đề 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Vào thời kì phát triển rực rỡ nhất của nền văn học trung đại, thời kì những tác phẩm mang đầy tính nhân đạo và nhân văn được ra đời. Những tác phẩm nói về hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài quen thuộc của văn học dân gian. Mảng đề tài đầy cảm hứng nhân văn này đã làm nên giá trị của nền văn học nói chung, gương mặt của các tác giả nói riêng. Tiêu biểu là Hồ Xuân Hương với "Tự tình" (II) và Tú Xương với "Thương vợ", tuy là cùng chung đề tài nhưng mỗi tác giả lại có phong cách viết khác nhau,mỗi tác phẩm đều có nét riêng.
Bài Tự tình 2 của bà chúa thơ nôm hồ xuân hương thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật được viết theo ngôn ngữ Nôm thuần Việt, bài thơ có lẽ đã được tác giả viết về cuộc đời của chính bản thân mình, trong một phút suy tư. Nữ sĩ đã cảm nhận cuộc sống qua những âm thanh, quang cảnh lạnh buồn, vắng lặng và tự cảm thương cho số phận hẩm hiu của mình.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Hai câu thơ mở đầu trên còn được gọi là hai câu thơ ĐỀ trong thể thơ độc đáo này. Nhắm mắt suy nghĩ về cuộc sống, từng nhịp thở của người phụ nữ trong đêm khuya lạnh tanh hoà theo tiếng trống thông báo dồn dập, diễn tả sự qua đi nhanh chóng của thời gian. Đêm nay, người phụ nữ đang lẻ loi, cô độc một mình. Không còn một âm vang nào khác, không còn những tiếng ồn ào náo nhiệt của một ngày dài, chỉ còn tiếng trống canh cùng người phụ nữ. Từ “Trơ” – một trong những từ ngữ thể hiện sự chua chát của cuộc đời và sự đối lập giữa vẻ đẹp “Hồng nhan” – “Nước non”. Tại sao nữ sĩ Hồ Xuân Hương lại đặt mình vào trong nhân vật với một không gian buồn bã, tàn lụi đến như vậy? Đối với riêng nữ sĩ khi đối mặt với cái thực tế đó, tâm trạng bà thế nào? Phải chăng bà muốn diễn tả thân phận không chỉ của riêng bà, mà còn là của những người phụ nữ khác trong cái quy luật cổ hủ, vô nhân đạo “Hồng nhan bạc phận” ? Hay cái thân phận phải đi làm “Vợ lẽ” – Không được tôn trọng cả về phẩm giá và tâm hồn ? Thật đớn đau …

Bước qua hai câu thơ kế, cũng là hai câu thực, liệu rằng ta có cảm nhận được diều gì trong sáng hơn, tươi đẹp hơn hay không ?

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

Trong cái không gian cô quạnh không bóng người của bầu trời đêm, người phụ nữ tìm đến những chén rượu để giải thoát mình khỏi nỗi sầu não của cuộc đời. Thật độc đáo khi sử dụng nghệ thuật “Mượn cảnh ngụ tình” trong hai câu thực này. Nỗi buồn đau, tụi nhục – như đã đề cập ở trên, có thể là thân phận làm vợ lẽ, phải chịu sự ghen ghét, cay nghiệt của người vợ cả ? Một chút hương rượu nồng có thể đã đưa người phụ nữ đến những giấc mơ trong cơn mê để xoa dịu những nỗi đau trong giây phút thực tại. Nhưng… Càng về khuya, khi tiếng trống canh dãn dài ra, thời gian bắt đầu chậm lại, thì cũng là lúc mùi hương nhè nhẹ của những chén rượu không còn tác dụng. Người phụ nữ chợt bừng tỉnh về phút giây hiện tại chan chứa nỗi buồn. Ba từ : “Say lại tỉnh” đã chứng minh được điều đó. Càng uống càng tỉnh, cảng tỉnh lại càng nghĩ suy. Trong cái “Bóng xế khuyết chưa tròn” của Vầng trăng tưởng chừng như êm đềm, phải chăng tác giả đang nghĩ về nhan sắc của mình đang tàn phai theo năm tháng, mà tình duyên vẫn chưa thể vẹn toàn? Ánh trăng đêm là ánh trăng cuả kỷ niệm, của hẹn ước yêu đương, của bao đôi tình nhân. Ánh trăng cũng là biểu tượng của sự thuỷ chung của bao tình yêu đôi lứa. Giờ đây, ánh trăng đó sắp tàn và đang dần khuất bóng sau những rặng dừa cao, người phụ nữ vẫn chưa thể chìm sâu vào giấc ngủ. Trăng chưa thể tròn, như cuộc tình dang dở của người phụ nữ. Có lẽ, nữ sĩ Hồ Xuân Hương muốn đưa cái sự suy nghĩ về lẽ đời, về sự hạnh phúc mà tác giả đang mong đợi vào chính tâm trạng của nhân vật.

Đến vs tú xương Bài thơ "Thương vợ" thể hiện tâm thế và vị thế của một người mẹ, một người vợ đảm đang. Bà Tú có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được. Vì chồng, thương con mà cam chịu cuộc sống khó khăn vất vả.Đức tính cao đẹp của bà Tú được tác giả thể hiện rõ trong hai câu đề và hai câu thưc Quanh năm suốt tháng, ngày này qua ngày khác không có lấy một ngày nghỉ, ngày mưa cũng như ngày nắng Bà Tú lam lũ buôn bán ở "mom sông" . "Mom sông" 2 từ đặc tà nói lên dược không gian mà bà Tú lặn lội kiếm sống, vùng đất lồi ra sông, muốn nói lêm được vùg đất ấy là nơi đầu sông ngọn gió. Đó không phải là vùng đất thuận lợi lợi cho việc buôn bán mưu sinh mà đó là vùng đất rất khó khăn bấp bênh. Phẩm chất cao đẹp của bà Tú càng cao cả hơn trong hoàn cảnh vất vả cực khổ, gian nan nuôi đủ 5 con vs 1 chồng. Chữ "nuôi" đã đủ để nói lên những gì vêd 1 ng phụ nữ tần tảo vs gđ. lời văn vừa hỏm hỉnh nhưng cũng mang nặng nỗi niềm suy tư khi không giúp đc gì cuo vợ mình. Câu thơ cũng nói lên niềm hp của 1 ng vợ đảm hi sinh tất cả cho chồg con, đó là những lời tx đã nói lên hộ vợ mình.
     Những người phụ nữ dù luôn vất vả, số phận luôn nghiệt ngã, nhưng nững điều ấy vẫn chưa đủ để dập tắt đc niềm tin, hi vọng, khát khai hạnh phúc của họ. Dù đau đớn thế nào, dù yếu ớt đến đâu thì trong sâu thẳm trái tim Hồ Xuân Hương cũng ánh lên ngọn lửa khao khát, hi vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên đấu tranh thay đổi cuộc sống của mình. "Xiên ngang mặt đất rêu từng đám./Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn". Tâm trạng con người như muốn nói lên nỗi phẫn uất, ngang ngạnh, bướng bỉnh. Thiên nhiên trong mắt Hồ Xuân Hương tiềm ẩn một sức sống đang bị đè nén và đang vươn lên mạnh mẽ. "Rêu", "đá" chỉ là những vật nhỏ bé, hèn mọn nhưng không hề yếu đuối bởi rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây. Điều đó càng chứng tỏ Hồ Xuân Hương muốn bứt phá rào cản để đi tìm hạnh phúc cho mình, muốn giải thoát số phận hoàn cảnh, thể hiện cá tính táo bạo của nữ sĩ. Tuy lòng đầy canh cánh nhưng bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời. Yêu đời là thế, sức sống là thế mà cuộc đời riêng thì vẫn "xuân đi xuân lại lại". Cái vòng quẩn quanh đáng ghét của cuộc đời không thể tránh khỏi tiếng thở than chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hoàn thời gian ấy là một "mảnh tình" nhỏ vụn đã vỡ nhưng nay vẫn bị sẻ đi sẻ lại. Đối với trái tim thiết tha yêu thương kia, điều đó như một vết thương cứa sâu đau nhức nhối, khao khát một tình yêu trọn vẹn. Vẻ đẹp tâm hồn, đức hi sinh và phẩm chất của bà Tú được nhìn = tấm lòng của ông Tú.hai câu luận của bà thương vợ, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ:

"Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công"

Nhân dân ta thường nói "vợ chồng là duyên nợ". Nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ ghép "duyên nợ" thành hai từ đơn: "duyên – nợ". "Duyên" thì thiêng liêng rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình (ông Tơ bà Nguyệt), còn "nợ" thì đã thành trách nhiệm nặng nề. "Một duyên hai nợ" đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bà Tú. "Một duyên hai nợ âu đành phận" là bà Tú đã thuận theo lòng trời và thuận theo lòng người (tấm lòng của chính bà!). Nói gọn lại là bà Tú đã chấp nhận! Và chấp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này,bà chấp nhận vị quan "ăn lương vợ" nên bà đâu "dám quản công":

"Năm nắng mười mưa dám quản công"

Thành ngữ "dầm mưa dãi nắng" được tác giả vận dụng sáng tạo thành "năm nắng mười mưa". Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã thấm thía với hai số năm – một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một chồng). Giờ đây là sự linh diệu của những con số một – hai và năm – mười trong câu luận. "Một duyên hai nợ" đối với "Năm nắng mười mưa", cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bà Tú chịu đựng hết.
Hai bài thơ là hai thông điẹp khác nhau mà nhà thơ muốn gửi gắm đến ng đọc, đến xã hội. Hồ Xuân Hương muốn qua bài Tự tình 2 mà lên tiếng nói đòi lại hạnh phúc, đòi lại quyền lợi cho mình.Từng câu từng chữ trong bài thơ của bà đèu toát lên niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng của mình, những hình ảnh trong bài thơ tượng trưng cho nỗi cô đơn, niềm phẫn uất và sự phản kháng quyết liệt của hxh, đó cũng là sức sống mãnh liệt chứ không phải buồn đau mà phó mặc số phận đau thương. Còn với Tế xương, qua bài thương vợ ông đã thể hiện nỗi mong muốn khát vọng yêu thương con người, đặc biệt là ng vợ vất vả của mình, từng câu thơ của ông đều thể hiện sự trân trọng nỗi vất vả của ng vợ, của ng phụ nữ trong xã hội xưa.
   Kb:  Cả hai bài thơ đều mang đậm tính nhân văn và nhân đạo, đều gửi gắm những thông điệp ý nghĩa đến cho mọi người, dù qua bao nhiêu năm tháng nhưng hai tác phẩm ấy vẫn còn nguyên giá trị. Hai tác phẩm đã làm cho chúng ta hiểu rõ thêm về thân phận người phụ nữ thời xưa , voíe những ứơc mơ nhỏ bé là có đựoc một gia đình ấm êm,  cuộc sống no đủ,  có thể làm chủ đựoc số phận của mịn.  Và ta càng hiểu rõ thêm những phẩm chất tốt đẹp,  sẵn sàng hi sinh vì chồng vì con của ng phụ nữ vn

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro