To Tam Tam - Le Thai Tho

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

TỔ TAM TAM - LÊ THÁI THỌ

Thọ.. Thọ..dậy đi, dậy đi..

Nghe tiếng thì thào của thằng Minh, tôi nhè nhẹ vén màn ( mùng ) trở dậy. Nhẹ nhàng và rón rén, tôi cuộn chiếc chăn chiên cho nó giống như hình người đang nằm ngủ, giắt màn cẩn thận, mặc vội bộ quần áo K74 rồi cùng với thằng Minh bước ra ngoài sân. Trời vẫn còn tối lắm, Tôi và thằng Minh luồn qua hàng rào của Trung đoàn bộ rồi trượt xuống ven con suối nhỏ đi thẳng về phía chiêc cầu Bê tông trên đường quốc lộ 21 từ Xuân Mai đi Sơn tây. Ngay chân cầu, thằng Long " thần sầu " đã đứng đợi hai đứa chúng tôi từ lúc nào rồi chẳng biết nữa. Cả ba thằng chúng tôi lùi lũi thẳng hướng Thị trấn Xuân mai rảo bước. Đằng đông, trời đã dần hửng sáng.

Chiều qua, lúc ăn cơm chiều, ba thằng chúng tôi đã nhất trí với nhau là sáng sớm hôm nay sẽ té về Hà nội. Chẳng là cách đây ba hôm, toàn trung đoàn đã có lệnh cấm trại. Đợt này chắc là đi rồi, cách đây hơn 10 ngày, trung đoàn 36 - Trung đoàn Bắc Bắc của F308 - đã xuất quân đợt 1 nhưng toàn là lính cũ thôi, lính 74,75, 76 chứ bọn lính mới 77 chúng tôi thì chưa thấy ai động đến. Nhưng đến đợt này, chắc chắn chúng tôi không thể thoát được. Ba thằng bàn nhau " chuồn ", không phải chúng tôi có ý định đảo ngũ đâu mà chẳng qua là muốn đảo qua nhà thăm bố mẹ, anh em trước khi dấn thân vào cuộc chiến, một cuộc chiến mà chúng tôi không lường hết được những gì đang chờ đợi chúng tôi ở phía trước.

Đến Xuân mai, trời đã sáng hẳn. Không kịp ăn sáng, mà làm gì có tiền mà ăn sáng. Ba chúng tôi rẽ vội về đường quốc lộ số 6. Cứ loáng quáng ở đây, mấy thằng vệ binh sư đoàn nó bắt được thì có mà công cốc. Đi mới được khoảng gần 1 cây số, phía sau chúng tôi xuất hiện một chiếc xe tải.

- A! Xe dân sự chúng mày ạ.

Thằng Minh hí hửng kêu lên. Bọn tôi vẫy rối vẫy rít. Chiếc xe từ từ dừng lại. Anh lái xe thò đầu ra hỏi :

- Mấy ông đi về đâu?

- Anh cho bọn em về Hà nội với.

- Xe tôi không về Hà nội đâu, chỉ về đến Hà đông thôi.

- Thế cũng tốt quá rồi. Thằng Long " thần sầu " từ nãy đến giờ mới thốt ra rồi leo tót lên thùng xe. Xe chạy khá nhanh vì đường cũng vắng. Khoảng gần 10 giờ sáng, chúng tôi đã về đến Hà đông. Chúng tôi chia tay bác tài, không quên nói lời cảm ơn và đi thẳng tới bến xe Hà đông.

Ba đứa chúng tôi đi xe bus tuyến Hà đông - Bờ hồ. Về đến nơi đã gần 11 giờ trưa, ba thằng hẹn nhau đúng 2 giờ chiều có mặt tại nhà của tôi ( Phố Lê Thái Tổ ) để cùng nhau lên đơn vị. Thằng Minh thì về nhà ở Nguyễn Hữu Huân, thằng Long về nhà ở Phố Hàng Hòm.

Tôi về đến nhà khi cả nhà đã ăn xong cơm trưa. Mẹ tôi bảo thằng em đun lại món bò xốt vang để tôi ăn với bánh mỳ. Cơm nước xong xuôi, tôi ngồi nói chuyện với Bố mẹ tôi về chuyến đi sắp tới của chúng tôi. Ai cũng cảm nhận thấy được mối hiểm nguy ẩn chứa trong chuyến đi ấy mà chẳng ai dám nói thẳng ra. Hai thằng em trai của tôi vẫn còn quá bé nhỏ ( thằng lớn 14, thằng nhỏ 12 ) để hiểu thấu đáo những gì mà anh chúng nó sắp phải trải qua. Chúng vẫn hồn nhiên, vui vẻ ngồi nghe, thỉnh thoảng lại tranh giành nhau chí choé.

Thời gian trôi đi thật nhanh, những giờ phút bên gia đình thân yêu chẳng mấy chốc đã cạn. Long, Minh đã tới thật đúng hẹn, tôi chia tay gia đình. Mẹ tôi khi ấy đã rất yếu, bệnh tim của Mẹ tôi đã tới thời kỳ tăng nặng nhưng Mẹ tôi vẫn cố gắng tiễn tôi ra đến cổng. Bàn tay Mẹ tôi nắm chặt tay tôi như không muốn buông rời. Cố gắng rút tay ra khỏi bàn tay của Mẹ, tôi quay đầu bước đi mà không dám quay lại nhìn Mẹ lần cuối. Nước mắt nhạt nhoà....Ai mà biết được liệu tôi có còn được gặp lại Mẹ tôi lần nào nữa hay không?

Chúng tôi " bò " lên đến đơn vị vào khoảng hơn 5 giờ chiều. Ba thằng chúng tôi ngồi bệt trên bãi cỏ trước cổng vào trung đoàn bộ. Mỗi đứa miên man suy nghĩ mỗi hướng, bỗng thằng Minh lên tiếng :

- Này chúng mày, chuyến đi này tao thấy " lành ít, dữ nhiều " đấy. Thôi mỗi thằng hãy ghi vào sổ tay những địa chỉ cần báo tin của nhau đi. Nếu trong ba chúng ta, thằng nào không may hy sinh trước, thằng còn sống phải có nhiệm vụ viết thư báo tin cho gia đình, người thân. Phải ghi nhớ nơi chôn cất để sau này gia đình còn biết chỗ mà vào thăm.

Ghi chép xong, nào có nhiều nhặn gì đâu. Tôi chỉ có địa chỉ gia đình, thằng Long cũng vậy, riêng thằng Minh có tới hai địa chỉ, ngoài gia đình ra nó còn thêm địa chỉ của cô bạn gái thân - Cô gái tên lả Minh Nguyệt - Trăng sáng - thằng Minh gọi tên cô gái như vậy, chúng tôi bước chân vào cổng Trung đoàn, thằng nào cũng chắc chắn nhận một án kỷ luật vì tội đào ngũ.

May thay, buổi tối hôm đó chẳng có một án kỷ luật nào được đơn vị đưa ra ngoài sự nhắc nhở nhẹ nhàng của chính trị viên C18 thông tin.

Sáng sớm hôm sau, ban chính trị E36 gọi tôi lên gặp. Phen này thì " chết chắc ' rồi. Tôi thầm nghĩ như vậy. Nhưng không, đồng chí trợ lý ban chính trị trung đoàn vui vẻ pha trà mời tôi uống rồi nói:

- Sắp tới, Trung đoàn sẽ tổ chức buổi lễ xuất quân cho các đồng chí vào trong kia. Ban chính trị đã quyết định chọn em thay mặt cho toàn bộ anh em chiến sỹ thuộc Trung đoàn ta và hai trung đoàn bạn là 102 và 88 đọc lời tuyên thệ trước Bộ tư lệnh sư đoàn trước khi đi làm nhiệm vụ mới. Em về chuẩn bị sẵn ra giấy để hôm này phát biểu cho mạch lạc.

Thế là từ lúc đó, chúng tôi cứ cuốn vào công việc. Nào nhận quân trang bổ xung, nào trả lại quân trang không sự dụng đến. Sau này chúng tôi mới biết bộ phận quân nhu của E36 thật là láo toét. Những chiếc chăn chiên ( len tái sinh dệt lại ấy mà ) đã cấp phát cho tụi lính mới chúng tôi là thuộc quân trang niên hạn 5 năm, cấp vĩnh viễn. Thế mà họ lại ra lệnh thu lại với lý do : Vào trong kia, khí hậu nóng không dùng tới nên họ thu lại, vào trong kia, đơn vị mới sẽ cấp đồ mới phù hợp hơn.

Bi đông, tăng... ( không có võng đâu nhé ) đầy đủ.

Chiều ngày 16.05.1978, những chiếc xe Zin 151, 157 đến đón bọn chúng tôi đỗ chật sân bóng của tiểu đoàn 2. Tôi nói thêm cho rõ là tổ " Tam Tam " chúng tôi thuộc biên chế của C18 thông tin - E36 - F308. Khi huấn luyện tân binh, Minh và Long thuộc D1 còn tôi thuộc D2. Kết thúc huấn luyện chiến sỹ mới, chúng tôi được " nhặt " lên C20 trinh sát. Huấn luyện ở C20 xong lại bổ xung về C18 thông tin. Mới có mấy tháng đời quân ngũ mà sao tôi chuyển lắm đơn vị thế không biết. Nhờ có chút ít kiến thức vật lý học thời phổ thông, tôi được C18 thông tin cho làm trợ giảng về điện và dòng điện cho bọn lính thông tin mới toé toè toe khi học sử dung máy 2W - P 105. Thế mới có chuyện là tôi được cử thay mặt anh em ra đi làm nhiệm vụ mới đọc lời hứa trước Bộ TL sư đoàn chứ.

Tất cả sự chuẩn bị được hoàn tất vào sáng 17.05.4978. Đúng 2 giờ chiều ngày 17.05, tất cả chúng tôi tập trung đông đủ tại sân bóng của D2.

Sau lời giới thiệu của chính uỷ Trung đoàn, tôi thay mặt anh em lên hứa hẹn đại ý là Ri rỉ rì ri cái gì cũng hoàn thành tốt, xứng đáng với danh hiệu sư đoàn quân tiên phong anh hùng. Tôi lên gân rất máu rằng đã đi là đến, đã đến là đánh thắng, không sợ khó khăn gian khổ hy sinh. Các bạn bây giờ thông cảm cho cái thằng tôi, vừa thôi mài đít trên ghế nhà trường, trong đầu vẫn còn thấm đẫm hình ảnh của Paven Coocsaghin, của Nguyễn văn Trỗi, Nghuyễn Viết Xuân... thì điều đó cũng chẳng có gì là lạ. Tư lệnh kiêm chính uỷ sư đoàn, đại tá Mai Thuận lên phát biểu căn dặn trước đoàn quân, ông nói rằng bọn chúng tôi vào trong kia không phải tất cả đều đi chiến đấu, có đồng chí sẽ đi làm nhiệm vụ kinh tế.. như trồng cỏ, đi chăn bò, vắt sữa... Chắc ông sợ nói thật rằng chúng tôi phải đi chiến đấu thì tỷ lệ " lính chuồn chuồn " sẽ cao lên chăng??? 15g30, Tất cả lên xe!

Theo kế hoạch, chúng tôi sẽ lên tàu tại ga Thường tín tức là xe đến Hà đông sẽ rẽ phải đi qua Văn điển xuống ga Thường tín. Chán thật, mấy thằng lính Hà nội lại không được thấy thủ đô lần cuối rồi.

Và mưa, mưa... cả đoàn xe lầm lũi đi trong mưa mịt mù trắng xoá. Có lẽ ông trời cũng thương cảm cho hơn 900 thằng lính chúng tôi chăng? Bóng đêm đã dần buông. Về đến thị xã Hà đông, trời ngớt mưa. Đoàn xe vẫn lao thẳng.

- Ôi trời, không rẽ phải à? Cả đám lính tiểu đội tôi ồ lên sung sướng. Về Hà nội rồi, về ga Hàng cỏ rồi !!! Không còn nghi ngờ gì nữa, tuyến hành quân đã có sự thay đổi. Thay vì xuống ga Thường tín nay đổi lại thành ra ga Hàng cỏ để lên tàu. Đám lính Hà nội sung sướng hò reo ầm ĩ. Đoàn xe lướt qua phố phường, đây rồi khu CN Cao Xà Lá là đây. Những vũng nước mưa còn đọng lại trên đường phản chiếu ánh sáng điện lấp loá trước cổng nhà máy. Mấy con chuột cống chạy đi, chạy lại kiếm ăn và cắn nhau kêu chí choé. Xe đi đến đường Tây sơn, thằng Minh thì thầm với tôi :

- Nhà Nguyệt ở đây đấy. Nó chỉ tay sang bên phải, dãy nhà hai tầng mái ngói có những cây bàng đứng im lìm, cô quạnh.

Bỗng nhiên, có rất nhiều rất nhiều những chiếc phong bì bay lấp loá trong ánh đèn đường vàng vọt khi mờ khi tỏ. Thư, thư nhiều quá các bạn ạ. Thì ra lũ lính tráng trên xe tung thư xuống mặt đường. Mấy hôm vừa rồi cấm trại, chúng nó tranh thủ viết thư về cho người thân, bây giờ chúng đem ra tung xuống đường phố. Cả đoàn xe lính hét lên ầm ĩ :

- Bà con ơi, cô bác anh chị ơi. Chúng tôi là Bộ đội trên đường đi chiến đấu. Mong bà con nhặt và bỏ vào thùng thư giúp chúng tôi với.

Thế là người dân đi đưòng ùa nhau nhặt. Người đang đi xe đạp trên đường dừng xe nhặt, người dân trong nhà cũng lao ra nhặt, người già nhặt, trẻ em cũng tranh nhau nhặt. Cảnh tượng ấy thật vô cùng ý nghiã và xúc động. Những bàn tay cầm đầy phong bì thư của chúng tôi còn đưa lên vẫy vẫy mãi không thôi. Dân Hà nội của tôi đó, những người thân yêu của tôi đó. Xin chào nhé Hà nội ơi. Chúng tôi nguyện sẽ không làm hổ danh Thủ đô yêu dấu.

Khoảng 7 giờ tối, đoàn xe từ từ rẽ vào đường Trần hưng Đạo và dừng hẳn trước quảng trường Nhà hát nhân dân ( Cung Văn hoá Hữu nghị bây giờ ).

- Tất cả các đồng chí ở nguyên trên xe, không có lệnh, không đồng chí nào được xuống.

Tiếng ông cán bộ dẫn quân đi oang oang ra lệnh.

Trên xe, chúng tôi ồn ào bàn tán. Bỗng có thằng la lớn :

- Bà con cô bác ơi, chúng tôi là lính Hà nội đang trên đường hành quân đi chiến đấu. Nhờ bà con cô bác báo giúp cho gia đình chúng tôi với.

Thế là có bao nhiêu người dân gần đó, những người bán hàng lặt vặt trước cổng nhà hát, những đôi tình nhân đang đèo nhau đi " bát phố ", tất cả, tất cả đều xúm lại vây quanh đoàn xe quân sự của chúng tôi. Tiếng nhắn nhủ, tiếng gọi nhau ầm ĩ cả một góc phố. Tôi nhìn thấy một đôi anh chị đèo nhau trên chiếc xe Phượng hoàng ghé lại gần. tôi hét tướng lên :

- Anh chị ơi, cho em nhờ tí chút.

Họ dừng lại và nghe tôi nói :

- Em nhờ anh chị giúp em tới báo cho gia đình em ở ngay Phố Lê Thái Tổ, gần hiệu kem Bốn mùa. Nhanh lên anh chị nhé. Bọn em dừng chân ở đây không lâu đâu.

Hai người nhanh chóng phóng xe vút đi. Tôi yên tâm chờ đợi. Thằng Minh, thằng Long không biết có nhờ được ai không nhỉ? Trong lúc cuống quýt, ồn ào tôi cũng chẳng có tâm trạng nào mà để ý đến chúng nó.

Một lúc sau, tôi nhìn thấy Bố tôi đi cùng thằng em út đi xe đạp tới. Tôi mừng rỡ vẫy gọi rối rít. Đúng lúc ấy có lệnh xuống xe để vào ga lên tàu. Tôi tập trung toàn tiểu đội ( à, trước khi hành quân, tôi được tạm cử làm A trưởng để duy trì kỷ luật hành quân ) theo bước của toàn đơn vị đi ra ga Hàng cỏ. Bố và em trai tôi cũng dắt xe theo sau, vừa đi vừa thì thào nói chuyện. Thằng em tôi vừa theo Bố tôi đi Quảng ninh về, nó đội trên đầu chiếc mũ cói đan rộng vành, mặt đen nhẻm cứ nhìn anh mà chẳng biết nói gì, cứ nắm chặt lấy tay anh lắc lắc. Bố tôi căn dặn nhiều điều, nào giữ gìn sức khoẻ, nào vào đến nơi phải viết thư ngay về cho Bố mẹ, nào phải nhanh nhẹn, bình tĩnh vv ..và vv. Chẳng gì ông cụ cũng là lính Điện biên năm xưa nên có vẻ bình tĩnh lắm. Nhưng tôi biết, dưới cái vẻ bình tĩnh và can trường ấy là một nỗi lo đến thắt ruột cho cái tính mạng của thằng con trai cả vừa mới tròn 19 hoa niên.

- Đại đội hàng dọc, trung đội hàng dọc. Tất cả theo thứ tự.... theo tôi.

Tiếng cán bộ dẫn quân vang lên dứt khoát. Đã đến giờ chia tay rồi, cả đoàn quân rùng rùng chuyển động. Tôi vội nắm chặt tay Bố và em mà chẳng nói lên lời rồi chạy lên đứng đầu tiểu đội. Nước mắt nhạt nhoà... Tôi vốn là người rất hay xúc động nhất là trước những cảnh chia ly.

Chúng tôi vào ga, cả sân ga đông đặc người và người. Bố mẹ, anh chị em, người yêu, rồi thì bạn gái, bạn trai... lúc bấy giờ tôi mới thấy mình ngốc vô cùng. Nhưng Bố và em tôi đã về rồi. Tôi nhìn ra ngoài cổng ga với vẻ đầy luyến tiếc. Lúc này, tôi mới sực nhớ đến thằng Minh, thằng Long. Chẳng hiểu chúng nó có ai ra tiễn không nhỉ? Tôi quay ra hỏi thằng Minh. Nó im lặng không trả lời tôi. Tôi chợt hiểu ra và cùng im lặng mà không dám hỏi gì thêm nữa. Hoàn cảnh thằng Minh ra sao, tôi còn lạ gì. Bố mẹ nó bỏ nhau từ mấy năm nay rồi, ông anh trai là thương binh hạng ba chống Mỹ. Nó đâu phải là diện đi bộ đội đợt này, nhưng vì hoàn cảnh đáng buồn của gia đình, chán đời nó xung phong đi lính. Bây giờ nào có ai ra với nó đây !!! Chúng tôi lên tàu ngồi lặng lẽ. Dưới sân ga ồn ào kẻ đi người lại. Từng nhóm, từng nhóm quây quần với gia đình, bạn bè trò chuyện. Trời lại đổ mưa, cơn mưa đầu hạ trút xuống rào rào. Theo lịch, tàu 8 giờ là chuyển bánh vậy mà bây giờ đã hơn 10 giờ rồi. Trong tôi bỗng xuất hiện một suy nghĩ trở nên nhỏ nhen đáng ghét, tôi chỉ muốn tàu chạy ngay bây giờ để nhanh chóng chấm dứt cái cảnh hàn huyên ầm ĩ đang diễn ra trước mắt tôi. Để cho tất cả bọn nó cũng " bằng phân " với ba đứa chúng tôi. Tàu chạy, thế là xong. Hết chia tay, hết vui cười, hết cả khóc lóc...

Mãi đến 10g30 đêm .. ..Tu..tu..tu ....sịch..sịch..sịch. Con tàu phì một hơi dài rồi lầm lũi băng trong đêm mưa gió.

Các chú lính sau một buổi chiều vừa hành quân, vừa trải qua quá nhiểu xúc cảm của buổi chia tay bây giờ đã bắt đầu thấm mệt. Đó đây, nhiều chú đã ngủ ngà ngủ gật mặc cho tiếng bánh sắt rít ầm ĩ trên đường ray. Có thằng lấy tấm nilon trải ngay ra trên sàn tàu giữa lối đi đánh ngay một giấc. Cả đoàn tàu quân sự toàn lính " sợ gì bố con thằng nào " !!!? Ba thằng chúng tôi vẫn chưa ngủ, cái xúc cảm của cuộc chia tay vẫn còn rất mạnh mẽ làm chúng tôi chẳng thể nào nhắm mắt được. Kịch kịch...kịch kịch...kịch kịch, tiếng bánh xe lăn trên đường ray vẫn vọng tới đều đều như cố ru chúng tôi chìm vào giấc ngủ.

Khoảng 12 giờ đêm ngày 20.05, chúng tôi đến ga Biên hoà. Tất cả chúng tôi được lệnh xuống tàu. Thành phố Biên hoà đã chìm trong giấc ngủ, phố phường im ắng, chỉ còn tiếng những bước chân hối hả của đoàn bộ đội chúng tôi hành quân trong đêm. Hơn một tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã tới cổng trạm giao liên Long bình. Mệt mỏi rã rời, chẳng ai bảo ai chúng tôi ngả ba lô nằm ngổn ngang ngay trên con đường dẫn vào cổng trạm. Bọn vệ binh gác cổng nhất định không mở cổng cho chúng tôi vào bên trong vì chưa có lệnh. Ngủ cái đã. Lũ chúng tôi gối đầu bằng chiếc ba lô, đánh thẳng cẳng một giấc đến sáng. Trời đã sáng bảnh, sau khi cán bộ dẫn quân làm xong thủ tục, chúng tôi lục tục đổ quân vào binh trạm. Chao ôi, sao mà lớn đến vậy. Cái tổng kho Long bình mà tôi từng nghe nói bây giờ hiển hiện ngay trước mắt tôi. Hàng rào giây thép gai có đến hàng chục lớp. Nào bùng nhùng, nào cũi chó, cũi lợn, nào hàng rào B40 tầng tầng lớp lớp. Tôi chợt nghĩ đến những chiến tích vang dội của bộ đội đặc công năm trước đã từng tung hoành trên cái mảnh đất mà tôi đang đứng. Đang ngơ ngác nhìn ngắm và hồi tưởng, tôi giật mình khi thằng Long vỗ vào vai :

- Này, vào nhận chỗ ở rồi đi tắm giặt một cái cho nó tỉnh người.

Thằng Long " thần sầu " đã nhanh chóng hỏi thăm được nơi có giếng nước. Tôi và Minh lẽo đẽo đi theo nó vào nhận phòng ở. Những căn nhà lợp tôn trống hoếch trống hoác, gió thổi ù ù mang theo đầy bụi cát.

Cái giếng nằm ngay bên phải cổng trạm. Giếng to dễ sợ. Có lẽ chưa bao giờ tôi nhìn thấy cái giếng nào to đến thế. Thành giếng làm bằng những tấm tôn cong cong của Mỹ, có lẽ nó được tận dụng từ những tấm tôn dùng để lợp vòm cho nhà chứa máy bay thì phải. Vậy mà phải dùng đến ba bốn tấm mới quây hết được chiếc thành giếng. Bộ đội chen chân đầy xung quanh thành giếng để tắm giặt. Cũng may mà ở trên thành giếng buộc cố định rất nhiều gầu múc nước nên chúng tôi tắm giặt rất nhanh. Chỉ tội nước giếng đục như nước sữa, chẳng biết là nước sạch hay bẩn.

Tắm xong, tôi và Minh đi lang thang trên những con đường chạy ngang dọc trong binh trạm. Một vài chiếc xe chở khách của binh trạm đang chất đồ lên nóc xe, mấy đồng chí bộ đội chắc được đi phép ra Bắc đang tranh thủ chằng buộc lại con búp bê trên nóc ba lô. Tôi thầm ước ao không biết đến bao giờ mình cũng được như họ.

Buổi trưa, trong binh trạm nóng kinh người. cả cái tổng kho rộng mênh mông mà chẳng có lấy một bóng cây xanh nào. Cái nóng từ trên mái tôn hắt xuống, cái nóng từ dưới đất hắt lên, cái nóng theo gió thổi qua những ô cửa sổ không cánh. Nóng không thể ngủ được, nóng đến nhược cả người.

Sáng sớm hôm sau, sau khi ăn xong bữa sáng tôi rủ Long và Minh đi ra ngoài chơi. Ba thằng chúng tôi theo sự chỉ dẫn của mấy ông lính ở trong binh trạm, lần theo lối " cửa mở " chui rào thoát được ra ngoài. ( " cửa mở " là từ ngữ chỉ những lối mòn xuyên qua các lớp hàng rào kẽm gai, bãi mìn do lính tráng muốn ra ngoài tự mở lấy ). Ngã ba Tam hiệp lèo tèo vài ba quán xá, nhiều nhất là nước mía đá, nhưng chiếc xe đẩy bán nước mía giăng hàng bán ở khắp nơi. Tôi mua ba bịch nước mía đá cho ba đứa. Chà chà, ngọt và mát lịm. Lần đầu tiên tôi được uống nước mía như thế này. Lúc ấy, ở ngoài Bắc làm gì đã có. Và bánh mỳ kẹt thịt, những chiếc bánh nhỏ thôi nhưng nóng giòn và thơm ngon vô cùng. Ba đưa chúng tôi cái gì cũng ăn, cũng thử. Ngon và lạ miệng, ở ngoài Bắc đang phải ăn bo bo, cơm độn. Vào đây sẵn tiền của gia đình vừa " tắc tế " ba chúng tôi tự cho phép mình xả láng đôi chút trước khi bước vào cái tương lai mà chẳng thằng nào đoán định trước được.

Tôi nhìn thấy những chiếc xe lam, xe ô tô loại Daihatsu nhỏ chở khách, trên thành xe đề tuyến Tam hiệp - Sài gòn. Không phải suy nghĩ gì lâu la, tôi nhanh chóng ra quyết định: Lên xe. Chỉ khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã có mặt tại Ngã tư Hàng Xanh. Sài gòn đây rồi, thành phố Hồ chí Minh đây rồi. Ba chúng tôi lang thang đi bộ, tôi tạt vào bưu điện Hàng Xanh gửi một bức điện về báo cho gia đình là tôi đã vào đến nơi an toàn. Thằng Minh, thằng Long chẳng thấy chúng nó gửi thư từ hay điện đóm gì cả. Thậm chí, chúng nó còn đứng ở ngoài chờ tôi mà chẳng thèm vào. Thôi kệ chúng mày.

Sở thú, đại sứ quán Mỹ, dinh độc lập .. chúng tôi cứ lang thang đi bộ, ngắm nghía ngước nhìn, trông chẳng khác gì " bò đội nón ". Rồi buổi trưa, cũng lại chễm chệ vào một nhà hàng, tôi nhớ không nhầm thì nó ở góc đường Đồng khởi và Sương Nguyệt Ánh bây giờ. Cũng khăn dải bàn trắng muốt, cũng ghế dựa đàng hoàng như ai.

- Cho xin ba tô hủ tiếu . Tôi dõng dạc gọi.

Cũng lại lần đầu tiên được ăn hủ tiếu. Là lạ, ngon ngon. Vèo một cái, ba tô hủ tiếu chui tọt vào ba cái dạ dày đang sôi lên sùng sục vì đói. Chẳng bõ bèn gì nhưng chẳng nhẽ lại gọi mỗi thằng thêm... ba bát nữa. Ngượng chết.

Ba chú bộ đội, sao tiết chỉnh tề, quân hàm " chuẩn tướng " lại tiếp tục lang thang cho đến nửa buổi chiều rồi quay về ngã ba Tam Hiệp. Với tinh thần tiến công liên tục như lời hứa trước Bộ tư lệnh sư đoàn bữa trước, vừa nhìn thấy quán có tấm biển đề : " A, xin mời Cầy tơ bảy món " ở ngay xế cổng binh trạm. Tôi liền cùng hai chiến hữu lập tức xung phong. Ra khỏi quán, trời đã nhập nhoạng tối. Chúng tôi " chân nam đá chân siêu " loạng choạng trở về căn cứ.

Ngày hôm sau, 23.05.1978. vừa ăn sáng xong chúng tôi đã thấy một đoàn xe ca sơn vàng đỏ tím xanh tiến vào binh trạm. Binh trạm thông báo cho đoàn tân binh chúng tôi hôm nay sẽ về đơn vị mới, tất cả không được đi đâu. Đang định rủ rê chúng nó " đột rào " ra ngoài để đi Sè goòng lần nữa Thế là phèo ! Trong túi tôi vẫn còn hơn 40 đồng nữa ( Ngày ấy, 40 đồng là to đấy các bạn ạ. Lương trung uý chỉ có 75 đồng thôi ). Cả ngày hôm qua, cả ba thằng mới tiêu hết có hơn 30 đồng.

Chúng tôi chuẩn bị ba lô, quân tư trang sẵn sàng để lên đường. Buổi sáng các sư đoàn 7, 341 lấy quân trước. Cuộc chia tay diễn ra vô cùng bịn rịn, cảm động. Giữa tân binh với nhau, giữa tân binh với cán bộ khung F308 dẫn quân đi. Xin chào các anh nhé, các anh trở lại xứ Bắc quê hương thân yêu, còn chúng tôi, những người ở lại chưa biết sẽ có những gì chờ đợi ở phía trước. Trong khu vực doanh trại vang lên tiếng hát : " Chúng tôi, người chiến sỹ sư đoàn tự hào thay hai tiếng Tiên phong, đâu có ngại ngùng chi gian khó...." Những cái bắt tay, những cái ôm... tôi với anh dù đã quen hay vẫn còn lạ nhưng không sao, chúng ta đều là lính của Quân Tiên phong cả mà.

Chúng tôi tranh thủ bắt chuyện làm quen với anh em đến nhận quân. Thôi thì đủ các thứ chuyện về cuộc chiến đang ngày đêm diễn ra tại chiến hào biên giới. Nào là vào đấy chúng mày phải hết sức cẩn thận, có thằng đi đái đêm cũng vấp phải mìn lá, cụt cẳng dễ như chơi. Nào chuyện lính có kinh nghiệm chiến đấu thì đã giải quyết cho ra quân hết rồi, còn lại toàn bọn ú a ú ớ như chúng mày vào trận cứ lơ ngơ như " bò đội nón ". Bắn B40, B41 xong lại cứ nhìn loanh quanh để tìm nhặt cắt tút vv.. và vv. Có những chuyện thật, nhưng cũng có những chuyên mà chúng tôi biết chắc là các bố bịa ra để " doạ " chúng tôi. Tôi chẳng thấy ông nào ở trại chăn nuôi bò hay nông trường trồng lúa đến nhận chúng tôi về để đi vắt sữa hoặc đi cày cả. Tất cả sẽ phải rồi sẽ phải lao ra mặt trận. Hết rồi nhé Thọ ơi, Minh ơi, Long ơi đừng có tơ tưởng hão huyền nữa.

Sau bữa cơm trưa vội vàng, lũ tân binh còn lại tập trung nghe đọc danh sách. Thằng về E1, thằng về E2, thằng về E3. Lại chia tay, lại bịn dịn. Khoảng hơn 2 giờ chiều, chúng tôi lên xe để về đơn vị mới. Ngồi trên xe, tôi ngắm nhìn cảnh vật làng quê miền nam qua ô cửa sổ. Những luỹ tre làng ở miền bắc quê tôi được thay bằng những hàng dừa xanh ngăn ngắt. Cũng trời xanh mây trắng, cũng những cánh đồng lúa xanh mát êm đềm. Xa xa, chóp núi Bà Đen màu xanh sám loáng ẩn hiện trông giống hệt chiếc bát B52 úp ngược. Đất nước thật thanh bình và đẹp. Những người nông dân đang làm đồng ven lộ nhìn thấy đoàn xe của chúng tôi, họ ngẩng mặt lên nhìn rồi lại cúi xuống chăm chú làm việc, cũng đôi khi có những cánh tay đưa lên vẫy vẫy. Liệu rằng có ai trong số họ biết chúng tôi đang đi đâu không nhỉ? Nghĩ đến cái cảnh đất nước thanh bình, phong cảnh tươi đẹp vô cùng mà mình thì đang lao vào chỗ chết, tôi thấy dâng lên một cảm giác nghèn nghẹn, một chút chát đắng trong lòng, thật chẳng thích thú chút nào.

Xe vẫn chạy, đoạn đường từ thị trấn Trảng Bàng trở đi, đường bắt đầu xóc kinh khủng. Lính tráng ngủ ngà ngật, không khí trên xe nóng nực và ngột ngạt vô cùng. Tôi vẫn không hề chợp mắt. Tôi nhớ nhà, nhớ Hà nội thân yêu của tôi, nơi mà bây giờ đã cách xa gần hai nghìn cây số. Cái khoảng cách đơn thuần vật lý ấy sao đối với tôi nó xa xôi đến vậy. Mới ngày nào, tôi và bọn cùng lớp còn chốn học để ra bãi cát sông Hồng đùa nghịch, sang tận bờ đê bên Gia lâm xem máy bay cất hạ cánh... Thế mà bây giờ, mỗi đứa mỗi nơi, tất cả đã cách xa, xa lắm rồi. Nhớ ngày mới bước vào quân ngũ, tôi vẫn hồn nhiên viết rằng :

" Ba năm lính không dài đâu em nhé

Nó trôi qua như giấc ngủ trưa hè

Mặt hồ Tây chưa kịp thay ngọn sóng

Anh đã về, cô bé có tin không? "

Nhưng có lẽ, vào lúc này đây cái niềm tin hồn nhiên ấy đã bắt đầu lung lay, bắt đầu thay đổi. Có lẽ cuộc chiến đấu đang chờ đợi tôi ở phía trước không thể nào kết thúc trong ngày một ngày hai. Xung đột biên giới , ai mà biết nó kéo dài đến bao giờ?

Hơn 5 giờ chiều, chúng tôi đã đến nơi. Tôi cũng không hiểu mình đang ở đâu . Một xóm nhỏ bé vắng vẻ, không một bóng người dân. Đó đây, chỉ thấy toàn lính là lính. Tôi, Minh, Long được hướng dẫn vào tạm trú trong một ngôi nhà gạch, mái ngói, sàn lát gạch hoa bóng lộn. Mùi ẩm thấp sực lên chứng tỏ đã từ lâu nhà không hề có người ở. Trong nhà không có một chút đồ đạc nào ngoài chiếc bàn thờ ở chính giữa. Thằng Minh lên tiếng :

- Chắc dân ở đây chạy hết rồi chúng mày ạ.

Tôi và thằng Long đi quanh nhà xem xét. Ngước nhìn lên phía trên bàn thờ, một bức tranh rất lớn vẽ một con mắt toả ánh hào quang rực rỡ lồng trong khung kính, treo trang nghiêm ở giữa. Bức tường bên tay phải có một tấm bằng dạng như huân chương, trong đó có ghi : Đại đạo tam kỳ phổ độ và địa danh nơi chúng tôi đang đứng chân ( tôi đoán như vậy ). Xã Tân Thuận ( hay Tam thuận tôi nhớ không chắc lắm ), huyện Bến Cầu, Tỉnh Tây Ninh. À, thì ra chúng tôi đang ở đây. Thằng Long xem xét chăm chú một bức tranh treo trên tường rồi bảo :

- Này, Đạo này thờ cả Tôn Ngộ Không chúng mày ạ.

Một bức tranh thờ cỡ nhỏ, vẽ rất nhiều nhân vật. Từ Đức Phật thích ca mâu ni, Phật Bà quan Âm... và có cả Tề thiên đại thánh đang vung cây gậy như ý. Có lẽ đúng như thằng Long nói.

Thằng Long nhanh chóng tìm được cái giếng, nước trong và mát. Cái thằng này cứ củ lẩn cù lần cả ngày chẳng nói lấy một câu, nhưng được cái rất chu đáo. Trong khi tôi và thằng Minh cứ lang thang xem xét vớ vẩn thì nó lo mượn chổi ở tận đâu mang về quét dọn nhà sạch sẽ. Giăng mắc dây phơi quần áo cho chúng tôi cần thận. Đúng là Long " thần sầu ".

- Thôi, tất cả đi tắm giặt đi. Thằng Long ra lệnh. Tất nhiên là " tuân chỉ " rồi. Tắm táp xong xuôi, cái mệt nhọc phần nào đã trôi bớt đi theo dòng nước mát. Chúng tôi dải chiếu nằm kềnh ra giữa nền đá hoa mát rượi.

Một anh lính cũ sang gọi chúng tôi đi ăn cơm chiều. Bữa cơm đầu tiên trong đời lính chiến thật không nuốt nổi. Cơm thì vừa hôi, vừa vàng khè, thức ăn chẳng có gì ngoài đĩa rau muống luộc vừa sống, vừa già. Thêm một đĩa nhỏ là đĩa tép rang mặt chát. Vừa trải qua một ngày mệt mỏi, cộng thêm nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ bạn bè do vậy tôi không thể nào ăn hết được bát cơm. Ăn cơm xong, trời vừa tối. Chúng tôi trở về căn nhà trú quân, trong nhà vo ve đầy muỗi. Mặc dù ở đây không phải là Đồng Tháp Mười " muỗi nhiều như trấu vãi, đỉa nhiều như bánh canh " mà Nguyễn Sáng đã từng mô tả trong các truyện ngắn của mình, nhưng đối với chúng tôi, những thằng lính Hà nội mới chân ướt chân ráo vào đây đã là quá khủng khiếp. Giặc đâu chưa thấy nhưng chúng tôi đã phải chiến đấu với bọn giặc muỗi khốn kiếp này cái đã. Một anh lính cũ thấy chúng tôi loay ha loay hoay mắc màn khi trời mới vừa tắt nắng, liền phì cười :

- Sao tụi bây đi ngủ sớm " dậy " ?

- Chúng em thấy muỗi nhiều quá nên tìm cách mắc màn thôi chứ ngủ nghê nỗi gì. Thằng Minh mau mắn trả lời.

Anh liền bày cho chúng tôi ra ngoài vườn vơ một búi rơm và bẻ thêm một ít lá tươi, tất cả được đặt ngay trên vỉa hè ngôi nhà, cạnh chiếc cửa ra vào rồi đốt. Một làn khói đặc quoánh bốc lên xua đuổi những đàn muỗi hung hãn ra xa. Anh em ngồi vui vẻ trò chuyện trong cái làn khói mờ mịt ấy.

Đêm ấy, chúng tôi ngủ rất ngon giấc mặc dù thỉnh thoảng trong đêm khuya, tôi vẫn vẳng nghe tiếng pháo ì ùng từ tận đâu vọng lại.

Bữa trưa hôm ấy, ngoài những món " truyền thống ", trong mâm cơm đơn vị còn xuất hiện món " gà đồng ". Thịt chuột ấy mà. Lúc gần trưa, một bà má từ ở đâu mang đến cho chúng tôi một rổ chuột, con nào con ấy béo tròn to bằng cổ tay. Bà xếp đều những con chuột lên bãi cỏ ven đường, vơ một nắm rơm phủ lên rồi thui, bà lật qua, lật lại những con chuột và thui cho đều. Tôi chăm chú đứng nhìn bà má làm nhưng trong lòng thì sợ phát khiếp. Tôi vốn sợ chuột từ bé. Cứ nhìn thấy chuột là hồn vía tôi bay đi đâu hết cả. Má mang số chuột vừa thui ra cầu ao trước nhà. Soạt..soạt.. má lột da con chuột rất nhanh, cả rá chuột bây giờ con nào con ấy trắng phau phau. Đầu, đuôi, chân, cẳng bỏ hết, rạch bụng, bỏ ruột. Chà chà..bây giờ trông cũng hấp dẫn đấy chứ nhỉ. Má chặt thịt chuột ra thành những miếng đều nhau bằng ba đầu ngón tay. Hành khô, mắm muối, bột ngọt, hạt tiêu bắc nêm vào ướp cho ngấm. Nào, bắc chảo lên tụi bây. Tôi giúp Má " nổi lửa lên em ", thịt chuột được rán hơi vàng rồi cho vào một cái xoong, Má đổ vào một ít nước nước cốt dừa và nước dừa rồi bảo tôi đun liu riu nhỏ lửa. Chả gì lúc còn ở nhà, nhà tôi chỉ có ba anh em trai, mẹ tôi lại ốm yếu nên việc chợ búa, bếp núc tất cả đều ở một tay tôi nên chuyện nấu ăn tôi cũng chẳng ngô ngọng gì lắm. Mùi xoong thịt chuột khía nước dừa bốc lên thơm ngào ngạt điếc cả mũi.

A lê, tiến lên ! Tất cả xúm xít lại, rượu vào và Zô..zô...zô.... Món này mà nhậu với rượu đế chắc cũng đã lắm đây. Bà má hiền hậu nhìn chúng tôi. Một anh lính cũ bảo tôi :

- Chú mày biết không, ở đây thịt chuột phải 7 đồng một ký, trong khi đó thịt bò ngon chỉ có 5 đồng thôi. Bả quý chúng mày lắm mới đem cho và làm cho chúng mày nếm thử đó.

Tôi ngồi ăn cũng hô hào zô ..zô nhấm nháp chút rượu, tôi vốn không uống được là bao, nhưng tôi không hề động đũa đến món thịt chuột hấp dẫn kia mặc dù biết rằng rất là ngon đấy. Lúc giúp má làm bếp, tôi đã mấy lần suýt chết sặc vì nuốt nước miếng. Thằng Minh, thằng Long thì cứ chén tì tì , xít xoa ra chiều thích thú.

Buổi chiều, ba thằng chúng tôi lang thang ra đầu xóm. Thì ra đây là nơi trú quân của một trạm quân y , tôi chẳng biết là của đơn vị nào, những chiếc xe " Đốt " chở thương binh từ chiến tuyến về thỉnh thoảng lại rú còi ầm ĩ. Người ta khiêng thương binh xuống xong, chiếc xe lại quay đầu phóng đi ngay nghe chừng vội vã. Chúng tôi hiểu rằng, chiến sự xảy ra rất gần đây, rất khốc liệt và chúng tôi chắc cũng sắp tham gia vào những sự kiện khốc liệt ấy.

Hai ngày tiếp theo đó, toàn bộ tụi lính mới tò te chúng tôi tập trung lại để học chính trị và nghe về truyền thống của Quân đoàn, sư đoàn và nhất là truyền thống anh dũng của trung đoàn 1, trung đoàn mang tên Bình giã ( Cái vụ này nhờ Trungsy1 nhắc lại tôi mới nhớ ra. Chứ tôi cứ lẫn lộn giữa Đồng xoài với Bình giã mà chẳng biết trung đoàn nào là trung đoàn của mình - Cảm ơn Trungsy1 nhé ), cái địa danh nhắc tới trận đánh thử lửa đầu tiên giữa lực lượng viễn chinh tinh nhuệ của quân đội Mỹ với Chủ lực của quân giải phóng miền nam Việt nam. Ngồi nghe mà thằng Minh càu nhàu với tôi :

- Sốt ruột, cứ làm như có mỗi trung đoàn này anh hùng. Lão này mà nghe truyền thống trung đoàn 36 của mình chắc là phải vãi đái !

Thì ra, trong tâm tưởng của nó, nỗi nhớ về trung đoàn cũ vẫn bao trùm tất cả. Cũng phải thôi, mới có hai ba ngày, làm sao đơn vị mới có thể gắn bó với chúng tôi như đơn vị cũ - Trung đoàn Bắc Bắc thân yêu của chúng tôi được.

Ngày hôm sau 27.05.1978, sau bữa cơm trưa, chúng tôi được lệnh chuẩn bị sẵn sàng để lên đường. Tụi lính mới chúng tôi tập trung lại nghe quân lực trung đoàn đọc danh sách phân chia tân binh về từng tiểu đoàn, từng đại đội. Thế là lại chia tay. Thằng Long về hoả lực C14 DK82 của D3, tôi và thằng Minh cùng về C11 - D3. Hai thằng mừng rú lên. Thế là " tổ tam tam " của chúng tôi đã chia thành hai mũi, nhưng vẫn còn may là cùng trong đội hình chiến đấu của tiểu đoàn 3. Chúng tôi, vai mang ba lô theo sự hướng dẫn của cán bộ tiểu đoàn về đơn vị mới. Tiểu đoàn 3 hiện đang trú quân ở một xóm nhỏ giữa cánh đồng, cách không xa trung đoàn là bao. Có lẽ đây chỉ là nơi trú quân tạm thời để nghỉ ngơi và bổ xung quân số sau những trận chiến ác liệt và hao binh tổn tướng. Chúng tôi đến một căn nhà nhỏ - căn nhà của ban chỉ huy tiểu đoàn. Giữa cái sân nho nhỏ là một đống vũ khí bộ binh cũ rích. Một đồng chí cán bộ tiểu đoàn nói với chúng tôi :

- Đây là vũ khí trang bị tạm thời cho các đồng chí, mỗi đồng chí, tuỳ theo khả năng sử dụng của mình hãy chọn lấy một khẩu rồi sau đó về luôn đơn vị của mình như đã được biên chế.

Tôi chọn đi chọn lại, cuối cùng nhặt lấy một khấu AK47 còn tương đối tàm tạm. Thằng Minh cũng vậy, nó cũng tự trang bị một khẩu AK như tôi. Từ khi về đến tiểu đoàn, tôi không còn nhìn thấy thằng Long đâu nữa. Thằng Minh vừa kiếm ở đâu được một chiếc mũ sắt của lính nguỵ cũ, nó liền đội ngay lên đầu, nhe nhởn cười với tôi :

- Đội thứ này còn tốt chán so với cái mũ cối đểu của mày. Mũ này mảnh đạn văng vào chắc chẳng ăn thua gì đâu.

Lũ lính mới về bổ xung vào cho C11 chỉ khoảng 9, 10 đứa. Tôi với Minh về cùng một B. Lại được cùng hầm với mày rồi Minh ơi. Tôi thầm nghĩ như vậy.

Đại đội 11 trú quân trong một ngôi nhà nhỏ. Không, phải gọi là lều thì đúng hơn. Ba bề bốn bên trống hoác. Trong nhà chẳng có ai ngoài một bà má đang đun nấu nồi gì đó dưới bếp. Bên cạnh nhà, một con bò đang ung dung nằm nhai trệu trạo dưới gốc cây Bông gòn lúc lỉu những quả là quả. Thỉnh thoảng, một cơn gió nhẹ thổi tới, những bông gòn được gió đưa đi bay vật vờ, thư thái. Đại đội 11 lúc ấy có chừng hai chục mạng, cả cán bộ lẫn chiến sỹ, cộng với chúng tôi mới bổ xung là thành khoảng ba chục. Tốp lính cũ đón chúng tôi cũng không lấy gì làm nồng nhiệt lắm. Có lẽ họ đã quá quen với những lần bổ xung như thế này rồi chăng. ( Sau này tôi mới biết, trong năm 1978, đơn vị được bổ xung 12 đợt tất cả. Vậy mà chỉ qua vài trận, con số của đại đội chỉ còn đếm trên đầu ngón tay ). Những người lính cũ, kẻ đứng, người ngồi đang kể chuyện gì cho nhau nghe mà cười nói rất rôm rả, chẳng tỏ ra cần để ý đến lũ chúng tôi. Tôi bắt đầu có cái cảm giác khó chịu cho cái thái độ " bất lịch sự " của những người đồng đội mới này. Lúc ấy, có hai anh lính cũ khiêng về đặt ở giữa sân một cái hòm gỗ dài và vô số những thùng đạn. Tốp lính cũ lúc đó mới xúm vào cùng chúng tôi dùng dao mở thùng đạn. Chúng tôi được phát mỗi người 150 viên đạn AK, những viên đạn vàng óng sáng lóng lánh như được mạ vàng, trông thật đẹp mắt. Chẳng bù cho hồi còn ở ngoài 308, tôi được phân công đi lên kho Lương Sơn nhận đạn về phục vụ bắn đạn thât. Tôi thó được 10 viên AK mà cứ phải dấu dấu diếm diếm mãi để dùng bắn linh tinh hồi tập huấn trinh sát ở Đà Bắc - Hoà Bình, tí nữa còn bị ăn một án kỷ luật. Tốp lính cũ bật chiếc thùng gồ dài dài ra. Chao ôi, một khẩu RPD Trung quốc mới cứng cựa, khẩu súng được bọc trong một lớp giấy tẩm dầu, trong quét đầy mỡ " bò ". Một anh đi mượn bà má một chiếc nồi to rồi đun lấy một nồi nước sôi. Họ tháo tung khẩu trung liên rồi rửa kỹ từng bộ phận bằng nước sôi có hoà lẫn xà bông. Đến lúc lắp lại khẩu súng, tôi thấy họ cứ lúng ta lúng túng không lắp nổi hai má thép trượt trong ổ quy lát, tôi liền nhanh nhẩu :

- Các anh để em lắp giúp cho. Ở ngoài bắc, em toàn sử dụng loại RPD này mà.

Chỉ trong nháy mắt, tôi đã lắp xong khẩu súng. Roát..tạch...roát...tạch. Khẩu súng đã hoạt động trơn tru. Ôi, sau này tôi mới biết là tôi " dại ". Một anh, chắc là cán bộ đại đội thấy vậy liền nói :

- Hay lắm thằng em, anh giao luôn cho thằng em giữ khẩu này. Còn khẩu AK, em đưa đây để anh cho người mang trả về cho tiểu đoàn.

Thế là " toi ", thay vì tôi mang cơ số đạn 150 viên, bây giờ tôi đã phải mang thêm 150 viên nữa vì cơ số của RPD là 3 hộp đạn, mỗi hộp 100 viên. Trong mỗi hộp có 4 dây tiếp đạn, mỗi dây 25 viên. Cả đạn cả súng có lẽ phải hơn mười ki lô có lẻ. Trong khi chúng nó chỉ nhoáng một cái đã lắp xong đạn vào băng, còn tôi thì hì hục mãi mới xong vì dây tiếp đạn còn mới cứng, ấn đạn vào dây đau cả mấy đầu ngón tay.

Có tiếng bà má gọi :

- Này mấy con, ra ăn mỗi đứa bát chè má vừa nấu rồi còn lên đường chứ.

Ơ, thế không ở đây nữa à, lại còn đi đâu nữa đây. Tôi thầm nghĩ. Không phải tôi sợ gì việc phải đi chiến đấu, nhưng tôi nghĩ rằng ít nhất phải cho chúng tôi từ từ làm quen đơn vị, làm quen đồng đội, làm quen.....làm quen...đủ thứ, rồi mới đưa chúng tôi vào trận chứ. Mới chân ướt chân ráo thế này thì... quả là một cú sốc!

Nồi chè bà má chiêu đãi chúng tôi trước khi ra trận chắc hẳn là ngon lắm. Nhưng nào tôi có húp được tí nào đâu. Mồm miệng nhạt thênh thếch, cái cảm giác buồn buồn, chan chán. Một chút lo lo, một chút nhơ nhớ gia đình, quê hương, thật là khó tả.

Nào, chúng ta lên đường ra trận.

Chúng tôi hành quân theo hàng một ra đến lộ, mấy cái xe Reo quân sự đã đợi sẵn ở đó. Cả tiểu đoàn lên xe nhằm biên giới thẳng tiến. Xe đi đến một ngôi chùa nhỏ ven đường thì dừng lại. Chính trị viên đại đội ( người Hải phòng - tôi quên mất tên rồi ) nói lớn :

- Đây là " cứ ba lô " của đại đội ta tại Mộc Bài, các đồng chí tân binh đưa hết đồ đạc, tư trang không cần thiết xuống xe để cất vào " cứ ". Mỗi đồng chí chỉ nên mang theo những thứ thật cần thiết như : Mùng, khăn mặt, bàn trải đánh răng, quần áo lót và một bộ quần áo dài. Còn những thứ khác không cần thiết thì để lại.

Tôi và thằng Minh nhanh chóng thống nhất bỏ nốt bộ quần áo dài ở lại, Chỉ mặc duy nhất một bộ trên người cho nó nhẹ. Tôi cố đem theo thêm một quyển sổ tay ghi chép, một cái bút Trung quốc và mấy chiếc phong bì để viết thư. Đoàn xe lao nhanh.

Biên giới là đây ư, một dải bờ đê mới đắp, bên trên trồng chi chít những cây tre gai chạy dài tít tắp. Mấy cái nhà đổ vỡ tan hoang, nơi đây chắc trước là nhà của đồn biên phòng. Bên kia biên giới, những cánh đồng mênh mông không một bóng người, những cây Thốt lốt mọc men theo bờ ruộng, in bóng u buồn trên nền trời mây giăng xám xịt. Chiều đang dần buông, không khí vắng lặng hoang tàn, lạnh lẽo. Xe chạy khoảng vài chục phút thì dừng lại. Tôi nhẩm tính xe mới chạy được khoảng chục cây số là cùng.

- Tất cả xuống xe. Xe chỉ chở các đồng chí đến đây. Còn từ đây trở đi, các đồng chí hành quân bộ. Anh Hành - Lê Đại Hành ( tức Hành " chéc " ) - chính trị viên tiểu đoàn lên tiếng.

Chúng tôi xuống xe. Đường hãy còn tốt sao không chở anh em đi một đoạn nữa, đến lúc nào đường không đi được nữa thì thôi. Tôi thầm thắc mắc. Như thấu hiểu suy nghĩ của tôi, một anh lính cũ ( sau tôi mới biết đấy là B trưởng B tôi - Anh Nhạn, Nhạn Khùng ) nói để tôi hay :

- Thật ra xe có thể đi đến tận " cứ " anh nuôi, nhưng đù má mấy thằng lái xe D29 này nó sợ bị Miên nó phụt DK nên bắt anh em mình xuống đây đấy.

À, thì ra là vậy. Có nghĩa là chúng tôi đã rất gần địch rồi. Chúng tôi đi khoảng một lúc là tới cứ anh nuôi của đại đội. Một căn nhà ở ngay ven lộ 1, chúng tôi tạt vào hạ súng xuống ngồi nghỉ. Mới có một đoạn đường mà sao tôi đã thấy oải vì khẩu súng quá nặng. Khi còn huấn luyện, tôi cũng giữ khẩu này nhưng chỉ giữ để lau chùi bảo quản thôi làm gì có đạn. Còn bây giờ chỉ thêm 3 cơ số đạn nữa thôi mà sao nó nặng thế không biết. Chúng tôi được anh nuôi chia cơm, cơm nóng ăn với tép rang ( lại tép rang - Tôi sợ tép rang từ hồi ấy cho đến tận bây giờ ) và mỗi thằng hai nắm cơm vắt cùng một gói tép ( lại tép ), tiêu chuẩn để ăn cho đến chiều hôm sau. Ăn xong, chúng tôi ngồi nghỉ trên những khúc gỗ tròn nằm rải rác xung quanh ngôi nhà.

Bỗng Ùng...ùng..ùng.... vu...vu...vu..

Tôi và thằng Minh nhanh như cắt, ôm súng lao cắm đầu vào cửa hầm chữ A ngay bên cạnh chỗ ngồi. Trong hầm đầy bùn và nước lõm bõm. Ầm...ầm...ầm tiếng pháo nổ từ phía rất xa vọng lại. Tiếng cười rộn lên khắp nơi. Tốp lính cũ đang cười ngả cười nghiêng. Anh Nhạn " khùng " B trưởng vội giải thích cho chúng tôi :

- Chúng mày phải lắng nghe để phân biệt, tiếng ùng..ùng đấy là tiếng nổ đầu nòng của cối 82 ly, còn tiếng vu...vu.. là tiếng đạn nó bay trên đầu mình, vậy là nó sẽ rơi ở rất xa chỗ mình đứng. Lúc nào mày nghe thấy nó xẹt...xẹt chói tai thì phải lăn ngay xuống, dù đấy là rãnh nước hay hố nước. Nó sẽ lao xuống và nổ ngay bên cạnh mình đấy. Đù má, may thì mình sống, không may thì mình dính. Chúng mày lao vào hầm như lúc nãy là...đù má.. không kịp đâu.

Thỉnh thoảng, trong câu nói của anh cứ kèm hai tiếng " đù má ".Nhưng tôi vẫn nhìn anh với tấm lòng biết ơn. Bài học đầu tiên của chúng tôi trên chiến trường thật sống động và dễ nhớ. Giáo cụ trực quan là quả pháo nhằm bắn thẳng vào chúng tôi, kết quả bài học là mạng sống của chúng tôi. Làm gì mà chẳng dễ thuộc. Anh còn hướng dẫn chúng tôi từ cách mắc tăng võng như thế nào vừa chắc chắn nhưng vừa dễ tháo khi cần mà lại không bị nước mưa hắt vào khi mưa to. Tôi biết những lời dặn dò của anh là sự đúc kết xương máu của biết bao thế hệ những người lính chiến chúng tôi. Anh nói : " Trên chiến trường, chúng mày nhanh 1/10 giây là chúng mày thắng, chúng mày chậm 1/10 giây là " đù má " chúng mày phải trả bằng mạng sống. Hãy nhớ lấy điều đó ". Nhưng anh ơi, học thì thuộc đấy nhưng hành thì thật là khó. Nào ai biết thế nào là nhanh, thế nào là chậm đây. Lúc biết ra thì tất cả đã là quá muộn rồi. Anh đưa cho tôi và thằng Minh mỗi đứa một cái túi mìn Claymo còn khá mới để đựng những đồ lặt vặt. Thằng Minh bây giờ ngoài khẩu AK còn có nhiệm vụ mang thêm quả Claymo nữa.

Trời tối hẳn, chúng tôi bắt đầu di chuyển. Lúc đầu, cả tiểu đoàn còn di chuyển ngay trên mặt lộ. Đi được khoảng hơn 1 cây số, chúng tôi bắt đầu rẽ trái xuống đi men theo ven lộ. Hôm nay đã là hạ tuần rồi, trăng mọc rất muộn vả lại cũng nhiều mây nên trời tối đen. Tôi quan sát xung quanh mà chẳng nhìn thấy gì, chỉ thấy bóng những cây thốt lốt đen thui in bóng lên nền trời mờ ảo. Thỉnh thoảng, lệnh từ phía trên truyền xuống thì thào..im lặng...im lặng hoặc ...đi thấp xuống, cúi thấp xuống. Nghe lệnh đi thấp xuống, tôi lom lưng thấp xuống nhưng chỉ một đoạn ngắn lưng tôi đã mỏi nhừ. Khẩu RPD bây giờ mới tỏ rõ cho tôi biết sức nặng của nó, cái hộp tiếp đạn dự phòng cứ lách cách đập vào chiếc Xanh tuya lông làm hông tôi càng mau mỏi. Mình thật là ngu. Tôi lầm bẩm. Bỗng một bàn tay ấn vào vai tôi :

- Đi thấp xuống chú em, nó nhìn thấy nó cho một tràng mười hai ly tám bây giờ.

Tôi cố nhìn xung quanh. Có thấy chó gì đâu, tối mù thế này ngay cả người bên cạnh còn chẳng nhìn rõ nữa là địch ở mãi tít tận đâu đâu. Tôi thầm nghĩ. Ngay lúc đó, cùng...cùng...cùng...cùng....Những cục lửa đỏ lừ to bằng nắm tay bay vèo vèo trên mặt lộ. Bỏ mẹ, nó nhìn thấy mình rồi à !!!? Khẩu 12.8 ly của địch đặt ngay trên mặt lộ từ tít phía trên bắn xối xả một lúc rồi im bặt. Anh Nhạn thì thào :

- Nó bắn hú hoạ đấy em ạ. Em chuẩn bị cùng anh vượt lộ nhé. Kiểm tra lại xem đã chắc chắn tất cả chưa?

Tôi xem lại súng đạn, tư trang. Trong lồng ngực, tim tôi đập thình thịnh, hơi thở gấp gáp. Không, chẳng phải tôi sợ đâu nhưng tôi hồi hộp quá. Lần đầu tiên trong đời, tôi phải đi trước một mũi súng cứ rình rập để bắn mình. Đừng cười, cứ thử đi rồi sẽ biết. Nó bắn mình thật chứ đâu phải trò đánh trận giả ngoài Bờ hồ thời còn mặc quần thủng đít mà cười. Cùng...cùng...cùng..loạt đạn vừa dứt, anh Nhạn kéo tôi chạy băng qua mặt lộ rồi anh lại chạy lộn lại phía bên kia. Cứ như vậy, những anh lính cựu binh lần lượt hướng dẫn chúng tôi băng qua mặt lộ một cách an toàn. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Thì ra cũng không có gì ghê gớm lắm nhỉ. Chúng tôi đi men theo bên phải lộ rồi băng qua một khu vườn đào lộn hột ( đấy là sáng hôm sau tôi mới biết ). Trung đội tôi tới chiếm lĩnh một khu vườn rậm rạp. Một đơn vị của E209 - F7 được lệnh rút về tuyến sau bàn giao trận địa lại cho chúng tôi. Chúng tôi ổn định lại đội hình, phân công nhau các hướng phải phụ trách. Tôi và thằng Minh được phân công gác một mũi. Tôi gác từ tối đến nửa đêm, thằng Minh gác từ nửa đêm đến sáng. Chao ôi, nhớ lại ngày còn đang huấn luyện ngoài 308. Cả đại đội mới có một vọng gác. Lần lượt từ trung đội nọ sang trung đội kia, mỗi trung đội gần 30 thằng. Tính ra cả 6, 7 tháng huấn luyện tôi mới phải gác có 3, 4 lần. Mỗi lần 1 tiếng đồng hồ mà đã thấy ngại. Đã có lần trời rét quá, trong phiên gác tôi tìm cái ổ rơm chuyên dùng để ủ thùng nước nóng cho đại đội uống, ngủ một mạch. Đến khi B trưởng thấy quá giờ mà chẳng thấy tôi gọi đổi gác, ra kiểm tra thấy tôi vẫn ôm súng nằm ngủ ngon lành. Kết quả là sáng hôm sau nhận một án kỷ luật là đào một hố chứa rác ngay đầu nhà đại đội. Bàn tay phồng rộp vì đào trên đất đá ong. Vậy mà bây giờ, đêm nào cũng phải gác mà lại chỉ có hai thằng một đêm. Mà mấy ông lính cũ lại cứ nằm ngủ chỏng dái trong hầm. Điên máu thật. Đúng là ma cũ bắt nạt ma mới.

- Thằng em gác đến nửa đêm, lúc nào thấy chòm Tua rua lên đến đỉnh đầu thì vào gọi thằng Minh ra thay gác. Nhớ là chỉ bấm vào chân nó thôi, đừng gọi ầm lên nhé.

Dặn dò xong chúng tôi, anh Vinh " heo " chui ngay vào hầm ngủ. Chòm sao Tua rua, cái chòm sao cong cong hình giống như cái dải đất hình chữ S Việt nam ta đó, sao lúc này nó bò lên chậm chạp đến như vậy. Ngồi gác mà tôi cứ ngắm nhìn lên bầu trời. Nó xoay xoay nhích dần lên một cách chậm chạp vô cùng. Xung quanh tôi chỉ còn tiếng vo ve của đàn muỗi khổng lồ háu đói, tiếng côn trùng kêu rên rỉ , ộp oạp từ ngoài cánh đồng vọng vào. Vừa sốt ruột ngắm chòm Tua rua, tai tôi lại phải căng ra để nghe tiếng côn trùng rỉ rả. Lúc nãy, anh Nhạn đã dặn chúng tôi là nếu thấy côn trùng đang kêu mà bỗng im bặt thì phải gọi các anh dậy ngay. Có thể bọn trinh sát Miên nó bò vào tập kích đấy. Đầu óc tôi căng lên như sợi dây đàn. Thỉnh thoảng lại có chú chuột đồng chạy đâm bổ vào chỗ tôi ngồi. Chao ơi là sợ. Kiểu này ngày mai mình phải khâu cái khăn mặt lại thành cái mũ chùm vào đầu để chống muỗi mới được, kẻo sau mấy hôm thì sốt rét là cái chắc. Cái bọn muỗi này xoa thuốc chống muỗi cũng chẳng ăn thua gì. Các bạn hãy hình dung người lính như tôi ngồi gác đêm ra sao nhé. Đầu đội chiếc mũ cối, dưới là chiếc khăn mặt bông màu xanh lá được khâu lại, trùm lên phủ từ trên đầu xuống kín gáy, chỉ hở mỗi đôi mắt. Chân đi đôi giầy lính cao cổ, tất ( vớ ) kéo cao chùm ra ngoài ống quần. Tất cả chỉ để chống muỗi. Phần da thịt nào hở ra ngoài không trùm kín được thì xoa thuốc chống muỗi của Mỹ.

Rồi thì cuối cùng, đêm gác đầu tiên trên chiến tuyến cũng đã trôi qua một cách yên bình. Mấy ngày hôm sau, chúng tôi khi thì kiểm tra sửa sang lại công sự, khi thì ngồi tán tào lao. Các anh lính cũ đã nhìn chúng tôi bằng ánh mắt thân thiện. Các anh tận tình chỉ bảo tỉ mỉ cho chúng tôi từng tí một. Sáu tháng huấn luyện có lẽ chẳng có tác dụng sát sườn bằng những cuộc nói chuyện tào lao xung quanh ấm trà Blao và gói thuốc rê lúc này. Thằng Minh ngồi tỷ mẩn khắc tên Minh Nguyệt bằng tiếng Trung Quốc lên quả da láng M26. Cái thằng đến là tài hoa. Chơi đàn ghita cũng được, hát cũng được, vẽ vời cũng không đến nỗi nào. Nó được thừa hưởng cái gien tài hoa của Bố nó, hoạ sỹ Quang Mộng Goòng. Dáng cao cao, trắng trẻo, nếu không có chiến tranh thằng này mà đi cua gái thì khối em " chết " với nó. Khắc xong nó thầm thì với tôi : " Quả này tao sẽ dùng để chia đôi với tụi nó. Chúng nó không bao giờ bắt sống được thằng Minh này". Có lẽ những câu chuyện bên bàn trà về sự dã man của lính Pôn Pốt đối với tù binh đối phương khi rơi vào tay chúng đã tác động đến thằng Minh. Nó lau chùi quả M26 đến là cẩn thận. Chắc nó lo rằng khi cần sử dụng đến mà quả lựu đạn này lại không nổ chăng? Các bữa ăn buổi sáng và buổi trưa vẫn diễn ra như thưòng lệ, cơm nắm và tép rang. Riêng buổi chiều, anh nuôi mang trực tiếp....tép rang và cơm nóng lên trận địa. Ôi, cái món tép chết tiệt ấy. Vừa mặn chát, sạn ngấm sạn ngầm lại còn có mùi tanh tanh, thum thủm. Thật khó mà nuốt được. Tôi thuộc vào cái loại " phàm phu tục tử " mà cũng thấy chối. Được cái, đơn vị đang hoạt động tĩnh tại, các anh em trong các B cũng rất chịu khó cải thiện. Nào thì rau tập tàng nấu canh, vài ngọn lá ớt, vài ngọn rau dền, mùng tơi, vài ngọn rau muống mọc hoang và cả cái thứ rau gì lá hơi tim tím, nhơn nhớt hình giống như ba ngón tay xoè ăn chua chua, ngọt ngọt như có mì chính mà tôi quên mất tên ( Nấu canh cá thì tuyệt vời - Ở Việt nam tôi không thấy có ), thế là được một nồi canh hoàn hảo, nào thì ớt xanh bằm trộn bột canh và ....thịt chuột đồng. Anh B phó họ Quách ( tôi quên mất tên ) người dân tộc Mường - Hoà Bình làm bẫy bắt chuột rất nghề. Chỉ một vài đoạn lõi dây dù, vài thanh tre là có được ngay dăm cái bẫy. Bỏ một ít hạt cơm vào cái hốc khoét ở bờ ruộng là sáng hôm sau, tôi đã thấy 2 ống đựng đạn DK82 đầy nhóc toàn chuột. Sợ xanh mắt !!! Những bữa ăn như vậy, tôi thường chuồn sang B bên cạnh ngồi ăn với chúng nó để khỏi phải thưởng thức cái món thịt chuột dù rằng rất ngon lành kia. Thỉnh thoảng, anh Nhạn lại kiếm ở đâu mang về cho chúng tôi một vài mầm ngọn cây dừa. Ngọt và ngon ra phết. Ăn ngon hơn khoai lang sống rất nhiều.

Lại nói một chút về nơi chúng tôi đứng chân. B tôi chiếm giữ một vị trí ở đầu phum, ngay phía sau lưng là một con đường nhỏ nối phum với lộ 1 dài chừng 100 m, chếch sang bên trái, phía sau con đường là nơi đặt khẩu DK 82 của C14 thằng Long ngay cạnh vườn trồng đào lột hột. Phía trước băng qua một cánh đồng hẹp rộng chừng 250 mét là phum Ang Kunh địch đang chiếm giữ. Bên tay phải là chốt của B1 trong cùng đại đội. B của tôi nằm ngoài cùng, hơi chếch phía trên so với khẩu DK của C14. Chếch bên tay phải là một khoảng rừng tràm thấp nhưng rất rậm rạp. Bọn địch thường lợi dụng khu rừng tràm này để lẻn vào tập kích đơn vị tôi. Chốt của tôi, thằng Minh, anh Nhạn là một khu vườn nhỏ nằm ngoài cùng. Trên chốt có hai cái hầm, một hầm chữ Z là hầm chiến đấu, một hầm thùng dùng để ngủ. Trên nóc hầm thùng có lát bằng ba tấm gỗ tốt, dày khoảng 15 phân to như chiếc phản. Mặt gỗ bóng nhãy. Chiều nào yên tĩnh, tôi và thằng Minh cũng leo lên nóc hầm nằm gác chân lên nhau nói chuyện chơi. Chuyện gia đình, chuyện quê hương, bạn bè, chuyện về " Trăng sáng " của nó. Nó cứ nhớ mãi hình ảnh đôi chân trắng nõn của nàng khi đi gánh nước. Trắng nõn...trắng sáng...trắng lấp lánh chập chờn khi ẩn khi hiện trong dòng hồi tưởng. Rồi nó kể nó làm quen với cô nàng ra sao, chuyện tình của nó với cô nàng đến đâu rồi... Còn tôi, tôi cứ nằm trên tấm phản, vừa nghe chuyện của nó, vừa ngắm nhìn những đàn ngỗng trời bay miệt mài lên hướng bắc. Ôi, giá mà mình được là con ngỗng này nhỉ. Chắc chỉ một hai hôm sau là mình có thể chao cánh bay lượn trên bầu trời Hà nội thân thuộc rồi. Cứ như vậy...

Hôm nào rảnh, chúng tôi lại chuồn sang khẩu đội DK 82 của thằng Long chơi. Sang đó để ngồi nghe chuyện do một anh lính 74 người Thanh hoá kể, thôi thì đủ các chuyện. Từ " Vết thù hằn trên lưng ngựa hoang ", rồi chuyện Tam quốc... ( Mà sao anh ấy lại có thể thuộc làu làu đến như vậy nhỉ? ). Khi thì tán chuyện tào lao đủ thứ trên đời.

Thằng Long vẫn cứ như vậy, vẫn ù lì như thường lệ. Nó ngồi trong hầm chăm chú đọc sách mặc kệ mọi chuyện ầm ào diễn ra xung quanh. Nó đọc những gì mà chăm chú đến vậy? Thưa các bạn, nó đang nghiền nào tiếng Anh, toán, lý ,hoá ... Nó bảo với tôi rằng nó phải ôn kẻo lại quên mất. Sau khi ra quân, nó sẽ tiếp tục thi vào Bách khoa. Ôi, ông bạn " Thần sầu " của tôi ơi, ông mơ mộng quá, hâm quá mất rồi. Nhưng rồi sau đó một tuần, trong trận đánh tấn công đầu tiên, dưới sức nặng của những quả DK 82 nó phải mang vác, nó mới hiểu ra rằng có lẽ những quyển sách toán , lý, hoá ...kia phải ném xuống vệ đường. Có chăng chỉ giữ lại quyển nào có giấy tốt tốt, mềm mềm để phục vụ cho công đoạn cuối cùng trong hệ ...tiêu hoá. ( Lúc ấy, chưa thằng nào trong chúng tôi nghiện thuốc lá, thuốc rê ).

Chiều ngày 15.06.1978, chúng tôi tập trung lên quan sát sở đại đội nghe bổ biến về chiến dịch tấn công sẽ diễn ra ngày mai. Chúng tôi sẽ phải đánh chiếm mục tiêu là ngã ba Chi Phu. Đội hình tiến công sẽ được xe tăng T54 và M41 yểm trợ, pháo quân đoàn, pháo sư đoàn chi viện bằng 155 mm và 105 mm. Tôi thấy thái độ của anh Nhạn tỏ ra rất vui. Anh bảo chúng tôi:

- Ngày mai đánh chắc cũng nhàn thôi, đù má ( lại đù má ) chúng mày đừng lo.

Chúng tôi được phát bổ xung đạn dược, lương khô và mỗi thằng tiêu chuẩn được một hộp thịt gà - Hà lan hẳn hoi, nặng 800gr. Bên ngoài có đề " hàng viện trợ cho nhân dân Việt nam trong cơn bão số... ". Có lẽ chúng tôi may mắn được hưởng ké đây mà. Buổi chiều hôm ấy, bữa cơm thật là tươm tất. Có canh rau tập tàng, có đọt dừa xào với...nước thịt gà hộp, có thịt gà hộp đã ướp thêm chút gia vị, bột ngọt, có bát bột canh trộn ớt bằm nhuyễn. Tất nhiên không thể quên cảm ơn các anh nuôi đã mang cho các B một vài lít chất cay. Cứ chén xả phanh đi, ngày mai rồi hãy tính. Đã có mỗi thằng mấy phong lương khô 701 rồi, sợ gì đói. Bữa ăn thật quá đã. Ăn xong, có trà Blao, thuốc lá Đà lạt. Chỉ cần cạy quả mìn Claymo ra, véo một ít thuốc nổ bằng đầu ngón tay dẻo như kẹo kéo là chúng tôi đủ nấu nước uống cho cả bọn. Ngọn lửa xanh lè, nóng rừng rực.

5 giờ sáng hôm sau, chúng tôi băng qua mấy thửa ruộng trước mặt, bí mật tiền nhập, chiếm lĩnh vị trí tấn công. Tiến đến sát bờ tre phía ngoài phum Ang Kunh trước mặt, thằng Minh, anh Nhạn giá chặt 2 quả Claymo xuống đất, rồi dòng dây điện về chỗ chúng tôi. Tôi cũng giá khẩu RPD nhằm thẳng vào ô cửa sổ của căn nhà sàn lợp ngói.

Oàng...oàng....oàng... Pháo quân đoàn, sư đoàn đã đồng loạt nổ. Những ánh lửa chớp lên nhang nháng. Ùng ..oàng..ùng...oàng tiếng DK82 của B thằng Long đang quất từng quả đĩnh đạc. Anh Nhạn, thằng Minh cũng bấm 2 quả Claymo, thực ra tôi đã nhìn thấy thằng địch nào đâu mà hai ông ấy vẫn cứ bấm. Chắc cho nó nhẹ để còn xung phong. Tôi nhằm thẳng ô cửa sổ kéo từng điểm xạ ngắn. Anh Nhạn nhìn tôi gật gù ra chiều ưng ý lắm. Liếc sang cạnh, thằng Minh mặt lấm tấm mồ hôi đang mím mồm, mím lợi điểm xạ hai viên một. Chà, bài học " sâu tay cò, không lo tắc cú " bây giờ mới mang ra sử dụng đây, Tôi thầm nghĩ. Phía bên tay trái, trên lộ 1, những chiếc xe tăng T54 và M41 lừ lừ hành tiến, thỉnh thoảng lại giật lên một cái, chớp lửa đầu nòng loé lên rồi tôi mới nghe thấy một tiếng... Oành !

- Đù má, lên tụi bay.

Anh Nhạn tay xách khẩu M79 vọt lên phía trước. Thằng Minh tiến sát theo sau. Tôi lễ mễ ôm khẩu súng " khốn nạn " của tôi lao lên, vừa chạy tôi vừa quét túi bụi. Bắn bừa đi cho nó nhẹ bớt. Tiếp cận được tới bờ một con kênh đào, tôi dừng lại để thay hộp tiếp đạn. Thế là hết 100 viên. Bọn địch không chịu nổi trước sức tấn công mãnh liệt của chúng tôi đã bắt đầu rút chạy. Chúng chạy toé ra cánh đồng phía bên tay phải. Những bóng người mặc quần áo đen chạy bán sống bán chết. Thằng mang theo vũ khí, thằng chạy tay không. Chắc là bên cánh trái, với sự có mặt của xe tăng, chúng không dám rút theo phía bên ấy. Chúng không ngờ rằng bên này lại có chúng tôi đang nằm phục đóng lõng. Cả B tôi đồng loạt nổ súng, tiếng cóc..cóc.. oành .. oành của khẩu M79 của anh Nhạn rung lên như tiếng trống, tiếng AK của thằng Minh, tiếng RPD của tôi hoà nhịp hệt như một dàn hoà tấu khi khoan, khi nhặt. Vừa bắn, tôi lại phải vừa để ý nhặt từng dây tiếp đạn rơi ra. Không nhặt thì tí nữa lấy gì mà lắp đạn. Sao cái loại súng này thiết kế dở thế không biết !!! Chúng tôi lao dọc theo bờ kênh, tiến một đoạn ngắn, tôi nhìn thấy một thắng lính Pôn Pốt, nằm ngay trong lòng kênh cạn nước thở phì phò. Một đoạn ruột chắc dính mảnh xé rách bụng lòi ra ngoài. Tôi bỗng thấy thương cảm, đi đến gần định lấy ra cuộn bằng Mỹ để băng giúp cho nó. Thằng Minh gọi giật giọng :

- Thọ, để đấy tao băng cho nó cho.

Tôi vừa ngoảnh lại thì tằng tằng...tằng tằng. Cả bốn viên AK đã găm vào ngực tên lính. Thằng Miên mắt trợn ngược lên, đầu nghẹo sang một bên. Nó đã về với nước chúa.

Thằng Minh lầu bầu :

- Đằng nào mà nó chẳng chết, lòi ruột gan ra rồi. Mày băng cho nó, thế tí nữa mày bị thì lấy c..ra mà băng à?

Nó mắng tôi xối xả. Dù thế nào, trong tôi vẫn cảm thấy bàng hoàng. Đến gần trưa, chúng tôi đã tiến được chừng khoảng 1 cây số và nhập vào đội hình chiến đấu của tiểu đoàn. Vác trên vai khẩu súng, tôi lững thững đi theo sau mấy cái T54 đang hành tiến. Cạnh đấy, thằng Long mặt mày đen nhẻm khói súng vừa đi vừa cười nhăn nhó, quả DK 82 trên vai chắc là nặng lắm đấy. Ba lô sách của nó đã biến đi đâu mất, thay vào đó là cái túi mìn Claymo mỏng mảnh. Có thế chứ, đã sáng mắt ra chưa " con ". Giữa trận mạc tùm lum khói súng thế này còn bày đặt học với cả hành. Đúng là " cả ngố ". Anh Nhạn nhay nháy mắt cười, nói với chúng tôi :

- Đù má, tao đã bảo mà. Chúng mày thấy không, trận này đánh nhàn lắm mà.

Ngã ba Chi phu vẫn còn cách xa chừng hai, ba cây số. Chúng tôi không đánh thẳng theo trục lộ mà lại rẽ sang phía tay trái đánh sang Phum Prey Ko Ki. Phía trước, cách chừng 200 m là mấy dãy nhà ngói dài, xem chừng giống như một khu trường học cũ. Cặp bên trái khu trường là một con kênh khô cạn chạy dọc thẳng tắp. Phía trước khu trường, bên cạnh chiếc ao nhỏ, những bụi chuối mọc xanh mướt mát. Chúng tôi vọt lên chạy phía trước những chiếc xe tăng, bỗng thằng Minh lấy báng súng gõ gõ vào thằng chiếc T54, anh lính phụ trách khẩu 12 ly 8 cúi xuống gào lên :

- Cái gì vậy ông?

Theo hướng tay chỉ của thằng Minh, một khẩu 12 ly 8 của địch đặt trên ô cửa sổ ngôi nhà sàn mái ngói phía xa đang khạc lửa mãnh liệt vào đội hình chúng tôi. Anh lính xe tăng gật đầu rồi tụt vào xe. Chiếc xe dừng lại, chiếc nòng pháo, từ từ quay o o lấy hướng xạ kích. Oàng.... một nửa ngôi nhà mái đỏ biến mất. Quá chính xác ! Với khoảng cách gần một cây số mà T54 bắn, phải nói là " thôi rồi Lượm ơi ". Khẩu 12 ly 8 của địch đã bị tiêu diệt, chúng tôi ào lên tiến sát bờ ao, nơi có mấy cây chuối mọc.

- " Chà, mệt. Nghỉ cái đã chúng mày". Anh Nhạn " Khùng " bảo nhỏ chúng tôi.

Chúng tôi nằm lăn ra cạnh bờ ao và khát nước. Suốt mấy tiếng đồng hồ chiến đấu dưới trời nắng chói chang, chiếc bi đông đầy nước từ sáng đến giờ đã không còn một giọt. Tôi lấy dao găm xả luôn cây chuối nhỏ mọc ngay trước mặt. Móc lấy phần lõi cho luôn vào mồm nhai. Chát thế không biết. Thằng Minh nhai thấy chát quá liền phun ra phì phì. Nó tháo chiếc mũ sắt vục ngay một mũ nước ao, cái thứ nước đục ngầu, tanh tanh, ngờn ngợn đất đưa ngay lên mồm tu ừng ực. Thôi thì theo nó vậy, tôi cũng làm một hơi. Ngọt, mát và đã khát quá. Thằng nào đói, đã có lương khô. Ăn lương khô 701, uống nước ao tù, làm gì mà chẳng no bụng !!!

Nghe chừng đã đỡ đói và mệt, theo lệnh của tiểu đoàn, chúng tôi tiếp tục đánh chiếm ngôi trường ( cứ cho là như vậy, có bố ông giời biết là khu nhà ấy là nhà gì ? ) phía trước. Trung đội tôi tản ra, men theo những tán cây trong vườn bí mật tiếp cận sát dãy nhà . Tôi và Minh, men theo hành lang, đến một cái của sổ không có cánh cửa. Thằng Minh ra hiệu cho tôi luồn sang bên trái, nó ép sát người bên phải. Cả hai cùng rút chốt hai quả M26. Một..hai..ba, hai tiếng nổ bùng lên phía trong lớp học, thằng Minh nhanh như cắt chống tay vào bậu cửa sổ, tung người lao vào phía trong bắn loạn xạ. Tôi lạch bạch ôm súng nhảy vào theo nó. Khói tan, chẳng có thằng mẹ nào chết cả. Nhưng vì cái động tác như phim Liên xô rất gây ấn tượng của nó mà sau trận này, nó được đề nghị thưởng huân chương chiến công hạng ba còn tôi được bằng khen đấy. Trong chiến đấu, thằng Minh là một chiến sỹ rất dũng cảm, thông minh nhưng pha đôi chút lãng tử, liều lĩnh của chàng trai Hà thành. Nó cứ học ở đâu đó, trên phim, trong sách truyện rồi áp dụng vào thực tế.

Chúng tôi lao ra phía cửa sổ đằng sau, lính Pôn Pốt chạy đen cánh đồng phía sau. Chúng tôi nằm xuống bãi đất phía sau trường, khẩu RPD trong tay tôi nổ rung lên bần bật. Do tầm bắn quá thấp, tôi không thấy thằng địch nào ngã cả. Tôi hét lên :

- Minh ơi, súng thấp tầm quá.

Thằng Minh liền quay ngay lại, nó vớ ngay hai cái càng khẩu RPD của tôi, quỳ cạnh một gốc cây bên cạnh và đưa càng súng của tôi lên vai. Lại một kiểu của Bế Văn Đàn rồi. Mặc kệ, tôi siết cò. Những tràng đạn dài của chúng tôi đã quét hết toán lính địch đang chạy trên cánh đồng, hắt chúng xuống con kênh chạy dài bên cạnh. Anh Vinh " heo " đang đứng bên cạnh gốc cây bỗng kếu ối một cái. Một viên đạn của địch bắn trúng cái mông béo tròn của anh, máu phun ra thành vòi. Anh Nhạn băng bó cho anh Vinh xong, bộ phận vận tải liền chuyển anh Vinh về tuyến sau. Những chiếc xe tăng sau khi húc đổ ngôi trường, chồm lên hướng ra thẳng ngoài cánh đồng. Tiếng súng dần thưa thớt.

Khung cảnh buổi chiều trên chiến trường thật khó quên. Những ngôi nhà sàn gỗ bốc cháy ngùn ngụt, nổ lốp đốp, khói bốc lên đen đặc một góc trời. Đó đây, những xác giặc nằm rải rác. Bộ đội sau gần một ngày chiến đấu liên tục đã gần như kiệt sức, tranh thủ nằm nghỉ ngay trên mặt ruộng. Những chiếc xe tăng gầm gầm gừ gừ chạy tới chạy lui. Thỉnh thoảng lại oàng ..oàng bắn vào những ngôi nhà sàn còn sót ở phía xa xa. Tôi vừa nghỉ, vừa tranh thủ lắp nốt những viên đạn cuối cùng trong cơ số mang theo vào hộp tiếp đạn. Đến gần tối, chúng tôi vào tiếp quản phum Prey Ko Ki ( tên những phum này có được là do bản đồ của Trungsy1 và Tuaans cung cấp, xin cảm tạ hai bạn - rất mong các bạn theo sát để giúp tôi nhé ), cách Chi phu chừng 2, 3 ki lô mét về hướng đông nam. Quan sát sở đại đội đóng bên tay phải con lộ nhỏ đi lên sẽ gặp lộ 1 tại ngã ba Chi Phu. B tôi chốt ngoài rìa phum, bên tay phải đại đội. Anh Nhạn phân công tôi và Minh ra hẳn ngoài cánh đồng, đào hầm lập chốt tiền tiêu ngoài đó, cách con đường nhỏ khoảng 50m. Vừa mệt, vừa đói. Làm sao mà đào được hầm đây. Tôi và thằng Minh đi tháo những cánh cửa sổ của những ngôi nhà còn nguyên vẹn, đem về lát ngang trên rãnh dẫn nước vào ruộng, dải ni lon đi mưa xuống, căng tấm tăng lên thành một cái lều nhỏ. Súng ống để bên cạnh. Cơm nước xong xuôi, hai thằng nằm thẳng cẳng trên chốt. Quá ngon !!!

Tới gần nửa đêm, cơn mưa ập đến xối xả, nước mưa rơi trên mái tăng cứ rào rào như gõ trống, phía dưới gầm lều, nước chảy mạnh thành dòng. Hai thằng chúng tôi cứ thu lu trong lều, lúc đầu còn cảnh giác thay nhau căng mắt ra theo rõi xung quanh. Đến lúc mệt quá rồi thì .... kệ mẹ địch. Các bố chúng mày phải ngủ cái đã. Sống chết có số. Thế là hai thằng cứ nằm ôm nhau ngủ giữa đồng không mông quạnh, đánh thẳng một giấc đến khi trời sáng.

Sáng hôm sau, có lệnh dừng củng cố tại chỗ. Tôi và Minh đi lang thang xem những ngôi nhà nằm trong khu vực đóng quân của đại đội. Trong một ngôi nhà, tôi nhặt được một con dao găm lưỡi dao cong cong, chuôi sừng có nạm bạc rất sắc và đẹp. Trong khi lang thang, thỉnh thoảng bọn địch từ phía đầu phum mạn Chi phu phát hiện thấy bọn tôi lại bắn 12 ly 8, hàng loạt tiếng nổ chát chúa cùng.. cùng.. cùng, cùng ...cùng ...cùng. Cóc sợ !!! Có lẽ trải qua trận chiến đấu như ngày hôm qua, thì tiếng cùng...cùng vớ vẩn của khẩu 12 ly 8 không còn gây.....sao xuyến cho hai thằng tôi nữa.

Buổi chiều 17.06, chúng tôi nhận được thư nhà do anh nuôi mang tới. Nào thư của Bố mẹ, thư của các em tôi, thư của các bạn... Thằng Minh mặt mày hớn hở. Nó nhận được thư của Minh Nguyệt - Trăng Sáng. " Anh Minh mến nhớ " - lần đầu tiên Nguyệt gọi tao bằng anh đấy, nó vui vẻ khoe với tôi. Chúng tôi ngồi trên ngôi nhà sàn đổ nát, cùng chung nhau đọc những cánh thư nhà. Buồn vui lẫn lộn.

Sau hai ngày dừng lại nghỉ ngơi, củng cố đơn vị. Rạng sáng ngày 19.06, trung đoàn chúng tôi tổ chức đánh chiếm ngã ba Chi phu. Vào khoảng 3 giờ sáng chúng tôi bắt đầu hành quân, đến hơn 4 giờ sáng tiểu đoàn 3 bí mật tiếp cận mục tiêu, hướng tấn công của tiểu đoàn 3 là hướng đông nam, phía bên tay trái ngã ba Chi phu. Qua mấy đêm mưa liên tục, nước ngập đầy các thửa ruộng mà mấy bữa trước còn khô nứt nẻ. Kiểu này T54 khó mà đánh hành tiến cùng với bộ binh đây. Tôi thoáng nghĩ. Dù mới tham gia chiến đấu nhưng tôi đã có được cái cảm giác " ấm sườn " mỗi khi nghĩ đến có xe tăng cùng tham gia trận đánh. Vững tin lắm, yên tâm lắm các bạn ạ. Bò vào sát vị trí được phân công, theo lệnh của anh Nhạn, mỗi đứa chúng tôi đào một cái hầm, nói là hầm cho oai chứ nó chỉ to hơn cái ổ gà đẻ tí chút. Nhờ có mưa, đất mềm nên chỉ sau mấy phút hai đứa chúng tôi đã dũi xong hai cái....ổ. Nước ngấm vào rất nhanh, phút chốc hai cái ổ đã ngập đầy nước. Thằng Minh lăn xuống nằm rồi thì thầm với tôi : " Như là hồ bơi Quảng bá mày ạ ". Cái thằng, lúc nào nó cũng tếu táo được. Có lẽ nó cố tình như vậy để quên đi nỗi buồn của gia đình nó chăng? Cha là một hoạ sỹ tài hoa, mẹ là nghệ sỹ đoàn cải lương Chuông vàng. Ông bà chia tay để lại cho nó nỗi buồn khôn tả, rồi cô bạn gái của nó - Trăng Sáng kia nữa, nó ngỏ lời mà chưa được đáp lại. Tất cả điều ấy đều đọng lại trong đôi mắt của nó, tôi biết rõ như vậy. Có thể cũng vì những điều ấy mà trong chiến đấu, nó bao giờ cũng lao lên phía trước. Mạnh mẽ, dứt khoát đôi chút liều lĩnh bất chấp những hiểm nguy đang đe doạ bản thân mình. Cho đến bây giờ, khi ngồi viết những dòng này, những hành động đầy quả cảm, máu lửa và kiêu hùng của thằng Minh, người đồng đội, đồng hương thân yêu vẫn hiện lên rõ nét trong tâm chí của tôi hơn bao giờ hết.

5g30 ! Tiếng pháo chi viện của quân đoàn, sư đoàn đã phát hoả. Vi..u u .. Oành.. oành.. Những ánh lửa loé lên như chớp giật, những đám lửa bùng cháy như muốn xé rách bầu trời vừa tảng sáng. Tiếng súng các cỡ nổ dồn dập. Này, chết mẹ mày đi này, này chết cụ mày đi này.... vừa lẩm bẩm trong mồm, tôi vừa xiết cò súng. Từng tràng đạn nổ dài hoà nhịp với tất cả. Trong tôi, mọi suy nghĩ vớ vẩn về cái chết, về quê hương, gia đình, bạn bè lúc trước khi nổ súng bỗng biến đâu hết cả. Pháo chi viện vừa ngưng bắn. Xung pho..o..ong! Tôi sách súng vượt qua mấy bụi cây Mắc cỡ, ào lên chiếm ngay mô đất sát cạnh ngã ba. Bọn địch dựa vào hệ thống hầm hào phòng ngự, chống đỡ quyết liệt. Tiếng DK75, DK82 của địch nổ chát chúa, mấy chiếc tăng T54 không thể tiến lên được. Mùa mưa đã đến, T54 chỉ còn mỗi con đường độc đạo là lộ 1, nên không thể tạo thế bao vây chia cắt quân địch. Chúng tôi giành nhau với địch từng mét đất trong ngã ba. Đến quá trưa, địch - ta chia nhau mỗi bên giữ một nửa thị trấn Chi Phu. đại đội chúng tôi chiếm được một khu nhà sàn ngay sát bên trái lộ 1. Chúng tôi nhanh chóng đào hầm, triển khai kế hoạch chiến đấu phòng ngự giữ chốt.

Những bữa ăn lương khô + nước ao tù của mấy ngày qua, lúc này đã bắt đầu phát huy tác dụng với tôi. Bụng tôi đau quặn. Tôi cứ xì xoẹt suốt, không biết là bao nhiêu lần. Người choáng váng, mệt bã. Tôi vốn có bộ máy tiêu hoá cực kém ( theo " gia truyền " của gia đình bên nội ), nên cứ ăn hơi lạ bụng là biết tay nhau ngay. Thằng Minh lo lắng ra mặt, nó trèo lên cây ổi ngay cạnh hầm, hái mấy bút ổi non đưa cho tôi nhai, nuốt. Sang ngày hôm sau, cái bụng tôi êm dần.

Thời gian chốt tại Chi phu của đại đội tôi không hề êm ả như lần chốt trước. Địch - ta cùng chung nhau một nơi, chỉ cách nhau có một khoảng trống nhỏ rộng chừng hơn 100 mét. Phía trước hầm của B tôi là một rặng le dày, bên một gốc cây Me cổ thụ, trước rặng le là một cái giếng xây, vài ruộng rau muống đã cằn. Qua mấy ruộng rau đã là bên địch. Bên phải ruộng, sát lộ 1 là những bầu sen chạy dài lên phía trước. Sáng nào cũng vậy, lũ M113 gắn DK 75, DK 82, pháo 105 mm của địch nằm bên kia sông Bang Kougne phía cầu Tà Yên cũng ùng oành nhả đạn vào chốt của chúng tôi từ sáng đến trưa thì mới dứt. Bọn lính bộ binh địch thì hò hét trô..trô..trô nhặng xị. Chúng tôi bình tĩnh đợi địch đến gần rồi đồng loạt nổ súng hất ngược bọn chúng ra xa. Cứ như vậy, ngày nào cũng giống ngày nào, kéo dài hết cả tuần. Xế trưa ngày 22.06, Anh B phó họ Quách tên Um hay Sum rất khó nhớ, lên sát gốc cây Me để quan sát tình hình địch, một quả cối 82 nổ bất thình lình ngay trên ngọn, mảnh văng tứ tung. Anh gục xuống tại chỗ, anh Truyền - y tá đại đội băng lên kéo anh vào nấp sau bức tường đổ. Chúng tôi xé áo của anh ra, một dòng máu đỏ tươi dịn ra ngay sát dưới vú trái. Anh đã tắt thở.

- Đứt cuống tim chúng mày ạ. Anh Truyền thở dài phán.

Cũng mảnh quả cối đó, thằng Minh dính ngay một mảnh vào ngón tay ở bàn tay phải.

- " Nhẹ thôi ", trúng mánh rồi. Nó nhe răng cười với tôi và giao hẹn

- Tao đi viện vài ngày rồi lại về với mày.

Thế là còn lại chỉ mình tao. Tôi thầm nghĩ. Xung quanh vẫn còn biết bao đồng đội nhưng tôi vẫn không tránh được cái cảm giác trống trải khẽ len vào tôi. Có nó ở bên cạnh chia sẻ, tôi yên tâm biết bao.

Mấy hôm nay, chiều nào trời cũng mưa rất to. Những hạt mưa quất thẳng vào tôi ràn rạt. Hạt mưa rơi xuống nòng súng bốc hơi xèo xèo, nghi ngút. Tôi đang thẳng tay quất những loạt đạn thẳng căng vào bọn khốn khiếp. Bỗng xoạch.. tiếng súng tắt đột ngột. Khẩu RPD của tôi câm như hến. Hết đạn rồi à? Không phải, dây tiếp đạn vẫn còn thòng ra những viên đạn vàng choé. Tôi kéo quy lát lên đạn. Quy lát bó chặt cứng không nhúc nhít. Bọn địch thấy tiếng trung liên im bặt liền hò hét xông lên. Chết mẹ rồi Thọ ơi. Giữa lúc như thế này mà lại dở chứng tắc súng thì " thôi rồi Lượm ơi ". Tôi hét lên :

- Anh Nhạn, súng em bị tắc rồi.

Anh Nhạn hô khẩu đội đại liên 3 càng Kô li cốp bắn yểm trợ rồi nhào sang hầm tôi. Tôi mở ốp khoá nòng, tháo băng đạn ra. Viên đạn kẹt cứng trong ổ chứa. Hai anh em mắm môi, mắm lợi kéo khoá nòng. Vẫn không được.

- Mày mang súng chạy về quan sát sở đại đội, bảo bọn nó sửa cho. Đù má, mưa gió thế này, mấy hôm đ... chịu lau súng nên cho mày chết.

Tôi chui ra khỏi hầm, chạy băng về hầm đại đội trong tiếng đạn rít vèo vèo bên tai. Anh Bình " trắng " ( để phân biệt với một anh cũng tên là Bình - B trưởng B3 người Đông Anh - Hà nội ) B trưởng B1, vừa lên quyền đại đội trưởng C11 thay đại đội trưởng kiêm chính trị viên bị thương trong trận chiếm Chi phu hôm 19.06 thấy tôi liền hỏi :

- Sao vậy thằng em?

Tôi phân trần trong hơi thở gấp :

- Em đang bắn, súng bỗng nhiên bị tắc.

- Tại thằng em quá lười, không chịu lau chùi bảo quản phải không? Anh ôn tồn nói. Tôi gật đầu.

Đánh nhau liên miên, tôi thấy súng còn mới toanh, cứ bóp cò là nổ, cần gì phải lau với cả chùi. Ai ngờ nó lại tắc tị giữa lúc như thế này. Một bài học thấm thía. Trong lúc ngồi chờ cho quân khí khắc phục khẩu súng. Anh Bình, anh Truyền y tá pha " bồi dưỡng " cho tôi một cốc bột sữa trứng, tiêu chuẩn của cán bộ đại đội. Đúng là " đường sữa phát từ trên phát xuống, cuốc xẻng phát từ dưới phát lên ". Lính tráng phía dưới chúng tôi nào có biết bột trứng, bột sữa nó mặn ngọt như thế nào đâu. Anh Truyền vỗ vai tôi với giọng rất " chính trị viên":

- Ở dưới này, nghe RPD của em nổ, bọn anh yên tâm lắm. Rất đĩnh đạc.

Của đáng tội, tôi nghe cũng " phổng cả mũi ". Tất cả những cốc sữa trứng, ngụm trà, điếu thuốc và những lời động viên có cánh ( mấy hôm ở chốt, tôi bắt đầu tập tọng hút thuốc ) nhằm mục ích động viên tôi, tôi biết vậy.

Lại nói một chút về anh Truyền y tá. Anh Truyền chỉ là y tá đại đội nhưng rất có uy tín trong các lớp cán bộ của C11. Khi bố trí đội hình tấn công hay phòng ngự, ý kiến tham gia của anh rất có trọng lượng, thậm chí có khi là quyết định bởi bề dày tham gia chiến đấu của anh. Đại trưởng, đại phó, chính trị viên thi nhau hy sinh, bị thương còn anh vẫn cứ vẫn yên vị. Chính nhờ " sống lâu " như thế nên anh đã trở thành " lão làng " trong việc chỉ đạo tác chiến của đơn vị tôi. Anh tỏ ra bao dung với tôi khi lần gặp nhau đầu tiên, tôi đã " anh anh, tôi tôi " với anh khi biết anh là y tá. Đến bây giờ tôi mới hiểu anh.

Súng đã sửa xong, tôi vác súng lao cắm cổ về vị trí chiến đấu quen thuộc. Tiếng súng lại nổ giòn đĩnh đạc. Trong lúc tôi chạy về sửa vũ khí, một quả DK82 đã " hốt " gọn tổ đại liên của đại đội. Ba thằng, hai chết tại chỗ một bị thương rất nặng. Thằng Ước " lác " - dân Nghệ an cùng đoàn với tôi đang nằm thở khò khè, nặng nhọc, mắt vẫn " lác lộn " toàn lòng trắng. Anh Nhạn lật người nó lên xem rồi phán :

- Đù má, nó sắp chết rồi.

Thằng Ước bỗng cố ngẩng đầu lên :

- E..e.m....em..chư...chư..a ..ch..ết..đ...âu.C..á..c..anh..c..ứ..u..em với.

Đang lo lắng, thương cảm, tôi vẫn phải phì cười. Cái thằng này sao mà nó lác đến vậy. Hai lòng đen mắt nó cứ chập ríu vào với nhau. Vậy mà lại được điều vào tổ đại liên. Chẳng biết bắn chác ra sao? " Một thằng bảo an nhìn hoá ra ba thằng bình định ". Chúng tôi vẫn trêu đùa nó như vậy. Vậy mà bây giờ.......

Liên lạc đại đội báo cho tôi biết, tôi phải về quan sát sở đại đội ngay. Về đến nơi, anh Bình, anh Truyền pha nước mời tôi và nói :

- Chắc em đã biết, tổ đại liên vừa bị xoá. Bọn anh đã cân nhắc kỹ, trong đại đội không ai có thể sử dụng khẩu đại liên này hơn em cả. Nghe tiếng điểm xạ của em, bọn anh tin rằng khẩu đại liên sẽ phát huy tốt tác dụng nếu rơi vào tay em.

Bốc phét, lại chiến thuật " động viên " vớ vẩn. Nhưng tôi biết, đằng sau những lời ngọt ngào ấy là mệnh lệnh chiến đấu. Tôi không nhận mà được với các ông ấy à? Đồng thời, anh Bình cũng thông báo tôi được nâng quân hàm, từ binh nhì lên binh nhất. Trinh sát tiểu đoàn thông báo có ít nhất hơn 40 tên ngục ngã trước mũi súng của đại đội tôi. Tôi trở về bàn giao lại khẩu RPD để sang nắm tổ đại liên. Binh nhất Lê thái Thọ. Có tôi ! Và ..kình..kình...kình.. tiếng đại liên của tôi lại vang lên ròn rã, góp phần đánh bật mũi tấn công của mấy thằng Pốt chó đểu.

Rạng sáng ngày 25 .06 ( ngày sinh nhật lần thứ 19 của tôi ).Tiểu đoàn 3 của chúng tôi được lệnh rút về phía sau để nghỉ ngơi và củng cố. Trận địa phòng ngự Chi Phu được giao lại cho D1 đảm trách. Bàn giao trận địa xong, chúng tôi rút theo lộ 1 về tuyến sau, Gọi là tuyến sau nhưng thực chất cũng chỉ cách tiền duyên chừng hơn 1 cây số. Thôi thế cũng " ấm " chán. Nơi chúng tôi nghỉ ngơi chính là " cứ " anh nuôi của đại đội, một ngôi nhà sàn nằm nép mình bên phải lộ 1. Ngay trên mặt lộ bên cạnh cứ, hai khẩu 105 mm và hai khẩu cối 106,7 mm của quân đoàn hay sư đoàn suốt ngày đêm ầm ầm nhả đạn. Chúng tôi tranh thủ tắm giặt, ngủ nghê sau một tuần chiến đấu căng thẳng. Cả đại đội " nồng nỗng " ào ra thửa ruộng phía sau cứ. Nước ruộng trong văn vắt. Nào chạy nhảy, cười đùa té nước ầm ĩ cả một góc đồng. Nào cho tao xin tí xà phòng... Mày quê ở Phú thọ à? Thôi, kỳ cho tao cái lưng. Chiếc dép cao su chở thành vật dùng để kỳ cọ rất hiệu quả, ghét cứ bay đi hàng mảng ( vì cả tuần có tắm giặt gì đâu ), chỉ còn lại những tấm lưng, phản ngực đỏ au, sạch sẽ, mỡ màng. Quần áo phơi đầy trên những bụi cây lúp xúp. Chúng tôi nhanh chóng tạm quên ngay những ngày máu lửa, bi thương vừa trải. " Mưa lúc nào, mát mặt lúc đó " - Lính mà em. Lại có thư, thằng nào ít cũng phải có dăm ba lá. Tòng teng nằm trên cánh võng ( lúc này, lũ lính mới chúng tôi vừa được nhận quân trang bổ xung ), quần đùi áo may ô thoải mái, thằng thì đọc thư, thằng viết thư, thằng nghêu ngao hát hò vui vẻ. Nằm chán, tôi lại đi lên mặt lộ xem mấy khẩu pháo của ta bắn. Hay thật, tôi nhìn rất rõ quả đạn 105 mm bay ra khỏi nòng. Cõ lẽ gia tốc lúc ban đầu còn nhỏ nên đạn bay rất chậm, nhìn rõ mồn một.

Dưới bếp, mấy anh nuôi đang hồ hôi, mồ kê nhễ nhại trổ tài nấu nướng bồi dưỡng cho mấy thằng thoát chết trở về. Bữa ăn có gì nhỉ? Dưa leo, rau sống, bánh tráng, thịt heo luộc, thịt rang mặn, cơm canh đủ cả, thuốc rê thì hàng táp. Tất nhiên là không thể thiếu được can rượu trong vắt như mắt mèo. Bao nhiêu phụ cấp toàn đơn vị đều do anh nuôi giữ hộ cả. Ngoài tiền mua thuốc rê, vở viết Cogido ( dùng để cuốn thuốc là chủ yếu ) và mấy thứ lặt vặt để gửi lên trên chốt, còn lại đổ tất vào những cuộc nhậu này cả. Gạo tiền của thằng đã chết, của thằng đã bị thương đi viện. Mặc kệ, đã có nhà nước lo. Bây giờ phải lo cho những thằng còn lại, cho nó xả láng mấy hôm. Nay sống, mai ngẻo biết thế nào được.

Trong bữa nhậu, anh Bình - quyền C trưởng nói thủng thẳng :

- Tao nói trước, bọn D1 nó chẳng giữ được lâu đâu. Chúng mày cứ chuẩn bị tinh thần sẵn sàng, nó mà bục chốt là tụi mình phải lên lấy lại đó.

Mỗi một đơn vị đều có những cái " dớp " mà khó có thể giải thích rõ ràng rành mạch bằng lời được. Tiểu đoàn 1 của trung đoàn tôi chốt chặn rất kém. Cũng những con người ấy, vũ khí trang bị ấy, thế mà cứ động chốt là lại bị " bung ". Mà chốt đã bị " bung " đơn vị nào phải đánh chiếm lại rất khổ. Máu phải đổ ra nhiều hơn so với đánh chiếm lần đầu. Cả bàn nhậu lặng đi một lúc. Anh Truyền y tá ôn tồn :

- Mày nói làm gì cho anh em nó mất vui. Lúc nào trên bảo đánh thì ta đánh. Việc của chúng ta là đánh. Lo trước làm gì cho mệt xác.

Chỉ ngày hôm sau, sau bữa nhậu buổi chiều chúng tôi được lệnh lên đường. Có lẽ nào lời nói của Anh Bình " trắng " đã thành sự thật. Nhưng thật ra không hẳn như vậy. Buổi trưa hôm ấy, một xe Zep chở tốp cán bộ tham mưu quân đoàn đi qua nơi nghỉ ngơi của chúng tôi lao lên chốt Chi phu. Người lái xe cứ rõi theo đường dây thông tin hữu tuyến rải ven đường mà đi. Mải nói chuyện, anh lái xe và mọi người không để ý đến đường dây hữu tuyến đã hết từ lúc nào. Bỗng phía trước mặt xuất hiện một thằng lính Pốt cầm khẩu B40 lao ra chặn đường. Bỏ mẹ rồi, thì ra xe đã vượt qua tuyến tiền duyên lúc nào không biết. Chiếc xe quay đầu định tháo lui. Không kịp nữa rồi. Ùng...oàng... hai tiếng nổ gần như chập vào một. Toàn bộ tốp cán bộ tham mưu quân đoàn chẳng thoát một ai. Lo rằng, trong tốp cán bộ có ai đó bị thương và bị địch bắt sống, kế hoạch dự định tấn công đánh chiếm nốt Chi Phu và phát triển lên chiếm cầu Tà yên sẽ bị lộ. Cấp trên ra lệnh cho Trung đoàn 1 cùng với các đơn vị bạn lập tức lên đường đánh chiếm các mục tiêu như kế hoạch đã dự tính. Chỉ có thời gian là thay đổi. Ngày N - ... .

Bữa nhậu vừa kết thúc. Đại đội chúng tôi lại lên đường, Tôi lại trở về với B của anh Nhạn với khẩu RPD quen thuộc. Vài anh lính còn đang trong trạng thái lơ mơ. Đi trên bờ ruộng mà thỉnh thoảng lại loạng choạng bổ nhào xuống ruộng lõm bõm nước. Tiếng cưòi vẫn rộ lên.... Chúng tôi lại nhằm hướng nam, nơi có con lộ nhỏ không tên vừa đánh bữa trước. Trời tối, chúng tôi tập trung tại một căn nhà nhỏ ở phum Prey Ko ki. Sau khi chính trị viên tiểu đoàn phổ biến nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị. Anh đứng trên một mô đất cao nói với chúng tôi :

- Đợt chiến đấu sắp tới sẽ diễn ra rất quyết liệt, tính bất ngờ có thể không còn nữa. Nhưng tôi xin hứa với các đồng chí, các đồng chí cứ yên tâm chiến đấu. Nếu đồng chí nào chẳng may hy sinh, chúng tôi dù rằng phải hy sinh thêm ba bốn đồng chí nữa để mang xác các đồng chí về, chúng tôi cũng quyết không để các liệt sỹ nằm lại trận địa.

Trong chiến đấu đối với người lính, cái sợ nhất có lẽ là bị đồng đội bỏ rơi mình nằm trong tay địch, dù còn sống hay đã chết. Nghe chính trị viên nói vậy, chúng tôi cũng yên lòng phần nào. Do kết quả của những bữa ăn xả láng vừa qua, bụng tôi lại có vấn đề. Thật chết vì cái mồm. Nguời mệt rã rời.

Đêm ấy, tôi ngồi gác để cho anh Nhạn và thằng Màu ( người Tam đảo Vĩnh phúc - lính mới tò te được bổ xung vào B tôi thay thằng Minh ) ngủ trước. Đang gác, người tôi bỗng lạnh run, hai hàm răng va vào nhau cầm cập, chân tay run lẩy bẩy. Bỏ mẹ, sốt rét rồi. Từ chỗ tôi ngồi gác vào đến hầm thùng, nơi Anh Nhạn đang nằm chỉ có khoảng chưa đến chục mét mà tôi bò mãi mới đến nơi. Tôi thì thào báo cáo với anh Nhạn. Anh Nhạn ra gác thay cho tôi và bảo tôi vào hầm nằm. Thằng Màu lấy hết màn, tăng, nilon đắp lên người tôi, lấy 2 viên Quinin cho tôi uống. Vẫn run lập cập. Thằng Màu liền đè cả người nó lên người tôi cho ấm. Ôi, cái tình đồng đội sao mà ấm áp thế, đáng quý thế. Màu ơi, bây giờ em ở đâu?

Sáng hôm sau, người tôi ê ẩm rã rời, các khớp xương như muốn long ra từng đoạn. Cơn sốt đã dứt nhưng tôi vô cùng mệt. Tôi liền báo cáo với anh Nhạn xin phép cho tôi được về cứ anh nuôi nghỉ ngơi ít ngày cho lại sức. Anh Nhạn trầm ngâm một lát rồi động viên tôi :

- Thọ ạ, nếu B mình còn nhiều người thì anh sẽ đồng ý cho em về cứ ngay. Nhưng em xem, cả B bây giờ còn có 3 anh em. Nếu em về nghỉ thì còn mỗi anh và thằng Màu ú a ú ớ, nó chưa đánh đấm bao giờ.... Thôi, em cố gắng một chút nhé. Em đưa khẩu RPD cho anh, còn em em cầm lấy khẩu M79 này cho nhẹ.

Lần đầu tiên tôi thấy anh nhẹ nhàng đến vậy, tịnh không thấy một tiếng đù má, đù cha trong câu nói của anh. Tôi lặng lẽ cầm lấy khẩu M79 và dây đạn anh đưa. Tôi còn biết nói gì nữa. Trung đội đã hao tổn qúa nhiều trong suốt những trận đánh vừa qua. Mỗi người còn lại phải cố ráng lên một chút vậy.

Chúng tôi không ngờ rằng, trận đánh chiếm Chi phu lần này lại nhàn đến vậy. Khi tiểu đoàn 3 lên đến nơi, các đơn vị bạn đã giải quyết xong. Chúng tôi thong thả hành quân hướng về cầu Tà yên. Người mệt mỏi rã rời sau trận sốt rét, tôi đi rất chậm và nghỉ liên tục. Mãi đến trưa, chúng tôi mới lên đến nơi. Do anh nuôi không thể đưa cơm lên kịp, chúng tôi dừng chân bên một căn nhà nhỏ cạnh cầu Tà yên để nấu cơm ăn trưa. Khoảng 2 g chiều, chúng tôi rẽ xuống con đường nhỏ bên tay trái hướng về phum Prey khlok. Chiều tà thê lương, vắng lặng không một tiếng súng. Không gian quánh đặc mùi tử khí. Chốc chốc, chúng tôi lại bắt gặp những xác người ( địch hay dân nhỉ? ), xác trâu bò hoặc vừa chết, hoặc chết đã lâu bốc mùi sặc sụa. Vòng vèo mãi đến lúc trời tối mịt, chúng tôi mới tới được Prey Ampil. Mệt rã rời, cả trung đội ( mà cũng chỉ còn có 3 mống ) chui vào một căn lều sát ngay bên đường. Chẳng kịp mắc võng, tôi lăn ra đất ngủ một mạch. Sáng hôm sau tỉnh dậy, tôi mới nhận ra cả bọn nằm ngủ ngay trong chuồng bò, phân vẫn còn đầy trên mặt đất. Chúng tôi thay nhau đi đào hầm, xác định vị trí xạ kích... Buổi chiều, sang C14 tìm thằng Long xem nó có ổn không? Hơn nửa tháng, đánh liên miên cũng chẳng kịp để ý đến nhau nữa. Đang đi, bỗng thấy tiếng gọi Thọ ơi í ới. Hoá ra bọn thằng Chương bên C12 ( hay C13 nhỉ??? ) ở phố Ngõ Trạm. Chúng nó vừa bắn chết mấy con Trâu. Thấy tôi, chúng nó gọi vào để ăn thịt Trâu luộc chấm với muối ớt. Anh em xa lâu ngày nay gặp lại, tay bắt mặt mừng, vui quá thể.

- Sao chúng mày không xào thịt lên ăn có phải ngon hơn không? Tôi hỏi.

- Làm gì có mỡ, mắm muối. Thôi cứ luộc lên, mỗi thằng một tảng.

Thịt nhiều vô kể. Cả mấy con trâu, chúng nó chỉ xẻo lấy có mấy cái đùi sau và tim, gan. Còn thì vứt tất. Thật phí của giời.

Hôm sau, chúng tôi nghỉ ngơi và bổ xung thêm trang bị, tôi nhận khẩu B40, còn khẩu RPD giao lại cho thằng Màu. Tôi hướng dẫn cho Màu cách tháo lắp, cách sử dụng khẩu súng. Thằng Màu thủ thỉ kể cho tôi về gia đình, về bản thân nó. Đang ở nhà chăn trâu, nó phải đi bộ đội. Huấn luyện chỉ hơn một tháng đã phải lên đường vào đây. Nó chưa được bắn một phát súng nào. Nó bảo tôi :

- Anh ơi, lúc nào các anh " chạy ", anh nhớ bảo em với nhé !

- Yên tâm đi, nhưng sao mà phải " chạy "? Tôi lên giọng " lính cựu ".

- Thì em nghe thấy mấy anh bảo, thỉnh thoảng mình vẫn bị Miên nó đánh cho chạy " re kèn " mà !

Tôi bảo nó mang súng ra ngoài hầm phía sau, lúc nào nghe thấy tiếng súng bọn Miên bắn thì cho nó bắn thoải mái. Lúc nào nghe tiếng súng mà nó hết thấy sợ thì thôi.

Đến khoảng nửa đêm hôm ấy, đại đội chúng tôi được trinh sát trung đoàn dẫn đi đánh phối thuộc với trung đoàn 2. Đêm tối như hũ nút, tôi cứ bì bõm bước thấp bước cao theo sát anh Nhạn đi phía trước. Cứ có lệnh nghỉ tại chỗ là tôi đặt ịch giá đạn xuống đất, không thèm tháo nó ra khỏi vai và tranh thủ nhắm mắt. Buồn ngủ quá trời. Chúng tôi đi theo một bờ đê của con sông chạy về thị xã Svayrieng. Đang vừa đi, vừa ngủ gà gật bỗng..Ùm. Tôi phi cả người xuống sông. Thằng Màu vội vàng kéo tôi lên. Xung quanh, chúng nó cứ bịt mồm cười khùng khục. Trinh sát trung đoàn không bắt được liên lạc với trung đoàn 2, chúng tôi lại quay về vị trí cũ. Đêm hôm sau cũng vẫn như vậy, chúng tôi cứ ra đi lúc nửa đêm và về lúc gần sáng. Sáng hôm sau, anh Nhạn càu nhàu tôi :

- Đi đột ban đêm mà giày của mày cứ lép nha lép nhép, lộ bố nó mất.

- Nhưng nước nó cứ tràn vào giày của em, đi nặng chình chịch. Tôi cãi.

- Đù má, mày ngu lắm. Lấy dao chặt ngay cái mũi giày đi " con ạ ". Nước có vào, chỉ cần chống mũi giày lên là ra hết.

Lại một bài học bổ ích cho tôi. Tôi và thằng Màu lập tức thực thi " mệnh lệnh ".

Chiều ngày 06.07.1978, trời mưa tầm tã. Trung đoàn tôi được lệnh đánh lên chiếm khu nhà tôn nằm ở dải đất cao nhô lên phía trước phum Prey Ampil. Vừa lên được khoảng hơn trăm mét, bọn địch đã phát hiện thấy chúng tôi. DK, B40, B41 đạn nhọn của chúng bắn xối xả vào đội hình của ta. Không thể lên được. Sau hơn một tiếng nằm úp mũ lên, che mặt ngủ giữa trời mưa, chúng tôi được lệnh rút về vị trí cũ.

Chiều hôm sau, hội nghị quân chính đại đội được tổ chức. Anh Han " đen " người Thanh hoá - Lính 74, nguyên B trưởng cối 82 bên C14 được điều về thay anh Bình " trắng ", vừa bị thương hôm trước làm đại đội trưởng. Anh Han người to cao và đen, nói năng mạnh mẽ, dứt khoát chứ không nhỏ nhẹ như anh Bình. Hội nghị trình bày phương án tác chiến của ngày mai. Ngày mai, chúng tôi sẽ vẫn đánh lên khu nhà tôn phía trước. Nhưng phương án có sự thay đổi. Bên tay phải chúng tôi, trung đoàn 2 đảm trách, khu vực giữa là trung đoàn 3, bên tay trái là trung đoàn Vàm cỏ. Trung đoàn tôi là dự bị của sư đoàn, tiểu đoàn 3 là dự bị của trung đoàn, còn C11 của tôi là dự bị của tiểu đoàn. Trợ chiến gồm có 4 chiếc M113 của lữ 22, pháo 155 của quân đoàn 300 quả, 2 khẩu 105mm, 2 khẩu 85 mm nòng dài, 2 khẩu 37 mm của sư đoàn hạ nòng bắn thẳng. Quá chuẩn !!! Thế thì chúng mày có mà nát như tương. Đại đội tôi lại là dự bị của dự bị của dự bị. Ba lần dự bị thì chỉ có mà ngồi chơi xơi nước. Tôi sung sướng thầm nghĩ.

5h30 sáng ngày 08.07.1978, tiếng pháo quân đoàn, sư đoàn đồng loạt nổ. Tôi ngồi thu lu cùng đồng đội trên luỹ đất mọc toàn cây le, nhìn thấy toàn cảnh của trận chiến. Còn hay hơn cả xem phim " Giải phóng " của Liên xô. Ùng.. ùng.. ùng Oàng.. oàng... oàng pháo ta nện dữ dội. Tiếng 105 ly âm âm nặng nề, tiếng 85mm thì thẳng căng đanh sắc, tiếng 37 ly dồn dập. Những chớp lửa nhằng nhằng giật bay mái tôn, khói bốc lên cuồn cuộn. Chà chà, quá sướng, quá hay, quá đã !!!. Phát này thì chúng mày phải nát như tương Bần. Pháo vừa chuyển làn, xe M113 lừ lừ tiến sau bộ binh của trung đoàn Vàm cỏ, hai trung đoàn 2 và 3 bộ đội cũng bắt đầu xung phong thoắt ẩn thoắt hiện sau những cây Thốt lốt. Nhưng sao thế kia. Một M113 bị DK của địch bắn cho tung xích. Bộ đội lao lên rồi ngã xuống. Ôi, sao " bị " nhiều thế kia, ngã nhiều quá. Các đơn vị vận tải lao lên khiêng, vác thương binh tử sĩ về tuyến sau. Đang mải chăm chú xem " phim", tôi bỗng nghe tiếng thông tin 2W đứng cạnh tôi :

- 919001, 919001...

Thôi bỏ mẹ rồi ! mã 919001 là ký hiệu của đại đội tôi. Chắc có khó khăn nên đơn vị dự bị phải vào trận rồi. Mà cái trò đánh đã không thắng thì dự bị phải lao vào chỗ đang khó khăn nhất. Dĩ nhiên !!! Tôi xốc giá đạn lên vai, tay sách thêm một quả B40. Anh Han dẫn chúng tôi lao ra hướng của trung đoàn 3. Tuyến tiến công vướng toàn sình lầy. Chúng tôi cứ phải lao men theo bờ ruộng. Thảo nào mà bộ đội bị thương vong nhiều như vậy. Bọn địch cứ nhằm bộ đội ta đang di chuyển rất chậm do vướng sình mà bắn. Lại ngã rồi, lại ngã rồi.... Tôi lao lên nhằm thẳng phía trước. Ùng..oành. Tôi nổ súng. Tai tôi ù đặc. Nhớ lời anh Nhạn dặn, tôi làm luôn phát nữa. Thông tai rồi.

Bắn B40, B41 khi vào trận là cứ phải làm liền hai phát để thông tai. Rút kinh nghiệm đã được chứng kiến, tôi không chạy theo bờ ruộng vì sợ bị địch bắn tỉa, ba chúng tôi lội ào xuống sình chạy tản ra. Phập.. phập.. phập.. chíu.. chíu.. chíu.. đạn đại liên của địch xiên vèo vèo trước mặt. Tôi lấy quả đạn thằng Màu đang cầm cắm ngay vào nòng, nhìn thấy ổ đại liên của địch đang nhả đạn, tôi bóp cò. Ùng ..oàng. Trượt mẹ nó rồi ! Tôi nằm chúi đầu xuống ven bờ ruộng. Phập.. phập.. phập.. chíu.. chíu.. chíu.. đạn đại liên của địch cày ngay trước mặt tôi. Chắc thằng này đã nhìn thấy tôi rồi. Không thể di chuyển đi đâu được vì xung quanh toàn sình lầy. Nằm đây chắc chết quá. Tôi thầm nghĩ vậy. Lại phập.. phập.. chíu.. chíu.. Cằm tôi bỗng giật lên. Thôi bỏ mẹ, dính rồi, máu chảy đỏ ngực áo.

- Anh Nhạn, em dính rồi.

Tôi vừa nhỏm dậy định rút thêm một quả đạn thì ... bụp ! Tôi thấy toàn thân tê dại. Một viên đại liên nữa của địch phá nát bàn tay phải của tôi. Tôi hét :

- Anh Nhạn, em lại bị viên nữa.

- Nằm im đấy, tao sẽ sang băng cho. Đù má, sao trận này dính nhiều thế này.

Anh Han C trưởng thấy tôi bị thương liền chồm sang, vớ ngay khẩu B40 của tôi lắp đạn và bóp cò...Ùng.... oàng. Tiếng đại liên địch im bặt. Quá đau, tôi thò tay còn lại rút con dao găm chiếm lợi phẩm mà tôi rất quý, cắt tất cả dây đeo giá đạn, bỏ luôn cả túi mìn Claymo trong đó có sổ sách, đồ dùng cá nhân...., cả con dao quý báu của tôi nữa. Vứt , vứt hết. Tôi nghe tiếng anh Nhạn hét ầm lên :

- Đù má thằng Han nhé, mày làm cháy hết người ông rồi.

Thì ra, trong khi đang loay hoay để bò sang chỗ tôi, anh Nhạn đã bò ngay sau khẩu B40 đúng lúc anh Han nổ súng tiếp. Cả quầng lửa chùm lên lưng anh Nhạn. Anh Han hét :

- Chửi con c..., mày và thằng Thọ băng bó xong cố chạy về tuyến sau đi. Nằm đây đợi vận tải thì có mà toi cả nút.

Anh Nhạn lao đi, cái áo đã bay đi cả mảng để trần ra tấm lưng đỏ như tôm luộc, da lợt từng đám trông dễ sợ.

Tôi tê dại cả nửa người, nhưng nằm đây thì chết là cái chắc. Tôi cố gắng vùng dậy, cứ theo bờ ruộng chạy về. Bọn địch chắc nhìn thấy tôi liền bắn theo chiu chíu.Vừa nhìn thấy hầm cối 60 của đại đội, tôi phi cả người lao xuống. Bọn ở cối 60 giúp tôi băng lại vết thương ở cằm và ở tay. Một viên sượt qua xé rách cằm, một viên xuyên qua lòng bàn tay phải làm toác lòng bàn tay và cổ tay tôi. May rồi, nếu viên ở cằm mà dịch lên chút nữa thì có mà....đi buôn hoa quả sớm. Hoá ra, ở đời chết cũng không phải dễ.

Ngồi ở hầm cối của đại đội, tôi chứng kiến trận đánh tiếp tục. Bộ đội ta vẫn không thể nào tiến lên được. Đù má, phải mang bọn trinh sát ra mà chém đầu. Ai lại vạch hướng tấn công toàn vào bãi sình thế này, chết là phải. Tôi lầm bầm. Ở hầm bên cạnh, trung đoàn trưởng trung đoàn 1 - Trung tá Ba C.... - đứng theo dõi trận đánh cùng mấy vị chắc là sĩ quan tham mưu. Ông buồn bã :

- Sao dính nhiều thế này. Tao thương mấy thằng lính chết trẻ quá.........

Hai chiếc M113 còn lại đang dỉn dỉn bò về theo đường lộ. Một sĩ quan tham mưu bảo tôi :

- Thôi, thằng em ra lộ, bảo mấy thằng M113 nó cho về phẫu trung đoàn. Chắc đơn vị sắp rút rồi.

Thế là thua, thua đau đớn. Tôi cứ tưởng rằng trận đánh này sẽ vô cùng nhàn nhã. Binh hùng tướng mạnh thế kia mà. Ngờ đâu lại tan tác đến vậy. Tôi chán chường, đau đớn ( cả thể xác lẫn tinh thần ) loạng choạng ra lộ. Mấy lính trên xe kéo tôi lên chiếc M113 chạy thẳng về trạm phẫu trung đoàn tại Ang Tamok. Lúc đó là 11g ngày 08.07.1978.

Tại trạm phẫu trung đoàn, thương binh nằm la liệt khắp nơi. Tiếng kêu la, tiếng rên rỉ, những khuôn mặt méo đi vì đau đớn, cánh tay tôi giờ đã sưng vù to như bắp chuối làm phồng căng cả tay áo K74. Tôi ngồi dựa lưng vào cột nhà sàn nhìn ngó xung quanh. Trận đánh này trung đoàn chắc thiệt hại nặng. Hoá ra, trận nào mình chuẩn bị tinh thần để vào trận ác liệt thì lại nhàn, trận nào mình tưởng nhàn như đi chợ thì lại bị đánh đến " biêu đầu mẻ trán ". Thương binh được phân loại ngay. Trọng thương - trung thương - khinh thương. Bộ phận phẫu chủ yếu là phân loại thương binh, băng bó và phát quần áo cho anh em nào quá rách, cho anh em ăn tạm bát cháo để lấy lại sức. Những chiếc xe tải chở thương đi lại tấp nập. Tôi được băng bó sơ qua, phân loại là trung thương rồi quẳng lên một chiếc xe chở về phẫu của sư đoàn đóng tại Chi Phu. Tại phẫu Chi Phu, bác sỹ Cường - người Hà nội cùng khối 68, tiểu khu Hàng Trống với tôi ( thấy bác sỹ bảo vậy - hay cũng là một cách động viên đây ) trực tiếp chăm sóc vết thương cho tôi. Nhìn vết thương đầy bùn đất, bác sỹ bảo :

- Để tránh bị nhiễm vi trùng uốn ván, tốt nhất là em để anh cắt bàn tay đi cho an toàn.

- Ấy anh ơi, anh mà cắt cụt tay em thì em còn làm ăn được gì? Tôi nghĩ đến bàn tay viết lách nay cụt lủn. Chán chẳng buồn chết.

- Anh cố gắng giữ cho em. Tôi nài nỉ.

Bác sỹ không nói gì, anh cắt lọc rồi đổ ôxy già vào rửa vết thương. Anh đổ vào vết thương của tôi 1 lọ Penicelin bột rồi khâu túm lại.

- Anh chỉ sơ cứu tạm thế này, chiều về Sài gòn, các bác sỹ ở đấy sẽ sử lý tiếp nhé.

Chiếc ô tô tải thương của sư đoàn chở tiếp chúng tôi về Mộc bài thì dừng lại. Các Má, các chị ở đấy xúm lại đỡ bọn thương binh chúng tôi xuống xe. Nào nước mía, nào bánh ú, bánh mì.... Nhưng tôi thì không uống nổi, nuốt nổi. Phần thì đau, phần thì sợ uống vào sẽ loãng máu mà chết.

Chiếc máy bay HU1A phành phạch đến đón chúng tôi. Quả này có khi được về thẳng viện 108 cũng nên, Tôi thầm nghĩ vơ vẩn.

Lên máy bay, do rung lắc mạnh. Một thương binh trong số bọn tôi bị thương vào đầu, ộc máu ra.... Từ thương binh anh đã chuyển sang... từ trần. Tôi nằm thiếp đi trong cơn đau đớn và mệt mỏi.

Sân bay Tân Sơn Nhất buổi chiều nóng giẫy. Hơi nóng phả từ đường băng bốc lên ngột ngạt. Chiếc HU1A từ từ tắt máy, những chiếc xe cứu thương đợi sẵn từ bao giờ nhanh chóng áp sát. Mấy cô y tá trẻ măng, mặc áo bờ lu trắng toát nhẹ nhàng chuyển chúng tôi từ máy bay xuống xe. Đồng chí liệt sỹ được " ưu tiên " một mình một xe, còn chúng tôi cứ ba, bốn thằng một xe cùng y tá lao nhanh về viện, vừa đi xe vừa hú còi inh ỏi. Chúng tôi đến viện 115 ( đường Nguyễn tri Phương thì phải ) và nhanh chóng được đưa ngay vào phòng cấp cứu. Sau khi cắt lọc lại, vết thương của tôi được khâu vá và định vị lại phần xương mỏm chân quay bị vỡ. Rất may là không phải cắt cụt. Mừng hết biết !!!.

Ngày hôm sau, tại phòng bệnh trên tầng hai, tôi nằm cùng với một lính của F341, vết thương thấu phổi và gãy tay trái. Lúc nói chuyện tôi được biết nó cũng là người Hà nội, nhà trên đường Tây sơn - đối diện gò Đống đa. Ngày mai, nó có tên trong danh sách đi A, sẽ lên máy bay ra điều trị tại viện 103 trong Hà đông. May quá. Tôi liền nhắn gửi nó báo tin cho gia đình biết tình hình của tôi. Đến bây giờ, tôi và gia đình cũng không nhớ được cậu bạn mới quen ấy tên là gì? số nhà bao nhiêu đường Tây sơn. Thật là ân hận. Chỉ biết rằng, chỉ 3, 4 ngày hôm sau, gia đình tôi đã biết tin về tôi.

Phòng bệnh tôi nằm điều trị rất đông thương binh, phải đến 50 giường, chia làm hai dãy. Thương binh đủ các loại, từ các mặt trận gửi về. Sáng sáng đó đây vang lên tiếng ..tá bô... tá bô.. ầm ĩ. ( lẽ ra phải gọi : Y tá ơi, cho tôi xin cái bô ). Cả phòng chỉ có hai em y tá phục vụ, làm sao có thể kịp đưa ...bô cho các " bố " được. Mà chỉ chậm một chút là các " bố " bĩnh ngay ra giường. Thật quá quắt. Đã vậy, mấy ông thương binh nặng lại còn chơi khăm. Họ bố trí cho hai thằng ở hai đầu cùng nhau gọi bô, chưa xong cho hai thằng đầu, thằng ở giữa phòng lại gọi. Cứ thế.. cứ thế.. họ hành hạ hai cô bé đến là tội. Phục vụ tôi là cô y tá tên Mai - người Sài gòn, nói năng nhỏ nhẹ không biết cáu bao giờ. Mặc cho các thương binh cáu gắt, giận dỗi, Mai vẫn nhẹ nhàng làm tốt công việc theo chức trách. Nào đưa thương binh đi tắm, nào đi xem tivi, nào mắc mùng... Tôi vô cùng biết ơn và cảm phục cô y tá ngày ấy. Tôi biết ơn bác sỹ Chín ( tôi không biết tên mà chỉ thấy mọi người gọi theo thứ ), người bác sỹ của QL VNCH đã nhiệt tình chăm sóc vết thương cho tôi. Tôi cũng nhớ mãi cái cách tiêm của bác sỹ, trông sợ vô cùng. Bác sỹ cầm xi lanh trên tay, phi đánh phập một cái vào bắp tay rồi bơm thuốc nhưng lại chẳng gây đau cho thương binh chúng tôi.

Tôi nằm cùng với một cậu ở F7, cậu ta bị thương vào ổ bụng. Hai thằng chúng tôi cứ thay nhau, hôm nay mày báo ăn cháo sữa thì tao báo ăn cháo thịt, ngày mai lại ngược lại. Cháo thịt thì mỗi xuất nửa chậu nhôm, cháo sữa thì một ngày một hộp " Ông Thọ ". Hai chúng tôi ăn chung một xuất cháo thịt vẫn không hết. Sữa thì cuối tuần gom lại ra ngoài bán 7 đồng một hộp. Tiền tiêu thoải mái luôn. Tôi nhờ nó viết thư cho ông anh rể của tôi lúc ấy cũng đang là bộ đội ở QK9. Từ ngày gửi thư, chiều nào tôi cũng ra cổng viện mong ngóng anh. Mong hoài mà chẳng thấy tăm hơi. Buồn thật !!!!

Vết thương của tôi cũng liền miệng nhanh chóng, tôi được chuyển về Quân y viện 4 của quân đoàn tại căn cứ Sóng Thần - Bình dương.

Cuối tháng 7.1978, tôi ra viện về đơn vị tiếp tục chiến đấu. Lại vòng vèo Sóng thần, Đồng dù, Trảng lớn. Lần này tôi đi một mình với phương tiện tự túc. Cuối cùng, bước chân của tôi đã dừng tại cứ ba lô của đại đội tại Mộc bài. Trong cứ cũng toàn thương binh.

Tôi dừng tại cứ một ngày, đến ngày 27.07.1978 thì tôi quyết định đi bộ lên chốt, lúc ấy trung đoàn tôi vẫn ở Nam Prasaut đóng tại Prey tayung còn tiểu đoàn 3 chốt tại Phum Prey Chamna. Chẳng mấy chốc tôi đã đến Ba vét, chỉ huy sở sư đoàn 9 đang trú tại đây. Mệt ! tôi ghé vào nghỉ chân tại dãy nhà đầu tiên. Đây là dãy nhà của phòng Hậu cần sư đoàn. Thấy tôi, một thương binh còn đang băng cuốn kín tay, mấy anh trong ban quân nhu sư đoàn mời tôi vào ngồi nghỉ, uống nước. Hôm đó đúng ngày 27.07, ngày TBLS nên trên bàn còn có bánh kẹo, bia " con cọp "... Tôi đang ngồi nói chuyện, một chiếc xe " Đốt - hồng thập tự " dừng lại đỗ ngay ven đường. Anh lái xe bước vào xin ngụm nước. Chắc đã quen nhau, mấy lính quân nhu hỏi :

- Xe chở gì vậy anh ?

- À, chở một tử sỹ của C11, D3, E1. Anh lái xe trả lời.

Nghe đến vậy, tôi giật thót người. Đúng đại đội tôi rồi. Tôi thoáng nghĩ đến thằng Minh. Lúc này, chắc nó đã ra viện. Mình nặng như thế mà còn đi viện chưa đến một tháng mà vết thương của nó thì .... Nghĩ đến đó, tôi hỏi anh lái xe :

- Anh ơi, cho em hỏi một chút. Liệt sỹ tên là gì vậy anh?

- Long ! Lê Phú Long - Hà nội. Bị lĩnh trọn một quả AT tăng vào rạng sáng nay.

Trời ơi, ( anh lái xe chắc nhầm đơn vị. C14 thành C11 ). Long ơi, mày đã bị rồi sao? Tôi chạy vội ra xe, chiếc xe " đốt " cũng thấp. Tôi nhìn vào xe. Thằng Long nằm đó, mắt nhắm nghiền, một mảng ngực và cánh tay trái bay đi đâu mất. Máu, máu đông lại đen đặc. Long ơi, thế là Tổ Tam tam của chúng mình đã mất đi một thành viên, thế là cái lời nhắn nhủ trên bãi cỏ trước cổng E36 đã một phần biến thành hiện thực, thế là hết những mộng mơ về cổng trường đại học của mày.. thế là... thế là... hết Long ơi. Chiếc xe chở Long đi rồi, tôi vẫn còn thần thờ nhìn theo... những đám bụi cuốn theo bánh xe chạy....mờ dần...mờ dần rồi khuất hẳn, nước mắt tôi giàn giụa.

Không còn bụng dạ nào để tiếp tục ngồi uống nước, tôi lập tức tiếp tục lên đường, bước chân bây giờ trở nên nặng nề. Những hình ảnh của thằng Long cứ bán riết lấy tôi lên đến tận nơi tiểu đoàn đứng chân. Người đầu tiên tôi gặp là thằng Hoan - N. C. Hoan ở phố HT. Nó cùng C14 với thằng Long, nhưng thằng Hoan làm liên lạc cho đại đội. Tôi hỏi han tình hình về cái chết của thằng Long, nó cứ u a ú ớ. Cái thằng này cho đến bây giờ cũng vậy, cứ động nói đến những năm tháng khói lửa ngày xưa là nó có vẻ chẳng mặn mà. Hắn chỉ thích nói đến việc xây dựng kinh tế gia đình, làm ăn, buôn bán. Mặc dù bây giờ vẫn đang đeo quân hàm trung tá hay thượng tá gì đó. Buồn hết sức cho những người đồng đội chóng quên quá khứ như vậy.

( Hoan à, nếu mày có đọc những dòng này, mày đừng giận tao nhé. Điều đó cũng lý giải tại sao tao ít ghé qua nhà mày. Bởi gặp mày, tao cũng chẳng biết nói chuyện gì cả - thứ lỗi nhé Hoan ).

Tôi nhanh chóng hỏi đường về C11, đại đội thân yêu của tôi, nơi mà thằng Minh đang làm tôi lo lắng đến cháy ruột gan. C11 của tôi kia rồi. Đại đội nằm bên một khoảng đất tương đối rộng. Hầm quan sát sở đại đội nằm ngay cạnh ven đường. Băng qua khoảng đất rộng là hầm tiên tiêu của thằng Minh. Nhìn thấy tôi, thằng Minh chạy lại ôm chầm lấy tôi toe toét cười :

- Mày về rồi đấy à? Thế vết thương có nặng lắm không? Mày " bị " mà tao chẳng biết mày nằm ở đâu để đến chơi.... Nó hỏi tôi một thôi, một hồi làm tôi chẳng kịp trả lời.

- Thôi, mày về hầm tao nhé. Thằng Minh phán.

Nó chẳng cần biết tôi có được đại đội phân về với nó nữa hay không. Nó cứ làm như nó là...đại đội trưởng không bằng. Nó rủ tôi ra chỗ bốn cây Thốt lốt mọc thẳng thành một hàng, giải ni lon ra rồi hai thằng nằm nói chuyện. Chuyện nó đi viện ra sao? nó bỏ đi chơi Sài gòn như thế nào ? chuyện "oánh đấm " vừa qua ai còn, ai mất? Chuyện nó mới nhận được thư Trăng sáng. Nó khoe :

- Nàng đã " chấp nhận " lời tỏ tình của tao rồi. Thằng Minh nói giọng đầy phấn chấn.

Trong thời gian tôi đi viện, đại đội có nhiều đổi thay. Thằng Màu cũng bị thương rồi, trong đơn vị xuất hiện toàn chiến sỹ mới. Cán bộ chỉ huy cũng mới. Nó bây giờ chuyển sang bắn B41... Tôi thông báo cho nó vụ thằng Long bị " dính ", nó lặng người trầm ngâm. Đến bây giờ nó mới được biết. Thằng Minh có vẻ rắn rỏi và trưởng thành lên rất nhiều, nằm nói chuyện với tôi, nghe 12.8 ly của địch nổ toang toác mà tôi thấy nó hầu như chẳng để ý gì đến. Còn tôi cứ giật mình thon thót. Bạn không biết chứ, gần một tháng được nằm nơi hoà bình, phố phường đô hội, cơm có người bưng, nước có người rót, tắm có người kỳ lưng.. con người ta chóng " hư " quá. Những phản xạ có được nhờ trải qua trận mạc bỗng biến đâu mất cả. Giờ đây, nghe tiếng đạn nổ đầu nòng cũng đã giật bắn mình. Trong sâu thẳm, le lói trong tôi một nỗi sợ mơ hồ. Chán thật !!!

Đến cuối giờ chiều, đại đội gọi tôi lên. Đại đội trưởng ( mới ) thông báo cho tôi biết : Theo thông báo của tiểu đoàn, do vết thương của tôi chưa ổn định nên tiểu đoàn quyết định tôi sẽ về tập trung tại trung đoàn để đi an dưỡng một thời gian. Khi nào vết thương bình phục hoàn toàn sẽ trở về đơn vị. Tôi vừa mừng vừa buồn lẫn lộn. Tôi lại sắp xa thằng Minh rồi, đến bao giờ mới gặp lại nó đây.

Chiều tà, tôi lên đường trở lại chỉ huy sở trung đoàn. Thằng Minh tiễn tôi đến tận quan sát sở tiểu đoàn. Tôi và nó dặn dò nhau đủ thứ. Với vẻ tần ngần, nó lấy ví, chiếc ví nhựa màu xanh có in hình một cô gái nghiêng đầu cười nhay nháy mắt quen thuộc. Nó rút ra đưa cho tôi một tấm ảnh chân dung. Tấm chân dung chụp nó nhìn nghiêng, mặc quân phục sao, tiết đang hoàng hồi ở Xuân Mai.

- Tao tặng mày tấm ảnh này, mày cầm lấy làm kỷ niệm Thọ nhé.

Giọng thằng Minh nghe chừng xúc động. Tôi chưa từng thấy nó như thế bao giờ.

- Mày thật vớ vẩn. Tao chỉ đi an dưỡng một thời gian rồi tao lại trở về với mày thôi mà. Tôi gạt đi.

Tôi đã từng chứng kiến những " linh cảm ", những " kiêng cữ " vô cùng chính xác nhưng vô cùng khó giải thích của những người lính chiến chúng tôi. Tôi lo sợ rằng, hành động của Minh như thế này có lẽ báo trước một điều gì đó chăng?

- Mày cứ cầm lấy cho tao vui. Nếu khi mày trở lại đơn vị, mình còn gặp lại nhau thì tao sẽ xin lại. Thằng Minh nói dứt khoát.

Thế là đúng rồi. Thằng Minh chắc đã có những linh cảm rất rõ ràng nên nó mới hành động như thế. Tôi nhận tấm ảnh từ tay Minh mà trong lòng buồn rười rượi. Tôi linh cảm rõ ràng lần gặp nhau này của chúng tôi là lần cuối cùng.

- Mày ở lại nhớ cẩn thận nhé, Minh nhé. Tôi xúc động dặn dò.

- Cứ yên tâm đi. Nó toét miệng cười rạng rỡ. Nó muốn làm tôi vui đây.

Chúng tôi ôm chầm lấy nhau, nước mắt tôi trào ra.

- Thôi, mày đi đi. Nó đẩy tôi ra rồi quay đầu rảo bước.

Tôi đứng nhìn theo cái dáng cao gầy của nó mãi cho đến khi bóng nó khuất sau rặng le ven đường. Tôi trở về trung đoàn trong những bước đi nặng nề. Quãng đường không xa mà sao cảm thấy như là vô tận.

Sáng hôm sau, nhập vào đoàn thương binh của trung đoàn, chúng tôi lại cuốc bộ về Bến Cầu, nơi đại đội an dưỡng Trung đoàn đứng chân. Về đến cứ Ba lô Mộc bài, tôi nghỉ lại ở đó mấy ngày.

Vừa về đến Mộc bài buổi sáng thì buổi chiều, Bố tôi lặn lội vào thăm tôi. Ôi, cha con gặp nhau mừng rỡ. Thì ra, cậu bạn cùng nằm với tôi ở viện 115 đã báo tin tôi bị thương. Cả gia đình vô cùng lo lắng. Bố tôi bố trí sắp xếp công việc xong, liền đi ngay vào thăm tôi. Ông cứ lang thang khắp mọi nơi tôi đã từng đi qua. Viện 115, viện QĐ4. Đồng dù, Trảng lớn... Đến đâu người ta cũng bảo tôi vừa ở đây nhưng đã đi rồi. Cứ thế, bước chân tìm con của Bố tôi cuối cùng dừng lại tại cứ ba lô của đại đội - Cứ Mộc Bài. Tôi và các anh trong cứ bố trí cho bố tôi một chỗ nằm trong ngôi chùa đổ nát. Ăn uống thì chẳng có gì chỉ có cơm, rau, tép và.... thịt chuột. Bố tôi sợ hãi ra mặt.

- Chà lính tráng ăn ở tạm bợ quá con ạ. Hồi ở Điện biên, khó khăn gian khổ thế nhưng cũng không đến nỗi như các con bây giờ. Bố tôi than phiền.

Đã thế, mấy ông thương binh đại đội lại còn kể với bố tôi chuyện rằng tháng trước mấy thằng trinh sát Miên bò vào giết chết cả chục thương binh ở trạm phẫu ngay bên kia đường, nào là chuyện ở đây, cách biên giói có chưa đầy trăm mét, Miên vẫn ì oàng tập kích suốt.... Sợ quá, hai hôm sau ông đòi tôi đưa về thành phố Hồ chí Minh ngay. Tôi đưa ngay ông về thành phố, vả lại tôi cũng không thích ông ở đây lâu làm gì. Ở nhà Mẹ tôi đang ốm yếu, rất cần có ông ở bên cạnh.

Tôi trở về cứ đại đội, lấy Ba lô của thằng Long bên cứ C14 gần đó mang ra bưu điện Gò dầu Hạ để gửi về cho gia đình nó những di vật cuối cùng. Tôi phải hoàn thành cái lời hứa của Tổ Tam tam trước lúc lên đường. Xong xuôi, tôi " nhập tịch " vào đại đội an dưỡng K24.

Ngày 15.08.1978, đang chuẩn bị ăn cơm chiều. Tôi có khách. Thằng Thọ, cũng tên là Thọ - Thọ " con " người Hà tĩnh, lính mới của C11 cùng B với tôi và Minh đến gặp tôi :

- Anh Minh hy sinh rồi anh Thọ ạ. Ngay câu đầu tiên, Thọ " con " thông báo.

Tôi bàng hoàng cả người. Minh ơi, lẽ nào mày cũng đã ra đi. Tôi không thể cầm nổi nước mắt. Cái thằng Minh, thằng bạn thân nhất của tôi lẽ nào nó đã hy sinh. Lẽ nào cái Tổ Tam Tam thân yêu của chúng tôi chỉ còn lại bơ vơ một mình tôi sao? Tôi lặng người ngồi nghe Thọ " con " thuật lại diễn biến cuộc chiến đấu cuối cùng của Minh.

Ngày 11.08.1978, vừa sáng ra bọn địch đã tổ chức tấn công vào chốt của tiểu đoàn 3. Có sự yểm trợ của M113, bọn địch hung hãn lao vào tấn công các chốt của đại đội. Thằng Minh dũng cảm cùng với anh em đẩy lùi được nhiều đợt tấn công của địch. Khoảng 11 giờ trưa, chúng tổ chức tấn công lần nữa. Tiếng súng địch nổ toang toác khắp nơi. DK 82, DK 75 của chúng bắn như vãi đạn. Thằng Minh thấy xe M113 nó vượt qua cánh đồng trống trước mặt lao vào, nó vọt ra khỏi hầm vác B41 nện liên tiếp mấy trái. Khói súng toả ra mù mịt. Một sơ xuất chết người đã xảy ra. Sau khi bắn xong mấy trái B41, thằng Minh đã không di chuyển ngang. Chỗ đứng bắn bị lộ, bọn địch tập trung DK quất tới tấp vào chỗ Minh đang đứng. Một mảnh đạn cắm thẳng vào trán nó. Minh gục xuống. Anh em trong B lao ra kéo nó vào hầm. Một lúc sau, Minh tỉnh lại, mở mắt và bảo :

- Em lấy giúp anh cái ví.

Trong lúc nhào ra khỏi hầm để bắn, nó đánh rơi mất chiếc ví ở cạnh hầm. Thằng Thọ " con " nhặt chiếc ví đưa lại cho Minh. Nó từ từ mở ví ra. Đây ảnh gia đình nó lúc còn đông đủ, đây là ảnh Minh Nguyệt - Trăng sáng thân yêu của nó, đây những lá thư của Minh Nguyệt mà nó vừa nhận được. Minh từ từ xem lại tất cả rồi cất vào ví. Nó khó nhọc nói :

- Em cầm lấy chiếc ví này rồi đưa về cho anh Thọ.

Minh nói xong, nó nôn ra vài lần rồi nhắm mắt.

Cuộc chiến đấu càng về trưa càng trở lên khốc liệt. Các đại đội 13, 12 rồi đến đại đội 11 của tiểu đoàn 3 lần lượt bị đánh bật khỏi chốt. Do áp lực rất mạnh của địch. Thi hài của Minh cùng với ba chiến sỹ nữa của C11 vẫn nằm lại trên trận địa.

Minh ơi, thế là cái " linh cảm " khủng khiếp của mày đã trở thành sự thật. Thế là không bao giờ tao còn được nhìn thấy mày nữa.

Minh, Long hai thành viên của cái Tổ Tam Tam thân thuộc đã vĩnh viễn nằm xuống. Chúng mày đã chiến đấu một cách anh dũng. Chúng mày đã nằm xuống đầy vinh quang. Chúng mày không hổ danh là những chàng trai Hà thành sống, chết đầy kiêu hãnh. Minh ơi, Long ơi hãy yên nghỉ nhé. Vĩnh biệt chúng mày, hai người bạn thân yêu.

Vĩ thanh :

Minh hy sinh đúng vào ngày bà mẹ của Minh - Bà Lý Nguyệt Liên vào đến Trảng lớn thăm con. Sau hai lần đi đi lại lại mà không được gặp được con ( vì sư đoàn cố giấu ). Cuối cùng ông Hai Đỏ - Thiếu tá phụ trách căn cứ sư đoàn, đành phải thông báo cho bà mẹ của Minh. Được tin, tôi cũng về Trảng lớn để gặp Bà mà không gặp vì Bà đã trở về Thành phố Hồ Chí Minh - Tôi đã về Thành phố Hồ Chí Minh để gặp Bà trong một đêm mưa như trút tại một căn nhà nhỏ gần cầu Công Lý - Theo đúng những gì chúng tôi đã cùng hứa với nhau, tôi mang cho Bà chiếc ba lô đựng những di vật cuối cùng của Minh. May mắn làm sao mà cũng kỳ lạ làm sao, bức ảnh Minh tặng tôi là di ảnh cuối cùng mà gia đình Minh có được về nó.

Tôi - Lê Thái Thọ, nguyên chiến sỹ C11, D3, E1, F9 viết những dòng hồi ức này như một nén hương tưởng niệm, xin kính dâng lên hương hồn hai người bạn tôi đã nằm xuống trên mảnh đât phía nam cầu Prasaut , thuộc tỉnh PrayVeng CPC - Quang Minh ( 62 Nguyễn Hữu Huân, Hà Nội ) và Lê Phú Long ( 25 Hàng Hòm, Hà nội ) và biết bao liệt sỹ khác. Ngoài Lê Phú Long đã có mộ chí đàng hoàng, còn Liệt sỹ Quang Minh, cho đến nay vẫn chưa tìm được hài cốt. Nếu trong các bạn, ai phát hiện thêm điều gì về phần mộ hoặc hài cốt của Quang Minh, xin liên hệ ngay với tôi qua trang Quansuvn này. Tôi đã từng nhờ đến nhà ngoại cảm Phan Bích Hằng nhưng vẫn chưa có kết quả khả dĩ nào.

- Xin cám ơn các bạn đã chăm chú theo dõi bài viết này.

- Xin cám ơn trang Quansuvn đã cho tôi cơ hội để hồi tưởng và viết những trang viết này.

- Đặc biệt, tôi xin tận từ đáy lòng cảm ơn Trungsy1 - đồng đội cùng sư đoàn 9 - người đã truyền cho tôi cảm hứng để có thể viết được những trang viết đầy xúc cảm này.

Xin Cám ơn tất cả !

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro