TN

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ăn nhỏ nhẻ như mèo: Là ăn từ tốn, từng miếng một. Phụ nữ ăn nhỏ nhẻ được khen là có nết. Nhưng đàn ông ăn như mèo thì bị chê bai, cho là tật xấu.

Buộc cổ mèo, treo cổ chó: Nói kẻ hà tiện, có tính bủn xỉn.

Chẳng biết mèo nào cắn mỉu nào: (Mỉu: do tiếng miu là mèo đọc chệch ra) nghĩa bóng nói rằng mỗi người đều có sở trường riêng của người ấy, chưa chắc ai đã hơn ai.

Chó giữ nhà, mèo bắt chuột: ý nói ai cũng có nghề nghiệp chuyên môn của mình, đừng tị nạnh nhau, và cũng đừng can thiệp vào việc của nhau.

Chó chê mèo lắm lông: Phê phán kẻ không thấy lỗi mình, mà chỉ thấy lỗi người.

Chó gio, mèo mù: Dùng để chê những người đần độn, ngu ngốc.

Chó khô, mèo lạc: Chê hạng người không có tài năng.

Chó tha đi, mèo tha lại: Nói những vật vô giá trị bỏ lăn lóc chẳng ai thèm lấy.

Chó treo, mèo đậy: Thức ăn treo cao để tránh chó ăn, và đậy kỹ để không cho mèo lục đớp. ý khuyên cảnh giác cửa nẻo rương hòm để phòng trộm cuỗm mất.

Có ăn nhạt mới thương tới mèo: Ngụ ý người ta có lâm cảnh khổ thì mới biết thương người không may mắn bằng mình.

Chuột cắn dây buộc mèo: Làm ơn cho kẻ có thể hại mình.

Chuột gặm chân mèo: Làm một việc liều lĩnh, nguy hiểm.

Chửi chó mắng mèo: Tỏ vẻ tức giận người khác bằng cách chửi mắng vu vơ.

Đá mèo, quèo chó: Bực mình người khác nhưng lại trút bực tức qua những con vật nuôi trong nhà.

Giấu như mèo giấu cứt: Chê những người giấu diếm thứ gì, điều gì đó quá ư là kỹ.

Hùm mất hươu hơn mèo mất thịt: Càng mất quyền lợi ở địa vị cao thì càng đau khổ hơn người ở địa vị thấp.

Im ỉm như mèo ăn vụng: ám chỉ những kẻ cố tình che giấu tội lỗi bằng cách im lặng tuyệt đối, hoặc những kẻ hễ thấy lợi là giấu giếm hưởng một mình, không cho ai hay biết.

Không có chó bắt mèo ăn cứt: Phải dùng một người trong một việc không đúng với sở trường, khả năng của người đó.

Lèo nhèo như mèo vật đống rơm: Nói dai, nói đi nói lại để nài xin.

Lôi thôi như mèo sổ chuột: (Sổ: làm sẩy mất) chỉ sự thẫn thờ, ngơ ngác của người đang tiếc rẻ, vì trót lầm lỡ một dịp may nào đó.

Mèo cào không xẻ vách vôi: Ngụ ý khuyên trước khi làm việc gì phải tự lượng sức mình, cố gắng cho lắm cũng vô ích.

Mèo con bắt chuột cống: Chỉ người trẻ tuổi tài cao, làm được việc mà nhiều người lớn làm không nổi.

Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì giàu: Một quan niệm mê tín từ xưa lưu truyền lại.

Mèo già hóa cáo: Ngụ ý người già sống lâu nên đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý báu. Cũng còn nghĩa là người mới đầu làm việc gì thì rụt rè nhút nhát, nhưng ở lâu năm thì tinh ma ranh mãnh.

Mèo già lại thua gan chuột nhắt: ý nói người lớn tuổi thì không còn bạo gan như kẻ thanh niên.

Mèo hoang lại gặp chó hoang; 
anh đi ăn trộm gặp nàng bứt khoai:

Chỉ những kẻ vô lại mới kết bè tựu đảng với nhau.

Mèo khen mèo dài đuôi: Tự đề cao, khen ngợi mình.

Mèo làm ai nỡ cắt tai; 
gái kia chồng rẫy khoe tài làm chi?: 

(Rẫy: bỏ, chê) chỉ những người đàn bà bị chồng chê, chồng bỏ vì hư đốn, phải về nhà cha mẹ ruột, thay vì chỉ còn biết âm thầm sống đến già, không mong được ai cưới hỏi nữa, nhưng lại khoa trương nọ kia để củng cố danh giá mình.

Mèo lành chẳng ở mả; ả lành chẳng ở hàng cơm: Chê người đàn bà ngày hai bữa cứ ăn cơm hàng cháo chợ, không lo chợ búa cơm nước cho gia đình, đó là tính xấu, tính hư.

Mèo mả gà đồng: ám chỉ hạng người vô lại, trai trộm cướp, gái lăng loàn khiến ai cũng khinh ghét.

Mèo mù móc cống: Chỉ những kẻ không còn phương kế sinh nhai.

Mèo mù vớ cá rán: Vận may bất ngờ đến với kẻ nghèo hèn đang túng quẫn.

Mèo nhỏ bắt chuột con: Khuyên hãy biết liệu sức mình mà đảm đương công việc. Tài hèn sức mọn mà ham đảm trách việc lớn thì chỉ chuốc lấy thất bại thôi.

Mèo tha miếng thịt xôn xao;
hùm tha con lợn thì nào thấy chi: 

Nghĩa bóng nói đến kẻ có quyền hành làm việc sai trái thì không sao, trong khi kẻ dưới bị trừng phạt nặng.

Mèo uống nước bể chẳng bao giờ cạn: Khuyên người biết tiện tặn chi tiêu thì không sợ túng.

Mèo vật đụn rơm: Chỉ kẻ tài thô trí thiển mà muốn cáng đáng việc lớn lao quá sức mình, không đúng với khả năng cho phép.

Mỡ để miệng mèo: ý nói đặt trước mặt người ta một thứ gì mà người ta đang mong muốn, thèm khát.

Như mèo thấy mỡ: Giễu người tỏ vẻ hăm hở trước thứ gì mình thèm muốn.

Sắc nanh, chuột dễ cắn được cổ mèo: Dù kẻ thù nguy hiểm đến cỡ nào nếu mình có mưu mẹo, có phương tiện thì mình cũng thắng.

Tiu nghỉu như mèo cắt tai: ý nói vì thất vọng nên buồn rầu lắm, không muốn nói năng, không muốn làm gì.

Rình như mèo rình chuột: Sự kiên nhẫn, siêng năng cho đến khi được việc mới thôi.

Vợ quá chiều ngoen ngoẻn như chó con liếm mặt; 
vợ phải rẫy tiu nghỉu như mèo lành mất tai: 

Khuyên các đấng ông chồng không nên nuông chiều vợ quá, mà cũng không nên hiếp đáp quá. Nuông chiều thì vợ lờn mặt, lâu dần sẽ lấn áp quyền chồng. Còn hiếp đáp thì vợ buồn rầu, gia đình mất hòa khí, mất hạnh phúc.

-Tấc đất tấc vàng: “Ngày xưa, ở một làng nọ có một lão nông cả đời gắn bó với ruộng đồng, ông yêu quý mảnh đất của mình, trồng cây, cày cấy bấy lâu mãn nguyện. Nhờ mảnh đất ấy đời sống ngày một no đủ, nuôi con cái trưởng thành. Tuy vậy, những đứa con ông được hưởng lúa gạo hoa màu từ ruộng vườn do tay ông lao động mà có lại không mấy mặn mà với đất, đôi khi chểnh mảng không thiết làm ruộng. Một ngày kia, ông bị ốm nặng, nhưng nghĩ đến ruộng đất yêu quý, rồi đây không ai cày xới thì lấy làm đau lòng. Hôm ấy, bệnh tình nặng quá, biết mình không qua khỏi, ông đành gọi hai đứa con lại mà rằng:

- Các con nhớ rằng trong đám đất nhà mình có chôn một hũ vàng, sau khi cha mất, các con gia công chịu khó cuốc xới lên tìm kiếm, chắc sẽ giàu to.

- Người cha mất rồi, anh em nhà nọ bảo nhau ra cuốc xới hết đám ruộng này sang đám ruộng khác. Mỗi lần cày xới chả thấy vàng đâu, họ đành bảo nhau trồng cây trên mảnh đất đó. Năm qua tháng lại, cuốc xới đất tơi xốp, lại chăm bón tưới nước đầy đủ nên lúa tốt bời bời, ngô sai bắp, khoai sai củ. Mùa thu hoạch đến, thóc chất đầy nhà, ngô khoai nhiều vô kể, lúc ấy họ mới nghĩ ra rằng người cha quá cố của mình đã nói đúng, họ đã tìm thấy vàng trên mảnh ruộng của mình chính là cuộc sống no đủ mà tấc đất đem lại.”

Mất bò mới lo làm chuồng

Câu thành ngữ chỉ kẻ không biết lo liệu đề phòng trước, để việc hỏng rồi mới ứng cứu, lo liệu phòng thân. Cũng hàm ý chỉ kẻ dốt nát.

Chuyện kể: 

Nhà kia tích cóp mua được con bò đẹp, ưng lắm, chăm bẵm suốt ngày. Tối đến, chủ nhà dắt bò buộc vào gốc tre cạnh nhà. Thằng trộm mấy lần rình, đợi khi cả nhà ngủ say, nó tháo dây thừng dắt bò đi mất. Sáng ra ngủ dậy không thấy bò đâu, nhà kia tức lắm. Người hàng xóm sang chơi thấy vậy bảo:

- Chẳng là bác không có chuồng để ngăn kẻ trộm, chứ buộc vào gốc tre thì nó dắt mất là phải.

Nhà kia nghe ra cho là phải, bèn đi mua cột cây về dựng giữa vườn một cái chuồng bò. Vừa làm anh ta vừa nói:

- Phen này thì thằng trộm kia đó mà dắt được bò của ông đi.

Người hàng xóm sang, cả cười:

- Bác mất bò rồi thì làm chuồng làm gì cho phí công, phí của.
Người mất bò lúc ấy mới mới ngớ ra mình làm gì còn bò nữa mà làm chuồng, đành lại dỡ xuống.

-Mèo già hóa cáo

Câu thành ngữ ý nói đến kẻ tinh ranh càng lâu ngày càng thêm tinh khôn ranh mãnh.


Chuyện kể:

Xưa có con muỗi và con dơi, hai con có việc bất bình đi thưa kiện nhau.

Muỗi thì muốn mèo làm thầy kiện, dơi thì cầu chuột làm thầy cãi. Thầy kiện và thầy cãi vốn không ưa nhau lại chẳng biết tranh tụng ra sao nên cậy thế, thầy kiện mèo mới tiện mồm xơi thịt quách thầy cãi chuột. Dơi không còn thầy cãi, dơi thua kiện bèn tính cách báo thù muỗi.

Muỗi sợ không dám bay ra ban ngày nên cứ đợi nhá nhem tối bay ra. Dơi cũng đợi có thế, kéo đàn kéo lũ ra đớp cho thật nhiều muỗi mới hả giận.

Vì thương nhớ thầy kiện chuột nên dơi cứ tâm niệm mình là chuột, thế rồi lột xác bộ mặt của chuột vào mình để trả thù loài muỗi. Vì thế bộ mặt dơi bây giờ mới chẳng khác gì mặt chuột.

Còn nói về con mèo, càng ngày nó càng ăn chuột dữ lắm, không những thế lại còn dở chứng ăn vụng. Không có ai ngăn cản nó càng làm dữ, lâu ngày trở thành mèo già hoang. Thấy nó đã trở thành mèo già hoang, lang bạt kỳ hồ, nên trời ấn chỉ bắt nó thành loài cáo. 
Ai ngờ nó thành cáo rồi thì càng ranh ma quỉ quyệt hơn, không chỉ vồ chuột, nó còn rình bắt trộm gà vịt của người.

Từ đấy dân gian truyền tụng nhau “mèo già hóa cáo” là vậy.

-Lo bò trắng răng

Nếu ai đó hay lo lắng vu vơ, lo những chuyện không đâu, những chuyện không đáng phải lo, thì sẽ được coi là người “lo bò trắng răng”.

Thành ngữ này được ra trên cơ sở của một thực tế rõ ràng là răng của bò bao giờ cũng trắng. “Bò trắng răng” là một sự thật hiển nhiên. Cho nên “lo bò trắng răng” là lo cái điều vốn hiển nhiên là như thế, cái điều không đáng, không cần phải lo!

Cũng có nhiều người giải thích theo cách khác, cho rằng trắng ở đây có nghĩa là không (như nghĩa của trắng trong mất trắng tức là mất không). Và do đó, lo bò trắng răng nghĩa là lo bò không có răng. Cách giải thích này cũng có vẻ hợp lý. Song, nếu bằng vào câu ca dao:

Lo gì mà lo bò trắng răng
Mua ba đồng thuốc nhuộm răng cho bò

Thì ta thấy cách luận giải trình bày ở trên là cơ sở hơn. Vả lại, cái thực tế về sự thiếu hụt hàm trên của bò cũng được dùng làm cơ sở để tạo nên một thành ngữ khác, đồng nghĩa với thành ngữ “lo bò trắng răng”. Đó là “lo bò không có hàm trên”.

Thành ngữ thứ hai có nghĩa còn rõ hơn, cụ thể hơn song không được dùng phổ biến như thành ngữ lo bò trắng răng.

Cáo mượn oai hùm

Cáo thì chỉ “bắt nạt” được gà, còn hùm (tên nôm của hổ) là chúa tể của muôn loài! Hùm giỏi giang ở đâu thì chưa biết nhưng riêng cái khoản tục ăn thì không ai bằng (ăn như hùm đổ) và gian ác thì cũng đáng được xếp hạng “miệng hùm nọc rắn”. Vô phúc con vật nào - cả con người nữa, để nó vồ được thì chỉ có mà về... chầu tiên tổ. Vậy nên, trong tiếng Việt đã sinh ra câu “cáo mượn oai hùm” để chỉ hạng người luôn mượn thế kẻ mạnh, nấp dưới ô quyền lực đi hù dọa, lòe bịp người khác hoặc lấy đó làm lá chắn để thỏa sức lộng lành.

Thành ngữ này vốn bắt nguồn từ một câu chuyện kể về sự gian ngoan, ma lanh của cáo đã khéo uốn ba tấc lưỡi để lừa “thầy hùm”, còn hùm thì đúng là “to đầu mà dại”.

… Có một con hùm đói mồi, đang lang thang trong rừng kiếm ăn, thì gặp ngay con cáo. Hùm sướng rơn và chắc mẩm phen này được bữa chén no say. Nhưng con cáo gian ngoan đã nói ngay với hùm rằng: “Này, cái ông hùm ông hổ kia ơi! Ông đừng có mà ăn thịt tôi. Thượng đế đã giao cho tôi làm chúa tể muôn loài. Ông mà ăn tôi là làm trái ý của thượng đế! Không tin, ông cứ đi đằng trước, tôi đi đằng sau, thử hỏi có con vật nào trông thấy tôi mà không sợ?” Và hùm đã làm theo. Quả nhiên, chúng đi đến đâu, mọi thú vật đều chạy toán loạn. “Sự thật” đó đã làm cho hùm tin lời cáo, và đương nhiên cáo đã thoát chết! Hùm có biết đâu rằng, những con vật kia sợ mình, sợ từ cái bóng của mình, chứ đâu có sợ cáo!...

Trong dân gian, bên cạnh thành ngữ “cáo mượn oai hùm” còn có cách nói “cáo đội hổ uy” với nghĩa tương tự nhưng ít dùng. Tiếc thay, đến nay trong tiếng Việt từ hùm,từ hổ chưa có được cái nét nghĩa “khờ dại và cả tin đến mức ngu xuẩn”. Còn nét “tinh khôn, ranh mãnh, quỷ quái” (Thằng cha ấy cáo lắm. Bọn thực dân cáo già) đã trở thành một trong những nghĩa phổ biến của từ cáo.

Lựa gió bẻ măng

1.Câu chuyện xuất xứ

Ở một góc rừng nọ, nơi mà rất ít muông thú biết đến, họ hàng nhà tre sống quây quần đoàn tụ với nhau. Trong số những cây tre đẹp nhất phải kể đến là Điền Trúc. Nó có thân hình cao lớn vượt trội, nước da xanh thẫm bóng mượt, năm nào nó cũng cho ra đời 3 đến 4 lứa măng mũm mĩm, chóng lớn khác thường.

Mùa hè đã đến, những mầm măng lún phún mọc từ đầu xuân nay đã khoác tấm áo vàng cứng cáp vươn cao mình trong ánh nắng ấm áp. Điều lạ là năm nay, Điền Trúc chỉ ươm được một chồi măng duy nhất. Nó không hề buồn rầu mà lại hết sức tự hào vì chồi măng lớn nhanh như thổi, thân măng dong dỏng cao hơn đầu người, lớp vỏ ngoài nõn nà. Điền Trúc thường xuyên chăm chút, che chở cho búp măng non với một niềm tin mãnh liệt rằng không lâu nữa búp măng sẽ trở thành một cây tre đẹp nhất rừng.

Một hôm, có chú gấu con vì ham chơi nên lạc vào nơi họ hàng nhà tre sinh sống. Gấu con ồ lên kinh ngạc khi phát hiện ra nơi đây, ngập tràn những búp măng đang đua nhau mọc mơn mởn trông thật hấp dẫn, mà măng lại là món khoái khẩu của chú. Điền Trúc không thèm bận tâm và vẫn say sưa ca hát. Nó nghĩ rằng búp măng của mình cao lớn thế, con gấu bé tẹo kia làm sao với tới mà bẻ gãy ngọn được.

Và tiếng hát của Điền Trúc đã thu hút sự chú ý của Gấu con. Nó lập tức chạy tới chỗ búp măng cao lớn với ý định sẽ bẻ mang về làm thức ăn cho cả gia đình. Nhưng dù cố lay hết sức thì gốc măng cũng chỉ hơi nghiêng một chút. Đang trong lúc bí, bỗng nhiên gấu con thấy rừng cây xào xạc khác thường, một cơn gió lớn không biết ở đâu bất ngờ ào qua khiến mọi vật đều nghiêng ngả. Đúng lúc chồi măng non cúi người thấp xuống để né gió, gấu con bất thần nhào tới víu lấy ngọn măng cố sức bẻ thật mạnh, chồi măng lập tức bị gãy phập xuống gần gốc. Điền Trúc chưa kịp nhận ra thì gấu con đã hớn hở ôm cả củ măng chạy biến về nhà.

Nhờ có gió, gấu con mới bẻ được măng, ấy là việc mượn sức người khác để đem lợi về cho mình. Nhưng mượn sức còn phải biết lựa đúng lúc mà hành động mới thắng lợi, đó là việc nhanh nhạy chớp thời cơ.

2. Cốt lõi kế sách

Cốt lõi của kế “Mượn gió bẻ măng” là: Tay thì yếu mà măng thì cứng, mượn chiều gió thổi lựa thế bẻ măng. Đó chính là việc chớp thời cơ tận dụng ngoại lực để tăng sức mạnh của mình.

1.Ác là là cha cà cưỡng

Ác là: tên một loài chim sống ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ. Ác là lớn gần bằng con quạ, lông màu đen có khoang trắng ở ức, tiếng kêu “ác là, ác là… “ rất lớn.
Cà cưỡng: chim nhỏ như sáo, lông màu xám tro, lốm đốm đen, nuôi lâu có thể dạy nói được tiếng người.
Ác là cũng như cà cưỡng có chung thói quen là đẻ nhờ vào tổ chim khác chứ kô biết làm tổ riêng cho mình.
Ngụ ý câu này ám chỉ đến hạng người chỉ biết sống dựa vào người khác. Nói đến người cùng một giuộc với nhau.

 Ba chân bốn cẳng: Đi rất vội, rất nhanh, hình như đi bằng ba chân bốn cẳng vậy. Ý nói đi mau gấp hai ba lúc đi thường ngày.
2. Ba keo thì mèo mở mắt: Ba keo là ba trận vật nhau. Ba keo đây là nói vật thua ba keo.
Ba keo thì mèo mở mắt là vật thua ba keo thì trợn tròn mắt ra như mắt mèo; mở to mắt trợn tròn là tỏ sự sợ, sự tiếc. Ý câu này nói vật thua luôn ba keo thì bấy giờ mới biết thân mình là yếu và mới biết sợ người khoẻ hơn. 
Người ta thường dùng câu này để nói: có thua lỗ thất bại vài ba phen thì rồi mới biết thân. 
3. Ba mặt một nhời (lời): Hai người giao ước với nhau và người làm chứng cho lời ước ấy, vị chi là ba người. Ba người cùng biết chuyện nói một lời như nhau tức và việc có thật, đủ tang chứng, không còn ai nuốt lời được.
4. Ba mươi được ăn, mồng một tìm đến: Ngày ba mươi là ngày cuối tháng. Ngày mồng một là ngày đầu tháng. 
Ba mươi với mồng một là ngày hôm trước và hôm sau. Ngày hôm trước được ăn thì ngày hôm sau lại đến chực ăn. Đại ý câu này muốn nói được ăn một lần, hay được lợi một lần thì lần sau cứ mong ngóng mãi.
5. Ba tháng trồng cây một ngày trông quả: Trồng trọt, bón tưới cây (đây là cây lúa) trong ba tháng trời, đến khi cây có quả thì chỉ một ngày là gặt xong. Đại ý câu này nói hưởng kết quả thì dễ, thì chóng, làm nên cái kết quả đó thì khó và lâu.
6. Bà con vì tổ tiên, không phải vì tiền vì gạo: Bà con là có họ hàng với nhau. Bà con vì tổ tiên là họ hàng với nhau thì chung một tổ tiên. Không phải vì tiền vì gạo nghĩa là không phải vì thấy người giầu có, lắm tiền nhiều gạo mà nhận bà con với nhau. Đại ý câu này muốn nói: nhận bà con với nhau là muốn nhớ đến tổ tiên chung, chứ không phải vì nhận họ hàng để cầu lợi. 
Câu này ngụ ý chê những người hay lợi dụng họ hàng để mưu ích lợi riêng.
7. Bà khen con bà tốt, tháng mười tháng một bà biết con bà: Tháng mười tháng một khí trời thường khô, se, ta gọi là trời hanh. Dưới sức áp lực của khí trời, da người ta thường bị căng thẳng, và nứt ra, gọi là nẻ. Da đẹp trắng đến đâu gặp trời hanh cũng khó tránh được nẻ. Bà vẫn khen con bà đẹp nhưng đến tháng mười tháng một bà sẽ biết da dẻ con bà đẹp hay không?
Câu này nêu cái ảnh hưởng của thời tiết đối với vẻ đẹp con người.
8. Bắc cầu mà noi, ai bắc cầu mà lội: Ai cũng bắc cầu để mình đi lên cầu mà khỏi phải lội, chứ ai bắc cầu để rồi lại lội nước qua bao giờ. Đó là nghĩa đen. 
Nghĩa bóng câu này có ý nói kẻ làm mẹ làm cha, hoặc người trên đối đãi với người trên mình như thế nào, thì con cái hay người dưới mình cũng sẽ đối đãi với mình như thế. Vì làm như thế tức cũng là mình bắc cầu để sau mình noi qua. Thí dụ: mình đối đãi với cha mẹ chẳng ra gì, thì sau này con cái cũng sẽ đối đãi với mình không ra gì.
9. Bách nhân, bách khẩu: Trăm người trăm miệng, tức là mỗi người một lời nói, nhiều người thì nhiều ý kiến, mỗi người nghĩ một khác, nói một khác. 
Câu này tả sự ồn ào náo nhiệt của đám hội họp đông người.
10. Bán anh em xa mua láng giềng gần: Anh em ở xa thì quên đi để mua chuộc tình thân mật của người láng giềng gần cận nhà mình, phòng những khi “tắt lửa tối đèn” tức là lúc đêm hôm, gặp việc khẩn cấp, thì nhờ láng giềng giúp đỡ.

11. Bán chỗ nằm mua chỗ ngồi: Ngày xưa ở làng xóm, người ta quí chuộng cái chỗ ngồi ở góc chiếu đình trung, cho là một danh dự lớn. Cho nên người ta thường lo lắng, bỏ tiền bạc ra mua nhiêu, mua xã, làm khao làm tiệc để được một chỗ ngồi ở ngoài đình làng; có người vì thế mà phải bán cả nhà, đất. Cho nên có câu: “bán chỗ nằm mua chỗ ngồi”; chỗ nằm tức là nơi nhà ở. Chỗ ngồi tức là góc chiếu nơi đình trung.
12. Bán gia tài mua danh phận: Theo Sử thì vào cuối đời Trần và cuối đời Lê, có lệ bán phậm hàm; người có tiền mua được hư danh cho là vinh dự. Đến đời Lê Mạc, chúa Trịnh Cương đặt lệ quan từ tứ phẩm trở xuống ai nộp 600 quan thì được thăng lên một trật. Những người chân trắng ai nộp 2.800 quan thì được bổ làm tri phủ, 1.800 quan thì được bổ nhiệm tri huyện. Danh phận có thể mua như thế, nên nhiều người bán cả cơ nghiệp để mua lấy chức quan. Vì vậy có câu tục ngữ trên. Gần tại các thôn quê, người ta cũng đua nhau bỏ tiền ra mua xã, dành góc chiếu chốn đình trung. Câu tục ngữ ghi một tình trạng xã hội và nêu thói chuộng hư danh của nhiều người. Người ta thường mượn câu này để bênh vực cho cái thói ham danh phận.
13. Bảo một đàng quàng một nẻo: Bảo đây dùng theo nghĩa cổ, nghĩa là dậy. Quàng là đâm quàng, đi quàng, tức là đi bừa không xét xem là đúng hay không, đường quang hay đường có chông gai. Nẻo là lối đi. Bảo một đàng quàng một nẻo là dậy đi đường này không đi lại đâm quàng đi nẻo khác; ý nói làm trái với lời dậy bảo của người trên. Ý nghĩa cũng gần như câu “bảo một đường sểnh một nẻo”.
14. Bảo một đường sểnh một nẻo: Bảo dùng theo nghĩa cổ, là dậy bảo (Dậy học xưa kia gọi là bảo học). Sểnh là đi xa xa, đi trệch ra. Nẻo là lối đi, hẹp hơn đường. Ngụ ý câu trên nói việc dậy đi một đường lại đi trệch ra một lẻo khác. Câu này thường dùng để quở trách con cái, học trò, hay người dưới không theo đúng lời dậy bảo của cha mẹ, anh, thầy học hoặc người trên. Ý nghĩa cũng giống ý nghĩa câu “bảo một đàng quàng một nẻo”.
15. Bát mồ hôi đổi bát cơm: Muốn được bát cơm ăn phải đem bát mồ hôi ra mà đổi. Ý nói phải làm lụng vất vả khó nhọc lắm mới có miếng ăn. Câu này nêu sự làm ăn vất vả của nhà nông nước ta.
16. Bảy mươi học bảy mốt: Người bảy mươi tuổi phải học kinh nghiệm của người bảy mươi mốt tuổi, vì hơn một tuổi là có thêm kinh nghiệm một năm. Câu này đại ý nói người nhiều tuổi thì biết việc đời nhiều hơn, người ít tuổi bao giờ cũng thua kém. 
Cũng có nghĩa nữa là người ta tuổi nào cũng cần phải học để biết thêm, chớ không nên tự phụ là mình biết hết cả, không cần phải học ai nữa.
17. Bảy mươi chưa đui què, chớ khoe rằng lành: Bảy mươi là bảy mươi tuổi. Đui là mù. Lành là nguyên lành, thân thể không tàn tật. Khi người ta tuổi đã bảy mươi rồi mà chưa mù mắt què chân, thì cũng chớ nên khoe rằng mình nguyên lành không bị tàn tật. Đại ý câu này khuyên người ta chớ nên tự phụ rằng mình nguyên lành mà khinh bỉ người đui mù què quặt; đến người già 70 tuổi cũng chưa chắc đã khỏi bị tàn tật vì việc đời xẩy ra bất thình lình, có khi chỉ trong một chớp mắt mà người lành bỗng hóa ra người què, vì trong một tai nạn rủi ro chi đó.
18. Bắt bò cày triều: Triều đây là ruộng triều. Ruộng triều nguyên nghĩa là ruộng có nước thuỷ triều lên xuống, ra vào, sau dùng để trở những ruộng nước bùn lầy. Ruộng triều có khi bùn lầy đến thắt lưng, trâu cũng không cày bừa được. Thế mà bắt bò cày triều, thật là bắt nó làm một việc quá khả năng của nó. 
Câu này thường được dùng để chê sự cắt đặt công việc không sát khả năng, xếp đặt công việc không hợp lý.
19. Bắt cá hai tay: Hai tay đều thò xuống bắt cá; không phải là hai tay định bắt một mà mỗi tay định bắt một con. Câu này thường dùng để chê người mưu một lúc cả hai việc, hy vọng rằng hễ hỏng việc nọ thì được việc kia.
20. Bầu dục chấm nước cáy: Bầu dục là món ăn ngon và bổ nhất trong thân thể con lợn. Nước cáy là thứ nước mắm làm bằng con cáy (một thứ cua bể chân có lông tơ). Nước cáy nặng mùi sắc đen, là thứ nước mắm xấu, không ngon. Bầu dục mà đem chấm nước cáy thì làm phí mất cả chất của bầu dục. Đại ý câu này nói người thô kệch không biết đường ăn. Người ta thường nói lầm ra là: dùi đục chấm nước cáy.
21. Bé không vin, cả gẫy cành: Vin là vin cành cây xuống mà uốn nắn thành hình thù gì (xưa người ta thường hay uốn cây thành hình rồng, hình phượng để làm cảnh). Cho nên phải uốn nắn từ lúc cây còn bé, còn non. Để khi cây lớn lên mới vin thì gẫy cành, không thể uốn nắn được. 
Đại ý câu này khuyên người ta nên dậy con cái từ lúc chúng còn nhỏ tuổi, để chúng lớn rồi mới dậy thì không dậy được nữa.
22. Bẻ hành, bẻ tỏi: Hành tỏi có nhiều nhánh bé. Bẻ hành, bẻ tỏi là bẻ hành, tỏi ra những nhánh bé nhỏ. Nghĩa bóng câu này muốn nói: bắt bẻ những điều vụn vặt, không đáng bắt bẻ.
23.Bẻ què cho thuốc: Chính mình bẻ què chân nó (vật hay người) rồi chính mình lại cho nó thuốc để rịt cho nó khỏi què. 
Câu này tả cái mánh lới xảo quyệt của bọn cường hào thường kiếm truyện cho người ta bị tai vạ rồi lại đứng ra lo liệu chạy chọt để lấy ăn.
24. Bĩ cực thái lai: Bĩ cực là khốn khổ, suy bĩ đến cực độ thái lai là vận may, vận đỏ đến. 
Bĩ cực thái lai là hễ người ta gặp cảnh khốn khổ cùng cực quá thì là sắp sang hồi vận đỏ; không biết lẽ trời có đúng thế không? (Khổ quá tất sắp sướng, nghèo quá tất sắp giầu, tối quá tất sắp sáng…) Hay là câu này chỉ nêu lên để an ủi suông những người cơ cực?

*Bới lông tìm vết

Thành ngữ "bới lông tìm vết" xuất phát từ thành ngữ Hán Việt "suy mao cầu tì". Trong tiếng Việt, thành ngữ này được dùng để chỉ hành vi của những người hay bới móc khuyết điểm, thiếu sót của người khác.
Trước hết, hành động "bới lông tìm vết" được thực hiện khi xem xét các loại chim đẹp. Ngày xưa bên Trung Hoa hay mở các hội thi chim. Chim đẹp ở bộ lông và dáng điệu. Chim quý ở tiếng hót. Những điều này lộ ra ở bên ngoài, rất hiển nhiên, có thể nhận biết dễ dàng và chính xác. Một khi đã bới lông để dò tìm những vết xấu thân thể có thể bị che khuất dưới lớp lông đẹp của chim có nghĩa là về vẻ đẹp của bộ lông, của dáng điệu, của tiếng hót, những tiêu chí khách quan, có tính chất truyền thống, đã được thừa nhận nhưng vì chủ quan không muốn thừa nhận, hoặc muốn đánh sụt giá vẻ đẹp của chim. Đó là một sự cố tìm moi móc không thiện ý nhằm làm giảm giá trị của loài vật này. Với nhận thức đó, người dân gắn việc "bới lông tìm vết" với hành vi cố tìm moi móc khuyết điểm của người khác để hạ thấp uy tín của họ.
Trong vận dụng ngôn ngữ, thành ngữ "bới lông tìm vết" có thể được sử dụng linh hoạt để nhấn mạnh ý nghĩa biểu đạt của nó.
Bới lông mựa nỡ tìm nơi vết 
Cũng có khi kinh, cũng có quyền
(Hồng Đức quốc âm thi tập) 
Gần nghĩa với thành ngữ "bới lông tìm vết" là thành ngữ "vạch lá tìm sâu".

*Bán lợi mua danh

Bán lợi, lợi đây không chỉ cái vật chất mà có cả tinh thần, để mua lấy một sự danh giá. Bây giờ nâng cao hơn một bước là mua danh, trục lợi người ta khái quát thành chữ “chạy”. Cái sự mua danh trục lợi, chạy chức, chạy quyền tồn tại trong xã hội đối với những kẻ phàm phu. 

Dưới thời phong kiến, người ta nộp tiền hay lễ vật cho người có chức vị cao để được ngôi thứ, chức vị.

Nghĩa bóng: Ham danh, dùng tiền của để mua danh vị.

Còn có câu gần nghĩa: Mua danh ba vạn; Bán chỗ nằm mua chỗ ngồi; Bán gia tài, mua danh diện; Mua danh bán lợi.

Chuyện kể:

Một nhà địa chủ nọ thấy quan chánh tổng oai lắm, lúc nào cũng áo the khăn xếp, lại còn tay cầm cái ba toong chỉ trỏ, đám sai nhân trong nhà, quan lớn, quan bé trong làng đều răm rắp làm theo những lời phán ngông nghênh của chánh tổng. Ở làng, cứ mỗi năm hai lần, hội đồng làng có tổ chức hương ẩm. Đến dự, chánh tổng rồi các lý trưởng đều được ngồi mâm trên. Còn tên địa chủ tuy giàu có nhưng vẫn phải ngồi ở mâm thứ hạng.

Hắn tức lắm. Một hôm, có người khích hắn:
- Nhà giàu, trâu đàn, ruộng mẫu, kẻ ăn người ở, vậy mà ra làng vẫn phải ngồi chiếu dưới. Tiền bạc nhiều mà sao không mua lấy một cái chức.
Hắn nghe nói phải. Thế là hắn chuẩn bị mấy thẻ vàng, cùng ba vạn bạc rồi đến nhà chánh tổng để mua lấy một chức lý trưởng.
Viên chánh tổng nghe hắn trình bày mới nói:
- Nghe nói nhà người có cô con gái xinh xắn, nết na, đã cùng với ai chưa?
Tên nhà giàu mới nói:
- Ấy, tôi cũng biết ông chánh có người con trai. Nếu được thì xin ông cứ cho người đến dạm ngõ.

Người con trai ông chánh là đứa què quặt, bệnh tật, chỉ biết ăn, không biết làm, nó chẳng đi học nên dốt lắm. Được lời, ông chánh tổng như vớ được vàng, mới vội cho người sang dạm ngõ rồi làm lễ cưới cho con trai. Cưới xong rồi về nhà chánh tổng, cô gái xinh đẹp kia mới vỡ lẽ là mình đã bị lừa. Cha cô đã bán đứng cô cùng với một số tiền vàng để mua cái chức lý trưởng.
Lại nói chuyện tên địa chủ nhà giàu, từ khi có cái chức lý trưởng được ngồi lên chiếu trên của làng, dân làng càng khinh hắn ra mặt, vì hắn đã dốt nát lại thích sang trọng. Một hôm ra làng, tên địa chủ kia khăn xếp áo the, hãnh diện ngồi vào giữa chiếu trên. Người làng thấy thế thì lấy làm khinh lắm, có người bèn làm mấy câu thơ khao làng rằng:

Bán lợi mua lấy cái danh
Tuồng là những kẻ mảnh sành chiếu trên.

Cái chức lý trưởng mà người nhà giàu nọ có được là do phải bán đổi cả con gái và tiền bạc mới có. Vì thế dân làng biết chuyện trên nói rằng: “Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng” là vậy.

*Bán trời không văn tự 

Văn tự: Viết giấy chứng thực khi mua bán, trao đổi.
Nghĩa bóng: Liều lĩnh, bất chấp, làm ăn mạo hiểm, khoác lác, không có lề luật, không biết đúng sai.
Còn có câu: Bán trời không chứng.

Chuyện kể:

Có hai người học trò, một người tên là Tự, một tên là Chứng học hành chểnh mảng, kỳ thi cả hai đều trượt. Trên đường trở về quê, hai người mới nghĩ ra một việc là góp vốn để làm nghề đi buôn. Nhưng buôn chung bán chung phải có người làm anh, người làm em. Họ mới kết nghĩa làm huynh đệ. Nhưng ai là anh, ai là em thì họ chẳng bầu ra được. Chữ nghĩa thì không biết mấy nhưng lại có tài nói khoác, người tên là Tự mới nói:
- Bây giờ ta thi nói khoác. Ai thua thì người ấy chịu là em.
Hai người vỗ tay tán thưởng.
Người tên là Tự mới hỏi trước:
- Trên đời này cái gì to nhất?
Người tên là Chứng đáp liền:
- Trái đất là to nhất.
Người tên là Tự mới nói:
- Chưa to.
- Vậy thì cái gì?
- Trời là to nhất.
Người tên là Chứng mới lại nói:
- Trời cũng chưa to. Ta còn bán được cả trời.
Tự mới vặn lại:
- Thế anh bán cho ai, người mua trời rồi cất vào đâu?
- Ấy có người mua được mới lại chứ. Ta bán cho ông nội của ta, ông của ta cầm trời rồi cất đi.
Tự lại hỏi:
- Thế ông nội của anh lấy gì để mua?
Chứng mới nói:
- Ông ta lấy trái đất để mua. Mà phải trái đất mới mua nổi trời.
Tự mới cự lại:
- Thế thì trời cũng chẳng to. To hơn phải là ông nội của anh, vì ông nội của anh cầm được cả trời kia mà.
Có một thầy giáo đi qua, thấy hai anh chàng học trò cãi cọ lý sự khoác lác bèn thêm vào:
- Đồ bán trời không văn tự. Chúng mày không thi đỗ là đáng đời lắm.

-----------------------
Bông lông, khoác lác dành cho những kẻ “Bán trời không văn tự”. Những con người như thế ắt chẳng làm nên tích sự gì. Vậy mà lắm kẻ vẫn dùng miệng lưỡi ấy mà lừa gạt được thiên hạ mới hay.

Bắc thang lên hỏi Thiên đình
Liệu trời được giá cho mình bán chăng!
(Ca dao)

*Bóc ngắn cắn dài


Nghĩa đen là: Tham ăn, ăn cả vỏ.
Nghĩa bóng: Bỏ công sức ít nhưng mong thu lợi nhiều, kiếm được ít mà muốn ăn tiêu nhiều.

Chuyện kể:

Đã mấy ngày nay, cái mồm bị bỏ đói, nó cứ há ra, thấy gì là đòi ăn cho bằng được, nhưng trong nhà chả có gì cho nó ăn cả. Không có cái gì cho vào mồm nên cái dạ dày cũng bị đói lây, làm hoa cả mắt. Mãi đến hôm sau, cái tay mới vớ được củ khoai lang luộc. Cái mồm sướng lắm, đòi ăn ngay, vừa định cắn một miếng thì cái tay đã vả cho cái mồm một cái rõ đau.
Cái tay nói:
- Mày chỉ háu ăn, đợi tao bóc vỏ đi đã, chả lẽ mày ăn cả vỏ à.
Cái mồm nghe nói thế đành chờ.
Nhưng nó thấy cái tay bóc vỏ sao mà chậm thế, bóc mãi mới được có khoanh đầu củ khoai, nóng lòng, háu đói, nó bất chấp cái tay, bèn đớp luôn một miếng. Miếng khoai mà nó đớp quá cỡ cái tay bóc vỏ, lạm luôn nửa củ khoai, vì thế, cái tay lại vả cho cái mồm một cái nữa, nó lại đành chịu đau, chờ cái tay bóc tiếp.
Lại như lần trước, cái tay thận trọng bóc vỏ khoai theo cách khoanh tròn quanh củ. Nhìn thấy chỗ khoai được bóc thơm phức, cái mồm mới thèm làm sao, nó lại lừa lúc cái tay không để ý, cắn thêm một miếng nữa. Cái miếng nó cắn lần này to hơn miếng trước lạm hết cả vào phần vỏ và gần hết cả củ khoai. Tức quá, cái tay bèn bảo:
- Tao không bóc nữa, thôi còn cái dãi khoai, mày tống nốt vào mồm cho xong.
Nghe thế, cái mồm sướng quá, chẳng phải chờ lâu, nó bèn đớp luôn một cái nữa hết cả củ khoai.
Cái tay chứng kiến việc ấy phủi hai tay vào với nhau, khinh cái mồm ra mặt, mới mắng rằng:
- Đồ bóc ngắn cắn dài.


“Bóc ngắn cắn dài”, lệ thường chỉ hành vi tham ăn tục uống. Nhưng người đời thì lấy cái sự ấy để chỉ những kẻ “Làm thì ít, mà muốn hưởng thụ nhiều, rộng ra là phê phán kẻ làm ăn cò con, hám lợi, bỏ sức bỏ vốn thì ít nhưng muốn thu lợi nhiều, điều đó dễ dàng dẫn đến những vi phạm đạo đức, pháp luật, hòng che đậy hành vi “quá tay” của mình.
Bởi thế còn có câu:
Bóc thì ngắn cắn thì dài
Làm thì chưa tới đã mài ra ăn.

*Bàn tay có ngón ngắn ngón dài

Câu thành ngữ muốn nhắc nhở con người ta không nên đánh đồng tất cả cùng loại, tất cả giống nhau vì mỗi người mỗi vẻ, mỗi việc mỗi khác.

Chuyện kể:Xưa cái bàn tay sinh ra đã như bây giờ, cả năm ngón có ngón ngắn ngón dài.
Nhưng năm ngón tay thì cho thế là không công bằng nên cứ ấm ức, tị nạnh cãi cọ nhau mỗi ngày. Vì chúng không đoàn kết nên chẳng làm được việc gì, hễ bảo cầm cái gì là các ngón cứ rũ ra, chẳng bèn chụm lại.
Bàn tay giận lắm mới mắng chúng:
- Chúng mày là anh em, cớ ao tị nạnh cãi cọ nhau?
Chúng nói:
- Người ăn ở không đều, có năm anh em cùng sinh ra cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng, cùng năm thế mà lại có đứa to, đứa nhỏ, đứa ngắn, đứa dài.
Bàn tay đem nỗi thắc mắc của chúng nói với người. Người không biết giải thích sao mới hỏi thần Tạo Hóa. Thần Tạo Hóa nói với người rằng:
- Xưa kia, thần Sinh Mệnh trình ta vậy, nên nó vậy, chứ ta cũng chưa tìm hiểu tỉ mỉ nó như như thế nào! Rồi thần Tạo Hóa bảo với người:
- Thôi được, nếu chúng muốn bằng nhau, thì bằng.
Thế rồi từ đó các ngón tay lại bằng nhau chằn chặn.
Từ ngày các ngón tay bằng nhau, cái bàn tay cứ trùng trục ra trông đến buồn cười. Khổ một nỗi là khi chúng bằng nhau rồi thì chả đứa nào chịu kém đứa nào, thành thử cứ ỳ ra, chẳng làm được việc, cầm cái gì rơi cái đấy.
Người thấy bất tiện quá mới mắng các ngón rằng:
- Chúng mày tị hiềm sinh chuyện. Tạo hóa sinh ra như thế là có quy luật chứ đâu theo ý riêng của chúng mày.
Các ngón tay thấy sai mới im thin thít. 
Rồi người lại lên thần Tạo Hóa xin được cho các ngón tay to bé, dài ngắn như trước. Thần Tạo Hóa vốn là người am hiểu sự đời mới lại chấp nhận cho năm ngón tay của bàn tay ngắn dài, to, bé như xưa.
Người mới bảo bàn tay xòe ra, thấy các ngón lại dài ngắn khác nhau, mới phân tích cho chúng rõ về cái phận của mình:
- Chúng mày là anh em trong một bàn tay, nhưng mỗi đứa có một chức phận, mỗi đứa có một cái tên. Bây giờ nghe tao nói đây: Ngón to lùn là ngón Cái. Nó là anh, nó hỗ trợ các em để cầm, để nắm, hễ bóc cái gì thì bảo nó, tôn nó là anh cả. Ngón kế, dài thon hơn là anh hai. Khi chúng mày cụp xuống, nó ngỏng lên chỉ đường gọi là ngón Trỏ. Ngòn dài nhất có nhiệm vụ động viên phong trào, hô hoán bốn đứa kia cùng làm, ấy là ngón Giữa. Còn ngón thứ tư có dáng hình đẹp, vừa phải làm công việc như các anh, các em, còn phải làm duyên làm dáng cho cả bàn, ta đặt tên là ngón Đeo Nhẫn. Cuối cùng là đứa bé nhất, nhưng không có nó không thành bàn tay, đặt tên nó là ngón Út.
Từ bấy giờ, năm ngón tay không còn thay đổi nữa, chúng đều thấy thân phận của mình, mỗi khi bàn tay làm gì chúng đều răm rắp làm theo.

Trong xã hội, phận người ta cũng đã được định đoạt như các ngón tay, như là một sự sắp đặt của tạo hóa. Vậy nên cái sự suy bì thiệt hơn như các ngón tay hẳn là không nên. Bàn tay phải có ngón ngắn ngón dài, giống như người ta phải có người thế nọ, người thế kia.


Sự đời cũng giống người ta
Bàn tay năm ngón suy ra sự đời.

*Cá chuối đắm đuối vì con

Cá chuối: Một loài cá nước ngọt (còn có nơi gọi là cá quả, cá lóc) rất chăm con. 

Nghĩa bóng: Cha mẹ chịu mọi khó khăn, gian khổ, quên mình vì con cái. Còn có câu: Cá chuối đắm đuối về con.

Chuyện kể:

Có đàn cá rồng rồng, sống ở ao. Chúng theo mẹ cá chuối đi kiếm ăn, nhưng vì ao nhỏ, cá lại nhiều nên thức ăn chả có mấy. Đàn rồng rồng đói quá cứ nhao nhao lên mặt nước, mà chả kiếm được gì.
Một hôm, có một con cóc ngồi trên bờ ao, thấy đàn rồng rồng nhịn đói, thương hại mới nói với cá chuối mẹ rằng:

Ở trên bờ nhiều kiến lắm. Chị mà lên đây thì no cả tháng.

Cá chuối mẹ mới hỏi:

Ở trên ấy, chị còn nhảy đi kiếm được, chứ như tôi, không chân không tay, bắt thế nào được chúng.

Cóc mới bảo:

Kiến nó thích cái nhớt của chị lắm! Chị chỉ cần nằm ở trên bờ một lúc là chúng bu đến đầy. Chị tha hồ mà ăn.

Cá chuối nghe có lý, lại nghĩ đến đàn con đang đói được ăn kiến thì chúng lớn biết chừng nào. Nó đành liều thân, quăng mình nhảy lên bờ ao. Nó nằm đó giả chết. Một con kiến thấy mùi cá tanh, chạy đến, rồi hai con, ba con. Chỉ một lúc, đàn kiến báo hiệu cho nhau có một con cá chết nằm trên bờ, nên cả đàn bu lại, vừa dự tiệc tại chỗ vừa tính chuyện đưa mồi vào tổ.
Tuy bị kiến cắn đau, lại thêm lên cạn, da khô tưởng muốn chết, nhưng cá chuối mẹ vẫn nghiến răng chịu đựng. Nó đợi cho đàn kiến bu đầy mới quăng mình nhảy tõm xuống nước. Hàng trăm con kiến nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Đàn rồng rồng xúm lại, đớp thoả thích.
Cứ như thế, cá chuối mẹ lâu lâu lại tìm bờ nhảy lên kiếm thức ăn cho con bằng kiểu ấy. Nhưng một hôm, cá chuối mẹ nhảy lên quá xa bờ, nó lại chờ cho đàn kiến bu đến đông, da khô rộp cả, nó bèn vội vàng nhảy xuống. Nhưng lúc ấy, kiệt sức, nó giẫy lung tung. Đến khi tìm được ao thì cá chuối đã chết, nó chìm xuống tận đáy, đến chiều thì nổi lên. Biết chuyện cá chuối mẹ chết, con cóc thương xót mới nói rằng: Chị cá chuối này mới đáng thương làm sao, tận tình với con, đắm đuối vì con mà chết.
Lại nói đàn rồng rồng không thấy mẹ về, chúng bèn chia nhau đi kiếm mồi. Rồi chúng lớn lên, đến kỳ trưởng thành, nở trứng sinh con. Theo kế kiếm ăn của mẹ trước đây, chũng cũng nhảy lên bờ cho kiến bu, rồi cũng có con lại đắm đuối vì con như mẹ chúng, nên chịu chung số phận như mẹ.
------------------------

*Cháy nhà (mới) ra mặt chuột

Sự kiện cháy nhà làm cho chuột lộ mặt là một hiện thực làm cho người dễ nhận biết. Cũng từ hiện thực này mà suy ra theo hàm ý của thành ngữ là: Nhân khi có biến cố mới phát hiện ra tung tích của kẻ xấu, kẻ phá hoại, bộc lộ bộ mặt thật của kẻ giả nhân giả nghĩa.

Chuyện kể: 

Ngày xưa, khi tạo hóa mới sinh ra loài vật, mèo và chuột thân nhau lắm. Mèo và chuột cùng ở một nhà. Vốn hiền lành lại to xác hơn chuột nên mèo thường nằm co ro ở góc tủ, người cho gì ăn nấy. Còn chuột, vốn tính ranh mãnh, lại nhỏ bằng củ hành, nên cứ chui rúc vào các ngách, luồn lủi vào các đồ đạc lộn xộn. Khi chủ nhà đi vắng, chuột tha hồ quậy phá. Thức ăn dự trữ của người, nó ngang nhiên ngồi giữa đĩa mà ăn. Chán chê, nó còn tha cả vào hang để cho họ nhà chuột thưởng thức. Họ nhà chuột dài răng nhanh nên cứ ngứa răng là chúng gặm nhấm bất cứ thứ gì để cho cùn răng đi. Một hôm, người thấy quần áo bị cắn nát vụn, rờ đến cái tủ thì bị đục khoét thành lỗ. Nhìn quanh, người chẳng thấy gì ngoài con mèo đang vờn cái chổi. Giận quá, người mới xách tai mèo lên quở rằng:

- Chỉ có mày ở nhà. Cá kho, cơm nguội mày xơi hết. Áo quần thì nát tươm. Còn ai vào đây nữa.
Nói đoạn, người liền đánh cho mèo một trận đòn thừa sống thiếu chết.
Mèo tức quá, một hôm thấy lũ chuột ra chơi bèn quát mắng rằng:
- Đồ ăn hại làm càn. Vì bọn ngươi mà ta bị đòn suýt chết.
Chuột nhơn nhơn nói:
- Bác mèo ơi, chỉ vì thân bác to hơn chúng tôi nên không chui luồn được. Người đâu có nhìn thấy lũ chuột nhắt này bao giờ. Mà có thấy thì chúng tôi cũng nhanh chân tẩu thoát, sao mà người bắt được. Bác chịu đòn là phải.
Mèo càng giận vì mỗi lần chuột cắn phá là người lại đem mèo ra đánh. Mèo kêu oan xin người trừng trị lũ chuột nhưng người không tin, còn nói:
- Mày chỉ đổ vấy đổ vá, nào thấy chuột bọ gì đâu.
Thế là lại một trận đòn nữa giáng xuống đầu mèo.
Một hôm, chẳng may người sơ xuất thế nào để bén lửa lên mái gianh. Nhà cháy rừng rực, cháy hết cả đồ đạc. Lũ chuột chui trong hang, trong nghách nóng quá không còn chỗ ẩn nấp liền thục mạng chạy túa ra cả sân. Lúc này, người thấy chuột ra nhiều quá mới cho là mèo nói đúng. Mèo giận chuột bèn nhảy ra vồ lấy một vài con để thanh minh với người. Khi vồ được chuột, mèo ngửi thấy mùi thịt chuột thơm thơm, đang lúc đói bụng, bèn chén luôn một con. Thấy ngon, mèo vồ luôn mấy con chuột khác nữa. Từ đấy về sau, mèo cứ rình chuột để ăn thịt, vừa là để hả cơn giận vừa là được món ăn ngon.
Còn lũ chuột từ đấy thì sợ nhất cháy nhà rồi sợ cả mèo. Còn mèo thì cũng chẳng cần phải đợi cháy nhà nữa mà nó rình chuột ở khắp mọi nơi. Cho đến ngày nay, lũ chuột vẫn bảo nhau: 
- Sợ nhất cháy nhà. Nhà mà cháy thì có mà phơi mặt ra chết, mèo nó tha hồ mà xơi.

*Của người phúc ta

Nghĩa bóng: Ban phát hay sử dụng tiền bạc, đồ vật của người khác để lấy ơn cho mình. 
Câu gần nghĩa: Lấy xôi làng đãi ăn mày.

Chuyện kể:

Xưa có ông Đa và bà Mít, hai người cùng xóm với nhau và cả hai cùng sính Phật. Nhưng ông Đa thì chăm siêng lễ bái, tuần nào tiết ấy lên chùa đều đặn, còn bà Mít khi thì mải công việc ruộng vườn, khi thì ở nhà khuyên con giữ cháu, vì vậy không mấy khi đi lễ Phật được. Vậy nên, cứ ngày rằm, mồng một, bà Mít gửi tiền gạo cho ông Đa đem đi cúng vái hộ. Lúc đầu, ông Đa còn khấn minh bạch là của bà Mít gửi cúng. Nhưng sau nghĩ rằng “Giời Bụt biết đấy là đâu” nên ông bèn nhận cả là của mình, rồi tiện mồm khấn rằng: “Con có chút vật nhỏ mọn tự mình làm ra, mong Trời Phật phù hộ độ trì, làm phúc cho con”.
Quan Nam Tào, Bắc Đẩu, ông thì cầm nghiên, ông thì cầm bút thấy ông Đa khấn thế nào thì cứ tiện mà biên thế ấy.
Đến khi ông Đa, bà Mít cùng trăm tuổi về cõi Phật, Phật tra sổ thấy bà Mít chỉ cúng có vài ba tuần, còn thì là của ông Đa cả. Phật nghi ngờ, hỏi quỷ thần. Quỷ thần xem sổ rồi điều tra ra tiền gạo của nả là của bà Mít, mà ông Đa nhận là của mình.
Thấy sự dối trá, Phật phê: “Của người phúc ta”, rồi phạt ông Đa hóa kiếp làm cây đa đứng ở đầu ngõ chùa, sinh ra cái lá đa để thí cháo cho chúng sinh. Còn bà Mít thì được hóa thành cây mít ở trong vườn chùa, lá dùng để in oản, gỗ dùng để tạc tượng.
Của người phúc ta nói rộng ra là dùng tiền bạc, tiền của của người khác mà đem dâng hiến, tặng cho người khác cốt để làm lợi cho mình. Suy ra thì đời nào cũng vậy, người ta dùng tiền bạc của công vung tay bố thí, tặng biếu cho kẻ khác thản nhiên như của mình để tỏ lòng tốt, hòng thu lợi cho mình, đó gọi là “tiền chùa”. Ngược lại với câu này là “Của ai phúc nấy”.
*Mất bò mới lo làm chuồng

Câu thành ngữ chỉ kẻ không biết lo liệu đề phòng trước, để việc hỏng rồi mới ứng cứu, lo liệu phòng thân. Cũng hàm ý chỉ kẻ dốt nát.

Chuyện kể: 

Nhà kia tích cóp mua được con bò đẹp, ưng lắm, chăm bẵm suốt ngày. Tối đến, chủ nhà dắt bò buộc vào gốc tre cạnh nhà. Thằng trộm mấy lần rình, đợi khi cả nhà ngủ say, nó tháo dây thừng dắt bò đi mất. Sáng ra ngủ dậy không thấy bò đâu, nhà kia tức lắm. Người hàng xóm sang chơi thấy vậy bảo:

- Chẳng là bác không có chuồng để ngăn kẻ trộm, chứ buộc vào gốc tre thì nó dắt mất là phải.

Nhà kia nghe ra cho là phải, bèn đi mua cột cây về dựng giữa vườn một cái chuồng bò. Vừa làm anh ta vừa nói:

- Phen này thì thằng trộm kia đó mà dắt được bò của ông đi.

Người hàng xóm sang, cả cười:

- Bác mất bò rồi thì làm chuồng làm gì cho phí công, phí của.
Người mất bò lúc ấy mới mới ngớ ra mình làm gì còn bò nữa mà làm chuồng, đành lại dỡ xuống.

*Mèo già hóa cáo

Câu thành ngữ ý nói đến kẻ tinh ranh càng lâu ngày càng thêm tinh khôn ranh mãnh.


Chuyện kể:

Xưa có con muỗi và con dơi, hai con có việc bất bình đi thưa kiện nhau.

Muỗi thì muốn mèo làm thầy kiện, dơi thì cầu chuột làm thầy cãi. Thầy kiện và thầy cãi vốn không ưa nhau lại chẳng biết tranh tụng ra sao nên cậy thế, thầy kiện mèo mới tiện mồm xơi thịt quách thầy cãi chuột. Dơi không còn thầy cãi, dơi thua kiện bèn tính cách báo thù muỗi.

Muỗi sợ không dám bay ra ban ngày nên cứ đợi nhá nhem tối bay ra. Dơi cũng đợi có thế, kéo đàn kéo lũ ra đớp cho thật nhiều muỗi mới hả giận.

Vì thương nhớ thầy kiện chuột nên dơi cứ tâm niệm mình là chuột, thế rồi lột xác bộ mặt của chuột vào mình để trả thù loài muỗi. Vì thế bộ mặt dơi bây giờ mới chẳng khác gì mặt chuột.

Còn nói về con mèo, càng ngày nó càng ăn chuột dữ lắm, không những thế lại còn dở chứng ăn vụng. Không có ai ngăn cản nó càng làm dữ, lâu ngày trở thành mèo già hoang. Thấy nó đã trở thành mèo già hoang, lang bạt kỳ hồ, nên trời ấn chỉ bắt nó thành loài cáo. 
Ai ngờ nó thành cáo rồi thì càng ranh ma quỉ quyệt hơn, không chỉ vồ chuột, nó còn rình bắt trộm gà vịt của người.

Từ đấy dân gian truyền tụng nhau “mèo già hóa cáo” là vậy.

*Lo bò trắng răng

Nếu ai đó hay lo lắng vu vơ, lo những chuyện không đâu, những chuyện không đáng phải lo, thì sẽ được coi là người “lo bò trắng răng”.

Thành ngữ này được ra trên cơ sở của một thực tế rõ ràng là răng của bò bao giờ cũng trắng. “Bò trắng răng” là một sự thật hiển nhiên. Cho nên “lo bò trắng răng” là lo cái điều vốn hiển nhiên là như thế, cái điều không đáng, không cần phải lo!

Cũng có nhiều người giải thích theo cách khác, cho rằng trắng ở đây có nghĩa là không (như nghĩa của trắng trong mất trắng tức là mất không). Và do đó, lo bò trắng răng nghĩa là lo bò không có răng. Cách giải thích này cũng có vẻ hợp lý. Song, nếu bằng vào câu ca dao:

Lo gì mà lo bò trắng răng
Mua ba đồng thuốc nhuộm răng cho bò

Thì ta thấy cách luận giải trình bày ở trên là cơ sở hơn. Vả lại, cái thực tế về sự thiếu hụt hàm trên của bò cũng được dùng làm cơ sở để tạo nên một thành ngữ khác, đồng nghĩa với thành ngữ “lo bò trắng răng”. Đó là “lo bò không có hàm trên”.

Thành ngữ thứ hai có nghĩa còn rõ hơn, cụ thể hơn song không được dùng phổ biến như thành ngữ lo bò trắng răng.

*Cáo mượn oai hùm

Cáo thì chỉ “bắt nạt” được gà, còn hùm (tên nôm của hổ) là chúa tể của muôn loài! Hùm giỏi giang ở đâu thì chưa biết nhưng riêng cái khoản tục ăn thì không ai bằng (ăn như hùm đổ) và gian ác thì cũng đáng được xếp hạng “miệng hùm nọc rắn”. Vô phúc con vật nào - cả con người nữa, để nó vồ được thì chỉ có mà về... chầu tiên tổ. Vậy nên, trong tiếng Việt đã sinh ra câu “cáo mượn oai hùm” để chỉ hạng người luôn mượn thế kẻ mạnh, nấp dưới ô quyền lực đi hù dọa, lòe bịp người khác hoặc lấy đó làm lá chắn để thỏa sức lộng lành.

Thành ngữ này vốn bắt nguồn từ một câu chuyện kể về sự gian ngoan, ma lanh của cáo đã khéo uốn ba tấc lưỡi để lừa “thầy hùm”, còn hùm thì đúng là “to đầu mà dại”.

… Có một con hùm đói mồi, đang lang thang trong rừng kiếm ăn, thì gặp ngay con cáo. Hùm sướng rơn và chắc mẩm phen này được bữa chén no say. Nhưng con cáo gian ngoan đã nói ngay với hùm rằng: “Này, cái ông hùm ông hổ kia ơi! Ông đừng có mà ăn thịt tôi. Thượng đế đã giao cho tôi làm chúa tể muôn loài. Ông mà ăn tôi là làm trái ý của thượng đế! Không tin, ông cứ đi đằng trước, tôi đi đằng sau, thử hỏi có con vật nào trông thấy tôi mà không sợ?” Và hùm đã làm theo. Quả nhiên, chúng đi đến đâu, mọi thú vật đều chạy toán loạn. “Sự thật” đó đã làm cho hùm tin lời cáo, và đương nhiên cáo đã thoát chết! Hùm có biết đâu rằng, những con vật kia sợ mình, sợ từ cái bóng của mình, chứ đâu có sợ cáo!...

Trong dân gian, bên cạnh thành ngữ “cáo mượn oai hùm” còn có cách nói “cáo đội hổ uy” với nghĩa tương tự nhưng ít dùng. Tiếc thay, đến nay trong tiếng Việt từ hùm,từ hổ chưa có được cái nét nghĩa “khờ dại và cả tin đến mức ngu xuẩn”. Còn nét “tinh khôn, ranh mãnh, quỷ quái” (Thằng cha ấy cáo lắm. Bọn thực dân cáo già) đã trở thành một trong những nghĩa phổ biến của từ cáo.

*Chuột sa chĩnh gạo 

Câu thành ngữ ý nói may mắn gặp được nơi sung sướng, đầy đủ một cách tình cờ, ngẫu nhiên, ví như chuột lọt được vào chĩnh đựng gạo, tha hồ mà ăn không phải khổ công tìm kiếm hàng ngày.

Chuyện kể:Đời xưa, chuột vốn là giống linh thiêng ở trời, trời giao cho chìa khóa giữ kho lúa. Lợi dụng quyền hành, chuột thường đến kho, mở khóa rả rích ăn bao nhiêu là thóc, trấu còn lại vương khắp kho. 
Trời biết, lấy làm giận, bèn đuổi chuột xuống hạ giới. Nó khấn trời từ nay không dám ăn thóc nữa. Trời cứ tưởng nó ngứa răng, hạt thóc lại có trấu, nó mới cắn, còn cái khác thì nó không ăn, nên thương tình cho nó giữ chĩnh gạo của trần gian. Khi được giao việc, chuột sướng quá, vắt chân chữ ngũ giữa chĩnh gạo mà rung đùi. Cái thói ăn tham một mình không đành, nó còn rủ cả đàn, cả lũ đến ăn vô kể. Vì gạo không có trấu, nên chúng ăn không để lại dấu tích, lúc đầu người không phát hiện ra, chỉ khi cạn kiệt dần mới biết. Người tức giận tâu lên vua Bếp. Vua Bếp bắt chuột lên trả trời và tâu rằng:
- Từ khi Ngọc Hoàng cử thằng chuột đến canh chĩnh gạo cho người, dân ngày càng đói kém đi, bếp nổi lửa ít. Tại thằng chuột này cả. Nó ăn vụng gạo dữ lắm, cứ đà này thì dân chết đói hết.
Chuột cãi: 
- Trước đây bảo tôi ăn vụng thóc, tôi chịu vì có trấu làm dấu tích. Giờ bảo tôi ăn vụng gạo, lấy bằng chứng đâu?
Vua Bếp và trời không có bằng chứng bỏ tù nên đành thả nó về trần gian, nhưng cho con mèo xuống để canh gác. Từ bấy, nó cũng không được giữ chìa khóa chĩnh gạo nữa và lại sợ mèo, nên nó không được ăn gạo thỏa thuê như trước đây mà chỉ rình khi vắng người, vắng mèo, ra ăn trộm vài ba hạt thóc lúa, ngô, khoai mà thôi.
Tuy vậy nó vẫn chờ dịp để lại được giao giữ chìa khóa chĩnh gạo của người.(1)

Chuột sa chĩnh gạo ở đây là nói người. Chuyện chuột sa chĩnh gạo đâu mà chẳng có. Nhưng điều may đến với một số người dốt nát, lười biếng do dựng nhau lên, do xếp đặt, cứ ngồi đó mà hưởng lộc, sống chết mặc bay, dân tình đói kém thì khác chi loài chuột bọ gặm nhấm.

*Cá chậu chim lồng

Câu thành ngữ ám chỉ cảnh sống bó buộc, tù túng, mất tự do.
Chuyện kể:Ngày xưa, có một nhà giàu nọ rất chơi thích chơi chim cảnh. Người nhà giàu thường nhốt chim sáo trong lồng treo trước cửa nhà để mua vui. Rồi một ngày, người nọ lại bắt được một con cá vàng, bèn thả vào chậu đặt cạnh lồng chim để làm cảnh. Ngày ngày, người chủ đem thức ăn đến cho chim và cá, cốt để thưởng thức tiếng hót của chim, dạy chim nói tiếng người và xem cá lượn lờ tung tăng trong chậu.
Một hôm, người chủ đi vắng, con cá nói với con chim rằng:
- Chị còn sung sướng nỗi gì mà còn nhảy nhót liên hồi, lại còn líu la líu lô. Chị có biết chị đang ở đâu?
Thấy con cá cùng cảnh ngộ bắt chuyện, con sáo mới giãi bày:
- Tôi thấy chị cứ lượn lờ bơi quanh cái chậu, còn nhởn nhơ nỗi gì, tôi thấy ấm ức cho chị lắm thay. Còn tôi, trước đây, sống ở trời đất bao la rộng bằng ngàn, bằng vạn chiếc lồng. Vườn là rừng, sông suối chỗ nào tôi cũng biết. Tôi muốn bay, muốn đậu, mặc sức, rồi líu lô suốt ngày trên vách đá cùng họ hàng chim muông. Giờ đây bị nhốt trong lồng, muốn đạp mà ra, tôi có hót là hót cho đỡ nhớ rừng, nhớ đàn, chứ nào có sung sướng gì.
Lúc ấy cá mới nói:
- Tôi và chị cùng chịu chung số phận. Tôi sống ở sông. Sông nước mênh mông, họ hàng nhà cá chúng tôi từng đàn lượn tung tăng, đến ngày con nước trẩy hội đông vui. Tôi nhớ sông, nhớ đàn mà quẫy quanh nơi thành chậu, để mà vươn ra chứ đâu có nhởn nhơ nỗi gì.
Một con mèo suốt ngày rình bên chậu nước và chiếc lồng, chỉ chờ thời cơ cá nhảy ra khỏi chậu là ngoạm lấy, rồi tìm cách thò tay vào lồng mà tóm ngọn con chim, nghe thấy chúng than thở với nhau, đành góp lời vào:
- Khổ thân cho chúng mày. Cá chậu chim lồng. Số phận đã run rủi vậy, con than vãn nỗi gì.

Cảnh đời không gì khổ hơn, nguy hiểm hơn cảnh “cá chậu chim lồng”, đã bị nhốt ở nơi chật hẹp lại bị đối xử không ra gì, số phận không biết đâu mà lường, sống chết không biết đâu mà tránh.


Ai ơi cá chậu chim lồng
Một ngày bằng cả năm gông ngồi tù
Ấy nên ngay cả con chim, con cá cũng muốn tự do, huống hồ là con người.

1.Cá không ăn muối cá ươn, con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư: Ướp cá cho khỏi thiu thối, ươn, oai, người ta ướp với muối. Nếu con cá nào không chịu ăn muối (để muối sát ngâm vào mình) thì con cá ấy sẽ ươn, sẽ thối. Kẻ làm con cưỡng lại cha mẹ, không nghe lời cha mẹ hóa ra hư hỏng như con cá không ăn muối vậy. Câu này lấy con cá làm thí dụ để khuyên những kẻ làm con phải vâng lời cha mẹ.

2. Cá lớn nuốt cá bé: Cũng là loài cá mà con cá lớn nuốt con cá bé để sống. Câu này lấy cá làm thí dụ để ngụ ý nói: cùng là loài người mà người mạnh ăn hiếp kẻ yếu, người không lường gạt người ngu, than phiền cho nhân tình thế thái.

3. Cá mè một lứa: Tức là một lứa cá mè, cá mè cùng một loại, một lứa mới nở ra, dùng để thả cá giống, không con nào lớn hơn con nào, cứ nhàng nhàng nhơ nhỡ như nhau một loạt. Người ta thường dùng câu này để nói người trên, người dưới, không giữ lẽ tôn ti trật tự mà cư xử với nhau, lại coi trên dưới bằng nhau như một lứa cá mè, không ai bảo được ai nữa.

4. Cá nằm trốc thớt: Mổ cá, người ta để cá lên thớt. Cá nằm trốc thớt là cá sắp bị mổ thịt. Người ta thường mượn câu này để nói lên cảnh nguy hiểm, chưa biết sống chết lúc nào.

5. Cá vàng bụng bọ: Cá vàng bề ngoài coi rất đẹp, nhưng cá vàng chuyên môn ăn bọ gậy. Người ta chê bụng dạ nó vì trong bụng nó toàn là bọ. 

Câu này thường dùng để chê người bề ngoài coi tốt đẹp mà bề trong bụng dạ bẩn thỉu, xấu xa; ý nghĩa cũng gần giống câu “ tốt mã dẻ cùi”.

6. Cà cuống chết đến đít còn cay: Con cà cuống vốn có bọng cay nên chết đít nó cũng vẫn còn cay như thường. 
Người ta dùng câu này để nói người liều lĩnh, bướng bỉnh, táo bạo, đến lúc sắp chết cũng vẫn cứ liều lĩnh, bướng bỉnh, táo bạo, không sợ.

7. Cả vú lấp miệng em: Cả vú là vú to. Em là em bé tức là trẻ thơ. 
Cả vú lấp miệng em nghĩa đen là lấy cái vú to của mình (người mẹ) ấn vào miệng con thơ để nó khỏi khóc quấy. Nghĩa bóng câu này thường có nghĩa là cậy thần thế to ăn hiếp người ta, không cho người ta mở miệng kêu ca nữa.

8. Cách sông mới phải lụy đò: Vì có phải ở cách sông thì mới phải phiền lụy đến lái đò chở giúp sang sông. Nếu không, thì cần gì phải lụy lái đò. Lụy là phiền lụy, qui lụy, hạ mình, chịu nhún.
Câu này thường mượn để nói vì lẽ này, lẽ khác, việc lọ việc kia bất đắc dĩ mới phải qụy lụy nhau, không dưng thì chả ai phải lụy ai cả.

9. Cái khó bó cái khôn: Người ta vốn suy nghĩ sáng suốt, thủy trung, nhưng vì không có tiền, vì nghèo mà cái khôn ngoan bị bó thắt lại, không thi thố ra được; câu này đại ý nói vì nghèo nên không thể khôn ngoan.

10. Cái sẩy nẩy cái ung: Cái sẩy tức là nốt rôm; sẩy là nốt nho nhỏ mọc trên da thịt… Cái sẩy tuy bé vậy, song nếu không khéo lăm nó lặn đi, và để vi trùng lọt vào thì cái sẩy có thể nẩy thành cái nguy hiểm. Việc đời cũng vậy, không khéo dàn xếp ổn thỏa thì việc bé có thể xé thành việc to, có hại.

*Của ít lòng nhiều
Ý nói: Của đem cho tặng, không đáng là bao nhưng tình cảm thì chân thành, nặng nghĩa tình. Còn có câu: Của một đồng, công một nén. 
Chuyện kể:
Theo Kinh A xà, ngày xưa, lâu lắm rồi, có một ông vua Ấn Độ, nhân một ngày lễ, mời Phật vào cung làm lễ. Hôm ấy, vua cho đốt bao nhiêu là đèn dầu trong cung Phật ngự, suốt dọc hành lang dẫn từ cung vua đến cung Phật ở. Một bà cụ nghèo khó ở vùng ấy cũng muốn dâng lên Phật ngọn đèn dầu, song bà chẳng còn đồng tiền nào. Bà đi ăn xin một ngày ròng khắp kinh đô, tối về được hai đồng. Bà dùng cả hai đồng, tất tả ra phố mua dầu, đốt một đĩa đèn dâng lên lễ Phật, bà khấn: “Nếu đời sau con được thành đạo, thì xin ngọn đèn này sáng suốt đêm không tắt”.
Sáng hôm sau, khi một nhà sư lên cung Phật tắt đèn, thì thấy mọi ngọn đèn của vua đã tắt từ bao giờ, riêng ngọn đèn dầu của bà cụ ăn xin vẫn sáng rực, không làm cách nào tắt được. Nhà sư thấy chuyện lạ, nên thưa với Đức Phật. Người bảo: “Bà cụ tâm thành tu nhân tích đức, kiếp sau sẽ thành Phật Như Lai”.
Vua nghe chuyện, hỏi một quan trong triều tại sao vua cúng nhiều đèn như sao sa vậy mà chẳng được như bà lão kia chỉ dâng lên một đĩa đèn. Quan đáp: “Bởi vì bà ta của ít lòng nhiều. Bà dâng lên một đĩa đèn nhưng tấm lòng của bà thánh kính bao la”.

*Châu về Hợp Phố

Thành ngữ "châu về Hợp Phố" thường được dùng hàm ý chỉ "những cái quý giá không mất được, sớm muộn cũng sẽ quay trở về với chủ nó". 

Thành ngữ "châu về Hợp Phố" được hình thành từ điển tích Trung Quốc. Về nguồn gốc của thành ngữ này, cụ Đào Duy Anh đã lý giải rất rõ trong "Từ điển truyện Kiều". Ở thành ngữ "châu về Hợp Phố", "châu" là từ vốn dùng để chỉ ngọc trai, về sau để chỉ ngọc nói chung, còn "Hợp Phố" vốn là tên của một quận xa xưa của Giao Châu. Đây là một nơi sản xuất châu nổi danh. 

Tương truyền, ở thời Hậu Hán có tên quan thái thú tham lam, bạo tàn, thường bắt dân lấy ngọc châu rất ngặt. Vì thế mà châu đã bỏ quận nhà để sang quận Giao Chỉ. Cho đến khi Mạnh Thường đến thay chức Thái Thú, ra những đạo luật mới, bỏ những tệ cũ, cho dân chúng tự do kiếm châu, sản xuất châu, thì châu từ quận Giao Chỉ trở về quận Hợp Phố quê nhà. Từ tích này, người ta mới dùng câu "châu về Hợp Phố" để chỉ vật quý trở lại chốn cũ, hay nhận lại những vật quý đã mất. 

Trong "Truyện Kiều", Nguyễn Du đã vận dụng thành ngữ "châu về Hợp Phố" rất linh hoạt và tài tình: 

Thoa này bắt được hư không 
Biết đâu hợp phố mà mong châu về 

Nhìn chung ý nghĩa của thành ngữ "châu về Hợp Phố" được sử dụng trong tiếng Việt không có sự khác biệt so với nghĩa gốc của nó. 

*Ba Que Xỏ Lá 

Trong thời Pháp thuộc, có một bọn người chuyên tổ chức những "trò chơi có thưởng". Trò chơi của bọn họ gồm một cái que và ba chiếc lá. Mỗi lá có đính một chiếc vòng nhỏ ở cuống. Người chơi cầm cái que nhỏ xỏ vào ba vòng này. Mỗi người chỉ được xỏ một lần. Người nào xỏ vào được một lúc cả ba lá và nhấc được chúng lên thì được lĩnh thưởng. Ai xỏ trật, tức xỏ không vào lá nào hoặc chỉ vào một trong ba lá, sẽ mất toi số tiền đặt cược. 

Cũng liên quan tới trò chơi này, có người kể lại cách thức chơi của bọn chủ trò có khác chút ít. Chúng thường dùng ba que nhỏ, trong đó chỉ có một que xỏ vào chiếc lá rồi chìa cho mọi người xem. Chúng tuyên bố rằng nếu ai rút trúng que có chiếc lá khi chúng nắm tay lại thì người đó trúng thưởng. Ngược lại, người chơi sẽ mất số tiền đặt cược trước. Dù chơi theo cách thức nào đi nữa, thì bọn chủ trò vẫn có nhiều mưu mẹo, khiến cho người chơi bao giờ cũng thua cuộc. Vì thế, người ta mới gọi bọn chủ trò là bọn "ba que xỏ lá" với hàm ý là bọn bịp bợm, lừa đảo, dối trá. Từ cách thức chơi thứ nhất, nhiều người cho rằng hình thức ban đầu của "ba que xỏ lá" là "xỏ lá ba que". 

Sở dĩ có sự thay đổi này là do việc đọc chệch cho thuận miệng, dễ đọc, dễ nhớ. 
Thành ngữ "ba que xỏ lá" dần dần được mở rộng phạm vi xử dụng. Nó được dùng để chỉ tất cả những hạng người lừa lọc, bịp bợm, đểu cáng. 

*Cốc mò cò xơi 

Câu thành ngữ nói đến việc làm uổng công, vô ích, làm cho người khác hưởng



Chuyện kể:

Con cò và con cốc chơi với nhau. Con cò thì thì lanh lợi, hay bắt nạt con cốc nhưng nó lại lười biếng, co chân ngủ suốt ngày. Con cốc thì hiền lành thật thà. Một hôm, con cò nói với con cốc:
- Cốc ơi, mày có cái mỏ dài, lại mò cá giỏi. Mày chịu khó ra ruộng bờ sông kia, mỗi buổi mò lấy vài con chúng ta cùng ăn.
Cốc hiền lành, nhưng phàn nàn nói lại:

- Chị cũng là giống cò chuyên bắt tôm cá, vậy tôi với chị cùng đi, càng được nhiều.
Con cò mới tán tỉnh rằng:

- Hai người cùng đi, ai trông nhà, lỡ có con rắn hay con quạ cắp mất trứng thì khốn.
Cốc thật thà đi mò, nhưng được con cá tép nào nó tiện mỏ xốc luôn vào ruột. Lúc về chỉ quắp được mỗi con cá nhỏ mang về cho cò. Nhiều lần như thế, cò liền nghĩ ra một mẹo bắt cốc mò được con cá nào cũng phải mang về hết cho mình, liền nịnh cốc:

- Cốc à, ta có cái vòng xinh xắn, chị sếu mới tặng cho, ta thấy cốc thật thà hiền lành, ta tặng lại cốc. Lại đây, ta đeo vào cổ cho nào.
Cốc thấy cái vòng cổ đẹp thì thích quá. Nó giục cò đeo vào cổ cho mình. Nhưng cái vòng nhỏ làm cho cò phải hết sức mới cho vòng lọt xuống cổ cốc được. Vòng đeo vào cổ rồi, cốc lấy làm mãn nguyện lắm, bèn nhanh nhảu ra ruộng bắt cá. Nhưng mỗi lần mò được con cá, nó định nuốt vào bụng thì lại cứ nghẽn ở cổ vì cái vòng ở ngoài thắt chẹn lại, nó đành quắp về cho cò. Cứ thế, cứ thế, mỗi lần nó thèm con cá nhưng không sao nuốt cho được lại thật thà đem dâng cò. Cò ăn cá no bụng mới nói:
- Mày không ăn được con to thì có con tép tôm nào nho nhỏ có nuốt lấy mà sống.
Con vạc đứng trên cây cao chứng kiến cảnh ấy mới nghển cổ ca rằng:
- Cốc mò cò xơi. Cốc mò cò xơi! (1)

Cái phép ăn chặn của cò thật tài tình. Kẻ làm ra của cải chẳng được hưởng mà kẻ ngồi chơi bắt kẻ khác mang thức ăn cho mình. Thật là bất công. Thời nay, cái chuyện “cốc mò cò xơi” chẳng lấy gì là lạ. Những ông chủ cò khoác vào cổ kẻ làm công những cái ách có khác gì cái vòng đeo cổ cốc. Có thể từ chuyện trên mà có thành ngữ: “Cốc mò cò xơi”.

*Chữ như gà bới

Thành ngữ này ý chê người viết chữ xấu, nguệch ngoạc, thiếu nét, chẳng có hàng lối.
Chuyện kể:

Một đêm cậu ấm học bài rả rích. Con bò nghe tiếng bảo con gà:
- Thằng này nó đi thì thì mày chết trước. Nó thi đỗ thì tao chết sau. Mầy biết sao không?
Gà ra chừng không hiểu, bò liền giải thích:
- Khi nó đi thi thì chắc ông chủ sẽ giết mày làm lễ cáo tổ. Còn như nó thi đỗ thì chắc tao sống sao được, nó khao cả làng.
Con gà bèn nói:
- Mày ngủ mày biết đâu đấy. Chớ tao thức, tao biết cả. Này nhé. Nó học cũng chỉ như mày, mà nó viết cũng chỉ như tao, chắc nó không dám vác lều chõng đi thi đâu mà sợ.
Bò hỏi:
- Học như tao, viết như mày là thế nào?
Gà đáp:
- Học dốt như mày thì ai chả biết. Còn viết như tao, thì mày cứ xem tao bới như thế nào thì nó viết như thế! (1)

Xưa và nay người ta đều có luận điểm: nét chữ nết người. Quả là chữ đẹp dễ đọc, dễ mến, đánh giá được phần nào tính chăm chỉ, cẩn thận, siêng năng. Vậy nên giáo dục nước nhà mới có phong trào “vở sạch chữ đẹp”. Tuy nhiên giới trẻ ngày nay lại chuyên chú tâm đến công nghệ chứ ít chú tâm đến luyện chữ rèn người. Vậy nên học sinh rèn viết chữ đẹp là việc cần làm.

*Chết đuối vớ được cọc

Câu thành ngữ chỉ việc gặp may mắn, đang lúc nguy ngập lại có chỗ bám víu, thoát khỏi tình trạng tuyệt vọng.
Chuyện kể:

Xưa có tên nhà giàu, keo kiệt đến bẩn thỉu. Một hôm có người làng bên mời hắn sang ăn liên tục, lúc về biếu hắn một bị khoai ngon. Hắn khoác bị khoai xuống thuyền sang sông xem chừng hí hửng lắm.

Người lái đò mới hỏi:

- Bác khoác bị gì mà nặng thế? Bác cứ để xuống sạp thuyền cho đỡ mỏi.

Tên nhà giàu ích kỷ, sợ lúc lên bờ quên bị khoai nên chống chế:

- Thôi cảm ơn bác, tôi đã khoác nó vào cổ rồi, tháo ra buộc vào ngại lắm.

Thuyền đến gần bờ bỗng chòng chành do có sóng lớn ập đến. Người lái đò quen với sông nước nên chẳng có cơ sự gì, nhưng còn tên nhà giàu kia bị lộn cổ xuống sông, chới với một lúc. Rất may ở gần đấy có một cái cọc tre của người cắm đăng, hắn mới quờ quạng bám vào được. Người lái đò biết cái cọc cắm ở đấy lâu ngày đã mục, lại thêm cái bị khoai nặng, nên kêu to:

- Bác thả cái bị ra.

Tên nhà giàu lúc ấy mới hoảng hồn, tháo cái bị đeo ở cổ ra. Cái bị khoai chìm xuống, tên nhà giàu nhìn theo tiếc rẻ.

Người lái đò vội bơi thuyền đến vớt tên nhà giàu lên, đoạn mới nói:
- Số ông còn may đấy! Chết đuối vớ được cọc.

Lúc đã hoàn hồn, tên nhà giàu mới mở miệng nói:

- Nhưng bị khoai của tôi…Tiếc thật!

Giữa lúc nguy ngập, khó khăn tưởng như không còn lối thoát mà có “cứu tinh”, nhờ đó mà thoát hiểm, đó là gặp may mắn, giống như “chết đuối vớ được cọc” vậy.

*Chuồn chuồn đạp nước
Câu thành ngữ ý nói về việc làm ăn lớt phớt, chiếu lệ qua loa cho xong chuyện, không sâu sắc, kỹ càng.
Chuyện kể:

Có cô chuồn chuồn nước sinh ra trên mặt nước, sống ở đó hai năm rồi mà vẫn chẳng hơn gì loài bọ gậy gọng vó. Chuồn chuồn buồn lắm. Đến năm thứ ba, đôi cánh mỏng trong suốt của nó mới bắt đầu mọc ra. Chuồn chuồn lấy làm sung sướng lắm, mới nói với con gọng vó:
- Ta có đuôi dài, lại có đôi cánh đẹp. Ta chẳng thèm sống ở dưới ao tù này nữa. Ngày mai ta tạm biệt gọng vó, ta dành cả cho anh cái ao.

Gọng vó nói:

- Chị sống ở ao lâu ngày, chớ có quên nơi mình sinh ra. Mai chị bay đi, chắc cuộc đời làm chuồn chuồn của chị cũng chỉ vài ba tháng nữa. Đời ngắn ngủi, vậy chị cố mà về thăm chúng tôi.

Vào một buổi sáng đẹp trời, cô chuồn chuồn từ dưới ao bắt đầu cất cánh bay lên. Nó cứ bay lượn mãi trên cao, rồi sà vào vườn cây. Đôi cánh mỏng và nhẹ của nó lướt đi, đem theo thân hình nó với hai con mắt to và cái đuôi dài cũng nhẹ làm sao. Nó cứ bay, bay mãi, du lịch khắp đó đây. Nó vừa bay, vừa ăn thịt con mồi, hễ thấy con muỗi, con ruồi nào lảng vảng là nó há cái hàm ra mà đớp lấy. 

Rồi cô chuồn chuồn cũng đến kỳ sinh nở. Trong cuộc hành trình vô định đó, chỉ có đến lúc này nó mới nhớ đến xứ sở của mình, nơi nó đã sinh ra. Nghĩ vậy, nó bèn chao mình xuống mặt nước, trong chốc lát lẹo cái đuôi xuống, đẻ ra bao nhiêu là trứng. 

Có một con bọ nước thấy chuồn chuồn cứ chớp nhoáng như vậy, mới bảo:

- Chị đúng là người chẳng có tổ có tông. Đập nước như vậy thì có tích sự gì. Bằng không chị xuống đây, ao rộng, chị tha hồ mà tắm có thoải mái hơn không?

Chuồn chuồn mới nói:

- Tôi nhớ nước nhưng sà xuống đấy thì ướt hết cánh, làm sao bay được. Mặt nước vốn là nơi tôi sinh ra, bây giờ đến kỳ, tôi đẻ nhờ trên mặt nước vài quả trứng. chị trông giùm tôi với.

Nói rồi, nó lại chao xuống, chớp nhoáng, nhúng phần đít xuống mặt nước đẻ đến khi hết trứng.

*Gửi trứng cho ác

Con quạ còn được gọi là ác. Gửi trứng cho ác tức là gửi trứng cho quạ, mà trứng là món ăn quạ thèm khát. Câu thành ngữ ở đây hàm ý nói kẻ khờ dại, thật thà tin tưởng cậy nhờ vào kẻ bất lương, gửi gắm niềm tin vào, tình cảm cảu mình vào kẻ ác mà không biết.
Chuyện kể:
Ở trên cây cao có tổ ác là. Chim ác là mẹ vừa đẻ ra một loạt trứng. Nó mừng, nó ấp mong nở thành con. Ấp trứng đã mấy ngày rồi, ác là đói quá định bụng đi kiếm gì lót dạ để mà có sức ấp tiếp. Nhưng định bay đi lại thôi, sợ ở nhà mấy con rắn nó xơi mất trứng. Đang băn khoăn thì có một con quạ bay tới gần chỗ đó. Chim ác là nghĩ “quạ nó tuy to nhưng cùng loài chim, có thể gửi nó trông hộ trứng, nếu nó ấp cho thì càng tốt”. Chim ác là bèn nhờ:

- Chị quạ ơi, tôi ấp mấy ngày nay rồi cũng cần phải có cái gì vào bụng. Chị trông giúp tôi đàn con sắp nở. Sau này đàn con tôi ra nhiều, loài chim chúng ta cùng hưởng chung cảnh vui thú thiên nhiên.
Chim ác là có đâu biết rằng, quạ đang rắp tâm rình ổ trứng của nó. Trúng ý đồ, quạ như cởi lòng:

- Em ơi, em cứ đi kiếm mồi, lâu cũng được. Chị sẽ thay em ấp trứng cho em. Em chẳng phải lo gì cả. Chị vốn khỏe mạnh, lại chẳng sợ kẻ khác. Đứa nào dám lấy trứng của em. Chim ác là nghe lời ngon ngọt bay đi kiếm mồi, lòng những mong mau chóng chóng về ấp trứng. Chỉ chờ có thế, ác là bay đi được một quãng đường quạ ta ung dung chén hết trứng trong ổ trứng ác là chỉ để lại phần vỏ trứng.

Chim ác là về thấy vậy, khóc lóc thảm thiết, vật lộn trên cây, mồm kêu “sao nó ác thế, ác ác là”. Nó kêu mãi, như thế người ta mới đặt cho nó là con chim ác là chửi rủa con quạ để nhắc tới việc con quạ ăn sạch trứng của nó. Rồi loài chim cũng vỡ lẽ, con quạ chính là kẻ ác, đừng bao giờ gửi trứng cho ác.

Ở đời quá nhiều người hiền lành, cả tin. Song cũng không thiếu kẻ lợi dụng lòng tin đó để làm điều ác. Kẻ đó là kẻ bất lương. Chuyện trên cũng cho ta lời khuyên và bài học cảnh giác. Câu “gửi trứng cho ác” thường được vận dụng để răn nhau trong cuộc sống sinh hoạt thời nay.

*Gan cóc tía

Câu thành ngữ chỉ sự gan góc, lì lợm, dám đương đầu với thế lực lớn hơn. Người nào không biết sợ hiểm nguy ta ví người đó có gan, gan như cóc tía.
Chuyện kể:
Có một con cóc tía bé nhỏ ở một vùng nọ, rất tức vì thấy cọp chuyên ỷ thế bắt nạt các con thú hiền lành. Một hôm gặp cọp, cóc tía nói:

- Con cọp kia, mày có biết tao là ai không? Tránh ra cho tao đi không tao xé xác bây giờ.

Cọp nhìn hình thù bé nhỏ, xấu xí của cóc tía bèn hỏi:

- Mày là ai mà dám hỗn xược với chúa sơn lâm ta thế hả.

Cóc tía nói:

- Mày không biết tao à? Tao là Cậu ông Trời đây. Đừng có lôi thôi. Cút đi!

Cọp tức quá, hét to:
- Đồ oắt con, mày hãy thi tài với ta, xem ai hơn nào.
Cọp đòi thi nhảy, cóc bảo:

- Được, tao chấp mày đứng trước, tau đứng sau, cả hai cùng nhảy.
Cọp đứng trước. Khi nhảy bao giờ cũng quật đuôi mấy cái để lấy đà. Cóc bèn ngậm chặt vào đuôi cọp, khi cọp quật đuôi, cóc văng xa. Cọp nhẩy đến đã thấy cóc ở phía trước, xa hơn mình thì phục và sợ lắm.

Nó bèn bỏ chạy, giữa đường gặp khỉ. Thấy cọp có vẻ sợ, khỉ bèn hỏi:

- Có việc gì mà ông chạy dữ vậy?

- Mày không biết ư? Ở đằng kia có con cóc xấu xí nhưng đáng sợ lắm, ta phải trốn nó đấy.

Khỉ nhăn răng cười bảo:

- Ôi thằng cóc tía thì có gì mà đáng sợ. Ông cứ đưa tôi đến gặp nó, tôi sẽ bóp nát nó cho ông xem.
Cọp buộc khỉ vào lưng rồi đến chỗ cóc. Thấy khỉ ngồi lên lưng cọp, cóc tía hét:

- À, thằng khỉ kia, mày làm gì mà chậm chạp thế. Mày bảo trả nợ tao hai con cọp, sao bây giờ mới dẫn có một con đến, làm sao tao ăn đủ no.
Cọp nhận thấy ở miệng cóc tía còn một dúm lông của mình, ngỡ là cóc vừa ăn thịt một con cọp khác thật, liền quay đầu chạy thục mạng. Khỉ va đầu vào cây chết từ lúc nào không hay. Khi dừng lại, cọp thấy khỉ nhe răng ra, nó tức quá quát:

- Đồ khỉ, mày lừa tao, còn nhăn răng ra mà cười hả. Rồi quăng khỉ đi thật xa và từ đó hễ gặp cóc tía đâu là cọp trốn biệt. (1)

Cóc tía trốn được cọp vì biết dùng trí lừa được cọp, để cho hả giận. Vậy là có kẻ thông minh như con khỉ, mạnh mẽ như con cọp lại thua trí một kẻ sức lực yếu và nhỏ. Vậy cái sự mưu trí mới đáng là kính nể.

*Giậu đổ bìm leo

Câu thành ngữ có ý muốn nói đến việc lợi dụng người ta gặp điều không hay hoặc khó khăn, hoạn nạn để lấn lướt, áp đảo.

Chuyện kể:
Hàng giậu không biết có từ bao giờ, cứ sừng sững đứng bao lấy khu vườn. Nó hãnh diện ca ngợi đôi tay khéo léo của người vì đã cắm chặt nó xuống đất, lại lấy lạt buộc chúng vào với nhau nên tin rằng chẳng bao giờ bị đổ.
Cạnh giậu có cây bìm bìm mấy lần cố ngóc cái đầu để rồi bám vào bờ giậu, hòng dựa vào đó mà leo cao một chút mong hưởng chút ít ánh nắng trời. Nhưng mỗi lần như thế, hàng giậu lại tỏ ra bực bội, không muốn cho bìm bìm phủ kín cả hàng giậu nhà mình. Vì vậy nó mách người, nó bảo:
- Bìm bìm nó sắp lấn át hàng giậu của chúng tôi. Nếu chúng tôi đổ thì chó gà vào phá hết rau.

Người nghe nó nói thế cho là phải mới phạt bìm bìm không leo lên hàng giậu nữa. Nhiều lần như thế, bìm bìm tức lắm.
Rồi thời vụ cũng qua đi, người ta thu hoạch hết rau trong vườn, không còn ngó ngàng gì đến hàng giậu. Hàng giậu đứng đấy chịu nắng khô nỏ, giờ lại bị nước mưa làm mục hết chân. Một đêm, mưa to gió lớn đùng đùng, hàng giậu bỗng xiêu vẹo. Nó nghiêng ngả xuống gần cây bìm bìm. Vụ khô hanh qua đi, giờ được nước, bìm bìm phởn phơ hẳn lên, nó thấy hàng giậu nghiêng xuống mới bám vào. Lúc đầu còn một vài dây, sau thì mấy dây khác cũng hùa nhau bám vào, làm cái giậu bị nặng quá nghiêng hẳn xuống. Cả họ nhà bìm bìm lúc đấy được đà mới nói với hàng giậu:
- Xưa giậu hắt hủi họ bìm bìm nhà ta, lúc ta cần thì chẳng cho nương tựa, giờ giậu nhà ngươi đổ kêu người nào có thấy ai. Không là hàng giậu ngăn chó, ngăn gà thì cứ để họ nhà ta leo lên, dẫu sao cũng còn có ích.

Cái sự tự nhiên là loại cây dây leo bao giờ cũng cần nương tựa vào tường, giậu hay cây khác để vươn ra ánh sáng để mà tồn tại. Cây bìm bìm là loại cây dây leo, sống dai và sức vươn mạnh mẽ. Cũng từ đặc tính này mà có câu chuyện trên, từ đó người ta liên tưởng vào cuộc sống, ám chỉ khi ai đó gặp khó khăn, hoạn nạn thì kẻ khác lợi dụng, lấn át nhằm hại thêm hoặc kiếm chác một chút gì đó. Quả thật là cuộc đời phù thịnh, ít phù suy.

Gà đẻ cục tác: Gà mái đẻ xong, nhảy ở ổ xuống bao giờ cũng kêu mấy tiếng “cục ta cục tác” ầm lên.
Người ta thường dùng câu này để nói việc chính mình làm lỗi mà lại rêu rao đòi bắt kẻ làm lỗi. Chính mình làm điều xấu mà lại lớn tiếng chê trách kẻ làm điều xấu. Ý nghĩa câu này cũng gần giống ý nghĩa câu “vừa ăn cướp vừa la làng”. 

2.Gà què ăn quẩn cối xay: Người ta thường dùng câu này để nói người chỉ có cái thói bóc lột, bòn rút của cải của người trong làng, trong họ, hay trong nhà. Ví như con gà què không đi kiếm ăn nơi xa được. 

3.Gái có con như bồ hòn có rễ: Người đàn bà lấy chồng mà có con, thì địa vị chắc chắn, như cây bồ hòn có rễ ăn sâu xuống đất. Trái lại không có con, thì bấp bênh không chắc vào đâu, cho nên có câu: “Gái không con như bè nghể trôi sông” (bè nghể tức là đám nghể mọc lờ đờ mặt nước, liền với nhau thành một đám như cái bè; bè nghể không dính líu vào đâu chắc chắn, hễ gặp gió to là lềnh bềnh trôi đi). 

4.Gái có công, chồng chẳng phụ: Hễ người vợ mà làm nên công chuyện trong gia đình, thì người chồng không bao giờ phụ công. Người ta thường dùng câu này để nói: mình làm được việc gì thì người trên tự khắc khen thưởng. Có ý khuyên người ta trước hết nên gắng làm việc, rồi tự khắc người ta biết công.

5.Gánh vàng đi đổ sông Ngô: Gánh vàng là đi gánh của cải đi. Sông Ngô là sông ở bên nước Ngô, tức nước Tàu. Gánh vàng đi đổ sông Ngô nghĩa đen là gánh của cải đi đổ xuống sông bên Tàu. Nghĩa bóng là đem tiền bạc làm giàu cho người ngoại quốc. Đại ý câu này khuyên người ta không nên dùng hàng hóa nước ngoài, để tiền bạc, của cải khỏi lọt ra ngoại quốc. Sở dĩ có câu tục ngữ này là vì ngày xưa, cha ông ta thích dùng đồ Tàu (Ngô), bất luận cái gì cũng phải mua cho được đồ Tàu mới chịu, thành ra tiền của dốc vào túi của người Tàu tất cả. Để tiền bạc lọt cả vào túi người Tàu, như vậy có khác gì gánh vàng đi đổ sông Ngô.

-Gạo đổ, bốc chẳng đầy thưng: Một thưng (tức như đấu hay bơ) gạo đã đánh đổ xuống đất, bốc lên thể nào cũng không đầy được thưng, vì còn có hột rơi vãi mất mát. 
Nghĩa bóng câu này có ý nói việc đã lỡ ra, chữa lại thế nào, cũng không tốt đẹp được y nguyên như trước. 
-Gần đất xa trời: Gần đất xa trời, ý nói người ốm nặng sắp chết. Chết thì chôn xuống đất, nên bệnh nguy sắp chết gọi là gần đất. Xa trời là xa khoảng khí trời, tức là cõi nhân gian cũng có nghĩa là sắp chết.
-Gần lửa rát mặt: Ngồi gần đống lửa thì nóng rát mặt. 
Nghĩa bóng là ở gần người trên, thì lúc nào cũng phải giữ gìn, không được phóng túng tự do. Câu này bộc lộ cái tâm lý của kẻ thích phóng túng, sợ kỷ luật, qui củ. 
-Gậy đám đánh đám: Đám đây là đám đánh nhau. 
Gậy đám là gậy lượm được trong đám đánh nhau. Gậy đám đánh đám là lấy cái gậy lượm được trong đám đánh nhau, dùng để đánh ngay trong đám đánh nhau đó. Nghĩa bóng câu này là: a)Dùng tiền của người khác để làm lợi cho mình. b)Dùng tiền kiếm được bằng cách ám muội để chạy chọt, che đậy việc ám muội của mình đã làm. c)Dùng ngay số tiền đã lấy của người ta, để lo việc chống lại hay kiện cáo, đánh đổ người ta. 
-Gậy ông đập lưng ông: Chính cái gậy mình dùng để đánh người, lại đánh ngay vào lưng mình.
Người ta thường mượn câu này để nói: a)Chính luật pháp mình đặt ra lại trừng phạt mình. b)Chính công việc mình khởi xướng ra lại hại đến quyền lợi mình. c)Chính sức mạnh do mình gây ra lại đánh lại mình. d)Chính việc mình làm để định hại kẻ khác, lại làm hại ngay mình. 
-Gậy vông phá nhà gạch: Gậy vông là gậy làm bằng gỗ vông, một thứ gỗ rất nhẹ, rất mềm, là một thứ gậy yếu nhất. 
Gậy vông phá nhà gạch là dùng cái gậy yếu nhất mà phá nhà gạch là nhà kiên cố nhất, may mà phá được thì lợi to, nhược bằng không phá được, thì cũng chỉ thiệt có cái gậy vông. Câu này ý nói dùng sức ít mà may ra được việc to, bỏ vốn không bao nhiêu mà may thì lãi lớn. 
-Già đòn non nhẽ: Đòn là đánh đòn. Già đòn là đánh đòn nhiều, đánh đòn khoẻ. Nhẽ là lý sự. Non nhẽ là đuối lý, là lý sự yếu thua. Cả câu này nghĩa là trong cuộc ẩu đả, bên nào đánh đòn nhiều, thì trước pháp luật, bên ấy đuối lý, có lỗi. 
Cũng có thuyết nói: hễ bên này đánh đòn già, thì bên kia hết cãi lý sự. Thí dụ vợ hay nói lôi thôi, con cà con kê bôi xấu chồng, chồng nổi nóng đánh cho một trận nên thân; thế là lời lẽ lý sự của vợ thua ngay (nghĩa là không còn nói ra nói vào nữa). 
-Già néo đứt giây: Néo là một nuộc lạt tròn lồng vào cái cột cái kèo, rồi cho một cái que cứng và ngắn vào (gọi là con néo), vặn nuộc lạt tròn mấy lần cho thật chặt, để làm cho cột kèo vững chãi. Nếu vặn con néo già quá thì nuột lạt sẽ đứt mất. Nghĩa bóng, ý nói là đặt giá quá cao thì không bán được, đòi hỏi điều kiện quá gắt gao, khó khăn thì hỏng việc, vì người ta không chịu đựng nổi. 
-Già kén kẹn hom: Già kén là kén kỹ quá, kén nhiều quá, kẹn hom là dơ xương ra, ý nói già yếu gầy guộc, dơ xương. 
Già kén kẹn hom là kén chọn kỹ quá (đây là kén chồng) thì người già mất. Người ta thường dùng câu này theo nghĩa bóng để nói rằng: ở đời nếu cứ so sánh lựa chọn công việc và danh vị kỹ quá, thì đến già cũng không làm nên việc gì, không có địa vị gì trong xã hội. Đại ý câu này khuyên người ta không nên khó tính, kỹ tính quá.

-Giã gạo thì ốm, giã cốm thì khoẻ: Giã gạo thì cáo ốm để khỏi phải giã. Vì giã gạo không được ăn ngay. Đến khi giã cốm (tức là giã thóc nếp non làm cốm) thì giã khoẻ lắm, vì ở nhà quê, giã cốm là để ăn, ngay khi thành cốm. 
Câu này chê người làm mà tham ăn.
-Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng: Giặc bên Ngô tức là giặc bên Tàu (có lần nước Tàu gọi là nước Ngô, thời tam Quốc, ta bị sát nhập vào nước Ngô) kéo sang. Giặc bên Tàu xưa có tiếng là dự tợn, độc ác. Bà cô bên chồng, tức là cô chị hay cô em gái người chồng. Chị gái và em gái chồng (người em dâu gọi thay con mình là cô), dĩ nhiên là thân mật với mẹ chồng hơn và được mẹ chồng tin yêu hơn, vì là con đẻ. Em gái, chị gái chồng thường hay chiều theo ý mẹ đẻ, mà nói hơn nói kém về tính nết, công việc, cử chỉ, lời ăn tiếng nói của chị dâu hay em dâu. Do những lời xúi bẩy thêu dệt đó của của con gái mà mẹ chồng càng thêm khắc nghiệt với con dâu mình. 
Bởi vậy mà người con dâu đã phải nói: Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng, nghĩa là giặc bên Tàu kéo sang, cũng không độc ác đáng sợ bằng các cô chị cô em của chồng. Câu này lấy một thực trạng xã hội để khuyên các cô chị em chồng không nên xử tệ với chị em dâu (vợ anh hay em ruột), không nên xúi bẩy mẹ đẻ hành hạ con dâu. 
-Giận con rận đốt cái áo: Áo có rận là tại mình ăn ở bẩn thỉu, không năng tắm rửa và thay quần áo. Có rận là lỗi ở chính mình, chớ không phải lỗi ở cái áo. Vậy mà có người thấy rận cắn, tức mình đem cái áo đốt đi. Đốt áo thì thiệt hại mình mà không thể trừ tiệt được giống rận. Nếu mình ăn ở bẩn thỉu như trước, thì áo nào rồi cũng có rận. 
Cho rằng đốt áo mà trừ được rận chăng nữa, thì cũng là khờ dại, vì trừ được cái hại nhỏ, mà mất cái lợi to. Câu này ngụ ý khuyên ta trước khi làm việc gì, nên suy tính lợi hại. Đồng thời khuyên ta chớ nên nổi giận, vì “giận mất khôn”. 
-Giàu bán ló, khó bán con: Ló là tiếng Thanh Nghệ, tức là tiếng lúa nói trạnh ra. Giầu thì bán ló lấy tiền, nghèo thì bán con lấy tiền. Bán con tức là gả bán con gái lấy tiền, chớ không phải là bán con thật.

-Giàu đâu những kẻ ngủ trưa, 
Sang đâu những kẻ say sưa tối ngày: Ngủ trưa là ngủ dậy trưa. Say sưa tối ngày là say sưa suốt ngày. Người ngủ trưa thì mất công mất việc, mọi việc làm không kịp thời cho nên khó mà giàu được. Người say rượu thì cử chỉ thất thố, ăn nói bậy bạ, mất cả phẩm giá, còn sang trọng sao được? Câu này đại ý khuyên người ta nên dậy sớm và không nên rượu chè. 
-Giàu điếc, sang đui: Lúc giầu có thì hóa điếc, không nghe thấy những lời nói khó của anh em bà con đến vay mượn, nhờ vả. 
Lúc làm nên quan thì hóa đui (mù), không trông thấy những anh em bạn bè nghèo khó khi trước. Câu này có ý chê những người sang giàu mà bụng dạ không tốt, quên bạn bè, anh em, bà con thuở hàn vi.

-Giàu hai con mắt khó hai bàn tay: Có người giảng là: giầu có nhờ về hai con mắt (sáng hay lòa), nghèo khó là ở hai bàn tay (chịu làm việc hay không chịu làm). Cũng có người giảng là: người giầu, thì chỉ vận dụng đến hai con mắt trông nom người làm là đủ, người nghèo khó thì phải vận dụng đến sức làm việc của hai bàn tay. Tôi cho giảng nghĩa cách dưới đây hợp với câu văn hơn. Nhưng người ta thường hiểu câu này theo nghĩa trên.

-Giàu là họ, khó người dưng: Họ hàng cùng chung dòng máu với nhau. Nhưng thói đời chỉ ưa người có của. Cho nên người ta thường thân mật, nhận họ hàng với những người giầu có. Còn người nghèo khó thì dù có họ rất gần, người ta thường cũng coi như người dưng.
Câu này chê người đời hay trọng giầu, rẻ khó. 

Giàu tại phận, khó tại duyên: Phận là số phận. Duyên là duyên phận.
Phận với duyên nghĩa tương tự nhau, đại khái cũng như ta nói số mệnh. Giầu tại phận, khó tại duyên nghĩa là giầu, nghèo đều do số Trời định cho cả. Người ta thường dùng câu này để an ủi những người nghèo khó sa sút. Thật ra, giầu nghèo một phần lớn tại mình, chứ không hoàn toàn tại Trời. 

-Giàu thú quê không bằng ngồi lê kẻ chợ: Thú chữ Hán nghĩa là nhà ở. Thú quê là nhà quê. Kẻ chợ, tiếng cổ, trỏ (chỉ) nơi kinh đô, hoặc chốn thành thị.
Giầu thú quê không bằng ngồi lê kẻ chợ là người giầu có ở nhà quê không được sung sướng bằng người đi lê (tức là kẻ khó ăn xin) ở nơi kẻ chợ. Ở kẻ chợ, mọi thức ăn, mặc đều sẵn sàng, ngày mưa gió không lầy lội bẩn thỉu như ở nhà quê, có đồng tiền bất cứ lúc nào cũng có thể ăn ngon mặc đẹp. Ở nhà quê dù có nhiều tiền của đến đâu, cũng không được hưởng mọi sự tiện lợi, sung sướng như ở kẻ chợ. Về phương diện ăn mặc, ở nhà quê bao giờ cũng thua kẻ chợ. Câu này nói theo lối thậm xưng (nói quá), cố ý đề cao đời sống ở nơi đô hội, hình như là để hô hào cổ động dân quê ra kẻ chợ buôn bán làm ăn. Thật ra, không có tiền thì ở kẻ chợ khốn khổ hơn ở nhà quê nhiều, vì đời sống ở kẻ chợ bao giờ cũng đắt đỏ, phức tạp vì lắm nhu cầu (sự cần dùng) hơn ở nhà quê. 

-Giàu về thể khó về thể, mãn uống nước bể bao giờ cạn: Thể là cả thể, nghĩa là to tát là nhiều. 
Giầu về thể khó về thể, mãn uống nước bể bao giờ cạn nghĩa là giầu hay khó là giầu khó về chi tiêu nhiều, chớ những món chi tiêu nhỏ nhặt thì xá chi, không thể làm người ta giầu thêm hay nghèo thêm được, cũng như con mèo uống nước bể thì bể bao giờ cạn được nước.

-Há miệng chờ sung: Nằm dưới gốc cây sung, há miệng ra chờ cho quả sung nào rụng trúng vào miệng thì ăn. Thế là há miệng chờ sung. Ý nói kẻ lười biếng chỉ chực ăn sẵn, không chịu làm lụng gì.

-Há miệng chờ ho: Lúc nào ho thì lúc ấy há miệng; đằng này, lại há miệng sẵn để chờ cơn ho, như vậy là chờ đợi một việc không biết bao giờ xảy tới, chờ đợi hão huyền.

Há miệng mắc quai: Quai đây là quai nón; quai nón giữ lấy cằm. Muốn mở miệng ra nói thì bị mắc quai nón, không mở được. Đó là nghĩa đen. 
Nghĩa bóng câu này có ý nói: muốn nói ra để phản đối việc gì, song đã trót chịu ơn người ta (như người đã đội nón) nên miệng như bị mắc, không nói được. 
-Hà tiện ăn cháo hoa: Câu này ý bỏ lửng ở giữa. Phải nó thế này thì mới đủ nghĩa: Hà tiện ăn cháo hoa, đồng đúc đồng đậu hóa ra ba đồng. Tưởng rằng ăn cháo hoa cho đỡ tốn, không dè lại phải ăn kèm theo đậu và bánh đúc (có lẽ là lối ăn cháo hoa ngày xưa ăn kèm bánh đúc), thành ra tốn mất những ba đồng, rút cục chẳng hà tiện được chi cả. 
Câu này chê cách hà tiện không phải đường. 

-Hai thóc mới được một gạo: Hai phần thóc xẩy, giã ra chỉ được một phần gạo, tức là còn một nửa. Người ta thường mượn câu này để nói cảnh hiếm con, sinh hai bận mới nuôi được một bận.

-Hai mắt dồn một: Bận vội quá, chúi mũi làm cho xong việc, hai mắt dồn cả vào một chỗ.

-Hai sương một nắng: Hai sương là sương buổi sáng sớm và sương buổi chiều tối.
Một nắng là trời nắng suốt ban ngày. Hai sương một nắng nói người làm ruộng vất vả, phải dãi nắng cả ngày và chịu đầu sương hai buổi chiều, sớm. Hay có một câu tương tự: “đi sớm về khuya”.

-Ham cái nết không hết chi người: Ham là ham chuộng, quí trọng, ưa thích. Cái nết là cái nết na, hiền hậu, tức là cái nết tốt, cái bụng dạ ăn ở tử tế. 
Cả câu nghĩa là: chỉ ham chuộng cái nết đẹp chứ không phải là ham chuộng con người đẹp, người đẹp thì có nhiều không bao giờ hết. Câu này đại ý nói cái nết tốt đáng quí hơn sắc đẹp

-Khôn nhà dại chợ: Ở nhà thì khôn, đi chợ thì dại. Hay là ở xó nhà thì khôn, đến chỗ kẻ chợ (kinh kỳ) thì dại. 
Đại ý câu này nói chỉ khôn ngoan ở trong xó nhà, đến khi ra ngoài thì hành động lại khờ dại. 

-Khôn sống bống chết: Bống là cái bống, lại có nghĩa bống là dại. Ta có câu “dại như bống”. 
Khôn sống bống chết nghĩa là ở đời người khôn thì sống, người dại thì chết, sống chết tự nơi mình cả. Câu này tả một thực trạng xã hội muôn thuở, và có ngụ ý than trách cái lòng ích kỷ của loài người, chỉ biết sống lấy mình, chớ không biết làm cho người ngu dại cùng sống. Người ta thường nói lầm ra là: “khôn sống mống chết”. 

-Khôn ra miệng, dại ra tay: Người khôn ngoan thì sự khôn ngoan lộ ra lời nói, người rồ dại, thì sự rồ dại hiện ra những cử chỉ, tức là ở bàn tay. Cứ nghe lời ăn tiếng nói thì biết là người khôn ngoan, cứ nhìn cử chỉ thì biết là người khờ dại. 
Câu này đại ý nói sự khôn ngoan cũng như sự điên dại không dấu được ai; mình thế nào, thiên hạ biết rõ cả. 
Không biết nói dối thì thối thây ra: Thật thà thì bao giờ cũng hơn. Nhưng ở đời cũng có khi cần phải biết nói dối. 
Cho nên câu tục ngữ khuyên người ta nên biết nói dối. Biết nói dối là biết cách nào nói dối người ta tin là thật. Không biết nói dối thì thối thây ra là không biết cách nói dối thì thiệt hại đến mình (thối thây nghĩa đen là thối xác ra). Người ta thường dùng câu này để nói việc đi buôn bán, cần phải biết nói dối thì mới có lãi. 
Không đội trời chung: Sách Tầu có câu: “thù cha, anh không đội trời chung”, nghĩa là kẻ thù giết cha, anh của mình, mình quyết không cùng sống với kẻ thù ấy, một là kẻ thù sống thì mình chết, hai là kẻ thù phải chết vì tay mình. 
Không đội trời chung do câu ấy mà ra, nghĩa là nhất quyết liều chết trả thù, chứ không chịu cùng sống với kẻ thù ở dưới trời. 
Không ốm không đau, làm giầu mấy chốc: Ốm đau tức không có sức khoẻ, thì không làm gì được. Đã không kiếm được lại phải bỏ tiền ra thuốc thang chạy chữa. Cho nên ốm đau rất tốn kém. 
Nếu ở đời, luôn luôn người ta được khoẻ mạnh, cứ làm việc được đều đều, thì cũng không mấy chốc mà trở nên giầu có. 
Kiến tha lâu cũng đầy tổ: Kiến nhỏ tí, tổ to tù và ở trên cành cây cao vót. Việc tha mồi từ dưới đất lên tổ là một việc khó khăn vất vả vô cùng. So sức kiến với cái tổ, thì tưởng chừng không bao giờ kiến tha được đầy. Thế mà tổ kiến có lúc đầy mồi. Đó là vì kiến chịu khó tha lâu không nản chí. Câu này đại ý khuyên người ta nên kiên gan vững chí. Kiên nhẫn, chịu khó làm mãi, thì việc khó khăn đến đâu cũng có ngày làm xong. Mưa dầm thành lụt là vì mưa dai. Sắt mài nên kim là vì có công mài lâu. Nước chảy đá mòn là vì nước chảy mãi. Kiến tha lâu cũng đầy tổ, người học mãi cũng phải khôn.

-Kim vàng ai nỡ uốn câu: Kim vàng là kim bằng vàng. 
Uốn câu làm uốn làm lưỡi câu. Kim vàng ai nỡ uốn câu nghĩa là cái kim bằng vàng thì ai nỡ đem uốn làm lưỡi câu cho phí của. Nghĩa bóng câu này muốn nói ai nỡ dùng người tài vào việc hèn, có ý ví người tài với cái kim vàng. Câu này thường dùng được nối liền với câu: “Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời”. Cả hai câu đi liền với nhau có nghĩa là người tài không nỡ dùng vào việc hèn, người khôn ngoan không ai nỡ nặng lời trách mắng.

Làm đầy tớ người khôn, hơn làm thầy người dại: Làm thầy người dại nhiều khi mang tiếng dại lây,vì đầy tớ ngu dại nhiều khi làm xấu cả mặt thầy mà không biết. 
Làm đầy tớ người khôn thường được thầy bênh vực, chống đỡ một cách khôn khéo, có khi mình dại mà được tiếng khôn, mà chắc chắn không bị tiếng dại lây. 

-Làm giầu để đau uống thuốc: Làm giầu là làm ăn chăm chỉ, nhịn ăn nhịn mặc, để dành tiền của cho nhiều. Đau là ốm đau, bệnh tật.
Làm giầu để đau uống thuốc là vì ăn nhịn để dành cho trở nên giầu, mà người hóa ốm yếu, bệnh tật. Tưởng làm giầu để làm gì, không ngờ làm giầu chỉ để cho người hóa ốm mà uống thuốc. Câu này chê những người làm giầu quá đến nỗi coi khinh thân thể, không chú ý đến sức khoẻ của mình. 

-Làm khi lành để dành khi đau: Lành là lành mạnh, khoẻ mạnh. Đau là đau ốm, yếu đau, bệnh tật. 
Làm khi khoẻ mạnh để dành phòng khi ốm đau, vì đau thì không làm được. Câu này khuyên người ta nên lo xa, lúc khoẻ nên lo lúc ốm, khi có nên phòng lúc không, khi làm được nên nghĩ đến khi không làm được. 

-Làm nghề chài phải theo đuôi cá: Chài là cái chài, tức là một thứ lưới rộng dùng để đánh cá.
Làm nghề chài tức là làm nghề đánh cá. Cả câu nghĩa là: Làm nghề chài lưới thì phải theo đuôi con cá để bắt. Nghĩa bóng câu này muốn nói làm nghề gì thì phải theo nghề ấy, nghề nào cũng có cái vinh, cái nhục của nghề. 

-Làm phúc cũng như làm giầu: Làm phúc là bỏ tiền bạc, của cải ra giúp đỡ người nghèo khổ cơ nhỡ. Làm phúc như thế tuy có hao tổn của cải đi ít nhiều, song cũng không mất hẳn. Chỉ như để dành một nơi mà thôi.
Bởi vì bỏ của ra làm phúc như vậy thì được nhiều người kính mến, chịu ơn. Lỡ sau này mình gặp cơn hoạn nạn, tai biến gì, cũng có người cưu mang giúp đỡ. Và trong khi mình làm phúc đã gây được bao nhiêu bạn bè, đã mua chuộc được lòng bao nhiêu người thiên hạ. Cho nên nói rằng làm phúc cũng lợi và cũng cần, ngang với làm giầu. Câu này khuyên những người có hằng sản nên có hằng tâm (có của nên có lòng làm phúc).

-Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam: Lấy vợ thì dĩ nhiên lấy vợ đàn bà, làm nhà thì dĩ nhiên phải trông về hướng Nam (vì hướng Nam thì mát). Cũng có người giảng thế này: Lấy vợ thì lấy người thật là đàn bà, làm nhà thì nên làm trông về hướng Nam. Vì cũng có người đàn bà mà tướng người và tính nết y như đàn ông, như thế là không tốt.

-Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống: Tông với giống cùng một nghĩa là giòng dõi. Lấy vợ phải xem tông, lấy chồng phải xem giống, vì con cháu thường bẩm thụ những đức tính và bệnh tật di truyền của cha ông. Hễ cha ông là người hiền lành, thì con cái ít khi là người hung ác; hễ cha ông là người hung ác, thì con cháu ít khi là người hiền lành.
Câu này khuyên người ta lấy vợ lấy chồng nên chú ý lựa chọn con nhà giòng dõi tử thế, không nên tối mắt về của cải giầu sang hoặc nhan sắc nhất thời. 
Lem lém như gấu ăn trăng: Mặt trăng bị quả đất che lấp, thành thử đang sáng hóa tối, gọi là nguyệt thực, nói nôm là gấu ăn trăng. Ngày xưa, người ta tin rằng lúc đó có gấu nhà trời ra ngậm mặt trăng. Gấu ăn trăng thì mau chóng lắm, cứ lem lém từng giây, từng phút “ăn” hết cả mặt trăng. Để tỏ sự ăn mau chóng quá sức, người ta thường ví với gấu ăn trăng.

-Lên mặt xuống chân: Dáng điệu kiêu ngạo, làm bộ đi cứ vênh cái mặt lên và chân thì bước thình thịch xuống đất, để người ngoài chú ý đến mình.

Lên voi xuống chó: Lúc lên thì to như con voi, lúc xuống thì bé như con chó. Câu này ý nói lúc nào người ta gặp cơn vận đỏ thì lên to lắm, lúc gặp vận đen thì xuống lại, hóa bé lắm. Người thì trước sau vẫn thế, nhưng lúc to lúc nhỏ là do vận hội xui nên. Cũng có nghĩa là hễ lên to quá, thì lại xuống bé quá, nếu cứ trung bình thì lên xuống cũng không đến nỗi chênh lệch như thế.

-Lo chật bụng, lo chi chật nhà: Chật bụng là bụng dạ chật hẹp, không rộng lượng, không có lòng rộng rãi đối với mọi người. Chật nhà là nhà chật hẹp, không rộng rãi.
Chỉ lo bụng dạ mình không được rộng rãi, chứ lo gì nhà mình không được rộng rãi. Bụng dạ rộng rãi thì lắm bạn, đến chật nhà cũng hóa như rộng, vì đông người lui tới, chơi bời với mình. Bụng chật hẹp thì nhà rộng rãi đến đâu, cũng như chật hẹp vì chẳng ai buồn tới. Đại ý câu này khuyên người ta ăn ở nên rộng rãi với mọi người, không nên khe khắt, chặt chẽ quá.

-Làm quan có mả, kẻ cả có giòng: Mả là mồ mả, đất cát; người ta tin rằng mồ mả của ông cha có ảnh hưởng đến đời sống và công danh, sự nghiệp của con cháu. Hễ mồ mả “kết” thì con cháu phát đạt làm nên. Mà táng vào chỗ không tốt, thì con cháu sa sút lụt bại. Cho nên có câu: Làm quan có mảnghĩa là có mồ mả, đất cát “kết phát” thì mới làm được quan sang.
Kẻ cả là người lớn, người trên, người đứng đầu, người đàn anh. Có giòng là có giòng dõi, tức xưa có cha ông từng làm đàn anh, thì con cháu mới làm được đàn anh. Đời xưa dưới chế độ phong kiến (như đời Lý, nhà Trần), con quan thì lại làm quan, câu này rất đúng. Bây giờ thì không đúng nữa. Bây giờ thì “có chí làm quan, có gan làm giầu”, không căn cứ gì mồ mả hay giòng dõi. 

-Làm ruộng ăn cơm nằm, chăn tằm ăn cơm đứng: Làm ruộng thì phải thức khuya, dậy sớm, trời mờ sáng đã phải ăn cơm để ra đồng làm. Mãi trống canh một hết việc mới được ăn cơm tối. Cho nên nói rằng ăn cơm nằm tức là ăn cơm lúc người ta nằm ngủ, hoặc phải nằm mà ăn cơm, vì ăn cơm sớm quá và ăn muộn quá. 
Chăn tằm thì phải luôn luôn săn sóc tằm ăn cho no đủ. Nếu là dâu hết, tằm thiếu cái ăn, thì đang bữa cơm cũng phải đứng dậy đi hái dâu, hoặc mải hái dâu quên cả bữa ăn. Nên bảo rằng ăn cơm đứng tức là vừa đứng hái dâu vừa ăn cơm. Câu này tả nỗi khó nhọc của nghề làm ruộng và nghề chăn tằm. 
Làm ruộng thì ra, làm nhà thì tốn: Ra đây nghĩa là ròi ra, đẻ ra, có lợi thêm ra. Làm ruộng thì được lúa gạo, rơm, rạ, đủ các thứ lợi nên bảo rằng làm ruộng thì ra. Trái lại làm nhà thì tốn, vì phải mua hết thứ này đến thứ khác, làm xong nhà đến bếp, làm xong bếp đến lát gạch sân và xây tường bao, cứ rở rói ra mãi, cho nên tốn kém.

-Làm tài trai cứ nước hai mà nói: Làm con trai tài giỏi, không bao giờ nên nói quả quyết điều gì, phòng lúc không giữ lời hứa, hoặc lỡ lời nói sai thì không có lối thoát. Đại khái như nói điều gì cũng bảo: Hình như, có lẽ thì đúng, đúng cũng được, mà không đúng cũng không sao.

Lành làm gáo, vỡ làm môi: Cái sọ dừa, nếu lành thì người ta cưa làm gáo, nếu vỡ thì người ta cưa làm cái môi hoặc cái muôi. Môi hay muôi là một thứ cùi dìa hình tròn to, làm bằng sọ dừa, so với cái gáo thì môi hay muôi nông hơn nhiều, nên sọ dừa vỡ không làm gáo được mà có thể dùng làm môi. Người ta thường dùng câu này để tỏ cái ý định liều lĩnh làm việc gì (nhất là việc vật lộn, tranh dành nhau), bất chấp hành hay mẻ, được hay thua.

-Lạt mềm buộc chặt: Lạt mềm là lạt chẻ mỏng. Lạt mỏng thì vừa dẻo, vừa dai, buộc cái gì buộc lằn, siết chặt mà không đứt. Lạt chẻ dầy, thì vừa cứng, vừa dòn, buộc chặc không được và hay gẫy, đứt. Câu này lấy lạt làm thí dụ, để khuyên người ta nên ăn nói mềm mỏng, ngọt ngào thì ai nghe cũng lọt tai, do đó việc mình mới hay.

-Lắm người nhiều điều: Điều đây là lời nói.
Lắm người thì mỗi người một lời thành ra nhiều lời. Câu này ý nói hễ nhiều người thì nhiều ý kiến. Cũng có ý nói đám đông người thường hay lộn xộn, ồn ào vì mỗi người nói một lời. 

-Lắm rận thì giầu, lắm trâu thì nghèo: Lắm rận đây là nói người nghèo khó. Người nghèo khó ít quần áo, không năng thay đổi và quần áo hay rách vá, thành ra hay có rận. Lắm trâu tức là người giầu có. Lắm rận thì giầu: người nghèo khó lại giầu lòng nhân đức, thương người. Lắm trâu thì nghèo: người giầu có lại nghèo lòng nhân đức. 
Cũng có người giải nghĩa như thế này, người nghèo thì giầu sự nghèo khó của mình, cũng làm ra bộ giầu để người ta khỏi khinh. Trái lại, người lắm trâu thì giấu sự giầu có của mình, làm ra bộ túng bấn, để người ta khỏi vay mượn.

-Lụa tốt xem biên, người hiền xem tướng: Muốn biết lụa tốt hay xấu, cứ xem ở biên, tức là ở bên mép tấm lụa thì biết. Hễ mép lụa mà săn mịn, đều sợi là lụa tốt. Muốn biết người hiền hay không cứ xem mặt thì biết, vì khôn ngoan dồn ra nét mặt, và nhân hiền tại mạo (người hiền ở nét mặt).
Câu này nói về cách xem lụa và xem người, dạy ta những trí thức thông thường về sự vật, thuộc vào loại những câu: Mua cá thì phải xem mang.
Mua bầu xem cuống mới toan không lầm.
Mua cau chọn lấy buồng sai.
Mua trầu chọn lấy trăm hai lá vàng.
Cá thở bằng mang. Cá còn sống thì mang cá phập phồng, cá còn tươi. Cá mới ngã (chết) thì mang đỏ. Bầu bí cuống nhỏ thì đặc ruột, cuống to thì lắm ruột, mỏng cùi, không tốt. Trầu không lá vàng thì ngon. 
-Lửa cháy mà lại đổ dầu thêm: Lửa đang cháy mà đổ thêm dầu, thì lửa lại càng cháy to. Đại ý câu này nói là to chuyện thêm, làm cho câu chuyện lôi thôi, rắc rối, đáng lẽ phải dẹp nó đi.

-Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo: Lưỡi không có xương, nên uốn, lắt lẻo thế nào cũng được. Nghĩa bóng câu này thường được dùng để chê người ăn nói trước sau bất nhất, lúc nói thế này, lúc nói thế khác.

Lưỡi mềm độc quá đuôi ong: Lưỡi mềm là lưỡi không cứng rắn như đá, không sắc nhọn như dao, lý ưng không có gì đáng sợ, vì không làm đau đớn, thương tổn được người ta. Ấy vậy mà lưỡi độc quá đuôi ong, tức là độc hơn nọc ong (nọc ong ở đằng đuôi). Đuôi ong châm vào thì thịt đau buốt và sưng vù lên. Lưỡi nói xấu ai thì người ấy mất bạn bè, mất danh giá. Lưỡi vu khống ai thì người ấy bị tù tội, mất cơ nghiệp, có thể mất cả tính mạng.
Câu tục ngữ nêu ảnh hưởng tai hại của miệng lưỡi con người, và ngụ ý khuyên người ta không nên nói vu oan, nói xấu kẻ khác. 

-Lươn ngắn chê chạch dài: Lươn với chạch là hai giống cá thân hình coi gần như nhau, nhưng chạch thì ngắn hơn lươn nhiều. Vậy mà lươn lại tự cho là mình ngắn mà chê chạch là dài, trái hẳn với sự thật.
Người ta thường mượn câu này để nói người có lỗi lại chê người khác làm lỗi. Người bụng dạ không tốt lại chê người khác không tốt. Đại ý câu này khuyên người ta nên xét mình trước rồi hãy xét người.

-Lợi thì nuôi lợn nái, hại thì nuôi bồ câu: Lợn (người miền Nam gọi là con heo) nái tức là lợn cái, lợn sề. Lợn nái mỗi năm đẻ hai lứa, mỗi lứa bảy, tám, có khi đến mười con lợn con. Lợn con nuôi ba tháng đã bán làm lợn giống được, cho nên nuôi lợn nái rất có lợi.
Bồ câu ăn thóc rất tốn. Bồ câu lại hay ỉa trên mái nhà và vào bể nước, làm bẩn cả nước mưa, nước bể. Nên người ta cho là nuôi bồ câu không lợi, mà có hại. 
-Lớn người to cái ngã: Người càng lớn thì cái ngã càng to, vì người lớn thì nặng cân, ngã tất mạnh. 
Theo nghĩa bóng câu này muốn nói: người làm nên danh phận cao bao nhiêu, thì khi gặp vận xấu lại xuống thấp bấy nhiêu, người giầu có sung sướng bao nhiêu, khi sa sút lại khổ sở bấy nhiêu. Ý nghĩa cũng tương tự ý nghĩa câu: “Càng cao danh vọng càng đầy gian nan”, hoặc câu: “trèo cao ngã đau”. 
Lụa tốt xem biên, người hiền xem tướng: Muốn biết lụa tốt hay xấu, cứ xem ở biên, tức là ở bên mép tấm lụa thì biết. Hễ mép lụa mà săn mịn, đều sợi là lụa tốt. Muốn biết người hiền hay không cứ xem mặt thì biết, vì khôn ngoan dồn ra nét mặt, và nhân hiền tại mạo (người hiền ở nét mặt).
Câu này nói về cách xem lụa và xem người, dạy ta những trí thức thông thường về sự vật, thuộc vào loại những câu: Mua cá thì phải xem mang.
Mua bầu xem cuống mới toan không lầm.
Mua cau chọn lấy buồng sai.
Mua trầu chọn lấy trăm hai lá vàng.
Cá thở bằng mang. Cá còn sống thì mang cá phập phồng, cá còn tươi. Cá mới ngã (chết) thì mang đỏ. Bầu bí cuống nhỏ thì đặc ruột, cuống to thì lắm ruột, mỏng cùi, không tốt. Trầu không lá vàng thì ngon. 
Lửa cháy mà lại đổ dầu thêm: Lửa đang cháy mà đổ thêm dầu, thì lửa lại càng cháy to. Đại ý câu này nói là to chuyện thêm, làm cho câu chuyện lôi thôi, rắc rối, đáng lẽ phải dẹp nó đi.

-Lưỡi mềm độc quá đuôi ong: Lưỡi mềm là lưỡi không cứng rắn như đá, không sắc nhọn như dao, lý ưng không có gì đáng sợ, vì không làm đau đớn, thương tổn được người ta. Ấy vậy mà lưỡi độc quá đuôi ong, tức là độc hơn nọc ong (nọc ong ở đằng đuôi). Đuôi ong châm vào thì thịt đau buốt và sưng vù lên. Lưỡi nói xấu ai thì người ấy mất bạn bè, mất danh giá. Lưỡi vu khống ai thì người ấy bị tù tội, mất cơ nghiệp, có thể mất cả tính mạng.
Câu tục ngữ nêu ảnh hưởng tai hại của miệng lưỡi con người, và ngụ ý khuyên người ta không nên nói vu oan, nói xấu kẻ khác. 
Lươn ngắn chê chạch dài: Lươn với chạch là hai giống cá thân hình coi gần như nhau, nhưng chạch thì ngắn hơn lươn nhiều. Vậy mà lươn lại tự cho là mình ngắn mà chê chạch là dài, trái hẳn với sự thật.
Người ta thường mượn câu này để nói người có lỗi lại chê người khác làm lỗi. Người bụng dạ không tốt lại chê người khác không tốt. Đại ý câu này khuyên người ta nên xét mình trước rồi hãy xét người.

*Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo
Thành ngữ chỉ: Người thiếu trung thực, điêu toa, lật lọng. Còn có câu: Lắt léo như miệng lưỡi. 
Chuyện kể:
Cái lưỡi và cái mồm sinh ra cùng một ngày nên chúng hay đỡ lời cho nhau, nhưng cũng hay đổ lỗi cho nhau mỗi khi bị người quở trách.
Một hôm, một học giả nọ có khách đến chơi. Học giả nọ mới hỏi cái mồm:
- Bạn ta từ xa đến, thiết đãi gì cho phải đạo?
Cái mồm nhanh nhảu đáp:
- Cứ mua món lưỡi lợn về thiết đãi khách là sang trọng nhất.
Trong bữa ăn, khách thấy chỉ rặt một món lưỡi, mới mạnh dạn hỏi chủ. Lúc ấy, cái mồm mới máy cái lưỡi đích danh trả lời. Nó lên tiếng rằng:
- Thưa ông, không có gì ngon lành hơn món lưỡi. Lưỡi là chìa khóa của sự hiểu biết, nhờ có lưỡi mà ông có thể thuyết giáo được điều hay lẽ phải. Lưỡi tô vẽ lên cái đẹp, biến cái không thành có, cái xấu thành tốt. Món lưỡi giúp tình bạn hai ông thêm bền chặt. Lưỡi thật muôn năm. Vậy chẳng có gì hơn cái lưỡi cả.
Chuyện bữa cơm thiết đãi khách hôm ấy rồi cũng qua đi. Người ta chơi bời ăn ở với nhau thế nào rồi cũng có va chạm. Người học giả và người khách nọ một ngày kia có điều xích mích. Chả lẽ để cái xích mích nhỏ nhặt mà sinh ra bất hòa, người khách nọ nghĩ đến việc bạn tiếp mình bằng món lưỡi lợn ngày nào bèn mời người học giả kia đến chơi. Người nhà nọ cũng không quên mua lưỡi lợn để thiết học giả, tỏ tình thân ái. Vào bữa, người nhà mới thổ lộ:
- Hôm nay, tôi lại tiếp ông toàn bằng lưỡi lợn, một thứ ngon nhất trên đời, ông thấy thế nào?
Lúc đó, cái mồm lại máy cái lưỡi, đứng ra liến láu:
- Thưa ông, lưỡi là thứ dở nhất trên đời. Nó là đầu mối của sự chia rẽ. Nó là biểu hiện của sự sai lầm, mọi sự đặt điều vu khống. Cũng do cái lưỡi mà sinh ra bất hòa. Lưỡi thật muôn năm!
Lúc ấy, cả hai người cùng đồng thanh thốt lên: “Đồ lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Thế nào mi cũng nói hay cả.
Rồi hai ông gật gù với nhau: “Nó là cái lưỡi giọng gì mà nó nói chả hay. Thôi, muốn nói xuôi nói ngược thế nào mặc nó, ta cứ nâng cốc, muôn năm!”
Người ta nói uốn ba tấc lưỡi, nhưng chính là cái mồm nói, xem ra như thế thì cái lưỡi bị oan ức. Như dân gian lấy cái lưỡi không xương để chỉ sự lươn lẹo mới hay làm sao. Nó chính là điển hình chi những điều xấu xa, dối trá nói xuôi, nói ngược.
Lưỡi vò độc quá đít ong
Vui lòng tan hợp, dứt theo nghĩa nhân 

*Điển Tích Truyện Kiều - Mạt Cưa Mướp Đắng

Tình cờ chẳng hẹn mà nên
Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường
Chung lưng mở một ngôi hàng
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề 

Hàn sĩ Thúc Thôi được hưởng gia tài cha mẹ để lại. Học hành chẳng ra gì, lại biếng nhác, nên thi mãi vẫn trượt. Chán nản bút nghiên, chàng ta bán hết gia tài, ăn tiêu rồi cũng hết, không có gì để sống. Bà con lối xóm không nỡ để một nho sinh chết đói nên tìm cách mai mối cho nàng Lưu Di, một thiếu phụ trẻ góa chồng, đảm đang. 

Sống chung được thời gian ngắn, Thúc Thôi lại quen thói lười biếng, cả ngày chỉ nghêu ngao, không chịu làm lụng, ăn bám vợ đến hết cả vốn liếng của Lưu Di đã dành dụm được. Lưu Di cắn răng chịu đựng, nhưng đến lúc cùng cực quá, nàng phải thưa với chồng: 

- Lang quân cam chịu cảnh nghèo đói này mãi sao?

- Ta chỉ sống với văn chuơng chữ nghĩa, từ nhỏ đến lớn chỉ biết đọc sách ngâm thợ Nay ta phải biết làm chi cho ra tiền đây?

Lưu Di e dè:

- Văn chương chữ nghĩa không bằng ai thì thôi cũng phải kiếm việc khác làm ăn sinh sống chứ.

Thúc Thôi cười khẩy:

- Hiền thê ơi, đừng quá âu lo. Hôm nay ta là hàn sĩ, ngày mai đỗ đạt, thì tha hồ phú quí vinh hoa. Thôi được, trong lúc đợi bảng vàng đề tên, ta sẽ nghĩ ra một cách gì đó, không cần phải làm lụng cực nhọc, ma vẫn hái ra tiền.

Rồi mấy ngày sau, người ta thấy Thúc Thôi lẩn quẩn đây đó, lúc ra chợ, lúc vào xóm, như một học giả suy tư. Cuối cùng, chàng ta đem về một thúng mạt cưa, khoe vợ: 

- Món hàng này không vốn mà bán được tiền. Mạt cưa này thợ cưa vất đi, ta lấy về đem ra chợ bán, giả làm cám heọ Sẽ có khối người bị lừa.

Lưu Di ngăn cản:

- Sao lại làm việc gian dối như vậy, thật là bất nhân.

Thúc Thôi dạy khôn:

- Miễn sao được tiền thì thôi! Đời mà! khôn sống, dại chết.

Không kể lời khuyên can của vợ, sáng sớm hôm sau, Thúc Thôi bưng thúng mạt cưa ra chợ, rao bán cám. Nhưng cho đến chiều tối vẫn chưa có ai bị lừa. Hôm sau, Thúc Thôi lại bưng thúng cám dỗm ra chợ lần nữa. Đến chạng vạng, thì may thay, có một nàng đội thúng mướp trái xanh mởn đi ngang qua. Cô nàng mời:

- Tôi đang muốn bán thúng mướp tươi này để lấy tiền mua cám heo. Chúng ta thỏa thuận hàng đổi hàng nhé.

Thúc Thôi mưng rỡ, ỌK ngay, phen này trúng mánh, nhẫm tính thúng mướp cũng bán được bộn tiền. Chàng ta hí hửng bưng thúng mươp về khoe vợ Lưu Di bật cười:

- Trời đất! Đây là loại mướp đắng, loại trái mọc hoang trên núi, không ăn được. Ừ mà thôi , như vậy cũng hay, cùng là một phường lừa phỉnh nhau, mướp đắng đổi ấy mạ t cưa, không ai thua ai!

*Lá lành đùm lá rách

Thành ngữ chỉ sự đùm bọc, cưu mang giúp đỡ nhau trong khó khăn, gian nan, hoạn nạn. Còn có câu: Ăn mày thương lấy nhau Lá rách ít đùm lá rách nhiều. 
Chuyện kể: 
Đã lâu lắm rồi, hai chị em cái lá sống với nhau thuận hòa trong vườn. Một hôm, cái bàn tay người mới hái lá để gói bánh. Lá em vì yếu ớt nên bị gió đánh táp rách xơ rách xác, thành thử cứ đổ gạo vào khuôn lá thì gạo lại vãi ra ngoài. Bàn tay giận dữ, quát tháo, định bụng quẳng nó ra vườn cho khô rồi đem đun. Lá chị thấy vậy, bèn nói với bàn tay:
- Người hãy thương tới nó. Vì nó yếu ớt, nghèo khó nên gió làm nó rách nát, chứ nó đâu có tội tình gì. Nay, tôi lành lặn thế này, tôi sẽ giúp nó.
Bàn tay bảo:
- Người định giúp nó như thế nào?
Lá chị mới thưa rằng:
- Người cứ bọc tôi ra ngoài, lót nó vào trong. Như thế, gạo đã không vãi ra mà áo bánh lại dày lên, đem luộc bánh lại chẳng ngon hơn ư!
Bàn tay nghe nói có lý, lại thấy chị em cái lá nó thương yêu nhau, muốn đùm bọc nhau nên mới khéo léo trải lá lành lên, đệm lá rách ở phía trong rồi mới đổ gạo vào. Không thấy gạo lọt ra ngoài, đem luộc bánh lại mềm ngon hơn, bèn nói:
- Đúng là lá lành đùm lá rách có khác.

*Nằm gai nếm mật

Nằm trên gai nhọn, nếm mật đắng để tự đầy ải thân mình nhằm nuôi chí phục thù. Ý nói chịu đựng mọi gian khổ để mưu việc lớn. Còn có câu: Nấm mật nằm gai Ăn sương nằm gió Nằm sương gối đất Gối đất nằm gai Dãi gió dầm mưa cũng hàm chỉ ý trên. 
Chuyện kể:
Chiến tranh giữa nước Việt và nước Ngô kéo dài. Trận đánh cuối cùng ở Cối Kê thật khủng khiếp. Quân nước Việt đại bại; quân nước Ngô xung trận chém giết quân nước Việt dã man. Vua nước Việt là Câu Tiễn phải mở cửa thành xin hàng quân Ngô. Vua nước Ngô là Phù Sai cho bắt vua Câu Tiễn cùng Hoàng hậu và tướng Phạm Lãi mang về đất Ngô theo hầu Câu Tiễn. Ba người tù hàng ngày phải cắt cỏ cho ngựa, quét dọn chuồng ngựa. Phạm Lãi nhiều lúc khóc âm thầm, cho rằng vì mình sức hèn, đức kém nên vua Câu Tiễn và Hoàng hậu mới nhục nhã thế này. Song vua Câu Tiễn nghĩ khác, ông cam chịu mọi khổ nhục để nuôi chí báo thù.
Vua Phù Sai thử lòng vua Câu Tiễn. Một hôm, bắt vua Câu Tiễn nếm phân của mình. Vua Câu Tiễn làm theo mà không chút phân tâm. Vua Ngô cho rằng vua Câu Tiễn đã y phục. Ba năm sau, Ngô Phù Sai trả tự do cho Câu Tiễn. Ba người về nước, chiêu hiền đãi sĩ, mưa tính việc báo thù cho đất nước. Mùa cày ruộng, vua đi cày với dân. Mùa gặt lúa, vua đi gặt với dân. Còn Hoàng hậu thì chăn tằm dệt vải. Câu Tiễn sống thật kham khổ để nuôi chí lớn, lạnh không đắp chăn, nóng vẫn nằm bên bếp lửa. Một lần, Phạm Lãi đến gần chỗ vua thường nằm phát hiện ra, dưới chỗ vua nằm là một lượt gai, phía trên treo lủng lẳng một túi mật, thỉnh thoảng vua lại nhấm một giọt. Thấy lạ, Phạm Lãi bèn hỏi:
- Muôn tâu, sao lại như thế này?
Câu Tiễn thong thả trả lời:
- Tự hành, đó cũng là nuôi chí. Ta làm như vậy là để nhớ những cay đắng, tủi nhục từ trận Cối Kê thảm hại năm xưa. 
Ít lâu sau, nước mạnh, dân giàu, Phạm Lãi giúp mưu kế để vua Câu Tiễn dàn trận đánh nước Ngô. Nước Ngô suy yếu lại rơi vào tay Câu Tiễn (1)
Lịch sử đấu tranh chống xâm lược, bao gương “ngậm thù lớn”, “nuôi chí bền” mà làm nên chiến thắng. “Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối” (Cáo Bình Ngô) cho đến thời đại ngày nay đánh đuổi giặc Pháp, giặc Mỹ vẫn là bài học nuôi chí bền nằm gai nếm mật để chiến thắng kẻ thù. Ngoại trừ phục thù mang tính cá nhân, còn nằm gai nếm mật vẫn là đức tính chịu hy sinh, gian khổ truyền từ đời cha ông. Tuy nhiên, nên hiểu “nằm gai nếm mật” với nghĩa rộng hơn, không chỉ bó khuôn trong nghĩa đen của truyện này.

*Quạ nào mà chẳng đen đầu

Khẳng định đầu con quạ nào cũng đen. Đen ở đây là ý xấu xa. Thành ngữ ví von cùng một giuộc, cùng bản chất xấu xa như nhau cả. Còn có câu: Giống quạ đen đầu. Đen như quạ. 
Chuyện kể:
Xưa, quạ và công là đôi bạn thân. Màu lông của chúng đều xám xịt như rúc ở bùn lên. Một hôm, quạ bảo công:
- Đằng kia có người thợ vẽ, ta ăn trộm một ít về sửa lại bộ cánh cho đẹp.
Rồi hai con rủ nhau ăn trộm được thỏi mực tàu, một gói thuốc xanh và gói kim nhũ.
Quạ đem công ra vẽ. Nó dùng màu xanh tô vào cổ, vào mình cho công. Tô đến đâu rắc kim nhũ đến đấy. Đến cái đuôi, công xòe ra cho quạ vẽ nhưng vì màu xanh đã cạn nên chỉ vẽ được vành tròn rồi rắc nhũ lên. 
Đến lượt công vẽ cho quạ thì bỗng có tiếng lợn kêu eng éc ở đằng xa. Quạ chắc mẩm sẽ được bộ lòng lợn. Càng nghĩ càng thèm, nó không tự chủ được nữa bèn giục công rối rít.
- Thôi chị vẽ cho tôi nhanh lên, kẻo lỡ hết bữa cỗ ngon.
Công vẫn đủng đỉnh:
- Cô cứ từ từ, phải có bộ cánh đẹp thì đi dự tiệc mới ra dáng chứ.
Tiếng lợn kêu càng dồn dập, quạ càng sốt ruột, nó giục:
- Chị công ơi, chị đổ cả màu đen lên mình tôi cho mau đi!
Công chưa kịp nghe ra thì quạ liền nhảy vào chậu thuốc vẽ rồi cứ thế chúi đầu xuống chậu thuốc mực tàu. Công bực quá, cầm chậu thuốc đổ cả lên đầu đó.
Thành thử bây giờ chả con quạ nào không đen đầu (1)
Tham lam, háu ăn và hấp tấp đến như quạ thì chẳng còn coi nghệ thuật là gì. Những người cùng hội cùng thuyền thì giống nhau, vì thế, phải chọn bạn mà chơi, kẻo người đời cho rằng “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, bởi:
“Quạ nào mà đầu chẳng đen
Quạ đâu lại dám mon men với cò” (2)

*Đẽo cày giữa đường
Câu thành ngữ này hàm ý chỉ kẻ hành động ngu ngốc, không có chủ kiến, luôn bị động nên hay thay đổi theo ý kiến người khác, cuối cùng chẳng đạt được kết quả gì. Còn có câu: Đồ ba phải Mười rằm cũng ư, mười tư cũng gật.
Chuyện kể:Một người ngồi trên đường đẽo cày. Có người đi qua, trông thấy khuyên:
- Ồ, cái tay cày to quá, khó cầm. Anh nên đẽo cho nó nhỏ hơn có được không?
Anh thợ đẽo cày nghe theo, đẽo cái tay cày nhỏ đi.
Một lát, một người khác đi qua lại bảo:
- Ồ, cái ách cày to quá, kho vác. Anh nên đẽo nó nhỏ đi chút nữa. Anh thợ cày nghe theo lại đẽo nhỏ đi. Lát sau, một người qua đường nhìn thấy bảo:
- Ồ, cái lưỡi cày to quá, khó bẩy được đất lên.
Anh thợ cày làm theo, đẽo nhỏ đi. Người thứ tư qua đường lại bảo:
- Ồ, cái bàn cày phải nghiêng hẳn về một bên thì lật đất mới dễ.
Anh ta lại làm theo. Cứ thế, người nào góp ý anh cũng đẽo lại, cuối cùng cái cày chỉ còn bằng cái đũa. (1)
Thời nay không ai đi đẽo cày kiểu đó, nhưng cũng còn nhiều người có quyền thì giao việc cho thư ký, trợ lý làm. Đến khi đó thì chủ kiến không còn nữa mà là ý của trợ lý, thư ký. Hơn nữa, có người thiếu tính chủ động, quyết đoán trong công việc nên ai nói cũng gật, cũng cho là phải. Vậy có khác gì đẽo cày giữa đường.

-Mạ nhờ nước, nước nhờ mạ: Mạ nhờ nước nên xanh tốt.
Nước nhờ mạ xanh tốt chở che cho, khỏi bị giãi nắng.
Người ta thường mượn câu này để nói người ta ở đời, người nọ nhờ người kia, người kia lại nhờ người khác, không ai sống một mình được.

-Mạnh về gạo, bạo về tiền: Gạo đây là cơm gạo, người ta mạnh khoẻ là nhờ cơm gạo, không có cơm gạo ăn, thì không ai mạnh được.
Tiền là tiền của, có tiền của thì người ta dám làm những việc to tát, lớn lao, không sợ thua lỗ, tốn kém, thế tức là mạnh bạo.
Đại ý câu này nói kinh tế làm nên sức mạnh.

-Máu chảy đến đâu ruồi bâu đến đấy: Nghĩa bóng câu này muốn nói dòng máu loang đến đâu, là họ hàng bà con mình ra đến đấy.
Nhiều khi dùng theo nghĩa này: họ hàng xa xôi đến đâu, người ta cũng tìm đến nhận nhau, như kiểu con ruồi bâu vào chỗ có máu.

-Máu chảy ruột mềm: Máu chảy tức là dứt thịt chảy máu ra.
Ruột mềm tức là đau đớn. Khi người ta đau đớn, thì hình như ruột mềm nhũn ra.
Câu này nghĩa là thân thể bị thương chảy máu, thì trong ruột cảm thấy đau đớn.
Nghĩa bóng câu này muốn nói: người trong máu mủ, họ hàng bị hoạn nạn, thì mình cũng cảm thấy thương xót.

-Mâm cao đánh ngã bát đầy: Mâm cao là mâm cỗ to chồng chất những thịt cá, nhiều thức ăn.
Ngày xưa, tục các làng hay có cuộc thi làm cỗ to, cỗ làm trên mâm qui vuông, chồng chất đĩa bát đựng thức ăn, được nấu xếp thành năm bẩy tầng, có khi cao mười đến mười hai tầng, mỗi tầng có phên che ngăn. Thành ra năm, bẩy mâm cỗ chất thành một mâm cỗ. Do đó, mâm cao tức mâm cỗ nhiều tầng, tức là mâm cỗ to. Bát đầy là bát cơm đầy.
Câu này nghĩa là: có nhiều thức ăn thì ăn được nhiều cơm. Ý nghĩa cũng gần như câu: “con cá đánh ngã bát cơm”.

-Máu loãng còn hơn nước lã: Họ hàng chung một dòng máu, máu loãng là máu không đặc, ý nói họ xa. Câu này đại ý nói dù người có họ rất xa, hoặc chỉ hơi hướng họ hàng, cũng hơn người đối với mình không có chút máu mủ nào, chỉ nhạt như nước lã. Câu này ý nghĩa gần như câu: “Họ chín đời còn hơn người dưng”.

-Máu mô thâm thịt nấy: Mô là tiếng miền Trung, nghĩa là ở đâu, ở chỗ nào. Máu mô là máu chảy ở đâu. Thâm là không trắng, là đen, là thiếu máu đỏ. Máu mô thâm thịt nấy là máu chảy chỗ nào thì chỗ ấy thịt thâm lại, mất sắc đi. Nghĩa bóng là người họ hàng máu mủ bị hoạn nạn thì mình động lòng thương xót, như thịt thâm lại khi máu ở vết thương chảy ra.
Cũng có thể giảng như thế này: máu mô là máu ở chỗ nào, nghĩa bóng họ hàng máu mủ ở chỗ nào. Thâm thịt nấy là chỗ đó có tình thâm cốt nhục, tả tấm lòng yêu thương xâu xa giữa người ruột thịt, cùng chung một dòng máu.

Một câu nói ngay bằng làm chay cả tháng: Nói ngay tức là nói thật, nói thẳng, không dối trá, cong queo. Làm chay cả tháng là làm đàn chay lâu cả một tháng trời. Theo đạo Phật, đạo Lão, khi trong nhà có người chết, người ta thường sắm sửa đồ lễ, bày đặt bàn trắng, thỉnh các sư đến cúng lễ, cầu trời Phật xá tội cho, để linh hồn người chết khỏi bị sa vào ngục, và người sống trong nhà được khoẻ mạnh sống lâu. Người ta tin rằng càng làm chay lâu, càng nhiều phúc.
Một câu nói ngay bằng làm chay cả tháng nghĩa là: một lời nói ngay thẳng, thật thà có khi gây nên phúc quả, tức kết quả tốt bằng làm dàn chay cả tháng. Một lời nói dối trá, có thể gây nên tội lỗi rất to, cả tháng làm chay cũng không gỡ được. Câu này ngụ ý khuyên người ta ăn nói nên thật thà.
Một chữ thánh, một gánh vàng: Chữ thánh là chữ của ông thánh, đây là chữ của đức thánh Khổng, tổ sư đạo nho. Gánh vànglà quí giá như một gánh vàng. Một chữ thánh, một gánh vàng là một lời của ông thánh, quí giá bằng cả một gánh vàng; hoặc phải tốn kém đến một gánh vàng, mới học được một chữ của ông cũng đáng. Đại ý câu này muốn nói sự học vô cùng quí giá. 
Một con ngựa đau, cả tầu chê cỏ: Một con ngựa bị đau ốm, không ăn được cỏ, thì cả tầu ngựa (cái máng để chứa thóc, cỏ cho cả chuồng ngựa ăn) đều chê cỏ không ăn, ý nói loài vật có tình đồng loại, thấy một con đau thì cả đàn đều thương.

-Một đêm nằm, một năm ở: Nằm đây là nằm trọ, nằm đỗ, ngủ đỗ dọc đường.
Ngày xưa, trật tự an ninh trong nước chưa được duy trì chặt chẽ cho lắm, ngủ đỗ dọc đường thường hay gặp nhiều nỗi nguy hiểm. Người ngủ đỗ thường nơm nớp lo sợ suốt đêm, chỉ mong cho trời sáng để thoát nạn. Cho nên người ta thấy một đêm nằm trọ dài bằng cả một năm ở nhà (Ở tức là ở nhà). 

-Một đồng không thông đi chợ: Ngày xưa, đường giao thông chưa mở mang tiện lợi như bây giờ. Chợ búa có ít mà phần nhiều là ở xa. Nếu không có việc cần thì ít khi người ta đi chợ, sợ mất ngày mất buổi, mất công mất việc và khó nhọc vào mình. Cần mua thứ gì, người ta thường gửi bà con hàng xóm mua giúp. Nhất là ít tiền thì người ta lại càng không muốn đi chợ. Bởi vậy có câu: một đồng không thông đi chợ, nghĩa là có một đồng tiền thì đi chợ không thông. Không thông là không suốt, không đủ. Có một đồng tiền đi chợ thì chỉ uống nước dọc đường cũng không đủ rồi. Người ta thường mượn câu này để nói việc nhỏ nhặt quá, không bõ đem ra chỗ trái phải.

-Một giọt máu đào hơn ao nước lã: Người có họ với nhau là người chung máu mủ, chung một giòng máu, chung một huyết thống tổ tiên để lại. Một giọt máu đào nghĩa là chỉ chung nhau có một giọt máu thôi, có hơi hướng họ hàng với nhau, cũng còn hơn cả ao nước lã, tức là người dưng, không có họ. Câu này đề cao tinh thần gia tộc.

-Một kho vàng không bằng một nang chữ: Một nang chữ là một túi chữ, đây là một bụng chữ, tức là sự học chứa chất trong lòng, trong óc người hay chữ.
Một kho vàng không bằng một nang chữ, vì rằng: kho vàng có thể bị cướp, trộm, đốt phá, hủy hoại, thất lạc mất, hoặc tiêu xài mãi có ngày hết đi. Còn sự học hành chứa chất trong bụng, thì không ai trộm cướp, hủy hoại được, không thể bị thất lạc và dùng mãi không bao giờ hết. Càng dùng túi chữ, càng được trau dồi thêm. Đại ý câu này muốn nói học vấn quí hơn của cải.

-Một lời nói, một gói tội: Một gói tội tức là nhiều tội lỗi, như có thể gói thành một gói. Một lời nói, một gói tội nghĩa là một lời nói ra, có thể gây nên nhiều tội lỗi. Thí dụ: Lời nói gièm pha, khiến người ta bỏ vợ bỏ chồng. Lời nói vu khống, khiến người ta tù tội mất nghiệp. Lời nói xấu, khiến người ta mất danh giá. Lời nói dối, khiến người ta bị thua lừa mắc lập v.v…
Lời nói ảnh hưởng rất to, có lời nói giữ được nước, có lời nói làm mất nước (nhất ngôn hưng bang, nhất ngôn táng bang). Có lời nói đáng quan tiền, thúng thóc. Có lời nói đáng dùi đục cẳng tay. Có lời nói gây nên phúc đức, có lời nói gây nên tội lỗi. Câu tục ngữ khuyên ta nên thận trọng lời ăn tiếng nói. 

-Một người hay lo, bằng kho người hay làm: Lo đây là lo liệu, tính toán, sắp đặt công việc đâu vào đấy, tức là có tổ chức.
Làm đây là thực hiện những điều đã tổ chức, sắp đặt. Một người hay lo bằng kho người hay làm nghĩa là một người có tài tổ chức công việc, đáng quí bằng cả một kho (tức đông lắm) người, chỉ biết nai lưng ra làm. Câu này đề cao giá trị và địa vị người chỉ đạo, đồng thời vạch rõ điều quan trọng của sự tổ chức việc làm. Cũng là để đề cao giá trị lao động trí óc và hạ thấp giá trị lao động chân tay. 

-Một miếng giữa làng, bằng sàng xó bếp: Một miếng giữa làng là một miếng thịt ăn ở giữa đình làng. Sàng xó bếp là cả sàng thịt ăn ở xó bếp. Câu này nghĩa là ăn một miếng ở đình trung, bằng ăn cả một mâm cỗ ở xó bếp.
Nước ta xưa rất trọng việc hương ẩm (ăn uống ở đình làng), phải là người có danh vọng, có chức vị mới được ngồi ăn ở đình trung, nên người ta mới cho là một miếng giữa làng có giá trị bằng cả một mâm cỗ ở xó nhà. 

-Một miệng kín, chín miệng hở: Một miệng là một người nói, hoặc nói với một người. Chín miệng là nhiều người nói, hoặc là nói với nhiều người. Câu này nghĩa là nói với một người, thì câu chuyện giữ kín được, đã nói với nhiều người thì câu chuyện sẽ hở, không giữ kín được nữa. Đại ý câu này khuyên người ta nếu muốn giữ kín chuyện gì, thì không nên nói cho nhiều người biết. Một đây trỏ (chỉ) số ít, chín đây trỏ số nhiều (chứ không nhất thiết phải là chín).
Ý nghĩa câu này cũng na ná ý nghĩa câu: một kín hai hở. Cũng có nơi nói: một người thì kín, chín người thì hở, ý nghĩa cũng thế. 

-Một quan mua người, mười quan mua nết: Người tức là cả thân thể lẫn sắc đẹp, mua có một quan tiền. Còn cái nết tốt, cái đức hạnh thì phải mua những mười quan tiền, ý nói đức hạnh quý giá hơn sắc đẹp, người quý về sắc đẹp thì ít, mà quí về đức hạnh, nết na thì nhiều.

-Một sự nhịn là chín sự lành: Nhịn được một việc thì chín việc khác được yên lành. Nếu không nhịn được một việc, thì việc đó sẽ sinh ra nhiều việc lôi thôi. Chín sự lành là nhiều sự lành, chứ không nhất thiết phải là chín sự.
Đại ý câu này khuyên người ta nên nhịn nhục để khỏi sinh chuyện lôi thôi. 

-Mũ ni che tai: Xưa các cụ già bẩy mươi tuổi trở nên, được nhà Vua ban cho một thứ mũ bằng vóc nhiễu hay lụa thêu rất đẹp, hai bên có mảnh vải tua xuống che lấp hai tai. Kiểu mũ ấy tục gọi là mũ ni (có lẽ giống mũ của sư ni, bà sư hay đội), nên gọi thế.
Người ta thường dùng câu mũ ni che tai để nói rằng: không nghe chuyện đời, không chú ý đến việc đời nữa. 

-Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng: Danh tiếng ở đời thì phải mua đắt tới ba vạn đồng mới mua được. Còn như bán danh tiếng đi thì rẻ lắm, chỉ bán được có ba đồng thôi.
Câu này ý nói muốn được danh thơm tiếng tốt thì khó, muốn mất danh tiếng thì chẳng khó gì. Muốn trở nên người tốt thì khó, muốn thành người xấu thì dễ. 
-Mua trâu bán chả: Khi mua thì phải bỏ món tiền to mua cả con trâu. Khi bán thì bán từng miếng chả, ý nói bỏ vốn ra buôn bán thì to, mà thu vốn về thì thu dần từng đồng.
Câu này đại ý nói bán hàng lẻ phải lâu mới thu được đủ vốn. 
Mùa hè đóng bè làm phúc: Mùa hè khí trời nóng bức, các bệnh hay sinh ra, làm người ta ốm đau và chết được.
Nhất là thời xưa, chưa tổ chức việc tiêm thuốc để phòng bệnh dịch tễ, mùa hè phần nhiều có bệnh dịch, làm lắm người chết oan. Người thời xưa thấy người chết thì cho là tại số mệnh hoặc do ít phúc đức, chớ không cho là tại không có thuốc chữa, hoặc không biết phòng bệnh từ trước. Bởi thế, người ta khuyên nhau mùa hè nên làm phúc cho nhiều để khỏi chết. Đóng bè làm phúc là đóng sẵn bè để cứu người chết đuối. Ý nói cần phải làm nhiều việc phúc. 

-Múa rìu qua mắt thợ: Rìu là công cụ của thợ mộc, lưỡi bằng sắt, cán bằng gỗ, đầu bằng gỗ thò lên phía trên, dùng để “dã” gỗ (tức là đẽo vỏ và đẽo rác gỗ). Dùng được rìu phải là người thợ giỏi, vì dùng rìu rất khó, dùng vụng có khi đẽo cả vào bàn chân mình. Thợ đây là thợ mộc chuyên môn. Múa rìu qua mắt thợ nghĩa là mình không là thợ chuyên môn, mà lại dùng rìu (múa đây tức là giơ lên đẽo gỗ) trước mắt thợ chuyên môn, ý nói khoe tài trước người tài hơn mình, làm một việc liều lĩnh, táo bạo và ngốc dại.
Câu này ý nghĩa cũng na ná câu: “Đánh trống qua cửa nhà sấm”.

Muốn ăn lúa tháng năm, xem trăng rằm tháng tám: Các cụ ta xưa thường nghiệm trăng rằm tháng tám, để biết sang năm nhiều mưa hay đại hạn, mà liệu chiều thời tiết làm mùa tháng năm. Cho nên nói: muốn vụ tháng năm năm sau được mùa, thì phải xem trăng rằm tháng tám năm nay để biết chiều trời mà làm ruộng cho thích hợp. Đại khái trăng trong thì được mùa chiêm, trăng đục, đỏ, quầng thì chiêm mất mùa

-Mưa dầm thành lụt: Mưa dầm là mưa nhỏ lâm tâm, nhưng mưa sườn sượt dai dẳng, có khi hằng năm bẩy ngày. Mưa tuy không đổ nhiều nước một lúc, nhưng mưa lâu như vậy, tích ít thành nhiều, có khi nước mưa làm thành nước lụt.
Câu này đại ý nói việc nhỏ làm mãi cũng có ngày kết quả to, và ăn tiêu hoang phí nay một ít, mai một ít có ngày mất nghiệp. 
Mưa lúc nào, mát mặt lúc ấy: Lúc nào mưa thì lúc ấy mát mặt, vì nước mưa tạt vào mặt. Lúc trời không mưa, thì mặt đành chịu nóng, chớ không tìm cách lấy nước rửa cho mát mặt. Câu này ngụ chê người không biết liệu trước lo xa, gặp sao hay vậy. Cũng có người may gặp trận mưa thì mát mặt, rủi không gặp mưa thì thôi. May thì thành công, chả may thì thất bại, mọi việc phó cho rủi may

-Mừng như mở cờ trong bụng: Trong những ngày hội hè, đình đám vui vẻ nhộn nhịp, thì người ta mới mở cờ cắm ở cửa đình chùa. Thành ra sự mở cờ tượng trưng và biểu lộ sự vui vẻ. Mừng như mở cờ trong bụng là mừng vui quá, trong bụng như có hội hè đình đám.

-Mừng như thấy mẹ về chợ: Trẻ con tính thích quà bánh. Nên mỗi khi đi chợ, mẹ thường phải mua quà bánh về cho con. Việc đó đã như thành lệ, nên mẹ đi chợ là trẻ rất mong mỏi mẹ về để được ăn quà, bánh. Đã có câu: “mong như mong mẹ về chợ…”.

-Mười đời chưa rời cánh tay: Mười đời là họ mười đời, tứclà họ đã xa. Chưa rời cánh tay là chưa rời ra khỏi thân thể. Câu này nghĩa là họ nội dù xa đến mấy cũng vẫn là trong một họ, chớ không ra họ ngoài được. Đại ý câu này muốn khuyên người ta nên quí trọng người trong họ hàng, dù rằng họ xa đến mười đời cũng vậy. Ý nghĩa cũng gần như ý những câu: “Họ chín đời còn hơn người dưng”, “Một giọt máu đào hơn ao nước lã” , hay “máu loãng hơn nước lã”.

-Mưu thâm họa việc thâm: Mưu sâu thì vạ cũng sâu. Ý nói người ta bày mưu mẹo hại người càng sâu độc bao nhiêu, thì kết cục phải chịu tai vạ sâu độc bấy nhiêu. Câu này nêu luật nhân quả của đạo Phật (gieo cái nhân nào thì gặt cái quả ấy, làm lành thì gặp lành, làm ác thì gặp ác). Ngụ ý câu này khuyên người đời không nên dùng mưu kế để làm hại người khác. Vì câu này mà có câu: tham thì thâm. Bụt đã bảo thầm rằng chớ có tham. Bụt đã kín đáo hay gián tiếp (bảo thầm), dậy ta rằng hễ tham lam hại người, thì chính mình sẽ phải chịu tai họa sâu thâm về việc tham lam ấy. Vậy ta chớ có tham lam.

*Qua cầu rút ván

Câu thành ngữ có ý ám chỉ những người vô ơn, bội nghĩa.

 
Chuyện kể:


Ngày xưa, có hai người học trò một tên là Lưu Cải, một tên là Lễ Châu. Họ cùng nhau đèn sách mấy năm liền nên tình cảm như anh em ruột thịt.

Sắp đến kỳ thi, Lễ Châu bị ốm.Tưởng bệnh tình khó qua khỏi, Lễ Châu bèn nói với Lưu Cải:
- Tôi nay chắc không sống được. Ngôi nhà và mảnh vườn này của cha mẹ tôi để lại, anh hãy bán nó đi, một phần lấy tiền đi thi, bõ công đèn sách mấy năm qua, một phần để làm ma cho tôi. Anh đỗ đạt kỳ này là tôi mãn nguyện lắm rồi.
Lưu Cải thương bạn khóc nức nở. Theo lời bạn, Lưu Cải bán mảnh vườn lấy tiền vừa để lo thuốc thang cho bạn, vừa thêm vào việc lều chõng của mình. Rồi kỳ thi năm ấy, nhờ có tiền đi thi nên Lưu Cải đã đỗ, rồi được bổ làm quan. Thời gian trôi đi, nhờ thuốc thang chữa trị, lại thấy bạn mình thi đỗ thì thấy làm vui nên bệnh của Lễ Châu lui dần, rồi một ngày kia bệnh tình khỏi hẳn.

Nhớ đến bạn năm nào cùng chung đèn sách, Lễ Châu nghĩ đến tình xưa, nghĩa cũ đặng tìm đến bạn cũ nhờ đỡ đần để có dịp chờ ngày thi tiếp. Từ ngày làm quan, Lưu Cải tính tình thay đổi, lạnh nhạt với bạn cũ. Sợ bạn mình nhờ vả, liên lụy nên Lưu Cải tìm cách trốn tránh, rồi sinh lòng hại bạn. Nhưng Lễ Châu không hề biết bụng dạ của bạn đã thay đổi nên chẳng chút nghi ngờ. Một ngày kia, trời đã tối, tìm gặp được Lưu Cải, Lễ Châu theo bạn vào nhà. Thời ấy, người ta đào hào xung quanh nhà để chống trộm. Muốn vào nhà phải qua một chiếc cầu, dưới đó là hào sâu có cắm chông và rắn rết. Lưu Cải đi trước, lợi dụng lúc tối trời, vừa bước sang bên này ván cầu, anh ta bèn rắp tâm rút cái ván để cho Lễ Châu lăn xuống hào mà chết. Nghe tiếng rút ván Lễ Châu hiểu ngay sự tình nên đã kịp dừng chân. Tưởng bạn đã rơi xuống hào sâu chết rồi, Lưu Cải mới lỉnh vào vườn trong.

Lễ Châu trở về nhà, buồn rầu vì tình bạn tráo trở. Lưu Cải làm quan được mấy năm thì bỗng nhiên một hôm bị sét đánh chết. Hôm đưa ma bạn về, Lễ Châu mới kể chuyện cũ cho thầy dạy mình nghe. Thày dạy mới bảo:
- Đó là kẻ “qua cầu rút ván”, người như thế khó qua khỏi được trời quở trách. Chết bất đắc kỷ tử là phải lắm rồi. 

Trước thì được người giúp đỡ, khi thành công, thành danh rồi thì lại bội ơn, khinh bạc người, rồi tìm cách hại người, những kẻ như thế, xưa nay, đời nào cũng có. Nên dân gian mới có câu:

Khi chưa, tình nghĩa trăm đàng
Được thì rút ván, phũ phàng làm ngơ.

*Mài Dao Dạy Vợ

Ngày xưa có một người nhà quê lấy phải vợ độc ác. Người vợ này đối xử với mẹ chồng rất là hỗn láo vô lễ. Người chồng khuyên hoài không được, bèn nghĩ ra một kế.
Anh ta sắm một con dao bầu thật sắt. Mỗi ngày lấy ra màị Người vợ lấy làm lạ hỏi, nhưng anh ta không đáp. Người vợ tò mò hỏi hoài, cuối cùng anh ta trả lời: "Tôi mài dao để có dịp giết mẹ đi thôị Mẹ đã già, sống mà ngày nào cũng cãi cọ với mình vậy thì thà chết đi cho rồị".

Người vợ thấy thế hoảng hốt, rồi ăn năn: "Xin mình đừng giết mẹ, từ nay tôi hứa sẽ không có điều chi to tiếng trong nhà nữa".

Từ đó trong nhà thuận hòa vui vẻ.

"Mài dao dạy vợ" ý nói sự khôn ngoan của người chồng để khuyên bảo vợ mình làm điều phải 

*Nhanh như cắt

Cắt: Loài chim dữ, cánh có lông cứng và nhọn, bay nhanh, hay đánh loài chim khác. Còn có câu: Nhanh như bay Nhanh như điện Nhanh như sói Nhanh như tên bắn. 
Chuyện kể: 
Xưa, một con diều và một con chim cắt kết bạn với nhau, rủ nhau đi kiếm ăn. Lúc đầu, hai con kiếm được nhiều mồi lắm. Vì diều thì mắt sắc, trông đâu cũng rõ, mà cắt thì nhanh lẹ, sà xuống cái là phỗng được ngay.
Bởi vậy, các loài gà thấy bóng hai con đâu là lánh trước, thành ra hai con sau này khó kiếm được mồi. Cùng đi với nhau, thấy không có lợi, mới tự bàn chia nhau mỗi con một đường.
Diều đi một lúc, thấy đám gà con, sà xuống bắt ngay được một chú, lấy làm sướng lắm tha về, đợi xem cắt bắt được con gì nữa thì rồi cùng ăn chung cho vui.
Ngờ đâu, cắt chẳng đi bắt mồi, lại lộn về không. Cắt trông thấy diều đứng chờ, lại có con gà con ở bên, bèn thoáng một cái lẻn đến cắp ngay gà mà bay đi. Diều đuổi theo. Hai con đánh nhau dữ dội. Diều tuy to và bạo, nhưng không lại được với cắt, dù nhỏ nhưng nhanh. Diều đành chịu mất gà. Từ đó, diều không làm bạn với cắt nữa.
Giận cắt lắm, muốn trả thù nên diều đi làm bạn với quạ. Hai con hợp sức nhau lại đánh cắt. Diều nói:
- Không đánh nó, có miếng mồi nào nó cướp hết. Chả lẽ diều, quạ chúng ta to khỏe thế này lại thua con cắt bé xíu.
Quạ đồng ý, nói:
- Chả nhẽ khôn như quạ ta đây mà lại chịu thua con cắt nhãi ranh.
Thế rồi, một hôm hai con bắt gặp con cắt đang lượn lờ trên không trung mới hò nhau đánh cắt. Cắt thấy quạ và diều đến bèn như mũi tên lao vút từ trên xuống. Quạ và diều đuổi theo. Cắt lại nghiêng cánh lao ngay, rồi bất thình lình mổ một cái đau điếng vào đầu diều. Xong đâu đấy nó giả chết nằm ngửa giữa không trung. Quạ và diều sà xuống, nó liền đạp vào bụng diều và quạ. Nó cứ thế đánh móc vào lườn, vào đầu làm cho quạ và diều bơ phờ, lông bay tứ tung.
Quạ chịu thua, mệt quá, mới đậu vào cành cao mà kêu diều rằng:
- Nó nhỏ nhưng nhanh lắm. Chúng ta không thể làm gì nó được.
Lúc đó có ngọn gió vừa tới bảo với quạ và diều rằng:
- Ồ chúng bay chẳng hay, người ta chả có câu “nhanh như cắt” là gì. Nó còn nhanh hơn cả gió tao đây.
Nhanh để mổ, cướp giật của thiên hạ thì thật là đáng trách. Cái thói chảo chớp nửa công khai, nửa lén lút thường người đời phán cho kẻ ăn cướp, ăn trộm đó chẳng khác gì giống cắt ở truyện trên. Còn như nhanh nhẹn hoạt bát trong công việc để chớp lấy thời cơ, làm có hiệu quả thì lại là điều đáng khen lắm thay.

*Ngang như cua

Do cấu trúc cơ thể, nên cua bò ngang chứ không tiến thẳng như con vật khác. Còn có câu: Ngang như cành bứa. Nghĩa bóng: Rất ngang bướng, nói năng, cư xử khác lẽ thường, khăng khăng không chịu nghe theo người khác. 
Chuyện kể:
Ngày xưa, có một cô gái xinh đẹp sống với dì ghẻ. Cô gái nết na, làm đủ mọi việc trong nhà, suốt ngày vất vả. Mụ dì ghẻ có một cô con gái vừa xấu người, vừa xấu nết. Nó đỏng đảnh hết chỗ nói. Lúc nào nó cũng vênh váo, kiêu kỳ, không nghe bất kỳ lời khuyên nào nên chẳng làm được một việc gì. Mẹ nó bảo nó đi lấy tấm cho gà ăn thì nó làm ngược lại, đổ ngô tứ tung ra sân, còn liến thoắng cho rằng: “Gà cồ thì ăn ngô hạt”. Bảo nó đi giặt quần áo thì nó bảo, nó là “cành vàng lá ngọc”, không phải mó tay giặt giũ... Vì vậy, bao nhiêu việc đều đổ lên đầu cô gái con chồng.
Hai cô gái đến tuổi gả chồng. Nhưng bao nhiêu chàng trai đến dạm ngõ đều muốn hỏi cô gái mồ côi, làm cho mụ dì ghẻ tức giận.
Một hôm, thấy cô mồ côi mặc cái váy hoa, mụ dì ghẻ sôi máu, xấn xổ vào cô gái đáng thương:
- Con ranh kia, mày ăn cắp hay gã đàn ông nào cho mày chiếc váy? Đồ lười chảy thây.
Nói rồi mụ dì ghẻ ra đòn, đánh mắng cô gái thậm tệ. Cô gái bị đòn đau mới thưa rằng:
- Mẹ ơi, con chẳng ăn cắp mà cũng chẳng có người đàn ông nào cho con cả. Chiếc váy này của một bà cho con đấy chứ...
- Làm gì có bà già nào tốt bụng thế!
Mụ nghiến răng ken két, bắt cô bé mồ côi khai ra bằng hết.
Cô bé mới kể: Hôm ấy, cô ra sông giặt quần áo, bỗng có bà cụ rách rưới bẩn thỉu đứng bên cạnh cô, xin nước uống. Nước sông đục ngầu nên cô lấy ống nước đem theo cho bà cụ uống. Bà cụ uống xong, liền cho cô gái cái bọc nhỏ, bảo là thưởng cho lòng tốt của cô. Mở ra, cô thấy chiếc váy đẹp. Quay lại không thấy bà già đâu nữa.
Mụ dì ghẻ nghe kể mới nghĩ ngay đến bà tiên. Liền đó, sáng hôm sau mới xui con gái mình ra sông giặt giũ, mong may mắn được gặp tiên. Cứ thế vài lần, một hôm, cô gái đỏng đảnh này bỗng thấy một bà cụ tiều tụy xuất hiện. Bà cụ tới gần bảo:
- Vạt váy của tôi lấm bùn. Cô làm ơn lấy nước gột giúp tôi với.
Cô gái cong môi đáp: 
- Cái bà già bẩn thỉu này, hãy đi ra khỏi chỗ này. Thật là ghê tởm, ghê tởm.
Bà già nói:
- Thật đúng là một đứa con gái hư. Con bé này không giống con bé kia.
Nó mới sực nghĩ ra:
- Sao bà biết chị tôi à?
Nó mới định mở miệng xin lỗi thì bà cụ liền bảo:
- Một con người độc ác mà lại ngang ngạnh thì không trở thành cô gái xinh đẹp được. Bà cụ nói xong biến mất. Liền sau đó, cô gái đỏng đảnh cũng biến mất.
Chỗ cô ta vừa đứng xuất hiện một con vật nho nhỏ, mình cõng một tảng đá, chân cẳng tua tủa. Nó chính là con cua do bà tiên trừng phạt cô gái xấu bụng mà biến thành. Cô gái lúc là người thì nganh ngạnh, chẳng nghe lời ai nên khi nó biến thành con cua, nó phải bò ngang, chứ chẳng được đi thẳng. Con cua bò ngang, nên sau này người đời thấy kẻ nào ngang bướng là lại ví ngang như cua là vậy.
Từ chuyện con cua có cấu trúc như vậy nên chỉ bò ngang, khác với giống vật khác, nên dân gian khéo vận vào cuộc sống để chỉ những người ngang ngạnh “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Đó cũng là một tính xấu của con người không biết nghe lời hay, lẽ phải cứ làm theo ý mình. Cũng có thể từ đặc tính của con cua mà có chuyện trên để nói về sự tích con cua.

-Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn: Bầy là đàn là lũ. Ngựa chạy có bầy thì mới thi nhau chạy khoẻ. Chim cũng vậy, cóbay với bầy bạn thì mới đua nhau bay cao. Câu này lấy vật ra làm thí dụ, ngụ ý khuyên người đời: làm việc gì cũng cần có bầy có bạn thì mới nô nức thi đua mà làm.

-Ngựa con sáo đá: Nói thế là nói sai. Phải nói thế này mới đúng: “Ngựa con háu đá” nghĩa là con ngựa còn bé thì loăng quăng, nghịch ngợm, háu đá, gặp đâu đá đấy, cứ đá bừa đi. Câu này thường dùng để nói người trẻ tuổi, lấc cấc, ăn nói không chín chắn, giữ gìn, bạ đâu nói đấy, khiến người ta mếch lòng, cũng giống như con ngựa con háu đá vậy.

-Ngựa Hồ gió bấc: Ngày xưa, dân tộc tiểu số Hồ ở phía Bắc nước Tàu, phải đem ngựa tốt tiến cống vua Tàu. Mỗi khi nghe gió bấc thổi, giống ngựa Hồ lại hí lên những tiếng rất là thê thảm. Người ta cho là ngựa tỏ ý nhớ quê hương. Vì gió bấc thổi từ phương Bắc xuống. Mà phương Bắc có nước Hồ.
Câu: “Ngựa Hồ gió bấc” và câu “chim Việt cành Nam”, thường được nêu ra, để nói bóng rằng người ta ai cũng có lòng yêu quê hương xứ sở (vật còn có lòng luyến tiếc quê hương nữa là loài người). 
(Người) có chí (ắt) phải nên, (nhà) có nền (ắt) phải vững: Chí tức là ý chí, cái quyết tâm làm kỳ được một việc gì.
Nên tức là thành sự, là nên việc, là thành công, là thu được kết quả theo ý muốn. (Cụ Nguyễn Trãi có câu: Hễ làm người có chí thì nên. Tục ngữ có câu: Tay trắng làm nên, ăn nên nói nổi. Nên trong các câu đó đều nghĩa như trên, nên ở đây là thành công, nên việc). Nền tức là khoảng đất đắp cao để làm nhà cửa lên chốc. Nhà không có nền, là làm nhà ngay trên mặt đất, mặt đất không được đắp cao lên thành nền nhà. Làm nhà không có nền thì không vững, vì mặt đất tự nhiên thường thấp ngang với mặt đường, mặt vườn, mặt ruộng. Những khi trời mưa to tất nước chảy qua nhà hoặc đọng lại trong nhà, nhà bị ẩm ướt, như vậy không mấy chốc nhà đổ xập. Nền ở đây hàm ý là nền móng khi đắp nền nhà, người ta thường vẽ móng nhà và nền móng, nhà kỹ hơn là nền nhà. Móng là chỗ xây tường lên trên, phải nện kỹ, vì sợ đất lún, tường sẽ xiêu đổ. Ắt dịch nghĩa chữ tất của Tàu, nghĩa là tất nhiên, nhất định. 

-Người sống đống vàng: Người ốm cốt sao thuốc thang chữa chạy cho sống được là may, dù tốn kém bao nhiêu tiền của cũng không nên tiếc. Người còn là của còn, người chết là của hết, vì người làm nên của. Hễ người sống được là tự nhiên rồi sẽ có cả một đống vàng. 
Câu này đại ý đề cao giá trị và sức làm việc của con người.

Nhà ngói cây mít: Người ta thường hiểu lầm nhà ngói làm bằng gỗ mít, hoặc nhà ngói có trồng cây mít.
Thật ra không phải thế. Nhà ngói cây mít tuy nói liền nhau, song hai phần riêng biệt. Nhà ngói là khi làm nhà thì làm nhà ngói hoặc có nhà ngói thì nên làm, vì ngói bền lâu, chắc chắn, làm một lần thì trong bao nhiêu năm mới phải chữa. Cây mít là khi trồng cây thì trồng cây mít, vì mít trồng một lần thì được ăn quả mãi, trăm năm cây vẫn chưa còi. Nhà ngói cây mít thường dùng để trỏ (chỉ) chung cái cơ sở vững chắc của nhà giầu ở nhà quê (phú quê).

-Nhà trò giữ dịp (nhịp): Nhà trò tức là ả đào (tiếng cổ). Dịp tức là dịp phách. Trong cuộc hát ả đào, thì đàn của kép (người đàn ông) và phách của đào (cô đào) phải ăn nhịp với nhau. Lỡ khi hát mau quá, đánh phách mau quá, thì đào phải ngừng bớt dịp phách lại, cầm chừng để đợi dịp đàn, thế gọi là giữ dịp. Người ta thường mượn câu này để nói sự buôn bán cầm chừng chờ đợi cơ hội, không dám phát triển vội, sợ lỡ dịp bị thua lỗ. 

-Nhân hiền tại mạo: Nhân là người. Mạo là dung mạo, tức nét mặt.
Nhân hiền tại mạo là người hiền hậu, tử tế thì hiện ra nét mặt. Tinh thần người ta lộ ra nét mặt, muốn biết người hiền hay ác cứ nhìn nét mặt là đủ. Người tướng mạo gian ác, dù dùng lời nói khéo, dáng điệu nhũn nhặn, cũng không thể che mắt thiên hạ được. Tuy nhiên, ta cũng chớ nên quá tin ở tướng mạo bên ngoài. Thường thường thì: “khôn ngoan dồn ra nét mặt, con lợn có béo thì lòng mới ngon”. Nhưng cũng có người ngoài mặt coi hiền lành tử tế, mà trong lòng thì độc địa thâm trầm, cho nên có câu “Mặt sứa gan lim” và câu “tướng diện bất như tướng tâm”, nghĩa là xem tướng mặt không bằng xem bụng dạ. 

-Nhân vô thập toàn: Người không ai hoàn toàn cả mười phần, ý nói người ta ai cũng có nết tốt nết xấu cả, ai cũng có ưu điểm và nhược điểm.
Ta không nên dựa vào câu này để tự tha thứ cho những lỗi lầm, những khuyết điểm mình còn mắc. Trái lại, nên công nhận câu này là đúng, để tự nhận rằng dù thông minh, tài trí đến bực nào ta cũng chưa thể hoàn toàn được, ta vẫn cần phải sửa chữa những lỗi lầm, những khuyết điểm của ta, ta vẫn cần nghe những lời phê bình hay răn bảo của người khác. Cổ nhân nêu câu này là nhằm mục đích sửa chữa cho người ta đến chỗ hoàn toàn, chớ không cốt để cho người ta một ngày một xấu thêm, một ngày một thêm khuyết điểm. 

-Nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc: Nhập gia tùy tục là vào nhà người ta, thì theo lề thói nhà người ta (vì mỗi nhà có một lề thói khác nhau).
Đáo giang tùy khúc là tới sông nào, thì theo khúc của con sông ấy (vì mỗi con sông có những khúc cong queo khác nhau). Câu này khuyên người ta uốn mình cho thích ứng (hợp) với hoàn cảnh từng nơi, ý nghĩa cũng tương tự ý nghĩa câu: “đi nước Lào, ăn mắm ngoé”.

-Nhất con nhì cháu, thứ sáu người dưng: Người dưng là người ngoài, người không có bà con họ hàng với mình. Nhất con nhì cháu là quí nhất là con mình đẻ ra, quí thứ nhì đến cháu mình. Thứ sáu người dưng là người dưng có được quí trọng, thì cũng quí trọng vào hàng thứ sáu, nghĩa là còn kém con cháu rất xa.

-Nhất thế tụng, tam thế thù: Nhất thế là một đời, người Tàu xưa định thời gian một thế là 30 năm. Tụng là kiện tụng. Tam thế thù là thù nhau ba đời.
Nhất thế tụng, tam thế thù nghĩa là một đời kiện nhau (tất có bên thua, bên được kiện), thì thù oán nhau đến ba đời. Câu này khuyên người ta không nên kiện tụng, để tránh mối oán thù truyền kiếp. 

-Nhất tội, nhì nợ: Có tội thì van lạy, nói khó nói khăn thế nào cũng vẫn phải đền tội. Có nợ thì van lạy, nói khó nói khăn cũng vẫn phải trả nợ.
Cho nên người ta cho ở đời khổ nhất là bị tội, rồi đến mắc nợ. Câu này ngụ ý than phiền về nỗi khổ sở của người vay nợ. Đồng thời có ý khuyên người ta không nên làm điều bậy bạ để khỏi mắc tội, không nên ăn tiêu phung phí để khỏi mang nợ. 

-Nhờ gió bẻ măng: Ngày xưa ở thôn quê ta, để bảo vệ lũy tre, người ta thường khoán lệ cấm bẻ măng, ai phạm vào khoáng lệ của làng sẽ bị bắt vạ (tức là bắt phạt). Vì vậy nên người manh tâm thường hay nhờ cơn gió bão để bẻ trộm măng. Bẻ trộm măng vào những khi gió bão, thì chắc chắn sẽ tránh khỏi vạ, người ta có thể cho là gió bão đã làm gẫy măng, chớ không cho là có kẻ bẻ trộm.
Người ta thường dùng câu này để nói người lợi dụng cơ hội hay tình thế để mưu lợi ích riêng. 

-Như mèo thấy mỡ: Mèo xưa nay hay ăn mỡ. Mèo thấy mỡ thì thèm thuồng tìm đủ mọi cách để ăn được mới nghe.
Như mèo thấy mỡ tỏ ra thèm thuồng quá, chỉ lăm le chực vồ lấy.

-Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng: Chịu ơn ai một chút cũng chớ nên quên ơn. Phiền lụy nhờ vả ai một chút cũng phải nhớ để cạnh lòng.
Đại ý câu này khuyên người ta nên nhớ công ơn những người đã giúp đỡ mình, bất cứ là việc to nhỏ. 
Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài: Ở trong quả bầu thì phải uốn mình theo hình tròn, ở trong cái ống thì phải theo chiều dài. Ý nói ở hoàn cảnh nào, phải cư xử theo hoàn cảnh ấy.

-Ở chọn nơi, chơi chọn bạn: Ở nên chọn nơi mà ở. Vì có chỗ ở tiện lợi cho việc buôn bán làm ăn, có chỗ ở gần láng giềng tốt. Có chỗ ở không tiện cho việc đi lại làm ăn, có chỗ ở gần kẻ gian tham trộm cướp, bất lợi cho mình.
Chơi nên chọn bạn mà chơi. Vì có bạn giúp ích cho mình, có bạn làm hại mình. Câu này khuyên người ta nên chọn láng giềng mà ở, chọn bạn mà chơi, để khỏi nhiễm phải thói hư nết xấu và khỏi bị vạ lây. 
Ở đâu âu đấy: Ở chỗ nào thì yêu mến chỗ ấy. Âu tức là yêu nói trạnh đi. Khi nói chuyện trẻ thơ, người ta hay nói “Âu” tức là yêu. Trong truyện Kiều có câu: “Càng âu duyên mới càng đào tình xưa”. Âu duyên mới tức là yêu tình duyên mới. 
Ca dao có câu: “Ngày xưa anh bủng anh beo, tay cất chén thuốc tay đèo múi chanh. Bây giờ anh đỏ anh lành, anh âu duyên mới anh tình phụ tôi”. Âutức là yêu. Nghĩa ấy thấy trong thành ngữ âu yếm. 
Ở gần nhà giầu, đau răng ăn cốm: Nghèo đã khổ rồi. Ở gần nhà giầu, nhà nghèo càng cảm thấy khó chịu, như người đau răng mà lại còn phải ăn cốm, giắt răng, khó chịu gấp hai lần. Câu này bỏ đoạn trót. Lẽ ra phải nói đầy đủ như thế này: “Ở gần nhà giầu, đau răng ăn cốm. Ở gần kẻ trộm, ốm lưng chịu đòn”. Gần kẻ trộm cũng khó chịu, đau đớn, như người đã ốm, lưng lại phải đánh đòn.

-Ở nhà nhất mẹ nhì con, 
Ra đường chán vạn kẻ dòn hơn ta: Dòn tiếng cổ, nghĩa là xinh đẹp, như đen dòn là đen mà đẹp. Ở nhà chỉ có mẹ và con, nên người ta thường cho mẹ là đẹp nhất, rồi nhì đến con. Đến khi ra đường, tức ra ngoài xã hội, thì mới nhận thấy không biết bao nhiêu là người đẹp hơn mẹ con nhà mình. Câu này đại ý riễu (chế diễu) những kẻ cậy thần cậy thế, cho mình là nhất ở một địa phương nào đó, và cũng là lời chế riễu những kẻ mới được một vào người khen, đã vội tự kiêu.

-Phải ai tai nấy: Người ta đánh phải ai, hoặc tai nạn xẩy ra cho ai, thì tai họa riêng cho người ấy.
Câu này ý nói ai gặp nạn thì người ấy thiệt thân, người ngoài không ai chịu giúp. 

-Phú quí sinh lễ nghĩa: Phú quí là giầu có, sang trọng. Lễ nghĩa là những điều ăn ở hợp với nền nếp đạo đức do thánh hiền nêu ra.
Phú quí sinh lễ nghĩa là giầu sanh đẻ ra lễ nghĩa. Ý nói người ta có giầu sang, thì mới ăn ở theo đúng lễ nghĩa được. Nghèo hèn thì dù biết rõ thế nào là lễ nghĩa, cũng không thể theo, vì thiếu điều kiện. Ý nghĩa câu này cũng na ná ý nghĩa những câu: Có tiền khôn như mài mại. Không tiền dại như đòng đong. Hoặc: Cái khó bó cái khôn. Hay: Bụng tỉnh mình gầy. 

-Phúc đức tại mẫu: Tại mẫu là tự người mẹ, do người mẹ.
Phúc đức tại mẫu là người con được hưởng sự phúc đức, sung sướng là do người mẹ đã làm việc phúc đức. Hay là: Người con ăn ở phúc đức, tử tế là tại người mẹ đã khéo dạy dỗ và làm gương cho con. Đại ý câu này muốn nói, con chịu ảnh hưởng của mẹ hơn là của bố. Ý nghĩa cũng gần như câu:“con nhờ đức mẹ”.

-Quá mù ra mưa: Mù đây là sương mù. Quá mù ra mưa nghĩa đen là sương mù xuống nhiều quá, thành ra mưa. 
Nghĩa bóng câu này thường được dùng để trỏ (chỉ) sự đùa mà hóa thật, và nhất là theo nghĩa này: giấu giếm mãi sau vỡ lở ra ai cũng biết, lại chả giấu giếm gì. 

-Quan tám cũng ừ, quan tư cũng gật: Quan tám là một quan và tám tiền (quan gồm 10 tiền, trung bình mỗi tiền là 60 đồng, một quan là 600 đồng).
Quan tư là một quan và bốn tiền. Quan tám cũng ừ, quan tư cũng gật là người ta trả cho quan tám cũng bằng lòng, mà trả cho quan tư cũng nhận, ý nói không có chủ định (như nhà buôn không có giá nhất định). Hoặc người ta bảo nộp quan tám cũng vâng, bảo nộp quan tư cũng gật, ý nói hoàn toàn thụ động, không có chủ kiến gì. Người ta thường dùng câu này để tả người hiền lành đần độn. 

-Quan xa, bản nha gần: Quan là ông quan. Bản nha là bàn giấy ông quan hoặc nhân viên làm việc nơi bàn giấy đó.
Ông quan thường ít khi trực tiếp giao thiệp với dân nên gọi là xa. Mọi việc đều do bản nha giao thiệp với dân, cho nên gần dân. Đại ý nói quan thì xa nên không sợ bằng bản nha. Hoặc người ta phải xử tử tế với nha lại hơn là đối với ông quan. Câu này nêu cái thế lực của nha lại đối với nhân dân thửa xưa. 

-Quen mui thấy bùi ăn mãi: Mui tức là mùi nói trạnh đi. Mùi đây là vị thức ăn.
Bùi là ăn dòn, ngon và không béo (như ăn thịt nạc, ăn đậu phụng). Quen mui thấy bùi ăn mãi nghĩa là quen mùi rồi, thấy thức ăn ngon bùi thì cứ tì tì ăn mãi. Nghĩa bóng câu này có ý nói thấy có lợi thì đào sới mãi, thấy dễ xoay tiền thì nặn bóp không tha. 

Quen sợ dạ, lạ sợ áo: Quen nhau, thì sợ cái bụng dạ ăn ở tốt với nhau. Không quen nhau, thì sợ nhau ở cái áo mặc sang trọng, tức là sợ nhau ở cái bề ngoài. 
Câu này đại ý nói đối với người quen biết thân mật, thì chỉ cốt có cái bụng dạ cư xử với nhau. Đối với người lạ thì cần phải trưng cái lá mặt hào nhoáng bên ngoài. 

-Quen việc nhà nạ, lạ việc nhà chồng: Nạ tiếng cổ nghĩa là mẹ.
Quen việc nhà nạ, lạ việc nhà chồng nghĩa là con gái thường quen công việc nhà bố mẹ đẻ (vì ở với cha mẹ từ bé chí lớn), mà lạ lùng bỡ ngỡ đối với công việc nhà chồng (vì mới về làm dâu). 

-Quít làm cam chịu: Quít với cam là hai loại quả khác nhau. Nhưng mã ngoài coi có chỗ hơi giống nhau, người vô ý có khi lẫn quít ra cam.
Quít làm cam chịu là quít hành động mà cam chịu trách nhiệm, có ý nói cam bị lỗi oan, vì có sự lầm lẫn. Người ta thường mượn câu này để nói việc bị vạ lây. 

-Quyền rơm, vạ đá: Quyền thì bé như sợi rơm, vạ thì nặng như hòn đá. Ý nói quyền hành thì nhỏ mà trách nhiệm thì to, như quyền hành trách nhiệm các hương chức nước ta ngày trước.

-Ra tay, gạo xay ra cám: Ra tay là bắt tay vào làm một cách cẩn thận, cố gắng. Ra tay, gạo xay ra cám nghĩa đen là không làm thì thôi, đã cố gắng làm thì gạo xay ra cám (Xay gạo xưa nay chỉ ra hột gạo mà thôi, đây nói xay ra cám là nói cái kết quả tốt đẹp không ngờ, cái kết quả bằng cả việc xay gạo lẫn việc giã gạo). 
Nghĩa bóng câu này muốn nói công việc cố gắng chu đáo, thì kết quả sẽ gấp đôi cái kết quả của công việc thường. Cũng có người cho câu này có ý diễu người khoác lác quá đáng (xay gạo thì xay ra cám thế nào được). 

-Rát (nhát) như cáy: Cáy là một giống cua nhỏ ở nước mặn, hình thù giống con cua đồng, nhưng ở cẳng nó có những cái lông nhỏ (Người ta vẫn gọi lông mọc trên mình sơ sinh là lông con cáy, ý nói lông nhỏ và non). Giống cáy rất nhát, thấy bóng người là thụt xuống cát hay khe đá. Nên rát như cáynghĩa là nhát lắm.

-Rau nào sâu ấy: Thứ rau nào có thứ sâu của rau ấy.
Người ta cũng vậy, cha mẹ thế nào thì con cái cũng thế. Cha mẹ hiền thì con cũng hiền, cha mẹ ác thì con cũng ác, cha mẹ xấu thì con cũng không đẹp. Ảnh hưởng của rau đối với sâu cũng như ảnh hưởng của cha mẹ đối với con cái. 
-Rậu (giậu) đổ bìm bìm leo: Bờ rào bờ rậu đổ xuống thì dây bìm bìm leo lên, ý nói đã suy lại càng suy thêm.
Cũng có nghĩa thấy người ta sa sút thì đè nén thêm, y như giây bìm bìm leo lên bờ rậu đã đổ. Câu này ý nghĩa cũng na ná như câu “tre lướt cò đỗ”. 

-Rỏ (giỏ) nhà ai, quai nhà ấy: Cái rỏ của nhà ai, thì cái quai rỏ cũng của nhà ấy. Ý nói con cái nhà ai thì giống nhà nấy, không lẫn được.
Người ta thường dùng câu này để nói rằng con cái người nào thì mặt mũi, tính tình cũng giống hệt người ấy. 

-Rình nhau như miếng mộc: Mộc là một thứ võ khí cổ, làm hình bầu dục, trong bằng giấy bồi, ngoài kèm mây bó sơn, làm hơi khum khum mui luyện, phình ra phía ngoài, phía trong có cái dây để xâu vào cánh tay, dùng giơ lên đỡ mũi gươm giáo. Miếng mộc tức là những miếng chống đỡ bằng cái mộc.
Người đeo mộc luôn luôn phải rình xem đối thủ định đâm vào chỗ nào, để giơ mộc lên che đỡ chỗ đó. Người ta thường dùng câu này để nói việc hai người hoặc nhiều người, lúc nào cũng tìm cơ hội để làm hại nhau. Cũng có người giảng: Rình nhau như miếng mộc là rình nhau như một bên đánh miếng võ với một bên cầm mộc đỡ. 

-Rồng rồng theo nạ: Rồng rồng là cá lúc mới sinh. Nạ tiếng cổ nghĩa là mẹ. Nghĩa ấy thấy trong các danh từ nạ lợn, nạ dòng (đàn bà đã có con). Cá rồng rồng kéo lũ lượt phía sau, con cá mẹ là theo đi đấy. Câu này ý nói con cái theo cha mẹ, cũng như nhân dân theo gương nhà cầm quyền. 
Rủ nhau làm phúc, chớ rủ nhau đi kiện: Làm phúc tức là bỏ tiền bạc, sức lực, lời nói ra cứu giúp người ta để mình được phúc.
Làm phúc cũng như để dành tiền của ở chỗ chắc chắn, vì làm ơn bao giờ cũng được ơn người mình làm ơn cho, họ không giúp lại được mình, cũng có người khác giúp đỡ mình. Cho nên ta nên rủ nhau làm việc phúc đức. Còn kiện tụng là gây oán gây thù và làm mất phúc đức, ta chớ nên rủ nhau đi kiện. Câu này đại ý khuyên người ta không nên xui nguyên dục bị, khích bác cho người ta kiện nhau. Cũng có người nói: “khuyên nhau làm phúc, ai khuyên nhau đi kiện” ý nghĩa đại khái cũng thế. 

-Run như cầy sấy: Run như con chó (thường gọi là cầy) bị ướt lông vào sấy mình bên cạnh đống lửa. Ý nói run sợ quá, hoặc rét quá.

-Ruộng ai thì nấy (ấy) đắp bờ: Ruộng của ai thì người nấy đắp bờ.
Câu này lấy ruộng ra làm thí dụ. Đại ý nói rằng: Cha mẹ ai người nấy phụng dưỡng, con ai người nấy bù trì (chăm no, nuôi nấng, thương yêu), sự nghiệp của ai thì người nấy xây dựng. Đời không ai làm thay, làm giúp những việc riêng của mình. Ngoài ra câu này còn có nghĩa là mình được nhờ vả ai, thì mình phải giữ gìn bênh vực cho người ấy. Ý nghĩa cũng gần giống câu: “Ăn cây nào rào cây ấy”. 

-Ruộng bề bề không bằng nghề trong tay: Ruộng bề bề là ruộng nhiều lắm.
Ruộng bề bề không bằng nghề trong tay là vì ruộng có thể bỏ hoang, có thể mất mùa, hoặc có ngày bán đi mất. Còn có nghề trong tay, thì ở đâu làm việc cũng được, mùa nào cũng làm được, làm mãi mà nghề không mất, trái lại càng làm nghề, càng tinh xảo thêm lên. 
Rút dây động rừng: Rút một sợi dây động đến cả khu rừng, vì dây vướng vào cây nọ cây kia. Nghĩa bóng câu này nói làm việc tuy nhỏ, nhưng có thể động chạm đến nhiều người ta to mặt lớn; làm một việc nhỏ song có ảnh hưởng rất to.

-Rước voi về giầy mồ: Rước nghĩa là đón. Rước voi về giầy mồ là đón voi về để nó giầy lên mồ mả cha ông mình. Chân voi to như phướng, giầy lên mồ mả thì mồ mả bẹp dí, san bằng mặt đất. Rước voi về như vậy, không lợi ích gì mà chỉ có hại.
Ở đời, thường có người rước những kẻ thế lực to lớn về, tưởng để làm lợi riêng cho mình, có biết đâu chỉ có hại, chẳng khác gì rước voi về giầy mồ.

-Sạch nợ làm giầu: Sạch nợ là trả hết các món nợ. Làm giầu là để của tích lại để làm giầu. Sạch nợ làm giầu nghĩa là hễ trả hết công nợ thì chỉ còn việc tích của làm giầu. Câu này nói rất đúng. Vì khi đã sạch nợ, tức là đã đủ ăn tiêu rồi, không phải vay mượn ai nữa. Đủ ăn, đủ tiêu, là bắt đầu làm giầu. 

-Sạch sẽ là mẽ con người: Mẽ tức là mã đọc trạnh đi! Mã là bộ cánh, bộ dạng bề ngoài. Nghĩa này là do nghĩa chữ mã lông cổ, lông đuôi chim, thứ lông dài, nhỏ và mềm mại óng ánh mà ra. Khoe mã là khoe khoang bộ mã, bộ cánh bề ngoài. Mẽ con người là mã con người, là bộ diện con người. Sạch sẽ là mẽ con người nghĩa là sạch sẽ thì coi người sáng mã đẹp đẽ, sạch sẽ thì có mẽ người. Câu này đại ý nói: muốn người đẹp đẽ trước hết phải ăn ở sạch sẽ.

-Sáng tai họ (ọ), điếc tai làm (cày): Họ là tiếng bảo trâu bò “đứng lại”. Khi nghe bảo “họ” thì tai tỉnh,sáng lắm, nghe thấy ngay! Đến khi nghe tiếng bảo“làm đi”, thì lại làm ra điếc không nghe thấy. Câu này lấy trâu bò lười làm thích nghỉ để ví với người lười biếng. Cũng nói: “Sáng tai họ, điếc tai cầy”, nghĩa cũng như trên. Bảo họ thì nghe thấy ngay, bảo cầy thì tai giả điếc. Có người nói: “Sáng tai họ, điếc tai làng” là nói sai chữ làm ra chữ làng. 

-Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì: Mất cha còn có chú trông nom cho, mất mẹ thì có thể nhờ sữa của dì nuôi nấng cho. Câu này đề cao tinh thần gia tộc. Đại ý muốn nói: dù không có cha mẹ, cũng còn ông cha bà chú, họ hàng, trông nom giúp đỡ cho. 

-Sẩy đàn tan nghé: Sẩy là mất, là sơi, là lạc, là trượt. Những nghĩa ấy thấy trong những câu: “Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì”. Hay: “Sẩy vai xuống cánh tay”, hoặc: “Sẩy chân sẩy tay còn vớ được, sẩy miệng không vớ được,” hay: “Thai sẩy…” Sẩy đàn tan nghé là lạc mất đàn trâu, thì con trâu non (nghé) bị tan thây. Hay là: cả đàn trâu đang xum họp bị tan đi, trâu nghé mỗi con một ngã. Thường dùng để nói cái cảnh gia đình đang xum họ mà bị tan rã, chia lìa, mỗi người một ngả. Cũng có người nói: “Sễnh đàn tan nghé,” và giảng nghĩa là ra xa (sễnh là xa) đàn, thì một mình con nghé sẽ bị chết tan xác. 

-Sẩy vai xuống cánh tay: Rơi ở vai xuống thì đến cánh tay, nghĩa là vẫn ở trong thân thể chưa rơi ra ngoài. Ý nghĩa câu này cũng na ná như câu: “Lọt sàng xuống nia,” thường được dùng để nói việc thừa tự của hương hỏa (nhận lấy gia tài của người anh em bà con chết đi, không có con trai thờ cúng). Nếu người chi (ngành) trên không có con trai, thì người chi dưới được ăn thừa tự, chớ không bao giờ đến được người họ ngoài. 

-Sểnh nạ, quạ tha: Sểnh là xa, là thoái khỏi. Nạ là mẹ. Sểnh nạ, quạ tha là con gà con hễ xa gà mẹ ra là bị quạ tha đi mất. Người ta thường mượn câu này để nói: con cái hễ không được cha mẹ trông coi, là bị anh em rủ rê chơi bời đâm hư ngay.

Tam ngu thành hiền: Ba người ngu dốt họp nhau lại thành một người thông minh tài giỏi. Ba người ngu họp nhau bàn bạc góp kinh nghiệm, thế nào cũng nảy được ý kiến hay, tìm được cách giải quyết sát với hoàn cảnh thực tế, như vậy là thành hiền. Câu này nêu giá của sự hợp quần. Hợp quần không những nên sức mạnh mà còn tạo nên trí sáng suốt thông minh; do sự gom góp kinh nghiệm và sáng kiến.

-Tay đứt ruột xót: Cầm dao lỡ bị đứt tay chảy máu, thì lòng cảm thấy đau xót.
Người ta thường ví anh em như chân tay. Anh em lỡ bị ốm đau, hoạn nạn, hoặc chết đi, thì mình cảm thấy đau xót như bị đứt tay. Câu này nêu sự liên qua ảnh hưởng giữa các bộ phận trong người để nói rằng: những sự sướng khổ đau buồn của một người, cũng ảnh hưởng liên quan đến anh em, họ hàng. 

-Tay trắng làm nên: Tay trắng tức là tay không, không có của cải sản nghiệp gì.
Làm nên là làm nên giầu sang, làm nên sự nghiệp. Tay trắng làm nên là tự lực làm nên giầu sang chớ không phải nương tựa vào sản nghiệp của cha ông hoặc sự giúp đỡ của bà con cô bác. Câu này hình như thoái thai ở câu tục ngữ Tàu “Bạch thủ thành gia” nghĩa là với hai bàn tay trắng mà làm nên gia nghiệp. Người ta thường dùng câu này để khen ngợi tài trí và đức kiên nhẫn của người, chỉ nhờ vào sức làm việc của mình mà làm nên sự nghiệp. 

-Tắc kỳ ngôn lộ: Tắc là bế tắc, lấp kín không để lối thoát hoặc lối thông, kỳ là của người ấy.
Tắc kỳ ngôn lộ là lấy kín mất lối nói của người ta, khiến người ta không mở miệng nói vào chỗ nào được. 

-Tấc đất tấc vàng: Một tấc đất quí giá ngang một tất vàng. Vì chăm, bón, vun, sới thì đất sản xuất mãi mãi không ngừng, mối lợi thu được ở một tấc đất, cộng mãi lại cũng có khi bằng giá trị một tất vàng.
Câu này có ý khuyên người ta nên quí ruộng đất, không nên bỏ hoang, mà bỏ mất mối lợi lớn. 

-Tập dữ tính thành: Câu này là câu chữ liền trong sách Kinh Thư của Tàu. Tập là tập quán tức là thói quen, dữ là cùng với.
Tính là tính khí, là tính tự nhiên. Tập dữ tính thành là thói quen lâu dần biến thành bản tính. Thí dụ như người ta không ai sinh ra đã có tính nghiện rượu. Vì mỗi ngày uống một tý, uống mãi lâu dần quen thói đi, rồi sau thành nghiện rượu, không có rượu thì không chịu được, y như là trời sinh ra cái tính nghiện rượu vậy.

Tằm có lứa, ruộng có mùa: Lứa là lần, là lượt, là khoảng thời gian từ lúc con tằm còn trong trứng, đến lúc con tằm nhả tơ, kéo kén. Mùa là lúc, là khoảng thời gian từ lúc cấy lúa đến lúc chín gặt về. Tằm có lứa, ruộng có mùa là tằm kéo tơ có lứa, ruộng sản xuất có mùa, không phải bất cứ lúc nào tằm cũng nhả tơ được, hay bất cứ lúc nào ruộng cũng sản xuất được lúa gạo. Lấy tằm và ruộng làm thí dụ: câu này nói ở đời, làm việc gì cũng phải có thời. Không phải thời, không đúng lúc thì việc làm không có kết quả. 

-Tế sớm khỏi ruồi: Phàm việc tế, lễ đều có xôi, thịt, cỗ bàn. Xôi, thịt, cỗ bàn đặt lên bàn thờ tế thần, thánh, tổ tiên thường có ruồi bâu vào. Đồ lễ để trên bàn thờ càng lâu, thì ruồi bâu càng nhiều. Cho nên, người ta thường tế sớm đi, để lễ vật khỏi bị ruồi bâu, hóa ôi đi mất. Đó là nghĩa đen. Nghĩa bóng câu này nói: việc phải làm thì trước sau cũng phải làm, chi bằng làm sớm ngay đi, cho khỏi phiền phức lôi thôi. Cũng như trước sau cũng phải tế một lần thì nên tế trước đi, để ruồi khỏi quấy. 

-Tiền liền khúc ruột: Người đời thường coi qúi tiền bạc quá, có khi quí hơn cả thân thể. Hễ ai động chạm đến tiền bạc hoặc bị thua thiệt về tiền bạc một chút, thì người ta đau xót như là bị đâm vào ruột gan. Bởi vậy có câu: “tiền liền khúc ruột” để mỉa mai người coi đồng tiền như sát khúc ruột, hoặc nối tiếp luôn vào khúc ruột không, dám để hở ra ngoài. 

-Tiền ngắn mặt dài: Ngày xưa tiêu tiền đồng, tiền kẽm, xâu vào lạt đóng thành tiền, thành quan. Sáu mươi đồng là một tiền. Mười tiền là một quan, tức là 600 đồng, bởi thế là nói tiền ngắn tiền dài. Tiền ngắn tức là quan tiền ngắn ý nói số tiền nhỏ. Mặt dài là mặt hờn giận không bằng lòng. Khi người ta hờn giận thì nét mặt sa sầm, coi như mặt chẩy dài ra. Nên có tiếng chảy mặt, nghĩa là hờn dỗi. Tiền ngắn mặt dài là thấy số tiền đem đến có ít thì hờn giận mặt chảy ra. Có người muốn giảng là: mặt người dài hơn tiền. Cho câu này nghĩa cũng tương tự câu: một mặt người mười mặt của. Xét ra không đúng. 

-Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống: Gió vào nhà trống bốn phía thì bao nhiêu gió cũng vừa, bao nhiêu gió cũng thoát ra như không. Tiền vào nhà khó (vốn cái gì cũng thiếu thốn và lắm công nợ) thì bao nhiêu tiền cũng là ít, không đọng lại được. 

-Tiếng cả nhà không: Tiếng cả là tiếng to, tiếng lớn, tức danh vọng cao. Nhà không là nhà không có gì, ý nói không có thóc lúa tiền của. Người ta thường dùng câu này để nói rằng: tuy có tiếng là giầu sang, nhưng thực ra trong nhà vẫn không có gì, nghĩa cũng gần giống câu: “Có tiếng mà không có miếng”. 

-Tiếng chào cao hơn mâm cỗ: Mâm cỗ tuy chồng chất bát đĩa thức ăn cao ngộn lên, nhưng tiếng chào mời còn cao hơn, quý hơn. Ý câu này nói người ta không quý trọng miếng ăn, mà quý trọng cái tình tốt với nhau, biểu lộ ra bằng những lời chào mời thân thiết. 

-Tiếng bấc tiếng chì: Tiếng bấc là tiếng nói nhẹ như bấc, tiếng chì là tiếng nói nặng như chì. Nếu trong câu chuyện không có sự bất bình giận dữ, thì tiếng nói thường đều đều, chớ không lúc nhẹ quá, lúc nặng quá, như chì với bấc. Khi mà tiếng chì lẫn với tiếng bấc là khi câu chuyện không còn giữ được vẻ ôn hòa.

-Tính không có, lại có tướng: Tính là tính nết, tính hạnh nết na. Tướng là nét mặt, vẻ mặt, tất cả bề ngoài của con người. Tính không có, lại có tướngnghĩa đen là tính nết không có mà lại làm bộ. Nghĩa bóng, người không có học vấn, đức hạnh (tính) mà ngoài mặt làm ra bộ khôn ngoan tài giỏi. 

-To đầu mà dại: To đầu đây nghĩa là người lớn, người ở địa vị cao. To đầu mà dại nghĩa người lớn, người danh giá mà bị mắc lừa, bị người ta lợi dụng tên tuổi mình làm những điều không tốt. Đại ý câu này khuyên người ta phải suy xét kỹ càng, không nên tự phụ rằng: mình người lớn thì bao giờ cũng khôn ngoan sáng suốt. 

-Tốt danh hơn lành áo: Tốt danh là có danh thơm tiếng tốt. Có danh tiếng tốt mà lại có quần áo tốt nữa thì nhất rồi. Nhưng nếu đem cái áo lành và cái danh tốt bắc lên cân, thì cái danh tốt bao giờ cũng nặng hơn. Vì danh thơm tiếng tốt có thể che mờ cả quần áo rách vá, chớ quần áo tốt đẹp khi nào lại tạo nên được danh thơm tiếng tốt? Câu này ngụ ý khuyên người ta nên chú trọng đến cách làm ăn cư xử sao cho lưu danh thơm tiếng tốt ở đời, chớ không nên chú trọng vào sự ăn mặc tốt mã. 

-Tốt mã dẻ cùi: Chim dẻ cùi là một giống chim đẹp, mỏ đỏ, đuôi dài, lông mã, lông đuôi sặc sỡ ngũ sắc, coi giống chim phượng. Người ta đã gọi là phượng hoàng Nam (phượng hoàng của nước Nam) hay phượng hoàng đất. Nhưng chim dẻ cùi phải cái tật hay ăn cứt chó, cứt lợn. Người ta đã có câu:“Dẻ cùi tốt mã dài đuôi, hay ăn cứt chó ai nuôi dẻ cùi!” Dẻ cùi tiếng hót lại không hay, vì vậy dẻ cùi tuy đẹp mã thật, song người ta không quí mà lại khinh. Người ta thường dùng câu này để chế diễu người bề ngoài đẹp đẽ sáng sủa, ăn bận diêm dúa mà bụng dạ bẩn thỉu không tốt mà lại vô tài. 

-Tốt tóc nhọc cột nhà: Các bà các cô tóc dài, mỗi khi gội đầu, muốn cho tóc chóng khô để quấn tóc hay vấn khăn, thường có thói quen quật mớ tóc nhiều lần vào cột nhà. Vì thế người ta bảo tốt tóc chỉ làm nhọc cột nhà, ý nói sắc đẹp không lợi ích chi hết. 

-Tu đâu cho bằng tu nhà, Thờ cha kính mẹ mới là chân tu: Tu chính nghĩa là sửa mình. Từ khi có đạo Phật, người ta thường hiểu chữ tu là đi ở chùa mới là tu. Cho nên mới có câu tục ngữ này để giác ngộ những người hiểu lầm nghĩa chữ tu. Chân tu là thật biết tu. Đại ý câu này phải đối việc bỏ nhà đi ở chùa, và khuyên người ta nên trước hết phải hiếu với cha mẹ. Không thờ kính cha mẹ thì không phải là chân tu. Có thể cho câu này tiêu biểu tư tưởng nhà Nho phản đối nhà Phật.

-Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết: Ruồi, muỗi hay đậu ở lưng bò, lưng trâu. Trâu bò húc nhau thì trâu bò chưa con nào việc gì, những ruồi, muỗi ở giữa thì bị trâu bò húc chết.
Người ta thường mượn câu này để nói cuộc xung đột giữa hai nước, hai phe, hai người, gây ảnh hưởng tai hại cho các nước khác, các phe khác, các người ở ngoài cuộc. 

-Trâu chậm uống nước đục: Đàn trâu xuống sông uống nước, con nào đi chậm đến sau sẽ phải uống nước đục, vì nước sông đã bị những trâu đến trước khuấy đục mất rồi. Câu này lấy chuyện trâu để khuyên người ta đi đâu không nên đi chậm giờ mà lỡ việc, hay gặp phải những việc không may.

-Trâu chết, bò cũng lột da: Lột da là bị làm thịt. Trâu chết, bò cũng lột da là nói trâu bị làm thịt thì rồi bò cũng bị làm thịt. Cùng trong một hoàn cảnh, cùng một giống loài, thì phải chịu chung một số phận như nhau.
Câu này lấy chuyện trâu bò nuôi làm thịt, để khuyên người đời không nên riễu cợt, những hoạn nạn tai biến của người đồng loại. Vì cùng trong một hoàn cảnh, cùng là giống người, số phận ai rồi cũng phải giống nhau. 
Trâu chết chả khỏi rơm: Giết thịt trâu, người ta thường đem thui và thui bằng rơm. Lúc sống trâu ăn rơm, mà lúc chết trâu cũng không thoát khỏi rơm. Người ta thường mượn câu này để nói: người hằng ngày vẫn làm ra bộ không cần nhờ vả, quy lụy mình và tỏ ý khinh thường mình, nhưng thật ra, sống chết vẫn không thoát khỏi sự săn sóc giúp đỡ của mình, dù người đó muốn hay không muốn.
Người ta có ý ví mình như rơm, ví người mình săn sóc trông nom như trâu. Rơm tuy là vật tầm thường, trâu là vật quí giá hơn, song vẫn phải cần đến, lúc sống cũng như lúc chết. Cũng như ở đời, người quân tử dù tỏ ý khinh bỉ kẻ tiểu nhân, nhưng sống chết, người quân tử cũng vẫn phải nhờ kẻ tiểu nhân. 

-Trâu chết để da, người ta chết để tiếng: Trâu chết để lại bộ da, người chết thì để lại cái tiếng.
Tiếng ấy là tiếng xấu hay tốt còn tùy cách ăn ở của con người lúc sinh thời. Câu này khuyên ta khi ăn ở nên nghĩ đến tiếng chê khen của người đời sau.
Trâu lấm vẩy càn: Trâu tính ưa nước. Gặp những ngày nóng nực, oi bức, trâu không chịu nổi, thường đằm mình xuống đám bùn lầy, khắp mình lấm như chôn như vùi.
Đằm mình chán, trâu đứng dậy, thường vẫy đuôi, quẫy mình để trút bớt bùn đất bám ở mình. Như thế là trâu lấm vẩy càn. Người ta thường mượn câu này để nói: kẻ làm nên tội vạ, hay khai bậy khai bạ làm liên lụy đến người khác, hoặc kẻ đã mắc tiếng xấu hay làm cho người khác xấu lây, có ý ví những kẻ ấy như con trâu lấm vẩy càn.

-Trăm bó đuốc cũng được con ếch: Người ta thường đốt đuốc đi bắt ếch ban đêm.
Bị ánh đuốc soi lóa mắt, ếch cứ trợn mắt lên nhìn, nên người ta bắt dễ lắm. Bắt ếch hết bó đuốc này, người ta lại đốt bó đuốc khác, có khi đốt liên tiếp năm bảy bó đuốc và bắt ếch đến quá nửa đêm. Có khi bắt được nhiều ếch lắm, cũng có khi đông người bắt quá (đuốc như sao sa ngoài cánh đồng) ếch cũng hiếm. Nhưng cứ đốt hết bó đuốc này đến bó đuốc khác, kiên tâm kiếm mãi thì thế nào cũng bắt được, không nhiều thì ít. Bởi vậy có câu: “trăm bó đuốc cũng được con ếch”, ý nói kiên tâm bắt mãi rồi cũng được ếch. Người ta thường dùng câu này để nói hễ kiên gan bền chí, điều tra mãi thì thế nào cũng tìm được thủ phạm, hoặc làm việc mãi thì thế nào cũng thu được kết quả. 

-Trăm dâu đổ đầu tằm: Trăm dâu là trăm lá dâu, trăm mớ dâu, trăm thúng dâu, hay trăm thứ tiền dâu.
Trăm dâu đổ đầu tằm có thể có hai nghĩa: a)Bao nhiêu dâu đều đổ lên đầu tằm cho tằm ăn. b)Bao nhiêu tiền chi phí về dâu, sau này đều trông mong cả ở việc bán kén tằm để thu lại. Người ta thường mượn câu này để tự ví mình với con tằm để nói: a)Bao nhiêu công việc đều do một mình quyết định. b)Bao nhiêu món chi tiêu đều trông ở túi mình.

-Trăm tội đổ đầu nhà oản: Nhà oản là nói gồm đoàn người được cắt chuyên môn coi việc thổi xôi oản cho nhà chùa trong những dịp cúng bái to tát. Phàm lễ nghi bày biện lên các bàn thờ Phật đều do một tay nhà oản. Cho nên về việc cỗ bàn, xôi oản, trách nhiệm nhà oản phải chịu. Nếu xôi oản làm không được tinh khiết, sạch sẽ, thổi nấu không được chín kỹ, hoặc đơm đầy đơm vơi, thì các tội ấy các Sư không phải chịu trước chư Phật, mà nhà oản phải chịu. Đại ý câu này muốn nói: việc đã phân công, thì trách nhiệm đã có người chịu.

-Tre lướt cò đỗ: Tre đã ngả lướt xuống rồi, mà cò lại đỗ lên trên thì tre lại càng lướt thêm. Câu này có ý nói lúc vận đã suy lại gặp việc bĩ (xui, rủi ro) thêm, nạn này chưa hết, lại gặp nạn khác. Cũng có nghĩa: thấy người ta xuống lại đạp cho xuống thêm, cũng như con cò thấy tre lướt thì đỗ cho lướt thêm.

-Trẻ cậy cha, già cậy con: Người ta lúc còn trẻ bé thì trông cậy ở cha mẹ. Ăn mặc học hành, mọi việc nhất nhất nhờ cha mẹ lo liệu cho.
Khi già cả, sức lực suy yếu, không làm lụng được nữa, thì trông cậy ở con. Con phải phụng dưỡng săn sóc cha mẹ, như cha mẹ nuôi nấng con, săn sóc con thuở xưa. Câu này nêu cái phận sự của người làm cha mẹ và của kẻ làm con cái.

1. Ông chẳng bà chuộc:

Sự tích xưa, có người đánh rơi viên ngọc, vợ chồng Chẫu Chàng bắt được. Người ấy xin chuộc lại. Vợ đồng ý “chuộc thì chuộc”, chồng thì dứt khoát “chẳng chuộc”. Sự bất hòa của vợ chồng Chẫu Chàng, do nhân dân tưởng tưởng ra, đã tạo nên thành ngữ này để diễn đạt ý không thống nhất, không ăn khớp giữa người này với người khác. Nhiều thành ngữ như “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, “Ông nói gà bà nói vịt” cũng diễn đạt ý này.

2. Quan xa nha gần: (Quan thì xa, bản nha thì gần)

Nha là phòng giấy của các quan. Nha môn là cửa quan. Nha lại là những người làm việc ở phòng giấy các quan. Ngày trước, khi người dân có việc kêu kiện, bọn nha lại thường làm khó dễ để vòi tiền. Vì vậy mới có câu thành ngữ này.

3. Ra môn ra khoai:

Thành ngữ này có nghĩa là rành mạch, rõ ràng. Sở dĩ có thành ngữ này là vì cây khoai môn và cây khoai sọ rất dễ bị nhầm lẫn. Khoai môn là khoai có thân và lá dùng làm thức ăn cho lợn, củ ăn bị ngứa lưỡi, thân hình rất giống khoai sọ. Thành ngữ này thường bị nói lầm “ra ngô ra khoai”. Cây ngô và cây khoai không thể lầm được.

4. Rách như tổ đỉa:

Có người tưởng tổ đỉa là tổ con đỉa. Cũng chưa ai biết con đỉa có tổ hay không. Tổ đỉa ở thành ngữ này là cây tổ đỉa, một loại cây thường mọc ở ven bờ ao. Cây tổ đỉa có lá như lá cây đinh lăng, trông lởm chởm và rách như xé ra từng mảnh nhỏ. Vì vậy, ai mặc rách rưới quá, người ta thường nói “rách như tổ đỉa.”

5. Rối như bòng bong:

Nếu quan sát một người ngồi vót nan để đan rổ rá, ta thấy những xơ tre nứa mỏng cuộn xoắn vào nhau thành một mớ, khó gỡ ra được. Đó là mớ bong bong. Thành ngữ ta còn có câu : rối như tơ vò, rối như canh hẹ, rối như gà mắc tóc, rối tinh rối mù. Thành ngữ “rối như bong bong” dùng để chỉ tâm trạng hoặc sự việc khó gỡ ra được vì không tìm thấy đầu mối.

6. Sáng tai họ, điếc tai cày:

Thành ngữ này có nghĩa lười biếng, không chăm chỉ làm việc. Khi cày ruộng, người đi cày hô “họ”thì trâu đứng lại ngay, vì nó được nghỉ. Nếu hô “vắt” thì phải kéo cày.

Nguyễn Khuyến, trong bài “Anh giả điếc” có câu

Trong thiên hạ có anh giả điếc

Khéo ngơ ngơ, ngác ngác, ngỡ là ngây

Chẳng ai ngờ : sáng tai họ điếc tai cày

Lối điếc ấy sau này em muốn học.

7. Sẩy đàn tai nghé:

Thành ngữ này dùng để chỉ sự chia lìa, tan nát của một gia đình hoặc một tập thể nào đó khi mất người đứng đầu.Thành ngữ này bắt nguồn từ đời sống của bầy trâu rừng. Bầy trâu bao giờ cũng có những con trâu đực đầu đàn để chống chọi với thú dữ, bảo vệ cả đàn (thường có trâu cái và bầy nghé con). Nếu mất trâu đầu đàn thì cả đàn sẽ tan tác vì bị thú dữ ăn thịt dần. Sẩy là từ cổ, có nghĩa là mất, chết. Tục ngữ có câu: “Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì”.

8. Sơn cùng thủy tận:

Đây là thành ngữ gốc Hán (cùng là cuối, tận là hết), nơi cuối dãy núi, hết nguồn nước, dùng để chỉ những nơi hẻo lánh, hoang vu. Một thành ngữ khác thâm sơn cùng cốc cũng để diễn đạt ý này. (Thâm sơn là núi sâu, cùng cốc là cuối hang núi)

9. Sơn hào hải vị:

Sơn hào là món ăn quý lấy từ động vật rừng như bàn chân gấu, lộc nhung. Hải vị là món ăn quý lấy từ biển như bào ngư, hải sâm…

Thành ngữ này dùng để chỉ các món ăn sang trọng. Câu này gần nghĩa với câu “Cao lương mĩ vị” (cao là thịt béo, lương là gạo trắng, mĩ vịlà ngon miệng)

10. Sư tử Hà Đông-Giấm chua lửa nồng:

Các thành ngữ này đều dùng để chỉ những người phụ nữ hay ghen.

- Hà Đông là một địa danh Trung Quốc, tục truyền có nhiều sư tử và sư tử cái thường bắt nạt sư tử đực. Ông Trần Quý Thường, bạn thân của Tô Đông Pha, có bà vợ hay ghen. Tô Đông Pha liền làm bài thơ đùa bạn, trong đó có câu :

Hốt kiến Hà Đông sư tử hống

Trụ trượng lạc phủ tâm mang nhiên.

(chợt nghe tiếng sư tử Hà Đông rống lên. Đang chống gậy lòng hoảng hốt đánh rơi cả gậy).

- Vua nước kim rất yêu hai cung nữ. Trước khi mất, vua dặn phải chôn theo hai cung nữ đó. Hoàng hậu rất ghen, nên trước khi chôn hai cung nữ, đã đổ giấm vào quan tài để xác và xương mau tan, không thể hầu hạ đức vua được. Lửa nồng dịch từ Hỏa cang (nóng như hang đốt lửa) cũng để chỉ tính ghen. Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh giải thích lửa nồng là chốn lầu xanh (sống ở nơi ngột ngạt). Truyện Kiều có câu:

Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng.

11. Sửa mũ vườn đào, sủa dép vườn dưa:

Khi đi qua vườn đào, dù mũ đội đầu có bị lệch cũng không nên giơ tay lên sửa mũ, sẽ bị ghi là hái chộm đào. Khi đi qua ruộng dưa, dù dép có bị đứt quai cũng đừng cúi xuống sửa, sẽ bị ghi là hái trộm dưa.

Câu này ý nói tình ngay lí gian, khuyên ta nên đề phòng để tránh bị ngờ oan :

Qua: Dưa, trái dưa, như dưa hấu, dưa leo. Điền: ruộng. Lý: cây lý, cây mận. Hạ: dưới. Qua điền: ruộng dưa. Lý hạ: dưới cây lý. Thành ngữ trên nói đầy đủ là: Qua điền bất nạp lý, lý hạ bất chỉnh quan. Nghĩa là: Nơi ruộng dưa thì không nên xỏ giày, dưới cây lý thì không nên sửa nón.

12. Nằm gai nếm mật:

Câu này nói lên sự chịu đựng vất vả gian khổ để mưu việc lớn. Thời Xuân Thu ở Trung Quốc, Câu Tiễn là vua nước Việt bị Phù Sai là vua nước Ngô bắt làm tù binh, phải chịu mọi điều khổ nhục. Khi được thả về, Câu Tiễn thường nằm trên đệm gai, không ăn cao lương mĩ vị mà thường lấy tăm nhúng vào mật đắng để luôn nhắc nhở mình không quên mối thù xưa. Sau hai mươi năm chuẩn bị lực lượng, Câu Tiễn đã phục thù, đánh bại được Ngô Phù Sai.

13. Năm thì mười họa:

Trong tiếng Việt, thì còn đọc là thời (có nghĩa là lúc, thủa). Ví dụ : thời son trẻ, đương thì con gái, tứ thời, thời gian, thời tiết. Còn họa là từ thuần Việt có nghĩa là ít có, có chăng.

Ví dụ :

- Sắc đành đòi một, tài đành họa hai (Truyện Kiều)

- Vào sinh ra tử họa là thấy nhau (Truyện Kiều).

(Đừng lầm với họa từ Hán. Họa là vẽ (họa sĩ), họa là đáp lại (họa vần thơ), họa là tai vạ rủi ro (họa vô đơn chí)).

Thành ngữ năm thì mười họa có nghĩa là thỉnh thoảng, họa hoằn mới có :

Năm thì mười học hay chăng chớ

Một tháng đôi lần có cũng không.

(Hồ Xuân Hương)

14. Ngựa quen đường cũ:

Thành ngữ này vốn gốc ở thành ngữ Hán “Lõa mã thức đồ”. Do đâu có thành ngữ này ? Chuyện Xưa kể rằng : Tề Hoàn Công đi đánh nước Cô Trúc. Lúc cất quân đi là mùa Xuân, lúc trở về đã là mùa đông, băng tuyết phủ đầy nên lạc đường. Quản trọng bèn tâu :

- Thưa bệ hạ, trí nhớ của ngựa già rất tốt. Xin để con ngựa già đi trước dẫn đường. Quả nhiên, ngựa đã tìm được đường về.

Trước kia, thành ngữ này được hiểu theo nghĩa : người có kinh nghiệm thường rất thành thuộc sự việc.

Ngày nay, thành ngữ này mang nghĩa xấu dùng để chỉ những người không chịu rời bỏ thói hư tật xấu.

15. Nguồn đục thì dòng không trong, gốc cong thì cây không thẳng:

Câu này vừa mang nghĩa đen, vừa mang nghĩa bóng. Nghĩa đen thì ai cũng hiểu. Nguồn nước có trong thì dòng nước mới trong, gốc cây có thẳng thì cây mới vươn thẳng lên được.

Nhưng nghĩa bóng mới là nghĩa có tác dụng giáo dục mọi người. Trong một gia đình, bố mẹ phải làm gương tốt cho con cái. Nếu bố mẹ làm điều bậy (nguồn đục, gốc cong) thì con sẽ bị nhiễm thói xấu. Có một câu ca dao đầy chất châm biếm :

Con ơi nghe lấy lời cha

Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm.

Bố xấu như vậy thì con cũng sẽ thành trộm cắp. Trong gia đình, bố mẹ cần sống tốt để làm gương cho con cái.

16. Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò:

Đây là thành ngữ chỉ nghề làm gốm sứ. Muốn có sản phẩm tốt phải chú ý ba yếu tố : xương, da, dạc lò. Xương là chất đất để nặn ra sản phẩm, da là chất men dùng tráng mặt ngoài của sản phẩm (có vài chục chất men để tạo màu sắc khác nhau), dạc lò là độ nóng của lửa nung. Cũng có người giải thích dạc lò là hình dáng lò nung. Lò nung phải xây đúng cách để khi nung, độ nóng tỏa đều khắp thì sản phẩm mới đẹp.

17. Nhũn như chi chi:

Thành ngữ này thường được dùng để chỉ thái độ nhún nhường sợ sệt hoặc bị lép vế trước kẻ khác. Chi chi là trrn một loài cá nhỏ, thân rất mềm. Con chi chi bị vớt lên khỏi mặt nước thì chỉ một giờ sau đã nhũn, thân bị bấy ra. Chi chi dùng làm mắm rất tốt vì mau ngấu. Nhũn từ nghĩa đen (nát bấy ra) đã được dùng với nghĩa nhũn nhặn để chỉ thái độ con người.

18. Nổi cơn tam bành:

Nghĩa của thành ngữ này là nổi giận lên mà làm điều ác :

Mụ nghe nàng mới hay tình

Bây giờ mới nổi tam bành mụ lên.

(Truyện Kiều)

Theo thuyết của Đạo gia, trong con người có ba vị ác thần là Bành Kiều, Bành Cứ, Bành Chất. Ba vị này thường xui ta làm điều ác.

19. Nghèo rớt mùng tơi:

Khi ta nấu canh mùng tơi, trong lá mùng tơi có nhiều rớt (nhớt) nên khi múc canh vào bát, môi canh bị trơn tuột, không dính tí gì. Nghèo rớt mùng tơi là nghèo xơ nghèo xác không có chút của cải gì.

Thành ngữ này cũng còn một cách giải thích khác. Mùng tơi là phần trên của chiếc áo tơi (phần dày nhất và khâu kĩ nhất). Áo tơi thường làm bằng lá cọ hoặc lá đót. Khi áo tơi rách thì mùng tơi vẫn còn, dùng cho đến khi rớt (rơi) hết mùng tơi vẫn không có tiền mua áo khác, chứng tỏ nghèo lắm.

19b. Nói nhăng nói cuội:

Nói nhăng nói cuội là nói vu vơ, hão huyền cũng như thành ngữ nói hươu nói vượn.

Nhăng là từ cổ có nghĩa là băng nhăng qua quýt…

Cuội là một nhân vật trong truyện kể dân gian, nổi tiếng nói dối (nói dối như cuội).

Cũng có người cho rằng thành ngữ này là “nói giăng nói cuội” (Giăng là mặt trăng, chỉ ý xa vời, không thực tế). Dù hiểu cách nào thì nghĩa cũng giống nhau.

20. Nồi da nấu thịt:

Những người đi săn thú muốn làm thịt ăn ngay ở giữa rừng nhưng không có nồi. Họ thường lột da con thú căng ra làm nồi để nấu thịt con thú ấy. Câu này nói ý cùng ruột rà máu mủ mà làm hại lấn nhau, giống câu vỏ đậu nấu đậu

21. Nợ như chúa chổm:

Chúa Chổm chính tên là Lê Ninh. Thời nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, là hoàng tử nhưng ông rất khéo. Tuy vậy, các quán ăn ở kinh đô, nếu được ông mở hàng thì rất đắt khách. Vì vậy, nhiều quán mời ông ăn chịu và ghi nợ. Khi được lên làm vua, (tức vua Lê Trang Tông) các chủ quán đến đòi nợ. Vua ra lệnh mở kho để trả nợ nhưng trả nhiều lần chưa hết vì có kẻ đòi nợ khống. (Theo truyền thuyết, khi vua đi dạo, hễ đi vào phố Cấm Chỉ thì không ai được theo đòi nợ nữa) (phố Cấm Chỉ ở đầu phố Hàng Bông, gần Cửa Nam ngày nay).

22. Nuôi o­ng tay áo:

Trong thực tế, không ai nuôi o­ng ở tay áo cả vì o­ng dễ đốt vào người. o­ng ở đấy được dùng để chỉ kẻ xấu.

Câu này mang ý nghĩa : nuôi dưỡng giúp đỡ kẻ xấu thì kẻ xấu có khi lại phản bội lại mình, làm hại mình.

Tuy vậy cũng không nên hiểu một chiều. Thực tế, kẻ xấu cũng cần sự giúp đỡ, giáo dục để trở thành người tốt. Xã hội ta đã cải tạo được nhiều người xấu trở thành người hữu ích.

Câu này chỉ dùng khi người nuôi dưỡng, giúp đỡ đã bị phản bội.

23. Nước đục bụi trong:

Thành ngữ này nói lên cảnh trái ngược, những việc làm bất đắc dĩ, trái với ý muôn : nước trong ma flaij đục, bụi đục mà lại trong.

Ví dụ:

Lỡ làng nước đục bụi trong

Trăm năm để một tấm lòng từ đây.

(Truyện Kiều)

Tục ngữ ta có câu “Chết trong còn hơn sống đục”để khuyên ta sống trong sạch, thà chết còn hơn làm điều phi nghĩa, bất lương.

24. Lá lành đùm lá rách:

Câu tục ngữ có hai vế đối lập lá lành, lá rách. Lá lành hàm chỉ người có đời sống khá, sung túc. Lá rách hàm chỉ người nghèo khổ. Từ lávàđùm cũng gợi ý về vật chất vì trong đời sống hàng ngày người ta đùm cơm, đùm bánh, đùm xôi thường dùng lá. Từ đùm cũng gợi ý đùm bọc, che chở, giúp đỡ. Câu thành ngữ này khuyên ta phải cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống hàng ngày cũng như lúc hoạn nạn. Câu này cũng nói lên đạo lý tốt đẹp của ông cha ta.

25. Lật đật như sa vật ống vải:

Câu này thường bị nói sai “lật đật như ma vật ông vải”. Nghĩa câu này hàm ý chê trách việc vội vàng, hấp tấp. Khi kéo sợi vải, ta dùng cái sa để quay, con cúi sa bằng bông sẽ dùng mũi quay để kéo thành sợi. Ở mũi quay có ống vải để cuốn sợi. Mũi quay thường làm cho ống vải rung lật đật.

26. Lệnh ông không bằng cồng bà:;

Lệnh và cồng là hai dụng cụ bằng đồng dùng để báo hiệu. Có người nói câu này xuất hiện từ thời Bà Triệu khởi nghĩa. Ông Triệu Quốc Đạt là anh nhưng không được mọi người tin yêu bằng bà Triệu Thị Trinh. Mỗi khi nghe tiếng cồng của Bà Triệu thì binh sĩ ở mọi nơi đều tập hợp ở dưới cờ.

Ngày nay, câu này được dùng với ý : vợ có quyền to hơn chồng trong một gia đình nào đó

27. May xống phải phòng khi cả dạ:

Câu này khuyên ta phải nhìn xa trông rộng, tính trước mọi việc. Xống là váy. Người phụ nữ khi may váy phải tính toán để khi có thai, bụng to (cả dạ) vẫn mặc được.

28. Mỏng mày hay hạt:

Thành ngữ này thường dùng để chỉ người phụ nữ có khuôn mặt nhẹ nhõm xinh xắn, dáng người thon thả thắt đáy lưng o­ng.

Mày và hạt xuất phát từ việc chọn giống của nhà nông. Mày là cái vảy dính ở gốc hạt lúa, hạt ngô. Hễ mỏng mày là hạt chắc, nếu dùng làm hạt giống rất tốt. Từ đó người phụ nữ mỏng mày hay hạt cũng hứa hẹn tương lai sẽ phát triển nòi giống tốt, ngoài các đức tính khác như đảm đang, tháo vát.

Tục ngữ còn có câu :

Khô chân gân mặt đắt mấy cũng mua

Phành phạch quạt mo cho không ai lấy, hoặc câu : Mặt nạc, đóm dày, mo nang trôi sấp chó cụt đuôi. (Mặt nạc là mặt lắm thịt, chứng tỏ người không khôn ngoan), và câu :

Những người béo trục béo tròn,

Ăn vụng như chớp đánh con cả ngày.

(Béo trục béo tròn đối lập với thắt đáy lưng o­ng).

29. Một đồng một cốt:

Để hành nghề mê tín dị đoan, các ông đồng bà cốt thường gọi hồn, bắt ma, làm lễ giải hạn để kiếm tiền thiên hạ. Họ dùng nhiều mưu mẹo để lừa dối. Thành ngữ này để chỉ bọn người chuyên dối trá lừa đảo :

Đà đao lặp sẵn chước dùng

Lạ gì một cốt một đồng xưa nay

(Truyện Kiều)

30. Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ:

Câu này nói lên mối tương quan giữa cá thể và cộng đồng. Để khuyên bảo về đạo lí, ông cha ta thường mượn vật để nói người như : “gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”. “Một con ngựa đau” nói lên một cá thể bị hoạn nạn. Cả tàu bỏ cỏ nói lên sự thông cảm chia sẻ của đồng loại, tât cả các con ngựa trong chuồng đều không ăn cỏ vì thương cảm.

Ở đây không nói lên sự giúp đỡ mà nói về tình cảm. Hiểu rộng ra, cả tàu còn nói cả làng, cả nước phải thương yêu đùm bọc lấy nhau ; cùng đồng cam cộng khổ, chia ngọt xẻ bùi.

31. Muôn chung nghìn tứ:

Chung là cái hộc, đơn vị dùng để đong thóc ngày xưa. Tứ là cỗ xe có bốn ngựa kéo. Câu này chỉ bậc vương hầu khanh tướng, ăn lộc đến nghìn chung thóc, trong nhà có hàng nghìn cỗ xe ngựa.

Một lời đã biết đến ta

Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau

(Truyện Kiều)

32. Học ăn, học nói, học gói, học mở:

Đây là câu thành ngữ khuyên mọi người phải học cách đối xử ở đời để trở nên người có văn hóa.

Ăn cũng phải học ăn như “Ăn trông nồi ngồi trông hướng”. Đối với trẻ, khi ăn không nên khua bát khua đũa. Nhiều trẻ khi nhai cứ nhồm nhoàm hoặc tạo ra tiếng chồm chộp vì nhai hai hàm một lúc, hàm trên bập xuống hàm dưới tạo thành tiếng kêu. Cần tập cho trẻ chỉ dùng một hàm khi nhai.

Nói cũng phải học để biết cách xưng hô nói năng lễ phép, lịch sự. “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Ngày nay, ta thường gặp nhiều cô cậu ăn mặc diện nhưng nói rất tục. Chỉ nghe qua lời nói ta đã biết là loại vô văn hóa. Học gói học mở theo phép lịch sự ở đất kinh kì cũng rất khó. Ở đất Hà Nội xưa, một số gia đình giàu sang thường gói nước chấm vào lá chuối xanh đặt vào cái chén xinh bày lên mâm cỗ. Người gói phải khéo tay mới gói được và người ngồi, ăn cũng phải biết cách mở để khỏi bật tung nước chấm ra mâm…

Ngày nay, gói bánh trưng đã mấy người biết gói cho đẹp để bánh cao thành sắc cạnh và mở bánh (bóc bánh) chưng cũng phải học mới khéo được.

Có người còn hiểu rộng câu trên, cho rằng mở và gói khó nhất la khi làm văn :

Văn hay chẳng lọ là dài

Mới đọc mở bài đã biết văn hay.

Còn gói bài văn (kêt luận) thế nào để người đọc còn thấy dư âm và gây ấn tượng sâu không phải dễ.

33. Kẻ ăn rươi, người chịu bão:

Hằng năm, cứ khoảng thánh chin âm lịch, các ruộng nước chua mặn ở miền biển có giống rươi nổi lên. Người ta hớt rươi về làm thức ăn (chả rươi, mắm rươi). Nhưng mùa này cũng hay có báo làm thiệt hại. (cũng có người giải thích, mùa này trở trời nên dễ đau lưng đau bão). Câu này nói lên sự không công bằng : kẻ được ăn, người chịu vạ lây.

34. Kẻ tám lạng, người nửa cân:

Cân và lạng ở đây là loại cân cũ của ta. Một cân có 16 lạng (tương đương 605 gam) và một lạng bằng một phần mười sấu cân tương đương với 37,8 gam. Vì vậy nếu cân bằng cân ta thì nửa cân là tám lạng, tám lạng là nửa cân.

Thành ngữ này trong tiếng Việt thường chỉ sự so sánh tương đương lực lượng giữa hai phe, hai đấu thủ trong cuộc đọ sức thì bằng nhau, không ai kém ai.

35. Kết cỏ ngậm vành:

Thành ngữ này chỉ sự báo đền công ơn :

Dám nhờ cốt nhục tử sinh

Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau

(Truyện Kiều)

Đây là hai điển tích xưa của Trung Quốc.

- Ông Ngụy thù đời Tần có nhiều vợ lẽ đẹp. Theo phong tục nước Tần, hễ chồng chết thì vợ lẽ phải chon theo chồng. Nhưng Ngụy Khảo, con trai của Ngụy Thù có lòng nhân đạo nên không theo tục lệ đó. Sau Ngụy Khảo nên làm tướng nước Tần, đánh nhau với nước Tấn. Bên Tấn có tướng Đỗ Hồi rất giỏi. Hôm đó, đang đánh nhau thì ngựa của Đỗ Hồi bị vướng cỏ, Đõ Hồi ngã ngựa và bị Ngụy Khảo giết. Đêm hôm ấy, Ngụy Khảo nằm mơ thấy bố người vợ lẽ đến tạ ơn và nói : “Tôi cám ơn ông không chôn sống con tôi, nên tôi đã kết cỏ làm cho Đỗ Hồi ngã ngựa”.

- Dương Bá đời Hán,lúc 9 tuổi bắt được con chim sẻ bị thương. Bá chăm sóc chim cho khỏe rồi thả ra. Sau chim đó ngậm bốn vành ngọc trắng đem đến tạ ơn.

36. Gái thương chồng đương đông buổi chợ-Trai thương vợ nắng quái chiều hôm:

Câu tục ngữ này có rất nhiều cách giải thích. Sở dĩ có nhiều cách hiểu vì cụm từ “đương đông buổi chợ” và “nắng quái chiều hôm” được hiểu với nghĩa khác nhau. Dưới đây xin nêu một vài cách hiểu đó :

1. Hiểu đây là lời khuyên, không phê phán ai cả

“Đương đông buổi chợ” được hiểu là thời son trẻ duyên dáng của người phụ nữ, có nhiều chàng trai để ý đến.

Tình thương chồng được thể hiện rõ khi cô ta còn nhan sắc, nhiều người để ý nhưng vẫn một mực chung thủy với chồng. “Nắng quái chiều hôm” được hiểu là thời người con gái đã xế chiều, nhan sắc tàn phai và khuyên chồng nên chung thủy cả khi vợ đã luống tuổi.

2. Hiểu câu này chỉ mức độ tình yêu giữa nam và nữ một cách khách quan, không phê phán ai cả

Hiểu tình yêu của người phụ nữ đầy đặn, mặn mà như buổi chợ đương đông còn tình yêu của nam giới thì bồng bột, rực rỡ nhưng mau tàn như nắng quái chiều hôm.

3. Hiểu câu này theo cách phê phán

Tình yêu của người phụ nữ đậm đà bền chặt như buổi sáng lúc đương đông buổi chợ.

Tình yêu của nam giới chỉ thoáng qua, mau tắt ngấm như buổi chiều, lúc nắng quái chiều hôm.

Cho đến nay nhứng cách hiểu khác nhau vẫn tồn tại và chắc còn nhiều cách hiểu khác. Chúng ta chưa có cơ sở để lựa chọn và khẳng định.

37. Gần nhà giàu đau răng ăn cốm-Gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn:

Nhân dân ta rất coi trọng láng giếng “Bán an hem xa mua láng giềng gần”. Nhưng hai loại láng giềng “nhà giàu” và “kẻ trộm” thì lại khổ cho láng giềng. Câu này được hiểu là “Gần nha giàu khổ như đau răng lại nhai cốm, gần kẻ trộm khổ như đang ốm lại phải đánh đòn”. Vì sao vậy ? Láng giềng giàu thường ít thích giao tiếp với hàng xóm nghèo nên khi tối lửa tắt đèn ít nhờ vả được nhau. Gần kẻ trộm thì dễ mất trộm hoặc có khi bị đòn oan. Câu này khuyên ta nên chọn láng giềng mà ở. (Cũng có người giải thích là gần nhà giàu thì được ăn nhiều đến mức đau cả răng. Giải thích cách này không hợp lô gích).

38. Già kén kẹn hom:

Trong các sách thành ngữ đều giải thích : Tình duyên lỡ làng vì quá kén chọn.

Trong cuốn tục ngữ lược giải của Lê Văn Hòe giải thích như sau :

Già kén là kén kĩ quá, kén nhiều quá.

Kẹn hom là giơ xương ra, ý nói già yếu gầy guộc, giơ xương.

Câu này ý nói : kén chọn kỹ quá thì người già mất.

Giải nghĩa như trên không có gì sai. Nhưng câu này gốc là “Già kén kẹn hom” và chỉ thấy trong từ điển của Gensibrel (1893) ghi là chẹn và dịch tiếng Pháp là serer (tức xương hom bị chẹn lại). Câu này có nghĩa là già kén (kén chồng) thì lấy chồng muộn (vãn hôn) và dễ mắc bệnh chẹn hom. Một số thầy thuốc có nói bệnh chẹn hom là bênh khi sinh nở lần đầu, xương hom – không giãn nở to, khó sinh và dễ chết cả mẹ lẫn con. Vì vậy, ngày trước có bài thuốc chữa bệnh chẹn hom để làm cho dây chằng dễ giãn khi đẻ. Nếu hiểu như vậy thì câu thành ngữ này khuyên phụ nữ đừng kén chọn quá dễ nguy hiểm đến tính mệnh.

Câu thành ngữ này cũng còn có cách giải thích khách như : Kén là kén tằm (danh từ) nếu để kén đã bị bướm cắn thủng (già kén) thì khó kéo tơ. Cách giải thích này rất xa với nghĩa ta thường hiểu.

39. Giấy rách phải giữ lấy lề:

Sách chữ nho ngày trước thường phải đóng lề ở gáy để kết chặt các tờ thành quyển. Khi viết, ở phần lề được để trắng, rông độ 3 centimet theo chiều dọc. Trong quyển sách, lề là phần gốc, nếu lề bị hỏng thì toàn quyển sách sẽ bung ra hết. Dù giấy có rách, phần gốc vẫn cần bảo tồn.

Câu thành ngữ này khuyên ta nên giữ vững truyền thống, nề nếp của gia đình. Lề từ nghĩa đen đã được mở rộng để chỉ những phong tục tốt đẹp trong câu “Đát có lề, quê có thói”.

40. Gió táp mưa sa:

Thành ngữ này có 2 nghĩa : nghĩa hẹp chỉ sự vất vả ở đời. Nhưng trong văn học, gió táp mưa sa lại dùng để chỉ người có tài làm câu thơ, tứ thơ đều nhanh như gió mưa do câu Phong vũ thôi thi tứ (tứ thơ đẩy đến ào ạt như gió mưa).

Tay tiên gió táp mưa sa

Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.

(Truyện Kiều)

41. Gương vỡ lại lành:

Thành ngữ này nói ý hàn gắn, đoàn tụ, sự thay đổi từ xấu thành tốt trong đời sống.

Điển tích xưa chép câu chuyện như sau : Từ Đức Ngôn yêu công chúa Nhạc Xương nhưng vì loạn lạc, hai người phải xa nhau. Họ bẻ đôi chiếc gương, mỗi người giữ một nửa. Về sau, Đức Ngôn lên kinh đô, thấy có người bán mảnh gương vỡ. Nhờ manh mối đó, Đức ngôn đã tìm được người yêu, hai mảnh chắp lại thành gương cũ.

Bây giờ gương vỡ lại lành

Khôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi.

(Truyện Kiều)

Đời ta gương vỡ lại lành

Cây khô cây lại đâm cành nở hoa.

(Tố Hữu)

42.Da mồi tóc bạc:

Thành ngữ này dùng để miêu tả những người cao tuổi. tóc bạc là tóc trăng như bạc. Da mồi là da bị vết lốm đốm, thường có màu nâu như mai con đồi mồi. Đồi mồi thuộc họ rùa sống ở ven biển, mai có hoa rất đẹp, dùng làm lược hoặc kẹp tóc.

Tóc quăn chải lược đồi mồi

Chải đứng chải ngồi quăn vẫn hoàn quăn

(Ca dao)

43. Dốc bồ thương kẻ ăn đong:

Nông dân thường đựng thóc vào bồ. Dốc bồ là nhà hết thóc. Khi đó mới thương những người đi đong gạo ăn hằng ngày. Câu này ý nói có cùng cảnh ngộ thì mới thương nhau, dễ thông cảm với nhau.

44. Dốt đặc cán mai – Dốt có chuôi:

Mai là dụng cụ dùng để đào đất. Cán mai thường làm bằng táu, một thứ gỗ rất cứng để khi bẩy đất không bị gãy cán. Dốt đặc cán mai ý nói đầu óc bị đặc như cán mai, không có chỗ để nhét chữ vào được.

Dốt có chuôi (dốt co đuôi) là do điển tích xưa. Một thầy đồ được mời đến cúng cho gia chủ tên là Tròn. Thầy không biết viết chữ Tròn nên khoanh một vòng. Có kẻ tinh nghịch sổ thêm một nét thành cái gáo. Gáo dừa thường có chuôi (cán) dùng để cầm. Khi cúng, thầy đọc tên là gáo làm cho gia chủ bực mình.

45. Đanh đá cá cày:

Câu thành ngữ này có nghĩa là ương ngạnh, cứng cỏi, không chịu thua kém ai. Cá cày là cái cá (làm bằng tre hoặc gỗ, to bằng cái cán dao, hình như con cá) dùng để nâng bắp cày lên xuống khi muốn cày nông hoặc sâu. Cá cày tuy nhỏ nhưng điều khiển được cả lưỡi cày.

46. Đánh giáp lá cà:

Câu này ai cũng hiểu là đánh nhau mặt đối mặt, hai bên giáp sát vào nhau. Từ điển Việt Nam của hội Khai trí tiến đức giải nghĩa giáp lá cà : “nơi quân hai bên xông vào đâm chem. nhau”. Từ giáp này hiện nay vẫn dùng : Hai nhà ở giáp nhau. Hai người giáp mặt nhau.

Nhưng lá cà là gì ? Có người giải thích : Ngày Xưa, trong chiếc áo của ta có dùng nhiều từ lá. Lá sen là bộ phận đệm phía trong vai áo để mặc được bền. Miếng vải này hình giống lá sen. Lá xoài là một miếng vải đệm bông, lòng vào cổ và tỏa ra hai vai. Phu khiêng kiệu, khiêng cáng thường phải có lá xoài để đỡ đau vai và đỡ rách áo. Lá cà là một bộ phận trong áo võ quan. Loại này có hồng tâm bằng đồng đẻ che ngực và một mảnh lá cà để che bụng và hạ bộ. Mảnh này giống hình chiếc lá cà. Trong quần áo hát hội, các nghệ nhân gọi nó là lá cà. Đánh giáp lá cà là mặt đối mặt, các lá cà của hai tướng sát vào nhau.

47. Đánh trống lảng:

Trong lễ tế thần, khi tiến rượu, các tế viên (ông mạnh, ông bồi) phải đi khoan thai, từng bước một, theo điệu nhạc và nhịp trống từ ngoài sân vào trong cung. Khi ở trong cung trở ra, các tế viên phải bước rất nhanh theo nhịp trống dồn nhập gọi là trống lảng (tiếng giục để lảng ra cho nhanh). Sau này, thành ngữ đánh trống lảng được dùng với nghĩa : một người nào đó đang nghe chuyện này thì nói lảng ra chuyện khác, hoặc lảng ra chỗ khác để tránh điều bất lợi cho mình.

48. Đánh trống lấp:

Trong lễ tế thần, khi đọc văn tế, vì kiêng tên húy của thần nên người đọc văn chỉ đọc lẩm nhẩm trong miệng. Tuy vậy, vẫn sợ người ngoài biết tên húy nên khi đọc đến tên và chức tước của thần, người đánh trống còn điểm mấy tiếng trống để làm lấp tiếng người đọc. Đánh trống lúc đó gọi là trống lấp. Ngày nay, thành ngữ này thường dùng để chỉ việc kể lể lôi thôi nhằm lấp liếm câu chuyện chính hoặc che đậy lỗi lầm của mình.

49. Đánh trống qua cửa nhà sấm:

Đây là một thành ngữ bắt nguồn từ điển tích Trung Quốc với nghĩa là : người kém tài chớ qua cửa người giỏi, gần giống thành ngữ “Đừng thi bơi với giải’ (giải là một loài bò sát lớn thường sống ở đầm nước, bơi rất nhanh). Theo điển tích xưa, Ngô Phù Sai đóng đô ở Cô Tô, xây thành có đặt tên cửa là Xà môn (cửa Rắn) để trấn áp nước Việt. Người Việt làm cửa Lôi môn (cửa Sấm) để chống lại. Hễ đánh trống lớn ở cửa Lôi môn thì cửa Xà môn lập tức mở ra để dò xem động tĩnh.

50. Đèo heo hút gió:

Thành ngữ này dùng để chỉ nơi hoang vắng (đi vào nơi đèo heo hút gió). Sinh thời, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã giải thích cho tôi như sau :

Chính là “đèo Neo hút gió” bị nói chệch đi. Ngày trước, đường quốc lộ đi từ Thăng Long lên ải Nam quan phải đi qua đèo Neo (một cái đèo ở gần thị xã Bắc Giang bây giờ). Tiễn những người đi sứ sang Trung Quốc, bạn bè dù thân thiết cũng chỉ đi tiễn đến đèo Neo, đặt rượu tiễn hành rồi quay về. Người đi sứ phải đi vào đoạn đường rừng hoang vắng để lên cửa ải.

Cũng nhân từ đèo Neo (một danh từ riêng) nhà văn Nguyễn Công Hoan còn nói : Lưu Đồn trong bài ca dao : “Ba năm trấn thủ Lưu Đồn” cũng là một danh từ riêng. Thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, chúa Trịnh cho đóng một đồn binh lớn ở phía bắc sông Gianh để canh phòng. Lưu Đồn là một địa danh nay thuộc tỉnh Quảng bình.

51. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn:

Câu tục ngữ này khuyên ta nên tìm học trong thực tế cuộc sống. Lời khuyên này rất quý và sâu sắc.

Ngày là nói về thời gian, đàng (đường) là nói về không gian . Ngày đàng kết hợp tạo nên một nghĩa bao quát là đi vào cuộc sống để học hỏi những tri thức của cuộc sống để nâng cao, mở rộng tầm nhìn, tầm hiểu biết của bản thân mình.

Tại sao lại nói một sàng khôn, mà không nói một thúng khôn, một bị khôn. Nếu suy nghĩ đơn giản thì sàng vần với đàng. Nhưng phải hiểu sàng là gì ? Sàng là một dụng cụ đan bằng tre, hình tròn như cái mâm, nông và thưa. Ở nông thôn, nhà nào cũng có sàng để khi xay thóc xong, dùng sàng để làm sạch trấu và cám, chỉ giữ lại gạo.

Vì vậy, đi trong cuộc sống, không phải thấy điều gì cũng học vì có điều hay điều dở. Chúng ta phải sàng lọc, chỉ học điều hay, điều khôn mà thôi.

52. Đổi thay nhạn yến:

Thành ngữ này để chỉ thời gian một năm. Về mùa đông, chim nhạn (tức hồng nhạn) thường di cư về phía nam để tránh rét (hồng nhạn còn gọi là chim sếu). Về mùa xuân, chim yến (én) bay về. Thành ngữ này giống thành ngữ đông qua xuân tới.

Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.

(Truyện Kiều)

53. Đồng không mông quạnh:

Thành ngữ này được dùng để chỉ một nơi trống trải, vắng lặng gây cho ta cảm giác cô đơn (không là trống trải, quạnh là vắng vẻ).

Trong thành ngữ trên, đồng là danh từ (cánh đồng) thì mông cũng là danh từ mới đối xứng theo cách kết cấu phổ biến của thành ngữ. Tiếng Việt cổ, mông là một bãi trống. (ở vùng nghệ tĩnh còn giữ từ này trong phương ngữ).

54. Đố ai gánh đá vá trời, đan gàu tát biển, ghẹo người cung trăng:

Câu này có 3 thành ngữ : gánh đá vá trời, đan gàu tát biển, ghẹo người cung trăng. 3 thành ngữ này đều nói những điều không thể làm được. Không ai gánh đá vá trời được như nhân vật Nữ Oa trong thần thoại Trung Quốc. (Thuở sơ khai), bầu trời còn thủng lỗ chỗ, bà Nữ Oa đã luyện đá ngũ sắc vá lại bầu trời. (Trích theo sách của Hoài Nam Tử). Nhiều như nước biển mà dùng gàu để tát thì tát sao cạn. Người cung Trăng chỉ Hằng Nga thì sao mà ghẹo được.

Các thành ngữ này khuyên ta đừng có làm điều viển vông, không tưởng. Muốn thành công ở đời cần có óc thực tế.

55. Đơn thương độc mã:

Thương là ngọn giáo, mã là ngựa. Thành ngữ này nghĩa gốc là một giáo một ngựa dùng để chỉ sự đơn độc, lẻ loi trong khi chiến đấu với khó khăn nguy hiểm, không có sự hỗ trợ của người khác.

56. Đơm đó ngọn tre:

Đó là đồ dùng đánh cá hình thon dài, miệng có hom, cá chui vào nhưng không chui ra được. Đơm đó phải đơm chỗ có nước chảy. Đơm đó ở ngọn tre thì làm gì có cá.

Câu này chế giễu người nào mong đợi những điều viển vông.

57. Đứng mũi chịu sào:

Khi con thuyền vượt qua ghềnh thác, người đứng ở mũi thuyền, cầm sào chèo chống có vai trò quan trọng và phải chịu gian khổ nguy hiểm.

Từ nghĩa này, thành ngữ đứng mũi chịu sào chỉ công việc quan trọng, gánh vác nhiệm vụ nặng nề, đương đầu với gian khổ vì lợi ích chung.

Ca dao có câu :

Đôi ta lên thác xuống ghềnh

Em ra đứng mũi cho anh chịu sào.

(phải hiểu là vợ và chồng cùng đứng mũi chịu sào, cùng chung gian khổ, cùng đồng tâm hiệp lực để vượt khó khăn, không nên hiểu là chồng trút khó khăn cho vợ).

58. Đường vòng hay tối, nói dối hay cùng:

Đi đường vòng thì xa có khi trời tối mà chưa đến nơi. Nói dối thường gặp chỗ cùng, bế tắc không dối ai được nữa.

Câu này khuyên ta nên đi đường thẳng, không đi ngang về tắt ý khuyên làm những việc quang minh và nói lời ngay thật.

59. Cạn tàu ráo máng:

Máng là dụng cụ đựng thức ăn cho lợn và gia súc (máng phải kín xung quanh để đổ thức ăn loãng không chảy ra ngoài). Tàu cũng là dụng cụ dùng đựng cỏ cho ngựa, voi (về sau tàu được mở rộng nghĩa, chỉ chuồng nhốt voi, ngựa).

Thành ngữ này lúc đầu chỉ sự chăm sóc thiếu chu đáo đối với vật nuôi vì tàu và máng không có thức ăn. Về sau, thành ngữ này chỉ sự đối sử tàn nhẫn, thiếu tình nghĩa giữa người với người (ăn ở với nhau cạn tàu ráo máng)

60. Cầu toàn trách bị:

Thành ngữ này có nghĩa mong muốn được hoàn toàn, được đầy đủ, không còn thiếu thứ gì. Điều mong muốn này rất khó đạt được trong thực tế. Vì vậy, mọi người thường nói “đừng nên cầu toàn trách bị nữa”.

Cầu : mong, muốn ; trách : đòi hỏi ; toàn, bị : vẹn toàn, trọn vẹn (Ví dụ : Ông ấy làm việc gì cũng cầu toàn trách bị).

61. Chạy như cờ lông công:

Ngày trước, trên đường thiên lí có các trạm, các cung. Ở đây, các phu trạm phải chuyển công văn từ trạm này tới trạm khác. Nếu công văn khẩn (hỏa tốc) thì người phu trạm phải mang theo một sợi lông đuôi của con công và phải chạy thật nhanh (về sau, thiếu lông công, phải thay bằng lông gà có buộc cục than).

Nhân dân thấy trên đường, các phu trạm chạy từ cung này đến cung kia nên có thành ngữ này để diễn đạt ý “chạy rối rít, chạy loạn xạ”.

62. Chín chữ cù lao:

Thành ngữ này thường dùng để chỉ công lao khó nhọc của bố mẹ. (Cù là siêng năng, lao là khó nhọc). Chín chữ cù lao ấy là :

Sinh : đẻ, cúc : nâng đỡ, phủ : vuốt ve, súc : cho bú mớm lúc nhỏ, trưởng: nuôi cho lớn, dục : dạy dỗ, cố : trông nom săn sóc, phục : xem tính nết mà dạy bảo cho thành người tốt, phúc : giữ gìn.

Trong Truyện Kiều có câu :

- Duyên hội ngộ, đức cù lao

Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn.

- Nhớ ơn chin chữ cao sâu

Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.

63. Chân ướt chân ráo:

Thành ngữ này do phong tục rước dâu ngày trước tạo nên. Khi cô dâu bước chân về nhà chồng, mẹ chồng ra đỡ nón cho cô dâu, nhúng chân cô dâu vào một chậu nước để rửa làm phép (trong chậu có bỏ mấy đồng tiền ngầm chúc tiền của sẽ vào như nước). Sau đó, cô dâu phải bước qua một chậu than hồng (để trừ ma quỷ) trước khi vào buồng.

Vì vậy, thành ngữ này có nghĩa là : thời gian chưa lâu (cô ấy mới chân ướt chân ráo về nhà chồng).

64. Chân le chân vịt:

Le là giống biết bay, vịt là giống không biết bay chỉ lạch bạch đứng một chỗ. Câu này ý nói nửa muốn đi, nửa muốn ở.

65. Chim ra rang:

Ràng là từ cổ, có nghĩa là chuồng : Một số nơi còn dùng từ ràng trâu để chỉ chuồng trâu. Chim ra rang là chim đã đủ lông đủ cánh, mới ra khỏi chuồng (tức chim non). Hiện nay, ta dùng từ ràng buộc nghĩa gốc là nhốt vào chuồng và cột chặt.

66. Cho bạc cho tiền không bằng cho nghiên cho bút:

Câu tục ngữ này nói lên truyền thống hiếu học của dân ta. Nghiên bút dùng để chỉ việc học hành. Nuôi con học hành đến nơi đến chốn để tạo cho con thành người hữu ích, có đạo đức còn hơn cho con tiền bạc. Tiền bạc dù nhiều thì tiêu cũng hết (miệng ăn núi lở). Nếu cho con tri thức thì không bao giờ hết vì tri thức gắn liền với nghề nghiệp.

Trong thời đại hiện nay, câu này càng có giá trị vì thế kỉ XXI là thế kinh tế tri thức.

67. Con rồng cháu tiên:

Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân là giống rồng, Âu Cơ là giống tiên, sinh ra một trăm người con. Sau đó, Lạc Long Quân đem 50 con xuống vùng biển, Âu Cơ đem 50 con lên núi. Số người này đã lập nghiệp tạo nên các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam. Thành ngữ này nói lên nguồn gốc và lòng tự hào dân tộc.

68. Con cà con kê:

Nông dân ta thường reo hạt cà, hạt kê thành từng đám. Khi đến tuổi trồng, người ta nhổ lên, bó từng bó nhỏ gọi là con, rồi mới đem cấy ở ruộng. Công việc trồng cà, trồng kê rất lâu, rề rà, vì phải tách ra từng cây giống trước khi cấy vào luống. Vì vậy thành ngữ này thường dùng với từ “kể lể con cà con kê suốt cả buổi” để chỉ thói quen nói dai, kể lể dài dòng, hết chuyện này đến chuyện khác.

69. Có công mài sắt có ngày nên kim:

Đây là một câu tục ngữ rất phổ biến, khuyên mọi người phải có ý chí bền bỉ, kiên nhẫn thì dù việc khó đến đâu cũng thành công.

Chuyện xưa kể rằng Lí Bạch thuở nhỏ hay ham chơi, ít chịu khó học hành. Một hôm, cậu thấy một bà già đang ngồi bên tảng đá để mài một thanh sắt. Cậu hỏi thì bà trả lời : “Mài thanh sắt để làm thành cái kim khâu cháu ạ !” Cậu hỏi : “Liệu hôm nay có xong không hả cụ ?” Bà già trả lời : “Hôm nay không xong thì ngày mai mài tiếp. Tháng này không xong thì tháng sau mài tiếp”.

Thấy vậy, Lí Bạch chợt hiểu ra và từ đó dốc tâm học tập. Về sau, Lí Bạch học giỏi, trở thành một nhà thơ nổi tiếng đời Đường Trung Quốc.

70. Công dã tràng:

Dã tràng là một con vật nhỏ, giống hình con cáy, chạy rất nhanh, sống ở bãi cát ven biển. Dã tràng thường dùng hai càng để xe cát và ăn các chất hữu cơ có trong cát. Cát bị xe thành từng viên nhỏ như hạt đu đủ, mỗi khi có sóng biển tràn lên thì tan ra hết. Vì vậy mọi người cho rằng dã tràng làm một việc vô ích. Ca dao có câu :

Dã tràng xe cát biển Đông

Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì.

Từ đó, thành ngữ này dùng để chỉ một việc làm phí công sức mà không có ích lợi.

Cổ tích của ta cũng có chuyện Dã Tràng có viên ngọc nghe được tiếng nói của chim. Sau viên ngọc bị Long vương lấy mất nên Dã Tràng cứ ở ven biển đào cát để tìm lại viên ngọc.

71. Công như công cốc:

Cốc là một loài chim mình đen như quạ, có tài lặn dưới nước để bắt cá. Nhiều người dân chài đã thuần dưỡng cốc để kiếm cá cho chủ. Học cho Cốc đeo một chiếc vòng bằng ddoongfowr cổ. Hễ mò được cá nhỏ, cốc có thể nuốt được. Nhưng nếu bắt được cá to , cốc đành chịu. Chủ nuôi sẽ được cá to đem bán. Thành ngữ này nói lên ý tốn công sức mà không được hưởng thành quả.

72. Của người bồ tát, của mình lạt buộc:

Vế thứ hai “của mình lạt buộc” thì ai cũng hiểu và giữ khư khư, không chịu rời cho ai đồng nào. Nhưng còn vế đầu “của người bồ tát” thì bồ tát nghĩa là gì ? Có nhiều cách giải thích khác nhau.

1. Theo trong kinh Phật, bồ tát là bậc tu hành đã đắc đạo, có thể lên ngôi như Phật nhưng vẫn náu lại nơi hạ giới để cứu nhân độ thế. Ông Bồ Tát rất phóng tay cứu giúp mọi người.

2. Có người cho rằng bồ tát là nói chệch của từ bố tát. Bố từ Hán có nghĩa là tung ra (như trong bố thí). Tát từ Hán có nghĩa là buông thả (bố tát là tháo tung ra). Dù giải thích cách nào thì nghĩa của vế đầu vẫn là : “của người thì phung phí rộng rãi” để đối lập với vế sau là bo bo giữ cảu mình.

73. Cữ gió tuần mưa:

Theo cách chia thời gian ngày trước, một cữ là 7 ngày, một tuần là 10 ngày. Ngày nay vẫn còn nói “Chị ấy mới ở cữ”, tức mới sinh con được một vài cữ. Một tháng chia ra ba tuần : thượng thần (10 ngày đầu tháng), trung tuần (10 ngày giữa tháng), hạ tuần (10 ngày cuối tháng).

Câu này nói ý nhớ người thân đi xa vất vả.

Não người cữ gió tuần mưa

Một ngày nặng gánh tương tư một ngày

(Truyện Kiều)

74. Cười như nắc nẻ:

Nắc nẻ là loại côn trùng hình như con bướm, ban đêm hay bay vào nơi thắp đèn, luôn đập cánh, xè xè trên vách. Thành ngữ này ý nói cười liên tiếp không dứt. (Có sách giải nghĩa cười giòn giã là không chính xác).

75. Cưỡi ngựa xem hoa:

Câu này có nghĩa là qua loa, đại khái, không tìm hiểu kĩ. Sở dĩ có thành ngữ này cũng là do câu chuyện sau : Một chàng công tử chân bị què muốn đi xem mặt vợ. Không ngờ cô vợ tuy đẹp nhưng bị sứt môi. Người làm mối cho chàng công tử cưới ngựa đi qua cổng và dặn cô gái đứng ở cổng, tay cầm bong ho ache miệng. Hai bên đồng ý kết hôn. Khi cưới mới biết các tật của nhau.

76. Ba voi không được bát nước xáo:

Trong nhiều từ điển đều giải thíchnghĩa là “nói khoác, không đúng sự thật”, hoặc “huênh hoang, hứa nhiều nhưng không làm đúng như lời đã hứa”.

Cơ sở cho cách hiểu trên là sự tương phản về khối lượng. Một bên là voi, một loài thú rất lớn (thậm chí là ba voi, hoặc mười voi để tăng về khối lượng) và một bên là bát nước xáo, một lượng rất ít. Đó là nghĩa bóng của thành ngữ này.

Không một người Việt nào hiểu sai thành ngữ trên (ví dụ hiểu thịt voi không ngon cho nên nước xáo nhạt). Nhưng về nghĩa thực (nghĩa đen) thì ít người hiểu rõ. Trong bài “Kể chuyện về loài voi” của Bá Thành (Tuần tin tức số 15-1993) có một thông tin rất đáng chú ý : “Thịt voi là loại thịt săn, chắc, đặc biệt là thịt ở vòi. Khi nấu thịt voi dù có đổ nhiều nước, thịt nở ra vẫn hút hết nước”. có lẽ nhờ tính chất hút rất nhiều nước của thịt voi mà chúng ta hiểu rõ thêm về nghĩa đen của thành ngữ này vì đã mấy ai được ăn thịt voi, luộc thịt voi mà biết rõ.

(Theo Hà Quang Năng)

77. Bán chỗ nằm, mua chỗ ngồi:

Câu này cũng gần nghĩa với câu “Bán gia tài mua danh phận”. ngày trước, ở nông thôn, người ta chuộng chỗ ngồi ở chốn đình trung khi hợp làng. Nhiều người bỏ tiền mua một chức Nhiêu, chức Xã để có một chỗ ngồi, rồi lại phải khao vọng tốn kém. Vì thế có người phải bán cả nhà, đất để có một danh vị hão. Chỗ nằm tức là nơi nhà ở, chỗ ngồi tức là góc chiếu nơi đình trung.

78. Bạn tri âm:

Tri âm nghĩa là hiểu được tiếng đàn , nghĩa rộng là hiểu được long mình. Tong truyện “Kim cổ kì quan” của Trung Quốc có ghi lại một tình bạn hiếm có giữa Bá Nha và Chung Tử Kì. Bá Nha làm quan, một lần đi thuyền về quê, ghé đậu vào một bến sông. Trong đêm trăng, Bá Nha đem đàn ra gảy.Vừa lúc đó, Tử Kì đi qua, nghe tiếng đàn liền dừng lại. Thấy có người mải mê nghe tiếng đàn, Bá Nha liền mời xuống thuyền. Tử Kì là người sành nghe đàn. Khi Bá Nha nghe đến núi cao thì Tử Kì khên. “Cao vòi vọi như núi Thái Sơn”. Khi Bá Nha nghe đến sông nước thì Tử Kì khen “mênh mông như Trường Giang, Hoàng Hà”.

Thấy có người hiểu sâu được tiếng đàn của mình, Bá Nha liền kết làm an hem và hỏi về gia cảnh. Tử Kì thưa còn có mẹ già nên hàng ngày phải đi đốn củi để bán lấy tiền nuôi mẹ. Bá Nha từ biệt Tử Kì để xuôi thuyền về quê và hẹn một tháng sau, khi trở lại nhiệm sở sẽ nghé thăm. Đến hẹn, Bá Nha tìm đến thì Tử Kì đã qua đời, chỉ còn mẹ già. Bá Nha mời mẹ Tử Kì về ở với gia đình mình và phụng dưỡng rất chu đáo. Từ ngày Tử Kì mất, Bá Nha treo đàn vì mất bạn tri âm.

Thành ngữ của ta còn có các câu nói về tình bạn như “bạn cố tri” (bạn hiểu nhau từ lâu), “bạn nối khố” (bạn từ thuở hàn vi chia nhau cả cái khố vải).

79. Bầu dục chấm nước cáy (chấm mắm cáy):

Bàu dục là món ăn ngon và bổ trong bộ lòng lơn. Nước cáy là thứ nước mắm ướp bằng con cáy, thường nặng mùi, có sắc đục, chấm không ngon. Bầu dục mà đem chấm nước cáy thì phí mất cả chất ngon của bầu dục.

Đại ý câu này nói lên hai đối tượng không phù hợp, không cân xứng. Cũng còn có ý chê người có miếng ngon mà không biết cách ăn.

Câu này thường bị nói lầm là “dùi đục chấm nước cáy”.

80. Bạo hổ bằng hà:

Thực ra phải nói là bạo hổ băng hà. Bạo hổ là tay không bắt hổ, băng hà là không có thuyền mà dám vượt qua sông lớn. Thành ngữ này ý nói táo bạo nhưng mạo hiểm.

81. Bằng cái sẩy nẩy cái ung:

Sẩy là nốt rôm nhỏ nổi trên da. Nếu không biết giữ gìn thì có thể trở thành cục to nguy hiểm (cái ung, cái nhọt). Câu này khuyên ta đừng có coi thường việc nhỏ hoặc để chỉ một tai nạn lớn từ việc nhỏ gây nên.

82. Bĩ cực thái lai:

Kinh dịch có 64 quẻ, trong đó có quẻ bĩ và quẻ thái. Quẻ bĩ tượng trưng cho sự bế tắc, không thuận lợi, quẻ thái tượng trưng cho sự thuận lợi, hanh thông. Đây cũng là một quan điểm biện chứng, lạc quan. Khi nào sự bế tắc đến cùng cực (bĩ cực) thì sự hanh thông, thuận lợi sẽ tới (thái lai). Câu này nói ý hết khổ đến sướng, giống như câu “khổ tận cam lai” (khổ là đắng, cam là ngọt, hết thời cay đắng thì đến thời ngọt bùi).

83. Bố vợ là vớ cọc chèo:

Trong tiếng Việt hiện đại, vớ là danh từ có nghĩa là bít tất (miền Nam vẫn dùng), vớ là động từ có nghĩa là tóm được, níu lấy. (chết đuối vớ được cọc, nạ dòng vớ được trai tơ).

Cả hai nghĩa trên đều không khớp với câu tục ngữ này. Vớ trong câu tục ngữ là từ cổ, hiện nay chỉ một số vùng còn dùng như ở Tam Kì (Quảng Nam). Vớ là một vật kết bằng thừng, giống hình số 8, một nửa lồng vào mái chèo còn nửa kia lồng vào khấc ở đầu cọc chèo. Nếu không có cái vớ thì không chèo được, nếu buộc chặt mái chèo vào cọc chèo cũng không chèo được. Câu này có nghĩa là : tình cảm giữa bố vợ và chàng rể dù có buộc nhưng không chặt chẽ, khăng khít như con đẻ. Ý này rất hợp với câu thứ hai “Mẹ vợ là bèo trôi sông”.

Bèo trôi sông cũng kết thành mảng nhưng kết không chặt, sóng to gió cả cũng dễ tan.

Từ câu tục ngữ trên nên mới có từ “bạn cọc chèo” để chỉ hai anh rể lấy hai chị em ruột (bạn đồng hao).

84. Bợm già mắc bẫy cò ke:

Bẫy cò ke là loại bẫy thô sơ dùng để bẫy chim. Bẫy bằng tre, có cần và lẫy. Mồi gắn với lẫy. Hễ chim ăn mồi thì lẫy bật ra và cần tre sẽ sập xuống.

Bợm già là những tay lọc lõi trong nghề lừa đảo, thế mà có khi còn mắc bẫy, mắc những mưu lừa tầm thường vì thiếu cảnh giác.

(Cò ke có nhiều cách giải thích. Cò ke là một loại quả dùng làm mồi. Cò ke là chiếc cò có lẫy).

85. Vén tay áo sô đốt nhà tang giấy

Áo sô là áo của người có đại tang (tang bố mẹ), nhà tang giấy là nhà làm bằng giấy có khung bằng nứa để đậy trên quan tài khi làm lễ tang. Khi ra đến huyệt, sau khi chôn cất xong, người ta thường đốt nhà tang giấy. Vén tay áo sô thì không khó gì vì áp sô bằng vải mỏng và rộng tay. Đốt nhà tang giấy cũng rất dễ. Câu này ý nói làm một việc rấ dễ dàng chóng xong. (Thời xưa, chỉ nhà giàu mới làm nhà tang giấy. Các nhà thường dân dùng chung nhà tang bằng gỗ của phe giáp).

86. Vênh váo như khố rợ phải lấm

Câu này thường bị nói nhầm thành “Vênh váo như bố vợ phải đấm”.

Ngày trước, nhiều người nghèo đến mức không có vải để đóng khố, phải dùng vỏ một loại cây, ngâm nước rồi đập thành mảng cho mềm để đóng khố (chăn sui khố rợ). Đóng khố có yêu cầu là kín hai bên nhưng khố rợ khi lấm bùn thì không mêm fnhuw vải mà cứng lại, tạo nên sự vênh váo.

Trong một cuộc tọa đàm ở Viện khoa học Giáo dục (1965), nhà văn Nguyễn Công Hoan cũng tán thành cách giải thích này nhưng ông còn nói thêm câu “Vênh váo như bố vợ cậu ấm”. Cậu ấm là con quan, người được thông gia với quan cũng dễ lên mặt, dễ vênh váo với thiên hạ lắm chứ. Chúng tôi xin nêu để bạn đọc tham khảo thêm.

87. Vung tay quá chán

Vung là động từ chỉ hoạt động nhanh, mạnh khi ném một vật gì. Vung còn đi với các từ vung vãi, vung phí.

Quá chỉ ý vượt quá hơn mức bình thường như thái quá, quá trớn. Thành ngữ này nói lên sự vung phí tiền của thái quá so với mức cần thiết và có nhiều đặc điểm chung với thành ngữ “Ném tiền qua cửa sổ”. Song thành ngữ Vung tay quá chán có ý nghĩa và cách dùng rộng hơn nghĩa là không chỉ nói về chi tiêu hoang phí mà còn nói về bất kì sự chi dùng hoang phí nào.

88. Xắn tay quai cồng

Cồng là một loại chiêng nhỏ dùng để làm hiệu lệnh. Quai cồng thường là loại dây thừng to và bề. Khi đánh, một tay xách quai, một tay dùng để gõ vào mặt cồng. Người phụ nữ xưa mặc váy dài. Khi làm việc, họ phải buộc một dây thừng vào bụng và giắt cặp váy vào dây cho váy cao lên khoảng đầu gối để đỡ vướng.

Thành ngữ này dùng để chỉ những người phụ nữ tháo vát, lam lũ. Cũng có khi dùng chỉ những người phụ nữ đanh đá.

Nhà thơ Nguyễn Khuyến trong câu đối khóc vợ cũng có hình ảnh này : “Nhớ bà xưa, xắn tay quai cồng, chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc”.

89. Xấu như ma lem

Ở Trung Quốc ngày xưa có 4 người đẹp và 5 người xấu được ghi trong sử sách và truyền vào nước ta.

Bốn người đẹp là : Tây Thi (đòi Xuân Thu), Chiêu Quân (đời Hán), Điêu Thuyền (đời Tam Quốc), Dương Quý Phi (đời Đường).

Năm người xấu nhất nước là : Mô Mẫu (vợ hoàng đế Trung Hoa cổ đại)

Chung Vô Diệm (vợ vua Tề Tuyên Vương thời Chiến Quốc).

Mạnh Quang (vợ danh sĩ Lương Hồng đời Hậu Hán)

Nguyên nữ (vợ danh sĩ Hứa Doãn đời Đông Tấn).

Hoàng Thi (vợ Khổng Minh Gia Cát Lượng).

Trong số này, Chung Vô Diệm là xấu nhất. Bà chính họ là Chung Li, tên là Xuân, người đất Vô Diệm, tỉnh Sơn Đông (chính bà này được người đời gọi xấu như ma lem).Sách xưa ghi lại hình dáng bà như sau : tóc đỏ, mắt xanh, môi dày, miệng rông, bụng phệ, lưng gù, da sạm.

Tại sao Tề Tuyên Vương lại lấy bà này làm chính phi ? Bà rất tài trí tinh thông văn võ. Năm 40 tuổi, bà xin gặp mặt vua. Chỉ trong một buổi đối thoại, Tề Tuyên Vương đã bị thuyết phục. Khi nhà vua hỏi về việc nước ba fthuwa “Nước Tề bị nước Tấn uy hiếp ở phía tây, nước Sở uy hiếp ở phía nam, đó là nguy cơ thứ nhất. Nhà vua làm nhọc sức dân, hao tiền tốn của, đó là nguy cơ thứ hai/ Trong triều hiếm người hiền, trọng kẻ nịnh, đó là nguy cơ thứ ba. Đấng quân vương ham mê tửu sắc, không sửa sang chính trị trong nước, đó là nguy cơ thứ tư”.

Trước những lời thẳng thắn, cương trực của Chung Li, Tề Tuyên Vương đã bừng tỉnh và nói : “Nếu không có lời nói của nhà ngươi thì quả nhân không bao giờ biết được lỗi lầm của mình”. Vua liền lập Chung Vô Diện làm chính phi để giúp mình trông coi việc nước.

Câu chuyện này nhập vào nước ta cũng có ý sâu xa, vì bà này tuy nhung nhan xấu nhưng công, ngôn, hạnh lại nổi bật.

90. Xập xí xập ngầu

Đây là một thành ngữ gốc Hán, do Hoa kiều ở Quảng Đông, Phúc Kiến dùng và đã nhập vào kho thành ngữ tiếng Việt.

Hoa Kiều phát âm là “xập xí xập ngầu” nhưng nếu đọc theo âm Hán Việt là “tập tứ thập ngũ” (mười bốn mười lăm). Nghĩa của thành ngữ này là : mười bốn nói là mười lăm, mười lăm nói là mười bốn, không minh bạch rõ ràng. Tiếng Việt có từ “ù xịa” cũng dùng để chỉ khái niệm này.

 LỰA GIÓ BẺ MĂNG

1.Câu chuyện xuất xứ

Ở một góc rừng nọ, nơi mà rất ít muông thú biết đến, họ hàng nhà tre sống quây quần đoàn tụ với nhau. Trong số những cây tre đẹp nhất phải kể đến là Điền Trúc. Nó có thân hình cao lớn vượt trội, nước da xanh thẫm bóng mượt, năm nào nó cũng cho ra đời 3 đến 4 lứa măng mũm mĩm, chóng lớn khác thường.

Mùa hè đã đến, những mầm măng lún phún mọc từ đầu xuân nay đã khoác tấm áo vàng cứng cáp vươn cao mình trong ánh nắng ấm áp. Điều lạ là năm nay, Điền Trúc chỉ ươm được một chồi măng duy nhất. Nó không hề buồn rầu mà lại hết sức tự hào vì chồi măng lớn nhanh như thổi, thân măng dong dỏng cao hơn đầu người, lớp vỏ ngoài nõn nà. Điền Trúc thường xuyên chăm chút, che chở cho búp măng non với một niềm tin mãnh liệt rằng không lâu nữa búp măng sẽ trở thành một cây tre đẹp nhất rừng.

Một hôm, có chú gấu con vì ham chơi nên lạc vào nơi họ hàng nhà tre sinh sống. Gấu con ồ lên kinh ngạc khi phát hiện ra nơi đây, ngập tràn những búp măng đang đua nhau mọc mơn mởn trông thật hấp dẫn, mà măng lại là món khoái khẩu của chú. Điền Trúc không thèm bận tâm và vẫn say sưa ca hát. Nó nghĩ rằng búp măng của mình cao lớn thế, con gấu bé tẹo kia làm sao với tới mà bẻ gãy ngọn được.

Và tiếng hát của Điền Trúc đã thu hút sự chú ý của Gấu con. Nó lập tức chạy tới chỗ búp măng cao lớn với ý định sẽ bẻ mang về làm thức ăn cho cả gia đình. Nhưng dù cố lay hết sức thì gốc măng cũng chỉ hơi nghiêng một chút. Đang trong lúc bí, bỗng nhiên gấu con thấy rừng cây xào xạc khác thường, một cơn gió lớn không biết ở đâu bất ngờ ào qua khiến mọi vật đều nghiêng ngả. Đúng lúc chồi măng non cúi người thấp xuống để né gió, gấu con bất thần nhào tới víu lấy ngọn măng cố sức bẻ thật mạnh, chồi măng lập tức bị gãy phập xuống gần gốc. Điền Trúc chưa kịp nhận ra thì gấu con đã hớn hở ôm cả củ măng chạy biến về nhà.

Nhờ có gió, gấu con mới bẻ được măng, ấy là việc mượn sức người khác để đem lợi về cho mình. Nhưng mượn sức còn phải biết lựa đúng lúc mà hành động mới thắng lợi, đó là việc nhanh nhạy chớp thời cơ.

Phần 1

Ăn như phát tấu

Tấu là loại dao to bản, có cán dài, khoảng một mét, dùng để phát bờ rào. Dùng tấu để phát bờ rào thì nhanh, thẳng đều và có tiếng xoàn xoạt. Người nào ăn nhanh được gán cho thành ngữ này. (Tấu còn là một loạivũ khí dùng cho kị binh xưa. Loại này có cán dài bằng tầm cao của ngựa để vừa cưỡi ngựa vừa chiến đấu, ta gọi là mã tấu).

Ăn như mỏ khoét

Câu này thường dùng để chê người hay ăn quà vặt, ăn luôn mồm. Nhưng mỏ khoét là gì ? Có sách giải thích mỏ khoét (mỏ nhác) là cái mỏ khoan, khoét gỗ lem lém. Có người lại giải thích mỏ khoét là một loại chim, chuyên tìm các trái chin như ổi, chuối để khoét.

Ăn như hùm đổ đó

Hùm (hổ) là một giống vật rất khôn. Khi không kiếm được mồi, hùm thường mò đến chỗ nước chảy, ở đây người dân thường dùng đó để đơm cá. Khi tìm thấy đó cá, hùm không bắt riêng từng con để ăn mà dốc ngược đó để trút toàn bộ cá vào miệng.

Nếu người nào, không gắp từng miếng mà bưng cả bát trút vào miệng thì nhân dân ta thường dùng thành ngữ này để ám chỉ. Hiểu rộng ra, thành ngữ này dùng để chỉ cách ăn uống thô tục, thiếu văn hóa.

Ăn quà như lái quét

Lái quét là người chuyên quét rác ở chợ. Trước buổi họp chợ và sau khi tan chợ, người lái phải quét để khu chợ được phong quang, sạch đẹp. Các người bán hàng ở chợ, sau mỗi buổi chợ, thường cho lái vài đồng tiền. Vì vậy, lái quét có rất nhiều loại quà : bánh đa, bánh đúc, bánh rán, hoa quả…ăn luôn miệng không hết. Ngày nay, những ai hay ăn quà vặt, ăn luôn miệng thường được gán bằng thành ngữ này.

Ăn vóc học hay

Thành ngữ này được dùng với nghĩa : ăn thì bồi bổ cho thân thể, học thì bồi bổ cho trí tuệ.

Vóc là từ cổ, nay còn dùng trong các từ tầm vóc, sức vóc, vóc ngọc mình vàng. Nếu hiểu vóc là danh từ thì không đối xứng với hay là tính từ. Từ điển Khai trí tiến đức giải nghĩa vóc là lớn người (ăn thì lớn người, học thì hay thêm). Trong thành ngữ này, hiểu vóc là lớn thì hợp lí hơn.

Ăn xổi ở thì

Thành ngữ này có nghĩa là cách sống tạm bợ. Xổi (tiếng cổ) là vội vàng, tạm bợ. Từ xổi còn dùng trong các từ dưa muối xổi, cà muối xổi (muối để mau chua, chóng được ăn). Thì là lúc, chốc lát, còn dùng trong các từ thì giờ, mưa nắng phải thì. Nhân dân ta vốn trọng cách sống lâu bền, thủy chung “một đêm nằm, một năm ở” nên rất ghét cách sống này.

Ăn mày đánh đổ cầu ao

Câu này ý nói đã nghèo khổ lại gặp tai nạn, gần nghĩa với câu “chó cắn áo rách”. Ăn xin được một ít gạo, lúc ra vo gạo ở cầu ao lại vô ý đánh đổ xuống nước, mất hết vì không nhặt được.

Đay là cách nói hình tượng ta thường gặp trong thành ngữ.

Ăn hết đánh đòn, ăn còn mất vợ

Đây là một câu tục ngữ lưu truyền ở miền Nam. Anh chàng thanh niên được ngồi ăn cơm ở nhà bố mẹ vợ tương lai. Anh bị dồn vào thế “tiến thoái lưỡng nan”. Ăn như thế nào mới được chọn làm chàng rể. Có người giải thích : “Ăn hết nghĩa là món ăn nào cũng phải chạm đũa một chút để tỏ vẻ lịch sự, có ý tứ (không phải là ăn hết nhẵn)”. Ăn còn nghĩa là khi gắp, không nên gắp ở giữa đĩa làm cho thức ăn còn lại tóe loe ra xung quanh.

Cách ăn như vậy là “phàm phu tục tử”, không thể làm con rể được.

Câu này có nghĩa bóng là : cái cảnh đi hỏi vợ cục trăm bề, vô ý một chút là bị loại khỏi cuộc đua. Đây là cách giải thích do anh Nguyễn Đức Dân sưu tầm, chưa dám khẳng định vì còn có cách hiểu khác.

Ông Lê Đức Ngưỡng (Thừa Thiên - Huê) lại giải thích câu trên theo một cách khác. Ông dựa vào câu tục ngữ ở quê mình “Ăn thì ăn cho hết, để thì để cho còn, căn không hết, để không còn thì con không gả”

Theo phép lịch sự, không ai muốn ăn đồ thừa của người khác. Vì vậy, nên ăn hết một vài món và để nguyên một vài món (tức là không chạm đũa vào). Như thế hiểu là ăn thì ăn hết, phần để lại thì còn nguyên để có thể dọn cho người khác ăn được.

Không ăn hết cũng chẳng ăn còn (thừa) thì bố mẹ cô gái không thể bắt bẻ được.

Về vấn đề xem chàng rể ăn uống ra sao, chuyện xưa cũng có ghi lại mẩu chuyện lí thú dưới đây :

Tiến sĩ Nguyễn Ân Chiêm cáo hưu, về làng, mở trường dạy học (ở làng Châu Bối, huyện Yên Định, Thanh Hóa). Ông có ba cô gái và có ý định chấm ba chàng rể trong số môn sinh. Hôm đó, ông mời ba chàng tới nhà ăn cơm. (Theo tục xưa, môn sinh không được ngồi ăn cơm cùng mâm với thầy). Mâm cơm chỉ có ba chén nước mắm và ba quả trứng luộc, mỗi người một quả. Trong khi ăn, bà nghè và ba cô gái đứng ở trong buồng quan sát.

Anh khóa làng Ngọc Quang (Nguyễn Đức Hoành) dầm nhỏ quả trứng để ăn dần. Anh khóa làng Phong Cốc (Đỗ Huy Kì) chia quả trứng làm ba, mỗi phần ăn với một bát cơm. Anh khóa làng Vàng (Hà Tông Huân) chỉ lốm một miếng hết quả trứng rồi ăn cơm với nước mắm.

Hôm sau, ông nghè gọi ba cô gái tới và cho phép chọn. Bà nghè có ý chê anh khóa làng Vàng. Nhưng ông nghè nói : “Nó ăn to nói lớn, ăn như vậy thì về sau nó làm được việc lớn đấy”.

Ông nghè nói với ba con gái : “Đứa nào thích thứ gì thì nói”. Cốc là lúa chỉ anh khóa Phong Cốc, Vàng chỉ anh khóa làng Vàng, Ngọc chỉ anh khóa Ngọc Quang.

Cô cả vội thưa : “Lúa nuôi sống người đời, làm ra cỗ để cúng tổ tiên, nên con thích lúa”. Thế là cô được gả cho Đỗ Huy Kì (sau đỗ Thám Hoa).

Cô thứ hai thưa : “Vàng có thể tiêu được còn ngọc chỉ để trang sức”. Cô được gả cho Hà Tông Huân (Đỗ Bảng nhãn năm 1724, đã từng làm Thượng thư bộ binh và Tế Sửu (Hiệu trưởng) trường Quốc Tử Giám). Cô thứ ba được gả cho Nguyễn Đức Hoành (đỗ tiến sĩ cùng khoa với Hà Tông Huân (1724) làm đến chức Đô Ngự sử).

Chuyện vui xưa cũng kể lại câu chuyện kén rể bằng cách mời ăn. Một ông đồ có cô con gái đẹp. Trong vùng có ba anh chàng ngấp nghé xin làm rể. Một hôm tết, ba anh đến chúc thọ. Ông đồ cho dọn mâm cỗ ra, có đủ các món mặn và bánh trái. Ông nói : “Mỗi anh chỉ được ăn một miếng trong mâm cỗ. Ai biết cách ăn thì ta nhận làm rể”.

Chỉ được ăn một miếng thì biết ăn miếng gì đây ? Ba anh suy nghĩ và thực hành mỗi anh một cách. Có anh gắp một miếng thịt mỡ chấm vào bát mật rùi ăn. Cách ăn lạ lùng đó lại thành công. Anh được ông đồ nhận làm chàng rể. Tại soa vậy ? Vì anh là người hiểu biết, rất thuộc tục ngữ : “Đẹp thì vàng son, ngon thì mật mỡ”.

Phần 2

Ba voi không được bát nước xáo

Trong nhiều từ điển đều giải thíchnghĩa là “nói khoác, không đúng sự thật”, hoặc “huênh hoang, hứa nhiều nhưng không làm đúng như lời đã hứa”.

Cơ sở cho cách hiểu trên là sự tương phản về khối lượng. Một bên là voi, một loài thú rất lớn (thậm chí là ba voi, hoặc mười voi để tăng về khối lượng) và một bên là bát nước xáo, một lượng rất ít. Đó là nghĩa bóng của thành ngữ này.

Không một người Việt nào hiểu sai thành ngữ trên (ví dụ hiểu thịt voi không ngon cho nên nước xáo nhạt). Nhưng về nghĩa thực (nghĩa đen) thì ít người hiểu rõ. Trong bài “Kể chuyện về loài voi” của Bá Thành (Tuần tin tức số 15-1993) có một thông tin rất đáng chú ý : “Thịt voi là loại thịt săn, chắc, đặc biệt là thịt ở vòi. Khi nấu thịt voi dù có đổ nhiều nước, thịt nở ra vẫn hút hết nước”. có lẽ nhờ tính chất hút rất nhiều nước của thịt voi mà chúng ta hiểu rõ thêm về nghĩa đen của thành ngữ này vì đã mấy ai được ăn thịt voi, luộc thịt voi mà biết rõ.

(Theo Hà Quang Năng)

Bán chỗ nằm, mua chỗ ngồi

Câu này cũng gần nghĩa với câu “Bán gia tài mua danh phận”. ngày trước, ở nông thôn, người ta chuộng chỗ ngồi ở chốn đình trung khi hợp làng. Nhiều người bỏ tiền mua một chức Nhiêu, chức Xã để có một chỗ ngồi, rồi lại phải khao vọng tốn kém. Vì thế có người phải bán cả nhà, đất để có một danh vị hão. Chỗ nằm tức là nơi nhà ở, chỗ ngồi tức là góc chiếu nơi đình trung.

Bạn tri âm

Tri âm nghĩa là hiểu được tiếng đàn , nghĩa rộng là hiểu được long mình. Tong truyện “Kim cổ kì quan” của Trung Quốc có ghi lại một tình bạn hiếm có giữa Bá Nha và Chung Tử Kì. Bá Nha làm quan, một lần đi thuyền về quê, ghé đậu vào một bến sông. Trong đêm trăng, Bá Nha đem đàn ra gảy.Vừa lúc đó, Tử Kì đi qua, nghe tiếng đàn liền dừng lại. Thấy có người mải mê nghe tiếng đàn, Bá Nha liền mời xuống thuyền. Tử Kì là người sành nghe đàn. Khi Bá Nha nghe đến núi cao thì Tử Kì khên. “Cao vòi vọi như núi Thái Sơn”. Khi Bá Nha nghe đến sông nước thì Tử Kì khen “mênh mông như Trường Giang, Hoàng Hà”.

Thấy có người hiểu sâu được tiếng đàn của mình, Bá Nha liền kết làm an hem và hỏi về gia cảnh. Tử Kì thưa còn có mẹ già nên hàng ngày phải đi đốn củi để bán lấy tiền nuôi mẹ. Bá Nha từ biệt Tử Kì để xuôi thuyền về quê và hẹn một tháng sau, khi trở lại nhiệm sở sẽ nghé thăm. Đến hẹn, Bá Nha tìm đến thì Tử Kì đã qua đời, chỉ còn mẹ già. Bá Nha mời mẹ Tử Kì về ở với gia đình mình và phụng dưỡng rất chu đáo. Từ ngày Tử Kì mất, Bá Nha treo đàn vì mất bạn tri âm.

Thành ngữ của ta còn có các câu nói về tình bạn như “bạn cố tri” (bạn hiểu nhau từ lâu), “bạn nối khố” (bạn từ thuở hàn vi chia nhau cả cái khố vải).

Bầu dục chấm nước cáy (chấm mắm cáy)

Bàu dục là món ăn ngon và bổ trong bộ lòng lơn. Nước cáy là thứ nước mắm ướp bằng con cáy, thường nặng mùi, có sắc đục, chấm không ngon. Bầu dục mà đem chấm nước cáy thì phí mất cả chất ngon của bầu dục.

Đại ý câu này nói lên hai đối tượng không phù hợp, không cân xứng. Cũng còn có ý chê người có miếng ngon mà không biết cách ăn.

Câu này thường bị nói lầm là “dùi đục chấm nước cáy”.

Bạo hổ bằng hà

Thực ra phải nói là bạo hổ băng hà. Bạo hổ là tay không bắt hổ, băng hà là không có thuyền mà dám vượt qua sông lớn. Thành ngữ này ý nói táo bạo nhưng mạo hiểm.

Bằng cái sẩy nẩy cái ung

Sẩy là nốt rôm nhỏ nổi trên da. Nếu không biết giữ gìn thì có thể trở thành cục to nguy hiểm (cái ung, cái nhọt). Câu này khuyên ta đừng có coi thường việc nhỏ hoặc để chỉ một tai nạn lớn từ việc nhỏ gây nên.

Bĩ cực thái lai

Kinh dịch có 64 quẻ, trong đó có quẻ bĩ và quẻ thái. Quẻ bĩ tượng trưng cho sự bế tắc, không thuận lợi, quẻ thái tượng trưng cho sự thuận lợi, hanh thông. Đây cũng là một quan điểm biện chứng, lạc quan. Khi nào sự bế tắc đến cùng cực (bĩ cực) thì sự hanh thông, thuận lợi sẽ tới (thái lai). Câu này nói ý hết khổ đến sướng, giống như câu “khổ tận cam lai” (khổ là đắng, cam là ngọt, hết thời cay đắng thì đến thời ngọt bùi).

Bố vợ là vớ cọc chèo

Trong tiếng Việt hiện đại, vớ là danh từ có nghĩa là bít tất (miền Nam vẫn dùng), vớ là động từ có nghĩa là tóm được, níu lấy. (chết đuối vớ được cọc, nạ dòng vớ được trai tơ).

Cả hai nghĩa trên đều không khớp với câu tục ngữ này. Vớ trong câu tục ngữ là từ cổ, hiện nay chỉ một số vùng còn dùng như ở Tam Kì (Quảng Nam). Vớ là một vật kết bằng thừng, giống hình số 8, một nửa lồng vào mái chèo còn nửa kia lồng vào khấc ở đầu cọc chèo. Nếu không có cái vớ thì không chèo được, nếu buộc chặt mái chèo vào cọc chèo cũng không chèo được. Câu này có nghĩa là : tình cảm giữa bố vợ và chàng rể dù có buộc nhưng không chặt chẽ, khăng khít như con đẻ. Ý này rất hợp với câu thứ hai “Mẹ vợ là bèo trôi sông”.

Bèo trôi sông cũng kết thành mảng nhưng kết không chặt, sóng to gió cả cũng dễ tan.

Từ câu tục ngữ trên nên mới có từ “bạn cọc chèo” để chỉ hai anh rể lấy hai chị em ruột (bạn đồng hao).

Bợm già mắc bẫy cò ke

Bẫy cò ke là loại bẫy thô sơ dùng để bẫy chim. Bẫy bằng tre, có cần và lẫy. Mồi gắn với lẫy. Hễ chim ăn mồi thì lẫy bật ra và cần tre sẽ sập xuống.

Bợm già là những tay lọc lõi trong nghề lừa đảo, thế mà có khi còn mắc bẫy, mắc những mưu lừa tầm thường vì thiếu cảnh giác.

(Cò ke có nhiều cách giải thích. Cò ke là một loại quả dùng làm mồi. Cò ke là chiếc cò có lẫy).

Phần 3

ạn tàu ráo máng

Máng là dụng cụ đựng thức ăn cho lợn và gia súc (máng phải kín xung quanh để đổ thức ăn loãng không chảy ra ngoài). Tàu cũng là dụng cụ dùng đựng cỏ cho ngựa, voi (về sau tàu được mở rộng nghĩa, chỉ chuồng nhốt voi, ngựa).

Thành ngữ này lúc đầu chỉ sự chăm sóc thiếu chu đáo đối với vật nuôi vì tàu và máng không có thức ăn. Về sau, thành ngữ này chỉ sự đối sử tàn nhẫn, thiếu tình nghĩa giữa người với người (ăn ở với nhau cạn tàu ráo máng)

Cầu toàn trách bị

Thành ngữ này có nghĩa mong muốn được hoàn toàn, được đầy đủ, không còn thiếu thứ gì. Điều mong muốn này rất khó đạt được trong thực tế. Vì vậy, mọi người thường nói “đừng nên cầu toàn trách bị nữa”.

Cầu : mong, muốn ; trách : đòi hỏi ; toàn, bị : vẹn toàn, trọn vẹn (Ví dụ : Ông ấy làm việc gì cũng cầu toàn trách bị).

Chạy như cờ lông công

Ngày trước, trên đường thiên lí có các trạm, các cung. Ở đây, các phu trạm phải chuyển công văn từ trạm này tới trạm khác. Nếu công văn khẩn (hỏa tốc) thì người phu trạm phải mang theo một sợi lông đuôi của con công và phải chạy thật nhanh (về sau, thiếu lông công, phải thay bằng lông gà có buộc cục than).

Nhân dân thấy trên đường, các phu trạm chạy từ cung này đến cung kia nên có thành ngữ này để diễn đạt ý “chạy rối rít, chạy loạn xạ”.

Chín chữ cù lao

Thành ngữ này thường dùng để chỉ công lao khó nhọc của bố mẹ. (Cù là siêng năng, lao là khó nhọc). Chín chữ cù lao ấy là :

Sinh : đẻ, cúc : nâng đỡ, phủ : vuốt ve, súc : cho bú mớm lúc nhỏ, trưởng: nuôi cho lớn, dục : dạy dỗ, cố : trông nom săn sóc, phục : xem tính nết mà dạy bảo cho thành người tốt, phúc : giữ gìn.

Trong Truyện Kiều có câu :

- Duyên hội ngộ, đức cù lao

Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn.

- Nhớ ơn chin chữ cao sâu

Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.

Chân ướt chân ráo

Thành ngữ này do phong tục rước dâu ngày trước tạo nên. Khi cô dâu bước chân về nhà chồng, mẹ chồng ra đỡ nón cho cô dâu, nhúng chân cô dâu vào một chậu nước để rửa làm phép (trong chậu có bỏ mấy đồng tiền ngầm chúc tiền của sẽ vào như nước). Sau đó, cô dâu phải bước qua một chậu than hồng (để trừ ma quỷ) trước khi vào buồng.

Vì vậy, thành ngữ này có nghĩa là : thời gian chưa lâu (cô ấy mới chân ướt chân ráo về nhà chồng).

Chân le chân vịt

Le là giống biết bay, vịt là giống không biết bay chỉ lạch bạch đứng một chỗ. Câu này ý nói nửa muốn đi, nửa muốn ở.

Chim ra rang

Ràng là từ cổ, có nghĩa là chuồng : Một số nơi còn dùng từ ràng trâu để chỉ chuồng trâu. Chim ra rang là chim đã đủ lông đủ cánh, mới ra khỏi chuồng (tức chim non). Hiện nay, ta dùng từ ràng buộc nghĩa gốc là nhốt vào chuồng và cột chặt.

Cho bạc cho tiền không bằng cho nghiên cho bút

Câu tục ngữ này nói lên truyền thống hiếu học của dân ta. Nghiên bút dùng để chỉ việc học hành. Nuôi con học hành đến nơi đến chốn để tạo cho con thành người hữu ích, có đạo đức còn hơn cho con tiền bạc. Tiền bạc dù nhiều thì tiêu cũng hết (miệng ăn núi lở). Nếu cho con tri thức thì không bao giờ hết vì tri thức gắn liền với nghề nghiệp.

Trong thời đại hiện nay, câu này càng có giá trị vì thế kỉ XXI là thế kinh tế tri thức.

Con rồng cháu tiên

Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân là giống rồng, Âu Cơ là giống tiên, sinh ra một trăm người con. Sau đó, Lạc Long Quân đem 50 con xuống vùng biển, Âu Cơ đem 50 con lên núi. Số người này đã lập nghiệp tạo nên các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam. Thành ngữ này nói lên nguồn gốc và lòng tự hào dân tộc.

Con cà con kê

Nông dân ta thường reo hạt cà, hạt kê thành từng đám. Khi đến tuổi trồng, người ta nhổ lên, bó từng bó nhỏ gọi là con, rồi mới đem cấy ở ruộng. Công việc trồng cà, trồng kê rất lâu, rề rà, vì phải tách ra từng cây giống trước khi cấy vào luống. Vì vậy thành ngữ này thường dùng với từ “kể lể con cà con kê suốt cả buổi” để chỉ thói quen nói dai, kể lể dài dòng, hết chuyện này đến chuyện khác.

Có công mài sắt có ngày nên kim

Đây là một câu tục ngữ rất phổ biến, khuyên mọi người phải có ý chí bền bỉ, kiên nhẫn thì dù việc khó đến đâu cũng thành công.

Chuyện xưa kể rằng Lí Bạch thuở nhỏ hay ham chơi, ít chịu khó học hành. Một hôm, cậu thấy một bà già đang ngồi bên tảng đá để mài một thanh sắt. Cậu hỏi thì bà trả lời : “Mài thanh sắt để làm thành cái kim khâu cháu ạ !” Cậu hỏi : “Liệu hôm nay có xong không hả cụ ?” Bà già trả lời : “Hôm nay không xong thì ngày mai mài tiếp. Tháng này không xong thì tháng sau mài tiếp”.

Thấy vậy, Lí Bạch chợt hiểu ra và từ đó dốc tâm học tập. Về sau, Lí Bạch học giỏi, trở thành một nhà thơ nổi tiếng đời Đường Trung Quốc.

Công dã tràng

Dã tràng là một con vật nhỏ, giống hình con cáy, chạy rất nhanh, sống ở bãi cát ven biển. Dã tràng thường dùng hai càng để xe cát và ăn các chất hữu cơ có trong cát. Cát bị xe thành từng viên nhỏ như hạt đu đủ, mỗi khi có sóng biển tràn lên thì tan ra hết. Vì vậy mọi người cho rằng dã tràng làm một việc vô ích. Ca dao có câu :

Dã tràng xe cát biển Đông

Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì.

Từ đó, thành ngữ này dùng để chỉ một việc làm phí công sức mà không có ích lợi.

Cổ tích của ta cũng có chuyện Dã Tràng có viên ngọc nghe được tiếng nói của chim. Sau viên ngọc bị Long vương lấy mất nên Dã Tràng cứ ở ven biển đào cát để tìm lại viên ngọc.

Công như công cốc

Cốc là một loài chim mình đen như quạ, có tài lặn dưới nước để bắt cá. Nhiều người dân chài đã thuần dưỡng cốc để kiếm cá cho chủ. Học cho Cốc đeo một chiếc vòng bằng ddoongfowr cổ. Hễ mò được cá nhỏ, cốc có thể nuốt được. Nhưng nếu bắt được cá to , cốc đành chịu. Chủ nuôi sẽ được cá to đem bán. Thành ngữ này nói lên ý tốn công sức mà không được hưởng thành quả.

Của người bồ tát, của mình lạt buộc

Vế thứ hai “của mình lạt buộc” thì ai cũng hiểu và giữ khư khư, không chịu rời cho ai đồng nào. Nhưng còn vế đầu “của người bồ tát” thì bồ tát nghĩa là gì ? Có nhiều cách giải thích khác nhau.

1. Theo trong kinh Phật, bồ tát là bậc tu hành đã đắc đạo, có thể lên ngôi như Phật nhưng vẫn náu lại nơi hạ giới để cứu nhân độ thế. Ông Bồ Tát rất phóng tay cứu giúp mọi người.

2. Có người cho rằng bồ tát là nói chệch của từ bố tát. Bố từ Hán có nghĩa là tung ra (như trong bố thí). Tát từ Hán có nghĩa là buông thả (bố tát là tháo tung ra). Dù giải thích cách nào thì nghĩa của vế đầu vẫn là : “của người thì phung phí rộng rãi” để đối lập với vế sau là bo bo giữ cảu mình.

Cữ gió tuần mưa

Theo cách chia thời gian ngày trước, một cữ là 7 ngày, một tuần là 10 ngày. Ngày nay vẫn còn nói “Chị ấy mới ở cữ”, tức mới sinh con được một vài cữ. Một tháng chia ra ba tuần : thượng thần (10 ngày đầu tháng), trung tuần (10 ngày giữa tháng), hạ tuần (10 ngày cuối tháng).

Câu này nói ý nhớ người thân đi xa vất vả.

Não người cữ gió tuần mưa

Một ngày nặng gánh tương tư một ngày

(Truyện Kiều)

Cười như nắc nẻ

Nắc nẻ là loại côn trùng hình như con bướm, ban đêm hay bay vào nơi thắp đèn, luôn đập cánh, xè xè trên vách. Thành ngữ này ý nói cười liên tiếp không dứt. (Có sách giải nghĩa cười giòn giã là không chính xác).

Cưỡi ngựa xem hoa

Câu này có nghĩa là qua loa, đại khái, không tìm hiểu kĩ. Sở dĩ có thành ngữ này cũng là do câu chuyện sau : Một chàng công tử chân bị què muốn đi xem mặt vợ. Không ngờ cô vợ tuy đẹp nhưng bị sứt môi. Người làm mối cho chàng công tử cưới ngựa đi qua cổng và dặn cô gái đứng ở cổng, tay cầm bong ho ache miệng. Hai bên đồng ý kết hôn. Khi cưới mới biết các tật của nhau.

Phần 4.

Da mồi tóc bạc

Thành ngữ này dùng để miêu tả những người cao tuổi. tóc bạc là tóc trăng như bạc. Da mồi là da bị vết lốm đốm, thường có màu nâu như mai con đồi mồi. Đồi mồi thuộc họ rùa sống ở ven biển, mai có hoa rất đẹp, dùng làm lược hoặc kẹp tóc.

Tóc quăn chải lược đồi mồi

Chải đứng chải ngồi quăn vẫn hoàn quăn

(Ca dao)

Dốc bồ thương kẻ ăn đong

Nông dân thường đựng thóc vào bồ. Dốc bồ là nhà hết thóc. Khi đó mới thương những người đi đong gạo ăn hằng ngày. Câu này ý nói có cùng cảnh ngộ thì mới thương nhau, dễ thông cảm với nhau.

Dốt đặc cán mai – Dốt có chuôi

Mai là dụng cụ dùng để đào đất. Cán mai thường làm bằng táu, một thứ gỗ rất cứng để khi bẩy đất không bị gãy cán. Dốt đặc cán mai ý nói đầu óc bị đặc như cán mai, không có chỗ để nhét chữ vào được.

Dốt có chuôi (dốt co đuôi) là do điển tích xưa. Một thầy đồ được mời đến cúng cho gia chủ tên là Tròn. Thầy không biết viết chữ Tròn nên khoanh một vòng. Có kẻ tinh nghịch sổ thêm một nét thành cái gáo. Gáo dừa thường có chuôi (cán) dùng để cầm. Khi cúng, thầy đọc tên là gáo làm cho gia chủ bực mình.

Đanh đá cá cày

Câu thành ngữ này có nghĩa là ương ngạnh, cứng cỏi, không chịu thua kém ai. Cá cày là cái cá (làm bằng tre hoặc gỗ, to bằng cái cán dao, hình như con cá) dùng để nâng bắp cày lên xuống khi muốn cày nông hoặc sâu. Cá cày tuy nhỏ nhưng điều khiển được cả lưỡi cày.

Đánh giáp lá cà

Câu này ai cũng hiểu là đánh nhau mặt đối mặt, hai bên giáp sát vào nhau. Từ điển Việt Nam của hội Khai trí tiến đức giải nghĩa giáp lá cà : “nơi quân hai bên xông vào đâm chem. nhau”. Từ giáp này hiện nay vẫn dùng : Hai nhà ở giáp nhau. Hai người giáp mặt nhau.

Nhưng lá cà là gì ? Có người giải thích : Ngày Xưa, trong chiếc áo của ta có dùng nhiều từ lá. Lá sen là bộ phận đệm phía trong vai áo để mặc được bền. Miếng vải này hình giống lá sen. Lá xoài là một miếng vải đệm bông, lòng vào cổ và tỏa ra hai vai. Phu khiêng kiệu, khiêng cáng thường phải có lá xoài để đỡ đau vai và đỡ rách áo. Lá cà là một bộ phận trong áo võ quan. Loại này có hồng tâm bằng đồng đẻ che ngực và một mảnh lá cà để che bụng và hạ bộ. Mảnh này giống hình chiếc lá cà. Trong quần áo hát hội, các nghệ nhân gọi nó là lá cà. Đánh giáp lá cà là mặt đối mặt, các lá cà của hai tướng sát vào nhau.

Đánh trống lảng

Trong lễ tế thần, khi tiến rượu, các tế viên (ông mạnh, ông bồi) phải đi khoan thai, từng bước một, theo điệu nhạc và nhịp trống từ ngoài sân vào trong cung. Khi ở trong cung trở ra, các tế viên phải bước rất nhanh theo nhịp trống dồn nhập gọi là trống lảng (tiếng giục để lảng ra cho nhanh). Sau này, thành ngữ đánh trống lảng được dùng với nghĩa : một người nào đó đang nghe chuyện này thì nói lảng ra chuyện khác, hoặc lảng ra chỗ khác để tránh điều bất lợi cho mình.

Đánh trống lấp

Trong lễ tế thần, khi đọc văn tế, vì kiêng tên húy của thần nên người đọc văn chỉ đọc lẩm nhẩm trong miệng. Tuy vậy, vẫn sợ người ngoài biết tên húy nên khi đọc đến tên và chức tước của thần, người đánh trống còn điểm mấy tiếng trống để làm lấp tiếng người đọc. Đánh trống lúc đó gọi là trống lấp. Ngày nay, thành ngữ này thường dùng để chỉ việc kể lể lôi thôi nhằm lấp liếm câu chuyện chính hoặc che đậy lỗi lầm của mình.

Đánh trống qua cửa nhà sấm

Đây là một thành ngữ bắt nguồn từ điển tích Trung Quốc với nghĩa là : người kém tài chớ qua cửa người giỏi, gần giống thành ngữ “Đừng thi bơi với giải’ (giải là một loài bò sát lớn thường sống ở đầm nước, bơi rất nhanh). Theo điển tích xưa, Ngô Phù Sai đóng đô ở Cô Tô, xây thành có đặt tên cửa là Xà môn (cửa Rắn) để trấn áp nước Việt. Người Việt làm cửa Lôi môn (cửa Sấm) để chống lại. Hễ đánh trống lớn ở cửa Lôi môn thì cửa Xà môn lập tức mở ra để dò xem động tĩnh.

Đèo heo hút gió

Thành ngữ này dùng để chỉ nơi hoang vắng (đi vào nơi đèo heo hút gió). Sinh thời, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã giải thích cho tôi như sau :

Chính là “đèo Neo hút gió” bị nói chệch đi. Ngày trước, đường quốc lộ đi từ Thăng Long lên ải Nam quan phải đi qua đèo Neo (một cái đèo ở gần thị xã Bắc Giang bây giờ). Tiễn những người đi sứ sang Trung Quốc, bạn bè dù thân thiết cũng chỉ đi tiễn đến đèo Neo, đặt rượu tiễn hành rồi quay về. Người đi sứ phải đi vào đoạn đường rừng hoang vắng để lên cửa ải.

Cũng nhân từ đèo Neo (một danh từ riêng) nhà văn Nguyễn Công Hoan còn nói : Lưu Đồn trong bài ca dao : “Ba năm trấn thủ Lưu Đồn” cũng là một danh từ riêng. Thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, chúa Trịnh cho đóng một đồn binh lớn ở phía bắc sông Gianh để canh phòng. Lưu Đồn là một địa danh nay thuộc tỉnh Quảng bình.

Đi một ngày đàng, học một sàng khôn

Câu tục ngữ này khuyên ta nên tìm học trong thực tế cuộc sống. Lời khuyên này rất quý và sâu sắc.

Ngày là nói về thời gian, đàng (đường) là nói về không gian . Ngày đàng kết hợp tạo nên một nghĩa bao quát là đi vào cuộc sống để học hỏi những tri thức của cuộc sống để nâng cao, mở rộng tầm nhìn, tầm hiểu biết của bản thân mình.

Tại sao lại nói một sàng khôn, mà không nói một thúng khôn, một bị khôn. Nếu suy nghĩ đơn giản thì sàng vần với đàng. Nhưng phải hiểu sàng là gì ? Sàng là một dụng cụ đan bằng tre, hình tròn như cái mâm, nông và thưa. Ở nông thôn, nhà nào cũng có sàng để khi xay thóc xong, dùng sàng để làm sạch trấu và cám, chỉ giữ lại gạo.

Vì vậy, đi trong cuộc sống, không phải thấy điều gì cũng học vì có điều hay điều dở. Chúng ta phải sàng lọc, chỉ học điều hay, điều khôn mà thôi.

Đổi thay nhạn yến

Thành ngữ này để chỉ thời gian một năm. Về mùa đông, chim nhạn (tức hồng nhạn) thường di cư về phía nam để tránh rét (hồng nhạn còn gọi là chim sếu). Về mùa xuân, chim yến (én) bay về. Thành ngữ này giống thành ngữ đông qua xuân tới.

Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.

(Truyện Kiều)

Đồng không mông quạnh

Thành ngữ này được dùng để chỉ một nơi trống trải, vắng lặng gây cho ta cảm giác cô đơn (không là trống trải, quạnh là vắng vẻ).

Trong thành ngữ trên, đồng là danh từ (cánh đồng) thì mông cũng là danh từ mới đối xứng theo cách kết cấu phổ biến của thành ngữ. Tiếng Việt cổ, mông là một bãi trống. (ở vùng nghệ tĩnh còn giữ từ này trong phương ngữ).

Đố ai gánh đá vá trời, đan gàu tát biển, ghẹo người cung trăng

Câu này có 3 thành ngữ : gánh đá vá trời, đan gàu tát biển, ghẹo người cung trăng. 3 thành ngữ này đều nói những điều không thể làm được. Không ai gánh đá vá trời được như nhân vật Nữ Oa trong thần thoại Trung Quốc. (Thuở sơ khai), bầu trời còn thủng lỗ chỗ, bà Nữ Oa đã luyện đá ngũ sắc vá lại bầu trời. (Trích theo sách của Hoài Nam Tử). Nhiều như nước biển mà dùng gàu để tát thì tát sao cạn. Người cung Trăng chỉ Hằng Nga thì sao mà ghẹo được.

Các thành ngữ này khuyên ta đừng có làm điều viển vông, không tưởng. Muốn thành công ở đời cần có óc thực tế.

Đơn thương độc mã

Thương là ngọn giáo, mã là ngựa. Thành ngữ này nghĩa gốc là một giáo một ngựa dùng để chỉ sự đơn độc, lẻ loi trong khi chiến đấu với khó khăn nguy hiểm, không có sự hỗ trợ của người khác.

Đơm đó ngọn tre

Đó là đồ dùng đánh cá hình thon dài, miệng có hom, cá chui vào nhưng không chui ra được. Đơm đó phải đơm chỗ có nước chảy. Đơm đó ở ngọn tre thì làm gì có cá.

Câu này chế giễu người nào mong đợi những điều viển vông.

Đứng mũi chịu sào

Khi con thuyền vượt qua ghềnh thác, người đứng ở mũi thuyền, cầm sào chèo chống có vai trò quan trọng và phải chịu gian khổ nguy hiểm.

Từ nghĩa này, thành ngữ đứng mũi chịu sào chỉ công việc quan trọng, gánh vác nhiệm vụ nặng nề, đương đầu với gian khổ vì lợi ích chung.

Ca dao có câu :

Đôi ta lên thác xuống ghềnh

Em ra đứng mũi cho anh chịu sào.

(phải hiểu là vợ và chồng cùng đứng mũi chịu sào, cùng chung gian khổ, cùng đồng tâm hiệp lực để vượt khó khăn, không nên hiểu là chồng trút khó khăn cho vợ).

Đường vòng hay tối, nói dối hay cùng

Đi đường vòng thì xa có khi trời tối mà chưa đến nơi. Nói dối thường gặp chỗ cùng, bế tắc không dối ai được nữa.

Câu này khuyên ta nên đi đường thẳng, không đi ngang về tắt ý khuyên làm những việc quang minh và nói lời ngay thật.

Phần 5.

Gái thương chồng đương đông buổi chợ

Trai thương vợ nắng quái chiều hôm

Câu tục ngữ này có rất nhiều cách giải thích. Sở dĩ có nhiều cách hiểu vì cụm từ “đương đông buổi chợ” và “nắng quái chiều hôm” được hiểu với nghĩa khác nhau. Dưới đây xin nêu một vài cách hiểu đó :

1. Hiểu đây là lời khuyên, không phê phán ai cả

“Đương đông buổi chợ” được hiểu là thời son trẻ duyên dáng của người phụ nữ, có nhiều chàng trai để ý đến.

Tình thương chồng được thể hiện rõ khi cô ta còn nhan sắc, nhiều người để ý nhưng vẫn một mực chung thủy với chồng. “Nắng quái chiều hôm” được hiểu là thời người con gái đã xế chiều, nhan sắc tàn phai và khuyên chồng nên chung thủy cả khi vợ đã luống tuổi.

2. Hiểu câu này chỉ mức độ tình yêu giữa nam và nữ một cách khách quan, không phê phán ai cả

Hiểu tình yêu của người phụ nữ đầy đặn, mặn mà như buổi chợ đương đông còn tình yêu của nam giới thì bồng bột, rực rỡ nhưng mau tàn như nắng quái chiều hôm.

3. Hiểu câu này theo cách phê phán

Tình yêu của người phụ nữ đậm đà bền chặt như buổi sáng lúc đương đông buổi chợ.

Tình yêu của nam giới chỉ thoáng qua, mau tắt ngấm như buổi chiều, lúc nắng quái chiều hôm.

Cho đến nay nhứng cách hiểu khác nhau vẫn tồn tại và chắc còn nhiều cách hiểu khác. Chúng ta chưa có cơ sở để lựa chọn và khẳng định.

Gần nhà giàu đau răng ăn cốm

Gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn

Nhân dân ta rất coi trọng láng giếng “Bán an hem xa mua láng giềng gần”. Nhưng hai loại láng giềng “nhà giàu” và “kẻ trộm” thì lại khổ cho láng giềng. Câu này được hiểu là “Gần nha giàu khổ như đau răng lại nhai cốm, gần kẻ trộm khổ như đang ốm lại phải đánh đòn”. Vì sao vậy ? Láng giềng giàu thường ít thích giao tiếp với hàng xóm nghèo nên khi tối lửa tắt đèn ít nhờ vả được nhau. Gần kẻ trộm thì dễ mất trộm hoặc có khi bị đòn oan. Câu này khuyên ta nên chọn láng giềng mà ở. (Cũng có người giải thích là gần nhà giàu thì được ăn nhiều đến mức đau cả răng. Giải thích cách này không hợp lô gích).

Già kén kẹn hom

Trong các sách thành ngữ đều giải thích : Tình duyên lỡ làng vì quá kén chọn.

Trong cuốn tục ngữ lược giải của Lê Văn Hòe giải thích như sau :

Già kén là kén kĩ quá, kén nhiều quá.

Kẹn hom là giơ xương ra, ý nói già yếu gầy guộc, giơ xương.

Câu này ý nói : kén chọn kỹ quá thì người già mất.

Giải nghĩa như trên không có gì sai. Nhưng câu này gốc là “Già kén kẹn hom” và chỉ thấy trong từ điển của Gensibrel (1893) ghi là chẹn và dịch tiếng Pháp là serer (tức xương hom bị chẹn lại). Câu này có nghĩa là già kén (kén chồng) thì lấy chồng muộn (vãn hôn) và dễ mắc bệnh chẹn hom. Một số thầy thuốc có nói bệnh chẹn hom là bênh khi sinh nở lần đầu, xương hom – không giãn nở to, khó sinh và dễ chết cả mẹ lẫn con. Vì vậy, ngày trước có bài thuốc chữa bệnh chẹn hom để làm cho dây chằng dễ giãn khi đẻ. Nếu hiểu như vậy thì câu thành ngữ này khuyên phụ nữ đừng kén chọn quá dễ nguy hiểm đến tính mệnh.

Câu thành ngữ này cũng còn có cách giải thích khách như : Kén là kén tằm (danh từ) nếu để kén đã bị bướm cắn thủng (già kén) thì khó kéo tơ. Cách giải thích này rất xa với nghĩa ta thường hiểu.

Giấy rách phải giữ lấy lề

Sách chữ nho ngày trước thường phải đóng lề ở gáy để kết chặt các tờ thành quyển. Khi viết, ở phần lề được để trắng, rông độ 3 centimet theo chiều dọc. Trong quyển sách, lề là phần gốc, nếu lề bị hỏng thì toàn quyển sách sẽ bung ra hết. Dù giấy có rách, phần gốc vẫn cần bảo tồn.

Câu thành ngữ này khuyên ta nên giữ vững truyền thống, nề nếp của gia đình. Lề từ nghĩa đen đã được mở rộng để chỉ những phong tục tốt đẹp trong câu “Đát có lề, quê có thói”.

Gió táp mưa sa

Thành ngữ này có 2 nghĩa : nghĩa hẹp chỉ sự vất vả ở đời. Nhưng trong văn học, gió táp mưa sa lại dùng để chỉ người có tài làm câu thơ, tứ thơ đều nhanh như gió mưa do câu Phong vũ thôi thi tứ (tứ thơ đẩy đến ào ạt như gió mưa).

Tay tiên gió táp mưa sa

Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.

(Truyện Kiều)

Gương vỡ lại lành

Thành ngữ này nói ý hàn gắn, đoàn tụ, sự thay đổi từ xấu thành tốt trong đời sống.

Điển tích xưa chép câu chuyện như sau : Từ Đức Ngôn yêu công chúa Nhạc Xương nhưng vì loạn lạc, hai người phải xa nhau. Họ bẻ đôi chiếc gương, mỗi người giữ một nửa. Về sau, Đức Ngôn lên kinh đô, thấy có người bán mảnh gương vỡ. Nhờ manh mối đó, Đức ngôn đã tìm được người yêu, hai mảnh chắp lại thành gương cũ.

Bây giờ gương vỡ lại lành

Khôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi.

(Truyện Kiều)

Đời ta gương vỡ lại lành

Cây khô cây lại đâm cành nở hoa.

(Tố Hữu)

Phần 6.

Học ăn, học nói, học gói, học mở

Đây là câu thành ngữ khuyên mọi người phải học cách đối xử ở đời để trở nên người có văn hóa.

Ăn cũng phải học ăn như “Ăn trông nồi ngồi trông hướng”. Đối với trẻ, khi ăn không nên khua bát khua đũa. Nhiều trẻ khi nhai cứ nhồm nhoàm hoặc tạo ra tiếng chồm chộp vì nhai hai hàm một lúc, hàm trên bập xuống hàm dưới tạo thành tiếng kêu. Cần tập cho trẻ chỉ dùng một hàm khi nhai.

Nói cũng phải học để biết cách xưng hô nói năng lễ phép, lịch sự. “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Ngày nay, ta thường gặp nhiều cô cậu ăn mặc diện nhưng nói rất tục. Chỉ nghe qua lời nói ta đã biết là loại vô văn hóa. Học gói học mở theo phép lịch sự ở đất kinh kì cũng rất khó. Ở đất Hà Nội xưa, một số gia đình giàu sang thường gói nước chấm vào lá chuối xanh đặt vào cái chén xinh bày lên mâm cỗ. Người gói phải khéo tay mới gói được và người ngồi, ăn cũng phải biết cách mở để khỏi bật tung nước chấm ra mâm…

Ngày nay, gói bánh trưng đã mấy người biết gói cho đẹp để bánh cao thành sắc cạnh và mở bánh (bóc bánh) chưng cũng phải học mới khéo được.

Có người còn hiểu rộng câu trên, cho rằng mở và gói khó nhất la khi làm văn :

Văn hay chẳng lọ là dài

Mới đọc mở bài đã biết văn hay.

Còn gói bài văn (kêt luận) thế nào để người đọc còn thấy dư âm và gây ấn tượng sâu không phải dễ.

Kẻ ăn rươi, người chịu bão

Hằng năm, cứ khoảng thánh chin âm lịch, các ruộng nước chua mặn ở miền biển có giống rươi nổi lên. Người ta hớt rươi về làm thức ăn (chả rươi, mắm rươi). Nhưng mùa này cũng hay có báo làm thiệt hại. (cũng có người giải thích, mùa này trở trời nên dễ đau lưng đau bão). Câu này nói lên sự không công bằng : kẻ được ăn, người chịu vạ lây.

Kẻ tám lạng, người nửa cân

Cân và lạng ở đây là loại cân cũ của ta. Một cân có 16 lạng (tương đương 605 gam) và một lạng bằng một phần mười sấu cân tương đương với 37,8 gam. Vì vậy nếu cân bằng cân ta thì nửa cân là tám lạng, tám lạng là nửa cân.

Thành ngữ này trong tiếng Việt thường chỉ sự so sánh tương đương lực lượng giữa hai phe, hai đấu thủ trong cuộc đọ sức thì bằng nhau, không ai kém ai.

Kết cỏ ngậm vành

Thành ngữ này chỉ sự báo đền công ơn :

Dám nhờ cốt nhục tử sinh

Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau

(Truyện Kiều)

Đây là hai điển tích xưa của Trung Quốc.

- Ông Ngụy thù đời Tần có nhiều vợ lẽ đẹp. Theo phong tục nước Tần, hễ chồng chết thì vợ lẽ phải chon theo chồng. Nhưng Ngụy Khảo, con trai của Ngụy Thù có lòng nhân đạo nên không theo tục lệ đó. Sau Ngụy Khảo nên làm tướng nước Tần, đánh nhau với nước Tấn. Bên Tấn có tướng Đỗ Hồi rất giỏi. Hôm đó, đang đánh nhau thì ngựa của Đỗ Hồi bị vướng cỏ, Đõ Hồi ngã ngựa và bị Ngụy Khảo giết. Đêm hôm ấy, Ngụy Khảo nằm mơ thấy bố người vợ lẽ đến tạ ơn và nói : “Tôi cám ơn ông không chôn sống con tôi, nên tôi đã kết cỏ làm cho Đỗ Hồi ngã ngựa”.

- Dương Bá đời Hán,lúc 9 tuổi bắt được con chim sẻ bị thương. Bá chăm sóc chim cho khỏe rồi thả ra. Sau chim đó ngậm bốn vành ngọc trắng đem đến tạ ơn.

Phần 7.

Lá lành đùm lá rách

Câu tục ngữ có hai vế đối lập lá lành, lá rách. Lá lành hàm chỉ người có đời sống khá, sung túc. Lá rách hàm chỉ người nghèo khổ. Từ lá vàđùm cũng gợi ý về vật chất vì trong đời sống hàng ngày người ta đùm cơm, đùm bánh, đùm xôi thường dùng lá. Từ đùm cũng gợi ý đùm bọc, che chở, giúp đỡ. Câu thành ngữ này khuyên ta phải cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống hàng ngày cũng như lúc hoạn nạn. Câu này cũng nói lên đạo lý tốt đẹp của ông cha ta.

Lật đật như sa vật ống vải

Câu này thường bị nói sai “lật đật như ma vật ông vải”. Nghĩa câu này hàm ý chê trách việc vội vàng, hấp tấp. Khi kéo sợi vải, ta dùng cái sa để quay, con cúi sa bằng bông sẽ dùng mũi quay để kéo thành sợi. Ở mũi quay có ống vải để cuốn sợi. Mũi quay thường làm cho ống vải rung lật đật.

Lệnh ông không bằng cồng bà

Lệnh và cồng là hai dụng cụ bằng đồng dùng để báo hiệu. Có người nói câu này xuất hiện từ thời Bà Triệu khởi nghĩa. Ông Triệu Quốc Đạt là anh nhưng không được mọi người tin yêu bằng bà Triệu Thị Trinh. Mỗi khi nghe tiếng cồng của Bà Triệu thì binh sĩ ở mọi nơi đều tập hợp ở dưới cờ.

Ngày nay, câu này được dùng với ý : vợ có quyền to hơn chồng trong một gia đình nào đó

May xống phải phòng khi cả dạ

Câu này khuyên ta phải nhìn xa trông rộng, tính trước mọi việc. Xống là váy. Người phụ nữ khi may váy phải tính toán để khi có thai, bụng to (cả dạ) vẫn mặc được.

Mỏng mày hay hạt

Thành ngữ này thường dùng để chỉ người phụ nữ có khuôn mặt nhẹ nhõm xinh xắn, dáng người thon thả thắt đáy lưng o­ng.

Mày và hạt xuất phát từ việc chọn giống của nhà nông. Mày là cái vảy dính ở gốc hạt lúa, hạt ngô. Hễ mỏng mày là hạt chắc, nếu dùng làm hạt giống rất tốt. Từ đó người phụ nữ mỏng mày hay hạt cũng hứa hẹn tương lai sẽ phát triển nòi giống tốt, ngoài các đức tính khác như đảm đang, tháo vát.

Tục ngữ còn có câu :

Khô chân gân mặt đắt mấy cũng mua

Phành phạch quạt mo cho không ai lấy, hoặc câu : Mặt nạc, đóm dày, mo nang trôi sấp chó cụt đuôi. (Mặt nạc là mặt lắm thịt, chứng tỏ người không khôn ngoan), và câu :

Những người béo trục béo tròn,

Ăn vụng như chớp đánh con cả ngày.

(Béo trục béo tròn đối lập với thắt đáy lưng o­ng).

Một đồng một cốt

Để hành nghề mê tín dị đoan, các ông đồng bà cốt thường gọi hồn, bắt ma, làm lễ giải hạn để kiếm tiền thiên hạ. Họ dùng nhiều mưu mẹo để lừa dối. Thành ngữ này để chỉ bọn người chuyên dối trá lừa đảo :

Đà đao lặp sẵn chước dùng

Lạ gì một cốt một đồng xưa nay

(Truyện Kiều)

Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ

Câu này nói lên mối tương quan giữa cá thể và cộng đồng. Để khuyên bảo về đạo lí, ông cha ta thường mượn vật để nói người như : “gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”. “Một con ngựa đau” nói lên một cá thể bị hoạn nạn. Cả tàu bỏ cỏ nói lên sự thông cảm chia sẻ của đồng loại, tât cả các con ngựa trong chuồng đều không ăn cỏ vì thương cảm.

Ở đây không nói lên sự giúp đỡ mà nói về tình cảm. Hiểu rộng ra, cả tàu còn nói cả làng, cả nước phải thương yêu đùm bọc lấy nhau ; cùng đồng cam cộng khổ, chia ngọt xẻ bùi.

Muôn chung nghìn tứ

Chung là cái hộc, đơn vị dùng để đong thóc ngày xưa. Tứ là cỗ xe có bốn ngựa kéo. Câu này chỉ bậc vương hầu khanh tướng, ăn lộc đến nghìn chung thóc, trong nhà có hàng nghìn cỗ xe ngựa.

Một lời đã biết đến ta

Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau

(Truyện Kiều)

Phần 8.

Nằm gai nếm mật

Câu này nói lên sự chịu đựng vất vả gian khổ để mưu việc lớn. Thời Xuân Thu ở Trung Quốc, Câu Tiễn là vua nước Việt bị Phù Sai là vua nước Ngô bắt làm tù binh, phải chịu mọi điều khổ nhục. Khi được thả về, Câu Tiễn thường nằm trên đệm gai, không ăn cao lương mĩ vị mà thường lấy tăm nhúng vào mật đắng để luôn nhắc nhở mình không quên mối thù xưa. Sau hai mươi năm chuẩn bị lực lượng, Câu Tiễn đã phục thù, đánh bại được Ngô Phù Sai.

Năm thì mười họa

Trong tiếng Việt, thì còn đọc là thời (có nghĩa là lúc, thủa). Ví dụ : thời son trẻ, đương thì con gái, tứ thời, thời gian, thời tiết. Còn họa là từ thuần Việt có nghĩa là ít có, có chăng.

Ví dụ :

- Sắc đành đòi một, tài đành họa hai (Truyện Kiều)

- Vào sinh ra tử họa là thấy nhau (Truyện Kiều).

(Đừng lầm với họa từ Hán. Họa là vẽ (họa sĩ), họa là đáp lại (họa vần thơ), họa là tai vạ rủi ro (họa vô đơn chí)).

Thành ngữ năm thì mười họa có nghĩa là thỉnh thoảng, họa hoằn mới có :

Năm thì mười học hay chăng chớ

Một tháng đôi lần có cũng không.

(Hồ Xuân Hương)

Ngựa quen đường cũ

Thành ngữ này vốn gốc ở thành ngữ Hán “Lõa mã thức đồ”. Do đâu có thành ngữ này ? Chuyện Xưa kể rằng : Tề Hoàn Công đi đánh nước Cô Trúc. Lúc cất quân đi là mùa Xuân, lúc trở về đã là mùa đông, băng tuyết phủ đầy nên lạc đường. Quản trọng bèn tâu :

- Thưa bệ hạ, trí nhớ của ngựa già rất tốt. Xin để con ngựa già đi trước dẫn đường. Quả nhiên, ngựa đã tìm được đường về.

Trước kia, thành ngữ này được hiểu theo nghĩa : người có kinh nghiệm thường rất thành thuộc sự việc.

Ngày nay, thành ngữ này mang nghĩa xấu dùng để chỉ những người không chịu rời bỏ thói hư tật xấu.

Nguồn đục thì dòng không trong, gốc cong thì cây không thẳng

Câu này vừa mang nghĩa đen, vừa mang nghĩa bóng. Nghĩa đen thì ai cũng hiểu. Nguồn nước có trong thì dòng nước mới trong, gốc cây có thẳng thì cây mới vươn thẳng lên được.

Nhưng nghĩa bóng mới là nghĩa có tác dụng giáo dục mọi người. Trong một gia đình, bố mẹ phải làm gương tốt cho con cái. Nếu bố mẹ làm điều bậy (nguồn đục, gốc cong) thì con sẽ bị nhiễm thói xấu. Có một câu ca dao đầy chất châm biếm :

Con ơi nghe lấy lời cha

Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm.

Bố xấu như vậy thì con cũng sẽ thành trộm cắp. Trong gia đình, bố mẹ cần sống tốt để làm gương cho con cái.

Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò

Đây là thành ngữ chỉ nghề làm gốm sứ. Muốn có sản phẩm tốt phải chú ý ba yếu tố : xương, da, dạc lò. Xương là chất đất để nặn ra sản phẩm, da là chất men dùng tráng mặt ngoài của sản phẩm (có vài chục chất men để tạo màu sắc khác nhau), dạc lò là độ nóng của lửa nung. Cũng có người giải thích dạc lò là hình dáng lò nung. Lò nung phải xây đúng cách để khi nung, độ nóng tỏa đều khắp thì sản phẩm mới đẹp.

Nhũn như chi chi

Thành ngữ này thường được dùng để chỉ thái độ nhún nhường sợ sệt hoặc bị lép vế trước kẻ khác. Chi chi là trrn một loài cá nhỏ, thân rất mềm. Con chi chi bị vớt lên khỏi mặt nước thì chỉ một giờ sau đã nhũn, thân bị bấy ra. Chi chi dùng làm mắm rất tốt vì mau ngấu. Nhũn từ nghĩa đen (nát bấy ra) đã được dùng với nghĩa nhũn nhặn để chỉ thái độ con người.

Nổi cơn tam bành

Nghĩa của thành ngữ này là nổi giận lên mà làm điều ác :

Mụ nghe nàng mới hay tình

Bây giờ mới nổi tam bành mụ lên.

(Truyện Kiều)

Theo thuyết của Đạo gia, trong con người có ba vị ác thần là Bành Kiều, Bành Cứ, Bành Chất. Ba vị này thường xui ta làm điều ác.

Nghèo rớt mùng tơi

Khi ta nấu canh mùng tơi, trong lá mùng tơi có nhiều rớt (nhớt) nên khi múc canh vào bát, môi canh bị trơn tuột, không dính tí gì. Nghèo rớt mùng tơi là nghèo xơ nghèo xác không có chút của cải gì.

Thành ngữ này cũng còn một cách giải thích khác. Mùng tơi là phần trên của chiếc áo tơi (phần dày nhất và khâu kĩ nhất). Áo tơi thường làm bằng lá cọ hoặc lá đót. Khi áo tơi rách thì mùng tơi vẫn còn, dùng cho đến khi rớt (rơi) hết mùng tơi vẫn không có tiền mua áo khác, chứng tỏ nghèo lắm.

Nói nhăng nói cuội

Nói nhăng nói cuội là nói vu vơ, hão huyền cũng như thành ngữ nói hươu nói vượn.

Nhăng là từ cổ có nghĩa là băng nhăng qua quýt…

Cuội là một nhân vật trong truyện kể dân gian, nổi tiếng nói dối (nói dối như cuội).

Cũng có người cho rằng thành ngữ này là “nói giăng nói cuội” (Giăng là mặt trăng, chỉ ý xa vời, không thực tế). Dù hiểu cách nào thì nghĩa cũng giống nhau.

Nồi da nấu thịt

Những người đi săn thú muốn làm thịt ăn ngay ở giữa rừng nhưng không có nồi. Họ thường lột da con thú căng ra làm nồi để nấu thịt con thú ấy. Câu này nói ý cùng ruột rà máu mủ mà làm hại lấn nhau, giống câu vỏ đậu nấu đậu

Nợ như chúa chổm

Chúa Chổm chính tên là Lê Ninh. Thời nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, là hoàng tử nhưng ông rất khéo. Tuy vậy, các quán ăn ở kinh đô, nếu được ông mở hàng thì rất đắt khách. Vì vậy, nhiều quán mời ông ăn chịu và ghi nợ. Khi được lên làm vua, (tức vua Lê Trang Tông) các chủ quán đến đòi nợ. Vua ra lệnh mở kho để trả nợ nhưng trả nhiều lần chưa hết vì có kẻ đòi nợ khống. (Theo truyền thuyết, khi vua đi dạo, hễ đi vào phố Cấm Chỉ thì không ai được theo đòi nợ nữa) (phố Cấm Chỉ ở đầu phố Hàng Bông, gần Cửa Nam ngày nay).

Nuôi o­ng tay áo

Trong thực tế, không ai nuôi o­ng ở tay áo cả vì o­ng dễ đốt vào người. o­ng ở đấy được dùng để chỉ kẻ xấu.

Câu này mang ý nghĩa : nuôi dưỡng giúp đỡ kẻ xấu thì kẻ xấu có khi lại phản bội lại mình, làm hại mình.

Tuy vậy cũng không nên hiểu một chiều. Thực tế, kẻ xấu cũng cần sự giúp đỡ, giáo dục để trở thành người tốt. Xã hội ta đã cải tạo được nhiều người xấu trở thành người hữu ích.

Câu này chỉ dùng khi người nuôi dưỡng, giúp đỡ đã bị phản bội.

Nước đục bụi trong

Thành ngữ này nói lên cảnh trái ngược, những việc làm bất đắc dĩ, trái với ý muôn : nước trong ma flaij đục, bụi đục mà lại trong.

Ví dụ:

Lỡ làng nước đục bụi trong

Trăm năm để một tấm lòng từ đây.

(Truyện Kiều)

Tục ngữ ta có câu “Chết trong còn hơn sống đục”để khuyên ta sống trong sạch, thà chết còn hơn làm điều phi nghĩa, bất lương.

Phần 9.

Ông chẳng bà chuộc

Sự tích xưa, có người đánh rơi viên ngọc, vợ chồng Chẫu Chàng bắt được. Người ấy xin chuộc lại. Vợ đồng ý “chuộc thì chuộc”, chồng thì dứt khoát “chẳng chuộc”. Sự bất hòa của vợ chồng Chẫu Chàng, do nhân dân tưởng tưởng ra, đã tạo nên thành ngữ này để diễn đạt ý không thống nhất, không ăn khớp giữa người này với người khác. Nhiều thành ngữ như “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, “Ông nói gà bà nói vịt” cũng diễn đạt ý này.

Quan xa nha gần

Nha là phòng giấy của các quan. Nha môn là cửa quan. Nha lại là những người làm việc ở phòng giấy các quan. Ngày trước, khi người dân có việc kêu kiện, bọn nha lại thường làm khó dễ để vòi tiền. Vì vậy mới có câu thành ngữ này.

Ra môn ra khoai

Thành ngữ này có nghĩa là rành mạch, rõ ràng. Sở dĩ có thành ngữ này là vì cây khoai môn và cây khoai sọ rất dễ bị nhầm lẫn. Khoai môn la fthuws khoai có thân và lá dùng làm thức ăn cho lợn, củ ăn bị ngứa lưỡi, thân hình rất giống khoai sọ.

Thành ngữ này thường bị nói lầm “ra ngô ra khoai”. Cây ngô và cây khoai không thể lầm được.

Rách như tổ đỉa

Có người tưởng tổ đỉa là tổ con đỉa. Cũng chưa ai biết con đỉa có tổ hay không. Tổ đỉa ở thành ngữ này là cây tổ đỉa, một loại cây thường mọc ở ven bờ ao. Cây tổ đỉa có lá như lá cây đinh lăng, trông lởm chởm và rách như xé ra từng mảnh nhỏ. Vì vậy, ai mặc rách rưới quá, người ta thường nói “rách như tổ đỉa.”

Rối như bòng bong

Nếu quan sát một người ngồi vót nan để đan rổ rá, ta thấy những xơ tre nứa mỏng cuộn xoắn vào nhau thành một mớ, khó gỡ ra được. Đó là mớ bong bong.

Thàng ngữ ta còn có câu : rối như tơ vò, rối như canh hẹ, rối như gà mắc tóc, rối tinh rối mù. Thành ngữ “rối như bong bong” dùng để chỉ tâm trạng hoặc sự việc khó gỡ ra được vì không tim fthaays đầu mối.

Sáng tai họ, điếc tai cày

Thành ngữ này có nghĩa lười biếng, không chăm chỉ làm việc. Khi cày ruộng, người đi cày hô “họ”thì trâu đứng lại ngay, vì nó được nghỉ. Nếu hô “vắt” thì phải kéo cày.

Nguyễn Khuyến, trong bài “Anh giả điếc” có câu

Trong thiên hạ có anh giả điếc

Khéo ngơ ngơ, ngác ngác, ngỡ là ngây

Chẳng ai ngờ : sáng tai họ điếc tai cày

Lối điếc ấy sau này em muốn học.

Sẩy đàn tai nghé

Thành ngữ này dùng để chỉ sự chia lìa, tan nát của một gia đình hoặc một tập thể nào đó khi mất người đứng đầu.

Thành ngữ này bắt nguồn từ đời sống của bầy trâu rừng. Bầy trâu bao giwof cũng có những con trâu đực đầu đàn để chống chọi với thú dữ, bảo vệ cả đàn (thường có trâu cái và bầy nghé con). Nếu mất trâu đầu đàn thì cả đàn sẽ tan tác vì bị thú dữ ăn thịt dần.

Sẩy là từ cổ, có nghĩa là mất, chết. Tục ngữ có câu: “Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì”.

Sơn cùng thủy tận

Đây là thành ngữ gốc Hán (cùng là cuối, tận là hết), nơi cuối dãy núi, hết nguồn nước, dùng để chỉ những nơi hẻo lánh, hoang vu.

Một thành ngữ khác thâm sơn cùng cốc cũng để diễn đạt ý này. (Thâm sơn là núi sâu, cùng cốc là cuối hang núi)

Sơn hào hải vị

Sơn hào là món ăn quý lấy từ động vật rừng như bàn chân gấu, lộc nhung. Hải vị là món ăn quý lấy từ biển như bào ngư, hải sâm…

Thành ngữ này dùng để chỉ các món ăn sang trọng. Câu này gần nghĩa với câu “Cao lương mĩ vị” (cao là thịt béo, lương là gạo trắng, mĩ vịlà ngon miệng)

Sư tử Hà Đông

Giấm chua lửa nồng

Các thành ngữ này đều dùng để chỉ những người phụ nữ hay ghen.

- Hà Đông là một địa danh Trung Quốc, tục truyền có nhiều sư tử và sư tử cái thường bắt nạt sư tử đực. Ông Trần Quý Thường, bạn thân của Tô Đông Pha, có bà vợ hay ghen. Tô Đông Pha liền làm bài thơ đùa bạn, trong đó có câu :

Hốt kiến Hà Đông sư tử hống

Trụ trượng lạc phủ tâm mang nhiên.

(chợt nghe tiếng sư tử Hà Đông rống lên. Đang chống gậy lòng hoảng hốt đánh rơi cả gậy).

- Vua nước kim rất yêu hai cung nữ. Trước khi mất, vua dặn phải chôn theo hai cung nữ đó. Hoàng hậu rất ghen, nên trước khi chôn hai cung nữ, đã đổ giấm vào quan tài để xác và xương mau tan, không thể hầu hạ đức vua được. Lửa nồng dịch từ Hỏa cang (nóng như hang đốt lửa) cũng để chỉ tính ghen. Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh giải thích lửa nồng là chốn lầu xanh (sống ở nơi ngột ngạt). Truyện Kiều có câu:

Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng.

Sửa mũ vườn đào, sủa dép vườn dưa

Khi đi qua vườn đào, dù mũ đội đầu có bị lệch cũng không nên giơ tay lên sửa mũ, sẽ bị ghi là hái chộm đào. Khi đi qua ruộng dưa, dù dép có bị đứt quai cũng đừng cúi xuống sửa, sẽ bị ghi là hái trộm dưa.

Câu này ý nói tình ngay lí gian, khuyên ta nên đề phòng để tránh bị ngờ oan :

Ngán thay sửa dép vườn dưa

Dẫu ngay cho chết cũng ngờ rằng oan.

(Trích Quan Âm Thị Kính – Thị Kính thấy một cái râu chồng mọc ngược, lúc chồng đang ngủ, liền lấy dao định cắt cái râu ấy đi. Chồng bất ngờ tỉnh dậy, tưởng là vợ cầm dao để giết mình).

Phần 10.

Tái ông mất ngựa

Nghĩa của thành ngữ này là : việc tưởng may hóa rủi, việc tưởng rủi hóa may, họa phúc khôn lường.

Ngựa Tái ông họa phúc biết về đâu.

(Thơ Huỳnh Thúc Kháng)

Sách Hoài Nam Tử ở Trung Quốc có chép một truyện như sau :

Có một ông già ở vùng biên ải (Tái ông. Tái là nơi biên ải) mất một con ngựa cái. Hàng xóm đến chia buồn với ông. Ông nói: “Biết đâu việc đó chẳng là một điều may”. Ít lâu sau, con ngựa cái trở về, rủ theo một con ngựa đực rất đẹp. Mọi người đến mừng. Ông nói : “Biết đâu việc đó chẳng là một tai họa”. Quả nhiên, ít lâu sau, con trai ông cưỡi con ngựa mới, bị ngã què chân. Mọi người lại đến an ủi ông. Ông nói: “Biết đâu chẳng là một điều tốt lành”. Qua năm sau, giặc ngoài biên ải tràn vào cướp phá, nhà vua ra lệnh bắt lính. Nhiều trai tráng ra trận và bị chết. Con trai ông vì què chân nên không phải đi lính.

Tai vách mạch dừng

Vách là bức ngăn trát đất. Dừng là những thanh tre nhỏ ken vào vách. Câu này có ý khuyên ta kín đáo, lời nói có thể lọt ra ngoài. Thành ngữ Hán cũng có câu “Bích trung hữu nhĩ” (trong vách có tai).

Ở đây tai vách mạch dừng

Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi.

(Truyện Kiều)

Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ

Câu tục ngữ này có nhiều cách hiểu khác nhau.

Cách 1: Hai vế này đối lập nhau như nhiều câu khác :

- Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng

- Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.

Tay quai là tay chống nạnh như hình ảnh quai xanh, quai nồi, tức tay không làm việc nên mới không có ăn, miệng đói trễ ra.

Nghĩa câu này giống câu :

Có làm thì mới có ăn,

Không dưng ai dễ mang phần đến cho.

Ở cuốn “Sách giáo viên, Tiếng việt 5, tập II” cũng giảng theo cách này.

Cách 2: Ông Nguyễn Đức Khuông (trong Tạp chí Giáo viên và nhà trường, số 13 - năm 2000 cho rằng quai là từ Hán Việt.)

Hán việt từ điển của Đào Duy Anh giải nghĩa “quai là trái, hai bên không hợp nhau”. Từ đó, hiểu tay quai là tay hai bên không đồng bộ nhịp nhàng. Tay quai là tuy vẫn làm nhưng làm cầm chừng, làm hời hợt, vừa làm vừa chơi nên cũng dẫn đến việc đói trễ miệng. Sở dĩ ông hiểu theo cách này có câu tục ngữ còn vế ba :

Tay làm hàm nhai

Tay quai miêng trễ

Tay để miệng không.

Về cách hiểu 2, chúng tôi xin trình bày thêm để bạn đọc tham khảo. Theo ý riêng tôi, các từ trên đều là từ thuần Việt chẳng lẽ nhân dân ta lại đưa từ quai (từ gốc Hán) vào đây. Tôi cho rằng giải thích trong Việt – Pháp từ điển của Génnibrel là đúng: quai: negligent, paresseux (lười nhác). Còn vế 3, nếu nhắc lại ý vế 2 cũng để nhấn mạnh thêm mà thôi.

Tay đã nhúng chàm

Chàm là một loại cây có lá dùng để nhuộm màu xanh thẫm. Màu chàm rất bền. Khi nhuộm chàm, nước nhuộm làm xanh cả hai tay, phải rửa nhiều lần mới sạch. Thành ngữ này khuyên ta không nên làm điều gì xấu, để lại vết bẩn khó rửa sạch.

Trót vì tay đã nhúng chàm

Dại rồi còn biết khôn làm sao đây.

(Truyện Kiều)

Thần nanh mỏ đỏ

Trong nhiều từ điển thành ngữ đều giải thích nghĩa của thành ngữ này là : “chỉ hạng người tinh quái, độc ác, bất trị”. Có từ điển còn suy diễn thêm “thuộc hạng người tinh quái, độc địa ví như loại thần nanh mỏ đỏ nào đó do con người tưởng tượng ra”. Thực ra thành ngữ này đã bị biến âm. Ở vùng An Lão, Kiến Thụy (Hải Phòng) người ta gọi con chim bói cá là con “thành nanh mỏ đỏ”. Sở dĩ phải thêm đỏ mỏ vì loại này lông màu xanh, ngực nâu, mỏ đỏ, còn loại chim bói cá khác có lông xám, mỏ đen, ngực trắng. (Theo tư liệu của Hà Quang Năng). Ở vùng quê tôi (Thanh Hóa) cũng thường nói khi cãi nhau “Mày có là con thành nanh mỏ đỏ tau cũng không sợ”.

Dù hiểu thành ngữ “Thần nanh mỏ đỏ” là chim bói cá thì thành ngữ này vẫn mang nghĩa chỉ người tinh quái, chỉ nhào một cái xuống nước là vớ được mồi như chim bói cá.

Thanh tích bất hảo

Thanh là tiếng, tích là vết, bất hảo là không tốt. thành ngữ này dùng để chỉ những người có tiếng xấu và hành vi không tốt.

Có người nói lầm “Thành tích bất hảo”. Thành tích là tốt sao lại bất hảo ? Dù cách nói lầm đã thành thói quen nhưng cần hiểu đúng ý của thành ngữ này.

Thẳng như ruột ngựa

Có người đã dùng khoa học để chưng minh ruột ngựa khác ruột trau bò : “Ruột ngựa rất dài, đặc biệt đoạn nối ruột non với dạ dày, họi là manh tràng, rất dài và rất lớn. Đoạn này dài tới một mét, thảng và to với đường kính 25-35 cm”. Có lẽ sựa vào cơ sở giải phẫu nội tạng của ngựa và căn cứ vào những điều thu nhận được bằng quan sát trực quan mà trong nhận thức của người Việt Nam, ruột ngựa được xem là đối chứng về tính chất thẳng trái với o­ng.

Từ cơ sở nêu trên, trong sử dụng ngôn ngữ, thành ngữ “Thẳng như ruột ngựa” thường được dùng để chỉ sự bộc trực ngay thẳng thật thà của tính cách con người.

Thạch Sùng còn thiếu mẻ kho

Chuyện xưa kể rằng Thạch Sùng và Vương Khải rất giàu. Hai bên thi với nhau. Bên này đưa ngọc thì bên kia cũng có ngọc, các đồ châu báu hai bên đều có. Bên Vương Khải đưa một cây san hô ra, Thạch Sùng liền đập tan và đền cho Vương Khải sáu cây san hô to hơn. Đến khi Vương Khải đưa mẻ kho (một mảnh vỡ của nồi đất. Có thuyết nói rằng là nồi rang bằng đất) thì Thạch Sùng không có, đành thua cuộc và mất cả gia tài. Thạch Sùng tiếc của, lâm bệnh và chết, hóa thành con Thạch Sùng. Con Thạch Sùng luôn chặc lưỡi “tiếc tiếc” khi nhớ đến gia tài kếch sù cảu mình.

Câu này nhắc mọi người dù giàu đến đâu cũng chưa đầy đủ, có lúc phải nhờ vả người khác. Vì vậy đừng nên khoe khoang khoác lác.

Thằng chết cãi thằng khiêng

Thành ngữ này có nguồn gốc khá lí thú. Ở kinh thành Thăng Long xưa, cứ ngày giáp tết, bọn lưu lanh lại bầy kế để kiếm tiền. Một thằng giả chết nằm lên cáng, giả vờ là kẻ chết đường rồi một bọn khiêng đến phố đông đúc, đặt trước một cửa hiệu buôn. Bà chủ muốn chúng khiêng đi cho nhanh để khách vào mua hàng, đành phải cho tiền. Qua vài phố, chúng đã được món tiền lớn chia nhau. Chúng chia tiền không đều và cãi nhau vì thằng giả chết cho rằng mình có công nhiều hơn bọn khiêng cáng.

Thành ngữ này hiện còn lưu hành nhưng mang ý nghĩa khác : người kém lại cãi người giỏi hơn mình.

Thành ngữ “Trứng khôn hơn vịt” cũng có ý nghĩa tương tự.

Tốt mã dẻ cùi

Chim dẻ cùi là một giống chim đẹp : mỏ đỏ, đuôi dài, lông đuôi có nhiều màu sặc sỡ. Nhưng dẻ cùi hót không hay lại thích ăn phân chó, phân lợn :

Dẻ cùi tốt mã dài đuôi,

Hay ăn cứt chó, ai nuôi dẻ cùi.

(Ca dao)

Vì vậy dẻ cùi không ai quý mà lại bị khinh. Người ta thường dùng thành ngữ này để diễu những người có mã đẹp bề ngoài nhưng lòng dạ bẩn thỉu và bất tài.

Trai tứ chiếng

Tứ chiếng tức là tứ trấn được đọc chệch đi. Đay là bốn trấn ở xung quanh kinh đo : Sơn Nam (tức vùng Nam Định, Hà Nam), Kinh Bắc (vùng Bắc Ninh, Bắc Giang), Hải Dương (vùng Hải Dương, Hải Phòng), Sơn Tây (dùng Sơn Tây, Hà Đông).

Trai tứ chiếng chỉ những người đàn ông ở các nơi vào làm ăn ở Kinh đô.

Trăm hay không bằng tay quen

Trong tiếng Việt cổ có hai từ trăm. Trăm là số từ 100 và trăm là nói. Trong chữ Nôm, trăm là số từ gồm chữ bách và chữ lâm, trăm là nói gồm chữ khẩu và chữ lâm. Từ điển Việt Pháp của Génibrel dịch trăm : parler très vite (nói nhanh).

Nếu hiểu trăm hay là nói giỏi thì câu tục ngữ trên có nghĩa là “lí thuyết giỏi không bằng thực hành thạo” (theo dạng cấu trúc đối lập, một dạng phổ biến trong tục ngữ của ta). Theo ý chúng tôi, hiểu theo nghĩa này hợp lí hơn là cách hiểu “Trăm điều hay cũng không bằng có nghề giỏi”. Vậy xin nêu thêm để bạn đọc tham khảo nghĩa mới của thành ngữ này

Trong giá trắng ngần

Câu thành ngữ này có nghĩa là trong trắng. Nhưng đây lại là các vế so sánh : Trong như giá, trắng như ngần.

Trong như giá có hai cách giải thích : giá là cây giá đậu, thân nó trong. Cũng có người giải thích giá là tuyết giá (nước đóng băng). Ngần là loại cá trắng như bạc suốt từ đầu đến đuôi. Nhưng ở nước ta tuyết giá không phổ biến nên có lẽ nên hiểu giá là giá đậu (đậu xanh ngâm cho mọc mầm để làm món ăn thay rau). Nhà thơ Tố Hữu đã viết :

Ngày mai trong giá trắng ngần

Cô thôi sống kiếp đầy thân giang hồ.

(Tiếng hát sông Hương)

Trứng để đầu đẳng

Câu này có nghĩa là bấp bênh, không vững chắc. Đẳng là chiếc bàn có chân cao, thường dùng để bầy đồ lễ khi cũng. Bốn phía mặt phẳng không có gờ cao. Nếu để trứng ở mặt đẳng dễ bị rơi vỡ.

Thông đồng bén ngọt

Thành ngữ này có nghĩa là : công việc nào đó tiến hành trôi chảy, không bị ách tắc. Đồng và giọt là 2 từ xuất phát từ dụng cụ đo thời gian ngày xưa. Dụng cụ phổ biến nhất là một vật chứa nước gọi là hồ, đúc bằng đồng. Nước trong hồ sẽ theo một lỗ nhỏ rơi từng giọt xuống một cái chậu hứng có cắm cọc, trên cọc có khắc vạch để xem giờ. Chỗ nước nhỏ giọt trường trang trí hình đầu rồng đang há mồm. Vì vậy tạo nên từ giọt rồng :

Giọt rồng canh đã điểm ba

Tiểu thư nhìn mặt dường đà cam tâm.

(Truyện Kiều)

Ngày nay ta dùng từ đồng hồ cũng xuất phát từ dụng cụ đo thời giờ ngày xưa.

Vắng như chùa Bà Đanh

Chùa Bà Đanh còn gọi là chùa Châu Lâm, được dựng lên từ thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) ở ven Hồ Tây (Hà Nội). Đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp lấy khu này để xây trường Trung học Bảo hộ (nay là trường Chu Văn An) thì chùa Châu Lâm được dời đi nơi khác (ở cuối làng Thụy Khuê). Từ khi dời chỗ, số người đến lễ bái vắng hẳn đi. Ca dao Hà Nội có câu :

Còn duyên kẻ đón người đưa

Hết duyên vắng ngắt như chùa Bà Đanh.

Phần 11.

Vén tay áo sô đốt nhà tang giấy

Áo sô là áo của người có đại tang (tang bố mẹ), nhà tang giấy là nhà làm bằng giấy có khung bằng nứa để đậy trên quan tài khi làm lễ tang. Khi ra đến huyệt, sau khi chôn cất xong, người ta thường đốt nhà tang giấy. Vén tay áo sô thì không khó gì vì áp sô bằng vải mỏng và rộng tay. Đốt nhà tang giấy cũng rất dễ. Câu này ý nói làm một việc rấ dễ dàng chóng xong. (Thời xưa, chỉ nhà giàu mới làm nhà tang giấy. Các nhà thường dân dùng chung nhà tang bằng gỗ của phe giáp).

Vênh váo như khố rợ phải lấm

Câu này thường bị nói nhầm thành “Vênh váo như bố vợ phải đấm”.

Ngày trước, nhiều người nghèo đến mức không có vải để đóng khố, phải dùng vỏ một loại cây, ngâm nước rồi đập thành mảng cho mềm để đóng khố (chăn sui khố rợ). Đóng khố có yêu cầu là kín hai bên nhưng khố rợ khi lấm bùn thì không mêm fnhuw vải mà cứng lại, tạo nên sự vênh váo.

Trong một cuộc tọa đàm ở Viện khoa học Giáo dục (1965), nhà văn Nguyễn Công Hoan cũng tán thành cách giải thích này nhưng ông còn nói thêm câu “Vênh váo như bố vợ cậu ấm”. Cậu ấm là con quan, người được thông gia với quan cũng dễ lên mặt, dễ vênh váo với thiên hạ lắm chứ. Chúng tôi xin nêu để bạn đọc tham khảo thêm.

Vung tay quá chán

Vung là động từ chỉ hoạt động nhanh, mạnh khi ném một vật gì. Vung còn đi với các từ vung vãi, vung phí.

Quá chỉ ý vượt quá hơn mức bình thường như thái quá, quá trớn. Thành ngữ này nói lên sự vung phí tiền của thái quá so với mức cần thiết và có nhiều đặc điểm chung với thành ngữ “Ném tiền qua cửa sổ”. Song thành ngữ Vung tay quá chán có ý nghĩa và cách dùng rộng hơn nghĩa là không chỉ nói về chi tiêu hoang phí mà còn nói về bất kì sự chi dùng hoang phí nào.

Xắn tay quai cồng

Cồng là một loại chiêng nhỏ dùng để làm hiệu lệnh. Quai cồng thường là loại dây thừng to và bề. Khi đánh, một tay xách quai, một tay dùng để gõ vào mặt cồng. Người phụ nữ xưa mặc váy dài. Khi làm việc, họ phải buộc một dây thừng vào bụng và giắt cặp váy vào dây cho váy cao lên khoảng đầu gối để đỡ vướng.

Thành ngữ này dùng để chỉ những người phụ nữ tháo vát, lam lũ. Cũng có khi dùng chỉ những người phụ nữ đanh đá.

Nhà thơ Nguyễn Khuyến trong câu đối khóc vợ cũng có hình ảnh này : “Nhớ bà xưa, xắn tay quai cồng, chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc”.

Xấu như ma lem

Ở Trung Quốc ngày xưa có 4 người đẹp và 5 người xấu được ghi trong sử sách và truyền vào nước ta.

Bốn người đẹp là : Tây Thi (đòi Xuân Thu), Chiêu Quân (đời Hán), Điêu Thuyền (đời Tam Quốc), Dương Quý Phi (đời Đường).

Năm người xấu nhất nước là : Mô Mẫu (vợ hoàng đế Trung Hoa cổ đại)

Chung Vô Diệm (vợ vua Tề Tuyên Vương thời Chiến Quốc).

Mạnh Quang (vợ danh sĩ Lương Hồng đời Hậu Hán)

Nguyên nữ (vợ danh sĩ Hứa Doãn đời Đông Tấn).

Hoàng Thi (vợ Khổng Minh Gia Cát Lượng).

Trong số này, Chung Vô Diệm là xấu nhất. Bà chính họ là Chung Li, tên là Xuân, người đất Vô Diệm, tỉnh Sơn Đông (chính bà này được người đời gọi xấu như ma lem).Sách xưa ghi lại hình dáng bà như sau : tóc đỏ, mắt xanh, môi dày, miệng rông, bụng phệ, lưng gù, da sạm.

Tại sao Tề Tuyên Vương lại lấy bà này làm chính phi ? Bà rất tài trí tinh thông văn võ. Năm 40 tuổi, bà xin gặp mặt vua. Chỉ trong một buổi đối thoại, Tề Tuyên Vương đã bị thuyết phục. Khi nhà vua hỏi về việc nước ba fthuwa “Nước Tề bị nước Tấn uy hiếp ở phía tây, nước Sở uy hiếp ở phía nam, đó là nguy cơ thứ nhất. Nhà vua làm nhọc sức dân, hao tiền tốn của, đó là nguy cơ thứ hai/ Trong triều hiếm người hiền, trọng kẻ nịnh, đó là nguy cơ thứ ba. Đấng quân vương ham mê tửu sắc, không sửa sang chính trị trong nước, đó là nguy cơ thứ tư”.

Trước những lời thẳng thắn, cương trực của Chung Li, Tề Tuyên Vương đã bừng tỉnh và nói : “Nếu không có lời nói của nhà ngươi thì quả nhân không bao giờ biết được lỗi lầm của mình”. Vua liền lập Chung Vô Diện làm chính phi để giúp mình trông coi việc nước.

Câu chuyện này nhập vào nước ta cũng có ý sâu xa, vì bà này tuy nhung nhan xấu nhưng công, ngôn, hạnh lại nổi bật.

Xập xí xập ngầu

Đây là một thành ngữ gốc Hán, do Hoa kiều ở Quảng Đông, Phúc Kiến dùng và đã nhập vào kho thành ngữ tiếng Việt.

Hoa Kiều phát âm là “xập xí xập ngầu” nhưng nếu đọc theo âm Hán Việt là “tập tứ thập ngũ” (mười bốn mười lăm). Nghĩa của thành ngữ này là : mười bốn nói là mười lăm, mười lăm nói là mười bốn, không minh bạch rõ ràng. Tiếng Việt có từ “ù xịa” cũng dùng để chỉ khái niệm này.

Từ ngữ gốc Hán đọc theo âm Quảng Đông có khá nhiều.

Ví dụ :

- Lục tàu sá (lục đậu sa = chè đậu xanh).

- Mì chính (vị tinh = một loại tinh chất dùng làm gia vị).

- Bát bảo lường xà (bát bảo lương trà = một loại trà chế bằng 8 vị thuốc quý).

Hình ảnh loài vật trong thành ngữ

Trong tiếng Việt, nhân dân ta thường mượn hình tượng các con vật để tả vẻ xấu, đẹp, tính lành dữ của con người. Lối so sánh này giàu tính nghệ thuật và trí tưởng tượng là cho tiếng Việt thêm giàu, thêm đẹp.

1. Muốn thể hiện vẻ xấu đẹp về diện mạo, ta thường nói : mắt bồ câu, mày ngài mắt phượng, ti hí mắt lươn, trơ mắt éch, tròn xoe như mắt ốc nhồi, trắng dã như mắt lợn luộc, đỏ hoe như mắt cá chày, lông mày sâu róm, mũi sư tử, dô như trán khỉ, mồm cá ngão, mồm loa mép giải, nhăn như khỉ ăn gừng, mặt dài như mặt ngựa…

2. Muốn thể hiện hình dáng, ta thường nói : gầy như xác ve, béo như lợn ỉ, thắt đáy lưng o­ng, mình cá trắm, gù lưng tôm, đùi dế, cổ cò, chân dài như chân sếu, to như chân voi, tay dài như vượn, đen như quạ, béo như cun cút…

3. Muốn thể hiện tính nết, phong cách, ta thường nói : nhanh như sóc, chậm như rùa, yếu như sên, khỏe như trâu, mạnh như hổ, hôi như cũ, hôi như chuột chù, dốt như bò, chữ như gà bới, lủi như cuốc, ngu như lợn, học như cuốc kêu mùa hè, thẳng như ruột ngựa, dai như đỉa đói, ngang như cua…

4. Hình ảnh loài vật còn được dùng để thể hiện hoàn cảnh đời sống như :

Chuột sa chĩnh gạo, tu hú đẻ nhờ, sẵn tổ như tu hú, dã tràng xe cát, tò vò nuôi nhện…

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro