tnds chủ sd lđ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM CỦA CHỦ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG

1. Sự cần thiết và tác dụng của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động

Trong điều kiện kinh tế thị trường chủ sử dụng lao động thường phải chịu trách nhiệm về hàng loạt các vấn đề theo quy định của pháp luật như :

-                      Nộp thuế đầy đủ cho ngân sách nhà nước;

-                      Chịu trách nhiệm trước nhà nước về các vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi trường gây thiệt hại cho các cá nhân và tổ chức khác trong xã hội;

-                      Chịu trách nhiệm trước người lao động về việc giải quyết việc làm, trả thù lao lao động và tình hình tai nạn rủi ro phát sinh bệnh nghề nghiệp liên quan đến người lao động;

-                      Chịu trách nhiệm trước nhà nước, pháp luật về một loạt các vấn đề khác có liên quan.

Trong những trách nhiệm nêu trên thì trách nhiệm đối với người lao động là lớn nhất và phức tạp nhất, bởi vì nó trực tiếp liên quan tới cuộc sống của người lao động và gia đình họ, liên quan đến công ăn việc làm, đến tai nạn rủi ro và bệnh nghề nghiệp có thể xảy ra với họ. Những trách nhiệm nêu trên đôi khi làm cho chủ doanh nghiệp không những thiệt hại rất lớn về mặt tài chính mà còn làm sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, dây truyền sản xuất bị ngưng trệ. Do mức độ thiệt hại có thể là rất lớn nên hầu hết các nước trên thế giới đều thống nhất quy định chủ sử dụng lao động phải mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho một loạt các vấn đề có liên quan, trong đó có trách nhiệm đối với người lao động.

Mặc dù người lao động đã tham gia Bảo hiểm xã hội với chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp nhưng Bảo hiểm xã hội chỉ chi trả phần nào khi người lao động bị tai nạn lao động làm mất hoặc giảm thu nhập, khoản trợ cấp này từ Bảo hiểm xã hội đôi khi là rất nhỏ, đặc biệt là so với mức trách nhiệm lẽ ra phải phát sinh nếu rủi ro về tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp xảy ra do lỗi của chủ sử dụng lao động. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người lao động và gia đình họ nhất là những người lao động mới tham gia bảo hiểm xã hội. Vì thế trong thực tế, luật pháp thường yêu cầu chủ sử dụng lao động phải bồi thường thêm cho người lao động về những thiệt hại, tính mạng, sức khỏe của họ do tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp gây ra xuất phát từ lỗi của chủ sử dụng lao động. Do đó, để đảm bảo quyền lợi cho người lao động, bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động với người lao động đã được triển khai ở nhiều nước.

Hiện nay, ở một số quốc gia chỉ chấp nhận một trong hai hình thức: bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với lao động hoặc chế độ Tai nạn lao động - Bệnh nghề nghiệp trong bảo hiểm xã hội, nhưng cũng có những quốc gia cũng tồn tại cả hai hình thức này.

2. Những nội dung cơ bản

2.1. Khái niệm

Bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động là một thỏa thuận, qua đó chủ sử dụng lao động cam kết trả cho doanh nghiệp bảo hiểm một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm, ngược lại, doanh nghiệp bảo hiểm cũng cam kết sẽ bồi thường một khoản tiền khi phát sinh trách nhiệm dân sự của người chủ sử dụng lao động đối với người lao động.

Bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động là một loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự, vì thế, nó mang đầy đủ những đặc điểm đặc trưng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự như:

-    Đối tượng bảo hiểm mang tính trừu tượng;

Khác với các loại hình bảo hiểm khác, đối tượng của bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động nói riêng và của bảo hiểm trách nhiệm nói chung là phần trách nhiệm phát sinh của người tham gia bảo hiểm đối với người khác, và nó chỉ phát sinh khi có đủ ba điều kiện: Bên thứ ba ( người lao động ) phải có thiệt hại thực tế; Phải có hành vi trái pháp luật của người tham gia bảo hiểm ( chủ sử dụng lao động ); có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại của bên thứ ba và hành vi trái pháp luật nói trên.

-                      Trách nhiệm phát sinh được xác định trên cơ sở thiệt hại thực tế của người thứ ba và mức độ lỗi của người mua bảo hiểm;

Khi xảy ra sự cố bảo hiểm, mức độ thiệt hại do trách nhiệm pháp lý phát sinh bao nhiêu là hoàn toàn do sự phán xử của tòa án. Và trách nhiệm pháp lý của người tham gia bảo hiểm thông thường được tính dựa trên mức độ lỗi của từng bên. Tuy nhiên, trên thực tế cũng có những trường hợp mà tòa án sẽ không căn cứ vào mức độ lỗi để phán xử mà căn cứ vào khả năng tài chính của doanh nghiệp

-    Thường được thực hiện dưới hình thức bắt buộc;

Do bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động là một loại hình bảo hiểm có tính xã hội rất cao. Với cùng một rủi ro có thể sẽ có rất nhiều người bị thiệt hại, điều này có ảnh hưởng vô cùng lớn tới sự ổn định của người chủ sử dụng lao động, người lao động nói riêng và tới sự ổn định của toàn xã hội nói chung. Vì thế, nhiều quốc gia trên thế giới đã đua ra quy định bắt buộc những người chủ doanh nhiệp phải mua bảo hiểm này cho người lao động mà mình sử dụng.

-    Mức bồi thường của công ty bảo hiểm có thể được giới hạn bởi mức trách nhiệm đã được thỏa thuận trước trong hợp đồng.

Khi các công ty bảo hiểm đề cập tới vấn đề này, đã có hai quan điểm được đưa ra:

+/ Quan điểm thứ nhất: Phải áp dụng giới hạn trách nhiệm

Khi rủi ro xảy ra, mức độ thiệt hại của người lao động đôi khi là rất lớn, bản thân các công ty bảo hiểm cũng không lường trước được. Hơn nữa, khi rủi ro xảy ra liên quan đến sức khỏe tính mạng của con người thì không ai có thể lượng hóa được bằng tiền mặt một cách chuẩn xác vì tính mạng, sức khỏe và tâm lý của con người là vô giá. Bên cạnh đó, giới hạn trách nhiệm còn giúp các công ty bảo hiểm ổn định được tài chính, xác định phí bảo hiểm được chính xác để từ đó mới có kế hoạch lập dự toán chi tiêu, đảm bảo ổn định kinh doanh. Đặc biệt, giới hạn trách nhiệm còn góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cá nhân, doanh nghiệp. Vì những lý do trên cho nên việc giới hạn trách nhiệm trong bảo hiểm trách nhiệm là rất cần thiết và được hầu hết các công ty bảo hiểm trên thế giới áp dụng.

+/ Quan điểm thứ hai: Không cần áp dụng giới hạn trách nhiệm

Có thể nói, mọi người tham gia bảo hiểm trách nhiệm hầu hết đều với mong muốn có thể yên tâm khi mình bị phát sinh trách nhiệm dân sự. Nhưng nếu đặt ra giới hạn trách nhiệm thì sự yên tâm này sẽ không được tuyệt đối, và người tham gia bảo hiểm sẽ vẫn phải lo lắng cho trường hợp mình bị phát sinh trách nhiệm cao hơn.

Quan điểm này được rất ít người đồng tình. Nhưng trên thực tế vẫn có một số công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm không giới hạn đối với một số nghiệp vụ mà khả năng tổn thất lớn ít xảy ra. 

2.2. Đối tượng bảo hiểm và đối tượng tham gia

Trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động, đối tượng bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự của chủ sử dụng lao động đối với người lao động khi có tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp xảy ra đối với người lao động dẫn đến thương tật hoặc tử vong.

Trách nhiệm dân sự của chủ sử dụng lao động là trách nhiệm bồi thường cho những hậu quả bằng tiền theo quy định của Luật lao động hoặc phán quyết của tòa. Thông thường, để khiếu nại trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, người ta thường dựa vào 3 cơ sở pháp lý sau:

-                      Do lỗi bất cẩn của chủ sử dụng lao động, cụ thể khi chủ sử dụng lao động không cẩn trọng trong việc tuyển lựa nhân viên có đủ năng lực và họ không chú ý đến việc sử dụng và bảo quản các thiết bị nhà xưởng hợp lý hay tạo ra được một môi trường lao động an toàn.

-                      Chủ sử dụng lao động vi phạm trách nhiệm theo luật định do không thực hiện đúng các văn bản pháp luật về bảo hộ lao động, an toàn vệ sinh lao động dẫn đến xảy ra tai nạn cho người lao động trong quá trình làm việc.

-                      Căn cứ vào trách nhiệm thay thế, biểu hiện của nó là do chủ sử dụng lao động không áp dụng đúng quy trình quy phạm hoặc các biện pháp thay thế quy trình quy phạm khi cần thiết. Trong trường hợp này, trách nhiệm của chủ sử dung lao động phát sinh một cách gián tiếp, vì thực tế đây không phải lỗi của chính người sử dụng lao động. Chính vì vậy, lúc này đối tượng bảo hiểm chỉ xuất hiện khi trách nhiệm của chủ lao động được chứng minh.

Theo nghị định 233/HĐBT ngày 23/06/1990 và thông tư 19/TT/LĐTBXH ngày31/12/1990 Nhà nước quy định các đối tượng sau phải tham gia:

-                      Các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài

-                      Các doanh nghiệp liên doanh

-                      Các tổ chức, công ty trong nước tuyển chọn lao động Việt Nam để cung cấp cho các doanh nghiệp nước ngoài

-                      Các tổ chức nước ngoài đang đóng tại Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế có sử dụng 10 lao động trở lên

Sau đó 7 năm, vào năm 1997, đứng trước bối cảnh thu hút đầu tư nước ngoài để phục hồi nền kinh tế sau cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997, Nhà nước ta đã sửa đổi quy định trên, thay vì bắt buộc, giờ là khuyến khích tham gia.

Trong nghiệp vụ bảo hiểm này, người được hưởng quyền lợi là những người lao động gặp sự cố bảo hiểm. Như vậy, người tham gia bảo hiểm và người hưởng quyền lợi bảo hiểm là hoàn toàn khác nhau, cần phải giải thích cụ thể khi ký kết hợp đồng.

2.3.Phạm vi bảo hiểm

Trong quá trình lao động, người lao động có thể gặp phải rất nhiều rủi ro với mức độ thiệt hại có thể là nhỏ hoặc cũng có thể là rất lớn. Nhưng không phải rủi ro nào xảy ra cũng thuộc trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, vì thế, công ty bảo biểm cũng không bảo hiểm cho tất cả các rủi ro mà người lao động gặp phải trong quá trình lao động.

Những rủi ro người lao động có thể gặp phải được chia ra là: Rủi ro được bảo hiểm và rủi ro loại trừ.

●     Rủi ro được bảo hiểm:

Rủi ro được bảo hiểm được chia làm hai nhóm chính sau:

-    Thứ nhất là: Tai nạn lao động

Tai nạn lao động là tai nạn xảy ra do tác động của các yếu tố nguy hiểm, độc hại trong lao động gây tổn thương cho bất kỳ một bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động.

Tuy nhiên, theo Luật hiện hành của Việt Nam, loại rủi ro này được khống chế như sau :

+/ Về không gian, tai nạn phải xảy ra trong địa phận của cơ quan doanh nghiệp hoặc ngoài địa phận của cơ quan doanh nghiệp khi người lao động đang tiến hành công việc theo chức năng nhiệm vụ;

+/ Về thời gian, tai nạn phải xảy ra trong thời gian làm việc, chuẩn bị hoặc thu dọn dụng cụ, máy móc trước và sau khi làm việc, thực hiện các nhu cầu cần thiết như: nghỉ giải lao, ăn cơm giữa ca, ăn bồi dưỡng, tắm rửa chân tay, ... (với điều kiện là vào những địa điểm và thời gian hợp lý);

+/ Tai nạn xảy ra với người lao động khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc, từ nơi làm việc về nơi ở vào thời gian và địa điểm hợp lý (trên tuyến đường đi và về thường xuyên hàng ngày);

+/ Tai nạn do những nguyên nhân khách quan như thiên tai, hỏa hoạn và các trường hợp rủi ro khác gắn liền với việc thực hiện các công việc, nhiệm vụ lao động.

Tai nạn thương tật thường xảy ra là rất phổ biến, đặc biệt là trong những thời gian thời vụ, hay giai đoạn cạnh tranh quyết liệt, chủ sử dụng lao động tham gia bảo hiểm trách nhiệm còn phải cam kết bồi thường cho người lao động cả những tổn hại về tinh thần sau khi họ bị tai nạn thương tật.

Tai nạn lao động có thể phân loại thành tai nạn lao động chết người, tai nạn lao động nặng và tai nạn lao động nhẹ. Pháp luật sẽ có quy định cụ thể về việc những trường hợp chấn thương nào được coi là chấn thương nặng do tai nạn lao động. Thực tế cho thấy, thương tật do tai nạn lao động rất phổ biến. Đây chính là nguồn gây nguy hiểm chính cho người lao động, đặc biệt là ở các ngành có công việc mang tính chất nguy hiểm như: xây dựng, khai thác khoáng sản, làm việc ở giàn khoan, thợ cơ khí, phi hành đoàn, người đóng thế,…

-    Thứ hai là: Bệnh nghề nghiệp

Bệnh nghề nghiệp là những bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động đối với người lao động. Bệnh nghề nghiệp là bệnh đặc trưng của một nghề nào đó, do yếu tố độc hại trong nghề đó thường xuyên, từ từ vào cơ thể người lao động và gây bệnh.

Đứng từ góc độ nguyên nhân gây bệnh có thể chia bệnh nghề nghiệp thành những loại sau:

+/ Bệnh do bụi:

Có rất nhiều loại bụi nguy hiểm như: Mạt gỗ, bụi rơm, bụi bông, bụi than, bụi silic,… gây ra các bệnh về phổi và đường hô hấp như: Bệnh bụi phổi, bệnh hen xuyễn,… Đặc biệt, người bị nhiễm bụi ximăng có thể dẫn tới tử vong.

+/ Bệnh do hóa chất:

Các hóa chất độc hại có thể gây nên bệnh nghề nghiệp như: Chì và các hợp chất chì, Benzen và các đồng đẳng của Benzen, Thủy ngân và các hợp chất của thủy ngân, Mangan và các hợp chất của Mangan,…Các chất hóa học này có thể gây ra các căn bệnh như: Ung thư, viêm da,…

+/ Bệnh do yếu tố vật lý:

Hiện nay, ở Việt Nam, Bộ Y Tế và Bộ Lao động Thương binh Xã hội cùng nhau thống nhất ban hành danh mục bênh nghề nghiệp bao gồm 25 bệnh sau khi tham khảo ý kiến từ Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và đại diện của người lao động.

 

 


Bảng 1.1. Danh mục bệnh nghề nghiệp hiện nay ở Việt Nam

 

Nhóm I:

Các bệnh bụi phổi và viên phế quản

1.1.  Bệnh bụi phổi-Silic nghề nghiệp

1.2.  Bệnh bụi phổi Amiăng

1.3.  Bệnh bụi phổi bông

1.4.  Bệnh viêm phế quản mãn tính nghề nghiệp

1.5.  Bệnh hen phế quản nghề nghiệp

Nhóm II:

Các bệnh nhiễm độc nghề nghiệp

2.1. Bệnh nhiễm độc chì và các hợp chất chì

2.2. Bệnh nhiễm độc Benzen và các đồng đẳng của Benzen

2.3. Bệnh nhiễm độc thủy ngân và các hợp chất của thủy ngân

2.4. Bệnh nhiễm độc Mangan và các hợp chất của Mangan

2.5. Bệnh nhiễm độc TNT

2.6. Bệnh nhiễm độc Asen và các chất Asen nghề nghiệp

2.7. Nhiễm độc chất Nicotin nghề nghiệp

2.8. Bệnh nhiễm độc hóa chất trừ sâu nghề nghiệp

2.9. Nhiễm độc Cacbonmonoxit nghề nghiệp

Nhóm III:

Các bệnh nghề nghiệp do yếu tố vật lý

3.1. Bệnh do quang tuyến X và các chất phóng xạ

3.2. Bệnh điếc do tiếng ồn

3.3. Bệnh rung chuyển nghề nghiệp

3.4. Bệnh giảm áp mãn tính nghề nghiệp

Nhóm IV:

Các bệnh da nghề nghiệp

4.1. Bệnh sạm da nghề nghiệp

4.2. Bênh loét da, loét vách ngăn mũi, viêm da, chàm tiếp xúc

4.3. Bệnh nốt dầu nghề nghiệp

4.4. Bệnh viêm loét da, viêm móng và xung quanh móng nghề nghiệp

Nhóm V:

Các bệnh nhiễm khuẩn nghề nghiệp

5.1. Bệnh lao nghề nghiệp

5.2. Bệnh viêm gan virut nghề nghiệp

5.3. Bệnh do xoắn khuẩn Leptospira nghề nghiệp

Nguồn: Thông tư liên tịch số 08/1998/TTLT-BYT-BLĐTBXH của liên Bộ y tế - Lao động, Thương binh & Xã hội và Quyết định số 27/2006/QĐ-BYT của Bộ y tế

 Khi nhưng rủi ro này xảy ra, công ty bảo  hiểm sẽ chi trả các chi phí y tế (bao gồm các chi phí nằm viện) theo hạn mức trách nhiệm do chủ sử dụng lao động lựa chọn; Lương thuần đầy đủ hàng tháng trong thời gian điều trị y tế (theo giới hạn bảo hiểm mà chủ sử dụng lao động lựa chọn); Trong trường hợp chết hoặc thương tật toàn bộ và vĩnh viễn (từ 81% trở lên) sẽ được bồi thường 30 tháng lương (hoặc nhiều hơn tùy theo lựa chọn của chủ sử dụng lao động); Còn trong trường hợp thương tật bộ phận và vĩnh viễn thì được bồi thường theo tỷ lệ thương tật quy định.

Phạm vi bảo hiểm trên được xây dựng trên cơ sở pháp lý thuộc Bộ luật Lao động số 35L/CTN ngày 05/07/1994 của Nhà nước Việt Nam quy định về trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động trong trường hợp người lao động bị tai nạn hoặc bị bệnh nghề nghiệp xảy ra trong quá trình lao động sản xuất. Các doanh nghiệp hiện nay, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam rất quan tâm tới trách nhiệm pháp lý theo bộ luật này. Đây là cơ sở  thuận lợi để cho các công ty bảo hiểm có thể khai thác và vận động khách hàng tham gia.

     Rủi ro loại trừ:

Có nhưng rủi ro mà hầu hết các công ty bảo hiểm đều từ chối bảo hiểm. đó là những rủi ro như:

-                      Trách nhiệm của người được bảo hiểm theo một thỏa thuận ngoài trách nhiệm quy định trong Luật Lao động.

-                      Trách nhiệm của người được bảo hiểm đối với người lao động thuộc chủ thầu độc lập do người được bảo hiểm sử dụng.

-                      Bất kỳ người lao động nào làm thuê cho người được bảo hiểm mà không phải là công nhân theo nghĩa của Luật pháp quy định

-                      Khoản tiền mà người được bảo hiểm được phép đòi từ bất kỳ bên nào nhưng không có thỏa thuận giữa người được bảo hiểm và bên đó.

-                      Bất kỳ thương tật nào do tai nạn hoặc bệnh tật được quy là do chiến tranh, hành động ngoại xâm, xâm lược, thái độ thù địch, hoạt động chiến tranh (dù có tuyên bố hay không), nội chiến, nổi loạn, nổi dậy, cách mạng, khởi nghĩa hoặc quân sự hay cướp chính quyền.

-                      Bất kỳ trách nhiệm nào dù trực tiếp hay gián tiếp bị gây ra bởi hoặc được quy cho hay phát sinh từ :

+/ Nguyên liệu vũ khí hạt nhân;

+/ Ion hóa bức xạ hoặc nhiễm chất phóng xạ của hạt nhân hoặc chất thải hạt nhân do đốt cháy hạt nhân và vì mục đích của điểm loại trừ  này việc đốt cháy hạt nhân bao gồm cả quá trình tự phân hạt nhân.

-                      Bất kỳ thương tật nào của người lao động do tai nạn nếu chứng minh được rằng tai nạn gây ra cho người lao động do ảnh hưởng trực tiếp của rượu hoặc thuốc phiện gây ra mà không được bác sỹ kê đơn, trừ khi người được bảo hiểm chịu trách nhiệm theo quy định của Pháp Luật.

-                      Mất khả năng lao động hoặc chết do cố ý gây thương tích hoặc cố ý làm thương tật trầm trọng thêm.

-                      Tai nạn, thương tật, bệnh nghề nghiệp xảy ra ngoài phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

-                      Bất kỳ trách nhiệm nào có tính chất trực tiếp hay gián tiếp gây ra hoặc quy cho là phát sinh từ sản xuất, cung cấp, xử lý hay chế biến khoáng chất Amiăng hoặc các sản phẩm có liên quan đến chất Amiăng.

-                      Thương tật của người lao động phát sinh từ đánh lộn, trừ trường hợp do phải bảo vệ tính mạng của bản thân.

Với phạm vi bảo hiểm như trên, một mặt, công ty bảo hiểm có thể quản lý được khả năng các rủi ro có thể xảy ra qua đó đưa ra các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất và quản trị rủi ro sẽ hiệu quả hơn, mặt khác, việc đưa ra những điểm loại trừ cũng góp phần nâng cao ý thức của chủ sử dụng lao động cũng như người lao động.

2.4. Giới hạn trách nhiệm và phí bảo hiểm

2.4.1.Giới hạn trách nhiệm

Không giống như các loại bảo hiểm tài sản có số tiền bảo hiểm được xác định dựa trên giá trị thực tế của tài sản, hay như bảo hiểm con người có số tiền bảo hiểm phụ thuộc vào khả năng tài chính và nhu cầu của người được bảo hiểm, bảo hiểm trách nhiệm dân sự có số tiền bảo hiểm không chỉ phụ thuộc vào nhu cầu của người được bảo hiểm mà còn phụ thuộc vào phía công ty bảo hiểm mà cụ thể là công ty bảo hiểm luôn đặt ra hạn mức trách nhiệm. Với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động cũng vậy, số tiền bảo hiểm chính là trách nhiệm bồi thường thay cho chủ doanh nghiệp mà công ty bảo hiểm chi trả cho người lao động khi không may gặp phải tại nạn lao dộng, bệnh nghề nghiệp thuộc phạm vi bảo hiểm.

Số tiền bảo hiểm mà người tham gia bảo hiểm lựa chọn sẽ là một trong những cơ sở quan trọng để doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện chi trả bồi thường bảo hiểm. Chẳng hạn khi người lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp và có chi phí y tế phát sinh (bao gồm cả chi phí nằm viện), số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm trả cho tổn thất về chi phí y tế này sẽ được giới hạn theo số tiền bảo hiểm mà người tham gia bảo hiểm đã lựa chọn. Theo công văn 2152/PHH – 1995 của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam ban hành ngày 29/11/1995 thì phần trách nhiệm của công ty bảo hiểm có sáu mức như sau:

             Mức trách nhiệm 3.000 USD

             Mức từ 3.000 đến 5.000 USD

             Mức từ 5.000 đến 10.000 USD

             Mức từ 10.000 đến 20.000 USD

             Mức từ 20.000 đến 30.000 USD

             Mức trên 30.000 USD sẽ được thỏa thuận riêng

Giới hạn chi phí y tế gồm 4 mức như sau:

             Mức 1.000 USD

             Mức 3.000 USD

             Mức 5.000 USD

             Mức 10.000 USD

Bên cạnh đó, số tiền bảo hiểm còn là cơ sở để xác định mức phí mà người tham gia bảo hiểm phải đóng. Số tiền bảo hiểm mà người được bảo hiểm càng cao thì mức trách nhiệm của công ty bảo hiểm càng lớn.

2.4.2. Phí bảo hiểm

Phí bảo hiểm mà chủ sử dụng lao động phải nộp cho công ty bảo hiểm bao gồm hai phần chính là: Phí thuần và phụ phí

-                      Phí thuần:

Phí thuần của bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động về cơ bản dựa vào các yếu tố sau:

+/ Số tiền bảo hiểm nằm trong hạn mức trách nhiệm

+/ Xác suất rủi ro về tai nạn lao động nói chung

+/ Xác suất rủi ro về bệnh nghề nghiệp nói chung

+/ Căn cứ vào sự thỏa thuận giữa các bên

+/ Căn cứ vào yếu tố ngành nghề

Tuy vậy, hạn mức trách nhiệm của các công ty bảo hiểm thường được quy định theo một dải tần nhất định. Mỗi hạn mức trách nhiệm ứng với một mức phí khác nhau, để từ đó giúp chủ sử dụng lao động dễ dàng tham gia bảo hiểm. Đặc biệt, khi đồng tiền bị lạm phát, luật bảo hiểm có thể điều tiết theo hạn mức trách nhiệm cao hơn. Mặc dù phí thuần phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nhưng yếu tố ngành nghề vẫn được quan tâm hơn cả. Bởi vì chính mức độ khác nhau này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới xác suất xảy ra tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Thông thường, các lao động làm việc trong các ngành nghề của nền kinh tế quốc dân được chia ra làm 4 loại chính:

+/ Loại I: Lao động gián tiếp (không liên quan đến quá trình sản xuất), làm việc chủ yếu ở văn phòng hoặc các công việc tương tự ít đi lại. Đó là giáo viên, nhân viên ngân hàng, bác sỹ, nhân viên văn phòng,…

+/ Loại II: Lao động không phải làm việc chủ yếu bằng chân tay nhưng mức độ rủi ro cao hơn nhóm I hoặc đòi hỏi phải đi lại nhiều, hoặc làm việc chân tay nhưng không thường xuyên và nhẹ như: Nhân viên siêu thị, cán bộ quản lý công trường,…

+/ Loại III: Lao động làm việc trong điều kiện khó khăn, hoặc chủ yếu là lao động chân tay như: thợ may, bác sỹ thú y, kỹ sư cơ khí, người lái ôtô, máy kéo,…

+/ Loại IV: Lao động trong điều kiện nguy hiểm, dễ xảy ra tai nạn như: thợ xây dựng trên cao, thợ mỏ, thợ lặn, thợ khoan dầu,…

Căn cứ vào 4 nhóm nghề này và số tiền bảo hiểm của từng mức trách nhiệm, công ty bảo hiểm lập sẵn thành biểu phí thống nhất. Biểu phí này tính bằng số tương đối hay còn gọi là tỷ lệ phí. Công văn 2152/PHH – 1995 của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam ban hành ngày 29/11/1995 có quy định rất rõ về tỷ lệ phí trong từng trường hợp như sau:

Bảng 1.2. Biểu phí thuần của bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động theo giới hạn trách nhiệm tại công ty bảo hiểm Bảo Việt Phú Thọ từ năm 1995 đến nay.

Đơn vị: % trên Giới hạn trách nhiệm

Giới hạn trách nhiệm (USD)

Nhóm nghề nghiệp

I

II

III

IV

Dưới 3.000

0.12

0.135

0.16

0.18

3.000 - 5.000

0.13

0.15

0.175

0.23

5.000 - 10.000

0.25

0.27

0.32

0.45

10.000 - 20.000

0.35

0.42

0.47

0.60

20.000 - 30.000

0.415

0.50

0.58

0.72

Trên 30.000

Thỏa thuận riêng

Nguồn: Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam

Bảng 1.3. Biểu phí thuần của bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động theo giới hạn chi phí y tế tại công ty bảo hiểm Bảo Việt Phú Thọ từ năm 1995 đến nay.

Đơn vị: USD

Giới hạn chi phí y tế

Nhóm nghề nghiệp

I

II

III

IV

1.000

15.00

18.50

22.50

30.00

3.000

24.00

27.00

31.00

42.00

5.000

30.50

35.00

41.00

54.00

10.000

800.00

110.00

125.00

150.00

Nguồn: Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam

Tuy nhiên, phí bảo hiểm được xác định không chỉ dựa trên 2 yếu tố giới hạn trách nhiệm và giới hạn chi phí mà còn phụ thuộc vào thời gian sử dụng lao động. Ta có bảng tỷ lệ phí bảo hiểm theo thời hạn sử dụng lao động như sau:

Bảng 1.4. Biểu phí thuần của bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động theo thời gian sử dụng lao động tại công ty bảo hiểm Bảo Việt Phú Thọ từ năm 1995 đến nay.

 

Thời gian sử dụng lao động

( tháng )

Tỷ lệ đóng

( % so với phí cả năm )

1

20

2

30

3

40

4

50

5

60

6

70

Từ 7 tháng trở lên

100

Nguồn: Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam

-           Phí thuần :   

Phí thuần được tính theo một công thức chung là:

F = S x T x L 

Trong đó:

                         F : Phí thuần

                         S : Số tiền bảo hiểm

                         T : Tỷ lệ phí tương ứng

                         L : Số lao động tham gia bảo hiểm

Trong trường hợp thời hạn sử dụng lao động của các lao động là khác nhau thì phí thuần sẽ được tính như sau:

F = Fd + Fn

Trong đó:

                         Fd : Phí thuần dài hạn

                         Fn : Phí thuần ngắn hạn

-                      Phụ phí :

Phần phụ phí hay còn gọi là phần phí chi quản lý. Phần phụ phí trong bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động được tính toán riêng và tách khỏi biểu phí. Khi các công ty bảo hiểm lần đầu kinh doanh nghiệp vụ này, kinh nghiệm chưa có, đặc biệt trong lúc tình trạng lạm phát ngày càng gia tăng thì nên tính thêm phần phụ phí để đảm bảo kinh doanh cho công ty.

Nghiệp vụ bảo hiểm này cũng được ký kết từng năm, chủ sử dụng lao động sau khi nộp phí sẽ được bảo hiểm cho trách nhiệm của mình đối với người lao động. Tuy nhiên, trong năm đó, số lượng lao động có sự thay đổi do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nếu tăng, chủ sử dụng lao động phải nộp phí theo số người tăng đó theo số tháng còn lại trong năm mà hợp đồng ký kết. Còn nếu số lượng lao động giảm thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn phí tính theo số tháng hợp đồng bảo hiểm đã ký. Quá trình hoàn phí sẽ được tiến hành như sau:

Nếu do phía công ty bảo hiểm đề nghị hủy hợp đồng, công ty bảo hiểm sẽ phải hoàn lại 100% phí bảo hiểm tương ứng với thời hạn còn hiệu lực của hợp đồng.

                      Phí bảo hiểm x ( 365 ngày – thời gian đã tham gia bảo hiểm)

Phí hoàn lại  =    -----------------------------------------------------------------------

365 ngày

Còn nếu do phía khách hàng đề nghị hủy hợp đồng thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại 80% phí bảo hiểm tương ứng với thời gian còn lại của hợp đồng

               Phí bảo hiểm x ( 365 ngày – thời gian đã tham gia bảo hiểm) x 80%

 Phí hoàn lại  =    --------------------------------------------------------------------------------

                                                        365 ngày

2.5. Giám định và bồi thường tổn thất

Mối quan hệ hai bên hợp đồng là chủ sử dụng lao động và công ty bảo hiểm. Khi chủ sử dụng lao động chuyển khiếu nại cho công ty bảo hiểm phải bao gồm các giấy tờ sau:

-                      Đơn bảo hiểm

-                      Giấy thanh toán phí bảo hiểm

-                      Biên bản xác minh tai nạn

-                      Y bạ và hồ sơ điều trị bệnh nhân gồm: phiếu thanh toán viện phí, bệnh án, phiếu theo dõi điều trị nội trú, giấy tờ xác định thu nhập, phiếu thanh toán điều trị ngoại trú,…

-                      Biên bản xác nhận của y bác sỹ về thương tật

-                      Giấy báo tử ( nếu có )

-                      Giấy chứng nhận quyền thừa kế hợp pháp

Sau khi nhận được những giấy tờ này công ty bảo hiểm xem xét tính hợp lệ và xác minh vấn đề nghi vấn, nếu không có gì vướng mắc sẽ thanh toán bồi thường. Nếu có tranh chấp thì chủ sử dụng lao động phải thông báo cho công ty bảo hiểm xem xét giải quyết. Sau khi lập đủ các chứng từ cần thiết, công ty bảo hiểm sẽ tiến hành các thủ tục xét trả tiền bồi thường. Theo điều 107 Luật lao động Việt Nam thì chủ sử dụng lao động phải có trách nhiệm trước hết về toàn bộ chi phí cấp cứu, viện phí. Số tiền bồi thường được xác định theo từng trường hợp như sau:

-                      Trường hợp chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn ( từ 81% trở lên):

Trong trường hợp không có lỗi của người lao động, bồi thường ít nhất là 30 tháng lương nhưng không vượt quá số tiền bảo hiểm mà người sử dụng lao động đã chọn. Còn trong trường hợp do lỗi của người lao động thì công ty bảo hiểm bồi thường ít nhất là 12 tháng lương nhưng không vượt quá 50% số tiền bảo hiểm mà người chủ sử dụng lao động đã chọn

Ví dụ: Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm cho 1 công nhân B với mức trách nhiệm theo mục này là 5000 USD ( mức lương của công nhân B là 100 USD/ tháng ). Khi công nhân B bị chết do tai nạn lao động, Chủ sử dụng lao động sẽ bồi thường cho thân nhân của công nhân B là 30 tháng lương ( 3000 USD ) , vì thế, mặc dù giới hạn trách nhiệm là 5000 USD nhưng công ty cũng chỉ trả cho chủ sử dụng lao động 3000 USD. Nhưng nếu chủ sử dụng lao động bồi thương đủ 5000 USD thì công ty bảo hiểm cũng phải bồi thường cho chủ sử dụng lao động là 5000 USD.

-                      Trường hợp thương tật bộ phận vĩnh viễn :

Thương tật bộ phận vĩnh viễn quy định trong đơn được hiểu là thương tật bộ phận vĩnh viễn từ 80% trở xuống. Trường hợp này sẽ được bồi thường theo các tỷ lệ quy định cho từng trường hợp thương tật và nguyên tắc bồi thường đã được nêu trong bảng tỷ lệ thương tật quy định trong từng đơn bảo hiểm.

Trường hợp người lao động bị nhiều thương tật bộ phận tổng cộng vượt quá 80%, công ty bảo hiểm sẽ xem xét giải quyết bồi thường như đối với trường hợp thương tật toàn bộ vĩnh viễn.

-                      Trường hợp thương tật bộ phận vĩnh viễn dưới 5% hoặc mất khả năng lao động tạm thời

Trong trường hợp này, người lao động sẽ chỉ được chi trả các chi phí y tế và lương trong thời gian điều trị.

Bên cạnh những khoản tiền bồi thường nhận được ở trên, người lao động còn nhận được công ty bảo hiểm thanh toán các chi phí y tế và tiền lương theo ngày điều trị. Những khoản chi trả này được tính toán như sau:

-                      Chi phí y tế:

Việc thanh toán các chi phí y tế được dựa trên cơ sở hóa đơn, chứng từ y tế phát sinh, bao gồm cả các hóa đơn thuốc do điều trị ngoại trú, song không được vượt quá giới hạn chi phí y tế mà chủ sử dụng lao động đã lựa chọn và được ghi trong hợp đồng bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. Chi phí y tế được trả độc lập với số tiền bảo hiểm do chết, thương  tật vĩnh viễn và tiền lương trong thời gian điều trị.

Ví dụ: lại lấy ví dụ giống như trên nhưng giả sử trước khi công nhân B chết đã có thời gian điều trị tại bệnh viện và đơn vị tham gia có quyền lợi về chi phí y tế với mức giới hạn là 3000 USD. Chi phí thực tế hợp lý cho việc cấp cứu và điều trị của công nhân B trước khi chết là 1500 USD. Trường hợp này, chi phí thực tế hợp lý thấp hơn mức giới hạn trách nhiệm nên chúng ta xét bồi thường cho chủ sử dụng lao động toàn bộ chi phí nói trên là 1500 USD.

-                      Tiền lương theo ngày điều trị:

Quyền lợi bảo hiểm này hoàn toàn độc lập với số tiền bảo hiểm trường hợp chết, thương tật vĩnh viễn và chi phí y tế. Trong trường hợp người lao động gặp sự cố thuộc trách nhiệm bảo hiểm phải nghỉ việc để điều trị (bao gồm cả điều trị nội trú), công ty bảo hiểm sẽ bồi thường trên cơ sở 100% mức lương thuần thực tế hàng tháng của người lao động tại thời điểm xảy ra sự cố. Giới hạn thời gian bồi thường tối đa phụ thuộc vào thời gian chủ sử dụng lao động đã lựa chọn khi tham gia bảo hiểm. Số tiền bồi thường cho 1 ngày (bao gồm cả thứ bảy, chủ nhật và ngày lễ) sẽ được tính như sau:

                             Lương thuần hàng tháng (trừ tiền làm thêm, thưởng và bồi dưỡng)

Lương 1 ngày =  --------------------------------------------------------------------------------

30 ngày

Ví dụ: Đơn vị tham gia bảo hiểm bồi thường cho người lao động C, mức lương   150 USD/tháng, giới hạn trách nhiệm 6 tháng lương. Trong thời gian bảo hiểm, công nhân C bị tai nạn lao động phải nghỉ việc để điều trị thời gian 45 ngày. Số tiền bồi thường cho chủ sử dụng lao động trong trường hợp này được tính như sau:

STBT = 45 ngày x 150 USD/tháng : 30 ngày = 225 USD

Chú ý: trường hợp này nếu công nhân C phải nghỉ việc để điều trị 7 tháng, chúng ta chỉ thanh toán tiền lương trong thời gian điều trị tối đa là 6 tháng theo giới hạn chủ sử dụng lao động đã lựa chọn tham gia.

2.6. Hợp đồng bảo hiểm

*/ Khái niệm và đặc điểm:

Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó, bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm phái trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.

Cũng giống như các loại hợp đồng bảo hiểm khác, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động cũng có các tính chất như:

-                      Là hợp đồng song vụ, mở sẵn

Các bên ký kết hợp đồng đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau, quyền của bên này sẽ là nghĩa vụ của bên kia. Các quyền và nghĩa vụ này đề được quy định và thể hiện rõ ở các điều khoản bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm, như là đã mở sẵn. Bên tham gia bảo hiểm sau khi xem xét thấy phù hợp với nhu cầu của mình thì ký kết và ngược lại.

-                      Mang tính tương thuận

Việc ký kết hợp đồng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật. Tuy nhiện, nội dung hợp đồng chủ yếu đều do công ty bảo hiểm soạn thảo sau khi được cơ quan quản lý phê duyệt, người tham gia bảo hiểm sẽ tự do lựa chọn cho phù hợp với yêu cầu của mình.

-                      Là hợp đồng có bồi thường

Quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên tham gia hợp đồng thể hiện mối quan hệ tiền tệ rất rõ nét, tức là người tham gia bảo hiểm phải trả tiền bằng cách nộp phí bảo hiểm mới được đảm bảo có quyền lợi kinh tế từ công ty bảo hiểm.

-                      Là loại hợp đồng may rủi

Tại thời điểm ký hợp đồng, sự kiện bảo hiểm là rủi ro tồn tại ở trạng thái tương lai, không ai biết được nó có xảy ra hay không. Nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra, người thụ hưởng sẽ được công ty bảo hiểm chi trả bồi thường, còn nếu sự kiện bảo hiểm không xảy ra thì công ty bảo hiểm sẽ không phải chi trả bồi thường. Vì thế, không thể xác định được hiệu quả khi ký kết hợp đồng.

Ngoài các đặc điểm chung trên, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động còn có những đặc điểm đặc trưng sau:

-                      Trong thời hạn hợp đồng, công ty bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm khi người lao động bị thiệt hại và yêu cầu người chủ sử dụng lao động bồi thường.

-                      Hợp đồng bảo hiểm này chỉ giới hạn trong phạm vi trách nhiệm bồi thường về mặt kinh tế, không chịu các trách nhiệm khác của người chủ sử dụng lao động trước pháp luật như: trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự,…

-                      Hợp đồng bảo hiểm này không thể quy định về số tiền bảo hiểm, mà chỉ quy định về hạn mức trách nhiệm bồi thường tối đa của công ty bảo hiểm.

*/ Nội dung của hợp đồng:

Nội dung của một hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động bao gồm:

-                      Tên và địa chỉ của doanh nghiệp tham gia bảo hiểm

-                      Ngành nghề hoạt động

-                      Giới hạn trách nhiệm cho một người lao động

-                      Phạm vi bảo hiểm

-                      Rủi ro loại trừ

-                      Phí bảo hiểm

-                      Thời hạn bảo hiểm

-                      Ngày ký kết hợp đồng

-                      Chữ ký của các bên

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro