CHƯƠNG 1.1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

"Ừ, dĩ nhiên, nếu ngày mai trời đẹp," bà Ramsay bảo. "Nhưng con phải dậy thật sớm," bà nói thêm.


Những lời này mang lại cho con trai bà một niềm vui to lớn, như thể sự việc đã được ấn định, chuyến du hành sắp diễn ra, và điều tuyệt diệu mà nó từng mong mỏi, dường như đã suốt nhiều năm, sau một đêm ngon giấc và một ngày đi thuyền, sẽ nằm trong tầm tay với. Dù chỉ mới lên sáu, nó thuộc về một gia tộc lớn, nơi những người trong đó không thể kềm giữ được cảm giác này, mà phải để cho viễn cảnh tương lai với những vui buồn che khuất đi những gì thật sự diễn ra trước mắt, vì đối với họ, thậm chí khi đang còn thơ ấu, bất kỳ một biến chuyển nào trong cảm giác đều có khả năng kết tinh lại và xuyên thấu qua cái khoảnh khắc chứa đựng sự rực rỡ hay u ám đó. Trong khi mẹ nó nói, James Ramsay đang ngồi trên sàn, vừa cắt các bức tranh từ trong cuốn danh mục hàng hóa có minh họa của cửa hàng Quân đội và Hải quân vừa thả hồn vào bức ảnh một cái tủ lạnh với niềm hạnh phúc tuyệt trần. Bức ảnh được viền quanh với sự hân hoan. Chiếc xe cút kít, cái máy xén cỏ, tiếng reo của hàng cây dương, những chiếc lá trắng trước cơn mưa, những con quạ kêu quàng quạc, những cây chổi lê quèn quẹt, những bộ váy sột soạt – tất cả những thứ này quá rực rỡ sắc màu và hiển hiện rõ ràng trong tâm trí nó. Như thể nó đã tạo ra thứ mật mã, ngôn ngữ bí mật riêng của nó. Nó có một vẻ ngoài nghiêm nghị và kiên quyết, với bộ trán cao và đôi mắt xanh lơ dữ dội, trong sáng và hoàn toàn thẳng thắn, lúc này hơi cau lại như đang nhìn thấy tình cảnh yếu đuối mong manh của con người, khiến cho mẹ nó, khi nhìn nó hướng mũi kéo một cách khéo léo quanh bức ảnh cái tủ lạnh, tưởng tượng rằng nó đang ngồi trên ghế quan tòa trong chiếc áo đỏ hay đang chỉ đạo một công việc nghiêm túc và quan trọng trong một cuộc khủng hoảng về các vấn đề công chúng của công ty.

"Nhưng trời sẽ không đẹp." Cha nó nói, ông đang ngồi trước cửa sổ phòng khách.


Giá mà có một cái rìu gần đó, một cái que cời than, hay bất kỳ thứ vũ khí nào có thể khoét một cái lỗ trên ngực của cha nó và giết chết ông ngay tại chỗ, hẳn là James sẽ vớ lấy ngay. Đó là những cảm xúc cực đoan mà ông Ramsay gây ra trong lòng những đứa con, chỉ đơn thuần do sự hiện diện của ông; lúc này ông đang đứng, gầy còm mỏng dính như một lưỡi dao, cười nhạt một cách mỉa mai, không chỉ với niềm vui đã phá tan ảo tưởng của thằng con và chế giễu vợ mình, người tốt hơn ông gấp hàng ngàn lần về mọi mặt (theo James nghĩ), mà còn với một niềm tự phụ kín đáo về sự xét đoán chính xác của chính ông. Những gì ông nói đều đúng. Luôn luôn đúng. Ông không có khả năng nói dối; không bao giờ bẻ cong sự thật; không bao giờ chữa lại một từ khó nghe để chiều lòng bất kỳ một người nào, nhất là đối với lũ trẻ của ông. Những đứa con cật ruột của ông phải ý thức được ngay từ thuở ấu thơ rằng cuộc sống thì khó khăn; những thực tế không hề nhân nhượng; và con đường đi tới mảnh đất hoang đường, nơi những hy vọng chói ngời nhất của chúng ta tiêu tan, những con thuyền mong manh của chúng ta chìm vào bóng tối, (nghĩ tới đây ông Ramsay ưỡn thẳng lưng lên và nheo đôi mắt nhỏ xanh lơ nhìn về phía chân trời) cần có, trên hết thảy mọi thứ, lòng dũng cảm, chân lý và sức mạnh để tồn tại.


"Nhưng trời có thể đẹp, tôi mong là trời sẽ đẹp." Bà Ramsay nói với vẻ nhẫn nhịn, quấn vài vòng chỉ trên chiếc tất màu nâu đỏ mà bà đang đan. Nếu bà hoàn tất nó trong tối nay, nếu họ ra ngọn hải đăng, bà sẽ trao nó cho người gác hải đăng để cho đứa bé trai con ông ta dùng, thằng bé đang bị đe dọa bởi bệnh lao; và thêm một chồng tạp chí cũ, một ít thuốc lá, thật ra là bất cứ thứ gì mà bà có thể tìm thấy nằm quanh quất đâu đó, không thật sự cần dùng mà chỉ làm căn phòng thêm bừa bãi, để mang lại cho những con người tội nghiệp đó chút ít niềm vui. Hẳn họ phải chán đến chết được khi cứ ngồi suốt cả ngày mà chẳng có gì để làm ngoài việc lau chùi cái đèn, khêu bấc đèn và cào xới quanh mảnh vườn nhỏ của họ. Bởi bạn làm sao thích được việc phải ngậm miệng suốt cả tháng trời, có thể còn lâu hơn, vào mùa mưa bão, trên một tảng đá chỉ to bằng cái sân tennis? bà hỏi; và chẳng có thư từ hay báo chí gì hết, chẳng nhìn thấy một người nào hết; nếu bạn đã lấy vợ thì bạn sẽ không thể gặp vợ, không biết lũ con bạn ra sao... chúng có bị đau ốm không, chúng có bị té ngã và gãy chân gãy tay gì không; bạn chỉ nhìn thấy những lượn sóng ảm đạm vỡ tung hết tuần này sang tuần khác, rồi một cơn bão kinh khủng kéo tới, và những cánh cửa sổ phủ đầy bụi nước, những con chim lao vào chiếc đèn, toàn thể ngọn hải đăng rung chuyển, và bạn không thể ló đầu ra khỏi cửa vì sợ sẽ bị cuốn vào lòng biển. Làm sao các con thích được điều đó? bà hỏi, hướng về phía các đứa con gái. Vì thế – bà nói thêm, giọng hơi khác lạ – người ta phải mang tới cho họ bất kỳ sự an ủi nào có thể.


"Đúng ngay hướng tây," cái gã vô thần Tansley bảo, mấy ngón tay gầy trơ xương của anh ta xòe rộng ra để cho cơn gió thổi qua chúng, vì anh ta đang chia sẻ cuộc đi bộ buổi tối cùng ông Ramsay, qua qua lại lại trước hiên nhà. Nói thế có nghĩa là gió thổi từ hướng bất lợi nhất cho việc đi ra ngọn hải đăng. Phải, anh ta đã nói những điều khó nghe, bà Ramsay thừa nhận; anh ta thật đáng ghét khi lặp lại chuyện này và khiến cho James thêm thất vọng; nhưng đồng thời, bà sẽ không để cho chúng cười nhạo anh ta. "Gã vô thần," chúng gọi anh ta như thế, "gã vô thần bé nhỏ". Rose chế nhạo anh ta; Prue chế nhạo anh ta; Andrew, Jasper, Roger chế nhạo anh ta; thậm chí cả con chó già Badger không còn cái răng nào cũng đã đớp anh ta vì (theo lời của Nancy) anh ta là gã trai trẻ thứ một trăm mười cứ bám theo chúng trong suốt quãng đường tới quần đảo Hebrides khi mà mọi thứ sẽ tuyệt diệu hơn nhiều nếu được yên thân.


"Vô lý," bà Ramsay nói, với vẻ rất nghiêm khắc. Ngoài thói quen hay phóng đại mà chúng đã thừa hưởng từ bà, và ngoài hàm ý rằng (điều này đúng) bà đã mời quá nhiều người tới ở, và đã phải thu xếp để một số người có chỗ ngụ trong thị trấn, bà không thể chịu được thái độ bất lịch sự đối với những vị khách của bà, nhất là những người trẻ tuổi, nghèo như ăn mày, "có tài năng đặc biệt" này, theo lời của chồng bà, họ là những người rất ngưỡng mộ ông, và tới đó để hưởng một kỳ nghỉ lễ. Thật sự, bà đặt toàn bộ nam giới dưới sự bảo vệ của mình; vì những lý do mà bà không thể lý giải, vì phong cách hào hoa và dũng cảm của họ, vì thực tế rằng họ đã đàm phán những bản hiệp ước, đã thống trị Ấn Độ, đã kiểm soát nền tài chính; cuối cùng là vì một thái độ cư xử mà không người phụ nữ nào lại không cảm thấy dễ chịu, một cái gì đó chân thật, ngây thơ, tôn kính, đối với chính bản thân bà; một thái độ mà một người phụ nữ lớn tuổi có thể tiếp nhận từ một chàng trai trẻ nhưng vẫn không đánh mất đi phẩm giá, và có thể gây ra đau khổ cho một cô gái – tạ ơn trời đất, đó không phải là một trong những đứa con gái của bà! – kẻ không cảm nhận được giá trị của nó, và tất cả những gì mà nó bao hàm, cho tới tận cùng xương tủy của cô ta!


Bà quay sang nghiêm khắc nhìn Nancy. Anh ta không bám theo chúng, bà nói. Anh ta đã được yêu cầu.


Họ phải tìm một cách để thoát ra khỏi tất cả những chuyện này. Có thể có một phương cách nào đó đơn giản hơn, ít nặng nề hơn, bà thở dài. Khi bà nhìn vào gương và trông thấy mái tóc điểm bạc, đôi má đã hơi phị của mình, ở tuổi năm mươi, bà nghĩ, có lẽ bà có thể điều hành mọi sự tốt hơn – chồng bà; tiền bạc; những quyển sách của ông ấy. Nhưng về phần của chính bà, bà không bao giờ hối tiếc dù chỉ một giây về sự quyết định của mình, không bao giờ lẩn trốn những khó khăn, hay bỏ qua các bổn phận. Lúc này trông bà thật kinh khủng. Chỉ sau khi bà đã nói với vẻ rất nghiêm khắc về Charles Tansley, đám con gái của bà, Prue, Nancy, Rose, vẫn đang im lặng ngước nhìn lên từ dĩa thức ăn của chúng, mới có thể thả hồn theo những ý tưởng phi tín ngưỡng mà chúng đã ấp ủ cho chính chúng về một cuộc sống khác hẳn với cuộc sống của bà; ở Paris, có lẽ thế; một cuộc sống hoang đàng phóng túng hơn, không phải luôn luôn chăm sóc cho người đàn ông này hay người đàn ông nọ; vì trong tâm trí của tất cả bọn chúng có một câu hỏi không thốt thành lời về sự tôn kính và tác phong lịch thiệp, về ngân hàng nước Anh và vương quốc Ấn Độ, về những ngón tay đeo nhẫn và những dải ren, dù đối với cả bọn trong câu hỏi này có một cái gì đó về bản chất của cái đẹp đã gợi lên nam tính trong trái tim thiếu nữ của chúng, và khiến cho chúng, trong lúc đang ngồi quanh bàn dưới đôi mắt của mẹ chúng, phải tôn vinh sự nghiêm trang kỳ lạ của bà, vẻ lịch sự tột cùng của bà, bà giống như một bà hoàng đứng lên từ một bãi bùn để rửa bàn chân dơ bẩn của một gã ăn mày khi nghiêm khắc khiển trách chúng vì cái gã vô thần xấu xa đã nhũng nhẵng bám theo chúng – hay, nói một cách chính xác – đã được mời ở lại với chúng, trên đảo Skye.


"Sẽ không có chuyến đi ra ngọn hải đăng nào cả vào ngày mai," Charles Tansley nói, vỗ hai bàn tay vào nhau khi anh ta đứng bên cửa sổ cùng chồng bà. Chắc chắn là anh ta đã nói quá đủ. Bà ước gì cả hai người bọn họ để cho bà và James yên thân và cứ tiếp tục chuyện trò. Bà nhìn anh ta. Anh ta là một mẫu người khốn khổ, lũ trẻ nói, chỉ toàn xương với da. Anh ta không thể chơi môn crikê; anh ta soi mói; anh ta hay dao động. Anh ta là một tên lỗ mãng hay châm chọc, Andrew nói. Chúng biết điều mà anh ta thích nhất: cứ đi mải miết, qua lại, lại qua, cùng với ông Ramsay, và bảo rằng ai đã thắng cuộc này, ai đã thắng cuộc nọ, ai là "đệ nhất tài tử" về thơ tiếng Latin, ai là người "thông minh nhưng tôi nghĩ về cơ bản có khiếm khuyết", ai mà không còn ngờ gì nữa là "người tài ba nhất ở Balliot," kẻ đã tạm thời vùi chôn ánh sáng của anh ta ở Bristol hay Belford, nhưng sẽ được biết tới về sau này khi Lời tựa sách của anh ta, nói về một phân ngành toán học hay triết học gì đó, được công bố – Tansley có vài trang đầu của nó để làm chứng cứ nếu ông Ramsay muốn xem qua. Đó là những điều mà họ nói với nhau.


Đôi khi bà không khỏi bật cười một mình. Một hôm, bà nói đôi điều gì đó về "những lượn sóng cao như núi". Vâng, Charles Tansley nói, nó khá là dữ dội. "Anh không bị ướt như chuột lột đấy chứ?" bà hỏi. "Hơi bị ướt chút ít thôi," Tansley vừa nói vừa vén tay áo lên và sờ sờ vào đôi vớ.Nhưng đó không phải là điều mà chúng quan tâm tới, lũ trẻ bảo. Không phải ở gương mặt của anh ta; không phải ở những cung cách của anh ta. Mà ở chính anh ta – quan điểm của anh ta. Khi chúng nói về một điều thú vị, mọi người, âm nhạc, lịch sử các thứ, thậm chí nói là buổi tối khá đẹp trời thế nên vì sao lại không ra ngoài ngồi hóng mát, thế rồi điều mà chúng phàn nàn về con người của Charles Tansley là lúc anh ta xoay chuyển hoàn toàn tình thế và bằng cách nào đó biến câu chuyện thành ra một sự phản ánh về chính anh ta và làm ra vẻ khác biệt với chúng – anh ta không hài lòng. Và khi anh ta tới những phòng trưng bày tranh, chúng bảo, anh ta sẽ hỏi một ai đó rằng người đó có thích cái cà vạt của anh ta không. Có Chúa biết, Rose bảo, người đó chẳng thích chút nào.


Lén lút biến khỏi bàn ăn ngay sau khi bữa ăn kết thúc, tám đứa con trai và con gái của ông bà Ramsay chuồn về phòng ngủ, thành trì của chúng trong một ngôi nhà nơi chẳng có một chút riêng tư nào để tranh cãi về bất cứ điều gì hay về mọi thứ: cái cà vạt của Tansley; việc thông qua đạo luật Cải cách; những con chim biển và bươm bướm; mọi người; trong khi đó mặt trời rọi nắng xuống những căn gác mái giống như một mảng ván tách rời khỏi các mảnh khác khiến cho người ta có thể nghe thấy mơ hồ tiếng mỗi bước chân và tiếng khóc của cô gái Thụy Sĩ nhớ thương người cha đang hấp hối vì bệnh ung thư trong một thung lũng ở Grisons và soi sáng những con dơi, những bộ quần áo bằng vải fla-nen, những chiếc nón rơm, những bình mực, những lon sơn, những con ong, và sọ của những con chim nhỏ, trong lúc nó cuốn lên từ những dải rong biển dính vào tường mùi của muối và cỏ dại, cái mùi có cả trong những chiếc khăn tắm còn lợn cợn những cát sau khi tắm.


Sự gây gỗ, các phe phái, những khác biệt về ý kiến, những thành kiến bện vào từng thớ sợi của cuộc sống, ôi, chúng bắt đầu mấy thứ đó quá sớm, bà Ramsay xót xa. Chúng có đầu óc phê phán, lũ nhóc của bà. Nhưng chúng nói toàn những điều vớ vẩn. Bà rời khỏi phòng ăn, tay kéo theo James, vì nó không đi cùng với mấy đứa kia. Với bà, dường như đó là những điều vớ vẩn – khám phá ra những khác biệt, khi mọi người, có trời đất biết, đã quá khác biệt với nhau rồi. Những khác biệt thật sự là đã quá đủ, bà nghĩ khi đứng ở cửa sổ phòng khách, quá xá đủ. Vào khoảnh khắc đó, bà chìm vào suy ngẫm, về giàu và nghèo, về cao và thấp; về sự vĩ đại bẩm sinh thừa hưởng từ bà, với nửa phần là ác cảm, và nửa phần là lòng tôn kính, vì hẳn là trong huyết quản của bà đã không có dòng máu cao quý đó, nếu không có ngôi nhà Ý hơi nhuốm vẻ hoang đường, nơi các cô con gái tản mác trong những căn phòng khách kiểu Anh vào thế kỷ mười chín đã rù rì rủ rỉ một cách đáng yêu, đã nổi cơn thịnh nộ một cách điên rồ, và toàn bộ trí thông minh, ngoại hình và tính nết của bà xuất phát từ đó chứ không phải từ người Anh uể oải hay người Tô Cách Lan lạnh lùng; nhưng bà còn suy ngẫm tới một vấn đề khác, sâu sắc hơn, về sự khác biệt giàu nghèo, và những điều mà bà tận mắt chứng kiến hàng tuần, hàng ngày, ở đây hay ở London, khi bà ghé thăm người quả phụ này hoặc người vợ đang chật vật kia với một cái giỏ trên tay, và một cuốn sổ với cây bút mà với chúng bà viết vào các cột được kẻ một cách cẩn thận những khoản tiền công và chi tiêu, khi có việc làm và khi thất nghiệp, với niềm hy vọng rằng nhờ đó bà có thể thôi là một phụ nữ mà trong lòng từ thiện của người đó có nửa phần là nhằm xoa dịu lòng căm phẫn, còn nửa phần là để giảm bớt tính hiếu kỳ, để trở thành cái mà bà vô cùng ngưỡng mộ với bộ óc không được trui rèn của mình, một nhà nghiên cứu điều tra có thể lý giải các nan đề xã hội.


Đối với bà, dường như chúng là những vấn đề vô phương giải quyết, khi bà đứng đó, giữ James lại bằng một tay. Anh ta đã đi theo bà tới phòng khách, cái gã trẻ tuổi mà lũ trẻ đã chế nhạo; anh ta đang đứng kế cái bàn, bồn chồn lúng túng vì một điều gì đó, cảm thấy bản thân anh ta trở nên lạc lõng với mọi thứ, như bà biết mà không cần nhìn lại. Tất cả bọn họ đã đi khỏi – lũ trẻ; Minta Doyle và Paul Rapley; Augustus Carmichael; chồng bà – tất cả bọn họ đã đi khỏi. Thế là bà quay sang với một tiếng thở dài và bảo, "Anh có thấy chán khi đi với tôi không, anh Tansley?"


Bà có đôi việc vặt tẻ nhạt trong thị trấn; bà có một hai lá thư cần viết; có lẽ bà cần khoảng mười phút; bà sẽ đội mũ vào. Rồi, với cái giỏ và cái dù, bà quay trở lại đó, mười phút sau, tỏ ra đã sẵn sàng, đã được trang bị cho một cuộc đi dạo. Tuy vậy, bà phải dừng lại một lúc, khi họ đi ngang sân tennis, để hỏi ông Carmichael – người đang nằm tắm nắng với đôi mắt vàng như mắt mèo mở hé, và cũng như đôi mắt của một con mèo, dường như chúng đang phản chiếu những nhánh cây lay động hay những đám mây lướt ngang qua, nhưng không hề gợi lên bất kỳ ý nghĩ hay tình cảm nào bên trong nội tâm – xem ông ta có cần một thứ gì đó hay không.


Vì họ đang thực hiện một chuyến thám hiểm lớn, bà bảo, cười to. Họ sẽ đi vào thị trấn. "Có cần tem, giấy viết, thuốc lá gì không? bà đề nghị, dừng lại bên cạnh ông ta. Nhưng không, ông ta không cần gì cả. Đôi bàn tay của ông ta đan vào nhau trên cái bụng phệ to tướng, đôi mắt ông ta nhấp nháy, như thể muốn thân ái đáp lại những lời tán tỉnh này (bà khá quyến rũ nhưng hơi nóng nảy chút ít) nhưng không thể, rồi lại chìm đắm, như lúc nãy, vào một trạng thái lơ mơ xanh-xám đang trùm lên tất cả bọn họ, không cần đến ngôn từ, trong một cơn mơ màng mênh mông khoáng đãng; toàn bộ ngôi nhà, toàn bộ thế giới; toàn bộ mọi người trong đó, vì trong bữa ăn trưa ông ta đã nhỏ vào ly của mình một vài giọt gì đó. Chúng lý giải cho, bọn trẻ nghĩ, cái vệt sáng màu vàng hoàng yến trên bộ ria mép và râu cằm bình thường trắng đục màu sữa. Không, không gì cả, ông ta lẩm bẩm.


Lẽ ra ông ta phải là một triết gia vĩ đại, bà Ramsay nói, khi họ đi xuôi xuống con đường dẫn tới làng chài, nhưng ông ta đã có một cuộc hôn nhân bất hạnh. Giữ rất thẳng cây dù, và di chuyển với một vẻ nôn nao mong chờ không thể tả, như thể bà sắp gặp một ai đó ở góc đường, bà kể lại câu chuyện; một mối tình ở Oxford với một cô gái nào đó; một cuộc hôn nhân sớm; sự nghèo khổ; sang Ấn Độ; dịch một ít thơ "rất diễm lệ, tôi tin là vậy," sẵn lòng dạy cho bọn trẻ tiếng Ba Tư hay tiếng Ấn, nhưng những thứ đó có ích gì? – và rồi nằm đó, như họ thấy, trên sân tennis.Câu chuyện làm cho anh ta thỏa dạ; một kẻ từng bị hắt hủi như anh ta, anh ta thấy an ủi vì bà Ramsay đã kể cho anh ta nghe chuyện này. Charles Tansley đã hồi sinh. Khi nói bóng gió xa xôi về trí tuệ vĩ đại của con người, ngay cả trong sự suy tàn của nó, về sự khuất phục của tất cả những bà vợ – không phải bà đổ lỗi cho cô gái đó, và cuộc hôn nhân cũng từng rất hạnh phúc, bà tin là thế – đối với công việc của các đấng phu quân của họ, bà khiến cho anh ta cảm thấy hài lòng hơn với bản thân, điều chưa từng xảy ra đối với anh ta, và anh ta muốn, nếu như họ bắt một cuốc taxi, chẳng hạn, anh ta sẽ trả tiền. Còn về phần cái giỏ nhỏ của bà, anh ta có thể xách hộ không? Không, không, bà bảo, bà luôn tự mình mang cái giỏ. Bà cũng đã làm như vậy. Vâng, anh ta cảm thấy điều đó ở bà. Anh ta cảm nhận được nhiều điều, đặc biệt là một điều khiến anh ta trở nên kích động và bất an vì những nguyên nhân mà anh ta không thể đưa ra. Anh ta thích được bà nhìn thấy mình đang khoác áo choàng và đội mũ giáo sư, bước đi trong một đám diễu hành. Một nghiên cứu sinh, một giáo sư, anh ta cảm thấy thừa khả năng về bất cứ điều gì và nhìn thấy chính mình. Nhưng bà đang nhìn ai thế? Nhìn một người đàn ông đang dán một tờ quảng cáo. Tờ giấy rộng tung bay phần phật, tự bung ra, và mỗi nhát cọ lại làm hé lộ ra những đôi chân mơn mởn, những vòng váy, những con ngựa, những màu đỏ chóe và xanh dương lấp lánh, mượt mà diễm lệ, cho tới khi phân nửa bức tường đã được che phủ bởi tấm tranh quảng cáo về một gánh xiếc; một trăm kỵ sĩ, hai mươi con hải cẩu, sư tử và cọp đang biểu diễn... Nghểnh cổ về phía trước, vì bà bị cận thị, bà đọc thành tiếng... "sẽ ghé thăm thị trấn này," bà đọc. Đây là một công việc nguy hiểm kinh khủng đối với một người chỉ có một cánh tay, bà phàn nàn, khi đứng trên đầu một cái thang như thế – cánh tay trái của ông ta đã bị cắt lìa trong một cái máy gặt lúa hai năm trước.


"Chúng ta đi thôi!" bà kêu lên, tiếp tục bước, như thể tất cả những kỵ sĩ và những con ngựa đó đã trút đầy vào lòng bà niềm vui sướng trẻ con và khiến cho bà quên đi sự trắc ẩn của mình.


"Chúng ta đi thôi," anh ta lắp bắp lặp lại lời bà, tuy nhiên, với một vẻ e dè khiến cho bà nhăn mặt. "Chúng ta hãy đi tới chỗ gánh xiếc." Không. Anh ta đã không thể nói đúng về việc đó. Anh ta đã không thể cảm nhận đúng về nó. Nhưng tại sao không? bà tự hỏi. Có gì trục trặc ở anh ta vậy? Ngay lúc này, bà thấy mến anh ta một cách ấm áp chân thành. Không phải họ đã từng được dắt tới những gánh xiếc khi còn bé hay sao? Không bao giờ, anh ta trả lời, như thể bà hỏi đúng ngay điều mà anh ta đã mong muốn, đã khao khát được nói ra trong suốt những ngày này, rằng vì sao anh ta đã không tới chỗ những gánh xiếc.


Đó là một gia đình đông con, chín anh chị em tất cả, và cha của anh ta là một người lao động. "Cha tôi là một người bán dược phẩm. Ông coi sóc một cửa hàng."Bản thân anh ta phải tự bươn chải từ năm lên mười ba tuổi. Thông thường anh ta ra khỏi nhà vào mùa đông mà chẳng có một cái áo khoác nào trên người. Anh ta không bao giờ có thể "phóng khoáng đáp lại" (đó là những lời nghẹn ngào khô khốc của anh ta) hồi ở trường đại học. Anh ta phải làm những việc kéo dài gấp đôi thời gian so với người khác; anh ta hút loại thuốc lá rẻ tiền nhất; thuốc rê; giống như loại thuốc mà những ông già hút trong các bến cảng. Anh ta làm việc vất vả – bảy giờ đồng hồ một ngày; đề tài của anh ta lúc này là ảnh hưởng của một điều gì đó lên một ai đó – họ đang tiếp tục đi và bà Ramsay không hoàn toàn hiểu ý nghĩa của những từ ở đoạn này đoạn khác... bài luận văn... nghiên cứu sinh... phó giáo sư... giảng viên. Bà không thể hiểu kịp những thuật ngữ hàn lâm đang liếng thoắng tuôn ra đó, nhưng tự nhủ rằng bây giờ bà đã hiểu vì sao việc tới chỗ gánh xiếc đã lột lưỡi anh ta, anh chàng tội nghiệp, và vì sao lúc này anh ta đang dốc bầu tâm sự về tất cả những chuyện đó, về cha mẹ, anh chị em của anh ta, và bà thấy rằng các con bà không nên chế nhạo anh ta nữa; bà sẽ bảo với Prue về chuyện này. Chắc hẳn điều mà anh ta muốn, bà nghĩ, là nói ra lý do vì sao anh ta đã tìm tới không phải là gánh xiếc mà là Ibsen cùng với gia đình Ramsay. Anh ta là một gã hợm mình... ồ, phải, một gã đáng chán không chịu nổi. Bởi lẽ, dù lúc này họ đã tới thị trấn và đang đi trên con lộ chính, với những cỗ xe ngựa lăn bánh trên mặt đường rải đá, anh ta vẫn tiếp tục nói, về những cuộc thỏa thuận, việc dạy học và những người lao động, về việc giúp đỡ giai cấp của chúng ta, và những bài giảng, cho tới khi bà đoán rằng anh ta đã hoàn toàn lấy lại được sự tự tin, đã hồi phục lại từ chuyện gánh xiếc, và sắp sửa (bây giờ bà lại cảm thấy yêu mến anh ta nồng nhiệt) kể cho bà nghe... nhưng tại đây, nơi những ngôi nhà khuất xa ở cả hai bên đường, họ đi ra phía bến cảng. Toàn cảnh cái vịnh trải ra trước mặt họ. Bà Ramsay kêu lên, "Ôi, đẹp quá!" Mặt nước xanh lơ mênh mông nằm trước mặt bà; xa xa, ngay chính giữa, là ngọn hải đăng cổ kính mộc mạc; và ở phía tay phải, trong chừng mực có thể nhìn thấy, những cồn cát xanh mềm mại phủ đầy cỏ dại, dường như luôn luôn chạy về phía một miền đất xa lạ không dân cư nào đó.


Đó là quang cảnh – bà nói, dừng lại, đôi mắt xám sẫm tối hơn – mà chồng bà yêu thích.


Bà ngưng một lúc. Nhưng bây giờ, bà nói, các họa sĩ đã tới đây. Thật sự, cách họ chừng vài bước, một người trong số họ đang đứng, đội một cái mũ Panama và mang một đôi ủng vàng, nghiêm trang, dịu dàng, tập trung, với một vẻ hài lòng sâu sắc trên gương mặt nâu đỏ chăm chú, và vì thế có khoảng mười đứa nhóc đang quan sát ông ta. Sau khi nhìn, ông ta nhúng đầu cọ vào lớp sơn mềm màu xanh lá hoặc màu hồng gì đó. Từ khi ông Paunceforte tới đây, ba năm trước, tất cả những bức tranh đều như thế cả, bà nói, xanh lá và xám, với những con thuyền buồm màu vàng chanh và những phụ nữ màu hồng trên bãi biển.


Nhưng những người bạn của bà nội bà, bà nói, kín đáo liếc mắt khi họ bước qua, đã phải vất vả hết sức; trước tiên họ phải tự trộn màu cho mình, rồi nghiền chúng ra, rồi phủ vải ướt lên trên để giữ ẩm.


Vì thế Tansley cho rằng bà có ý nói với anh rằng tranh của người đàn ông đó chưa đủ sắc độ, có phải người ta nói như thế không nhỉ? Màu sắc không đậm đà? Có phải người ta nói thế không? Dưới tác động của cảm xúc khác thường trong suốt cuộc đi bộ, bắt đầu từ trong khu vườn nơi anh muốn xách giùm cái giỏ của bà và đã gia tăng trong thị trấn nơi anh muốn kể cho bà nghe mọi chuyện về mình, anh đã nhìn thấy chính bản thân mình, và mọi điều mà anh từng biết đã hơi biến đổi. Đó là một điều rất đỗi lạ lùng.


Anh đứng đó chờ bà, trong phòng khách của gian nhà nhỏ hẹp mà bà đã đưa anh tới. Trong lúc đó bà đi lên gác trên một lát để gặp một người phụ nữ. Anh nghe thấy tiếng bước chân nhanh nhẹn của bà bên trên, nghe giọng nói của bà cất cao vui vẻ rồi thấp xuống lại; nhìn những tấm thảm, những cái hộp đựng trà, những bóng phản chiếu trong tấm gương; nôn nao chờ đợi; nóng lòng mong chóng đến lúc trở về; quyết định sẽ mang giúp bà cái giỏ; rồi nghe thấy tiếng bà bước ra; đóng một cánh cửa; bảo rằng họ nên mở những cánh cửa sổ ra và đóng cửa ra vào lại, hỏi với vào nhà xem họ có cần gì hay không (hẳn là bà đang nói với một đứa bé), rồi, đột ngột, bà bước ra, đứng lặng im một lúc (như thể bà đã giả vờ đi lên đó, và bây giờ lại xuất hiện). Bà đứng bất động trong giây lát trước một bức tranh vẽ Nữ hoàng Victoria đeo dải ruy băng tước hiệu Garter; ngay lập tức anh nhận ra một điều: chính thế – bà là người đẹp nhất mà anh từng nhìn thấy.Với những vì sao trong đôi mắt và tấm khăn choàng trên mái tóc, với những đóa hoa anh thảo và cúc tím dại... Có phải anh đang nghĩ tới một điều phi lý hay không? Ít nhất bà cũng đã năm mươi tuổi; bà đã có tám đứa con. Bước qua những cánh đồng hoa dại và cài lên ngực bà những nụ hoa đã rữa và ngây thơ đã mất; với những vì sao trong đôi mắt và ngọn gió trên mái tóc của bà... Anh đã xách giùm cái giỏ cho bà.


"Tạm biệt, Elsie," bà nói, và họ bước dọc theo con đường. Bà giữ thẳng cây dù và bước đi như thể đang mong gặp ai đó ở một góc quanh, trong lúc lần đầu tiên trong đời mình Charles Tansley cảm thấy rất đỗi tự hào. Một người đàn ông đang đào đất trong một rãnh nước ngưng lại và nhìn bà, buông thỏng cánh tay xuống và nhìn bà; lần đầu tiên trong đời mình Charles Tanley cảm thấy tự hào đến lạ; anh cảm nhận được ngọn gió, những đóa hoa anh thảo và hoa cúc tím vì anh đang đi bên cạnh một người đàn bà đẹp. Anh đã xách giùm cái giỏ cho bà.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro