TLBBpt9

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 23

Quần Hùng Khiếp Vía

Ðoàn Dự nghe Thôi Bách Kế kể tới đây, trong bụng nhẩm tính: "thằng nhỏ 12,13 tuổi mà Huỳnh Mi tăng gặp cách đây bốn mươi ba năm với thanh niên Thôi

Bách Kế gặp trước đây mười tám năm không thể là một người vì thằng nhỏ kia tới ngày đó đã lớn tuổi hơn nhiều".

Thôi Bách Kế kể tiếp:

-Trong lúc tôi đang ngẩn người ra, bỗng nghe người thanh niên hỏi: "Nương tử!

Từ "quy muội" đến "vô vọng" bày hàng thế này có đúng chăng?".

Ðoàn Dự nghe đến "quy muội", "vô vọng" biết ngay là thanh niên nói những quẻ trong kinh dịch.

Thôi Bách Kế kể tiếp:

-Người đàn bà trầm ngâm một lúc rồi đáp: "Cần phải khởi từ góc Ðông Bắc đi xéo sang "minh di" rồi lại quay về "tốn vị", chàng coi có thể đi thông suốt được chăng?".

Ðoàn Dự giật mình ngắt lờ i:

-Những lời thiếu phụ nói đó rõ ràng là ở trong phép Lăng Ba Vi Bộ có điều vị trí hơi lệch lạc chưa đúng hẳn. Chẳng lẽ thiếu phụ này lại có liên quan đến pho tượng thần ở trong thạch động kia?

Thôi Bách Kế hoàn toàn không hiểu gì về câu hỏi của Ðoàn Dự, tiếp tục kể :

-Tôi thấy vợ chồng cứ giảng luận sách vở hoài, nóng ruột không nhịn được nữa,lớn tiếng quát: "Cặp trai gái chó dẻ này! mẹ chúng bay! Ta cho chết hết". Không ngờ hai người đó giả điếc, vờ như không nghe thấy, mắt vẫn nhìn vào sách, người vợ lại hỏi nhỏ chồng: "Từ chỗ này tới "tốn vị" mà chín bước thì làm sao mà đi tới được?".

Tôi lại quát mắng: "Ði đi... đi xuống cõi âm để gặp ông tổ 18 đời nhà mi à?". Dứt lời tôi toan nhẩy đến, thì thốt nhiên người chồng cả cười vỗ tay reo: "Hay lắm! Hay lắm! âm tức là quẻ "khôn", ông tổ mười tám đời, phải lắm, 9 lần 2 là

mười tám, bộ này chuyển đến "khôn vị" được. Thế là bộ pháp chỗ này ta thông hiểu được cả".

Ðoạn người chồng thuận tay chụp xuống chiếc bàn tính trên ngăn sách, không hiểu gã làm thế nào, đột nhiên ba con toán bay vút ra. Tôi cảm thấy trước ngực đau nhói, người mình như bị đóng đinh xuống, không nhúc nhích được nữa. Hai người vẫn chẳng thèm nhìn đến tôi, lại tiếp tục bàn luận nghĩa sách.

Tôi nghe chẳng hiểu gì cả, trong lòng sợ hãi không biết đến đâu mà kể. Sở dĩ người ta tặng tôi cái ngoại hiệu "Kim toán bàn" vì lúc nào tôi cũng mang theo một chiếc bàn tính đúc bằng hoàn kim. Trong đó có 17 con toán, chuyên dùng vào việc đả thương địch thủ khi cần đến. Có điều trong bàn tính của tôi phải đặt máy móc,dùng sức đẩy bằng lò xo. Còn bàn tính của người này chỉ là cái bàn tính thường làm bằng gỗ đỏ.

Tôi nhìn kỹ lại thì thấy một cái suốt tre ở giữa bàn tính của gã đã gẫy làm mấy đoạn. Rõ ràng đã dùng nội lực bẻ gãy chiếc suốt đó, đồng thời dùng nội lực bắn con toán ra, kỹ thuật gã tới mức độ thật không ai có thể tưởng tượng được.

Hai người đàm luận càng hứng thú bao nhiêu thì tôi càng sợ hãi bấy nhiêu,nghĩ thầm: "mình vừa mới gây nên huyết án, giết hết ba mươi mấy mạng trong nhànày. Bây giờ người bị cứng đờ, đứng trơ trơ ở đây, cử động không được, nói không ra lời. Ðã đành giết người khác đến thường mạng là cùng, có chết cũng chẳng oan nhưng e rằng thế tất nhiên phải liên luỵ đến sư huynh, điều đó làm tôi rất băn khoăn. Bị cầm chân hàng hai trống canh thật là cơ cực, cơ cực hơn 20 năm chịu khổ hình. Mãi đến lúc bốn bề xao xác tiếng gà gáy, người chồng mới vui vẻ bảo vợ:

"Mấy bộ pháp trước mình tưởng hôm nay không thể nào nghĩ ra được. Bây giờ chúng ta đi thôi chứ?". Người vợ đáp: "Kim toán bàn Thôi lão sư đã giúp huynh nghĩ ra được một bộ pháp kỳ diệu, vậy cũng nên tạ ơn vị đó mới phải chứ?". Tôi vừa mừng vừa sợ, không hiểu sao họ lại biết cả tính danh mình. Người chồng nói tiếp: "Ðã thế thì để cho y sống thêm mấy năm nữa. Lần sau gặp ta sẽ kết liễu tính mạng y". Ðoạn hai người thu nhặt sách vở, cầm tay nhau từ trong cửa sổ nhảy ra.

Tướng mạo người đàn bà thế nào thuỷ chung tôi vẫn không thấy rõ, chỉ có lúc ra đi nàng đưa tay trái về phía sau lưng tôi phất nhẹ để giải huyệt cho.

Tôi cúi đầu xuống nhìn thì thấy vạt áo trước ngực mình bị thủng ba chỗ, hai con toán đã lặn vào bên trên hai vú và một con nữa lặn vào chỗ chính giữa. Ba con toán song song một hàng và phân khoảng rất đều, tưởng lấy thước đo mà đặt vào chưa chắc đã đúng được thế. Ðây các vị thử coi xem!

Nói xong Thôi Bách Kế liền cởi áo ra, mọi người trông thấy đều không nhịn cười được. Ba con toán lặn sâu vào trong thịt thành một hàng thẳng tắp, phân quãng rất đều ở trước ngực mà không hiểu sao không tìm cách lấy ra.

Thôi Bách Kế lắc đầu, cài lại khuy áo rồi nói tiếp:

-Ba con toán lặn sâu vào trong da người là một tội khổ cực không gì bằng. Tôi định dùng giao nhọn khoét lấy ra nhưng đấy là những huyệt đạo, chỉ động tới một chút là ngất xỉu ngay tức khắc, mà phải lâu đến hàng 12 giờ chưa tỉnh lại được.

Còn lấy giũa hay giấy ráp mà mài cọ dần thì cũng đau đến phải la làng. Tội nghiệp này không có khác gì oan hồn ám ảnh suốt đời. Mỗi khi thời tiết thay đổi, mưa gió thất thường chỗ đó lại càng đau nhức không thể nào chịu được.

Thôi Bách Kế thở dài nói tiếp:

-Gã thanh niên ấy còn bảo: "Lần sau gặp y nữa là phải chết". Mạng mình mình phải giữ, khi nào để cho y kết liễu? Nhưng nếu vô phúc chạm trán y thì đừng có mà hòng sống sót. Muốn bảo toàn tính mạng chỉ có cách duy nhất là đừng để cho hắn bắt gặp nên bất đắc dĩ phải cao chạy xa bay, thay đổi họ tên, trà trộn vào làm người giúp việc trong phủ Trấn Nam Vương.

Tôi vẫn đinh ninh rằng nước Ðại Lý ở tận góc trời nam, hẻo lánh những nhân vật võ lâm ở Trung Nguyên chẳng mấy khi đến đây, vạn nhất mà quân chó đẻ đó có đến tìm, thì nơi đây còn có Ðoàn Vương gia, Cao Hầu và Lăng bằng hữu, bao nhiêu tay cao thủ, chẳng lẽ cứ giương mắt ra mà nhìn, để mặc cho y giết tôi sao? Ba con toán oan nghiệt này khảm vào trong người tôi, mỗi khi đau lên chỉ còn cách uống rượu say bí tỷ mê man cho quên đi mà

thôi, bao nhiêu hùng tâm tráng chí, danh vọng vứt mẹ nó ra ngoài chín tầng mây.

Mọi người đều thấy rằng cuộc tao ngộ của Huỳnh My tăng và Thôi Bách Kế đại khái giống nhau, chỉ khác ở phần tiểu tiết mà thôi, một người xuất gia tu hành, một người mai danh ẩn tích.

Ðoàn Dự thốt nhiên hỏi:

-Hoắc tiên sinh! (chàng quen miệng vẫn gọi thế). Sao tiên sinh biết đôi vợ chồng đó là Mộ Dung thị?

Thôi Bách Kế gãi đầu đáp:

-Ðây là do sư huynh tôi nghĩ ra. Sau khi tôi bị nạn ba con toán rồi tôi về bàn với sư huynh tôi thì người cho là: tất cả các phái võ lâm riêng nhà Mộ Dung mới dùng cái lối "gậy ông đập lưng ông". Cúng tôi tự lượng, không thể đối chọi được với các gia đình mà nhân vật toàn là yêu mà quỷ quái đó, chỉ có cách tránh đi là yên, đành làm cái kiếp con rùa rụt cổ vậy.

Thôi Bách Kế quay lại nói với Ðoàn Chính Thuần:

-Ðoàn vương gia! Sự tình tôi đã bộc bạch cả rồi. Vậy bây giờ xin kiếu đi tìm Mộ Dung thị đây. Sư huynh tôi với tôi khác nào tình ruột thịt, cái thù giết anh nhất định phải báo.

Ðoạn quay sang bảo Quá Ngạn Chi:

-Sư điệt! Chúng ta đi thôi.

Thôi Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi vái chào mọi người rồi cùng cất bước lên đường. Mọi người đều ngạc nhiên trước thái độ thay đổi bất ngờ của Thôi Bách Kế.

Lúc trước đối với nhà Mộ Dung sợ hãi là thế, song nhắc đến sự báo thù cho sư huynh, biết rõ ra đi phen này tất chết mà vẫn quả quyết không chút rụt rè nên mọi người đều đem lòng kính trọng và cũng không tiện ngăn cản nữa.

Tuệ Chân hòa thượng đứng lên cung kính nói với anh em họ Ðoàn:

-Chưởng môn nhân, sư bá của tệ phái có gửi lời bẩm cùng liệt vị Bảo Ðịnh Hoàng Ðế là bậc chí tôn không dám làm phiền nhọc đại giá nhưng nếu được Trấn Nam Vương đến tệ xá mà chỉ giáo phương sách đối phó với nhà Mộ Dung cho thì thực là phúc lớn cho võ lâm. Sư bá tôi lại nói thêm: đáng lý ra người phải thân hành đến lãnh giáo ý kiến Ðoàn hoàng gia mới phải, ngặt vì trong chùa đã phái sư huynh đi mời các bậc cao thủ khắp nơi về hội họp tại chùa Thiếu Lâm. Sư bá tôi là chủ nhân không dám đi đâu, phải túc trực ở nhà để đón tiếp các vị anh hùng thiên hạ cho khỏi mang tiếng thất kính.

Ðoàn Chính Thuần nghĩ bụng: "Thiếu Lâm tự mở cuộc đại hội anh hùng, đó là một cơ hội tốt hiếm có. Ði dự cuộc họp với khắp các nhân vật trong võ lâm ở Trung Nguyên là một điều rất hứng thú". Ông có ý muốn đi liền đưa mắt nhìn Bảo Ðịnh Ðế, chờ huynh trưởng phát lạc.

Bảo Ðịnh Ðế nghiêm trang trả lời:

-Họ Ðoàn chúng tôi nguyên cũng ở trong võ lâm tại Trung Nguyên ra, mấy trăm năm nay không bao giờ dám vong bản. Các bạn võ lâm từ Trung Nguyên đến Ðại Lý, chúng tôi đều đón tiếp nồng hậu. Duy có một điều: tổ tiên họ Ðoàn tôi đã có di chúc dặn con cháu không được tham dự vào những cuộc tư thù, chém giết giữa các phái võ. Ðoàn Chính Minh này lâu nay hằng ngưỡng mộ Huyền Bi đại sư về nhân cách cũng như về võ công. Tuy nhiên đối với việc đại sư dặn bảo đây, trái với gia quy tổ tiên chúng tôi nên không thể tuân mệnh được. Mong sư huynh chuyển lại lời cùng Huyền Bi đại sư lượng thứ cho.

Tuệ Chân thất vọng, không biết nói thế nào thì đột nhiên Tuệ Thiền quỳ hai gối xuống, khẩn cầu:

-Trấn Nam Vương tới Thiếu Lâm tự, không phải là chúng tôi dám mong ngài trực tiếp chiến đấu với bọn Mộ Dung đâu. Vương gia là bậc lá ngọc cành vàng, đâu có thể khinh xuất mạo hiểm được? Có điều là võ công của bọn Mộ Dung ở Cô Tô kỳ diệu khôn lường. Gia sư mời các bậc anh hùng tới, không phải chủ ý nhiều người để nắm lấy phần thắng, mà chỉ mong tập hợp nhiều ý kiến cho thêm phần bổ ích. Góp nhặt những điều sở trường của các phái để cùng Mộ Dung so tài cao thấp.

Họ Ðoàn nước Ðại Lý là một phái võ chính tông về môn Nhất Dương Chỉ ở miền Nam, anh hùng trong bốn bể ai cũng nghe danh và đem lòng kính ngưỡng. Trong cuộc đại hội anh hùng tại chùa Thiếu Lâm nay mai, nếu họ Ðoàn nước Ðại Lý không đến dự là một điều khiếm khuyết rất lớn. Chúng tôi e rằng sẽ không có tay địch thủ được với gia đình họ Mộ Dung.

Bảo Ðịnh Ðế phất tay áo một cái, mép tay áo khẽ lướt qua bả vai Tuệ Thiền.

Tuệ Thiền cảm thấy có một làn hơi êm dịu và hùng hậu nâng vai mình lên. Lão tự nhiên không tự chủ được, đứng phắt dậy, trong lòng rất là khâm phục la lên:

-Hoàng gia! Nội công Hoàng gia thật là tuyệt diệu.

Bảo Ðịnh Ðế ôn tồn nói:

-Thiền sư mới từ xa tới, còn đương mệt nhọc, hãy xin mời vào trong sảnh đường dùng cơm và nghỉ ngơi chút đã. Tại hạ được nghe chuyện hung tin của tôn sư trong lòng rất thương tiếc. Nhưng họ Ðoàn tôi không thể đặt mình vào trong vòng ân oán của võ lâm được, vì tổ tiên đã có minh huấn để lại, xin lượng thứ cho!

Lời Bảo Ðịnh Ðế tuy khiêm tốn ôn hoà song là lời tuyên bố của bậc chí tôn, tỏ ra tâm ý quyết định rồi, dù có khẩn cầu mấy cũng vô ích nên Tuệ Chân và Tuệ Thiền đành cáo từ ra đi.

Lúc đó trong nhà đại sảnh còn lại toàn người trong nước. Ðoàn Chính Thuần hỏi Bảo Ðịnh Ðế:

-Hoàng huynh! Cô tô Mộ Dung nếu quả có kỹ thuật thần diệu như thế thì tiếng tăm phải lừng lẫy thiên hạ mới phải, vậy mà sao trong võ lâm ít khi nghe thấy ai nhắc tới?

Bảo Ðịnh Ðế đáp:

-Một là vì họ ít hành động, hai là lúc tranh đấu với ai, không thổ lộ đúng họ tên.

Ngay như việc xung đột với hai phái Thiếu Lâm và Tung Sơn cũng chưa biết rõ người đối đầu là ai cả.

Huỳnh Mi tăng cũng nói:

-Chính Minh không chịu tham dự vào cuộc rắc rối này thật là cao kiến. Việc này khởi phát ra e rằng sẽ thành một cuộc tranh phong đẫm máu giữa các phái võ, sát hại không biết bao nhiêu nhân mạng đây. Nước Ðại Lý ta mấy năm nay quốc thái dân an, nếu họ Ðoàn đi dự cuộc đại hội ở Thiếu Lâm, sau này tất có những nhân vật võ lâm ở Trung Nguyên sẽ tìm đến Ðại Lý, khiêu khích sinh sự mãi mãi, không bao giờ dứt được.

Ðang lúc nói chuyện thốt nhiên có tên vệ sĩ vào bẩm:

-Trình Vương gia, ở cổng ngoài có vị đạo trưởng xin vào tham kiến. Người nói là cố nhân ở núi Thiên Thai tới thăm bạn cũ.

Ðoàn Chính Thuần vui vẻ nói với Bảo Ðịnh Ðế:

-Hoàng huynh! Thạch Thanh Tử đạo huynh đã đến.

Nói xong liền chạy ra nghênh tiếp. Bảo Ðịnh Ðế và Huỳnh Mi tăng nhìn nhau,tự nhiên thấy Huỳnh Mi tăng đứng dậy nói:

-Lão tăng lánh mặt đây.

Bảo Ðịnh Ðế mỉm cười đáp:

-Những ý nghĩ giận hờn trước kia, đến bây giờ mà sư huynh vẫn còn giữ mãi à?

Huỳnh Mi khẽ nhếch mép cười nói tiếp:

-Phật pháp tinh diệu, chính quả khó thành. Khi lão tăng khám phá ra được manh mối vượt khỏi chữ "sân", tức là lúc từ giã Ðoàn huynh rồi đó.

Nói xong đứng dậy ra khỏi nhà khách sảnh, đi thăm bệnh tình sáu đồ đệ. Một lát nghe tiếng cười oang oang từ cửa đưa vào, Bảo Ðịnh Ðế liền đứng dậy chờ.

Ðoàn Chính Thuần và một vị đạo nhân dẫn tay nhau bước vào. Ðạo nhân đội mũ, mặc áo vàng, da sáng như ngọc, phong độ thanh nhã như thần tiên dưới thế. Ðạo nhân cúi đầu chào Bảo Ðịnh Ðế và nói:

-Chính Minh ca ca! Bấy lâu nay ca ca phú quý tôn vinh, đại hưởng thanh bình hạnh phúc lắm đa.

Bảo Ðịnh Ðế khoanh tay đáp lễ và mỉm cười trả lời:

-Anh chàng mũi trâu kia bôn tẩu giang hồ mãi mãi vẫn chưa dạn mặt phong trần nhỉ.

Thạch Thanh Tử cười khanh khách nói tiếp:

-Chưa chưa! Kìa anh Thăng Thái! Mạnh giỏi chứ? còn anh chuyên đào mả trộm gần đây có phát tài không? Phạm huynh vẫn tươi đẹp như thường, thêm được mấy vị cô ng tử nữa rồi? Anh chàng Thiên Thạch để nổi danh mỗi ngày một gày đét để nổi danh "Thiên hạ đệ nhất khinh công" kể cũng vinh dự lắm đấy! Lại còn anh chàng câu cá này nữa! đã câu được con rùa to nào chưa?

Thạch Thanh Tử gọi tên từng người ngồi trong khách sảnh, hỏi đùa giỡn như bạn cố tri một cách rất thân mật, không câu nệ lễ phép chút nào.

Ðoàn Dự biết rõ tính bá phụ hòa nhã nhưng chưa bao giờ nghe thấy ông nói đùa cợt với ai cả. Bây giờ vị đạo nhân này tới, làm cho bầu không khí vui tươi hẳn lên,đến bá phụ cũng gọi đùa đạo nhân là "chàng mũi trâu". Thế mới biết Thạch Thanh Tử quả khéo khôi hài và nói chuyện rất có duyên.

Ðoàn Chính Thuần gọi bảo Ðoàn Dự:

-Con mau chạy ra lạy chào đạo trưởng đi! Vị này là "Ðông Phương đệ nhất kiếm" Thạch Thanh Tử mà thường nhật ta vẫn nhắc tới đó. Người tinh thông kiếm pháp, có thể là "đệ nhất kiếm pháp" thời nay vậy.

Thực ra Ðoàn Dự chưa từng nghe phụ thân nhắc tới tên vị này bao giờ. Song bây giờ không tiện hỏi, chàng vâng lệnh tới lạy chào.

Thạch Thanh Tử vui vẻ khen:

-Cha nào con nấy, quả là một nhân vật phong lưu tuấn tú. Tử đệ nhà họ Ðoàn nước Ðại Lý, một nhà võ học uyên thâm, chắc võ công công tử phải cao siêu lắm.

Thạch Thanh Tử vừa dứt lời liền đưa tay đỡ Ðoàn Dự đứng lên nhưng trong tay đã vận chút ít nội lực chủ ý thử xem võ công Ðoàn Dự đã tới mức nào.

Ðoàn Dự vội kêu lên:

-Xin đạo trưởng nới tay, cháu chưa học võ công đâu.

Ðoàn Dự nói chưa dứt lời thì hai tay Thạch Thanh Tử đã chạm vào bàn tay Ðoàn Dự. Ðột nhiên ông giật mình đánh thót một cái. Kình lực vừa phát ra phút chốc đã biến mất tăm dạng, chẳng khác gì hòn đất quẳng xuống biển, thấy trong tay Ðoàn Dự có một hấp lực rất mạnh hút cuồn cuộn lấy nội lực trong người mình.

Thạch Thanh Tử đi di lịch khắp thiên hạ, thấy nhiều hiểu rộng, sau khi kinh hoàng miệng lẩm bẩm: "Ðây là môn hoá công đại pháp của phái Tinh Tú Hải ở núi Côn Luân. Họ Ðoàn nước Ðại Lý là một chính phái tiếng tăm lừng lẫy, sao lại để con cháu luyện môn tà thuật này? một môn mà hết thảy võ lâm đều thống hận, ghê tởm". Ông liền ngưng tụ kình lực, lật hai bàn tay đập mạnh vào trên mu bàn tay Ðoàn Dự mới gỡ được tay ra, khỏi bị dính chặt vào tay chàng.

Ðoàn Dự cảm thấy hai tay đau nhói, tựa hồ xương tay bị gẫy nát, chàng đem lòng oán hận Thạch Thanh Tử, lẩm bẩm một mình: "Lão này tệ thật, mình có nhã ý ra lạy chào lão mà lão lại trở mặt đánh mình đau thế này".

Chàng có hiểu đâu rằng Thạch Thanh Tử tưởng lầm là chàng đem tà thuật hại ông. Ông biết môn "hoá công đại pháp" có một ma lực ghê gớm, một người luyện võ suốt đời tâm khổ mới thành tài, nhưng chỉ trúng tà pháp này thì bao nhiêu nội công, ngoại lực đều mất hết, trở thành người không biết một chút võ công nào nữa. Có điều người dùng môn tà

thuật đó tuy làm tổn hại cho người nhưng cũng chẳng bổ ích gì cho mình cả. Khác với sức "chu cáp thần công" trong người Ðoàn Dự, mỗi khi đụng vào ai thì nó hút lấy nội lực người đó nhập vào nội lực của mình và cứ mỗi lần tiếp xúc như thế nội lực lại tăng thêm. Vừa rồi một ít nội lực của Thạch Thanh Tử cũng đã bị chuyển sang người chàng.

Bọn Bảo Ðịnh Ðế thấy trạng thái Thạch Thanh Tử có vẻ khác lạ đều lấy làm kinh ngạc.

Ðoàn Chính Thuần sợ Thạch Thanh Tử dùng độc thủ đánh con mình,tức khắc bước tới gần, mỉm cười nói:

-Anh chàng mũi trâu này lâu lắm mới gặp nhau, định dùng món quà gì để tặng cho con tôi đó?

Ðoàn Chính Thuần vừa nói vừa vận dụng nội lực để dự bị đối phó. Vì Thạch Thanh Tử không những về kiếm thuật đã lừng danh bốn bể mà cả về môn nội công quyền cước Thạch cũng là một tay trác tuyệt. Nếu để Ðoàn Dự bị trúng một đòn,thì dù chẳng chết cũng bị trọng thương.

Thạch Thanh Tử cười nhạt hỏi:

-Họ Ðoàn ở nước Ðại Lý, riêng về môn Nhất Dương Chỉ cũng đã nổi tiếng với thiên hạ hãy còn chưa đủ à? Sao còn phải cho con đi học môn tà thuật của Tinh tú

Hải lão ma làm gì?

Ðoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi:

-Có phải anh nói môn tà thuật "hoá công đại pháp" đó chăng? ai học môn ấy?

Thạch Thanh Tử đáp:

-Anh để lệnh lang đi vào con đường bàng môn tả đạo mà không sợ làm ô uế thanh danh họ Ðoàn nước Ðại Lý ư?

Ðoàn Chính Thuần lại càng kinh ngạc cho là Thạch Thanh Tử ám chỉ môn phái Nam Hải Ngạc Thần nên mỉm cười nói tiếp:

-Nam Hải Ngạc Thần tuy cố ý thu nạp con tôi làm đồ đệ nhưng ngờ đâu trái lại y phải nhận con tôi làm thầy. Dù sao chỉ là chuyện đùa chứ đâu phải sự thực?

Thạch Thanh Tử lắc đầu đáp:

-Nam Hải Ngạc Thần cố nhiên là một phái võ có sở trường riêng nhưng y có biết gì về môn "hoá công đại pháp"?

Ðoàn Chính Thuần có vẻ bực bội hỏi:

-Anh chàng mũi trâu này chỉ có một điều "hoá công đại pháp" hai điều "hoá công đại pháp", định giở trò ma quỷ gì đây?

Thạch Thanh Tử có biết đâu đến chuyện Ðoàn Dự có "chu cáp thần công" trong mình? Chẳng những Bảo Ðịnh Ðế cùng vợ chồng Ðoàn Chính Thuần không hay mà chính chàng cũng không hiểu nốt. Thạch Thanh Tử cho là Ðoàn Chính Thuần lừa bịp mình, nên đứng phắt dậy, giận dỗi nói:

-Hai vị Ðoàn gia! Thạch mỗ tuy mây ngàn hạc nội, phiêu bạt giang hồ nhưng hai bàn chân không phải là sắt, lẽo đẽo từ Giang Nam đến Ðại Lý, đâu có phải vì một chén thanh trà? Các vị đã không coi tôi là bạn thì thôi, tôi xin cáo biệt.

Nói xong quay gót đi liền.

Bảo Ðịnh Ðế mỉm cười bảo Hoa Hách Cấn và Ba Thiên Thạch:

-Hai người ra giữ lấy anh chàng mũi trâu lại! Bắt gã phải nói cho vỡ lẽ? Vì lý do gì đã vì tình bạn hữu qua chơi nước Ðại Lý, lại chưa ăn uống no say đã trở gót?

Ðâu có thể để gã ra đi một cách dễ dàng thế được?

Hoa Hách Cấn và Ba Thiên Thạch cùng là bạn với Thạch Thanh Tử nên đều cười khanh khách, nhảy ra chặn cửa.

Hoa Hách Cấn nói:

-Thạch đạo trưởng! Ðạo trưởng qua chơi nước Ðại Lý mà không mang theo trường kiếm, đủ tỏ là đạo trưởng có thịnh tình và giữ thể diện cho bên Hoàng gia chúng tôi nhưng cũng vì thế mà đạo trưởng muốn qua khỏi cửa này không phải

chuyện dễ dàng.

Thạch Thanh Tử thấy mặt mọi người đều không có gì là kình địch nên trong lòng nghĩ lại: "cứ như địa vị và danh vọng họ Ðoàn quyết nhiên không chịu để cho con cháu luyện môn tà thuật ô uế của Tinh tú Hải hay là Ðoàn Dự đã học lén và giấu cả cha, bác chăng? nếu mình nói toạc ra e lại kết oán với Ðoàn Dự. Có điều mình đối với Bảo Ðịnh Ðế và Ðoàn Chính Thuần là chỗ thâm giao, chẳng lẽ biết mà không nói?".

Nghĩ vậy Thạch Thanh Tử liền quay lại, nghiêm nét mặt nói với Ðoàn Dự:

-Ðoàn công tử ơi! Thạch mỗ dù chẳng có ra gì chăng nữa cũng vẫn là vai trên công tử. Hôm nay ta có câu chuyện nói ra hơi khó nghe song vì muốn giữ danh diện cho lệnh bá và lệnh tôn nên buộc lòng ta phải nói. Xin công tử miễn trách.

Ðoàn Dự vội đáp:

-Thạch đạo trưởng có điều chi dạy bảo, Ðoàn Dự xin cung kính tuân theo.

Thạch Thanh Tử nghĩ thầm:

-Thằng lỏi con này giả vờ khéo đây! nó làm ngây như thật!

Nghĩ vậy Thạch Thanh Tử hỏi luôn:

-Ðoàn công tử học "hoá công đại pháp" được mấy năm rồi? Phải chăng lệnh sư là một vị chân nhân dưới trướng Tinh Tú Hải lão ma?

Ðoàn Dự tuyệt nhiên không hiểu câu hỏi ra sao, chàng hỏi lại:

-Trưởng lão nói sao? "hoá công đại pháp" rồi Tinh Tú Hải lão ma là chi vậy?

Vãn sinh hôm nay mới được nghe trưởng lão nói là một.

Thạch Thanh Tử lại cho là người truyền thụ môn này cho Ðoàn Dự cố ý giấu kín về lai lịch môn phái và giấu luôn cả tên gọi môn võ công đó chăng? Ðạo nhân hỏi tiếp:

-Vậy người truyền môn này cho công tử tướng mạo thế nào?

Ðoàn Dự đáp:

-Vãn sinh chưa từng học qua môn võ nào cả.

Giữa lúc đó, Huỳnh Mi tăng từ nội đường xăm xăm chạy ra, nắm lấy tay phải Ðoàn Dự. Nhưng vừa chạm vào tay chàng, nhà sư cảm thấy người run bần bật và nội lực trong mình cứ thế tuôn ra, không sao hãm lại được. Tức quá ông liền co chân đá Ðoàn Dự bắn đi lăn long lóc.

Mọi người thấy vậy, sợ tái xanh mặt, nhất tề đứng dậy hỏi:

-Chi vậy? Chi vậy?

Huỳnh Mi tăng đáp:

-Hai vị Ðoàn huynh! Các vị có đánh chết thằng nhỏ này không? Hay để cho lão tăng phải ra tay?

Giọng nói nhà sư run lên vì tức giận, những thớ thịt trên mặt giật lên trông rõ. Sở dĩ Huỳnh Mi tăng có hành động này là vì sáu đồ đệ sau khi tỉnh lại đã kể rõ cho biết chuyện họ bị Ðoàn Dự hút hết cả nội lực, nên sự xét đoán của Huỳnh Mi tăng hoàn toàn giống Thạch Thanh Tử và cho là chàng đã học môn "hoá công đại pháp" của Tinh Tú Hải. Huỳnh Mi tăng lại còn bực mình ở chỗ Ðoàn Dự còn đem oán trả ơn, làm hư hoại nội lực cả sáu đồ đệ ông, rồi lúc chính ông chạm vào tay Ðoàn Dự lại cảm thấy rõ công lực của mình cũng bị hao tổn, thế là ông tin chắc, không còn nghi ngờ gì nữa.

Thoạt mới nghe Thạch Thanh Tử nói, Bảo Ðịnh Ðế lấy làm kỳ quái cũng cho là tính hạnh Thạch xưa nay vẫn ưa khôi hài, quen lối hoạt kê, cố ý gây một trò cười,nhưng từ lúc thấy Huỳnh Mi tăng cử chỉ như vậy nhà Vua mới biết là sự tình nghiêm trọng lắm.

Bảo Ðịnh Ðế đưa tay trái nắm lấy bàn tay Ðoàn Dự dắt dậy.

Hai tay vừa chạm vào nhau, nhà vua cũng cảm thấy trong lòng xao xuyến và nội lực cứ tiết ra ngoài, liền kìm hãm kình lực lại, phất mạnh tay áo một cái, đẩy Ðoàn Dự lùi ra ba bước và quát hỏi:

-Mi học môn tà thuật này từ bao giờ?

Ðoàn Dự từ nhỏ tới lớn chưa bao giờ bị bá phụ tức giận quát mắng như thế, sợ quá quỳ mọp xuống lạy, bẩm:

-Cháu chưa từng học môn võ công nào khác, ngoài phép Lăng Ba Vi Bộ. Nếu có phải đó là một môn tà thuật ác độc thì... từ nay cháu không sử dụng đến nó nữa,quên nó đi là xong.

Bảo Ðịnh Ðế vốn biết Ðoàn Dự có tính khí cương trực, không hề nói dối bao giờ,hơn nữa đối với bá phụ vẫn có một niềm kính mến, quyết không có lý do nào lại dùng tà thuật để hại bác, tất có điều gì bí ẩn bên trong nên lại hỏi tiếp:

-Mi dùng tà thuật để tiêu tán mất công lực của ta, đó là tự ý mi hay là kẻ nào bắt buộc, đến nỗi không tự chủ được?

Ðoàn Dự lại càng kinh ngạc đáp:

-Cháu không biết mảy may gì cả. Khi nào cháu dám dùng tà thuật làm tiêu tan nội lực bá phụ? Cháu thực không hiểu một chút gì về tà thuật.

Từ lúc Tuệ Chân và Tuệ Thiến mới đến, Thư Bạch Phụng giữ địa vị một bậc Vương Phi, không tiện ra ngoài tiếp tân khách nên vẫn ngồi trong nhà. Sau khi nghe báo Ðoàn Dự bị Huỳnh Mi tăng đá lăn đi và đang bị Bảo Ðịnh Ðế chất vấn

nóng ruột quá mới chạy ra xem.

Bà thấy con đang quỳ dưới đất, nét mặt hốt hoảng lo sợ, trong lòng xiết bao thương xót, đưa tay cầm lấy cánh tay con khuyên nhủ:

-Ðoàn Dự! Con đừng lo! Có gì cứ trình rõ cho bá phụ... biết là xong...

Vừa chạm vào tay con, Thư Bạch Phụng đã cảm thấy nội lực cứ cuồn cuộn tiết ra, không sao kìm hãm lại được.

Bảo Ðịnh Ðế đã biết trước và đề phòng, song giữa anh chồng với em dâu, không tiện đưa tay ra nắm lại, chỉ dùng tay áo phất mạnh một cái, một luồng kình lực phóng ra, tựa lưỡi sắt mỏng lách vào giữa, hai tay mẹ con Ðoàn Dự tức khắc rời ra.

Thư Bạch Phụng vừa rút tay ra được kinh hoảng hỏi con:

-Mi... Mi...

Ðoàn Dự thấy mẫu thân lảo đảo lùi lại không hiểu ra sao, vừa toan chạy đến định đỡ cho mẫu thân đứng vững.

Ðoàn Chính Thuần gọi giật giọng:

-Dự nhi! Ðứng yên đấy!

Vừa nói vừa nhảy vội đến, đứng xen vào giữa hai mẹ con Ðoàn Dự. Tới lúc này thì mọi người đều thay đổi ý nghĩ, biết trong người Ðoàn Dự có cái gì quái lạ,không ai còn nghi ngờ chàng đã học môn "hoá công đại pháp" để cố ý làm hại

người nữa. Những vị này am hiểu thế cố, chỉ nhìn vào cử chỉ và trạng thái Ðoàn Dự cũng biết chàng chẳng có mảy may gì là giảo hoạt gian trá. Dù chàng có là kẻ đại gian, đại ác đến đâu chăng nữa, cũng không có lý nào lại định làm hại đến cả mẫu thân được.

Cao Thăng Thái thốt nhiên nói với Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử:

-Tôi đố hai vị tìm ra được nguyên nhân vụ này và thi xem ai nói đúng trước là thắng.

Hai người trừng mắt lườm nhau một cái rồi đều gia công suy nghĩ.

Nguyên trước kia Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử là đôi bạn rất thân nhưng có một lần ngẫu nhiên tranh luận về hai giáo lý Phật và Ðạo rồi không bên nào chịu bên nào. Cuộc tranh luận giáo lý đưa đến cuộc tỷ thí võ lực. Mỗi bên đều có sở trường riêng, bất phân cao hạ. Sau còn đấu liên tiếp mấy lần, cuối cùng đi tới chỗ cả hai người cùng suýt chết, may nhờ Bảo Ðịnh Ðế dùng nội lực thượng thừa mới giải cứu được. Song cả ba người cùng hao tổn công lực. Từ đó bên nhà sư và bên thầy đạo không trông mặt nhau nữa. Không ngờ hôm nay lại gặp nhau tại phủ Trấn Nam Vương này.

Cao Thăng Thái có ý định hoà giải cuộc đấu tranh vô vị giữa hai bên, chỉ mong hai người nhân dịp này tỷ thí về kiến văn chứ không tỷ thí về võ lực để phân rõ thắng phụ mà kết liễu cuộc tranh chấp đó đi. Song Cao Thăng Thái là bạn thâm

giao với Thạch Thanh Tử, ra mục đề như thế không khỏi có ý thiên lệch ở bên trong. Vì Thạch Thanh Tử là người đi khắp đó đây tất lịch duyệt hơn. Trong một năm chả được mấy ngày thảnh thơi ngồi nhàn, còn Huỳnh Mi tăng ở nơi hoang sơn, hẻo lánh kiến văn bằng Thạch Thanh Tử thế nào được? Có điều Huỳnh Mi tăng cố nhiên là không hiểu được rồi còn Thạch Thanh Tử thì ngoài sự suy tưởng cho là môn "hoá công đại pháp" của Tinh Tú Hải ra cũng không sao tìm được câu giải đáp nào khác nữa.

Ðoàn Chính Thuần từ hồi nào vẫn ngồi yên, bây giờ thốt nhiên tỏ vẻ phẫn nộ nói:

-Ðoàn Dự trong lúc bị giam trong nhà đá nhất định bị Thanh Bào Khách dùng dùng thứ chất độc ghê gớm gì đây, nên trong người có tà thuật mà y không biết.

Bảo Ðịnh Ðế gật đầu đáp:

-Thuần đệ suy đoán rất có lý. Ðoàn Dự nhất định bị lão dùng thủ đoạn sâu độc gì chứ không thoát được.

Ðoàn Dự đáp:

-Có! Cháu bị hôn mê bất tỉnh, ít nhất cũng tới bốn, năm lần.

Ðoàn Chính Thuần vỗ tay nói:

-Ðúng rồi, Thanh Bào Khách nhân lúc Dự nhi hôn mê đem tà thuật làm tiêu tan công lực chuyền vào trong người nó. Thế là lão mượn tay Dự nhi để làm hại những người chí thân trong nhà. Cái kế hiểm độc của lão làm cho tất cả công lực của chúng ta đều bị huỷ hoại về tay Ðoàn Dự. Con người thâm độc như thế hỏi ai không căm phẫn cho được?

Ðại ca! Việc này không thể chậm trễ. Ta phải nghĩ cách khử trừ tà thuật cho Dự nhi ngay.

Thư Bạch Phụng lại càng lo lắng, vội hỏi:

-Dự nhi! Con có thấy trong người bứt rứt khó chịu không?

Ðoàn Dự chau mày đáp:

-Khắp trong người con chỗ nào cũng toàn chướng khí, chỗ nào cũng bị căng thẳng muốn chết đi được vì không lối thoát ra ngoài, nó cứ chạy quẩn trong người.

Lục phủ ngũ tạng dường như bị đảo lộn cả lên.

Mọi người thấy thế đều thương xót cho Ðoàn Dự, nhất là Thư Bạch Phụng tình mẫu tử lại càng thấm thía nên nói với Bảo Ðịnh Ðế:

-Thưa đại bá! Phải nghĩ cách nào để trừ độc cho Dự nhi mới được chứ!

Bảo Ðịnh Ðế đáp:

-Ðệ muội hãy khoan tâm! Hai vị trước mặt ta đây: một tăng, một đạo đều là nhân vật tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm, một ông mắng thằng bé hết lời, một ông đá nó quay long lóc, tất nhiên họ phải lãnh trách nhiệm trị bệnh, giải độc cho y.

Hai người đầu óc đang bận suy nghĩ tìm xem Ðoàn Dự mắc phải tà thuật gì hay là trúng phải nọc độc nên chưa nghe thấy lời Bảo Ðịnh Ðế vừa nói. Thốt nhiên Huỳnh Mi tăng reo lên:

-A ha! Phải rồi!

Ai nấy cả mừng chăm chú nhìn vào ông. không ngờ Huỳnh Mi tăng lại lắc đầu xua tay, cải chính:

-Nhưng mà không đúng! Không đúng! Thứ thuốc độc đó chỉ có thể làm tiêu tan được công lực bản thân người trúng thôi chứ không thể làm tiêu tan sức mạnh của người khác.

Ðoạn lại thấy Thạch Thanh Tử vỗ đét vào đùi và nói:

-Nhất định là thế này rồi.

Cao Thăng Thái mừng rỡ hỏi:

-Thế nào?

Thạch Thanh Tử vẻ mặt hớn hở đáp:

-Trên núi Trường Bạch ngoài biển thuộc Liêu Ðông, có một cái đảo rắn...

Nói tới đây nét mặt vui mừng lạt dần, rồi biến thành thất vọng buồn thiu. Thạch Thanh Tử lắc đầu nói tiếp:

-Tôi nghĩ lầm rồi! Có một chỗ nói không xuôi được.

Trong toà khách sảnh lại im hơi lặng tiếng hồi lâu, không ai nói năng gì hết.

Trong lúc bầu không khí nặng trĩu bao phủ thoáng nghe có tiếng chân bước lật đật,một tên thái giám chạy từ ngoài vào đến cửa đã lên tiếng bẩm:

-Khải tâu đức vạn tuế, có hai tên giả câm giả điếc, chúng dám viết những câu đại nghịch bất đạo vào trước ngực, hiện đã bắt giữ, để ngoài cửa cung.

Bảo Ðịnh Ðế vừa nghe thấy bốn chữ: "giả câm giả điếc" chợt nghĩ ra điều gì hỏi lại:

-Người đó bị câm thật hay bị cắt lưỡi?

Thái giám đáp:

-Ðức vạn tuế thật là bậc thánh minh nhìn xa muôn dặm. Hai tên gian tế này quả là bị cắt lưỡi.

Bảo Ðịnh Ðế đưa mắt nhìn Huỳnh Mi tăng cùng Thạch Thanh Tử và Ðoàn Chính Thuần. Mọi người đều tự hỏi: "phải chăng lung á lão nhân cũng ra tay, thế này thì lại càng thêm phiền cho mình".

Bảo Ðịnh Ðế quay sang bảo Ba Thiên Thạch:

-Ngươi ra mời hai người khách đó vào đây!

Ðược một lát Ba Thiên Thạch dẫn hai gã thanh niên chừng 18, 19 tuổi vào bẩm:

-Có sứ giả dưới trướng Thông Biện tiên sinh vào triều kiến bệ hạ.

Nguyên Lung á lão nhân vừa điếc vừa câm nhưng lại mang ngoại hiệu Thông Biện tiên sinh, ra điều tai ta tuy điếc nhưng lại nghe rõ hơn mọi người, miệng ta tuy câm nhưng lại hùng biện hơn ai hết. Lung Á tiên sinh là một nhân vật rất nổi

tiếng trong võ lâm, không thuộc phe tà mà cũng không hẳn phe chính. Lão đã kết oán với ai thì suốt đời tranh đấu liên miên. Nếu chưa làm được cho kẻ thù tàn tạ thì không bao giờ chịu thôi. Vì thế những người trong võ lâm có võ công tương đương với lão, hoặc cao hơn lão cũng xử nhũn với lão để tránh mọi sự phiền não.

Mọi người thấy hai gã thanh niên khí vũ hiên ngang, diện mạo thanh tú, cùng mặc áo bào trắng dài lượt thượt, trước ngực có viết hai hàng chữ: "Sứ giả dưới trướng Thông Biện tiên sinh có việc báo cho Ðoàn Chính Minh tiên sinh hay".

Khắp trong nước Ðại Lý ai cũng phải kiêng hai chữ Chính Minh không được nhắc tới. Bây giờ thấy hai gã này dám công nhiên viết "Ðoàn Chính Minh tiên sinh" vào trước ngực nên một nhóm triều thần và thái giám cho là kẻ đại nghịch bất đạo.

Bảo Ðịnh Ðế tủm tỉm cười nói:

-Thông Biện tiên sinh gọi ta bằng tiên sinh, thế cũng là nể ta lắm đó.

Hai thanh niên tới trước mặt Bảo Ðịnh Ðế chỉ vái chào chứ không quỳ lạy.

Ba Thiên Thạch lấy giấy bút trên bàn viết mấy chữ: "Thông Biện tiên sinh có điều chi muốn nói? Các ngươi tâu lên Hoàng thượng đi!".

Lung á lão nhân tính tình rất là cổ quái, những đệ tử dưới trướng cùng những người hầu cận lão đều bị cắt lưỡi và chọc thủng màng tai để trở thành những người câm điếc như lão, đã chẳng nghe thấy gì lại không nói được. Thật là một quy luật đặc biệt nên khách giang hồ ai cũng biết tiếng. Gã thanh niên đứng mé trái cởi bọc đeo trên lưng xuống, mở ra lấy một bộ quần áo con gái mầu hồng nhạt mặc vào rồi lại lấy phấn sáp thoa lên mặt. Còn một gã giúp hắn sẻ tóc ra, buộc làm hai túm,quấn chỉ mầu hồng vào, hoá trang làm một vị nữ lang. Mọi người thấy thế vừa kinh ngạc vừa buồn cười, đều nghĩ mãi không hiểu Lung á tiên sinh phái hai gã sứ giả này đến để giở trò quỷ quái gì. Gã thanh niên giả dạng thiếu nữ xong, liền thướt tha bước hai bước tới rồi lại õng ẹo múa chân, múa tay một hồi, điệu bộ thướt tha cho ra vẻ một thiếu nữ khả ái. Mọi người tuy buồn cười nẻ ruột song đều cho là Lung Á lão nhân giở trò này tất có thâm ý gì nên ai cũng giữ vẻ trầm mặc, không cười lên tiếng. Riêng mình Ðoàn Dự chẳng cần hiểu Lung Á lão nhân là hạng người nào, vỗ tay cả cười hỏi:

-Ngươi đóng vai một vị nữ lang, còn gã kia thủ vai gì?

Gã thanh niên thứ hai không cải trang chi hết, ngẩng đầu lên, nhìn cao bước dài,tựa hồ một nhân vật hiên ngang, tung hoàng thiên hạ không ai bằng mình. Hắn đi quanh một vòng, tới trước mặt thiếu nữ giả nghiêng đầu nhoẻn cười và đưa mắt liếc, rồi lại thò tay vuốt má. Thiếu nữ giả cũng tủm tỉm cười, môi mấp máy làm bộ như người nói được. Thốt nhiên thanh niên ghé miệng hôn má thiếu nữ giả. Thiếu nữ giả tức mình đưa tay tát bốp vào má thanh niên một cái thật mạnh. Thanh niên vụt chìa ngón tay trỏ ra, điểm vào cạnh sườn thiếu nữ giả. Trong lúc thanh niên đưa ngón tay trỏ ra thì từ Bảo Ðịnh Ðế, Ðoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái,Huỳnh Mi tăng, Thạch Thanh Tử cho đến bọn tam công nước Ðại Lý, không hẹn nhau mà cùng kêu rú lên một tiếng.

Ðoàn Chính Thuần và Thạch Thanh Tử rời chỗ ngồi, đứng phắt dậy vì thấy ngón tay điểm huyệt của thanh niên này, về thủ pháp cùng cương vị nhất nhất đúng phép "Nhất Dương Chỉ" gia truyền của họ Ðoàn.

Về thủ pháp Nhất Dương Chỉ thoáng nhìn thì tựa hồ chẳng có chi là khó nhưng kỳ thực trong đó chứa đựng bao nhiêu biến hoá kỳ diệu. Ngón tay phóng ra phải tuỳ theo phương tiện, đứng cách xa bao nhiêu, rồi đưa cả bàn, không một chỗ nào có thể sai lầm bằng dây tơ sợi tóc, không thế thì uy lực không thể phát huy ra được.

Bọn Huỳnh Mi tăng, Thạch Thanh Tử, Cao Thăng Thái tuy chưa học môn Nhất Dương Chỉ song đối với họ Ðoàn là chỗ thân mật từ lâu nên về thủ pháp đúng hay sai, thoáng trông đã hiểu ngay.

Mọi người đều biết rõ Lung á lão nhân về võ công tự lập ra một phái võ chuyên về môn âm nhu trái ngược với môn Nhất Dương Chỉ chuyên về sở trường dương cương. Hai đằng khác hẳn nhau, không hiểu sao đồ đệ lão lại học được môn chỉ pháp đó?

Mọi người còn đang kinh dị thì trong chớp nhoáng, sự biến hoá lại phát sinh ngay trước mắt.

Thiếu nữ giả thấy ngón tay thanh niên điểm tới, vụt đưa bàn tay ra nắm lấy, ngón tay trỏ thanh niên kêu rắc một tiếng. Ngón tay thanh niên đã bị gãy xương. Miếng bẻ đó thật là kỳ diệu.

Mọi người đều nhìn thấy rõ ràng, nhưng không ai ngờ được là cô thiếu nữ giả hiệu lại biết sử dụng thế đánh hiểm hóc này. Thanh niên lại bước lên một bước, dùng ngón tay trỏ bên trái điểm trước ngực thiếu nữ giả, vẫn theo phép Nhất Dương Chỉ.

Thiếu nữ giả hai tay vừa chập vào nhau đã nghe cấc một tiếng, ngón tay trái thanh niên lại bị gãy nốt. Thanh niên bị gãy liền hai ngón tay và tựa hồ không đau đớn gì vẫn tiếp tục tấn công. Trong khoảnh khắc gã sử dụng luôn sáu thế về phép Nhất Dương Chỉ. Thiếu nữ giả phản công bằng đủ mọi cách, hoặc bật lên đè xuống,hoặc nắm lấy hất ra, hoặc móc vào giữ lại. Kết cục đối phương lại gẫy thêm sáu ngón tay nữa, chỉ còn trơ lại hai ngón tay cái, thanh niên phải xoay người sang mé bên trái chạy trốn.

Thiếu nữ giả vỗ tay cười ha hả, ra chiều đắc ý rồi lại cầm bút viết mấy chữ: "họ Ðoàn nước Ðại Lý còn thua nhà Mộ Dung ở Cô Tô". Viết xong ném bút xuống, dắt tay thanh niên bị gãy ngón tay đó đi liền.

Ba Thiên Thạch cản lại nói:

-Hãy thong thả.

Bảo Ðịnh Ðế lắc đầu nói:

-Cứ để cho họ đi.

Hai gã đi khỏi, mọi người đều cảm thấy đầu óc nặng trĩu, yên lặng không ai nói gì. Mọi người đều hiểu rằng Lung Á lão nhân sở dĩ phái hai tên sứ giả này tới cốt ý bảo rõ cho Bảo Ðịnh Ðế và Ðoàn Chính Thuần biết là nhà Mộ Dung ở Cô Tô đã có cách phá môn Nhất Dương Chỉ của họ Ðoàn rồi.

Dĩ nhiên Bảo Ðịnh Ðế hay Ðoàn Chính Thuần sử dụng phép Nhất Dương Chỉ tất uy lực sẽ mạnh hơn nhiều, song đây đối phương tượng trưng bằng một thiếu nữ, đến lúc bậc cao thủ khác của Mộ Dung ra tay, tất nhiên các đường đánh còn kỳ diệu hơn gấp mấy. Ðiều làm cho mọi người băn khoăn nhất là thanh niên đó công nhiên sử dụng luôn được tám đường trong môn Nhất Dương Chỉ, tuy còn kém về sức mạnh song cách thức thì không sai mảy may. Tám thủ pháp để khắc chế địch thủ của thiếu nữ giả lại càng kỳ diệu và biến hóa không biết đâu mà lường được.

Bảo Ðịnh Ðế không nhắc tới chuyện vừa rồi, quay sang mỉm cười hỏi Thạch Thanh Tử:

-Ðạo huynh! Ðạo huynh lận đận từ Giang Nam đến đây, phải chăng cũng có chuyện gì liên quan đến nhà Cô Tô Mộ Dung?

Thạch Thanh Tử lắc đầu đáp:

-Ðối với bọn Mộ Dung thì chẳng có liên quan gì nhưng đối với họ Ðoàn thì có việc liên quan rất lớn. Số là đệ tử họ Ðoàn đã gây ra tại thành Dương Châu một việc rắc rối không thể tả được.

Hoàng đế nhà Ðại Tống tuy có nể mặt Ðoàn huynh,không muốn truy cứu làm gì, song những nhân sĩ võ lâm ở Trung Nguyên đều nổi công phẫn.

Bảo Ðịnh Ðế kinh ngạc hỏi:

-Con cháu họ Ðoàn chúng tôi mới chỉ có mỗi Ðoàn Dự, song y chưa rời khỏi nước Ðại Lý lấy nửa bước thế thì làm sao đến quấy rối tận Dương Châu được?

Thạch Thanh Tử đáp:

-Trong một đêm mà 28 mạng của ba nhà Hạ Hầu Túc, Kim Trung và Vương Thúc Kiền tức Dương Châu tam hùng đều bị chết sạch về đòn Nhất Dương Chỉ.

Vậy Dương Châu tam hùng trước kia có đắc tội gì với Ðoàn huynh không?

Hồi 24

Lục mạch Thần kiếm

Bảo Ðịnh Ðế hỏi:

-À này! Thạch đạo huynh! Có phải 28 người đó đã đích xác chết về phép Nhất Dương Chỉ không?

Thạch Thanh Tử hỏi lại:

-Phép Nhất Dương Chỉ giết người một cách rất Vương đạo. Ðối phương sau khi trúng Nhất Dương Chỉ khoan khoái dị thường. Chân tay gân cốt thư thái vô cùng nên lúc chết còn để lại nét mặt vui tươi, khắp mình không một vết thương. Có đúng thế không?

Ðoàn Chính Thuần cười đáp:

-Anh chàng mũi trâu ơi! Anh nói không sai chút nào. Chắc anh đã được nếm mùi Nhất Dương Chỉ rồi thì phải.

Thạch Thanh Tử không cười nữa, nghiêm sắc mặt nói:

-Quả 28 gã hán tử trong nhà tam hùng tại Dương Châu đều ngậm cười mà chết,khắp mình không có thương tích gì hết.

Ðoàn Chính Thuần lại hỏi:

-Phải chăng người mềm như bún, thân không co quắp?

Thạch Thanh Tử nói:

-Ðúng thế! Tôi biết có thứ thuốc độc giết người, xác chết còn lộ vẻ mặt tươi cười nhưng thây mềm nhũn như bún thì ngoài phép Nhất Dương Chỉ ra khắp thiên hạ không còn loại nào nữa.

Ðoàn Chính Thuần nói:

-Họ Ðoàn nhà ta không được đa đinh, hàng con cháu chỉ có mình thằng Dự thế mà đến nay y vẫn chưa chịu học phép Nhất Dương Chỉ.

Bảo Ðịnh Ðế hỏi Thạch Thanh Tử:

-Ðạo huynh! Ðạo huynh vừa bảo trong nhà tam hùng ở Dương Châu chỉ toàn đàn ông bị chết mà thôi, không có người đàn bà nào cả. Vậy thì mặt mũi hung thủ hẳn có người nhận được chứ?

Thạch Thanh Tử đáp:

-Hạ Hầu phu nhân cùng Vương phu nhân đều nói rằng hung thủ lấy khăn xanh bịt kín, không nhìn rõ mặt. Cứ xem tầm vóc mà đoán thì rõ ràng là một người còn ít tuổi.

Bảo Ðịnh Ðế thở dài đưa mắt nhìn Ðoàn Chính Thuần. Ðoàn Chính Thuần nói:

-Thạch đạo huynh! Từ vụ thằng con tôi bị kịch độc cho tới vụ giết người đều do tay một người trong họ Ðoàn tôi. Người đó mang danh hiệu "thiên hạ đệ nhất ác nhân". Ðoạn đem chuyện Ðoàn Dự bị cướp đem đi ra sao, Huỳnh Mi tăng gia công giải cứu thế nào thuật sơ qua lại một lượt. Lại kể cả cuộc đấu cờ, chính ra Huỳnh Mi tăng sắp thua rồi, sau thái tử Diên Khánh đi nhầm một nước nên nỗi bị bại.

Huỳnh Mi tăng nói:

-Ðoàn nhị huynh bất tất phải che cái xấu cho ta? Rõ ràng là lão tăng phải thua ông ta mà ngay đến lão mũi trâu cũng không đấu nổi đâu.

Thạch Thanh Tử nói:

-Chưa chắc!

Huỳnh Mi tăng nói:

-Chúng ta đấu chơi một bàn nào!

Thạch Thanh Tử nói:

-Tôi đang muốn lĩnh giáo đây.

Huỳnh Mi tăng cười lạt nói:

-Thật đáng nực cười!

Thạch Thanh Tử hỏi:

-Hoà thượng sao lại cười ta?

Huỳnh Mi đáp:

-Lão tăng buồn cười cái người không có một chút kiến thức nào cả. Hiển nhiên là đám môn hạ Ðoàn Diên Khánh làm nên tội lỗi lại đổ tiếng ác cho Ðoàn Hoàng gia.

Thạch Thanh Tử đỏ mặt lên cãi:

-Ðoàn Diên Khánh không phải người họ Ðoàn hay sao? Môn đệ Ðoàn Diên Khánh thì cũng là môn đệ họ Ðoàn chứ gì?

Huỳnh Mi cười lạt nói:

-Thôi đừng lý sự cùn nữa.

Thạch Thanh Tử cũng cười lạt nói:

-Chính hòa thượng hay nói hươu nói vượn thì có.

Bảo Ðịnh Ðế thấy hai người cãi nhau cũng mỉm cười nói:

-Theo lời tiên sinh thì cô gái nhà Mộ Dung phá phép Nhất Dương Chỉ mà chàng trai trêu cợt cô gái đó có lẽ là thủ phạm giết người nhà tam hùng ở Dương Châu.

Tới đây Bảo Ðịnh Ðế nói bằng một vẻ trịnh trọng:

-Thuần đệ! Tổ tiên ta đã có minh huấn, không bao giờ can thiệp vào những vụ trả ân, trả oán giữa các phái võ ở Trung Nguyên. Nhưng trong vụ này mắt mình ngó thấy có người đem phép Nhất Dương Chỉ ra làm càn rỡ thì họ Ðoàn không thể điềm nhiên ngồi nhìn được.

Ðoàn Chính Thuần nói:

-Chính thế!

Cả hai anh em Bảo Ðịnh Ðế đều để bụng không nói ra miệng vụ nhà Mộ Dung ở Cô Tô cậy có võ công lợi hại up hiếp phép Nhất Dương Chỉ của môn đệ họ Ðoàn, nếu bỏ không can thiệp thì oai danh họ Ðoàn nước Ðại Lý sẽ bị tổn thương rất nhiều.

Bảo Ðịnh Ðế lại nói:

-Hoàng đệ cùng tam công, Tứ ẩn (tức Ngư, Tiều, Canh, Ðộc) đến chùa Thiếu Lâm thăm Huyền Từ đại sư, đồng thời nếu quan sát cho biết rõ được môn võ công tuyệt thế của phái Mộ Dung ở Cô Tô thì hay lắm. Còn thái tử Diên Khánh là dòng dõi chính thống của Tiên Hoàng, đối với người không được vô lễ ! Giả tỷ bọn môn đệ người có làm điều ác đức cũng phải điều tra cho rõ ràng rồi giao lại để người trừng trị, bọn ta không được tự tiện hạ sát.

Ðoàn Chính Thuần cùng tam công, tứ ẩn cúi đầu lĩnh chỉ. Bảo Ðịnh Ðế lại thấy Cao Thăng Thái cũng có vẻ nhơn nhơn, muốn ra đi liền mỉm cười phán bảo:

-Các tay cao thủ trong triều thế là đi gần hết rồi Thiện Xiển Hầu cần phải ở nhà phò tá quả nhân.

Cao Thăng Thái vâng mệnh. Ðoàn Dự cũng bước ra bẩm:

-Thưa bá phụ ! Xin cho cháu cùng đi với gia gia để cháu thêm phần lịch duyệt.

Bảo Ðịnh Ðế lắc đầu phán:

-Cháu bị trúng độc chưa khỏi. Ta còn phải tìm cách giải độc, trừ tà cho cháu mất mấy bữa nữa. Vả cháu không biết võ nghệ, vào Trung Nguyên chỉ tổ làm mất thể diện cho họ Ðoàn nước Ðại Lý.

Ðoàn Dự thẹn mặt đỏ bừng. Bây giờ chàng mới có ý hối hận, tiếc rằng giá mình chịu học võ rồi có phải ngày nay được vào Trung Nguyên du ngoạn thì hay biết chừng nào?

Hôm ấy trong phủ Trấn Nam Vương mở tiệc tẩy trần thết Thạch Thanh Tử.

Ðoàn Dự ngồi riêng một chiếu vì không ai dám đụng chạm vào chàng, sợ bị nhiễm tà độc. Lúc ăn uống hay chuyện trò cùng chàng ai nấy đều phải ngồi cách xa chàng, đã là một sự làm cho chàng mất cả hứng thú. Da dĩ trong cơ thể còn chứa đựng bao nhiêu chân khí hút ở ngoài vào, chàng không có cách nào quy tụ lại được khiến chàng vô cùng bứt rứt. Ðoàn Dự ngồi ăn tiệc càng lâu chàng càng thấy khó chịu nên nhấp xong ba chung rượu rồi chàng cáo từ mọi người về phòng riêng.

Chàng nằm hồi tưởng lại những chuyện đã xẩy đến cho chàng mấy hôm vừa qua thật là ly kỳ. Rồi chàng lại nhớ tới Mộc Uyển Thanh cùng Chung Linh, là hai nàng chàng mới quen biết, không hiểu bây giờ buồn bực đến thế nào? Sau nữa chàng nghĩ đến việc song thân đòi hỏi Cao My tiểu thư cho chàng làm vợ. Chàng chưa biết mặt Cao tiểu thư, không hiểu tính tình Cao tiểu thư có hợp với mình không?

Dung mạo tiểu thư đẹp hay xấu? Ðầu óc Ðoàn Dự bị đảo lộn bởi bao làn sóng tư tưởng. Trong cơ thể chàng, chân khí chạy tứ tung chẳng khác gì đàn ngựa bất kham chạy không dừng vó hay đàn vượn trên núi nhảy nhót tha hồ. Tuy không đến nỗi thảm hại như hôm uống phải Âm Dương Hòa Hợp Tán, lửa lòng khôn bề dập tắt,nhưng cũng khó chịu vô cùng. Hồi lâu Ðoàn Dự mê man ngủ đi lúc nào không biết.

Nửa đêm chàng thức giấc thấy hai lòng bàn tay mình có người nắm chặt, chàng giật mình la lên một tiếng thì lập tức bị một tấm khăn nhét vào miệng. Chàng nghiêng đầu nhìn qua một bên, dưới ánh đèn lờ mờ chàng nhìn rõ bộ mặt anh tuấn

như đang mỉm cười chính là Thạch Thanh Tử. Chàng lại nghếch mắt quay sang bên phải nhìn thấy cặp lông mày dài sắc vàng: đó là Huỳnh Mi tăng với bộ mặt gầy đét nhưng đầy vẻ từ bi vừa mỉm cười vừa gật đầu bảo chàng đừng sợ hãi gì rồi rút tấm khăn trong miệng chàng ra.

Ðoàn Dự thấy một nhà sư và một thầy đạo bên mình

mới yên tâm toan dậy thi lễ. Thạch Thanh Tử khẽ bảo:

-Hiền điệt bất tất đa lễ. Cứ nằm yên để chúng ta trừ tà giải độc cho.

Ðoàn Dự ngỏ lời cảm tạ thì Huỳnh Mi tăng ngắt lời:

-Chúng ta là chỗ tâm giao với bá phụ hiền điệt. Có làm gì chút việc nhỏ mọn này mà cháu phải bận tâm?

Thạch Thanh Tử cười lạt nói móc:

-Ðã chắc đâu hoà thượng trừ tà giải độc được cho y, hãy làm đi rồi hẵng nói khoác.

Ðoàn Dự toan nói nữa thì đột nhiên hai bàn tay run lên đồng thời hai luồng chân khí chuyển vào thân thể chàng. Chàng giật nẩy mình, mặt đỏ bừng lên như người say rượu. Hai luồng chân khí chuyển vào kinh mạch, lúc đầu chàng cũng thấy nó chạy nhộn lên trong người, dần dần chạy yếu đi rồi yên hẳn lại. Chừng trong khoảng thời gian ăn xong bữa cơm, Ðoàn Dự thấy nửa mình bên phải nóng ran,ngược lại nửa mình bên trái lạnh toát. Nhưng lạ thay, tuy người phát hàn nhiệt như vậy mà trong lòng rất là thư thái dễ chịu. Chàng biết hai tay cao thủ dùng nội công thượng thừa để trừ tà giải độc cho mình.

Ðoàn Dự đoán vậy chỉ đúng có một phần thôi. Nguyên hai vị Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử đã cùng nhau tỷ thí đủ thứ: đấu văn, đấu võ, đấu quyền cước, đấu gươm đao, đấu nội công, đấu kiến văn. Mấy chục năm nay hai ông đấu biết bao nhiêu phen mà khôn phần cao thấp. Hôm nay hai ông ngồi dự tiệc khích bác nhau rồi nửa đêm đưa nhau ra hoa viên bàn nhau đấu võ, lấy việc trừ tà giải độc cho Ðoàn Dự làm tiêu chuẩn.

Hai ông này đã hai phen tỷ thí, hao phí công lực quá nhiều nếu không được Bảo Ðịnh Ðế giải cứu kịp thời thì quy tiên cả rồi. Phen này hai ông dùng cách đấu kỳ khôi này đã tưởng nhất cử lưỡng tiện: một là so tài cao thấp, hai là đỡ cho Bảo Ðịnh Ðế chút công nhỏ mọn. Về cách dùng nội công để trị bệnh ngoại thương thì khắp thiên hạ không còn môn nào hơn được phép Nhất Dương Chỉ. Hai vị ước hẹn với nhau: mỗi vị trị một nửa người Ðoàn Dự, ai thành công trước là được. Ðành rằng hai vị trừ tà giải độc, cái hảo tâm là ở chỗ đó nhưng lại đem con người ta ra làm đề mục để đánh đố. Nhà sư và thầy đạo nghĩ rằng sức mạnh tà độc trong mình Ðoàn Dự cực kỳ lợi hại. Nếu phải gắng vận động cho nội công thấm vào người chàng mới khu trừ ra được và nếu không khu trừ hết được tà độc ra ngoài nhất định cũng không tổn hại gì.

Hai vị đâu có biết rằng trong mình Ðoàn Dự không súc tích tà độc mà chứa toàn chân khí hút ở ngoài vào và bị một vật chí bảo trên thế gian là đôi Mãng Cổ chu cáp chế hoá làm cho công phạt. một khi đã nuốt chu cáp vào rồi thì nó biến hoá thấm vào cơ thể trong người, còn tài nào mà trục ra được? Nguyên một hấp lực của đôi chu cáp cũng đã mạnh ghê gớm rồi, huống chi còn thêm vào đó chân khí của sáu nhà sư, đồ đệ Huỳnh Mi tăng. Hiện giờ về nội lực Ðoàn Dự không thua kém Huỳnh Mi và Thạch Thanh Tử. Chỉ có rằng chàng chưa biết cách vận dụng và phát huy ra mà thôi. Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử vận chân khí vào người Ðoàn Dự, sức thần công của chu cáp hút lấy. Cơ sự này do mệnh hệ Ðoàn Dự xui nên,gặp được hai tay cao thủ tuyệt đỉnh trong võ lâm tự nguyện vận chuyển nội lực vào

trong người chàng. Nếu là trường hợp ngẫu nhiên thì dù hấp lực của chu cáp có mạnh đến đâu hai ông ít ra cũng còn đủ lực để thoát thân.

Huỳnh Mi luyện nội công theo lối thuần dương, lấy cương làm tiêu chuẩn. Trái lại, Thạch Thanh Tử theo lối thuần âm, lấy nhu làm tôn chỉ. Hai vị một tăng, một đạo, tôn giáo đã khác nhau, bản lãnh về nội công lại người âm kẻ dương hai ngả,chả trách không bao giờ hai vị hoà hoãn với nhau được.

Hai vị tống chân khí vào người Ðoàn Dự hồi lâu, cảm thấy trong mình trống trải.

Nhưng lần này chân khí thoát đi chẳng khác gì đá chìm biển cả, không thu về được nữa. Hai vị cùng tranh nhau thủ thắng, càng gắng sức phóng kình lực cho mau.

Chẳng mấy chốc Huỳnh Mi tăng thấy người bả lả vì nội lực cạn dần, biết rằng việc này lỡ bét nếu còn vận thêm lúc nữa thì nội công trong người sẽ hết sạch sành sanh , liền ngẩng đầu lên nói với Thạch Thanh Tử:

-Thạch đạo huynh! Vụ này xem ra nhiêu khê lắm! Ta hãy dừng tay xem sao đã.

Chính Thạch Thanh Tử cũng cảm thấy khó chịu và cũng muốn đình bãi nhưng vốn tính hiếu thắng, nghĩ thầm: "thế là anh chịu mở miệng xin buông tha rồi đây" liền đáp:

-Nếu đại sư không đủ nội công thì xin cứ việc mà rút lui trước đi. Bần đạo chẳng dám cưỡng ép con người bất lực.

Huỳnh Mi cả giận nói:

-Gã thầy đạo mũi trâu kia! công lực anh đến mức nào ta còn lạ gì mà anh lại muốn lên mặt anh hùng hảo hán cả với ta nữa ư?

Thạch Thanh Tử cũng tự biết công lực mình cùng Huỳnh Mi chẳng chênh lệch nhau mấy nỗi. Song lại nghĩ rằng Huỳnh Mi vừa mới dốc hết lực lượng ra sống mái với người ác nhất thiên hạ là thái tử Diên Khánh thì nội công tất bị hao tổn rất nhiều. Thật là cơ hội ngàn năm một thuở để mình có thể thắng được địch thủ cho thoả nguyện bình sinh. Nếu bỏ lỡ cơ hội này thì từ giờ đến chết cũng không còn dịp nào để phân thắng bại nữa. Vì thế mà đạo nhân cố gắng chống chọi lúc nữa, buộc bên kia phải lùi bước trước để giữ phần thắng về mình. Nào ngờ Huỳnh Mi tăng xưa nay vẫn là người bụng dạ rộng rãi, tính nết khoan hòa, không muốn tranh hơi mà đối với Thạch Thanh Tử nhà sư lại kèn cựa từng tý, không chịu nhượng bộ một ly. Hai vị gắng gượng chịu đựng thêm lát nữa. Một mặt chân lực trong người Ðoàn Dự càng lên cao, hấp lực càng mạnh, một đằng nhà sư và thầy đạo cảm thấy tàn lực dốc ra tuồn tuột, không còn cách nào ngưng tụ lại được. Trong lúc cấp bách hai vị muốn tạm gác việc tranh đua thì đã không kịp rồi, thậm chí toan rút tay ra khỏi bàn tay Ðoàn Dự cũng không đủ lực nữa. Tay bị dính chặt, chẳng khác gì bọn Phá Tham 6 người trước đây. Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử đưa mắt nhìn nhau và cùng có ý hối hận. Sở dĩ lâm vào bước khốn cùng này chẳng qua vì chưa bỏ dứt được nết háo thắng mà ra. Giả tỷ thấy cơ sự bắt đầu nguy biến, rụt tay về ngay thì đâu đến nỗi?

Một lúc nữa nhà sư và thầy đạo thần sắc lợt lạt, hơi thở yếu dần. Ðoàn Dự có biết đâu cơ sự nhường này. Giả tỷ chàng hiểu rằng hai vị tiếp vận chân khí cho mình mà phải tổn thương đến nội lực của người thì chàng nhất định từ chối. Chàng

vẫn tưởng rằng hai vị truyền nội lực để trừ tà tiêu độc cho mình cũng chẳng cần gì.

Chân khí trong người chàng lên cuồn cuộn tựa nước triều dâng, mỗi lúc một bành chướng. Sau chàng mê man như người say rượu, tỉnh không tỉnh hẳn, ngủ chẳng ngủ cho. Hai vị tăng đạo lâm vào tình trạng nguy khốn mà chàng chẳng biết gì.

Tình trạng này nếu còn kéo dài chừng nửa giờ nữa là Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử sẽ thành phế nhân.

Ngay lúc ấy cửa phòng mở ra, một người bước vào, vừa ngó mặt hai vị liền thất kinh la lên:

-Thôi hỏng to rồi!

Dứt lời cầm tay áo Huỳnh Mi giật ra đằng sau một cái, bật rời khỏi tay Ðoàn Dự, rồi giật đến tay Thạch Thanh Tử ra, lẩm bẩm:

-Ta đã biết hai vị đụng đầu nhau là có chuyện nên vừa không trông thấy hai vị đâu liền đi kiếm khắp cả. Ai ngờ đã chui vào đây làm rùm?

Người mới vào đó chính là Bảo Ðịnh Ðế. Nhà vua nhìn sắc mặt hai vị rồi bất giác than rằng:

-Hai người đã sống đến bằng này tuổi đầu, còn chi là không hiểu nữa? Thế mà hôm nay vì một chuyện tranh hơi để đến nỗi tổn hại bao nhiêu công lực.

Nhà Vua cầm cổ tay Huỳnh Mi xem, thấy mạch chạy yếu quá, xem đến Thạch Thanh Tử cũng vậy thì lắc đầu lia lịa cho là hai người đi vào vết xe đổ cũ để xảy ra cơ sự nhường này. Ai ngờ nội lực hai bậc cao thủ đều bị cháu mình hút cả. Nhà Vua lại quay sang nhìn Ðoàn Dự, thấy cháu mình thiêm thiếp chưa tỉnh lẩm bẩm:

"Hai vị lão hữu tỷ thí làm thằng bé bị hoạ lây". Vừa cầm mạch xem thì thấy nội lực chàng cực kỳ sung mãn, âm dương giao hợp, cương nhu điều hòa nhưng hấp lực rất mạnh làm giật cả tay mình lên.

Bảo Ðịnh Ðế trong lòng nghi hoặc, nghĩ thầm: "cứ xem tình hình này mà đoán thì nội lực hai vị tăng, đạo đã bị thu vào thân thể Ðoàn Dự mất cả". Liền gọi nội thị dìu hai vị vào hai phòng riêng xa cách nhau để tĩnh dưỡng, đừng để hai vị gần nhau lỡ sinh tai vạ.

Sáng sớm hôm sau, Ðoàn Chính Thuần xuất lĩnh tam công, tứ ác từ biệt Hoàng huynh cùng vợ con, theo Tuệ Chân, Tuệ Thiền sang chùa Thiếu Lâm. Tuy ông cũng băn khoăn về Ðoàn Dự chưa khỏi bệnh nhưng đã có hoàng huynh lo điều trị,cũng không có gì đáng ngại. Lúc ra đi, ông vào ngó con lần nữa, thấy chàng mặt mũi hồng hào, đang ngủ ngon giấc nên cũng vững dạ.

Bảo Ðịnh Ðế tiễn hoàng đệ cùng các vị hảo hán rồi trở vào thăm Huỳnh Mi cù ng Thạch Thanh Tử thì thấy đang tĩnh toạ. Sắc mặt Huỳnh Mi trắng bệch, người run lẩy bẩy còn Thạch Thanh Tử lại mặt đỏ nhừ vì hư hoả bốc lên. Cả hai người đều do bị thương cực kỳ trầm trọng mà ra, nguyên khí hao tổn mất nhiều.

Nhà Vua dùng phép Nhất Dương Chỉ điểm vào các huyệt trọng yếu nhà sư và thầy đạo, lại đem chân khí mình ra để chữa nội thương cho hai vị. Bảo Ðịnh Ðế lại sang thăm Ðoàn Dự. Vừa đến cửa phòng đã nghe tiếng "loảng choảng" không ngớt phát ra, do các đồ vật đổ vỡ. Gã nội thị giữ cửa Vương phủ, quỳ xuống tiếp giá, nét mặt đầy vẻ kinh hoàng, bẩm rằng:

-Thế tử... bị ma làm... đang nổi cơn điên.... hai quan thái y hiện ở trong phòng điều trị.

Bảo Ðịnh Ðế gật đầu đẩy cửa bước vào, thấy Ðoàn Dự đang khoa chân múa tay.

Bất luận bàn ghế, ấm chén hay các đồ vật trần thiết chàng xô gẫy ngổn ngang, đập vỡ tan tành. Hai quan thái y lẩn tránh chạy cuống cả lên. Nhà Vua tiến lại cất tiếng hỏi:

-Dự nhi! Con làm sao vậy?

Ðoàn Dự vẫn tỉnh táo, chỉ vì chân khí trong người đầy rẫy dường như muốn xé thịt nứt da cho tràn bớt ra ngoài. Có tay đấm, chân đá, đập phá đồ đạc mới hơi thư thái một chút. Chàng thấy bá phụ vào liền gọi to:

-Bá phụ ơi! Cháu muốn chết đây!

Chàng vừa gọi vừa vung tay loạn xạ.

Bảo Ðịnh Ðế hỏi:

-Con thấy trong mình thế nào?

Ðoàn Dự dậm chân thình thịch đáp:

-Toàn thân cháu chỗ nào cũng mọng lên. Bá phụ cho lấy bớt máu trong người cháu ra!

Bảo Ðịnh Ðế nghĩ bụng: "hay là làm thử cách này xem sao?". Liền quay sang bảo quan thái y:

-Ngươi thử lấy bớt máu y ra!

Thái y vâng mệnh, mở cái hộp sành lấy ra một con đỉa. Ðỉa là vật chuyên hút máu, dùng để chữa cho người ứ huyết rất tiện, người bệnh lại không đau đớn gì.

Quan thái y cầm chặt tay Ðoàn Dự, đặt mồm con đỉa vào đúng mạch máu. Quan thái y này không hiểu võ công, trong người ông chưa luyện thành chân khí, nội lực cho nên chạm vào người chàng không bị hút chặt như người có chân khí. Có điều con đỉa này đặt vào tay Ðoàn Dự thì nó cựa quậy, không chịu nằm yên mà làm thế nào nó cũng không hút máu. Quan thái y rất lấy làm lạ, phải ráng sức giữ chặt nó. Nhưng chỉ được một lát, con đỉa giãy lên một cái rồi chết ngay. Quan thái y bất lực trước mặt nhà Vua, vừa thẹn vừa sợ, mồ hôi trán nhỏ xuống tong tong, vội vàng lấy con đỉa khác ra nhưng rồi cũng bị chết như con trước.

Còn vị thái y thứ hai tỏ vẻ lo lắng tâu rằng:

-Khải tấu Hoàng thượng! Thế tử ngộ độc dữ quá, chất độc phát ra làm chết cả đỉa.

Ông có biết đâu rằng Ðoàn Dự nuốt Mãng Cổ chu cáp rồi, bất luận rắn rết hay giống gì độc đến đâu cũng phải xa lánh. Ðệ nhất độc là rắn còn phải khiếp phục huống chi là con đỉa.

Bảo Ðịnh Ðế nghe thái y nói lại càng nóng ruột, phán hỏi:

-Thuốc độc gì mà ghê gớm đến thế?

Một quan thái y tâu:

-Theo ngu kiến hạ thần thì mạch thái tử nóng dữ quá tất là trúng phải nhiệt độc.

Quan thái y kia cãi:

-Không phải! Mạch thái tử âm hư thế là trúng hàn. Cần bốc thuốc nhiệt để điều hoà.

Sự thực thì trong mình thế tử một bên chứa nội lực thuần dương của Huỳnh Mi tăng, một bên lại chứa nội lực thuần âm của Thạch Thanh Tử. Hai quan thái y xem mạch tương phản nhau là bởi thế. Hai vị thái y này đã nổi tiếng danh sư nước Ðại Lý.

Nhà Vua nghe hai vị danh y tranh luận hàn nhiệt với nhau mãi nghĩ thầm: "tà độc trong mình Ðoàn Dự rất là kỳ dị".

Bảo Ðịnh Ðế lại thấy Ðoàn Dự xé rách cả quần áo thì trong lòng ái ngại, nghĩ bụng: "thật là một vấn đề cực nan giải, chỉ còn cách lên chùa Thiên Long thỉnh thị".

Nhà Vua liền bảo Ðoàn Dự:

-Dự con! Ta đưa con lên bái yết mấy vị tiền bối, thế nào các người cũng có cách chữa cho con hết bệnh.

Ðoàn Dự vâng lời. Chàng thấy mỗi lúc một khó chịu thêm, chỉ mong sao khỏi bệnh nên mặc áo dài vào đi ngay. Ra khỏi cổng phủ, chàng cưỡi riêng một ngựa theo Bảo Ðịnh Ðế trông về hướng tây bắc mà đi.

Chùa Thiên Long ở trên đỉnh ngọn Thiên Long.

Ngọn Thiên Long là ngọn chính trong dãy núi Thiên Long. Dãy núi này chạy từ mé tây bắc xuống vào đến nước Ðại Lý là hết, trông tựa như hình một con rồng khổng lồ. Tổ tiên họ Ðoàn táng ở núi này. Ngọn Thiên Long là đầu rồng, chùa Thiên Long dựng trên đầu rồng, thống lĩnh cả dãy núi, phong cảnh rất là hùng vĩ. Những Hoàng đế nước Ðại Lý bỏ ngôi báu xuất gia đầu Phật đều quy y ở chùa này. Có thể nói chùa Thiên Long là chùa của Hoàng gia nước Ðại Lý. Kể tất cả các chùa trong nước thì chùa Thiên Long tôn vinh hơn cả. Tuy nhiên đệ tử nhà Phật rất nhún nhường kiệm ước. Một khi nhà Vua xuất gia rồi thì đến ngày sinh nhật, con cháu đều lên chùa làm lễ triều bái, mỗi lần đến triều bái đều đem dâng quý vật hoặc tiền bạc. Vì thế mà chùa xây rộng ra mãi. Cách kiến trúc của chùa này có phần tráng lệ hơn cả các ngôi chùa lớn ở Trung Nguyên như Ngũ Ðài,Phổ Ðà, Cửu Hoa, Nga Mi... Nhưng vì ở mãi miền biên giới xa xăm nên không

được nổi tiếng bằng các chùa ở Trung Nguyên.

Ðoàn Dự theo bá phụ lên đến trước chùa, nhìn ánh dương quang chiếu vào các tấm kính pha lê ngũ sắc lợp trên nóc chùa cực kỳ sán lạn. Cổng ngõ, phòng ốc cũng uy nghiêm tráng lệ chẳng khác gì trong Hoàng cung nước Ðại Lý. Bảo Ðịnh Ðế thường thường lên chùa. Tuy nhà Vua ở địa vị chí tôn trong một nước, song các vị cao tăng chùa này đều là tiền bối ngài cả nên cách tiếp đãi chỉ một lòng thánh kính chứ không câu nệ lễ nghi thái quá.

Bảo Ðịnh Ðế cùng Ðoàn Dự trước hết vào yết kiến Thiên Nhân đại sư.

Theo vị thứ ngoài trần tục thì đại sư đứng vào hàng thúc phụ nhà Vua. Các người xuất gia không câu nệ lễ vua tôi mà cũng không cố chấp thứ bậc trong gia đình, làm lễ tương kiến một cách bình đẳng.

Bảo Ðịnh Ðế thuật vắn tắt nhưng đủ ý về chuyện Ðoàn Dự trúng tà độc.

Thiên Nhân đại sư trầm ngâm hồi lâu rồi nói:

-Hãy theo ta lên phòng mâu ni ra mắt bốn vị sư huynh, sư đệ.

Bảo Ðịnh Ðế nói:

-Chúng tôi đến phiền nhiễu các vị đại hoà thượng, thực là lỗi lớn.

Thiên Nhân nói:

-Thế tử con Trấn Nam Vương là người kế vị sau này. Thân thế y có quan hệ đến hạnh phúc của trăm họ. Kiến thức và bản lãnh ngươi còn trên ta một bậc mà phải đến đây hỏi tất là một việc rất khó giải quyết.

Ba người theo dãy hành lang dài đi về phía tây đến chỗ mấy gian phòng toàn bằng gỗ thông. Cả đến cột trụ hay ván ghép, cánh cửa nhất nhất để cả vỏ cây chứ không bào gọt, trông có vẻ thiên nhiên chất phác, so với Phật đường vàng son chói lọi thật khác xa nhau. Nhiều chỗ vách ván, cột trụ đã mục nát cả. Mấy gian nhà này trông tựa hồ những nhà của khách đi săn thú, ngụ trong một khu rừng hẻo lánh.

Thiên Nhân đại sư vẻ mặt trịnh trọng chắp tay nói:

-A di đà Phật! Thiên Nhân nay có việc nghi nan khó bề giải quyết, đến quấy nhiễu ba vị sư huynh, sư đệ đây.

Trong nhà có tiếng đáp vọng ra:

-Xin mời phương trượng vào trong này!

Thiên Nhân từ từ đẩy cửa ra. Cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt, đủ tỏ là cửa này ít khi mở ra khép vào.

Ðoàn Dự theo sau phương trượng và bá phụ đi vào.

Chàng vừa nghe phương trượng bảo đến ra mắt ba vị mà trong căn nhà lại thấy những bốn vị hòa thượng ngồi bốn ghế. Ba vị ngồi quay mặt ra ngoài thì hai vị gầy đét, một vị tráng kiện khôi ngô. Ðầu đằng đông lại còn một vị hòa thượng quay mặt vào tường vách, ngồi yên không nhúc nhích, thuỷ chung vẫn không ngoảnh mặt ra ngoài.

Bảo Ðịnh Ðế nhận ra hai vị gày đét pháp danh là Thiên Quan, Thiên Tướng là sư huynh Thiên Nhân phương trượng. Còn nhà sư mặt mũi khôi ngô là Thiên Tham, sư đệ Thiên Nhân. Nhà Vua chỉ biết ba vị cao tăng Quan, Tướng, Tham

trong viện mâu ni chùa Thiên Long. Còn vị thứ tư quay mặt vào vách kia thì chưa biết là ai.

Bảo Ðịnh Ðế khom lưng chào, ba nhà sư mỉm cười đáp lễ. Còn vị thứ tư không hiểu là đang tham thiền hay đang nhẩm kệ, không thể phân tâm được nên ai làm gì cũng mặc.

Nhà Vua đã hiểu nhiều về quy củ nhà Phật "mầu ni" có nghĩa là trầm lặng, vắng vẻ. Vậy ngồi trong mầu ni đường ít nói được chừng nào hay chừng ấy.

Nhà Vua tóm tắt bệnh trạng Ðoàn Dự rồi nói:

-Cầu bốn vị đại đức chỉ đường cho!

Thiên Quan trầm ngâm suy nghĩ, lại đưa mắt nhìn Ðoàn Dự hồi lâu rồi hỏi:

-Hai sư đệ nghĩ sao?

Thiên Tham nói:

-Mình có mất ít nội lực tưởng cũng không phương ngại đến việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm.

Bảo Ðịnh Ðế vừa nghe bốn chữ "Lục Mạch Thần Kiếm" bất giác giật mình nghĩ thầm: "Hồi mình còn nhỏ, ngẫu nhiên nghe gia gia nói đến ông tổ họ Ðoàn ta có môn võ "Lục Mạch Thần Kiếm" uy mãnh vô cùng.

Gia gia còn bảo môn này chỉ nghe thấy truyền miệng thế thôi, chứ chưa có bậc cao nhân nào hiểu biết công trình môn đó thần kỳ ra sao. Nay lại thấy Thiên Tham đại sư đề cập tới, chắc chắn là có môn kỳ công đó rồi".

Nhà Vua lại nghĩ rằng: "xem chừng ba vị đại sư muốn đem nội lực tẩy độc cho thằng Dự, làm như vậy thì trở ngại đến việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm của các vị.

Khốn nỗi đến cả hai vị Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử đồng thời ra tay giải độc cho y cũng không xong. Nếu không trông vào lực lượng của các vị đây thì làm sao chịu nổi?".

Nhà Vua nghĩ vậy tuy trong lòng áy náy mà không dám mở miệng khước từ.

Thiên Tướng hoà thượng không nói năng gì, đứng dậy cúi đầu, đứng xéo về góc đông bắc. Thiên Quan, Thiên Tham cũng mỗi người đứng ra một góc. Thiên Nhân phương trượng nói:

-Phúc đức! Thật là phúc đức.

Rồi cũng đứng ra góc Tây Nam. Bảo Ðịnh Ðế bảo Ðoàn Dự:

-Bốn vị trưởng lão không tiếc tâm lực trừ tà giải độc cho con. Con mau khấu đầu bái tạ đi!

Ðoàn Dự nhìn thần sắc và cử chỉ của bá phụ cùng bốn vị tổ sư biết công việc này cực kỳ nghiêm trọng lập tức phục xuống lạy mỗi vị một lạy.

Bảo Ðịnh Ðế lại giục:

-Dự nhi! Ngồi xếp bằng lại! Dù có đau đớn hay ngứa ngáy cũng phải ráng chịu, đừng có hoảng hốt.

Ðoàn Dự vâng lệnh ngồi yên.

Thiên Quan hoà thượng đưa ngón tay cái bên phải ra ngưng thần một chút rồi đặt lên sau gáy trấn trên huyệt "phong phủ" của Ðoàn Dự, đem nội lực Nhất Dương Chỉ ra phóng vào. Thiên Tướng hoà thượng điểm mạch "Tử Sang". Thiên

Tham hoà thượng điểm mạch "¢m duy". Thiên Nhân phương trượng điểm hai đường huyệt đạo "Xung mạch" và "đối mạch". Bảo Ðịnh Ðế điểm vào mạch "âm kiểu".

Trong tám kinh mạch, năm vị để hở hai mạch "dương duy" và "dương kiểu" không trấn áp. Cả năm vị đều vận dụng phép Nhất Dương Chỉ khu trục tà khí trong người Ðoàn Dự, do hai mạch bỏ trống tiết ra ngoài.

Năm tay đại cao thủ họ Ðoàn này bản lãnh Nhất Dương Chỉ xuýt soát như nhau, vận động nội lực năm đường nội

công phát ra tiếng kêu vù vù, dốc vào cơ thể Ðoàn Dự.

Toàn thân chàng run lên bần bật rồi tựa như trời rét được phơi ra ánh nắng mặt trời trong người ấm áp thư thái vô cùng. Ðoàn Dự hấp thụ nội lực của năm tay đại cao thủ mỗi lúc một nhiều.

Bảo Ðịnh Ðế cùng bốn nhà sư cảm thấy nội lực trong người mỗi lúc một trống rỗng thêm, thu về không được mà hấp lực bên người Ðoàn Dự lại ghê gớm khác thường.

Năm người đưa mắt nhìn nhau, trong lòng nghi hoặc. Bất thình lình một tiếng quát ầm ầm vang dội, mọi người sợ run. Bảo Ðịnh Ðế biết đó là tiếng một người trong cửa Phật có võ công vào hạng thượng thừa và mệnh danh là "Sư tử hống". Tiếng quát còn chứa một nội lực rất thâm hậu, có thể trấn áp được kẻ địch. Bỗng thấy nhà sư quay mặt vào vách cất tiếng nói:

-Nội nhật hôm nay bọn cường địch sẽ đến đây. Uy danh chùa Thiên Long mấy trăm năm nay đang bị đe doạ. Thằng nhỏ miệng còn hơi sữa trúng tà, trúng độc gì gì hãy bỏ đó. Trong lúc gấp rút này mà còn vì nó hao phí công lực một cách vô ích nữa ư?

Mấy câu nói cực kỳ oai nghiêm khiến người nghe phải lạnh gáy, không dám trái lệnh.

Thiên Nhân phương trượng bẩm:

-Lời sư thúc truyền dạy rất phải.

Dứt lời vẫy tay trái một cái, năm người đồng thời lùi lại phía sau. Hấp lực "chu cáp thần công" trong mình Ðoàn Dự tuy mãnh liệt thật nhưng đồng thời giữ cả năm tay đại cao thủ thế nào nổi?

Bảo Ðịnh Ðế thấy Thiên Nhân kêu vị đó bằng sư thúc vội vàng cáo lỗi:

-Vãn bối không biết Khô Vinh trưởng lão ở đây, chưa kịp kính bái, tội nhiệt thật nặng.

Nguyên vị trưởng lão đây là một vị tiền bối vào bậc cao nhất trong chùa Thiên Long. ít người trong chùa được thấy mặt trưởng lão.

Bảo Ðịnh Ðế cũng chỉ nghe danh chưa từng được bái kiến. Người ta đồn trưởng lão chỉ một mình luyện khô thuyền trong viện Song Thụ, hơn mười năm trời nay không ai nhắc đến, họ cho là trưởng lão viên tịch rồi.

Khô Vinh trưởng lão nói:

-Công việc phải tuỳ theo tầm quan trọng hoặc thời gian trì hoãn hay gấp rút của nó mà làm. Lời ước hẹn của Ðại Luân Minh Vương chớp mắt đã đến. Ðoàn Chính Minh ngươi coi xem sẽ rõ.

Bảo Ðịnh Ðế ngạc nhiên nghĩ thầm Ðại Luân Minh Vương trên Ðại Tuyết Sơn là một bậc Phật pháp uyên thâm, có dây mơ rễ má gì với bọn mình đâu?

Thiên Nhân phương trượng lấy trong bọc ra một phong thơ ánh vàng rực rỡ trao tay cho Bảo Ðịnh Ðế.

Bảo Ðịnh Ðế đón lấy, cầm tay nhấc thấy khá nặng rất lấy làm kỳ. Thì ra phong bì làm bằng vàng dát mỏng. Trên phong bì dùng bạch kim khảm thành mấy chữ trắng viết theo lối chữ Phạn.

Bảo Ðịnh Ðế thông hiểu Phật học, đại ý chữ trên phong bì là: "Kính đệ phương trượng chùa Thiên Long".

Bảo Ðịnh Ðế mở phong bì vàng ra, bên trong có một lá thư cũng bằng vàng dát cực mỏng. Thư cũng viết bằng chữ Phạn, đại ý nguyên văn như sau: "Ngày nọ tiểu Vương cùng Mộ Dung tiên sinh ở Cô Tô đến hội họp tại Thiên Tần đã cùng nhau kết mối thâm giao, đàm luận về võ công trên đời hiện nay. Mộ Dung tiên sinh có ngỏ lời rất lấy làm tiếc chưa được đọc cuốn kinh Lục Mạch Thần Kiếm của quý tự và biết quý tự rất tôn sùng cuốn kinh đó. Tiểu Vương vừa được tin Mộ Dung tiên sinh đã quy tiên rất đỗi xót thương. Ðể báo đáp tình tri kỷ, cầu xin quý tự cho Tiểu Vương quyển kinh đó để đốt trước mộ Mộ Dung tiên sinh. Trong ngày hôm nay sẽ đến lấy, xin chớ chối từ. Tiểu vương xin đem báu vật đến báo đền, chẳng dám lấy không. Ðại tuyết sơn Ðại Luân Minh Vương kính thư". Chữ trong thư cũng khảm rất tinh vi bằng bạch kim do tay thợ khéo và phải tốn bao nhiêu công phu cùng ngày giờ mới chế tạo thành bức thư. Hãy nói một cái phong bì. Hãy nói một cái phong bì, một lá thư như vậy cũng đã là bảo vật hiếm có, đủ biết Ðại Luân Minh

Vương là tay hào phóng xa xỉ đến mực nào rồi.

Bảo Ðịnh Ðế vốn biết Ðại Luân Minh Vương là Hộ quốc pháp vương nước Thổ Phồn. Cứ năm năm một lần Ðại Luân Minh Vương lại mở đàn giảng kinh, thuyết pháp.

Các vị cao tăng đại đức nước Thiên Trúc bên Tây Vực đều đến chùa Ðại Luân trên núi Tuyết Sơn hội họp đông đủ để nghiên cứu kinh điển. Sau kỳ thuyết pháp ra về ai cũng hoan hỷ ca tụng Minh Vương.

Bảo Ðịnh Ðế lại nhớ trong thư Ðại Luân Minh Vương có nói cùng Mộ Dung tiên sinh đàm luận võ công, kết bạn tri kỷ. Vậy thì hiển nhiên Minh Vương cũng là một tay cao thủ trong võ lâm. Hạng người đại trí tuệ không học võ thì thôi, khi họ đã đi vào đường đó tất nhiên không phải tay vừa.

Bảo Ðịnh Ðế còn đang ngẫm nghĩ thấy Thiên Nhân phương trượng nói:

-Cuốn Lục Mạch Thần Kiếm là vật chí bảo của bản tự, lại là pháp yếu môn võ tối cao của họ Ðoàn nước Ðại Lý. Chính Minh! Môn võ cao thâm của họ Ðoàn nước Ðại Lý hiện ở chùa Thiên Long đây. Ngươi là người trần tục thì dù là con cháu trong nhà nhưng những điều bí ẩn này cũng không thể tiết lộ cho ngươi biết được.

Bảo Ðịnh Ðế nói:

-Thưa vâng! Ðiều đó vãn bối đã biết rồi

Thiên Quan nói:

-Chùa đây tàng trữ pho Lục Mạch Thần Kiếm kinh, ngay Chính Minh, Chính Thuần còn chưa hay, sao bọn Mộ Dung ở Cô Tô lại biết được?

Thiên Tham tức giận nói:

-Ðại Luân Minh Vương đã nổi tiếng khắp thế gian là một vị cao tăng, sao lại không thông tình lý? Dám cưỡng ép bọn ta đòi lấy bảo kinh mà được bao giờ.

Chính Minh cùng phương trượng sư huynh nên biết rằng nếu họ tử tế tất không đến mà họ đã đến là chẳng tử tế gì. Ðây là một việc trọng đại, bọn ta không tác chủ được, phải thỉnh Khô Vinh sư thúc nắm vững đại cuộc cho.

Thiên Nhân lại nói:

-Chùa nhà có pho kinh này thật nhưng nói ra lại xấu hổ. Bọn ta đây đã không ai đủ tài lực để luyện thành môn võ trong sách thì chớ, cả những điều ảo diệu trong kinh cũng chưa hiểu nổi. Ðại Luân Minh Vương biết đây có pho kinh này mà vẫn dám đến yêu sách thì ra y ỷ mình quá, không còn sợ gì môn tuyệt học của Lục Mạch Thần Kiếm nữa.

Khô Vinh lạnh lùng nói:

-Y không dám coi thường Lục Mạch Thần Kiếm đâu. Theo lời trong thư y rất kính phục Mộ Dung tiên sinh, mà Mộ Dung tiên sinh ao ước pho kinh này vô cùng.

Ðại Luân Minh Vương đã cân nhắc lắm đấy. Y biết trong chùa này không có cao nhân siêu quần xuất chúng, sách quý mà chẳng ai luyện nổi để đó thật uổng mà thôi.

Thiên Tham lớn tiếng nói:

-Nếu y ngưỡng mộ cuốn kinh, muốn cầu khẩn mượn về xem mình nể là bậc cao tăng cho mượn thì được, chẳng cho cũng thôi có phải tử tế không? Ðằng này y lại bảo lấy về đốt đi cho kẻ đã chết rồi, thế mới đáng giận. Có phải y coi chùa Thiên Long ta chẳng ra gì cả?

Thiên Tướng thở dài than rằng:

-Sư đệ không nên vì thế mà đem lòng giận dữ. Ta xem Ðại Luân Minh Vương không phải là hạng người càn rỡ. Ðó chẳng qua vì y quá tình thiết tha với Mộ Dung tiên sinh mà ra. Hỡi ôi! Bạn vàng đã qua đời, không còn bao giờ được thấy mặt cố nhân, lòng quyến luyến khôn bề bộc lộ. ý chừng y muốn bắt chước Ngô Quý Chi thuở xưa đem bảo kiếm treo trên mồ bạn.

Bảo Ðịnh Ðế hỏi:

-Thiên Tướng đại sư có biết Mộ Dung tiên sinh là người thế nào không?

Thiên Tướng lắc đầu đáp:

-Ta chưa từng quen biết, song cứ suy Ðại Luân Minh Vương là nhân vật thế nào mà còn khiêm ngưỡng cũng đủ biết Mộ Dung tiên sinh tất phải là bậc phi thường.

Thiên Nhân phương trượng nói:

-Cứ lời sư thúc vừa xét đoán thì thế địch lợi hại vô cùng. Chúng ta không luyện mau những phép Lục Mạch Thần Kiếm thì e rằng kinh báu bị người cướp và Thiên Long tự đến phải thất điên bát đảo mất. Khổ một điều là luyện môn thần kiếm chủ chốt ở nội lực phi thường, không thể chỉ trong chốc lát mà nên. Chính Minh đừng tưởng bọn ta không quan tâm đến vụ thằng cháu Dự bị trúng độc đâu, chỉ e ai nấy nội lực đều bị tổn hại quá nhiều, cường địch lại sắp đến, không còn đủ sức lực để đối phó. Xem ra tuy y bị trúng độc nặng lắm đấy nhưng trong vài ngày chưa đáng lo ngại gì đến tính mạng. Hãy để y tĩnh dưỡng ở đây mấy bữa, nếu bệnh tình có biến chuyển, chúng ta sẽ liệu cách chữa trị. Chờ khi đuổi xong kẻ địch, chúng ta sẽ dùng toàn lực khu trục tà độc cho y. Vậy ngươi nghĩ sao?

Bảo Ðịnh Ðế tuy rất lo cho bệnh tình Ðoàn Dự, song Ðế là người có kiến thức bao quát, nhà Vua hiểu rằng chùa Thiên Long là căn bản của họ Ðoàn nước Ðại Lý, mỗi khi Hoàng gia gặp hoạn nạn là chùa lại dốc hết lực lượng ra cứu viện,

chuyển nguy thành yên. Họ Ðoàn nước Ðại Lý lập quốc từ đời Ngũ Ðại đến nay đã được 158 năm, trung gian bao lần phải chịu phong ba. Vậy mà xã tắc không bị nghiêng đổ phần lớn là nhờ ở chùa Thiên Long. Chùa có một mối quan hệ vô cùng trọng đại đến việc giữ vững kinh kỳ. Hiện nay chùa lâm vào tình trạng bất an thì có khác gì hoàng thành gặp cơn nguy biến? Nhà Vua nghĩ vậy liền đáp:

-Phương trượng thực là nhân đức. Vãn bối cảm kích vô cùng. Trong công cuộc đối phó với Ðại Luân Minh Vương liệu Chính Minh này có thể góp được phần nhỏ đường dây tơ sợi tóc nào chăng?

Thiên Nhân trầm ngâm một lát rồi đáp:

-Kể ra thì ngươi là tay cao thủ nhất trong những người họ Ðoàn còn ở ngoài thế tục đó. Thêm ngươi vào chống địch, lực lượng sẽ tăng lên nhiều. Có điều để người tục tham dự vào việc tranh đấu giữa các đệ tử nhà Phật thì không khỏi bị Ðại Luân Minh Vương cười bọn Thiên Long ta không có người.

Bỗng thấy Khô Vinh nói:

-Việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm nếu cứ riêng biệt để một người thì đây không ai làm nổi. Vậy bọn ta phải tìm ra một phương pháp khôn ngoan: Mỗi người tập một mạch và phải có sáu người, lúc đối địch để một người ra tay, còn năm người kia đứng ngoài dồn nội lực vào tiếp viện. Chỉ cần một điều đừng để đối phương nhìn rõ cơ quan của mình là chế phục được bên địch. Kể ra cách này cũng không được chính đại quang minh nhưng tình thế gấp rút quá rồi, ta phải tòng quyền chứ biết sao bây giờ? Có điều chùa Thiên Long này tính đi tính lại không tìm đâu ra được sáu tay cao thủ, bản lĩnh tương đương nhau. Chính Minh ngươi đến thế là vừa vặn, nhưng ngươi phải xuống tóc, mặc áo thầy chùa vào mới được.

Trưởng lão càng nói càng hăng, tựa hồ lòng người rất là phấn khởi. Tuy nhiên giọng nói vẫn lạnh lùng.

Bảo Ðịnh Ðế thưa:

-Chính Minh này vốn có chí nguyện xuất gia đầu Phật. Có điều kỳ công về kiếm thần chưa biết mảy may nào cả.

Hồi 25

Ðại Luân Minh Vương

Bảo Ðịnh Ðế vừa nói xong, Thiên Tham hoà thượng cướp lời vội đáp:

-Nếu theo phương pháp khôn ngoan của Khô Vinh đại sư vừa nói thì ngươi đã tự hiểu cả rồi, chỉ cần nhớ thêm phép kiếm nữa là xong.

Bảo Ðịnh Ðế ngạc nhiên hỏi lại:

-Vãn bối chưa hiểu, xin đại sư chỉ giáo rõ cho!

Thiên Nhân phương trượng nói:

-Ngươi hãy ngồi xuống đây nói chuyện.

Bảo Ðịnh Ðế ngồi xếp bằng xuống bồ đoàn. Thiên Nhân tiếp:

-Phép Lục Mạch Thần Kiếm không phải là đánh kiếm thật, mà là dùng chỉ lực trong phép Nhất Dương Chỉ biến hoá thành kiếm khí. Chỉ có thực chất chứ không hình thể rõ rệt cho nên phép này có thể gọi là vô hình kiếm. Trên cổ tay ngươi có sáu mạch là: Thái Âm, Quyết Âm, Thiếu Âm, Thái Dương, Dương Minh, Thiếu Dương.

Thiên Nhân vừa nói vừa thò tay vào phía sau cái bục lấy ra một cuốn trục lụa.

Vì lâu ngày quá lụa đã biến thành mầu vàng. Thiên Tham tiếp lấy treo lên vách,mở cuộn trục ra. Nguyên cuộn trục này cuốn bức tranh vẽ đồ hình một người đàn ông khỏa thân, chua rõ các huyệt. Các đường chuyển vận lưu thông về sáu mạch vẽ mầu xanh, đỏ.

Bảo Ðịnh Ðế là bậc cao thủ về phép Nhất Dương Chỉ, mà kinh Lục Mạch Thần Kiếm lại lấy Nhất Dương Chỉ làm căn bản và cùng một đường lối võ công của họ Ðoàn nên nhà Vua chỉ xem qua đã hiểu ngay.

Thiên Nhân lại nói:

-Chính Minh! Ngươi làm chúa tể nước Ðại Lý, việc cải trang chỉ là quyền nghi nhất thời nếu để đối phương khám phá ra thì rất tổn hại đến uy danh cả nước, được bề nọ mất bề kia, nên chăng tuỳ ý ngươi tự quyết lấy.

Bảo Ðịnh Ðế chắp tay đáp:

-Mạnh dạn thẳng tiến mới là người dũng, không suy hơn tính thiệt mới gọi là nghĩa.

Thiên Nhân nói:

-Thế thì hay lắm! Kinh Lục Mạch Thần Kiếm này không truyền cho con em ở ngoài tục luỵ. Ngươi phải xuống tóc ta mới truyền thụ cho.

Bảo Ðịnh Ðế đứng lên, bước ra quỳ xuống đất nói:

-Xin đại sư mở lượng từ bi.

Khô Vinh đại sư nói:

-Ngươi lại đây ta là phép thế phát cho.

Bảo Ðịnh Ðế rảo bước tới, quỳ ở phía sau Khô Vinh. Lúc đó Ðoàn Dự cũng đứng dưới đất, tinh thần đang tỉnh táo, nghe mấy vị đối thoại nghĩ thầm trong bụng: các ông bàn đi tính lại, té ra việc này có liên quan đến bọn Mộ Dung. Chàng thấy bá phụ muốn thay đổi trang phục, mặc áo thầy tu không khỏi ngấm ngầm kinh dị.

Bỗng thấy Khô Vinh đại sư đưa tay phải vòng lại phía sau giữ đầu Bảo Ðịnh Ðế.

Bàn tay này chỉ còn da bọc lấy xương. Khô Vinh đại sư vẫn không xoay người lại,miệng lâm râm đọc kệ, cất tay lên một cái bao nhiêu tóc Bảo Ðịnh Ðế rơi xuống đất hết, còn lại cái đầu trụi nhẵn thín hơn là lấy dao cạo.

Ðoàn Dự cả kinh còn các vị Thiên Quan, Thiên Nhân trong lòng bội phục vô cùng lẩm bẩm: "Khô Vinh lão thúc tu luyện khô thuyền công lực đã cao thâm đến mức này, thật là hãn hữu".

Khô Vinh đại sư dõng dạc tuyên bố:

-Ngươi đã quy y cửa Phật, đặt cho pháp hiệu Thiên Trần.

Bảo Ðịnh Ðế đáp:

-Tạ ơn sư phụ đã ban pháp danh cho.

Ở nơi cửa Phật không kể đến vai vế gia đình ngoài trần tục, nên Thiên Nhân phương trượng đứng vào hàng thúc phụ của Bảo Ðịnh Ðế nhưng từ đây Bảo Ðịnh Ðế đã chịu phép thế phát của Khô Vinh trở thành sư đệ Thiên Nhân.

Khô Vinh lại nói:

-Không chừng sớm tối hôm nay Minh Luân Ðại Vương sẽ tới. Thiên Nhân!

Ngươi đem ngay những điều bí mật về Lục Mạch Thần Kiếm truyền thụ cho Thiên Trần.

Thiên Nhân vâng lời, đưa Bảo Ðịnh Ðế đến trước đồ hình về kinh mạch treo trê n vách.

Bảo Ðịnh Ðế chuyên trị mạch Thiếu Dương, đường mạch đi ra sao từ đâu đến đâu, qua những huyệt đạo nào Thiên Nhân nhất nhất chỉ dẫn tường tận,đồng thời giảng cho Bảo Ðịnh Ðế về cách phóng kiếm khí do huyệt "Quan xung" ở

ngón tay vô danh. Bảo Ðịnh Ðế y theo lời giảng dạy, vận động nội lực từ ngón tay vô danh phát ra những tiếng vù vù, chân khí từ huyệt "quan xung" phóng ra mãnh liệt.

Khô Vinh đại sư cả mừng nói:

-Nội lực của ngươi đã đến mức phi thường. Kiếm pháp này tuy biến ảo khôn lường, song kiếm khí đã thành hình thì có thể tuỳ ý người sử dụng. Thiên Nhân nói:

-Sư thúc luyện "Thương kiếm" ở ngón tay cái. Tôi luyện "Dương kiếm" ở ngón tay trỏ. Thiên Quan sư huynh luyện "Xung kiếm" ở ngón tay giữa. Thiên Trần sư đệ luyện "Quan xung kiếm" ở ngón vô danh. Thiên Tướng sư đệ luyện "thiếu xung kiếm" ở ngón út. Thiên Tham sư đệ luyện "Thiếu trạch kiếm" ở ngón út bên tay trái. Việc gấp đến nơi, không thể trì hoãn được nữa chúng ta phải bắt đầu luyện ngay từ bây giờ.

Nói xong mở hết sáu bức đồ hình treo lên bốn bức vách. Trên đồ hình nào cũng vẽ đủ đường ngang, đường dọc, đường giáp nhau, đường vòng tròn và đường cánh cung. Mỗi vị đều theo đồ hình mà luyện đường kiếm khí của mình, giơ ngón tay lên không nào điểm nào vạch.

Ðoàn Dự đứng đó cảm thấy chân khí trong người rung động nhộn lên, so với trước đây còn tệ hại hơn, không thể chịu đựng được nữa vì nhận thêm chân khí của Bảo Ðịnh Ðế cùng năm nhà sư chùa Thiên Long tống vào. Nhưng chàng thấy bá phụ cùng các phương trượng đang định thần, dụng công luyện kiếm khí nên không dám lên tiếng sợ kinh động mọi người. Chàng chỉ ngồi trân trân ra đó hồi lâu, thấy trong người càng thêm bứt rứt buồn tẻ, ngẫu nhiên nhìn lên đồ hình vẽ kinh mạch treo trên vách. Giữa lúc ấy chàng cảm thấy ngón tay trái giật lên không ngớt,dường như bên trong có con gì muốn cắn da thịt để chui ra. Chỗ đầu ngón tay cắn nhôn nhốt đó đúng chỗ trên hình chua rõ là huyệt "hội tông". Ðoàn Dự nghiêng đầu nhìn bá phụ thấy người đang ngưng thần, chăm chú để mắt dán vào mạch "thiếu dương đi tam tiêu" trên bản đồ, ngón tay vô danh bên phải đang búng tanh tách.

Ðoàn Dự thuận mắt liền ngó theo đường vạch đỏ từ huyệt "hội tông" ra lạc "tam dương" qua đường "tứ độc" nhập vào khu "thiên tỉnh". Chàng đem tâm theo dõi kinh mạch thì chân khí trong người chàng đang tả xung hữu đột tự nhiên được

tâm ý hướng dẫn vào đường lối cũng đi từ cổ tay chuyển qua cẳng tay, đi lên khuỷu tay ngược lên cánh tay cho đến đầu, bả vai. Chân khí theo đường kinh mạch chuyển vận rất có thứ tự. Toàn thân chàng đang bứt rứt khó chịu bỗng nhiên trở nên khoan khoái.

Ðoàn Dự định thần tĩnh trí đưa đường chân khí đó vào trong "tam tiêu". Nhưng dẫn chân khí được vào trong "tam tiêu" phải là tay giỏi nội công thì chàng lại chưa am hiểu bí quyết đó. Chỉ trong thời gian uống cạn chén trà chàng không chịu nổi được nữa kêu lên "ối chao! ối chao!".

Bảo Ðịnh Ðế chợt nghe tiếng la cấp bách vội hỏi:

-Dự nhi! Con làm sao vậy?

Ðoàn Dự đáp:

-Cháu thấy trong người không biết bao nhiêu là luồng chân khí đang chạy nhộn lên không thể chịu nổi. Cháu đem tâm theo dõi những vạch đỏ trên đồ hình của bá phụ, chân khí cũng cuồn cuộn chảy về huyệt "đan điền". Trời ơi có lẽ huyệt này đầy quá, tắc nghẽn, bụng cháu muốn nổ tung ra bây giờ.

Có ai qua cầu mới biết sự phản ứng về nội công làm cho ruột gan chướng lên như muốn nổ tung ra mà người ngoài trông chẳng thấy trạng thái gì khác lạ.

Bảo Ðịnh Ðế là người có bản lãnh về nội công rất thâm hậu, biết rõ rằng chân khí nhiều đến nỗi bành chướng huyệt đan điền thì ít ra cũng phải luyện nội công đên 20 năm, đằng này Ðoàn Dự chưa biết võ công mà trạng thái này xuất hiện thì chỉ là do tà độc trong người đến lúc phát động.

Bảo Ðịnh Ðế kinh dị nghĩ thầm: "nếu không dẫn khí vào chỗ chứa tất sinh tai vạ nhưng lại e đưa tà khí vào sâu nội phủ

sau này trục xuất rất là khó khăn". Nhà Vua bình nhật giải quyết mọi vấn đề nghi nan một cách quả quyết mau lẹ song đứng trước mối hoạ phúc một đời của Ðoàn Dự chỉ sai một chút là lập tức nguy hiểm đến tính mạng chàng nhà Vua không khỏi do dự. Nhìn mắt chàng hào quang tán loạn dường sắp nổi cơn điên không còn đủ thì giờ nghĩ tới nghĩ lui được nữa nhà Vua quyết định tạm thời cứu nguy trước mắt rồi sẽ liệu bèn bảo Ðoàn Dự:

-Dự nhi! Ta dạy con phép dẫn khí về nơi trống rỗng.

Vừa nói vừa truyền thụ phương pháp này cho chàng. Môn nội công họ Ðoàn nước Ðại Lý quả tinh diệu hơn đời, chỉ trong khoảnh khắc chàng đã vận chuyển được chân khí vào các tạng phủ. Chàng cảm thấy thân thể như thư thái nhẹ nhàng tựa hồ như muốn bay bổng lên không.

Bảo Ðịnh Ðế thấy Ðoàn Dự lộ vẻ vui tươi trong lòng vẫn không khỏi lo ngại chỉ sợ tà khí từ đây cố kết trong nội tạng khó lòng khu trừ cho tuyệt diệt, phải mang luỵ suốt đời, bất giác thở dài sườn sượt.

Khô Vinh đại sư thuỷ chung vẫn tĩnh toạ, quay mặt vào vách song hai người đối thoại câu nào cũng lọt vào tai. Ðại sư thấy Bảo Ðịnh Ðế truyền thụ xong phép "đạo khí quy hư" rồi cất tiếng thở dài liền lên tiếng bảo nhà Vua:

-Thiên Trần! Việc đời nhất thiết đều có tiền định cả. Cát hung hoạ phúc đều do lòng người mà ra. Ngươi bất tất quá lo xa cho người, phải gấp rút luyện đường "thiếu dương kiếm" đi!

Bảo Ðịnh Ðế vâng lời, trấn định tâm thần rồi tiếp tục luyện môn "thiếu dương kiếm".

Trong thân thể Ðoàn Dự chân khí nhiều quá, đầy rẫy khắp nơi không thể chốc lát thu về hết ngay được song chàng đã biết phương pháp thực hành mỗi lúc một thuần thục.

Sáu nhà sư trong tăng xá ai nấy gia công luyện kiếm thâu đêm, bất giác trời đã rạng đông. Tiếng gà xao xác gáy dồn. Ðoàn Dự cảm thấy chân khí trong mình không còn chạy nhộn lên nữa. Chàng đứng dậy cử động chân tay, vẫn thấy bá phụ cùng năm vị cao tăng chuyên tâm luyện kiếm, chàng không dám mở cửa ra ngoài, cũng không dám lên tiếng, e làm kinh động mọi người. Không có việc gì cũng buồn, chàng lại trông lên đồ hình của bá phụ, hết nhìn nhận về các đường kinh mạch lại nhìn nhận đến lời giảng giải về kiếm pháp "thiếu dương".

Trong lúc đang nhìn nhận suy nghĩ, bỗng nhiên cảm thấy một luồng chân khí từ trong huyệt "đan điền" tuôn đến đầu bả vai, qua các huyệt "nao hội", "tiểu lạc","thanh lãnh uyển" nhập vào huyệt "quan xung" ở ngón vô danh. Ðầu ngón tay

chàng chướng lên rất khó chịu. Chàng liền nghĩ: âu là ta dẫn khí trở về huyệt "đanđiền". Chàng tư tưởng như vậy quả nhiên luồng chân khí lại qua những đường huyệt trở về "đan điền". Thế là Ðoàn Dự đã vô tình học được phương pháp căn bản về nội công vào hạng thượng thừa. Nhưng đó mới chỉ là cách cho chân khí chạy đi chạy về, chàng đã lấy làm vui sướng vô cùng. Trong mầu ni đường có ba nhà sư thì Thiên Tướng đại sư là người vui vẻ dễ thân cận hơn hết. Ðoàn Dự liền nghiêng đầu về nhà sư này để xem đồ hình từ huyệt "thiếu âm" đến "tâm kinh" của ông. Ðồ hình này bắt nguồn từ huyệt "cực toàn" dưới nách, qua huyệt "thanh linh", "thiếu hải" ở khu vực khuỷu tay rồi do các huyệt "linh đạo", "thông lý", "thần môn","thiếu phủ" ăn thông vào huyệt "tiểu xung" trên ngón tay út. Ðoàn Dự lại đem hết tinh thần nghĩ vào đó, quả nhiên một luồng chân khí lại do những kinh mạch này đi ra theo đúng ý nghĩ của mình. Rồi chàng lần lượt nhìn những đồ hình khác, cũng theo phương pháp đó, bất tất phải nói hết cho rườm lời. Mất nửa ngày nhìn nhận chàng đã thông suốt được cả kinh mạch trên sáu bức đồ hình.

Chàng cảm thấy tinh thần sảng khoái, quên cả đói khát. Sau không biết làm gì nữa để giết thời giờ Ðoàn xem đến lời giảng dạy về kiếm pháp trên sáu bức đồ hình về sáu thế kiếm "thiếu thương", "thiếu dương", "trung xung", "quan xung", "thiếu xung" và "thiếu trạch".

Nhưng chàng chỉ thấy những vạch đen, vạch đỏ đi ngang đi dọc hoặc giao tiếp nhau trông rối mắt khó lòng nhận ra được. Chàng lẩm bẩm: "những đường kiếm rắc rối thế này thì làm sao mà nhớ được?". Rồi chàng tự hỏi: "hai chú tiểu sao mãi không thấy mang cơm chay đến cho mình? Mình phải ra ngoài tìm chút gì ăn cho đỡ đói". Ngay lúc ấy, mũi chàng ngửi thấy mùi gỗ đàn hương thơm ngát, tiếp theo có tiếng hát kệ bằng Phạn ngữ từ xa vẳng lại nghe không rõ. Khô Vinh đại sư buồn rầu nói:

-Hay quá! Hay quá Ðại Luân Minh Vương đã tới. Các ngươi luyện kiếm pháp kết quả ra sao?

Thiên Tham đáp:

-Tuy chưa được thuần thục nhưng cũng đủ để nghênh địch.

Khô Vinh lại bảo Thiên Nhân:

-Ta không đi được! Ngươi ra mời Ðại Luân Minh Vương vào mầu ni đường nói chuyện.

Thiên Nhân vâng lời đi ra. Thiên Quan lấy năm chiếc chiếu trải ra đầu đằng đông rồi chính mình ngồi vào chiếu đầu. Thiên Tướng ngồi chiếu thứ hai, Bảo Ðịnh Ðế ngồi chiếu thứ tư, chiếu thứ ba dành cho Thiên Nhân còn Thiên Tham

ngồi chiếu thứ năm.

Ðoàn Dự không được ngồi đứng ở phía sau Bảo Ðịnh Ðế. Khô Vinh và bọn Thiên Quan biết cường địch đã đến còn ôn lại lời giảng giải trên đồ hình lần cuối cùng rồi mới cuốn lại để trước mặt Khô Vinh.

Bảo Ðịnh Ðế bảo Ðoàn Dự:

-Dự nhi! Lát nữa sẽ xảy ra cuộc ác chiến, trong nhà kiếm khí phóng vùn vụt ra khắp mọi chỗ, rất là nguy hiểm. Ta không thể phân tâm ra bảo vệ con được vậy con ra ngoài kia nghe!

Ðoàn Dự rất đỗi băn khoăn nghĩ bụng: "nghe miệng lưỡi các người thì lão Ðại Luân Minh Vương lợi hại lắm đấy mà bá phụ mình bữa nay mới luyện "quan xung kiếm pháp" lần đầu, chưa chắc đã địch được lão, nếu có chỗ sơ hở biết làm thế nào bây giờ?". Nghĩ vậy chàng đáp:

-Bá bá ơi! Cháu... cháu phải ở luôn bên cạnh bá bá. Mình bá bá ở lại đấu kiếm với họ, cháu chẳng... yên tâm chút nào.

Mấy tiếng sau chàng vừa nói vừa nghẹn ngào.

Bảo Ðịnh Ðế cũng động lòng nghĩ thầm: "Thật là một đứa bé hiếu thảo".

Khô Vinh đại sư gọi:

-Dự nhi! Cháu lại ngồi trước mặt ta đây! dù Ðại Luân Minh Vương có lợi hại đến đâu cũng không động đến chân lông cháu được.

Lời đại sư tuy lạnh lùng song ngụ ý cao ngạo.

Ðoàn Dự vâng lời, khom lưng đến ngồi trước mặt Khô Vinh nhưng không dám ngoảnh lại nhìn đại sư, chỉ quay mặt

vào vách. Khô Vinh cao hơn chàng nhiều, che lấp hẳn chàng đi.

Bảo Ðịnh Ðế vừa cảm kích lại vừa yên dạ. Nhà Vua nghĩ đại sư vừa lấy phép khô thuyền để xuống tóc cho mình, một môn thần công đó cũng đủ ngạo đời rồi.

Còn việc bảo vệ Ðoàn Dự tất đại sư thừa sức.

Trong mầu ni đường yên lặng như tờ. Lát sau nghe tiếng Thiên Nhân phương trượng mời:

-Minh Vương pháp giá đã quang lâm, xin mời người vào mầu ni đường đàm thoại.

Rồi thấy tiếng người khác đáp:

-Xin phương trượng đi trước cho tôi theo gót.

Ðoàn Dự nghe giọng nói của khách lạ có vẻ ôn hòa, khiêm nhường đúng lễ,tuyệt không phải là hạng cường hung ác bá. Chàng lại nghe tiếng chân bước có tới hàng chục người.

Ðoạn thấy Thiên Nhân mở cửa nói:

-Xin rước Minh Vương vào cho!

Ðại Luân Minh Vương đáp:

-Xin lỗi.

Minh Vương bước vào trong nhà, hướng vào phía Khô Vinh chắp tay thi lễ nói:

-Kẻ vãn bối bên nước Thổ Phồn là Cưu Ma Trí xin tham kiến tiền bối đại sư.

Ðoạn đọc luôn bốn câu kệ:

Hữu thường mà hoá vô thường

Bốn bề song thụ một trường khô vinh

Ðông, Tây, Nam, Bắc phân minh

Ðã hình như giả lại hình như không.

Ðoàn Dự lẩm bẩm: "Thế ra vị Ðại Luân Minh Vương này tên gọi Cưu Ma Trí,nhưng không biết bốn câu kệ ông vừa đọc có ngụ ý gì?".

Khô Vinh đại sư không khỏi giật mình nghĩ thầm: "Ðại Luân Minh Vương thật là người học vấn uyên thâm, tinh tế, tiếng đồn quả đã không ngoa. Lão vừa mới gặp mặt lần đầu đã khám phá ra lai lịch phép luyện khô thuyền của mình".

Nguyên trước đức Thích Ca mầu ni tịch giữa những cặp sa la tại thành Câu Thi Na, bốn mặt Ðông, Tây, Nam, Bắc đều có hai cây này mà mặt nào cũng cây tươi cây héo nên gọi là "Tứ khô tứ vinh". Trong kinh Phật giải thích rằng: hai cây ở mặt Ðông tượng trưng cho thuyết "thường dã vô thường", hai cây ở phương Tây tượng trưng cho thuyết "ngã dữ vô ngã", hai cây phương Nam tượng trưng cho thuyết "lạc dữ vô lạc", hai cây ở phương Bắc tượng trưng cho thuyết "tĩnh dữ vô tĩnh". Những cây tươi tốt rườm rà tượng trưng cho sự có thật là "hữu thường", "hữu ngã", "hữu lạc", "hữu tĩnh". Trái lại những cây khô héo tàn tạ tượng trưng cho sự không có gì hết: vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tĩnh. Ðức Phật Như Lai (Thích Ca) tịch giữa tám cây tượng trưng cho tám thuyết trên, hay nói một cách khác là phi khô, phi vinh,

phi giả, phi không.

Khô Vinh đại sư trên mười năm trời tu luyện khô thuyền mới tu được đến cõi "bán khô, bán vinh" chứ chưa được đến cõi cao hơn là "phi khô phi vinh" hay "diệc khô diệc vinh" nên đại sư vừa nghe mấy câu kệ của Ðại Luân Minh Vương không khỏi giật mình đáp:

-Minh Vương từ xa đến đây, lão tăng không kịp đi đón xin mở lượng từ bi.

Ðại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí nói:

-Uy danh chùa Thiên Long tiểu tăng bấy lâu ngưỡng mộ. Hôm nay được diện yết tôn nghiêm hoan hỉ vô cùng.

Thiên Nhân phương trượng mời ngồi, Cưu Ma Trí tạ ơn rồi mới ngồi xuống.

Ðoàn Dự chưa trông rõ tướng mạo Ðại Luân Minh Vương liền nép mình vào cạnh Khô Vinh, ngấp nghé trông ra thì thấy một vị sư mặc áo thầy chùa sắc vàng, chưa tới 50 tuổi, áo vải giày cỏ, cũng chẳng có gì khác người thường, song vẻ mặt tươi hơn hớn dường như minh châu bảo ngọc tự có ánh hào quang.

Chàng mới thấy mặt đã sinh lòng kính cẩn, muốn được thân cận. Chàng lại nhìn qua khe cánh cửa ra ngoài thấy 8, 9 gã hán tử đứng đó, cao có thấp có, mặt mũi tên nào cũng đanh ác,đáng ghê, không ra tuồng nhân sĩ ở Trung Nguyên. Ðó là những người tuỳ tùng mà Minh Vương đem từ Trung Thổ đến.

Cưu Ma Trí chắp tay nói:

-Tuy đức Phật có dạy rằng: không sống, không chết, không nhơ, không sạch song tiểu tăng tư chất ngu muội chưa suốt lẽ yêu, ghét, sống, chết. Tiểu tăng có ông bạn tâm giao người đất Cô Tô, nước Ðại Tống ở họ Mộ Dung. Năm trước tiểu tăng hạnh ngộ ông bạn này tại nước Thiên Trúc rồi cùng ông đàm luận võ nghệ.

Mộ Dung tiên sinh biết hết các môn võ khắp thiên hạ một cách rất tinh tường.

Trong mấy ngày, tiểu tăng được tiên sinh chỉ giáo cho những điểm nghi ngờ nên được hiểu hết. Không ngờ bậc đại anh hùng chẳng được sống lâu, vội về cực lạc.

Tiểu tăng có điều thỉnh nguyện khó nghe, xin các vị trưởng lão mở lượng từ bi cho.

Thiên Nhân đã biết ý Ðại Luân Minh Vương liền đáp:

-Minh Vương cùng Mộ Dung tiên sinh có mối nhân duyên kết bạn một hồi. Nay duyên phận đã hết thì thôi hà tất phải miễn cưỡng môi cầu điều này điều khác. Mộ Dung tiên sinh đã về thế giới cực lạc, lễ Phật nơi toà sen, còn để ý đâu đến cái nghề võ ở nhân gian nữa? Minh Vương làm việc này chẳng hoá ra rắn vẽ thêm chân ư?

Cưu Ma Trí nói:

-Lời phương trượng chỉ điểm cho quả là đúng lý, song tiểu tăng vốn tính cố chấp mê si, đã đóng cửa 40 ngày mà không sao quên được người tri kỷ. Năm đó Mộ Dung tiên sinh có đề cập đến kiếm pháp khắp thiên hạ, xác nhận môn Lục Mạch Thần Kiếm tại chùa Thiên Long đây đứng vào bậc nhất. Tiên sinh ân hận chưa được xem qua, đó là một điều tiên sinh suốt đời hối tiếc.

Thiên Nhân nói:

-Tệ tự ở tận biên cương hẻo lánh, được Mộ Dung tiên sinh có lòng quá yêu, thực là một vinh dự cho chúng tôi. Nhưng không hiểu tại sao ngay ngày đó tiên sinh không thân hành tới đây mượn về xem?

Cưu Ma Trí thở dài não ruột, thay đổi sắc mặt, lặng yên hồi lâu rồi lại nói:

-Mộ Dung tiên sinh thực ra đã biết cuốn kinh này là vật chí bảo để chấn chùa,dù có đến mượn chắc cũng không được. Người còn nói rằng họ Ðoàn nước Ðại Lý tuy ngôi chúa tể một nước mà không quên nghĩa khí thuở còn là khách giang hồ, có lòng thương dân, gia ơn cho khắp cả trăm họ, tiên sinh không tiện đến lấy trộm hay cưỡng đoạt.

Thiên Nhân tạ rằng:

-Ða tạ thịnh tình Mộ Dung tiên sinh quá khen. Mộ Dung đã để họ Ðoàn nước Ðại Lý tôi lọt vào mắt xanh, Minh Vương lại là tri kỷ với tiên sinh tưởng cũng nên nghĩ tới ý chí tiên sinh còn để lại.

Cưu Ma Trí nói:

-Chỉ vì hồi đó tiểu tăng đã trót khoe với tiên sinh rằng tiểu tăng là quốc sư nước Thổ Phồn, đối với họ Ðoàn nước Ðại Lý chưa từng quen biết, nếu tiên sinh không tiện thân hành đến lấy thì để tiểu tăng lấy cho. Tiểu răng nghĩ rằng bậc đại trượng phu đã nói một lời dù sống chết cũng không thay đổi. Tiểu tăng đã hứa nhất quyết không dám sai lời.

Dứt lời lão khẽ vỗ tay ba cái, hai hán tử khiêng một cái rương bằng gỗ đàn hương vào, đặt dưới đất. Cưu Ma Trí phất tay áo một cái, nắp rương tự nhiên mở ra, bên trong có một cái hộp bằng vàng. Cưu Ma Trí cúi xuống, lấy hộp lên cầm

tay.

Thiên Nhân nghĩ thầm: bọn ta đã là người thoát vòng tục luỵ còn tham lam làm chi những đồ kỳ trân, dị bảo. Hơn nữa họ Ðoàn làm Vua một nước dư trăm rưởi năm nay, súc tích thiếu gì kim ngân châu báu.

Nhưng Cưu Ma Trí mở nắp hộp ra chỉ có ba quyển sách cũ. Lão tiện tay mở ra.

Thiên Nhân liếc mắt trông qua thấy trong sách có hình vẽ và có chữ nghĩa đều do tay người viết và họa bằng mực, bằng son. Cưu Ma Trí nhìn ba cuốn sách thốt nhiên rớt nước mắt ướt cả tràng áo, nét mặt sầu thảm vô cùng.

Bọn Thiên Nhân đều lấy làm lạ.

Khô Vinh đại sư nói:

-Minh Vương lúc nào cũng nghĩ đến người bạn thuở xưa, trần duyên chưa sạch,há không thẹn với hai chữ "cao tăng" ư?

Ðại Luân Minh Vương cúi đầu nói:

-Ðại sư là bậc đại trí tuệ, đại thần thông tiểu tăng bì thế nào được? Ba quyển võ công quyết yếu này do chính tay Mộ Dung tiên sinh soạn ra, diễn thuật những điều chính yếu trong 72 môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm, có cả phép luyện, phép phá nữa.

Mọi người nghe nói cả kinh nghĩ thầm: "72 môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm lẫy lừng khắp thiên hạ. Người ta đồn rằng từ khi phái Thiếu Lâm sáng lập, ngoại trừ một vị cao tăng về đời Tống kiêm được 56 môn còn chưa có người thứ hai nào

luyện tới 36 môn. Thế mà bảo Mộ Dung tiên sinh quán được cả 72 môn đã khó tin rồi, huống hồ lại biết cả cách phá giải nữa thì không ai dám nghĩ đến.

Cưu Ma Trí tiếp:

-Mộ Dung tiên sinh tặng ba cuốn kỳ thư này cho tiểu tăng, tiểu tăng nghiên cứu nhiều điều rất bổ ích. Nay xin đưa sang đây đổi lấy cuốn Lục mạch thần kiếm kinh. Các vị đại sư có thể tất cho thì tiểu tăng mới vẹn được lời ước hẹn năm xưa

và lòng cảm kích nói sao cho xiết?

Thiên Nhân phương trượng không nói gì nghĩ thầm: "nếu quả nhiên ba cuốn sách này ghi chép đầy đủ 72 môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm thì chùa Thiên Long này sau khi học được ba cuốn đó võ công không chỉ ngang hàng với phái Thiếu

Lâm mà thôi lại còn có phần cao hơn một bậc vì bao nhiêu môn sở trường của Thiếu Lâm mình đã biết hết mà phái Thiếu Lâm chưa biết gì về những môn tuyệt kỹ của chùa này.

Cưu Ma Trí nói:

-Khi quý tự ban cho cuốn Bảo kinh đó vẫn để bản sao lại không thiệt hại gì mà tiểu tăng được các đại sư gia ơn cho tất phải khắc xương để dạ. Ðó là một điều lợi.

Tiểu tăng bái lãnh bảo kinh xin niêm phong lại lập tức, quyết không xem trộm,thân hành đưa đến phần hoá ngay trước mồ Mộ Dung tiên sinh. Tuyệt kỹ của quý tự không tiết lộ cho ai biết cả, đó là hai điều lợi. Các vị đại sư ở quý tự đây võ học uyên thâm, không cần đi đâu mà nơi khác đem đá đến cho có thể mài giũa nên ngọc quý. 72 môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm có nhiều bí quyết độc đáo, tỷ như phép "niêm hoa chỉ", "vô tướng kiếp chỉ", "Ða la diệp chỉ". Ba chỉ pháp này cùng phép Nhất Dương Chỉ của quý tự đây có thể bồi bổ cho nhau. Ðó là ba điều lợi.

Cưu Ma Trí nói thao thao một hồi nghe rất hợp tình hợp lý.

Bảo Ðịnh Ðế cùng Ðoàn Dự lúc đầu xem bức thư vàng lời lẽ có vẻ ép buộc chùa Thiên Long để lấy bảo kinh một cách vô lý nhưng bây giờ nghe Cưu Ma Trí trình bày như vậy tựa hồ chùa Thiên Long được lợi rất nhiều mà không thua thiệt gì. Hơn nữa lão làm như thân hành kính dâng hậu lễ vậy. Thiên Tướng đại sư là người hiền hoà dễ dãi nhất,bổn tính ưa giúp được việc cho người trong tâm có ý ưng thuận. Song nói về tôn ti thì trên còn có sư thúc về địa vị phải nhường phương trượng nên không dám nói ra.

Cưu Ma Trí tiếp:

-Tiểu tăng hãy còn ít tuổi và kiến thức hẹp hòi, lời nói chưa đủ thủ tín cùng các vị đại sư vậy xin đem ba môn chỉ pháp cùng nằm trong 72 môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm ra phô trương trước mặt quý vị, chẳng quản múa rìu qua mắt thợ.

Lão liền đứng dậy rào đón:

-Ðây chỉ là nhân lúc tiểu tăng cao hứng, công phu luyện tập thô sơ nên còn nhiều chỗ kém cỏi, xin quý vị chỉ điểm cho. Tiểu tăng xin bắt đầu bằng môn "niêm hoa chỉ".

Nói xong lão đưa ngón cái và ngón trỏ bên tay phải ra, nhẹ nhàng để gần vào nhau, tựa hồ đang cầm một đoá hoa tươi. Nét mặt mỉm cười lão lại đưa những ngón tay trái ra búng.

Trong mầu ni đường trừ Ðoàn Dự ra, còn toàn là những tay nghiên cứu chỉ pháp đến mức tinh vi, vừa thấy lối chỉ pháp của Cưu Ma Trí cực kỳ nhẹ nhàng êm dịu. Mỗi lần tay trái búng ra tựa hồ gảy những hạt sương đọng trên hoa đi, lại tỏ vẻ không dám đụng mạnh, sợ cánh hoa rụng xuống. Miệng vẫn ung dung mỉm cười. Nguyên kinh Phật có chép rằng: Ðức Thích ca mầu ni thuyết pháp trên núi Linh Sơn, tay cầm bông hoa Ba la sắc vàng, mọi người nghe không ai nói gì,

chỉ có Gia Diệp phá lên cười, Ðức Thích Ca biết ngay Gia Diệp đã lĩnh hội tâm pháp của mình liền nói:

-Ta có các môn "chính nhãn pháp tàng", "nát bàn pháp môn", "thục tướng vô tướng", "vi diệu pháp môn" không chép vào sách để ta truyền cho Gia Diệp.

Tâm truyền là một điều trọng đại của Thuyền Tông. Phái Thiếu Lâm lại ở trong phạm vi Thuyền Tông nên môn "niêm hoa chỉ" này được nghiên cứu rất tinh vi.

Lúc Cưu Ma Trí búng ngón tay chưa thấy gì kỳ lạ. Lão búng liền một lúc mấy chục cái rồi giơ tay áo lên thổi thì thấy những mảnh vải tròn, chỉ lớn bằng những con cờ bay phất phới, tay áo lộ ra đến mấy chục chỗ thủng. Thì ra lúc lão búng ngón tay lão đã dùng "niêm hoa chỉ" điểm vào tay áo cho thủng rồi. Nhưng trước chưa trông thấy gì, tay áo tựa như vẫn nguyên lành lúc thổi vào những mảnh áo mới bay tung ra.

Bọn Thiên Nhân, Thiên Quan, Bảo Ðịnh Ðế thấy vậy đều lấy làm kinh dị nghĩ thầm: "kể ra thì bọn mình mang Nhất Dương Chỉ điểm cho thủng áo cũng được,chẳng có gì là khó. Song đưa ngón tay ra một cách mềm mại, nét mặt vẫn vui vẻ tươi cười mà vận động nội lực mạnh đến thế thì mình không làm được. Rút lại môn Nhất Dương Chỉ cùng môn "niêm hoa chỉ" hoàn toàn khác biệt ở chỗ phát ra kình lực theo cách âm nhu mà môn Nhất Dương Chỉ lại theo phép dương cương.

Cưu Ma Trí tươi cười nói:

-Tiểu tăng đã phô bày môn "niêm hoa chỉ" một cách vụng về, còn kém Huyền Ðộ đại sư chùa Thiếu Lâm xa lắm. Ðến môn "Ða la diệp chỉ" tiểu tăng sắp trình bày đây, chắc lại còn sai lạc hơn nữa.

Dứt lời Cưu Ma Trí đủng đỉnh đi vòng quanh cái rương gỗ đặt dưới đất, mười đầu ngón tay điểm ra trông tựa như lá rụng hoa bay rồi những miếng rương gỗ tung lên không ngớt. Chớp mắt những mãnh gỗ đó đã nát vụn, rơi xuống thành một đống mùn cưa.

Bảo Ðịnh Ðế cùng các nhà sư coi việc làm cho cái rương gỗ vụn ra chẳng có chi kỳ dị nhưng cả những đai sắt, bản lề đồng mà chỉ lực cũng đánh gãy nát được thì không khỏi kinh hãi.

Cưu Ma Trí cười nói:

-Tiểu tăng sử dụng môn "Ða la diệp chỉ" này cũng là miễn cưỡng, công phu luyện tập hãy còn thiển cạn.

Lão vừa nói vừa thủ tay vào trong áo thế mà thốt nhiên đống gỗ nát vụn tự nhiên bay lên loạn xạ, tựa hồ có cây vô hình khuấy lên vậy. Nét mặt Cưu Ma Trí vẫn ôn hoà tươi cười, cái áo thầy chùa rộng thùng thình vẫn không lay động mảy may.

Thần tình ở chỗ chỉ lực bên trong tay áo phóng ngầm ra, tuyệt không lộ hình tích chút nào.

Thiên Tướng không nhịn được bất giác trầm trồ:

-Môn "vô tướng kiếp chỉ" hay quá! Quả nhiên danh bất hư truyền! Bần tăng xin bội phục!

Cưu Ma Trí lễ phép nói:

-Ðại sư quá khen đấy chứ! Ðống gỗ nát vụn lên còn là hữu tướng. Luyện được đến chỗ vô hình, vô tướng thì phải hết đời.

Thiên Tướng đại sư hỏi:

-Trong cuốn kỳ thư của Mộ Dung tiên sinh để lại có nói đến phép phá môn "vô tướng kiếp chỉ" không?

Cưu Ma Trí đáp:

-Có có! Phép phá "vô tướng kiếp chỉ" cũng có tên giống như pháp danh của đại sư.

Thiên Tương trầm ngâm hồi lâu rồi tiếp:

-Ừ phải! Ðem thiên tướng để phá vô tướng thật là cao tuyệt.

Ba nhà sư Thiên Nhân, Thiên Quan, Thiên Tham nhìn Cưu Ma Trí diễn xong ba môn chỉ lực đã thấy chột dạ, biết rằng ba cuốn kỳ thư đúng là chép 72 môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm đã có ý muốn đem bản sao các đồ hình về Lục mạch thần kiếm đánh đổi nhưng còn trù trừ chưa dám nói ra.

Thiên Nhân nói:

-Bạch sư thúc! Minh Vương từ xa tới đây với tầm lòng thành thực! ý kiến sư thúc thế nào chỉ thị cho!

Khô Vinh đại sư hỏi:

-Thiên Nhân! Chúng ta luyện công tập nghị để làm gì?

Thiên Nhân phương trượng nghe sư thúc hỏi vặn không khỏi ngạc nhiên đáp:

-Cốt để mở rộng phép mầu, bảo vệ quốc gia.

Khô Vinh lại hỏi:

-Khi gặp hạng quỷ quái ở đâu đến, đạo pháp mình hãy còn thiển cận không đủ điểm hoá được chúng cần phải tru diệt cho yên thì dùng cách gì?

Thiên Nhân đáp:

-Nếu bất đắc dĩ phải ra tay, sẽ dùng Nhất Dương Chỉ.

Khô Vinh đại sư hỏi:

-Ngươi luyện Nhất Dương Chỉ đã đến bậc nào?

Thiên Nhân toát mồ hôi trán đáp:

-Ðệ tử ngu muội lại thiếu chuyên cần nên mới luyện đến bậc thứ năm.

Khô Vinh đại sư lại hỏi:

-Theo ý kiến ngươi thì môn Nhất Dương Chỉ của họ Ðoàn nước Ðại Lý so với các môn "niêm hoa chỉ", "Ða la diệp chỉ", "Vô tướng kiếp chỉ" của phái Thiếu Lâm ai hơn ai kém?

Thiên Nhân đáp:

-Về chỉ pháp không có hơn kém, chỉ có công phu rèn luyện là có kẻ cao người thấp mà thôi.

Khô Vinh đại sư nói:

-Ðúng đó. Giả tỷ mà môn Nhất Dương Chỉ của chúng ta luyện được đến chỗ tuyệt đỉnh thì sẽ ra sao?

Thiên Nhân đáp:

-Phép mầu uyên thâm như biển cả khôn lường. Ðệ tử đâu dám nói càn?

Khô Vinh hỏi:

-Tỷ dụ như ngươi thọ đến trăm tuổi, sẽ luyện được tới bậc nào?

Mồ hôi trán nhỏ giọt, Thiên Nhân đáp:

-Ðệ tử cũng không biết nữa.

Khô Vinh hỏi:

-Liệu có luyện được đến chỗ tuyệt đỉnh không?

Thiên Nhân đáp:

-Quyết không thể được.

Thấy Khô Vinh không nói gì nữa Thiên Nhân tiếp:

-Lời sư thúc dạy chí phải. Môn Nhất Dương Chỉ của mình còn chưa luyện được đến nơi đến chốn thì nói chi đến kỳ kinh võ học của ai nữa? Minh Vương lặn lội cực nhọc đến đây tệ tự xin thết tiệc chay tẩy trần.

Vừa nghe lời cự tuyệt Ðại Luân Minh Vương thở dài sườn sượt nói:

-Chỉ vì tiểu tăng trót lỡ miệng một câu không thì nay Mộ Dung tiên sinh đã qua đời, việc cầu kinh Lục mạch thần kiếm có được hay không cũng chẳng quan hệ gì.

Hôm nay tiểu tăng hỏi câu này khí vô lễ:

-Môn Lục mạch thần kiếm quả có tinh diệu đến như lời Mộ Dung tiên sinh thì e rằng quý tự đây không ai luyện nổi. Giả tỷ có người luyện thành rồi thì chắc nó chả tinh diệu như Mộ Dung tiên sinh đã tưởng tượng.

Khô Vinh nói:

-Lão tăng cũng có một nghi vấn mong Minh Vương chỉ giáo.

Cưu Ma Trí nói:

-Không dám!

Khô Vinh đại sư hỏi:

-Bản tự có pho kinh Lục mạch thần kiếm, chính con cháu họ Ðoàn còn ở trong vòng tục luỵ cũng không thể biết, không hiểu Mộ Dung tiên sinh đã nghe ai mách?

Cưu Ma Trí đáp:

-Mộ Dung tiên sinh không nói rõ. Song tiểu tăng đoán ra dường như tiên sinh có mối quan hệ với thái tử Diên Khánh họ Ðoàn.

Thiên Nhân gật gù hỏi:

-Thái tử Diên Khánh có biết Mộ Dung tiên sinh?

Cưu Ma Trí đáp:

-Mộ Dung tiên sinh có chỉ điểm cho thái tử bảy, tám thế võ nhưng không chịu thu nạp y làm đồ đệ.

Khô Vinh đại sư hỏi:

-Tại sao vậy?

Cưu Ma Trí đáp:

-Ðó là chuyện riêng của tiên sinh, tiểu tăng không tiện hỏi kỹ.

ý tứ câu nói của Cưu Ma Trí là xin Khô Vinh đừng hỏi nữa. Khô Vinh nói:

-Thái tử Diên Khánh là con em họ Ðoàn, chùa Thiên Long cùng trưởng tộc có trách nhiệm về hành động của y.

Cưu Ma Trí lạnh lùng đáp:

-Chính thế!

Thiên Nhân phương trượng nói:

-Trên mười năm trời sư thúc bần tăng không tiếp kiến ai. Chỉ có Minh Vương là bậc cao tăng hiện nay nên người mới phá lệ đó ra tiếp kiến chốc lát mà thôi. Nào xin mời Minh Vương.

Nói xong đứng dậy tỏ ý tiễn chân.

Cưu Ma Trí nói:

-Tôi tưởng kinh Lục mạch thần kiếm chỉ có hư danh, quý tự hà tất phải coi quan trọng như thế làm gì? để đến nỗi thương tổn đến hoà khí giữa Thiên Long tự và Ðại Luân tự, lại tổn thương cả đến mối bang giao giữa hai nước Ðại Lý cùng Thổ Phồn.

Thiên Nhân nói:

-Minh Vương muốn nói thế nào thì nói chúng tôi cũng không thuận giao kinh đâu. Chẳng lẽ vì thế mà Ðại Lý cùng Thổ Phồn sẽ xảy cuộc binh đao?

Bảo Ðịnh Ðế thường phái trọng binh đồn trú tại miền biên giới tây bắc để đề phòng nước Thổ Phồn đem quân vào xâm lấn giờ nghe Cưu Ma Trí nói vậy nhà Vua càng để ý theo dõi câu chuyện.

Cưu Ma Trí nói:

-Quốc Vương nước Thổ Phồn chúng tôi lâu nay vẫn hâm mộ nhân vật vùng phong thổ nước Ðại Lý, từng đòi mở cuộc săn bắn với Hoàng Thượng bên quý phái song tiểu tăng e rằng làm như vậy tổn thương nhân mạng quá nhiều, trái với đức hiếu sinh của Thượng Ðế nên tiểu tăng phải ráng sức ngăn cản mới thôi.

Bọn Thiên Nhân nghe qua đã biết lời lão có ngụ ý uy hiếp.

Cưu Ma Trí là quốc sư nước Thổ Phồn. Nước Thổ Phồn cũng như nước Ðại Lý, từ quốc vương trở xuống ai ai cùng sùng tín đạo Phật. Cưu Ma Trí được quốc vương Thổ Phồn rất tín nhiệm,hoà hay chiến phần lớn là do lão quyết định. Nếu vì một pho kinh mà để xảy ra chinh chiến, nhân dân hai nước phải lầm than thì khí quá. Nhưng nếu để người ngoài vào hăm doạ một câu đã phải hai tay mang bảo kinh đem dâng cho họ thì còn ra thể thống gì nữa?

Khô Vinh đại sư nói:

-Nếu Minh Vương cần pho kinh của tệ tự quá, không có không được thì bọn lão tăng đâu dám tiếc? Còn chuyện Minh Vương bảo đem pho sách có 72 môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm đánh đổi, tệ tự không dám bái lãnh. Lão tăng tuy đã mấy chục năm quay mặt vào vách song cũng biết những chuyện tuyệt kỹ chùa Ðại Luân hãy còn hơn 72 môn của phái Thiếu Lâm nhiều.

Cưu Ma Trí chắp tay hỏi:

-Theo ý đại sư, phải chăng đại sư muốn cho tiểu tăng phải lòi cái kém cỏi ra?

Khô Vinh đại sư nói:

-Minh Vương vừa bảo pho kinh Lục mạch thần kiếm của tệ tự chỉ có hư danh không được việc gì. Bọn lão tăng xin đem môn Lục mạch thần kiếm thỉnh giáo Minh Vương vài thế oanh liệt. Nếu quả đúng như lời Minh Vương: Lục mạch thần kiếm chỉ có hư danh không được việc gì thì chẳng có chi đáng quý thật, Minh Vương cứ việc lấy đi.

Cưu Ma Trí nghe Khô Vinh nói vậy không khỏi chột dạ. Trước lão cùng Mộ Dung tiên sinh đàm luận về môn "Lục mạch thần kiếm" đã biết kiếm pháp này cực cao, chỉ sợ sức người không luyện được đến nơi đến chốn. Bây giờ nghe miệng lưỡi Khô Vinh thì môn này không những ông ta biết sử dụng mà thôi, dường như chư tăng ở đây cũng đã rèn luyện. Chùa Thiên Long nổi danh hơn trăm năm nay mình không thể coi thường họ được. Vẻ mặt Cưu Ma Trí lúc này càng nghiêm cẩn hơn,lão nghiêng mình nói:

-Chư vị cao tăng cho biết tuyệt nghệ về môn thần kiếm này để tiểu tăng được mở rộng nhãn giới thì may mắn nào bằng?

Thiên Nhân phương trượng nói:

-Minh Vương dùng thứ khí giới gì? Xin lấy ra!

Cưu Ma Trí vỗ tay một cái, một gã hán tử cao lớn từ ngoài cửa bước vào. Sau khi nghe Cưu Ma Trí nói tiếng Phiên mấy câu gã gật đầu ra mở rương lấy một nắm hương đưa cho lão rồi lại ra ngoài cửa chờ.

Ai cũng lấy làm kỳ. Nắm hương kia đụng đến là gãy, chẳng lẽ lại dùng làm khí giới được ư? Bỗng thấy Cưu Ma Trí tay trái cầm một nén hương, tay phải quờ xuống đống gỗ rương gãy vụn bóp nhỏ ra để cắm hương. Lão tiếp tục làm như vậy,cắm đủ sáu nén hương bày hàng chữ nhất, nén nọ cách nén kia vào khoảng một xích.

Cưu Ma Trí ngồi xếp bằng sau những nén hương cách xa chừng năm xích.

Bỗng nhiên lão xát hai bàn tay vào đầu nén hương vài cái rồi buông ra. Ðầu nén hương cháy sáng lên, mọi người tưởng lão thắp hương bằng cách đó, ai nấy cả kinh ghê cho nội lực của lão đã đến mức không ai có thể tưởng tượng được.

Thiên Nhân phương trượng cùng Bảo Ðịnh Ðế thoảng ngửi thấy mùi lưu hoàng đoán biết là đầu sáu nén hương đều có hoả dược và không phải Cưu Ma Trí dùng nội lực để thắp nén hương mà dùng nội lực xát hoả dược cho đều nén hương bật cháy lên. Tuy nhiên làm được thế cũng gớm lắm rồi.

Phe Bảo Ðịnh Ðế không ai làm nổi.

Sáu nén hương cháy rồi sáu luồng hơi bốc thẳng lên như sáu sợi dây trắng.

Cưu Ma Trí vòng tay như kiểu ôm quả cầu tròn, vận động nội lực cho sáu ngọn khói hương quanh lại chỗ chư tăng. Sáu luồng khói hương lướt tới trước mặt sáu vị: Khô Vinh, Thiên Quan, Thiên Tướng, Thiên Nhân, Bảo Ðịnh Ðế và Thiên Tham mỗi vị một luồng riêng biệt. Sáu chưởng lúc này gọi là Hoả Diệm Ðao tuy bay lơ lửng trên không chẳng ai nắm được nhưng vô hình trung nó có thể giết người một cách ghê gớm.

Lúc này Cưu Ma Trí còn lưu tâm dè dặt vào việc mượn bảo kinh nên không có ý giết người. Lão dở trò này một là để diễu võ dương oai ra điều ta đây chỉ có uy hiếp người chứ không sợ ai, hai là để tỏ ra lão lấy đạo từ bi làm trọng, chỉ cần so sánh võ nghệ mà thôi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#tlbb