TLBBpt2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 3

Những Biến Chuyển Bất Ngờ

Chung Linh thấy thế đánh hung hãn liền né sang một bên tránh khỏi thì năm ngón tay lão cao nghều lại tạt qua bên má nàng, còn cách chừng năm tấc mà đã cảm thấy một luồng gió cực mạnh, nàng giật mình kinh hãi la lên:

- Tư Không bang chúa! Ngươi có bảo lão dừng tay không? Này này ta bảo thật nếu ngươi cứ để hắn làm già thì đừng trách ta là không biết điều đó. Sau này ba má quở trách ta, ngươi cũng chẳng đẹp mặt gì đâu!

Trong khi nàng nói thì lão cao nghều đưa năm đầu ngón tay ra chụp xuống, nàng đều tránh khỏi, chỉ khe chừng sợi tóc.

Tư Không Huyền cả tiếng quát:

- Sao không chụp lấy nó?

Lão cao nghều dùng tay trái liên tiếp đánh tạt ngang còn tay phải luôn luôn xoay vòng tròn chụp xuống rồi nắm được tay phải Chung Linh. Nàng kêu lên một tiếng kinh hồn "ối chao!", đau đến nỗi mặt hoa tái mét. Trong cơn nguy cấp, nàng vẫy tay trái một cái, chợt lao cao nghều rú lên một tiếng rồi buông nàng ra, ngồi phịch xuống đất. Con Kim linh đã xông ra đớp trúng mu bàn tay lão một miếng xong lại nhảy về nằm trong bàn tay Chung Linh. Một gã đứng tuổi đứng bên cạnh Tư Không Huyền thấy thế vội vàng bước tới đưa tay ra nâng lão cao nghều dậy thì khắp mình lão run bần bật, mu bàn tay lão có vết tím bầm, như sơn quệt vào mỗi lúc một loang to ra. Chung Linh chắm môi thổi lên một tiếng, con Kim linh lại nhảy ra, lướt tới trước mặt gã đại hán đang túm lấy Ðoàn Dự. Gã đưa tay lên toan bắt lấy, con Kim linh liền đớp ngay sườn bàn tay gã. Võ công gã này còn kém lão cao nghều, không chịu đựng nổi, thân thể co quắp, rên rỉ luôn miệng.

Chung Linh liền nắm tay Ðoàn Dự kéo đi và khẽ bảo:

- Nguy đến nơi rồi, chúng mình phải chạy cho mau!

Những tên đứng xung quanh Tư Không Huyền đều là những tay võ nghệ cao cường. Bọn này sinh nhai bằng nghề hái thuốc, chế thuốc: bất luận rắn rết gì, nọc độc thế nào chúng đều hiểu rõ tính chất. Tuy nhiên con Kim linh này chạy nhanh như chớp, nọc độc của nó cực kỳ nguy hiểm, bọn này không ai biết tý gì cả. Chả thế mà Tư Không Huyền cũng phải giật mình kêu lên:

- Phải chăng đây là giống "Vũ huyệt tứ linh"? Chúng bay đâu! Mau ra bắt con nhãi ranh này chớ để cho nó chạy thoát.

Bốn gã đại hán vội nhảy xổ ra, chia hai bên sấn vào. Chung Linh miệng vừa huýt sáo vừa rút con Thanh linh ở trong lưng ra quăng xuống cản hai gã tới gần.

Còn con Kim linh đớp xong gã nọ rồi nhảy sang đớp gã kia. Chỉ trong chớp mắt nó đã đớp hết cả bốn: mỗi gã một miếng. Gã nào gã nấy ngã lăn ra giãy giụa dưới đất cả một lượt.

Ðồng đảng Thần Nông bang tuy thấy những con rắn nhỏ rất đáng khiếp sợ nhưng trước mặt bang chúa không tên nào giám lùi bước, rồi đến bảy tám tên nhất tề rượt theo.

Chung Linh gọi to lên rằng:

- Ðứa nào muốn sống thì đừng lại gần! Ta mà cho con Kim linh ra đớp thì không còn thuốc nào chữa được đâu.

Mấy tên này đều cầm khí giới: kẻ đao, người kiếm để đón đỡ con Kim linh. Nhưng con rắn nhỏ này mau lẹ như thần, bất chấp tất cả gươm đao, ám khí ở thế gian. Ðao kiếm cứ việc mà đâm, mà chém nó vẫn xông ào, lăn xả vào mà chẳng ai chém trúng. Vèo một cái nó đã đớp trúng cả bảy, tám kẻ địch ngã lăn kềnh.

Tư Không Huyền vén áo lấy một bình thuốc nước, đổ ra lòng bàn tay, thoa từ mu bàn tay đến cẳng tay, đoạn nhảy ba bước đến trước mặt Chung Linh cùng Ðoàn Dự, cất tiếng khàn khàn quát:

- Ðứng lại!

Con Kim linh từ trong lòng bàn tay Chung Linh nhảy vọt lên đỗ trên sống mũi Tư Không Huyền. Tư Không Huyền chĩa thẳng bàn tay giơ lên, trong lòng vẫn lo thầm: "không hiểu thứ thuốc mình bí mật chế ra chống rắn độc đối với con rắn vàng vô cùng linh dị này có ăn thua gì không? Nếu không hiệu nghiệm thì chẳng những oai danh mình phút chốc trôi theo dòng nước mà cả đảng Thần Nông cũng bị tan tành".

Con Kim linh há miệng toan đớp vào lòng bàn tay Tư Không Huyền, song đột nhiên quay lộn đầu trở lại, dùng khấu đuôi chống vào bàn tay lão để lấy đà nhảy tót về.

Tư Không Huyền cả mừng đưa tay trái đánh "vù" một cái, phát ra một luồng gió mạnh ghê gớm, Chung Linh tránh không kịp lảo đảo suýt ngã. Bỗng nghe đánh "huỵch" một tiếng, thì ra Ðoàn Dự bị dư lực luồng gió quạt ngã lăn xuống đất, ngửa mặt lên trời.

Chung Linh cả kinh, chúm miệng huýt luôn mấy tiếng huy động con Kim linh xông trận. Kim linh lại nhảy vọt ra nhưng bàn tay Tư Không Huyền đã xát thuốc kỵ rắn, phải tìm chỗ khác như đầu, mặt, bắp vế để cắn. Tư Không Huyền múa tít hai quyền để trấn áp Kim linh không cho đến gần. Chung Linh vung con Thanh linh như cây roi mềm để đánh vào cạnh sườn. Tư Không Huyền ngỡ con Thanh linh cũng là rắn độc nên chống đỡ nghiêm mật như đối với con Kim linh. Miệng lão luôn luôn ra lệnh cho thủ hạ. Mấy chục tên đồ đệ kéo ra vây bốn mặt. Tên nào cũng cầm nắm cây, cỏ dược liệu ra đốt, một làn khói đặc bốc lên ngùn ngụt.

Ðoàn Dự vừa đứng dậy được, song đầu nhức lạ thường, tối tăm mặt mũi lại ngã lăn ra. Trong lúc mê man chàng thấy Chung Linh cũng lảo đảo ngã theo. Hai tên thủ hạ đảng Thần Nông chạy đến định bắt Chung Linh.

Hai con rắn thần thấy Chung Linh ngã ra, cố tình cứu chủ vội xông lại đớp mỗi tên một miếng. Một tên trúng độc ngã lăn kềnh, còn một tên vế đùi bị cắn máu chảy đầm đìa, xương tay lại bị con Thanh linh vặn gãy. Mọi người xúm quanh không biết làm thế nào.

Tư Không Huyền hô:

- Mé đông đốt hùng hoàng và mé nam đốt xạ hương lên! Còn các người ở mé tây bắc kia phải tránh đi cho mau không được đứng đó!

Ðồng đảng vâng lệnh đốt xạ hương, hùng hoàng. Ðảng Thần Nông đủ mọi thứ thuốc mà mỗi thứ một khác, cách chế biến lại rất tinh vi. Thứ hùng hoàng, xạ hương này thuần chất và rất mạnh, đốt lên phát ra một luồng khói dày đặc, cay xè theo chiều gió đông nam thổi về phía Chung Linh. Chẳng ngờ những thứ thuốc kỵ rắn này không làm gì nổi hai con rắn thần. Chúng vẫn tung hoành lanh lợi như thường, một lúc đớp luôn năm sáu tên trong đảng Thần Nông.

Tư Không Huyền bóp trán nghĩ ra một kế, hô lớn:

- Xúc đất cho mau, đổ lấp con nhãi ranh này cùng đám rắn để chôn sống chúng nó đi!

Ðảng Thần Nông chuyên nghề kiếm dược liệu lúc nào cũng mang đủ xẻng, cuốc, thúng, mủng, lập tức đào từng khối đất lớn nhằm chỗ Chung Linh đổ xuống tới tấp.

Lúc ấy Ðoàn Dự tâm thần vẫn còn tỉnh táo, nghĩ lại: "tai vạ này tự mình gây nên, nếu Chung Linh bị chôn sống thì mình còn sống làm gì nữa?". Chàng hùng hổ nhảy vào ôm lấy nàng, nằm đè lên trên, miệng hô lớn câu: "Rút cục ai mà chẳng chết! Rút cục ai mà chẳng chết?".

Ðất đá đổ xuống ầm ầm lấp lên người chàng. Tư Không Huyền vẳng nghe câu chàng la: "Rút cục ai mà chẳng chết?" không khỏi mủi lòng, ngó lại hai mươi tên đồng đảng bị rắn cắn đang nằm quằn quại, trong đó có đến bảy tám tên quan trọng cùng hai sư đệ của mình. Lão nghĩ thầm: nếu giết con nhỏ này đi cho hả giận thì biết làm thế nào để cứu sống bọn thủ hạ của mình? Nọc độc con Kim linh này đâu phải tầm thường, khó lòng thoát chết. Trừ phi được chính nhà y cứu chữa cho mới được, ngoài ra không còn cách nào". Nghĩ vậy lão liền truyền lệnh: -Ðừng để cho hai đứa này chết ngay, vậy các ngươi không được lấp kín đầu chúng!

Chung Linh không còn hơi sức để cử động được nữa, chỉ thấy trên mình bị đè nặng vô cùng. Ðoàn Dự ôm lấy nàng và cả đôi đều chịu nằm im. Trong một khắc đồng hồ, hai người chỉ còn hở đầu, toàn thân bị lấp đất kín.

Tư Không Huyền cất giọng thảm đạm hỏi Chung Linh:

- Mi muốn sống hay là muốn chết?

Chung Linh đáp:

- Dĩ nhiên là ta muốn sống. Nếu ngươi sát hại Ðoàn huynh đây cùng ta thì vô số đứa trong bọn ngươi cũng không sống được đâu.

Tư Không Huyền nói:

- Nếu mi lấy thuốc giải cứu nọc rắn độc của mi đưa ra đây thì ta sẽ tha mạng cho.

Chung Linh lắc đầu nói:

- Ngươi tha một mình ta không đủ, phải tha cả hai mạng.

Tư Không Huyền nói:

- Thôi được, ta sẽ thả cả cho hai đứa mi, thuốc giải độc đâu?

Chung Linh nói:

- Hiện trong mình ta không có. Con kim linh này độc vô cùng chỉ có mình ba ta là trị được thôi. Trước ta đã bảo ngươi rồi, đừng bức bách ta phải động thủ. Gây ra chuyện lôi thôi, ba ta sẽ quở trách ta thì cái mặt ngươi cũng chẳng đẹp tốt gì.

Tư Không Huyền cả tiếng mắng:

- Con nhãi ranh này! Thân mi đến thế mà mi còn ăn nói hỗn láo, lão gia mà giận lên sẽ để mi sống vất vưởng thế này cho đến chết đói nghe chưa?

Chung Linh nói:

- Ta đã nói thực với mi mà mi không tin. Ôi thôi! chuyện này còn là rối bét. Không thể che mắt ba ta được đâu, bây giờ biết làm thế nào?

Tư Không Huyền hỏi:

- Cha mi tên họ là gì?

Chung Linh đáp:

- Ngươi đã bấy nhiêu tuổi đầu sao mà ngu dốt thế? Ðời nào ta lại nói tên ba ta cho ngươi biết?

Tư Không Huyền vùng vẫy giang hồ đã mấy mươi năm, tiếng tăm lừng lẫy trong phái võ lâm, nay gặp phải hai đứa con nít mà đành chịu bó tay, không làm gì được. Lão nghiến răng thét lên:

- Cầm mớ lửa ra đây cho ta đốt tóc coi nhãi ranh này, xem nó có phải khai tên cha nó không? Một tên cầm bó đuốc đưa đến. Tư Không Huyền cầm lấy bước tới. Chung Linh nhìn mặt lão dưới ánh lửa sáng lại càng hung dữ bội phần, nàng sợ phát khiếp la lên:

- Trời ơi! Ngươi chớ đốt tóc ta, tóc cháy thì đầu sẽ bị đau lắm, ngươi không tin thì hãy thử đốt chòm râu dê của ngươi mà coi!

Tư Không Huyền với bộ mặt nanh ác cũng phải phì cười nói:

- Ta biết rồi mà, đã đốt là phải đau hà tất còn phải đốt thử râu nữa?

Lão cầm bó đuốc vung lên trước mặt Chung Linh. Chung Linh sợ quá kêu thét lên, Ðoàn Dự ôm chặt lấy nàng quát:

- Lão râu dê kia! Chuyện này là tại ta gây ra, ngươi đốt đầu ta đây này!

Chung Linh nói:

- Chớ chớ! Ðau lắm anh không chịu nổi đâu!

Tư Không Huyền nói:

- Mi đã sợ đau sao không đưa thuốc giải độc ra để cứu bọn ta?

Chung Linh nói:

- Ngươi thật là thằng ngốc! Ta đã bảo rằng chỉ có ba ta là trị nổi nọc độc con kim linh. Ðến má ta còn không hiểu ngươi tưởng dễ lắm sao?

Tư Không Huyền lại nghe tứ phía có tiếng người rên rỉ, cực kỳ thê thảm vì bị rắn cắn thì nghĩ thầm rằng: "đây là loại rắn độc kỳ dị, nó làm cho người ta nhức nhối phi thường không thì làm gì bọn hảo hán này phải rên xiết như thế? Cả những khi gặp trường hợp phải chặt cụt tay, cụt chân họ còn có thể nghiến răng chịu đựng chứ có thèm mở miệng than thở bao giờ đâu? Bọn này đã được người xung quanh đem thuốc trừ rắn độc thoa đắp, song họ vẫn rên la hoài. Rõ ràng là thuốc của mình chỉ công hiệu với loại rắn thường, còn đối với con kim linh này chẳng ăn thua gì". Lão nghĩ vậy căm giận vô cùng, trừng mắt nhìn Chung Linh quát hỏi lần nữa:

- Cha mi là ai? Phải nói cho mau!

Chung Linh đáp:

- Ngươi cố tình muốn ta phải cho ngươi biết danh tính ba ta ư? Thế ngươi không sợ sao?

Tư Không Huyền sực nhớ đến chuyện "Vũ huyệt tứ linh" và liên tưởng đến tên một người nghĩ thầm: "Chẵng lẽ chính y đã nuôi Vũ huyệt tứ linh? Chẳng lẽ y chưa chết sao? Nếu quả y trá tử để mai danh ẩn tích mà mình đem tên tuổi y nêu ra, tất nhiên y sẽ không để mình yên".

Chung Linh thấy nét mặt Tư Không Huyền thoáng qua một cơn hoảng hốt thì trong lòng rất khoan khoái, nàng nói:

- Ngươi mau thả chúng ta ra, để ba ta khỏi đến phiền trách ngươi. Tư Không Huyền đầu óc tính toán rất mau lẹ: "bây giờ mình thả con này ra, nếu ba nó quả là thằng cha đó, thế nào y cũng mở cuộc điều tra, một khi y biết rõ mình tò mò đến việc bí mật của y, không khi nào y chịu để mình sống mà phải giết mình đi cho khỏi lộ chuyện. Trái lại nếu mình giết con nhỏ này đi thì đồng đảng mình khó lòng sống được, đằng nào cũng dở". Sau y tắc lưỡi một cái tự nhủ: "Hừ nhỏ nhen há phải trang quân tử? Không ác sao thành kẻ trượng phu? Thà rằng để đám thủ hạ của mình chịu chết còn hơn thả hổ về rừng, rước lấy tai họa. Nghĩ vậy lão ngấm ngầm vận nội công vào bàn tay, nhằm đỉnh đầu Chung Linh đánh xuống.

Chung Linh thấy lão đột nhiên biến sắc, biết ngay mình sắp bị nguy, lại thấy lão giơ tay trái đánh xuống, vội rú lên:

- Ối ối! Ðừng đánh!

Tư Không Huyền khi nào chịu thôi. Tay lão đánh xuống chỉ còn cách đầu Chung Linh chừng một thước, bất thình lình lão thấy sau gáy mình bị đau nhức không biết bị vật chi cắn vào nên bàn tay đó tuy đánh xuống đỉnh đầu Chung Linh nhưng nội công đã bị tiêu tán, chẳng khác gì xoa đầu đứa trẻ mà thôi.

Tư Không Huyền bị rắn cắn, sợ hết hồn vội vận khí ra trấn giữ trái tim, tay phải vứt bó đuốc xuống đất, thò tay phải về phía sau bóp cổ chặt. Bỗng nhiên cườm tay lại thấy tê nhức, thì ra con Kim linh bị vùi trong đám đất từ nãy, lách mãi bò ra được, nhân lúc kẻ thù của chủ nó không kịp đề phòng nhảy đến đớp.

Tư Không Huyền liên tiếp bị rắn cắn luôn hai miếng thì chẳng còn hồn vía nào nữa, ngồi bệt xuống đất, vận động nội công khu trừ nọc độc.

Thủ hạ Tư Không Huyền vội xúc đất đổ lên mình con Kim linh. Kim linh nhảy xô ng lên đớp ngã một tên rồi chạy trốn, chui vào đám cỏ rậm, chỉ thấy ánh vàng nhấp nháy mấy cái trong bóng tối rồi mất hút.

Những kẻ tả hữu Tư Không Huyền vội lấy thuốc chữa rắn độc trong uống, ngoài thoa, hầu hạ, chạy chữa cho chủ, lại lấy sâm Dã sơn nhét vào miệng cho lão thêm khí lực. Ðồng thời Tư Không Huyền đề khí để chống lại hai chỗ rắn cắn. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc, vì không chịu nổi nữa, lão rút đoản đao bên mình ra chém một nhát, cổ tay đứt lìa, rơi ra. Thật là:

"Muốn ngăn nọc độc vào tim phổi

Tráng sĩ già gan chặt cẳng tay"

Song cổ tay chặt bỏ đi còn được, chứ vết cắn sau gáy thì không thể nào chặt bỏ cổ đi được. Bọn thủ hạ thấy chủ chặt cụt cổ tay, đều ghê rợn hãi hùng, vội lấy thuốc dấu rịt vào. Nhưng máu tuôn ra như suối thuốc rịt vào lại bị trôi đi. Một tên xé vạt áo hết sức buộc chặt cánh tay chủ, máu chảy ra từ từ rồi ngừng hẳn.

Chung Linh thấy cảnh rùng rợn này cũng phải phát khiếp, sắc mặt tái mét, không dám lên tiếng. Tư Không Huyền cất giọng trầm trầm hỏi:

- Con rắn nhỏ sắc vàng đó có phải là con Kim linh trong "Vũ huyệt tứ linh" không?

Chung Linh gật đầu đáp:

- Chính phải đó.

Tư Không Huyền lại hỏi:

- Người bị rắn cắn đau nhức bảy ngày rồi mới chết phải không?

Chung Linh gật đầu. Tư Không Huyền sai thủ hạ:

- Ðem thằng nhỏ ra đây!

Thủ hạ vâng lời, bới đống đất lẫn đá lôi Ðoàn Dự ra.

Chung Linh vội kêu lên:

- Ðừng, đừng! Việc này không can dự gì đến Ðoàn huynh, đừng gia hại đến anh.

Nàng vừa nói vừa toan vùng dậy. Bọn Thần Nông vội xúc đất lấp lên lỗ hổng vừa kéo Ðoàn Dự ra. Chung Linh lại không cựa quậy được nữa. Nàng trông thấy Tư Không Huyền muốn giết Ðoàn Dự bất giác khóc rống lên. Chính Ðoàn Dự tuy trong lòng cũng sợ hãi vô cùng nhưng ngoài mặt vẫn gượng trấn tĩnh mỉm cười nói:

- Chung cô nương! Ðại trượng phu coi cái chết như trở về nơi cực lạc. Trước mặt đám ác ôn này ta không nên tỏ ra khiếp nhược.

Chung Linh nói:

- Tôi không phải là đại trượng phu. Tôi chả coi cái chết như về nơi cực lạc đâu.

Tư Không Huyền vẫn một giọng trầm trầm sai thủ hạ:

- Các ngươi lấy "Ðoạn trường tán" cho thằng nhỏ này uống và theo cân lạng cho y chỉ có thể chịu đựng được trong bảy ngày.

Thủ hạ lấy ra một thứ thuốc tán sắc đỏ bắt Ðoàn Dự uống một nửa bình. Chung Linh vội kêu lên rằng:

- Thuốc độc đó, Ðoàn huynh chớ uống!

Từ lúc Ðoàn Dự nghe thấy tên Ðoạn trường tán đã biết ngay là thuốc độc.

Nhưng nghĩ mình đã ở tay người, không uống cũng không xong, thản nhiên cầm lấy uống, chàng lấy đầu lưỡi nếm mùi, cười mà rằng:

- Ngọt đây mà Tư không bang chúa! Ngươi uống một nửa bình này đi mà chơi!

Tư Không Huyền cả giận "hừ" một tiếng.

Chung Linh đang nước mắt ròng ròng cũng phải phì cười nhưng rồi nàng lại bật tiếng khóc ngay.

Tư Không Huyền nói:

- Thuốc đoạn trường tán này uống sau bảy ngày chất độc mới ngấm vào, làm cho ruột đứt từng khúc mà chết, bây giờ mi phải đi lấy thuốc để giải nọc rắn trong bảy ngày, bảy đêm về đây cho ta thì ta sẽ giải độc cho mi. Chung Linh nói:

- Chỉ có mình ba ta vận động nội công mới giải được nọc độc con kim linh chứ làm gì có thuốc?

Tư Không Huyền nói:

- Nếu vậy thì phải mời cho được ba mi tới đây giải cứu mi chứ sao.

Chung Linh nói:

- Ngươi nói coi bộ dễ dàng lắm nhỉ. Ba ta có chịu ra khỏi núi bao giờ đâu. Ba ta đã quyết định không rời khỏi cửa hang nửa bước.

Tư Không Huyền nghĩ thầm: "con bé nói câu này là đúng sự thực rồi". Lão trầm ngâm chưa trả lời thì Ðoàn Dự đã nói:

- Thế thì kéo cả đến tư phủ Chung cô nương xin tôn đại nhân giải cứu cho có mau hơn không?

Chung Linh gạt đi:

- Không được! Ba tôi đã có lời nguyền: bất luận kẻ nào, hễ đã bước chân vào hang núi chỗ ba tôi ở nhất định là phải chết.

Tư Không Huyền thấy chỗ sau gáy bị rắn cắn mỗi lúc một thêm nhức nhối, ngứa ngáy rất là bứt rứt khó chịu, nổi giận nói:

- Ta chẳng thèm nói nhiều lời nữa. Mi không đi mời được ba y thì thôi, ta cho chết ráo cả một mẻ.

Chung Linh nghĩ một lúc rồi bảo:

- Ngươi thả ta dậy để ta viết thư mời ba ta đến đây. Ngươi cho thằng nào không sợ chết cầm đi.

Tư Không Huyền nói:

- Ta bảo thằng nhỏ họ Ðoàn này đi, hà tất phải sai ai?

Chung Linh nói:

- Ngươi không nhớ gì cả. Ta đã bảo: bất luận kẻ nào đã bước chân vào chỗ ở ba ta đều phải chết mà. Ta không muốn cho Ðoàn huynh ta chết nghe chưa?

Vẫn một giọng trầm trầm Tư Không Huyền nói:

- Y đã sợ chết, thủ hạ ta há không sợ chết sao? Tuỳ đấy, không đi thì thôi, rồi xem bọn mi chết trước hay ta chết trước?

Chung Linh nghẹn ngào nói:

- Lão già râu dê kia! Ngươi chỉ ráng bắt nạt được tiểu cô nương, không cần giữ thể diện nữa ư? Chuyện này khách giang hồ biết ra thì thanh danh ngươi sẽ bị tiêu tan vì có những hành vi đê mạt, chẳng anh hùng hảo hán chút nào.

Tư Không Huyền chỉ để tâm vận nội công, ngăn ngừa nọc độc, không nói gì nữa.

Ðoàn Dự khẳng khái nói:

- Chung cô nương ơi! Ðể tôi đi được mà! Lệnh tôn thấy tôi đến cầu người đi cứu cô nương tất không gia hại đâu mà sợ.

Chung Linh lộ vẻ vui mừng nói:

- Ðược rồi anh ơi! Tôi nghĩ được kế này có thể vẹn toàn. Anh đừng nói rõ với ba tôi là tôi ở tại đây, nếu giết anh đi thì không biết đâu mà tìm tôi. Khi anh đưa ba tôi tới đây rồi phải chuồn đi tức khắc không thì anh sẽ nát ra như cám đó.

Tư Không Huyền trỏ tay về hòn núi góc tây bắc nói:

- Ta phái người đem thuốc ra chờ ở đó, Ðoàn quân chạy trốn đến phía sau hòn núi này, sẽ có người đưa cho.

Tư Khô ng Huyền thấy Ðoàn Dự chịu đi mời người cứu mạng cho bọn lão, lão đã đổi cách xưng hô ra chiều nhã nhặn. Lão nói xong truyền lệnh cho thủ hạ bới đất kéo tay Chung Linh ra, lấy vòng sắt xích hai tay nàng lại rồi mới cào nốt chỗ đất lấp phần dưới thân thể nàng, bỗng thấy con Thanh linh dắt sau lưng Chung Linh ngọ ngậy, ngoài ra các con rắn khác đều bị chết ngộp chết.

Chung Linh hỏi:

- Ngươi không cởi tay cho ta làm sao ta viết thư được?

Tư Không Huyền đáp:

- Gớm cái cô này mới quái gở chứ! Việc gì phải viết thư? Lại định giở trò đấy chứ gì? Cô cứ đưa đồ vật gì giắt bên mình cho Ðoàn quân cầm đi làm tin là mời được lệnh tôn ngay.

Chung Linh nói:

- Ta rất ghét viết lách. Ngươi nói ta khỏi phải biên thư thì còn gì bằng? Nhưng ta có vật gì để cầm đi làm tin đâu? à phải! Ðoàn huynh cởi con Thanh linh đưa về cho ba tôi.

Ðoàn Dự nói:

- Không được! Nó không chịu nghe lời tôi, giữa đường nó đợp một cho miếng là rồi đời.

Chung Linh tươi cười nói:

- Trong túi áo tôi có cái hộp nhỏ, anh móc ra đây!

Ðoàn Dự đưa tay ra sờ vào áo nàng, bỗng nhiên vội rụt tay lại, tự biết mình thò tay vào bụng một thiếu nữ là rất vô lễ. Chung Linh lại không cảm giác như thế, bảo chàng:

- Ðúng rồi, túi áo ở bên trái này.

Ðoàn Dự nghĩ rằng tai họa đến nơi, trong lúc nguy cấp này, tiểu cô nương thật là người quyền biến, bỏ hết tỵ hiềm giữa hai bên nam nữ, lẽ đâu mình còn câu nệ?

Thế rồi chàng lùa tay vào bụng nàng, sờ thấy một vật tròn tròn, nóng nóng liền móc ra. Chung Linh nói:

- Trong cái hộp bằng ngọc này có đựng một vật kỵ cả hai con kim linh và thanh linh. Nếu con thanh linh không chịu nghe lời anh cầm cái hộp này giơ ra trước đấu nó, tự nhiên nó không làm dữ. Ðoàn Dự theo lời nàng, cầm cái hộp giơ lên bên đầu con thanh linh lắc lắc, trong hộp phát ra thứ tiếng kỳ dị, quả nhiên nó chùn lại lập tức, dường như sợ hãi lắm.

Ðoàn Dự lấy làm thú vị nói:

- Tôi thử xem trong có vật gì nào?

Chàng toan mở nắp hộp ra coi, Chung Linh vội ngăn lại bảo:

- Ấy chớ, nắp hộp này không mở được đâu!

Ðoàn Dự hỏi:

- Sao vậy?

Chung Linh ngoảnh mặt về phía Tư Không Huyền đưa mắt cho chàng nói:

- Ðó là một điều bí mật không thể để người ngoài nghe được. Khi anh trở về tôi sẽ nói cho anh biết.

Ðoàn Dự nói:

- À ra thế đấy! Rồi chàng cầm hộp sang tay trái, còn tay phải lần vào sau lưng Chung Linh cởi con thanh linh ra quấn vào lưng mình. Con thanh linh ngoan ngoãn để chàng muốn làm gì thì làm, không hề phản kháng. Ðoàn Dự cả mừng nói:

- Con rắn này hay tuyệt.

Chung Linh dặn thêm:

- Lúc nào đói bụng, nó tự biết đi kiếm chẫu chàng ăn mà ăn, anh không phải lo gì cho nó cả. Anh xuỳ một hơi là sai nó đớp người, huýt sáo ba tiếng "pho pho pho" là gọi nó về.

Dặn xong nàng xuỳ, huýt sáo. Ðoàn Dự rất lấy làm thú vị, học tập mãi.

Tư Không Huyền đang đau, nghe hai người bàn tán nói nói, cười cười lại càng tức bực nghĩ thầm: "Hai đứa nhỏ này không còn biết tý gì cả, đã chết đến gáy rồi còn đùa giỡn với rắn rết". Bất giác lão quát lên:

- Ðoàn quân không đi chóng lên rồi mà về? Tánh mạng bọn ta nguy trong sớm tối, nếu dọc đường còn xảy chuyện rắc rối là chết ráo. Chung cô nương từ đây đến quý phủ, vừa đi vừa về mất độ mấy ngày?

Chung Linh nói:

- Nếu đi được mau lẹ thì chỉ mất hai ngày, cùng lắm là bốn ngày Ðoàn huynh sẽ về tới.

Tư Không Huyền thấy hơi yên dạ lại giục:

- Thôi Ðoàn quân lên đường đi!

Chung Linh nói:

- Ta còn phải dặn đường lối cho Ðoàn huynh, các ngươi hãy tránh đi, không được một ai nghe trộm đấy nhé!

Tư Không Huyền ra lệnh cho thủ hạ tránh đi.

Chung Linh nói:

- Cả ngươi nữa tránh đi cho ta dặn Ðoàn huynh!

Tư Không Huyền ngấm ngầm nghiến hai hàm răng lại, đứng dậy vừa đi vừa nguyền rủa: "Chờ ta khỏi vết thương rồi sẽ liệu tính cho mi. Nếu để mi yên lành chẳng hoá ra Tư Không Huyền này sống uổng hay sao?".

Chung Linh than thở cùng Ðoàn Dự:

- Ðôi ta vừa gặp gỡ đã phải chia tay rồi.

Ðoàn Dự cười nói:

- Vừa đi, vừa về bốn ngày có là mấy?

Chung Linh trố mắt ra nhìn chàng một hồi rồi nói:

- Anh tới nơi phải vào ra mắt má tôi, đem hết đầu đuôi mọi chuyện thuật cho người nghe, để má tôi truyền đạt lên với ba tôi, thế thì mọi việc mới ổn.

Nàng giơ bàn chân nhỏ xíu, vạch rõ đường lối trên mặt đất. Nhà nàng ở tây ngạn sông Lan Thương, trong hang núi. Kể đường xá cũng chẳng bao xa nhưng địa thế rất là bí hiểm, nếu không được chỉ dẫn cặn kẽ thì người ngoài quyết không thể tìm đến nơi được.

Ðoàn Dự có trí nhớ dai, chàng nghe Chung Linh nói những ngã đường chuyển từ đông qua tây, rẽ nam qua bắc nhất nhất ghi vào lòng.

Chung Linh dặn xong, chàng nói:

- Thế là xong rồi chứ? Tôi đi nhé!

Nói xong trở gót đi liền. Chàng đi được mươi bước, Chung Linh chợt nhớ ra điều gì gọi giật lại:

- Anh hãy trở lại đây! Tôi còn dặn nữa.

Ðoàn Dự quay lại hỏi:

- Còn gì nữa?

Rồi chàng toan trở gót, Chung Linh dặn với:

- Anh chớ nói thực họ Ðoàn, nhất là phải dấu kín ba anh biết phép điểm huyệt "Nhất Dương Chỉ", vì ba tôi mà biết ra tất thay lòng đổi dạ.

Ðoàn Dự cười nói:

- Ðược rồi! Cô nương tuy còn nhỏ tuổi mà tâm linh thật là sáng suốt.

Chàng miệng ca vang khúc hát, hiên ngang ra đi. Lúc đó trời vừa chập tối, ánh trăng mới ló. Ðoàn Dự nhờ ánh trăng trong, trông về hướng tây tiến bước. Tuy chàng không có võ công nhưng còn trẻ măng, sức lực dồi dào, chân thoăn thoắt bước mau. Chàng đi được chừng mười dặm, đến sau ngọn cao nhất núi Vô Lượng, bỗng nghe tiếng nước chảy róc rách, phía trước mặt hiện ra một lạch suối. Chàng miệng đang khát nước, lần đến bờ suối, thấy nước trong xanh, vừa thò tay xuống toan vốc nước uống, chợt nghe phía sau có tiếng cười khanh khách. Ðoàn Dự giật mình quay đầu lại xem, thấy mũi trường kiếm ánh sáng xanh lè, lấp loáng, chĩa vào bụng mình. Chàng ngẩng mặt lên nhìn, té ra là Cam Nhân Hào, vẻ mặt hung dữ, đang cười ra chiều khoái trá.

Ðoàn Dự tươi cười hỏi:

- Tưởng ai hoá ra anh, anh làm tôi sợ quá, suýt ngã. Này Cam huynh, trời tối rồi, anh còn đứng làm chi đây?

Cam Nhân Hào đáp:

- Ðệ vâng mệnh gia sư đứng đây chờ Ðoàn huynh. Xin mời Ðoàn huynh vào cung Kiếm Hồ cùng gia sư đàm đạo.

Ðoàn Dự đáp:

- Hôm nay thì không được đâu, vì tại hạ có việc gấp phải đi ngay. Xin để hôm khác sẽ đến vấn an.

Cam Nhân Hào đáp:

- Dù bận gì thì bận cũng xin Ðoàn huynh nể mặt đệ vào một chút, kẻo gia sư quở trách đệ.

Ðoàn Dự trông hắn có vẻ mặt bất chính, trong bụng đã đoán biết ý hắn lẩm bẩm một mình: "Không xong rồi! Nếu thằng cha này cố ý giữ mình lại, không đi tìm được thầy về chữa rắn độc thì bấy nhiêu người đảng Thần Nông tất không toàn tính mạng mà phái Vô Lượng trút được mối lo tâm phúc".

Rồi chàng hỏi lại:

- Sao thế huynh lại biết tạ hạ qua đây?

Cam Nhân Hào đằng hắng một tiếng rồi đáp:

- Cuộc gặp gỡ giữa các hạ và Chung cô nương với đảng Thần Nông tại hạ đã mắt thấy tai nghe hết cả. Phái Vô Lượng cùng các hạ vốn không thù oán quyết chẳng làm phiền gì đến các hạ đâu! Chỉ lưu tôn giá vài hôm mà thôi, rồi sẽ lại để các hạ tự do.

Ðoàn Dự nói:

- Cớ sao lại giữ tôi mấy ngày ở đây? Không thể được đâu, tôi đã uống đoạn trường tán của đảng Thần Nông vào bụng chỉ vài hôm thuốc ngấm, đứt ruột ra thì ở lại sao được?

Cam Nhân Hào cười nói:

- Cần gì, chỉ cần uống ít thuốc "chỉ thống" là hết đau ngay. Ðoàn Dự nghe hắn nói mà chột dạ. Trong lúc bối rối, chưa tìm ra kế thoát thân.

Theo hắn vào cung Kiếm Hồ dĩ nhiên là mình khó sống được, lại để luỵ cho Chung Linh cùng người đảng Thần Nông, tất cả có đến 30 nhân mạng.

Cam Nhân Hào dí mũi thanh trường kiếm vào bụng Ðoàn Dự. Ðoàn Dự đã thấy hơi đau, Cam Nhân Hào lại giục:

- Ta đi thôi! Dù anh không muốn vào cũng bắt buộc phải vào, thà anh cứ vào ngay đi là hơn.

Ðoàn Dự nổi giận nói:

- Ngươi muốn giết ta phải không?

Cam Nhân Hào đáp:

- Gã họ Ðoàn kia! Ðã bôn tẩu giang hồ sao ngươi còn coi tính mạng to thế?

Ngươi chẳng xứng đáng là người gan dạ chút nào.

Bỗng đánh "roạc" một tiếng, mũi kiếm nhọn đã đưa từ trên ngực xuống đến bụng dưới, làm cho áo chàng xẻ thẳng một quãng dài đến hai thước.

Cam Nhân Hào quả đáng là cao đồ phe đông phái Vô Lượng, đường kiếm đi đúng mức không sai một ly. Ðoàn Dự chỉ rách áo chứ không sây sát chút nào.

Chàng thấy gió thổi vù vù vào bụng giá lạnh, vội kéo hai bên vạt áo lại cho khỏi hở bụng.

Cam Nhân Hào cười nói:

- Da thịt ngươi trắng mịn, trông giống con gái như hệt.

Rồi bỗng hắn lại trở bộ mặt hung dữ, giục:

- Nếu không đi mau, lão gia điên tiết lên, sẽ băm mặt ngươi ra.

Ðoàn Dự không sao được đành đi theo hắn, định để giữa đường sẽ liệu xem có kế nào thoát thân được chăng. Chàng vừa đi vừa khép áo lại nói:

- Ta mà biết trước phái Vô Lượng các ngươi độc ác thế này thì để mặc đảng Thần Nông dồn hơi độc cho chết hết, chẳng hoài hơi can thiệp làm gì.

Cam Nhân Hào thét lên:

- Ngươi ba hoa gì vậy? Phái Vô Lượng ta toàn là những tay anh hùng hảo hán, há sợ lũ Thần Nông vô liêm sỉ?

Lại một nhát kiếm nhằm sau lưng Ðoàn Dự chém xuống, bỗng nghe đánh chát một tiếng, mũi kiếm bị chặn lại. Ðoàn Dự vụt nhớ ra nhủ thầm: " Ừ nhỉ! Sao ta không kêu con thanh linh giúp ta một tay". Chàng liền chúm miệng theo cách Chung Linh đã dạy, huýt lên một hồi. Con thanh linh nhoai đầu ra nhảy tới trước mặt Cam Nhân Hào. Gã trông thấy giật mình, chạy giật lùi lại, con thanh linh đớp không trúng, xoay mình toan nhảy sang đớp tay gã.

Cam Nhân Hào đã biết con rắn này lợi hại thế nào rồi. Ðến ngay thanh trường kiếm của sư phụ gã còn bị nó vặn gãy nên vội nhảy sang bên né tránh. Sở dĩ con thanh linh đớp sểnh hai lần là vì Ðoàn Dự chưa biết huy động nó: khi sai đi tấn công, chàng quên thả nó ra đã huýt sáo, thành ra quá phần nửa còn quấn ở lưng mình nên nó không được linh hoạt cho lắm và không nhoai được tới kẻ địch.

Ðoàn Dự thấy Cam Nhân Hào đã tránh xa, nghĩ bụng: "không thừa lúc này chuồn đi còn đợi đến bao giờ?". Liền nhằm phía tây mà chạy. Cam Nhân Hào quay gót đuổi theo, vừa chạy vừa la:

- Trong mình ta có thuốc kỵ rắn. Con rắn xanh kia làm gì nổi ta? Mi có chạy đằng trời!

Nói vậy thì nói nhưng vẫn không dám đuổi sát đến nơi. Ðoàn Dự chạy được nửa dặm nhọc, thở phì phì. Cam Nhân Hào mau lẹ dị thường: tay trái gã bẻ một cành cây dài, vừa đuổi vừa nhằm sau lưng chàng mà quất. Ðoàn Dự trong khi nguy cấp thì may sao phúc đáo tâm linh, sực nhớ lại cách điều động con thanh linh là phải cởi nó ra rồi mới huýt sáo. Chàng liền quay lại phía sau, dùng hết sức quăng con thanh linh ra. Nó chưa nhoai tới thì Cam Nhân Hào nhanh mắt trông thấy, né tránh kịp rồi đuổi chầm chậm cho cách xa thêm. Gã nghĩ thầm: "Anh chàng công tử bột này chẳng biết tý võ công nào, mình cứ đuổi cho y mệt dần, chỉ lúc nữa là y kiệt lực cũng đủ chết. Bị Cam Nhân Hào đuổi phía sau, Ðoàn Dự cắm đầu chạy thẳng về phía Tây. Chừng một khắc, chàng nhọc quá, thở không ra hơi, càng chạy lòng càng phiền não, nghĩ thầm: "Nếu mình bị bắt, tất Chung cô nương không thể thoát chết được thì mình còn mặt mũi nào mà trông thấy ai nữa?". Trong lúc hoang mang, chàng chẳng để ý gì đến đường lối, cứ nhằm rừng cây rậm rạp chạy vào hòng thoát thân. Cam Nhân Hào đuổi một lúc nữa, bỗng nghe tiếng nước chảy róc rách, sóng vỗ ỳ ầm như nước triều dâng. Gã ngửng đầu lên thấy về góc Tây bắc dường như một giải ngân hà lơ lửng không gian: đó là dòng thác lớn từ trên sườn núi cao đổ xuống. Gã liền dừng bước cất tiếng gọi:

- Ðoàn tiểu tử! Phía trước là cấm địa phái ta. Mi chỉ đi mười trượng nữa là chết không có chỗ mà chôn.

Ðoàn Dự cả mừng nghĩ thầm: “nếu là cấm địa của phái Vô Lượng, tất y không dám xông vào đuổi theo nữa. Còn mình đây đã đến bước đường cùng thì sợ cóc gì?” Nghĩ vậy chàng phấn khởi trong lòng, chạy nhanh hơn trước. Cam Nhân Hào lại gọi giật giọng:

- Phải đứng lại ngay! Mi muốn chết hay sao mà cứ xông vào cấm địa?

Ðoàn Dự cười đáp:

- Vì ta muốn sống nên mới phải trốn chạy chứ.

Chưa dứt lời, bất thình lình chân chàng bước hẫng. Vì chàng không có võ nghệ lại đang lúc chạy miết nên không dừng lại kịp. Chàng vừa kêu lên được một tiếng "chết rồi" thì người đã rơi vào quãng không đến quá mười trượng. Cam Nhân Hào đuổi đến ven núi, nhìn xuống thấy một làn khói trắng bao phủ đầy khe, mờ mịt chẳng biết đến đâu là cùng. Gã nghĩ bụng Ðoàn Dự đã lăn xuống đây tất phải tan xương nát thịt rồi. Ngay chỗ chân gã đứng cũng đã thuộc phạm vi cấm địa nên không dám chần chừ, quay gót trở về trình sư phụ.

Ðoàn Dự từ sườn núi rơi xuống, chơi vơi giữa quãng không, hai tay vung vẩy loạn lên, cầu mau bấu víu được cái gì chăng. Chàng lăn xuống đến hơn trăm trượng nữa thì phúc làm sao, con thanh linh, từ lúc nhoai ra phía sau để toan đớp Cam Nhân Hào, Ðoàn Dự vẫn chỉ cầm khấu đuôi, vướng vào cây thông ở sườn núi, mọc đâm ngang ra. Nó khôn ngoan quấn rất mau khúc đầu vào cành cây mấy vòng.

Ðoàn Dự thấy mình đang rơi xuống bỗng nhiên dừng lại liền nắm chặt thêm khấu đuôi con thanh linh, nhưng rồi mỏi tay quá, không chịu nổi, toan buông đuôi rắn ra. Con Thanh linh thật vô cùng linh diệu, nó biết trước, liền co khấu đuôi lại, quấn chặt lấy tay chàng mấy vòng. Bỗng chàng kêu to lên một tiếng "ối chao ôi" vì bị treo lơ lửng, xương cánh tay phải chàng bị sai khớp. Thân thể con thanh linh bền dai lạ thường, con người nặng nề thế, lại còn lúc la lúc lắc mà nó chịu đựng được.

Ðoàn Dự cúi đầu nhìn xuống, mây phủ mịt mờ, trông chẳng thấy khe đâu. Chàng toan bám vào thân con thanh linh để trèo ngược lên như leo dây, song tay phải bị sai khớp, đau đớn vô cùng, không tài nào leo lên được. Còn đang lúng túng chưa biết làm thế nào, thân chàng vẫn đu qua đu lại, bỗng chạm vào vách núi, chàng đưa tay trái ra bám trúng một cành cây ngắn, hai chân quờ quạng tìm được chỗ đứng. Bấy giờ mới hoàn hồn, chàng nhìn kỹ sườn núi thấy một chỗ nứt toạc khá lớn nên hai bên có những mỏm đá lồi ra, có thể bấu víu vào để lần xuống. Chàng đứng thở một lúc rồi nghĩ bụng rằng:

- Nếu cứ đứng đây, không tìm đường lên hay xuống cũng không xong. Trèo lên quyết là không được rồi, chỉ còn cách lần mò xuống đáy khe rồi sẽ tìm đường trở ra. Tuy là chàng thư sinh yếu ớt nhưng chàng rất gan dạ, tự nhủ: "Xét cho cùng đã không giữ được toàn tính mạng thì chết ở đâu cũng thế. Cái chết đối với bậc đại trượng phu nào có nghĩa lý gì?" Chàng liền thổi tiếng sáo miệng thu con thanh linh về.

Thanh linh nghe hiệu, buông cành cây ra, cuộn tròn mình lại nằm trong tay Ðoàn Dự. Chàng quấn một đầu rắn vào cành cây dưới gốc, rồi tay trái bám lấy mình rắn, tựa như vịn vào sợi dây dài, lần lần từng bước đi xuống. Cứ bám gần hết mình con rắn thì chàng lại đạp chân vào một mấu đá chìa ra, dừng lại để thu rắn về. Mỗi lần tụt xuống như thế chàng lại khoan tâm thêm được một chút. May mà sườn núi càng xuống dưới càng xoải dần không đứng dựng như ở trên cao nữa. Sau chàng không phải vịn vào con thanh linh, tự mình vừa quay trở vừa bấu víu vào sườn núi bước lần xuống. Chợt thấy tiếng bì bõm, càng xuống thấp lại càng ngherõ. Chàng không khỏi giật mình kinh hãi nghĩ thầm: "dưới này dường như có vũng nước xoáy, sóng đánh lật ngược lại, chỉ gặp một cơn sóng to là nát thân. Bỗng thấy những giọt nước trong như hạt mưa rào bắn tung lên đập cả vào mặt mũi rát rạt.

Thời khắc không cho phép chàng có đủ thì giờ để suy tính nữa. Trong khoảnh khắc xuống đến đáy khe, chàng đứng thẳng người lên bất giác cất tiếng khen: "Ðẹp quá!". Bên tả sườn núi, giải thác nước lớn trắng phau, trông tựa như một con rồng treo lơ lửng trên không, cuồn cuộn đổ xuống một cái hồ trong vắt, rộng bao la, trông không thấy bờ bên kia. Tuy thác nước chảy suốt ngày đêm xuống mà không bao giờ hồ đầy tràn cả, dường như có chỗ rút nước đi. Trên mặt hồ chỉ chỗ thác đổ vào là nước chảy quanh co, sóng vỗ bì bùm, còn ngoài xa từ hơn mười trượng trở đi lại phẳng như một tấm gương khổng lồ.

Ðứng trước phong cảnh kỳ tuyệt của tạo hoá, Ðoàn Dự ngây người, trố mắt ra mà nhìn, thầm khen ngợi phong cảnh hùng vĩ. Chàng đưa mắt nhìn chếch sang bên: trên bờ hồ hoa Trà trùng điệp, những bông lớn bằng miệng bát. Trà Vân Nam có tiếng vào bậc nhất thiên hạ nhưng so với hoa trà bờ hồ này còn kém phần rực rỡ nhiều. Thật là một thứ hoa trà kỳ lạ, chàng chưa từng thấy bao giờ.

Ðoàn Dự mải say mê cảnh đẹp, nhìn ngắm hồi lâu mới cảm thấy tay đau vì trật khớp xương. Chàng xắn tay áo lên mà than rằng: "Ðốt xương ơi là đốt xương! Giả sử mi ăn khớp với nhau thì ta đâu phải đau đớn thế này? Mi chỉ trật ra ngoài đầu đốt một chút là con người đã thành ra sống dở chết dở". Thế rồi chàng nghiến răng, lấy tay trái giật một cái thật mạnh, phát ra tiếng kêu "lục cục". Ðầu xương cánh tay phải trật ra lại in vào khớp. Tuy nhiên chàng cảm thấy đau nhói hơn trước. Ðau thì đau nhưng tay đã cử động được như thường. Ðoàn Dự cả mừng, mặc dù vất vả lo lắng mất quá nửa ngày nhưng giờ toàn thân chàng thấy rạo rực cả lên vì sung sướng đã thoát khỏi mấy lần gặp tai nạn chết người. Không biết trò chuyện cùng ai, chàng nằm nghỉ trên đám cỏ, trở mình vài lần rồi vỗ vào lưng con thanh linh mà nhủ rằng:

- Thanh linh hỡi thanh linh! Bữa nay không được mi cứu mạng cho ta thì bây giờ ta đã sang bên thế giới cực lạc rồi còn gì. Từ đây trở đi, ta sẽ bảo tiểu thư của mi đãi mi rất tử tế mới phải.

Nói rồi chàng cảm thấy khát nước, liền chạy ra bờ hồ vốc nước lên uống. Nước hồ mới ngon ngọt làm sao. Uống tới đâu thấy mát mẻ tới đó. Tinh thần đã tỉnh táo, chàng nhớ đến công việc cần kíp, phải mau tìm lối ra đi. Chàng nghĩ: "Cam Nhân Hào ở trên núi này đã lâu, gã mà đến đây thì ta khó lòng thoát khỏi bàn tay tàn bạo. Chàng liền men bờ hồ đi tìm lối ra. Cái hồ này hình bầu dục, có đến phần nửa ẩn vào các bụi cây um tùm. Ðoàn Dự quanh về mé đông theo đường vành thúng đi được chừng ba dặm. Mé đông nam cũng như mé tây bắc, sườn núi đều dựng đứng, tuyệt không có đường nào ra được. Duy chỗ chàng xuống vừa rồi là sườn núi thoải hơn cả, ngoài ra không còn nơi nào có thể trèo lên được.

Khe núi im lặng như tờ, đừng nói vết chân người, ngay loài dã thú cũng không thấy bóng một con nào cả. Thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng chim kêu từ đằng xa đưa lại mà thôi. Nhìn cảnh tượng này, Ðoàn Dự lại buồn thiu. Chàng nghĩ thầm: "Dù mình chết đói ở đây cũng chẳng cần gì nhưng chỉ sợ Chung cô nương thiệt mạng thì mình còn mặt mũi nào mà trông thấy ai nữa?".

Chàng ngồi bờ hồ, nét mặt đăm chiêu. Hồi lâu chàng tự nhủ: "Chẳng qua tại mình hoảng hốt chưa tìm ra mà thôi, thế nào cũng có con đường nhỏ ở phía sau rừng cây kia mới phải". Nghĩ vậy chàng cao hứng, vừa cất tiếng hát vang, vừa men theo bờ hồ để tìm lối ra.

Hồi 4

Rõ Ràng Mở Mắt Còn Ngờ Chiêm Bao

Lần này Ðoàn Dự men theo bờ hồ, xem xét kỹ càng, lách cả vào những nơi mịt mờ, rậm rạp. Song sau bao nhiêu đám hoa cỏ, cây cối um tùm, chỗ nào cũng vách đá kiên cố, dựng đứng lên cao ngất trời. Ðừng nói đường lối đi ra, cả đến một hang dã thú hay một lỗ rắn chui cũng không có. Giọng hát mỗi lúc một thấp, đầu óc mỗi lúc một nặng trịch. Chàng quay trở về đến chỗ thác nước thì cặp giò đã mỏi nhừ, ngồi phịch xuống đất, vẻ mặt bơ phờ mệt nhọc.

Trong lúc thất vọng, chàng đâm ra nghĩ vơ vẩn, ước ao biến thành con cá, lội ngược dòng thác lên chơi đỉnh núi. Thế rồi chàng để ý ngắm kỹ thác nước từ dưới lên, chợt thấy mé hữu có một phiến đá sáng bóng như ngọc, chàng suy luận ra rằng: hàng ngàn vạn năm trước kia thác nước này lớn hơn bây giờ nhiều, dòng nước chảy xiết đã lâu năm lắm mài mặt đá phẳng lỳ, và mãi về sau dòng thác hẹp lại, tảng đá trong suốt như thuỷ tinh, bóng loáng như gương đồng đó mới chìa lên.

Ðoàn Dự chợt nhớ ra Song Thanh đạo cô, chưởng giáo phe tây phái Vô Lượng, lúc thua cuộc đấu kiếm nội bộ với phe đông có hỏi móc Tả Tử Mục, chưởng giáo phe thắng cuộc rằng: "Mấy năm nay việc nghiên cứu của sư huynh ở cung Kiếm Hồ về phiến ngọc bích đã được tường tận chưa?". Rồi Tả Tử Mục vẻ mặt tức giận, trách Song Thanh đạo cô đã quên cả luật lệ, đem việc bí mật của bổn phái ra đề cập trước mặt người ngoài nên đạo cô không dám hỏi gì nữa. Chàng nhớ cả việc đảng Thần Nông thâm thù phái Vô Lượng về việc không cho ra phía sau núi hái thuốc. Nhưng xét cho cùng, nếu phía sau núi Vô Lượng chỉ toàn núi non trùng điệp, hoang sơn dã lĩnh thì có quan hệ chi? Sẵn trí minh mẫn chàng đâm ra nghi ngờ, rồi chàng đem tất cả mọi điều mắt thấy tai nghe từ khi tới cung Kiếm Hồ ra suy ngẫm: lúc nàng Chung Linh đề cập tới hai chữ "ngọc bích" Tả Tử Mục giải thích hàm hồ "Hay là trong núi Vô Lượng có thứ ngọc quý báu gì chăng?" thế rồi nàng cười lạt mãi. Nay xem ra thì chữ bích đó không phải là ngọc mà nghĩa là vách. Ngọc bích là phiến đá vách núi trong như ngọc. Hơn nữa phiến ngọc bích đó lại ở phía sau núi Vô Lượng thì rõ ràng có một mối quan hệ rất lớn đến mọi điều bí ẩn của phái Vô Lượng.

Ðoàn Dự liên tưởng đến lúc mình sắp lăn xuống vực thẳm, Cam Nhân Hào còn gọi giật lại bảo đây là cấm địa của phái Vô Lượng, cố ý ngăn lại không cho vào. Ðoạn chàng ôn lại việc trước: lúc mình theo Mã Ngũ Ðức đến cung Kiếm Hồ, có lần mình đã hỏi Mã tiên sinh vì sao cứ năm năm lại có một cuộc tỷ thí nội bộ giữa ba phe: đông, nam, bắc phái Vô Lượng và phe thắng cuộc ở lại năm năm để làm gì? Thì tiên sinh lắc đầu đáp: "đó là một điều bí mật trọng đại của môn phái Vô Lượng, người ngoài không ai hiểu được". Rồi mình không tiện hỏi vặn nữa.

Sau khi sắp đặt những đầu mối với nhau và suy luận, chàng tỉnh ngộ đoán ra rằng: trên phiến đá vách núi kia hẳn có khắc những điều bí mật về kiếp pháp. Sở dĩ đời trước phái Vô Lượng có đặt ra lệ một trong ba phe thắng cuộc đấu kiếm được ở cung Kiếm Hồ năm năm là để kháp phá điều bí ẩn đó. Chàng đoán ra điểm chính yếu này tự nhiên sẽ tìm được lời giải đáp các nghi vấn khác: vì sao mà các phe phải gắng tranh đấu cho được ở cung Kiếm Hồ? Vì sao không thuận cho đảng Thần Nông ra phía sau núi hái thuốc? Vì sao khu này đặt vào khu cấm địa bất khả xâm phạm? Vì sao Song Thanh đạo cô đề cập đến việc nghiên cứu kiếm pháp? Vì sao Tả Tử Mục tìm câu giải thích hàm hồ?

Từ thuở nhỏ Ðoàn Dự đã được thấm nhuần sâu xa Phật học và Nho học, chàng vốn ngán ngẩm nghề võ. Phen này cũng vì không chịu học võ mà phải bỏ nhà bỏ cửa ra đi. Trong một ngày trời, nào bị cực nhục nào bị ép uống thuốc độc mà đều do bọn võ biền khinh khi, ức hiếp chàng cả nên chàng càng ghét cay ghét đắng môn học bất lương này. Ðồng thời chàng ghét luôn cả phiến đá có liên quan đến nghề võ. Chàng bèn ngoảnh mặt đi, chẳng muốn nhìn nó làm chi nữa. Chàng kết luận: tất cả những cuộc tranh giành, xáo trộn ở trên đời đều do võ lực mà ra. Phải chi trên phiến ngọc bích kia có ghi khắc những bí quyết vô địch về võ công thì nó sinh ra mối tai vạ cho người đời mà thôi, so với con Kim linh và Ðoạn trường tán thì nó còn tệ hại hơn nhiều.

Chàng quanh đi quẩn lại mãi trên bờ hồ, bỗng nổi tính hiếu kỳ, ngồi phân tích giọng lưỡi của Song Thanh cùng Tả Tử Mục khích bác nhau. Dường như bí quyết này cực kỳ nan giải, không thì sao trong năm năm trời chưa nghiên cứu được tường tận? Ta cũng muốn coi chơi thử xem có gì bí hiểm đến thế? Nghĩ vậy chàng lại ngẩng đầu lên nhìn phiến thạch bích thì chỉ thấy sáng bóng, tuyệt không có một dấu vết, khác nào tờ giấy trắng mà thôi? Chẳng có bí quyết võ công, kiếm thuật hay hoạ đồ gì ráo. Ðoàn Dự nhìn thẳng, nhìn nghiêng một lúc rồi nghĩ thầm: "một là lời cố nhân nói chưa chắc đã là sự thật, hoặc giả bậc tiền bối phái Vô Lượng muốn thêu dệt ra trò này để khích lệ đệ tử về sau cố công luyện kiếm, hay là mình đoán sai...".

Ðoàn Dự nhìn ngắm hồi lâu, vừa đói vừa nhọc chàng lăn ra ngủ. Sáng hôm sau tỉnh dậy, đói như cào ruột, trong khe núi này trái cây chẳng có, rau rong hạt dẻ cũng không. Ðến trưa chàng đói quá không chịu được nữa đành bẻ nắm cánh hoa trà bỏ vào mồm nhai. Thứ hoa này sắc đẹp thế mà mùi vị lại đắng ngắt. Nhưng đói quá, chàng phải nhai liều. ăn độ chừng tám chín chục bông mới đỡ đói lòng đượcđôi chút. Chàng lại nằm liền vài tiếng đồng hồ thì mặt trời đã xế về tây, trên mặt hồ mờ ảo nổi lên ánh cầu vồng trông tuyệt đẹp. Ðoàn Dự cho đó là do thác nước phản chiếu ánh mặt trời mà ra, chàng nghĩ bụng lúc mình chết đến nơi, được ngắm cảnh tuyệt đẹp, tuyệt mỹ thì trời đối đãi với mình cũng là hậu lắm, lại còn được chết bên bờ hồ hoa tươi, cỏ đẹp thế này thật là phong nhã quá rồi. Chàng cảm thấy khoan khoái trong lòng, ngủ đi lúc nào không biết.

Chàng ngủ một giấc dài, tỉnh dậy vào lúc nửa đêm, lại ngẩng đầu lên nhìn phiến ngọc bích. Lúc đó trên phiến đá in hai vật rất rõ trông như người vẽ vào, chàng ngạc nhiên tưởng mình loé mắt liền ngồi dậy, dụi mắt nhìn kỹ lại thì rõ ràng hai cái bóng đen sì, một bóng hình cánh cung phảng phất như hình cầu vồng lúc ban ngày, còn một bóng nữa là hình thanh kiếm lại rõ ràng lắm, đủ cả từ chuôi kiếm, vòng đỡ tay cho đến thân kiếm, mũi kiếm không thiếu sót chỗ nào. Chàng để tâm suy xét, đoán là phía trước phiến ngọc bích tất có thanh kiếm thật do ánh trăng phản chiếu in hình vào đó. Thấy mũi kiếm chỉ vào hình cánh cung, chàng chú ý nhìn hình này, càng nhìn càng thấy rõ hệt như hình cầu vồng. Lát sau gió thổi tan đám mây nhỏ lảng vảng, trăng sáng vằng vặc, hình kiếm càng đen hơn trước còn hình cung lộ ra bảy màu sặc sỡ, tầng lớp rất phân minh rõ rệt, chẳng khác chi cầu vồng thật.

Ðoàn Dự rất lấy làm kỳ tự hỏi: "Tại sao hình bóng lại có mầu sắc được?". Chàng đưa mắt nhìn sang vách đá phía đối diện với phiến ngọc bích, thấy lưng chừng có ánh rực rỡ, chập chờn. Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ nói một mình: "Phải rồi lưng chừng vách bên kia có đặt một thanh kiếm vào chỗ hổng vách đá, ngoài ra còn một tảng bảo thạch lớn đủ bảy màu sắc. ánh trăng chiếu mầu sắc bảo thạch bên kia in qua phiến ngọc bích bên này nên hiện ra đủ màu sắc rực rỡ đẹp tuyệt.

Chỉ còn một điều rất khó là chỗ để bảo vật cao đến mấy chục trượng, thì không có cách nào lên coi tận nơi cho biết rõ. Ðứng dưới trông lên chỉ thấy hào quang rung rinh khi ẩn khi hiện, mà nhìn sang bên phiến ngọc bích thì thật là kỳ ảo, quyến rũ. Nhưng cảnh đẹp chẳng được bao lâu, ánh trăng xê dịch đi chỗ khác, hình ảnh rực rỡ nhạt dần rồi mất hết, còn trơ lại phiến ngọc bích trắng ngần.

Nhân sự bất ngờ, Ðoàn Dự phát giác những sự kiện trên đây, chàng nghĩ thầm: "Té ra những điều bí mật núi Vô Lượng là ở chỗ đó. Nếu không sa vào hang sâu vực thẳm này thì làm gì mà biết được những hình ảnh kia? Nhờ lúc ánh trăng soi chênh chếch đi mới hiện ra. Hàng năm mấy khi gặp được lúc ánh đá rực rỡ phản chiếu lên phiến ngọc bích? Người phái Vô Lượng phần nhiều là nghiên cứu phiến ngọc bích giữa ban ngày thì còn thấy cóc gì? Dù cho họ có trông lên đỉnh vách núi, đào đất quật đá để hòng khám phá ra diều bí ẩn cũng chẳng ăn thua gì". Nghĩ tới đây, chàng bất giác bật lên tiếng cười khanh khách. Rồi chàng cho rằng: "dù lấyđược thanh bảo kiếm cùng cái vật hình cánh cung vân thất sắc kia đi chăng nữa cũng chỉ để làm đồ chơi mà thôi, phỏng có ích gì mà phải lao tâm phí lực làm chi cho uổng? Thiên hạ sao lại có những người ngốc thế?". Thần trí bình thản, chàng nằm xuống nghỉ rồi ngủ quên đi.

Ðang ngủ say, bỗng nhiên chàng giật mình tỉnh dậy, tự hỏi: "ồ sao mũi kiếm lại chỉ vào đầu dưới hình cầu vồng, tựa hồ như có điều bí mật ở chỗ đó? Người đem thanh bảo kiếm cùng bảo vật gắn vào vách núi làm chi để mất công như thế?

Không những phải là người võ công tột bậc mà còn phải có khúc dây thật dài ròng xuống mới trèo lên mà làm được. Họ đã hao tổn tâm lực an bài như vậy tất có dụng ý gì đây? Phải chăng điều bí mật ở chỗ hình cầu vồng? Cứ xem hai hình bóng in vào phiến ngọc bích thì không tìm đâu ra được lối giải thích nào khác nữa. Về cái hình cầu vồng thấy lúc ban ngày thì một đầu lơ lửng trên không, một đầu dính xuống mặt hồ chỗ thác nước đổ vào, giả tỷ điều bí mật lớn lao ở chỗ này thì không có cách nào nắm được".

Ðoàn Dự ngây người ra suy nghĩ hồi lâu, lẩm bẩm một mình: "Cầu vồng biến ảo không nhất định, hôm nay hiện lên chỗ này, mai chưa chắc đã đúng chỗ ấy, khó mà căn cứ vào đó được".

Hôm sau Ðoàn Dự nhịn đói ngồi mong chờ cầu vồng xuất hiện. Ðến lúc hoàng hôn, cầu vồng từ từ hiện lên. Ðoàn Dự nhìn kỹ lại thì đúng như hôm trước, không sai tý nào, một đầu lơ lửng trên không, một đầu dính xuống mặt hồ, chàng lại càng thất vọng chạy ra bờ hồ chỗ thác nước đổ xuống, sóng vỗ bì bòm, nghe đến đinh tai nhức óc. Chỉ trong khoảnh khắc, nước bắn toé lên ướt cả quần áo. Chỗ nước xoáy trong hồ rất lớn, nước chảy vòng tròn rất là mau lẹ. Ði lại gần chỗ này thì không thấy hình bóng cầu vồng đâu nữa. Ðoàn Dự tính lại thì từ hôm sa vào khe núi này đến nay là ngày thứ ba, chỉ còn bốn ngày nữa nếu không chết đói thì đoạn trường tán cũng làm cho mình đứt ruột ra mà chết, Chung Linh tất cũng sẽ bị bọn Thần Nông sát hại. Ðằng nào mình cũng chết chi bằng nhảy xuống vũng nước xoáy này xem có gì lạ không?

Một là chàng đã lâm vào tuyệt địa chỉ còn tìm cách biến chuyển trong chỗ liều mình, hai là chàng tính tình hào sảng nói làm là làm không cần suy tính. Ðoàn Dự rướn người nhảy xuống vũng nước xoáy, toàn thân bị sức mạnh ghê gớm cuốn đi. Chàng nín thở nhưng vẫn mở mắt nhìn ra thấy một mầu trắng toát mù mịt, thác nước giờ đã biến thành dòng nước chảy xiết kéo tuột chàng xuống đáy hồ. Ðoàn Dự tuy biết bơi lội nhưng không tự chủ được, để mặc cho dòng nước lôi cuốn. Chỉ trong khoảnh khắc, bị nước vào đầy miệng, chàng mê man như say như tỉnh, chẳng biết đã bị nước cuốn đi bao xa. Bất thình lình chàng cảm thấy thân mình bị đẩy mạnh một cái, tung lên khỏi mặt nước. Ðang lúc chơi vơi, chàng quờ tay mayvớ được một túm dây leo, chàng liền nắm lấy, định thần nhìn ra thì bốn bề tối đen như mực. Chàng đưa chân phải ra sờ soạng, bỗng đạp trúng một vật. Chàng liền đưa nốt chân trái đặt vào đó, nhưng chưa dám buông tay ra, vẫn nắm lấy túm dây leo, dò dẫm cất bước. Chỗ này nước chỉ ngập vế đùi, mà không chảy xiết nữa. Chàng buông tay đứng thẳng người lên, bỗng đánh "binh" một tiếng, đầu chạm phải vật gì cứng rắn. Chàng đau điếng người bất giác kêu lên: "Chết rồi! Chết rồi! Sao mà mình vô ý đến thế?". Chàng cố nhịn đau, đưa tay ra sờ soạng, thấy vật trên đầu giá lạnh và cứng nhắc thì ra toàn là đá núi.

Ðoàn Dự ôn lại những sự vừa qua, nhớ rằng mình nhảy xuống vũng nước xoáy, lúc đầu bị thác nước chảy mạnh cuốn xuống đáy hồ. Từ đáy hồ trôi theo một luồng chảy ngầm để thoát nước hồ đi, rồi bỗng sức nước đẩy mạnh một cái, bắn tung mình vào khe này. Cứ xem cục diện trước mắt thì dữ nhiều lành ít nhưng cũng chẳng biết làm thế nào được, đành là nhắm mắt đưa chân tới đâu hay đó. Nghĩ vậy rồi, chàng quỳ hai gối xuống cho khỏi đụng đầu, lần lần tiến về phía trước. Hai tay hết đưa lên đầu lại đưa ra trước mặt để đề phòng những sự va chạm. Bên tai vẫn nghe nước chảy róc rách lúc mau, lúc khoan. Chàng quỳ gối, lần bước một hồi xem chừng đá núi ở trên đầu đã khá cao có thể cúi lom khom đi được. Khom lưng đi một đoạn nữa thì đứng ngay người lên. Ðang đi có khi gặp nhũ đá rủ xuống nhưng may lúc nào chàng cũng đưa tay ra sờ trước, không thì nhiều phen va chạm đến phải vỡ mặt sứt mày.

Ðoàn Dự chợt nhớ đến con thanh linh, sờ lại thấy nó vẫn nằm im quanh lưng mình, mới hơi yên dạ. Chàng tự hào bữa nay một chuyện hi hữu đã đến với chàng. Không những mình từ nhỏ tới giờ chưa từng được gặp, mà người đời cũng ít ai được trải qua những vụ ly kỳ như vậy. Nhất là bè lũ thầy trò phái Vô Lượng kiếm trải qua mấy đời và phí bao nhiêu ngày giờ chỉ đứng trên mà nhìn, mà ngắm, mà nghiên cứu phiến ngọc bích một cách vô hiệu quả, chưa chắc có tay nào nhảy xuống vực sâu, quan sát dưới ánh trăng đặng thấy hình ảnh thanh bảo kiếm cùng ảnh bảo thạch như cầu vồng. Ðến chuyện nhảy xuống vũng nước xoáy, chắc cũng chỉ có một mình mình lâm vào tình trạng nắm vững cái chết trong tay mới có cuộc mạo hiểm này.

Chàng càng ngẫm nghĩ lại càng đắc ý, bất giác nổi lên một trận cười ha hả, rồi nói huyên thuyên, mình tự nhủ mình: "Gã tiểu tử Ðoàn Dự kia! Bữa nay ngươi chắc chết trăm phần trăm, nếu măn mà ngươi sống sót, ra khỏi chỗ này thì tha hồ mà cười thầy trò Tả Tử Mục, Cam Nhân Hào một phen cho thoả thích". Chàng sung sướng quá cười rộ lên khanh khách, chợt nghe phía bên có tiếng cười khanh khách đưa đến. Ðoàn Dự giật mình kinh hãi, không dám cười nữa thì bên kia cũng im lặng như tờ. Ðoàn Dự lớn tiếng hỏi:

- Ai đó?

Bên kia cũng có tiếng ồm ồm:

- Ai đó?

Ðoàn Dự lại hỏi:

- Người hay là ma đó?

Bên kia cũng có tiếng hỏi:

- Người hay là ma đó?

Ðoàn Dự lắng tai nghe, bất giác bật cười nói:

- Mình cứ tưởng là ma quỷ, té ra là tiếng vang.

Rồi chàng nghĩ thầm: "Chỉ khi nào nói ở trong gian nhà lớn hoặc trong hang núi mới thành tiếng vang. Vậy thì mé bên phải này tất có khoảng trống rộng lớn. Ha ha, mình thích chí cười vang thế mà cũng được việc. Nếu không cười lên mấy tiếng sao biết nơi đây có hang động? Thế rồi chàng kêu loạn lên, lần mò đi theo về phía có tiếng vang. Vừa sờ lần vừa đi chẳng mấy tý, quả nhiên đến một khoảng trống không. Chàng đưa tay lên cao và đưa ra hai bên sờ soạng không thấy gì cả. Ðang đi dò dẫm có chỗ bấu vịn giờ ra quãng không tối mò, chàng cảm thấy hơi sợ đành cứ bước một tiến về phía trước. Dưới chân không còn vướng vấp gì cả. Bỗng nhiên tay chàng chạm phải một vật tròn tròn, lạnh lạnh, phát lên tiếng leng keng trong như tiếng đồng hồ. Chàng thò tay sờ lại thì cái vòng đồng này giống như vòng ở trước cửa các nhà thường.

Chàng tự nhủ đã có vòng cửa, tất có cánh cửa. Chàng nghĩ vậy rồi cứ lần mò, sờ soạng mãi, quả thấy đến chục cái đầu đinh lớn thì vừa mừng, vừa sợ tự hỏi: "Chẳng lẽ phía trong này lại có người ở thì lạ quá". Chàng liền lắc mạnh cái vòng cho nó bật lên tiếng kêu leng keng rồi chờ xem bên trong có ai thưa không. Chờ một lát chẳng thấy gì, lại gõ mạnh vào cái vòng ba tiếng nữa cũng chẳng thấy ai thưa. Chàng liền đưa tay ra đẩy cửa. Cánh cửa này dường như đúc bằng kim khí, nên rất nặng nề. Nhưng không cài then trong nên chàng cố hết sức đẩy, cánh cửa từ từ hé mở.

Chàng lớn tiếng nói:

- Tại hạ là Ðoàn Dự, không được lệnh vời mà dám đường đột tới quý phủ, thật là có lỗi, xin chủ nhân khoan thứ cho!

Chàng chờ một lát, không thấy phía trong có tiếng đáp lại, đành cất bước mạnh dạn tiến vào. Ðoàn Dự vào trong cửa rồi, tuy chàng mở mắt thật to mà trông cũng chẳng rõ chi hết, chỉ thấy nơi đây không còn khí ẩm ướt như ở bên ngoài nữa.

Chàng tiếp tục đi vào, bỗng đánh kịch một tiếng trán chàng chạm phải vật gì rồi, cũng may mà chàng đi thong thả nên không bị đau mấy. Chàng đưa tay lên sờ thì ra đây cũng là một tầng cửa. Lại cố sức đẩy được hé mở ra, bên trong vẫn tối om.

Bất tất phải thuật dài dòng, chàng đi như thế qua cả thảy sáu lần cửa, có lần mở được ngay, có lần bị đất bùn vít chặt thì phải cố sức đẩy khá lâu cánh cửa mới hé ra đủ nghiêng người đi để lách vào. Qua lần cửa thứ sáu, chợt thấy ló ra chút ánh sáng, chàng giật mình hồi hộp nhủ thầm: "Ta thoát ra đến chỗ có ánh mặt trời rồi chăng?". Chàng nhìn kỹ thì đây là một toà thạch thất. Từ bên trái lọt vào một tia sáng mờ ảo, chứ không phải ánh sáng mặt trời. Chàng nhằm phía có ánh sáng đi tới, chợt thấy một con tôm hùm rất lớn đi ngang qua bên ngoài cửa sổ. Chàng rất lấy làm kỳ, đi thêm mấy bước nữa lại thấy một con cá chép có vân rực rỡ vụt qua. Bấy giờ chàng mới để ý nhìn kỹ cửa sổ, thì ra là một khối thuỷ tinh rất lớn gắn vào vách đá. Khối này gồm ba phiến lớn bằng miệng chậu ghép liền vào nhau. ánh sáng bên ngoài lọt qua cửa sổ thủy tinh chiếu vào trong nhà.

Ðoàn Dự lại đứng bên cửa sổ nhìn ra, thấy bên ngoài mịt mờ xa thẳm không rõ đâu là cùng thì biết rằng mình đang ở đáy sông chứ không phải đáy hồ. Chàng lại nghĩ đến người chủ tòa thạch thất này đã tốn biết bao nhiêu tâm cơ để kiến tạo nên nó, cùng nghĩ cách lấy ánh sáng ở ngoài nước sông rọi vào trong nhà. Ba phiến thủy tinh kia là vật báu hiếm có, khó lòng kiếm được. Chàng lại quay vào xem trong nhà thấy có một cái bàn đá, trước bàn để cái ghế đá, trên bàn có đặt một tấm gương đồng, bên gương còn để mấy thứ nào lược đầu, nào vòng xuyến, rõ ràng là một nhà khuê các. Tấm gương đồng đã ăn gỉ xanh lè mà mặt bàn cát bụi dầy đến đốt ngón tay đủ tỏ rằng trong nhà đã bao lâu nay không có người đặt chân tới.

Trước cảnh tượng đó Ðoàn Dự không khỏi ngơ ngẩn nghĩ thầm: "Mấy năm về trước, tại đây nhất định đã có một vị tiểu thư ở ẩn. Không hiểu nàng đau buồn nỗi gì mà phải xa cõi nhân gian, lánh mình vào nơi tĩnh mịch này?". Chàng thầm suy nghĩ một lúc rồi lại xem khắp mọi chỗ trong nhà. Trên vách đá gắn la liệt những gương đồng, chàng đếm được hơn ba chục chiếc thì lấy làm lạ, đoán ra rằng: "Vị tiểu thư ở đây trước là bậc tuyệt thế giai nhân, ngày ngày ngắm bóng thương thân trách phận". Nghĩ vậy chàng cũng vì ai thổn thức can trường.

Ðoàn Dự quanh quẩn trong nhà thạch thất, lúc lẩm bẩm một mình, lúc thở dài sườn sượt thương cho thân phận con người mình chưa từng thấy mặt.

Bỗng chàng sực nhớ lại chuyện mình, bất giác than rằng: "trời ơi! Từ nãy tới giờ mình chỉ vơ vẩn nghĩ chuyện đâu đâu, quên cả lo tính việc mình. Trong buồng này không có ngõ ngách nào, làm sao tìm được lối ra?".

Chàng nhìn khắp một lần nữa, tuyệt không thấy một cửa ngõ nào cả. Chán nản chàng ngồi phịch xuống ghế đá, than thở: "Ðoàn Dự này là một gã xấu trai, nếu chết ở đây hoá ra mạo phạm giai nhân! Sao chẳng chết ngay ở lối đi lúc nãy có hơn không? Trước khi hồn về chín suối ta thử ngó qua lại bộ mặt xem sao?".

Chàng bèn lấy vạt áo lau hết gỉ đồng trên gương. Gương đã hiện ra chút ánh sáng, nhưng chàng ngồi trên ghế, mà gương đặt xa quá, soi không rõ mặt. Chàng liền đưa tay ra kéo tấm gương lại gần. Không ngờ tấm gương như gắn chặt vào mặt bàn, chàng phải ra sức lay mạnh một cái, bỗng tự nhiên thấy ghế đá chuyển động.

Ðoàn Dự cả mừng đứng phắt dậy, gia sức lay thật mạnh tấm gương đồng, chợt nghe tiếng lách cách, ghế đá dời đi chỗ khác, lộ ra một cái động. Chàng cúi nhìn thì thấy có bậc đá thông xuống.

Ðoàn Dự mừng rỡ khôn xiết kêu lên: "Tạ ơn Trời, Phật, quả có đường ra rồi".

Ðoạn chàng theo bậc đá đi xuống. Không ngờ xuống được vài chục bậc, các bậc đá ngoắt lại, đi ngược lên, càng đi càng lên cao. Lên đến một gian phòng Ðoàn Dự thấy phía trước có tia sáng lóe ra, chàng bỗng giật nẩy mình kêu to lên một tiếng, vì chàng trông thấy một trang mỹ nữ tay cầm thanh trường kiếm, mũi trỏ thẳng vào bụng chàng. Nhác trông thật là một vị thanh nhã khác thường, diễm lệ vô song. Chàng chưa từng thấy người nào đẹp đến thế.

Ðứng trước một trang sắc nước hương trời, chàng như người mất hồn, há miệng muốn nói mà líu lưỡi không thốt ra được câu nào. Hồi lâu thấy mỹ nhân vẫn đứng yên không nhúc nhích. Ðoàn Dự định thần nhìn kỹ thì ra mỹ nữ này tuy có vẻ đẹp mê hồn nhưng không phải là người thật, mà là một pho tượng ngọc thạch, chạm chổ rất tinh vi. Pho tượng lớn bằng người thật, mình mặc đồ tơ lụa mềm mại, tà áo rung rinh. Kỳ nhất là đôi mắt có tia sáng long lanh như sóng gợn mùa thu, linh động dị thường, khiến cho Ðoàn Dự phải ngây người ra mà nhìn. Hồi lâu mới biết là đôi mắt pho tượng chạm bằng thứ đá đen có vân, càng nhìn càng thấy sâu thăm thẳm. Sở dĩ pho tượng này giống người thật như in là ở đôi nhỡn tuyến mà ra. Mặt pho tượng mỹ nhân bằng thứ ngọc trắng có vân hồng ẩn hiện, trông chẳng khác gì mầu da người thật. Khi Ðoàn Dự nghiêng mình ngắm, hình như luồng nhỡn quang pho tượng cũng đổi hướng chăm chú nhìn chàng, chẳng khác chi một vị thần nữ.

Ðoàn Dự giật mình ngoảnh đầu sang phía hữu thì tia mắt pho tượng cũng quay sang phía chàng. Tóm lại bất luận chàng đứng đâu ngây ngất nhìn pho tượng, thủy chung vẫn bị đôi mắt tượng thần thu hút. Thần sắc pho tượng hiện ra ở đôi mắt nhưng khó mà mô tả cho đúng. Ðôi mắt có một trạng thái khác thường: mừng không ra mừng, lo không ra lo; dường như thoáng qua một vẻ buồn, lại tựa hồ có điều chi hờn mát; còn có thể nói là một đôi mắt linh tư, hay đôi mắt chứa một mối sầu lai láng cũng không sai.

Ðoàn Dự chuyển hướng ngắm đi ngắm lại pho tượng rồi xá dài cung kính thưa rằng: "Thưa thần tiên nương tử! Hôm nay kẻ tiểu sinh là Ðoàn Dự này được chiêm ngưỡng phương dung dù có phải là chết cũng không còn điều chi oán thán nữa.

Nương tử xa lánh trần tục, một mình ẩn tại nơi đây, chẳng cũng hiu quạnh lắm ru?".

Tia sáng đôi mắt pho tượng thần dường như biến ảo khôn lường, nghe lời chàng nói tựa hồ ra chiều xúc động. Ðoàn Dự tâm thần ngây ngất, đôi mắt như mờ.

Chàng bần thần nhìn pho tượng nói tiếp:

- Tiên sinh không biết cách xưng hô với Nương Tử thế nào cho phải phép. Rồi chàng nghĩ bụng: "Ta thử nhìn kỹ lại, hoặc giả thấy chỗ nào có thể phương danh Nương Tử chăng? Chàng nhìn đi nhìn lại xung quanh rồi chợt nhìn lên đầu pho tượng thấy mớ tóc đúng là tóc người. Một làn tóc mây óng mượt quấn lại thành búi. Bên mơ mái tóc có cài một chiếc vòng ngọc, mặt trên giát hai hạt minh châu lớn bằng đầu ngón tay út, chiếu ra một thứ ánh sáng huyền ảo. Trên tường cũng gắn vô số hạt minh châu, kim cương đua nhau chiếu sáng hào quang. Tường mé tây có tám chữ lớn: "Vô Lượng bí ảo, Giải y nải kiến" gắn bằng những hạt kim cương nhỏ sáng rực. Ðoàn Dự cả kinh nghĩ thầm: "Ai mà dám cởi áo Tiên Nương bao giờ?".

Dù đây chỉ là một pho ngọc tượng không phải người thật nhưng từ lúc chàng ngó thấy, tâm trí đã từng phen đảo lộn, không dám mảy may hỗn xược. Chàng tự nhủ:

"Bổn tâm ta có cần đến đây để tìm ra điều bí ẩn mầu nhiệm gì đâu? Giả thử ta có nhất tâm như vậy chăng nữa cũng không đời nào dám xúc phạm đến tiên nương. May mà chưa ai vào đây trước ta, không thì đã có kẻ phàm phu, tục tử mạo phạm đến một trang tuyệt thế gian nhân rồi còn gì? ằu là ta đem san phẳng tám chữ này đi đề phòng kẻ đến sau khỏi đụng chạm tới con người ngọc". Chàng ngó xuống chân tường thấy vô số gương đồng bỏ đó, có đến mấy trăm tấm liền cầm một tấm nạy hết những hạt kim cương ghép thành tám chữ kia cho rơi xuống hết. Chàng lại đập hết cả những lỗ nhỏ gắn kim cương vào, đến không còn một chút dấu vết gì nữa mới thôi.

Làm xong việc đó, Ðoàn Dự tự coi mình đã có chút công lao nhỏ mọn đối với pho tượng người ngọc, lòng chàng âm thầm khoan khoái. Chàng trở lại trước mặt pho tượng, như ngây như dại, trong lòng dường như có âm hồn ám ảnh, mũi tựa hồ ngửi thấy mùi xạ hương phảng phất. Chàng đi từ chỗ yêu đến chỗ kính cẩn, rồi từ chỗ kính cẩn đến chỗ mê mẩn tâm thần, chàng cất tiếng gọi:

- Thần tiên nương tử ơi! Nếu nương tử có phép mầu chỉ nói với tôi một lời, chỉ một lời thôi, thì dù tôi có phải vì nương tử mà tan xương nát thịt cũng hoan hỉ chẳng khác gì bước sang thế giới cực lạc.

Ðoạn tự nhiên chàng quỳ gối xuống lạy. Quỳ rồi chàng mới biết rằng ở dưới đất, trước pho tượng có trải sẵn hai cái chiếu, dường như để cho người vào tham bái.

Chân chàng quỳ lên chiếc chiếu lớn, dưới chân pho tượng cũng có chiếc chiếu nhỏ hơn, phải chăng để người cúi đầu xuống lạy? Ðoàn Dự vừa phục xuống, bỗng nhìn mé trong gót hài tựa như có thêu chữ. Chàng định thần nhìn kỹ quả thấy hài chân trái có tám chữ: "Khẩu thử thiên biến, Cung ngã khu sách". Hài chân phải có tám chữ: "Tất tao kỳ họa, Thân bại danh liệt". Pho thần tượng đi đôi hài màu nước biển, mười sáu chữ trên đây nhỏ như đầu ruồi lại thêu bằng thứ chỉ màu xanh, thâm hơn mầu nước biển một chút, nếu không cúi đầu sát xuống thì không tài nào nhìn rõ được. Hoặc giả có người khác nhìn thấy thì câu "Khấu thử thiên biến, Cung ngã khu sách" tất chạm lòng tự ái khiến họ nổi hung, có khi đá phốc pho tượng đi, còn câu "Tất tao kỳ họa, thân bại danh liệt" thì bất cứ ai cũng chẳng muốn nhìn. Nếu người ngó mưới sáu chữ này là bậc lão thành, việc đời lịch duyệt đã nhiều, coi thường những câu bất lợi đó, sẽ mỉm cười bỏ đi. Nhưng Ðoàn Dự đã bị dung nhan pho tượng mê hoặc, chàng lấy làm thú vị được khấu đầu ngàn lạy vì bản tính chàng ưa thờ phụng sắc đẹp, đến việc cầm roi ruổi ngựa cho giai nhân thì đối với chàng là một điều rất hân hạnh. Cầu khẩn vị tất đã được? Sau cùng là việc vì mỹ nhân mà bị đại họa đến phải thân danh tan nát lại là điều sở nguyện của chàng, dù phải muôn thác cũng không hối hận. Tâm hồn chàng say mê điên đảo, đọc xong mấy câu chàng khấu đầu rất cung kính vừa lạy vừa đếm.

Chàng lạy được năm, sáu trăm lạy, bắt đầu thấy lưng mỏi, xương đau, sái đầu sái cổ nhưng chàng vẫn cố gắng đến cùng, lạy cho đủ số mới thôi. Lạy được hơn tám trăm lạy thì cái chiếu trên bắt đầu thụt xuống, rồi từ đó mỗi lần dập đầu là một lần chiếu thụt dần. Ðoàn Dự lạy được mấy chục lạy nữa, chiếu thụt xuống hõm, chợt thấy lộ ra ba đầu mũi tên nhỏ, chênh chếch nổi lên, nhằm đúng trán chàng. Ðầu mũi tên lấp lóe xanh biếc, chuôi tên buộc vào cơ quan có lò xo. Ðoàn Dự thoáng qua đã hiểu ngay, nghĩ thầm: "Ghê quá! Những mũi tên này đều tẩm thuốc độc, cũng may là mình kính cẩn khấu đầu làm lễ, cái chiếu thụt xuống từ từ, tên độc không phóng ra. Ví phỏng mình bước dẫm lên chiếu, chân thụt xuống đụng mạnh vào cơ quan, tất bị tên độc bắn trúng bụng rồi. Thôi ta hãy cứ lạy đủ ngàn lạy rồi có xảy ra biến cố gì hãy hay". Chàng vừa nghĩ vừa lạy đều mấy chục lạy nữa, chiếu thụt xuống sâu hơn, lộ ra một miếng đồng có khắc chữ, nhưng chàng không xem vội, chăm chú lạy cho đủ ngàn rồi mới đưa tay vào nhấc tấm đồng ra một cách nhẹ nhàng. Tấm đồng này để rời, không dính vào cơ quan nào cả. Chàng cầm lên xem, tấm đồng đã nổi gỉ xanh lốm đốm, trên mặt khắc bằng mũi kim nhỏ mấy hàng chữ sau đây: "Ngươi đã lạy đủ ngàn lạy, vậy ta nhận ngươi làm đệ tử. Từ đây sắp tới còn gặp nhiều tai nạn thê thảm nói không xiết được, ngươi đừng hối hận.

Võ công hơn đời của phái ta ở khắp nơi trong toà thạch thất, mong rằng ngươi ráng tĩnh tâm nghiên cứu cho ra".Ðoàn Dự xem xong rất là thất vọng. Bản tâm chàng không muốn học võ nê phải lìa cửa lìa nhà ra đi, khi nào còn chịu trở lại đây nghiên cứu cái võ công hơn đời chi chi đó nữa? Chàng cầm tấm đồng đặt lại cẩn thận nguyên vào chỗ cũ, rồi đứng dậy, hai chân mỏi quá cơ hồ suýt ngã. Ba ngày không được ăn chàng cảm thấy nhọc mệt vô cùng, nghĩ thầm: "Ta phải gấp rút tìm đường trở ra, không thì bỏ mạng. Trong lòng vẫn còn quyến luyến pho tượng mỹ nhân, chân bước đi mặt còn ngoảnh lại. Chàng định nhìn lần nữa rồi thôi, nhưng vừa nhìn lên gặp ngay đôi mắt pho tượng ngọc đang nhìn mình, lòng chàng lại thẫn thờ, đầu óc lại quay cuồng, đứng ngây ra một lúc rồi vái dài sát đất nói:

- Thần tiên nương tử ơi! Tôi chẳng làm đồ đệ nương tử mà cũng không học cái võ công hơn đời của nương tử đâu. Bữa nay vì trong mình có việc khẩn cấp, tôi xin tạm biệt. Sau khi cứu được Chung Linh ra rồi, tôi sẽ trở về đây cùng nương tử đoàn tụ".

Nói xong chàng cảm thấy lòng thổn thức nhưng phải cất bước ra đi. Ra khỏi thạch thất, chàng theo bậc đá đi chếch lên. Chàng vừa đi vừa do dự, mấy phen toan quay trở lại ngắm tượng ngọc mỹ nhân. Chàng phải quả quyết lắm mới chế phục được cõi lòng.

Ðoàn Dự đi được hơn trăm bậc, chuyển qua ba khúc quanh, văng vẳng có tiếng sóng vỗ bì bõm, chàng đi hơn hai trăm bậc nữa, tiếng sóng nghe đã chói tai, phía trước đã thấy ánh sáng rọi vào. Chàng càng đi mau hơn cho đến bậc đá cuối cùng thì thấy trước mắt có một cái hang vừa đủ một người đứng. Chàng ló đầu ra ngoài, giật mình hồi hộp, run lên cầm cập. Bên ngoài nước chảy băng băng, sóng vỗ ầm ầm, một con sông lớn hiện ra trước mắt Ðoàn Dự. Hai bên bờ sông là hai rặng núi đá bích lập cao chót vót, cực kỳ hiểm trở. Chàng nhận ra đây đã đến bờ sông Lan Thương, thì nửa mừng nửa sợ, cúi rạp xuống bò ra cửa động, nhìn thấy chỗ mình nằm cao hơn mặt nước đến mười trượng. Dù mực nước sông có lên cao cũng không thể tràn tới được. Chỉ còn một điều khó khăn là phải vượt qua mấy tầng đèo cao, vực thẳm mới ra tới chỗ đất bằng. Chàng cởi con thanh linh ra nhờ nó giúp sức, vận dụng cả chân tay lúc trèo lên, khi tụt xuống. Tuy trải qua những cơn nguy hiểm hồi hộp, chàng vẫn lưu ý nhìn rất kỹ mọi địa thế, ghi nhớ vào lòng để sau này cứu người xong, sẽ trở lại chốn này vào thạch thất thăm... pho tượng mỹ nhân. Bờ sông toàn là núi đá lởm chởm, không có lấy một con đường nhỏ, Ðoàn Dự phải rất vất vả mới đi được bảy tám dặm. Ðến một gốc cây đào mọc tự nhiên, trên cành trái chín lúc lỉu, chàng mừng quá, trèo lên hái ăn kỳ no bụng. Lại thấy tinh thần phấn khởi, đi chừng hơn mười dặm nữa mới thấy một lối đi xuất hiện. Chàng lần theo lối nhỏ này đi cho tới lúc mặt trời xế bóng thì đến một cái cầu sắt bắc qua sông. Ðầu cầu dựng một tấm bia đá khắc ba chữ: "Thiện nhân độ". Ðoàn Dự trông thấy ba chữ "Thiên nhân độ" cả mừng vì trước Chung Linh đã dặn chàng đường lối khởi đầu từ cầu này.

Cầu gồm bốn sợi dây sắt: hai sợi dưới gác ván gỗ để đi, còn hai sợi trên dùng làm tay vịn. Ðoàn Dự bước chân lên cầu thấy đu đi đu lại đã sợ. Ra đến giữa sông cầu lúc lắc mạnh hơn, chàng nhìn xuống sông chỉ thấy nước chảy veo veo, tựa như từng đàn ngựa đuổi nhau dưới chân. Chỉ sểnh một chút té nhào xuống thì dù có biết bơi lội cũng không toàn tánh mạng. Chàng càng kinh hãi bội phần không dám trông xuống nữa, cặp mắt chỉ nhìn về phía trước, vừa đi vừa run. Lần từng bước một, sang tới đầu cầu bên kia bấy giờ mới hoàn hồn. Chàng ngồi nghĩ một lúc, ôn lại lời dặn của Chung Linh. Cứ lời nàng nói thì hang núi nàng ở tên là hang Vạn Kiếp. Cổng vào nhà nàng là một ngôi mả lớn. Ðoàn Dự thấy trong người đã đỡ mệt liền đứng dậy đi, lúc rẽ ngang, lúc lượn vòng, khi quanh khe núi, khi vào rừng sâu nhất nhất theo đúng lời chỉ dẫn của Chung Linh. Ði đến bãi tham ma thì trời tối mịt, chàng rẽ qua mé tả, vừa đi vừa đếm cho đến ngôi mộ thứ bảy. Trên ngôi mộ lớn này có dựng tấm bia đá khắc năm chữ: "Vạn cừu Ðoàn chi mộ". Chàng sợ run bắn lên, rất lấy làm kỳ tự hỏi: Sao lại tên là Vạn Cừu Ðoàn? Chàng nhớ lại lúc chia tay, Chung Linh chỉ dặn tới bãi tham ma, đi rẽ về mé tả đến ngôi mộ lớn, nhưng nàng không nói đến tên người chết khắc trên bia. Giờ chàng trông thấy ba chữ Vạn Cừu Ðoàn không khỏi chột dạ.

Ngoảnh nhìn bốn mặt, sương chiều bao phủ âm thầm, bóng cây lay động, phóng tầm mắt nhìn xa hơn nữa, toàn là mả con mồ lớn, cao thấp lô nhô, chàng không dám chần chừ, y theo lời dặn của Chung Linh ra sức lay chuyển tấm bia đá. Mé tả lay một cái, mé hữu lay hai cái, lần thứ hai cũng lay theo kiểu đó. Sau cùng là lấy chân đá một cái thật mạnh vào chữ giữa tấm bia. Chữ thứ ba lại chính là chữ Ðoàn. Ðoàn Dự vốn tính xuề xoà, không câu nệ, chàng vừa đá vừa cười thầm: "Nếu dịch địa là gia gia ta thì người nhất định không bao giờ đá vào chữ Ðoàn".

Ðoàn Dự đang suy nghĩ về mấy lời Chung Linh dặn bảo sao chưa thấy hiệu nghiệm, bỗng hai tảng đá lớn bên mả tự nhiên ngả xuống, hở ra một lối đi vào.

Chàng cúi xuống nhìn nhưng bên trong tối om, không trông thấy gì cả, chàng mạnh dạn bước vào. Sờ lần từng bước, lượn hết khúc quanh, chợt thấy cách chỗ mình vài trượng, có một ngọn đèn nhỏ xíu, bé bằng hạt đậu, ánh sáng vàng khè, ảm đạm yếu ớt. Chàng trông về phía ngọn đèn đi tới. Ðột nhiên chàng giật mình đánh thót một cái, vì bên ngọn đèn có đặt cỗ quan tài. Nhớ lời dặn của Chung Linh chàng thổi tắt phụt đèn đi, bốn bề lại tối mù tối mịt. Chờ một lát chàng nghe có tiếng lịch kịch, nắp quan tài hé mở, văng vẳng có tiếng một cô gái hỏi vọng ra:

- Tiểu thư về đấy ạ?

Ðoàn Dự đáp:

- Tại hạ là Ðoàn Dự vâng mệnh Chung cô nương xin đến bái kiến chúa động.

Cô gái bỗng bật lên một tiếng "Ô hay", ra chiều kinh ngạc hỏi:

- Ngươi... ngươi là người ngoài sao lại nhận lời uỷ thác của tiểu thư ta?

Ðoàn Dự đáp:

- Chung cô nương hiện đang bị nguy khốn, tại hạ đến để báo tin.

Cô gái nói:

- Ngươi chờ đây để ta vào bẩm lại phu nhân.

Ðoàn Dự nói:

- Vậy càng hay!

Chàng nghĩ thầm: "Cung cô nương dặn ta đến ra mắt mẫu thân nàng trước, thế này thì có hy vọng đây".

Ðoàn Dự đứng ngoài chờ một lúc khá lâu, chợt nghe có tiếng chân người đi tới.

Cô gái lúc nãy trở ra lên tiếng:

- Phu nhân mời cậu vào.

Ðoàn Dự nói:

- Tôi không trông rõ đường lối chi hết, làm thế nào đi được?

Rồi thấy một bàn tay đưa ra nắm lấy tay trái chàng. Chàng liền bước vào trong quan tài, theo sau cô gái, noi những bậc đá đi vào. Ði chừng vài trăm bước thì ra tới một khu rộng rãi, sáng sủa, có trồng vô số hoa cỏ. Cô gái buông tay chàng ra nói:

- Xin tôn khách đi theo tôi!

Dưới ánh trăng, Ðoàn Dự trông cô gái chừng mười bảy, mười tám tuổi, cách ăn mặc theo kiểu cô hầu thì chắc là đứa nữ tỳ hầu hạ Chung Linh liền cất tiếng hỏi:

- Tôi gọi chị bằng gì cho phải?

Cô gái ngoảnh lại, lắc đầu, đưa tay ra hiệu cho chàng đừng lên tiếng. Ðoàn Dự thấy y có vẻ sợ sệt nên không hỏi han gì nữa cứ lẳng lặng theo sau.

Nữ tỳ dẫn chàng xuyên qua một rừng cây, men theo lối đi nhỏ hẹp về mé tay trái đến một căn nhà ngói. Y đứng ngoài gõ cửa ba tiếng "cạch cạch cạch". Cánh cửa từ từ mở ra, y đưa tay ra vẫy Ðoàn Dự rồi đứng tránh sang bên, nhường lối cho chàng vào trước.

Ðoàn Dự bước vào trong nhà nhìn xem thì đây là một phòng khách nhỏ. Trên bàn đặt một cây nến sáp lớn, thắp sáng trưng. Bàn ghế rất tinh khiết. Trên vách treo mấy bức hoạ, trên án trần thiết đỉnh đồng cùng những đồ bằng ngọc. Căn nhà này tuy không rộng lắm song cách bày trí cực kỳ tao nhã.

Chàng vào ghế ngồi, nữ tỳ bưng trà lại mời:

- Xin mời công tử xơi nước đi! Phu nhân tôi sắp ra đó. Ðoàn Dự nâng chén trà lên uống, chợt nghe tiếng ngọc đeo kêu leng keng, một thiếu phụ mặc áo lụa xanh uyển chuyển bước ra, trạc tuổi bốn mươi, dong nhan diễm lệ, đôi mắt giống Chung Linh như hệt. Chàng biết đó là Chung phu nhân liền đứng dậy vái dài thưa rằng:

- Vãn sinh là Ðoàn Dự xin bái kiến bá mẫu.

Chung phu nhân hơi có vẻ hoảng hốt, chắp tay đáp lễ nói:

- Chào công tử!

Phu nhân vừa chào vừa nhìn diện mạo Ðoàn Dự, bất giác biến sắc, rùng mình, thở hổn hển, lắp bắp:

- Ngươi... ngươi...

Ðoàn Dự thất kinh:

- Bá mẫu!

Chung phu nhân:

- Ngươi... ngươi... họ Ðoàn phải không?

Ðoàn Dự sực nhớ lời Chung Linh căn dặn mình chớ nói thật họ Ðoàn. Nhưng chàng lại nghĩ bụng: "Thiên hạ thiếu gì người họ Ðoàn, ngay một tỉnh Vân Nam cũng có đến hàng ngàn hàng vạn. Chẳng lẽ cứ họ Ðoàn là biết phép điểm huyệt "Nhất Dương Chỉ" cả hay sao?". Nên chàng chẳng để ý đến lời nàng dặn. Bây giờ chàng thấy Chung phu nhân có vẻ hoảng hốt hiện ra mặt mới biết lời Chung Linh dặn tất có thâm ý gì đây, chàng muốn nói dối là mình họ khác, nhưng đã lỡ mất rồi, đành thưa lại:

- Bẩm phu nhân, vãn sinh họ Ðoàn.

Chung phu nhân lại hỏi:

- Công tử quê quán tại đâu? Ðại danh lệnh tôn là gì?

Ðoàn Dự nghĩ thầm: "Hai câu này mình phải nói dối mới được, để phu nhân khỏi biết rõ tông tích nhà mình". Chàng nghĩ vậy liền đáp:

- Vãn sinh quê ở phủ Lâm An, tỉnh Giang Nam, gia phụ tên gọi Ðoàn Long.

Chung phu nhân thở phào một cái, ra chiều yên dạ nói:

- Mời công tử ngồi chơi!

Hai người an tọa rồi, Chung phu nhân nhìn đi nhìn lại từ đầu đến chân chàng, dường như để soi mói điều gì. Ðoàn Dự thấy phu nhân chăm chú nhìn mình, chàng không giữ được vẻ tự nhiên nữa, liền cất tiếng thưa:

- Lệnh ái hiện đang bị nguy khốn, vãn sinh đến báo tin.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#tlbb