kĩ năng viết nghị luận văn học

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHUYÊN ĐỀ:

KỸ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
VĂN ANH HOÀNG KHÁNH DUY

Những chia sẻ từ Hoàng Khánh Duy

Nghị luận văn học chiếm điểm khá cao trong bài thi, thế nhưng đến thời điểm hiện tại, vẫn còn một số em mắc các lỗi từ đơn giản đến phức tạp. Trên tinh thần học hỏi nhau, chia sẻ để cùng nhau rèn luyện, anh xin chia sẻ với các em một số Kỹ năng quan trọng trong quá trình viết nghị luận văn học. Những kỹ năng này - cũng chỉ là nho nhỏ thôi - nhưng chắc chắn sẽ hữu ích đối với các em. Chúc các em có một bài Nghị luận văn học thật hay, thật khoa học, sâu sắc và giàu cảm xúc!
#Hoàng_Khánh_Duy

1.Kỹ năng đưa Lí luận văn học vào bài

-Lí luận văn học bao gồm những kiến thức thuộc về “hình tượng văn học”, “nhân vật văn học”, “văn học - nghệ thuật ngôn từ”, “chi tiết nghệ thuật”, “tình huống truyện”, “đặc trưng thơ ca”, “chức năng văn học: thẩm mĩ - giáo dục - nhận thức”, “quá trình sáng tác và tiếp nhận văn học”, “tính dân tộc”…. nó được thể hiện qua kiến thức diễn giải hoặc nhận định/ câu nói của các nhà thơ, nhà văn, nhà lí luận phê bình. Những kiến thức này các em phải bồi đắp từng ngày, từng giờ, phải đọc và học. Đối với các em THPT thì đọc giáo trình Lí luận văn học (Phương Lựu chủ biên) quả là một điều khó khăn. Vậy nguồn tư liệu mà các em cần tìm hiểu là ở đâu? Không đâu xa, những kiến thức cơ bản nhất có - thể - áp - dụng - cho - mọi - bài - văn nằm ở hai bài: “Qúa trình văn học và phong cách văn học” (Tập 1 - Ngữ văn 12), “Giá trị văn học và tiếp nhận văn học” (Tập 2 - Ngữ văn 12).

-Đôi khi đề bài sẽ gợi ý cho chúng ta sử dụng kiến thức lí luận văn học, chẳng hạn: Phân tích chi tiết nắm lá ngón (“Vợ chồng A Phủ” - Tô Hoài). Vậy các em nhất định sẽ phải giải thích thế nào là chi tiết nghệ thuật, ý nghĩa của nó và minh họa bằng vài chi tiết sống động trong các tác phẩm mà các em yêu thích. Phần này được viết ở đoạn đầu thân bài.

Hoàng Khánh Duy truyền cảm hứng
-Vậy còn những dạng đề cơ bản, chẳng hạn: Cảm nhận về hình tượng người lính Tây Tiến (“Tây Tiến” - Quang Dũng) thì mình có nhất thiết phải dùng kiến thức lí luận hay không? Không cũng được các em ạ, vì đề đâu yêu cầu. Nhưng riêng anh, anh lại thích và phải sử dụng, vì kiến thức lí luận không phải ai cũng có được, phải thực sự yêu văn hoặc được GV giảng chuyên đề lí luận các em mới có hiểu biết. Mà có hiểu biết về nó thì không đưa vào thì rất uổn. Trong khi đưa vào là cách các em tự phân hóa khả năng mình với các bạn khác. Vậy ta sẽ đưa như thế nào?

+ Đề bài yêu cầu cảm nhận về hình tượng người lính, hình tượng nhân vật Mị, Tràng, bà cụ Tứ: sử dụng kiến thức THẾ NÀO LÀ HÌNH TƯỢNG? ĐẶC TRƯNG CỦA HÌNH TƯỢNG VĂN HỌC (Bằng nghệ thuật ngôn từ, người nghệ sĩ đã biến nhân vật hiện lên y như thật, run rẩy, phập phồng, biến hóa trên trang văn, trước mắt người đọc. Ngôn ngữ văn chương có khả năng thật kì diệu…) Hoặc các em có thể PHÂN LOẠI NHÂN VẬT (theo cách mà lí luận văn học phân loại), chỉ ra đó là nhân vật chính hay phụ, hay nhân vật trung tâm, hay nhân vật chính diện, hay nhân vật phản diện…

+ Hầu hết, đối với các tác phẩm văn học hiện đại (văn 12) và tất cả các tác phẩm văn học khác các em đều có thể sử dụng kiến thức lí luận: VĂN HỌC BẮT NGUỒN TỪ HIỆN THỰC CUỘC SỐNG làm nền để giải quyết vấn đề. Phần này có thể nêu ở đầu đoạn thân bài hoặc ngay mở bài vẫn được. Cụ thể: Đối với thơ ca kháng chiến thì các em có thể dùng kiến thức Hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh trở thành một mảnh đất phong phú, màu mỡ trong thơ các những năm 1945 - 1975; đối với các truyện “Vợ chồng A Phủ”, “Vợ nhặt”, “Chiếc thuyền ngoài xa”… có thể vận dụng kiến thức “Văn học và cuộc sống là hai đường tròn đồng tâm mà tâm điểm chính là con người” (Nguyễn Minh Châu) để dẫn dắt vào vấn đề. Đối với các tác phẩm viết về chủ đề đất nước/ lòng yêu nước thì có thể dùng kiến thức CHỦ ĐỀ YÊU NƯỚC trở thành sợi chỉ đỏ trong thơ văn…
+ Đối với các truyện ngắn có tình huống truyện sâu sắc, ngay từ đầu các em có thể giới thiệu luôn: truyện được viết theo TÌNH HUỒNG (lát cắt trên thân cây mà nhìn vào đó có thể thấy được trăm năm đời thảo mộc) gì? Nhận thức hay hành động, hay tâm trạng? Ví dụ truyện “Vợ nhặt” thuộc tình huống hành động/ “Chiếc thuyền ngoài xa” là tình huống nhận thức.

Hoàng Khánh Duy truyền cảm hứng
+Đối với thơ ca, trước khi các em phân tích đoạn thơ/ bài thơ, có thể giới thiệu sơ qua đặc trưng của thơ: tính trữ tình sâu sắc, ngôn ngữ giàu hình tượng… là những đặc trưng quan trọng của thơ ca.

+Khi phân tích những không gian thiên nhiên, cuộc sống trong văn học, có thể lồng ghép khái niệm KHÔNG - THỜI GIAN NGHỆ THUẬT trong lí luận vào để lí giải. Chẳng hạn: Không gian nghệ thuật trong “Vợ nhặt” là không gian xóm ngụ cư, không gian nhà bà cụ Tứ. Không gian nghệ thuật trong “Tây Tiến” là thiên nhiên núi rừng miền Tây. Không gian nghệ thuật trong “Vợ chồng A Phủ” là không gian Tây Bắc xinh đẹp, thơ mộng nhưng thoáng buồn…
+Mỗi tác phẩm đều có một cái hay riêng, vậy các em có thể dùng lí luận về PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT (“Mỗi công dân có một dạng vân tay - Mỗi nghệ sĩ thứ thiệt có một dạng vân chữ - Không trộn lẫn”) để chỉ ra sự độc đáo của tác giả, tác phẩm. Vấn đề này các em có thể dùng để mở bài luôn vẫn được. Ví dụ như cùng viết về đề tài người lính, song mỗi người nghệ sĩ lại có một phong cách nghệ thuật khác nhau, cách nhìn khác nhau (“Một cuộc thám hiểm không cần đến những vùng đất mới mà cần đến những đôi mắt mới” - Mac xenprut) - Hình tượng người lính trong Tây Tiến đã để lại những dấu ấn khó phai trong lòng người đọc…

+Ngoài ra còn vô vàn những kiến thức, những câu nói hay. Có những câu nói các em có thể áp dụng cho mọi tác phẩm đều đúng, ví

dụ: “Văn học là nhân học” (M. Gorki), “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”… Khi kết thúc các bài văn, các em có thể chỉ ra nhà văn/ nhà thơ (đang phân tích tác phẩm của họ) có sự sáng tạo độc đáo, sáng tạo làm nên sự bất diệt của nghệ thuật, sau đó vận dụng ngay câu nói của Nam Cao để nâng cao giá trị của nhà văn, nhà thơ đó: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay…” (Trích “Đời thừa”).
+Khi sắp kết bài, nếu còn thời gian, các em có thể sử dụng kiến thức lí luận GIÁ TRỊ VĂN HỌC để chỉ ra tác phẩm đó có giá trị thẩm mĩ, giá trị nhận thức, giá trị giáo dục hay không. Ví dụ: Đoạn thơ “Đất Nước” có giá trị nhận thức (về tình yêu nước, về tư tưởng: “Đất nước của Nhân dân”), đồng thời cũng có giá trị giáo dục (giáo dục thế hệ trẻ đô thị vùng bị tạm chiếm thời chống Mĩ xuống đường bảo vệ Tổ quốc…).

Hoàng Khánh Duy truyền cảm hứng
+Vị trí đặt để lí luận văn học: (1) Mở bài, (2)Đoạn đầu thân bài, (3) Lồng ghép vào phân tích, (4) Đoạn nâng cao trước khi kết bài,

(5)Kết bài.

Minh họa của anh về sự lồng ghép kiến thức lí luận về CẢM HỨNG LÃNG MẠN trong thơ cách mạng, trong khi đề không yêu cầu: “...Đoạn thơ là những nét vẽ bức tranh mà thiên nhiên là phông nền, người lính Tây Tiến là nhân vật trung tâm hiện lên với những nét đẹp đáng trân quý. Một Tây Bắc hoang dã, hiểm trở thấp thoáng bóng dáng người lính Tây Tiến vắt kiệt sức lực chinh phục thiên nhiên nhưng không bao giờ bỏ cuộc vì lí tưởng cao đẹp. Một Tây Bắc xinh đẹp, lãng mạn, ấm áp tình người, những người lính trẻ trung, đa tình mở rộng lòng mình đón nhận những điều tươi đẹp. Quang Dũng đã gợi nhiều hơn tả, không chỉ làm hiện lên trước mắt người đọc khung cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây mà còn ghi lại cái hồn của cảnh vật. Cảm hứng lãng mạn là đặc điểm nổi bật trong hồn thơ Quang Dũng. Đôi khi thơ ông chìm vào cái bi, lập tức Quang Dũng nâng cái bi bằng cảm hứng lãng mạn bay bổng để hình tượng thơ tráng lệ, giọng thơ hào hùng, con người dũng cảm, kì vĩ hơn bao giờ hết. Cảm hứng lãng mạn, nhất là chất trữ tình cách mạng là một thành tố quan trọng của thơ ca cách mạng. Chất lãng mạn của bài thơ Tây Tiến giúp Quang Dũng khẳng định vẻ đẹp của con người Việt Nam một thời đã qua: trong chiến tranh khốc liệt, con người vẫn hiên ngang, vươn tới vẻ đẹp lí tưởng và vẻ đẹp cuộc đời. Đó là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn giúp họ vượt qua thử thách của chiến tranh. Bài thơ đã tạc vào tâm tưởng mỗi người bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến – những người đã từng dâng hiến máu xương vì lí tưởng cao đẹp của cuộc đời. Thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay lớn lên trong bầu không khí thanh bình, được học tập, phát triển bản thân. Khói lửa chiến trường, “gươm kề tận cổ súng kề tay” chỉ còn xuất hiện trong những trang sách, qua lời kể của những người đi qua cuộc chiến. Chúng ta biết rằng để có được cuộc sống hôm nay, biết bao người đã đổ máu xương gìn giữ từng tấc đất thiêng liêng. Vậy nên, chúng ta hãy sống sao cho trọn vẹn nghĩa tình, biết ơn thế hệ cha anh,

sống nhiệt thành, mai này lớn lên làm tròn sứ mệnh của mình đối với quê hương xứ sở”

(Hoàng Khánh Duy)

2. Kỹ năng chuyển đoạn

Hoàng Khánh Duy truyền cảm hứng
Một bài văn gồm nhiều đoạn văn, ngay cả trong thân bài thôi đã có tới 4, 5 đoạn, vậy ta phải chuyển như thế nào? Với anh, có những cách chuyển sau đây:

-Dùng các thành phần chỉ thứ tự để bài văn mạch lạc và chắc: Trước hết, ngay sau đó, tiếp đến, sau cùng…

-Đặt câu hỏi, chẳng hạn: Liệu người đàn bà hàng chài có phải là nhân vật hoàn toàn đáng trách hay không? Trách làm sao được khi bà ta đã dùng cả cuộc đời mình, hạnh phúc của mình để dang tay cưu mang những đứa con, sống vì con…

-Dùng cấu trúc câu: “Nhưng…” để bắc sang. Chẳng hạn: Nhưng dẫu cùng cực thế nào thì phẩm chất tốt đẹp trong người nông dân đói khổ kia không bị thui chột, ngược lại nó càng sáng và đẹp hơn bao giờ hết. Trong gian khổ, tình người được đề cao (“Vợ nhặt”).

-Dùng cấu trúc: “Ở một khía cạnh khác, ta còn thấy được…”, “Mặt khác,…”.

-Dùng cấu trúc: “Nương theo/ xuôi theo chiều dọc bài thơ (xuôi theo dòng cảm xúc của tác giả), người đọc còn nhận ra…”. Chẳng

hạn: Xuôi theo mạch nguồn nỗi nhớ đang dâng lên như con sóng trong lòng Quang Dũng, người đọc còn nhận ra hình ảnh sâu đậm nhất trong tâm trí của thi nhân chính là những người đồng đội - người lính Tây Tiến hào hoa, lãng mạn...

-Sắp kết thúc một vấn đề nào đó, dùng cấu trúc “Vậy là…”, “Hóa ra…”. Chẳng hạn: Vậy là những con người đói khổ kia đã không buông bỏ cuộc đời, không dễ dàng rơi xuống vực thẳm. Dẫu đói khổ thế nào họ vẫn khao khát bám víu cuộc đời, để được sống, để được là Con Người thực sự. (“Vợ nhặt”)


3.Kỹ năng viết luận điểm

-Yêu cầu luận điểm: sáng rõ, hoặc khẳng định, hoặc phủ định, mang tính chất người làm bài đưa ra nhận định. Hoặc đôi khi dùng kiểu câu nghi vấn vẫn hợp lí, nhưng phải đúng trường hợp.

-Đừng nên viết luận điểm quá dài, lan man, cũng đừng tham mà phân tích dẫn chứng hay lấn sân sang diễn giải. Nên nhớ luận điểm chỉ để đưa ra quan điểm của người làm bài. Để tránh lỗi diễn giải lan man, giải thích, bình luận ngay trên luận điểm, các em có thể không trích dẫn từ, cụm từ, vế câu dẫn chứng đưa vào luận điểm.

Hoàng Khánh Duy truyền cảm hứng
+Lỗi sai: Trong khổ đầu bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh đã thể hiện những trạng thái đối lập nhau của sóng biển ngoài khơi hay của chính tâm hồn người con gái, những con sóng khi thì “ồn ào” khi thì “lặng lẽ”, cũng như người con gái lúc lại cộc cằn, ương ngạnh, lúc lại rất dễ thương. (Qúa dài, sa vào phân tích)

+Nên viết: Ngay trong khổ thơ đầu nhà thơ đã thể hiện những trạng thái đối nghịch của con sóng ngoài biển khơi, nó có những nét tương đồng với tâm hồn người con gái.

Minh họa hệ thống luận điểm cho câu 2 (mục II) đề tham khảo lần 2 vừa rồi:

+Ngay từ đầu bài thơ, Quang Dũng đã để lại ấn tượng về nỗi nhớ của người lính đã xa rời đoàn quân Tây Tiến, trong một khoảnh khắc nào đó những kí ức cũ hiện về trong miên man dòng nhớ.

+Không gian thiên nhiên Tây Bắc – đối tượng thứ nhất của nỗi nhớ “chơi vơi” bỗng chốc hiện lên ở những dòng thơ tiếp.

+++Một thiên nhiên khắc nghiệt, dữ dội, sương mù và gió núi bao la từng ngày từng giờ vắt kiệt sức người lính chiến

+++Thế nhưng, thiên nhiên Tây Tiến đâu phải chỉ có mỗi vẻ khắc nghiệt, dữ dội, đâu chỉ có dốc thẳm đèo cao cùng thứ sương mù che dáng người đi trong mờ mịt? Bằng đôi mắt lãng mạn, nhạy cảm của người chiến sĩ, Quang Dũng nhận ra có một Tây Bắc rất đỗi nên thơ, trữ tình trong tầm mắt người, dịu dàng như người con gái.
+ Quang Dũng tiếp tục mở ra một Tây Bắc dữ dội, hùng vĩ theo chiều thời gian:

+ Ở đoạn thơ này, Quang Dũng đã dành hai câu thơ để khắc họa trực tiếp vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến trong khoảnh khắc thiêng liêng:

+ Khép lại đoạn thơ thứ nhất là hai câu thơ ấm áp tình quân dân

4.Kỹ năng tìm dẫn chứng tiêu biểu, đưa dẫn chứng

-Thuộc dẫn chứng là tốt, nhưng các em phải biết tiết chế chỗ nào nên đưa dẫn chứng dài thì đưa, chỗ nào cần cắt gọn để chỉ đưa những điểm nhấn vào thì cắt gọn.

Hoàng Khánh Duy truyền cảm hứng
-Thuộc những câu then chốt: Khi học văn xuôi, không nhất thiết các em phải thuộc một câu văn dài trong tác phẩm hay thuộc hết lượt lời của nhân vật, trừ những câu văn mang tính bao quát chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Em hãy thuộc những câu văn then chốt nhất. Chẳng hạn, nếu em là một người không dễ gì nhớ được một câu văn dài miêu tả sông Đà trữ tình mà Nguyễn Tuân viết: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân” thì em chỉ cần nhớ cụm từ “tuôn dài như một áng tóc trữ tình” là đủ. Việc đưa trọn vẹn, chính xác một câu văn dài trong tác phẩm vào bài văn và tiết chế mình lại, không tham dẫn chứng thì nó sẽ phát huy công dụng tối đa, khiến người đọc phải ồ lên mà khen ngợi: “Bạn ấy nắm dẫn chứng thật tuyệt vời!”.

5.Kỹ năng giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận

-Thao tác lập luận giải thích: Là cắt nghĩa một sự vật, sự việc, hiện tượng,… để người khác hiểu rõ vấn đề.

Minh họa:

“Nhân hậu” là giàu lòng thương người, chỉ muốn mang những điều tốt lành đến với người khác, sẵn sàng cưu mang, bảo bọc người khác khi họ gặp hoạn nạn.

-Thao tác lập luận phân tích: Là chia nhỏ vấn đề thành nhiều khía cạnh, tiêu chí, quan hệ,… để làm sáng tỏ vấn đề chung một cách toàn diện.
Minh họa:

Nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân có ba nét đẹp:

-Anh dũng, kiên trung.

-Tài hoa, viết chữ đẹp.

-Nhân cách thanh cao, thiên lương trong sáng.

-Thao tác lập luận chứng minh: Là dùng những bằng chứng xác thực để làm rõ vấn đề, tăng độ tin cậy của người khác vào vấn đề. Minh họa:

Hoàng Khánh Duy truyền cảm hứng
Ýchí, nghị lực có vai trò quan trọng trong cuộc sống của mỗi người. Nick Vujicic, diễn giả nổi tiếng sinh ra thiếu hai tay, hai chân, nhưng anh đã vượt qua trở ngại bệnh tật, tốt nghiệp đại học tài chính năm 21 tuổi, trở thành nhà diễn thuyết nổi tiếng và truyền cảm hứng tới 3 triệu người trên thế giới. Anh nổi tiếng với phương châm “Cuộc sống không giới hạn”. Nick Vuijic chính là tấm gương cho sự vươn lên mạnh mẽ, gan góc từ trong nghịch cảnh.

Thao tác lập luận so sánh: Là làm sáng tỏ vấn đề trong mối tương quan với các vấn đề khác. Minh họa:
Sự chuyển mình, “nổi loạn” của cô Mị trong đêm tình mùa xuân (trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài) gợi liên tưởng đến lần tỉnh rượu đầu tiên từ sau khi ra tù của nhân vật Chí Phèo (trong “Chí Phèo” của Nam Cao). Song, nếu Mị say rượu để quên đi thực tại đau lòng, nhớ về quá khứ rực rỡ, tươi trẻ của mình thì Chí Phèo lại tỉnh rượu để nhận mình còn là một con người, được yêu thương, được chăm sóc bởi tay người đàn bà cùng khổ, nhận ra mình cô độc vô cùng ở cái tuổi sắp xế bóng.

Thao tác lập luận bình luận: Là bàn bạc, nhận xét, đánh giá về một vấn đề nào đó. Minh họa:
Trong bài thơ “Nghe thầy đọc thơ”, Trần Đăng Khoa đã bộc lộ những cảm xúc của mình khi hồi tưởng lại giọng thầy trong đêm khuya thinh vắng. Bài thơ - những câu chữ bình dị - qua lời thầy lại trở nên có hồn, tác động mạnh vào tâm hồn trong sáng. Qua lời thầy đọc thơ, sắc màu hiện lên (“đỏ nắng xanh cây”), âm thanh văng vẳng gợi những kí ức xa ngái (“tiếng của bà năm xưa”, “trăng thở động tàu dừa”, “rào rào nghe chuyển cơn mưa giữa trời”) và sự chuyển động của thiên nhiên tạo vật (“Mái chèo nghiêng mặt sông xa”)… Bài thơ cho thấy sự hồn nhiên, trong trẻo trong tâm hồn của thi sĩ, đồng thời thể hiện được tấm lòng nhớ thương, kính trọng của tác giả đối với người thầy trong kí ức tuổi thơ của mình. “Nghe thầy đọc thơ” là một trong những bài thơ hay ẩn chứa nỗi lòng của biết bao thế hệ học trò đối với quê hương, thầy cô, mái trường thân thuộc.

Thao tác lập luận bác bỏ: Là trao đổi, tranh luận để bác bỏ ý kiến được cho là sai hoặc còn nhiều mặt hạn chế. Minh họa:

Hoàng Khánh Duy truyền cảm hứng
Câu ca dao: “Ta về ta tắm ao ta - Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn” tuy khẳng định được sự thủy chung với “ao ta” (hay nói cách khác là những giá trị mà chúng ta tạo ra từ xa xưa) nhưng vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Rõ ràng, nếu người ta cứ giữ mãi thái độ “về tắm ao ta”, “ao nhà vẫn hơn”, bỏ qua mọi điều hay lẽ phải bên ngoài thì quả là bảo thủ, tiêu cực. Vậy nên câu ca dao ấy chưa hoàn toàn là đúng! Chúng ta nên tiếp thu ở một mức độ vừa phải, tránh gây ra những suy nghĩ tiêu cực cho bản thân sau này.

6.Kỹ năng chọn dẫn chứng để liên hệ

-Các tác phẩm được học có khả năng hỗ trợ cho nhau nên các em phải tận dụng hết tất thảy những gì được học. Khi làm bài “Đất Nước” (NKĐ) có thể liên hệ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi.

-Các tác phẩm văn học được tuyển chọn trong chương trình Ngữ văn THPT tiêu biểu cho những giai đoạn văn học nổi tiếng trong tiến trình văn học Việt Nam. Vì vậy mà anh có sự mong chờ và cảm hứng tìm tòi, nghiên cứu. Anh phát huy kĩ năng ghi chép của mình trong quá trình tiếp cận các tác phẩm văn học. Sổ tay văn học của anh giai đoạn này có sự phân chia rạch ròi, khoa học. Trong quá trình đọc sách Lí luận văn học, tôi tóm tắt ngắn gọn và dễ nhớ những kiến thức cơ bản cần thiết rồi ghi vào sổ tay để làm tài liệu riêng cho mình. Anh sưu tầm những nhận định bàn về các tác phẩm cụ thể rồi ghi lại rồi khéo léo đưa vào trong quá trình viết văn. Chẳng hạn, về “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài, tôi ghi chú lại nhận định của nhà phê bình Lê Tiến Dũng: “Đọc xong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. Gấp lại trang sách rồi mà chúng ta vẫn không quên được gương mặt “buồn rười rượi” của Mị. Đó là gương mặt mang nỗi đau của một kiếp người không bằng ngựa trâu”; Về tùy bút “Người lái đò sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân, anh ấn tượng với lời nhận xét của Nguyễn Đăng Mạnh: “Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác. Mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như tác giả nói - “hung bạo và trữ tình…”; Về bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng, anh phát hiện một nhận định hay của nhà nghiên cứu Đinh Minh Hằng: “Tây Tiến nơi mà con người Tây Tiến, chiến sĩ Tây Tiến, núi rừng Tây Tiến đã vượt ra ngoài những cảm quan ban đầu của hồn thơ Quang Dũng để đến với đại ngàn thi hứng. Nơi ấy, cuồn cuộn dòng chảy lạnh lùng và đa tình, hiện thực và lãng mạn, bi và tráng. Một Tây Tiến không chỉ níu kéo bước chân người lính trong nỗi niềm nhớ… Tất cả đều gợi ấn tượng của sự “lạ

Hoàng Khánh Duy truyền cảm hứng
hóa”, của những vẻ đẹp kì ảo khó gọi tên…” và còn vô vàn những nhận định, những ý kiến bàn về tác phẩm văn học mới mẻ, sâu sắc khác được anh ghi chép lại rồi sử dụng trong phần liên hệ, bài nghị luận văn học.

Ngoài ra, anh dành nhiều trang để sưu tầm và ghi chép vào trong sổ tay văn học những câu thơ, bài thơ hay khác nhau, có sức sống mãnh liệt trong lòng bạn đọc bao thế hệ rồi đọc đi đọc lại đến thuộc từng câu từng chữ. Anh dùng những câu thơ, bài thơ đó làm dẫn chứng liên hệ, mở rộng trong khi viết văn. Chẳng hạn, khi tìm hiểu vấn đề tình yêu của người phụ nữ qua “Sóng” của Xuân Quỳnh, anh giở sổ tay văn học ra và đọc lại bài thơ “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn mà anh đã ghi chép từ trước để so sánh, đối chiếu những biểu hiện tình yêu của người con gái trong cùng thời điểm lịch sử: cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ cứu nước - anh đặt tên cho phần so sánh, đối chiếu với một bài thơ, một nhân vật trong tác phẩm văn xuôi khác trong bài nghị luận văn học chính là phần mở rộng vấn đề, nâng cao kiến thức, giúp cho bài văn thêm sâu sắc, nâng tầm kiến thức, điểm số vì thế cũng cao hơn.

-Khi phân tích, cảm nhận, bàn luận về một hay nhiều ý kiến bàn về tác phẩm văn học thuộc chủ đề Tổ quốc, tình yêu đất nước bao la (“Tây Tiến”, “Việt Bắc”, “Đất Nước”, “Rừng xà nu”,…), anh chẳng những đọc tác phẩm trong sách giáo khoa mà còn đọc thêm những tác phẩm xoay quanh, cùng chủ đề, cùng hoặc khác giai đoạn sáng tác, của các tác giả khác rồi ghi chép những dẫn chứng tiêu biểu, dễ thuộc dễ nhớ vào sổ tay văn học. Chẳng hạn, vấn đề đất nước trong văn chương được thể hiện qua những câu thơ:
“Tổ quốc tôi

Sáng chói không gian lung linh giữa ánh trời Gương mặt bạn bè

Không còn gặp lại Thương lắm nụ cười Trước lúc chia tay

Tổ quốc tôi ở trong lồng ngực tôi đây

Hoàng Khánh Duy truyền cảm hứng
Trong hơi thở, trong mặn nồng máu thịt

Trong giọng nói, trong nụ cười tha thiết

Trong suốt cuộc đời cơ cực, sướng vui”

(Lâm Thị Mỹ Dạ)

“Khi Tổ quốc sang trang con vẫn nhìn thấy mẹ

Khi Tổ quốc gọi tên từng thế hệ

Trong vinh quang con không phải cúi đầu…”

(Lệ Thu)

“Tổ quốc tôi chưa đẹp thế bao giờ

Xanh núi xanh sông xanh đồng xanh biển

Xanh trời xanh của những giấc mơ”

(Tố Hữu)

“Trong ánh sáng diệu kỳ, Đảng gọi ta theo

Đường ta đi, gian khổ vẫn còn nhiều

Ôi Tổ quốc đau thương! Sao yêu Người đến thế!

Ta đã dâng Người cả chặng đường tuổi trẻ

Còn chặng này, Người nhận tiếp

Tổ quốc ơi!”

(Cẩm Lai)

Hoàng Khánh Duy truyền cảm hứng
Và còn rất nhiều đoạn thơ khác được anh chép vào sổ tay văn học xoay quanh chủ đề này, trích từ những bài thơ như: “Bên kia sông Đuống” (Hoàng Cầm), “Khoảng trời - hố bom” (Lâm Thị Mỹ Dạ), “Bài thơ về hạnh phúc” (Dương Hương Ly), “Núi đôi” (Vũ Cao), “Tổ quốc nhìn từ biển” (Nguyễn Việt Chiến), “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?” (Chế Lan Viên)…

Chúc các em nắm vững kĩ năng cho mình nhé. Đây chỉ là một vài chia sẻ nho nhỏ thôi, nhưng mong rằng các em sẽ đón nhận.

Thương quý các em.

Anh: HOÀNG KHÁNH DUY.
Link: https://drive.google.com/open?id=1FJsnazfoiz11-E247LvvbR2s5F2EW7cF
TRANG THÍCH VĂN HỌC
🌿 ĐƯA #LÍ_LUẬN VÀO BÀI VIẾT NHƯ THẾ NÀO?

Một vài ví dụ để mọi người biết cách sử dụng kiến thức lí luận vào bài thi THPT QG. Đừng nghĩ rằng lí luận văn học chỉ dùng để đi thi HSG nhé, nếu làm được tốt điều này thì bài viết của bạn sẽ sâu sắc hơn rất nhiều và cũng mới mẻ hơn nữa đó. Kiến thức lí luận cơ bản thì về hiện thực, nhà văn và quá trình sáng tạo, phong cách nghệ thuật, ngôn ngữ...Mình sẽ lấy ví dụ và phân tích thử một vài tác phẩm dưới cách sử dụng lí luận văn học nhé♥️🌪🌬

❌1. Ngay từ mở bài mọi người đã có thể vận dụng lí luận được rồi. Mọi người đưa ra những vấn đề về nền văn học nước nhà, hay hiện thực sáng tạo, tình cảm nhà văn... đều được nhé. Mình ví dụ thử nè:
Ví dụ: "Nhà thơ xứ Daghestan Raxun Gamzatov đã từng viết với lòng biết ơn " Thơ ca nếu không có người tôi đã mồ côi". Thơ ca đã ra đời và song hành với nhân loại, như một phương tiện đắc lực và đầy xúc cảm, giúp con người bày tỏ nỗi niềm và đi sâu khám phá thế giới nội  tâm sâu kín, bí hiểm. Tôi chợt nhớ thi sĩ Xuân Quỳnh và bồi hồi hình dung nhà thơ ấy sẽ cô đơn biết bao nếu không thể trao gửi tâm tình vào nghệ thuật. Bài thơ "Sóng" là tất cả nỗi niềm của nội tâm sâu kín ấy. Là sóng biển, sóng lòng mà người con gái miền La Khê đã tha thiết gửi trao trong từng dòng, từng chữ....

=> Viết như thế này thì tránh đi việc nêu ra thơ ca về tình yêu đơn thuần rồi mới đi vào tác phẩm. Mà cũng rất bắt tai nữa đó🤪

❌2. Khi vào đến thân bài thì trước khi phân tích tác phẩm theo yêu cầu của đề bài thì mọi người cũng có thể sử dụng lí luận để tránh đi việc nêu ra hoàn cảnh ra đời một cách khô cứng nhé. Ví dụ vẫn là viết Tô Hoài lên Tây Bắc rồi có cảm hứng viết "Vợ chồng A Phủ" thì lí luận văn học sẽ biến nó trở thành như thế này:

Ví dụ: Mỗi tác phẩm nghệ thuật phải thực sự là "tiếng sáo thổi lòng thời đại, thành giao liên dẫn dắt đưa đường". Dường như ý thức rõ về điều này, nhà văn Tô Hoài trong những ngày tháng sống ở Tây Bắc đã viết nên " Vợ chồng A Phủ" . Áng văn là "tiếng sáo", là "giao liên" dẫn ta tới hiện thực cuộc sống lặng im Tây Bắc và cho chúng ta thấy những khát khao đẹp đẽ về tự do và hạnh phúc của con người.

- Khi viết thì mọi người cũng có thể sử dụng kiến thức về quan niệm nghệ thuật của các tác giả để bài viết có chiều sâu và phong phú hơn.

Ví dụ: Nguyễn Tuân từng muốn mỗi ngày đều có "cái say của rượu tân hôn", kì vọng mỗi trang đời là một trang nghệ thuật. Luôn luôn đổi mới cảm giác, nhận thức cũng như phương châm cảm thụ cái đẹp, ông coi đời là những  “ trang hoa” luôn mở dưới ánh sáng nghệ thuật mới. Và chuyến đi Tây Bắc của nhà văn sau Cách mạng là một " trang hoa" như thế. Để từ đây vẻ đẹp thiên nhiên và con người được mở ra " dưới ánh sáng nghệ thuật" của " Người lái đò Sông Đà"... ( diễn tiếp để vào phân tích)

_ Trong thân bài thì chú ý các đoạn phân tích câu thơ, câu văn đều dùng lí luận văn học được. Ví dụ: Khi phân tích đoạn thơ của Việt Bắc " Những đường Việt Bắc của ta...". Khi phân tích nhạc tính của nó xong thì viết thêm "Đọc những dòng thơ ấy tôi thấy bồi hồi xao xuyến và nhớ lại sinh thời Huy Cận ngợi ca:

" Yêu thơ thơ kể lại hồn ông cha
Đời bao tâm sự thiết tha
Nằm trong tiếng nói lòng ta thuở nào"
Để bài nó tự nhiên hơn và đưa ra mở rộng nó hợp lí ấy.

❌3. Sử dụng lí luận khi nâng cao khẳng định vấn đề:
Đừng vội vàng kết khi phân tích xong mà hãy nán lại để khẳng định bình luận chút đã. Đoạn này thì mọi người có thể viết về sinh mệnh văn chương, sức sống trường tồn của nó hay tài năng của nhà văn nhà thơ....

Ví dụ: Nếu như tương lai của một nhà văn được đánh giá qua văn học anh ta để lại như lời của Albert Camus thì tôi nghĩ Nguyễn Minh Châu có thể tự hào về những gì mà ông đã để lại cho đời. Trang sách của Nguyễn Minh Châu đã làm đúng công việc của một kẻ sĩ " nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ", làm đúng công việc của một kẻ sĩ luôn " quan hoài thường trực cho số phận con người". Chiếc thuyền ngoài xa sẽ tồn tại trong dòng văn học như một chân giá trị để cảnh tỉnh con người về cuộc đời đa sự, và giữ cho chúng ta một cách tiếp cận đời sống sâu sắc... đại ý là như vậy. Mọi người có thể thêm vào những cảm nhận của mình về tác phẩm ( đó là tiếp nhận văn học đấy ).

Mình mong là một số chia sẻ trên sẽ giúp mọi người viết NLVH chất lượng hơn =))) Chúc các bạn học văn luôn vui và thoải mái sáng tạo nhé🌪🌬
____
🌿 Gần đây, tớ có đọc được những bài viết rất hay ở Blog Chuyên Văn và nhóm Văn ôn võ luyện NTL. Những kiến thức ở đó, hầu hết đều mang tính nâng cao, phù hợp hơn với các bạn ôn Văn Chuyên.

Thích Văn học xin phép trích dẫn nguyên văn cả bài viết của Văn ôn võ luyện NTL nè, hy vọng nó hữu ích với các cậu!

#thichvanhoc
MỞ BÀI TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC..
#Hoàng_Khánh_Duy
Ở bài văn nói chung, bài nghị luận văn học nói riêng, mở bài có vai trò quan trọng. Đó chính là “cánh cổng đầy hoa hồng” khiến người ta muốn được bước vào khám phá bên trong khu vườn mà người thợ làm vườn xây dựng. Với chuyên đề này, tôi - Hoàng Khánh Duy - chia sẻ cùng các bạn một số vấn đề xoay quanh mở bài của bài nghị luận văn học.
1.Mở bài theo kiểu truyền thống
- Xưa nay, chúng ta vốn quen với kiểu mở bài truyền thống, nghĩa là đi từ tác giả - tác phẩm - vấn đề cần nghị luận. Trong đáp án đề thi của Bộ GD và ĐT cũng đưa ra những thông tin này. Đây là cách mở bài an toàn, ngắn gọn, dễ dàng, các em có thể tự tin có điểm phần này.
- Cần lưu ý:
+ Thông tin tác giả: không cần thiết phải nêu rõ năm sinh, năm mất, quê quán… Cái mà các em cần nhớ chính là vị trí của tác giả trong nền văn học + phong cách nghệ thuật. Câu “chìa khóa” các em có thể áp dụng cho mọi tác giả (văn học hiện đại Việt Nam) là: “Trong nền văn học Việt Nam, A là một gương mặt tiêu biểu có những tác phẩm độc đáo, để lại dấu ấn trong lòng người”.
Ví dụ một số thông tin quan trọng:
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc, nhưng phần đóng góp đặc sắc nhất của ông chính là thơ. Hồn thơ của Quang Dũng vừa hồn hậu, vừa phóng khoáng, vừa lãng mạn lại rất đỗi tài hoa…
Tố Hữu là cánh chim đầu đàn của văn nghệ Cách mạng Việt Nam. Thơ ông thể hiện lí tưởng, lẽ sống của con người Việt Nam hiện đại, nhưng cũng mang đậm tính dân tộc, truyền thống…
Nguyễn Tuân - người nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tìm “cái đẹp, cái thật” (Nguyễn Đình Thi). Ông là nhà văn có cái “ngông” độc đáo, vừa uyên bác, vừa tài hoa…
Kim Lân là nhà văn của người nông dân làng quê Bắc Bộ, một lòng đi về với “đất” với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn (chữ dùng của Nguyên Hồng)…
Xuân Quỳnh là nhà thơ trưởng thành trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Chị thường viết về những kí ức tuổi thơ, về thiên nhiên, gia đình và đặc sắc nhất chính là đề tài tình yêu. Thơ Xuân Quỳnh thể hiện những rung động sâu kín trong lòng người con gái giàu khát vọng: khát vọng hạnh phúc, khát vọng được yêu…
+ Các em có thể lưu ý một vài nhận định của nhà văn/ nhà lí luận phê bình khác về các tác giả, chẳng hạn:
Nguyễn Minh Châu - “người mở đường tinh anh và tài năng nhất” (Nguyên Ngọc).
Kim Lân - “văn Kim Lân tỏ ra độc đáo, hấp dẫn hơn về những cái gọi là thú đồng quê hay phong lưu đồng ruộng” (Nguyễn Đăng Mạnh).
Tô Hoài - “một trọng những tác gia lớn nhất của thế kỉ XX[…] thế hệ vàng của văn chương hiện đại, làm nên mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học thế kỉ XX” (Phong Lê).
Xuân Quỳnh - “thơ của một cánh chuồn chuồn bay đi tìm chỗ nương thân trong nắng nôi giông bão” (Chu Văn Sơn).
+ Thông tin tác phẩm: năm sáng tác, in trong tập, vị trí của bài thơ trong sự nghiệp của tác giả - trong nền văn học. (Hoàn cảnh sáng tác cụ thể nên đưa vào đoạn khái quát chung ở thân bài)
Chẳng hạn:
Tây Tiến - 1948 - “Mây đầu ô” - tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Quang Dũng.
Việt Bắc - 1954 - in trong tập “Việt Bắc” - chặng đường thơ của Tố Hữu trong những năm kháng chiến chống Pháp.
Đất Nước (NKĐ) - 1971 - trích từ trường ca “Mặt đường khát vọng” - một trong những đoạn thơ hay nhất viết về đề tài đất nước trong văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Mĩ.
Vợ chồng A Phủ - 1952 - in trong “Truyện Tây Bắc” - kết quả của chuyến đi của Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Tô Hoài trong mảng truyện viết về miền núi.
+ Những nhận định hay về tác phẩm, chẳng hạn:
Vợ chồng A Phủ - “Đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể nào quên. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi” (Tô Hoài tâm sự)
Vợ nhặt - “Khi đói, người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến đường sống […] vẫn muốn sống, sống cho ra người” (Kim Lân tâm sự)/ “Nhà văn đã dùng Vợ nhặt như cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng” (Trần Đồng Minh).
- Minh họa mở bài truyền thống:
Trong giai đoạn văn học hiện đại Việt Nam, Nguyễn Tuân là một cây bút xuất sắc. Ông là người nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tìm cái đẹp, đồng thời Nguyễn Tuân cũng có phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc. “Người lái đò sông Đà” là bài tùy bút nổi tiếng của Nguyễn Tuân in trong tập “Sông Đà”, xuất bản lần đầu năm 1960 - kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của nhà văn. Trong bài tùy bút, bên cạnh “chất vàng” của thiên nhiên núi sông Tây Bắc, nhà văn đặc biệt tìm tòi, làm nổi rõ “thứ vàng mười đã qua thử lửa” qua hình tượng người lái đò - một người lao động vô danh vùng núi cao Tây Bắc.
2.Mở bài hay, dùng thơ ca, ca từ bài hát… để dẫn dắt.
Đây là cách mở bài hay, sáng tạo, thoát khỏi khuôn mẫu cũ kĩ. Tuy nhiên các em thường lướt qua những thông tin quan trọng về tác giả, tác phẩm. Điều này rất dễ bị mất điểm! Vậy các em phải làm gì? Có hai cách:
+ Nếu lướt qua thông tin tác giả, tác phẩm ở mở bài thì nhất định phải đưa những thông tin này xuống phần khái quát - đoạn đầu thân bài.
+ Tôi hay gọi đây là sự thông minh, nghĩa là vừa mở bài gián tiếp, vừa dùng phép chêm xen (dấu “-”) để chú thích thông tin về tác giả, tác phẩm một cách gọn gẽ, súc tích nhất. Ví dụ:… Với chúng tôi, Tô Hoài - cây bút văn xuôi nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại - là cả một trời tuổi thơ với “Dế Mèn phiêu lưu kí”, và bây giờ…
- Nên chọn những đoạn thơ/ câu thơ/ ca từ bài hát… thật sự nổi tiếng và có sức sống lâu bền để dẫn dắt chứ không phải thích là chọn, cũng không nên chọn những ca từ bài hát “đình đám” để dẫn vào tác phẩm. Năm ngoái tôi còn thấy có bạn dùng lời bài hát: “Mặt trời kia dù ở đâu…” của ca sĩ Phương Ly để dẫn vào bài Sóng nữa. Bản thân tôi nghĩ: văn của anh sống được là nhờ cảm xúc. Nhưng anh cũng cân nhắc cái cảm xúc phải được gói trong kiến thức văn chương. Các em phải đặt cảm xúc đúng chỗ bài viết sẽ quá tuyệt vời, vả lại, nếu trong bài em có chọn thơ (hoặc bài hát ) để liên hệ với Sóng - và tất cả các tác phẩm khác thì em nên chọn bài thơ (tác phẩm nổi tiếng), phù hợp và đặt biệt là có “đủ trọng lượng” để so sánh với sóng vì thi phẩm này quá hay, sức sống lâu bền. Một số gợi ý của anh để em mở rộng, nâng cao trước khi kết bài là liên hệ với thơ ca của những tác giả cùng thời với Xuân Quỳnh như Phan Thị Thanh Nhàn (bài Hương thầm), Lâm Thị Mỹ Dạ, câu thơ “Hạnh phúc là gì bao lần ta lúng túng - Hỏi nhau hoài mà nghĩ vẫn chưa ra” của Dương Hương Ly... Và một bài viết phong phú, vừa có kiến thức sâu, vừa có cảm xúc thì làm sao mà ko được điểm cao cho được.
- Tôi xin phép một bạn có tên Facebook là Trang hỏi tôi thế này: Em nhờ anh cho ý kiến với mở bài của em một chút được không ạ? Mở bài Sóng : “Trong lồng ngực của mỗi người trẻ, trái tim vẫn còn mãi ngân rung, hát những khúc ca về tình yêu tươi xanh. Chiều nay, tôi ngang qua một quán cà phê cũ, lục lại tata cả những kỉ niệm về mối tình vừa thoáng bay đi trong phút chốc, rồi tôi chợt nhớ người. Những rung cảm về mối tình đầu vẫn khiến trái tim tôi hay yếu lòng đến vậy, rồi tôi tự hỏi mình:”Người đang ở nơi nao?”. Tôi rất thích đọc thơ tình trong những ngày tháng cô đơn chọn tôi làm bạn, không phải vì tôi đang cố trốn tránh sự thực mà chỉ bởi những vần thơ ấy luôn làm lưu luyến, đắm say lòng người. Hôm nay, tôi chọn đọc “Sóng” - chọn đọc một khúc ca tình yêu- “Cô gái 25tuổi” tràn đầy nhiệt huyết”.
Và tôi trả lời rằng: Thật ra cách mở bài này khá sáng tạo, tuy nhiên cái mở bài phải nêu được vấn đề cần nghị luận, tên tác giả - tác phẩm. Em nói “cô gái 25 tuổi” không sai, nhưng em cũng cần phải nói rõ là Xuân Quỳnh ra. Nghĩa là em cho thêm chút thông tin về tác giả, tác phẩm, dù không kĩ (kĩ thì em nêu phần giới thiệu chung đầu thân bài cũng được) nhưng ít nhiều phải có. Như vậy mở bài này sẽ trọn vẹn hơn. anh nhận thấy trong mở bài này có “cái tôi có phần tình tứ, lãng mạn” như cách viết của những tác giả Hamlet Trương, Trí, Iris Cao... Điều này là hợp lí vì em là một người trẻ cảm nhận tác phẩm văn học. Nhưng ở những phần sau, nếu cái tôi đó có được sử dụng thì em nên tiết chế. Vì dẫu sao mình cảm nhận văn chương cũng mang tính chất khoa học, khách quan. Cảm xúc được đặt để đúng chỗ thì bài viết sẽ OK. Vừa đảm bảo kiến thức vừa đảm bảo cảm xúc thì quá tuyệt vời rồi. Nếu em muốn sử dụng cái mở bài này khi Thi thì em nên thêm chút ít về tác giả và tác phẩm, dẫn dắt vấn đề rõ hơn. Còn chỉ dừng lại ở bấy nhiêu thì dễ bị mất điểm, tiếc lắm, nếu bài thi em rơi vào tay những GV có hơi hướng cổ điển hoặc GV chuyên mảng nghiên cứu, phê bình văn học.
- Minh họa mở bài:
“Đấy tình yêu em muốn nói cùng anh:
Nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng
Lòng tốt để duy trì sự sống
Cho con người thực sự Người hơn”
Trong thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ, ít có nhà thơ nào khao khát được yêu và muốn bùng cháy hết mình trong ngọn lửa yêu thương như Xuân Quỳnh. Trong khi những thi sĩ cùng thời ngại ngần khi nhắc chuyện lứa đôi: một nụ cười “thẹn thùng nép sau cánh cửa” hay cái nắm tay vội vàng; một tình yêu thầm kín ngồi bên nhau mà “nào ai đã một lần dám nói”, chỉ biết “nhờ hương thơm nói hộ tình yêu; tình cảm lứa đôi hòa lẫn trong tình yêu quê hương xứ sở, chia nhau vui buồn trong cuộc đời chiến đấu và rồi “em gọi đó là hạnh phúc”… Riêng Xuân Quỳnh táo bạo hơn, chị là nhà thơ của tình yêu và hạnh phúc đời thường. Thơ chị là tiếng lòng của người phụ nữ đang yêu sôi nổi, mãnh liệt. “Sóng” là bài thơ nổi tiếng của Xuân Quỳnh cho đến nay vẫn dạt dào trong tâm hồn người đọc. Bài thơ khắc đậm vẻ đẹp tâm hồn người con gái trong tình yêu với những giai điệu cảm xúc khác nhau để đến cuối cùng Xuân Quỳnh đưa ra quan niệm sống và yêu nhân văn, tích cực.
(Trích sách “Chiếm trọn điểm bài Nghị luận văn học” - Hoàng Khánh Duy).
Hay:
Có nơi nào như đất nước chúng ta
Viết bằng máu cả ngàn chương sử đỏ
Khi giặc đến vạn người con quyết tử
Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra…
Đất nước chúng ta – đất nước của những anh hùng không bao giờ chịu khuất phục trước quân thù, của bao thế hệ người mang dòng dõi con Rồng cháu Tiên cao quý. Khi giặc xâm lăng, dân tộc ta lại trỗi dậy, hóa thành làn sóng mạnh mẽ xua đuổi quân thù. Khi giặc tan rồi, nhân dân ta lại hết lòng ngợi ca, gìn giữ vẻ đẹp của non sông gấm vóc. Trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa vực dậy hình hài đất nước trong văn học nghệ thuật, khám phá sự hình thành của đất nước qua những phương diện khác nhau không trùng lắp với những nhà thơ trước đó, qua đó thúc giục lòng yêu nước nồng nàn, cổ vũ nồng nhiệt thế hệ trẻ đô thị vùng bị tạm chiếm xuống đường hòa cùng cuộc kháng chiến chống Mĩ. Điều đó được thể hiện cụ thể mà xúc động qua trích đoạn “Đất Nước” (trích trường ca “Mặt đường khát vọng”, sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị - Thiên). Cái hay, cái riêng của Nguyễn Khoa Điềm chính là việc sử dụng chất liệu văn hóa, văn học dân gian và đưa vào thơ ca hiện đại một cách nhuần nhuyễn, hợp lí, dễ đi vào lòng người. Đây là một đóng góp to lớn của Nguyễn Khoa Điềm trong giai đoạn thơ ca thời kháng chiến chống Mĩ xâm lược.
(Trích Tài liệu của Hoàng Khánh Duy)
- Mở bài bằng đề tài, ví dụ:
Tình yêu vốn là đề tài muôn thuở của nhân loại. Thời đại nào người ta cũng lao đao kiếm tìm một nửa của đời mình, khi tình yêu đến, người ta lao vào yêu đến cuồng nhiệt đắm say. Có những cuộc tình trọn vẹn, đôi lứa nên duyên vợ chồng. Nhưng cũng có những cuộc tình vỡ tan chóng vánh để lại những vết thương vô hình không bao giờ lành lặn trong trái tim mỗi người. Trong văn chương, đã từng có nhiều bài thơ nói đến tình yêu lứa đôi, khám phá những cung bậc cảm xúc trong lòng khi người ta hòa mình vào tình yêu nồng đượm. Thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mĩ xuất hiện cái tên Xuân Quỳnh – nữ hoàng thơ tình, người phụ nữ giàu yêu thương, luôn khát khao tình yêu, trân trọng nâng niu những hạnh phúc bình dị đời thường nhưng cũng không tránh khỏi những trăn trở, âu lo. “Sóng” là thi phẩm xuất sắc của Xuân Quỳnh nói riêng, của thơ tình yêu Việt Nam nói chung. Đọc “Sóng”, độc giả nhận ra hình tượng “cái tôi trữ tình” hiện lên thấp thoáng trong câu từ mượt mà, duyên dáng. Đó là cái tôi có khát vọng sống, khát vọng yêu chân thành mãnh liệt. Song, đó cũng là cái tôi nhạy cảm, day dứt về giới hạn của tình yêu, sự hữu hạn của kiếp người.
(Trích Tài liệu của Hoàng Khánh Duy)
3.Mở bài bằng kiến thức lí luận văn học
Đối với đề bài này, các em cần chuẩn bị những kiến thức lí luận văn học quan trọng, phổ thông như: Hình tượng văn học, Văn học - nghệ thuật ngôn từ, Nhân vật văn học, Chức năng văn học… Hay một số câu nói, nhận định cụ thể của các nhà văn, nhà lí luận phê bình về đặc trưng của văn chương để dẫn vào tác phẩm. Đây là cách mở bài cực kì hay và tôi rất thích. Dĩ nhiên là tôi thường sử dụng nó trong các mở bài của mình vì nó đảm bảo độ sâu cho bài văn, thể hiện sự am hiểu lí luận văn học, trình độ của các em. Đây cũng là cách các em tự phân hóa mình với những bạn khác.
- Lưu ý: khi đưa nhận định vào phần mở bài, các bạn chỉ nên giới thiệu hoặc cùng lắm là tóm tắt sơ lược hết mức có thể về nội dung chứ đừng sa vào giải thích cụ thể ở phần mở bài như cách các bạn giải thích nhận định của dạng đề Bàn về một ý kiến xoay quanh tác phẩm.
- Ví dụ:
Trong “Mấy ý nghĩ về thơ”, nhà thơ Nguyễn Đình Thi khẳng định: “Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nổ những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, toả ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy”. Thơ ca quả thật kì diệu đến vậy. Bằng ngôn từ nghệ thuật, thơ đã mở ra trước mắt ta biết bao hình ảnh đẹp, mở ra trong lòng ta những cảm xúc lạ kì khiến tim ta rung động, mắt ta ngỡ ngàng như vừa chạm phải một điều gì rất thực. “Sóng” - bài thơ tiêu biểu cho đề tài tình yêu của Xuân Quỳnh đã làm được điều đó. Nhà thơ đã gợi ra trong ta những cung bậc cảm xúc trong tâm hồn người con gái đang yêu bằng sự kì diệu của ngôn từ nghệ thuật.
4.Ngoài ra, các em có thể mở bài bằng kiến thức văn học sử, chẳng hạn:
Mở bài cho Người lái đò sông Đà:
Những năm 1958 - 1960, cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc đã khoác lên mảnh đất này một màu sắc mới, sức sống mới. Miền Bắc đang từng ngày đổi thay trên hành trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, con người miền Bắc phơi phới, tin cậy, mơ ước, chan hòa với cuộc đời. Cảm hứng đẹp về chủ nghĩa xã hội khơi nguồn cho những sáng tác mang tính cổ vũ, động viên nhân dân chung tay xây đắp quê hương. “Sông Đà” của Nguyễn Tuân là bức tranh sinh động về thiên nhiên và con người lao động Tây Bắc qua ngòi bút tràn đầy cảm hứng lãng mạn…
(Trích sách “Chiếm trọn điểm bài Nghị luận văn học” - Hoàng Khánh Duy)
5.Lỗi thường gặp của học sinh khi mở bài:
- Không nêu rõ vấn đề cần nghị luận (Vấn đề nằm trên đề bài)
- Mở bài ngắn, sơ sài.
- Mở bài dài, “lấn sân” sang phân tích, diễn giải.
* Lưu ý: dạng đề cảm nhận về đoạn văn, đoạn thơ có dẫn ngữ liệu trên đề. Có hai cách để đưa vấn đề cần nghị luận (tức là đoạn thơ/ văn) vào mở bài:
- Chép nguyên văn đoạn thơ nếu khoảng 4 - 8 dòng thơ, đoạn văn nếu khoảng 4 - 5 dòng. Trường hợp ngữ liệu dài, các em có thể chép câu đầu, ba chấm, câu cuối. Không ai trừ điểm phần này đâu.
- Tóm tắt nội dung đoạn văn/ thơ, đưa vào mở bài.
Chúc các em viết được những mở bài hay cho mình nhé!
HOÀNG KHÁNH DUY
(Đồng hành cùng 2k2 - môn Văn)


KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Quan điểm/ quan niệm sáng tác

+ Là gì:

- Chỗ đứng, điểm nhìn để nhà văn sáng tác.

- Phải được hiện thực hoá trong quá trình sáng tác.

- Được phát biểu trực tiếp hay thể hiện gián tiếp qua các tác phẩm.

- Nhà văn nào cũng có quan điểm/quan niệm sáng tác nhưng để tạo thành một hệ thống có giá trị thì không phải ai cũng làm được.

+ Vai trò:

- Chi phối toàn bộ quá trình sáng tác (lựa chọn đề tài, hình tượng, lựa chọn lối viết, các hình thức nghệ thụât...)

- Phần nào thể hiện tầm tư tưởng của nhà văn.

+ Ví dụ: Quan điểm sáng tác của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh: Văn học là vũ khí lợi hại phục vụ sự nghiệp cách mạng, nhà văn là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hoá tư tưởng.

+ Ứng dụng:

Phân tích quan điểm sáng tác của một nhà văn (Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Nam Cao…).

2. Phong cách nghệ thuật

+ Là gì:

Là nét riêng có tính hệ thống trong sáng tác của một nhà văn

+ Đặc điểm:

- Thiên về hình thức nghệ thuật.

- Có sự thống nhất và vận động trong quá trình sáng tác của nhà văn.

+ Vai trò:

- Là một trong những điều kiện quan trọng để đánh giá vị trí, tài năng của nghệ sĩ. Một nhà văn lớn phải là nhà văn có phong cách.

- Thể hiện bản chất của văn chương: hoạt động sáng tạo.

+ Ví dụ:

- Phong cách nghệ thuật Xuân Diệu: Thơ dù viết về đề nào cũng nồng nàn thao thiết niềm giao cảm với đời. Tư tưởng nghệ thuật độc đáo này được chuyển hoá vào hệ thống các phương tiện biểu hiện mới mẻ (bút pháp tương giao; ngôn ngữ rất Tây, tinh tế; cách cấu tứ theo sự vận động của thời gian cùng giọng điệu thơ đa dạng, phong phú đủ để tái hiện những cung bậc, những biến thái tinh vi nhất, chân xác nhất của thế giới cũng như tình cảm con người).

- Phong cách nghệ thuật Tố Hữu: mang tính chất thơ trữ tình chính trị sâu sắc; đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn; giọng điệu tâm tình ngọt ngào tha thiết; đậm đà tính dân tộc

- Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác; cảm quan sắc nhọn phong phú; chữ nghĩa giàu có; tuỳ bút tài hoa...=> “Ngông”.

+ Ứng dụng

Phân tích phong cách nghệ thuật của một tác giả (Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Nguyễn Tuân, Tố Hữu, Nam Cao, Xuân Diệu…)

3. Tình huống trong truyện ngắn

+ Là gì:

- Là lát cắt của đời sống mà qua đó tính cách nhân vật được bộc lộ sắc nét nhất và tư tưởng nhà thể hiện rõ nhất.

“Là một lát cắt, một khúc của đời sống. Nhưng qua lát cắt, qua khúc ấy người thấy được trăm năm của đời thảo mộc” (Nguyễn Minh Châu)

- Biểu hiện qui luật có tính nghịch lí trong sáng tạo nghệ thuật: qui mô nhỏ nhưng khả năng phản ánh lớn.

+ Vai trò:

- Khắc hoạ tính cách nhân vật, thể hiện tư tưởng nghệ sĩ.

- Xuất phát từ đặc trưng truyện ngắn: dung lượng nhỏ, thể hiện nhân vật qua một khoảnh khắc ngắn ngủi của đời sống (tiểu thuyết: dài, theo sát toàn bộ cuộc đời, số phận nhân vật…) => Tình huống phải giống như thứ nước rửa ảnh làm nổi lên hình sắc nhân vật và tư tưởng nhà văn => Xây dựng được tình huống truyện độc đáo là dấu hiệu của:

• Một tác phẩm có giá trị

• Một tác giả tài năng.

+ Ví dụ: tình huống đợi tàu ám ảnh (Hai đứa trẻ), tình huống cuộc gặp gỡ đầy éo le, oái oăm giữa quản ngục và Huấn Cao (Chữ người tử tù), tình huống nhận thức (Chiếc thuyền ngoài xa)…

+ Ứng dụng:

Phân tích tình huống truyện trong: Chiếc thuyền ngoài xa, Vợ nhặt, Chữ người tử tù,…

4. Các giá trị văn học

+ Mô tả: có 3 giá trị cơ bản của văn học

- Giá trị nhận thức:

• Mang tới cho bạn đọc những tri thức sâu rộng về thế giới

• Giúp con người khám phá, nhận thức, thấu hiểu sâu sắc chính bản thân mình.

- Giá trị giáo dục

• Đem đến những bài học quí giá về lẽ sống

• Về tư tưởng: Hình thành cho con người những tư tưởng tiến bộ, có thái độ và quan điểm sống đúng đắn.

• Về tình cảm: Giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, tâm hồn trở nên lành mạnh, trong sáng.

- Giá trị thẩm mĩ:

• Nội dung:

 Vẻ đẹp muôn hình vẻ của cuộc đời

 Vẻ đẹp bản thân con người.

• Hình thức: những biện pháp, thủ pháp xây dựng hình tượng nghệ thuật sinh động, giàu sức gợi.

- Mối quan hệ của 3 giá trị:

• Giá trị nhận thức: tiền đề của giá trị giáo dục.

• Giá trị giáo dục: làm sâu sắc hơn giá trị nhận thức

• Các giá trị nhận thức và giá trị giáo dục đều được phát huy tích cực nhất qua giá trị thẩm mĩ.

+ Ví dụ:

Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu mở rộng phạm vi nhận thức về một hiện thực bề bộn, phức tạp thời hậu chiến với những nghịch lí đầy ngang trái, đồng thời khám phá vẻ đẹp bên trong người đàn bà tưởng như chỉ biết cam chịu, khơi gợi ở bạn đọc một thái độ sống, một cách nhìn cuộc đời sâu sắc, tỉnh táo hơn thông qua những hình ảnh có tính chất biểu tượng, qua lối kể chuyện đa dạng.

+ Ứng dụng:

Đánh giá giá trị của một tác phẩm văn học.

5. Nhà văn – văn bản – bạn đọc

+ Nhà văn: người sáng tạo ra văn bản => thực hiện quá trình kí mã => Ý đồ nghệ thuật, cách lí giải của nhà văn về văn bản chỉ là một khả năng hiểu văn bản.

+ Bạn đọc: ngưòi tiếp nhận văn học => thực hiện quá trình giải mã.

+ Văn bản: là một bộ mã, có thể chấp nhận nhiều cách giải khác nhau nhưng phải phù hợp với các mã đã được nhà văn kí gửi.

6. Hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ

+ Mô tả (so sánh với hình tượng nhân vật trong tác phẩm tự sự)

Hiện ra qua giọng điệu, trạng thái tâm hồn, cảm xúc (nhân vật trong tác phẩm tự sự: có diện mạo, tính cách, hành động cụ thể)

+ Phân loại:

- Xét sự xuất hiện của tác giả trong tác phẩm:

• Cái tôi trữ tình: tác giả

• Nhân vật trữ tình nhập vai: khi tác giả hoá thân vào nhân vật khác trong tác phẩm.

- Xét về vai trò:

• Chủ thể trữ tình (người trực tiếp bộc lộ cảm xúc)

• Đối tượng trữ tình: đối tượng hướng tới của tâm trạng chủ thể trữ tình

+ Ví dụ:

- “Tảo giải” (Giải đi sớm) khắc hoạ hình tượng nhân vật trữ tình Hồ Chí Minh - chủ thể trữ tình, cái tôi trữ tình với vẻ đẹp tâm hồn nghệ sĩ và vẻ đẹp tinh thần chiến sĩ.

- “Sóng”: xây dựng hình tượng nhân vật trữ tình “sóng” – nhân vật trữ tình nhập vai, đối tượng trữ tình mang vẻ đẹp của khao khát tình yêu thuỷ chung, nồng nàn, mãnh liệt.

+ Ứng dụng:

Phân tích hình tượng nhân vật trữ tình trong một bài thơ.

7. Giá trị hiện thực

+ Là gì:

- Phạm vi hiện thực đời sống mà tác phẩm phản ánh.

- Tác phẩm nào cũng có giá trị hiện thực. (Vì văn học bắt nguồn từ cuộc sống: hiện thực đời sống sinh hoạt hàng ngày, hiện thực tình cảm, tâm lí…)

+ Biểu hiện:

Hiện thực phản ánh trong tác phẩm thì vô cùng đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, nói đến giá trị hiện thực trong một tác phẩm văn học người ta thường đề cập 3 nét chính:

- Phơi bày chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi khổ về vật chất hay tinh thần của những con người bé nhỏ, bất hạnh.

- Chỉ ra nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người.

- Miêu tả tinh tế vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người.

Ở mỗi một tác phẩm cụ thể, giá trị hiện thực được biểu hiện đa dạng. Cùng phản ánh tình cảnh khốn quẫn của người nông dân Việt Nam trước cách mạng, Ngô Tất Tố miêu tả nỗi chật vật về vật chất của chị Dậu vì nạn sưu cao thuế nặng, một cổ nhiều tròng, Nguyễn Công Hoan phơi bày chân thực sự cùng đường tuyệt lộ của người nông dân (“Bước đường cùng”), Nam Cao lại đi vào mảng hiện thực sâu kín nhất, tăm tối nhất – địa hạt tâm lí để lột trần bi kịch bị tha hoá, nỗi đau tinh thần khắc khoải của những con người dưới đáy của xã hội – Chí Phèo.

+ Vai trò:

- Thể hiện cái nhìn hiện thực sâu sắc hay hời hợt của nhà văn.

- Dấu hiệu của một tác phẩm có giá trị.

+ Ứng dụng:

- Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm. (Chí Phéo, Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt…)

- Phân tích nhân vật làm rõ giá trị hiện thực mới mẻ và độc đáo trong một tác phẩm. (nhân vật Chí Phèo, nhân vật Mị, nhân vật người phụ nữ vợ nhặt…)

8. Giá trị nhân đạo

+ Là gì:

- Hạt nhân: lòng yêu thương con người.

- Đối tượng: thường là nỗi khổ.

+ Biểu hiện: 3 khía cạnh cơ bản.

- Cảm thông với số phận đau khổ của những con người nhỏ bé, bất hạnh.

- Tố cáo các thế lực gây ra đau khổ cho con người.

- Phát hiện, khám phá và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn trong những con người bất hạnh.

Ở mỗi tác phẩm khác nhau, những khía cạnh có sự biến đổi phong phú, linh hoạt. Chẳng hạn, cùng viết về người phụ nữ với cái nhìn trân trọng, yêu thương sâu sắc, Ngô Tất Tố khám phá ở Chị Dậu vẻ đẹp truyền thống, thuỷ chung, không tì vết; Kim Lân phát hiện ra nét nữ tính và khát vọng hạnh phúc bất diệt trong tâm hồn người vợ nhặt, còn Tô Hoài thì khơi tìm sức sống tiềm tàng, mãnh liệt nơi cô gái vùng cao - Mị…

+ Vai trò:

- Thể hiện tầm vóc tư tưởng của nhà văn

“Nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ” (Biêlinxki)

- Là một trong những dấu hiệu của một tác phẩm giàu giá trị (Văn học là nhân học. Nghệ thuật chỉ có nghĩa khi hướng tới con người, yêu thương con người).

+ Ứng dụng:

- Phân tích giá trị nhân đạo trong một tác phẩm (Vợ nhặt, Vợ chồng A Phủ, Chí Phèo…)

- Làm rõ giá trị nhân đạo độc đáo và mới mẻ của một tác phẩm qua việc phân tích nhân vật (Phân tích nhân vật Tràng, phân tích nhân vật Mị, phân tích nhân vật Chí Phèo…)

+ Mối quan hệ giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo:

- Gắn bó hài hoà trong một tác phẩm.

- Các khía cạnh biểu hiện nhìn chung tương đồng chỉ khác biệt ở chỗ: nếu nói giá trị hiện thực là nhắc tới sự trình bày, miêu tả hiện thực một cách tương đối khách quan thì nói tới gía trị nhân đạo tức là đã bao hàm thái độ của nhà văn (cảm thông, thương xót, đồng tình, ngợi ca…)

BÀI VIẾT THAM KHẢO

Bình luận quan niệm của J.Paul. Sartre:

“Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận động. Muốn làm cho nó xuất hiện, cần phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng”

1. Nhiều năm trở lại đây, vấn đề tiếp nhận tác phẩm không chỉ là mối quan tâm của lí luận văn học mà còn là đối tượng của rất nhiều khoa học nghiên cứu văn học. Bình luận và phân tích quan niệm của J.Paul.Sartre trên cơ sở ngôn ngữ học hiện đại cho chúng tôi những kiến giải sâu sắc.

2. Nếu như vai trò sáng tạo của nhà văn có lịch sử nghiên cứu khá đầy đặn thì vai trò của người đọc, bản chất của quá trình tiếp nhận văn học dẫu đã được “canh tác” ít nhiều vẫn còn là mảnh đất khá màu mỡ, mời gọi khám phá.

Lấy mối quan hệ tác giả - tác phẩm - bạn đọc làm căn cốt, xưa nay có nhiều ý kiến khác nhau về yếu tố trung tâm của hoạt động văn học.

Trước đây, có một quan niệm đã trở thành quán tính trong nghiên cứu phê bình: lấy tác giả cùng cá tính sáng tạo làm trung tâm. Nó xem nhẹ vai trò của bạn đọc và quá trình tiếp nhận.

Ý tưởng của nghệ sĩ là nòng cốt, là “chỉ dẫn của Chúa” để soi đường cho những tín đồ văn chương mải miết đi tìm chân lí. Tiếp nhận được xem như một nỗ lực phóng chiếu tinh thần nghệ sĩ vào tác phẩm, truy tìm ánh xạ tâm hồn nhà văn trong bề mặt ngôn ngữ, văn bản.

Theo đó, phê bình cố gắng lần tìm theo lối người viết đã đi để dựng lại một tác phẩm văn học duy nhất trong ý đồ sáng tạo. Hướng nghiên cứu phổ biến và lí tưởng một thời là tiếp cận trực tiếp với tác giả, khai thác địa đồ nhà văn đã phác thảo, lí giải tác phẩm bằng chỉ dẫn trực tiếp.

Vấn đề đặt ra: làm cách nào để tìm hiểu các tác phẩm khuyết danh, các sáng tác của các nhà văn không đồng thời với chúng ta hay nhà văn đã mất? Nếu tác giả không để lại bất kì chỉ dẫn nào ngoài văn bản thì có nghĩa chiếc chìa khoá đi vào văn bản mãi mãi bị vùi lấp.

Xem tác phẩm văn học “như một quá trình”, các nhà nghiên cứu đã phục nguyên vai trò của bạn đọc.

Chúng tôi quan tâm tới phân tích của hai tác giả Nguyễn Lai và Bùi Minh Toán trên góc độ ngôn ngữ học.

GS.Nguyễn Lai trong bài viết “Về quá trình tiếp nhận văn học” có đưa ra 5 luận điểm quan trọng:

 Nói đến quá trình tiếp nhận văn học, thoạt tiên ta nghĩ ngay tới “sản phẩm” được làm ra. Theo cách đó, sản phẩm chưa qua tay người tiêu dùng thì mới ở dạng tiềm năng. Do vậy, năng động chủ quan của người tiếp nhận là cánh cửa đầu tiên để ta có thể đi vào ngôi nhà tạo nghĩa của quá trình tiếp nhận văn học.

 Chủ thể hoạt động biến “thành phẩm” thành tác phẩm.

 Sự khác nhau giữa kí hiệu thẩm mĩ và hình tượng thẩm mĩ. Tuy cùng là những gợi dẫn thẩm mĩ, nhưng ở hình tượng tượng thẩm mĩ, tính năng động chủ quan của chủ thể phát huy cao độ và phát huy với thế hoàn toàn chủ động. Từ ngữ, kí hiệu thẩm mĩ chỉ là phương tiện của quá trình gợi dẫn. Trong luận điểm này, tác giả cũng phân tích quá trình chuyển mã từ mã ngôn ngữ sang mã hình tượng.

 Quá trình tác động một cách có qui luật của tác phẩm nghệ thuật đối với người tiếp nhận.

 Mối quan hệ giữa người tiếp nhận với tác phẩm và xã hội thông qua ngôn ngữ.

Coi hoạt động văn học như là hoạt động giao tiếp, GS Bùi Minh Toán xem xét quá trình tiếp nhận văn học trên hai khía cạnh.

 Vai trò của người đọc trong quá trình tiếp nhận.

 Vai trò của người đọc trong chính hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ.

Trong quá trình sáng tạo của nhà văn, độc giả có vai trò nhất định, chi phối quá trình sáng tạo và chi phối cả nội dung, hình thức của tác phẩm.

Trong quá trình tiếp nhận, độc giả có vai trò đồng sáng tạo. Tác phẩm là một bộ mã, nhà văn là người kĩ mã, bạn đọc giải mã.

3. Như vậy, ở Việt Nam, quan niệm về quá trình tiếp nhận và vai trò của bạn đọc đã được thấu thị qua những lăng kính khoa học đáng tin cậy. Dễ dàng nhận thấy những luận điểm đó khá gần gũi với nhận định của J.Paul.Sartre.

“Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận đông. Muốn làm cho nó xuất hiện, cần phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng”.

Trước hết, Sartre nhận xét tác phẩm văn học không phải là cái hoàn tất cố định sau quá trình thai nghén của nhà văn mà luôn luôn vận động biến đổi như “con quay kì lạ”. Tác phẩm chỉ hiện tồn “trong vận động”.

Dường như, ở đây có một cuộc đối thoại ngầm với các quan điểm cho rằng tác phẩm là cố định, duy nhất, chỉ phụ thuộc vào ý đồ của nhà văn ( đã phân tích ở trên). Vận động là điều kiện thiết yếu để tác phẩm có thể xuất hiện, là đời sống đích thực của tác phẩm.

Vậy cơ chế nào cho sự vận động của văn bản nghệ thuật? Ông khẳng định “cần có hoạt động cụ thể là sự đọc”, đồng thời tiếp tục nhấn mạnh vai trò của sự đọc hay cũng chính là vai trò của độc giả “tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục.

Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng”. Như vậy sự đọc có ý nghĩa sống còn đối với sức sống của tác phẩm. Không được độc giả tiếp nhận, tác phẩm chỉ là những “vệt đen trên giấy trắng” – những con chữ vật lí vô cảm, vô hồn. Sự đọc là máu để biến một thể xác vật chất (văn bản) thành một sinh thể có xúc cảm, có vui buồn, có trăn trở.

Tóm lại, J.Paul.Sartre sử dụng cách nói quá để nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của tiếp nhận đối với đời sống văn học. Vô hình chung, tác giả đã xem văn học là hoạt động giao tiếp, là một quá trình.

Dễ dàng nhận thấy dấu ấn triết học hiện sinh trong nhận định này. Sự vật hiện tượng tồn tại trong thế giới ở hình thức cá thể, hiện thực với sinh hoạt hàng ngày. Cho nên, tác phẩm văn học là một sản phẩm tinh thần, được cụ thể bằng dạng vật chất (văn bản ngôn từ), cũng chỉ có ý nghĩa trong đời sống của nó – sự đọc. Được viết ra từ những ẩn ức của nhà văn nhưng để hướng tới độc giả, nhân loại nói chung, tách khỏi sự đọc, tác phẩm chỉ là cái xác vô hồn.

Khẳng định ý nghĩa của sự đọc không có nghĩa phủ nhận vai trò của nhà văn và quá trình sáng tạo. “Con quay kì lạ” dẫu biến ảo, vận động về đâu cũng cần có một trục trụ duy nhất để cân bằng. Ấy là những chỉ dẫn nghệ thuật, những tín hiệu thẩm mĩ mà nhà văn dày công xây dựng trong tác phẩm. Tác phẩm là một quá trình, Sartre nhấn mạnh vào quá trình thứ hai – giải mã. “Tác phẩm chỉ có thể kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục” .

So sánh quan niệm của Sartre với luận giải của Nguyễn Lai, Bùi Minh Toán (đã nên ở trên), có thể thấy sự tương đồng rõ nét. Nếu Sartre cho rằng thiếu sự đọc, tác phẩm chỉ là “những vệt đen trên giấy trắng” thì Nguyễn Lai coi văn bản được nhà văn sáng tạo ra mới chỉ ở dạng “tiềm năng”.

Tiềm năng ấy chỉ được hiện thực hóa thông qua quá trình giải mã tín hiệu thẩm mĩ dựa trên sự tác động có qui luật của văn bản lên người đọc. Bùi Minh Toán phân tích chỉ rõ vai trò của độc giả một cách toàn diện. Như vậy, từ những so sánh này, có thể khẳng định:

 Quá trình văn học được tạo thành từ quá trình sáng tác (của nhà văn) và quá trình tiếp nhận (của người đọc). Nó có tính liên tục, quan hệ chặt chẽ, không tách rời bởi hạt nhân – văn bản.

 Trung tâm của quá trình văn học là văn bản. Nhà văn tạo ra văn bản đồng nghĩa với việc sáng tạo những tín hiệu thấm mĩ, thực hiện quá trình kí mã (chuyển ngôn ngữ tự nhiên thành ngôn ngữ nghệ thuật). Đến lượt mình, độc giả thực hiện việc giải mã.

Ý đồ của nhà văn chỉ là một khả năng tồn tại của tác phẩm. Mỗi người đọc, bằng nền tảng văn hóa, tâm lí, trình độ thụ cảm riêng lại tạo ra vô vàn khả năng khác cho văn bản.

Xét ở góc độ này, văn bản có tính độc lập tương đối với nhà văn và bạn đọc. Cái trục của “con quay kì lạ” chính là những chỉ dẫn nghệ thuật thông qua hệ thống tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm.

 Đời sống của tác phẩm không phải tính bằng thời gian nhà văn thai nghén ra nó. Có những sản phẩm nghệ thuật mới ra đời đã chết yểu và mãi mãi không phục sinh vì thiếu vắng độc giả. Lại có những tác phẩm cổ xưa vẫn dồi dào sức sống nhờ quá trình thụ cảm còn tiếp tục.

Thực tế đời sống văn học cho thấy quan niệm của Sartre là hoàn toàn có lí.

Truyện Kiều – sản phẩm của “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” của Nguyễn Du khai sinh cách đây mấy nghìn năm vẫn còn mời gọi khám phá, tạo ra biết bao cách cảm nhận và tranh luận khác nhau. Nguyễn Du đã mất nhưng sinh mệnh nghệ thuật Truyện Kiều dường như bất tử. Mối thế hệ bạn đọc, với nền tảng văn hóa, tinh thần khác nhau lại giải mã tác phẩm theo một cách khác bằng một thái độ riêng.

Có thời, người ta đặt Truyện Kiều lên bàn cân tư tưởng phong kiến để đánh giá vị trí của tác phẩm. Dùng quan điểm xã hội học, áp đặt những yếu tố bên ngoài để nhận xét mà không căn cứ vào ngôn từ, mọi nhận định cơ hồ đều đi vào phiến diện, bế tắc.

GS Trần Đình Sử, dựa trên cơ sở ngôn ngữ học, phân tích các tín hiệu thẩm mĩ đã rút ra những luận điểm chính xác về Thi pháp Truyện Kiều, gợi mở cho chúng ta thấy cách tiếp cận trục trụ của “con quay kì lạ” chính là ngôn từ nghệ thuật.

Tính độc lập tương đối của văn bản khiến cho nhiều khi bạn đọc có thể phát hiện những nét mới ngoài ý đồ sáng tạo của nhà văn. Kim Lân từng bất ngờ khi trong kì thi ĐH, khối D, năm 2005, có một học sinh được điểm 10 khám phá ra một điều mà ông chưa bao giờ dụng công trong xây dựng phẩm chất anh cu Tràng (sự hiếu thảo với bà cụ Tứ). Người đọc từ một bộ mã mà nghệ sĩ đã kí gửi – văn bản có thể giải theo nhiều cách khác nhau, tạo ra những khả năng thụ cảm phong phú.

Sáng tạo văn học đồng nghĩa với việc thiết kế những tín hiệu thẩm mĩ. Đó là những chỉ dẫn nghệ thuật người đọc dù tạo ra bao nhiêu khả năng cho tác phẩm vẫn phải tụ phát từ trục quay này.

Chẳng hạn, tín hiệu thẩm mĩ “mặt chữ điền” (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc Tử) có thể hiểu là khuôn mặt của người con trai – tác giả hoặc khuôn mặt của người con gái soi qua trái tim nhớ thương da diết của thi sĩ. Dẫu hiểu theo cách nào cũng cần đặt trong hệ thống – nghĩa là gắn với văn cảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” để thấy được nét đẹp của con người Vĩ Dạ và niềm hoài mong đau đáu của Hàn Mạc Tử.

Tương tự như thế, cặp hình tượng “non – nước” ở “Thề non nước” của Tản Đà mang tính đa nghĩa: vừa là hai vật thể thiên nhiên với qui luật muôn đời, vừa là người con trai và người con gái nhớ thương trong xa cách, vừa là đất nước bị cắt chia đầy xa xót nhưng tất cả đều mang một trạng thái cảm xúc chung.

Hồ Chí Minh khi cầm bút đều đặt ra bốn câu hỏi: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào? Người đọc như vậy còn có vai trò chi phối quá trình sáng tạo của nhà văn.

Văn bản thì duy nhất nhưng tác phẩm xét ở chừng mực nhất định là bất tận. Tác phẩm có thể chỉ được tạo ra trong một khắc, nhưng sinh mệnh của nó là bất tử (đối với các kiệt tác). Độc giả chính là thước đo giá trị đích thực của một tác phẩm văn học. Quan niệm hiện sinh của J.Paul.Sartre xét cho cùng đã đạt đến bản chất tồn tại của tác phẩm văn học.

THƯ MỤC THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân. 150 thuật ngữ văn học. NXB ĐHQG. 1998.

2. Đỗ Hữu Châu. Một số luận điểm về cách tiếp cận ngôn ngữ học các tác phẩm văn học. Tạp chí ngôn ngữ, số 2, 1990.

3. Nguyễn Lai. Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học. NXB GD. 1996.

4. Phương Lựu. Lí luận văn học. NXBGD. 2003.

5. Khrap-chen-kô. Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học. NXB Tp HCM. 1978

6. Jean-Paul Sartre - Nỗi đam mê làm người trong thế kỷ (nguồn: evan.com.vn)

7. Trần Đình Sử. Thi pháp Truyện Kiều. NXB GD. 2002

8. Nguyễn Thuỳ. Viết văn, Đọc văn: "Đối thoại với chính mình, với người" (nguồn: dactrung.net)

9. Bùi Minh Toán. Tập bài giảng chuyên đề Ngôn ngữ và văn học. 2009.

Đỗ Thị Thúy Dương
CHI TIẾT NGHỆ THUẬT VÀ CẢM NHẬN CHI TIẾT NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG.
---------
1. Khái niệm
Không phải ngẫu nhiên mà văn hào vĩ đại người Nga Macxim Gorki từng phát biểu: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Hơn ai hết, tác giả những thiên truyện viết ra từ trường đại học cuộc sống, người được coi là “cánh chim báo bão của cách mạng Nga”, “nhà văn của những người chân đất” là người hiểu rõ tầm quan trọng của những chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương. Tương quan đối lập trong câu nói trên đã khẳng định: Cái làm nên tầm vóc của nhà văn không hẳn là quy mô tác phẩm mà chính là “chi tiết” – yếu tố đôi khi được coi là nhỏ, là vặt vãnh... Chi tiết nghệ thuật không chỉ là yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn là nơi gửi gắm những quan niệm nghệ thuật về con người, về cuộc đời...của nhà văn, nơi kí thác niềm ưu tư, trăn trở của nhà văn trước cuộc đời. Nhà văn chỉ thực sự là “người thư kí trung thành của thời đại” (H.Balzac) khi anh ta có khả năng làm sống dậy cuộc đời trên trang sách bắt đầu từ những chi tiết nhỏ. Lựa chọn chi tiết để xây dựng nên tác phẩm nghệ thuật không chỉ thể hiện bản chất sáng tạo của người nghệ sĩ mà còn bộc lộ tài năng, tầm vóc tư tưởng của người cầm bút.

Chi tiết không phải là một khái niệm xa lạ với đời sống.
Theo Từ điển Tiếng Việt (Nxb Khoa học xã hội Hà Nội 1988) thì chi tiết là: “Phần rất nhỏ, điểm nhỏ trong nội dung sự việc hoặc hiện tượng” (Ví dụ: Kể rành rọt từng chi tiết). “Là thành phần riêng rẽ hoặc tổ hợp đơn giản nhất của chúng có thể tháo lắp được” (Ví dụ: Chi tiết máy). Như vậy, trong đời sống hàng ngày, từ “chi tiết” được hiểu và dùng như là một thành tố, một bộ phận nhỏ của một sự việc, tổng thể. Chi tiết được hiểu như là một thành phần thuộc về cấu tạo.

Trong văn học, “chi tiết” theo định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997) là: “Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng” và họ gọi chung là chi tiết nghệ thuật. Cũng theo nhóm tác giả này thì: “Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với “quan niệm nghệ thuật” về thế giới con người, với truyền thống văn hoá nghệ thuật nhất định”

Như vậy, chi tiết nghệ thuật được xem như linh hồn của một văn bản nghệ thuật. Muốn hiểu, nắm chắc văn bản, phải hiểu rõ chi tiết nghệ thuật. Khái niệm chi tiết được đặt ra nhằm phân biệt với tổng thể nhưng nó không tách rời tổng thể. Sự hòa hợp giữa chi tiết và tổng thể sẽ tạo thành chỉnh thể. Chi tiết nghệ thuật được xem là thành tố nhỏ nhất trong một chỉnh thể nghệ thuật.

2. Tầm quan trọng của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương

Bàn về tương quan giữa chi tiết và tổng thể, có ý kiến cho rằng: “Đôi khi chỉ vì một đôi mắt mà người ta phải cưới nguyên một người đàn bà”. Câu nói đó khẳng định một thực tế: Đôi khi, chi tiết có thể đánh gục được cả tổng thể, thậm chí nó thay thế, lấn át tổng thể. Trong tác phẩm văn chương, chi tiết có thể nhỏ về quy mô, tầm vóc nhưng nó chứa đựng tư tưởng lớn, tình cảm lớn. Không nhà văn vĩ đại nào không tập trung xây dựng hình tượng nghệ thuật từ những chi tiết nhỏ, đặc sắc. Thực tế cho thấy, chỉ bằng những chi tiết cô đúc, tiêu biểu, kết hợp với lối hành văn nhiều ẩn ý, nhiều nhà văn đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc bằng những hình tượng nghệ thuật độc đáo, giàu sức sống. Nhân vật Bêlicôp (“Người trong bao” - A. Sêkhôp), nhân vật AQ (“AQ chính truyện” - Lỗ Tấn), nhân vật Grăngđê (“Ơgiêri Grăngđê” – H. Banlzac), nhân vật Chí Phèo (“Chí Phèo” - Nam Cao)..., đều là những hình tượng điển hình đặc sắc, được khắc họa bằng nhiều chi tiết cụ thể nhưng có sức khái quát cao, phản ánh được diện mạo, bản chất con người và bộ mặt của xã hội, đồng thời thể hiện những quan niệm nghệ thuật về con người rất riêng của mỗi nhà văn.

Trong truyện, nhờ chi tiết mà cốt truyện được triển khai và phát triển đầy đặn, thông qua chi tiết mà cảnh trí, tình huống, tính cách, tâm trạng, hình dáng, số phận của nhân vật được khắc họa và bộc lộ đầy đủ. Nhiều chi tiết trở thành những điểm sáng thẩm mĩ của tác phẩm, có vị trí không thể thiếu trong sự phát triển của cốt truyện, gắn liền với những bước ngoặt trong cuộc đời, số phận nhân vật. Thiếu chi tiết là thiếu sự đặc tả, thiếu tính cụ thể, truyện sẽ trở nên nhạt nhẽo, hời hợt, thiếu sức hấp dẫn. Tuy nhiên, nếu ôm đồm nhiều chi tiết thì rối rắm, rườm rà, giảm giá trị thẩm mỹ của tác phẩm.

Trong thơ, nhờ chi tiết mà cảm xúc của nhà thơ có nơi nương náu. Đặc thù của thơ là cảm xúc và hình ảnh. Hình ảnh chính là chi tiết trong thơ. Một cánh chim, một làn mây, một chiếc lá, một nhành hoa hay tia nắng...đi vào thơ không còn là sự vật vô tri nữa. Nó là hình ảnh phản chiếu tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ. Từ một cảnh huống, một tâm trạng mà thấy được nỗi niềm không chỉ của cá nhân thi sĩ mà của cả một lớp người, một thời đại. Cao hơn là phản ánh số phận con người của một quốc gia, dân tộc ở những chặng đường lịch sử nhất định. Đỗ Phủ, Puskin, Nguyễn Du...đều là những thi hào mà tên tuổi đã gắn liền với dân tộc và thời đại.

Tóm lại, dù là thơ hay văn xuôi, đều cần phải xây cất từ chi tiết. Theo quy luật điển hình hóa của văn học, qua một giọt sương để thấy cả bầu trời. Nghệ sĩ lớn là người có khả năng chưng cất cả đại dương vào trong một giọt nước, cả vũ trụ vào trong một giọt sương. Tầm cỡ nhà văn là viết về những cái không đâu, vặt vãnh nhưng khơi gợi được những vấn đề lớn, liên quan đến số phận con người, nhân loại.

Trong tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) hình ảnh Liên và An ngồi nhìn bầu trời đêm “ngàn sao ganh nhau lấp lánh” không phải là chi tiết vu vơ. Đằng sau nó chứa đựng niềm khao khát rất lớn của hai đứa trẻ, niềm khát khao hướng tới một bầu trời khác, nguồn sáng khác, không phải là cuộc sống đang lụi tàn trong vô vọng như ở phố huyện. Từ khát vọng mơ hồ đó của tuổi thơ, nhà văn đã lay tỉnh những tâm hồn mệt mỏi đang sống lay lắt, héo úa như cảnh ngày tàn ở những miền quê nghèo xác xơ, mòn mỏi trong xã hội cũ.

Chuyện miếng ăn trong truyện Nam Cao tưởng chỉ là vặt vãnh nhưng sức phản ánh rất lớn. Từ Một bữa no, Trẻ con không được ăn thịt chó, Một truyện sú vơ nia đến Sống mòn..., từ người nông dân đến người trí thức đều không thoát khỏi chuyện miếng ăn. Nó không chỉ nói lên thực trạng đói nghèo khốn khổ của con người, quan trọng hơn, nó phản ánh nhân cách, phẩm giá người, nhân tính của cuộc sống người. Người ta có thể từ bỏ lòng tự trọng vì miếng ăn, thậm chí chết vì miếng ăn, chà đạp cả những tình cảm thiêng liêng như tình phụ tử, giẫm đạp lên tình yêu thơ mộng...cũng chỉ vì miếng ăn. Hóa ra, trong xã hội ấy, miếng cơm, manh áo giết chết cả phần người trong mỗi con người. Và Nam Cao khắc khoải, lo âu: Liệu nhân tính có còn không, có được vun xới không? Làm sao để con người giữ được tính người trong một xã hội tàn bạo, phi nhân tính?

Như vậy, chi tiết nghệ thuật dù chỉ là yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Thiếu chi tiết, nhà văn không thể đúc nên tác phẩm. Chi tiết càng có sức biểu hiện, sức khơi gợi và ám ảnh càng lớn, càng góp phần nâng cao giá trị tác phẩm. Và không có một tác phẩm lớn nào mà chi tiết lại nhạt nhẽo, nông cạn, thiếu sức sống. Trong tiếp nhận văn học, càng không được xem nhẹ chi tiết. Đọc hiểu và cảm nhận tác phẩm văn chương từ cấp độ chi tiết là yêu cầu quan trọng và cần thiết, đặc biệt đối với việc dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông.

3. Cảm nhận chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương

Căn cứ vào văn bản, người ta chia làm hai loại: Chi tiết trong văn xuôi và chi tiết trong thơ.

3.1. Chi tiết trong văn xuôi

Chi tiết trong văn xuôi thường là chi tiết sự vật và chi tiết sự việc. Chi tiết sự vật thường gắn với 3 đối tượng: cảnh vật, đồ vật, nhân vật.

Hình ảnh những ngọn đèn trong tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) là chi tiết sự vật. Có nhiều loại đèn được nhà văn miêu tả. Đèn rất sáng (đèn ở Hà Nội và đèn ở đoàn tàu) và đèn tù mù (ở phố huyện). Một loại ánh đèn mạnh nằm trong quá khứ đã mất hoặc chỉ trong mơ tưởng xa xôi. Một loại ánh đèn hiện tại rất yếu ớt ở phố huyện. Gia đình chị Tí, cửa hàng của chị em Liên, bác Siêu bán phở..., mỗi người có một ngọn đèn nhưng tất cả đều tù mù, chỉ tạo nên những “khe sáng”, “hột sáng”, “quầng sáng”, “chấm lửa vàng lơ lửng” trong đêm, đối lập hoàn toàn với “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo". Sống trong ánh đèn tù mù đó, Liên nhớ tiếc ánh sáng quá khứ, mơ tưởng tương lai tươi sáng. Nó phản ánh tâm trạng chán ghét hiện tại tăm tối và mơ ước có cuộc sống khác của hai đứa trẻ.

Chi tiết sự việc (cốt truyện) gắn với các tình tiết. Một tình tiết được hợp nên bởi nhiều chi tiết.

Chí Phèo thức dậy vào buổi sáng hôm sau là một tình tiết, nó được hợp nên từ nhiều chi tiết: tâm trạng, cảm xúc, cảm giác...của Chí Phèo.

Căn cứ vào thái độ của nhà văn, người ta phân ra chi tiết nóng và chi tiết lạnh.

Chi tiết nóng thường được trở đi trở lại, được nhà văn khắc họa kĩ, nằm trong mạch chính của văn bản nghệ thuật.

Trong tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao), “bát cháo hành” là chi tiết nóng, được nhắc đi nhắc lại, hàm chứa tình người, tình yêu thị Nở dành cho Chí Phèo. Bởi được chưng cất từ tình người nên bát cháo hành đã thức dậy phần người trong Chí, làm cho hắn biết “buồn”, biết “ngạc nhiên”, xúc động và “ăn năn”. Thiếu chi tiết này, là thiếu sự xuất hiện của tình người, lấy gì thức tỉnh Chí Phèo để hắn có khát vọng trở lại làm người lương thiện?

Chi tiết lạnh không nằm trong mạch chính, xuất hiện thoáng qua, nhà văn không tập trung cho chi tiết nổi lên nên khó viết và người đọc hời hợt rất dễ bỏ qua. Nhà văn phải có giác quan thẩm mĩ, bản lĩnh mới viết được chi tiết lạnh. Để che giấu được cảm xúc của mình, giảm thiểu tính biểu cảm khi mô tả chi tiết, nhà văn phải có khả năng đóng cũi cảm xúc. Cảm nhận được chi tiết lạnh thể hiện tầm đón nhận của người đọc.

Bát cháo hành là chi tiết nóng nhưng hơi cháo hành là chi tiết lạnh. Chí Phèo khóc khi được Thị Nở cho ăn cháo hành là chi tiết lạnh. ...“mắt hắn hình như ươn ướt”. Nhà văn chỉ nói ngắn, không lặp lại, xa cách, giả định “hình như” đi kèm với tính từ giảm thiểu “ươn ướt”. Chi tiết mờ nhạt, tưởng thoáng qua nhưng rất đáng kể. Chi tiết lạnh bao giờ cũng có sức công phá rất lớn. Nam Cao là nhà văn tin vào nước mắt, “đứng về phe nước mắt”. Nước mắt là hiện thân cho nỗi khổ, nước mắt là giọt châu của loài người, kết tụ của tính người. Chỉ người nào còn tình người mới biết khóc. “Con người chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ và nước mắt là miếng kính biến hình vũ trụ”(Kôbe). Nếu nhìn đời bằng đôi mắt khô cạn tính người sẽ chỉ thấy cái xấu xa, nếu nhìn bằng nước mắt sẽ thấy khác, biết cảm thông, độ lượng. Hầu hết các nhân vật của Nam Cao đều khóc. Những nhân vật nào bị tha hóa rồi thức tỉnh cũng đều khóc cả, nước mắt là sự thức dậy của tình người, tính người. Còn biết khóc là còn biết cảm động về một sự chăm sóc trước tình người. Một người biết cảm động trước tình người là còn tính người. Một chi tiết thoáng qua đã biểu hiện những diễn biến vô hình trong nội tâm nhân vật. Hơi cháo hành là kỉ niệm hiếm hoi về tình người mà Chí Phèo được hưởng. Mất hơi cháo hành Chí Phèo không còn được chở che, nương tựa bởi tình người. Mất đi tình người khi đã biết hơi ấm của tình người, đối với kẻ đã bao năm sống bên lề của xã hội như Chí Phèo mà nói, chỉ còn cách tìm đến cái chết.

Trong truyện Đời thừa (Nam Cao), nhân vật Hộ tỉnh dậy sau đêm say, sờ tay lên bàn thấy “ấm nước hãy còn ấm” cũng là một chi tiết lạnh. Chi tiết ấy nói với Hộ về Từ, khiến cho Hộ nhìn thấy sự cao đẹp của Từ và tất cả sự tồi tệ của mình. Nó chứng tỏ rằng Từ là một người có sự tử tế, chu đáo. Từ tử tế, chu đáo với Hộ cả khi Hộ tàn nhẫn với Từ. “Ấm nước còn ấm” là hình ảnh của sự khoan dung, sự chăm sóc và tha thứ. Người ta chỉ có thể tha thứ cho người khác khi người ta mạnh bởi đó là cái mạnh trong lương tri, lương tâm, tình người. Đối lập với sự yếu đuối trong hình hài, vóc dáng, Từ rất mạnh ở lòng thương. Lòng thương ấy bền vững chứ không chông chênh như của Hộ. Nhận ra điều đó, Hộ càng thấy Từ đáng được che chở, yêu thương, càng thấy mình đớn hèn, đáng khinh bỉ. Hộ đã khóc trước Từ khi nhận ra tất cả sự thảm hại ấy của mình.

Cảm nhận chi tiết trong văn xuôi khi dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông có thể không phân loại nhưng nhất thiết phải hiểu rõ chi tiết đó đóng vai trò gì trong mạch truyện, trong diễn biến tính cách, số phận nhân vật. Nói cách khác là luôn gắn chi tiết với tổng thể để thấy được tính thống nhất của một chỉnh thể nghệ thuật. Quan trọng hơn là qua đó, hiểu được ý đồ nghệ thuật, đọc được tư tưởng, tình cảm nhà văn muốn gửi gắm. Đồng thời, thấy được tài năng sáng tạo của người cầm bút.

3.2. Chi tiết trong thơ

Khác với văn xuôi, thơ được xem là vương miện của nền văn học, là tinh chất của ngôn ngữ văn học. Một ngôn ngữ chưa có thơ là một ngôn ngữ chưa phát triển. Một sự đổi mới văn học mà chưa có sự đổi mới về thơ là sự đổi mới chưa hoàn thiện. Chi tiết vốn là lẽ sống của nghệ thuật, với thơ, chi tiết là hồn cốt. Bài thơ sống được hay không là nhờ chi tiết. Chi tiết trong thơ thu hẹp lại trong một giới hạn nhỏ trong thi ảnh và ngôn từ. Đối với một bài thơ, nếu nắm được thi ảnh và ngôn từ đặc sắc xem như đã nắm được linh hồn bài thơ, gọi là nắm được nhãn tự, kết tinh được thần thái linh hồn tác phẩm. Quy mô chi tiết trong thơ thường nhỏ hơn rất nhiều trong tác phẩm văn xuôi.

Bài thơ “Tức cảnh Pac Bó” (Hồ Chí Minh) có một từ - một chi tiết đặc sắc nằm ở câu cuối: Cuộc đời cách mạng thật là sang

“Sang” là nhãn tự của bài thơ, thâu tóm toàn bộ tinh thần bài thơ, cảm hứng thơ của Hồ Chủ Tịch. Toàn bộ cái hay trong bài thơ là nói về cái sang của người làm cách mạng. “Sang” trước hết là một giá trị. Về bản chất, sang là một cái đẹp. Tất nhiên, không phải cái đẹp nào cũng sang, cái đẹp là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ. Chỉ những khi nó đạt tới đẳng cấp mới gọi là sang, nó thường đi liền với cao, với trọng, mang nghĩa quý phái, quý tộc, là đẳng cấp thẩm mỹ của quý tộc. Cái đẹp thể hiện đẳng cấp mới là sang. Bác nói tới cái sang của người cách mạng là đẳng cấp cao trong văn hóa. Sang trong quan niệm có hai loại: Sang theo kiểu trưởng giả (tỉ lệ thuận với vật chất, thường gọi là sang giầu). Kiểu sang này chỉ có khi hưởng cao lương mĩ vị, gắn với một đối tượng người tầm thường nhất định trong xã hội. Loại thứ hai là sang theo quan niệm kẻ sĩ (người có học). Sang là một giá trị tinh thần đôi khi còn đối lập với vật chất, trưởng giả giàu mới sang còn kẻ sĩ thì nghèo mới sang. Biểu hiện nổi bật là coi thường vật chất, khinh thế. Những người cách mạng thực ra là những kẻ sĩ. Những hình ảnh “cháo bẹ”, “rau măng”, “bàn đá” không nhằm nói lên điều kiện sống mà chủ yếu bộc lộ tư thế cao sang, đẳng cấp văn hóa của người đi làm cách mạng. Cách cấu tứ của bài thơ này là nhập cái sang của kẻ sĩ trung đại với cái sang của chiến sĩ hiện đại thành cái sang của người cách mạng. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn và khí chất của người cộng sản Hồ Chí Minh.

Trong bài thơ Đò Lèn (Nguyễn Duy) gồm 6 khổ, tác giả viết về một tuổi thơ nghèo khó bên cạnh người bà tần tảo. Hệ thống chi tiết cảnh vật được nhà thơ liệt kê gồm: cống Na, đồng Quan, ga Lèn, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền cây Thị, đền Sòng..., giúp người đọc hình dung về diện mạo một miền quê với những cảnh trí rất dân dã, gần gũi, quen thuộc. Quan trọng hơn, nó giúp Nguyễn Duy thể hiện sâu sắc thân phận người bà: Đó là thân phận con sâu cái kiến, thân phận thảo dân, mang sắc thái dân đen, đối lập với Tiên Phật, Thánh thần... Bài thơ nói về sự ân hận, sự trưởng thành muộn màng của người cháu. Sống bên bà nhưng vô tâm với nỗi khổ của bà, sống bằng sự chăm sóc, yêu thương vất vả của bà mà cháu không hề biết.

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực
Giữa bà tôi và Tiên Phật thánh thần

Người cháu đã sống rất thực với cái hư và sống rất hư với cái thực. Chữ hư mang hai nghĩa: hư ảo và hư đốn. Nó chi phối quyết định đến mạch tâm sự mang màu sắc triết luận, thể hiện quá trình giải thiêng, giải ảo. Nhìn ở góc độ tình cảm, đó là quá trình rời khỏi niềm tin ngây thơ dành cho thánh thần để đến với tình thương dành cho người bà, từ đối tượng mơ hồ đến đối tượng thực. Đôi khi người ta phải trả giá cho những bài học vô cùng đắt. Khi biết yêu thương thì bà đã mất rồi. Nhìn từ góc độ đời sống, đó là cuộc rời bỏ những đối tượng không xứng đáng để đến với đối tượng xứng đáng hơn. Chính người dân kia mới làm nên hiện thực đời sống. Chỉ hai chi tiết “hư” – “thực” đã nói lên sự sụp đổ niềm tin của tác giả, rời bỏ thế giới của đức tin đơn thuần để đến với hiện thực cuộc đời gần gũi, đáng tin hơn.

Chi tiết trong thơ nhiều khi là một mật mã. Giải mã chi tiết tức nắm được ý đồ nghệ thuật, ý đồ tư tưởng của nhà thơ. Chỉ qua một vài con chữ trong Truyện Kiều, như chữ “tót” (Ghế trên ngồi tót sỗ sàng), chữ “cò kè” (Cò kè bớt một thêm hai) mà thi hào Nguyễn Du đã lật tẩy cả một chân dung kẻ con buôn, vô học, thô lỗ của nhân vật Mã Giám Sinh, hay một chữ “lẻn” làm lộ ra một tính cách mờ ám, lén lút, tráo trở… của Sở Khanh, hay hai chữ “mặt sắt” đã gọi ra một chân dung tính cách lạnh lùng, hiểm độc, tàn nhẫn và bỉ ổi của Hồ Tôn Hiến… Các chữ “tót”, “cò kè”, “mặt sắt” được gọi là những chi tiết đắt giá làm nổi lên hồn cốt nhân vật.

Chi tiết trong thơ hàm chứa nhiều nét nghĩa, nhiều giá trị được gọi là tín hiệu nghệ thuật. Để giải mã chi tiết trong thơ đôi khi cần đến cả một chiều sâu văn hóa. Ví dụ để hiểu câu thơ: Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn (“Đất nước” – Nguyễn Khoa Điềm) phải hiểu về nghi thức giao đãi, về nét đẹp trong phong tục ăn trầu của người Việt. Để cắt nghĩa được hình ảnh, người đọc buộc phải liên tưởng về câu chuyện cổ Trầu cau và rất nhiều câu ca dao mượn hình ảnh cau trầu để bộc lộ khát vọng nhân duyên và tình yêu đôi lứa. Từ chiều sâu văn hóa của hình ảnh miếng trầu, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhấn mạnh đến chiều dài của lịch sử và bề dày của văn hóa – những phương diện cấu thành Đất nước. Hình ảnh thơ đó góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao, thần thoại – một tư tưởng cốt lõi trong chương thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

Cảm nhận chi tiết trong thơ không chỉ là đi tìm nhãn tự, giải mã từ ngữ, cắt nghĩa hình ảnh mà cần đặt nó trong tương quan với các biện pháp tu từ, cách sử dụng ngôn ngữ, âm, vần, nhịp điệu...để khám phá cái hay, cái đẹp của câu thơ. Đặc biệt, cần chú ý đến tứ thơ, vì mọi chi tiết trong thơ thường xoay quanh tứ thơ. Tách rời chi tiết khỏi tứ thơ là tách rời nó khỏi chỉnh thể nghệ thuật, mọi sự khám phá sẽ thiếu tính toàn vẹn. Chi tiết có thể giống nhau nhưng tứ thơ là sáng tạo đơn nhất, không lặp lại. Gắn chi tiết với tứ thơ mới thấy được tài năng sáng tạo của thi sĩ.

Những hình ảnh dòng sông, con thuyền, nhịp cầu, cánh chim, làn mây, khói sóng...không phải là những hình ảnh xa lạ với thơ ca truyền thống. Nhưng đi vào bài thơ “Tràng giang” (Huy Cận), chúng được tập trung làm rõ cho sự phi hòa điệu của tạo vật với nhau và giữa con người với tạo vật, nhằm khắc họa cái Tôi cô đơn và nỗi buồn sông núi của nhà thơ. Tứ thơ đó đã chi phối mạch cảm hứng của bài thơ, khiến tất cả các hình ảnh chỉ nhằm phản ánh sự mênh mông vô biên (về chiều kích) và sự hoang vắng cô liêu (về tính chất) của tràng giang. Con thuyền và dòng nước, cành củi khô, cồn nhỏ đìu hiu, sông dài trời rộng, cánh chim chiều chao nghiêng...mô tả sự lạc lõng, chia rời, sự hoang vắng, trống trải đến rợn ngợp của đất trời. Đối diện với cảnh ấy, con người càng cảm thấy cô đơn. Cô đơn trên chính quê hương, đất nước mình là tâm trạng chung của cả một thế hệ thi nhân mất nước lúc bấy giờ, nhưng có lẽ Huy Cận với bài thơ Tràng giang là tiêu biểu nhất.

Ngoài những yếu tố nêu trên, cảm nhận chi tiết trong thơ còn đòi hỏi người đọc có một năng lực thẩm thấu nhất định. Cảm thụ thơ xưa nay chưa bao giờ là điều dễ dàng, bởi đó là sự cảm thụ cái hay, cái đẹp. Để hiểu về cái hay, cái đẹp cần có sự kết hợp giữa một tâm hồn nhạy cảm biết rung động với một con mắt tinh tế biết phát hiện và một khả năng sử dụng ngôn từ chọn lọc. Cần một sự bồi đắp, trau dồi, rèn giũa lâu dài mới đạt được.

*

Tóm lại, khó thể phủ nhận vai trò và tầm quan trọng của chi tiết trong tác phẩm nghệ thuật. Với nhà văn, quá trình sáng tạo gắn liền với ý thức làm nên những chi tiết đặc sắc, góp phần thể hiện nội dung, chủ đề của tác phẩm. Chi tiết gánh trọng trách chuyển tải đến người đọc những thông điệp mà nhà văn gửi gắm, những cách nhìn và quan niệm sâu xa về con người và cuộc đời của người nghệ sĩ. Với người đọc, cảm nhận chi tiết nghệ thuật là mở những cánh cửa đầu tiên để đi vào thế giới nghệ thuật của một tác phẩm văn học. Nhà văn sẽ không thể làm nên tên tuổi nếu tác phẩm của anh ta không bắt đầu từ những chi tiết. Người đọc sẽ không nối được nhịp cầu tri âm với tác giả nếu không thông qua tác phẩm từ những chi tiết nghệ thuật nhỏ nhất bởi chân lí trong sáng tạo nghệ thuật luôn là: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

2. Phan Trọng Luận (2000), Làm văn lớp 12 , Nxb Giáo dục.

3. Phan Trọng Luận (2008), Ngữ văn 12 tập hai, Nxb Giáo dục.

4. Phan Trọng Luận Trần Đình Sử (2008) Hướng dẫn thực hiện chương trình sách giáo khoa lớp 12 môn Ngữ văn, Nxb Giáo dục

5. Phan Trọng Luận (2010), Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn 12, Nxb Đại học Sư phạm.

6. Vương Trí Nhàn, Kinh nghiệm viết truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới

7. Phan Ngọc Thu (2001) Để hiểu thêm một số tác giả, tác phẩm Văn học hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục.

8. Nguyễn Quang Thiều (2000), Tác giả nói về tác phẩm, Nxb Trẻ.

9. Nguyễn Quang Trung (1999) Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 12, Nxb Giáo dục.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#văn12