái, nằm gục xuống đất không động đậy gì nữa.

Những người đứng xem ai nấy kinh hoảng kêu ầm lên, Hư Trúc cũng sợ đến

tim đập thình thình, vội vàng xông lên, đỡ Huyền Nạn dậy, Huyền Phương cũng

chư tăng cũng ùa đến. Nhìn lại Huyền Nạn thấy ông mặt vẫn mỉm cười nhưng

không còn thở nữa quả đã từ trần. Hư Trúc kinh hãi kêu lên:

- Sư bá tổ! Sư bá tổ! Sao thế này?

Đột nhiên nghe Tô Tinh Hà kêu lên:- Ai đó? Đứng lại!

Ông ta từ phía đông nam chạy lên nói:

- Có người đứng đằng sau ám toán nhưng thân pháp y nhanh quá, không

nhìn rõ là ai!

Ông giơ tay bắt mạch Huyền Nạn chau mày:

- Huyền Nạn đại sư công lực mất hết rồi, bị người ta đứng bên ám toán,

không có sức kháng cự nên đã viên tịch.

Đột nhiên ông ta nở một nụ cười thần sắc cổ quái. Đầu óc Hư Trúc lúc này

cực kỳ hỗn loạn, chỉ biết vừa khóc vừa kêu:

- Sư bá tổ! Sư bá tổ! Sao ... sao ... lão nhân gia lại ...

Bỗng y nhớ tới nụ cười thần bí của Tô Tinh Hà khi ở trong căn nhà gỗ, giận

dữ hỏi:

- Thông Biện tiên sinh, ông nói thực cho ta nghe, vì cớ gì mà sư bá tổ của

ta lại chết? Có phải do ông có ý hãm hại chăng?

Tô Tinh Hà lập tức hai gối quì xuống nói:

- Khải bẩm chưởng môn nhân, Tô Tinh Hà này quyết không dám đẩy

chưởng môn nhân làm điều bất nghĩa. Huyền Nạn đại sư đột nhiên viên tịch, nhất

định có người lén lút gia hại.

Hư Trúc vặn thêm:

- Thế tại sao ở trong căn nhà gỗ ông lại cười một cách kỳ quặc, thế là vì cớ

gì?

Tô Tinh Hà kinh hoảng đáp:

- Ta cười ư? Ta cười ư? Chưởng môn nhân phải hết sức cẩn thận, có người

...

Câu nói chưa dứt ông ta bất thần ngừng bặt, trên mặt lại lộ một nụ cười thần

bí. Tiết Mộ Hoa kêu rống lên:

- Sư phụ!

Ông ta vội móc trong túi ra một bình thuốc giải độc, lấy ra ba viên nhét vào

mồm Tô Tinh Hà. Thế nhưng Tô Tinh Hà đã tắt hơi, giải độc hoàn nằm ở trong

miệng nhưng không nuốt xuống được. Tiết Mộ Hoa khóc òa lên:- Sư phụ bị Đinh Xuân Thu hạ độc chết mất rồi, tên ác tặc Đinh Xuân Thu

...

Tới đây tiếng y nghẹn ngào không ra tiếng nữa. Khang Quảng Lăng chen

lên trước mặt Tô Tinh Hà, Tiết Mộ Hoa vội vàng nắm lưng ông ta kéo lại khóc

nói:

- Trên thân thể sư phụ có chất độc.

Phạm Bách Linh, Cẩu Độc, Ngô lãnh quân, Phùng A Tam, Lý Khổi Lỗi,

Thạch Thanh Lộ đứng bên cạnh Tô Tinh Hà không ai là không vừa tức tối, vừa bi

thương. Khang Quảng Lăng theo học Tô Tinh Hà đã lâu, biết rõ qui củ bản môn,

lúc thấy sư phụ quì trước mặt Hư Trúc, miệng gọi "chưởng môn nhân", đã đoán

được tám chín phần, bây giờ chú ý nhìn vào bàn tay y thấy Hư Trúc đeo chiếc nhẫn

bảo thạch liền nói:

- Các vị sư đệ cùng ta tham kiến tân nhiệm chưởng môn sư thúc của bản

phái.

Nói xong quì xuống trước mặt Hư Trúc khấu đầu mấy lần. Bọn Phạm Bách

Linh sửng sốt nhưng rồi hiểu ra ngay, ai nấy đều quì lạy. Hư Trúc ruột rối như tơ

vò nói:

- Đinh ... Đinh Xuân Thu tên gian tặc thí chủ, giết chết sư bá tổ của ta, lại

hại cả sư phụ các vị.

Khang Quảng Lăng đáp:

- Tru diệt kẻ gian để báo thù toàn do chưởng môn sư thúc chủ trì lo liệu

cho.

Hư Trúc vốn chỉ là một chút tiểu chưa từng từng trải việc đời, cả võ công lẫn

kiến thức, cả danh vị lẫn tiếng tăm những người trước mặt ai ai cũng hơn y nhiều,

trong bụng ý niệm quay cuồng: "Không thể không báo thù cho sư bá tổ, không thể

không báo thù cho Thông Biện tiên sinh, không thể không báo thù cho lão tiền bối

trong ngôi nhà gỗ". Y miệng kêu lên thành tiếng:

- Không thể không giết Đinh Xuân Thu ... tên ác tặc Đinh Xuân Thu ... tên

ác tặc thí chủ.

Khang Quảng Lăng lại rập đầu thêm vài lần nữa nói:

- Chưởng môn sư thúc bằng lòng lo việc diệt trừ gian tặc, vì sư phụ chúng

tôi báo thù, bọn sư điệt thâm cảm đại ân đại đức của sư thúc.Bọn Phạm Bách Linh, Tiết Mộ Hoa cũng đều khấu đầu, Hư Trúc vội vàng

quì xuống hoàn lễ nói:

- Không dám! Không dám! Mời các vị đứng lên.

Khang Quảng Lăng nói:

- Sư thúc, tiểu điệt có chuyện cần bẩm báo nhưng nơi đây đông người bất

tiện, xin vào trong nhà chỉ một mình tiểu điệt trình bày cho sư thúc nghe.

Hư Trúc đáp:

- Được!

Y liền đứng lên, mọi người tất cả cùng đứng dậy theo. Hư Trúc đi theo

Khang Quảng Lăng đang toan đi vào trong căn nhà gỗ, Phạm Bách Linh bỗng nói:

- Hãy khoan, sư phụ bị Đinh lão tặc hạ thủ ngay trong nhà này, chưởng

môn sư thúc và đại sư huynh không nên tiến vào, lão tặc đó ngụy kế đa đoan, nên

phòng bị là hơn.

Khang Quảng Lăng gật đầu:

- Nói thế đúng lắm! Cái thân nghìn vàng của chưởng môn sư thúc không

nên mạo hiểm làm gì.

Tiết Mộ Hoa nói:

- Hai vị đứng đây nói chuyện cũng được. Chúng tôi ra bốn bề canh chừng

để đề phòng lão tặc có ngụy kế gì khác chăng?

Nói xong chính mình đi ra trước, những người còn lại Phùng A Tam, Ngô

lãnh quân cả bọn cũng đi ra ngoài mười trượng. Thực ra trong đám đó trừ Tiết Mộ

Hoa ra, những người khác nếu không công lực tiêu tan thì cũng bị trọng thương,

nếu quả Đinh Xuân Thu đến tập kích, ngoài việc kêu la cảnh cáo không còn chút

hơi sức nào mà phòng ngự cả.

Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên cùng những người khác thấy thầy trò bọn

họ bàn chuyện riêng của môn phái nên cũng lảng ra xa. Còn bọn Cưu Ma Trí,

Đoàn Diên Khánh thấy chuyện lạ lùng nhưng việc không liên can gì đến mình nên

cũng lần lượt đi khỏi.

Khang Quảng Lăng nói:

- Sư thúc ...

Hư Trúc chặn lại:- Ta không phải là sư thúc của ông, cũng chẳng phải chưởng môn nhân của

các ông gì đó, ta là sư chùa Thiếu Lâm, cùng với phái Tiêu Dao không có liên hệ

gì cả.

Khang Quảng Lăng đáp:

- Sao sư thúc lại không nhận? Cái tên phái Tiêu Dao, nếu không phải

người trong bản môn thì không thể để cho người ngoài nghe thấy được. Nếu ai đó

vô tình hữu ý mà lọt vào tai, qui củ của bản môn là phải giết ngay bịt miệng, dù

phải đuổi theo đến tận chân trời góc biển cũng không tha.

Hư Trúc nghe thế nổi da gà, nghĩ thầm: "Cái qui củ đó quả là tà môn. Nếu

như thế, nếu ta không chịu đầu nhập môn phái của bọn họ, bọn chúng liền giết ta

ngay hay sao?".

Khang Quảng Lăng lại tiếp:

- Sư thúc mới đây trị thương cho mọi người, chính là nội công đích truyền

của bản phái. Việc sư thúc đầu nhập bản phái ra sao, được thái sư phụ tâm truyền

thế nào, tiểu điệt không dám hỏi tới. Cũng có thể là vì sư thúc phá giải được thế cờ

Trân Lung nên sư phụ chúng tôi tuân theo di mệnh của thái sư phụ, thay thầy thu

nhận làm đệ tử và truyền chức vụ chưởng môn chăng, điều đó cũng không biết

nữa. Nói tóm lại, chiếc nhẫn Tiêu Dao Thần Tiên của bản phái đã đeo trên tay sư

thúc rồi, gia sư lúc lâm tử lại khấu đầu trước sư thúc, gọi sư thúc là "chưởng môn

nhân" thì sư thúc không nên từ chối nữa. Đưa qua đẩy lại, chối lên chối xuống

cũng không đâu vào đâu cả.

Hư Trúc đưa mắt nhìn hai bên, thấy bọn Tuệ Phương đang vây quanh thi thể

Huyền Nạn, nhìn qua bên kia thấy xác Tô Tinh Hà vẫn còn quì sừng sững dưới đất,

trên mặt nở một nụ cười thần bí, trong lòng chua xót nói:

- Chuyện này nói một lúc không hết được, hiện nay sư bá tổ của ta chết

rồi, chẳng biết phải làm sao đây, lão tiền bối ...

Y vừa mới nói đến đây, Khang Quảng Lăng lại quì mọp xuống. Hư Trúc vội

nói:

- Ấy chết ta quên, không nên gọi ông như thế. Mau đứng lên đi!

Y lấy quyển trục ông lão đưa cho mở ra nói:

- Sư phụ ngươi bảo ta theo quyển trục này tìm cách học võ công để đi tru

diệt Đinh thí chủ.Khang Quảng Lăng liếc qua hình người đàn bà ăn mặc theo lối cung trang,

lắc đầu nói:

- Tiểu điệt không biết sự tình bên trong thế nào, sư thúc nên cất giữ cho kỹ

đừng để người ngoài trông thấy. Nếu khi sư phụ tiểu điệt lúc sinh tiền có nói thế,

xin sư thúc nể mặt người theo đúng lời dặn mà hành sự. Tiểu điệt muốn bẩm lại

cho sư thúc hay, thứ thuốc độc gia sư bị trúng phải gọi là Tam Tiếu Tiêu Dao Tán.

Chất độc này vô hình, một khi trúng rồi, trên mặt hiện ra một nụ cười quái lạ,

người trúng độc không hề hay biết gì cả, cười như thế đến lần thứ ba là tắt thở chết

ngay.

Hư Trúc cúi đầu nói:

- Nói ra thật hổ thẹn, khi tôn sư vừa bị trúng độc trên mặt lộ một nụ cười

kỳ lạ, ta lại có cái bụng tiểu nhân đoán sằng nghĩ bậy tưởng rằng tôn sư không có

thiện ý, nếu như lúc đó thành thực hỏi ngay, lập tức cứu chữa thì đâu có đến nỗi

như thế này.

Khang Quảng Lăng lắc đầu:

- Cái món Tam Tiếu Tiêu Dao Tán trúng phải rồi thì khó mà cứu giải. Một

trong những nguyên nhân Đinh lão tặc sở dĩ hoành hành giang hồ không úy kỵ ai

cả cũng vì có môn thuốc độc này. Người ta chỉ biết đến Hóa Công Đại Pháp của

lão ta cũng chỉ vì người bị trúng phải yêu pháp tuy công lực mất hết nhưng mạng

vẫn còn nên đi loan truyền được, còn người trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán thì

chết rồi là hết.

Hư Trúc gật đầu:

- Môn đó quả tàn độc thật. Khi đó ta cũng đứng ở bên cạnh tôn sư, vậy mà

không sao phát giác được Đinh Xuân Thu hạ thủ cách nào. Ta võ công tầm thường,

kiến thức nông cạn thì đã hẳn rồi nhưng sao Đinh Xuân Thu không ra tay giết ta,

lại để cho ta sống sót?

Khang Quảng Lăng đáp:

- Chắc là y thấy sư thúc tài nghệ kém cỏi, không thèm hạ độc. Chưởng

môn sư thúc, tiểu điệt xem chừng sư thúc tuổi còn nhỏ, làm gì có được bao nhiêu

bản lãnh? Phương pháp trị thương giải độc tuy hay thật đấy nhưng cũng là do gia sư

dạy cho, xem ra cũng chẳng là bao nên Đinh Xuân Thu chẳng coi vào đâu.

Y nói tới đây chợt nghĩ lại mình nói huỵch toẹt ra như vậy không khỏi trắng

trợn vội vàng chữa:- Chưởng môn sư thúc, tiểu điệt nói thế là tình thực, xin sư thúc đừng phật

lòng, thế nhưng nếu như sư thúc bỏ qua cho thì cũng nói thêm rằng võ công sư thúc

xem chừng chẳng lấy gì làm cao minh.

Hư Trúc đáp:

- Ngươi nói mọi việc đúng lắm, võ công ta thật là thấp kém, Đinh lão tặc ...

ấy, chết thật, tội quá, tiểu tăng buông lời dữ, phạm vào "ác khẩu giới" mất rồi,

không đáng là đệ tử nhà Phật ... gã Đinh Xuân Thu Đinh thí chủ chẳng thèm giết ta

làm chi.

Hư Trúc tâm địa chất phác, còn Khang Quảng Lăng thì không thông chuyện

đời nên cả hai đều không nghĩ ra, Đinh Xuân Thu lẻn được vào trong căn nhà gỗ,

vừa đúng lúc nghe Tô Tinh Hà trình bày những phương pháp trị thương liệu độc, lẽ

nào lại không có ý ám toán Hư Trúc? Cũng nào có phải vì y thấy Hư Trúc võ công

kém cỏi mà tha không giết bao giờ? Môn Tam Tiếu Tiêu Dao Tán phải dùng nội

lực đẩy chất độc ra, bắn vào người đối phương, khi Đinh Xuân Thu ở trong căn nhà

gỗ, chia hai đằng bắn vào Tô Tinh Hà và Hư Trúc, sau đó cũng dùng cách này giết

hại Huyền Nạn.

Tô Tinh Hà sau khi ác chiến uể oải không còn hơi sức đâu nữa còn Huyền

Nạn nội lực mất hết rồi nên đều trúng độc. Riêng Hư Trúc vì có được hơn bảy

mươi năm thần công của phái Tiêu Dao nên nội lực của Đinh Xuân Thu vừa chạm

vào người đã bị phản kích trở lại, bao nhiêu chất độc chạy qua người Tô Tinh Hà

cả, còn mình thì không bị nhiễm chút nào.

Đinh Xuân Thu mỗi khi chính diện đấu với ai không dám sử dụng Tam Tiếu

Tiêu Dao Tán, sợ rằng đối phương nội lực hồn hậu, chất độc lại bắn ngược vào

mình.

Khang Quảng Lăng nói:

- Sư thúc, việc này sư thúc sai quấy hết sức. Phái Tiêu Dao không Phật mà

cũng không Lão, muốn đi đâu thì đi, có phải sung sướng chăng? Sư thúc là chưởng

môn bản phái, trong thiên hạ còn ai quản thúc gì được nữa? Ông mau mau cởi áo

cà sa ra, để tóc dài, lấy mười bảy mười tám cô vợ, việc quái gì mà phải cửa Phật

với lại không cửa Phật, ác khẩu giới với chẳng thiện khẩu giới?

Ông ta cứ nói một câu, Hư Trúc lại giật mình niệm "A Di Đà Phật" đợi khi

nói xong mới đáp:- Ở trước mặt ta chớ có nên nói những lời bổ báng nhà Phật như thế. Ngươi

bảo có việc muốn nói với ta, thế là việc gì?

Khang Quảng Lăng đáp:

- Ối chao, sư thúc xem tôi quả là hồ đồ, nói chuyện hồi lâu vẫn chưa vào

câu chuyện chính. Chưởng môn sư thúc, sau này khi ông tuổi lớn rồi, chớ có bao

giờ đi theo học những tật xấu của bọn tôi. Ấy chết, ấy chết, lại nói dông nói dài,

lạc đề nữa rồi, thất đáng chết. Chưởng môn sư thúc, tôi yêu cầu sư thúc một

chuyện lớn, xin sư thúc nghĩ lại cho.

Hư Trúc đáp:

- Chuyện gì mà phải cần đến tôi chấp nhận, quả không dám.

Khang Quảng Lăng nói:

- Ôi, chuyện đại sự của bản môn, nếu không xin chưởng môn bằng lòng thì

còn cầu ai? Anh em chúng tôi tám người, năm xưa bị sư phụ đuổi ra khỏi môn phái,

nhưng nào có phải vì chúng tôi phạm tội gì đâu, mà vì sư phụ sợ Đinh lão tặc gia

hại, lại không nỡ chọc tai cắt lưỡi chúng tôi nên mới phải đánh bài hạ sách đó.

Đến nay sư phụ đã quyết ý cho chúng tôi trở lại môn phái, có điều chưa bẩm với

chưởng môn, cũng chưa làm đại lễ nên chưa thể chính thức coi là đệ tử thành thử

xin chưởng môn kim ngôn đồng ý. Nếu không tám anh em chúng tôi cho đến chết

cũng vẫn không môn không phái, lang thang cô hồn dã quỉ, trong võ lâm không

sao ngóc đầu lên được, thật khổ sở biết chừng nào.

Hư Trúc nghĩ thầm: "Cái vụ chưởng môn nhân phái Tiêu Dao này ta nhất

quyết không thể nhận được, thế nhưng nếu không đáp lời y, lão già này cứ lầy

nhầy cù cưa, không biết đến bao giờ, chi bằng cứ bằng lòng trước rồi tính sau". Y

bèn nói:

- Tôn sư nếu đã đồng ý cho các ngươi trùng liệt môn tường thì đương nhiên

đã trở lại môn phái rồi, còn lo gì nữa?

Khang Quảng Lăng mừng rỡ, quay lại kêu to:

- Sư đệ, sư muội, chưởng môn sư thúc đã bằng lòng cho chúng ta trở lại sư

môn rồi.

Bảy người còn lại trong Hàm Cốc bát hữu nghe thấy thế, ai nấy vui mừng,

lập tức người thứ hai mê cờ Phạm Bách Linh, thứ ba đồ gàn Cẩu Độc, thứ tư danh

thủ vẽ vời Ngô lãnh quân, thứ năm Diêm Vương Địch Tiết Mộ Hoa, thứ sáu thợ

khéo Phùng A Tam, thứ bảy thiếu phụ giỏi trồng hoa Thạch Thanh Lộ, thứ támthích hát xướng đóng tuồng Lý Khổi Lỗi, tất cả cùng chạy lại chắp tay cảm tạ

chưởng môn sư thúc, nghĩ đến sư phụ không chính mắt trông thấy tám người trở lại

sư môn, ai nấy ngậm ngùi nhỏ nước mắt.

Hư Trúc vô cùng sượng sùng, thấy mỗi việc lại làm cho cái danh vị "chưởng

môn sư thúc" lún sâu thêm một chút, như đóng đinh vào chân càng lúc càng khó

thoát thân. Mình đang là đệ tử Thiếu Lâm danh môn chính phái, bỗng dưng đi làm

chưởng môn một thứ tà ma ngoại đạo gì đó chẳng phải là cực kỳ vô lý hay sao?

Trước mắt thấy bọn Phạm Bách Linh ai nấy vui mừng đến phát khóc, nếu mình lại

đưa lời dị nghị việc làm "chưởng môn nhân" thì chỉ làm họ mất mặt, không biết

sao hơn đành phải lắc đầu cười gượng.

Y quay đầu lại, thấy bọn Mộ Dung Phục, Đoàn Diên Khánh, Đoàn Dự,

Vương Ngữ Yên, sáu nhà sư chữ Tuệ, đến cả thi thể Huyền Nạn cũng không còn

một ai, trong khu rừng tùng nơi đỉnh núi chỉ còn lại chín người phái Tiêu Dao, bèn

hoảng hốt:

- Ủa, bọ họ đi đâu hết cả rồi?

Ngô lãnh quân đáp:

- Mộ Dung công tử và các cao tăng phái Thiếu Lâm thấy chúng ta đàm

luận không dứt nên đã tự ý bỏ đi rồi.

Hư Trúc kêu lên:

- Ôi chao!

Lập tức đuổi theo bọn Tuệ Phương để cùng trở lại chùa bẩm lại cho phương

trượng và thụ nghiệp sư phụ, trong bụng cảm thấy "quả là may quá", tiện dịp thoát

ra khỏi bọn người phái Tiêu Dao đang níu kéo.

Y rượt theo đến nửa giờ, càng chạy càng nhanh nhưng không thấy sáu nhà sư

chữ Tuệ đâu. Y đã được ông lão phái Tiêu Dao truyền cho hơn bảy mươi năm thần

công nên chạy nhanh như gió còn hơn cả tuấn mã nên vừa hạ sơn đã vượt qua

những nhà sư Thiếu Lâm rồi. Thế nhưng Hư Trúc lại tưởng bọn Tuệ Phương vẫn

còn ở phía trước nên càng ra sức đuổi theo nào ngờ chỉ trong chớp mắt, ngay tại

khúc quẹo nơi thung lũng khuất nẻo nên không nhìn thấy sáu nhà sư, nhô lên hụp

xuống vài lần đã qua mặt họ xa lắc.

Hư Trúc đuổi một mạch tới tận xế chiều vẫn không thấy tung tích sáu vị sư

bá sư thúc đâu, lấy làm lạ, đoán chừng mình đi nhầm lối nên chạy ngược trở lại haichục dặm, kiếm người đi đường hỏi thăm nhưng chẳng một ai trông thấy sáu vị hòa

thượng cả.

Chạy tới chạy lui như thế nhưng y không thấy mỏi mệt chút nào, thấy trời đã

tối, bụng lại đói meo nên đi tới một quán ăn nơi phố chợ vào gọi hai tô mì chay.

Trong khi chờ đợi chủ quán nấu mì, Hư Trúc không ngừng ngó dáo dác ra ngoài

quán bỗng nghe một giọng trong trẻo nói:

- Hòa thượng đang chờ ai đó?

Hư Trúc quay đầu lại thấy nơi sát cửa sổ phía tây có một thanh niên áo xanh

ngồi đó, mắt sáng mày thanh, da trắng muốt, tướng mạo cực kỳ đẹp đẽ, tuổi chừng

mười bảy mười tám, đang nhìn mình mủm mỉm cười.

Hư Trúc đáp:

- Quả đúng thế! Xin hỏi tiểu tướng công có thấy sáu nhà sư ở đâu không?

Thanh niên kia đáp:

- Không thấy sáu nhà sư đâu cả, chỉ thấy một hòa thượng thôi.

Hư Trúc nói:

- Ồ, một nhà sư ư? Xin hỏi tướng công thấy ở đâu vậy?

Thanh niên đáp:

- Ở ngay trong cái quán này.

Hư Trúc nói:

- Chỉ một nhà sư thì không phải nhóm Tuệ Phương sư bá rồi. Thế nhưng đã

là tăng nhân may ra cũng hỏi thăm được chút tin tức.

Y bèn hỏi:

- Xin hỏi tướng công, hòa thượng đó hình dáng ra sao? Tuổi tác lớn hay

nhỏ? Đi về hướng nào?

Thanh niên kia mỉm cười:

- Nhà sư đó trán rộng tai to, mồm rộng môi dày, mũi huếch lên trời, tuổi

chừng hăm ba hăm bốn, y đang ngồi trong quán này chờ ăn hai tô mì, chưa đi đâu

cả.

Hư Trúc cười ha hả nói:

- Hóa ra tiểu tướng công nói đến chính là ta.

Thanh niên kia đáp:- Tướng công thì là tướng công, hà tất lại thêm một chữ "tiểu" vào? Ta gọi

ông là "hòa thượng" chứ nào có gọi là "tiểu hòa thượng" đâu?

Thanh niên đó giọng nói dịu dàng, thật là dễ nghe. Hư Trúc đáp:

- Quả thế, vậy thì gọi là tướng công vậy.

Còn đang nói chuyện, hầu bàn đã bưng ra hai tô mì chay. Hư Trúc nói:

- Tướng công, tiểu tăng xin phép ăn mì.

Thanh niên đáp:

- Toàn rau với nấm, chẳng có mỡ màng gì, ăn có gì ngon? Mau lại bên ta,

ta mời ngươi ăn thịt nạc, ăn gà quay.

Hư Trúc đáp:

- Tội nghiệp! Tội nghiệp! Tiểu tăng cả đời không ăn đồ mặn, xin tướng

công cứ tự tiện.

Nói xong quay lại cúi xuống ăn mì, cái cảnh thanh niên kia ăn thịt ăn gà y

cũng không muốn nhìn thêm nữa. Y bụng đói cồn cào, chỉ giây lát đã ăn hết hơn

nửa tô, bỗng nghe thanh niên kia kêu lên:

- Ủa, cái gì thế này?

Hư Trúc quay đầu lại thấy thanh niên kia tay cầm cái thìa đựng đầy canh

đang toan đưa vào mồm, đột nhiêng ngừng lại dường như nhìn ra vật gì kỳ lạ, cái

muỗng còn cách miệng chừng nửa thước thì ngừng lại, tay trái cầm một vật gì đó

trên bàn. Thanh niên đó đứng lên, tay phải nhón lấy vật kia đi đến bên cạnh Hư

Trúc hỏi:

- Hòa thượng nhìn con trùng này có lạ không?

Hư Trúc thấy y cầm trong tay là một con bọ nhỏ màu đen, loại cánh cam

cánh quýt đó thì đâu chẳng có, không lạ lùng gì, liền hỏi:

- Lạ ở chỗ nào?

Thanh niên kia đáp:

- Ngươi coi con trùng này có vỏ cứng, đen nhánh bóng loáng trông tưởng

như quết dầu không bằng.

Hư Trúc đáp:

- Ồ, con cánh cam nào chẳng vậy.

Thanh niên hỏi:- Vậy sao?

Y vứt con cánh cam xuống đất, giơ chân di cho chết rồi quay lại chỗ ngồi.

Hư Trúc thở dài:

- Tội nghiệp! Tội nghiệp!

Y quay lại ăn nốt bát mì. Cả ngày hôm nay y chưa ăn gì cả, thấy bát mì này

thật là ngon, đến nước dùng cũng húp sạch tận đáy rồi lấy tô thứ hai cầm đũa định

ăn, bỗng nghe thanh niên kia cười sằng sặc nói:

- Hòa thượng, ngươi mồm thì leo lẻo nghiêm thủ thanh qui giới luật, hóa ra

cũng chỉ thuộc loại giả vờ, nói một đằng làm một nẻo.

Hư Trúc đáp:

- Ta làm gì mà nói một đằng làm một nẻo?

Thanh niên nói:

- Ngươi bảo là một đời không ăn mặn, thế cái bát mì nước gà, sao lại húp

sùm sụp thế là sao?

Hư Trúc nói:

- Tướng công chớ nói đùa. Đây rõ ràng là mì chay với rau cải, nấm hương,

làm gì có nước gà? Ta đã dặn kỹ hầu bàn, đừng có cho một tí dầu mỡ nào.

Thanh niên kia mỉm cười:

- Mồm ngươi bảo không đụng vào đồ tanh đồ mặn, vậy mà húp nước thang

gà thì soạp soạp chắc lưỡi, ngon ngọt chẳng biết là chừng nào. Này hòa thượng, để

ta cho thêm một muỗng thang gà vào tô mì này nhé?

Y vừa nói vừa đưa muỗng vào trong bát gà quay lênh láng mỡ màng, múc ra

một thìa đứng lên. Hư Trúc kinh hãi không sao kể xiết, ấp úng:

- Ngươi ... ngươi ... vừa mới ... đã ...

Thanh niên kia cười nói:

- Đúng đó! Ta vừa mới bỏ vào bát mì của nhà ngươi một muỗng canh gà,

không lẽ ngươi không nhìn thấy? Chao ôi, này nhà sư ơi, ngươi mau mau nhắm mắt

lại giả vờ không nhìn thấy, ta lại đổ cho một muỗng canh gà vào bát mì, ăn cho

ngon, miễn là không phải chính ngươi đổ vào, Phật tổ Như Lai sẽ không trách cứ gì

đâu.

Hư Trúc vừa sợ vừa tức, bấy giờ mới biết y đem con cánh cam sang cho

mình coi, chẳng qua chỉ dương đông kích tây, khiến cho mình chú ý đến chỗ khácrồi thừa cơ đổ muỗng canh gà vào bát mì, thảo nào khi ăn thấy thơm ngon lạ

thường, chỉ vì cả đời chưa từng nếm qua nên không biết. Bây giờ canh gà đã nuốt

vào bụng thì làm sao đây? Có nên ói ra hay không? Y nhất thời bàng hoàng chẳng

biết thế nào cho phải.

Thanh niên kia bỗng nói:

- Này hòa thượng, ngươi muốn đi tìm sáu nhà sư, có phải họ đang đến

không kìa?

Y vừa nói vừa chỉ ra ngoài. Hư Trúc mừng quá, chạy vội ra cửa, nhìn dáo

dác ra đường nhưng nào có thấy ai đâu. Y biết lại bị gã thanh niên đánh lừa, trong

bụng bực bội, có điều người xuất gia không được giận hờn nên cố nhịn, không nói

một lời quay lại tiếp tục ăn mì. Hư Trúc nghĩ thầm: "Vị tiểu tướng công này tuổi

chẳng bao nhiêu, sao lại cứ nhắm mình mà chơi ác thế này?'. Nghĩ rồi y cầm đũa

lên, ăn như rồng cuốn ngay hết nửa bát, đột nhiên kẽ răng cắn trúng cái gì trơn

tuột, kinh hãi vội vàng nhìn vào, thấy trong bát mì có một miếng thịt to béo ngậy,

một nửa đã bị cắn mất rồi, hiển nhiên mình đã nuốt vào bụng. Hư Trúc buông đũa

xuống bàn, kêu lên:

- Khổ quá! Khổ quá!

Gã thanh niên kia cười hỏi:

- Này hòa thượng, miếng thịt mỡ ăn có ngon không? Sao lại kêu khổ?

Hư Trúc giận dữ nói:

- Ngươi đánh lừa cho ta chạy ra ngoài cửa rồi bỏ miếng thịt vào bát mì. Ta

... ta ... suốt hai mươi ba năm nay, chưa từng nếm đồ mặn, ta ... ta ... bị ngươi hủy

hoại mất rồi.

Thanh niên kia mỉm cười nói:

- Thế miếng thịt béo kia chẳng ngon gấp mười rau cải, đậu phụ hay sao?

Ngươi trước nay không ăn thì quả thật ngu hết chỗ nói.

Hư Trúc mặt mày thiểu não đứng lên, giơ tay nắn yết hầu, ruột rối như tơ vò,

bỗng nghe bên ngoài có tiếng người huyên náo, một đám đông người đi về phía

quán. Y vừa nhìn qua, tưởng ai hóa ra chính là đám đệ tử phái Tinh Tú, trong lòng

kêu thầm: "Ối chao, hỏng rồi, bị Tinh Tú Lão Quái bắt được chết là cái chắc!". Y

vội vàng chạy ra đằng sau, định đào tẩu, nào ngờ vừa đẩy cửa bước vào, đó là một

căn phòng ngủ. Hư Trúc đang định lùi ra, bỗng nghe đằng sau có tiếng người nói:- Điếm gia, điếm gia! Mau đem rượu thịt ra đây!

Chính là đám đệ tử Tinh Tú đã vào trong khách đường. Hư Trúc không dám

lùi trở lại, đành nhẹ nhàng đóng cửa lại. Bỗng nghe tiếng người nói:

- Kiếm chỗ nào cho gã sư mập kia nằm ngủ.

Chính là tiếng của Đinh Xuân Thu. Một tên đệ tử phái Tinh Tú liền đáp:

- Vâng!

Có tiếng bước chân nặng nề đi về phía bên ngoài cửa phòng. Hư Trúc kinh

hãi, không còn cách nào khác bèn cúi xuống chui tọt vào gầm giường. Đầu y chui

vào rồi, đụng ngay phải vật gì đó, rồi có tiếng người khẽ kêu "A" hóa ra dưới gầm

giường đã có ai trốn dưới đó. Hư Trúc cũng hoảng hốt, toan lùi trở ra thì tên đệ tử

phái Tinh Tú đã bế Tuệ Tịnh tiến vào, để y lên giường rồi đi ra.

Chỉ nghe người ở bên cạnh ghé tai y nói nhỏ:

- Này hòa thượng, thịt mỡ ngon quá nhỉ? Ngươi sợ cái gì?

Thì ra đó chính là thanh niên tướng công. Hư Trúc nghĩ thầm: "Ngươi tay

chân quả là nhanh nhẹn, đã chui vào trốn dưới gầm giường trước cả ta". Y cũng

nói nhỏ:

- Bên ngoài kia là một bầy đại ác nhân, tướng công chớ có nói năng gì cả.

Thanh niên kia hỏi lại:

- Sao ngươi lại biết bọn họ là đại ác nhân?

Hư Trúc đáp:

- Ta nhận ra họ, bọn người này giết người không nháy mắt, không phải

chuyện chơi đâu.

Thanh niên kia vừa toan bảo y đừng nói gì nữa thì gã Tuệ Tịnh đang nằm

trên giường đột nhiên kêu toáng lên:

- Có người dưới gầm giường! Có người dưới gầm giường!

Hư Trúc và thanh niên kia sợ quá, vội vàng chui ra. Chỉ thấy Đinh Xuân Thu

đứng ngay tại ngạch cửa, cười khẩy, khuôn mặt vô cùng đắc ý, đầy vẻ độc ác.

Thanh niên kia sợ đến mặt xanh như tàu lá, quì xuống run run kêu lên:

- Sư phụ!

Đinh Xuân Thu cười nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Đưa ra đây!Thanh niên kia đáp:

- Đệ tử không mang theo.

Đinh Xuân Thu hỏi:

- Thế ở đâu?

Thanh niên đáp:

- Tại thành Nam Kinh nước Liêu.

Đinh Xuân Thu mắt lộ hung quang, gằn giọng hỏi lại:

- Đến nước này mà ngươi còn định lừa ta nữa sao? Ta sẽ cho ngươi sống

không xong, chết không được.

Thanh niên nói:

- Đệ tử không dám nói láo với sư phụ.

Đinh Xuân Thu đưa mắt liếc qua Hư Trúc, hỏi thanh niên kia:

- Sao ngươi lại đi cùng với y?

Thanh niên đáp:

- Đệ tử mới gặp y nơi quán này thôi.

Đinh Xuân Thu hừ một tiếng nói:

- Láo toét! Láo toét!

Y hầm hầm nhìn hai người một hồi, quay ra. Bốn tên đệ tử phái Tinh Tú liền

xông vào phòng vây hai người lại. Hư Trúc vừa kinh hãi vừa tức tối nói:

- Thì ra ngươi cũng là đệ tử phái Tinh Tú.

Thanh niên kia dậm chân, hậm hực nói:

- Cũng tại ngươi tên hòa thượng thối tha mà ra, còn trách gì ta nữa?

Một tên đệ tử phái Tinh Tú chào:

- Đại sư tỉ, từ đó tới nay vẫn khỏe chứ?

Giọng nói đầy vẻ hạnh tai lạc họa, cực kỳ khinh bạc. Hư Trúc lạ lùng:

- Cái gì? Ngươi ... ngươi ...

Thanh niên kia hứ một tiếng nói:

- Đồ sư ngốc nghếch, đồ sư thối tha! Ta đương nhiên là con gái, không lẽ

ngươi nhìn không ra sao?Hư Trúc nghĩ thầm: "Thì ra vị tiểu tướng công này là đàn bà, mà lại là đệ tử

phái Tinh Tú, không những là đệ tử phái Tinh Tú, mà lại còn là đại sư tỉ của bọn

họ. Chao ôi không xong rồi, cô ta cho ta húp canh gà, lại ăn thịt mỡ, e rằng trúng

độc mất thôi".

Thanh niên đó dĩ nhiên là A Tử cải trang. Nàng ở Nam Kinh nước Liêu tuy

hưởng đủ mọi cảnh vinh hoa phú quí nhưng bình sinh hiếu động, lâu ngày chán

ngấy. Tiêu Phong việc công bề bộn, làm gì có thì giờ ngày ngày đưa nàng đi săn,

đi chơi. Một hôm trong lòng bực bội, nàng một mình ra ngoài du ngoạn, cũng định

đến tối sẽ về, ngờ đâu gặp phải một trò vui, đuổi theo một người, nhưng càng đuổi

càng mịt mù, sau cùng phóng độc giết được y thì cách thành Nam Kinh đã xa,

thuận bước đi vào Trung Nguyên. Nàng đi lang thang, cũng khéo làm sao hôm đó

lại gặp ngay Hư Trúc lẫn thầy trò Đinh Xuân Thu.

Nàng dụ cho Hư Trúc phá giới ăn mặn, chẳng qua tính tình quái ác rắn mắt,

nhất thời cao hứng cốt sao người khác đau khổ phiền não là nàng khoái chí chứ có

ý gì đâu.

A Tử vẫn tưởng sư phụ chỉ ở bờ biển Tinh Tú hưởng nhàn, chẳng khi nào lại

đến Trung Nguyên, ngờ đâu oan gia ma đưa lối quỉ đưa đường, ở cái quán nhỏ này

lại gặp nhau. Nàng sợ đến mất cả hồn vía, lớn tiếng mắng mỏ Hư Trúc chẳng qua

chỉ để ra vẻ ta đây nhưng tiếng nói đã run lập cập, cố gắng trấn tĩnh cũng không

đến đâu, trong bụng cấp tốc tính toán một kế hoạch thoát thân: "Cứ như hôm nay

chỉ còn cách đánh lừa sư phụ đến Nam Kinh, mượn tay tỉ phu giết quách lão đi, đó

là đường sống duy nhất. Ngoại trừ tỉ phu ra, chẳng một ai đánh được ông ta. Cũng

may Thần Mộc Vương Đỉnh ta để lại Nam Kinh, sư phụ không thể không đi tìm để

lấy lại chiếc đỉnh đó".

Nàng nghĩ đến đó, thấy an tâm hơn nhưng lại chợt nghĩ: "Thế như nếu như

sư phụ trước hết đánh cho ta tàn phế, tiêu hủy võ công của ta sau đó mới áp giải về

Nam Kinh, cái cảnh khổ sở đó, so với chết ngay bây giờ còn khó chịu hơn". Nghĩ

đến đó mặt nàng tái mét cắt không còn giọt máu.

Ngay lúc đó, một tên đệ tử phái Tinh Tú đi đến trước cửa phòng, cười hinh

hích nói:

- Đại sư tỉ, sư phụ cho mời.A Tử nghe thấy sư phụ gọi ra, thật chẳng khác gì con chuột bị con mèo kêu

đến, sợ đến xương cốt tưởng như sụm xuống, nhưng biết có trốn cũng không xong

chỉ đành theo tên đệ tử kia ra ngoài đại đường.

Đinh Xuân Thu ngồi một mình một bàn riêng, trên bàn rượu thịt ê hề, còn

bọn đệ tử thì xuôi tay đứng hầu ở xa xa, hết sức cung kính, không ai dám thở

mạnh. A Tử đi ra đến nơi cất tiếng chào:

- Sư phụ!

Đinh Xuân Thu hỏi:

- Thế quả thật ở nơi đâu?

A Tử nói:

- Không dám dấu sư phụ, đúng là ở thành Nam Kinh nước Liêu.

Đinh Xuân Thu hỏi thêm:

- Thế nơi nào ở thành Nam Kinh?

A Tử đáp:

- Trong phủ Nam Viện Tiêu Đại Vương nước Liêu.

Đinh Xuân Thu cau mặt gằn giọng hỏi:

- Vì cớ nào mà rơi vào tay tên Liêu cẩu Khất Đan đó?

A Tử nói:

- Không phải rơi vào tay y. Đệ tử khi lên đến biên giới phương Bắc, e ngại

làm mất bảo vật của sư phụ, lại sợ lỡ tay làm hư, thành thử len lén vào trong hoa

viên vương phủ Tiêu đại vương, đào lỗ chôn nơi đó. Nơi đó cực kỳ kín đáo, hoa

viên của vương phủ rộng đến hơn sáu nghìn mẫu, ngoại trừ đệ tử ra, không một ai

có thể tìm ra được chiếc vương đỉnh đó đâu, sư phụ cứ yên chí.

Đinh Xuân Thu cười nhạt nói:

- Chỉ có mình ngươi biết được thôi. Hừ, con nhãi kia, ngươi kể cũng gớm

lắm, ngươi tưởng rằng ta ném chuột sợ vỡ đồ, không dám giết ngươi chứ gì? Ngươi

bảo là giết ngươi rồi không thể nào tìm ra chiếc đỉnh nữa, phải không?

A Tử run bắn người lên, lập cập đáp:

- Nếu như sư phụ không tha cho đệ tử cái tội cứng đầu nghịch ngợm, tiêu

trừ công lực, cắt đứt cân mạch, hay chặt chân chặt tay thì đệ tử thà chết ngay tại

đây chứ nhất quyết không thổ lộ chiếc vương đỉnh ... chiếc vương đỉnh ... đó ở đâu.Nói đến câu sau cùng, trong bụng sợ hãi lắm, lắp bắp không ra lời. Đinh

Xuân Thu mỉm cười nói:

- Con oắt kia, ngươi lại dám cả gan bắt thóp ta ư? Môn hạ phái Tinh Tú có

ngươi gớm thật, cả đến ta cũng bị mắc lỡm, Tinh Tú lão tiên này quả là không có

mắt.

Một tên đệ tử đột nhiên lớn tiếng nói:

- Tinh Tú lão tiên nhìn thấu suốt quá khứ vị lai, biết cái số kiếp Thần Mộc

Vương Đỉnh nó phải thế, nên mới giả vờ cho A Tử lấy được để cho bảo cụ này trải

qua gian hiểm, có dịp mài giũa thêm khiến cho bảo đỉnh càng thêm pháp lực.

Một tên đệ tử khác lại chõ vào:

- Mọi việc trong thiên hạ, có cái nào không nằm trong thần cơ diệu toán

của lão tiên? Lão tiên khiêm tốn mà nói thế, chúng đệ tử chẳng nên coi là thật.

Lại một tên đệ tử khác tiếp lời:

- Tinh Tú lão tiên hôm nay mới giở chút kỹ xảo con con, đã giết chết cao

thủ phái Thiếu Lâm là Huyền Nạn, tru diệt thầy trò Lung Á lão nhân mấy chục

người, cổ vãng kim lại, thật Đại La Kim Tiên cũng chưa bằng? Tiểu A Tử! Dù

ngươi có giảo hoạt cách nào, cũng làm sao chạy cho thoát bàn tay của Tinh Tú lão

tiên? Dù cứng đầu chống trả hay van lạy xin tha thì cũng đều vô ích.

Đinh Xuân Thu mỉm cười gật gù, vuốt râu ngồi nghe. Hư Trúc đứng trong

ngọa thất, nghe rõ ràng từng chữ, nghĩ thầm: "Sư bá tổ và Thông Biện tiên sinh

quả nhiên bị Đinh thí chủ giết hại. Ôi, nói gì đến báo thù rửa hận, đến cái mạng

cỏn con của mình đã chắc gì còn".

Quần đệ tử phái Tinh Tú kẻ một câu, người một lời, ai nấy khuyên A Tử

mau mau nghe lời, khai rõ ra, trong ngôn từ dọa nạt thì quá nửa là tuyên dương oai

đức Tinh Tú lão tiên, cứ một câu nói với A Tử thì kèm theo ba câu ca công tụng

đức Đinh Xuân Thu.

Đinh Xuân Thu bình sinh có cái tật là thích nghe người khác tâng bốc mình,

càng đưa lão lên, lão càng khoái trí, được đám đệ tử nịnh hót mấy chục năm đã

quen nên tưởng rằng câu nào câu nấy đều là thật. Nếu như có ai không đưa lão lên

tận mây xanh thì cho rằng kẻ đó thiếu dạ trung thành. Bọn đệ tử hiểu rõ tính khí

đó nên mỗi khi có cơ hội là ai nấy đều hết sức đánh trống thổi kèn, nịnh bợ hết

mực, chỉ sợ mình ca tụng chưa đủ, khiến sư phụ không vui thì tính mạng sẽ như chỉ

mành treo chuông, lúc nào cũng lo ngay ngáy.Đám đệ tử phái Tinh Tú không phải ai cũng mặt dày mày dạn vô liêm sỉ, có

điều ở vào thế chẳng đặng đừng, không thế thì khó mà tồn tại, hơn nữa năm này

tháng nọ dần dần thành quen, lời tâng bốc thuận miệng tuôn ra, chẳng ai còn coi là

điều đáng hổ thẹn nữa.

Đinh Xuân Thu vuốt râu mỉm cười, hai mắt hấp him, lắng nghe bọn đệ tử ca

tụng, đầu óc lâng lâng như người say. Hàm râu dài của lão khi đấu phép với sư

huynh Tô Tinh Hà đã bị cháy mất một phần lớn, chỉ còn loe hoe một dúm, về sau

lão lén phóng chất kịch độc Tam Tiếu Tiêu Dao Tán giết được Tô Tinh Hà, trận

đó kể như thắng, nên có bị mất chòm râu cũng không đến nỗi nào.

Y trong bụng ngầm tính: "Con tiểu a đầu này hôm nay khó mà thoát được

bàn tay lão tiên, còn chú tiểu trong phòng kia thì phải từ từ tính lại. Tam Tiếu Tiêu

Dao Tán không giết được nó, hay là mình dùng Hủ Thi Độc, hoặc Hóa Công Đại

Pháp, tùy cơ mà hành sự. Thế là Tiêu Dao Thần Tiên Hoàn rơi vào tay mình, thật

hên quá sức! Sướng quá!".

Phải đến thời gian một bữa ăn, tiếng ca công tụng đức của đám đệ tử thưa

dần, chỉ những kẻ trường thiên đại luận còn đang lải nhải, Đinh Xuân Thu bèn giơ

tay lên, tiếng liền im bặt, tất cả đồng thanh nói:

- Công đức sư phụ bao trùm trời đất, chúng con ngu si, một vạn phần không

phô ra được một.

Đinh Xuân Thu mỉm cười gật đầu, quay sang A Tử hỏi:

- A Tử, ngươi còn gì để nói nữa không?

A Tử tâm niệm chợt động: "Trước đây sư phụ cưng chiều mình, cũng bởi vì

mình tâng bốc có chỗ đặc biệt không giống kẻ khác, chẳng phải như bọn ngốc này,

nói tới nói lui, cả trăm năm cũng chỉ có bao nhiêu đó". Nàng bèn nói:

- Sư phụ, đệ tử sở dĩ lén ăm trộm Thần Mộc Vương Đỉnh đem ra ngoài

chơi, cũng có lý do.

Đinh Xuân Thu trừng mắt hỏi lại:

- Có lý do là sao?

A Tử đáp:

- Khi sư phụ còn trẻ, công lực chưa đạt đến chỗ đăng phong tạo cực như

bây giờ, tu tập mới cần phải cần vương đỉnh để trợ giúp cho việc luyện công. Thế

nhưng những năm gần đây, hễ ai có mắt nhìn cũng đều biết sư phụ đã đến mứcthông thiên triệt địa, cái vương đỉnh kia chỉ dùng để dụ độc vật, so với thành tựu

của sư phụ thật khác gì đom đóm sánh với mặt trăng mặt trời, làm sao bì được. Sư

phụ sở dĩ chưa vứt cái mộc đỉnh đó đi, chẳng qua cũng vì nghĩ đến món đồ cũ

không nỡ bỏ đấy thôi. Chúng sư đệ la lối om sòm, cứ làm như sư phụ không có

vương đỉnh đó không được, cho là bản môn trọng bảo mất đi thì chuyện không phải

nhỏ, quả thực ngu xuẩn biết mấy, có khác gì coi thần thông của sư phụ không vào

đâu.

Đinh Xuân Thu liên tiếp gật gù:

- Hừm, hừm, nói nghe có lý lắm! Nói nghe có lý lắm!

A Tử lại tiếp:

- Đệ tử thiển nghĩ, võ công phái Tinh Tú chúng ta cao cường là dường nào,

không môn phái trên đời này theo kịp được, có điều sư phụ đại nhân đại lượng,

chẳng thèm chấp bọn nhân sĩ võ lâm nên không chịu dời gót ngọc đến Trung

Nguyên dạy cho bọn ếch ngồi đáy giếng kia một trận. Trong võ lâm lắm kẻ cuồng

vọng tự tôn, biết chắc sư phụ chẳng thèm ganh đua với chúng làm gì cho mệt nên

huênh hoang hợm hĩnh, đứa nào cũng xưng hùng xưng bá, kẻ thì cho mình đương

thế cao nhân, kẻ khác tự phong danh gia võ học.

Thế nhưng mồm thì khoe mình vang trời dậy đất, nhưng có đứa nào dám vác

mặt tới biển Tinh Tú lãnh giáo sư phụ vài chiêu. Kẻ học võ trong thiên hạ, ai mà

chẳng biết sư phụ võ công cao thâm khôn lường, thế nhưng quanh đi quẩn lại cũng

cứ bốn chữ "thâm bất khả trắc", ví như hỏi rằng cao siêu tới đâu, thì có đứa nào

nói được?

Cho đến lúc này, Mộ Dung Cô Tô tiếng nổi như cồn, Hà Nam Thiếu Lâm

cũng xưng mình Thái Sơn Bắc Đẩu, thậm chí đến cái gì Lung Á tiên sinh, cái gì

Đoàn gia Đại Lý cũng thành những nhân vật kiệt hiệt. Sư phụ nghĩ xem thế có nực

cười không?

Tiếng nào trong trẻo, ỏn thót bên tai, câu nào câu nấy như xoáy vào tim

Đinh Xuân Thu, so với các đệ tử khác lớn tiếng tung hô ca tụng dễ nghe hơn nhiều.

Đinh Xuân Thu càng lúc càng phởn phơ, mắt híp lại chỉ còn là một đường nhỏ như

sợi chỉ, không ngớt gục gặc đầu, mười phần đắc ý.

A Tử lại tiếp:

- Thành ra đệ tử nổi tính trẻ con, nghĩ bụng sư phụ mình thần thông như

thế, nếu không đến Trung Nguyên lộ chút thân thủ cho bọn giun dế kia được dịpmở mắt, thì sao chúng biết được rằng thiên ngoại hữu thiên, nhân thượng hữu

nhân? Do đó mới bày ra một kế mời sư phụ đến Trung Nguyên, cho bọn nhãi nhép

kia biết thế nào là trời cao đất dày. Thế nhưng cung thỉnh sư phụ một cách bình

thường thì xoàng xĩnh quá, không xứng với thân phận một đệ nhất cao nhân, cổ

vãng kim lai như lão nhân gia. Thân phận sư phụ không giống người khác, cung

thỉnh sư phụ đến Trung Nguyên cũng phải khác người. Thành thử đệ tử mới mượn

chiếc vương đỉnh, cốt chỉ để mời được đại giá của lão nhân gia đấy thôi.

Đinh Xuân Thu bật cười ha hả hỏi:

- Nếu nói thế, ngươi lấy chiếc vương đỉnh thì chỉ vì lòng hiếu kính hay sao?

A Tử đáp:

- Lẽ nào không phải? Thế nhưng đệ tử ngoài hiếu tâm, thực ra lại cũng có

chút tư tâm.

Đinh Xuân Thu chau mày hỏi:

- Tư tâm thế nào?

A Tử mỉm cười đáp:

- Xin sư phụ đừng trách. Đệ tử nghĩ mình là môn đồ phái Tinh Tú, cũng

mong bản phái uy chấn thiên hạ để khi hành tẩu giang hồ, người người kính trọng,

như thế có nở mày nở mặt hơn chăng? Đó chính là cái tư tâm nhỏ mọn của đệ tử.

Đinh Xuân Thu lại cười khà khà nói:

- Nói nghe được lắm! Nói nghe được lắm! Ta có bao nhiêu là đệ tử, vậy

mà có đứa nào tâm cơ linh mẫn được như ngươi đâu. Thì ra ngươi ăn trộm Thần

Mộc Vương Đỉnh, là chỉ vì muốn ta dương oai đấy thôi. Ha ha, một đứa mồm

miệng lanh lợi như ngươi, giết đi thật uổng, bên mình thiếu đi một kẻ nói chuyện

cho đỡ buồn, thế nhưng nếu ta phủi tay không tra xét ...

A Tử vội vàng cướp lời:

- Tuy thế quá ư là tiện nghi cho đệ tử nhưng bản môn từ trên xuống dưới ai

ai chẳng cảm kích lòng khoan hồng độ lượng của sư phụ? Từ nay trở đi sẽ vì sư

môn mà tận tâm kiệt lực, tan xương nát thịt mới thôi.

Đinh Xuân Thu đáp:

- Những lời của ngươi đem ra đánh lừa người khác thì may ra còn được, còn

như với ta, thì có khác gì bảo ta là một lão già mê muội hay sao? Ngươi tâm tư quả

là đại bất thiện. Hừ, ngươi nói nếu ta phế công lực, chấn đoạn kinh mạch ...Vừa nói tới đây, bỗng có một giọng vang vang nói:

- Điếm gia, dọn chỗ cho ta.

Đinh Xuân Thu liếc mắt nhìn ra, thấy một thanh niên công tử mặc áo dài

màu vàng, hông đeo trường kiếm, ngồi ngay ở bàn bên cạnh, chẳng biết vào quán

từ lúc nào. Người đó chính là Mộ Dung Phục mình mới gặp nơi hội cờ lúc ban

ngày, đã thi triển tà thuật gia hại nhưng không thành công. Đinh Xuân Thu vừa rồi

lắng tai nghe A Tử nói, lòng lâng lâng như đi mây về gió vào nơi cực lạc, mặt khác

lắng nghe xem Hư Trúc ở trong phòng động tĩnh ra sao, sợ y vượt tường chạy mất

khiến cho trong quán có thêm một người mà cũng không hay, quả là sơ xuất đến

cùng cực. Nếu như Mộ Dung Phục vừa đến đã ra tay ám toán, e rằng sẽ bị hố to. Y

kinh hãi mặt mày biến sắc nhưng lập tức trấn tĩnh lại ngay.

Than ôi vật đổi sao dời,

Trời sầu đất thảm một đời bỏ đi.

*

* *

Mộ Dung Phục giơ tay chào Đinh Xuân Thu, miệng nói:

- Xin chào! Cuộc đời quả có duyên thì ở đâu cũng gặp, vừa mới chia tay

đã lại thấy nhau rồi.

Đinh Xuân Thu cười nói:

- Quả là cùng công tử có duyên với nhau thật!

Y nghĩ thầm: "Ta đã đả thương mấy viên đại tướng thủ hạ của y, hôm nay

ở trong cuộc cờ lại xúc xiểm khiến y suýt nữa thì bỏ mạng, gã này đâu có thể

nào bỏ qua cho ta? Ta từng nghe họ Cô Tô Mộ Dung võ công cực kỳ uyên

bác, cái ngón "dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân", trong võ lâm ai cũng nói chắc

như cua gạch, chắc hẳn không phải hư ngôn, xem công phu y ném quân cờ

quả cũng khá lắm. Khi y mải mê xem cờ bị ta dẫn vào ma chướng, đúng là cơ

hội bằng vàng để trừ đi ngờ đâu lại bị người ta cứu. Xem ra tiểu tử này võ

công cao siêu thật nhưng những pháp thuật khác thì chẳng biết gì".

Đinh Xuân Thu quay lại nói với A Tử:

- Ngươi nói nếu như ta phế hết võ công, cắt đứt cân mạch, chặt chân chặt

tay ngươi, ngươi thà chết ngay chứ nhất định không thổ lộ nơi giấu vương đỉnh,

có phải thế không?

A Tử cực kỳ kinh hãi, run run đáp:- Sư phụ khoan hồng đại lượng, chẳng nên ... chẳng nên ... chẳng nên để

bụng ... để bụng những lời nói nhăng nói xàm của đệ tử.

Mộ Dung Phục cười nói:

- Đinh tiên sinh, ông tuổi tác đã cao, chấp nhất làm gì với một đứa trẻ

con? Mau lại đây, hai người mình cạn với nhau ba chén, đàm văn luận võ có

phải thú không nào? Thanh lý môn hộ trước mặt người ngoài chẳng khiến

mình nhẹ thể lắm sao?

Đinh Xuân Thu chưa kịp trả lời thì một tên đệ tử phái Tinh Tú đã bực bội

quát lên:

- Cái thứ ngươi thật chẳng biết trên biết dưới, sư phụ ta là võ lâm chí tôn,

lẽ nào lại thèm đàm văn luận võ với thứ hậu sinh tiểu tử như ngươi? Ngươi có

tư cách gì mà đòi nói chuyện tay đôi với thầy ta?

Lại thêm một gã khác phụ họa:

- Nếu như ngươi cực kỳ cung kính khấu đầu thỉnh giáo, Tinh Tú lão tiên

có bụng dẫn dắt bọn hậu sinh, không chừng chỉ cho đôi ba miếng. Chứ còn

như ngươi đòi đàm luận với lão tiên, ha ha, thật nực cười đến sái quai hàm

mất? Ha ha!

Y mới cười được hai tiếng, vẻ mặt bỗng dưng thật là kỳ quái, một lát sau

lại cười khan ha ha lần nữa, cười xong liền há hốc mồm, nhưng hoàn toàn

không có tiếng nào phát ra, trên mặt nhuốm một màu ngụy bí, nụ cười đầy vẻ

hoạt kê.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú ai cũng lấm lét nhìn kẻ đồng môn cười xong ba

tiếng rồi tắt thở biết y trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, người nào người

nấy hoảng vía, không dám thở mạnh, cúi gầm mặt xuống không dám chạm

vào ánh mắt Đinh Xuân Thu, nghĩ bụng: "Câu nói của y không biết làm phật

lòng sư phụ ra sao để đến nỗi người dùng thủ đoạn tàn độc giết ngay như thế?

Mình phải ngẫm nghĩ cho kỹ xem câu nói đó sai sót chỗ nào, chớ có đi vào

vết xe đổ đó nữa".

Đinh Xuân Thu trong bụng càng tức tối hơn, lại thêm chột dạ. Y vừa hỏi

chuyện A Tử vừa hơi vung tay áo lên, tiềm vận nội lực đẩy bột phấn Tam

Tiếu Tiêu Dao Tán bắn vào Mộ Dung Phục. Độc phấn đó vô hình lại không

mùi vị gì, cực kỳ mịn màng, trời đang tối, trong quán ăn chỉ thấy mờ mờ,

những tưởng Mộ Dung Phục dù võ công cao cường thì cũng chẳng thể phátgiác, ngờ đâu không biết y dùng thủ đoạn gì mà lại đẩy chất độc Tam Tiếu Tiêu Dao Tán qua bên tên đệ tử của mình.

Chết một tên đệ tử cũng chẳng đáng bao nhiêu, nhưng Mộ Dung Phục đang

cười cười nói nói, không thấy y giơ chân múa tay gì mà đã chuyển được qua

người khác, hiển nhiên đó không phải là dùng nội lực phản kích khiến cho

Đinh Xuân Thu tuy kiến văn rộng rãi nhưng nhất thời không nghĩ ra được đó

là công phu gì. Trong bụng y chỉ nghĩ được tám chữ: "dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ

thân", thủ pháp Mộ Dung Phục sử dụng cũng tương tự như môn bắt ám khí rồi

ném trả lại, tiếp tiêu phát tiêu, tiếp tiễn hoàn tiễn dùng vào việc bắt phấn độc

rồi đẩy trở về. Thế nhưng độc phấn tinh vi như thế, sao y lại không bị nhiễm

phải mà lại trả về được, thế mới kỳ?

Y lại nghĩ ra: " Nếu nói là "dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân" thì y phải đẩy

Tam Tiếu Tiêu Dao Tán về mình mới phải, chắc là tiểu tử này còn e ngại lão

tiên, không dám ngang nhiên vuốt râu hùm". Tưởng đến vuốt râu hùm, y

thuận tay giơ lên vuốt chòm râu nhưng chỉ cầm phải mấy sợi loe hoe ngắn

ngủn đã cháy xém, trong lòng không bực tức mà lại vui: "Đến như Tô Tinh

Hà, Huyền Nạn lão hòa thượng là những cao thủ công lực như thế, vậy mà

còn bị lão tiên hạ thủ chết đứ đừ, cái thứ Mộ Dung Phục miệng còn hôi sữa,

thật có đáng gì đâu?".

Đinh Xuân Thu bèn nói:

- Mộ Dung công tử cùng với ta quả là có duyên, lại đây nào, ta mời ngươi

một chén rượu.

Nói xong giơ tay búng một cái, một chén rượu lập tức bay tà tà ngang qua

đến trước mặt Mộ Dung Phục, vậy mà không sóng sánh ra ngoài giọt nào.

Nếu phải lúc bình thời, quần đệ tử của Đinh Xuân Thu đã khen ầm lên, thế

nhưng mới vừa thấy một đồng môn bỏ mạng vô cùng quái lạ, ai cũng sợ bợ

hàm ngựa không nên trò trống gì lại mó phải vó câu, chưa bắt mạch được

dụng ý của sư phụ, chi bằng ngậm miệng là hơn, thế nhưng vào nước này cũng

phải reo lên một tiếng cho phải phép, kẻo không sư phụ bực mình, hỏi tội thì

cũng khổ.

Chén rượu bay tới trước mặt Mộ Dung Phục, cả bọn liền đồng thanh la lên:

- Hay quá!Thế nhưng có ba gã đặc biệt nhát gan, đến reo lên cũng không dám, đợi

khi cả bọn hoan hô rồi mới chợt nhớ ra là mình không phụ họa, quả là chậm

chân, nên cũng vội vàng bắt chước hùa theo. Thế nhưng ba tiếng "Hay quá!"

đó quả có chậm hơn một chút, thành thử nghe loạc choạc không được đều

nhịp. Ba gã kia thấy các đồng môn châm bẩm nhìn mình ra chiều trách cứ, ai

nấy hổ thẹn vô cùng lại thêm trong lòng thấp thỏm.

Mộ Dung Phục nói:

- Rượu mời của Đinh tiên sinh, tại hạ xin được chuyển sang cho lệnh cao

đồ.

Nói xong y thổi phù một cái, chén rượu chuyển hướng, bay đến trước mặt

một tên đệ tử phái Tinh Tú ở nơi mé trái. Y chỉ thổi một hơi mà đã làm lệch

hướng, so với dùng ngón tay búng, khó dễ khác nhau dù kẻ không biết võ

công thì cũng nhìn ra được, Đinh Xuân Thu xem như thua một keo. Thực ra

Mộ Dung Phục thổi ra, so với cái búng của Đinh Xuân Thu, lực đạo ai mạnh ai

yếu không thể so sánh được, có điều phương vị kình đạo cực kỳ chính xác,

tưởng như thổi bay được chén rượu nhưng chính là y mượn sức búng của địch

làm sức của mình mà thôi.

Gã đệ tử phái Tinh Tú thấy cái chén bay tới, không kịp suy nghĩ, lập tức

đưa tay tiếp lấy miệng nói:

- Chén rượu này sư phụ ra lệnh cho ngươi uống cơ mà!

Y toan ném trở về cho Mộ Dung Phục, đột nhiên kêu rống lên thảm thiết,

ngã bật ngửa ra sau rồi không còn động đậy gì nữa. Các đệ tử lần này đều

hiểu ra biết ngay khi sư phụ búng chén rượu ra đã gẩy thuốc độc trong móng

tay vào thành chén, chỉ cần Mộ Dung Phục chạm phải, chẳng nhấp môi cũng

sẽ chết tươi không khác gì tên đệ tử nọ.

Đinh Xuân Thu mặt biến sắc, cực kỳ phẫn nộ, biết không còn dấu đám đệ

tử được nữa, đến nước này chẳng có thể ra chiều nhàn nhã, hai tay liền bưng

chén rượu lên, chậm rãi đứng dậy nói:

- Mộ Dung công tử, chén rượu này lão phu xin kính mời các hạ.

Nói xong ông ta đi đến trước mặt Mộ Dung Phục. Chỉ vừa liếc qua, Mộ

Dung Phục đã thấy rượu trong chén thấp thoáng một ánh xanh biếc, hiển

nhiên có chứa một loại độc dược khủng khiếp. Lần nay y tự tay đem đến,

không có cách nào có thể cho quay ngược trở về. Đợi tới khi Đinh Xuân Thuđi đến trước mặt chỉ còn cách một mặt bàn, Mộ Dung Phục liền hít một hơi,

rượu trong chén Đinh Xuân Thu đang cầm nơi tay lập tức vọt thẳng lên, thành

một thủy tuyến màu xanh. Đinh Xuân Thu kêu thầm: "Ghê gớm thật!", biết

rằng đối phương hút lên rồi sẽ nhả tới, sợi dây nước đó sẽ bắn thẳng vào

người mình, mặc dù chẳng có gì đáng ngại nhưng người mình đầm đìa những

rượu không khỏi xấu mặt, lập tức vận nội công lên, bụp một tiếng thổi luôn

vào thủy tuyến đó.

Sợi dây nước chạy tới cách mặt Mộ Dung Phục chừng nửa thước, bỗng

chuyển xéo qua hướng trái, chạy vòng qua sau ót y, nhanh nhẹn lạ thường bay

vọt ra, nghe ọc một tiếng chui tuột luôn vào miệng một tên đệ tử. Gã đó đang

há mồm định kêu nhưng chưa thành tiếng thủy tuyến đã chạy tọt vào bụng.

Dây nước đó nhanh lạ thường nên y vẫn còn đang cao hứng la lên:

- Hay quá!

Đến khi vừa reo xong, lúc ấy mới hoảng vía lại kêu:

- Hỏng rồi!

Y gục xuống, trong giây lát gương mặt biến thành đen kịp, chết ngay.

Thuốc độc đó lợi hại như thế, Mộ Dung Phục cũng sợ đến mất vía: "Ta bôn

tẩu giang hồ xưa nay chưa từng thấy loại thuốc độc nào bá đạo đến vậy". Hai

người tỉ thí, chỉ trong giây lát đã khiến cho phái Tinh Tú chết ba đệ tử, hiển

nhiên ai thắng ai bại đã rõ ràng. Đinh Xuân Thu phẫn nộ cùng cực, cầm chén

rượu vứt xuống bàn, múa chưởng đánh ra. Mộ Dung Phục đã từng nghe đến

Hóa Công Đại Pháp của y từ lâu, vội vàng tránh qua, Đinh Xuân Thu liên tiếp

đánh ba chưởng, Mộ Dung Phục đều dùng thân pháp tiểu xảo tránh né được,

hai bên không hề đụng vào nhau.

Hai người càng đánh càng nhanh, trong phạn điếm bày đầy bàn ghế, lối đi

nhỏ hẹp, không có cách nào xoay chuyển, thế nhưng hai người vẫn theo những

khe giữa hai bàn mà tới lui, không một tiếng động, quyền chưởng không giao

tiếp đã đành mà đến bàn ghế cũng không đổ ngã cái nào.

Quần đệ tử phái Tinh Tú ai nấy đứng dựa vào tường, không ai dám bước

chân ra khỏi cửa, sư phụ đang kịch đấu với kình địch, có ai lại dám tránh né ra

xa, thế là phạm vào đại tội bất trung với sư môn còn gì. Mọi người ai cũng

biết tình thế nguy hiểm, chỉ cần một chút chưởng phong quét phải thì khó mà

sống được, ai cũng mong sao thân hình mình xẹp lại mỏng như giấy, dán chặtvào tường ngoài ra không còn cách nào khác. Thế nhưng thấy Mộ Dung Phục

thủ nhiều công ít, chưởng pháp tuy tinh kỳ nhưng vì không dám đụng vào

chưởng của Đinh Xuân Thu nên không khỏi bó chân bó tay, rơi vào thế hạ

phong.

Sau mấy chiêu, Đinh Xuân Thu biết rằng Mộ Dung Phục không dám cùng

mình đối chưởng hẳn là sợ Hóa Công Đại Pháp. Nếu đối phương đã sợ công

phu này thì mình phải dùng nó để chế ngự y, có điều thân pháp Mộ Dung

Phục phiêu hốt, ra chiêu khó mà đoán được nên muốn ép cho y phải đụng với

mình kể cũng không phải dễ.

Lại thêm vài chưởng nữa, Đinh Xuân Thu đã nghĩ ra một cách, chưởng

phải bay múa tung hoành, đánh ép tới, tay trái giả vờ không được linh hoạt

nhưng cố ý che đậy để cho Mộ Dung Phục khỏi biết. Mộ Dung Phục võ công

tinh thâm, đối phương mạnh yếu thế nào, lẽ nào lại không nhìn ra?

Y nghiêng người lệch qua, đánh liên tiếp hai chưởng liền, thế mạnh như vũ

bão tấn công thẳng vào hông bên trái Đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu hự nhẹ

một tiếng, lùi lại một bước nhưng không dám đưa chưởng trái ra đỡ đòn. Mộ

Dung Phục nghĩ thầm: "Lão quái này không biết ngực và sườn bên trái bị nội

thương sao đây". Y đang đắc thắng nên không nhường nhịn gì nữa, làm như

tấn công mạnh về bên hữu nhưng nội lực lại vận dụng toàn lực đánh vào bên

tả.

Hai bên trao đổi thêm hơn hai chục chiêu nữa, tay trái Đinh Xuân Thu rút

lẩn hẳn vào trong tay áo, chưởng phải biến thành trảo, giơ lên cào vào mặt

Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục nghiêng qua tránh được, giơ quyền lên đánh

thẳng vào sườn bên trái của đối phương. Đinh Xuân Thu nãy giờ vẫn chờ đòn

này, sau cùng kẻ địch đã đánh ra, trong lòng mừng rỡ, vung tay áo lên cuốn

lấy nắm tay của Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục nghĩ thầm: "Tụ phong của

ngươi dù có mạnh gấp mười lần cũng làm sao đả thương được ta?". Y không

rút quyền về mà lại vận kình lên cánh tay, chịu cho tay áo y cuốn được, nghe

soẹt một tiếng dài, tay áo Mộ Dung Phục đã bị xé rách toạc một miếng lớn.

Mộ Dung Phục còn đang kinh hãi, quyền đó y đánh ra thật mạnh ngờ đâu lại

bị rít lại, thì ra nắm tay đã bị đối phương chộp được rồi.

Chiêu đó quả là ngoài dự tính của Mộ Dung Phục, y lập tức kinh hãi hiểu

ra: "Lão quái giả vờ bị thương ở bên trái, chẳng qua chỉ là kế dụ địch, hóa ra

mình mắc lừa tên già này rồi". Y trong lòng cảm thấy hối hận: "Ta chẳng quatự cao tự đại, dám coi thường lão quái tên tuổi vang lừng này, quân tử báo

cừu, thập niên vị vãn, chỉ vì cái căm phẫn nhất thời, chưa tính toán chu đáo đã

làm liều khiêu chiến với y". Thế nhưng lúc này đâu còn có thể lùi được nữa,

bao nhiêu nội lực trong người lập tức chuyển lên đầu quyền tống ra.

Ngờ đâu nội kình đưa lên rồi chẳng khác gì hòn đá ném xuống biển, không

biết đi đâu. Mộ Dung Phục kêu thầm một tiếng: "Chết rồi!". Y vẫn biết Đinh

Xuân Thu là một cường địch nên từ khi bắt đầu giao đấu lúc nào cũng chăm

chăm quyết không để đối phương sử dụng Hóa Công Đại Pháp, ngờ đâu đến

lúc này không còn cách nào tránh được nữa. Hiện tại quả thực tiến thoái lưỡng

nan, nếu tiếp tục vận kình kháng cự thì dù nội công cao cường đến đâu cũng

sẽ bị y hóa giải chỉ trong giây lát công lực hết sạch, thành người tàn phế, còn

như bão nguyên thủ nhất, thu kình lực về thì những chất độc vô cùng ghê gớm

của Đinh Xuân Thu sẽ theo chân khí xâm nhập tạng phủ kinh mạch.

Còn đang chưa biết tính sao, bàng hoàng vô kế bỗng từ sau có người lớn

tiếng reo lên:

- Sư phụ xếp đặt thật khéo khiến cho tên tiểu tử thối tha kia bị hãm vào

tuyệt cảnh.

Mộ Dung Phục vội vàng lùi lại hai bước, tay trái vươn ra, chộp ngay ngực

tên đệ tử phái Tinh Tú. Trong gia số nã thủ tuyệt kỹ của Cô Tô Mộ Dung có

một môn mượn sức đánh sức tên là Đẩu Chuyển Tinh Di, người ngoài không

biết nguồn cơn thấy khoa gậy ông đập lưng ông của nhà Mộ Dung thật là

tuyệt diệu, những người bị chết ai cũng bị chính ngay môn tuyệt nghệ thành

danh của mình trở ngược vào thân, hiển nhiên bao nhiêu thần kỹ các môn

phái, Cô Tô Mộ Dung đều tinh thông am hiểu. Thực ra trong võ lâm tuyệt kỹ

có hàng nghìn hàng vạn môn, dù người thông minh uyên bác đến đâu chăng

nữa thì cũng không thể nào học hết mọi tuyệt kỹ được huống chi đã gọi là

tuyệt kỹ thì chẳng thể một sớm một chiều mà luyện thành. Tuy nhiên nhà Mộ

Dung có thuật Đẩu Chuyển Tinh Di nên dù đối phương đưa ra công phu nào

chăng nữa đều có thể di chuyển lực đạo, phản kích trở ngược lại mình.

Người giỏi về Tỏa Hầu Thương khi giơ ngọn giáo đâm vào cổ họng họ Mộ

Dung, bị họ dùng môn Đẩu Chuyển Tinh Di xoay lại, mũi thương đó sẽ đâm

ngay vào yết hầu của mình, cách sử dụng, kình lực phép tắc đều hoàn toàn do

yếu quyết bí truyền của bản môn; người giỏi về Đoạn Tí Đao khi múa đao

chém xuống thì lại chém phải chính cánh tay mình. Binh khí nào thì dùngchính binh khí đó, chiêu số nào cũng chính chiêu số đó. Nếu người ta không

chính mắt trông thấy người nhà Mộ Dung dùng môn Đẩu Chuyển Tinh Di này

thì có ai đoán ra được tại sao người đó bỏ mạng, thực ra cũng chỉ là "tự sát"

mà thôi. Kẻ ra chiêu võ công càng cao thì cái chết lại càng khéo léo.

Nhà Mộ Dung nếu không phải là một người đánh một người, hoặc không

biết chắc sẽ có thể lấy mạng đối phương thì không bao giờ dùng môn Đẩu

Chuyển Tinh Di này, thành thử Cô Tô Mộ Dung danh chấn giang hồ mà công

phu chân chính thế nào có ai biết đến đâu?

Đem binh khí quyền cước của đối thủ chuyển hoán phương hướng để cho

kẻ địch mình làm mình chịu, nguyên tắc chẳng qua chỉ là "bật ngược trở về",

chẳng khác gì một người giơ tay đấm vào tường đá, ra tay càng mạnh thì

quyền đầu bị chấn lực càng đau, nặng nhẹ mạnh yếu không sai một mảy. Có

điều chuyển hoán binh khí quyền cước là vật hữu hình thì dễ, còn chuyển

hoán thứ vô hình vô chất như nội lực khí công mới cực kỳ khó khăn. Mộ Dung

Phục tuy tập luyện công phu này đã nhiều năm nhưng vì tuổi còn trẻ nên vẫn

chưa đạt đến cảnh giới đăng phong tạo cực, gặp phải hạng cao thủ số một như

Đinh Xuân Thu, biết không cách nào dùng Đẩu Chuyển Tinh Di bật ngược lại

đả thương đối phương được nên dùng Đẩu Chuyển Tinh Di ba lần cũng chỉ

giết được ba tên đệ tử của phái Tinh Tú mà thôi.

Y có chuyển có di đấy nhưng cũng chỉ chuyển di sang người thứ ba mà

thôi. Đinh Xuân Thu lén sử dụng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, búng chén tống

chất độc, rồi nén độc tửu bắn ra, môn nào cũng bị Mộ Dung Phục nhẹ nhàng

đưa người khác ra chết thay cho mình.

Đến khi Đinh Xuân Thu sử dụng Hóa Công Đại Pháp, Mộ Dung Phục

không cách nào có thể di chuyển được, may sao có gã đệ tử kia lên tiếng nịnh

nọt lấy lòng thầy, vừa há miệng kêu lên nên đã cho y biết được mình đang ở

đâu. Mộ Dung Phục trong cơn gấp gáp, không còn thì giờ đâu mà nghĩ ngợi,

chộp ngay được tên đệ tử kia, lập tức xoay ngang hất dọc, đẩy khí thay kình

đem gã đó ra thế chỗ mình. Y mạo hiểm thi triển may sao hiệu quả, Tinh Tú

Lão Quái vốn chủ tâm "hóa" công lực của Mộ Dung Phục, ngờ đâu lại "tán"

ngay công phu bản môn của đứa học trò.

Mộ Dung Phục thử một lần thành công, thật đúng là chết đi sống lại, lập

tức chụp ngay lấy cơ hội, không để cho Đinh Xuân Thu có dịp suy nghĩ, đẩy

luôn tên đệ tử phái Tinh Tú cho đụng vào một gã đệ tử khác. Công lực của tênđệ tử thứ hai cũng lập tức bị Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu hóa tán

ngay.

Đinh Xuân Thu đã thấy Mộ Dung Phục dùng công phu tá lực đả lực chuyển

sang đệ tử của mình, càng thêm phẫn nộ, nghĩ thầm: "Ta nếu như vì bảo toàn

cho mấy đứa học trò bị thịt này mà buông y ra, muốn bắt lại thật khó bằng lên

trời, tên tiểu tử này thoát thân rồi sẽ tìm cách chạy mất. Nếu như thế ta chết

năm tên đệ tử mà chỉ xé rách được tay áo của y, thế có phải là phái Tinh Tú

thua đứt đuôi, Tinh Tú lão tiên còn mặt mũi nào dương uy Trung Nguyên?".

Y bèn tăng thêm kình lực vào năm ngón tay, nhất định không buông Mộ

Dung Phục. Mộ Dung Phục lại lùi thêm mấy bước, dính chặt thêm một gã đệ

tử phái Tinh Tú nữa để cho Đinh Xuân Thu tiêu tán công lực. Chỉ trong

khoảnh khắc, ba tên đệ tử đã nằm bẹp dưới đất, chẳng khác gì bị quỉ nhập

tràng hút hết máu trong người. Những tên còn lại kinh hãi quá, thấy Mộ Dung

Phục tiến đến gần, ai nấy kêu thất thanh, bỏ chạy tán loạn.

Mộ Dung Phục hất tay một cái, ba tên đệ tử phái Tinh Tú bay tung ra, tên

thứ ba lại dụng ngay vào một gã khác. Gã đó kinh hoảng vừa mới há miệng

kêu lên thì người đã nhũn ra rồi. Những đệ tử còn lại ai ai cũng đều nhìn rõ,

nếu sư phụ không thả Mộ Dung Phục ra thì tên tiểu tử này tiếp tục mượn sức

đả thương người, bao nhiêu đệ tử đều bị Tinh Tú lão tiên "hóa" hết, rồi thể

nào cũng đến lượt mình, nhưng ngoài việc khiếp đảm ra, chẳng một ai dám bỏ

chạy nên chỉ lẩn quẩn ở bên trong quán, chui qua trốn lại như chuột để khỏi

mang họa vào thân.

Cái tiểu điếm đó đâu có rộng bao nhiêu, thành thử Mộ Dung Phục vung tay

ra là lại trúng được ba bốn tên khác, dính chùm với nhau thành một xâu bảy

tám người, trong tay cái món "binh khí" vừa to vừa dài ấy muốn đụng vào ai

lại càng dễ hơn. Lúc đó y đã hoàn toàn chiếm được thượng phong nhưng trong

bụng lại lo ngay ngáy, đệ tử phái Tinh Tú tuy đông thật nhưng cũng có lúc

phải hết, đến khi Đinh Xuân Thu "hóa" hết nội lực bọn chúng rồi thì lúc đó

kiếm đâu ra một tên tử quỉ khác? Y hết sức vùng vẫy, liên tiếp phát chân lực

cố giằng khỏi tay Đinh Xuân Thu.

Đinh Xuân Thu thấy môn hạ đệ tử của mình dính chặt vào nhau, chẳng

khác gì người ta dùng lạt xâu một bầy cá, kẻ nào chưa bị thì trốn chui trốn

nhủi, không còn ai buông lời tán tụng mình nữa. Y vừa thẹn vừa tức, lại càng

ghịt chặt nắm tay Mộ Dung Phục, nghĩ thầm: "Cái bọn học trò vô tích sự cóchết hết cũng không tiếc, chỉ cần hóa được công lực thằng nhãi này, Tinh Tú

lão tiên thắng được Cô Tô Mộ Dung thì cũng là chuyện chấn động thiên hạ

rồi. Còn thu đệ tử thì trên đời này thiếu giống gì bọn bưng mâm bợ đỡ?'.

Khuôn mặt y không lộ chút gì tức tối, thần thái vẫn ra vẻ thanh nhàn, làm như

tiêu sái lắm.

Đệ tử phái Tinh Tú vẫn mong sư phụ e ngại ném chuột vỡ đồ, buông Mộ

Dung Phục ra để cho bọn chúng khỏi bị hóa tán công lực, thế nhưng thấy lão

nhân gia chẳng chút chạnh lòng, biết rồi cũng đến lượt mình, ai nấy kêu thét

hãi hùng nhưng vì bị uy thế của sư phụ tích chứa lâu nay nên vẫn không tên

nào dám bỏ chạy, cũng chẳng dám mở miệng van xin sư phụ buông tha "thằng

nhãi đã bị lão tiên nắm giữ".

Đinh Xuân Thu không còn cách gì khác hơn, đưa mắt nhìn khắp bốn bề

thấy trong đám đệ tử chỉ còn hai người không theo những người khác trốn

lánh. Một người là Du Thản Chi, nép mình tại một góc nhà, chui đầu sắt vào

giữa hai tay, hiển nhiên cực kỳ sợ hãi. Còn một người nữa là A Tử, mặt mày

nhợt nhạt, cũng ngồi một góc xem hai người đấu với nhau. Đinh Xuân Thu

quát lên:

- A Tử!

A Tử đang xem đến xuất thần, có ngờ đâu sư phụ lại gọi đến, ngẩn người

ra rồi đáp:

- Sư phụ, lão nhân gia đại triển thần uy ...

Nàng chỉ mới nói được nửa câu bỗng ngượng nghịu cười ruồi, không dám

nói tiếp. Sư phụ lão nhân gia quả có đại triển thần uy thế nhưng đả thương

toàn người của mình, có gì đáng ca tụng đâu quả khó dùng lời lẽ gì tán dương

được. Đinh Xuân Thu chưa thanh toán được Mộ Dung Phục vốn đang hết sức

nóng ruột, thấy nụ cười của A Tử có chiều diễu cợt, càng thêm cuồng nộ, cánh

tay áo bên trái liền phất một cái, bật tung hai chiếc đũa trên bàn, bắn thẳng

vào mắt A Tử.

A Tử kêu lên:

- Chao ôi!

Nàng vội vàng vung tay đánh tạt hai chiếc đũa ra nhưng vẫn chậm mất một

bước, đầu đũa đã điểm trúng, chỉ thấy vừa ngứa vừa tê, vội đưa tay áo lênchùi, mở mắt ra trước mắt chỉ một màu trắng loang loáng di động, chỉ giây lát

vùng trắng sáng biến mất chỉ còn một màu đen như mực.

Nàng sợ đến hồn vía lên mây, kêu ầm lên:

- Ta ... ta ... mắt ta ... mắt ta không ... không thấy gì nữa.

Đột nhiên một luồng hàn khí thốc vào người, rồi tiếp theo là một cánh tay

vòng qua ôm ngang lưng cô gái, một người nào đó đã bồng nàng bỏ chạy. A

Tử kêu lên:

- Mắt ... mắt ta ...

Ở phía sau nghe bình một tiếng, dường như song chưởng đụng nhau, A Tử

cảm thấy mình như đằng vân giá vụ bay bổng lên, trong cơn mơ màng, nghe

loáng thoáng có tiếng Mộ Dung Phục nói:

- Thôi ngừng tại đây, Tinh Tú Lão Quái, sau này ...

A Tử cảm thấy lạnh buốt thấu xương, bên tai gió ù ù thổi, một người còn

lạnh hơn băng bồng mình chạy vùn vụt. Nàng lạnh đến răng đập vào nhau

lách cách, rên rỉ:

- Lạnh quá ... mắt ta ... lạnh ... lạnh quá mất thôi ...

Người kia đáp:

- Được, được. Mình chạy đến khu rừng kia, Tinh Tú lão tiên không tìm

thấy đâu.

Y miệng nói nhưng chân vẫn chạy băng băng. Một hồi sau, A Tử thấy y

ngừng lại, nhè nhẹ bỏ nàng xuống, dưới lưng nghe tiếng loạt soạt hóa ra đã để

nàng nằm trên một đống lá khô. Người kia nói:

- Cô nương, mắt ... mắt cô ra sao?

A Tử chỉ thấy đôi mắt đau đớn khôn tả, cố hết sức nhướng mắt lên nhưng

không thấy gì cả, tất cả trời đất nay chỉ còn một màu đen kịt mới hay rằng mắt

nàng đã bị Đinh Xuân Thu dùng độc dược làm mù mất rồi, đột nhiên khóc òa

lên, kêu la rầm rĩ:

- Mắt ... mắt ta đui rồi, ta ... mù rồi.

Người kia dịu giọng an ủi:

- Xem chừng có thể trị khỏi được!

A Tử bực tức đáp:- Thuốc độc của Đinh lão quái lợi hại biết chừng nào, làm sao trị được?

Ngươi lừa ta! Mắt ta đui rồi, mắt ta đui rồi!

Nói xong lại khóc tức tưởi. Người kia nói:

- Bên kia có dòng suối nhỏ, mình đến đó rửa cho sạch thuốc độc trong

mắt đi.

Nói xong cầm tay nàng, nhẹ nhàng kéo lên. A Tử chỉ thấy bàn tay y lạnh

ngắt, tự nhiên rụt về, người đó liền buông ra. A Tử đi được hai bước, vấp một

cái lảo đảo muốn té. Người kia nói:

- Coi chừng!

Rồi lại đưa tay đỡ nàng. Lần này A Tử không giựt tay về nữa, để mặc y

dẫn đến bên dòng nước. Người kia nói:

- Cô đừng sợ, đây là bờ suối đó!

A Tử quì xuống bên khe nước, hai tay vốc nước lên rửa mắt. Dòng nước

mát rượi thấm vào mắt, đau đớn giảm dần nhưng trời đất vẫn tối tăm, trước

mắt không một chút sáng sủa nào hết. Trong cùng một lúc, tuyệt vọng, đau

thương, bơ vơ, phẫn nộ, bao nhiêu mối cùng kéo tới, nàng ngồi phịch xuống

đất, khóc rưng rức, hai chân đạp lung tung:

- Ngươi dối ta, ngươi dối ta, mắt ta mù hẳn rồi, mắt ta mù hẳn rồi!

Người kia nói:

- Cô nương, cô đừng quá đau lòng! Tôi không bỏ cô mà đi đâu, cô ... cô

cứ yên tâm.

A Tử thấy tạm nguôi ngoai, hỏi lại:

- Ngươi ... ngươi là ai?

Người kia đáp:

- Tôi ... tôi ...

A Tử nói:

- Ồ xin lỗi, cảm ơn ông đã cứu mạng tôi. Chẳng hay cao tính đại danh của

các hạ là gì?

Người kia ấp úng:

- Tôi ... tôi ... cô nương không nhận ra tôi sao?

A Tử nói:- Đến tên họ ông còn chẳng cho tôi hay, vậy mà dám xí gạt nói là sẽ

không bỏ tôi mà đi. Mắt ... mắt tôi mù rồi, chỉ ... chỉ có nước chết quách cho

xong.

Nói xong lại khóc òa lên. Người kia vội gạt đi:

- Cô nương muôn ngàn lần chớ có chết. Tôi ... tôi quả thật mãi mãi sẽ

không bao giờ rời xa cô. Chỉ cần cô nương bằng lòng cho tôi đi theo, tôi vĩnh

viễn ... vĩnh viễn ở bên cạnh cô nương.

A Tử đáp:

- Ta không tin! Ta không tin! Ngươi xí gạt ta, ngươi gạt ta để ta không tìm

cái chết. Ta muốn chết, mắt ta mù rồi, còn sống làm gì nữa?

Người kia lắp bắp:

- Tôi nhất quyết không đánh lừa cô đâu, nếu tôi bỏ cô thì cho tôi chết

đường chết chợ.

Giọng y hốt hoảng xem ra thật là thành khẩn. A Tử hỏi lại:

- Thế ngươi là ai?

Người kia đáp:

- Tôi là Tụ Hiền Trang ... không, không phải, tôi họ Trang, tên Tụ Hiền.

Người cứ được A Tử chính là thiếu trang chủ của Tụ Hiền Trang Du Thản

Chi. A Tử nói:

- Hóa ra là Trang ... Trang tiền bối, đa tạ tiền bối đã cứu tiểu nữ.

Du Thản Chi đáp:

- Tại hạ cứu được cô nương khỏi độc thủ Tinh Tú lão tiên, lòng mừng vô

hạn, cô nương chẳng phải tạ ơn làm gì. Tại hạ cũng không phải tiền bối của cô

nương, chỉ lớn hơn cô nương vài tuổi.

A Tử nói:

- Ồ, vậy thì tiểu muội gọi là Trang đại ca.

Du Thản Chi vui mừng không sao kể xiết, lắp bắp:

- Cái đó ... cái đó không dám.

A Tử nói:

- Trang đại ca, tiểu muội cầu đại ca một việc.

Du Thản Chi đáp:- Cô đừng nói cầu hay không cầu, cô nương có điều gì sai khiến, dù phải

hi sinh tính mạng, tại hạ cũng nhất quyết làm cho cô nương.

A Tử mỉm cười hỏi lại:

- Anh với tôi vốn không quen biết, sao anh đối với tôi tốt như thế?

Du Thản Chi lập cập đáp:

- Phải, phải, xưa nay không quen biết gì cả, tại hạ chưa từng gặp cô

nương, cô nương cũng chưa từng gặp tại hạ. Lần này ... hôm nay mới gặp mặt

lần đầu.

A Tử buồn bã nói:

- Còn nói gì đến gặp mặt? Tôi vĩnh viễn không bao giờ thấy mặt anh đâu.

Nói đến đây nhịn không nổi nước mắt lại rơi lã chã. Du Thản Chi vội đáp:

- Cái đó cũng chẳng hề gì. Không thấy tôi lại càng tốt.

A Tử hỏi lại:

- Sao thế?

Du Thản Chi nói:

- Tôi ... tôi mặt mày khó coi lắm, cô nương nếu trông thấy e rằng sẽ mất

vui.

A Tử lặng lẽ mỉm cười nói:

- Anh lại gạt tôi rồi. Người xấu xí khó coi nhất đời này tôi đã từng thấy

nhiều lắm. Tôi có một đứa đầy tớ, đầu đeo một cái lồng sắt, vĩnh viễn không

thể nào gỡ ra được, thế mới thực là khó coi chứ. Nếu như anh thấy y thì anh sẽ

phải cười đến ba ngày ba đêm. Anh có muốn xem không?

Du Thản Chi run run đáp:

- Không! Không! Tôi không xem đâu.

Y nói nhưng không ngăn nổi tự nhiên lùi lại hai bước. A Tử nói:

- Anh bồng tôi chạy nhanh chẳng kém gì tỉ phu tôi, võ công giỏi vậy mà

sao nhát thế, đến người đầu sắt cũng không dám coi. Trang đại ca, người đầu

sắt đó ngộ nghĩnh lắm, để tôi bảo y lộn mèo cho anh coi, bảo y đưa đầu vào

lồng sư tử, lồng cọp cho dã thú cắn. Tôi sẽ bảo người ta đem y ra làm diều

phóng trên không, thật là thú vị.

Du Thản Chi bất giác rùng cả mình, luôn mồm kêu:- Tôi không muốn coi, tôi thực sự không muốn coi.

A Tử thở dài:

- Thôi được. Anh vừa mới bảo bất luận tôi muốn gì, dù phải bỏ mạng anh

cũng làm, hóa ra cũng chỉ để xí gạt tôi thôi.

Du Thản Chi đáp:

- Không, không! Tôi không nói láo đâu. Cô nương bảo tôi làm gì?

A Tử nói:

- Tôi muốn về ở bên cạnh tỉ phu, anh ta ở Nam Kinh nước Liêu. Trang

đại ca, nhờ anh đưa tôi về.

Nàng vừa nói thế, đầu óc Du Thản Chi trở nên hỗn loạn nhưng không dám

nói nên lời. A Tử hỏi:

- Sao? Anh không chịu ư?

Du Thản Chi ấp úng:

- Không phải ... không chịu, có điều ... có điều tôi không muốn ... không

muốn đến Nam Kinh nước Liêu.

A Tử nói:

- Tôi bảo anh đến xem gã hề đầu sắt, anh không chịu, bảo anh đưa tôi về

với anh rể tôi, anh cũng không chịu. Thôi thế thì tôi đi một mình vậy.

Nói xong nàng chậm rãi đứng lên, hai tay đưa ra đằng trước mò đường. Du

Thản Chi nói:

- Để tôi đi với cô! Cô đi một mình ... sao được?

Du Thản Chi cầm bàn tay nhỏ nhắn mịn màng của A Tử, dẫn nàng ra khỏi

khu rừng, trong bụng chỉ nghĩ: "Chỉ cần mình được nắm tay nàng đi chầm

chậm như thế này, thì dù phải đến mười tám tầng địa ngục thì ta vẫn hết sức

hài lòng". Đến khi hai người ra tới đường cái, nhìn lên thấy có một đám ăn

mày, người đi đầu thân hình gầy cao, tướng mạo thanh tú, chính là Cái Bang

Đại Trí phân đà đà chủ Toàn Quan Thanh. Du Thản Chi nghĩ thầm: "Gã này

hôm trước bị sư phụ ta đả thương, hóa ra không chết". Y không muốn gặp bọn

này, vội vàng dẫn A Tử rời đại lộ, đi vào phía đồng hoang. A Tử thấy đường

lồi lõm không phẳng bèn hỏi:

- Cái gì thế?Du Thản Chi chưa kịp trả lời, Toàn Quan Thanh đã trông thấy hai người,

rảo bước đi tới chặn lại, hầm hầm gặng hỏi:

- Làm gì mà lấp lấp ló ló ở đây? Ngươi ... ngươi hình dáng kỳ quái, làm

cái trò gì?

Du Thản Chi hoảng hốt nghĩ thầm: "Nếu như y gọi ra ba chữ "thằng đầu

sắt" thì A Tử cô nương biết ngay mình là ai, sẽ không còn nhìn nhõi gì đến

mình nữa. Dẫu nàng có bằng lòng cho mình đưa về Nam Kinh thì cũng không

bao giờ để cho mình nắm tay nữa". Y bàng hoàng không biết tính sao, đột

nhiên quì phục xuống, lạy như tế sao, tay chỉ trỏ lung tung yêu cầu Toàn Quan

Thanh đừng nói lộ chân tướng mình ra.

Toàn Quan Thanh chẳng hiểu y ra hiệu để làm gì, lạ lùng hỏi:

- Ngươi làm gì thế?

Du Thản Chi chỉ vào A Tử, xua xua tay, lại chỉ vào mồm mình, xua xua

tay, rồi lại lạy mấy cái. Toàn Quan Thanh nhìn ra A Tử đã bị mù, hiểu ra gã

đầu sắt này xin mình đừng nói, còn đang ngạc nhiên, các đệ tử Cái Bang đã

chạy ùa đến. Một người chỉ vào đầu Du Thản Chi, cười hềnh hệch kêu lên:

- Lạ chưa kìa, gã này đầu ...

Du Thản Chi tung mình nhảy tới, chưởng đánh ra. Gã đệ tử Cái Bang vội

đưa tay lên đỡ, chỉ nghe lắc cắc mấy tiếng, xương cánh tay lẫn xương sườn

đều gãy vụn, thân hình bắn tung về sau cả trượng, nằm gục xuống đất, chết

tươi ngay.

Bọn ăn mày vừa kinh hãi vừa tức giận, lập tức năm người khác xông lên

tấn công Du Thản Chi. Du Thản Chi song chưởng vung lên, đánh đấm lung

tung. Võ công y tuy thấp kém thua xa đệ tử Cái Bang nhưng thủ chưởng đến

đâu, chỉ nghe lắc cắc, lộp cộp liên hồi, "Chết rồi!", "Chao ôi!", bình bình

bình, bịch bịch, cả năm tên đều văng ra, rơi xuống chết cả. Bọn còn lại hết sức

kinh hoàng, lập tức vây quanh Du Thản Chi và A Tử nhưng không kẻ nào dám

xông lên tấn công.

Du Thản Chi đột nhiên lại quay về phía Toàn Quan Thanh quì xuống, lạy

như tế sao, rồi lại giơ tay chỉ trỏ, chỉ vào A Tử, lại chỉ vào cái đầu sắt của

mình, không ngớt xua tay.

Toàn Quan Thanh thấy y giơ tay lên đã giết được sáu bang chúng Cái

Bang, công lực thâm hậu, quả thực bình sinh ít thấy, đến như mình có tiến lênđộng thủ, chưa chắc đã thắng được y, thế nhưng y lại lạy lục mình, quả không

sao hiểu nổi, bèn cũng ra hiệu lại, chỉ vào A Tử, chỉ vào đầu sắt của y, rồi chỉ

vào mồm mình, xua xua tay.

Du Thản Chi mừng quá, gật đầu liên tiếp. Toàn Quan Thanh trong lòng

chợt nghĩ: "Gã này võ công cực kỳ cao siêu nhưng lại sợ ta tiết lộ chuyện bí

mật của y, xem chừng mình có thể nhân chuyện này ép y vào việc mình có

thể dùng được". Y bèn quay sang nói với các thủ hạ:

- Tất cả không ai được nói năng gì, tất cả mọi việc để cho ta hỏi chuyện.

Du Thản Chi lại càng mừng rỡ, lạy thêm mấy cái nữa. A Tử hỏi:

- Trang đại ca, bọn nào thế? Anh đánh chết mấy người phải không?

Du Thản Chi nói:

- Đây là các hảo bằng hữu của Cái Bang, chẳng qua chỉ hiểu lầm một

chút. Vị Đại Trí phân đà Toàn đà chủ đây nhân nghĩa hơn người, tốt bụng lắm,

trước nay ta vẫn hết sức khâm phục. Ta ... ta lỡ tay giết chết mấy vị huynh đệ,

quả thực vô cùng ân hận.

Nói xong chắp tay tạ tội với bọn người Cái Bang. A Tử hỏi:

- Trong Cái Bang cũng có người tốt sao? Trang đại ca, anh võ công cao

siêu như thế, chi bằng giết sạch bọn chúng đi, để cho tỉ phu tôi đỡ tức.

Du Thản Chi vội đáp:

- Ấy chết, không được, cái đó chẳng qua chỉ hiểu lầm. Tôi với Toàn đà

chủ là hảo bằng hữu. Cô ở đây đợi, tôi đi với Toàn đà chủ nói cho rõ sự tình.

Nói xong đưa tay vẫy vẫy Toàn Quan Thanh. Toàn Quan Thanh thấy y

nhận ra mình, càng thêm lạ lùng, nhưng xem ra không có gì ác ý, nên cũng

theo y đi ra ngoài hơn mười trượng. Du Thản Chi thấy mình đi cách A Tử cũng

đã xa, nàng không thể nào nghe được mình nói những gì nhưng lại sợ bọn ăn

mày làm hại nàng, không dám đi thêm nữa nên ngừng lại, chắp tay nói:

- Toàn đà chủ, nhờ có ông ẩn dấu chân tướng cho tôi, đại ân đại đức đó

quyết không dám quên.

Toàn Quan Thanh đáp:

- Nguyên do bên trong, huynh đệ thật chẳng hiểu chi hết. Tôn huynh cao

tính đại danh là gì?

Du Thản Chi nói:- Huynh đệ họ Trang, tên gọi Trang Tụ Hiền, chỉ vì bản thân gặp chuyện

không may, trên đầu mới đeo cái của quỉ này, thành thử chẳng thể nào cho vị

cô nương đó biết được.

Toàn Quan Thanh thấy y trong khi nói đưa mắt nhìn A Tử với vẻ cực kỳ

quan thiết, cũng đoán ra được bảy tám phần: "Cô nương kia thanh nhã tú lệ,

gã này đem lòng yêu mến cô ta, sợ nàng biết y hình dáng quái dị, có cái đầu

sắt". Y bèn hỏi:

- Trang huynh làm sao lại biết đến tại hạ?

Du Thản Chi đáp:

- Khi Đại Trí phân đà của quí bang tụ hội bàn tính chuyện suy tuyển

người làm bang chủ, huynh đệ ở cạnh bên, nghe thấy người ta gọi Toàn đà

chủ. Hôm nay huynh đệ lỡ tay đánh chết mấy vị huynh đệ của quí bang, quả

là ... quả là sai quấy, mong Toàn đà chủ lượng thứ cho.

Toàn Quan Thanh nói:

- Chúng ta ai chẳng có lúc lầm lẫn, có gì đáng quan tâm đâu. Trang

huynh, cái vật huynh đài mang trên đầu, huynh đệ quyết không nói ra. Để tại

hạ dặn thuộc hạ không ai được tiết lộ chút phong thanh nào cả.

Du Thản Chi cảm kích muốn chảy nước mắt, liên tiếp chắp tay vái nói:

- Đa tạ! Đa tạ!

Toàn Quan Thanh nói tiếp:

- Thế nhưng Trang huynh cùng cô nương đó dắt tay nhau đi trên đường,

khó mà không để cho người khác trông thấy, ắt có người kinh hoảng kêu la

rầm lên, dù cho Trang huynh có giết đi thì cũng không kịp.

Du Thản Chi đáp:

- Đúng lắm! Đúng lắm!

Y từ khi cứu được A Tử, thần hồn phiêu đãng nên quên khuấy mất chuyện

đó, bây giờ nghe Toàn Quan Thanh nói không biết phải tính thế nào, ngượng

nghịu nói:

- Tôi ... tôi chỉ có nước đưa nàng tới một nơi thâm sơn cùng cốc trốn ở đó

thôi.

Toàn Quan Thanh mỉm cười nói:- Chỉ e cô nương này khởi nghi, vả lại, sau khi Trang huynh với cô ta kết

thành đôi lứa, sớm muộn gì cũng phải biết thôi.

Du Thản Chi ngực như sôi lên ấp úng:

- Kết thành đôi ... đôi lứa ư, tôi nào dám nghĩ đến, chắc ... chắc không

được rồi, tôi đâu ... đâu có xứng? Chẳng qua ... chẳng qua ... ư quả là khó thật.

Toàn Quan Thanh nói:

- Trang huynh, nếu như không hiềm thì cùng huynh đệ kết thành bằng

hữu, bạn bè có chuyện khó khăn thì phải lo liệu giúp nhau. Chi bằng mình đến

thị trấn trước mặt, thuê một cỗ xe, ngươi cùng cô nương đó ngồi trong xe,

chẳng ai thấy được hai người.

Du Thản Chi mừng lắm, nghĩ đến việc được cùng A Tử ngồi chung một xe,

thật thần tiên cũng không bằng, vội đáp:

- Đúng, đúng rồi! Ý kiến đó của Toàn đà chủ cao minh lắm.

Toàn Quan Thanh nói tiếp:

- Sau này mình tìm cách tháo cái mũ sắt trên đầu Trang huynh đi, huynh

đệ vỗ ngực bảo đảm, vị cô nương đó vĩnh viễn không bao giờ biết được

chuyện đáng hổ thẹn đó của Trang huynh đâu, ngươi nghĩ sao?

Cộp một tiếng, Du Thản Chi đã quì mọp xuống, hướng về Toàn Quan

Thanh liên tiếp rập đầu, chiếc lồng sắt chạm xuống đất kêu boong boong.

Toàn Quan Thanh cũng quì xuống hoàn lễ, nói:

- Trang huynh hành đại lễ như thế này, huynh đệ làm sao dám nhận? Nếu

như Trang huynh không hiềm, hai đứa mình kết nghĩa kim lan, nên chăng?

Du Thản Chi mừng rỡ nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Tiểu đệ chuyện gì cũng không thông, có được một

huynh trưởng túc trí đa mưu chỉ điểm cho đường ngay nẻo sáng, quả thật cầu

còn không được.

Toàn Quan Thanh cười hà hà nói:

- Người ca ca này hơn ngươi vài tuổi, thôi chẳng khách sáo gì gọi ngươi

một tiếng huynh đệ nhé.

*

* *Trong khi Đinh Xuân Thu và Tô Tinh Hà đánh nhau trời long đất lở như

thế, mắt Đoàn Dự trước sau vẫn không rời Vương Ngữ Yên, còn Vương Ngữ

Yên thì lại đầy vẻ tình ý đăm đăm như dán vào người biểu ca. Thành thử ánh

mắt Đoàn Vương hai người thủy chung cũng vẫn chưa hề chạm nhau.

Đến khi Đinh Xuân Thu đại bại bỏ chạy, Hư Trúc hội ngộ với người của

phái Tiêu Dao, bọn Mộ Dung Phục bỏ đi, Đoàn Dự cũng mê mê mẩn mẩn lẽo

đẽo theo Vương Ngữ Yên.

Xuống dưới chân núi rồi, Mộ Dung Phục quay sang chắp tay chào Đoàn

Dự:

- Hôm nay may mắn được biết Đoàn huynh, giờ xin từ biệt, ngày sau

mong lại gặp nhau.

Đoàn Dự lập cập nhắc lại:

- Vâng! Vâng! Hôm nay may mắn được biết, giờ xin từ biệt, ngày sau

mong lại gặp nhau.

Miệng nói nhưng mắt vẫn chăm chăm không rời khỏi thân hình Vương Ngữ

Yên. Mộ Dung Phục cảm thấy khó chịu, hừ một tiếng, quay người bước đi.

Đoàn Dự vẫn lưu luyến lọt tọt theo sau. Bao Bất Đồng giơ tay chặn ngang

Đoàn Dự nói:

- Đoàn công tử, hôm nay công tử ra tay tương trợ chủ nhân chúng tôi, Bao

mỗ xin đa tạ.

Đoàn Dự đáp:

- Có gì đâu mà phải khách sáo.

Bao Bất Đồng tiếp:

- Việc này đã cảm tạ rồi, hai bên không còn nợ nần gì nhau nữa. Thế

nhưng mắt ngươi chăm chăm không rời Vương cô nương, đã vô lễ lắm rồi, bây

giờ lại còn toan đi theo, thì thật hết chỗ nói. Ngươi là kẻ đọc sách, sao không

biết câu: "Phi lễ vật thị, phi lễ vật hành"1 hay sao? Bao mỗ lúc này trên người

không có một chút lực khí nào nhưng vẫn còn cái miệng để chửi đấy nhé.

Đoàn Dự thở dài, lắc đầu:

1 - Nếu đã nói thế, Bao huynh cũng nên "phi lễ vật ngôn", còn ta thì đành

"phi lễ vật căn"2 vậy.

Bao Bất Đồng cười sằng sặc nói:

- Ngươi nói phải lắm!

Nói xong y quay lại chạy theo bọn Mộ Dung Phục. Đoàn Dự đưa mắt nhìn

theo Vương Ngữ Yên đến khi bóng nàng khuất sau rừng cây nhưng vẫn ngơ

ngẩn như người mất hồn. Chu Đan Thần nói:

- Công tử, mình đi thôi.

Đoàn Dự đáp:

- Ừ, thì đi vậy.

Nói thế nhưng chàng vẫn đứng yên, đến lúc Chu Đan Thần giục giã đến ba

lần mới uể oải trèo lên con ngựa Cổ Đốc Thành dắt lại. Chàng tuy đã ngồi

trên lưng ngựa nhưng mắt vẫn hướng về lối Vương Ngữ Yên vừa đi.

Hôm đó Đoàn Dự đưa thư cho Toàn Quan Thanh rồi vội chạy đến bái kiến

Đoàn Chính Thuần. Cha con lâu ngày gặp lại, cả hai đều vui mừng khôn xiết.

Nguyễn Tinh Trúc cũng hết sức chiều đãi vị tiểu vương gia này. A Tử không

từ biệt mà đi mất thành ra hai anh em chưa có dịp gặp nhau. Đoàn Chính

Thuần và Nguyễn Tinh Trúc thấy việc A Châu, A Tử không có gì làm đẹp đẽ

nên cũng không đề cập tới.

Ở hơn mười ngày, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi cũng tìm đến. Nơi

Cầm Vận tiểu trúc đất Tô Châu, hai chú cháu lạc mất Đoàn Dự nên đi khắp

nơi dò hỏi nhưng chẳng thấy tung tích đâu, về sau do người của bản môn ở núi

Phục Ngưu, Hà Nam cho hay tin là Trấn Nam Vương nước Đại Lý đến đây

nên từ núi Phục Ngưu chạy tới, thấy Đoàn Dự an toàn không sao, thật mừng

rỡ.

Đoàn Dự sau khi thập tử nhất sinh rồi, nay gặp được đoàn tụ với cha tuy có

vui thật nhưng mối tình tưởng nhớ Vương Ngữ Yên càng ngày càng tăng, đợi

đến kỳ hẹn đánh cờ, được phụ thân đồng ý liền cùng bọn Cổ Đốc Thành phó

hội. Quả nhiên không phụ tấm lòng mong mỏi, nơi kỳ hội chàng được thấy lại

ý trung nhân. Thế nhưng gặp nhau chỉ thêm sầu khổ, gặp hay không gặp đằng

nào hơn, chính chàng cũng không biết nữa.

2 Đoàn người đi chừng hơn hai chục dặm bỗng thấy trước mặt bui bay tung,

khoảng hơn chục người cưỡi ngựa chạy đến, chính là Tam Công nước Đại Lý

Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch cùng một số tướng sĩ khác. Những

người đó tới gần nhảy xuống ngựa hành lễ với Đoàn Dự. Thì ra bọn họ phụng

mệnh Đoàn Chính Thuần đến tiếp ứng, sợ rằng trong hội cờ của Lung Á tiên

sinh có gì hung hiểm chăng. Những người đó nghe thấy Đoàn Diên Khánh

cũng có mặt, cũng may không hạ thủ Đoàn Dự, ai nấy đều nổi da gà.

Chu Đan Thần nói nhỏ với bọn Phạm Hoa là Đoàn Dự ở trong kỳ hội gặp

một cô gái xinh đẹp của nhà Mộ Dung Cô Tô, ngơ ngẩn nhìn không chớp mắt,

mất hồn mất vía, lại định đi theo, cũng may đối phương trách cứ mới thôi. Bọn

Phạm Hoa nhìn nhau cười tủm tỉm, người nào cũng nghĩ như nhau: "Tiểu

vương tử phong lưu đã quen, quả là con giòng cháu giống. Thế nhưng nếu vậy

mà quên được chuyện nhớ nhung cô em gái thì cũng là điều hay lắm".

Đên chiều hôm đó, cả đoàn người ở lại khách điếm ăn cơm. Phạm Hoa kể

lại chuyến đi Giang Nam, nói:

- Công tử gia, nhà Mộ Dung xem ra vô cùng ngụy bí, sau này nếu gặp họ

phải thật cẩn thận mới được.

Đoàn Dự hỏi lại:

- Sao thế?

Phạm Hoa đáp:

- Lần này ba anh em chúng tôi phụng tướng lệnh của vương gia, đến nhà

Mộ Dung ở Yến Tử Ổ đất Tô Châu tra xét, xem có chút dấu vết gì không,

Huyền Bi đại sư của phái Thiếu Lâm có thực là bị nhà Mộ Dung hạ sát chăng.

Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi hết sức quan tâm, cùng lên tiếng hỏi:

- Ba vị có tra xét được chút nào không?

Phạm Hoa đáp:

- Chúng tôi ba người không ngang nhiên đến bái kiến, chỉ tra xét ngầm

thôi, trong nhà Mộ Dung không thấy chủ nhân nam nữ đâu cả, chỉ còn toàn

đầy tớ lão bộc. Cả mấy tòa trang viện to lớn dường ấy mà chỉ có một cô gái

nhỏ tên là A Bích trông nom quán xuyến mọi việc.

Đoàn Dự gật đầu nói:- Ừ, A Bích cô nương là người rất tốt, các vị không làm gì tổn thương cô

ta chứ?

Phạm Hoa mỉm cười:

- Không đâu, chúng tôi tra xét luôn mấy đêm liền, chỗ nào trong trang

viện nhà Mộ Dung cũng có đến, không thấy điều gì khác lạ cả. Ba huynh đệ

đột nhiên nghĩ ra, gã phiên tăng Cưu Ma Trí mời công tử từ Đại Lý đến Giang

Nam, nói là đem đến tế Mộ Dung tiên sinh ...

Thôi Bách Tuyền ngắt lời:

- Đúng đó! Hai con a đầu trong Mộ Dung Trang nhất định không chịu dẫn

phiên tăng đi tế mộ, cũng nhờ thế nên công tử gia mới thoát khỏi độc thủ của

gã sư hổ mang kia.

Đoàn Dự gật đầu nói:

- A Châu, A Bích hai vị cô nương quả là người tốt bụng. Không biết họ

bây giờ ra sao rồi?

Ba Thiên Thạch mỉm cười nói:

- Chúng tôi ba đêm liên tiếp đều chỉ thấy A Bích cô nương ngồi may một

chiếc trường bào đàn ông, lẩm bẩm một mình: "Công tử gia đi ra ngoài chừ

lạnh lắm, không biết chừng mô mới quay về?". Đoàn công tử, phải chăng cô

ta may áo cho công tử chăng?

Đoàn Dự vội đáp:

- Không phải, không phải đâu! Cô ta may áo cho Mộ Dung công tử đó.

Ba Thiên Thạch nói:

- Đúng rồi! Ta xem con tiểu a đầu đó hồn vía đâu đâu, hẳn là nhớ đến

công tử gia nhà thị, thành thử ba người ta đi hết phòng này sang phòng khác

mà thị có hay biết gì đâu.

Y dằn mạnh câu đó để nhắc chừng Đoàn Dự đừng theo thói của cha, đi đâu

vương vãi ái tình đến đó, trong lòng A Bích chỉ nhớ đến Mộ Dung công tử,

Đoàn công tử chớ có tơ tưởng chỉ tổ mất công. Đoàn Dự thở dài một tiếng nói:

- Mộ Dung công tử tuấn nhã vô song, cũng chẳng trách được! Huống chi

hai người lại là anh em cô cậu, từ tấm bé đã có tình thanh mai trúc mã ...Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch cả bọn ngơ ngác nhìn nhau, nghĩ thầm: "Đứa

thị tì với công tử sao lại có tình thanh mai trúc mã được nhỉ? Anh em cô cậu là

sao?". Có ai biết được Đoàn Dự nghĩ đến là Vương Ngữ Yên đấy thôi.

Thôi Bách Tuyền hỏi thêm:

- Phạm Tư Mã, Ba Tư Không thử nghĩ xem tên phiên tăng đó định đến tế

mộ Mộ Dung tiên sinh là vì lý do gì? Có liên can gì đến cái chết của sư huynh

tiểu nhân chăng?

Phạm Hoa đáp:

- Ta đưa ra việc này cũng chính là để cho tất cả mọi người xem xét cho tỏ

tường. Hoa đại ca vừa nghe đến chữ "mộ" đã thấy ngứa ngáy tay chân, mới

bảo: "Không chừng trong mả lão già này có cái gì kỳ quái, hay là mình đào

lên xem?". Ta và Ba huynh không mấy tán thành, họ Cô Tô Mộ Dung danh

mãn thiên hạ, họ Đoàn nhà mình đi đào mả người ta, xem ra quá đáng. Hoa

huynh đệ bèn nói: "Mình len lén đào một địa đạo vào tới nơi, quỉ thần cũng

không hay biết, huống hồ là người?". Bọn ta cãi không được đành nghe theo.

Ngôi mộ đó chôn ở phía sau trang viện, ở một nơi hết sức kín đáo, không dễ gì

kiếm ra. Ba người chúng ta đào đến nơi, mở quan tài, Thôi huynh có đoán ra

được chăng?

Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi cùng bật dậy hỏi:

- Gì thế?

Phạm Hoa đáp:

- Quan tài trống rỗng, không có xác người!

Thôi Quá hai người há hốc mồm, một hồi lâu không ngậm lại được. Qua

một lúc sau, Thôi Bách Tuyền vỗ đùi nói:

- Tên Mộ Dung Bác kia chưa chết. Y bảo con y đi rảo khắp nơi ở Trung

Nguyên còn y đi ra xa vài nghìn dặm giết người, khiến cho không ai ngờ được.

Sư ca ta ... sư ca ta chắc là do tên ác tặc Mộ Dung Bác giết rồi.

Phạm Hoa lắc đầu:

- Thôi huynh cũng đã biết, gã Mộ Dung Bác này võ công cao siêu không

biết đâu mà kể, muốn giết người thì dùng cách gì chẳng được, hà tất phải lưu

lại cái công phu "dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân" để cho người đời biết được

rằng chính là do nhà Mộ Dung Cô Tô hạ thủ? Trong võ lâm ai chẳng biết yghê gớm như thế, cớ gì lại phải giả chết là sao? Nếu chẳng phải Hoa đại ca có

cái tài kia thì ai mà biết được bí mật đó?

Thôi Bách Tuyền ngồi phịch xuống, y tưởng mình đã tìm ra được chút ánh

sáng le lói, bỗng chốc lại thấy như ở trong đám sương mù. Đoàn Dự nói:

- Trong thiên hạ tuyệt kỹ các môn các phái có đến hàng nghìn hàng vạn,

nếu môn nào cũng hiểu rõ tận cội nguồn, thật khó bằng lên trời, vậy mà sao

nàng lại thông minh tài trí đến vậy, võ công nào cũng rõ như chỉ trong lòng

bàn tay ...

Thôi Bách Tuyền tiếp :

- Đúng vậy, chẳng hạn như chiêu Thiên Linh Thiên Liệt, là bí mật của

phái Phục Ngưu không truyền ra ngoài, làm sao y lại biết được để dùng tuyệt

chiêu này giết hại sư ca của tôi?

Đoàn Dự lắc đầu:

- Đương nhiên nàng biết chứ, có điều là sức trói gà không chặt, dẫu biết

tất cả võ công các môn phái, nhưng chính mình thì một chiêu cũng không sử

dụng được, cũng chẳng đời nào hại mạng ai đâu.

Mọi người ngơ ngẩn nhìn nhau, một lát sau ai nấy chầm chậm lắc đầu.

Than ôi vật đổi sao dời,

Trời sầu đất thảm một đời bỏ đi.

*

* *

Hai mắt A Tử bị Đinh Xuân Thu đánh thuốc độc mù rồi, Du Thản Chi

không kể sống chết cứu nàng đào tẩu. Đinh Xuân Thu tâm thần hơi nhãng, nội

lực trên những ngón tay lỏng ra, Mộ Dung Phục được dịp may, lập tức vận

tuyệt kỹ Đẩu Chuyển Tinh Di, nghe soạt một tiếng, năm ngón tay của Đinh

Xuân Thu đã chộp trúng ngay cánh tay một tên đệ tử. Nắm tay tuột ra rồi, Mộ

Dung Phục lập tức phi thân nhảy vọt ra, cười ha hả kêu lên:

- Thôi ngừng tại đây, Tinh Tú Lão Quái, sau này gặp lại.

Y thi triển khinh công chẳng thèm quay đầu nhìn nữa. Trận đánh đó y làm

chết hơn hai chục đệ tử phái Tinh Tú, coi như toàn thắng, hả được cái giận

Đinh Xuân Thu ám hại mình suýt nữa tự vẫn nhưng về sau thoát được một

cách an toàn cũng chỉ nhờ may, trên đường nghĩ lại, quả thật không lạnh mà

rùng mình. Gặp lại Vương Ngữ Yên cùng bọn Đặng Bách Xuyên rồi cả bọnliền nghỉ lại khách điếm, ít ra ngoài cũng chẳng giao thiệp với ai để dưỡng

thương.

Mấy ngày sau, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác đều đã khôi phục như cũ,

Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can cũng thuyên giảm nhiều. Sáu người bàn

bạc, không biết A Châu bây giờ ra sao, ai nấy thắc thỏm nên đi xuống Lạc

Dương để hỏi thăm tin tức.

Ở Lạc Dương không nghe thêm âm hao gì nên lại đi về hướng tây dò xét.

Hôm đó sáu người đi vội nên lỡ mất quán xá thành thử đến lúc trời tối mịt mà

vẫn còn lẩn quẩn trong sơn đạo, càng đi cỏ hai bên càng dày. Phong Ba Ác

nói:

- E rằng mình đi lầm đường, cái khúc quanh trước mặt xem ra không phải

rồi.

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Thôi mình đi tìm cái hang núi hay cái miếu hoang nào nghỉ qua đêm

vậy.

Phong Ba Ác chạy lên trước tìm chỗ trú chân, thấy đường gập ghềnh khúc

khuỷu, toàn là đá tai mèo. Người như y thì chỗ nào cũng có thể nằm xuống

đánh một giấc ngáy pho pho, thế nhưng kiếm cho ra một chỗ để Vương Ngữ

Yên nghỉ ngơi thì không phải dễ.

Y chạy một hơi mấy dặm liền, vòng qua một triền núi, bỗng thấy xa xa nơi

sơn cốc phía phải có một đốm lửa leo lét, mừng quá, quay đầu kêu to:

- Ở bên đây có người.

Bọn Mộ Dung Phục nghe thế bèn chạy tới, Công Dã Can vui vẻ nói:

- Xem ra chỉ là một nhà thợ săn nhưng cũng có chỗ cho Vương cô nương

nghỉ một đêm.

Sáu người nhắm hướng ngọn lửa xăm xăm đi tới, thế nhưng tuy vậy mà xa,

đi một lúc lâu vẫn chỉ thấy bập bùng leo lét, nhìn không rõ có nhà cửa gì

không. Phong Ba Ác lẩm bẩm chửi thề:

- Con bà nó chứ, ngọn đèn này hình như có gì tà môn.

Đột nhiên Đặng Bách Xuyên hạ giọng kêu lên:

- Hượm đã, công tử gia xem kìa, đó là một ngọn lục đăng.Mộ Dung Phục nheo mắt nhìn kỹ, quả nhiên cái đèn đó tỏa ra ánh sáng

xanh lè, khác hẳn lửa thường phải có chút đo đỏ, vàng vàng. Sáu người càng

đi nhanh hơn về phía ngọn đèn thêm hơn một dặm nữa, lúc đó mới thấy rõ.

Bao Bất Đồng lớn tiếng nói:

- Tà ma ngoại đạo tụ tập ở chỗ này.

Cứ như võ công tài trí của năm người thì dù bang hội hay môn phái nào

trên giang hồ cũng không có gì e ngại nhưng ai nấy nghĩ thầm: "Hôm nay có

cả Vương cô nương đi chung, không gặp rắc rối gì là hơn cả". Bao Bất Đồng

và Phong Ba Ác đã lâu không được gây gổ đánh đấm với ai, bây giờ thấy

ngứa ngáy tay chân chỉ chăm chăm muốn thử sức nhưng phải tự kiềm chế

ngay. Phong Ba Ác nói:

- Hôm nay đi cả ngày rồi, cũng hơi mệt, cái địa phương thối tha này

chẳng có gì hay, thôi quay lại là hơn.

Mộ Dung Phục mỉm cười nghĩ thầm: "Phong tứ ca bỗng dưng đổi tính đổi

nết, quả thật khó thấy". Y bèn nói:

- Biểu muội, nơi đây chẳng ra gì, thôi mình quay về đường cái vậy.

Vương Ngữ Yên không rõ lý do tại sao nhưng biểu ca đã nói thế nên cũng

vui vẻ đi theo. Sáu người quay đầu, mới đi được vài bước, bỗng có một tiếng

nói văng vẳng truyền tới:

- Nếu đã biết là tà ma ngoại đạo tụ tập ở đây thì mấy tên yêu ma quỉ quái

nửa người nửa ngợm các ngươi sao không đến vui chơi luôn thể?

Giọng nói đó khi cao khi thấp, lúc được lúc mất tưởng như xoáy vào tai

người ta thật là khó chịu, nhưng tiếng nào cũng rõ ràng. Mộ Dung Phục hừ

một tiếng, biết rằng câu nói của Bao Bất Đồng : "Tà ma ngoại đạo tụ tập ở

chỗ này" đã bị đối phương nghe được, cứ theo cách truyền âm thì người nói ra

nội lực tuy không kém, nhưng chẳng phải là cao thủ hạng nhất trên đời. Y

phất tay một cái nói:

- Mình không hơi đâu mà lằng nhằng với họ, để cho y đi.

Y chẳng nói chẳng rằng quay lại theo đường cũ trở ra. Giọng nói kia lại

tiếp:

- Đồ chó má, chỉ giỏi nói phét, tưởng cứ thế mà cúp đuôi chạy được à?

Muốn đi thì rập đầu lạy ông tổ nhà mày ba trăm cái rồi hãy đi.Phong Ba Ác không còn nhịn được nữa, đứng phắt lại, nói nhỏ:

- Công tử gia, để thuộc hạ tới dạy cho tên cuồng đồ này một bài học.

Mộ Dung Phục lắc đầu nói:

- Y không biết mình là ai, thôi tha cho nó.

Phong Ba Ác đáp:

- Vâng!

Sáu người đi thêm chừng mươi bước, tiếng nói kia lại vẳng tới:

- Mấy tên đực rựa cúp đuôi chạy cũng được nhưng để con mái tơ lại cho

ông cố nội chúng bay giải buồn.

Năm người thấy đối phương dám ra giọng nhục mạ đến Vương Ngữ Yên, ai

nấy đều biến sắc, cùng đứng chựng lại, quay người. Lại nghe tiếng nói kia

tiếp:

- Thế đã sao? Mau mau đưa con gà mái lại đây, để ông cố bay khỏi mất

công ...

Y vừa nói tới đây, Đặng Bách Xuyên đưa khí từ đan điền quát lên:

- Công!

Tiếng "công" của y trộn lẫn với tiếng "công" của đối phương, chấn động

cả sơn cốc. Mọi người tai u u, rồi nghe thấy một tiếng "A" thảm thiết từ nơi

ngọn đèn xanh truyền tới. Trong đêm thanh vắng, tiếng "công" của Đặng

Bách Xuyên dư âm vẫn còn, cùng với tiếng rú khiến ai nấy rợn tóc gáy.

Tiếng hét của Đặng Bách Xuyên chính là dùng nội lực cực cao chấn

thương đối thủ. Cứ tiếng kêu của gã kia mà xét, y bị thương không phải nhẹ,

không chừng ô hô ai tai rồi. Tiếng rú của người kia vừa dứt, bỗng nghe một

tiếng rít, một mũi tên lửa bắn thẳng lên trời, nghe bùng một tiếng tóe ra, cả

một nửa bầu trời sáng rực màu xanh biếc.

Phong Ba Ác nói:

- Thôi thì đâm lao phải theo lao, quét sạch sào huyệt bọn yêu ma quỉ quái

này rồi tính sau.

Mộ Dung Phục gật đầu:

- Chúng mình nhịn một bước chẳng qua để khỏi lôi thôi. Thế nhưng đã

làm thì làm cho đến đầu đến đũa.Sáu người bèn xăm xăm theo hướng ngọn lửa xanh đi tới. Mộ Dung Phục

sợ Vương Ngữ Yên gặp chuyện đâm ra khiếp đảm nên đi chậm lại, ở bên

cạnh nàng, đã nghe Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác hai người hò hét ra tay

động thủ rồi. Kế đó có ba bóng đen trong ánh lục quang bay văng lên, bịch

bịch bịch ba tiếng đã đụng vào sườn núi, hiển nhiên bị Bao Phong hai người

thanh toán xong xuôi.

Mộ Dung Phục đi tới gần ngọn đèn xanh thấy Đặng Bách Xuyên và Công

Dã Can đứng cạnh một chiếc đỉnh lớn bằng đồng xanh, mặt mày đăm chiêu.

Một lão già nằm bên cạnh chiếc đỉnh, bên trong đỉnh có một luồng khói bay

lên thẳng tắp, nhỏ như sợi chỉ. Vương Ngữ Yên nói:

- Đây là môn phái Tang Thổ Công ở động Bích Lân, Xuyên Tây3.

Đặng Bách Xuyên gật đầu:

- Cô nương quả uyên bác thật.

Bao Bất Đồng quay lại hỏi:

- Làm sao đại ca biết? Việc đốt lang yên4 để báo tin này đã có từ mấy

nghìn năm nay, đâu phải chỉ Xuyên Tây Bích Lân Động ...

Y nói chưa dứt câu, Công Dã Can đã chỉ vào một chân đỉnh, có ý bảo y coi

cho kỹ. Bao Bất Đồng khom người xuống, cầm đèn soi, thấy trên chân đỉnh có

khắc một chữ "tang" bằng hình mấy con rắn, con rết kết thành, đồng đã hoen

rỉ, xem ra là một cổ vật. Bao Bất Đồng biết Vương Ngữ Yên nói quả không

sai, nhưng vẫn cãi chầy cãi cối: "Dẫu cái đỉnh đồng này của Tang Thổ Công ở

Xuyên Tây thật, nhưng biết đâu bọ chúng chẳng đi mượn hay đi ăn trộm đem

về? Huống chi người đời thường bảo "giả như đỉnh"5, mười cái thì đến chín

không phải đồ thật.

3

4

5 Mộ Dung Phục cả bọn trong bụng ai cũng phân vân: "Nơi đây cách Xuyên

Tây rất xa, không lẽ cũng vẫn nằm trong địa giới của Tang Thổ Công hay

sao?". Họ biết rằng Bích Lân Động Tang Thổ Công ở Xuyên Tây đều là

người Mèo, người Dao, hành sự khác hẳn người trong võ lâm Trung Thổ, giỏi

về hạ độc nên trên giang hồ ai cũng e dè. Cũng may họ không tranh cạnh gì

với người ngoài, miễn là đừng xâm nhập vào địa giới Dao Sơn ở Xuyên Tây

thì họ cũng không đụng chạm gì đến. Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên cả

bọn cũng chẳng sợ gì Tang Thổ Công, có điều nếu như gây thù chuốc oán với

bọn người man di mọi rợ này thì chỉ tổ rắc rối, dây dưa thật là phiền toái.

Mộ Dung Phục hơi trầm ngâm rồi nói:

- Chỗ thị phi này, đi khỏi càng sớm càng hay.

Y thấy lão già nằm bên chiếc đỉnh chỉ còn thoi thóp nhưng vẫn trợn trừng

trừng, hầm hầm nhìn mọi người, chính là kẻ ăn nói đểu cáng nên bị hại vào

thân. Mộ Dung Phục quay sang Bao Bất Đồng gật đầu một cái, hất hàm về

phía gã kia. Bao Bất Đồng hiểu ra, vươn tay cầm cái cần tre treo ngọn đèn,

chuyển đầu lại, phóng một cái, cả đèn lẫn cành tre liền đâm phập vào ngực

lão già, ngọn đèn tắt phụt ngay. Vương Ngữ Yên hoảng hốt kêu lên một tiếng.

Công Dã Can nói:

Bụng dạ nhỏ nhen sao quân tử,

Ra tay không độc há trượng phu.6

Cái này gọi là giết người bịt miệng, để khỏi di hoạn về sau.

Y tung chân phải đá đổ luôn cái đỉnh đồng, Mộ Dung Phục cầm tay Vương

Ngữ Yên, lách qua bên trái đi ra ngoài. Chỉ mới đi chừng mười trượng, trong

đêm tối soẹt soẹt hai tiếng binh khí xé gió, một đao một kiếm từ trong đám cỏ

dày chém vụt ra. Mộ Dung Phục phất tay áo một cái, mượn sức đánh sức,

người cầm đao bên trái chém xuồng đầu người bên phải, kiếm người bên phải

lại đâm vào ngực người bên trái, chỉ nháy mắt đã thanh toán xong hai kẻ đánh

trộm, chân vẫn không ngừng lại chút nào. Công Dã Can suýt soa:

- Công tử gia giỏi thật.

Mộ Dung Phục mỉm cười, vẫn tiếp tục chạy về phía trước, hữu chưởng

vung lên, một kẻ địch từ đâu xông tới bị trúng đòn xương cốt kêu lắc rắc ngã

6 lăn xuống sườn núi, tả chưởng đánh ra, một địch nhân phía trái kêu lên một

tiếng thảm thiết, miệng hộc máu tươi. Trong đêm tối đột nhiên ngửi thấy một

mùi tanh tưởi, khắm khú rồi hơi gió ập vào mặt, Mộ Dung Phục vội vàng

ngưng tụ chưởng phong, đánh bật hai món ám khí vô danh kia dội trở về, chỉ

nghe tiếng người kinh hoảng kêu lên, địch nhân đã trúng phải món ám khí độc

địa mình vừa ném ra.

Trời tối như thế lại rơi vào vòng vây hãm, không biết bên địch nhiều ít thế

nào, chỉ tiện tay sát nhân, giết đến tên thứ sáu rồi, Mộ Dung Phục trong bụng

kinh hãi thầm: "Ba người đầu thì phần lớn có thể là Tang Thổ Công ở Xuyên

Tây, nhưng ba người sau thì mỗi người một môn phái, oan gia càng lúc càng

sâu, chẳng phải chuyện lành".

Bỗng nghe Đặng Bách Xuyên kêu lên:

- Tất cả mọi người sánh vai xông ra hướng Thính Hương thủy tạ!

Thính Hương thủy tạ là một trang viện trong Yến Tử Ổ ở Cô Tô, vị ở

hướng tây, là nơi thị tì A Châu cư ngụ. Đặng Bách Xuyên bảo xông ra hướng

Thính Hương thủy tạ có nghĩa là lui về hướng tây để địch nhân khỏi phát giác.

Mộ Dung Phục nghe thấy thế, liền hiểu ra ngay, thế nhưng khi đó bốn bề tối

đen như mực, không có một chút trăng sao, thật khó mà định được phương vị,

ai biết hướng tây là hướng nào.

Y chăm chú nghe ngóng, thấy chưởng lực hậu trọng của Đặng Bách Xuyên

ở phía phải đằng sau lưng vang lên hai lần, lập tức cầm tay Vương Ngữ Yên,

lùi xéo qua ba bước, đứng ngay bên cạnh Đặng Bách Xuyên, nghe bịch bịch

thì ra y đã đối chưởng với kẻ địch.

Cứ theo chưởng thanh mà luận, địch nhân quả là một tay hảo thủ. Kế đó

Đặng Bách Xuyên lại quát lên một tiếng thị uy, Mộ Dung Phục biết y đang

dùng chiêu Thạch Phá Thiên Kinh, đối phương khó mà đương cự nổi. Quả

nhiên người kia kinh hoàng kêu rú lên, giọng the thé nhưng càng lúc càng

thấp tưởng như chui xuống đất, kế đó đá dưới chân lục cục chuyển động rồi

tiếng cành cây gãy đổ. Mộ Dung Phục hơi kinh hãi: "Gã này trượt chân rơi

xuống vực rồi. Mới đây dưới ánh sáng màu lục, mình có thấy sơn cốc nào

đâu? Cũng may Đặng đại ca đánh rơi gã này xuống khe núi nếu không trong

đêm tối trượt chân thì thật khổ".

Ngay lúc đó, bên sườn núi cao phía trái có tiếng truyền xuống:- Cao nhân ở phương nào sao dám đến quấy phá Vạn Tiên Đại Hội?

Không coi động chủ ba mươi sáu động, đảo chủ bảy mươi hai đảo vào đâu

chăng?

Cả bọn Mộ Dung Phục cùng kêu lên kinh ngạc. Cái tên "tam thập lục động

động chủ, thất thập nhị đảo đảo chủ" họ đã nghe đến rồi, nhưng "động chủ,

đảo chủ" kia chỉ là những kẻ bàng môn tả đạo không thuộc môn phái, bang

hội nào. Những người đó võ công có kẻ cao người thấp, tính nết có thiện có

ác, đi đâu thì đi, đến đâu thì đến, làm gì thì làm, chẳng thuộc phe cánh nào

nên cũng không có thế lực, thành thử giang hồ không mấy coi trọng. Chỉ biết

là họ ở lung tung khắp nơi các hòn đảo đâu vùng Đông Hải, Hoàng Hải, lại

cũng có kẻ ẩn cư nơi núi cao rừng thẳm Côn Lôn, Kỳ Liên, trong những năm

gần đây không nghe nói gì, cũng chẳng làm gì nên không ai để ý, ngờ đâu lại

tụ hội nơi đây.

Mộ Dung Phục lớn tiếng nói:

- Anh em tại hạ sáu người, đi đường ban đêm nên không biết các vị gặp

nhau ở đây, vô ý mạo phạm, nay xin tạ lỗi. Vì trời tối nên đã xảy ra sự lầm

lẫn, hai bên cười một tiếng bỏ qua, xin các vị cho mượn đường.

Mấy câu đó của y không phách lối mà cũng không hạ mình, cũng không

thổ lộ lai lịch thân phận, chỉ nhận lỗi đã lỡ giết mấy người của đối phương.

Đột nhiên chung quanh nổi lên tiếng cười ha ha, hì hì, khà khà, hích hích

vang dậy, càng cười càng nhiều. Lúc đầu chỉ độ mươi người, về sau bốn

phương tám hướng chỗ nào cũng có, nghe âm thanh phải đến năm sáu trăm,

người thì gần người thì xa đến vài ba dặm.

Mộ Dung Phục nghe thấy thanh thế đối phương lớn lao dường ấy, lại nghe

người kia nói gì là Vạn Tiên Đại Hội trong bụng nghĩ thầm: "Bữa nay xui quá,

ma đưa lối, quỉ đưa đường khiến cho mình lạc vào ngay bọn tà ma ngoại đạo

đang tụ tập. Tốt hết là mình không thổ lộ tên tuổi để khỏi vương vào chuyện

gì gỡ không ra. Huống chi mình số ít địch với số đông, sáu người làm sao

chống lại được mấy trăm?".

Trong tiếng cười rộ, từ trên sườn núi cao người kia lại tiếp:

- Ngươi nói năng dễ nghe nhỉ, bao nhiêu đó tưởng thế là xong ư? Sáu

người chúng bay ra tay đả thương mấy anh em ta, nếu như quần tiên trong VạnTiên Đại Hội thả cho bay đi thì cái mặt mo của ba mươi sáu động, bảy mươi

hai đảo vứt bỏ đi đâu?

Mộ Dung Phục trấn tĩnh lại, đưa mắt nhìn ra bốn bề thấy trước sau trái phải

trên sườn đồi, ngọn núi, dưới thung lũng, ngang đèo chỗ nào cũng lấp ló, thấp

thoáng bóng người, trời tối không nhìn rõ hình dáng mặt mày. Những người đó

không biết ở đâu ra, tưởng chừng như đùng một cái dưới đất chui lên. Bấy giờ

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác đã đến đứng

chung quanh Mộ Dung Phục và Vương Ngữ Yên hộ vệ, nhưng bị mấy trăm

người bao vây, thật có khác gì chiếc bách con con giữa trùng dương đại hải.

Mộ Dung Phục và bọn Đặng Bách Xuyên trong đời đã trải qua nhiều trận

đánh lớn, nhìn vào tình thế trước mắt cũng không khỏi nổi da gà nghĩ thầm:

"Bọn người này quả thực quái đản, tám người mười người thì không nói làm

gì, đến mấy trăm người tụ lại một chỗ thật chẳng dễ đối phó".

Mộ Dung Phục ngưng khí vào đan điền, lớn tiếng nói:

- Người ta có câu không biết thì không có tội. Đại danh của chúa động ba

mươi sáu động, chúa đảo ba mươi sáu đảo, tại hạ cũng đã từng nghe, không

bao giờ dám cố ý đắc tội. Tang Thổ Công của Bích Lân Động ở phía tây đất

Xuyên, Huyền Hoàng Tử của Cầu Long Động ở biên giới đất Tạng, Chương

Đạt Phu tiên sinh chúa đảo Huyền Minh nơi bể Bắc xem ra cũng đều có mặt

nơi đây. Tại hạ vô ý mạo phạm, mong được tha tội một phen.

Một giọng ồm ồm thô lỗ cười khằng khặc ở phía trái vang lên:

- Bộ mi tưởng nói được tên chúng ông ra là lẩn đi được ư? Ha ha, ha ha!

Mộ Dung Phục trong bụng tức tối nói:

- Tại hạ kính trọng các vị là bậc trưởng bối nên mới tiên lễ hậu binh, ăn

nói khách sáo một chút. Không lẽ Mộ Dung Phục này lại sợ các ngươi hay

sao?

Chỉ thấy bốn bề có nhiều tiếng "A" lên kinh ngạc, hiển nhiên nghe đến ba

chữ "Mộ Dung Phục" đều chấn động. Giọng người ồm ồm kia bèn hỏi:

- Có phải nhà Mộ Dung với ngón "dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân" hay

chăng?

Mộ Dung Phục đáp:

- Không dám, chính là tại hạ đây.Người kia nói:

- Họ Cô Tô Mộ Dung thì không phải là hạng xoàng! Thắp đèn! Tất cả

tiến lên xem nào!

Lời của y vừa dứt, từ phía đông nam xuất hiện một ngọn đèn vàng, rồi phía

tây và tây bắc lại có đèn đỏ giơ lên. Chỉ trong giây lát, chúng quanh bốn bề

chỗ nào cũng có đèn, cái thì đèn lồng, cái thì đuốc, cái lại là đèn Khổng Minh,

chỗ lại đốt cỏ khô, nhựa thông, mỗi động chủ đảo chủ cầm một món khác

nhau, cái thật giản dị sơ sài, cái lại cầu kỳ khéo léo, không biết dấu ở đâu bây

giờ mới lôi ra. Ánh lửa chập chờn khi mờ khi tỏ chiếu vào mọi người, quả là

huyễn ảo.

Những người đó nam có nữ có, đẹp có xấu có, lại có cả nhà sư, đạo sĩ, kẻ

thì tay áo rông phất phơ, kẻ thì áo cánh quần cộc, kẻ thì già cả râu tóc tung

bay, kẻ lại đàn bà búi tóc cao nghệu, phục sức hầu hết kỳ hình quái trạng,

khác hẳn nhân sĩ Trung Nguyên.7

Hơn một nửa bọn họ tay cầm binh khí, hình dáng cũng thật cổ quái, không

biết gọi tên là gì. Mộ Dung Phục chắp tay hành lễ bốn bề, lớn tiếng nói:

- Xin chào các vị, tại hạ Mộ Dung Phục đất Cô Tô xin ra mắt.

Người chung quanh có kẻ hoàn lễ, có kẻ vẫn thản nhiên đứng yên. Một

người ở phía tây nói:

- Mộ Dung Phục, họ Cô Tô Mộ Dung nhà ngươi ra oai hoạnh họe ở Trung

Nguyên thì mặc kệ bay. Chứ còn xông vào Vạn Tiên Đại Hội mà ngang tàng

thì bọn ta chẳng coi ra quái gì đâu? Ngươi dám xưng là "ăn miếng trả miếng"

thì mỗ hỏi đây, cái miếng của ta là miếng gì, muốn trả miếng thì trả làm sao?

Mộ Dung Phục theo tiếng mà nhìn tới, thấy trên một tảng đá ở phía tây có

một gã ngồi bảnh chọe nơi đó, cái đầu to trọc lông lốc không có một sợi tóc

nào, mặt đỏ ửng trông xa chẳng khác gì một trái cầu máu. Mộ Dung Phục liền

ôm quyền nói:

- Xin chào! Tôn tính đại danh các hạ là chi?

Gã kia ôm bụng cười ngất nói:

- Lão phu thử mi một chút, để xem Cô Tô Mộ Dung có chân tài thực học

hay chỉ thùng rỗng kêu to. Ta đã hỏi rồi: nếu ngươi muốn ăn miếng trả miếng

7 ta thì dùng cách gì? Nếu như ngươi trả lời đúng, người khác thế nào thì ta

không biết, lão phu nhất định không làm khó cho mi đâu. Lúc đó ngươi có đi

đâu ta cũng mặc xác, không thèm hỏi lấy một tiếng.

Mộ Dung Phục nhìn cục diện trước mắt, biết rằng chuyện hôm nay, không

chỉ nói vài lời mà có thể yên lành, xem ra phải xuất thủ vài chiêu, bèn đáp:

- Nếu đã thế, tại hạ phụng bồi vài chiêu, xin tiền bối ra tay.

Người kia lại ôm bụng cười như nắc nẻ nói:

- Ta đánh đố mi chứ có bảo mi thử tài ta đâu. Nếu ngươi nói không được

thì danh hiệu "dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân" kia để ta tước đi vậy.

Đôi lông mày Mộ Dung Phục nhướng lên, nghĩ thầm: "Ngươi cứ ngồi chình

ình nơi đó, không động đậy gì cả, ta không biết ngươi thuộc môn phái nào,

cũng chẳng biết tên tuổi thì làm sao biết được tuyệt chiêu sở trường của ngươi

là gì? Không biết ngươi có "miếng" gì thì làm sao mà "trả"?

Y còn hơi trầm ngâm, gã đầu to kia đã cười khẩy nói:

- Bọn chúng ta ba mươi sáu chúa động, bảy mươi hai chúa đảo chia ra ở

khắp mọi nơi chân trời góc biển, chẳng hơi đâu mà xen vào chuyện của Trung

Nguyên. Trong đám người mù kẻ chột làm vua, cái thứ nít ranh miệng còn hôi

sữa mà đã lên mặt gì gì Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung! Ha ha, tức cười ơi là

tức cười! Vô sỉ ơi là vô sỉ! Nè, để ta nói cho nghe, hôm nay nếu như mi muốn

thoát thân thì cũng chẳng khó. Ngươi chỉ cần rập đầu lạy chúa động, chúa đảo

mỗi người mười cái, tất cả tổng cộng một ngàn tám chục cái thì bọn ta sẽ cho

mấy đứa ranh con chúng bay đi.

Bao Bất Đồng nén nhịn đã lâu, bây giờ không còn nhẫn nại được nữa, lớn

tiếng nói:

- Ngươi muốn công tử nhà ta dùng đòn "ăn miếng trả miếng", lại muốn

công tử khấu đầu ư? Cái ngón tuyệt kỹ của ngươi, công tử nhà ta học làm sao

nổi? Ha ha, tức cười ơi là tức cười! Vô sỉ ơi là vô sỉ!

Y uốn éo giọng, bắt chước giọng gã đầu to y hệt không khác một mảy. Gã

đầu to tằng hắng một tiếng, nhổ ra một bãi đờm, bắn thẳng vào người Bao Bất

Đồng. Bao Bất Đồng nghiêng người qua tránh được, cục đờm đó sượt qua

mang tai, đột nhiên trên không chuyển hướng, bẹt một tiếng trúng ngay góc

trán Bao Bất Đồng. Cục đờm đó kình lực không phải yếu, Bao Bất Đồng cảm

thấy choáng váng, thân hình lảo đảo, thì ra bãi nước miếng đó trúng ngayhuyệt Dương Bạch trên lông mày y. Mộ Dung Phục kinh hãi: "Lão già này

ngầm chứa kình lực trong bãi đờm, chuyện đó cũng chẳng khó. Bao tam ca

trúng độc rồi công lực chưa hồi phục, tránh không nổi cũng chẳng có gì lạ. Lạ

nhất là cục đờm phóng ra rồi, giữa đường lại đổi chiều được".

Gã đầu to cười sằng sặc nói:

- Mộ Dung Phục, lão phu chẳng cần mi phải "trả miếng" đâu, chỉ cần

ngươi nói được lai lịch cục đờm đó thì lão phu phục lắm rồi.

Mộ Dung Phục trong đầu biết bao ý nghĩ xoay chuyển, nhưng không làm

sao nghĩ ra được, bỗng nghe giọng trong trẻo êm ả của Vương Ngữ Yên đứng

bên cạnh cất lên:

- Đoan Mộc đảo chủ, ông luyệt được ngón Qui Khứ Lai Hề8 trong Ngũ

Đẩu Mễ thần công, quả không phải dễ. Thế nhưng ông cũng đã giết bao nhiêu

là người, công tử nhà ta nghĩ đến công phu tu luyện của ông nên không muốn

tiết lộ lai lịch để khỏi đụng chạm đến cấm kỵ của đồng đạo chứ có phải công

tử nhà ta không biết dùng công phu đó để đối phó với ông đâu?

Mộ Dung Phục vừa mừng vừa sợ: "Cái tên "Ngũ Đẩu Mễ thần công" ta

chưa từng nghe nói đến, vậy mà biểu muội đã biết rồi, chẳng biết có đúng hay

không?".

Gã đầu to kia mặt vốn đỏ rực như máu, đột nhiên biến ra xanh lè, rồi lập

tức trở lại màu đỏ, cười nói:

- Con nhãi này chỉ nói tầm bậy tầm bạ, cái môn Ngũ Đẩu Mễ thần công

tổn nhân lợi kỷ kia, âm độc tàn ác, người như ta đời nào thèm luyện? Thế

nhưng ngươi cũng nói ra được họ của lão gia, kể cũng không phải dễ!

Vương Ngữ Yên nghe y nói thế, biết mình đoán trúng rồi, nhưng không

dám nhận đấy thôi, bèn đáp:

- Đoan Mộc động chủ của Xích Diễm Động nơi Ngũ Chỉ Sơn, đảo Hải

Nam, trên giang hồ ai mà chẳng nghe tiếng, ai mà chẳng biết tên? Thì ra công

phu đó không phải Ngũ Đẩu Mễ thần công thì hẳn là một môn công phu do

Địa Hỏa Công biến hóa ra.

8 Địa Hỏa Công là một công phu cơ bản của Xích Diễm Động. Tông chủ của

Xích Diễm Động đều là người mang họ kép Đoan Mộc, gã đầu to này tên là

Đoan Mộc Nguyên, nghe thấy Vương Ngữ Yên nói ra được lai lịch thân phận

của mình, lại tế nhị che dấu môn Ngũ Đẩu Mễ thần công, trong lòng bỗng

sinh hảo cảm, huống chi Xích Diễm Động chỉ là một môn phái nhỏ xíu vô

danh trên giang hồ, vậy mà nàng lại bảo rằng "ai mà chẳng nghe tiếng, ai mà

chẳng biết tên", nên hết sức khoái chí, bèn cười hềnh hệch nói:

- Đúng lắm! Đúng lắm! Đây chỉ là một công phu hạng bét trong Địa Hỏa

Công. Lão phu đã nói rồi, ngươi nói được tên môn phái ta ra, vậy ta sẽ không

làm khó các ngươi nữa.

Đột nhiên từ dưới tảng đá đối diện một tiếng nói vo ve truyền ra, nức nức

nở nở, tưởng khóc mà không phải khóc:

- Đoan Mộc Nguyên, trượng phu ta và các anh em đều do ngươi giết, phải

không? Có phải ngươi luyện cái môn trời đánh Ngũ Đẩu Mễ thần công kia

nên mới làm hại họ chứ gì?

Người nói bị bóng tảng đá che khuất nên không nhìn rõ ra sao, trông thấp

thoáng dường như là một người đàn bà mặc áo đen, thân hình dong dỏng, quần

áo tay áo rộng thùng thình. Đoan Mộc Nguyên cười hềnh hệch đáp:

- Vị nương tử kia là ai? Ta xưa nay nào có biết Ngũ Đẩu Mễ thần công là

cái chi chi, chớ có tin lời vị tiểu cô nương kia nói năng bá xàm bá láp.

Người đàn bà quay sang vẫy Vương Ngữ Yên hỏi:

- Này tiểu cô nương, lại đây, ta muốn hỏi cô một chút.

Đột nhiên mụ ta vọt ra mấy bước, vung ra một chiếc gậy trúc dài, đầu gậy

là một chiếc móc ba nhánh, chộp luôn vào dây lưng Vương Ngữ Yên kéo về.

Vương Ngữ Yên bị mụ ta kéo lên hai bước, lập tức kêu thét lên. Mộ Dung

Phục nhẹ nhàng phất tay một cái, đè lên cây gậy, dùng phép Đẩu Chuyển

Tinh Di khiến sức kéo vào Vương Ngữ Yên đổi thành kéo ngược lại người đàn

bà kia.

Người đàn bà kêu lên một tiếng, chân không vững, bị lôi xềnh xệch từ

trong bóng tối của tảng đá ra, đến trước Mộ Dung Phục chỉ còn chừng một

trượng, lúc đó nội kình tiêu đi mới dừng lại được. Mụ ta kinh hoảng thất sắc,

sợ Mộ Dung Phục ra tay làm hại, vội buông bỏ chiếc gậy tre, hết sức nhảy vọt

về sau đến hơn một trượng mới đứng vững.Vương Ngữ Yên gỡ cái móc sắt ở dây lưng ra, cầm cây gậy đưa cho Mộ

Dung Phục. Mộ Dung Phục phất tay áo một cái, cây gậy trúc chầm chậm bay

về phía người đàn bà. Mụ ta đưa tay tiếp lấy, cây gậy bỗng nhiên rơi bịch

xuống đất, cắm vào nơi cách bà ta chừng ba thước. Vương Ngữ Yên nói:

- Công phu Thái Yến Công của Lê phu nhân Da Hoa Đảo9 ở Nam Hải,

quả là thần diệu, bội phục, bội phục!

Người đàn bà kia vẻ mặt hoang mang, nói:

- Tiểu cô nương, sao ngươi ... ngươi lại biết họ của ta? Sao ... sao lại ...

biết đây là Thái Yến Công?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Vừa rồi Lê phu nhân tỏ lộ một chút công phu thần diệu, dùng gậy dài

để khều đồ vật, bách phát bách trúng, hẳn phải là Thái Yến Công trứ danh

của đảo Da Hoa rồi.

Thì ra đảo Da Hoa tại Nam Hải, trên các vách núi có nhiều tổ yến. Yến

sào thường chỉ làm tổ nơi tuyệt cao, tuyệt hiểm, họ Lê đã ở trên đảo này lâu

năm, mấy trăm năm nay vì nghề hái yến mà luyện thành công phu dùng gậy

thật dài làm binh khí trong môn Thái Yến Công. Ngoài ra khinh công bộ pháp

của họ Lê trên Da Hoa Đảo cũng không giống bình thường. Vương Ngữ Yên

nhìn bà ta nhảy vọt về sau một cái, tưởng chừng như bị gió biển thổi bay đi

nên không còn hoài nghi gì nữa, nói ngay được thân phận lai lịch của mụ.

Lê phu nhân bị Mộ Dung Phục phất tay một cái đã đè được cây gậy xuống,

trong bụng khiếp hãi, rồi Vương Ngữ Yên lại nói toẹt ngay ra võ công gia số

của mình, tưởng bao nhiêu kỹ thuật của mình đối phương biết cả rồi, nên

không còn dám phách lối nữa, quay sang nói với Đoan Mộc Nguyên:

- Đoan Mộc lão huynh, kẻ hảo hán dám làm dám chịu. Trượng phu ta và

các anh em, có phải do ngươi giết chết không?

Đoan Mộc Nguyên cười khà khà đáp:

- Quả là thất kính! Thì ra đây là Lê phu nhân, chúa đảo Da Hoa ngoài

biển Nam, là chỗ gần gũi, hàng xóm láng giềng với lão phu. Tôn phu lão chưa

từng gặp qua, sao lại bảo là "giết chết" được?

9 Lê phu nhân bán tín bán nghi nói:

- Chuyện đã lâu rồi tự ngươi khắc biết, nếu không phải thì hay lắm.

Mụ rút chiếc gậy ra lại ẩn sau khối nham thạch. Lê phu nhân vừa rút lui

bỗng nghe bịch một tiếng, từ trên cây tùng trên đầu có một vật gì nặng nề

ném xuống, nghe keng một tiếng lớn, rớt ngay trên tảng đá, thì ra là một chiếc

đỉnh bằng đồng xanh.

Mộ Dung Phục cũng hoảng hốt ngửng đầu nhìn lên trên cây để xem ẩn

trên đó là hạng người nào mà mang được vật nặng đến mấy trăm cân như thế

lên cao để ném xuống. Nhìn lại hình dáng chiếc đỉnh này cũng giống như

chiếc đỉnh của động Bích Lân mà Công Dã Can vừa mới đá, nhưng thân đỉnh

lớn hơn nhiều, không lẽ Tang Thổ Công đang ngồi trên cây đó? Chỉ thấy cành

cây lá cây hơi rung động nhưng không thấy người đâu cả.

Ngay khi đó bỗng nghe mấy tiếng vo ve lẫn vào tiếng gió, nhỏ lạ thường

khiến cho khó mà phân biện được. Mộ Dung Phục ứng biếng cực kỳ nhanh,

hai tay áo vung lên, vận lên một luồng kình phong, đánh ngược trở ra, trước

mắt ngân quang lấp lánh, hàng nghìn hàng trăm mũi kim nhỏ như lông bò từ

bốn phương tám hướng bắn tới. Mộ Dung Phục kêu thầm: "Không xong!" đưa

tay nắm ngang hông Vương Ngữ Yên, tung người nhảy vọt lên, nhưng cũng

nghe Công Dã Can, Phong Ba Ác cùng những người chung quanh kêu la rầm

rĩ:

- Ối trời! Hỏng rồi!

- Trúng độc châm rồi!

- Ám khí sao độc địa thế! Con bà nó chứ!

- Ối, sao lại bắn trúng ông?

Mộ Dung Phục ở trên không trong một chớp mắt nhìn thấy nắp chiếc đỉnh

đồng xanh kia hơi chuyển động, có cái gì đó từ trong đỉnh chui ra, tay phải hất

một cái đẩy tung Vương Ngữ Yên về trước, miệng nói:

- Ngồi lên trên cây.

Nói xong thân mình hạ xuống, hai chân đạp vào nắp đỉnh thấy nắp đỉnh

liên tục nhúc nhích, vội sử dụng Thiên Cân Trụy đè chặt, nghe chung quanh

tiếng người đồng thanh kêu la:

- Ối trời, mau lấy thuốc giải ra.- Ngưu mao châm của Bích Lân Động đây mà, chỉ một giờ sau là chạy

vào tim hết thở ngay, lợi hại ghê gớm.

- Tên khốn kiếp Tang Thổ Công ở đâu thế?

- Mau ép nó đưa thuốc giải ra.

- Thằng giặc thối tha này ném kim bừa bãi, đến bạn bè cũng bị thương.

- Tang Thổ Công đâu?

- Mau đưa thuốc giải đây! Thuốc giải mau!

Câu hỏi Tang Thổ Công đâu? Mau đưa thuốc giải cứ thế mà ầm lên. Người

trúng kim có kẻ nhảy tưng tưng, có kẻ ôm cây la hét đủ biết độc tính trên kim

lông bò kia lợi hại dường nào, khiến cho người bị nạn ngứa ngáy chịu không

nổi.

Trong một thoáng, Mộ Dung Phục thấy Công Dã Can tay trái ôm lấy ngực,

tay phải ấn vào bụng, đang ngưng thần vận khí, còn Phong Ba Ác thì hai chân

nhảy lung tung, ngoạc mồm chửi rủa. Y biết hai người đã trúng phải ám khí,

trong bụng không khỏi bồn chồn, lại thêm tức tối. Nhiều độc châm như thế

hẳn là có người bấm nút cơ quan trong chiếc đỉnh đồng, từ trong đỉnh bắn ra.

Chiếc đỉnh từ trên cao rơi xuống khiến cho ai nấy ngửng đầu lên nhìn, người

nằm trong đỉnh thừa cơ bắn kim ra, nếu y không phải là người nhanh trí, nội

lực mạnh mẽ thì mấy nghìn mũi kim kia trúng hết vào người còn gì. Nội kình

Mộ Dung Phục phát ra phản kích độc châm, mũi thì bắn vào người ngoài, cái

thì bắn trúng cái đỉnh, gã bắn lén kia có đỉnh hộ thân nên chẳng sao cả.

Chỉ nghe một người tiếng eo éo quái dị nói:

- Mộ Dung Phục, chính là vì ngươi không phải, cái gì mà bảo là "dĩ bỉ chi

đạo hoàn thi bỉ thân"? Hành vi nhà Mộ Dung thế là không đúng rồi.

Người đó đứng ở thật xa, khuất sau tảng đá nên không trúng độc châm

thành thử mới dám nói mấy câu bông phèng. Mộ Dung Phục không thèm để ý

đến y, nghĩ bụng muốn giải độc thì phải kiếm được người ở trong đỉnh, thấy

chiếc nắp đỉnh dưới chân không ngớt bung lên, hiển nhiên người đó đang cố

gắng chui ra. Mộ Dung Phục liền chống tay trái lên trên cành tùng, thật chẳng

khác gì dùng cả cây tùng đó chèn nắp đỉnh, người kia muốn ra khỏi, nếu

không có bảo đao bảo kiếm phá đỉnh mà ra, chỉ dùng sức eo sức lưng thì phải

nhổ bật gốc tùng lên. Người trong đỉnh liên tiếp dùng sức nhưng làm sao có

thể hất tung cả Mộ Dung Phục lẫn cái cây lên được?Mộ Dung Phục sử dụng công phu Đẩu Chuyển Tinh Di, chuyển tất cả sức

của người trong đỉnh vào cây tùng. Cây tùng đó chao qua đảo lại, rễ kêu lục

cục nhưng muốn nhổ bung cả gốc lẫn rễ lên thì đâu phải chuyện đùa dẫu rằng

rễ con chung quanh cũng bị đứt khá nhiều.

Mộ Dung Phục định bụng đợi khi y nống lên vài bận nữa, sẽ bất ngờ buông

ra để cho y vọt ra ngoài, liệu rằng khi y vừa bung ra sẽ lại ném ngưu mao

châm để phòng vệ, lúc đó múa chưởng đánh cho muôn ngàn mũi kim kia đều

cắm vào người y, thể nào cũng phải dùng thuốc giải tự cứu lấy mình, đoạt giải

dược còn dễ dàng hơn là ép y tự ý đưa ra.

Chỉ thấy nắp đỉnh lại ẩy lên mấy bận, rồi sau đó không còn thấy động tĩnh

gì nữa, Mộ Dung Phục biết y đang vận khí tích súc kình lực, dự bị bung thật

mạnh ra, lập tức chân nới lỏng, ngầm vận lực lên chưởng phải. Ngờ đâu chờ

một hồi lâu, trong đỉnh vẫn không nghe gì cả, tưởng như y nản lòng chết mất

rồi.

Khi ấy bốn bề tiếng kêu la càng lúc càng thêm thảm thiết. Những đệ tử

các động các đảo công lực hơi kém một chút, chịu ngứa không nổi kẻ phải lăn

dưới đất, kẻ thì va đầu vào đá, kẻ thì đấm ngực, tình cảnh trông thật ghê rợn.

Lại nghe bảy tám người cùng gào lên:

- Lôi Tang Thổ Công ra đây, lôi y ra đây, bắt y đưa thuốc giải.

Cùng với tiếng hét, đến hơn chục người mắt đỏ ngầu, cùng xông vào Mộ

Dung Phục. Mộ Dung Phục chân trái điểm vào nắp đỉnh một cái, thân hình

nhẹ nhàng bay vọt lên, đang định ngồi lên cành tùng đâm ngang, đột nhiên

nghe tiếng sùy sùy, ánh sáng bạc lấp lánh lại có hàng nghìn hàng trăm mũi

kim nhỏ bắn xéo vào y.

Việc đó xảy ra cực kỳ đột ngột, kẻ phát xạ ngân châm là Tang Thổ Công

vẫn còn ở trong đỉnh nhưng xem kình lực và thế đi của những mũi kim này,

nhiều như thế thì phải do lẫy bắn ra chứ không phải do sức người, không lẽ

đồng đảng của Tang Thổ Công ẩn náu một bên, lại giở độc thủ một lần nữa?

Mộ Dung Phục đang còn ở giữa lưng chừng, không có cách gì tránh né, nếu

dùng chưởng phản kích lại thì không khỏi đi vào vết xe cũ lại làm bọn Đặng

Bách Xuyên bốn người ở dưới đó bị thương.

Trong lúc vạn phần khẩn cấp đó, Mộ Dung Phục nhấp tay áo bên phải một

cái, chẳng khác gì chiếc buồm đang căng gió có thêm hơi, thân hình liền lướtngang ra ba thước, đồng thời tay áo bên phải bung ra, một luồng kình lực hồn

hậu nhu hòa phát xuất, hất tất cả hàng trăm hàng nghìn mũi kim lên trời, còn

thân hình chẳng khác gì một con diều to bay bổng, lượn một vòng rồi hạ

xuống.

Khi đó tuy trên trời không có một chút ánh sáng trăng sao nào nhưng ánh

lửa bốn bề chiếu vào thật sáng, mọi người thấy Mộ Dung Phục tiêu sái nhẹ

nhàng lướt trên không trung, ai nấy kinh ngạc bội phục, tiếng hò reo ca ngợi

che lấp cả tiếng kêu la chửi rủa đang chọc vào tai mọi người.

Mộ Dung Phục đang ở trên không nhưng mắt vẫn chăm chú nhìn xem

những mũi ngưu mao châm kia bắn từ đâu ra, thân hình rơi xuống cách chỗ

vừa đứng khoảng hơn một trượng, chân trái đạp vào một cành tùng đâm

ngang, mượn sức bay trở lại phía hữu. Khi y rơi xuống thì vật vờ phiêu lãng,

cực kỳ thong dong, thế nhưng lúc này bung ra thì nhanh như chim ưng vồ mồi,

kình phong tỏa tới, hai chân đạp lên đầu một gã vừa mập vừa lùn đứng bên

tảng tá. Thì ra khi y ở trên không mục quang nhìn bao phủ toàn trường, thấy

người này thu thu trong bọc một vật gì giống như một cái đỉnh nhỏ, đang toan

phát xạ lần nữa.

Gã lùn mập nhanh chân né qua được, hành động nhậm lẹ, chẳng khác gì

một trái cầu lăn dưới đất. Mộ Dung Phục đạp hụt, bình một chưởng đánh ngay

xuống, trúng sau lưng đối phương. Gã kia vừa mới đứng lên, bị chưởng đánh

lăn quay, lại gượng bật dậy, lảo đảo mấy cái rồi hai đầu gối nhũn ra, ngồi

phệt xuống.

Khoảng hơn chục người đứng quanh liền kêu la:

- Tang Thổ Công, mau lấy thuốc giải, mau lấy thuốc giải!

Tất cả liền xông lên vây y lại. Đặng Bách Xuyên và Bao Bất Đồng đều

nghĩ thầm: "Thì ra gã lùn này chính là Tang Thổ Công". Hai người muốn bắt

ngay y để có thuốc giải trị thương cho các huynh đệ nên cùng quát lên, chồm

tới.

Tang Thổ Công giơ tay đẩy xuống đất một cái đang toan đứng dậy nhưng

bị thương không nhẹ thành thử lực chẳng tòng tâm. Bao Bất Đồng chộp vào

đầu vai y bỗng thấy năm ngón tay và lòng bàn tay đau nhói, rụt về ngửa ra

thấy bàn tay đầm đìa những máu. Thì ra đầu vai gã lùn này cũng có gắn kim

tẩm độc chĩa ra ngoài. Chỉ trong chốc lát Bao Bất Đồng đã thấy bàn tay ngứangáy chịu không nổi chạy thẳng lên tim. Y vừa sợ vừa tức, phóng chân trái, sử

chiêu Kim Câu Phá Băng, nhắm đúng mông Tang Thổ Công đá mạnh một cái.

Tang Thổ Công đang nằm phục dưới đất, thân hình ngọ nguậy, ngọn cước đó

không thể nào không trúng.

Thế đi của cú đá thật nhanh nhưng chỉ trong nháy mắt khi đầu mũi bàn

chân chỉ còn cách đối phương chừng vài tấc, Bao Bất Đồng chợt nghĩ ra: "Ối

chết rồi, không chừng dưới mông y cũng có dấu gai nhọn, chân mình đá trúng

y thì bỏ đời". Thế nhưng ngọn cước đã đá ra rồi, nếu ráng giựt về thì thể nào

cũng bị thương gân cốt, trong cơn nguy cấp y liền vung chưởng đánh mạnh

xuống đất, thân hình mượn thế bắn ra ngoài, đầu óc quả là nhậm lẹ nên đầu

mũi chân chỉ sượt qua Tang Thổ Công, không dùng sức nên cũng không biết

dưới quần y có dấu kim hay không.

Khi đó Đặng Bách Xuyên và bảy tám người còn lại cũng đã lẻn được ra

sau lưng Tang Thổ Công, thấy Bao Bất Đồng ra tay bắt y, không hiểu vì cớ gì

lại bị thương, thấy Tang Thổ Công nằm phục dưới đất không cục cựa nhưng

cũng e dè không dám xông lên động thủ. Bao Bất Đồng bị một vố như thế đâu

lẽ nào chịu bỏ qua? Y liền nhắc ngay một tảng đá lớn ước chừng trăm cân lên,

kêu lớn:

- Tránh ra, để ta đập chết con rùa đen này.

Có người ngăn lại:

- Ấy không được, đập y chết thì lấy đâu ra thuốc giải?

Một người khác nói:

- Giải dược ở trong người y chứ đâu, đập y chết là lấy được ngay.

Xem chừng người này tuy cũng tụ tập ở đây nhưng lại có mưu tính gì khác,

không hẳn đã đồng lòng, Bao Bất Đồng có định giết Tang Thổ Công thì y

cũng không phản đối. Trong khi mọi người bàn tán xôn xao, Bao Bất Đồng giơ

tảng đá lên, hùng dũng bước tới, nhắm ngay lưng Tang Thổ Công, quát lên:

- Ta đập chết con rùa đen đầy gai này.

Khi đó lòng bàn tay y càng lúc càng ngứa, hai tay vừa nâng lên, tảng đá

liền rơi bịch xuống lưng Tang Thổ Công. Chỉ nghe ầm một tiếng lớn, dưới đất

bụi bay mù. Mọi người ai nấy kinh hãi, tảng đá lớn đó giáng xuống lưng Tang

Thổ Công, nêu không máu me chan hòa, thì cũng phải rống lên thảm thiết, lẽnào lại bụi cát bay tung lên. Ai nấy chăm chú nhìn kỹ lại, tảng đá nằm yên

dưới đất, Tang Thổ Công không biết đã đi đâu mất rồi.

Bao Bất Đồng giơ chân trái lên hất tảng đá qua một bên, dưới đất có một

cái lỗ lớn. Thì ra Tang Thổ Công trong tên đã có một chữ "thổ", rất giỏi thuật

địa hành, khi nằm phục dưới đất, liền dùng tay chân cào tung đất lên, chui

xuống rồi. Mới rồi Mộ Dung Phục nhốt Tang Thổ Công trong cái đỉnh, y

không có cách nào đẩy được nắp chui ra nên đã mở bên hông đỉnh thoát thân.

Bao Bất Đồng còn đang sững sờ, quay lại tìm Tang Thổ Công, nghĩ thầm dẫu

ngươi có chui xuống đất, thì người chứ đâu phải con tê tê10, giỏi lắm được vài

thước ẩn dưới đó chứ không lẽ biết phép độn thổ hay sao?

Bỗng nghe Mộ Dung Phục kêu lên:

- Đây rồi!

Cánh tay áo bên trái tung ra, cuộn vào một khối nham thạch, thì ra tảng đó

đá chính là lưng của Tang Thổ Công. Gã đó quái đản thật, giả vờ che dấu

khiến chẳng ai ngờ, nếu như Mộ Dung Phục mắt không tinh thì dễ gì nhìn ra.

Tang Thổ Công bị kình lực hùng mạnh của tụ phong cuốn lấy, thân hình

như trái cầu thịt liền bay tung lên, từ lúc bị trúng một chưởng của Mộ Dung

Phục rồi, thụ thương khá nặng nên không còn hơi sức đâu mà kháng cự, lớn

tiếng kêu lên:

- Chớ có hạ độc thủ, để ta đưa thuốc giải!

Mộ Dung Phục cười ha hả, tay áo bên phải lại phất ra, tiêu giải kình lực

của tay áo bên trái, đồng thời lại sinh ra một luồng lực đạo, đỡ lấy thân thể

Tang Thổ Công nhẹ nhàng để xuống.

Bỗng nghe từ xa có người kêu lên:

- Cô Tô Mộ Dung quả là danh bất hư truyền!

Mộ Dung Phục giơ tay nói:

- Không bõ làm trò cười cho phương gia, thực không dám nhận.

Ngay lúc đó một lằn kim quang, một lằn ngân quang nhanh như điện chớp

từ phía trái bắn qua, tiếng rít nghe thật kinh khiếp. Mộ Dung Phục không dám

chần chờ, hai tay áo căng phồng tung ra đỡ, nghe bùng một tiếng lớn, hai đạo

10 ngân quang kim quang đều dội ngược trở về. Lúc bấy giờ mới nhìn rõ, hóa ra

là hai sợi dây đai dài ngoằng, một sợi màu vàng, một sợi màu bạc.

Ở phía đầu bên kia là hai ông già, người sử dụng đai vàng mặc áo bào màu

bạc, còn người sử dụng đai bạc lại mặc áo bào màu vàng. Hai màu vàng bạc

sáng lấp lánh, cực kỳ hoa lệ, những loại áo vàng áo bạc như thế này người

thường có ai mặc bao giờ, chẳng khác gì những kẻ phường tuồng. Ông già

mặc áo bạc nói:

- Bội phục, bội phục! Tiếp thêm một chiêu nữa của anh em ta.

Ánh sáng vàng lóe lên, chiếc kim đái từ bên trái múa may phóng tới, còn

chiếc ngân đái lại phóng lên trên không rồi từ trên cao bổ xuống, tấn công

vào thượng bàn Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục nói:

- Hai vị tiền bối ...

Chỉ mới tới đó, đột nhiên có tiếng vù vù, ba người sử địa đường đao pháp,

đao cuộn dưới đất, tấn công hạ bàn Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục trên đầu,

trước mặt, bên trái ba nơi cùng bị tấn công, nghĩ thầm: "Đối phương được gọi

là ba mươi sáu động chủ, bảy mươi hai đảo chủ, người nhiều thế đông, bây giờ

hỗn chiến, nếu không cho họ biết thế nào là lợi hại thì làm sao kết thúc

được?".

Y thấy ba lưỡi đao dài phăng phăng chém vào liền đá ra ba ngọn cước, đều

trúng cổ tay đối phương, bạch quang lấp loáng, ba lưỡi đao bắn vọt lên trời.

Mộ Dung Phục hơi nghiêng người, tay phải đẩy ra, sử dụng môn Đẩu Chuyển

Tinh Di, hất đầu hai chiếc đai vàng đai bạc, nghe cạch một tiếng, hai chiếc đai

quấn lại làm một.

Ba người sử dụng địa đường đao bị rơi mất vũ khí rồi nhưng không chịu lùi

bước, miệng rống lên khè khè, giang tay toan ôm lấy chân Mộ Dung Phục.

Đầu mũi chân Mộ Dung Phục liền nhanh như gió thoảng đá ra trúng ngay

huyệt đạo trên ngực ba gã đó. Bỗng nhiên có một người mặc áo đen tay chân

dài ngoẵng vượt đám người tiến ra, giơ bàn tay to như cái quạt, chộp Tang

Thổ Công xách lên. Tay người đó không biết trời sinh da dày như mo nang,

hay có đeo bao tay bằng kim loại dệt thành mà không sợ thân người đầy gai

của Tang Thổ Công, tay vừa chộp tới, liền nhảy ngược về sau, lùi lại hơn một

trượng.Mộ Dung Phục thấy người này thân thủ trầm ổn chắc nịch, võ công so với

những người kia cao cường hơn nhiều, trong lòng ngầm kinh hãi: "Tang Thổ

Công nếu như bị gã này cứu đi, việc lấy thuốc giải thật không phải dễ". Y vừa

nghĩ thế là nhảy tới ngay, qua khỏi ba người nằm lăn dưới đất, chưởng phải

đánh ra tập kích người áo đen. Người kia cười khẩy một tiếng, ánh sáng xanh

lấp lánh, y đã giơ một thanh quỉ đầu đao sống dày lưỡi mỏng sắc bén lạ

thường lên ngang ngực. Chưởng của Mộ Dung Phục nếu tiếp tục đánh ra thì cổ

tay y sẽ bị cắt đứt. Thế nhưng y không thu chiêu, chờ tới khi bàn tay chỉ còn

cách lưỡi đao chừng hai tấc, đột nhiên chuyển thế đánh thành thế bắt, bàn tay

vuốt xuôi luôn xuống lưỡi đao, chém vào mấy ngón tay đang cầm cán.

Cạnh bàn tay Mộ Dung Phục đầy chân khí, sắc bén nào có kém gì quỉ đầu

đao, chém xuống cũng có thể cắt đứt tay dễ dàng. Gã áo đen xuất kỳ bất ý,

chỉ kịp kêu ối lên một tiếng, buông lưỡi dao ra, lật chưởng lại đỡ, nghe bạch

một tiếng, hai người đã trao đổi một chưởng.

Người áo đen hự lên một tiếng, thân hình lảo đảo, nhảy ngược trở về nhưng

tay vẫn nắm chặt Tang Thổ Công. Mộ Dung Phục lại vươn tay ra chộp lấy

thanh quỉ đầu đao, mũi ngửi thấy một mùi tanh tưởi tưởng như muốn mửa, biết

ngay thanh đao này tẩm thuốc cực độc, thật là hiểm ác tà môn.

Tuy chỉ một chiêu đã đoạt được đao của đối phương nhưng đã có bảy tám

người bên địch cầm binh khí chặn trước mặt người áo đen, muốn bắt Tang Thổ

Công lại cũng không phải dễ. Huống chi khi đối chưởng mới rồi, người áo đen

có kém mình một chút nhưng có điểm gì kỳ quái, đoạt được cương đao chẳng

qua vì mình xuất kỳ bất ý, nếu động thủ thực sự chưa chắc đã thắng được

ngay.

Lại vẫn nghe tiếng người lao xao:

- Tang Thổ Công, mau đưa thuốc giải ra nào!

- Cái thứ kim lông bò con mẹ ngươi nếu không chữa ngay thì chỉ nửa giờ

là táng mạng rồi!

- Ô Lão Đại, mau lấy thuốc giải ra, ối chao ôi! Mau lên không thì không

chịu nổi nữa!

Dưới ánh lửa, thấy kẻ nọ người kia chạy qua chạy lại, ai nấy cầu xin người

áo đen mau đưa giải dược ra. Ô Lão Đại nói:

- Được, thằng mập này, mau đưa thuốc đây!Tang Thổ Công đáp:

- Ngươi bỏ ta xuống đã nào!

Ô Lão Đại đáp:

- Ta buông ngươi ra thì kẻ địch bắt ngươi đi mất, đâu có thả được? Mau

đem thuốc giải ra.

Người đứng chung quanh cũng gầm lên:

- Đúng đó, mau lấy thuốc giải ra!

Lại có kẻ ngoạc mồm chửi:

- Tên giặc Miêu kia, còn chùng chình gì nữa, ông cho một mồi lửa đốt

chết sạch bọn rùa đen khốn kiếp trong Bích Lân Động bây giờ.

Tang Thổ Công giọng khào khào nói:

- Thuốc giải ta để dưới đất, ngươi thả ta ra ta mới đi lấy được.

Mọi người sững sờ nghĩ thầm chắc hẳn y nói thực, gã này thích ở trong

hang núi, ẩn mình tại những nơi u ám không có ánh mặt trời, dấu thuốc trong

lòng đất kể cũng hợp lý. Mộ Dung Phục tuy không nghe Công Dã Can và

Phong Ba Ác rên rỉ suýt xoa nhưng thấy những người khác ngứa ngáy khó chịu

như thế, nhị ca và tứ ca chắc cũng không khác gì, đành phải ra hết sức đoạt

Tang Thổ Công lại. Y tính toán rồi đột nhiên quát lên một tiếng, múa thanh

quỉ đầu đao xông vào bọn người kia. Đặng Bách Xuyên và Bao Bất Đồng lập

tức đứng lại bảo vệ Công Dã Can và Phong Ba Ác, không dám rời hai người

ra một bước, sợ địch nhân thừa cơ gia hại, chỉ thấy Mộ Dung Phục hùng dũng

tiến lên chẳng khác gì hổ vào đàn dê, không ai dám kháng cự.

Ô Lão Đại thấy thế công của y cực kỳ hung mãnh, không dám chắn ngay

mũi nhọn, vội nắm Tang Thổ Công lùi ra thật xa. Chỉ thấy mọi người kêu lên:

- Anh em cẩn thận! Gã đó tay cầm Lục Ba Hương Lộ Đao, chớ có để y

chém trúng.

- Ối trời ơi! Lục Ba Hương Lộ Đao của Ô Lão Đại bị tiểu tử đó đoạt mất

rồi, thật khổ!

Mộ Dung Phục múa đao xông lên, dù là hòa thượng đạo sĩ, kẻ xấu người

đẹp, người nào cũng phải dạt ra, ai cũng kinh hoàng khiếp đảm, đủ biết thanh

quỉ đầu đao này thật là nổi tiếng, có điều hôi thối như thế cớ gì lại gọi là

"Hương Lộ Đao", quả thật nực cười, nghĩ thầm: "Ta dùng thanh đao tẩm độcnày giết mươi đứa chúa động, chúa đảo thật chẳng khó khăn, có điều không

thù không oán, việc gì phải hại đến mạng người? Oán thù kết càng sâu, bọn

chúng sẽ liều chết không đưa thuốc giải, nhị ca tứ ca trúng độc ắt sẽ khó mà

tốt lành". Y tuy múa may đâm chém nhưng không giết một ai, gặp thời cơ nên

đã điểm ngã một người, đá ngã hai người.

Bọn người đó lúc đầu sợ hãi lắm, nhưng sau thấy uy lực của thanh đao

không nhiều, trấn tĩnh lại, trường kiếm đoản kích, nhuyễn tiên ngạnh bài bốn

bề xông vào tấn công. Mộ Dung Phục bị đến hơn chục người vây vào giữa,

bên ngoài vòng trong vòng ngoài còn thêm đến mấy trăm người, trong lòng

không khỏi hoảng vía.

Đấu thêm một hồi nữa, Mộ Dung Phục nghĩ thầm: "Đấu mãi như thế này,

kết thúc làm sao đây? Xem ra không hạ sát thủ không xong". Đao pháp của y

tăng thêm, bình bình hai tiếng, dùng cán đao đánh hai người bất tỉnh. Bỗng

nghe Đặng Bách Xuyên kêu lên:

- Bọn hạ lưu kia, không được quấy rầy cô nương!

Mộ Dung Phục liếc mắt nhìn qua, thấy có hai người tung mình nhảy lên tấn

công Vương Ngữ Yên đang ngồi trên cành tùng. Đặng Bách Xuyên vội vàng

chạy đến cứu, xuất chưởng ngăn họ lại. Mộ Dung Phục vừa thấy yên tâm thì

lại có ba người khác nhảy về phía cây tùng, biết ngay chủ ý của bọn này:

"Chúng đánh không được mình nên định bắt giữ biểu muội để uy hiếp ta, quả

thật là bọn vô sỉ".

Thế nhưng chính mình cũng đang bị chúng quấn quít, không cách gì có thể

phân thân, thấy hai mụ đàn bà nắm tay Vương Ngữ Yên, từ trên cây nhảy

xuống. Một đầu đà tóc dài đầu đội kim hoàn liền cầm giới đao, nhứ ngang cổ

Vương Ngữ Yên quát lên:

- Mộ Dung tiểu tử, nếu ngươi không đầu hàng, ta sẽ chém chết người bạn

của ngươi ngay!

Mộ Dung Phục hoang mang, nghĩ thầm: "Bọn khốn kiếp này vô cùng tà ác,

nói sao làm vậy, nếu chúng làm hại biểu muội thì biết tính sao đây? Thế

nhưng họ Mộ Dung Cô Tô ta tung hoành võ lâm, lẽ nào lại đầu hàng bao giờ?

Hôm nay chịu thua thì sau này còn mặt mũi nào nữa?". Y trong bụng phân vân

nhưng tay không chậm lại chút nào, vụt vụt chưởng bên trái đánh văng hai tên

địch ra ngoài. Gã đầu đà lại kêu:- Nếu ngươi không hàng thì ta phải chặt cái đầu như hoa tựa ngọc này.

Y vung giới đao vù vù, thanh quang lấp loáng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro