Tổng quan về Halo

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

UNSC

Bộ chỉ huy vũ trụ liên hợp quốc(viết tắt là UNSC-United Nations Space Command) là một nhánh của chính phủ liên hợp quốc(viết tắt UN-United Nations) hoạt động trong lãnh vực quan sự, thăm dò và khoa học. UNSC được thành lập vào năm 2160, khoảng thời gian những tư tưởng văn hoá cũ còn tồn dư và tranh giành quyền lực trong hệ mặt trời. UNSC phục vụ chủ yếu như một đơn vị giám sát các hoạt động quân sự của liên hợp quốc trong vũ trụ. Sau sự thông báo về việc thành lập một tổ chức quân sự khổng lồ ở mọi nơi con người có mặt, thông qua UNSC liên hợp quốc đã lần lượt đánh bại hai đảng phái: Cộng Sản và Phát Xít trong một cuộc xung đột nhiều năm được chủ yếu biết đến với cái tên: Chiến tranh liên hành tinh-Interplanetary War, cuộc xung đột này bao gồm nhiều cuộc chiến nằm rải rác ở sao Hoả, các mặt trăng của sao Mộc và rừng mưa Nam Mỹ. Dù vậy cuộc chiến này vẫn mang lại một sự thống khổ to lớn đè nặng lên dân số ở Trái Đất và các thuộc địa của con người. Nhưng nó cũng đã liên kết các đội quân của con người làm thành một đội quân hoàn chỉnh và thống nhất vào cuối thế kỉ 22.

Trước cuộc tấn công của Covenant lên Harvest vào năm 2552, loài người đang ở trong hỗn loạn, phải chiến đấu về mọi mặt, trên các hành tinh với một nhóm nổi dậy với cái tên Insurrectionist, những người không muốn phụ thuộc vào chỉnh phủ liên hợp quốc. UNSC, chính xác hơn là UNSCDF(quân đội phòng thủ của UNSC) đã kiên trì chiến đấu chống lại Insurrectionist. Trong nỗ lực chấm dứt cuộc chiến kéo dài với Insurrectionist và quân nổi loạn, chính phủ liên hợp quốc đã uỷ thác trách nhiệm này vào dự án SPARTAN-II, thứ sẽ tạo ra những siêu chiến binh để chiến đấu với quân li khai và Insurrectionist. Khi cuộc chiến giữa Covenant với loài người xảy ra và những kẻ xâm lược ngoài hành tinh bắt đầu tàn phá ngoại thuộc địa của con người, những Spartan này trở thành niềm hi vọng tốt nhất của họ nhằm chống lại công nghệ siêu việt của loài ngoài hành tinh kia. Khi cuộc chiến bắt đầu, UNSC đã thật sự trở thành hàng phòng thủ tốt nhất của con người. Điều này cho phép tổ chức này nắm giữ các điều luật và tự biến mình thành cơ quan đầu não chính của con người.Mặc dù chính phủ liên hợp quốc đã được mở rộng hơn để cải tổ bộ máy, người điều hành thuộc địa và quân đội của liên hợp quốc đã ban bố nhiều lệnh trên khắp vùng đất xuất hiện con người nhằm ngăn chặn việc sức mạnh của UNSC đang lớn dần và dù vậy việc này chỉ càng khiến sức mạnh của liên hợp quốc hao tổn.

Bằng thời gian cuộc chiến diễn ra, loài người, hay nói cách khác là UNSC đã đạt tới cấp 3 trong nấc thang về chỉ số khả năng tiến bộ công nghệ của người Forerunner. Cấp độ của con người tiếp tục được cải thiện hơn khi họ nắm giữ thêm công nghệ, trang thiết bị của Covenant, những thứ được nghiên cứu và áp dụng cho những điều con người cần. Những phần tốt nhất của trang bị bên UNSC đã được áp dụng vào dự án SPARTAN-II. Một ví dụ việc con người sao chép công nghệ là bộ giáp năng lượng MJOLNIR.

Trong suốt cuộc chiến thứ nhất và thứ hai ở Trái Đất, UNSC đã chống lại Covenant Loyalist nhằm ngăn chặn sự diệt vong của con người và họ chỉ thật sự chiến thắng nhờ sự liên minh với Covenant Separatist.

Tổng quan

UNSC được thành lập bởi liên hợp quốc vào giữa chiến tranh liên hành tinh. Sau khi UNSC thật sự giành chiến thắng, sự đông dân quá mức trên Trái Đất đã trở thành một vấn đề chính yếu vào đầu thế kỉ 22. Vấn đề này sau đó đã được giải quyết và mọi hiểm hoạ liên quan tới nó đã được ngăn ngừa bởi những thuộc địa và những thành phố rộng lớn ở trên các hành tinh khác nằm trong vòm sao Orion của dải ngân hà, đầu tiên là các Nội thuộc địa sau đó là Ngoại thuộc địa.

Đội quân phòng thủ của UNSC là UNSC Defense Force(UNSCDF) bao gồm quân đội trên không, lính bộ, quân cảnh và hạm đội.

UNSC được điều hành bởi hội đồng trị an UNSC(UNSC Security Council) nằm dưới quyền xét xử của uỷ ban bảo an thường trực. UNSC được thành lập đầu tiên nhằm giữ hoà bình, luật lệ và điều hành mặt khác phục vụ như một chi nhánh hành chính thuộc chính phủ ở giữa những hành tinh láng giềng và hệ thống các ngôi sao. Khi quân nổi loạn thật sự nổi dậy vào cuối năm 2510, UNSC đã tự biến mình thành cảnh sát nhằm bảo vệ không ngừng nghỉ các thuộc địa và cũng khiến các con tàu tư nhân được thuê, tàu cướp biển đi càn khắp các thuộc địa hay bất cứ con tàu nào của UNSC.

Chính phủ liên hợp và liên hợp quốc vẫn tồn tại và điều hành UNSC. Hành động này mang tính như một chính phủ dân chủ nới mà tất cả các nước thành viên có thể chia sẻ hệ thông pháp luật giống nhau cũng như việc UNSC là một phần nhỏ trong toàn bộ khôí rộng lớn này. 

Nhưng đáng chú ý đến rằng chức năng đặc biệt của chỉnh phủ liên hợp: tính lập pháp và hành pháp cũng như việc họ có liên quan tới CAA và UNSC dù không được rõ cho lắm.

Cờ của UNSC được miêu tả như sau:"…..một khoảng màu xanh nước biển với nhiều ngôi sao và Trái Đất nằm ở một góc."

Lịch sử

Bảng niên biểu lịch sử UNSC

- World War II (1939 - 1945) 

- Thành lập United Nations (1945) 

Interplanetary War (2160-2200) 

- Jovian Moons Campaign (2160) 

- Rain Forest Wars (2162) 

- Mars Campaign (2163) 

Inner Colony Wars (2400s) 

Eridanus Rebellion (2511 - 2524) 

Harvest Insurrection (2524) 

Human-Covenant War (2525 - 2553) 

- Covenant Civil War (2552 - 2553) 

Insurrection of Mamore (2537)

Interplanetary War(Chiến tranh liên hành tinh)

UNSC đã có gốc rễ từ thời chiến tranh thế giới lần thứ II, thứ được hình hành từ tổ chức mẹ, liên hợp quốc. UNSC được chính thức thành lập và sửa đổi như là một hệ quả tất yếu cho những cuộc xung đột tàn khốc xuyên suốt hệ mặt trời và ranh giới vũ trụ của con người giữa năm 2160 và 2164, đáng chú ý nhất đó là: chiến dịch mặt trăng sao Thổ, chiến tranh rừng mưa và hàng loạt cuộc chiến ở sao Hoả. UNSC thật sự được thành lập và chỉnh sửa thành một chính phủ quân đội khẩn cấp trong những cuộc xung đột kiểu này. Tuy nhiên lại vấp phải sự phản kháng từ chính giữa, bên cạnh liên hợp quốc những người có đường lối chính trị trái với tổ chức này, trong đó nổi bật nhất là Koslovics(cộng sản) và Frieden(xã hội chủ nghĩa nhưng luôn mang tư tưởng li khai). Đặc biệt hơn, đường lối của phe Frieden là theo kiểu một tổ chức phát xin có trụ sở ở các mặt trăng của sao Thổ, mặc dù những người này nhận được sự hậu thuẫn từ hoạt động của một số tập đoàn ở cộng hòa liên bang Đức trên Trái Đất, trong khi đó đối thủ của họ, phe Koslovics đã thành lập nhóm Marxist-Leninis trung tâm ở xung quanh tàu chi huy của Vladimir Koslov.

Chiến tranh bắt đầu với mộtcuộc tấn công vào trụ sở Cố vấn thuộc địa của liên hợp quốc nằm trên mặt trăng hành tinh Io và một trong số nhiều mặt trăng của sao Mộc, nhưng nó đã lan rộng ra tới sao Hỏa và một phần Nam Mỹ nới cuộc chiến rừng mưa xảy ra. Những việc này đã đạt tới đỉnh điểm trong sự nhẫn nhịn của liên hợp quốc vào năm 2160, điều sẽ là kết quả của sự thay đổi lớn trong vài giây. Đầu tiên là việc các nước liên minh lại với liên hợp quốc. Thứ hai, là sự biến đổi của liên hợp quốc: từ một tổ chức mang tính ngoại giao toàn cầu khổng lồ thành một chính phủ liên minh Trái Đất như là một thế lực cuối cùng điều khiển loài người vào năm 2170.

Colonization

Cuộc chiến tranh kéo dài bốn năm đã để lại hàng loạt vấn đề mà con người phải đương đầu. Sự tăng dân số quá mức kèm theo đó là sự thiếu lương thực trầm trọng, cùng hàng loạt các vấn đề về xã hội, nhất là khi đa số các quốc gia trên Trái Đất đều bị kéo vào cuộc chiến tranh vừa qua. Chính điều này là tia sáng để thay đổi cục diện chính trị trên Trái Đất, dẫn tới một hệ thống chính trị được thấ ỏ thế kỉ 26.

Những áp lực này cũng đã giúp cho ý tưởng về các thuộc địa ngoài không gian trở nên sáng giá hơn bao giờ hết vào những thế kỉ sau đó, cũng như chính phủ liên hợp Trái Dất đã quyết định thành lập dự án tàu thuộc địa vào năm 2310 để giảm bớt gánh nặng lên hành tinh quê hương. Điều trên sẽ khó có thể trở thành hiện thực nếu không phát minh ra động cơ xuyên không gian Shaw-Fujikawa vào cuối những năm 2200, động cơ nay cho phép các con tàu có thể du hành trong không gian xa hơn bất kì khoảng cách nào con người từng đạt tới trước đó.

Mất khoảng 52 năm trước khi con tàu thuộc địa đầu tiên, tàu Odyssey được phóng và nơi mà sau này chúng ta gọi là nội thuộc địa vẫn chưa hoàn toàn là thuộc địa của con người cho đến cuối thế ki 24. Đỉnh điểm của bước tiến khổng lồ này đạt vào năm 2492, lúc này con người nắm giữ hơn 800 hành tinh với nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Bằng thời gian này, vòng tròn ngọai thuộc địa(Outer Colonies) được chính phủ liên hợp Trái Đất xác định và cung cấp cho những nguyên liệu thô sơ, những thứ đã tạo nên một nền kinh tế vĩ mô, tuy nhiên ta phải nhắc tới quyền lực chính trị trước khi bắt đầu từ câu chuyện về nội thuộc địa. Có một khoảng cách rất lớn năm giữa sự thịnh vượng trải khắp với một quyền lực chính trị, thứ đã xác nhận cho sự tồn tại của con người ở thời điểm này, nó cũng dẫn tới nhiều mối hiểm họa về sự ly khai ở các ngoại thuộc địa. Nỗi sợ hãi về hậu quả từ sự tan vỡ của một đế chế giữa các vì sao và chứng kiến được lợi ích của việc tránh xa hoàn toàn khỏi chiến tranh đã đẩy chỉnh phủ liên hợp Trái Đất vào thế phòng thủ cho các thuộc địa, họ đã lên kế hoạch cho Spartan-I, tiền đề cho chương trình SPARTAN-II vào năm 2491, bắt đầu với dự án ORION.

Cuộc chiến tranh giữa con người và Covenant

Năm 2552 đánh dấu một mốc biến đổi quan trọng trong lịch sử loài người, nó đánh dấu một sự mở đầu cho một nền văn minh khổng lồ, sự hợp nhất của các phe phái xung đột giữa con người, và cuộc liên lạc lần đầu tiên giữa con người và một nền văn minh vượt trội ngoài Trái Đất, Covenant. Nó cũng cho biết phần lớn chính phủ của Trái Đất ở hơn 800 hành tinh thuộc địa bị quét sạch và hàng tỉ công dân cũng như quân lính bị thảm sát bởi các cuộc rải bom quỹ đạo, sự xâm chiếm các hành tinh được biết đến như là các cuộc càn quét bằng vũ khí plasma lên bề mặt. Vì thế, cuộc xung đột giữa con người và Covenant lần đầu diễn ra với sự kiện First Battle of Harvest(cuộc xung đột đầu tiên ở Harvest).

Phát sinh từ cuộc chạm trán đầy ngẫu nhiên giữa quân đội con người và quân đội Covenant ở Harvest, cuộc liên lạc đầu tiên được tạo ra giữa loài người và Covenant cùng với tàu Minor Transgression ít thân thiện hơn cuộc liên lạc thứ hai giữa hai phe này. Sự bất đồng quan điểm ở nhiều mặt giữa hai đại hiện của hai phe ở trên Harvest đã khiến cho cuộc gặp hữu nghị nhanh chóng trở thành một biển máu, với việc Covenant yêu cầu dành lấy hành tinh này vì nó có một số lượng cổ vật Forerunner khá lớn và thảm sát phần lớn dân ở con người ở đây

Vào ngày 20 tháng Tư, một co tàu do thám tên Argo được cử đi để tìm hiểu nguyên nhân mất lên lạc giữa Harvest với phần còn lại của các thuộc địa con người. Trước khi bị tiêu diệt bởi quân đội Covenant, nó đã phát hiện ra mọi thứ trên hành tinh này đã thành tro bụi hoàn toàn, một biển mac-ma bao tùm lên bề mặt, không thứ gì còn sống sót. Không lâu sau đó, một nhóm tàu chiến Heracles gốm tàu khu trục nhỏ Arabia và Vostok cùng với "kẻ hủy diệt" Heracles đã được phái đi để tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra. Vào ngày mồng 7 tháng Mười, nhóm tàu chiến này đã đổ bộ qua Slipspace để tới Harvest. Xung quanh phần còn lại của nơi thuộc địa này chỉ còn một con tàu ngoài hành tinh duy nhất đã quay ra tấn công nhóm tàu chiến, tiêu dệt toàn bộ ngoại trừ một con tàu, thông tin liên lạc xác nhân kẻ thù là Covenant, lớp sinh vật bậc cao, một tổ chức thần học được hình thành từ nhiều loài khác nhau. Kèm theo đó là dòng tin được dịch theo tiếng Anh chuẩn:"Your destruction is the will of the gods......and we are their instrument." (tạm dịch là:" Sự tuyệt diệt của các ngươi là ý muốn của các vị thần và chúng ta là người thực thi của họ.")

Sau đó ít lâu, trận chiến thứ hai ở Harvest vào năm 2526, nơi mà một hạm đội lớn của con người do phó đô đốc Preston Cole vừa đủ để giành chiến thắng trước một hạm đội nhỏ của Covenant trong dấu hiệu chiến thắng dành cho loài người, sự nắm quyền của con người ở trên các vùng đất của họ bị giảm sút mang ý nghĩa đầy đủ cho một tiến trình tranh đấu dài của mình. Hơn 800 hành tinh thuộc địa đã bị Covenant hoàn toàn thôn tính hay nói cách khác nhẹ nhàng hơn đó chưa phải là toàn bộ Ngoại thuộc địa và chỉ là một phần của Nội thuộc địa.

Bằng thời gian này, UNSC đã nắm quyền điều hành chính phủ liên hợp quốc vì vậy quyền lực dân sự được thông qua ở khắp các thuộc địa và ở chính Trái Đất. Mặc dù chỉnh phủ trung tâm vẫn còn khá miễn cưỡng, Ủy ban điều hành thuộc địa vẫn miễn cưỡng phải tuân theo ý tưởng này và vì thế quyền lực của UNSC được trải dài ở hầu hết mọi nơi. Bằng thời gian nửa cuối thời kì chiến tranh, chính phủ của con người được mô tả chính xác là như một chính phủ quân sự khẩn cấp.

Vào năm 2552, quân đội UNSC: quân cảnh, quân bộ, không quân và các doanh trại đã cố gắng ngăn cản sự tàn bạo của Covenant đang tiến vào vùng không gian lạc hậu của con người tuy nhiên tình hình đã trở nên thảm hại. Trong tuyệt vọng, HIGHCOM lệnh cho một nhiệm vụ cực kì nguy hiểm, gửi các siêu chiến binh Spartan-II những người chiến đấu tốt nhất mà con người từng tạo ra, nhằm đột nhập vào vùng không gian của Covenant bắt cóc một Prophet cao cấp và quay trở về không gian của UNSC sau đó dàn xếp một vụ trao đổi. Trước khi nhiệm vụ được bắt đầu, Covenant đã tìm ra Reach và hủy diệt hành tinh này, tiêu diệt gần hết các Spartan và một lượng lớn lính bộ của UNSC, vô tình điều này đã làm kế hoạch bị chặn đứng và khiến hầu hết các Spartan trở thành những người MIA(Miss in mission-biến mất trong chiến dịch. Sự kiện này được biết đến với cái tên Battle of Reach.(Trận chiến ở Reach).

Một con tàu đơn lẻ, Pillar of Autumn đã trốn thoát được khỏi đó mang theo hai Spartan trên tàu: Linda-người đã gần chết trong Battle of Reach và Master Chief. Con tàu đã đi theo sự điều khiển của trí tuệ nhân tạo Cortana tới một chiếc vòng khổng lồ với cái tên Halo. Ở đó Master Chief đã hủy diệt cả một hạm đội khổng lồ của Covenant và chính chiếc vòng đó. Anh ấy cũng đã đối mặt với một dạng sống kí sinh đươcợc biết đến là Flood, loài mà chiếc vòng Halo được tạo ra để ngăn chặn. Khả năng chính của chiếc vòng là tiêu diệt mọi dạng sống trong bán kính trung tâm dải ngân hà. Master Chief đã phá hủy cái vòng này vì tin rằng nó mang một sức mạnh quá lớn bằng cách cho nổ lò phản ứng nhiệt thạch của tàu Pillar of Autumn. Sau khi đánh cắp một tàu hoa tiêu của Covenant, Ascendant Justice, sau đó các Spartan tụ họp lại cùng với những người sống sót từ Halo và sự hủy diệt ở Reach đã tấn công tàu Covenant trong kế hoạch:FIRST STRIKE(cuộc tấn công đầu tiên), một trng những chiến dịch thành công nhất của con người trong toàn bộ cuộc chiến tranh.........

Vào tháng Mười năm 2552, Covenant đã tình cờ phát hiện ra vị trí hành tinh quê hương của loài người, Trái Đất và đã gửi một đội quân đặc nhiệm tới đó, chúng tin rằng đó là nơi đặt Ark, một di tích của người Forerunner. Chúng đã vấp phải một sự kháng cự đãm máu và bước đầu bị đẩy lui. Những sự rối loạn ngày càng trầm trọng vẫn phát sinh từ sự khủng hoảng tôn giáo và chính trị của Covenant đã đánh thức UNSC tiến hành một kế hoạch: ám sát Prophet, và sự ly khai của loài Sangheli hkori sự lãnh đạo, dẫn tới cuộc nội chiến trong Covenant hơn thế nữa đã đưa liên minh này vào tình trạng hỗn loạn. Tuy nhiên vào tháng Mười Một, phần lớn quân Covenant Loyalist đã đánh đổ phần lớn hành tinh Trái Đất cũng như tàn phá một phần rất lớn hành tinh này. Chỉ khi chúng rút quân qua một cánh cổng của người Forerunner ở Châu Phi và sự xuất hiện của hạm đội tàu loài

Sangheli UNSC và chính Trái Đất mới thoát khỏi cảnh bị hủy diệt.

Quân đội UNSC và loài Elite đã quyết định mở một chiến dịch nhằm tiêu diệt một lần và cũng là lần cuối cùng quân Covenant Loyalist ở Ark, ngăn việc các vòng tròn Halo khởi động, giết chết thủ lĩnh cuối cùng của Covenant: Prophet of Truth cùng với số quân còn lại của hắn. Vào ngày mùng Ba tháng Ba năm 2552, cuộc chiến Covenant-loài người chính thức chấm dứt với phần thắng thuộc về UNSC và Covenant Separatist nhưng với một cái giá quá đắ, hầu hết khu quân sự tiền tuyến bị tiêu diệt ngoài trừ Trái Đất cũng như nhiều thuộc địa khác(mặc dù có vẻ phần lớn các thuộc địa của con người vẫn chưa bị càn quét mà chỉ có bảy mươi sáu thuộc địa hoàn toàn bị hủy diệt). Có lẽ hàng tỉ công dân và người của UNSC đã bị giết từ năm 2552 tới năm 2553...

Tổ chức bộ máy

Tổ chức bộ máy của liên hợp quốc hay còn gọi là chính phủ liên hợp Trái Đất là một bộ máy đồ sộ và hoàn chỉnh từ trên xuống dưới luôn luôn gắn kết, hoạt động ăn khớp. Mỗi bộ phần đều luôn làm việc hết sức mình, khẩn trương và hiệu quả, từ đó mới tạo nên một chính phủ đủ sức giữ vững cũng như đảm bảo cho sự tồn tại của con người. Sau đây là sơ đồ bộ máy(chú ý sơ đồ theo chiều từ cấp cao tới bên dưới, các dòng thụt vào thuộc quyền giám sát, chỉ hủy của tổ chức được viết ngay trên nó hay nói cách khác là tổ chức con, nó chỉ nghe lệnh tổ chúc mẹ hoặc cơ quan có thẩm quyền cao hơn tổ chức mẹ):

Bộ máy chính quyền của UNSC

Chính quyền quản lý thuộc địa.

Trung tâm chỉ huy(CENTCOM).

Quân đội bảo vệ thuộc bộ chỉ huy không gian liên hợp quốc.

Bộ chỉ huy tối cao(HIGHCOM):

Ủy ban an ninh UNSC

Hội đồng bảo an UNSC

Ban hành chính:

Sở chỉ huy nhân sự(PERSCOM)

Sở chỉ huy tàu thuyền(NAVCOM)

Sở thiên văn UNSC

Viện quân y UNSC(MEDCORPS)

Viện kĩ thuật quân sự UNSC(ENGCORPS)

Lực lượng cảnh sát hậu cần UNSC

Lực lượng cảnh sát giám sát và kiểm tra UNSC

Ủy ban hậu cần UNSC

Ủy ban phục vụ (mặc đồng phục)

Hải quân UNSC

Sở chỉ huy hạm đội(FLEETCOM)

Văn phòng tình báo hải quân(ONI)

Văn phòng điều tra

Lực lượng cảnh sát tuần tra

Sở kế hoạch chiến tranh đặc biệt(NAVSPECWAR)

Chương trình ORION(bao gồm dự án Spartan-I)

Chương trình Spartan-II

Beta5-Division(Phụ trách dự án Spartan-III)

Binh chủng thông tin

Lực lượng lính thủy đánh bộ UNSC

Lực lượng bộ binh UNSC

Lực lượng không quân UNSC

Lực lượng lính hậu cần UNSC

Lực lượng quân cảnh UNSC

Lực lượng lính hành động đặc biệt(Orbital Drop Sock Troopers thuộc sự chỉ hủy của nhóm này)

Lực lượng quân đội UNSC(Bao gồm bộ binh và các doanh trại thuộc địa)

Lực lượng không quân UNSC

Một số nhóm khác:

Đội hòa nhạc UNSC

Bộ kinh tế.

Kinh tế

UNSC sử dụng đơn vị tiền tệ tài chính liên hợp quốc để tạo cho mình một nền kinh tế ổn định bằng việc mua hoặc bán các thiết bị quân sự, hỗ trợ hay chào giá các con tàu,......Nền tài chính của liên hợp quốc được thi hành vào thời điểm nào đó trước khi nó bị tan rã và thay thế bằng chính phủ liên hợp Trái Đất vào năm 2164. Bằng cách vận chuyển thực phẩm rau thịt giữa các thuộc địa, UNSC đã đóng vai trò như một tổ chức quân sự kinh tế, mặt này được điều hành bởi bộ kinh tế.

Quân đội

Lực lượng vũ trang chính của UNSC là United Nations Space Command Defense Force (viết tắt là UNSCDF), nó được chia làm các nhóm nhỏ hơn: UNSC Army, không quân, hải quân và lực lượng quân cảnh. UNSCDF nắm quyền điều hành UNSC trong suốt chiến tranh với Covenant. 

Mặt khác UNSCDF là được điều khiển bởi hội đồng bảo an UNSC, tổ chức có đầu não tinh vi là UNSC High Command, đồng thời là lực lượng quân sự chủ yếu trong suốt thời gian chiến tranh Covenant-Con người. Ngôi nhà của lực lượng hải quân lại được chia ra gồm: Lính thủy đánh bộ UNSC (bao gồm cả nhanh đội quân đặc nhiệm Orbital Drop Shock Troopers hay được biết với cái tên thông dụng hơn là ODST hoặc helljupmers), cơ quan tình báo quân đội, hạm đội tàu. Lực lượng UNSc Army và lực lượng không quân thường là những nhóm đóng quân ở trên các thuộc địa. Khi các phe phái nổi loạn thật sự nổi lên vào năm 2510, UNSC đã ra lệnh cho 2 nhóm này bảo vệ các con tàu thương nhân của UNSC cũng như các thuộc địa khỏi việc đi lùng và càn của các tàu cướp biển cũng như tàu tư nhân. 

Một phần lớn tàu và quân số của UNSCDF đã mất sau trận chiến với Covenant.

Không giống như Covenant, kĩ thuật quân sự của UNSC vẫn còn dựa trên cơ chế tương đối nguyên thủy - vũ khí bắn bằng sức đẩy vật lý, xe có bánh, động cơ chất đốt. Khái niệm nắm giữ các thành tựu khoa học của UNSC có hơn Covenant nhưng để biến các điệu kiện thuận lợi này thành các công thức cơ cấu toán học lại gặp rất nhiều khó khăn. Hiện tại, UNSC đã đưa ra hàng loạt những công nghệ lấy được từ phía Covenant bổ sung vào kho vũ khí của họ: trọng lực trên tàu, giáp năng lượng bảo vệ các chiến binh Spartan-II, và một số ít các loại vũ khí sử dụng năng lượng, thường là lazer, lấy ví dụ khẩu súng Spartan Lazer. Mặc dù, Covenant vẫn hơn UNSC về công nghệ.

Vũ khí của tàu UNSC dựa vào tên lửa và súng Magnetic Accelerator Cannon. Công nghệ này vẫn khiến họ xếp dưới các phương tiện của Covenant vì thế trong một trận tàu với tàu thì ít nhất để giành phần thắng được với một tàu Covenant, UNSC cần ít nhất ba con tàu. Mặt khác, tàu UNSC cũng được trang bị một số laoij vũ khí có khả năng hủy diệt lớn như Nova Bomb.

Các thuộc địa

UNSC đã mở rộng nơi con người có thể đặt chân tới được trong rất nhiều năm và cụ thể là hơn 800 hành tinh lớn nhỏ. Dù trong suốt cuộc chiến với Covenant nhiều thuộc địa bị tàn phá nhưng so với tổng số mà UNSC đang nắm giữ thì nó cũng khá nhỏ chỉ khoảng vài chục hành tinh hoàn toàn bị xóa sổ.

UNSC chia các thuộc địa thành hai nơi, Nội thuộc địa được tính trong vòng bán kính 10.5 năm ánh sáng tính từ Trái Đất, Ngoại thuộc địa thì xa hơn. Thuộc địa xa nhất được biết đến của UNSC là Beta Centauri, cách Trái Đất 525 năm ánh sáng. Trong phần này, mình sẽ viết lại toàn bộ hệ thống thuộc địa với nguyên bản tiếng anh(ở một số chỗ glass bạn hiểu rằng nó bị tàn phá, unknow là ko rõ trạng thái,..)

Mở rộng: Ở Trái Đất vẫn còn một số nước chưa tham gia vào UEG cho nên dù vậy vẫn chưa thể gọi là thống nhất(không có việt nam đâu há).

Sol System

Earth - Homeworld to Humanity

Asia

Micronesia

China

Japan

Mongolia

Pakistan

Africa

Cairo

East African Protectorate

Republic of Kenya

Mombasa

New Mombasa

Old Mombasa

Voi

United Republic of Tanzania

Zanzibar Island

Korea

Kyonggi Province

Songnam

Special Warfare Center

Commonwealth of Australia

Sydney, Australia

HighCom Facility Bravo-6

Sydney Synthetic Intellect Institute

Diego Garcia

Republic of Cuba

Havana

Centennial Orbital Elevator

Republic of Chile

United Republic of North America

Mexico

Mexico City

Base Segundo Terra

Canada

United States of America

New York

New York City

New Jersey

Unit 216

Newark

Cleveland, Ohio

Old Cleveland

Oregon

Salem

Illinois

Chicago

Industrial Zone 08

Gut Check

Rebound

Severe Tire Damage

The Seropian

Halsted Street

Indiana

Boston, Massachusetts

Chawla Base

Commonwealth of Kentucky

Great Lakes

Lake Michigan

Great Lakes Spaceport

Cottage Grove Terminal

Minnesota

Wisconsin

Switzerland

United Kingdom

Great Britain

London

Islington

Birmingham

Doncaster

Sheffield

Bristol

Cheshire

Leeds

Plymouth

Portsmouth

Reading

Romford

Scotland

Edinburgh

Federal Republic of Germany

Essen

Beweglichrüstungsysteme

UNSC Symphony Hall

Luna

Luna OCS Academy

Mars

Chiron

Argyre Planitia

Reyes-McLees Shipyards

Katagalugan

New Legaspi

New Manila

Mare Erythraeum

Jupiter

Jovian Moons

Ganymede

Aigburth

Lister

Io

Io Station

Europa

Epsilon Eridani System

Reach - Primary military installation. Was glassed by the Covenant in 2552.

Highland Mountains

CASTLE Base

Camp Hathcock

Camp Independence

Fairchild Field

HighCom Armory Omega

Military Reservation 01478-B

Military Wilderness Training Preserve

ODG Facility A-331

Olympic Tower

Reach Station Gamma

Reach Naval Academy

Ehilend - natural orbiting satellite

Beta Gabriel

Tribute

Casbah

Circumstance

Sigma Octanus System

Sigma Octanus IV - Still held by the UNSC even though it was attacked in 2552 by the Covenant.

Côte d'Azur

Lambda Serpentis System

Jericho VII - Glassed in 2535

Zeta Doradus System

Onyx - Obliterated (Core still intact)

Camp Currahee

Zone 67

Epsilon Indi System

Harvest - Glassed by Covenant in 2525

Utgard

Utgard Highway

Gladsheim

Gladsheim Highway

Chi Ceti System

Chi Ceti 4 - Status Unknown (possibly abandoned or glassed at a later date)

Damascus Testing Facility

Hellespont System

Troy - Glassed in 2537

Harmony - Glassed in 2537

New Harmony - Status Unknown (Presumed Glassed)

Eridanus System

Eridanus II - Glassed in 2530

Elysium City

Luxor Spaceport

Groombridge 34 System - Status Unknown

Station Delphi

Charybdis System

Charybdis IX - Glassed

Scyllion

111 Tauri System

Victoria - Unknown

Jericho System - Status Unknown Tantalus - Status Unknown Procyon System

Arcadia - Glassed in 2549

Ectanus 45 System

Chi Rho - Status Unknown

23 Librae System

Madrigal - Glassed in 2528

Other Colonies

Ariel - Unknown

Atlas Moons - still held by UNSC

Ballast - Unknown status

Beta Centauri - Unknown status

Biko - Glassed in 2525

Coral - Attacked by Covenant in 2552, Unknown status

Crystal - still held by UNSC

Durban

Draco III - Glassed

Dwarka - Glassed

Emerald Cove - Glassed in 2542

Far Isle - Unknown status

Gilgamesh - Unknown

Green Hills - Glassed in 2525

Hydra System - Unknown

Mamore - Still held by UNSC

Mariposa - Unknown status

Minister - Still held by UNSC

Miridem - Unknown status

New Constantinople - Glassed

Paris IV - Glassed

Second Base - Glassed in 2525

UNSC bases

Fort York

Fort Deen

Roosevelt Military Base

Crow's Nest

Firebase Bravo

Camp Hathcock

Camp Independence

Chawla Base

Diego Garcia

Segundo Terra

Camp Currahee

Outpost C9

Rat's Nest

Covenant

Tổng quan

Covenant là tổ chức điều hành tôn giáo của nhiều loài sinh vật ngoài hành tinh khác nhau, nắm quyền điều khiển một khu vực không gian rộng lớn trong dải ngân hà Milky Way. Đặc biệt hơn,chính phủ của chúng là một loạt các cấp vụ chính chị tôn giáo, chúng có một hệ thông các gia cấp và được lãnh đạo bởi những cá thể đơn lẻ. Chính chúng đã thúc đẩy chiến dịch diệt chủng chống lại loài người trước khi bị đánh bại bởi nhiều nguyên nhân mà điểm nhấn lớn nhấn và sự xung đột nội bộ. Sau khi bị đánh bại bởi đội quân của UNSC và Covenant Separatist, có vẻ những thành viên còn lại của Covenant đã trở về hành tinh quê hương của chúng cũng như tổ chức này hoàn toàn bị tan rã.

Một số thông tin cớ bản:

Thể chế chính quyền: Lãnh đạo văn hóa thần giáo học.

Tài liệu thành lập: Writ of Union.

Người lãnh đạo: Các Hierach.

Tổ chức cấp cao: High Council.

Thủ phủ: High Charity.

Ngày thành lập: Giai đoạn đầu Age of Reconciliation, sau cuộc chiến kéo dài nhiều năm giữa loài Sangheili và loài San 'Shyuum.

Ngày tan rã: Năm 2552, khi xảy ra cuộc nội chiến.

Ngày biến mất: Năm 2553.

Lịch sử

Cái tên Covenant được lấy từ một hiệp ước giao kèo thứ đã xúc đẩy nền hòa bình giữa loài Sangheili(Elite) và loài San 'Shyuum(Prophet). Chúng đã liên minh lại với nhau sau một cuộc chiến tàn khốc kéo dài nhiều năm mang theo rất nhiều nạn nhân. Tất cả là vì những cổ vật của người Forerunner ở trên hành tinh Sangheilos- quê hương của loài Sangheili. Elite thì muốn bảo vệ chúng còn Prophet lại muốn sử dụng và khởi động chúng. Với khả năng chiến đấu cao, xã hội loài Sangheili luôn sẵn sàng cho một cuộc chiến còn các Prophet lại có được một lợi thế to lớn: các công trình đầy sức mạnh của người Forerunner ví dụ như tàu Dreadnought. Sau khi quyết định dùng chúng để chống lại Elite, các Prophet đã hủy diệt đội quân Sangheili. Hơn ai hết những chỉ huy Elite đầy kinh nghiệm và thông minh hiểu rõ sự nguy hiểm hơn bao giờ hết. Họ cần một người có thể phân tích những công nghệ có trước để nâng cấp tàu của chính mình. Họ nhận ra rằng mình không cần thiết cứ phải trở thành một phe trong cuộc chiến này, họ có thể đàm phán. Khi các Prophet khám phá ra sự tồn tại của người Forerunner cũng như lí tưởng của chúng, Great Journey. Chúng đã muốn có một sự hòa bình giữa hai loài, vì thế chúng đã nói với loài Sangheili về việc này và hứa sẽ tìm ra những thứ tối cao của người Forerunner. Các Prophet đã chia sẻ sự hiểu biết này với Elite những người đã quay sang bảo vệ chúng khỏi mọi sự nguy hiểm cũng như nghiên cứu những cổ vật của người Forerunner để khởi động mọi vòng tròn Halo. Điều này đã được đặt vào trong bản tài liệu thành lập, Writ of Union.

Ban đầu, tổ chức này chỉ đơn giản có nhiệm vụ ngăn chặn chiến tranh giữa hai loài. Nhưng xã hội của chúng đã phát triển, công ngêệ, văn hóa và tôn giáo cũng vậy. Bằng thời gian xảy ra các phiên bản game Halo Covenant đã kiểm soát một phần lớn trong dải ngân hà Milky Way. Sau khi phát hiện và thu phục những loài khác, xã ôội Covenant dần trở nên phức tạp. Covenant áp dụng chính sách thần học, dựa vào các tiên đoán về những vòng tròn linh thiêng và Great Journey. Niềm tin chính trong cộng đồng Covenant là những vòng tròn Halo sẽ cho phép chúng vươn tới bến bờ của sự tôn kính, nơi chúng cùng với người Forerunner như là một vị thánh. Những ai không tin vào Great Journey sẽ bị bỏ lại và chết bởi sức mạnh của vòng tròn Halo.

Xã hội

Covenant được điều hành bởi hội đồng cấp cao High Council, hội đồng này nằm dưới sự chỉ đạo của bộ ba Prophet có năng lực nhất, cùng với đó là các Prophet cấp thấp hơn, các Legate(đóng vai trò như đại sứ của Covenant) và rất nhiều Elite có chức vụ rất cao được biết đến như là những thành viên hội đồng. Tuy nhiên vào thời điểm gần nổ ra cuộc nội chiến trong Covenant, các PRophet đã thay thế loài Elite bằng loài Brute trong hàng loạt các vai trò chủ chốt ở xã hội Covenant, bao gồm cả việc bảo vệ các Hierach(Chức vụ của ba Prophet cao cấp nhất) và điều khiển các hạm đội tàu Covenant. Prophet of Truth và Mercy đã sử dụng việc Prophet of Regret bị hạ sát dưới tay Master Chief làm bằng cớ để tiến hành việc thay thế trên. Không những thế, các Prophet sau đó đã bí mật lệnh cho loài Brute phải diệt chủng loài Elite và dẫn tới cuộc nội chiến.

Ngoài hội đồng cấp cao High Council còn có một số hội đồng nắm quyền điều hành một số mặt khác của Covenant như: hội đồng Council of Concordance, hội đồng Council of Deed and Doctrine, hội đồng Council of Master; những hội đồng trên đóng vai trò như tôn giáo, văn hoá.....

Một số lượng lớn các chức vụ Ministry cũng đóng vai trò quan trọng không kém trong xã hội Covenant. Sau đây là sơ đồ cấu trúc hành chính Covenant:

High Council 

Ministry of Tranquility | Ministry of Concert | Ministry of Conversion | Ministry of Fortitude | Ministry of Etiology 

Council of Concordance | Ministry of Penance | Council of Deed and Doctrine | Council of Masters

Các chủng loài

Xã hội Covenant hình thành dựa trên các tầng lớp trong xã hội từ cao xuống thấp. Rất nhiều loài sau khi chạm chán với Covenant đã trở thành nạn nhân hoặc một phần của tổ chức này. Lấy ví dụ về cuộc đối mặt với con người, Oracle(monitor đó, con này là Medicant Bias) ở trên tàu Dreadnought đã tiết lộ với Truth và Mercy:" My makers."(Tạm dịch là người đã tạo ra tôi) khi nhìn thấy loài người. Vì Covenant được thành lập và tồn tại được dựa trên niềm tin rằng người Forerunner là tối thượng và rất hiện đại nên Truth và Mercy hiểu rằng nếu để cho bất kì loài nào trong Covenant biết được điều này, cả tổ chức sẽ tan rã, đơn giản con người quá chậm phát triển và hoàn toàn trái với những gì chúng tưởng tượng về người Forerunner nên Truth và Mercy không công nhận và đã ra lệnh diệt chủng toàn bộ loài người.

Prophet

Với chức vụ cao nhất trong xã hội Covenant, các Prophet nắm mọi quyền hành về mọi mặt như tôn giáo, chính trị hay văn hóa. Tuy có một cơ thể yếu nhưng lại mang một sức mạnh rất lớn khi điều hành cả một đế chế khổng lồ và rất mạnh còn việc thực hiện các lệnh đó là dành cho loài Elite và những loài khác. Sở dĩ chúng có quyền lực như vậy vì chúng rất hiểu về nhiều mặt của người Forerunner. Hơn nữa, Covenant là một đế chế cuồng giáo nên cũng phần nào dễ dang bị điều khiển. Chúng được biết đến với những cái tên như Hierarch, Holy One, Noble Hierarch hay Exalted bởi những loài khác trong Covenant. Dù vậy, các PRophet đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng khi tiên đoán sai về việc khởi động các vòng tròn linh thiêng Halo sẽ giúp chúng tiếp cận được một sự kiện huy hoàng mà chúng gọi là Great Journey và điều đó sẽ dẫn chúng tới sứ mệnh cuối cùng của người Forerunner mà không biết việc đó sẽ dẫn chúng tới sự diệt vong. Trong ngôn ngữ Covenant, chúng còn có tên là San 'Shyuum. Ba Prophet gần đây và cũng là cuối cùng là Prophet of Truth, Mercy và Regret. Prophet có thể bỏ rơi đồng minh của mình bất kì lúc nào nếu việc đó bảo vệ chúng khỏi bất kì nguy hiểm nào, điều này thể hiện rõ khi Truth bỏ mặc Mercy cho Flood.

Brute

Brute là một trong những loài mới xấu hiện từ Halo 2 trở đi và là loài duy nhất đã giành được vị thế ngang bằng với một phần rất quan trong của Covenant, loài Elite. Chúng có một khả năng chịu đựng rất lớn đối với mọi sự sát thương một cách lạ thường vì chúng có bộ da tựa như da tê giác, điều này đã bù lại cho sự thiếu chiếc áo giáp năng lượng(tuy nhiên trong Hal, Brute cũng đã có). Chúng sử dụng vũ khí và phương tiện với công nghệ nửa Covenant. Công nghệ kiểu này khá lạc hậu so với Covenant nhưng chúng vẫn có sức giết người khủng khiếp với hầu hết những vũ khí có gắn kèm lưỡi kiếm đi cùng với chúng. Một số thủ lĩnh Brute trong Halo 3 và Tartarus trong Halo 2 được trang bị những thứ cực mạnh. Thỉnh thoảng, nhưng Brute đang ở đúng chế độ chiến đấu sẽ nổi khùng và luôn giết bất kì ai hay cái gì cản đường đi của nó. Brute có nhiều chức vụ và cao nhất là chức War Chieftain người thường xuyên mang theo Plasma Cannon, Fuel Rod Gun hay chức Chieftain người thường mang Gravity Hammer. Brute luôn hoạt động theo nhóm từ 3-8 mỗi khi có thể. Không giống như Elite, chúng không hề có ác cảm khi sử dụng vũ khí của con người. Sau khi Elite bị thế chỗ bởi thất bại trong việc bảo vệ Prophet of Regret khỏi Demon, Brute đã trở thành người bảo vệ các Prophet cũng như nắm giữ gần hết các doanh trại Covenant. Đặc điểm vật lý là chúng có một mái tóc bù xù, có lớp da như tê giác và một sức chịu đựng phi thường. Chúng được gọi là Jiralhanae trong ngôn ngữ Covenant. Trong màn Sierra-117, chúng có thể đã làm gì đó để khiến Grunt bình tĩnh lại và không bỏ chạy ra xa nữa, bao gồm cả việc thêm chất hóa học gì đó vào bình đựng khí Metan của Grunt, nhưng dù vậy chúng lại hay thường dọa Grunt hơn.

Elite

Loài Elite đã phục vụ cho Covenant trong vai trò nhà lãnh đạo quân sự cho đến cuộc ly giáo lớn năm 2552. Trong khi các Prophet luôn là những người nói ra những câu quyết định thì người tạo ra các kế hoạch quân sự, các chiến thuật lại là các Elite. Các chức vụ cao của Elite thường là chỉ huy tàu hay hạm đội: Ship Master thì chỉ huy tàu, Fleet Master chỉ huy hạm đội, Field Master chỉ huy đại đội. Elite bảo vệ các công trình quân sự và luôn đảm bảo lệnh của các Prophet được tuân theo. Như đã nói, Elite cũng có những chức vụ riêng trong loài của mình, chức vụ của một Elite cao hay thấp là tùy thuộc vào số kẻ thù mà Elite đó đã hạ gục. Elite là phần rất quan trọng trong Covenant và là tầng lớp duy nhất có thể đảm nhiệm chỉ huy quân đội cũng như rất có tiếng nói trong hội đồng cấp cao. Tuy nhiên, sau đó Elite đã bị đẩy khỏi nhiệm vụ của mình cho loài Brute: lãnh đạo quân đội Covenant. Vì Prophet và Brute đã cố diệt chủng Elite nên loài này đã tức giận rời bỏ Covenant và cuộc nội chiến xảy ra trong nội bộ Covenant, kết quả là Covenant Loyalist đã thêm Elite vào danh sách kẻ thù cần tiêu diệt và Covenant Separatist đã trở thành đồng minh của UNSC. Elite được gọi là Sangheili trong ngôn ngữ của Covenant. Chữ ee ở cuối mỗi tên của từng Elite là để biểu hiện họ là hoặc đã là thành viên của quân đội Covenant, tuy nhiên sau đó rất nhiều Elite đã bỏ nó đi để thể hiện họ đã rời bỏ Covenant.

Hunter

Hunter là một tập hợp các con sâu được gọi là Lekgolo thứ đã tạo thành một thể thống nhất nằm dưới bộ áo giáp. Trong dạng này chúng được gọi là Mgalekgolo. Chúng thường xuyên chiến đấu và đi theo cặp như anh em song sinh(tuy nhiên không phải tất cả các hợp thể này đều có thể mặc vừa một bộ quần áo giáp) và là một trong những chủng quân chiến đấu mạnh nhất của Covenant. Chúng được trang bị súng Assault Cannon đầy sức mạnh và một chiếc khiên khá to có thể chống lại mọi sự công phá loại nhỏ. Chúng được sử dụng như một loại lính bất ngờ và chỉ được triển khai ở những trận chiến lớn. Động cơ, tôn giáo và văn hóa của chúng vẫn còn là ẩn số. Điểm yếu duy nhất của chúng là những điểm màu da cam lộ ra thường là ở: lưng, bụng và cổ nhưng chủ yếu vẫn là ở sau lưng chúng. Chúng là một trong những kẻ thù bên Covenant khó chịu nhất luôn thách thức với Brute trong Hal và Elite trong Hal.

Drone

Chúng là loài sinh vật biết bay có hình dáng như một con côn trùng và được gọi với cái tên Drone. Chúng phục vụ như là một kĩ sư nhưng đã bị thay thế bởi loài Huragok. Chúng trở thành sinh vật thứ hai của Covenant có khả năng bay được. Khả năng bay bằng cánh khiến chúng có khả năng dùng vũ khí chống lại những kẻ thù dưới đất một cách xuất sắc. Không giống như hầu hết các loài khác trong Covenant, chúng không cần một môi trường có khí oxi và ni-tơ hay khí metan như loài Grunt để có thể tồn tại. Chúng được gọi là Yanme'e trong ngôn ngữ của Covenant. Một số người tin rằng Drone đã gia nhập Covenant tại thời điểm nào đó giữa Halo: Combat Evolved và Halo 2. Điều này là một sự suy đoán sai lầm khi ta bắt gặp trong chúng cuốn tiểu thuyết Halo: Contact Harvest, tại cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa con người và Covenant.

Jackal

Vì khả năng quan sát cực kì tốt nên Jackal là chủng quân đi do thám, nhà thiện xạ của quân đội Covenant. Chúng cao khoảng 5'6 fit và vì tính thiếu bền bỉ trong chiến đấu của mình nên chúng được trang bị một chiếc khiên năng lượng có tính cơ động cao và tự hồi phục trong suốt trận chiến. Jackal được triển khai chủ yếu là như một tay súng giỏi với khả năng quan sát, khéo léo đến xuất sắc của mình, chúng cũng được dùng để cố thủ ở những địa điểm chiến lược. Khi một Jackal đang nổ súng, nó sẽ che đầu và tay mình, tìm cách từ từ tránh khỏi nơi đang bắn lại về phía nó. Trong cuộc chạm trán giữa Staff Seagents Johnson và Byrne trên tàu chở hàng của con người, những con Jakal này đã cố cướp và điều khiển con tàu. Jackal chưa bao giờ được nhìn thấy là sử dụng lựu đạn trừ trong quyển Halo: Ghost of Onyx. Thường là chúng luôn cầm hai tay vừa vũ khí vừa khiên nên chúng không thể quăng lựu khi đang cầm cả hai thứ như vậy. Chúng được gọi là Kig-yar trong ngôn ngữ của Covenant. Jackal là loài đầu tiên bên Covenant mà các Spartan chạm trán như đã thấy ở trong The Fall of Reach.

Skirmisher

Thông tin sơ lược:

Chắc hẳn mọi người cũng biết về sự xuất hiện của nó trong những tấm screenshot gần đây nhưng mình xin đi sâu vào một chút về loài này:

Thực chất chúng cùng loài với Jackal, với cái tên Kig-yar trong ngôn ngữ Covenant. Dù vậy, không như Jackal chỉ ẩn nấp và bắn, chúng thường chỉ mang trên người một loại vũ khí(chủ yếu là PLasma Pistol). Bù lại cho việc không sử dụng shield như Jackal, Skirmisher có thể sử dụng được lựu đạn. Về mặt cấu trúc cơ thể thì chúng khỏe hơn nhiều so với người anh em của chúng, chính vì vậy, giống với loài Grunt, rất có thể ta sẽ bắt gặp chúng cầm những loại vũ khí hạng nặng. Một đặc điểm quen thuộc, chúng thường xuất hiện với đám đông và có xu hướng phòng thủ ở hai bên hông. Ngoài ra trong chiến đấu, Skirmisher cũng thể hiện rằng mình là một loài rất tinh ranh, nếu bạn đã từng trải nghiệm Halo ở mức legendary và thấy Jackal ranh ma như thế nào thì Skirmisher còn thể hiện hơn thế. Đây thực sự là đối thủ rất rất khó chịu đối với bất kỳ đối thủ nào gặp nó.

Nếu để ý ta sẽ thấy chúng khá giống với một loài khủng long cỡ trung bình sống ở kỉ Phấn Trắng,Dromaeosauridae. Một chi tiết khác, sau sự kiện tại Reach, Skirmisher đã hoàn toàn biến mất khỏi Covenant, rất có khả năng chúng đã bị tuyệt diệt tại chính sự kiện này.

Grunt

Grunt là loài phổ biến nhất và có tầng lớp thấp nhất trong xã hội Covenant, điều này cũng đã được nói lên thông qua cái tên của nó. Mặc dù nổi tiếng với sự ngờ ngệch và sợ hãi, chúng vẫn rất nguy hiểm với số lượng lớn, điều đó giải thích vì sao Arbiter cần phải dập tắt cuộc nổi loạn của loài này. Chúng hít thở bằng hổn hợp khí Me-tan và vì thế chúng luôn phải mang sau lưng một bình rất to chứa đầy khi Me-tan để có thể tồn tại ở trong các môi trường khác. Chúng chiến đấu khá tốt khi ở trên Plasma Turret và khi được sử dụng Plasma Pistol và Needdler, thỉnh thoảng khi đợc trang bị Fuel Rod Gun chúng cũng sử dụng khá tốt. Nếu thủ lính của chúng bị gết, loài Grunt sẽ bỏ chạy hoặ chúng sẽ rơi vào trạng thái Kamikaze(nổi điên tạm thời) bằng cách khởi động hai quả lựu Plasma(mỗi tay một quả) trong khi tấn côg bạn và la lên trong khi đó Heretic Grunt lại không hề có chút sợ hãi nào khi bị rơi vào hoàn cnảh tương tự, chúng sẽ vẫn chiến đấu bình thường. Kỉ luật của chúng dựa trên sự chỉ huy mạnh mẽ và sức mạnh của số đông, tuy nhiên khi không có người chỉ huy thì việc chúng xuất hiện đồng nghĩa với việc chúng ít kháng cự hơn, khi đó chúng sẽ co cụm lại. Chúng được gọi với cái tên Unggoy trong ngôn ngữ Covenant. Unggoy có một chỉ số cơ bắp đáng nể, có thể trang bị cho chúng nhiều loại vũ khí lớn trong kho vũ khí Covenant. Chúng đã học được khá nhiều ngôn ngữ của loài người thông qua những tín nhiệu được gửi đi giữa các tàu của con người, điều này làm chúng rất hãnh diện. Trong suốt cuộc nội chiến Covenant, chúng cũng như Hunter không hoàn toàn phục vụ cho bất kì bên nào cả, mặc dù phần lớn chúng theo các Elite, theo vị cứu tinh của chúng, Arbiter. Giọng nói của chúng cao và nhí nhéo. Chúng rõ ràng không cảm thấy gì sai về điều này nhưng với các loài khác khi nói chuyện với chúng thì luôn cảm thấy khá hài hước.

Engineer

Engineer xuất hiện trong bốn phiên bản game: Halo Wars, Hal: ODST, Halo Reach và Halo: Combat Evolved. Trong Halo CE, người ta cần sử dụng chương trình Halo Map Tools để mang nó vào trong game. Trong Halo Wars, nó là một đơn vị quân sử dụng để trị thương cho các chủng quân Covenant khác; ở Hal: ODST và Halo Reach, nó có khả năng tạo màn chắn năng lượng để bảo vệ quân Covenant cũng như tự trị vết thương cho mình. Về mặt quân sự, chúng là loài hoàn toàn không có khả năng chiến đấu, khi bị tiêu diệt, chúng sẽ phát nổ. Chúng được dùng để xây dựng cỗ máy chiến đấu Covenant và sẽ chỉ nói chuyện với các Prophet(cũng như những cá nhân nào học được ngôn ngữ của chúng). Tuy nhiên, điều này có nghĩa Engineer có tầng lớp rất cao trong xã hội thường là vì Covenant đề cao những ai có thể giúp chúng khai thác công nghệ của người Forerunner lẫn loài khác. Chắc chắn Covenant có thể hiểu và sử dụng công nghệ của người Forerunner tốt và hoàn hảo đến như vậy là nhờ có chúng. Engineer chính xác là một loài nhân tạo do người Forerunner tạo ra, điều này khiến chúng càng trở nên quan trọng với Covenant. Chúng được biết với cái tên Huragok trong ngôn ngữ Covenant và Forerunner. Chúng đã được bỏ đi khỏi phiên bản cuối cùng của Halo: Combat Evolved(mặc dù chúng vẫn xuất hiện dưới dạng mất mã, nhưng chũ không được sử dụng), dù vậy chúng vẫn là nét đặc trưng của một số cuốn tiểu thuyết và cũng như là một đơn vị trên không trong Halo Wars.

Văn hóa và tôn giáo

Nền văn hoá, xã hội của Covenant cùng song song tồn tại dựa trên sự tôn thờ người Forerunner và thu nhặt những cổ vật của họ. Chính vì điều này, chúng thường xuyên gây chiến để đạt được mục đích cuối cùng của chúng và cũng vì thế mà Elite sau đó là Brute có địa vị xã hội rất cao trong cộng đồng Covenant cũng như việc chúng phải bảo vệ các Prophet khỏi những nguy cờ từ trong và ngoài Covenant. 

Vì các PRophet là đường dẫn tới người Forerunner cũng như chỉ có chúng mới có thể khai thác những siêu công nghệ và kết hợp đồng loạt những khả năng của mỗi loài trong Covenant nhằm đặt cỗ máy chiến tranh của Covenant luôn trên đà phát triển. Những loài sát nhập vào Covenant có thể bị coi gần như là nô lệ của tổ chức này, chúng bị chi phối làm cuộc sống của chúng hoàn toàn thay đổi. Nền văn hóa trong quá khứ của chúng hoàn toàn bị xóa sạch và chỉ có một cách thiết thực nhất dẫn chúng hồi tưởng lại văn hóa gốc đã bị xóa đó là thông qua những giấc mơ. Hầu hết các loài đều chỉ được giữ lại những kĩ năng đặc trưng cho riêng chúng để Covenant lợi dụng hơn là trở thành một phần của đế chế này. Lấy ví dụ về loài Hunter, sau khi khuất phục trước Covenant bởi hàng loạt vụ càn quét bằng súng Plasma từ tàu chiến chúng đã trở thành chủng quân chỉ để hỗ trợ chiến đấu trong tầm gần hơn là hỗ trợ ở trên các tàu không gian. 

Nền văn minh cực kì tiên tiến và sự biến mất bí ẩn của người Forerunner đã khiến họ được tôn thờ như những vị chúa bởi Covenant mặc dù chắc chắn họ không phải là thành thần. Niềm tin tưởng của Covenant được xây dựng trên những cổ vật bị bỏ rơi, những công trình của người Forerunner. Nhưng nổ bật nhất vẫn là bảy vòng tròn Halo thứ mà theo Covenant sẽ nơi là bắt đầu cho Great Journey. Sự hoàn hào, hiện đại về mặt công nghệ và những cổ vật tồn tại một cách bí ẩn của người Forerunner đã giữ cho ngọn lửa chứa niềm tin của Covenant cháy trong hàng ngàn năm. 

Có vẻ như lòng tin của Covenant chỉ bó hẹp trong việc tìm kiếm những công nghệ bị thất lạc nằm trải rác trong toàn bộ thiên hà. Tuy nhiên còn rất nhiều điều về công nghệ của người Forerunner mà chúng không thể tưởng tượng hết dược sức mạnh mà nh thứ đó mang trong người. Những sức mạnh đó chỉ được thể hiện qua ý nghĩa và nguồn gốc thật sự của chúng. Chắc chắn, Covenant đã kết hợp được nhiều thứ của người Forerunner vào để bổ sung cho vũ khí, công nghệ di chuyển của chúng. Sau đó, Covenant đã dồn toàn bộ lòng tin của chúng vào kiểu tôn giáo này. Những loài sát nhập khác cũng bị chuyển đổi và bị điều khiển bởi kiểu tôn giáo này.

Bảng niên biểu lịch sử Covenant

Lịch sử Covenant được chia ra làm nhiều khoảng thời đại gọi là Age. Có ít nhất là 8 thời kì, mặc dù trình tự của chúng là chưa chính xác. Từng thời kì được đặt tên theo những sự kiện diễn ra trong khoảng thời gian đó, điều này cũng có nghĩa chiều dài từng thời kì là không giống nhau. Halo Wars, Halo:Combat Evolved, Halo 2 xảy ra vào giữa thời đại thứ 9: Age of Reclamation, thứ đã bắt đầu từ giữa sự kiện Halo: Contact Harvest.

CÁC THỜI KÌ CỦA COVENANT

Age of Abandonment 

Age of Conflict 

Age of Reconciliation 

Age of Discovery 

Age of Conversion 

Age of Doubt 

Age of Reclamation

Theo cuộc đối thoại nhanh giữa Maccabeus và loài Jiralhanae thì các thời đại được nói đến như nhau:

Thời kì đầu: Thời đại của sự ngu dốt và sợ hãi.

Thời kì thứ hai: Thời đại của chiến tranh và đổ máu.

Thời kì thứ ba: Thời đại của sự nhún nhường và tình anh em.

Thời kì thứ tư: Thời đại của các kì quan và sự hiểu biết.

Thời kì thứ năm: Thời đại của sự tuân thủ và tự do.

Thời kì thứ sáu: Thời đại của niềm tin và sự kiên nhẫn.

Thời kì thứ bảy: Thời đại của cuộc hành trình và sự cứu rỗi.

Dù vậy sẽ rất đáng suy nghĩ ở điểm nếu ta để ý sẽ thấy 7 vòng tròn sẽ tương ứng với 7 thời kì.

Công nghệ

Công nghệ của Covenant thường là lặp lại những mô phỏng hơn là cải tiến khác đi không giống với kẻ thù của chúng, loài người. Một số người nói rằng công nghệ của chúng tiến rất xa so với loài người. Nói vậy đúng không sai, vì công nghệ đó do chúng lấy được từ những cổ vật còn sót lại của người Forerunner chúng đã khám phá ra, vũ khí của chúng chủ yếu dựa trên chất plasma và hầu hết phương tiện của chúng đều có khả năng bay lượn. Gần như mọi vũ khí cầm tay của Covenant(ngoại trừ Fuel Rod gun, Needler, Carbine, Brute Shot và sau đó là Mauler và Spike) sử d những cuôn dây từ tính để điều khiển nhừng dòng plasma thường xuyên rối loạn.

Trong khi công nghệ của Covenant vượt xa so với con người thì có vẻ chúng lại khá ít hiểu biết về sức mạnh và sự chính xác của công nghệ chúng đang nắm giữ tới mức nào. Lấy ví dụ, động cơ xuyên không gian của Covenant chính xác hơn và nhanh hơn nhiều động cơ của con người nhưng Covenant lại sử dụng động cơ của chúng chậm hơn và thiếu chính xác hơn khả năng thật sự của chúng. Điều này là vì Covenant không hề quan tâm tới việc tìm hiểu yếu tố cơ bán và nguyên lí hoạt động nằm sau công nghệ chúng đang sử dụng. Cortana đã sử dụng điều này như một lợi thé trong việc cướp một con tàu Flagship của Covenant, Ascendant Justice bằng cách thay đổi lại cấu trúc điện từ của vòng xoắn khiến tia plasma trở nên mảnh hơn cũng như tiêu thụ hết plasma một cách nhanh chóng. Những khẩu Plasma Torpedoes được coi như là một loại tên lửa có sức mạnh rất lớn, phá vỡ một lớp giáp bảo vệ của tàu Covenant và thổi tung nó chỉ với một nhát bắn. Một điều được sử dụng trong quyển Halo: Fít Strike. Tàu không gian Covenant sử dụng động cơ Repulsor để đẩy vào không gian hơn là tên lửa hóa học truyền thống được sử dụng bởi UNSC. Như được thấy ở Halo: Contact Harvest có vẻ Covenant có một sự quan tâm rất đúng tới những cây thuốc thảo dược.

Chỉ có hai trí tuệ nhân tạo của Covenant được tìm thấy. Một là trí tuệ nhân tạo đã "nổi điên" ở trên tàu Ascendant Justice và đã phá hủy bởi Cortana, ngoài ra còn The Seeker, thứ đã được gửi tới để thâm nhập hệ thống của UNSC và thông báo lại cho Covenant về địa điểm của Trái Đất. Việc này chỉ khiến Covenant càng thêm chờ đợi, ngay lập tức Prophet đã ban lệnh cấm tất cả các trí tuệ nhân tạo thay vì việc thường xuyên xuất hiện ở bên UNSC. Tuy nhiên, bản phô tô của Cortana đã chỉ ra có một vài AI đang xuất hiện trên con tàu khổng lồ Unyielding Hierophant khi các Spartan đột nhập vào đây.

Kiến trúc Covenant được biết đến vì kiểu dáng tinh vi của các đường cong, giống như sự đam mê hội họa của những tầng lớp có chức vụ cao. Xây dựng với những kim loại màu trắng hay tím riêng biệt, những màu sắc này là nét đặc trưng chính cho kiểu thiết kế Covenant và rải rác khắp tàu không gian, phương tiện, vũ khí của chúng. Thứ kim loại mà Covenant dùng cho tới giờ vẫn là bí ẩn đối với loài người dù nó rất khỏe và có độ đàn hồi.

Quân sự

Giống như các nền văn minh khác, Covenat cũng xây dựng một đội quân vũ trang lâu dài nhằm tuân lệnh, điều hòa không khí giữa các loài ở Covenant và thực hiện việc chiến đấu trong không gian, nói chung là để đảm bảo sức mạnh của chúng lên các loài khác. Trước khi, Elite là loài được ưu tiên chỉ huy quân sự cho tới khi cuộc nội chiến ở Covenant xảy ra, phe Royalist do loài Brute chỉ huy quân sự. Quân đội Covenat bao gồm: Covenant Navy, Covenant Army và Special Warfare Group(Special Operation Division viết tắt là SpeOps cũng nằm trong đó). Tuy nhiên đáng chú ý nhất đó chính là, tuy công nghệ tiên tiến và có số quân đông hơn nhưng chiến đấu dưới đất Covenant đa số đều thất bại, đó là lí do vì sao chúng thường lui quân về không gian và cho tàu không gian tấn công, càn quét lên bề mặt hành tinh. 

Vũ khí

Covenant hãnh diện vì chúng có một kho vũ khí khổng lồ bao gồm chủ yếu là những loại sử dụng plasma(tuy nhiên, chúng cũng có lợi dùng tia lazer và một số vũ khí sử dụng các loại tia khác). Hầu hết vũ khí của Covenant đều sử dụng dạng hướng từ trường thứ mà UNSC chỉ có thể làm với súng MAC ở trên tàu và súng M68 Gauss ở trên xe Wathorg. Chất plasma được Covenant khai thác ở sâu bên trong hành tinh của loài Unggoy, Balaho. Một khi mỏ plasma nào lấy hết nhiên liệu ngay lập tức tiến trình nhân bản vật chất được khởi động từ trước giúp hồi phục lại, điều này khiến chúng có thể lấy được hàng triệu tấn plasma trên một ngày.

Thứ vũ khí tốt nhất để loại bỏ lớp giáp năng lượng của Covenant tốt nhất chính là những khẩu súng plasma của chúng. Với một số lượng đạn lớn có thể bắn ra ơví một tốc độ nhanh nhưng năng lượng sẽ không thể hồi phục lại mà không có bất kì trạm hồi phục nào ở gần đó, và việc bắn nhiều lần trong khoảng thời gian ngắn có thể dẫn tới việc khẩu súng quá nóng và cần thời gian để tắt nguồn năng lượng để làm mát trong khoảng thời gian này vũ khí không thể được sử dụng. Một khi plasma được sử dụng hết, vũ khí sẽ là vô dụng. Trong một số tài liệu về trò chơi, việc nạp lại plasma là có thể nhưng công nghệ này không được dùng bởi Arbiter hay Master Chìef ở bất kì Halo: Combat Evolved hay Hal và Hal.

Với sự xuất hiện của Brute như thủ lĩnh quân đội trong Covenant, vũ khí của cũng cúng xuất hiện theo và được sử dụng rộng rãi. Lợi dụng những đầu nhọn thô bằng kim loại để thay thế vũ khí plasma, súng Mauler lấy ý tưởng từ khẩu shotgun của con người, lựu đạn nổ như được phóng, những thanh kiếm chúng khá nguyên thủy nhưng tàn bạo và chuẩn xác đến kinh ngươi giống y như người đã tạo ra chúng, loài Brute.

Có ba loại vũ khí cận chiến được biết đến trong Covenant. đầu tiên và cũng là nổi tiếng nhất, Energy Sword, một thanh kiếm cứng được làm từ plasma siêu nóng được sử dụng đồng loạt bởi loài Sangheili. Thanh kiếm này luôn mang lại trá trị chiến đấu và tâm linh với loài này. Thứ hai, đó là Gravity Hammer, cây búa được sử dụng bởi loài Jiralhanae, nó mang ý nghĩa tương tự như thanh kiếm Energy Sword với laòi Sangheili., nó có thể tạo ra một khoảng không gian chân không giúp phá tan mọi sự tấn công. Thử ba là thứ mà chưa từng xuất hiện trong bất kì bản Halo nào, nó được sử dụng bởi loài Unggoy và loài Kig-Yar, Energy Cutlass, một viên pha lê khá giống với những viên đạn của súng Needler, được sử dụng trong cận chiến, nó có khả năng dính chặt vào đối phương và phát nổ. Brute Shot, Mauler và Spiker những vũ khí của loài Jiralhanae cũng rất hiệu quả trong cận chiến.

Phương tiện

Phương tiện của covenant sử dụng công nghệ đối không tiên tiến để có thể di chuyển, cũng như lợi dụng Plasma Cannon làm vũ khí và chúng chủ yếu được tạo nên từ kim loại bến khỏe có màu tím. Mặc dù thường đi nhanh hơn người anh em của chúng ở bên phe UNSC nhưng phương tiện của Covenant thường không ổn định khi đi qua những vùng có địa hình xấu dễ làm mất tay lái. Tất cả các phương tiện của covenant đều làm từ một loài kim loại màu tim hoặc xanh tối, thứ được coi là rất hiện đại và khỏe hơn bất kì hợp kim nào con người từng biết đến. Tất cả những phương tiên của Covenant đều được đặt tên theo những thực thể siêu nhiên bởi UNSC ngoại trừ Scarab và Locust. Những lí do đằng sau việc này vẫn còn chưa rõ. Gần đây, những phương tiện của Brute cũng như công nghệ của chúng luôn gắn chặt với kho vũ khí của covenant. Mặc dù còn thô sơ nhiều, chúng vẫn phục vũ Brute vào những điều loài này cần. Phương tiện của Brute không được đặt tên theo những thực thể siêu nhiên như hàng loạt phương tiện của Covenant, những phương tiện này được biết đến như là một phần công nghệ riêng của loài Jiralhanae.

DANH SÁCH NHỮNG LOẠI VŨ KHÍ CỦA COVENANT

Các loại súng pistol:

PLasma Pistol - Needler - Mauler

Các loại súng rifle và carbine:

Brute PLasma Rifle - Plasma Rifle - Spiker - Particle Beam Rifle - Covenant Carbine

Các loạii vũ khí cận chiến:

Energy Sword - Gravity Hammer - Honor Guard Pike - Energy Garrote

Lựu và đạn nổ:

Antimatter Charge · Covenant Bomb · Covenant Charge · Plasma Charge · Plasma Mortar · Plasma Grenade · Spike Grenade · Firebomb Grenade · Brute Shot · Fuel Rod Gun 

Vũ khí hỗ trợ:

Plasma Cannon · Shade turret · Gravity Cannon · Assault Cannon · Scarab Gun 

Vũ khí của tàu không gian:

Energy Projector · Plasma Torpedo · Pulse Laser 

CÁC PHƯƠNG TIỆN TRÊN KHÔNG VÀ DƯỚI ĐẤT CỦA COVENANT

Đơn vị chiến đấu dưới đất:

Ghost - Spectre - Chopper

Đơn vị phòng thủ:

Prowler • Shadow • Wraith • Anti-Air Wraith • Honor Guard Wraith 

Đơn vị đi càn - Walker:

Locust - Scarab

Đơn vị chuyên trở trên không:

Spirit - Phantom

Đơn vị chiến đấu trên không:

Banshee - Vampire - Seraph

Đơn vị quân khác:

Shade

BẢNG PHÂN LOẠI CÁC TÀU KHÔNG GIAN CỦA COVENANT

Loại hỗ trợ dưới đất:

Banshee - Vampire

Loại chiến đấu trong không gian:

Lớp Seraph - Lớp chiến đấu hạng nặng Tarasque - Lớp thả bom Gigas

Loại thả quân

Spirit - Phantom - Boarding Craft

Loại không rõ tên:

Lớp CAR - Lớp CPV

Loại hỗ trợ:

Stealth Corvette - Agricultural Support Ship

Loại chỉ huy chiến đấu:

Frigate - Destroyer

Loại cỡ lớn:

Light Cruiser - Cruiser - CCS-class - Reverence-class - Battleship - Supercruiser

Loại chuyên chở hạng nặng:

Carrier - Assault Carrier - Supercarrier

Trạm không gian:

High Charity - Unyielding Hierophant

Thế giới Covenant

Hệ thống hành tinh 51 Pegasi-B:

Pegasi Delta 

K7-49 

Hệ Salia 

Joyous Exultation 

Malhiem (Vệ tinh) 

Hệ Urs(với chòm sao Fied và Joori như là những chòm sao thứ hai) 

Sanghelios (Quê hương loài Elite) 

Yermo (Hành tinh thuộc Covenant) 

Iruiru 

Qikost (Vệ tinh) 

Suban (Vệ tinh) 

Hệ Tala

Balaho (Quê hương loài Grunt) 

Buwan (Vệ tinh) 

Padpad (Vệ tinh) 

Hệ Oth Sonin

Doisac (Quê hương loài Brute) 

Warial (Vệ tinh) 

Solrapt (Vệ tinh) 

Teash (Vệ tinh) 

Quê hương loài Prophet-Hiện vẫ chưa rõ.

Hệ Svir

Te (Quê hương loài Hunter) 

Rantu 

Uhtua 

Cungf với 23 vệ tinh nhỏ khác

Hệ Napret

Palamok (Quê hương loài Drone) 

Naxook (Vệ tinh) 

Oquiu (Vệ tinh) 

Ka'amoti (Vệ tinh) 

Kami (Vệ tinh) 

Hệ Y'Deio (HD 69830) 

Chu'ot 

Eayn (Vệ tinh và cũng là quê hương loài Jackal) 

Ngoài ra, Decided Heart là hành tinh được coi như một căn cứ vững chãi của loài Elite(tương tự như Reach đối với con người), chính xác thì nó giống một vùng quân sự hơn là một thuộc địa. Weeping Shadows of Sorrow cũng là cái tên rất nổi tiếng trong cộng đồng Covenant, đây được coi là một nhà tù chỉ dành cho các chiến binh Covenant để giúp suy nghĩ và ăn năn về những hành động của mình, Ripa 'Moramee cũng từng có một khoảng thời gian bị giam ở đây trước khi trở thành Arbiter.

Các con tàu không gian của Covenant

Bảng so sánh chiều dài các tàu Covenant

Covenant Assault Carrier: 5346 m

Reverence-class Cruiser : 3000 m

CCS-class Battlecruiser : 1782.2 m

Covenant Destroyer : khoảng 300-900 m

Covenant Carrier : 1455 m

Covenant Frigate : khoảng 150 m

Covenant Stealth Corvette: Ít hơn 485 m

Seraph-class Starfighter : 24.8 m

Các hạm đội tàu:

Combined Fleet of Righteous Purpose - Hoàn toàn bị tiêu diệt bởi bom Nova.

Fleet of Particlarr Justice - Gặp phải hàng loạt những tai nạn ở Battle of Reach và Battle of Installation 04, chỉ còn vài tàu sống sót.

Fleet of Inner Knowledge - Loài Sangheili kiểm soát sau đó là loài Jiralhanae.

Fleet of Tranquil Composure - Loài Sangheili chỉ huy sau đó bị thay thế bới loài Jiralhanae.

Fleet of Profound Solitude - Trước là loài Sangheili lãnh đạo sau đó lại là loài Jiralhanae.

Sencond Fleet of Homogenouss Clarity - Bị nổ tung.

Fleet of Rẻtibution - Hạm đội của Separatist.

Truth's Fleet - Tin rằng chúng đã bị tiêu diệt hoàn toàn.

Fleet of Furious Redemption - Không rõ tình trạng.

Trạm không gian

High Charity 

Thành phố thánh của Covenant bị xâm chiếm bởi Flood và sau đó bị phá hủy bởi Master Chief trên Ark.

Unyielding Hierophant - Bị phá hủy bởi Master Chief và các Spartan của đội Blue.

Carrier:

Assault Carrier:

Shadow of Intent

Supercarrier

Sublime Transcendence - Đã bị tiêu diệt.

Carrier

Lawgiver - Không rõ tình trạng nhưng có thể đã bị phá huỷ(dù chưa được xác nhận)

Cruiser

Flagship:

Ascendant Justice - Bị phá hủy trong trận chiến vì Unyielding Hierophant

Seeker of Truth - Không rõ tình trạng nhưng có khả năng đã bị phá huỷ.

Reverence - Lớp Cruiser:

Incorruptible - Bị phá hủy trong trận chiến ở Onyx.

CCS - class Battlecruiser

Purity of Sprrit - Không rõ tình trạng.

Sacred Promise(giả thuyết rằng có con tàu này) - Không rõ tình trạng có lẽ đã bị phá huỷ(dù chưa xác nhận)

Truth and Reconciliation - Bị phá hủy trong Battle of INstallation 04.

CCS-U264 - Không rõ tình trạng.

CCS-U321 - Bị phá hủy trong Battle of Arcadia.

Các loại khác:

Contrition - Không rõ tình trạng

Penance - Không rõ tình trạng

Rapid Conversion - Không rõ tình trạng

Tàu Covenant Cruiser không tên - Bị phá hủy trong Battle of Reach

Destroyer

CPV - thuộc lớp Destroyer:

Esteen - Không rõ tình trạng.

Reverence - Đã bị phá huỷ

Các loại khác:

Abssolution - Đã bị phá huỷ

Bloodied Spirit - Đã bị phá huỷ

Far Sight Lost - Đã bị phá huỷ

Rapturous Arc - Đã bị phá huỷ

Tàu Covenant Destroyerr không tên - Không rõ tình trạng

Frigate

Tenebrous - Đã bị phá huỷ.

Twilight Compunction - Không rõ tình trạng

Revenant - Đã bị phá huỷ

Các loại tàu hỗ trợ

Infinite Succor - Đã bị phá hủy và đưa vào không gian xa xôi nhằm tránh Flood trốn thoát.

Những loại tàu không rõ

Commitment and Patience - Không rõ tình trạng.

Devotion - Không rõ tình trạng

Pious Inquisitor - Không rõ tình trạng, có vẻ đã bị hủy diệt ở Trái Đất(nhưng chưa được xác minh)

Những sự kiện lớn của Covenant

Thuần phục loài Hunter.

Cuộc nổi loạn của loài Grunt.

Chiến tranh giữa Covenant và loài người.

Cuội nội chiến trong Covenant.

Sự kiện Great Journey.

Những tôn giáo trong Covenant được biết tới

Dn'end Legion 

E'Toro Warrior Crèche 

R'Lan Warrior Crèche 

N'Noro Warrior Crèche

Thức ăn/Thiết bị thực phẩm trong Covenant

Food Nipple - Thiết bị có thể cho loài Unggoy ăn.

Hookah Tobacoo - Prophet sử dụng nó để hút tẩu thuốc.

Thorn Beast - Loài động vật lớn có thể làm thực phẩm cho loài Jiralhanae.

Shade Crab - Một loài giáp xác bị loài Unggoy săn và tiêu thụ.

Mud Wasp - Loài côn trùng có thể dùng làm thức ăn cho loài Unggoy.

Scrub Grub - Loài động vật giống một con chuột sống trên tàu Covenant(có thể làm thức ăn cho nhiều loài nhưng nhiều nhất là loài Kig-Yar)

Zap-Jelly - Loài sinh vật giống một con sao biển được tiêu thụ bởi loài Unggoy.

"Khi mọi chiến thuật đã thất bại, chủ nhân của tôi đã kích hoạt vòng tròn này, Chúng, và tất cả các sinh vật trong bán kính 3 hê hành tinh đều sẽ bị tiêu diệt, như đã định." - Trích lời 343 Guilty Spark khi nói về số phận người Forerunner...

Forerunner là tên gọi được con người đặt cho một chủng tộc cực kì phát triển, thông minh. Họ là chủ nhân và là người đã xây dựng ra các Halos ở The Arks, the Shield World, Onyx. Đồng thời họ cũng để lại những cổ vật ở các hành tinh Reach, Trái Đất, Sigma Octanus IV, Harvest và Arcadia. Tất cả hiểu biết về người Forerunner đều được thu thập từ các cổ vật này. Theo nghiên cứu, tổ tiên của người Forerunner đồng thời cũng là một chủng tộc ngoài hành tinh khác mang tên Precursors. Ngoài ra, người ta còn biết được đế chế Covernant hùng mạnh xem những người Forerunner như những vị thánh, phần lớn công nghệ của Covernant đều xuất phát từ các cổ vật của người Forerunner rải rác khắp thiên hà.

Lịch sử 

Gần như không có một thông tin nào về lịch sử người Forerunner. Trử việc họ là một nền văn minh cực kì hiện đại, bắt đầu thống lĩnh thiên hà ngay sau khi tổ tiên của họ, người Precursors, biến mất. Người Forerunner đã đạt đến đỉnh điểm của của chính mình khi họ kích hoạt hệ thống Halo 100.000 năm về trước. Từ Forerunner trong tiếng Latin dịch lại là Precursors, chỉ những người tổ tiên của họ.

Như đã nói, người Forerunner có một nền công nghệ phát triển vượt bậc. Vài người suy đoán công nghệ của người Forerunner còn có thể cho thấy sự tiến hóa của một chủng loài nào đó. Họ là chủng tộc duy nhất phát triển đến Tier 1 trong nấc thanh đo lường sự phát triển. Việc các Halo tập trung ở gần như toàn bộ vũ trụ cho thấy người Forerunner có thể đã xuất hiện ở khắp mọi nơi, nắm quyền điều khiển cả vũ trụ.

Theo lịch sử, một nhóm quan sát người Forerunner đã chạm trán với những con kí sinh vũ trụ được biết đến với cái tên Flood tại hành tinh tên G 617 g. Sau cuộc chạm trán đầu tiên này, người Forerunner nhận thấy sự nguy hiểm mà Flood có thể đem đến cho toàn vũ trụ. Vì thế họ quyết định kiềm hãm sự phát triển của chúng lại. Nhưng kế hoạch ban đầu là một sự thất bại. Nguyên nhân chủ yếu do người Forerunner đánh giá quá thấp khả năng của Flood. Họ đối phó với chúng như 1 căn bệnh. Họ cố gắng cách li chúng nhưng không gây chiến tiêu diệt chúng. Đến khi người Forerunner nhận ra sai lầm của mình, tất cả đã quá trễ. 

Cuộc đại chiến giữa người Forerunner và Flood diễn ra trong vòng 300 năm. Những nhà khoa học hàng đầu của Forerunner nghiên cứu về loài Flood trong các phòng thí nghiệm. Họ cố gắng hết sức tìm ra điểm yếu của chúng. Cuối cùng, người Forerunner đã tạo ra các Halo như đòn quyết định cuối cùng. Khi kích hoạt, Halo sẽ tiêu diệt toàn bộ các sinh vật sống đồng thời là nguồn thức ăn của Flood. Người Forerunner hi vọng khi không có thức ăn, Flood sẽ suy yếu và cuối cùng là tuyệt diệt.

Ban đầu, người Forerunner rất miễn cưỡng khi chế tạo ra các vòng tròn Halo. Trong thời khắc định mệnh, Gravemind đã thuyết phục được Mendicant Bias gia nhập hàng ngũ Flood. Bias nhanh chóng cho chiến hạm của mình đánh tan "Maginot Line" - nơi được xem là hàng rào phòng thủ cuối cùng của Forerunner. Người Forerunner không còn lựa chọn nào khác ngoài việc kích hoạt Halo, tiêu diệt tất cả sự sống và tất nhiên là cả bản thân họ. 

Ghi chú: Trong Halo 3, khi MC đánh nhau với 343 Guilty Spark, nó đã nói "You are the child of my makers. Inheritor of all they left behind. You are Forerunner.". Điều này dẫn đến nghi vấn là con người cũng chính là hiện thân sau này của người Forerunner và trong các cuốn tiểu thuyết cũng có nói đến và ủng hộ điều này. Một bằng chứng khác là con người có thể sử dụng công nghệ của Forerunner mà không gặp bất kì một trở ngại nào. Tuy nhiên những nghiên cứu của con người cho rằng con người là một loài "đặc biệt" được người Forerunner chọn để thừa hưởng tinh hoa của họ.

Công nghệ

Như đã nói, công nghệ của người Forerunner rất tiến bộ và đa dạng. Họ có khả năng tạo ra các bề mặt vật chất bằng nguồn năng lượng tổng hợp, Tạo ra hệ thống vận chuyển vật chất khắp vòng tròn Halo (teleport). Ngoài ra họ còn tạo ra và sử dụng một số lượng cực lớn các công cụ, thiết bị hiện đại. Nhưng những thành tựu vị đại nhất của ngưòi Forerunner là những vòng tròn Halo, tinh cầu Micro-Dyson Mark II (nơi có cánh cổng không gian nối liền đến Onyx) và The Ark (hay còn gọi là Installation 00 ). Trong đó hành tinh Onyx đã cho thấy khả năng xây dựng hoàn hảo trên một diện tích khổng lồ và sức mạnh vựơt bậc của công nghệ SlipSpace. Tuy nhiên chúng ta không biết bao nhiêu tiến bộ của họ dựa trên công nghệ của người Precursors.

Covernant Luminaries là các thiết bị đựơc chế tạo dựa trên công nghệ của người Forerunner với nhiệm vụ truy tìm các thiết bị công nghệ khác của chính người Forerunner. Nhưng nó lại còn có khả năng truy tìm được con người. Những người Covernant ban đầu lầm tưởng loài người là "một món cổ vật của người Forerunner". Họ đã thiết lập những liên lạc đầu tiên để rồi nổ ra trận đại chiến thiên hà tưởng như không bao giờ kết thúc. Thật trớ trêu, trong khi những người Forerunner đựơc loài Covernant tôn sùng như những vị thần thì con người (những người kế vị Forerunner - dựa trên việc họ bị các Luminaries phát hiện) lại phải hứng chịu sức mạnh quân sự kinh hoàng của Covernant.

Huragok (Hay còn biết đến với tên gọi Engineers) là một sinh vật sống thực sự do người Forerunner tạo ra dành cho Covernant. Đây cũng là chủng tộc không có khả năng chiến đấu duy nhất trong xã hội loài Covernant.

Người Forerunner còn sở hữu công nghệ tái tạo cơ thể dựa vào các cấu trúc DNA/RND/các mẫu silic trong thư viện sinh học của mình. Điều này đựoc khẳng định dựa vào cuốn sách Bestiarum (phát hành trong bộ Halo 3 - Legendary Edion hay Collector's Edition): "DNA/RNA/Silicon samples are encoded in this data stream. Reproduction of individuals for analysis is prohibited by this facility."

Người Forerunner đặc biệt yêu thích loài người. Điều này đựơc chứng thực qua nội dung lời nhắn của Iris Server-05 trả lời bí mật của người Forerunner và lời tuyên bố của Mendicant Bias trong quyển Halo: Contact Harvest. Điều này cũng giải thích cho hành động của Prophets khi ra lệnh cho Covernant tiêu diệt nhân loại dù chúng biết loài người là những người kế vị của Forerunner.

Quân sự

Người Forerunner cũng là chủ nhân của một số lượng vũ khí đồ sộ. Vũ khí của họ chủ yếu là những khẩu súng phóng ra tia năng lượng. Nguyên nhân chính do đây là những vũ khí hiệu quả nhất để đối phó với Flood. Những tia nắng lượng sẽ đốt cháy thân thể của Flood đến mức chúng không còn khả năng hồi sinh nữa. Những người Forerunner đã cho lắp đặt những vũ khí tối tân này vào những cỗ máy hiện đại. Qua đó họ tạo ra một đội quân của những người máy để chiến đấu với Flood thay vì phải cử những người Forerunner ra chiến trường. Ngoài ra người Forerunner còn chế tạo và sử dụng những vũ khí plasma. Ta có thể thấy qua những vũ khí của bộ binh Covernant, tất cả đều dựa trên các cổ vật của người Forerunner. 

Đội quân những cỗ máy của người Forerunner bao gồm: Sentinels, Enforcers, Constructors và Monitors. 

Các Sentinels là nhóm quân chính phụ trách việc giao tranh với Flood. Chúng thường được trang bị súng phóng tia năng lượng màu cam. Các Sentinels Majors lại được trang bị những khẩu súng phóng năng lượng xanh dương, mạnh mẽ và chính xác hơn nhưng dễ trở nên quá nóng. Dù vậy, tất cả bộ binh Covernant và loài người đều có thể sử dụng những khẩu súng năng lượng này.

Trong khi đó, các Enforcers được trang bị một khẩu súng "phun" lựu đạn (như một khẩu pháo mini) ngay phía trên lá chắn năng lượng và một cặp súng năng lượng Pulse. Chúng còn có khả năng nâng bổng những vật to lớn bằng công nghệ "không trọng lực" trước khi nghiền nát chúng bằng 2 "cánh tay" rắn chắc. Những cỗ máy giết chóc này được tạo ra để đối phó với bộ binh Flood ở tầm gần và bảo vệ những cứ điềm quan trọng nhất.

Các công cụ hàn của Constructors cũng có thể xem như 1 loại vũ khí dù mức sát thương rất thấp.

Nhưng nói đến cỗ máy tối tân nhất thì phải nói đến các Sentinels tại "The Shield World" Onyx. Theo miêu tả chúng được bao bọc bởi một tấm chắn năng lượng vững chắc có thể cản bất cứ vật gì bay đến ở tốc độ cao. Tuy nhiên chúng lại....vô dụng với các vật tốc độ thấp. Ngoài ra chúng còn có một khẩu súng phóng tia năng lượng màu vàng. Tuy tốc độ phục hồi của khẩu súng này khá lâu nhưng một khi đã khai hỏa thì ngay cả lớp giáp của Spartan-III cũng bị tan chảy. Ngoài ra các Sentinels tại Onyx còn có khả năng tập trung năng lượng nhằm gia tăng sức mạnh chiến đấu hay khai quật. Khi tập trung đủ nguồn năng lượng, chúng có thể bắn tan 2 chiếc Covernant Destroyers dễ dàng. 

Ngoài ra người Forerunner còn xây dựng các trụ súng máy tự động (Automated Turret) bắn ra tia năng lượng màu xanh như các Sentinels Majors.

Trong Halo 3, các Monitors có khả năng tự bảo vệ trước loài Flood nhờ khẩu súng năng lượng tương tự các Sentinels nhưng mạnh hơn nhiều. Vũ khi này có thể rút hết năng lượng của giáp Spartan-II chỉ trong một phát bắn.

Nghệ thuật và kiến trúc

Kiến trúc của người Forerunner theo ghi nhận hầu hết có kích cỡ rất lớn và có hình dạng tam giác. Hơn nữa, người Forerunner có sở thích tái tạo môi trường tự nhiên. Ví dụ điển hình là hệ thống sông ngòi, núi, rừng, môi trường đa dạng, phức tạp với các công trình được trang trí với những hoa văn trong trẻo của thiên nhiên tại các vòng tròn Halo. Nhưng nghệ thuật kiến trúc của người Forerunner không chỉ bó hẹp trong vòng tròn Halo. Các di tích khác như (sr vì không thể dịch hoàn hảo mấy cái này nên tớ chỉ nêu tên TA thôi) những viên đá Aztec-esque của Cote D'Azur, những bậc thang ở hành tinh quê hương loài Grunts và thành phố cổ phía dưới lòng đất ở Onyx. Tất cả cho thấy nghệ thuật kiến trúc đặc sắc, cách tân của người Forerunner. 

Hầu như toàn bộ các công trình của người Forerunner đều được làm từ một loại nguyên liệu có khả năng chống hư hỏng, kháng được đạn thường, đạn plasma và cả lửa thường. Điều này được chứng minh qua việc các công trình của Forerunner trụ vững với thời gian qua 100.000-150.500 năm từ khi chúng được xây dựng. Tuy nhiên khả năng kháng lửa plasma của chúng khá yếu. Một vài công trình được xây dựng từ các nguyên vật liệu thường nên khả năng chống chọi với thời gian không tốt. Những công trình này được xây dựng bằng kĩ thuật vượt xa tầm hiểu biết của con người. Ngoài ra người Forerunner còn trang trí bên trong cho các công trình của họ bằng các đường thẳng chạm khắc. Đây là đặc điểm khá thú vị về người Forerunner khi hầu như mọi vật của họ đều được trang trí, thiết kế tỉ mỉ, từ các công trình kiến trúc đến vũ khí chiến tranh.

Nghệ thuật kiến trúc của Forerunner rất khác biệt so với Covernant đặc biệt là trong cách xây dựng góc độ của công trình. Các công trình của người Forerunner có gốc độ rất sắc do phần lớn mang hình tam giác. Còn kiến trúc của Covernant thiên về sự mềm mại, cơ bản.

Flood

Khái quát

Flood(Tiếng Latinh là Inferi redivivus có nghĩa cái chết hiện hình) hay là Parasite - tên được Covenant gọi. Chúng là một quần thể vật kí sinh và phát triển bằng cách tiêu thụ, biến đổi các sinh vật sống khác. Chúng chịu trách nhiệm trong việc tiêu hóa phần l[ns các sinh vật sống trong dải ngân hà, bao gồm cả người forerunner vào giữa cuộc chiến Forerunner-Flood kéo dài 930 năm. Flood đã dần dần trở thành một phe rất hùng hậu trong cả 3 bên cũng như nó có thể lây nhiêm, làm tổn thương tới con người, phần lớn Covenant(Elite, Prophet và Brute) để làm thnahf dạng Combat form mà ta vẫn phải chiến đấu trong cả 3 bản Halo.

Flood lần đầu được người Forerunner tìm thấy khi họ đang khám phá hành tinh đã được lựa chọn G617g nơi này chính là nơi bắt đầu cuộc chiến Forerunner-Flood kéo dài 930 năm, Flood đã bị giam giữ trong Halo Installation và người forerunner đã quét sạch chúng trừ những sinh vật ở một hành tinh khác, được biết đến như là Trái Đất. Khi chưa có Gravemind, chúng cũng rất có trật tự, chúng không tự động sinh sản, chúng hình thành xung quanh các dạn sống, đặc biệt, chúng có khả năng nhận xét sự việc một cách chủ động. Các nghiên cứu cho thấy, chúng giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ rất phức tạp và chúng có khả năng lấy được kí ức của vật chủ. Tuy nhiên, chúng chỉ thực sự nguy hiểm khi Gravemind tỉnh dậy, một giai đoạn kinh hoàng chuẩn bị xuất hiện.

Lịch sử

Forerunner-Flood War

" Chỉ có một cách duy nhất để dừng loài Flood lại là bỏ đói chúng cho đến chết."

____ Cortana nói với John-117 và 343 Guilty Spark.

Loài Flood được tin là đến dải ngân hà Milky Way từ hơn 100.000 năm trước năm 2552 khi chúng bất ngờ chạm trán với người Forerunner trên hành tinh G617g. Mặc dù vậy, vẫn không biết chính xác Flood đến từ đâu. Chúng đã sử dụng một đám quân không có vũ khí để thăm dò hàng phòng thủ hành tinh ở cuộc chiến đầu tiên với người Forerunner-loài nắm giữ hành tinh LP658-38e bằng cách thông qua tàu tuần tra của họ và đã gây nhiễm cho hành tinh này. Chúng đã nhanh chóng chuyển tới và lây nhiễm cho hành tinh DM-3-1123b theo cách tương tự. Chúng đã nhận ra rằng kẻ thù chính là người Forerunner, chủ đội quân trên mặt đất đã giành chiến thắng trước một số lượng Flood ít ỏi. Trong lần kéo quân đầu tiên với số quân chủ lực khá ít, chúng đã có thêm được một số lượng cá thể khổng lồ tham gia cuộc chiến: hàng triệu dạng sống đã được bổ sung thêm, mỗi người Fore đều là một vật chủ rất tốt cho chúng. Hạm đội tàu của người Fore đã được lệnh ném bom toàn hành tinh ở tất cả những ngôi sao bị lây nhiêm trong sự tuyệt vọng. Họ đã phải trả giá đắt: rất nhiều người Fore đã không kịp di tản trước khi vụ ném bom bắt đầu; họ rời khỏi doanh trại và chỉ có dưdợc một chiến thắng vô nghĩa. Trong chuỗi sự việc này, người Fore đã khởi động vũ khí hủy diệt hàng lọat, kết quả là sự chết chóc nhưng nó cũng đã dừng được việc lây nhiễm bùng phát.

Sau đó, người Fore nhận ra rằng các chiến lược quân sự đơn thuần không thể ngăn chặn chiều hướng phát triển của Flood, và họ quyết định gửi gắm niềm tin đánh bại Flood vào một siêu vũ khí. Trong khi người Fore bắt đầu phát triển người máy Sentinel để chống lại và ngăn chặn Flood thì gần như ngay sau đó, Bộ chỉ huy hạm đội Forerunner đã dự tính việc " Sụp đổ sớn của các vì tinh tú" : sử dụng các đội tàu chiến để phá hủy bề mặt các vì soa mới trong hệ thống các ngôi sao chính, nó sẽ nhấn chìm hệ thống các hành tinh và tránh khỏi bất kì sự lây nhiễm có thể nào của Flood.

Trong khi Flood đang phát triển ngày càng nhanh, mở rộng mức độ bành trưcớ với ý định lây nhiễm toàn bộ người Fore và không phải đấu với quân đội Fore thì vận mệnh đã thay đổi: Một cá thể Flood đã đạt tới một kích cỡ cực lớn, biến đổi thành dạng Gravemind, sinh vật này bao gồm tập hợp trí não, các khả năng cảm nhận của toàn bộ các cá thể còn lại và nó có thể tập hợp một lượng lớn Flood một cách thông minh để chống lại hạm đội Forerunner. Người Fore đã ý thức được điều này và đã tạo ra một trí thông minh nhân tạo: Mendicant Bias trong nỗ lực chính là tiêu diệt Gravemind và khiến Flood bị rối loạn. Đây là bước đi cực kì sai lầm kể từ khi Mendicant Bias nổi loạn và gia nhập hàng ngũ Flood để quay lại tiêu diệt những người đã tạo ra nó.

Người Fore đã bắt đầu một " Cuộc đo lường sự bảo tồn", nghiên cứu Flood trong khi xây dựng các cổng dẫn tới Ark trên Trái Đất và có thể ở các hành tinh quê hương không bị lây nhiễm thuộc lớp 7 loài họ cho là " đáng quý trọng".

Người Fore đã phát triển rất nhiều thứ, bao gồm cả các kế hoạc quân sự lớn, rắc rối với hi vọng ngăn chặn được Flood, sau cùng đều thất bại. Cuối cùng, người Fore đã bị ép phải đi đến một sự giải quyết đắt giá: xây dựng 7 vòng tròn-giống như các siêu vũ khí được biết đến như là Fortress World hay Halo, xuyên xuốt dải ngân hà. Vì Flood là loài kí ính và ự sinh tồn của chúng phụ thuộc trực tiếp vào các thực thể có khả năng làm vật chủ, người Fore cho rằng xóa sổ tất cả các vật chủ là có khả năng bị Flood kí sinh nghĩa là tất cả các dạng sống trong dải thiên hà, điều đó sẽ "làm cho loài kí sinh trở nên vô dụng" như trí tuệ nhân tạo của người Forerunner:343 Guilty Spark đã giải thích. Sau tất cả các nỗ lực thất bại, người Fore đã khởi động Halo vào năm 97.448 trước công nguyên. Sự lan rộng của việc tàn phá dải ngân hà đã giết chết gần hết các dạng sống ở đó. Tuy nhiên, con người và nhiều loài khác đã được cứu sống khỏi sự khởi động của Halo vì đọ đã được ở trên Ark hay các cổng không gian nằm ngoài vòng ảnh hưởng.

Flood đã bị chặn đứngm chúng không thể tiếp tục sinh sản vì số lượng ít ỏi các vật chủ và cuối cùng đã chết. Chỉ còn vài mẫu thí nghiệm sống sót được lưu giữ trong giai đoạn nghiên cứu, trong các khu thí nghiệm của người Fore được bảo vệ chặt trẽ. Ví dụ như: các Halo và mỏ ga khổng lồ Threshold.

Còn nữa.......kì sau: Trận chiến ở Installation 04.........

Battle of the Apex

Sau khi tàu Spirit of Fire từ Arcadia bám theo tàu của Arbiter, họ đã tìm ra một hành tinh bí ẩn. Nhanh chóng quân đội UNSC được điều động lên hành tinh để tìm ra xem những tín hiệu không rõ về kẻ thù được phát hiện trên rada của tàu là gì. Sau khi giết rất nhiều Brute,trung sĩ Forge, một chiếc Elephant và một tiểu đội marine đã bị Flood tấn công.

Tàu cứu hộ của Spirit đã được điều đến nơi một chiếc Elephant bị bao vây. Sau khi chiếc Elephant này được giải cứu, quân cứu viện đã lập một doanh trại trên đường đi. Sau đó hộ tập trung một lượng lớn quân đội để cứu chiếc Elephant cuối cùng. Khi chiếc elephant này được cứu, tất cả họ chuẩn bị cho việc chống lại một kẻ thù mới, Flood.

Đội đỏ Spartan-II đi tìm tiến sĩ Anders đã bị Flood tập kích và chiếc Wathorg của họ đã bị đâm. Nhanh chóng, đội tiếp viện đã giải cứu Spartan và đồng thời tìm ra rằng Flood đang phát triển một thể Proto-Gravemind và đó cũng có thể là nơi đã phát ra tín hiệu của tiến sĩ Anders. Họ nhanh chóng tìm ra nơi này và gặp rất nhiều thể Flood colony sau khi tiêu diệt chúng, Proto-Gravemind cũng đã bị thương. Khi họ giết Proto-Gravemind, Serina đã tìm ra tín hiệu của Anders và cứu cô khỏi một vài thể Infection.

Thuyền trưởng Cutter bắt đầu ra lệnh cho toàn bộ người của UNSC rút khỏi hành tinh này lui về tàu. dù bị ngăn cản bởi Flood nhưng cuối cùng mệnh lệnh cũng được thi hành. Ngay sau đó, Flood lại tấn công tàu Spirit nhưng bị tiêu diệt bới lượng lớn tàu chiến đấu hạng nhẹ và các Sentinel. Flood ở nơi có tên là Apex này đã bị tiêu diệt hoàn toàn sau khi Forge phá hủy lò phản ứng ở giữa Mặt Trời của Shield World, tất nhiên cả Covenant cũng đã chịu chung số phận với Flood khi việc này xảy ra. Tàu Spirit đã nhanh chóng thoát khỏi vụ nổ nhưng bị văng vào không gian. Khi tàu Spirit bị mất tích một cách bí ẩn hai tuần sau đó các thành viên tàu đã được đặt trong các giường ngủ đông và bí mật của Flood cũng biến mất theo cùng với nó.

Battle in the Installation 04

Sau khi các vòng tròn Halo khởi động cách đây hơn 100.000 năm, Flood đã bị ngăn chặn nhưng chúng vẫn còn được giữ lại ở một số cơ sở nghiên cứu của người Forerunner, cụ thể là ở trên các vòng ròn Halo. Điển hình là Installation 04, vòng tròn này là nơi mà Flood được giữ lại và đã được giải thoát do một lỗi không thể tránh của loài người cũng như Covenant. Tàu Pillar of Autumn được định hướng bởi Cortana - AI của tàu đã bất ngờ đi xuyên không gian mà không tính toán vị trí nhằm thoát khỏi sự truy đuổi của Covenant đã chạm trán với vòng tròn Halo này. Tuy nhiên, tàu truth and Reconciliation của Covenant đã đuổi kịp tàu Pillar và nhanh chóng cả hai con tàu dưới sự điều khiển của Covenant đã xuống Halo. Vừa xuống nơi đây, covenant đã nhanh chóng trải quân trên khắp vòng tròn nhằm nắm quyền kiểm soát nơi đây, những thành viên còn lại của UNSC vẫn tin tưởng rằng mình sẽ phải đối mặt chỉ với Covenant. Trong một lần tiến vào vùng đầm lầy, Covenant đã phát hiện ra một công trình của người Forerunner, vì sự bảo vệ tự nhiên ở đây khá kiên cố nên chúng định dùng nới đây làm doanh trại nhưng không biết rằng đây là trung tâm nghiên cứu Flood của người Forerunner. Trong một lần tìm kiếm cổ vật người Forerunner, chúng đã vô tình giải phóng cho Flood và gây khiếp đảm cho toàn bộ quân Covenant ở đây. Nhận ra sự nguy hiểm của loài này, chúng nhanh chóng đóng cửa nới đây và rút toàn bộ người còn sống sót ra bên ngoài đầm lầy. Tuy vậy, thuyền trưởng tàu Pillar - Jacob Keyes sau khi được Master Chief cứu thoát khỏi sự giam giữ của Covenant đã không nhận ra điều này khi ngay lập tức thành lập 2 tiểu đội tên là Fire Team Charlie đến nơi này vì ông nghĩ đây là kho vũ khí của Covenant. Nhanh chóng sau khi tiến sâu vào nơi đây, họ đã bị các thể Infection tấn công và biến đổi cơ thể duy chỉ có một mình trung sĩ Johnson sống sót, người này khoôg bị nhiễm là do một nguyên nhân nào đó không rõ, chỉ biết rằng có liên quan đến chương trình bí mật ORION. Và sau khi Master Chief đến đây để ngăn họ, anh cũng đã phải đối mặt vơí Flood sau khi xem xong đoạn phim ghi lại từ máy quay của binh nhì Jenkins. 

SỰ TẤN CÔNG

Sau vụ trốn thoát của Flood, Covenant-bên đã thả rất nhiều quân trải dài trên khắp Halo đã phải trải qua nỗi kinh hoàng thật sự với Flood. Còn UNSC với quân số ít ỏi trên vòng tròn này cũng đã hứng chịu nỗi kinh hoàng từ Flood khi một đội Orbital Drop Shock Tropper(ODST) đang chống lại Covenant ở gần Alpha Base( là công trình của người Forerunner nằm cách nơi tàu Pillar rơi khoảng vài km) bị Flood tập kích và chịu tổn thất nặng nề. Tuy nhiên trong số các thể FLood tấn công đội quân ODST này, có một thể tấn công đã từng là lính bộ binh của UNSC: Binh nhì Jenkins-chủ của chiếc camera Chief được xem khi anh đến. Trong lần đột nhập vào khu được cho là nơi giấu vũ khí của Covenant anh đã bị nhiễm nhưng vì thể lây nhiễm gây bệnh cho anh đã mất đi phần nào khả năng của mình nên anh vẫn có thể chống lại sự điều khiển trí não của nó dù rất khó khăn. Mặc dù với một cơ thể bị hủy hoại, không thể nói được nhưng Jenkins vẫn phản bội lại Flood bằng cách dùng những cử chỉ tay chân để ra hiệu cho thiếu tá Silva. Nhờ đó mà đội quân UNSC ở đây đã tránh được một cuộc tập kích từ dưới đất của Flood và tránh khỏi chúng.

Jenkins khi bị lây nhiễm.

Càng ngày Flood càng khẳng định sự thống trị của mình trên Installation 04 khi chúng đánh bại cả đội quân bảo vệ của người Forerunner-Sentinels và khiến cho cả Covenant lẫn UNSC đều chịu thất bại nặng nề và dần sụp đổ. Dù vậy cuộc chiến giữa Covenant vẫn tiếp tục xảy ra ở khắp bề mặt vòng tròn này. Covenant có lợi thế về các phương tiện hiện đại và vũ khí Plasma nhưng Flood lại nắm giữ vũ khí của cả UNSC và Covenant, đáng kể nhất là loại vũ khí hạng nặng của UNSC: khẩu rocket M19.

Hơn nữa, Flood không phải là không thông minh khi chúng đã lây nhiễm cho thuyền trường tàu Pillar of Autumn là Jacob Keyes và thay vì biến đổi ông sang dạng combat(thể chiến đấu) thì chúng đã kết hợp ông với vài nạn nhân khác để tạo ra một thể cao cấp chỉ sau thể cuối của Flood là Gravemind: Proto Gravemind hay còn gọi là Brain Form. Chúng làm vậy vì ông chứa rất nhiều thông tin về con tàu Pillar, hơn cả là địa điểm Trái Đất nơi chúng có thể lây nhiêm cho hàng tỉ nạn nhân. Và nơi chúng đặt thể Proto Gravemind là tàu Truth and Reconciliation-tàu mẹ của quân đội Covenant ở đây.

Thuyền trưởng Keyes.

Dù đã cố gắng nhưng ông cuối cùng cũng đã hi sinh(do Chief và sau là đội đặc nhiệm Elite) và bảo vệ được địa điểm của Trái Đất. Tàu Truth cũng là nơi tranh chấp chính giữa Covenant và Flood. Dù vậy cuối cùng nó đã được UNSC chiếm đóng khi một đội quân lớn còn lại của tàu Pillar tập kích vào đây và đẩy lùi cả Flood trong nhóm quân UNSC này có cả Jenkins. Họ ngay lập tức cho con tàu về Trái Đất dù vậy sau quyết định đau đớn, bộ chỉ huy UNSC đã ra lệnh phá hủy con tàu này vì theo như lời của Rtas 'Vadumee-chỉ huy của loài Elite đã nói với tổng chỉ huy UNSC-Terrence Hood:"A single Flood spore can destroy a species."(Tạm dịch là một mầm mống đơn lẻ của Flood có thể hủy diệt cả một giống loài). Ý thức được điều này, những người lính UNSC trên tàu đã chấp nhận nó, Jenkins cũng đã nói:" Thank you." trước khi còn tàu bị phá huỷ. Vụ nổ cướp đi sinh mạng của hàng trăm người lính UNSC nhưng đã giúp Trái Đất thoát khỏi sự hủy diệt bởi Flood.

 SỰ THẤT BẠI

Một con tàu có khả năng đi xuyên không gian và trở đầy Flood trong đó rồi đổ bộ xuống hành tinh, dải thiên hà khác chính là lí do mà Flood tấn công cả tàu của UNSC là Pillar of Autumn. Sau khi tàu Pillar bị va vào Halo bởi sự tấn công của hơn 15 con tàu chiến Covenant, nó đã bị Covenant kiểm soát. Trong ngày thứ ba và ngày cuối cùng của cuộc chiến tịa Installation 04, Flood đã đột kích một toán lính canh của Covenant và biến đổi chúng. Sau đó, toán Covenant bị lây nhiễm này đã quay tở lại con tàu và gây ra nỗi hoảng loạn cho toàn bộ quân Covenant có mặt ở đó trước khi chúng bị tiêu diệt. Tuy nhiên, mọi việc không dừng ở đó. Flood tiếp tục len lỏi vào tàu Pillar qua những kẽ hở, ống thông gió và lây nhiễm cho quân Covenant. Những đợt tấn công nhỏ lẻ của Flood tuy không nguy hiểm nhưng đủ sức khiến quân Covenant ở đây đau đầu và càng ngày số quân Covenant càng giảm rõ rệt. Ngày cuối cùng của cuộc chiến Installation 04, rất nhiều Combat Form, Carrier Form cùng Infection Form đã kéo từ khắp nơi trên vòng tròn Halo đến tàu Pillar, cũng vì sự có mặt của Flood ở đây đã kéo theo cả một lượng cực kì khổng lồ các Sentinel đến theo, sự có mặt của Covenant ở đầy gần như bị san bằng. Dù vậy với một lượng lớn quân của cả ba bên: Covenant, Flood, Sentinel cũng đã không thể ngăn cản dưdợc Spartan-117 cùng Cortana phá hủy con tàu, ngăn chặn Halo hoạt động cũng như Flood phát tán ra khỏi Halo. Vụ nổ của con tàu dài 1.7Km này đã dẫn đến sự hủy diệt của vòng tròn halo Installation 04 và tiêu diệt toàn bộ những dạng sống, Flood hay Covenant trên vòng tròn này.

MỎ GA THRESHOLD

Ngoài Installation ra, Flood cũng dưdợc người Forerunner cất giấu ở một số phòng nghiên cứu khác và mỏ ga Threshold là một ví dụ. Mỏ ga này thực chất là một khu nghiên cứu của người Forerunner được Heretic sử dụng làm một căn cứu quân sự chính của nhóm này. Dù Heretic biết được sự có mặt của Flood ở bên dưới mỏ ga nhưng vì bị nhốt một cách chặt chẽ nên họ không hề sợ. Khi các Prophet đưa một biệt đội Elite và Grunt đến đây nhằm "bịt miệng" thủ lĩnh Heretic-Sesa 'Refumee, biệt đội này được chỉ huy bởi Rtas 'Vadumee và Arbiter. Hơn nữa, ở đây không chỉ có Flood và Heretic mà còn có cả 343 Guilty Spark-được Sesa tìm thấy và cứu khi gặp ở một trên một mảnh của Installation 04. Khi đến đây, nhóm biệt đội đã rơi vào bẫy của Heretic, họ đã bị giam vào trong một căn phòng và ngay lập tức phải đối mặt với Flood, đồng đội của Arbiter ngục ngã dần con anh thì phải một mình chống trả làn sóng Flood hung dữ. Tuy nhiên, kế hoạch của Heretic không hoàn hảo khi họ thả Flood ra mà không nghĩ đến sự nguy hiểm của nó. Trong khi Arbiter và động đội phải đối phó với Flood trong cái bẫy mà họ mắc phải thì bên ngoài, các Grunt và Elite của Heretic cũng đang phải vất vả chống đỡ Flood tràn từ dưới lên-chúng đang rất rất đói. Dù vậy, việc họ đẩy lùi được Flood lượt đầu đã khiến họ tiếp tục tái phạm sai lầm sau đó khi đội quân Covenant thoát được cái bẫy, với cách tương tự, một lần nữa Covenant lại bị bẫy trong căn phòng và phải chống đỡ Flood nhưng lần này trong phòng còn có một số Heretic Elite và chắc hẳn họ đã bị biến đổi. Lần này, Arbiter đã nhảy sang được một chiếc thang máy khổng lồ nhưng đó không phải là lối thoát, Flood tiếp tục nhảy vào chiếc thang máy hạ dần đồng đội của Arbiter trong khi trên đầu các Sentinel tiếp tục bắn lazer vào cuộc hỗn chiến.

Flood không thể bị ngăn chặn, vì vậy chúng đã nhanh chóng lan ra khắp mỏ ga chiếm toàn bộ tầng 1 khu nghiên cứu Flood này và tiến lên tầng hai bất chấp sự cố gắng, nỗ lực đẩy lùi của Heretic ở đây, lúc này Sentinel đã hoàn toàn biến mất sự có mặt của mình. Để ngăn chặn Flood, anh ta đã quyết định cắt đứt cáp của mỏ ga để nó rơi xuống tâm đầy khí nitơ cứng của hành tinh này và tiêu diệt toàn bộ những thứ gì ở trên nó bao gồm cả Flood và Heretic. Trên đường chạy trốn, anh ta đã có cơ hội hoàn thành nhiệm vụ chính của mình: giết thủ lĩnh Heretic-Sesa 'Refumee và anh ta đã không bỏ lỡ nó. Sau đó Arbiter đã mang xác Sesa theo và cùng một số đồng đội của mình đã trốn thoát trên chiếc phantom của Tartarus.

BATTLE ON INSTALLATION 05

Không giống như trên Installation 04, trên vòng tròn Halo này, cuộc chiến giữa Flood và Sentinel vẫn tiếp tục với lợi thế nghiêng về phía các Sentinel, Flood ở đây đã yếu đi rất nhiều vì thiếu vật chủ cũng như thức ăn để giúp chúng tồn tại. Tuy nhiên sau đó, cũng như Installation 04, Flood đã có thêm vật chủ khi hạm đội Covenant cũng như đội biệt kích của UNSC tìm ra nơi này. Nhanh chóng chỉ sau vài giờ, Flood đã đánh bại phần lớn Sentinel.

Chỉ có một cách duy nhất để chặn đứng Flood đó chính là khởi động Installation 05, để làm được việc này, Reclaimer(tạm dịch là kẻ chống đối, các Monitor dùng nó chỉ khi gặp đúng người, vẫn chưa biết rõ Reclaimer gồm những ai nhưng các Monitor đã dùng nó để gọi loài người) phải lấy được Index từ Library. Điều này khiến cho Library trở thành mục tiêu quan trọng nhất đối với Flood vì nếu như chúng chặn được bất kì kẻ xâm nhập nào tiến vào Library lấy Index chúng sẽ không thể bị khuất phục. Đường vào Library của Installation 05 không dễ dàng chút nào, nó được bao bọc bởi những dãy núi đá phủ đầy tuyết và được bảo vệ bởi ba lớp bảo vệ: Sentinel Wall-một bức tường kéo dài hàng km và bên dưới nó là một nhà máy sản xuất ra rất nhiều Sentinel; lớp thứ hai là Containment Shield-đây là một lớp chắn bằng năng lượng có tác dụng ngăn không cho bất kì phương tiện nào xâm nhập; và cuối cùng là Quarantine Zone-nó như một chiếc khóa ngăn không cho Flood bành trướng. Hàng loạt lớp bảo vệ như vậy còn được canh giữ bởi rất nhiều Sentinel, Sentinel Major và Enforcer.

Quarantine Zone trong Hal

Dù vậy cả hai bên Covenant lẫn UNSC đều muốn có Index. Covenant muốn nó để hoàn thành sự kiện sai lầm:Great Journey; UNSC cần nó để ngăn Covenant làm việc này. Covenant, sau khi gửi một nhóm quân tinh nhuệ gồm Brute, Jackal và Grunt và thất bại nặng nề đã gửi đi một đội đặc nhiệm Elite do Rtas 'Vadumee cùng Thel 'Vadamee-Arbiter chỉ huy. Tuy nhiên trước hết, họ cần phải ngắt kết nối giữa Containment Shield với máy phát năng lượng của nó. Vì Sentinel đã khởi động Containment Shield nên Arbiter được thả ở bên ngoài Sentinel Wall. Anh ta phải tìm cách đi qua lớp bảo vệ này sau đó phá hủy máy năng lượng. Lợi dụng một cuộc hỗn chiến xảy ra giữa UNSC, Flood và Sentinel, anh ta đã nhanh chóng hoàn thành công việc mình.

Với việc Sentinel Wall bị sụp đổ bởi Flood và Covenant cũng như Containment Shield bị suy yếu do Arbiter, giờ đây chỉ còn một lớp màng bảo vệ cuối cùng cho Library: Quarantine Zone. Nhưng đây mới là phần khó nhất, lớp bảo vệ này được một lượng lớn Enforcer canh giữ. Nhận thức được điều này, Flood đã dồn mọi phương tiện của cả UNSC lẫn Covenant vào cuộc chiến tại đây cũng như huy động rất nhiều Combat Form đến tạo nên một cuộc chiến khủng khiếp chưa từng có.

Trong khi dồn hầu hết quân số cho trận chiến tại Quarantine Zone, thì Flood không biết đến một nguy hiểm tiềm tàng: Arbiter đã gặp được đội đặc nhiệm Elite rồi cùng nhau chống lại số lượng Flood đông hơn họ nhiều. Nhưng nhờ tận dụng tốt lợi thế địa hình cũng như vũ khí Plasma, họ đã thành công trong việc phòng thủ chờ phương tiện hỗ trợ. Sau khi có được phương tiện hỗ trợ, đội đặc nhiệm Elite đã hỗ trợ cho Arbiter tiến dần vào bên trong Quarantine Zone tạo điều kiện cho anh ta lấy được Sacred Icon(tên gọi mà Covenant đặt cho Index) và rời khỏi đó an toàn.

Rốt cuộc với số lượng lớn Flood, chúng vẫn không thể ngăn cản Covenant cũng như UNSC đột nhập vào bên trong Library và lấy đi Index. Tàu In Amber Clad do Mirinda Keyes chỉ huy cũng đã tiến được vào đến Quarantine nhưng sau đó bị Flood bao vây.

ATTACK ON HIGH CHARITY

Gravemind, thể Flood cao cấp nhất, nó mang trong mình những hiểu biết của toàn bộ những thể Flood còn lại và có thể sai khiến chúng. Chính nó đã bắt được Spartan-117 sau khi anh bị vụ nổ làm rơi xuống hồ cũng như bắt được Arbiter và đó là lần đầu tiên hai con người xuất chúng này gặp nhau. Gravemind đã sử dụng miệng lưỡi tinh ranh của mình kết hợp với 2401 Penitent Tangent-Monitor điều khiển Installation 05 cùng Prophet of Regret đã bị lây nhiễm nhằm khiến Thel 'Vadamee tức Arbiter quay lưng lại với niềm tin của mình. Tuy nhiên anh ta đã không bị xoay chuyển, nhưng Gravemind đâu cần cái này, cái chính là nó muốn tách những mối nguy hiểm có thể xảy ra với kế hoạc của nó. Sau đó, nó đã chuyển Spartan-117 đến ngay trước mặt hai Prophet ở trên High Charity còn Arbiter thì bị đưa đến Delta Halo.

Lợi dụng lúc Covenant đang hoảng loạn vì sự xuất hiện đột nhiên của "Demon" và cuộc nội chiến của Covenant. Gravemind đã dùng tàu In Amber Clad cướp được từ tay UNSC nhảy vào bên trong High Charity. Sau đó, nó đâm sầm vào các công trình bên trong con tàu khổng lồ(hay còn được gọi là thành phố thánh địa của Covenant). Kèm theo đó là một làn sóng các Pelican chứa đầy Flood bên trong cũng tiến vào. Không một chút mảy may đề phòng nên Covenant đã nhanh chóng đánh mất thành phố. Thậm chí, ngay cả Prophet of Mercy cũng đã bị lây nhiễm.

Các thể Flood bắt đầu tràn ngập khắp các đường phố, hệ thống thông khí thì bị các bào tử Flood làm tắc nghẽn,...tất cả những điều trên biến thành phố thánh của Covenant trở thành địa ngục: Hang động Flood. Gravemind đã thản nhiên bác bỏ mọi lời lẽ tốt đẹp mà Prophet of Truth đã gửi tới những người trên High Charity, điều này càng làm nỗi kinh hoảng bao trùm rộng thêm. Spartan-117 đã chống cự thành công trước những đợt tấn công dồn dập của Flood và đã bám lên tàu Dreadnought của người Forerunner đang được Brute điều khiển, trở theo Prophet of Truth hướng tới Trái Đất. Cortana, người đã phải ở lại để điều khiển tình huống Installation 05 khai hỏa, đã bị Gravemind bắt giữ, nó có thể biết được rất nhiều thứ về loài người từ cô ấy...........

Earth, The Ark and The Flood's Defeat

" Child of enemy, why have you come? I offer no forgiveness, a father's sins pass to his son."

___Gravemind ở màn Cortana.(Halo 3)

" I am a timeless chorus. Join your voice with mine, and sing victory everlasting."

___Gravemind ở màn Floodgate.(Halo 3)

" Of course, you came for her......We exist together now, two corpses, in one grave."

___Gravemind ở nàm Cortana.(Halo 3)

Trận chiến Voi kết thúc với việc Prophet of Truth khởi động Portal và một tàu của Brute thoát khỏi, đi tới Ark, một con tàu bị nhiễm Flood hiện ra từ cổng không gian và đâm vào thành phố Voi. Để ngăn cho Flood lan rộng ra phần còn lại của Trái Đất, Miranda Keyes đã lệnh cho John-117 phá hủy con tàu đó và tìm Cortana, việc này sẽ làm thành phố Voi bị phá hủy và Flood ở đó cũng bị xóa sổ. Sau đó, John-117 cùng Thel 'Vadamee đã tìm đến con tàu, trên đường đi họ phải đối mặt với một thể Flood hoàn toàn mới: Pure Form nhưng thứ họ tìm được chỉ là một đoạn tin bị lỗi mà Cortana đã để lại. Nhưng 343 Guilty Spark đã giúp cho họ sửa lại dòng tin nhắn này. Với việc Flood lan rộng, Spartan-117 đã lên một con tàu Phantom trong khi Elite tiếp tục càn quét khu vực bị lây nhiễm. Sau đó, đội quân có trách nhiệm bảo vệ Trái Đất đã hoàn thành nhiệm vụ: xóa sổ Flood khỏi Trái Đất và quay trở lại tàu Shadow of Intent cùng với tin nhắn của Cortana, 343 Guilty Spark.

Với sự giúp đỡ của 343, dòng tin của Cortana để lại đã được sửa và nhờ vậy mà UNSC và Separatist Covenant nhận ra sự nguy hiểm đến mức nào trong việc Flood tiến tới Ark. Bất chấp sự phản đối của Lord Hood, Miranda Keyes đã đưa đội quân UNSC liên kết với Elite của Thel 'Vadamee và Rtas 'Vadumee đi qua Portal. Ở Ark, trong khi cố gắng làm giảm tấm khiên năng lượng bao quanh trung tâm Ark thì High Charity bị lây nhiễm đã làm một cú nhảy không gian đâm sầm vào Ark, giải phóng Flood ở bên trong, đó cũng lầ nguyên nhân dẫn đến sự lây nhiễm ở công trình mới thay thế cho vòng tròn đã bị hủy diệt-Installation 04. Sau khi cứu được Cortana từ trong High Charity, Spartan-117 đã giết hết Flood ở trên Ark và trên Installation04(II) bằng cách khởi động vòng tròn Halo chưa hoàn thành này, sử dụng Index mà Cortana đã giữ lại từ vòng tròn Halo đầu tiên. Vụ nổ này cũng rất có thể là nguyên nhiên dẫn tới cái chết của Gravemind. Toàn bộ hàng tỉ thể Flood có mặt trên High Charity đã bị tiêu diệt khi Spartan-117 cho nổ con tàu khổng lồ này bằng cách phá hủy lò phản ứng của nó. 

AFTERMATH

Với việc Gravemind bị tiêu diệt cũng như toàn bộ Flood trên Ark bị xóa sổ, có thể coi Flood đã hoàn toàn thất bại nhưng cũng không có nghĩa chúng là bị tuyệt chủng vì vẫn có khả năng còn nhiều dạng Flood ở trên các Installation khác(kể cả Installation 05 vì chưa chắc toàn bộ Flood ở đây đã đi theo Gravemind trên High Charity). Người Forerunner đã tạo dừng nhiều khu nghiên cứu để nghiên cứu loài này, đây cũng là một lí do khiến Flood ko thể bị diệt chủng, nhưng dù sao đối đầu với một loài đã được nghiên cứu kĩ vẫn hơn khi đối đầu với một loài chưa được biết đến. Flood-sinh vật kinh khủng vẫn có thể quay lại dù sớm hay muộn......

Các giai đoạn phát triển.

Loài Flood trải qua gồm bốn giai đoạn thay đổi khác nhau:

1. Feral(tạm dịch: Hoang dại) là thời kì thấp nhất của Flood: chúng giao tiếp với nhau bằng mùi vị cũng như âm thanh rên rỉ phát ra, nhưng cũng vẫn có một bản năng nhất định. Đó là thu thập đủ can-xi để tạo ra mầm mống Gravemind. (Flood trong HaloCE và Halo Wars)

2.Coordinated(tạm dịch: Liên kết) thời kì này, Flood trở nên thật sự nguy hiểm khi giờ đây chúng nhận lệnh từ Gravemind-thứ sdinh vật cực kì thông minh được tạo ra từ giai đoạn đầu. ( Flood trong Halo 2)

3.Interstellar(tạm dịch: Liên hành tinh) giai đoạn cho phép Flood nắm giữ phần lớn công nghệ mà kẻ thù của chúng có và lan tỏa ra khắp dải ngân hà nhằm tìm kiếm nhiều vật chủ hơn. (Flood trong Hal)

4.Intergalatic(tạm dịch: Liên vũ trụ) đây là giai đoạn cuối cùng mà theo lí thuyết Flood có thể đạt tới, lúc này chúng có thể sử dụng mọi công nghệ chúng lấy được nhằm bành trướng sự lây nhiễm của mình ra ngoài thiên hà. Có vẻ như những thể Flood đến dải ngân hà Milky Way đã đi xuống từ giai đoạn này. (Flood trong cuộc chiến giữa người Forerunner-Flood)

Sinh học

Flood là một loài kí sinh, chúng lây nhiễm những loài sinh vật khác, biến đổi hình dạng, nhận thức của chúng thành nhiều dạng khác nhau. Một thể Flood hình thành từ loài khác phụ thuộc vào giống loài của vật chủ cũng như độ hữu dụng của những xác chết bị nhiễm. Tất cả những quần thể Flood được tạo nên từ nhiều "siêu bào từ Flood" khác nhau. Chúng cũng có thể phô bày những khả năng đặc biệt để biến đổi môi trường sao cho thích hợp với chúng.

Flood chỉ có một cách để phát triển và tồn tại, đó là: hủy hoại và đồng hóa loài khác.

Chúng có khả năng sống cực tốt, nhiệt đó cực địa mà chúng chịu được là từ -75 độ C tới 53 độ C và thậm chí là ở dưới nước cũng như chúng có thể sống được ở mọi môi trường khắc nhiệt của những hành tinh thuộc địa được biết đến.

Có vẻ Flood có thể hủy hoại bất kì một dạng sống nào nhưng chúng vẫn thích những vật chủ với bộ não có khối lượng lớn để xúc tiến quá trình hình thành cũng như phát triển của hang trí tuệ Gravemind cũng như trí tuệ của toàn loài. Chúng chỉ thông minh như những loài chúng lây nhiễm vì thế: Kẻ thù càng khôn ngoan, chúng càng trở nên nguy hiểm.

THẦN KINH HỌC

Infection Form chọn mục tiêu là những loài khác nhằm khai thác trí tuệ cũng như tạo ra một tổ hợp Flood, chúng có thể hủy hoại dạng sống hay nhanh chóng tiêu hủy các xác chết. Một khi chúng đã cắn được vào người vật chủ, chúng sẽ dùng những xúc tua của mình đâm xuyên qua da và tìm đến dây cột sống. Từ đây, chúng bắt đầu đồng bộ quá với vật chủ, liên tục truyền những tín hiệu tới hệ thống thần kinh của vật chủ và dần dần nắm quyền kiểm soát bộ não. Sau đó, tính cách của vật chủ cũng bị biến đổi hoàn toàn: trở nên đói khát và tàn bạo, mặc dù những kĩ năng cấp cao hơn vẫn được giữ lại như khả năng chiến đấu, những hiểu biết có thể có ích đối với chúng. Tuy nhiên sự kháng cự của vật chủ là hoàn toàn không thể, cũng như toàn bộ trí nhớ gốc sẽ bị xóa sạch, thay vào đó chỉ là một bản năng hoang dại và đơn giản: lây nhiễm và hủy diệt các loài khác. Trong giai đoạn đầu của sự biến đổi, khi vật chủ vẫn giữ được ý thức, có một vài cảm giác rõ rệt của sự biến đổi xảy ra: đầu tiên, tay chân vật chủ trở nên tê cứng, phổi hoạt động nặng nề. Sau đó, ý trí Flood bắt đầu tiến xa hơn trong việc điều khiển toàn bộ vật chủ, những cảm giác bắt đầu mờ dần: thị lực của vật chủ lúc này có cảm giác như một dải băng mờ nhạt, tuy nhiên chúng vẫn có thể nhận ra các hình khối, và nghe thấy những âm thanh trầm và thấp trong suốt quá trình biến đổi. Cuối cùng, một khi sự thay đổi về mặt cấu trúc cơ thể diễn ra, vật chủ có thể lờ mờ cảm nhận được những biến đổi này: tay chân vật chủ có cảm giác mềm và xốp, phổi rất ngứa. Tuy nhiên, vật chủ vẫn có thể điều khiển các chi của mình trong một giới hạn nhất định nếu như liênk kết với Infection Form bị phá vỡ. Chúng cũng có thể sử dụng dây âm thanh của loài Jiralhanaes, con người và Sangheilis để giao tiếp với nhau. Nếu bạn trốn chúng, thỉnh thoảng chúng sẽ nói:" Where is he?"(không thường xuyên), "Don't hide from me!"(thường xuyên), "You will be ours"(thường xuyên)," No skill"(chỉ khi dùng skull), "Get out of there"(thường xuyên), No obstacles will stop us...No retreating will halt us!"(thường xuyên). Có vẻ như những câu này là do chính Gravemind nói thông qua những vật chủ cũng như hắn chỉ làm việc này trước khi bạn cùng hắn làm cho Covenant sụp đổ. Gravemind cũng có thể nói thông qua Tank Form. Dù vậy, vẫn không biết thế nào mà hắn có thể làm được vì chúng là những Pure Form, trừ khi Flood cũng trang bị cho Tank Form dây âm thanh.

SINH LÝ HỌC

Trong khi sự đồng hóa về mặt thần kinh không hề liên quan gì tới giống loài bị lây nhiễm thì sự thay đổi về mặt sinh lí học lại là điểm chính ở đây.

Ở những loài sinh vật có khả năng chiến đấu cao như: con người, Jiralhanaes hay Sangheilis bị lây nhiễm một cách chọn lọc để trở thành Combat Form. Combat Form vẫn giữ lại những nét chính của loài gốc mặc dù chúng đã hoàn toàn bị biến dạng. Toàn bộ hệ thống cơ thể bị hoại tử, đặc điểm nhận dạng cũng bị thay đổi, những khớp nối, những nới chũng trên cơ thể đều bị thay đổi khiến chúng không ra bất kì một hình thù nào ta từng biết đến. Hơn thế nữa, những loại đạn có tầm ảnh hưởng tập trung vào một chỗ ví dụ như súng sniper của con người là hoàn toàn không có tác dụng vì đặc tính của chúng có thể coi như một xác chết di động khi một viên đạn như của súng sniper bắn vào chúng sẽ chỉ xuyên qua một đống thịt mà không làm chúng chịu bất kì sự tấn công nào lớn. Infection Form cũng điều khiển những cái tua của nó rất nhanh mà không cần quan tâm tới cấu trúc xương của vật chủ, với những xúc tu mọc ra từ cơ thể vật chủ ở những vị trí bất kì như giữa ngực, nách, cổ hay những phần thân trên. Một cánh tay thường bị biến đổi thành cấu trúc giống như một cái móng hay như một xúc tu giúp cho chúng tạo ra những cú đập liên tiếp, cấu trúc giống bàn tay sẽ dùng để thay thế cho sự hữu dụng của một bàn tay thực sự, chủ yếu là cấm vũ khí......Sự biến đổi cơ thể sang dạng Combat Form là một kịch bản khá hoàn chỉnh, vật chủ sau khi bị lây nhiễm sẽ được mang lại cánh tay to lớn, đôi chân chắc khoẻ, cho phép vật chủ có những phát đập cực kì mạnh với cấu trúc giống cánh tay đó và có những khả năng chạy cực nhanh, độ nhảy cực cao nhờ đôi chân. Tuy nhiên, đổi lại những yêu cầu của sự biến đổi này thể hiện rất rõ trên sinh vật, những mạch máu trở nên rất nổi trên bề mặt vật chủ, với các mạch máu dày và lộ rõ màu giống như màu máu chạy khắp bề mặt cơ thể sinh vật, nhiều nhất là ở phần đầu.

BIỆN PHÁP CHỐNG LẠI

Không có bất kì một cách chính thức nào có thể ngăn chặn được sự lây nhiễm của Flood khi một Infection form tấn công vật chủ. Tuy nhiên vẫn có hai trường hợp ngoại lệ được biết tới. Một là trường với của Avery J. Johnson, người chiến binh này có một thứ được gọi là Boren's Syndrome. Triệu chứng này được biết tới như là một loại bệnh khiến cho những thông tin được truyền lên não bị nghẽn mạch mặc dù cơ thể vẫn trong trạng thái bình thường, vẫn tiếp nhận những tín hiệu điện. Có vẻ trong thời gian bị lây nhiễm, Infection form không thể thay đổi tính cách của vật chủ cũng như biến đổi cơ thể vì một lí do nào đó không rõ. mặc dù DNA của Flood đã gắn kết với DNA của vật chủ, thậm chí là đã bắt đầu nhân đôi. Chính nhờ Boren's Syndrome mà Johnson đã thoát được khỏi khu nghiên cứu Flood khi chúng tấn công hai tiểu đội của lính bộ của UNSC. Tuy nhiên, sự thật là Boren's Syndrome chỉ là câu chuyện được dựng lên để che mắt, thực chất nó có liên quan tới chương trình ORION mà anh ta đã tham gia trong quá khứ. Trường hợp thứ hai xảy ra với Master Chief, trong Halo: The Flood, Cortana đã cứu anh khỏi sự lây nhiễm Flood bằng cách truyền luồng điện cao nhất mà anh có thể chịu đựng để giết chết Infection Form trên người anh.

Trong khi Boren's Syndrome còn chưa được công bố chính thức thì vẫn có hàng triệu người trở thành nạn nhân của Flood cũng như cơ hội nghiên cứu về Boren's Syndrome chỉ là một trong một tỉ. Nếu như ai đó còn sống sót và không bị biến đổi bởi Flood, có liên quan tới Boren's Syndrome thì sẽ có cách để tạo ra thuốc chữa. 

Vì Flood là loài kí sinh, chúng phụ thuộc vào loài khác để tồn tại cho nên cách duy nhất để chặn đứng chúng đó là :"Tiêu diệt nguồn thức ăn của chúng." Ngời Forerunner đã cố để đánh bom những trung tâm dân cư lớn để thực hiện điều trên nhưng tất cả đã là quá muộn để có thể làm nên những sự thay đổi lớn. Cố gắng cuối cùng đã thành công nhưng phải trả giá rất lớn đó là sử dụng các Halo. Trước khi làm việc này, người Forerunner đã tính toán để bảo vệ những dạng sống, đưa chúng trở về hành tinh quê hương mình. Cho phép thức ăn của Flood tồn tại cũng dẫn đến nhiều nguy cơ tiềm ẩn, nhận thức được điều này, những mẫu Flood đã được giữ lại để nghiên cứu trên các Halo và một số nơi khác.

Môi trường cũng là yếu tố rất quan trọng đối với Flood. Các Halo đã được điều chỉnh để hạ xuống mức nhiệt độ thấp nhằm cản trở sự phát triển cũng như bùng phát của Flood. Ngoài ra còn một số những rào cản tự nhiên khác, đáng chú ý nhất đó là Quarantine Zones. Có lẽ đây cũng là lí do vì sao những phòng điều khiển Halo, khu nghiên cứu Flood được đặt trong nhiệt độ thấp nhằm khiến các mẫu thí nghiệm trở nên bất động và rơi vào tình trạng thực vật. Những vú khí bằng Plasma sẽ dễ dàng cháy xuyên qua người các thể Flood chính vì thế người Forerunner đã coi đó là vũ khí chiến lược chống lại chúng, cụ thể là họ đã chế tạo ra Sentinel Beams-thứ vũ khí được coi là dùng để đối phó với Flood totó nhất. Những loại súng phun lửa cũng có khả năng tiêu diệt Flood khá tốt, chúng sẽ thiêu hủy toàn bộ những tế bào của mọi thể Flood.

Flood Forms

Ngay từ đầu, Flood là một sinh vật lây nhiễm, chúng lây nhiễm những loài khác, đánh cắp thông tin và điều khiển hoạt động từ bộ não của vật chủ. Tùy thuộc vào từng loài cũng như sự hữu dụng của vật chủ mà chúng biến đổi từ mặt tính cách tới hình dáng cơ thể theo bảy dạng sinh vật chính

FLOOD SPORES-MẦM MỐNG FLOOD

Flood Spores là thể Flood đơn giản nhất trong toàn bộ loài, chúng được tạo ra từ những cá thể cùng loài. Chúng có khả năng biến đổi môi trường giúp cho loài của chúng phát triển thuận lợi hơn. Chúng nhỏ tới nỗi chúng ta chỉ có thể nhìn thấy chúng như làn khói bằng mắt thường nhưng khi đã tập hợp lại tại một điểm, đó sẽ là điềm báo trước của sự hủy diệt.

FLOOD INFECTION FORM-THỂ LÂY NHIỄM

Infection Form là dạng Flood đầu tiên, đơn giản thứ hai và cũng chỉ lớn hơn Flood Spores, vì vậy chúng chính là thể Flood bị tiêu diệt dễ nhất. Flood phụ thuộc rất lớn vào dạng sinh vật này, chúng được dùng để lây nhiễm loài khác, giúp Flood bành trướng. Chúng có thể xuất hiện hàng chục hay hàng trăm trong cùng một thời điểm để tấn công một vài mục tiêu.

FLOOD COMBAT FORM-THỂ CHIẾN ĐẤU

Sau khi Infection Form thành công trong việc lây nhiễm vật chủ về mặt hình dạng cũng như nhận thức, một thể Flood mới sẽ được sinh ra, đó là: Combat Form. Những Combat Form thường giữ lại những đặc điểm, kĩ năng chính của vật chủ, giữ lại quần áo của vật chủ trên người. Con người, Elite, Brute, Grunt, Jackal là những sinh vật sẽ bị biến đổi thành Combat Form khi một Infection Form lây nhiễm. Riêng với Hunter, vì chúng là một tập hợp của hàng nghìn thể sinh vật nhỏ nên chúng không thể bị lây nhiễm.

Một khi cơ thể của Combat Form không còn hữu dụng, Infection Form sẽ rời bỏ chúng và đi tìm những vật chủ mới. Combat Form giờ đây chỉ còn là một cái xác không, chúng sẽ tiếp tục bị biến đổi, tạo nên những quần thể tế bào Flood(chúng thường bám thành từng mảng trên những bức tường) chúng ta thường thấy ở những nơi xuất hiện nhiều sinh vật Flood.

FLOOD CARRIER FORM

Vẫn không biết chính xác thể Flood này xuất hiện từ đâu nhưng có vẻ chúng là thời kì sau của Combat Form hoặc dạng Flood mà Combat Form sẽ biến đổi sau khi bị tàn phá nặng nề. Carrier Form mang trong người từ 3-6 Infection Form, chúng di chuyển khá chậm, dễ bị phát hiện nhưng sẽ rất nguy hiểm nếu bị chúng áp sát, chúng sẽ nổ tung và phát tán ra những Infection Form trong người để chúng tấn công mục tiêu.

FLOOD SWARMS

Đây là sinh vật biết bay đầu tiên của Flood, chúng thường đi với đàn lớn, dùng những chiếc gai của mình để tấn công kẻ thù giống như Ranged Pure Form.

FLOOD BOMBER FORM

Là một thể Flood có thể bay ngoài Swarm, chúng lớn, di chuyển chậm và có khả năng thả ra nhiều Infection Form. Sẽ rất bất lợi cho chúng nếu bị kẻ thù phát hiện từ xa. Bomber cũng thả Infection Form ra theo như cách của Carrier Form nhưng thay vì nổ thì chúng lại thả ra những Flood Growth Pod-thứ mang trong mình Infection Form. Chính vì điều này khiến dạng Flood này nguy hiểm hơn dạng Carrier rất nhiều.

THRASHER FORM

Thể Flood này có cử chỉ, hành vi giống với Tank Form chỉ khác là chúng lớn hơn và có cái gì đó giống với một con thú đầy gai. Chúng sẽ tiền gần tới kẻ địch thật nhanh để tạo ra những cú đập trời giáng.

PURE FORM

Đây là loại Flood chính trong Hal. Nó không phải là một sản phẩm của sự lây nhiễm. Khi Flood đạt tới giai đoạn Coordinated thì lúc này nguồn tài nguyên chúng thu thập được cũng đã khá nhiều. Lúc này, khung xương bắt đầu được hình thành từ can-xi của vật chủ, rồi dần dần bộ xương này được những siêu tế bào Flood dính ngày một nhiều lên tạo ra một thứ chúng ta gọi là Pure Form-những thứ thật sự được coi là những cỗ máy sinh học chiến tranh. Lúc này những Combat Form trở chuyển sang tư thế phòng thủ ở sào huyệt Flood hoặc chúng sẽ tự động tự diệt để tăng cường thêm tế bào, can xi cho các thể Flood khác.

Flood Stalker Form

Thể Flood này có khả năng di chuyển nhanh, nhảy được khoảng cách xa. Chúng thường bò trên tường hoặc trần nhà trước khi nhảy bổ xuống trước mặt kẻ thù. Nếu kẻ thù ở quá gần, chúng sẽ biến đổi thành dạng Tank Form còn nếu như kẻ thù bắn chúng và chúng đang ở gần một bức tường thì chúng sẽ biến thành dạng Ranged Form.

Flood Ranged Form

Ranged Form thường được tìm thấy ở trên những bức tường, trần nhà nhưng không giống Stalker Form, chúng thường di chuyển từ một địa điểm cố định. Chúng có thể phóng ra những cái gai mà không cần vũ khí. Chúng đặc biệt yếu khi chống lại những vũ khí plasma, lựu plasma, lựu spike mặc dù vậy chúng vẫn có tầm nhìn không được xa cho lắm. Chúng cũng có thể cuộn người lại khi vẫn còn ở trên tường, khi cuộc chúng khó bị giết hơn. Thỉnh thoảng ở mức legendary, bạn sẽ lấy được lựu spike sau khi giết chúng.

Flood Tank Form

Tank Form rất dễ bị phát hiện bởi thân hình đồ sộ của mình. Không giống những thể Pure Form khác, nó không thể leo trèo. Nó thật sự là một cỗ máy giết chóc chỉ với một phát đập của nó cũng đủ giết chết một người(với spartan hoặc Elite thì 2=>3 phát). Thỉnh thoảng chúng cũng có thể nhả ra những thể Infection Form từ mồm của chúng. Thoạt nhìn chúng trông rất giống với Hunter: một bên tay to khác thường bằng với cánh tay có lá khiên của Hunter, cánh tay kia thì nhỏ hơn bằng với khẩu Fuel rod được gắn vào tay Hunter. Tuy nhiên, việc Hunter bị lây nhiễm là một điều không thể vì như đã nói, chúng là tổ hợp của hàng nghìn con sâu phía sau bộ áo giáp.

Infector Form

Phiên bản Flood này đã bị cắt trong Hal nhưng trong Art of Halo 3 thì chúng lại xuất hiện. Chúng có ba cái chân với khả năng tái tạo chân mình nhanh đến kì lạ vì thế chúng là một kẻ thù khá khó chịu. Cơ thể chúng trông có vẻ giống với Carrier Form ngoại trừ việc chúng được dùng để nhả ra các mầm mống Flood, chúng không hề nổ tung nhưng vẫn tạo thả Infection Form ra.

Transport Form

Transport Form là thể Pure Flood có thể kéo dãn. Không giống như Carrier Form, thể Flood này có thể chưa tới sáu Combat Form không mang vũ khí. Chúng có bốn cánh tay được nối lại làm ba để di chuyển thứ chúng mang trong người, và chúng có rất nhiều tua để tiêu hóa cũng như thu thập các tổ hợp tế bào.

Stealth Form

Giống như Stalker Form, chúng cũng khá xuất sắc trong việc đánh lén kẻ thù và là thể Flood duy nhất của Pure Form có thể cầm vũ khí với cả hai tay. Chúng chỉ xuất hiện trong quyển Art of Halo 3. đây cũng là thể Flood thuộc Pure Form mình giới thiệu 

FLOOD JUGGERNAUT

Flood Juggernaut là tên một thể Flood to lớn được giữ trên đĩa Halo 2 nhưng lại không xuất hiện ở gameplay. Cái tên của nó được đặt vậy vì kích thước và sức mạnh của nó, nó có chiều cao gấp đôi Master Chief và loài Sangheili, những cái tua của nó có thể dễ dàng hạ gục kẻ thù chỉ với một phát đánh. Thể Flood này xuất hiện với mục đích giúp Flood chống lại các Enforcer ở Quarantine Zone. Thể Flood này có trong tay khả năng di chuyển nhanh như ComBat Form, sức mạnh tương đương với Tank Form. Chúng chỉ xuất hiện thông qua mod ở level High Charity. Vũ khí tốt nhất để chống lại chúng là khẩu M19-SSR MAV/AW(rocket của UNSC).

Flood Prophet Form

Prophet Form là thể Flood khá đặc biệt. Chúng là kết quả của sự lây nhiễm loài San 'Shyuum. Đặc biệt với những Prophet-người có những hiểu biết rộng lớn chúng hoàn toàn có khả năng bị biến đổi thàng dạng Brain Form nhưng vì Gravemind Form đã xuất hiện nên giờ đây, chúng trở thành một cái xúc tua của Gravemind. Về mặt sinh lí học thì chúng hoàn toàn giống với Combat Form dù vậy chúng vẫn giữ được gioịng nói gốc và đầy đủ trí tuệ của mình. Chúng rất dễ nhận ra bởi đầu, ngực và một số bộ phận khác. Khi trở thành một phần của Gravemind, chúng có khả năng điều khiển Flood trong một vùng nhất định.

Proto-Gravemind

Còn có tên gọi khác là Brain Form, theo lí thuyết thì đây là giai đoạn đầu của Gravemind. Thể Flood này hoàn toàn khác với phần lớn những thể Flood khác ở chỗ nó hoàn toàn bị động nhưng đổi lại có sự chống chịu những sự tấn công với mức độ nhỏ và trung bình rất cao, từ cơ thể nó sẽ mọc ra nhiều xúc tu bám chặt vào môi trường xung quanh. Điều đặc biệt khác đó là những vật chủ bị biến đổi sang dạng Flood họ có khả năng chống cự lại sự biến đổi của Infection Form, thực ra là do Infection Form cho phép họ làm điều này vì nó sẽ giúp tránh được việc mất mát thông tin ,đặc biệt là những thông tin quan trong dễ bị mất khi Infection Form xóa bộ nhớ của vật chủ. Một khi thứ mà nó cần được tìm ra ngay lập tức, bộ não của vật chủ sẽ bị tê liệt và ý thức cũng bị mất đi.

Chỉ có một người được biết đến bị biến đổi thành Brain Form đó là thuyền trường tàu Pillar of Autumn, Jacob Keyes. Nhận thấy sự hiểu biết lớn lao về tàu Pillar cũng như Trái Đất của ông, thay vì biến đổi sang dạng Combat Form, ông đã bị trộn với một số Combat Form khác để biến đổi thành Brain Form, thứ được đặt trên tàu Truth and Reconcilỉation của Covenant khi Flood tấn công nó. Sau khi Master Chief giải thoát Keyes khỏi sự đau khổ, một biệt đội Elite đã phá hủy thể Flood này.

Gravemind

"I have beaten fleets of thousands! Consumed a galaxy of flesh and mind and bone!" 

Gravemind ở Installation 00.

Thứ sinh vật được sinh ra để nắm giữ toàn bộ kiến thức của Flood; thứ sinh vật cực kì nguy hiểm, nguy hiểm hơn bất kì loại Flood nào. Nó điều khiển mọi thể Flood, giúp chúng phát tán và phát triển rộng hơn. Với trong lượng vài nghìn tấn, chiều dài lên tới hàng trăm km, nó thật sự là con quái vật khổng lồ nhưng lại chưa từng một lần trực tiếp tấn công. Cơ thể đồ sộ của nó có rất nhiều tua, không thể phân biệt rõ đầu hay cơ thể của nó vì nó có thể giao tiếp cả qua những thứ giống như cái tua của nó. Vì tính chất quan trọng như thế cho nên chỉ có một con được tạo ra trong cùng một thời điểm. Một là từ 100.000 năm trước những đã bị giết sau khi các Halo khai hoả, con thứ hai được tạo ra từ sâu bên trong Installation 05 nhớ vậy nó có điều kiện để nắm giữ gần hết những công nghệ người Forerunner, nó còn tiến xa hơn với việc bắt giữ cả Monitor điều khiển Halo này, 2401 Penitent Tangent. Nếu một Brain Form hay Prophet Form khác xuất hiện, chúng sẽ được di chuyển tới nơi có Gravemind và nhập thể vào với nó, những thể này có khả năng điều khiển Flood trong một vùng nhất định nhưng vẫn dưới sự giám sát, ra lệnh của Gravemind. Flood muốn phát triển thì phải có Gravemind ngược lại muốn ngăn chặn Flood thì phải tiêu diệt Gravemind đầu tiên.

Building Form

Building Form là dạng Flood không hề di chuyển ngược lại nó tạo điều kiện, bảo vệ và phát triển, sinh sản ra những thể Flood khác. Một điều ta cần ghi nhớ, chúng cũng là một cá thể sống.....

Được biết đến với cái tên khác trong phiên bản cuối cùng là Den Form, đây là một công trình của Flood chủ chốt trong game Halo Wars, từ công trình này những Pure Form, Combat Form sẽ được tạo ra. Nó có kích thước rất lớn và không thể bị phá hủy bởi những loại hỏa lực loại nhỏ. Dù vậy trong Halo Wars không xuất hiện Pure Form cũng như Gravemind là vì chúng chưa có đủ thứ chúng cần để tạo ra đội quân như vậy, trong trường hợp đó, công trình này sẽ chứa cả Infection Form và lan rộng những phần của nó ra và thu gom những thứ từ xác của vật chủ.

FLOOD ROOT

Với một cái vòi rất lớn, chúng sẽ quật bất kì kẻ thù nào tiến lại gần nó, và dù không thể tấn công ở trên không nhưng nó cũng là một thứ chống lại quân bộ rất tốt. Thỉnh thoảng, chúng sẽ tóm lấy kẻ địch và quăng chúng lên không trung rồi nhả ra một đám khói Flood Spore.

COLONY FORM

Chúng được nhìn thấy ở những vùng bị lây nhiễm nặng và gắn liền với Proto-Gravemind. Khi bị phá huỷ, những công trình chính khác cũng bị yếu đi. Chúng không thể bị phá hủy bởi những phương tiện loại nhỏ, thay vào đó chúng là luôn ở trạng thái bất động nhưng có thể hồi phục tổn thương rất nhanh. Tuy nhiên, ở phần Multiplayer trong Halo Wars nó vẫn có thể bị phá hủy bởi phương tiện bình thường.

FLOOD NEST

Nó có thể tạo ra Infection Form và Carrier Form. Nest Form có nhiều tua những vây quanh một cái miệng thứ từ đó thể Flood chui ra.

FLOOD LAUNCHER

Nó sẽ bắn ra những thể Flood từ trên đỉnh và hướng thẳng vào quân đội của kẻ thù. Nó cũng được dùng như một vũ khí đối không, dù vậy nó có thể bị phá hủy bởi những hỏa lực tầm trung và nhỏ bù lại nó sẽ hồi phục rất nhanh dù trong Campagin hay Multiplayer.

FlOOD DEN

Thrasher Form và Flood Swarm sẽ đi ra từ đó, nó có kích thước trung bình. Và hầu hết giống như những Building Form khác, chúng không thể bị tiêu diệt bởi những hỏa lực bình thường, luôn bất động và hồi phục chấn thương nhanh.

FLOOD VENT

Là một dạng kiến trúc Forerunner nhưng bị bao phủ bới những tế bào Flood, chúng tạo ra các Flood Bomber Form. Đặc điểm của nó cũng hoàn toàn giống với gần hết những Building Form khác, không có gì nhiều để nói.

FLOOD STALK

Nó là một công trình nếu như bị phá hủy sẽ thả ra một nhóm Infection Form. có vẻ bao gồm cả một số Flood Growth Pod trên mình.

Pod Form

Dạng Flood này có hai chủng: Flood growth pod và Flood disperal pod. Hai chủng này chuyên dùng để vẫn chuyển các dạng sống của Flood vào vùng chiến đấu.

FLOOD GROWTH POD

Flood growth pod là một tập hợp sinh học rất lớn và có chọn lọc, chúng thường lớn lên trên bề mặt các con tàu, các tòa nhà và các công trình khác. Chúng bắt đầu phát triển khi Flood tiến vào một vùng nào đó hoặc nơi đó có xuất hiện Flood spore. Chúng chỉ xuất hiện ở giai đoạn trước khi sự tàn phá của Flood, khi Gravemind có đủ khả năng tạo ra cũng như hỗ trợ Pure Form. Chúng sẽ phát triển các Infection Form ở bên trong và khi bị tấn công chúng sẽ nổ tung và phóng ra khoảng 25 con Infection Form. Chúng được nhìn thấy lần đầu tại màn High Charity ở Hal và màn Floodgate, Cortana ở Hal. Và trong multiplayer map Isolation và Cold storage cũng có sự xuất hiện của chúng nhưng khi bắn vào chúng sẽ không phát tán ra Infection Form. Chúng rất giống với Carrier Form nhưng điểm khác nhau cơ bản là chúng hoàn toàn không có cơ chế phòng thủ và khi nổ không thể khiến người chơi bị tổn thương. Dù vậy số lượng Infection Form được tạo ra sau vụ nổ đó cũng đủ khiến bạn phải suy nghĩ.

FLOOD DISPERAL POD

Là thể Flood được nhìn thấy ở Halo 3 và thường xuyên Halo Wars màn Cleansing. Đây có vẻ là sự pha trộn của thiết bị HEV dùng bởi quân ODST của UNSC và Orbital insertion pod dùng bởi Elite. Nhưng thay vì vỏ làm bằng Titanium-A và được hướng dẫn, thể Flood này được bao bọc bởi lớp siêu tế bào được hóa sừng, và kết nối với nhau tạo ra hình khoang thả quân. Thể Flood này được phát triển ở High Charity được Gravemind dùng để độ bộ quân của nó lên Installtion 00 cũng như Installation04(II) để ngăn chặn việc khởi động vòng tròn Halo chưa hoàn thành này. Đặc điểm khác là chúng rất giống Infection Form về kiểu dáng chỉ khác ở kích thước. Rất có thể chúng được phát triển từ Infection Form hoặc cũng có thể đơn giản chỉ là thứ được tạo ra từ việc đánh cắp công nghệ của UNSC và Covenant.

Combat Behavior- Tập tính

Đặc điểm chung nhất của hầu hết mọi thể Flood đó là dữ dội và đói khát nhưng không phải vì thế mà chúng không có tính cách riêng cho từng thể. Dù vậy, mỗi khi đi cuộc cuộc chiến chúng luôn tấn công đối phương với số lượng lớn và áp đảo nhằm nhanh chóng hạ gục con mồi.

Các loại như Combat Form, Infection Form, Carrier Form hay Tank Form đều có đặc tính lao nhanh, sau đó áp sát và cố hạ gục kẻ thù một cách nhanh nhất. Ranged Form thì luôn đứng đằng sau hỗ trợ cho quân mình một cách tốt nhất có thể. Stalker Form thì luôn cố gắng biến đổi thành Tank Form hoặc Ranged Form. Riêng với Combat Form chúng sẽ nhặt bất kì vũ khí nào chúng thấy mà chúng đã từng sử dụng.

Flood có sức mạnh rất lớn trong việc tấn công với khoảng cách gần chỉ một cú đập đơn giản của chúng cũng dư sức khiến cho áo giáp năng lượng MJOLNIR của các Spartan-II giảm đi còn một nửa. Carrier Form thì sẽ hoàn toàn làm biến mất lớp năng lượng trên bộ quần áo giáp này chỉ sau một vụ nổ và Infection Form phát tán ra sau đó sẽ làm phần việc còn lại. Nếu như không có sự hỗ trợ của các thể Flood khác, Infection Form vẫn sẽ lao vào và khi gặp phải sự cản lại của lớp năng lượng chúng sẽ bị nổ tung làm lớp khiên năng lượng này yếu dần đi cho đến khi hoàn toàn biến mất và tiếp tục sự lây nhiễm của mình, chúng rất rất nguy hiểm đối với những kẻ thù không có giáp năng lượng. Combat Form cũng có thể nhặt vũ khí và dùng nó để tấn công kẻ thù. Dù vậy, chúng vẫn là những chiến binh khá tồi vì sự lây nhiễm đã làm cho hệ thống thần knih của chúng không con hoàn thiện dẫn tới việc không thể xác định chính xác vị trí mục tiêu, chúng chỉ thực sự nguy hiểm khi chúng có trong tay những thứ như khẩu Shotgun M60 hay khẩu Rocket Launcher M19 của UNSC, ngay cả với Energy Sword thì cũng sẽ rất nguy hiểm nếu để chúng áp sát dù khả năng cận chiến của chúng không được tốt. Trong chiến đấu, Infction Form luôn là quân đi tiên phong, sau đó là các thể Flood như Combat Form, Carrier Form hay các thể khác.

Infction Form, Carrier Form và Combat Form lao tới mục tiêu.

Ở mức phát triển cao hơn, chúng sẽ không còn bị bó hẹp trong đơn vị cả thể mà được giải phóng ra toàn loài. Lấy ví dụ, ở trên tàu Infinite Succor, khi một Elite trong đội biệt kích của Covenant ở trên tàu bị đồng hóa bởi Flood, ngay lập tức tất cả những thể Flood còn lại có thể dễ dàng đi lại khắp con tàu mà không phải sợ bất kì một sự cản trở từ những cánh cửa bị khoá, lí do là vì sau khi đồng hóa được Elite ngay lập tức Infection Form sẽ khai thác trí não của nó và chia sẻ cho những con còn lại. Hơn thế nữa, khi Flood lây nhiễm Prophet Legate- một người có trí tuế rất cao, Flood dùng chính giọng nói cũng như trí óc của Prophet này để dụ dỗ cũng như hăm dọa chỉ huy đội đặc nhiệm Rtas 'Vadumee:"The Forerunner could not defeat us......what chance you?" Tuy nhiên, Flood cũng có những trí thông minh bất bình thường chúng sẽ quyết định biến đổi một sinh vật mới bị lây nhiễm như thế nào hay làm thế nào là tốt nhất cho chúng: Khi ở trên tàu Truth and Reconciliation, chúng thường xuyên đi lùng sục các ngõ ngách, thu nhặt các cơ thể nhằm điều khiển, hoặc tạo ra thể Brain Form như trên tàu Infinite Succor.

Ngoài ra Combat Form còn có thể sử dụng rất nhiều các loại phương tiện khác nhau như: Scorpion, Wraith, Ghost, Wathorg,......Sự lây nhiễm của Flood không chỉ dừng lại ở nguyên sih vật sống, những xác chết cũng có thể được biến thành Combat Form nếu như chúng không bị phá hủy quá nhiều đôi khi các Combat Form cũng được biến đổi to hơn bình thường vì một số lí do nào đó. Trong rất nhiều trường hợp, sự lây nhiễm của Flood có thể bị dừng lại: Khi Rtas 'Vadumee đánh nhau với thuộc hạ của ông ta Kusovai-người đang bị biến đổi trong suốt trâni chiến. Dù không nhìn thấy nhưng chắc chắn Infection Form đang cố kiểm soát anh ta. Sau đó, một Elite khác đã xuất hiện và đấm vào ngực của Kusovai, ngay lập tức sự lây nhiễm kết thúc, Kusovai chết, rất có khả năng cú đấm này đã đi đúng vào nơi mà Infection Form đang ẩn làm nó bị chết, dẫn tới sự lây nhiễm không hoàn thành. Điều cuối cùng, chỉ một sinh vật bị lây nhiễm cũng có thể giúp Flood tạo ra những thể Flood cực kì nguy hiểm như: Brain Form hay Gravemind.

Những nạn nhân được biết

Minister of Etiology( lão này là Prophet Legate)

Wallace A. Jenkins 

Thuyền trưởng Jacob Keyes 

Phó chỉ huy Kusovai 

Bình nhì Manuel Mendoza

Prophet of Mercy 

Binh nhì Riley 

Prophet of Regret 

Prophet of Truth

Tactics - Chiến thuật

HALO: COMBAT EVOLVED

Tốt nhất là sử dụng súng tỉa MA5B, M90 Shotgun hay lục M6D để chống lại Flood. Khẩu lục M6D có thể hạ gục Combat Form chỉ với một phát bắn vào ngực(dù sau đó chúng sẽ tỉnh lại nhưng cũng mất khá nhiều máu) tuy nhiên chúng không phải là lựa chọn tốt trong mọi trường hợp, với tốc độ bắn trung bình và uy lực tập trung tại một điểm hơi nhỏ nên rất dễ đẩy người chơi vào tình trạng nguy hiểm: bị các Combat Form bao vây, vì thế tốt nhất ta chỉ sử dụng khi bắn những mục tiêu ở xa. Plasma Rifle cũng là một sự lựa chọn tốt(nếu những vũ khí trên thiếu hoặc không có) với tốc độ bắn nhanh, lượng pin lớn, sức công phá khá, chúng có thể hạ gục các Combat Form và tiêu diệt các Carrier Form, Infection Form khá nhanh.

Sniper Rifle hoàn toàn vô tác dụng với Flood, cho nên đối mặt với Flood, Sniper hoàn toàn không phải là sự lựa chọn đứng đắn. Mặt khác, Shotgun luôn là sự lựa chòn hoàn hảo trong việc đối đầu với chúng, cũng như Flood thường bị hạ gục chỉ sau 1,2 phát bắn. Ở những cấp độ chơi thấp hơn Legendary, Shotgun gần như luôn sẵn có.

Súng tỉa với độ lan tỏa rộng và số lượng đạn lớn, là một vũ khí rất tốt trong việc chống lại Infection Form hay các Combat Form khi chúng áp sát(mà không có shotgun). Tuy nhiên, đừng bao giờ dùng nó(hay các loại vũ khí khác) để đập Flood vì nó gần như là vô dụng và nhiều lúc rất nguy hiểm(đối với Carrier Form và Combat Form) nhưng với Infection Form thì một cú đập có thể giết chết 4,5 con một lúc.

Tóm lại, Shotgun là vũ khí tốt nhất để hạ gục chúng ở khoảng cách gần còn lục hay súng tỉa dùng để đối khó ở tầm xa. Màn Two Betrayals thì lục là hiệu quả nhất, màn Library thì tốt hơn nên dùng súng tỉa hoặc Plasma Rifle vì chúng luôn dễ kiếm và hiệu quả.

Một điều nhỏ khác, chúng ta có thể loại bỏ các cánh tau hay đầu của chúng(dù sống hay chết) điều này sẽ khiến chúng không thể làm bạn bị thương. Bạn có thể làm điều này dễ nhất ở màn Keyes.

HALO 2

Cầm khẩu súng tỉa SMG cả hai tay hay các loại vũ khí khác đều rất hữu dụng như Sentinel Beam, Shotgun hay Energy Sword(gọi là dual). Dù vậy, Plasma Pistol là ít hữu dụng nhất. Dual Plasma Rifle để loại bỏ các cánh tay của chúng là dễ nhất, dù vậy phải cẩn thận vì sau khí bị cắt tay, chúng sẽ tiến gần đến ta và phát nổ chỉ sau vài giây. Ngoài ra có một cách tiêu diệt Combat Form rất dễ chỉ với một phát bắn, đó là ở ngực Combat Form, bạn có thể dễ dàng thấy Infection Form đang ở đó và điều khiển các tua, hãy bắn vào Infection Form đó(nếu Combat Form có giáp năng lượng hãy loại bỏ trước) ngay lập tức Combat Form sẽ chết. Tuy nhiên, nếu Infection Form khác bắt gặp được xác Combat Form vừa bị tiêu diệt theo cách đó, nó sẽ lại chui vào và làm sống lại Combat Form. Vũ khí tốt nhất để làm việc này đó là BR55 Battle Rifle. Dù vậy, sau khi giết bằng cách đó, tốt nhất ta nên hủy xác của chúng(có thể dùng súng đập hay bất kì cách nào gây tổn thương). Nhưng cách để tiêu diệt liên tục là xài SMG dual và Shotgun. Ở màn, The Oracle, tốt nhất nên chọn dual súng Needle nếu như bạn hết đạn những súng kia. Cuối cùng, đừng bao giờ để Infection Form cắn bạn khi bạn hết giáp, điều này sẽ giết bạn một cách nhanh chóng.

HALO 3

Incendiary Grenade(loại lựu của Brute, không phải cái có gai đâu há) sẽ nhanh chóng tiêu diệt mọi thể Flood Pure Form, vũ khí đi kèm tốt nhất đó chính là súng phun lửa FramThrower. Các cú đập sẽ nhanh chóng tiêu diệt mọi thể Flood ngoại trừ Pure Form, nhưng một khi bị chết, chúng sẽ không thể tái sinh. Giống như Halo 2, có một cách rất tốt để tiêu diệt Combat Form đó là tiêu diệt Infection Form ở ngực, cách giải quyết ra sao thì như trên.

HALO WARS

Chiến thuật của Flood trong phiên bản này rất nhiều và khó dự đoán. Chúng được tạo ra để hủy hoại căn cứ địch. Ensemble muốn biến Flood thành một loài hoang dại, và thực sự nguy hiểm đối với UNSC cũng như Covenant. Vì lí do đó mah Flood không biến thành một race trong Halo Wars, nhà sản xuất không muốn nó trở thành một phiên bản Zerg của Starcraft. Tốt nhất đối đầu với Flood là dùng phương tiện hoặc unit có giáp năng lượng nếu không sẽ bị thua rất nhanh. Đối với các công trình thì nên dùng các loại vũ khí hạng nặng để tấn công và luôn cho quân ở lại những nơi đã phá hủy đề phòng việc chúng tái sinh.

Những sự thay đổi

TỪ HALOCE ĐẾN HALO 2

_ Flood trong phiên bản này có thể gào rú, thứ mà chúng không có trong phần 1.

_ Các cơ thể Combat Form được làm chi tiết hơn, màu da, khuôn mặt được thiết kế chăm chút, mang lại cảm giác ghê rợn hơn trước.

_ Nếu bị cắt bỏ hai tay, chúng sẽ tiền gần đến bạn, nổ và phát tán Infection Form.

_ Infection Form có thể tận dụng các xác chết để tái sinh Combat Form.

_ Nếu người chơi bị Infection Form cắn khi hết giáp, họ sẽ chết rất nhanh, không như HaloCE, chỉ bị mất một thanh máu.

_ Một vài Combat Form biến đổi từ Elite vẫn còn giáp năng lượng.

_ Gravemind xuất hiện, khiến Flood có quy củ và nguy hiểm hơn.

_ Flood có thể sử dụng mọi phương tiện cũng như vũ khí để tấn công người chơi.

_ Những đòn đánh vật lí gần như không tác dụng ở Halo CE thì giờ đã nguy hiểm hơn trước.

_ Flood xuất hiện bất ngờ hơn, nguy hiểm hơn. Chúng có thể quyết định khi nào sẽ dùng tua đập lúc nào sẽ dùng vũ khí:

+ Khi bị cắt tay chúng sẽ lao tới gần.

+ Nếu thấy người chơi cầm Energy Sword hay Shotgun chúng sẽ tạm rút lui và ngược lại. Chúng sẽ không làm vậy nếu họ cầm vũ khí khác.

_ Juggernault Form được cho vào trong đĩa nhưng không có trong game play(giống HaloCE, Engineer có trong đĩa nhưng cũng không có trong gameplay phải nhờ tới mod mới làm chúng xuất hiện).

_ Combat Form biến đổi từ Elite không dùng Active camouflage.

_ Combat Form không còn giả chết.

TỪ HALO2 ĐẾN HALO3

_ Brute có thể bị biến thành Combat Form.

_ Những đòn tấn công vật lí bằng súng có vẻ không hữu hiệu lắm trong HaloCE và Hal thì trong phiên bản này khá tốt trong việc đối phó với Combat Form nhưng cũng gần vô tác dụng với Pure Form.

_ Infection form có thể biến đổi con người, Elite hay Brute chỉ trong khoảng 7 giây. Không như hai phiên bản trước, có thể mất đến vài ngày.

_ Pure Form xuất hiện, trở thành cỗ máy chiến tranh sinh học kinh khủng.

_ Gravemind có thể nói thông qua các thể Flood nhất định.

_ Combat Form ít được trang bị vũ khí tầm xa hơn Halo Ce và Hal.

_ Carrier Form trong Hal khó giết hơn hai phiên bản đầu, khi bị giết chúng phát tán ra nhiều Infection Form hơn. Nhưng nếu dùng lựu plasma hay lựu spike hoặc súng phun lửa để giết chúng thì sẽ không có Infection Form nào thoát ra cả.

_ Giống như Hal khi Infection Form cắn bạn lúc bạn hết giáp, bạn sẽ chết nhưng khác ở chỗ sẽ không có một biểu hiện hay tiếng động gì được tạo ra trừ việc máu bạn giảm xuống.

_ Ở màn The Covenant, khi bạn trên đường tới giết Prophet of Truth, Flood sẽ giúp bạn nhưng sau khi Truth bị giết, chúng sẽ quay ra tấn công bạn.

_ Dùng phương tiện chẹt các Infection Form sẽ không mang lại kết quả thậm chí còn có thể khiến xe bạn bị lật.

TỪ HALO3 ĐẾN HALO WARS

_ Combat Form biến đổi từ Elite sẽ không để đầu nghẹo ra sau nữa mà sẽ giữ đúng tư thế ban đầu. Các Combat Form nói chung thì nhiều tua và gai hơn.

_ Infection form luôn xuất hiện từng cụm nhỏ và sẽ không phát nổ khi bị bắn.

_ Grunt và Jackal giờ đây có thể bị biến thành dạng Combat Form.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro