TLBBpt7

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 17

Một Nhân Vật Quái Dị

Chung Vạn Cừu đánh không trúng than thầm: “Thôi chết rồi”. Người y trượt qua Cao Thăng Thái, chỉ sai dịch nửa phân. Kể ra thì võ công Chung Vạn Cừu chưa chắc đã kém Cao Thăng Thái nhưng vì thất cơ một chút thành ra ngực bụng trống trải để bên địch muốn làm gì thì làm. May mà Cao Thăng Thái không thèm hạ thủ.

Chung Vạn Cừu vận nội công đứng được xuống đất, đi theo Tần Hồng Miên và Chung phu nhân. Lúc đó hai người đã vượt tường ra ngoài rồi.

Cao Thăng Thái đứng thẳng người trên mặt tường, quay ra xá khách, hai tay áo rộng lùng thùng bay phất phới coi rất ung dung.

Ông vừa xá vừa nói:

- Tôi không thể tiễn chân xa được, xin quý vị miễn thứ.

Chung Vạn Cừu đằng hắng một tiếng, suýt nữa tụt quần, y đưa tay ra nắm vội lại được, không thì dơ quá. Bấy giờ y mới biết dây lưng đứt mất rồi. Thì ra lúc đánh sểnh, người y trườn qua phía trên Cao Thăng Thái, đã bị Cao đưa ngón tay lên bấm đứt dây lưng. Ấy là Cao Thăng Thái không muốn tuyệt tình, nếu ông giơ một ngón tay lên chẹn huyệt “Ðan điền” thì Chung Vạn Cừu đã biến thành cái xác không hồn, lăn quay xuống đất.

Lại nói đến Hương dược xoa Mộc Uyển Thanh, bàng hoàng vừa ra khỏi phủ Trấn Nam Vương thì gặp Thư Bạch Phụng cùng Chung Vạn Cừu. Hai người cùng lên tiếng gọi nhưng nàng lờ đi không đáp, cứ cắm đầu chạy một mạch. Nàng cũng không biết là mình chạy đi đâu. Ðoái trông dặm rừng bát ngát, không có chỗ nào tạm trú nghỉ chân. Nàng cứ chạy hoài, không biết đã qua bao nhiêu quãng rừng núi hoang vu. Chạy cho đến lúc trời rạng đông thì người nàng mệt nhoài, hai chân bủn rủn, không chịu được nữa, đành phải dừng bước, tựa vào gốc cây than rằng: “Ta chết quách đi cho rồi!”. Trong lòng nàng chứa chất bao nhiêu nỗi oán hờn mà chẳng biết trút lên đầu ai cho phải. Nàng tự hỏi:

- Oán Ðoàn lang chăng?

- Không được! Chàng có phụ bạc gì ta đâu? Vì chàng là anh em cùng cha khác mẹ với ta, nên nỗi trai duyên lỡ kiếp.

- Oán sư phụ ta chăng?

- Vô lý người là mẹ ruột ta, mười mấy năm trời phải chịu bao nhiêu nỗi cay đắng để nuôi nấng cho ta trưởng thành. ¥n đức trời biển chưa đền, đâu dám oán hận?

- Ðến Trấn Nam Vương Ðoàn Chính Thuần thì lại là phụ thân ta. Dù người đối với mẫu thân ta có điều oán hối nhưng biết đâu bên trong còn bao nhiêu nỗi uẩnkhúc mà mình chưa hiểu? Người đối với ta vẻ mặt ôn hoà, đầy lòng từ ái, hỏi ta muốn điều gì sẽ hết sức làm cho được như nguyện để đền bù mười mấy năm qua đã không săn sóc tới. Thế nhưng cái chí nguyện của ta là đặng kết hôn cùng Ðoàn lang thì người không thể làm được. Mẫu thân ta không được cùng người vui đạo, xướng tuỳ chẳng qua chỉ vì mình Thư Bạch Phụng mà ra nên sai ta giết Thư Bạch Phụng. Nàng suy bụng ta ra bụng người: “giả tỷ ta cùng Ðoàn lang vẹn mối lương duyên, hồ dễ ta chịu để yên cho một người đàn bà thứ hai nào đến tranh cướp hạnh phúc của đời ta? Huống chi bà đã bỏ nhà đi tu thì hẳn trong lòng cũng uất hận phụ thân ghê gớm và bà cũng đau khổ vô cùng rồi. Ta phóng hai mũi tên, làm cho đứa con cưng độc nhất của bà bị trọng thương, thế mà bà không thù oán ta thì bà đâu có phải là người độc ác?”.

Nàng nghĩ nhiều lắm, càng nghĩ càng tê tái lòng rồi tự nhủ: “Ta phải quên hẳn Ðoàn Dự, từ đây không nghĩ gì đến chàng nữa”. Nói vậy thì nói chứ đâu phải chuyện dễ dàng? Muốn quên chàng trong giây phút cũng không xong. Mỗi lúc tưởng đến hình ảnh khôi ngô tuấn tú của Ðoàn lang lòng nàng lại đau nhói lên như bị đánh một quyền vào giữa ngực. Sau nàng tìm lời giải thích rồi tự an ủi: “Thôi từ đây ta nhìn nhận chàng là người anh ruột rất thân ái là xong. Trước ta tủi phận mồi côi, không cha không mẹ, nay được đủ cả cha lẫn mẹ lại thêm người anh cả rất tử tế, đời ta đâu đến nỗi cô đơn, vậy mà ta còn mua não chuốc sầu thì thật là một đứa điên rồ”. Khốn nỗi con người đã mắc lưới tình, tơ tình tuy mỏng manh mà càng rút càng chặt. Khi ở trên núi Vô Lượng ròng rã bảy đêm ngày, nàng trông ngóng Ðoàn Dự đã mòn con mắt, phương trời đăm đăm, rễ tình đã ăn sâu vào tâm khảm, không thể nào nhổ lên được nữa.

Mộc Uyển Thanh đang nghĩ ngợi liên miên thì vẳng bên tai bì bòm sóng vỗ, ầm ầm nước reo, nàng càng đi vào chỗ tuyệt vọng, chí muốn tự tử đã bắt đầu nẩy nở. Nàng đi về phía có tiếng sóng vỗ nước chảy phát ra, quanh hết một trái núi thì sông Lan Thương mông mênh hiện ra trước mắt. Nàng dừng chân lẩm bẩm: “Ta chỉ nhẩy xuống đây một cái là hết mọi điều phiền não”. Nàng bèn men theo sườn núi xuống tới bờ sông.

Mặt trời vừa lên, ánh triều dương chiếu xuống mặt sông rực rỡ như vạn con kim xà đang nhảy múa, cảnh sắc trước mặt cực kỳ tráng lệ. Nghĩ đến chuyện nhảy xuống sông nàng cảm thấy tiêng tiếc không còn được nhìn bức phong tuyệt mỹ của tạo vật. Nàng đang đứng trơ như phỗng, làn sóng tư tưởng nổi lên cuồn cuộn, thì mắt nàng chợt trông thấy một người ngồi trên phiến đá cách đó chừng vài chục trượng. Người này ngồi như pho tượng, không nhúc nhích, mình mặc áo bào màu xanh thẳm lẫn với mầu đá núi. Vì thế mà người đó đã đến ngồi từ bao giờ nàng không hay biết.

Mộc Uyển Thanh nhìn hồi lâu, trong bụng kinh nghi tự hỏi: “Dường như là một cái tử thi”. Từng giết người như ngoé nên đối với xác chết, nàng chẳng chút ghê rợn. Tính hiếu kỳ thúc đẩy nàng lại gần xem thì ra một ông già, râu chùng đến giốn, sợi nào cũng đen nhánh, mắt mở thao láo, chăm chú nhìn dòng nước.

Mộc Uyển Thanh buột miệng nói: “A không phải xác chết”. Nàng nhìn một lúc nữa, thấy cả con người lão vẫn trơ trơ, mắt vẫn đờ ra như không có hào quang, rõ ràng không phải người sống. Nàng lại tự hỏi: “Hay đúng là xác chết?”. Nhìn lại thấy mắt tử thi dường như có chút tinh thần, sắc mặt còn hơi tươi. Nàng để tay lên mũi không rõ ra người đã tắt thở mà cũng không thấy hơi thở. Nàng lại sờ vào mặt vào cổ, thấy lúc lạnh lúc ấm, để tay lên ngực thấy trái tim như ngừng đập.

Mộc Uyển Thanh rất lấy làm kỳ lẩm bẩm: “Con người này thật là quái dị, bảo y là xác chết thì dường như y còn sống, bảo y là người sống thì lại hình như là kẻ chết rồi.

Bất thình lình có tiếng người nói:

- Ta vẫn sống đây mà.

Mộc Uyển Thanh giật mình quay đầu nhìn lại phía sau thì chẳng thấy ai. Bãi sông bát ngát toàn sỏi đá, không có chỗ nào ẩn núp được. Nàng vẫn chăm chú nhìn người kỳ quái đó cho đến lúc có tiếng vọng lên, cũng chẳng thấy y há miệng, nhếch môi. Nàng lớn tiếng hỏi:

- Kẻ nào dám cả gan trêu trọc cô nương đó? Mi không sống yên lành được đâu.

Nàng vừa nói vừa bước giật lùi lại, quay lưng ra phía dòng sông, đảo mắt nhìn ba mặt bỗng nghe có tiếng đáp:

- Thế mà ta vẫn yên lành đấy!

Mộc Uyển Thanh càng kinh ngạc vì chẳng thấy bóng một ai, ngoài con người quái dị ngồi đó. Nhưng người này mồm miệng ngậm chặt mà sao vẫn có tiếng người? Nàng quát hỏi:

- Ai nói đó?

Vẫn có tiếng đáp lại:

- Mi nói đó chứ ai?

Nàng tức quá, hỏi gay gắt:

- Nhưng kẻ nói với ta là người nào?

Có tiếng đáp:

- Chả có người nào nói với mi hết.

Nàng xoay mình rất nhanh mà trông tuyệt không thấy bóng người nào cả thì biết chính là lão mặc áo bào xanh ngồi đó tác quái, liền mạnh dạn tiến lại, vừa lấy tay sờ môi lão vừa hỏi:

- Phải chăng ngươi đã nói với ta vừa rồi?

Vẫn có tiếng đáp:

- Không phải!

Mộc Uyển Thanh tay vẫn sờ miệng lão mà chẳng thấy máy môi chi hết, nàng lại hỏi:

- Rõ ràng có tiếng đáp lời ta, sao lại bảo không có?

Tiếng nói đó đáp:

- Ta không phải là người, ta cũng chẳng phải là ta. Trên đời này không có ta nữa.

Bấy giờ thì quả Mộc Uyển Thanh sợ lắm, mình sởn gai ốc. Nàng tự nghĩ: “chẳng lẽ ma quỷ trêu mình?”, rồi nàng hỏi:

- Mi... mi là ma quỷ phải không?

Ðáp:

- Mi đã không muốn sống nữa thì rồi sẽ thành ma quỷ, sao còn sợ ma quỷ?

Mộc Uyển Thanh làm già:

- Ai bảo mi ta sợ quỷ? Này ta bảo: đến trời đất ta còn không sợ nữa là...

Ðáp:

- Thế mà mi đang sợ một điều.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Hừ! Ta đây còn sợ cái gì bao giờ?

Ðáp:

- Mi đang sợ... lang quân mi biến thành ca ca mi.

Câu đó chẳng khác gì nhát búa bổ xuống đầu nàng. Hai chân mềm nhũn, nàng ngồi bệt xuống đất, miệng há hốc ra lẩm bẩm:

- Mi là quỷ, rõ ràng có quỷ!

Ðáp:

- Ta có phép biến, biến ca ca mi không phải là anh mi nữa mà biến thành ra chồng mi.

Mộc Uyển Thanh run run nói:

- Mi... mi đừng bịp ta nữa! Ðó là việc trời định, biến thế nào thì biến... chứ biến làm sao được anh ruột ra chồng?

Ðáp:

- Lão trời đáng đánh chết, hay sinh chuyện rắc rối. Ta không lý gì đến lão nữa. Ta thực có phép mầu, làm cho anh mi biến thành ra chồng mi được, mi có muốn thế không?

Mộc Uyển Thanh đang lúc tuyệt vọng, lòng lạnh như tro tàn, nghe nói câu đó chẳng khác chi trời ban chiếu chỉ. Dù nàng vẫn bán tín bán nghi nhưng cũng đáp ngay:

- Tôi mong được như vậy! Tôi mong như vậy lắm! -Ta làm được việc đó cho mi thì mi lấy gì tạ ơn ta?

Mộc Uyển Thanh buồn rầu đáp:

- Tôi biết lấy gì tạ ông? Vì tôi chẳng có chi hết.

Có tiếng nói tiếp:

- Hiện giờ mi chưa có, rồi sau mi sẽ có chứ!

Mộc Uyển Thanh nói:

- Ông muốn cái gì tôi lấy cái đó tạ ơn ông.

Hỏi:

- Nhưng đến lúc bấy giờ mi lại chối thì sao?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Tôi quyết không nói hai lời.

Nàng nghĩ rằng: “trên đời có cái gì quý cho bằng Ðoàn lang trở nên chồng mình? Dù mình có làm đến Hoàng đế là cùng thì tiếc gì cái ngôi Hoàng đế, đem nhường cho con người quái dị này cũng được chứ sao?”.

Hỏi:

- Lời đàn bà con gái ai mà tin được? Bây giờ mi nói thế rồi sau mi cãi thì sao?

Mộc Uyển Thanh nói:

- Ông đã thần thông ghê gớm như vậy nếu tôi cãi lời thì ông vặn cổ tôi đi, tôi chẳng oán thán gì hết.

Có tiếng nói:

- Nếu sau này ta đòi điều gì mà mi không chịu, ta không giết mi đâu nhưng ta sẽ giết chồng mi đó.

Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Ta quyết một lòng chung thuỷ cùng Ðoàn lang, không còn cải giá lấy ai. Nếu quả Ðoàn lang biến hoá không phải là anh ta nữa mà là chồng ta thì bất luận sự vật gì ta cũng bỏ được hết, không có lý nào ta còn chối cãi nữa”, bèn trả lời:

- Tôi xin y lời ông.

Có tiếng nói:

- Ðến lúc đó ta cấm mi không được năn nỉ khóc lóc nhé. Ta đây đệ nhất ghét là đàn bà con gái khóc nhè đó.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Có bao giờ tôi chịu van xin năn nỉ ai? Nhưng ông là ai cho tôi coi mặt được không?

Ðáp:

- Mi nhìn ta mãi từ nãy đến giờ chưa đủ hay sao?

Tiếng nói cứ đều đều một làn, không lên cao, xuống thấp, hay tiếng to tiếng nhỏ.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Ông... ông là... người ngồi đó sao?

Ðáp:

- Ta cũng không biết ta có phải là ta nữa không?

Sau có tiếng thở dài thườn thượt tỏ ra trong lòng có điều chi đau đớn, uất ức vô cùng.

Mộc Uyển Thanh không ngờ gì nữa, đúng là ông già mặc áo xanh ngồi ngay trước mặt liền hỏi:

- Ông nói mà sao tôi không thấy môi mấp máy?

Ðáp:

- Ta là người chết rồi mà còn sống, môi mép cứng đờ không cử động được nữa, tiếng nói chỉ ở trong bụng phát ra mà thôi.

Mộc Uyển Thanh hãy còn tính trẻ con, nàng vừa mới thảm sầu là thế, giờ thất lão bảo lão nói không mở miệng, máy môi nàng lấy làm thú vị hỏi:

- Nói bằng bụng được kỳ quá ông nhỉ!

Ông già áo xanh nói:

- Mi sờ vào bụng ta xem thì biết.

Mộc Uyển Thanh đưa tay sờ vào bụng lão, lão hỏi:

- Ta đang nói đây, mi có thấy bụng ta chuyển động không?

Mộc Uyển Thanh thấy da bụng lão động đậy dưới lòng bàn tay nàng thì buồn cười hỏi:

- Ha ha thật là cổ quái.

Nguyên lão áo xanh luyện được môn Phúc ngữ thuật. Ðời nay ta xem bọn làm trò quỷ thuật thì môn này rất thường, nhưng thời bấy giờ đã biết và luyện được đến mức độ tinh vi như lão áo xanh thì trừ phi tay tuyệt giỏi nội công không ai học được.

Mộc Uyển Thanh đi vòng quanh người lão xem kỹ rồi hỏi:

- Mồm miệng ông không cử động được thì ông ăn uống bằng cách nào?

Lão đưa hai tay ra, một tay vạch môi trên, một tay giữ môi dưới cho miệng há ra, đoạn để hai ngón tay trái chống lên, còn tay phải cầm không rõ miếng gì đút vào miệng, nghiến đánh “ráu” một tiếng rồi nuốt xuống.

Lão nói:

- Ta ăn như vậy đó.

Mộc Uyển Thanh phàn nàn:

- Ôi thực đáng buồn cho ông, ăn như vậy thì còn biết mùi vị gì nữa?

Bây giờ nàng mới hiểu rằng: da thịt trong người lão cứng đờ nên mắt không nhắm, miệng không mở được. Thất tình không biến đổi sắc mặt nên lúc mới trông tưởng lão là cái xác chết. Tuy nàng cũng sợ lão đấy nhưng nghĩ rằng chính mình lão còn có bao nhiêu nỗi cay đắng, lão giải quyết cho lão chưa xong còn nói chi đến chuyện phản lại lề luật tạo hoá để biến anh ruột thành chồng mình được? Những câu lão vừa nói chẳng qua là chuyện bâng quơ mà thôi. Nàng lưỡng lự một lúc rồi nói:

- Tôi muốn đi thôi.

Lão áo xanh hỏi:

- Ði đâu?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Tôi cũng chẳng biết nữa.

Lão áo xanh nói:

- Ta sắp biến Ðoàn Dự thành chồng mi, mi còn đi đâu?

Mộc Uyển Thanh cười lạt rồi cứ đi về phía tây. Ðược vài bước nàng dừng lại hỏi:

- Tôi với ông chưa từng quen biết, sao ông lại hiểu rõ tâm sự tôi? Ông... ông đã biết Ðoàn lang chưa?

Lão đáp:

- Tâm sự mi tự nhiên ta biết hết, quay lại đây mau!

Lão giơ tay trái lên một cái thì lạ thay: Mộc Uyển Thanh cảm thấy có một sức mạnh vô hình đẩy nàng trở lại, không tài nào kháng cự được. Nàng chệch choạc bước mấy bước đến trước mặt lão.

Mộc Uyển Thanh cả kinh, thất sắc, giọng nói run run:

- Môn võ của ông có phải là... “Cầm long túng hạc” không?

Lão đáp:

- Con nhãi này thế mà kiến văn quảng bác đấy. Ðây không phải là môn “Cầm long túng hạc”, chỉ có công dụng của nó là giống như môn “Cầm long túng hạc” mà thôi, còn phép luyện thì khác hẳn.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Thế môn này gọi là gì?

Lão đáp:

- Gọi là “Quy khứ lai hề”

Mộc Uyển Thanh cười nói:

- Cái tên “Quy khứ lai hề” nghe còn hay hơn là “Cầm long túng hạc”. Giả tỷ Ðoàn lang nghe thấy, chàng... chàng...

Nghĩ tới Ðoàn Dự, lòng nàng lại quặn đau, không buồn nói nữa. Lão áo xanh rút trong mình ra hai cây gậy trúc đen lánh nói:

- Ta đi thôi.

Tay trái lão cầm gậy trúc chỉ vào phiến đá, tung mình lên một cái đã ra xa đến hơn một trượng.

Mộc Uyển Thanh thấy hai chân lão vọt lên trên không mà vẫn giữnguyên kiểu người ngồi. Cây gậy nhỏ bé như vậy, một đầu chỏ xuống đất mà lão ngồi trên có vẻ rất vững chắc.

Nàng lấy làm kỳ nói:

- Cặp giò của ông...

Lão ngắt lời:

- Hai chân ta bị tàn phế đã lâu. Thôi nhé! Từ giờ trở đi ta cấm ngươi không được hỏi câu gì nữa nghe không?

Mộc Uyển Thanh nói:

- Tôi còn hỏi nữa.

Nàng vừa nói thì đột nhiên thấy chân mình mềm nhũn, té lăn xuống đất. Vì tay áo lão phất ra một luồng gió cực mạnh, gậy trúc nơi tay phải lão điểm vào đầu gối nàng, còn một gậy đánh xuống. Hai chân bị đau đến xương tuỷ nàng lại la to lên một tiếng “ối”.

Lão áo xanh lại cầm gậy trúc điểm luôn mấy cái để giải phóng huyệt đạo nàng.

Mộc Uyển Thanh nhẩy bật lên một cái cả giận nói:

- Lão này vô lễ thật!

Nàng vẩy tay toan phóng ám tiến ra. Lão áo xanh nói:

- Mi bắn ta một phát ta đánh mi một đòn, bắn mười phát đánh mười đòn. Mi không tin bắn thử coi.

Mộc Uyển Thanh nghĩ bụng: ta chỉ phóng một phát mà trúng là lão chết tử rồi còn đâu mà đánh? Nhưng xem ra lão này thần thông quảng đại, so với Nam Hải Ngạc Thần còn có phần hơn, khó lòng bắn trúng được lão. Còn lão nói sao là làm được thế, ta tất bị lão đánh nhừ tử.

Còn đang nghĩ ngợi lão áo xanh lại nói:

- Mi đã không dám bắn ta thì phải ngoan ngoãn tuân theo lời ta, không được trái lệnh.

Mộc Uyển Thanh vẫn bướng:

- Ta không ngoan ngoãn tuân theo lời lão đã sao?

Tuy miệng nói thế nhưng buông tay xuống không phóng tên nữa.

Lão áo xanh dùng hai gậy trúc thay thế cho hai cặp giò ra đi.

Mộc Uyển Thanh thấy hai cây gậy trúc cứng như gang thép, chống đỡ lấy cả người lão một cách rất vững vàng, thẳng thắn. Mỗi cây gậy dài độ bảy tám thước nên bước lão dài gấp đôi, gấp ba người thường.

Mộc Uyển Thanh phải vận hết nội công, gắng gượng mới theo kịp.

Lão áo xanh vượt qua những đỉnh núi cao chẳng khác gì đi trên đất bằng. Lão không theo nhữmg đường lối có sẵn cứ nhằm thẳng phía trước mà đi, bất luận những chỗ đá núi ngổn ngang hay chông gai đầy rẫy lão cũng bước tràn vì có hai cây gậy trúc dưới chân.

Chỉ khổ cho Mộc Uyển Thanh, quần áo vướng vào cây cối rách tướp. Nhưng bản tính quật cường, nàng không thèm mở miệng ca thán để tỏ ta con người khiếp nhược.

Hai người vượt qua mấy trái núi, xa xa đã trông thấy bãi tha ma, mồ mả lô nhô.

Mộc Uyển Thanh lẩm bẩm: đến hang Vạn Kiếp rồi đây. Quả nhiên lão áo xanh tiến đến trước tấm bia đá khắc chữ “Phần mộ Vạn cừu Ðoàn”, rồi cầm gậy đập vào chữ Ðoàn.

Mộc Uyển Thanh đã ra vào hang Vạn Kiếp mấy lần, mỗi lần vào hang là phải đập mấy cái vào chữ Ðoàn nhưng lần này nàng rất có cảm tình với chữ Ðoàn, liền hỏi lão:

- Vào hang Vạn Kiếp làm chi?

Lão áo xanh quay phắt lại, cầm gậy trúc đập vào chân nàng hỏi:

- Mi còn hỏi nữa thôi?

Mộc Uyển Thanh vốn tính ngang ngạnh, dù đối với tay địch bản lãnh hơn mình, nàng vẫn không chịu để người lấn áp. Nhưng giờ nàng nghĩ rằng không những lão này bản lãnh hơn mình mà còn giúp mình đạt ý nguyện nên nàng chỉ nói bướng một câu:

- Cô nương không sợ đâu nhé, bây giờ tạm ẩn nhẫn mà thôi.

Lão áo xanh giục:

- Vào!

Chờ Mộc Uyển Thanh bước vào trước rồi lão mới bước vào sau. Ðường lối trong hang Vạn Kiếp lão đã thuộc làu. Mấy lần Mộc Uyển Thanh toan hỏi nhưng sợ lão đánh lại thôi. Nàng theo lão lúc rẽ bên phải, lúc vòng bên trái, đi ra phía sau động. Mộc Uyển Thanh từ khi rời sư phụ đến kiếm sư thúc là Chung phu nhân ở hang Vạn Kiếp, tuy hai người không hợp tính nhau, ngay hôm đầu đã cùng nhau gây lộn nhưng nàng cũng ở đó mấy hôm.

Thế mà bữa nay lão áo xanh đưa nàng qua những nơi mà nàng chưa biết tới, không ngờ hang Vạn Kiếp lại nhiều chỗ hoang lương tịch mịch đến thế.

Ði mấy dặm nữa thì vào đến một khu rừng già, bốn bề toàn cổ thụ ngất trời. Giữa ban ngày mà ánh dương quang rực rỡ cũng không len lỏi vào được, trong rừng âm u chẳng khác gì trời lúc hoàng hôn.

Càng vào sâu cây càng dầy, sau phải lách mình mới đi được. Ði thêm vài mươi trượng thì đến trước đám cổ thụ mọc dầy liền khít nhau như một bức tường không thể lách qua được.

Lão áo xanh cắm gậy trúc xuống đất để chống vào nách đứng, chĩa hai bàn tay đặt vào khe hai cây lớn rồi vận nội lực đẩy hai cây từ từ rẽ ra hai bên để hở ra một lối đi rộng hơn thước.

Lão quát bảo Mộc Uyển Thanh:

- Qua đi!

Mộc Uyển Thanh không kịp đắn đo gì nữa, lách mình một cái đã sang bên kia. Một bãi rộng hình tròn hiện ra trước mặt nàng. Giữa bãi nổi lên một toà thạch thất trơ trọi. Cách kiến tạo toà thạch thất này thật là ngộ nghĩnh. Người ta lấy những phiến đá lớn nặng tới mấy ngàn cân xếp lên, chỗ lồi chỗ lõm trông rõ ra một hòn non bộ có để hở ra một chỗ làm cửa.

Lão áo xanh lại quát:

- Vào đi!

Mộc Uyển Thanh nhìn vào chỉ thấy tối om, không hiểu trong có những quái vật gì. Nàng lưỡng lự không dám tiến vào thì một bàn tay đặt lên sau lưng nàng. Nàng toan né tránh thì lão áo xanh vận chưởng lực đẩy mạnh một cái. Mộc Uyển Thanh không thể tự chủ được bị hất văng vào trong. Nàng đưa tay sử thế “Hiển phong phất liễu” che mặt đề phòng va chạm vào vật gì chăng thì nghe đánh sầm một tiếng, cửa thạch thất đã bị một vật cực nặng đóng sập xuống. Mộc Uyển Thanh cả kinh, chạy lại đẩy cửa, đặt bàn tay vào thấy ráp lởm chởm mới biết là một tảng đá hoa cương rất lớn. Nàng vận hết nội công đẩy cũng không nhúc nhích. Nghỉ một lát rồi lại cố đẩy lần nữa nhưng chẳng khác gì chuồn chuồn lay cột đá.

Mộc Uyển Thanh hốt hoảng vội lớn tiếng hỏi:

- Mi giam ta vào đây làm gì?

Bỗng nghe tiếng lão áo xanh đáp:

- Mi cầu khẩn ta việc gì mi quên rồi sao?

Sở dĩ lão đứng bên ngoài nói mà nàng nghe rõ là vì tảng đá lấp cửa có đục một lỗ thông suốt.

Mộc Uyển Thanh định thần nhìn lại thấy phía trên tảng đá có nhiều kẽ hở, chỗ nhỏ bằng sợi dây, chỗ lớn đút lọt cánh tay nhưng người chui thì không lọt. Nàng la lên:

- Buông thả ta ra! Buông thả ta ra!

Ngoài thạch thất không có tiếng đáp lại, chợt nghe cành cây chạm nhau lắc cắc thì biết là lão áo xanh đã ra khỏi “bức tường cây” đi rồi.

Mộc Uyển Thanh nhìn qua những lỗ hổng ra ngoài nhưng chẳng thấy chi trừ những lá cây rơi lác đác, bay phất phới. Nàng quay vào giương mắt nhìn khắp nhà, chợt thấy trong góc có đặt một cái giường, trên giường có một người ngồi. Nàng giật mình hỏi:

- Ngươi... ngươi...

Người đó hỏi lại:

- Thanh muội! Em cũng vào đây ư?

Giọng nói lộ vẻ sửng sốt và vui mừng, nghe biết ngay là Ðoàn Dự.

Mộc Uyển Thanh đang lâm vào hoàn cảnh tuyệt vọng, bỗng nhiên gặp Ðoàn Dự nàng mừng quá, trái tim cơ hồ ngừng đập. Nàng nhảy tót ngồi vào lòng chàng. Trong nhà ánh sáng chỉ hơi lờ mờ.

Ðoàn Dự thấy mặt nàng nhợt nhạt, hai dòng lệ như muốn trào ra, trong lòng xiết bao thương cảm ôm chặt lấy nàng. Nhìn đôi môi mấp máy chàng không thể nhịn được, cúi đầu xuống hôn. Hai cặp môi vừa đặt lên nhau thì đồng thời cùng nghĩ đến đã là tình anh em ruột thịt sao lại có những hành động loạn luân? Rồi cùng buông nhau ra lùi lại phía sau. Hai người ngồi tựa lưng vào vách đá, run run nhìn nhau.

Mộc Uyển Thanh bật lên tiếng khóc nức nở.

Ðoàn Dự dịu giọng an ủi nàng:

- Thanh muội ơi! Ðó là do tạo hoá an bài, hiền muội đừng buồn phiền nữa. Anh được có em gái như hiền muội cũng đủ vui mừng lắm rồi.

Mộc Uyển Thanh giậm chân, vừa khóc vừa nói:

- Nhưng tôi không thể không buồn phiền để mà hoan hỉ cho được. Tôi đau khổ mà chàng vẫn vui mừng thì thật là loài bất nhân.

Ðoàn Dự than rằng:

- Anh chẳng có cách nào làm cho em vui lòng. Thế này thì thà chẳng được gặp em nữa là hơn.

Mộc Uyển Thanh giằn dỗi:

- Tôi cũng chẳng muốn gặp chàng làm gì. Ai bảo chàng đến tìm tôi đêm hôm ấy? Chàng chẳng trở lại báo tin tôi cũng chẳng chết về tay bọn ấy. Chàng làm chết mất con Hắc Mai Côi của tôi, làm cho tôi đau đớn ê chề, làm cho sư phụ tôi hoá ra má tôi, làm cho phụ thân chàng hoá ra phụ thân tôi, tôi chẳng mong gì nữa. Giờ tôi bị vít vào đây cũng bởi tại chàng. Tôi chỉ cần ra khỏi nơi này.

Ðoàn Dự nói:

- Thanh muội ơi! Trăm điều ngang ngửa vì anh, em đừng giận anh nữa. Anh em ta thủng thẳng tìm cách trốn ra.

Mộc Uyển Thanh vẫn một giọng hờn dỗi:

- Tôi không trốn đi đâu nữa. Tôi đành chết ở chốn này. Chết ở đây hay ở ngoài cũng thế thôi. Tôi không ra nữa.

Thấy nàng vừa đòi ra lại giở giọng không ra nữa Ðoàn Dự biết rằng lòng nàng đang xốn xang quá đỗi, không thể lấy lời lẽ ngọt ngào mà dỗ nàng được nên không nói gì nữa.

Mộc Uyển Thanh đang buông cơn giận cho nổi lên thấy Ðoàn Dự không nói sao lại càng lộn ruột hỏi:

- Sao chàng lại ngồi ỳ ra không nói?

Ðoàn Dự hỏi lại:

- Thế em muốn anh nói gì bây giờ?

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Chàng ở đây làm gì? Ðoàn Dự đáp:

- Ðồ đệ anh bắt anh giam vào đây.

Mộc Uyển Thanh ngơ ngác:

- Ðồ đệ chàng...

Nhưng nàng nhớ ra ngay, đang sì sụt nước mắt nước mũi bất giác phá lên cười:

- À phải rồi! Nam Hải Ngạc Thần. Phải chăng lão bắt chàng vít vào đây?

Ðoàn Dự đáp:

- Chính lão!

Mộc Uyển Thanh vẫn cười:

- Thế sao chàng không lên nước “sư phụ” bảo lão phải buông tha ra?

Ðoàn Dự đáp:

- Anh bảo lão mấy lần rồi nhưng lão cứ khăng khăng một mực đòi anh thờ lão làm thầy lão mới chịu buông tha.

Mộc Uyển Thanh vừa cười vừa nói:

- Thế là thầy không dạy nổi trò rồi!

Ðoàn Dự than rằng:

- Có lẽ đúng đấy! Còn em, ai bắt em vào đây?

Mộc Uyển Thanh đem chuyện mình gặp thanh bào khách kể lại một lượt nhưng dấu đoạn lão bảo biến anh ruột ra chồng, không nói đến.

Ðoàn Dự thấy chuyện ăn không cử động môi miệng, nói từ bụng nói ra, chân tay tàn phế mà chạy nhanh như bay thì lấy làm kỳ thú, hỏi cặn kẽ các chi tiết và tấm tắc khen là kỳ dị.

Hai người ngồi nói chuyện hàng giờ, chợt bên ngoài có người đằng hắng rồi thấy một đĩa luồn qua lỗ hổng đưa vào, kế đến có tiếng người gọi bảo:

- Bữa ăn của các ngươi đây.

Ðoàn Dự đưa tay đón lấy thì là một đĩa thịt quay thơm phức, tiếp theo là bát canh rau và đĩa bánh tiêu, chàng đặt cả lên bàn rồi hỏi Mộc Uyển Thanh:

- Em liệu những món này có thuốc độc không?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Bọn họ muốn giết mình thì chỉ giơ tay lên một cái là xong, hà tất phải dùng đến thuốc độc.

Ðoàn Dự cho là phải và bụng đói quá rồi liền bảo:

- Ta ăn thôi chứ!

Hai người lấy thịt quay đặt vào trong bánh bắt đầu ăn, bên ngoài có tiếng người dặn:

- Ăn xong rồi cứ đặt bát chén ra lỗ hổng sẽ có người lại lấy. Người đó nói xong đi ngay.

Mộc Uyển Thanh lắng tai nghe y vịn cành trèo lên cây rồi nhảy qua bên kia “bức tường cây”.

Nàng nghĩ thầm: gã đưa cơm này võ nghệ tầm thường thôi. Rồi nàng uể oải cầm lấy bánh ăn.

Ðoàn Dự vừa ăn vừa nói:

- Hiền muội! Em đừng sợ chi! Thế nào gia gia cùng bá phụ cũng đến cứu chúng ta ra. Bọn Nam Hải Ngạc Thần, Diệp Nhị Nương tuy là những tay lợi hại nhưng vị tất đã địch nổi gia gia. Nếu chính bá phụ thân hành tới đây thì quét hết cả bọn chúng dễ như chơi. Chúng sẽ hết đường tháo thân.

Mộc Uyển Thanh hãy còn bực mình lên giọng nhạo báng:

- Chà! Bá phụ chàng bất quá là Hoàng đế cái nước Ðại Lý cỏn con này, bản lãnh đối với người ngoài đã vào đâu? Tôi không tin ông có thể địch nổi “thanh bào khách”. Chắc lại mang mấy ngàn quân thiết giáp đến vây đánh chứ gì?

Ðoàn Dự lắc đầu lia lịa cãi:

- Không phải! Không phải! Tổ tiên họ Ðoàn là phái võ gốc tích ở Trung Nguyên. Dù có dựng ra nước Ðại Lý, xưng vương, xưng đế nhưng nhất định không quên lề lối võ lâm. Nếu cậy thế lấn áp hay dựa vào số nhiều để thủ thắng thì cái họ Ðoàn nước Ðại Lý chẳng lẽ để các bậc anh hùng trong thiên hạ chê cười ru?

Mộc Uyển Thanh vẫn một giọng chế diễu: -Úi chà! Chàng còn khoe họ hàng nhà chàng tuy làm vua làm chúa vẫn không bỏ tư cách của khách giang hồ ư?

Ðoàn Dự nói:

- Bá phụ cùng gia gia thường nói rằng: đã làm người thì không nên quên gốc.

Mộc Uyển Thanh bĩu môi, mạt sát dữ hơn:

- Chà! Miệng nói toàn nhân nghĩa đạo đức mà làm toàn những sự bỉ ối xấu xa. Tỷ như việc gia gia đã có má chàng rồi sao còn tằng tịu với sư phụ tôi?

Ðoàn Dự tức run lên:

- Ô hay! Cô thoá mạ cả gia gia tôi nữa ư? Gia gia tôi không phải là gia gia cô hay sao? Hơn nữa các bậc vua chúa cùng hàng quý tộc khắp thiên hạ được mấy người một vợ? Tám bà, mười bà là ít.

Thời bấy giờ vào đời Bắc Tống, Trung Hoa chia làm năm nước: khu giữa là nước Tống, phía Bắc có rợ Khất Ðan, mặt Tây Bắc có nước Nam Hạ, Tây Nam có nước Thổ Phồn, miền Nam có nước Ðại Lý. Vua chúa hay đại thần đều có nhiều cung phi, hoặc mệnh phụ phu nhân đã thành một tập quán truyền đời, và được coi là chuyện đương nhiên. Các bậc công khanh một vợ thật là hiếm có.

Mộc Uyển Thanh vừa nghe Ðoàn Dự nói xong, máu ghen sôi lên sùng sục, lanh lẹ tát chàng đánh “bốp” một cái. Chàng đau quá, mắt mở thao láo, miệng há hốc ra, miếng bánh đang cầm tay hất tung xuống đất. Chàng ấp úng:

- Cô... cô...

Mộc Uyển Thanh mặt giận hầm hầm:

- Tôi không gọi ông ấy bằng gia gia nữa. Cớ sao đàn ông năm thê bảy thiếp mà đàn bà riêng chịu thiệt thòi? Hễ ai ăn ở hai lòng là mang tiếng vô nghi là nghĩa làm sao?

Ðoàn Dự đưa tay lên mặt sờ chỗ đau, xuýt xoa nói:

- Tôi là bậc huynh trưởng, cô là phận đàn em mà dám vô lễ thế?

Mộc Uyển Thanh vẫn chưa nguôi giận, giơ tay tát nữa. Nhưng lần này Ðoàn Dự đã kịp phòng bị, bước chân theo phép Lăng Ba Vi Bộ, tránh qua phía sau nàng.

Mộc Uyển Thanh trở tay tát về phía sau, chàng cũng tránh khỏi. Lòng nhà thạch thất này chỉ rộng chừng hơn một trượng vuông vậy mà phép Lăng Ba Vi Bộ cực kỳ thần diệu khiến cho Mộc Uyển Thanh lẹ tay thế nào cũng không đánh trúng.

Mộc Uyển Thanh lại càng căm tức sực nghĩ ra một kế, giả vờ kêu “ối chao”, ngã lăn xuống đất.

Ðoàn Dự thất kinh hỏi:

- Em làm sao thế?

Chàng cúi xuống, thò tay ra ôm nàng dậy. Tấm thân mềm mại Mộc Uyển Thanh nằm gọn trong lòng chàng. Nàng đưa tay trái ra ôm cổ chàng, ghì chặt lấy, vừa cười vừa hỏi: Còn trốn được nữa thôi? tay phải tát một cái vào má chàng thật mạnh.

Ðoàn Dự nhịn đau chỉ kêu được một tiếng “trời ơi”, rồi đột nhiên nhiệt khí ở huyệt đan điền làm nóng rực cả người, sóng tình nổi lên cuồn cuồn, không thể dằn lòng được.

Mộc Uyển Thanh đúng với ngoại hiệu Hương dược xoa, tiết ra một mùi thơm làm cho người ngửi thấy phải mê mẩn tâm thần. Lúc đó Ðoàn Dự lại đang ôm nàng, tay chạm vào da thịt êm dịu, gợi cho chàng một khoái cảm đê mê, da dẻ mùi hương đưa lên từng cơn càng làm cho trí khôn mê loạn, chàng cúi xuống hôn nàng thật đậm. Cái hôn làm cho toàn thân Mộc Uyển Thanh rạo rực, mềm nhũn.

Ðoàn Dự ôm nàng lại đặt lên giường, đưa tay ra cởi khuy áo nàng.

Mộc Uyển Thanh khẽ nhắc:

- Chàng là anh ruột tôi.

Ðoàn Dự tuy đang mê mẩn tâm thần nhưng câu nói của Mộc Uyển Thanh chẳng khác tiếng sét nổ giữa lúc trời quang mây tạnh, chàng giật mình buông nàng ra, hai tay vung lên tự tát hai bên má mình bôm bốp mấy cái. Vừa tát vừa tự mắng “Ðồ chó chết! Ðồ chó chết!”.

Mộc Uyển Thanh nhìn thấy hai mắt Ðoàn Dự đỏ như máu, loé ra những tia sáng khác thường, da thịt trên mặt giật lên từng cơn, lỗ mũi mấp máy, cả kinh nói:

- Nguy rồi! Ðoàn lang ơi! Trong thức ăn quả có thuốc độc. Ta mắc lừa họ rồi.

Toàn thân Ðoàn Dự phát nhiệt chẳng khác gì ngồi trong lồng bốn bề đốt lửa. Chợt nghe Mộc Uyển Thanh nói ăn phải thuốc độc, trong bụng lại mừng lẩm bẩm: “ừ có thế chứ, ta bị thuốc độc làm loạn trí đến nỗi toan cùng Thanh muội làm trò đồi bại thì uổng mất bao công trình đọc sách thánh hiền, thiếu chút nữa chẳng khác chi loài cầm thú”.

Mỗi lúc người chàng một nóng thêm, không thể chịu được, chàng phải cởi bỏ hết quần áo dài ra, chỉ để một chiếc quần đùi. Chàng tỉnh táo được một lát, rồi đâu lại hoàn đấy, phải kiềm chế con lợn lòng một cách miễn cưỡng.

Mộc Uyển Thanh người cũng nóng ran, không thể nhịn được, cởi bỏ áo xiêm ngoài ra.

Ðoàn Dự vội la lên:

- Thanh em! Ðừng cởi thêm nữa! Ngồi dựa vào vách đã cho đỡ nóng.

Hai người ngồi tựa lưng vào vách đá nhưng chất thuốc độc mỗi lúc một kích thích thêm. Sau lưng tuy mát được một chút nhưng từ đầu, mặt, ngực, bụng, chân tay chỗ nào cũng nóng như lửa đốt.

Ðoàn Dự thấy Mộc Uyển Thanh hai má đỏ hồng, nhan sắc lại càng diễm lệ, đôi mắt quyến rũ ướt rượt như muốn nhảy xổ vào lòng chàng. Chàng nghĩ thầm: lúc này mình còn quyết tâm cố chống lại chất thuốc độc nhưng nhân lực có hạn, nếu rồi đây không chống nổi nữa, gây ra hành vi dâm loạn, làm mất hết thanh danh họ Ðoàn thì tiếng xấu đó muôn đời không rửa sạch.

Chàng bèn bảo Mộc Uyển Thanh:

- Hiền muội cho anh một mũi tên độc.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Ðể làm gì?

Ðáp:

- Ðể khi anh không chống nổi lại sức thuốc quá mãnh liệt thì anh tự tử đi cho rồi, khỏi làm hại đến đời em.

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Tôi không cho.

Ðoàn Dự nói:

- Thanh em ơi! Anh cầu khẩn em một việc.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Việc gì

Chàng đáp:

- Hễ anh đưa tay ra sờ vào mình em thì em bắn chết anh nghe!

Mộc Uyển Thanh nói:

- Tôi không nghe.

Ðoàn Dự năn nỉ:

- Anh cầu khẩn em việc này vì danh dự của họ Ðoàn đã mấy trăm năm nay không thể để anh một lúc phá tan. Nếu không thế thì sau này anh chết xuống còn mặt mũi nào trông thấy tổ tiên nữa?

Bất thình lình bên ngoài thạch thất có tiếng người nói:

- Họ Ðoàn nước Ðại Lý chúng bay tử tế lắm đấy? Ngoài mồn nhân nghĩa, trong bụng sài lang, còn tưởng danh giá lắm sao?

Ðoàn Dự cả giận nói:

- Mi là ai mà dám nói láo?

Mộc Uyển Thanh khẽ bảo chàng: lão chính là “Thanh bào khách”.

Lại thấy Thanh bào khách nói tiếp:

- Mộc cô nương! Ta làm theo nguyện vọng của cô đó, cô bảo anh cô biến thành chồng cô đi! Ta đã hứa là quyết tâm làm cho nên việc.

Mộc Uyển Thanh cả giận nói:

- Mi dùng thuốc độc hại người, có ăn thua gì đến điều ta yêu cầu mi đâu?

Thanh bào khách nói:

- Trong đĩa thịt quay ta trộn khá nhiều “Hoà hợp âm dương tán” vào đó. Người nào ăn phải, nếu không cho âm dương hoà hợp với nhau, làm đôi vợ chồng thì chất thuốc mỗi ngày một phát tác cực kỳ trầm trọng, chỉ trong tám ngày là cùng da thịt sẽ nứt toác ra, thất khiếu sẽ chảy máu ra mà chết. Dù các ngươi có bản lãnh như Ðại La Kim Tiên cũng không chống nổi đâu.

Ðoàn Dự căm hờn nói:

- Ta với mi vốn không thù oán sao mi lại thi hành kế độc này hại ta? Mi muốn cho Ðoàn mỗ không còn mặt mũi nào trông thấy người đời nữa. Cùng làm cho bá phụ và gia gia ta đem điều ô nhục chung thân ư? Này này ta bảo, không được đâu, dù ta phải chết khổ chết sở cũng đành, chẳng khi nào ta chịu làm việc nhơ nhuốc đâu.

Thanh bào khách nói:

- Ðã hay rằng riêng ta với mi không có thù oán gì nhưng tổ tông họ Ðoàn nhà mi với ta có một mối thù sâu tựa biển. Ta quyết làm cho hai gã tiểu tử Ðoàn Chính Minh và Ðoàn Chính Thuần phải suốt đời ô nhục, không dám nhìn mặt người đời nữa mới hả lòng căm phẫn của ta.

Lão nói có vẻ đắc chí lắm nhưng vì môi miệng không cử động được, nên không bật lên tiếng cười.

Ðoàn Dự muốn cùng lão tranh luận nữa nhưng vừa liếc mắt nhìn thấy Mộc Uyển Thanh chẳng khác gì đoá phù dung mới nở hay đoá hải đường đang say sưa trong trường xuân mộng, trái tim chàng rung động rạo rực, tựa hồ muốn nhảy ra ngoài, trong đầu óc chàng suy tính rất nhiều: “Mộc Uyển Thanh đã cùng ta đính ước duyên bài, nếu đôi ta không được trở về nước Ðại lý thì đâu có bật ra cái chuyện là anh em ruột thịt. Ðây chỉ là oan trái đời xưa có liên quan gì đến mình?”.

Nghĩ tới đây chàng run run đứng dậy, bỗng thấy Mộc Uyển Thanh cũng vịn tường đang từ từ đứng lên. Ðột nhiên trong lòng chàng dường như cóluồng điện chiếu vào, chàng lại nghĩ: “Không được! Không được! Ðoàn Dự hỡi Ðoàn Dự, điểm tối hậu của con người khác loài cầm thú là ở chỗ này.

Nghĩ sai một ly, sểnh chân một bước, không những thanh danh mình bị tan vỡ mà còn đẩy cả bá phụ cùng gia gia vào vòng ô nhục suốt đời”. Nghĩ vậy chàng cất tiếng gọi to:

- Uyển Thanh em ơi! Anh là đại ca, em là tiểu muội đó. Em có biết không, em đã hiểu kinh Dịch chưa?

Mộc Uyển Thanh còn đang mơ mộng, nghe chàng hỏi, liền đáp:

- Tôi không hiểu kinh Dịch là gì hết.

Ðoàn Dự nói:

- Nếu vậy để anh dậy cho. Kinh Dịch ý nghĩa xâu xa lắm, em phải lắng tai nghe mới hiểu được.

Hồi 18

Ngự Giá Thân Chinh

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Em học cái đó làm chi?

Ðoàn Dự đáp:

- Biết đâu chả được việc cho mình. Có khi nhờ đó mà ta thoát khỏi chốn lao lung này cũng nên.

Nguyên Ðoàn Dự thấy sóng dục đã nổi lên đến tột độ, thật khó mà giữ được cho khỏi loài cầm thú, chẳng khác gì ngàn cân treo đầu sợi tóc.

Nếu Mộc Uyển Thanh nhảy xổ vào quyến rũ thì không thể nào còn nín nhịn được nữa. Nên Ðoàn Dự bày ra trò dạy học để chuyên tâm tri ý vào việc khác, không nghĩ đến tình dục nữa.

Thế rồi chàng giảng thao thao bất tuyệt: Nào Thái cực, nào Lưỡng Nghi, nào Tứ Tượng, nào Bát Quái.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Em nghe chán tai lắm, chẳng hiểu gì hết. Ðoàn Lang! Chàng lại đây! Em có chuyện nói cùng chàng..

Ðoàn Dự lại ngắt lời:

- Em quên rồi sao? Anh là anh kia mà! Phải gọi anh là đại ca, chớ kêu bằng Ðoàn lang là lỗi đạo.

Rồi chàng tiếp tục đem Bát Quái ra giảng: Cào tam liên, Khôn lục đoạn, Chín ngướng vu, Cân phúc uyển. Ly trung hư, Khảm trung mão, Tôn thượng khuyết, Ðoài hạ đoạn.

Mộc Uyển Thanh rất thông minh, nhẩm qua một lượt thuộc lòng ngay, song nàng không hiểu gì, ngơ ngẩn hỏi chàng:

- Sao lại có cả bát cơm chén nước vào đây nghĩa là gì?

Ðoàn Dự đáp:

- Chén ngửa, bát úp mới chỉ là tượng hình mấy quẻ mà thôi. Em nên nhớ rằng 8 quẻ này ý nghĩa rất sâu rộng, bao hàm cả trời đấy muôn vật. Nếu lấy gia đình mà nói thì quẻ Càn tượng trưng cho người cha. Quẻ Khôn tượng trưng cho người mẹ. Quẻ Chấn là con trai cả, quẻ Tốn là con gái lớn. Như anh em ta đây:anh thuộc quẻ Chấn, em thuộc quẻ Tốn.

Mộc Uyển Thanh vênh mặt ngắt lời:

- Không phải, chàng là quẻ Chấn, em là quẻ Khôn. Hai người kết nghĩa phu thê , sinh con đẻ cái.

Ðoàn Dự thấy nàng ăn nói ra chiều chớt nhả thì giật mình kinh hãi nói:

- Uyển Thanh em! Ðừng nghĩ vẩn vơ nữa! Hãy tiếp tục nghe lời anh dạy đây!

Mộc Uyển Thanh nói:

- Chàng, chàng ngồi xích lại bên em, em mới nghe được.

Bỗng bên ngoài có tiếng lão áo xanh reo lên:

- Hay lắm! Hay lắm! Nếu hai đứa mi nên vợ chồng, sinh con đẻ cái, ta sẽ buông tha ra khỏi nhà tù này. Chẳng những buông tha mà thôi, ta còn dạy cho vợ chồng mi những môn võ nghệ tuyệt luân để dọc ngang trời rộng vẫy vùng biển khơi nữa.

Ðoàn Dự cả giận lớn tiếng đáp vọng ra:

- Này này ta bảo! Nếu đến bước đường cùng ta sẽ đập đầu vào vách đá này tự tử. Mi nên nhớ rằng:Dòng dõi họ Ðoàn nước Ðại Lý ta thà chết chớ không chịu nhục. Mi đừng hòng hãm ta vào đường tội lỗi để mà rửa hận.

Lão áo xanh nói:

- Dù mi sống hay chết ta cũng mặc xác. Có điều bọn mi mà chết thì ta sẽ lột trần như nhộng cả hai đứa rồi thích chữ vào mặt:”Ðây là hai đứa con Ðoàn Chính Thuần đang thông gian bị người bắt gặp xấu hổ tự sát”Ta còn tìm cách ướp xác chúng bay đem đi bêu tại các đô thị lớn như Biện Dương, Lạc Dương, Hàng Châu, Quảng Châu.

Ðoàn Dự căm tức đến cực điểm, thét lên:

- Họ Ðoàn ta có điều chi tàn nhẫn với mi mà mi trả thù một cách hiểm độc, dã man thế?

Lão áo xanh đáp:

- Công việc của ta hà tất phải nói cho thằng ranh con chưa ráo máu đầu như mi nghe.

Dứt lời bên ngoài lại im lặng như tờ. Có lẽ lão lại vượt bức tường cây đi rồi.

Ðoàn Dự biết rằng nếu chàng còn nói với Mộc Uyển Thanh nữa càng thêm nguy hiểm, liền ngồi quay mặt vào tường ôn lại những điều phức tạp trong phép Lăng Ba Vi Bộ. Chàng ngây ngất hồi lâu chợt nhớ đến pho tượng Ngọc Mỹ Nhân trong thạnh động, so với Mộc Uyển Thanh còn kiều diễm hơn nhiều rồi tự nhủ:Nếu mình có lấy vợ phải kén người đẹp như “Thần tiên nương tử” mới không uổng phí một đời.

Ðang lúc mơ màng chàng quay đầu nhìn về phía Mộc Uyển Thanh thì hoa mắt lên, từ dung nhan cho đến phục sức, nàng đã biến thành pho tượng bất giác chàng la lên:

- Thần tiên nương tử ơi! Tôi đang đau khổ đến cùng cực, Nương tử cứu tôi với!

Nói xong chàng quỳ mọp xuống đất, ôm lấy chân Mộc Uyển Thanh.

Bỗng bên ngoài có tiếng gọi:

- Ðã đến giờ ăn tối rồi đấy.

Một cây nến đỏ thắp sẵn đưa qua lỗ hổng vào. Rồi lại thấy người đó vừa cười vừa nói: “Mau ra mà đón lấy, nay là đêm động phòng hoa chúc của các ngươi chẳng nhẽ lại không có đuốc hoa? “

Ðoàn Dự cả kinh đứng dậy. Dưới ánh sáng, chàng nhìn rõ Mộc Uyển Thanh mắt gợn sóng tình, người đẹp lồ lộ, không bút nào tả xiết, liền tắt phụt cây nến đi và quát to lên:

- Trong cơm có chất độc, ta không ăn đâu, mi đem về đi!

Người đó cười nói vọng vào:

- Ðằng nào cô cậu cũng đã trúng độc, phân lạng đủ rồi. Nay còn cho thêm làm gì?

Nói rồi y cứ đưa cơm vào, Ðoàn Dự đón lấy để lên bàn, nhủ thầm: Con người ta chết là hết chuyện. Chẳng bận tâm đến tiếng thị phi làm quái gì nữa!Song chàng lại nghĩ: Song thân cùng bá phụ ta thương ta biết chừng nào? Lẽ nào ta để tiếng xấu cho thiên hạ mĩa mai dòng họ Ðoàn?

Bỗng thấy Mộc Uyển Thanh la lên:

- Ðoàn Lang ơi! Em đành dùng tên độc tự sát đẻ khỏi di hại cho chàng.

Ðoàn Dự vội kêu lên:

- Hãy khoan! Ðằng nào anh em mình cũng chết rồi. Con người độc ác kia quyết không chịu buông tha nữa đâu. So với Diệp nhị nương hút máu trẻ con, cùng Nam Hải Ngạc Thần ăn tim người, thì lão này còn hiểm độc hơn nhiều. Nhưng không hiểu lão là ai?

Bỗng thấy bên ngoài lão áo xanh lên tiếng đáp lai:

- Thằng lỏi con nói phải đó! Lão phu đây đứng đầu bọn tứ ác. Ác Quán Mãn Doanh là ta đây.

Ðây nhắc lại:trong phủ Trấn Nam Vương, Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái trở vào báo: vợ chồng Chung Vạn Cừu cùng Tần Hồng Miên đã đi xa rồi. Trấn Nam vương phi và Thư Bạch Phụng vì thương con nóng ruột hỏi Bảo Ðịnh Ðế:

- Tâu hoàng huynh, hang Vạn Kiếp ở tận đâu? Hoàng huynh có biết không?

Bảo Ðịnh Ðế Ðoàn Chính Minh đáp:

- Hang Vạn Kiếp ư? Cái tên này nay ta mới nghe là một. Nhưng chắc cách nước Ðại Lý ta chẳng xa mấy.

Thư Bạch Phụng nói:

- Cứ như lời Chung Vạn Cừu thì dường như nơi này bí mật khó lòng tìm ra được. Thằng Dự lọt vào tay chúng lâu tất...

Bảo Ðịnh Ðế ngắt lời:

- Y trước nay chỉ được nuông chiều chưa hiểu lòng người độc ác, để y chịu đựng gian nan cho trải mùi đời. Âu cũng là một dịp rèn luyện cho y, như thế cũng hay.

Thư Bạch Phụng tuy trong dạ bồn chồn nhưng cũng không dám nói gì thêm nữa.

Bảo Ðịnh Ðế quay sang bảo Ðoàn Chính Thuần:

- Hiền đệ đem rượu ra đây để khao thưởng anh em.

Ðoàn Chính Thuần vâng mệnh truyền xuống gia nhân. Lát sau một bữa tiệc lớn bày ra.

Bảo Ðịnh Ðế cũng ngồi vào ăn uống. Tuy nhà vua là bậc chí tôn, nhưng chỉ truyền cho quần thần thủ lễ ở triều đình mà thôi, còn ngoài ra Ngài không câu nệ.

Vì thế mà vợ chồng Ðoàn Chính Thuần cùng Cao Thăng Thái cũng ngồi chung bàn với nhà vua.

Trong khi ăn tiệc, nhà vua tuyệt nhiên không đá động gì đến chuyện gia đình.

Trời gần sáng, thị vệ vào báo:

- Có quan Tư không họ Ba xin vào bái kiến Hoàng Thượng.

Ðoàn Chính Minh truyền cho vào. Bức rèm vừa vén lên, một người mặt đen vừa thấp vừa lùn tiến vào cúi đầu trước Bảo Ðịnh Ðế tâu:

- Thần khải tấu Hoàng Thượng. Ðường đi sang qua cầu sắt Thiện nhân độ, đến khu nghĩa địa chỗ có ngôi mộ lớn, đó là cửa vào động.

Thư Bạch Phụng cả mừng nói:

- Tôi biết trước, một khi Ba Tư Không đã ra đi thì sào huyệt bên địch ở đâu mà tìm không ra?

Người mặt đen hơi nghiêng mình nói:

- Vương phi quá khen, Ba Thiên Thạch này thực lấy làm xấu hổ.

Người mặt đen là Ba Thiên Thạch, tuy hình thù cổ quái, nhưng là một nhân vật rất tinh tế mẫn cán. Ông từng lập được nhiều công lao cho nhà vua, hiện làm chức Tư không nước Ðại Lý.

Trong triều lớn nhất có ba chức:Tư đồ, Tư mã và Tư không gọi là Tam Công. Ba Thiên Thạch võ công trác tuyệt, đặc biệt nhất là môn khinh công. Ba Thiên Thạch vâng mệnh Bảo Ðịnh Ðế đi do thám trụ sở địch. Ba ngầm theo chân họ, quả nhiên tìm được đến hang Vạn Kiếp.

Bảo Ðịnh Ðế phán:

- Thiên Thạch, ngươi ngồi xuống ăn thật no đi, rồi chúng ra lên đường nghe.

Ba Thiên Thạch vốn biết tính nhà vua, không ưa người ta quỵ luỵ lạy lục. Ðối với thần tử Ngài rất thương yêu và xưng hô theo kiểu anh em bè bạn. Nếu mình tỏ ra quá khúm núm thì làm cho ngài khó chịu, nên Ba chỉ “xin vâng” một tiếng rồi bưng cơm ăn liền. Ba không uống rượu nhưng ăn khoẻ lắm, ăn như rồng cuốn, chỉ loáng đã hết tám bát cơm lớn. Ðoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái chơi thân với Ba đã lâu, nên không lấy thế làm lạ.

Ba Thiên Thạc ăn xong đứng lên, lấy tay áo lau miệng rồi tâu:

- Tiểu thần xin dẫn đường! Dứt lời đi ra luôn, Bảo Ðịnh Ðế, vợ chồng Ðoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái nối gót theo sau.

Ra khỏi phủ Trấn Nam Vương, đã thấy bọn Ngư, Tiều, Canh, Ðộc giắt ngựa chờ sẵn.

Ngoài ra còn hơn mười tên tuỳ tòng để mang khí giới cho nhà vua.

Nên biết rằng họ Ðoàn nguyên là dòng dõi nhà đại gia trong phái Võ lâm ở Trung Nguyên, sau lấy được nước Ðại Lý, trải hơn trăm năm nay vẫn giữ nền nếp tổ tiên.

Anh em Ðoàn Chính Minh, Ðoàn Chính Thuần tuy giàu sang rất mực, mà thường vẫn ăn bận theo kiểu bình dân ra ngoài. Ðã là người trong võ lâm thì bất luận là tìm đến báo thù hay đến thăm hỏi nhà vua cũng tiếp đãi theo lề lối nhà võ, chớ không ỷ thế khinh người bao giờ. Nên bữa nay nhà vua ngự giá thân chinh bọn tuỳ tòng, từ quan Tư không trở xuống, không ai bị bận rộn hạch sách.

Thư Bạch Phụng thấy trong đám thủ hạ Ba Thiên Thạch có đến bảy tám tên mang cuốc xẻng đi theo, thì bật cười hỏi:

- Chúng ta đi khai quật bảo tàng hay sao đây?

Ba Thiên Thạch đáp:

- Thưa Vương Phi!Bảo tàng thì không có, nhưng đi quật mồ mả.

Ðoàn người cưỡi ngựa tốt, chạy lẹ như gió, chưa đến trưa đã tới nghĩa địa ngoài hang Vạn Kiếp, Ba Thiên Thạch quay về mé tả đi đến ngôi mộ thứ bảy hô:

- Quật ngôi mộ này lên cho ta.

Bọ n tuỳ tòng Ba đều là những tên lực lưỡng khoẻ mạnh, lập tức nào xẻng nào cuốc bổ xuống.

Bảo Ðịnh Ðế trông thấy tấm mộ chỉ khắc rõ “ Vạn cừu Ðoàn chi mộ” bật cười nói:

- Chủ nhân hang Vạn kiếp thù oán nhà ta đến thế ư?

Thái Tân Khách, Tiêu Ðốc Thành vác búa đập “choảng choảng” phá tấm bia vỡ tan tành chỉ để nguyên vẹn chữ Ðoàn. Lúc đó các người khác cũng đã đào hết nửa ngôi mộ, cửa hang đã lộ ra.

Tiêu Ðốc Thành chui vào trước, dùng búa đập tan cỗ quan tài bên trong, bốn gã Ngư, Tiều, Canh, Ðộc đi trước, rồi đến Ba Thiên Thạch, Cao Thăng Thái, sau nữa là vợ chồng Trấn Nam Vương, Bảo Ðịnh Ðế đi sau cùng.

Ðoàn người vào trong hang Vạn Kiếp chỉ thấy bốn bề im lặng như tờ, không ai ra nghênh tiếp. Ba Thiên Thạch vẫn giữ lề lối khách giang hồ, tay cầm danh thiếp của hai anh em Ðoàn Chính Minh, Ðoàn Chính Thuần , rảo bước đi thẳng vào trước nhà khách cất tiếng gọi :

- Có hai anh em họ Ðoàn nước Ðại Lý tới hội diện Chung Ðộng chúa.

Tiếng hô vừa dứt từ trong bụi cây mé tả chạy vụt ra một bóng người cao lêu nghêu, toan móc lấy danh thiếp ở trong tay Ba Thiên Thạch nhanh như chớp, Ba Thiên Thạch ứng biến mau lẹ vô cùng, tránh qua bên phải ba bước quát hỏi:

- Tôn giá là ai?

Người đó chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc, gã móc không trúng lại nhảy xổ tới Ba Thiên Thạch.

Ba Thiên Thạch khinh công tuyệt cao, muốn thử thách xem tài nghệ của Vân đến mức nào, liền tiến về phía trước ba bước. Vân Trung Hạc cũng rượt theo ba bước.

Thế rồi một người thấp lủn thủn, một gã cao lênh khênh đuổi nhau. Thoáng một cái đã chạy ba vòng.

Vân Trung Hạc bước dài chạy nhanh nhưng Ba Thiên Thạch cũng nhảy lẹ dị thường. Hai người chạy vòng tròn chỉ cách nhau có vài ba thước, khiến người xem không rõ là Vân Trung Hạc đuổi Ba Thiên Thạch hay Ba Thiên Thạch đuổi Vân Trung Hạc.

Rút cục Vân Trung Hạc không đuổi theo kịp Ba Thiên Thạch mà Ba Thiên Thạch cũng không thể thoát chạy được Vân Trung Hạc. Khinh công của hai người này thật là thiên hạ vô song.

Bỗng nghe một tiếng kẹt, cánh cửa mở toang, Chung Vạn Cừu ở trong nhà chạy ra.

Ba Thiên Thạch vẫn không dừng bước, ngầm vận nội công, tay phải tung ra một cái. Tấm danh thiếp bay thẳng tới trước mặt Chung Vạn Cừu.

Nên nhớ rằng tấm thiếp chỉ là mảnh giấy vừa nhẹ vừa mềm, ngay lúc bình tĩnh ném ra cho trúng chổ cũng không phải là chuyện dễ. Vậy mà đang lúc chạy nhanh như gió, nếu Ba Thiên Thạch không có nội lực phi thường thì không tài nào ném trúng được.

Chung Vạn Cừu giơ tay bắt tấm danh thiếp, cả giận hỏi:

- Họ Ðoàn đã đến thăm bái ta, sao không giữ luật lệ giang hồ, dám phá hủy cơ quan ngoài cửa động của ta?

Phủ tiên Ðiếu Lăng Thiên Lý đáp:

- Hoàng thượng là ngôi chí tôn, có lý đâu lại chui qua chiếc quan tài của ngươi mà vào.

Thư Bạch Phụng sốt ruột vì con, không nhịn được nữa hỏi ngay:

- Các ngươi giấu con ta đâu?

Một người đàn bà đứng sau Chung Vạn Cừu chạy vụt ra đáp:

- Mi đến trể một chút, bọn ta đã moi gan thằng lõi họ Ðoàn cho chó ăn rồi.

Hai tay nàng cầm hai lưỡi dao nhỏ như lá liễu loé ra ánh sáng xanh lè, chính là cặp Tu La Ðao đã làm cho bao nhiêu khách giang hồ phải khiếp vía. Hai người đàn bà này trước đây mười tám năm đã vì ghen tuông mà kết mối thâm thù.

Thư Bạch Phụng biết Tần Hồng Miên nói dối, tuy nhiên câu nói ác miệng đó đối với đứa con yên quý độc nhất của bà làm cho bà căm giận. Thù cũ hận mới bốc lên khác nào lửa cháy đổ dầu thêm bốc lên ngùn ngụt, bà lạnh lùng xỉ vả.

- Ta hỏi Chung động chúa, chưa ai thèm nói với quân đê tiện, sao mà không biết nhục?

Tần Hông Miên nhanh như chớp, giơ song đao lên, lăn xả vào chém liền theo thế “Thập Tự chước” một thế tuyệt kỹ của nàng, đã làm mất mạng bao nhiêu giang hồ hảo hán.

Thư Bạch Phụng cũng tung cây phất trần gạt đi, đuôi phất trần nhắm phía sau lưng Tần Hông Miên chụp xuống.

Ðoàn Chính Thuần thấy vậy rất là buồn phiền, Một nàng là vợ chánh, một bên là người tình cũ, hai bên đều dùng thế đánh trín mạng chọi nhau. Bất luận bên nào bị hại , ông cũng ân hận suốt đời, liền quát to lên để can ngăn:

- Hãy khoan đã nào!

Rồi ông xem vào giữa đưa trường kiếm gạt cả hai bên ra.

Chung Vạn Cừu vừa trông thấy Ðoàn Chính Thuần, lửa giận bừng bừng , tay cầm đại hoàn đao bật lên tiếng “loảng xoảng” nhằm Ðoàn Chính Thuần chém tới.

Lăng Thiên Lý bước ra nói:

- Bất tất Vương gia phải ra tay, để tiểu nhân đối địch với hắn.

Gã tung cần câu ra vụt xuống đầu Chung Vạn Cừu. Chung Vạn Cừu cười nói:

- Ta biết mà! Họ Ðoàn toàn là một lũ hư danh chỉ cậy nhiều người.

Ðoàn Chính Thuần cũng cười nói:

- Thiên Lý tránh ra, ta muốn xem võ công của Chung động chúa.

Dứt lời hươi trường kiếm lên gạt cần câu Thiên Lý ra bên, thuận đà lia xuống sống thanh đại hoàn đao để hớt ngón tay Chung Vạn Cừu.

Chung vạn Cừu cả kinh lẩm bẩm: Kiếm pháp thằng cha họ Ðoàn này ghê thật. Hắn phải dẹp cơn phẫn nộ, cầm ngang thanh đao để giữ thế thủ. Tuy hắn tính nóng như lửa, nhưng khi gặp địch thủ lợi hại hắn không dám nông nổi khinh xuất. Bảo Ðịnh Ðế giục Lăng Thiên Lý:

- Các ngươi đi lục tìm xem chúng giấu Ðoàn Dự ở đâu?

Lăng Thiên Lý vâng mệnh, rồi cả bốn gã Ngư, Tiều, Canh, Ðộc đi thẳng vào cửa trước.

Tiêu Ðốc Thành vừa đặt chân trái lên ngưỡng cửa , đột nhiên thấy trên đỉnh đầu mát lạnh, rồi người bỗng giật lùi lại. Một lưỡi đao rất lớn và cực mỏng chém tới trước mặt chỉ còn cách độ vài tấc, Tiêu Ðốc Thành trên lưng toát mồ hôi lạnh ngắt, nhìn kỹ xem người ngấm ngầm tập kích là ai, thì ra là một thiếu phụ nhan sắc xinh tươi, chính là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương. Thanh bảo đao của mụ trông rất kỳ dị, lưỡi nó thật lớn hình tròn và mỏng dính, xung quanh đều sắc bén lạ thường. Mụ cầm chuôi bảo đao khẽ múa vung lên, thì một luồng ánh sáng vòng tròn loé ra. Sau cơn giật mình, Tiêu Ðốc Thành định thần lại, quát to lên một tiếng rồi giơ búa lên bổ xuống lưỡi bảo đao của Diệp Nhị Nương luân chuyển không ngừng, nhưng phải tránh lưỡi búa trầm trọng không dám để bổ trúng vào đao.

Tiêu Ðốc Thanh sử dụng đủ ba mươi sáu đường khai sơn phủ pháp vung lên bổ xuống.

Diệp Nhị Nương vận âm dương quái khí vào câu cười giọng nói. Chu Ðan Thần biết mụ âm hiểm khôn lường, đao pháp biến trá, sợ đánh dằng dai, Tiêu Ðốc Thành tất bị ám toán, liền uyển chuyển bước ra múa quạt trợ chiến.

Lúc đó Ba Thiên Thạch cùng Vân Trung Hạc đang đuổi nhau chạy quyện vòng tròn. Môn khinh công của hai người không ai chịu kém ai, và cả hai cùng cảm thấy rằng cuộc tranh đấu không chỉ trong chốc lát mà phân thắng bại được.

Ba Thiên Thạch chạy hơn trăm vòng đã thấy rõ hạ bàn Vân Trung Hạc: về lẹ làng thì có thừa, nhưng trầm trọng thì không đủ. Ba nghĩ thầm chi bằng ra vừa chạy vừa tìm cơ hộ đánh ba bốn chưởng bất ngờ, tất hắn không đứng vững được. Nhưng Ba lại tính đem khinh công ra để thử thách, không muốn dùng quyền cước để thủ thắng. Rồi gia công chạy mãi.

Bỗng nghe tiếng ồm ồm quát mắng:

- Mấy thằng quỷ này làm gì mà ầm lên thế? Không để cho người ta ngủ à? Những loài chuột chết ở đâu đến vậy?

Người đó chính là Nam Hải Ngạc Thần vừa quát tháo vừa cầm Ngạc chuỷ tiễn hầm hầm chạy ra.

Ðiểm Thương Nông cũng quát mắng lại:

- Chính gia gia sư phụ mi đến đây chứ còn ai!

Nam Hải Ngạc Thần quát hỏi:

- Mi bảo ai là gia gia sư phụ ta?

Ðiểm Thương Nông trỏ Ðoàn Chính Thuần nói:

- Trấn Nam vương đây là gia gia Ðoàn công tử. Ðoàn công tử đã là sư phụ mi, mi không biết hay sao?

Nam Hải Ngạc Thần tuy là một kẻ độc ác đa đoan, nhưng cũng có chỗ khả thủ là lão đã nói ra vẫn giữ đúng lời. Vừa nghe Ðiểm Thương Nông nói vậy, mặt lão biến sắc, nhưng không dám phủ nhận, chỉ mắng lại:

- Ta thờ ai làm thầy mặc ta, việc gì đến mi?

Ðiểm Thương Nông bật cười nói:

- Sao ngươi dám buông lời xỉ mắng bọn ta?

Nam Hải Ngạc Thần lại chửi oang oang, vừa lúc lắc vừa giơ cây ngạc chuỷ tiển lên đánh xuống. Cây Ngạc chuỷ tiễn của Nam Hải Ngạc Thần cũng đầy những răng sắc nhọn, chắng khác chi cây Lang nha bổng.

Ðiểm Thương Nông đưa cây bồ cào sắt mới đỡ được ba đòn, đã thấy hai tay tê buốt.

Phủ tiên Ðiếu Lăng Thiên Lý tung cần câu lên, ném dây câu ra, lưỡi câu nhọn hoắt, nhằm móc mắt Nam Hải Ngạc Thần.

Nam Hải Ngạc Thần tức mình nói:

- Mi làm trò gì thế?

Lăng Thiên Lý cười đáp:

- Lão phụ ngoại hiệu Nam hải điếu đồ, chuyên nghề đi câu cá sấu.

(đây là Lăng Thiên Lý muốn nói xỏ Nam Hải Ngạc Thần, vì Ngạc thần nghĩa là thần cá sấu)

Nam Hải Ngạc Thần nói:

- Mi dốt như bò. Có ai mà câu được cá sấu bao giờ? Nó chỉ đớp một cái là lưỡi câu của mi gẫy nát.

Lăng Thiên Lý nói:

- Mi thử đớp ta coi.

Dây câu lại tung ra, nhằm miệng Nam Hải Ngạc Thần móc vào.

Nam Hải Ngạc Thần liền tung roi ngạc vĩ tiên lên quấn lấy. Roi lớn dây câu nhỏ, Phủ tiên Ðiếu không dám để cho quấn vào nhau, giật mạnh cần câu một cái, dây câu bay lên trên không, thành đường vòng tròn nhằm sau gáy Nam Hải Ngạc Thần chụp xuống.

Bảo Ðịnh Ðế quan sát khắp các nơi tranh đấu, thấy bên mình không có chỗ nào lâm nguy. Chỉ có cặp Tu La Ðao của Tần Hồng Miên là linh động, biến ảo khôn lường, lưỡi đao lại tẩm thuốc độc ghê gớm.

Thư Bạch Phụng võ công cũng không kém sút. Nhưng chỉ e lưỡi Tu La Ðao quệt vào người một chút cũng có thể nguy đến tính mạng. Nhà vua liền hạ lệnh cho Cao Thăng Thái:

- Ngươi ở đây lược trận, nếu thấy nguy hiểm cho Vương Phi, thì phải lập tức đoạt lấy Tu La Ðao của Tần Hồng Miên.

Cao Thăng Thái vâng lời, ung dung đứng một bên, hai tay chắp sau lưng, ngắm mây bay trên trời. Tuy bốn bề gươm đao đánh nhau loảng xoảng mà Thiện Xiển Hầu Cao thăng Thái vẫn phớt tỉnh như không thấy gì.

Bảo Ðịnh Ðế đi rảo bước vào trong nhà, lên tiếng gọi:

- Dự con! Con ở chỗ nào?

Không thấy ai thưa, nhà vua lai vào cửa phòng bên trái để tìm Ðoàn Dự. Ðột nhiên một bóng xanh lè như cây roi dài ngoe nguẩy nhằm cổ Bảo Ðịnh Ðế bay tới.

Bảo Ðịnh Ðế giật mình nhìn kỹ lại thì ra là một con rắn nhỏ sắc xanh, liền đưa ngón tay ra búng một cái. Da thịt con rắn này tuy dầy và cứng rắn lạ thường, vậy mà bị cái búng đứt làm hai khúc, rớt xuống đất quằn quại mấy cái rồi nằm lăn ra chết đứ đừ.

Bỗng nghe tiếng cô gái la thất thanh:

- Trời ơi, ông này đánh chết con Thanh Linh của tôi rồi!

Bảo Ðịnh Ðế thấy cô bé chừng 15, 16 tuổi hoảng hốt ở phía sau cửa chạy ra, hỏi ngay:

- Ðoàn công tử ở đâu?

Cô bé hỏi lại:

- Ông kiếm Ðoàn công tử làm chi?

Bảo Ðịnh Ðế đáp:

- Ta đến cứu y.

Cô bé lắc đầu nói:

- Ông không cứu được đâu. Công tử bị giam trong nhà đá rất kiên cố, lại có người canh giữ nghiêm ngặt.

Bảo Ðịnh Ðế nói:

- Cháu cứ đưa ta đến, ra đánh bại người canh gác, xô đẩy tàng đá mở cửa cứu y ra.

Cô gái vẫn lắc đầu nói:

- Không được đâu!Tôi đưa ông đến thì gia gia tôi sẽ giết tôi.

Bảo Ðịnh Ðế hỏi:

- Gia gia cháu là ai?

Thiếu nữ đáp:

- Tôi họ Chung, gia gia tôi là chủ nhân động này.

Cô bé này chính là Chung Linh, sau khi ở núi Vô Lượng về, cô vẫn ở nhà.

Bảo Ðịnh Ðế gật đầu nghĩ thầm: “Dù ta thí dổ hay bức bách y cũng mất cả thể thống.

Ðoàn Dự đã ở đây, thế nào cũng tìm ra” Nghĩ vậy, nhà vua trở ra kiếm người dẫn đường cho mình.

Nhắc lại chuyện Ðoàn Dự cùng Mộc Uyển Thanh ở trong nhà đá nghe Thanh Bào Khách tự xưng là người ác số một trên thế gian, ngoại hiệu là ác Quán Mãn Doanh thì kinh hãi vô cùng, trong lòng bối rối, tinh thần bạc nhược, rồi không hiểu sao hai người lại ngồi tựa vào nhau.

Ðoàn Dự khẽ bảo:

- Uyển Thanh em ơi!Anh em ta mắc vào tay lão này thì vô phước mất rồi.

Mộc Uyển Thanh nói ú ớ, thấy mặt đỏ bừng như lửa đốt, liền rúc đầu vào lòng Ðoàn Dự cho đỡ nóng.

Ðoàn Dự vuốt tóc nàng. Quần áo hai người mồ hôi ra ướt đẫm như vừa ngâm mình xuống nước. Nhiệt khí trong người bốc lên, mũi thở hơi ra càng kích thích mạnh đối phương. Hãy nói một chàng trai đầy nhựa sống ngồi bên cô gái đang tuổi dậy thì, không bị thuốc khích động, cũng khó bề dập tắt lửa lòng.

Huống chi lại bị “âm dương hoà hợp tán” thúc đẩy con người vào vòng tội lỗi, dễ khiến kẻ sĩ thẳng thắn trở nên dâm dựt, người trinh nữ biến thành cô gái lẳng lơ.

Chỉ một phút mê muội thì đến bậc thánh hiền cũng hóa ra cầm thú. May mà Ðoàn Dự tinh thần vẫn tỉnh táo, không lúc nào quên thanh danh họ Ðoàn. Chàng phải gắng gượng dẹp lòng thú dục.

Ác Quán Mãn Doanh Thanh Bào Khách đứng ngoài nói:

- Anh em mi mau mau hoàn thành hảo sự đi. Sinh con sớm ngày nào là thoát khỏi vòng lao lung sớm ngày ấy. Ta đi đây.

Dứt lời, cành lá bức tường cây động rào rào. Lão đã đi xa rồi.

Ðoàn Dự cất tiếng gọi to:

- Nhạc lão tam!Sư phụ ngươi gặp nạn. Ngươi mau mau đến giải cứu!

Gọi mãi chẳng thấy ai thưa, chàng nghĩ thầm: “Trong lúc nguy cấp này mà ta phải thờ lão làm thầy cũng đành. Thà thờ một người độc ác làm sư phụ để chịu lỡ một đời mình, con hơn để luỵ đến gia gia cùng bá phụ”. Thế rồi chàng gọi to hơn:

- Nam Hải Ngạc Thần! Tôi cam chịu thờ ông làm thầy đây, tôi nguyện ý làm người nối nghiệp cho phái Nam Hải. Sư phụ mau mau đến cứu đồ đệ. Tôi chết thì không bao giờ ông kén chọn được đệ tử như tôi đâu.

Chàng gào rát cổ họng cũng chẳng thấy ma nào xuất hiện.

Bỗng Mộc Uyển Thanh cất tiếng hỏi:

- Ðoàn Lang ơi! Em cùng chàng kết nghĩa phu thê, thì đứa con đầu lòng chàng muốn trai hay gái?

Ðoàn Dự mơ màng buột miệng đáp liền một tiếng:

- Trai.

Bất thình lình, bên ngoài có tiếng một cô gái nói vọng vào:

- Trời ơi! Ðoàn công tử! Ðoàn công tử! Công tử là anh ruột chị Uyển Thanh, sao lại kết hôn được?

Ðoàn Dự giật mình hỏi:

- Phải.. phải Chung cô nương đó không?

Cô gái đó chính là Chung Linh. Cô cả mừng đáp:

- Chính tôi đây!Tôi nghe trộm được lão ác nhân áo xanh nói chuyện mới biết công tử ở đây. Tôi đang tìm cách cứu công tử ra khỏi nơi này.

Ðoàn Dự cả mừng đáp:

- Nếu vậy hay! Nếu vậy hay! Cô nương mau đi lấy trộm thuốc giải độc cho tôi.

Chung Linh đáp:

- Tôi tưởng tìm cách mở cửa nhà mật thất này cứu công tử trước hay hơn.

Ðoàn Dự vội nói:

- Ðừng đừng!Cô nương tìm thuốc mau đi. Tôi... tôi không chịu nổi nữa rồi. Mau... mau lên, tôi muốn chết đây.

Chung Linh cả kinh hỏi:

- Sao mà không chịu nổi được nữa. Công tử đau bụng lắm à?

Ðoàn Dự đáp:

- Không phải đau bụng...

Chung Linh lại hỏi:

- Vậy thế nhức đầu hay sao?

Ðoàn Dự đáp:

- Tôi có nhức đầu đâu.

Chung Linh lại hỏi:

- Vậy công tử đau chỗ nào? Bệnh gì?

Ðoàn Dự chỉ phải một tội không ngăn nổi tình dục, nhưng biết mở miệng nói sao với một thiếu nữ. Chàng ấp úng:

- Toàn thân tôi khó chịu lắm, rất cần cô tìm lấy thuốc giải độc đến đây cho...

Chung Linh chau mày nói:

- Công tử không nói rõ bệnh trạng thì biết lấy thuốc gì bầy giờ. Gia gia tôi thuốc gì cũng có. Nhưng phải biết rõ: buốt óc, đau bụng, hay đau tim... mới được chứ.

Ðoàn Dự thở dài nói:

- Tôi chằng đau đâu hết, tôi... tôi ăn phải thứ thuốc kêu bằng “âm dương hoà hợp tán”

Chung Linh vỗ tay cười nói:

- Công tử đã biết tên thuốc độc, thế là được rồi. Ðể tôi đi kiếm cho.

Nói xong, nàng bon bon chạy đi, nhảy vót lên đầu cành, chuyền qua bức tường cây về nói với cha lấy thuốc giải âm dương hoà hợp tán.

Nào ngờ vừa nói đến âm dương hoà hợp tán , bộ mặt ngựa của Chung Vạn Cừu đã sa sầm, mắng luôn:

- Con nhãi này! Mi hỏi cái đó làm chi? Còn nói lăng nhăng nữa ta sẽ xẻo tai đi?

Chung Linh vội đáp:

- Ðâu phải con nói lăng nhăng...

Chưa dứt lời, bỗng đoàn người của Bảo Ðịnh Ðế đến tấn công.

Chung Vạn Cừu vội chạy ra nghinh địch, bỏ mình Chung Linh ở lại trong phòng.

Chung Linh nghe tiếng gươm đao loãng choảng biết rằng hai bên đang đánh nhau kịch liệt nhưng nàng mặc kệ không ra, lần lại tủ thuốc của cha tìm kiếm.

Chung Vạn Cừu có đến mấy trăm chai thuốc, chai nào cũng có đề tên và chưa rõ cách dùng. Song tìm mãi không thấy thuốc giải “âm dương hoà hợp tán”. Nàng chưa biết tính sao, bỗng nghe tiếng phá cửa, liền không do dự gì cả, quẳng ngay con Thanh Linh ra. Nào ngờ con Thanh Linh mình đồng ra sắt, mà không chịu nổi một cái búng của Bảo Ðịnh Ðế, chết ngay lập tức.

Ðoàn Dự chờ lâu không thấy Chung Linh trở lại, lửa dục lên đến tột độ, mấy lần ôm chặt Mộc Uyển Thanh vào lòng. Sau cùng chàng không chịu nổi nữa, liền bảo nàng:

- Thanh em ơi! Anh đành chịu chết thôi. Cho anh một mũi tên độc.

Mộc Uyển Thanh thều thào nói:

- Em không cho.

Rồi nàng thò tay ra nắm chặt lấy tay chàng. Ðoàn Dự dùng hết sức đâm thọc bàn tay vào bụng cho vỡ ra, tay chàng bỗng đụng vào một vật rắn chắc, thì ra cái hộp đựng “Mãng Cổ chu cáp” giắt trong mình.

Chàng sực nhớ ra , nhủ thầm:”Âu là ta cho Mãng Cổ Chu Cáp ra gọi đàn rắn độc về cắn chết ta đi là xong.”

Chàng liền mở nắp hộp cho đôi mãng cổ chu cáp kêu oang oang. Nhưng vì trong hang Vạn Kiếp này, Chung Linh thường thả con Kim Linh và con Thanh Linh ra chơi, các loài rắn độc sợ hai con rắn thần này nên xa lánh hết, không có con nào ở gần, nên không nghe tiếng Mãng Cổ Chu Cáp.

Ðoàn Dự không thấy rắn độc đến mà mình thì miệng nóng, lưỡi khô, mổ hôi ra như tắm, chàng nghĩ bụng: “Ðôi mãng cổ chu cáp này đã chế phục được các giống rắn độc thì hẳn nó còn độc hơn rắn nhiều”.

Chàng chẳng cần suy nghĩ gì nữa, lấy một con bỏ vào mồm ăn.

Ăn xong một con, chàng thấy trong người mát mẻ dễ chịu, chàng liền ăn nốt con thứ hai, Mộc Uyển Thanh thấy chàng đầu bù tóc rối, miệng đầy máu tươi, khiếp quá.

Ðoàn Dự ăn xong hai con mãng cổ chu cáp, thở lên hồng hộc chỉ chờ cho chất độc hai con rắn ấy phát ra, kết quả tánh mạng mình để khỏi chịu đựng ngọn lửa lòng nung nấu tâm can đến cực độ.

Lại nói đến Bảo Ðịnh Ðế trở ra tìm người dẫn đường cho mình vào sau có tiếng chân người chạy theo, quay đầu nhìn thì ra Chung Linh bèn đứng lại chờ.

Chung Linh vừa chạy vừa gọi:

- Ông ơi! Tôi tìm không thấy thuốc giải độc. Tôi đưa ông đến nhà mật thất, liệu ông có đẩy được tảng đá lớn đóng cửa cái nhà đó không?

Bảo Ðịnh Ðế chẳng hiểu nàng nói gì, hỏi lại:

- Cháu nói thuốc giải độc gì? Tảng đá lớn nào?

Chung Linh đáp:

- Ông theo tôi đến đó sẽ rõ.

Ðường lối trong hang Vạn Kiếp tuy khuất khúc nhưng có Chung Linh dẫn đi, cách nào cho ông trèo lên, chỉ vút một cái, Bảo Ðịnh Ðế đã nhảy lên trên không, vượt tường cây một cách dễ như chơi.

Chung Linh vỗ tay khen:

- Tuyệt quá! Tuyệt quá! Trời ơi! Dễ ông này biết bay chắc?

Người ngồi gác thạch thất chính là Thanh bào quái khách, Chung Linh sợ quá nói khẽ:

- Chúng ta chạy đi thôi ông ạ. Ðợi lão đi rồi sẽ trở lại.

Bảo Ðịnh Ðế nhìn thấy Thanh Bào Khách cũng rất lấy làm kỳ dị, vỗ về bảo Chung Linh:

- Có ta đây, cháu đừng sợ gì hết! Phải chăng Ðoàn Dự bị nhốt trong nhà đá kia?

Chung Linh gật đầu, chui vào sau lưng Bảo Ðịnh Ðế, Bảo Ðịnh Ðế ung dung tiến lại gần Thanh bào khách nói:

- Xin tôn giá chiều ta một chút, tránh sang bên cho!

Thanh bào khách tựa như không nghe tiếng, vẫn ngồi yên không nhúc nhích.

Bảo Ðịnh Ðế nói:

- Tôn giá không chịu tránh ra, thì đừng trách ta vô lễ.

Dứt lời, nghiêng mình lướt qua mặt Thanh Bào Khách, đưa tay lên tảng đá lớn, toan đẩy. Bỗng thấy Thanh Bào khách rút bên sườn ra một cành trúc nhằm đúng huyệt “ Khuyết bồn” Bảo Ðịnh Ðế. Ngọn roi chỉ rung động bên ngoài, chứ không điểm vào người. Nhưng một khi Bảo Ðịnh Ðế vận nội lực đẩy tảng đá là sẽ bị cành trúc điểm huyệt tức khắc, không còn cách nào tránh kịp.

Bảo Ðịnh Ðế biết chừng nghĩ thầm: “phép điểm huyệt của lão này xem ra có vẻ đến mức tuyệt cao, trên thế gian sao cũng có người giỏi môn này.” Ông liền giơ tay phải lên khẽ đánh một luồng chường lực, tay trái luồn xuống dưới tay phải, đặt lên tảng đá đóng cửa thạch thất.

Cành trúc của Thanh bào khách chuyển hướng nhằm huyệt “Thiên địa” của Bảo Ðịnh Ðế. Chưởng lực Bảo Ðịnh Ðế chuyển nhanh như gió, liền một lúc thay đổi đến bảy phương vị, mà lần nào cũng bị Thanh bào khách chống chế rất tài tình.

Hai tay cao thủ gặp nhau, đòn đánh ngang nhau, biến hoá mau lẹ cũng tương đương, thành ra Bảo Ðịnh Ðế không được rảnh tay chút nào để vận nội công đẩy tảng đá.

Bảo Ðịnh Ðế thấy Thanh bào khách cùng mình không phân cao thấp, so với Ðoàn Chính Thuần thì lão còn cao hơn một bực. Ông lại hất tay trái đánh xéo lên một chưởng, bỗng nghe xuỳ một tiếng, chưởng pháp vụt biến thành phép điểm huyệt “nhất dương chỉ”, điểm lên cành trúc. Giả tỷ mà điểm trúng thì đừng nói cành trúc, mà đến cành gang thép đúc nên cũng bị bẻ cong lại. Không ngờ cành trúc phát ra một tiếng véo điểm ngược lại. Hai luồng chưởng lực chạm nhau trên không trung mà Bảo Ðịnh Ðế bị hất lùi lại còn Thanh bào khách cũng bị rung chuyển. Trên mặt Bảo Ðịnh Ðế loé ra những ánh hồng quang, trên mặt Thanh Bào Khách cũng thoáng hiện một luồng thanh khí.

Bảo Ðịnh Ðế rất lấy làm kỳ nghĩ thầm: người này không những võ công tuyệt cao, mà rõ ràng đối với ta có mối liên hệ chi đây. Cái cành trúc kia dùng làm trượng pháp cũng na ná như phép nhất dương chỉ. Nghĩ vậy liền chắp tay hỏi:

- Tiền bối quý tính đại danh là chi? Xin cho biết.

Bỗng nghe tiếng người hỏi lại:

- Ngươi là Ðoàn Chính Minh hay Ðoàn Chính Thuần?

Bảo Ðịnh Ðế thấy lão không nhếch mép mà nói được, lại càng rất đỗi ngạc nhiên, trịnh trọng đáp:

- Tôi là Ðoàn Chính Minh.

Thanh Bào Khách lại hỏi:

- Phải chăng ngươi là đương kim Hoàng đế nước Ðại Lý?

Bảo Ðịnh Ðế đáp:

- Chính phải.

Thanh Bào Khách lại hỏi:

- Võ công ngươi so với ta, ai hơn?

Bảo Ðịnh Ðế trầm ngâm một lát rồi đáp:

- Kể về võ công thì tiền bối hơn tôi chút đỉnh, nhưng đánh nhau thực sự thì tôi thắng tiền bối.

Thanh Bào Khách nói:

- Ngươi nói đúng lắm! Thân ta tàn tật thế này thì sức lực bằng ngươi thế nào được. Thế ra lên ngôi hoàng đế rồi, ngươi vẫn không chút sao lãng việc luyện võ?

Tiếng lão tuy từ trong bụng thốt ra, vẫn lộ vẻ ảo não thất vọng.

Bảo Ðịnh Ðế nghĩ mãi không ra lai lịch lão. Trong óc nảy ra vô số nghi vấn, bỗng nhiên từ trong thạch thất vọng ra một tiếng hét lớn, rõ ràng tiếng Ðoàn Dự.

Bảo Ðịnh Ðế gọi to:

- Dự con! Con làm sao thế? Con hãy cứ yên tâm, có ta đến cứu đây.

Ðoàn Dự từ lúc nuốt đôi mãng cổ chu cáp, lúc đầu thấy mát ruột dễ chịu. Ngờ đâu mãng cổ chu cáp là một vật kỳ dị, hiếm có trên thế gian do dương khí thuần nhất sinh ra. Giả tỷ Mộc Uyển Thanh ăn vào, thì âm dương giao hợp, lập tức tiêu tan được chất độc trong người. Nhưng Ðoàn Dự dương khí đã thịnh, nuốt mãng cổ chu cáp vào chẳng khác chi lửa cháy đỏ thêm dầu, nhiệt khí nung nấu không thể chịu thêm được, phải mở miệng hét lên một tiếng thật to, uất kết trong người mới nhẹ đi được đôi chút.

Bên ngoài Bảo Ðịnh Ðế cùng Thanh bào khách đối thoại cả đến câu Bảo Ðịnh Ðế biểu “hãy cứ an tâm” có lọt vào tai chàng, mà chàng chẳng hiểu gì ráo.

Thanh bào khách nói tiếp:

- Thằng lỏi này bản lãnh nó gớm thật, ta đã cho nó uống âm dương hoà hợp tán mà nó còn chống chọi được đến bây giờ.

Bảo Ðịnh Ðế giật mình hỏi:

- Tiền bối cho nó uống thuốc dâm độc đó là có ý gì?

Thanh bào khách đáp:

- Ta nhốt cả con em gái nó trong thạch thất này.

Bấy giờ Bảo Ðịnh Ðế mới hiểu rõ mưu sâu kế độc của lão. Tuy nhà vua đã tu tâm dưỡng tánh mà không nhẫn nại được nữa, phải nổi trận lôi đình, phất tay áo một cái điểm huyệt lão già quái ác, nhà vua lại phóng chỉ lực sức mạnh ở ngón tay điểm huyệt”đản trung”, một yếu huyệt trí mạng.

Bảo Ðịnh Ðế đã yên trí thế nào lão cũng đưa toàn lực ra để phản ứng. Nào ngờ lão bật lên hai tiếng cười “hích hích” rồi ngôi yên chịu chết, chứ không né tránh, cũng không chống đối.

Ngón tay Bảo Ðịnh Ðế vừa chạm tới áo ngoài, trong bụng sinh nghi lập tức thu ngón tay về hỏi:

- Tại sao tiền bối cam tâm chịu chết?

Lão đáp:

- Ta được chết dưới tay ngươi thì còn gì hay bằng. Vì tội nghiệp họ Ðoàn lại tăng thêm một từng nữa.

Bảo Ðịnh Ðế hỏi:

- Tiền bối là ai?

Thanh bào khách nói rất khẽ chỉ đủ cho Bảo Ðịnh Ðế nghe rõ.

Hồi 19

Người Áo Xanh Là Ai?

Bảo Ðịnh Ðế nghe Thanh bào khách nói, biến sắc đáp:

- Tôi không thể tin ông được.

Thanh bào khách liền cầm gậy trúc sang tay trái, đưa ngón tay trỏ bên phải ra đánh vèo ra điểm huyệt Bảo Ðịnh Ðế. Bảo Ðịnh Ðế nghiêng mình tránh khỏi xong, trả đũa luôn một ngón.

Thanh bào khách cùng Bảo Ðịnh Ðế lại lần lượt đến ngón tay giữa, ngón vô danh, ngón út rồi sau cùng là ngón cái đều theo đúng phép “Nhất Dương Chỉ” ăn miếng trả miếng.

Chung Linh đứng bên nhìn thấy lạ mắt, động tính hiếu kỳ của trẻ thơ, quên cả sợ hãi ông già áo xanh cười hỏi:

- Hai ông chơi trò oản tù tỳ đấy ư? Hết ông này đưa tay lại đến ông kia chìa ngón. Như vậy ai thua ai được?

Nàng vừa nói vừa lân la lại gần, thốt nhiên một luồng gió cực mạnh thổi đến, Chung Linh đang nẩy người lên một cái, tựa như bị mũi dao nhọn đâm vào trước ngực, thì Bảo Ðịnh Ðế đánh hất lại một chưởng đẩy người nàng lùi lại phía sau. Nàng sợ run, mặt tái mét.

Bảo Ðịnh Ðế giữ cho nàng đứng lại được rồi hỏi:

Liệu cháu có bị nguy đến tính mạng không?

Chung Linh kêu “ối” lên một tiếng, miệng hộc máu tươi ra, run lập cập đáp:

- Ông... ông kia muốn giết tôi.

Bảo Ðịnh Ðế lắc đầu đáp:

- Không phải đâu! Ông ấy đang cùng ta tỷ thí võ công, người ngoài chớ có đến gần.

Ðoạn đưa tay ra vỗ nhẹ lưng nàng mấy cái để an ủi.

Thanh bào khách hỏi Bảo Ðịnh Ðế:

- Bây giờ ngươi đã tin lời ta chưa?

Bảo Ðịnh Ðế vội tiến lên mấy bước, khúm núm lạy phục xuống nói:

- Chính Minh này xin bái kiến tiền bối.

Thanh bào khách nói:

- Ngươi chỉ gọi ta bằng tiền bối thôi ư? Thế là ngươi chưa tin nên mới không nhận ta.

Bảo Ðịnh Ðế nói:

- Chính Minh này làm chúa tể một nước, trên vai nặng trĩu gánh sơn hà đâu dám có hành động lỗ mãng, cẩu thả? Mình đã không con, dòng dõi chính thống lại còn một mình Ðoàn Dự, xin tiền bối rộng lượng buông tha y ra.

Thanh bào khách đáp:

- Ta chỉ cần cho họ Ðoàn nước Ðại Lý loạn luân, thất đức, tuyệt diệt dòng giống, đã ráng chờ cho có ngày nay, có lý đâu lại nới tay một cách dễ dãi thế được?

Bảo Ðịnh Ðế to tiếng:

- Ðoàn Chính Minh này nhất định không để cho tiền bối làm như vậy đâu.

Thanh bào khách cũng hằn học:

- Trời ơi! Ngươi cứ tự xưng là Hoàng đế nước Ðại Lý. Ta cho ngươi chỉ là kẻ loạn thần tặc tử, đã mưu đồ chiếm đoạt ngai vàng mà thôi. Ta thách ngươi có giỏi thì về điều động cả thần sách quân lẫn ngự lâm quân tới đây. Ta nói cho ngươi hay: dù thế lực ta còn kém ngươi xa, nhưng ta giết thằng giặc non Ðoàn Dự dễ như trở bàn tay.

Nét mặt Bảo Ðịnh Ðế hết xám xanh lại trắng bợt. Ông biết rằng lão nói thật. Ðừng nói đến chuyện điều động thần sách quân cùng ngự lâm quân tới, mà mình chỉ thêm một tay giúp sức là lão cũng không địch nổi rồi. Nhưng lúc đó lão sẽ gia hại Ðoàn Dự ngay tức khắc. Huống chi lão còn là tiền bối mình, kẻ dưới không nên xúc phạm người trên cho loạn mối cương thường. Nghĩ vậy nhà Vua đành đánh lá bài xử nhũn:

- Vậy tiền bối muốn thế nào sẽ phóng xá Ðoàn Dự xin cho biết!

Thanh bào khách đáp:

- Ðiều đó phỏng có khó gì? Ngươi phải xuất gia đầu Phật, nhường đế vị lại cho ta, ta sẽ tha nó.

Bảo Ðịnh Ðế nói:

- Cơ nghiệp của tổ tiên truyền đời để lại, tôi đâu dám tự tiện chắp tay đem dâng cho người?

Thanh bào khách lại nói:

- Vậy thì ngươi phải ráng chờ. Khi nào Ðoàn Dự cùng em gái ăn ở với nhau, sanh hạ được chút con, bất luận trai hay gái ta sẽ tha ra.

Bảo Ðịnh Ðế vẫn ngọt nhạt:

- Nếu vậy thì thà rằng tiền bối giết y đi còn hơn.

Thanh bào khách lại nói:

- Ngoài ra còn có hai đường để giải quyết: một là ngươi lừa lúc ta không phòng bị, ám toán giết ta đi rồi ngươi tự ý tha nó ra.

Bảo Ðịnh Ðế nói:

- Không đời nào tôi ám toán giết tiền bối.

Thanh bào khách tiếp:

- Nói vậy thì nói chứ ám toán ta đâu phải chuyện dễ dàng? Còn đường thứ hai nữa là ngươi bảo Ðoàn Dự đem phép Nhất Dương Chỉ ra đấu với ta. Nếu thắng tự nhiên y sẽ tẩu thoát.

Nói xong lão cười sằng sặc trong cổ họng.

Bảo Ðịnh Ðế nổi giận nhưng cố nén, chậm rãi nói:

- Ðoàn Dự không biết chút võ nghệ nào chứ đừng nói gì đến phép Nhất Dương Chỉ nữa.

Thanh bào khách đáp:

- Trai họ Ðoàn mà bảo rằng không biết Nhất Dương Chỉ thì ai tin được?

Bảo Ðịnh Ðế nói:

- Ðoàn Dự từ thuở nhỏ học Thi, Thư cùng kinh Phật, tâm địa từ bi, kiên quyết không chịu học võ.

Thanh bào khách nói:

- Ðó chỉ là một lối giả nhân nghĩa. Hạng ấy mà lên ngôi Vua thì chưa chắc đã là hạnh phúc cho lê dân Ðại Lý, giết quách đi là hơn.

Bảo Ðịnh Ðế xẵng giọng hơn:

- Xin tiền bối cho biết còn đường lối nào khác nữa không?

Thanh bào khách đáp:

- Ngươi còn hỏi chi đến đường lối nào khác? Giả tỷ năm nọ có đường lối để thoát thì ta đâu đến nỗi thân tàn ma dại thế này? Kẻ khác không cho ta lối thoát có lý đâu ta chịu tìm lối thoát cho các ngươi?

Bảo Ðịnh Ðế cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc, rồi vẻ mặt cương quyết gọi to:

- Dự con ơi! Ta sẽ tìm cách cứu con ra khỏi chốn lao lung. Con chớ quên mình là con cháu họ Ðoàn nghe!

Bỗng nghe Ðoàn Dự la lớn:

- Bá phụ ơi! Bá phụ lại gần đây đem phép Nhất Dương Chỉ ra xử tử cháu đi cho rồi.

Bảo Ðịnh Ðế giật giọng hỏi:

- Thế nào? Mi làm bại hoại gia phong họ Ðoàn rồi sao?

Ðoàn Dự đáp:

- Không! không phải thế. Cháu thấy trong lòng nóng như thiêu như đốt, không thể sống được nữa.

Bảo Ðịnh Ðế nhủ:

- Con người ta sống chết có số mệnh, con đành phó mặc Hoàng thiên tới đâu hay đó.Ðoạn nhà Vua cầm tay Chung Linh vừa nhảy qua bức tường cây vừa nói:

- Tiểu cô nương! Ða tạ cháu đã đưa đường cho ta, sau này sẽ có ngày trả ơn.

Rồi theo lối cũ đi ra trước cửa toà nhà chính. Lúc đó mọi người giao đấu, phân thắng bại đã hơi rõ rệt: Phủ tiên điếu Lăng Thiên Lý cùng Ðiểm Thương Nông Ðổng Tư Quy hai người hiệp lực đánh Nam Hải Ngạc Thần đã có vẻ thắng thế. Bút Mặc Sinh Chu Ðan Thần cùng Thái Tân Khách Tiêu Ðốc Thành đã uy hiếp được thanh bạc đao của Diệp Nhị Nương. Cây phất trần của Thư Bạch Phụng vây bọc cặp Tu la đao của Tần Hồng Miên xem chừng đã khó bề xoay sở. Ngoài hiên bên kia cặp giò Vân Trung Hạc tuy vẫn lanh lẹ dị thường nhưng miệng đã thở hồng hộc như trâu cày mệt nhọc mà Ba Thiên Thạch vẫn nhảy lên chồm chồm, còn đang sung sức. Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái vẫn chắp hai tay để sau lưng, thủng thẳng đi lại ung dung, có vẻ nắm chắc phần thắng về phe mình. Tuy ông giả bộ chẳng quan tâm gì đến những trận chiến đấu khốc liệt xung quanh nhưng kỳ thực mắt nhìn khắp sáu mặt, tai nghe hết tám phương, tinh thần sáng suốt bao trùm cả cục diện. Vì thấy phe mình không ai lâm vào tình trạng nguy kịch nên Hầu chẳng cần ra tay tiếp viện.

Bảo Ðịnh Ðế không thấy em đâu liền hỏi:

- Chính Thuần đâu?

Cao Thăng Thái tâu:

- Trấn Nam Vương đang đuổi Chung động chúa để đi tìm Ðoàn công tử.

Bảo Ðịnh Ðế hạ lệnh:

- Công việc nơi đây sẽ có kế hoạch khác, các ngươi hãy ngừng tranh đấu để quay về đã.

Ba Thiên Thạch nghe lệnh bỗng nhiên đứng lại.

Vân Trung Hạc nhảy bổ tới, Ba Thiên Thạch thừa cơ đánh vút ra một chưởng. Vân Trung Hạc đưa cả hai tay ra chống đỡ cảm thấy trong người nôn nao, rồi miệng trào máu tươi ra. Y cố gượng trấn tĩnh nhưng mắt hoa lên, nhìn không rõ đường quyền đánh tới đành phải bỏ chạy.

Ba Thiên Thạch cũng không đuổi theo, chỉ cười hềnh hệch nói:

- Ta đã biết sức nhau rồi.

Ðoàn Chính Thuần ở trong bụi rậm đi ra hỏi Bảo Ðịnh Ðế:

- Hoàng huynh đã tìm thấy chỗ thằng Dự chưa?

Bảo Ðịnh Ðế gật đầu đáp:

- Tìm thấy rồi! Ta hãy về thành rồi sẽ nói chuyện.

Bọn Lăng Thiên Lý, Chu Ðan Thần thấy nhà vua hạ lệnh đình chiến cũng đều muốn dừng tay song phe Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Tần Hồng Miên đang hăng không chịu bãi chiến cứ đánh hoài.

Bảo Ðịnh Ðế chau mày nói:

- Chúng ta đi thôi! Cao Thăng Thái “vâng” một tiếng, đoạn rút ống ngọc địch ra, ống tay áo rộng lùng thùng, bay phất phới nhằm đánh vào sau lưng Tần Hồng Miên.

Tần Hồng Miên cất tiếng mắng liền:

- Bọn mi cậy đông người để thủ thắng sao không biết thẹn?

Bỗng nghe hai tiếng “loảng choảng”, ngọc địch đã đánh trúng vào hai ngọn Tu la đao của Tần Hồng Miên. Cặp đao phải hạ thấp xuống, Thư Bạch Phụng liền nhân lúc đó quay lại, nhảy ra đằng sau.

Cao Thăng Thái phất tay áo lùng thùng một cái, phát ra một luồng kình phong cản Tần Hồng Miên lại, không cho đuổi theo nữa. Rồi cầm ngọc địch nhằm Nam Hải Ngạc Thần đánh tới, đoạn hất tay đánh sang Diệp Nhị Nương. Cả hai đòn này đều nhằm đánh vào huyệt trọng yếu đối phương.

Nam Hải Ngạc Thần cùng Diệp Nhị Nương đồng thời kinh hãi lùi lại phía sau ba bước.

Thực ra thì võ công Cao Thăng Thái đâu có thể lấy một chọi ba được nhưng ông đứng lược trận từ lâu, nhìn nhận kỹ càng, rồi đột nhiên sử dụng đòn tuyệt kỹ để đối phó với cả ba người cùng một lúc khiến họ nhất thời phải hoang mang, chân tay quờ quạng, tuy ông vẫn ung dung như không. Thực ra thì ba đòn này ông đã tốn không biết bao nhiêu công phu tập luyện và đã phải dùng toàn lực thi thố. Hơn nữa ông đã suy đi tính lại rất kỹ, ba đòn này cực kỳ hiểm độc, đối phương chỉ còn một lối lùi lại phía sau để tránh, tuyệt không còn cách nào để trả đòn lại được.

Nam Hải Ngạc Thần giương đôi mắt ti hí lên mà nhìn Cao Thăng Thái, vừa kinh hãi vừa bội phục nói:

- Mẹ cái thằng cừu non này gớm thật, ta không ngờ...

Lão không thốt ra hết lời nhưng ý lão định nói: Ta không ngờ mi ghê gớm đến thế, ta đây khó có thể ăn đứt được thằng lỏi này.

Thư Bạch Phụng hỏi Bảo Ðịnh Ðế:

- Tâu Hoàng huynh! Cháu Dự có sao không?

Bảo Ðịnh Ðế tuy trong lòng rất lo ngại nhưng ngoài mặt vẫn giữ vẻ thản nhiên đáp:

- Không sao đâu! Thật là cơ hội rất tốt để rèn luyện cho y. Chỉ mấy hôm nữa là ra được. Thôi ta hãy về Triều rồi sẽ nói chuyện.

Bảo Ðịnh Ðế đi đầu, vợ chồng Ðoàn Chính Thuần nối gót rồi đến bọn tuỳ tùng. Sau bọn tuỳ tùng là bốn gã Ngư, Tiều, Canh, Ðộc. Cao Thăng Thái đi hậu đoạn, vì mấy đòn vừa đây Cao đã làm bên địch khiếp sợ.

Nam Hải Ngạc Thần hung hãn là thế mà cũng không dám đuổi theo khiêu chiến. Ðoàn Chính Thuần đi chừng mười trượng không nhịn được, phải quay lại nhìn theo Tần Hồng Miên.

Tần Hồng Miên cũng run run nhìn theo ông. Bốn mắt gặp nhau, hai bên đều có vẻ ngẩn ngơ.

Nam Hải Ngạc Thần quát hỏi:

- Con cừu kia! sao không cút đi cho lẹ, còn tiếc rẻ cái gì? Hay muốn chơi nhau với lão gia đây một trận nữa?

Ðoàn Chính Thuần giật nảy mình, vội quay mặt về phía trước thấy vợ đang trố mắt nhìn mình ông đành phải rảo bước chạy theo, ra khỏi hang Vạn Kiếp.

Ðoàn người về đến nước Ðại Lý, Bảo Ðịnh Ðế bảo mọi người vào luôn trong cung thương nghị. Vào đến thư phòng, chia thứ bậc an toạ xong, Vua truyền cho nột thị lui ra rồi đem tình hình Ðoàn Dự bị giam giữ thuật lại.

Bấy giờ mọi người mới hiểu việc này mấu chốt đều ở cả trong tay Thanh bào khách. Nhưng lại nghe Bảo Ðịnh Ðế nói: không những lão đã giỏi phép Nhất Dương Chỉ mà võ công cũng hơn ngài một bậc nên không ai dám nói gì. Ta nên nhớ rằng phép Nhất Dương Chỉ họ Ðoàn chỉ truyền cho con trai chứ không truyền cho con gái.

Thanh bào khách đã hiểu phép này tất nhiên phải là con cháu chính phái họ Ðoàn.

Mọi người nghe Bảo Ðịnh Ðế nói đều cả kinh thất sắc.

Ðoàn Chính Thuần nói:

- Thái tử Diên Khánh đã qua đời rồi còn đâu? Chắc lão này mạo nhận đó thôi.

Bảo Ðịnh Ðế thở dài nói:

- Tên tuổi thì còn có thể nhận càn chứ phép “Nhất Dương Chỉ” thì có lý nào giả mạo được? Học võ phải đường hoàng, nếu nghe trộm học lỏm thì chỉ là hạng tầm thường trong phái võ lâm. Nội công tâm pháp những kẻ học lỏm có đâu đến mực cao siêu như lão? Lão đích là thái tử Diên Khánh rồi không còn nghi ngờ gì nữa.

Ðoàn Chính Thuần ngẫm nghĩ một lúc rồi tiếp:

- Ðại ca đã nhận rõ lão là thái tử Diên Khánh thì dù sao cũng dòng giống họ Ðoàn, vì lẽ gì lão lại cố làm bại hoại gia phong nhà ta?

Bảo Ðịnh Ðế nói:

- Lão khắp người tàn tật nên tính tình kỳ dị, nhất thiết không thể lấy lý lẽ thông thường mà lường được. Lão ôm một mối căm thù bất diệt, cố tìm cách phá hoại được thanh danh anh em ta mới hả giận.

Ðoàn Chính Thuần nói:

- Ðại ca lên ngôi báu đã được bấy nhiêu lâu, thần dân đội đức, bốn cõi yên vui. Ðừng nói là thái tử Diên Khánh xuất hiện, giả tỷ Thượng Ðế Ðức có phục sinh cũng không trở lại ngôi Vua được nữa.

Cao Thăng Thái cũng đứng lên tâu:

- Lời Trấn Nam Vương thật là chí lý. Thái tử Diên Khánh biết điều trao trả Ðoàn công tử thì thôi bằng không thì ta không thể nhìn nhận ông là người đứng đầu bốn nhân vật kỳ dị trên đời này nữa mà chỉ coi ông là kẻ thất phu, ai cũng có quyền tru lục. Bất luận võ công ông ta cao đến mực nào cũng không thể địch lại số đông.Nguyên mười bốn năm trước đây, Thượng Ðức Ðế Ðoàn Liêm Nghĩa trị vì nước Ðại Lý. Nhằm năm Thượng Ðức thứ 5, Thượng Ðức Ðế bị gian thần là Dương Nghĩa Trinh giết chết. Sau người cháu gọi Thượng Ðức Ðế bằng bác là Ðoàn Thọ Huy được vị trung thần Cao Trí Thăng phò tá giết Dương Nghĩa Trinh, đưa lên kế vị hiệu là Thượng Minh Ðế. Thượng Minh Ðế không muốn làm Vua, trị vì được 1 năm rồi xuất gia đầu Phật nhường ngôi báu lại cho đường đệ là Ðoàn Chính Minh tức Bảo Ðịnh Ðế. Ðoàn Liêm Nghĩa có sinh được một người con trai là thái tử Diên Khánh, song sau khi gian thần Dương Nghĩa Trinh giết Vua cướp ngôi không thấy thái tử Diên Khánh đâu nữa. Ai cũng cho là thái tử Diên Khánh bị Dương Nghĩa Trinh hạ sát rồi.

Nhắc lại Bảo Ðịnh Ðế nghe lời Cao Thăng Thái tâu, lắc đầu nói:

- Ngôi báu này chính là của thái tử Diên Khánh, chỉ vì khi trước không tìm thấy người nên Thượng Minh Ðế mới lên kế vị, sau Thượng Minh Ðế truyền lại cho ta. Nay thái tử Diên Khánh đã trở về, lý đương nhiên ta phải trả ngôi báu lại cho người.

Ðoạn nhìn Cao Thăng Thái nói tiếp:

- Giả tỷ lệnh tôn mà còn dĩ nhiên cũng nghĩ như ta.

Nguyên Cao Thăng Thái là con vị công thần Cao Trí Thăng. Hồi đó sở dĩ trừ gian diệt nịnh được toàn là nhờ công Cao Trí Thăng cả.

Cao Thăng Thái tiến lên một bước, nằm phục xuống đất tâu:

- Tiên phụ kẻ vi thần này tuy có dạ trung chúa yêu dân thật nhưng Thanh bào khách này là người đứng đầu bọn Tứ ác, giả tỷ mà ông lên làm vua nước Ðại Lý, sửa trị muôn dân thì trăm họ điêu linh biết bao nhiêu mà kể. Việc chúa thượng định nhường ngôi này, kẻ vi thần là Cao Thăng Thái dù tội đáng muôn thác cũng không dám tuân lệnh.

Lăng Thiên Lý cũng phủ phục tâu:

- Thần là Lăng Thiên Lý đã nghe Nam Hải Ngạc Thần, người thứ ba trong Tứ ác hú lên những tiếng ghê hồn, biểu người đứng đầu Tứ ác là ác quán mãn doanh. Nếu Ác Quán Mãn Doanh không phải là thái tử Diên Khánh thì dĩ nhiên không thể lên ngôi báu được rồi, giả tỷ lão chính là thái tử Diên Khánh thì cũng dâm ác bằng mấy Nam Hải Ngạc Thần. Chúa thượng nỡ để lão lên sửa trị muôn dân nước Ðại Lý này cho giang sơn điên đảo, xã tắc khuynh nguy hay sao?

Bảo Ðịnh Ðế khoát tay nói:

- Hai người hãy đứng dậy. Lời các ngươi quả là có lý, nhưng Ðoàn Dự đã mắc vào tay thái tử Diên Khánh ngoài việc ta nhường ngôi lại cho người phỏng còn cách nào lấy được thằng Dự ra?

Ðoàn Chính Thuần nói:

- Bẩm đại ca! Xưa nay chỉ có chuyện vua cha lâm nạn, kẻ làm tôi con phải lăn vào cứu cấp. Thằng Dự tuy là đứa cháu thương yêu của đại ca nhưng có lý đâu vì y mà đại ca phải bỏ ngôi trời? Vậy thì y có thoát nạn cũng thành kẻ đại tội ở nước Ðại Lý.

Bảo Ðịnh Ðế đứng lên, tay trái vuốt chòm râu dài, hai ngón tay phải gõ nhẹ vào trán, bước thủng thỉnh đi trong thư phòng. Mọi người đều biết khi gặp việc khó giải quyết ngài thường có cử chỉ như vậy để xuất thần suy nghĩ nên không ai dám lên tiếng, để ngài được tĩnh trí.

Bảo Ðịnh Ðế đi đi lại lại hồi lâu rồi nói:

- Thái tử Diên Khánh là một tay rất hiểm độc, cho thằng Dự uống “âm dương hoà hợp tán”. Chất thuốc này phát động ghê gớm, người tầm thường khó lòng chống chọi nổi. Chỉ sợ... chỉ sợ lúc này thuốc độc làm cho y mê muội rồi cũng chưa biết chừng. Than ôi đó là tại người ngoài bầy ra mưu sâu kế độc, chứ nào phải tại y, mình trách y thế nào được?

Ðoàn Chính Thuần cúi gằm mặt xuống, xấu hổ vô cùng. Ông tự trách mình: Hoạ này xét cho cùng chỉ tại mình quá lãng mạn gây ra.

Bảo Ðịnh Ðế quay đầu lại hỏi Cao Thăng Thái:

- Thăng Thái! Con gái ngươi năm nay bao nhiêu tuổi?

Thăng Thái tâu:

- Tiểu nữ năm nay 18 tuổi.

Bảo Ðịnh Ðế nói:

- Nếu vậy hay! Này Thuần đệ! Ta cho đưa sánh lễ sang bên Thiện Xiển Hầu để hỏi Cao tiểu thư về làm dâu.

Nhà Vua lại gọi:

- Ba Tư Không! ngươi sang bàn với bộ Lễ sắp đồ nạp thái vấn danh, cùng thảo luận các nghi tiết. Việc này càng làm rầm rộ càng hay, cốt cho khắp nước Ðại Lý đều biết tiếng.

Vợ chồng Ðoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái, Ba Thiên Thạch nghe đức Vua phán truyền, ai nấy đều sửng sốt song đều hiểu thâm ý của Ngài. Sở dĩ ngài có hành động này là muốn bảo toàn thanh danh cho họ Ðoàn lẫn Ðoàn Dự, cốt tỏ cho thiên hạ biết Ðoàn Dự đã có vợ con hẳn hoi. Nếu rồi đây thái tử Diên Khánh có biêu diếu rằng Ðoàn Dự cùng em gái làm trò đồi bại thì người ngoài chỉ cho là lão bịa chuyện phao vu, hay ít ra cũng gieo được mối nghi ngờ vào lòng người.

Ðoàn Chính Thuần nói:

- Kế đó của Hoàng huynh quả là tuyệt diệu. Ðệ có được nghe từ lâu Cao tiểu thư tính hạnh đoan trang, tài mạo song toàn, thực là một mối tương duyên. Có điều thằng Dự tính nết kỳ quặc, khó bảo. Ðệ tưởng hãy chờ y thoát khỏi tai nạn trở về, báo cho y biết, rồi hãy nạp sính hay hơn.

Bảo Ðịnh Ðế nói:

- Ta vẫn biết tính y cố chấp. Anh em mình bảo y học phép Nhất Dương Chỉ y cũng không chịu. Ðúng là một đứa không biết điều hơn lẽ thiệt. Nhưng hôn nhân là việc hệ trọng, phải tuỳ nơi cha mẹ xếp đặt, chẳng lẽ y dám cãi lời vợ chồng Hoàng đệ hay sao? Việc này không những bảo vệ thanh danh cho họ Ðoàn mà còn có quan hệ đến cả đời y, nhất quyết y phải tuân lệnh.

Ðoàn Chính Thuần nói:

- Ðệ thấy nói Cao tiểu thư gầy yếu lắm. Việc này nên bàn kỹ đã.

Bảo Ðịnh Ðế vẻ mặt cương quyết nói:

- Gầy yếu thì đã làm sao? Cao hiền đệ đây võ nghệ cao cường sẽ truyền dạy con gái chút ít phép hô hấp chỉ trong một vài năm là khoẻ mạnh ngay.

Ðoàn Chính Thuần ngập ngừng nói:

- Chẳng qua...

Bảo Ðịnh Ðế ngắt lời:

- Thuần đệ! Sao cứ gàn mãi là có ý gì vậy? Hay hiền đệ có điều gì bất mãn với Cao đệ?

Ðoàn Chính Thuần vội nói:

- Ðâu có chuyện ấy? Cao hiền đệ với em như tình ruột thịt nay lại kết thân gia nữa thì còn gì hay bằng? à... mà Ba Tư Không cũng có một vị tiểu thư... rồi Phạm Tư Mã cũng còn những hai cô. Xin bàn lại xem sao đã.

Ba Thiên Thạch cười nói:

- Tiểu nữ chưa đầy một tuổi, còn hai tiểu thư con quan Phạm Tư Mã thì một là con dâu tôi và một nữa cũng đã đính hôn cùng cậu con cả con quan tư đồ họ Hoa.

Bảo Ðịnh Ðế tỏ vẻ không bằng lòng gắt:

- Thuần đệ! Thiên thạch là quan đồng triều mà hiền đệ chưa biết những việc đó sao?

Ðoàn Chính Thuần thấy Hoàng huynh gay gắt không dám nói nữa.

Cao Thăng Thái nói:

- Trấn Nam Vương! Thăng Thái này cùng Vương gia chơi với nhau từ thuở nhỏ, hai ta chưa có chuyện gì biết mà không nói, nói mà không hết. Vương gia thấy tiểu thư có điều chi thất đức nên không muốn cho nó về làm con dâu phải không? Xin Vương gia cứ nói thật đi! Tôi không để tâm đâu.

Ðoàn Chính Thuần ngần ngừ một lát rồi nói:

- Ðã thế tôi xin nói thực! Cao hiền đệ đừng giận nhé.

Cao Thăng Thái đáp:

- Xin Vương gia cứ nói thẳng, đừng úp mở gì.

Ðoàn Chính Thuần nói:

- Lệnh ái mất Từ mẫu từ thuở nhỏ, tất nhiên hiền đệ cưng chiều quá độ. Tôi lại nghe lệnh ái hay làm nũng, hơn nữa hiền đệ truyền dạy võ nghệ, bản lãnh lệnh ái cũng suýt soát hiền đệ. Sau khi về làm dâu tôi chỉ e... chỉ e.... hà hà... thằng Dự sẽ bị lệnh ái lấn át. Y chẳng biết chút võ công nào chỉ học được môn Lăng Ba Vi Bộ. Trong chốn khuê phòng lệnh ái mà lên chân xuống tay thì y chỉ còn môn Lăng Ba Vi Bộ mà lẩn tránh và chạy khắp phòng thì khổ.

Bảo Ðịnh Ðế cười ha hả:

- Trời ơi! Ông em tôi cứ ấp a ấp úng mãi, té ra chỉ vì thế.

Ðoàn Chính Thuần quay lại đưa mắt nhìn Thư Bạch Phụng cười nói:

- Thưa đại ca! Em dâu đại ca cùng tiểu đệ ý kiến thường mâu thuẫn. Lúc nào gây lộn, giả tỷ mà võ công tiểu đệ đối với nàng không suýt soát thì có phen lôi thôi to rồi.

Ai nghe Ðoàn Chính Thuần nói cũng phải mỉm cười. Vương Phi Thư Bạch Phụng nói bằng một giọng lạnh nhạt:

- Thằng Dự chỉ cần học được phép Nhất Dương Chỉ của họ Ðoàn là thiên hạ vô địch rồi. Dù y có lấy năm bảy con ác phụ cũng chả sợ gì ai.

Vương phi ra chiều châm biếm phép Nhất Dương Chỉ để xói móc Ðoàn Chính Thuần.

Ðoàn Chính Thuần biết vợ mỉa mình chỉ cười không đáp.

Cao Thăng Thái nói:

- Tiểu nữ tuy ít được giáo huấn nhưng đâu đến nỗi cả gan làm bậy? Có điều Thăng Thái này chịu ơn nặng đã nhiều không dám mong được chúa thượng cùng Vương gia ban cho thêm nữa.

Bảo Ðịnh Ðế cười nói:

- Lệnh ái mà quản cơ được cái thằng nhỏ tính khí luông tuồng đó cho chúng ta thì anh em ta rất cám ơn. à mà này Thăng Thái! Lệnh ái tên gì nhỉ? Nhiều khi cái tên cũng ảnh hưởng đến tính tình.

Cao Thăng Thái tâu:

- Tiểu nữ hạ thần chỉ vẻn vẹn có một chữ tên là My mà thôi. Từ thuở nhỏ đến giờ y không ra khỏi cửa, tính nết y vẫn ngoan ngoãn. Hẳn có người bất mãn với hạ thần phao đồn tiếng không hay, thậm chí lọt đến tai Vương gia.

Ðoàn Chính Thuần liền chạy đến cầm tay Cao Thăng Thái vừa cười vừa nói:

- Cao hiền đệ đó là ngu huynh lỡ lời, hiền đệ đừng để ý.

Bảo Ðịnh Ðế cười nói:

- Thế là xong rồi! Thiên Thạch ta ủy thác cho ngươi việc sửa lễ, nạp thái rồi hai nhà sẽ tạ ơn ông mai.Ba Thiên Thạch tươi cười cúi đầu vâng mệnh.

Bảo Ðịnh Ðế lại truyền chỉ xuống hàn lâm viện thảo chế Gia phong. Hoàng đệ Ðoàn Chính Thuần lên chức Hoàng thái đệ.

Ðoàn Chính Thuần cả kinh vội quỳ xuống tâu:

- Hiện nay đại ca đang độ tuổi xuân còn thịnh, muôn dân đội đức cao dầy. Hoàng thiên tất sẽ trông lại, con cháu đề huề. Xin đại ca hãy gác việc gia phong cho em lên tước Hoàng thái đệ.

Bảo Ðịnh Ðế cầm tay nâng dậy nói:

- Hoàng đệ cùng ta hai người chỉ là một. Giang sơn nước Ðại Lý này cả hai anh em ta chấp chưởng. Ðừng nói là ta không có con, dù có Hoàng nam đi nữa ta vẫn truyền ngôi cho Hoàng đệ kia mà. Việc ta quyết lập em làm thừa kế cả nước đều biết. Ngày nay càng cần định rõ danh phận để thái tử Diên Khánh đừng mong gì nữa.

Ðoàn Chính Thuần tái tam từ khước không được đành phải khấu đầu tạ ơn. Bọn Cao Thăng Thái lần lượt đến trước mặt Ðoàn Chính Thuần ngỏ lời chúc tụng.

Ba Thiên Thạch quay sang nhìn Cao Thăng Thái mỉm cười chìa bàn tay trái ra, tuy không nói ra miệng nhưng có ý bảo:

- Sau này Ðoàn Dự lên kế vị, con gái anh sẽ là Hoàng hậu nương nương. Phần hậu tạ cho ông mai phải đặc biệt đấy.

Bảo Ðịnh Ðế phán:

- Ai nấy về nghỉ đi! Câu chuyện thái tử Diên Khánh nhất thiết không tiết lộ ra ngoài.

Mọi người vâng lệnh cúi đầu cáo biệt. Bảo Ðịnh Ðế cũng đi ngủ.

Sáng hôm sau, lúc Ðế tỉnh dậy thấy âm nhạc du dương, pháo nổ rầm trời, nội giám vào chầu chực thay áo rồi bẩm:

- Hôm nay Trấn Nam Vương thế tử đưa lễ nạp thái kết thân cùng Thiện xiển hầu tiểu thư. Ngoài cửa cung trăm họ đến hoan hô chúc tụng rất là náo nhiệt. Mấy năm nay nước Ðại Lý không phải nạn binh đao. Triều đình thanh chính, dân sự yên vui. Trăm họ rất kính phục đức Vua cùng Trấn Nam Vương và Thiện Xiển Hầu. Nay nghe tin hai họ Ðoàn, Cao kết thân khắp thành Ðại Lý hoan hô cổ võ.

Bảo Ðịnh Ðế phán bảo nội giám:

- Ngươi cho loan tin ngày mai ta xuống chỉ mở hội hoa đăng các chức kim ngô không phải dẹp đường, lại mở tiệc lớn khao thưởng ba quân, cùng ban rượu thịt cho kỳ lão cô nhi.

Chỉ vừa ban ra tiếng trăm họ hoan hô nổi dậy vang trời.

Hôm ấy trời xế chiều, Bảo Ðịnh Ðế ăn mặc giả dạng bình dân, một mình đi ra ngoài thành, đầu đội mũ rộng vành, kéo sụp xuống che mặt, không còn ai nhận ra nhà Vua nữa. Dọc đường thấy tiếng trăm họ múa hát rất là vui vẻ. Thời bấy giờ nhân sĩ Trung nguyên coi nước Ðại Lý là đất man di mọi rợ, nghi lễ khác xa với Trung nguyên. Trên đường cái thanh niên nam nữ dắt nhau đi lả lơi cười nói là sự rất thường.

Bảo Ðịnh Ðế nghĩ thầm: “Ta chỉ mong cho dân tộc nước Ðại Lý đời đời được tự do hoan lạc thế này, dù ta không con cái cũng chẳng có gì đáng phàn nàn”. Nhà Vua ra khỏi thành rồi rảo bước đi mau. Ði được hơn 20 dặm thì bắt đầu lên dốc núi. Ðường xá mỗi lúc một vắng tanh, đi vòng hết bốn khu thung lũng thì đến một ngôi chùa cổ nhỏ, ngoài cửa có đề ba chữ: “Niêm Hoa Tự”. Bảo Ðịnh Ðế đứng ngoài cổng chùa, tĩnh tâm mặc niệm một hồi rồi đi thẳng vào gõ cửa ba tiếng. Một lát, cửa chùa mở, một chú tiểu chạy ra, chắp tay hỏi:

- Tôn khách tới đây có việc gì?

Bảo Ðịnh Ðế đáp:

- Phiền chú vào thông báo cùng Huỳnh My đại sư có cố nhân là Ðoàn Chính Minh xin vào ra mắt.

Chú tiểu nói:

- Mời tôn khách vào trong này chờ.

Rồi trở gót tăng tả đi ngay.

Bảo Ðịnh Ðế cũng vào theo, vừa đi được mấy bước bỗng nghe hai tiếng khánh keng keng âm u từ hậu viện vọng ra. Chỉ trong giây lát Bảo Ðịnh Ðế thấy trong người mát mẻ, thần trí tiêu dao.

Bảo Ðịnh Ðế dẫm chân lên những tàn lá rụng đi vào tới hậu viện.

Chú tiểu nói:

- Xin tôn khách chờ đây một chút! Sư phụ tôi sẽ ra ngay.

Bảo Ðịnh Ðế khoanh tay đứng chờ trong sân nhìn chiếc lá vàng rụng phất phới từ từ bay xuống. Suốt đời ít khi Ðế đứng ngoài cửa chờ ai như bữa nay. Nhất là từ khi lên ngôi báu thì chỉ có người khác đến chờ mình chứ chả bao giờ Ngài đứng đợi ai. Mỗi khi đến chùa Niêm Hoa này lòng trần tục sạch lâng lâng, tự nhiên quên cả mình là một vị quân Vương cõi Thiên Nam. Chợt nghe tiếng một ông già cười nói:

- Ðoàn hiền đệ đấy ư? Hiền đệ có điều chi nan giải?

Bảo Ðịnh Ðế quay đầu nhìn lại thấy từ trong căn nhà xép mở cửa bước ra một vị lão tăng mặt mũi nhăn nheo, thân hình cao lớn, cặp lông mày dài sắc vàng, đằng đuôi sa xuống thấp. Chính là Huỳnh My hoà thượng.

Bảo Ðịnh Ðế chắp tay nói:

- Tôi đến cửa thiền quấy nhiễu đại sư đây.

Huỳnh My hoà thượng nói:

- Mời hiền đệ vào trong này.

Bảo Ðịnh Ðế rảo bước theo vào căn nhà xép, đã thấy sáu vị hoà thượng đứng tuổi mình mặc đồ đen cúi đầu thi lễ. Bảo Ðịnh Ðế biết đây là đồ đệ Huỳnh My hoà thượng liền giơ tay đáp lễ. Nhà Vua xếp bằng ngồi trên bồ đoàn mé tây, chờ Huỳnh My hoà thượng ngồi xuống bồ đoàn mé đông rồi mới bắt đầu vào chuyện:

- Tôi có thằng cháu là Ðoàn Dự, lúc mới lên bảy tôi thường dẫn lại đây nghe sư huynh giảng kinh.

Huỳnh My cười nói:

- Thằng nhỏ đó tính tình rất ngộ. Thật là một đứa bé ngoan.

Bảo Ðịnh Ðế lại nói:

- Y được phép mầu đức Phật điểm hoá, dốc dạ từ bi, không chịu học võ để tránh sát sinh.

Huỳnh My đáp:

- Y nghĩ thế là sai. Không hiểu võ nghệ vẫn giết người được. Trái lại có khi giỏi võ vị tất đã giết người.

Bảo Ðịnh Ðế nói:

- Vâng, sư huynh dạy chí phải.

Thế rồi Ðế đem chuyện Ðoàn Dự không chịu học võ bỏ nhà trốn đi thế nào, cuộc gặp gỡ Mộc Uyển Thanh ra sao rồi bị người “ác nhất thiên hạ” là thái tử Diên Khánh nhốt ở đâu, nhất nhất thuật lại cùng Huỳnh My.

Huỳnh My chỉ lắng tai nghe, không nói câu nào. Cả sáu gã đồ đệ thõng tay đứng hầu sau lưng nét mặt cũng đều trầm tĩnh, không mảy may xúc động. Chờ Bảo Ðịnh Ðế nói xong Huỳnh My mới chậm rãi nói:

- Thái tử Diên Khánh đã là đường huynh hiền đệ, cố nhiên là hiền đệ không nên động thủ. Thế mà sai thuộc hạ dùng bạo lực để cứu y xem chừng cũng khó ổn phải không?

Bảo Ðịnh Ðế đáp:

- Sư huynh thật là sáng suốt.

Huỳnh My gật đầu từ từ đưa ngón tay giữa ra nhằm điểm vào ngực Bảo Ðịnh Ðế.

Bảo Ðịnh Ðế mỉm cười chìa ngón tay trỏ ra, xỉa vào ngón tay giữa Huỳnh My. Cả hai cùng rung chuyển liền thu ngón tay về.

Huỳnh My nhíu đôi lông mày nói:

- Hiền đệ! Sức Kim cương chỉ của ta không thể thắng nổi phép Nhất Dương Chỉ của hiền đệ.

Bảo Ðịnh Ðế nói:

- Sư huynh là bậc đại trí tuệ bất tất phải lấy chỉ lực để thủ thắng?

Huỳnh My cúi đầu không nói gì. Bảo Ðịnh Ðế đứng dậy nói:

- Mười năm trước đây sư huynh có bảo tiểu đệ xá thuế muối cho nhân dân nước Ðại Lý nhưng một là vì nhu dụng trong nước chưa đủ hai là tiểu đệ muốn chờ Chính Thuần kế vị sẽ thi hành nhân chính về khoản đó, để nhân dân đội đức Thuần đệ. Nay tiểu đệ nghĩ lại, sáng mai cho ban hành sắc lệnh xoá thuế muối. Huỳnh My hoà thượng đứng ngay lên, khom lưng rồi lạy phục xuống, cung kính nói:

- Hiền đệ ban phước cho dân, lão tăng cũng cảm đức vô cùng.

Bảo Ðịnh Ðế cũng sụp lạy đáp lễ xong ra về ngay không nói gì nữa.

Bảo Ðịnh Ðế về cung lập tức sai nội giám triệu Ba Tư Không và Hoa Tư Ðồ đến truyền ban sắc lệnh xoá bỏ thuế muối. Hai người tạ ơn nói:

- Như vậy thì lê dân được nhờ phước lớn của chúa thượng.

Bảo Ðịnh Ðế tiếp:

- Tất cả mọi nhu dụng trong cung nhất thiết là phải tiết kiệm. Vậy hai người thương lượng với nhau đi xem nơi đâu đáng tính giảm được chừng nào hay chừng nấy.

Hai người vâng lệnh lui ra.

Việc Ðoàn Dự bị bắt tuy Bảo Ðịnh Ðế đã dặn mọi người không nên tiết lộ ra ngoài song Hoa Tư Ðồ và Phạm Tư Mã đều là người rất thân tín của Bảo Ðịnh Ðế nên Ba Thiên Thạch cũng không giấu giếm đã đem kể cho hai người biết cả rồi. Phạm Tư Mã đang ngồi nhà ngóng tin thì hai ông Hoa, Ba đến báo việc nhà Vua xoá bỏ thuế muối. Nói về quan Tư Mã họ Phạm tên Hoa vốn có tính khôi hài, đã hay trào phúng lại lắm cơ mưu. Vậy mà ông nói bằng một vẻ trịnh trọng:

- Hoa đại ca cùng Ba hiền đệ! Trấn Nam thế tử mắc vào tay gian đãng. Chúa thượng xuống chỉ xá thuế là Ngài ban phúc cho dân để cầu đảo Hoàng thiên thương hại, phù hộ cho thế tử đặng yên lành trở về. Bọn mình không biết chia sẽ mối lo cùng vua cha thì còn mặt mũi nào đứng ở trong triều đình nữa?

Ba Thiên Thạch nói:

- Chính thế! Phạm nhị ca có diệu kế gì để cứu điện hạ được chăng?

Phạm Hoa nói:

- Ðối thủ lại chính là thái tử Diên Khánh thì chúa thượng nhất định không nỡ ra mặt đánh nhau đâu. Tiểu đệ có kế này nhưng chỉ sợ nhọc sức Hoa đại ca nên không dám nói ra.

Hoa tư đồ vội hỏi:

- Việc gì mà nhọc sức ta? Nhị đệ nói ngay đi xem nào!

Phạm Hoa nói:

- Chúa thượng đã bảo võ công thái tử Diên Khánh còn cao hơn cả ngài. Bọn ta đối phó bằng phương pháp cứng rắn là không được rồi. Vậy Hoa đại ca, cái nghề sinh nhai của đại ca 20 năm trước đây liệu còn thi thố được nữa chăng?

Bộ mặt vuông chữ “quốc” của Hoa tư đồ đang tím bỗng đỏ gay. Ông cười nói:

- Nhị đệ lại nói giỡn ta rồi.

Quan Tư Ðồ họ Hoa trước tên gọi A Căn, hiện thời làm đến tam công nước Ðại Lý, xuất thân là người cùng túng. Thời chưa phát tích Hoa làm nghề đào mả trộm đồ, có một bản lĩnh rất kiên trì. Ông chuyên lấy các báu vật quý giá trong các mồ mả Vương, Công. Nên nhớ các bậc phú quý chết thường chôn theo cả đồ trân bảo, dị vật. Hoa A Căn nhiều khi đào đường hầm từ nơi rất xa vào tới phần mộ để trộm. Việc đào đường hầm của Hoa thật là những công trình vĩ đại, phải một hai tháng là thường. Cách đào đường hầm của Hoa như vậy nên không ai bắt gặp. Có lần Hoa lấy được trong mộ một tập “võ công bí quyết” đem về cứ theo đó luyện tập thành một tay trác tuyệt về ngoại công. Rồi từ đó Hoa phế cái nghề mưu sinh ty tiện, theo phò Bảo Ðịnh Ðế lập được nhiều kỳ công thăng lên đến chức tư đồ. Từ khi làm quan to Hoa thấy cái tên A Căn có vẻ hủ lậu nên mới đổi là Hoa Hách Cấn. Ngoài hai người bạn chí thân là Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch rất ít người biết rõ lai lịch Hoa tư đồ.

Phạm Hoa nói:

- Tiểu đệ đâu dám nói giỡn đại ca. Bọn ta phải đi bằng đường hầm đến hang Vạn Kiếp, vào thạch thất thần không hay, quỷ không biết mới cứu thế tử ra được. Hoa Hách Cấn vỗ đùi khen:

- Thật là tuyệt diệu! Tuyệt diệu!

Hoa thật có thiên tài về nghề đào hầm. Tuy là việc 20 năm trước nhưng lắm lúc nhớ lại vẫn tiếc nghề cũ làm cho chân tay ngứa ngáy. Khốn nỗi đã làm đến cực phẩm triều đình có lý đâu lại đi đào mả trộm thì còn ra thể thống gì nữa? Bây giờ nghe Phạm Hoa đề nghị bất giác cả mừng.

Phạm Hoa tươi cười nói tiếp:

- Hoa đại ca chớ vội mừng vì trong còn nhiều vấn đề thực nan giải. Tứ ác hiện nay ở cả trong hang Vạn Kiếp, ngoài ra còn vợ chồng Chung Vạn Cừu, Tần Hồng Miên đều là những tay kiệt thiệt, qua được tai mắt bọn này đâu phải chuyện dễ dàng? Hơn nữa đích thân thái tử Diên Khánh trấn giữ cửa nhà mật thất, lão ngồi trên mà mình đào bên dưới giữ thế nào cho lão không hay?

Hoa Hách Cấn trầm ngâm một lúc rồi nói:

- Vậy ta phải đào đường hầm về phía sau nhà mật thất, chừa chỗ thái tử Diên Khánh ra.

Phạm Hoa lại nói:

- Thế tử còn bị nhốt trong đó giờ phút nào là còn nguy hiểm giờ phút ấy. Ta đào dềnh dàng như thế liệu có kịp không?

Hoa Hách Cấn nói:

- Vậy ba ta cùng phải hợp lực. Hai hiền đệ cùng đi liền bên chỉ bảo đồng thời học cái nghề đào trộm mả này mà chơi.

Ba Thiên Thạch cười nói:

- Tuy bọn ta đã ở ngôi tam công nước Ðại Lý nhưng về nghĩa vụ thì dù là cái việc đào mồ quật mả hay nghề ăn trộm đi nữa thì cũng không thể từ nan được.

Ba người vỗ tay cả cười, Hoa Hách Cấn nói:

- Việc này không thể chậm được nữa, nói làm là làm.

Ba Thiên Thạch lấy bản đồ hang Vạn Kiếp ra. Hoa Hách Cấn vui sướng khôn tả, ngồi coi bản đồ, hoạch định từ chỗ bắt đầu đào cho đến chỗ miệng hầm chui lên. Hoa lại nói cả đến đường lối, cách thức phải tránh tai mắt bên địch thế nào cùng vòng vèo ra sao để tránh những chỗ đá rắn. Thật là một nghề tuyệt kỹ của Hoa, trên đời có một không hai.

Lại nói đến Ðoàn Dự, sau khi nuốt Mãng Cổ chu cáp rồi, khắp mình dương khí cực thịnh, hơi nóng bốc lên đến độ quá mức tối cao khiến chàng mê man bất tỉnh. Nhưng cơn mê này dù sao cũng giúp cho chàng qua được một ngày khỏi bị lửa dục nung nấu cực kỳ khổ sở. Chàng có biết đâu trong khoảng thời gian một ngày một đêm này bên ngoài đã xảy ra bao nhiêu biến chuyển quan trọng:

- Nào phụ thân chàng đã chịu sắc phong lên Hoàng thái đệ.

- Nào chàng đã có mệnh cha mẹ dạm hỏi lệnh ái Thiện Xiển Hầu là Cao Mi tiểu thư cho chàng làm vợ.

- Nào khắp thành Ðại Lý chiêng trống rầm trời, tu la dậy đất.

- Nào trăm họ nước Ðại Lý đang hoan hô ca tụng đức Vua ban hành sắc lệnh bãi bỏ thuế muối.

Mà chính chàng lại đang ngồi tựa vách đá trong nhà tù, thần trí mê man chẳng biết trời đất là gì.

Trưa hôm sau chàng mới hơi hồi tỉnh một chút. Số là hai thứ âm dương hoà hợp tán cùng Mãng Cổ chu cáp phát tác kịch liệt cùng một lúc làm chàng mê đi. Trận phát tác đi đến chỗ cùng cực lại dịu xuống nên chàng hồi tỉnh. Ðây chỉ là lúc tạm ngừng để đi đến những trận phát tác sau cùng mãnh liệt hơn.

Ðoàn Dự chưa biết những nguy cơ đang rình rập. Tuy thấy trong mình còn mệt mỏi, song chàng yên trí chất độc đã bắt đầu lui dần, toan cất tiếng gọi Mộc Uyển Thanh thì chợt nghe bên ngoài có tiếng một ông già giọng khàn khàn:

- Cả thảy 19 đường vừa ngang vừa dọc mà làm cho bao người phải say mê. Nếu cư sĩ cao hứng thì cùng lão tăng vui chơi một cuộc.

Ðoàn Dự lấy làm kỳ ghé mắt vào chỗ lỗ hổng vẫn đưa cơm nhìn ra ngoài, thấy một vị hoà thượng mặt đầy nếp dăn deo, lông mày vàng khè đang cúi xuống lấy đầu ngón tay vạch vào một tảng đá xanh lớn, phát ra những tiếng sè sè, bụi đá tung lên, nét vạch sâu xuống thành một đường rất thẳng như sợi chỉ đặt.

Ðoàn Dự cả kinh, tuy chàng không biết võ công nhưng là con một nhà võ uyên thâm chàng được xem bá phụ cùng phụ thân luyện phép Nhất Dương Chỉ đã nhiều. Chàng nghĩ bụng dường như mình đã được gặp vị sư già ở đâu rồi thì phải, chỉ lực ông như vậy thật là ghê người, vạch đá thành rãnh một cách dễ dàng. Cứ xem chỉ lực này đủ biết ngoại công của ông cương ngạnh đến chừng nào! Cách luyện môn này tựa hồ khác xa với cách luyện Nhất Dương Chỉ của cha, bác chàng.

 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#tlbb