Tống Y 361-438

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 361: Tể Tướng Sư Gia! (1+2+3)

Dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Vip.vandan

Share by: Mộng Hoa Trang

Nội Dung: hide

Dương Đê là một nơi phong cảnh hữu tình vô cùng đặc biệt, từ Nhạc Bình Huyện ăn trưa đến giờ Đỗ Văn Hạo đã từ bỏ thói quen trong mỗi bữa ăn phải uống một chút rượu rồi. Giờ đây hắn chỉ chủ yếu ăn một ít cơm canh đơn giản, qua loa cho qua bữa, sau đó tự nói mình hơi mệt một chút, Liêu Quý Binh và Trương Thiên Ninh dĩ nhiên thấy vậy cũng không dám lên tiếng khuyên can hắn uống rượu gì cả. Sau khi dùng xong bữa, thì Đỗ Văn Hạo bảo mọi người nên đi bộ một đoạn đường, sau đó mới xuống bè trúc lên đường đi tiếp.

Tri Huyện Trương Thiên Ninh cứ tưởng Đỗ Văn Hạo không hài lòng với sự sắp xếp trưa nay của ông ta, chính vì vậy mà ông ta quyết định đi bộ trước đến Dương Đê để chuẩn bị cho chu đáo hơn. Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên cũng đồng ý với ý kiến này của ông ta, không những vậy hắn còn bảo Liêu Quý Binh đi cùng ông ta lên trên đó trước nữa.

Lưu Quý Binh nghe vậy thì trong lòng không muốn một chút nào, nhưng đây lại là chỉ thị của Đề Hình đại nhân, ông ta cũng không tiện từ chối, sau khi để lại mấy đứa sai dịch hầu hạ, cũng như bảo vệ cho Đỗ Văn Hạo, ông ta liền cùng với Trương Thiên Ninh vội vã cáo từ, đi trước đến Dương Đê.

Đoàn người của Đỗ Văn Hạo lững thững đi bộ đằng phía sau hai tên sai dịch hướng về phía tây mà đi, cả đoàn người không có vẻ gì vội vàng hấp tấp cả, thời tiết lúc này mát mẻ, sảng khoái, cộng thêm tiếng suối chảy rì rầm bên cạnh, làm cho người ta cảm thấy thoải mái hơn bao giờ hết.

Lúc này Đỗ Văn Hạo mới để ý thấy Liên Nhi lững thững đi tít phía cuối cùng, nàng không hề hé miệng nói lấy một câu, trông dáng vẻ của nàng thì dường như là có tâm sự gì đó. Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền cố ý đi chậm lại, tiến về phía Liên Nhi, nhẹ nhàng lên tiếng nói: “Liên Nhi! Nàng một mình đi sau mọi người nghĩ cái gì vậy?”

Liên Nhi đang thơ thẩn bước đi, đột nhiên nghe thấy tiếng người hỏi mình đột ngột như vậy, giật thót mình một cái, lắp ba lắp bắp đáp: “Dạ…Dạ….Không có gì đâu thưa lão gia!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền cau mày lại hỏi: “Ta thấy nàng cứ lẩn thẩn một mình, trong nàng cứ buồn buồn sao ấy, Liên Nhi! Nàng đang có chuyện gì sao?”

Trong mắt của Đỗ Văn Hạo thì trong năm người phụ nữ có mặt ở đây, thì người không có cá tính, không có chính kiến nhất chính là Liên Nhi, có lẽ là do nàng sống ở trong cung từ nhỏ, nên cái gì cũng nghe chủ của mình, chủ của mình nói gì cũng đúng, chính vì vậy mà nó đã thành thói quen cố hữu trong nàng. Từ khi Liên Nhi về làm thiếp Đỗ Văn Hạo thì nàng cũng vẫn giữ nguyên thói quen như vậy, bất chấp là phu nhân, hay lão gia, ai nói gì cũng vâng, chưa bao giờ phản bác ai lấy một câu, câu cửa miệng của nàng lúc nào cũng là vâng, dạ, được ạ, tất cả những lời nói của nàng đều rất nhẹ nhàng, khéo léo chiều lòng người, ngay cả một người thích moi móc như Kha Nghiêu cũng không thể nào trông thấy một tất xấu nào của nàng cả. Vậy nhưng, hôm nay Liên Nhi bỗng dưng lại có một tâm sự riêng.

Liên Nhi thấy Đỗ Văn Hạo vẫn cứ hỏi dồn mình như vậy, nàng không biết nên cư xử ra sao, chỉ biết mỉm cười một cách miễn cưỡng, lúc này nàng lại trông thấy Bàng Vũ Cầm quay mặt lại nhìn nàng, Liên Nhi ngay lập tức lí nhí đáp lại: “Đa tạ lão gia đã quan tâm đến thiếp! Nói thực lòng, thiếp không có chuyện gì cả đâu, xin lão gia đừng lo lắng!”

Tuyết Phi Nhi đứng gần đó, nên cũng nghe thấy cuộc nói chuyện giữa Đỗ Văn Hạo và Liên Nhi, thấy Liên Nhi lí nhí như gà mắc tóc, nàng liền lên tiếng nói: “Tướng công! Nếu như chàng muốn moi những tâm sự từ miệng của Liên Nhi, thì ngoại trừ việc chuốc cho Liên Nhi say ra, thì chẳng còn cách nào khác đâu!”

Mọi người nghe Tuyết Phi Nhi nói như vậy thì liền cười ồ lên vui vẻ.

Kha Nghiêu lúc này trong miệng vẫn đang ăn mấy quả rừng do Liêu Quý Binh dâng lên cho mọi người nếm thử, cũng cong môi lên nói: “Nếu đã như vậy thì tối hôm nay chúng ta phải chuốc cho Liên Nhi tỷ say không biết gì mới được, muội cũng muốn nghe xem những lời tự đáy lòng của Liên Nhi tỷ rốt cuộc nó ra sao!”

Liên Nhi thấy mọi người mồm năm miệng mười nói sẽ không tha cho nàng tối ngày hôm nay, thì bất chợt gương mặt của nàng nóng bừng, đỏ ửng lên, Liên Nhi cúi đầu lí nhí nói: “Muội…Muội đúng là không nghĩ gì cả, thật mà!”

Lâm Thanh Đại thấy vậy bèn mỉm cười nói: “Mấy người các muội cũng đừng làm khó Liên Nhi nữa, Liên Nhi không muốn nói, thì cho dù chúng ta có ép Liên Nhi uống say, thì muội ấy cũng không nói câu nào cả đâu!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng cười nói chen vào: “Thanh Đại nói đúng lắm! Liên Nhi có chuyện gì bao giờ cũng cất kín trong lòng, không thổ lộ với ai bao giờ cả. Thôi thì để ta thử đoán xem, Liên Nhi lúc này đang nghĩ gì vậy! Nàng bây giờ chắc đang lo lắng cho nương nương của nàng đúng không hả?”

Liên Nhi nghe Đỗ Văn Hạo đoán trúng tâm sự của mình như vậy, thì vô cùng ngạc nhiên, nhưng hơn thế thì vẫn là một niềm cảm kích hiện rõ trên gương mặt thanh tú của nàng, Liên Nhi khẽ gật đầu đáp lại câu nói của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn thở dài nói: “Liên Nhi từ nhỏ đã đi theo hầu hạ Mỹ Nhân nương nương, tình cảm của hai người chẳng khác nào hai chị em ruột cả, nàng lo lắng cho nương nương như vậy cũng là đúng thôi!”

Liên Nhi nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy, thì vẻ mặt đượm buồn, ủ rũ nói: “Vâng ạ! Ngày trước nương nương từng được Hoàng Thượng đưa ra ngoài cung đi du ngoạn, người cũng đem thần thiếp theo bên mình, chính vì vậy mà khi thấy nơi đây sơn thủy hữu tình, non xanh nước biếc, thì thiếp không khỏi nhớ đến những giây phút đi chơi vui vẻ bên cạnh nương nương! Thiết nghĩ, bây giờ nương nương đã bị mất một mắt, mặt mũi thì bị hủy hoại, nương nương giờ lại mang bệnh trên người, không biết bây giờ nương nương ra sao nữa….!”

Nói đến đây thì Liên Nhi nấc nghẹn lên, không nói thêm được nữa.

Bàng Vũ Cầm đứng ở bên cạnh nói: “Không có chuyện gì đâu! Muội đừng lo lắng như vậy, trước khi chúng ta lên đường rời khỏi kinh thành, Văn Hạo không phải đã kê cho nương nương thuốc để uống rồi đó sao? Bây giờ Mỹ Nhân nương nương đã về quê nhà của mình rồi, có người nhà chăm sóc, ta nghĩ chắc không có chuyện gì đâu!”

Liên Nhi nghe Bàng Vũ Cầm nói như vậy, thì chớp chớp hai hàng mi mắt đẫm lệ của mình, sau đó gắng gượng cố nuốt ngược hai hàng dòng nước mắt ngược vào bên trong, miễn cưỡng nở một nụ cười, sau đó nàng liền chuyển chủ đề nói chuyện cho không khí bớt trở nên nặng nề: “Đúng rồi! Lúc nãy thiếp có nghĩ Liêu Tri Phủ nói với Ngô Tri Huyện rằng bọn họ đi trước để chuẩn bị mấy món rau rừng, quả dại, hay thịt thú rừng gì đó cho chúng ta phải không?”

Kha Nghiêu nghe thấy vậy liền nhanh nhảu nói: “Vậy thì tốt quá rồi, muội thích nhất ăn mấy thứ ngon miệng đó!”

Tuyết Phi Nhi nghe thấy vậy liền lạnh lùng nói: “Dân chúng bách tính nơi đây đến cả cháo cũng không có mà ăn, bọn họ còn đưa chúng ta đi ăn mấy thứ như vậy sao? Thật đúng là no con bụng đói con mắt, cái gì cũng muốn ăn!”

Liên Nhi thấy vậy liền nhanh miệng nói bào chữa: “Bọn họ…bọn họ làm như vậy cũng là muốn chăm sóc, hầu hạ tốt cho lão gia của chúng ta thôi mà!”

“Thôi ta xin muội! Muội nên để ý đến cuộc sống của dân chúng đang sống xung quanh chúng ta một chút đi! Suốt cả dọc đường đi vừa rồi, lẽ nào muội không để ý thấy hay sao? Cả trăm ngàn mẫu đất ruộng đều bị hoang phế, không ai cày cấy, dưới ruộng không có lấy một cọng đòng đòng! Chúng ta đi lâu như vậy, nhưng có trông thấy một đồng ruộng lúa nào không? Dân chúng bây giờ ăn gì, lấy gì mà sống? Năm nay đúng là năm hạn của bọn họ! Bây giờ họ mà không đem ruộng, đem con đi bán thì họ còn biết lấy gì mà sinh sống nữa?”

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã dừng chân lại, đưa mắt ra nhìn khắp những cánh đồng mênh mông bát ngát, nhưng hoang vu, lạnh lẽo đến ghê người, thở dài nói: “Đúng vậy! Chúng ta đến đây không chỉ là để thưởng thức, du ngoạn cảnh đẹp của sông Ly, mà chúng ta càng phải để ý đến những hậu quả của tai ương nó ghê gớm đến mức độ nào, bây giờ cái mà chúng ta trông thấy là những đồng lúa hoang vu, ngoài mấy cọng cỏ dại ra, thì làm gì có ai cầy cấy, trồng trọt nữa đâu! Ài! Đúng là thiên tai đem đến thiệt hại thật là to lớn!”

Bàng Vũ Cầm nghe vậy liền miễn cười nở một nụ cười, rồi quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Tướng công! Chàng cũng đừng lo lắng, sốt ruột quá như vậy! Liêu Tri Phủ chắc cũng đã trình tấu với triều đình, cầu cứu triều đình phát lương thực viện trợ rồi, dân chúng chắc chắn sẽ tai qua nạn khỏi thôi!”

Tuyết Phi Nhi nghe thấy vậy liền chen ngang vào nói: “Vũ Cầm tỷ! Tỷ là tòng tứ phẩm phu nhân, thì chắc phải hiểu hiệu quả làm việc của bọn quan lại triều đình hơn muội mới phải chứ? Chờ đến bọn họ đem lương thực phát xuống cho dân chúng, trong thời gian bao lâu thì muội tạm thời không đề cập đến, nhưng chắc chắn là số lương thực cứu trợ sẽ không đủ để cứu tế cho dân chúng khỏi bị chết đói!”

Kha Nghiêu nghe thấy vậy cũng bon chen, lên tiếng nói: “Đúng vậy đấy! Lúc nãy khi chúng ta ngồi ăn, thì muội thấy có mấy đứa trẻ ăn mặc rách rưới, lôi thôi ngồi ở trong góc tường, muội nhân lúc Liêu đại nhân và Trương đại nhân không chú ý, liền bảo Anh Tử đưa cho chúng một ít đồ ăn, sau đó Anh Tử quay vào nói lại với muội rằng, mấy đứa nhóc đó ăn uống như hổ đói, như là bọn chúng cả đời chưa bao giờ được ăn cơm vậy. Anh Tử lúc đó cũng bảo chúng đó ăn uống từ từ, chậm rãi thôi không bị nghẹn, không ngờ bọn chúng trả lời Anh Tử rằng, nếu như không ăn nhanh để quan phủ trông thấy, thì chắc chắn sẽ bị quan phủ dùng roi đánh cho đến chết mới thôi!”

Anh Tử lúc này cũng nói chen vào: “Vâng! Đúng như vậy đấy ạ! Mấy đứa nhóc đó trông thấy cơm đến mà mắt sáng như sao, hai mắt trợn lên cứ như hai con ngươi muốn rơi luôn xuống dưới đất vậy! Cũng không biết bọn chúng bao nhiêu ngày rồi chưa được ăn, vừa đưa cơm đến ôm vù một cái chạy mất, đến cả câu cảm ơn cũng không kịp nói, bọn chúng sợ bị quan lại bắt gặp thì thể nào cũng cóđứa phải bỏ xác lại ở đấy!”

Kha Nghiêu nói tiếp: “Quan Phủ Nha Môn không phải là có luật Thanh Miêu Pháp đấy hay sao! Dân chúng có thể vay lương thực tiền bạc từ quan phủ được mà, chỉ cần năm tới thu hoạch được là sẽ hoàn trả cho quan phủ thôi!”

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây thì bất giác thở dài ra một cái rồi nói: “Thanh Miêu Pháp đúng là có hạng mục cho vay mượn như vậy, nhưng nó lại không cứu tế về lương thực kiểu gặp hạn đói nghèo khó như lúc này, nó chỉ cho vay khi nhận thấy người vay có khả năng chi trả nợ nần thôi, còn bây giờ dân chúng vừa trải qua một cuộc thiên tai, nghèo đến kiết xác như vậy, lấy đâu tiền mà có khả năng trả nợ, hơn nữa lãi xuất thu lãi lại vô cung cao. Dân chúng nơi đây trong túi gạo chẳng có nổi vài hạt, vụ mùa thu còn không kịp gieo trồng, lấy đâu ra tư cách để được vay mượn! Một khi quan phủ nha môn cho vay mượn mà không đòi lại được nợ từ dân, thì quan phủ sẽ bị cách chức! Chính vì vậy mà ai dám động tay tự tiện mở kho ra cho người dân vay nợ như vậy!”

“Nhưng mọi người có thể dùng đất đai, đồng ruộng để đặt cọc được mà, chỉ cần có cái để đặt cọc thì sẽ vay được thôi! Muội nghe nói…” Kha Nghiêu vẫn cứ khăng khăng luận điểm của mình.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền mỉm cười cắt ngang câu nói của Kha Nghiêu: “Đúng là đặt cọc, thế chấp ruộng đất có thể vay được lương thực, điều này không hề sai! Vậy đến lúc đó khi cho vay xong rồi, lẽ nào thế chấp đất cho quan phủ xong, thì ruộng đất để đấy làm gì? Dân chúng thế chấp xong rồi, no bữa nay rồi, nhưng đất đã thế chấp đi rồi, lấy đâu ra chỗ mà cầy cấy trả nợ? Dân chúng rốt cuộc lại rơi vào cảnh chết đói! Vả lại, dân chúng vốn dựa vào đất đai, ruộng lúa để sống, bây giờ thế chấp hết đi rồi thì họ sống bằng gì? Họ lại lấy cái gì để thế chấp nữa đây? Ngoài ra, Thanh Miêu Pháp cũng có rất nhiều mặt hạn chế nữa! Tiền bạc, lương thực dân chúng vay về xong cùng lắm là cầm cự được ba tháng, nhưng thiên tai bây giờ đã kéo dài cả một năm rồi, tiền bạc vay về xong, không làm được gì! Chỉ biết ăn, như vậy thì về sau dân chúng lấy gì mà sống đây!”

Kha Nghiêu nghe xong trợn mắt kinh ngạc, nàng không ngờ mọi việc lại cần phải suy tính lâu dài như vậy, không phải chỉ lo cho trước mắt như nàng nghĩ được: “Vậy…vậy, như vậy thì dân chúng lẽ nào cứ đứng chờ chết hay sao?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy chỉ biết thở dài, chán chường, hắn chắp hai tay ra đằng sau đưa hai con mắt đau đáu nhìn về phía đồng ruộng rộng lớn, tâm trạng nặng trĩu không biết nên biểu đạt thế nào cho phải.

Toàn bộ đồng ruộng, đất đai ở vùng địa giới Phủ Tĩnh Giang này bây giờ đều trở nên hoang vu, trọc lốc, người dân mắc nạn ngày nhiều, số lượng ngày càng tăng, nếu chỉ dựa vào đồ cứu tế của triều đình, lược bỏ đi những công đoạn bị cắt xén qua nhiều công đoạn, tất cả đều như muối bỏ bể, càng nhiều thì càng ít, căn bản không thể nào duy trì mãi tình hình như vậy được. Bây giờ đang vào mùa thu, vậy mà lương thực đã hoang phế như thế này rồi, thế thì dân chúng cũng chẳng còn cách nào khác ngoài bán con, bán đất đi để mà tìm cái sống, nhưng chặng đường gian khó vẫn còn rất dài ở phía trước, họ bây giờ đã bán đất, bán con đi rồi, về sau không biết họ đem gì đi bán để sống nữa?

Trước mắt, khí hậu cũng đang dần bước vào mùa đông đến nơi rồi, nhà cửa đất đai cũng đã bán, dân chúng làm sao còn có chỗ để tránh khỏi cái rét của mùa đông, cái lạnh thấu xương của tuyết lạnh! Tình hình trước mắt bây giờ là rất vô cùng nghiêm trọng, bởi mùa đông là một quãng thời gian dài, đầy cam go và thử thách, nếu như bây giờ không lo nơi ăn chốn ở cho dân chúng, thì họ làm sao qua nổi mùa đông khắc nghiệ? Nếu như chúng ta không tìm ra biện pháp khắc phục tình hình, thì e rằng cái cảnh tượng xác người chết ven đường sẽ trở thành những cảnh tượng quen thuộc trong mắt chúng ta mất!

Vậy nhưng, thân phận cua mình lúc này chỉ là một Đề Hình và Ngự Y, mình chỉ có thể quản lý được các việc như Hình Ngục, và Tầm Y, làm sao có đủ tư cách để quản mấy chuyện cứu tế cho dân chúng cơ chứ, mình bây giờ phải làm cách nào thì mới có thể giúp cho dân chúng thoát khỏi cảnh tượng bi thảm này đây?

Mấy vị phu nhân của Đỗ Văn Hạo thấy hắn quay ra nhìn những đồng ruộng hoang vu, thở dài não nề buồn bã như vậy, thì không một ai dám lên tiếng ho he thêm một câu nào nữa.

Hai bờ Dương Đê phong cảnh hữu tình, nhưng bên cạnh đó là những đồng ruộng hoang vu, ảm đảm đến rợn người, làm cho người ta có cảm giác nơi đây tuy đẹp, nhưng lại mang một vẻ đẹp của sự thê lương, khốn khổ.

Khi đến Dương Đê, Tri Huyện Trương Thiên Ninh sắp xếp Đỗ Văn Hạo ăn nghỉ tại một nhà nông gia, kiến trúc nơi đây được dựng lên theo phong cách kiểu Trúc Lầu, nằm ở bên cạnh sông nước, vô cùng lãng mạn nên thơ, vậy nhưng Đỗ Văn Hạo lại chẳng có tâm trí nào để ngắm cảnh cả.

Hắn liền cho gọi Liêu Tri Phủ, và Trương Tri Huyện cùng đến hỏi chuyện: “Nhị vị đại nhân! Bổn quan đến Phủ Tĩnh Giang, thì thấy nơi đây đúng là ông trời thương tiếc, ban cho phong cảnh nơi đây đẹp tựa thiên đàng, vậy nhưng ruộng đồng nơi đây lại không có ai cày cấy, hoang vu vô cùng, không biết nhị vị đại nhân có kế sách gì để đối phó với việc như thế này hay không?”

“Cái này….!” Liêu Tri Phủ và Trương Tri Huyện đưa mắt lên nhìn nhau một cái, rồi cả hai lại trầm ngâm, im lặng không nói câu gì nữa.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì mỉm cười tự chế nhạo bản thân mình nói: “Thật có lỗi với nhị vị quá! Đây vốn thuộc về phạm trù cứu tế, bổn quan không đủ chức trách, cũng như tư cách về việc này, đây chỉ là bổn quan thuận miệng nói mà thôi, nếu như nhị vị thấy có gì không tiện thì không phải trả lời bổn quan cũng được! Không sao cả!”

Liêu Tri Phủ nghe thấy vậy thì vội vã chắp tay nói: “Đỗ đại nhân quá lời rồi! Đại nhân lo lắng cho dân chúng, nên mới hỏi bọn hạ quan về chuyện cứu tế như vậy, bọn hạ quan sao lại có chuyện không trả lời đại nhân được đâu cớ chứ? Phủ Tĩnh Giang chịu thiên tai như vậy, là bắt đầu từ hồi mùa xuân năm nay, tại mùa đông năm ngoái là một mùa đông khá ấm, mưa tuyết lại ít, chính vì vậy mà sau khi vào xuân, thì mặt trời chói lọi, ruộng đồng đều vì thế mà khô hạn hết cả, đất thì rạn nứt, ngay cả những mầm trồng lên cũng không mọc được, cộng thêm việc không có nước, trồng cái gì cũng không ra hoa kết trái. Bọn hạ quan cho người đi cầu mưa, nhưng cũng chẳng linh nghiệm gì cả, tiếp sau đó lại có người loan tin là, thiên tai này là do Biến Pháp mà ra. Chỉ cần phế bỏ Biến Pháp thì trời sẽ mưa ngay! Những lời tương truyền của bọn ngu dân thì vốn cũng không nên tin, nhưng không ngờ là sau khi triều đình phế bỏ Biến Pháp, thì đột nhiên mưa liên tiếp đến nửa tháng liền! Nhưng rất tiếc là cơn mưa này lại đến không đúng lúc, ông cha ta có câu, vì người mất một vụ mùa, nhưng vì trời thì mất mùa cả năm! Ông trời đã có ý như vậy rồi, thì thần dân chúng ta làm sao mà cưỡng lại được, thế là cả năm nay ruộng đất cứ hoang vu như thế cả!”

Trương Tri Huyện cũng vuốt vuốt chòm râu của mình, sắc mặt buồn bã nói: “Thực ra thì vẫn còn những nông hộ ở ven sông ngày đêm gánh nước về tưới ruộng, nên miễn cưỡng cũng trồng được một ít mầm giống, nên sau đó cũng đã ổn định hơn một chút, thế nhưng ai ngờ cơn mưa kéo dài nửa tháng kia, kéo theo lũ đến, thế là làm cho những đồng ruộng ở ven xông cũng theo lũ mà đi! Ài! Cơn lũ này không chỉ hoành hành tàn phá một mình cái huyện này, mà cả bảy huyện của cái Phủ Tĩnh Giang này cũng không thoát khỏi nó! Tri Phủ đại nhân thương xót dân chúng, cùng với các vị Tri Huyện đồng liêu ngày đêm thương thảo làm thế nào để cứu tế dân chúng, chỉ nghĩ đến việc dân chúng gặp nạn như vậy thôi, mà Tri Phủ đại nhân ăn không ngon ngủ không yên suốt bao nhiêu ngày nay.”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy, bất giác quay đầu sang phía Liêu Tri Phủ gật gật đầu tán thưởng tinh thần vì dân vì nước của ông ta.

Liêu Tri Phủ thấy vậy vội vã chắp tay vào nói: “Đây cũng chỉ là chức trách của hạ quan mà thôi, hạ quan cũng đã nhiều lần tấu trình lên triều đình, tường thuật lại tình hình thiên tai, thiệt hại, mong chờ triều đình phất lương giúp đỡ. Bộ Hộ trên triều cũng đã có công văn xuống cho hạ quan, Hoàng Thượng cũng đã đích thân ngự bút phê chuẩn phát lương cứu tế cho Tĩnh Giang Phủ, chỉ không lâu nữa thôi, đồ cứu tế sẽ đến được đến đây. Cho dù đợt thiên tai này là thiên tai ghê gớm nhất trong năm, nhưng vì trên có Hoàng Ân rộng lớn, dưới có các vị đồng liêu đồng tâm hiệp lực, bổn quan rất có tự tin để có thể cứu tế được cho dân chúng, giúp dân chúng thoát khỏi tai nạn này. Hạ quan và các vị đồng liêu cũng đã thề với nhau rằng, cho dù mình có phải ăn rau rừng, quả dại cũng nhất định giúp dân chúng tai qua nạn khỏi, quyết không để cho dân chúng lâm vào cảnh chết đói, chết rét ở ngoài đường!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì tấm tắc khen ngợi nói: “Nói hay lắm! Không ngờ Liêu Tri Phủ lại có lòng yêu dân chúng, bao la rộng lớn đến như vậy, đây đúng là cái phúc lớn của dân chúng phủ Tĩnh Giang này!”

Liêu Tri Phủ thấy Đỗ Văn Hạo khen mình không ngớt như vậy, liền vẫy vẫy tay ra hiệu nói: “Thật không dám nhận lời khen của đại nhân, đại nhân đã quá lời rồi, bây giờ bách tĩnh vẫn đang ở trong cảnh lầm than, làm gì mà đã có phúc đâu mà đại nhân lại nói như vậy!”

“Thiên tai mà! Đây chỉ có thể trách ông trời không có mắt, độc ác với dân chúng nơi đây, làm cho họ phải chịu khổ như vậy! Đúng như đại nhân đã nói, trên có Hoàng Ân rộng lớn của Hoàng Thượng, dưới có những vị quan tốt như các vị đại nhân đây, thì ta tin rằng dân chúng nhất định sẽ qua khỏi cảnh tượng bi đát này thôi!”

Liêu Tri Phủ nghe vậy thì buồn bã nói: “Năm nay mới vào xuân mà đã gặp đại hạn, đưa mắt ra nhìn khắp các phủ tỉnh toàn quốc, thì cũng có đến một nửa tỉnh huyện gặp thiên tai, chính vì vậy mà cần cứu tế rất là nhiều, e rằng lượng lương thực, cũng như tiền của cứu tế phân phát đến đây, cũng không thể nào đáp ứng đủ được việc cứu tế cho dân chúng!”

Trương Tri Huyện cũng buồn rầu, chắp tay lên nói: “Chính vì vậy mà Tri Phủ đại nhân mới kêu gọi mọi người tiết kiệm, tiết kiệm ăn uống, tiết kiệm tiêu xài hoang phí, hơn nữa Tri Phủ đại nhân còn tổ chức mấy lần quyên góp, nhằm cứu tế cho những nơi nghèo nhất của phủ, vậy nhưng số lượng lại quá ít so với nhu cầu của dân chúng.”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền trầm ngâm do dự, hắn cân nhắc, suy tính một hồi liền lên tiếng hỏi: “Vậy hai vị có những dự định như thế nào?”

“Quyên góp!” Liêu Tri Phủ thở dài ra nói: “Chỉ có mỗi phương pháp đó mà thôi! Chờ đến khi vào mùa đông, thì đến lúc đó chúng ta cũng dùng gần hết đồ cứu tế rồi! Hạ quan sẽ lại vào kinh thành cầu xin mấy vị công tôn đại thần cứu trợ cho dân chúng tại đây! Hạ quan lúc này cũng chẳng buồn quan tâm đến chuyện sĩ diện nữa rồi, vì sự sống còn của dân chúng, hạ quan sẽ bỏ mặc mọi ánh mắt khinh bỉ, dị nghị để cầu xin những người có chức có quyền giúp cho dân chúng tai qua nạn khỏi, được đến đâu hay đến đó, hạ quan cũng chỉ còn mỗi một cách này nữa mà thôi!”

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây thì không tiếc lời khen ngợi, hắn cũng cau mày suy nghĩ, nhưng nghĩ đến nửa ngày trời rồi mà hắn cũng không thể nào nghĩ ra được biện pháp nào hay hơn nữa cả.

Trong thời hiện đại, thì công nghiệp cao tốc phát triển vô cùng mạnh, thường thì dân chúng ở những vùng bị thiên tai hay ra ngoài làm thêm, thứ nhất họ cũng có thể kiếm được tiền mang về nhà, thứ hai là làm giảm nhân khẩu chịu thiệt hại do thiên tai gây ra, như vậy cũng đỡ được phần nào cho lương thực cứu tế. Nhưng, bây giờ là thời nhà Bắc Tống, làm gì có những công nghệ hiện đại để giúp dân chúng làm thêm có công ăn việc làm, những xí nghiệp sản xuất đại trà thì lại là trong mơ, chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo cũng không biết nên cứu tế dân chúng ra sao nữa, lẽ nào đúng là chỉ còn mỗi cách đi sang các tỉnh khác ăn xin, rồi chết đói nơi đất khách quê người?

Đang nói chuyện với nhị vị đại nhân, thì lúc này có một tên Nha Dịch chạy vào bẩm báo, nói là có một vị lão tiên sinh muốn cầu kiến Hình Quan đại lão gia, nói là người được Ninh Công Công giới thiệu từ trong Hoàng Cung.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì mừng rỡ, khi ở Hành Châu thì hắn đã từng đưa một tin tình báo khẩn cấp thông báo cho Ninh công công biết, để ông ta giúp đỡ một tìm kiếm một vị Sư Gia biết viết tấu trình, không ngờ Ninh công công làm việc lại nhanh tay, nhanh chân như vậy, loáng một cái mà đã tìm thấy rồi, Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy liền lên tiếng cho người đi mời người kia vào trong.

Liêu Tri Phủ và Trương Tri Huyện nghe nói Đỗ Văn Hạo có khách đến thăm, hai người liền lập tức đứng dậy cáo từ ra về.

Không lâu sau, tên Nha Dịch đưa đến một ông lão râu tóc bạc phơ tiến tới.

Ông lão này dáng người gầy gầy, hai mắt híp lại với nhau như hai sợi chỉ mảnh, tưởng chừng như nó hòa lẫn với những nếp nhăn ở trên mặt của ông ta, nếu đứng từ phía xa nhìn, thì thậm chí còn không biết mắt ông ta nằm ở chỗ nào trên những nếp nhăn đó nữa!

Ông lão bước theo tên Nha Dịch vào bên trong, tên Nha Dịch liền tiến tới giới thiệu ông ta xong, thì ông ta cúi người thi lễ nói: “Lão phu là Thẩm Thăng Bình! Bái kiến Đề Hình đại nhân! Đây là thư giới thiệu của Ninh công công!” Nói xong ông lão liền lấy trong người ra một bức thư, sau đó tiến lên một bước cúi người đưa cho Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo tiếp lấy bức thư, đưa lên xem, quả nhiên đúng là nét bút của Ninh công công, hắn liền xé phong bì thư ra, sau đó giở bức thư ra đọc. Sau khi đọc xong bức thư của Ninh công công, Đỗ Văn Hạo mới biết ông lão đứng trước mặt hắn là một nhân vật vô cùng lợi hại.

Người này chính là người đã đỗ Tiến Sĩ vào năm Thiên Hỉ thứ hai, được Văn Nghiêm Bác vô cùng xem trọng và kính nể, sau đó còn để ông lão này làm Mộ Binh, từ đó về sau ông lão này luôn theo sao Văn Nghiêm Bác, rồi đưa ra kế sách, vạch ra đường đi nước bước để hỗ trợ cho công việc của Văn Nghiêm Bác, làm một vị Sư Gia của Tể Tướng.

Sau khi Vương An Thạch đỗ Tiến Sĩ, mới bước vào con đường làm quan, thì cái gì cũng không hiểu, cái gì cũng không biết, tính tình lại thẳng, dễ làm mất lòng người, chính vì vậy mà ông ta trong một thời gian dài không làm được cái gì ra hồn cả. Nhưng may mắn thay Tể Tướng Văn Nghiêm Bác khi đó lại vô cùng thích tài văn của ông ta, nên đã giới thiệu ông ta làm Quần Mục Phán Quan, nhậm chức Tri Châu của Thường Châu, Hình Ngục Đề Điểm Giang Đông, đồng thời còn giới thiệu vị Sư Gia Thẩm Thăng Bình của mình đến giúp đỡ cho Vương An Thạch.

Mới đầu, thì Vương An Thạch rất nghe lời Thẩm Thăng Bình, chính vì vậy mà con đường làm quan của ông ta lên như diều gặp gió, chưa đầy mấy năm mà ông ta đã được nhậm chức Độ Chi Phán Quan, sau đó triều đình rất thưởng thức tài năng của ông ta, chuẩn bị đưa ông ta vào Trực Tập Hiền Viện, nhưng Vương An Thạch lại không thức nhậm cái chức nhàn nhã đấy, và Thẩm Thăng Bình liền vạch ra rất nhiều kế sách, cuối cùng ông ta được điều đi làm chức khác là Tri Chế Hạo, chức này là làm thay Hoàng Thượng viết mấy bản văn cáo, điều lệ, và các Hình Ngục, tế lễ tại kinh thành.

Chức quan này có quyền chức rất cao, nhưng Vương An Thạch lại là một người quá thẳng, lại còn tự cho mình tài hoa xuất chúng, nên khi mới nhậm được chức này thì thôi không nghe lời của Thẩm Thăng Bình nữa, chính vì vậy mà ông đã đắc tội với không ít các trọng thần trong triều. Đúng lúc này, thì cũng vừa vặn mẹ của Vương An Thạch bị bệnh mất, triều đình mượn cớ này mà miễn chức quan của ông đi. Sau đó, Vương An Thạch hết hạn tang nhưng vẫn không được triều đình trọng dụng, mãi cho đến khi Tống Thần Tông kế vị, Thẩm Thăng Bình lợi dụng khả năng hiểu biết của ông ta mà đưa ra kế sách, cộng thêm với việc Vương An Thạch cầu xin van nài, triều đình mới trọng dụng Vương An Thạch lần nữa, sau đó điều ông ta đi làm Tri Phủ của Giang Ninh.

Sau đó dưới bàn tay nhào nặn, sắp đặt kỳ diệu của Thẩm Thăng Bình, Tống Thần Tông cuối cùng cũng phát hiện ra được tài năng của Vương An Thạch, đặc biệt là khả năng quản lý tài chính, cũng như xử lý tài chính của ông ta. Sau đó Tống Thần Tông còn cất nhắc Vương An Thạch lên làm Hàn Lâm Học Sĩ kiêm Thị Giảng, rồi sau đó thăng chức lên Tham Tri Chính Sự, toàn quyền xử lý Biến Pháp, sau đó tiếp nhận chức Bình Chương Sự của Đồng Trung Thư, làm lên chức Tể Tướng, toàn quyền thi hành Tân Pháp trên toàn quốc, và bắt đoàn vận động cải cách toàn bộ trên một phạm vi lớn.

Khi biến pháp được thi hành thì gặp rất nhiều trở ngại, hiệu quả thu được cũng thấp, nhưng lúc này Vương An Thạch lại rất được Tống Thần Tông ủng hộ, cộng thêm với việc ông ta nắm quyền hành trong tay, chính vì vậy mà Vương An Thạch không còn cần đến vị Sư Gia Thẩm Thăng Bình nay nữa. Cộng thêm với cái tính cách tự phụ của Vương An Thạch, nên những lời khuyên của Thẩm Thăng Bình không còn có trọng lượng với ông ta nữa, Vương An Thạch bỏ ngoài tai toàn bộ những lời khuyên của Thẩm Thăng Bình, chính vì vậy mà Thẩm Thăng Bình vô cùng đau khổ, rồi ông ta liền xin phép Vương An Thạch cho ông được cáo lão về quê. Vương An Thạch không chần chừ mà đồng ý luôn ý kiến của Thẩm Thăng Bình.

Sau đó không lâu, biến pháp của Vương An Thạch gặp phải làn sóng phản đối vô cùng lớn, ngay cả Tống Thần Tông cũng không còn tin tưởng vào ông ta nữa, đồng thời lúc đó các Hoàng Thân Quốc Thích trong triều liên tục gây sức ép lên biến pháp của Vương An Thạch, Tống Thần Tông bất lực đành miễn chức Tể Tướng của Vương An Thạch, sau đó điều ông ta ra làm Tri Phủ của Giang Ninh.

Và đến lúc này Vương An Thạch mới sực nhớ đến Thẩm Thăng Bình, ông ta liền đích thân đến mời Thẩm Thăng Bình xuất sơn giúp đỡ ông ta, Thẩm Thăng Bình rất nghĩa khí đồng ý ra tay giúp Vương An Thạch một lần nữa. Và Thẩm Thăng Bình đã không làm cho Vương An Thạch phải thất vọng, sau vài lần xoay vòng, Thẩm Thăng Bình đã giúp cho Vương An Thạch hóa giải được gần hết các thế lực đối địch với ông ta, và một lần nữa Vương An Thạch lại được Tống Thần Tông trọng dụng rồi lại ngồi vào chức Tể Tướng. Nhưng ngựa quen đường cũ, tính cách của Vương An Thạch là một căn bệnh vô cùng cố hữu, tự cao tự phụ, khi có quyền lực tối cao trong tay rồi, ông ta lại một lần nữa không để ý đến ai cả, mình thích gì thì cứ làm, và các thế lực trong triều ngay lập tức đều chĩa hết mũi giáo về phía của ông ta, Thẩm Thăng Bình thấy vậy liền lên tiếng khuyên can, Vương An Thạch lại không nghe. Thẩm Thăng Bình lại ngán ngẩm cáo lão về quê, và Vương An Thạch đã đồng ý.

Không có sự giúp đỡ của Thẩm Thăng Bình, cùng với kinh nghiệm trong quan trường của ông ta, Vương An Thạch giờ đây đã sù lên như một con nhím, bất kỳ ai động vào ông ta đều bị ông ta châm cho đến hẹn lại lên, và trong số những người bị Vương An Thạch châm vào có cả người xưa đã từng cất nhắc ông ta là Văn Nghiêm Bác. Dĩ nhiên, Vương An Thạch thì làm gì có đất sống ở cái nơi gian hiểm chốn quan trường, và chính vì vậy mà không lâu sau, Vương An Thạch lại bị bãi quan, điều sang làm một chức nhàn nhã khác. Tiếp sau đó, Vương An Thạch cùng với Tống Thần Tông và Đỗ Văn Hạo đi vi hành, những chuyện gặp trên lúc vi hành khi đó làm cho Vương An Thạch chán nản, ông liền từ quan về quê, sống một cuộc sống không màng đến thế sự.

Thẩm Thăng Bình đã từng phò giúp hai vị Tể Tướng trong triều là Văn Nghiêm Bác và Vương An Thạch, kinh nghiệm chinh chiến nơi quan trường của ông ta vô cùng phong phú, hơn thế nữa ông lại rất hiểu tính cách, cũng như thói quen của bách quan trong triều, là một người rất hợp với những gì mà Đỗ Văn Hạo đang cần, chính vì vậy mà khi Ninh công công nhận được thư của Đỗ Văn Hạo nhờ ông ta giới thiệu cho một vị Sư Gia xong, thì ngay lập tức nghĩ đến Thẩm Thăng Bình. Ninh công công sau đó tự mình đến mời ông ta, đem những câu chuyện của Đỗ Văn Hạo nói cho ông ta biết, rồi dùng hết lời lẽ khuyên nhủ Thẩm Thăng Bình tái xuất giang hồ, phò tá Đỗ Văn Hạo.

Thẩm Thăng Bình tuy mấy năm gần đây đã cáo lão quy ẩn, nhưng những mối quan hệ của ông ta vẫn còn đó, bạn bè thân thích của ông ta ở trong kinh thành nhiều không đếm xuể, Thẩm Thăng Bình lại là một người không chịu ngồi yên một chỗ, trong triều có bất kỳ động tĩnh gì là ông ta đã biết rõ như lòng bàn tay. Và dĩ nhiên một vị thần y mới nổi như Đỗ Văn Hạo ở trong triều thì ông ta cũng biết, và có phần xem trọng hắn. Đối với ông ta mà nói, nếu được Đỗ Văn Hạo mời làm quân sư, thì ông ta cũng sẽ vui lòng phò tá hắn đi tới thành công, cộng thêm với việc Ninh công công nói giúp, nên khi nhận được yêu cầu, Thẩm Thăng Bình lập tức đồng ý.

Sau đó, Thẩm Thăng Bình cầm lấy bức thư giới thiệu của Ninh công công, tự mình đi xuống phía nam, và cuối cùng ở cái nơi phong cảnh hữu tình tại Dương Để thuộc Tĩnh Giang Phủ gặp được Đỗ Văn Hạo.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 362 Sĩ Đồ Y Đạo(1+2+3)

Dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Vip.vandan

Share by: Mộng Hoa Trang

Nội Dung: hide

Đỗ Văn Hạo lúc này biết tin Thẩm Thăng Bình vì mình mà đến làm Sư Gia, thì vui mừng không sao kể xiết, phải biết đây là vị Sư Gia mà sự khôn khéo lọc lõi đã được kiểm chứng qua hai kỳ Tể Tướng, chính vì vậy mà ta cũng thể hiểu được tại sao mà Đỗ Văn Hạo vui sướng đến như vậy. Sau khi đọc xong thư giới thiệu, Đỗ Văn Hạo liền ngay lập tức bước tới cúi người thi lễ: “Thẩm tiên sinh! Mời tiên sinh ngồi, tiên sinh đi đường xá xa xôi vất vả quá!”

Thẩm Thăng Bình thấy vậy cũng vội vã cúi người đáp lễ, rồi cũng ngồi xuống chỗ ở phía bên cạnh Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo thấy Thẩm Thăng Bình đã an tọa xong rồi liền chắp tay nói: “Những việc về tấu trình Hình Sự về sau, tất cả đều nhờ vào tiên sinh hết cả!”

Thẩm Thăng Bình thấy vậy cũng vội vã cúi người đáp lễ, ông ta mỉm cười nói: “Lão phu lúc này có một vấn đề muốn hỏi đại nhân, mong đại nhân suy nghĩ thật kỹ trước khi trả lời lão phu!”

Đỗ Văn Hạo hơi sững người một chút, không hiểu ông lão này muốn gì mà đột nhiên lại nói như vậy, nhưng chỉ một loáng sau hắn liền đáp: “Vâng! Mời tiên sinh cứ việc hỏi!”

Thẩm Thăng Bình vuốt vuốt chòm râu bạc của mình, sau đó hai mắt nheo nheo lại, ngắm nhìn Đỗ Văn Hạo một hồi rồi nói: “Đại nhân làm quan thì có những yêu cầu gì? Cái này cũng có nghĩa là, về sau đại nhân muốn lên chức làm Tể Tướng, hay là chỉ muốn an nhàn như hiện tại được tự do phiêu du khắp nơi? Hay là đại nhân đối với công việc làm quan của mình căn bản là không thèm để ý tới, có cũng được, không có cũng chẳng sao, chỉ một lòng một ý vào việc hành y của mình thôi!”

“Ba cái này có gì khác nhau không?” Đỗ Văn Hạo thắc mắc.

“Dĩ nhiên là có khác nhau rồi, hơn nữa còn khác nhau vô cùng lớn nữa là đằng khác, nếu như đại nhân chỉ vùi đầu chuyên tâm vào công việc y học, thì cái chức quan này làm cũng được, mà không làm cũng chẳng sao, lão phu thiết nghĩ đại nhân tốt nhân không nên đi theo con đường làm quan nữa, nếu không thì đại nhân cũng chẳng có nhiều tâm tư đến mức quan tâm đến cả hai thứ cùng một lúc được đâu, thậm chí có khi còn rước họa vào thân nữa! Nếu mà như vậy, thì đại nhân tốt nhất nên chuyên tâm vào ngành y, và trở thành một nhất đại danh y vĩ đại! Đại nhân làm vậy cũng vẫn có thể lưu danh muôn đời! Còn nếu như đại nhân vẫn muốn làm quan, và đồng ý với chức vụ hiện tại, không muốn trèo lên cao nữa, thì lão phu sẽ giúp đỡ toàn bộ công việc hiện tại của đại nhân là được rồi! Đại nhân khi ấy có thể ngồi mát ăn bát vàng, nếu cứ duy trì thế vững vàng như vậy, chỉ cần đủ thời gian thôi thì đại nhân cũng vẫn được thăng chức lên một hai cấp, nhưng chắc chắn không thể nào làm quan to được! Còn nếu đại nhân có trí hướng to lớn hơn nữa, như là muốn cứu dân cứu quốc, chữa trị toàn bộ những cái bất cập trên toàn quốc, làm cho binh hùng nước mạnh, vậy thì đại nhân phải bỏ ra rất nhiều công sức và xương máu!” Thẩm Thăng Bình chậm rãi giải thích.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền ngẫm nghĩ một lúc, rồi hỏi: “Ta hiện tại cũng đã làm quan rồi, chức lên đến tòng tứ phẩm Đề Hình Quan, nhưng vẫn cảm thấy làm đến chức này vẫn chưa vừa lòng với bản thân mình, vậy theo như ý tiên sinh, thì ta làm quan như thế nào mới là thích hợp?”

Thẩm Thăng Bình nghe xong liền vuốt vuốt bộ râu trắng như cước của mình rồi nói: “Theo như lão phu được biết thì đại nhân là một người có tiếng là nhân hậu, hết lòng vì dân vì nước, rất hiểu lòng người, cũng như rất chiều ý người khác, làm việc gì cũng không dứt khoát cho lắm!”

Đỗ Văn Hạo nghe Thẩm Thăng Bình nhận xét về bản thân mình như vậy liền cười khổ nói: “Đúng vậy đấy! Ta biết cái tính của ta như vậy thì không thích hợp làm quan cho lắm!”

“Đại nhân nói như vậy là sai rồi! Nếu như đại nhân có thể quan sát hết các bách quan trọng thần trong triều đình, thì đại nhân cũng không khó có thể nhận ra bọn họ cũng mỗi người một tính, không phải ai cũng là một con cáo già gian manh xảo quyệt! Trong đó cũng có rất nhiều người lương thiện, thương dân như con, chính vì vậy mà không bao giờ có chuyện tính cách đôn hậu không thích hợp làm quan như đại nhân vừa nói cả đâu! Chính vì vậy mà làm quan không liên quan đến tính cách của mình ra sao, mà ngược lại muốn làm quan ra sao thì mình phải biết lợi dụng tính cách của mình một cách thế nào cho thích hợp, che đậy những sở đoản và phát huy những sở trường của mình, biết nắm bắt tất cả những cơ hội trong tay của mình, như vậy mới là cái cốt lõi nhất!” Thẩm Thăng Bình mỉm cười giải thích.

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây thì cảm thấy vô cùng có hứng thú, hắn vui vẻ lên tiếng hỏi tiếp: “Ố! Nếu mà như vậy thì một anh chàng khù khờ như ta đây cũng có thể làm quan to được hay sao?”

“Dĩ nhiên là được rồi! Chỉ cần mình quyết tâm, có tâm làm thì cái gì mà chả làm được, cái quan trọng nhất đó chính là lý tưởng, cùng với ý nghĩ của mình ra sao, chính vì vậy mà lão phu mới lên tiếng hỏi đại nhân như vậy!” Thẩm Thăng Bình chậm rãi nói.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì bật cười khà khà nói: “Nói như tiên sinh thì, đến cả những người có tính cách như ta mà cũng có thể làm quan to, vậy thì làm sao ta có thể từ chối được cơ chứ!”

“Tốt lắm! Vậy đại nhân bây giờ đã đồng ý vì mục tiêu làm Tể Tướng mà phải hy sinh những thứ cần thiết chưa vậy?” Thẩm Thăng Binh nghiêm giọng hỏi.

“Muốn đạt được mục đích thì dĩ nhiên là phải trả giá rồi, cái này ta cũng biết, nhưng không biết là ta sẽ phải hy sinh những cái gì đây?” Đỗ Văn Hạo vui vẻ đáp lại.

“Hy sinh những cái ví dụ như thời gian chơi bời của đại nhân để đi phục vụ cho cấp trên của mình, sau đó là lấy mối quan hệ để tìm hiểu sâu thêm. Hoặc có thể là đại nhân phải hy sinh tiền bạc để tặng quà này nọ…v…v…Đại nhân cứ yên tâm, lão phu tuyệt đối không làm bất cứ thứ gì mà đi ngược lại với đạo đức làm người để được thăng quan tiến chức cả. Nhưng mà, nếu như đại nhân muốn làm một vị quan to, một vị quan có quyền thế, và quan trọng nhất là một vị quan tốt, thì đại nhân bắt buộc phải dùng đến một số thủ đoạn, âm mưu trong quan trường!”

“Ha ha! Tiên sinh trước thì giúp cho Văn Nghêm Bác, sau lại giúp cho Vương An Thạch, cả hai đều một bước lên mây, làm Tể Tướng trọng thần trong triều, dĩ nhiên là hiểu cách làm quan hơn ta rất nhiều, cái này thì mong tiên sinh vui lòng chỉ giúp cho ta!” Đỗ Văn Hạo cười nói.

Thẩm Thăng Bình thấy Đỗ Văn Hạo cũng không phải là hòn đá cứng đầu cứng cổ, nói cái là hắn hiểu, biết biến thông, chính vì vậy mà cũng lấy làm mừng, ông liền vui vẻ mỉm cười gật đầu chấp nhận. Sau đó, vì quan trường nguy hiểm nên ông liền hạ thấp giọng xuống cảnh tỉnh Đỗ Văn Hạo: “Con đường làm quan vô cùng gian nguy, hiểm trở, nếu làm tốt thì uy phong bát diện, nhưng làm không tốt thì sẽ mất chức, thậm chí còn bị mất mạng nữa! Muốn làm một vị quan tốt, một vị quan quyền thế, thì đại nhân bắt buộc phải thành tâm thành ý, một lòng một dạ theo đuổi đến cùng, quyết không được dở dang giữa dòng, gặp cấp trên thì phải cúi người kính trọng, gặp cấp dưới thì nên uy nghiêm đạo mạo. Đại nhân phải biết lúc nào là tặng quà, lúc nào là chèn ép, lúc nào thì phỉnh nịnh, lúc nào cần nghiêm túc, lúc nào phải lừa gạt và lúc nào cần uy hiếp. Gặp bất cứ việc gì đại nhân thốt ra những giáo điều đạo đức, đao to búa lớn thật ghê gớm, như vậy người ta mới thấy được đại nhân là con người có khí cốt, có hào khí! Nhưng không phải lúc nào cũng vậy, mà đại nhân phải biết lúc nào nên cứng, lúc nào nên mềm, làm việc phải chăm chỉ, cặn kẽ tỉ mỉ, biết lựa thời thế mà bắt gió. Đối với những kẻ không cùng chí hướng với mình, thì phải ra tay hạ thủ tàn nhẫn, triệt để. Không biết những thứ như vậy, đại nhân làm được mấy thứ?”

Đỗ Văn Hạo nghe những lời cảnh tỉnh của Thẩm Thăng Bình, thì cảm thấy lo lắng vô cùng, hắn chắp tay nói: “Nghe lão tiên sinh dậy dỗ như vậy, mà e rằng ta không thể làm được bất kỳ điều gì trong đó cả!”

“Làm được hay không tất cả đều do mình quyết định hết cả, có phải người nào sinh ra cũng đã biết làm quan hết cả đâu! Chỉ cần đem những lời cảnh tỉnh vừa rồi của lão phu nhớ kỹ như những nguyên tắc ở trong lòng, sau đó dựa theo đó mà vận dụng, đến lúc đó đại nhân sẽ phát hiện ra rằng, thực ra làm được những điều mà lão phu vừa nói không hề khó chút nào cả” Thẩm Thăng Bình chậm rãi nói.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền đứng thẳng người đi đến bên cửa sổ, dõi mắt ngắm nhìn sắc trời sâm sẩm ở bên ngoài, chắp tay về phía sau chầm chậm nói: “Hy sinh một chút thời gian và đồng tiền thì đúng là chẳng có gì đáng nói cả, nhưng mà bản thân ta cũng chẳng có yêu cầu hay theo đuổi gì cao sang, to tát cho lắm, chí hướng của ta cũng không to lớn, bản thân ta cũng chẳng muốn vì làm quan to mà phải luồn cúi, khép nép như vậy. Ta cũng không muốn đau đầu, suy nghĩ xem làm thế nào mới làm đẹp lòng cấp trên được. Thế nhưng, Hoàng Thượng đã cho ta làm chức Đề Hình Quan, ta không thể không hoàn thành tốt nhiệm vụ này được! Chính vì vậy mà câu hỏi khi nãy của tiên sinh, ta xin chọn loại thứ hai, đó chính là không tranh giành với bất kỳ một ai, làm trọn bổn phận của mình là được rồi!”

Câu trả lời này của Đỗ Văn Hạo dường như nằm trong sự trù liệu của Thẩm Thăng Bình, chính vì vậy mà ông ta cũng không hề kinh ngạc, mà chỉ mỉm cười chắp tay nói: “Nếu đại nhân đã có ý định như vậy, thì lão phu nguyện phụ giúp đại nhân lo bổn phận công việc một cách hết mình!”

“Vậy thì làm phiền tiên sinh nhiều quá, đa ta tiên sinh rất nhiều!” Đỗ Văn Hạo nói xong, ngẫm nghĩ giây lát rồi lại nói: “Hiện giờ, việc gấp rút trước mắt đó là muốn tiên sinh giúp cho ta hai việc. Việc thứ nhất là tiên sinh đệ đơn tấu trình lên triều đình, kiến nghị triều đình phê chuẩn thành lập chế độ tư cách hành y. Tất cả những người hành y, đều phải thông qua những cuộc sát hạch tư cách, sau khi có đủ tư cách rồi thì mới được hành y, nếu người nào hành y phi pháp thì lập tức bị xử lý theo luật!”

“Vâng! Vậy đại nhân đã định ra kế hoạch tiến hành kiểm tra tư cách hành y ra sao?” Thẩm Thăng Bình hỏi.

“Ví dụ như Y Quan trong triều phải tiến hành cuộc thi sát hạch phân ra làm Phương Mạch, Châm Khoa, Bệnh Khoa, những đề mục chủ yếu để kiểm tra bao gồm <Tố Vấn>, <Nạn Kinh>, <Chư Bệnh Nguyên Hầu Luận>, <Bổ Chu Bổn Thảo>, <Thiên Kim Yếu Phương>, cùng với các loại sách nghiên cứu khác, chỉ có người nào đủ điểm, thông qua kỳ thi này thì mới có tư cách hành y, chúng ta sẽ ban phát cho họ một cái bằng để làm chứng chỉ hành y. Còn những người không thông qua được kỳ kiểm tra này, chúng ta sẽ mở lớp bồi dưỡng, cho thi lại vào năm sau, tất cả bọn họ trong thời gian này dĩ nhiên là không được phép hành y!”

Thẩm Thăng Bình nghe xong ngẫm nghĩ một lúc, liền chắp tay nói: “Bẩm đại nhân! Lão phu thiết nghĩ bản tấu trình này phải suy nghĩ thêm một chút mới được!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cau mày nói: “Tại sao vậy?”

“Y giả hành y, từ cổ chí kim không có một thứ gì ràng buộc nó cả, ai biết chữa bệnh, thì chữa bệnh, tất cả đều là do dân chúng chấp nhận được, thì là được, có rất nhiều vị lang trung chưa từng đọc qua những điển tích về y học, thậm chí còn có những người một chữ bẻ đôi cũng không biết, tất cả bọn họ đều dựa vào những phương thuốc gia truyền, hoặc là chẳng may nắm được vị thuốc nào đó khi chữa bệnh là có những hiệu nghiệm không ngờ đến! Bọn họ chỉ cần dân chúng công nhận khả năng chữa bệnh của bọn họ, nếu như bây giờ đại nhân bắt bọn họ phải đi thi, e rằng bọn họ có rất nhiều người không vượt qua được, vả lại dân chúng chưa chắc gì đã đồng ý với cách làm này của đại nhân, e rằng đến lúc đó sẽ có biến loạn mất!” Thẩm Thăng Bình trầm ngâm phân tích.

“Vậy nhưng, có những tên lang băm hại người không biết đâu mà lần, chúng ta bắt buộc phải có những biện pháp để giải quyết vấn đề này mới được!” Đỗ Văn Hạo lắc đầu bất lực nói.

Thẩm Thăng Bình nghe vậy liền chắp tay nói: “Lão phu có một kế sách sách này, mong đại nhân cân nhắc!”

Đỗ Văn Hạo đáp: “Tiên sinh có gì xin cứ việc nói ra!”

“Đại nhân có thể đệ đơn tấu trình lên triều đình, tiến hành chế độ thi cử cho các vị y giả, còn việc thi cử như thế nào thì cứ việc làm theo những đường lối mà đại nhân đã vạch sẵn ra. Nhưng, đi thi là hoàn toàn tự nguyện, và chỉ công bố thông báo cho những người đã thông qua được kỳ thi, và sẽ ban phát bằng cấp cho bọn họ. Còn với những người chưa thông qua được kỳ thi thì bọn họ vẫn được phép hành y, nhưng về mặt đãi ngộ dĩ nhiên không thể nào sánh nổi với những người có bằng cấp được. Cứ như vậy, những người thông qua kỳ thi cầm được cái bằng cấp của triều đình trao cho, sẽ được quan phủ công nhận là người có y thuật cao siêu, cho họ hưởng nhiều bổng lộc và danh tiếng. Còn những người không thông qua, tuy họ vẫn hành y, nhưng ngày này qua ngày khác dân chúng chắc chắn sẽ chọn những người có danh tiếng, có bằng cấp hơn là bọn họ, như vậy nếu bọn họ không cố gắng đi thi lấy bằng, thì chẳng khác gì tự đào mồ chôn mình, theo lão phu nghĩ, cách này sẽ hữu hiệu hơn cả việc cưỡng chế người ta rất nhiều!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì tấm tắc khen ngợi nói: “Chính xác! Đúng là như vậy đấy, phương pháp này của tiên sinh quả nhiên là hay, vừa có thể làm cho việc hành y trở nên có quy phạm, lại vừa có thể tránh được những ảnh hưởng xấu. Quá hay! Vậy thì cứ làm theo như ý của tiên sinh, ngoài ra trong bản tấu trình cũng nên viết rõ ràng rằng, việc mua bán thuốc gây mê sẽ được quản lý chặt chẽ như việc bán thạch tín, phải thực hiện mua bán có giấy tờ đàng hoàng, để tránh khỏi bọn người xấu nhân thời cơ mà làm điều sằng bậy!”

“Vâng! Tuân lệnh đại nhân!” Thẩm Thăng Bình cúi người đáp: “Bẩm đại nhân! Lão phu lúc này vẫn còn một ý này nữa, mong đại nhân cân nhắc!”

“Mời tiên sinh cứ nói!” Đỗ Văn Hạo nói.

“Mong đại nhân ngay lập tức dừng ngay tất cả các hoạt động truyền thụ y thuật lại!” Thẩm Thăng Bình chậm rãi nói.

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây thì cảm thấy vô cùng kinh ngạc: “Tại sao lại như vậy? Hoàng Thượng mệnh lệnh cho ta tứ phương tầm y, giờ sao tiên sinh lại khuyên ta như vậy?”

Thẩm Thăng Bình lắc đầu mỉm cười nói: “Vậy xin hỏi đại nhân! Hoàng Thượng bây giờ cho đại nhân nhậm chức Các Lộ Hình Ngục rồi có đúng không?”

“Đúng vậy! Cũng chính vì chuyện này mà đến giờ ta vẫn chưa hiểu mấy chuyện về Hình Ngục rốt cuộc là sao, vì lẽ đó mà ta mới nhờ tiên sinh về giúp cho ta đấy!” Đỗ Văn Hạo phân bua nói.

Thẩm Thăng Bình thấy vậy liền nói: “Vậy xin hỏi đại nhân, Đề Hình Quan là chức quan mấy phẩm vậy?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì bất giác kinh ngạc, không biết nên trả lời ra sao, mặc dù hắn đã là quan tòng tứ phẩm, nhưng đối với chức quan trong triều đình thì đúng là cũng không chú ý gì nhiều cho lắm, chỉ một lòng một dạ đi chữa bệnh cho người. Bây giờ đột nhiên bị Thẩm Thăng Bình hỏi như vậy, thì cũng chỉ dựa trên chức danh lúc trước của mình, trả lời nói: “Chắc là tòng tứ phẩm đúng không?”

“Đại nhân sai rồi, Các Lộ Đề Hình Ti là Đề Hình Sử, chức quan lên đến chính tứ phẩm, hơn nữa bây giờ Các Lộ Hình Ngục được triều đình trực tiếp phái điểm thì chức vụ còn cao hơn nữa, là tính tam phẩm, còn có Phó Thủ là Phó Sử Lãnh Ti Sự, quan là chính tứ phẩm, bên dưới Đề Hình Ti lại không có mấy chức quan như Phán Quan, Tri Sự! Vậy xin hỏi đại nhân, triều đình đã chuẩn bị cho đại nhân một Tả Quan hay phó chức nào chưa?”

Lần này thì Đỗ Văn Hạo mới mắt chữ o mồm chữ a nói: “Chẳng có gì cả! Tiên sinh không nói thì ta thật sự còn không biết là có chuyện này nữa cơ!”

Thẩm Thăng Bình nghe vậy liền vuốt vuốt chòm râu của mình mỉm cười nói một cách thần bí: “Đây dĩ nhiên là không phải là do Hoàng Thượng sơ suất không để ý đến mà ra, theo như lão phu dự đoán, thì đây có lẽ là Hoàng Thượng đang muốn do thám đại nhân!”

“Hả? Do thám ta ư? Tại sao lại phải làm như vậy?” Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên nói.

“Bẩm đại nhân! Đại nhân có biết tại sao Hoàng Thượng lại bắt đại nhân đi tầm y không vậy?” Thẩm Thăng Bình hỏi lại.

“Là muốn ta đi khắp nơi truyền thụ y thuật cho mọi người” Đỗ Văn Hạo đáp.

“Không sai! Hoàng Thượng muốn đại nhân đi tầm y để chữa trị những bệnh nan y, trao đổi, trau dồi y thuật, từ đó mà tuyên truyền công đức to lớn của Hoàng Thượng! Vậy nhưng đại nhân tầm y lại không làm theo đúng ý chỉ của Hoàng Thượng!” Thẩm Thăng Bình giải thích.

“Không phải chứ? Ta làm như vậy là vì muốn có càng nhiều y giả học thêm được những kiến thức tiên tiến trong y thuật đấy chứ!” Đỗ Văn Hạo phân trần.

“Vậy những các đại thần trong triều liệu có nghĩ như đại nhân không vậy? Đại nhân đến nơi nào, là y như rằng treo bài chiêu nạp đồ đệ đến đấy, phải nói là náo nhiệt vô cùng, dân chúng nghe nói có một vị Đỗ Ngự Y đến truyền thụ y thuật, chỉ cần bỏ tiền ra là có thể học được y thuật vô cùng cao siêu! Ai nhắc đến Đỗ Ngự Y cũng phải tấm tắc khen ngợi không ngớt lời. Đại nhân lẽ nào không biết rằng Hoàng Thượng kiêng kỵ nhất chính là điều này hay sao?” Thẩm Thăng Bình nói.

Đỗ Văn Hạo lấy làm rất khó hiểu: “Ta chiêu nạp môn đồ, truyền bá y thuật lẽ nào lại là không tốt hay sao?”

“Tuyên truyền y thuật thì dĩ nhiên là tốt rồi! Nhưng nó lại không đơn giản như đại nhân vẫn nghĩ đâu! Đại nhân có biết là, trong thời gian gần đây mấy vị quan trong triều đình tấu trình lên Hoàng Thượng, nói đại nhân là người thế nào không?” Thẩm Thăng Bình trầm ngâm nói.

“Đúng là cái bọn dở hơi, ăn không ngồi rồi, bọn chúng ăn no rồi nên muốn giở trò hay sao? Ta chẳng làm gì cũng phải tìm cớ để hại ta, lẽ nào bọn chúng quy kết tội ta là tạo thanh thế để lấy lòng Hoàng Thượng?” Đỗ Văn Hạo tức giận nói.

“Ha ha! Tạo thanh thế để lấy lòng Hoàng Thượng chẳng đáng là gì cả, cùng lắm là bị người ta khinh ghét mà thôi!” Thẩm Thăng Bình mỉm cười đáp.

“Hay là bọn chúng lại nói là ta là đồ cơ hội, hám lợi, nhân cơ hội này kiếm tiền bỏ túi riêng?” Đỗ Văn Hạo vẫn không kiềm chế nổi sự tức giận trong lòng.

Thẩm Thăng Bình mỉm cười đáp: “Truyền thụ tuyệt kỹ cho người, thì dĩ nhiên phải nhận tiền thu phí rồi, đó là lẽ đương nhiên, cho dù bọn họ có người ghen tị đại nhân kiếm nhiều tiền đến đỏ cả mắt, nhưng nói cho cùng thì đại nhân kiếm tiền một cách quang minh chính đại, bọn họ cũng chẳng có lý do gì để mà trách cứ đại nhân được cả!”

“Trừ hai cái chuyện này ra thì bọn họ còn nói ta cái gì được nữa cơ chứ?” Đỗ Văn Hạo căm hận nói: “Lẽ nào bọn chúng nói là ta có ý tạo phản hay sao hả?”

Thẩm Thăng Bình nghe xong liền thở dài một cái rồi nói: “Nếu như đại nhân mà đoán trước được kết quả này, thì có lẽ đại nhân cũng đã không dám hành động như ngày hôm nay rồi!”

Đỗ Văn Hạo tức giận đập bàn đánh bốp, đứng thẳng người dậy quát: “Đúng là bọn chúng nói ta tạo phản hay sao hả! Ta chỉ mở lớp giảng dạy, tuyên truyền y thuật, làm gì có liên quan đến chuyện tạo phản cơ chứ? Hai cái chuyện này có dây mơ rễ má gì với nhau cơ chứ, bọn chúng đúng là có trí tưởng tượng phong phú quá rồi đấy!”

Thẩm Thăng Bình mỉm cười nói: “Nếu là người khác, thì dĩ nhiên bọn chúng sẽ không có trí tưởng tượng phong phú như vậy rồi, nhưng đối với đại nhân thì lại khác, bọn họ nghĩ về đại nhân như vậy, thì chẳng có gì là lạ cả!”

“Ý của tiên sinh nói như vậy là có nghĩa gì?” Đỗ Văn Hạo thắc mắc.

“Xin hỏi đại nhân, cái chức Đề Hình quan này của đại nhân từ đâu mà đến vậy?” Thẩm Thăng Bình hỏi lại.

“Chức này là do ta bắt được mấy tên đầu não, cốt cán trong Bạch Y Giáo, nên Hoàng Thượng mới phong cho ta chức Các Lộ Hình Ngục!” Đỗ Văn Hạo đáp.

“Vậy nhưng, lão phu nghe nói, trong triều có không ít người tấu trình lên nói rằng, đại nhân đã từng ra tay chữa trị cho Bạch Y Giáo Chủ Tĩnh Từ Sư Thái, và còn được bọn chúng dựng bia công đức riêng, chính vì vậy mà đại nhân chắc chắn là có liên quan đến Bạch Y Giáp, thậm chí còn bị nghi là chỉ huy đầu não của Bạch Y Giáo nữa. Hoàng Thượng vốn lúc đầu cũng đã định hạ lệnh xuống bắt đại nhân đưa về trị tội, nhưng sau đó thấy đại nhân lập được công này, Hoàng Thượng lập tức cho gọi mấy tên Bổ Khoái đi đưa đại nhân về, tiếp đó còn phong cho đại nhân chức Các Lộ Hình Ngục, nhưng lại không phong chức phẩm cho đại nhân, cũng chẳng chuẩn bị cho đại nhân Tả Quan nào để phục vụ!” Nói đến đây, Thẩm Thăng Bình ghé sát mặt đến cạnh Đỗ Văn Hạo, giọng thấp hẳn xuống nói: “Theo như phán đoán của lão phu, thì đây là do Hoàng Thượng đang hoài nghi đại nhân làm phản đó!”

“Tại sao? Tại sao lại nghi ta làm phản cơ chứ?” Đỗ Văn Hạo sửng sốt.

“Đúng vậy! Đề Hình Quan là một chức quan có chức quyền rất lớn, một khi lạm dụng chức quyền, thì hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng, chính vì vậy mà Hoàng Thượng phong cho đại nhân chức quan này, nhưng lại không chuẩn bị cho đại nhân vị Tả Quan nào phục vụ cho đại nhân cả. Đại nhân lúc đầu không phát giác ra được việc này, nên cứ mở lớp dạy học y thuật, khuếch đại tầm ảnh hưởng của mình lên. Chính vì vậy mà Hoàng Thượng lại càng nghi ngờ đại nhân có còn quan hệ với Bạch Y Giáo. Nếu đại nhân lúc này mà không lập tức ngừng ngay cái kiểu truyền thụ y học của mình, thì e rằng sớm muộn cũng bị Hoàng Thượng sờ đến gáy, bởi vì hành động bây giờ của đại nhân quá ư là làm người khác phải chú ý đến. Lão phu trước khi đến đây, đã nghe nói có người dâng sớ tấu trình lên với Hoàng Thượng, nói đại nhân lợi dụng việc tầm y, khuếch trương thế lực của mình, hành động của đại nhân rất giống với Bạch Y Giáo, hành động này chẳng khác nào mua chuộc lòng dân, một khi cần tạo phản, thì chỉ cần vẫy tay một cái là dân chúng đi theo rầm rầm! Hậu quả vô cùng nghiêm trọng!” Thẩm Thăng Bình nghiêm giọng nói.

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây thì dở khóc dở cười, không biết nên làm thế nào: “Đến cả việc ta đi truyền thụ y thuật mà cũng bị coi là sai, thế này thì thật đúng là chẳng còn đạo lý nào nữa!”

Thẩm Thăng Bình thấy vậy liền lên tiếng an ủi nói: “Cong đường làm quan nó là như vậy, chèn ép người khác để dẫm đạp mà lên là chuyện thường tình, nhưng đại nhân không cần phải lo lắng quá như vậy, bây giờ sửa chữa vẫn còn kịp!”

“Sửa chữa thế nào đây?” Đỗ Văn Hạo ủ rũ, nói với giọng vô cùng thiểu não.

“Bắt đầu từ bây giờ, đại nhân vẫn có thể hội chẩn trao đổi với các y giả về y thuật, chuyện mua bán thuốc gây mê vẫn cứ như vậy mà tiến hành. Vậy nhưng, xin đại nhân dừng ngay cái hoạt động chiêu nạp môn đồ, dạy cho bọn họ y thuật lại ngay lập tức. Bồi dưỡng, huấn luyện lớp bà đỡ đẻ thì cũng được, nhưng quy mô không cần to đến mức như vậy, chúng ta phải thu hẹp phạm vi lại, phải cẩn trọng tiến hành!” Thẩm Thăng Bình nói.

“Được rồi, ta sẽ làm theo ý của tiên sinh! Tuy mở lớp bồi dưỡng huấn luyện kiếm được nhiều tiền, nhưng cũng rất mệt, bây giờ lại bị triều đình bắt thóp nữa, thôi thì bỏ quách đi cho xong!” Đỗ Văn Hạo thở dài nói.

“Đúng là như vậy đấy! Hoàng Thượng đã có ấn tượng rất sâu sắc về y thuật của đại nhân rồi, Hoàng Thượng cho đại nhân nhậm chức Đề Hình chính là xem trọng khả năng phá án của đại nhân, nhưng giữa hai việc tầm y và Đề Điểm Hình Ngục thì đại nhân nên phân biệt cho rõ ràng. Thiết nghĩ đại nhân nên chú ý làm Đề Hình quan, sau đó mới đến tầm y, chỉ cần tập trung vào những căn bệnh nan y, và những bệnh phẫu thuật của đại nhân là được rồi, không cần phải bệnh gì cũng lo!” Thẩm Thăng Bình nói.

“Được! Cái này ta sẽ nghe theo lời tiên sinh chỉ dậy!” Đỗ Văn Hạo đáp.

“Chuyện dâng tấu trình lên triều đình, đại nhân không cần phải quan tâm! Lão phu sẽ tấu trình lên thay cho đại nhân đúng thời gian!” Thẩm Thăng Bình híp hai mắt lại nói.

“Được! Nghe nói bản tấu trình này vô cùng quan trọng, tất cả đều trong mong vào hết tiên sinh cả đó!” Đỗ Văn Hạo chắp tay giơ lên, giọng đầy cảm kích nói.

“Việc này xin đại nhân cứ yên tâm mà giao phó cho lão phu!” Thẩm Thăng Bình đáp.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn gật gật đầu nói: “Ngày trước cái chức quan Đề Điểm Hình Ngục ta cũng chỉ làm qua loa đại khái cho xong chuyện, đưa mấy cái đề mục ra xem một lúc, cũng chẳng thấy có vấn đề gì cả. Bây giờ tiên sinh đến đây rồi, thì ta cũng yên tâm rất nhiều! Chúng ta bắt đầu từ Tĩnh Giang Phủ, Nhạc Bình Huyện bắt đầu nhé!”

“Vâng thưa đại nhân!” Thẩm Thăng Bình đáp.

Đỗ Văn Hạo liền bảo Bàng Vũ Cầm gọi hết mọi người lại đây, sau đó giới thiệu Thẩm Thăng Bình cho mọi người biết, tiếp sau đó hắn lại gọi Liêu Tri Phủ và Trương Thiên Ninh lại, giới thiệu cho hai người biết vị Sư Gia mới của mình. Hai người liền cho người đem hết các hình án điều tra của các huyện trong vòng hai năm đổ lại đây mang đến đây.

Có Thẩm Thăng Bình, công việc của Đỗ Văn Hạo bỗng nhiên nhẹ nhàng đi rất là nhiều, do Dương Đê phong cảnh hữu tình, nên hắn quyết định ở lại đây thêm mấy ngày nữa.

Ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo đưa mấy người vợ của hắn cùng với Kha Nghiêu ra ngoài dã ngoại, Liêu Tri Phủ và Trương Tri Huyện cũng đi theo cùng bọn họ. Riêng Thẩm Thăng Bình thì ngồi ở nhà điều tra giấy tờ, ngày hôm nay tất cả đều vui chơi rất vui vẻ và thoải mái, cho đến tận chiều tối bọn họ mới quay về nơi ở.

Thẩm Thăng Bình sau khi thấy Đỗ Văn Hạo về đến nơi liền đem cả một xấp tài liệu dâng lên cho hắn xem, sau đó vuốt vuốt râu nói: “Bẩm đại nhân! Đây là những vụ án có mấy vấn đề còn tồn tại nhiều nghi vấn, có những tội là nhẹ thì lại phạt nặng, có tội nặng thì lại phạt nhẹ, hoặc là xử phạt không được thích đáng! Lão phu cũng đã đưa ra những đối sách ứng phó rồi, mong đại nhân định đoạt!”

Đỗ Văn Hạo cầm lấy chập tài liệu rồi giở ra xem, hắn thấy trong này Thẩm Sư Gia của hắn cũng đã có những lời bình, phê duyệt vô cùng ngắn gọn và súc tích, ăn nhập vào vấn đề, phía sau còn kèm theo những quy định có liên quan đến các bộ luật hình sự của nhà Tống, làm cho người đọc chỉ cần nhìn thôi là đã hiểu ngay vấn đề. Sau khi xem xong, Đỗ Văn Hạo thấy những vấn đề mà Thẩm Sư Gia đưa ra, cùng với cách giải quyết vô cùng hợp lý, hắn liền gật gù khen ngợi: “Rất tốt! Chờ chút nữa cho gọi Tri Phủ và Tri Huyện đến, cho bọn họ xét xử lại những vụ án này, sau đó đưa ra sửa đổi, lấy kết quả báo lại cho ta biết là ổn rồi!”

“Vâng! Thưa đại nhân!” Thẩm Sư Gia nói xong lại đưa cho Đỗ Văn Hạo một tập sách khác: “Đại nhân! Trong này có một vụ án có liên quan đến những vị thầy thuốc chẳng may chữa bệnh hại người, lão phu không thấu hiểu gì nhiều về y đạo cho lắm, nên không biết phê duyệt có thỏa đáng hay không, mong đại nhân xem xét!”

Đỗ Văn Hạo cầm lấy tập tài liệu, cẩn thận xem một hồi, bản án này là bản án sơ thẩm của Nhạc Bình Huyện, vì đã phán quyết xong rồi, nên nó được đưa lên Tĩnh Giang Phủ sát hạch lại cho chính xác.

Bản án này cũng khá đơn giản, cụ thể như sau. Trong bản án có một người phụ nữ bị mắc bệnh, khí nghịch, đêm ngủ không được, ho ra nhiều đờm, họng khô rát, thần trí hoảng loạn, nói năng lung tung, người khác nói gì cũng không nghe thấy, người này đến cầu y ở một y quản của một đại phu họ Tạ. Tạ đại phu kê đơn chữa trị được một thời gian, nhưng người phụ nữ này bệnh tình không những không thuyên giảm, mà ngày càng trở nên trầm trọng, và sau đó là tứ chi co giật đến chết.

Người phụ nữ là con nhà của một địa chủ giàu có của nơi ấy, vì thế mà Tạ đại nhân vì chữa bệnh cho người mà lại bị người ta kiện lên quan phủ, ở trên công đường vị Tạ đại phu này cũng không giải thích nổi tại sao phương thuốc của ông ta không những không trị được bệnh, mà lại còn gây ra cái chết cho người khác. Trương Tri Huyện cho rằng ông ta kê thuốc bừa bãi, không kiểm tra tình hình một cách tỉ mỉ nên mới kê nhầm phương thuốc, dẫn đến cái chết cho người bệnh, vì thế mà Tạ đại phu bị kết tội là vô tình gây thương tích cho người khác, phạt trượng mười lăm cái, đi đầy năm năm, bồi thường người nhà nạn nhân hai mươi lạng bạc.

Bản án này được viết rất là đơn giản, quyển cuộn cũng khá mỏng, ghi chép của cuộc thẩm vấn cũng sơ sài, cộng thêm người ghi chép cũng không hiểu gì về y học, nhiều câu hỏi không hiểu đầu đũa, chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo mặc dù xem đi xem lại mấy lần mà vẫn không hiểu ra sao cả.

Đỗ Văn Hạo thắc mắc lên tiếng hỏi: “Tiên sinh cảm thấy bản án này có điều gì không phải không?”

Thẩm Thăng Bình liền đáp: “<Tống Hình Thống> (Tương đương với bộ luật hình sự đời nhà Tống) có viết: ‘Những y gia dùng thuốc, châm cứu sai lầm, hoặc bừa bãi dẫn đến chết người, thì bị đi đầy hai năm rưỡi’ Vụ án này đã nhận định rằng Tạ đại phu là thuộc vào phạm trù vô tình gây thương tích cho người khác, nhưng khi xử phạt thì lại không làm theo pháp đã định là đi đầy hai năm rưỡi. Cái cốt lõi chính là Tạ đại phu là chữa bệnh dẫn đến chết người, thuộc vào điều khoản dùng thuốc sai lầm dẫn đến chết người. Nhưng trong vụ án này, thì người bệnh mắc bệnh gì không đề cập tới, Tạ đại phu kê đơn thuốc nào cũng không nhắc tới, chình vì vậy mà lão phu thấy rằng kết tội Tạ đại phu như vậy cũng không thấy có gì thỏa đáng cho lắm. Do vậy mà lão phu mới đưa bản án này lên cho đại nhân phê duyệt!”

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 363 Chứng Hư Nhiệt(1+2)

Dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Vip.vandan

Share by: Mộng Hoa Trang

Nội Dung: hide

Đỗ Văn Hạo nghe Thẩm Thăng Bình nói vậy liền trầm ngâm giây lát, sau đó hắn liền cho người đi gọi Trương Tri Huyện đến, sau đó đem những nghi ngờ của mình về bản án thuật lại một hồi cho Trương Tri Huyện nghe, xong đâu đấy rồi Đỗ Văn Hạo liền lên tiếng hỏi: “Phạm nhân bây giờ đang ở đâu?”

Trương Tri Huyện vội vã lên tiếng trả lời: “Hồi bẩm đại nhân, phạm nhân giờ này vẫn ở trong nhà lao của huyện, vẫn chưa kịp đưa đi đầy!”

“Vậy mau mau cho người đến đó đưa phạm nhân đến đây ngay. để bổn quan điều tra lại bản án này!” Đỗ Văn Hạo nghiêm giọng nói.

“Vâng thưa đại nhân!” Trương Tri Huyện nói xong lại chần chừ một lúc, sau đó lén lút đưa mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo một cái rồi nói: “Thưa đại nhân! Lẽ nào bản án này có vấn đề gì hay sao?”

Đỗ Văn Hạo nghiêm nét mặt, lườm Trương Tri Huyện một cái rồi nói: “Sao vậy? Bổn quan là Đề Điểm Hình Ngục, lẽ nào ngươi thấy ta có vấn đề gì hay sao hả?”

Trương Tri Huyện thấy vậy sợ hãi, dơ hai tay lên phân bua nói: “Dạ…dạ…..không…không dám ạ! Đề Hình đại nhân muốn rà xoát lại những gì còn nghi vấn trong các bản án đều là chức trách của đại nhân hết đó ạ! Tất cả các bản án đều có thể điều tra lại hết, tất cả đều phụ thuộc vào đại nhân cả! Hạ quan nào dám cả gan có vấn đề gì đâu ạ! Nhưng chỉ vì vụ án này….”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cau mày lại nói: “Vụ án này thì làm sao hả?”

“Vụ án này đã được Tri Phủ đại nhân điều tra lại hết một lượt rồi ạ” Trương Tri Huyện nói với giọng run rấy.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì cười nhạt nói: “Vậy theo ý của Tri Huyện đại nhân là những bản án có lỗi lầm gì, thì đều không có liên quan gì huyện của đại nhân, phải vậy không?”

“Dạ…dạ….không..không dám ạ!” Trương Tri Huyện khua tay múa chân loạn lên, chòm râu bạc của ông ta theo đó mà run lên bần bật: “Hạ quan không dám! Hạ quan không dám! Hạ quan bây giờ sẽ cho người đi đưa phạm nhân về đây cho đại nhân, mong đại nhân chờ hạ quan trong chốc lát!”

Nói xong, Trương Tri Huyện liền cúi người lui lại mấy bước, sau đó mới dám quay người bước ra ngoài, ông ta lén lút lau đi những giọt mồ hôi lạnh chảy ra trên trán, vội vội vàng vàng chạy đi kêu người áp giải phạm nhân lên đây.

Khoảng cách từ Nhạc Bình Huyện đến nơi này cũng không phải là xa lắm, cộng thêm việc Trương Tri Huyện vội vàng lo sợ, nên không lâu sau, ông ta đã quay lại, bước vào trong phòng khách của Đỗ Văn Hạo, cúi người bẩm báo: “Bẩm Đề Hình đại nhân! Phạm nhân đã được áp giải đến rồi ạ!”

“Đưa vào trong này!” Đỗ Văn Hạo ra lệnh.

Lúc này ba tên cai ngục liền áp giải một tên tội phạm vào bên trong phòng, phạm nhân Tạ đại phu đã được biết tin là Đề Hình đại nhân lúc này muốn xét xử lại vụ án của mình, nên khi mới vừa vào bên trong thì thấy Đỗ Văn Hạo ngồi ngay chính giữa, bên cạnh là Trương Tri Huyện đang đứng thẳng người chờ đợi, thì cũng đoán ra được vị Đề Hình Quan tuy rằng có trẻ hơn những gì ông tưởng tượng, nhưng dù sao cũng là quan, nên Tạ đại phu vội vàng cúi đầu thi lễ.

Đỗ Văn Hạo chầm chậm nói: “Ở thôn tây, cô nương nhà họ Vương là do ngươi chữa trị gây ra tử vong phải không?”

“Dạ bẩm đại nhân! Đúng vậy, à không, không đúng ạ!” Tạ đại phu dập đầu nói: “Cho dù tiểu nhân là người chữa trị, nhưng tiểu nhân không cố tình gây ra cái chết cho người bệnh!”

“Trong bản án xét xử cũng không có nói đến là do ngươi cố ý hại chết người ta, nếu không thì cái tội của ngươi đã không phải là vô ý làm tổn thương người khác, mà đã là cố ý giết người rồi! Tội này là đáng bị chém đầu đó!” Đỗ Văn Hạo nghiêm giọng nói.

“Vâng! Vâng! Nhưng mà, thưa đại nhân! Tiểu nhân đúng là oan ức lắm! Vương cô nương bệnh tình nghiêm trọng, còn tiểu nhân thì tài hèn sức mọn, lúc đó tiểu nhân cũng nói với Vương lão thái gia rằng tiểu nhân e rằng không chữa trị nổi cho Vương cô nương, nhưng vì trước đó Vương lão thái gia nói rằng cũng đã tìm hai vị đại phu chữa trị nhưng không khỏi, nghe nói tay nghề của tiểu nhân cũng được, nên cứ ép buộc tiểu nhân chữa trị cho Vương cô nương! Tiểu nhân cũng đành cố gắng hết sức ra để mà chữa trị, nhưng ai ngờ kết quả lại như thế này! Tiểu nhân đúng là oan ức quá!” Tạ đại phu một mực thanh minh cho bản thân của mình.

“Người ta ép ngươi chữa trị ư? Ha ha! Lẽ nào Vương đại lão gia cầm gậy đánh ngươi, hay là dùng dây trói ngươi vào hả?” Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói.

“Cái này…cái này thì đúng thật là không có, nhưng ông ta nước mắt ngắn nước mắt dài nói là tiểu nhân nếu như không chịu chữa trị cho con gái của ông ta, thì con gái của ông ta sẽ chết mất! Ông ta còn bắt thê thiếp của ông ấy quỳ hết xuống cầu xin tiểu nhân, sau đó lại cầm một túi tiền để tạ ơn!” Tạ đại phu phân bua nói.

“Ố! Vậy thì hóa ra là do ngươi hám tiền nên không biết tự lượng sức mình, mà đi chữa trị cho người ta, rồi hại cả tính mạng của người ta hả?” Đỗ Văn Hạo chế nhạo nói.

Tạ đại phu nghe vậy thì khóc lên oan ức nói: “Đúng là tiểu nhân đã quá tham khi nhận tiền! Nhưng Vương cô nương lúc đó bệnh tình đã vô cùng nghiêm trọng rồi, tiểu nhân nói rằng bệnh của cô ấy chưa chắc đã chữa khỏi được, nếu như chữa không khỏi cũng đừng trách tiểu nhân! Vương lão thái gia cũng đồng ý với tiểu nhân rồi, nhưng không ngờ Vương cô nương lại chết thật! Thế là bọn họ trói gô tiểu nhân lại, bắt đem lên quan, tiểu nhân oan ức quá thưa đại nhân!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cười lạnh nói: “Ngươi đừng có mà kêu oan ức như vậy vội! Bổn quan hỏi ngươi, các triệu chứng bệnh tật của Vương cô nương, ngươi vẫn còn nhớ chứ hả?

“Dạ! Vẫn còn nhớ ạ!” Tạ đại phu đáp.

“Vậy ngươi nói ra cho ta nghe xem nào!” Đỗ Văn Hạo ra lệnh.

“Tiền y chữa trị cho Vương cô nương là Lý đại phu ở thôn đông, theo như ông ta nói thì khi mới chẩn đoán bệnh thì mạch nhỏ, có lúc lại rất loạn, khí nghịch mà khó ngủ, ho ra đờm, ngũ tâm khô rát và biện chứng là Nhiệt Chứng, điều trị bằng Đạm Hoàng Giới, Vỏ Đậu Xanh, Cam Thảo Sao, Kim Ngân Hoa, Liên Kiều, Hoạch Đáp cùng với các vị thuốc mát, hạ nhiệt khác. Khi Vương cô nương dùng hai thang thuốc thì các triệu chứng không có dấu hiệu thuyên giảm, mà ngược lại làm cho đau đầu, ho nặng hơn. Sau đó Vương cô nương liền đổi sang Hàn đại phu ở thôn tây chữa trị, và ông ta vẫn đoán là do Nhiệt Chứng, rồi nói liều lượng của Lý đại phu không đủ, nên cho thêm lượng. Vương cô nương dùng thêm hai thang thuốc nữa, thì bệnh tình không những không có tiến triển, mà ngược lại còn làm cho cô ấy nôn ọe, hôn mê bất tỉnh. Chính vì vậy mà Vương lão thái gia mới cho người đi mời tiểu nhân đến chữa trị.” Tạ đại phu tường trình lại toàn bộ quá trình.

Đỗ Văn Hạo cũng ngồi nghe rất chăm chú, không hề có ý cắt ngang ông ta một chút nào cả.

Tạ đại phu lúc này thần sắc ưu sầu, ảo não nói: “Khi tiểu nhân vừa đến nơi, thì sau một hồi kiểm tra kỹ lưỡng cũng cho rằng thân thể của Vương cô nương là Âm Hư, Âm Hư thì dẫn đến Nhiệt, chính vì vậy mà tiểu nhân biện chứng là Hư Nhiệt Chứng. Sau khi dùng thuốc thì Vương cô nương toàn thân run bần bật, môi thì tím ngắt lại, mặt trắng như phấn, tiếp sau đó là thần trí bất tỉnh, Dương Khí liên tục thoát ra ngoài. Tiểu nhân sợ quá vội vã giúp Vương cô nương hồi dương, nhưng không ngờ mọi thứ đã quá muộn, Vương cô nương tắt thở luôn sau đó!”

Đỗ Văn Hạo lại vặn hỏi cặn kẽ các triệu chứng và cách dùng thuốc cùng với phối thuốc thêm một lần nữa, hắn suy nghĩ một hồi lâu, rồi lắc lắc đầu cho người áp giải Tạ đại phu đi tiếp tục giam cầm, thạm thời không đưa ông ta đi đầy vội.

Sau khi Tạ đại phu được áp giải đi rồi, Thẩm sư gia mới quay sang hỏi Đỗ Văn Hạo: “Bẩm đại nhân! Vụ án này đại nhân đã có những đầu mối nào chưa vậy?”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu cười khổ nói: “Vụ án này đúng là có rất nhiều nghi vấn, kỳ quặc! Nếu như ta chỉ cần nghe mà đã hiểu hết được sự việc, thì chắc ta đã là thần tiên rồi mất! Vụ án này ta vẫn còn phải điều tra cặn kẽ thêm nữa, chờ khi điều tra xong rồi, thì mới biết được vấn đề rốt cuộc là ở đâu!”

“Ố! Vậy thì bây giờ chúng ta phải làm sao đây?” Thẩm Thăng Bình hỏi.

“Cho người đi gọi Trương Tri Huyện đến đây ngay, để ông ta phái người đi mời hai vị đại phu là Lý đại phu, và Hàn đại phu cùng với người nhà họ Vương tất cả đều mời đến đây, ta muốn điều tra từng người một!” Đỗ Văn Hạo nói.

Đúng lúc này, thì trời bỗng nhiên mưa rơi lất phất, Trương Thiên Ninh lúc này khúm núm đứng bên cạnh Liêu Quý Binh, thấp giọng thuật lại toàn bộ câu chuyện Đỗ Văn Hạo điều tra lại bản án cho Liêu Quý Binh nghe một hồi.

Nét mặt của Liêu Quý Binh lúc này không hề có một biểu lộ tình cảm nào cả, hai tay ông chắp ra đằng sau lưng, trong long bàn tay của ông cầm hai viên đá tròn bóng màu đen không ngừng vân đi vê lại. Liêu Quý Binh bây giờ đứng nghiêm trông như một bức tượng sừng sững ở bên đường, ông ngước mắt lên nhìn ngọn núi thấp thoáng nơi xa, mắt của ông thậm chí còn không chớp lấy một cái.

Trương Thiên Ninh trông thấy Liêu Quý Binh lúc này như một bức tượng phật bằng đá, ông không dám lên tiếng nói thêm bất kỳ câu nào nữa, chỉ im lặng đứng cạnh đó mà chờ đợi.

Không lâu sau, Liêu Quý Binh mới chậm rãi nói: “Bổn quan vừa suy nghĩ kỹ càng rồi, bản án này không có bất kỳ một vấn đề nào cả! Nếu Đỗ đại nhân muốn tra xét lại, thì cứ để ông ta đi tra xét, chẳng có gì phải sợ cả!”

Trương Thiên Ninh lúc này mới bước lên trước, hạ thấp giọng nói của mình xuống: “Hạ quan không hề lo lắng bản thân cái vụ án này! Cái gã họ Tạ kia có thả ra ngoài cũng chẳng sao cả, hạ quan chỉ lo cái nhà họ Vương kia thôi!”

Liêu Quý Binh khi nghe thấy Trương Thiên Ninh nói vậy, thân hình của ông bất giác rung động, khẽ gật đầu nói: “Ừm! Đúng vậy!”

Trương Thiên Ninh thấy Liêu Quý Binh có thần sắc như vậy, thì biết ngay câu nói của mình cũng đã trúng ý với cấp trên, nên vội vàng nói tiếp: “Đề Hình đại nhân nếu muốn tra xét lại vụ án này, chắc chắn sẽ cho người gọi Vương gia đến thẩm vấn, chi bằng…!”

Liêu Quý Binh liền nhẹ nhàng nói: “Chúng ta đúng là phải phòng ngừa trước tất cả mọi điều có thể xảy ra!”

Trương Thiên Ninh ngay lập tức hiểu ngay ý của Liêu Quý Binh, ông liền cúi người nói: “Hạ quan đã hiểu rồi!” Ngập ngừng một chút, Trương Thiên Ninh lại nói tiếp: “Liêu đại nhân! Theo như hạ quan được biết thì Đề Hình đại nhân suốt ngày quây quần bên mấy cô gái đẹp, bên cạnh ông ta luôn luôn có các người đẹp phục vụ, ai cũng có nét riêng của mình, hơn nữa bốn vị phu nhân của ông ta ai cũng còn rất trẻ, hay là chúng ta cũng tác thành thêm cho ông ta, tìm thêm mấy người con gái đẹp nữa dâng lên cho ông ta! Hạ quan chắc rằng, chỉ cần có thêm mấy cô gái đẹp nữa thôi là Đề Hình đại nhân chắc chắn sẽ vui lòng thôi!”

“Không được!” Liêu Quý Binh chậm rãi nói: “Bổn quan cho rằng, vị Đề Hình đại nhân này, chắc là ở trong cung lâu ngày quá đâm chán cảnh ở trong cung, thích ở ngoài du ngoạn một chuyến! Theo như ta thấy tình hình mấy ngày hôm nay, thì ông ta là một người không hề đơn giản chút nào, chúng ta không nên manh động!”

Trương Thiên Ninh nghe vậy thì cười khan lên đáp: “Dạ vâng, nghe đại nhân hết!”

Hai người đang đứng bàn tán với nhau, thì từ xa đã trông thấy Thẩm sư gia của Đỗ Văn Hạo đi ra ngoài, hai người thấy vậy vội vã bước đến cúi người thi lễ nói: “Sư gia có điều gì phân phó hay sao?”

“Đề Hình đại nhân có lệnh mời hai vị đại nhân đưa hai vị đại phu là Lý đại phu ở thôn đông, và Hàn đại phu ở thôn tây cùng với khổ chủ là Vương gia tất cả cho gọi hết đến đây! Đề Hình đại nhân có lời muốn nói với bọn họ!” Thẩm Thăng Bình cúi người đáp lại.

Liêu Quý Binh nghe vậy liền đưa mắt sang nhìn Trương Thiên Ninh nói: “Tri Huyện đại nhân! Còn không mau đi mời người ta đến đây mau đi!”

Trương Thiên Ninh nghe vậy liền cười khổ, xua xua tay nói: “Ài! Thật là đen đủi quá! Vụ án mạng của Vương cô nương sau khi xảy ra, thì hai vị đại phu kia sợ bị quy trách nhiệm, nên đã bỏ trốn khỏi làng, không biết tông tích ở đâu nữa! Thiên kim tiểu thư của nhà họ Vương sau khi mất, thì gia đình họ cũng không còn tâm trí đâu mà ở lại cái nơi thương tâm, đau lòng này nữa! Họ đã bán hết tất cả ruộng vườn, nhà cửa đi nơi khác rồi, nghe nói bọn họ muốn về quê tổ của họ tại Kinh Tây, còn cụ thể ở đâ thì bổn quan cũng không biết nữa!”

Thẩm sư gia nghe xong thì sững người kinh ngạc, ông gật gật đầu nói: “Ồ! Thật đúng là không may một chút nào cả! Vậy bây giờ lão phu quay về bẩm báo lại cho Đề Hình đại nhân biết mới được! Không ngờ vụ án này lại không thể điều tra cặn kẽ thêm được nữa!”

Thẩm sư gia nói xong liền chắp tay lên thi lễ, sau đó quay lại vào trong phòng.

Liêu Quý Binh và Trương Thiên Ninh thấy Thẩm Thăng Bình đi rồi, liền quay sang cười với nhau một cái đầy bí hiểm, sau đó bọn họ lại chắp tay ra đằng sau lưng đi ra ven đường thưởng thức vẻ đẹp của cơn mưa lất phất trong nắng hoàng hôn thơ mộng.

Sáng sớm ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo đem theo mấy vị phu nhân của hắn và Kha Nghiêu đi du ngoạn, Trương Thiên Ninh và Liêu Quý Binh lúc này cũng muốn được đi theo hắn, nhưng Đỗ Văn Hạo đã lựa lời khéo léo từ chối, thế là Trương Thiên Ninh lại phải phái hai tên sai dịch theo hầu đoàn người của Đỗ Văn Hạo.

Trời lúc này rất nóng, hơn nữa hôm nay là đi ngắm cảnh, thưởng thức sơn thủy hữu tình, nên dĩ nhiên chẳng có ai ngồi kiệu cả, chính vì vậy mà đoàn người đều quốc bộ đi du ngoạn. Đi được tầm hơn nửa canh giờ, Kha Nghiêu lại cảm thấy mệt mỏi, nàng đưa mắt ra bốn phương ngắm nhìn, sau đó đến bên một tảng đá dưới một gốc cây to ngồi xuống, tay không ngừng phe phẩy quạt.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền mỉm cười nói: “Sao vậy? Mệt rồi hả?”

“Dĩ nhiên rồi! Mấy ngày hôm nay toàn là leo núi không à! Không mệt mới lạ!” Kha Nghiêu đáp lại.

Hai tên sai dịch lúc này thấy vậy, liền vỗ vỗ lên trán sực tỉnh ra, vội vã chạy đến bên Đỗ Văn Hạo cười nịnh nói: “Bẩm đại lão gia! Hay là lão gia và mấy vị phu nhân đều ngồi đây nghỉ mệt một chút! Bọn tiểu nhân sẽ dắt xe ngựa lại đây, tất cả mọi người cùng ngồi xe ngựa ngắm cảnh được không ạ?”

Kha Nghiêu nghe xong liền vỗ tay tán thưởng, vui mừng nói: “Thế thì tốt quá rồi! Mấy người các ngươi mau mau đi đi!”

Tuyết Phi Nhi nghe vậy liền cười khổ nói: “Không phải chứ! Chúng ta đi được cả một quãng đường dài như vậy rồi, vậy mà bây giờ muội còn muốn bọn chúng quay về dắt xe ngựa cho chúng ta! Vậy không biết chúng ta còn phải ngồi đây chờ bọn chúng trong bao lâu nữa đây?”

Hai tên sai dịch nghe liền vội vã cúi người cung kính nói: “Dạ khi nãy tại mọi người đi chậm quá nên mới cảm giác là đi xa! Bọn tiểu nhân bây giờ chạy về dắt xe ngựa thì nhanh lắm, xin phu nhân cứ an tâm!”

Lâm Thanh Đại lúc này liền mỉm cười nói: “Cưỡi ngựa đi du ngoan? Thế thì chẳng khác nào cưỡi ngựa xem hoa, có rất nhiều phong cảnh chúng ta không xem được đâu đấy!”

Kha Nghiêu nghe vậy liền phụng phịu nói: “Muội không cần biết! Bây giờ muội đi không nổi nữa rồi! Đỗ đại ca! Huynh bảo bọn họ đi đi mà!”

Đỗ Văn Hạo trông thấy sắc mặt của Kha Nghiêu lúc này đỏ phừng phừng lên, thì biết nàng cũng đã mệt lắm rồi, trời lại nóng nữa, nên thấy tội nghiệp, liền quay sang hai tên sai dịch nói: “Vậy thì phiền các ngươi chạy về dắt ngựa ra đây cho chúng ta vậy! Chúng ta cứ từ từ đi trước chờ bọn ngươi!”

“Vâng! Thưa đại lão gia! Bọn tiểu nhân sẽ về ngay đây, xin lão gia cứ yên tâm, bọn tiểu nhân sẽ đi nhanh thôi!” Hai tên sai dịch nói.

Bàng Vũ Cầm thấy vậy liền lên tiếng: “Hai người các ngươi cũng không cần phải gấp gáp như thế đâu! Trời nóng như thế này, đừng vội vàng quá mà cảm nắng đấy!”

“Đa tạ phu nhân quan tâm! Bọn tiểu nhân đi luôn bây giờ đây!” Hai tên sai dịch cảm động cúi người thi lễ.

Sau khi thi lễ xong thì cả hai liền quay đầu chạy thẳng một mạch, rất nhanh bóng hình của chúng đã mất dạng trên cuối con đường.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền quay sang Kha Nghiêu mỉm cười nói: “Trông thấy muội nháy mắt với ta, là ta biết ngay muội muốn giở trò quỷ rồi! Muội nói đi, muội muốn điều bọn chúng đi khỏi đây như vậy là ý gì?”

Kha Nghiêu lúc này mới phủi phủi chiếc váy của mình, rồi đứng dậy nói: “Muội không thích có hai người bọn chúng đi theo chúng ta! Cứ như là bọn chúng đi để giám sát chúng ta! Muội cứ cảm giác thấy cái Tĩnh Giang Phủ này có điều gì đó quai quái! Hay là chúng ta thử vi hành một chuyến xem xét tình hình thế nào!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền quay ra bốn vị phu nhân của mình hỏi: “Ý các nàng thì sao?”

Tuyết Phi Nhi nói: “Có gì mà phải vi hành xem xét tình hình cơ chứ! Có việc gì, thì chúng ta cứ việc hỏi không phải là xong ngay à?”

“Không được!” Kha Nghiêu quay sang Bàng Vũ Cầm nói: “Nếu như bọn chúng đúng là quan tốt, thì không nên để cho dân chúng sống trong cảnh dầu sôi lửa bỏng như hiện nay! Đến cả nông dân phải bán con, bán đất đi để sống, tình cảnh như vậy lẽ nào chúng ta lại làm ngơ được?”

Lâm Thanh Đại lúc này cũng nói: “Đúng vậy! Ta cũng cảm thấy chuyện này có vẻ quái lạ làm sao ấy! Liêu đại nhân suốt ngày bám theo chúng ta, nếu như chúng ta muốn tìm hiểu sự tình cuộc sống cơ cực của dân chúng thì cũng hơi khó!”

Đỗ Văn Hạo và Thẩm Thăng Bình lúc này liền quay sang nhìn nhau cười hiểu ý, Thẩm sư gia lên tiếng nói: “Các vị phu nhân không cần phải lo lắng! Đại nhân đã có biện pháp đối phó rồi!”

“Thật không vậy?” Kha Nghiêu ngẩng mặt lên nhìn Đỗ Văn Hạo hỏi.

Đỗ Văn Hạo mỉm cười khoát khoát tay nói: “Đi thôi! Vừa đi, vừa chờ! Không thấy phong cảnh nơi đây đẹp lắm hay sao hả?”

Vậy là đoàn người tiếp tục lên đường du ngoạn.

Không lâu sau, hai tên sai dịch đã cưỡi ngựa vội vã chạy đến, theo sau chúng còn có thêm bốn con ngựa nữa.

Một tên sai dịch tên Triệu Tứ dắt ngựa đến gần bên Kha Nghiêu, mỉm cười nịnh nọt nói: “Kha cô nương! Mời cô nương lên ngựa!”

Kha Nghiêu thấy vậy liền trợn mắt lên nói: “Ta không muốn ngồi!”

“Hả? Lẽ nào cô nương lại không mệt hay sao?” Triệu Tứ kinh hãi hỏi lại.

“Dĩ nhiên là mệ rồi! Nhưng bổn cô nương không muốn ngồi ngựa, không được hay sao hả?” Kha Nghiêu nói xong, liền chắp tay ra đằng sau, vội vã nhanh chân chạy đuổi theo Đỗ Văn Hạo.

Hai tên sai dịch lúc này đều trơ mắt ếch lên nhìn nhau, mà không hiểu nổi tại sao Kha Nghiêu lại nổi giận như vậy, nhưng không một ai trong hai người dám ho he câu gì, chỉ im lặng lẽo đẽo dắt ngựa chạy theo đoàn người.

Lúc này, góc chân trời bỗng nhiên nổi sấm ầm ầm, hai tên sai dịch ngẩng đầu lên nhìn, hai mắt lộ rõ sự vui mừng, miệng không ngừng lắp bắp nói: “Ôi…ôi! Sắp mưa rồi!”

Mọi người lúc này vẫn vừa từ từ tiến về phía trước, vừa thưởng thức phong cảnh ở ven đường, mây đen giờ đây đã kéo đến che khuất cả ánh mặt trời, bầu trời bỗng chốc trở nên u ám. tối sầm cả lại.

Kha Nghiêu thấy vậy liền lầm bầm tức giận nói: “Cái thời tiết quái quỷ này, mưa rồi thì còn có gì thú vị nữa cơ chứ!”

Triệu Tứ nghe vậy liền nhanh mồm nhanh miệng nói: “Kha tiểu thư chắc không biết đấy chứ! Dương Đê khi gặp trời không mưa thì nó mang một bộ mặt khác, còn khi có mưa, thì đứng nhìn cảnh Dương Đê lại là một khung cảnh khác! Vô cùng đẹp đẽ!”

Kha Nghiêu nghe vậy liền quay sang hỏi: “Không biết vị sai dịch đại ca này là…”

Triệu Tứ nở một nụ cười hồn hậu, hai mắt híp tịt lại nói: “Tiểu nhân là người của Nhạc Bình Huyện, cũng là huyện thành quản trị của Trương đại nhân, chính vì vậy mà tiểu nhân rất hiểu nơi đó!”

Kha Nghiêu vẫn dáng điệu túc tắc, ánh mắt dường như không thèm đếm xỉa gì đến những lời Triệu Tứ nói: “Vậy thì sai dịch đại ca cũng khá có bãn lĩnh đấy chứ nhỉ! Làm được đến chức sai dịch của Huyện Nha, chắc là vang danh cả họ rồi!”

Ai ngờ sau khi Kha Nghiêu nói vậy, Triệu Tứ lại cười khổ nói: “Không dấu gì Kha Nghiêu cô nương! Bây giờ ruộng đất đều không dễ trồng trọt, tiểu nhân phải tìm đến người quen, lo lót mãi năm nay mới được nhận chức này ở Huyện Nha đó ạ!”

Kha Nghiêu thấy Triệu Tứ ăn nói có phần cẩn trọng, liền ngẫm nghĩ một lát, sau đó mỉm cười nói: “Sai dịch đại ca đã thành thân rồi phải không?”

Triệu Tứ nghe vậy liền gãi đầu gãi tai, cười nói: “Dạ đã thành thân rồi ạ! Là một người bà con xa của tiểu nhân!”

Kha Nghiêu chắp tay ra đằng sau, làm ra vẻ trịnh trọng nói: “Thế thì tốt lắm! Đàn ông mà! Phải thành gia thất xong xuôi đâu đấy rồi mới thành sự nghiệp!”

Triệu Tứ đáp: “Vâng! Kha Nghiêu cô nương nói đúng lắm! Ý! Vợ của tiểu nhân cũng họ Kha đó!”

Kha Nghiêu nghe vậy thì vô cùng kinh ngạc ồ lên một tiếng rồi nói: “Thật hả! Không chừng nương tử của đại ca lại có họ hàng với ta cũng nên đấy chứ nhỉ!”

Triệu Tứ nghe vậy liền nói: “Làm gì có chuyện đó được! Tiểu nhân làm gì có duyên mà có họ hàng với Kha cô nương được! Kha cô nương số tốt vừa sinh ra đã rơi vào nhà giàu có làm tiểu thư, còn vợ của tiểu nhân thì…”

Kha Nghiêu nghe vậy liền mỉm cười nói: “Các cụ khi xưa thường nói: ‘Hoàng Thượng còn có cả bà con nghèo khó nữa là!’ Hoàng Thượng đã vậy, thì ta sao dám ngoại lệ được! Hơn nữa ta cũng chẳng phải con nhà giàu có gì cả, ta giống anh trai của ta (ám chỉ Đỗ Văn Hạo) chỉ thích du ngoạn đây đó, không nhà không cửa mà thôi!”

Triệu Tứ nghe vậy liền nói: “Kha tiểu thư thật biết nói đùa!”

Kha Nghiêu lại lên tiếng hỏi: “Vợ của đại ca, không biết đã có hỷ chưa nhỉ?”

Triệu Tứ nghe vậy thì bật cười vui vẻ, gật gật đầu nói: “Dạ vâng! Mùa đông năm nay vừa sinh rồi ạ! Tên của cháu tiểu nhân cũng nghĩ rồi, tên là Đông Sinh!”

“Ố! Khá hay đấy chứ!” Kha Nghiêu ngẫm nghĩ đôi chút, rồi lấy cái túi con con ở bên hông, rút ra một mặt ngọc được gọt dũa tinh xảo, đó là một mặt ngọc phật cười, tuy rất nhỏ nhưng trông rất đẹp, Kha Nghiêu không nói không rằng đưa nó cho Triệu Tứ,

Triệu Tứ sững người không hiểu tại sao hỏi: “Kha cô nương! Cái này là…!”

Kha Nghiêu đưa tay lên nói: “Cầm lấy nhanh lên!”

Triệu Tứ khép nép, đưa ánh mắt dò xét lên nhìn Đỗ Văn Hạo, Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền mỉm cười nói: “Cho ngươi thì ngươi cứ cầm lấy, đó là tấm lòng của Kha muội, đừng từ chối!”

Kha Nghiêu nói: “Đúng vậy! Triệu đại ca cứ cầm lấy đi! Ta và vợ của đại ca đều là người cùng một họ, khắp thiên hạ này họ Kha cũng không nhiều lắm, ta cũng khó có cơ hội được tặng quà như thế này, nếu như đại ca không nhận, tức là đại ca coi thường ta đó!”

Triệu Tứ nghe xong, liền tiếp lấy miếng ngọc từ tay Kha Nghiêu, rồi cúi đầu tạ ơn nói: “Đa tạ! Đa tạ Kha cô nương, tiểu nhận cảm tạ vô cùng!”

Kha Nghiêu cũng vui vẻ nói: “Phải thế chứ! Triệu đại ca nhận quà của ta, là ta vui rồi!”

Triệu Tứ nghe xong liền đưa hai tay lên cẩn thận đút miếng ngọc vào trong người, sau đó quay sang Kha Nghiêu nói: “Kha cô nương xinh đẹp, trẻ trung như vậy! Đỗ đại nhân nhất định sẽ lo cho cô nương một ý nhân trung thật tốt cho cô nương!”

Bàng Vũ Cầm đứng bên cạnh nghe vậy thì thầm cười trong bụng, còn Kha Nghiêu thì vẫn làm ngơ, cứ coi như không có chuyện gì xảy ra cả: “Ta chẳng thích lấy chồng chút nào, bọn họ mà dám tự ý cầu thân thay cho ta, ta sẽ không nể mặt ai hết, lúc đấy đừng trách ta!”

Mọi người nghe vậy thì đều bật cười, Tiền Bất Thu nói: “Chắc do yêu cầu của Kha Nghiêu cô nương cao quá đây mà! Thực ra thì cô nương còn trẻ, lấy chồng sớm thì cũng sớm lên chức mẹ thôi!”

Mọi người ai cũng biết Tiền Bất Thu đang trêu ghẹo Kha Nghiêu, nên không ai nói câu gì, chỉ mỉm cười vui vẻ, chỉ có Kha Nghiêu là tức đến đỏ mặt, dậm chân bùm bụp nói: “Sao ông lại cứ trêu trọc người ta thế! Cẩn thận không bổn cô nương trả thù ông đó!”

Tiền Bất Thu nghe vậy liền vuốt râu cười nói: “Ta đã già cả cao tuổi rồi! Việc gì phải sợ cô nương trả thù ta chứ!”

Kha Nghiêu thấy vậy liền nói: “Bổn cô nương sẽ làm giống như dân chúng nơi đây, đem ông đi bán lấy tiền!”

Bàng Vũ Cầm nghe vậy thì không nhịn nổi cười nói: “Kha Nghiêu! Muội thật là, không biết ăn nói gì cả! Sao lại có thể ăn nói với Tiền đại thúc như vậy cơ chứ?”

Tiền Bất Thu mỉm cười nói: “Lão phu tuổi cao sức yếu, chỉ biết ăn mà không biết làm, người ta mua lão phu về để làm cái gì cơ chứ? Để làm phật sống ngồi cúng hay sao hả? Ha ha ha!”

Kha Nghiêu thấy vậy liền trợn mắt nhìn Tiền Bất Thu một cái, rồi quay sang Triệu Tứ nói: “Ài! Triệu Tứ đại ca! Đại ca nói xem, ở vào cái độ tuổi của ông lão họ Tiền này, thì ở Tĩnh Giang Phủ bán được khoảng bao nhiêu tiền nhỉ?”

Triệu Tứ nghe vậy liền cười đáp: “Thực ra ở Tĩnh Giang Phủ của bọn tiểu nhân không có mua bán nhân khẩu đâu ạ!”

“Không phải chứ!” Kha Nghiêu ra vẻ kinh ngạc nói: “Mấy ngày hôm trước, chúng ta còn trông thấy có người đem con gái của họ đi bán, tiếc là đoàn người của chúng ta đông quá rồi, không thể đem thêm người được nữa! Đúng rồi, Triệu đại ca! Hay là để ta mua con gái của người đó về làm người hầu cho vợ của đại ca được không nhỉ?”

Triệu Tứ nghe vậy vội vã xua xua tay nói: “Kha cô nương! Cái này không được đâu! Cô nương đừng đùa với tiểu nhân như vậy, cha của tiểu nhân nói rồi! Tuy là năm nay cực khổ triền miên, nhưng nhất định không được phép làm điều gì trái với lương tâm của mình!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy mỉm cười nói: “Ố! Vậy thì xem ra Triệu Tứ ngươi lại là người có tâm địa lương thiện đấy chứ nhỉ!”

Triệu Tứ nghe vậy cười hềnh hệch đáp: “Đa tạ đại lão gia đã khen ngợi!”

Kha Nghiêu lại hỏi: “Vậy Nhạc Bình Huyện của đại ca có bán con bán cái không vậy?”

Triệu Tứ hơi chần chừ, do dự một lúc, rồi nói: “Tiểu nhân…tiểu nhân đúng là chưa từng thấy bao giờ!”

Đến xế chiều, đoàn người của Đỗ Văn Hạo đã quay về đến nơi trú ngụ của mình.

Lúc này, từ trên trời cao bắt đầu tí tách rơi xuống những hạt mưa nhỏ, bữa tối của Đỗ Văn Hạo được chuẩn bị tại một hộ nông dân sống gần đó.

Liêu Quý Binh lúc này đích thân bước tới bật dù che cho Đỗ Văn Hạo, ông ta dùng quá nửa chiếc ô để che cho Đỗ Văn Hạo khỏi ướt, còn trên bả vai của ông ta bây giờ đã bị nước mưa thấm hết cả, ướt sũng. Đỗ Văn Hạo lại không để ý đến tình tiết này, chỉ chỉ vào căn hộ phía trước mặt, nói với Liêu Quý Binh: “Liêu đại nhân! Đây là nơi nào vậy?”

Liêu Quý Binh giải thích nói: “Đây là một quán lữ điếm nhỏ của một hộ nông gia tự dựng lên ở gần Dương Đê. Các nhà nghỉ của Dương Đê cũng khác rất nhiều những nơi khác, đại bộ phận dân chúng ở Dương Đê đều dựng nó lên từ căn nhà vốn có của mình, cũng có nghĩa là mở rộng căn hộ của mình ra, dựng lên những nhà nghỉ như vậy! Thường ngày không có khách đến, thì bọn họ có thể ở! Nhưng xin đại nhân cứ an tâm, nhà nghỉ phân làm tiền viện và hậu viện, bọn hạ quan cũng đã kiểm tra độ an toàn của nó rồi!”

Kha Nghiêu nghe vậy cười nói: “Trên đường đi Đỗ đại ca cũng khen ngợi đại nhân nhiều lắm! Huynh ấy nói rằng, để Liêu đại nhân lo việc thì cứ việc yên tâm, không có sai sót gì cả!”

Liêu Quý Binh nghe vậy thì hai hàng lông mày nhướng lên, khẽ rung người một cái làm những hạt mưa bám trên người bắn xuống bên dưới, cúi người cười nói: “Hạ quan làm việc vẫn còn nhiều sai sót lắm ạ!”

Hai người chầm chậm bước tới phía dưới của hiên nhà, lúc này Đỗ Văn Hạo mới quay đầu sang, dường như trông thấy một việc gì đó vô cùng khác lạ, kinh ngạc nói: “Ôi thôi chết! Liêu đại nhân! Đại nhân vì che mưa cho ta mà ướt hết cả người thế này sao?”

“Không có gì! Không có gì! Ha ha! Hạ quan cũng đang cảm thấy nóng nực trong người, nhân tiện thấm chút mưa cho nó mát thôi mà! Không sao đâu thưa đại nhân!” Liêu Quý Binh đáp.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 364 Thương Hàn Thiên Tử Hạ Hư Nhân (1+2)

Dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Vip.vandan

Share by: Mộng Hoa Trang

Nội Dung: hide

Đỗ Văn Hạo mỉm cười gật đầu, ngó thấy hai tên sai dịch đứng ở trước cổng liền lên tiếng nói: “Liêu đại nhân! Đại nhân bảo hai viên sai dịch kia đứng ở gần vào trong này một chút, đừng làm khách đi đường trông thấy lại kinh sợ! Như vậy thì thật là không hay chút nào!”

Trương Thiên Ninh nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy, vội vã chạy đến trước mặt hắn nói: “Thưa Đề Hình đại nhân! Đây không phải là ý của Liêu đại nhân đâu ạ! Vì đây vốn là ý của hạ quan! Vả lại trong cái nhà nghỉ này cũng không có vị khách lạ nào khác! Chỉ có mỗi chúng ta là khách thôi ạ!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Như vậy cũng không được! Ngươi mau mau bảo hai viên nha dịch đó đừng có đứng ở đó nữa, chúng ta không phải đến đây để chơi! Ta thấy tốt nhất là đừng làm gì kinh động đến dân chúng!”

Trương Thiên Ninh nghe vậy vẫn còn chần chừ không quyết, Liêu Quý Binh thấy vậy liền nói: “Trương đại nhân! Sao ngươi vẫn còn đứng đó làm cái gì hả? Không mau mau bảo hai viên sai dịch kia lui ra đi?”

Trương Thiên Ninh lúc này mới nghe lệnh, vội vã chạy ra bảo hai viên sai dịch lui ra ngoài.

Liêu Quý Binh lúc này mới quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Đỗ đại nhân! Hạ quan đã tự ý mạo muội cho mấy người bọn họ chuẩn bị một ít củi lửa ở trước tiền viện, hạ quan thấy trận mưa này rơi chắc cũng không lâu lắm! Chính vì vậy mà chuẩn bị ít củi lửa để tối nay chúng ta nướng dê thưởng thức! Sau đó chúng ta sẽ mua một ít rượu do mấy người bọn họ tự ủ ra uống, rồi lại chuẩn bi….một chút rau rừng! Hạ quan cũng nghĩ như vậy cũng hơi bị đơn giản quá! Không biết đại nhân còn muốn thêm những gì nữa không, để hạ quan còn cho người đi chuẩn bị!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền khoát tay nói: “Như vậy ta nghĩ là đủ rồi! Làm nhiều quá e là không hay cho lắm!”

“Dạ! Vâng thưa đại nhân!” Liêu Quý Binh nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy liền cúi mình khiêm tốn đáp lại.

Trương Thiên Ninh lúc này đã căng một chiếc ô đưa cho Kha Nghiêu để che mưa, nhưng Kha Nghiêu lại đẩn lại không cần, nàng chạy luôn ra giữa sân, dang rộng hai tay, ngẩng mặt lên trời, để mặc cho hàng ngàn giọt nước mưa rơi lên người. Kha Nghiêu nhắm mặt lại với vẻ hưởng thụ nói: “Đẹp quá! Thật là thoải mái!”

Trương Thiên Ninh thấy vậy, vội vã chạy đến cầm ô che lấy cười nói: “Hôm nay đúng là trời đẹp! Cũng đã lâu lắm rồi nơi đây cũng không có mưa rơi! Ông trời hôm nay chắc biết được là Kha Nghiêu cô nương của chúng ta muốn xem trận mưa đẹp như thế này, vậy nên lúc chiều đã sấm chớp đùng đoàng, thế là mưa xuống!” Trương Thiên Ninh vừa nói đến đây, thì một trận gió thổi lên, làm chiếc ô trong tay của ông tuột ra khỏi tay bay khắp nơi, Trương Thiên Ninh vội vã nhếch nhách chạy đuổi theo.

Mọi người trông thấy cảnh tượng này đều ồ lên cười vui vẻ.

Đỗ Văn Hạo lúc này đi vào bên trong viện, thấy nơi đây dọn dẹp vô cùng sạch sẽ, vẫn còn vài người phụ nữ trong thôn đang cúi đầu làm việc, khi trông thấy Đỗ Văn Hạo và Liêu Quý Binh bước vào, ngay lập tức dừng công việc đang dang dở trong tay mình lại, dẹp sang một bên, đứng thẳng người nghiêm túc.

Liêu Quý Binh liền đưa Đỗ Văn Hạo và những người khác đến một căn phòng khá rộng, sau khi mọi người đã an tọa xong đâu đấy, thì còn được phục vụ trà đạo để nói chuyện. Cho đến khi trời đã bắt đầu tối hẳn, thì mưa cũng ngừng rơi, trong sân lúc này củi đã được chất đống vào nhau, nổi lửa nướng thịt dê. Mùi thịt dê thơm nức lan tỏa khắp trong không khí, Bàng Vũ Cầm liền đem theo Liên Nhi, Lâm Thanh Đại, Tuyết Phi Nhi, Anh Tử, Kha Nghiêu ra bên ngoài sân xem náo nhiệt. Đỗ Văn Hạo và Liêu Quý Binh bây giờ bầy cờ lên cùng thử sức nhau, cách đó không xa văng vẳng lại tiếng hú của loài thú rừng, theo như Liêu Quý Binh nói đó là tiếng sói hú tại Dương Đê.

Khi thịt dê đã được nướng chín, thì Đỗ Văn Hạo và Liêu Quý Binh cũng đã đánh xong ba ván cờ, và dĩ nhiên người thua cuộc chính là Liêu Quý Binh, ông ta lúc này chỉ biết cúi đầu hổ thẹn.

Đỗ Văn Hạo thắng cờ nên cảm thấy trong người vô cùng sảng khoái, lúc này Trương Thiên Ninh bước vào nói: “Bẩm hai vị đại nhân! Đồ ăn cũng đã chuẩn bị xong rồi ạ! Mời hai vị đại nhân nhập tiệc!”

Liêu Quý Binh lúc này vẫn tiếc rẻ cầm lấy quân cờ nói: “Hạ quan vẫn còn muốn vớt vát thêm một ván nữa! Nhưng mà phải công nhận Đề Hình đại nhân quả là cao thủ trong việc đánh cờ, cho dù hạ quan có muốn đánh thêm mười ván nữa, e rằng vẫn chỉ là người thua cuộc mà thôi!” Nói xong Liêu Quý Binh chỉ biết lắc đầu ngán ngẩm.

Đỗ Văn Hạo đứng dậy mỉm cười nói: “Liêu đại nhân cờ thế cũng không tồi chút nào, có một ván chỉ cần đại nhân cố gắng đến cùng, thì sẽ thắng được ta! Nhưng tiếc là đại nhân lại do dự giữa chừng, để cho ta tìm ra được chỗ hở, thừa cơ phản lại, nếu không thì thắng thua còn khó nói lắm!”

Liêu Quý Binh thở dài nói: “Đúng vậy! Một nước đi sai, thua cả ván cờ! Quả là đáng tiếc thay!”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nhìn Liêu Quý Binh nhẹ nhàng nói: “Tri Phủ đại nhân nói không sai chút nào, đánh cờ cũng giống như cuộc sống vậy, đi sai một nước thôi là để hận muôn đời!”

Liêu Quý Binh sắc mặt vẫn rất bình thản, tim không hề đập dồn dập hay lo sợ gì cả, chỉ chậm rãi nói: “Lời nói của Đề Hình đại nhân quả nhiên sâu sắc! Đúng là như vậy! Nhất là với những người làm quan như chúng ta, bước nào cũng phải tính toản cho cẩn thẩn, giờ giờ khắc khắc luôn phải cảnh tỉnh!”

Lúc này hai người vừa đi đường vừa nói chuyện, chẳng mấy chốc đã đi ra đến phòng khách, tiệc rượu cũng đã chuẩn bị xong đâu đấy, Đỗ Văn Hạo cảm thấy vô cùng cao hứng, hắn nâng cốc chúc mừng Liêu Quý Binh và Trương Thiên Ninh liên tục, nhưng tửu lượng của cả hai người chẳng ra làm sao cả, chỉ mới vài cốc mà cả hai đã mặt đỏ tía tai rồi.

Đang trong lúc ba người uống rượu cao hứng, vào tầm thì Lý Phố đột nhiên đi vào, đến bên cạnh Đỗ Văn Hạo nhỏ to vài câu, gương mặt của Đỗ Văn Hạo đột nhiên lộ vẻ vui vừng, liên tục gật đầu.

Tiệc rượu tan xong, thì trời cũng đã về khuya, mấy người tùy tùng liền bưng trà lên cho ba người Đỗ Văn Hạo, Liêu Quý Binh Và Trương Thiên Ninh cùng ngồi thưởng thức.

Đỗ Văn Hạo lúc này bỗng nhiên lên tiếng nói: “Trương Tri Huyện!”

Trương Thiên Ninh nghe Đỗ Văn Hạo đột nhiên gọi mình như vậy, liền vội vã chắp tay nói: “Hạ quan đây ạ!”

“Ngươi làm Tri Huyện thật chẳng kỹ lưỡng chút nào cả! Không làm tốt công việc của mình.” Đỗ Văn Hạo trịnh trọng nói.

Trương Thiên Ninh cười gượng đáp: “Vâng vâng!”

Đỗ Văn Hạo cau mày nói: “Ngươi có biết vì sao bổn quan lại nói là ngươi không làm tốt công việc của mình không hả?”

“Hạ quan! Ha ha!” Trương Thiên Ninh cố gắng cười gượng nói: “Hạ quan ngu muội, học thấp, hèn kém, tài mọn, có nhiều chỗ đúng là không làm tốt bổn phận của mình! Thật không biết đại nhân nói hạ quan làm không tốt công việc của mình là gì! Mong đại nhân chỉ điểm cho hạ quan được biết!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền đưa tay lên vỗ bôm bốp hai tiếng, Lý Phố ở bên ngoài bước vào cúi người thi lễ nói: “Vâng! Thưa đại nhân!”

Đỗ Văn Hạo ra lệnh: “Đưa người vào trong này nhanh lên!”

“Vâng!” Lý Phố cúi người tuân lệnh đáp.

Chỉ một lúc sau, Lý Phố đem theo bên mình thêm mấy người nữa bước vào bên trong.

Liêu Quý Binh và Trương Thiên Ninh vừa trông thấy đám người đi vào, thì bất giác há hốc mồm kinh ngạc. Mấy người vừa mới bước vào theo sau Lý Phố, không phải ai khác chính là hai vị đại phu bất tài Lý đại phu, và Hàn đại phu trong vụ án chữa trị cho cô nương nhà họ Vương, cùng với cha mẹ của cô ta là Vương lão thái gia và vợ của ông ta.

Đầu óc của Trương Thiên Ninh phản ứng vô cùng mau lẹ, ông ta lập tức đứng thẳng luôn người dậy, mừng rỡ nói: “Ai da! Mấy người các ngươi! Mấy người các ngươi đã quay về rồi đó hả! Sao các ngươi về rồi mà không thông báo cho bổn quan một tiếng! Hại bổn quan báo cao sai tình hình cho Đề Hình đại nhân biết là nhỏ, nhưng làm lỡ thời gian phá án của Đề Hình đại nhân là lớn! Các ngươi gây ra tội lỗi tày đình rồi có biết không hả?” Trương Tri Huyện nói xong xoa xoa hai tay vào nhau, trông điệu bộ vô cùng sốt sắng, lo lắng cộng thêm tức giận.

Đỗ Văn Hạo lúc này cười nhạt một tiếng rồi nói: “Ngày hôm qua, ta nghe nói mấy người bọn họ không còn ở trong địa phận của Nhạc Bình Huyện nữa, nhưng bởi vì vụ án này, ta phải điều tra lại, chính vì vậy mà ta buộc phải tìm đến mấy người bọn họ! Do vậy, bổn quản đã tự ý phái người đi điều tra, ta nghĩ có lẽ mấy người bọn họ chưa kịp đi khỏi đây, nên mới làm như vậy! Và thật may mắn thay, đúng là ta đã kịp thời tìm được bọn họ! Người của ta đến vừa kịp lúc mấy tên sai dịch đang chuẩn bị đưa bọn họ rời khỏi đây, ta có hỏi mấy tên sai dịch là chúng định đưa mấy người này đi đâu, nhưng không ngờ mấy tên sai dịch đó không chịu trả lời ta, sau đó tất cả đều bỏ đi! Đại nhân có biết là mấy tên sai dịch này định đưa mấy người này đi đâu không vậy?”

Trương Thiên Ninh mồ hôi đầm đề, ấp a ấp úng nói: “Cái này, cái này…hạ quan…hạ quan nhất định sẽ điều tra cho rõ ràng, chắc là….chắc là có nhầm lẫn gì ở đây rồi!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Rốt cuộc là nhầm lẫn ở chỗ nào, thì đại nhân cứ từ từ mà điều tra suy xét! Bổn quản muốn điều tra thí điểm lại vụ án này, vậy mong nhị vị đại nhân cùng với bổn quan nghe phán án vậy! Không biết cóđược không nhỉ? À, đúng rồi! Mời nhị vị đại nhân đưa phạm nhân đến đây cho bổn cho!”

Liêu Quý Binh và Trương Thiên Ninh vội vã tuân lệnh Đỗ Văn Hạo, Trương Thiên Ninh lập tức phái người đi về Nha Môn đưa Tạ đại phu đến.

Đỗ Văn Hạo liền phân phó mọi người để vợ chồng Vương lão thái gia ở lại, còn hai vị đại phu họ Lý và họ Hàn kia thìđưa ra bên ngoài chờ đợi, Đỗ Văn Hạo quay sang vợ chồng Vương lão thái gia hỏi: “Ông lão! Con gái của ông làm sao mà chết vậy?”

Vương lão thái gia nghe vậy liền dập đầu xuống nói: “Con gái của lão phu là do Tạ đại phu chữa bệnh không khỏi nên bị chết!”

Vương lão gia lúc này kêu gào thảm thiết nói: “Đề Hình đại lão gia! Con gái của lão phu đúng là bị cái tên lang băm, chết bằm họ Tạ kia hại chết đó ạ! Tên lang băm đó, chữa bệnh lung tung cho con gái của lão phu, làm cho mọi việc tanh bành hết cả lên, lão phu chỉ biết giương mắt lên mà nhìn con gái của mình tắt thở mà chết! Đã thế tên lang băm đó còn định chạy trốn nữa! Lão phu khẩn cầu Tri Huyện lão gia giết hắn ta để báo thù cho lão phu! Nhưng Tri Huyện đại nhân nói rằng, hành động của tên lang băm đó là nằm trong phạm trù vô ý gây thương tích, không phải cố ý giết người nên không thể trị tội được! Nhưng theo lão phu thấy, thì tên họ Tạ đó sao lại không phải cố ý giết người cơ chứ? Hắn ta rõ ràng là dung thuốc lung tung làm con gái của lão phu bị chết! Thế thì tại sao không phải là cố ý giết người được? Hắn đúng là một tên giết người không dao, mong đại nhân minh oan cho lão phu! Bây giờ đại nhân điều tra lại vụ án này, thực là ông trời có mắt! Chắc chắn đại nhân sẽ báo thù được cho con gái của lão phu!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong liền đưa tay phất lên, rồi lạnh lùng nói: “Bây giờ bổn quan xét xử vụ án, bổn quan hỏi cái gì, thì ngươi trả lời cái đó! Không hỏi cái gì thì không được phép nói năng lung tung, làm loạn công đường! Nếu ngươi vẫn còn như vừa rồi, thì có nghĩa là đã khinh thường bổn quan, mắc vào tội xem thường chốn công đường, cẩn thận ta cho người vả vào miệng của ngươi đó!”

Vương lão thái gia nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì sợ hãi vô cùng, lập tức ngậm luôn miệng lại, cúi đầu không kêu gào thêm gì nữa.

Đỗ Văn Hạo lại hỏi tiếp: “Vương lão thái gia! Tạ đại phu là người thứ mấy chữa trị cho con gái của ngươi?”

“Là người cuối cùng! Sau khi ông ta chữa trị xong, thì con gái của lão phu chết ngay sau đó!” Vương lão thái gia đáp.

“Vậy thì ngươi làm sao biết được là con gái của ngươi là do Tạ đại phu chữa trị mà chết nà không phải là hai vị đại phu trước đó hả? Tại sao ngươi lại không cho người đi bắt bọn họ?” Đỗ Văn Hạo hỏi lại.

Vương lão thái gia trầm ngâm một lúc rồi nói: “Cái này…cái này là do phu nhân của lão phu cho người đi bắt đó ạ!”

“Ố?” Đỗ Văn Hạo ồ lên một tiếng, rồi lại quay sang bên bà lão hỏi: “Ngươi tại sao lại cho người đi bắt Tạ đại phu vậy?”

Vương lão thái bà nghe vậy liền dập đầu nói: “Tại vì ông ta trông thấy con gái của lão nô đã tắt thở, nên mượn cớ trốn chạy, nếu như không phải ông ta trong lòng có quỷ thì việc gì phải chạy cơ chứ? Chính vì lão nô thấy ông ta bỏ chạy nên mới cho người đi bắt ông ta lại!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền lạnh lùng nói: “Ba vị đại phu cùng chữa trị một lúc, hai người đằng trước vị Tạ đại phu này chữa trị làm cho bệnh tình càng lúc càng nặng, không có ai chữa trị được cả! Chỉ vì Tạ đại phu là người cuối cùng chữa trị, nên các người bắt ông ta hay sao? Nếu mà như vậy thì thật là phi lý quá! Ngươi có biết rằng con gái của ngươi mắc phải bệnh gì không? Và con gái của ngươi tại sao lại chết hay không? Rốt cuộc là do thuốc của ai mới dẫn đến cái chết của con gái ngươi? Và vị thuốc này tại sao lại lấy đi được tính mạng của cô ấy?”

Đỗ Văn Hạo đưa ra hàng loạt câu hỏi, làm cho bà lão chỉ biết cúi đầu xuống không biết nên trả lời ra sao cả! Chính vì lúc trước Đỗ Văn Hạo đã cảnh cáo qua rồi, nên bà lão không dám ho he gì nhiều, chỉ im lặng cúi đầu cam chịu.

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Bây giờ hai người các ngươi thuật lại toàn bộ quá trình dẫn tới cái chết của con gái các ngươi lại cho ta nghe một lượt! Nên nhơ rằng, các ngươi chỉ cần kể bệnh tình của cô ấy thôi! Không cần thiết phải kể đại phu khám chữa thế nào! Cái này ta rõ hơn các ngươi!”

Vợ chồng Vương lão thái gia nghe vậy liền gật đầu tuân lệnh, sau đó cả hai lần lượt đem đầu đuôi của quá trình phát bệnh và trị liệu của cô con gái của hai người ra thuật lại. Bệnh chứng giống hệt như những gì Tạ đại phu đã khai trước đó.

Đỗ Văn Hạo lại hỏi: “Con gái của hai người trước khi mắc bệnh thì ăn uống ra sao, ngủ nghỉ thế nào, kinh nguyệt, đại tiểu tiện nữa? Tất cả nói rõ ra cho ta biết!”

Hai ông bà nhà họ Vương đối với những việc này của con gái mình thì rất quan tâm, nên sau khi nhớ lại chi tiết, liền lên tiếng trả lời: “Ăn uống không được tốt lắm, con gái của bọn thảo dân từ trước đến giờ rất khảnh ăn, ăn rất ít!”

“Trước khi mắc bệnh, thì ngủ ngê cũng được, đại tiểu tiện thì không thấy nó phàn nàn là có gì không ổn cả, khi mắc bệnh thì vừa đúng lúc nó tới kinh nguyệt!” Vương lão thái bà nói.

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây thì giật thót tim nói: “Hả? Vậy kinh có ra nhiều lắm không?”

Vương lão thái bà ngẫm nghĩ một lúc, rồi thấp giọng nói: “Dạ ra nhiều lắm ạ! Cứ như băng huyết vậy!”

Đỗ Văn Hạo biến sắc, chầm chậm lên tiếng hỏi tiếp: “Sự việc này ngươi có nói cho ba vị đại phu biết không vậy?”

“Dạ! Không ạ!” Vương lão thái bà đáp.

Đỗ Văn Hạo lúc này không kìm nổi sự tức giận trong lòng, nói: “Thế ba vị đại phu có hỏi chuyện kinh nguyệt của Vương cô nương ra sao không hả?”

“Dạ! Đúng là có hỏi ạ! Nhưng mà, chuyện như thế này làm sao mà có thể tùy tiện nói ra được ạ!” Vương lão thái bà nghẹo cổ sang bên nói.

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây thì tức giận đập bàn, đứng thẳng người dậy, làm cho vợ chồng Vương lão thái gia sợ đến nhảy thót người lên. Đỗ Văn Hạo lúc này chắp hai tay ra đằng sau, đi đi lại lại trong căn phòng, rồi đột nhiên dừng chân lại, chỉ vào mặt của Vương lão thái bà, căm hận nói: “Các cụ nhà ta có câu: giấu nợ thì nghèo, giấu bệnh thì chết! Lẽ nào ngươi không biết hay sao! Con gái của ngươi, rất cóthể là do ngươi che dấu tình hình kinh nguyệt, nên mới dẫn đến cái chết như vậy!”

“Hả?” Cả hai vợ chồng ông lão họ Vương đều kêu lên kinh ngạc: “Cái này…cái này sao lại có thể như thế được? Không phải chỉ là cái kinh nguyệt thôi sao! Có liên quan gì đến bệnh tình cơ chứ!”

Đỗ Văn Hạo cả giận nói: “Ngươi hiểu cái gì mà nói! Từ các hiện tượng bệnh chứng xem xét, thìcơ thể của con gái các ngươi vốn yếu đuối, lại đúng vào thời kỳ kinh nguyệt, hơn nữa kinh lại ra nhiều như băng huyết, như vậy làm cho âm dịch trong người trở nên khô kiệt! Cái hiện tượng đặc dị như vậy của người bệnh mà ngươi không nói cho các đại phu biết, để cho người ta vẫn kê thuốc theo lượng của người thông thường, cho dù họ có kê thuốc đúng bệnh đi chăng nữa, thì cũng chẳng thể nào chữa trị được cho con gái của các ngươi được cả!”

Hai vợ chồng ông lão họ Vương tuy nghe không hiểu Đỗ Văn Hạo nói về các kiến thức y học, nhưng bây giờ trông thấy vị Đề Hình đại lão gia đang tức giận đến cùng cực, thì cũng biết là do sai lầm của mình khi đó đã giấu nhẹm chuyện kinh nguyệt của con gái đi, để xảy ra hậu quả nghiêm trọng như vậy, nên cả hai chỉ biết đưa mắt nhìn nhau, buồn bã, phủ phục dưới đất, không dám nói thêm câu nào nữa.

Đỗ Văn Hạo cố gắng kìm nén cơn giận đang bùng bùng cháy lên trong người mình xuống, đi đến bên ghế của mình ngồi xuống, chầm chậm lên tiếng hỏi: “Có phải Tạ đại phu đã nói với các ngươi rằng bệnh tình con gái ngươi đang rất nặng, ông ta cũng chưa chắc gì đã chữa khỏi được, nhưng các ngươi vẫn quỳ xuống cầu xin ông ta cứu chữa có đúng không hả?”

“Bổn quan cảnh cáo cho các ngươi biết trước, câu nói này chắc chắn là đã có rất nhiều người nghe qua rồi, nên ta nghĩ các ngươi cũng đừng nên nói dối làm gì cho mệt! Nếu như bổn quan phát hiện ra các ngươi nói dối, chắc chắn sẽ phạt tội rất nặng đấy!” Đỗ Văn Hạo gằn từng tiếng một nói.

Vợ chồng ông lão họ Vương nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy sợ đến run cầm cập, cùng đồng thanh nói: “Vâng! Đúng là bọn thảo dân đã nói vậy!”

“Vậy thì các ngươi đúng là hết thuốc chữa rồi! Người ta đã nói trước là bệnh tình không nhất định chữa khỏi được, nhưng các ngươi vẫn cố van nài người ta cứu chữa! Chờ đến khi người ta không chữa được, thì các ngươi lại kéo người ta đi kiện quan! Hơn nữa lại là ba vị đại phu cùng chữa bệnh cho con ngươi, vậy tại sao lại chỉ trị tội có một người vậy hả?” Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói.

Câu nói cuối cùng của Đỗ Văn Hạo hiển nhiên là nói cho Liêu Tri Phủ và Trương Tri Huyện nghe, chính vì vậy mà mặt của cả hai lúc này đều cảm thấy nong nóng. Nhưng lúc này đang là lúc thẩm vấn tra xét, nên không được sự cho phép của Đỗ Văn Hạo, thì tuyệt đối không ai được phép nói chen vào cả, chính vì vậy mà cả hai người chỉ biết im lặng đứng nhìn, không dám ho he câu nào.

Đỗ Văn Hạo lại lạnh giọng hỏi tiếp: “Từ tình trạng cái chết của con gái các ngươi xem, thì ta thấy dường như các ngươi mời không chỉ có ba vị đại phu bọn họ thì phải, ta đoán chắc là còn có vị đại phu khác kê thuốc cho con gái các ngươi uống! Hơn nữa những loại thuốc này thuộc vào dạng khô, nóng, có đúng không hả?”

Vương lão thái gia và phu nhân của mình nghe Đỗ Văn Hạo phán như vậy, thì chột dạ kinh hãi, Vương lão thái gia lập tức dập đầu nói: “Là do lão phu lúc còn trẻ học qua một chút y thuật! Nên mạo muội dùng một chút Quế Chi, Gừng khô cho con gái uống, nhưng bệnh vẫn trầm trọng không gì tiến triển cả!”

Đỗ Văn Hạo hứ lên một tiếng nói: “Ngươi làm như vậy thì chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa! Thật đúng là…Thôi các ngươi cứ ra ngoài trước đi, mời vị đại phu đầu tiên ở thôn đông, Lý đại phu vào trong này!”

Vị Lý đại phu này sau khi được Đỗ Văn Hạo mời vào trong xét xử, thì sợ hãi toàn thân run lên bần bật, dường như nằm liệt ở dưới sàn, mặt áp sát xuống hẳn nền đất, không dám ngẩng đầu lên nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng lên tiếng, không hề có chút sắc thái tình cảm nào: “Lý đại phu! Ngươi đem bệnh tình của Vương cô nương ra nói lại cho bổn quan biết mau lên!”

“Dạ! Vâng!” Lý đại phu ngẫm nghĩ một lúc, rồi nói: “Bệnh tình của Vương cô nương thuộc vào Nhiệt Chứng, khí nghịch, sắc mặt đỏ đậm, ho có đờm đặc, Ngũ Tâm khô nóng, miệng khô nuốt khó! Tiểu nhân vì thế mà chủ yếu chữa trị bằng những vị thuốc thanh mát, sau khi dùng được hai thang, thì bệnh tình không có dấu hiệu thuyên giảm, mà ngược lại Vương cô nương còn bị đau đầu, ho khan! Vương lão gia nói tiểu nhân là lang băm, nên đã sang thôn tây tìm Hàn đại phu! Chuyện về sau như thế nào thì đại nhân cũng biết rồi đó ạ!”

Đỗ Văn Hạo lúc này lại hạ lệnh cho mời Hàn đại phu ở thôn tây vào bên trong, sau khi hỏi ông ta về biện chứng, thì Hàn đại phu vẫn biện chứng là Hư nhiệt, nhưng gia tăng them lượng dùng của thuốc. Bệnh tình của Vương cô nương vì thế mà lại càng thêm trầm trọng, lại có thêm chứng nôn mửa, tiếp sau đó là hôn mê bất tỉnh.

Đỗ Văn Hạo nghe xong bọn họ nói về hiện tượng của bệnh tình, rất khớp với những gì mà Tạ đại phu đã từng khai với hắn. Đỗ Văn Hạo bây giờ cũng đã hiểu chuyện này rốt cuộc là ra sao, lúc này hắn mới cho người mời Tạ đại phu vào bên trong.

Sau khi bắt Tạ đại phu quỳ xuống xong, Đỗ Văn Hạo liền nói: “Âm dương trong cơ thể người, nên có một độ cân bằng nhất định! Âm không thể khắc chế hoàn toàn dương, và ngược lại dương cũng không khắc chế hoàn toàn âm! Nếu như mất cân bằng thì sẽ dẫn đến hiện tượng Dương Hư hoặc là Âm Hư!” Đỗ Văn Hạo nói xong liền quay sang vị đại phu điều trị đầu tiên, Lý đại phu hỏi: “Xin hỏi Lý đại phu! Hư Hàn Chứng là gì vậy?”

Lý đại phu đáp: “Âm dương mất cân bằng, dương hư không thể khắc chế âm, âm khí lúc đó sẽ trở nên thịnh, âm thịnh sẽ dẫn đến hiện tượng hàn lạnh, ví dụ như mặt trắng như phấn, chân tay lạnh, người mệt mỏi chỉ muốn nằm, ra mồ hôi lạnh, mạch yếu, đây chính là Âm Hư thì bị hàn, còn gọi là Hư Hàn Chứng!”

“Ừm!” Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, sau đó lại quay sang vị đại phu chữa trị thứ hai, Hàn đại phu hỏi: “Vậy thế nào là Hư Nhiệt Chứng?”

Hàn đại phu nghe xong liền dập đầu đáp: “Cũng là do âm dương mất cân bằng, khí âm trong cơ thể người bị suy kiệt, không thể khắc chế được dương khí, lúc này dương khí sẽ thịnh, sẽ xuất hiện hiện tượng hàn nhiệt, ví dụ như toát mồ hôi trộm, Ngũ Tâm khô nóng, miệng khô đắng, mạch chậm, đây gọi là Âm Hư dẫn đến nhiệt, hay còn gọi là Chứng Hư Nhiệt!”

Đỗ Văn Hạo tấm tắc khen ngợi: “Không sai chút nào! Hai người các ngươi nắm rất vững kiến thức cơ bản!”

Hai vị đại phu lúc này mới thầm an tâm trong bụng, dập đầu nói: “Đa tạ đại nhân đã khen ngợi!”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới quay sang Tạ đại phu đang bị gông cùm quỳ dưới đất nói: “Thế nào gọi là Thương Hàn Thiên Tử Hạ Hư Nhân?”

Tạ đại phu nghe xong liền dập đầu đáp: “Nguyên khí không đủ, mạch khí không có gốc, có nghĩa là Hạ Hư. Thương Hàn có thể là do dương khí suy kiệt, âm hàn nội thịnh, áp hư dương lên bề mặt, thể hiện ra bên ngoài, làm cho dương khí bị hao tổn, hoại vong!”

“Ừm! Khá lắm! Bổn quan hỏi lại ngươi lần nữa, ngươi lúc trước bắt mạch cho Vương cô nương, thì thấy mạch tượng ra sao hả?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

Tạ đại phu đáp: “Mạch đập nhẹ, mạch trì hỗn loạn!”

“Mạch trì thì phân ở bộ phận tạng phủ nào?” Đỗ Văn Hạo gật gù nói.

“Mạch trì chủ yếu là phân bố ở thận! Vương cô nương mạch trì hỗn loạn, là do thận hư, âm khí bị tổn thương đầu tiên, sau đó dương khí độc chiếm thế làm chủ! Thận dương vốn là cốt lõi do tiên thiên, thận dương hư, lại có ngoại cảm, nên không thể đẩy khí tà ra ngoài, chính vì vậy mà bắt buộc phải hỗ trợ khí dương để xuất ra bên ngoài!” Tạ đại phu trầm ngâm đáp.

“Khá lắm! Không sai chút nào cả!” Đỗ Văn Hạo gật gù khen ngợi. Sau đó hắn liền đưa mắt lên quét một lượt ba vị đại phu đang quỳ gối dưới sàn. thấp giọng nói: “Ta hỏi các ngươi! Cá ngươi có biết Vương cô nương lúc đó đang có kinh, hơn nữa kinh ra nhiều như băng huyết hay không?”

Ba vị đại phu nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì thất sắc sợ hãi, cả ba cùng một lúc quay đầu sang Vương lão thái bà nói: “Có thật như vậy không hả?”

Vương lão thái gia lúc này xấu hổ quả chỉ biết cúi đầu im lặng, còn Vương lão thái bà thì ngoảnh mặt sang nơi khác không đáp.

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Hơn nưa! Bọn họ còn cho Vương cô nương dùng thêm quế chi, gừng khô cùng với mấy vị thuốc khô nóng, nói là muốn cứu khí nghịch!”

Tạ đại phu nghe xong đờ đẫn người hai tay thõng xuống đất, đập cái gông xuống sàn, liền sau đó nước mắt chảy ra như mưa, gào khóc nói: “Vương lão thái gia! Ông không muốn con gái của ông sống, thì mặc kệ ông! Nhưng tại sao ông lại lôi kéo tôi vào để làm gì hả?”

“Ngươi nói vậy là có ý gì hả?” Vương lão thái bà tức giận quát lên.

Tạ đại phu lúc này đang bò lăn ra đất kêu khóc, nghe Vương lão thái bà nói vậy, liền lập tức bò hẳn người dậy quát: “Tại sao bà không nói cho ta biết chuyện này hả?”

Vương lão thái bà hứ lên một tiếng nói: “Có gì khác biệt đâu hả?”

Lý đại phu và Hàn đại phu lúc này chỉ biết lắc đầu, thở dài nói: “Khác biệt lớn lắm! Ài! Sinh tử chỉ trong tích tắc, tất cả chỉ vì nó mà ra cả!”

“Rõ này dọa nạt vớ vẩn! Mấy người các ngươi đừng có dọa nạt bọn ta không hiểu gì về y thuật mà ăn nói lung tung!” Vương lão thái bà vẫn cố cãi.

“Ngươi thì hiểu cái đếch gì!” Tạ đại phu gào lên thê thảm: “Con gái của ngươi vốn cơ thể yếu đuối, âm khí bị hao tổn, cộng thêm bị kinh nguyệt, âm dịch thoát ra ngoài dẫn đến bị khô, đang trong lúc hư như vậy, đã làm cho khí tà không thể thoát được ra ngoài rồi! Lúc này bệnh ôn, nóng chỉ dựa vào mỗi liều thuốc thanh mát để giải đã không còn cách nào khác rồi! Nhưng các ngươi lại còn giấu diếm ta không cho ta biết chuyện đó! Làm cho hai vị đại phu dùng thuốc trước ta đều thất bại, bệnh tình kéo dài, làm cho khí tà xâm nhập vào âm dịch, làm cho tổn thương âm khí của gan thận! Ta dùng Tam Giáp Phục Mạch Thang, vốn là đúng với bệnh rồi, nhưng các ngươi vẫn một mực che dấu không đem chuyện Vương cô nương bị kinh ra nói cho biết, chính vì vậy mà liều lượng thuốc của ta không đủ! Như muối bỏ bể! Sau đó các ngươi lại dùng thuốc nóng khô lung tung, như vậy chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa! Khí âm trong cơ thể của Vương cô nương vì thế mà cũng vong! Vương cô nương cũng do đó mà mất mạng!”

Tạ đại phu nói xong liền ngã gục người xuống đất, gào khóc lên oan ức, Lý đại phu và Hàn đại phu thấy vậy chỉ biết lắc đầu thở dài ngán ngẩm.

Đỗ Văn Hạo lúc này bèn phán: “Thôi được rồi! Bản án bây giờ đã được điều tra, xét xử xong rồi! Ba vị đại phu trong bản án chữa trị không có hiệu quả, là do khổ chủ đã giấu diếm bệnh tình, lại dùng thuốc lung tung dẫn đến cái chết của con mình! Phạm nhân Tạ đại phu không phải chịu bất kỳ trách nhiệm nào trong vụ án này! Lập tức thả người!”

Hai tên sai dịch nghe Đỗ Văn Hạo phán xong, liền lập tức bước đến bên Tạ đại phu mở xích gông xiềng trên tay, và chân cho ông ta.

“Đa tạ Đề Hình đại lão gia minh xét!” Tạ đại phu cảm động khóc lên rưng rức, quỳ dưới chân Đỗ Văn Hạo tạ ơn.

Chờ cho mọi người trong này đi hết ra ngoài rồi, Đỗ Văn Hạo mới quay đầu lại nhìn Trương Tri Huyện và Liêu Tri Phủ nói: “Nhị vị đại nhân! Bổn quan phán án như vậy, nhị vị thấy sao hả?”

Hai người nghe vậy liền vội vã tiến tới miễn cưỡng mỉm cười đáp: “Đại nhân phán án như thần! Bạ quan khâm phục vô cùng!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cười lên ha hả nói: “Nhị vị đại nhân thật là khiêm tốn quá rồi! Vẫn còn mấy vụ ná nữa, sư gia của bổn quan cũng đã cho thêm ý kiến vào rồi! Hai người các ngươi dựa theo đó mà về phán xét lại, sau đó đem kết quả lên cho bổn quan là được rồi!”

Trương Tri Huyện và Liêu Quý Binh nghe vậy liền vội vã cúi người tuân lệnh.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 365: Mồ Hôi Ra Nhiều (1+2)

Dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Vip.vandan

Share by: Mộng Hoa Trang

Nội Dung: hide

Đỗ Văn Hạo lúc này liền lên tiếng hỏi: “Việc chuẩn bị hội chẩn, trao đổi trau dồi về các chứng bệnh nan y, các ngươi chuẩn bị đến đâu rồi?”

Liêu Quý Binh nghe vậy thì vội vàng chắp tay đáp: “Các đại phu từ khắp nơi thôn làng, huyện xã, phủ lệ cũng đã đến đây đông đủ cả rồi! Mọi người đều rất mong chờ đại nhân đó ạ! Và còn có các vị nữ y, bà đỡ, thường ngày gặp các ca nan y đều có những kinh nghiệm nhất định! Ai nấy cũng đều chuẩn bị xong xuôi hết cả rồi, bây giờ chỉ chờ mỗi đại nhân mà thôi!”

“Vậy thì tốt! Ngày mai ta sẽ quay về Tĩnh Giang Phủ!” Đỗ Văn Hạo nói.

Liêu Quý Binh nghe vậy liền tiến tới cười nịnh nói: “Đại nhân y thuật như thần, đặc biệt còn có loại thuốc gì mà vừa uống cái đã làm cho người ta ngủ gục luôn xuống, rồi mổ bụng người ta, mọi người đều rất hiếu kỳ, không biết loại thuốc đó là thuốc gì! Quả là thần thông quảng đại vô cùng! Có rất nhiều đại phu đều chờ nghe đại nhân lên lớp cho bọn họ, tất cả bọn họ ai cũng muốn tận mắt chứng kiến thứ thuốc thần kỳ đo! Mấy ngày hôm nay, bọn họ đều đem đủ hết ngân lượng, tập trung ở trong thành xong đâu đấy cả rồi! Bây giờ chỉ chờ mỗi đại nhân thôi đó ạ!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong, liền đưa mắt lên liếc Thẩm sư gia một cái, thì thấy nét mặt của ông ta đơ như khúc gỗ, không hề có một chút sắc thái tình cảm nào cả. Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền cười khổ quay sang Liêu Quý Binh nói: “Bọn họ đường xa vất vả tới đây! Tất cả đều là muốn ta mở một lớp giảng dậy thật lớn, việc này cũng khá là mệt mỏi! Bổn quan bây giờ chỉ muốn nghỉ ngơi, chính vì vậy mà không mở lớp giảng dạy nữa! Ta chỉ hội chẩn trao đổi về các bệnh nan y, khó chữa mà thôi! Từ ngoài kia lựa chọn tầm khoảng bốn mươi, à không! Hai mươi người thôi! Ừm…từ từ đã! Mười người thôi, chọn mười người có y thuật cao siêu, phẩm đức cao sang nhất vào đây, ta mới truyền thụ cho! Còn thuốc gây mê và thuốc diệt trùng thì cũng đã có bán ở các hiệu thuốc đại lý rồi, chỉ cần chọn mua là được!”

Đỗ Văn Hạo trong lúc lựa chọn số lượng học sinh để truyền thụ giảng dạy, thì để ý thấy gương mặt của Thẩm sư gia cứ đanh lại, trơ ra như khúc gỗ, không có chút biểu cảm nào, chờ cho đến khi Đỗ Văn Hạo thu hẹp phạm vi học sinh xuống còn mười người, thì Thẩm sư gia lúc này mới vuốt vuốt râu quay sang hắn mỉm cười đồng ý với con số này. Con số này theo như Thẩm sư gia nghĩ là vừa đủ, nó vừa đạt đến mục đích truyền thụ y thuật, lại không cho các quan lại trong triều đình nắm được thóp tấu trình Đỗ Văn Hạo làm phản.

Mặc dù phạm vi dạy học của Đỗ Văn Hạo thu hẹp lại với số lượng ít một cách thê thảm, làm cho thu nhập của hắn bỗng nhiên giảm hẳn đi, nhưng Đỗ Văn Hạo lại đạt được mục đích mà mình đặt ra, đó là bình an, chỉ có bình an thì mới có phúc, nếu như không bình an thì lấy đâu ra cơ hội kiếm tiền! Đời còn dài, tương lai còn rộng, sau này thiếu gì cơ hội kiếm tiền đâu, việc gì cứ phải gấp gáp từ bây giờ!

Việc Đỗ Văn Hạo đột nhiên thay đổi ý kiến của mình làm cho Trương Quý Binh không thể nào hiểu nổi, nhưng Đỗ Văn Hạo lại đưa ra lý do vô cùng xác đáng, hắn nói hắn quá mệt muốn nghỉ ngơi, cho Liêu Quý Binh mười cái gan hùm cũng không dám khuyên hắn điều gì. Chính vì vậy mà ông ta chỉ biết cười nịnh nói rằng Đỗ Văn Hạo đã vất vả vì dân chúng quá mà thôi.

Tạ đại phu lúc này đứng trong trời mưa lất phất, khi trước trên người ông ta gông cùm toàn thân, chân bị xiềng xích, rồi còn bị nhốt trong nhà ngục ẩm thấp tối tăm, bây giờ bỗng nhiên được tự do. Thì Tạ đại phu giờ đây cảm thấy mình như vừa được trở lại với xã hội văn minh, mừng không sao kể xiết.

Tạ đại phu vốn là người của Nhạc Bình Huyện, là người ở trong thành, hai vị thầy thuốc khi trước là Lý đại phu và Hàn đại phu đều là những đại phu ở ngoài thành, một người ở thôn đông và một người ở thôn tây, chính vì vậy mà đường về của bọn họ đều không giống nhau, do vậy khi được Đỗ Văn Hạo thả ra, cả ba sau khi chia tay nhau xong liền chắp tay bái biệt, mỗi người một hướng.

Vợ chồng nhà Vương lão thái gia lại là người kiện tụng ông, suýt nữa phải làm cho ông đi đầy năm năm, chính vì vậy mà Tạ đại phu không thèm đi cùng đường với bọn họ. Nhưng vì hai vợ chồng nhà ông lão họ Vương là người trong thành, nên vẫn phải đi cùng một đoạn đường với nhau, nhưng Tạ đại phu vẫn cố ý đi chậm lại, có lúc còn dừng lại ở ven đường ngồi nghỉ, không muốn trông thấy mặt của hai người đó nữa.

Vương lão thái gia cũng có kiệu đưa, kiệu đón nhưng Vương lão thái gia vẫn không chịu lên trên kiệu ngồi, ông đưa mắt lên nhìn thân hình xác xơ của Tạ đại phu, trong lòng cảm thấy ăn năn, hối lỗi vô cùng. Nói cho cùng thì đúng là gia đình ông đã quỳ xuống cầu xin Tạ đại phu chữa trị cho con gái của ông và gia đình ông cũng đã hứa hẹn với Tạ đại phu rằng, cho dù hậu quả thế nào đi chăng nữa cũng không truy cứu! Vậy mà cuối cùng, gia đình ông lại nuốt lời! Nói đi nói lại cũng tại gia đình ông giấu diếm bệnh tình con gái mình, lại còn tự ý kê thuốc làm cho bệnh tình của con gái ngày càng nặng thêm, theo tình theo lý mà nói thì gia đình ông chẳng có lý do gì để trách cứ Tạ đại phu cả! Chính vì vậy mà Vương đại lão gia định tiến tới cúi người thi lễ tạ tội với Tạ đại phu. Nhưng ông vừa mới bước được có hai bước, thì đã bị Vương lão thái bà kéo giật lại, lôi ông lên kiệu mà đi.

Tạ đại phu dõi mắt hướng theo chiếc kiệu dần dần khuất bóng, rồi thở dài lên một tiếng não nề. Tạ đại phu không hề có ý muốn tìm ai để bồi thường thiệt hai cả, hơn nữa trong thời cổ đại, cũng không có cái chế độ bồi thường tổn thất tinh thần như trong vụ án này! Tạ đại phu trong lòng cũng chẳng có cái ý nghĩ phải nhận bồi thường tổn thất gì cả! Tự nhiên mắc phải cái chuyện không đâu này, ông chỉ biết trách mình đen đủi, bây giờ được Đỗ Văn Hạo giải oan cho ông, ông đã thấy mình may mắn lắm rồi, không hề có thêm một ý nghĩ đền bù xa xỉ nào nữa cả.

Vì không ai biết được Tạ đại phu bỗng nhiên được trả lại tự do, vì vậy mà người thân cũng như bạn bè của ông không ai đến đón ông cả. Tạ đại phu chầm chậm nhấc từng bước chân hướng về phía thành mà đi.

Bầu trời lúc này cũng đã nhá nhem tối, trời lại có mưa, đường về nhà phía trong thành của ông lại khá xa, nếu cứ theo như tốc độ này, thì có lẽ đến nửa đêm ông mới về đến nhà của mình mất. Bây giờ trời càng lúc càng mưa to, ông về đến nhà thì có lẽ cũng sẽ ướt như chuột lột.

Nhưng Tạ đại phu lúc này tâm trạng vô cùng thoải mái và hạnh phúc, ông không hề quan tâm đến mưa to hay mưa nhỏ, đường xa hay đường gần nữa, bây giờ ông chỉ thấy rằng mình là người vô cùng may mắn khi gặp được một Đề Hình đại lão gia lại rất tinh thông về y thuật! Nếu vị Đề Hình đại lão gia này là người không hiểu biết gì về y thuật, thì e rằng năm năm đi đầy khổ sai như vậy, ông không biết mình có sống được mà quay về không nữa.

Tạ đại phu đang trong lúc cảm khái hạnh phúc, thì đột nhiên nghe thấy có tiếng gọi ở phía sau lưng mình: “Tạ đại phu! Xin chờ một chút!”

Tạ đại phu nghe thấy có người gọi mình như vậy, bèn dừng chân đứng lại, quay người đưa mắt nhìn về phía tiếng người gọi, thì thấy một tên hộ vệ dắt theo một con ngựa đi tới, trên yên ngựa lúc này có treo thêm một chiếc áo tơi dùng để che mưa.

Tên hộ vệ lúc này đã bước đến trước mặt của Tạ đại phu ôm quyền nói: “Tạ đại phu! Đại lão gia của bọn tại hạ nói rằng, do Quan Huyện phán án sai lầm, làm liên lụy đến đại phu, thành thật xin lỗi đại phu vô cùng! Con ngựa này coi như là món quà bồi thường của Quan Huyện cho đại phu! Mong đại phu nhận lấy! Bây giờ trời cũng đã tối rồi, đại phu lên đường cẩn thận!”

Tạ đại phu thấy tên hộ vệ nói vậy, liền vội vã đưa tay lên xua liên tục nói: “Không không! Sao lại có thể như thế được! Đề Hình đại lão gia có thể giải oan cho lão phu, lão phu đã vô cùng cảm động rồi! Sao lão phu lại dám nhận quà tạ lỗi của đại lão gia được cơ chứ!”

Tên hộ vê kia thật sự cũng không hiểu tại sao Đỗ Văn Hạo lại ra cái mệnh lệnh quỷ quái này cho hắn, không biết tại sao Đề Hình đại lão gia chức cao vọng trọng như vậy, mà lại đi xin lỗi một tên đại phu quèn, lại còn tặng ông ta một con ngựa nữa, từ trước đến giờ người làm quan lúc nào cũng thét ra lửa, làm gì có chuyện hạ mình như thế này bao giờ đâu cơ chứ.

Tên hộ vệ cũng không biết nên giải thích thế nào cho Tạ đại phu hiểu, hắn cũng chỉ biết cau mày nói: “Đề Hình đại lão gia bảo đưa cho ngươi, thì ngươi cứ việc cầm lấy, còn lắm lời làm cái gì nữa! Thôi mau lấy ngựa mà đi đi!” Nói xong, tên hộ vệ cũng quay người bỏ đi.

Tạ đại phu cũng đã quá quen thói quan hách dịch này từ lâu lắm rồi, chính vì vậy mà ông cũng không thèm để ý gì đến thái độ hỗn lão, xấc xược của tên hộ vệ kia, hoặc có thể ông còn cho nó là chuyện đương nhiên. Nhưng ông làm thế nào cũng không thể hiểu được Đề Hình đại nhân tại sao lại đối xử với ông như vậy, chờ cho tên hộ vệ kia đi xa rồi, Tạ đại phu liền hồi tưởng lại những gì đã xảy ra với mình, ông lập tức quỳ xuống hướng tay lên trời, cao giọng nói: “Đạ tạ! Đạ tạ ơn nghĩa to lớn của Đề Hình đại nhân, đa tạ đại nhân đã ban ngựa cho tiểu nhân! Tiểu nhân không biết lấy gì để báo đáp, chỉ còn biết mỗi một cách ngày ngày cầu trời phù hộ cho người! Hưởng thọ muôn tuổi!”

Lúc này Tạ đại phu mới chợt nhớ ra là mình đã lỡ lời, vì những lời nói này của ông chỉ dành riêng cho Hoàng Thượng, nên thấy mình thật là hồ đồ, cảm thấy không hợp tình hợp lý chút nào. Tạ đại phu vội vã ôm chặt miệng lại, đưa mắt ra nhìn xung quanh, cũng may lúc này trời mưa rả rich, khắp xung quanh không có lấy một bóng người.

Mưa rơi càng lúc càng to, Tạ đại phu vội vã mặc áo tơi lên trên người, sau đó tóm lấy yên ngựa, sau một hồi vật lộn vất vả, Tạ đại phu mới leo được lên trên lưng ngựa, sau đó hai chân ép vào bụng ngựa, họ lên một tiếng, con ngựa chầm chậm lọc cọc bước đi theo tiếng họ của ông.

Có ngựa có khác, tốc độ của ông bây giờ tăng lên rõ rệt, khi mới bắt đầu gõ canh báo đêm, thì Tạ đại phu đã vào đến bên trong thành rồi.

Tạ đại phu đội mưa đi về đến cổng nhà, sau một hồi gõ cửa lâu la, ông mới nghe thấy bên trong có tiếng nói run run vọng ra hỏi: “Ai đó?”

Đó là tiếng nói của một người phụ nữ cao tuổi, nghe giọng nói thì Tạ đại phu biết ngay đó là phu nhân của mình, ông vội vàng lên tiếng: “Là ta đây! Mau mở cửa cho ta nhanh lên!”

“Hả? Lão gia? Đúng là là lão gia đó ư?” Giọng nói kia kinh ngạc vang lên.

“Đúng vậy! Mau mau mở cửa nhanh lên! Ta ướt hết cả người rồi đây này!” Tạ đại phu sốt sắng đáp lại.

Tiếp sau đó là tiếng chân dẫm xuống nền sân ngập nước kêu lên lõm bõm, liền ngay lúc đấy là tiếng cửa mở ra kêu lên ken két, một bà lão đứng ngay ở trước cổng, nhờ vào ánh đèn leo lét trên tay nheo mắt nhìn ra bên ngoài.

Tạ đại phu lúc này đầu đội nón lá, mình mặc áo tơi, tay vẫn còn dắt theo một con tuấn mã, tướng mạo lại trông không rõ ràng, bà lão trông bộ dạng của Tạ lão phu thì thấy ngờ ngợ, không nghĩ là chồng của mình lại có vẻ oai phong như vậy, nên vội vã khép cánh cổng lại hơn một nửa, cảnh giác hỏi: “Ngươi! Ngươi là ai hả?”

Tạ đại phu thấy vậy liền bỏ chiếc nón lá xuống, tiến lên một bước đáp: “Là ta đây!”

Đến lúc này, toàn bộ gương mặt của Tạ đại phu dưới ánh đèn le lói trên tay bà lão mới hiện lên chân thực, rõ ràng. Bà lão cuối cùng cũng trông rõ được khuôn mặt của Tạ đại phu, giọng bà run run nói: “Ôi! Lão gia! Đúng là lão gia đây rồi!”

Bà lão lúc này mới lật đật tiến lên thêm một bước, đưa tay lên nắm vào cánh tay của Tạ đại phu, rồi khóc lên hu hu, sau một hồi khóc lóc, bà lão mới sực tỉnh ra, đưa tay đẩn Tạ đại phu lại rồi nói: “Ông! Ông sao lại ra ngoài được thế này? Ông không phải bị giam trong ngục rồi hay sao hả? Trên người ông lúc này vẫn mặc áo của phạm nhân phải không? Hả? Lẽ nào ông trốn trại ra bên ngoài này? Con ngựa ở đâu mà có vậy hả? Ông đừng có bảo với tôi là ông ăn cắp đấy nhé! Ôi trời ơi! Thôi ông biết mình có tội như vậy thì hãy đến nha môn tự thú đi, cứ lẩn trốn thế này cũng không lẩn trốn được bao nhiêu ngày đâu! Đi! Mau đi nhanh lên!”

Bà lão trong lúc vội vàng hấp tấp, cộng thêm với sự bất ngờ choáng ngợp, lại thấy Tạ đại phu vẫn mặc áo tù, nên cứ tưởng ông ta vượt ngục chạy ra ngoài, chính vì vậy mà bà lấy hết sức kéo ông đi ra ngoài tự thú.

Tạ đại phu thấy vậy liền mỉm cười, sau đó giằng tay ra khỏi cánh tay của bà nói: “Bà cứ yên tâm! Lão già này được trả tự do một cách vô cùng chính đáng! Hôm nay ta gặp được một vị quý nhân! Ngựa, nón lá, áo tơi, tất cả đều là do ông ấy cho ta cả!”

Bà lão ngạc nhiên hỏi: “Ông nói gì cơ? Quý nhân?”

Tạ đại phu gật đầu nói: “Vị quý nhân đó chính là Đề Hình đại lão gia đến từ kinh thành!”

Bà lão kinh ngạc hỏi: “Hả? Thế chuyện rốt cuộc là sao vậy hả lão gia?”

Tạ đại phu lúc này liền đẩn bà lão sang một bên, giả bộ tức giận nói: “Này! Bà không thấy ta toàn thân ướt nhẹp hết rồi hay sao hả? Sao vẫn còn chắn ở ngay giữa cổng không cho ta vào, lẽ nào bà muốn ta bị cảm hay sao?”

Bà lão nghe vậy liền vội vã chạy tới đỡ Tạ đại phu vào bên trong nhà, Tạ đại phu lúc này liền buộc con ngựa vào đống củi ở sân, sau đó đi vào bên trong, rồi thuật lại câu chuyện cho bà lão nghe.

Bà lão cảm kích đến rơi nước mắt, hai tay đưa lên trên trời không ngớt lời nói: “Đa tạ! Đa tạ ông trời! Đa tạ ông trời!”

Tạ đại phu nghe vậy, liền tức giận nói: “Bà cảm ơn ông trời làm cái gì cơ chứ! Người cần cảm ơn chính là Đề Hình đại nhân! Đỗ đại lão gia!”

“Ồ! Vâng! Đúng vậy!” Bà lão vội vã đưa tay tát nhẹ lên khuôn mặt đầy nếp nhăn của mình mỉm cười nói: “Tại tôi vui mừng quá nên hồ đồ mất rồi!”

Tạ đại phu lúc này mới cảm khái nói: “Đúng vậy! Bà đã bao giờ bà gặp được vị quan nào tốt bụng như vậy chưa? Nếu như vị quan nào cũng tốt như vậy, thì dân chúng chúng ta đúng là được nhờ! Hắt ….xì….!”

Tạ đại phu vừa nói đến đây thì vội hắt vì lên mộ cái, bà lão vội vàng nói: “Ối chao! Lão gia! Cả đường đi lão gia đã bị nhiễm nước mưa rồi, nhanh nhanh! Mau vào bên trong mà thay áo đi, tôi đi hâm bát gừng nóng cho lão gia uống!”

Bà lão sau đó liền đẩn Tạ đại phu vào bên trong phòng, Tạ đại phu liền lên tiếng hỏi: “Này mấy đứa trẻ đâu hết cả rồi?”

“Về hết nhà chồng rồi! Xem ra đất nhà bên đó không ổn rồi!” Bà lão ngán ngẩm nói.

Tạ đại phu ngạc nhiên hỏi: “Có chuyện gì vậy?”

“Ài! Tất cả đều tại ông trời cả, trời cứ như thế này, thì ai mà trồng trọt được cái gì nữa! Chẳng có gì để mà sống nữa rồi! Nói là muốn bán đất đi, nhưng đúng là tên trời đánh đó không cho người khác vào mua, bọn trẻ bây giờ đang thương lượng nên làm thế nào đây này!”

“Thì đến đây ở với chúng ta chứ làm sao!” Tạ đại phu nói.

Bà lão nghe vậy liền tức giận nói: “Lão gia! Xem ông nói lung tung cái gì kìa! Người ta cả một gia đình như vây, tự nhiên chạy về nhà nhạc phụ nhạc mẫu để ở! Để rồi cái mặt của người ta đặt đâu cho hết xấu hổ đây hả?”

“Bà nói cũng đúng! Hắt….xì….!” Tạ đại phu lại hắt xì lên một cái rõ to.

“Thôi chết! Lão gia! Ông mau mau đi thay quần áo đi! Trời lạnh thế này, cẩn thận bị cảm đó!” Bà lão nói với giọng vô cùng lo lắng.

Và đúng là cái miệng vạ cái thân, đúng như những gì bà lão cảnh báo, cho dù Tạ đại phu có uống thêm nước trà gừng nóng, nhưng đến nửa đêm vẫn lên cơn sốt hừng hực, tiếp sau đó là đau bụng đi ngoài, rồi nôn mửa. Bà lão thấy vậy thì chỉ biết lo lắng khóc lóc, không biết làm thế nào cho phải.

Tạ đại phu ôm lấy chiếc chăn run lên cầm cập nói: “Ta! Ta e là mắc phải bệnh ôn nhiệt rồi! Bà lão! Mau mau đi gọi đại phu giúp ta mau lên!”

Bà lão vội vã gật đầu đồng ý, sau đó chạy vội ra ngoài cửa, nhưng khi mới chạy được mấy bước thì thấy bên ngoài sấm chớp kêu đùng đoàng, bắn loằng ngoằng trên trời, cộng thêm mưa càng lúc càng to, nên lại quay lại nói: “Bây giờ đêm hôm khuya khoắt thế này! Bên ngoài lại mưa gió bão bùng! Tôi…tôi! Mà ông không phải là đại phu sao? Trong nhà còn có thuốc nữa! Hay là ông tự kê cho mình một đơn thuốc, tôi sắc cho ông uống!”

Tạ đại phu run lên cầm cập, nói không ra hơi: “Đúng là vớ vẩn! bà…bà không biết là thầy thuốc làm gì có ai tự chữa được cho mình bao giờ?”

“Bây giờ bên ngoài mưa to như vậy! Đại phu nhà người ta chắc gì đã đồng ý đến chữa trị giúp cho ông cơ chứ! Ai dà! Ông tự kê cho mình đơn thuốc đi! Ông ngày trước không phải cũng tự cắt thuốc ho mình rồi đấy sao! Thôi mau mau làm đi!”

Lúc này, một tia sáng lóe lên xé rách bầu trời, làm cả một vùng sáng trói lên một cái, tiếp theo sau đó là một tiếng nổ long trời nở đất, làm cho bà lão sợ giật bắn mình, suýt nữa ngã xuống dưới sàn nhà.

Tạ đại phu thấy bà lão sợ xanh mắt mèo như vậy, cũng đành bất lực lắc đầu nói: “Thôi đành vậy! Dùng Cát Căn Thang vậy!”

Nói xong liền bảo bà lão kê luôn đơn thuốc, bà lão ngày thường cũng giúp Tạ đại phu chữa bệnh cho người khác, nên cũng hiểu một chút về y thuật, khi nghe Tạ đại phu nói vậy, liền lật đật chạy đến phòng chứa thuốc, bốc thuốc ra sắc.

Sau một hồi bận rộn xong xuôi, cuối cùng bát thuốc cũng được bưng lên cho Tạ đại phu uống.

Chờ đến lúc trời sáng, thì Tạ đại phu bỗng nhiên cảm thấy thân thể run lên không ngừng, tiếp sau đó là mồ hôi túa ra như suối, được nửa canh giờ sau, thì hiện tượng sốt cao của ông rút hẳn, nhưng lại biến thành lạnh cóng, như một bộ cương thi, bất tỉnh nhân sự không biết gì nữa. Điều này làm cho bà lão sợ đến mất mật, gào khóc lo lắng, sau đó bà liền chạy sang bên nhà hàng xóm cầu cứu.

Hàng xóm nghe nói Tạ đại phu được quan phủ tha tội, ai nấy cũng đều vui mưng cho ông ta, nhưng bây giờ nghe nói ông ta bị bệnh nghiêm trọng, ai cũng lo lắng. Nhưng rất nhanh mọi người liền gọi thêm mấy người nữa, đặt Tạ đại phu lên một tấm phản, sau đó liền khiêng ông ta đi tìm thầy thuốc cứu chữa.

Khi đi qua cổng phủ Nha Môn, thì mọi người trông thấy đoàn người rồng rắn nhau khiêng người vất vả như vậy, ai cũng nhường đường cho đi, bỗng lúc này có một người quen bà lão phu nhân của Tạ đại phu liền lên tiếng hỏi: “Ôi! Đây không phải là Tạ đại tẩu hay sao? Tấm phản kia khiêng ai vậy?”

Bà lão vội vàng nói: “Là lão gia của ta! Hôm qua ông ấy được Đề Hình đại nhân xét xử lại vụ án, giải oan cho rồi! Sau đó lão gia của ta được thả về, nhưng trên đường về nhà bị nhiễm mưa, bảo là mắc chứng bệnh ôn nhiệt, giờ phải đi tìm đại phu chữa trị cho ông ấy!”

Người kia nghe xong thì ồ lên kinh ngạc, sau đó chỉ tay vào cổng Nha Môn nói: “Xem ra Tạ đại phu bị bệnh khá nặng, tìm người khác có khi lại hỏng chuyện! Hơn nữa, các vị đại phu có tiếng trong thành hiện giờ đều ở hết trong Nha Môn rồi, đại tẩu bây giờ có tìm được ai nữa không?”

“Hả?” Bà lão kinh hãi nói: “Vậy…vậy phải làm sao bây giờ?”

“Tạ đại tẩu! Đại tẩu thật đúng là! Trước mắt đại tẩu bây giờ có một vị phật sống ở ngay trong kia, đang hội chẩn cùng các vị đại phu đó! Sao đại tẩu phải đi cầu tít tận đẩu tận đâu làm gì cơ chứ?” Người kia mỉm cười đưa tay chỉ vào trong Nha Môn nói.

Bà lão đang trong lúc không biết làm thế nào, nghe người này nói vậy chẳng khác nào người chết đuối với được cọc, ngay lập tức bảo mấy người hàng xóm khiêng Tạ đại phu xông thẳng vào trong Nha Môn.

Mấy tên sai dịch đứng canh ngoài cửa thấy vậy liền lên giọng quát: “Làm cái gì vậy hả? Định làm loạn hay sao? Chán sống rồi hả?”

Bà lão thấy vậy vội vã quỳ xuống nói: “Lão gia của lão nô hôm qua được Đề Hình đại nhân xét xử lại, và được đại nhân minh oan, trả lại tự do, nhưng trên đường về ông ấy bị nhiễm bệnh, sắp chết đến nơi rồi, mong Đề Hình đại nhân cứu mạng!”

Mấy tên sai dịch cũng có người quen Tạ đại phu, giờ thấy Tạ đại phu nằm hôn mê bất tỉnh ở trên tấm phản, biết bệnh tình của ông ta không hề đơn giản chút nào, nên vội vã chạy vào bên trong bẩm báo.

Đỗ Văn Hạo lúc này đang đứng giảng giải về phẫu thuật vô trùng, cùng với những trí thức của thuốc gây mê, khi nghe thấy tên sai dịch chạy vào thông báo như vậy, liền lập tức bảo người khiêng Tạ đại phu vào bên trong.

Tạ đại phu sau khi được khiêng vào bên trong xong rồi thì được đặt ngay xuống đất, bà lão lúc này nước mắt ngắn, nước mắt dài dập đầu xuống đất, cầu xin Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo liền lên tiếng hỏi quá trình dùng thuốc của Tạ đại phu ra sao, sau đó hắn liền chẩn mạch xem lưỡi, rồi khoát tay bảo bà lão đứng sang một bên, rồi gọi mười vị danh y kia đều đến đây, hỏi bọn họ xem nên giải quyết ra sao.

Một vị đại phu cao tuổi lắc đầu, thở dài nói: “Mồ hôi ra nhiều, run rẩy thân thể cứng như cương thi, xem ra e chắc là bị thoát dương rồi!”

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 366 Biện chứng thoát dương (1+2)

Dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Vip.vandan

Share by: Mộng Hoa Trang

Nội Dung: hide

Đỗ Văn Hạo lắc lắc đầu nói: “Bệnh ôn nhiệt, thì sau khi ra mồ hôi nhiều, nếu như toàn thân lạnh, mạch phù, sẽ làm cho người bệnh buồn bực không yên, thở gấp nhưng không ra hơi! Đấy mới là hiện tượng của thoát dương! Nhưng bây giờ người bệnh sau khi dùng thuốc xong thì sốt đã giảm, nhưng thân thể lại lạnh mạch tĩnh! Cái này giống như trời đang nóng nực không tả, đột nhiên có trận mưa rào, dĩ nhiên cái nóng sẽ lập tức bị dập tắt, khí mát sẽ vô cùng! Bây giờ mạch tượng của người bệnh bình ổn, chỉ là mồ hôi ra nhiều không ngớt, là do cái nóng còn dư trong người đang toát ra ngoài, đây không phải là thoát dương! Không cần phải lo lắng!”

Tuy nói là không phải lo lắng, nhưng bà lão nhìn chồng mình bất tỉnh nhân sự, không biết cái gì, thì không lo lắng không được, bà lão vì sốt ruột nên vội vã lên tiếng hỏi: “Đề Hình đại lão gia! Vậy bây giờ nên làm thế nào đây!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền mỉm cười nói: “Không cần phải nóng vội như vậy! Cũng không cần phải đi xem đại phu nào hết, khiêng về nhà, đặt lên trên giường, cứ để ông ta ngủ một giấc, rồi ông ta sẽ tỉnh lại thôi! Bà nên nhớ kỹ là không được gọi ông ta thức dậy đâu đấy! Cứ để ông ấy ngủ và tỉnh lại một cách tự nhiên, sau đó dùng Nhân Sâm ba tiền, Đại Mạch Đông sáu tiền sắc thành thuốc uống! Sau đó lại cho ông ta uống một ít nước gạo mát, trước khi ông ta hoàn toàn tỉnh lại, tự do hoạt động thì không được phép để ông ta ăn bất cứ một loại thức ăn nào khác, nghe chưa?”

Bà lão nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy liền dập đầu tạ ơn, sau đó liền bảo hàng xóm khiêng tấm phản đỡ Tạ đại phu lên, rồi đi về nhà.

Đến trưa, Đỗ Văn Hạo sau khi lên lớp cho mười vị đại phu trong thành xong, liền quay về nơi ở của mình, Lý Phố lúc này liền tiến tới trình báo: “Bẩm đại nhân! Bọn thủ hạ đã cho người đi thăm hỏi khắp nơi rồi, không phát hiện ra có vấn đề gì cả !”

Thì ra, đêm hôm đó Đỗ Văn Hạo cho bọn người của Lý Phố đến tìm hai vị đại phu họ Hàn và họ Lý cùng với hai ông bà lão họ Vương để xử lý vụ án của Tạ đại phu! Đúng lúc đó thì gặp người của Nha Môn đang định đưa ba người này ra khỏi huyện, sau khi biết Đề Hình đại nhân muốn gặp ba người này, thì bọn Nha Môn đó đều lo lắng bỏ đi. Đỗ Văn Hạo sau khi xét xử lại vụ án của Tạ đại phu xong rồi thả ông ta về, thì hai ông bà lão nhà họ Vương cũng bỏ đi. Đỗ Văn Hạo liền cho Lý Phố và đám hộ vệ của ông ta đi theo giám sát, đồng thời cũng cho người đi thám thính tại sao ở địa giới của Tĩnh Giang Phủ lại có đồn điền bỏ hoang như vậy. Nhưng, tiếc là tất cả bọn họ đều không thám thính được bất cứ điều gì, Đỗ Văn Hạo lúc này liền bảo mấy người của Lý Phố tiếp tục giám sát, điều tra thêm.

Đến chiều, Đỗ Văn Hạo lại tiếp tục trao đổi hội chẩn với mười vị danh y có tiếng ở trong thành, đồng thời còn dạy cho bọn họ biết thêm về những kiến thức của phẫu thuật ngoại khoa.

Đến chập choạng tối, có tên nha dịch chạy vào bẩm báo nói rằng bà lão ban sáng lại khiêng Tạ đại phu đến, nói là Tạ đại phu bệnh tình nghiêm trọng, mời Đỗ Văn Hạo ra tay cứu chữa.

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì kinh ngạc vô cùng, liền vội vã cho người ra bảo bọn họ khiêng Tạ đại phu vào trong này khám xét.

Lúc này, chỉ thấy Tạ đại phủ nằm lên trên chiếc phản, thở ra khó nhọc, cơ thể sốt cao, thần sắc khô nóng, khó chịu, Tạ đại phu không ngừng lăn lộn một cách cực khổ, bà lão đem theo cả một đôi nam nữ trẻ tuổi đi cùng, khóc lóc sụt sùi.

Đỗ Văn Hạo liền tiến tới đưa tay lên bắt mạch, thì thấy mạch tượng đập nhanh, lưng ướt đẫm mồ hôi, hắn liền vội vã hỏi nguyên do tại sao, thì bà lão cứ ấp a ấp úng không chịu nói ra.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền tức giận, đứng dậy quát lớn: “Nếu ngươi muốn như vậy, thì xin mời cứ việc khiêng Tạ đại phu về!”

Bà lão nghe vậy thì sợ hãi, lên tiếng nói: “Khi dân phụ vừa về đến nhà, thì con trai và con dâu của dân phụ cũng vừa vặn quay về, nghe nói cha mình bị bệnh nghiêm trọng, hôn mê bất tỉnh! Nên con trai của dân phụ cũng kê một đơn thuốc cho cha nó dùng, vì nó ngày trước cũng theo cha nó học y, nhưng sau khi dùng thuốc xong thì kết quả lại như thế này! Hu hu hu!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền quay sang người thanh niên trẻ tuổi hỏi: “Ngươi là con trai của Tạ đại phu hả?”

Người thanh niên đó bèn đáp: “Thưa, vâng!”

“Vậy trưa nay ngươi kê thuốc gì cho cha ngươi uống vậy?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

Con trai của Tạ đại phu nghe vậy liền đáp: “Tiểu nhân thấy toàn thân gia phụ toát mồ hôi, mạch đập yếu ớt, thì nghĩ đó là chứng Thoát Dương, chính vì vậy mà tiểu nhân dùng Phụ Tử, Nhân Sâm sắc đặc lên cho gia phụ uống!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì tức giận quát lên: “Ngươi muốn cha của ngươi chết sớm hay sao mà lại kê thuốc uống như vậy!”

Người thanh niên đó vốn đã biết Đỗ Văn Hạo là Đề Hình Quan, lại là Ngự Y bên cạnh Hoàng Thượng, nên khi nghe hắn gầm lên như vậy, thì hoảng sợ hồn bay phách tán, vội vã quỳ xuống nói: “Thưa đại nhân! Tiểu nhân nào dám như vậy! Tiểu nhân sao lại có thể bất hiếu như vậy được cơ chứ!”

“Cha của ngươi vốn đang bị bệnh rất nặng, ông ấy sau khi dùng thuốc xong, thì biện chứng đều không có vấn đề gì! Nhưng, ông ấy mắc phải chứng Ôn Nhiệt rất nặng, người run rẩy lại toát mồ hôi! Toàn thân thoát khí là một hiện tượng thông thường, đã thế mồ hôi lại thoát ra vừa nhiều, vừa lớn, và những hạt mồ hôi to nặng đó có những lúc lại nhơm nhớp như dầu mỡ, từ bệnh tình của cha ngươi thì ta có thể xác định cha ngươi bị Thoát Chính! Vậy nhưng, ngươi lại tự cho là thông minh tự dùng Nhân Sâm, Phụ Tử, như vậy chẳng khác nào cho dầu vào lửa, chính vì vậy mà cha ngươi mới trở nên như vậy! Đúng là học nghệ không tinh, hại mình hại người!”

Con trai của Tạ đại phu nghe vậy thì ôm mặt gào khóc thảm thiết, không ngừng dập đầu cầu xin Đỗ Văn Hạo cứu lấy cha của mình.

Đỗ Văn Hạo liền nói: “Ngươi tự gây ra chuyện này, thì ngươi tự đi mà giải quyết! Bệnh của cha ngươi vẫn chưa đến mức độ nguy hiểm lắm! Ngươi thử nói một bài thuốc ra cho ta nghe xem nào!”

Con trai của Tạ đại phu lúc này đang hối hận vì hành động của mình, làm sao còn đầu óc đâu mà nghĩ ra phương pháp chữa bệnh nữa chứ, trong lúc hoang mang cực độ, mồ hôi của anh ta vã ra như suối.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền lên tiếng nói: “Ài! Thương Hàn, Ôn Nhiệt thì dùng Trúc Diệp Thạch Cao thang, theo bệnh tình nặng nhẹ mà lượng liều thuốc cho nó vừa phải!”

Con trai Tạ đại phu nghe vậy, thì như sực tỉnh cơn mê, gật đầu lia lịa.

Đỗ Văn Hạo lại nói tiếp: “Bài thuốc này có thể cho thêm Vi Căn, Huyền Sâm sắc xong cho uống như uống trà, dùng làm nhiều lần trong ngày, đến lúc đó sẽ có hiện tượng toát mồ hôi nữa! Còn nhiệt dư trong người ông ta, cũng sẽ tự động rút thôi! Hơi thở lúc đó cũng trở nên bình ổn, lúc này cho uống thêm nước gạo mát, biết nước gạo mát dùng để làm gì không hả?”

Con trai của Tạ đại phu dù gì cũng là theo cha học y bao lâu, nên cũng biết công dụng của nó: “Dạ là dùng để hồi phục lại khí cho dạ dày!”

“Đúng lắm!” Độ Văn Hạo nói.

“Ngươi hiểu biết về y thuật, như vậy cũng đỡ! Tiếp sau đó thì tiếp tục bồi khí cho dạ dày, xong đâu đấy là cha ngươi sẽ khỏe lại thôi!”

Được sự chỉ điểm của Đỗ Văn Hạo, ba mẹ con nhà Tạ đại phu dưới sự giúp đỡ của hàng xóm, lại khiêng Tạ đại phu quay về nhà chữa trị. Sau khi về đến nhà, thì con trai của Tạ đại phu làm theo đúng những gì mà Đỗ Văn Hạo đã dặn dò, đến tối thì quả nhiên Tạ đại phu toát mồ hôi ra như tắm, sốt cũng giảm, Tạ đại phu cũng dần dần tỉnh lại.

Sau mấy ngày tĩnh dưỡng xong, bệnh tình của Tạ đại phu đã hoàn toàn khỏi hẳn. Cả gia đình của Tạ đại phu lúc này đều vô cùng cảm động, biết ơn Đỗ Văn Hạo, gặp ai cũng khen Đề Hình đại nhân Đỗ Văn Hạo chẳng khác nào vị bồ tát tái thế, còn vợ của Tạ đại phu thì lập nguyên hẳn một bài vị để thờ phụng Đỗ Văn Hạo, ngày nào cũng ba nén hương, thành khẩn cầu khấn trời xanh bảo hộ cho Đỗ Văn Hạo phúc lộc đầy nhà, vạn thọ vô cương. Còn con trai của Tạ đại phu sau khi được Đỗ Văn Hạo chỉ điểm, thì ngày đêm miệt mài dùi dũa y học và sau này cũng trở thành một đại danh y. Nhưng những chuyện đó là chuyện của sau này, còn Tạ đại phu sau khi tỉnh lại liền quay sang hỏi bà lão và con trai mình: “Ta! Ta đang ở đâu đây?”

Con trai của Tạ đại phu thấy vậy liền đáp: “Đây là nhà mình! Cha! Lúc nãy con có đưa cha đi tìm Đề Hình đại nhân chữa bệnh giúp cho cha! Đề Hình đại lão gia quả nhiên y thuật như thần, lại còn dạy cho con biết biện chứng dùng thuốc kê cho cha uống! Chính vì vậy mà cha mới khỏi bệnh được như bây giờ!”

Bà lão và con dâu của Tạ đại phu nghe vậy, liền gật gật đầu tán đồng.

Tạ đại phu khó nhọc nhấc cánh tay của mình lên, rồi đưa về hướng của cửa sổ, thều thào nói: “Tiểu nhân đa tạ Đề Hình đại lão gia đã cứu lấy cái mạng già này!”

Cả con trai và con dâu của Tạ đại phu thấy vậy, đều đồng loạt quỳ xuống hướng về phía cửa sổ dập đầu quỳ lạy.

Còn bà lão thì nước mắt ngắn nước mắt dài nói: “Đúng vậy! Đề Hình đại lão gia không những giải oan cho ông! Mà còn tặng ông con ngựa, giờ lại còn chữa trị cứu mạng cho ông! Đại lão gia đúng là đại ân nhân của gia đình chúng ta! Ông trời đúng là có mắt, đã cho đại lão gia làm quý nhân phù trợ cho chúng ta! Lão gia! Bây giờ bên nhà thông gia không còn chỗ sống nữa rồi, hai nhà giờ đây đều trông chờ hết vào ông đó! Nếu ông mà có mệnh hệ nào thì gia đình chúng ta sẽ ra sao đây!”

Nghe bà lão nói vậy, con dâu của Tạ đại liền phu nhớ đến cảnh cơ cực của nhà mình, bất giác cảm thấy khổ nhục, khóc thút thít.

Tạ đại phu nghe vậy liền quát mắng: “Khóc cái gì mà khóc! Ta đã chết đâu mà khóc hả!”

Con dâu của Tạ đại phu nghe vậy liền vội vã nín chặt miệng lại, nhưng vì quá đau buồn, nên nàng vẫn nấc lên rưng rức.

Tạ đại phu lúc này liền bảo con trai của mình dìu mình dựa vào đầu giường rồi thở hắt ra nói: “Hôm qua ta về đây, nghe mẫu thân của mày nói là bên thông gia xảy ra chuyện! Rốt cuộc là chuyện gì vậy hả?”

Con dâu của Tạ đại phu lúc này nấc nghẹn lên đáp: “Dạ! Cũng không có gì đâu ạ!”

“Không có gì, sao mày còn khóc hả? Nói mau!” Tạ đại phu cả giận nói.

Con dâu của Tạ đại phu nghe vậy thì run rẩy đáp: “Dạ! Năm nay….năm nay, cha của con nói là không mua thóc giống của Nha Môn, sau đó lén lút chạy ra bên Hành Châu mua một ít thóc giống về, rồi âm thầm trồng trên mấy cái đồi ở ven núi! Cha của con nói, vì nơi đó người ta ít qua lại, không có việc gì phải lo! Kết quả là, nơi đó lúa đều trổ rất tốt, nhưng khi sắp thu hoạch thì bị phát hiện! Nha môn nói là cha của con không tuân thủ pháp lệnh, sau đó bọn họ liền bắt cha của con vào ngục! Không những tra tấn ông ấy một trận thừa sống thiếu chết, mà còn nói phạt tiền năm trăm lượng nữa! Bọn họ hẹn hạn trả tiền là ba ngày, nếu không trả hết sẽ bắt cha con đi đầy sáu năm!”

Tạ đai phu nghe xong, thì tức giận đến phát điên, quát lớn: “Bọn nha môn thật là quá quắt! Trên đời này có còn Vương Pháp nữa hay không?”

Bà lão nghe vậy, thất kinh vội vã chạy đến bịt miệng Tạ đại phu lại nói: “Lão gia nói nhỏ thôi!”

Con trai của Tạ đại phu thấy vậy cũng nói: “Đúng vậy đó cha! Ông trời thì cũng là ông trời của bọn chúng! Bọn chúng muốn làm gì thì làm nấy! Làm gi có ai chống lại được bọn chúng!”

“Nói nhảm!” Tạ đại phu tức đến run hết cả người, chòm râu bạc của ông như muốn dựng ngược lên: “Ông trời là của Hoàng Thượng! Chứ không phải là của bọn chúng!”

Khi vừa nói đến đây, thì bà lão lại vội bịt miệng của Tạ đại phu lại nói: “Ôi! Lão gia của tôi ơi! Chuyện bên nhà thông gia của chúng ta còn chưa xong! Ông đừng có gây thêm chuyện nữa được không hả ông?”

Tạ đại phu nghe vậy tức giận, đưa tay lên gỡ tay bà lão đang bịt miệng mình ra, căm hận nghiến răng nói: “Được! Ta không nói nữa là cùng chứ gì! Tay của bà mấy ngày không rửa rồi, thối quá!”

Bà lão nghe vậy, giật mình vội vã thu tay lại, rồi lau lau vào vạt áo của mình.

Tạ đại phu lại hỏi: “Vậy tình hình bây giờ thế nào rồi?”

Con dâu của Tạ đại phu nghe vậy bèn nói: “Trong nhà của con vốn bây giờ cũng chẳng có tiền, giờ lại bắt đền tận năm trăm lạng! Con đào đâu ra tiền bây giờ! Bọn con bàn đi bàn lại, chỉ còn biết mỗi cách là bán đất, vì dù sao đất cũng là đất hoang có trồng trọt được cái gì đâu cơ chứ!”

Tạ đại phu nghe vậy liền thở dài não nề nói: “Ài! Nếu như cứ tiếp tục như vậy! Thì dân chúng còn biết sống thế nào đây! Thế chỗ đất đó bán được bao nhiêu vậy, có đủ không?”

“Riêng mảnh đất đó thì không đủ, bọn con phải bù thêm cả nhà nữa mới miễn cưỡng gom đủ số tiền!” Con dâu của Tạ đại phu đáp.

Tạ đại phu nghe xong thì sững người, sửng sốt nói: “Đất to như thế, cũng không có giá năm trăm lượng hay sao?”

Con trai của Tạ đại phu nghe vậy, đau khổ đáp: “Nếu muốn bán, thì có lẽ bán được đến tận một ngàn lượng cơ! Đất đai của nhà vợ con đều là nơi có tiếng là đất tốt!”

“Vậy tại sao lại bán không được năm trăm lạng vậy?” Tạ đại phu thắc mắc.

“Cha! Cha cả ngày hành y, cha đâu có hiểu chuyện đất cát là gì đâu! Nha môn đã sớm có thông báo rồi, nói rằng không ai được phép mua bán đất tư, người nào vi phạm sẽ bị xử phạt nghiêm minh! Bọn chúng còn nói rõ thêm rằng, để cho những người có đất khi nào cần tiền gấp, thì có thể đem ruộng đất đi cầm cố cho nha môn, chờ đến khi có tiền sẽ chuộc lại chỗ đất đó!”

Tạ đại phu nghe vậy bèn tán đồng nói: “Phương pháp này hay quá rồi còn gì nữa, vậy tại sao mày không cầm đặt cho nha môn hả? Về sau chúng ta có tiền thì chuộc lại chứ lo cái gì!”

“Cha ơi! Những lời lẽ của bọn chúng mà cha cũng tin hay sao?” Con trai của Tạ đại phu đau khổ đáp.

Tạ đại phu nghe vậy liền cau mày hỏi: “Mày nói vậy là có ý gì hả con?”

“Đặt cầm ruộng cho Nha Môn, thì cái giá nó rất là thấp! Cùng lắm thì cũng chỉ bằng nửa số tiền dự trù bán ban đầu, hơn nữa cầm cố đất đai chỉ cho hạn có một năm! Vả lại tiền lãi lại cao hơn cả Thanh Miêu Pháp gấp sáu lần! Nếu đến hạn mà không chuộc lại được, thì coi như mất cả ruộng lẫn đất luôn!”

“Hả? Vậy thì có nghĩa là, một năm sau, thì tiền lãi thu về tận gấp đôi rồi ta mới được phép chuộc lại hay sao?” Tạ đại phu cả kinh nói.

“Vâng! Đúng vậy đấy cha ạ! Cha nghĩ xem, nhà đã bán rồi thì còn chuộc lại được không? Làm như vậy chẳng khác nào bán đứt cho nha môn rồi còn gì nữa!” Con trai của Tạ đại phu ấm ức nói.

Cầm cố tài sản thực chất là một biện pháp giúp đỡ lẫn nhau trong thời cổ đại có tên gọi khác là Điển Đang, gọi nôm na là bên A cầm cố nhà cửa cho bên B, thì nhà cửa không được phép cho thuê, và tiền không có thu lãi, thời gian thường là khoảng từ mười đến hai mươi năm, đến hạn phải dùng đúng số tiền mà chuộc lại. Nếu như không chuộc lại, thì căn nhà sẽ thuộc về bên B, cái này gọi là bán đứt. Cái trò cầm cố, Điển Đang này của nha môn thực chất là dựa vào danh nghĩa của nó mà tự kiếm lợi cho mình.

Tạ đại phu nói: “Bọn chúng làm vậy chẳng khác nào là đục khoét của dân chúng cả!”

Bà lão nghe thấy vậy thì vô cùng hoảng hốt, vội vã đưa tay lên bịt miệng của Tạ đại phu lại, nhưng Tạ đại phu đã có chuẩn bị từ trước, nên lắc đầu tránh được, ông lại tiếp tục nói: “Vậy chỗ đất đó mà chúng ta không có khả năng trả, thì nha môn lấy đất đấy để làm gì nhỉ?”

“Cái này thì con không biết, vì trong thông báo không thấy có nói tới!” Con trai của Tạ đại phu lắc đầu nói.

Tạ đại phu nghe vậy liền nói: “Chắc chắn bọn chúng sẽ dùng nó để sinh lời cho mình rồi!”

Bà lão lần này không chạy tới bịt miện Tạ đại phu lại như mấy lần trước nữa, mà chỉ đưa mắt lên liếc nhìn ông ta. Bà thực sự không hiểu tại sao Tạ đại phu từ ngày vào tù, đến khi được thả tự do đến giờ, lại biến thành một người trời đất không biết sợ là gì như vậy. Bà thực sự không biết rằng, những ngày tháng bị xét xử oan, nằm ở trong tù làm cho Tạ đại phu sớm đã hình thành tâm lý khinh ghét nha môn rồi.

Tạ đại phu nói: “Vậy ông thông gia của ta, mấy người chúng mày đã chuộc ra chưa vậy?”

“Dạ vẫn chưa ạ!” Con dâu của Tạ đại phu nước mắt ngắn, nước mắt dài đáp. Tạ đại phu thấy vậy thì lấy làm ngạc nhiên hỏi: “Tại sao vậy? Không phải chúng mày đã gom đủ tiền rồi hay sao hả?”

“Không phải như vậy! Hôm qua bọn con chuẩn bị đi cầm cố ruộng đât, thì mới biết thụ lý mấy vụ cầm cố này mỗi một huyện một khác, và nha môn không trực tiếp thụ lý việc này, mà người thụ lý đó chính là Vương lão thái gia! Chính là người mà đã nhờ cha chữa bệnh giúp cho con gái của họ, sau đó họ kiện bắt cha vào tù đó ạ!” Con trai của Tạ đại phu đáp.

Tạ đại phu nghe đến đây thì kinh ngạc vô cùng nói: “Là ông ta ư? Chả trách ông ta lại ghê gớm như vậy, ta biết ngay mà! Việc đại phu chữa trị lỡ tay đâu có bị trị tội gì đâu! Ta cứ tưởng là số của ta nó đen đủi nên mới bị bắt đi trị tội như vậy! Thì ra là Vương lão thái gia đã sớm cấu kết với quan phủ! Chính vì vậy mà quan huyện đại lão gia mới trị tội ta như vậy!”

“Lão gia! Ông đừng ăn nói như vậy nữa!” Bà lão đứng bên cạnh lo lắng nói.

“Đúng vậy đấy thưa cha!” Con trai của Tạ đại phu ghìm giọng xuống nói: “Chính vào ngày hôm qua! Bọn con đến tìm Vương lão thái gia bàn chuyện cầm cố ruộng đất, thì ông ta nói, ông ta không rảnh, bảo con ngày mai đến! Sau đó bọn con lại thấy mấy tên sai dịch chuẩn bị hành lý hộ cho ông ta, dường như ông ta muốn đi xa thì phải!”

“Cái gì? Ông ta muốn dọn nhà mà sai dịch cũng phải giúp đỡ hay sao?” Tạ đại phu cả kinh nói.

“Vâng đúng như vậy đấy ạ! Nhưng mà dường như ông ta không phải là dọn nhà sang nơi khác ở! Trông điệu bộ của ông ta hoang mang cứ như đang chạy trốn điều gì đó! Bọn con đứng ở xa xem náo nhiệt, kết quả thì thấy mấy vị quân gia đến nói chuyện với mấy tên sai dịch mấy câu gì đó! Thế là mấy tên sai dịch liền lấm lét bỏ đi! Sau đó mấy vị quân gia đó đưa vợ chồng Vương lão thái gia đi đâu đó! Đến chiều, thì con và mẫu thân đưa cha đến chỗ Đề Hình đại nhân chữa trị, thì mới phát hiện ra, mấy vị quân gia kia chính là người của Đề Hình đại nhân!” Con trai của Tạ đại phu thuật lại.

“Ố! Vậy ra là mấy vị quân gia đó, chính là do Đề Hình đại nhân phái họ đi bắt vợ chồng Vương lão thái gia đến giải oan cho ta đây mà!” Tạ đại phu gật gù nói.

“Không chỉ như vậy! Buổi sáng ngày hôm nay, chúng con cứ tưởng Vương lão thái gia quay về rồi, vậy nên bọn con lại đến nhà của ông ấy, cầu xin ông ấy làm chuyện cầm cố ruộng đất cho con, để con còn lấy tiền để chuộc cha! Kết quả là lại trông thấy mấy vị quan gia lùng sục tìm người để hỏi vấn đề gì đó! Nhưng không có một ai dám trả lời bọn họ cả! Lúc đó bọn con không biết là cha bị bệnh, chính vì vậy mà bọn con vội vã quay về! Nhưng lúc đấy con cũng thấp thoáng nghe thấy mấy vị quân gia đó hỏi về chuyện ruộng đất thì phải! Bọn họ hỏi là ruộng đất ở đây sao không trồng trọt gì, rồi lại bán cho ai rồi! Và còn hỏi có ai trông thấy Vương lão thái gia ở đâu không nữa! Thái độ của mấy vị quân gia đó rất tốt, nói là làm việc cho Đề Hình đại nhân! Sau đó bọn họ bắt gặp con liền nói bọn họ điều tra xong chuyện rồi, sẽ lo chuyện cầm cố cho con! Và còn nói là bọn họ xin lỗi cha nữa! Lúc đó con thấy kỳ lạ! Không hiểu chuyện gì xảy ra! Sau khi dò hỏi thì mới biết được là cha đã được trả lại tự do! Bọn con mừng quá nên quên cả chuyện cầm cố ruộng đất, chạy luôn về đây!” Con trai của Tạ đại phu nói.

“Chờ một chút!” Tạ đại phu nói: “Mày lúc nãy nói cái gì cơ? Hộ vệ của Đề Hình đại nhân hỏi cái gì ấy nhỉ?”

Con trai của Tạ đại phu không biết tại sao cha của mình lại hỏi chuyện của Đề Hình đại nhân làm gì, nhưng vẫn trả lời: “Bọn họ hỏi rằng tại sao ruộng đất nơi đây không có ai trồng trọt gì cả! Đúng rồi, còn hỏi Liêu Tri Phủ và Trương Tri Huyện là người thế nào! Con chỉ nghe được đến đây thôi! Còn những cái khác thì chẳng để ý gì nhiều!”

Tạ đại phu trầm ngâm giây lát, rồi đột nhiên nói: “Đỡ ta đứng dậy!”

Bà lão cùng với hai con của mình nghe vậy cả kinh nói: “Lão gia muốn đi đâu vậy?”

“Ta muốn đi gặp Đề Hình đại nhân!” Tạ đại phu quay sang ba người nói luôn: “Mấy người cùng đi với ta luôn!”

Sáng sớm ngày hôm sau.

Liêu Quý Binh không ngờ rằng Đỗ Văn Hạo lại đi nhanh đến như vậy, thậm chí hắn còn chưa truyền thụ xong cả phương pháp đỡ đẻ của hắn nữa.

Liêu Quý Binh cố gắng níu kéo Đỗ Văn Hạo ở lại, điệu bộ vô cùng thành khẩn, ông ta không thể hiểu nổi tại sao Đỗ Văn Hạo đột nhiên đòi ra đi như vậy, hôm qua còn rượu chè vui vẻ với nhau, mùi thơm của thịt dê nướng, cùng với những tiếng hát hò vui vẻ, những thứ này Đỗ Văn Hạo không hề có vẻ gì giả bộ cả. Liêu Quý Binh cứ ngỡ rằng Đỗ Văn Hạo phải ở lại đây ít nhất là mười ngày nữa, bởi vì phong cảnh của Ly Giang, Đỗ Văn Hạo mới thưởng ngoạn được một phần mười phong cảnh mà thôi. Nhưng suy cho cùng thì Đỗ Văn Hạo muốn đi, thì mình có cố níu kéo cũng không được, thế là Liêu Quý Binh liền chuẩn bị chút đồ, gọi là lễ ra mắt, có lẽ Đề Hình đại nhân còn vì nó mà nói tốt cho ông ta với cấp trên vài câu cũng nên.

Liêu Quý Binh đích thân dẫn theo bọn thuộc hạ, cùng với các Hương Thân trong thành, cùng đến tiễn đưa Đỗ Văn Hạo.

Liêu Quý Binh lên ngựa đi đến trước cái xe ngựa của Đỗ Văn Hạo, thì đã thấy hắn xuống xe tiến về phía mình, Liêu Quý Binh bỗng nhiên cảm thấy xúc động vô cùng, chưa kịp mở miệng, Liêu Quý Binh đã nấc nghẹn lên nói: “Đỗ đại nhân! Suốt dọc đường đến đây, hạ quan suy nghĩ mãi, không biết mình đã tiếp đãi đại nhân không chu đáo ở chỗ nào, mà đại nhân đột nhiên đòi bỏ đi như vậy?”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền mỉm cười nói: “Liêu đại nhân bận bịu công việc, chăm chỉ cần cù, ta ở lại đây, đã là làm phiền Liêu đại nhân nhiều lắm rồi!”

Liêu Quý Binh nghe vậy thì cuống cuồng lo sợ, không biết Đỗ Văn Hạo nói thật hay là nói kháy mình nữa, ông ta vội vã chắp tay nói: “Đỗ đại nhân quá lời rồi! Đại nhân hiếm khi mới ghé qua đây được một lần, nên ở lại đây lâu hơn chút nữa, còn rất nhiều nơi mà hạ quan vẫn còn chưa đưa đại nhân đi du ngoạn được!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Thôi không cần đâu! Thịnh tình của Liêu đại nhân Đỗ mỗ xin nhận, bây giờ cũng không còn sớm nữa rồi! Đại nhân về đi kẻo muộn, ta bây giờ sẽ đến Liễu Châu một chuyến!”

Liêu Quý Bình nghe vậy liền cúi người nói: “Hạ quan thật lòng không nỡ đại nhân bỏ đi như vậy, thôi để cho hạ quan tiễn đại nhân thêm một đoạn đường nữa vậy!”

“Liêu đại nhân định tiễn ta đến đâu vậy? Lẽ nào muốn tiễn đến tận kinh thành hay sao?” Đỗ Văn Hạo bông đùa nói.

“Hạ quan cũng muốn vậy! Nhưng, hạ quan vẫn còn chức trách ở đây! Mệnh quan triều đình khi chưa có mệnh lệnh, thì tuyệt đối không được phép tự ý rời bỏ chỗ mình quản hạt ra đi như vậy đâu ạ! Thôi thế này vậy! Xin đại nhân được cho hạ quan tiễn đại nhân đến biên giới của Tĩnh Giang Phủ, đại nhân thấy thế sao ạ?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền nói: “Tiễn người vạn dặm, thì cuối cùng cũng vẫn phải chia tay thôi! Liêu đại nhân mà vẫn cố ý muốn như vậy, thì ta cũng không nên từ chỗi mãi làm gì! Thôi thì đại nhân tiễn ta thêm một đoạn nữa cũng được

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 367: Mồ Hôi Trộm(1+2)

Dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Vip.vandan

Share by: Mộng Hoa Trang

Nội Dung: hide

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 368: Âm Thầm Qua Trần Thương (1+2)

Dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Vip.vandan

Share by: Mộng Hoa Trang

Nội Dung: hide

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 369:Tú Phường (1)

Dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Vip.vandan

Share by: Mộng Hoa Trang

Nội Dung: hide

Gã bổ đầu da ngăm đen kia trông thấy vậy, liền cười lên một cách thô bỉ và dâm đãng: “Ối chao chao! Thật không ngờ thân thể con gái của ngươi lại ngon lành đến vậy! Nếu mà chưa chết thì có thể đưa về hầu hạ ta một chuyến, xem xem cảm giác nó ngon ngọt đến đâu, ha ha ha!”

Câu nói này làm cho mấy tên vô lại đứng xung quanh lại cười phá lên một cách hèn hạ, những câu nói tục tĩu, bẩn thỉu tiếp theo sau đó văng ra như mưa, người phụ nữ kia vội vã ôm lấy xác của con gái mình đặt xuống đất, rồi nhanh tay áp sát vào người của mình, bế ngang ra, nhưng bất kể người phụ nữ này ra sức bao nhiêu, thì bà vẫn không bế nổi cái xác lên.

Khi nãy, Đỗ Văn Hạo cũng trông thấy làn da trắng ngần cùng với chiếc eo thon gọn của cô con gái của người phụ nữ kia, nhưng ánh mắt của hắn không phải nhìn vào đó, mà là nhìn vào những vết lằn đỏ ở trên eo của người chết, chắc chắn đó là vết hằn do cào cấu mà ra. Từ vị trí của vết cào, thì hắn biết được vết cào không thể nào do bản thân cô gái tự gây ra cho mình được. Chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo bất giác ý lên một tiếng ngạc nhiên, sau đó hắn lại tỉ mỉ quan sát tiếp thì phát hiện trên cánh tay của xác chết có những đường tím đỏ, những vết tích này đối với một người học Pháp Y như Đỗ Văn Hạo thì quá ư là quen thuộc. Đỗ Văn Hạo sau đó liền vội vã thấp giọng nói với Lâm Thanh Đại: “Cái chết của vị cô nương này có nhiều nghi vấn! Nàng đi giúp người phụ nữ kia một chuyến! Nghĩ cách hỏi cho rõ lý do dẫn đến cái chết của cô gái!”

“Để muội đi!” Kha Nghiêu nói xong liền bước luôn tới chỗ người phụ nữ kia, rồi ôm mặt khóc như mưa: “Tỷ tỷ! Tỷ bị làm sao vậy?” Vừa khóc Kha Nghiêu vừa lồm cồm bò đến gần xác chết, sau đó ôm lấy xác chết gào lên thảm thiết.

Do Kha Nghiêu cúi đầu quá thấp nên người phụ nữ kia không trông rõ mặt nàng được, vì vậy mà nhất thời cũng không biết nàng là ai.

Gã bổ khoái da ngăm đen kia thấy vậy liền đưa mắt lên nhìn Kha Nghiêu, thì thấy nàng ăn mặc kiểu nam nhi, nhưng lại nói bằng giọng con gái, nhìn kỹ thì thấy nàng mặt mày nhem nhuốc, cũng không phân biệt nam hay nữ nữa, nhưng mà ở thời xưa, những nhà nghèo khó không có tiền cho con ăn mặc, vì vậy mà không ít trường hợp con gái mặc quần áo con trai. Chính vì vậy mà tên bổ khoái cũng chẳng lấy gì làm lạ, tiến tới quát: “Con mẹ nhà mày! Mày khóc cái chó gì hả? Còn không mau đưa cái xác này đi chỗ khác?”

Nói xong gã bổ đầu da ngăm này liền giơ chân lên đạp Kha Nghiêu, Kha Nghiêu cũng đã có chuẩn bị từ trước, chuẩn bị sẵn tư thế, định nắm lấy chân của gã hất ngược lại, cho gã ngã một cú để đời.

Nhưng không ngờ gã bổ đầu da năm này khi vừa mới giơ chân lên, chưa kịp đạp vào người Kha Nghiêu, thì đã kêu lên thảm thiết, gã ngã ngửa người ra đằng sau, ôm lấy cái đầu gối của mình kêu cha kêu mẹ vì đau quá.

Những người dân đứng xung quanh thấy vậy thì chẳng hiểu gì cả, chẳng biết gã bổ đầu bị làm sao nữa, ngoại trừ Đỗ Văn Hạo, hắn trông thấy rõ động tác của Lâm Thanh Đại, cổ tay của nàng chỉ nhẹ nhàng phất lên một cái là gã bổ đầu kia đã nằm lăn ra đất kêu gào rồi.

Đỗ Văn Hạo biết là Lâm Thanh Đại đã ra tay, nhưng hắn không biết là nàng đã dùng vật gì để đả thương gã bổ đầu kia nữa.

Tên bổ khoái mặt ngựa đứng ở bên cạnh gã bổ đầu mặt đen, thấy thượng cấp của mình ngã ra như vậy, liền vội vã cúi người xuống xem xét, thì chỉ thấy chân của gã bổ đầu lúc này máu chảy ròng ròng, tên bổ khoái liền vội vã vén chiếc quần của tên bổ đầu lên, thì thấy nơi đầu gối của tên bổ đầu có găm một đồng tiền xu, đồng xu lúc này cắm ngập hơn nửa vào bên trong thịt của tên bổ đầu.

Tên bổ khoái trông thấy tình hình như vậy, biết là có cao thủ đã xuất hiện, vừa sợ vừa lo, vội vã rút đao ra gào thét để phô trương thanh thế: “Ai? Vị…vị cao nhân nào đã ra tay vậy? Tại sao lại đánh lén bổ đầu của chúng ta? Mau ra đây nhanh lên!”

Bọn bổ khoái biết rằng bây giờ bọn chúng cho dù có người đông, nhưng vẫn chưa thể là đối thủ của vị cao thủ này, chính vì vậy mà mặc dù cố gắng gào thét phô trương thanh thế, nhưng lại không dám ăn nói hỗn lão, chỉ sợ hỗn hào quá đỗi làm cho vị cao thủ kia nổi điên lên, rồi găm cho mình mấy đồng tiền vào người nữa thì nguy to.

Gã bổ đầu kia thì lại càng thấu hiểu sự tình, theo tình hình trước mắt thì gã cũng chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt, không dám làm liều, nhưng ngoài mặt thì vẫn cố vớt vát thể diện của mình, nghiến răng ken két thét lên: “Bọn chúng mày kêu gào cái gì hả? Ta không làm sao cả, chẳng qua là do ta bị trẹo chân đó thôi! Mau mau dìu ta về nhanh lên! Còn đứng đó làm gì bọn khốn!”

Mấy tên bổ khoái nghe vậy liền vội vã chạy đến dìu đỡ gã bổ đầu này lên, sau đó xiêu xiêu vẹo vẹo bỏ đi. Thậm chí cả lũ cũng chẳng còn dám mắng chửi người phụ nữ đang ngồi dưới đất kia nữa, vì trong bụng bọn chúng chỉ mong mau mau thoát khỏi đây, còn việc cái xác có để đây bao nhiêu lâu thì cũng mặc kệ, không thèm quan tâm nữa.

Kha Nghiêu lúc này cũng đã đoán ra được là Lâm Thanh Đại đã ra tay giúp nàng, nên nàng liền lấy hết sức giúp người phụ nữ kia kéo xác con gái của bà ta đặt lên trên xe. Kha Nghiêu lúc này vừa dụi mắt, vừa khóc lóc nói với người phụ nữ kia: “Thím ơi! Chúng ta đi thôi!” Nói xong nàng giúp người phụ nữ đẩy chiếc xe kéo này đi.

Người phụ nữ kia vì quá đau lòng trước sự ra đi của con gái, nên khi thấy Kha Nghiêu xông đến giúp đỡ cho mình, thì cho dù không nhận ra nàng là ai, nhưng nghe tiếng nói lại là tiếng của một cô gái, trong lòng thầm nhủ chắc là con nhà họ hàng xa, nên chỉ thầm cảm kích, cùng với Kha Nghiêu đẩy xe ra bên ngoài thành, những người dân đứng vây xung quanh xem náo nhiệt, cũng dần dần giải tán hết cả.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền quăng cho chưởng quầy của tửu điếm một ít bạc vụn để thanh toán tiền cơm nước, rồi nói mình có việc gấp phải giải quyết, một lúc sau mới quay lại, chưởng quầy nghe vậy liền luôn miệng vâng vâng dạ dạ, rất ngoan ngoãn.

Xong đâu đấy Đỗ Văn Hạo cùng với Thẩm sư già và Lâm Thanh Đại lặng lẽ đi theo sau Kha Nghiêu và người phụ nữ kia. Kha Nghiêu bây giờ vẫn vừa khóc vừa dò la tin tức: “Thím ơi! Chị của cháu làm sao mà chết vậy hả thím!”

Người phụ nữ kia gạt nước mắt đi rồi sụt sùi nói: “Sáng sớm hôm nay, thím đang làm việc ở ngoài đồng, bỗng nhiên nghe Vương đại ca chạy lại nói, Thảo Nhi….Thảo Nhi bị ngã ở một tửu lầu bên cạnh Tú Phường (Tú Phường là nơi chuyên thêu thùa may vá), thím liền bỏ dở công việc, vội vã chạy vào trong thành xem sao, vừa vào trong này thì thấy Thảo Nhi đã nằm đơ như cán cuốc, sắp tắt thở đến nơi! Thím liền chạy đi mượn xe kéo lại chở nó đi tìm đại phu, nhưng không ngờ! Thảo Nhi con của thím…hu ….hu…..hu.”

Kha Nghiêu nghe vậy cũng khóc theo, có lẽ cô gái này là người thêu thùa ở trong Tú Phường, Kha Nghiêu lại lên tiếng hỏi: “Vậy chuyện này chưởng quầy ở Tú Phường không quản sao thím?”

Người phụ nữ kia nghe vậy có phần lo lắng, đưa mắt dáo dác ra nhìn, sau đó ấp úng nói: “Chưởng quầy thì thím chưa gặp….” Nói đến đây người phụ nữ chợt nghĩ ra mình chưa hỏi cô gái giúp mình này là ai, vội vã quẹt nước mắt đi rồi hỏi: “Đúng rồi! Cô nương, cô là….”

Kha Nghiêu vốn đã nghĩ sẵn câu trả lời rồi, nên nấc nghẹn nói: “Cháu và chị Thảo Nhi vốn là hai chị em tốt của nhau, Thảo Nhi tỷ rất hay quan tâm và chăm sóc cho cháu, ngày hôm qua cháu có việc ra ngoài thành, khi quay lại thì….thì thấy Thảo Nhi tỷ đã chết rồi….hu…hu…hu..”

Người phụ nữ kia nghe vậy cũng không nghi ngờ gì cả, cũng tưởng là hai người quen nhau tại Tú Phường, kết thân làm chị em, nên vội kéo tay của Kha Nghiêu lại khóc rưng rức nói: “Cảm ơn cháu nhiều lắm!”

Kha Nghiêu lại khóc đáp: “Thím ơi! Thím định chuẩn bị việc hậu sự cho Thảo Nhi tỷ thế nào vậy?”

Người phụ nữ kia đáp: “Bây giờ còn thế nào nữa, chúng ta phải kéo nó về nhà chôn thôi! Hu hu hu” Người phụ nữ nói đến đây thì càng đau khổ hơn nữa, gia cảnh của bà vốn nghèo, không có thu nhập nào cả. Hồi trước toàn dựa hết vào tiền thêu thùa may vá của con gái gửi về mà sống qua ngày, bây giờ con gái chết rồi, về sau không biết nên sống ra sao nữa, nghĩ đến đây người phụ nữ lại càng cảm thấy cuộc đời lại càng bấp bệnh, bất giác khóc còn to hơn trước.

Kha Nghiêu thấy vậy bèn nói: “Thím sao không đi tìm chưởng quầy của Tú Phường mà hỏi cho ra nhẽ đi? Thảo Nhi tỷ rốt cuộc là vì sao mà chết, nếu mà tìm ra được nguyên nhân rồi, chúng ta có thể đòi tiền bọn họ để chôn cất cho Thảo Nhi tỷ cũng đáng lắm! Vì nói cho cùng thì người cũng chết tại nơi bọn họ! Đi, cháu đưa thím đi tìm chưởng quầy của bọn họ!”

Người phụ nữ kia nghe vậy liền đưa hai tay lên xua đi nói: “Thôi thôi, không cần nữa đâu, cảm ơn cháu, thím không muốn đi nữa!”

Kha Nghiêu ngạc nhiên nói: “Tại sao vậy thím?”

“Đây là do Thảo Nhi không cẩn thận ngã xuống cầu thang, nó mệnh khổ, số khổ nên phải chịu như vậy, cảm ơn cháu, thím không cần nữa đâu!” Nói xong người phụ nữ kia sợ Kha Nghiêu cố kéo bà đi đến Tú Phường, nên có phần hoảng loạn, vội vã đẩn chiếc xe đi càng nhanh càng tốt.

Kha Nghiêu thấy vậy liền chạy lên phía trước nói: “Thím ơi! Thím cũng đừng vì vậy mà buồn quá, Thảo Nhi tỷ làm ở nhà Tú Phưởng nào vậy? Cháu giúp thím đi tìm chưởng quầy!”

Người phụ nữ kia nghe vậy càng sợ hãi hơn, liên tục đưa tay lên xua đi, cũng không nói câu gì, chỉ cặm cụi cố đẩy xe đi thật nhanh, không muốn dây dưa gì với Kha Nghiêu nữa.

Kha Nghiêu lúc này ngoái đầu lại thấy mấy người Đỗ Văn Hạo đứng ở đằng xa đang trông về hướng này, liền cúi đầu buồn bã tiến về phía hắn nói: “Thưa chưởng quầy! Chỉ biết cô gái này tên là Thảo Nhi, là một người thêu thùa trong một Tú Phường. Sáng nay Thảo Nhi bị ngã cầu thang ở một nhà tửu lầu ở bên cạnh Tú Phường, vì thương nặng quá mà chết. Nhưng người phụ nữ kia cũng không chịu nói cho muội biết là nhà Tú Phường đó ở đâu, càng không muốn muội giúp bà ấy đi tìm chưởng quầy ở đó để lý luận, dường như bà ấy sợ cái gì đó!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy gật gật đầu nói: “Thôi chúng ta về ăn cơm trước cái đã.”

Bốn người sau đó lại quay về cái tửu điếm khi trước, chưởng quầy lúc này đang đứng mong chờ mòn mỏi, khi trông thấy bốn người Đỗ Văn Hạo quay lại, liền vội vã đon đả chạy đến đưa lên trên phòng ở lầu hai nói: “Mấy vị khách quan, rượu thịt đã chuẩn bị sẵn hết rồi ạ! Mời các vị khách quan lên lầu!”

Khi cả bốn người cùng lên lầu rồi, chưởng quầy liền đưa mắt ra nhìn Kha Nghiêu, bất giác hỏi: “Cô nương lần đầu tiên đến huyện này, tại sao lại quen con gái của người phụ nữ kia được nhỉ?”

Kha Nghiêu nghe thấy chưởng quầy hỏi vậy thì sững người, nhất thời không biết trả lời ra sao.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy cười nói: “Lúc nãy là do muội muội của ta thấy người phụ nữ kia đáng thương quá, vì vậy nên mới mạo muội nhận làm chị em với cô gái đã chết kia, hòng giúp người phụ nữ kia thôi!”

Chưởng quầy lúc này mới à lên một tiếng nói: “Thì ra là như vậy à! Ừm đúng là đáng thương thật!”

Kha Nghiêu thấy vậy liền lên tiếng hỏi: “Sao mà mấy vị quan sai ở đây lại hung ác như vậy nhỉ? Con gái người ta bị ngã đến đây chữa bệnh, không chữa được nên chết rồi, ai mà chẳng đau buồn, chẳng khóc lóc, nhưng sao mấy vị quan sai đó lại ép người quá đáng thế?”

“Cái này ha ha, cái này thì tiểu nhân cũng không biết!” Chưởng quầy nói xong liền theo phản xạ tự nhiên, nhìn quanh nhìn quất sau đó mới thấp giọng nói: “Tiểu nhân thấy mấy vị khách quan là người tốt bụng, nên tiểu nhân mới nhắc cho mấy vị khách quan biết! Ở cái đất Tĩnh Giang Phủ này, thì nhất thiệt phải cẩn thận, đặc biệt là đừng có động tới mấy vị quan phủ nơi đây, càng không được phép dò la tin tức một cách bừa bãi!”

“Đa tạ chưởng quầy đã nhắc nhở!” Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Nghe nói là quý huyện có rất nhiều Tú Phường thì phải, ta cũng muốn muội muội của ta đến đó học thêm một chút, không biết chưởng quầy có thể giới thiệu cho bọn ta biết được không?”

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 369:Tú Phường (2)

Dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Vip.vandan

Share by: Mộng Hoa Trang

Nội Dung: hide

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 370: Bí mật bắt cóc (1+2)

Dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Vip.vandan

Share by: Mộng Hoa Trang

Nội Dung: hide

Đứa ăn mày nhỏ tuổi kia đang chuẩn bị mở miệng trả lời, thì đứa lớn tuổi liền vội vã giơ chân lên đá nó một cái, sau đó sợ hãi nói: “Bọn em không biết, bọn em không nhìn thấy bất kỳ thứ gì cả!”

Kha Nghiêu nhìn rõ hành động này của nó, nhưng nàng không tức giận, mà ngược lại mỉm cười nói: “Mấy đứa không phải ngày nào cũng ngồi chầu trực ở đây hay sao? Làm gì có chuyện không biết được? Mấy chiếc bánh bao này thơm lắm đấy!”

Mấy đứa ăn mày này hai mắt cứ mở to tròn nhìn chằm chằm vào lồng bánh bao như muốn ăn tươi nuốt sống nó vậy, bụng của bọn chúng vốn đã trống rỗng, giờ đây trông thấy cái ăn được bày ra trước mắt thì tất cả đều réo lên sôi sùng sục như trống kéo quân vậy.

Vậy nhưng đứa ăn mày lớn tuổi kia vẫn cố gắng lắc lắc đầu nói: “Tỷ tỷ! Bọn em đúng là không nhìn thấy cái gì thật đấy, sáng sớm hôm nay tất cả bọn em đều nằm ngủ không biết cái gì cả!”

“Không thể có chuyện thế được, chuyện một người bị ngã từ trên lầu kia xuống lớn đến như vậy mà mấy đứa vẫn còn ngủ được hay sao hả?” Kha Nghiêu nói.

Đứa ăn mày lớn tuổi kia nghe vậy liền đưa mắt ra hai bên nhìn dáo dác, sau đó kéo mấy đứa ăn mày khác lùi lại hai bước nói: “Bọn em đúng là ngủ thật mà! Chúng mày thấy tao nói có đúng không hả?” Đứa ăn mày lớn tuổi quay sang mấy đứa nhỏ hơn hỏi.

Mấy đứa ăn mày bé tuổi kia liền gật gật đầu một cách miễn cưỡng.

Kha Nghiêu thấy vậy thì cũng chỉ biết cười khổ trong lòng mà thôi. Nếu như ngay cả đến mấy đứa ăn mày này mà cũng không dám nói ra sự thật, thì điều đó chứng tỏ rằng đó là một việc vô cùng trọng đại, và vấn đề vô cùng nghiêm trọng. Kha Nghiêu biết vậy liền đặt lồng bánh bao xuống dưới đất rồi nói: “Vị cô nương bị chết kia là một người chị em vô cùng thân thiết của ta! Ta chỉ muốn điều tra cho rõ ràng vì sao cô ấy lại bị chết thôi! Nếu như mấy đứa trông thấy mà không dám lên tiếng, thì ta cũng chẳng còn cách nào khác nữa, ta cũng không muốn ép người quá đáng, chỗ bánh bao này cho mấy đứa đó!”

Kha Nghiêu nói xong, liền đứng thẳng người dậy rồi đi ra ngoài nõ, bước thẳng lên lầu Tiêu Diêu.

Mấy đứa ăn mày lúc này thấy Kha Nghiêu đi rồi, liền vội vã chạy đến vồ lấy cái lồng bánh bao, rồi chạy vắt giò lên cổ, rất nhanh bọn chúng đã biến mất trong ngõ hẻm.

Mấy người Đỗ Văn Hạo lúc này ngồi trên lầu trên của Tiêu Diêu lầu, khách khứa ở đây khá đông, khó khăn lắm hắn mới tìm được chỗ để ngồi xuống, tiểu nhị lúc này đã bưng lên ấm trà, Thẩm sư gia liền chọn vài món ăn cùng với một ít rượu.

Đúng lúc tên tiểu nhị định rời khỏi đây thì Đỗ Văn Hạo liền gọi giật lại, sau đó lấy trong túi ra một ít tiền, đặt lên mặt bàn rồi đẩy ra phía tên tiểu nhị nói: “Cái này cho ngươi! Ta có chuyện này muốn hỏi ngươi một chút!”

Tên tiểu nhị kia thấy vậy thì tươi cười vui vẻ, vội vã cầm đống tiền lên nhét vào trong người rồi nói: “Khách quan có gì cứ việc hỏi, ở cái huyện Lộc Cao này thì không có gì là tiểu nhân không biết cả!”

“Ố! Vậy thì tốt lắm! Sáng hôm nay ta đến đây đi ngang qua chỗ tửu lầu của nhà ngươi, thì thấy mấy đứa tiểu nhị ở đây đang dội nước cọ rửa mặt sàn, trên đó có cả vết máu! Có chuyện gì xảy ra vậy hả?” Đỗ Văn Hạo lân la dò hỏi.

Khi vừa nghe Đỗ Văn Hạo hỏi như vậy, thì nụ cười của tên tiểu nhị đột nhiên tắt hẳn, cả gương mặt của gã cương cứng, đưa mắt ra nhìn xung quanh, rồi thấp giọng nói: “Là một vị cô nương, từ trên lầu, à…là xảy chân ngã từ trên lầu xuống, hề hề cô ta không cẩn thận chút nào cả!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thấy bất hợp lý liền cố hỏi: “Ta thấy thành lan can trên lầu hai của tửu lầu này khá cao, vị cô nương kia làm sao mà trượt chân ngã xuống bên dưới kia được cơ chứ?”

Gã tiểu nhị liền lấm lét nói: “Cái này, cái này…à…lúc đó tiểu nhân không thấy, vì tiểu nhân đang bận ở trong bếp!”

“Ố! Thật không vậy? Ngươi là tiểu nhị, thì chức trách là đi tiếp đón khách chứ! Tại sao ngươi lại chạy vào bếp làm cái gì vậy hả?” Đỗ Văn Hạo vẫn không buông tha cho tên tiểu nhị kia.

Tên tiểu nhị thấy câu nói của mình bị Đỗ Văn Hạo lật tẩy ra như vậy thì hoảng quá, vội vã cúi người nói: “À không không…tiểu nhân nhớ nhầm…ha..ha..lúc đó tiểu nhân đang đi vệ sinh, thật đúng là không trông thấy cái gì cả, thành thật xin lỗi khách quan…xin khách quan chờ cho một lát, tiểu nhân bây giờ sẽ vào trong bếp đưa thực đơn cho nhà bếp chuẩn bị món ăn cho khác quan!” Tên tiểu nhị nói xong, liền vội vã chạy xuống bên dưới.

Lâm Thanh Đại thấy vậy liền thấp giọng nói: “Nơi đây đúng là có vấn đề thật rồi!”

Đỗ Văn Hạo cũng gật đầu nói: “Ừm! Không biết con tiểu nha đầu Kha Nghiêu kia thế nào rồi, có dò la được thêm tin tức gì không nữa?” Đỗ Văn Hạo vừa nói dứt lời, thì đã trông thấy Kha Nghiêu đi lên trên lầu.

Kha Nghiêu vừa lên tới nơi đã trông thấy bàn của Đỗ Văn Hạo, nàng liền đi tới ngồi xuống thở dài lên một tiếng não nề, sau đó cầm lấy tách trà lên uống luôn một hơi cạn sạch, rồi thấp giọng nói: “Muội nghĩ mấy đứa ăn mày đó chắc chắn là đã trông thấy cái gì rồi, nhưng mà bọn chúng lại không dám nói ra!”

Lâm Thanh Đại nghe vậy liền thấp giọng nói: “Càng như vậy thì càng chứng tỏ rằng Thảo Nhi không phải là do trượt chân ngã xuống mà chết được!”

Kha Nghiêu lúc này gãi đầu nói: “Bây giờ chúng ta phải làm sao đây?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Chúng ta cứ làm theo kế hoạch đã vạch sẵn thôi!”

Kha Nghiêu trợn tròn mắt kinh ngạc hỏi: “Kế hoạch? Kế hoạch gì vậy hả Đỗ đại ca?”

“Chờ chút nữa thì muội sẽ biết ngay thôi!” Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói một cách thần bí.

“Hứ! Huynh lại lên mặt rồi kìa! Huynh không nói thì thôi, muội cũng chẳng thèm nghe!” Kha Nghiêu nói xong liền quay mặt sang chỗ khác.

Bốn người do lúc nãy đã ăn uống xong hết cả rồi, nên khi thức ăn đưa lên cũng chỉ nhấm nháp vài miếng, xong sau đó liền thanh toán tiền đi xuống dưới lầu.

Khi vừa mới ra khỏi cổng của Tiêu Diêu lầu, Kha Nghiêu liền theo phản xạ tự nhiên hướng về phía ngõ đối diện nhìn một cái, đột nhiên nàng trông thấy tít phía bên trong đó, có một đứa ăn mặt ngồi chồm hỗm trong góc tường giơ tay vẫy vẫy nàng.

Kha Nghiêu mừng thầm trong bụng, quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “À! Đỗ đại ca này! Mấy người cứ đi trước đi nhé! Muội đi ra kia xem mấy đứa ăn mày bảo gì cái đã, dường như chúng có điều gì muốn nói với muội thì phải!”

Kha Nghiêu nói xong liền cúi thấp đầu xuống đi về phía cái ngõ nhỏ đó, sau đó nàng bước đi nhanh hơn đến trước mặt đứa ăn mày kia. Kha Nghiêu lúc này mới nhận ra đứa ăn mày này chính là đứa lớn tuổi ban nãy, trông bộ dạng của nó vô cùng lo lắng, không ngừng ngó trước ngó sau, khi thấy Kha Nghiêu đến gần mình rồi nó liền đưa tay ra hiệu cho Kha Nghiêu ngồi thấp xuống.

Chờ cho Kha Nghiêu ngồi thấp xuống rồi, thì đứa ăn mày lớn tuổi này mới nhanh miệng nói: “Người chị em ban nãy của tỷ là do bị tên bổ đầu da ngăm đen của Huyện Nha và tên bổ khoái mặt ngựa ném từ trên lầu Tiêu Diêu xuống làm chết đó! Tỷ đừng nói là em nói cho tỷ biết đấy nhé!” Nói xong đứa ăn mày lớn tuổi này liền lẩn nhanh như con trạch, thoáng cái đã mất hút không thấy bóng dáng nữa đâu cả.

Kha Nghiêu nghe xong mà run lẩy bẩy cả người, cô nghiến răng ken két nói: “Chả trách bọn chúng lại hung hăng đòi đuổi người ta đi nhanh như vậy, thì ra là hai tên cẩu tặc này gây ra cái chết cho Thảo Nhi, bọn khốn! Rồi chúng mày sẽ phải trả giá!”

Kha Nghiêu lúc này liền đứng dậy đi ra khỏi ngõ nhỏ đuổi theo Đỗ Văn Hạo, đem chuyện này kể cho ba người nghe, ai nấy nghe xong cũng đều biến sắc, Lâm Thanh Đại căm phẫn nói: “Hôm nay thiếp sẽ cho hai tên dâm tặc đó về chầu diêm vương!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền khoát tay lên nói: “Làm như vậy thì thật dễ dàng cho bọn chúng quá! Chúng ta phải đường đường chính chính bắt chúng nó về chịu tội trước pháp luật, để làm gương cho những người khác! Nàng chỉ cần làm theo những bước đúng như trong kế hoạch mà ta đã định sẵn ra là được rồi!” Nói xong, Đỗ Văn Hạo liền xích đến gần Lâm Thanh Đại, thì thầm mấy câu.

Lâm Thanh Đại nghe xong liền gật gù nói: “Phương pháp này hay thật đấy!”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Chờ cho việc này làm xong rồi, thì mọi người đi ra Nha Môn nhé!”

Kha Nghiêu nghe xong trợn tròn mắt kinh ngạc nói: “Ra đó làm gì vậy hả chưởng quầy?”

Đỗ Văn Hạo cũng trợn tròn mắt lại trêu nàng nói: “Ra đó đánh trống kêu oan chứ làm gì nữa!”

Kha Nghiêu thấy vậy nhăn mặt nói: “Làm vậy thì chúng ta bị bại lộ thân phận là cái chắc, như vậy thì chuyện của Liêu Quý Binh….”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền mỉm cười nói: “Lẽ nào muội không tin vào thuật hóa trang của Lâm Thanh Đại hay sao hả? Bây giờ chúng ta đã hóa trang hết cả rồi, ta thấy khả năng hóa trang của nàng rất tốt, chắc chắn sẽ không bị phát giác đâu, bọn chúng chắc chắn sẽ không thể ngờ được là chúng ta lại xuất hiện ở đây trong lúc này!”

Kha Nghiêu nghe vậy liền nói: “Nhưng nếu chúng ta đi đánh trống kêu oan cho Thảo Nhi, thì chắc chắn tên quan huyện đó sẽ không chịu nghe đâu, có khi lại cho chúng ta mấy cái gậy vào mông nữa cũng nên!”

“Đó cũng là chuyện bình thường mà! Nếu mà nó không đánh thì mới là bất bình thường. Sao vậy? Muội sợ rồi hả?” Đỗ Văn Hạo nhìn Kha Nghiêu với ánh mắt khiêu khích nói.

“Ai sợ cơ chứ? Đi thì đi ai sợ cái gì!” Kha Nghiêu ưỡn ngực lên, nét mặt oai hùng nói: “Vậy nhưng mấy người bọn huynh thì làm gì?”

“Cũng ra Nha Môn cùng với muội chứ đi đâu! Muội cứ ở phía đằng trước, còn bọn ta ở phía sau, bọn ta cũng cần phải đến Nha Môn!” Đỗ Văn Hạo đáp.

“Huynh đến đó làm gì? Cũng đánh trống kêu oan sao?” Kha Nghiêu nghi hoặc nói.

“Ở Nha Môn ngoại trừ cái việc đánh trống kêu oan ra, lẽ nào không còn việc khác để làm nữa hay sao hả?” Đỗ Văn Hạo cười nói: “Nghe nói các huyện phủ của Tĩnh Giang Phủ này có nhiều việc để làm lắm, ví dụ như: Cưỡng chế mua bán ruộng đất của nông dân này, buôn bán người bất hợp pháp này…v…v…! Bây giờ bọn chúng còn có một việc làm nữa đó chính là giết người, gây án mạng nữa! Dĩ nhiên, chúng ta vẫn còn phải cần đến chứng cứ, cầm chứng cứ đến đó rồi thì mới dễ nói chuyện được!”

“Hả?” Lâm Thanh Đại và Kha Nghiêu cùng kêu lên kinh ngạc nói: “Có chứng cứ gì vậy?”

Thẩm sư gia nghe vậy liền mỉm cười thấp giọng nói: “Không cần phải hỏi đâu! Đại nhân đã có đủ tất cả những thứ cần thiết rồi, mấy người chỉ cần ngoan ngoãn nghe theo lời của đại nhân hành sự là được rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền mỉm cười nói: “Cũng chẳng phải ta nghĩ ra những mưu mẹo tinh vi và cao diệu như vậy đâu, tất cả đều là do Thẩm sư gia nhắc nhở bảo cho ta biết đó!”

Thẩm sư gia thấy vậy liền cúi người nói: “Đại nhân khiêm tốn quá rồi!”

Lúc này tại căn phòng dành riêng cho các bổ khoái, tên bổ đầu da ngăm đang ôm lấy đầu gối của mình rên lên từng cơn, gã đang được một vị đại phu gắp những đồng tiền găm nơi đầu gối của gã xuống, xong rồi vị đại phu đó liền băng bó lại cho gã.

Gã bổ đầu mặt đen vừa kêu gào thảm thiết vừa nghiến răng nghiến lợi, căm hận nói: “Con mẹ nhà nó chứ! Ông mày mà biết thằng khốn nào đánh trộm ông mày, ông mày sẽ cho nó chết không toàn thây!”

Vị đại phu kia sau khi băng bó cẩn thận xong đâu đấy hết rồi, liền cáo từ ra về, trong phòng lúc này chỉ còn mỗi gã bổ đầu da ngăm, và gã bổ khoái mặt ngựa. Gã mặt ngựa lúc này đi ra khép cửa lại, sau đó quay sang gã da ngăm kia thấp giọng nói: “Bổ đầu! Tên khốn mà đánh lén huynh đó lẽ nào biết được chuyện chúng ta ban sáng hất con nhóc kia từ trên lầu xuống dưới đất chết hả? Lẽ nào nó muốn tìm chúng ta để trả thù?”

Gã da ngăm nghe vậy liền đưa tay lên gõ luôn vào đầu gã mặt ngựa một cái rõ đau, tức giận nói: “Con mẹ mày! Bên trong đầu mày toàn là đại tiện hả con? Nó mà vì chuyện này mà trả thù, thì nó còn để cho tao sống hả thằng ngu? Con nhóc đó là do tao và mày cưỡng bức không được mới vứt nó xuống đất như vậy, nếu như thằng khốn kia mà biết được thì mấy cái đồng tiền kia không chỉ găm vào đầu gối tao đâu, mà nó sẽ găm cả vào cổ họng cả tao lẫn mày rồi, thằng ngu!”

“Dạ vâng vâng! Đại ca nói đúng lắm ạ! Ha ha ha, nhưng cũng công nhận là con ranh đó nó cũng cứng thật, sống chết thế nào cũng không chịu chiều chúng ta một cái, nhưng sau chuyện này, thì về sau cả cái đường thêu dệt đó đều sợ đại ca hết! Lần sau chúng ta đến đó uống rượu muốn tìm mấy cô nàng xinh đẹp ngồi hầu hạ, e rằng khó rồi, vì bọn chúng chẳng đứa nào dám ngồi nữa, nhưng mà đã đến rồi thì chắc cũng không dám từ chối anh em ta như con ranh đó nữa ha ha ha!” Gã mặt ngựa cười lên khả ố.

“Ừm! Cái Phật Thủ Xuân đó là của lão gia chúng ta, mấy cô em làm trong đó cũng là người của chúng ta thôi! Con mẹ nó chứ! Không nghe lời ông hả, ông cho chúng mày chết không có chỗ chôn, hố hố hố” Tên bổ đầu dặn ra cười lên một cách bệnh hoạn.

Đúng vào lúc này, thì một luồng gió mát thổi đến, từ trên xà nhà một bóng người nhẹ nhàng hạ xuống, người này che mặt, mặc quần áo đen, trong tay lăm lăm một con dao sắc nhọn, sáng quắc.

Gã mặt ngựa phản xạ rất nhanh, rút luôn thanh gươm bên hông ra, còn gã da ngăm thì lập tức há mồm gào thét kêu cứu.

Người mặc đồ đen nọ lắc tay một cái, mấy đồng tiền xé gió kêu lên vùn vụt bay về phía hai tên dâm tặc này, chỉ nghe bộp bộp bộp liền mấy tiếng, hai tên dâm tặc cảm thấy toàn thân đau nói, không kêu thét thêm được câu nào nữa, đầu óc bọn chúng quay cuồng, rồi ầm lên một tiếng, cả hai cùng đổ gục xuống như hai cây chuối.

Khi hai tên khốn này mở mắt tỉnh lại, thì đã phát hiện ra bọn chúng đang nằm trong một căn phòng tối đen như mực, cả thân thể bị trói gô lại như gói giò, không tài nào cựa quậy nổi.

Lúc này có một giọng đàn ông lạnh lẽo vang lên: “Hai tên khốn này! Mau mau khai ra tất cả quá trình các ngươi đã hất Thảo Nhi cô nương từ trên gác Tiêu Diêu lầu xuống chết như thế nào cho ta nghe! Còn nữa, đem hết những chuyện các ngươi chèn ép dân chúng, hoành hành ngang ngược ra nói hết cho ta biết! Nếu không ta sẽ cho các ngươi biết thế nào là sống không bằng chết!”

Gã da ngăm nghe vậy hoảng hốt hỏi: “Ngươi…ngươi là ai vậy?”

Vừa mới lên tiếng, thì gã lập tức bị đá một cú như trời giáng vào đầu, cú đá này làm cho hai mắt của gã nổ đom đóm, sao bay đầy trời, tiếp sau đó một giọng nữ nhân vang lên: “Ai cho phép ngươi được lên tiếng hả? Hỏi ngươi cái gì, thì trả lời cái đó nghe chưa?”

“Dạ…vâng ạ!” Gã da ngăm thầm nhủ, mình phải tìm cách rời khỏi đây, mặc cho chúng hỏi gì, mình nhất quyết không được để bọn chúng đắc ý, chỉ cần ra khỏi đây, dựa vào danh tiếng mệnh quan triều đình, ta sẽ cho chúng mày biết thế nào là lễ độ, nghĩ vậy gã liền ra vẻ khổ sở, van xin thảm thiết: “Ối, các vị đại nhân! Các vị hiểu nhầm hết rồi, tiểu nhân là người tốt, là bổ khoái của Nha Môn, tiểu nhân có quen người nào tên Thảo Nhi đâu, cũng chẳng làm gì cô gái đó cả!”

Gã mặt ngựa nghe vậy cũng hùa thêm vào nói: “Vâng vâng! Bọn con đúng là chẳng làm cái gì hết cả!”

Hự lên một tiếng, cả hai tên khốn này cảm thấy như bị một vật gì đó chọc thẳng vào người, lập tức cả hai đều đau như chết đi sống lại, cảm giác đau như xé gan xé phổi, tiếp sau đó sự đau đớn này bắt đầu lan tỏa ra xung quanh, cả hai tên đau quá chịu không nổi, gào khóc kêu cha kêu mẹ liên hồi.

Giọng nam nhân đó lại tiếp tục lạnh lùng nói: “Kêu đi! Hai ngươi cứ việc kêu cho to vào, kêu rách cả cổ họng cũng không ai nghe thấy gì đâu!”

Tiếp sau đó giọng nữ nhân lại cất lên: “Khi nãy các ngươi ngồi bàn chuyện với nhau ở trong phòng, ta đều nghe thấy hết rồi, còn có cả nhân chứng tận mắt trông thấy hai ngươi đã đem Thảo Nhi cô nương vứt từ trên lầu Tiêu Diêu xuống dưới đất, dẫn đến cái chết của cô ấy! Hai ngươi biết điều thì ngoan ngoãn khai ra, đỡ phải chịu những đau khổ không cần thiết, còn nếu không ta sẽ băm vằm hai tên cẩu tặc các ngươi rồi vứt ra cho chó nó gặm! Đây cũng là thủ đoạn của các ngươi ưa dùng đúng không?”

Cả hai tên dâm tặc này không còn cứng rắn như trước được nữa, những lời nói kia đã làm cho chúng sợ đến đái cả ra quần, gã mặt ngựa vội vã lên tiếng trước: “Đại hiệp tha mạng! Đại hiệp tha mạng! Đúng là bọn con làm những việc đó, là bọn con định hãm hiếp người ta mà không thành, nên đã quăng Thảo Nhi cô nương ngã xuống dưới đất mà chết, bọn con làm vậy chỉ là muốn ra uy với mấy đứa con gái ở trong Phật Thủ Xuân thôi ạ!”

Gã da ngăm nghe vậy cũng gào lên khản cả giọng nói: “Con…con cũng xin khai ạ, con xin khai hết ạ, xin tha mạng cho con, con khai!”

Giọng nam nhân lúc nãy lại vang lên lạnh lẽo: “Bọn ngươi mua hết ruộng đất của người dân tại Tĩnh Giang phủ này, rồi cho nó là thiên tai, nhưng phủ bên cạnh lại không hề có thiên tai, mà ngược lại, nơi đó rất bội thu, không biết bọn ngươi định giở trò gì đây?”

Gã da ngăm lúc này liền rít lên đau đớn đáp: “Con khai, con khai trước! Cái này tất cả đều là do Tri Phủ Liêu Quý Binh làm ra hết đó ạ! Và còn cả các vị quan huyện đều tham gia vào nữa, bọn con chỉ là mấy con chó săn của bọn họ, cụ thể ra sao thì cũng không rõ lắm, tất cả đều là do Liêu đại nhân cùng mấy vị quan huyện chủ mưu làm hết ạ!”

“Rút cuộc là có chuyện gì hả?” Giọng nam nhân kia vang lên.

“Để con, con nói” Gã mặt ngựa gào lên tranh cướp quyền được nói.

Trước cổng Nha Huyện của huyện Lộc Cao, hai bên đông tây có hai con sư tử đá lấy uy, cách đó không xa có đặt một chiếc trống, chiếc trống toàn bộ màu hồng, mặt trống làm bằng da bò màu trắng, cạnh đó còn đặt hai cái dùi trống to như hai cái chầy dã cua.

Kha Nghiêu và Lâm Thanh Đại lúc này đã bận lên mình một bồ đồ của nữ nhân, họ mặc váy dài với chiếc áo vải thô, tóc tai vấn lên buộc lại một cách qua loa, trên mặt còn bôi lên một ít keo làm cho da mặt nhăn lại, sau đó còn bôi mặt cho nhem nhuốc một chút, trông hai người bây giờ quê không tả nổi. Cả hai lúc này tiến đến cổng Nha Huyện, Kha Nghiêu bước đến bên cái trống cầm dùi gõ trống kêu oan.

Rất nhanh, một tên sai dịch tay cầm gậy gỗ chạy ra bên ngoài, sau khi nhìn một lượt Kha Nghiêu từ đầu đến chân, liền sẵng giọng lên nói: “Gõ cái gì mà gõ hả? Gõ một cái thôi là ông mày đã nghe thấy rồi, sao ngươi muốn gõ thủng cả trống của Nha Môn hả?”

Kha Nghiêu vờ như chẳng nghe thấy cái gì, lại cầm dùi trống lên gõ liên hồi thêm mấy cái thật đanh nữa, tên sai dịch kia thấy vậy, liền múa gậy lên quát: “Đừng có gõ nữa! Còn gõ nữa ông cho mày ăn gậy!”

“Tiểu muội thôi, đừng gõ nữa! Quan gia không phải đã chạy ra kia rồi đó sao hả?” Lâm Thanh Đại thấy tên sai dịch kia không có vẻ nói đùa, liền lên tiếng nhắc nhở Kha Nghiêu, sau đó nàng liền tiến tới trước mặt tên sai dịch, cúi đầu thi lễ nói: “Vị quan gia này! Là tiểu muội của dân phụ nóng lòng, sốt ruột, cộng thêm với tiếng trống to quá, nên mới không nghe thấy quan gia nói gì đó ạ!”

Kha Nghiêu lúc này mới thôi gõ trống, mở miệng gào lên: “Oan ức quá!”

Tên sai dịch kia thấy vậy liền quát: “Đừng gào lên nữa! Người nào bị oan thì mới đến đây gõ trống, không có oan ức gì đến đây gõ cái *** gì! Thôi đừng gào lên nữa, có oan ức gì cứ nói!”

“Muội muội của dân phụ bị người ta đánh chết rồi!”

“Ố! Xảy ra án mạng rồi, vậy thì phải mất khá nhiều tiền đây! Đã có tiền lót đường chưa hả?” Tên sai dịch kia thản nhiên nói.

Kha Nghiêu nghe vậy trợn tròn mắt nói lên rõ to: “Tiền lót đường nào vậy?”

Tên sai dịch kia nghe vậy liền khinh khỉnh nhìn Kha Nghiêu rồi nói: “Đồ nhà quê! Kêu oan mà, phải có tiền chứ! Không hiểu quy tắc hả? Ông mày thấy mày cũng tội nghiệp, nói cho mày biết nhé, kêu oan phải cần tiền, bất kể là nguyên cáo hay là bị cáo, mày cứ tưởng chỗ này là chỗ làm từ thiện sao hả?”

Kha Nghiêu nghe vậy thì làm bộ sợ sệt hỏi: “Quy tắc là cái gì vậy ạ? Phải làm thế nào mới được gặp huyện đại lão gia đây?”

Tên sai dịch kia không nói không rằng giơ luôn một ngón tay ra.

Kha Nghiêu không hiểu nói: “Một đồng hả?”

Tên sai dịch kia tức điên lên nói: “Mày điên à? Một đồng? Mày tưởng ông mày là ăn mày hay sao hả? Một trăm đồng tiền!”

“Hả? Sao nhiều như vậy?” Kha Nghiêu há hốc mồm nói.

Tên sai dịch ngẩng cao đầu lên, ngạo mạn nói: “Mày tưởng mấy người bọn ta là gì hả, không có tiền thì cút! Tao nói cho mày biết nhé, đây chỉ là tiền lót đường thôi, còn nhiều khoản khác nữa, mày không muốn kêu oan nữa thì thôi, ông mày cũng chẳng muốn vào thông báo nữa, không có tiền mà cũng làm trò, cút đi!”

Kha Nghiêu nghe vậy lầu bầu nói: “Đúng là Nha Môn chẳng khác gì cướp ngày, cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan!”

Tên sai dịch kia tuy nghe không rõ, nhưng cũng nghe được lõm bõm, nên trừng mắt nói: “Mày nói cái gì?”

“Chẳng nói cái gì cả?” Kha Nghiêu bây giờ trông đáng thương vô cùng, nàng chạy đến bên Lâm Thanh Đại nói: “Tỷ tỷ! Bây giờ phải làm sao đây?”

Lâm Thanh Đại lúc này liền đưa tay vào trong người, móc ra một bọc tiền, mở ra đếm đúng một trăm đồng đưa cho Kha Nghiêu, Kha Nghiêu liền đưa cho tên sai dịch đó. Trong lúc Lâm Thanh Đại đếm tiền thì tên sai dịch kia cũng đã đếm cùng rồi, nên khi nhận tiền gã cũng không cần đếm lại nữa, cầm lấy tiền mỉm cười nói: “Đi theo ta vào trong!”

Hai Người không nói không rằng, nối gót theo sau tên sai dịch vào trong hậu viện, nơi này có mấy dãy nhà, đều là nơi làm việc của Nha Môn, tên sai dịch này sau khi đưa hai người cho một tên sai dịch khác rồi liền bỏ ra ngoài, chẳng thèm quan tâm gì nữa.

Tên sai dịch mới này lại giơ tay lên nói: “Tiền lót đường đâu?”

Kha Nghiêu lầu bầu nói: “Làm trò quỷ gì thế này?”

“Tiền chứ còn gì nữa? Nhanh lên, ông mày cũng đang bận đây!” Tên sai dịch sốt ruột nói.

Kha Nghiêu cúi đầu lúi húi, sợ sệt nói: “Không phải đưa rồi hả?”

“Nó là nó, còn ta là ta, của ta các ngươi đã đưa đâu hả? Không đưa thì cút” Tên sai dịch sẵng giọng nói.

Kha Nghiêu len lét nói: “Vậy bao nhiêu!”

“Một trăm đồng! Đến cái quy tắc này mà cũng không hiểu, còn kêu oan cái****gì!” Tên sai dịch chán nản nói.

Lâm Thanh Đại lại đành phải móc tiền đưa ra cho tên sai dịch kia.

Tên sai dịch này nâng nâng nắm tiền trong tay, rồi quay sang nhìn Kha Nghiêu và Lâm Thanh Đại với vẻ ghê tởm, rồi ngoái đầu ra hiệu nói: “Đi đi! Ra phòng bên kia mà đăng ký!”

Tên sai dịch sau đó liền đưa hai người đến phòng đăng ký, giao bọn bọ cho tên Thư Lại, tên Thư Lại này lại đòi thêm một trăm đồng tiền nữa, sau đó mới lên tiếng: “Có oan ức gì muốn nói!”

“Có án mạng muốn kiện!” Lâm Thanh Đại đáp.

“Kiện ai?” Tên Thư Lại uể oải nói.

Lâm Thanh Đại đáp: “Kiện bổ đầu da ngăm và bô khoái mặt ngựa, hai người bọn chúng ném em gái của ta xuống lầu mà chết!”

Tên Thư Lại kia nghe mà sững sờ, chiếc bút trong tay hắn rơi luôn xuống đất: “Ngươi nói cái gì?”

“Chúng ta là người của thôn Triều Tịch, em gái của ta là Thảo Nhi, là người thêu thùa trong Phật Thủ Xuân, sáng ngày hôm nay bị hai tên bổ đầu da ngăm và bổ khoái mặt ngựa ném từ trên lầu Tiêu Diêu xuống dưới đất mà chết!” Lâm Thanh Đại thuật lại từng từ từng chữ.

Khi nàng vừa dứt lời, thì những người nơi đây đều kinh ngạc há hốc mồm.

Tên Thư Lại kia lúc này đứng hẳn dậy nói: “Ngươi nói cái gì? Ngươi có chứng cứ không mà nói nhảm thế hả?”

Lâm Thanh Đại lạnh lùng nói: “Dĩ nhiên là có rồi! Nhưng mà những chứng cứ này phải đến khi gặp Tri Huyện đại lão gia mới nói được!”

Tên Thư Lại đó, lúc này cũng thấy sự việc nghiêm trọng, nên vội vàng thay đổi thái độ, mỉm cười nói: “Mời ngồi, mời hai vị ngồi! Ta sẽ đi báo cho Tri Huyện đại lão gia biết!”

Lúc này ở trong phòng Giám Áp của Huyện Nha.

Đỗ Văn Hạo và Thẩm sư gia cũng đã hóa trang đâu ra đấy, cả hai bây giờ trông nghèo nàn rách rưới, ngồi thu lu một chỗ trong phòng làm việc của quan huyện (phòng này còn gọi là Hoa Phòng).

Giám Áp phòng là nơi nghỉ ngơi của quan huyện, phòng này vô cùng kín kẽ, từ bên trọng vọng ra những tiếng đùa giỡn.

Trong phòng, Châu Tri Huyện của Huyện Lộc Cao đang ngồi phe phởn với một cô gái ăn mặc hở hang, suồng sã. Cô gái đó thân hình khêu gợi, giọng nói ngọt như mật: “Lão gia, chút nữa ra làm việc có được không hả?”

“Cưng yêu! Nhanh thôi! Cưng cứ ngồi đây chờ ta một chút! Ta sẽ quay lại ngay!”

“Chuyện gì mà gấp vậy lão gia?”

“Là hai đứa khố rách áo ôm muốn bán đất!”

“Vậy thì cho nô gia đi xem với, được không hả? Nô gia cũng muốn mua!”

“Được chứ! Chỉ cần cưng làm cho lão gia thoải mái, sung sướng thì cái đất của hai thằng nghèo kiết xác kia sẽ là của cưng đó!”

“Thật sao hả lão gia!”

Phòng Giám Áp và phòng làm việc thông với nhau, chính vì vậy là Châu Tri Huyện liền đưa người con gái lẳng lơ kia sang bên Hoa Phòng chơi.

Đỗ Văn Hạo ngồi đây cũng nghe thấy những tiếng cười dâm đãng phát ra, sau đó là cửa Hoa Phòng hé mở, một người con gái ăn mặc hở hang, áo ngực trễ xuống, làm lộ ra cả nửa phần trên, vừa trắng lại vừa tròn, cặp mắt của cô ả thì to tròn, môi đỏ chum chím, trông rất khêu gợi. Tóc của cô ả long lánh những chân chu lấp lánh, trông vô cùng đĩ thõa...

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 371: Thu lưới và thu hoạch (1+2)

Dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Vip.vandan

Share by: Mộng Hoa Trang

Nội Dung: hide

Nữ tử kia chống nạnh đứng ở giữa cửa nhìn Đỗ Văn Hạo đánh giá một phen sau đó còn trừng mắt nhìn Đỗ Văn Hạo theo thói quen rồi mới uốn éo đứng tránh ra. Một nam nhân bụng phệ, dáng vẻ ngồi không mà hưởng bước tới. Người này chính là Chu Tri huyện, huyện Cao Lộc.

"Các ngươi muốn cầm cố ruộng đồng sao?" Chu Tri huyện dài giọng hỏi.

Đỗ Văn Hạo cùng Trầm sư gia sợ hãi, rụt rè đứng ở bên khẽ nói: "Dạ" Hắn lấy mấy tấm khế ước từ trong ngực ra rồi hai tay trình lên. Mấy tấm khế ước này là khi trước Tạ đại phu báo mọi chuyện với Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo liền xuất tiền ra mua, là nhà mẹ đẻ của con dâu Tạ đại phu chuẩn bị cầm cố ruộng đồng.

Chu Tri huyện không tiếp nhận tấm khế ước. ông ta vẫn ngồi yên trên ghế nói: "Có biết quy củ không?"

Đỗ Văn Hạo ra vẻ ngơ ngác hỏi: "Lão gia, quy củ gì cơ ạ?"

"Thời hạn cầm cố là tám tháng, năm phần lãi. Đến hạn không chuộc coi như là bán".

"Hả?" Đỗ Văn Hạo khẽ giật mình, hắn hơi lắp bắp nói: "Không phải là thời hạn Điển kỳ là một năm, bốn phần lãi sao?"

Chu Tri huyện trừng mắt nói: "Đó là giá của vụ thu hoạch trước. Bây giờ đã sắp lập đông rồi, biết không? Chỉ ít ngày nữa là tới mùa đông khắc nghiệt. Điển kỳ còn tăng lên là nửa năm và sáu phần lợi. Điển hay không Điển là tuỳ ngươi. Nhanh lên, lão gia ta còn có việc".

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn Trầm sư gia rồi hắn lắc đầu nói: "Nhiều quá, lời nhiều quá. Nhiều như vậy thì sống sao hả?"

Chu Tri huyện vỗ tay vào lan can, lạnh lùng nói: "Hai gã nhà quê, nói muốn cầm lại không cầm. Ăn no rửng mỡ không việc gì làm tới trêu bản quan sao? Tống chúng ra ngoài".

Thẩm sư gia vội nói: Đại lão gia bớt giận. Chúng ta cầm, chúng ta cầm'.

"Hừ!" Lúc này Chu Tri huỵên mới ngồi xuống, hắn sai viên thư lại ghi văn tự cầm cố.

Sau khi văn khế viết xong, ký tên đồng ý, nhận tiền cầm ruộng, Chu Tri huyện cầm lấy tờ văn khế đất đưa cho nữ tử diêm dúa nói: "Ừ, trả ngươi".

Nữ tử kia vui mừng ngạc nhiên, vội vàng thi lễ nói: "Đa tạ Đại lão gia, đa tạ Đại lão gia" rồi vội vàng nhận lấy tờ khế ước.

Đỗ Văn Hạo nói toạc ra với Chu tri huyện xem ra đang líu lưỡi lại: "Lão gia, tiểu nhân còn muốn chuộc lại đất".

"Chuộc lại sao? Ha ha, năm phần lãi, ruộng đất không có thu, ngươi lấy cái gì chuộc lại? Nếu như ngươi có thể chuộc lại thì cũng không cần phải tới đây. Ha ha ha".

Trong lúc Chu tri huyện trắng trợn ngửa mặt lên trời cười như điên cuồng, viên thư lại Hình phòng hấp tấp chạy vào nói: "Đại lão gia, đã xảy ra chuyện…" Thấy trong khách sảnh có người lạ, hắn vội vàng ngậm mồm lại.

Chu tri huyện trừng mắt nhìn hắn nói: "Vội vàng hấp tấp cái gì?"

Viên thư lại tất tả bước tới thì thào vào tai Chu tri huyện: "Có hai phụ nhân tới tố cáo mấy người bộ đầu cưỡng gian và giết chết dân nữ. Hai người đó còn nói mấy người bộ đầu đã nhận tội, họ muốn Đại lão gia ngài ra ngoài nhận tờ khẩu cung".

Chu Tri huyện giật mình kinh hãi, ông ta phất tay áo đứng dậy, bất chấp chuyện trong này, hấp tấp đi ra ngoài cửa.

Đỗ Văn Hạo và Trầm sư gia thờ ơ nhìn nhau. Mục đích chuyến đi này của hai người là muốn điều tra việc cầm cố văn khế của dân chúng. Nay mục đích đã đạt dược nên lập tức rời khỏi.

Chu tri huyện vội vàng đi vào Hình phòng thì chỉ thấy mấy viên thư lại đang đứng ở cửa ra vào xem một tờ bản thảo nhưng không thấy phụ nhân gì đó, hắn vội vàng hỏi: "Này, hai phụ nhân đó đâu?"

Viên thự lại đang cầm bản thảo vội tiến lên trước, khom người nói: "Bẩm Đại lão gia, đã đi rồi, chỉ để lại một tờ cung khai. Nghe nói đây là bản cung khai của các bộ đầu nhưng đây chỉ là bản sao".

Chu tri huyện cầm lấy bản cung khai, hắn đọc lướt rất nhanh. Trong bản cung khai có ghi rất rõ ràng tiến trình cưỡng gian dân nữ không thành rồi ném từ trên lầu xuống chết như thế nào của bộ đầu Mặt Đen và bộ khoái Mặt Dài. Trong đó còn ghi lại rất nhiều chuyện mờ ám của chúng mà không ai biết. Lập tức Chu tri huyện tái mét mặt, hắn tức giận nói: "Vì sao không giữ hai phụ nhân lại?"

Mấy viên thư lại gượng gạo nói: "Mấy người này rất lợi hại. Đặc biệt là nông phụ cao cao, chỉ vung tay một cái bọn tiểu nhân ngã hết, khi đứng dậy thì mấy người đó đã đi mất".

"Phạn Dũng" Chu tri huyện tức giận nói: "Bộ đầu ở đâu?"

"Không thấy. Mới rồi bọn tiểu nhân tới phòng trực của bộ khoái nhưng cũng không thấy người".

Sắc mặt Chu tri huyện càng tái, hắn quát to: "Lập tức phái người đi lục soát toàn thành cho ta. Nhất định phải bắt được hai phụ nhân này".

"Dạ!" Viên thư lại trả lời rồi hắn vội vã chạy đi truyền lệnh.

Chu tri huyện cũng lập tức gọi mấy sư gia tới, đưa cho họ xem bản sao cung khai.

Mấy sư gia đưa mắt nhìn nhau. Sư gia phụ trách khởi thảo tấu chương khom lưng nói: "Đông ông, chuyện này chỉ e không đơn giản như vậy. Trong bản cung khai của bộ đầu có rất nhiều chuyện quan trọng liên quan tới Liêu đại nhân của phủ nha. Việc này phải bẩm báo Liêu đại nhân mới được".

Những sư gia khác cũng liên tiếp gật đầu.

Chu tri huyện cũng cảm thấy chuyện này không bình thường nên hắn dậm chân nói: "Chuẩn bị xe. A, không, chuẩn bị ngựa. Lão gia ta muốn ngay lập tức tới phủ nha, bẩm báo ngay với Tri phủ đại nhân".

Phủ nha phủ Tĩnh Giang.

Sắc mặt Liêu Quý Binh âm trầm, ngồi ở ghế thái sư. Ngồi ở hai hàng ghế hai bên với thái độ khép na khép nép là các quan tá và tri huyện các huyện.

Liêu Quý Binh chậm rãi nói: "Vừa rồi các vị đã nghe Chu tri huyên, huyện Cao Lộc nói. Các vị có suy nghĩ gì?"

Nhất thời tất cả các quan tá không biết nói gì.

Liêu Quý Binh nhìn Trương Thiên Ninh.

Trương Thiên Ninh lưỡng lự một lát rồi lên tiếng: "Rốt cuộc vẫn không biết trong chuyện này đối phương có địa vị như thế nào, tại sao chúng lại mang bao sao cung khai của hai bộ khoái cho chúng ta xem? Mục đích là gì hiện chưa rõ. Thế nhưng cẩn thận vẫn không bao giờ thừa. Theo như ty chức thấy, nhất định phải phòng ngừa cẩn thận. Phải xử lý trước một số sự việc. Chuyện nào nên làm thì phải làm. Ví dụ như trong kho thóc sao lại có nhiều hạt giống như vậy. Không cần nói gì cứ tiêu huỷ toàn bộ. Tất cả sổ sách cũng phải…".

Trương Đồng tri cắt ngang nói: "Trương tri huyện nói phải đề phòng chu đáo cũng không sai nhưng cũng không thể thần hồn nát thần tính như vậy. Nếu như thiêu huỷ tất cả hạt giống thì sang năm lấy gì bán ra ngoài? Chẳng lẽ không được phép bán hạt giống sao? Triều đình trợ giúp tiền và gạo chống thiên tai đã giảm đi rất nhiều. Phải liên tục có thiên tai. Cái đó giúp cho thiên tai mới đủ dữ dội khi đó kế hoạch của chúng ta mới có thể hoàn thành thuận lợi".

Các tri huyện, quan tá khác cũng gật đầu đồng ý với quan điểm của Trương Đồng tri.

Liêu Quý Binh nói: "Đúng vậy, kho thóc lớn như vậy không có khả năng tiêu huỷ hết. Chúng ta không thể chỉ vì hai phụ nhân không rõ tung tích quấy rối mà kiếm củi ba năm thiêu huỷ một giờ. Nhưng Trương tri huyện nói phải cẩn thận xử lý cũng không sai chút nào. Chu tri huyện, các ngươi phải tăng cường truy bắt tối đa, nhất định phải bắt được hai phụ nhân này, tra hỏi ra rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Trước khi chuyện này được làm rõ ràng. Tất cả các sổ sách của các huyện phải giao cho bản quan thống nhất quản lý, phải do người thân tín của các ngươi đưa tới. Tất cả các hạt giống đều vẫn bảo quản trong các kho lương thực như bình thường, để lẫn trong số lương thảo triều đình cấp phát chống thiên tai nhưng phải có dấu hiệu cẩn thận đừng để lẫn lộn. Những người làm rối loạn trong đại lao phủ nha đều phải chuyển tới quân doanh. Đồng thời trong thời gian này, các nơi phải tăng cường cảnh giác. Đối với những người xa lạ, khả nghi phải kiểm tra nghiêm chỉnh".

Những quan tá cũng đồng thanh nhất trí.

Mấy ngày sau.

Liêu Quý Binh hỏi phụ tá của mình là Trương Đồng tri: "Tại sao tất cả sổ sách của các huyện không thấy đưa lên một quyển nào? Người cũng không thấy đâu cả?"

Trương Đồng tri cũng nghi hoặc nói: "Đúng vậy. Hay là để ty chức xuống bên dưới xem xét?"

"Không cần".

Những lời này không phải là Liêu Quý Binh nói mà là một giọng nói vang lên phía sau hai người. Hai người hoảng hốt giật nẩy người, vội vàng quay đầu lại thì chẳng biết từ lúc nào trong phòng đã xuất hiện một hắc y nhân. Thanh chuỷ thuỷ lóng lánh trong tay đang chỉ thẳng vào hai người.

Hai người đang định lên tiếng gọi thì người đó đã bắn phi tiêu. Cả hai kêu lên một tiếng đau đớn rồi xụi lơ, ngã xuống đất.

Ngay khi Liêu tri phủ và Trương Đồng tri tỉnh lại, cả hai đều sợ ngây người. Cả hai đều bị trói giống như một cái bánh chưng. Hơn nữa xung quanh cũng có mấy người khác cũng bị trói gô lại. Nhìn kỹ thì đúng là tất cả các tri huyện. Tất cả đều đang ngồi ủ rũ dưới đất.

Bốn xung quanh là các hộ vệ cầm đao dựa lưng vào tường, nhìn rất quen mắt, xem ra cả hai đã gặp những người này ở chỗ nào đó. Khi nhìn lên ghế thái sư ở xa, Liêu Quý Binh sợ tới run bắn cả người, hắn lập tức hiểu hết mọi chuyện.

Một người đang ngồi ở đó chính là quan đề hình Đỗ Văn Hạo. Ngồi bên cạnh là sư gia và hai người thiếp của hắn.

Bên cạnh Đỗ Văn Hạo là chiếc bàn trà tứ phương. Trên bàn trà là hàng chồng sổ sách. Tất cả đều là sổ sách của các huyện mà Liêu Quý Binh rất quen thuộc, ghi lại tất cả những chuyện bí mật nội bộ mà người ngoài không thể biết. Trong phủ nha của chúng cũng giữ một bản như vậy. Bây giờ một khi đã bị triều đình phát hiện ra thì Liêu Quý Binh dùng ngón chân cũng hiểu rằng sẽ nhận kết cục gì.

Liêu Quý Binh thở dài nói: "Đỗ đại nhân, chiêu này của ngươi chính là dụ rắn ra khỏi hang. Thật độc".

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Đối phó với loài rắn độc như các ngươi chỉ có thể dùng chiêu này. Trước tiên ta nói cho ngươi một số chuyện để giúp ngươi có thể quýêt định. Chính là người của chúng ta đã bí mật bắt cóc bộ đầu Mặt Đen và bộ khoái Mặt Dài của huyện Cao Lộc. Ta đem lời khai đưa cho các ngươi chính là muốn các ngươi lay động. Bởi vì ta nghe nói người bản tính đa nghi trời sinh. Khi người triệu tập tất cả các tri huyện thương nghị đối sách, ngươi đã không biết thiếp của ta đang ở trên nóc nhà đại sảnh các ngươi tụ họp. Chúng ta biết tất cả những bố trí, sắp đặt của ngươi vì vậy chúng ta mời tất cả các tri huyện đang trên đường mang sổ sách tới giao cho ngươi về đây. Bọn họ rất phối hợp với chúng ta, tất cả đều khai báo mọi vấn đề. Rốt cuộc là các ngươi làm những gì bản quan đều đã biết. Bây giờ quan trọng là xem thái độ của ngươi. Nói hay không tuỳ ngươi. Nhưng có một điều: thái độ hợp tác có lẽ không còn ý nghĩa gì với ngươi nhưng nói không chừng có thể trợ giúp người nhà của ngươi giảm bớt, thậm chí miễn trừ trách nhiệm liên luỵ".

Liêu Quý Binh nhìn lướt qua đám tri huyện mặt mày ủ rũ. Hắn hiểu Đỗ Văn Hạo nói đúng sự thật. Hắn lại thở dài và nói: "Được, ta nói. Trong vòng mười năm nay ta đã cưỡng ép nông hộ ở các huyện trong bản phủ chỉ được mua hạt giống của phủ nha. Trong khi đó hạt giống chúng ta bán ra đều là hạt giống giả như vậy không có thu hoạch được bất kỳ cái gì, sau đó có thể xin triều đình trợ giúp gạo, tiền chống thiên tai thì ngầm chiếm lấy. Đồng thời dân chúng không thu hoạch được gì từ ruộng đồng chỉ còn cách bán ruộng đồng, đất đai. Ta lại quy định không cho phép tư nhân mua gom đất đai, chỉ có thể cầm cố cho nha môn. Điều kiện cầm cố rất hà khắc. Trên thực tế đến kỳ chuộc đều không thể chuộc lại, những ruộng đất đó lại cũng bị ngầm chiếm đoạt. Đồng thời ở phủ Tĩnh Giang và tất cả các huyện đều mở phương thêu và các phường thủ công khác, tuyển nhân công là những nông dân mất ruộng vào làm".

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Chủ ý của các ngươi rất cao minh. Cùng lúc các ngươi có thể dễ dàng chiếm đoạt gạo và tiền triều đình trợ giúp thiên tai, lại có thể thôn tính một số lượng lớn ruộng đất tốt với giá thấp hơn rất nhiều sau đó những nông dân mất ruộng lại cung cấp sức lao động rẻ tiền cho các phương thợ của các ngươi. Cái này so với "Quyển vận động" còn độc ác hơn rất nhiều".

Liêu Quý Binh không biết "Quyển vận động" là gì nên hắn ngơ ngác nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo cũng chẳng buồn giải thích, hắn cầm sổ sách, mở ra nói: "Những tài khoản đen này của các ngươi, bản quan đã kiểm tra cẩn thận. Thật sự có thể nói là từ những người khiêng kiệu trở xuống cũng đều được hưởng lợi. Ngay cả nha dịch, tráng đinh cũng được chia hoa hồng lợi nhuận, thảo nào những người này một mực bảo vệ ngươi. Dường như dân chúng chưa từng được giải oan sức mà hình như chính bọn họ cũng không biết có nỗi oan nào. Dù bọn họ đoán được các ngươi giở trò quỷ bên trong nhưng vẫn không thể biết được trò quỷ đó là gì. Thế nhưng không phải đi đêm lắm cũng có ngày gặp quỷ sao?"

Nói tới đây, Đỗ Văn Hạo chợt nhớ ra, nếu như vậy thì nói chính mình là quỷ. Mấy người Liêu Quý Binh cũng nhận ra nhưng không ai cười mà cũng chẳng còn ai có tâm trạng để cười.

Đỗ Văn Hạo ho khan một tiếng rồi nói: "Các ngươi có biết đây là đâu không? Đây chính là Hành châu. Bản quan hiểu rõ ngươi đang ở phủ Tĩnh Giang đã lâu. Sau khi bí mật bắt giữ các ngươi, ta đã dùng thuốc gây mê, tránh kinh động tới nhiều người. Bản quan cũng ra lệnh cho Tri phủ Hành châu tạm thời kiêm nhiệm Tri phủ Tĩnh Giang, phái ra một số lượng lớn bộ khoái Hành châu. Với sự trợ giúp của Sương quân Hành châu, tất cả các tá quan dưới quyền ngươi ở phủ Tĩnh Giang đã bị khống chế, ta cũng đã thả những người dân bị các ngươi bắt. Dùng bọn họ làm chứng cứ để tâu lên triều đình xử lý".

Đám người Liêu Quý Binh nghe xong nhất thời toàn thân xụi lơ. Chúng không thể tưởng tượng được quan Đề Hình này lại mưu kế thâm sâm, kế hoạch rất chặt chẽ chu đáo. Đáng tiếc là công sức kinh doanh nhiều năm đã bị huỷ mất.

Tháng tư hương sắc phai tàn hết

Sơn tự đào hoa mới nở đầy

Còn giận xuân đi không dấu vết

Đâu ngờ xuân đến nở nơi đây.

Đỗ Văn Hạo mang theo chúng nữ Bàng Vũ Cầm, Trầm sư gia với sự hộ tống của hộ vệ Lý Phổ, đang đứng ngắm cảnh trên đỉnh Lư Sơn, nhìn thấy hoa đào nở rộ, không nhịn được bèn ngâm mấy câu thơ của Bạch Cư Dị.

Sau khi Đỗ Văn Hạo phá án và bắt giam bọn người Liêu Quý Binh, phá được vụ án ức hiếp dân chúng báo về triều Tống. Tống Thần Tông vô cùng căm hận loại tham quan như này, Long nhan trong cơn giận dữ đã mang hết cả một đám quan lại Liêu Quý Binh, còn cả bộ đầu Mặt Đen và bộ khoái Mặt Dài ra lăng trì xử tử. Tống Thần Tông lại hạ chỉ trả lại toàn bộ đất đai cho nông dân bị bắt buộc phải cầm cố ruộng đất, cấp phát một khoản tiền riêng trợ cấp thiên tai, không cho phép vay mua lúa non. Tăng cường số tiền vay cùng thời hạn để dân chúng có thể bình an vượt qua mùa đông khắc nghiệt. Tống Thần Tông còn cấp phát một khoản riêng cho nhà của dân nữ Thảo nhi bị bộ khoái bức tử. Dân chúng địa phương vô cùng cảm kích Hoàng ân nhưng cũng hiểu rõ đây chính là công lao của quan Đề Hình Đỗ Văn Hạo, bọn họ cũng vô cùng cảm kích hắn. Mẫu thân của Thảo nhi cùng những dân chúng thiện lương khác đều bày hương án thờ phụng Đỗ Văn Hạo như Bồ Tát, ngày ngày thắp hương cầu khấn.

Đương nhiên Tống Thần Tông có thể xử lý như thế có một nguyên nhân rất lớn là nhờ vào bản tấu chương có bút phát thần kỳ như hoa của Trầm sư gia làm Tống Thần Tông hoàn toàn hiểu rõ chân tướng của chuyện này. Tống Thần Tông càng tán thưởng Đỗ Văn Hạo. Thái Hoàng Thái Hậu lại không bỏ lỡ cơ hội này ra sức nói giúp Đỗ Văn Hạo, cuối cùng Tống Thần Tông cũng rỡ bỏ nghi kỵ với Đỗ Văn Hạo, hạ chỉ đề bạt Đỗ Văn Hạo lên hàm tứ phẩm. Mặc dù còn kém hơn một bậc so với quan Đề Hình đề điểm các lộ hình ngục nhưng cũng đã cùng cấp so với quan Đề Hình các lộ. Thế nhưng không cho hắn có quyền thẩm tra án tất cả các tá quan. Tống Thần Tông cũng hạ chỉ bổ nhiệm Lý Phổ làm lục phẩm Chiêu Vũ phó uý. Coi như cuối cùng Lý Phổ cũng có chút thu hoạch.

Ngay sau đó Đỗ Văn Hạo tiếp tục lên đường tuần y, kiểm tra án.

Mấy tháng sau.

Đã qua tháng chạp, xuân về hoa nở. Trên đường tuần y, một ngày Đỗ Văn Hạo tới chân núi Lư Sơn ở Lư châu.

Trên đường đi Đỗ Văn Hạo vui đùa, du sơn ngoạn thuỷ. Lư Sơn là một thắng cảnh nên hắn tuyệt đối không thể bỏ qua. Sau khi công vụ xong xuôi, như thường lệ hắn lại mang theo người nhà đi du lãm danh sơn, sông lớn. Đương nhiên cũng như những lần trước, khi đi du lãm, hắn không cho quan lại địa phương cùng đi, thậm chí còn không cho phép tiết lộ hành tung của mình. Hắn muốn dùng thân phận của một người dân thường đi du ngoạn thì mới có nhiều hứng thú.

Bọn họ đang trên đường đi lên, qua đỉnh Tú Phong, đi tới trước một thác nước nổi tiếng. Đây là nơi năm đó nhà thơ Lý Bạch đã viết câu danh ngôn:

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,

Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây..

Sau một hôi cảm khái, Đỗ Văn Hạo lại tiếp tục đi lên.

Đi được một lúc, đột nhiên Lâm Thanh Đại kinh ngạc kêu lên một tiếng, nàng đứng yên, ngơ ngác nhìn cảnh sắc.

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên, hắn đi tới cạnh nàng hỏi: "Có chuyện gì vậy?"

Lâm Thanh Đại chỉ vào ngọn núi xa xa khẽ nói: "Văn Hạo, chàng xem tại sao ngọn núi kia lại trông quen thuộc vậy?"

Đỗ Văn Hạo chăm chú nhìn hồi lâu vẫn không phát hiện ra có gì quen thuộc liền hỏi: "Trước kia nàng đã tới Lư Sơn sao?"

"Không có. Nhưng cảnh sắc này thật sự thiếp đã thấy ở chỗ nào đó" Lâm Thanh Đại nhíu mày suy nghĩ.

"Trước kia nang đã nhìn thấy cảnh sắc giống như này sao?"

"Không phải" Lâm Thanh Đại lắc đầu nói: "Thiếp chỉ cảm thấy thiếp đã nhìn thấy cảnh này ở đâu đó nhưng mà nghĩ mãi vẫn không ra".

"Là gặp qua trong tranh hả?' Đỗ Văn Hạo cười nói. Thời cổ đại không có TV, lại chưa từng nhìn thấy cảnh sắc giống như này trước kia vậy đương nhiên chỉ có thể nhìn thấy trong tranh.

Ánh mắt Lâm Thanh Đại sáng lên: "Không sai. Là nhìn thấy qua bức hoạn. Bức hoạ trong quyển da dê".

"Quyên da dê?" Nhất thời Đỗ Văn Hạo không kịp phản ứng.

"Đúng vậy. Bức tranh lụa kẹp trong Thánh quyển da dê của Bạch Y Xã. Thiếp vẫn cứ cảm thấy trong bức tranh này ẩn giấu bảo bối vậy. Nhất định là có mục đích. Trước khi cất nó đi thiếp đã nhiều lần nghiên cứu kỹ bức hoạ đó nên nhớ rất rõ cảnh sắc của nó. Tuyệt đối không thể sai, cảnh trong bức hoạ đó chính là chỗ này. Đáng tiếc là đã khâu khe hở của Thánh quyển đó lại, bằng không lấy ra sẽ lập tức biết liền".

"Không cần so sánh. Ta tin tưởng con mắt nàng không nhìn lầm" Đỗ Văn Hạo khum tay nhìn cảnh vật nói: "Nàng nói như vậy, ta cũng có chút ấn tượng. Ừ, chính là chỗ này, cảnh vật nơi đây khá giống, không khác biệt gì lớn nên không cần phải lấy bức tranh giấu trong Thánh quyển ra so sánh'.

Lâm Thanh Đại gật đầu nói: "Đúng vậy. Thánh quyển da dê đó là thủ bút của Tuệ Viễn đại sư, bức tranh trong đó nhất định cũng là do ông ta giấu vào đó. Đúng rồi, thiếp đã nghe Tri châu Lư châu giới thiệu năm đó Tuệ Viễn đại sư ở Lư Sơn tu luyện ba mươi năm, trong khi đó bức tranh đó vẽ cảnh sắc Lư Sơn. Nhất định trong đó có che giấu bí mật gì".

Đỗ Văn Hạo trêu chọc: "Cứ làm như bức tranh này cất giấu kho tàng vậy? Ha ha ha".

nhưng Lâm Thanh Đại lại không cười: "Hoàn toàn có thể. Bằng không, ông ta vẽ bức tranh giấu trong một chỗ bí mật như vậy làm gì?"

"Có lý. Hay. Chúng ta không có gì làm, hãy tìm hiểu xem vị đại sư Đông Tấn này cất giấu bảo bối gì ở trong núi này?"

* Mấy câu thơ đó do các tiền bối dịch.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 372:Phi bộc chi nội

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Nguyệt nhi và Kha Nghiêu chạy tới sau lưng hai người hù doạ rồi hỏi: "Hù, hai người đang nói chuyện gì vậy?"

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo không tiện nói chuyện bí mật cất giấu trong quyển sách da dê kia cho các nàng biết. Đây là chuyện có liên quan tới Bạch Y Xã, càng ít người biết càng tốt. Hắn cười nói: "Thanh Đại tỷ của muội là một thầy tướng số. Trước mặt chúng ta là một toà bảo sơn. Bên trong đó không chừng có cất giấu bảo bối. Hai chúng ta đang nghiên cứu xem nếu có bảo bối thì nó được cất giấu ở chỗ nào".

Kha Nghiêu a lên một tiếng nói: "Thanh Đại tỷ, tỷ còn là một thầy tướng số sao?"

"Ha ha ha. Tính không chuẩn, chỉ là tính mò' Giọng nói của Lâm Thanh Đại tựa như là công nhận điều đó. Nàng còn ra vẻ suy tư như thật: "Tại sao núi này nhìn trên đỉnh trông giống như chậu châu báu. Có lẽ có bảo bối thật".

Lập tức Kha Nghiêu cảm thấy hứng thú: "Thật vậy sao? Con mắt của muội rất tinh tường. Nếu thật sự có bảo bối, nhất định sẽ không thoát khỏi con mắt của muội" Nói xong nàng cũng nghiêng đầu quan sát.

Mấy người Tuyết Phi Nhi thấy mấy người như vậy cũng chạy tới. Nghe thấy lời nói dóc của Kha Nghiêu và Đỗ Văn Hạo, mọi người cũng cảm thấy hứng thú, chăm chú nhìn ngọn núi.

Anh Tử nhìn tới mỏi mắt cũng không thấy có gì liền nói: "Không thấy gì cả. Hay chúng ta đi gọi người của nha môn tới, giúp chúng ta tìm. Nhất định có thể tìm được".

Kha Nghiêu nói: "Vậy không được. Núi này rất lớn. Nếu muốn lục soát, cả vạn người lục soát cả mấy tháng chỉ sợ cũng không lục soát ra cái gì".

Tuyết Phi Nhi cũng nói: "Đúng vậy. Thanh Đại tỷ, tỷ đừng tính sai. Đừng có mất cả nửa ngày mà không được ích lợi gì".

"Ta nói rồi. Ta cũng chỉ tính mò mẫm mà thôi. Việc có đúng hay không vẫn chưa biết chính xác" Lâm Thanh Đại cười nói.

Nghe xong, mọi người như hả hết sự tò mò.

Thế nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn rất cẩn thận đề phòng. Hắn tiến tới thì thầm vào tai Lâm Thanh Đại: "Nếu như thực sự bức hoạ này là một tấm địa đồ, hẳn trong đó sẽ có chỉ dẫn, đánh dấu vị trí bảo vật. Nàng hãy cố gắng nhớ lại xem trong đó có những dấu hiệu như vậy không?"

Lâm Thanh Đại cẩn thận hồi tưởng lại cảnh vật trong bức tranh, từng điểm một rất đúng với cảnh vật trước mắt. Đột nhiên ánh mắt nàng rực sáng. Nàng cũng thì thầm vào tai Đỗ Văn Hạo: "Ở chính giữa của bức hoạ có vẽ một ngôi đình hóng mát. Nhưng trước mắt lại không thấy".

"Đình hóng mát? Tranh sơn thuỷ của Hoa Hạ cũng không bắt buộc phải hoàn toàn tương xứng, có thể tuỳ ý tăng giảm cảnh vật" Đỗ Văn Hạo thì thầm vào tai Lâm Thanh Đại.

"Nhưng tại sao những chỗ khác lại rất giống nhau? Kể cả hình dáng ngọn núi cũng như đá phân bố dưới đáy của thác nước. Tất cả đều giống như trong bức hoạ. Chàng hãy xem. Trên bức hoạ có vẽ đình hóng mát ở vị trí kia, ở đó không có sơn đạo để đi lên. Hoàn toàn trên vách núi. Sao có thể xây dựng đình hóng mát ở đó. Không có sơn đạo, xây dựng một đình hóng mát làm gì?"

"Có lý" Hình như Đỗ Văn Hạo nghĩ ra điều gì, hắn alị thì thầm vào tai Lâm Thanh Đại: "Nếu như bức hoạ đó là một tấm địa đồ thì cảnh tượng phải hoàn toàn giống mới đúng. Trong bức hoạ có đình hóng mát nhưng thực tế không có. Hơn nữa trong bức hoạ vẽ đình hóng mát trên một tảng đá ở giữa lưng chừng nhưng lại không có đường lên. Thật sự kỳ quái".

"Ai ai. Lâu quá rồi" Kha Nghiêu nghiêng người trêu chọc nói: "Nhìn hai người kìa, cứ như dán mặt một chỗ với nhau vậy. Nơi đây còn rất nhiều người bọn muội đó".

Lâm Thanh Đại trừng mắt nhìn Kha Nghiêu rồi nói với Đỗ Văn Hạo: "Thiếp xuống dưới đó nhìn một chút".

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn thác nước chóng mặt bên dưới nói: "nàng xuống được không?"

"Yên tâm!' Lâm Thanh Đại nói: "Cái này còn dễ hơn so với một ngôi nhà. Hơn nữa bên dưới là đầm nước. Cho dù ngã xuống đó cũng không chết được. Cứ chờ tin của thiếp".

"Vậy nàng phải cẩn thận".

"Dạ!".

Lâm Thanh Đại nắm lấy dây leo trên vách núi trượt xuống dưới. Khi tới tận cùng của dây leo nàng bắt đầu bám vào vách đá leo xuống. Mấy người Đỗ Văn Hạo ở trên nhìn hoa hết cả mắt nhưng tốc độ trượt của Lâm Thanh Đại rất nhanh. Từ trên nhìn xuống vách núi hoàn toàn không có khe hở nào để bám vào nhưng Lâm Thanh Đại lại như một con nhện thoải mái trèo xuống dưới.

Rốt cuộc nàng cũng đã tới tảng đá to nhô hẳn ra ngoài. Tảng đá đó nằm trong thác nước. Nước từ trên đỉnh thác bay qua đỉnh đầu nàng, quả thực rất mạo hiểm.

Từ trên nhìn xuống thì thấy hình như Lâm Thanh Đại đang lần mò tìm kiếm cái gì.

Đột nhiên nàng vui mừng kêu lên: "Văn Hạo, tảng đá lớn ở trên vách núi này hình như có thể đẩy ra được. Hình như bên trong có sơn động".

Đỗ Văn Hạo vừa mừng vừa sợ nói: "Nàng không được vào trong trước. Nếu như là sơn động phong bế lâu ngày, bên trong không khí không lưu thông, có chướng khí, coi chừng trúng độc. Trước tiên hãy đẩy tảng đá ra để lưu thông không khí. Đừng vội. Đợi bọn ta xuống rồi cùng vào".

"Được rồi" Lâm Thanh Đại đẩy tảng đá ra, nhìn vào bên trong sơn động và nói: "Bên trong sơn động rất nhỏ. Mọi người đều xuống thì không chứa hết đâu".

Tuyết Phi Nhi nói: "Ca, muội đưa ca xuống".

'Đừng mạo hiểm. Lý Phố, ngươi dẫn người đi lấy dây rừng xoắn lại thành một sợi dây thừng dài. Ta cùng Phi Nhi sẽ xuống dưới. Ta có nhuyễn giáp phòng thân. Võ công của Phi Nhi cũng rất khá. Ba người chúng ta xuống dưới là đủ. Những người khác đợi ở bên trên".

Kha Nghiêu nói: "Muội cũng muốn xuống. Thân thể muội rất nhẹ, có thể cùng bám vào một sợi dây thừng với Phi Nhi tỷ. Võ công của muội cũng không tệ".

Đỗ Văn Hạo hiểu rõ chuyện gì Kha Nghiêu muốn làm không cho nàng làm, nàng sẽ lẽo nhẽo tới điếc cả tai, hắn lại không muốn dây dưa nhiều với nàng nên nói: "Vậy được rồi".

Kha Nghiêu không thể tưởng tượng lúc này Đỗ Văn Hạo lại rộng rãi đồng ý với mình nên nàng vô cùng vui sướng.

Lý Phố vội vàng chỉ huy các hộ vệ cắt dây rừng bện thành dây thừng. Nhiều người, công việc nhanh, chỉ chưa tới nửa canh giờ đã bện xong hai sợi dây rừng rất dài. Trước khi Đỗ Văn Hạo xuống dưới hắn lấy cành cây tùng bó lại, quệt mỡ để làm đuốc rồi mới cùng Kha Nghiêu và Tuyết Phi Nhi tuột xuống dưới.

Khi ba người hạ xuống tảng đá lớn, nhóm đuốc sau đó ném một cây đuốc vào trong. Một lúc lâu sau cây đuốc vẫn không tắt, chứng tỏ không khí bên trong không có vấn đề gì.

Đỗ Văn Hạo dùng khăn che mặt, hắn muốn vào trong động trước nhưng Lâm Thanh Đại đã ngăn cản hắn: "Có lẽ bên trong có độc xà, mãnh thú. Thiếp vào trước, mọi người vào sau".

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo hiểu Lâm Thanh Đại lợi hại hơn hắn rất nhiều, nàng vào trước là hợp lý nhất vì vậy hắn cũng không giằng co, để nàng đi vào trong sơn động trước.

Đường vào sơn động rất nhỏ hẹp, phải khom người mới có thể đi vào. Hơn nữa còn có bậc thềm đi lên trên. Lúc mới vào sơn động, bốn người dùng khen che mặt ( miệng và lỗ mũi ). Được một lát Kha Nghiêu cảm thấy buồn bực nên bỏ khăn ra. Đi tiếp một quãng vẫn không thấy đầu choáng váng, khó thở nàng liền bảo mọi người bỏ khăn che mặt ra.

Đi được một quãng xa, mấy người tới một hang động đá vôi to bằng nửa sân bóng rổ.

Kha Nghiêu phát hiện trên đỉnh đầu có ánh sáng dọi vào. Mọi người liền ngẩng đầu nhìn thì phát hiện trên nóc động có một khe hở to cỡ bàn tay, ánh sáng có thể chiếu dọi qua đó vào bên trong. Thảo nào cửa động đóng chặt nhiều năm mà không khí bên trong vẫn không có vấn đề gì.

Bên trong sơn động này có một chiếc giường đá, có một cái rương to, một ít đồ sứ, ngoài ra không còn vật gì khác, cũng không còn đường để đi lên phía trước.

Ánh mắt mọi người đều tập trung vào cái rương to. Tuyết Phi Nhi nói: "Thanh Đại tỷ, tỷ thật sự rất lợi hại. Quả nhiên có bảo bối".

Lâm Thanh Đại cũng rất hưng phấn nói: "Để ta xem đó là cái gì?'

Kha Nghiêu nói: "Nói không chừng đó chỉ là một cái rương không. Tất cả đồ vật bị lấy đi hết rồi".

"Đừng… trù ẻo thế" Tuyết Phi Nhi trừng mắt nói. Nàng cầm cây đuốc đi tới cạnh chiếc rương, ngạc nhiên nói: "Có khoá".

"Tìm tảng đá đập khoá ra" Đỗ Văn Hạo nói.

"Không cần, để thiếp làm cho" Lâm Thanh Đại đi tới ngồi xổm cạnh chiếc rương. Nàng nâng chiếc khoá đồng lên, giựt đứt sau đó một tay nàng đè nắp rương, nàng quay đầu lại ý bảo mọi người lui ra sau đề phòng có cơ quan ám toán. Bản thân nàng hít một hơi thật sâu rồi hất tung nắp rương lên sau đó lui người lại.

Khung cảnh vẫn im ắng như trước, không có phát sinh gì. Chỉ có tiếng nước chảy róc rách bên ngoài.

Bốn người, tay giơ phòng vệ phía trước, một tay cầm đuốc chậm rãi đi tới nhìn vào chiếc rương. Bên trong chiếc rương toàn là sách. Sách được đóng buộc chỉ cẩn thận ( đóng buộc chỉ - một cách đóng sách truyền thống của Trung Quốc, sợi chỉ lộ rõ ra ngoài bìa)

"Này!" Kha Nghiêu thất vọng nói: "Muội tưởng bên trong là bảo bối gì, không ngờ lại là một chiếc rương sách. Chẳng có ích gì hết".

Đỗ Văn Hạo giao cây đuốc cho Lâm Thanh Đại, hắn ngồi xổm cầm lấy một quyển sách. Hắn nhận ra đó là một bản viết tay. Những chữ trong đó hắn không biết một chữ nào bởi vì đó đều là Phạn văn. May mắn là lần trước ở Báo Quốc tự trên núi Nga Mi, hắn có nghe qua phương trượng trụ trì nói, cũng đã nhìn qua Phạn văn.

Đỗ Văn Hạo tiếp tục lấy những quyển sách trong rương ra, hắn phát hiện toàn bộ đều viết bằng Phạn văn. Đây nhất định là kinh thư phật giáo. Trang giấy đã ố vàng, nhất định đã lâu đời rồi.

Đỗ Văn Hạo đã nghe Tri châu Lư châu nói vào thời Đông Tấn, đại sư Tuệ Viễn, người sáng lập Bạch Y Xã đã từng ẩn cư ba mươi năm ở Lư Sơn. Những quyển sách này nhất định do ông ta lưu lại. Từ thời Đông Tấn tới Bắc Tống đã sáu, bảy trăm năm. Những cuốn sách này vẫn còn lưu giữ được tới bây giờ thì quả thật rất hiếm thấy.

Kha Nghiêu nói: "Đã không có bảo bối vậy chúng ta đi thôi".

Đỗ Văn Hạo nói: "Mang những quyển sách này lên trên".

"Đây chỉ là những quyển sách cũ nát, lấy làm gì?"

"Những quyển sách này được cất giấu trong sơn động bí mật như này, nhất định rất giá trị. Mang lên".

"Nặng quá" Kha Nghiêu chu môi nói.

"Để ta" Lâm Thanh Đại đậy nắp thùng lại như cũ, cài chiếc khoá đồng vào sau đó nàng nhấc lên rời khỏi động.

Khi đi ra ngoài sơn động, Kha Nghiêu và Tuyết Phi Nhi lên trước, Đỗ Văn Hạo mang theo rương sách cuối cùng là tới Lâm Thanh Đại lên trên đỉnh thác nước.

Mấy người Lý Phố nghe nói chỉ phát hiện ra một rương sách thì không khỏi buồn cười. Bọn họ là binh lính nên đương nhiên không có hứng thú với sách. Ngược lại Trầm sư gia rất hứng thú nhưng chiếc khoá đồng của rương sách đã bị Lâm Thanh Đại cặn chết lại, không mở ra được, cũng không nâng lên được.

Mấy người Đỗ Văn Hạo ở lại Lư Sơn du ngoạn mấy ngày rồi xuống núi. Khi đó đã là cảnh sắc mùa xuân tươi đẹp tháng ba.

Thành Lư châu ở cách Lư Sơn năm mươi dặm. Nơi đây sông nước mênh mông. Dân chúng ở đây không làm nghề nông thì bơi thuyền bắt cá, hơn nữa nơi này mưa thuận gió hoà. Trên suốt đường đi chỉ nhìn thấy cảnh nam cày ruộng, nữ dệt cửi, trẻ nhỏ vui đùa. Mấy người Đỗ Văn Hạo trông thấy vậy cũng có chút hâm mộ.

Vào lúc hoàng hôn, mấy người Đỗ Văn Hạo đi vào cổng thành.

Vừa qua cổng thành, một nam nhân có dáng vẻ quan sai gọi theo xe ngựa của mấy người Đỗ Văn Hạo. Kha Nghiêu nhẹ nhàng vén màn xe nhìn chỉ thấy nam nhân kia thở hồng hộc đuổi theo, bên hông đeo một thanh yêu đao.

Tuyết Phi Nhi buồn bực thò đầu ra ngoài nói: "Mới khen là quan lại ở đây cai trị rất tốt. Xem ra ngươi quá phóng đại. Nhất định là vì chúng ta không nộp tiền mãi lộ".

Lý Ấm đánh xe chở dược liệu dừng lại nói: "Đại nhân, để tiểu nhân xem có chuyện gì?"

Xe phía trước cũng dừng lại, Lý Phố nhảy xuống chạy lại đón viên quan sai.

Kha Nghiêu cười nhạt, nàng buông rèm, tìm cái gì đó trong rương hành lý. Đỗ Văn Hạo cười hỏi: "Kha Nghiêu, muội tìm cái gì vậy?"

Kha nghiêu quay đầu, giương đôi mắt hạnh nhìn chằm chằm vào Đỗ Văn Hạo. Nàng cười mà như không cười nói: "Tìm tiền mãi lộ".

Đỗ Văn Hạo cười phá lên nói: Ta thất chưa nhất định là như vậy. Nói không chừng lại tới mời chúng ta đi uống rượu".

Kha Nghiêu không để ý tới. Nàng chỉ cúi đầu nói: "Ca ca tốt bụng của ta ơi, ca cứ đợi đi uống rượu đi nha.

Muội thấy ngoại trừ mấy người chúng ta mời ca ca đi uống rượu, vị quan sai kia tất nhiên là không biết ca".

Kha Nghiêu còn chưa nói xong, màn xe đã vén lên, Lý Phố thò đầu vào trong, hắn cười nói: "Đại nhân, là người của Tri châu Lư châu, An Dật Long đại nhân cung kính chờ ngài ở đây đã lâu".

Sau khi nghe xong Kha Nghiêu không khỏi a lên một tiếng nói: "Tại sao không phải là quân cướp đường? Ta còn đang muốn đánh cướp?"

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Quan sai cướp bóc sao? Ha ha, vậy mà muội cũng nghĩ ra được".

"Không phải là cướp bóc. Nhìn xem dáng vẻ sốt ruột của hắn kìa".

"Rõ ràng là có việc khẩn cấp".

Lý Phố nói: "Đại nhân nói không sai. Tri châu đại nhân nói là có việc gấp muốn tìm ngài thương nghị. Hãy để ty chức đưa các phu nhân đi trước tới dịch quán".

Lâm Thanh Đại nói: "Viên Tri châu này cũng rất có ý tứ, bỏ qua chúng ta sang một bên. Không phải sẽ mời chàng đi uống hoa tửu đấy chứ?" ( Hoa tửu- uống rượu có kỹ nữ hầu)

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: "Vậy cũng không chừng".

Lý Phố vội nói: "Không phải, hắn nói có một kiện cáo nhân mạng quan trọng. Hắn cũng không biết làm gì bây giờ. Hắn cũng không biết tình hình cụ thể".

Kha Nghiêu mỉm cười nói: "Viên Tri châu này cũng không giống quan lại ở những nơi khác chút nào, không mời ăn uống, không tặng lễ vật, vừa đến đã có vụ án gì đó. Hay thật".

Đỗ Văn Hạo đứng dậy nói: "Vậy được, mấy người hãy cùng Lý Phố quay về dịch quán nghỉ tạm. Ta đi xem thế nào".

Kha Nghiêu đột nhiên đứng dậy, nàng chuẩn bị xuống xe. Đỗ Văn Hạo vội hỏi: "Này, làm gì vậy? Ta tuyên bố là không ai đi cùng ta. Hãy ngoan ngoãn cùng với mấy người Cầm tỷ đi về dịch quán đi".

Kha Nghiêu cười nói: "Vậy tại sao ca chỉ đi một mình?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Ai bảo ta đi một mình, ta mang theo Trầm sư gia và Tiền Bất Thu".

"Muội mặc kệ" Kha Nghiêu hừ một tiếng rồi nhảy xuống xe. Nàng thấy cách đó không xa có hai người đang đứng chờ. Một người là vị quan sai đuổi theo xe, người còn lại mặc áo màu xanh, đại khái hơn bốn mươi tuổi, vóc người tráng kiện, mỉm cười nhìn Kha Nghiêu.

Nhìn thấy Đỗ Văn Hạo đi tới, Tri phủ An Dật Long vội vàng bước tới, cung kính nói: "Ty chức đang định lên núi bái kiến đại nhân nhưng nghe nói đại nhân đã xuống núi nên chờ ở đây".

Đỗ Văn Hạo thấy Kha Nghiêu đứng cạnh mình ra dáng một tuỳ tùng liền nói: "Muội còn đứng ở đây làm gì? Sao không mau theo mấy người Cầm tỷ đi về dịch quán?"

Kha Nghiêu bực tức, chu môi, không nói câu nào, cũng không đi.

Đỗ Văn Hạo nói: "Ta cùng với An đại nhân bàn công việc. Muội đứng đây làm gì?"

An Dật Long thấy Kha Nghiêu có vẻ rất muốn đi theo mà Đỗ Văn Hạo cũng có vẻ rất cưng chiều vị muội tử xinh đẹp này liền vội nói: "Đỗ đại nhân, ty chức cũng không có chuyện cơ mật, đại sự gì. Thật ra gần đây ở châu của hạ quan có một vụ án rất khó giải quyết. Ty chức cũng không biết xử lý thế nào. Lệnh muội cùng đi thẩm án cũng không có vấn đề gì".

Đỗ Văn Hạo nhìn Trầm sư gia nhưng hắn cũng chỉ mỉm cười, không có ý kiến gì. Đỗ Văn Hạo đành phất tay ra hiệu cho mấy người Lý Phố rời đi.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 373: Lần đầu tiên thăng đường (1+2)

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

An Dật Long nói: "Đỗ đại nhân đi đường xa mệt mỏi. Hay đại nhân tới phủ nha nghỉ ngơi trước".

Đỗ Văn Hạo nói: "Không có gì. Ngươi tới cửa thành chờ ta, nói chuyện này rất khó giải quyết. Hơn nữa ngươi cũng rất sốt ruột. Dù sao từ đây tới nha môn cũng không xa lắm. Chúng ta vừa đi vừa nói chuyện. Ta đi xe ngựa nhiều cũng rất mệt mỏi. Ta muốn đi bộ".

An Dật Long cười giả lả nói: "Đỗ đại nhân nói rất đúng. Ty chức cũng có ý này. Nếu như vậy chúng ta vừa đi vừa nói chuyện. Đại nhân, mời đi bên này. Đây là một ngõ nhỏ đi tắt tới nha môn, rất yên tĩnh, có thể nói chuyện được".

An Dật Long dẫn mấy người Đỗ Văn Hạo rẽ vào một con ngõ tắt ở phía đông. Hắn chậm rãi nói: "Mấy ngày trước đây, có một thôn phụ tới phủ nha đánh trống kêu oan. Thôn phụ đó nói lão lang trung rất có danh vọng ở phố đông kê đơn nhầm dẫn tới giết chết mẹ chồng Triệu thị của nàng ta. Ty chức đã truyền lang trung tới hỏi. Lang trung đã đưa đơn thuốc cho ty chức thẩm định, ty chức không hiểu y thuật liền mới lang trung khác tới kiểm nghiệm. Ty chức hỏi bất kỳ ai cũng bảo phương thuốc đó không có vấn đề gì. Ty chức vốn định bác đơn kiện của nguyên cáo nhưng…".

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Có phải gia đình lão phụ nhân này có bối cảnh gì không?"

An Dật Long kinh ngạc nói: "Đại nhân quả thật thông minh hơn người. Đoán cái ra ngay".

"Cái này có gì khó đoán. Nếu một khi các đại phu đã nói đơn thuốc đó không có vấn đề gì, ngươi chỉ việc bác đơn kiện là xong, cần gì phải chạy tới cổng thành đợi ta. Ngươi định đá quả bóng này sang cho ta, đúng không?'

An Dật Long tái mét mặt nói: "Ty chức không dám. Quả thật phụ nhân này có chút bối cảnh. Ty chức quả thật không dám làm bừa".

"Thật vậy sao?" Đỗ Văn Hạo cười nói: "Rốt cuộc lão phụ nhân có địa vị gì?"

"Thật ra cũng không có địa vị gì. Lão phụ nhân đã chết này khi còn trẻ tuổi đã từng được Nhân Tông Hoàng đế đề biển".

"A!" Đỗ Văn Hạo kinh ngạc, lắp bắp hỏi: "Một nông phụ nông thôn làm sao lại được tiên đế ngự bút?'

Nói tới việc này, An Dật Long có phần đắc ý, hắn vuốt ria mép nói: "Khi Nhân Tông hoàng đế đi tuần du, có từng qua Lư châu. Đó là vào mùa đông giá rét. Ngày hôm đó, lúc rạng sáng, Nhân Tông Hoàng đế dậy sớm, người lo lắng chuyện quốc sự nên không ngủ được nên muốn đi dạo trên phố. Người chỉ mang theo hai hộ vệ tuỳ thân. Trong lúc đang chậm rãi đi trên đường phố trống vắng thì gặp phụ nhân Triệu thị này. Bà ta đang quang gánh đi khắp hang cùng ngõ hẻm rao bán điểm tâm sáng.

Vừa lúc đó Nhân Tông Hoàng đế thấy đói bụng, người liền gọi một chén. Người thấy mùi vị thơm ngon, lại thấy phụ nhân này vất vả trong ngày đông, tháng chạp nên mới hỏi han gia cảnh, biết trượng phu của phụ nhân chết sớm, để lại hai trai, một gái, tuổi vẫn còn nhỏ, cuộc sống vô cùng gian nan. Nhất thời Nhân Tông Hoàng đế hứng thú rao hàng giúp phụ nhân đó bán hàng".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Quả nhiên tiên đế đồng cảm với dân chúng".

"Mới sáng sớm tất cả mì vằn thắn đều đã bán hết sạch, phụ nhân đó rất cảm kích. Nhân Tông hoàng đế thấy buôn bán rất khá nên tâm trạng cũng hưng phấn, người thấy bên đường có một quán viết chữ thuê liền tới lấy giấy bút viết bốn chữ to: "Thục phận tá cao". Người lại lấy ngọc tỷ ra đóng dấu ở trên đó. Phụ nhân không hiểu ý tứ đó nhưng lão giả viết chữ lại là người tinh ý nhìn kỹ con dấu trên mặt giấy thì biết đây chính là ngọc ấn của Hoàng Thượng, lão quá sợ hãi, cuống quýt quỳ xuống dập đầu, hô ba lần vạn tuế. Lúc này phụ nhân đó mới hiểu ra. Người giúp bà rao hàng, viết chữ tặng lại mình lại là đương kim Hoàng Thượng. Phụ nhân sợ hãi quỳ xuống dập đầu mấy lần. Nhân Tông hoàng đế khen ngợi, động viên mấy câu sau đó người ngửa mặt lên trời cười to và bỏ đi".

Đỗ Văn Hạo nói: "Nhân Tông hoàng đế chơi trò phong trần này, phụ nhân này cũng coi như hồng phúc tề thiên, chiếm được tiện nghi của người".

"Còn không phải vậy sao? Chuyện phụ nhân đó được Hoàng Thượng ban chữ nhanh chóng làn truyền trong và ngoài thành, người người tranh nhau tới gặp. Phụ nhân sợ bản vẽ bị hỏng nên mới làm khung treo ở trước hương án phòng khách nhà mình, tận tâm thờ cúng. Tri châu trước của bỉ châu cũng đã tới tận nơi chiêm ngưỡng, thừa nhận tấm lòng, phẩm hạnh của phụ nhân đối với Hoàng Thượng, cho rằng đây là một việc vô cùng vinh quang đối với bỉ châu, lập tức dâng biểu cho bộ Lễ xin lập đền thời trinh tiết đối với phụ nhân này. Đền thờ này đến bây giờ vẫn còn tồn tại ở cổng thôn của bọn họ bên ngoài thành".

Đỗ Văn Hạo đã dần hiểu ra: "A, thì ra đây là một trinh tiết liệt phụ. Hơn nữa tên đế còn đề từ khen ngợi, quả thật rất khó giải quyết".

"Đúng vậy. Phụ nhân này cả đời thủ tiết. Một mình nuôi dưỡng ba hài tử của mình thành người. Lần này phụ nhân ốm chết, ba người xúc động và nhớ nhung lòng từ ái của mẫu thân, không thể bỏ qua tội chẩn lầm của đại phu. Bọn họ còn tuyên bố nếu như quan phủ bao che, ba người sẽ ôm ngự bút của tiên đế vào kinh ngự cáo".

"Thật vậy sao?" Đỗ Văn Hạo cũng cảm thấy đau đầu. Hắn đứng lại, nghiêm nghị suy nghĩ. Muốn cởi chuông thì phải tìm người buộc chuông, trước tiên phải nghĩ cách đả thông tư tưởng ba người con này. Xem ra phải xuống dưới thôn để trực tiếp hoà giải.

Kha Nghiêu một mực lắng nghe, giờ nàng với nói chen vào: "An đại nhân, không biết đường tới Dương Liễu thôn có xa không?'

Đỗ Văn Hạo cười thầm trong lòng, quỷ nha đầu này thực sự giống như con trùng trong bụng mình. Ta vừa mới dừng bước, còn chưa nói ra mà ngươi đã đoán ra.

An Dật Long hỏi: "Ý của tiểu thư là gì?"

Kha Nghiêu chắp tay sau lưng, cười nhỏ nhẹ nói: "Nếu như không phải quá xa, không bằng chúng ta tới đó ngay bây giờ. Tìm hiểu tình hình ở đó rồi tìm cách thuyết phục ba người con".

An Dật Long vội vàng hỏi: "Thôn Dương Liễu cách cổng thành hơn mười dặm đường, ít nhất phải mất hai canh giờ. Bây giờ sắc trời đã tối. Theo như ty chức thấy trước tiên chúng ta nên để Đỗ đại nhân nghỉ ngơi tối nay. Hơn nữa thi thể đang quàn tại quê nhà nhưng người phụ nhân tới cáo trạng vẫn đang chờ ở khách điếm. Nếu như muốn thuyết phục thì chỉ e phải thuyết phục phụ nhân này trước. Nàng ta là con dâu trưởng của lão phụ nhân, tính tình vô cùng mạnh mẽ. Thuyết phục được nàng ta là có thể thuyết phục được người khác".

Đỗ Văn Hạo nói: "Được rồi. Đã như vậy, ngày mai chúng ta tuyên thôn phụ này tới công đường hỏi tình hình rồi tính sau".

An Dật Long vội vàng cúi đầu đồng ý.

Ai ngờ An Dật Long thấy Đỗ Văn Hạo nói muốn thăng đường thẩm vấn, hắn liền quay về phủ nha phân phó những người liên quan rằng: Chỉ cần có người đánh trống kêu oan thì một mực báo cho Đỗ Văn Hạo biết'.

Sáng sớm hôm sau, Đỗ Văn Hạo vẫn còn đang chìm trong giấc mộng thì có người ở bên ngoài cửa khẽ gọi. Đỗ Văn Hạo ngồi dậy thấy Bàng Vũ Cầm có vẻ vẫn đang ngủ say liền đứng dậy mặc quần áo, buông màn rời đi ra mở cửa.

Hắn thấy chỉ có Anh Tử đang đứng trước cửa, nàng đang định lên tiếng thì hắn đưa tay lên miệng "xuỵt" một tiếng rồi kéo tay nàng ra hành lang hỏi: "Có chuyện gì vậy?"

"Thiếu gia, vừa rồi có một người là Trương sư gia của nha môn châu phủ tới báo bọn họ làm theo phân phó của An đại nhân là phàm có người đánh trống kêu oan thì tới thỉnh đại nhân quyết định".

Khoé miệng Đỗ Văn Hạo khẽ giật, hắn nói: "An Dật Long có ý gì đây? Hắn muốn bêu xấu ta sao?"

Đột nhiên lúc đó sau lưng hắn vang lên tiếng nói: "Không đâu".

Đỗ Văn Hạo và Anh Tử quay đầu nhìn thì thấy Trầm sư gia đang mỉm cười phe phẩy cái quạt tứ quý, vật bất ly thân, chậm rãi đi tới.

Đỗ Văn Hạo nói: "Tiên sinh nghĩ thế nào?"

Trầm sư gia nói khẽ: "Trên quan trường có một quy định bất thành văn. Đó chính là quan trên làm, cấp dưới nhìn xem. Đây là sự khiêm tốn của cấp độ lễ nghĩa. Ngài đã nói muốn hỏi nguyên cáo. Hắn đương nhiên nghĩ rằng ngài muốn thăng đường thẩm vấn, đương nhiên hắn phải chuẩn bị đầy đủ cho ngài. Ngài cũng là quan Đề Hình, có quyền tra xét hình ngục. Nếu cần thiết thì vẫn có thể thăng đường thẩm vấn".

"Thật vậy sao?" Đỗ Văn Hạo thoáng sợ hãi nói: "Nhưng tới giờ ta vẫn chưa bao giờ thăng đường thẩm vấn".

Cây quạt xếp của Trầm sư gia dừng ở giữa không trung, đôi mắt của ông ta híp lại như đang ngủ. Ông ta lặng im một hồi lâu rời mới chậm rì rì nói: "Đã tới thì cứ an tâm ở lại. Đại nhân là người tài đức, nhìn xa trông rộng. Vụ án nhỏ nhoi này chỉ như một cái nhấc tay, không thể làm khó đại nhân được".

Đỗ Văn Hạo khẽ thở dài nói: "Cũng được, tiên sinh đã nói như vậy. Ta đây, không có trâu thì cũng phải bắt chó đi cày một lần".

Sau khi ăn sáng xong, Đỗ Văn Hạo mặc quan phục rồi đi tới hậu đường của nha môn.

Trầm sư gia đã nói cho Đỗ Văn Hạo biết những quy tắc thăng đường đơn giản. Hơn nữa còn có Trầm sư gia ở ngay sau hắn trợ giúp nên trong lòng Đỗ Văn Hạo cũng không có lo lắng.

Sau khi đánh trống thăng đường, Đỗ Văn Hạo đi ra công đường đã được bố trí sẵn. Hắn ngồi xuống ghế thái sư đặt sau phương án ở chính giữa công đường. Trên đỉnh đầu hắn có một tấm biển đề: Quang Minh Chính Đại. Bên trái hắn là đại nhân An Dật Long, quan phục nghiêm chỉnh ngồi ở bên.

Hai bên là hai nha dịch tay cầm chuỳ. Bên dưới công đường có một phụ nhân trung niên đang quỳ gối theo quy định. Tuy phụ nhân này ăn mặc đơn giản nhưng trước khi tới công đường đã thay đổi trang phục sạch sẽ. Đây chính là nguyên cáo kiện lão lang trung ở y quán Tiên Khách Lại, con dâu trưởng của liệt phụ trinh tiết.

.

Người phụ nhân cúi đầu, hai tay đặt trên gối. Trương sư gia ngồi ở bên phải dưới công đường. Trên bàn có bày văn phòng tứ bảo ( bút, mực, giấy, nghiên ). Một tay ông ta cầm bút, một tay để trên bàn. Không khí trên công đường vô cùng trang trọng nghiêm túc.

Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ trong lòng. Không trách được mấy người làm quan trên TV chỉ thích thăng đường thẩm vấn nạn nhân. Cảm giác này quả thực chỉ có một chữ là "sướng". Không, phải là "rất sướng".

Trước đó hắn đã nghe Trầm sư gia có nói qua trong quan trường có một lời đồn rằng "Chỉ cần một lần thăng đường xử án thì lập tức sẽ không phải âu lo về cái ăn cái mặc. Đừng nói tới quan lại các cấp, chỉ cần mấy tay nha dịch vác gậy trên công đường đại khái cũng tìm cách cáo mượn oai hùm. Nhưng ngược lại Đỗ Văn Hạo không có suy nghĩ giống như những quan tham kia "Đầu đội mũ cánh chuồn, ăn nguyên cáo, ăn bị cáo". Hắn có suy nghĩ rằng một khi mình đã ngồi ở cái ghế này, tất phải thẩm tra vụ án rõ ràng, một lần làm thanh thiên Đại lão gia.

Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy, một tay hắn cầm kinh đường mộc, hắn vừa liếc mắt nhìn Trầm sư gia ở sau lưng. Hắn thấy Trầm sư gia mỉm cười nhìn hắn, ý muốn cổ vũ hắn.

Kinh đường mộc vừa mới gõ vào sam mộc trên án, lập tức nha dịnh bên dưới đx cùng kêu lên "uy vũ'. Nguyên cáo ở dưới công đường nghe vậy hoảng hốt, sợ hãi, nàng ta sợ tới mức ngã quỵ xuống đất rồi lại vội vàng ngồi dậy.

Đỗ Văn Hạo lên tiếng hỏi: "Người bên dưới là ai? Vì đánh trống kêu oan, muốn kiện cáo ai?"

"Ta" Thôn phụ còn chưa kịp nói, An Dật Long ngồi bên trên đã ho khan một tiếng nói: "Trước mặt quan Đề Hình đại nhân, sao có thể xưng "ta"?"

"A, dân nữ muốn kiện lang trung họ Tôn, ông ta bày mưu sát hại mẹ chồng của dân nữ".

Đỗ Văn Hạo nói: "Ngươi hãy nói tên, người ở đâu? Vì sao lại để một nữ nhân như ngươi tới kiện, nam nhân nhà ngươi đi đâu hết rồi?"

"Dân phụ là Chu thị, người thôn Dương Liễu cách thành Lư châu mười dặm. Nam nhân nhà dân nữ vì bi thương quá độ nên mắc bệnh. Hơn nữa trong nhà vẫn còn ông nội tuổi già và hài nhi đang gào khóc đòi ăn".

Đỗ Văn Hạo hỏi Chu thị: "Những lời này đều là của ngươi, hay là trước đó có ai đã chỉ bảo ngươi nói?"

Chu thị liếc trộm Trương sư gia, lúng túng hồi lâu rồi quanh co nói: "Đây chính là những lời dân phụ nghĩ ra".

Đỗ Văn Hạo nói: "Ngươi nói lang trung họ Tôn hại chết mẹ chồng của ngươi. Ngươi có chứng cứ gì không?"

Chu thị tức giận nói: "Mẹ chồng dân phụ có căn bệnh ho, suyễn kinh niên, cứ tới mùa xuân thì bệnh nặng hơn, có khi cả ngày ho liên miên không dứt. Nghiêm trọng hơn nữa là có khi cả đêm cũng không ngủ được. Bởi vì Tôn lang trung có danh tiếng rất lớn, rất nhiều người nói y thuật của ông ta rất giỏi. Dân nữ liền dẫn mẹ chồng của mình tới xem bệnh. Ông ta còn khoác lác nói rằng chỉ cần chưa uống hết ba thang thuốc của ông ta, bệnh của mẹ chồng dân nữ sẽ thuyên giảm nhiều. Ai ngờ. Ông trời ơi" Chu thị nói tới đây, khóc to lên.

Đỗ Văn Hạo nói: "Chu thị, đây là công đường , không được làm náo loạn".

Sau khi Chu thị nghe xong, không dám khóc nữa.

Đỗ Văn Hạo nói: "Tốt lắm. Người đâu, dẫn Tôn lang trung lên công đường".

Một lát sau hai quan sai dẫn một lão nhân lên công đường, vóc người gầy gò, tóc bạc trắng phơ, lưng hơi cong, sắc mặt vô cùng sợ hãi. Lão nhân nhìn thấy ngồi trên công đường là một viên quan mà ngay cả Tri phủ đại nhân cũng phải cung kính thì càng sợ hãi, đầu cúi thấp xuống. Chưa đợi nha dịch trong công đường nói đã run rẩy quỳ xuống, kêu lên một tiếng: Thanh thiên Đại lão gia.

"Người bên dưới có phải là Tôn lang trung của y quán Tiên Khách Lai không?' Đỗ Văn Hạo hỏi.

"Dạ, chính là thảo dân".

"Ngươi hành nghề y đã bao nhiêu năm rồi?"

"Từ năm mười hai tuổi đã theo sư phụ học y. Hai mươi hai tuổi xuất sư. Tới hôm nay hành nghề y đã năm mươi năm".

Thì ra đây là một lão lang trung. Trong lòng Đỗ Văn Hạo không khỏi xúc động. Hắn nói với Chu thị: "Ngươi có mang theo đơn thuốc Tôn lang trung kê cho mẹ chồng ngươi không?'

Chu thị móc từ trong người ra một tờ giấy, Trương sư gia đứng dậy nhận lấy, hắn đưa tới trước đài, hai tay cung kính đưa cho Đỗ Văn Hạo. "Ngươi có còn giữ lại bã thuốc không?"

"Đã giao cho nha môn" Chu thị liếc nhìn Trương sư gia nói.

Trương sư gia đứng dậy khom người nói: "Bẩm Đỗ đại nhân, bã thuốc được giữ lại tại phủ nha để tiểu nhân lấy cho ngài" Nói xong Trương sư gia lấy một cái hũ đựng bã thuốc dưới bàn lên mang để trước đài.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền chăm chú nhìn sau đó lại nhìn đơn thuốc rồi căn dặn để sang một bên.

"Chu thị, bản quan hỏi ngươi. Có phải thuốc này lúc đó ngươi mua ở y quán Tiên Khách Lai không?" Đỗ Văn Hạo hỏi.

Chu thị gật đầu khẳng định: "Dân phụ đương nhiên lấy thuốc của Tiên Khách Lai, tổng cộng ba thang, không sai chút nào".

Đỗ Văn Hạo lại hỏi: "Có phải sau khi mẹ chồng ngươi uống thuốc thì chết không?"

Chu thị nói: "Sau khi uống xong thang thứ nhất thì hình như có chuyển biến tốt hơn. Tôn lang trung nói ba ngày uống một thang. Ai ngờ ba ngày sau mẹ chồng dân nữ lại uốn thuốc thì bị tháo dạ điên cuồng, cuối cùng chết vì tiêu chảy không ngừng. Ôi ôi ôi".

Đỗ Văn Hạo nói: "Thôi được. Chu thị, ngươi cũng đừng khóc. Bản quan lại hỏi ngươi: "Ba thang thuốc này mỗi lần mẹ chồng ngươi uống đều do ai sắc hả?"

Chu thị trầm ngâm một lát rồi nói: "Lần đầu tiên là do dân phụ sắc. Lần thứ hai là do tiểu thúc sắc. Hắn vẫn đang ở bên ngoài công đường chờ phán xét".

Đỗ Văn Hạo nói: "Chu thị, ngươi cần phải nghĩ cho kỹ".

Chu thị ngơi ngác nói: "Đại lão gia, thuốc này đều bốc ở y quán Tiên Khách Lai, ai sắc mà chả vậy vì sao ngài lại hỏi dân phụ?"

An Dật Long trầm giọng nói: "Điêu dân lớn mật. Đại nhân hỏi ngươi cái gì, ngươi hãy trả lời cái đó. Ở đâu có cái đạo lý ngươi hỏi ngược lại đại nhân?"

Đỗ Văn Hạo khoát tay áo, ý bảo An Dật Long không nóng vội. Hắn gọi Trầm sư gia tới nói nhỏ mấy câu vào tai ông ta. Trầm sư gia gật đầu lui xuống. An Dật Long muốn hỏi nhưng lại há miệng mà không dám hỏi.

Đỗ Văn Hạo nói: "Tiểu thúc của ngươi đang ở bên ngoài, vậy hãy dẫn hắn vào đây".

Chỉ một lát sau, một nam nhân trên dưới năm mươi tuổi, chân trần đi vào công đường, hắn quỳ xuống không nói.

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Ngươi tên gì, năm nay bao nhiêu tuổi? Có quan hệ gì với người chết?"

"Tiểu nhân là Hồng tam, năm nay năm mươi sáu tuổi, là con thứ hai của người chết".

"Hồng tam, nhìn ngươi từng này tuổi, hẳn phải có cháu rồi, đúng không?"

"Bẩm Đại lão gia, thảo dân có ba cháu trai, một cháu gái".

Đỗ Văn Hạo ra hiệu Trương sư gia đưa hũ bã thuốc cho Hồng ta và hỏi: "Hồng tam, ngươi có biết thuốc trong hũ này do ai sắc không?"

Hồng ta quan sát cẩn thận sau đó hắn còn dùng mũi ngửi rồi nói: "Là thảo dân sắc".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Làm sao ngươi biết bã thuốc này chính là do ngươi sắc? Vạn nhất chúng ta đưa cho ngươi một cái hũ đựng bã thuốc giống hệt cái hũ này, bên trong có bã thuốc khác thì sao?"

Hồng tam nói: "Vị thuốc này thảo dân rất quen. Ngày hôm đó mẹ thảo dân uống thuốc bà còn nói vị thuốc này có mùi lạ, không muốn uống.

Thảo dân nói thuốc đắng dã tật. Mẹ thảo dân liền uống. Ai ngờ, buổi tối thì…Nếu thảo dân sớm biết như vậy? Tất cả đều là lỗi thảo dân. Bà đã không muốn uống. Không uống thì không sao. Ai ngờ tên lang băm giết người này lại kê đơn lung tung. Thảo dân lại còn khuyên mẹ mình dùng thuốc. Quả thực là tội nhân. Thảo dân thực đáng chết. Ô ô ô".

Đỗ Văn Hạo quay sang hỏi Chu thị: "Chu thị, lần đầu tiên ngươi sắc thuốc cho mẹ chồng ngươi uống, bà ấy có ý đùn đẩy không muốn uống không?"

Chu thị lắc đầu nói: "Không có".

Đỗ Văn Hạo nhìn An Dật Long bên cạnh hỏi: "An đại nhân có còn muốn hỏi gì không?"

An Dật Long hắng giọng một cái, hắn cung kính gật đầu với Đỗ Văn Hạo sau đó hỏi Chu thị: "Chu thị, vậy mẹ chồng của ngươi có nói thuốc có mùi lạ không?"

Chu thị nói: "Cũng không nói. Khi dân phụ bưng thuốc lên, bà liền uống ngay".

An Dật Long gật đầu nói với Tôn lang trung: "Những lời nói của bọn họ ngươi cũng đã nghe thấy hết rồi, liệu có phải ngươi kê đơn sai không?"

"Tuyệt đối không có khả năng" Tôn đại phu nói: "Có lẽ là phụ nhân này giở trò quỷ".

Chu thị lạnh lùng nói: "Ngươi nói cái gì? Ngươi đừng có ngậm máu phun người".

"Hừ, mẹ chồng ngươi tuổi cao, cơ thể suy nhược, trên người mắc rất nhiều bệnh, thường xuyên phải coi sóc. Cái này là cái gọi: Ôm lâu ngày tất không có hiếu tử. Ngươi nhất định là chán ghét hàng ngày đều phải phục dịch như vậy nên ngươi nổi dã tính sát hại mẹ chồng ngươi".

"Ngươi nói bậy. Ngươi là một đại phu gian xảo. Ngươi hại chết mẹ chồng của ta vậy mà miệng còn phun đầy *** thối. Ngươi chết không yên lành. Ngươi sẽ bị thiên lôi đánh chết" Chu thị liên tục văng ra những từ ngữ ô uế.

Đỗ Văn Hạo cũng không ngăn cản, hắn chỉ mỉm cười nhìn, dáng vẻ rất hứng thú như thể hắn chưa nghe thấy nữ nhân chanh chua chửi bới bao giờ.

Tôn lang trung bị Chu thị chửi mắng một hồi thì gương mặt già nua đỏ lên, miệng lắp bắp muốn nói rồi lại thở dài.

An Dật Long thực sự không chịu nổi nữa, hắn ho khan mấy tiếng. Lúc này Chu thị mới tỉnh ngộ, không dám mắng chửi nữa, liền dập đầu nói với Đỗ Văn Hạo: "Đại lão gia, dân phụ một lòng phụng dưỡng mẹ chồng, không có hai lòng. Xin đại lão gia minh giám".

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 374: Tin cấp báo tám trăm dặm (1+2)

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

ỗ Văn Hạo nói với phụ nhân Chu thị: "Ta nghe nói mẹ chồng của ngươi được tiên đế ngự bút vì bà một đời đức hạnh nuôi dưỡng ba người con, phải không?"

Chu thị kiêu ngạo nói: "Đúng vậy".

Đỗ Văn Hạo sa sầm mặt nói: "Ngươi có người mẹ chồng đức hạnh, thuần thiết cao như vậy. Tại sao ngươi lại thành một con đàn bà chửi đổng, chanh chua ở đây? Ngươi hãy nghĩ xem vừa rồi ngươi chửi mắng những lời thô tục, chỉ e là *** đái trong hầm cầu vẫn còn sạch sẽ hơn. Ngươi làm như vậy, chẳng phải là đã bôi nhọ đền thờ trinh tiết của mẹ chồng ngươi sao?"

Sau khi Chu thị nghe xong, đỏ bừng mặt, cúi đầu không dám lên tiếng, sự kiêu ngạo vừa rồi đã mất đi tám, chín phần.

Bây giờ mấy người An Dật Long mới hiểu vì sao Đỗ Văn Hạo lại làm ngơ như mắt mù tai điếc với hành vi chửi bới của Chu thị. Thì ra hắn vẫn có một thủ đoạn hay như vậy. Một khi dùng chiêu này, đả kích vẻ kiêu ngạo của Chu thị, tiếp theo sẽ tiến tới công tác tư tưởng. Nghĩ vậy mấy người không khỏi tán thưởng tâm tư kín đáo của Đỗ Văn Hạo.

Thật ra chiêu này Đỗ Văn Hạo cũng không nghĩ ra mà là chủ ý của Trầm sư gia.

Đỗ Văn Hạo nói với Tôn lang trung: "Ngươi hãy tới nhìn xem bã thuốc trong bình có phải là thuốc ngươi kê lúc trước không?"

"Dạ, đa tạ Đại lão gia" Tôn lang trung cảm kích việc vừa rồi Đỗ Văn Hạo nói giúp cho mình, quở trách người đàn bà chanh chua đó. Coi như là trợ giúp cho mình. Tôn lang trung đứng dậy vái chào Đỗ Văn Hạo rồi mới bước tới nhìn bình thuốc.

Bã thuốc nằm hỗn độn trong bình. Ánh sáng trong công đường cũng không tốt lắm, nhìn xem cũng không rõ, Tôn lang trung cũng không dám nói mang bình thuốc khỏi an của Đại lão gia, ông ta đang cân nhắc xem nên làm gì thì Đỗ Văn Hạo hỏi: "Ngươi có còn nhớ thuốc ngươi kê cho mẹ chồng của Chu thị là thuốc gì không?"

Tôn lang trung nói: "Thời gian còn chưa lâu lắm nên thảo dân vẫn nhớ rõ. Hôm đó Chu thị dẫn mẹ chồng tới Tiên Khách Lai của thảo dân chữa bệnh. Thảo dân nhớ lão thái thái thân thể suy nhược. Mới đi vào tới trước bàn của thảo dân mà đã thở hổn hển như là nói chuyện cả nửa ngày vậy".

Đỗ Văn Hạo nói: "Vậy ngươi chuẩn đoán thế nào?"

Tôn lang trung nói: "Thở hổn hển, ho khan, nhiều đờm, loãng, trong. Mạch rất yếu. Tưa lưỡi trắng bạch. Chuẩn đoán là đàm ẩm, dùng ôn dược, kê phương Ôn Dương tiêu đàm".

Đỗ Văn Hạo nói: "Ngươi vẫn chưa nói cho ta biết bã thuốc trong bình này có phải là thuốc ngươi kê không?"

Tôn lang trung khom người nói: "Đại lão gia, thảo dân, cái mũi của thảo dân không có tác dụng, không ngửi thấy mùi vị gì".

"Ừ. Lúc trước ngươi nói ngươi nghi ngờ Chu thị mưu hại mẹ chồng rồi vu oan giá hoạ cho người. Ngươi có chứng cứ không?'

Tôn lang trung sợ hãi nói: "Đây cũng chỉ là dự đoán về sự tình bên trong mà thôi. Phàm những việc mưu hại người, tuyệt đối không để chứng cứ cho người khác biết được".

"Việc này cần có chứng lý đầy đủ. Vì cần những tình tiết rõ ràng của vụ án, tối hôm qua bản quan đã điều tra một chút, có lẽ có thể trợ giúp cho vụ án này" Nói xong Đỗ Văn Hạo quay đầu lại liếc mắt nhìn Trầm sư gia.

Trầm sư gia hiểu ý, ông ta quay người rời khỏi công đường. Một lát sau ông ta cùng với hai nha dịch của nha môn tiến vào. Trên tay mấy người còn cầm gì đó.

Trầm sư gia nói: "Đại nhân, dựa theo căn dặn của ngài. Tối hôm qua lão hủ đã dẫn theo hai nha dịch đi tới thôn Dương Liễu một chuyến, đã vào trong nhà của Hồng tam điều tra".

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Có thu hoạch gì không?"

Trầm sư gia nói: "Sau khi điều tra đã phát hiện ra Chu thị đã mua ba thang thuốc. Một thang đã sắc cho mẫu thân Triệu thị của Hồng tam uống, một thang để ở trong bình, làm chứng trước công đường. Trong khi đó ở trong nhà Hồng tam còn phát hiện ra hai thang thuốc vẫn chưa sắc dấu dưới đống củi trong góc tường nên bọn lão hủ cầm về đây" Nói xong, Trầm sư gia bảo nha dịch cầm hai cái bọc giấy mang lên án.

Đỗ Văn Hạo mở ra nhìn một lát sau đó hắn nhìn lướt qua Tôn lang trung cùng Chu thị và Hồng tam nói: "Còn phát hiện gì nữa không?"

Trầm sư gia nói tiếp: "Khi ở trong thôn, lão hủ có nhân tiện hỏi thăm được một số tin tức về việc sống chung với mẹ chồng của Chu thị. Lão hủ nghe nói một ngày trước khi dẫn mẹ chồng đi khám bệnh, Chu thị cãi nhau kịch liệt với mẹ chồng mình. Lão hủ còn nghe nói hàng ngày Chu thị cư xử với mẹ chồng không tốt lắm. Chu thị là người nhanh mồm nhanh miệng, hàng ngày thường cãi nhau với mẹ chồng nhưng lão hủ không nghe nói tới việc ngược đãi".

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Ngươi tới Tiên Khách Lai một chuyến, có thu hoạch được gì không?'

Trầm sư gia nói: "Tiên Khách Lai đã đóng cửa, đại để là vì chuyện này mà hàng xóm trong lúc rảnh rỗi thường bàn tán linh tinh. Chưởng quỹ của Tiên Khách Lai vốn cũng là một người học y, thấy lão hủ mang theo hai nha dịch tới, ban đầu không muốn mở cửa nhưng sau khi nha dịch bảo phá cửa nên ông ta mới mở cửa. Chưởng quỹ nói Tôn lang trung là người tinh thông y thuật nên đương nhiên sẽ không có cái gì gọi là kê sai đơn thuốc".

An Dật Long nói: "Nếu như là kê đơn không sai, vậy liệu có phải là bốc thuốc sai không?"

Trầm sư gia nói: "An đại nhân nghĩ rất chu đáo. Lão hủ cũng đã hỏi tiểu nhị bốc thuốc của Tiên Khách Lai chuyện này. Bọn họ nói Tiên Khách Lai có một thói quen bốc thuốc đó là khi bốc xong còn phải mang cho đại phu toạ đường kiểm tra lại. Tiểu nhị đó cũng nói Tôn lang trung cũng đã kiểm tra qua, không phát hiện có gì sai".

Đỗ Văn Hạo nói: "Cẩn thận là không có thừa. Dù gì đây cũng là chuyện liên quan tới sinh mạng con người".

Tôn lang trung nơm nớp lo sợ nói: "Đại lão gia, tiểu dân quả thực đã kiểm tra lại. Vừa rồi tiểu dân còn ngửi thấy hình như trong bình này có Đại hoàng, một loại dược tháo dạ. Tất nhiên tiểu dân không kê vị này, hơn nữa trong thang thuốc của tiểu dân cũng không có loại dược này vì vậy tiểu dân rất buồn bực".

Đỗ Văn Hạo bảo nha dịch mang cái bình đựng thuốc tới để trên mặt đất, sau đó lại mang hai thang thuốc tới đặt ở chỗ đó để Tôn lang trung xem qua sau đó Đỗ Văn Hạo hỏi: "Trong đây có thang thuốc ngươi kê không?"

Tôn lang trung nhanh chóng chỉ vào một thang thuốc nói: "Đây chính là thang thuốc tiểu dân kê cho lão thái thái đó".

Đỗ Văn Hạo lại hỏi Chu thị: "Trong nhà các ngươi còn có ai khác bị bệnh không?"

Chu thị lắc đầu nói: "Không có. Nhưng dân phụ không hiểu tại sao lại còn thừa ra một thang thuốc nữa".

An Dật Long cười nhạt nói: "Ngươi chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ sao? Trong nhà ngươi không còn người nào uống thuốc, vậy một thang thuốc nữa là từ đâu ra?"

Nói rồi theo thói quan An Dật Long đưa tay định cầm lấy lệnh bài nhưng đúng lúc này hắn mới chợt nhớ ra Đỗ Văn Hạo đang là người thăng đường thẩm vấn chứ không phải hắn. Hắn vội chắp tay nói: "Theo ý kiến của ty chức, điêu phụ này rất xảo quyệt, không để nó nhận được chút lợi hại, nhất định sẽ không nhận tội".

Đỗ Văn Hạo không nói, An Dật Long lại nghĩ Đỗ Văn Hạo ngầm đồng ý nên hắn liền giơ tay cầm lệnh bài trong hộp. Thấy vậy Đỗ Văn Hạo lãnh đạm nói: "An đại nhân, hay là ngươi ngồi chỗ này đi nha?"

An Dật Long lập tức hiểu ra, hắn cười ngượng ngùng rụt tay về nói: "Rất xin lỗi. Đại nhân, ty thức quá thất lễ" Nói xong An Dật Long ngượng ngùng ngồi trở lại vị trí của mình.

Đỗ Văn Hạo nói: "Chu thị, trước khi xảy ra chuyện, có phải ngươi và mẹ chồng của ngươi đã cãi nhau không?"

Chu thị nói: "Bẩm Đại lão gia, quả thực ngày đó dân phụ cùng mẹ chồng có cãi nhau vì việc dạy bảo đứa con tinh nghịch của dân phụ. Chuyện này tướng công của dân phụ cùng tiểu thúc cũng biết nhưng mà dân phụ tuyệt đối không vì chuyện này có có dã tâm sát hại mẹ chồng của mình".

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Ngươi có chứng cớ gì chứng minh không?"

Chu thị suy nghĩ một lát rồi nói: "Đại lão gia có thể hỏi tướng công của dân phụ cùng với tiểu thúc. Gần đây dân phụ đều như vậy, nhìn thấy chuyện gì không vừa mắt thì lẩm bẩm mấy câu. Ngài xem, bây giờ đang là mùa xuân, nước sông rất lạnh. Mẹ chồng của dân phụ lại rất cưng chiều con của dân phụ. Con dân phụ muốn đi bơi ở sông cũng không ngăn cản, lại còn muốn dẫn nó đi bơi. Dân phụ liền nói mấy câu nặng nhẹ với bà. Dân phụ cũng biết sức khoẻ của bà không tốt. Nhưng tình hình lúc đó khẩn trương, cũng không thể nghĩ nhiều như vậy được nên đã để cho hàng xóm láng giềng nghe được. Về sau Vương thẩm ở cạnh nhà dân phụ sang khuyên giải. Vào bữa cơm tối, dân phụ cảm thấy mình đã sai nên đã bảo trượng phu tới nhà Triệu đồ tể trong thôn mua ba lạng thịt về làm một bữa ngon cho bà ăn. Buổi tối đó coi như mẹ chồng nàng dâu không còn xảy ra chuyện gì nữa. Sáng hôm sau dân phụ mới đưa bà vào thành chữa bệnh".

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Hồng tam, lão bà của ngươi nói có đúng không?"

Hồng tam gật đầu nói: "Đại lão gia, tiện nội gần đây nói chuyện đều như vậy. Người trong nhà cũng đều biết, đôi khi nói chuyện với nhau cũng tức giận nhưng chính bản thân mình vẫn không chịu bỏ qua. Sau này vẫn tiếp tục nói giỡn với mọi người mà không biết mọi người vẫn còn đang tức giận. Quả thật buổi tối hôm đó có mua mấy lạng thịt. Mẹ của tiểu nhân cũng là người mềm lòng, thấy con dâu có ý nhận lỗi nên cũng không so đo".

Đỗ Văn Hạo hỏi tiếp: "Vậy ngươi hãy nhớ xem trong thời gian gần đây trong nhà ngươi có ai uống thuốc hay mua thuốc từ trước, không uống hết rồi tiện tay vứt ở góc tường không?"

Hồng tam lúng túng gãi đầu nói: "Quả thực tiểu dân cũng không nhớ".

Tôn lang trung nói: "Hừ, thuốc để cho người uống sao lại bỏ ở góc tường. Đại khái chính là sợ người khác nhìn thấy nên mới cố ý dấu đi".

Đột nhiên Chu thị nói: "Đại lão gia nhắc dân phụ mới nhớ ra. Mấy ngày trước con heo nái nhà dân phụ bỏ ăn, dân phụ tìm thú ý trong thôn tới chữa cho nó. Thú ý cho hai thang thuốc, mới ăn hết một thang thì heo nái đã khoẻ. Dân phụ nghĩ ném đi thì tiếc nên mới… chẳng lẽ?"

Đỗ Văn Hạo "a" lên một tiếng, hắn hỏi Chu thị: "Ngươi nói gia súc nhà ngươi bị bệnh sao?'

Chu thị nói: "Đúng vậy. Đại khái là mấy ngày trước khi dân phụ dẫn mẹ chồng mình đi vào thành chữa bệnh".

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Thú y trong thôn tên gọi là gì?"

Chu thị nói: "Vương mặt rỗ".

Đỗ Văn Hạo nói: "Được, xem ra vụ án này cần tra thêm manh mối. Người đâu, tới thôn Dương Liễu dẫn Vương mặt rỗ tới đây. Tạm thời thoái đường".

Đỗ Văn Hạo phất tay quay lại hậu đường, An Dật Long vội vàng đi theo.

Khi vào đến hậu đường, An Dật Long vội vàng phân phó nha dịch bưng nước trà và điểm tâm cho Đỗ Văn Hạo sau đó hắn cười tủm tỉm ngồi đối diện với Đỗ Văn Hạo. An Dật Long khẽ nhấp một ngụm trà, hắn nhìn sắc mặt của Đỗ Văn Hạo rồi dè dặt nói: "Không biết Đỗ đại nhân thấy vụ án này thế nào?"

Đỗ Văn Hạo cầm một cái bánh hạt sen, nhìn cũng không tệ lắm, ăn. Sau đặt miếng bánh ăn dở vào trong mâm, Đỗ Văn Hạo vỗ vỗ mảnh bánh rơi trên áo choàng và nói: "Bản quan muốn nghe suy nghĩ của An đại nhân".

An Dật Long ồ một tiếng rồi hắn khiêm nhường nói: "Trước đó ty chức cũng đã hỏi qua Chu thị, cũng đã tới thôn điều tra, hỏi thăm người trong thôn, cũng nghe nói chuyện mẹ, chồng nàng dâu xung khắc với nhau, cũng thường xuyên xảy ra chuyện đánh chửi nhau. Thời gian này mẹ chồng không những không đồng cảm mà còn hay cãi nhau với con dâu nên tất nhiên Chu thị không thoải mái, có ý nghĩ đó cũng là chuyện bình thường".

Đỗ Văn Hạo nhấp một ngụm trà thơm nói: "Thang thuốc thứ nhất Chu thị sắc cho mẹ chồng uống không có vấn đề gì. Tại sao thang thứ hai lại xảy ra chuyện như vậy?"

An Dật Long nuốt một ngụm nước bọt nói: "Chẳng lẽ thật sự Chu thị đã hạ độc thủ sau đó cố ý đổ tội lên đầu Tôn lang trung sao?"

Đỗ Văn Hạo cầm miếng bánh còn lại trong mâm bỏ vào mồm, tinh tế thưởng thức sau đó hắn uống một ngụm trà và nói: "Thẩm án không thể dự đoán. Ở đây có một lỗ hổng rất lớn. An đại nhân hoàn toàn không chú ý tới tại sao lại có thừa ra một thang thuốc. Đại nhân nghĩ đã xảy ra chuyện gì?"

An Dật Long đứng dậy, xoa tay nói: Đây là chuyện vẫn chưa rõ ràng. Có lẽ Chu thị đã mua một thang thuốc khác. Trước hết sắc một thang thuốc của Tôn lang trung cho Triệu thị uống để bà ta thấy có chuyển biến mà mất cảnh giác sau đó mới đưa thang thuốc kia cho Hồng tam sắc cho Triệu thị uống để hại chết Triệu thị".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "An đại nhân nói cũng có đạo lý".

An Dật Long cười đắc ý, hắn ngồi lại vào chỗ của mình. Bất chợt hắn phát hiện nụ cười có phần giễu cợt của Đỗ Văn Hạo, sự đắc ý lập tức tan thành mây khói, hắn ngượng ngùng nói: "Đại nhân có thể chỉ điểm chỗ sai lầm không?"

Đỗ Văn Hạo nhấp một ngụm trà, hắn chậm rãi nói: "Có lẽ vụ án này căn bản không phải là vụ án giết người nên sẽ không có hung thủ".

Nghe xong An Dật Long ngạc nhiên nói: "Xin chỉ giáo".

"Với trực giác của bản quan, đây là một vụ án ngoài ý muốn. Chờ lát nữa thú y tới mọi việc sẽ minh bạch".

"Ngoài ý muốn? Ý của đại nhân là?"

"Một khi đã làm kẻ trộm thì không cần phải hô to bắt trộm như vậy vì căn bản không có ai tới tìm nàng ta gây chuyện, cũng không có bất kỳ ai nghi ngờ. Nếu thật sự Chu thị mưu hại mẹ chồng của mình, lựa chọn đầu tiên chính là thu xếp ổn thoả, che dấu tai mắt của người ngoài nhưng Chu thị lại tới nha môn đánh trống kêu oan. Chẳng lẽ Chu thị không sợ bị bại lộ chân tướng sự việc sao?'

"Đại nhân phân tích rất có lý" An Dật Long khen ngợi.

Đỗ Văn Hạo vẫn ung dung nói: "Vấn đề mấu chốt để sét đoán vẫn là đơn thuốc. Căn cứ vào đơn thuốc có thể hiểu được rất nhiều thứ".

"Hiểu rõ cái gì?"

"Cái này hãy đợi lát nữa ta sẽ nói trên công đường. Ta không muốn nói hai lần".

"…".

Không bao lâu sai nha dịch vào báo Vương mặt rỗ đã tới.

Một lần nữa Đỗ Văn Hạo lại thăng đường, sau khi hỏi rõ thân phận của Vương mặt rỗ hắn nói tiếp: "Ngươi có từng tới chữa bệnh cho gia súc của nhà Triệu thị mới qua đời ở trong thôn của ngươi không?"

"Có chữa, đại nhân. Con lợn nái nhà bọn họ mắc bệnh, có mời tiểu dân tới chữa. Tiểu dân chỉ cho ít thuốc đã chữa khỏi. Hì hì".

"Ô, xem ra y thuật của ngươi cũng không tệ" Đỗ Văn Hạo nói: "Con lợn đó bị bệnh gì? Ngươi cho nó thuốc gì?"

"Đó chính là bạch lỵ. Thuốc của tiểu dân kê có những loại như Đại hoàng, Phác tiểu".

Ánh mắt Đỗ Văn Hạo sáng lên, hắn hỏi: "A, ngươi có kê Đại hoàng trong thuốc hả?"

"Đúng vậy".

Đỗ Văn Hạo nói với nha dịch: "Người đâu, mang bình thuốc đổ mặt đất để bọn họ nhận dược. Ta muốn xem rốt cuộc bên trong là những thứ gì? Đây là bã thuốc Triệu lão thái thái dùng trước khi chết. Các ngươi hãy nhìn xem có phải là thuốc các ngươi kê hay không?'

Ngay lập tức có nha dịch mang bình thuốc đổ thuốc ra trước mặt nhị vị lang trung và Chu thị. Dựa vào bã thuốc này vẫn còn có thể nhận ra dược liệu. Sau khi hai người Vương mặt rỗ và Tôn lang trung xem xong đều giật mình kinh hãi.

Tôn lang trung kinh hãi hô lên: "Không đúng. Thuốc trong bình này tuyệt đối không phải là thuốc tiểu dân kê. Tiểu dân kê cho Triệu lão thái thái dùng Đáp quế thuật cam thang cùng với nhị trần thang*. Có đơn thuốc làm chứng".

Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, hắn lại nhìn thú ý Vương mặt rỗ lúc này đang trợn mắt há hốc mồm.

Quả thật Vương mặt rỗ không thể tin vào mắt mình, hắn lẩm bẩm: "Cái này. Đây chính là thuốc của mình. Nhưng mà thuốc của mình là kê cho lợn nhà họ ăn. Tại sao lại nằm trong bình thuốc của lão thái thái?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Rất đơn giản. Có người sắc lầm thuốc, lấy thuốc dùng cho lợn mang cho lão thái thái uống. Bản quan căn cứ vào việc điều tra của sư gia thì thấy. Đích xác Triệu thị ốm đã nhiều năm. Nhiều làn tới dược phổ của Tôn đại phu chữa bệnh. Sư gia cũng lấy được phương thuốc chưa bệnh cho Triệu thị khi trước lưu lại dược phổ, biết Triệu lão thái này mắc bệnh đàm ẩm. Hàng năm khi mùa đông tới thì phát tác nặng thêm. Triệu lão thái tuổi tác đã cao, dương khí suy yếu, đàm ẩm phát triển, dùng Ôn dương hoá ẩm vì vậy Tôn đại phu đã kê đơn đúng bệnh. Thang thuốc thứ nhất đã hiệu quả, chứng minh thuốc có hiệu nghiệm nhưng đáng tiếc là có người sắc lầm thuốc dùng cho gia súc thành thuốc cho người để Triệu lão thái thái uống nên mới có kết quả này".

Hai mắt Hồng tam đẫm lệ nhưng hắn vẫn không tin vào điều này. Hắn lắp bắp nói: "Đại lão gia, thuốc dành cho lợn ăn. Một con lợn bé uống một liều thuốc đó không chết. Tại sao người uống lại chết?'

Đỗ Văn Hạo thở dài nói: "Triệu lão thái là người tuổi cao, dương suy, ẩm ta thịnh lúc này dùng Ôn dương hoá ẩm chỉ e vẫn còn không kịp. Tại sao lại còn dùng Đại hoàng, Phác tiêu nhưng loại dược có tính hàn, nên đương nhiên không thể chữa được bệnh suyễn của lão thái thái. Có câu nói: Hảo hán cũng không chịu được ba bãi *** nhão, huống chi là một bà lão tám mươi".

Hồng tam gào khóc nói: "Mẹ! Con thực xin lỗi. Tại sao khi sắc thuốc không nhìn cẩn thận vậy?"

Chu thị cũng lớn tiếng khóc ngay tại chỗ: "Trách ta đi! Đều là tại ta tiếc của. Tại sao ta lại làm vậy? Thuốc thừa của lợn, không vất đi còn giữ lại làm gì hả trời?"

Đỗ Văn Hạo thở dài một tiếng, hắn lắc đầu đang định nói thì bất chợt sau lưng hắn vang lên tiếng bước chân. Một tên sai dịch lẻn tới nói nhỏ mấy câu vào tai Trầm sư gia. Trầm sư gia biến sắc, ông ta vội vàng bước tới cũng thì thào vào tai Đỗ Văn Hạo: "Đại nhân, có tin cấp báo quân tình khẩn cấp tám trăm dặm".

Đỗ Văn Hạo "a" lên một tiếng, hắn phất tay áo nói: "Vụ án đã tra xét rõ ràng. Tôn đại phu vô tội phóng thích. Bãi đường".

Đỗ Văn Hạo vội vàng đi vào hậu đường. An Dật Long cũng vội vàng vào theo, sắc mặt hắn tươi như hoa, hắn đang định nói mấy câu vuốt mông ngựa nhưng thấy sắc mặt Đỗ Văn Hạo nghiêm trọng thì vội vàng nuốt lời nói vào trong bụng.

Sắc mặt của Đỗ Văn Hạo và Trầm sư gia đại biến là có nguyên nhân. Tin cấp báo quân tình khẩn cấp tám trăm dặm là loại hình truyền tin tức nhanh nhất của thời cổ đại. Loại phương thức chưa tới lúc quân tình khẩn cấp thì không ai được phép dùng vào bất kỳ chuyện gì, càng không thể dùng tiền là có thể được. Nhất định đã xảy ra đại sự.

Đỗ Văn Hạo vội vàng phân phó mời người mang tin cấp báo quân tình tiến vào.

Người mang tin tức cấp báo quân tình này là một Hiệu uý, hơn nữa còn nói việc quân tình cực kỳ khẩn cấp và quan trọng nên trong lòng Đỗ Văn Hạo cũng vô cùng nôn nóng.

Một tên Hiệu uý người đầy mồ hôi, trên vai đeo một chiếc ống bằng đồng, eo đeo đơn đao, y phục trên người ướt đẫm mồ hôi, cực kỳ bụi bặm, nhếch nhác bước nhanh vào phòng, hắn quỳ xuống ôm quyền nói: "Mạt tướng tham kiến quan Đề Hình đại nhân. Xin thứ cho mạt tướng vô lễ muốn xem quan ấn của đại nhân".

Đối với tin cấp báo quân tình tám trăm dặm, người tiếp nhận phải đưa ra chứng nhận hợp cách. Sau khi kiểm tra hư thực rõ ràng mới được tiếp nhân. Đỗ Văn Hạo vội vàng lấy con dấu của quan Đề Hình đưa ra. Tên Hiệu uý lấy ra một tờ giấy trắng trên đó có đóng sẵn một con dấu, hắn đóng con dấu của Đỗ Văn Hạo chồng lên ở mặt trái, gấp lại so sánh, cả hai hoàn toàn ăn khớp với nhau. Lập tức hắn gỡ ống đồng trên lưng xuống, rút tiểu đao, dỡ bỏ ấn phong kín. Hắn lấy ra một cuộn giấy dài màu vàng, cũng được niêm phong, còn nguyên xi phong ấn, hai tay dâng lên Đỗ Văn Hạo.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 375: Muốn gán tội cho người khác

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Đỗ Văn Hạo tiếp nhận, hắn móc trong người ra một tờ ngân phiếu đưa cho tên Hiệu uý: "Huynh đệ hãy nhận lấy".

Tên Hiệu uý nhìn lướt qua thì thấy đó là tờ ngana phiếu hai mươi lượng, hắn rất cao hứng. Hắn từng nghe nói vị quan Đề Hình, Ngự y đại nhân này là người hào phóng, trọng nghĩa khinh tài. Bây giờ chứng kiến quả không sai, hắn liền ôm quyền thi lễ tạ ơn, tiếp nhận tờ ngân phiếu rồi mới đứng dậy, quay người rời đi.

Nếu là quân tình khẩn cấp, người ngoài không có quyền nhìn, phải lui ra ngoài.

Lúc này Đỗ Văn Hạo mới dùng tiểu đao mở lớp xi niêm phong, lấy từ bên trong ra một ống quyển màu vàng sáng rực.

Nhìn thấy ống quyển màu vàng này Đỗ Văn Hạo liền hiểu rõ đây là thánh chỉ của hoàng thượng. Trong lòng Đỗ Văn Hạo vô cùng ngạc nhiên, tại sao Hoàng thượng lại dùng tin cấp báo quân tình tám trăm dặm mà không dùng thái giám truyền chỉ?

Nhưng ngay bây giờ không có nhiều thời gian để suy nghĩ. Đỗ Văn Hạo vừa mở ống quyển ra đã trợn tròn mắt kinh ngạc. Thì ra đây lại là ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu. Trên thánh chỉ chỉ có một câu: "Bệnh tình Hoàng Thương nguy kịch, hoả tốc vào kinh".

Hẳn bệnh tình của Hoàng Thượng đã thập phần nguy kịch bằng không Thái Hoàng Thái Hậu đã không dùng quân tình cấp báo tám trăm dặm để hắn vào kinh khẩn cấp. Hơn nữa nhất định Thái y trong triều cũng đã thúc thủ vô sách, lúc đó Thái Hoàng Thái Hậu mới nghĩ tới chính hắn.

Trước khi rời kinh thành, Đỗ Văn Hạo đã từng kiểm tra kỹ càng tình trạng sức khoẻ của Tống Thần Tông. Hắn phát hiện Tống Thần Tông có dấu hiệu suy thận. Hắn đã kê một đơn thuốc, căn dặn Tống Thần Tông phải uống thuốc đúng thời hạn. Ngoài ra khi ở phủ Thành Đô, hắn đã bất ngờ thu được trên người tên gian tế của dân tộc Thổ Phiên một bọc Đông Trùng Hạ Thảo, hắn đã đưa Ninh công công mang về cho Hoàng Thượng dùng. Đạo Thánh chỉ này rốt cuộc lại không nói là Hoàng Thượng bị mắc bệnh gì nhưng cũng có thể hiểu rõ một chút nếu như bệnh thận của Hoàng Thượng trở nên nguy kịch, nhất định đã không uống thuốc đúng theo đơn hắn đã kê. Nếu không tuyệt đối trong vòng một năm, bệnh của Tống Thần Tông sẽ không thể trở nên nguy kịch như vậy.

Đỗ Văn Hạo lập tức thông báo Bàng Vũ Cầm và mấy người Lý Phố tới phòng của mình. Hắn trầm giọng nói: "Ta có việc khẩn cấp cần phải vào kinh ngay. Thanh Đại đi theo đi. Trầm sư gia cùng mấy người Lý Phố hộ tống những người còn lại vào kinh sau".

Trầm sư gia cùng Lý Phố không dám hỏi, cả hai khom người nhận lệnh.

Bàng Vũ Cầm lại nôn nóng hỏi: "Tướng công, có chuyện gì khẩn cấp?"

Chuyện bệnh tình hoàng Thượng nguy kịch là chuyện tuyệt đối bí mật, là chuyện người ngoài tuyệt đối không thể biết. Đương nhiên Đỗ Văn Hạo cũng không dám nói lung tung. Hắn chỉ nói: "Đây là tin tức tuỵêt mật, ta không thể nói. Bây giờ ta phải lập tức xuất phát".

Kha Nghiêu hấp tấp nói: "Ca, muội cũng muốn đi theo ca".

Đỗ Văn Hạo sầm mặt nói: "Không được!".

"Tại sao?"

"Không cần biết tại sao. Không được là không được".

Kha Nghiêu thấy sắc mặt Đỗ Văn Hạo âm trầm , nghiêm trọng, nàng hiểu hắn nói đúng, nàng cũng hiểu đây là chuyện cực kỳ nghiêm trọng nên không dám mè nheo. Nàng chỉ chu môi đứng sang một bên.

Những người còn lại càng không dám hỏi nhiều. Lâm Thanh Đại thu thập bọc hành lý rất nhanh, phái người đi tới các trạm dịch. Bọn họ muốn đổi ngựa ở các trạm dịch để đi cả đêm vào kinh. Bệnh tình Hoàng Thượng nguy kịch không phải là chuyện đùa giỡn.

An Dật Long nghe nói Đỗ Văn Hạo phải lập tức vào kinh, hơn nữa lại đi trước, hắn lại nghe nói Đỗ Văn Hạo mới nhận được tin cấp báo quân tình tám trăm dặm từ kinh thành nên càng không dám hỏi. Hắn chỉ cuống quýt liên lạc với trạm dịch rồi đi tiễn hai người Đỗ Văn Hạo.

Hai người Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại không kịp cáo biệt quan lại nha môn đã vội vàng lên ngựa của trạm dịch, chắp tai cáo biệt, giục ngựa, ra doi nhanh chóng rời đi.

Từ Giang Tây tới kinh thành đường xá xa xôi nhưng hai người dùng tuấn mã. Trên đường băng băng, chỉ biết thay ngựa, ngày cũng như đêm chạy không ngừng nghỉ. Trên đường đi không dừng chân chút nào, trải qua mấy ngày đêm không chợp mắt cuối cùng cũng tới phụ cận kinh thành.

Ngay khi hai người đi vào cửa nam kinh thành thì thấy trên tường thành cao cao có treo một lá cờ trắng dài mấy trượng, thê lương tung bay trong gió. Ở cửa thành cũng nhiều quan binh hơn thường lệ. Hơn nữa ai cũng quấn lụa trắng ở eo.

Đây là quốc tang!

Đỗ Văn Hạo không khỏi thầm kêu khổ, cuối cùng vẫn tới chậm. Nhất định Tống Thần Tông đã băng hà.

Đỗ Văn Hạo phóng ngựa qua, quan thủ cổng thành nhận ra Đỗ Văn Hạo, hắn ôm quyền thi lễ nói: "Đỗ đại nhân, ngài đã trở lại".

Đỗ Văn Hạo ghìm cương ngựa nói: "Vì sao trong thành ai cũng để tang?"

Quan thủ cổng thành than dài một tiếng, hắn chắp tay hướng Hoàng cung nói: "Hoàng Thượng cùng Thái Hoàng Thái Hậu đã băng hà" Nói xong hắn che mặt rơi lệ.

Đỗ Văn Hạo ngẩn ngơ. Ý chỉ gửi cho hắn là của Thái Hoàng Thái Hậu. Tại sao bây giờ đã băng hà?: "Chuyện này xảy ra khi nào?'

"Hôm qua. Hoàng Thượng băng hà buổi sáng, buổi chiều lão tổ tông Thái Hoàng Thái Hậu cũng về cõi tiên. Ô ô ô".

Trong lòng Đỗ Văn Hạo lạnh buốt. Hắn vội bảo Lâm Thanh Đại đi về Ngũ Vị đường còn hắn đi vào Hoàng cung, Lâm Thanh Đại nói: "Không, thiếp theo chàng vào. Có chuyện gì còn giúp chàng".

Đỗ Văn Hạo không nói nhiều, hắn gật đầu mang theo Lâm Thanh Đại, giục ngựa chạy thẳng vào Hoàng cung.

Trên đường thỉnh thoảng hai người gặp binh giáp tuần tra. Đây cũng là chuyện hết sức bình thường, đương nhiên cần phải tăng cường đề phòng, ngăn ngừa có người thừa cơ gây loạn. Bên ngoài Hoàng cung càng đề phòng nghiêm ngặt hơn. Có thể nói ba bước một tốp, năm bước một trạm gác, trọng giáp kỵ binh tuần tra liên tục.

Thái giám trông coi Hoàng thành nhìn thấy Đỗ Văn Hạo chạy tới, hắn đứng tại chỗ khóc lóc nói: "Ngự y đại nhân, ngài đã tới chậm. Hoàng thượng đã băng hà. Lão tổ tông Thái Hoàng Thái Hậu cũng đã…".

Đỗ Văn Hạo rơi lệ hỏi: "Ta đã nghe nói. Hôm nay ai chủ trì trong triều?"

"Thượng thư Thái Xác, Thái đại nhân".

Đỗ Văn Hạo không quen biết người này. Hắn gật đầu hỏi: "Ai làm chủ sự trong nội cung?"

'Hoàng Thái Hậu".

Hoàng Thái Hậu thì đương nhiên Đỗ Văn Hạo rất quen thuộc. Lần đó Đỗ Văn Hạo đã chữa khỏi căn bệnh đau bụng kinh niên hơn mười năm của Hoàng Thái Hậu. Hoàng Thái Hậu từng bị căn bệnh này tra tấn tới chết đi sống lại nên bà vô cùng cảm kích Đỗ Văn Hạo. Năm đó bà còn tặng Đỗ Văn Hạo gối tơ vàng của tiên đế.

Đỗ Văn Hạo lại hỏi linh cữu quàn ở nơi nào thì được biêt vì mới qua đời nên linh cữu của Hoàng Thượng tạm thời quàn ở điện Cần Chính. Linh cữu của Thái Hoàng Thái Hậu thì ở tẩm cung của người.

Lâm Thanh Đại không được phép vào Hoàng cung nên đành phải đứng bên ngoài cửa Hoàng cung chờ đợi. Một mình Đỗ Văn Hạo vào trong.

Không khí trong nội cung cực kỳ bi thương. Đỗ Văn Hạo tới trước điện Cần Chính thông báo tên. Hắn nhanh chóng được phép vào. Đỗ Văn Hạo tiến vào trong điện. Tiếng khan khóc vang lên ầm ầm. Một viên quan bụng phệ đứng trước mặt hắn, nhìn hắn với thái độ hung ác.

Đỗ Văn Hạo chẳng hiểu sao cả. Viên quan hướng dẫn khẽ nói: "Đỗ đại nhân, vị này là hữu Thượng thư bộc xạ kiêm Trung thư thị lang Thái Thực, Thái đại nhân".

Tống Thần Tông thay đổi chế độ xã hội. Cái gọi là hữu Thượng thư bộc xạ kiêm Trung thư thị lang này chính là hữu Tể tướng, là nhân vật ở dưới một người, ở trên vạn người, thảo nào lại có vẻ mặt như vậy.

Đỗ Văn Hạo vội vàng khom người thi lễ nói: "Ty chức Đỗ Văn Hạo tham kiến Thái đại nhân".

Thái Thực hừ giọng mũi một tiếng, hắn ưỡn bụng hỏi: "Ngươi là Ngự y Đỗ Văn Hạo?"

Đỗ Văn Hạo nghe giọng nói của hắn chút ác ý, trong lòng không khỏi khó chịu nhưng hắn vẫn khom người nói: "Dạ, ty chức chính là Đỗ Văn Hạo".

Thái Thực lạnh lùng nói: "Ngươi đã là Ngự y của Hoàng Thượng. Khi bệnh tình Hoàng Thượng cực kỳ nguy kịch, ngươi đang ở đâu?" Trong lòng Đỗ Văn Hạo thoáng khó chịu . Hắn khom người nói: "Ty chức phụng chỉ tuần y, đề điểm hình ngục. Lúc trước ty chức đang tuần y ở phương nam, nhận được tin cấp báo quân tình tám trăm dặm về bệnh tình nguy cấp của Hoàng Thượng. Ty chức đang ở phủ Lư Giang đã lập tức lên đường không kể ngày đêm".

Thái Thực quát to: "Lớn mật! bệnh tình Hoàng Thượng trầm trọng như vậy, ngươi vẫn đi ngao du sơn thuỷ. Trong lòng ngươi có Hoàng Thượng nữa không?'

Đỗ Văn Hạo thầm tức giận, hắn thầm nghĩ người này chưa hỏi rõ trắng đen đã chụp mũ loạn bậy như này. Đây là phong thái của một tể tướng sao? Nhưng đối phương là quan lớn, hắn nào dám chống đối nên nén giận đáp: "Ngay khi ty chức nhận được tin quân tình cấp báo tám trăm dặm đã chạy suốt cả ngày đêm, không ngờ vẫn đến chậm một bước".

'Chỉ nói bậy" Thái Thực lạnh lùng nói: "Bản tướng hỏi ngươi, ngươi có biết Hoàng Thượng mắc trọng bệnh trong người không?"

"Trước khi ty chức rời kinh, quả thật Hoàng Thượng có bệnh nhẹ nhưng hoàn toàn chưa tới tình cảnh nguy hiểm. Còn vì sao Hoàng Thượng lại mắc bệnh nặng thì ty chức hoàn toàn không rõ".

"Ngươi đã biết Long thể Hoàng Thượng có bệnh vậy vì sao ngươi vẫn muốn rời kinh thành, bản thân tiêu dao tự tại ở bên ngoài?"

Quả thực Đỗ Văn Hạo lâm vào cảnh giở khóc dở cười: "Đại nhân, không phải là ty chức tự tiện tời kinh thành ra ngoài tiêu dao tự tại mà là vì Thánh mệnh của Hoàng Thượng".

Đỗ Văn Hạo mới nói tới đây, lập tức có người bên cạnh tức giận nói: "Đỗ Văn Hạo! Ngươi thân là Ngự y của Hoàng Thượng, lại không để ý tới Long thể Hoàng Thượng đến nỗi không kịp chạy chữa, tự ý rời khỏi cương vị của mình, ngươi đáng tội gì?"

Đỗ Văn Hạo vội quay đầu nhìn, hắn chỉ thấy đó là một người béo ục ịch, mặc quần áo tang, đang trợn mắt nhìn hắn.

Đỗ Văn Hạo vội vàng ôm quyền, khom người nói: "Không dám thỉnh quý danh của đại nhân".

Người ục ịch đó hừ một tiếng nói: "Bản quan mà ngươi cũng không nhận ra sao?" Viên quan hướng dẫn vội vàng nói: "Vị này chính là Kiểm Giáo Lịch sử quán, Tá lang Tà Thứ, Tà đại nhân".

Đỗ Văn Hạo hoàn toàn chưa nghe nói về nhân vật này, thế nhưng hắn vẫn chắp tay nói: "Điều đại nhân vừa mới nói chính là áp tội cho người khác. Sau khi ty chức nhận được tin cấp báo tám trăm dặm…".

"Bản quan mặc kệ ngươi làm cái gì sau đó. Ta chỉ hỏi ngươi, trước đó ngươi làm cái gì? Ngươi thân là Ngự y vì sao lại tự ý rời bỏ chức trách của mình?"

"Ty chức không có".

"Lớn mật. Trước Hoàng linh, ai dám làm huyên náo?" Bên cạnh Đỗ Văn Hạo lại vang lên một giọng nói. Đỗ Văn Hạo vội quay đầu lại thì thấy đó là một trung niên thân thể gày còm, người mặc quần áo tang, khoan thai đi tới, nhìn mặt rất quen nhưng không nhớ nổi là ai.

Lần này không đợi Đỗ Văn Hạo lên tiếng hỏi, viên quan hướng dẫn ở bên cạnh vội giới thiệu: "Đỗ đại nhân, vị này là Tào Vương".

Lập tức Đỗ Văn Hạo nhớ ra, Tào Vương Triệu Mạch này là tứ Hoàng tử của tiên đế Tống Anh Tông, thân Hoàng đệ của Tống Thần Tông. Mặc dù sau khi Đỗ Văn Hạo vào kinh, hắn không kết giao với giới quyền quý nhưng Đỗ Văn Hạo đã gặp qua hai vị Vương gia đó. Lúc đó Tống Thần Tông vì né tránh mấy người Tư Mã Quang quỳ gối khuyên can nên mới giả bộ té xỉu. Vương, công đại thần trong triều đều tới thăm. Tào Vương này cũng ở trong số đó. Lúc ấy Đỗ Văn Hạo cũng chỉ gặp qua một lần hơn nữa khi ấy có quá nhiều người, lại bận xem bệnh cho Hoàng Thượng nên cũng không quá chú ý.

Đỗ Văn Hạo vội vàng khom người nói: "Ty chức tham kiến Vương gia".

Tào Vương liếc nhìn Đỗ Văn Hạo rồi nghênh ngang nói: "Ngươi chính là Ngự y Đỗ Văn Hạo?"

"Đúng là ty chức".

"Khi bệnh tình Hoàng huynh ta nguy kịch, ngươi đang ở đâu?"

Trong lòng Đỗ Văn Hạo thoáng giận dữ. Tại sao khẩu khí của ba người này lại giống nhau như vậy? Chính bản thân mình năm đó nhậm chức Thành Đô phủ lộ Nhã châu cũng không phải lén lút mà đi, không chỉ có công văn chiếu cáo của bộ Công, còn có cả Thánh chỉ của Hoàng Thượng tuyên triệu. Dù gì thế nào mấy người này từ đầu đến cuối chỉ làm như không nghe thấy gì hết.

Không đợi Đỗ Văn Hạo giải thích một tiếng, Tào Vương đã quát to: "Người đâu. Bắt tên Ngự y ngu ngốc, không làm tròn trách nhiệm, tự rời bỏ chức trách lại. Tống vào Thiên lao".

Thị vệ bên ngoài dạ dan một tiếng, vọt vào trong điện, chụp lấy tay Đỗ Văn Hạo nhưng bàn tay chúng vừa chụp vào bả vai Đỗ Văn Hạo đã gào lên đau đớn, liên tiếp rụt tay lại.

Đỗ Văn Hạo nhân dịp thị vệ còn đang hết sức lúng túng, hắn đã thi triển Phân cân thác cốt thủ Lâm Thanh Đại đã dạy bắt được một thị vệ ở bên cạnh, tháo khớp cổ tay của hắn, túm lấy đơn đao trong tay hán. Ngay khi Tào Vương còn chưa lấy lại tinh thần, Đỗ Văn Hạo đã như tia chớp lắc tới, một tay túm lấy Tào Vương chắn trước ngực, tay phải cầm đơn đao đặt trên cổ Tào Vương gia, lạnh lùng nói: "Nếu muốn hắn chết thì hãy xông lên".

Tất cả mọi người trên đại điện đều sợ ngây người. Không ai tưởng tượng được một Ngự y yếu ớt lại có dũng khí dám dùng sức mạnh bắt ép tào Vương gia con tin, hơn nữa công phu lại rất cao.

Đỗ Văn Hạo không còn lựa chọn nào khác. Từ lúc nhận được ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu, hắn liên tục chạy khắp ngày đêm về kinh, ngoại trừ thời gian nghỉ ngơi, gần như cả ngày hắn đều ngồi trên lưng ngựa. Mỗi khi thay ngựa chỉ tranh thủ chợp mắt, mấy ngày đêm liền chạy tới kinh thành dù không kịp cứu chữa Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu nhưng công bằng mà nói, hắn không dám chậm trễ chút nào. Tào Vương gia này quả thực võ đoán, tự phán xét mình rời bỏ chức trách, quả thực là gán tội xằng bậy, còn muốn hạ lệnh tống giam. Lập tức Đỗ Văn Hạo tức giận, bất chấp tất cả, âm thầm phát động lạp tác trong góc áo, dựng thẳng những đầu nhọn của nhuyễn giáp. Những thị vệ đó đương nhiên không thể bắt được hắn, hắn lại thừa dịp lộn xộn chế ngự Tào Vương.

Đỗ Văn Hạo không muốn là người thế tội trong chuyện này, chết một cách oán ức trong đại lao.

Tất cả mọi người đều quát mắng Đỗ Văn Hạo bỏ binh khí xuống. Đỗ Văn Hạo không thèm để ý. Đơn đao trong tay hắn cứa một đường nhỏ trên cổ Tào Vương gia. Máu tươi chảy ròng. Tào Vương kinh hoàng hét lên: "A! Đỗ đại nhân tha mạng. Tha mạng".

"Nếu không muốn chết, hãy bảo chúng lùi lại phía sau" Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói.

'Lui lại phía sau. Các ngươi muốn giết bản Vương sao? Lui lại cho Lão Tử" Tào Vương xua tay, hoảng sợ gào lên.

Những thị vệ vây xung quanh cuống quýt thôi lui lại nhưng vẫn quát mắng đòi Đỗ Văn Hạo thả người.

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: "Các ngươi đừng nghĩ ghép tội cho Lão Tử. Đừng nghĩ Lão Tử chỉ là một quả hồng mềm".

Thái Thực chỉ vào Đỗ Văn Hạo nói: "Ngươi đừng làm xằng bậy. Nếu ngươi làm bị thương Tào Vương gia. Ngươi muốn cả nhà ngươi chết sao?"

Tuy Đỗ Văn Hạo không biết tại sao mấy người này muốn vu oan hãm hại cho một Ngự y nho nhỏ như hắn nhưng hắn vẫn mơ hồ đoán được trong này tất nhiên có liên quan tới việc tranh đoạt quyền lợi trong Hoàng cung, hắn cũng không muốn dây dưa ở chỗ này nên lạnh lùng nói: "Thôi đi! Lão Tử hiểu rõ quỷ kế của các ngươi. Ta mặc kệ các ngươi tranh đoạt quyền lợi như thế nào. Ta không muốn dính vào các ngươi. Ta chỉ muốn cao chạy xa bay. Các ngươi muốn ta gánh tội thay, là con cờ của các ngươi thì đừng có mơ".

Nói xong đơn đao trong tay hắn lại cứa một vòng. Trên cổ Tào Vương gia lại có một vết cắt, máu tươi lại tứa ra. Tào Vương sợ hãi tới cực điểm, gào lên: "Đỗ đại nhân, đừng kích động. Có chuyện gì hãy từ từ nói. Ngươi muốn cái gì bản Vương cũng đều đồng ý".

"Hoàng Thái Hậu. Ta muốn gặp Hoàng Thái Hậu" Đỗ Văn Hạo hiểu rõ. Thái Hoàng Thái Hậu cực kỳ quyền uy, luôn cực lực bảo vệ hắn đã chết rồi. Người lúc này có thể cứu hắn chỉ e chỉ có mỗi Hoàng Thái Hậu.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 376: Ung vương.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Tà Thứ bên cạnh cười lạnh nói: "Lúc này đừng nói là Hoàng thái hậu, cho dù là Thái hoàng Thái hậu sống lại cũng không cứu được ngươi!"

Khụ khụ, Thái Xác vội ho khan, trừng mắt lườm Tà Thứ. Tà Thứ biết mình lỡ lời, vội vàng co đầu rụt cổ lại, thối lui không dám nói thêm cái gì.

Đúng lúc này chợt nghe một tiếng nói lạnh lùng vang lên: "Các ngươi làm gì thế hả? Trên linh đường mà động đao động thương cái gì? Đều không cần mạng nữa sao?"

Đám hộ vệ vừa nghe thấy giọng nói đó vang lên liền vội vàng đút đao kiếm vào vỏ, đồng loạt khom người thi lễ.

Đỗ Văn Hạo nhìn về phía phát ra âm thanh, chỉ thấy một trung niên nam tử mặc bộ tang phục chậm rãi bước tới, lướt mắt về phía mọi người rồi chắp tay với Đỗ Văn Hạo: "Đỗ ngự y, bổn vương thất lễ rồi!"

Viên quan dẫn đường đứng bên cạnh vội vàng nói: "Đề hình quan đại nhân, vị này chính là Ung vương gia!"

Đỗ Văn Hạo càng giật mình. Vị Ung vương - Triệu Nhan này chính là thứ tử của Tống Anh Tông, thân đệ đệ của Tống Thần Tông, anh trai của Tào vương. Lần trước khi Tống Thần Tông giả bệnh, hắn cũng tới, lúc ấy từng gặp qua một lần, cho nên nhìn có chút quen mắt. Thấy Ung Vương khách sáo như vậy lập tức sinh lòng kính sợ, nói: "Vương gia, ngài bất tất phải đa lễ. Hôm nay mọi người đều đã trở mặt, với hạ thần, hạ thần cũng không mong dàn xếp được.Ta chỉ muốn gặp Hoàng thái hậu, lão nhân gia hiện giờ đang ở đâu?"

Ung vương nhìn lướt về phía đám hộ vệ: "Còn không lui ra ngoài?"

Bọn hộ về nghe vậy, vội vàng khom người lui ra.

Lúc này Ung vương mới chắp tay nói: "Đỗ đại nhân, bên trong sợ còn nhiều điều hiểu lầm. Xá đệ hắn có chút nóng nảy, nhớ tới hoàng huynh còn tráng niên mà mất sớm, trong lòng bi thống nên vừa rồi mới lỗ mãng. Không bằng bỏ binh khí xuống, mọi người cùng ngồi xuống, nói rõ mọi chuyện."

Đỗ Văn Hạo tất nhiên sẽ không buông binh khí xuống, lạnh lùng nói: "Ung vương gia, ty chức cũng không muốn như vậy, nhưng các ngươi nên biết, hơn nửa năm trước, ta rời kinh thành là phụng chỉ đảm nhận quản lý Thành Đô phủ Nhã châu, sau đó Hoàng Thượng lại hạ chỉ để ta tuần y các lộ cùng Đề Điểm Hình Ngục Các Lộ. Ta ở bên ngoài cũng không phải là tự ý rời khỏi cương vị, chính là phụng chỉ ban sai, ta nhận được tin tức bệnh tình hoàng thượng nguy kịch, ngày đêm tới đây, trên đường không có dám nửa điểm chậm trễ. Nhưng bốn người bọn họ lại luôn miệng đổ tội, nói rằng Thánh Thượng băng hà đều là do ta. Cái này là không công bằng! Ta muốn gặp Hoàng thái hậu! Trừ phi Hoàng thái hậu tới đây ta mới buông binh khí!"

Ung vương rơi lệ nói: "Hoàng Thương cùng Thái hoàng Thái hậu lần lượt băng hà, hai cuộc tang sự cần người xử lý. Hoàng Thái hậu đang được quận chúa chăm sóc, không ở trong này."

Đỗ Văn Hạo nói: "Tốt lắm, ty chưc không dám làm phiền Hoàng thái hậu đích thân tới, nhưng sợ một mình rời đi sẽ gặp độc thủ, đành phải để Tào Vương gia đi cùng, khi nào đến nơi tất sẽ thả Tào Vương gia. Chỗ nào đắc tội mong vương gia thứ tội!" Dứt lời liền túm lấy Tào vương, định đi ra ngoài.

Không ngờ Tào vương vừa bị dí đạo lên cổ đã sợ đến hồ phi phách tán, toàn thân mềm nhũn ra, ngay cả nước tiểu cũng chảy ướt quần, nào có thể đi được nửa bước.

Ung vương cất bước tiến lên nói: "Đỗ đại nhân, hãy để bổn vương thay cho xá đệ, cùng đại nhân đi gặp Hoàng thái hậu, thế nào?"

Dứt lời liền không để cho Đỗ Văn Hạo phản ứng, bước tới hai bước, quay lưng về phía sau, bộ dáng như bó tay chịu trói.

Đỗ Văn Hạo trong lòng cũng sinh vài phần bội phục vị Ung vương này, thầm nghĩ đối phương hành động quang minh như thế, mình lại muốn bắt cả hai con tin thì cũng có vẻ hẹp hòi. Bất quá, đang trong lúc nguy hiểm, bảo vệ tính mạng quan trọng hơn, không thể để ý nhiều thứ như lúc thường được. Lập tức hắn vươn tay trái, nắm lấy mạch môn Ung vương.

Lâm Thanh Đại từng nói, mạch môn bị giữ, cả nửa thân thể đều trở nên tê dại, căn bản không thể kháng cự. Cho dù đối phương có võ công cao hơn mình bao nhiêu thì chỉ cần mạch môn bị giữ thì cũng chỉ có thể chờ chết mà thôi. Vì thế trong lòng Đỗ Văn Hạo liền đại định, hạ đơn đao xuống, đi tới sau lưng: "Ung vương gia, ty chức là người sợ chết, vì bảo vệ tính mạng, đành phải đắc tội."

Ung vương gia một tay bị giữ chặt nhưng lại chưa từng dụng lực một chút nào, giống như cả cánh tay đó không phải của mình vậy, trên mặt hắn vẫn trấn định tự nhiên: "Đỗ đại nhân, người sảng khoái nói chuyện sảng khoái. Bổn vương đã nói, vừa rồi chỉ sợ là một sự hiểu lầm. Xá đệ cùng bổn bương cũng không biết nguyên nhân trong đó, chỉ nghe nói đại nhân là ngự y, lúc Hoàng Thượng cùng Thái hoàng thái hậu bệnh tình nguy kịch lại không ở bên người, nhất thời tình thế cấp bách cho nên mới mạo muội, không phải cố ý vu oan hãm hại."

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm, lời này cũng có lý, cũng không phải quan viên nào được điều động ra ngoài, những người khác cũng nắm rõ. Rất nhiều người là việc. Rất nhiều người chẳng bao giờ đi tim hiểu việc không liên quan tới mình, huống chi người ta đường đường là vương gia và Tể Tướng đương triều, lại càng không để ý tới một viên quan nho nhỏ như mình. Nghĩ đến đây, trong lòng hắn thoáng buông lỏng.

Hai người sóng vai đi ra ngoài, Ung vương thoáng đánh giá Đỗ Văn Hạo từ trên xuống dưới, thấy hắn người đầy bụi đất, trong mắt tràn ngập tơ máu, mặt mày mỏi mệt liền biết hắn không hề nói dối, thở dài nói: "Đỗ đại nhân quả nhiên bất kể ngày đêm chạy tới, nếu không sẽ không có bộ dạng chật vật thế này. Đại nhân đúng là không nói dối, là bọn họ trách lầm đại nhân."

Đỗ Văn Hạo nghe hắn nói chân thành, trong lòng không khỏi có cảm giác ấm áp, một nỗi ủy khuất tự nhiên dâng lên, bất giác trong mắt cho ướt át, nói: "Chỉ tiếc, ty chức đã tới chậm một bước, không thể cứu được Hoàng Thượng và Thái hoàng Thái hậu, thật sự là trong lòng không yên."

"Đại nhân không nên tự trách, bổn vương từng nghe hoàng huynh nói, đại nhân nhậm chức ở Thành Đô phủ, thứ nhất là do đại nhân có kiến giải về an bang trị quốc khá đặc biệt, hoang huynh rất muốn kiến thức một chút. Thứ hai nữa là tới biên giới Thổ Phiên tìm một loại linh dược tên là đông trung hạ thảo, chữa bệnh cho hoàng huynh."

"Ngươi cũng biết chuyện hoàng thượng sinh bệnh?"

"Đúng vậy, Ninh công công mấy lần tìm bổn vương, nói ngươi trước khi đi đã từng luôn miệng dặn dò, muốn Hoàng Thượng nhớ uống thuốc. Nhưng Hoàng Thượng một mực nói không mình không có bệnh, không cần uống thuốc. Bức bách mãi mới uống một chén, nhưng sau đó lại bận rộn quốc gia đại sự không uống nữa. Dược liệu trân quý ngươi đưa từ Tây Vực tới, hắn cũng đem toàn bộ cho Tư Mã đại nhân, bản thân chưa từng dùng một chút nào."

Đỗ Văn Hạo trong lòng cười khổ. Trước khi đi hoàng thượng quả thật nghĩ như vậy. Mình cũng từng trịnh trọng khuyên hắn phải thận trọng mới bệnh tình của mình, nhưng hắn lại ngoảnh mặt không quan tâm. Hiện tại Ung vương nói ra việc này, chứng tỏ biết rõ chuyện này, không khỏi có chút cảm kích. Bất quá cánh tay nắm mạch môn cũng không thả lỏng chút nào. Bây giờ thà rằng làm tiểu nhân còn hơn là mất mạng.

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Xin hỏi vương gia, khi hoàng thượng lâm chung có di chiếu cho ai quản lý xã tắc?"

Ung vương thở dài một tiếng, lắc đầu: "Ngươi là người trong nhà, việc này ta cũng không gạt người, hoàng huynh đột nhiên phát bệnh, ngay cả thái y cũng chạy đến không kịp, đã cưỡi hạc về tây. Cho nên chưa từng lưu lại di chiếu."

"Đột nhiên phát bệnh? Thậm chí ngay cả di chiếu cũng không có? Là đột tử cấp tính hay là bị người hãm hại? Đỗ Văn Hạo cũng chẳng dám suy đoán nhiều. Loại đấu đá cung đình thế này tốt nhất là kính nhi viễn chi. Đặc biệt là lúc này, khi đế vị chưa xác định, hoàng cung chính là nơi nguy hiểm nhất, phải tránh càng xa càng tốt, nghe càng ít những điều không nên nghe càng tốt. Cho nên hắn cũng không dám hỏi nữa, dẫn theo Ung vương đi về phía trước.

Ung vương cũng nói khá nhiều. Trên đường thỉnh thoảng tán dương y thuật Đỗ Văn Hạo như thần, Đỗ Văn Hạo lại khẩn trương lưu ý đám hộ và đám người Tào vương bán theo phía sau, sợ là Ung vương lợi dụng điểm này phân tán sự chú ý của mình, để bọn hộ về cứu ra. Nhưng thấy đám hộ vệ chỉ dám đi theo với khoảng cách khá xa, cũng không có ý xuất thủ cứu chủ, trong lòng an tâm hơn một chút.

Nhìn thấy cờ trắng trong tẩm cung thái hoàng thái hậu xa xa, Đỗ Văn Hạo trong lòng hơi trấn định, nói với Ung vương: "Vương gia, ty chức đắc, nếu như ty chức còn mạng trở về, nhất định sẽ đích thân đến tạ tội!"

Ung vương đứng lại, chăm chú nhìn Đỗ Văn Hạo, nói: "Được! Bổn vương sẽ nhớ kỹ những lời này của ngươi. Hơn nữa bổn vương cũng cam đoan với ngươi, việc hôm nay chỉ là hiểu lầm, bổn vương không truy cứu bất kẻ nào cũng không cho phép nhắc tới chuyện này nữa, các ngươi nghe rõ chưa?" Câu cuối cùng hắn nói chính là nói với đám ngưới phía sau, thanh âm rất lớn, khắp nơi đều có thể nghe thấy.

Bọn người Tào vương vội vàng khom lưng vâng dạ.

Đỗ Văn Hạo không biết Ung vương nói vậy là có ý gì, nhất thời không biết nói gì cho phải, dẫn hắn đến trước tẩm cung Thái Hoàng Thái Hậu.

Đỗ Văn Hạo hỏi tên lính canh cửa: "Hoàng thái hậu có ở bên trong?"

Tên lính khom người nói: "Có. Nhưng mà lúc này Hoàng thái hậu cùng các vị nương nương tự mình niệm kinh siêu độ cho hoàng thường và thái hoàng thái hậu. Người nói niệm kinh siêu độ phải toàn tâm toàn ý, quyết không thể có nửa điểm quấy rầy, cho dù chuyện lớn tới đâu cũng phải đợi người niệm xong mới nói."

Đỗ Văn Hạo: "Phải mất bao lâu?"

Tên lính canh nói: "Phải bảy ngày."

Đỗ Văn Hạo trong lòng kêu khổ: "Có thể vào trong thông báo, nói là ta đã trở về?"

Tên lính canh lắc đầu: "Xin Đỗ địa nhân thứ lỗi, Hoàng thái hậu đã nói rõ, trong bảy ngày này, vô luận ai cũng không tiếp/ Nàng muốn chuyên tâm tụng kinh. Phàm là quốc sự chính vụ đều tạm do Ung vương gia, Tào vương gia, còn có Thái Xác cùng Vương Giai hai vị đại nhân cùng xử lý."

Đỗ Văn Hạo nhất thời lưỡng lự, không biết nên chờ ở tẩm cung 7 ngày hay là trở về. Lại không biết vừa rồi Ung vương vừa rồi có thật hay không.

Không ngờ Ung vương lại nói: "Đỗ đại nhân ngày đêm trở về, dọc đường vất vả, xin hãy về nghỉ ngơi trước. Nếu muốn cúng viếng điện hoàng thượng và thái hoàng thái hậu, sợ phải đợi thêm mấy ngày, trong triều sẽ thiết hạ tế đường để bá quan văn võ phúng viếng. Đi, bổn vương hộ tống đại nhân xuất cung hồi phủ!"

Dứt lời liền cất bước đi, Đỗ Văn Hạo tâm niệm vừa chuyển. như vậy cũng tốt, cửa cung có Lâm Thanh Đại ở đó, có nàng thì trong lòng cũng an tâm. Nếu phải chiến đấu, chắc chắn với võ công của nàng, cứu mình thoát khốn hẳn không thành vấn đề.

Hai người vừa đi vừa nói chuyện. Ra đến cửa cung, Lâm Thanh Đại nhìnt hấy hắn đằng xa liền vội tới đón.

Đỗ Văn Hạo quay đầu lại nhìn, thấy bọn hộ vệ vẫn còn ở phía xa, lúc này mới thở phào nhẹ nhõm. Lâm Thanh Đại chạy tới đây chắc chắn sẽ nhanh hơn bọn chúng. Nghĩ đến đây hắn liền ném đơn đao xuống đất, đá đi rồi buông tay Ung vương, ôm quyền thi lễ thật sâu: "Ung vương gia, ty chức cáo tội lần nữa."

Ung vương chắp tay sau lưng, chăm chú nhìn Đỗ Văn Hạo một lát rồi thấp giọng nói: "Nói thật, bổn vương rất trân trọng tài hoa của ngươi, có tâm kết giao. Chờ tang sự kết thúc, bổn vương sẽ thiết yến, đến lúc đó đại nhân ngàn vạn lần đừng từ chối đó."

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm, nếu như Ung vương muốn động thủ với mình, căn bản không cần đợi đến lúc tang sự kết thúc rồi mới bày Hồng Môn yến giết mình. Như vậy cũng nói lên Ung vương này không muốn làm lớn chuyện này, thật sự buông tha mình. Người ta là thân vương, thịnh tình mời đến há có thể không đi. Đỗ Văn Hạo vội thi một lễ thật sâu: "Đa tạ vương gia, ty chức nhất định sẽ đăng môn tạ tội!"

"Không dám! Mời đại nhân về sớm nghỉ ngơi đi a."

Đỗ Văn Hạo lại thi lễ, rồi mới xoay người, nắm lấy tay Lâm Thanh Đại, nhảy lên ngựa, phóng đi.

Sau khi rời khỏi hoàng cung, lúc này Đỗ Văn Hạo mới đem những truyện xảy ra kể lại. Lâm Thanh Đại cả kinh, cả người phát lạnh, không thể tưởng được những người này vậy mà lại áp đặt tội danh. Cái chức ngự y này thật sự là không tốt lành a. Tiếp đó Lâm Thanh Đại vội hỏi Đỗ Văn Hạo tiếp theo nên làm cái gì.

Đỗ Văn Hạo nghĩ một lúc rồi nói: "Không có cách nào, hiện tại chỉ có thể chờ Hoàng thái hậu niệm kinh xong. Đợi sau khi nói cho nàng biết thì mới an toàn."

Lâm Thanh Đại nói: "Có lẽ chúng ta trốn đi trước. Chúng ta chẳng phải mua được một tòa trạch viên có đồn đại chuyện ma quái sao. Người khác hẳn là không nghĩ tới chúng ta lại trốn ở đó. Xem xét động tĩnh rồi nói sau."

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: "Có lý. Vậy chúng ta không quay về nữa. Thử xem có kẻ nào bám theo không ròi mới đến tòa trạch viện có chuyện ma quái đó trốn vài ngày."

Hai người vừa đi vừa chú ý quan sát phía sau nhưng không hề phát hiện có kẻ nào bám theo, rồi tới trà lâu cách Ngũ Vị Đường không xa. Sau khi hai người đi vào, chưởng quỹ kia vô cùng cao hứng, vội vàng ra chào hỏi Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo chỉ hàn huyên qua loa vài câu rồi kêu hắn maag ngựa và hai bộ quần áo sạch sẽ tới, nói mình có chuyện gấp phải ly khai. Hai người thay đổi trang phục rồi rời khỏi trà lâu bằng cửa sau. Trên đường mua chút đồ ăn rồi gói kỹ. Sau khi tới tòa trạch viện, quan sát không có ai rồi mới leo vào.

Tòa trạch viện này vẫn hoang vắng như trước, hai người nhanh chóng tìm lấy một căn phòng nhỏ ở lại.

Sau đó vài ngày, Lâm Thanh Đại liền lợi dụng bóng đêm trở về Ngũ Vị Đường, xem xét động tĩnh xung quanh nhưng vẫn không phát hiện ra điều gì bất thường. Ngũ Vị Đường toàn bộ đều như trước, Hàm Đầu ở tiền đường chẩn bệnh, người bệnh vẫn đông như trước, còn có hai vị đại phu hỗ trợ. Bốn phía cũng không phát hiện ra người nào đáng chú ý. Sau khi trở về nói cho Đỗ Văn Hạo, hai người đều cảm thấy, Ung vương này thật biết giữ lời, nói không chừng đã thật sự bỏ qua chuyện mình bắt hai vị vương gia làm con tin. Chỉ là không biết Ung vương là rộng lượng hay lại có mục đích khác.

Ba ngày trước có tin tức truyền ra, hoàng cung lập linh đường, bắt đầu tiếp nhận văn võ bá quan phúng viếng. Chức quan của Đỗ Văn Hạo trong triều cũng chẳng tính là gì, cho nên không cần phải vào vội.

Đợi đến ngày thứ năm vẫn không có động tĩnh gì, haingười khẳng định Ung vương thật sự không có ý đối phó Đỗ Văn Hạo rồi mới trở lại Ngũ Vị Đường.

Hàm Đầu thấy Đỗ Văn Hạo trở về, vừa mừng vừa sợ, lập tức bước tới, qùy xuống dập đầu, hỏi thăm bọn Bàng Vũ Cầm. Đỗ Văn Hạo chỉ nói mình phải trở về phúng viếng gấp, đi trước một bước, bọn họ sẽ tới sau.

Ngày hôm sau, bọn Bàng Vũ Cầm rốt cuộc cũng tới nơi. Bọn họ cũng đoán được trong kinh thành nhất định xảy ra đại sự. Nếu không Đỗ Văn Hạo cũng không vội vã trở về như vậy, cho nên trong lòng cũng nóng như lửa đốt, vội vàng chạy tới. Cả bọn dọc đường mệt mỏi, người kiệt sức ngựa hết hơi. Cũng mà may dọc đường bình an.

Đến kinh thành, nhận được tin hoàng thượng cùng thái hoàng thái hậu băng ha, Đỗ Văn Hạo không thể đến kịp cứu chữa hoàng thượng và thái hoàng thái hậu, cả bọn đều không khỏi thở dài.

Chương 382 : Chỗ dựa (2).

Đỗ Văn Hạo may mà lúc này hãm phanh kịp lúc chưa kịp hôn lên môi của Hoàng Thái Hậu, hắn tự nguyền rủa mình là thằng đểu lợi dụng lúc người ta yếu đuối nhất để giở trò, nên sau khi trấn tĩnh lại liền nhích người mình ra ngoài một chút, ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Bây giờ việc chúng ta cần làm nhất là kìm hãm, ổn định Ung Vương trước! Ung Vương lúc này là nhân vật quan trọng nhất trong vụ việc! Hoàng Thái Hậu bây giờ là người duy nhất có thể triệu kiến được cả Ung Vương và Tào Vương, người có thể tán thưởng cả hai, sau đó ra ý cho hai người biết là họ đều có thể trở thành người kế vị, nhưng không biết nên chọn ai, như thế sẽ hóa giải được quan hệ giữa Ung Vương, Tào Vương và lục Hoàng Tử tránh được cảnh nội chiến!”

Cho dù Đỗ Văn Hạo lúc này đã nhích người ra ngoài một chút rồi, nhưng Hoàng Thái Hậu vẫn thuận thế nhích lại gần hắn ôm lấy, rồi áp sát mặt vào người hắn ngước lên hỏi: “Nếu như cả đứa chúng nó muốn đánh thì làm thế nào đây?”

“Cái này thì phải xem nghệ thuật ăn nói của Hoàng Thái Hậu ra sao rồi! Người có thể nói uyển chuyển một chút, làm cho hai vị vương gia đều cảm thấy Hoàng Thái Hậu đứng về phía họ, ủng hộ họ kế vị ngôi báu, nhưng đồng thời cũng phải khen ngợi lục Hoàng Tử để nói lên sự khó xử của người, như vậy là đã kìm hãm, ổn định được hai vị vương gia rồi! Nói cho cùng thì sử dụng vũ lực là sự lựa chon cuối cùng, chỉ cần hai vị vương gia thấy có hy vọng rồi thì nhất định sẽ không động thủ nữa, như vậy có nghĩa là chúng ta đã đạt được mục đích của mình vì mục đích của chúng ta là kéo dài thời gian. Hoàng Thái Hậu cũng có thể cho gọi Tiêu công công đến, ông ấy là một người rất có kinh nghiệm, lại túc trí đa mưu, bên cạnh lại có cả lũ nội thị vạm vỡ chắc chắn sẽ không có vấn đề gì đâu! Bây giờ vi thần phải quay về tìm hiểu tình hình trước, sau đó sẽ nghĩ cách đối phó, nghĩ ra được cách đối phó rồi thì sẽ nói cho Hoàng Thái Hậu biết, như vậy có được không?”

“Ừm! Ta nghe theo lời của ngươi hết!” Hoàng Thái Hậu vẫn nép vào ngực của Đỗ Văn Hạo nhắm mắt tận hưởng cảm giác an bình mà bấy lâu nay bà chưa từng được hưởng.

Sau khi ra khỏi hoàng cung, con tim của Đỗ Văn Hạo vẫn đập thình thịch như trống kéo quân vậy, hắn hồi tưởng lại những cảnh tưởng vừa xẩy ra với mình mà cứ ngỡ như vừa nằm mơ vậy.

Tiếp theo mình phải làm thế nào đây? Mình chỉ là một tên Ngự y quèn, làm cách nào có thể ngăn chặn được cuộc chính biến này đây?

Đỗ Văn Hạo về đến Ngũ Vị Đường thì đã thấy Bàng Vũ Cầm, Lâm Thanh Đại và những người khác đã đứng chờ ở bên ngoài cổng từ rất lâu rồi, mọi người trông thấy hắn bình an trở về ai cũng thở phào nhẹ nhõm.

Thẩm Thăng Bình lúc này cũng đã về đến phủ của hắn, ông đang lo sốt vó lên với tình trạng của Đỗ Văn Hạo, Đỗ Văn Hạo liền gọi ông ta đến thư phòng, sau khi đóng cài then chốt cẩn thận xong liền hỏi han ông ta về tình hình hiện nay.

Thẩm Thăng Bình liền trầm giọng nói: “Ung Vương lúc này đang điều động binh mã rất là ghê gớm, có lẽ sẽ sử dụng vũ lực để tranh quyền đoạt lợi! Còn bên lục Hoàng Tử thì đã có Vi Ngạn canh giữ cẩn mật, binh sĩ hai bên đã nhiều lần phát sinh xung đột rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe mà giật mình sợ hãi: “Quả là đúng thật! Tiêu công công nói quả nhiên không sai!”

“Tiêu công công?” Thẩm Thăng Bình kinh ngạc hỏi lại.

Đỗ Văn Hạo liền gật gật đầu đáp lại, sau đó hắn thuật lại chuyện Thái Kinh, Tư Mã Quang đến tìm hắn ra sao, sau đó vào trong cung gặp gỡ Hoàng Thái Hậu như thế nào, hết thảy đều sơ lược nói qua cho Thẩm Thăng Bình nghe. Dĩ nhiên, hắn không kể cho Thẩm Thăng Bình biết hắn mới đầu cũng ủng hộ Ung Vương, và những hành động quá đỗi thân mật của hắn với Hoàng Thái Hậu, đồng thời còn đem những lời của Tiêu công công nói cho Thẩm Thăng Bình biết.

Thẩm Thăng Bình trầm ngâm đôi lúc rồi nói: “Tiêu công công nói không sai một chút nào cả, Ung Vương đúng là người nổi tiếng không giữ đúng chữ tín của mình! Ông ta đúng là rất thích sưu tầm sách cổ, chính vì vậy mà chỉ cần ông ta biết người nào có sách cổ ở trong nhà là phải nghĩ cách lấy bằng được những quyển sách đó, và sau khi có đưcợc sách trong tay rồi thì lật mặt nhanh như trở bàn tay, hứa nhăng hứa cuội với người ta xong không bao giờ thực hiện lời hứa của mình! Ung Vương thực chất là một kẻ hai mặt, lòng dạ nham hiểm khó lường, xa xôi gì không nói, cứ đem chuyện lão phu ngày trước ra nói là biết ngay thôi! Không biết đại nhân có biết đến Phú Bật không?”

“Phú Bật? Biết chứ, là vị Tể Tướng tiền nhiệm đúng không? Ta còn chữa bệnh cho ông ta rồi nữa!” Đỗ Văn Hạo nói.

“Ông ấy chết rồi!” Thẩm Thăng Bình lắc đầu nói.

“Hả?” Đỗ Văn Hạo kinh ngạc nói: “Sao mà chết vậy?”

“Nói là bị bệnh chết, thực ra là do bị Ung Vương hại chết!” Thẩm Thăng Bình ngao ngán nói.

“Rốt cuộc là có chuyện gì?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

“Trong nhà của Phú Bật có một quyển Phật Kinh, nghe nói cuốn Phật Kinh này là do Đại Sư Huệ Viễn thời Đông Tấn đích thân dùng chữ phạn viết, Ung Vương đã từng ra giá ba trăm lạng vàng để mua cuốn sách đó của Phú Bật! Nhưng, Phú Bật lại không bán, Ung Vương ngoài mặt thì có vẻ coi như không, vẫn tôn trọng, vẫn quan tâm đến Phú Bật! Vậy nhưng Ung Vương lại đứng ở sau lưng không ngừng đả kích Phú Bật, không ngừng nói xấu ông ta trước mặt Hoàng Thượng, cuối cùng Phú Bật bị đầy khỏi kinh thành đến Hào Châu. Sau vụ án của Bạch Y Giáo, Ung Vương lại vu cáo Phú Bật cấu kết với Bạch Y Giáo, Hoàng Thượng liền bắt giam Phú Bật vào thiên lao, Ung Vương nghe tin liền cho người đi thong báo cho người nhà của Phú Bật biết, và nói rằng chỉ cần dâng tặng cuốn Phật Kinh viết bằng chữ phạn kia cho Ung Vương thì Phú Bật sẽ được tha! Người nhà của Phú Bật tưởng thật liền cầm ngay cuốn Phật Kinh đó đến dâng cho Ung Vương, nhưng sau khi nhận được cuốn kinh phật này rồi thì Ung Vương lại trở mặt ngay lập tức, ông ta vu cáo Phú Bật có ý làm phản, theo tội thì đáng bị chu di cửu tộc! Nhưng may mà Hoàng Thượng lượng tình tha thứ, chỉ bắt Phú Bật đi tòng quân, đày ra tận quan ải cách kinh thành ba ngàn dặm, và Phú Bật chết trên đường đi tòng quân.”

Đỗ Văn Hạo nghe Thẩm Thăng Bình nói vậy xong thì giật mình kinh hãi, hắn bây giờ mới nhận ra thì ra Ung Vương là con người như vậy, trước mắt thì thơn thớt nói cười, sau lưng thì lại giết người không dao. Cũng may mà mình kịp thời biết được về bản chất con người của Ung Vương, chưa đề xuất ông ta lên kế vị ngôi vua, nếu không thì…hix…hix… Phú Bật chẳng qua chỉ là có một quyển kinh phật của Huệ Viễn đại sư mà đã bị hãm hại như vậy, còn mình thì trong nhà có cả một thùng đựng kinh phật, nếu mà để cho Ung Vương biết được, e rằng…ặc…ặc….!

Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy liền nói: “Nếu mà như vậy thì Ung Vương đúng là người không thể tin tưởng phó thác việc lớn được!”

“Tuyệt đối không được!” Thẩm Thăng Bình nói: “Từ khả năng của một vị vua mà nói, thì hạ thủ tàn độc, ra tay tàn bạo cũng chẳng có gì là ghê gớm cả, nhưng mà không giữ chữ tín, trở mặt nhanh như chớp thì tuyệt đối là một đại kỵ của một vị Quân Vương. Bây giờ cướp ngôi không được thì sử dụng vũ lực, không hề để ý đến mẫu thân của mình nói gì, thực là bất hiếu bất kính! Người có nhân phẩm như vậy sao có thể lên làm vua được? Nhưng lục Hoàng Tử thì hoàn toàn trái ngược, tuy là lục Hoàng Tử nổi tiếng nghịch ngợm, nhưng đó là tính trẻ con nó vậy, ai mà chẳng thế! Lục Hoàng Tử là người rất mực lương thiện, lại vô cùng có hiếu, bất kể là Hoàng Hậu hay Chu Đức Phi nương nương đều đối xử vô cùng lễ phép, sau này chắc chắn sẽ là một vị vua nhân nghĩa!”

“Vậy ý của sư gia là muốn ta phò tá lục Hoàng Tử lên ngôi?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

Thẩm Thăng Bình gật gật đầu đáp: “Đối với đại nhân mà nói thì đây là sự lựa chọn duy nhất của đại nhân rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy sững người nhìn thẳng vào Thẩm Thăng Bình khó hiểu nói: “Sư gia cho rằng một khi Ung Vương đăng cơ lên làm Hoàng Đế sẽ tính sổ với ta về vụ kề đao vào cổ bắt làm con tin hay sao?”

“Theo như tính cách của Ung Vương thì bất luận đại nhân có công lớn như thế nào trong việc phò tá ông ta lên ngôi Hoàng Đế, thì mối thù này ông ta vẫn phải trả cho bằng được! Ung Vương tuyệt đối không phải là người phóng khoáng độ lượng! Những hành vi qua cầu rút ván, ăn cháo đá bát của ông ta nhiều không sao kể xiết, nếu đại nhân muốn có yên bình thì nhất quyết không thể để cho Ung Vương lên ngôi được!” Thẩm sư gia trầm ngâm nói.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền đưa hai tay lên cười khổ nói: “Vậy nhưng không phò tá ông ta lên ngôi vua, thì ông ta vẫn cứ tính sổ với ta thì biết làm sao đây! Ông ta là Ung Vương là vương gia trong triều, ta chỉ là một tên Ngự Y quèn, muốn tính sổ với ta dễ như trở bàn tay vậy! Ta trước sau gì cũng phải chết mà thôi!”

“Chính vì vậy mà đại nhân phải nhân cơ hội này mà chiếm lấy một cái chức thật là cao, tốt nhất là nắm trong tay binh quyền, đến khi đó thì không phải sợ Ung Vương báo thù, còn có thể thừa thế tố cáo ông ta chuẩn bị binh lực để làm phản, rồi cho ông ta một vố thật nặng, cắt luôn cả vây cánh xung quanh ông ta, cho ông ta trọn đời không có cơ hội có thể ngóc đầu lên được! Dĩ nhiên cách tốt nhất thì vẫn là…..” Thẩm Thăng Bình nói đến đây liền đưa tay lên cổ của mình làm hành động cứa cổ rất ghê rợn.

“Hoàng Thái Hậu không muốn ta làm tổn thương đến bất kỳ một người nào cả!” Đỗ Văn Hạo chán nản nói: “Hơn nữa, ta bây giờ cũng chỉ là một tên Ngự Y nhỏ bé, muốn leo lên chức cao như vậy cũng chẳng thể nào leo lên được!”

“Vừa làm Tể Tướng vừa làm Xu Mật Sử!” Thẩm Thăng Bình chầm chậm nói: “Đại nhân chỉ cần ngồi lên chiếc ghế của Tể Tướng và Xu Mật Sử, trong tay vừa có binh quyền, vừa có danh tiếng thì chẳng việc gì phải sợ Ung Vương cả!”

“Vậy nhưng Tể Tướng và Xu Mật Sử không thể nào kiêm chức cùng làm được!” Đỗ Văn Hạo sốt sắng nói.

“Được chứ sao lại không! Những năm Khánh Lịch (từ năm1041 sau công nguyên tới năm 1048 sau công nguyên) thì đã có người thống lĩnh ba quân tấn công Tây Hạ, thân kiêm chức Tể Tướng và Xu Mật Sử! Chính vì vậy mà các quy định đều do con người đặt ra cả!” Nói tới đây, Thẩm Thăng Bình liền đưa con mắt sâu thăm thẳm của mình lên nhìn Đỗ Văn Hạo rồi nói: “Chỉ có lục Hoàng Tử lên kế vị, Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính! Nếu đại nhân có Hoàng Thái Hậu đỡ lưng cho thì muốn có chức vụ này là có thể thành hiện thực được!”

“Vậy nhưng, bản thân ta không phải là người có thể làm quan to như vậy, để ta chữa bệnh cho người còn được, chứ bắt ta cai trị quốc gia thì thật ta không làm được! Khi đó ở Phủ Tĩnh Giang tại Thành Đô, chỉ mỗi cái chức Câu Quản Quan bé tí tẹo thôi mà ta đã quay như chong chóng rồi chứ đừng nói đến làm Thủ Tướng cả cái Đại Tống to lớn này, à không là Tể Tướng của Đại Tống, lại còn bảo ta chỉ huy quân đội, ta có biết cầm quân đánh trận đâu cơ chứ!”

Thẩm Thăng Bình nghe vậy liền mỉm cười nói: “Đại nhân từng đem quân đánh tan giặc Tây Sơn trong tình thế quân địch đông hơn quân ta, trận chiến đó thắng đẹp như vậy, sao đại nhân lại nói mình không biết cầm quân hả?”

“Cái đó…cái đó không giống như bây giờ! Hơn nữa ta kiêm cả hai chức vụ to lớn như vậy chắc chắn sẽ làm cho người khác đố kỵ, Hoàng Thái Hậu lúc đó cũng sẽ nghi ngờ ta, như vậy không hề tốt chút nào cả!” Đỗ Văn Hạo cố cãi.

Thẩm Thăng Bình nghe vậy liền gật gật đầu tán đồng nói: “Đại nhân nói cũng có lý! Hơn nữa, đại nhân còn trẻ người non dạ như vậy mà đã từ một Đề Hình Quan tòng tứ phẩm tăng vọt lên Tể Tướng kiêm Xu Mật Sử nhất phẩm chắc chắn sẽ có nhiều người không phục, ngay cả Hoàng Thái Hậu e rằng cũng không dám cất nhắc đại nhân thăng chức nhanh như vậy!”

“Ta đã nói mà! Sư gia mau mau nghĩ cách khác cho ta, chỉ cần tránh khỏi sự trả thù của Ung Vương là được rồi!” Đỗ Văn Hạo nói.

“Cho dù không cần phải kiêm cả hai cái chức vụ cao như vậy, đại nhân cũng nên lợi dụng cơ hội này mà thăng chức! Đại nhân bắt buộc phải là người chức cao vọng trọng thì Ung Vương mới không dám đụng tới đại nhân, lão phu nghĩ đi nghĩ lại thì đại nhân tốt nhất là nên nắm binh quyền trong tay! Đồng thời phải nhân cơ hội này mà chèn ép, kìm hãm các thế lực của Ung Vương, chúng ta bây giờ chỉ còn mỗi cách là đi đến đâu hay đến đó mà thôi!” Thẩm sư gia lắc lắc đầu nói.

“Được!” Đỗ Văn Hạo gật đầu tán đồng: “Vậy thì bước tiếp theo ta phải làm thế nào?”

“Đại nhân khi trước đưa ra chủ ý cho Hoàng Thái Hậu là rất chuẩn xác và cao tay, bây giờ tình hình trước mắt là ổn định, kiềm chế Ung Vương trước, sau đó mới nghĩ cách đối phó! Cái đối sách này thì lão phu cũng vừa mới nghĩ ra, bây giờ nói cho đại nhân nghe xem thế nào!”

Thẩm Thăng Bình nói xong liền ghé sát miệng vào tai của Đỗ Văn Hạo lì xì lào xào cái gì đó vô cùng bí ẩn.

Đỗ Văn Hạo vừa nghe vừa gật đầu khen hay nói: “Ta thấy cách này hay đấy! Chúng ta cứ theo đó mà làm!”

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 383 : Bẩy (1+2)

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Trong phủ tể tướng.

Tể tướng Vương Khuê thân mặc cẩm bào, ngồi khoanh chân trên chiếc giường mềm bằng gỗ lim mạ viền vàng, dưới mông là đệm bào đại hồng kim tuyến, dựa nghiên vào gối đoạn hoa màu vàng, tay cầm một chuỗi phật châu bằng mã não, tay kia bưng một chén trà bằng sứ trắng, nắp đậy lệch, để lộ ra một mùi thơm thoang thoảng. Lão mấy lần đưa chén trà lên miệng rồi lại dừng, đặt xuống trở lại. Đôi lông mày rậm đã hoa râm của lão lúc này đang nhíu chặt, đôi mặt già nua một mực nhìn chằm chằm vào mặt đất, không biết trong đầu đang nghĩ gì.

Bên cạnh giường mềm là một lão già tuổi già sức yếu, tay cầm một quải trượng làm bằng gỗ mun, đang không ngừng lầu bầu. Người này đương nhiên chính là lão thần Tư Mã Quang.

Tư Mã Quang đang vô cùng lo lắng, giậm quải trượng xuống đất, nói: "Vũ Ngọc huynh, da miệng ta như sắp rách cả rồi, nói bao nhiêu như vậy mà huynh không nói được câu nào à?"

Vương Khuê mặt mày buồn bã, cùng lầm bầm một câu: "Còn nói cái gì nữa? Lúc trước ở trên đại điện, ý tứ trong lời nói của Hoàng Thái Hậu đã rất rõ ràng rồi, tuy còn chưa đưa ra quyết định cuối cùng, nhưng ý kiến của bà ấy vẫn là chỉ định nhi tử Ung vương hoặc là Tào vương kế vị. Tôn tử dẫu sao vẫn còn cách một đời, nhi tử vẫn thân hơn một chút.”

Tư Mã Quang vội vàng nói: "Đúng vậy! Chúng ta không thể trơ mắt nhìn Đại Tống chính thống rơi vào tay người ngoài được!"

Vương Khuê cuối cùng cũng đưa chén sứ trắng lên miệng, chưa kịp nhấp đã lại bỏ xuống: "Huynh không phải nói là tên ngự y Đỗ Văn hạo đó có thể thuyết phục được Hoàng Thái Hậu sao?"

"Đúng vậy! Từ thái độ của Hoàng Thái Hậu hôm nay cho thấy, hắn khẳng định là không nêu ý kiến với Hoàng Thấu Hậu về chuyện để Lục hoàng tử kế vị! Ài! Ta coi như là cầu xin vô ích rồi! Vốn cho rằng hắn còn trẻ nên dũng cảm, nào ngờ tên này rốt cuộc vẫn sợ phiền phức, quả thực là gan nhỏ như gan chuột!"

"Không phải vậy đâu!" Vương Khuê chậm rãi lắc đầu: "Hắn nếu gan nhỏ như gan chuột, vậy thì sao dám bắt cóc hai vị vương gia? Thậm chí còn làm bị thương Tào vương nữa?"

Tư Mã Quang tức giận nói: "Hắn đó là chó cùng cắn... Phì phì, ta không nên nói hắn như vậy, hắn suy cho cùng cũng đã cứu cái mạng già của ta. Hắn lúc đó là dưới tình thế cấp bách nên bất đắc dĩ mà thôi. Đến khi thực sự tới lúc trọng yếu, vẫn là hạng ôm đầu chạy trước! Ta phì! Ta sao lại nói năng linh tinh như vậy chứ! Phì ph!"

Vương Khuê mỉm cười nói: "Quân Thực huynh, đừng quên lúc trước ở phủ thành đô, đối diện với hai vạn phiên quân. Dưới tay Đỗ Văn Hạo chỉ có năm ngàn người mà y vẫn không hề sợ hãi, còn dùng xảo kế tiêu diệt toàn bộ quân địch, vừa có dũng lại vừa có mưu. Hắc hắc, người này không phải là hạng chuột nhắt đâu, cũng tuyệt không phải là hạng người chịu ở lâu bên dưới người khác. Có khi, hắn chính là một con kim lân đó!"

"Đỗ Văn Hạo là một nhân vật, thành tựu của hắn cũng tuyệt không chỉ như hiện tại. Cái này ta biết. Có điều, thành đô nhất chiến có phải cũng giống như chuyện hiện tại đâu? Trên chiến trường ngươi chết ta sống, đó là chuyện bất đắc dĩ. Trên quan trường thì đâu có đơn giản như vậy. Ta đoán rằng hắn cũng chính là vì từng đắc tội với hai vương gia, cho nên mới bất đắc dĩ phải làm vậy, muốn ủng hộ Ung vương để đổi lấy hào cảm của Ung vương, để tránh tương lai Ung vương tìm hắn gây phiền phức. Hắn chẳng lẽ không biết Ung vương là hạng người nhỏ mon chuyên lật lọng sao?"

Vương Khuê nói: "Cho dù biết thì hắn e rằng cũng chỉ đành cược một ván thôi, phụ tá có công, lấy công chuộc tội cũng là một biện pháp hay mà. Còn chúng ta thì sao? Có thể làm gì được hắn chứ? Hắn vì sao mà phải giúp Lục hoàng tử? Cái này gọi là cân nhắc lợi hại đó!"

Mắt Tư Mã Quang sáng lên: "Lời này của huynh đã nhắc nhở ta. Đúng rồi, chúng ta nên tìm Lục hoàng tử, phong quan hứa nguyện cho Đỗ ngự y, xu lợi trốn hại là bản tính của con người, cái này cũng không thể trách hắn được, nếu trách thì chỉ có thể trách chúng ta không cho người ta lợi ích gì thôi. Người không vì mình thì trời tru đất diệt, có được mấy lão gia hỏa chỉ nghĩ tới cương thường chính thống như chúng ta chứ? Không sai, tìm Lục hoàng tử đi. Bảo ngài phong quan hứa nguyện cho Đỗ Văn Hạo!"

"Lục hoàng tử mới mười tuổi, hiểu được cái gì chứ! Phong quan hứa nguyện như thế nào bây giờ? Không hiện thực tí nào."

Tư Mã Quang ngẫm thấy cũng đúng, nhưng cục tức trong lòng lão vẫn chưa trút ra được, lạnh lùng nói: "Vậy! Chúng ta đi tìm Hoàng Thái Hậu quỳ gối can gián đi!"

"Chậm đã!" Vương Khuê nhẹ nhàng đặt chén sứ trắng lên chiếc bàn nhỏ đặt ngang trên giường: "Quân Thực huynh, chớ có nóng nảy, quỳ gối can gián cũng không có tác dụng gì đâu! Hoàng Thái Hậu hiện tại vẫn chưa nên gặp, chúng ta ngay cả thẩm cung cũng không vào được thì quỳ gối can gián kiểu gì!"

"Vậy thì quỳ ở trước cửa hoàng cung đi, quỳ đến chết còn hơn là trơ mắt nhìn tên Ung vương đó soán vị!" Tư Mã Quang nói xong liền chống quải trượng đi ra ngoài cửa.

Vương Khuê bước xuống giường, cầm phật châu mã não bước tới bên cạnh Tư Mã Quang, nói: "Quân Thực huynh, ta hỏi huynh. Huynh nói xem thên Đỗ Văn Hạo này thực sự là có thể thao túng ý kiến của Hoàng Thái Hậu không?"

Tư Mã Quang quay người lại, nói: "Đương nhiên! Lúc buổi chiều, hắn tới hoàng cung, nói chuyện với Hoàng Thái Hậu cả tiếng đồng hồ. Sau khi rời đi, Hoàng Thái Hậu liền hạ lệnh triệu tập chúng ta vào cung, nhưng lại không nghe lời khuyên can của bất cứ người nào, chỉ một mực khen Ung vương có tài trị quốc an bang. Đúng rồi, còn khen cả Tào vương nữa, khen xong thì đi thẳng vào hậu đường, mặc kệ chúng ta có nói gì. Cho dù cũng nói rằng Lục hoàng tử tính tình nhân từ, bà ta vẫn còn chưa đưa ra ý kiến cuối cùng, bảo chúng ta trước tiên giúp cân nhắc. Huynh cũng nghe thấy những lời này, nhưng ai ai cũng nghe ra rằng ý kiến của bà ta là muốn để Ung vương kế vị rồi! Huynh chẳng lẽ không nhìn thấy Ung vương lúc đó vui mừng như thế nào à? Nếu không phải là Đỗ Văn Hạo đổ thuốc lú cho Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu sao lại tỏ thái độ như vậy? Thế gian nào có chuyện trùng hợp như vậy chứ?"

Vương Khuê gật gật đầu, trầm ngâm một lát rồi nói: "Quân Thực huynh, theo ý kiến của huynh, nếu hiện tại Đỗ Văn Hạo lại tìm đến khuyên bảo Hoàng Thái Hậu, bảo bà ta quay sang chỉ định Lục hoàng tử kế vị, cái này liệu còn có khả năng hay không?"

"Đương nhiên là có thể rồi! Chỉ cần là chưa đăng cơ thì có thể đổi!" Tư Mã Quang nghe ra ý ngầm trong lời nói của Vương Khuê, nghi hoặc hỏi: "Vũ Ngọc huynh, huynh hỏi câu này là có ý gì? Chẳng lẽ huynh còn có chủ ý hay nào đó rồi ư?"

Vương Khuê cười rất thần bí, vê phật châu rồi từ từ bước về chỗ, bước lên bậc, cởi dép mềm, ngồi lại lên đệm ở giường mềm, ung dung thưởng thức trà thơm.

Tư Mã Quang thấy cảnh này, cộp cộp gõ quải trượng quay lại, nằm bổ lên cái bàn nhỏ đặt cạnh giường mềm, thấp giọng hỏi: "Ê! Vũ Ngọc huynh, huynh có chủ ý gì thì mau nói ra đi! Ài! Đừng có làm ta tò mò muốn chết chứ?"

Vương Pháp liếc xéo lão một cái, thần bí hề hề nói: "Tuy chúng ta không thể phong quan hứa nguyện cho hắn, nhưng chẳng lẽ lại không có biện pháp khác để hắn giúp chúng ta ư?"

"Biện pháp gì vậy?"

"Khuyên bảo lợi hại, phong quan hứa nguyện là mồi, là lợi. Chúng ta không có "lợi" thì chúng ta có thể dùng "hại", ha ha!"

Tư Mã Quang nhíu mày, nói: "Hại? ý tứ gì đây?"

"Huynh sao thông minh cả đời mà lại hồ đồ nhất thời như thế? Cái gì là hại? Hại chính là cái tròng! Bố trí một cái tròng cho hắn chui đầu vào, để hắn có cái phải sợ! Thế chẳng phải hắn sẽ ngoan ngoãn nghe lời chúng ta sao?"

Tư Mã Quang từ trên giường mềm ngồi dậy, sợ hãi nói: "Không được! Ta không tán thành! Nói sao thì hắn cũng là ân nhân cứu mạng của ta. Mà hắn tính tình nhân hậu, không có lòng hại người mà chúng ta lại bố trí bẫy để hại hắn. Không được! Chúng ta không thể làm ra loại chuyện bất nghĩa như vậy được!"

Vương Khuê mỉm cười kéo lão ngồi lên lại giường mềm: "Quân Thực huynh, cái tính nóng vội của huynh bao giờ mới có thể sửa được đây! Nghe ta nói xong đã nào."

"CÒn cái gì để mà nói nữa!"

"Huynh trước tiên cứ nghe cho xong đã rồi hẵng đánh giá! Chúng ta đương nhiên không thể làm ra loại chuyện bất nghĩa như vậy. Có điều, muốn dụ người vào bẫy, cũng không nhất định phải dùng chuyện bất nghĩa. Cái bẫy này nếu giúp hắn có được lợi lộc thì khi nghĩ lại cũng cam tâm tình nguyện thôi."

Từ Mã Quang chậm rãi quay đầu lại nhìn lão, nói: "Ồ? Còn có loại bẫy này ư? Nói ra nghe xem nào!"

Vương Pháp ghé vào tai Tư Mã Quang, thì thầm nói ra kế hoạch. Tư Mã Quang vỗ tay cười to: "Diệu! Đúng là diệu! Lão gia hỏa huynh giỏi thật, huynh đây là một mũi tên bắn chết hai con chim, chính là khiến hắn không thể không giúp chúng ta làm việc, lại tìm cho bản thân huynh một..."

"Hây!" Vương Giai ra dấu hiệu chớ có lên tiếng, bảo: "Kế này đã được rồi thì chúng ta lập tức đi làm thôi. Thời gian không đợi người đâu!"

"Tốt!"

...

Đúng vào lúc này, chính đường của phủ Ung vương.

Ung vương đang ngồi trên ghế xếp tủm tỉm cười, ngồi ở một hàng ghế phía tay trái là Tào vương, hữu tể tướng Thái Xác, lịch sử quán kiểm giáo kiêm tá lang Hình Thứ ngồi ở ghế bên phải.

Thái Xác và Hình Thứ hai người liên tục buông những lời nịnh hót rất êm tai, Ung vương nghe mà vô cùng cao hứng.

Tào vương vuốt chòm râu đen, nói: "Không ngờ mẫu hậu lại đưa ra quyết định nhanh như vậy. Xem ra, sự điều binh khiển tướng trước đây của chúng ta có chút lo xa quá rồi?"

Ung Vương xua tay, nói: "Không! Tuyệt không phải là dư thừa đâu, nếu không có những động tác này. Mẫu hậu cũng sẽ không đưa ra quyết định nhanh như vậy, mà huống chi hiện tại mẫu hậu vẫn chưa đưa ra quyết định cuối cùng. Sự chuẩn bị về võ lực chỉ có thể tăng cường chứ không được bớt đi!"

Ba người vội vàng vâng dạ.

Thái Xác nghĩ một chút rồi khom người nói: "Ung vương gia, hiện tại thái hoàng thái hậu đã biểu lộ ý tứ chỉ định vương gia kế vị rồi. Hành động của chúng ta có phải là nên kín đáo hơn một chút không? Để tránh tương lai để người ta mượn cớ, nói vương gia là dùng vũ lực để cưỡng đoạt hoàng vị, thế thì sẽ không hay."

Ung vương gật đầu, nói: "Ừ, ngươi nhắc nhở rất đúng, rất có đạo lý. Lập tức nói với mã quân đô chỉ huy sứ Mã Toàn Dũng cùng bộ quân đô chỉ huy sứ Thạch Nguyên, bảo bọn chúng hạ lệnh khắc chế thủ hạ, đừng gây hấn với đám người Điện tiền ti của Vi Ngạn. Bảo trì cự ly nhất định với chúng, đề cao cảnh giác đợi lệnh!"

Thái Xác vội vàng đáp ứng.

Tào vương nói: "Hoàng huynh, không ngờ tên họ Đỗ này thực sự có phân lượng, vào cung gặp mẫu hậu, mẫu hậu lập tức tỏ thái độ. Hoàng huynh, huynh nói xem, mẫu hậu vì sao lại nghe lời của tên ngự y nho nhỏ này?” Nói tới đây, Tào vương sờ sờ băng vải vẫn còn quấn trên cổ, cảm thấy vết thương ở trên cổ vẫn còn ngâm ngẩm đau, không khỏi hậm hực nói: "Tên tiểu thử này khiến bản vương phải chịu nhục trước mặt mọi người, bản vương tuyệt đối sẽ không nuốt cục tức này đâu!"

Ung vương hờ hững nói: "Chuyện nhỏ không biết nhịn thì mưu lớn ắt sẽ loạn. Mẫu hậu vì sao lại nghe lời tên tiểu tử đó thì bản vương cũng không biết. Có điều xem ra phán đoán của chúng ta đã đúng rồi. Tên tiểu tử này cũng bởi vì đã đả thương ngươi, bắt cóc ta mà cảm thấy sợ hãi, cho nên mới quyết một lòng giúp chúng ta. Bất kể là hắn dùng biện pháp gì để thuyết phục mẫu hậu, chỉ cần mẫu hậu đáp ứng để bản vương kế vị là được rồi. Hắc hắc, còn muốn trút giận ư. Đợi khi hắn nằm trong tay chúng ta thì lúc đó muốn giày vó hắn thế nào thì cứ giày vò hắn thế nấy!"

Tào vương cũng đắc ý mà bật cười, nói: "Vậy thì tốt rồi! Đúng rồi, vừa rồi mẫu hậu cũng khen đệ, nói đệ cũng có tài trị quốc an bang đó, hắc hắc!"

Hình Thứ ở bên cạnh làm cẩm tú văn trương thì quả thực không tồi, nhưng tính tình thì lại chẳng ra làm sao, hơn nữa thường thường lời cứ ra khỏi miệng là như ngựa chạy không gì cản nổi, cũng không nhìn thấy sắc mặt của Ung vương khi nghe thấy những lời này thì trầm xuống mà bợ đít rất không đúng lúc đúng chỗ: "Đúng vậy, Hoàng Thái Hậu nói Ung vương gia và Tào vương gia đều là lương đống có tài trị quốc an bang, còn đặc biệt nhắc tới Tào vương tính tình cơ cảnh, hiểu rõ nhân tình."

"Đủ rồi!" Ung vương vỗ manh lên tay nắm ghế, trừng mắt nhìn Tào vương: "Sao hả? Hoàng đệ, ngươi cũng muốn tranh đoạt hoàng vị với bản vương ư?"

Tào vương hai tay vung vẩy không biết để vào đâu, sợ hãi nói: "Không không! Hoàng hunh, đệ vừa rồi chỉ nói vậy mà thôi, không có ý gì cả. Hoàng huynh chớ có đa nghi."

Ung vương nặng nề hừ một tiếng, nói: "Kẻ nào một lòng một ý giúp bản vương, bản vương sau khi đăng cơ, tự nhiên sẽ không thiếu cho tốt cho hắn. Nếu ở sau lưng bản vương mà đâm một đao, bản vương tuyệt sẽ không mềm tay đâu!"

Tào vương, Thái Xác và Hình Thứ vội vàng cúi người đáp ứng. Tào Vương trên mặt vẫn có chút xấu hổ, nói: "Hoàng huynh, tên Đỗ Văn Hạo coi bộ cũng là một lòng một ý phụ tá huynh, vậy tương lai..."

"Hắn ư?" Giữa hai lông mày của Ung vương thoáng hiệu một tia sát khí, nói: "Hắn cho dù có công lao to bằng trời thì cũng không thoát được tội dám bắt cóc bản vương! Bản vương tương lai sau khi đăng cơ, nhất định sẽ phải đem hắn lăng trì xử tử!" Nói tới đây, Ung vương đứng bật dậy, chắp tay sau lưng nhìn ba người, lạnh lùng như băng sương nói gằn từng chữ: "Đối với bản vương mà nói, không hề có chuyện lấy công chuộc tội gì cả. Vô luận là ai, đều không được phép phạm phải bất kỳ một sai lầm nào. Kể cả một lần cũng không được. Mệnh lệnh của bản vương phải tuyệt đối kiên quyết chấp hành, đối với bản vương thì càng không được phép có bất kỳ một lời bất kính nào. Nếu không, kết cục tương lai của Đỗ Văn Hạo chính là tấm gương cho hắn."

Tào Vương, Thái Xác, Hình Thứ vội vàng cúi người đáp ứng, mặt ai cũng đầy vẻ sợ hãi.

Đúng vào lúc này, một phó tùng cầm một tấm thiệp bái phỏng trong tay tiến vào, cúi người nói: "Hồi bẩm vương gia, Đề hình quan Đỗ Văn Hạo cầu kiến!"

Bốn người quay sang nhìn nhau, sát khí trên mặt Ung vương trong nháy mắt đã biến mất sạch sành sanh, biến thành tươi cười hớn hở, giống như là vừa rồi không hề nói tới chuyện giết người, mà là đang đàm luận về một cô nương mỹ mạo, cười tủm tỉm nói: "Nhắc tới Tào Tháo và Tào Tháo tới liền, tên tiểu tử này có phải tới để đòi công không? Mau mời vào! Mấy người các ngươi lui vào hậu đường trước đi!"

Ba người bọn Tào vương dạ một tiếng rồi tránh vào trong hậu đường.

Ung vương mặt mày tươi cười bước nhanh ra ngoài chính đường, đi qua sân nhà, tới trước cửa thùy hoa, từ xa đã thấy Đỗ Văn Hạo đang đứng dưới hành lang phòng khách. Ung vương ha ha cười lớn, dang hai tay ra nghênh đón, nắm lấy vai Đỗ Văn Hạo rồi ra sức mà lắc, thỉnh thoảng còn vỗ một cái: "Vân Phàm lão đệ, làm tốt lắm! Ha ha, không cô phụ hi vọng của bản vương."

Đỗ Văn Hạo thụ sủng nhược kinh vội vàng chắp tay nói: "Đa tạ Ung vương khen ngợi, ti chức sao dám xưng đệ gọi huynh với vương gia."

"Ài! Ngươi có thể giúp bản vương thuyết phục mẫu hậu để bản vương được kế vị thì chính là hảo huynh đệ của bản vương rồi. Từ này về sau cứ gọi nhau là huynh đệ với bản vương đi! Nếu không, bản vương sẽ tức giận đó!" Nói xong liền thổi râu cố ý làm mặt nghiêm.

Xương cốt trong người Đỗ Văn Hạo giống như là lập tức nhẹ đi mấy lần, lộ ra bộ dạng nộ tài được yêu quá mà sợ, luống cuống chắp tay nói: "Ngu đệ đa tạ vương gia, à không, đa tạ hoàng huynh yêu mến!"

Hắn gọi Ung vương là hoàng huynh, rõ ràng là có chút bất loại bất luân. Có điều Ung vương bảo hắn gọi huynh xưng đệ với mình, đương nhiên chỉ có thể xưng hô như vậy thôi.

Ung vương đưa tay ra nắm lấy cánh tay Đỗ Văn Hạo, vai sánh vai vừa quay về chính đường vừa nói chuyện, trước tiên bảo Đỗ Văn Hạo ngồi xuống ghế, rồi lại thân thiết vỗ vỗ vai hắn, ngẩng cổ lên lớn tiếng phân phó người hầu đứng ở cửa dâng trà, sau đó mới ngồi xuống ghế gập ở chính giữa.

Trà thơm được đưa lên, Ung vương nhấc chén mời: "Hiền đệ, đây là cống phẩm long trà, là hoàng huynh của ta tặng cho ta!" Nói tới đây, sắc mặt của Ung vương lập tức trở nên ảm đạm, tròng mắt ươn ướt, nói: "Ài! Hoàng huynh của ta đang lúc tráng niên, sao có thể lại... đúng là trời đố kỵ anh tài mà!"

Đỗ Văn Hạo cũng buồn bã nói: "Đúng vậy, có điều, nghe nói hoàng thượng lăng thiên trường thệ (chết nhanh), không hề phải chịu đau đớn dằn vặt, cũng tính là đại hạnh trong bất hạnh rồi."

Ung vương gật đầu nói: "Đúng vậy, chỉ đáng tiếc khi hoàng huynh bệnh phát, hiền đệ lại tuần y ở địa phương xa xôi. Nếu không, hoàng huynh chắc cũng không đến nỗi... Ài, đây cũng là ý trời."

Đỗ Văn Hạo ngượng ngùng nói: "Đúng vậy, kỳ thực viện sử Trịnh Cốc, đại phương mạch thái y thừa Ngụy Triển, sang dương thái y Lý Khánh Thái của thái y viện y thuật đều rất tài giỏi, không hề dưới ngu đệ. Nghe nói bọn họ thậm chí còn không kịp chạy tới nơi để cứu trị thì hoàng thượng đã băng hà rồi. Cái này cũng là không có cách nào khác."

"Hừ! Hiền đệ nếu không nhắc tới bọn chúng còn đỡ, nhắc tới bọn chúng là bản vương thấy tức giận rồi. Trị thủ thái y (thái y trực nhật) của hoàng thượng hôm đó chính là đại phương mạch thái y thừa Ngụy Triển! Hôm đó hắn không ngờ lại uống tới say mềm, gọi hắn tới cấp cứu mà không cách nào lay tỉnh được hắn, làm chậm trễ việc cứu trị cho hoàng huynh, mà phái người đi gọi thái y khác thì đã không kịp. Hừ! Cái đám vô dụng đó, bản vương đã hạ lệnh tống thằng nhãi Ngụy Triển vào tử lao rồi. Đợi sau khi bản vương đăng cơ, hiền đệ, ta sẽ để ngươi trọng trấn thái y viện, đuổi hết những tên thái y vô dụng đó đi, tìm kiếm những danh y khác, nhất thiết phải tuyển chọn người có y đạo cao minh, y đức cao thượng. Không thể để những tên hỗn trướng, lừa gạt như Ngụy Triển được tiến vào thái y viện nữa!"

Đỗ Văn Hạo vội vàng cúi người nói: "Ngu đệ cẩn tuân mệnh lệnh của hoàng huynh!"

Ung vương lại nhìn Đỗ Văn Hạo, có chút hứng thú hỏi: "Đúng rồi, hiền đệ, ngươi làm thế nào mà thuyết phục được mẫu hậu, khiến mẫu hậu để ta kế thừa hoàng vị vậy?"

Đỗ Văn Hạo vội vàng nói: "Kỳ thực ngu đệ cũng không nói gì nhiều, chỉ nói là hoàng huynh tính tình trượng nghĩa, nhắc tới chuyện ngày đó ngu đệ bắt cóc Tào vương, nói lúc ấy hoàng huynh đại nghĩa lăng nhiên, làm con tin thay cho Tào vương, thực sự là chân hán tử, đại anh hùng đỉnh thiên lập địa. Hoàng Thái Hậu liền khen ngợi hoàng huynh một chập, có lẽ là chuyện đã đã giúp người đưa ra quyết định. Kỳ thực Hoàng Thái Hậu phi thường liễu giải về tài trị quốc an bang của vương gia, sớm đã tính sẵn trong lòng, những lời này của ta chẳng qua là cổ vũ thêm mà thôi."

Ung vương cười ha ha, nói: "Không ngờ chuyện đó là chuyện xấu mà lại thành chuyện tốt, trở thành vốn mua danh chuộc tiếng cho bản vương, ha ha ha."

Ung vương lấy mình ra để giễu cợt, Đỗ Văn Hạo tất nhiên không dám phụ họa, chỉ cười bồi hai tiếng.

Ung vương lại nói: "Hiền đệ, nhiệm vụ sau này của ngươi chính là tiếp tục thuyết phục mẫu hậu, để mẫu hậu sớm tuyên bố cho bản vương kế thừa hoàng vị. Sau khi bản vương đăng cơ, ngươi sẽ lập công đầu, bản vương sẽ không bạc đãi ngươi đâu. Hắc hắc, nói đi, muốn được thưởng gì?" Ung vương cười tủm tỉm nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo mặt mày sợ hãi, vội vàng đứng dậy cúi người nói: "Ngu đệ không dám, chỉ cần hoàng huynh và Tào vương gia có thể tha thứ cho hành vi bất kính của ngu đệ ngày đó, miễn cho ngu đệ tội chết thì ngu đệ đã hài lòng lắm rồi. Không dám có hi vọng xa vời gì khác.”

Ung vương cố ý sầm mặt xuống, nói: "Hiền đệ nói cái gì vậy? Bản vương không phải đã nói rồi sao, chuyện đó chỉ là hiểu lầm, đã qua rồi thì đừng có nhắc đến nữa! Sao? lời của hoàng huynh ngươi không nghe ư?"

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 384: Hang hổ

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Đỗ Văn Hạo bộ dạng cảm động đến chảy nước mắt, vội vàng chỉnh lại vạt áo rồi khom mình nói: "Hoàng huynh khoan hồng đại lượng, ngu đệ sau này sẽ không nhắc tới nữa."

Ung vương lúc này mới chuyển giận thành vui, nói: "Lần trước Thái tể tướng nói với bản vương, hứa cho ngươi đảm nhiệm chức xu mật phó sứ, bản vương lập tức đáp ứng rất thống khoái. Hiền đệ tại phủ lộ thành đô nghênh chiến phiến quân Thổ Phiên Tây Sơn lộ, dưới tình huống lấy ít địch nhiều, né tránh mũi nhọn của chúng, dắt mũi địch nhân, lợi dụng chiến cơ có lợi kịp thời tổ chức phản kích, giành được toàn thắng, tiêu diệt toàn bộ phiến quân Tây Sơn bộ, trận này thắng rất đẹp. Tuy ngươi tự ý nắm quân quyền, phạm phải đại kỵ, nhưng cũng là vì quân tình khẩn cấp mà thôi. Bản vương đã khuyên hoàng huynh đừng xử phạt ngươi quá nặng, hơn nữa còn phải chú ý tới tài năng quân sự của ngươi, thép tốt thì phải dùng trên lưỡi đao, vị trí xu mật phó sứ này chính là để sẵn cho ngươi đó. Ha ha!"

Đỗ Văn Hạo trên mặt lộ ra vẻ đắc ý: "Hoàng huynh quá khen. Hắc hắc!"

"Được rồi! Sau này bản vương đăng cơ sẽ để ngươi suất quân bắc chinh Tây Hạ cho bản vương, tiêu diệt đám chuột Đại Liêu này, hoàn thành đại nghiệp thống nhất giang sơn."

Đỗ Văn Hạo vừa kinh vừa hỉ vội vàng đứng dậy, chắp tay nói: "Đa tạ hoàng huynh, ngu đệ sẽ cúc cung tận tụy, sau này huy sư bắc thượng san bằng Hạ Liêu."

"Được rồi, chúng ta một lời đã định. Ngươi hiện tại quay về đi, việc khác không cần quản làm gì, chỉ cần thay bản vương nói với mẫu hậu, để người sớm quyết định, tránh cho đêm dài lắm mộng."

"Vâng!" Đỗ Văn Hạo cúi người đáp ứng rồi vén áo đứng đó, chưa có ý tứ cáo từ.

Ung vương thấy vậy liền mỉm cười nói: "Hiền đệ còn có chuyện khác ư."

"Vâng." Đỗ Văn Hạo từ trong lòng lấy ra mộ quyển sách, nói: "Ngu đệ nghe nói hoàng huynh thích cổ thư thiện bản. Ngu đệ vào lúc tuần y khắp nơi vừa hay mua được quyển sách này. Cũng không biết có tác dụng gì hay không, đặc biệt cầm tới cho hoàng huynh xem thử."

Sở thích đối với cổ đại thiện bản của Ung vương đã đạt tới trình độ điên cuồng, đã từng vì mưu đoạt một bản Đông Tấn Phật kinh thiện bản của tể tướng Phú Bật mà hại cho Phú Bật tan nhà nát cửa. Hiện tại nghe Đỗ Văn Hạo nói hắn có một bản cổ thư thì lập tức có hứng thú, mặc dù không tin Đỗ Văn Hạo có thể thu được sách tốt gì nhưng vẫn đứng dậy bước đến nhận.

Sau khi nhìn một cái thì mắt Ung vương lập tức trợn tròn lên, hô hấp cũng biến thành gấp rút, ngay cả tay cũng trở nên run rẩy, lời nói cũng không còn lưu loát: "Vô Lượng Thọ Kinh do tự tay Tuệ Viễn... Tuệ Viễn đại sư viết. Trời ơi, đây chính là trân bản đó. Chậm đã, nói không chừng chính là chất phẩm, đợi bản vương xem kỹ đã."

Ung vương hai tay cầm sách mà giống như là cầm tâm can của mình bước về chỗ ngồi, cẩn thận đặt sách lên bàn, bình tĩnh lại rồi dùng ngón tay đang run rẩy lật từng trang giấy, mắt sáng rực lên, nói: "Không sai, giấy này của thời Đông Tấn."

Hắn vừa lật xem vừa không ngừng gật đầu, chỉ dùng thời gian một bữa cơm để đọc. Ung vương lúc này mới ngẩng đầu lên, vẻ mặt vô cùng kích động, nói: "Hiền đệ, bộ sách này đúng là Vô Lượng Thọ Kinh Phạm văn do Tuệ Viễn đại sư thời Đông Tấn tự mình viết. Ông ấy cùng Vương Hi Chi là hảo hữu, trên thư pháp nhận được sự chỉ điểm của Vương Hi Chi, rất có phong vị của thư thánh. Lời tựa của quyển sách này chính là thủ tích của ông ấy, còn có ấn chương nữa. Bản vương cũng có được một bản Phật kinh Phạm văn do chính tay Tuệ Viễn đại sư viết. Ấn chương bên trên giống hết như ấn chương trên quyển này của hiền đệ, chắc là bản gốc được hoàn thành sao chép vào cùng thời!"

Đỗ Văn Hạo cười hắc hắc, nói: "Là thật thì tốt quá rồi."

Ung vương cầm quyển kinh thư mà vui đến mức không khép miệng lại được, vén áo dài ngồi xuống, tay vẫn đặt trên bản Phật kinh, mắt nhìn Đỗ Văn Hạo: "Hiền đệ, bộ sách này bản vương mua lại, ngươi nói giá đi, bản vương tuyệt đối không mặc cả."

"Không không không, hoàng huynh, quyển sách này, ngu đệ không thể bán."

Trên mặt Ung vương lóe lên vẻ không vui, giơ một ngón tay lên: "Bản vương ra giá một trăm lượng hoàng kim."

Một trăm lượng hoàng kim có thể nói là tương đương với một trăm vạn nhân dân tệ.

Đỗ Văn Hạo lắc đầu.

Ung vương lại giơ năm ngón tay lên: "Năm trăng lượng. Hiền đệ, năm trăm lượng hoàng kim không phải là ít đâu."

Đỗ Văn Hạo vẫn chỉ mỉm cười lắc đầu.

Ung vương nắm chặt quyền đầu: "Nể mặt huyền đệ, ta ra giá chót là một ngàn lượng hoàng kim."

Đỗ Văn Hạo vẫn chỉ lắc đầu.

Ung vương chậm rãi bỏ tay xuống, nói: "Xem ra hiền đệ không muốn tiền rồi. Hắc hắc, muốn gì thì cứ nói đi."

Đỗ Văn Hạo cúi người nói: "Ngu đệ không muốn gì cả, quyển sách này là tiến cống cho hoàng huynh làm quà mừng hoàng huynh đăng cơ."

Ung vương ngây người rồi lập tức bật cười, tay chỉ vào Đỗ Văn Hạo, nói: "Hiền đệ, ngươi hay lắm! ha ha ha, tốt! Hảo huynh đệ! Lễ vật này của ngươi thật sự là tặng vào tâm khảm của bản vương đó. Đa tạ hiền đệ, ha ha ha."

"Đây là điều nên làm mà." Đỗ Văn Hạo lại cười hắc hắc, nói: "Ngoài ra, ngu đệ còn mua mấy trăm con dê béo, chuẩn bị đưa tới cho các huynh đệ của thị vệ mã quân và thị vệ bộ quân. Bọn họ cực khổ nhiều ngày chắc cũng mệt mỏi lắm rồi. Chỉ là chỗ dê bò này đều còn sống, phải giết mổ chắc cũng phí chút công."

Ung vương khen: "Huynh đệ quả thực là nghĩ rất chu đáo. Không sao cả, dê nướng cả con vừa hay là thứ mà các huynh đệ thích nhất. Vậy chiều nay bản vương dẫn ngươi đi gặp mặt các huynh đệ, để họ mời ngươi mấy chén rượu. Bản vương biết tử lượng của ngươi rất khá. Ha ha ha."

Ung vương lại sờ sờ bộ kinh thư đó, quả thực là yêu thích đến độ không nỡ rời tay. Đỗ Văn Hạo tặng quân đội thủ hạ chính là một bầy dê sống, tất nhiên không thể hạ độc được, cho nên mới không hề nghi ngờ gì hắn, liên tục xưng tán Đỗ Văn Hạo nghĩ rất chu đáo.

Đỗ Văn Hạo lại cúi người, nói: "Ngoài ra ngu đệ còn có một kiến nghị nhỏ, không biết có thích hợp hay không."

"Ừ, kiến nghị của hiền đệ thì lúc nào chẳng chuẩn xác, cứ nói ra đi."

“Ngu đệ định một lát nữa vào cung thuyết phục Hoàng Thái Hậu, để người triệt tiêu binh quyền của Điện tiền thị vệ đô chỉ huy sứ Vi Ngạn, không biết có được hay không?"

Ung vương vừa kinh ngạc vừa vui mừng đứng bật dậy, tay vẫn còn cầmquyển Phật kinh, kinh ngạc thốt lên: "Cái gì, hiền đệ quả thật có thể thuyết phục mẫu hậu triệt tiêu binh quyền của đô chỉ huy sức Vi Ngạn ư."

"Ngu đệ chỉ là muốn thử, cũng không có gì nắm chắc."

"Được được!" Ung vương liên tục nói hai chữ được. Cố kỵ duy nhất của hắn chính là Điện tiền thị vệ quân nắm giữ hoàng cung của Vi Ngạn. Đây là chướng ngại lớn nhất khi hắn đăng cơ. Chỉ cần nhánh quân đội này quay đầu làm thủ hạ của mình, vậy thì không còn phải lo lắng điều gì nữa. Thiên hạ đã xác định là nằm trong tay mình rồi. Ung vương bước tới trước mặt Đỗ Văn Hạo, thậm chí có chút thiết tha, nói: "Hiền đệ, ngươi nếu quả thật có thể hoàn thành chuyện này. Bản vương sau khi đăng cơ, chức xu mật sức chính là của ngươi. Bản vương ngoài ra còn phong cho ngươi làm Trung Dũng hầu."

Từ xu mật phó sứ hứa cho lên thành xu mật sứ, Đỗ Văn Hạo cười đến nỗi miệng ngoác tới tận mang tai, cúi mình chắp tay nói: "Đa tạ hoàng huynh, vậy nếu Hoàng Thái Hậu đồng ý giải trì quân quyền của Vi Ngạn thì ngu đệ nên bảo Hoàng Thái Hậu giao điện tiền thị vệ quân cho ai chỉ huy đây."

"Giao cho ngươi là được rồi." Ung vương bị một chuỗi tin mừng khiến cho lòng hoa nở rộ, nghe Đỗ Văn Hạo chủ động hỏi vậy thì càng không nghi ngờ gì hắn, không nghĩ ngợi gì mà trả lời ngay.

"Ngu đệ nếu có thể hoàn thành chuyện này sẽ lập tức quay lại nghe hoàng huynh sai khiến."

"Rất tốt, mau đi đi. Bản vương đợi tin tức tốt của ngươi. Ha ha ha." Ung vương ôm kinh thư, cười vô cùng đắc ý.

"Vâng."

Đỗ Văn Hạo cáo từ rồi rời khỏi Ung vương phủ.

Sau khi bước lên kiệu, nụ cười của hắn biết thành lạnh lùng, phân phó khởi kiệu tới thẳng hoàng cung.

Hoàng Thái Hậu đã thông báo cho tất cả thị vệ hoàng cung, Đỗ Văn Hạo có thể tự do ra vào hoàng cung.

Cho nên Đỗ Văn Hạo một đường thông suốt tới thẳng chính đường thẩm cung của Hoàng Thái Hậu.

Hoàng Thái Hậu đang ngồi trên giường mềm, mặc váy màu đen, hông thắt đai màu trắng, đứng bên cạnh là Tiêu công công.

Lão vốn là thiếp thân thái giám ở bên cạnh Thái Hoàng Thái Hậu, căn cứ theo sự an bài của Đỗ Văn Hạo, Hoàng Thái Hậu lệnh cho lão sau này theo hầu mình. Tiêu công công đương nhiên biết đây là chủ ý của Đỗ Văn Hạo nên vui vẻ đáp ứng.

Mặc dù Tiêu công công cũng ủng hộ Lục hoàng tử, nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn chưa nói kế hoạch cho lão biết, loại tuyệt mật này càng ít người biết thì càng tốt.

Cho nên Đỗ Văn Hạo ho khan một tiếng, nháy mắt với Hoàng Thái Hậu rồi chu miệng về phía các cung nữ và thái giám ở bên cạnh .

Hoàng Thái Hậu hiểu ý, xua tay nói: "Tiểu Tiêu tử, các ngươi lui xuống hết đi."

"Vâng!" Tiêu công công dẫn tất cả các cung nữ, thái giám lui ra ngoài. Trong nhà chỉ còn lại Đỗ Văn Hạo và Hoàng Thái Hậu.

Đôi mắt phượng của Hoàng Thái Hậu Ung vương buồn nhìn chằm chằm vào Đỗ Văn Hạo, muốn nói rồi lại thôi.

Đỗ Văn Hạo quay đầu lại nhìn cửa phòng đã đóng kín rồi bước về phía Hoàng Thái Hậu. Hắn nhìn thấy trong mắt của Hoàng Thái Hậu rõ ràng là có một tia vui mừng rất khó phát giác, trong lòng lập tức quyết định bước tới trước giường mềm, vén áo bào rồi ngồi xuống bên cạnh Hoàng Thái Hậu, sau đó gọi khẽ một tiếng: "Thao Thao!"

Hoàng Thái Hậu nghe thấy hắn gọi tiểu danh của mình, hai má liền đỏ hồng, trong mắt lóe lên một tia nhu tình.

Đỗ Văn Hạo liền đưa tay ra, ôm lấy eo thon của bà ta.

Hoàng Thái Hậu bị hắn ôm eo, cả người lập tức cứng đờ. Lần trước hai người cũng từng ôm ấp nhau, nhưng đó là Hoàng Thái Hậu vì đang ở trong lúc tâm trí hoảng hốt, sầu khổ. Hiện tại đột nhiên thân mật như thế này, Hoàng Thái Hậu vẫn không thể thích ứng kịp. Dẫu sao thì bà ta đã gần hai mươi năm rồi không bị nam nhân ôm như vậy.

Đỗ Văn Hạo cảm thấy thân thể bà ta cứng đờ, nhưng cũng nghe thấy tiến thở gấp rút của bà ta, nhìn thấy sự hoảng loạn trong mắt của bà ta, gan càng lớn hơn, tay kéo bà ta vào lòng.

Hoàng Thái Hậu ối chà một tiếng, muốn giãy dũa nhưng đừng nói là mấy ngày nay bà ta cơm nước ăn không vô, đã hư nhược tới cực độ, mà cho dù là mình thường thì một nữ tử yếu đuối như bà ta sao có thể địch được cái ôm này của Đỗ Văn Hạo, giãy dụa hai cái rồi buông xuổi nằm trong lòng hắn thở hổn hển.

Đỗ Văn Hạo cũng không dám làm quá, chỉ ôm lấy bà ta, nhưng tới bước này rồi thì hắn cũng không biết tiếp theo nên làm gì.

Hoàng Thái Hậu mượn cơ hội này để bình ổn lại tâm thần, ngẩng đầu lên nhìn hắn, hỏi: "Tình hình sao rồi?"

Đỗ Văn Hạo mỉm cười, ôm bà ta chặt hơn, nói: "Ta làm việc thì nàng yên tâm đi, tất cả cứ án theo kế hoạch mà tiến hành."

"Ừ, vậy thì ngàn vạn lần đừng khiến hai hoàng nhi bị thương, đương nhiên càng không thể làm bị thương Lục hoàng tôn."

Đỗ Văn Hạo vỗ vỗ lòng bàn tay của bà, nói: "Ta nhớ rồi."

Hoàng Thái Hậu triệt để thả lòng người, dựa vào đầu vai hắn, hai mắt nhắm lại, thở dài một hơi nhẹ nhõm, nói: "Đợi chuyện này xử lý xong, ta thực sự muốn được ngủ liền mấy ngày mấy đêm, mệt quá."

Đỗ Văn Hạo ôn nhu nói: "Đúng vậy, mấy ngày này nàng chịu khổ quá rồi. Có điều tương lai sau này sẽ buông rèm nghe chính sự, lúc đó nàng sẽ bận đến nỗi không có thời gian để nghỉ ngơi đâu."

"Ta mặc kệ, ngươi phải giúp ta xử lý." Hoàng Thái Hậu câu này thì lại cảm thấy mình đang nũng nịu giống như một tiểu cô nương vậy, có chút xấu hổ đỏ bừng cả mặt, giãy dụa muốn đứng dậy nhưng lại bị Đỗ Văn Hạo ôm chặt không nhúc nhích được.

Sự giãy dụa của Hoàng Thái Hậu khiến Đỗ Văn Hạo cũng cảm thấy cứ ôm như vậy không cũng thỏa đáng lắm, liền buông lỏng tay, giả vờ hờn dỗi nói: "Một tên mao đầu tiểu tử, không quyền không thế như ta, người ta không thèm để vào mắt đâu."

Hoàng Thái Hậu mượn cơ hội này ngồi thẳng dậy, hừ một tiếng, nói: "Bọn chúng dám, ai dám không để ngươi vào mắt ta sẽ lột da hắn."

Đỗ Văn Hạo cười to một tiếng, lớn gan đưa tay ra vuốt nhẹ lên khuôn mặt trắng nõn như thiếu nữ của bà ta, nói: "Hung ác quá, ta sợ lắm."

Hoàng Thái Hậu mặt lập tức đỏ bừng, cúi đầu xuống.

Không biết vì sao mà Hoàng Thái Hậu cảm thấy mình khi ở trước mặt Đỗ Văn Hạo liền biến thành một tiểu cô nương không hiểu chuyện, thích cảm giác hắn ôm mình, thích nghe những lời nói trấn tĩnh của hắn, thích nhìn ánh mắt kiên nghị của hắn. Ở trong lòng hắn, mình như trở lại tuổi thanh xuân, sự thống khổ của mấy ngày nay có hắn liền được giảm bớt đi rất nhiều.

Hoàng Thái Hậu trong lòng ấm áp ngẩng đầu nhìn hắn, rồi lại nhẹ nhàng dựa sát vào lòng hắn, mặt tựa vào bộ ngực săn chắc của hắn rồi thẽ thọt gọi: "Văn Hạo."

Đỗ Văn Hạo thấy bộ dạng xấu hổ như thiếu nữ của bà ta, quả thật khiến người ta phải động lòng, không nhịn được mà nhẹ nhàng ve vuốt mái tóc suôn mượt như tơ lụa của bà ta.

Bà ta không trang điểm, chỉ để tóc xõa ra sau gáy rồi dùng một đoạn vải trắng buộc lại. Đỗ Văn Hạo trong lòng âu yếm dí sát mặt vào, một mùi hương thoảng thoảng như chui sâu vào tâm can, trong lòng không nhịn được mà cúi đầu hôn lên mái tóc của bà ta.

Thân hình Hoàng Thái Hậu khẽ run rẩy. Đây là lần đầu tiên Đỗ Văn Hạo hôn bà ta, cho dù là chỉ là hôn lên tóc, nhưng dẫu sau đây cũng là lần đầu tiên được nam tử hôn sau gần hai mươi năm. Tim bà ta không khỏi đập thình thịch, tâm hoảng ý loạn càng dụi sâu vào ngực hắn.

Hai người nhất thời im lặng ôm nhau, chỉ có thể nghe thấy tiếng tim đập của đôi bên.

Một lát sau, Hoàng Thái Hậu mới kề má lên má hắn, thấp giọng nói: "Đỗ Văn Hạo, ngươi giúp ta như vậy, bảo ta phải cảm tạ ngươi thế nào đây?"

Đỗ Văn Hạo thở dài một tiếng, nói: "Tới lúc đó nàng chỉ cần bảo Ung vương và Tào vương đừng giết ta là được rồi."

Hoàng Thái Hậu ngây người, ngồi thẳng dậy rồi nghi hoặc hỏi: "Bọn chúng vì sao lại muốn giết ngươi."

Đỗ Văn Hạo liền đem chuyện mình cưỡng ép Ung vương, Tào vương ra kể lại một lượt.

Hoàng Thái Hậu nghe xong liền mỉm cười, nói: "Chuyện này á, ngươi không phải là cố ý, chỉ là hiểu nhầm mà thôi. Nhan nhi và Mạch nhi sẽ không nhỏ nhen như vậy đâu. Tới lúc đó ta sẽ nói với chúng đừng tìm ngươi làm phiền, ngươi cứ yên tâm đi."

Đỗ Văn Hạo cười khổ, nói: "Ta nghe nói Ung vương gia thù rất dai, ta lúc đó bắt hắn đi ngay trước mặt mọi người, lại còn làm Tào vương gia bị thương ở cổ. Loại sĩ nhục này bất kỳ ai cũng đều không dễ dàng bỏ qua đâu. Thao Thao à!"

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 385:Tước binh quyền

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Hoàng Thái Hậu chậm rãi gật đầu, nói: "Lời này cũng đúng, Mạch nhi còn đỡ hơn một chút, chứ Nhan nhi tính tình bá đạo, bình thường chưa bao giờ phải chịu thiệt, phải nghĩ cách để hắn không thể tìm ngươi gây phiền phức mới được."

Cái mà Đỗ Văn Hạo muốn chính là câu này của Hoàng Thái Hậu, bèn ôm lấy cái eo nhỏ của bà ta, vẫn làm mặt khổ, nói: "Có thể có biện pháp gì nữa? Hắn ta là vương gia mà, giẫm chết ta còn dễ hơn là giẫm chết một con kiến nữa."

Hoàng Thái Hậu nhìn hắn một cái oán trách, nói: "Xem ngươi nói cái gì kìa! Làm sao mà như thế được, không phải vẫn còn có ta ư?"

"Thao Thao, ta không thể nào cứ trốn trong thẩm cung của nàng cả đời được? Ta cho dù không sợ chết thì cũng không thể làm hỏng danh tiết của nàng."

Hoàng Thái Hậu mặt lại đỏ hồng lên, lườm hắn một cái rồi nói: "Vậy ngươi nói xem nên làm thế nào đây."

"Nàng không thể ngày nào cũng bảo hộ ta được, vậy thì chỉ có thể tìm người khác để bảo hộ ta thôi. Nếu ta có quân quyền thì tốt rồi, ví dụ như là Điện tiền thị vệ đô chỉ huy sứ vậy, nhiều người làm chuyện gì cũng dễ, tương lai vương gia nhìn ta không thuận mắt, muốn giẫm chết ta thì ta cũng có thể gọi bọn họ cản giúp ta, có thế thì ta mới thoát thân mà tìm nàng thưa kiện được."

Hoàng Thái Hậu rốt cuộc cũng không nhịn được mà bật cười khúc khích: "Thị vệ đô chỉ huy sứ thì có gì là khó đâu, ta bảo Vi Ngạn nhường cho ngươi rồi thăng hắn lên làm quan khác là được thôi."

"Đúng vậy." Đỗ Văn Hạo vừa kinh ngạc lại vừa vui mừng, ôm chầm lấy Hoàng Thái Hậu rồi hôn một cái lên mặt bà ta. Hoàng Thái Hậu xấu hổ đến nỗi mặt đỏ tới tận mang tai, oán tránh giãy dụa nói: "Đừng làm vậy, ngoan ngoãn ngồi đó đi."

Đỗ Văn Hạo cười hắc hắc, nói: "Thao Thao! Nàng tốt với ta quá!"

Hoàng Thái Hậu đỏ mặt, nhìn xung quanh theo phản xạ rồi thấp giọng nói: "Ngươi cũng rất tốt với ta mà!"

Đỗ Văn Hạo cười hắc hắc, nói: "Có điều chỉ sợ Vi Ngạn không bằng lòng giao quyền ra thôi. Hiện tại hắn vẫn phải dùng Điện tiền thị vệ để đối kháng với hai vị vương gia, hòng giúp Lục hoàng tử đăng cơ."

Hoàng Thái Hậu gật đầu: "Đúng vậy, chuyện này có chút khó giải quyết đây. Nếu không đợi sau khi chuyện này xong rồi thì hẵng bảo hắn giao Điện tiền ngự lâm quân cho ngươi."

Đỗ Văn Hạo nói: "Thế cũng được, nhưng chỉ sợ hắn lại dẫn Điện tiền thị vệ cùng với hai vị vương gia giết nhau đến lưỡng bại câu thương thôi. Lúc đó lại nhét Điện tiền thị vệ vào tay ta thì cũng có còn nhân mã gì nữa đâu. Làm một tư lệnh không quân thì cũng chẳng có gì thú vị."

Hoàng Thái Hậu trong lòng trầm xuống, đây chính là điều mà bà ta lo lắng nhất, vội vàng nói: "Ngươi không phải là đang nghĩ biện pháp không để cho bọn chúng đánh nhau cơ mà?"

"Thì hiện tại chính là đang làm vậy đây. Thao Thao. Ta đã nói rồi, muốn giải quyết trường nguy cơ này, phải để song phương bọn họ đều giao ra binh quyền, chỉ có như vậy mới có thể giải quyết vấn đề thừa kế hoàng vị trong hòa bình. Tới lúc đó lời mà nàng nói mới thực sự có phân lượng."

"Ngươi nói cũng có đạo lý, vậy nên làm sao đây. Ngươi đưa ra chủ ý đi, ta sẽ nghe theo ngươi hết."

"Được!" Đỗ Văn Hạo nắm tay bà ta, nghiêm mắt nói: "Tình huống trước mặt là như thế này. Ta dùng một chút thủ đoạn, khiến hai vị vương gia tin tưởng rằng ta đang giúp bọn họ đăng cơ. Bọn họ đã rất tín nhiệm ta rồi, cho nên hiện tại chỉ cần khiến Vi Ngạn giao chức Điện tiền thị vệ chỉ huy sứ cho ta là hai vị vương gia cũng sẽ không động đao binh nữa. Sau đó ta sẽ thừa cơ thu hồi bình quyền của hai vị vương gia. Tới lúc đó song phương đều không có binh thì tự nhiên là không đánh nhau được."

Hoàng Thái Hậu vội vàng hỏi: "Ngươi làm thế nào mà thu được binh quyền của hai vị hoàng nhi. Ngàn vạn lần không được làm tổn thương tới chúng đâu đấy."

"Yên tâm." Đỗ Văn Hạo nắm tay bà ta chặt hơn: "Ta sớm đã nói rồi, ta đã làm việc thì nàng yên tâm đi, biện pháp ta đã nghĩ kỹ rồi, thế nào cũng sẽ không làm bị thương tới một sợi lông của hai vị vương gia đâu."

"Ừ, vậy thì tốt rồi, nhưng làm thế nào để khiến Vi Ngạn giao quyền, ngươi có biện pháp không?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Ta đã nghĩ ra một biện pháp rồi, nàng nghe thử xem thế nào nhé."

Hắn ghé vào tai Hoàng Thái Hậu nói một hồi, Hoàng Thái Hậu gật đầu lia lịa nói được.

Hai người lại thương nghị chi tiết cụ thể, sau đó quyết định chiếu theo cách này mà thực thi.

Nửa tiếng sau, thẩm cung của Hoàng Thái Hậu.

Điện tiền thị vệ đô chỉ huy sứ Vi Ngạn giận bốn phó đô chỉ huy sứ tới trước thẩm cung của Hoàng Thái Hậu. Sau khi thông báo thì lập tức được triệu kiến.

Tiến vào trong phòng thì chỉ thấy một tấm vải trắng được phủ xuống, người ngồi trên giường mềm ở phía sau chính là Hoàng Thái Hậu mặc váy đen thắt đai trắng. Vi Ngạn và bốn phó đô chỉ huy sứ ôm quyền cúi người thi lễ: "Mạt tướng tham kiến Hoàng Thái Hậu."

"Ừ, miễn lễ, ban ngồi."

Tiêu công công ở bên cạnh phất tay với mấy cung nữ. Các cung nữ vội vàng mang bốn chiếc ghế đến đặt thành hình chữ nhất, năm người sau khi tạ ơn thì ngồi xuống.

Hoàng Thái Hậu nói: "Mấy ngày nay các ngươi giới bị hoàng cung rất là khổ cực, ai gia sai người nấu canh yến để úy lao mấy vị tướng quân."

Nói xong từ hậu đường có một hàng cung nữ tiến vào, tay cầm bàn nhỏ, bên trên đặt mấy chén canh, khói bốc nghi ngút tới trước mặt năm người bọn họ, sau đó thì quỳ xuống giơ bàn lên quá đỉnh đầu.

Năm người bọn Vi Ngạn vội vàng đứng dậy ôm quyền cảm tạ, cầm chén canh lên uống một ngụm. Bát canh này ngửi thì rất thơm, nhưng khi uống vào trong miệng thì lại hơi đắng.

Vi Ngan hơi nhíu mày rồi đặt lại chén canh vào khay, quay đầu lại nhìn bốn vị phó chỉ huy sứ thì thấy họ đều uống cạn cả một bát canh to. Dẫu sao đây cũng là do Hoàng Thái Hậu ban thưởng, đó là ân đức lớn lao, cho nên làm gì có chuyện do dự không uống. Vi Ngạn muốn ngăn cản nhưng lại không tiện làm mất mặt Hoàng Thái Hậu. Trong một thoáng do dự này, bốn phó thủ đã uống cạn bát canh mất rồi, lại còn lau miệng nữa.

Hoàng Thái Hậu nói: "Vi ái khanh vì sao không uống."

Vi Ngạn ôm quyền, nói: "Đa tạ Hoàng Thái Hậu ân điển, vi thần mấy ngày nay đang phục dụng một loại thuốc, sợ hai thứ xung đột với nhau."

“Đây là nhân tham yến oa thang, không xung đột với thuốc khác đâu, mau uống đi."

Vi Ngạn nhíu mày, nghĩ ngợi một chút rồi bưng bán canh lên dùng tay áo che lại, sau đó thì đổ hết canh vào trong tay áo. Sau đó lau miệng ôm quyền cảm tạ Hoàng Thái Hậu, nói: "Cảnh giới trong cung không thể rời bỏ được, vi thần cáo lui."

"Đợi đã." Hoàng Thái Hậu nói: "Vi ái khanh, ai gia còn có lời muốn hỏi ngươi."

"Vâng."

"Ai gia có ý sắc phong cho Lục hoàng tôn làm đế, ý của ngươi thế nào."

Vi Ngạn vừa kinh ngạc lại vừa vui mừng, nói: "Lời này của Hoàng Thái Hậu rất phải."

"Ai gia chỉ là đang chưng cầu ý kiến của ngươi thôi."

Vi Ngạc ôm quyền nói: "Lục hoàng tử thừa kế hoàng vị là chính thống chi đạo, vi thần vô cùng ủng hộ."

Hoàng Thái Hậu nói: "Nhưng Lục hoàng tôn tuổi còn nhỏ, không thể thân chính được."

"Cái này tất nhiên là nên do Hoàng Thái Hậu người buông rèm thính chính rồi."

Hoàng Thái Hậu dừng lại một chút rồi chậm rãi hỏi: "Ngươi quả thật khuyên gián ai gia thính chính ư?"

"Vâng. Bản chức thề chết phụ tá Hoàng Thái Hậu."

"Vậy lời ai gia nói ngươi có nguyện ý nghe theo không?"

Vi Ngạn không nghĩ ngợi gì mà đáp ngay: "Vi thần nhất định sẽ cẩn tuân ý chỉ của Hoàng Thái Hậu."

"Vậy thì tốt. Ai gia hiện tại muốn ngươi nhường chức Điện tiền thị vê ti đô chỉ huy sứ cho Đỗ Văn Hạo Đỗ ái khanh."

Vừa nghe thấy lời này, Vi Ngạn không nhịn được mà lui hai bước, vô thức đưa tay ra án lên chuôi đao nhưng thấy trống không, lúc này mới nhớ tới khi vào thẩm cung đã lưu lại bội đao ở cửa rồi, vội vàng cúi người nói: "Vi thần... vi thần không biết Hoàng Thái Hậu đây là có ý gì."

"Lời của ai gia ngươi chưa nghe rõ sao? Ta chỉ hỏi ngươi có bằng lòng nhường chức đô chỉ huy sứ cho Đỗ ái khanh không?"

Vi Ngạc quét mắt nhìn xung quanh, không phát hiện ra điều gì dị thường liền vội vàng cúi người nói: "Ý chỉ của Hoàng Thái Hậu vi thần tất nhiên là phải nghe theo. Chỉ là trước mắt hai vị vương gia có lòng dùng võ lực để soán vị, tình hình rất khẩn cấp, e rằng lúc này từ nhiệm thì sẽ bị hai vị vương gia thừa cơ đánh vào. Xin Hoàng Thái Hậu đợi mấy ngày nữa, đến khi Lục hoàng tử đăng cơ, Hoàng Thái Hậu buông rèm thính chính, vi thần lập tức đem chức chỉ huy sứ giao cho Đỗ đại nhân."

Hoàng Thái Hậu lạnh lùng nói: "Nói vậy là ngươi không bằng lòng giao quyền rồi."

Trán Vi Ngạn đã lấm tấm mồ hôi. Hắn cũng là hạng người quyết đoán, lập tức quyết định trước tiên giúp Lục hoàng tử đăng cơ rồi hẵng nói, do đó chỉ có thể kháng mệnh rồi, ôm quyền chắp tay nói: "Lệnh của Hoàng Thái Hậu, vi thần theo lý thì phải cẩn tuân. Chỉ là hiện tại quân tình khẩn cấp, để đảm bảo cho Lục hoàng tử và Hoàng Thái Hậu được an toàn, vi thần không dám từ chức."

Hoàng Thái Hậu nói: "Ngươi có nhiều lý do như vậy, miệng nói cũng rất dễ nghe. Nhưng lại không nghe lời của ai gia."

"Vì thần không dám."

"Ngươi có gì mà không dám. Hừ, vừa rồi nhân tham yến oa thang mà ai gia ban thưởng, bốn vị ái khanh bọn họ đều uống, duy có ngươi chỉ nhấp một ngụm, chỗ còn lại thì đổ hết vào tay áo. Ngươi khinh ai gia mấy ngày này khóc lóc nhiều nên mắt nhìn không rõ rồi phải không."

Vi Ngạc sợ hãi nói: "Vi thần không dán, vi thần quả thực là lo dược liệu xung đột nhau, cho nên mới cô phụ thịnh ý thái hậu. Vi thần đáng tội."

"Vi ái khanh không cần phải sợ hãi, Đỗ ngự y đã về rồi, ngươi có bệnh thì hắn cũng trị được cho ngươi hết. Không cần phải lo lắng tới chuyện dược hiệu xung đột làm gì. Người đâu, mau mang tới một chén nhân tham yến oa thang cho Vi ái khanh."

Hậu đường có cung nữ dạ một tiếng, một lát sau lại có một vị cung nữ hai tay bưng khay tới trước mặt Vi Ngạn, quỳ xuống rồi giơ khay lên quá đỉnh đầu.

Hoàng Thái Hậu nói: "Mau uống đi."

Vi Ngạc chậm rãi đưa tay ra cầm lấy chén canh, ngửi ngửi một chút rồi nhíu mày, sau đó thì từ từ đặt lại vào khay, ôm quyền cúi người nói: "Xin lỗi Hoàng Thái Hậu, vi thần mang trọng nhiệm trên vai, nhất định phải phụ tá Lục hoàng tử đăng cơ, không thể uống canh này được, để tránh thân thể hiện tại không chống đỡ được mà xảy ra vấn đề, để rồi làm hỏng đại sự. Xin Hoàng Thái Hậu tha thứ tội kháng chỉ cho vi thần."

Vừa nói tới đây thì ở dưới khay vô thanh vô thức thò ra một ngón tay đâm vào hai bên thắt lưng của hắn.

Một thân đao mã công phu của Vi Ngạn rất khá, nhưng cận thân đoản đả thì lại là chỗ yếu của hắn. Mà một chỉ này lại có khay che thị tuyến của hắn, hắn vừa ôm quyền thi lễ nên căn bản không ngờ cung nữ này lại đánh lén hắn.

Một chỉ này vô thanh vô tức nhưng lại nhanh như thiểm điện, hắn mang trọng giáp trên người mà một chỉ này lại thi triển ngay cạnh người, từ khe hở của giáp trụ đâm thẳng vào, lập tức toàn thân như bị điện giật, muốn hoàn kích nhưng toàn thân vô lực.

Cung nữ bưng khay đó một chiêu đắc thủ nhưng vẫn không chậm trễ, đứng dậy liên tục tung ra mấy chỉ điểm vào những nơi yếu hại trên người Vi Ngạn. Vi Ngạn mang theo khôi giáp nặng nề ngã xuống đất.

Bốn phó chỉ huy sứ quát lên một tiếng, xông lên trước muốn xuất thủ, nhưng vừa động đậy đã phát hiện chân tay hoàn toàn vô lực, lập tức hai mắt tối sầm, trời đất quay cuồng, sau đó thì cũng ngã xuống đất bất tỉnh nhân sự.

Phía sau rèm của Hoàng Thái Hậu có một người cười hắc hắc, nói: "Xong rồi!"

Người này đương nhiên chính là Đỗ Văn Hạo, còn cung nữ ra tay chế trụ Vi Ngạn tất nhiên chính là nhất thiếp Lâm Thanh Đại của Đỗ Văn Hạo giả trang.

Vốn là nửa tiếng trước Đỗ Văn Hạo về Ngũ Vị đường gọi Lâm Thanh Đại mang theo ma túy quay lại hoàng cung.

Hoàng Thái Hậu hạ chỉ gọi Vi Ngạn và bốn phó chỉ huy sứ tới, trong nhân tham yến oa thang hạ ma túy dược vật ngã bốn phó đô chỉ huy sứ. Vi Ngạn cho dù đã phát hiện thang dược có gì đó không ổn, nhưng vẫn bị Lâm Thanh Đại giả trang làm cung nữ một chiêu chế trụ.

Vi Ngạn nằm trên mặt đất vốn không hiểu xảy ra chuyện gì, nhưng thấy Đỗ Văn Hạo thì đột nhiên hiểu ra. Hắn toàn thân không động đậy được nhưng miệng thì vẫn nói được, thế là bèn rít lên: "Hoàng Thái Hậu không thể trao hoàng vị cho hai vị vương gia được, đế hoàng chính thống quyết không thể lạc ra ngoài."

Đỗ Văn Hạo nói: "Vi đại nhân đừng nóng vội. Hoàng Thái Hậu không hề nói là chỉ định hoàng vị cho hai vị vương gia kế thừa, hoặc có thể nói là, Hoàng Thái Hậu vẫn chưa quyết định hoàng vị sẽ do ai quyết định. Có điều có một điểm ngài phải hiểu rõ, hoàng vị rốt cuộc là giao cho ai thì dưới trời đất này chỉ có Hoàng Thái Hậu có thể quyết định. Ngài nắm binh quyền, muốn dùng vũ lực để bảo hộ Lục hoàng tử đăng cơ, mà hai vị vương gia thì cũng muốn dùng vũ lực đoạt quyền. Một khi đánh nhau rồi thì không ai có kết cục tốt cả. Đây là chuyện mà Hoàng Thái Hậu quyết không cho phép xuất hiện. Cho nên mới bất đắc dĩ phải sử dụng hạ sách này để thu binh quyền của ngài, tạm thời do bản quan đảm nhiệm. Hi vọng ngài có thể lý giải."

Vi Ngạn nói: "Đỗ đại nhân, ngài đoạt quân quyền của ta nhưng lại không đoạt quân quyền của hai vị vương gia thì chẳng khác nào là hai tay bưng hoàng vị lên cho hai người bọn họ."

"Cái này đại nhân không cần phải lo lắng, sơn nhân ắt có diệu kế. Đắc tội rồi." Nói xong liền cởi khôi giáp của Vi Ngạn, rút binh phù lĩnh binh và ấn chương từ trong ngực hắn ra. Dưới sự giúp đỡ của Lâm Thanh Đại và các vị cung nữ mặc giáp trụ vào. Vi Ngạn to cao hơn Đỗ Văn Hạo, bộ giáp trụ này Đỗ Văn Hạo mặc vào tuy hơn rộng nhưng vẫn tính là uy vũ.

Tiêu công công chỉ uy cung nữ tháo bộ giáp của người gầy nhỏ nhất giúp Lâm Thanh Đại mặc lên, nàng ta lập tức biến thành một võ tướng hiên ngang.

Sau khi thấy hai người đã mặc chỉnh tề, Hoàng Thái Hậu liền nói với Vi Ngạc đang nằm trên mặt đất: "Vi ái khanh, ai gia muốn tạm thời nhốt năm người các ngươi lại. Ai gia đã hạ chỉ điều nhiệm ngươi làm binh bộ viên ngoại lang. Đợi sau khi chuyện này được giải quyết triệt để sẽ phóng thích ngươi."

Tiêu công công phất tay một cái, mấy thái giám của đả thủ đội Hoàng cung cầm xích sắt tới, nói một tiếng xin lỗi rồi dùng xích sắt trói bọn Vi Ngạn lại, khênh lên giường mềm rồi đẩy đi.

Sau khi Đỗ Văn Hạo mặc giáp trụ xong thì thi lễ nói: "Thái Hậu, mạt tướng mặc quân trang thế nào?"

Hoàng Thái Hậu mỉm cười nói: "Cũng được nhưng hơn rộng một chút. Đợi ngày khác ai gia sẽ cấp cho ngươi một bộ mới vừa vặn hơn."

"Tạ ơn Hoàng Thái Hậu!"

Đúng vào lúc này, từ bên ngoài có hai thái giam chạy vào bẩm báo: "Bẩm Hoàng Thái Hậu, chư tướng giáo quân của Điện tiền thị vệ đã truyền tới, đang đợi trong đại viện tử ở bên ngoài."

Hoàng Thái Hậu gật đầu với Tiêu công công.

Tiêu công công vội vàng bước vào trong. Một lúc sau cầm ý chỉ kim quyển sớm đã viết xong ra. Dẫn Đả thủ đội cùng Đỗ Văn Hạo, Lâm Thanh Đại ra khỏi thẩm cung của Hoàng Thái Hậu. Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại phân biệt treo đao kiếm mà bọn Vi Ngạn để lại ở bên ngoài lên hông.

Binh sĩ dẫn ngựa thấy người đi ra không phải là năm vị đại nhân ban đầu mà biến thành hại vị võ tướng lạ hoắc, ngoài ra còn có một đám thái giám đi theo. Hắn nhận ra một vị trong đó chính là đại hồng nhân Tiêu công công ở bên cạnh Hoàng Thái Hậu đang ôm kim quyển thánh chỉ ở trong lòng thì biết tình huống có biến, không dám hỏi loạn một tiếng nào, chỉ ngoan ngoãn đỡ Đỗ Văn Hạo, Tiêu công và Lâm Thanh Đại lên ngự. Sau đó dẫn ngựa ra khỏi cửa thùy hoa của thẩm cung, tới đại viện tử ở cửa tiền điện.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 386 : Một người quật ngã mấy chục người (1+2).

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Trong đại viện tử đông nghìn nghịt, có mấy chục người đang đứng, đó là Tứ nghi châu mô hầu, đô ngu hầu, chỉ huy sứ các doanh, phó chỉ huy sứ của điện tiền thị vệ ti.

Mà hơn chục tùy thân thị vệ bọn Lý Phổ mà Đỗ Văn Hạo lần này về nhà dẫn tới cũng đợi ở đó.

Tiêu công công ưỡn bụng, hắng giọng nói to: "Đỗ Văn Hạo, Lý Phổ quỳ xuống nghe ý chỉ của Hoàng Thái Hậu!"

Đỗ Văn Hạo và Lý Phổ hai người vén áo bào quỳ xuống.

Tiêu công công ngâm nga: "Ý chỉ của Hoàng Thái Hậu chiếu viết: Điều nhiệm Điện tiền thị vê ti đô chỉ uy sứ Vi Ngạn làm binh bộ viên ngoại lang, bốn vị phó đô chỉ huy sứ bổ nhiệm sau. Chức Điện tiền thị vệ ti đô chỉ huy sứ do đề hình quan Đỗ Văn Hạo đảm nhiệm, phó đô chỉ huy sứ do Lý Phổ đảm nhiệm. Khâm thử!"

Đỗ Văn Hạo và Lý Phổ hai người vội vàng khấu đầu tạ ơn.

Chúng tướng có mặt không khỏi thấp giọng nghị luận mấy câu, nhưng rất nhanh liền yên tĩnh trở lại.

Tướng lĩnh Tống triều xưa nay vốn thường thay đổi như đèn kéo quân, mục đích chính là để tướng không biết binh, binh không biết tướng. Cho nên thay đổi chủ soái đối với những giáo úy này mà nói chính là chuyện quá bình thường. Huống chi hiện tại là lúc hoàng vị giao thế, đối với những tướng quan này mà nói, cái mà bọn họ hi vọng nhất chính là có thể yên bình quá độ. Không hi vọng mình trở thành con cờ trong công cuộc tranh đoạt hoàng quyền. Dẫu sao thì ai làm hoàng đế đối với họ mà nói cũng không có khác biệt quá lớn.

Chúng tướng đều nhìn Đỗ Văn Hạo, những người này gần như là đều nhận ra Đỗ Văn Hạo. Hắn thân là ngự y của Hoàng Thượng, thường ra vào hoàng cung, những người này đều là thị vệ trong cung, tức nhiên là nhận ra. Cũng từng nghe nói tới chiến lệ hắn suất lĩnh năm ngàn cấm quân, lấy ít thắng nhiều tiêu diệt hai vạn phiên quân, đối với hắn cũng tràn ngập sùng kính, cho nên đều ưỡng ngực đợi hắn lên tiếng.

Phản ứng của các tướng quân đều nằm trong dự liệu của Đỗ Văn Hạo, hắn lại một lần nữa nhảy lên ngựa, cao giọng nói: "Các vị huynh đệ! Ý chỉ của Hoàng Thái Hậu mọi người đều nghe rõ rồi phải không? Vi Ngạn đại nhân đã được điều nhiệm sang binh bộ, Điện tiền thị vệ do bản quan đảm nhiệm thay. Từ rày về sau điện tiền thị vệ trên dưới phải nghe lệnh của bản quan, ai kháng chỉ không tuân, giờ xin đứng ra khỏi hàng đi!"

Chúng tướng ở dưới đài đều lặng ngắt như tờ.

Vi Ngạn vốn là Điện tiền đô chỉ huy sứ, đó là quan lớn hàng nhị phẩm, nhưng lại bị giáng xuống làm binh bộ viên ngoại lang hàng lục phẩm. Còn bốn phó chức thậm chí ngay cả quan chức cũng không được bổ nhiệm, còn có ai ngu tới mức không biết đây là ý gì? Cho nên không có ai dám thốt một tiếng nào.

Đỗ Văn Hạo đợi một lát, thấy không có ai bước ra khỏi hàng mới tiếp tục nói: "Chư vị huynh đệ, Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu trước sau băng hà, chưa từng lưu lại di chiếu chỉ định người kế thừa hoàng vị. Hiện tại có một số lời đồn, nói Lục hoàng thượng và hai vị vương gia đang tranh đoạt hoàng vị. Bản quan muốn nói với mọi người một câu, đó chính là hoàng vị thừa kế như thế nào, chỉ có thể do Hoàng Thái Hậu tự mình chỉ định, bất kỳ ai có ý đồ sử dụng thủ đoạn phi pháp để giành lấy hoàng vị, đều là tử địch của Đại Tống ta! Chúng ta thân là điện tiền thị vệ, bảo hộ sự an toàn của Hoàng Thái Hậu và chư vị hoàng tử, tần phi và công chúa là sứ mệnh thần thánh của chúng ta. Chúng ta chỉ cần thực hiện tốt chức trách này là được rồi. Cái khác chúng ta không cần phải để ý đến. Tuyệt đối cấm chỉ bất kỳ ai dùng bất kỳ cớ nào để nhúng tay vào chuyện kế thừa hoàng vị. Mọi người nghe rõ chưa?"

Tất cả tướng giáo đều đồng thanh đáp ứng.

Đỗ Văn Hạo lại lạnh lùng quát: "Các ngươi là điện tiền thị vệ, chưc trách của các ngươi là bảo hộ tốt người mà các ngươi được phân công bảo hộ, chỉ có ở dưới tình huống người mà các ngươi bảo hộ bị người ngoài xâm phạm thì mới có thể sử dụng vũ lực để ngăn cản, chuyện khác không cần phải để ý. Bản quan tuyên bố, tất cả những quyết định của Vi Ngạn đều được bỏ hết, không chấp hành nữa. Hiện tại ta ra lệnh cho các ngươi mỗi người suất lĩnh thuộc hạ của mình, quay về cương vị mà trước đây mỗi người được phân công phụ trách. Không có mệnh lệnh trực tiếp của bản quan, bất kỳ ai cũng không được rời bỏ cương vị. Ngươi trái lệnh - chém. Nghe rõ rồi chứ?"

Chúng tướng lần này hồi đáp còn vang rền hơn.

Trước đây, Vi Ngạn muốn điện tiền thị vệ chuẩn bị phản kích hành động dùng võ lực đoạt quyền của hai vị vương gia, điều chỉnh an bài lại tất cả công tác của điện tiền thị vệ, mà lần này Đỗ Văn Hạo lại bảo bọn họ toàn bộ quay về cương vị trước kia, chẳng khác nào là thủ tiêu toàn bộ bố trí chiến đấu của Vi Ngạn.

Đỗ Văn Hạo lại nói: "Lý Phổ nghe lệnh."

Lý Phổ vội vàng bước lên cúi người thi lễ: "Có mạt tướng."

"Bản quân lệnh cho ngươi đốc tra tướng sĩ các doanh về cương vị của mình, dùng nửa tiếng làm thời hạn, ai quá thời gian mà chưa tới thì dùng quân pháp xử phạt!"

"Tuân lệnh!"

Đỗ Văn Hạo lập tức thay đổi điện tiền thị vệ tứ trực đô ngu hầu, toàn bộ thay bằng bốn thiếp thân hộ vệ trung thành năm đó theo mình chinh chiến và một mực theo mình cho tới giờ.

Trong lúc Đỗ Văn Hạo điều chỉnh nhân sự tầng cao nhất của điện tiền thị về thì Tiêu công công quay về phục mệnh với Hoàng Thái Hậu. Sau đó lại cầm một kim sắc ý chỉ quyển trục, dẫn một đội ban chỉ hộ huyện đội đi ra. Bên này Đỗ Văn Hạo đã an bài thỏa đáng, Tiêu công công cùng Đỗ Văn Hạo, Lâm Thanh Đại ra khỏi hoàng thành, đi tới phủ Ung vương.

Ngoài phủ Ung vương giới bị sâm nghiêm, biết Tiêu công công tới truyền chỉ, vội vàng vào thông báo. Rất nhanh, Ung vương, Tào vương cùng với Thái Xác, Hình Thứ, Thái kinh đều bước ra nghênh đón.

Ung vương thấy Đỗ Văn Hạo mặc quân phục của Điện tiền thị vệ đô chỉ huy sứ, lập tức vừa kinh ngạc lại vừa vui mừng, bước lên nắm vay Đỗ Văn Hạo không ngừng lắc, ha ha cười lớn nói: "Hảo huynh đệ, ngươi thực sự làm được rồi ư?"

"Vâng! Hoàng Thái Hậu đã ban ý chỉ ủy nhiệm ngu đệ làm Điện tiền thị vệ đô chỉ huy sứ, vừa rồi Tiêu công công đã ban chỉ."

Tiêu công công mỉm cười nói: "Ý chỉ của là để Đỗ Văn Hạo Đỗ tướng quân thay Vi Ngạn làm Điện tiền thị vệ đô chỉ huy sứ."

"Được! Tốt quá! Huynh đệ, vậy Vi Ngạn thì sao?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Vi Ngạn đã được điều nhiệm làm binh bộ viên ngoại lang."

Ung vương ngây người rồi lập tức ngẩng mặt lên trời cười lớn: "Ha ha ha, ngươi khá lắm! Tốt! Rất tốt! Ha ha ha."

Đỗ Văn Hạo lại nói: "Tất cả điện tiền thị vệ trong hoàng cung đều đã trở về vị trí ban dầu, không có ngu đệ trực tiếp ra lệnh, không cho phép bất kỳ ai được rời bỏ cương vị. Vương gia có thể yên tâm rồi."

Tin tức này càng khiến Ung vương vui mừng bất ngờ, nắm lấy vai Đỗ Văn Hạo rồi vừa lắc vừa vỗ, luôn miệng khen Đỗ Văn Hạo là hảo huynh đệ, làm việc rất giỏi.

Tiêu công công nói: "Hai vị vương gia, chúng ta tới là để truyền thánh chỉ của Hoàng Thái Hậu, xin bày hương án để tiếp chỉ."

Ung vương vội vàng nghênh đón Tiêu công công và Đỗ Văn Hạo vào trong phủ để, bày hương án ở chính đường rồi quỳ xuống tiếp chỉ.

Tiêu công công gân cổ cò lên nói: "Ý chỉ của Hoàng Thái Hậu chiếu viết: Truyền Ung vương Triệu Nhan, Tào vương Triệu Mạch lập tức vào cung thương nghị chuyện kế thừa hoàng vị. Khâm thử!"

Ung vương và Tào vương hai người kinh hỉ đan xen, xem ra thuốc lú của Đỗ Văn Hạo quả thật khiến cho Hoàng Thái Hậu quay cuồng rồi, vội vàng khấu đầu tạ ơn rồi nhận lấy ý chỉ.

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Không biết chỗ dê mà ngu đệ phái người đưa đến đã tới chưa?"

"Tới rồi, đã đưa tới các điểm rồi, đang giết mổ để nướng. Đợi bản vương từ trong cung trở về, sẽ dẫn hiền đệ tới các điểm tuần tra, để các huynh đệ kính ngươi mấy chén!"

Đỗ Văn Hạo vội vàng cúi người tỏ ý cảm tạ.

Tào vương cười ha ha, nói: "Hoàng huynh, nếu lần này đi, mẫu hậu quả thực xác định để huynh kế vị, vậy chúng ta chẳng phải là sẽ tiện thể chúc mừng luôn sao?"

Hình Thứ ở bên cạnh cũng cười ha ha bợ đít: "Đúng vậy, đại sự như thế này, nên cuồng hoang sướng ẩm mới đúng."

Ung vương mắt thấy chướng ngại lớn nhất là Vi Ngạn đã bị cách chức, điện tiền thị vệ đã rơi vào trong tay "người của mình" là Đỗ Văn Hạo, mà Đỗ Văn Hạo lúc này lại ở trong phủ của mình, chỉ cần lưu hắn ở lại đây là không sợ hắn giở trò quỷ gì nữa. Cho nên trong lòng vững tin, vui đến nỗi quên hết tất cả, cười lớn nói: "Đúng đúng! Nói rất đúng! Bày yến tiệc! Bày đại yến tiếc để chiêu đãi Đỗ hiền đệ thay cho bản vương. Gọi mã quân, bộ quân đô chỉ huy sứ Mã Toàn Dũng và Thạch Nguyên tới, còn có tất cả phó đô chỉ huy sứ, đô ngu hầu, chỉ huy sứ của các doanh cùng nhau tới phủ bản vương uống rượu ăn mừng. Những người khác thì ở nguyên tại chỗ đợi lệnh. Bản vương quay về cũng sẽ khen thưởng thật tốt huynh đệ ở các doanh! Ha ha ha!"

Tể tướng Thái Xác cảm thấy hiện tại đang là lúc quốc tang, linh cữu của Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu vẫn để trên linh đường. Lúc này mà bày yến tiệc uống rượu ca hát thì e rằng không hay. Nhưng mắt thấy Ung vương hưng phấn như vậy, một khi tối nay xác định do hắn kế vị thì hắn chính là Hoàng Thượng. Hắn có thể quyết định lo việc tang ma như thế nào, cho nên cũng không nên làm hắn mất vui vào lúc này.

Ung vương sau khi an bài thỏa đáng liền dẫn Tào vương chia nhau ngồi kiệu theo Tiêu công công vào cung.

Tiến vào trong cung, trên tường thành của Hoàng cung quả nhiên không thấy điện tiền ti tướng sĩ kéo cung đặt tên như lúc trước nữa. Các nơi của Hoàng cung đều là đại nội thị vệ canh gác giống như bình thường. Phảng phất như nơi đây căn bản là chưa từng xảy ra chuyện gì.

Hai vị vương gia rất là cao hứng, một đường tới thẳng thẩm cung của Hoàng Thái Hậu. Tiến vào cung, chỉ thấy Hoàng Thái Hậu ngồi trên giường mềm, đang ưu thương nhìn bọn họ.

Hai người vui sướng cúi người thi lễ, Ung vương nói: "Mẫu hậu đêm khuya gọi hài nhi tới, không biết có gì phân phó?"

Hoàng Thái Hậu nói: "Mẫu hậu nhớ các con, gọi các con tới nói chuyện với mẫu hậu. Ngồi đi."

Hai người nghe vậy, lập tức có chút há hốc miệng, cái này hoàn toàn không giống như trong dự liệu của bọn họ. Ung vương vẫn chưa nản lòng, lại hỏi một câu: "Mẫu hậu tìm bọn còn tới không biết có phải là để thương nghị chuyện kế thừa hoàng vị không?"

Hoàng Thái Hậu lắc đầu nói: "Chuyện này ngày mai mẫu hậu sẽ triệu tập các lão thần trong triều cùng thương nghị, cuối cùng sẽ xác định người thừa kế."

Ung vương các ngây ngốc: "Mẫu hậu chẳng lẽ không cảm thấy nên chỉ định hoàng vị cho hài nhi kế thừa ư? Hài nhi so với Lục hoàng tử thì mạnh hơn cả trăm lầm!"

Hoàng Thái Hậu cười khổ: "Hài tử, kế thừa hoàng vị không phải nói ai có bản lĩnh sẽ là do người đó làm hoàng đế được, thế há chẳng phải là làm loạn quy củ sao!"

Ung vương triệt để nản lòng, phất tay áo, nói: "Mẫu hậu, hài nhi còn có chuyện gấp, cáo từ!" Nói xong liền quay người đi, Tào vương cũng vội vàng chắp tay cáo từ, chạy ra theo. Hoàng Thái Hậu không lên tiếng ngăn cản.

Hai người vừa ra tới cửa thì ngoài cửa lớn có mấy chục đại nội thị vệ lướt ra, ôm quyền nói: "Hai vị vương gia xin dừng bước!"

Ung vương đại nộ: "Làm cái gì vậy hả? Các ngươi dám vô lễ với bản vương ư?"

"Xin lỗi, đây là ý chỉ của Hoàng Thái Hậu, hai vị vương gia không thể rời khỏi thẩm cung!"

Ung vương quay phắt người lại, nhìn về phía Hoàng Thái Hậu đang nằm trên giường mềm, nói: "Mẫu hậu muốn giam lỏng hài nhi ư?"

Hoàng Thái Hậu chậm rãi đứng dậy, trong mắt tràn ngập bi thương: "Nhan nhi, Mạch nhi, mẫu hậu không thể trơ mắt nhìn các con vì tranh đoạt hoàng vị với Lục hoàng tôn mà dùng vũ khí nói chuyện với nhau được. Cho nên, trước khi xác định người thừa kế hoàng vị, các con không thể rời khỏi thẩm cung của mẫu hậu. Cái này cũng là muốn tốt cho các con thôi!" Nói xong, Hoàng Thái Hậu phất tay áo, quay người đi vào hậu điện.

Ung vương đuổi heo mấy bước thì mấy đại nội thị vệ ở hai bên đại điện ùa ra, ôm quyền cúi người, cản đường hắn.

Ung vương trong lòng lạnh toát, hắn biết mình đã trúng kế rồi, đã rơi vào tròng của tên tiểu ngự y Đỗ Văn Hạo.

Lúc này, Đỗ Văn Hạo đang ăn uống rất cao hứng ở bên trong phủ Ung vương.

And chiếu theo sự phân phó của hai vị vương gia, tửu yến rất nhanh được bày ra. Mã quân đô chỉ huy sứ Mã Toàn Dũng và bộ quân đô chỉ huy sứ Thạch Nguyên, dẫn phó đô chỉ huy sứ, đô ngu hậu, chỉ huy sứ các doanh hối hả chạy đến. Trong đại sảnh bày mấy bàn, đám người Thái Xác cũng ẩm tửu cùng.

Mã quân thi vệ ti và bộ quân thị vệ ti của Tống triều vốn đều thuộc điện tiền thị vệ ti, là cơ cấu thiết lập dưới điện tiền thị vệ ti, tại điện tiền ti bố trí quân sự trưởng quan đô điểm kiểm tối cao . Về sau vì phân tán binh quyền, triệt tiêu đô điểm kiểm và phó chức, chia nó ra làm ba, phân biệt do đô chỉ huy sứ của riêng phần mình trực tiếp phụ trách với hoàng thượng. Nhưng do nguyên nhân trên thể lệ, đô chỉ huy sứ của điện tiền thị vệ là quan nhị phẩm, ngay cả phó đô chỉ huy sứ cũng là quan tứ phẩm. Mà đô chỉ huy sứ của mã quân và bộ quân là Mã Toàn Dũng và Thạch Nguyên lại chỉ là quan ngũ phẩm, về cấp bậc thì còn kém xa Đỗ Văn Hạo. Lại biết Đỗ Văn Hạo hiện tại là đại hồng nhân của Ung vương gia, cho nên càng ra sức nịnh bợ Đỗ Văn Hạo.

Thái Xác là hữu tể tướng, chính nhất phẩm, trừ vương gia ra thì lão là to nhất. Có điều, lão biết vương gia hiện tại muốn lôi kéo Đỗ Văn Hạo, cho nên cũng đành hạ mình kính rượu Đỗ Văn Hạo.

Có người muốn kính rượu Lâm Thanh Đại, nhưng Đỗ Văn Hạo nói hắn phải chiếu cố mình, không cho phép hắn uống rượu, rượu kính hắn cứ để mình uống. Lâm Thanh Đại không uống một giọt rượu nào, còn Đỗ Văn Hạo thì uống cạn lia lịa. Mà người kính rượu hắn thì phải tự mình uống trước, Đỗ Văn Hạo tự mình châm tửu, ai dám không uống.

Nháy mắt một tiếng đồng hồ đã qua đi, đã là nửa đêm canh ba, hai vị vương gia vẫn chưa trở về. Lúc này, đai đa số quân quan bọn Mã Toàn Dũng và Thạch Nguyên đều đã uống say, nằm bò lên bàn mà ngáy o o, còn có nửa lớn nằm vật trên đất.

Các phó tòng muốn tới đỡ đều bị Đỗ Văn Hạo đuổi ra. Nói rằng bọn họ tỉnh rượu thì còn phải uống tiếp, mấy văn quan bọn Thái Xác tửu lượng không ra làm sao, sớm đã uống say đến bất tỉnh nhân sự.

Đỗ Văn Hạo cũng uống đến to cả đầu, nhưng vẫn một tay cầm chén một tay cầm bình rượu đi khắp nơi mời rượu.

Uống tới cuối cùng, không ngờ tìm không thấy một người nào có thể uống được nữa. Bởi vì người đang đứng chỉ còn lại có Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại, các phó tòng hầu hạ ở xa xa đều nhìn mà tặc lưỡi không thôi.

Lúc này, bên ngoài có một đội người tiến vào, dẫn đầu chính là Tiêu công công, dẫn đại nội thị vệ đội tới tuyên chỉ, thấy tình cảnh ở đây đều thập phần kinh ngạc.

Đỗ Văn Hạo lắc lử bình rượu trong tay, cười hắc hắc nói: "Bình rượu hai lớp này quả thật là thần kỳ, cho bọn họ uống rượu thuốc còn lão nhân gia ta uống rượu ngon. Một người quật ngã mấy chục người. ha ha, lão nhân gia ta tửu lượng quá khủng bố. Ha ha ha!"

Thì ra, Đỗ Văn Hạo lần này mang bình rượu đặc chế tới, là từ chỗ Hoàng Thái Hậu mà có. Loại bình rượu này bên trong chia làm hai tầng, chỗ tay cầm có một lỗ nhỏ, ấn vào lỗ thì thứ chảy ra là rượu ở lớp trong, mà thả lỗ nhỏ ra thì thứ chảy ra là rượu ở lớp ngoài. Hắn cho vào rượu ở lớp trong ma túy dược. Khi kính rượu, hắn để lấy cớ là rượu trong chén đối phương không đầy nên rót thêm một tí. Các tướng quan này uống rượu có ma túy, tất nhiên là ngủ rất nhanh.

Đỗ Văn Hạo cần bình rượu ngẩng mặt lên trời cười lớn: "Được rồi, xem ra ở đây không cần tuyên chỉ đâu, đợi bọn họ tỉnh lại ở trong lao rồi hẵng tuyên đi."

Tiêu công công gật đầu, phất tay một cái, những thị vệ đại nội đó tiến lên trước, dùng xích sắt trói toàn bộ tướng giao đang say xỉn lại. Các phó tòng ở phía sau sợ hãi muốn chạy trốn thì phát hiện cửa lớn ở thông đạo các nơi trong đại sảnh toàn bộ đã bị thị vệ đại nội khống chế rồi, căn bản là không ra được, toàn bộ bị đuổi vào trong một đại sảnh rồi giam lại.

Lúc này, bên ngoài có mấy chiếc xe lớn đi tới, các thị vệ tống toàn bộ các quan quân say xỉn lên xa rồi nhốt lại, ngoại trừ hai người Mã Toàn Dũng và Thạch Nguyên. Ba văn quan Thái Xác, Thái Kinh và Hình Thứ thì được khiêng vào trong phòng đặt lên giường, ba người bọ họ đều ngáy vo vo.

Đỗ Văn Hạo bước ra bên ngoài, gọi binh sĩ canh gác lại, lè nhè bảo bọn họ rằng Vương gia có lệnh, bảo bọn họ lập tức thông tri cho đô tri, phó đô tri và bộ quân đô đầu, phó đô đầu của toàn thành mã quân, bộ quân, ngay cả cấp quân quan cũng đều gọi tới uống rượu.

Vừa rồi lúc Tiêu công công bọn họ vào vương phủ, còn khênh kiệu lớn của Ung vương và Tào vương về, những binh sĩ canh gác vừa rồi thấy thái giảm truyền chỉ và đại kiệu của vương gia tiến vào, còn cho rằng vương gia đã về, khẳng định thừa kế hoàng vị đã được xác định, đều hối hả chạy đi thông tri các nơi.

Lúc này, tướng sĩ mã quân và bộ quân cảnh giới ở các nơi trong thành cũng đang uống rượu ăn thịt, vô cùng cao hứng.

Rất nhanh, các quân quan hạ cấp của mã quân và bộ quân toàn thành đều tề tụ đông đủ, trong đai viện thiên tỉnh của Ung vương phủ đông nghịt người, ai ai cũng cao hứng mở to mắt xếp thành hàng đứng đợi.

Đột nhiên, trên nóc nhà quanh thiên thỉnh đều xuất hiện vô số cung nỗ thủ, kéo cung đáp tiễn nhắm vào bọn họ. Bên dưới cũng xuất hiện vô số trường mâu đao phủ thủ, đao thương sáng loáng. Các quan quân sợ hãi, không biết xảy ra chuyện gì. Bọn họ trước khi vào vương phủ, đao kiếm đều để lại bên ngoài. Lúc này tay trống trơn, nào còn dám loạn động.

Cửa lớn của đại điện mở toang, Tiêu công công tay cầm thánh chỉ từ bên trong bước ra, còn có cả Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại toàn thân khôi giáp. Lập tức, từng đội thị vệ đại nội áp tải mã quân đô chỉ huy sứ Mã Toàn Dũng và bộ quân đô chỉ huy sứ Thạch Nguyên lảo đảo bước ra, bắt quỳ ở trên bậc.

Tiêu công công ưỡn bụng lướt nhìn các tướng quan đứng bên dưới, gân cổ cò lên nói: "Điện tiền thị vệ đô chỉ huy sứ Đỗ Văn Hạo tiếp chỉ!"

Đỗ Văn Hạo mặc khải giáp nặng nề bước tới dưới đài, vén áo quỳ xuống.

Tiêu công công ngâm nga: "Ý chỉ của Hoàng Thái Hậu chiếu viết: Mã quân đô chỉ huy sứ Mã Toàn Dũng và bộ quân đô chỉ huy Thạc Nguyên tự ý điều động quân đội, mưu đồ bất chính, lập tức chém đầu thị chúng. Hai chức thị vệ mã quân ti đô chỉ huy sứ và thị vệ bộ quân ti đô chỉ huy sứ do điện tiền thị vệ đô chỉ huy sứ Đỗ Văn Hạo kiêm nhiệm. Khâm thử!"

Đỗ Văn Hạo sau khi tạ ơn liền đứng dậy tiếp chỉ, đứng sang bên cạnh.

Mã Toàn Dũng và Thạch Nguyên đã được dùng nước lạnh hắt tỉnh, lúc này đầu óc vẫn quay cuồng không biết chuyện gì xảy ra, song nội dung thánh chỉ thì chúng vẫn nghe rõ. Nghe xong liền giật nảy mình, luôn miệng kêu oan uổng. Mã Toàn Dung hớt hải kêu lên: "Tha mạng, đây đều là ý của Ung vương, lệnh cho bọn ta suất quân chuẩn bị công đả hoàng cung, muốn dùng vũ lực đoạt lấy hoàng vị. Đây đều là ý của ông ta."

"Câm miệng." Tiêu công công nghiêm giọng nói: "Chết tới nơi rồi còn dám vu hãm hai vị vương gia! Người đầu! Hành hình!"

Thị vệ ở bên cạnh bước tới, tháo đầu khôi của hai người ra, lôi cổ ra để cố định. Từ trong đại điện có hai vị đao phủ mặt che vải đen bước ra, một tay xách quỷ đầu đao, một tay bưng bát rượu trắng, uống liền mấy ngụm rồi phun lên thân đao, giơ lên không trung vạch một vòng tròn, sau đó thì thì chém vào cổ hai người.

Hai người quỳ dưới đất vẫn lớn tiếng kêu oan, nói là chủ ý của vương gia, quỷ đầu đao chém tới, giọng nói đột nhiên ngưng bặt, đầu người lăn xuống dưới bậc, máu phun ra ngoài mấy bước, trên người tướng quan đứng ở phía trước đều nhiễm máu. Thị vệ đứng ở hai bên đem ném thi thể không đầu về phía trước, hai cỗ thi thể rầm rầm ngã xuống bậc.

Thấy cảnh này, hơn trăm tướng quân có mặt đều rùng mình sợ hãi, ai ai cũng co đầu rụt cổ không dám lên tiếng.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 387: Hạn Lâu Gặp Mưa Lành (1+2).

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Đỗ Văn Hạo tay cầm thánh chỉ cao giọng nói: "Chư vị huynh đệ, hai tên Mã Toàn Dũng, Thạch Nguyên không có hổ phù điều binh của xu mật viện, tự ý điều động quân đội, mưu đồ bất chính, đã phải đền tội. Những phó đô chỉ huy sứ, đô ngu hậu, chỉ huy sứ các doanh còn lại có tham dự đã bị nhốt vào ngục, đợi xử lý sau. Hoàng Thái Hậu ra ý chỉ, để bản quan kiêm nhiệm mã quân và bộ quân đô chỉ huy sứ, ai kháng chỉ không tuân thì mời đứng ra khỏi hàng!"

Trong sân tất nhiên là không có ai dám đứng ra. Những hạ cấp quân quan này có ai mà nguyện ý vì loại chuyện này mà kháng lệnh chứ? Trong lòng bọn họ đều hiểu rất rõ, Mã Toàn Dũng và Thạch Nguyên hai người chỉ chẳng qua là phải chịu tội thay cho hai vị vương gia có ý đồ tranh đoạt hoàng vị mà thôi. Đó khẳng định là muốn tìm hai con dê chịu tội thay, giết một dọa trăm. Đối với những quân quan hạ cấp như bọn họ, chỉ cần thật thà ngoan ngoãn nghe lệnh thì còn có thể tiếp tục được làm quân, cái đầu trên cổ cũng được nằm ổn định.

Đỗ Văn Hạo nói: "Vậy thì tốt rồi, tướng quân của mã quân và bộ quân cứ xếp hàng theo đội của mình!"

Những tướng quan này đều đã được huấn luyện, rất nhanh liền xếp xong tung đội.

Đỗ Văn Hạo lấy ra một danh sách, cao giọng đọc: "Tiếp đây bản quan sẽ bổ nhiệm danh sách phó đô chỉ huy sứ, đô ngu hậu tân nhiệm của mã quân và bộ quân cùng với chỉ huy sứ tân nhiệm của các doanh. Từ Tam ở đâu?"

Đội hộ vệ ở bên cạnh hắn có một người bước ra khỏi hàng, chính là hộ vệ theo Đỗ Văn Hạo chinh chiến với đại quân Thổ Phồn, về sau một mực theo hắn tuần y. Từ Tam quỳ một gối xuống ôm quyền lĩnh mệnh.

"Bản quan bổ nhiệm ngươi làm mã quân phó đô chỉ huy sứ!"

"Mạt tướng lĩnh mệnh, tạ đại nhân!"

Từ Tam sau khi cảm ơn thì đứng sang một bên.

"Vương Đỉnh Lực đâu?"

"Lại có một thiếp thân thị vệ của Đỗ Văn Hạo bước ra, quỳ một gối xuống ôm quyền thi lễ: "Có mạt tướng!"

"Bản quân bổ nhiệm người làm bộ quân phó đô chỉ huy sứ!"

"Mạt tướng lĩnh mệnh! Tạ ơn đại nhân!"

Tiếp theo, trong danh sách mà Đỗ Văn Hạo tuyên bố, trong phó đô chỉ huy sứ và bộ phận đô ngu hầu của mã quân và bộ quân do hắn chọn ra mấy chục người, đều là những hộ vệ theo hắn tuần y đảm nhiệm. Những nhân tuyển khác cũng đều là tương quân trong năm ngàn cấm quân năm xưa hắn suất lĩnh tây chinh đã cùng hắn kề vai sát cánh.

Những người này có cảm tình rất sâu với Đỗ Văn Hạo, không ngờ Đỗ Văn Hạo sau khi quay về, chuyện đầu tiên chính là thăng quan cho bọn họ, tất cả đều vô cùng cảm kích, ai nấy đứng ở trước hàng của doanh mình.

Một phen điều chỉnh này, Đỗ Văn Hạo đã đổi toàn bộ chỉ huy sứ và tướng quân của mã quân và bộ quân thành người của mình. Những tướng quân trước kia thì đều bị Đỗ Văn Hạo giam lại, những người này hầu như đều là thân tín của hai vị vương gia, tất nhiên là phải diệt trừ.

Sau khi bổ nhiệm xong, Đỗ Văn Hạo phân phó: "Mã quân vân kỵ quân và vũ kỵ quân phân biệt phụ trách thành phòng của nam thành và bắc thành, cùng với nhiệm vụ tuần tra canh gác các nhai đạo. Những tướng sĩ các doanh khác lập tức quay về điểm cảnh giới, dẫn toàn bộ binh sĩ sở hạt về binh doanh, đao thương cho vào kho, ngựa về chuồng, ngoài vệ đội trị thủ ra, tất cả tướng sĩ không ai được phải mang theo bất kỳ binh khí nào. Không có mệnh lệnh của bản quan, nghiêm cấm bước ra ngoài binh doanh một bước. Ai trái lệnh - chém đầu!"

Chúng tướng đồng thanh đáp ứng, sau đó theo chỉ huy sứ của mình rời đi.

Tiếp theo, Đỗ Văn Hạo phi thân lên ngựa, dẫn Lâm Thanh Đại cùng với phó đô chỉ huy sứ, đô ngu hậu tân nhiệm đi tuần thị các nơi.

Không tới một tiếng đồng hồ, mã quân, bộ quân mà Ung vương bố trí ở các nơi trọng yếu trong thành toàn bộ lui về binh doanh của mình. Cửa lớn binh doanh đóng chặt, Đỗ Văn Hạo và các chỉ huy sứ tân nhiệm dẫn vệ đội đi khắp nơi kiểm tra.

Vân kỵ quân và vũ kỵ quân một bộ phận thì phòng thủ bốn cửa thành, đội tuần tra thì tuần tra các đường lớn ở trong thành, cả kinh thành đều vô cùng trật tự.

Đỗ Văn Hạo lúc này mới yên tâm, nhưng không lười biếng. Cả một đêm đều tuần tra khắp toàn thành, cho tới tận khi trời sáng.

Khi bách tính của kinh thành tỉnh lại, binh sĩ vốn đầy đường lớn giờ ít đi rất nhiều, ngoại trừ mười giao lộ có binh sĩ trấn thủ và mấy đội kỵ binh mặc khải giáp sáng bóng đang tuần tra trên đường lớn ra thì đại đội nhân mã vốn tồn thủ khắp nơi đã biến mất không thấy đâu.

...

Thẩm cung của Hoàng Thái Hậu.

Sau khi nghe Đỗ Văn Hạo kể lại những chuyện vừa qua xong, Hoàng Thái Hậu thở phào nhẹ nhõm, nói: "Vậy thì tốt rồi! Văn Hạo, vẫn là ngươi làm việc giỏi! Chuyện này làm rất thỏa đáng, ta cũng yên tâm rồi."

Đỗ Văn Hạo cười hắc hắc, nói: "Đúng vậy, hiện tại trong tay hai vị vương gia không còn quân đội, Lục hoàng tử cũng không còn sự hỗ trợ của quân đội. Hoàng Thái Hậu có thể thoải mái cùng các vị đại thần thương nghị chuyện thừa kế hoàng vị rồi.

Hoàng Thái Hậu nghe thấy lời này, sắc mặt lại biến thành có chút không tự nhiên, do dự một thoáng rồi thấp giọng hỏi: "Ý tử của ngươi thì sao? Để ai thừa kế hoàng vị thì tốt hơn?"

Đỗ Văn Hạo trong lòng khẳng định là nguyện ý để Lục hoàng tử thừa kế rồi. Dẫu sao thì mình hiện tại đã kiêm nhiệm quan chỉ huy tối cao của ba nha điện tiền thị vệ, mã quân và bộ quân . Mà quân đội toàn quốc đều quy về thống lĩnh của ba nha này, trên thực tế mình lúc này đã là quan chỉ huy quân sự tối cao của toàn quốc, là đại nguyên soái của binh mã thiên hạ. Nhưng, mình đã đắc tội với Ung vương. Nếu Ung vương làm hoàng đế, mình sẽ gặp phiền phức lớn. Cho nên tốt nhất là Ung vương đừng làm hoàng đế.

Nhưng câu này Đỗ Văn Hạo vẫn không nói ra miệng. Hắn ở bên ngoài rêu rao khắp nơi rằng người có thể xách định ai thừa kế hoàng vị chỉ có thể là Hoàng Thái Hậu, mà hắn nếu như thao túng ý tứ của Hoàng Thái Hậu thì rất khó ăn nói với người ta.

Hắn hiện tại nắm binh quyền trong tay, đằng sau lại có Hoàng Thái Hậu chống lưng, cũng không quá sợ Ung vương làm hoàng đế. Bởi vì hắn đã nghĩ kỹ kế sách để ứng đối, nếu thực sự tới bước đường cùng, quân quyền trong tay tuyệt đối không thể buông bỏ, phải dùng Hoàng Thái Hậu để đối kháng với Ung vương, tuyệt không giao binh quyền, có binh quyền thì mới có thể tự bảo vệ mình. Một khi phát hiện Ung vương có ý đồ bất lợi với mình thì lập tức động quân sự chính biến, lật đổ Ung vương, rồi đưa một hoàng đế bù nhìn lên là được. Vậy lúc đó có thể ép thiên tử để ra lệnh cho chư hầu, làm một Tào Tháo kiêu hùng cũng chưa chắc đã không được.

Hiện tại điều cần phải giải quyết là quyền điều binh. Binh chế của Tống triều là ba nha chưởng quản quyền lĩnh binh, xu mật viện nắm quyền điều binh. Hiện tại quyền điều binh vẫn không nằm trong tay, vẫn là một ẩn hoạn, phải giải quyết xong chuyện này trước khi Ung vương thừa kế hoàng vị. Hiện tại xem ra Hoàng Thái Hậu vẫn chưa hoàn toàn buông bỏ ý định để nhi tử của mình làm hoàng đế, không thể để bảo khố ở bên cạnh Hoàng Thái Hậu được. May mà hổ phù điều động điện tiền thị vệ đã nằm trong tay mà, không phải sợ gì. Đương nhiên, tốt nhất có thể nắm được cả quyền điều binh ở trong tay.

Cho nên Đỗ Văn Hạo cười nhạt, hỏi: "Không biết nàng chuẩn bị tổ chức các đại thần thương nghị chuyện thừa kế hoàng vị như thế nào?"

"Cái này ta cũng nghĩ qua rồi, trước tiên tổ chức các tế chấp thương nghị trước, nếu ý kiến nhất trí thì tốt, nếu không nhất trí thì có thể mở rộng phạm vị thương nghị. Ta hi vọng tới lúc đó ngươi có thể tham gia, có ngươi ở bên cạnh thì ta sẽ yên tâm hơn."

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: "Ta không tham gia được. Thao Thao. Đừng quên rằng quan chức cao nhất hiện tại của ta chỉ là điện tiền đô chỉ huy sứ, không thuộc tế chấp, không có quyền tham gia dạng hội nghi hạch tâm cơ mật này. Trừ phi ta đồng thời kiêm nghiệm cả xu mật viện sứ thì mới có thể tham gia."

Lời này của Đỗ Văn Hạo rất rõ ràng là hi vọng Hoàng Thái Hậu thuận miệng bổ nhiệm hắn làm xu mật viện sứ. Có điều, Hoàng Thái Hậu dẫu sao cũng không phải là tiểu cô nương mới sa vào lưới tình. Bà ta rốt cuộc vẫn là Hoàng Thái Hậu, duy hộ hoàng quyền là trách nhiêm số một của bà ta, mà lối suy nghĩ của Đỗ Văn Hạo rõ ràng là sẽ uy hiếp tới hoàng quyền.

Cho nên một câu này của Đỗ Văn Hạo liền khiến Hoàng Thái Hậu ngây người, áy náy nói: "Cái này, quyền lĩnh binh và quyền điều binh bắt buộc phải chia ra, đây là quy củ mà thái tổ hoàng để chế định, trước giờ chưa hề thay đổi, cho nên ta..."

Đỗ Văn Hạo cũng chỉ là thuận miệng nói mà thôi, hắn không hi vọng Hoàng Thái Hậu có thể phá lệ này. Cho dù Hoàng Thái Hậu hạ chỉ thì đám quan ngự sử cũng sẽ không đồng ý, không khiến cho trời đất quay cuồng thì không được. Bởi vì một khi như vậy, quân quyền của hắn sẽ không phải chịu bất kỳ sự kiên chế nào, tất nhiên sẽ dẫn tới thành viên của hoàng thất và triều dã trên dưới cảnh giác và bất mãn. Lời của Hoàng Thái Hậu hắn hoàn toàn có thể hiểu được.

Đỗ Văn Hạo ngồi xuống bên cạnh bà ta, nắm lấy tay bà ta, nói khẽ: "Ta hiểu mà, ta chỉ là thuận miệng nói ra mà thôi."

Hoàng Thái Hậu cười áy náy: "Ta biết sự lo lắng của ngươi, ngươi vẫn sợ nếu như Nhan nhi đăng cơ, sẽ tìm ngươi gây phiền phức."

"Đúng vậy, ta chính là sợ tương lai Ung vương gia sẽ dùng xu mật viện để đối phó với ta. Lần này hắn có thể điều động mã quân và bộ quân, khẳng định là có quan hệ rất tốt với xu mật viện.

"Ừ, xu mật sứ Hàn Chẩn có đi lại khá thân cận với Nhan nhi, lần này Nhan nhi điều binh, hắn chắc là có gây ảnh hưởng. Mặc kệ là Nhan nhi có thể thừa kế hoàng vị hay không thì cũng phải điều chỉnh lại tên Hàn Chẩn này, không thể để hắn trở thành công cụ để Nhan nhi đối phó ngươi. Ta sẽ điều chỉnh chức vị này. Ừ, vậy để Vương Giai làm xu mật sứ là được rồi, hắn ủng hộ Lục hoàng tôn, sẽ không giúp Nhan nhi đối phó ngươi đâu."

Đỗ Văn Hạo trong lòng mừng rơn, mình đã không thể kiêm quyền lĩnh binh và quyền điều binh, vậy chỉ cần Ung vương không nắm được xu mật viện thì nguy hiểm đối với mình sẽ không lớn. Có điều, hắn vẫn tiếp tục làm mặt khổ, nói: "Vậy vạn nhất nếu Ung vương làm hoàng thượng thì sao? Hắn vẫn có thể loại trừ Vương Giai, thậm chí miễn chức ta cũng là hết sức bình thường."

Hoàng Thái Hậu cười tươi rói, nói: "Nếu như các tế chấp đều quyết định để Nhan nhi thừa kế hoàng vị thì không phải vẫn còn ta sao? Ta trước khi hội sự sẽ yêu cầu hắn tại đương triều bảo chứng tương lại tuyệt đối không được điều chỉnh ba nha và xu mật. Làm thế ngươi đã yên tâm chưa?"

Đỗ Văn Hạo đương nhiên không thể tin rằng tương lai sau khi Ung vương vương đăng cơ còn chịu nghe lời Hoàng Thái Hậu. Có điều, Hoàng Thái Hậu có thể nói vậy, hắn đã rất hài lòng rồi, cũng rất cảm kích bà ta. Cho nên Đỗ Văn Hạo rất kích động ôm lấy Hoàng Thái Hậu rồi hôn một cái lên khuôn mặt đầy đặn của bà ta.

Hoàng Thái Hậu lận này đỏ bừng mặt nhưng không giãy dụa, chỉ đánh yêu hắn một cái, nói: "Ngươi vẫn phải cùng ta tham gia thảo luận kế thừa hoàng vị. Được không? Ta sẽ giải thích rõ với Nhan nhi rằng tất cả những chuyện ngươi làm đều là do ta dặn dò, không liên quan gì tới ngươi cả, để hắn không hận ngươi. Có được không nào? Ta muốn có ngươi ở bên cạnh ta."

Đỗ Văn Hạo nghe thấy lời này liền biết rằng Hoàng Thái Hậu vẫn có một chút động tâm muốn để Ung vương thừa kế hoàng vị. Cho dù mình hi vọng Lục hoàng tử thừa kế hoàng vị, nhưng cảm giác mẫn duệ của Đỗ Văn Hạo nói cho hắn biết lúc này không thể trực tiếp khuyên bà ta để Lục hoàng tử kế thừa được, rất dễ gây ra phản tác dụng. Cho nên bèn lấy tiến làm thoái, ôm bà ta nói: "Thao Thao, cảm ơn nàng, có điều, cuộc thảo luận về thừa kế hoàng vị ta vẫn không tham gia đâu, bởi vì quyền lĩnh binh của ba nha nàng đều giao cho ta rồi, e rằng sẽ dẫn tới nghi kỵ. Ý kiến của ta khẳng định sẽ làm ảnh hưởng tới ý kiến của các tế chấp, nếu để truyền ra ngoài thì cũng không thỏa đáng. Tốt nhất cứ để bọn họ mặc sức biểu lộ ý kiến của mình đi."

Hoàng Thái Hậu cố gắng nhoẻn miệng cười: "Nhưng, nếu như không có ngươi ở bên cạnh, ta thật sự không biết nên xử lý chuyện này như thế nào."

Đỗ Văn Hạo nói: "Ta đoán rằng bọn họ khẳng định sẽ tranh cãi to, không thể đạt thành thỏa hiệp một cách nhanh chóng được đâu. Như thế này đi, nàng trước tiên cứ nghe bọn họ cãi nhau, đừng tỏ thái độ, để khi quay về chúng ta sẽ thương lượng."

Hoàng Thái Hậu gật đầu nói: "Ừ, cứ vậy đi."

Hoàng Thái Hậu gọi Tiêu công công vào, bảo lão truyền chỉ triệu tập các tế chấp thương nghị về chuyện thừa kế hoàng vị tại chính sự đường.

Sau khi Tiêu công công đi, Hoàng Thái Hậu lại kéo tay Đỗ Văn Hạo bảo hắn ngồi xuống cạnh mình, ngẩng đầu lên nhìn hắn, nói: "Nhìn ngươi một đêm không ngủ, mắt đầy tia máu rồi kìa. Hay là ngươi ngủ một lát ở chỗ ta đi. Ta sau khi thương nghị với bọn họ xong cũng tiện nói chuyện với ngươi hơn."

Đỗ Văn Hạo ôm lấy eo thon của bà ta, áp má vào má bà ta, nói: "Ta nằm một mình thì không ngủ được đâu. Trừ phi là ôm nàng ngủ!" Nói xong, một cánh ma trảo đã từ vạt áo của bà ta thò vào, sờ lên da thịt trơn nhẵn của bà ta, rồi tập kích lên ngực.

Hoàng Thái Hậu bảo dưỡng rất tốt, mặc dù đã lớn tuổi, nhưng da thịt vẫn mịn màng trơn nuột như bánh kem, ngực cao vút săn chắc mà lại rất đàn hồi.

Hoàng Thái Hậu ái chà một tiếng, cảm thấy toàn thân mềm nhũn, hổn hển nói: "Văn Hạo, đừng, ngươi nghe ta nói đã..."

Đỗ Văn Hạo nắm lấy ngực bà ta mà nắn bóp: "Ừ, nàng nói đi, ta nghe đây."

Hoàng Thái Hậu đánh một cái vào tay hắn: "Ngươi bỏ ra đi, cứ thế này ta nói thế nào được!"

Bộ dạng đang hờn dỗi của Hoàng Thái Hậu khiến Đỗ Văn Hạo động lòng, bất chấp tất cả mà cúi người xuống hôn lên môi bà ta. Hoàng Thái Hậu vội vàng lắc đầu tránh né, thế là Đỗ Văn Hạo hôn lên mà bà ta.

Hoàng Thái Hậu chống cự trong hoảng loạn: "Đừng làm vậy, Văn Hạo, không được đâu!"

Đỗ Văn Hạo mặc kệ, đè Hoàng Thái Hậu lên giường, tay trái túm chặt lấy hai tay của bà ta, sau đó thì đưa tay phải ra đố định mặt bà ta, hôn lên đôi môi hồng của bà ta. Môi Hoàng Thái Hậu rất mềm rất thơm, chỉ là hơi lạnh.

Đỗ Văn Hạo bắt đầu cởi y phục của Hoàng Thái Hậu.

Hoàng Thái Hậu dưới sự cường công thô dã của Đỗ Văn Hạo, sự chống trả rất yếu đuối, rất nhanh liền bị Đỗ Văn Hạo lột trần .

Đỗ Văn Hạo ngậm chặt lấy môi bà ta. Một chiêu này khiến Hoàng Thái Hậu triệt để mềm oặt, vuốt ve đầu hắn rồi rên rỉ khe khẽ.

Nhưng khi ma trảo của Đỗ Văn Hạo thò xuống hạ thân của bà ta thì Hoàng Thái Hậu ra sức tóm lấy tay hắn.

Đỗ Văn Hạo giật ra rồi lại tập kích về nơi âm u ấy, nhưng lại một lần nữa bị Hoàng Thái Hậu bắt lấy tay.

Lần này, Hoàng Thái Hậu gian nan thở dốc, nghẹn ngào nói một câu: "Văn Hạo, đừng, ta vẫn đang chịu tang!"

Đỗ Văn Hạo lập tức cứng đờ như bị điểm huyệt, dục hỏa trong đầu giống như bị hắt một thùng nước lạnh, xoẹt một cái bốc hơi lên, rồi biến mất hoàn toàn.

Đỗ Văn Hạo lấy quần áo của Hoàng Thái Hậu che đi bộ ngực cao vút của bà ta, sau đó hôn lên má bà ta một cái, thấp giọng nói: "Xin lỗi, Thao Thao, ta vào lúc này không nên..."

Hoàng Thái Hậu cúi đầu chỉnh lại quần áo, lắc lắc đầu rồi đỡ lấy cánh tay của Đỗ Văn Hạo, dựa đầu lên vai hắn.

Đỗ Văn Hạo đưa tay ôm lấy eo thon của bà ta, lại hôn một cái lên tóc bà ta rồi thấp giọng nói: "Xin lỗi, Thao Thao. Ta quá lỗ mãng rồi, không ngờ lại quên..."

"Đừng nói gì cả, Văn Hạo." Hoàng Thái Hậu dựa sát vào lòng hắn, nói: "Có thể như thế này là ta đã rất thỏa mãn rồi. Văn Hạo, đáp ứng ta đi, chúng ta về sau chỉ có thể như thế này thôi, không thể làm quá nữa, được không?"

Đỗ Văn Hạo ôm chặt bà ta hơn: "Đợi qua kỳ tang của nàng mà cũng không được sao?"

Hoàng Thái Hậu kiên định lắc lắc đầu: "Không được! Chúng ta như thế này là đá quá lắm rồi, ngươi nếu như cứ bức ta thì ta chỉ đành không gặp ngươi nữa thôi."

Đỗ Văn Hạo nắm chặt tay bà ta rồi hôn một cái, nói: "Nàng nhẫn tâm lắm!"

Hoàng Thái Hậu cố nhoẻn miệng cười trông rất buồn bã: "Văn Hạo, xin lỗi!"

Đỗ Văn Hạo nói: "Không! Là ta phải xin lỗi nàng mới đúng. Thao Thao."

Hoàng Thái Hậu nhẹ nhàng tựa vào lòng hắn, nỉ non khóc.

Đỗ Văn Hạo biết vì sao bà ta lại khóc, thân là nữ nhân, bà ta rất cần tình yêu của nam nhân, mà khi đối diện với sự mơn trớn của nam nhân mà mình động lòng, trong nội tâm của bà ta cũng có khát vọng cháy bỏng. Nhưng thân phận của bà ta lại khiến bà ta không thể tiếp nhận được. Cho nên hắn không biết nên an ủi Hoàng Thái Hậu như thế nào, chỉ đành ôm chặt lấy rồi lau đi nước mắt cho bà ta.

Hoàng Thái Hậu cuối cùng cũng ngẩng đầu lên, nói: "Hay là ngươi về nghỉ ngơi trước đi, ở chỗ ta dẫu sao cũng không hay lắm. Đợi thương lượng xong rồi ta sẽ phái người gọi ngươi vào cung thương nghị."

Đỗ Văn Hạo gật đầu, dùng trán đụng nhẹ vào trán bà ta, nói: "Vậy này không được khóc nữa đâu đấy!"

"Ừ!"

"Hôn ta một cái đi rồi ta sẽ đi."

"Không" Hoàng Thái Hậu lắc đầu nói.

"Nàng vừa rồi nói là chúng ta không thể làm chuyện đó chứ không nói là không thể hôn."

"Nhưng."

Đỗ Văn Hạo bĩu môi nói: "Nếu như ngay cả hôn cũng không được thì nàng cứ hạ lệnh giết ta đi cho xong!"

Hoàng Thái Hậu nhịn được mà bật cười khúc khích, đưa tay ra nhéo má hắn một cái: "Ngươi đúng là biết chơi xấu!"

Đỗ Văn Hạo biết là có cửa, miệng cười hi hi rồi chu môi lên, rồi nhìn vào môi bà ta: "Mau hôn đi! Một cái thôi!"

Hoàng Thái Hậu mặt đỏ tới tận mang tai, hôn phớt một cái lên môi hắn như chuồn chuồn lướt nước: "Được chưa?"

"Không! Hôn kiểu ăn bớt ăn xén như thế không được, phải hôn cho tử tế!"

"Ngươi vô lại quá đi!"

"Nhanh lên nào!" Đỗ Văn Hạo ôm chặt lấy eo thon của bà ta, nhìn chằm chằm vào đôi môi hồng kiều diễm, luôn miệng giục.

Hoàng Thái Hậu xấu hổ không thôi, chậm rãi đưa môi tới, cẩn thận chạm vào môi hắn một cái. Vừa muốn rụt lại thì Đỗ Văn Hạo đã ôm chặt bà ta, sau đó miệng sớm đã hôn lại bà ta rồi thè lưỡi ra, tách môi bà ta ra rồi tiến vào trong miệng bà ta.

Hoàng Thái Hậu thở hổn hển, lưỡi thơm muốn né tránh, nhưng nào có chỗ mà tránh, bị Đỗ Văn Hạo ngậm lấy mà mút.

Một chiêu này đã nhen lên ngọn lửa khát vọng trong nội tâm của Hoàng Thái Hậu, bà ta ôm lấy cổ hắn, thử đáp lại hắn.

Tay của Đỗ Văn Hạo lại một lần nữa thò vào trong chéo áo của Hoàng Thái Hậu, ve vuốt ngực của bà ta. Hoàng Thái Hậu lần này không hề cự tuyệt, để mặc cho ma chưởng hắn sờ mó. Đỗ Văn Hạo cũng nhớ lời ban nãy của bà ta, không tiến thêm một bước tập kích hạ thân của bà ta, điều này dần dần khiến cho thần kinh đang căng cứng của Hoàng Thái Hậu được buông lỏng.

Hoàng Thái Hậu cũng giống như đại đa số nữ nhân, đều khát vọng được hưởng cuộc sống phu thê bình thường, đối với sự ở góa lâu ngày cũng tràn ngập sự mất mát, thất vọng và bất lực. Sau khi Tống Anh Tông chết, những đêm dài đằng đẵng thường bị dục hỏa tiêu đốt không tài nào ngủ được, chỉ có thể mỗi đêm dùng nước lạnh để cho trái tim đang rực cháy của mình được tạm thời bình tĩnh lại. Cũng bởi vì nguyên nhân này mới dẫn tới việc bà ta chịu đựng sự giày vò hành kinh đau bụng hơn mười năm trời.

Âm soa dương tác gặp phải một tên trẻ tuổi Đỗ Văn Hạo tới từ xã hội hiện đại với tư tưởng cởi mở, bất chấp quân thần cương thường luân lý mà trộm tình với bà ta, khiến bà ta lại một lần nữa được thưởng thức tư vị nam nữ hoan ái. Bà ta cũng đã làm mẹ, quan niệm phong kiến trinh thao so với thiếu nữ thì mờ nhạt hơn nhiều, lại ở trong phòng của mình, không sợ người ngoài biết được, càng dễ mở rộng nội tâm. Lại chịu sự chi phối của sinh lý, cho dù là thân đang ở trong thời kỳ chịu tang, khống chế để bản thân không được phép làm chuyện nam nữ thực sự, nhưng ôm ấp hôn hít vỗ về như vậy đã vô cùng thỏa mãn khát vọng sinh lý của bà ta rồi. Đồng thời cũng vẫn nằm trong giới hạn mà đạo đức phong kiến của bà ta có thể chấp nhận được.

Cho nên, bà ta tận tình hưởng thụ sự ôm ấp và hôn hít của Đỗ Văn Hạo, khiến cho thân thể gần hai mươi năm bị khô hạn cảm thụ sự mưa móc tưới nhuần của Đỗ Văn Hạo.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 388:Giai nhân ước hẹn

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Đỗ Văn Hạo là pháp y, hắn đương nhiên hiểu rất rõ về tâm sinh lý của nữ nhân, hắn lại có nền tảng là cuộc sống gia đình nên càng hiểu được cách thế nào khơi mào nữ nhân, hiểu được cách làm thế nào để nữ nhân thoả mãn.

Mặc dù Đỗ Văn Hạo cùng Hoàng Thái Hậu không có chính thức "mây mưa" cùng nhau nhưng dưới sự khiêu khích vuốt ve của Đỗ Văn Hạo nên cũng là một tình cảm gắn bó. So với cuộc sống vợ chồng với Tống Anh Tông năm đó, bây giờ Hoàng Thái Hậu còn thoả mãn hơn. Dù sao khi đó Hoàng Thái Hậu hoàn toàn bị động. Tống Anh Tông cũng không có khả năng khiêu khích, kích thích như Đỗ Văn Hạo, hiểu được cảm thụ sinh lý của nữ nhân.

Đỗ Văn Hạo giở thủ đoạn, vuốt ve khắp thân trên của Hoàng Thái Hậu. Hắn hé miệng hôn khắp thân thể Hoàng Thái hậu, đương nhiên có đột kích trọng điểm, miệng và nhũ hoa của Hoàng Thái Hậu.

Thân thể Hoàng Thái Hậu mịm màng, non mềm khiến Đỗ Văn Hạo gần như quên mất bản thân mình đang thân mật, âu yếm một phụ nhân trung niên. Đặc biệt phản ứng của Hoàng Thái hậu, càng về sau càng phối hợp với hắn khiến Đỗ Văn Hạo suýt chút nữa không thể kiềm chế bản thân mình.

Vì vậy khi hai người chuẩn bị phá vỡ phòng tuyến ngăn cách cuối cùng, Đỗ Văn Hạo đã hô quyết tâm, lấy nghị lực lớn nhất của mình dừng lại, hắn hiểu dục tốc bất đạt, thời gian còn nhiều.

Dưới sự trợ giúp của Đỗ Văn Hạo, sau khi Hoàng Thái Hậu sửa sang lại quần áo, nàng liếc nhìn hắn vẻ u oán xen lẫn cảm kích. Hai gò mà nàng ửng hồng giống như uống một thùng rượu lớn để lâu năm.

Đỗ Văn Hạo đợi khi Hoàng Thái Hậu bình tĩnh lại, hắn kéo tay nàng hỏi: "Nàng đi thượng nghị, còn ta đi đâu?"

"Ngươi tới tam nha môn xem thế nào. Ta sẽ cho người tới gọi ngươi sau. Ta có chuyện muốn thương lượng với ngươi".

Đỗ Văn Hạo cảm thấy chủ ý này rất hay. Bây giờ hắn là quan thống lĩnh cao nhất của tam nha. Đương nhiên là hắn muốn tới xem xét nha môn của chính mình.

Đỗ Văn Hạo ngồi kiệu rời khỏi Hoàng cung, trên đường đi hắn cực kỳ đắc ý.

Chính bản thân mình chỉ mới vuốt ve, hôn môi đã khiến Hoàng Thái hậu say như điếu đổ, như ngây dại. Trong lúc hắn vừa dương dương tự đắc với 'hành động" của mình, hắn lại có chút thương cảm với Hoàng Thái Hâu. Điều này đã chứng minh trong những năm tháng qua Hoàng Thái Hậu đã cô quạnh như thế nào.

Đỗ Văn Hạo cũng không rõ đến tột cùng tình cảm của hắn với Hoàng Thái Hậu chính là gì. Là yêu sao? Có một chút nhưng phần lớn là sự đồng cảm và thương hại. Đương nhiên còn có cả yếu tố lợi dụng trong đó.

Cho dù là thế nào đi nữa, Đỗ Văn Hạo vẫn rất hài lòng với kết quả của việc săn sóc Hoàng Thái hậu sáng hôm nay cùng với thành công tối hôm qua nhưng hắn vẫn không thể bình chân như vại. Bởi vì nếu sau khi Ung Vương đăng cơ thành công sẽ còn phải đương đầu với rất nhiều vấn đề. Bản thân hắn vừa mới nắm giữ binh quyền, vẫn chưa hoàn toàn tạo dựng được thế lực riêng của mình. Việc cấp bách lúc này chính là thống lĩnh hoàn toàn tam nha, loại bỏ sự đối lập, để hắn có thể hoàn toàn sử dụng.

Điện tiền tư mã quân, bộ quân tam nha môn không cùng ở một chỗ với nhau. Điện tiền tư nha môn nằm bên trong hoàng thành. Thị vệ mã quân tư cùng thị vệ bộ quân và Xu mật viện đều nằm một chỗ, đều ở cửa trước ngoài hoàng thành.

Tin tức tân quan tới nhậm chức đã sớm bay tới đây. Ở đó vốn cũng phải chuẩn bị một chút để nghênh đón nhưng bây giờ Đỗ Văn Hạo cũng chẳng quan tâm tới những điều hào nhoáng bên ngoài. Hắn cần nhanh chóng tạo ra sự chuyển biến. Theo truyền thống, Điện tiền tư là lão đại của tam nha môn nên phủ quan chính của hắn cũng ở trong đó.

Phó Điện tiền tư Đô chỉ huy sứ Lý Phố sau khi Đỗ Văn Hạo được bổ nhiệm tối hôm qua hắn đã nghĩ tới việc Đỗ Văn Hạo phải tới nhậm chức nên sau khi sắp xếp việc tuần tra, phòng thủ trong thành hắn liền ngay trong đêm tới đây sắp đặt công việc.

Vì vậy ngay khi Đỗ Văn Hạo đi tới Điện tiền tư. Trước cửa Điện tiền tư đã treo đèn kết hoa, lập tức chiêng trống đánh vang trời, pháo nổ vang. Tất cả quan lại của tam nha đều tụ tập ở đây, xếp thành hai hàng bên đường nghênh đón.

Đỗ Văn Hạo xuống kiệu, Lý Phố tiến tới giới thiệu Đỗ Văn Hạo với các quan lại chủ yếu của nha môn sau đó Đỗ Văn Hạo nói mấy câu ngắn gọn. Thực ra đây chỉ là quá trình làm quen với nhau. Sau khi xong việc, Đỗ Văn Hạo căn dặn tam nha phó Đô chỉ huy sứ cũng tới Điện tiền tư họp.

Tòan bộ tam nha phó Đô chỉ huy sứ đã được thay đổi bằng cận vệ trước kia của Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo chỉ tìm hiểu chưa tới một canh giờ đã nắm được tình hình cơ bản của tam nha, làm quen với tất cả quan lại sau đó hắn lại chọn đội thân binh của bản thân mình.

Lần trước Đỗ Văn Hạo thống lĩnh năm ngàn cấm quân bôn tập đường dài phủ Thành Đô. Năm ngàn cấm quân đó chính là được lựa chọn trong Ngự lâm quân của tam nha sau đó tất cả đều quay về đội cũ của mình.

Những người có tài năng, tác chiến dũng mãnh của năm ngàn cấm quân khi đó đã được Đỗ Văn Hạo bổ nhiệm làm cấp quan chỉ huy của tam nha. Bây giờ hắn lại lựa chọn những binh lính trung thành, thiện chiến, dũng mãnh làm đội thân binh của mình. Những người này đã cùng Đỗ Văn Hạo vào sinh ra tử nên Đỗ Văn Hạo có thể tin dùng.

Đội trưởng của đội thân binh mới này là Hứa Văn Cường. Hắn không chỉ là một người có võ công cao cường mà còn là một người rất cơ trí.

Sau khi Đỗ Văn Hạo hoàn thành công việc kiểm tra tam nha thì đã tới giữa trưa. Hoàng Thái Hậu cũng không phái người tới ban chỉ dụ bảo hắn tiến cung. Điều này chứng tỏ hội nghị rất có thể vẫn chưa xong. Đỗ Văn Hạo đã dự đoán được chuyện lập Hoàng đế là chuyện đại sự. Trong một buổi sáng tuyệt đối sẽ không thể thương lượng xong. Những viên quan chấp chính đó chắc chắn sẽ tranh đoạt tới mặt đỏ tía tai. Dù sao ngôi Hoàng đế quá hấp dẫn nên không ai dễ gì từ bỏ. Huống chi bây giờ không còn tình huống bị đại binh uy hiếp, hai bên chỉ còn tranh cãi với nhau, tất cả đều cố gắng theo ý của mình.

Đỗ Văn Hạo dẫn theo đội thân binh mới quay về nhà.

Cả đêm hôm qua không ngủ nên Đỗ Văn Hạo rất mệt mỏi. Hắn chỉ muốn ngủ một giấc ngon nhưng những chuyện xảy ra liên tục đã khiến cho tinh thần của hắn hưng phấn, không thể ngủ được, về tới nhà mà vẫn mỉm cười vui sướng.

Chúng nữ Bàng Vũ Cầm đã chờ đợi hắn cả một đêm, tới tận giờ phút này mới thấy hắn về đến nhà nhưng lại mặc nhung trang ( trang phục quân đội ), mang theo một đội thân binh hộ vệ mới nên các nàng rất kinh ngạc. Chỉ khi Đỗ Văn Hạo lấy ra hai đạo thánh chỉ của Hoàng Thái Hậu, chúng nữa mới biết hắn lại được thăng quan, hơn nữa lần này được thăng lên quan lớn nhị phẩm, quan to nắm toàn bộ binh quyền triều đình nên vừa mừng vừa sợ.

Triều đình đã có chiếu lệnh: trong lúc tang ma, tất cả không được uống rượu, ca hát. Tất cả các tửu quán lớn nhỏ đều phải đóng cửa cho dù yến tiệc tại gia cũng không được phép uống rượu vì vậy dù mấy người Bàng Vũ Cầm muốn tổ chức ăn mừng Đỗ Văn Hạo cũng thật sự không dám bày rượu thiết yến. Mấy nàng chỉ làm mấy món ăn, dùng trà thay rượu chúc mừng Đỗ Văn Hạo.

Sau khi Đỗ Văn Hạo ăn cơm xong, hắn đi ngủ, ngủ một mạch tới tận lúc lên đèn buổi tối.

Rốt cuộc Tiêu công công cũng dẫn thị vệ đại nội tới truyền chỉ, khiến Đỗ Văn Hạo cùng thê tử Bàng Vũ Cầm, tam thiếp Lâm Thanh Đại tiếp chỉ.

Đỗ Văn Hạo thăng quan, cáo mệnh của Bàng Vũ Cầm đương nhiên cũng lên theo. Điều này không có gì kỳ quái nhưng bây giờ lại khiến mấy người Lâm Thanh Đại tiếp chỉ nên mọi người biết nhất định Hoàng Thái hậu có khen tặng đối với Lâm Thanh Đại. Tất nhiên Đỗ Văn Hạo cũng hiểu rõ. Chế ngự Vi Ngạn, giải trừ thị vệ võ trang trước điện, Lâm Thanh Đại đã lập công lớn. Hoàng Thái Hậu đương nhiên không thể ban thưởng.

Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm mặc quan bào. Lâm Thanh Đại mặc một bộ áo dài xanh lơ, cả ba quỳ xuống trước chính đường tiếp chỉ.

Tiêu công công ngâm nga tuyên đọc ý chỉ của Hoàng Thái Hậu, bổ nhiệm Đỗ Văn Hạo làm Vi Vũ Hiển tướng quân, tước vị Khai quốc huyền công, cũng truy phong tổ tiên ba đời. Sắc phong nguyên phối Bàng Vũ Cầm làm cáo mệnh phu nhân nhị phẩm, sắc phong tam thiếp Lâm Thanh Đại làm cáo mệnh cung nhân ngũ phẩm.

Sau khi tuyên chỉ, mọi người xúm lại chúc mừng Lâm Thanh Đại. Dù bản thân Lâm Thanh Đại cũng không quan tâm chức hão cáo mệnh cung nhân ngũ phẩm nhưng dù sao con người ai cũng thích hư vinh nên trong lòng nàng cũng cực kỳ vui mừng.

Đỗ Văn Hạo cám ơn Tiêu công công truyền chỉ vất vả, hắn định mời vào uống trà nhưng Tiêu công công lại nói: "Đỗ tướng quân, Hoàng Thái Hậu còn có một khẩu dụ khác, lệnh cho người mau vào cung thương nghị".

Đỗ Văn Hạo vội vàng lên kiệu cùng Tiêu công công vào Hoàng cung.

Vừa nhìn thấy gương mặt u sầu của Hoàng Thái Hậu, Đỗ Văn Hạo liền hiểu ngay. Sự việc vẫn chưa thuyết phục xong. Sau khi hành lễ, Hoàng Thái Hậu phất tay cho những người khác lui ra ngoài chỉ còn một mình Đỗ Văn Hạo trong điện.

Tất nhiên Đỗ Văn Hạo ngồi bên cạnh Hoàng Thái Hậu. Nhìn thấy tâm sự nặng nề của nàng, hắn liền kéo tay nàng hỏi: "Thế nào? Không thuận lợi ư?"

Hoàng Thái Hậu gượng cười nói: "Tất cả đều tranh nhau. Ai". Nói một cách đơn giản, tể tướng Thái Xác cùng Vương Khuê mỗi người đứng về một bên, tranh giành kịch liệt. Hoàng Thái Hậu nghe theo lời Đỗ Văn Hạo không tỏ thái độ gì, chỉ nghe hai người tranh cãi. Suốt một ngày tới khi tối đen vẫn không có kết qủa gì.

Hoàng Thái Hậu nghĩ: nếu như ngày hôm sau vẫn tiếp tục tranh cãi thì vẫn tiếp tục tình trạng này. Trong khi đó còn có việc tang của Hoàng thượng và Thái Hoàng Thái Hậu nên tạm ngừng việc này. Sau khi thương lượng cùng với hai phái đã quyết định, trước khi việc tang của Thái Hoàng Thái hậu và Hoàng thượng xong xuôi, việc triều chính vẫn do bốn vị phụ chính đại thần xử lý.

Đây là chuyện Đỗ Văn Hạo đã dự đoán trước. Vậy cũng tốt, hắn càng có nhiều thời gian làm quen với tình hình tam nha, nhanh chóng bồi dưỡng thế lực của mình vì vậy Đỗ Văn Hạo tỏ vẻ đồng ý với quyết định của Hoàng Thái Hậu, để cho nàng toàn lực xử lý tang sự trước.

Tang lễ của Thái Hoàng Thái Hậu và Hoàng thượng là quốc tang nên đương nhiên không thể hi, ba ngày có thể làm xong.

Mặc dù Đỗ Văn Hạo đã là quan lớn nhị phẩm nhưng hắn không được phép tham dự việc điều hành tang lễ, hắn chỉ phụ trách việc an ninh của kinh thành vì vậy dựa theo việc bố trí tang ma, Đỗ Văn Hạo dẫn theo Bàng Vũ Cầm cùng tân cáo mệnh cung nhân Lâm Thanh Đại vào triều tế điện còn ngoài ra không còn chuyện nào của hắn.

Việc tang mà xử lý rất rườm rà. Cả hai lễ tang đều do chính Hoàng Thái Hậu đích thân xử lý. Những chuyện này nàng cũng không thể triệu kiến Đỗ Văn Hạo vào cung trợ giúp nên trong một khoảng thời gian sau đó nàng cũng không gọi Đỗ Văn Hạo tiến cung thương nghị công việc.

Trong những ngày đó Đỗ Văn Hạo đều ở lỳ trong tam nha cùng các doanh binh, thị sát việc canh phòng cũng như thao luyện, triệu kiến Hiệu uý các cấp, không được uống rượu, không được giải trí, chỉ có thể uống trà, tán gẫu. Bởi vì các quan quân của tam nha tư từ trung cấp trở lên đã được thay bằng bộ hạ cũ của Đỗ Văn Hạo nên tất cả các mệnh lệnh đều thông suốt.

Tối hôm nay, Đỗ Văn Hạo cùng đội thân binh quay về từ doanh binh mã quân.

Hắn vừa mới thị sát binh lính của quân mã doanh cưỡi ngựa bắn cung. Tất cả binh lính ở đây cũng có thể coi là những cao thủ một trong một trăm, tuy không thể nói là thiện xạ thì cũng gần như là trăm phát trăm trúng. Nhưng điều làm Đỗ Văn Hạo buồn bực chính là tuy được gọi là mã quân, có nghĩa là quân kỵ binh nhưng có một nửa binh lính ở đó không có ngựa. Qua đây Đỗ Văn Hạo mới biết tình trạng khan hiếm ngựa của triều Tống nghiêm trọng như thế nào. Đường đường là kỵ binh Ngự lâm quân mà hai người cưỡi chung một con ngựa. Nói ra nhất định sẽ có người cười rụng cả răng.

Đỗ Văn Hạo ngồi trong kiệu trầm ngâm suy nghĩ biện pháp giải quyết vấn đề chiến mã.

Lúc này trời đã tối đen, kiệu của hắn không thể đi nhanh được. Con đường phía trước khá chật hẹp. Hết lần này tới lần khác lại có một chiếc xe ngựa dừng lại trên đường. Con đường chật hẹp, đám thân binh vội vàng tiến tới, tay ấn vào chuôi đao, quát mắng để đối phương nhường đường nhưng xe ngựa vẫn chen chúc nhau trên đường, không có ý định tránh đường.

Đỗ Văn Hạo khá căng thẳng, hắn vội vàng vén màn kiệu lên xem xét thì thấy màn xe ngựa kia cũng vén lên, một gương mặt ló ra. Nương theo ánh đèn đường, Đỗ Văn Hạo chăm chú quan sát, hắn thấy gương mặt đó rất quen nhưng nhất thời không nhớ ra đó là ai.

Ngwời nọ sửng sốt khi nhìn thấy Đỗ Văn Hạo, sau đó người đó vui mừng nói: "Đỗ tướng quân, quả thật rất trùng hợp. Hết lần này tới lần khác đều gặp ngài ở đây".

Đỗ Văn Hạo chắp tay hoàn lễ, hắn cười hỏi: "Các hạ là?"

"Đỗ tướng quân là quý nhân nên hay quên. Ty chức là Văn Lý, Viên ngoại lang bộ lễ. Tiểu nữ đã từng tới cầy y đại nhân".

Lập tức Đỗ Văn Hạo nhớ ra bản thân hắn đã từng xem bệnh cho nữ như của người này. Nữ nhi của Văn Lý là Văn Phượng, tính cách dịu dàng ít nói, cả ngày chỉ nhốt mình trong phủ để học nữ công, giống như kiểu cá chậu chim lồng. Đỗ Văn Hạo vội vàng vén cao màn kiệu thi lễ: "Thì ra là Văn đại nhân. Văn đại nhân đang đi đâu vậy?"

"Ty chức đang muốn đi tìm tướng quân cứu mạng" Văn Lý nói cứu mạng như sắc mặt hắn cũng không quá hoảng hốt.

Đỗ Văn Hạo nói: "Đại nhân nói quá lời. Có điều gì cần tại hạ ra sức sao?"

"Là như này. Lần trước nữ nhi đã được Đỗ tướng quân cứu chữa. Thân thể đã khoẻ mạnh nhưng tỷ tỷ của nó lại mắc bệnh. Cũng không biết mắc bệnh gì, không muốn ăn uống, thân thể ngày một gày gò. Có vẻ là bệnh tinh thần gì đó. Ty chức đang muốn tới Ngũ Vị đường thỉnh tướng quân. Nay vừa vặn gặp ngài ở đây, không biết có thể làm phiền tướng quân qua hàn xá chữa bệnh cho tiểu nữ không?'

"Được" Đỗ Văn Hạo chưa bao giờ từ chối người khác thỉnh cầu hắn chữa bệnh. Dựa theo thân phận bây giờ của hắn, vốn không cần phải tới nhà thăm bệnh nhưng hắn nghĩ rằng bản thân người ta là tiểu thư khuê các, đã mắc bệnh còn chạy tới tìm mình thì không hay lắm nên đành chịu vất vả đi xem bệnh một phen.

Văn Lý vui mừng quá dỗi, hắn vội vàng sai quay xe ngựa lại dẫn Đỗ Văn Hạo và đội thân binh đi tới thẳng Văn phủ.

Trước kia Đỗ Văn Hạo đã từng tới đây nhưng mà khi đó hắn chỉ là một Thái y nhỏ bé. Bây giờ hắn là quan lớn nhị phẩm, là người tâm phúc bên cạnh Hoàng Thái Hậu. Tình cảnh bây giờ đã hoàn toàn thay đổi.

Thái độ của Văn Lý cực kỳ cung kính. Hắn sai mở rộng cổng để kiệu của Đỗ Văn Hạo đi thẳng vào trước cửa khuê phòng tỷ tỷ của Văn Phượng rồi mới dừng lại.

Thân binh của Đỗ Văn Hạo lập tức tản ra hai bên cảnh giới. Thiếp thân thị vệ Hứa Văn Cường cùng Đỗ Văn Hạo đi thẳng tới khuê phòng của tỷ tỷ Văn Phượng.

Khi đi qua sân vườn tới bậc thềm tam cấp chính diện, thị nữ khom người hành lễ rồi vén màn cửa.

Đỗ Văn Hạo đi vào trong phòng. Hắn ngửi thấy mùi hương khí sộc vào mũi làm trong người khó chịu. Đỗ Văn Hạo không nhịn được liền đứng lại nhìn. Chính giữa nhà là đại án bằng đá cẩm thạch hoa lê. Trên án có mấy chồng sách xếp đặt chỉnh tề, mấy nghiên mực hình vuông, mấy ống đựng bút bằng sứ trắng to nhỏ khác nhau, bên trong đựng đầy các loại bút lông như bút lông sói, bút lông cừu. Ở những góc bên kia của án có đặt mấy chậu hoa thấp, bên trong chậu có trồng mấy cành Lan diệp mọc xiên thanh nhã, ở chính giữa có một bông hoa lan màu trắng tỏa ra hương thơm dìu dịu.

Ở giữa chiếc bàn dài có một tờ giấy Tuyên Thành dài, trắng như tuyết mở sẵn. Trên mặt giấy có một cái chặn giấy nặng chịch đè lên. Trên mặt giấy có một bức tranh đôi uyên ương tràn đầy sức sống nghịch nước đang vẽ dở. Bức tranh dùng lối vẽ tinh vi. Đôi uyên ương trông rất sống động, như đang dập dờn trên sóng, giống như người thường. Qua đó có thể thấy thủ pháp của người vẽ không tầm thường chút nào.

Bên cạnh án là một cái giá bằng gỗ tử đàn. Trên mặt giá có một cái bình gốm hoa đại trắng. Bên trong có cắm mấy quyển tranh hơi hé mở. Nhìn qua cũng thấy đó là mấy tranh chữ.

Bức tường phía bắc có treo một bức tranh sơn thuỷ rộng theo kiểu vẩy mực (một cách vẽ tranh thuỷ mặc), nguy nga, hùng vĩ. Không thể ngờ tỷ tỷ của Văn Phương lại là một người cực kỳ thanh nhã. Quả thực phải khiến người ta bội phục.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 389: Gió táp mưa sa sao mất hồn?

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Bên phải là một phòng nhỏ, ngăn cách bằng một bức vách chạm chổ bằng gỗ mun. Kê sát vào bức vách là một cái giá, bên trên có bài trí bằng các loại đĩa bằng mã não màu trắng, các loại bình ngọc.

Ở chính giữa phòng là một cái cửa hình bán nguyệt, có treo một bức mành thêu hoa màu xanh lơ.

Văn Lý vén tấm mành lên, Đỗ Văn Hạo khom người đi vào. Hắn cảm thấy có mùi thơm kỳ lạ, toàn thân rất thư thái.

Liếc mắt nhìn quanh căn phòng thì thấy khắp phòng để đầy các loại hoa cảnh khác nhau, có loại còn lan tràn tới nóc nhà, cũng có một số loại cây san hô có treo những quả nhỏ không biết là quả gì, rủ xuống trông rất đẹp.

Kê sát góc trong là một chiếc giường. Màn giường bằng lụa thuê màu xanh lá mạ. Có thể nhìn thấy bên trong giường mờ mờ hình dáng người đang nằm dưới chăn nệm màu phấn hồng, mái tóc xoã trên chiếc gối màu phấn hồng.

Văn Lý đặt một chiếc ghế cạnh giường rồi mời Đỗ Văn Hạo ngồi xuống. Ngay lúc đó bên ngoài có một tiểu nha hoàn bước vào, vái chào nói: "Lão gia, lão thái thái mời lão gia tới gặp, nói có chuyện gấp muốn gặp lão gia'.

Văn Lý cau mày nói: "Không thấy ta đang cùng Đỗ tướng quân ở đây chẩn bệnh cho tiểu thư sao?"

Nha hoàn sợ hãi, rụt rè nói: "Nhưng lão thái thái rất sốt ruột. Lão thái thái nói lão gia phải tới ngay".

Văn Lý còn định nói thêm, Đỗ Văn Hạo đã mỉm cười nói: "Không sao, Văn đại nhân bận việc cứ đi".

Văn Lý khom người nói: "Thỉnh tướng quân chữa bệnh cho tiểu nữ. Ty chức đi một lát rồi sẽ quay lại ngay" Nói xong Văn Lý lập tức rời khỏi phòng.

Đây là khuê phòng của tiểu thư khuê các, sau khi cận vệ Hứa Văn Cường dò xét ở cửa ra vào, không phát hiện ra điều gì bất thường nên đã đi ra ngoài phòng cảnh giới. Trong phòng chỉ còn lại Đỗ Văn Hạo và tiểu nha hoàn.

Tiểu nha hoàn đứng cạnh giường, khẽ nói: "Tiểu thư, Đỗ tiên sinh đã tới".

Người trong màn khẽ ừ một tiếng. Một cánh tay trắng bóc như tuyết vén màn thò ra ngoài.

Cánh tay mát lạnh như ngọc, mịn màng như phấn, mười ngón tay thon dài, mềm mại, trong suốt. Đôi bàn tay này đẹp đẽ vô ngần, làm cho trái tim Đỗ Văn Hạo rung động từng hồi.

Đỗ Văn Hạo vội vàng lắc đầu. Hắn muốn xua đuổi sự dao động trong lòng.

Đỗ Văn Hạo đặt ba ngón tay vào chiếc cổ tay trắng như tuyết của Văn tiểu thư. Ngay khi ngón tay hắn vừa chạm vào đó liền cảm thấy chỗ bên dưới ngón tay mềm mại như bông. Tâm thần hắn càng chấn động, hắn vội rụt tay lại một cách vô thức.

Đó là một cảm giác mà Đỗ Văn Hạo chưa từng gặp. Mặc dù dung mạo của Hoàng Thái Hậu xinh đẹp như vậy nhưng cũng chưa từng kích thích cảm giác ở ngón tay hắn như vậy.

Tiểu nha hoàn bên cạnh dường như nhìn thấy suy nghĩ trong lòng Đỗ Văn Hạo liền khẽ cười. Đỗ Văn Hạo nóng mặt khi thấy có kẻ đọc được nội tâm của mình. Hắn khẽ ho khan một tiếng, lấy lại bình tĩnh. Một lần nữa Đỗ Văn Hạo lại đặt ngón tay lên cổ tay ngọc của Văn tiểu thư.

Sau một hồi chăm chú bắt mạnh, Đỗ Văn Hạo phát hiện ba bộ mạch thốn quan xích bình thường, không nổi, không chìm, không nhanh, không chậm, không lớn, không thing dong hoà hoãn, hơi thờ điều hoà không có bệnh gì. Đỗ Văn Hạo thoáng sững sờ khi phát hiện ra điều này, hắn suy nghĩ một chút rồi hỏi: "Cô nương cảm thấy khó chịu ở đâu?"

Từ trong màn vang lên giọng nói yếu ớt của Văn tiểu thư: "Khó chịu ở ngực".

Nghe giọng nói đó, Đỗ Văn Hạo cảm thấy ngực mình như bị búa tạ giáng cho một búa, giọng nói quả thực rất kỹ miều, thanh âm mềm mại, uyển chuyển như gió nhẹ khẽ thổi, như tiếng hót của chim oanh. Nghe xong mấy lời này Đỗ Văn Hạo cảm thấy xương cốt toàn thân như tan ra, cổ họng khô rát, hắn không nhịn được nuốt nước bọt đánh "ực" một tiếng.

Vẻ kinh hãi của Đỗ Văn Hạo làm tiểu nha hoàn cười khách khách mãi không thôi.

Đỗ Văn Hạo thầm mắng bản thân mình không có tiền đồ gì cả. Mới nghe thấy giọng nói mà đã có biểu hiện như vậy. Nếu trong thấy người thật, không phải sẽ chảy máu mũi sao? Thực sự là không đứng đắn gì cả.

Đỗ Văn Hạo mấp máy miệng, cố gắng hỏi: "Ngoại trừ ngực khó chịu còn có chỗ nào khó chịu nữa không?"

"Đau bụng. Không muốn ăn. Ăn cái gì cũng không ngon".

Căn bản Đỗ Văn Hạo không nghe thấy lời của nàng nói. Hắn như chỉ nghe thấy thanh âm rì rào như gió thổi. Hắn kinh hãi khi phát hiện ra nhịp tim của mình hoà theo với nhịp điệu trầm bổng, uyển chuyển, lúc nhanh lúc chậm của giọng nói, giống như hắn đang vỗ tay tán thưởng giọng nói của nàng.

Đỗ Văn Hạo cảm thấy cổ họng mình khô bỏng như bốc lửa. Hắn cố gắng nín nhịn nhưng rốt cuộc vẫn không nhịn được. Một tiếng "ực" lại một lần nữa vang lên.

Tiểu nha hoàn lại cười khanh khách rồi khẽ nói: "Tiên sinh, tỳ nữ sẽ đi lấy cho người một chén trà để ngài bôi trơn cổ họng. Hì hì hì'.

Đỗ Văn Hạo cực kỳ lúng túng, hắn thì thào: "Làm phiền cô nương".

Tiểu nha hoàn liếc mắt nhìn Đỗ Văn Hạo cười rồi đi ra gian ngoài, thuận tay nàng kéo màn che xuống.

Cuối cùng trong phòng chỉ còn Đỗ Văn Hạo và tiểu thư Văn gia đang nằm trên giường. Đỗ Văn Hạo do dự một lát rồi cuối cùng hắn lấy hết dũng khí nói: "Tiểu thư, xin cho tại hạ vọng chẩn cho tiểu thư".

"Ừ, làm phiền tiên sinh".

Đỗ Văn Hạo giơ tay định vén tấm màn lụa lên nhưng hắn nhận ra cánh tay hắn khẽ run rẩy. Lúc này hắn mới đột nhiên nhận ra trong lòng hắn đang kích động vì sắp nhìn thấy dung nhan của Văn tiểu thư làm cho cánh tay cũng run rẩy theo.

Đỗ Văn Hạo nghiến răng ổn định cánh tay, rốt cuộc hắn cũng vén được tấm màn lụa lên nhưng khi tấm màn được vén lên cánh tay hắn vẫn run rẩy.

Khi tấm màn lụa được chậm rãi vén lên, Đỗ Văn Hạo nhìn thấy tấm mềm màu phấn hồng đang phập phồng. Tiếp theo đó hắn nhìn thấy một nửa bộ ngực với cặp tuyết lê trắng như tuyết loã lồ bên ngoài tấm mền. Mỹ nhân đang nằm nghiêng, cằm thon, đôi môi đỏ như son, hàm răng nhỏ đều, mũi cao thẳng, hai má đào trắng mịn, hồng hồng.

Nhìn tới đây, Đỗ Văn Hạo phát hiện ra nhịp đập của tim hắn như đã đông cứng lại. Đỗ Văn Hạo tiếp tục nhìn thì thấy dưới hai hàng lông mày kẻ đen, cong cong. Bên dưới đó là một đôi mắt sáng lấp lánh. Đôi mi mắt thật dài, một âm ảnh nhàn nhật thật nhanh hạ xuống, có vẻ mơ màng như màn sương ban mai. Khoé mắt nhếch lên. Hai con ngươi trong sáng, long lanh, vũ mị có một sức cuốn hút kỳ lạ tiêu hồn đoạt phách.

Trong thế giới này lại có một mỹ nữ như này sao?

Đỗ Văn Hạo nhìn tới ngây dại. Hắn thầm nghĩ tất cả các ngôi sao điện ảnh hắn từng nhìn thấy trước kia cộng lại cũng kém một bậc so với mỹ nữ này. Ngay cả một người đẹp như thiên tiên như Hoàng Hậu khi đứng trước mặt mỹ nữ này cũng lu mờ đi rất nhiều.

Đặc biệt là đôi mắt kia, không còn có thể gọi là con người nữa mà là hai vịnh thăm thẳm âm u. Ẩn giấu ở chỗ sâu nhất trong hai vịnh đó là thâm sơn. U nhã tĩnh mịch mà thần bí. Với ánh sáng chói lọi từ hai con ngươi đó, Đỗ Văn Hạo cảm thấy như bị vẻ tĩnh mịch đó hoà than, hoàn toàn không biết bản thân đang ở đâu nữa.

"Tiên sinh! Tiên sinh" Cuối cùng giọng nói uyển chuyển của Văn tiểu thư cũng vẫy gọi hồn phách của Đỗ Văn Hạo quay về. Đỗ Văn Hạo phát hiện ra đôi mắt mình cứng đơ. Nhớ lại một chút hắn mới nhận ra từ lúc nãy tới giờ đôi mắt hắn vẫn trợn tròn, không hạ xuống. Thảo nào bản thân hắn lại cảm thấy mắt mình cứng đơ.

Mặc dù Đỗ Văn Hạo si ngốc nhìn Văn tiểu thư như vậy nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn biết dáng vẻ đó không phải, hắn muốn cúi đầu xuống như cái cổ của hắn đã không còn thuộc về hắn, nó vẫn cứng đơ không cúi xuống. Hắn không nỡ cúi đầu xuống, không chiêm ngưỡng dung nhan của nàng nữa. Đôi mắt của hắn không còn nhanh nhẹn như trước, muốn nháy mà cũng không nháy, hắn chỉ còn thiếu nước chảy nước miếng ra mà thôi. Hắn ngây ngốc hỏi: "Cô nương có chỗ nào không thoải mái?"

Ánh mắt Văn tiểu thư đung đưa như sơn ca múa lượn, giọng nói yếu ớt phảng phất như gió thổi rì rào: "Bụng ta đau đớn, ở dưới đan điền".

"Để ta coi".

Ấn chẩn là một trong tứ chẩn của Trung y. Một khi bụng đau nhức, nhất định phải ấn chẩn để xác định vị trí đau đớn. Đây chỉ là một tình huống bình thường trong xem bệnh nhưng mà lúc này ngược lại Đỗ Văn Hạo lại thấy lo lắng, hắn chỉ sợ Văn tiểu thư không đồng ý.

Văn tiểu thư khẽ "ừ" một tiếng làm Đỗ Văn Hạo cực kỳ hớn hở. Mới chỉ nghĩ tới việc vòng eo ở trần của Văn tiểu thư, hai tay Đỗ Văn Hạo lập tức trở nên ong ong, hai cánh mũi hắn phập phồng như nổi sóng.

Chẳng lẽ chảy máu mũi ư? Đừng có hạ lưu như vậy!

Đỗ Văn Hạo vội vàng giơ tay lau chóp mũi một cái nhưng hắn không thấy máu liền khẽ thở dài ngay sau đó hắn nghe thấy Văn tiểu thư khẽ cười một tiếng. Tiếng cười như hờn giận như mừng vui, lại còn pha chút nũng nịu làm Đỗ Văn Hạo khoái trá tới mức không nhịn được chỉ muốn khoa chân múa tay. Máu trong người hắn tuân chảy mãnh liệt.

Đỗ Văn Hạo bật cười. Hắn nhận ra điệu cười của mình cực kỳ ngu ngốc, hắn xoa xoa tay vào đùi. Hắn cũng không biết tại sao bản thân mình phải làm như vậy. Đây chỉ là một động tác vô thức. Chẳng lẽ cần phải lau sạch tay để tránh làm bẩn Văn tiểu thư sao? Đỗ Văn Hạo biết không phải như vậy. Đây không phải động tác chỉ hoàn toàn là kiềm chế cảm xúc thì còn mang ý nghĩa gì nữa? Là một sự chuẩn bị sao?

Nhất định chuẩn bị làm cái gì đó?

Đỗ Văn Hạo biết đây chính là rối loạn trong tiềm thức của chính hắn. Hắn cảm thấy lòng bàn tay đổ rất nhiều mồ hôi, dinh dính. Đỗ Văn Hạo muốn lau tay nhưng cuối cùng hắn cũng kiềm chế được suy nghĩ trẻ con này.

Đỗ Văn Hạo cầm lấy góc chăn. Đây là một loại chăn mềm, không biết làm bằng tơ sợi gì, khi cầm vào tay có cảm giấc rất dễ chịu, tương tự với cảm giác hắn có được lúc trước khi chạm vào cổ tay để bắt mạch cho Văn tiểu thư.

Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng kéo chăn che bên dưới Văn tiểu thư ra. Cùng với việc chăn bị kéo ra, một mùi thơm lạ lùng xộc vào mũi càng lúc càng đậm hơn. Đây là hương thơm cơ thể của mỹ nữ sao? Đỗ Văn Hạo cũng không thể phân biệt được. Hắn chỉ nhận ra hương thơm này có chút kiều diễm, mùi hoa quỳnh. Mỗi lần hít vào một hơi lập tức máu trong người như sôi lên.

Đỗ Văn Hạo tham lam hít lấy mùi hương lạ lùng say đắm lòng người này. Hắn mặc kệ máu trong cơ thể mình bắt đầu nóng lên. Hắn chậm rãi lột tấm chăn che giấu thân thể mềm mại của Văn tiểu thư.

Ông trời ơi! Văn tiểu thư chỉ mặc một chiếc áo lót màu hồng nhạt, hơn nửa thân thể của nàng ở trần. Văn tiểu thư thẹn thùng dùng tay định che đi phần da thịt loã lồ của mình. Hành động của nàng ngược lại làm lộ ra một nửa đôi nhũ hoa, quanh co uốn lượn, thuần khiết như cánh hoa sen.

Đầu Đỗ Văn Hạo kêu 'ông' một tiếng

Nhưng rốt cuộc Đỗ Văn Hạo cũng không phải người thường. Nghị lực của hắn vẫn rất mạnh mẽ. Hắn cố gắng di chuyển ánh mắt về phía bụng dưới của Văn tiểu thư.

Vòng eo thon thả, nhỏ nhắn, đường cong mê người, tuyệt mỹ, tinh xảo khiến cho Đỗ Văn Hạo nhớ tới Xuân giang Hoa Nguyệt Dạ khúc*.

Xuống một chút nữa chính là nơi sâu kín.

Bàn tay kéo chăn xuống của Đỗ Văn Hạo rốt cuộc cũng dừng lại một cách khó nhọc. Đỗ Văn Hạo cực kỳ kích động, hắn chỉ muốn tiếp tục kéo chăn xuống dưới nhưng lý tính cuối cùng trong người hắn đã chiến thắng, khắc chế được thú tính trong con người hắn.

Trong thoáng chốc trong khi hắn thầm kiêu ngạo vì lý tính của chính mình. Hắn nhận ra trong quá trình kéo chăn ra của hắn, Văn tiểu thư chỉ lặng lẽ nằm, không có bất kỳ hành động nào ngăn cản việc kéo chăn xuống của hắn. Thậm chí trong thời khắc hắn sắp kéo lộ ra nơi thầm kín nhất của người thiếu nữ, thân thể mềm mại của nàng còn thoáng run rẩy. Đôi bàn tay mềm mại thon dàicủa nàng vẫn nắm chặt, không mở ra, cũng không có biểu hiện ngăn cản nào.

Phát hiện này bắt đầu làm cho tâm trạng điên cuồng của Đỗ Văn Hạo bắt đầu nổi sóng.

Đỗ Văn Hạo phát hiện ra bàn tay hắn lại run rẩy như thường lệ khi hắn vén áo lót của Văn tiểu thư lên. Hơi thở của Văn tiểu thư càng trở nên dồn dập, bộ ngực hấp dẫn của nàng cũng phập phồng lên xuống cùng với hơi thở của nàng.

Đỗ Văn Hạo không nhịn được ngẩng đầu nhìn lên thì thấy đôi mắt đẹp của Văn tiểu thư khép hờ. Làn môi thơm khẽ run rẩy, ngập ngừng muốn nói rồi lại thôi, hai gò má ửng hồng, xấu hổ như mỹ nhân say, vô cùng thẹn thùng pha lẫn chút bối rối.

Đỗ Văn Hạo cố gắng giữ bản thân mình bình tĩnh. Hắn đưa tay ấn chẩn trên bụng nàng nhưng hắn không phát hiện ra bất kkỳ điều gì bất thường. Đỗ Văn Hạo nói khẽ: "Cô nương, hãy để tại hạ xem lưỡi của cô nương".

"Ừ" Đôi môi anh đào của Văn tiểu thư hé mở, cánh lưỡi thơm mùi hoa sen dần lộ ra ngoài.

Lúc này đã vang lên tiếng trống canh một. Bầu trời đã tối đen. Đèn lồng đặt trên bàn trong phòng phát ra ánh sáng mờ mờ. Đỗ Văn Hạo không thấy rõ nên hắn muốn cúi gần xuống để xem xét cẩn thận. Mùi hương thân thể của Văn tiểu thư lan toả, hơi thở như hoa lan. Hương thơm kỳ lạ lúc này đây đã làm bầu máu nóng trong thân thể hắn bốc lên. Hắn chỉ muốn nhào tới hôn nàng, nhào tới chinh phục thân thể của nàng.

Suy nghĩ điên cuồng đó giống như độc xà chui vào trong đầu hắn khiến hắn gần như phát điên. Hắn định đứng dậy nhưng lại bối rối trượt ngã, thân thể hắn bổ nhào lên người Văn tiểu thư. Thậm chí Đỗ Văn Hạo đã nghi ngờ đây chính là sự cố ý của chính mình bởi vì trơng sâu thẳm tiềm thức của mình hắn cũng muốn vậy.

Đỗ Văn Hạo lúng ta lúng túng xin lỗi. Hắn muốn ngồi dậy nhưng khi hắn vừa chống tay xuống thì chạm ngay phải một chỗ cực kỳ co dãn, tròn trịa và mềm nhũn. Không cần cúi đầu nhìn Đỗ Văn Hạo cũng có thể đoán ra. Trong lúc bối rối bàn tay hắn đã đặt lên bộ ngực cao vút mà mềm mại của Văn tiểu thư.

Văn tiểu thư khẽ "a" lên một tiếng, nàng cầm lấy tay hắn. Dường như nàng muốn đẩy tay hắn ra nhưng cuối cùng lại trở thành nắm lấy không cho bàn tay hắn buông ra. Đỗ Văn Hạo càng lúc càng luống cuống, hắn muốn rút tay ra nhưng bàn tay hắn lại như keo dính, dính chặt trên bộ ngực của Văn tiểu thư không muốn rời.

Không biết bản thân hắn không còn sức để rụt tay lại hay không muốn rút lại. Bàn tay hắn vẫn bị bàn tay của Văn tiểu thư đè chặt, không rời.

Bộ ngực thiếu nữ của Văn tiểu thư dưới lòng bàn tay hắn không ngừng run rẩy, giống như hai chú thỏ trắng đầy sinh động muốn thoát khỏi sự khống chế của Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo càng bối rối hơn khi hắn phát hiện ra ánh mắt của Văn tiểu thư càng nồng ấm hơn, tràn ngập khát vọng cùng sự e ấp.

Ánh mắt của Văn tiểu thư làm thần trí Đỗ Văn Hạo hoàn toàn sụp đổ. Thú tính trong cơ thể hắn, khát vọng chinh phục nhục dục của nam nhân lan tràn khắp cơ thể hắn.

Đỗ Văn Hạo nhoài người lên hôn lên đôi môi mọng đỏ của Văn tiểu thư. Ma trao của hắn xoa nắn bộ ngực căng tròn của nàng một cách lỗ mãng. Thân thể Văn tiểu thư bên dưới người hắn giãy giụa như muốn giãy ra thoát khỏi hắn nhưng lại tựa như muốn phối hợp, lại càng giống với khiêu khích hơn.

Động tác đó của Văn tiểu thư làm Đỗ Văn Hạo tức giận. Lý trí của hắn đã bị dục hoả thiêu đốt sạch sành sanh. Hắn điên cuồng xé rách áo lót của Văn tiểu thư rồi cuống quýt lột y phục của mình sau đó giơ thương dũng mãnh ra trận.

Ngay khi Đỗ Văn Hạo tiến vào trong người Văn tiểu thư, nàng khẽ 'a" lên một tiếng rồi cắn mạnh một cái vào bả vai hắn. Hai cánh tay trắng như ngọc của nàng ôm ghì lấy lưng hắn, thân thể nàng mở ra nghênh đón hắn cưỡi ngựa rong ruổi.

Dông tố nổi lên. Cơn cuồng dã ban đêm, những điểm hồng xuất hiện.

Cuối cùng Đỗ Văn Hạo ngồi phịch trên người Văn tiểu thư thở hổn hển.

Đỗ Văn Hạo nghe thấy tiếng khóc rấm rứt của Văn tiểu thư, trong lòng hắn cực kỳ căng thẳng. Lý trí quay lại đầu hắn. Văn Lý đã nói sẽ quay lại ngay, còn có cả tiểu nha hoàn đi lấy trà. Nếu như hắn bị phát hiện trong tình trạng này…

Đỗ Văn Hạo hông dám nghĩ tiếp, lại càng không dám nghĩ tới trách nhiệm của chính mình. Hắn vội vàng ngồi dậy, luống ca luống cuống, vội vội vàng vàng mặc lại y phục vừa lắng tai nghe động tĩnh bên ngoài.

Nhưng ngoại trừ tiếng gõ mõ cầm cầm xa xa truyền tới, bên ngoài không có bất kỳ động tĩnh nào khác, giống như kiểu trong cả cái Văn phủ rộng lớn này chỉ có hai người đang hiện hữu. Tiểu nha hoàn kia nói đi lấy trà nhưng vẫn chưa quay lại. Có lẽ đã quay lại nhưng phát hiện ra sự việc nảy sinh nên thẹn thùng trốn mất. Còn Văn Lý thì sao. Không phải hắn cũng quay lại rồi chứ?

Đỗ Văn Hạo toát mồ hôi trán, hắn cẩn thận chỉnh lại trang phục ngay ngắn. Nhưng áo bào dễ sửa còn nỗi hổ thẹn trong lòng thì vô luận như nào đi nữa cũng không bao giờ có thể sửa lại được.

Trên giường Văn tiểu thư vẫn khe khẽ khóc, nước mắt ròng ròng, thoảng thoảng như gió nhẹ nhưng khi lọt vào tai Đỗ Văn Hạo không khác gì tiếng sét.

Đỗ Văn Hạo ngượng ngùng ngồi xuống ghế bên cạnh giường. Hắn thấy Văn tiểu thư nằm nghiêng người vào trong. Bờ vai trần khẽ rung rung theo tiếng khóc, làn da nàng trắng như tuyết lại khiến cho Đỗ Văn Hạo thoáng rung động trong lòng.

Đỗ Văn Hạo vội vàng trấn định tinh thần. Hắn lắp bắp không biết mở miệng thế nào. Sau khi suy nghĩ một lát hắn mới gắng gượng thốt lên một câu: "Cô nương, thực rất xin lỗi".

Giọng nói trầm trầm của Văn tiểu thư vang lên: "Ngươi hãy yên tâm đi".

Đỗ Văn Hạo ngẩn người. Hắn định đứng dậy rời đi một cách vô thức. Nhưng hắn nghĩ tới việc bản thân mình tới xem bệnh cho người ta không xem ngược lại còn cướp mất "cái kia" của người ta. Liệu có thể bỏ đi như vậy được không?

Tuy Đỗ Văn Hạo cảm thấy sự việc này phát sinh chủ yếu là do ánh mắt cùng cử động thân thể của Văn tiểu thư đã ám chỉ điều này khiến hắn cảm thấy Văn tiểu thư sẽ không từ chối hắn, thậm chí nàng còn hy vọng hắn sẽ làm như vậy. Đặc biệt là mùi thơm kỳ dị trên thân thể của Văn tiểu thư. Hương thơm lạ lùng đó đã nhen nhóm dục vong điên cuồng trong cơ thể hắn, tất cả cùng tụ hội một chỗ mới khiến cho hắn mất hết lý trí. Bằng không cho dù đối phương có là mỹ nữ, hắn cũng mượn cớ xem bệnh mà xâm phạm thân thể người ta. Những chuyện như này dù có đánh chết Đỗ Văn Hạo hắn cũng không làm được.

Thế nhưng bây giờ mặc kệ Văn tiểu thư có chủ động hay hấp dẫn chính hắn hay không, hắn cùng càng mặc kệ có phải mùi hương kỳ dị trên người nàng làm hắn mất hết lý trí hay không. Cho dù thế nào đi nữa, một sự thật là bản thân hắn đã chiếm đoạt thân thể Văn tiểu thư. Những đốm đỏ hồng rải rác trên giường đã chứng minh điều này.

Bây giờ phải làm sao đây. Chẳng lẽ rũ tay bỏ đi như vậy sao?

Đỗ Văn Hạo nhìn thân thể mềm mại của Văn tiểu thư. Hắn muốn đưa tay an ủi nàng nhưng lại không dám. Hắn đành phải nói khẽ: "Cô nương, ta thực sự xin lỗi. Thỉnh cô nương hãy cho ta biết nên làm gì để đền bù lỗi lầm của ta. Ta nhất định sẽ làm theo".

Sau khi nói xong những lời này, Đỗ Văn Hạo mới có cảm giác bản thân mình đã nêu lên một vấn đề rất ngu, thậm chí cực kỳ ngu ngốc, rất thấp hèn, quá chiếm lợi thế, thậm chí rất xấu xa.

Văn tiểu thư chậm rãi quay người lại, hai mắt nàng đẫm lệ nhìn hắn. Nàng nhẹ nhàng lắc đầu, ánh mắt nàng tràn ngập sự ai oán, đau đớn cùng nỗi tuyệt vọng.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo cực kỳ áy náy khi nhìn thấy nước mắt đọng trên gương mặt trắng đẹp, nõn nà của nàng. Cuối cùng hắn cũng lấy hết can đảm, đưa tay vuốt ve bờ vai tròn của nàng, khẽ nói: "Ta làm ô nhục thân thể cô nương. Ta nhất định phải trả lại công bằng cho cô nương. Nếu như cô nương không chê ta. Ngày mai nhất định ta sẽ tới nhà cầu thân, xin lấy cô nương, có được không?"

Hắn nghĩ tới việc hôm nay đã biến một cô nương mỹ mạo tuyệt luân như tiên nữ không nhuốm bụi trần thành nữ nhân của mình, ngày ngày cùng nàng ôn nhu tiến lên đỉnh Vu Sơn, quả thật không khác gì một đôi uyên ương làm máu nóng trong cơ thể hắn lại sôi lên.

Ánh mắt Văn tiểu thư chợt loé lên sự vui mừng khi nghe thấy Đỗ Văn Hạo nói vậy nhưng rồi này lại buồn rầu nói khẽ: "Thiếp nghe nói tướng quân đã có thê thiếp".

"Ừ" Đỗ Văn Hạo cảm thấy xấu hổ, hắn áy náy hỏi khẽ: "Không biết cô nương có thể uỷ khuất làm thiếp của ta được không?"

Văn tiểu thư cười cay đắng, nước mắt lại tuôn rơi, nàng khóc nói: "Cha thiếp là Tể tướng đương triều. Nhất định người sẽ không đồng ý cho thiếp làm thiếp người ta".

Đỗ Văn Hạo kinh hãi, hắn lắp bắp hỏi: "Cha tiểu thư không phải là Viên ngoại lang bộ lễ sao?"

"Không, cha ta là Tể tướng".

"Cha cô nương tên gọi là gì?"

"Tên huý của gia phụ là Vương Giai".

"Vương Giai? Tể tướng Vương Giai là cha cô nương?"

"Ừ. Đúng là gia phụ".

-----***-----

* Đây là bài thơ Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ với bản dịch của Trần Trong Kim

Xu: 400

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 390: Thiên hạ đệ nhất mỹ nữ (1+2).

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Đỗ Văn Hạo kinh ngạc không hiểu gì bèn hỏi: "Cô nương không phải là tỷ tỷ của Văn Phượng cô nương sao?"

Vương Nhuận Tuyết nói: "Là do ta cùng Văn Phượng kết bái tỷ muội".

"Hả?" Đỗ Văn Hạo cực kỳ kinh ngạc hỏi: "Vậy tại sao cô nương lại ở trong Văn gia?"

"Điều này thì có gì lạ. Văn Phượng cũng có một phòng tại nhà của ta".

"Thì ra là thế. Không dám xin thỉnh giáo phương danh của cô nương".

"Nhuận Tuyết".

"A, thì ra là Nhuận Tuyết cô nương. Quả thực người cũng như tên. Cô nương là người thanh cao thoát tục, trong sáng như tuyết trắng".

Vương Nhuận Tuyết cười xấu hổ nói: "Cám ơn tướng quân" Đôi mắt óng ánh nước mắt của nàng lại bừng sáng làm Đỗ Văn Hạo nhìn thấy lại như ngây dại.

Đúng lúc đó bất chợt bên ngoài vang lên giọng nói truyền đến từ xa: "Đỗ tướng quân có còn ở bên trong không?"

Bên ngoài cửa có tiếng của một thiếu nữ đáp lại: "Còn, vẫn đang xem bệnh cho tiểu thư".

Nghe giọng nói thì đúng là của tiểu nha hoàn đi lấy trà lúc trước.

Đỗ Văn Hạo kinh hãi giật nẩy mình. Hắn đứng dậy đi quanh phòng một vòng. Hắn không biết làm gì bây giờ.

Vương Nhuận Tuyết khẽ cười, nàng nhổm nửa người lên, cánh tay trắng muốt duỗi ra nhẹ nhàng buông tấm màn lụa xuống.

Đỗ Văn Hạo thấy Vương Nhuật Tuyết bình tĩnh như vậy, bản thân mình thì luống cuống như một kẻ trộm thì không khỏi xấu hổ. Hắn vội vàng trấn tĩnh. Hắn khẽ vén một góc màn trướng lên, trầm trầm nói với Vương Nhuận Tuyết: "Nhuận Tuyết cô nương hãy yên tâm. Ta sẽ gánh chịu trách nhiệm về chuyện lúc trước. Hãy chờ tin của ta, được không?"

Trong mắt Vương Nhuận Tuyết sự vui mừng. Nàng khẽ gật đầu, kéo chiếc chăn che người, nàng nằm trong chăn, hai mắt long lanh ẩn chứa tình cảm thầm kín nhìn Đỗ Văn Hạo.

Nghe thấy tiếng bước chân vang lên ngoài cửa, Đỗ Văn Hạo vội vàng buông màn xuống, lui lại mấy bước. Hắn quay lưng lại làm bộ đang thưởng thức một chậu lan điếu trên tường.

Tiếng cánh cửa bị đẩy ra "két' một tiếng. Giọng nói của Văn Lý vang lên bên gian ngoài: "Đỗ tướng quân, thật sự có lỗi khiến cho ngài phải đợi lâu" Nói xong Văn Lý vén màn cửa lên tiến vào, chắp tay tạ lỗi.

Đỗ Văn Hạo có tật giật mình. Hắn quay người nhìn sắc mặt của Văn Lý. Ngoại trừ vẻ áy náy trên gương mặt ấy, vẫn là vẻ bình tĩnh như chưa phát hiện ra chuyện gì. Đỗ Văn Hạo hơi trấn tĩnh, hắn vội chắp tay nói: "Không sao, tại hạ cũng vừa mới xem xong bệnh cho tiểu thư".

"Ai, không biết tiểu nữ mắc bệnh gì?"

Đỗ Văn Hạo lưỡng lự một lát, hắn liếc nhìn màn giường, hắn tiến lại hai bước, hỏi nhỏ Văn Lý: "Có thật vị cô nương này là lệnh ái không?"

Văn Lý thoáng giật mình sau đó hắn cười hì hì nói: "Cũng coi như vậy nhưng thật ra là thiên kim tiểu thư của Tể tướng Vương Giai, Vương đại nhân. Bởi vì tiểu thư hợp tính với tiểu nữ nên kết làm tỷ muội vì vậy cũng gọi ty chức là phụ thân".

Quả nhiên là như vậy. Đỗ Văn Hạo thầm than thở trong lòng. Nếu cô nương trước mặt là nữ nhi của vị Văn đại nhân này thì hắn còn có khả năng thuyết phục Văn Lý gả nữ nhi cho hắn làm tiểu thiếp nhưng bây giờ người ta là đương nhiên Tể tướng của triều đình, tương đương với chức vụ thủ tướng quốc vụ viện ở hiện đại, quan chính nhất phẩm, còn cao hơn bản thân hắn ba cấp. Hắn muốn một nhân vật như vậy gả nữ nhi cho hắn làm thiếp thì quả thực là đang hy vọng hão huyền.

Nhưng vừa rồi chính hắn đã chiếm đoạt thân thể của cô nương kia. Món nợ này tính toán sao đây? Bồi thường tiền sao? Người ta là Tể tướng cần mấy món tiến bẩn dơ bẩn đó sao? Hơn nữa không thể xách quần đứng dậy là coi như không có chuyện gì. Chuyện xấu xa như vậy hắn không thể làm được.

Bây giờ phải làm sao đây? Trong đầu Đỗ Văn Hạo không ngừng tính toán.

Văn Lý thấy dáng vẻ chán nản như mất hồn của Đỗ Văn Hạo, chưa phát hiện ra tâm trạng của hắn nên vội vàng hỏi: "Tướng quân, bệnh tình của tiểu nữ đáng lo ngại lắm sao?"

Đỗ Văn Hạo lấy lại tinh thần. Hắn thầm nghĩ Vương Nhuận Tuyết cô nương này quả thực không có bệnh gì. Có thể là khẩu vị không tốt, ăn ít nên thân thể có cảm giác không khoẻ nên mới mời hắn tới xem bệnh, kết quả đã làm hắn vướng vào món nợ phong lưu này, coi như đây cũng là ý trời nên hắn vội lắc đầu nói: "Không có gì đáng ngại, thân thể của tiểu thư không có vấn đề gì lớn, chỉ là khẩu vị không tốt lắm. Tại hạ sẽ kê một đơn thuốc, chỉ cần điều trị qua là khỏi".

Văn Lý thở phào nói: "Vậy là tốt rồi. Đa tạ tướng quân. Mời tướng quân" Văn Lý nghiêng người mời Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn tuyệt thế mỹ nhân nằm trên giường trong tấm màn lụa vừa cùng với hắn mây mưa lên đỉnh Vu Sơn, cảnh tượng kiều diễm, hương vị vẫn còn lưu lại trên người trong lòng càng lưu luyến nhưng hắn không dám biểu lộ, đành phải buồn bực vô cớ bước chân đi ra gian ngoài. Đỗ Văn Hạo đi tới trước án, cầm bút viết một đơn thuốc đưa cho Văn Lý.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn ánh trăng rủ xuống tấm mành cửa thông phòng, khẽ thở dài một tiếng, cuối cùng tinh thần kiên định, hai tay chắp sau lưng bước chân ra khỏi cửa.

Tiểu nha hoàn ở cửa liếc nhìn Đỗ Văn Hạo cười thầm. Đỗ Văn Hạo chột dạ, hắn gượng cười, cúi đầu đi xuống bậc thềm.

Khi ngồi kiệu rời khỏi Văn gia về phủ, Đỗ Văn Hạo không biết trong lòng mình có cảm xúc gì, hắn nghĩ tới mỹ cảnh, hương vị ôn nhu lúc trước mà như đã trôi qua mấy thế hệ. Hắn chỉ muốn quay lại trực tiếp tới tìm Vương Giai cầu thân nhưng việc sắp đặt danh phận thế nào thì hắn không thể tìm ra cách giải quyết. Hắn thực sự không có dũng khí mở miệng để Tể tướng đương triều gả nữ nhi cho hắn làm tiểu thiếp.

Khi Đỗ Văn Hạo về tới Ngũ Vị đường trong cơn hốt hoảng, mấy người Bàng Vũ Cầm vẫn một mực chờ hắn ăn cơm.

Đỗ Văn Hạo ăn cơm một cách uể oải sau đó hắn quay về phòng nằm nghỉ. Chúng nữ nghĩ rằng hắn phiền lòng vì việc công nên không dám quấy rầy hắn.

Đêm nay tới lượt Bàng Vũ Cầm hầu hạ. Khi Bàng Vũ Cầm vào trong phòng, Đỗ Văn Hạo đang nằm nghiêng người vào trong. Bàng Vũ Cầm nhẹ nhàng thoát quần áo của mình. Nàng thổi tắt đèn rồi nương theo ánh trăng nhàn nhạt chiếu qua khe cửa sổ bước lên giường, nàng bò qua chân của Đỗ Văn Hạo ở cuối giường vào bên trong, nhẹ nhàng vén chăn chui vào, cuộn người lại, nàng chỉ sợ đánh thức Đỗ Văn Hạo.

Thật ra Đỗ Văn Hạo không ngủ. Hắn từ từ nhắm hai mắt lại, đưa tay ôm vòng eo mịn màng của Bàng Vũ Cầm, kéo nàng vào ngực mình.

Bàng Vũ Cầm dựa sát vào người phu quân mình. Đột nhiên nàng hít hít mũi, khẽ nói: "Phu quân, trên người phu quân thơm quá".

"Thật vậy sao?" Đỗ Văn Hạo thoáng giật mình. Hắn cũng hít hít mũi, lập tức hắn phát hiện sau cơn bão tố của hắn và cô nương Vương Nhuận Tuyết kia, thân thể của hắn đã dính mồ hôi của nàng. Tất nhiên cơ thể hắn cũng có mùi thơm khác thường của nàng, hắn ngượng ngùng nói: "Là mùi hương xông quần áo".

"Không phải. Hương thơm xông quần áo của chúng ta không có mùi như vậy" Bàng Vũ Cầm nhìn Đỗ Văn Hạo nói.

Đỗ Văn Hạo nhéo nhéo gương mặt nàng và nói: "Có lẽ là hương xông trong nội cung" bất chợt tới đó hắn nhớ ra cả ngày hôm nay hắn hoàn toàn ở trong doanh binh, không đi vào nội cung nên vội vàng sửa lại. "Không phải. Ta nhớ ra rồi. Nhất định là mùi thơm trong phòng của tiểu thư Văn gia. Mới rồi ta tới Văn gia xem bệnh cho đại tiểu thư. Trong phòng của vị đại tiểu thư kia có đủ các loại kỳ hoa dị thảo, hương thơm xộc vào mũi. Ha ha, mấy nữ nhân các nàng chỉ muốn trong khuê phòng của mình có hương thơm. Khuê phòng của nàng trước kia cũng vậy. Ha ha ha".

Bàng Vũ Cầm cười nhẹ, nàng vung tay đánh vào vai Đỗ Văn Hạo.

"Ôi chao!" Đỗ Văn Hạo buột miệng kêu lên một tiếng.

Bàng Vũ Cầm cực kỳ kinh ngạc. Nàng thấy có vẻ như không phải Đỗ Văn Hạo đang giả đò. Nàng vội vàng sờ tay vào thì phát hiện bả vai Đỗ Văn Hạo có một vết thương, nàng kinh hãi lắp bắp nói: "Phu quân, vai chàng bị làm sao vậy?"

"Không biết" Đỗ Văn Hạo cũng sờ thử, hắn cũng rất kỳ quái. Hắn tuyệt đối không nhớ nổi vết thương đó xảy ra khi nào.

Bàng Vũ Cầm nghe Đỗ Văn Hạo nói cũng không biết thì cũng luống cuống, nàng vội vàng nhổm nửa người dậy, vén màn kêu lên: "Anh Tử, Anh Tử, mau lấy đèn".

Anh Tử đang nằm ở gian ngoài. Bởi vì nàng phải thường xuyên săn sóc việc đi tiểu đêm của Đỗ Văn Hạo nên trong phòng có một chiếc đèn lồng để cả đêm. Nàng cũng vừa mới nằm nghỉ, nghe Bàng Vũ Cầm gọi liền vội vàng choàng dậy, khoác vội chiếc ao choàng cầm đèn lồng vào trong. Anh tử vén màn lên móc vào móc treo, nàng xách đèn lồng soi gần vào. Nhị nữ kêu "a" lên một tiếng.

Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn nghiêng, hắn phát hiện trên bả vai hắn có một vết thương hình lưỡi liềm. Hắn là người học pháp y , một vết thương như vậy cũng nhìn không ra thì quả thực không phải quá kém cỏi sao? Đó là một vết răng cắn.

Ngay khi phát hiện ra vết răng cắn, lập tức Đỗ Văn Hạo đã nhớ ra khi hắn chiếm đoạt sự trong trắng của Vương Nhuận Tuyết, Vương Nhuận Tuyết vì đau đớn đã cắn vào bả vai hắn.

Đỗ Văn Hạo có thể hiểu, Bàng Vũ Cầm và Anh Tử không phải là người ngốc nghếch. Tất nhiên hai người cũng nhận ra. Cả hai người nghi ngờ liếc nhìn vết thương. Anh Tử là người hiểu chuyện, nàng nói khẽ: "Thiếu gia, phu nhân, không còn việc gì nữa thì tỳ nữ về ngủ".

Hai người đều im lặng. Ngay khi Anh Tử cầm đèn lồng ra ngoài, trong phòng lại lập tức trở nên tối đen.

Bàng Vũ Cầm nằm xuống, nàng nằm nghiêng người vào trong, cuộn tròn người, giống như một con mèo nhỏ đang chịu oan ức.

Đỗ Văn Hạo áy náy trong lòng. Hắn ôm bờ vải của nàng, hôn lên đó, nói khẽ: "Vũ Cầm, có chuyện này ta nhất định phải nói cho nàng biết. Đây là một chuyện rất hệ trọng".

Bàng Vũ Cầm vốn vẫn nằm nghiêng, không để ý tới Đỗ Văn Hạo nhưng khi nàng nghe xong hắn nói câu cuối cùng thì lập tức quay người lại. Đôi mắt sáng chăm chú nhìn hắn, vẫn không nói câu nào.

Đỗ Văn Hạo kéo Bàng Vũ Cầm vào ngực mình, nói khẽ: "Ta đã gây ra đại hoạ. Một khi giải quyết không tốt sẽ bị bãi miễn chức quan".

Thân thể Bàng Vũ Cầm khẽ run lên: "Đã xảy ra chuyện gì?"

"Ta…ta đã chiếm đoạt nữ nhi của quan Tể tướng. Cái vết thương ở bả vai của ta là do nàng ta cắn".

"Hả? Tại sao lại như vậy?" Bàng Vũ Cầm sợ hãi tới mức nàng run lên, ôm chặt người hắn.

Là thiên kim tiểu thư của gia đình quan lại nên đương nhiên nàng hiểu rõ đạo lý quan trên đè chết cấp dưới. Huống chi người ta còn là quan Tể tướng, ở dưới một người, ở trên vạn người. Phu quân của nàng làm nhục khuê nữ nhà người ta. Bãi chức quan là vẫn còn nhẹ.

"Ta cũng không biết tại sao lại xảy ra điều này" Đỗ Văn Hạo cười gượng, hắn lúng túng kể lại chuyện đã xảy ra.

Khi Đỗ Văn Hạo thuật lại Bàng Vũ Cầm không nói một lời, nghe xong nàng mới buồn bã nói: "Thiếp cảm thấy hình như đây chính là một cái bẫy".

Đỗ Văn Hạo hơi sửng sốt hỏi: "vì nguyên nhân gì? Tại sao lại là cái bẫy?"

"Nếu như nàng ta là tiểu thư khuê các, thiên kim của Tể tướng, lại bị đau bụng, biết rõ chàng sẽ ấn chẩn vậy tại sao lại ăn mặc một chiếc áo lót mỏng manh như vậy? Trong khi đó hết lần này tới lần khác trong phòng không có bất kỳ ai khác. Đừng nói là chữa bệnh cho nữ nhi của Tể tướng. Ngay chính bản thân thiếp năm đó còn rất nhỏ khi cần chẩn bệnh thì bên người lúc nào cũng phải có nha hoàn hay bà vú hầu hạ, trong khi đó nàng ta đường đường là thiên kim của Tể tướng lại chỉ có một mình trong phòng với chàng. Không phải như vậy rất kỳ quái sao?"

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: "Đúng vậy. Ta cũng cảm thấy rất kỳ quái".

Dù Đỗ Văn Hạo nói là kỳ quái nhưng thật ra ngay lúc đó hắn hoàn toàn không có bất kỳ suy nghĩ nào. Khi đó hắn đã bị Vương Nhuận Tuyết mê hoặc tới chết mê chết mệt. Không thấy lo lắng, kỳ quái gì cả.

Bàng Vũ Cầm lại nói: "Đặc biệt mùi thơm lạ lùng trên người chàng lúc nãy. Chàng nói cái mùi thơm đó làm chàng không kiềm lòng được nên mới xảy ra chuyện. Liệu có phải bọn họ dùng loại hương này để mê hoặc chàng không?"

Trong lòng Đỗ Văn Hạo hoàn toàn không có cái gì gọi là hận mùi hương đó. Nếu như không có mùi hương đó, hắn sao có thể như một tặc đảm Bá vương chiếm đoạt thân thể ngọc ngà của tuyệt sắc giai nhân đó? Nhưng hắn lại làm ra vẻ vô cùng oán hận nói: "Đúng vậy. Ta đã hiểu nguyên nhân ta không kiềm chế nổi lòng mình. Hừ".

Bàng Vũ Cầm buồn bã nói: "Vương Tể tướng này có hai nữ nhi quả thực là nổi danh kinh thành, đặc biệt người con gái thứ hai được xưng là thiên hạ đệ nhất mỹ nữ. Khắp kinh thành này không ai không biết. Cho dù không cần mùi thơm lạ lùng đó thì chỉ e tướng công cũng không giữ nổi lòng mình".

"Thật vậy sao? Nàng ta là thiên hạ đệ nhất mỹ nữ ư? Ha ha. Ai nói như vậy?" Bên ngoài miệng tựa như Đỗ Văn Hạo không đồng ý nhưng trong lòng hắn lại cực kỳ tán thưởng. Cũng chỉ có cái danh xưng thiên hạ đệ nhất mỹ nữ mới xứng đáng với nhan sắc của Vương Nhuận Tuyết cô nương.

"Khắp kinh thành này còn ai là không biết? Vương Tể tướng có năm nhi tử cùng với hai nữ nhi. Cả hai nữ nhi này đều có dung mạo khuynh quốc khuynh thành. Khi đi ra ngoài phố, cả hai đều dùng kiệu, che mặt. Đơn giản là nếu không ngồi kiệu, che mặt thì sẽ có rất nhiều người đứng lại ngắm nhìn, thêm nữa có rất nhiều nam nhân điên cuồng si ngốc chạy theo là con phố bị tắc nghẽn, ngay cả các bộ khoái tuần tra trên phố cũng quên mất nhiệm vụ của mình. Vì thế trên phố chỉ có những nam nhân khóc khóc cười cười như điên khùng".

"Ha ha. Thật vậy sao? Có phải nói quá lời không?" Thật ra trong lòng Đỗ Văn Hạo cũng đã tin tưởng như vậy. Ngay bản thân hắn khi lần đầu tiên nhìn thấy Vương Nhuận Tuyết cô nương cũng có bộ dáng ngây ngốc.

"Thiếp chỉ nghe người ta nói".

"Trưởng nữ của Vương Tể tướng gả cho đại văn hào Lý Cách Phi. Thứ nữ là hòn ngọc quý trong tay Vương Tể tướng, tới nay vẫn là khuê nữ. Nghe nói vị thiên kim tiểu thư này là người rất kiêu ngạo.

Bây giờ chàng đạp cửa xông vào lại không chống cự, nhất định là có chuẩn bị trước".

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: "Thật vậy sao?" Hắn nghĩ tới việc một mỹ nữ như vậy đã bị mình chinh phục, trong lòng có chút lâng lâng sung sướng.

Bàng Vũ Cầm lại quan tấm tới kết quả của chuyện này, nàng hỏi tiếp: "Nếu như đây chính là một cái bẫy vậy bọn họ có đặt điều kiện gì với chàng không?"

"Không có. Hình như Văn Lý còn không phát hiện ra chuyện này. Vương Giai cũng không xuất hiện. Nếu như đây là một cái bẫy, bọn họ hẳn phải bắt tại trận. Khụ khụ, ngay khi xảy ra chuyện bọn họ phải xuất hiện ép buộc ta. Tại sao bọn họ lại mặc kệ, từ đầu đến cuối mặc kệ như vậy?"

"Đây mới là chỗ caom minh của bọn họ" Bàng Vũ Cầm nói khẽ: "Bọn họ hiểu rằng chàng là người ăn mềm không ăn cứng. Nếu như dùng việc này bức chàng, chỉ e sẽ có tác dụng ngược lại. Hơn nữa bọn họ hoàn toàn tin tưởng vào mị lực của Vương cô nương, hiểu rằng chàng nhất định sẽ mắc câu nên mới lấy tĩnh chế động để chàng ngoan ngoãn chui đầu vào lưới, tự nguyện ra sức vì bọn họ".

"Nàng lại còn nói tự chui đầu vào lưới" Đỗ Văn Hạo ngoài miệng miễn cưỡng nói lo lắng nhưng thật sự trong lòng hắn hiểu rất rõ ràng. Trái tim hắn quả thực đã bị thiên hạ đệ nhất mỹ nữ này cầm tù. Từ lúc hắn rời khỏi Văn phủ tới giờ, trong đầu hắn luôn in đậm bóng hình yêu kiều của Vương Nhuận Tuyết cô nương, luôn luôn như đang hiện hữu trước mắt hắn. Coi như hắn đã đi đời, đã rơi vào một lưới tình không thể tự thoát ra ngoài, hắn cũng đã cam tâm chui đầu vô lưới nên đành ngượng ngùng tự giễu mình: "Ta có cái gì mà có thể dốc sức cho bọn họ?"

Đỗ Văn Hạo vừa nói xong câu này liền hiểu ra. Hiện tại Vương Giai muốn bản thân hắn dốc sức chỉ e chính là vì chuyện thừa kế ngôi vị Hoàng Đế. Triều đình và dân chúng cũng đều biết hắn là người tâm phúc của Hoàng Thái Hậu. Câu nói của Hoàng Thái Hậu khi xuất quan chính là hỏi xem hắn đã quay về hay chưa sau đó liền đem ngay quyền chỉ huy tam nha giao cho hắn. Thậm chí Hoàng Thái Hậu còn không ngần ngại giam lỏng hai nhi tử của mình. Nếu như trong triều đình và thần dân, người có thể tác động tới quyết định của Hoàng Thái Hậu chỉ e là chỉ có một mình hắn vì vậy Đỗ Văn Hạo tự giễu cợt mình: "Tại sao ta phải dốc sức vì bọn họ?'

"Chàng trở thành con rể của Vương Tể tướng, đương nhiên bọn họ muốn chàng dốc sức vì bọn họ".

"Con rể ư? Ta đã có nàng".

"Có lẽ bọn họ đang chờ đợi chàng bỏ vợ lấy Vương cô nương".

Đỗ Văn Hạo nghe thấy mấy câu nói u oán của Bàng Vũ Cầm, hắn nhẹ nhàng nhéo một cái vào kiều đồn mịn màng, ở trần của nàng nói: "Không được phép nói bậy. Thể tử của ta chỉ có một mình nàng. Cho dù phải mất chức quan, đao kề cổ, ta cũng không từ bỏ vợ, lấy vợ khác".

Dù trong thâm tâm Đỗ Văn Hạo không thể từ bỏ Vương Nhuận Tuyết cô nương nhưng không vì thế mà bắt hắn phải từ bỏ vợ. Hắn thật sự không thể làm được. Không nói tới việc Bàng Vũ Cầm đã chiếm một vị trí trong trái tim hắn, cho dù chỉ là chuyện đạo nghĩa hắn cũng không thể làm như vậy. Hắn không thể làm được cái chuyện mặt người dạ thú đó.

"Phu quân" Trong lòng Bàng Vũ Cầm vừa vui mừng vừa đau xót. Nàng nằm trong lồng ngực Đỗ Văn Hạo, nước mắt chảy ròng ròng.

Đỗ Văn Hạo dỗ dành nàng: "Đừng lo lắng. Hãy ngủ đi. Phu quân ta sẽ xử lý tốt chuyện này".

Bàng Vũ Cầm khóc gật đầu, nàng lau nước mắt nói: "Nhưng dù sao phu quân cũng đã chiếm đoạt khuê nữ nhà người ta, nhất định phải trả lại người ta sự công bằng. Dù người ta không nói chúng ta cũng không thể coi như không biết. Nhưng người ta là thiên kim của Tể tướng, không thể làm thiếp. Bây giờ phải làm gì đây?"

Đỗ Văn Hạo thầm kêu khổ trong lòng nhưng hắn vẫn ra vẻ không quan tâm: "Yên tâm đi. Xe tới trước núi, ắt có đường. Nếu như thực sự bức bách quá, ta sẽ từ quan quay về mở một dược đường, làm một lang trung. Cùng lắm thì như vậy chứ sao".

Nghe phu quân của mình nói như vậy, Bàng Vũ Cầm còn có thể nói cái gì đây? Nhưng nàng cũng không thể thiêu đốt sự nghiệp của trượng phu mình. Chỉ vì chuyện này mà bao công sức đổ xuống sông xuống biển, thậm chí gặp đại hoạ. nàng nằm nép vào ngực phu quân, mắt đẫm lệ, trong lòng tràn ngập tâm sự.

Đỗ Văn Hạo nói xong câu đó thì tảng đá đè nặng trong lòng hắn cũng được hạ xuống. Hắn ngủ gà ngủ gật, tay ôm Bàng Vũ Cầm nhưng trong đầu hắn vẫn hiện lên hình ảnh xinh đẹp của Vương Nhuận Tuyết cô nương, hắn đang mơ mơ màng màng thì Bàng Vũ Cầm nói một câu làm bừng tỉnh: "Phu quân. Hay cả hai cùng làm thê, được không?"

"Đồng thê?"

Đồng thê có nghĩa là cưới hai thê tử, cả hai đều có cưới hỏi đàng hoàng, đều có địa vị như nhau. Con cái sinh ra đều được coi là vợ cả, đều có quyền thừa kế. Sau khi qua đều, hai thê tử này đều có quyền chôn cất trong phần mộ tổ tiên, được xếp bài vị trong từ đường của dòng họ. Trong khi đó thiếp không có những quyền lợi trên.

Xu hướng hôn nhân chủ yếu trong thời cổ đại là nhất phu, nhất thê, đa thiếp. Pháp luật quy định chỉ có thể có một thê nguyên phối. Nếu có đa thê sẽ bị xử tử. Thế nhưng lực ràng buộc của chế định pháp luật cổ đại rất yếu. Quy định hôn nhân này thường xuyên bị phá vỡ. Không chỉ trong dân chúng đầu trọc mới xuất hiện việc đồng thê mà trong giới vương công, đại thần hiện tượng đồng thê cũng xuất hiện tương đối nhiều.

Đỗ Văn Hạo xuyên việt tới triều Tống đã nhiều năm. đương nhiên hắn cũng hiểu biết về hiện tượng hôn nhân này nhưng hắn là người hiền như khúc gỗ nên cũng không nghĩ tới biện pháp giải quyết vượt mức pháp luật này. Bây giờ hắn nghe thấy Bàng Vũ Cầm chủ động nói ra thì thoáng sững người hỏi: "Đồng thê, bắt buộc phải vậy sao?"

Bàng Vũ Cầm gượng cười nói: "Ngoại trừ đồng thê, chúng ta không còn biện pháp nào khác".

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một lát rồi ôm Bàng Vũ Cầm nói: "Thế thì thiệt thòi cho nàng quá".

Lệ trào ra khoé mắt, Bàng Vũ Cầm gượng cười nói: "Phu quân rất tốt với thiếp. Thiếp còn thiệt thòi gì nữa sao. Việc này đã bị định đoạt như này, nhất định không thể để người ta bị thiệt thoài. Mặc kệ bọn họ có mục đích gì, việc chúng ta làm chúng ta phải chịu trách nhiệm. Sáng sớm mai thiếp sẽ cho người tới mai mối".

"Điều này…".

"Việc này cứ nghe lời thiếp đi nha? Chàng không cần để ý, cứ để thiếp xử lý là được".

Đỗ Văn Hạo thấy ấm áp trong lòng, thật sự không thể nói gì nữa khi cưới được một người vợ khéo léo chiều lòng phu quân như nàng. Hắn cực kỳ cao hứng khi ôm sát Bàng Vũ Cầm vào người, còn cả kích động cùng với hổ thẹn.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 391: Vụ Án Oan Ức (1+2).

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Đỗ Văn Hạo vẫn đến chỗ làm việc như mọi khi, nhưng người đi cùng thị sát là Lý Hàng phát hiện ra Đô Chỉ Huy hôm nay có vẻ thất thần, bồn chồn bất an, đứng ngồi không yên, không chú ý đến xung quanh. Tuy hai mắt của Đỗ Văn Hạo vẫn chăm chú nhìn binh sĩ luyện tập, nhưng thực chất trong lòng của hắn đang nghĩ vẩn vơ lung tung, lúc thì hắn cau mày lại, lúc lại mỉm cười ngu ngơ. Khi thủ hạ của Đỗ Văn Hạo lên bẩm báo cho hắn, thì hắn cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ, mãi phải đến khi tên thủ hạ nhắc lại lần hai thì hắn mới giật mình tỉnh lại. Vậy nhưng những chỉ thị của hắn đưa cho thủ hạ lại lung ta lung tung, không ăn nhập với chủ đề gì cả.

Đến buổi trưa, Đỗ Văn Hạo quay trở lại tiền điện để xử lý một số công vụ của Nha Môn.

Đúng lúc này, binh sĩ đến bẩm báo nói rằng Tể Tướng Vương Giai đến thăm.

Đỗ Văn Hạo khi nghe thấy có Tể Tướng đến chơi thì chiếc bút trong tay của hắn rơi luôn xuống đất, thần trí trở nên hốt hoảng lo lắng vô cùng, hắn vội vã đứng dậy rồi lại ngồi xuống bộ dạng vô cùng bất an, nhưng cũng không thể để Tể Tướng đứng chờ mình mãi được, bất đắc dĩ hắn mới cho người đi mời Vương Giai vào trong.

Đỗ Văn Hạo lúc này đã quần áo chỉnh tề, cố gắng chấn tĩnh bước vào trong phòng khách. Khi vào trong này thì hắn đã trông thấy Vương Giai đã ngồi ở đó tự bao giờ, Vương Giai vừa trông thấy Đỗ Văn Hạo bước vào thì đã vội vã đứng dậy cúi người chắp tay nói: “Đỗ Tướng Quân!”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới để ý thấy bộ dạng của Vương Giai, ông ta tươi cười vui vẻ, không có vẻ gì là muốn đến đây hỏi tội hắn cả, trong lòng cũng cảm thấy an tâm hơn đôi chút, nghĩ tới ông lão này sẽ trở thành bố vợ tương lai của mình, Đỗ Văn Hạo cũng tiến lên phía trước cúi người thi lễ.

Hai người sau màn chào hỏi liền ngồi xuống, Đỗ Văn Hạo lúc này mới đưa mắt để ý kỹ tướng mạo của Vương Giai, ông lão này thực sự diện mạo chẳng có gì đặc biệt cả, da mặt thì quắt queo lại như quả quýt, trông xấu xí vô cùng, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bất giác nhớ tới Vương Nhuận Tuyết, thì cảm thấy hết sức khó hiểu. Vương Nhuận Tuyết xinh đẹp tuyệt trần, vậy sao mà Vương Giai lại xấu đau xấu đớn như vậy? Xem ra, đúng là không nên nhìn mặt mà bắt hình dong được.

Đỗ Văn Hạo lại thấy Vương Giai cứ nhìn mình cười, thì cũng chỉ biết cười khan đáp lại, nhất thời không biết nên nói chuyện gì với ông ta nữa.

Thái độ của Vương Giai thì vẫn rất bình thản, ông ta thấy Đỗ Văn Hạo chỉ biết nhìn mình cười gượng như vậy, liền chắp tay lên nói: “Đỗ Tướng Quân! Hôm nay lão phu đến đây là vì chuyện của tiểu nữ!”

Đỗ Văn Hạo nghe Vương Giai bỗng nhiên nói như vậy, thì đầu của hắn hốt nhiên như một quả tạ ngàn cân bổ vào kêu boong lên một tiếng vang trời, hắn lo lắng sợ hãi hai tay bấu chặt vào thành ghế trong lòng không ngừng kêu khổ, lẽ nào Vương Giai hôm nay đến đây là muốn hỏi tội mình thật sao? Ông ấy lẽ nào muốn ép mình lấy con gái ông ấy làm vợ? Nếu mà như vậy thì mình nên từ chối ra sao đây? Bảo mình bỏ Bàng Vũ Cầm thì không đời nào, vậy nhưng ông lão này cũng có phải là hạng vừa đâu, e rằng sẽ không dễ dàng bỏ qua cho mình! Đỗ Văn Hạo trong lòng kinh hãi, vội vã chắp tay lắp bắp nói: “Cái này! Tể Tướng đại nhân…..Hạ quan…Ty chức muốn giải thích tình hình lúc đó, cái này….cái này…!”

Vương Giai nghe vậy liền mỉm cười nói: “Lão phu đa tạ Đỗ tướng quân đã ưu ái! Lệnh phu nhân hôm nay đã đích thân đến cầu thân, thật là ngại quá…!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì sững người sửng sốt, hóa ra ông ta hôm nay đến đây không phải là muốn hỏi tội mình, thấy vậy thái độ của hắn thay đổi một trăm tám mươi độ, nét mặt tươi tỉnh, vui vẻ vô cùng: “Cái này….ha…ha..ha..ty chức thật là thật là lỗ mãng , mạo muội quá, thực là……”

“Làm gì có chuyện đó..!” Vương Giai vuốt vuốt chòm râu bạc của mình mỉm cười nói: “Tiểu nữ của lão phu từ bé đã ngang ngược, ương bướng, còn mẫu thân của nó thì lại mất sớm, lão phu nuông chiều nó quá, về sau mong tướng quân chú ý quản giáo nó giúp lão phu….!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì mừng húm, đến cả giọng nói của hắn cũng run lên vì sung sướng: “Đại…. đại…. đại…nhân..nhân…đại nhân đã đồng ý rồi hả?”

Vương Giai nghe xong liền gật gật đầu mỉm cười, sau đó lại thắc mắc nói: “Tôn phu nhân sáng sớm ngày hôm nay đến cầu thân thì lão phu đã đồng ý ngay tức khắc, sau đó nhận sính lễ, làm dạm ngõ…v..v.. mọi việc cũng đã hoàn tất hết cả rồi, bây giờ chỉ còn mỗi việc đón dâu thành thân nữa thôi, lẽ nào Đỗ tướng quân lại không biết chút gì hay sao?”

“Cái này…ha ha..cái này là do ty chức suốt ngày ở trong doanh trại quân đội, chưa kịp về nhà, chính vì vậy mà mọi việc đều do Cầm Nhi làm hết thay cho ty chức, ha…ha..ha…ty chức…. à không bây giờ nên xưng là tiểu tế mới đúng! Tiểu tế xin ra mãi nhạc phụ đại nhân!” Đỗ Văn Hạo nói xong liền đứng luôn dậy cúi người thi lễ.

Vương Giai thấy vậy bèn đứng dậy đưa tay đỡ lấy Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: “Hiền tế không cần phải đa lễ!”

Đỗ Văn Hạo nghe Vương Giai gọi mình là hiền tế, thì trong lòng vui sướng không sao kể siết, hắn bây giờ biết rằng Vương Giai khi trước thậm chí còn gọi Bàng Vũ Cầm là tôn phu nhân, như vậy đồng nghĩa với việc ông ta đã đồng ý với chế độ Bình Thê (có nghĩa là hai người cùng là vợ chính thất của hắn!) Đỗ Văn Hạo mừng như mở cờ trong bụng, cả ngày hôm nay hắn thấp thỏm lo âu chính là lo sợ Vương Giai không đồng ý cái chuyện Bình Thê này, bây giờ đã định như vậy rồi thì thiên hạ đệ nhất mỹ nữ đã là vợ của mình rồi ha ha ha. Đỗ Văn Hạo nghĩ tới đây mà sướng đến độ không biết dùng lời lẽ nào có thể miêu tả được nữa.

Hai người sau đó lại quay lại chỗ ngồi, Đỗ Văn Hạo khó khăn lắm mới kiềm chế được sự vui sướng ở trong lòng của mình lại, liền cúi người chắp tay nói: “Nhạc phụ đại nhân! Hôn sự này nên làm ra sao, mong nhạc phụ đại nhân chỉ dạy!”

Vương Giai nghe vậy liền vuốt vuốt chòm râu nói: “Sáng sớm ngày hôm nay tôn phu nhân cũng đã định sẵn ngày giờ rồi, lão phu cho rằng hiện giờ mọi người trong triều đều đang để tang Thái Hoàng Thái Hậu và Hoàng Thượng, trong triều bây giờ ra lệnh cấm ăn chơi, uống rượu bừa bãi, chính vì vậy mà mới để hôn sự định kéo dài đến khi mãn hạn tang lễ cái đã! Không biết ý của hiền tế ra sao?”

“Ồ! Cái này thì là lẽ đương nhiên rồi, tất cả đều nghe theo sự sắp xếp của nhạc phụ đại nhân hết!” Đỗ Văn Hạo vui mừng nói. Tuy là hắn biết tình hình bây giờ bắt buộc phải như vậy, nhưng bắt hắn phải ngồi chờ một thời gian nữa mới được rước thiên hạ đệ nhất mỹ nhân về, bất giác cảm thấy bồn chồn, nhộn nhạo vô cùng.

Vương Giai thở dài nói: “Theo như lý mà nói thì đám lễ này đã cử hành được gần cả tháng nay rồi, cũng nên đưa Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu vào trong lăng mộ được rồi, vậy nhưng Hoàng Thái Hậu đến tận bây giờ vẫn chẳng tỏ thái độ gì cả, lẽ nào Hoàng Thái Hậu muốn định xong việc kế vị rồi mới lo việc này hay sao? Vì mỗi cái chuyện kế vị này thôi mà bây giờ hai bè phái ở trong cung đấu đá nhau suốt như vậy, nếu như Hoàng Thái Hậu vẫn cứ chần chừ như thế này, e rằng ba bốn tháng sau chắc vẫn không có kết quả gì cả!”

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây thì giật thót cả tim, quả nhiên Vương Giai đã nhắc tới vấn đề kế vị hiện nay, vừa mới nghe ông ta nhắc tới vấn đề này, hắn đã lựa lời thở dài nói: “Đúng vậy! Hoàng Thái Hậu nên hạ quyết tâm càng sớm càng tốt, một nước không thể nào một ngày không có chủ được! Định được sớm ngày nào, trăm họ được hưởng phúc ngày đó!”

“Đúng là như vậy, Ung Vương cũng nên biết rằng lục Hoàng Tử lên kế vị mới là chính đáng, mới là đúng đắn và chính thống nhất, vậy nhưng ông ta lại cứ muốn nhảy ra tranh giành, Ung Vương mà cũng đòi đem mình ra so sánh với Tống Thái Tông Hoàng Đế hay sao? Khi Thái Tông Hoàng Đế kế vị thì là do lúc đó tình hình bất đắc dĩ! Còn bây giờ nếu để chuyện đó xảy ra thì sẽ loạn hết ngôi thứ, loạn hết kỷ cương, chỉ cần nó xảy ra lần thứ nhất, thì sẽ có lần thứ hai lần thứ ba, vậy về sau ai chịu trách nhiệm! Việc này vô cùng quan trọng, không biết ý của hiền tế ra sao?” Vương Giai lắc lắc đầu nói.

Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên là ủng hộ lục Hoàng Tử kế vị rồi, hắn bây giờ đã thấu hiểu được bản tính nham hiểm của Ung Vương, nếu mà bây giờ mà để cho Ung Vương kế vị, thì bản thân hắn chắc chắn sẽ là người đầu tiên làm phản mất. Theo tình hình hiện giờ thì hắn vẫn chưa được phép hé lộ suy nghĩ của hắn, nhưng giờ đây hắn phải bày tỏ thái độ ủng hộ lục Hoàng Tử cho Vương Giai biết, nếu không thì ông ta đời nào chịu để cho cô con gái xinh đẹp như tiên của ông ấy về làm vợ mình được cơ chứ.

Chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo sau khi nghe Vương Giai nói thế thì cố tình ra vẻ khó xử nói: “Thực tình thì tiểu tế cũng khá có cảm tình với Ung Vương, nghĩ tới cái hôm tiểu tế dùng đao bắt nhị vị Vương Gia làm con tin, lại còn chẳng may làm bị thương Tào Vương, thế mà nhị vị Vương Gia đều không oán trách gì cả! Đặc biệt là Ung Vương, khí chất phi phàm độ lượng của ông ấy làm cho tiểu tế khâm phục vô cùng! Tiểu tế thiết nghĩ chỉ cẩn có ông ta, thì Đại Tống của ta nhất định sẽ hùng mạnh hơn bao giờ hết, chỉ có ông ấy giang sơn Đại Tống của chúng ta mới trở nên vững vàng được!”

Đỗ Văn Hạo vừa mới dứt lời xong liền lén lút đưa mắt lên nhìn Vương Giai, thì thấy sắc mặt của ông ta sa sầm, sắc đanh cả lại, mấy lần định lên tiếng cắt ngang lời của mình, nhưng rồi lại thôi. Vậy nhưng ông vẫn vô cùng kích động, kích động đến nỗi râu tóc như muốn dựng ngược cả lên, Đỗ Văn Văn Hạo thấy vậy thì bất giác mỉm cười, hắn trở mặt nhanh như lật bàn tay: “Lời nói ban nãy của nhạc phụ đại nhân chẳng khác nào tiếng sét đánh bên tai của tiểu tế cả! Bây giờ tiểu tế mới phát hiện ra tiểu tế quả là con người có cái nhìn vô cùng thiển cận, tiểu tế chỉ đế ý đến nhân phẩm của ông ta, mà bỏ qua truyền thống tổ tống ông cha ta để lại, may mà có nhạc phụ đại nhân có con mắt tinh đời nhắc nhở cho tiểu tế, làm tiểu tế hiểu được ra vấn đề! Lục Hoàng Tử lên kế vị ngôi vua mới là đúng đắn nhất, mới là đường đường chính chính nhất, cho dù Ung Vương có tài giỏi thao lược đến đâu, thiết nghĩ cũng chỉ nên làm người phò tá, giúp đỡ cho lục Hoàng Tử trị vì đất nước thôi, chứ kế vị thì thật không xứng đáng chút nào cả!”

Vương Giai nghe xong thì vỗ đùi cái đét một tiếng ngửa mặt lên trời cười ha hả sung sướng, ông ta vuốt vuốt chòm râu của mình, không giấu nổi niềm vui nói: “Hiền tế quả nhiên là người hiểu biết! Tốt lắm! Quá tốt rồi! Nếu như câu nói này để cho Hoàng Thái Hậu nghe được thì quả nhiên là rất tuyệt! ha ha ha!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì lập tức đứng thẳng người dậy, cúi người cung kính thi lễ nói: “Tiểu tế bây giờ sẽ vào trong cung ngay lập tức để bẩm báo với Hoàng Thái Hậu, cho người sớm định đoạt chuyện nối ngôi này, để lục Hoàng Tử lên kế vị làm Hoàng Đế!”

“Được! Được lắm!” Vương Giai vui sướng luôn miệng khen hay, ông ta xúc động hai tay không ngừng xoa xoa vào nhau nói: “Hôn lễ của hiền tế ta sẽ định vào khoảng một tháng sau khi làm lễ xây mộ cho Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu, hiền tế thấy sao hả?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì vui mừng khôn tả, cúi người đáp: “Tất cả đều nghe theo sự sắp đặt của nhạc phụ đại nhân hết ạ!”

Hai người sau đó lại ngồi bàn bạc cụ thể các việc hôn lễ ra sao, xong xuôi đâu đấy thì Vương Giai mới cáo từ ra về. Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền ra tận cổng tiễn đưa nhạc phụ tương lai của hắn, sau khi ông ta lên kiệu rời hẳn đi rồi hắn mới cười sung sướng đi vào bên trong.

Đỗ Văn Hạo vui sướng đi lòng vòng trong doanh trại của mình mấy vòng liền, hắn nhất thời không biết làm thế nào bây giờ nữa, hắn nghĩ bây giờ có nên đi vào tiếp kiến Hoàng Thái Hậu nói chuyện này ra hay không, gặp Hoàng Thái Hậu rồi thì nên nói kiểu gì, việc này là vô cùng hệ trọng phải nghĩ cho kỹ rồi mới đi gặp Hoàng Thái Hậu nói chuyện được. Nếu mà chưa có chuẩn bị trước thì mở miệng ra khen Hoàng Thái Hậu mà không có lý do nào xác đáng thì mình sẽ có nguy cơ bị phiền phức to. Bởi vì, Đỗ Văn Hạo biết được Hoàng Thái Hậu hiện giờ rất muốn Ung Vương lên nối ngôi, nhưng bà vẫn chưa có đủ lý do để đưa Ung Vương lên mà thôi.

Đang trong lúc Đỗ Văn Hạo vắt óc nên nghĩ xem giải quyết ra sao, thì thị vệ của hắn đã vào thông báo là có hai bà lão muốn đến gặp hắn, một người là mẹ của Thái Y Ngụy Triển, còn một người là vợ của ông ta.

Đỗ Văn Hạo nghe tên thị vệ nói vậy liền chạy ra ngoài mời hai người vào trong tiếp đãi.

Hai người phụ nữ này sau khi vào gặp Đỗ Văn Hạo thì quỳ xuống dập đầu cầu xin, Đỗ Văn Hạo thấy vậy vội vã chạy đến nâng hai người đứng dậy, nhưng hai người nhất quyết không chịu chỉ một mực ôm mặt khóc lóc: “Đỗ tướng quân! Cầu xin tướng quân cứu con trai của lão phụ với…!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền đáp: “Lão phu nhân, mời lão phu nhân đứng dậy trước đã, có chuyện gì cứ từ từ bình tĩnh mà nói!”

Lão phu nhân kia vẫn không chịu đứng dậy chỉ ôm mặt gào khóc, người phụ nữ trung niên quỳ ngay cạnh bà ta lúc này cũng nước mắt ngắn nước mắt dài nói: “Đỗ tướng quân! Mấy người đó nói phu quân của tôi vì say rượu mà làm lỡ mất chuyện cấp cứu chữa bệnh cho Hoàng Thượng, vậy nhưng phu quân của tôi vì sức khỏe không được tốt, đã nhiều năm nay không uống rượu rồi, tại sao lại vì chuyện say rượu mà làm lỡ việc cứu chữa cho Hoàng Thượng cơ chứ! Trong này chắc chắn là có uẩn khúc, mong đại nhân đèn trời soi sét!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong cũng vô cùng khó xử nói: “Bản thân bổn quan chẳng qua cũng chỉ là Tam Nha Đô Chỉ Huy Sứ mà thôi! Chức cũng chỉ là Đề Điểm Các Lộ Hình Ngục, bổn quan cũng chẳng có quyền hành gì đi quản mấy chuyện ngục tốt trong kinh thành cả! Mấy người muốn cứu Ngụy Thái Y thì cũng nên đến Nha Môn của Khai Phong Phủ, hoặc là tìm đến Đại Lý Tự, Hình Bộ, Ngự Sử Đài mà kêu oan! Những bộ sở này đều có trống kêu oan hết, hai người cứ đến đó mà gióng trống kêu oan!”

Người phụ nữ kia nghe vậy liền dập đầu xuống đất kêu lên cồm cộp nói: “Đều đến tìm hết cả rồi! Những nơi mà tướng quân vừa nói bọn tôi đều đã đến tìm hết cả rồi, nhưng tất cả bọn họ chẳng cần nghe chúng tôi nói gì cả, không nói không rằng đuổi thẳng chúng tôi ra ngoài! Khi chúng tôi đến Ngự Sử Đài đánh trống kêu oan, thì còn bị bọn sai dịch ở đó ra đánh cho một trận nữa, hu hu….hu..hu!”

“Thật là quá quắt lắm!” Đỗ Văn Hạo tức giận nói: “Nhưng mời nhị vị cứ đứng dậy nói chuyện cái đã!”

Lão phu nhân nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy vẫn một mực không chịu đứng dậy, lại không ngừng dập đầu xuống đất nói: “Đỗ tướng quân! Mấy hôm trước lão phụ nghe nói bọn chúng sắp đưa con trai ta ra ngoài kia chặt đầu để răn đe dân chúng rồi! Ta và con dâu của ta không còn cách nào khác là đến đây! Nghe nói Đỗ tướng quân là người trượng nghĩa, lại là Đề Điểm Các Lộ Hình Ngục, lại đã từng là người trong Thái Y với Ngụy Triển con trai ta nữa! Ta không còn cách nào nữa rồi, mong Đỗ đại nhân ra tay nghĩa hiệp! Con trai của ta thực là oan ức lắm! Mong Đỗ đại nhân cứu mạng con trai ta!” Lão phu nhân nói xong lại dập đầu xuống đất cầu xin.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy không còn cách nào khác, đành phải tiến tới bên người của lão phu nhân đỡ lấy hai tay của bà ta nói: “Lão phu nhân! Mời lão phu nhân đứng dậy, có chuyện gì chúng ta từ từ nói! Lão phu nhân cứ quỳ như vậy, thì bổn quan thật sự không biết phải làm sao!”

Lão phu nhân nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy mới bắt đầu thôi kêu khóc, bà được con dâu của mình đỡ dậy, khó khăn lắm mới nhấc được người dậy thì lại ôm lấy hai tay của Đỗ Văn Hạo nước mắt không biết từ đâu lại tuôn ra như suối, kêu khóc thảm thiết.

Đỗ Văn Hạo liền đỡ lão phu nhân dậy ngồi lên ghế, sau đó hỏi dò tình hình của Ngụy Triển bây giờ ra sao, nhưng hai người này nói đi nói lại lòng vòng mãi mà vẫn không biết mình đang nói cái gì, ngoài ra bọn họ chỉ khăng khăng rằng Ngụy Triển không hề uống rượu làm lỡ chuyện cấp cứu Hoàng Thượng, chính vì vậy mà Ngụy Triển bị oan ức.

Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên biết chuyện này quan hệ trọng đại ra sao, chính vì vậy mà ngay cả Đại Lý Tự, Bộ Hình, Ngự Sử Đài, và cả Khai Phong Phủ cũng không dám nhúng tay vào quản, bản thân hắn thì cũng chỉ là Đề Điểm Các Lộ Hình Ngục Đề Hình Quan, nhưng hắn lại không có quyền hành gì ở kinh thành này cả, hắn lại càng không đủ tư cách để quản những vụ án liên quan đến hoàng thân quốc thích thế này. Vậy nhưng hai người phụ nữ này vẫn cứ khăng khăng rằng Ngụy Triển không có tội, nếu mà như vậy thì vụ án này có rất nhiều vấn đề.

Rốt cuộc là nên giải quyết ra sao đây? Mình có nên quản hay không? Đỗ Văn Hạo ngẫm nghĩ đắn đo.

Đỗ Văn Hạo cảm thấy vô cùng khó xử, Thẩm sư gia đã dạy hắn đạo làm quan, và điều đầu tiên khi làm quan đó chính là nan đắc hồ đồ, đừng tự cho mình là thông minh tài giỏi, mà kể cả có thông minh tài giỏi thế nào đi chăng nữa cũng phải hồ đồ mới được! Đó mới là thông minh! Điệu bộ làm quan phải có, hô hào khẩu hiệu làm quan phải làm, có liên quan đến những việc có tính nguy hiểm thì phải tránh! Nếu theo đúng như đường lối này mà đi thì vụ án của Ngụy Triển mình tuyệt đối không được dây vào, chỉ cần giả ngây giả ngô là xong, dù sao mình cũng có liên quan gì với Ngụy Triển đâu, cái thân mình còn chưa lo xong, lo cho ông thì ta có mà…

Vậy nhưng, nghĩ đi nghĩ lại thì Đỗ Văn Hạo lại cảm thấy hắn không được phép như vậy, từ nhỏ cha mẹ hắn đã dạy cho hắn những đạo đức của người trong ngành y, nói cho hắn biết rằng bổn phận của hắn chính là cứu người, giúp người. Đối mặt với vụ án này của Ngụy Triển, hắn thấy ông ta đúng là có vẻ như là hàm oan, nếu như hắn có năng lực xử lý mà bắt hắn phải làm ngơ, thì hắn chắc chắn là không thể làm ngơ được.

Nhưng trong những năm tháng làm quan lại đây, chỉ vì hắn hành động lỗ mãng mà tự gây cho mình bao nhiêu là phiền toái, vụ án của Ngụy Triển lại còn có liên quan đến cái chết của Hoàng Thượng, chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo tự nhủ mình nên âm thầm lén lút điều tra trước, rồi mới làm sáng tỏ vụ việc sau.

Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên là không dám nói gì trước mặt hai người phụ nữ này rồi, hắn chỉ nói Hoàng ân to lớn, tuyệt đối không thể tha cho kẻ ác, và dĩ nhiên là người tốt chắc chắn cũng sẽ không bị hàm oan. Còn bản thân hắn sẽ phản ánh ý kiến của hai người lên cho phía trên xem xét cho. Sau khi hắn nói toàn những điều trống rỗng, hứa hon hão huyền xong hắn liền lên tiếng khuyên nhủ hai người ra về.

Đỗ Văn Hạo lúc này thấy mình cũng không gấp gáp vào trong cung nữa, mẫu thân và phu nhân của Ngụy Triển đến tìm hắn có chuyện như vậy làm cho hắn nảy sinh một suy nghĩ. Đỗ Văn Hạo mới về đến kinh thành, thì bỗng nhiên Hoàng Thượng qua đời, hắn thấy việc này vô cùng trùng hợp. Bởi trước khi hắn đi, hắn đã kiểm tra lại toàn bộ tình hình sức khỏe của Hoàng Thượng rồi, mặc dù Hoàng Thượng có bệnh thận mãn tính, nhưng nếu cứ uống thuốc mà hắn đã kê cho, cộng thêm với Đông Trùng Hạ Thảo thì chắc chắn bệnh tình sẽ không bị xấu đi đến như vậy, và càng không vì thế mà qua đời.

Đặc biệt là tình hình phát bệnh của Hoàng Thượng vô cùng nhanh chóng, đến cả Thái Y cũng không đến kịp để cứu chữa cho Hoàng Thượng, căn bệnh phát tác quá nhanh, nhanh hơn mức bình thường và trở thành khác thường. Khoảng cách giữa Thái Y Viện và Tẩm Cung của Hoàng Thượng cũng không xa, nếu như chạy nhanh thì tầm khoảng mười lăm hai mươi phút là tới nơi rồi, vậy tại sao Thái Y vẫn đến chậm một bước? Theo lý thông thường thì suy thận mãn tính không thể nào làm người ta bị đột tử như vậy được! Nhưng cũng không thể nào đảm bảo được là trong người Hoàng Thượng không có những căn bệnh khác làm cho bị đột tử, hơn nữa con người ta thường cũng có lúc bị đột tử một cách vô cùng bất ngờ, ngay cả xác nghiệm tử thi cũng không tìm ra được nguyên do ại sao. Trong tim, não, huyết quản của con người ta có rất nhiều trường hợp dẫn đến đột tử bất ngờ, nếu mà đứng trên phương diện này mà xét, thì đột tử cũng chẳng có gì là kỳ lạ cả.

Chính vì tồn tại những khả năng như vậy mà Đỗ Văn Hạo không tìm hiểu nghiên cứu sâu thêm, nhưng sau khi nghe mẫu thân và phu nhân của Ngụy Triển vào trong này than khóc như vậy, hắn liền nghi ngờ về cái chết của Hoàng Thượng. Lẽ nào cái chết của Hoàng Thượng có uẩn khúc gì?

Đỗ Văn Hạo nhấc tách trà lên nhấp một ngụm rồi ngẫm nghĩ một lúc, nhưng cứ ngồi ngẫm nghĩ như vậy thì chẳng bao giờ tìm được đáp án nào cả, nhất định phải tìm được các tài liệu có liên quan thì mới có thể phán đoán được.

Sau một hồi suy xét, Đỗ Văn Hạo bây giờ quyết định không đi tìm Hoàng Thái Hậu nữa, cho dù bây giờ quan hệ giữa hắn và Hoàng Thái Hậu là tình nhân với nhau, nhưng chuyện này có liên quan đến chuyện giang sơn xã tắc và kế vị ngôi báu, quan hệ người tình e rằng cũng chẳng làm cho Hoàng Thái Hậu có thể thay đổi được quyết định của mình. Chính vì vậy mà lúc này khi không nắm chắc phần thắng trong tay, thì mình tuyệt đối không nên mở miệng ra thuyết phục Hoàng Thái Hậu chỉ định lục Hoàng Tử lên kế thừa ngôi báu.

Dù sao thì việc đính hôn với Vương Giai cũng đã hòm hòm hết cả rồi, có sáu lễ thì mình cũng đã hoàn thành xong bốn lễ rồi, bây giờ còn mỗi việc chọn ngày thành thân, và rước dâu về thế là xong. Hơn nữa, mình cũng đã quan hệ với Vương Nhuận Tuyết rồi, cũng chẳng lo gì nàng từ chối mình nữa, sớm muộn gì mà mình chẳng rước nàng về làm vợ. Chỉ tiếc mỗi một điều là không rước nàng về sớm hơn được thôi.

Đỗ Văn Hạo bây giờ cảm thấy nhiệm vụ đầu tiên của hắn là đi điều tra cái chết của Hoàng Thượng trước, nghĩ vậy hắn liền cho người chuẩn bị kiệu đi vào trong cung tìm Ninh công công. Ninh công công là thái giám thân tín bên cạnh Hoàng Thượng, khi Hoàng Thượng băng hà thì ông luôn ngồi hầu bên linh cữu của Hoàng Thượng.

Trước linh đường của Hoàng Thượng, bây giờ có hai vị trong bốn vị đại thần chấp chính phụ trách làm tang lễ là Thái Xác và Vương Giai, còn hai vị chấp chính đại thần khác chính là Ung Vương và Tào Vương đang bị Hoàng Thái Hậu giam lỏng trong tẩm cung của mình, chờ cho Hoàng Thái Hậu xác nhận ai là người kế vị xong rồi mới thả hai người đó ra, chính vì vậy mà hiện giờ cũng chỉ có mỗi hai vị tể tướng lo liệu hết việc tang lễ.

Tể tướng Vương Giai khi trông thấy Đỗ Văn Hạo vào trong này, thì chỉ quay sang hắn mỉm cười một cái, chứ không tiến tới chào hỏi gì với hắn thêm nữa, chỉ có Thái Xác là bước tới thi lễ với hắn.

Thái Xác bây giờ trông thấy Đỗ Văn Hạo thì vô cùng khó xử, bản thân ông là Tể Tướng đương triều, người cầm đầu trong văn võ bá quan, cấp bậc cao hơn hẳn Đỗ Văn Hạo tận mấy cấp liền, ông vốn chẳng cần phải đi đến nghênh đón Đỗ Văn Hạo làm gì, mà chỉ cần đứng chờ Đỗ Văn Hạo ngoan ngoãn đến trước mặt ông thi lễ. Vậy nhưng, tình hình hiện nay lại vô cùng khó nói, Thái Xác vốn ngày trước thuộc vào phe cải cách của Vương An Thạch, nếu như sau này lục Hoàng Tử kế vị, Hoàng Thái Hậu chắc chắn sẽ buông rèm chấp chính, mà Hoàng Thái Hậu lại đứng về phe bảo thủ, vậy thì chức vụ Tể Tướng của ông cũng sẽu têu tùng theo. Ung Vương lại là người theo trường phái cải cách, chính vì vậy mà Thái Xác mới hết lòng ủng hộ Ung Vương như vậy, vì chỉ có Ung Vương mới bảo đảm được cái ghế Tể Tướng này của ông.

Vậy nhưng bây giờ cả hai Vương Gia là Ung Vương và Tào Vương đã bị giảm lỏng, còn lục Hoàng Tử có kế vị hay không thì đến giờ vẫn chưa biết được, bây giờ theo tình hình chính cục thì Đỗ Văn Hạo là người có lợi thế hơn hẳn Thái Xác, hắn không những nắm binh quyền trong tay, lại là người rất được lòng Hoàng Thái Hậu, chính vì vậy mà vì tiền đồ của mình nên Thái Xác mới cúi đầu trước Đỗ Văn Hạo như vậy.

Vì thế mà khi Đỗ Văn Hạo ngang nhiên bước vào, thì Thái Xác lại mỉm cười đon đả chạy ra chắp tay nghênh đón hắn: “Đỗ tướng quân đến rồi đó hả?”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng chắp tay cúi người đáp lễ nói: “Vâng! Tể Tướng đại nhân vất vả quá, ty chức hôm nay đến tìm Ninh công công, không biết Ninh công công có ở đây không nữa?”

“Có! Có chứ! Khi nãy lão phu trông thấy Ninh công công bước vào bên trong, dường như là đi ra phía sau thắp hương đốt giấy cái gì đấy…! Lão phu đi gọi ông ta giúp Đỗ tướng quân nhé?” Thái Xác cười nói.

Đỗ Văn Hạo nghe ông ta tự xưng mình là lão phu, thái độ vô cùng khiêm nhường, nên dĩ nhiên biết được trong bụng ông ta lúc này đang nghĩ cái gì, nên hắn cũng vội vã đáp lại một cách khách sáo: “Không không! Ty chức làm sao dám làm phiền Tể Tướng đại nhân được cơ chứ! Cứ để cho Ty Chức đi được rồi!”

Đỗ Văn Hạo nói xong liền cúi người thi lễ vô cùng cung kính.

“Không sao, không sao! Nơi này có nhiều người qua lại, tướng quân cũng khó tìm ra Ninh công công, thế này vậy, để lão phu đưa tướng quân đi tìm được không?” Thái Xác vẫn khách khí nói.

“Ồ! Vậy thì phiền Tể Tướng đại nhân quá!” Đỗ Văn Hạo cúi người đáp.

Hai người sau đó cùng nhau đi ra phía sau, đi vòng qua những mảnh rèm tang trắng xóa giăng xung quanh phòng đến bên linh đường, trong linh đường lúc này người đến phúng viếng thắp hương khá đông, ánh sáng lại thiếu nên Đỗ Văn Hạo nhất thời không thấy Ninh công công ở đâu cả.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 392: Chức Trách (1+2)

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 393: Thêm Thuốc (1+2)

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 394: Tuẫn Táng (1+2).

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 395: Ôn NHu Kế (1+2).

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 396: Mừng vui và bi thương (1+2).

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Hoàng Thái Hậu nói: "Tiểu Tiêu tử, ngươi cùng Đỗ tướng quân đi truyền khẩu dụ của Ai gia để cho hai người Trần mỹ nhân và Mai mỹ nhân tự xử chết theo Hoàng Thượng. Còn mấy người Dụ Cáp Nhi, Tô tài nhân cùng Thái y thừa Nguỵ Triển miễn tội chết".

Tiêu công công vội vàng khom người nói: "Dạ! Xin nhận ý chỉ của Hoàng Thái Hậu".

Đỗ Văn Hạo vội hỏi: "Hoàng Thái Hậu, vi thần cũng đi tuyên chỉ sao?"

"Ừ" Hoàng Thái Hậu mỉm cười nói: "Ngươi tốn sức thuyết phục Ai gia miễn tội chết cho ba người. Phần ân tình này hãy để các nàng ấy ghi tạc trên người ngươi. Tương lai sau này hãy để các nàng ấy kết cỏ ngậm vành báo đáp ngươi".

Đỗ Văn Hạo cười hà hà nói: "Đây đều là ân điển của Hoàng Thái Hậu, vi thần hoàn toàn không có chút công lao nào. Khi vi thần tuyên chỉ sẽ nói rõ".

Lúc này từ xa vang lên tiếng kẻng cầm canh, nghe âm thanh thì lúc này đã là canh hai như vậy chỉ còn cách hạn tự vẫn cuối cùng một canh giờ. Hoàng Thái Hậu nói: "Mau đi đi, xong xuôi sớm thì đi nghỉ sớm. Ngày mai khiêng linh cữu, ngươi còn trọng trách cảnh giới ven đường. Trách nhiệm rất lớn đó".

Đỗ Văn Hạo khom người nói: "Dạ! Vi thần cáo lui".

Đỗ Văn Hạo cùng Tiêu công công đi ra, mang theo một nhóm thái giám và cung nữ đội Nội thị đi thẳng tới trong điện ở bên cạnh điện Phúc Ninh. Linh cữu của Tống Thần Tông quàn tại điện Phúc Ninh. Bốn phi tần Dụ Cáp Nhi đang chờ chết theo ở ngay trong điện bên cạnh.

Tiêu công công hiểu rằng Hoàng Thái Hậu muốn Đỗ Văn Hạo đảm đương vai người tốt nên trên đường đi ông ta nói với Đỗ Văn Hạo: "Đỗ tướng quân, lát nữa ngài đừng vội vàng tuyên ý chỉ của Hoàng Thái Hậu. Đợi khi chúng ta cũng kính tiễn đưa hai vị nương nương kia lên đường, ngài hãy tuyên chỉ. Thứ nhất hiển lộ ân đức của Hoàng Thái Hậu. Thứ hai cũng là để nhị vị nương nương tưởng có bạn, yên tâm quy thiên, trong lòng sẽ dễ chịu hơn nhiều. Thế nào?"

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: "Chủ ý của công công cực kỳ nhân từ. Ty chức há có thể không tuân theo sự sắp xếp sao?"

Sau khi hai người thống nhất xong lại dặn dò thái giám và cung nữ đi cùng. Lúc này đoàn người đã tới trước điện.

Ở bên trong trắc điện, bốn vị nương nương cùng với thị nữ thân tín đang khóc lóc nhưng khi nghe thấy tiếng bước chân vang lên bên ngoài điện, tiếng quát mắng thị vệ lui ra thì hiểu rằng đại nạn đã tới lập tức tiếng khóc bốc lên vang trời.

Tiêu công công mở cửa điện, nghiêm mặt đi vào trong nội đường, nhìn đám nữ tử đang ôm nhau khóc, cất giọng the thé, lạnh lùng nói: "Chúng ta phụng ý chỉ của Hoàng Thái Hậu, tống tiễn các phi tần tuẫn táng. Những nha hoàn bên cạnh hãy mau mau tránh ra".

Những nữ tử này nào ai có lá gan dám kháng chỉ, các nàng cũng hiểu rằng có cầu xin công công tuyên chỉ cũng vô ích bèn khóc lóc thối lui sang bên cạnh, quỳ trên mặt đất, khóc lóc thảm thiết ngay tại chỗ.

Tiêu công công vẫn không có bất kỳ biểu hiện gì khác, ông ta khoát tay ra hiệu. Tám thái giám bưng bốn cái khay mạ vàng, bên trên có đặt bốn dải lụa trắng cùng với bốn bình sứ nhỏ tinh xảo.

Tiêu công công nói: "Bốn vị nương nương, ngày mai đưa tang Hoàng Thượng cùng Thái Hoàng Thái Hậu. Ý chỉ của Hoàng Thái Hậu đã chỉ rõ: trước giờ tý tối nay xin mười bốn vị nương nương tự tiện. Đây là dải lụa trắng cùng với Hạc Đỉnh Hồng. Bốn vị nương nương hãy chọn lấy một thứ mà quy thiên".

Dụ Cáp Nhi mặt đẫm lệ, nghe xong mấy lời này của Tiêu công công, nhất thời cả người run rẩy giống như chim bồ câu nhỏ, tuyệt vọng nhìn Đỗ Văn Hạo, buồn bã nói: "Tướng quân, cứu ta".

Bây giờ Đỗ Văn Hạo muốn tận mắt chứng kiến nhị vị nương nương tự sát. Mặc dù hắn hiểu rõ Dụ Cáp Nhi đã được miễn tội chết theo nhưng hiện tại không thể nói ra nên chỉ đứng yên lặng mà không có biểu hiện gì.

Thị nữ thân tín của Dụ Cáp Nhi vội vàng quay người dập đầu với Đỗ Văn Hạo cầu khẩn xin tha mạng.

Trần mỹ nhân ngẩng khuôn mặt tuyệt mỹ vốn đã bị Hoàng Hậu cào nát, một mắt bị mù, lại giả điên lâu ngày, dung nhan sớm đã tiều tuỵ nhưng dù sao ham sống là lẽ thường tình của con người. Mặc dù trong thâm tâm Trần mỹ nhân biết không thể thoát khỏi nạn này nhưng sau khi nghe Dụ Cáp Nhi cầu khẩn Đỗ Văn Hạo. Lại nghĩ tới việc Đỗ Văn Hạo đã từng cứu mạng trước đây nên không khỏi có kỳ vọng nay thấy hắn cũng tới lại nghĩ hắn tới cứu mạng như trước kia tức thì hai đầu gối mềm nhũn, Trần mỹ nhân quỳ dạp xuống đất, cất giọng khàn khàn, buồn đau nói: "Tướng quân, cứu mạng".

Đương nhiên thị nữ của Trần mỹ nhân cũng quỳ xuống trước mặt Đỗ Văn Hạo, khóc buồn bã cầu khẩn cứu mạng.

Lúc này Tô tài nhân vốn đã sợ tới mức ba hồn bảy vía đã bay đi hết, người đã giống như một hành thi, chỉ còn chờ chết. Bây giờ thấy hai người Dụ Cáp Nhi cùng quỳ xuống dập đầu cầu khẩn, sợ chết là bản tính tự nhiên của con người, huống chi lại còn bị ép chết theo nên trong lòng càng không cam tâm, hiểu rõ vị Đỗ đại tướng quân này là người một tay che trời ở trong triều, là người tâm phúc bên cạnh Hoàng Thái Hậu. Cầu khẩn người ta có khi giữ được tính mạng của mình thì cần gì chú tâm tới mặt mũi nữa, nghĩ vậy Tô tài nhân cũng buồn bã quỳ dạp xuống cầu khẩn nhưng lại quá hoảng sợ, tuyệt vọng nên không thể mở miệng.

Thị nữ thân tín của Tô tài nhân cũng khóc như mưa dập đầu như giã tỏi, miệng không ngừng cầu khẩn: "Tướng quân, đại tướng quân. Van xin ngài hãy cứu lấy nương nương của chúng nô tỳ. Hãy để cho nô tỳ chết thay nương nương".

Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, tiếng khóc đột ngột vang lên giống như tiếng trống đánh thùng thùng trong phòng. Tiêu công công tức giận, phất tay áo, lạnh lùng nói: "Tuẫn tiết theo Hoàng Thượng, quy thiên hầu hạ Hoàng Thượng là cực kỳ vinh hạnh. Các người hết lần này tới lần khác làm ra dáng vẻ đau khổ, thật không ra gì cả. Người đâu, mau kéo mấy nha hoàn ra, hầu hạ bốn vị nương nương quy thiên".

Lập tức thái giám và cung nữ cùng trả lời rồi xông tới chỗ những thị nữ đang quỳ gối trước mặt Đỗ Văn Hạo, nắm tóc, lôi kéo chân tay kéo ra bên ngoài điện. Tám thái giám đồng loạt quỳ xuống, giơ cao khay.

Thân thể Tô tài nhân mềm nhũn, ngồi phịch xuống đất, sợ hãi tới đờ đẫn cả người, không cả khóc được nữa.

Dụ Cáp Nhi có thể gắng gượng bình tĩnh, thấy Đỗ Văn Hạo không nói gì, sắc mặt không biểu hiện biết là không hy vọng, bàn tay run rảy đưa ra, sờ soạng chạm phải dải lụa trắng lại lấp tức rụt tay về như bị điện giật. Dưới sự thúc ép nghiêm ngặt của cung nữ ở bên cạnh đưa tay run run cầm lấy bình Hạc Đỉnh Hồng nhưng lại không có dũng khí mở nắp bình, nước mắt đoạn tuyệt giống như trân châu rơi xuống.

Trần mỹ nhân vẫn phủ phục trên mặt đất cầu khẩn cứu mạng.

Chỉ có Mai mỹ nhân vẫn đứng im từ trước tới giờ. Nàng chậm rãi đi tới trước, nhìn lướt qua hai vật trên khay, lưỡng lự một lát rồi đưa tay cầm lấy dải lụa trắng, chọn một chỗ thích hợp dưới xà nhà. Ngay lập tức có thái mang tới một chiếc bàn trà để đứng chân. Mai thị bước chân làn bàn, quăng dải lua lên xà nhà, buộc thắt nút đầu lại với nhau, kéo thử, thấy rất chắc chắn, hai tay nắm chặt dải lụa, Mai mỹ nhân ngửa mặt lên trời than: "Hoàng Thượng, thiếp thân tới làm bạn với người đây".

Mai mỹ nhân thản nhiên tự vẫn chết càng làm ba vị nương nương còn lại cực kỳ hoảng sợ. Trần mỹ nhân nghe thấy tiếng khóc đột nhiên bốc cao, ngẩng đầu nhìn thì thấy một thi thể đang đung đưa ở giữa phòng, tức thì sợ hãi tới mức hồn phi phách tán, thân thể mềm nhũn, ngồi phịch xuống đất, không khống chế được tiểu tiện.

Tiêu công công cười nhạt, nghiêng đầu nói với cung nữ và thái giám bên cạnh mình: "Các người hãy nhìn xem, Trần nương nương đã sợ tới mức són đái ra quần. Xem ra bản thân không thể nào tự ra đi. Các ngươi còn đứng đờ ra đó làm gì? Hãy hầu hạ nương nương quy thiên".

Bốn, năm cing nữ, thái giám vội vàng chen nhau tiến tới. Hai người ôm tay Trần mỹ nhân kéo đứng dậy, hai người ôm chân để không cử động, một người giật tóc để ngẩng đầu lên. Một cung nữ khác vóc người cao lớn, tay trái nắm mũi Trần mỹ nhân, tay phải mở rộng ra đặt vào hai bên má, dùng hết sức bóp mạnh để miệng Trần mỹ nhân há ra.

Một thái giám lấy bình Hạc Đỉnh Hồng để trên khay, mở nắp bình, đổ một ít bột phấn màu đỏ trong bình vào miệng Trần mỹ nhân, tay kia cầm bình trà do thái giám khác cầm tới, nhét vòi bình trà vào trong miệng Trần mỹ nhân rồi dốc hết nước trong bình trà ra.

Hiển nhiên người cung nữ to cao đã nhiều lần làm những chuyện này nên thủ pháp rất thuần thục. Khi đổ nước, nàng kéo ngửa đầu Trần mỹ nhân, tay bấu mạnh vào miệng làm cho Trần mỹ nhân không thể nhổ ran ngoài. Tay bóp mạnh để Trần mỹ nhân không thở được phải nuốt vào. Sau khi nhìn thấy cả nước và thuốc đều trôi xuống dưới, Trần mỹ nhân cũng vì không thở nổi, mắt trắng dã mới buông ra.

Trần mỹ nhân không ngừng thổi phì phò, ho khan, muốn thò tai vào cuống họng móc ra nhưng hai cánh tay đã bị cung nữ, thái giám giữ chặt, không sao cử động được. Trần mỹ nhân ngửa mặt lên trời gào lên 'ôi ôi ôi", không biết đó là khóc hay cười.

Một lát sau bụng Trần mỹ nhân đau giống như đao xoắn, thân thể không ngừng giãy giụa. Cung nữ, thái giám đang giữ hai tay nàng hiểu độc tính trong bụng đã bắt đầu phát tác lúc này mới hất Trần mỹ nhân ra, vất xuống đất.

Trần mỹ nhân ôm bụng lăn lộn trên mặt đất, miệng sùi bọt mép, hơi thở gấp gáp. Trần mỹ nhân giãy giụa quỳ trên mặt đất, đưa tay móc cổ họng. Oạ, oạ, nôn khan ra một ít nước chua.

Tiếp đó Trần mỹ nhân nằm xụi lơ trên mặt đất, con mắt còn lại trắng dã, vừa nôn khan vừa thở phì phò nói: "Nước, khát nước, cho ta nước".

Đỗ Văn Hạo hiểu rõ đây chính là biểu hiện của tình trạng ban đầu khi trúng độc Hạc Đỉnh Hồng, sau đó còn khó chịu gấp bội.

Quả nhiên một lát sau, Trần mỹ nhân liền ôm bụng kêu gào thảm thiết, cả người lăn lộn trên mặt đất, không ngừng nôn khan, thở hổn hển. Tiếp theo đó là mùi thối của phân và nước tiểu. Thân thể của Trần mỹ nhân dính đầy nước tiểu và phân màu vàng nhạt.

Tiêu công công cùng các thái giám, cung nữ bịt mũi cuống cuồng lùi lại sau.

Tiếp đó Trần mỹ nhân khàn khàn kêu đau đầu, đập đầu binh binh xuống mặt đất, máu tươi chảy đầm đìa trên trán, hết lần này tới lần khác mà vẫn không chết. Kéo dài một lúc thì nằm yên lặng, co quắp trên mặt đất, con mắt còn lại trợn trừng, hơi thở gấp gáp, chỉ còn biết thở ra, thân thể không ngừng run rẩy.

Một hồi lâu sau, thân thể Trần mỹ nhân co giật vài cái, hơi thở ngừng lại, khuôn mặt bất động đầy vết thương, méo mó trông rất đáng sợ, chỉ có con mắt vẫn trợn trừng như trước, nhìn chằm chằm lên trần nhà, giống như đang nhìn vào một vật gì đó.

Tiêu công công liếc nhìn Đỗ Văn Hạo, thấy hắn không bước tới kiểm tra xem Trần mỹ nhân đã chết hay chưa liền bước tới, bịt mũi ngồi xổm trước người Trần mỹ nhân, thử hơi thở sau đó lại dùng hai ngón tay sờ động mạch bên gáy. Sau khi xác nhận quả thực Trần mỹ nhân đã chết, Tiêu công công liền đi tới bên cạnh Đỗ Văn Hạo, mỉm cười nói: "Tướng quân, phận sự của chúng ta đã xong. Việc còn lại giao cho ngài".

Đỗ Văn Hạo không nói một lời, hắn chắp tay sau lưng tiến tới chỗ Tô tài nhân và Dụ Cáp Nhi.

Tô tài nhân nhìn thấy bộ dáng trung độc chết thảm của Trần mỹ nhân, sợ tới ngây người, không khống chế được tiểu tiện. Giữa hai chân đã ướt sũng màu nước tiểu vàng nhạt, ánh mắt đờ đẫn nhìn Đỗ Văn Hạo.

Dụ Cáp Nhi không còn ảo tưởng nữa. Nàng nhìn thấy dáng vẻ đó của Trần mỹ nhân nên hạ quyết tâm treo cổ tự vẫn giữ cho thân thể sạch sẽ. Lúc này khuôn mặt nàng đã tái nhợt, không còn chút máu. Nàng bước tới sau lưng những thái giám, cung nữ, cười sầu thảm nói với Đỗ Văn Hạo: "Tướng quân, đa tạ ngài tới tống tiễn ta".

Nói xong nàng quay đầu cầm lấy dải lụa trắng trong khay thái giám đang cầm, quay đầu nhing bà vú đang khóc như mưa ở cửa đại điện nói: "Nương… Nhi đi".

Nàng xoay người bước lên bàn trà, run rẩy tung dải lụa lên trên xà nhà.

Đỗ Văn Hạo bước tới, đá tung chiếc bàn trà dưới chân Dụ Cáp Nhi.

Dải lụa trắng của Dụ Cáp Nhi vẫn còn chưa bay lên tới xà nhà. Dưới chân nàng không còn cái gì đỡ. Nàng kêu "a" một tiếng ngã xuống dưới. Đỗ Văn Hạo đưa tay đỡ lấy thân thể nàng, hắn đặt nàng xuống, mỉm cười nói: "Nương nương, người không cần chết".

"Hả?" Dụ Cáp Nhi kinh ngạc kêu lên, nàng trừng mắt nhìn hắn, không hiểu hắn nói gì.

Bàn tay Đỗ Văn Hạo nắm chặt bả vài nàng, hắn cao giọng nói: "Hoàng Thái Hậu có khẩu dụ: miễn trừ tuẫn táng cho Dụ Cáp Nhi và Tô tài nhân".

Thân hình Dụ Cáp Nhi chấn động, nàng đứng lặng tại chỗ.

Tiêu công công cũng khàn khàn nói: "Nhị vị nương nương, đây là ân điển của Hoàng Thái Hậu, cũng là kết quả do Đỗ tướng quân cầu khẩn Hoàng Thái Hậu, cần phải nhớ kỹ trong lòng" Nói xong Tiêu công công phất tay, dẫn theo thái giám và cung nữ rời khỏi điện.

Thị nữ thân tín của Dụ Cáp Nhi và Tô tài nhân nghe thấy Đỗ Văn Hạo nói vậy tức thì giống như tiếng sấm mùa xuân vang lên giữa trời quang, tâm trạng mừng vui như muốn nổ tung, không thể tin được sự thật trước mắt mình. Sau khi nhìn thấy Tiêu công công dẫn người đi, lúc này mới thực sự hoàn toàn tin tưởng, thoáng cái tất cả tràn vào trong điện.

"Nương nương! Nương nương đã thoát chết. Đa tạ Bồ Tát. Cám ơn trời đất. Đa tạ Hoàng Thái Hậu. Đa tạ Đỗ tướng quân…".

Chúng nữ vây quanh nhị vị nương nương, dáng vẻ tung tăng như chim sẻ. Nhưng trong sự mừng vui đó, Dụ Cáp Nhi vẫn ngây người đứng tại chỗ, cầm dải lụa trắng trong tay, kinh ngạc nhìn Đỗ Văn Hạo, hai hàng lệ không ngừng trào xuống.

Tô tài nhân ngã ngồi trên mặt đất vẫn đang ngây ngốc tại chỗ, giống như không nghe thấy lời nói của Đỗ Văn Hạo vậy. Bà vú của nàng kéo nàng vào trong ngực khóc to: "Con của ta! Hoàng Thái Hậu ân điển, con không cần phải chết theo. Con của ta, con đừng doạ nương vậy nha. Con khóc đi. Hãy khóc đi".

Rốt cuộc hồn phách của Tô tài nhân cũng loạng choạng quay về thân thể mình. Nàng kinh ngạc nhìn bà vú, nhìn thấy nước mắt, sự mừng vui trên gương mặt già nua, lại nghe thấy thị nữ vây quanh mình đang khóc hu hu nói có ý chỉ của Hoàng Thái Hậu, miễn cho nàng khỏi chết theo Hoàng Thượng, rốt cuộc nàng cũng hiểu ra, ôm lấy bà vú khóc ròng.

Đỗ Văn Hạo nhìn mấy người cười rồi quay người bước đi nhưng bị Dụ Cáp Nhi gọi giật lại: "Tướng quân, xin chờ một chút".

Đỗ Văn Hạo đứng lại. Dụ Cáp Nhi tiến lên hai bước. "Rầm" một tiếng, nàng quỳ dạp xuống dập đầu khóc không thành tiếng: "Đa tạ ơn cứu mạng của tướng quân. Cáp Nhi

Đỗ Văn Hạo định đưa tay đỡ Dụ Cáp Nhi dậy thì Tô tài nhân ở bên kia cũng phủ phục bò tới dập đầu nói: "Đa ta đại ân cứu mạng của tướng quân".

Đỗ Văn Hạo xua xua tay nói: "Nương nương xin đứng dậy. Nhị vị nương nương hãy mau mau đứng lên. Đây tất cả đều là ân điển của Hoàng Thái Hậu. Vi thần không dám nhận đại ân này".

Nhị vị nương nương đã quỳ xuống, tất nhiên những thị nữ thiếp thân kia cũng lập tức quỳ theo, vui mừng xen lẫn xót thương dập đầu tạ ơn.

lúc này bên ngoài cửa có mấy thái giám và cung nữ tiến vào tháo thi thể của Mai mỹ nhân đang treo giữa nhà xuống, cùng với thi thể vặn vẹo của Trần mỹ nhân trên mặt đất lên đặt lên giường sau đó đi khiêng đi trang điểm, chuẩn bị sáng ngày mai khiêng linh cữu thì chôn theo.

Những thị nữ của hai vị nương nương mới chết ở bên ngoài điện nhìn thấy thi thể của hai nương nương bị khiêng đi tức thì dập đầu khóc lóc dậy đất. Du Cáp Nhi, Tô tài nhân cũng chúng nữ ở trong phòng thì cảm xúc hỗn loạn, càng cảm kích ơn cứu mạng của Đỗ Văn Hạo, lại bắt đầu dập đầu tạ ơn.

Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng an ủi mấy câu, hắn thấy trời đã khuya liền sai thị nữ thân tín của hai vị nương nương đỡ hai vị nương nương quay lại tẩm cung tạm nghỉ. Hắn nói sáng sớm ngày mai còn phải đưa tang theo linh cữu của Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu.

Dụ Cáp Nhi cùng Tô tài nhân càng cảm kích sự săn sóc chu đáo của Đỗ Văn Hạo, lại một lần nữa tỏ vẻ biết ơn và cám ơn rồi mang theo thị nữ rời đi.

Đỗ Văn Hạo rời khỏi cung Phúc Ninh, Tiêu công công và đội Nội thị thái giám, cung nữ đã đang chờ bên ngoài. Hai người lại ngồi kiệu đi tới thiên lao. Thái y thừa Nguỵ Triển vẫn đang còn ở đó chờ chết, cả hai phải tới đó sớm để tuyên chỉ xá tội chết.

Thiên lao ở góc Tây bắc bên ngoài Hoàng thành. Ở nơi này canh phòng rất nghiêm ngặt. Trên đường đi Đỗ Văn Hạo và Tiêu công công thương lượng với nhau. Vì để điều ntra thêm rõ ràng tình huống vụ án nên tạm thời không công bố ý chỉ xá miễn tội chết cho Nguỵ Triển.

Vì thế khi hai người tới Thiên lao, Tiêu công công liền ở bên ngoài phòng trực đợi. Một mình Đỗ Văn Hạo đi vào phòng giam tra hỏi tình hình.

Đỗ Văn Hạo đi vào hầm ngầm nơi giam giữ tử tù của Thiên lao. Nguỵ Triển là khâm phạm. Ông ta bị giam giữ một mình trong một phòng giam âm u ẩm ướt ở sâu nhất trong hầm ngầm. Thậm chí Đỗ Văn Hạo còn cảm thấy không khí cực lạnh lẽo, bất chợt hắn rùng mình một cái.

Ánh sáng trong hầm ngầm mờ mờ, Đỗ Văn Hạo chỉ nhìn thấy bóng một người nằm cuộn mình trong góc phòng giam, trên cổ đeo một cái gông gỗ, hai chân và hai tay đều bi xiềng xích sắt dài, to bằng ngón tay cái.

Ngay khi Đỗ Văn Hạo vẫn chưa nhận ra người đó là ai, người nọ đã vui mừng, ngạc nhiên hô lên khi nhận ra hắn: "Đỗ đại nhân? Là ngài sao, Đỗ đại nhân?"

Chỉ cần nghe âm thanh Đỗ Văn Hạo cũng có thể nhận ra đó là giọng nói của Thái y thừa Nguỵ Triển, hắn liền nói: "Nguỵ đại nhân, ta là Đỗ Văn Hạo. Ta nghe nói đại nhân bị tống tử lao, ngày mai xử chém nên đặc biệt tới tiễn đưa".

Nguỵ Triển đương nhiên cũng biết tin ngày mai sẽ bị xử chém, nghe vậy ông ta cười sầu thảm nói: "Đa tạ tấm lòng trượng nghĩa của Đỗ đại nhân, lão hủ không dám nhận".

Đỗ Văn Hạo căn dặn cai ngục mang tiệc rượu tới. Lao đầu Thiên lao biết rõ sự lợi hại của vị tướng quân trước mặt này nên liên tiếp gật đầu đồng ý. Hắn nhanh chóng đặt mua một tiệc rượu thuộc loại hảo hạng mang tới, bày bát, đũa trên chiếc bàn trong phòng giam.

Đỗ Văn Hạo lại hạ lệnh tạm thời tháo gông cổ của Nguỵ Triển. Đương nhiên đích thân lao đầu giúp tháo gông trên cổ cho Nguỵ Triển.

Đỗ Văn Hạo cho lao đầu cùng ngục tốt đều tháo lui ra bên ngoài sau đó hắn mời Nguỵ Triển ngồi xuống. Sau khi cáo lỗi, Nguỵ Triển liền nghiêng người ngồi xuống.

Sau khi cạn chén rượu đầu, Đỗ Văn Hạo nói: "Nguỵ đại nhân, nghe nói hôm Hoàng Thượng băng hà, ngài mải mê rượu chè mà hỏng việc, không kịp thời cứu chữa Hoàng Thượng, phải không?'

Nguỵ Triển cầm chén rượu. uống một hơi cạn rồi cúi đầu nói: "Đại nhân, ty chức không thể cứu chữa Hoàng Thượng, quy tội như vậy, ty chức không có oán thán gì, dù chết cũng không oán. Nhưng vấn đề là ty chức không ham rượu. Nhiều năm nay ty chức không uống rượu. Hơn nữa đại nhân cũng hiểu Ngự y trực trị bệnh bất kỳ lúc nào cũng túc trực bên cạnh Hoàng Thượng. Ở nơi đó có cơ hội uống rượu sao? làm gì có rượu mà uống".

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: "Lúc ây đã xảy ra chuyện gì? Ngài có thể nói ta nghe một chút không?"

Nguỵ Triển thở dài một tiếng nói: "Ngày mai đã xử chém. Nói những điều này còn tác dụng gì không? Không bằng hãy nâng ly một hồi, uống say mơ màng ra pháp trường" Nói xong Nguỵ Triển tự tay rót một bát lớn, hắn chắp tay hướng Đỗ Văn Hạo nói: "Đa tạ đại nhân ban thưởng rượu" Nói rồi ông ta nâng bát uống một hơi cạn sạch rồi ho khan một hồi lâu.

Đỗ Văn Hạo đợi cho Nguỵ Triển ho xong mới trầm giọng nói: "Thực không dám dấu giếm, Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ để cho ta điều tra vụ án của ngài. Nếu như thực sự như ngài nói, có lẽ có cơ hội xoay chuyển".

Nguỵ Triển cười gượng nói: "Cơ hội xoay chuyển? Trưa ngày mai đã bị xử chém, xoay chuyển làm gì? Hơn nữa lão hủ đã luôn nói không biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì thì làm thế nào rửa nỗi oan khuất?"

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 397:Không Phải Độc Dược của Độc Dược (1+2) .

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

"Quả thực có gì đó rất kỳ quặc" Nguỵ Triển di chuyển thân hình, đụng phải xích sắt khiến ông ta cảm thấy gân cốt như muốn đứt ra. "Lão hủ xưa nay ngủ không quá sâu. chỉ cần có tiếng động nhẹ là sẽ tỉnh lại. Nhưng tại sao đêm đó lại chìm vào giấc ngủ sâu, sau khi tỉnh lại thì đã là tối ngày hôm sau? Khi thẩm vấn lão hủ nghe nói lúc đó cho dù dùng bất kỳ hình thức nào, kể cả đánh lão hủ cũng không tỉnh lại. Không phải như vậy rất kỳ lạ sao?"

Trong lòng Đỗ Văn Hạo khẽ chấn động: "Trước khi đi ngủ ngài uống chén trà đó sao?"

"Đúng vậy".

"Đó là trà gì? Ai bưng lên cho ngài?"

"Một chén trà đậm đặc. Ta có thói quen khi trực trị bệnh thì muốn uống một chén trà đậm đặc, như vậy mới khó ngủ, thậm chí là không ngủ vì sợ ảnh hưởng tới việc chữa trị. Trà là do cung nữ hầu hạ mang tới. Các nàng ấy cũng biết thói quen của ta. Bao nhiêu năm này đều như vậy, không cần phải căn dặn".

"Ngài có uống hết chén trà của buổi tối đó không?"

"Đương nhiên là uống cạn. Sau khi uống cạn thì ta nằm nghỉ, ngủ rất nhanh".

"Trong trà có mùi vị khác thường nào không?"

Nguỵ Triển sững sờ, hắn cau mày suy nghĩ một lát nói: "Có, có một chút. Hơi đắng. Lúc đó ta đã hỏi cung nữ bưng trà xem đây có phải là trà hỏng không. Cung nữ còn nói đây là trà Khổ Đinh mới tiến cống. Đó chính là vị trà. Ta không nghi ngờ gì nữa liền uống cạn".

"Mùi đắng?" Đỗ Văn Hạo trầm ngâm một lát rồi lại hỏi: "Ngài có ấn tượng nào với người cung nữ bưng trà cho ngươi không?"

"Là Đại Đào, cung nữ trong phòng của Đức Phi nương nương, khoé miệng có một nốt ruồi".

Đỗ Văn Hạo thường xuyên tới tẩm cung của Đức Phi, Đại Đào này là một trong những thị nữ thân cận của Đức Phi nương nương. Nguỵ Triển vừa nói Đỗ Văn Hạo đã đoán ra. Hắn lại tiếp tục hỏi một số tình huống nhưng Nguỵ Triển không biết bởi vì khi ông ta đang ngủ, Hoàng Thượng băng hà lúc nào ông ta cũng không biết.

Đỗ Văn Hạo nói: "Nguỵ đại nhân, ngài cứ từ từ uống. Ta đi trước".

Nguỵ Dương khó nhọc đứng dậy, chắp tay, tiếng leng keng của xích sắt vang lên: "Đa tạ đại nhân. Ai!, trước khi chết có thể gặp mặt đại nhân, lại được đại nhân ban cho rượu, lão hủ cũng cảm thấy mãn nguyện rồi".

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: "Nguỵ đại nhân, Hoàng Thái Hậu có khẩu dụ, miễn trừ tội chết ngày mai của ngài. Đợi sau khi vụ án này được tra xét rõ ràng thì sẽ căn cứ vào đó xử lý".

"Hả?" Nguỵ Triển kinh ngạc vui mừng hỏi: "Đại nhân, chuyện này có thật sao?"

"Ha ha ha. Ta dù gan to bằng trời cũng không dám giả truyền ý chỉ. Tiêu công công, thái giám truyền chỉ đang đợi ở bên ngoài. Ta ra gọi, ngài cứ chờ".

'Cám ơn! Ta tin. Ta tin lời nói của đại nhân. Đa tạ ơn đại nhân cứu mạng" Nói xong Nguỵ Triển vén áo bào, khuỵ xuống dập đầu.

"Đây là ân điển của Hoàng Thái Hậu. Ta không có làm gì hết" Đỗ Văn Hạo mỉm cười, đỡ Nguỵ Triển đứng dậy.

Nguỵ Triển khó nhọc đứng dậy, kích động trào lệ nói: "Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ để lão hủ chết. Lão hủ hiểu rõ nếu không có đại nhân nói tốt trước mặt Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu nhất định sẽ không thu hồi mệnh lệnh đã ban. ơn cứu mạng này của đại nhân, lão hủ trọn đời không quên".

"Có giữ được mạng sống hay khônh thì còn dựa vào kết quả điều tra. Nhưng ngài có thể yên tâm. Nếu quả thực đúng như lời ngài nói, có người hãm hại, ta sẽ điều tra rõ việc này. Nếu quả thực đúng như vậy, ta nhất định sẽ bảo vệ tính mạng của ngài".

Nguỵ Triển nức nở, liên tục chắp tay thi lên, đang định quỳ xuống thì bị dvh ngăn cản. Sau khi nói mấy câu an ủi Nguỵ Triển, Đỗ Văn Hạo liền cáo từ đi ra. Bên ngoài Tiêu công công đã đang tuyên ý chỉ của Hoàng Thái Hậu tha chết cho Nguỵ Triển với cai ngục, thấy Đỗ Văn Hạo đi ra liền dẫn người đi vào tuyên chỉ với Nguỵ Triển. Đương nhiên Nguỵ Triển cảm kích rơi nước mắt.

Sau khi Đỗ Văn Hạo nói lại với Tiêu công công việc đó, Tiêu công công quyết định mang theo người cùng Đỗ Văn Hạo tới tẩm cung của Đức Phi nương nương điều ta sự việc.

Khi đoàn người tới Thánh Thuỵ cung của Đức Phi nương nương, cửa cung đã đóng chặt. Lập tức có thái giám bước tới gõ cửa, cửa cung nhanh chóng mở ra. Vừa nhìn thấy Tiêu công công mang theo đội Đả thủ, cung nữ đã sợ run bắn cả người, vội vàng quỳ dạp xuống thi lễ nói: "Công công, nương nương chúng tôi không ở đây. Nương nương đang túc trực bên linh cữu ở tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu".

"Chúng ta không tới tìm nương nương của các ngươi" Tiêu công công đẩy người cung nữ sang bên rồi bước vào trong, mhìn lướt qua sân tối om như mực hỏi: "Người cung nữ có tên là Đại Đào có ở đây không?"

"Dạ, đã ngủ rồi".

Tiêu công công quay đầu nhìn đội cung nữ Nội thị nói: "Hai người các ngươi đi theo cung nữ này dẫn Đại Đào tới đại dường. Mau!".

Hai cung nữ Nội thị trả lời rồi kéo người cung nữ cùng đi. Tiêu công công và Đỗ Văn Hạo đi thẳng vào đại sảnh. Lập tức thái giám hầu hạ thắp sáng đèn cung đình.

Một cung nữ trong trạng thái buồn ngủ nhanh chóng bị dẫn ra đạnh sảnh, lúng túng quỳ dưới đất.

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng hỏi: "Ngươi chính là Đại Đào?"

"Dạ!".

Đỗ Văn Hạo hỏi thẳng: "Ngày Hoàng Thượng băng hà, có phải ngươi đã bưng một lên trà tới cho Thái y thừa Ngụy Triển uống không?"

Đại Đào bất giác sợ run cả người, sợ hãi cúi đầu chậm rãi trả lời: "Dạ, là nô tỳ mang tới".

"Trà đó lấy ở đâu?"

"Là nô tỳ pha".

"Là trà gì?"

"Dạ, hình như là trà Khổ Đinh".

Đỗ Văn Hạo nặng nề đập tay xuống bàn trà. Đại Đào sợ hãi tới mức cả người run lập cập. "Bản quan nói thật cho người biết. Chính vì Nguỵ thái y uống trà Khổ Đinh đó mà kết quả là ngủ mê man tới tận chiều hôm sau mới tỉnh lại, nên đã chậm trễ cứu chữa Hoàng Thượng. Rốt cuộc ngươi đã cho cái gì vào trong trà?"

Đại Đào sợ quá "rầm" một tiếng quỳ dạp xuống đất nói: "Nô tỳ oan uổng".

"Oan uổng?" Đỗ Văn Hạo nghe giọng nói chưa có gì lo lắng, ánh mắt láo liên lập tức trong lòng đã hiểu phần nào. Hắn cười nhạt nói: "Ha ha. Không dùng đại hình ngươi không nhân tội. Công công, hãy tra khảo con tiện tỳ này".

"Được! Dụng hình!" Tiêu công công vung tay. Hai cung nữ cao lớn thô kệch, chân tay nhanh nhẹn, cho Đáng chỉ vào hai tay Đại Đào rồi ra sức kéo. Tiếng kêu thảm thiết của Đại Đào vang lên khắp đại sảnh, cùng với đó là tiếng vỡ vụn của xương cốt khiến lòng người run sợ, cực kỳ doạ người.

Đại Đào chỉ kiên cường trong khoảng thời gian uống chưa hết một chung trà rồi gào thảm thiết nói: "Xin tha mạng. Nô tỳ nói" Tiêu công công vung tay, lúc này hai cung nữ mới thu lại Đáng chỉ. Mười ngón tay của Đại Đào máu thịt lẫn lộn, hình như đã có mấy đầu ngón tay đã bị kẹp nát, đau đớn như châm kim, suýt chút nữa ngất xỉu. Đại Đào quỳ dạp trên mặt đất khóc nói: "Là trà của Ung Vương. Ung Vương đưa cho nô tỳ năm lạng, bắt nô tỳ nói với Nguỵ Thái y đây là trà Khổ Đinh mới tiến cống. Tất cả cũng đều là do Ung Vương dạy nô tỳ. Nô tỳ thực sự không biết uống trà vào mê man không tỉnh. Thật sự việc này không liên quan tới nô tỳ".

Đỗ Văn Hạo mừng thầm trong lòng. Quả nhiên chuyện này có quan hệ tới Ung Vương vậy đừng trách mình lòng dạ độc ác. Phải điều tra tới cùng, thẩm vấn nghiêm chỉnh các chi tiết liên quan. Đại Đào này nói rất cặn kẽ, không giống như đang bịa chuyện.

Trong cả quá trình thẩm vấn có một thái giám chuyên môn phụ trách ghi chép khẩu cung ghi lại, cuối cùng để Đại Đào ký tên rồi mới đeo gông xiềng dẫn đi.

Đỗ Văn Hạo cùng Tiêu công công thương lượng. Cả hai quyết định tới ngay Ngự dược viện.

Căn cứ theo quy định của hoàng cung. Bất kỳ loại thuốc nào dùng cho Hoàng Thượng đều phải chia làm hai phần. Một phần được lưu lại, một phần để Hoàng Thượng dùng. Phần lưu lại có thể dùng để kiểm tra lại xem có tồn tại vấn đề gì không.

Khi hai người tới Ngự dược viện, tất nhiên ở đây cũng đã đóng cửa. Sau khi viên quan trực mở cửa ra thấy Tiêu công công và tam nha Đô Chỉ Huy Sứ tới liền vội vàng chạy đi báo cho Viện sứ Ngự dược viện. Viện sứ Ngự dược viện họ Khang không kịp mặc quan bào vội vàng chạy ra nghênh đón.

Đỗ Văn Hạo nói: "Khang Viện sứ, xin mời đem tất cả đơn thuốc cùng mẫu thuốc Hoàng Thượng dùng trước khi băng hà ra đây. Bản quan muốn điều tra thực hư".

Khang Viện sứ khó xử, ông ta chắp tay nói: "Tướng quân, thật sự xin lỗi. Chỉ có Hoàng Thượng hạ chỉ mới có thể lấy đơn thuốc cùng mẫu thuốc lưu lại ra để kiểm tra thực hư".

Tiêu công công the thé mắng: "Đầu ngươi hôn mê à? Hoàng Thượng đã băng hà, chưa chỉ định ngưòi thừa kế ngôi vị Hoàng Đế. Ngươi bảo chúng ta đòi Thánh chỉ ở chỗ nào?"

"Hì hì. Ý chỉ của Hoàng Thái Hậu cũng được. Nếu không chúng ta chỉ còn cách đợi tới khi tân Hoàng Thượng lên ngôi hãy điều tra. Thật sự xin lỗi. Đây là quy định. Làm trái với quy định chính là tử tội. Ty chức không dám làm trái".

Đỗ Văn Hạo nói: "Ai kêu ngươi làm trái? Bản quan phụng ý chỉ của Hoàng Thái Hậu điều tra vụ án Nguỵ Triển không làm tròn chức trách, cần lấy thuốc lưu tồn để kiểm tra. Ngay cả điều này cũng không được sao?"

Khang viện sứ cúi đầu hành lễ nói: "Tất nhiên là được. Nhưng mà dựa theo quy định, tướng quân vẫn phải đưa ra văn bản ý chỉ của Hoàng Thái Hậu làm bằng chứng. Ty chức nhìn thấy ý chỉ mới có thể hạ lệnh đi lấy. Bằng không dù ty chức đồng ý, chỉ e nhị vị giám sát của Ngự Sử đài không nhìn thấy ý chỉ cũng sẽ không đồng ý. Một khi bọn họ không đồng ý, không thể lấy đơn thuốc cùng thuốc lưu giữ được".

Các vấn đề liên quan tới việc dùng thuốc của Hoàng Thượng trong hoàng cung được quy định cực kỳ nghiêm ngặt. Sau khi kê đơn thuốc, phải trải qua cục dược tiến hành kiểm tra lại, xác nhận không có vấn đề gì, giao cho Ngự dược viên dựa theo đơn thuốc tiến hành bốc thuốc gấp đôi liều dùng. Sau khi phối thuốc lại trả qua sự kiểm tra của nôi thị giám sát Ngự Sử Đài, chia thuốc ra làm hai phần. Một phần đem sắc, một phần niêm phong cất vào kho, đóng dấu, gắn xi phong kín lại, hai nội thị giám sát chia nhau ký tên rồi mới niêm phong cất vào tủ bảo vệ. Chìa khoá của tủ bảo vệ này cũng do Viện sử cùng hai nội thị giám sát quản lý. Phải sử dụng đồng thời chìa khoá của ba người mới có thể mở ngăn tủ bảo quản ra. Chế độ nghiêm ngặt đó chính là để bảo đảm thuốc lưu giữ không bị đánh tráo.

Trong khi đó muốn lấy thuốc lưu giữ tiến hành điều tra thì nhất định phải có Thánh chỉ của Hoàng Thượng. Không có Thánh chỉ của Hoàng Thượng, tự tiện mở ra chính là tử tội. Khang Viện sứ cũng không thể giỡn chơi với cái đầu của mình được.

Khang Viện sứ thấy Đỗ Văn Hạo không dùng sức mạnh để ép lấy thuốc lưu giữ, ông ta thở phào nhẹ nhõm, cười nói: "Tướng quân, Ung Vương gia đã có nghiêm lệnh, không có sự đồng ý của người, cho dù là bất kỳ kẻ nào cũng không được lấy thuốc lưu giữ ra kiểm tra. Vì vậy muốn lấy thuốc ra còn cần sự cho phép của Ung Vương gia".

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn Khang Viện sử hỏi: "Thật vậy sao?"

"Đúng vậy. Đây chính là tử lệnh của Ung Vương gia. Ty chức không dám không theo. Ha ha".

"Vậy coi như đã làm phiền. Cáo từ!".

Đỗ Văn Hạo dẫn theo mấy ngưòi Tiêu công công rời khỏi Ngự dược viện. Tiêu công công khẽ hỏi Đỗ Văn Hạo: "Tướng công, chuyện này bỏ qua như vậy sao?"

"Đương nhiên là không" Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Tại sao Ung Vương lại ra nghiêm lệnh này? Ha ha, chỉ sợ là giấu đầu lòi đuôi. Đi, chúng ta tới gặp Hoàng Thái Hậu lấy ý chỉ".

Nhóm người của Đỗ Văn Hạo đi vào tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hâu. Ngày mai là ngày đưa tang Thái Hoàng Thái Hậu. Đêm nay là đêm cuối cùng, Hoàng Thái Hậu mang theo các phi tần túc trực trước linh cữu. Sau khi thông báo vào trong, Hoàng Thái Hậu lập tức triều kiến.

Hoàng Thái Hậu cho tả hữu lui ra, ngoắc tay ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo tới ngồi cạnh mình trên giường: "Văn Hạo, ngươi tới đúng lúc, ta đang định cho người tới truyền đòi ngươi".

Bây giờ đã gần nửa đêm canh ba. Hoàng Thái Hậu sốt ruộ phái người triệu kiến hắn nhất định là có chuyện khẩn cấp. Đỗ Văn Hạo chưa kịp bẩm báo tiến triển của tình hình điều tra đã vội hỏi: "Đã xảy ra chuyện gì sao?"

"Không có! Chỉ là có một chuyện quan trọng. Lúc trước ta đã không để ý tới. Vừa mới rồi quan chấp sự phụ trách khiêng linh cữu bẩm báo với ta: muốn cử hành lễ từ linh rạng sáng ngày mai thì phải có người thống lĩnh Hoàng tộc tế lễ theo thứ tự. Sau đó khi khiêng linh cữu đưa tang cũng phải có người thống lĩnh Hoàng tộc bắt đầu nghi thức tế lễ, tiến hành tế lễ tổ tông. Khiêng linh cữu trước Ngọ Môn cũng phải có người chỉ huy. Ai là người có thể đảm đương trách nhiệm này?".

Đỗ Văn Hạo trả lời không cần suy nghĩ: "Điều này đương nhiên là người. Trong Hoàng tộc còn có ai cao hơn người sao?"

"Quan chấp sự nói: dựa theo quy định của tổ tiên, người chủ trì tế lễ chỉ có thể là Hoàng Đế'.

Hoàng Đế ở đây chính là Hoàng Đế kế vị. Người chủ trì tế lễ của Hoàng Đế băng hà chính là chuyện đại sự. Điều này Đỗ Văn Hạo hiểu, vấn đề ở đây là Ung Vương và lục Hoàng tử đều tranh giành ngôi vị Hoàng Đế. Dựa theo quy định trong Hoàng cung, người trủ trì tế lễ chính là Hoàng Đế kế thừa ngôi vị. Một khi xác định bất kỳ ai trong số hai người trủ trì tế lễ khiêng linh cữu thì đã đương nhiên chấp nhận người đó chính là người thừa kế ngôi vị Hoàng Đế.

Đỗ Văn Hạo gật đầu. Hắn cũng cảm thấy đây là một chuyện khó giải quyết. Hắn nhìn Hoàng Thái Hậu hỏi: "Thao Thao, ý của nàng?"

"Ta?" Hoàng Thái Hậu cười nói: "Ta không có ý gì, ngươi cứ nói đi".

Đỗ Văn Hạo ngượng ngùng nói: "Chuyện này có quan hệ tới người thừa kế ngôi vị. Ta không thể làm thay cho nàng được".

Hoàng Thái Hậu sẵng giọng nói: "Ngươi còn khách sáo với ta sao? Ngươi đã nói giúp ta. Ngươi có chủ ý gì hãy mau nói ra đi".

Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng cầm bàn tay mềm mại của nàng nói: "Được, ta giúp nàng nhưng mà có một chuyện ta muốn bẩm báo với nàng trước…"

Hoàng Thái Hậu cau mày nói: "Ta đang như có lửa đốt trong lòng ngươi còn nói sang chuyện khác. Trước tiên hãy nói chuyện này. Việc khác nói sau".

"Chuyện ta muốn nói chính là có liên quan tới chuyện đó. Sau khi nàng nghe xong chuyện này, có lẽ sẽ giúp cho nàng hạ quyết tâm ai là người đảm đương trách nhiệm trủ trì trách nhiệm khiêng linh cữu".

"Hả?" Hoàng Thái Hậu ngạc nhiên nhìn hắn: "Vậy ngươi nói đi".

Đỗ Văn Hạo liền thuật lại chuyện điều tra vừa rôi, cuối cùng hắn nói: "Sau khi điều tra sơ bộ thì thấy Ung Vương từng bắt Đại Đào, thị nữ thân cận của Đức Phi nương nương bưng một chén trà tới cho Thái y thừa Nguỵ Triển uống. Sau khi uống chén trà này, Nguỵ Triển ngủ mên man tới chiều tối ngày hôm sau. Sau khi tỉnh lại thì toàn thân hắn sực mùi rượu. Từ trước tới nay Nguỵ Triển không uống rượu vì vậy ta hoài nghi trong này có chuyện mờ ám nào đó".

Sắc mặt Hoàng Thái Hậu trở nên tái nhợt. "Ngươi nói là Nhan nhi giở trò quỷ khi Hoàng Thượng băng hà sao?"

Đỗ Văn Hạo chậm rãi gật đầu nói: "Mặt khác căn cứ vào lời của Đức Phi nương nương: sau khi thuốc của Hoàng Thượng tăng thêm đan dược chu sa, bệnh không thuyển giảm, trái lại còn trầm trọng hơn vì vậy ta nghi ngờ thuốc của Hoàng Thượng đã bị người thay đổi. Vừa rồi ta và Tiêu công công tới Ngự dược viện định bụng lấy thuốc lưu giữ ở đó để kiểm tra làm rõ thực hư. Kết quả Khang Viện sứ nói muốn lấy thuốc lưu giữ để kiểm tra phải có Thánh chỉ hoặc ý chỉ của Hoàng Thái Hậu. Nhưng Khang Viện sứ còn nói: lúc trước Ung Vương gia có ra nghiêm lệnh ai muốn lấy thuốc điều tra phải có mệnh lệnh của Ung Vương gia".

"Thật vậy sao?" Hoàng Thái Hậu cắn đôi môi son suy nghĩ sau đó chậm rãi đứng dậy nói: "Đi! Ngươi theo ta tới lấy thuốc lưu giữ điều tra".

Đỗ Văn Hạo thầm vui mừng trong lòng. Hắn vội kêu Tiêu công công mang đội Nội thị đi cùng. Sau khi Ngự giá của Hoàng Thái Hậu tới Ngự dược viện, cảnh cửa mở ra, viên quan trực thấy Hoàng Thái Hậu thân chinh ngự giá tới thì hoảng sợ giống như con thỏ vậy, hắn vội vàng chạy đi báo cho Khang viện sứ.

Khang viện sứ vừa mới cởi quần áo nằm nghỉ lại, vẫn chưa ngủ được, nhận được tin tức liền hấp tấp mặc quan bào chạy tới nghênh đón. Nội thị giám sát do Ngự sử đài phái tới ở Ngự dược viện cũng nhận được thông báo Hoàng Thái Hậu muốn kiểm tra vấn đề của thuốc lưu giữ thì cũng cuống quýt rời khỏi giường chạy tới.

Hoàng Thái Hậu chỉ lạnh lùng nói một câu với ba người đó: "Lấy thuốc dùng cho Hoàng Thượng trong ngày băng hà. Ai gia muốn kiểm tra".

Khang viện sứ và hai viên nội thị giám sát liên thanh trả lời, chạy đi mở các khay tủ, cẩn thận lấy thuốc lưu giữ ra. Sau khi kiểm tra dấu vết niêm phong vẫn còn nghiêm chỉnh, bỏ vào khay đưa tới dâng lên Hoàng Thái Hậu.

Hoàng Thái Hậu nói với Đỗ Văn Hạo: "Đỗ ái khanh, người hãy tới kiểm tra".

"Dạ" Đỗ Văn Hạo tiến lên tiếp nhận khay đựng thuốc. Sau khi kiểm tra thấy dấu vết niêm phong không có gì thay đổi, xác nhận thuốc không bị đánh tráo, hắn mới dùng tiểu đao, mở niêm phong, lấy gói thuốc bên trong đặt lên bàn, cởi bỏ dây buộc, mở ra nhìn. Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói với Hoàng Thái Hậu: "Thái Hậu, vi thần còn cần phải kiểm nghiệm những gói thuốc trước đó để tiến hành đối chiếu. Tốt nhất là lấy trong vòng thời gian mười ngày".

"Được. Hãy mang thuốc dùng cho Hoàng Thượng trước đây được giữ lại ra kiểm nghiệm".

Khang viện sứ cùng hai viên nội thị vội vàng chạy đi lấy thuốc dùng cho Hoàng Thượng trong vòng mười ngày mang tới. Sau khi Đỗ Văn Hạo lấy ra, nhìn qua một lượt rồi hắn nói với Hoàng Thái Hậu: "Thái Hậu, thỉnh người di giá tới xem".

Hoàng Thái Hậu đứng dậy, chậm rãi đi tới trước bàn.

Đỗ Văn Hạo chỉ vào mười gói thuốc để trân bàn nói: "Hoàng Thái Hậu, những thuốc dùng cho Hoàng Thượng đều do vi thần kê đơn. Nhưng có gia tăng thêm một vị thuốc. Đó là Chu sa. Căn cứ theo điều tra biết được chính là Ung Vương gia đã đề nghị gia tăng Chu sa. Hơn nữa lượng Chu sa trong mười thang trước này đều rất nhiều, vượt qua giới hạn bình thường mấy lần. Ba thang sau lượng Chu sa gấp mười lần. Đặc biệt ở thang cuối cùng này, xin thỉnh Hoàng Thái Hậu nhìn xem, lượng Chu sa trong thang thuốc này đã vượt qua lượng Chu sa trong ba thang kia mấy chục lần. Với lượng Chu sa đó đủ để cho một người trúng độc chết rất nhanh chóng".

Khang viện sứ cũng là Ngự y, ông ta nghe vậy sợ hãi, rụt rè hỏi một câu: "Tướng quân, không phải Chu sa là thượng phẩm tiên dược sao? Hình như hạ quan chưa bao giờ nghe thấy trúng độc Chu sa".

Hoàng Thái Hậu cũng nghi ngờ nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nói: "Cách để kiểm nghiệm lời nói của vi thần chính là hãy thử nghiệm một lần. Dùng một lượng Chu sa giống như lượng Chu sa dùng cho Hoàng Thượng trong ngày băng hà cho một con lợn béo có trọng lượng tương tự với trọng lượng của một người ăn thử là sẽ biết có trúng độc hay không".

Hoàng Thái Hậu thấy Đỗ Văn Hạo khẳng định như vậy thì vung tay nói: "Đi tìm một con lợn phù hợp tới đây. Lấy liều Chu sa tương tự như vậy cho nó ăn".

Tiêu công công trả lời rồi lập tức dẫn người đi tới chỗ chăn nuôi súc vật ở Ngự Thiện Phòng, tìm một con lợn rồi mang tới Ngự dược phòng.

Khang viện sứ cùng hai nội thị giám sát của Ngự Sự Đài ước lượng lượng Chu sa trong gói thuốc rồi mang tới một liều Chu sa tương tự, quấy vào trong thức ăn gia sức, ép con lợn đó ăn.

Chỉ chưa tới thời gian ăn xong một bữa cơm, con lợn đó liền kêu lên một tiếng, lăn lộn trên mặt đất, miệng sùi bọt mép. Chỉ trong một thời gian đốt một nén nhang, nó run rẩy nằm trên mặt đất sau đó thì không nhúc nhích được nữa.

Tiêu công công tiến lên kiểm tra hơi thở của con lợn, rồi khom người nói: "Hoàng Thái Hậu, con lợn đã chết".

Hoàng Thái Hậu quá sợ hãi, nàng đứng dậy đi tới trước, ngồi xổm kiểm tra hơi thở của con lợn ngay lập tức sắc mặt tái nhợt, chậm rãi đứng lên, nhìn chằm chằm vào mặt Khang viện sứ hỏi: "Rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì?"

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 398: Thẩm vấn đêm khuya (1+2).

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Khang viện sứ hốt hoảng quỳ xuống, dập đầu nói: "Hoàng Thái Hậu, vi thần không biết. Những gói thuốc này không bốc theo đơn cũ, cũng không phải do vi thần kiểm tra".

"Là ai?" Hoàng Thái Hậu lạnh lùng hỏi.

"Căn cứ theo ký tên trên gói giấy, nhất định là Ngự dược viện Viện phán Hoàng Cẩm Mộc và Hồ Húc kiểm nghiệm".

Hoàng Thái Hậu quay đầu nhìn Tiêu công công nói: "Hãy phái người đi bắt hai người đó tới đây".

Tiêu công công trả lời rồi mang theo một đội Nội thị vội vã rời khỏi Ngự dược viện.

Trong đại sảnh Ngự dược viện, Hoàng Thái Hậu âm trầm, nghiêm mặt ngồi lặng lẽ. Dù chính mắt nàng đã nhìn thấy con lợn trúng độc Chu sa mà chết nhưng trong lòng vẫn trăm mối tơ vò. Nàng nhìn Đỗ Văn Hạo hỏi: "Đỗ ái khanh, vì sao Chu sa có thể trúng độc?"

Người cổ đại hoàn toàn tin tưởng Chu sa không có độc đó là vì Chu sa không giống với thạch tín. So với thạch tín, lượng trúng độc phải nhiều hơn nhiều, dẫn tới cái chết lại càng nhiều hơn. Trong khi đó lượng Chu sa dùng trong thuốc lại rất bình thường, không đạt tới lượng để gây chết người. Dù tương truyền là Chu sa có thể kéo dài tuổi thọ, nhưng mà ngay cả dân thường cũng biết cần phải có đại sự luyện đan chế luyện mới thành vì vậy không ai vì muốn kéo dài tuổi thọ mà trực tiếp dùng Chu sa. Vì vậy việc trúng độc Chu sa cực kỳ hiếm gặp. Chính vì vậy người cổ đại thiếu sự hiểu biết về độc tính của Chu sa. Hơn nữa đa phần chu sa gây trúng độc mãn tính. Ví dụ như một số bậc đế vương mưu cầu trường sinh bất lão dùng đan dược có Chu sa nên trở thành người trúng độc mãn tính.

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ kỹ lưỡng cách giải thích vấn đề này, Hắn cúi người nói: "Hồi bẩm Hoàng Thái Hậu. Phàm cái gì gọi là thuốc thì đều có ba phần độc. Bất kỳ loại dược liệu nào cũng có độc. Cứ nhìn xem liều lượng dùng trong đơn. Nếu như liều thuốc nằm trong phạm vi bình thường, cho dù loại kịch độc như thạch tín cũng là dược liệu. Như trong đơn thuốc Thánh Huệ có cao thạch tín, có thể dùng để trị liệu vết thương lở loét ác tính làm thịt thối. Trong Tử Kim đan có phối hợp với thạch tín, cóp thể trị chứng hàn đờm, thở khò khè. Nhưng nếu một khi vượt quá liều thuốc dùng thì cho dù dược liệu thưởng phẩm như Chu sa cũng trở thành độc vật. Lại ví dụ như dược liệu "Rễ bản lam" (vị thuốc Bắc dùng giải nhiệt, tiêu độc, phòng bệnh) thường dùng trị liệu cảm mạo, ôn bệnh phát nhiệt. Từ xưa tới nay trong tất cả các y thư đều không ghi "Rễ bản lam" có độc nhưng mà nếu xử dụng liều lượng lớn cũng sẽ trúng độc chết. Trước kia vi thần hành nghề y cũng đã từng gặp qua bệnh án này. Lại ví dụ như "Thanh mộc hương" có thể được dùng trị chứng đau bụng. Y thư cũng không ghi có độc nhưng mà dùng với liều lượng lớn cũng có thể gây ra cái chết. Nếu như Hoàng Thái Hậu không tin thì có thể nhân dịp này kiểm nghiệm lại lần nữa".

Hoàng Thái Hậu nói: "Ai gia tin tưởng lời của ngươi, không cần phải thử".

Đỗ Văn Hạo khom người, chắp tay nói: "Đa tạ Hoàng Thái Hậu. Hoàng Thượng dùng Chu sa còn có một điều cực kỳ hại. Đó chính là bệnh của Hoàng Thượng. Bệnh của Hoàng Thượng gọi là thận suy kiệt. Đây là do thận xuất hiện vấn đề. Trong khi đó hậu quả trực tiếp của dùng Chu sa quá liều đó là làm tăng mức độ của thận suy kiệt khiến cho bị suy thận cấp tính mà chết. Vì thế đối với Hoàng Thượng mà nói, dùng Chu sa quá liều không khác gì dùng thạch tín".

Hoàng Thái Hậu chậm rãi gật đầu nói: "Ai gia đã hiểu. Chuyện này nhất định phải tra ra manh mối. Ai gia tất có phán xét".

"Dạ!" Đỗ Văn Hạo thầm vui mừng. Trước đây hắn một mực nghi ngờ Ung Vương gia đứng sau giở trò quỷ. Bây giờ xem ra càng có nhiều điểm để chứng minh điều này. Chỉ cần Hoàng Thái Hậu có thái độ này, Ung Vương nhất định sẽ không thể đăng cơ".

Một lát sau Ngự dược viện Viện phán Hoàng Cẩm Mộc cùng Hồ Húc bị dẫn tới. Ngay khi cả hai nhìn thấy gói thuốc mở ra để trên bàn, trên mặt đất còn có một con lợn chết tức thì cả hai giật nảy mình, quay người quỵ xuống lê tới dập đầu.

Hoàng Thái Hậu lạnh lùng hỏi: "Những gói thuốc trên bàn có phải do các ngươi phối chế và kiểm nghiệm không?"

Tiêu công công bước tới cầm gói thuốc để trên mặt đất trước mặt hai người. Sau khi hai người xem xét cẩn thận thì dập đầu trả lời là đúng.

Hoàng Thái Hậu lạnh lùng nói: "Lúc nãy Ai gia đã lấy một lượng Chu sa ngang bằng với lượng các ngươi dùng trong gói thuốc cho lợn ăn. Kết quả con lợn trúng độc chết. Hãy nói đi, đây là chuyện gì?"

Hai người sợ ngây người, dập đầu thình thịch nói: "Hoàng Thái Hậu tha mạng! Đây toàn bộ là chỉ lệnh của Ung Vương gia cho bọn vi thần làm".

Mày liễu của Hoàng Thái Hậu dựng lên, nàng lạnh lùng nói: "Đến tột cùng là đã xảy ra chuyện gì? Hãy nói thật ra. Nếu không Ai gia xử tử lăng trì hai ngươi, tịch thu gia sản cả nhà các ngươi".

Hai người sợ tới mức hồn phi phách tán. Hoàng Cẩm Mộc run rẩy nói: "Vi thần nguyện nhận tội. Trước khi Hoàng Thượng băng hà…".

"Chờ một chút!" Đỗ Văn Hạo cắt ngang lời, hắn nhìn Hoàng Thái Hậu: "Hoàng Thái Hậu, tách hai người này ra thẩm vấn từng người một. Ghi lại khẩu cung sau đó đối chiếu hai khẩu cung là biết thật hay giả".

Hoàng Thái Hậu giật mình. Nàng sai người mang Hồ Húc ra đợi thẩm vấn sau, thẩm vấn Hoàng Cẩm Mộc trước.

HHoàng

Hoàng Cẩm Mộc dập đầu nói: "Trước khi Hoàng Thượng băng hà ba ngày, Ung Vương gia tới Ngự dược viện, gọi hai người vi thần ra ngoài nói: hôm nay tinh thần Hoàng Thượng không tốt, cần điều dưỡng. Ung Vương nói đã tham khảo Trịnh Cốc, Viện sứ Thái y viện là có thể gia tăng liều lượng Chu sa trong thang thuốc của Hoàng Thượng.

Hai người vi thần có phần khó xử, bèn nói chỉ có thể bốc liều lượng thuốc theo đơn thuốc. Ung Vương gia nói đây là để kéo dài tuổi thọ của Hoàng Thượng. Nếu xảy ra chuyện gì Vương gia sẽ chịu trách nhiệm, bảo hai người vi thần cứ làm theo như lời Vương gia. Hai người bọn vi thần suy tính thấy Chu sa chính là tiên dược thượng phẩm, không những không có độc, hơn nữa còn có công dụng kéo dài tuổi thọ, gia tăng liều lượng cũng không có vấn đề gì xấu nên đồng ý".

Hoàng Thái Hậu lạnh lùng nói: "Không bốc thuốc theo như đơn, tội trạng như thế nào ngươi có biết không?"

Hoàng Cẩm Mộc phủ phục trên mặt đất khóc nói: "Luận tội, luận tội đáng chém. Vi thần tội đáng chết nhưng tất cả đều là chỉ lệnh của Ung Vương gia, vi thần không dám không tuân theo, nhất thời hồ đồ, cầu xin Hoàng Thái Hậu tha mạng".

Đỗ Văn Hạo nói xen vào: "Liều thuốc của ngày Hoàng Thượng băng hà nhiều hơn rất nhiều so với liều lượng của ba ngày trước đó. Đã xảy ra chuyện gì?"

Hoàng Cẩm Mộc nói: "Trước khi Hoàng Thượng băng hà một ngày, Ung Vương gia lại tới tìm hai người vi thần nói Hoàng Thượng vẫn có cảm giác tinh thần không tốt, muốn hai người vi thần thêm lượng thuốc lớn. Hai người bọn vi thần cũng không suy nghĩ gì cả liền tuân theo. Ngày hôm sau biết tin Hoàng Thượng băng hà. Chúng vi thần lo lắng có quan hệ tới liều thuốc dùng cho Hoàng Thượng nên tìm tới Ung Vương gia hỏi. Ung Vương gia hỏi lại hai người vi thần có bao giờ nghe nói người dùng Chu sa trúng độc chết chưa? Đương nhiên hai người vi thần lắc đầu. Ung Vương gia an ủi nói chỉ là chuyện trùng hợp. Hoàng Thượng mắc bạo bệnh, không có liên quan tới việc dùng dược, bảo hai người vi thần không cần lo lắng, cũng đừng nói lung tung ra bên ngoài".

Hoàng Thái Hậu nghiêm mặt, sai người mang Hoàng Cẩm Mộc xuống dưới, dẫn Hồ Húc vào thẩm vấn. Sau khi thẩm vấn đem so với lời khải của Hoàng Cẩm Mộc thì hoàn toàn ăn khớp.

Hoàng Thái Hậu hạ lệnh tống hai người vào Thiên lao, giao cho Đại Lý Tự hỏi tội. Cách toàn bộ chức vụ của Khang viện sứ Ngự dược viện, phế xuống làm thứ dân sau đó ra lệnh mang theo những gói thuốc đó, khởi giá hồi cung.

Sau khi quay lại tẩm cung, Hoàng Thái Hậu gọi Đỗ Văn Hạo vào trong phòng, đuổi người xung quanh ra khỏi phòng, rơi lệ nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Văn Hạo, bây giờ ta nên làm gì?"

Hoàng Thái Hậu không thể tưởng tượng lại tra ra kết quả này. Chính con trai thứ hai của nàng lại hạ độc giết chết con trai trưởng là Hoàng Thượng. Bất luận là nguyên nhân gì thì đối với một bà mẹ mà nói, không có cách nào chấp nhận sự thật này.

Thật ra kết quả này khiến Đỗ Văn Hạo mừng thầm trong lòng nhưng gương mặt hắn lại làm bộ cực kỳ thông cảm: "Thao Thao, nàng cũng không cần quá thương tâm. Có lẽ Ung Vương gia cũng không biết liều lượng lớn Chu sa có thể làm người trúng độc chết. Có lẽ Vương gia có ý tốt nên mới làm vậy".

Hoàng Thái Hậu nghe vậy nén lệ thương tâm, vui vẻ nói: "Đúng, đúng! May có ngươi nhắc nhở ta. Hoàn toàn có khả năng này. Nhan nhi tâm địa thiện lương, nó tuyệt đối không làm cái chuyện giết huynh đoạt vị này. Nhất định là nó nghĩ sai hay nghe người ta nói sai. Đúng, đúng. Ta lập tức cho người đi gọi Nhan nhi tới hỏi là biết liền".

"Thao Thao, đợi một chút" Đỗ Văn Hạo vội vàng nắm lấy tay nàng.

"Có chuyện gì vậy?" Hoàng Thái Hậu ngẩng đầu hỏi.

"Hoàng Thái Hậu muốn tra ra chân tướng hay muốn thoát tội cho Ung Vương?"

"Đương nhiên muốn tra ra chân tướng".

"Vậy nhất định nàng không thể hỏi thế được".

Hoàng Thái Hậu sửng sốt rồi lập tức hiểu ý tứ của Đỗ Văn Hạo. Nàng gật đầu nói: "Không sai. Nếu như hỏi trực tiếp Nhan nhi như vậy, nói không chừng nó sẽ từ chối trách nhiệm. Không. hỏi được tình huống thật sự, không có kết quả chính xác. Ngươi có đề nghị gì hay không?"

Đỗ Văn Hạo chậm rãi nói: "Chỉ có một cách nhưng vấn đề là cách này cũng hơi nguy hiểm một chút".

"Ngươi hãy cứ nói xem biện pháp thế nào?"

"Hoàng Thái Hậu đã nghe qua chuyện Khấu Chuẩn đêm tối thẩm vấn Phan Nhân Mỹ chưa?"

Hoàng Thái Hậu thoáng sửng sốt hỏi: "Khấu Chuẩn? Khấu Bình Trọng? Tể tướng của Thái Tông Hoàng đế sao?'

"Đúng vậy".

"Ta hiểu rồi nhưng mà ta không nghe nói tới Phan Nhân Mỹ. Người này là ai vậy?"

Đỗ Văn Hạo sửng sốt. Phan Nhân Mỹ là một đại gian thần thời Bắc Tống như vậy. Nàng thân là Hoàng Thái Hậu đương triều, tại sao lại không biết? Chuyện xưa của Dương gia tướng, bình thư (một hình thức văn nghệ dân gian của Trung Quốc, khi kể một câu chuyện dài dùng quạt, khăn làm đạo cụ), kịch truyền hình có rất nhiều, nhất là bình thư Dương gia tướng, Đỗ Văn Hạo nghe nhiều nên đã thuộc, hắn lập tức nói: "Phan Nhân Mỹ chính là Thái sư nắm quyền dưới thời Thái Tông Hoàng đế, là quốc cữu của Thái Tông Hoàng đế. Nữ nhi của hắn là Thái Tố Dung chính là Tây cung nương nương của Thái Tông Hoàng đế".

"Tây cung nương nương của Thái Tông hoàng đế?" Hoàng Thái Hậu cau mày liễu. Nàng thân là Hoàng Thái Hậu, cực kỳ quen thuộc với gia phả Hoàng tộc. Nàng cẩn thận nhớ lại. "Thái Tông hoàng đế trước sau có bốn vị Hoàng Hậu. Theo thứ tự là Doãn Hoàng Hậu, Lý Hoàng Hậu cùng Lý Hiền phi. Sau khi Lý Hiền phi chết được truy phong. Phi tần có Vương Đức phi, không có ai là phi tần họ Phan".

"Thật vậy sao?" Đỗ Văn Hạo thoáng trợn tròn mắt. Hắn nghiêm chỉnh suy nghĩ lập tức hiểu ra. Chuyện xưa Dương gia tướng đã trải qua quá trình cải biến nghệ thuật, trong đó có rất nhiều chuyện xưa là hư cấu, có khác biệt rất lớn với lịch sử chân thật. Nói không chừng Phan Nhân Mỹ này cũng chỉ là người dựa theo nguyên mẫu một nhân vật nào đó trong lịch sử vì thế không có thực hắn liền cười nói: "Cái này, ta cũng chỉ xem qua dã sử diễn nghĩa. Có khả năng là không đúng".

Lúc này Hoàng Thái Hậu chỉ muốn biết làm thế nào để tra ra xem con thứ hai Ung Vương Triệu Nhan có phải thực sự hạ độc giết con trưởng là Tần Lạc hay không, cũng không muốn tìm hiểu nên gật đầu nói: "Vậy ngươi hãy nói tiếp chuyện xưa đó đi".

Đỗ Văn Hạo tươi như hoa nói: "Ái tướng của Thái Tông hoàng đế là Dương lão lệnh công, Dương Kế Nghiệp, võ công cái thế, văn võ song toàn. Dưới trướng có tám con trai, được xưng là "thất lang bát hổ", anh dũng thiện chiến, cực kỳ trung thành. Thái sư Phan Nhân Mỹ là con cáo già, mưu đồ giang sơn Đại Tống, dung túng cho con là Phan Báo lập lôi đài, mưu đoạt ấn soái, bị con trai thứ bảy của Dương Kế Ngiệp là Dương thất lang đánh chết tại lôi đài, từ đó hai nhà kết oán. Sau này khi Thái Tông hoàng đế bị vây ở thành U Châu, Dương gia tướng tới U Châu cứu quân vương, huyết chiến Kim Sa Than".

Hoàng Thái Hậu ngạc nhiên hỏi: "Thái Tông hoàng đế bị vây ở U Châu sao? Tại sao ta không biết?"

"Ha ha ha. Ta đã nói tất cả chỉ là chuyện dã xử. Có thể không đúng".

"Ai, người cứ nói đi".

"Dương gia tướng huyết chiến Kim Sa Than. Dương Kế Nghiệp binh mã bị vây ở bia Lý Lăng. Dương thất lang đánh mở đường máu xuống núi cầu viện. Phan Nhân Mỹ thân là đại soái không những phái quân cứu viện ngược lại còn mượn cơ hội báo thù, hắn dùng ế bắt Dương thất lang, treo lên trên cột cờ, dùng vạn tên bắn chết Dương thất lang. Dương lão lệnh công không muốn chịu nhục bị bắt nên đã đâm đầu vào bia Lý Lăng tự vẫn chết. Trận huyết chiến Kim Sa Than, cả nhà Dương gia tướng lần lượt chết trận, cuối cùng chỉ còn lại có Dương lục lang Diên Chiêu".

"Chờ một chút. Ta nghe ngươi nói chuyện xưa này, hình như là chuyện Dương Nghiệp thời Thái Tông hoàng đế. Con trai của Dương Nghiệp là Dương Diên Chiêu".

"Vậy đúng rồi. Dương Nghiệp, Dương Kế Nghiệp cũng không khác biệt nhau lắm. Đúng rồi, Dương gia tướng vẫn còn có hậu nhân sao?"

"Nếu đúng đó là Đại tướng Dương Nghiệp thì vẫn còn. Thiên Ba Dương phủ ở sau Hoàng cung không xa lắm".

Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: "Dương lục lang còn sống không?"

"Ngươi nói đúng, Dương Diên Chiêu, đã sớm qua đời. Sau khi chết đã được an táng trong Vĩnh Hậu lăng cùng Anh Tông hoàng đế".

Bây giờ Đỗ Văn Hạo mới hiểu được, sau khi Dương Diên Chiêu chết, được hưởng Hoàng ân chôn cất trong đế lăng. Hơn nữa còn được chôn cất trong lăng của Tống Anh Tông, trượng phu của Hoàng Thái Hậu. Hắn lại hỏi: "Vậy con của hắn là Dương Tông Bảo?"

"Dương Tông Bảo?" Hoàng Thái Hậu kinh ngạc nói: "Nghe nói Dương Diên Chiêu có ba con trai. Đứa con nhỏ nhất là Dương Văn Nghiễm, chưa nghe nói tới Dương Tông Bảo nhưng mà Dương Văn Nghiễm cũng đã chết. Chết cũng sớm lắm".

"Dương gia tướng còn có ai không?"

Chuyện xưa của Dương gia tướng được thịnh hành lưu truyền là từ triều Minh sau này. Vào triều Tống thì Dương gia tướng vẫn chưa nổi danh như vậy. Hoàng Thái Hậu cũng không biết rõ nên lắc đầu nói: "Chờ sau khi chuyện này xong xuôi, người tới bái phỏng Thiên Ba phủ một chuyến, không phải sẽ biết sao? Trước tiên ngươi hãy nói về sự tích thẩm vấn đêm Phan Nhân Mỹ".

"Đúng, đúng. Sau này Dương Diên Chiêu cực kỳ thương tâm, phẫn nộ, dâng tấu lên Kim điện tố cáo Phan Nhân Mỹ dùng việc quân báo tư thù. Phan Nhân Mỹ tìm mọi cách chối cãi, tuyệt đối không nhận tội. Thái Tông hoàng đế sai Ngự Sử Khấu Chuẩn thẩm tra vụ án này. Bát Hiền Vương Triệu Đức Phương cùng Khấu Chuẩn liền thiết kế một màn giả trang cảnh âm tào địa phủ. Bát hiền vương Triệu Đức Phương giả trang Diêm Vương, Ngự Sử Khấu Chuẩn giả trang Phán quan, đêm tối thẩm vấn Phan Nhân Mỹ. Phan Nhân Mỹ bị đưa tới Diêm La điện trong cảnh tối đen, không biết đó là giả. Trong cơn hoảng hốt hắn cứ tưởng là tới âm tào địa phủ thật, cuối cùng hắn bị doạ tới mức sợ hãi liền cung khai hết chân tướng sự việc. Cuối cùng bị khép tội chết. Ha ha ha".

Hoàng Thái Hậu kinh ngạc nói: "Ý của ngươi là chúng ta cũng bày ra cảnh âm tào địa phủ, thẩm vấn Nhan nhi sao?"

"Đúng. Chúng ta bày ra cảnh âm tào địa phủ, bắt Ung Vương gia gặp Hoàng Thượng ở dưới âm tào địa phủ. Có câu cửa miệng là: Không làm việc trái với lương tâm, không sợ quỷ gõ cửa. Nếu như Ung Vương gia thực sự không hạ độc Hoàng Thượng, khi nhìn thấy Hoàng Thượng nhất định sẽ không sợ hãi. Nếu như thật sự Ung Vương gia làm, khi nhìn thấy Hoàng Thượng sẽ sợ chết khiếp. Khi đó lại cho người giả trang Diêm Vương thẩm vấn, nhất định sẽ nói thật".

Hoàng Thái Hậu sửng sốt hồi lâu rồi chậm rãi gật đầu nói: "Chủ ý này cũng được. Vậy cứ làm thế. Nhưng mà phải nhanh lên. Trước canh năm phải tra xét rõ ràng chuyện này, không được để chậm trễ chuyện đưa tang ngày mai".

"Được" Đỗ Văn Hạo lưỡng lự một lát rồi hắn nói khẽ: "Nhưng mà vẫn còn một chuyện lo lắng".

"Chuyện gì?"

"Nếu thật sự Ung Vương gia mưu hại Hoàng Thượng, một khi nhìn thấy Hoàng Thượng ở âm tào địa phủ, rất có khả năng Vương gia sẽ bị điên khùng. Nàng cần chuẩn bị tâm lý. Tới khi Ung Vương gia bị doạ điên rồi, nàng đừng trách ta".

Sắc mặt Hoàng Thái Hậu ảm đạm. Nàng rất hy vong kết quả chứng minh con trai thứ hai Ung Vương Triệu Nhan không có mưu hại con trai cả là Tống Thần Tông. Nhưng khi nàng tổng hợp lại tất cả kết qảu điều tra tình huống trước khi chết của Tống Thần Tông, trong lòng nàng hiểu rõ chắc chắn con trai cả Tống Thần Tông đã bị con trai thứ hai Ung Vương Triệu Nhan hạ độc chết. Khi Đỗ Văn Hạo nói xong mấy lời này nàng không khỏi rơi lệ nói: "Yên tâm đi. Ta sẽ không trách tội ngươi. Nếu như Nhan nhi thật sự mưu hại Hoàng huynh của nó, nó có nổi điên thì cũng là gieo gió gặt bão. Nó đã dám soán nghịch, hại chết Hoàng huynh, đáng luận tội chết. Nay chỉ nổi điên là đã tốt cho nó rồi".

"Được" Đỗ Văn Hạo ghé sát vào người Hoàng Thái Hậu thì thào vào tai nàng kế hoạch của mình. Sau khi Hoàng Thái Hậu nghe xong, chậm rãi gật đầu nói: "Đi, hãy cứ làm như người định liệu. Hãy làm đi".

Ung Vương Triệu Nhan ngồi kiệu theo mẫu hậu xuất cung, đi trên đường phố vắng lặng. Sau khi Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu băng hà, trong thời gian tang lễ, toàn kinh thành nghiêm cấm người đi lại vào ban đêm vì vậy trên đường cực kỳ yên tĩnh, ngẫu nhiên chỉ nghe thấy mấy tiếng chó sủa.

Ung Vương không biết đi tới đâu, mẫu hậu cũng không nói cho hắn biết. Hắn muốn vén màn kiệu lên nhìn nhưng màn kiệu đã bị cài chặt ở bên ngoài. Hắn đành chỉ buồn bực đi theo.

Qua một lúc lâu, chiếc kiệu dừng lại. Tiếp đó bên ngoài có người nói: "Vương gia, đến rồi. Có thể hạ kiệu" giọng nói ồm ồm giống như nói vào trong cái hũ vậy.

Ung Vương gia đợi một lúc lâu cũng không thấy có người vén màn kiệu giúp hắn. Hắn đành phải tự mình vén màn kiệu thì phát hiện ra chốt bên ngoài đã được bỏ ra.

Ung Vương vén màn kiệu lên, xuống kiệu, ngẩng đầu nhìn thì thấy hình như là trong một ngôi nhà, rất hoang vắng, không biết là nhà của ai. Sau đó nương theo ánh trăng mờ mờ, hắn có thể thấy cách đó không xa có một hồ nước hình bán nguyệt, ánh trăng phản xạ phát ra ánh sáng màu bạc. Trên mặt hồ có thể nhìn thấy bọt khí bốc lên ùng ục giống như tiếng nước sôi vậy.

Cỗ kiệu của hắn dừng lại gần hồ. Những người khiêng kiệu không thấy đâu. Kiệu của mẫu hậu hắn cũng không thấy. bên cạnh hắn không có bất kỳ ai.

Ung Vương thấy sợ hãi. Hắn cảm thấy tim đập thình thịch. Đột nhiên hắn nghe thấy có tiếng động vang lên sau lưng. Đó là tiếng bước chân, răng rắc, răng rắc.

Ung Vương hốt hoảng quay đầu lại thì thấy cách đó không xa có một người đang đứng. Đúng ra là một người mặc y bào màu vàng. Người đó thấy hắn quay lại liền đứng yên.

"Là ai?" Ung Vương lấy can đảm quát hỏi.

Đối phương vẫn không trả lời, chỉ đứng im không nhúc nhích.

Ung Vương bình tĩnh nhìn thì phát hiện người đó mặc Hoàng bào kim long, còn đội cả vương miện. Đây là trang phục của Hoàng đế. Ai dám to gan mặc Hoàng bào? Nghĩ vậy Ung Vương nghiêm nghị quát hỏi. Đột nhiên Ung Vương cảm thấy ánh mắt của người đó rất quen thuộc nhưng mà không có miệng chỉ có một lỗ thủng tối om.

Đúng lúc này Ung Vương lại nghe thấy sau lưng có âm thanh. Đó là loại âm thanh dóc rách, bập bềnh. Ung Vương vội vàng quay đầu lại thì hắn trông thấy trên không trung có hai hình người màu trắng, đen, áo choàng dài, không ngừng di chuyển trên mặt hồ.

Ung Vương chăm chú nhìn thì phát hiện ra hai người đó đều là mặt xanh nanh vàng, lưỡi dài thè ra, tay cầm cây đại tang (lúc động quan, người con để tang chống gậy, trên đó có quấn một tờ giấy trắng), cười nhạt với hắn. Chẳng lẽ đây chính là Hắc Bạch Vô Thường trong truyền thuyết sao?

Ung Vương sợ hãi, hắn hoảng hốt thối lui mấy bước. Hắn bối rối đâm vào vật gì đó, hắn vội vàng quay đầu lại thì phát hiện ra người mặc Hoàng bào chẳng biết đã tới sau lưng hắn từ lúc nào, đang giương mắt nhìn hắn. Ung Vương sợ hãi tới hồn phi phách tán.

Thì ra đó là Hoàng huynh đã chết, Tống Thần Tông.

Ung Vương sợ hãi tới tè cả ra quần, té ngã xuống đất. Hắn muốn vùng dậy bỏ chạy nhưng hai chân hắn sợ tới mức cứng đơ, sao có thể nhúc nhích được đây? Mắt hắn nhìn thấy Tống Thần Tông bồng bềnh lướt tới, âm thanh từ xa dập dềnh đưa tới: "Trả lại mang ta! Trả lại mạng ta!".

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 399: Tức Vị Trước (1+2)

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Ung Vương vô vùng hoảng sợ, ngồi phịch xuống đất, gương mặt co rúm, hắn hoảng sợ gào lên chói tai: "Hoàng huynh! Hoàng huynh tha mạng!".

Hắc Bạch Vô Thường bồng bềnh, đung đưa trên mặt hồ cũng đã tiến tới nơi. Bốn phía xung quanh cũng lờ mờ xuất hiện vô số quỷ hồn bị đứt đầu, chặt chân, tay, phát ra những tiếng rên rỉ bi thảm.

"Trả lại mạng ta" Tống Thần Tông lơ lửng trên không trung, giơ cao hai tay.

Ung Vương vung tay loạn xạ gào lên: "Tha mạng! Tha mạng! Hoàng huynh. Đệ sai rồi. Đệ hiểu rằng đệ sai rồi. Tha mạng".

"Nói. Tại sao người phải dùng Chu sa hại chết ta?" Âm thanh phiêu đãng của Tống Thần Tông vang lên.

"Đây đều là chủ ý của Tư Mã Thiên Sư. Đệ không có suy nghĩ như vậy. Hoàng huynh tha mạng!".

Hai mắt Ung Vương hoảng sợ trợn trừng trừng. Hắn ngồi trên mặt đất, liên tiếp trượt lại phía sau, không ngờ đã lui tới cạnh bờ hồ. Hai tay hắn không còn gì chống đỡ. Hắn mất đà ngã xuống dưới. "Thùm" một tiếng vang lên, Ung Vương ngã vào trong bùn nhão.

Âm thanh phần phật không ngừng vang lên. Bốn phía xung quanh liên tiếp xuất hiện hài cốt, vươn cánh tay trắng hếu chụp vào người Ung Vương. Kéo tay hắn, kéo tóc hắn, cắn vào vai hắn.

Ung Vương đã sợ tới mức mất hết cả dũng khí: "Hoàng huynh! Đệ sai rồi. Đệ không nên hạ độc hai huynh. Xin tha mạng".

Thân hình Tống Thần Tông phiêu lãng trên không trung nghiêm nghị quát to: "Nói. Tại sao phải hại chết ta?"

"Đệ đáng chết. Tất cả là vò đệ thèm thuồng ngôi vị Hoàng Đế của Hoàng huynh nên mới thế. Đây tất cả đều là chủ ý của Tư Mã Thiên Sư".

"Nói. Các ngươi hại chết ta như thế nào?"

"Tư Mã Thiên Sư hắn nói cho đệ. Hắn nói hắn luyện đan nên biết rõ ăn nhiều Chu sa cũng có thể gây chết người nhưng người khác lại không biết. Hắn bảo đệ cho thêm Chu sa vào trong thuốc của huynh, có thể hại chết huynh mà quỷ thần đều không hay biết. Đệ đáng chết. Đệ đáng chết, đệ đã tin lời hắn. Cầu xin Hoàng huynh tha mạng".

Ung Vương không ngừng vùng vẫy trong đám bùn nhão. Sặc sụa, gào thét hoảng loạn, âm thanh cực kỳ bi thương, thê thảm, gương mặt bị cào xé, máu be bét, co rúm lại vì sợ hãi. Hai tay Ung Vương không ngừng cào cấu, loạn đả, cắn xé, vật lộn chống cự lại những cánh tay của quỷ hồn.

Những quỷ hồn kia kéo Ung Vương ra giữa hồ nước. Ung Vương vừa hoảng sợ la gọi người của mình, vừa vùng vẫy một cách hoảng sợ tuyệt vọng trong nước, thân thể hắn không ngừng di chuyển ra giữa hồ nước.

Ngay khi nước ngập tới thắt lưng của Ung Vương, ở trên ngọn núi nhỏ ngay cạnh hồ vang lên một giọng nói: "Mau cứu người".

Đột nhiên ánh sáng nổi lên bốn xung quanh, sáng rõ như giữa ban ngày. Mấy thị vệ đeo một nạ phòng độc đã chạy tới, kéo Ung Vương từ dưới vũng bùn dưới hồ lên bờ rồi nhanh chóng đưa tới một ngôi viện nhỏ cách đó không xa.

Toàn thân Ung Vương dính bùn bẩn thỉu, hắn đã không còn khống chế đại, tiểu tiện của mình. Phân, nước tiểu chảy tràn ra, vương vãi khắp trên mặt đất. Mùi hôi thối bay khắp không trung. Những thị vệ đeo mặt nạ phòng độc tới kéo Ung Vương lên thì không thể hứng chịu cái mùi đó nhưng những thị vệ cảnh giới dưới chân núi nhỏ thìm không thoát được. Bọn họ chỉ có thể cau mày, bịt mũi, không dám đứng quay mặt theo hướng gió.

Lúc này từ trên ngọn núi nhỏ có ba người đi xuống. Đó chính là Hoàng Thái Hậu, Đỗ Văn Hạo cùng Tiêu công công.

Hoàng Thái Hậu nhìn Ung Vương toàn thân dơ bẩn, vẫn đang quỳ gối, hoảng sợ gào thét cứu mạng, khẽ thở dài một tiếng nói: "Nhan nhi, thật không ngờ ngươi vì ngôi vị Hoàng Đế mà lại hạ thuốc độc giết chết Hoàng huynh của mình".

Lúc này "Tống Thần Tông" ở bên hồ đã đi tới nơi, hắn gỡ mặt nạ phòng độc ra, cởi tiếp chiếc áo Hoàng bào trên người xuống, buồn rầu khom người nói: "Mẫu hậu, hài nhi cũng không thể ngờ hắn lại mưu hại Hoàng huynh. Thật sự là…Ai!".

Thì ra Đỗ Văn Hạo đã đạo diễn màn kịch này ngay trong toà trang viện ma quái mà hắn đã mua. Hồ nước trong toà trang viện vào nửa đêm canh ba vẫn toát ra chất khí có thể khiến con người sinh ra ảo giác khủng khiếp, bao phủ mù mịt ở khu vực xung quanh hồ nước. Người đóng vai Tống Thần Tông là Tào Vương Triệu Mạch, mặt đeo mặt nạ phòng độc, Hắc Bạch Vô Thường trên mặt hồ là người giấy dùng dây thừng điều khiển. Chỉ cần dùng người giấy điều khiển bằng dây thừng, Ung Vương gia dưới tác động của chất khi sinh ảo giác sẽ coi những người đó là người thật.

Đặc biệt là Tào Vương gia giả trang làm Tống Thần Tông. Cả hai vốn là anh em ruột thịt, cho dù có đeo mặt nạ phòng độc che miệng và mũi nhưng đôi mắt và thần hình vẫn đủ làm cho Ung Vương gia đang trong cơn ảo giác cảm thấy đó là quỷ hồn của Tống Thần Tông, hoảng hốt khai ra sự thật dùng Chu sa mưu hại Tống Thần Tông.

Đỗ Văn Hạo hỏi Hoàng Thái Hậu: "Hoàng Thái Hậu, vừa rồi Ung Vương gia có nói Tư Mã Thiên Sư đó là ai?"

Hoàng Thái Hậu căm hận nói: "Là môn khách của phủ Ung Vương, đạo nhân luyện thuỷ ngân chế đan dược. Tiểu Tiêu tử, ngươi hãy lập tức dẫn người đi bắt gã Tư Mã đạo nhân đáng chết đó lại, tống vào Thiên Lao, đợi trưa ngày mai xử tử lăng trì".

Tiểu công công vội vàng trả lời rồi dẫn theo thị vệ đại nội rời đi.

Tào Vương thấy Ung vương quỳ dạp trên mặt đất kêu khóc xin tha mạng, trong lòng không nỡ bèn tiến tới ôm lấy hắn nói: "Hoàng huynh, không có việc gì. Mẫu hậu sẽ khoan thứ tội cho huynh".

Lúc này Ung Vương đã hoàn toàn bị điên, Tào Vương ôm mình lại nghĩ rằng đó là lệ quỷ, cho rằng muốn tới mưu hại hắn. Hắn sợ tới mức phát nổi điên lên, há mồm cắn vào bả vai của Tào Vương sau đó Ung Vương bò dậy, lảo đảo chạy ra ngoài.

\Lúc này Ung

"Hãy mau ngăn cản nó lại" Hoàng Thái Hậu kinh hãi hô lên.

Thị vệ đại nội vội vàng xông tới bắt được Ung Vương, dẫn hắn quay lại. Ung Vương liều mạng giãy giụa, vừa đá vừa đánh, miệng khàn khàn gào lên: "Hoàng huynh tha mạng! Đệ sai rồi. Đệ không nên mưu hại huynh. Bọn lệ quỷ các ngươi không được tới đây. Hãy bỏ ta ra".

Hoàng Thái Hậu nhìn con trai mình mà nước mắt cứ tuôn trào không thôi. Nàng nói với Đỗ Văn Hạo: "Nhan nhi làm sao vậy? Ngươi hãy xem qua cho nó một chút".

Đỗ Văn Hạo cười thầm trong lòng. Hắn nhìn thất Ung Vương thực sự đã phát điên, cầu còn không được nên thực sự hả lòng hả dạ, hắn nào muốn chữa bệnh cho Ung Vương đây. Nhưng hắn vẫn biểu hiện ra vẻ cuống quýt bước tới, cầm tay Ung Vương bắt mạch, một lát sau hắn lại đổi tay.

Ung Vương liên tục giãy giụa, điên cuồng kêu gào tha mạng.

Cũng may có thị vệ đại nội cầm giữ hai bên nên Đỗ Văn Hạo mới thuận lợi bắt mạch. Bắt xong hắn lắc đầu nói: "Hoàng Thái Hậu, Ung Vương gia chính là hoảng sợ quá mức. Mạch chìm hỗn loạn, âm dương không đều, khí huyết ứ trệ, tinh thần hôn mê tới mức bị điên. Vì Ung Vương gia hoảng sợ cực độ khiến gang, mật bị tổng thương cực độ, chứng điên khùng đã quá nặng chỉ e không dễ dàng chữa trị. Đợi khi quay về vi thần sẽ kê một đơn thuốc, để Ung Vương gia tĩnh tâm điều dưỡng, có lẽ sẽ có chuyển biến tốt cũng chưa biết chừng".

Hoàng Thái Hậu rơi lệ nói: "Cũng không cần phải chữa trị. Nó mưu tội phản nghịch, đáng tội chết. Hãy bắt nó chết theo Hoàng Thượng".

Trong lòng Đỗ Văn Hạo vui mừng như nở hoa. Đây mới chính là kết quả tốt nhất.

Tào Vương thập phần sợ hãi khi nghe Hoàng Thái Hậu nói vậy. Mặc dù hắn bị Ung Vương hung ác cắn một cái nhưng dù sao vẫn là thủ túc tình thâm. Hắn quỳ xuống dập đầu với Hoàng Thái Hậu: "Mẫu hậu, cầu xin người. Hãy tha thứ cho Hoàng huynh. Giờ đây Hoàng huynh đã điên rồi, đã bị trừng phạt rồi. Xin hãy giữ lại mạng sống của Hoàng huynh".

Hoàng Thái Hậu nhìn đứa con thứ hai điên điên khùng khùng, không ngừng chỉ tay lên trời cầu xin tha mạng, rơi lệ khẽ gật đầu, nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Ý của ngươi thế nào?"

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo hy vọng nhổ cỏ nhổ tận gốc, không muốn lưu lại mối hoạ này. Nói không chừng một ngày nào đó Ung Vương khỏi căn bệnh điên khùng này, có thể tìm tới tính sổ với hắn. Khi đó nhất định không có kết quả hay nhưng mà hắn không thể nói những lời này. Đỗ Văn Hạo vội vàng chắp tay nói: "Hoàng Thái Hậu chính là nữ trung Nghiêu Thuấn, nhất định sẽ có phát xét sáng suốt. Vi thần không dám nói bừa".

"Nữ trung Nghiêu Thuấn? Ai!" Hoàng Thái Hậu rơi lệ nói: "Nhan nhi như vậy, còn nói gì mà nữ trung Nghiêu Thuấn. Nghiệp chướng! Ai! Húc nhi băng hà, giờ đây không thể không chôn Nhan nhi theo cùng. Nửa đời sau của Ai gia biết trông cậy vào ai".

Tào Vương khó chịu, nói vẻ ngượng ngùng: "Mẫu hậu hãy nén bi thương. Không phải vẫn còn hài nhi sao?"

Hoàng Thái Hậu vung tay áo, tức giận quát: "Cút!".

Tào Vương sợ tới mức quỳ gối ở bên cạnh, không dám lên tiếng nữa.

Hoàng Thái Hậu nước mắt lưng tròng nói với Đỗ Văn Hạo: "Đỗ ái khanh, ngươi hãy nói một chủ ý với Ai gia".

Đỗ Văn Hạo đã hiểu, trong lòng Hoàng Thái Hậu hoàn toàn không muốn người con thứ hai này chết. Điều này cũng có thể lý giải. Chuyện đã xảy ra như này, Hoàng Thái Hậu sẽ không để. Chỉ cần Ung Vương không lên làm Hoàng Đế, lại nổi điên, việc chết hay không chết cũng chẳng có quan hệ gì lớn.

Nhưng chuyện này nhất định phải để cho mọi người biết, đá quả bóng sang các quan đại thần phụ chính, để bọn họ đưa ra chủ ý là tốt nhất. Bọn họ nhất định sẽ đưa ra một biện pháp thích hợp nhất.

Vì vậy Đỗ Văn Hạo khom người nói: "Hoàng Thái Hậu, việc này vô cùng trọng đại. Vi thần thật sự không dám ngông cuồng khuyên can. Không bằng hãy thỉnh ý kiến của các đại thần phụ chính, nhân tiện hãy lựa chọn luôn Hoàng Đế. Bây giờ cũng sắp bình minh rồi, tránh chậm trễ việc đưa tang sáng mai".

Hoàng Thái Hậu suy nghĩ rồi gật đầu nói: "Cũng chỉ còn cách đó. Vậy cứ làm theo ý của ngươi nhưng mà ngươi cũng tham gia".

"Hoàng Thái Hậu, vi thần chỉ là tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, không thuộc đại thần phụ chính. Theo như quy tắc thì không được".

"Quy tắc đều do con người định ra. Ai gia cho phép ngươi tham gia, ngươi cứ tham gia. Tới khi đó Ai gia còn có chuyện muốn nói".

Đỗ Văn Hạo vội vàng khom người nói: "Dạ, vi thần tuân chỉ".

Trắc điện cung Phúc Ninh.

Lúc này trời đã gần canh năm. Đất trời vẫn còn chìm trong bóng đêm đen kịt. Bởi vì rạng sáng chính là thời điểm khiêng linh cữu đưa tang. Các trọng thần trong triều tới lúc đó đều phải nâng linh cữu tới Đế lăng, ai cũng gần như cả đêm không ngủ, đều chờ ở linh đường vì vậy khi ý chỉ của Hoàng Thái Hậu truyền xuống, toàn bộ bảy vị đại thần phụ chính lập tức đi vào trắc điện cung Phúc Ninh.

Bảy vị đại thần phụ chính theo thứ tự là: Tả Thừa tướng ( tả Thượng thư bộc xạ kiêm môn hạ thị lang hành thị trung sự ) Vương Pháp, hữu Thừa tướng ( hữu Thượng thư kiêm môn hạ thị lang hành thị trung sự ) Thái Xác, Môn hạ thị lang Chương Cụ, tả thừa Thượng thư Thái Ca, hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý, Viện sứ Xu Mật viện ( tri Xu Mật viện sứ ) Hàn Chẩn, Xu Mật viện phó sứ ( đồng tri Xu Mật viện sứ ) Lâm Hi.

Bảy người đi vào trắc điện thì thấy ở phía sau chính điện có một bức rèm buông xuống. Đằng sau bức rèm có một chiếc giường êm. Hoàng Thái Hậu mặc đồ tang đang ngồi ngay ngắn trên giường.

Phía trước về phía trái của bức rèm có một đứa bé choai choai đang đứng. Người đó chính là lục Hoàng tử, An Duyện Quận Vương Triệu Hú. Đứng ở ở trái là Ung Vương Triệu Nhan cùng Tào Vương Triệu Mạch. Sắc mặt Tào Vương lo lắng, sắc mặt Ung Vương lại hoảng sợ, núp sau lưng Tào Vương, thỉnh thoảng ngẩng đầu nhìn trộm, miệng không ngừng lẩm bẩm.

Phía bên phải đại điện có một người đang đứng. Đó chính là tân quan tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, Ngự y Đỗ Văn Hạo.

Thấy vậy bảy vị phụ chính đại thần không khỏi kinh ngạc. Thừa tướng Vương Giai khẽ nhếch miệng cười, trong lòng vô cùng đắc ý, ông ta khẽ gật đầu với Đỗ Văn Hạo sau đó khom người thi lễ với Hoàng Thái Hậu. Sáu người còn lại cũng khom người thi lễ.

Hoàng Thái Hậu nói: "Chúng ái khanh, Ai gia có một việc muốn thông báo cho các vị phụ chính đại thần biết".

Nghe xong bảy người lập tức hiểu đây chính là chuyện cớ liên quan tới Hoàng Đế tương lai. Bảy người đều vểnh tai, không dám thở mạnh, chú ý lắng nghe.

Hoàng Thái Hậu dừng lại một chút rồi mới chậm rãi nói: "Hoàng Thượng đột nhiên băng hà, vô cùng khả nghi. Ai gia đã yêu cầu Đỗ ngự y âm thầm điều tra. Hiện tại đã tra ra Ung Vương Triệu Nhan bị thực khách trong phủ là Tư Mã đạo nhân xúi bẩy đã hạ độc dược trong thuốc của Hoàng Thượng khiến cho Hoàng Thượng trúng độc chết".

Tin này giống như sét đánh giữa trời quang, chấn động bảy vị phụ chính đại thần. Tất cả đều ngây người rôi không tự chủ được cùng nhìn Đỗ Văn Hạo.

Hoàng Thái Hậu nói tiếp: "Trong chuyện này, nhân chứng, vật chứng đã đầy đủ. Thủ phạm Tư Mã đạo nhân đã chịu trói, hắn đã lập tức thú nhận tội này. Ung Vương Triệu Nhan vì sợ tội mà nổi điên khùng. Hiện giờ thần trí đã điên loạn, không thuốc nào có thể chữa khỏi".

Hoàng Thái Hậu mới nói tới đó, Ung Vương Triệu Nhan tựa như muốn giải thích cho lời nói của Hoàng Thái Hậu, hắn khàn khàn gào lên, quỳ thụp xuống đất, không ngừng dập đầu, miệng cầu khẩn: "Hoàng huynh, tha mạng. Đệ sai rồi. Đệ không nên hạ độc Hoàng huynh. Tha mạng!" "thình thình thình" mấy tiếng vang lên. Trên trán Ung Vương lập tức đầm đìa máu tươi.

Bảy người cực kỳ hoảng sợ không biết phải làm gì.

Hoàng Thái Hậu nhìn Ung Vương đang điên loạn dập đầu, không cho người tới ngăn cản, giống như là không nhìn thấy gì, dài giọng nói: "Ung Vương đã phạm phải trọng tội như vậy. Tội không thể tha. Ý của Ai gia bắt nó chết theo Hoàng Thượng. Ý của các khanh thế nào?"

Vương Giai không ngờ lại xảy ra chuyện tới mức đó, nhất thời đứng ngây người không có phản ứng. Ông ta vốn là người đứng đầu, vốn phải là người lên tiếng trước nhưng ông ta cứ ngây người đứng vậy, không nói câu nào, sau người còn lại cũng không thể lên tiếng trước. Nhưng tình hình lúc này không giống với lúc bình thường nên không thể tuân theo quy định, Thái Xác ho nhẹ một tiếng rồi tiến lên khom người nói: "Hoàng Thái Hậu, vi thần cho rằng, Ung Vương cùng Hoàng Thượng thủ túc tình thâm. Nếu như không có kẻ khác xúi giục, nhất định sẽ không phạm phải trọng tội như vậy. Bây giờ thần trí rối loạn, vốn đã chịu sự trừng phạt của ông trời, có thể miễn tội chết. Có thể hạ lệnh cho Ung Vương vĩnh viễn coi sóc Đế lăng, thủ hộ Vĩnh Dụ lăng, bầu bạn với Hoàng huynh".

Hoàng Thái Hậu khẽ gật đầu, sắc mặt âm u lạnh lẽo hoàn hoãn hơn rất nhiều. Sáu người còn lại làm quan tới vị trí này đương nhiên đều là những người tinh khôn, sao có thể không nhận ra Hoàng Thái Hậu tương đối hài lòng với ý đó nên cũng đều phụ hoạ theo đuôi.

Kết quả này thực sự rất kỳ diệu, Đỗ Văn Hạo như mở cờ trong bụng. Điểm tốt của chủ ý này là bắt thằng nhãi Ung Vương kia đi thủ hộ lăng Hoàng huynh cả đời này, nhất định không còn cơ hội tìm tới gây chuyện với hắn. Chủ ý này quá hay!

Đỗ Văn Hạo không nhịn được liếc nhìn Thái Xác. Hắn thầm nghĩ lão già này đoán ý rất chính xác. Hơn nữa tâm tính rất độc ác, Ung Vương đối xử với lão không bạc, lão lại giậu đổ bìm leo. Lão biết rõ Hoàng Thái Hậu sẽ không thực sự cam lòng bắt Ung Vương chết theo, chính hắn không chỉ nói ra chủ ý cho mọi người biết mà còn có thể làm theo ý tức thoát tội chết của Hoàng Thái Hậu, mà chủ ý như vậy còn khủng khiếp hơn cả lưu đày ba ngàn dặm. Hơn nữa cách xử lý cũng vô cùng thoả đáng.

Hoàng Thái Hậu thấy tử Thừa tướng Vương Giai từ nãy tới giờ vẫn không nói gì liền nhạt nhẽo hỏi: "Vương ái khanh, ý định của khanh thế nào?"

Vương Giai thoáng sửng sốt, sau khi suy nghĩ một lát ông ta liền khom người nói: "Hồi bẩm Hoàng Thái Hậu, lão thần tán thành đối với chủ ý của Thái Tể tướng. Lão thần cho rằng vì thể diện của Hoàng gia nên chuyện này không nên loan truyền ra ngoài, cũng không nên đưa vào chính sử. Đối với bên ngoài chỉ nói ngắn gọi là Ung Vương thương tiếc Hoàng huynh nên tự nguyện vào lăng thủ hộ".

Hoàng Thái Hậu rốt cuộc cũng nhếch mép cười vẻ thoả mãn. Nàng nhìn lướt qua mọi người, chậm rãi nói, ý kiến của Vương ái khanh, chúng ai khanh nghĩ sao?"

Giây phút này trong trắc điện sáng như ban ngày. Nụ cười thoả mãn của Hoàng Thái Hậu đều lọt vào trong mắt của các phụ chính đại thần nên ai nấy cũng khom người nói: "Bọn thần tán thành".

"Được, đã như vậy thì việc này đã xong rồi" Hoàng Thái Hậu dừng lại một lát rồi nói tiếp: "Thế nhưng còn chưa tới một canh giờ nữa là tới lúc khiêng linh cữu đưa tang, phải chỉ định ra người dẫn dắt Hoàng gia khiêng linh cữu. Chúng ái khanh có đề nghị gì không?'

Giờ đây trong việc tranh đoạt ngôi vị Hoàng Đế, Ung Vương vì mưu hại Hoàng Thượng mà bị hạch tội, vĩnh viễn ở Đế lăng, lại đã nổi điên, đương nhiên cũng không thể chỉ định một người điên làm Hoàng Thượng, đã rút lui ra khỏi cuộc canh tranh này. Lúc này chỉ còn một lựa chọn duy nhất là lục Hoàng tử, Duyên An Quận Vương Triệu Hú. Hoàng Thái Hậu biết rõ mà còn hỏi hiểu nhiên chỉ muốn từ miệng mọi người có kết quả này, càng lộ rõ vẻ độ lượng, uy nghi.

Mặc dù kết quả này giống như là rận trên đầu hói nhưng rõ ràng dù lớn hay nhỏ cũng coi như công lao ủng hộ. Nhưng mà lúc này đây Thái Xác thực sự không có ý nói trước. Dù sao trước kia ông ta cũng gắng sức ủng hộ Ung Vương nối ngôi Hoàng Đế. Lần này tình hình xoay chuyển quá nhanh theo chiều hướng xấu. Tốt nhất là để cho Vương Giai nói trước sau đó bản thân mình ra mặt ủng hộ. Trong khi đó Vương Giai cũng có tính toán riêng của mình. Ông ta hiểu rằng ngôi vị Hoàng Đế rốt cuộc đã định, lục Hoàng tử sẽ nối ngôi. Lúc này ủng hộ hay không, công lao cũng đã được xác nhận, dù lúc này không nói cũng không ảnh hưởng gì. Tốt nhất hãy để người phe bên kia nói ra trước như vậy là hai phái thống nhất, lại càng thêm thoả đáng.

Thái Xác thấy Vương Giai không biểu hiện thái độ gì, trong khi đó Hoàng Thái Hậu lại nhìn mình nên đành phải chắp tay nói: "Thần cho rằng Duyên An Quận Vương chính là Hoàng tử trưởng, xứng đáng thừa kế ngôi vị Hoàng Đế của tổ tiên. Vì Hoàng Đế chỉ huy khiêng linh cữu đưa tang. Sự việc gấp gáp, xin Hoàng Thái Hậu noi theo Lưu Hoàng hậu của Nhân Tông hoàng đế nghe báo cáo và quyêt định sự việc, tham gia công việc quốc sự" Nói xong ông ta vén áo bào quỳ xuống dập đầu.

Thái Xác vốn kiên quyết ủng hộ Ung Vương kế vị nhưng nay thủ lĩnh của phe đó đã đào tẩu, ủng hộ lục hoàng tử kế vị, mấy người Hàn Chẩn bên phe đó đương nhiên cũng phải đi theo. Tất cả đều tỏ thái độ tán thành, cùng quỳ xuống dập đầu.

Kết quả này khiến Vương Giai cực kỳ cao hứng, ông ta cũng vén áo bào quỳ xuống nói: "Duyên An Quận Vương xứng đáng kế thừa thiên hạ, cũng là thuận theo thiên mệnh. Hoàng Thái Hậu có thể dùng cương vị Thái Hoàng Thái Hậu, buông rèm chấp chính, nhất định sẽ khiến quốc thái dân an".

Triệu Hú chính là cháu nội của Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao. Triệu Hú lên ngồi Hoàng Đế. Tất nhiên Cao Thao Thao chuyển từ Hoàng Thái Hậu lên Thái Hoàng Thái Hậu.

Hoàng Thái Hậu liếc nhìn Đỗ Văn Hạo, thấy hắn nhìn mình mỉm cười gật đầu lúc này mới chậm rãi nói: "Chúng ái khanh đã đồng lòng nhất trí Duyên An Quận Vương kế thừa ngôi vị Hoàng Đế, Ai gia cũng đồng ý. Việc này đã định. Chúng ái khanh hãy nói xem chừng nào có thể tiến hành lễ đăng cơ của tân Hoàng Đế?"

Vương Giai khom người nói: "Việc tang của tiên đế hơn một tháng rồi. Việc quốc sự một mực do lão thần và Thái Tể tướng cùng nhị vị Vương gia tạm cai quản. Mọi việc bọn vi thần đều cẩn thận mà không dám quyết định. Nay tân Hoàng Đế đã định, mọi việc cũng nên quay lại quy củ. Theo như lão thần thấy hãy mô phỏng theo sau thời Tây Hán Vũ Đế, lập tức lên ngôi, cũng xin thỉnh Hoàng Thái Hậu lập tức chấp chính, nghe tấu sớ và quyết định".

Hoàng Thái Hậu nói: "Hôm nay đăng cơ liệu có gấp quá không?"

"Xin Hoàng Thái Hậu yên tâm. Hơn một tháng nay bọn lão thần đã chẩn bị cho việc tân Hoàng Đế đăng cơ, chỉ còn chờ quyết định của Hoàng Thái Hậu".

"A, các ngươi nghĩ rất chú đáo. Chúng ái khanh, ý của các khanh thế nào?"

Thái Xác cũng khom người nói: "Vi thần cũng tán thành ý của Vương Tể tướng".

Hoàng Thái Hậu cười thoả mãn, chậm rãi nói: "Nếu đã như vậy thì hãy làm theo lời các khanh nói tức vị trước. Còn về phần nghe tấu chương, quyết định quốc sự, Ai gia vốn tính thích yên tính nhưng Hú nhi tuổi còn nhỏ, các khanh lại một mực đề nghị Ai gia nghe tấu chương và quyết định. Ai gia nghĩ cũng không thể trốn tránh được. Ai gia đồng ý với bản tấu của các khanh, cùng nghe tấu và quyết định quốc sự sau này khi Hoàng Thượng trưởng thành, Ai gia sẽ trả lại cho Hoàng Thượng".

Tân Hoàng Đế đã xác định. Sắc mặt mọi người đều vui mừng nhưng vấn đề là nụ cười của mấy người Thái Xác có vẻ miễn cưỡng

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 400: Tám vị phụ chính đại thần (1+2).

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Tể tướng Vương Giai khom người nói: "Hoàng Thái Hậu, hôm nay tân đế mới tức vị, xưa không bằng nay, nên chọn sư bảo mới. Chọn người nào thích hợp, ai có thể đảm đương, kính xin Hoàng Thái Hậu định đoạt".

Sư bảo chính là là gia sư của Hoàng Đế. Hoàng Thái Hậu nhìn lướt qua mọi người nói: "Theo ý kiến của các khanh. Người có có thể đảm đương công việc này?"

Thái Xác vội vàng nói xen vào: "Hai người Lục Điền, Thái Biện từ trước vẫn là sư bảo của Duyên An Quận Vương, cẩn thận, chỉ dạy có phương pháp, cũng quen thuộc bản tính của tân Hoàng Đế, không bằng cứ nên để hai người này tiếp tục đảm nhiệm".

Vương Giai nhíu mày suy nghĩ. Lục Điền, Thái Xác tuy hai người này đều là hai người tài năng xuất chúng thời nay nhưng đều là người ủng hộ biến pháp. Nếu để hai người này tiếp tục đảm nhiệm công việc sư bảo của tân đế chỉ e sẽ lại xuất hiện một Tống Thần Tông thứ hai. Ý của ông ta là muốn thay thế hai người này tránh để tiếp tục ảnh hưởng tới tân đế, Vương Giai đang định tiến lên can gián thì Hoàng Thái Hậu đã nói: "Hai vị sư bảo trước kia của lục Hoàng tử Duyên An Quân Vương cũng không tệ. Nhưng hôm nay Duyên An Quận Vương đăng cơ làm Hoàng Đế, sư bảo của Hoàng Đế phải căn cứ vào tình hình có sự điều chỉnh, sự lựa chọn phải rất thích hợp. Vương ái khanh, ngươi có đề nghị người nào thích hợp không?"

Vương Giai thực đang chờ những lời này của Hoàng Thái Hậu, ông ta vội vàng khom người nói: "Lão thần cho rằng nhị vị đại nhân là học sĩ Xu Mật viện Triệu Ngạn cùng Ngự sử kiêm hầu cận của Anh Tông hoàng đế trước kia Phó Nghiêu Du có thể đảm nhiệm việc này".

Triệu Ngạn, học sĩ Xu Mật viện chính là một con một sách điển hình, được xưng tụng là không sách nào không đọc, hơn nữa lại cực kỳ chống đối biến pháp, thuộc phái bảo thủ. Tài học của Phó Nghiêu Du có thể nói chất đầy năm xe. Năm xưa vì phản đối biến pháp và bị biếm chức ra khỏi kinh thành tới nhậm chức ở châu, huyện. Vương Giai giới thiệu hai người đều thuộc phái bảo thủ, mục đích là muốn tân đế ngay từ nhỏ rời xa biến pháp, không thay đổi phương pháp trị vì của tổ tông.

Thái Xác nào không biết, ông ta đang định phản đối, Hoàng Thái Hậu đã gật đầu nói: "Vương ái khanh tiến cử người, Ai gia cho rằng rất thoả đáng. Vậy cứ định hai người đó đi. Hơn nữa chúng ái khanh đều là phụ chính đại thần, cũng phải bớt chút thời gian tới Tư Thiện đường, giúp tân đế học tập, truyền dạy sở học của mình".

Bảy người vội vàng trả lời đồng ý. Thái Xác nghe thấy Hoàng Thái Hậu lựa chọn một cách không do dự, trong lòng thoáng giá lạnh. Ông ta cảm thấy biến pháp chỉ e đã đi tới con đường cùng.

Hoàng Thái Hậu nói với Triệu Hú đang đứng bên ngoài rèm che: "Hú nhi, hãy bước lên gặp mặt tám vị phụ chính đại thần".

Đám người Thái Xác lắp bắp kinh hãi khi nghe Hoàng Thái Hậu nói câu đó. Bọn họ chỉ có bảy người, Hoàng Thái Hậu lại nói tám người. Không phải Hoàng Thái Hậu nói sai mà chính là ám chỉ. Trên triều đình hiện nay người có thể gia nhập phụ chính đại thần chỉ e cũng chỉ có mình Đỗ Văn Hạo mà thôi.

Lập tức Thái Xác phản ứng thần tốc, ông ta khom người nói: "Chúc mừng Đỗ tướng quân thăng chức phụ chính đại thần. Đỗ tướng quân đánh một trận Tây Sơn, dùng năm ngàn tướng sĩ tiêu diệt hai vạn phiến quân Thổ Phiên, chiến cổng hiển hách, tuần y đề điểm các lộ, vì dân tạo phúc. Lần này lại nhất cử phá đại án mưu thoán nghịch. Càng vất vả, công lao càng lớn, quả thực là bậc lương đống của đất nước, đương nhiên có thể gia nhập Tể chấp, phù tá tân đế".

Những người còn lại cũng kịp thời phản ứng, đều lên tiếng chúc mừng.

Hoàng Thái Hậu gật đầu mỉm cười nói: "Các khanh nói rất đúng. Đỗ ái khanh bước lên nghe phong".

Đỗ Văn Hạo vội vàng vén áo bào bước lên, quỳ xuống.

"Khanh thân là tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, kiêm chức không bằng chuyên trách. Ai gia phong khanh là tam nha Đô Kiểm Điểm, thống lĩnh tam nha".

Vào thời Tống, tam nha phân chỉ thống lĩnh binh mã trong cả nước, Đô Kiểm Điểm thì chính là Tổng tư lệnh ba quân, quyền lực rất lớn. Năm đó trước khi Tống Thái Tổ, Triệu Khuông Dẫn làm binh biến Trần Kiều đã đảm nhiệm chức Đô Kiểm Điểm nhà Hậu Chu sau này khi khoác áo Hoàng bào lập ra nhà Đại Tống, ông ta dựa theo nghiệm tạo phản thành công của mình đã nhận ra chức Đô Kiểm Điểm quyền lực rất lớn, phải tăng cường cảnh giác vì vậy vẫn giữ lại chức vị này nhưng lại không phong cho bất kỳ người nào đảm nhiệm, khiến nó vẫn để trống, sau này thì dứt khoát huỷ bỏ, Tống Thái Tổ cũng chia tam nha là ba, phân chia ba người phụ trách, từng người một chịu trách nhiệm với Hoàng Thượng, đạt được mục đích phân chia quyền lực.

Không thể tưởng tượng nổi bây giờ Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao lại phục hồi chức quan này, trao tặng cho nhân tình của mình là Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo dập đầu nói: "Vi thần lĩnh chỉ. Tạ ơn Hoàng Thái Hậu" Sau đó hắn vén áo bào đứng dậy.

Hoàng Thái Hậu nhìn lướt qua gương mặt kinh ngạc của mấy người Thái Xác nói tiếp: "Từ nay về sau, phẩm hàm của Đô Kiểm Điểm chính là quan nhị phẩm, tham gia Tể chấp, cùng với xử lý việc quân chính. Các vị ái khanh hãy đồng tâm hiệp lực để phò tá tân đế".

Mấy người Vương Giải, Thái Xác cùng chắp tay trả lời rồi quay sang chúc mừng Đỗ Văn Hạo.

Mấy người Thái Xác quả thực không thể tưởng tượng nổi sau khi Hoàng Thái Hậu quyết định buông rèm chấp chính, đạo thánh chỉ đầu tiên chính là thăng quan cho vị Ngự y Đỗ Văn Hạo này, trong lòng không khỏi suy xét. Trước đây Đỗ Văn Hạo chỉ là quan tứ phẩm. Văn võ bá quan trong triều công lao so với Đỗ Văn Hạo còn lớn hơn rất nhiều. Năng lực của nhiều người còn xuất sắc hơn Đỗ Văn Hạo, nhưng không ai có thể đi theo con đường một bước lên mây, nhậm chức tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, Hoàng Thái Hậu còn khôi phục chức Đô Kiểm Điểm vì hắn, phẩm hàm của hắn cũng tăng lên, gia nhập nhóm phụ chính đại thần. Từ một viên quan tứ phẩm nhảy vọt lên vào nhóm phụ chính đại thần có thể thấy Hoàng Thái Hậu đối xử với Đỗ Văn Hạo không bình thường, sau này tuyệt đối không thể xem thường.

Trong lòng Vương Giai như nở hoa, thầm vui mừng con mắt già nua của mình vẫn còn chưa hồ đồ, nhìn người không sai, tìm được một rể hiền như vậy cho nữ nhi bảo bối của mình. Sau này không cần phải lo lắng gì nữa.

Hoàng Thái Hậu nói với mọi người: "Trước khi tiên đế băng hà, nghe tin Đỗ ái khanh láy ít thắng nhiều, tiêu diệt toàn bộ phản quân của tộc Thổ Phiên ở Tây Sơn, cực kỳ thoải mái, có xưng tụng rằng từ thời Vĩnh Nhạc tới nơi không có cuộc chiến nào khoan khoái như vậy. Hôm đó tiên đế có mời đầy đủ chúng phi tần tới uống rượu. Tiên đế có khen ngợi Đỗ ái khanh am tường binh pháp, cầm quân rất có phương pháp. mặc dù tự ý đoạt quân quyền, dựa vào luật pháp đáng phạt nhưng tương lai sau này cần phải trọng dụng. Vì thế Ai gia mới phong cho Đỗ ái khanh làm lãnh binh tam gia, thực ra cũng là làm theo di mệnh của tiên đế".

Đỗ Văn Hạo không ngờ lại còn có thông tin này. Hắn vốn chỉ nghĩ là Hoàng Thượng tức giận, không ngờ lại đánh giá hắn cao như vậy. Trong lòng Đỗ Văn Hạo thầm xúc động, hắn khom người, cúi đầu.

Hoàng Thái Hậu lại nói tiếp: "Tiên đế đã từng luận bàn về việc trị quốc với Đỗ ái khanh, đã từng nói với Ai gia Đỗ ái khanh có tài năng trị quốc, có rất nhiều chủ trương mới. Mặc dù có thể thực sự gây chấn động nhưng lối suy nghĩ rất tinh tế, rất độc đáo. Cũng chính vì lý do đó tiên đế mới giao cho cai quản phủ Tĩnh Giang,, tiêu diệt giặc cỏ ở nơi đó, chỉnh đốn quan lại địa phương, giúp nạn dân thiên tai, an dân, khuyến khích nông nghiệp hưng thịnh. Rất nhiều việc làm đã được tiên đế khen ngợi, khen Đỗ ái khanh có thể được trọng dụng. Tiên đế cử Đỗ ái khanh làm tuần y các lộ, đề điểm hình ngục chính là để thể nghiệm, quan sát dân tình, hiểu rõ về sự vụ các địa phương, chuẩn bị cho tương lai nhưng đáng tiếc tiên đế không thể đợi tới khi Đỗ ái khanh triển khai kế hoạch to lớn của mình".

Trong lòng Đỗ Văn Hạo cực kích động, hắn vén áo bào quỳ xuống hướng về lĩnh cữu của Tống Thần Tông ở chính điện Phúc Ninh, nức nở nói: "Vi thần không ngờ lại được Hoàng Thượng yêu mến như vậy. Vi thần du có thịt nát xương tan cũng quyết không phụ thánh ân".

Nói xong hắn dập đầu thình thịch mấy tiếng, khóc lóc ngay tại chỗ.

Vương Giai cũng vén áo bào quỳ xuống, hướng điện Phúc Ninh dập đầu. Vương Giai thân là quan Tể tướng, một khi ông ta đã quỳ xuống, mấy người Thái Xác đương nhiên cũng phải quỳ xuống dập đầu.

Hoàng Thái Hậu nồng nàn nhìn Đỗ Văn Hạo, chậm rãi nói: "Chúng ái khanh hãy đứng dậy. Hú nhi, mau bước lên ra mắt tám vị phụ chính đại thần".

Triệu Hú khom người nói: "Hoàng tôn lĩnh chỉ" Hắn do dự một lát rồi nói: "Hoàng tổ mẫu, Hoàng tôn có một yêu cầu, không biết có nên nói hay không".

Hoàng Thái Hậu nói: "Cứ nói".

"Hoàng tôn nghe Hoàng tổ mẫu nói nhiều về tài năng của Đỗ tướng quân, trong lòng vô cùng ngưỡng mộ, muốn mời Đỗ tướng quân làm sư bảo của mình. Không biết có được không?"

Hoàng Thái Hậu thoáng sững người liếc nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Đỗ ái khanh, ý của khanh thế nào?"

Hai mắt Đỗ Văn Hạo đỏ đỏ, hắn hít hít mũi, trong lòng cực kỳ cảm động và nhớ tới ơn tri ngộ của Tống Thần Tông đối với mình. Yêu ai yêu cả đường đi, tất nhiên Đỗ Văn Hạo cũng cảm động với người con của Tống Thần Tông. Bản thân hắn có tri thức của một ngàn năm sau so với triều Tống, hắn có thể dạy vị Hoàng Đế nhỏ này rất nhiều tri thức. Cảm xúc bắt đầu dâng trào trong lòng hắn, hắn quyết tâm sẽ bồi dưỡng vị tiểu Hoàng Đế trước mắt này thành một Hoàng Đế có tri thức mới, có thể cứu vớt Đại Tống suy tàn lâu nay. Hắn lập tức tiến lên nói: "Vi thần nguyện ý, nguyện tận tâm tận lực làm tròn chức trách sư bảo của tân đế".

Sắc mặt Hoàng Thái Hậu vui mừng, nàng chậm rãi gật đầu nói: "Nếu đã như vậy thì làm phiền Đỗ ái khanh".

Triệu Hú tươi cười vẻ đắc ý, hắn liếc nhìn Đỗ Văn Hạo rồi tiến lên trước điện hai bước, chắp tay nói: "Hú nhi ra mắt chư vị phụ thần".

Mấy người phụ chính đại thần hoảng sợ, liên tiếp vén áo bào quỳ xuống, Vương Giai xuất lĩnh nói to: "Thần, tả Phó bộc xạ, môn hạ thị lang Vương Giải khấu kiến Thánh Thượng" Nói xong ông ta cung kính hành đại lễ, bái ba bái, dập đầu chín cái.

Thái Xác cũng nói: "Thần, hữu phó bộc xạ, trung thư thị lang Thái Xác, khấu kiến Thánh Thượng".

Mấy người còn lại cũng lần lượt báo danh, hành đại lễ.

Mặc dù Triệu Hú vẫn chưa tiến hành đại lễ đăng cơ, vẫn chưa phải là tân đế. Nhưng điều này cũng giống như lãnh đạo mới nhậm chức ở một cơ quan. Tổ chức của bộ đã họp, nghiên cứu và quyết định, tin tức làn truyền ra bên ngoài. Cho dù còn chưa chính thức thông báo xuống bên dưới, ai gặp mặt cũng xưng là cục trưởng, viện trưởng làm người nghe rất sảng khoái.

Triệu Hú mới mười tuổi. Lần đầu tiên hắn thấy người hành đại lễ bái ba bái, dập đầu chín cái thì rất ngạc nhiên, hơn nữa lại gần như toàn những ông lão râu tóc bạc phơ nên bật cười khanh khách.

Từ sau rèm Hoàng Thái Hậu hừ lạnh một tiếng nói: "Hú nhi, phụ hoàng ngươi, Tằng tổ hoàng hậu còn quàn ở bên. Tại sao ngươi lại vui cười lúc này?"

Triệu Hú kinh hãi, hắn vội vàng quay người dập đầu nói: "Hoàng tôn biết sai rồi, thỉnh Hoàng tổ mẫu trách phạt".

Tân đế mới lập, Hoàng Thái Hậu cũng không muốn làm Triệu Hú quá mất mặt liền thản nhiên nói: "Sau này ngươi thân là vua một nước, tất cả hành xử phải cực kỳ suy xét cẩn thận, phải giống như Hoàng cao tổ Nhân Tông hoàng đế của ngươi vậy, làm một Hoàng Đế nhân từ. Hãy đứng lên đi".

Mấy người Thái Xác nghe Hoàng Thái Hậu dạy bảo Hoàng tôn không đề cập với trượng phu của mình là Anh Tông hoàng đế cho là có ý nghĩa khiêm tốn mà thôi, không đề cập tới Tống Thần Tông hoàng đế mà ngược lại đề cấp tới Tống nhân Tông hoàng đế của mấy chục năm trước, biết hiển nhiên Hoàng Thái Hậu không muốn tân đế Triệu Hú sau này học tập ý chí tiến thủ cương quyết của Tống Thần Tông mà muốn Triệu Hú biết kính cẩn lắng nghe, tiết kiệm nhân ái, học tập cách bảo thủ giữ vững nghiệp lớn của Tống Nhân Tông thì trong lòng lại càng lạnh buốt.

Triệu Hú chậm rãi đứng dậy, chắp tay, bập bẹ giọng nói trẻ thơ nói: "Chư vị ái khanh bình thân. A, Đỗ ái khanh, chư vị khanh gia đều dùng đại lễ khấu kiến ta. Tại sao khanh lại vẫn đứng ở đó?"

Triệu Hú vẫn chưa đăng cơ, theo quy định chặt chẽ vẫn không thể xưng là "Trẫm" nên hắn do dự một lát dùng chữ "ta".

Đỗ Văn Hạo thấy Triệu Hú tuổi còn nhỏ tựa như đã có tính kiêu căng tức thì trong lònh tức giận cười nhẹ một tiếng chắp tay nói: "Văn Hạo chỉ là thần tử, đương nhiên phải cùng bọn họ quỳ lạy dùng đại lễ quân thần. Nhưng nay Văn Hạo là sư bảo của Thánh Thượng. Cái gọi là sự tôn nghiêm của đạo học. Người làm thầy phải bái kiến đệ tử của mình, không hợp với lễ nghi tôn sư của Nho gia. Vì vậy Văn Hạo khẩn cầu Thánh Thượng từ nay về sau miễn trừ cho Văn Hạo dùng đại lễ quỳ lạy, thể hiện sự tôn sùng của Thánh Thượng với phẩm đức học thuật của Nho gia".

Triệu Hú thoáng ửng sốt rồi hắn chỉ vào Thái Ca đang quỳ lạy trên mặt đất nói: "Ông ấy đã từng là sư bảo của ta, tại sao vẫn phải quỳ?"

"Hoàng Thái Hậu mới vừa thay đổi sư bảo. Hiện nay Thái đại nhân không còn là sư bảo của Thánh Thượng, đương nhiên phải hành đại lễ quân thần. Thế nhưng một ngày làm thầy, cả đời làm thầy. Khụ khụ. Thái Ca đại nhân đã từng là sư bảo của Thánh Thượng, Thánh Thượng cũng không nên tiếp nhận đại lễ của ông ấy. Coi trọng tôn sư, lễ giáo có quan hệ với việc hưng thịnh của một quốc gia. Thánh hiền Tuân Tử có câu: "Quốc có hưng cần phải quý sư, trọng phó ( thầy giáo ). Quý sư trọng phó thì luật pháp được duy trì.

Quốc suy chính là khinh rẻ sư, coi nhẹ phó. Thích dùng sai nha thì pháp luật hỏng. Thánh Thượng mới là bậc quân chủ của một nước mà đã không tôn sư, coi trọng giáo thì thực sự không phải điều may mắn của một quốc gia".

Triệu Hú không ngờ Đỗ Văn Hạo lại chỉ trích một cách không khoan nhượng, lại còn trích dẫn câu nói của bậc thánh hiền Tuân Tử nên nhất thời mặt đỏ lên không biết làm thế nào phản bác lại. Nhưng Triệu Hú trời sinh nhanh nhẹn, không dễ dàng chịu thua người khác, mắt hắn đảo lên rồi nói: "Khanh đã đưa ra lời dạy của thánh hiền Tuân Tử. Nhưng Tuân Tử nói: "Thiên Tử là đấng chí tôn, trong thiên hạ không ai sánh bằng, ngoảnh mặt về nam và sai khiến thiên hạ, không ai được trái lệnh, đều phải chấn đọng phục tùng. Khanh giải thích mấy lời này thế nào?"

Mấy câu này Đỗ Văn Hạo nghe không hiểu nhưng hắn nghe thấy kiểu nói của Triệu Hú, tức giận không nhịn được, chậm rãi nói: " Quân chính là Thiên Tử, Quân lâm thiên hạ ( ý muốn nói quân chủ quay mắt về phía thiên hạ, quân vương bao trùm trên vạn người ), thần tử phải phục tùng quân vương. Nhưng mà Thánh Thượng cũng nên nghe qua một câu nói khác của Tuân Tử: quân sư chính là gốc rễ, không quân sư tất sinh ác trị".

Triệu Hú thoáng sửng sốt, ánh mắt khẽ chuyển, nói: "Đỗ sư bảo, khanh chuẩn bị dạy ta bộ nào trong tứ thư ngũ kinh".

Đỗ Văn Hạo nhìn thấy sắc mặt này của Triệu Hú lập tức nhớ tới những hành động tinh nghịch, hồ đồ của hắn, bất giác nhíu mày. Lúc trước hắn chỉ nhất thời xúc động chấp nhận làm lão sư của Hoàng Thượng. Hiện tại hắn nghĩ tới việc làm lão sư cho Hoàng Thượng, không thích hợp, không thoải mái, lại càng không được nghiêm khắc tức thì trong lòng thoáng hối hận. Đỗ Văn Hạo nghe thấy Triệu Hú nói câu đó lập tức mượn cớ xuống lừa, chắp tay nói: "Tài học thiên hạ không chỉ có tứ thư ngũ kinh. Sở học của Thánh Thượng đương nhiên đã thuộc lòng điển tích của các bậc tiên hiền. Nhưng Thánh Thượng chính là vua của một nước, chi bằng hãy học qua, tri thức cổ kim nhiều thứ cần học. Thánh Thượng đã chọn Văn Hạo làm thầy, nhất định không phải nhìn trúng trình độ tứ thư ngũ kinh của Văn Hạo. Nếu một khi như thế đừng nói tới học giả uyên thâm, tài học năm xe khi xưa là Tư Mã Quang, mà ngay cả Thư Thụ tiên sinh, Hạo cũng không sánh bằng. Văn Hạo thỉnh cầu được từ chức sư bảo của Thánh Thượng. Văn Hạo đã không phải sư bảo của Thánh Thượng, đương nhiên phải hành đại lễ quân thần. Thần tam nha Đô Kiểm Điểm, Ngự y Đỗ Văn Hạo cầu kiến Thánh Thượng".

Nói xong, Đỗ Văn Hạo vén áo bào, định quỳ xuống.

Sở dĩ Triệu Hú muốn Đỗ Văn Hạo làm lão sư của mình chẳng qua là lúc trước Hoàng Thái Hậu mới lập hắn làm Hoàng Đế, trong lòng cảm kích, lại nghe Hoàng Thái Hậu tôn sùng Đỗ Văn Hạo như vậy nên mới thuận miệng nói ra, cũng là một cách tâng bốc Hoàng Thái Hậu mà thôi. Hắn nghe nói Đỗ Văn Hạo muốn từ chức, vuốt mông ngựa không được lại còn ngược lại làm cho Hoàng Thái Hậu có cảm giác bản thân mình tuỳ hứng, bướng bỉnh, làm lão sư tức giận bỏ đi, vậy chẳng khác gì chữa lợn lành thành lợn què.

Triệu Hú liếc mắt nhìn trộm Hoàng Thái Hậu trong rèm, thất mày liễu Hoàng Thái Hậu cau lại, hiển nhiên trong lòng rất khó chịu. Triệu Hú không khỏi thoáng rùng mình. Thân là con cháu Hoàng tộc, hắn đã được nghe nhiều chuyện xưa của các Hoàng tộc tiền triều. Hắn hiểu rằng trong lịch sử đã từng có tiền lệ Ấu quân vì chọc giận Thái Hậu buông rèm chấp chính mà bị xử phạt, thậm chí còn bị phế. Mới rồi Hoàng Thái Hậu tôn sùng Hoàng Thái Hậu như vậy, không thể khinh xuất chọc giận Hoàng Thái Hậu, khi đó ngội vị Hoàng Đế khó giữ được.

Triệu Hú phản ứng rất nhanh, hắn vội vàng tiến lên xua tay nói: "Chờ một chút, Đỗ sư bảo".

Đỗ Văn Hạo vừa vén sáo bào,vẫn chưa quỳ xuống, nghe Triệu Hú nói vậy thì dừng lại, ngẩng đầu nhìn hắn nói: "Thánh Thượng có gì phân phó?"

"Ừ. Hú nhi thỉnh tướng quân làm sư bảo của ta. Tướng quân học rộng tài cao, có tài trị quốc. Điểm này phụ vương cùng tổ mẫu, Thái Hoàng Thái Hậu đều tôn sùng. Vừa rôi sư bảo nói về sự tôn nghiêm của đạo học rất đúng. Hú nhi sắp đăng cơ, cần phải là tấm gương sáng, lễ kính tôn sư, không vì tôn nghiêm của đế vương mà bỏ qua tôn sư trọng đạo. Hú nhi biết sai rồi. Sau này miễn Đỗ sư bảo và các sư bảo khác tiến hành đại lễ quân thần".

Đỗ Văn Hạo thoáng sững người khi nghe tiểu Hoàng Đế nhận sai sót, cũng miễn cho hắn sau này tiến hành quỳ đại lễ. Hắn nhìn Hoàng Thái Hậu ở sau bức rèm, thấy nàng mỉm cười, chậm rãi gật đầu với mình, trong mắt ngậnp tràn sự mong đợi thì mới chắp tay cúi dạp người thi lễ nói: "Thánh Thượng quá lời. Vi thần đa tạ Thánh Thượng giữ gìn sự tôn nghiêm của đạo tôn sư".

Đúng lúc này từ xa vang lên tiếng kẻng canh năm.

Hoàng Thái Hậu nói: "Canh nắm rồi, sắp tới lúc khiêng linh cữu đưa tang. Vương ái khanh, khanh phụ trách việc lên ngôi của Hoàng Đế. Đỗ ái khanh, khanh phụ trách cảnh giới. Các khanh gia còn lại hãy theo phụ tá bên cạnh. Tất cả các khanh hãy mau đi".

Tám người đồng loạt trả lời.

Bình minh, điện Phúc Ninh.

Linh cữu của Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thấi Hậu đều quàn ở trong này.

Ngay khi nghi lễ tế lễ khiêng linh cữu bắt đầu, tân Hoàng Đế Triệu Húc, mặc quần áo tang, đứng đầu, bái vị

Phía sau Triệu Hú là Hoàng Thái Hậu, Ung Vương, Tào Vương cùng các thân vương khác, còn có các Hoàng tử, phi tần hậu cung, công chúa cùng hoàng thân quốc thích, cũng mặc quần áo tang, đứng theo tôn ti trật tự trong Hoàng tộc. Các trọng thần đều xếp hàng theo thứ tự ở bậc thềm bên ngoài điện và sân điện.

Những đại thần này thấy người chủ trì tế lễ chính là lục hoàng tử Duyên An Quận Vương thì đều hiểu đây chính là tân Hoàng Đế.

Trong tiếng hô của viên quan lĩnh xướng, bái lạy bốn lễ, hiến tế, hiến rượu, đọc điếu, lại bốn vái sau đó quan chấp sự nói" Khóc!" một hiệu lệnh vang lên tất cả Hoàng tộc buồn bã kêu khóc.

Dù sao Hoàng Đế Triệu Hú dẫn đầu mới chỉ có mười tuôit, căn bản còn chưa hiểu biết nhiều, đương nhiên còn hiểu biết rất hạn hẹp về cái chết. Ngày hôm đó khi biết tin phụ hoàng đã băng hà, hắn đã cùng mẫu thân gào khóc một hồi nhưng sau đó dần dần quên lãng. Giờ đây đã qua một tháng lại biết mình sẽ trở thành Hoàng Đế mới, trong lòng không ngừng đắc ý. Bây giờ đột nhiên bắt một đứa trẻ như hắn chảy nước mắt khóc rống lên, hắn không phải là một diễn viên, đâu có làm được như vậy. Hắn không ngừng khóc khan, không ngừng giả bộ đau đớn, sánh mắt quay loạn mọi chỗ, nhìn đông nhìn tây. Quan chấp sự nhìn thấy nhưng biết hắn sắp làm Hoàng Đế nào dám nói nửa câu.

Sau khi lễ Khải điện qua đi, đoàn người hoàng thân quốc thích bắt đầu đi vào dưới sự chỉ dẫn của viên quan lĩnh xướng vào chỗ quàn lĩnh cữu Hoàng Đế

Quan chấp sự thu lại tấm màn, lau chương cung ( quan tài làm bằng gỗ chương ), thì ra là để lau bụi đất cho quan tài của Hoàng Đế. Quan chấp sự chỉ dẫn thiết lập Long tập, chân đình, thần bạch dư, dật sách bảo dư ( tên những đồ cúng lễ ) trên điện sau đó bắt đầu cúng tế tổ tiên, thiết điện tế vong linh, lại là bốn vái, hiến tế, lại bái sau đó khẩu lệnh kêu khóc. Như thường lệ tân Hoàng Đế Triệu Hú lại đảo mắt xung quanh, gào khan.

Sau đó quan Tư lễ cung thỉnh Hoàng Đế đi vào trước hai cỗ quan tài của Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thái Hậu cao hơn đầu người, mặt quay về tây. Quan dẫn lĩnh quỳ tấu, thỉnh linh giá xuất phát.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 401: Lễ Đăng Cơ (1+2).

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 402: Tiêu chuẩn của thắng bại (1+2)

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

"Văn Hạo" Đỗ Văn Hạo thấy dáng vẻ làm nũng của Cao Thao Thao vô cùng đáng yêu. Đỗ Văn Hạo không nhịn được ôm lấy nàng, gắn miệng vào đôi môi mọng đỏ của nàng, trong đầu thầm tính toán: thơ Đường, Tống từ. Nàng đương nhiên hiểu rõ từ Bắc Tống về trước, vậy chỉ còn từ Nam Tống về sau. Người nổi tiếng ở Nam Tống cũng không thiếu. Ví dụ như Lý Thanh Chiếu gì đó, Lục Du, Tân Khí Tật, Khương Toạ, Văn Thiên Tường vân vân. Cũng may bản thân mình có bá phụ không chỉ tinh thông Trung y mà còn rất yêu thích thơ, từ cổ. Khi mình còn bé, đã rất nhiều lần bắt mình học thuộc lòng, trong đầu vẫn còn nhớ được một ít, thật sự để đối phó lại cũng không thành vấn đề. Hắn liền nói: "Vậy được rồi, ta cung kính không bằng tuân lệnh.

Nhưng mà cũng cần phải nói trước ta ngâm thơ, sáng tác từ không được tốt lắm, nàng cũng đừng làm khó ta. Ta làm không được cũng đừng chê cười ta".

Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao vỗ tay nói: "Ừ. Vậy chúng ta đã định, không được phép chơi xấu".

"Đó là đương nhiên. Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy".

"Được. Ngươi còn phải giúp ta đánh đàn" Cao Thao Thao hưng phấn ôm mặt hắn, ngẩng đầu nói.

"Đánh đàn ư? Đàn tranh, cầm, tỳ bà ta đều không đánh được. Nói không chừng nàng phải nút bông".

"Ai bảo ngươi đánh đàn" Cao Thao Thao cười hì hì. Nàng chụp lấy thanh bảo kiếm bên hôn Đỗ Văn Hạo, xoàn xoạt rút kiếm ra một nữa, ánh kiếm lấp lánh, lạnh giá rồi lại ấn thanh kiếm lại nói: "Ta đánh đàn, ngươi múa kiếm'.

"Múa kiếm?"

"Ngươi đường đường là Đại tướng quân, đừng nói với ta là ngươi không biết múa kiếm chứ?"

Quả thật Đỗ Văn Hạo không học qua kiếm thuật. Hắn mới học Cầm nã thủ và Phân thân thác cốt của Lâm Thanh Đại. Nhưng mà Lâm Thanh Đại là võ lâm cao thủ. Hắn có thể bớt chút thời gian học kiếm thuật, có sự trợ giúp của Lâm Thanh Đại hẳn cũng không có vấn đề gì. Bất chợt Đỗ Văn Hạo nhớ tới phim "Tần Dũng" có cảnh lá rụng, mữ nữ đánh đàn, tướng quân múa kiếm, tức thì nhiệt huyết trong lòng bốc lên, hắn gật đầu nói: "Được. Nàng đánh đàn, ta múa kiếm trợ hứng".

"Hay hay hay" Cao Thao Thao hưng phấn nói hay ba lần. "Chỉ tiếc bây giờ trời đã tối đen, nếu không ta thực sự muốn bắt đầu ngay lập tức".

"Ha ha. Ta muốn trước tiên sửa lại toà đình ngắm mưa, có cảnh sắc đẹp, khi đó mới có tâm tình tốt".

"Nói rất đúng. Ngày mai ta cho bọn chúng tiến hành, sẽ hoàn thành trong vòng nửa tháng".

"Ừ, tốt lắm".

Cao Thao Cao thấy sắc trời ngày một tối dần, cảnh sắc bên ngoài đình không còn nhìn thấy rõ, mưa cũng dần dần to lên. Được sự che giấu của màn đêm, lá gan của Cao Thao Thao cũng lớn dần. Nàng ôm cổ Đỗ Văn Hạo, kiễng chân hôn hắn.

Đỗ Văn Hạo ôm lấy vòng eo nhỏ nhắn của Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao, đôi ma trảo của hắn không ngừng vuốt ve thân thể lồi lõm hấp dẫn của nàng. Lần này hai người hôn nhau rất lâu, bốn phía chỉ có tiếng mưa rơi tí tách.

Khuôn mặt Cao Thao Thao đỏ bừng, hơi thử gấp gáp, nàng lên tiếng: "Lần trước chúng ta nói, sau khi việc tang xong xuôi sẽ tìm thời gian đi chơi, nghỉ ngơi thoải mái, hồi phục mấy ngày. Ngươi nói xem chúng ta nên đi chỗ nào?"

"Nàng quyết định. Nàng muốn đi đâu ta sẽ theo nàng đi tới đó" Đỗ Văn Hạo ôm lấy khuôn mặt trơn mịn của nàng, ôn nhu nói.

"Ừ. Để ta suy nghĩ xem thế nào. Chỉ e bây giờ chúng ta vẫn chưa đi được".

"Tại sao vậy?"

"Lúc trước quan Tể tướng Vương Giai nói: trong hơn một tháng qua còn tồn đọng rất nhiều tấu chương chờ ta phê duyệt. Mới vừa rồi ta đã quyết định chấp chính, bây giờ lại bỏ ra ngoài du ngoạn, chỉ e sẽ có ảnh hưởng không tốt, hơn nữa còn làm chậm trễ chính sự. Tốt nhất là chờ đợi đã, để qua quãng thời gian bận rộn này hẵng nói".

"Được. Bây giờ nàng lấy quốc gia đại sự làm trọng, ta rất mừng. Sau này giang sơn Đại Tống ở trong tay nàng, nàng phải hết lòng vì chuyện quốc gia đại sự. Chuyện nhi nữ thường tình cũng có thể bỏ qua đi".

"Ta không" Cao Thao Thao ở trong ngực Đỗ Văn Hạo, lắc lắc thân hình nhỏ nhắn xin xắn, nũng nịu nói: "Ta đã phải xử lý chuyện quốc gia đại sự, ta cũng muốn chuyện nhi nữ thường tình với ngươi. Ta phê duyệt tấu chương cũng muốn ngươi ở bên. Dù gì ta cũng không cho phép người rời khỏi ta".

Đỗ Văn Hạo hôn phớt nàng nói: "Thôi nào, ta cũng không nỡ rời khỏi nàng. Nàng không cho ta rời đi, cả ngày ta ở với nàng, chạm vào mái tóc, vành tay nàng, được không?"

"Ừ" Cao Thao Thao hạnh phúc hôn Đỗ Văn Hạo, nhưng rồi nàng lại khẽ thở dài nói: "Nhưng mà ngươi là tam nha Đô Kiểm Điểm, phụ trách quân đội cả nước, cũng có rất nhiều chuyện phải xử lý, chỉ sợ ngươi không có nhiều thời gian theo giúp ta".

"Không sao. Không phải vẫn còn cấp phó sao? Một mình ta làm, mệt chết đi được mà vẫn không hết".

Bàn tay phải của Cao Thao Thao khẽ bịt miệng hắn, sẵng giọng nói: "Hãy hứa sau này không được nói tới chữ "chết" nha".

"Được" Đỗ Văn Hạo bỏ tay nàng xuống, cười nói: "Nhưng mà sinh lão bệnh tử là quy luật tự nhiên. Thân ta chính là Đại tướng quân trong triều. Sau này một khi xảy ra chiến trận, nhất định phải lãnh binh xuất chinh. Không vị tướng quân nào bách chiến mà không chết".

"Bảo người đừng nói người còn nói. Còn nói nữa ta sẽ phạt ngươi" Cao Thao Thao lập tức dùng miệng ngăn chặn miệng của Đỗ Văn Hạo, hôn hắn một cái rồi gắt lên: "Hơn nữa ta không cho phép ngươi rời khỏi ta, cũng không phê chuẩn cho người dẫn quân xuất chính. Không phải như vậy sẽ tốt sao?"

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Được. Dù sao ta cũng không am hiểu binh pháp, lãnh binh xuất chinh, tám chín phần mười sẽ bị đánh bại, làm nàng mất mặt".

"Ngươi còn nói không hiểu binh pháp. Tiên đế tán thưởng ngươi lãnh binh có phương pháp, tinh thông binh pháp, đánh một trận với người Thổ Phiên, lấy ít thắng nhiều. Sau này lãnh binh xuất trận nhất định sẽ là thường thắng tướng quân".

Đỗ Văn Hạo cười hì hì, hắn lắc đầu nói: "Thao Thao, nói thật ta tới tam nha một thời gian, cũng đã hiểu được một chút tình hình của tam nha. Nếu như quân đội Đại Tống của chúng ta bây giờ, muốn đánh thắng trận, đánh bại Tây Hạ cùng nước Liêu quả thật không dễ dàng chút nào".

Trước kia Cao Thao Thao một mực ở trong thâm cung, không hỏi tới chính sự, cũng không hiểu gì về quân đội, lại càng không hiểu binh pháp. Bây giờ vì tiểu Hoàng Đế mới mười tuổi, còn cách tuổi trưởng thành để tự chấp chính những bảy, tám năm. Thời gian buông rèn chấp chính của Cao Thao Thao còn rất lâu, không thể chỉ đối phó qua loa. Nàng cũng muốn tìm hiểu, quản lý tốt. Bây giờ nghe Đỗ Văn Hạo nói quân đội Bắc Tống rất kém cỏi, khó có thể đánh thắng trận, bất giác nàng lắp bắp kinh hãi: "Thật vậy sao? Binh lực của chúng ta kém hơn so với nước Liêu và Tây Hạ sao?"

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: "Đại Tống chúng ta chiếm ưu thế. Cho dù là "Tiên, Xuyên" binh. Ngay cấm binh chúng ta cũng có sáu mươi vạn người, chừng đó đủ để tác chiến theo quy tắc thông thường. Sương quân địa phương có hai mươi vạn quân. Sương quân phụ cận kinh thành có mấy vạn quân nhưng tất cả chỉ là binh lính tạp dịch, không có sức chiến đấu, không thể trực tiếp đánh trận. Nếu như tăng thêm Sương quân, tổng binh lực của chúng ta sẽ gần chín mươi vạn người. Mặc khác chúng ta còn một số lượng không xác định hương binh trong dân gian. Phiên binh của Khương tộc cùng các dân tộc thiểu số, cùng với binh lính và quân cung thủ của các nha môn các nơi".

Cao Thao Thao vui vẻ nói: "Nhiều binh lính như vậy ư? So với Tây Hạ và nước Liêu thì thế nào?"

"Quân đội nước Liêu là do Cung trướng quân, quân của các bộ tộc lớn, quân bộ tộc, ngũ kinh hương đinh cùng với quân đội các nước chư hầu hợp thành. Quân Cung trướng của nước Liêu tương đương với Cấm quân của chúng ta, là bộ đội tinh nhuệ chủ lực của nước Liêu, tổng binh lực có mười vạn người ggì đó. Quân bộ tộc của các đại thủ lĩnh thật ra là đội vệ binh của các đại thần cùng các thân vương, binh lực nhiều thì hơn một ngàn, ít thì mấy trăm, tổng binh lực có ba vạn người gì đó. Quân bộ tộc là loại quân đội quân dân kết hợp của các bộ lạc, không phải là quân đội thường trực chính quy, thời binh là dân thường, thời chiến là binh lính. Hơn nữa chủ yếu phụ trách việc bảo vệ nội địa nước Liêu và kinh thành, bình thường không bao giờ tác chiến ở biên giới vì vậy không tính vào số lượng quân đội tác chiến chính quy. Ngũ kinh hương đinh cũng giống như hương đinh của chúng ta, hiệu quả thì như Sương quân chúng ta, cũng là lính tạp dịch, không trực tiếp tham gia đánh trận".

Cao Thao Thao nói: "Rốt cuộc thì nước Liêu có bao nhiêu quân đội?"

"Quân đội chính quy có thể trực tiếp đánh trận không vượt quá hai mươi vạn quân, cộng thêm số lượng lính tạp dịch cùng lực lượng vũ trang địa phương, tổng số cũng không vượt qua con số ba mươi vạn quân".

"Ít như vậy sao?" Cao Thao Thao vui vẻ nói: "Chỉ tương đương một phần ba quân đội chúng ta. Còn Tây Hạ thì sao? Có bao nhiêu binh lính?"

"Quân đội Tây Hạ do quân thị vệ trung ương, Cầm sinh quân cùng địa phương quân hợp lại. Quân thị vệ trung ương Tây Hạ kể cả năm ngàn quân Ngự lâm "Chất tử quân", ba ngàn người là thân binh trọng giáp kỵ binh của Hoàng Đế, hai ngàn năm trăm người là binh lính thiếp vệ kinh thành. Số lượng của quân đội tinh nhuệ chính quy của Tây Hạ "Cầm sinh quân" ước chừng mười vạn người. Tổng số quân đội chính quy không quá mười lăm vạn người. Bởi vì ở Tây Hạ và Đại Liêu, toàn dân là binh lính trong biên chế quân đội. Tổng số quân đội có thể lên tới năm mươi vạn người nhưng mà không thoát ly sản xuất, không thể tính là quân chính quy. Đương nhiên nếu tính thêm bộ phận này thì có thể tăng lên tới sáu mươi lăm vạn quân".

Cao Thao Thao vui vẻ nói: "Như vậy vẫn kém hơn rất nhiều so với chúng ta. Hơn nữa quân chính quy của chúng mới có mười lăm vạn quân. Tổng binh lực Cấm quân của chúng ta đã có sáu mươi vạn người, nhiều hơn chúng rất nhiều. Cho dù tổng binh lực của Tây Hạ và Đại Liêu cộng lại mới miễn cưỡng vượt chúng ta. Nếu chia ra đánh, chúng ta nhất định thắng".

Đỗ Văn Hạo lắc đầu cười gượng nói: "Nhưng hết lần này tới lần khác chúng ta đánh không lại chúng. Hay nói chính xác một chút là khi chiến tranh với Tây Hạ và Đại Liêu chúng ta thắng ít, bại nhiều".

Cao Thao Thao sửng sốt hỏi: "Thật vậy sao?"

"Tại sao lại không. Ta chỉ cần kể ra một số thì nàng sẽ hiểu. Trước tiên hãy nói chuyện chiến tranh Tống Liêu của Thái Tổ hoàng đế'.

"Chờ một chút" Cao Thao Thao cắt ngang lời Đỗ Văn Hạo: "Ta cảm thấy đói bụng, để ta truyền lệnh, chúng ta vừa ăn, vừa nói, được không?"

Đỗ Văn Hạo hôn nàng rồi nói: "Nàng hồ đồ rồi, Thao Thao. Đừng quên nàng là Thái Hoàng Thái Hậu, là quân, ta chỉ là thần tử. Làm gì có thần tử nào ngồi ăn cơm cùng bàn với bậc đế vương. Nàng thấy thuận mắt thì thưởng cho ta mấy khay thức ăn để ta mang về ăn là được".

Cao Thao Thao cười nói: "Ta không. Ta muốn ăn cùng với ngươi".

"Nếu để cho những giám quan Ngự Sử Đài kia biết được, hạch tội ta, ta không không chịu nổi".

"Sợ cái gì? Không phải là không thể làm chúng không biết. Đợi lát nữa truyền lệnh xong, ta sẽ cho người lui ra ngoài, không cho chúng hầu hạ ở bên. Cũng chỉ cần mang tới một chiếc bàn con, cùng thức ăn và một bình mỹ tửu là được. Chúng ta tự mình rót uống rượu. Vừa ngồi lắng nghe trời mưa, vừa nghe ngươi nói chuyện quân đội, gián quan sẽ không biết được.

Ta còn muốn ngươi theo giúp ta nhiều việc, có được không?"

Đỗ Văn Hạo thoáng sững người, hắn không trải qua sự giáo dục về lễ giáo phong kiến, cũng không quá quan tâm tới nghĩa vị quân thần liền gật đầu đồng ý.

Cao Thao Thao vui mừng đi ra rìa đình hóng mát, cao giọng nói về hướng chiếc cổng vòm ở phía xa: "Tiểu Tiêu tử".

"Ai! Tới đây!" Cao Thao Thao kêu lên một tiếng, Tiêu công công từ xa trả lời, tay cầm một cái ô vải dầu màu đỏ hấp tấp đội mưa chạy tới, ông ta khom người nói: "Thái Hoàng Thái Hậu có gì phân phó?"

"Truyền lệnh. Hãy mau chọn mấy món ăn ngon cùng một bình mỹ tửu tới đây".

"Dạ!" Tiêu công công trả lời rồi chạy đi truyền lệnh.

Cao Thao Thao đi tới ngồi xuống cạnh lan can, bắt Đỗ Văn Hạo ngồi bên cạnh mình rồi nói: "Văn Hạo, không ngờ ngươi lại hiểu rõ tình hình quân sự của Đại Liêu và Tây Hạ như lòng bàn tay mình".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Nói như lòng bàn tay thì vẫn chưa được. Lần trước sau trận đánh quân bộ lạc Thổ Phiên ở Tây Sơn, phủ Thành Đô, ta cũng rất quan tâm về vấn đề này. Trước đây mấy ngày nàng để cho ta tiếp nhận binh quyfn từ tay mấy người, bổ nhiệm ta làm ta nha Đô Chỉ Huy Sứ ta đã muốn tìm hiểu về tình hình quân sự. Ta không thể không biết bất kỳ điều gò có liên quan tới mình. Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Ta đã bố trí cảnh giới. Ta đã đọc qua các tư liệu quân sự có liên quan tới Đại Liêu và Tây Hạ, mặt khác ta đã tìm đọc các tư liệu từ khi kiến quốc tới nay của Đại Tống, nghiên cứu kỹ càng các tư liệu xuất chính bên ngoài. Bây giờ nàng hỏi ta có thể trả lời. Hơn nữa thủ hạ của ta năm đó đã thăm dò một chút tình hình chinh chiến Tây Hạ của các tướng sĩ. Bọn họ cũng đã cung cấp cho ta khá nhiều tình hình chiến tranh với Tây Hạ. Ta đã hỏi bọn họ tất cả những việc cần hỏi".

Cao Thao Thao vui vẻ nói: "Ngươi quả thực có dụng tâm. Xem ra ta dùng ngươi làm tam nha Đô Kiểm Điểm thực không sai".

"Không sai hay không thì bây giờ vẫn còn chưa nói được. Dù sao ta cũng có dụng tâm".

"Tốt lắm. Ngươi hãy nói tiếp điều đang nói đi. Ta muốn nghe. Những điểm nào ta không biết, ngươi phải nói rõ cho ta biết một chút. Vì sao binh lực của chúng ta đông hơn quân Tây Hạ và nước Liêu nhiều lần mà chúng ta lại bại nhiều hơn thắng?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Đầu tiên phải hiểu chính xác thế nào là chiến thắng.

Cái gì gọi là tiểu chuẩn thắng bại của chiến tranh. Đó là bởi vì sau khi xảy ra chiến tranh, hai bên đều thường tự tuyên bố là mình chiến thắng nhưng rốt cuộc là ai thắng ai bại, chỉ có một cách là suy xét các tiêu chuẩn một cách khách quan mới có thể đưa ra kết luận một cách khách quan".

Cao Thao Thao gật đầu nói: "Đúng vậy, ngươi nói rất có lý. Tiêu chuẩn của thắng bại là gì?"

"Ta cũng không phải là một nhà quân sự. Trước kia ta đã từng tham khảo qua Tư Mã Quang vấn đề này. Ông ta đã viết một bộ sách. Tiên đế ban tặng tên là "Tư Trị thông giám", đánh giá lịch sử từ đời nhà Chu tới thời Ngũ đại, trải qua hơn một nghìn năm trong lịch sử, trong đó có khá nhiều nội dung có liên quan tới quân sự chiến tranh. Bộ sách này được tiên đế rất đề cao, tán thưởng. Ta đã lãnh giáo ông ta về tiêu chuẩn thắng bại trong sách của mình. Ông ta nói tiêu chuẩn chủ yếu nhất là mục đích phát động chiến tranh có thực hiện được hay không. Đây là điều chủ yếu nhất. Có rất nhiều mục đích của chiến tranh, có công thành chiếm đất, có hỗ trợ vây Nguỵ cứu Triệu, có tấn công trừng phạt, có phòng ngự chống cự. Mặc kệ là mục đích gì, chỉ cần thực hiện được mục tiêu tác chiến là thắng lợi. Giả sử thương vong của phe mình nhiều hơn bên đối phương thì vẫn có thể được coi là chiến thắng. Nhưng nếu như mục đích chiến tranh không thực hiện được, cho dù có giết được số lượng địch nhân vượt xa số lượng thương vong của bên mình thì cũng không thể nói là thắng lợi. Đương nhiên cũng không tính là bại. Nói cách khác, Tư Mã Quang đã cởi bỏ quan niệm thủ thắng nặng nề, phân tích thắng bại trong chiến tranh. Còn về phần so sánh tỷ lệ thương vong của hai bên, địa bàn được mất, ông ta không quá coi trọng".

Hình như Cao Thao Thao không mấy hứng thú với quan điểm chiến tranh mới mẻ của Tư Mã Quang. Nàng nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Đừng nói về ông ta. Hãy nói xem ngươi nghĩ thế nào?"

"Ta ư? Ta cảm thấy tiêu chuẩn thắng bại của chiến tranh đối với chính khách và giới lãnh đạo quân sự. Khụ khụ. Đối với tướng quân lãnh binh cùng quyết sách của đế vương mà nói, tiêu chuẩn đánh giá cũng không hoàn toàn giống như vậy, có đôi khi thậm chí rất khác biệt".

Cao Thao Thao là Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính, đương nhiên quan tâm tới tiêu chuẩn của hắn nên hỏi: "Đế vương đánh giá thắng bại trong chiến tranh là như thế nào?'

"Đế vương đánh giá thắng bại của cuộc chiến tranh thì phần nhiều dựa vào góc độ suy xét chính trị, đánh giá tình thế trước cuộc chiến và sau cuộc chiến, đánh giá cái được, cái mất sau cuộc chiến. Đánh thắng một cuộc chiến nhưng quốc gia cuối cùng không đạt được lợi ích, thậm chí phải đối mặt với một tình hình nghiêm trọng. Đối với bậc đế vương mà nói, cuộc chiến tranh đó đã không thắng".

Cao Thao Thao chỗ hiểu chỗ không, gật đầu hỏi: "Còn tướng quân lãnh binh thì sao?"

"Tiêu chuẩn thắng bại của tướng quân là tương đối. Bởi vì nếu thật sự xảy ra chiến tranh, có thể chia ra làm ba mức độ như sau: Mức độ thứ nhất là tình hình thắng bại từ đầu đến cuối của toàn bộ cuộc chiến tranh. Mức độ thứ hai là tình huống thắng bại của chiến dịch đại quy mô. Mức độ thứ ba chính là tình huống thắng bại của những trận chiến. Là một tướng lĩnh quân sự cao cấp nên chú trọng tới mức độ thắng lợi chiến tranh ở mức độ thứ nhất. Nếu như đạt được thắng lợi này thì cho dù có thua một số chiến dịch hay những trận chiến nhỏ thì cũng coi là người chiến thắng".

"Có lý" Cao Thao Thao liên tục gật đầu. "Thắng bại của chiến dịch đại quy mô là như thế nào?"

"Đây cũng là một điều rất quan trọng. Sau một chiến dịch đại quy mô, rất có thể sẽ ảnh hưởng rất lớn tới tương quan thực lực của hai bên, đến nỗi ảnh hưởng tới kết quả của cả một cuộc chiến. Vì vậy nhất định phải tận dụng được kết quả thắng lợi của nhiều chiến dịch đại quy mô mới có thể chuyển hoá thành thắng lợi cuối cùng của cả một cuộc chiến. Nhưng đây không phải là điều tuyệt đối. Vì dù có đôi khi liên tiếp giành được mấy thắng lợi trong chiến dịch đại quy mô nhưng lại thua trong một chiến dịch quan trọng nhất sẽ dẫn tới thất bại trong cả một cuộc chiến. Cuộc chiến giữa Tây Hán Lưu Bang cùng Hạng Vũ chính là một minh chứng tốt nhất".

Cao Thao Thao thở dài nói: "Đúng vậy. Tây Sở Bá Vương đánh giết Lưu Bang đại bại nhưng không giết chết Lưu Bang ở Hồng Môn Yến. Kết quả cuối cùng thất bại trong cuộc chiến Cai Hạ, tự vẫn ở Ô Giang".

"Đúng vậy. Thắng bại của trận đánh nhỏ có thể chuyển hoá thành thắng bại của cả một chiến dịch lớn. Nhưng mà phán xét thắng bại một cuộc chiến không thể giới hạn trong những trận đánh nhỏ lẻ. Bởi vì trận đánh riêng lẻ có thể là vì suy sét tới toà cục mà cố ý để thua. Ví dụ như cuộc chiến dụ địch nhân xâm nhập, nhất định phải thua vì thế khi xét đoán thắng bại của hai bên nhất định vẫn phải căn cứ vào kết quả của chiến dịch đại quy mô cùng cả cuộc chiến. Lúc đó mới có ý nghĩa".

Những giải thích này dễ hiểu, Cao Thao Thao có thể hiểu được: "Vậy nhận xét của ngươi thế nào?"

Nói tới đây, Tiêu công công đã mang theo người của Ngự Thiện phòng đưa cơm tới. Mấy món ăn ngon, cộng thêm một bình rượu thượng giai tinh khiết cùng cho yến tiệc cung đình.

Sau khi đặt trên bàn đá, cùng với để thêm một chiếc đèn bão trên bàn. Loại đèn này che kín gió, không bị ảnh hưởng bởi mưa gió bên ngoài. Tiêu công công không đợi Thái Hoàng Thái Hậu căn dặn đã cực kỳ biết điều, dẫn tất cả mọi người ra khỏi cửa vườn hoa, đóng cửa lại.

Bên ngoài trời mưa phùn bay lất phất, rơi xuống lá cây, những bông hoa, trong bụi cỏ, tiếng mưa rơi tí tách, không khí tràn ngập tình thơ ý hoạ.

Cao Thao Thao kéo Đỗ Văn Hạo ngồi song song, đích thân rót cho hắn một chén rượu, lại rót cho mình một chén. Nàng bưng chén lên, cười ngọt ngào nói: "Hai chúng ta uống cạn chén này. Chỉ mong hai ta có thể lâu dài ở bên nhau".

Đỗ Văn Hạo cũng bưng chén rượu lên nói: "Trên đời này, nàng là lão đại, chỉ cần nàng không ghét ta, không đuổi ta, sẽ không ai có thể đuổi ta rời khỏi nàng".

Cao Thao Thao cười nói: "Đánh chết ta, ta cũng sẽ không bao giờ đuổi ngươi đi".

"Ha ha ha. Lần này chính là nàng nói từ 'chết" trước đó nha. Phạt rượu".

Cao Thao Thao cười khanh khách nói; "Được, được, ta nhận phạt" Nói xong nàng nâng ly rượu, uống một hơi cạn sạch, sau đó nàng rót một chén khác, ánh mắt đắm đuối nhìn hắn: "Vì tình ý đời này, kiếp này, hai ta cùng uống một chén".

Đỗ Văn Hạo cầm chén rượu, một tay ôm vòng eo nhỏ của nàng nói: "Hay! Cũng vì kiếp sau chúng ta có thể ở cùng một chỗ. Cụng ly".

"Ừ, đúng vậy" Trong mắt Cao Thao Thao ngập tràn niềm hạnh phúc, nàng nhìn Đỗ Văn Hạo, chậm rãi uống chén rượu.

Đỗ Văn Hạo cũng ngửa cổ, uống cạn chén rượu, hắn đặt chén rượu xuống, cầm đôi đũa ngà, gắp một con tôm càng xanh bỏ vào miệng nhỏ nhắn của nàng.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 403: Buồn Bực

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Cao Thao Thao mỉm cười nói: "Tốt lắm. Ngươi nói xem tiêu chuẩn thắng bại chiến tranh của ngươi là gì?"

"Ừ. Trước hết hãy cho người đi lấy bản đồ biên giới ra đây. Có bản đồ nói tốt hơn, ta cũng nhớ tường tận hơn" Đỗ Văn Hạo nói.

"Được" Cao Thao Thao đứng dậy, đi ra ngoài rìa đình hóng mát, gọi Tiêu công công vào, bảo ông ta tới tam nha lấy bản đồ tác chiến biên giới Tống Liêu cùng biên giới Tống Hạ tới đây.

Đỗ Văn Hạo nói: "Nhân lúc chưa có bản đồ, ta nói tiếp chủ đề lúc trước vẫn đang nói dở. Ta hoàn toàn đồng ý với đánh giá về tiêu chuẩn thắng bại trong chiến tranh của Tư Mã Quang. Muốn xem một cuộc chiến tranh thắng hay bại, quan trọng nhất là xem mục đích phát động chiến tranh có thực hiện được hay không mà không nên giới hạn trong phạm vi đất đai, thành trì được hay mất, hoặc chỉ đơn giản so sánh tình hình thương vong của hai bên. Đương nhiên mục đích chiến tranh có nhiều loại. Ví dụ như mở rộng lãnh thổ, đoạt lại đất đai bị mất, trừng phạt đối phương, tiêu diệt binh lực đối phương, vây Nguỵ cứu Triệu, chống ngoại xâm".

Đỗ Văn Hạo giơ đũa gắp thức ăn bỏ vào miệng nhai rồi nói tiếp: "Phán xét thắng bại của một cuộc chiến tranh nhất định phải có vật tham chiếu, cũng giống như đi lại vậy. Nàng ngồi thuyền nhỏ đi trên sông. Đối với cảnh vật hai bên bờ sông, nàng đang vận động. Đối với vật, nàng lại đang bất động. Xét đoán thắng bại của một cuộc chiến cũng như vậy. Nếu như mục đích tiến hành chiến tranh của một quốc gia là chống ngoại xâm. Kết quả cuối cùng quân thù bị đuổi ra khỏi đất nước, cho dù thương vong lớn hơn quân địch, cũng không chiếm được một tấc đất nào của đối phương nhưng cũng có thể coi là chiến thắng. Nếu như mục đích chiến tranh là mở rộng lãnh thổ, cho dù thương vong lớn hơn quân địch nhưng vẫn duy trì sự chiếm đóng lãnh thổ kẻ thù, cũng được coi là thắng".

Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao nói: "Vậy tính thương vong giữa quân mình và số quân thù giết được, có ảnh hưởng tới xét đoán thắng bại của cuộc chiến tranh không?"

"Đương nhiên là có ảnh hưởng" Đỗ Văn Hạo nói: "Nếu mục đích chiến tranh là trừng phạt đối phương thì có. Nàng muốn đi trừng phạt kẻ thù. Nếu như thương vong của đối phương thê thảm hơn thì có được coi là nàng đã chiến thắng hay không? Đương nhiên. Giết địch một vạn, thương vong bản thân ba nghìn thì có thể khẳng định là thắng. Trong chiến tranh có tính chất trừng phạt, xét đoán có chiến thắng cuộc chiến hay không, ngoại trừ thương vong quân mình rõ ràng không thể vượt qua thương vong của kẻ thù, còn phải tính tới những tổn hại nghiêm trọng của đối phương về thành trì, kinh tế, tâm lý của dân chúng. Nếu như đánh thọc sâu vào hậu phương kẻ thù mấy trăm dặm, phá được mấy toàn thành trì, phá huỷ hoàn toàn các điều kiện kinh tế, cuối cùng chủ động rút về thì cho dù số lượng thương vong tương đương với quân thù, cũng có thể được coi là chiến thắng bởi vì khi đó tổn thất của đối phương đã lớn hơn mình rất nhiều, mục đích của chiến tranh đã đạt được. Chiến tranh tấn công trừng phạt còn thườn đi kèm theo những ý đồ chính trị. Ví dụ vây Nguỵ cứu Triệu là một điển hình với chiến tranh tự vệ tấn công ). Mặt khác so sánh tỷ lệ thương vong của hai bên có thể ảnh hưởng tới mức độ chiến thắng. Một khi thương vong nặng nề, vượt xa thương vong của đối phương thì khi đó cho dù có chiến thắng thì cũng chỉ tính là chiến thắng thê thảm".

Cao Thao Thao nghe Đỗ Văn Hạo nói về tiêu chuẩn xét đoán thắng bại trong chiến tranh, đã hiểu thêm một bước sự phức tạp của chiến tranh. Nàng nâng chén uống cùng Đỗ Văn Hạo sau đó nói: "Lúc trước ngươi nói. Binh lực của Đại Tống chúng ta vượt xa nước Liêu và Tây Hạ, tương đương với tổng binh lực của cả hai nước nhưng khi tác chiến với nước Liêu và Tây Hạ, chúng ta lại thắng ít bại nhiều. Nhưng trước kia ta đều chỉ nghe trên dưới từ Hoàng Thượng, triều đình và dân chúng nói chúng ta đánh bại Tây Hạ, đánh bại nước Liêu. Tuy ngẫu nhiên chúng ta có trận đại bại nhưng đại đa số trận đánh chúng ta đều thắng, hoàn toàn không giống như những gì ngươi nói. Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Lý do rất đơn giản. Tốt thì khoe ra, xấu xa đậy lại. Nàng cứ tới kho lưu trữ tình hình chiến sự của tam nha, đọc cẩn thận mấy ngày, nàng sẽ biết rốt cuộc chúng ta thắng nhiều bại ít hay thắng ít bại nhiều".

"Ngươi đã xem qua rồi phải không?"

"Ừ. Sau khi nàng để ta làm tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, ta liền rành chút thời gian ở trong tam nha nghiên cứu một số tư liệu chiến tranh về tổn thất, tình hình chiến sự của các cuộc chiến tranh với Tây Hạ và Đại Liêu, mục đích phải là biết người biết ta. Kết quả chiến tích của quân Đại Tống chúng ta làm ta rất thất vọng, không hề giống như những tuyên truyền về thắng lợi lớn ở trên triều đình. Vì thế để biết được chân tướng sự việc thì chỉ còn cách tự mình nghiên cứu trong đám tư liệu, không thể tin vào tin đồn nhảm".

"Ừ. Vậy ngươi hãy nói với ta về thực lực thật sự của quân Đại Tống, ta cũng muốn hiểu một chút".

"Ta vẫn chỉ có một ý này: Không thể đánh giá mình quá thấp, đương nhiên cũng không thể đánh giá mình cao hơn hẳn so với thực lực của mình. Điều thứ hai còn nguy hiểm, đáng sợ hơn điều thứ nhất rất nhiều".

Cao Thao Thao gật đầu nói: "Không sai, chờ lát nữa đưa địa đồ tới, chúng ta sẽ nói căn cứ vào địa đồ. Bây giờ chúng ta uống rượu ăn cơm".

Hai người vừa ngồi uống rượu nói chuyện, vừa ngồi nghe tiếng mưa rơi ở bên ngoài. Một lát sau Tiêu công công ôm hai quyển địa đồ quay về, theo thứ tự là địa đồ biên giới Tống Liêu, và địa đồ biên giới Tống Hạ. Đỗ Văn Hạo nhận lấy, hắn trải bản đồ biên giới Tống Liêu trên mặt đất, dùng chén chận bốn góc, lại bảo Tiêu công công bẻ một cành liễu ở trên cây liễu bên ngoài đình, tước hết lá làm thước chỉ.

Đỗ Văn Hạo nói: "Chiến tranh Tống Liêu tổng cộng tiến hành trên hai mươi lăm năm, trên một trăm trận đánh lớn nhỏ. Chúng ta chỉ tính toán ra số chiến dịch đại quy mô sẽ tính toán ra thắng bại. Bắt đầu từ cuộc chiến sớm nhất là cuộc chiến Cao Xa Hà".

Đỗ Văn Hạo chỉ cành liễu vào một chỗ trên địa đồ nói: "Trận chiến này là Đại Tống chúng ta khởi xướng. Mục tiêu tối thượng của cuộc chiến này là đoạt lại mười sáu châu Yên Vân, thừa cơ đoạt U Châu ( bây giờ là Bắc Kinh ). Thực ra trận chiến này không được chuẩn bị tốt đã vội vàng ra quân. Ban đầu quân Tống liên tiếp khải hoàn ca, đánh thẳng tới chân thành U Châu, bao vây thành U Châu tầng tầng lớp lớp nhưng cường công không hạ nổi. Nước Liêu phái ra mười vạn kỵ binh tinh nhuệ bất ngờ tập kích đường tiếp viện của quân ta, quyết chiến cùng quân Tống ở bờ sông Cao Lương bên ngoài thành U Châu. Quân Tống không địch nổi, kết quả đại bại. Quân Liêu thừa thắng đuổi giết một mạch, quân Đại Tống tan vỡ hoàn toàn, chết hơn một vạn người. Thái Tông hoàng đế của chúng ta vì không còn ngựa mà cưỡi nên phải cưỡi lừa trốn về nội địa Đại Tống. Toàn bộ đất đai chiếm được khi trước lại quân Liêu chiếm lại. Đại Tống không đạt được mục tiêu của cuộc chiến nên trận chiến này thất bại".

Cao Thao Thao nói: "Trận chiến này quân ta đơn độc xâm nhập nội địa quân địch, quả thực rất mạo hiểm".

"Hẳn như vậy. Trận chiến thành Vĩnh Nhạc cũng bởi vì xâm nhập nội địa, xây thành ở nơi hiểm địa mà thất bại".

"Thật vậy sao? Ngươi hãy nói tiếp cuộc chiến Tống Liêu đi".

"Được. Cuộc chiến thứ hai là cuộc chiến thành trì. Đối với Đại Tống chúng ta mà nói đây là một cuộc chiến phòng ngự. Mục đích chiến lược của cuộc chiến là phòng ngự chống lại quân Liêu tấn công. Nước Liêu muốn trả thù Đại Tống đã đánh U Châu, mấy vạn quân Liêu đã tấn công vào biên giới Đại Tống. Hai bên quyết chiến một trận ở Hà Bắc. Chiến thuật của quân Tống được bố trí như sau; sử dụng quân vu hồi đánh bọc sườn quân địch, quân Liêu đại bại, chém giết hơn một vạn quân Liêu, thu được hơn một ngàn thớt chiến mã. Quân Liêu thất bại lui về biên giới nước Liêu. Trận chiến này tuy quân Tống tham gia tác chiến được hình thành bởi mấy cánh quân nhưng bởi vì có quan quân chỉ huy thống nhất, sử dụng chiến thuật chính xác vì vậy đã giành thắng lợi".

Cao Thao Thao vui vẻ nói: "Ta nghe nói Thái Tông hoàng đế đánh trận rất lợi hại".

"Đúng vậy. Thuở ban đầu mới lập nước, quân Tống đều là những binh lính dũng cảm, thiện chiến, mạnh mẽ, sức chiến đấu rất mạnh, ít nhất không thua kém quân Liêu".

"Ừ. Vậy những trận chiến sau đó?"

Đỗ Văn Hạo lại dùng cành liễu chỉ vào địa đồ nói: "Sau chiến đánh đó là chiến dịch Nhạn Môn Quan này, là một trận đại thắng vô cùng rạng rỡ của Đại Tống chúng ta. Sau khi quân Liêu tấn công Mãn Thành thất bại, vào mùa xuân năm sau đã phái đại quân tấn công Nhạn Môn, bị Đại tướng Dương Nghiệp, phụ thân của Dương lục lang phối hợp với Phan Nhân Mỹ chặn đánh, quân Liêu đại bại ở Nhạn Môn. Đây là cuộc chiến Nhạn Môn lần thứ nhất".

Cao Thao Thao nói: "Trận chiến này tuy thắng như không có nhiều điều đặc sắc".

"Đặc sắc là cuộc chiến thứ hai" Đỗ Văn Hạo cười tươi nói: "Năm sau mười vạn quân Liêu tấn công mãnh liệt Nhạn Môn. Đại tướng trấn thủ ải Nhạn Môn chỉ có mấy ngàn quân, Dương Nghiệp cầu viện Phan Nhân Mỹ, Phan Nhân Mỹ lại án binh bất động. Dương Nghiệp không còn cách nào khác đành phải dùng kỳ binh, chỉ huy mấy ngàn cảm tử quân lẻn ra sau đột nhiên tập kích hậu quân quân Liêu. Quân Liêu không biết rõ tình huống, lập tức đại loạn. Dương Nghiệp xác định chính xác mục tiêu: phá giặc phải bắt vua trước, ông tập trung binh lực liều chết tấn công vào chỗ soái kỳ quân Liêu, quả nhiên đã chém chết thống soái quân Liêu, quân liêu như rắn mất đầu lập tức đại loạn. Quân trấn thủ Nhạn Môn thừa thắng ùa ra đánh giết. Quân Liêu tan tác bỏ trốn về nội địa nước Liêu. Trận chiến này Dương Nghiệp lấy ít thắng nhiều, mấy ngàn quân đánh tan mười vạn quân Liêu. Có thể nói đây chính là trận đánh lấy ít thắng nhiều điển hình".

Cao Thao Thao vỗ tay cười nói: "Thật tốt, thật tốt! Cạn chén!".

Hai người lại uống cạn một ly. Cao Thao Thao nhìn Đỗ Văn Hạo nhỏ khẹ nói: "Dương Nghiệp dùng mấy ngàn quân đánh thắng mười vạn quân Liêu, lợi hại hơn người. Hì hì hì".

Đỗ Văn Hạo ngượng ngùng nói: "Ta có đáng gì đâu. Quân Thổ Phiên kém xa quân Liêu. Hơn nữa sở dĩ ta có thể đánh bại chúng chính là dùng thủ đoạn gian trá".

Cao Thao Thao bày trò chọc Đỗ Văn Hạo nay thấy hắn tự nhận mình không bằng người thì lại an ủi hắn, cười nói: "Binh bất yếm trá, có thủ đoạn dùng mánh lới mới được coi là có mưu lược. Dương Nghiệp chẳng qua là đánh lui quân Liêu, ngươi lại tiêu diệt quân Thổ Phiên bộ Tây Sơn. Có thể nói ngươi lợi hại hơn ông ấy nhiều".

"Ha ha ha. Ta không dám so sánh với Dương gia tướng. Trận đại thắng ải Nhạn Môn, Đại Tống chúng ta lấy ít địch nhiều thắng lớn. Nhưng trận chiến sau đó lại không được như ý người. Trận chiến kế tiếp chính là trận chiến Ngoã Kiều quan. Quân Liêu tập kết binh lực, chuẩn bị xuôi nam với quy mô lớn, tấn công Đại Tống. Thái Tông hoàng đế biết tin, thống lĩnh đại quân tiếp viện, chuẩn bị quyết chiến với quân Liêu ở Ngoã Kiều quan. Không ngờ quân Liêu tấn công thần tốc, đã bao vây bốn mặt trọng trấn Ngoã Kiều quan trước, quân Tống ở phụ cận tới tiếp viện bị đánh lui. Đợi lâu không thấy quân Kinh sư tới tiếp viện, quân Liêu vượt sông tấn công mãnh liệt, quân Tống thất bại lui quân. Quân Liêu đánh giết một mạch tới Mạc châu rồi mới thu binh quay lại. Trận này quân Tống thương vong thê thảm. Ở góc độ phòng ngự mà nói, không ngăn cản được quân địch tấn công, tháo chạy, lại hao binh tổn tướng nên chỉ có thể nói là thất bại".

Cao Thao Thao thở dài nói: "Ai. Nếu đại quân Kinh sư của Thái Tông hoàng đế tới nơi kịp thời, có lẽ sẽ không thất bại".

"Đại quân Kinh sư ngày đêm hành quân với tốc độ nhanh nhất. Nhưng đáng tiếc là chúng ta có quá ít ngựa. Không có ngựa, không có cách nào tiến quân nhanh được. Trong lúc tác chiến với quân Liêu, chúng ta rất bất lợi ở phương diện này. Cuộc chiến Cao Xa Hà, kỵ binh tinh nhuệ của quân Liêu nhanh chóng cứu viện. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu làm quân ta thất bại. Cuộc chiến Kỹ Câu quan sau này cũng như vậy. Sở dĩ triều Tây Hán và triều Đường có thể tác chiến với quân Hung Nô trong thế thượng phong, nguyên nhân chủ yếu chính là có một đội thiết giáp kỵ binh tinh nhuệ. Lần giao tranh thứ nhất giữa Tây Hán và Hung Nô, Tây Hán đã huy động được ba mươi vạn chiến mã tham gia. Đây quả thực là con số chúng ta không thể tưởng tượng nổi".

"Ừ. Vấn đề này ta đã nghe tiên đế bàn luận nhiều lần, luôn can thán chúng ta thiếu chiến mã. Trong nội địa Đại Tống nuôi được quá ít chiến mã.

Đại bộ phận chiến mã là mua của Tây Hạ và Đại Liêu. Chúng không chỉ nâng giá mua mà còn hạn chế số lượng. Khi mối quan hệ hai bên căng thẳng, dù chưa tới mức nổ ra chiến tranh chúng cũng lập tức cấm bán ngựa cho chúng ta. Thật sự rất đáng hận. Chúng ta đã nghĩ rất nhiều biện pháp nhưng vẫn rất thiếu ngựa. Ngươi có cách hay nào không?"

Đại Tống thiếu ngựa. Đây là vấn đề mà ngay khi xuyên việt tới đây, Đỗ Văn Hạo đã lập tức cảm nhận được. Khi hắn ở huyện thành, tới nhà dân khám chữa bệnh, chỉ có thể đi xe trâu, hoặc cưỡi lừa. Chỉ có nha môn mới có mấy thớt ngựa.

Đỗ Văn Hạo cau mày suy nghĩ một hồi nhưng thực sự không thể nghĩ ra một biện pháp hay nào để gia tăng số lượng chiến mã, hắn đành cười gượng lắc đầu nói: "Tạm thời ta không thể nghĩ ra biện pháp hay nào. Đợi khi ta về nhà suy xét cẩn thận tìm ra rồi sẽ nói sau".

"Ừ, được".

Đỗ Văn Hạo lại nói: "Sau này khi quân Liêu tổ chức mấy lần xâm nhập phía nam nhưng đều bị quân ta đánh lui. Thương vong của hai bên cũng không lớn, quy mô trận đánh cũng nhỏ, thắng bại không đáng kể. Sau này khi Hoàng Đế nước Liêu chết, nước Liệu vội vàng dụng binh với Cao Ly và Nữ Chân, không rảnh chú ý tới phía nam. Hai bên đã ngưng chiến mấy năm. Sau này khi tiểu Hoàng Đế nước Liêu kế vị, Thái Tông hoàng đế liền quyết định tổ chức bắc phạt lần thứ hai nhưng thật sự không ngờ lại thất bại nặng nề".

Sắc mặt Cao Thao Thao có chút hổ thẹn: "Chúng ta lại thất bại sao?"

"Lần bắc phạt này chính là cuộc chiến Kỳ Câu quan. Quy mô của cuộc chiến này rất lớn. Hai bên đều huy động lượng binh lực lên tới mười vạn người. Cả chiến dịch diễn ra mấy tháng trời. Vào thời kỳ đầu chiến dịch, quân Tống chúng ta chia ra làm ba lộ. Đông lộ đánh nghi binh U Châu, trung lộ, tây lộ tấn công mạnh mẽ Sơn Hậu, Chư châu sau đó hội quân ở U Châu. Thời gian đầu chiến dịch, quân ta chiến thắng tiến quân một mạch, đánh chiếm được khá nhiều châu, huyện của nước Liêu. Vì chủ lực quân Liêu chưa tới kịp, ưu thế cơ động của kỵ binh đã được phát huy đầy đủ, chúng lợi dụng địa hình bình nguyên, gò đồi tiến hành tập kích quấy rối, đã thành công làm thất bại ý đồ chiến lược bao vây U Châu của quân ta. Sau khi quân chủ lực quân Liêu đánh tới, đã đánh bại lộ quân phía đông của Đại Tống ở Kỳ Câu quan. Bởi vì quân Tống dựa lưng vào sông tác chiến, tan tác tháo chạy qua sông, chết chìm rất nhiều. Quân Liêu vượt sông đuổi giết, tiêu diệt mấy vạn quân ta. Hai lộ quân kia của quân ta sau khi giao tranh cũng đều tan tác, Đại tướng Dương Nghiệp tử trận. Toàn bộ lãnh thổ chiếm được lại mất. Lúc đó nguyên khí Đại Tống chúng ta tổn thương nặng nề. Từ đó về sau không thể tổ chức bắc phạt nữa".

Cao Thao Thao giơ ngón tay đếm đếm rồi cười gượng nói: "Tổng cộng xảy ra sáu chiến dịch lớn với quân Liêu. Chúng ta chỉ thắng có ba. Dùng quân chi sư bách chiến đối đầu với quân Liêu mà chỉ đánh ngang tay, coi như quân ta cũng kém cỏi".

Đỗ Văn Hạo cười gương nói: "Nói bất phân thắng bại là ta tự an ủi mình. Trong sau chiến dịch lớn, trong hai cuộc chiến Nhạn Môn, hẳn chỉ nên tính lần thứ nhất, còn lần thứ hai chỉ là một đánh đơn lẻ, không tính là chiến dịch. Mặc dù giết chết chủ soái quân Liêu nhưng không giết được nhiều quân địch. Quân Liêu cũng vì không biết rõ tình hình mà chủ động triệt thoái về chứ không phải vì bị đánh bại. Đặc biệt trong chiến dịch cuối cùng, cuộc chiến Kỳ Câu quan thì thực sự chúng ta thất bại thê thảm. Tổng cộng tổn thất mấy vạn tướng sĩ, số lượng thương vong này vượt xa mấy lần số lượng thương vong của mấy chiến dịch trước cộng lại. Thất bại của chiến dịch này nặng nề hơn nhiều mấy chiến dịch trước, thời gian lại lâu hơn. Tính về quy mô có thể tương đương với hai chiến dịch. Vì vậy nói một cách khách quan: về tổng thể trong chiến tranh Tống Liêu, Đại Tống chúng ta thắng ít hơn bại. Mười phần chỉ thắng ba, thua bảy".

Cao Thao Thao thầm thở dài một tiếng nói: "Nghe những chiến bại này quả thực làm người rất buồn bực. Không nói nữa. Chúng ta uống rượu".

Sau khi hai người uống mấy chén rượu, lại dựa sát vào nhau nghe tiếng mưa rơi. Trong lòng Cao Thao Thao vẫn nặng nề, rốt cuộc nàng vẫn lo nghĩ tới tình hình chiến sự Liêu Tống. Mặc dù tâm trạng vẫn buồn bực khi nghe nhưng lại vẫn muốn biết kết cục phía sau nên nói: "Ngươi nói tiếp đi. Sau này chúng ta có còn thắng ít bại nhiều không?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Thôi được rồi. Chiến bại sau này nghe càng nản hơn nữa. Ta chỉ nói rất đơn giản".

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 404: Nhiều lần chiến bại (1+2)

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Cao Thao Thao lắc đầu nói: "Không cần phải như vậy. Ngươi cứ nên nói tỉ mỉ một chút. Ta cần phải hiểu càng nhiều càng tốt để sau này sẽ phải quyết định chúng ta nên ứng phó với chúng thế nào".

Đỗ Văn Hạo nói: "Được. Sau này quân ta giao chiến với quân Liêu cũng không có trận đánh nào nổi tiếng. Sau chiến dịch Kỳ Câu quan, quân Liêu gặt hái thành quả nên mùa đông năm sau chúng lại tập hợp đại quân, một lần nữa xuôi nam với quy mô lớn, quyết chiến với quân Tống ở Quân Tử quán ( trung tâm bình nguyên Hoa Bắc, nằm giữa vùng tam giác Bắc Kinh, Thiên Tân và Thạch Gia Trang ), quân ta bị quân Liêu bao vậy, toàn quân mấy vạn người hoàn toàn bị tiêu diệt, chỉ có chủ soái kịp thời trốn thoát. Quân Liêu thựa dịp tiến quân thần tốc, sau khi đánh cướp mấy châu mới đắc thắng rút quân khải hoàn. Sau đó kỵ binh quân Liêu lợi dụng ưu thế tốc độ, sau khi nhanh chóng tập kết binh lực, quân ta còn chưa kịp phản ứng đã xâm nhập đánh phá các châu huyện. Sau khi đánh cướp một hồi chúng lại lui quân, không để chúng ta có cơ hội tập trung binh lực áp chế. Năm sau quân Liêu lại một lần nữa xuôi nam xâm nhập. Sau khi đánh chiếm mấy châu của chúng ta, chúng mới bị đánh lui. Cho tới khi Thái Tông hoàng đế băng hà, Chân Tông hoàng đế kế vị, hai bên không xảy ra trận đánh quy mô lớn nào. Chủ yếu vào giai đoạn này là quân Liêu xuôi nam xâm nhập, tập kích quấy rối, quân ta quyết đấu trong thế phòng ngự, tuy thắng bại hai bên đều có nhưng xét về tổng thể, quân ta vẫn coi như rơi vào thế xấu, tỷ lệ thắng bại vẫn là ba phần như trước".

Cao Thao Thao thở dài nói: "Đúng vậy, quân Liêu có ưu thế kỵ binh, chúng có thể tập trung binh lực ở một điểm, đánh rồi rút lui. Chúng ta phòng ngự bị động, nhất định là bất lợi. Sau này thì sau?"

"Về sau Tống Liêu có một trận quyết chiến cuối cùng, cuộc chiến Thiền Uyên. Sau mấy năm chiến thuật phòng ngự của quân ta đã được củng cố hơn rất nhiều. Khả năng phòng ngự ở biên giới của chúng ta đã tăng lên rất nhiều. Khi đó Tiêu thái hậu của Đại Liêu chỉ huy hai mươi vạn quân Liêu xuôi nam, đánh chiếm nhiều châu, huyện ở biên giới nhưng liên tiếp gặp khó khăn, không thành trì nào bị công phá nhưng mà tổn thất của hai bên cũng không lớn".

Rốt cuộc Cao Thao Thao cũng nở một nụ cười khi nghe Đỗ Văn Hạo nói tới đó: "Bị nhiều thiệt thòi như vậy hẳn cũng phải học được bài học chứ".

"Đúng vậy. Mặc dù những trận chiến trước đó quân ta cũng không thiệt hại nhiều nhưng khi tin tức hai mươi vạn đại quân Liêu xuôi nam quy mô lớn bay tới triều đình, một số quần thần trong triều dao động mạnh mẽ. Đa số quần thần chủ trương rời kinh đô xuống phía nam, thậm chí có một số chủ trương bỏ chạy tới Thành Đô".

Với sự cố gắng của phái chủ chiến cầm đầu bởi Khấu Chuẩn. Chân Tông hoàng đế vốn cũng muốn bỏ chạy nhưng với sự tận lực khẩn cầu của mấy người Khấu Chuẩn, Chân Tông hoàng đế quyết định ngự giá thân chinh. Khi đi vào thành Thiên Uyển, vẫn còn run run khi trèo lên lâu thành".

Cao Thao Thao nhìn Đỗ Văn Hạo vẻ quái dị: "Những điều này ngươi lấy ở đâu vậy?"

Hiệp ước Thiền Uyên cực kỳ nổi tiếng trong lịch sử cổ đại Trung Quốc. Giáo viên dạy môn lịch sử trung học đã giảng giải rất lỹư lưỡng về vấn đề này. Thật ra câu nói đó của Đỗ Văn Hạo là hình dung có chút khoa trương của giáo viên đó để đùa cợt với bậc đế vương cổ đại. Đỗ Văn Hạo và Cao Thao Thao là cặp tình nhân, khi nói chuyện không giữ ý tứ, hắn thuận miệng nói ra. Bây giờ hắn nghe Cao Thao Thao hỏi lại mới biết trêu chọc tiên đế như vậy là phạm trọng tội bất kính.

Đỗ Văn Hạo vội vàng cười giả lả, hắn ôm eo nàng hôn một cái rồi nói: "Thực xin lỗi. Thao Thao, những chi tiết này là trong dã sử, có mấy chỗ không có thật. Là ta nói hưu nói vượn. Nàng đừng để tam. Thật ra Chân Tông hoàng đế cực kỳ dũng cảm. Những Hoàng Đế có can đảm ngự giá thân chinh thật ra không có mấy người. Chân Tông hoàng đế đích thân ra tuyền tuyến chỉ huy đã khiến cho quân Liêu bãi binh, không dám xuôi nam nửa bước. Có thể xưng là anh hùng. Ha ha ha".

Sau khi Đỗ Văn Hạo xin lỗi hắn lại liên tiếp vuốt mông ngựa. Rốt cuộc Cao Thao Thao cũng tươi cười nói: "Những lời nói trước kia của ngươi chỉ có thể nói trước mặt ta. Nếu để cho người ngoài nghe thấy, quả thực không hay chút nào. Sau này ngươi phải cẩn thận chú ý mới được".

"Biết rồi!" Đỗ Văn Hạo ôm Cao Thao Thao hôn một hồi lâu. "Ta cũng chỉ ở trước mặt nàng mới ăn nói tuỳ tiện như vậy. Nếu đổi lại trước mặt người khác, kể cả phu nhân của mình ta cũng không nói như vậy".

Cao Thao Thao nghe nói Đỗ Văn Hạo đặt nàng cao hơn cả người nhà của hắn, cùng với sự thân mật của hai người, hiển nhiên hắn đã coi mối quan hệ của hai người quan trọng hơn cả người nhà nên trong lòng càng cao hứng. Nàng mỉm cười nói: "Thôi được rồi. Sau này phải chú ý một chút. Ngươi nói tiếp đi".

"Được. Chân Tông hoàng đế của chúng ta ngự giá thân chinh, lập tức sĩ khí quân ta đại chấn. Trong trận quân Liêu có một viên Đại tướng khoác Hoàng bào ra trước trận vênh váo tự đắc, khoa chân múa tay, xem dáng vẻ là một viên quan lớn, quân ta liền bẩm báo Chân Tông Đại đế. Chân Tông Đại Đế hạ lệnh dùng nỏ sàng có tầm bắn rất xa, bắn ra như châu chấu, lập tức bắn chết viên tướng Liêu đó. Sau này mới biết được người đó là tướng tiên phong của quân Liêu".

Cao Thao Thao vỗ tay cười nói: "Bắn hay lắm!".

Đỗ Văn Hạo cũng cười nói: "Đúng thế! Quân Liêu đơn độc xâm nhập, liên tục công thành thất bại. Bây giờ tướng tiên phong lại bị bắn chết, lại thấy Hoàng Đế Đại Tống ngự giá thân chinh, sĩ khí quân ta đại chấn, trong lòng liền e sợ, đề nghị giản hoà. Trên đường ngự giá thân chinh, Chân Tông hoàng đế nhìn thấy dân chúng vùng biên cương hơn hai mươi năm chịu thảm hoạ chiến tranh, trong lòng vô cùng đau xót, nay thấy quân Liêu muốn giảng hoà. Lão nhân gia người là người nhìn xa trông rộng, lại thương xót sự khổ sở hai mươi năm qua của dân chúng biên cương hai nước nên cuối cùng quyết định tốn chút tiền mua sự bình yên. Hai bên ký hiệp định, kết làm hai nước anh em. Liêu Thánh Tông tôn Tống Chân Tông làm huynh. Tống Chân Tông lại xưng Tiêu Thái hậu là thúc mẫu ( thím ). Đại Tống ta hàng năm phải tiến cống cho Đại Liêu mười vạn lạng bạc trắng, hai mươi vạn súc lụa. Đôi bên cử sứ gia bang giao. Sử sách gọi là: Hiệp ước Thiền Uyên".

"Vậy trận này chúng ta thua hay thắng?"

"Phải nói là trận này hai bên đều thắng. Những trận chiến trước đó hai bên đều không có thiệt hại cụ thể. Cuối cùng hiệp ước Thiền Uyên cũng kết thúc giao tranh. Số tiền tiến cống hàng năm của hiệp ước Thiên Uyên không lớn lắm. Đối với Đại Tống chúng ta, số tiền ấy chỉ như chín trâu mất một sợi lông. Nhưng đối với Đại Liêu mà nói lại như một miếng bánh lớn, tất nhiên chúng vô cùng mững rỡ, không cần phải mạo hiểm xuôi nam đánh cướp, dùng số tiền đó có thể có cuộc sống tương đối sung túc. Vì vậy từ đó về sau quân Liêu không phái quân xuôi nam. Hai bên tiếp tục chung sống hoà bình với nhau, không có chinh chiến, cùng với thời gian cuộc sống của dân chúng cũng trở nên giàu có sung túc. Quả nhiên Chân Tông hoàng đế là người biết nhìn xa trông rộng, dùng tiền trinh đổi lấy sự bình yên mấy chục năm của biên giới. Số tiền đó cũng chỉ là tiết kiệm quân lương không đi viễn chinh. Điều chủ yếu nhất là chúng ta tránh được hàng vạn người phải tử chiến xa trường, dân chúng vùng biên cương rơi vào cảnh lầm than. Chân Tông hoàng đế là người có lòng thương tiếc dân chúng, tấm lòng bao la".

Đỗ Văn Hạo liên tiếp vỗ mông ngựa khiến cho Cao Thao Thao mặt mày hớn hở, nghe thấy câu cuối nàng không hiểu nên ngạc nhiên hỏi: "Điểu Sinh ngư thang?'

Câu này là câu cửa miệng của Vi Tiểu Bảo, Đỗ Văn Hạo thuận miệng nói ra, cũng có ý trêu chộc nhưng nghe Cao Thao Thao hỏi hắn vội vàng sửa lại: "Thật xin lỗi là Nghiêu Thuấn Vũ thang. Chắc ta nói nhanh quá nên không rõ ràng. Ha ha ha".

Cao Thao Thao mỉm cười nói: "Ngươi nha! Lại nói loạn rồi!".

"Ha ha. Lúc trước tâm tình nàng nặng nề mà sao thoáng chốc đã thay đổi?"

Nụ cười trên gương mặt Cao Thao Thao biến mất, nàng thở dài nói: "Đúng vậy. Ta nghe ngươi nói giữa Đại Tống và Liêu xảy ra nhiều cuộc chiến như vậy, quân ta chỉ có ba phần thắng, bảy phần thua trận. Cuối cùng chúng ta còn phải dùng tiên đổi lấy sự yên bình. Tại sao không phải là chúng dùng tiền mua sự bình an từ chúng ta? Nói cho cùng thì vẫn là không đánh lại chúng. Ai! Điều này khiến trong lòng ta rất buồn bực".

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: "Đó đã đáng gì. Chờ khi nàng nghe xong mấy cuộc đại chiến với Tây Hạ nàng sẽ thấy mấy cuộc chiến trước không đáng gì".

"Hả?" Đánh nhau với Tây Hạ chúng ta còn thua thảm hơn sao?"

"Đúng vậy. Khi chiến tranh với nước Liêu là lúc chúng ta vừa mới lập nước, binh hùng tướng mạnh, tuy có thất bại nhưng cũng không quá nặng nề. Khi xảy ra chiến tranh với Tây Hạ, chúng ta đã trải qua một thời thái bình quá dài. Mặc dù chúng ta có quân đội đông đảo hơn rất nhiều quân đội Tây Hạ. Nhưng kết quả chiến tranh thì chúng ta lại còn thất bại thảm hại hơn".

"Không thể nào" Cao Thao Thao cười buồn bực nói: "Trước kia ta toàn nghe những chiến thắng khải hoàn".

"Nghe những văn nhân đó tuyên truyền thì chiến tích của chúng ta rất hay. Nàng phải biết rằng Tây Hạ vốn là đất thuộc địa của chúng ta. Chúng ta dùng quốc lực một đất nước nhưng lại không thể nào khiến nó thuần phục ngược lại còn bị tổn thất nặng nnề. Chuyện đó phải nói thế nào đây? Dù sao cũng phải giữ thể diện cho Thiên triều chúng ta mà".

"Vậy làm thế nào ngươi biết được?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Nàng đừng quên, hơn tháng trước nàng bổ nhiệm ta làm tam nha Đô Chỉ Huy Sứ. Tam nha lại cai quản quân đội. Trong tam nha có rất nhiều tư liệu chiến tranh, rất phong phú. Ta đã không lãng phí thời gian những ngày đó.

Những khi rảnh ta đều nhốt mình trong các lý tư liệu của tam nha.Ta lấy những tư liệu nguyên gốc nên có thể hiểu được chân tướng sự việc. Trong khi đó nàng lại nghe người khác tuyên truyền nên chỉ có thể nghe những điều nói dối hào nhoáng".

Cao Thao Thao đứng dậy. Nàng chắp tay sau lưng đi ra ngoài cạnh đình, chẳng biết mưa ngoài trời đã ngớt từ lúc nào. Bầu trời mù mù đã quang dần, mây tan ra, thậm chí đã xuất hiện một vài ngôi sao nhỏ.

Cao Thao Thao quay lại, nàng nghiêm mặt nói với Đỗ Văn Hạo: "Văn Hạo, ngươi phải nói với ta chân tướng của sự việc. Ta muốn biết sự thật chứ không phải là lời nói dối, bất kể là có ý tốt hay không. Ta chỉ muốn biết sự thật. Muốn trị vì một quốc gia tốt, nhất định phải nắm được tình hình thực tế của đất nước".

"Được!" Đỗ Văn Hạo vội vàng đứng dậy, nhẹ nhàng ôm nàng nói: "Nàng cứ yên tâm. Ta nhất định sẽ giúp nàng trị vì quốc gia tốt, chỉnh đốn quân đội, thành lập một đội quân dũng mãnh bách chiến bách thắng".

"Ừ" Rốt cuộc trên gương mặt xinh đẹp của Cao Thao Thao cũng hiện ra nụ cười vui vẻ: "Có người ở cùng ta, trong lòng ta cũng thấy rất an tâm".

"Ha ha nhưng mà tiên đế đã từng nói chủ kiến của ta thường không thể tưởng tượng nổi, nói cách khác là kỳ quặc. Nhất định nàng sẽ không tiếp thu được".

"Ta biết. Tiên đế đã từng nói. Nhưng mà chỉ cần ngươi nói có đạo lý, dù có khác người cũng chẳng sao".

"Vậy là tốt rồi. Ta rất an tâm. Tiếp theo ta nói về chiến tranh Tống Hạ".

"Chờ một chút" Cao Thao Thao nói: "Thức ăn lạnh rồi, để ta bảo bọn họ hâm nóng thức ăn. Chúng ta vừa ăn vừa nói chuyện".

Đỗ Văn Hạo nói: "Được. Cứ để bọn họ hầu hạ ở bên cạnh cũng được. Dù sao bây giờ chúng ta cũng chỉ nói chuyện chiến tranh, không làm gì khác".

Gương mặt vốn hai tái vì men rượu của Cao Thao Thao ửng hồng. Nàng liếc nhìn hắn, sẵng giọng nói: "Chuyện khác? Ngươi còn muốn làm chuyện gì khác?"

"Nàng nói thử xem?" Đỗ Văn Hạo ôm nàng sát vào người, hôn lên đôi môi mọng đỏ, bàn tay hắn vuốt ve đôi gò bồng đảo cao ngất của nàng rồi miệng hắn khẽ mơn man vàng tai mềm mại của nàng. "Nàng biết ta muốn làm gì không?"

Cao Thao Thao thở gấp gáp, nàng nhẹ nhàng đấm hắn một cái: "Đừng lộn xộn. Hãy ngồi xuống nói chuyện chiến tranh một cách nghiêm chỉn. Chúng ta thất bại thê thảm như vậy, ngươi vẫn còn tâm tư làm cái đó ư?"

"Ha ha. Tất cả những thất bại đó đều là chuyện trước kia. Lần sau chúng ta hãy đánh thắng chúng một trận thật thống khoái làm cho chúng không dám giở giọng nữa, chẳng phải như vậy sẽ thu lại cả vốn lẫn lãi sao?"

'Vậy phải xem bản lĩnh Đại tướng quân của ta" Cao Thao Thao hôn Đỗ Văn Hạo, nàng đẩy hắn ngồi xuống rồi kêu Tiêu công công tiến vào, bảo thay thức ăn. Sau khi hai người ăn một chút, uống mấy chén rượu, Đỗ Văn Hạo lại mới nói tiếp.

Đỗ Văn Hạo nói: "Trong lúc Đại Tống và Đại Liêu đang giao tranh, bộ tộc Đảng Hạng Tây Hạ nhiều lần khởi binh làm phản lại Đại Tống. Bởi vì khi đó Đại Tống chúng ta phải dốc toàn lực đối phó với Đại Liêu, không rảnh tay quan tâm tới bộ tộc Đảng Hạng, dùng phương sách dùng người Di, chế ngự người Di ( di; rợ - người Trung Quốc thời xưa gọi các dân tộc ở phía Đông), dùng đồng minh là người Thổ Phiên đối phó với người Đảng Hạng, chỉ thỉnh thoảng mới xuất binh chinh phạt. Thời kỳ này thực lực quân đội Tây Hạ không mạnh, Đại Tống cũng không xuất binh nhiều. đại khái hai bên đánh cũng chỉ ngang nhau. Nhưng bốn mươi năm trước Tây Hạ nguyên Hạo phản lại Đại Tống, tự xưng làm Đế, thành lập nước Tây Hạ, trước sau cùng Đại Tống chúng ta đánh năm chiến dịch lớn".

"Không cần phải nói cũng biết lại là chúng ta thất bại thảm hại" Cao Thao Thao cười gượng nói.

Đỗ Văn Hạo cười cười nói: "Trận chiến đầu tiên gọi là cuộc chiến Tam Xuyên Khẩu. Quân Tây Hạ phát động tấn công trước, bao vây Diên Châu. Tướng trấn thủ biên cương của Đại Tống phán đoán tình thế sai, cho rằng quân Tây Hạ chỉ tập kích quấy rối quy mô nhỏ, liền tập hợp một vạn binh sĩ tới cứu viện. Ai ngờ khi đó Nguyên Hạo đã chuẩn bị binh lực lên tới mười vạn quân. Hắn đã chọn kế sách bao vây, diệt viện, bao vây một vạn quân tiếp viện của Đại Tống trùng trùng điệp điệp. Quân Tống quyết chiến đột phá vòng vây cũng không thoát được. Ngoại trừ một số ít phá được vòng vây, một vạn quân Tống gần như bị tiêu diệt. Nhưng quân Tây Hạ đánh mãi cũng không thể hạ được thành liền thu quân quay về".

Cao Thao Thao thở dài nói: "Không biết rõ tình hình địch, tuỳ tiện tiến quân, không thất bại mới là lạ".

Bởi vì Đỗ Văn Hạo thấy nhiều cung nữ, thái giám hầu hạ xung quanh nên hắn không dám gọi thẳng tên của Thái Hoàng Thái Hậu, hắn vỗ đùi khen: "Thái Hoàng Thái Hậu nói rất đúng. Thật ra trước khi xông vào vòng vây đối phương, quân ta đã phát hiện đại quân Tây Hạ rất đông, cũng không phải là tập kích, quấy rối nhỏ nhưng lại không cảnh giác.

Trong khi đó chỉ huy tác chiến lại là văn nhân, hoàn toàn không có hiểu biết gì về quân sự, cái gì gọi là cầm quân tác chiến. Thường nhân trở thành chỉ huy, không thua mới là lạ".

Cao Thao Thao nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Quan văn lãnh binh chính là di chiếu của Thái Tổ".

Đỗ Văn Hạo đang định nói chính vì di chiếu đó khiến thất bại nhưng hắn liếc mắt nhìn thấy cung nữ và thái giám đang đứng bên cạnh nên sửa thành: "Dạ, vi thần nói tiếp. Trận chiến sau đó là trận chiến Thuỷ Xuyên, quân Tống chúng ta còn thất bại thảm hại hơn nhiều. Năm thứ hai sau cuộc chiến ở Tam Xuyên Khẩu, một lần nữa mười vạn đại quân Tây Hạ lại xâm nhập phía nam nhưng quân Tây Hạ lại dùng quân chủ lực mai phục ở Thuỷ Xuyên, dùng một lượng nhỏ binh lực dụ địch đánh nghi binh. Hơn một vạn đại quân ta nghênh chiến, quân địch giả vờ thất bại, quân ta trúng kế, truy kích đường xa, rơi vào trận địa phục kích của quân địch. Hơn một vạn tướng sĩ chỉ có vẻn vẹn hơn một ngàn người huyết chiến phá được vòng vây, còn lại đều chết trận".

"Ai! Lại là toàn quân bị tiêu diệt" Cao Thao Thao thở dài một tiếng nói: "Chúng ta không thể làm quân Tây Hạ toàn quân bị tiêu diệt sao?"

"Thái Hoàng Thái Hậu, quân đội hai bên giao chiến cũng giống như hai người đánh nhau. Khí lực mạnh, võ công giỏi nhất định có thể đánh thắng khí lực yếu, võ công kém".

Tiêu công công cảm thấy mấy lời này của Đỗ Văn Hạo không lọt tai, sợ Thái Hoàng Thái Hậu mất hứng liền gượng cười nói xen vào: "Đại tướng quân nói sai rồi Đại Tống chúng ta là thượng quốc, trên trăm vạn hùng binh, sao lại nói là khí lực yếu, võ công kém? Tây Hạ chỉ là một nước man di, có một, hai chục vạn quân ô hợp sao lại có thể nói là khí lực mạnh, võ công giỏi được?"

Không đợi Đỗ Văn Hạo lên tiếng, Cao Thao Tháo đã nói trước: "Tiểu Tiêu tử, ngươi không hiểu. Quân đội Đại Tống nhiều hơn thì làm gì? Điều này cũng giống như một con bò lớn và một con sói đói. Con bò béo có vóc dáng to lớn hơn một con sói đói, khí lực cũng mạnh hơn, sao có thể alf đối thủ của con sói đói? Đại Tống là một thượng quốc nhưng lại thiếu một đội quân thiện chiến, dũng mãnh, cũng giống như con bò không có răng nanh, bị con sói ăn sạch sành sanh".

Tiêu công công cười hì hì nói: "Đúng vậy. Thái Hoàng Thái Hậu nói đúng. Đại tướng quân đúng là người lão luyện trong phương diện này, phân tích vô cùng chính xác, suy nghĩ rất sâu xa làm người khác bừng tỉnh. Ha ha ha".

"Ai! Ngươi nói không sai, lời nói của Đỗ tướng quân khiến Ai gia bừng tỉnh. Đỗ tướng quân, ngươi nói tiếp đi".

Đỗ Văn Hạo mừng thầm khi nghe Cao Thao Thao nói những lời đó, hắn đã không uổng phí một phen uốn lưỡi, hắn liền nói tiếp: "Được. Trận chiến sau đó được gọi là cuộc chiến Định Xuyên. Quân Tây Hạ chia làm hai đường tấn công. Quân ta cũng chia binh đón đánh. Một lộ quân quyết chiến ở trại Định Xuyên, thất bại tan tác liền giẫm đạp lên nhau chạy vào thành. Chủ tướng còn suýt chút nữa bị loạn quân giết chết. Quân Tây Hạ cắt đứt đường tiếp viện, không còn hy vọng thủ thành, chủ tướng đành phải hạ lệnh phá vây, kết quả tríng mai phục, gần một vạn tướng sĩ toàn quân bị ntiêu diệt".

"Ai! Lại là toàn quân bị tiêu diệt. Nào, uống rượu!".

Đỗ Văn Hạo vội vàng nói: "Thái Hoàng Thái Hậu, chúng ta cũng thắng được một trận đánh nho nhỏ. Lộ đại quân kia của quân Tây Hạ đã bị quân ta kiên cường chặn lại, tổn thất không tiến được nên Tây Hạ quyết định bãi binh".

Cao Thao Thao cười nói: "Ờ, chúng ta cũng có lúc đánh thắng sao?"

'Đúng vậy. Ha ha ha vì vậy sau ba cuộc chiến Tâ Hạ liền kế kết hiệp ước với Đại Tống chúng ta, xưng thần với chúng ta. Nói là xưng thần nhưng kỳ thật Tây Hạ hoàn toàn độc lập. Hàng năm chúng ta còn phải cung cấp cho Tây Hạ mười ba vạn súc lụa, năm vạn lượng bạc trắng, ba ngàn cân trà".

"Nỗi nhục mất nước! Vô cùng nhục nhã" Cao Thao Thao tức giận nói. Sắc mặt nàng tai nhợt vì tức, hai hàm răng nghiến chặt. Hai bàn tay trắng như tuyết nắm chặt.

Đỗ Văn Hạo thở dài nói: "Ai! Đây cũng là vì không còn cách nào khác, cũng là dùng tiền mua hoà bình. Cũng may chúng ta cũng nhiều tiền nên cũng không quá quan tâm".

"Tiền, tiền nhiều tiền hơn nữa cũng không thể dùng tiền mua hoà bình. Đây là dùng tiền mua sự sỉ nhục".

Đỗ Văn Hạo thấy Cao Thao Thao tức giận như vậy, trong lòng hắn lại càng cao hứng. Hắn cố làm ra vẻ ủ rũ, liên tục gật đầu rồi nói tiếp: "Đúng vậy, chúng ta đánh không lại người ta. Có thể không tốn tiền sao? Đúng như Thái Hoàng Thái Hậu đã nói, một con bò béo không có rănh nanh chỉ có thể chịu bị lang sói cấu xé".

Cao Thao Thao sững sờ, tròn mắt nhìn Đỗ Văn Hạo một lát rồi nàng chậm rãi nói: "Lời của ngươi có ý gì?"

Đỗ Văn Hạo nhìn lướt qua mấy người Tiêu công công bên cạnh rồi hắn thở dài một tiếng nói: "Trận chiến đánh thành đã vậy. Cho dù muốn nói gì cũng không có gì mà nói".

Cao Thao Thao gật đầu. Nàng cầm chén rượu uống một hơi cạn rồi chậm rãi nói: "Ngươi cứ nói tiếp đi. Hãy cứ nói những điều trọng yếu thôi".

"Dạ! Sau khi hai bên ký hoà ước hoà bình. Biên giới hai bên yên tĩnh trong vòng ba mươi năm sau đó lại xảy ra chiến tranh".

Cao Thao Thao nói: "Hai cuộc chiến sau này chính là cuộc chiến Linh Châu và cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc không?"

"Đúng vậy".

"Vậy không cần phải nói. Hai cuộc chiến này Ai gia đã nghe tiên đế nhắc tới nhiều lần. Ta hiểu hai cuộc chiến này chúng ta đều thất bại nhưng không nắm rõ về tổn thất. Ngươi hãy nói vắn tắt một chút".

"Được. Trận đánh ở Linh Châu, quân ta xuất ba mươi vạn quân, chuẩn bị một ntrận tiêu diệt Tây Hạ, một đường thẳng tiến, tiêu diệt hơn một quân Tây Hạ. Quân Tây Hạ thất bại, liên tiếp tháo lui. Quân ta liều lĩnh tấn công thần tốc, đánh thẳng vào nội địa Tây Hạ mấy trăm dặm. Tất cả các lộ quân Tây Hạ bắt đầu vây kín chúng ta. Quân ta bị bốn mặt giáp công, thất bại tháo lui, hao binh tổn tướng tới mấy vạn người".

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 405: Binh cường không biến pháp (1+2)

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Cao Thao Thao thở dài nói: "Đơn độc xâm nhập. Đơn độc xâm nhập".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Lãnh binh của chúng ta đều là quan văn, chưa từng học qua binh pháp, cũng chưa từng lãnh binh đánh giặc. Phạm sai lầm là lẽ đương nhiên".

Cao Thao Thao sửng sốt hồi lâu rồi mới chậm rãi nói: "Ngươi nói tiếp đi".

"Được. Năm sau hai nước Tống Hạ diễn ra chiến dịch thành Vĩnh Nhạc".

"Không cần phải nói trận chiến này, Ai gia đã biết rất rõ ràng. Cũng giống như chiến dịch trước. Quân ta xuất hai mươi vạn đại quân, sử dụng vũ khí làm mỏi mệt cùng mặt nạ phòng độc của ngươi cung cấp, công thành chiếm đất, lại là một đường thẳng tiến, giết vô số quân địch, một mực đuổi tới dưới chân thành kinh đô Tây Hạ nhưng Tây Hạ thu được trang bị phòng độc của ngươi, tiến hành nghiên cứu, phỏng chế ra rất nhiều làm cho vũ khí dịch bệnh của quân ta mất hiệu quả. Quân Tây Hạ vây kín, quân ta thua chạy vào thành Vĩnh Nhạc. Đại quân Tây Hạ mạnh mẽ tấn công phá thành, hai mươi vạn đại quân gần như bị tiêu diệt vì vậy tiên đế khóc lóc ba ngày liền ở Thái miếu, không ăn không uống, cả ngày dùng nước mắt rửa mặt".

Nói xong những lời cuối cùng đó, Cao Thao Thao lại nhớ tới dáng vẻ con trai mình là Tống Thần Tông lúc đó, trong lòng lại cực kỳ bi thương, nức nở nghẹn ngào, khóc oà.

Đỗ Văn Hạo cúi người chắp tay nói: "Thái Hoàng Thái Hậu hãy bớt bi thương".

Cao Thao Thao gạt lệ, phất tay cho mấy người Tiêu công công lui ra. Nàng đứng dậy đi tới mé ngoài đình hóng mát, nhìn những ánh sao lờ mờ trên bầu trời một lúc lâu rồi mới yếu ớt hỏi: "Văn Hạo, ngươi nói cho ta biết những chuyện chiến bại xưa kia của Đại Tống là có mục đích gì?"

"Thao Thao, nàng rất thông minh" Đỗ Văn Hạo cười hì hì. Hắn đứng dậy đi tới ôm Cao Thao Thao từ sau lưng. "Thao Thao, nàng đã bổ nhiệm ta làm tam nha Đô Kiểm Điểm, cũng không quản ngại cho phép ta tham gia Tể chấp. Cả ngày hôm nay ta chỉ nghĩ tới chuyện làm thế nào chấn hưng sự oai hùng của Đại Tống? Ta nói với nàng những chuyện cũ đau buồn chính là muốn để cho nàng có một sự hiểu biết thực sự khách quan với quân đội Đại Tống. Thao Thao, giờ đây quân đội Đại Tống thực sự giống như lão hổ bị bẻ gãy hết hàm răng cùng móng vuốt, chỉ e ngay cả hồ ly cũng không đánh lại. Nếu không nghĩ ra cách nào, sớm muộn Đại Tống chúng ta cũng lâm nguy".

Những lời đó của Đỗ Văn Hạo hoàn toàn không chút khoa trương. Trong lịch sử, chỉ bốn mươi năm sau Bắc Tống quả thật đã bị nước Đại Kim tiêu diệt. Đỗ Văn Hạo đã tới nơi này, hắn muốn thay đổi lịch sử.

Cao Thao Thao móc đôi bàn tay mềm mại vào tay Đỗ Văn Hạo, nàng ngả đầu vào vai hắn, thân hình nhỏ nhắn xinh xắn dựa hẳn vào lòng Đỗ Văn Hạo. Đôi mắt phượng không ngừng ngơ ngẩn nhìn sao trên bầu trời: "Không phải tiên đế không có giấc mộng binh cường. Mục đích chính của việc sử dụng biến pháp của Vương An Thạch chính là muốn nước mạnh, binh cường. Lúc ban đầu bản thân ta cũng hông phản đối biến pháp. Nhưng sau khi thực hiện biến pháp không những không có nước mạnh binh cường, ngược lại còn làm cho thần dân công phẫn, dân chúng lầm than. Ai! Phải làm thế nào thì mới có nước mạnh binh cường đây?"

Đỗ Văn Hạo xiết chặt vòng eo nhỏ của nàng nói: "Chỉ cần cố gắng tìm đúng con đường đi, nhất định sẽ làm cho nước mạnh binh cường".

Cao Thao Thao chậm rãi quay người, nàng ôm cổ Đỗ Văn Hạo, đôi mắt đẹp chăm chú nhìn hắn: "Ngươi đã nghĩ ra cách làm cho nước mạnh binh cường sao?'

Đỗ Văn Hạo nói: "Ngay khi tiên đế bổ nhiệm ta làm Lộ câu quản phủ Thành Đô, ta đã suy nghĩ tới vấn đề làm thế nào để cho nước mạnh binh cường.

Khi ở phủ Thành Đô ta cũng đã áp dụng một số biện pháp thực tế. Nhưng vấn đề là ta chưa biết hiệu quả thực sự thế nào đã bị điều đi. Nếu muốn biết hiệu quả thế nào, có thể hỏi Tô Thức ( còn gọi là Tô Đông Pha ). Nhất định hắn vẫn tiếp tục áp dụng biến pháp của ta ở Tĩnh Châu".

Cao Thao Thao lắc đầu nói: "Ta không cần bíên pháp của ngươi, không muốn dùng biến pháp của ngươi di hoạ cho dân chúng. Ta chỉ muốn ngươi giúp binh cường, giúp ta thành lập một đội quân kiêu dũng thiện chiến, bách chiến bách thắng, dẹp yên Tây Hạ và Đại Liêu, báo thù rửa hận".

Cao Thao Thao vốn tính tình nhu nhược nhưng một khi đã bị rơi vào thế bắt buộc phải buông rèm chấp chính, không thể không suy nghĩ vì đất nước. Vừa rồi nàng lại nghe Đỗ Văn Hạo kể lại chuyện chiến tranh thời trước của Đại Tống với Tây Hạ và Đại Liêu thắng ít bại nhiều, tâm tình cực kỳ buồn bực, sinh lòng oán hận với Tây Hạ và Đại Liêu, cuối cùng đã thốt lên câu nói cực kỳ khí phách nói trên.

Đỗ Văn Hạo hiểu rõ Cao Thao Thao là nhân vật lãnh tụ của phái bảo thủ, kiên quyết phản đối biến pháp của Vương An Thạch, kiên trì phương pháp thống trị của tổ tông vì vậy khi nàng nghe tới biến pháp, lập tức phản đối như một phản xạ có điều kiện. Đỗ Văn Hạo cũng hiểu chuyện này không gấp được nên vội ôm nàng nói: "Được, chỉ là binh cường, không biến pháp, không gây tai hoạ cho dân chúng. Không… hãy cho ta một chút thời gian để suy nghĩ xem làm thế nào để binh cường".

"Ừ. Ta cho ngươi ba ngày, không năm ngày suy nghĩ. Có đủ không?"

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Nếu như bế môn suy nghĩ thì chỉ một ngày là đủ, không cần phải năm ngày".

"Thôi được, một ngày bế môn suy nghĩ sao? Bế môn suy nghĩ có thể làm cho binh cường sao? Ta muốn ngươi có thể tìm ra biện pháp thật sự có thể làm cho binh cường".

"Vậy thì năm ngày sẽ không đủ".

"Ồ? Vậy thì mấy ngày?"

Đỗ Văn Hạo cầm tay nàng chậm rãi nói: "Thao Thao. Nói thật ta vẫn có một vấn đề tồn tại trong quân đội Đại Tống chúng ta cần phải làm rõ. Nàng đã trao cho ta quyền thành lập một đội quân hùng mạnh, ta không thể giải tán toàn bộ quân đội hiện nay thành lập đội quân mới. Ta chỉ có thể tiến hành cải cách quân đội hiện tại. Không phải trong triều đình đã từng ồn ào nói đến ba nhũng sao ( vào thời Bắc Tống có ba nhũng là : quan lại, Sương quân và tăng đạo ). Một trong tam nhũng đó chính là nhũng binh. Quân đội nhũng nhiễu như thế nào, nhũng nhiễu tới mức độ nào. Tại sao sức chiến đâu lại giảm sút. Tại sao đánh trận là bại? Những điều này không phải vô cớ mà nghĩ ra được. Nhất định phải tiến hành điều tra, khảo sát trong quân đội một cách nghiêm chỉnh, tìm ra vấn đề mấu chốt. Muốn hoàn thành công việc này chỉ e ba năm cũng không thể làm xong được. Ta cũng thực sự không biết chính xác cần bao nhiêu thời gian. Thế nhưng ta tin tưởng rằng cũng không cần nhiều quá nhiều thời gian bởi vì nhiều vấn đề rất rõ ràng. Ta nghĩ rằng một khi đã tìm đúng vấn đề, nghĩ ra phương pháp giải quyết ta sẽ bẩm báo với nàng, được không?'

"Nhưng mỗi khi nghĩ tới Đại Tống chúng ta đã nhiều lần thua Đại Liêu và Tây Hạ, hàng năm chúng ta còn phải tiến cống tiền, vật phẩm cho chúng, trong lòng ta không yên, ta chỉ muốn sớm báo thù rửa hận".

"Ta hiểu tâm tình của nàng. Ta thân làm quan chỉ huy cao nhất của tam nha, sao có thể không nghĩ tới thù hận này? Ta chỉ muốn ngay lập tức xây dưng một đội quân mãnh hổ, bách chiến bách thắng, đánh xuyên Tây Hạ, Đại Liêu, thậm chí là cả thế gian này. Nhưng mà nóng vội ăn không hết đậu hũ nóng ( nói một cách ví von là: nóng vội được không bằng mất - hay là dục tốc bất đạt). Những vấn đề của quân đội Đại Tống đã chồng chất hơn một trăm năm. Rất nhiều vấn đề rắc rối rất khó gỡ, thậm chí là thâm căn cố đế. Nếu muốn thay đổi, không phải chỉ cần một đạo thánh chỉ là có thể thay đổi được. Nếu công việc đơn giản như vậy, tiên đế đã sớm hoàn thành công việc này. Chúng ta cũng đã không bị Tây Hạ đánh bại thê thảm như vậy. Thao Thao, nàng phải cho ta đủ thời gian mới có thể hoàn thành công việc này, thực hiện mục đích binh cường".

Hai mắt Cao Thao Thao đẫm lệ, nàng ngẩng đầu nhìn hắn buồn bã nói: "Khi nào mới có thể thực hiện được mục đích này?"

"Thao Thao, nàng phải chuẩn bị tâm lý, có thể là rất lâu. Vấn đề tối kỵ là cải cách quân đội chỉ vì mối lợi trước mắt".

"Nhưng dù sao ngươi có phải đại khái có một hạn định thời gian".

"Căn bệnh tồn tại trên một trăm năm muốn thay đổi cho dù không cần hơn một trăm năm cũng cần mấy chục năm. Thời gian cụ thể bao lâu quyết định là ở hai yếu tố".

Cao Thao Thao vội vàng hỏi: "Hai yếu tố nào?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Một yếu tố là biện pháp của mình có mạnh mẽ hay không, biện pháp cải cách có thông suốt hay không, có kiên quyết triệt để hay không. Yếu tố thứ nhất quyết định bởi ta. Yếu tố thứ hai chính do nàng quyết định".

Cao Thao Thao cười nói: "Ngươi cứ yên tâm. Chỉ cần ngươi chú tâm điều tra, xác định được biện pháp là binh cường, ta sẽ hoàn toàn ủng hộ ngươi. Chỉ cần có thể để quân Đại Tống chúng ta đánh bại quân Tây Hạ và Đại Liệu, ta sẽ đồng ý bất kỳ yêu cầu nào, biện pháp nào ta cũng ủng hộ".

"Được" Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: "Như vậy chúng ta coi như đã định".

Đỗ Văn Hạo ôm Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao. Hai người ôm nhau đứng yên một chỗ.

Rất lâu sau hai người mới buông nhau ra. Cao Thao Thao nói: "Văn Hạo. Hôm nay Hú nhi đăng cơ thuận lợi. Chuyện này có thể giải quyết thuận lợi như vậy, hai bên có thể tránh khỏi dùng binh đao với nhau, công đầu là của ngươi. Hơn nữa ngươi còn điều tra ra chân tướng tiên đế bị mưu hại, ta rất cảm kích vì vậy ta muốn thưởng công cho ngươi".

Đỗ Văn Hạo vuốt ve đôi gò bồng đảo của nàng, hôn lên đôi môi mọng đỏ của nàng, cười hì hì nói: "Nàng chính là phần thưởng của ta. Đây chính là phần thưởng cao nhất của phần thưởng".

Cao Thao Thao hờn dỗi đánh Đỗ Văn Hạo: "Hai chúng ta đều là có tình cảm với nhau. Sao có thể xem như là phần thưởng đây?'

"Ha ha ha. Thôi được rồi. Phần thưởng của ta là gì?"

"Ừ. Bây giờ ngươi đã là quan nhị phẩm Đô Kiểm Điểm, vẫn còn làm việc ở Ngũ Vị đường thì không ra thể thống gì. Không phải Tiền Bất Thu là đồ đệ của ngươi sao? Ta nghe nói y thuật của hắn cũng rất khá. Hãy để Ngũ Vị đường cho hắn trông nom. Sau này ta còn rất nhiều chuyện cần ngươi trợ giúp. Chỉ e người sẽ không còn nhiều thời gian đi xem bệnh cho người khác".

Đỗ Văn Hạo nhéo nhéo khuôn mặt trơn mềm của nàng, cười trêu chọc: "Ta là đại phu. Không để ta đi xem bệnh cho người ta. Nàng muốn đập bể chén cơm của ta sao?"

"Đúng. Ta muốn đập bể chén cơm đại phu của ngươi nhưng ta sẽ cho ngươi một chén vàng khác. Ngươi đang ở Ngũ Vị đường làm đại phu, chỉ có thể cứu chữa được một số ít người bệnh. Bây giờ ngươi giúp ta trị vì quốc gia, có thể cứu vớt được trăm ngàn vạn người trong thiên hạ. Trước kia ngươi là y nhân. Bây giờ ta muốn ngươi là y quân, chữa khỏi căn bệnh của quân đội Đại Tống chúng ta".

Đỗ Văn Hạo trịnh trọng gật đầu nói: "Thao Thao, nàng yên tâm. Ta là đại phu chữa bệnh cho người đời, là một đại phu tốt. Chữa trị bệnh nhũng cho quân đội, ta cũng nhất định là một đại phu tốt, một đại phu ưu tú làm nàng thoả mãn".

Cao Thao Thao ôm Đỗ Văn Hạo, hôn hắn nói: "Tất cả ta đều nhờ vào ngươi".

"Dựa vào sự cố gắng của hai chúng ta".

"Ừ!" Cao Thao Thao trịnh trọng gật đầu: "Sau này ngươi không cần ở Ngũ Vị đường nữa. Nơi ấy giao cho mấy người Tiền Bất Thu. Ta sẽ cho ngươi một toà phủ lớn, được không?"

"Được. Phủ đệ nàng cho ta nhất định là không chê được" Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: "Nàng chuẩn bị cho ta ở đâu?"

"Ở đằng sau Hoàng cung, cùng với hai toà Thiên Ba phủ của Dương gia và phủ đệ của Tể tướng Vương Giai. Bên trái là Thiên Ba phủ, bên phải là phủ Tể tướng. Nơi đó rất rộng lớn, lớn hơn rất nhiều lần so với Thiên Ba phủ của Dương gia và phủ đệ của Vương Tể tướng. Tu sửa đã hai năm, cũng sắp hoàn thành".

"Hả? Tu sửa hai năm? Nhất định lúc trước tu sửa không phải cho ta. Là của ai vậy?"

"Trước kia chuẩn bị cho Nhan nhi. Nó nói Ung Vương phủ của nó quá nhỏ, cả ngày hắn ầm ĩ nói muốn ta cho hắn một toà phủ đệ khác ở sau Hoàng cung. Ta đồng ý. Hiện tại nó đã nổi điên, hơn nữa cả đời này phải thủ hộ lăng của Hoàng huynh, không dùng toà phủ đệ này nữa. Ta thưởng cho ngươi".

Đỗ Văn Hạo ngượng ngùng nói: "Đây là phủ của vương gia. Ta chiếm dụng không tốt lắm".

"Hiện tại vẫn chưa tu sửa xong, lại chưa có treo biển. Ai dám nói đây là phủ Vương gia. Chỉ cần treo biển Đại tướng quân thì không phải là phủ Đại tướng quân sao? Nếu như ngươi. Nếu như người ta nghĩ đó là phủ Vương gia vậy ngươi cứ lo liệu đi, giúp đỡ ta, ngày nào đó ta sẽ phong ngươi làm Vương gia, chẳng phải xứng đôi sao?"

"Hãy từ từ. Ta vẫn còn rất trẻ. Từ quan Đề Hình tứ phẩm thăng thẳng lên tam nha Đô Kiểm Điểm chính nhị phẩm, còn tham gia Tể chấp. Ta vẫn còn chưa có đại công nào. Điều này đã làm rất nhièu người thì thầm vụng trộm sau lưng. Bây giờ nàng nhắc ta làm vương gia, văn võ bá quan trong triều đều không ưa, ta cũng không dám tiếp nhận. Chờ tới khi ta chính thức hoàn thành mấy đại sự. Ít nhất có thể cải cách quân đội thành công, đánh thắng mấy trận chiến lớn, có chiến công. Khi đó cất nhắc có lẽ sẽ tốt hơn một chút".

"Vậy cũng đúng. Nhưng ta tặng ngươi phủ đệ đó ngươi có muốn không?'

"Muốn! Có gì mà không muốn" Đỗ Văn Hạo ôm sat Cao Thao Thao vào lòng hôn lên đôi môi thơm của nàng, ôn nhu nói: "Nàng tặng đồ đạc cho ta, đừng nói là một toà phủ Đại tướng quân tốt như vậy mà ngay cả một cây châm, một khi là thành tâm của nàng ta cũng cất kỹ".

Cao Thao Thao ngượng ngùng nói: "Vậy là được rồi. Ngày mai ta sẽ hạ chỉ ban toà phủ đẹ đó cho người là phủ Đại tướng quân, cũng yêu cầu đẩy nhanh tiến độ, tranh thủ hoàn thành sớm để ngươi có thể chuyển vào. Ngươi cũng nên bớt chút thưòi gian đi xem một chút. Hãy dựa vào yêu cầu mà có điều chỉnh, nhân lúc có thợ cũng nên sửa sang cẩn thận'.

"Được. Cám ơn Thao Thao của ta đã tặng ta một toà phủ đệ lớn".

Cao Thao Thao cười hì hì nói: "Thật ra ta cũng có tư tâm. Toà phủ đệ kia ở ngay sau Ngự hoa viên của Hoàng cung. Khoảng cách rất gần. Sau này ta gọi ngươi, đi vào lối cửa sau rất thuận tiện. Ngươi ở gần như vậy thì cũng giống như đang ở bên cạnh ta, trong lòng ta càng yên tâm hơn".

Trong lòng Đỗ Văn Hạo vô cùng ấm áp khi nghe nàng nói giọng si tình như vậy, hắn nhẹ nhàng nói: "Đúng vậy. Nàng nghĩ thật chu đáo. Sau này mỗi khi ta nghĩ đến nàng, ta vào Hoàng cung với nàng cũng rất thuận tiện".

Cao Thao Thao lại ôm cổ Đỗ Văn Hạo thân mật một hồi lâu rồi mới ôn nhu nói: "Thôi được. Ngày hôm nay cũng rất mệt mỏi rồi. Ngươi hãy về sớm một chút nghỉ ngơ. Bắt đầu từ ngày mai ngươi sốc sức giúp ta làm chuyện đó. Nhất định phải làm tốt. Trước khi ngươi đề xuất biện pháp cải tạo quân đội, ngươi không cần phải tới lâm triều. Hãy tập trung tinh lực làm việc này".

"Được" Đỗ Văn Hạo suy nghĩ rồi nói: "Có một vài chuyện vẫn cần phải có ý chỉ của nàng".

'Nói đi" Cao Thao Thao nhìn Đỗ Văn Hạo vẻ nồng nàn: "Chuyện gì ta cũng đồng ý với ngươi".

"Đừng gấp gáp. Ta vẫn chưa nói. Nếu như ta đòi đi giết người phóng hoả nàng cũng đồng ý sao?"

"Đồng ý! Hì hì. Ngươi là người có tấm lòng nhân hậu, sẽ không bao giờ làm những chuyện thương thiên hại lý. Điều này ta rất yên tâm. Nếu ngươi đòi đi giết người phóng hoả, nhất định ngươi có lý do của mình vì vậy ta cũng đồng ý".

Đỗ Văn Hạo thực sự cảm động: "Thao Thao, cám ơn nàng tin tưởng ta như vậy. Ta sẽ không phụ lòng tín nhiệm của nàng".

"Ừ. Chuyện gì? Nói đi".

"Tỷ lệ chết của trẻ mới sinh của Đại Tống chúng ta cực kỳ cao. Lần này ta đi tuần y phát hiện phương pháp đỡ đẻ của các bà đỡ của các địa phương rất lạc hậu. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu là hài nhi chết sau khi sinh. Mặc khác còn nhiều chứng bệnh đau bụng cấp. Các loại bệnh tật của người bệnh thường gây ra đau bụng. Bây giờ các đại phu chỉ dùng thuốc chén để điều trị trong khi đó rất nhiều trường hợp đau bụng cấp cần phải mổ. Ngoại trừ ta ra không còn ai có thể thực hiện loại giải phẫu này".

"Ta hiểu. Ngươi cứ nói thẳng suy nghĩ của ngươi".

"Ta muốn đồng thời kiêm nhiệm Đề Cử Thái y cục ( cục trưởng ), tiến hành cải cách giảng dạy của cục Thái y. Các giao sinh của Thái y cục tiếp nhân một số tri thức ngoại khoa cơ bản cùng với phương pháp đỡ đẻ mới và một số loại giải phẫu ngoại khoa đơn giản. Sau này bọn họ tới dạy học ở các cục y học ở các nha môn thì có thể phổ cập phương pháp đỡ đẻ mới cùng với các kiến thức cơ bản của giải phẫu ngoại khoa. Như vậy có thể làm giảm rất lớn tỷ lệ hài nhi chết khi sinh ra cùng tỷ lệ chết của người trưởng thành do đó nâng cao được tuổi thọ của người dân Đại Tống chúng ta. Hai điều này một giảm, một tăng làm tốc độ tăng trưởng của dân cư Đại Tống nhanh hơn, không chỉ có thể cung cấp một lượng lớn sức lao động mà còn bổ sung một nguồn binh lính dồi dào. Đây chính là một biện pháp hữu hiệu của binh cường. Ta đi tuần y được một năm đã điều tra đầy đủ. Người học hai hạng mục kỹ thuật này ở các nơi đã trở thành một xu thế, người người nối tiếp nhau không dứt. Kết quả đã chứng minh: phương pháp đỡ đẻ mới cùng kiến thức ngoại khoa cơ bản của ta đã giúp làm giảm tỷ lệ hài nhi mới sinh chết cùng với tránh gây ra tử vong đối với những trường hợp ngoại thương. Rõ ràng rất có hiệu quả. Điều này không cần phải nghiên cứu, có thể áp dụng được".

"Thật tốt quá. Ta hoàn toàn đồng ý. Đây là biện pháp tốt làm nước mạnh binh cường" Cao Thao Thao hưng phấn nói. "Ta hoàn toàn tin tưởng lời ngươi nói. Ta cũng nghe nói ngươi tổ chức các lớp bồi dưỡng đỡ đẻ ở kinh thành phủ Khai Phong này rất được hoan nghênh. Các bà đỡ trải qua việc bồi dưỡng của Ngũ Vị đường các ngươi được các bà đỡ trong toàn thành tranh nhau mời, giá tiền tăng lên gấp bội. Phẫu thuật chữa thương chính là tuyệt kỹ của ngươi, ngươi muốn hiến dâng ra để cứu tính mạng dân chúng. Ta thay mặt dân chúng cám ơn ngươi".

"Ha ha ha, không cần cám ơn. Tuy ta chuẩn bị dạy kỹ thuật phẫu thuật chữa thương ở Thái y cục nhưng đó vẫn chỉ là những điều cơ bản. Những phương pháp cao thâm của kỹ thuật này không phải cứ dạy là học được. Sẽ phải học từ từ, trước tiên học cơ bản, từ trong đó lựa chọn ra những y giả trẻ tuổi xuất sắc, y đức cao thượng, học giỏi ta sẽ tự tay thu nhận bọn họ làm đồ đệ, truyền thụ thần kỹ cho bọn họ".

"Tốt. Cứ tiến hành từng bước một có chất lượng mới có thể vững chắc. Rất tốt, ngày mai ta sẽ hạ thánh chỉ phong ngươi làm Đề Cử Thái y cục".

"Cám ơn Thao Thao" Đỗ Văn Hạo hôn nàng nói: "Nhưng mà Thái y cục chỉ truyền dạy những kiến thức liên quan, còn những dược phẩm, thiết bị có liên quan phải mua ở Ngũ Vị đường của ta. Đây không thể là cống hiến miễn phí. Hì hì hì".

"Đó là đương nhiên. Hẳn cũng không nên để ngươi vất vả kiếm tiền".

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: "Không phải ta vì tiền. Lương tháng của quan nhị phẩm Đô Kiểm Điểm cũng đủ cho người nhà ta. Ta chỉ muốn lập nên ý thức về nhãn hiệu, tương lai sẽ thành lập chế định bảo vệ bản quyền tri thức".

"Nhãn hiệu? Bản quyền tri thức?" Đương nhiên Cao Thao Thao chưa từng nghe qua những thuật ngữ hiện đại nanỳ nên nàng nghi ngờ hỏi.

"Giống như là phát kiến ra một cái gì đó tốt. Tất cả mọi người đổ xô tới mua. Thứ tốt đó chỉ do nàng làm, những người khác không được. Ví dụ như nàng vẽ một bức tranh, trên bức tranh đó có một vòng tròn. Bên trong vòng tròn ghi: Ngũ Vị đường. Bức tranh đó được dán trên vật nàng làm ra. Thứ này gọi là nhãn hiệu. Người khác nhìn thấy nhãn hiệu này thì biết đó là do Ngũ Vị đường làm ra, biết tên của cửa hiệu, sẽ không mua phải hàng giả mạo của người khác làm ra".

"Nếu như người khác cũng bắt chước dán cái nhãn gì đó lên thì phải làm thế nào?"

"Chỉ cần nàng ban một đạo thánh chỉ nói rõ Ngũ Vị đường của ta sản xuất vật này. Ai dám giả mạo nhãn hiệu Ngũ Vị đường của ta thì sẽ bị đánh bằng roi, phạt tiền, tống ngục, lưu đày vân vân. Người khác sẽ không dám giả mạo. Điều tốt của quy định này là có thể bảo vệ được sản phẩm tốt, cổ vũ sáng tạo khiến cho những người tài năng được hưởng lợi thực tế".

"Nghe ngươi nói ta cũng động tâm" Cao Thao Thao mỉm cười nói. "Điều này rất đơn giản. Ngày mai ta sẽ hạ một đạo thánh chỉ như vậy. Muốn viết nội dung gì ngươi cứ định ra, giao cho bọn họ. Ta cho bọn họ truyền đi".

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 406: Việc vui trong nhà (1+2).

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Đỗ Văn Hạo nói: "Hay. Hãy lấy Ngũ Vị đường của ta là chiêu bài thí điểm. Chờ sau khi thí điểm thành công, tích luỹ kinh nghiệm, từng bước mở rộng tới một số sản phẩm của các cửa hiệu lâu đời, cũng cần phải ban hành một số pháp lệnh bảo vệ. Sau này không cần phải ban thánh chỉ cho từng sản phẩm".

Cao Thao Thao nói: "Cái này ta không hiểu ngươi cứ quyết định là được. Muốn ta làm gì cứ nói, ta cho người làm cái đó. Bảo vệ danh dự của các cửa hiệu lâu đời, phòng ngừa thương nhân bất lương giả mạo. Ta tin tưởng biện pháp bảo vệ các cửa hiệu lâu đời của ngươi nhất định không phải là một chủ ý ôi thiu".

"Ha ha. Có phải là chủ ý ôi thiu hay không vẫn còn rất khó nói. Có một vĩ nhân nói: Thực tế chính là tiêu chẩn duy nhất kiểm nghiệm chân lý. Ai nói cũng không tính, thực hiện tốt mới tính".

"Vĩ nhân này nói không sai" Tuy Cao Thao Thao không hiểu lắm lời của Đỗ Văn Hạo nhưng đại khái cũng hiểu một chút. Nàng cười hì hì nhìn hắn, thầm nghĩ câu nói này không phải là của cái gọi là vĩ nhân gì đó nếu không tại sao mình chưa bao giờ nghe nói. Nhất định lại là do Đỗ Văn Hạo bịa ra nhưng cũng không hỏi.

Đỗ Văn Hạo lại nói: "Ta muốn toàn lực ứng phó chỉnh đốn quân đội. Thái y cục nhất định phải có một người tín nhiệm, có nghiệp vụ giúp ta mới được".

"Vậy được! Ta phong cho đồ đệ của người là Tiền Bất Thu làm Cục phán Thái y cục để hắn giúp ngươi.

Đúng rồi, không phải còn có bà đỡ cùng nữ quan giáo học. Ta phong cho phu nhân và tiểu thiếp của ngươi trước kia làm bà đỡ phủ Khai Phong làm y quan, thế nào?"

"Hay!" Đỗ Văn Hạo mừng rỡ, hắn hôn nàng nói: "Thao Thao, nàng thật tốt. Ta thay Vũ Cầm và Phi Nhi cám ơn nàng".

"Cám ơn cái gì? Suy nghĩ của ngươi cũng chính là suy nghĩ của ta".

"Vậy coi như là chúng ta tâm linh tương thông".

Thái Hoàng Thái Hậu cười to nói: "Còn gì khác nữa không?"

"Còn nữa" Đỗ Văn Hạo nói tiếp: "Muốn học phẫu thuật chữa bệnh nhất định phải tiến hành giải phẫu thi thể vì vậy ta muốn thỉnh nàng hạ một đạo thánh chỉ yêu cầu các địa phương sau này xử tử phạm nhân không được phép cho người lãnh thi thể cũng với các trường hợp tử vong vì thiên tai cũng không cho người lãnh về. Tất cả các thi thể phải dùng khối băng niêm phong cất vào kho sau đó cấp cho Thái y cục, ta muốn dùng để giải phẫu dạy học. Sau khi thi thể sử dụng xong chúng ta sẽ tiến hành hoả táng".

Cao Thao Thao gật đầu nói: "Điều này không có vấn đề gì. Dù sao những thi thể không có người nhận cũng đều hoả thiêu hay là chôn lung tung ở các nghĩa địa. Nay các ngươi dùng để dạy học y thuật, học xong hãy cứu càng nhiều người càng tốt. Đây là chuyện tốt. Ngày mai ta sẽ hạ chỉ thông báo các nơi. Còn chuyện gì khác không?"

"Đúng vậy. Có khả năng công tác điều tra của ta có liên quan đến tam tỉnh lục bộ cùng các bên liên quan khác. Ta cần bọn họ phối hợp cung cấp các tư liệu".

"Ta hiểu. Ta lập tức ghi cho ngươi một đạo thủ dụ, lệnh cho cả triều đình cùng nha môn các địa phương đều phải nghe lệnh của ngươi, thuận tiện cho việc điều tra của ngươi. Thế nào?"

Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: "Vậy thì tốt quá".

Cao Thao Thao gọi Tiêu công công tới, mang giấy bút. Nàng cầm bút viết một đạo thủ dụ, đóng đại ấn, đưa cho Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo vui mừng phấn khởi, hai tay cung kính nhận lấy, cẩn thận cất vào trong người rồi cáo từ ra về.

Ngay khi Đỗ Văn Hạo ngồi kiệu ra tới cửa cung Khôn Ninh. Một trong hai nội thị gác cổng tiến lên trước, khom người nói: "Đại tướng quân, chuyện dạy học cho Hoàng Thượng thì nên làm thế nào bây giờ?"

"Ha ha. Ngươi hỏi ta ta hỏi ai bây giờ?" Tâm tình Đỗ Văn Hạo rất tốt nên tuỳ tiện vui đùa nhưng khi nhìn thấy vẻ thắc thỏm lo âu của viên nội thị hắn mới ý thức được rằng bây giờ bản thân mình không còn là một Ngự y nho nhỏ mà đường đường là quan nhị phẩm Tể chấp, tam nha Đô Kiểm Điểm. Bất kỳ lời nói giỡn nào cũng khiến người khác tin là thật. Nụ cười vụt tắt, hắn nói tiếp: "Ngươi nên đi tìm người phụ trách việc dạy học cho Hoàng Thượng đi. Ngươi tìm ta, ta thực sự không biết".

Viên nội thị vội vàng nói: "Thái Hoàng Thái Hậu đã có dặn dò việc dạy học cho Hoàng Thượng do ngài phụ trách".

"Ta?" Đỗ Văn Hạo ngẩn người: "Vừa rồi ta ở chỗ Thái Hoàng Thái Hậu ra, người không nói với ta chuyện này".

"Điều này đúng là do Thái Hoàng Thái Hậu nói. Tiểu nhân cũng không dám giả truyền thánh chỉ. Ban chiều khi Hoàng Thượng đi gặp Thái Hoàng Thái Hậu bẩm báo về chuyện dạy học, Thái Hoàng Thái Hậu đã nói vậy".

"Thật vậy sao?" Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ: lúc trước chỉ nói chuyện thất bại chiến trận giữa Đại Tống cùng Tây Hạ và Đại Liêu, Cao Thao Thao rất phẫn nộ, trong cơn tức giận của mình chỉ e nàng đã quên chuyện này nên hắn nói tiếp: "Nếu là chỉ dụ của Thái Hoàng Thái Hậu, đương nhiên phải tuân theo. Hoàng Thượng phải học những gì?"

"Tứ thư ngũ kinh và các loại nghi lễ cung đình".

"A. Bây giờ đã muộn rồi. Hãy để ngày mai hẵng tính. Sáng mai bản tướng quân đi gặp Hoàng Thượng, mời hai vị thầy dạy khác của Hoàng Thượng cùng thương nghị".

Người nội thị kia vội nói: "Đại tướng quân, chỉ e sáng mai không được".

"Vì sao?"

"Sáng mai ngài phải thảo luận chính sự ở Chính sự đường. Đây là công văn của nha môn Tể tướng gửi cho ngài" Nói xong hai tay viên nội thị cầm công văn, khom người đưa cho Đỗ Văn Hạo.

"Ồ?" Đỗ Văn Hạo nhận lấy, mở ra lấy ra một tờ giấy, mở xem thì ra đó là một giấy thông báo hội họp, thông báo cho hắn sáng sớm ngày mai, giờ thìn tới nha môn Tể tướng thương nghị sự vụ quân chính.

Lần đầu tiên Đỗ Văn Hạo nhận được thông báo hội họp nên trong lòng rất cao hứng. Sáng sớm ngày mai là lần đầu tiên hắn tham gia thương nghị sự vụ quân chính, thực hiện chức năng Tể chấp của mình, trong lòng niềm vui không khỏi nhân lên. "Sáng mai phải họp thương nghị việc quân chính. Điều này không thể chậm trễ. Vậy hãy để chiều ngày mai, hay tối ngày mai, thế nào?"

Viên nội thị cười nói: "Đại tướng quân, chỉ sợ là không chờ đợi được. Nghe nói trước kia Hoàng Thượng còn là Hoàng tử rất lười biếng, không chịu học hành, đi ra ngoài chơi lâu mới quay về, Thái Hoàng Thái Hậu biết được, dùng thước đánh vào lòng bàn tay Hoàng Thượng vì vậy Hoàng Thượng bây giờ sợ chậm trễ việc học nên mới cho tiểu nhân mời Đại tướng quân tới thương nghị chuyện học sau này".

"Chẳng phải những thầy dạy của Hoàng Thượng đã định rồi sao? Không được, lúc sáng sớm, hai sư bảo Lục Điền cùng Thái Các đã bị bãi thay mới. Mặc dù đã chọn hai người sư bảo Triệu Ngạn cùng Phó Nghiêu Du nhưng vẫn còn chưa thương nghị phân công nên không thể dạy học được".

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một chút rồi nói: "Bây giờ trời cũng đã muộn. Lúc này mời nhị vị đại nhân tới thương nghị cũng không tiện. Ừ. Như này đi, ngươi hãy quay về bẩm báo Hoàng Thượng, thỉnh Hoàng Thượng sáng mai cứ xem lại những bài học ngày trước. Chiều mai ta muốn khảo sát xem Hoàng Thượng lúc trước học thế nào. Đợi ngày mai sau khi ta tìm nhị vị đại nhân thương nghị, xác định lại công việc đảm nhiệm dạy học".

Viên nộ tị vội vàng khom người trả lời.

Đỗ Văn Hạo thưởng cho hai viên nội thị một ít bạc vụn. Hai viên nội thị vui mừng, suý chút nữa quỳ xuống dập đầu tạ ơn.

Đỗ Văn Hạo vui mừng phấn chấn mới ngồi kiệu rời khỏi Hoàng cung, quay trở về Ngũ vị đường.

Hôm nay đã xảy ra nhiều chuyện. Đỗ Văn Hạo vẫn chưa kịp thích ứng nên hắn cười khúch khi đi vào nhà. Anh Tử hiếu kỳ hỏi: "Thiếu gia, nhìn người phấn chấn như vậy, hẳn là có chuyện tốt?"

"Đương nhiên là có chuyện tốt. Chuyện rất tốt. Ha ha ha. Mau đi mời phu nhân và các vị nãi nãi, Trầm sư gia, Kha cô nương, Tiền Bất Thu, Diêm Diệu Thủ, Khờ Đầu tới chánh đường. Thiếu gia ta có việc muốn công bố".

"Vừa hay phu nhân cũng có chuyện muốn nói với người".

"Thật vậy sao? Có chuyện gì vậy?'

"Nô tỳ cũng không dám mau miệng. Đợi lát nữa phu nhân sẽ cho thiếu gia biết. Hì hì".

"Ngươi tiểu nha đầu này. Dám nói dối với ta. Xem ta trị ngươi thế nào" Nói xong Đỗ Văn Hạo thò tay muốn ôm Anh Tử. Anh Tử cong người né tránh, cười hì hì chạy đi.

Bốn phu nhân của Đỗ Văn Hạo, Kha Nghiêu cùng mấy người Trầm sư gia, Tiền Bất Thu nhanh chóng đi vào đại sảnh. Sau khi mọi người ngồi xuống nhìn thấy sắc thái phấn chấn của Đỗ Văn Hạo thì rất hiếu kỳ.

Đỗ Văn Hạo ho nhẹ một tiếng rồi nói: "Mọi người, sáng hôm nay bản tướng quân lại thăng quan. Ha ha. Thái Hoàng Thái Hậu ân điển thăng ta làm tam nha Đô Kiểm Điểm, hàm nhị phẩm, còn đặc biệt xếp ta vào Tể chấp tham gia xử lý sự vụ quốc gia. Ha ha ha".

Mọi người kinh ngạc, vui mừng khi nghe tin này. Lúc trước Đỗ Văn Hạo đã là tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, tòng nhị phẩm. Bây giờ thăng lên chính nhị phẩm Đô Kiểm Điểm. Nhưng điều nay không thực sự làm mọi người kinh ngạc vui mừng. Điều làm bọn họ kinh ngạc chính là Đỗ Văn Hạo được tham gia Tể chấp. Nếu trong xã hội hiện đại thì tương đương với thường uỷ viên bộ chính trị, thuộc về một tập đoàn lãnh đạo cao nhất của đất nước nên ai nấy đều đứng dậy chúc mừng.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo vui như hoa nở nhưng hắn không thể biểu lộ sự đắc ý quá mức trên gương mặt mình. Hắn chỉ mỉm cười chắp tay đáp lễ: "Đều là ân điển của Thái Hoàng Thái Hậu, ta xấu hổ không dám nhận".

Kha Nghiêu cười hì hì nói: "Ca ca. Ca lại khiêm tốn rồi. Chức vị này nên sớm để người ngồi. Ca tham gia vào Tể chấp cũng hoàn toàn đủ tư cách".

Đỗ Văn Hạo vội vàng khoát tay nói: "Quá khen, quá khen! Ngoại trừ việc đảm nhiệm Tể chấp, Thái Hoàng Thái Hậu còn muốn ta kiêm nhiệm Đề Cử Thái y cục, phụ trách công việc của Thái y cục" Đỗ Văn Hạo quay đầu nói với Tiền Bất Thu: "Bất Thu, Thái Hoàng Thái Hậu đã nói muốn phong ngươi làm Cục phán Thái y cục ( phó cục trưởng ) để ngươi giúp đỡ ta trong việc cải tiến chế độ dạy y thuật của Thái y cục. Ngươi có hứng thú không?"

Tiền Bất Thu cười khom người nói: "Đương nhiên là có hứng thú. Sư phụ có rất nhiều thần kỹ. Trên đường tuần y đã dạy không ít người. Nếu có thể duy trì lâu dài hệ thống truyền thụ của Thái y cục thì sẽ rất tốt. Lão hủ nhất định sẽ dốc sức phụ tá sư phụ, làm tốt công việc của Thái y cục".

"À, đúng rồi. Cầm nhi, Phi nhi. Thái Hoàng Thái Hậu còn nói muốn phong hai người là y quan Thái y cục, chuyên phụ trách giảng dạy môn nữ khoa. Hai người có nguyện ý không?"

Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi vui mừng phấn chấn, cả hai liếc nhìn nhau đứng dậy, đáp lễ. Bàng Vũ Cầm nói: "Tướng công, chúng thiếp nguyện ý, nhất định sẽ trợ giúp tướng công dạy tốt môn nữ khoa".

"Ừ. Trách nhiệm cải cách chế độ học tập của Thái y cục ta nhờ cả vào mấy người. Thật ra chỉ cần thực hiện theo chương trình chúng ta thực hiện trên đường tuần y là được. Đúng rồi. Thái Hoàng Thái Hậu còn đồng ý sau này những người chết đói, xử trảm không được để người nhà lãnh về. Toàn bộ thi thể đưa tới Thái y cục, dùng vào việc tiến hành giải phẫu thi thể dạy học. Ba người cũng đã học được nhiều kiến thức về giải phẫu, nhất định có thể đảm đương được".

Kha Nghiêu nói: "Vậy Ngũ Vị đường do ai cai quản?"

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Đừng có gấp. Hãy nghe ta sắp xếp. Ta trở thành Tể chấp. Bất Thu, Cầm nhi, Phi nhi cùng tới Thái y cục chỉ e không còn thời gian cai quản Ngũ Vị đường. Sau này Ngũ Vị đường giao cho hai người Khờ Đầu quản lý. Những năm qua Diêm Diệu Thủ đi theo ta, y thuật cũng tiến rất xa, đặc biệt là trong việc chữa trị vết thương lở loét cùng xương cốt, hoàn toàn có thể đảm nhiệm, nội khoa hắn cũng có nhiều tiến bộ. Trong năm qua y thuật của Khờ Đầu cũng tiến bộ không ngừng. Hai người các ngươi phụ trách Ngũ Vị đường nhất định không có vấn đề gì. Nếu gặp các chứng bệnh phức tạp hãy để sư phụ các ngươi xử lý. Ngũ Vị đường chính là chiêu bài của chúng ta. Nhất định phải trông nom cẩn thận".

Diêm Diệu Thủ cùng Khờ Đầu vội vàng đứng dậy chắp tay thi lễ nhận lời.

Đỗ Văn Hạo lại nói: "Sau này thuốc mê, thuốc nước trừ độc, dụng cụ giải phẫu ngoại khoa sử dụng trong ngoại khoa của cả nước. Tất cả đều phải nhập hàng của chúng ta. Thái Hoàng Thái Hậu đã đồng ý ban thánh chỉ bảo vệ tên cửa hiệu Ngũ Vị đường của chúng ta, không để cho người khác làm giả mạo xâm hại. Sau này Ngũ Vị đường không chỉ là một dược đường mà còn là một công ty y dược. Tất cả các công việc sản xuất thuốc cùng khí tài và việc tiêu thụ sản phẩm đều do Thanh Đại phụ trách. Kha Nghiêu, muội theo trợ giúp, được không?"

Lâm Thanh Đại cùng Kha Nghiêu liếc nhìn nhau, rồi cùng mỉm cười gật đầu đồng ý.

Lâm Thanh Đại hỏi: "Vậy chúng ta có nên mua lại nhà cửa để chuyên dùng sản xuất dược phẩm cùng dụng cụ không?'

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Không cần. Sản xuất ở ngay đây".

Lâm Thanh Đại nói vẻ khó xử: "Nhà của chúng ta cũng không nhỏ. Nhưng nếu chúng ta sản xuất dược phẩm cùng dụng cụ ở ngay chỗ này, cũng rất phiền toái. Đương nhiên nếu như cả trang viện này để làm nơi sản xuất cũng đủ. Nhưng chúng ta phải chuyển chỗ ở".

"Đúng, chúng ta sẽ chuyển đi. Nơi này chỉ để làm nơi chữa bệnh cùng sản xuất dược phẩm cùng dụng cụ".

Mọi người kinh ngạc khi nghe nói vậy. Kha Nghiêu nhanh mồm nhanh miệng hỏi: "Ca, chúng ta chuyển đi đâu? Lại mua nhà mới sao? Nói trước muội không muốn tới ngôi quỷ trạch đó đâu".

"Ai bảo muội tới quỷ trạch?" Đỗ Văn Hạo cười nói: "Chúng ta có chỗ rồi. Thái Hoàng Thái Hậu ân điển nói trước đây ta có chút công lao nên thưởng công tặng cho ta một toà phủ đệ mới. Toà phủ đệ đó ở ngay sau Hoàng cung, bên cạnh Thiên Ba phủ của Dương gia và phủ Tể tướng của quan Tể tướng Vương Giai. Toà phủ đệ này tu sửa cũng sắp xong, ta nghe nói cũng không tệ lắm. Thái Hoàng Thái Hậu nói chúng ta hãy bớt chút thời gian đi xem qua một chút, có chỗ nào không vừa mắt thì cho tu sửa lại để sau này được như ý muốn".

Lập tức chúng nữ vui mừng tung tăng như chim sẻ. Nữ nhân chính là vậy. Việc chuyển nhà mới luôn luôn háo hức như vậy.

Kha Nghiêu hỏi Trầm sư gia: "Ai! Sư gia, ngươi có biết toà phủ đệ này không?"

Trầm sư gia vuốt chòm râu bạc cười nói: "Tất nhiên biết. Toà phủ đệ này trước kia là tân Vương phủ của Ung Vương gia, nghe nói sắp sửa xong, không ngờ bây giờ lại tặng tướng quân".

Kha Nghiêu nói: "Toà phủ đệ này có lớn không? So với trang viện Ngũ Vị đường này của chúng ta thì thế nào?"

"Ha ha. Không thể so sánh như vậy được. Muội hãy nghĩ xem. Con phố ngay sau Hoàng cung, một nửa là phủ đệ. Hơn nữa hai bên là Thiên Ba phủ của Dương gia và phủ đệ của Vương Tể tướng. Nói cách khác phủ đệ này của Đại tướng quân, lớn hơn nhiều so với phủ của Vương Tể tướng và Thiên Ba phủ của Dương gia. Nhưng ta vẫn chưa vào trong nên không biết bên trong như thế nào".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Kha Nghiêu, đừng nóng vội. Sáng sớm mai, muội và các tẩu tử đi xem qua một chút không phải sẽ biết sao? Thôi được, chuyện của ta đã nói xong. Đúng rồi, Vũ Cầm, lúc nãy Anh Tử nói nàng có chuyện muốn nói với ta. Ha ha. Gần đây nhà chúng ta liên tiếp có chuyện vui. Chuyện gì vậy?"

Bàng Vũ Cầm mỉm cười nói: "Lúc chiều, phu nhân của Vương Tể tướng tới nói hôm nay quốc tang đã kết thúc. Lệnh cấm tiệc rượu, cấm yến tiệc kết hôn đã kết thúc vì vậy cũng nên thảo luận chuyện hôn nhân. Thiếp cảm thấy cũng đúng. Hai người thiếp đã tra xét Hoàng lịch rồi thống nhất vào đầu tháng sáu. Tướng công thấy thế nào?"

Nghe nói tới chuyện này, mặt Đỗ Văn Hạo nóng lên, liếc trộm mấy phu nhân của mình, thấy mấy nàng nhìn mình cười mà như không phải cười, càng cảm thấy ngượng ngùng khó xử, hắn ngượng ngùng nói: "Chuyện này cứ do phu nhân làm chủ là được".

"Vậy cứ quyết định vào đầu tháng sáu. Hôn lễ nghênh đón tân nương xuất giá bái thiên địa".

"Ừ" Đỗ Văn Hạo lại nhớ tới dung nhan tuyệt thế của Vương Nhuận Tuyết, trong lòng hắn không khỏi nhảy loạn lên. Đặc biệt mùi thơm kín đáo trên cơ thể nàng. Mới nghĩ tới đó dục hoả đã bốc lên, không thể kiềm chế. Quả thực làm hại cái mạng già này.

Đỗ Văn Hạo lắc lắc đầu. Bây giờ không phải là lúc nghĩ tới chuyện nhi nữ thường tình, có rất nhiều chuyện cần hắn xử lý. Hắn nhìn Lâm Thanh Đại mỉm cười nói: "Thanh Đại, còn có một việc phiền nàng".

Lâm Thanh Đại cười nói: "Chuyện tốt có thể làm. Chuyện xấu xin miễn".

Tất cả mọi người cùng cười. Đỗ Văn Hạo nói: "Không phải chuyện tốt, cũng không phải chuyện xấu mà là chuyện khổ sai".

"Khổ sai? Được, ta không sợ khổ".

"Vậy là được. Hãy dạy ta luyện kiếm".

Lâm Thanh Đại ngạc nhiên nói: "Luyện Kiếm sao? Chàng là Đại tướng quân toạ trấn trướng trung quân. Trù tính việc quân trong trướng, không cần phải anh dũng xông lên giết địch. Luyện kiếm làm gì?"

Kha Nghiêu ở bên cũng che miệng nói: "Đương nhiên là để phòng thân. Không đúng. Ca, ca có đội thân binh bảo vệ. Ca còn đề phòng cái gì?"

"Phòng muội" Đỗ Văn Hạo trêu chọc nàng: "Phòng muội cắn ta. Ha ha ha".

"Hay lắm. Ca dám mắng muội là con chó nhỏ. Được, hãy chờ coi!".

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: "Ta thân là tam nha Đô Kiểm Điểm, tam nha quản lý và huấn luyện quân đội. Ta là Đại tướng quân, là Đại tướng quân thao luyện binh sĩ, không phải là lãnh binh đánh trận. Ta đi huấn luyện binh sĩ. Trong lúc nhàn dỗi, mọi người muốn ta thể hiện bản lãnh. Ta lại chỉ biết Phân thân thác cốt thủ, cũng không thể thi triển mấy cái đó được. Vậy mất mặt lắm. Ta phải luyện mấy bộ kiếm pháp mới có uy phong".

Lâm Thanh Đại cười nói: "Vậy được. Chàng muốn học, thiếp dạy cho chàng. Nhưng mà các tướng sĩ của chàng rất có khả năng bộc lộ một chút công phu cưỡi ngựa bắn tên của Đại tướng quân. Chàng nhất định phải luyện tập cái đó mới được".

"Được. Vậy nàng cứ dạy ta là được".

"Thiếp không am hiểu lắm về công phu mã đao. Chàng phải tìm sư phụ khác".

"Vậy thôi cứ tạm bỏ qua cái đó đã. Trước tiên cứ luyện kiếm. Mỗi sáng chàng luyện công nhớ gọi thiếp".

"Được".

Kha nghiêu lại nói xen vào: "Ca, ca thân là Đại tướng quân, có biết binh pháp không? Tại sao không tìm lão sư giúp chàng binh pháp?"

Đỗ Văn Hạo đã sớm nghĩ tới vấn đề này nhưng chuyện binh pháp này không phải ngày một ngày hai có thể học được. Không học cũng không được, hắn cũng đang buồn bực vì điều này. Đương nhiên không thể để lộ trước mặt Kha Nghiêu nên nói: "Điều này ta đã có sắp xếp ổn thoả. Mọi chuyện đã nói xong. Mời Trầm sư gia ở lại. Tất cả những người khác lui ra".

Tất cả mọi người đều lui ra ngoài. Kha Nghiêu là người đi sau cùng, nàng khép cửa đại sảnh lại.

Đỗ Văn Hạo lấy từ trong người thông báo của nha môn Tể tướng đưa cho Trầm sư gia nói: "Sư gia, ngươi hãy xem giúp ta đây là cái gì".

Trước đây Trầm sư gia đã phụ tá cho hai Tể tướng. Đương nhiên không còn lạ lẫm với công giản này. Ông ta nhìn lướt qua rồi khom người, chắp tay nói: "Tướng quân. Đây là công giản thương nghị sự vụ quân chính của nha môn Tể tướng".

"Ta hiểu. Ý của ta là mỗi lần thương nghị đều phát đồ chơi này sao?"

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 407: Chính sự đường thảo luận chính sự (1+2)

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

rầm sư gia nói: "Cũng không phải vậy. Thương nghị quân chính của Tể chấp là đại sự. Đúng hạn là họp. Bình thường cứ mười ngày họp một lần. Cứ mỗi tháng hội nghị thường kỳ của Tể chấp vào mùng mười, hai mươi và ngày ba mươi.

Mỗi khi có công việc đặc biệt phải xử lý liền thì lập tức triệu tập hội nghị. Khi đó sẽ do Tể tướng triệu tập, phát ra thông báo hội nghị như này. Có lẽ thời gian trước đây do bận rộn lo việc tang ma cùng với việc người kế vị ngôi vị Hoàng Đế nên còn đọng lại rất nhiều chuyện cần phải xử lý vì vậy phải khẩn cấp giải quyết".

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Ồ, còn lâm triều? Khi nào thì lâm triều?'

"Lâm triều thì vào ngày năm. Ngày mùng năm, mười lăm và hai mươi lăm mỗi tháng ba lần. Khi khẩn cấp có chuyện quan trọng cần thương nghị cũng có thể mở bất kỳ lúc nào. Trước khi mở cũng cần phải có công văn thông báo".

"Tể chấp chủ trị nghị sự những vấn đề gì? Ta biết chắc chắn đều là những đại sự quân chính. Ngươi có kinh nghiệm phong phú, hãy giúp ta dự đoán ngày mai thảo luận chính sự, có khả năng thương lượng những điều gì để ta chuẩn bị trước một chút".

"Ừm. Điều này cũng rất khó nói. Bình thường khi Tể chấp thương nghị chuyện chính sự tất cả đều do nha môn Tể tướng quyết định những hạng mục công việc quan trọng cần thương nghị, nghe qua tình hình xử lý một số chuyện đại sự được phân công xử lý. Bây giờ Hoàng Đế mới đăng cơ. Thái Hoàng Thái Hậu nghe báo cáo và quyết định sự việc. Có thể bước tiếp theo là sẽ nghe các báo cáo toàn diện của các vấn đề, hiểu rõ tình hình cơ bản của tất cả các phương diện, có khả năng sẽ sắp đặt giải quyết những chuyện đó".

"Thái Hoàng Thái Hậu có tham gia hội nghị Tể chấp thảo luận chính sự không?"

"Hình như là không tham gia. Đây là chuyện của Tể chấp. Sau khi Tể chấp thương nghị xong phải bẩm báo lên Hoàng Thượng ân chuẩn. Bây giờ là Thái Hoàng Thái Hậu thẩm định. Nếu như Thái Hoàng Thái Hậu có điều gì không hiểu rõ, hoặc là có ý chỉ khác thì sẽ triệu tập Tể chấp tới điện Văn Đức để hỏi rõ".

"Đã hiểu" Đỗ Văn Hạo trầm ngâm một lát rồi hắn khẽ nói: "Trầm tiên sinh, ngươi là trợ thủ đắc lực nhất của ta. Lần này có thể thuận lợi đoạt lại binh quyền từ tay hai người Ung Vương gia và Vi Ngạn, tránh khỏi một cuộc chính biến cung đình đổ máu, ngươi đã giúp ta rất nhiều chủ ý quan trọng, công lao rất lớn".

Trầm sư gia hạ thấp người thi lễ nói: "Tướng quân quá khiêm nhường. Tướng quân thiếu niên xuất anh hùng, tiền đồ xán lạn vô hạn, có thể được phụ tá tướng quân đó chính là vinh hạnh của lão hủ".

"Ha ha. Thực không dám dấu diếm. Thái Hoàng Thái Hậu giao cho ta một nhiệm vụ gian khổ bậc nhất. Đó là ta phải chỉnh đốn lại quân đội Đại Tống sau đó phải tổ chức quân đội Đại Tống thành một đội quân sức mạnh vô địch" Sau đó giọng nói của Đỗ Văn Hạo nhỏ dần: "Thái Hoàng Thái Hậu rất phẫn nộ đối với việc hàng năm Đại Tống chúng ta phải tiến cống Tây Hạ và Đại Liêu. Trong tương lai chúng ta sẽ dụng binh giải quyết vấn đề này".

Trầm sư gia mỉm cười nói: "Thái Hoàng Thái Hậu chính là nữ lưu anh hùng".

Đỗ Văn Hạo sửng sốt nói: "Nghe tiên sinh nói những lời này, tiên sinh có ý kiến với kế hoạch của Thái Hoàng Thái Hậu sao?"

"Không dám. Nhưng mà tân Đế mới đăng cơ, tất cả đều hả lòng hả dạ. Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính, rất dễ hiểu việc có ý định sửa trị quân đội này. Nhưng vấn đề là cố tật của quân đội Đại Tống rất nghiêm trọng, không thể dễ dàng giải quyết".

"Đúng vậy. Vì thế ta mới lãnh giáo tiên sinh. Mặc dù Thái Hoàng Thái Hậu để cho ta đề xuất phương án cải cách, chỉnh đốn quân đội nhưng phải bẩm báo người thẩm duyệt, đồng ý mới tiến hành cải cách một cách dứt khoát".

Trầm sư gia vuốt chòm râu trắng. Ông ta cúi đầu, tỏ vẻ nhũn nhặn, trầm ngâm một lát mới nói: "Tướng quân có tính toán gì không?"

"Trên đường quay về ta một mực suy nghĩ. Trong ngàn đầu vạn mối nên bắt đầu từ chỗ nào. Suy nghĩ cơ bản là trước tiên phải nắm bắt được tình huống. Chỉ có hiểu được tình hình thực tế mới có thể đề ra phương án thích hợp nhất. Làm việc phải có mục đích rõ ràng. Lúc trước ta ở trong kho tư liệu tam nha chủ yếu đã tìm đọc tình hình chiến sự giữa Đại Tống và Tây Hạ cùng Đại Liêu. Ta muốn dùng lịch sử thê thảm đau đớn để thức tỉnh Thái Hoàng Thái Hậu bừng tỉnh, để người chính thức biết được những văn nhân luôn ca ngợi công đức triều đình chính là chính là tai hoạ của đất nước. Tiền tiến cống hàng năm cho Tây Hạ và Đại Liêu cũng không phải là tặng phẩm mà chính là đi cống, dngf tiền mua hoà bình, làm người hiểu quân đội Đại Tống chúng ta đã rơi xuống mức không thể chịu nổi một trận chiến. Vấn đề chỉ là quân đội Đại Tống chúng ta đã yếu ớt tới mức độ nào, vấn đề cụ thể nào đang tồn tại ta vẫn chưa có một suy nghĩ cụ thể. Vì vậy ta muốn đi xuống dưới tìm hiểu một cách rõ ràng xem đội quân mà ta đang lãnh đạo rốt cuộc có sức chiến đấu hay không, rốt cuộc vấn đề gì đang tồn tại, có thể bảo vệ quốc gia hay không?"

Trầm sư gia lộ vẻ xúc động, ông ta hạ thấp người thi lễ nói: "Thái độ này của tướng quân mới thực sự là thái độ chân chính một người cầm quân cần có. Con đường để binh cường, tiên đế cũng đã thử qua. Tướng quân nên suy xét cái được cái mất của biến pháp binh cường tiên đế đã uỷ thác Vương An Thạch thực hiện, tránh giẫm lên vết xe đổ, giảm việc phải đi đường vòng".

"Ừ. Ngươi nói rất đúng. Theo ngươi cái được cái mất là gì?"

Trầm sư gia cười nới: "Lão hủ chỉ là một hủ nho, cầm quân không phải sở trường của lão hủ nhưng mà tướng quân đã hỏi. Lão hủ có một số kiến giải vụng về, thỉnh tướng quân tham khảo. Kế sách binh cường của Vương An Thạch có mấy điểm: thứ nhất: cắt giảm nhũng binh, chỉnh biên cấm quân cùng Sương quân. Thứ hai là cải tiến chế tạo vũ khí. Thứ ba là huỷ bỏ chiến thuật canh giữ phòng thủ, phổ biến tương binh pháp cùng kết hợp với đội pháp, tăng mạnh quân số. Thứ ta là bảo vệ mã pháp. Thứ năm là bảo giáp pháp ( chế độ biên chế hộ tịch ngày xưa để quản lý nhân dân theo nhiều tầng. Một số nhà hợp thành một giáp;một số giáp hợp thành một bảo; giáp có giáp trưởng; mỗi bảo có một bảo trưởng). Xin thứ cho lão hủ nói thẳng phép trị quân binh cường của Vương An Thạch cũng chẳng có gì tốt. Ông ta chỉ đơn giản nói ý nghĩa của biến pháp là: luyện binh giáp, tích trừ tiền lương, tướng soái chỉ huy nghe lệnh triều đình. Suy nghĩ của ông ta ngoại trừ bảo giáp pháp có hơi mới mẻ còn lại chỉ là luận điệu cũ rích, mà bảo giáp pháp chứng minh là đã thất bại. Thái Hoàng Thái Hậu sẽ nhanh chóng bãi bỏ".

Đỗ Văn Hạo nói: "Đúng vậy. Lần trước ta theo tiên đế vi hành, cũng có rất nhiều xúc cảm với bảo giáp pháp. Quy định của pháp này về tội liên đới còn đáng sợ hơn rất nhiều so với tiền triều, khiến cho người người cảm thấy bất an. Dân chúng không được sống yên ổn. Mục đích chính của bảo giáp pháp chính là luyện dân binh. Một khi có chiến tranh có thể chuyển dân binh thành một đội dự bị chiến lược. Mục đích thì rất tốt nhưng vấn đề là binh lính là một công việc đặc thù, phải trải qua huấn luyện lâu dài mới có thể đảm nhiệm được. Phải trải qua huấn luyện trường kỳ nhiều năm mới có sức chiến đấu. Không phải biết múa đao, bắn tên dã là binh lính tinh nhuệ. Lão hủ không dám nói tâng bốc nhưng thực sự không mạnh hơn dân chúng bình thường bao nhiêu".

"Trên thực tế giáp binh bảo giáp của hầu hết các địa phương trong cả nước đều không tiến hành huấn luyện quân sự mà bị quan phủ địa phương xử dụng làm sai dịch miễn phí, đi ngược với dự tính ban đầu. Thật ra bốn hạng mục biến pháp của Vương An Thạch đều nhằm mục đích loại bỏ ung tật, lính yếu kém của quân đội. Tất cả các biện pháp đều nhằm vào điều này, hiệu quả cũng tạm được. Điều này chỉ cần theo dõi hai đại chiến với Tây Hạ là biết được".

Đỗ Văn Hạo nói: "Theo như tiên sinh nói. Kế sách cường quân của tiên đế đã nắm được vấn đề mấu chốt. Vì sao không hiệu quả?'

Trầm sư gia áy náy nói: "Tướng quân. Nói thật lão hủ không có quá nhiều ý kiến về phương pháp trị quân. Ba hoa chích choè, xa rời thực tế chỉ là nói dối tướng quân. Xin thỉnh tướng quân xuống bên dưới điều tra như vậy mới tìm được câu trả lời có sức thuyết phục, cũng có thể rìm ra biện pháp chính thức giải quýêt vấn đề".

"Được! Trước tiên không được bàn luận theo cảm xúc. Trước tiên phải điều tra hiểu rõ. Mao chủ tịch. Khụ khụ. Một vĩ nhân đã nói: Không điều tra sẽ không có quyền lên tiếng. Ngày mai bắt đầu tiến hành điều tra. Trước tiên bắt tay vào điều tra Nhung Vệ cấm quân ở kinh thành. Cải cách quân đội là một công trình theo hệ thống, liên quan tới nhiều mặt, muốn hiểu rõ tình hình tổng thể các vấn đề của đất nước, phải suy xét thông suốt mới được. Ta đã có thánh chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu, tất cả các nha môn phải tận lực phối hợp điều tra với ta. Trầm sư gia, ngươi rất thân thuộc các nha môn của triều đình. Công việc thu thập các tư liệu của các vấn đề giao cho ngươi. Ta sẽ tới điều tra tình hình trong nội bộ quân đội. Chúng ta một trong một ngoài chia nhau tiến hành. Ý tiên sinh thế nào?"

Sửo trường của Trầm sư gia là tiếp xúc với các nha môn, tất nhiên sẽ không có vấn đề gì, huống chi còn có thủ dụ của Thái Hoàng Thái Hậu. Ông ta lập tức đồng ý rời nhận thủ dụ, cáo từ.

Đêm đó là Liên nhi hầu hạ. Đỗ Văn Hạo ở trong nội cung mấy ngày liền. Mặc dù có Thái Hoàng Thái Hậu vuốt ve an ủi cho qua cơn nghiện nhưng cuối cùng vẫn không có chuyện gì, hắn đã sớm "nhịn đối nhịn khát". Liên nhi lại là người một mực khôn khéo dịu dàng ngoan ngoãn, cực kỳ hiểu lòng người. Khi ở trong hậu cung nàng thuật trung phòng ( cung nữ chuẩn bị để đề phòng Hoàng Thượng đột nhiên sủng hạnh, lại không biết ứng phó thế nào, khiến Hoàng Thượng khó chịu mà không được việc ). Nàng đã hầu hạ Đỗ Văn Hạo liên tiếp mấy lần. Mây mù dày đặc không biết người nơi đâu cho tới lúc Đỗ Văn Hạo thoả mãn. Hai người mới ôm nhau ngủ.

Tờ mờ sáng ngày hôm sau, Liên nhi đã tỉnh giấc, Đỗ Văn Hạo ngủ gà ngủ gật, lầu bầu nói: "Liên nhi, làm gì vậy? Còn muốn hả? Đến đây nào" Nói xong hắn lại ôm thân thể mịn màng của Liên nhị, định tiếp tục lên ngựa.

"Lão gia, không phải" Liên nhi cười bắt tay hắn. Trong tất cả phu nhân của hắn chỉ có Liên nhi gọi Đỗ Văn Hạo là lão gia, mãi vẫn không đổi: "Lão gia, người đúng là quý nhân hay quên. Tối hôm qua còn nói muốn Thanh Đại tỷ dạy mình luyện kiếm. Anh Tử đang gọi người ở ngoài cửa đấy. Nhất định Thanh Đại tỷ đang đợi bên ngoài. Mau dậy đi".

Lúc nãy Đỗ Văn Hạo đang ngủ nên không nghe thấy, hắn vội vàng nói vọng ra ngoài: "Anh Tử, nãi nãi của các người đã dậy rồi sao?'

Anh Tử nói vẻ tức giận: "Từ sáng sớm. Thiếu gia, chờ người cả buổi rồi".

"Ai nha thực xin lỗi" Đỗ Văn Hạo lăn lông lốc bò dậy. "Mau vào giúp ta mặc quần áo".

Anh Tử nói: "Nô tỳ là nha hoàn của phu nhân, không phải là nha hoàn của phòng này. Theo quy định không thể vào trong".

"Phiền phức. Liên nhi không thể không có nha hoàn sao? Cái gì mà là quy củ. Mau vào đi. Ta vội lắm. À đúng rồi. Lần trước ta bảo Vũ Cầm mua mấy nha hoàn, lão mụ tử, nàng có mua không?"

"Phu nhân sợ sau này tân phu nhân không vừa ý với nha hoàn, lão mụ tử mua về. Dù sao người ta cũng là nữ nhi của quan Tể tướng vì thế trong lần thương nghị trước phu nhân có buột miệng hỏi Tể tướng phu nhân. Lão phu nhân cũng rất khách khí nói cho phu nhân chúng ta biết những hạ nhân làm việc vặt thì có thể mua, chỉ cần chịu khó nhưng nha hoàn thiếp thân thì có thể mang về, không nên mua phòng trường hợp không vừa ý. Tể tướng phu nhân nói đợi khi nữ nhi của mình xuất giá sẽ cho mấy nha hoàn thiếp thân làm của hồi môn dùng làm quà ra mắt phu nhân và mấy vị di nương nên phu nhân chỉ mua mấy người làm việc vặt, không mua bất kỳ nha hoàn cho phòng nào. Trong phòng vẫn còn đóng cửa, sao nô tỳ có thể vào?"

Anh Tử đẩy cửa từ bên ngoài. Cánh cửa bị cài then bên trong, Liên nhi vội vàng để thân thể loã lồ xuống giường chạy ra ngoài cởi then cài. Anh Tử cầm đèn lồng đi vào trong phòng, nàng đặt đèn lồng trên bàn, giúp Đỗ Văn Hạo mặc quần áo.

Anh Tử nói: "Thiếu gia của ta ơi, người tóc tai bù xù như vậy đi ra ngoài. Bên ngoài trời tối om như vậy nhất định sẽ hù doạ người khác. Hơn nữa để như vậy không tiện cho luyện võ. Thiếu gia hãy để nô tỳ búi tóc lại, chậm trễ cũng không sao".

Anh Tử sừng sộ kéo Đỗ Văn Hạo ngồi xuống. Nàng cùng Liên nhi giúp hắn trải đầu. Trong tiếng giục giã của Đỗ Văn Hạo nàng vội vàng búi tóc: "Thôi tạm thời cứ như vậy. Sau khi luyện kiếm xong, nô tỳ sẽ giúp thiếu gia trải đầu lại".

Đỗ Văn Hạo vội vàng ra khỏi tiểu viện của Liên nhi. Anh Tử đứng ở bên ngoài nhìn thấy dáng vẻ của hắn cười hỏi: "Nhìn dáng vẻ lôi thôi của chàng này. Anh Tử hầu hạ chàng như vậy sao?"

"Không không. Không thể trách Anh Tử. Là ta dậy muộn, ta sợ nàng chờ lâu sốt ruột nên mới làm qua quýt như vậy" Dựa vào ánh sáng của chiếc đèn lồng treo ở cửa ra vào, Đỗ Văn Hạo nhìn thấy trán Lâm Thanh Đại lấm tấm mồ hôi, hắn ngạc nhiên hỏi: "Chẳng lẽ nàng đã luyện rồi sao?"

"Ừ. Có luyện một lát. Bình thường canh bốn thiếp đã thức dậy luyện công".

"Ai! Nàng đều luỵên một canh giờ sao? Ta không thể dậy sớm như vậy".

"Chàng dậy sớm vậy làm gì? Đây là thói quen từ nhỏ của thiếp. Dù sao chàng cứchỉ luyện kiếm, không cần dậy sớm. Canh năm dậy là được rồi. Luyện nửa canh giờ. Rửa mặt. Đi vào triều".

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: "Sau này tới canh năm nàng cũng không cần tới gọi ta. Nàng cứ chờ ta ở rừng trúc hậu viện. Ta ngủ dậy sẽ tới đó".

"Được. Đi thôi".

Hai người đi tới rừng trúc hậu viện, Đỗ Văn Hạo bắt đầu được Lâm Thanh Đại truyền dạy kiếm pháp.

Lần trước Đỗ Văn Hạo đã học xong căn bản của Phân thân thác cốt thủ. Tố chất cơ thể hắn cũng tốt, lĩnh ngộ nhanh. Sau nửa canh giờ hắn đã có thể đại khái nuốt cả quả táo "nuốt cả quả táo; ăn tươi nuốt sống; nuốt chửng (ví với việc tiếp thu không có chọn lọc)" bộ kiếm pháp sau này sẽ từ từ luyện tập.

Sau khi Đỗ Văn Hạo quay về phòng, Anh Tử hầu hạ hắn rửa mặt, thay quan bào, ăn sáng. Anh Tử tiễn hắn rời khỏi trang viện. Khi ra tới cổng chính, đội thân binh đã đang đợi hắn ở đó.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn cỗ kiệu đặt ở ngay cửa ra vào, cau mày nói với đội trưởng đội thân binh Hứa Văn Cường: "Bây giờ ta là võ tướng, không phải là quan văn, sẽ không ngồi kiệu, phải tập tư duy của võ tướng, phải làm từ việc nhỏ trở đi. Sau này ta xuất môn, không phải trường hợp đặc biệt tất cả đều chuẩn bị ngựa. Thay ngựa!".

"Dạ!" Hứa Văn Cường khom người trả lời. Hắn vội vàng phân công người đi chuẩn bị ngựa.

Chiến mã của Đỗ Văn Hạo được thắng yên cương nhanh chóng được đưa tới. Đỗ Văn Hạo liếc nhìn quan bào trên người, lại cảm thấy không tự nhiên. Quan bào là áo dài của quan văn, cưỡi ngựa rất khó nhưng mà bây giờ đổi quan phục không còn kịp. Hắn quay đầu nhìn Anh Tử nói: "Nhớ kỹ Thiếu gia ta sau này là Đại tướng quân phải mặc nhung trang, không mặc quan bào của quan văn".

Anh Tử vội vàng trả lời.

Đỗ Văn Hạo nhảy lên ngựa, giật cương, giục ngựa bước trên con đường lát đá xanh đi thẳng tới nha môn Tể tướng trong Hoàng cung, cũng là Trung thư tỉnh nha môn.

Mặc dù triều Tống có tam tỉnh ( tam tỉnh là chế độ quan chế tam tỉnh. Bắt đầu vào triều Tuỳ, hoàn thiện vào đời Đường. triều Tống tiếp tục sử dụng. Tam tỉnh là Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh và Thượng thư tỉnh, phân chia nhau khởi thảo chiếu thư, xét duyệt chiếu thư cùng chấp hành chính lệnh, có tác dụng phòng ngừa việc lộng quyền của một cá nhân ở một mức độ nào đó ) nhưng không còn như tam tỉnh như triều Đường. Trung thư tỉnh nắm quyền lực tối cao, ở trong Hoàng cung. Môn hạ và Thượng thư tỉnh không còn quyền quyết định những vấn đề quan trọng, nha môn bị chuyển ra ngoài Hoàng cung.

Đỗ Văn Hạo và đội thân binh cận vệ dừng lại bên ngoài cửa nha môn Tể tướng. Sau khi hắn xuống ngựa, binh lính canh gác ngoài cửa lập tức chào hắn theo nghi thức quân đội.

Đỗ Văn Hạo ngẩng đầu nhìn. Nha môn Tể tướng này quả thực cũng xoàng xĩnh. Dù ngoài cửa trông cũng quyền thế nhưng quá cổ kính. Nước sơn trên cánh cửa đã bong từng mảng, trông không khác gì ngôi miếu Long vương.

Viên quan trực cung kính dẫn Đỗ Văn Hạo vào trong. Sau khi bước qua cổng , qua cửa Thuỳ hoa (một kiểu cửa trong kiến trúc nhà thời xưa, trên có mái, bốn góc buông bốn trụ lửng, đỉnh trụ chạm trổ sơn màu) thì chính là một đại viện theo kiểu Tứ Hợp Viện. Ở chính giữa đại sảnh có treo một tấm biển, sơn đen chữ vàng: "Chính sự đường".

Xung quanh đại viện là hành lang. Hai bên là hai dãy phòng làm việc dài. Bên trong phòng tuy có rường cột chạm chổ ( ví như nhà hoa lệ ) nhưng đều rất cổ xưa. Nếu so với các thiết bị lắp đặt trong những ngôi nhà cao tầng tráng lệ của xã hội hiện đại thì quả thực khác nhau một trời một vực.

Ý một ý giải thích thì quan lại thời cổ đại là "Người đầy tớ của nhân dân". Ít nhất suy nghĩ này mạnh mẽ hơn so với thời hiện đại ở văn phòng làm việc. Thời cổ đại chú trọng "quan không tu sửa nha môn'. Thứ nhất không làm hao tổn tiền bạc cho những hạng mục này. Thứ hai là đặc điểm của tính lưu động xuất quan lại ( quan lại ở kinh thành bị điều về các địa phương làm quan ). Đặc biệt là các quan lại trung cao cấp, theo quy định ba năm chuyển đổi nhiệm vụ một lần. Nhưng trên thực tế còn ít hơn quy định này, chỉ một, hai năm đã thay đổi nhiệm sở, giống như đèn kéo quân vậy. Ngay khi tu sửa nha môn đẹp đẽ, chưa kịp ngồi hưởng thụ đã lại nhấc mông rời khỏi vì vậy không ai muốn bỏ tiền túi ra tu sửa để người khác ngồi hưởng.

Xuyên quan đại sảnh, bước lên bậc thềm chính là Chính sự đường. Hai tên lính đang canh gác cung kính chào theo nghi thức quân đội, vén màn trướng lên, Đỗ Văn Hạo bước vào nội đường.

Treo ở chính giữa đại đường là một bức tranh tiên hạc. Hai bên treo câu đối. Bên dưới, chính giữa đại đường có hai chiếc ghế làm bằng gỗ mun, phía trước là một chiếc bàn tứ phương cũng làm bằng gỗ mun.

Hai bên đại đường đều có bày ba chiếc ghế gỗ mun, cạnh ghế đều có bàn trà hình chữ nhật, cũng làm bằng gỗ mun.

Hai bên trái phải của cửa ra vào có đặt chéo một cái bàn dài cùng với hai chiếc ghế. Bên phải có hai người đang ngồi, trước mặt có giấy bút, nghiên mực, xem dáng vẻ chính là quan lại ghi chép nội dung cuộc họp. Bên kia để không, chắc là để dành cho người báo cáo.

Bên dưới cửa sổ của hai bên đại điện cũng đều đặt hai hàng ghế, chắc là để cho người ngồi dự thính, những chiếc ghế này để trống. Cửa sổ của ba mặt đều đóng chặt, có khá nhiều cửa sổ, trong phòng cũng nhiều ánh sáng.

Tể tướng Vương Giai đang ngồi trên chiếc ghế bên trái đại đường. Chiếc ghế bên phải vẫn để không. Chủ nhân của nó vẫn chưa tới. Người đó nhất định là hữu Tể tướng Thái Xác.

Trong hai hàng ghế hai bên, ghế đầu hàng bên trái vẫn trống. Ngồi nở ghế chính giữa là tả thừa Thượng thư Thái Biện, ngồi cuối cùng là hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý.

Ngồi ở ghế đầu bên phải là Xu Mật viện sứ Hàn Chuẩn, ghế chính giữa không có ai ngồi. Ngồi ở ghế cuối chính là phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi.

Vương Giai trông thấy Đỗ Văn Hạo bước vào. ông ta đứng dậy, khẽ cúi người chắp tay thi lễ nói: "Đỗ tướng quân tới".

Đỗ Văn Hạo vội vàng bước lên trước, chắp tay thi lễ nói: "Tể tướng đại nhân đến sớm".

"Ha ha. Mời tướng quân ngồi" Vương Giai ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo ngồi ở ghế chính giữa bên phải.

Người ngồi đầu tiên bên phải là Hàn Chuẩn. Ông ta là Viện sứ Xu Mật viện, tòng nhất phẩm. Đỗ Văn Hạo là Đô Kiểm Điểm, chính nhị phẩm, thấp hơn một bậc. Mặc dù tam nha và Xu Mật viện đều là hai nha môn lãnh đạo quân đội nhưng cấp bậc không giống nhau. Xu Mật viện cao hơn một bậc so với tam nha. Đỗ Văn Hạo trở thành tam nha Đô Kiểm Điềm, Thái Hoàng Thái Hậu coi trọng nhân tình nên mới nâng hắn lên một bậc, nếu không thì phải kém hai bậc. Lâm Hi tuy là phó sứ Xu Mật Viện, đồng cấp với Đỗ Văn Hạo đều là chính nhị phẩm nhưng Đỗ Văn Hạo là quan chủ sự, ông ta chỉ là tá quan nên đương nhiên phải xếp sau.

Đỗ Văn Hạo chắp tay thi lễ với tử thừa Thượng thư Thái Biện, hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý rồi mới ngồi xuống.

Không ai trên đại điện nói lời nào, đương nhiên Đỗ Văn Hạo cũng không nói gì cả. Đợi một lát thì Môn hạ thị lang Chương Hoàng tới sau đó tới hữu Tể tướng Thái Xác cũng tới.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 408: Tiền nhiều cứ đốt (1+2).

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Ngay khi hai người ngồi xuống. Tể tướng Vương Giai chắp tay về phía Hoàng cung, cất giọng khàn khàn nói: "Chư vị. Hôm qua tân đế kế vị. Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm nhiếp chính, cũng đã qua thời gian xử lý việc tang của tiên đế và cao tổ Thái Hoàng Thái Hậu. Thái Hoàng Thái Hậu ý chỉ cho Thái đại nhân và bản tướng cùng giải quyết việc quân chính với nhị vị Vương gia. Tạm thời áp dụng biện pháp xử lý nhưng có rất nhiều sự tình không thể kịp thời xử lý vì vậy có rất nhiều chuyện xử lý chậm trễ. Vì vậy hôm nay mời các vị dự hội nghị này xử lý gấp gáp một số chuyện. Những chuyện còn lại sẽ xử lý ở hội nghị thường kỳ. Chương trình hôm nay…" Vương Giai nhìn lướt qua tờ giấy trên bàn nói tiếp: "Sẽ xử lý sáu công việc".

Hạng mục thảo luận thứ nhất là do bộ Hộ đưa ra. Tân Đế mới đăng cơ, đề nghị miễn trừ các khoản thuế ruộng trong sau năm, bày tỏ Hoàng ân. Hạng mục thảo luận thứ hai cũng do bộ Hộ đưa ra để cùng nhau thương nghị. Năm trước nạn đói ở Hà Đông, lũ lụt ở Hà Bắc, phá huỷ vô số nhà cửa tài sản của trăm họ. Lương thực cứu giúp thiên tai vẫn không đủ. Bộ Hộ đề nghị cấp thêm gạo tiền để cứu giúp nạn thiên tai.

Vương Giai nói: "Hãy gọi người bộ Hộ vào đi".

Viên ký lục ( giống như thư ký ) ngồi ở cạnh cửa trả lời rồi đứng dậy đi ra ngoài. Một lát sau Thượng thư bộ Hộ cùng hai viên quan tiến vào, thi lễ và ngồi xuống.

Tân Hoàng Đế mới đăng cơ, đại xá thiên hạ chỉ là một cách làm thông thường. Nội dung của đặc xá bao gồm đặc xá hay giảm bớt tội cho những người phạm tội, miễn cả thu thuê lao dịch vì vậy vấn đề thứ nhất không có gì cần phải thảo luận, nhanh chóng được thông qua.

Tiếp đó Thượng thư bộ Hộ trình bày đơn giản tình hình thiên tai sau đó hai viên quan đọc kế hoạch cứu giúp tiền và lương thực.

Sau khi nghe đọc xong Vương Giai nói: "Chư vị hãy cho ý kiến".

Chiếu theo quy củ, ngoại trừ hai vị Tể tướng, sau người còn lại phát biểu ý kiến không cần theo trình tự. Sau khi Thái Xác phát biểu xong, Vương Giai sẽ tổng kết lại các ý kiến. Đỗ Văn Hạo không muốn lên tiếng trước. Hắn nghĩ trước hết phải nghe xem những người khác nói gì.

Phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi lên tiếng trước tiên. Sau một hồi xúc động, ông ta tỏ vẻ đồng ý. Sau đó tới tả thừa Thượng thư Thái Biện, hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý tất cả trước tiên lên giọng rồi cuối cùng tỏ vẻ đồng ý. Thượng thư bộ Hộ định lên tiếng, lúc này Đỗ Văn Hạo mới phát biểu. Hắn nói đơn giản, nông dân dựa vào ông trời kiếm miếng cơm, một khi bị đại nạn như vậy nên ít nhất một năm không có lương ăn, đương nhiên nên phải giúp đỡ nạn dân sau đó cũng theo những người trước, hắn lên giọng quan trên mấy câu rồi cũng đồng ý. Cuối cùng Thái Xác mới lên tiếng, Vương Giai tổng kết lại, nhất trí kế hoạch bổ sung cứu giúp nạn dân thiên tai.

Vấn đề thứ ba là Thượng thư bộ Lễ báo cáo, dự tính tổ chức "Khôn thành tiết" mừng sinh nhật của Thái Hoàng Thái Hậu. Vấn đề này tất nhiên không có bất kỳ dị nghị nào, nhanh chóng được thông qua.

Vấn đề thứ tư là bộ Lại đưa ra. Dự thảo lựa chọn người cho hai vị trí Công bộ thị lang và Hình bộ thị lang. Vấn đề này gây ra tranh luận rất lớn. Đỗ Văn Hạo thờ ơ lạnh nhạt, Vương Giai một phái, Thái Xác một phái. Nhưng vấn đề là phe Thái Xác chiếm đa số, phe Thái Xác đồng ý với ý viên do bộ Lại đưa ra. Cuối cùng số ít phục tùng đa số, đồng ý với lựa chọn cho hai vị trí mà bộ Lại đưa ra.

Vấn đề thứ năm là quân sự Hoàn Khánh Kinh lược ti báo cáo việc quân tình khẩn cấp. Kỵ binh Tây Hạ nhiều lần xâm chiếm vùng biên giới Hoàn Khánh, cướp phá, giết người cướp của, mấy ngàn dân chúng vùng biên giới bị giết, tuy bị quân Đại Tống đánh lui nhưng chúng rút rồi quay lại, binh lực của chúng lại đa số là kỵ binh. Quân Tống mấy lần bố trí mai phục nhưng đều không thể tiêu diệt, thỉnh triều đình phái đại quân đánh dẹp.

Nói đến quân sự cả Tể chấp đều trầm mặc, hoàn toàn khác với việc đỏ mặt tía tai tranh cãi với nhau về nhân sự của hai vị trí thị lang. Tất cả đều bưng ché trà, chậm rãi uống tựa hồ như đang suy nghĩ nhưng thật ra lại đang nhìn hướng gió.

Hai lần Vương Giai lên tiếng yêu cầu mọi người cho ý kiến nhưng không ai lên tiến, ông ta đành chỉ định: "Hàn đại nhân, Xu Mật viện của đại nhân trong coi việc quân sự. Trước tiên xin mời cao kiến của đại nhân".

Lúc này Hàn Chuẩn mới ho khan một tiếng nói: "Việc Tây Hạ xâm phạm biên giới chúng ta cũng không phải là chuyện hiếm có gì chỉ có điều lần này quy mô khá lớn, thiệt hại nghiêm trọng, giết hại mấy ngàn dân chúng vùng biên giới của ta. Nếu không đánh dẹp, dân chúng vùng biên không thể nào an cư lạc nghiệp, cũng làm Tây Hạ coi thường Đại Tống chúng ta. Nhưng sau trận chiến thành Vĩnh Nhạc, nguyên khí quân ta tổn thượng nặng nề, tới nay vẫn chưa hồi phục. Nếu như lúc này tuỳ tiện phái binh chinh phạt, chưa nói tới chuyện hoạ vô đơn chí, cũng khó có thể nói tới chuyện chắc thắng hay không. Chỉ e khi quân Tây Hạ nghe tin đại quân chúng ta tiến tới liền bỏ chạy. Chờ khi quân ta rút về, chúng lại quay lại tập kích quấy rối. Vòng đi vòng lại cuối cùng cũng thế mà thôi".

phó Sứ Xu Mật viện Lâm Hi cũng phụ hoạ: "Không tới lúc vạn bất đắc dĩ không nên phát động can qua. Đại Tống ta cùng Tây Hạ chiến tranh mười năm, quân ta liên tiếp thất bại. Đặc biệt cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc, quân ta đại tổn thương nguyên khí. Ty chức cho rằng với tình hình trước mắt của Đại Tống ta, thực sự không thể tái chiến".

Gương mặt Thái Xác lộ vẻ buồn bực nói: "Ý của nhị vị là Đại Tống chúng ta để mặc cho quân Tây Hạ cướp bóc giết người dân chúng vùng biên cương sao?"

Hàn Chuẩn, Lâm Hi liếc nhìn nhau. Hàn Chuẩn cười nói: "Ty chức không có ý này".

"Vậy theo ý kiến của Hàn đại nhân chúng ta phải làm thế nào?'

"Ty chức cho rằng. Đại Tống ta từ lúc khai quốc đã chinh chiến hai mươi năm với Đại Liêu, không thể đánh thắng. Chân Tông hoàng đế với hiệp ước Thiền Uyên, dùng hai mươi vạn tiền một năm đổi lấy sự bình an trên trăm năm của biên cương, cũng tiết kiệm được rất nhiều quân phí. Bốn mươi năm trước, Đại Tống cùng Tây Hạ cũng vốn kết chuyện Tần Tấn, tiền tiến cống hàng năm đổi lấy sự bình yên biên giới trong hơn hai mươi năm. Trước khi gây chiến lại, tại sao không thương nghị với Tây Hạ, dùng tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bình an?"

Thái Xác cười âm trầm, ông ta nghiêm nghị nhìn lướt qua mấy văn thần bên trái hỏi: "Ý của ba vị thế nào?'

Môn hạ thị lang Chương Hoàng chắp tay nói: "Ty chức cho rằng Hàn Xu Mật cùng Lâm phó sứ nói tuy có uất nghẹn nhưng cũng chỉ là hành động bất đắc dĩ. Nếu như có thể dùng hơn mười vạn bạc mỗi năm đổi lấy sự bình yên nơi biên cương, tránh việc phải động binh đao, đó chính là thượng sách".

"Ty chức cũng cho rằng ba vị đại nhân nói rất đúng" Tả thừa Thượng thư Thái Biện liếc nhìn Đỗ Văn Hạo, thản nhiên nói: "Quân ta yếu, không đánh lại kẻ thù vậy còn biện pháp nào không? Chỉ trách bản thân không có bản lãnh, quân đội không thể đánh trận thì không nên gây chiến tranh tránh cho việc tiêu hao một lượng lớn vật tư, mồ hôi và máu của dân chúng. Hãy để dùng cho việc khác".

Hoàng Lý nói: "Đúng vậy quốc khố hao tổn mà không giải quyết được việc gì. Hoạ nhũng binh, quân đội suy nhược lâu ngày".

Thái Xác cau mày nói: "Thương nghị chuyện có dụng binh hay không với Tây Hạ, kéo theo những chuyện kia làm gì?'

Hoàng Lý vội nói: "Dạ dạ. Ty chức cũng đồng ý với cao kiến của mấy vị đại nhân. Không đánh mà có thể khuất phục người khác chính là thiện chi thiện giả vậy ( ý muốn nói đánh trăm trận, thắng cả trăm trận khuất phục người khác vẫn không được coi là cao minh nhất. Không đánh trận vẫn khuất phục được kẻ thù mới được coi là cao minh trong cao minh). Dùng tiền tiến cống hàng năm đổi lấy việc lui binh của Tây Hạ, không hẳn đã là thượng sách. Có lẽ Tây Hạ không vừa lòng với số lượng hơn mười vạn lượng, muốn nhiều hơn số đó. Ty chức cho rằng chỉ cần làm cho Tây Hạ một lần nữa lui binh, dân chúng biên cương lại được an cư lạc nghiệp vậy cũng không thể không làm. Dù sao hơn mười vạn lượng đối với Đại Tống chúng ta mà nói chỉ như là chín trâu mất một sợi lông mà thôi. Hàng năm chinh chiến hao tổn lương tiền còn vượt xa số lượng này".

Thái Xác quay đầu lại nói với Vương Giai: "Vương Tể tướng, ý của bản tướng cũng như vậy. Không bằng chúng ta thỉnh Hoàng Thượng, không thỉnh Thái Hoàng Thái Hậu cử sứ thần sang hoà đàm, dùng hai, ba mươi vạn lạng đổi lấy việc Tây Hạ bãi binh".

Vương Giai nhìn Thái Xác cười nhạt nói: "Hình như Đỗ tướng quân còn chưa phát biểu cao kiến".

Thái Xác ngẩn người, lúc này ông ta mới nhớ ra Tể Chấp còn một vị tam nha Đô Kiểm Điểm. Từ trước tới giờ người này vẫn một mực không lên tiếng. Ông ta xấu hổ, cười áy náy nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Đỗ tướng quân, tướng quân có cao kiến gì không? Khụ khụ, đúng rồi. tướng quân mới vào Tể chấp, năm nay tuổi nhược quán, chỉ e không hiểu nhiều lắm về mười năm chinh chiến trước đây giữa Đại Tống và Tây Hạ. Chắc tướng quân cũng hiểu phân tích lúc trước của mấy vị đại nhân. Hy vọng tướng quân cẩn thận cân nhắc, tránh hành động theo cảm tính. Tướng quân cho rằng Đại Tống chúng ta có nên dùng tiền tiến cống hàng năm để đổi lấy việc lui binh của quân Tây Hạ không?"

"Tiền nhiều cứ đốt" Đỗ Văn Hạo hừ nhạt một tiếng nói.

Lập tức sắc mặt mọi người có vẻ tức giận, lắp bắp kinh hãi.

Xu Mật viện Hàn Chuẩn lên tiếng chất vấn: "Đỗ tướng quân, chỉ e những lời này của tướng quân không ổn. Tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bình yên chính là do Chân Tông hoàng đế là người mở đầu. Việc này đã duy trì sự bình an trăm năm của biên giới Tống Liêu. Nhân Tông hoàng đế cũng noi theo Chân Tông hoàng đế dùng tiền tiến cống hàng năm đổi lấy sự bình an mấy chục năm của biên giới Tống Hạ. Chẳng lẽ hai tiên đế có nhiều tiền nên đốt sao?"

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Hôm qua, Thái Hoàng Thái Hậu truyền hỏi ty chức về chiến tranh Tống Liêu và chiến tranh Tống Hạ, có bình luận về việc tiến cống hàng năm đổi lấy hoà bình, người còn gọi đây là nỗi nhục của nước mất chủ quyền.

Thái Hoàng Thái Hậu từng chất vấn: Hai nước giao chiến. Hai bên đều cần hoà bình. Tại sao lần nào cũng là Đại Tống chúng ta dùng tiền đổi lấy hoà bình để đối phương bãi binh? Vì sao không phải bọn họ dùng tiền đổi lấy hoà bình để chúng ta bãi binh? Hay ít nhất cũng bình đẳng là hai bên cùng bãi binh. Hàng năm chúng ta dùng hai, ba mươi vạn lạng tiến cống cho chúng. Đây không phải là nhiều tiền đốt đi thì là cái gì? Điều ước đó có tính là ngang hàng không? Không phải là nỗi nhục nước mất chủ quyền là gì?"

"Ngươi!" Môn hạ thị lang Chương Thận đứng dậy, chỉ tay vào Đỗ Văn Hạo nói: "Ngươi lại dám nói xấu Chân Tông, Nhân Tông ký hiệp ước với Liêu, Hạ. Đây là nỗi nhục nước mất chủ quyền sao? Hay hay hay. Bản quan không thể không vạch tội ngươi tội đại bất kính".

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: "Tại hạ cho rằng Tể chấp là thảo luận chính sự. Mọi người vốn có thể thoải mái phát biểu ý iến của mình, thì ra vẫn còn có người núp ở đây, đánh bằng gậy, chụp mũ, bắt thóp người khác, nịnh bợ. Ha ha ha. Thật sự được mở rộng tầm mất. Ha ha ha".

Chương Hoàng tiến lên một bước, chỉ tay vào mặt Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: "Tể chấp thảo luận chính sự, tất nhiên có thể nói thoải mái nhưng không thể làm nhục tiên đế. Ngươi không phải mắc tội đại bất kính thì là cái gì?"

Đỗ Văn Hạo vẫn ung dung ngồi tại chỗ nói: "Chương đại nhân hãy bình tĩnh, chớ nóng vội. Đại nhân hãy nghe rõ những lời này không phải tại hạ nói, là Thái Hoàng Thái Hậu nói. Thái Hoàng Thái Hậu cũng chỉ nói hai hiệp ước này là nỗi nhục nước mất chủ quyền, chưa nói gì về tiên đế. Những lời tại hạ mới nói chẳng qua là truyền đạt lại lời của Thái Hoàng Thái Hậu mà thôi. Nếu như đại nhân không phục, muốn chất vấn, sao không tới chất vấn Thái Hoàng Thái Hậu?'

Lập tức Chương Hoàng hoảng sợ. Ông ta suy nghĩ một chút. Quả thực vừa rồi Đỗ Văn Hạo có nói đó là lời của Thái Hoàng Thái Hậu. Nhưng ông ta lại nghe như chính là Đỗ Văn Hạo nói ý kiến của mình. Chương Hoàng nóng lòng không lắng nghe cẩn thận, liền làm khó dễ nên bây giờ ở vào thế cưỡi lưng cọp.

"Chương đại nhân bớt giận. Có chuyện gì cứ từ từ nói" Hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý đứng dậy, kéo Chương Hoàng ngồi xuống ghế của mình, ông ta nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Thái Hoàng Thái Hậu nói đương nhiên là có lý. Việc nhục quốc thể hay không vẫn còn chưa nói được nhưng thật ra trong lòng mọi người đều hiểu rõ. Tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bãi binh ở một mức độ nào đó quả thật có làm tổn hại tới sự uy nghi của Đại Tống. Nhưng còn biện pháp nào khác không? Tướng quân muốn Đại Liêu và Tây Hạ xuất tiền ra sao? Đại Liêu và Tây Hạ là hai nước man di, cũng chỉ bởi vì nghèo hèn, không có tiền, thấy Đại Tống chúng ta phồng hoa thì tối mắt, xuất binh xuôi nam đánh cướp. Bọn chúng nguyện ý xưng đệ, nguyện ý xưng thần, ngược lại chúng ta bỏ ra một ít tiền, cũng không hẳn là không được. Cần gì phải phóng đại tới mức nỗi nhục nước mất chủ quyền?"

Tả thừa Thượng thư Thái Biện ở bên cạnh cười nhạt nói: "Tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bình an quả thực là làm nhục sự uy nghiêm của Đại Tống. Nhưng vấn đề là trăm vạn đại quân chúng ta đánh không lại chúng. Không tốn tiền thì phải làm gì đây? Tiếp tục đánh sao? Tất cả quốc khố thu được đều ném vào đó để cho suy sụp sao? Tất cả tiền thuế đều là tiền mồ hôi nước mắt của dân chúng đều quẳng vào cái túi không đáy đó sao?"

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Tại hạ đã được nghe nhiều chuyện hai nước giao chiến, thất bại đầu hàng, chuyện cắt đất, bồi thường tiền bạc cũng nghe rất nhiều. Trong lòng mọi người cũng hiểu rõ tiền tiến cống hàng năm chính là đền tiền. Lấy nỗi nhục quốc thể đổi lấy hoà bình, cũng chỉ như so với người vong quốc không còn nơi đi. Tại hạ nghĩ rằng đại đa số người trong hàng ngàn hàng vạn con dân Đại Tống chúng ta đều nguyện ý chết đứng còn hơn sống quỳ. Vấn đề chỉ là trong số đó có chư vị đại thần hay không?"

"Ngươi! Ngươi chỉ là một tiểu nhi hoàng mao sao dám ăn nói lỗ mãng?" Mấy người Thái Biện, Hoàng Lý giận tím mặt, đứng bật dậy như muốn gây sự.

Tể tướng Vương Giai đập tay xuống bàn quát: "Thôi được rồi. Ầm ĩ cái gì?"

Vương Giai là Tể tướng đầu triều, ai dám chống lại. Hai người Thái Biện lập tức phẫn nộ ngồi xuống ghế, cười nhạt, dáng vẻ lạnh nhạt.

Vương Giai liếc nhìn mọi người nói: "Chúng ta sẽ không thảo luận chuyện dùng tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bình yên có phải là nỗi nhục nước mất chủ quyền hay không. chuyện này Thái Hoàng Thái Hậu đã nói, chúng ta vẫn còn nghị luận đúng sai thì chính là đang bất kính".

Vương Giai vừa mới nói mấy câu này,. sắc mặt mấy người Thái Biện, Hoàng Lý đều thay đổi.

Vương Giai ho nhẹ hai tiếng, ông ta quay đầu nhìn Thái Xác nói: "Thái Tể tướng, Đỗ tướng quân đã nghĩ việc dùng tiền tiến cống hàng năm không ổn. Tại sao chúng ta không nghe cao kiến của Đỗ tướng quân?"

Thái Xác nói: "Đúng vậy. Nếu Đỗ tướng quân không đồng ý với ý kiến của chúng ta, tướng quân hãy nói cao kiến của mình".

Đỗ Văn Hạo không nóng mà cũng chẳng lạnh nhạt, hắn chắp tay nói: "Cao kiến thì không có, chỉ có thấp kiến. Tại hạ không nói đạo lý lớn. Dù sao Đại Tống chúng ta cũng là một nước lớn, cũng không nên phải chủ động cầu hoà với Tây Hạ. Không phải Tây Hạ dùng chiến thuật du kích vận động chiến sao? Không phải chúng ta không thể đối phó với chiến thuật đó. Tại hạ nói có đúng không? Đại Tống ta dân giàu nước mạnh, muốn đối phó với loại xung đột biên giới quy mô nhỏ này, căn bản là không khó. Còn Tây Hạ thì sao? Cụ thể về năng lực nhân lực của Tây Hạ tại hạ không rõ lắm nhưng tại hạ dám khẳng định tuyệt đối Tây Hạ còn lâu mới bằng chúng ta. Đánh kéo dài nhất định chúng sẽ suy sụp, thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ thuộc về chúng ta. Chiến thuật này gọi là đánh trường kỳ".

Lần đầu tiên mọi người nghe thấy cụm từ "đánh trường kỳ" nên ai cũng nhìn hắn vẻ dò xét.

Thái Biện ho khan rồi nói: "Đỗ tướng quân lại muốn dùng thời gian mấy chục năm chiến tranh cùng cảnh nhà tan cửa nát, chết chóc của dân chúng vùng biên để kiểm nghiệm việc Đại Tống có thể thắng Tây Hạ sao?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Chúng ta không chọn chiến tranh nhưng chúng ta tuyệt đối không e ngại chiến tranh. Nếu như người khác mang chiến tranh áp đặt cho chúng ta, chúng ta chỉ còn cách nghênh chiến, tuyệt đối không thể quỳ gối đầu hàng, cũng không thể cắt đất, đền tiền nhục quốc thể. Có một việc tại hạ muốn tiết lộ sớm cho chư vị đại nhân. Hôm qua Thái Hoàng Thái Hậu đã trao quyền cho ty chức tiến hành điều tra kỹ lưỡng quân đội Đại Tống, tìm ra biện pháp cải cách chấn chỉnh quân đội. Thái Hoàng Thái Hậu cực kỳ thất vọng đối với tình trạng hiện nay của quân đội Đại Tống, người đã hạ quyết tâm chỉnh đốn".

phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi cười nhạt một tiếng nói nhỏ: "Việc chỉnh đốn quân đội không phải hôm nay mới bắt đầu làm".

Ánh mắt Đỗ Văn Hạo sáng như điện, hắn nhìn chằm chằm vào Lâm Hi nói: "Hình như Lâm đại nhân không tán đồng với chủ kiến chỉnh đốn quân đội của Thái Hoàng Thái Hậu?"

"Không dám!" Lâm Hi xấu hổ, ông ta chắp tay nói: "Ty chức chỉ bàn luận về sự việc. Quân đội Đại Tống có không ít tật xấu, đương nhiên phải chỉnh đốn. Tiên đế đã làm, Thái Hoàng Thái Hậu lại tiếp tục thực hiện điều này. Đây đương nhiên là chuyện tốt. Tại hạ không có ý kiến gì. Tại hạ chỉ nói…".

Vương Giai nói: "Thế này đi. Trước hết xin mời Đỗ đại nhân nói ra ý kiến của mình. Các chư vị đại nhân sẽ phát biểu ý kiến của mình sau".

Đỗ Văn Hạo nói: "Được. Ý kiến của tại hạ rất đơn giản. Địch nhân đang đè đầu cưỡi cổ chúng ta. Nếu chúng ta vẫn còn có thể nhẫn nhịn thì không còn là người. Nhất định phải đánh cuộc chiến này. Đây ót nhất là bày tỏ thái độ".

Hàn Chuẩn lạnh lùng nói: "Liên tiếp thất bại, còn muốn đánh sao? Đánh chỉ chuốc lấy nhục mà thôi".

Giọng nói của Đỗ Văn Hạo càng thêm lạnh như băng: "Làm một người lính, liên tiếp thất bại cũng không đáng sợ. Điều đáng sợ nhất là thất bại rồi không dám đánh tiếp. Từ thời thượng cổ tới nay không có thường thắng tướng quân. Bách chiến bách thắng chẳng qua chỉ là một lý tưởng. Nên biết chuyện thắng bại là chuyện thường nhà binh. Chỉ có người có ý chí chiến đấu ngoan cường, thắng không kiêu, bại không nản mới có thể có chiến thắng cuối cùng. Lưu Bang thắng Hạng Vũ cũng chính ở điểm này".

"Đã hiểu" Hàn Chuẩn vuốt chòm râu bạc của mình, ông ta thản nhiên nói: "Người tuổi trẻ còn không hiểu thời thế, ngạo mạn khinh người, khó tránh khỏi xúc động. Chờ khi tới tuổi của ta đây".

Đột nhiên Đỗ Văn Hạo đập tay xuống bàn, hắn đứng bật dậy, lạnh lùng nói: "Nếu không chăm lo việc nước, chỉ sợ là bản thân ta không đợi được tới lúc râu hoa tóc bạc như đại nhân thì Đại Tống đã mất rồi".

Những lời này chẳng khác nào tiếng sấm. Tất cả mọi người đều sợ ngây người. "Mất nước" hai từ này không ai dám nói lung tung.

Nhưng Đỗ Văn Hạo hiểu rõ bốn mươi năm sau Bắc Tống sẽ bị Đại Kim tiêu diệt. Thời gian còn lại của Bắc Tống không còn nhiều lắm. Bây giờ hắn nhìn thấy đám quan văn này sợ hãi rụt đầu rụt cổ khi phải đối mặt với một cuộc xung đột quy mô lớn ở biên giới, chỉ nghĩ tới việc dùng tiền mua yên bình thì không thể nhẫn nhịn được, rốt cuộc hắn đã phát tiết, hắn nói như liên thanh: "Giết một vạn kẻ thù, tổn thất ba nghìn. Trận chiến thành Vĩnh Nhạc, quân ta đại bại, chết hai mươi vạn quân. Điều này ai cũng biết. nhưng Tây Hạ thì sao? Có ai biết chúng như thế nào không?"

Hàn Chuẩn cười nhạt nói: "Bọn chúng? Bọn chúng chiến thắng nên đương nhiên dương dương tự đắc".

"Sai rồi! Bọn chúng cũng phải liếm máu trên vết thương. Theo như tại hạ biết. Cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc, tổng số chết của quân và dân Tây Hạ cũng tuyệt đối không ít hơn con số hai mươi vạn. Bởi vì ngay bên cạnh tại hạ có không ít tướng sĩ đã từng tây chinh Tây Hạ, kể cả tam nha phó Đô Chỉ Huy Sứ, Lý Phố Đại tướng quân, năm đó chính là tướng tiên phong đánh thẳng một mạch tới kinh thành Tây Hạ. Các vị có biết không? Năm đó quân ta tấn công đã sử dụng vũ khí truyền bá bệnh dịch. Loại vũ khí này có thể tạo thành dịch bệnh lưu hành trong phạm vi rộng vì thế quân dân Tây Hạ chết rất nhiều, thi thể ngổn ngang khắp nơi. Sau đó quân Tây Hạ chỉ có phòng thủ mà không chiến chính là vì lý do này. Quân ta có thể tấn công thần tốc tiến thẳng tới kinh thành Tây Hạ. Khi quân ta tiến tới một địa phương nào đó, cho dù là thành trấn hay nông thôn. Những gì có thể chở về thì đều chở về, những gì không thể chở về thì đều tiêu huỷ, đã tiêu huỷ rất nhiều thành trấn. Một nửa đất nước Tây Hạ vì trận chiến này mà bị phá huỷ tan hoang. Không biết chư vị đại nhân có biết điều này không?"

Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Tất cả chỉ đều là quan văn, kể cả Viện sứ Xu Mật viện Hàn Chuẩn cùng phó sứ Lâm Hi, rất giỏi việc bẻ cong luật pháp làm bừa dối trá nhưng không hiểu gì về quân sự, chỉ biết là Đại Tống thảm bại, ngoại trừ việc theo Tống Thần Tông đám ngực khóc lóc, thoá mạ quân đội vô năng, đương nhiên không ngiên cứu những thảm hoạ chiến tranh bên ngoài nên cũng mờ mịt không biết điều này.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 409: Dùng sở trường khắc sở đoản. (1+2).

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Quả thực mấy người Thái Xác chỉ là quan văn.

Tất cả đã bị những thất bại liên tiếp khi chinh chiến với Tây Hạ làm hoảng sợ.

Phản ứng đầu tiên chính là hoà đàm, cùng lắm cũng chỉ căm hận chửi mắng quân đội vô năng một trận. Dù có thể nghĩ ra cách nhưng vẫn muốn dùng tiền để dàn xếp ổn thoả vì vậy cổ nhân mới có câu:

"Tú tài tạo phản, ba năm không thành".

Đúng vậy. Đây là cách giải thích là cách tốt nhất đối với những người như vậy.

Đương nhiên cũng không thiếu những quan văn có chí khí, cứng cỏi

Nhưng bọn họ chỉ có nhiệt huyết, không hiểu thế nào là thống lãnh quân đội đánh địch nên cũng chỉ phí công.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn tiếng gào thét bốn phía xung quanh nói: "Nguyên khí quân ta đại thương. Tại sao quân Tây Hạ không như vậy? Hai nước giao chiến với nhau, đánh tới cuối cùng vẫn chỉ là thực lực của quân đội, là thực lực của một đất nước hợp lại. Điều này giống như một gã mập và một người gầy đánh nhau. Cho dù gã mập trúng mấy quyền, nhưng rốt cuộc vì da dầy, mỡ nhiều nên vẫn chống lại được người gầy.

Người gầy sau khi trúng mấy quyền chỉ sợ xương cốt đã muốn gãy. Cuối cùng người gục ngã chỉ sợ chính là người gầy. Vì vậy trong cuộc chiến với Tây Hạ, chúng ta có thể đánh, phải đánh, hơn nữa nhất định có thể đánh thắng. Chỉ cần chúng ta chỉnh đốn tốt quân đội chúng ta, thành tinh binh, tương lai nhất định thắng lợi sẽ thuộc về chúng ta".

Chương Hoàng cười gượng nói: "Tại hạ không hiểu vì sao nhất định phải đánh với Tây Hạ?"

Thời đó kẻ thù chủ yếu của triều Tống chính là Đại Liêu và Tây Hạ. Bây giờ Đại Liêu và Đại Tống đã ký kết đồng minh.

Quan hệ của hai nước cũng khá tốt. Biên giới giữa hai nước cũng khá yên tĩnh.

Dựa vào sử sách Đỗ Văn Hạo đã biết trong tương lai không xa nước Đại Liêu sẽ bị nước Đại Kim tiêu diệt vì vậy hắn không cần hao tâm tổn trí đi đánh Đại Liêu. Hắn chỉ cần chờ Đại Kim quật khởi, chém giết Đại Liêu tới khi đó Đại Tống sẽ đóng vai ngư ông thủ lợi là được

Nhưng trước hết nhất định phải giải quyết Tây Hạ, giải trừ nỗi buồn phiền trong lòng, tập trung lực lượng đối phó với Đại Kim trong tương lai.

Mặc khác đánh Tây Hạ còn có một mục đích rất quan trọng. Đó chính là trường nuôi ngựa. Ở Trung Quốc cổ đại có hai nơi sở hữu cơ sở nuôi ngựa với quy mô lớn. Một nơi ở nước Liêu, một nơi chính là Đan sơn mã trường của Tây Hạ.

Sau khi trải qua một thánh chiến tranh với người Thổ Phiên, Đỗ Văn Hạo đã nhận thức một cách xâu sắc rằng ở thời cổ đại muốn thành lập một đội quân có sức mạnh tấn công thì không thể thiếu kỵ binh.

Con đường tiến tới binh cường của quân đội Đại Tống có một trở ngại. Đó là thiếu chiến mã.

Vì vậy Đỗ Văn Hạo muốn đoạt lấy ít nhất một trong hai nơi nuôi ngựa này.

Nếu so sánh với nhau, trường nuôi ngựa của Tây Hạ tốt hơn nhiều so với trường nuôi ngựa của Đại Liêu.

Bởi vậy phải đánh cuộc chiến với Tây Hạ. Hơn nữa nhất định phải đánh sớm, giải quyết sớm.

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo không thể nói cho những người ở đây biết trong tương lai Đại Liêu sẽ bị Đại Kim tiêu diệt.

Đỗ Văn Hạo đường hoàng nói: "Mở rộng biên giới lãnh thổ quốc gia chính là bổn phận của chúng ta.

Nhìn vào bản đồ Đại Tống chúng ta chẳng lẽ chư vị đại nhân không thấy xấu hổ sao?

Hơn nữa bây giờ Tây Hạ tấn công chúng ta, không phải chúng ta chủ động tấn công, khơi mào chiến tranh. Đối mặt với cuộc tấn công của Tây Hạ, chúng ta còn có sự lựa chọn khác sao? Chúng ta chỉ còn cách hăm hở đánh một trận bảo vệ quốc gia".

"Đỗ tướng quân nói sai rồi" Hàn Chuẩn lúc lắc đầu giống như chiếc trống lắc, ông ta cười khẩy nói: "Có thể dùng tiền để giải quyết sự việc này, tại sao lại muốn hy sinh tính mạng của ngàn vạn tướng sĩ?"

"Câm miệng!" Đỗ Văn Hạo nghiêm nghị cắt ngang lời của Hàn Chuẩn. Hắn quay người nhìn chằm chằm vào Hàn Chuẩn, hai mắt trợn tròn, vung tay nói: "Tại hạ vừa mới nói Thái Hoàng Thái Hậu đã trao quyền cho tại hạ định ra con đường xây dựng binh cường. Thái Hoàng Thái Hậu có nói người nhất quyết không thể tha thứ cho việc tiếp tục cống tiến hàng năm.

Nhất quyết không thể tiếp tục dùng tiền đổi lấy bình an. Thái Hoàng Thái Hậu nói tiền nhiều cầm đi nghịch nước cũng nhất định không mang đi mua lấy sỉ nhục. Thái Hoàng Thái Hậu còn nói chỉ có loại người không có cốt khí nhuyễn đản mới đi khúm núm cầu hoà ( ý mắng chửi là người không dám đứng thẳng người làm việc ).

Một khi muốn cầu hoà thì phải làm cho chúng cầu hoà với chúng ta. Là bọn chúng phải tiến cống tiền hàng năm để chúng ta lui binh. Đây mới là vương đạo. Đây mới là quân uy, quốc y của một thượng quốc".Nếu luận về tranh luận, tài ăn nói, mỗi một quan văn đang ngồi ở đây đều trên cơ Đỗ Văn Hạo, đương nhiên là không phục lời nói của Đỗ Văn Hạo. Nhưng vấn đề là Đỗ Văn Hạo câu trước Thái Hoàng Thái Hậu, câu sau lại Thái Hoàng Thái Hậu.

Sau khi dựa vào lời nói của Thái Hoàng Thái Hậu, thêm mắm thêm muối nói một hơi, cuối cùng ngay chính Đỗ Văn Hạo cũng không biết câu nào là nguyên văn của Thái Hoàng Thái Hậu, câu nào chính là suy nghĩ của hắn.

Những câu nói của hắn khi người khác nghe vào tai mình lại trở thành của Thái Hoàng Thái Hậu.

Những viên quan này cũng biết Đỗ Văn Hạo là người tâm phúc bên cạnh Thái Hoàng Thái Hậu, một bước tiến thẳng từ quan Đề Hình tứ phẩm lên tới tam nha Đô Kiểm Điểm, hơn nữa vì hắn mà Thái Hoàng Thái Hậu mở rộng Tể chấp, một tiền lệ chưa từng có.

Chỉ dựa vào điều này đã đủ hiểu phân lượng của Đỗ Văn Hạo trong con mắt Thái Hoàng Thái Hậu. Đương nhiên không một ai dám nghi ngờ những lời này không phải là của Thái Hoàng Thái Hậu, cho dù vẫn đoán rằng bên trong có một chút cường điệu.

Nhưng cơ bản là không sai nên ai nấy cũng lập tức trầm ngâm.

Đỗ Văn Hạo thuật lại lời nói của Thái Hoàng Thái Hậu, đã chỉ ra quan điểm cứng rắn của Thái Hoàng Thái Hậu trong việc chủ chiến hành động quân sự.

Ngày nay Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính. Ý chỉ của nàng chính là thánh chỉ. Đó là quyết định cuối cùng.

Cho dù có tài ăn nói đám quan văn này cũng không dám phân cao thấp với Thái Hoàng Thái Hậu.

Nhất là đối với biến pháp, Thái Hoàng Thái Hậu là thủ lĩnh của phái bảo thủ. Trong khi đó ngoại trừ Vương Giai và Đỗ Văn Hạo, tất cả những đại thần trong này đều thuộc phái biến pháp. Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính, những đại thần này còn có thể ngồi ngây ngốc ở đây hay không còn phải dựa vào sắc mặt của nàng.

Có ai dám làm trái lại ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu không? Trừ phi người đó không muốn cái mũ ô sa của mình.

Đối với những người trong này, chức vị lãnh đạo tối cao của Tể chấp vẫn là quan trọng nhất.

Không đáng vì một trận đánh với Tây Hạ ở biên giới mà làm cho Thái Hoàng Thái Hậu khó chịu hùng tâm binh cường của

Nhưng lúc trước lời nói của mấy người đều quá kiêu căng.

Đặc biệt là Chương Hoàng và Hoàng Lý còn phản đối gay gắt Đỗ Văn Hạo, lúc này đột nhiên muốn thay đổi thái độ, xuống thang khá nhiều.

Lúc này Vương Giai mới ho khen một tiếng nói: "Tuy Thái Hoàng Thái Hậu là nữ lưu nhưng lại có ý chí kiên định không khoan nhượng của đấng mày râu. Lão hủ đã nhiều lần được thụ giáo hùng tâm tráng chí nước giàu binh cường của người.

Nếu chúng ta bẩm báo phương án hoà đàm nộp tiền tiến cống hàng năm, không nói việc có thể bị trả lại mà chỉ e còn khiến Thái Hoàng Thái Hậu nổi giận" Dù Vương Giai không có ra mặt trực tiếp ủng hộ Đỗ Văn Hạo nhưng những lời nói của ông ta trực tiếp tỏ thái độ đó một cách rõ ràng. Hơn nữa ông ta còn chỉ ra vấn đề mấu chốt, ý tứ rất rõ ràng. Mặc dù Thái Hoàng Thái Hậu là nữ lưu, bản tính mềm yếu nhưng đó chỉ là sự mềm yếu bề ngoài. Dù sao bây giờ Thái Hoàng Thái Hậu đang nắm quyền, muốn tạo nên một sự nghiệp, đang trong lúc tinh thần hứng khởi. Lúc này đừng có ai nghĩ tới chuyện gây phiền phức với Thái Hoàng Thái Hậu. Một khi như vậy thì đừng nghĩ tới ngồi ở vị trí này nữa. Nhất định Thái Hoàng Thái Hậu sẽ bỏ cũ thay mới.

Hữu Tể tướng Thái Xác chính là người nắm bắt tình hình nhanh nhất. Ông ta chắp tay nói: "Đỗ tướng quân nói rất đúng. Quân ta thiếu ý chí quyết thắng khi thất bại liên tiếp. Dân cư và quân đội Đại Tống chúng ta gấp vô số lân so với Tây Hạ. Gạo và tiền thuế thu được cũng nhiều hơn gấp mười lần. Chúng ta hao tổn nhiều, bọn chúng còn hao tổn tới mức không chịu nổi.

Chiến tranh là do chúng áp đặt lên chúng ta, không phải là sự lựa chọn của chúng ta. Chúng ta cũng không còn sự lựa chọn nào khác, chỉ còn có thể đánh trận này.

Thà làm ngọc vỡ, không làm ngói lành. Bản tướng đồng ý với đề nghị xuất binh đánh dẹp của Đỗ tướng quân" Sự thay đổi của Thái Xác khiến mấy người Hàn Chuẩn có phần xấu hổ nhưng sở trường của những người này đều là a dua theo người khác, thấy gió trong đại điện đã đổi chiều, lập tức sắc mặt cũng thay đổi, thể hiện lòng căm phẫn tột độ.

Môn hạ thị lang Chương Hoàng nói vẻ căm hận: "Đúng vậy. Thà rằng chết vinh còn hơn sống quỳ. Có thể nhẫn cũng không thể nhẫn. Ty chức tán thành ý kiến của Đỗ tướng quân xuất binh tử chiến với Tây Hạ"

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên. Người này trở mặt thực sự còn nhanh hơn mở sách. Lúc trước ông ta còn chỉ thẳng vào mặt hắn bác bỏ ý kiến của hắn. Trong nháy mắt đã thay đổi đồng ý với hắn.

Rất am hiểu nghệ thuật làm quan, quả thực rất bội phục.

Hàn Chuẩn cũng thực sự quá quen thuộc với chuyện gió xoay chiều, cảm giác xấu hổ trong nháy mắt đã nhường chỗ cho một dáng vẻ căm hận, ông ta lên tiếng phụ hoạ: "Đúng vậy. Quân Tây Hạ xâm phạm biên giới của ta. Kế sách hoà đàm chỉ như là nuôi hổ trong nhà.

Bản quan vốn cho rằng quân ta suy yếu, chỉ e xuất binh không dễ đánh thắng nên mới đề nghị hoà đàm. Nhưng khi nghe Đỗ tướng quân nói Tây Hạ cũng bị nội thương chồng chất, càng không thể gánh chịu chiến tranh hơn so với chúng ta. Nếu một khi tiếp tục chiến tranh Tây Hạ tất không chịu nổi mà chủ động đề nghị đàm phán. Khi đó chúng ta không những huỷ bỏ được tiền tiến cống hàng năm mà có lẽ còn có thể đắc lợi cũng không chừng. Vì vậy bản quan cũng đồng ý với ý kiến của Đỗ tướng quân".

Ba người Thái Xác đã chuyển hướng, đương nhiên ba người còn lại cũng phải chạy theo. Tất cả đều căm phẫn mắng Tây Hạ, quyết tâm tử chiến với Tây Hạ.

Kết quả này có phần vượt qua dự đoán của Đỗ Văn Hạo nhưng lại làm hắn rất cao hứng, hắn cười vui vẻ, chắp tay nói: "Chư vị đại nhân. Trên phương diện chiến lược chúng ta coi thường kẻ thù nhưng trên phương diện chiến thuật chúng ta nhất định phải coi trọng kẻ thù. Nói thật bây giờ chúng ta vẫn chưa có năng lực thực sự để đánh bại hoàn toàn Tây Hạ vì vậy bây giờ vẫn chưa phải là lúc tử chiến một trận với Tây Hạ, chưa cần phải mở rộng quy mô, cùng phạm vi xung đột. Chúng ta chỉ cần tiến hành phản kích ở những nơi quân Tây Hạ xâm lấn, không cần phải tiến hành phản kích trên diện rộng".

Vương Giai mỉm cười, gật đầu nói: "Theo ý kiến của tướng quân, trận chiến này chúng ta nên đánh thế nào?"

"Ty chức cho rằng quân Tây Hạ dùng kỵ binh tiến hành tập kích quấy rối, bắt người cướp của ở biên giới. Lúc trước quân ta chỉ muốn truy kích kỵ binh quân địch muốn tiêu diệt chúng nhưng dùng bộ binh truy kích kỵ binh Tây Hạ thì quả là không thể tưởng tượng nổi. Đây chính là dùng sở đoán đấu với sở trường. Cũng giống như kiểu gậy ông lại đập lưng ông".

Hàn Chuẩn hỏi: "Ý của Đỗ tướng quân là dùng kỵ binh truy kích kỵ binh Tây Hạ sao? Chỉ e là không thể làm được. Hiện tại kỵ binh chúng ta không thể nào bén gót kỵ binh Tây Hạ".

"Cũng không phải" Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: "Nếu dùng kỵ binh đấu kỵ binh chúng ta sẽ gặp bất lợi, cũng là dùng sở đoản đấu sở trường.

Nhưng bộ binh của chúng ta lại mạnh hơn quân Tây Hạ. Ít nhất chúng ta cũng nhiều quân hơn chúng. Đây chính là ưu thế của chúng ta. Trước kia chúng ta không tận dụng đầy đủ ưu thế này của mình. Khi tấn công luôn chia ra mấy đường cùng tiến.

Làm như vậy cũng có chỗ tốt chính là khắp núi đồi tràn ngập quân của chúng ta, trông rất hoành tráng nhưng hiệu quả thực sự thì sao?"

Những đại thần Tể chấp này gần như đều không có kinh nghiệm cầm quân tác chiến nên đều im lặng chăm chú lắng nghe.

Dù sao Đỗ Văn Hạo người ta tốt xấu gì cũng có một lần cầm quân đánh quân Thổ Phiên, hơn nữa còn là thắng lợi lấy ít địch nhiều nên kinh nghiệm tác chiến của hắn nói ra vẫn có sức thuyết phục.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn tất cả mọi người trong đại điện rồi nói tiếp: "Hiệu quả đương nhiên là quá tệ.

Chúng ta chia quân ra mấy đường cùng tiến, bản thân sẽ lọt vào giữa kẻ thù. Tuy tổng binh lực của kẻ thù kém hơn nhiều so với chúng ta.

Nhưng mà đại bộ phận quân đội của chúng đều là kỵ binh, chúng có ưu thế tốc độ, có thể nhanh chóng tập trung binh lực, hình thành cục diện ưu thế về mặt binh lực, liên tiếp tấn công trên đường, tiến hành tiêu diệt từng bộ phận của chúng ta.

Cuộc chiến Kỳ Câu quan là một minh chứng tốt nhất. Lúc đó quân ta chia binh làm ba đường bắc tiến. Quân Liêu tập trung binh lực mạnh hơn đánh lộ quân phía đông trước, quân ta đại bại, làm toàn bộ phòng tuyến thất bại theo. Mặt khác cuộc chiến Linh Châu mấy năm trước với quân Tây Hạ cũng thế. Chúng ta chia binh ra làm năm đường. Quân Tây Hạ tập trung ưu thế binh lực, đánh từng đường một, tiêu diệt từng bộ phận quân ta".

Vào triều Tống khi dụng binh chú trọng "Tương tòng trung ngự'. Tất cả kế hoạch tác chiến đều do triều đình "bế môn tạo xa" (nhắm mắt làm liều; xa rời thực tế; đóng cửa làm xe không quan sát đường sá - ví với chỉ theo ý chủ quan của mình mà làm việc, không cần biết đến thực tế khách quan) hoạch định trước, thậm chí còn cẩn thận lập ra bản đồ tác chiến.

Công việc này đôi khi còn do Hoàng Đế đích thân thảo ra.

Sau khi bản kế hoach tác chiến được lập ra, giao cho tướng chỉ huy để bọn họ mang tới tuyền tuyến chấp hành.

Vào thời cổ đại việc thông tin liên lạc vô cùng lạc hậu. Đối với loại hình bố trí chiến thuật, phương thức tác chiến tưởng tượng này giống như là mò trăng đáy nước. Trong khi đó thống soái ra trận lại chủ yếu là quan văn không hiểu quân sự, chỉ biết tuân theo kế hoạch tác chiến đó một cách mù quáng.

Khi quân đội hai bên tác chiến với nhau, xuất hiện vô số tình huống bất ngờ, quân tình thay đổi trong nháy mắt. Dù là thiên tài quân sự cũng không có khả năng dự đoán. Chỉ có thể căn cứ vào tình hình quân sự trước mắt để định ra kế hoạch tác chiến phù hợp vì vậy mới có câu ngạn ngữ: "Tướng ở bên ngoài có thể không tuân theo quân lệnh".

Nhưng bình thường những thống soái lãnh binh của Đại Tống không dám làm trái chiến thuật, kế hoạch tác chiến do đích thân Hoàng Đế định ra, tuân theo một cách cứng nhắc. Đây cũng chính là nguyên nhân quân Tống hễ ra trận là thất bại. Trong việc dụng binh với Tây Hạ, kế hoạch tác chiến với Tây Hạ thường do Xu Mật viện định ra.

Đối với cuộc chiến Linh Châu với Tây Hạ, khi đó Hàn Chuẩn mới nhậm chức Viện sứ Xu Mật viện ba tháng, đích thân chủ trì lập kế hoạch tác chiến.

Việc chia binh thành năm lộ cũng là ý của ông ta. ông ta thấy Đỗ Văn Hạo chê bai điều đó nên nóng mặt, cười gượng nói: "Thì ra Đỗ tướng quân cũng rất am hiểu binh pháp. Bội phục, bội phục! Chắc hẳn đã trải qua Võ Học sao? Đọc qua những binh thư tinh hoa nhất sao?".

"Võ Học" ở đây theo như lời Hàn Chuẩn nói chính là viện dạy tri thức quân sự do triều đình Bắc Tống thiết lập.

Đỗ Văn Hạo không vì bản thân mình chưa học qua quân sự mà không dám lãnh binh tác chiến. Triều Đại Thanh từng có rất nhiều tướng soái lừng danh không trải qua bất kỳ một hệ thống quân sự nào, càng không học qua binh pháp gì cả.

Chiến thuật bọn họ sử dụng phần lớn đến từ chính bộ sách "Tam Quốc Diễn Nghĩa', cũng như thu thập kinh nghiệm tác chiến trong quá trình chiến đấu lâu dài.

Vì thế tri thức tác chiến quân sự cũng không nhất thiết phải học tập qua sách vở, binh pháp ở trường, cũng có thể thu hoạch thông qua các cuốn truyện khác nhau.

Ở xã hội hiện đại, bùng nổ tri thức. Có thể học hỏi được bất kỳ tri thức quân sự nào. Ví dụ có thể thông qua các quyển sách về đề tài chiến tranh, các tin tức đưa trên ti vi, đặc biệt là hai cuộc chiến tranh thế giới có quy mô toàn thế giới, có thể thu lượm được rất nhiều tri thức quân sự từ đó. Muốn tìm hiểu cũng không mấy khó khăn. Một khi tiếp xúc với những trận đánh điển hình nhiều lần, có thể hiểu rõ cách dùng binh.

Vì thế nói chỉ nói đơn thuần trong việc bàn luận về tri thức quân sự, Đỗ Văn Hạo tuyệt đối hiểu biết hơn rất nhiều so với bất kỳ vị Đại tướng nào của Đại Tống.

Vì vậy khi Đỗ Văn Hạo nghe Hàn Chuẩn nói mấy câu mỉa mai đó, hắn cũng không tức giận. Hắn thản nhiên nói: "Tại hạ chưa học qua Võ Học, cũng không hiểu binh pháp nhưng mà cũng không chưa ăn thịt heo cũng đã thấy lợn chạy qua ( Đây là câu tục ngữ ý nói: Một người dù không tự mình trải qua một sự việc nhưng được nghe nói nên cũng hiểu chút ít )

Bên cạnh tại hạ có hơn mười tướng sĩ đã từng tác chiến với quân Tây Hạ. Tại hạ thường xuyên nghe bọn họ giảng giải kinh nghiệm tác chiến cũng có hiểu được một ít.

Khi Thái Hoàng Thái Hậu đề bạt tại hạ làm tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, vì để không làm nhục sứ mạng của mình, tại hạ đã rành thời gian một tháng cẩn thận nghiên cứu qua những trận đánh điển hình của quân ta cùng quân Đại Liêu và quân Tây Hạ.

Vì vậy tại hạ có hiểu được cái được cái mất của các bên. Đây chỉ là một số kiến giải vụng về của tại hạ".

Tể tướng Vương Giai nói: "Đỗ tướng quân quá khiêm nhường. Bây giờ Đỗ tướng quân là Đại tướng nổi danh cả nước. Năm trước lãnh binh đã lấy ít thắng nhiều, tiêu diệt hoàn toàn hai vạn quân Thổ Phiên. Khi đó tin chiến thắng báo cề, cả nước chung vui".

Vương Giai quay đầu nhìn Hàn Chuẩn, vuốt chòm râu bạc trắng cười nhạt nói: "Vừa rôi nghe Hàn đại nhân nói mới biết thì ra Hàn đại nhân cũng đọc qua binh thư, am hiểu tường tận binh pháp. Không biết Hàn đại nhân đã từng lãnh binh đánh trận chưa? Tiêu diệt được bao nhiêu quân Tây Hạ?"

Lập tức gương mặt già nua của Hàn Chuẩn đỏ ửng lên, nhưng ông ta không dám phản ứng với Tể tướng Vương Giai, chỉ biết cười ngượng ngùng, thở dài nói: "Thật hổ thẹn. Ty chức chưa từng cầm quân. Ty chức luôn tán thưởng chiến công của Đỗ tướng quân. Khi nghe qua Đỗ tướng quân nói vậy, trong lòng lại càng kính nể Đỗ tướng quân".

"Ha ha ha" Vương Giai đã có ước định với Đỗ Văn Hạo, gả nữ nhi bảo bối của mình được xưng là đệ nhất mỹ nữ kinh thành cho Đỗ Văn Hạo.

Bây giờ chuyện này người trong toàn kinh thành cũng biết, giờ nhìn thấy nhạc phụ tương lai che chở cho con rể của mình, đương nhiên không ai dám ăn nói lỗ mãng với Đỗ Văn Hạo.

Vương Giai mỉm cười nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Đỗ tướng quân, theo ý kiến của tướng quân, lần này xuất binh nên dùng cách gì để khác chế quân Tây Hạ?"

"Dùng sở trường của mình khắc sở đoản của địch".

"Cái gì là sở trường của quân ta? Sở đoản của quân Tây Hạ là gì?"

"Quân ta đông, số lượng vượt gấp nhiều lần tổng binh lực quân Tây Hạ, binh nhiều tướng mạnh.

Lương thảo của quân ta cũng nhiều, hậu cần đảm bảo hơn quân Tây Hạ.

Những ưu thế này của quân ta lại là những nhược điểm của quân Tây Hạ. Ngoại trừ việc số lượng binh lực của quân Tây Hạ thua xa rất nhiều quân ta. Đối với các tướng sĩ quân Tây Hạ tham gia tác chiến với quân ta, hậu cần quân Tây Hạ gần như không đảm bảo nổi. Kỵ binh cũng như bộ binh của chúng gần như đều không có cung cấp lương thảo. Trong quân của chúng có kỵ binh chuyên môn phụ trách việc toả ra bốn phía đánh cướp lương thảo, cỏ cho ngựa để cung ứng lương thảo cho đại quân.

Một khi gặp phải địch nhân dùng chiến thuật vườn không nhà trống, quân Tây Hạ sẽ không thể nào duy trì được việc tác chiến liên tục.

Vì vậy bình thường quân Tây Hạ đều chọn phương pháp dụ địch nhân xâm nhập để tiêu diệt mà không chủ động tiến quân thần tốc.

Đương nhiên sau khi thắng lợi chúng sẽ nhân cơ hội tiến vào nội địa nước ta, đánh cướp một hồi rồi mới ngang nhiên quay về".

'Ừ. Phân tích rất có lý. Bình thường quân Tây Hạ đánh cướp, chúng có xâm nhập sâu vào nội địa nước ta không?"

"Căn cứ vào việc phân tích những trận tác chiến điển hình của quân ta và quân Tây Hạ thì thấy chúng sẽ không xâm nhập vượt quá một trăm dặm.

Đây chính là giới hạn xâm nhập rành cho chiến mã của chúng.

Bởi vì một khi vượt qua giới hạn này, một khi không tìm thấy lương thảo, đồng thời bị quân địch quấy rối, không thể nào kịp thời thoát thân thì rất có thể sẽ mất sức chiến đấu vì mất lương thảo. Điều này quả thực rất nguy hiểm".

Tất cả mọi người đều gật đầu. Thật ra không phải tất cả mọi người ở đây đều không biết hai đặc điểm này.

Tể chấp chủ yếu là quan tâm tới yếu tố chiến lược. Bọn họ rất ít khi quan tâm tới những vấn đề nhỏ nhặt này.

Nghe Đỗ Văn Hạo nói bọn họ cảm thấy rất mới lạ.

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: "Nhằm vào đặc điểm này của quân Tây Hạ. Nguyên tắc cơ bản của chiến thuật quân ta có hai điều: Thứ nhất là tư tưởng. Phải thông báo cho toàn thể tướng sĩ từ trên xuống dưới, tất cả đều phải hiểu rõ tư tưởng đánh lâu dài, ngăn chặn tư tưởng mạo hiểm tốc chiến tốc thắng nguy hiểm. Thứ hai thực hiện vườn không nhà trống. Di dời toàn bộ dân chúng dọc theo tuyến biên giới tác chiến trong phạm vi một trăm dặm vào nội địa. Tất cả những gì có thể ăn, có thể xử dụng đều phải chở đi khiến quân Tây Hạ tới mà không cướp được lương thảo. Điều thứ ba của chiến thuật là kiên quyết dùng chiến thuật thành luỹ như tằm ăn rỗi. Bức quân Tây Hạ không thể quyết chiến chính diện với chúng ta. Khi đó sẽ giống như ván cờ tàn.

Chiến thuật đánh ráp lá cà làm hao tổn thực lực, rơi vào thế phải liều mạng nhưng cuối cùng chúng tất phải đầu hàng chúng ta".

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 410:Tân biến pháp . (1+2).

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Đương nhiên mấy người Thái Xác không hiểu từ "chiến tranh thành luỹ" mà Đỗ Văn Hạo nói nên đều quay mặt nhìn hắn.

Thái Xác nói: "Đỗ tướng quân. Nếu như là chiến tranh kéo dài, chúng ta tổn thất nhiều quá chỉ e Thái Hoàng Thái Hậu sẽ không đồng ý".

Đỗ Văn Hạo nói: "Đó là đương nhiên. Chúng ta không e ngại lâm vào chiến tranh nhưng chúng ta cũng muốn tận dụng khả năng để tránh chiến tranh.

Bởi vì bây giờ chúng ta còn chưa nắm chắc sẽ thắng nên mới không mở rộng chiến tranh, muốn dùng chiến hoà. Có nghĩa là trong thời gian tác chiến nếu quân Tây Hạ đưa ra đề nghị hoà đàm, chúng ta có thể để chúng tới biên giới đàm phán, đồng thời lại dùng thắng lợi trên chiến trường, buộc chúng nhượng bộ. Điều này gọi là chiến hoà".

Chiêu này của Đỗ Văn Hạo đương nhiên học được qua chiến tranh Triều Tiên.

Nghe vậy mọi người đều gật đầu.

Hàn Chuẩn vuốt râu nói: "Đỗ tướng quân. Theo như lời tướng quân nói lúc trước.

Hai chiến thuật đó lúc trước chiến tranh với quân Tây Hạ và Đại Liêu, quân ta đã thử dùng qua. Tướng quân đã nghiên cứu qua các trận đánh điển hình hẳn cũng biết hiệu quả cũng tạm được".

"Đó là bởi vì không có điều thứ ba" Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Trước kia chúng ta sử dụng chiến thuật vườn không nhà trống, tư tưởng cũng cường điệu là đánh lâu dài. Nhưng một khi xảy ra chiến trận, trước khi xuất trận tướng soái lãnh binh cực kỳ tin tưởng, chia binh tấn công.

Tất cả đều liều lĩnh tham công, nhìn thấy quân địch dễ dàng sụp đổ liền diễu võ dương oai cho là mình vô địch thiên hạ, dẫn quân đánh sâu vào nội địa mà không biết là mình bị quân thù dẫn dụ xâm nhập.

Kết quả là bị kẻ thù tập trung ưu thế binh lực một trận tiêu diệt. Vấn đề mấu chốt của tại hạ chính là điều thứ ba. Chỉ có quán triệt thông suốt điều thứ ba, thực hiện tốt, kế sách vườn không nhà trống mới có tác dụng".

Phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi nói: "Đỗ tướng quân. Hai điểm trước của tướng quân chúng ta đều có thể hiểu. Điểm cuối cùng chiến tranh thành luỹ là có ý gì?

Tướng quân có thể giải thích kỹ lưỡng cụ thể áp dụng điều này không?"

Chiến thuật thành luỹ tằm ăn rỗi là Đỗ Văn Hạo đã học được trong thời kỳ chiến tranh cách mạng ruộng đất. Quốc Dân Đảng đã áp dụng thành công chiến thuật này trong lần thứ năm tấn công các khu Xô-Viết.

Đỗ Văn Hạo đã nhiều lần nghiên cứu kinh nghiệm tác chiến của Đại Tống với Tây Hạ. Hắn đã nhiều lần tự hỏi nếu như mình chỉ huy tác chiến cùng Tây Hạ thì sẽ áp dụng chiến thuật tác chiến như thế nào.

Giờ đây khi hắn đã bước vào Tể chấp, có quyền quyết định, đương nhiên sẽ không khiêm nhường.

Hắn quyết tâm dùng chiến tranh cục bộ này để thử nghiệm tư tưởng chiến lược của mình có được tiến hành thông suốt hay không để chuẩn bị cho các chiến dịch quy mô lớn sau này.

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: "Đồng thời với việc làm vườn không nhà trống ở khu vực biên giới, sẽ xây dựng chiến trại ở biên giới. Mỗi chiến trại có một đô nhân mã trú đóng ( Tống binh biên chế mỗi đô là một trăm quân ), dùng hàng rào cự mã vây quanh chiến trại. Bốn phía xung quanh đào hào cự mã cùng công sự phòng ngự. Bên trong chiến trại chủ yếu sử dụng sàng nỏ bắn xa, thần tí cung ( Thần tí cung do Tống Thần Tông thời Bắc Tống phát minh, thân cung dài ba xích ba, dây cung dài hai xích năm, tầm bắn xa đạt tới hơn ba trăm bốn mươi thước, được mệnh danh là vũ khí không gì bì nổi, trở thành một trong những loại vũ khí trang bị cho quân cung nỏ của Đại Tống ) và cường nỗ. Tất nhiên cũng chuẩn bị Phong hoả đài đốt lửa báo hiệu. Tích trữ lương thảo và nước uống để dùng lâu dài.

Trong khi đó các chiến trại phân bố theo hình tam giác, hỗ trợ, dựa vào nhau. Mỗi toà chiến trại cách nhau năm trăm bước. Bởi vì tầm bắn của thần tí cung chúng ta ước chừng là hai trăm năm mươi bước ( chừng bă trăm tám mươi mét ) như vậy khi quân địch tiến vào tầm bắn có thể dùng hoả lực đan xen tiêu diệt".

Hoàng Lý hỏi: "Điều này chỉ e không ổn. Quân địch có thể dùng máy bắn đá cự ly xa công kích hay tập trung binh lực tấn công chiếm trại thì sao? Khi đó thì cần phảo làm gì?"

"Không nên nóng vội! Tại hạ vẫn chưa nói xong.

Đại đội binh lực của chúng ta bố trí ở một chỗ cách không xa tuyến chiến trại của chúng ta. Đội kỵ binh bố trí ở phía trước để có thể nhanh chóng phối hợp tác chiến. Đóng ở sau chính là đại đội binh lực.

Như vậy một khi chiến trại có địch quân tấn công, Phong hoả đầi đốt khói báo động làm hiệu.

Hậu quân sẽ lập tức tiếp viện, quyết chiến cùng quân địch.

Cần phải chú ý là hậu quân không được phân chia. Nhất định phải tập trung binh lực vào một chỗ. Nếu không rất có thể sẽ phạm phải sai lầm làm bừa.

Điểm chính của chiến thuật này chính là đánh bước nào củng cố bước ấy. Chiến trại như những chiếc vòi dài, vừa là thành luỹ tấn công, vừa là trạm gác tiền tiêu.

Đồng thời với sự hậu thuẫn của lực lượng bộ binh chiếm ưu thế, toàn tuyến chiến trại tấn công từng bước một, từng bước tiến mạnh về phía trước, bức quân địch không thể cùng quân ta quyết chiến chính diện, phát huy ưu thế binh nhiều tướng mạnh của quân ta, lấy nhiều đánh ít.

Nếu như quân địch bỏ chạy, tuyệt đối không thể tiến hành truy kích bởi vì chúng ta thận trọng tiến lên phía trước. Đối với những hạng người liều lĩnh tham công, bất luận là có lập công hay không đều xử trảm theo quân pháp".

Đối với mọi người đây là lần đầu tiên nghe thấy loại chiến thuật này. Lâm Hi hỏi: "Vậy làm thế nào có thể tiến lên phía trước giống như tằm ăn rỗi?"

Quả thực Đỗ Văn Hạo cảm thấy nhức đầu: "Điều này rất đơn giản.

Chiến trại không phải là thành trì mà chỉ là hàng rào kỵ mã hình thành tường rào chướng ngại vật tạm thời, có thể di chuyển.

Chiến tuyến hình tam giác phân ra làm ba hàng.

Một hàng ở đỉnh phía trước, hai hàng phía sau. Hàng phía sau đồng loạt dỡ xuống di chuyển lên trên ít nhất hai tầm tên bắt đầu đống trại. Đồng thời đại đội binh lực bố trí phía sau bắt đầu nhổ trại tiến theo sau. Như vậy gọi là luân chuyển tiến lên phía trước.

Đây chính là từng bước xâm chiếm".

Thái Biện cười ha hả nói: "Mỗi một chiến trại bố trí một trăm quân. Cứ mỗi khoảng cách năm trăm bước bố trí một chiến trại. Xin hỏi Đỗ tướng quân. Biên giới Tây Hạ và Đại Tống chúng ta kéo dài mấy ngàn dặm. tướng quân định chuẩn bị bao nhiêu binh lực tác chiến? Chỉ e là một trăm vạn quân cũng không đủ? Ha ha. Tần Thuỷ Hoàng xây tường thành còn không vây hết Hoa Hạ lại"

"Chỉ cần thiết lập chiến trại ở các khu vực quan trọng là được" Trong khoảng thời gian này Đỗ Văn Hạo chuyên tâm nghiên cứu tình hình tác chiến Tây Hạ nên hắn đã tương đối quen thuộc với các địa phương xung yếu ở biên giới hai nước. Đỗ Văn Hạo sai thân binh mang lên một tấm bản đồ biên giới Tống Hạ.

Đỗ Văn Hạo mở bản đồ ra, chỉ vào vùng Hoàn Châu nói: "Đây là chiến trường giao chiến chủ yếu của quân ta và quân Tây Hạ. Từ chỗ này khoảng cách tới kinh thành Tây Hạ là gần nhất.

Chỉ cách phủ Hưng Khánh, kinh thành Tây Hạ có mấy trăm dặm. Chỉ cần giục ngựa giơ rôi trong hai ba ngày là tới chân thành kinh đô Tây Hạ. Vì thế chúng ta dùng Hoàn Châu làm căn cứ tổng hậu cần, tập trung toàn bộ vật tư chiến tranh ở đây. Binh lực cũng tập trung chủ yếu ở vùng này, biến vùng này thành vườn không nhà trống. Bắt đầu kiến tạo chiến tuyến chiến trại đầu tiên sau đó thận trọng tiến lên như tằm ăn rỗi".

Hàn Chuẩn hỏi: "Nếu như đẩy quân địch lui về các thành trấn thì sao? Nên làm gì để ép chúng bỏ thành trì?"

"Dùng vũ lực ép chúng bỏ thành".

Mọi người đưa mắt nhìn nhau, Lâm Hi lại hỏi: "Bức như thế nào?"

"Trước hết vây kín ba mặt, chỉ chừa đường lui ở cửa bắc, dùng đại pháo công thành và vũ khí công thành nhưng không được công thành.

Những nơi còn lại tiếp tục tiến lên phía trước.

Nếu như viện binh quân địch tới tiếp viện thì lại chính là vây điểm đánh viện binh.

Khi quân địch rút lui tuyệt đối không thể truy kích. Tiếp tục tiến lên phía trước như chiến thuật của quân ta.

Quân thủ thành nhìn thấy thành sắp bị bao vây chặt. Nhất định chúng sẽ chọn cách bỏ thành chạy trốn. Nếu chúng không bỏ trốn thì lập tức vây thành bốn xung quanh nhưng không được công thành.

Đến giây phút cuối cùng quân địch hoặc bị ép phải ra khỏi thành quyết chiến hay là đầu hàng. Thành thì bị phá".

Hàn Chuẩn suy nghĩ một lát rồi gật đầu nói: "Ta thấy phương án tiến lên trước từng bước có thể thực hiện được".

Đỗ Văn Hạo lại nói: "Chiến tuyến của quân ta thận trọng tiến lên phía trước. Mỗi lần chúng ta tiến lên trước một bước là một bước tiến gần tới kinh thành Tây Hạ. Tây Hạ sẽ càng khẩn trương hơn, sớm muộn sẽ bức được chúng quyết chiến cùng với quân ta.

Trong khi đó một khi tiến hành quyết chiến quy mô lớn, quân ta có thể phát huy tối đa ưu thế binh lực của mình.

Một khi chúng ta có thể tiêu diệt đại bộ phận quân Tây Hạ hay chiếm được kinh thành Tây Hạ, toàn bộ phòng tuyến Tây Hạ sẽ sụp đổ".

Thái Xác nói: "Kế hoạch tác chiến này của Đỗ tướng quân nghe rất mê người. Ha ha ha. Nhưng loại chiến thuật này quân ta chưa từng áp dụng bao giờ, cũng không biết hiệu quả tới mức nào".

Vương Giai nói: "Ta lại cảm thấy có thể làm được. Thận trọng, tiến tới đâu ăn chắc tới đó. Chiến thuật thành luỹ cùng với chiến tranh tằm ăn rỗi. Điều này có thể chậm rãi, từng bước một tiến lên phía trước.

Ít nhất còn an tâm hơn nhiều so với việc triệu tập hơn mười vạn quân tấn công quy mô lớn.

Ta tán thành chiến pháp này" Vương Giai là quan Tể tướng đầu triều. Ông ta đã tỏ thái độ tán thành, trong lòng những người khác cũng bắt đầu thầm cân nhắc.

* Sàng nỏ Thần tí cung cường nỏ

Tuy chiến pháp này của Đỗ Văn Hạo lần đầu tiên bọn họ nghe thấy. Nhưng tư tưởng cơ bản của chiến thuật này là lấy thủ làm công, thận trọng, chậm rãi tiến lên. Chiến thuật này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng chiến thuật phòng ngự truyền thống của quân đội Đại Tống, cũng có thể phát huy ưu thế phòng thủ truyền thống của quân Đại Tống nên bọn họ dễ dàng chấp nhân nên ai nấy cũng chậm rãi gật đầu.

Thái Xác mỉm cười nói: "Chiến pháp này mới lạ như vậy, chỉ e nếu để người khác lại không nắm bắt được điểm mấu chốt. Bản tướng tiến cử Đỗ tướng quân là binh mã Đại nguyên soái, thống nhất chỉ huy. Chẳng hay chư vị nghĩ thế nào?'

Đương nhiên tất cả mọi người đều lên tiếng đồng ý, kể cả Vương Giai cũng gật đầu nói: "Chi bằng hãy để Đỗ tướng quân toàn quyền phụ trách mới có thể đảm bảo chiến pháp này không bị biến dạng".

Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: "Ty chức đa tạ chư vị đại nhân tín nhiệm. Ty chức cung kính không bằng tuân lệnh, đảm nhiệm chức binh mã Đại nguyên soái của chiến dịch lần này.

Nhưng vấn đề là Thái Hoàng Thái Hậu đã lệnh cho ty chức tiến hành chỉnh đốn quân đội vì thế ty chức không thể ra tuyền tuyến trực tiếp chỉ huy tác chiến. Hơn nữa cũng nói thật ty chức chưa quen thuộc binh pháp, trực tiếp chỉ huy tác chiến chỉ e rất khó giành thắng lợi.

Tốt hơn hết vẫn nên bổ nhiệm một vị tổng chỉ huy mặt trận, cụ thể là phụ trách chỉ huy tác chiến ở tuyền tuyến".

Thái Xác nói: "Điều này chỉ sợ người khác rất khó có thể hiểu hết ý nghĩa tác chiến của tướng quân, khi đó sẽ xảy ra sự cố không hay".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Chỉ cần vị tổng chỉ huy mặt trận này bố trí tác chiến hoàn toàn dựa theo sắp đặt của ty chức là được. Bởi vì ý nghĩa tác chiến đã định hình. Trước tiên thiết lập cảnh vườn không nhà trống trong phạm vi một trăm dặm ở biên giới sau đó bắt đầu tiến hành kiến tạo tuyến chiến trại ở tuyến đầu, dùng cường nỏ cự địch, Phong hoả đài cảnh báo. Tuyến hai bố trí kỵ binh nhanh chóng phối hợp tác chiến. Tuyến ba bố trí đại đội binh lực chiếm ưu thế, chuẩn bị quyết chiến với quân địch.

Những vấn đề này tổng chỉ huy mặt trận chỉ cần bố trí đúng theo kế hoạch. Nơi nào cần xây dựng chiến trại, tổ chức tuyến hai. Địa điểm bố tí binh lực tuyến ba, quân địch tấn công thì ứng chiến thế nào.

Chỉ cần nhớ kỹ những điều này là có thể đẩy mạnh chiến thuật chiến trại vững bước tiến lên phía trước. Toàn bộ chiến tuyến chỉ có thể phòng thủ bị động, không được chủ động tấn công ra bên ngoài.

Phàm người nào liều lĩnh cho dù có đánh bại tiêu diệt quân địch thì cũng phải xử trảm. Đây chính là sự nghiêm minh của quân luật.

Tác chiến như vậy, nhiệm vụ tác chiến của tổng chỉ huy mặt trận sẽ tương đối đơn giản. Bình thường sẽ không phạm phải sai lầm lớn".

"Chư vị đại nhân nghĩ thế nào?" Vương Giai đã ước định hôn lễ của Đỗ Văn Hạo và nhi nữ bảo bối vào đầu tháng sáu. Đương nhiên lúc này ông ta không muốn để Đỗ Văn Hạo chạy ra tuyền tuyến chỉ huy tác chiến nên lập tức gật đầu nói: "Bản tướng cảm thấy Đỗ tướng quân nói rất đúng. Đỗ tướng quân phụ trách chỉnh đốn quân đội toàn diện. Đây chính là đại sự Thái Hoàng Thái Hậu quan tâm nhất.

Đặc điểm của chiến pháp này là thận trọng, vững chắc tiến lên trước, không liên quan tới chiến pháp phức tạp. Tướng soái bình thường cũng có thể đảm nhiệm được.

Nhưng cần phải có giám sát để tướng soái không thể liều lĩnh để tránh bị quân địch bao vây".

Thái Xác nói: "Chức vị tổng chỉ huy mặt trận này do ai đảm nhiệm?"

Vương Giai suy nghĩ một lát rồi nói: "Chức vụ tổng chỉ huy mặt trận hãy do Tư chính Đại học sĩ, Ngự sử trung thừa Lữ Công đẩm nhiệm, Tuyên Khánh sứ Lý Hiến làm giám quân".

Đỗ Văn Hạo chắp tay hỏi: "Tể tưướng đại nhân, xin hỏi Lữ Công đại nhân là quan văn hay là võ tướng?"

"Quan văn".

"Vậy còn Lý Hiến, người này đã từng cầm quân chưa?"

"Cũng đã từng cầm quân. Lần chinh chiến Tây Hạ trước đã từng đảm nhiệm chức giám quân".

Đỗ Văn Hạo cố gắn suy nghĩ để tìm ra từ diễn đạt phù hợp.

Hắn khom người nói: "Ty chức cho rằng khi đối địch dụng binh vẫn do võ tướng cầm quân thì tốt hơn.

Dù sao khi cầm quân tác chiến nhất định phải am hiểu binh pháp, quen thuộc quân sự. Chỉ có người tài năng hiểu được cách cầm quân mới có thể đảm nhiệm được".

Vương Giai và Thái Xác đưa mắt nhìn nhau. Thái Xác nói: "Đỗ tướng quân. Quan văn lãnh binh chính là di chiếu của Thái Tổ. Từ thời xưa đã vậy".

Đỗ Văn Hạo đã cẩn thận nghiên cứu qua cái được cái mất của chiến tranh Đại Tống với Tây Hạ và Đại Liêu nên hắn hiểu rất rõ. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến quân Tống thất bại liên tiếp. Đúng vậy phần lớn các cuộc chiến của Đại Tống đều do quan văn không hiểu quân sự cầm quân.

Nhưng mà nếu nói thẳng ra như vậy nhất định sẽ đắc tội với các đại thần trong Tể chấp. Hắn mới đặt chân vào Tể chấp nên chưa muốn đắc tội với quá nhiều người. Dù sao thì Tể chấp cũng quyết định sự việc theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số.

Vừa rồi những người này đã nhượng bộ, đồng ý với kế hoạch dụng binh của hắn.

Bọn họ còn đồng ý phương án tác chiến của hắn. Bây giờ giống như ngọn cờ no gió, hắn không thể vì việc này mà làm mối quan hệ thêm căng thẳng.

Hơn nữa kiến nghị vẫn chờ cha vợ tương lai là Vương Giai phát biểu.

Hắn lại càng không thể tranh cãi lại, chỉ có thể tìm đường khác giải quyết vấn đề này, nhất định phải tìm tới Thái Hoàng Thái Hậu để nàng thay đổi quyết định này.

Hàn Chuẩn lại nói: "Vậy cần phải xuất bao nhiêu binh lực?"

Tả thừa Thượng thư Thái Biện nói: "Đỗ tướng quân nói chiến thuật này chủ yếu dùng ưu thế binh lực làm hậu thuẫn. Vì vậy nếu xuất binh ít chỉ e không ổn. Ty chức cho rằng xuất năm vạn quân. Chư vị đại nhân nghĩ thế nào?"

Hàn Chuẩn nói: "Lấy quân binh lộ nào?"

Thái Biện nói: "Chiến sự xảy ra ở chính lộ Hoàn Khánh, đương nhiên là phải dùng toàn bộ binh lực lộ Hoàn Khánh. Hình như binh lực lộ Hoàn Khánh có cửu tướng phải không Đỗ tướng quân?"

Bản thân Đỗ Văn Hạo là tam nha Đô Kiểm Điểm, sau khi nhậm chức việc cấp bách đầu tiên là phải tìm hiểu việc bố trí binh lực trong cả nước. Vì vậy trong một tháng qua hắn đã tìm hiểu rất rõ ràng các lộ binh lực bố trí trong cả nước. Hắn liền gật đầu nói: "Thái đại nhân nói không sai. Hiện tại quân đội bố trí ở lộ Hoàn Khánh có cửu tướng cùng với hơn bảy vạn người. Hơn tám ngàn chiến mã. Chỉ có điều trong số đó có chừng bốn phần là Sương quân.

Còn một phần là Phiên binh gì đó, hương binh địa phương cùng quân cung thủ nha môn địa phương".

Vốn Tống Thần Tông muốn thay đổi chế độ xã hội, tiến hành thay đổi chế độ xây dựng quân đội, thực hiện binh tướng pháp kết hợp đội pháp.

Cái gọi là nội quy quân đội "Tương" của ông ta giống như quân đoàn hỗn hợp của xã hội hiện đại.

Chủ yếu dùng cấm quân là chính.

Ngoài ra còn có Sương quân trú đóng ở địa phương, Phiên quân, Hương binh cùng quân cung thủ nha môn địa phương được sắp xếp trong biên chế.

Bởi vậy quân số của mỗi loại quân không giống nhau, chênh lệch rất lớn. Nhiều thì hơn một vạn, ít thì mấy ngàn.

Hàn Chuẩn hỏi: "Vậy chúng ta có bao nhiêu Cấm quân ở đó?"

"Nếu như tại hạ nhớ không lầm thì Cấm quân Hoàn Khánh có bốn vạn người".

Vương Giai cau mày nói: "Vẫn còn chưa đủ. Cũng không thể điều động toàn bộ binh lực của Kinh Lược Ti Hoàn Khánh lên trước".

Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: "Theo như ty chức thấy. Đây là một trận chiến đánh lâu dài vì vậy không thể chỉ trông cậy vào binh mã của một lộ quân để giải quyết vấn đề. Lúc này hẳn nên tiến hành thay đổi pháp chế quân sự. Hãy lấy toàn bộ sáu lộ binh mã của Thiểm Tây lục lộ an phủ ti đưa vào phạm vi điều động cho chiến dịch lần này".

Hàn Chẩn kinh ngạc nói: "Tổng số nhân mã của sáu lộ này có bao nhiêu?"

Những con số này Đỗ Văn Hạo đã ghi nhớ hắn liền giơ ngón tay nói: "Hoàn Khánh Kinh Lược ti là quân tác chiến chính diện với quân Tây Hạ của chúng ta vì vậy nên bố trí tại đây số binh lực chiếm từ ba tới bốn phần tổng binh lực của cả nước. Tổng nhân số đại khái từ ba mươi tới bốn mươi vạn quân. Đương nhiên trong số này có tính cả Sương quân và các loại quân không thể tác chiến chỉ có thể vận lương cùng các công việc phụ trợ. Cấm quân chính thức tác chiến ở đây chừng hai mươi vạn".

Hàn chuẩn nói: "Hai mươi vạn sao? Vậy có nhiều quá không? Trong khoảng thời gian này quân Tây Hạ mỗi lần quấy nhiễu cũng không tới một vạn quân, chỉ khoảng bốn, năm ngàn quân gì đó.

Hai mươi vạn binh lực chúng ta xuất quân chinh phạt. Thứ nhất giết gà dùng dao mổ trâu. Thứ hai rút hết binh lực ở các địa phương khác có thể khiến cho không còn binh lực, quân địch sẽ thừa cơ tràn vào".

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Quân ta bố trí dọc theo tuyến phía bắc Hoàn Châu, ở chỗ gần với kinh thành Tây Hạ nhất. Mỗi một bước tiến lên phía trước là một bước tới gần kinh thành quân Tây Hạ.

Nếu như quân địch tập kích gây rối ở địa phương khác, quân ta vẫn không thể chia binh, vẫn tiếp tục xâm nhập phía trước.

Trước tình huống kinh thành Tây Hạ bị uy hiếp, quân Tây Hạ tuyệt đối sẽ không dám rút binh lực bảo vệ kinh thành đi đánh lén nơi khác

Chúng tất sẽ tập trung binh lực ngăn cản tuyến đầu quân ta.

Chính vì vậy các địa phương khác sẽ không bị quân Tây Hạ xâm lấn quy mô lớn. Mặc dù có đi chăng nữa cũng chỉ là vây Nguỵ cứu Triệu mà thôi để phân tán binh lực chúng ta".

Hàn Chuẩn gật đầu nói: "Nói vậy cũng đúng".

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: "Lúc trước sở dĩ ty chức đề nghị dùng binh lực sáu lộ Thiểm Tây Lục lộ an phủ ti tham gia chiến dịch này, không phảo là mang tất cả binh lực tập trung ở đó mà chúng ta sẽ tiến hành chế độ thay phiên tác chiến.

Nói một cách đơn giản chính là binh mã của lục lộ an phủ ti đều thay nhau ra trận tác chiến cùng quân địch.

Mỗi lần thay phiên hai đạo nhân mã. Cấm quân trực tiếp tác chiến không thể ít hơn năm vạn quân. Sương quân phụ trách quân nhu có thể không theo giới hạn đó. Thời hạn thay phiên là nửa năm một.

Việc thay nhau ra trận như vây thứ nhất có thể tránh cho tướng sĩ tác chiến lâu dài quá mệt mỏi.

Thứ hai tướng sĩ của tất cả các lộ binh mã đều có thể thay nhau ra trận.

Tôi luyện sức chiến đấu, khảo nghiệm tướng sĩ, chuẩn bị cho sau này tác chiến quy mô lớn".

Vương Giai khen ngợi: "Chủ ý này rất hay! Thay nhau ra trận. Nửa năm một vòng. Mỗi lần đổi phiên năm vạn lập tức ra trận".

"Hay" Mọi người đều đồng ý. Tể tướng đầu triều đã tán đồng, mọi người cũng hiểu được vị Tể tướng này đã bao che cho con rể tương lai của mình.

Trong khi đó đây cũng không phải là vấn đề có tính nguyên tác gì cả.

Chủ yếu là phương pháp này phù hợp với đòi hỏi của chiến thuật đánh lâu dài nên tất cả đều đồng ý với đề nghị của Đỗ Văn Hạo.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 411: Hai lão sư của Hoàng Thượng. (1+2).

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Keng keng keng

Tiếng kẻng đột nhiên vang lên. Vương Giai cười nói: "Vừa vặn tới lúc nghỉ trưa. Sáng nay tới đây thôi. Hai vấn đề còn lại, buổi chiều tiếp tục thảo luận. Ha ha ha. Bản tướng cảm thấy buổi thảo luận chính sự hôm nay là lần thành công nhất, có dũng khí đưa ra ý kiến phản đối, cố gắng tranh luận. Hay!".

Mọi người thấy ông ta không chỉ đích danh Đỗ Văn Hạo, chỉ phất tay áo cười nói thì cả đám cũng vuốt râu gật gù.

Tể chấp thảo luận chính sự luôn có tiệc rượu riêng.

Sau khi cùng ăn cơm trưa còn có một khoảng thời gian nghỉ trưa.

Đỗ Văn Hạo không có thói quen nghỉ trưa. Hơn nữa vẫn còn nhiều chuyện hắn cần giải quyết nên hắn không muốn lãng phí thời gian ngủ trưa.

Đỗ Văn Hạo đi thẳng vào cung Duệ Tư của Tống Triết Tông.

Nội thị trực ở cửa ra vào vội vàng cúi đầu, khom lưng nghênh đón hắn vào trong. Một nội thị khác đang định đi vào trong thông báo đã bị Đỗ Văn Hạo giữ lại nói: "Hoàng Thượng đâu? Sáng nay làm gì?"

Một nội thị cười nói: "Sáng nay Hoàng Thượng chuyên tâm học bài, chuẩn bị cho buổi khảo khí chiều nay".

"Thật vậy sao? Ha ha. Nhị vị lão sư Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du đã tới đây chưa?"

"Đã tới. Buổi sáng đã tới rồi, đang giúp Hoàng Thượng học bài".

"Đề bài đã ra xong chưa?"

"Nhị vị lão sư nói đề bài đã ra xong".

"Ừ. Hoàng Thượng đang ở đâu?"

"Đang ở Ngự thư phòng".

Đỗ Văn Hạo đi tới Ngự thư phòng. Khi hắn còn chưa tới sân của Ngự thư phòng đã nghe thấy từ đó truyền ra tiếng cười khanh khách, cực kỳ khoái trá. Nghe giọng thì đúng là của vị Hoàng Đế trẻ con Tống Triết Tông.

Đỗ Văn Hạo sải bước đi vào trong. Vừa bước vào sân một cảnh tượng rở khóc dở cười đập vào mắt hắn. Hắn thấy Sơ mật trực Học sĩ Triệu Ngạn như đang quỳ trên mặt đất, chậm chạp bò xung quanh.

Tống Triết Tông đang ngồi trên cổ ông ta. Trong tay cầm một cành liễu nhỏ, làm tư thế cưỡi ngựa.

Miệng Tống Triết Tông không ngừng kêu "Giá! Giá! Giá!, hắn dùng cành liễu đánh vào mông Triệu Ngạn.

Ba đứa hài nhi đứng bên cạnh, hai nam một nữ đang ôm bụng cười khanh khách. Một đứa mập còn cầm cành liễu trợ giúp đánh vào mông Triệu Ngạn.

Ngự sử Phó Nghiêu Du đỏ mặt đứng bên cạnh, hai đầu gối ông ta dính đầy bụi bặm. Hiên nhiên ông ta cũng vừa mới quỳ bò.

Đỗ Văn Hạo hiểu rằng trước kia Tống Triết Tông cũng rất tinh nghịch.

Nhưng hắn không ngờ bây giờ đã trở thành Hoàng Đế lại dùng lão sư làm ngựa cưỡi. Đây không những là chuyện nhục mạ người khác mà còn không coi trọng bề tôi của mình.

Lập tức trong đầu Đỗ Văn Hạo bốc hoả nhưng hắn vẫn nhẫn nhịn vì dù sao Tống Triết Tông cũng là Hoàng Thượng, khi nói chuyện vẫn cần phải cung kính một chút.

Đỗ Văn Hạo nặng nề ho một tiếng rồi nghiêm nghị đi vào.

Tống Triết Tông thấy Đỗ Văn Hạo bước vào thì cười hì hì nói: "Khanh tới rất đúng lúc. Hai người bọn họ không được nữa rồi, quá già rồi, chạy không nhanh. Khanh hãy mau quỳ xuống để Trẫm cưỡi, nhất định sẽ bò nhanh hơn bọn họ".

Đỗ Văn Hạo chắp tay, lạnh lùng nói: "Hoàng Thượng, vi thần là người, không nphải gia súc!"

Tống Triết Tông đang chơi đùa cao hứng, hắn vung bàn tay nhỏ bé nói: "Ta hiểu. Bây giờ là giờ nghỉ trưa. Chơi đùa với ta một lát có sao đâu. Bọn họ đều chơi với ta".

"Hoàng Thượng, hại vị đại thần dưới háng Hoàng Thượng đường đường là Đại học sĩ, đầy một bụng kinh thi và thư kinh. Đây là cách Hoàng Thượng chiêu hiền đãi sĩ sao?

Nếu Hoàng Thượng đối xử với bề tôi như này, coi bề tôi không phải là người, đối đãi như gia súc. Theo cương thường luân lý, tất nhiên bề tôi không dám không tuân theo nhưng điều này sẽ khiến các bề tôi thất vọng đau khổ. Khi đó sao bọn họ còn dốc sức, tận lực tận tâm phò tá Hoàng Thượng trị quốc?"

"Chỉ là chơi đùa thôi mà, không cần phải nói như vậy. Hơn nữa là do bọn họ tự nguyện. Hai người các ngươi tự nguyện để ta cưỡi, đúng không?"

"Dạ dạ! Là thần tự nguyện".

Hai lão sư người đầy bụi bặm lên tiếng trả lời, gương mặt cả hai đều đỏ ửng, thẹn thùng.

Đỗ Văn Hạo nói: "Dù là bọn họ tự nguyện Hoàng Thượng cũng không nên làm thế. Cái đó gọi là dùng kiệu hoa rước nhân sĩ.

Ngôi vị Hoàng Đế của Hoàng Thượng một khi có được sự trợ giúp của mọi người mới trở nên vững như Thái Sơn. Nếu như Hoàng Thượng không coi bề tôi của mình là người, những người có tài học đều là những người trọng thể diện. Liệu có ai chịu nổi sự đối đãi như vậy của Hoàng Thượng không?

Một khi bọn họ nản lòng thoái chí, do dự thậm chí là kiếm cớ cáo quan bỏ đi, khi đó bên cạnh Hoàng Thượng chỉ còn lại một đám người chỉ biết tâng bốc nịnh bợ. Giang sơn xã tắc không thể chỉ dựa vào đám người nịnh bợ đó mà có thể duy trì được" Nụ cười trên gương mặt Tống Triết Tông biến mất. Hắn ngượng ngùng nói: "Đỗ tướng quân, không nên nghiêm trọng như vậy".

"Nghiêm trọng hay không chúng ta cứ hỏi Thái Hoàng Thái Hậu là biết liền. Nếu Thái Hoàng Thái Hậu cũng cho rằng không có gì vậy Hoàng Thượng cứ tiếp tục trò chơi của mình".

Tống Triết Tông nghe nói tới Thái Hoàng Thái Hậu thì giống như Tôn Ngộ Không bị niệm chú kim cô, sắc mặt hắn lập tức thay đổi.

Tống Triết Tông vội vàng tụt xuống khỏi người Triệu Ngạn, ném cành liễu trong tay nói: "Đỗ tướng quân, khanh tuyệt đối đừng nói cho Thái Hoàng Thái Hậu biết. Ta nghe lời khanh sau này sẽ không bắt bọn họ làm ngựa cưỡi nữa".

Đỗ Văn Hạo vẫn nghiêm mặt nói: "Hoàng Thượng đã hiểu rõ làm như vậy là không đúng với lão sư của mình vậy hẳn phải biết nên làm gì?"

Tống Triết Tông cười ngượng ngùng, cúi đầu hành lễ với hai người Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du: "Trẫm nhận lỗi với nhị vị sư phụ".

Triệu Ngạn mới vừa ngồi dậy, ông ta đang chuẩn bị phủi bụi trên người mình, thấy Tống Triết Tông làm như vậy lại cuống cuồng quỳ dạp xuống đất nói: "Hoàng Thượng tuyệt đối không thể, làm vậy là hại chết vi thần" Nói rồi ông ta dập đầu thình thịch.

Phó Nghiêu Du ở bên cạnh cũng cuống quýt quỳ xuống dập đầu, liên thanh nói không dám nhận.

Đỗ Văn Hạo trợn tròn mắt. Hai lão phu tử này quả thật coi trọng nghi lễ quân thần hơn rất nhiều nghi lễ thầy trò.

Coi như là uổng phí một phen vất vả của hắn.

Đỗ Văn Hạo cười gượng, chuyển sang chủ đề khác: "Hoàng Thượng, vi thần muốn hỏi một chút về tình hình sở học trước kia của Hoàng Thượng. Liêu có thể vào trong phòng nói chuyện không?"

"Được!" Tống Triết Tông bước vào trong thư phòng, Đỗ Văn Hạo bước vào theo.

Bên trong thư phòng chỉ có bày Long án cùng Long ỷ cao, không có bục giảng, bàn học. Hắn cau mày nói: "Hoàng Thượng học ở chỗ này sao?"

Tống Triết Tông nói: "Không phải. Đây chỉ là Ngự thư phòng. Khi học thì ở Tư Thiện đường".

"Vậy chúng ta cùng tới Tư Thiện đường thôi".

"Tướng quân, sau khi dùng cơm trưa xong, theo lệ phải nghỉ trưa một canh giờ".

"Hôm nay huỷ bỏ nghỉ trưa bởi vì buổi chiều vi thần còn tới Chính Sự đường thảo luận quốc sự. Vi thần muốn tìm hiểu rõ ràng việc học tập của người sau đó buổi tối còn phải bẩm báo lên Thái Hoàng Thái Hậu để mọi người cùng nhau hiệp lực trợ giúp việc học của Hoàng Thượng".

Vừa nhắc tới Thái Hoàng Thái Hậu, Tống Triết Tông lại ỉu xìu, hắn cúi đầu nói: "Vậy được rồi".

Nói xong hắn bước ra ngoài thư phòng, mấy tiểu hài tử kia cũng ra theo.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn Triệu Ngạn cùng Phó Nghiêu Du rồi nói nhỏ: "Nhị vị đại nhân, ba người chúng ta làm đế sư không thể quá nhân nhượng Hoàng Thượng. Chúng ta nhất định phải dạy bảo Hoàng Thượng trở thành một vị quân chủ tài đức sáng suốt mà không phải là một bạo quân không hiểu đạo lý".

Hai người Triệu Ngạn xấu hổ trả lời rồi ba người cùng nhau đi tới Tư Thiện đường.

Ở gian lớn chính giữa của Tứ Hợp Viện có treo một tấm biển viết "Tư Thiện đường". Bên trong có bày biện bốn bộ bàn ghế, trên mặt bàn có bày văn phòng tứ bảo.

Kên bên trong là một cái bàn dài. Đây hẳn là chỗ của sư phụ, trên bàn cũng bày biện giấy, bút và nghiên mực.

Tống Triết Tông và ba tiểu hài tử chia nhau ngồi xuống. Đỗ Văn Hạo đi tới chỗ chiếc bàn dài, vén áo bào ngồi xuống. Sau đó hắn sai nộ thị bên ngoài cửa mang vào hai cái ghế cho Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du cùng ngồi.

Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du thấy Đỗ Văn Hạo dám ngồi ở trước mặt Hoàng Thượng dù cả hai đã biết Đỗ Văn Hạo nói ba người bọn họ là lão sư có thể miễn trừ nghi lễ quần thần nhưng vẫn cảm thấy ngồi như vậy có vẻ không phù hợp với cương thường luân lý. Cả hai không khỏi thầm lắp bắp kinh hãi.

Ngay khi nội thị chuyển hai chiếc ghế tới cho hai người. Hai người Triệu Ngạn cũng không có gan lớn như Đỗ Văn Hạo nên vội vàng xấu hổ khoát tay nói đứng tốt hơn.

Đỗ Văn Hạo cũng không muốn cưỡng ép.

Đỗ Văn Hạo quét mắt nhìn bốn tiểu hài tử bên dưới, sắc mặt nghiêm nghị, hắn làm ra vẻ đạo mạo, cầm cái thước trên bàn, gõ hai cái vào lòng bàn tay, cao giọng nói: "Trước tiên chúng ta làm quen với nhau.

Ta tên là Đỗ Văn Hạo, tự là Vân Phàm, thừa long ân của tiên đế và Thái Hoàng Thái Hậu, ta là tam nha Đô Kiểm Điểm, Đề Cử Thái y cục, Ngự y. Thụ ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu phụ trách việc học tập của Hoàng Thượng. Đây là nhị vị đế sư là Thái Hoàng Thái Hậu khâm điểm ( chỉ định ). Cả hai người đều là Đại học sĩ uyên bác. Chắc hẳn vừa rồi mọi người đã làm quen với nhau. Được rồi, tam vị Hoàng tử và công chúa đang ngồi bên dưới có thể giới thiệu giới thiệu tục danh của mình để sau này tiện xưng hô không?"

"Tới ta giới thiệu".

Tống Triết Tông mỉm cười đứng lên nói.

Tống Triết Tông chỉ tay vào một Hoàng tử ngồi bên cạnh, thấp hơn mình một cái đầu nói: "Đây là nhị đệ Triệu Nhưng của ta. Đôi mắt của nhị đệ nhìn không tốt lắm. Đôi khi nhị đệ không nhìn vì vậy có lúc nào nhị đệ không chào hỏi mọi người thì không phải là hắn ngông nghênh mà là vì không nhìn thấy. Ha ha ha".

Mấy tiểu Hoàng tử, công chúa còn lại đều che miệng cười khúch khích.

Tuy Triệu Nhưng nhỏ hơn Tống Triết Tông một, hai tuổi nhưng trọng lượng thân thể lại to hơn Tống Triết Tông, béo húp.

Cổ Triệu Nhưng có mấy tầng, béo tới mức hai mắt híp lại. Hắn tươi cười hớn hở đứng dậy chắp tay nói: "Xin ra mắt Đỗ tướng quân".

Tổng cộng Tống Thần Tông sinh mười bốn con trai, trong đó có tám người chết ngay khi còn quấn tã lót.

Trong số những người con còn lại, Tống Triết Tông lớn tuổi nhất nên là Đại huynh. Cửu hoàng tử theo sắp xếp thứ hạng là lão Cửu nhưng tính những người con còn sống thì lại là lão Nhị.

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Không cần phải khách khí. Sau này cứ gọi ta là tiên sinh là được.

Thì ra là cửu hoàng tử. Ta biết trước đây hoàng tử đã từng bị bệnh nặng. Bệnh rất nặng. Đồ đệ của ta là Thái y Tiền Bất Thu đã dùng Hoàng thổ thang trị bệnh cho hoàng tử, đúng không?'

"Ừ. Thì ra Tiền Thái y chính là đồ đệ của tiên sinh".

"Đúng vậy".

"Ông ta già cả, râu tóc bạc phơ. Già như vậy mà còn chưa xuất sư ( học thành nghề ) chứng tỏ ông ấy ngày thường không chăm chỉ học bài".

"Ha ha ha" Mấy người Tống Triết Tông đều cười ha hả.

Đỗ Văn Hạo vẫn nghiêm nghị, hắn chờ mấy người cười xong mới lên tiếng: "Cửu hoàng tử, Tiền Bất Thu là ân nhân, người không biết báo đáp thì thôi, cũng không nên trêu cợt ân nhân của mình. Ít nhất điều đó là không biết lễ nghĩa".

Triệu Nhưng vội vàng nuốt nụ cười lại, hắn ngượng ngùng, chắp tay nói: "Thật sự xin lỗi. Ta chỉ buột miệng nói như vậy. Xin tiên sinh tha thứ".

Đỗ Văn Hạo nghiêm mặt nói: "Liệt đồ Tiền Bất Thu chính là mang theo nghệ bái sư. Khi ông ấy bái ta làm thầy, tiếng tăm thần y của ông ấy đã trùm thiên hạ".

Tiểu công chúa ngồi ở phía sau, trợn tròn đôi mắt đen lay láy nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Ông ta là thần y sao lại còn bái tiên sinh làm thầy? Ông ta già như vậy, tiên sinh nhỏ như vậy".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Phải nói là ta sao trẻ tuổi như vậy, có phải là muốn nói tuổi ta không hơn tuổi mất người là mấy không?"

Tiểu công chúa cười khanh khách gật đầu.

Đỗ Văn Hạo nói: "Thần kỹ phẫu thuật chữa thương của ta, trong thiên hạ này chỉ có mình ta biết, kể cả ông ấy cũng không biết. Hơn nữa ta còn rất nhiều tri thứ y thuật khác mà ông ấy cũng không biết. Ta có rất nhiều thứ có thể dạy ông ấy nên ông ấy không ngại học hỏi kẻ dưới, bái ta làm thầy".

Tống Triết Tông mỉm cười nói: "Đỗ tướng quân chuẩn bị dạy ta những gì? Là tứ thư ngũ kinh sao? Hay vẫn là thi từ ca phú? Lễ nghi cung đình sao?" Lập tức ba tiểu hoàng tử, công chúa kia lại lén cười.

Đỗ Văn Hạo thản nhiên nói: "Ta có thể dạy mọi người cái gì chờ lát nữa mọi người sẽ biết. Hoàng Thượng, xin thỉnh người tiếp tục giới thiệu với vi thần nhị vị còn lại".

Tống Triết Tông vỗ vỗ đầu nói: "Đúng rồi. Ta lại quên mất việc này".

"Hoàng ca ca, bây giờ người không thể nói: Ta, phải nói Trẫm".

Tiểu công chúa sau lưng Tống Triết Tông cười khanh khách nói.

Tống Triết Tông lại vỗ vỗ đầu nói: "Coi như trí nhớ của ta. A! Không, trí nhớ của Trẫm. Hì hì" Ba người kia lại cười vang.

Tống Triết Tông khoát tay ra hiệu cho ba người không cười, hắn chỉ vào tiểu Hoàng tử thấp hơn hắn một đầu ngồi ở sau nói: "Hắn là tam đệ Triệu Cát của ta".

Đỗ Văn Hạo thầm lắp bắp kinh hãi. Triệu Cát sao? Tống Huy Tông sao? Đây chính là một vị Hoàng Đế cực kỳ nổi danh của Bắc Tống, thậm chí trong lịch sử Trung Quốc.

Tống Huy Tông nổi danh không phải là vì những thành tựu về văn trị vũ công (thành tựu về mặt quân sự) mà là những chuyện lãng mạn phong hoa tuyết nguyệt của hắn, bút pháp thần kỳ, thư pháp thể Sấu kim, còn cả kinh nghiệm đau đớn của việc tin dùng gian thần, mất nước.

Nhưng bây giờ Tống Huy Tông mới chỉ là một đứa trẻ sáu bảy tuổi, gương mặt ngây thơ hồn nhiê, chưa từng nghĩ tới một quốc gia mất trong tay mình. Giờ đây Đỗ Văn Hạo chưa cảm thấy tạo hoá trêu ngươi khi hắn lại làm đế sư của hai vị Hoàng Đế Bắc Tống mà chỉ cảm thấy trọng trách ghê gớm trên vai mình.

Hắn không biết mình liệu có gánh vác được hết trách nhiệm này hay không?

Triệu Cát đứng dậy, chắp tay bập bẹ nói: "Xin ra mắt tiên sinh".

Nếu một khi muốn cứu vớt Bắc Tống, trước tiên phải cứu với vị Đại hôn quân của tương lai này vì vậy Đỗ Văn Hạo cũng không vì Triệu Cát là Hoàng đế tương lai mà biểu lộ cảm xúc hắn chỉ mỉm cười gật đầu ý bảo Triệu Cát ngồi xuống.

Đỗ Văn Hạo lên tiếng hỏi: "Mẫu thân của người là vị nương nương nào?"

Lập tức sắc mặt Triệu Cát trở nên ảm đạm, vành mắt đỏ hoe, nước mắt tuôn rơi, cúi đầu xuống không nói.

Triệu Nhưng mập mạp chỉ ngón tay giữa vào miệng nói với Đỗ Văn Hạo: "Tiên sinh, những lời này không thể hỏi hắn. Nương nương của hắn vốn trước đây phát điên. Sau khi phụ hoàng băng hà đã uống thuốc độc tự vẫn chết theo phụ hoàng. Mỗi khi có ai nhắc tới hắn đều thương tâm khóc".

Lập tức Đỗ Văn Hạo hiểu ra. Nương nương của Triệu Cát thì ra là Trần mỹ nhân bị buộc uống thuốc độc chết thảm. Lúc này thật sự Đỗ Văn Hạo không biết nói gì.

Đỗ Văn Hạo đi tới vỗ nhẹ lên vai Triệu Cát nói: "Nam nhi không dễ rơi lệ! Hãy kiên cường lên"

Triệu Cát giơ bàn tay nhỏ bé lên lau nước mắt, hít hít mũi trịnh trọng gật đầu.

Sau đó Tống Triết Tông giới thiệu tới tiểu công chúa kia: "Đây là Hoàng muội, Phong từ quốc công chúa, chưa tới tuổi đặt tên, chỉ có một nhũ danh là Niệm Niệm. Nhưng mọi người gọi là Niêm Niêm".

Tiểu công chúa trừng mắt hạnh nói: "Tên của muội không phải Niêm trong niêm nhân mà là Niệm trong tưởng niệm. Hừ!".

Ba người còn lại đều cười vui vẻ.

Đỗ Văn Hạo quay lại ghế ngồi hỏi: "Thôi được rồi. Bây giờ chúng ta đều đã biết nhau. Ta sẽ trả lời câu hỏi của Hoàng Thượng. Rốt cuộc ta dạy mọi người cái gì? Trước tiên ta muốn biết mọi người đã học cái gì? Ai trả lời trước đây?"

Niệm Niệm giơ tay trước nói: "Ta nói!".

"Được! Tiểu công chúa nói đi".

"Chúng ta cùng Hoàng đế ca ca cùng học với nhau, thi từ ca phú, còn cả lịch sử các triều đại còn có cả các loại nghi lễ cung đình".

Trong lòng Đỗ Văn Hạo hiểu rõ điều này. Hắn liếc nhìn túi đựng tính trù để trên bàn liền cười hỏi: "Xem ra mọi người hẳn là có học qua cửu chương toán thuật đúng không?'

"Có học qua".

"Có biết tính không?"

"Đương nhiên biết"

"Trong mọi người ai là người tính nhanh nhất?"

"Hoàng đế ca ca"

Tống Triết Tông đắc ý nói: "Cửu chương toán thuật mà tiên sinh nói, tốc độ tính toán của Trẫm trên thế gian ít người sánh kịp, ngay cả tiên sinh cũng không thể so với".

"Thật vậy sao?" Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Xin thỉnh Phó đại nhân ra một đầu đề. Năm người chúng ta thi tính toán xem ai là người nhanh nhất, được không?"

"Được" Lập tức sắc mặt Tống Triết Tông hiện lên vẻ phấn khích, xem ra hắn rất tự tin với tốc độ tính toán của chính mình, hắn cũng rất hy vọng thắng được người đế sư trẻ tuổi này.

Lập tức Tống Triết Tông cởi túi tính trú để trên bàn nói: "Phó thị, khanh hãy mau ra một đề bài. Ra khó một chút. Rất khó. nếu không, hừ hừ. Mau lên đi" Ba hoàng tử công chúa còn lại cũng vội vàng lấy tính trù ra cầm trong tay.

Phó Nghiêu Du vội vàng trả lời, ông ta ngẩng đầu suy nghĩ một lát rồi nói: "Vi thần đã nghĩ kỹ. Sáu vạn…"

"Chờ một chút!" Tống Triết Tông khoát tay cản lại nói.

Tống Triết Tông nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Đỗ tướng quân khanh mau lấy tính trù ra, còn thất thần ngồi đó làm gì?"

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Hoàng Thượng, không cần phải quan tâm. Ha ha ha".

Tống Triết Tông trừng mắt nói: "Được, khanh tự cao nhỉ. Lát nữa thua khanh đứng trách Trẫm không báo trước. Phó khanh hãy ra đề đi".

"Dạ dạ!" Phó Nghiêu Du lau mồ hôi trán, ho khan một tiếng rồi nói: "Sau mươi từ nghìn hai trăm bảy mươi sáu nhân với bảy nghìn ba trăm năm mươi mốt bằng bao nhiêu?" Tiếng loạt xoạt bất chợt vang lên, bốn tiểu hài tử bắt đầu lay hoay tính toán.

Dù lúc ấy đã phát minh ra bàn tính nhưng còn lâu mới phổ cập ( Vào triều Nguyên bàn tính mới phổ cập ). Một nguyên nhân là lúc ấy bàn tính vẫn còn chưa hình thành đầy đủ hệ thống khẩu quyết tính toán, đặc biệt ở phương diện nhân chia, giải toán. Tốc độ giải toán còn chậm hơn cả tính trù ( tính trù là phương pháp tính toán cổ đại, thực tế là những miếng gỗ nhỏ mịn, bình thường dài khoảng 13-14cm, dầy khoảng0,2-0,3cm, cũng có thể làm bằng trúc, răng thú, ngà voi, kim loại hay các vật liệu khác. Một bó ước chừng hai trăm bảy mươi miếng để trong bao bố hay giắt ở thắt lưng ) Hơn nữa rất dễ mắc sai sót vì vậy mọi người vẫn có thói quen dùng tính trù để tính toán.

Tính trù là một phương pháp tính toán trước khi bàn tính được hoàn thiện, dùng các mảnh gỗ xếp đặt các hình dạng khác nhau để tính toán, phép tính toán nhân chia này phức tạp hơn so với giải toán số học.

Phải hình thành ba tầng tính toán thượng trung hạ, khi tính toán theo công thức phải liên tiếp cầm lên, di chuyển liên tục nói chung rất phiền phức.

Tốc độ giải toán tương đối chậm, phức tạp hơn so với số học, khi tính toán luôn phải đặt lên bàn.

Vì vậy mới có câu: "Tính trù doanh án" chính là chỉ việc này.

Ban đầu khi Đỗ Văn Hạo mới tới, hắn thấy Lâm Thanh Đại khi tính toán sổ sách thường dùng tính trù, hắn hiểu rõ cách tính này rất chậm. Hắn thầm nghĩ có lẽ đề này đưa ra sau thời gian ăn xong một bữa cơm mà vẫn chưa tính toán xong nên trong lòng vẫn ung dung không nóng vội.

Đỗ Văn Hạo đứng dậy, chắp tay sau lưng đi tới bên cạnh mấy người Tống Triết Tông.

Hắn chăm chú quan sát giống như một giám thị vậy.

Tốc độ ngón tay của Tống Triết Tông di chuyển rất nhanh, thậm chí hắn còn không nhìn mặt bàn. Tống Triết Tông thấy Đỗ Văn Hạo đi tới, vừa ngẩng đầu nhìn Đỗ Văn Hạo vừa tính toán, cười nói: "Đỗ tướng quân, lão sư dạy tính toán của Trẫm được xưng là "Thần toán tử" Nếu khanh không mau chóng tính toán, nhất định sẽ thua trẫm. Ha ha".

Đỗ Văn Hạo vẫn chắp tay sau lưng, hắn buột miệng hỏi: "Vị lão sư Thần Toán Tử của Hoàng Thượng tên gọi là gì?"

"Tên là Thẩm Quát".

"Hả?" Đỗ Văn Hạo giật mình hỏi: "Thẩm Quát? Thẩm Quát là lão sư tính toán của Hoàng Thượng sao?"

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 412: Sự hấp dẫn của tri thức.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Thẩm Quát chính là một nhân vật danh tiếng lẫy lừng trong giới khoa học cổ đại Trung Quốc, ông ta có trình độ rất uyên bác trong các lĩnh vực y học, sinh vật học, hoá học, địa lý, tính toán số học. Vào thời kỳ đó ông ta đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học. Ví dụ như "Mộng Khuê bút đàm" là một tác phẩm lớn lừng danh trong giới khoa học trong và ngoài nước.

Tống Triết Tông ngạc nhiên hỏi: "Đúng vậy, có chuyện gì vậy?" Vừa nói Tống Triết Tông vừa tiếp tục dùng tính trù tính toán.

"Ông ấy ở đâu?"

"Khanh hỏi điều này làm gì vậy?"

"Vi thần muốn gặp mặt vị Thần Toán Tử này".

Tống Triết Tông cười nói: "Vậy khanh không gặp may rồi. Trong cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc, ông ta chỉ huy quân đội bị quân Tây Hạ đánh bại nên bị phụ hoàng giáng chức quan, làm Biên tu(sử quan thời xưa) đi về các châu huyện".

"Hả?" Bây giờ Đỗ Văn Hạo mới biết thì ra Thẩm Quát lại tham gia cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc với Tây Hạ.

Đỗ Văn Hạo có phần buồn lòng khi không được gặp nhà khoa học vĩ đại.

Tống Triết Tông cười nói: "Đỗ tướng quân, Trẫm đã tính toán xong hết rồi. Khanh lại vẫn chưa bắt đầu, khanh nhất định thua rồi".

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: "Tốt lắm. Bây giờ thần bắt đầu đuổi theo người vẫn còn nhanh hơn" Nói xong Đỗ Văn Hạo chậm rãi quay về bàn. Hắn cầm bút dùng phép nhân tính toán.

Hắn dùng con số Ả rập cùng những ký hiệu tăng giảm thặng dư đơn giản, dùng phép tính nhân tính toán đề bài này. Tốc độ rõ ràng nhanh hơn rất nhiều so với dùng tính trù vì vậy Đỗ Văn Hạo không mất nhiều thời gian đã tính toán xong phép tính của mình. Sau khi kiểm tra lại một lần nữa, xác định rõ ràng không có sai sót, hắn mới đặt bút lông vào giá bút, liếc mắt nhìn bốn tiểu hài tử bên dưới vẫn còn đang loay hoay dùng tính trù tính toán. Đặc biệt là Tống Triết Tông, ngón tay di chuyển như bay, giống như phấn hoa bay vậy. Nếu chỉ nói về tốc độ tính toán tính trù, quả thực tính như vậy quá kinh khủng.

Đỗ Văn Hạo chắp tay sau lưng đi tới vạnh Tống Triết Tông hỏi: "Thế nào, Hoàng Thượng? Tính xong chưa?"

"Đừng quấy rối! Sắp xong rồi" Tống Triết Tông đã tới bước quan trọng nhất, không dám phân tâm, không cả dám ngẩng đầu, cau mày tiếp tục tính toán.

Đỗ Văn Hạo bình thản chắp tay sau lưng đứng nhìn mấy người. Sắc mặt Triệu Cát vẻ đau khổ, tay cầm tính trù, gắng sức tính toán. Triệu Nhưng béo mập càng gấp gáp tới độ trán toát mồ hôi. Khi Đỗ Văn Hạo đi tới bên cạnh Từ quốc công chúa thì thấy sắc mặt tiểu nha đầu này mày chau mặt ủ, hết bỏ tính trù xuống rồi lại cầm lên, chần chừ không quyết.

Hiển nhiên đã gặp vấn đề tính toán.

Đỗ Văn Hạo cúi đầu, ghé sát vào tai tiểu công chúa thì thầm nói kết quả. Niệm Niệm ngẩng đầu nhìn hắn gật đầu vẻ vừa mừng vừa sợ.

Đỗ Văn Hạo đi liếc nhìn một vòng rồi lại quay lại chỗ ngồi của mình. Hắn bưng chén trà nhỏ, chậm rãi thưởng thức trà. Tống Triết Tông ngẩng đầu nhìn hắn, kinh ngạc hỏi: "Khanh tính toán xong hết rồi sao?"

"Đã xong sớm rồi. Phép tính đơn giản như vậy làm gì phải lâu như vậy? Ôi!".

"Đơn giản? Hừ! Khanh đừng thổi phồng".

'Có thổi phồng hay không lát nữa Hoàng Thượng sẽ biết".

Tống Triết Tông lại cúi đầu tiếp tục loay hoay tính trù. Một lát sau cũng kêu lên: "Tính ra rồi" Nói xong Tống Triết Tông quay đầu lại nhìn thấy tiểu công chúa Niệm Niệm đang ngồi dương dương tự đắc thì liền hỏi: "Này, đồ theo đuôi, muội tính ra rồi hả?"

"Sớm tính ra rồi. Ca ca mới là đồ theo đuôi".

"Trẫm không tin, đưa cho Trẫm xem một chút" Nói xong Tống Triết Tông liền giơ tay cầm tờ giấy trong tay Niệm Niệm lên liếc mắt nhìn qua, hắn vô cùng kinh ngạc nói:"Tuyệt đối không thể nào. Dù khả năng tính toán của muội không tệ nhưng không thể nào nhanh hơn Trẫm".

"Muội đã tính toán ra đó, thế nào? Hì hì hì".

Tống Triết Tông quay mặt nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Mới rồi Trẫm thấy Đỗ tướng quân đứng bên cạnh muội, còn lén lén lút lút nói cái gì đó. Nhất định Đỗ tướng quân đã nói đáp án cho muội. Tại sao Đỗ tướng quân có thể cho ra kết quả nhanh như vậy?"

Tống Triết Tông bước nhanh tới, cầm lấy tờ giấy trên bàn của Đỗ Văn Hạo nhìn, quả nhiên đáp án của Đỗ Văn Hạo và đáp án của hắn giống nhau. Tống Triết Tông kinh ngạc hỏi: "Không thể nào! Khanh không dùng tính trù sao? Tính thầm sao?"

"Không phải. Hoàng Thượng không nhận ra trên giấy có viết quá trình tính toán sao?"

Tống Triết Tông chăm chú nhìn thì thấy trên mặt giấy có những ký hiệu kỳ quái siêu siêu vẹo vẹo, căn bản hắn không hiểu đó là gì nên hỏi: "Khanh làm gì vậy?"

"Con số Ả rập và phép tính nhân. Ha ha".

"Cái gì?"

"Đây chính là một loại ký hiệu chuyên môn dùng để tính toán, đơn giản hơn rất nhiều so với tính trù của Hoàng Thượng nhiều".

Tống Triết Tông nào tin tưởng vào điều đó. Hắn quay đầu nhìn chằm chằm vào Phó Nghiêu Du, hung tợn nói: "Khanh giúp hắn dối trá phải không? Trước đó khanh đã nói đề bài cho hắn biết phải không?"

Phó Nghiêu Du vội vàng quỳ dạp xuống dập đầu nói: "Không có, Hoàng Thượng. Vi thần tuyệt đối không dám phạm tội khi quân. Quả thực đề bài này là vi thần mới nghĩ ra, không nói cho Đỗ tướng quân biết trước".

"Trẫm không tin!".

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: "Nếu như Hoàng Thượng không tin. Thế này đi, Hoàng Thượng hãy tự mình ra một đề bài, hai chúng ta cùng tính lại".

"Được" Tống Triết Tông suy nghĩ một lát rồi nói ra đề bài là một phép nhân sáu chữ số sau đó hắn nhanh chóng tính toán như thoi đưa.

Lúc này Đỗ Văn Hạo chủ định là mất nhuệ khí của Tống Triết Tông. Hắn cầm bút tính toán rất nhanh, sau khi kiểm tra lại một lần hắn viết đáp án ra, đặt bút vào giá bút, vỗ tay nói: "Vi thần đã tính xong rồi".

Tống Triết Tông líu lưỡi nói: "Không thể nào!".

"Hoàng Thượng" Đỗ Văn Hạo chậm rãi nhấp một ngụm trà rồi nói tiếp: "Tất cả mọi việc đều có thể xảy ra".

"Nhất định đáp án của khanh sai. Đợi ta tính toán đã" Tống Triết Tông không để ý tới Đỗ Văn Hạo, nghiêm mặt tiếp tục dùng tính trù tính toán. Lúc này Triệu Nhưng và Triệu Cát đã dừng lại, vây quanh xem náo nhiệt.

Tống Triết Tông càng sốt ruột lại càng chậm. Sau khi hết thời gian khoảng chừng một nén nhanh hắn mới tính toán xong. Sau khi cầm đáp án của Đỗ Văn Hạo thấy giống hệt với đáp án của mình, lập tức Tống Triết Tông trợn mắt há hốc mồm.

Lần này chính là đề bài do chính Tống Triết Tông nghĩ ra, tính toán ngay tại chỗ, tuyệt đối không có khả năng dối trá. Lúc này Tống Triết Tông mới tin tưởng phương pháp tính toán thần kỳ của Đỗ Văn Hạo. Hắn bỏ tờ giấy xuống gật đầu nói: "Ừ. Thuật tính toán của khanh rất lợi hại. Thế nhưng Trẫm muốn biết, thuật tính toán này rốt cuộc có lợi ích gì?"

"Có thể giải quyết rất nhiều vấn đề thực tế" Đỗ Văn Hạo nói: "Ví dụ như kho lương của một nha môn nào đó là hình trụ, có tổng cộng bảy mươi hai kho lương giống nhau như thế, kích thước như nhau. Đường kính bên trong hai trượng, cao một trượng năm thước, hỏi bảy mươi hai kho lương này có thể chứa được bao nhiêu thạch lúa gạo?"

Căn bản Tống Triết Tông không học qua hình học nên đương nhiên hắn không biết tính toán thể tích hình trụ như thế nào. Hắn ngơ ngác lắc đầu nói: "Tiên sinh còn có cái gì có thể dạy Trẫm?"

Đỗ Văn Hạo cầm chén nước trắng đặt lên bàn. Hắn lấy một cái bút lông nhúng vào trong chén nước rồi đặt trước bốn tiểu hài tử và hỏi: "Có ai nói cho ta biết vì sao phần bút nhúng trong nước lại uốn lượn vậy không?"

Hiện tượng này rất bình thường, mấy tiểu hài tử này cũng đã sớm biết nhưng nếu giải thích lý do vì sao nó lại uốn lượn thì lại không thể nên ai cũng nhìn hắn lắc đầu.

Đỗ Văn Hạo nói: "Đây là hiện tượng khúc xạ ánh sáng. Sau này khi ta dạy cho mọi người kiến thức về ánh sáng mọi người sẽ hiểu ngay thôi".

Đỗ Văn Hạo lại cầm lên một chiếc chén không và nói: "Nếu như Hoàng Thượng chuẩn bị chế tạo một chiếc chén vàng. Thử hỏi Hoàng Thượng sẽ cần bao nhiêu vàng?"

Hiển nhiên bốn người Tống Triết Tông lại lắc đầu.

Đỗ Văn Hạo lại hỏi tiếp: "Có ai biết tại sao có động đất không? Tại sạo trời lại mưa? Tại sao trời lại sinh ra sấm chớp? Tại sao mặt trời luôn mọc ở phía đông, lặn ở phía tây? Tại sao lại có hiện tượng chó ăn trăng ( nhật thực )? Tại sao lại có lúc trăng tròn, trăng khuyết? Tại sao lại có chớp mắt? Rốt cuộc chúng ta là ai? Chúng ta từ đâu tới? Đi tới đâu? Vị trí của ngũ tạng lục phủ của con người là gì, có tác dụng gì? Trên thế giới này ngoại trừ Đại Tống, Đại Liêu và Tây Hạ thì còn những quốc gia nào nữa? Bọn họ ở chỗ nào? Làm thế nào mới có thể tới chỗ bọn họ?"

Mấy người Tống Triết Tông lại càng ngơ ngác lắc đầu.

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Tất cả những điều này khi nào mọi người học xong bài giảng của ta thì cũng sẽ biết".

Tiểu công chúa Niệm Niệm vỗ tay nói: "Hay! Bây giờ nta đã muốn nghe tiên sinh giảng bài".

Triệu Nhưng cũng há miệng béo mập cười toe toét nói: "Đúng vậy, nghe rất thích. Ta cũng muốn nghe".

Tống Triết Tông nhìn thấy vẻ mặt hưng phấn chảy nước miếng của hai người đó, kỳ thật trong lòng hắn cũng rất ngứa ngáy, hắn mỉm cười nói: "Quả thực bài giản của Đỗ tiên sinh rất hấp dẫn. Quả thật Trẫm không ngờ Đỗ tiên sinh là người thông minh uyên bác nghe rộng biết nhiều. Thảo nào Hoàng tổ mẫu muốn tiên sinh phụ trách việc học của Trẫm".

Đỗ Văn Hạo mỉm cười, hắn thoáng nhìn thấy Triệu Cát vẫn ngồi yên, không có vẻ hưng phấn như ba huynh muội của mình thì kinh ngạc hỏi: "Thập nhất hoàng tử, có chuyện gì vậy?"

"Tiên sinh có thể dạy ta vẽ tranh không?" Triệu Cát hỏi.

Lúc này Đỗ Văn Hạo mới nhớ tới vị Hoàng đế tình tình phong lưu này còn là một đại danh hoạ có bút pháp thần kỳ trong lịch sử. Đó chính là niềm đam mê nhất của Triệu Cát. Đối với hội hoạ Đỗ Văn Hạo lại không có gì đặc biệt. Làm sao bây giờ?

Ánh mắt hắn đảo qua, lập tức xuất hiện chủ ý. Không phải chính mình đã học qua cách phác hoạ vật thực sao. Mặc dù kỹ thuật của hắn còn không có gì cao siêu nhưng ít ra hắn có thể dạy một số kiến thức về quan sát cùng kiến thức về ánh sáng, màu sắc. Bởi vì thuật vẽ tranh truyền thống của Trung Quốc không nói tới thuật quan sát, lại càng không chú trọng tới hiệu quả của ánh sáng màu sắc. Bây giờ bản thân hắn có thể dạy Triệu Cát vấn đề này. Thế nhưng nhất định phải chú trọng một vấn đề là không thể dùng tri thức về màu sắc và ánh sáng vào vẽ tranh chân dung nếu không thì sẽ gây ra hoạ.

Về chuyện này, trong lịch sử đã từng xảy ra một chuyện nhỏ. Số là vào triều Thanh, có một hoạ sĩ hội hoạ phương tây dương dương tự đắc muốn thể hiện một chút trước mặt lão Phật gia. Người đó dùng hiệu quả ánh sáng màu sắc trong vẽ tranh phương tây áp dụng vào bức tranh vẽ lão Phật gia, quả thực có cảm giác rất nổi nhưng khi bức tranh được dâng lên lão Phật gia, lão Phật gia đột nhiên giận dữ, suýt chút nữa cho chém đầu người đó bởi vì trong con mắt lão Phật gia, hiệu quả lập thể này toạ nên trên mặt như có bóng tối. Trong khi đó người Trung Quốc rất kiêng kỵ "Âm Dương mặt" là một điềm gở. Nhà hoạ sĩ vẻ tranh phương tây đó sợ tới mức vội vàng sửa đổi, đổi khuôn mặt của lão Phật gia thành ánh sáng chói lọi, khi đó lão Phật gia mới đổi giận làm vui tha mạng cho người đó.

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói với Triệu Cát: "Ta không biết dùng bút lông vẽ tranh sơn thuỷ, hoa chim người. nhưng ta có thể dạy cách hoàng tử cách dùng than chì vẽ tranh, cũng có thể dạy hoàng tử cách thưởng thức hội hoạ đúng đắn, có thể làm cho bức tranh của người vẽ ra giống như thật".

"Thật vậy sao?" Triệu Cát hỏi.

Ba người kia cũng bắt đầu kêu gào bắt Đỗ Văn Hạo bắt đầu dạy những kiến thức mà hắn vừa nói.

Đỗ Văn Hạo nói: "Bây giờ không còn kịp rồi. Ta phải lập tức tới nha môn Tể tướng họp. Buổi chiều nhị vị đại nhân sẽ khảo sát sở học trước kia của Hoàng Thượng và ba người. Ngày mai ta sẽ tới dạy mấy người".

Đỗ Văn Hạo dặn dò hai người Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du mấy câu rồi mới rời khỏi Tư Thiện đường đi tới Chính Sự đường ở nha môn Tể tướng.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 413: Quay về Chính Sự đường.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Khi Đỗ Văn Hạo quay về Chính Sự đường, các đại thần Tể chấp đã tới đông đủ. Thái Xác, Vương Giai không nói gì. Sau khi tuyên bố tiếp tục họp, Vương Giai cầm danh sách thảo luận của hội nghị nói: "Chủ đề thảo luận thứ năm là bộ Binh báo cáo. Thực tế là cùng với việc thỉnh cầu xuất chinh chinh phạt Tây Hạ của Kinh lược ti Hoàn Khánh, bộ Binh cũng thỉnh cầu gia tăng số lượng Sương quân của Kinh lược ti Hoàn Khánh. Hãy mời Thượng thư bộ Binh Đặng Nhuận Phủ vào báo cáo đi".

Thượng thư bộ Binh Đặng Nhuận Phủ mang theo hai tá quan, cầm một chồng sổ sách vào trong đường. Sau khi thi lễ ông ta ngồi xuống chiếc ghế ở cạnh cửa.

Vương Giai nói: "Đặng đại nhân hãy nói đề nghị của mình đi".

Đặng Nhuận Phủ vội vàng trả lời rồi đứng lên báo cáo. Đầu tiên ông ta nói thao thao bất tuyệt về tầm quan trọng của Sương quân, trong tác chiến với quân Tây Hạ không thể thiếu tác dụng của Sương quân sau đó ông ta nói về tình hình thiếu vũ khí binh lính của Sương quân Kinh lược ti Hoàn Khánh. Bước tiếp theo ông ta trình bày ý định tăng cường quân bị, binh lính, tăng quân số lên tới mức chín mươi hai doanh.

Trong quy định quân đội triều Tống. Một doanh có trong biên chế của mình năm trăm người, chín mươi hai doanh chính là bốn vạn sáu ngàn quân. Sau khi Đỗ Văn Hạo nghe xong hắn không khỏi biến sắc nhưng hắn vẫn âm thầm nhẫn nhịn, hắn muốn trước tiên lắng nghe ý kiến của những người khác.

Lúc này Hàn Chuẩn không nhún nhường nữa, ông ta lên tiếng trước: Nếu đã quyết định xuất chinh Tây Hạ, lại sử dụng binh mã Hoàn Khánh cùng lục lộ Thiểm Tây thay nhau ra trận. Vì binh mã chưa tiến, lương thảo đã đi trước. Lương thảo này cần phải có người vận chuyển. Lần xuất chính này là trường chinh, chậm thì năm ba năm, lâu thì tới vài chục năm. Nếu chỉ dựa vào dân phu khuân vác tạm thời thì không phải cách hay, còn phải dựa vào cả Sương quân. Trong khi đó Sương quân vùng Kinh lược ti Hoàn Khánh sau hơn mười năm chiến tranh với Tây Hạ, đặc biệt là sau trận đánh thành Vĩnh Nhạc đã bị tổn thất gần như không còn. Khi tác chiến không thể nào không có Sương quân vì vậy cần phải tăng cườn binh lính. Vấn đề là một lúc có cần phải tăng lên nhiều như vậy không thì nên thương thảo lại".

Phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi cũng cười nói: "Hàn đại nhân nói rất đúng. Kinh lược ti Hoàn Khánh là nơi xa xôi, lại liên tục xảy ra chiến tranh với Tây Hạ. Đa số trai tráng trong dân chúng cũng đều chết trong chiến tranh, rất khó tìm kiếm dân phu, chỉ có thể dựa vào Sương quân. Một Sương quân có thể tương ứng với một trăn phu dịch. Xây dựng chiến trại, vận chuyển quân lương, kiến tạo cầu đường những hạng mục này không thể thoát khỏi tay Sương quân. Bây giờ đã quyết định xuất chinh, dùng trường kỳ chiến tranh đối phó với Tây Hạ, lại càng không thể thiếu Sương quân, tăng biên chế Sương quân là việc làm rất cần thiết".

Những người còn lại cũng lên tiếng phụ hoạ.

Thái Xác cũng mỉm cười nói: "Chư vị đại nhân nói rất đúng. Xuất chinh Tây Hạ nhất định phải tăng cường biên chế Sương quân Kinh lược ti Hoàn Khánh. Về số lượng, trước tiên tăng lên một nửa sau đó xét theo tình hình thực tế tiếp tục gia tăng. Chư vị nghĩ thế nào?"

Mọi người đều gật đầu đồng ý chỉ duy có Đỗ Văn Hạo vẫn cười nhạt không nói câu nào.

Lần này Thái Xác không còn dám phớt lờ Đỗ Văn Hạo, ông ta vuốt chòm râu hoa dâm hỏi: "Đỗ tướng quân, ý của tướng quân thế nào?"

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: "Ban sáng thương nghị, ty chức nhớ buổi sáng chư vị đại nhân ngồi thảo luận về nhũng binh ai cũng bừng bừng căm phẫn, thậm chí còn nói nhũng binh chính là tai hoạ của quốc gia. Tại sao khi động vào vấn đề thực tế này lại không chú tới tai hoạ này mà ngược lại còn làm tai họa gia tăng?"

Sắc mặt mọi người đột nhiên thay đổi, Đỗ Văn Hạo nói cho cùng thì vẫn còn trẻ tuổi, vốn định nói cho hẳn hoi, nhưng khi vừa thốt ra thì lại không kìm được nữa, có gì thì nói toẹt hết ra.

Chương Hoàng lúng túng nói: "Điều này không giống với cái đó. Nhũng binh không có nghĩa là không thể tăng biên chế Sương quân. Lúc này cần thiết phải tăng biên chế nếu không khi xuất chinh Tây Hạ lấy ai là người làm các công việc tạp dịch?"

Tất cả lại gật đầu.

Đỗ Văn Hạo không để ý tới Chương Hoàng. Hắn nhìn Thượng thư bộ Binh Đặng Nhuận Phủ hỏi: "Đặng đại nhân, tại hạ muốn biết, trước mắt tổng chi phí quân phí của quân ta là bao nhiêu? Trong đó tỷ lệ dành cho Cấm quân, Sương quân là bao nhiêu?"

Đương nhiên Thượng thư bộ Binh phải nắm được con số này, không cần phải mở sổ sách, ông ta chắp tay nói: "Hồi bẩm tướng quân. Năm ngoái, quân phí cho Cấm quân là ba nghìn năm trăm vạn, sương quân một ngàn năm trăm vạn. Tổng cộng hai loại quân tốn năm nghìn vạn hôn ( một hôn là một chuỗi, tương đương với một ngàn văn, tương đương với một ngàn nhân dân tệ. Vì vậy quân phí của triều tống một năm là năm mươi tỷ nhân dân tệ )

"Năm ngoái tổng thu ngân khố của Đại Tống chúng ta là bao nhiêu? Đại nhân có biết không?"

Đây là chuyện cơ mật quốc gia. Đương nhiên Đặng Nhuận Phủ không biết, ông ta ngơ ngác lắc đầu.

Đỗ Văn Hạo nhìn Tể tướng Vương Giai. Vương Giai nói: "Năm ngoái tổng tài chính thu vào là sáu ngàn vạn hôn ( tương đương với sáu mươi tỷ nhân dân tệ )

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền nói: "Tổng cộng mới có sáu ngàn vạn hôn. Quân phí đã chiếm mất năm ngàn vạn hôn sao'.

Đặng Nhuận Phủ nói: "Đúng vậy. Đây mới chỉ tính chi phí nuôi quân, còn chưa tính tới chi phí cho cung nỏ, đao kiếm cùng với áo giáp hao tổn cần bổ sung".

"Hả? Vậy những chi phí cho trang bị đó mất bao nhiêu tiền?'

"Hơn bảy trăm vạn".

"Vậy tổng thu của một đất nước dùng để chi phí gần như hết cho quân đội sao?"

Vương Giai cười nói: "Đỗ tướng quân, có một sự hiểu làm trong chuyện này. Có một phần tiền rất lớn chi cho quân phí không phải từ ngân khố quốc gia".

"Ồ. Chẳng lẽ quân đội còn có cách kiếm tiền sao?"

"Đúng. Nếu không thì lấy đâu ra tiền nuôi quân".

Đỗ Văn Hạo trợn tròn mắt. Hắn mới tiếp xúc với quân đội hơn một tháng mặc dù hắn đã là thống soái tối cao của quân đội nhưng đối với quân đội có thể nói là khổng lồ nhất thế giới này thì vẫn chưa hoàn toàn hiểu hết. Hắn thầm nghĩ quân đội còn làm ăn buôn bán thì là quân đội kiểu gì đây nên hắn vội hỏi:"Quân đội cũng tổ chức làm ăn sao?"

"Ha ha. Đương nhiên cái gì có thể kiếm tiền thì làm. Ví dụ như hồi dịch ( Đầu cơ tích trữ ), mở tửu quán, cho vay lấy lãi".

"Lợi nhuận thế nào?"

"Đương nhiên là lợi nhuận thu vào rất khá".

"Cụ thể là bao nhiêu?" Đỗ Văn Hạo âm trầm hỏi.

Vương Giai nói: "Tất cả những điều này bên quân đội đều bí mật nên bản tướng cũng không hiểu rõ".

"Vậy tiền lợi nhuận này không nộp vào quốc khố sao?"

"Không nộp. Khoản tiền này để cho bên quân đội chi dùng chung. Thế nhưng những lúc quốc khố trống rỗng có thể sang bên quân đội giàu có vay tiền bổ sung vào quốc khố".

"Triều đình phải vay tiền bên quân đội sao?" Đỗ Văn Hạo cực kỳ kinh hãi, hắn trầm giọng nói: "Rốt cuộc một năm quân đội làm ăn buôn bán ra bao nhiêu tiền? Hãy cho một con số phỏng chừng đi".

"Điều này" Vương Giai vuốt chòm râu trắng như tuyết. Hình như ông ta hiểu rõ dụng ý của con rể tương lai khi vẫn cố tình hỏi vấn đề này. Vương Giai quay sang nói với Thượng thư bộ binh Đặng Nhuận Phủ: "Đặng đại nhân, bộ binh của đại nhân quản lý Sương quân. Sương quân có không ít sự tình có liên quan tới bộ Binh. Bộ Binh cũng phụ trách tiền trả lương cho Sương quân. Đại nhân hẳn nắm được nhiều thông tin về chuyện này. Đại nhân biết gì thì cứ nói. Đỗ tướng quân đang có dự định chỉnh đốn quân đội, muốn hiểu rõ số lượng là bao nhiêu. Đại nhân hãy cứ bẩm báo con số thực. Tương lai Đỗ tướng quân sẽ đi xác minh".

"Dạ" Đặng Nhuận Phủ suy nghĩ một lát rồi nói: "Tiền lợi nhuận của Sương quân ở các địa phương chênh lệch với nhau rất lớn. Ví dụ như vùng Giang Tích giàu có ở tây bắc thu lợi gấp mấy chục lần Sương quân ở vùng tây nam (chỉ vùng Tây Nam, Trung Quốc, bao gồm Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu, Tây Tạng.)

Mấy ngày trước, Đô thống chế Sương quân lưỡng tích lộ Tô Châu là Vương Bảo, Vương đại nhân có tới bộ Binh làm việc, trong lúc tào lao có từng tiết lộ rằng lợi nhuận thu được của Sương quân bọn họ trong năm ngoái là tám vạn sáu ngàn quan".

Tám vạn sáu ngàn quan tương đương với sáu trăm vạn nhân dân tệ.

Các đại thần Tể chấp trong đường sớm đã biết chuỵên quân đội làm ăn kiếm tiền nên không thấy ngạc nhiên nhưng khi nghe nói chỉ một lộ quân mà một năm thu lợi nhuận coa tới tám vạn sáu ngàn quán thì cũng không khỏi giật mình.

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Một quân có bao nhiêu người?"

"Biên chế ấn định là hai ngàn năm trăm người nhưng trên thực tế không nhiều như vậy. Đại khái chỉ có chừng một ngàn năm trăm người".

"Thiếu gần một nửa so với biên chế?' Đỗ Văn Hạo trừng mắt hỏi.

Đặng Nhuận Phủ gật đầu nói: "Biên chế của bọn họ cũng đã coi là tương đối nhiều. Có nơi Sương quân thiếu biên chế tới bảy phần".

Bây giờ Đỗ Văn Hạo không muốn tập trung vào tìm hiểu vì sao Sương quân lại thiếu nhiều biên chế như vậy. Hắn muốn tập trung vào chủ đề quân phí của quân đội: "Tới tám vạn sáu ngàn quan lợi nhuận. Bọn họ giữ lại hết dùng cho mình. Bao nhiêu tiền dùng cho quân phí, số tiền còn lại chạy đi đâu?'

"Điều này. Khụ khụ" Đặng Nhuận Phủ ho khan hai tiếng, không nói tiếp.

Đỗ Văn Hạo nhìn lướt qua các đại thần trong đại đường nói: "Một đội quân một ngàn năm trăm người, buôn bán hàng năm kiếm lợi nhuận tới tám vạn sáu ngàn quan. Chi ra bình quân mỗi người được năm mươi quan ( tương đương với năm vạn nhân dân tệ ). Đây là thu nhập bên ngoài quân phí. Hơn nữa ngoại trừ quân phí, mỗi năm thu được bảy tám mươi quan tiền. Thật sự rất giàu có".

Đặng Nhuận Phủ cười gượng nói: "Đỗ tướng quân. Đây chỉ là thu nhập của Sương quân ở những vùng giàu có. Những nơi như này chiếm không tới một phần mười Sương quân. Tuyệt đại bộ phận Sương quân ở những nơi xa xôi lợi nhuận thu vào ít hơn số này rất nhiều. Ví dụ như Sương quân tây bắc mỗi năm chỉ thu lợi nhuận có mấy trăm quan tiền mà thôi".

Đỗ Văn Hạo hỏi" Việc làm ăn buôn bán của Sương quân rất phổ biến sao?"

"Gần như cũng chỉ là làm ăn nhỏ mà thôi".

"Cấm quân thì sao?"

"Cấm quân thì càng nhiều hơn nữa. Cấm quân có nhân tài vật lực phong phú. Tiền vốn cao hơn Sương quân. Lợi nhuận đương nhiên nhiều hơn so với Sương quân".

Đỗ Văn Hạo nhìn Vương Giai nói: "Quân đội lại đi làm ăn buôn bán, vậy còn việc huấn luyện thì thế nào? Sao có thể phòng thủ biên cương? Tại sao triều đình lại cho phép bọn họ làm như vậy?"

Vương Giai cười gượng nói: "Làm gì có chuyện cho phép như vậy. Từ Thái Tổ hoàng đế đến nay đều ra chỉ lệnh cấm quân đội không được tiến hành đầu cơ tích trữ, sai binh lính làm kinh doanh buôn bán kiếm lời, chủ tướng sẽ bị bắt trị tội".

Đỗ Văn Hạo nói: "Vậy tại sao quân đội vẫn còn làm ăn buôn bán như vậy?"

"Điều này cũng chỉ là bất đắc dĩ mà thôi. Tướng quân cũng vừa mới nghe rồi đó. Dùng ngân khố cả nước mới đủ miễn cưỡng chi dùng cho quân đội. Nếu tất cả ngân khố đều chi dùng cho quân đội, vậy triều đình lấy tiền đâu ra?

Đỗ Văn Hạo đứng dậy nói: "Đây chính là lý do tại hạ phản đối việc mở rộng Sương quân. Sương quân là gì? Quân tạo dịch! Nói một cách dễ nghe chính là dân phu mặc quân trang. Những dân phu này hàng năm triều đình phải trả quân phí tới ba phần ngân khố để nuôi dưỡng bọn họ. Nếu như trong thời chiến thì còn chấp nhận được nhưng bây giờ ngoại trừ biên giới, tất cả hai mươi vạn Sương quân các lộ không thực hiện bất kỳ nhiệm vụ quân sự nào. Bọn họ đang làm gì vậy? Thứ nhất là bị quan phu sai làm tạp dịch, bị tướng lĩnh Sương quân coi như là công cụ kiếm tiền. Chắc chắn là mất nhiều tiền nuôi dưỡng mà không có tác dụng gì lớn. Hãy thử hỏi một lần xem? Tại sao triều đình phải bỏ ra số lượng tiền lớn như vậy để nuôi dưỡng hơn mười vạn dân phu? Thật sự có cần thiết như vậy không?"

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 414 : Nghe Mưa Giữa Hồ.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Xu Mật viện Hàn Chuẩn cười khẩy nói: "Theo Đỗ tướng quân thì cần phải làm thế nào?"

"Giải giáp toàn bộ Sương quân về làm ruộng".

"Cái gì?" Tất cả các đại thần Tể chấp kinh hãi kêu lên. Xu Mật viện Hàn Chuẩn cười châm chọc nói: "Nếu là như thế, xin hỏi Đỗ tướng quân, việc phục dịch của Sương quân do ai gánh vác? Cấm quân sao?"

"Tại hạ vẫn còn chưa suy xét kỹ điều này. Thế nhưng dùng tiền thuê dân phu cũng không hẳn là cách tồi" Đỗ Văn Hạo buột miệng nói.

"Thuê dân phu đảm nhiệm sao?"

"Đúng" Nói xong Đỗ Văn Hạo lại cảm thấy đây là một ý tưởng rất hay. Hắn vừa nghĩ vừa nói: "Cả nước có tổng cộng hai mươi vạn Sương quân, giải giáp hết những người này quy điền ( về quê làm ruộng ). À không, chuyển bọn họ từ quân sang dân, khai khẩn đất hoang tập thể. Không biết cả nưpức có nhiều đất hoang như vậy không?"

Thái Xác nói: "Đất hoang sao? Vùng Giang Tích và phụ cận kinh thành là đất giàu lắm cá nhiều thóc, dân cư giàu có thịnh vượng chỉ e là không co. Ở vùng tây bắc và tây nam cũng có. Nhưng tất cả đều là vùng chướng khí man di. Nếu chỉ chuyển hai mươi vạn Sương quân này cùng người nhà tới vùng chướng khí man di đó khai khẩn đất hoang chỉ e bọn họ sẽ không chịu đi".

"Điều này thì có thể áp dụng một số biện pháp khích lệ. Hơn nữa còn có thể lưu lại một bộ phận tới làm việc ở các phương thị. Bây giờ đang mở rộng kỹ nghệ, thiếu rất nhiều sức lao động. Nhất cử tam tiện. Vừa có thể giảm nhũng binh, vừa có thể khai khẩn rất nhiều đất hoang vừa lại có thể tăng cường lao động cho các phường thị. Thế nào?"

Chương Hoàng nói: "Suy nghĩ này đương nhiên hay. Bất kỳ ai cũng muốn giảm nhũng binh. Ai cũng biết nhũng binh chủ yếu trong Sương quân, Sương quân alị hình thành từ những người già yếu không thể làm binh sĩ đánh trận, còn có cả một ít tội phạm sung quân. Tuyệt đại bộ phận Sương quân là bị cưỡng bức nhận nhiệm vụ trong quân đội. Nếu bây giờ cắ giảm toàn bộ Sương quân theo như tướng quân vừa nói, bây giờ thuê dân phu để giải quyết những công việc cưỡng bức tron quân đội này, tại hạ muốn biết có thể thuê ở đâu nhiều dân phu như vậy?"

Hoàng Lý cũng nói: "Đúng vậy. Nếu như giải giáp tất cả Sương quân về làm ruộng, công việc sai dịch ở các địa phương lại đổ lên đầu dân chúng. Ban đầu khi Thái Tổ thành lập Sương quân với mục đích giảm bớt gánh nặng cho dân chúng. Nếu như vậy nhất định sẽ làm gia tăng việc phu dịch của dân chúng. Thay đổi như vậy cuối cùng là có lợi hay hại cho dân chúng?"

Những quan văn này khi tranh luận rất gay gắt. Đỗ Văn Hạo nhất thời không biết phải phản kích thế nào. Hắn không muốn tranh cãi bởi vì bản thân hắn cũng chưa nghĩ ra giải quyết mâu thuẫn đó như thế nào. Nguyên nhân chủ yếu là hắn vẫn chưa xâm nhập điều tra nghiên cứu, chưa nghĩ ra một biện pháp hữu hiệu giải quyết nhũng binh Sương quân.

Vương Giai thấy Đỗ Văn Hạo há hốc mồm, cứng họng. Hiển nhiên ông ta không muốn con rể tương lai của mình khó xử nên vuốt chòm râu trắng như tuyết nói: "Bản tướng cho rằng điều Đỗ tướng quân không hẳn là vấn đề khó. Trước đây tiên đế cũng hiểu Sương quân chi nhũng. Khi tiên đế còn tại vị cũng đã cắt giảm rất nhiều Sương quân. Tiên đế cũng đã nhiều lần nói: Quốc khố hao tổn rất nhiều tiền bạc nuôi dưỡng tẩm bổ Sương quân chính là nguyên nhân của nhũng binh, cần phải sửa trị, cắt giảm. Bây giờ tân đế mới tức vị đã lập tức tăng biên chế Sương quân, điều này không khỏi đi ngược lại di nguyện của tiên đế vì vậy bản tướng nghĩ rằng bây giờ phải thận trọng".

Vương Giai nói ra cách làm của tiên đế đương nhiên không ai dám phản đối lung tung. Công phu gió xoay chiều của Chương Hoàng rất khá. Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính, đương nhiên sẽ trọng dụng Vương Giai cũng như phái bảo thủ. Muốn ngồi yên ổn ở vị trí của mình đương nhiên phải thiết lập mối quan hệ tốt với Vương Giai vì vậy lập tức giọng điệu của Chương Hoàng cũng thay đổi. Ông ta mỉm cười nói: "Đúng vậy, Tể tướng đại nhân nói rất đúng. Việc này vẫn cần phải bàn bạc kỹ hơn. Việc thiếu Sương quân làm lao dịch rất dễ xử lý. Chúng ta đã xác định sáu lộ quân Thiểm Tây thay nhau ra trận. Điều đó chính là phái tất cả sáu lộ quân Thiểm Tây lên trước, cũng có thể phái thêm quân ở địa phương khác cùng với sáu lộ quân Thiểm Tây".

Phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi cũng nói: "Đúng vậy. Ty chức cũng cho rằng nhất định ý kiến của Đỗ tướng quân có đạo lý. Một khi Sương quân chính là nhũng binh, việc tăng cường quân bị phải rất thận trọng, nếu không lại rơi vào tình cảnh hoạ vô đơn chí. Dù sao đại bộ phận Sương quân của lục lộ Thiểm Tây ở các địa phương đều đang có dính dáng tới những công việc làm ăn. Các địa phương thiếu đi một ít sai dịch hẳn cũng không có vần đề gì lớn. Có thể rút một số Sương quân ở các lộ bổ sung cho Hoàn Khánh, cũng có thể giống như Cấm quân, thay nhau tới Hoàn Khánh phục dịch. Quan phủ nha môn cũng sẽ thông cảm với triều đình, cực lực ủng hộ".

Thái Xác cũng gật đầu nói: "Đúng. Vấn đề này nhất định là phải thận trọng. Bản tướng cảm thấy đề nghị của Lâm phó sứ rất hay. Trước tiên hãy điều động Sương quân của lục lộ Thiểm Tây cho tiền tuyến Hoàn Khánh. Còn những chuyện khác chúng ta sẽ thương nghị sau".

Kết quả này Vương Giai rất hài lòng. Thế nhưng điều ông ta quan tâm chính là Đỗ Văn Hạo có hài lòng hay không: "Đỗn tướng quân, ý của tướng quân thế nào?"

Đỗ Văn Hạo còn có thể nói gì đây? Hắn vẫn chưa nghĩ ra cách sửa trị nhũng binh. Bây giờ nếu kết quả không tiếp tục diễn biến xấu đã là thành công. Hắn vội vàng chắp tay nói: "Các vị đại nhân nói rất hay. Trước tiên nên điều động Sương quân ở các địa phương khác bổ sung cho Sương quân ở tiền tuyến. Chủ ý này rất hay. Còn về chuyện cắt giảm, chỉnh đốn Sương quân đợi sau này thương nghị lại. Bất ký biến pháp nào cũng không thể vội vàng".

Đỗ Văn Hạo nhắc tới biến pháp làm mấy người Thái Xác của phái biến pháp cũng hứng thú, mỉm cười.

Cuối cùng vấn đề này cũng được thông qua. Vấn đề cuối cùng là một đề tài đơn giản. Đó là thông báo với đồng minh Đại Liêu chuyện tân đế kế vị, kể cả việc tặng Đại Liêu một số đồ vật quý giá tiên đế Tống Thần Tông từng sử dụng làm kỷ niệm.

Khi thương nghị chấm dứt, thời gian vẫn còn sớm, Đỗ Văn Hạo quyết định đi tìm Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao . Hắn muốn sửa đổi việc cử quan văn làm tổng chỉ huy chiến dịch đánh Tây Hạ nếu không chỉ e hậu quả của trận chiến này là không thể tưởng tượng nổi.

Đỗ Văn Hạo đi tới Phúc Ninh cung. Nội thị nói với Đỗ Văn Hạo, Thái Hoàng Thái Hậu đang ở trong ngự hoa trong Ngự hoa viên. Thái Hoàng Thái Hậu đã có chỉ, Đỗ Văn Hạo tới gặp thì trực tiếp dẫn vào, không cần phải thông báo vì vậy nội thị đã dẫn Đỗ Văn Hạo vào Ngự hoa viên. Từ xa hắn đã thấy Cao Thao Thao đang đứng chỉ trỏ trên một ngọn núi nhỏ giữa một đám người vây quanh. Trong số đó có mấy người mặc quan bào.

Sau khi Đỗ Văn Hạo leo lên ngọn núi nhỏ hắn mới nhìn rõ mấy người mặc quan bào trên núi. Trong những người đó có một lão giả, đó là Thượng thư bộ công, mấy người còn lại là quan lại bộ Công cùng thợ thủ công. Đỗ Văn Hạo đi tới sau Thái Hoàng Thái Hậu, chắp tay nói: "Thái Hoàng Thái Hậu!".

Cao Thao Thao nghe giọng nói của Đỗ Văn Hạo thì vui mừng quay đầu lại hỏi: "Khanh đã tới rồi! Thương nghị đã xong rồi sao?"

"Đã xong hết rồi. Vi thần định bẩm báo với Thái Hoàng Thái Hậu về một số tình hình của hội nghị Tể chấp".

"Hay. Thế nhưng trước tiên khanh hãy giúp Ai gia xem nên tu sửa đình ngắm mưa này như thế nào?' Cao Thao Thao giơ tay chỉ về phía trước.

Đỗ Văn Hạo không chú tới hướng chỉ tay của Cao Thao Thao. Hắn tưởng rằng nàng muốn xây dựng ngay ở dưới chân hắn liền quan sát xung quanh. Trên ngọn núi nhỏ này có đủ các loại hoa cỏ, trên sườn núi có trồng mấy cây tùng. Phía trước có một hồ nước, nước hồ xanh biếc.

Trong Ngự hoa viên có một con sông nhân tạo, dẫn nước từ sông bên ngoài thành vào trong. Nước chảy vòng quanh hậu hoa viên rồi ra ngoài Hoàng thành vì vậy nước trong hồ này luôn lưu thông. Cảnh non nước thanh tịnh và đẹp đẽ. Một hành lang cửu khúc uốn lượn trên mặt hồ. Đối diện với mặt nước xanh biếc bên dưới ngọn núi là đình đài lầu các ở xa xa, có thể nhìn thấy cả ngói Lưu ly trên các mái nhà.

Phía sau ngọn núi nhỏ là một am ni cô nhỏ xinh. Đây có lẽ là am của Thái Hoàng Thái Hậu Tào thị khi còn sống thườn ăn chay niệm phật ở đây. Trong am chỉ có hai nữ ni, Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao đều giữ lại, ban thưởng tiền và vàng bạc.

Đỗ Văn Hạo nói: "Đình hóng mưa ở đây thì không còn chỗ nào tốt hơn. Bên dưới là hồ nước hoa sen, non xanh nước biết, thanh tĩnh lại ưu nhã, cũng không cần lo lắng muỗi nhỏ của hồ nước làm mất hứng. Rất hợp!".

Cao Thao Thao trừng mắt nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Ta không nói ở chỗ này. Ý của ta là ở phía trước kia".

Đỗ Văn Hạo hoảng hốt nói: "Ở phía trước?"

"Đúng vây. Trước tiên khanh hãy xem bản vẽ đi. Bản vẽ này Ai gia đã lệnh cho bộ Công vẽ ra cả đêm hôm qua bản phác thảo này. Khanh hãy nhìn xem thế nào?"

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Thái Hoàng Thái Hậu làm việc rất nhanh chóng nghiêm túc. Tối hôm qua quyết định, hôm nay đã có bản vẽ lại còn khởi công ngay lập tức".

Cao Thao Thao cười nói: "Ai gia vốn tính nóng vội, không chấp nhận những chuyện chậm chạp. Trước tiên khanh hãy xem bản vẽ".

"Được!" Đỗ Văn Hạo nhận bản vẽ, mở ra xem. Tất cả đều là bản vẽ hoàn chỉnh. Tờ thứ nhất vẽ toàn cảnh. Những tờ sau vẽ bố cục của từng phần.

Đỗ Văn Hạo giật mình kinh hãi khi nhìn vào bản vẽ.

Hoàng cung của Bắc Tống không lớn. Ngự hoa viên cũng chỉ rộng bằng hai, ba sân bóng mà thôi. Trong đó vườn Ngư hoa hậu uyển của cao tằng Thái Hoàng Thái Hậu Tào thị đã chiếm mất hơn một nửa. Tất cả đều trông hoa. Ngoại trừ chùa miếu và mấy ngôi đình hóng mát, tất cả là một vườn hoa trông như gấm.

Hiện tại nhìn trên bản vẽ, vườn Ngự hoa hậu uyển đã vượt qua ra bên ngoài Hoàng cung, mở rộng hẳn về phía tây khiến cho bây giờ Hoàng cung có diện tích gần gấp đôi so với ban đầu.

Hiện trên bản đồ là một mảnh đất rộng lớn vẫn còn trống không. Ở giữa trung tâm mảnh đất là một cái hồ nước. Hồ nước này có nối liền với hồ sen của Ngự hoa viên. Ở giữa hồ có một hòn đảo nhỏ, hình chữ nhật, lớn hơn sân bóng đá một chút.

Dựa theo kiến trúc hiện lên trên bản vẽ thì thấy đó là một ngôi lầu ba tầng, chạm trổ bạch ngọc xung quanh. Trên mái của tầng lầu thứ ba có lợp ngói. Bốn mặt có mười sáu đường lan can đối xứng nhau uốn lượn như mây, cao đến ngang hông, hiển nhiên là nơi dùng để đàn ca, thi họa, múa kiếm giải trí cùng với ngắm cảnh.Bốn phía xung quanh của lầu hai và lầu một đều là cửa sổ nhỏ nhắn xinh xắn, chạm khắc. Mỗi cánh cửa sổ to đều có thể đẩy ra được. Các phòng được thiết kế đồng bộ có đầy đủ vật dụng.

Bốn phía xung quanh hòn đảo nhỏ trồng rất nhiều chuối ba tiêu. Trên mặt chuối ba tiêu có kẹp những thanh trúc. Một đầu thành trúc có giọt nước nhỏ xuống. Một guồng nước kiểu cổ dẫn nước từ hồ chảy vào thanh trúc, quanh quẩn quanh núi nhỏ. Trên thanh trúc có những lổ nhỏ chảy nhỏ giọt xuống những cây chuối ba tiêu như thế ngay cả những ngày không mưa vẫn có thể nghe thấy tiếng mưa rơi, đồng thời còn có thể tưới nước cho hoa cỏ trên núi.

Đỗ Văn Hạo nói: "Thái Thái Hoàng Thái Hậu, toà tiểu lâu giữa hồ này không có cầu. Có phải là định dùng thuyền bơi ra đó không?'

Cao Thao Thao mỉm cười gật đầu. Nàng dùng mắt ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo. Hai người bước ra một chỗ cách hơi xa các quan viên cùng thợ thủ công bộ công rồi mới thì thào nói: "Không sai vậy chúng ta có thể ở trên đảo giữ hồ nghe mưa. Bốn phía xung quanh chỉ có nước cùng tiếng mưa rơi. Không lo nghĩ gì, ung dung tự tại".

"Đúng vậy. Chỉ cần nghe nàng nói ta cũng cảm giác như tâm tình mình rất thong dong. Suy nghĩ rất hay, rất tinh tế".

Cao Thao Thao cười có vẻ đắc ý nói: "Chỉ cần ngươi thích là được".

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 415 : Tiểu kim khố Hoàng gia.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Đỗ Văn Hạo liếc mắt nhìn bản vẽ. Hắn thấy chỗ hồ nước chỉ có một con kênh đào nối với hồ nước ở vườn Ngự uyển thì ngạc nhiên nói: "Có phải bản vẽ này sai rồi không? Tại sao hồ nước này chỉ có kênh dẫn nước vào mà không có kênh dẫn nước ra?"

Cao Thao Thao mỉm cười nói: "Đây là đường dẫn nước ra, không phải là đường dẫn nước vào".

Đỗ Văn Hạo càng ngạc nhiên: "Đường dẫn nước ra sao? Vậy còn đường dẫn nước vào?"

"Ngươi đoán đi" Cao Thao Thao chớp chớp mắt, đắc ý nhìn Đỗ Văn Hạo.

"Vậy dùng nước mưa trên trời sao? Không phải. Nước mưa không đủ để duy trì liên tục. Hơn nữa nếu như trời hạn không mưa thì làm thế nào?"

"Ừ. Nước mưa chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong đó. Hãy đoán lại đi. Đừng nhìn lên trời đoán. Hãy nhìn dưới đất mà đoán".

"Dưới đất sao? Nước ngầm dưới đất? Nước suối?"

"Đúng rồi" Cao Thao Thao có chút đắc ý với lối suy nghĩ tinh tế của mình: "Ta đã nghĩ qua có thể dẫn nước sông từ hào bảo vệ bên ngoài thành vào hồ nước như bây giờ nhưng vấn đề là trong tương lai chúng ta lại muốn bơi lội tắm rửa trong hồ nước này. Nhưng nước sông ở hào bảo vệ ngoài thành là dẫn từ nước sông Biện vào. Trên đường dẫn nước nông phụ giặt giũ quần áo, rửa chân, giặt tã, vo gạo, rửa thức ăn, giết gà mổ ngỗng. Tiểu hài tử bơi lội, đại tiện trên sông, đi tiểu trên sông, xác trâu bò, lợn dê chết trôi, thối dữa trên sông. Chỉ cầng nghĩ tới đã thấy buồn nôn".

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: "Nghe nàng nói như vậy. Ta cũng không còn hào hứng nữa".

"Ừ, đúng vậy vì vậy ta mới tìm cách dẫn nguồn nước vào hồ này từ một nơi sạch sẽ. Ngay đêm hôm qua ta đã triệu phủ doãn phủ Khai Phong, Thái Kinh tới, lệnh cho ông ta điều tra xem nơi chúng ta xây dựng hồ này có bao nhiêu con suối. Thái Kinh làm việc này cũng rất nhanh chóng. Sáng sớm hôm nay ông ta đã báo cáo kết quả. Lớn nhỏ có tất cả ba mươi sáu suối nguồn khác nhau. Tất cả đều ùa suối nguồn nước ngọt quanh năm không khô cạn. Trong đó có hai con suối nguồn rất lớn, nước chảy tạo thành dòng suối nhỏ, chảy vào sông Biện. Hai con suối nhỏ này có tên là "Dao Bích khê. Sở dĩ có tên này là vì nước suối của hai con suối này ngọt như nước Cam lộ, trong xanh. Bên công bộ còn nói nếu như mở rộng miệng thì lượng nước còn nhiều hơn nữa".

"Thật vậy sao? Vậy tổng lượng nước là bao nhiêu?"

"Bên bộ Công đã tính toán qua. Ba mươi sáu suối nguồn này. Đặc biệt hai suối nguồn chảy thành suối, với lượng nước không dùng trong một tháng là có thể rót đầy hồ. Hơn nữa còn cam đoan nước trong hồ có thể lưu thông.

"Vậy quá hay. Chúng ta lấy nước đầu nguồn, lại vô cùng sạch sẽ. Chúng ta có thể bơi lội trong nước hồ".

Ánh mắt Cao Thao Thao chợt loé lên. Nàng hỏi Đỗ Văn Hạo: "Khanh biết bơi sao?"

"Đương nhiên khi còn bé ta thường xuyên đội quần áo lên đầu, bơi qua con sông trước nhà đi chơi".

"Thật sư? Vậy tới lúc đó ngươi sẽ dạy ta bơi. Ta không biết bơi".

"Được. Chúng ta có thể phân chia hồ này thành khu nước cạn, khu nước sâu như vậy chúng ta vẫn có thể bơi ở khu nước cạn mà vẫn an toàn".

"Không" Cao Thao Thao lắc đầu nói: "Hồ này phải đào sâu, không có khu nước cạn. Ta muốn bơi ở khu nước sâu. Ngươi hãy dạy ta. Chỉ cần có ngươi ở bên cạnh ta, ta không sợ gì cả".

Bản tính Cao Thao Thao vốn nhu nhược. Một khi nàng có thể nói câu này chính là đã có can đảm mạo hiểm tính mạng của mình. Chứng mình trong lòng nàng đã hoàn toàn tin tưởng Đỗ Văn Hạo. Trong lòng Đỗ Văn Hạo không khỏi thấy vô cùng ấm áp khi hắn thấy mình được tin tưởng như vậy.

Đỗ Văn Hạo rất muốn "âu yếm" Cao Thao Thao một lát nhưng hắn biết không thể được, đành phải đứng quay lưng lại phía các quan lại và thợ thủ công ở phía xa xa gửi Cao Thao Thao một chiếc hôn gió.

Người cổ đại không cởi mở trong việc biểu lộ tính cách và tình yêu như người hiện đại. Đặc biệt là với người trong Hoàng cung, chỉ cần một cái giơ tay nhấc chân cũng phải chú ý lễ nghi cung đình. Cao Thao Thao chưa từng thấy ánh mắt biểu hiện tìng cảm dạt dào như vậy, nhất thời cả người nàng khô nóng bỏng, hai má đỏ như ráng mấy chiều, sóng mắt dịu dàng giống như hai giọt nước vậy. Nàng cũng học dáng vẻ của Đỗ Văn Hạo, ngón tay mân mê đôi môi mọng đỏ như muốn tiến tới đón nhận nụ hôn của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo thấy Cao Thao Thao đã nảy sinh cảm xúc nhưng những quan lại bộ Công đang ở phía sau nên hắn cũng không dám làm xằng bậy. Một khi hắn để người khác nhận ra đầu mối của sự việc thì sẽ cực kỳ nghiêm trọng. Hắn vội vàng ho khan một tiếng rồi nói to: "Thái Hoàng Thái Hậu, những chỗ trống này người chuẩn bị xây dựng cái gì?"

Một câu gọi Thái Hoàng Thái Hậu làm Cao Thao Thao bừng tỉnh. Hiển nhiên nàg biết dụng ý của Đỗ Văn Hạo liền nhìn hắn cười khẽ nói: "Ta vẫn chưa nghĩ ra. Ngươi có ý tưởng gì không?"

"Ta?" Đỗ Văn Hạo cười gượng nói nhỏ: "Người xem trên người ta có chút tao nhã nào không? Xem bệnh ta còn làm được, để thần suy nghĩ bố cục kiến trúc thì không khác gì không trâu bắt chó đi cày".

Cao Thao Thao cười khanh khách nói: "Đừng khách khí. Hiểu biết của ngươi còn nhiều hơn rất nhiều so với mấy con mọt sách chỉ biết khoe chữ kia".

"Đa tạ Thái Hoàng Thái Hậu quá khen" Đỗ Văn Hạo nhìn lướt qua thấy trên bản vẽ thi công lớp lớp các ban công, mái hiên đình hóng mát chi chít như sao trên trời, tùng bách cùng trúc xanh, kỳ sơn, dị thạch trang trí ở giữa thì không khỏi lên tiếng hỏi: "Thao Thao, nàng chuẩn bị xây dựng rầm rộ là có ý định biến cả Ngự hoa hậu uyển này cải tạo thành một đại quan viên à?"

Cao Thao Thao ngạc nhiên hỏi: "Đại quan viên? Cái vườn đó là của triều đại nào xây dựng nên?"

Đỗ Văn Hạo vội vàng bịa ra: "Ý của Đại quan viên chính là mênh mông, lộng lẫy rất có phong thái, không phải vườn của triều đại nào xây dựng nên".

"Ồ, ngươi cảm thấy không tốt sao?"

"Không không, rất tốt. ta chỉ cảm thấy xây dựng một cái vườn lớn như vậy cần rất nhiều hoa".

Cao Thao Thao nhìn Đỗ Văn Hạo, trong mắt nàng ngập tràn sự yêu thương: "Ngươi đừng quan tâm tới tiền. Vườn này được xây dựng đặc biệt rành riêng cho hai chúng ta. Hiện tại sẽ được ngăn cách với Ngự hoa hậu uyển. Ngươi chỉ cần nói cho ta ngươi có thích hay không?"

"Đương nhiên là thích".

"Thật vậy sao?"

Cao Thao Thao nhìn thẳng vào hai mắt Đỗ Văn Hạo, nàng nhìn thấy sự chân thành trong mắt hắn, lập tức nàng cười tươi như hoa nở: "Tối hôm qua sau khi ngươi rời đi, ta không ngủ được, ta liền tới ngọn núi nhỏ này muốn tìm một nơi đẹp để dựng ngôi đình ngắm mưa.

Ta quan sát hồi lâu cũng không tìm thấy vị trí phù hợp. Sau khi mưa ngớt, nhìn về phía kinh thành xa xa, hàng vạn ngọn đèn dầu. Bóng đêm bao phủ, ngọn núi nhỏ này lại rất thấp, không thể nhìn thấy cảnh vật. Ta đã nghĩ nếu có thể dựng một cái đài cao dù không hy vọng cao như đài Đồng Tước chỉ cần có thể đứng trên cao nhìn về phương trời xa xa, có thể tĩnh tâm nghe tiếng mưa rơi vậy là tốt rồi. Lúc đó ta chỉ muốn dựng một chiếc đài cao".

Đỗ Văn Hạo nói: "Chủ ý này rất hay! Trên đài cao dõi mắt nhìn phương xa, cảm giác thật sự vui vẻ thoải mái. Khi ta còn đi học vẫn thường xuyên leo núi. Loại cảm giác "Hội đương lăng tuyệt đính, nhất lãm chúng sơn tiểu*" thật sự là không ngòi bút nào có thể tả".

Cao Thao Thao thấy Đỗ Văn Hạo đồng ý với tâm tư của nàng thì càng vui mừng nói tiếp: "Ta vốn dựng chiếc đài cao ở, phía dưới chính là hồ sen. Xung quanh là trồng chuối ba tiêu. Như vậy có thể nghe tiếng ếch kêu dưới hồ sen, tiếng mưa đạp vào cây chuối tây, và cả tiếng mưa rơi tý tách xuống hồ nước, trong lòng sẽ vô cùng mãn ý. Nhưng vấn đề là chỗ hồ nước ở Ngự hoa hậu uyển này quá nhỏ, không hợp với ý ta. Đặc biệt không có một cảm giác mênh mông cô tịch. Khe nghe tiếng mưa rơi muốn có cảm giác này tốt nhất là bơi thuyền trên mặt hồ, buông neo giữa hồ, bốn phía xung quanh chỉ có tiếng mưa rơi như vậy mới thú vị. Nghĩ vậy đột nhiên ta muốn kiến tạo một chiếc hồ, một chiếc hồ nhân tạo rất lớn, giữa hồ có một toà cô đảo. Chúng ta sẽ dựng đình nghe mưa trên cô đảo này".

"Thì ra là như vậy. Ha ha vì vậy nàng mới ngay trong đêm triệu Thượng thư bộ Công tới để thương nghị ý tưởng của nàng hả?'

"Người biết nhân gia ta nóng lòng mà" Mặt Cao Thao Thao phớt hồng, tươi như hoa đào, e thẹn nàng cười khúc khích nói: "Lần trước chúng ta đã thống nhất với nhau sau khi chuyện bận rộn qua đi chúng ta sẽ tìm một nơi nào đó tốt tĩnh dưỡng một thời gian nhưng bây giờ ta buồng rèm chấp chính, mọi sự phải gá lại, chỉ sợ không rảnh để xuất kinh nhàn rỗi du ngoạn. Ta liền nghĩ tới nếu muốn có một chỗ như vậy ở bên cạnh để tĩnh dưỡng lại tiện xử lý việc chính sự, cũng có thể để cho hai ta dắt tay nhau vui chơi sơn thuỷ vì vậy ta mới hạ quyết tâm không chỉ dựng một đài ngắm mưa mà còn muốn dựng một đại lâm viên như ý muốn. Hai ta có thể tranh thủ lúc rảnh rỗi, qua đây hưởng chút thời gian thanh tịnh, cuộc sống nhàn tản, thoát ly thế tục".

Trong lòng Đỗ Văn Hạo thực sự cảm động. Cao Thao Thao đã vì chính hắn mà rầm rộ xây dựng, đặc biệt dựng một lâm viên Hoàng gia đại quy mô. Xem ra Cao Thao Thao đã thực sự mắc vào lưới tình. một khi bị cuốn vào tình ái sẽ nảy sinh yêu thương đắm say. Đỗ Văn Hạo cảm thấy điều này hoàn toàn thật. Nếu như không phải bây giờ đang có người bên cạnh, Đỗ Văn Hạo sẽ bước tới ôm hôn nàng, nói cho nàng biết cảm nhận của lòng mình.

Dù là như thế nhưng Cao Thao Thao là người thông minh, nàng đã nhận ra sự yêu thương chân thành trong ánh mắt Đỗ Văn Hạo, lòng nàng lại như rót mật. Nàng nói tiếp: "Ngươi cũng đừng lo lắng chuyện tiền bạc. Trước khi ta triệu Thượng thư bộ Công tới tối hôm qua, ta đã triệu Thượng thư bộ Hộ tới hỏi xem rốt cuộc ngân khố triều đình còn bao nhiêu ngân lượng để tuỳ cơ ứng biến, có thể quyết định quy mô của lâm viên. Ngươi đoán xem rốt cuộc chúng ta có bao nhiêu ngân lượng còn tồn?"

"Không đoán được" Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: "Thế nhưng lúc xế chiều có nghe Tể tướng Vương Giai nói một năm ngân khố triều đình thu vào sáu ngàn vạn hôn. Trong số đó đại bộ phận là dùng cho quân khí nuôi quân. Hẳn là không còn đáng kể?"

"Đúng. Thượng thư bộ Hộ nói trước mắt quốc khố cơ bản đã cân đối thu chi, ngân lượng còn tồn không tới ba trăm vạn ( tương đương với ba trăm triệu nhân dân tệ ).

"Tiền còn ít như vậy chỉ e là không đủ để xây dựng lâm viên".

"Lúc ấy ta rất thất vọng. Tiểu Tiêu tử đã nhắc nhở ta, nhắc ta kiểm tra ngân khố Hoàng cung, có lẽ có bạc. Ta lập tức gọi tổng quản ngân khố Hoàng cung tới tra hỏi. Ngay khi mới tra hỏi thông tin biết được làm ta vừa mừng vừa sợ. Ngươi lại đoán xem ngân khố Hoàng cung có bao nhiêu tiền?"

Quốc khố thời cổ đại chia ra làm hai bộ phận. Một là cả quốc gia chính là quốc khố. Một là ngân khố Hoàng cung, là kho bạc riêng của Hoàng Thượng. Đương nhiên ngân khố Hoàng cung của Hoàng Đế cũng là nơi cất giữ tiền, ngoại trừ cống phẩm trong và ngoài nước còn tuyệt đại cũng chỉ là tiền dư của quốc khố. Những khoản tiền còn dư của quốc khố được chuyển tới ngân khố Hoàng cung.

Đỗ Văn Hạo nói: "Quốc khố trống rỗng. Ngân khố hoàng cung nhất định cũng có rất ít ngân lượng".

'Ta vốn cũng nghĩ như vậy nhưng khi tổng quản mở sổ sách ra tra tìm. Hì hì, ngân khố Hoàng cung chúng ta còn tồn kho một trăm bảy mươi triệu quan tiền".

Một trăm bảy mươi vạn quan tiền tương đương với một trăm bảy mươi tỷ nhân dân tệ. Ở triều Tống con số này nhất định làm người khác trợn mắt há hốc mồm.

Đỗ Văn Hạo vừa mừng vừa sợ hỏi: "Không thể nào. Tại sao lại có nhiều tiền còn tồn lại vậy?'

"Ta cũng rất nghi ngờ, ta bắt tổng quản dẫn ta tới ngẩn khố. Vừa mới mở cửa ra ta biết đó chính là sự thật. Tiền bạc trong ngân khố hoàng cung chúng ta xếp như toà núi nhỏ. Dây buộc xâu tiền đã mục nát, những đồng tiền chất cao như núi rơi lả tả xung quanh. Bên cạnh tiền bạc còn phải kể tới không biết bao nhiêu các loại kỳ trân dị bảo vô giá".

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 416: Cải tiến biến pháp.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên hỏi: "Ở đâu ra nhiều tiền vậy chứ?"

Cao Thao Thao nói: "Đúng vậy. Ta cũng hỏi tổng quản như vậy. Sau khi hắn giải thích một hồi ta mới hiểu. Tiên đế dùng biến pháp của Vương An Thạch. Tiền phu dịch, tiền Thanh Miêu Pháp, tiền phường chợ vân vân ùn ùn đổ vào quốc khố. Trong đó tiền Thanh Miêu pháp là nhiều nhất, mỗi năm lên tới năm trăm nghìn quan. Hơn mười năm qua, hàng năm đều còn dư mà năm sau tăng nhiều hơn năm trước. Hàng năm tiên đế chuyển đại bộ phận tiền dư của quốc khố vào ngân khố Hoàng cung vì vậy mới tích luỹ tiền dư trong bằng ấy năm nhiều như vậy".

Bỗng nhiên Đỗ Văn Hạo tỉnh ngộ, hắn nói: "Thật không ngờ biến pháp của Vương An Thạch rất kém cỏi nhưng khả năng vơ vét của ông ta không nhỏ chút nào".

"Đúng vậy. Thời gian trị vì của Nhân Tông và Anh Tông hoàng đế ta biết, thường xuyên nhập vào không bù xuất ra. Quốc khố gần như không có ngân lượng dư tồn. Ngân khố Hoàng cung cũng có rất ít tiền bạc. Không ngờ hơn mười năm tiên đế lại dự trữ được lượng ngân lượng kếch sù như vậy. Quả thực làm người khác phải than thầm kinh hãi".

Đỗ Văn Hạo mừng thầm trong lòng khi hắn nghe thấy nói có rất nhiều tiền: "Vậy chúng ta xây dưng lâm viên này đại khái hết bao nhiêu tiền?"

"Khu vườn này của chúng ta chủ yếu là nhân công đào đắp, chi phí không nhiều lắm. Ta chỉ muốn phong cảnh sơn thuỷ, không xây lầu cao nên không tốn quá nhiều tiền. Bộ công đã tính toán đại khái hết khoảng bốn ngàn ba trăm vạn quan tiền".

Bốn ngàn ba trăm vạn quan tiền tương đương với bốn mươi ba triệu nhân dân tệ. Gần như là chiếm hơn một nửa tổng ngân khố của Bắc Tống.

Đỗ Văn Hạo líu lưỡi nói: "Nhiều vậy sao? Thao Thao, nàng mới buông rèm nhiếp chính đã xây dựng rầm rộ lầu gác, cung điện nay lại bỏ ra nhiều tiền như vậy để xây dựng lâm viên, chỉ e các đại thần sẽ có dị nghị".

"Không sao. Tiền để xây dựng vườn hoa chính là của ngân khố Hoàng cung chúng ta, không phải tiền trong ngân khố quốc gia. Tiền trong ngân khố Hoàng cung số lượng cụ thể bao nhiêu các đại thần trong triều cũng không biết. Tất cả số tiền này chỉ là tiền phụ chi mua hoa nên bọn họ cũng không biết. Hơn nữa số tiền này chất đống trong ngân khố Hoàng cung mấy chục năm, dây buộc cũng đã mục nát, bỏ đi cũng lãng phí không bằng chúng ta dùng. Ngân khố Hoàng cung còn tồn một ngàn bảy trăm triệu quan. Chúng ta mới chỉ dùng chưa tới một phần tư số đó, cũng không tính là dùng hao tốn quá nhiều. Cứ dùng hết rồi lại kiếm được mà'.

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: "Sau khi Vương Anh Thạch bị bãi chức Tể tướng, chỉ sợ cũng rất khó tìm ra người có bản lĩnh vơ vét như ông ta".

Cao Thao Thao trầm ngâm một lát rồi chậm rãi gật đầu nói: "Đúng. Ông ta rất biết cách quản lý tiền bạc. Điều này trong triều từ trên xuống dưới đều công nhận. Ngân khố Hoàng cung có một ngàn bảy mươi vạn quan cũng đủ để chứng minh điều này. Ta vẫn muốn dùng ông ta làm Thương thư bộ hộ quả lý tài sản tiền bạc nhưng biến pháp của ông ta không thể tiếp tục được nữa".

Giai đoạn ban đầu của triều Tống có thành lập tam ti quả lý việc thu chi tiền bạc trong cả nước. Sau đó quyền lực của tam ti được mở rộng cực lớn, xâm chiếm rất nhiều chức năng của nha môn lục bộ triều đình, thậm chí còn xâm phạm quyền giám sát, hơn nữa cơ cấu rất cồng kềnh. Hơn nữa phân chia quyền lực không hợp lý. Khi Tống Thần Tông bắt đầu cải cách chế độ xã hội, đem trả lại tất cả các quyền hạn mà tam ti chiếm đoạt của các bộ. Trong đó có quyền tài chính trả lại cho bộ hộ. Bộ hộ quản lý tất cả tiền gạo, trưng thu thuế cùng với các công việc hộ khẩu trong cả nước. Bây giờ tương đương với bộ tài chính và bộ dân chính.

Đỗ Văn Hạo biết Cao Thao Thao ghét cay ghét đắng biến pháp. Hắn cũng đã nghĩ tới kết quả này nhưng vẫn hỏi lại một câu: "Nàng muốn bãi bỏ toàn bộ biến pháp sao?"

"Đúng!" Cao Thao Thao xua tay nói: "Biến pháp hại dân hại nước nếu không bãi bỏ cứ thế mãi nhất định dân chúng sẽ sinh biến".

"Nếu như muốn bãi bỏ chỉ e là Vương An Thạch sẽ không đồng ý tới giúp chúng ta quản lý tiền bạc. Cho dù có tới ông ta cũng thay đổi phương pháp quản lý tiền bạc, coi như vẫn là tranh quyền lợi với dân chúng. Nếu như bãi bỏ toàn bộ, chỉ e ông ta cũng theo kẻ khác, không muốn làm việc".

"Không giúp cũng chẳng sao" Nói xong Cao Thao Thao cảm thấy câu này của mình quá ngang ngược. Nàng cúi đầu suy nghĩ một chút rồi thở dài nói: "Đáng tiếc nếu biến pháp có thể không làm hại dân chúng mà lại có thể khiến quốc khố tràn đầy thì tốt biết bao".

"Vẫn có cách" Đỗ Văn Hạo nói: "Lần trước ta theo tiên đế cải trang vi hành điều tra hiệu quả của biến pháp. Ngay lúc đó phát hiện ra rất nhiều vấn đề. Thật ra phần lớn biến pháp của Vương An Thạch bản thân nó không có vấn đề gì nhưng vấn đề ở đây chính là tiến hành quá nhanh, không tiến hành theo trình tự, khiến cho cả xã hội không thể thích ứng kịp với tiến trình của biến pháp, không làm cho dân chúng nhận ra chỗ lợi ích của biến pháp. Biến pháp thiếu hẳn một người làm mẫu, một mô hình mà đã thi hành trong khắp cả nước, đương nhiên sẽ vấp phải thành kiến. Biến pháp của ông ta có địa phương có thể áp dụng được nhưng có địa phương rất khó áp dụng. Càng gia tăng chấp hành nghiêm chỉnh biến pháp quan lại càng lạm dụng quyền lực ức hiếp dân chúng, khiến biến pháp càng bị thay đổi bản chất".

Nói tới biến pháp, tâm tình của Cao Thao Thao rất mâu thuẫn. Nếu là người khác nói chỉ e nàng đã cắt ngang không cho nói nhưng người đang nói là tình nhân của nàng, nàng lại muốn nghe không phải chỉ là nghe căn nguyên của sự việc mà còn muốn lĩnh hội cả tình cảm trong đó vì vậy nàng không ngắt lời Đỗ Văn Hạo, chỉ ngẩng đầu cười nhìn hắn.

Thấy thế Đỗ Văn Hạo quyết định thừa dịp này tranh thủ thời cơ khi còn kịp nói chuyện biến pháp: "Thật ra biến pháp của Vương An Thạch, đại bộ phận có mục đích rất tốt, lợi nước, an dân, quan tâm tới lợi ích của hai bên. Chỉ cần chúng ta vận dụng đúng phương pháp vẫn có thể đạt được mục đích này".

"Có đúng không?" Cao Thao Thao buột miệng hỏi một câu.

Đỗ Văn Hạo thấy nàng hỏi chiếu lệ như vậy hiểu trong lòng nàng không thích nghe nhưng đã nói tới ddaay rồi thì vẫn phải tiếp tục nói nên hắn nói tiếp: "Ví dụ như Thanh Miêu pháp bị phán đối dữ dội nhất. Mục đích ban đầu của Thanh Miêu pháp chính là người dân khi vào lúc giáp hạt có thể mượn tiền từ nha môn để tạm duy trì cuộc sống mà triều đình cũng được hưởng lợi từ chính điều này

Khởi đầu của biến pháp này rất đúng nhưng vấn đề là những quan phủ nha môn trực tiếp biến thành công việc kinh doanh, làm sai lệch hoàn toàn ý nghĩa ban đầu của biến pháp. Quan phủ có công quyền trong khi đó bọn quan lại đó đã có thói quen dùng quyền lực ức hiếp người dân. Trong quá trình thực hiện đương nhiên sẽ xuất hiện chuyện lạm dụng quyền lực làm cho biến pháp biến dạng.

"Khi ta ở phủ Thành Đô lộ Nhã Châu thực thi biến pháp này, tiến hành điều chỉnh quy định vốn để an dân này, thực hiện việc sửa đổi thành hình thức góp vốn đầu tư. Hiệu quả cũng không tệ lắm".

Cao Thao Thao biết người trong lòng nàng sẽ không bao giờ lừa gạt nàng. Đỗ Văn Hạo đã nói hiệu quả khá tốt thì nhất định là hiệu quả khá tốt. Nàng có ấn tượng rất sâu sắc với một ngàn bảy trăm triệu quan tiền trong ngân khố Hoàng cung, trong một chừng mực nào đó đã làm thay đổi sự ác cảm tới cùng cực của nàng đối với biến pháp.

Trước kia Cao Thao Thao chỉ biết biến pháp là tai hoạ của dân chúng, có ý định bệnh vực kẻ yếu. Nàng hoàn toàn không hay biết việc biến pháp đã thu được một lượng tiền bạc khổng lồ cho ngân khố. Chính vì cái gọi là không lo việc nhà nên không biét củi gạo quý hiếm. Bây giờ nàng buông rèm chấp chính sẽ phải lo nghĩ cho cả đất nước. Nàng đang âu sầu không biết làm thế nào để ngân khố luôn tràn đầy.

Lần này Cao Thao Thao chuẩn bị xây dựng Ngự hoa hậu uyển vì cái gọi là cuộc sống già nhân ngãi non vợ chồng của nàng và Đỗ Văn Hạo. Nàng muốn đầu tư bốn trăm ngàn vạn quan tiền ( tương đương với bốn mươi triệu nhân dân tệ ). May mắn thay tiên đế đã để lại ngân khố Hoàng cung kết quả của hơn mười năm biến pháp cho nàng xử dụng. Bằng không nàng chỉ có thể ngồi mà than ngắn thở dài. Lúc này trong lòng nàng thực sự coi trọng phương pháp làm quốc khố luôn đầy chặt.

Vì vậy Cao Thao Thao hứng thú hỏi Đỗ Văn Hạo: "Ngươi tiến hành điều chỉnh Thanh Miêu pháp như thế nào?"

Đỗ Văn Hạo liền nói tất cả những thay đổi của hắn đối với Thanh Miêu Pháp, sau cùng hắn nói: "Khi ta rời khỏi đó, sau khi Thanh Miêu pháp được sửa đổi, không còn xuất hiện các tai hoạ gây ra bởi Thanh Miêu pháp. Dân chúng phản ứng rất tốt đẹp. Khi ta đi đã giao lại cho Tô Thức tiếp tục áp dụng. Không biết trong một năm qua tình hình như thế nào?"

Cao Thao Thao trầm ngâm nói: "Tô Thức là người có tài văn chương, đồng cảm với dân chúng. Nếu như biến pháp đó thật sự lợi nước an dân, ông ta sẽ tích cực áp dụng. Thế này đi. Ta sẽ ra chỉ lệnh cho Tô Thức quay về kinh thành, ta muốn hỏi ông ta một số chuyện về biếp pháp đó. Nếu như biến pháp thực sự hữu hiệu, ta có thể cân nhắc giữ lại Thanh Miêu pháp, không phải nói là Thanh Miêu pháp cải tiến của ngươi".

Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: "Vậy tốt quá. Cứ vậy đi. Khoảng cách từ kinh thành tới phủ Thành Đô không quá xa. Hiệu quả hay không cứ cho người đi khảo sát. Nếu không chờ sau khi Tô Thức tới, bẩm báo cho nàng. Nếu như nàng quyết định giữ lại Thanh Miêu pháp cải tiến này, chúng ta sẽ ở kinh thành tuyển chọn một hai phủ, huyện tiến hành thí điểm, tích luỹ kinh nghiệm, quan sát hiệu quả. Nàng thấy thế nào?"

Cao Thao Thao khẽ cười, nói nhỏ: "Ta đã bao giờ phản đối đề nghị của ngươi chưa?"

"Hì hì. Thao Thao của ta là người ngoan ngoãn biết nghe lời nhất" Đỗ Văn Hạo ôn nhu nói.

Cao Thao Thao vui mừng liếc nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Chỉ mong sau này khi ngươi chính thức áp dụng Thanh Miêu pháp có thể làm lợi nước an dân, sau này có tiền bạc thu vào, chúng ta sử dụng ngân khố có tiên đế mới cảm thấy an lòng một chút".

"Đúng vậy. Những biến pháp khác của Vương An Thạch cũng rất hay. Liệu có cần cân nhắc giữ lại rồi thay đổi không?"

"Tham lam tất nhai không kỹ. Ngươi cũng vừa mới nói biến pháp phải tuần tự tiến hành, theo trình tự thực hiện dần dần".

"Đúng đúng. Hì hì" Đỗ Văn Hạo vội vàng trả lời. Hắn biết trong lòng Cao Thao Thao vẫn chưa hoàn toàn thay đổi ác cảm với biến pháp. Nếu không phải biến pháp cải tiến đó là thành tựu của người trong lòng, nàng nhất định sẽ không cân nhắc giữ lại. Cho dù bất kỳ ai có nói biến pháp này có thể lợi nước an dâm nàng cũng không suy nghĩ. Việc giữ lại Thanh Miêu pháp là nàng đã có thể tiếp nhận vấn đề. Nếu muốn nàng tiếp tục giữ lại, nàng sẽ không đồng ý. Mọi việc chỉ có thể bước từ từ. Hơn nữa nói như Cao Thao Thao bản thân hắn chỉ có thể chậm rãi tiến hành cải cách từng bước một. Nếu lại liều lĩnh áp dụng nhất định sẽ phạm sai lầm. Có thể giữ lại Thanh Miêu pháp cải tiến làm thí điểm đã là rất tốt rồi.

"Chúng ta hãy quay lại việc xây dựng lâm viên" Cao Thao Thao chỉ tay về khu đất rộng mênh mông phía trước dự tính xây dựng lâm viên nói: "Ta chỉ muốn ra đảo giữa hồ ngắm mưa, xây dựng những cái khác ta thực sự không nghĩ ra. Ngươi có chủ ý nào không?"

"Nhưng ta thực sự không biết gì về kiến trúc".

"Ta không muốn biết ngươi muốn xây dựng như thế nào. Hãy nói ta biết ngươi thích phong cảnh như nào là được, đương nhiên sẽ có người của bộ công căn cứ vào suy nghĩ của ngươi mà sắp đặt".

"Vậy hả? Muốn ta nghĩ thế nào thôi sao?" Đỗ Văn Hạo chỉ về phía xa xa nói: "Ta chỉ hy vọng đài sẽ cao hơn một chút. Tốt nhất là có thể cao hơn tất cả các công trình ở kinh thành. Như vây lên cào nhìn mọi núi nhỏ phía dưới cảm giác mới mạnh mẽ".

"Ta vốn cũng nghĩ tới điều này. Ta vốn cũng muốn cao hơn một chút. Ít nhất có thể cao hơn tháp của tướng quốc tự. Nhưng người của bộ công nói. Nếu một khi cao quá sẽ bị ông trời nghi kỵ, sẽ đánh sét, tia chớp. Sét đánh đài cao. Trước kia tháp của tướng quốc tự vốn cao bảy tầng nhưng sau khi xây dựng xong một năm bị sét đánh sập một tầng, một tăng lữ trên tháp còn bị sét đánh chết. Sau này tướng quốc tự bói quẻ nói tháp cao tất bị trời nghi kỵ nên mới vội vàng sửa thành tháp năm tầng. Sau khi sửa lại, tháp không bị sét đánh nữa".

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 417: Lựa chọn chủ soái.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Ôi, đó chỉ là mê tín" Bản thân hắn là người hiện đại nên có thể giải thích được nhận thức sai lầm đó. "Không tồn tại cái gọi là tháp cao bị ông trời nghi kỵ. Vì không muốn tháp cao nên ông trời mới giáng sét xuống sao? Vậy sao núi cũng cao mà ông trời không đánh xuống đi?"

Cao Thao Thao che miệng cười nói: "Đúng vậy. Ta cũng hiểu lý do này có chút gượng ép. Nhưng quả thực Tướng quốc tự bị sét đánh gẫy một tầng lầu. Hôm đó ta còn đích thân tới đó xem".

"Ta sẽ có cách phòng ngừa sét đánh rất tốt. Nàng cứ yên tâm, không có vấn đề gì hết. Thế này đi, để đề phòng vạn nhất chúng ta chỉ dùng cái tháp cao này ngắm phong cảnh, không để ngắm mưa. Hơn nữa chúng ta không nên xây dựng trên đảo giữa hồ. Chúng ta nên tìm một chỗ đất cao để xây dựng. Những khi có mưa chúng ta cũng không cần trèo lên đó nghe tiếng mưa rơi mà ngắm mưa ở Thính vũ hiên. Thính vũ hiên chỉ cần cao ba tầng là đủ. Nếu cao quá sẽ không nghe thấy tiếng mưa rơi trên mặt hồ thì sẽ không cảm thấy sự kỳ diệu".

"Chủ ý này của người rất hay. Ngươi đã nghĩ ra cách đề phòng sét đánh vậy cứ để bọn họ xây một cái tháp ngắm cảnh khác. Ngươi cảm thấy tháp đó cao bao nhiêu thì phù hợp?"

"Đương nhiên càng cao càng tốt nhưng cao quá lại không an toàn, cũng khó có thể trèo lên được. Chỉ cần chín tầng thôi. Kể ra chín tầng là cực hạn rồi, lên đó nhìn cũng rất xa rồi".

Cao Thao Thao suy nghĩ một lát rồi nói: "Dù sao chúng ta cũng phải đào hồ, đất bùn đào lên sẽ đắp thành một quả núi nhỏ, nhất định sẽ cao hơn ngọn núi này. Sau đó chúng ta sẽ xây dựng một cái tháp trên đỉnh ngọn núi đó. Không phải như vậy sẽ càng cao hơn sao?"

"Ý tưởng rất hay. Có thể đỡ được công chuyên chở bùn đất đào lên, ngược lại còn làm giảm chi phí cho của công trình".

"Đúng vậy. Người nói đi ngươi muốn xây dựng cái gì nữa?"

"Lấy đá Thái Hồ làm hòn non bộ thì không còn gì đẹp hơn". ( đá Thái Hồ (loại đá ở Thái Hồ tỉnh Giang Tô, Trung Quốc, thường dùng làm hòn non bộ)

"Điều này ta cũng đã nghĩ tới. Ta sẽ an bài để bọn họ vận chuyển tới. Còn gì nữa không?"

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một lát rồi nói: "Từ bản vẽ này có thể thấy cái hồ này rất rộng lớn, hơn nữa lại gần như hình chữ nhật. Ngoại trừ Thính vũ hiên của chúng ta ở đảo giữa hồ, toàn bộ mặt hồ trống rỗng. Ta đang suy nghĩ nếu cứ để trống như vậy nhìn lâu sẽ thấy đơn điệu. Chúng ta có thể từ đảo xây dựng một chiếc cầu dài hình vòm hơn nữa còn uốn lượn ngang hai bên bờ hồ. Như vậy chúng ta có thể từ xa nhìn Thính vũ hiên ở giữa hồ sẽ trông giống như một chuỗi hạt ngọc lơ lửng trên mặt nước".

Cao Thao Thao vỗ tay nói: "Chủ ý này rất hay. Ta nhớ rồi. Còn gì nữa không?"

"Còn nữa. Khu vườn của chúng ta rất rộng, hơi trống trải. Sao chúng ta không dựng một số hòn non bộ, trong vườn cũng nuôi một ít hươu sao, chim uyên ương, tiên hạc và các loại động vật ngoan hiền để bầu bạn với chúng ta?"

"Đúng đúng. Như vậy cả khu vườn sẽ tràn đầy sự sống, đúng không?"

"Ừ. Chúng ta đào hồ nhân tạo. Đáy hồ nhất định là bùn, một khi chúng ta dẫn nước vào, nhất định sẽ trở thành hồ bùn nhão nên phải cẩn thận đề phòng. Tốt nhất là hãy rải dưới đáy hồ một lớp đá cuộc mỏng, điều này cũng thể giúp loại bỏ tạp chất trong nước hồ".

"Hay. Ta sẽ nhắc nhở ngwoif của bộ công. Bọn họ rất có kinh nghiệm đào hồ. Cái hồ chúng ta sắp làm là do bộ công chịu trách nhiệm tổ chức đào. Chất lượng nước cực kỳ tốt. Ban đầu bọn họ sẽ trải một lớp cá mỏng và đá cuội dưới đáy hồ. Bọn họ còn làm vệ sinh chất lượng nước. Ta cũng không cần phải nói. Dù gì việc này giao cho bọn họ làm rất tốt. Ngươi chỉ cần muốn phong cảnh thế nào là được".

'Điều nàng nói nhất thời ta vẫn chưa nghĩ ra. Sau này nghĩ ra chậm rãi tu sửa cũng chẳng sao. Dù sao thì công trình đào hồ nhân tạo lớn như vậy, nhất định phải hết một năm rưỡi mới có thể đào xong. Hãy cứ lắng nghe ý kiến của những thợ thủ công của bộ công. Dù gì bọn họ thường làm những việc này nên ý kiến của bọn họ sẽ tốt hơn ý kiến của ta".

"ý kiến của bọn họ cũng nghe nhưng vẫn chủ yếu là ý kiến của hai chúng ta. Khu vườn này được xây rành riêng cho hai chúng ta. Hiển nhiên phải hợp ý chúng ta, chúng ta phải thấy thoải mái".

"Điều này cũng đúng. Nàng cứ quyết định là được. Nàng thích là ta cũng thích".

"Ừ. Vậy được rồi. Trước tiên ta dựa theo ý kiến của người cùng suy nghĩ của ta để cho bọn họ làm. Ngươi hãy bớt chút thời gian đến xem, có điểm nào hay hoặc có chỗ nào không hài lòng hãy kịp thời nói ra. Trước nay ngươi vẫn bận rộn chuyện nhũng binh, nhân tiện hãy để chuyện này giúp ngươi có chút tiêu khiển".

Cao Thao Thao đã nhắc tới chuyện nhũng binh, Đỗ Văn Hạo càng nhân cơ hội bám lấy. Hắn nói: "Hôm nay Tể chấp thương nghị chính sự còn nói tới cả chuyện nhũng binh.

Đúng rồi Tây Hạ đã nhiều lần hưng binh xâm phạm biên giới chúng ta. Tể chấp đã thương nghị và quyết định xuất chinh đánh Tây Hạ. Có lẽ chuyện này đã được bẩm báo với nàng".

'Bẩm báo rồi. Ngay giữa trưa đã bẩm báo. Ta đã xem qua Tây Hạ quá càn rỡ, khinh thường Đại Tống ta không có người. Nhất định phải giáo huấn cho chúng một trận. Đề nghị của ngươi rất tốt, làm từng bước một, tiến chắc từng bước, đánh lâu dài, lấy sở trường của mình khắc sở đoản của chúng. Bọn họ đề nghị cử người làm binh mã Đại nguyên soái để ngươi ở lại kinh thành toạ trấn chỉ huy, cử một tổng chỉ huy mặt trận nghênh địch ở Hoàn Khánh. Đề nghị này ta cũng đồng ý".

Đỗ Văn Hạo rất sốt ruột, hắn vội vàng hỏi: "Vậy nàng đã hạ chỉ phê chuẩn chưa?"

"Vẫn chưa. Gấp gì mà không thể lùi lại nửa ngày sao? Bọn họ nói là cuối buổi chiều còn một tấu chương về việc tăng biên chế Sương quân cần phê duyệt nên ta đã để lại. Bây giờ các ngươi đã thương nghị xong ta sẽ quay về phê duyệt".

"Không không" Đỗ Văn Hạo vội vàng nói: "Ta tới tìm nàng chính là muốn thương lượng với nàng về chuyện chọn quan chỉ huy nghênh địch. Nói chuyện ở chỗ này không tiện. Hay chúng ta nên quay về cung nói chuyện?"

Cao Thao Thao liếc nhìn Đỗ Văn Hạo một cái, gương mặt nàng thoảng ửng hồng, nàng nói nhỏ: "Ừ. Đi thôi".

Sau khi Cao Thao Thao căn dặn Thượng thư bộ công tiếp tục khảo sát thiết kế khu vườn nàng cùng Đỗ Văn Hạo xuống núi, rời khỏi vườn Ngự uyển đi về tẩm cung. Nàng vẫy tay cho mấy người Tiêu công công lui ra ngoài, khép cửa lại.

Cánh cửa vừa mới khép lại thì lập tức hai người như dính lại với nhau, cùng ngã xuống giường. Liệt hoả bừng bừng nổi lên, quần áo của hai người bị lột ra hơn một nửa. Sau một hồi hai người sục sôi, Cao Thao Thao yêu kiều thở hổn hển, lúc này nàng gần như phải tự đè nén bản thân vì hai nước đã có ước định chịu tang một năm. Hai người nén ngừng lại ôm nhau nằm trên giường nói chuyện.

Cao Thao Thao dùng ngón tay thon dài của mình vẽ vẽ trên lồng ngực của Đỗ Văn Hạo, nhỏ nhẹ nói: "Nếu ngươi không thích Lữ Công đảm nhiệm chức tổng chỉ huy mặt trận thì hãy đổi người đi. Ngươi muốn người nào ta cũng đồng ý".

"Thật sao?" Đỗ Văn Hạo thầm vui mừng. Hắn đã sớm chọn được người đảm nhiệm chức quan tổng chỉ huy chiến dịch nên nói ngay: "Hãy để cho Khúc Chẩn đảm nhiệm chức vụ này, được không?"

"Khúc Chẩn? Là ai vậy?' Trước kia Cao Thao Thao không để ý tới chuyện chính trị và quân sự nên nàng không biết danh tiếng lẫy lừng của Đại tướng Bắc Tống Khúc Chẩn.

Đỗ Văn Hạo đã nghiên cứu lịch sử chiến tranh giữa Đại Tống và Tây Hạ. Thường ngày hắn cũng được nghe nhiều chuyện cũ của đám người Lý Phố vì vậy có hiểu biết rõ ràng về Khúc Chẩn: "Khúc Chẩn là Đại tướng của chúng ta, ông ta vốn là phó Tổng quản lộ Đường Duyên, chinh chiến hơn mười năm với Tây Hạ, đã nhiều lần cầm quân đánh bại quân Tây Hạ trong các chiến dịch lớn nhỏ, là một viên hổ tướng. Đáng tiếc trong trận đánh thành Vĩnh Nhạc, chủ soái của quân ta quyết định sai lầm, binh bại thành Vĩnh Nhạc. Khúc Chẩn chỉ huy tàn quân huyết chiến đánh giết giữa vòng vây, thoát được một mạng nhưng sau đó lại bị hạch tội, nói ông ta bại trận bỏ trốn nên bị biếm coi cổng thành, hiện nay ông ta đang ở kinh thành. Trận chiến đó ông ta bị trọng thương nên vẫn cáo bệnh ở nhà dưỡng thương nên nàng vẫn chưa từng gặp qua".

"Ông ta là võ tướng?"

"Đúng vậy".

Cao Thao Thao cười áy náy nói: "Thái Tổ hoàng đế đã có di chiếu triều Tống ta chỉ dùng quan văn cầm quân. Đây chính là chế định vạn năm không được thay đổi. Cho dù ta có đồng ý với ngươi thì đại thần trong triều cũng không đồng ý. Khi đó tấu chương can gián sẽ bay tới như tuyết rơi, chúng ta sẽ không sao chịu nổi".

"Không để ý tới bọn họ không được sao?" Nói xong câu này Đỗ Văn Hạo cảm thấy lời nói của mình không ổn lắm. Dù sao Cao Thao Thao mới buông rèm chấp chính. Lúc này nàng cần nhất là sự ủng hộ mà không phải là làm cho các đại thần bất mãn và phản đối để làm mất uy tín.

Đỗ Văn Hạo thấy sắc mặt vô cùng khó xử của Cao Thao Thao. Hắn biết nàng không đành lòng phản đối làm mất mặt hắn nhưng nàng cũng không có cách nào đồng ý với đề nghị của hắn nên hắn ôm nàng hôn và nói: "Nếu như đây là di chiếu của Thái Tổ cũng chỉ còn cách tuân theo. Vậy cứ dùng Lữ Công làm chủ soái. Khúc Chẩn làm phó soái, được không?'

Cao Thao Thao thở nhẹ một hơi, nàng mỉm cười gật đầu, hôn Đỗ Văn Hạo nói: "Điều này thì không thành vấn đề. Quân ta khi xuất binh, phó soái thường là võ tướng. Khúc Chẩn vốn là bại tướng, đáng không nên trọng dụng nhưng do ngươi đề cử, hơn nữa trước kia ông ta lại lập nhiều chiến công nên cứ để ông ta làm phó tổng chỉ huy mặt trận".

"Vậy tốt quá. Ta thay mặt Khúc Chẩn cám ơn nàng cho ông ta một cơ hội nữa lập công vì đất nước, ta cũng thay mặt tướng sĩ ở tiền tuyến cám ơn nàng".

Cao Thao Thao ngạc nhiên nói: "Vì sao tướng sĩ ở tiền tuyến phải cám ơn ta?"

"Đi theo một chủ soát tài giỏi nói không chừng sẽ đánh thắng trận. Nếu đi theo một chủ soái bình thường nói không chừng sẽ mất mạng. Nàng đồng ý cử một viên tướng xuất sắc như Khúc Trân ra tiền tuyến cho dù chỉ là một phó soái nhưng ít nhất cũng có thể có thể làm cho binh sĩ có thể không mất mạng nên bọn họ đương nhiên muốn cám ơn nàng".

Cao Thao Thao buồn bực vô cớ nói: "Quan văn làm chủ soái lại thực sự kém cỏi như vậy sao?"

"Đương nhiên không phải toàn bộ đều kém cỏi. Ví dụ như Phạm Trọng Yêm, ông ấy xuất binh đánh thắng rất nhiều trận nhưng xét một cách tổng thể quan văn rất kém cỏi. Từ cổ đại tới giờ chỉ có Tống triều chúng ta mới dùng quan văn làm thống soái cầm quân như vậy không thể nói đây là chuyện sáng suốt".

Cao Thao Thao u oán trừng mắt nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Cái gì mà không sáng suốt? Đừng ăn nói lung tung. Đây chính là quy định do Thái Tổ định ra".

Đỗ Văn Hạo cười hì hì. Hắn vuốt ve ngực nàng nói: "Khi có hai chúng ta, ta mới nói. Khi có người khác ở trước mặt ta, ta sẽ không bao giờ nói như vậy".

Hai hàng mi dài của Cao Thao Thao chớp chớp, nàng thở dài nói: "Đúng vậy. Thắng trận có thể bảo toàn tính mạnh, thua trận đương nhiên là chết. Các tướng sĩ hiển nhiên thích đi theo chủ soái đánh thắng trận. Vậy làm như nào mới thắng trận. Cho dù không thắng cũng tuyệt đối không thể thất bại. Ta nghĩ ta muốn…hay là như này, trước khi xuất binh ta sẽ căn dặn Lữ Công, ta muốn ông ta lắng nghe cẩn thận ý kiến của Khúc Trân. Nếu ý kiến hợp lý nhất định phải dùng. Nếu như Khúc Trân phản đối quyết liệt kế hoạch tác chiến thì chỉ cần không phải là việc quân khẩn cấp nguy hiểm cho quân ta, cũng không cần được thực hiện, phải báo cáo cho ngươi. Cũng bắt bọn họ là cam đoan không để thua trận, cũng bắt bọn họ nghiêm khắc thực hiện theo từng bước kế hoạch tác chiến ngươi đã định ra, không được phép sửa đổi theo ý mình".

Đỗ Văn Hạo vui mừng hắn hôn lên gương mặt mềm mại của Cao Thao Thao nói: "Thao Thao, nàng thật tốt. Ta thấy hành động này không đi ngược với di huấn của tổ tông, cũng có thể chú ý tới thực tế đòi hỏi của chiến sự. Thao Thao, ta vẫn còn một biện pháp nữa".

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương418: Ba đạo thánh chỉ.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Cao Thao Thao nói: "Ngươi nói với ta về đủ các loại tai hại của thống soái cầm quân không có tài năng, cứ xuất binh là bại trận. Một trong những nguyên nhân đó là quan văn cầm quân. Những điều này trước kia ta cũng được nghe rất nhiều từ các đại thần. Kỳ thật trong lòng ta cũng hiểu quan văn cầm quân quả thực không hợp lý. Văn thần an bang, võ tướng định quốc. Việc cầm quân đánh trận cùng với việc cầm bút viết văn chương là hai điều khác nhau. Chưa từng cầm quân , lại không biết binh pháp, cũng giống như một nông phu không biết chữ nhưng lại muốn hắn cầm bút viết chữ, vẽ tranh vậy. Sao có thể vẽ ra bức tranh đẹp được đây?"

Đỗ Văn Hạo vừa vui mừng vừa kinh ngạc, hắn quay người ôm Cao Thao Thao, hôn nàng một nụ hôn dài nói: "Hay, Thao Thao. Nàng quả thực là người hiểu rõ đại cục. Lúc này đây quốc gia có bậc quân vương nhìn xa trông rộng như nàng chính là điều mmay mắn của ba quân tướng sĩ cùng với lê dân bách tính".

"Được rồi" Cao Thao Thao gắt lên: "Trước mặt ta bớt nói những lời nịnh nọt, không cần thiết".

"Nói thật lúc này không phải ta nói những lời nịnh nọt. Đây chính là những lời tâm huyết. Là một người bình thường thì không cần phải có lối suy nghĩ đo nhưng là người đứng đầu một đất nước nhất định phải có tài năng. Đại Tống ta thật sự có hy vọng".

Cao Thao Thao thở dài nói: "Ta vốn nghĩ như vậy nhưng lại không thể thay đổi quy định của tổ tông. Rất khó khăn".

"Tổ tông đã chết. Người vẫn còn sống. Thời thế thay đổi, không thể cũng khăng khăng tuân theo cái cũ. Cũng cần phải căn cứ vào thời cuộc để điều chỉnh các quy định. Cái này gọi là thực sự cầu thị".

Cao Thao Thao cười khì một tiếng nói: "Thật sự phải như vậy sao?"

"Vốn phải như vậy. Thế nhưng biến pháp cũng chỉ thay đổi từng bước một, không thể nóng lòng thực hiện. Ví dụ như quy định quan văn cầm quân. Chính ngươi cũng biết là không ổn, thực tế đây chính là một trong những nguyên nhân khiến chúng ta cứ xuất quân là thất bại, đương nhiên cần phải thay đổi. Nhưng vấn đề này đã ăn sâu vào trong đầu các đại thần trong triều, chúng ta nhất định phải cẩn thận".

"Ừ. Ngươi nói rất có đạo lý. Ngươi cảm thấy cần phải thay đổi như thế nào?'

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một lát rồi nói: "Phương pháp lúc trước của nàng rất hay. Trước tiên gia tăng quyền lực cầm quân của các võ tướng, chỉ cần không phải trong tình trạng quân tình khẩn cấp, võ tướng phó soái không cần đồng ý với kế hoạch tác chiến. Quan văn chủ soái không được thực hiện phải bẩm báo về triều đình. Mặc dù như vậy có thể làm mất đi một số cơ hội chiến trận nhưng có thể giảm bớt tới mức thấp nhất thất bại".

Biện pháp này của Cao Thao Thao vốn chỉ đặc biệt ưu đãi cho Đỗ Văn Hạo. Nay nàng nghe nói quy định này có thể mở rộng, lúc nàng mới chăm chú cân nhắc một hồi rồi nói: "Ta cũng không biết biện pháp này có được thông suốt. Hay thế này, trước tiên chúng ta cứ xem hiệu quả lần này thế nào rồi ta mới quyết định, được không?" Sự thật thắng hùng biện. Dù sao việc này có liên quan tới việc sửa đổi di huấn của tô tông, nếu không nhìn thấy hiệu quả, Cao Thao Thao sẽ không đồng ý, Đỗ Văn Hạo đương nhiên hiểu rõ điểm này, hắn hôn nàng nói: "Được được. Kỳ thật ta cũng biết làm như vậy có thông suốt không nhưng thực tế kiểm nghiệm chân lý chính là tiểu chuẩn duy nhất. Bất kỳ thay đổi nào chỉ có áp dụng thực tế mới biết có hiệu quả hay không. Cũng chỉ dựa vào thực tiễn sửa chữa hoàn thiện từng bước một thì mới tốt lên được".

"Ừ. Được rồi. Ta nghe nói giữa trưa nay ngươi tới dạy học cho mấy người Hoàng Thượng?"

"Đúng vậy. Không phải nàng để ta phụ trách việc học của Hoàng Thượng sao?'

"Đúng vậy. Buổi tối hôm qua ta sốt ruột quá đâm quên mất chuyện này. Ta cảm thấy ngươi có rất nhiều thứ mà người khác không có. Ngươi có rất nhiều sáng tạo không giống với người bình thường.

Mặc dù ta hy vọng sau này Hoàng Thượng kiên quyết theo biến pháp, nhưng ta cũng không hy vọng Hoàng Thượng là một người thủ cựu vì vậy ngươi phụ trách việc học của Hoàng Thượng, trong khi đó sớm muộn gì Hoàng Thượng cũng tự mình chấp chính nên ta hy vọng ngươi sẽ dạy Hoàng Thượng trở thành một quân vương chân chính".

"Ta sẽ cố gắng hết sức. Thế nhưng dường như Hoàng Thượng quá tinh nghịch, ta quản lý rất nghiêm, nàng cũng đừng đau lòng".

"Nghiêm sư xuất cao đò. Ngươi không cần lo lắng, ngươi cứ việc mạnh tay dạy bảo. Nếu Hoàng Thượng không nghe lời ngươi, ngươi cứ việc nói cho ta biết".

"Được".

Sau khi hai người thân mật với nhau một lúc lâu, tới tận khi trời tối đen, Đỗ Văn Hạo mới cáo từ rời khỏi Hoàng cung, quay về Ngũ Vị đường.

Chúng nữ thấy Đỗ Văn Hạo quay về tức thì líu ríu vây quanh hắn. Kha Nghiêu nhanh mồm nhanh miệng, cười vui vẻ nói: "Ca, Thái Hoàng Thái Hậu ban cho chúng ta một phủ đệ rất lớn. Bọn muội đã đi cả một canh giờ mới hết một vòng".

Tuyết Phi Nhi cũng nói: "Đúng vậy. Bên trong rường cột chạm trổ, kỳ sơn dị thạch, vô cùng khéo léo".

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Đó là đương nhiên. Toà phủ đệ này vốn định cấp cho Ung Vương gia, tất phải xa hoa. Mọi người hài lòng là được".

Bàng Vũ Cầm cũng nói: "Rất hài lòng. Thiếp không thấy có chỗ nào cần tu sửa. Hì hì".

'Khi nào sẽ xây dựng xong?"

'Thái Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ để bọn họ ngày đêm tăng cường xây dựng để đại khái khoảng nửa tháng nữa là hoàn thành, không được chậm trễ đón dâu".

Đỗ Văn Hạo xấu hổ hỏi: "Hì hì, đón dâu ở phủ đệ mới sao?"

"Đương nhiên, tân phủ đệ nghênh đón tân nương tử như vậy mới tốt".

Anh Tử nói: "Thiếu gia, trên đường về phu nhân đã nói bây giờ thiếu gia phải cầm quân, không đọc binh thư không thể cầm quân vì vậy mới đặc biệt đi tới thư viện của võ viện mua cho người mấy cuốn binh thư. Đề Cử võ viện nghe thấy chạy tới tự mình chọn giúp cho thiếu gia rất nhiều cuốn binh thư".

Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: "Vậy tốt quá. Binh thư ở đâu?"

"Để ở cả thư phòng".

"Hay quá. Ngày mai ta chính thức bắt đầu khảo sát quân tình của quân đội. Nhân dịp bây giờ rỗi rãi ta tới xem qua một lát".

Đỗ Văn Hạo đi tới thư phòng. Quả nhiên trong thư phòng có thêm một cái giá sách. Trên giá sách tất cả đều là binh thư.

Đỗ Văn Hạo rút một quyển ngồi xuống đọc. Cuốn binh thư này viết bằng cổ văn. Hắn đã cố hết sức mà có rất nhiều đoạn xem không hiểu. Chỉ đọc được nửa canh giờ, hắn đã thấy choáng váng hoa mắt.

Đỗ Văn Hạo ném cuốn binh thứ xuống, nhắm mắt dưỡng thần. Nhớ lại một chút nhưng hắn không chút ấn tượng với những gì vừa đọc, cũng không nhở nổi vừa đọc những gì, đành thở dài nghĩ: "Ôi. Nếu như có một sư phụ giảng giải cho thì tốt. Xem ra cần phải có một sư phụ chỉ dạy binh pháp mới được.

Ngày mai giảng bài cho Hoàng Thượng, Đỗ Văn Hạo quyết định suy nghĩ một chút về nội dung nhưng tóm lại hắn cũng hông nghĩ ra cần nói cái gì.

Thế nhưng việc cấp bách nhất vẫn không phải là vấn đề dạy học cho Hoàng Thượng. Vì giang sơn dễ đổi, bản tính khó rời. Nếu hắn muốn dạy Hoàng Thượng thành một người hợp với lý tưởng của hắn cũng không phải một việc có thể nhanh chóng làm được. Gần vua như gần hổ. Con hổ có thể quay đầu nuốt sống người đang nuôi dưỡng mình.

Đỗ Văn Hạo quyết định tập trung sức lực cải cách quân đội, việc dạy học cho Hoàng Thượng chỉ là việc thứ yếu. Năm ngày chỉ dạy một lần, mỗi lần chỉ nửa ngày còn lại để cho những bậc đại nho kia chủ yếu dạy cho Hoàng Thượng những điều mơ hồ cùng với những phương pháp trị quốc an dân. Điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của các đại thần trong triều.

Một khi đã như vậy cũng sẽ không cần phải nóng vội dạy Hoàng Thượng này tất cả các tri thức hiện đại. Trước tiên hãy chỉ dạy Hoàng Thương những kiến thức bình thường tương đối thú vị là được, còn nhưng tri thức khoa học có tính thực dụng thì còn phải chờ tình hình sau này rồi mới tính tiếp.

Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, Đỗ Văn Hạo đã vạch ra một đề cương sơ bộ của một số tri thức hiện đại như: thiên văn, địa lý cùng một ít lý hoá, xác định trình tự truyền thụ trước sau. Dù chỉ viết đề cương nhưng hắn vẫn bận rộn gần hết một đêm.

Sau khi viết xong tất cả, Đỗ Văn Hạo mới đi ngủ. Hôm nay tới lượt Tuyết Phi Nhi hầu hạ. Sau khi hai người trải qua một cơn giông bão điên cuồng, Tuyết Phi Nhi mệt mỏi nhanh chóng ngủ thiếp đi nhưng trong đầu Đỗ Văn Hạo lại không tĩnh tâm được giống như gió to sóng cả.

Bánh xe lịch sử bây giờ đang nằm trong tay hắn. Hắn nên điều khiển bánh xe này chạy như thế nào không để tới mức hơn bốn mươi năm sau phải nằm dưới gót sắt của Đại Kim. Đối mặt với khung xe ngựa già nua của Đại Tống, giống như một lão nhân mà bệnh đã ăn vào cao hoan, Đỗ Văn Hạo thật sự không biết phải ra tay chữ trị từ chỗ nào.

Hắn cứ suy nghĩ miên man, hỗn loạn cho tới tận gà gáy mới ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau Đỗ Văn Hạo rời khỏi giường làm vệ sinh cá nhân, ăn sáng thì người gác cổng chạy vào báo ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu tới, muốn Đỗ Văn Hạo tiếp chỉ.

Đỗ Văn Hạo vội vàng bày hương án. Người đến tuyên chỉ đương nhiên là thái giám thân cận của Thái Hoàng Thái Hậu, Tiêu công công. Liên tục có ba đạo thánh chỉ tốt. Nội dung Đỗ Văn Hạo cũng đã biết trước. Đạo thánh chỉ thứ nhất bổ nhiệm hắn làm Chinh thảo Tây Hạ Chiêu Thảo Sứ, thống lĩnh năm vạn cấm quân sáu lộ Thiểm Tây chinh phạt Tây Hạ, đồng thời cũng bổ nhiệm Lữ Công làm thống soái chỉ huy mặt trận. Đại tướng Khúc Trân làm phó thống soái.

Hai đạo thánh chỉ còn lại là bổ nhiệm Đỗ Văn Hạo làm Đề Cử Thái y cục và ban thưởng toà phủ đệ cho hắn. Cuối cùng Tiêu công công nói với Đỗ Văn Hạo rằng Thái Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ tuyên cáo thiên hạ Ngũ Vị đường của Đỗ Văn Hạo được ngự định là cửa hiệu lâu đời, coi đây là nhãn hiệu sản xuất dược phẩm và khí tài, không ai được phép mạo danh nếu không sẽ bị xử theo tội cường đạo.

Nghe xong Đỗ Văn Hạo lại càng hoảng sợ. Đạo thánh chỉ này bảo vệ quyền sản phẩm e rằng còn mạnh mẽ hơn xã hội hiện đại. Trung Quốc hiện đại quy định tội xâm phạm bản quyền tri thức cao nhất cũng chỉ có bảy năm tù. Cao Thao Thao ban hành thánh chỉ nói xâm phạm nhãn hiệu độc quyền Ngũ Vị đường của Đỗ Văn Hạo bị luận tội xử theo tội cường đạo. Tội cường đạo cùng tội với tội cướp bóc của xã hội hiện đại. Triều Tống xử phạt tội cường đạo cực kỳ nặng, có quy định: cường đạo bất luận là cướp được hay không cướp được, có tang vật hay không có tang vật cũng đều bị xử tử. Nói cách khác chỉ cần có người giả mạo Ngũ Vị đường sản xuất dược liệu và khí tài thì sẽ bị xử tử.

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo biết điều này Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao vốn không phải có ý thức bảo vệ bản quyền tri thức mà chỉ do là tình cảm đối với hắn. Yêu ai yêu cả đường đi. Trong lòng Đỗ Văn Hạo cảm thấy xử vậy hơi nặng một chút nhưng như vậy cũng tốt. Ít nhất có thể làm người dân coi trọng bảo vệ bản quyền tri thức. Việc bảo vệ bản quyền tri thức có sự mở đầu rất tốt.

Sau khi Đỗ Văn Hạo tiếp chỉ, Tiêu công công cáo từ, Đỗ Văn Hạo quyết định buổi sáng đi điều tra tình hình quân đội. buổi chiều tới Hoàng cung dạy Hoàng Thượng học.

Anh tử và Tuyết Phi Nhi giúp Đỗ Văn Hạo mặc nhung trang. Đỗ Văn Hạo cúi đầu nhìn hắn cảm thấy bộ nhung trang cũng không tệ lắm. Bởi vì bây giờ không phải là thời chiến nên áo giáp của nhung trang đều là da thuộc, mặc vào người cũng không cảm thấy nặng. Đội trưởng đội thân binh Hứa Văn Cường dựa theo căn dặn của Đỗ Văn Hạo hôm qua đã chuẩn bị cho hắn một con chiến mã. Đỗ Văn Hạo nhảy lên ngựa, hắn đang định giục cương lên đường thì bất chợt thấy như thiếu gì đó. Hắn ngừng lại suy nghĩ một chút rồi quay đầu hỏi Hứa Văn Cường: Ta có cần phải xử một cây trường thương hay đại đao gì đó không? Như vậy mới đầy đủ đồng bộ, phải không?"

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 419: Sở quân khí.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Hứa Văn Cường nói: "Đây là điều đương nhiên. Nhưng vì không biết tướng quân dùng binh khí gì nên chưa chuẩn bị".

Đỗ Văn Hạo nói: "Ta không có sức mạnh, dùng chuỳ chỉ e không thể cử lên được. Dùng đại đao cũng có thể múa được nhưng cũng chỉ múa được mấy đường là không còn sức. Dùng trường thương vẫn tốt hơn, trường thương chủ yếu là đâm, lại cũng tàn nhẫn, không cần dùng quá nhiều sức. Trường thươnbg cũng hay lắm. Trước kia xem tam quốc, ta cảm thấy Bạch Mã Ngân Thương của Triệu Tử Long rất uy phong. Ta cũng muốn học thương. Ha ha ha".

"Được. Tướng quân sử thương sẽ uy phong lẫm liệt. Không biết tướng quân muốn thương của mình nặng bao nhiêu?"

"Điều này" Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một lát rồi nói: "Quan Công sử Thanh Long Yển Nguyệt đao nặng tám mươi hai cân, bản thân mình không thể nâng được chứ chưa nói tới việc sử đao. Cây Lê Hoa thương của Triệu Tử Long dù không biết nặng bao nhiêu cân nhưng nhất định mình cũng không thể nâng được. Rốt cuộc Đỗ Văn Hạo vẫn chần chừ không biết bao nhiêu cân thì hợp với hắn.

Hứa Văn Cường thấy Đỗ Văn Hạo chần chừ thì buột miệng nói: "Nếu không tướng quân hãy đi tới sở quân khí ở Đông tác phường, đặt làm một cây trường thương theo ý mình. Có được không?"

"Chủ ý rất hay! Ta đang định xem qua một chút về tình hình trang bị của quân ta. Thế nhưng Thái Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ để ta lãnh binh tây chinh, dù ta chỉ toạ trấn ở kinh thành chỉ huy nhưng trước khi làm việc này, ta cần phải tới Xu Mật viện lĩnh lệnh phù, còn phải tới bộ hộ phân phối lương thảo, còn phải tới bộ Binh lãnh danh sách Sương quân, còn phải tới tam nha thương nghị việc điều động sáu lộ cấm quân Thiểm Tây. Được rồi, còn cả việc tới dạy Hoàng Thượng học. Còn nữa ta còn phải tới xem xét Thái y cục một chút. Ta mới được bổ nhiệm làm Đề Cử Thái y cục, phải tới nhậm chức, gặp gỡ quan lại, còn phải xem có đệ tử nào không thể đào tạo. Kiến thức ngoại khoa cần phải được đẩy mạnh nhanh hơn một chút. ta còn muốn đặc biệt đào tạo một đội ngũ quân y trong quân. Cuộc chiến sắp xảy ra, điều trị thương là một vấn đề rất lớn. Nhiều chuyện như vậy, việc nào cũng gấp gáp. Rốt cuộc ta nên tới chỗ nào trước đây?"

Hứa Văn Cường cười hì hì nói: "Tướng quân là trọng thần của triều đình. Thái Hoàng Thái Hậu giao cho tướng quân nhiều trọng trách, đương nhiên tướng quân phải rất bận rộn. Hay trước tiên chúng ta tới Xu Mật viện lệnh phù lĩnh binh và phái binh sau đó chúng ta tới sở quân khí chế tạo binh khí?"

"Không" Đỗ Văn Hạo vỗ vỗ yên ngựa nói: "Bản tướng quân tay không, sao có thể cầm quân ra trận giết giặc? Binh khí phải làm trước. Đặc biệt ta muốn phải đích thân tới xem binh khí của sở quân khí như thế nào? Tốt nhất là đừng có một đống sắt vụn, giáp nát, hy sinh tính mạng những nam nhi tốt trong quân ta. Chuyện binh khí này không thể làm qua loa được. Đi, đi, tướng quân ta muốn tới xem sở quân khí trước sau đó hẵng tới Xu Mật viện. Không thể chậm trễ".

Sở quân khí chính là công binh xưởng của triều Tống, chuyên biệt sản xuất các loại vũ khí trạng bị. Sở quân khí độc lập với sự quản lý của tam nha. Dù tam nha của Đỗ Văn Hạo không quản sở quân khí nhưng tam nha có quyền đưa ra các ý kiến đối với tình hình trang bị binh khí của binh lính vì vậy có quyền tới thị sát sở quân khí. Huống chi bây giờ hắn là một Tể chấp lại càng có quyền lực trong lĩnh vực này.

Đỗ Văn Hạo mang theo đội thân binh hộ vệ tới sở quân khí. Quan đứng đầu sở quân khí gọi là quân khí giám. Đó là một viên quan hàm chính tứ phẩm, ông ta vừa nghe quan Tể chấp Đỗ Văn Hạo tới vội vàng dẫn theo các tá quan ra đón.

Quân khí giám này họ Thích, là một lão đầu nhanh nhẹn, cung kính với Đỗ Văn Hạo một cách quá mức: "Ty chức xin ra mắt Tể chấp Đỗ đại nhân. Không biết Đỗ đại nhân quang lâm, không đón tiếp từ xa. Xin đại nhân thứ tội".

"Không cần khách khí. Bản quan tới đây là muốn đặt làm một món binh khí, nhân tiện xem qua sở quân khí một chút. Cho tới giờ ta vẫn chưa tới đây nên muốn tìm hiểu tình hình một chút. Được không?'

"Chào mừng đại nhân. Xin mời đại nhân".

Đỗ Văn Hạo đi theo quân khí giám bắt đầu quan sát xung quanh. Sở quân khí phân chia làm ba môn. Theo thứ tự là viện cung nỏ đặc biệt phụ trách sản xuất các loại tên, cung nỏ. Đông tác phường phụ trách việc sản xuất các loại binh khí khẹ và áo giáp cho binh lính. Tây tác phường phụ trách việc chế tạo các trang bị công thành lớn.

Đầu tiên Đỗ Văn Hạo đi tới viện cung nỏ.

Quân Tống chủ yếu dùng quân cung nỏ vì vậy trong sở quân khí có viện cung nỏ chuyên chế tạo cung nỏ. Nguyên nhân của việc này là do quân Tống thiếu chiến mã, chỉ có thể dùng bộ binh đối phó với kjy binh của Đại Liêu và Tây Hạ. Bất đắc dĩ phải lựa chọn chiến thuật này với ý đồ dùng cung nỏ, loại vũ khí bắn xa loại trừ tốc độ của kỵ binh. Cho dù quân Tống chủ yếu dùng quân cung nỏ trong bộ binh nhưng vẫn bị rơi vào thế yếu.

Khu nhà của viện cung nỏ rất rộng. Ngay khi bước vào cửa đã nghe thấy những tiếng gào thảm thiết vang lên bên trong. Đỗ Văn Hạo rất ngạc nhiên, bước chân hắn không khỏi nhanh hơn. Khi đi vào bên trong hắn thấy. Phần lớn nhà trong viện cung nỏ là nhà một tầng. Phía trước dãy nhà là một khoảng sân rộng, ở đó có một dãy cột cờ. Mấy người quần áo tơi tả bị trói vào những cái cọc đó. Mấy binh sĩ đang hung hăng vung roi da quất những người đó. Những tiếng la hét thảm thiết là của mấy người đó.

Những binh lính đó nhìn thấy Đỗ Văn Hạo mặc quan bào võ tướng hàm nhị phẩm, tuổi lại rất trẻ, bên cạnh hắn lại có quân khí giám đi cùng nên biết ngay là tân quan Đô Kiểm Điểm mới nhậm chức, Tể chấp Đỗ Văn Hạo thì vội vàng ném roi, quỳ xuống ôm quyền thi lễ.

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Đã xảy ra chuyện gì?"

Một đô đầu nói: "Hồi bẩm Đại tướng quân bọn này là những binh tượng ( thợ thủ công trong quân ), tự ý rời bỏ công việc, mưu đồ chạy trốn, bị bắt trở lại, theo luật phải đánh năm mươi roi".

Đỗ Văn Hạo nhíu mày hỏi: "Bọn họ là thợ chế tạo cung nỏ sao?"

"Dạ".

"Vậy bọn họ là những công nhân kỹ thuật là bảo bối của đất nước. Việc làm ra binh khí tốt hay không hoàn toàn dựa vào bọn họ. Tại sao lại trách phạt bọn họ? Một binh tượng không thể ra ngoài sao?"

Đô đầu nghe thấy giọng nói không có thiện ý của Đỗ Văn Hạo tức thì lo sợ không biết sai chỗ nào, trán toát mồ hôi lạnh, lắp bắp nói: "Không, không thể".

"Tại sao? Bọn họ là phạm nhân sao?"

"Không, không phải".

"Vậy vì sao phải cấm bọn họ xuất nhập? Tại sao phải phạt roi bọn họ?"

Đô đầu sợ tới mức gần phát khóc, hắn tội nghiệp liếc nhìn quân khí giám ở bên cạnh.

Quả thực quân khí giám không muốn xuất hiện lúc này nhưng nếu ông ta không ra mặt thì sẽ không có ai ra mặt, ông ta đình phải cười giả lả nói: "Đại tướng quân, đây là quy định của quân pháp. Bọn họ chỉ làm việc tuân theo luật".

"Thật vậy sao?" Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn quân khí giám. Hắn hừ một tiếng đi tới trước mặt mây tên binh tượng. Hắn hỏi một binh tượng già trong số đó: "Lão nhân gia, tại sao ông lại bỏ trốn?"

Lão binh tượng kia khốn khổ ngẩng đầu nhìn Đỗ Văn Hạo, đôi môi giật giật nhưng khi liếc nhìn hung thần ác sát đô đầu ở bên cạnh thì lại cúi đầu rên rỉ không dám nói.

Tên đô đầu ở bên cạnh lại quát to: "Lý Hoành, Tể chấp đại nhân hỏi ngươi. Vì sao ngươi không trả lời?"

Lão binh tượng đó là Lý Hoành nghe mấy câu đó vẫn không lên tiếng.

Đột nhiên Đỗ Văn Hạo nhìn thấy trên trán Lý Hoành có khắc bốn chữ: "Quân khí sở binh".

Đỗ Văn Hạo lại nhìn mấy binh tượng khác, hắn thấy trên trán mấy người đó cũng có mấy chữ như vậy. Trong lòng Đỗ Văn Hạo đã hiểu tới bảy, tám phần. Quân đội triều Tống theo chế độ mộ lính. Trên trán binh lính triều Tống đều có chữ viết.

Binh tượng sở quân khí cũng là binh lính. Quân pháp triều Tống xử phạt cực kỳ hà khắc với binh lính đào ngũ, dùng roi đánh đã là nhẹ.

Nhưng Đỗ Văn Hạo không thể chấp nhận điều này. Trong mắt hắn binh tượng sở quân khí đều là bảo bối, nhất định phải đãi ngộ lương cao để bọn họ phát huy đầy đủ kỹ thuật của mình mới có cơ sở chế tạo ra vũ khí tốt.

Nếu đã là binh lính, Đỗ Văn Hạo rốt cuộc cũng là người cầm quân, hắn cũng biết nguyên nhân chủ yếu của việc đào binh. Cứ nhìn dáng vẻ hùng hổ của tên đô đầu lúc trước, nhất định những binh tượng này đã không được đãi ngộ tốt. Trong thời kỳ hòa bình, nguyên nhân chủ yếu khiến binh lính đào ngũ chính là bị ngược đãi trong quân đội. Điều này không cần hỏi cũng biết.

Đỗ Văn Hạo tự mình bước tới cởi dây trói cho mấy binh tượng và nói: "Nếu đã là binh lính tại ngũ nhất định không được sợ khổ. Thôi được rồi, trước tiên hãy quay về dưỡng thương. Khi nào bình phục quay lại làm việc".

Lý Hoành và mấy binh tượng nhìn Đỗ Văn Hạo rồi lại liếc nhìn quân khí giám, tựa hồ như mấy người không dám tin vào lỗ tai mình.

Quân khí giám vội nói: "Tể chấp đại nhân đã cho phép các ngươi về dưỡng thương, khi nào khoẻ mới quay lại làm việc. Các ngươi còn chờ cái gì?"

Lúc này mấy người Lý Hoành mới tin đây là sự thật, vội vàng quỳ xuống dập đầu tạ ơn rồi dìu nhau rời khỏi sân viện.

Chờ mấy người đó đi khỏi, Đỗ Văn Hạo mới nói với quân khí giám: "Quân ta tác chiến không thể không có vũ khí trang bị tốt mà những thứ đó phải dựa vào những binh tượng đó chế tạo. Bọn họ không thể bị xử phạt như những binh lính bình thường. Đương nhiên đối với binh lính bình thường cũng không tuỳ tiện xử phạt. Đối với những binh tượng bỏ trốn cũng không nên dùng hình phạt mà phải dùng tình cảm đề giữ người, phải để bọn họ thấy được làm việc ở sở quân khí rất quang vinh, có cảm giác vinh dự tập thể, có cảm giác bọn họ thuộc về nơi này thì mới có thể phát huy hết sự thông minh tài trí của mình, mới có thể làm ra những binh khí trang bị tốt cho quân đội".

Đỗ Văn Hạo nói câu nào, quân khí giám gật đầu đồng ý câu đó, mái đầu hoa râm của ông ta gật gù như gà mổ thóc. Thế nhưng Đỗ Văn Hạo đã nhìn ra ông ta hoàn toàn không nghe ý kiến của hắn. Đương nhiên Đỗ Văn Hạo cũng biết nguyên nhân trong đó. Không phải viên quan quân khí giám không muốn nghe theo đề nghị của Đỗ Văn Hạo nhưng mà dựa theo quân pháp, lính đào ngũ nhất định phải xử phạt như vậy. Nói nhiều cũng vô dụng.

Đỗ Văn Hạo khẽ thở dài rồi chuyển sang đề tài khác: "Viện cung nỏ có ba nhiêu binh tượng?'

"Điều này…" viên quan quân khí giám ấp úng không trả lời được.

Đỗ Văn Hạo nhíu mày hỏi: "Có bao nhiêu người mà ngươi cũng không biết sao? Ngươi làm chủ trì kiểu gì vậy?"

Gương mặt già nua của quân khí giám đỏ ửng, ông ta quay đầu lại nhìn viên phó quân khí giám. Viên phó quân khí giám vội vàng nói nhỏ: "Ba nghìn bảy trăm người".

"Đúng, đúng" Quân khí giám vội vàng chắp tay cười xoà nói: "Hồi bẩm Đại tướng quân, bỉ sở có ba ngàn bảy trăm người".

"Ồ, cũng không ít người. Những dãy nhà này có phải là tác phường sản xuất cung nỏ không?"

"Dạ dạ'.

Đỗ Văn Hạo đi vào từng gian xưởng một. Tất cả đều có chuyên môn riêng biệt. Có xưởng gia công thô, có xưởng sản xuất các loại cung, có xưởng sản xuất nỏ, còn có xưởng sản xuất dây cung và xưởng sản xuất các loại tên. Đỗ Văn Hạo đi tới gian kiểm nghiệm sản phẩm, hắn thấy binh tượng ở đây đang kiểm tra từng loại bộ phận xem có đạt tiêu chuẩn chất lượng hay không, kiểm tra tầm bắn cùng độ chính xác.

Cung nỏ đủ tư cách phải vượt qua tầm bắn tối đa, có yêu cầu chặt chẽ về tính chính xác, số mũi tên trúng đích trong tầm sát thương, số mũi tên không trúng đích không được vượt qua giới hạn cuối cùng.

Những binh tượng ở đây nhìn thấy Đỗ Văn Hạo tiến vào liền quỳ xuống nghênh đón, Đỗ Văn Hạo bảo bọn họ tiếp tục kiểm nghiệm.

Những binh tượng đó tiếp tục kiểm nghiệm cung tên. Đỗ Văn Hạo nhìn qua một lát rồi lắc đầu cười gượng. Hắn quay đầu phân phó Hứa Văn Cường cùng mấy cận vệ đi theo mình đi lấy mấy chiếc cung nỏ đã qua kiểm nghiệm mang tới, giao cho binh tượng kiểm nghiệm, bảo kiểm nghiệm lại những cũng nỏ đó.

Khi mấy chiếc cung nỏ được đặt lên bàn, mấy binh tượng phụ trách kiểm nghiệm trợn tròn mắt, ngơ ngác nhìn quân khí giám.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 420: Dùng đúng người.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Quân khí giám cũng toát mồ hôi, nói nhỏ: "Đại tướng quân, chúng ta hãy tới khách sảnh, ty chức sẽ báo cáo với ngài tình hình của sở quân khí".

Đỗ Văn Hạo nói: "Không cần nóng vội, trước tiên hãy xem chất lượng của mấy chiếc cung nỏ này. Sáng sớm hôm nay Thái Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ bổ nhiệm bản quan là Tây chinh Tây Hạ Chiêu Thảo Sứ, thống lĩnh năm vạn binh mã tấn công tiêu diệt Tây Hạ.

Lần này bản quan tới sở quân khí. Thứ nhất là muốn đặt làm một món binh khí. Thứ hai muốn xem rốt cuộc tình hình binh khí của chúng ta như thế nào. Dù sao những vật này là để bảo vệ tính mạng của tướng sĩ xông lên giết định. Nếu làm kém đầu của tướng sĩ sẽ rơi xuống, không thể làm qua loa được".

"Dạ dạ".

Viên quân khí giám lau mồ hôi trán nói: "Điều này, trời nóng quá. Đại tướng quân, hay chúng ta tới khách sảnh, ty chức có chút đồ chơi muốn thỉnh đại nhân giám định và thưởng thức. Đương nhiên Đỗ Văn Hạo biết "giám định và thưởng thức" này chính là hối lộ. Ý tứ đã rất rõ ràng nhưng Đỗ Văn Hạo lại làm như không hiểu, hắn quay đầu nhìn Hứa Văn Cường nói: "Mấy người các ngươi vừa rồi đã thấy bọn họ kiểm nghiệm như thế nào rồi. Xem ra bây giờ bọn họ cũng mệt mỏi rồi. Các ngươi tới giúp bọn họ kiểm nghiệm một chút đi".

Hứa Văn Cường cùng mấy thị vệ trả lời rồi bước tới cầm cung nỏ bắn.

Trán viên quân khí giám lại toát mồ hôi.

Cuộc kiểm nghiệm bắn kết thúc rất nhanh. Cho dù không nhìn xem thì viên quân khí giám đang trong tâm trạng thấp thỏm lo âu, tràn đầm đìa mồ hôi lanh cũng biết được kết quả.

Đỗ Văn Hạo cười nhạt. Hắn cầm một mũi tên trong đám tên, sờ đầu ngón tay vào đầu tên sau đó hắn ấn đầu nũi tên vào lòng bàn tay mình và nói với quân khí giám: "Thích đại nhân, bắn thử bốn trường cung thì có một không đủ tiêu chuẩn, ba nỏ thì có một cũng không đạt tiểu chuẩn. Nói cách khác những cung nỏ đó là thứ phẩm. Ngay cả đầu của mũi tên này cũng không đâm thủng lòng bàn tay ta thì sao chúng có thể xuyên qua áo trọng giáp dày cộm của kẻ thù? Cung nỏ như này bàn giao cho các tướng sĩ ở tiền tuyến, ngươi thấy có phù hợp không?"

Hai chân viên quân khí giám mềm nhũn, ông ta quỳ dạp xuống, dập đầu nói: "Đại tướng quân, ty chức cũng chỉ là bất đắc dĩ".

"Hãy nói tình thế bất đắc dĩ này là gì. Nếu không nói được, không nói ngươi không cần làm quan nữa mà chỉ e cái đầu ngươi cũng không giữ được"

Viên quân khí giám đương nhiên biết Tể chấp Đỗ Văn Hạo nói những câu này tuyệt đối không phải là để đe doạ. Ông ta lập tức sợ tới hồn phi phách tán.

Viên quân khí giám sợ hãi run rẩy nói: "Đại tướng quân tha mạng. Là như thế này..".

Viên quân khí giám cố sức nuốt nước miếng rồi lại run rẩy nói tiếp: 'Mỗi một binh tượng ở đây đều có hạn ngạch lao động. Số lượng này do tiên đế quy định, chia đều ra. Mỗi một binh tượng một ngày ít nhất phải làm ra một trường cung, hai ngày ít nhất phải làm ra một chiếc nỏ. Một ngày ít nhất phải làm ra một trăm năm mươi mũi tên. Những người đủ tiêu chuẩn là mười phần không thể làm ít hơn chín phần. Thế nhưng kỹ thuật của những binh tượng cao thấp không đều nhau. Nếu có quá ít người đạt tiêu chuẩn thì cũng sẽ bị xử phạt. Bất đắc dĩ ty chức đành buông lỏng tiêu chuẩn".

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một lát. Hắn biết tiên đế Tống Thần Tông khi đó dụng binh quy mô lớn với Tây Hạ nên đương nhiên cần một lượng lớn vũ khí trang bị. Viên quân khí giám nói cũng chính là sự thật nên giọng nói của hắn hoà hoãn hơn nhiều: "Bắt đầu từ bây giờ toàn bộ số vũ khí chưa xuất sở phải chấp hành quy định kiểm nghiệm nghiêm khắc. Ta cũng muốn kiểm nghiệm lại toàn bộ số binh khí đang tồn kho. Hơn nữa số binh khí không đủ tiêu chuẩn sẽ bị loại. Ta cũng muốn thực hiện chế độ trách nhiệm nghiêm khắc, đánh số trên binh khí được làm ra. Người nào làm ra binh khí có vấn đề chất lượng sẽ dựa vào đó truy cứu trách nhiệm".

Viên quân khí giám đau khổ liên tiếp gật đầu.

Đỗ Văn Hạo nói: "Còn về phần số lượng quy định ta sẽ đề nghị Thái Hoàng Thái Hậu châm chước sửa đổi. Bây giờ chúng ta không xuất binh quy mô lớn đánh Tây Hạ, tạm thời không cần nhiều binh khí kém chất lượng như vậy. Bây giờ binh khí trang bị phải tuân thủ quy định chất lượng tốt sau đó mới nói tới số lượng.

Một đống lớn phế liệu vô dụng không bằng chỉ một ít binh khí tinh nhuệ. Trong tương lai chúng ta sẽ thành lập một đội quân tinh nhuệ mà không phải đám nhũng binh hỗn tạp vì vậy số lượng binh khí có thể không cần thiết lắm nhưng chất lượng phải tinh xảo và tinh xảo. Tốt nhất có thể chế tạo cho ta một ít binh khí tiên tiến. Vũ khí tiên tiến nhất của quân ta là gì?"

Viên quân khí giám lại sợ hãi nhìn viên quan phó quân khí giám. Hiển nhiên viên quân khí giám này cũng không biết nhưng không biết vì sao ông ta lại được đảm nhiệm chức quan này.

Viên phó quân khí giám vội vàng nói: "Nói về cung tên, chúng ta có Thần tí cung thiên hạ vô song. Quân Tây Hạ và quân Liêu chưa hề có. Đây chính là vũ khí tiên tiến nhất. Tầm bắn có thể đạt tới hai trăm bốn mươi thước ( ba trăm bảy mươi mét ). Một người bắn bình thường có thể dễ dàng bắn xuyên qua một tấm gỗ. Trong tầm bắn, cũng có thể dễ dàng bắn xuyên qua áo giáp cứng rắn của trọng giáp kỵ binh Tây Hạ. Đáng tiếc trong cuộc chiến thành Vinh Nhạc chưa chế tạo ra số lượng lớn tran bị này bằng không cũng không thất bại như vậy".

Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: "Lợi hại như vậy sao? Ta đã nghe nói về Thần tí cung này nhưng ta chưa nhìn thấy bao giờ. Chúng ở đâu?"

Viên phó quân khí giám đi tới chỗ một chiếc hồm, mở ra rồi hắn lấy ra một chiếc nỏ đưa cho Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nhận lấy, hắn hỏi vẻ khó hiểu: "Thần tí cung thì nhất định phải là cung chứ, tại sao lại là nỏ?"

"Hồi bẩm tướng quân, chỉ gọi là Thần tí cung thôi còn chính là nỏ".

"Ồ, thực sự lợi hại như vậy sao? Tới đây, chúng ta kiểm nghiệm một chút. Hãy cầm thêm mấy cung nỏ tới đây".

Để kiểm nghiệm kết quả, Đỗ Văn Hạo cầm Thần tí cing quay lại xưởng kiểm nghiệm của viện cung nỏ.

Hắn tự mình tiến hành, nâng Thần tí cung làm thành một góc bốn mươi lăm độ bắn một mũi tên. Quả nhiên mũi tên rơi xuống tận cùng sân khí nghiệm.

Khoảng cách từ chỗ hắn và mục tiêu cũng phải chừng hai trăm năm mươi bước. Đỗ Văn Hạo lại dùng chân đạp vào nỏ, đích thân lên tên. Hắn cảm thấy thao tác rất đơn giản chỉ là có chậm hơn một chút so với cung tên. Dù sao thì cũng là nỏ phải dùng cả tay chân mới có thể nạp tên được.

Sau khi bắn thử mũi tên đầu, Đỗ Văn Hạo cho người mang tới một bộ trọng giáp khoác lên cọc gỗ hình người ở khoảng cách trăm bước. Hắn lại giơ Thần tí cung bắn ngay năm mũi tên. Toàn bộ các mũi tên đều trúng đích.

Đỗ Văn Hạo tới gần kiểm tra kết quả. Toàn bộ năm mũi tên đều xuyên qua trọng giáp, cũng dâm xuyên ra phía sau cọc gỗ. Đỗ Văn Hạo liên tục gật đầu. Hắn bỏ Thần tí cung thay bằng Hoàng hoa cung và Hắc tất cung cùng với Khiêu đăng nỏ bắn thí điểm.

Tầm bắn xa nhất của chúng chưa tới hai trăm bước, rõ ràng không bằng Thần tí cung.

Hơn nữa hai cây trường cung đó ở khoảng cách một trăm bước cũng không thể xuyên thủng trọng giáp, còn nỏ thì có thể miễn cưỡng bắn thủng nhưng lực đạo đã yếu không thể xuyên ra sau cọc gỗ.

Cho dù là tầm bắn xa hay lực xuyên thì tất cả đều không bằng Thần tí cung.

Đỗ Văn Hạo khấp khởi vui mừng, hắn cầm Thần tí cung hỏi: "Đồ chơi này rất tốt. Ai đã làm ra cái này?"

"Là Lý Hoành, là lão binh tượng vừa mới bị phạt roi".

"Là người đó sao?' Đỗ Văn Hạo kinh ngạc hỏi: "Ông ta giữ chức gì trong sở quân khí?"

"Không có chức gì, chỉ làm việc ở tác phương chế tạo Thần tí cung".

Quả thực Đỗ Văn Hạo giở khóc giở cười. Một chuyên gia vũ khí quân sự như vậy mà chỉ được sử dụng như một binh tượng bình thường trong sở quân khí. Hắn tức giận nói: "Người ta đã làm ra thứ vũ khí tốt như vậy, đáng phải được thăng quan, xứng đáng được ban thưởng. Các ngươi không đề bạt ông ta làm quan cũng không nói làm gì, các ngươi lại còn đánh ông ta. Các ngươi không thấy như vậy là quá lắm sao?"

Viên quân khí giám vội vàng cười nói: "Đại tướng quân vẫn không biết chứ ông già này tính cách ngang ngược, không phục quản lý. Lần trước ông ta làm ra Thần tí cung, Hoàng Thượng rất tán thưởng, đã ban thưởng cho ông ta rất nhiều ngân lượng gấm vóc. Sau đó ông ta bắt đầu dựa vào công lao, gây chuyện ở tác phường, yêu cầu tăng tiền lương cho binh tượng, yêu cầu giảm bớt thời gian sản xuất, hết yêu sách này tới yêu sách kia. Không đồng ý ông ta xúi giục binh tượng bãi công, mấy lần có ý định bỏ trốn vì vậy mới dụng hình với ông ta".

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng hỏi: "Tiền lương của binh tượng bao nhiêu?"

Đỗ Văn Hạo biết vấn đề này viên quân khí giám càng không trả lời được nên hắn hỏi trực tiếp viên phó quân khí giám.

Phó quân khí giám vội vàng đáp: "Binh tượng đều lĩnh lương như nhau. Tiền lương năm văn, lương thảo năm thạch một tháng. Hàng năm mùa xuân, đông đều có quần áo. Tơ lụa năm thất, vải bông một cân".

Chế độ đãi ngộ này tương đương với binh sĩ Cấm quân cấp thấp, ít hơn một bậc so với quân nhân cấp trung.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo không ngừng cảm thán, hắn lại hỏi: "Hàng ngày bọn họ làm việc như thế nào?"

"Buổi sáng bắt đầu từ giờ thìn hai khắc đến tối giờ tuất hai khắc ( tức từ tám giờ sáng tới tám giờ tối ). Giữa trưa nghỉ nửa canh giờ ăn cơm".

Đỗ Văn Hạo nghiêm mặt nói: "Đòi hỏi mỗi một ngày làm việc chỉ nghỉ có nửa canh giờ ( mười một tiếng ), số lượng công việc nhiều như vậy, chế độ đãi ngộ thấp, lại còn không được tự do ra vào, làm việc không tốt còn bị phạt roi da. Điều nay so với chế độ nô lệ lại còn độc ác hơn. Theo như ta thấy, ngươi ta bỏ trốn là bình thường. Bọn họ không khởi nghĩa chính là đã không phụ lòng các ngươi" Một Tể chấp nói ra những lời này thì có thể thấy vị Tể chấp này đã bất mãn cực điểm với công việc của sở quân khí.

Lập tức viên quân khí giam biến sắc, trán ông ta càng toát mồ hôi lạnh như mưa vậy.

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: "Theo ta thấy Lý Hoành cũng là người rất trượng nghĩa. Ông ta yêu cầu tăng lương tháng, giảm bớt công việc là hoàn toàn đúng. Hơn nữa ông ta lên tiếng là vì mọi người. Ông ta làm ra cung nỏ tốt như vậy, chính là công thần cảu Đại Tống, ngay cả tiên đế cũng không ngớt khen ngợi ông ra. Ngược lại các ngươi đem trói người ta lại, dùng roi da đánh người ta. Các ngươi đối đãi với công thần như vậy sao? Hừ".

Viên quân khí giám sợ hãi tột cùng nói: "Ty chức biết tội".

"Biết tội? Cũng chưa hẳn. Ngươi biết ngươi có tội gì không?"

"Ty chức, ty chức không nên trách phạt Lý Hoành"

"Hừ. Trước đây ông ta làm việc ở chỗ nào?"

"Ở tác phường Thần tí cung".

"Đây mới là tội của ngươi" Đỗ Văn Hạo chỉ tay vào viên quân khí giám nói: "Phải biết dùng người đúng vào mục đích. Ngươi là người phụ trách quan trọng nhất của sở quân khí mà ngươi lại không biết dùng nhân tài của mình. Lý Hoành sáng tạo ta Thần tí cung tân tiến, uy lực như vậy, rõ ràng ông ta có kinh nghiệm nghiên cứu chế tạo vũ khí, nên đặt ông ta vào chỗ nghiên cứu trong sở để ông ta nghiên cứu ra càng nhiều vũ khí tốt càng tốt. Ngươi ngược lại coi ông ta chỉ như một binh tượng khiến cho tài trí của ông ta bị một công việc bình thường làm lãng phí. Đây chính là sự đáng trách của ngươi".

"Dạ dạ" Viên quân khí giám khom người chắp tay thi lễ, sắc mặt ông ta trắng bệch.

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: "Sở quân khí của chúng ta có chuyên ngành chuyên môn nghiên cứu chế tạo vũ khí mới không?"

"Điều này" Viên quân khí không biết hay là sợ hãi, khẩn trương theo thói quen ông ta lại quay đầu nhìn viên phó quân khí giám.

Đỗ Văn Hạo tức giận nói: "Rốt cuộc ngươi làm gì vậy? Ngay cả sở quân khí có bộ phận nghiên cứu chế tạo vũ khí hay không ngươi cũng không biết sao?"

"Ty chức, ty chức" Hai chân viên quân khí giám run rẩy, ông ta định quỳ xuống dập đầu.

Viên phó quân khí giám vội vàng chắp tay thi lễ đáp: "Hồi bẩm Đại tướng quân, bỉ sở vẫn chưa thành lập tác phường nghiên cứu chế tạo binh khí".

Đỗ Văn Hạo cau mày suy nghĩ một lát rồi hắn nói với viên phó quân khí giám: "Một lát nữa ngươi phái người tới Ngũ Vị đường của ta, lấy Kim sang dược của Ngũ Vị đường về cho Lý Hoành. Mặc khác ngươi hãy đưa cho ông ta năm mươi lạng bạc, xem như là sở quân khí bồi thường cho ông ta. Hãy nhận lỗi với ông ta, nói cho ông ta biết sau khi ông ta dưỡng thương xong bản tướng quân sẽ có việc trọng dụng ông ta".

Viên phó quân khí giám vội khom người trả lời.

Sau đó Đỗ Văn Hạo tiếp tục kiểm tra. Hắn đi tới kho để cung nỏ. Ở đây có từng hòm cung nỏ đã sắp sẵn, chuẩn bị vận chuyển rới tiền tuyến cùng các địa phương khác.

Hơn mười binh tượng đang đóng gói cung nỏ và tên.

Đỗ Văn Hạo nhìn lướt qua các thành phẩm trong kho vũ khí rồi buồn bực hỏi: "Các ngươi không có hoả thương sao?"

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 421: Sự trống trải của trái tim rung động.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Bọn Đỗ Văn Hạo bàng hoàng, lại nói thêm: “Chính là dùng thuốc súng để chế … loại vũ khí đó”

Quân khi giám lườm quân khi thiếu giám sau lưng, tên thiếu giám đo ấp úng nói: “Dạ dạ, ở Tây tác phường có”

“Ừ, có là được rồi, đợi ta đi xem Đong tác phường rồi mới đến Tây tác phường”

Sau khi xem xét xong Cung nỏ viện, hắn đến Đông tác phường, ở đây chế tạo cung nỏ và các binh khí nhẹ cùng các đồ dùng đi kèm khác, Đỗ Văn Hạo lại tiến hành kiểm tra 1 lần nữa, ít nhất 30% số đó là sản phẩm không đảm bảo.

Trong đầu hắn đã có kế hoạch, liền không vặn vẹo tên quân khí giám khù khờ kia nữa.

Tây tác phường là nơi chế tạo khí giới lớn, các sản phẩm không đạt chất lượng ở đây tuy ít hơn, nhưng cũng phải đến 20%.

Đỗ Văn Hạo xem xét toàn bộ tác phòng, rồi hỏi thiếu giám kia: “Hỏa thương thì sao? Không phải ngươi nói Tây tác phòng có sao? Ở đâu?”

Thiếu giám vội quỳ xuống, mở một chiếc rương , lấy quả cầu bằng đất nung ra: “Chính là đây, tướng quân, cái này gọi đùa là Độc dược yên cầu (bom khói độc), bên trong là thuốc súng, đốt dây dẫn, rồi ném vào trận địa của địch, hoặc trong lúc phòng thủ có thể chôn dưới thành, sau khi nổ sẽ nhả ra khói độc, làm quân địch đổ máu mũi, thậm chí trúng độc mà chết!”

Bom khí độc? Đỗ Văn Hạo xoay đi xoay lại hiếu kì xem: “có thể thử không?”

“Vâng! Mời tướng quân qua bên này” quân khi giám dẫn Đỗ Văn Hạo đến khu thử nghiệm đằng hậu viện, đặt vài lồng gà ra đất, sau đó nèm 1 lựu đạn vào đó, quả nhiên nổ thật, nhả ra khói mịt mù, mấy con gà trong lồng bắt dầu lảo đảo, được một lúc thì ngã khụy. có điều, khói tan rất nhanh mấy con gà ngã ra lại dần tỉnh lại, đứng lên bình thường.

Đỗ Văn Hạo hỏi quân khi giám: “Thế này là thế nào?”

Quân khí giám mặt đỏ lựng, cũng không biết tại làm sao, hắn luống cuống quay sang nhìn thiếu giám bên cạnh.

Thiếu giám cũng rất khó xử, rụt rè nói: “Bình thường … phải nổ mấy cái rồi mới … mới có hiệu quả, có cần thử thêm vài quả nữa không ạ?”

Đỗ Văn Hạo cười nhạt: “Đối phó với mấy con gà còn khó khăn như vậy, vậy với người to gấp mấy lần gà, rồi chiến trường là nơi rộng lớn như vậy, hiệu quả có thể lớn đến đâu đây? Các ngươi hi vọng kẻ địch sẽ nằm yên đó đợi các ngươi ném lựu đạn khói độc à?”

Tên thiếu giám đỏ lựng mặt nói: “Loại này chỉ có thể làm đổ máu mũi, tiêu hao khả năng tấn công, nhưng không thể làm người chết ngay được”

“Cách trộn thuốc như thế nào?”

“Bên trong là lưu huỳnh 15 lạng, thảo ô đầu 5 lạng, diễm tiêu một cân tư, ba đậu 5 lạng, lang độc 5 lạng, đồng dầu 2 lạng rưỡi, tiểu dầu 2 lạng rưỡi, mạt than củi 2 lạng rưỡi, lệ thanh 2 lạng rưỡi, thạch tín 2 lạng, sáp ong 1 lạng, trúc như 1 lạng mốt, nấm 1 lạng mốt. Bên ngoài giấy dùng 12 lạng rưỡi, ma bì 2 lạng, lệ thanh 2 lạng rưỡi, sáp ong 2 lạng rưỡi, hoàng đan 1 lạng mốt, muội than nửa cân, trộn vào dán bên ngoài.”

Đỗ Văn Hạo nghe mà mỉa mai: “Cái này chỉ khiến người ta khó chịu mà thôi, còn việc là đổ máu cam đúng là khoa trương, chứ đừng nói là giết người”

Có điều cách nghĩ này đã nhắc nhở hắn, rộm nghĩ với những kiến thức hóa học của mình, chế độc khí không thành vấn đề, quan trọng là chết tạo trên quy mô lớn, làm thế nào để nén khí, làm thế nào để phát ra, dẫn nổ thế nào, hàng loạt vấn đề kĩ thuật như thế nào, lại còn phải thí nghiệm nhiều lần nữa chứ

Nhưng nói chung, chiến tranh xưa nay, khi các loiaj vũ khí mới xuất hiện, chỉ có thể thắng thế giai đoạn đầu, sau đó quân địch học được thì ưu thế không còn nữa. khi nước Tống chế tạo được thuốc nổ, nước Kim đã học làm được rất nhanh, trong chiến tranh hiện đại, nước Đức chế tạo ra bom nổ chậm đầu tiên, đến sau chiến tranh thế giới thứ hai thì hầu hêt các quốc gia đã học và sử dụng đươck kĩ thuật bom nổ chậm.

Các hiện tượng làm theo vũ khí của đối phương trong xã hội đương đại quá nhiều, đến thứ như bom nguyên tử mà còn được làm theo rất nhanh, chứ đừng nói là nhưng trang thiết bị đơn giản.

Mao chủ tịch nói rất hay, cái quyết định thành bại trong chiến tranh là con người, chứ không phải vũ khí mới. Câu nói này càng đúng với những vũ khí thời cổ đại.. Vì vậy, mình cần chế tác ra những vũ khí mới, nhưng chủ yếu là con người, cần phải tạo ra một đội quân tinh nhuệ mới đúng.

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Còn có loại vũ khí gì nữa, lấy ra biểu diễn ta xem”

Quân khí giám vâng vâng dạ dạ, biểu diến loại tên có đầu dây để trói người, hầu như là loại có tính đốt cháy, còn hiệu quả đều không được như ý muốn.

Đỗ Văn Hạo xem hết các loại vũ khí, nhưng vẫn chưa thấy bóng dáng của Hỏa thương, hắn cảm thấy rất kì lạ: “Không phái còn có hỏa thương sao? Ở đâu vậy?”

“Chỉ có thế thôi ạ, khoong còn gì nữa” quân khí giám sợ hãi đáp, hắn không hiểu hỏa thương mà Đỗ Văn Hạo nói đến là gì.

Đỗ Văn Hạo lấy giấy vẽ minh họa một cơ phát thương: “Chính là cái có hình dáng thế này, cho thuốc súng vào mà bắn”

Tên thiếu giám đó ấp úng: “Cái này … tì chức chưa từng nhìn thấy ạ!”

Quân đội Bắc Tống đã bắt đầu biết đưa thuốc súng vào trong chế tạo vũ khí rồi, nhưng hỏa thương phải vài chục năm sau, trong chiến tranh với Kim, mới xuất hiện, ban đầu là làm bằng trúc, sau khi nhét thuốc súng vào thì đốt bắn vào kẻ địch.

Vì vậy thời điếm này chưa xuất hiện hỏa thương.

Đỗ Văn Hạo nghi ngờ, đến quân khí mà còn chưa có, thì có nghĩa quân đội chưa được trang bị loại vũ khí này.

Sáng chế hỏa thương, pháo!

Đỗ Văn Hạo bị kích động, đáng tiếc, bản thân không nhớ chút nào về cấu tạo súng, nhưng lại biết chút về súng lục và súng đánh bộ vì chúng đơn giản hơn, có thể vừa chế tạo vừa thí nghiệm. Còn pháo, nhưng lo là kĩ thuật của Bắc Tống không theo kịp được. Hơn nữa, quan trọng hơn là mình không biết chế tạo đạn, chính xác hơn là ngòi đạn, cũng không biết chế tạo thuốc súng không khói như thế nào. Đương nhiên càng không biết cách châm ngòi, pháo phát minh ra chỉ có thể bắn ra thuốc súng đen, công hiệu giảm rất nhiều, hoặc chỉ có thể bắn ra đạn lõi sắt, lõi đá, nếu để lại tấn công thành hay chỗ đông người thì cũng không tồi.

Đỗ Văn Hạo thấy hối hận, hồi ĐH chỉ nghiên cứu súng đạn làm thương, hiểu hết những vết thương do súng đạn gây ra, nhưng lại không biết gfi về cacah chế tạo súng, thật hảm hại! xem ra, vẫn phải sáng chế súng với yêu cầu thấp thôi, nếu không được thì làm súng mồi lửa cũng được.

Thấy bên hỏa khí trống rỗng, Đỗ Văn Hạo rất vui, nếu thành lập một đội hỏa thương thì tốt quá, lại phát minh được ra pháo, bí mật lắp đặt trước, thành lập một sư đoàn bí mật, đến trận chiến quan trọng thì đem ra dùng, giáng cho địch 1 đòn chí mạng mới có được hiệu quả cao!

Hắn giữ sắc mặt thật tốt rồi nói

Đến kho vũ khí Đông tác phường, ở đây có các loại súng ống, Đỗ Văn Hạo kiểm tra trọng lượng, rồi kiểu dáng, đều cảm thấy bình thường, không có gì mới lạ cả.

Hắn cầm một khẩu hoa thương lên, thử một chút, cảm thấy cần phải luyện võ công, bản thân đâu có phải là đối thủ của mấy tay khỏ luyện từ nhỏ được, phải là kì tích mới được, nhất thời không nghĩ ra ý nào hay. Hơn nữa, cũng không thích chuyện binh đao, việc này cần suy nghĩ thật kĩ, tiện tay cầm một lan ngân thương làm vì.

Hắn căn cứ vào số vũ khí cần cho chuyến xuất chinh Tây Hạ lần này, làm một danh sách đưa cho quân giám khí, sau đó rời khỏi quân khí sở, cùng đám hộ vệ đến khu mật viện truyền ý chỉ của Hoàng Thái Hậu lấy binh phù lệnh tiễn, rồi lại đến bộ hộ phát lương thảo.

Xong công chuyện thì đã xế trưa.

Đỗ Văn Hạo sai người đi thông báo cho tổng chi huy tiền địch trong lần xuất chinh này Bộ Thử Lã Công Trứ, phó tổng chỉ huy là Đại tướng bộ thử Khúc Trân, và giám quân tuyên khánh sử Lý Hiến đến họp tại Tam Nha, bàn luận chuyện xuất binh, được biết 3 người bị Hoàng Thái Hậu gọi vào cung rồi.

Đỗ Văn Hạo biết, Cao Thao Thao chắc chắn muốn dặn dò bọn họ quán triệt chiến lược của mình, và dặn dò phó soái không được chấp hành phương án tác chiến mà bà không đồng ý, bắt buộc phải báo cáo để bà quyết định quân pháp mới. hắn cũng kiên nhẫn chờ đợi, ăn bữa trưa tạ Tam Nha, gọi tất cả quân bộ chỉ huy sở lại, một đội người ngựa đến doanh trại quân số 1 của bộ binh Quảng Đức huyện Dương Vũ ngoài thủ phủ Khai Phong kinh thành để thị sát.

Doanh đội số 1 doanh đội Quảng Đức huyện Dương Vũ.

Chỉ huy doanh trại Quách Sách đang ở thương khố dọn dẹp, hồi dịch sắp xếp của quân chỉ quân sai rất nặng, bây giờ sắp đến tháng chín rồi, mà chỉ tiêu mới hoàn thành một nửa, nếu cứ với tốc độ này thì đến cuối năm không đạt nổi chỉ tiêu mất, đến lúc đó, …

Nghĩ đến đây mà lòng hắn nóng như lửa đốt, nghĩ phải nhất định hoàn thành nhiệm vụ, nhưng binh lựa của quân doanh mới có 500 người, bây giờ không có đến một nửa có mặt tại đây! Thật không ổn, phải tăng binh sĩ tham gia Hồi dịch, mong sao lúc này đừng có chuyện gì phải động đến binh đao!

Đang suy nghĩ xem cử những ai tham gia hồi dịch thì tên gác cửa trại hồng hộc chạy vào thông báo, quỳ một gối xuống bẩm: “Cấp báo, Tam Nha đến kiểm tra, Đỗ tướng quân cùng các quan binh đến bản doanh thị sát!”

“Cái gì?” Quách Sách không dám tin vào tai mình, lúc này mà lại có người đến kiểm tra, đây chẳng phải tin gì hay ho, đúng là sợ gì thì cái đó đến, hắn gọi tất cả ra đón người trước đã.

Trước cửa doanh trại, thấy có mấy chục người đến kiểm tra, ai ai sắc mặt cũng tái mét.

Chưa nghe mấy lời sáo rỗng, Đỗ Văn Hạo liền mở cửa nói: “Bản quan muốn gặp toàn bộ binh sĩ nói chuyện, xem các huynh đệ luyện tập thế nào, tập hợp mọi người đến thao trường ngay”

Quách Sách sợ hãi nói: “Đại tướng quân, chư vị tướng quân, hãy đến đại trướng ngồi nghỉ, tì chức lập tức đi ra lệnh chuẩn bị tiệc rượu, dùng bữa xong rồi mới gặp các binh sĩ nói chuyện, như vậy được không ạ?”

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 422: Lũ ô hợp.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Boom về...anh em hãy cảm ơn các mạnh thường quân !!!

Đỗ Văn Hạo lần trước sau khi nhận sự tiếp đón của Nhị Nha, đã từng làm Huyệt Lược cho tướng lĩnh cấp cao, suýt nữa đã biến thành người của mình, nhưng quan quân cấp trung hạ dường như vẫn như cũ. Đây cũng vốn là tướng quan của Quách Sách, Đỗ Văn Hạo nghư những lời đó của hắn liền biết là có mèo mỡ gì đây, hắn ban đầu chỉ muốn thị sát một doanh trại ở ngoại ô gần thành nhất để tìm hiểu tình hình, không ngờ điểm dừng chân đầu tiên đã gặp trắc trở rồi.

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: “Ngươi có thời gian uống rượu, bản quan lại không có thời gian để hầu người rồi, lập tức triệu tập toàn bộ binh sĩ đến thao trường, quân sĩ nào đến muộn một khắc, phạt ngươi mười quân trượng, ngươi hãy lo cho bản thân mình đi, quân luật quan, ngươi hãy tính giờ đi!”

Quân luật quan “dạ” rồi lây đồng hồ cát ra bắt đầu tính giờ.

Nơi đây chỉ có một quân doanh, theo biên chế, một quân doanh là 500 người, quân doanh lại không lớn, một khắc (15 phút) là đủ rồi.

Chỉ huy sử Quách Sách bị dọa cho sợ quá, vội vàng giơ tay, bảo binh sĩ bên cạnh lầm hiệu lệnh trống tập hợp quân sĩ.

Hiệu lệnh vang lên, với thời gian một tuần trà, chỉ có hai ba mươi người đến, Quách Sách tức phát ngất, cầm roi chạy về phía các trướng, vừa chạy vừa vụt và hét: “Dậy! Dậy ngay! Quan trên đến thị sát! Đến muộn ta sẽ lấy cái mạng của các ngươi!”

Đây là câu cửa miệng của hắn, lúc này mới có vài người lục tục đi ra, tất cả đều luộm thuộm, mấy người miệng vẫn còn lảm nhảm chuyện thắng thua gì đó, rõ là đang đánh bài, thậm chí có người còn đang ngủ chưa dậy, cho đến khi roi quất vào người mới nửa mê nửa tỉnh lồm cồm bò dậy.

Khi quân binh tập trung đầy đủ thì đã 3 khắc trôi qua.

Đỗ Văn Hạo nghiêm mặt hỏi Quách Sách: “Quân doanh này có bao nhiêu người?”

Quách Sách rụt rè nói: “Bẩm tướng quân, 500 người ạ”

“500?” Đỗ Văn Hạo nhìn khắp thao trường “Ở đây có đủ 500 không? Báo cáo sĩ số cho ta!”

Các binh sĩ lần lượt báo cáo, con số cuối cùng chỉ là 226 người, chưa đến một nửa!

Đỗ Văn Hạo tức giận nói: “Những người còn lạ đâu? Đi đâu hết cả rồi?”

Quách Sách sợ hãi đáp: “Dạ…dạ, ra ngoài hết rồi ạ!”

“Nói thừa, không ra ngoài chẳng nhẽ bốc hơi hay chui xuống đất? Bản quan muốn hỏi là bọn họ đi đâu? Đừng nói là ngươi không biết đấy!”

Quách Sách lau mồ hôi trán: “Đa số hồi dịch rồi ạ, một số nhỏ khác ở quán rượu và canh bạc trong thành ạ.

Đỗ Văn Hạo sớm đã biết những chuyện hồi dịch này, nhưng lúc đó chỉ là quân trại bình thường, không ngờ cấm quân cũng hoạt động kiểu này, hơn nữa còn huy động hơn một nửa quân số , thậm chí còn đánh bạc, bèn hỏi thêm: “Triều đình cho phép các ngươi làm thế này sao?”

Quân đội kinh thương, dĩ nhiên là triều đình cấm chỉ, nhưng đối mặt với khó khăn, đành phải mắt nhắm mắt mở cho qua, vì vậy Quách Sách không căng thẳng lắm, dù gì mọi người đều làm vậy

Hắn cười trừ: “Tướng quân, triều đình không cho phép, nhưng, các anh em cũng cần ăn cơm ạ”

Đỗ Văn Hạo biết đây là vấn đề không chỉ của doanh trại này, mà là vấn đề của cả quân đội, hắn giờ không muốn truy cứu thêm nữa, vốn muốn đánh tên chi huy sứ này vài gậy, nhưng phải xem hắn luyện binh thế nào đã, bèn nói: “Ngươi quá giờ 2 khắc, 20 mươi quân trượng tạm nhớ đấy đã, bản quan muốn xem diễn binh, nếu làm tốt, bản quan miễn tội, nếu không sẽ tính cả vỗn lẫn lãi đó!”

Quách Sách vội dạ dạ vâng vâng, cùng xem duyệt binh với mấy vị quan quân trên khán đài, Đỗ Văn Hạo ngồi ngay trung tâm, các vị tướng quân khác ngồi ở hai bên.

Quách Sách đứng trên cao, sử dụng chiếc cờ trong tay để ra lệnh “Bộ số 1, tiến lên phía trước! lên cung! Chuẩn bị! bắn!

Thực ra 1 bộ bin có 100 người, nhưng hơn nửa trong đó đã ra ngoài “làm ăn” rồi, vì vậy vào vị trí cung thủ chỉ có chưa đến 50 người.

50 mũi tên bay ra, đều bay loạn xạ, Đỗ Văn Hạo nhìn theo, suýt nữa thì ngã ngửa từ ghế xuống đất, thấy đám hình nhân bằng cỏ có hơn 10 mũi là bị tên bắn phải! số tên còn lại đều cắm trên bãi cỏ dày đằng sau! Thậm chí một số người còn không căng nổi cung, bắn tên không đi, đứng cúi đầu ở đó

Quách Sách đưa mắt nhìn phản ứng của Đỗ Văn Hạo, hắn căng thẳng dằn giọng nói: “Tập trung vào cho ta! Lên cung! Chuẩn bị, bắn!”

Lần này, có lẽ do quá căng thẳng, số tên trượt còn nhiều hơn.

“Căng cung lên tên…”

Quách Sách đang định gào tiếp, Đỗ Văn Hạo đột nhiên nói: “Được rồi! đội tiếp theo”

Quách Sách vội tuân lệnh, đổi đội khác, đây cũng là đội cung, thành tích cũng không khác đội trước là bao, hai đội sau là đội nỏ, thành tích càng tệ hơn, thậm chí có một số không không kéo nổi dây cung.

Đội cuối cùng là đội súng, tay giữ súng, đề phòng quân địch cưỡi ngựa xông lên, luyện tán kích thuật.

Kĩ thuật này là động tác bắt buộc, quân thể quyền tương tự của quân đội hiện đại thực dụng hơn, cự mã thương cần tối thiểu phải kị binh tấn công, súng phải cầm nghiêm chỉnh, nếu không sẽ thất bại và sẽ trở thành vũ khí của địch.

Việc này tương đối nguy hiểm.

Nhưng diễn hết một lượt tán thích thuật, Đỗ Văn Hạo dở khóc dở cười, không chỉ các bước đều loạn, một số người không biết làm gì với khẩu súng trong tay nữa, dường như đã quên cách sử dụng rồi.

Đây có phải là cấm quân bảo vệ kinh thành không! Là tấm bình phong chính phòng ngự kinh thành, trình độ như thế này đây, đừng nói là tinh nhuệ, đến cung thủ bảo vệ nha môn mà hắn biết còn mạnh hơn quân doanh này!

Đỗ Văn Hạo đã nắm binh quyền một thời gian rồi, cũng từng nhiều lần được xem diễn binh, lúc đó còn thấy được, tuy có bắn trượt, nhưng không như thế này, không ngờ cách một bức tường thành mà đã như trên trời dưới đất thế này rồi.

Đỗ Văn Hạo hạ giọng nói: “Gọi từng cung thủ ra bắn, ta muốn xem năng lực từng người đến đâu!”

“Dạ” Quách Sách vội vâng lện rồi triệu tập cung thủ lại.

Sau khi trắc liên, 60% có thể giương cung 8 đấu, nỏ hai thạch 4 đấu, đạt trình độ trung bình, trong đó có 20% khá tốt.

Đỗ Văn Hạo lấy đó làm vui, trong khoảng 200 người, 80% thể chất tốt, chỉ cần chịu khó luyện tập thì có hi vọng, còn về bắn tên trượt, tán thích thuật phối hợp không tốt, nguyên nhân chủ yếu là do lười luyện tập, có thể hiểu được. cả quân doanh doanh bận làm ăn, làm gì có thời gian luyện tập.

Đỗ Văn Hạo còn muốn xem diễn trận tổng hợp, lại nói: “Đánh trống, xếp hàng tập luyện!”

Quách Sách vâng lệnh, ra cờ hiệu, trống nổi lên, các binh sĩ cầm cung sẵn sàng, vác súng và cờ, bắt đầu dàn hàng, tìm đến vị trí của mình trong đội hình chiến đấu, qua một tuần trà mà đội hình vẫn chưa hình thành, vì có một số ít thậm chí còn không biết vị trí chiến đấu của mình ở đâu, vẫn chạy lung tung trong đội hình.

Đỗ Văn Hạo “mặt sắt” đi đến phía trước khán đài, không thèm nhìn Quách Sách, lạnh lùng nói: “Đây chính là đội quân mà ngươi dẫn dắt? đến đội hình còn không xếp được thì chiến đấu kiểu gì đây?”

Quách Sách đỏ mặt lí nhí: “tì chức đang chết, xin tướng quân giáng tội, tì chức về sau nhất định sẽ chú trọng chuyện luyện tập”

“Hừ, ta cho ngươi một khắc, hãy chấn chỉnh lại đội hình ngay, phía sau cần xung phong, phòng thủ, chuyển quân doanh. Ta hi vọng không nhìn thấy đám ô hợp này nữa!”

“Vâng!” Quách Sách phất cờ lệnh, phải khó khăn lắm mấy binh sĩ kia mới tìm được vị trí của mình, chẩn chỉnh được đội hình, hắn lạ hò hét mấy lần quân lệnh, thấy đã hết giờ mới chạy về khán đài, ra hiệu bằng cờ, trống nổi lên bắt đầu cho thao luyện.

Tiếc là gần trăm năm nay không có chiến sự, quân bị lỏng lẻo, quân đội của hắn lâu lắm rồi chưa được luyện tập chính quy, làm sao trong một tuần trà có thể chỉnh đốn hàng ngũ cơ chứ.

Ngay động tác đầu tiên đã có vấn đề rồi, đáng nhẽ cần làm các động tác khác nhau dựa vào màu cờ và tín hiệu trống, kết quả lại toàn làm ngược lại, đến nỗi dẫm đạp lên nhau.

Các binh sĩ phía sau kêu toáng lên, úp mặt ngồi xổm trên đất, máu vây đầy trên các đầu ngón tay!

Các binh sĩ khác bắt đầu hoảng, tất cả vây lại.

Đỗ Văn Hạo dằn giọng: “Các binh sĩ bị thương sẽ có quân y lo liệu, không có quân lệnh mà đã tự ý rời bỏ vị trí thì làm sao mà thắng địch đcượ chứ!”

Các binh sĩ lập tức như bị đông cứng lại.

Đỗ Văn Hạo hét lớn: “Quân y! mang người đi cho ta! Quân y!? quân y đâu?! Quân y đâu hết rồi?”

Quách Sách sợ hãi đáp: “Quân y… quân y vào tiệm quân dược trong thành hành nghề trong đó rồi”

Quân đội đã đi làm ăn ở tất cả các bộ phận rồi, thậm chí còn xen cả vào việc làm ăn của quân dược rồi, thật khiến cho Đỗ Văn Hạo không còn gì để nói.

Hắn lớn giọng: “Dừng thao luyện, ta sẽ chữa trị cho họ!” nói rồi nhảy xuống khỏi khán đài.

Mọi binh sĩ đều nghe thấy giọng của Đỗ Văn Hạo, ai cũng biết trước kia đại tiếng quân là ngự y, có đại nhân lo liệu thì yên tâm rồi, thấy đại nhân xuống, mọi người lập tức quay ề vị trí.

Hứa Văn Cường và bọn hộ vệ cũng đi theo, Đỗ Văn Hạo dặn dò bọn hộ vệ đưa binh sĩ bị thương về mấy cái ghế cạnh thao trường, để cầm máu hai tay cho họ, phát hiện ra hàng lông mày của họ bị cứa một đường dài, xém nữa thì đi đôi mắt rồi, thật là trong cái rủi có cái may.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 423: Tiền bạc và sinh mạng

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Boom về...anh em hãy cảm ơn các mạnh thường quân !!!

Trong túi cưu thương có băng chuyên dùng để băng vết thương ngoài ra, nhưng không có chất sát trùng và giảm đau, không có loại đặc trị mà mình thêm bột điền thất vào. Nếu không giảm đau, sát trùng đúng cách thì sẽ bị nhiễm trùng, khó liền hoặc không cầm được máu.

Đỗ Văn Hạo dùng nước sạch rửa vết thương, sơ cứu đơn giản, sau đó đắp thuốc kim sáng bình thường lên, dùng vải chuyên dùng để băng vào, dặn dò mấy binh sĩ làm theo lời mình dặn, lập tức đến Ngũ Vị Đường trong thành, tìm Diệm Diệu thủ xử lí vết thương lại cho tử tế

Các binh sĩ thấy đường đường là đại nhân Tam Nha nhiệt tình cẩn thật băng bó cho mọi người, trong lòng cảm thấy rất ấm áp, lập tức đứng thẳng dậy, ánh mắt hương về Đỗ Văn Hạo vừa kings trọng vừa thân thiết.

Tiễn mấy binh sĩ bị thương ra khỏi quân doanh, Đỗ Văn Hạo quay trở lại khán đài, bảo Quách Sách dặn dò binh sĩ mang mặt nạ tác chiến, mang theo vũ khí và lương khô, bắt đầu chạy việt dã quanh quân doanh 10 vòng, độ dài cũng phải đến 6 dặm.

Các binh sĩ chuẩn bị xong, bắt đầu chạy.

Điều làm cho Đỗ Văn Hạo hài lòng là mấy binh sĩ này dù đã lâu không luyện tập nhưng thể chất vẫn rất tốt, qua 10 vòng chạy, chỉ có hơn mười người bị tụt lại, còn lại đều chạy được hết vòng, tốc độ cũng được.

Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn Quách Sách, nói: “Sĩ binh thể lực tốt, tốc độ được, cũng phục tùng mệnh lệnh, chỉ có điều người làm quan mà không cho luyện tập tốt! Ngươi xem ngươi dẫn dắt một đội quân tốt như vậy đến mức độ nào rồi? Tên bắn không nổi, đội hình không biết cách xếp, đến quân hiệu cũng không nắm rõ, chỉ có sức khỏe không thì làm nên tích sự gì! Hai quân tác chiến, không phải là đánh nhau tập thể, mà là sự phối hợp của tập thể, phát huy ưu thế của tập thể. Đội quân này của ngươi lên tiền tuyến kiểu gì? Lại còn là cấm quân của kinh thành nữa chứ. Cấm quân như vậy thì gánh vác trọng trách bảo vệ kinh thành thế nào được?”

Quách Sách hai đầu gối mềm nhũn, quỳ phục xuống đất, dập đầu nói: “Tì chức sai rồi, mong đại nhân trách tội”

“Lát nữa ta nhất định sẽ trừng phạt ngươi. Có điều ta còn một chuyện muốn làm rõ, nhưng quân sĩ ngươi điều đi “làm ăn”, rút cuộc là có bao nhiêu người? -------- Ta cảnh cáo ngươi, ta sẽ điều tra, nếu giấu trên lừa dưới, người biết quân pháp xử tội đó thế nào chứ!”

Quân pháp triều Tống quy định tương đối nghiêm khắc, giấu giếm quân tình bị xử trảm, có điều thời bình không cân phải nghiêm khắc chấp hành đến vậy.

Nhưng Quách Sách vẫn sợ tím mặt mũi, sợ là sợ hai chữ nói thật.

Không nói thật mọi người đều được yên, nếu nói thật hết ra thì toi rồi. Quách Sách dập đầu, lắp bắp: “Đại tướng quân, có tất cả 116 người bị hạ thần điều đi thôi”

“Không đúng!” Đỗ Văn Hạo dằn giọng, “Biên chế của một quân doanh là 500 người, lúc nãy báo cáo sĩ số chỉ có 226 người có mặt, cả ngươi nữa mới là 227, thêm 116 người ra ngoài làm ăn thì tổng cộng mới có 343 người, còn thiếu 157 người nữa, đi đâu hết cả rồi?”

“Cái này …” Quách Sách ấp úng không biết nên trả lời thế nào.

Đỗ Văn Hạo tức giận: “Ngươi dám giấu bản quan?”

“Tì chức không dám!”

“Vậy ngươi nói xem!”

Quách Sách cúi đầu không nói.

Đỗ Văn Hạo bắt đầu tức đến mức không kiềm chế nổi, hướng xuống dưới khán đài nói: “Phó chỉ huy sứ đâu?”

“Có mạt tướng!” Một thanh niên chạy đến, quỳ một gối dưới khán đài, chắp tay nói: “Mạt tướng Nghiêm Bỉnh, phó chỉ huy sứ quân doanh số 1 Quảng Đức huyện Dương Vũ, xin nghe theo sự sắp xếp của đại tướng quân!”

“Mang danh sách binh sĩ lại đây!”

“Tuân lệnh!” Nghiêm Bỉnh vội vàng chạy đến trướng lớn, nhanh chóng mang danh sách đến quỳ xuống trình lên Đỗ Văn Hạo

Đỗ Văn Hạo không cầm lấy, lạnh nhạt nói: “Ngươi khoanh tròn tên những ai đi hồi dịch lại, ta muốn kiểm tra”

“Rõ! Không dám giấu tướng quân!”

Nghiêm Bỉnh lúc nãy chạy việt dã, người toàn mồ hôi, thậm chí còn chưa kịp lau, cầm bút lên bắt đầu khoanh, đều là binh sĩ kiến chế, tất cả có hai đội, thêm số quân thường niên coi quản binh sĩ hồi dịch, việc này xong rất nhanh, Đỗ Văn Hạo xem một lượt, quả nhiên là 116 người.

Đỗ Văn Hạo nói với Nghiêm Bỉnh: “Bây giờ ngươi điểm danh đi, điểm danh đến đâu đánh dấu đến đó, đứng sang một bên đi!”

“Vâng!” Nghiêm Bỉnh chần chừ rồi xoay người bắt đầu điểm danh.

Việc điểm danh cũng chẳng tốn mấy thời gian.

Đỗ Văn Hạo cầm lấy danh sách, điểm nhanh đã thấy đúng là không có 157 người, hắn hỏi Quách Sách: “Nói đi, những người này đi đâu cả rồi?”

Quách Sách vẫn im lặng không nói. Đỗ Văn Hạo quay sang Nghiêm Bỉnh thì tên đó cũng cúi đầu né tránh ánh mắt của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo cười khẩy: “Đừng cho rằng các ngươi không nói thì ta không biết! Mang sổ sách trợ cấp hàng tháng của các binh sĩ ra đây! Bản quan muốn xem một tháng có bao nhiêu người nhận trợ cấp!”

Quách Sách và Nghiêm Bỉnh mặt mũi tái mét, Nghiêm Bỉnh chạy đi lấy một cuốn sổ trình lên Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo giở ra kiểm tra những người được trợ cấp tháng trước, mặt u ám cười nói: “Ở đây có đủ 500 người nhận trợ cấp, đều có tên họ rõ ràng, thế người đâu? Đừng bảo họ là ma đấy!”

Hai người vẫn cúi đầu không h he gì.

Đỗ Văn Hạo giận quá cười mỉa mai: “Được, ha ha, được lắm! Các ngươi dám giễu cợt ta? Được thôi! Chúng ta tính nợ cũ trước, Quách chỉ huy sứ, lúc nãy ta nói, binh sĩ đến muộn một khắc, phạt ngươi mười quân trượng! binh sĩ đến muộn mấy khắc?”

“Hai khắc!”

“Được! Ngươi cầm quân không nghiêm, không tập hợp được cả đội đúng giờ, người đâu, phạt thật nặng, hai mươi quân trượng!”

Lần này hắn xuống trực tiếp kiểm tra, không mang theo đội hộ vệ, Hứa Văn Cường đội trưởng đội hộ vệ giơ tay, bên trên có mấy hộ vệ xuống, bắt lấy Quách Sách ấn hắn nằm xuống đất, bọ họ cũng chẳng mang quân trượng, một hộ vệ nhìn thấy cạnh thao trường có môt giá vũ khí, trên đó có vài cây gậy, bèn cầm lấy hai cây, hai hộ vệ đứng xung quanh, bắt đầu ra tay với Quách Sách.

Tướng sĩ trên dưới khán đài thì chỉ huy sứ bị đánh phạt thị chúng, ai ai cũng run lẩy bẩy, cúi đầu không dám ho he gì.

Tên Quách Sách này đúng là không chịu được đòn roi, đanh hết 20 trượng là chân hắn đã đầm đìa máu, không nói năng được gì nữa.

Đỗ Văn Hạo thầm mừng, nhưng nét mặt vẫn nghiêm nghị: “Ngươi cầm quân không nghiêm, để quân sĩ hồi dịch, bỏ bê luyện tập,, quan quân luật, nên xử lí thế nào đây?”

“Đối với kẻ chủ mưu, thì kế tạng tọa tội, toàn bộ tài sản hồi dịch sẽ bị tịch thu”

“Ừm, kế tạng tọa tội, cụ thể là thế nào?”

“Doanh lợi 20 lần trở lên, 100 trượng”

“Cái gì?” Đỗ Văn Hạo trợn mắt nhìn quân luật quan: “Không tử hình sao?”

“Dạ, thưa tướng quân, chỉ có vật ăn cắp tế thần, hối lộ, ăn cắp bảo vật là xử trảm. người ngoài quân doanh ăn cắp tròn 20 quán, 60 trượng, thích phối bản châu, người trong quân doanh ăn cắp tròn 20 quán, 100 trượng, không thích phối.

“Ngươi có nhầm không? Ăn cắp 1 vạn quán cũng không chặt đầu sao?”

“Vâng, thưa tướng quân”

Xử phạt tội ăn cắp luôn ngược hẳn với sự phồn thịnh của nền kinh tế, kinh tế càng phát triển, xử phạt tội ăn cắp càng nhẹ, triều Tống khi mới khai quốc, đất nước rất nghèo nàn. Khi đó xử phạt tội ăn cắp rất nặng, sau đó đất nước ngày càng phồn vinh, hình phạt càng nhẹ dần.

Càng về sau hoàng đế càng nhân nhượng, tha được thì tha, khoan hồng dần với tội ăn cắp, cuối cùng dở bỏ tử hình với với tội ăn trộm. Thời Đường là thời kì phồn thịnh nhất, tội ăn cắp cũng không có mức phạt tử hình.

Đỗ Văn Hạo không am hiểu lắm hệ thống luật pháp đời Tống, vì vậy rất kinh ngạc, lại hỏi: “Ai chịu trách nhiệm việc xử phạt trị tội tướng sĩ?”

Quan quân luật đáp: “Thời bình, với binh sĩ bình thường, trượng hình do các quan quân luật trình doanh chỉ huy xử lí, đội đầu trở lên doanh chỉ huy sứ trở xuống phạm quân hình cần xử khoa hình, do Tam Nha xử lí. Tử hình phải do Tam Nha trình Hoàng thượng quyết. Thời chiến, do chủ soái và đốc chiến quan xử tại chỗ”

Đỗ Văn Hạo gật đầu, nói với Quách Sách: “Ngươi doanh chỉ huy sứ, bản quan là Tam Nha đô điểm kiểm, có quyền xử trượng hình với ngươi, trượng 100, thế cũng đủ răn rồi. ---- Đúng rồi, quân luật quan, nếu lúc hành hình đánh chết thì làm thế nào?”

“Thụ hình mà chết, không luận”

“Vậy là có đánh chết ngươi cũng không trách được ta rồi. Người đâu! Cho dù hắn có van xin thế nào cũng không được nương tay, đánh hắn 100 trượng, đánh cho đến chết! Chết ta chịu trách nhiệm!”

Mấy hộ vệ tiến lên, giơ gậy lên bắt đầu đánh.

Quách Sách biết là cùng đường rồi, nhắm mắt đợi chết.

Quân trượng vun vút đập vào người Quách Sách, chỉ một thoáng thôi đã khiến lưng hắn đầm đìa máu. Quách Sách vẫn im lặng chịu đựng, giống như không phải đang đánh hắn vậy.

Phó chỉ huy sứ lên tiếng, dập đầu nói: “Đại tướng quân, chuyện này không trách chỉ huy sứ được, lúc chỉ huy sứ được điều đến đây, đã thiếu mấy quân sĩ đó rồi”

“Cứ cho không phải lỗi của các ngươi thì không thể tiếp tục tham ô được, bản quan bây giờ không truy cứu ai là người có lỗi, mà là bổng lộc của hơn 150 người đó rơi vào túi ai?!”

Hai người im lặng.

Đỗ Văn Hạo nổi giận, chỉ thẳng bào mặt hai tên đó nói: “Được lắm, ta muốn xem xem miệng lưỡi các ngươi cứng hay quân trượng cứng!” không thèm quay đầu lại, Đỗ Văn Hạo ra lệnh: “Quân luật quan, tham ô công quỹ, trị thế nào?!”

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 424: Ưu thế không ưu thế

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Quan quân luật gao giọng đáp: “Kẻ tham ô thành tội, 10 thất trở lên, phạt 100 trượng và 1 năm bổng lộc”

Đỗ Văn Hạo đi hết tử bất ngờ này đến bất ngờ khác : “Đến tham ô mà cũng không bị tử hình sao? Luật kiểu gì vậy?”

“Khởi bẩm tướng quân, tham ô không bị, nhưng nhận hối lộ thì bị, một thước 100 trượng, 1 thất thêm một bậc, 15 thất treo cổ”

“Thế còn được, Quách chỉ huy sứ, ngươi tự ý cho quân binh hồi dịch, theo luật phạt trăm trượng, thêm vào đó mạo nhận quân số ăn bớt trợ cấp, tổng cộng hai trăm trượng, xem ra xương sống ngươi toi rồi, còn nội tạng thì đừng mong còn nguyên vẹn, ngươi tự lo liệu xem nên nói hay không?”

Quách Sách run lẩy bẩy không nói.

Đỗ Văn Hạo đảo mắt nói: “Quách chỉ huy sứ, bản quan biết ngươi có chỗ khó, số binh sĩ bị khai khống này, và số trợ cấp tham ô, mỗi tội 100 trượng, hai tội cộng lại, dù gì cũng không sống nổi, không biết thí tốt giữ xe, chết không chịu nói, người khác liệu có lo cho người nhà của ngươi không, ngươi nói xem đúng không?”

Quách Sách rùng mình, chầm chậm ngẩng đầu nhìn Đỗ Văn Hạo, trong lòng kinh ngạc vì sự sắc sảo trong đôi mắt của vị tướng quân trẻ tuổi, đây chính là bàn tính lớn trong lòng hắn.

Đỗ Văn Hạo nói: “Nếu ngươi nói ra nội tình thì ta có thể bảo bọn họ nhẹ tay, cho ngươi con đường sống”

Ánh mắt chỉ huy sứ lóe lên một tia vui mừng: “Đại tướng quân nói thật chứ ạ?”

“Quân đội không có lời nói đùa!”

“Vâng! Tì chức tin tướng quân, tì chức nói”

Quách Sách than dài: “Khi tại được điều đến đây, chỉ huy sứ tiền nhiệm đã đưa cho danh sách bị thiếu này rồi, thiếu hơn 150 người, nhưng cũng không báo lên trên để bổ sung, vẫn nhận trợ cấp theo sĩ số 500 người, số còn dư được chia làm 3 phần, một phàn cho Đại nhân quân bộ đô chỉ huy sứ, một phần chia cho anh em toàn quân doanh. Phần còn lại lại được chia làm 3 phần, tại hạ và phó chỉ huy sứ 1 phần, các đô đầu, đội đầu được chia một phần, chia theo đầu người”

“Ha ha, thật công bằng, khai khống quân số, tham ô trợ cấp, to gan! Các ngươi không biết sợ vương pháp sao?”

Quách Sách cúi đầu nói: “Tì chức biết chuyện này sớm muộn gì cũng bị lộ, hơn nữa mọi người đều làm thế, không đến mức một mình bản thân mình chịu, không ngờ lại như thế này”

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên: “Ngươi nói gì? Mọi người đều làm như vậy sao? Vậy là ý gì? Ngươi nói các quân doanh khác cũng như vậy sao?

Quách Sách gật đầu nói: “Đại tướng quân nếu không tin có thể tự mình đi điều tra xác thực, có quân doanh còn khai không nhiều hơn bên tì chức! Mấy chục năm nay đều như vậy!”

Đỗ Văn Hạo thấy đầu óc lùng bùng, 1 số chuyện rõ thật không thể nghĩ thông, trong phút chốc đã thông suốt rồi! Tại sao đội quân Tống xưa nay tập trung nhiều ưu thế vậy, tại sao bao nhiêu lần giao đấu với quân Tây Hạ lần nào cũng thua, thì ra ưu thế của quân Tống chỉ là ưu thế ảo về quân số, còn thực tế, thậm chí còn không đủ sĩ số, con số ảo về sĩ số thiếu quá trầm trọng, số lượng thực sự không hề hơn quân Tây Hạ.

Nhưng ngay sau đó hắn lại thấy không ổn, bản thân hắn vừa tiếp xúc với quân đội, chuyện như vậy chẳng nhẽ hoàng thượng không biết sao? Hơn nữa, lần trước mình dẫn năm nghìn cấm quân Tây chinh, rõ ràng là năm nghìn, không hề thiếu ai, như vậy là sao?

Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn đội trưởng thân binh hộ vệ Hứa Văn Cường hỏi; “Phải như vậy không?”

Hứa Văn Cường gật đầu: “Đại tướng quân, nói chung là như vậy”

“Vậy tại sao lần trước ta dẫn quân Tây chinh, năm nghìn người không thiếu ai?”

Hứa Văn Cường cười hì hì đáp: “Tướng quân không biết kiểm kê từng người thì làm thế nào mà biết có thiếu hay không? Đều là nghe kẻ dưới báo cáo sĩ số, thiếu là thiếu. Có điều đội của họ hơi thái quá thôi. Vì khi tiên đế còn tại vị đã từng bổ sung đối với quân doanh thiếu, đội quân mà chúng ta dẫn đi xuất chinh khi đó là đã được bổ sung cách đó không lâu, vì vậy sĩ số mới chưa được báo cáo, nhưng việc thiếu người cũng không quá nghiêm trọng.”

“Thực tế là thiếu bao nhiêu?”

“Cái này tì chức cũng không rõ, lúc đó hai quân, có tất cả năm nghìn người, tì chức chỉ biết lúc đó doanh chúng ta chỉ thiếu có mười mấy người”

“Ngươi là doanh chỉ huy, cũng ăn tiền trợ cấp thiếu quân số như bọn chúng sao?”

Hứa Văn Cường có vẻ ngại, quỳ một gối xuống chắp tay đáp: “Xin đại tướng quân thứ lỗi, tì chức sai rồi, có điều, đây là cách làm thông dụng trong quân ngũ, trên tì chức còn có quân đô chỉ huy sứ, tì chức mà không làm theo lệ thì sớm đã bị đào thải rồi. Nhưng đại tướng quân có thể điều tra, toàn bộ số tiền trợ cấp dư ra được dùng để bổ sung quân phí và gia quyến binh sĩ bị thương vong ngoài quy chế. Những việc này đều có chứng cứ, mạt tướng không hề có chuyện tham ô bỏ túi riêng!”

Đỗ Văn Hạo gật đầu: “Ta tin ngươi, ngươi đi theo ta chinh chiến ở Tây Vực, tận mắt nhìn thấy sự trung thành của ngươi, tuyệt đối không vì chút lợi nhỏ mà quên đại nghĩa. Đứng dậy đi”

“Đa tạ đại tướng quân” Hứa Văn Cường đứng dậy về lại vị trí cũ.

Đỗ Văn Hạo lại hỏi từng đô chỉ huy sứ của các quân Tam Nha, bọn họ đều thừa nhận chuyện nhận tiền và khai khống sĩ số, nhưng số lượng khác nhau, cách thức tiêu khác nhau, đa số là trưng dụng bổ sung quân phí, có sổ sách để đối chiếu, chỉ có số ít là tư lợi thôi.

Nghe vậy, tuy chỉ là tăng phúc lợi cho quân binh, nhưng cũng có thể chấp nhận được.

Tuy đây là hiện tượng phổ biến, cái được gọi là phép vua thua lệ làng, chỉ có thể thay đổi từ chế độ, không thể trách phạt quá nặng một cá nhân nào được, như vậy thì không công bằng. Đỗ Văn Hạo thở dài, nói với Quách Sách và Nghiêm Bỉnh lúc này vẫn còn quỳ dưới kia: “Được rồi, hai ngươi cứ đứng lên đã!”

Đợi hai người đó đứng dậy, Đỗ Văn Hạo nhìn quanh tướng lĩnh cao cấp của Tam Nha, trầm giọng nói: “Một phần lớn tướng sĩ bị điều đi làm ăn, hiện tượng thiếu sĩ số quá nghiêm trọng, vấn đề khai không lĩnh khống trợ cấp quá nổi cộm. Quân đội thiếu rèn luyện, khả năng chiến đấu bị giảm sút đáng kể. Quân đội như vậy thì thắng trận sao được? Nhất định phải chấn chỉnh! Đây là nhiệm vụ mà Hoàng Thái Hậu giao cho ta, cũng là trách nhiệm của bản tướng. Nhưng giải quyết vấn đề này như thế nào cần sự đồng tâm hiệp lực của tất cả mọi người. còn làm như thế nào thì các ngươi cho cái đầu của ta suy nghĩ đã, cho các ngươi ba ngày, viết lại những đề đạt của các ngươi rồi trình lên ta. 3 ngày sau ta sẽ triệu tập hội nghị chỉ huy sứ các quân để thảo luận các vấn đề đó. Nghe rõ chưa?”

“Mạt tướng tuân lệnh!” các tướng lĩnh quỳ xuống đáp, nghe ra thì chưa có tinh thần lắm, rất hiển nhiên, ban đầu Tống Thần Tông quyết tâm chỉnh đốn quân đội, hiệu quả vẫn chưa được như ý, bọn họ nghi ngờ đại tướng quân trẻ tuổi này, đó là chuyện dễ hiểu.

Đỗ Văn Hạo tất nhiên nghe ra điểm này, trong lòng thấy không vui, tiếp tục thị sát trạm tiếp theo.

Trạm thứ hai là quân doanh sương quân, kiều đạo quân của huyện này

Do bọn họ đi thị sát đột xuất, vì vậy khi một hàng người cưỡi ngựa đến cửa doanh phòng, lại không thấy có binh sĩ gác cửa. Cưỡi thẳng ngựa xông vào, một quân doanh lớn thế này mà ảm đạm, chỉ có một vài người đang ngồi tránh nắng dưới bóng cây ở góc tường xa xa.

Đỗ Văn Hạo thúc ngựa đi vào, nhìn rõ mấy binh sĩ tóc đã bạc phơ, còn cả lưng xuống, đang ngồi trên các phiến đá uống trà nói chuyện phiếm. Thấy bọn Đỗ Văn Hạo đi vào, tuy không biết, nhưng thấy Đỗ Văn Hạo mặc trang phục võ tướng bằng nhung nhị phẩm, chắc cũng là tướng quân cao cấp, bọn họ đều sợ hãi, lẩy bẩy đứng dậy hành lễ: “Tham kiến chư vị tướng quân”

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Chỉ huy sứ của các ngươi đâu?”

“Chỉ huy sứ đại nhân …, chỉ huy sứ đại nhân đâu rồi?” ông già quay đầu hỏi những lão binh tốt bên cạnh.

Một người trong trẻ nhất đám đó trả lời: “Đi huyện nha bàn chuyện dọn dẹp lòng sông rồi ạ”

“Đúng đúng!” mấy ông già cùng gật đầu.

Đỗ Văn Hạo chau mày: “Phó chỉ huy sứ? Các bộ đầu đâu, đô đầu đâu?”

Mấy lão già chụm đầu lại với nhau rồi đáp: “Phó chỉ huy sứ đã lãnh hai đô binh hồi dịch lâu rồi, khoảng mười ngày nửa tháng nữa sẽ quay về, 3 đô còn lại, có 1 đô đi nạo vét lòng sông, 1 đô đi sửa kênh mương, còn 1 đô đi công tác trên Nha môn”

Đỗ Văn Hạo giở khóc giở cười: “Đi công tác trên Nha môn? Nha môn không phải có nha dịch rồi sao! Lại còn kêu binh lên làm gì?”

“Ha ha, tướng quân nói rất đúng, có điều lão gia trên Nha môn nói bận quá, vì vậy kêu lên tạm dùng, việc này được gọi luôn phiên, không có kết thúc luôn. Tiền Hồi tử phủ doãn phủ Khai Phong đến còn điều 3 đô người ngựa đến hầu hạ nữa cơ”

Đỗ Văn Hạo nhìn thao trường cỏ mọc rậm rạp, thậm chí có nhiều vật lạ, hỏi: “Các ngươi bình thường không luyện tập sao?”

Ông lão binh đó cười trừ: “Tướng quân, người ngựa quân doanh chúng tôi bận chuyện này chuyện kia, đến thời gian tập hợp còn không có, thao luyện sao được? hơn nữa, sương quân tạp dịch, chúng tôi đều ra trận thì cấm quân dùng làm gì?”

Lão binh này tuy đã già, nhưng dám lên tiếng trả lời, Đỗ Văn Hạo lại hỏi: “Quân doanh các ngươi có bao nhiêu người? Ý ta là con số thực tế ấy”

Lão binh đó không có ý giấu giếm: “Tổng số biên chế 500, thực tế là 300 có lẻ”

“Vậy số 200 kia có lãnh trợ cấp không?”

Lão binh liếc Đỗ Văn Hạo một cái, rồi quay đầu nhìn mấy người bạn phía sau, thấy bọn họ đều thản nhiên bèn đáp: “Dạ có lĩnh, đều là phần của đương quan ạ”

Đỗ Văn Hạo gật đầu: “Đa tạ các vị cao niên trượng nghĩa đã thẳng thắn nói chuyện”

Rời sương quân binh doanh, Đỗ Văn Hạo lại đi thị sát kiểu cưỡi ngựa xem hoa mấy doanh phòng cấm quân xung quanh, kết quả cũng không khác là bao.

Trời đã nhá nhem tối, hắn lòng nặng trĩu về kinh.

Về đến nhà, hắn rầu rĩ nằm lên giường, Anh Tử gọi hắn ăn cơm hắn cũng không màng.

Bàng Vũ Cầm đến, ngồi xuống bên hắn nói: “Tướng công, có chuyện gì không vui sao?”

“Ừ”

“Có thể nói ra được không? Nói ra cùng nghĩ cách, có lẽ sẽ giải quyết được”

“Có nói nàng cũng không hiểu!” Đỗ Văn Hạo vừa dứt lời liền hối hận, ngẩng đầu nhìn Bàng Vũ Cầm, quả nhiên thần sắc thay đổi, vội vàng sửa lỗi, hắn ôm nàng vào lòng, nhẹ nhàng kể chuyện hôm nay đi thi sát rồi nói: “Quân đội Đại Tống ta như vậy, ta là người đứng đầu Tam Nha, trong lòng không vui chút nào, lại không biết phải giải quyết từ đâu. Sắp tới cần giao tranh với Tây Hạ, trong tay không có một chút binh lực nào, vì vậy cảm thấy rất khó chịu”

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 425: Thống nhất tư tưởng

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Bàng Vũ Cầm gật đầu: “Tướng công xưa nay chỉ nghiên cứu y thuật, nay lãnh binh đánh trận cũng là chuyện quá gấp gáp, mà căn bệnh này của quân ta không phải ngày một ngày hai, hơn nữa sự rệu rão cục bộ dễ khiến cả bộ máy ngưng trệ, phải thật cẩn trọng. Nếu không tướng công đi hỏi mấy vị danh tiếng cầm quân thành công, để họ chỉ giáo cho chút đạo cầm quân, biết đâu lại có được lời khuyên hay cũng nên”

Đúng là câu nói làm người khác tỉnh mộng, Đỗ Văn Hạo gật gù nói: “Nàng nói rất đúng! Ta không phải người trong nghề, phải đi xin người ta chỉ giáo, không thể làm bừa được, dan tướng triều ta rất nhiều, nhưng ai mới là người có uy tín nhất đây?”

“Vẫn nghe tướng công khen Dương gia tướng lợi hại thế này, lợi hại thế kia, tại sao không đến đó nhờ họ chỉ giáo?”

“Đúng! Dương gia tướng! đúng rồi! Đã bảo là phải đi thăm hỏi họ, ban đầu chỉ vì lòng ngưỡng mộ, nay lại có chuyện phải cầu đến họ thật rồi. Được rồi, sớm ngày mai đến Dương phủ bái kiến! vẫn là phu nhân nhiều cao kiến, chứ cái đầu cá gỗ của ta sao mà nghĩ ra được”

Bàng Vũ Cầm cười tinh nghịch: “Chẳng qua tướng công phức tạp hóa vấn đề nên nhất thời không nghĩ ra đó thôi, bình thướng tướng công rất hay nhắc đến Dương gia, thiếp không nhắc thì tướng quân khắc nhớ ra thôi”

Đỗ Văn Hạo ôm chặt lấy Bàng Vũ Cầm đè nàng ra: “Hì hì, tướng công giờ chỉ muốn kiều thiếp vừa nói vừa cởi áo ra thôi”

Bàng Vũ Cầm cầm lấy tay ngăn Đỗ Văn Hạo lại: “Tướng công, đừng!”

“Sao? Hôm nay không hải đến lượt nàng sao?”

“Đúng, chỉ là … thiếp hình như … hình như lại mang bầu rồi”

“Thật sao?” Đỗ Văn Hạo mừng rỡ nắm lấy tay Bàng Vũ Cầm bắt mạch, “Để ta xem nào!”

Được một lúc lại reo lên: “Ha ha, đúng là lại có rồi! Vẫn chỉ có phu nhân Bàng Vũ Cầm lợi hại! Liên tục có bầu! Lần này phải giữ cho tốt, không thể để xảy nữa đấy!”

Bàng Vũ Cầm ra vẻ xấu hổ nép vào ngực Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “Thiếp cũng nghĩ vậy, tốt hơn vẫn nên cẩn thận. Tướng công một thê ba thiếp, nhưng không ai có con, chuyện hương hỏa phải có người lo liệu thì mọi người mới yên tâm”

Đỗ Văn Hạo cười hì hì nói: “Chuyện này có gì đâu, nàng mang thai nhưng lại xảy, Thanh Đại tuy đã đến lúc nhưng 3 năm chưa hết tang, đến nay vẫn chưa động phòng, cũng không có cách nào cả, Liên Nhi và Phi Phi còn nhỏ, mới 15 16 tuổi, chưa phát triển đầy đủ, qua vài năm nữa thì sẽ ổn thôi mà”

“Vâng, nhưng thiếp là nguyên phối, nên là người đầu tiên mang thai”

“Nàng nói rất đúng, bây giờ mang thai là tốt rồi, để ta nghe xem là con trai hay con gái!” Nói rồi hắn áp tai vào bụng Bàng Vũ Cầm nghe thử.

Bàng Vũ Cầm nhột quá cười: “Mới có hai tháng thì nghe thấy gì được!”

Chuyện này Đỗ Văn Hạo thừa biết,, nhưng niềm vui được làm cha khiến hắn quên tất, hắn oomg chặt Bàng Vũ Cầm nói: “Hôm nay nàng ngủ lại đây, ta muốn ôm nàng ngủ!”

Tuy đã thành thân hơn 1 năm nhưng nghe tướng quân nói câu đó nàng vẫn rất xấu hổ, chỉ gật đầu không nói.

Sáng sớm hôm sau, Đỗ Văn Hạo luyện kiếm với Lâm Thanh Đại như mọi khi, 3 ngày nay, với sự chỉ dẫn của Lâm Thanh Đại, kiếm pháp của hắn đã khá hơn nhiều, chỉ cần chịu khó luyện tập là được.

Dùng xong bữa sáng, Bàng Vũ Cầm đã chuẩn bị một hậu lễ, sai người hầu bưng đi theo Đỗ Văn Hạo sang Dương phủ bái kiến.

Đỗ Văn Hạo mang theo hộ vệ ra ngoài, nhưng người đưa tin của Tam Nha cấp báo, Quân đô bộ thử Lã Công Trứ và phó đô bộ thử Khúc Trân và giám quân Lí Hiến của chuyến Tây chinh đang đợi trước cửa Tam Nha.

Đỗ Văn Hạo thân là đại nguyên soái của Tây chinh thảo phạt, phải đưa ra kế sách xuất chinh lần này, phải chỉ dẫn cho binh lính ở tiền tuyến, theo quy định, sau khi ban bố chiếu thư xuất chinh, muộn nhất trong 3 ngày phải xuất phát, quân tình gấp rút, phải hạ chiếu hôm đó xuất phát, không được chậm trễ. Đỗ Văn Hạo quyết định phải giải quyết chuyện này trước.

Hắn cùng các hộ vê đến trước điện nghị sự đường.

3 người thấy hắn đến đều đứng dậy hành lễ, Đỗ Văn Hạo vội phẩy tay áo đáp lễ, rồi ngồi vào vị trí chính giữa, hắn không quen biết 3 người này, Lã Công Trứ và Lý Hiến lại là người quen, Lý Hiến đã từng nhiều lần làm giám quân, đã từng làm đến kinh lược sử, vì tác chiến thất bại nên bị chuyển về Khánh sứ Nhậm tuyên ở kinh thành, vì vậy quen biết đại tướng Khúc Trân, nhưng chỉ là xã giao thông thường, Khúc Trân luôn ở biên giới Tây Hạ tác chiến, lại cỉ là phó tổng quản, vì vậy không có duyên quen biết với quyền thần trong triều Lã Công Trứ, vì vậy hai người không quen nhau.

Khi 3 người giới thiệu, Đỗ Văn Hạo cũng giới thiệu bản thân mình, rồi lại là màn xã giao thường gặp, Đỗ Văn Hạo thấy Khúc Trân tóc đã bạc phơ, do khoảng cách khá xa nên không nhìn rõ là nếp nhăn hay là sẹo đầy trên mặt, cho dù có cao to, tráng kiện, nhưng sức khỏe có phần không còn tốt lắm, nhưng hai mắt lanh lợi rất có thần, hắn bèn nói: “Khúc tướng quân, tôi ngưỡng mộ đại danh của tướng quân đã lâu, thường nghe Lý Phổ kể chuyện mọi người tác chiến ở Tây Hạ, rất ngưỡng mộ tài cầm quân của ngài”

Khúc Trân vội đứng dậy hành lễ: “Mạt tướng đâu dám, xin cám ơn sự đề cao của đại tướng quân!”

Lã Công Trứ là một nhân vật nguyên lão trong triều, đến Vương An Thạch do ông ta tiến cử cũng phải kính nể, thấy Đỗ Văn Hạo trẻ tuổi đã leo lên chức vị cao như vậy, thực tình không nhìn ra có chỗ nào hơn người, trong lòng có vẻ khinh thường. Hoàng Thái Hậu cho ông ta nhận chức đô bộ thử, Khúc Trân chỉ là phó soái, Đỗ Văn Hạo không xưng hô đại nguyên soái ngay mà khen ngợi phó soái trước khiến hắn không vui chút nào, hắn chỉ nói nhạt một câu: “Khúc tướng quân nên cám ở sự đề cao của Đỗ tướng quân, ì Đỗ tướng quân còn trẻ tuổi, nếu đổi lại là một lão thần thì sẽ không đề cao một bại tướng như ông đâu”

Vừa nghe thấy câu đó là mặt Khúc Trân đỏ hết lên, gương mặt tươi cười của Đỗ Văn Hạo như đông lại một lúc, hắn đưa mắt nhìn Lã Công Trứ, trộm nghĩ lão này thật vô lí, vốn nghĩ bật lãi mỉa mai vài câu, nhưng việc còn chưa xuất chinh mà nội bộ đã lục đục thì không hay, bèn giả bộ không nghe thấy, lái sang chủ đề khác, nói huyên thuyên về kế sách của mình.

Nghe hết ý tưởng của Đỗ Văn Hạo, Khúc Trân gật đầu nói: “Kế hoạch tác chiến của đại tướng quân rất tốt, từng bước rõ ràng, buộc ta và địch phải giáp chiến quyết đấu, làm tiêu hao sức chiến đấu của địch, phát huy ưu thế về quân số của ta, chỉ cần kế hoạch có thể nghiêm túc thực hiện, nhất định sẽ thành công!”

Lã Công Trứ điềm nhiên nói: “Lão già chỉ sợ không sống nhìn thấy hiệu quả thôi!”

Đỗ Văn Hạo nhìn Lã Công Trứ nói: “Nghe câu này của đô bộ thử thì hình như chiến thuật này kéo dài quá đúng không?”

“Đúng vậy”

“Vậy theo cao kiến của bộ thử thì trận này nên đánh thế nào?”

“Rất đơn giản, chia binh ra nhiều hướng, đánh xuyên tâm và bao vây, cắt đứt đường rút lui của địch, lợi dụng ưu thế binh lực để đánh lui địch”

Đỗ Văn Hạo chỉ cười nói: “Đô bộ thử, quân ta gặp quá nhiều trận như thế rồi, không thể để bi kịch tái diễn nữa!”

Lã Công Trứ nhếch đôi mày đậm đã bạc trắng: “Đại tướng quân, chiến thuật là chết, người là sống, chiến thuật có thể tạo ra kì tích, cũng khiến đội quân chiến bại, chỉ cần biết dùng là phát huy tác dụng”

Đỗ Văn Hạo nói: “Ngài nói không sai, nếu quân ta có thể nhanh chóng tiến công, lại có nghị lực và sức chiến đấu dẻo dai, đánh xuyên tâm rồi bao vậy sẽ tiêu diệt được địch. Thế nhưng, quân ta đang phải đối diện với quân Tây Hạ với kị binh là chủ lực, người có hai chân sao nhanh được bằng ngựa có 4 cẳng, hơn nữa quân địch là trọng giáp kị binh, quân ta muốn đánh xuyên tâm lại không mang theo trọng giáp được, cứ cho là bao vây được quân địch, thì quân địch với ưu thế trọng giáp kị binh sẽ sớm phá vỡ vòng vây của chúng ta thôi. Vì vậy chúng ta bao vây được địch nhưng chưa chắc thắng được chúng. Điều này đã được chứng minh qua rất nhiều chiến dịch rồi”

“Vậy là chủ soái chỉ huy bất lực rồi!” Lã Công Trứ lanh đạm nói.

“Nói vậy, đô bộ thử rất tự tin vào tài chỉ huy quân sự của bản thân phải không?”

“Không phải lão già ngông cuồng, cho dù lão chưa từng cầm binh đánh trận, sự tự tin vẫn có.Nếu lần này lão lãnh 5 vạn binh mã, có thể thảo phạt theo ý lão, bảo đảm thành Vĩnh Lạc chiến bại ê chề!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Quân ta hiện nay không thích hợp với chiến thuật đó”

“Đại tướng quân lo thừa rồi, cầm binh đánh trận, bắt buộc phải gan lớn, tướng quân như vậy thì chỉ có chiến bại mà thôi”

Đỗ Văn Hạo lúc này quá tức giận rồi, nhưng vẫn cố kiềm chế, cố gắng giữ cho mình bình tĩnh: “Lã đại nhân, tác chiến chậm chắc, kế hoạch này do tể tướng quyết định, kế hoạch này…”

“Kế hoạch này không được! Quá bảo thủ!” Lã Công Trứ sầm mặt vào không bằng lòng, “đánh như vậy đến bao giờ mới thắng được Tây Hạ? Ta đường đường là nước lớn đi ‘dạy bảo’ nước nhỏ, chỉ cần uy thế hùng hậu xuất chinh, không có chuyện không thắng được. Đánh như tướng quân thì phải đợi đến 50 năm hay 100 năm?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Quân ta bây giờ mà so với quân của Tây Hạ, trừ ưu thế về số lượng, còn lại đều không bằng, tư tưởng khinh địch và nhanh chóng thắng lợi mới là kẻ địch lớn nhất của chúng ta!”

“Tướng quân như thế là rùa rụt cổ đó!”

Đỗ Văn Hạo phát hiện ra mình nhẫn nhịn lão già này đúng là thất sách, bây giờ thánh chỉ đã giáng xuống, không thay đổi được, chỉ có thể thuyết phục lão ta không tiến công. Hắn cố gắng nuốt nước miếng, chậm rãi nói: “Lã đại nhân, chúng ta không tranh cãi nữa, kế hoạch của tôi đã được Hoang Thái Hậu thông qua rồi”

“Thông qua rồi thì sao? Sai thì nên sửa!” Lã Công Trứ liếc Đỗ Văn Hạo, “Chiều hôm qua Hoàng Thái Hậu triệu kiến dặn dò tôi nên nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh của đại tướng quân, còn bảo tôi chịu khó lắng nghe ý kiến của phó soái Khúc Trân, nói kế hoạch ông ấy phản đối tôi không được thực hiện. Lão lúc đó đã nói với Hoàng Thái Hậu, có cái gọi là ‘tướng tại ngoại quân lệnh hữu sở bất thụ’, chiến trường biến hóa vô cùng, chiến thuật cũng phải thay đổi theo, chỉ có thể tùy cơ ứng biến! phó soái có thể nêu ý kiến, nhưng phải tuân theo lệnh của chủ soái! Nếu không chuyến xuất xhinh này không có cách nào đánh cả!”

“Vậy ông muốn như thế nào?”

“Là đô bộ thử, lão cầu xin tướng quân cho phép lão có quyền tự quyết kế hoạch tác chiến!”

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 426: Không rét mà run.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

“Tuyệt đối không được!” Đỗ Văn Hạo rũ hai tay áo, hằn giọng nói, “ta lần này xuất chinh thảo phạt, là đại nguyên soái, ta không có quyền giao tính mạng của hơn 5 nghin binh sĩ cho ông làm loạn được! chiến thuật chậm chắc được hội nghị tể chấp quyết định, được Thái Hoàng Thái Hậu ngự chuẩn, toàn quân phải phục tùng! Tuyệt đối không được thay đổi! ta nói lời khó nghe trước, nếu ai vi phạm, đến lúc đó đừng trách ta không nể mặt làm theo quân pháp!”

Triều Tống coi trọng “tướng tòng trung ngự”, kế hoạch tác chiến trọng đại sau khi được hội nghị tể chấp xem xét, trình lên Hoàng Thượng chuẩn tấu, rồi giao cho chủ soái quán triệt làm theo. Đây là thông lệ, chuyện Lã Công Trứ muốn đứng lên tự mình quyết định kế hoạch tác chiến, rõ ràng là không khả thi, vì vậy, hắn dù có tức đến đâu cũng không dám đấu tranh đến cùng.

Đỗ Văn Hạo thấy hắn không ho he gì nữa cũng kiềm chế tức giận lại, ôn tồn nói: “Lúc nãy tôi đã giải thích rõ kế hoạch tác chiến rồi, đây chỉ là suy nghĩ, chúng ta ra chiến tuyến, phải căn cứ vào tình hình thực tế mà hành động. Nhưng bất kì thay đổi chiến thuật nào cũng phải xoay quanh chiến thuật này, tuyệt đối không được chia nhỏ mạo hiểm tấn công, cũng không cho phép truy đuổi địch. Kẻ vi phạm, dù có công vẫn bị xử theo quân pháp! Đây là kỉ luật thép! Các doanh các quân chỉ huy sứ phạm phải điều này, bản tướng sẽ dùng bảo kiểm do Hoàng Thái Hậu ban cho để xử trảm! Quân lệnh như sơn, kính mong 3 vị hiểu cho!”

Khúc Trân và Lý Hiến đều cúi người tuân mệnh, chỉ có Lã Công Trứ không có phản ứng gì, vẫn ngồi đó có vẻ ấm ức.

Đỗ Văn Hạo đã nói rất rõ ràng, thấy ông ta như vậy cũng yên tâm phần nào, bèn nói với Khúc Trân: “Khúc tướng quân, Thái Hoàng Thái Hậu đã giao cho ngài quyền phản đối kế hoạch tác chiến, nếu ngài thấy có gì không ổn, phải kiên quyết thực hiện nhiệm vụ của mình, báo để tôi sửa đổi. Không sợ đắc tội với tôi, ngài phải làm người tốt, đừng để hàng ngàn binh sĩ đổ máu vô nghĩa! Rõ chưa?”

“Mạt tướng tuân mệnh!” Khúc Trân cung kính chắp tay đáp.

Lã Công Trứ biết mấy câu đó là nhằm vào mình, mặt đanh lại không nói gì.

Đỗ Văn Hạo nhìn Lý Hiến nãy giờ im lặng: “Lý tướng quân, ngài có ý kiến gì không?”

Lý Hiến cười trừ nói: “Đây là quyết định của Tể chấp, Thái Hoàng Thái Hậu đã ngự chuẩn rồi, tôi dĩ nhiên phải tuân theo. Nhưng Lã đại nhân nói không phải không có lý, khi lâm trận, bất kì điều gì cũng có thể xảy ra, quá câu nệ kế hoạch tác chiến rất dễ bỏ lỡ thời cơ”

Đỗ Văn Hạo khoát tay nói: “Cho dù là thời cơ cũng tuyệt đối không nên tham công to mà mạo hiểm! nhất định phải quán triệt kế hoạch. Còn về binh lực cụ thể, khi địch đến sẽ ứng chiến thế nào, chúng ta có thể quyết định theo tình hình. Tôi chỉ có 1 yêu cầu, có thể đợi quân địch tiến sâu vào mới đánh, nhưng chúng ta tuyệt đối không thể tấn công đột ngột! Tốc độ tiến thoái của chiến trại phải phù hợp, phải cẩn trọng, không được hỗn loạn! đó chính là tinh thần chính của chiến thuật này! Ngài là giám quân, cũng phải có trách nhiệm giám sát việc thực hiện chiến thuật”

Lý Hiến cười khan, chắp tay đáp: “Tại hạ đã rõ”

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Lần này đến Thiểm Tây có 5 vạn binh mã, nhớ, là sĩ sỗ thực, rất nhiều đội thiếu binh trầm trọng, nếu điều binh theo danh sách thì sẽ không có đủ 5 vạn người, như vậy sẽ không phát huy hết ưu thế về binh lực của quân ta”

Đỗ Văn Hạo nhìn Lã Công Trứ giờ vẫn đang tức tối, lạnh nhạt hỏi 1 câu: “Lã đại nhân, ông nghe rõ những gì bản quan vừa nói chưa?”

Đỗ Văn Hạo trong lần Tây chinh này là đại nguyên soái, lại là tể chấp, Lã Công Trứ phải phục tùng hắn, ông ta đành chắp tay đáp: “nghe rõ rồi ạ”

“Vậy thì tốt, mọi người lui về chuẩn bị để nhanh chóng xuất phát”

3 người lúc này mới cáo từ ra về.

Đợi 3 người đi khỏi, Đỗ Văn Hạo cũng về nhà, mang theo quà, hộ vệ đến Dương phủ bái kiến.

Cao Thao Thao ban cho hắn phủ chỗ ngay gần Dương phủ, phía bên kia là phủ tể tướng Vương Quế, Đỗ Văn Hạo đến cửa phủ đệ của mình trước, ngắm nhìn một chút, quả là rất hoành tráng, đúng là một trong 3 phủ đệ lớn nhất, và cũng là lớn nhất trong 3 phủ. Dù gì ban đầu cũng là định xây cho vương gia ở. Bên trong kiến trúc chính đã xong, chỉ còn trang trí và nội thất nữa là xong.

Đỗ Văn Hạo chưa kịp nhìn kĩ, thúc ngựa đến cửa Dương phủ.

Phủ đệ này tuy nhỏ hơn của hắn, nhưng vẫn là ngôi nhà lớn danh tiếng trong kinh thành.

Đỗ Văn Hạo đưa giấy xin bái kiến, rất nhanh, cửa phủ mở rộng, một ông lão tóc bạc phơ, đi cùng có hai người hầu đỡ đón ở cửa. Giới thiệu qua loa, Đỗ Văn Hạo mới biết đó là con trai trưởng của Dương Diêm Thiệu Dương Truyền Vĩnh.

Trước đó, để tránh gây chuyện cười vì những hư cấu qua điện ảnh sách bảo, Đỗ Văn Hạo đã tìm hiểu tình hình thực tế nhà họ Dương, được biết trong tiểu thuyết thì Dương Diêm Thiệu là con trai thứ 6 trong 7 người con trai của Dương Kế Nghiệp, trên thực tế lại là con cả. Sau khi Dương Kế Nghiệp chết trận đã được Hoàng Thượng truy phong Thái Úy, chức Thái Úy thời Tống là đứng đầu trong 60 bậc quan võ! Dương Truyền Vĩnh này là anh ruột của Dương Văn Quảng, là con trai cả trong nhà, kế tục huân vị của ông nội Dương Kế Nghiệp.

Đỗ Văn Hạo thân đứng đầu Tam Nha, đích thân đến phủ bái kiến, nên Dương Truyền Vĩnh ra đón.

Dương Truyền Vĩnh đưa Đỗ Văn Hạo vào chính đường, ngồi theo địa vị chủ khách, sau vài câu xã giao thông thường, Đỗ Văn Hạo nói: “Dương Thái Úy có lẽ đã nghe qua, Thái Hoàng Thái Hậu hạ chỉ tôi nhậm chức chiêu thảo sứ Tây chinh Tây Hạ, nhưng tôi cầm binh chưa lâu, thực sự có phần lo lắng. Lo phụ hoàng ân, tôi tự nhỏ đã được nghe về những tấm gương của Dương gia, trong lòng cảm thấy vô cùng ngưỡng mộ, nay mạo muội đến đây, xin Thái Úy chỉ giáo cho về đạo cầm quân, để tỏ thành ý, xin Thái Úy nhận của tôi một lễ”

Dương Truyền Vĩnh run run đứng dậy đáp lễ: “Không dám, đại tướng quân quá khen rồi”. Sau khi ngồi xuống, vuốt vuốt bộ râu trắng muốt trầm ngâm một lúc rồi nói: “Không dám giấu ngài, lão tuy người nhà họ Dương, thừa kế huân vị, nhưng từ nhỏ từ thích thơ từ ca phú, không biết chút gì về binh nghiệp, đều là do vợ chồng Văn Quảng cả. Tuy đại tướng quân đã không ngịa ngần hỏi, tiếc là tam đệ sớm đã qua đời, nhưng em dâu thì vẫn còn sống, để lão sia người mời bà ấy tới đây. Bà ấy theo Văn Quảng chinh chiến nhiều năm, hiểu rất rõ về binh nghiệp.”

Đỗ Văn Hạo đáp: “Như vậy thì còn gì bằng!”

Dương Truyền Vĩnh dặn dò quản gia, không lâu sau trở lại cùng với một phụ nữ trung niên, đầu tóc búi gọn, ăn mặc tao nhã, gương mặt thanh thoát, mắt sáng ngời. người phụ nữ đó tiền đến gần hành lễ: “Thiếp Mộ Dung Quế Anh, xin bái kiến đại tướng quân!”

Đỗ Văn Hạo kinh ngạc vui mừng thốt lên: “Mục Quế Anh? Phu nhân là Mục Quế Anh?”

Mục Quế Anh đáp: “Vâng, Mục Quế Anh là tên tự Hán, cho phu quân đặt cho thiếp, thiếp là người dân tộc Tiên Bi, họ kép Mộ Dung”

Mục Quế Anh trong Dương gia tướng là vợ của Dương Tông Bảo, nhưng trong lịch sử lại không có nhân vật này, chỉ là hư cấu, những chuyện liên quan đến Dương Tông Bảo kì thực là nói về Dương Văn Quảng và phu nhân của ông, sử cũ có ghi: “Dương Văn Quảng lấy Mộ Dung thị, thiện chiến”

Đỗ Văn Hạo mừng rỡ nói: “Quải soái Mục Quế Anh, thì ra phu nhân vẫn còn sống? Ôi, thất lễ, tôi vui quá nên nói sai, xin phu nhân thứ tội. Tại hạ nghe danh phu nhân đã lâu, nghe nói phu nhân rất thiện chiến, năm đó khi đang đánh trận đã bắt được phu quân phải không?”

Mục Quế Anh mỉm cười nói: “Tướng quân quả là biết nhiều mà nhớ lâu, đến cả chuyện đó cũng biết”

Mục Quế Anh là vọng tộc Tiên Bi, từ nhỏ đã luyện binh đao, được dnah sư chỉ dạy. Năm đó Dương Văn Quảng Tây chinh Tây Hạ, bộ lạc mà gia tộc Mục Quế Anh sinh sống lúc đó bị lệ thuộc Tây Hạ, cũng hiệp đồng chống lại quân Tống, lúc lâm trận gặp Dương Văn Quảng đã nảy sinh tình cảm, Mục Quế Anh bắt sống được Dương Văn Quảng, đã thổ lộ tại sơn trại, Mục Quế Anh đã dẫn bộ lạc quy thuận Dương Văn Quảng, về sau cùng với Dương Văn Quảng chinh chiến nhiều nơi, cho đến khi phu quân trọng bệnh qua đời.

Đỗ Văn Hạo nghe được chuyện này từ sách bình Dương gia, không ngờ có chuyện này thật, vội vàng chắp tay nói: “Có thể được phu nhân chỉ giáo là niềm vinh hạnh của tại hạ”

“Đại tướng quân khách khí rồi, tướng quân lãnh binh lấy ít thắng nhiều, đánh bại quân Thổ Phạn, vốn đã là người giỏi cầm quân rồi, nếu không làm gì có chiến công hiển hách như vậy. Thiếp còn phải học tập tướng quân nhiều”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu đáp: “Không giấu gì phu nhân, trận đó tại hạ dùng mưu hạ độc, để quân địch tiêu chảy mới giành được phần thắng đó”

Mục Quế Anh cười tán thưởng: “Biết mình biết ta, tránh được mũi nhọn, kế hạ độc, đây mới là bản lĩnh. Nếu quyết chiến tới cùng thì chắc gì đã có người kính phục”

“Nghe phu nhân nói vậy, tại hạ cũng có phần kính phục chính bản thân mình”

Nói rồi hai người ngồi xuống, Đỗ Văn Hạo hỏi về những chiến tích chinh phạt Tây Hạ năm xưa, đặc biệt là đặc điểm tác chiến của quân Tây Hạ.

Nói loanh quanh một hồi mới trở về mục địch chính Đỗ Văn Hạo đến bái kiến hôm nay: “Thái Hoàng Thái Hậu rất không bằng lòng với hiện trạng của quân ta hiện nay, hạ lệnh cho tại hạ chỉnh đốn, nhưng tại hạ chưa cầm quân lâu, không hiểu biết nhiều về quân đội. Quân Tống ta ồn tại quá nhiều vấn đề thâm căn cố đế, nhưng không biết ngọn nguồng thế nào. Vì vậy mới đến đây xin thỉnh giáo. Theo ý kiến phu nhân, quân ta hiện nay đang có những vấn đề gì? Nên giải quyết thế nào?”

Mục Quế Anh lại không khách khí nữa, suy nghĩ rồi mới nói: “Vấn đề của quân ta, thiếp và phu quân từng chính chiến nhiều năm, cũng có biết đến, nay tướng quân đã hỏi thì thiếp xin nêu ra một số chuyện sau”

Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: “Hạo mỗ xin rửa tai cung kính lắng nghe”

Mục Quế Anh thao thao bất tuyệt về kinh nghiệm của mình với phu quân về quân Tống trong chiến tranh, tất cả đều nói cho Đỗ Văn Hạo hết.

Thật đúng là nghe quân tử nói bằng mười năm đọc sách, Đỗ Văn Hạo sau khi nghe Mục Quế Anh nói xong đã thống suốt hơn rất nhiều. Mục Quế Anh không chỉ nói về những thiếu sót bên ngoài của quân tình, mà còn phân tích kĩ càng nguyên nhân nội tại, và nêu ra cả biện pháp chỉnh đốn.

Đến trưa, Dương gia bày tiệc khoản đãi, Đỗ Văn Hạo vẫn muốn xin chỉ giáo thêm một số vấn đề nữa, vào bàn tiệc rồi vẫn tiếp tục bàn luận với Mục Quế Anh.

Đỗ Văn Hạo kính rượu Mục Quế Anh: “Dương phu nhân, Hạo mỗ vẫn còn có chuyện nghĩ chưa ra, phu nhân liệu có thể lại khoác bào quải soái xuất chinh Tây Hạ không?”

Mục Quế Anh mặc nhiên lắc đầu: “Đa tại đại tướng quân tin tưởng, trước kia khi phu quân còn sống, thiếp theo phu quân chinh chiến là đủ rồi, bây giờ chỉ muốn sống một cuộc sống bình thường, xin tướng quân hiểu cho”

Đỗ Văn Hạo nghĩ cũng thấy đúng, lại nói: “Thương pháo Dương gia lợi hại vô cùng, không biết phu nhân có biết không? Có điều, phu nhân có thể bắt sống Dương gia tướng, công phu chắc hơn hẳn mọi người, đâu cần phải học thương pháp Dương gia”

“Dương gia thương pháp quả là có chỗ hơn người, phu quân đã truyền dạy hết thương pháp cho thiếp rồi”

“Vậy sao? Đáng tiếc, nếu tại hạ muốn học thưng pháp thì tốt rồi, tại hạ tuy thiếp thất võ công rất mạnh, nhưng binh đao công phu không ổn lắm. Tại hạ đang muốn tìm sư phụ về mảng này đây, còn sư phụ binh pháp nữa, tiện thì dạy binh pháp luôn, không biết Dương phu nhân có biết ai để tiến cử cho tại hạ không?”

Hắn rất hi vọng Mục Quế Anh nhận lời chỉ giáo binh pháp và công phu binh đao cho mình.

Mục Quế Anh mỉm cười đáp: “Đâu cần phải tìm đâu xa, trong nhà tướng quân có đó”

“Ai vậy?”

“Là thiếp yêu mà đại tướng quân vừa đón về, thiên kim của Vương tể tướng, mĩ nhân đệ nhất kinh thành Vương Nhuận Tuyết!”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Phu nhân nói đùa gì vậy, Nhuận Tuyết là khuê nữ, nếu nàng ấy viết thư pháp đẹp hay vẽ tranh thi tại hạ còn tin. Nhưng nói nàng ấy có công phu binh đao thì không tin nổi, chỉ sợ còn chưa từng học qua võ công”

Đỗ Văn Hạo nói chắc như đinh đóng cột, là vì hắn thấy nàng liễu yếu đào tơ như vậy thì múa thương sao được?

Mục Quế Anh cười nói: “Tướng quân nếu không tin thì về hỏi sẽ biết”

Đỗ Văn Hạo thấy Mục Quế Anh không giống như đang nói đùa, bán tín bán nghi hỏi: “Nếu thực sự biết công phu thì sao?”

“Có lẽ tướng quân không biết, hai nhà chúng tôi có mối thâm giao lâu năm, lúc còn nhỏ cô ấy thường đến phủ chúng tôi chơi, thấy trẻ con trong phủ múa thương luyện võ cũng đòi học theo. Ban đầu chỉ dạy cô ấy mấy chiêu để rèn luyện thân thể, ai ngờ cô ấy có tư chất, cái gì cũng chỉ nói đến lần thứ hai là đã lĩnh hội được rồi. có lẽ cô ấy giống thiếp hồi nhỏ, khiến thiếp nhớ đến tuổi thơ của mình, vì vậy hai người rất hợp nhau, tuy chưa bái sư, nhưng thiếp đã truyền lại cho cô ấy toàn bộ bản lĩnh của thiếp, cô ấy đã học hết, chỉ cần chịu khó luyện tập thôi”

Đỗ Văn Hạo vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nhìn Mục Quế Anh, thầm nghĩ Mục Quế Anh trông cũng mảnh mai yếu ớt, đâu có giống con nhà võ, ai mà biết đây là anh hùng danh tiếng lừng lẫy? đúng là không thể phán xét theo vẻ bề ngoài, thì ra nhị phu nhân tương lai của mình lại là một nữ tướng, hơn nữa còn là học trò của Mục Quế Anh, chuyến đi này quả không vô ích!

“Dương gia thương cũng truyền cho người ngoài sao?”

“Đương nhiên, thương pháp là để đánh giặc, phu quân trước kia cũng đã truyền dạy cho rất nhiều người, chỉ cần họ muốn học thì sẽ truyền thụ hết, không giấu giếm chút gì”

‘Thì ra là vậy! vậy binh pháp của Nhuận Tuyết thế nào?”

“Binh pháp thì khỏi nói, cô ấy tư chất thông minh, toàn bộ binh thư trong Dương phủ cô ấy đã thuộc lòng, thậm chí còn ghi nhớ cả những câu chuyện nhà binh mà chúng tôi hay bàn luận với nhau. Chỉ là cô ấy chưa từng chính thức ra trận, suy cho cùng cũng chỉ là lí thuyết, muốn biết thì chỉ có thực tế mới chứng minh được”

“Tốt quá rồi! sau này đi Tây chinh tôi nhất định sẽ mang theo cô ấy, để cô ấy trở thành một nữ anh hùng giống như phu nhân!”

“Tất nhiên!”

Sau khi tình cờ biết được chuyện này, Đỗ Văn Hạo mừng như mở cờ trong lòng, rời khỏi Dương phủ, hắn mượn rượu đến phủ tể tướng thăm phu nhân tương lai! Đến cửa lại dừng lại, chưa lên kiệu hao thì tân nương không được thấy mặt phu quân, hơn nữa giờ có nhiều chuyện gấp hơn phải giải quyết, Mục Quế Anh nói rất đúng, đợi lấy về rồi hỏi cũng được.

Hắn đến Duệ Tư cung của Hoàng Thượng, hỏi nội thị thì biết Hoàng Thượng đang ở Tư Thiện Đường.

Tư Thiện Đường là nơi Hoàng Thượng học tập, xem ra tiểu Hoàng đế rất chuyên cần, thậm chí còn không nghỉ trưa.

Đỗ Văn Hạo vui vẻ đến Tư Thiện Đường, vừa đến cửa thì một nội thị phụ trách hầu hạ đã lớn tiếng nói: “Ay da! Đỗ đại tướng quân đến! Có phải ngài đến thăm Hoàng Thượng lên lớp phải không ạ? Hoàng Thượng đang ở bên trong đó ạ!”

Đỗ Văn Hạo trợn mắt nói: “Ngươi gào cái gì? Lỗ tai ta sắp bị người làm cho điếc rồi đấy!” nói rồi xông thẳng vào, qua Thiên Tỉnh, đến phòng lớn hướng chính Bắc.

Cửa lớn đang đóng, Đỗ Văn Hạo giật cửa ra, thấy 4 đứa trẻ trong phòng mỗi đứa một quyển sách, tập trung xem, thầy dạy Triệu đang ủ rũ ngồi đó, nhìn Đỗ Văn Hạo định nói lại thôi. Đỗ Văn Hạo tiến lại gần Tống Triết Tông hỏi: “Hoàng Thường, người đang xem sách gì vậy?”

“Luận Tướng!”

“”Hình như người cầm ngược sách rồi ạ!”

“Vậy sao? Hì hì” Tống Triết Tông nhìn Đỗ Văn Hạo cười trừ rồi quay sách lại, “Trẫm vừa xem xong <Trung Dung>, đang chuẩn bị xem <Luận ngữ> thì người đến, vì vậy cầm lộn … Ấy! sao lại ngược thế này? Trẫm lúc nãy đâu có cầm ngược!” Tống Triết Tông lại lật lại xem.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Hoàng Thượng, lúc nãy người đâu có đọc sách, đến sách cầm ngược hay không cũng không biết, thần chỉ muốn thử người thôi”

“Đỗ tiên sinh! Người dám trào lộng trẫm!?”

Đỗ Văn Hạo không để ý đến nó, đến gần thầy Triệu lúc này đang gà gật: “Hừ, lúc nãy ngươi không cầm ngược sách, nhưng mấy con dế dưới gầm bàn đang bò lên đó ”

“Hả” Thầy Triệu vứt vội quyển sách cúi xuống xem, nhưng đâu có gì

Đỗ Văn Hạo cười lớn nói: “Sau bữa trưa được nghỉ 1 giờ, đó là quy định, bây giờ chưa đến giờ học chiều, mầy người cứ chơi đi, ta cần thành tích học thật, chứ không phải trò giả tạo này, rõ chưa?”

Công công thở phào, vứt quyển sách trên tay xuống: “Đều là chủ ý của tiểu hoàng thượng!”

Tống Triết Tông xấu hổ nói: “Là trẫm sợ tiên sinh thấy trẫm chơi, nên bảo bọ họ đến”

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 427: Quân sự biến cách

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Đỗ Văn Hạo nói: “Các con còn nhỏ, đang là lúc còn ham chơi, lúc ta ở tuổi các con ta còn nghịch gấp mấy!”

“Thật sao? Vậy người thích chơi gì? Có phải chọi dế không?”

Đỗ Văn Hạo hồi nhỏ thích trò chơi điện tử cơ, lúc đó không thịnh hành đấu dế, lắn đầu nói: “Không, lúc nãy các con chọi dế đúng không?”

“Vâng ạ”

“Vậy mang ra chọi ta xem nào!”

“Vâng ạ!” Tống Triết Tông cúi xuống gầm bàn lấy hộp chọi dế ra đặt lên bàn, nhìn 3 đứa kia nói: “Nhanh lên!”

3 đứa lấy hộp dế ra đặt lên bàn, Tống Triết Tông bỏ dế vào hộp to trước, Triệu Nhân cũng bỏ vào, hai người lấy cọng cỏ ghẹo cho chúng đánh nhau. Chẳng bao lâu sau, hai con dế bắt đầu chọi.

Đấu được một lúc, con dế của hoàng thượng bị thua, chạy loạn trong chiếc hộp.

Triệu Nhân vui cười hở lợi, chỉ Tống Triết Tông nói: “Hoàng huynh, huynh thua rồi, mau trả tiền đi!”

Tống Triết Tông hậm hực rút tiền ra ấn vào tay Triệu Nhân: “Đây! Hừ! Để rồi xem, ván sau ta nhất định thắng!”

“Hi hi, huynh đã thua 3 ván liên tiếp rồi!”

Đỗ Văn Hạo hoảng, thì ra hoàng thượng dùng dế để đánh bạc với các huynh muội! Mỗi lần thắng thua là một xâu tiền vàng!

Hắn quay đầu nhìn thầy Triều Nhan Nhược, muốn hỏi ông ta tại sao không quản, chỉ thấy ông ta giở khóc giở cười nhìn mình, hắn liền biết ông ta không có cái gan đó.

Đỗ Văn Hạo đang định bảo bọn trẻ con thôi, thì chuyện xảy ra sau đó càng làm hắn ngạc nhiên.

Thấy Tống Triết Tông thò tay ra lấy con dế chiến bại ra khỏi hộp, rồi quay cho khuất mắt người khác rồi dẫm chết nó.

Và rồi trên đất chỉ còn xác con dễ tan nát!

Đỗ Văn Hạo còn kinh ngạc hơn cả lúc thấy hoàng thượng đánh bạc, mới nhỏ mà đã vậy thì lớn lên sẽ thế nào đây.

Tống Triết Tông hét lớn: “Lại! Trẫm nhất định sẽ thắng!” rồi thò tay ra bắt dế.

“Khoan!” Đỗ Văn Hạo cố gắng kiềm chế sự giận giữ, chậm rãi nói: “Hoàng Thượng, khi Thái Tổ đánh cờ với Trần Truyền lão tổ đánh cược Hoa Sơn, đã thua mất Hoa Sơn, bèn lập ra quy định con cháu về sau không được đánh bạc, hôm nay hoàng thượng lấy dế đánh bạc, chỉ sợ vị phạm quy định của tổ tiên thôi”

Tống Triết Tông châm chọc: “Chỉ là chơi cho vui thôi mà, không sao đâu”

“Hoàng Thượng, đừng coi thường những chuyện nhỏ! Hôm nay thua chọi dế, ngày sau sợ rằng sẽ mất cả giang sơn! Thần hi vọng haongf thượng tuân thủ quy định của tiên đế, không làm như thế này nữa. Nếu Thái Hoàng Thái Hậu mà biết thì sẽ không hay đâu ạ”

Đỗ Văn Hạo đưa Thái Hoàng Thái Hậu ra đã điểm trúng tử huyệt của Tống Triết Tông, Tống Triết Tông đành ngoan ngoãn bỏ con dế vào hộp: “Thôi, dù gì cũng không thú vị, không đánh thì không đánh!” nói rồi ngồi phịch xuống.

Đỗ Văn Hạo đến bên hoàng thượng, vỗ lưng nói: “lúc nãy, hoàng thượng dẫm nát con dế, chắc là muốn xả giận, nhưng hoàng thượng đã từng nghĩ, làm như thế có hợp với thân phận của mình không”

“Chuyện con dế này trẫm cũng sai sao?” Tống Triết Tông bất mãn hỏi Đỗ Văn Hạo.

“Hãy nhớ, khi Thái Hoàng Thái Hậu chọn người kế vị đã từng nói, hi vọng người về sau có thể noi gương tiên đế nhân trị thiên hạ, trở thành bậc minh quân, dùng cách này để đối phó với một sinh mạng nhỏ bé thì đâu phải là nhân nghĩa?”

Tông Triết Tông lại tròn mắt, cúi đầu nói: “Trẫm biết sai rồi, tiên sinh đừng kể với Thái Hoàng Thái Hậu nhé”

“Biết sai là có thể sửa, vi thần lại đâu phải là người hay xét nét lỗi nhỏ của người khác? Sắp đến giờ người phải học rồi”

Triệu Nhân lập tức vui vẻ gọi: “Tiên sinh, hôm nay hãy giảu thích tại sao cái đũa ở trong nước lại biến hình đi?”

Tiểu công chúa phản bác: “Không, hãy giải thích tại sao ngôi sao biết chớp mắt đi!”

Triệu Cổ cũng chen vào: “Không, dạy vẽ sao cho giống trước đi!”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: “Không, hôm nay dạy toán!”

Tống Triết Tông lập tức vỗ tay: “Đúng rồi, cái này hay, dạy cái này trước đi!”

Bây giờ thằng nhóc này là hoàng thượng, ai dám phản kháng quyết định của nó chứ, hơn nữa nó rất thích môn này.

Chiều hôm nay, Đỗ Văn Hạo dạy chúng cách viết chữ số Arap, và dùng những con số đó để biểu diễn số lượng và cả cách tính toán nữa.

Tống Triết Tông phát hiện ra phương pháp này hay và tiện hơn rất nhiều, vì vậy rất hứng thú, tự nhỏ nó đã tự ra đề toán cho mình, làm không biết chán, Triệu Nhân thì không nhanh nhẹn bằng, không nhớ nổi các chữ số Arap, luôn nhầm lẫn, chứ đừng nói đến việc vận dụng để làm toán. Niệm Niệm là người học chăm nhất, viết tuy chậm nhưng cẩn thận, chỉ có Triệu Cổ vận dụng linh hoạt nhất, cũng rất chăm chỉ nữa.

Dạy xong thì trời đã tối, Đỗ Văn Hạo quay về Ngũ Vị Đường.

Tiền Bất Thụ và Diêm Diệu đến bẩm Thái Y tình hình học tập nội dung mới của ngoại khoa, hỏi Đỗ Văn Hạo lúc nào có thời gian thì đến Thái y viện để truyền dạy, Đỗ Văn Hạo nói đợi qua đợt này mới biết, Đồng thời bảo Diêm Diệu chuẩn bị quân y cho quân đội.

Ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo lên kế hoạch bồi dưỡng quân y, bắt đầu truyền thụ kiến thức ngoại khoa kim sáng cho quân y toàn quốc. đương nhiên đầu tiên là Thiểm Tây rồi.

Hai ngày nay, các quân đô chỉ huy sứ ở Tam Nha theo sự bố trí của Đỗ Văn Hạo, viết lại toàn bộ những vấn đề mà họ cho là nghiêm trọng của quân đội hiện nay, rồi trình lên Đỗ Văn Hạo.

Sau khi xem xong những báo cáo này, hắn phát hiện ra đại bộ phận đều viết nhằm vào những vấn đền lặt vặt, chắc là sợ nói quá nhiều sẽ rước họa vào thân. May thay vẫn có một số ít vẫn dũng cảm nói ra sự thật, trong đó có những vẫn đề trầm kha đã tồn tại nhiều năm nay, Đỗ Văn Hạo đã nghe Mục Quế Anh nói. Cũng có một số vấn đề năm nay mới phát sinh, sau khi Mục Quế Anh rời quân ngũ, không tiếp xúc nên không biết. Và cách giải quyết họ nêu ra rất hữu ích, Đỗ Văn Hạo xem xong cảm thấy thông ra rất nhiều.

Mấy ngày sau, Đỗ Văn Hạo triệu tập mấy tướng quan trượng nghĩa nói thẳng lại, trực tiếp hỏi, đồng thời xác nhận một số chuyện trong quân đội, từng bước nắm chắc một số tình hình thực tế.

Thời gian này, sư gia Thẩm Thăng Bình căn cứ vào yêu cầu của Đỗ Văn Hạo mà thu thập chỉnh lí số liệu, cơ bản là đã xong, Đỗ Văn Hạo căn cứ vào số liệu điều ra gần đây mà tìm cách chẩn chỉnh trên quy mô lớn quân Tống.

Phó đô chỉ huy sứ Lý Phố đã hoàn thành nhiệm vụ đưa linh cữu Thái Hoàng Thái Hậu về Hoàng lăng và quay về kinh thành. Đỗ Văn Hạo triệu tập Lý Phổ và các tướng lĩnh cao cấp tâm phúc tham gia cuộc Tây chinh lần này, bàn về việc chấn chỉnh quân đội, mọi người nếu ý kiến đánh giá, rồi Đỗ Văn Hạo thu thập lại sửa đổi, cho đến khi nào mọi người thấy dược mới thôi.

Chiều hôm đó, Đỗ Văn Hạo đến tham kiến Thái Hoàng Thái Hậu tại tẩm cung Phúc Ninh, Cao Thao Thao đang chiếu lệ kiểm tra việc tu sửa hồ.

Mấy ngày nay, việc di dời đã hoàn thành, xưa việc thu hồi đất không giống bây giờ, đặc biệt là hoàng cung, đó là phục tùng vô điều kiện.

Việc di dời đã cơ bản hoàn tất, đang dỡ nhà, Cao Thao Thao và thượng thư, thị lang, và quan thiết kế đang bàn về bố cục công trình.

Theo chỉ dụ của Cao Thao Thao, Đỗ Văn Hạo vào tẩm cung không cần thông báo, nhưng khi biết Cao Thao Thao đang bận ngoài công trường, bèn cho người đi thông báo, Cao Thao Thao lập tức kết thúc hội nghị để mọi người về tiếp tục nghiên cứu phương án cải tạo.

Cao Thao Thao đi thẳng về tẩm cung, cho mọi người lui hết, rồi nhìn Đỗ Văn Hạo, xà vào lòng hắn, ôm hôn thắm thiết, Cao Thao Thao nói: “Sao rồi? có kế hoạch chấn chỉnh quân đội rồi sao?”

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói, lấy báo cáo ra đưa cho Cao Thao Thao: “Xong rồi, chia các vấn đề và phương pháp, nội dung có thể có chừng này”

Cao Thao Thao nhận lấy nhưng không mở ra xem, mỉm cười nói: “Ngươi nói cho ta nghe đi”

“Được thôi”

“Đợi đã, để ta bảo người làm vài món ngon, chúng ta uống rượu rồi nói, được không?”

“Được”

Cao Thao Thao bảo Tiêu công công xuống ngự thiện phòng làm cơm, rồi hâm nóng một bình rượu, hai người ngồi xuống uống rượu trước.

Đỗ Văn Hạo nói: “Sức chiến đấu của quân ta rất yếu, nguyên nhân rất phức tạp, chủ quan có, khách quan có, mỗi lần chiến bại đều có cá biệt mà cũng có điểm chung, để tiện cho nàng, ta đã chia ra làm 3 loại, từ trên xuống, nguyên nhân từ triều đình, từ quân quan, và binh sĩ”

“Cách phân loại mới quá, chính là 3 loại này sao?”

“Nói chung là có 3 loại, mỗi loại lại được chia nhỏ ra. Cụ thể nguyên nhân do triều đình thì lại được chia ra nguyên nhân di tư tưởng xây dừng quân đội, địa vị của quân đội và quân nhân, sự phân tán của binh quyền, lấy văn trị võ, coi nhẹ việc xây dựng kị binh, quân đội coi trọng kinh doanh chạy theo doanh lợi, … Thứ hai, nguyên nhân do quân quan lại được chia ra quân pháp lỏng lẻo, quân chính hủ bại, quân kỉ bại hoại, việc tuyển dụng ghi chép sĩ số của các cấp. Nguyên nhân do binh sĩ gồm có quá lạm dụng chiêu thức, luyện tập không thực hành, luyện tập hoang phí, …”

“Nhiều vấn đề đến thế sao?” Cao Thao Thao cười có vẻ miễn cưỡng, “Ngươi nói từng nguyên nhân ta nghe xem”

“Được, có điều, những phân tích này của ta đề cập đến những di quy, quốc sách, bình thuyết của tiên đế và tổ tông, vì vậy nàng phải cho phép ta mới dám nói”

Cao Thao Thao nghiêng người ôm cổ Đỗ Văn Hạo, hôn hắn ta: “Ta biết ngươi nói có cái lí của ngươi, cho dù ngươi nói gì, cho dù ngươi nói tục ta cũng tha tội cho”

“Cám ơn nàng!” Đỗ Văn Hạo đáp tạ.

Cao Thao Thao dí mắt vào hắn, đùa cợt: “Thực ra đâu cần cẩn thận như vậy, ta là người của ngươi mà, còn trách tội gì nữa chứ?”

Nghe vậy Đỗ Văn Hạo thấy yên tâm, ôm bà ta hồi lâu mới buông ra: “Có câu này của nàng, sua này ta không cần phải lo nữa, ta sẽ chuyên tâm phò tá nàng, trị vì thật tốt giang sơn này”

“Có ngươi giúp ta, ta cũng yên tâm lắm. Ngươi nói đi”

“Nói nguyên nhân thứ nhất trước. Tư tưởng kiến thiết quân đội của quân ta có vấn đề. Một là sương quân, đây là nơi tạp dịch, nguồn ngoài tù binh ra chủ yếu là những binh sĩ tuổi cao già yếu; mà nhiệm vụ của sương quân lại là xây thành đắp trì, chế tạo vũ khí, sửa đường, nhận nhiệm vụ vận chuyển, đào kênh rạch,…; từ đó có thể thấy, mục địch và nhiệm vụ của sương quân là tạp dịch, không trực tiếp tham gia chiến đấu, chỉ làm công tác phụ giúp, tuy gọi là quân nhưng lại không làm việc quân; thế nhưng sương quân quân phí lại cao hơn hẳn các bộ phận khác”

“Thật sao? Sương quân quân phí chiếm bao nhiêu?”

“Riêng cả năm ngoái, toàn quân quân phí là 5 vạn 5 mân (1 xâu tiền xưa), sương quân đã chiếm 1 nghìn 5 trăm vạn mân! Cũng tức là 1/3 quân phí lại không dùng vào xây dựng quân đội mà lại để nuôi sống mấy chục vạn sương quân dân công!”

Cao Thao Thao gật gù, sương quân đúng là nguồn nhũng quân, chuyện này bà ta đã từng nghe phu quân và con trai nhiều lần nhắc đến, Tống Thần Tông cũng từng chấn chính sương quân nhưng hiệu quả không cao. Không chỉ lo lắng, bèn hỏi: “Họa tự sương quân, người không cần nói nhiều ta cũng biết, chỉ cần nói người chuẩn bị giải quyết vấn đề này như thế nào thôi?”

“Đây là vấn đề nan giải, nếu động chạm quá nhiều thì sẽ thất bại, sẽ dẫn đến sự phản đối rất ghê gớm, vì vậy phải có kế hoạch cụ thể từng bước một, dùng cách nước ấm hầm ếch xanh”

“Nước ấm hầm ếch xanh?”

“Đúng, nếu bỏ con ếch vào nước nóng nó sẽ nhảy tanh tách, nhưng nếu bỏ vào nước lạnh rồi nâng dần nhiệt độ, cho đến khi nó bị nấu chín, nó cũng sẽ không nhảy ra ngoài”

Cao Thao Thao nói: “Ta hiểu rồi, đó gọi là tuần tự dần dần”

“Chính xác! Quân số sương quân rất lớn, phải cắt giảm thay đổi dần dần, không thể sửa ngay một lúc được”

“Ngươi nói cụ thể hơn xem”

“Đầu tiên cần chỉnh lại biên chế, việc này không khó, sương quân ban đầu chỉ có hơn 50 vạn quân, cắt giảm đến bây giờ có 22 vạn, rồi phân hiệu từ 280 xuống 120, cả quân đội không hề có bất kì phản ứng gì, chúng ta có thể tiếp tục lộ trình cắt giảm đó của tiên đế. Trước ngăn ngừa cửa vào, về sau, vĩnh viễn xóa bỏ chế độ sương quân. Chặn ngay từ đầu, sau đó cắt giảm theo lộ trình đề ra, mỗi năm cắt 3 vạn, trong 7 năm có thể cắt giảm hoàn toàn!”

“Vậy cắt giảm những ai?”

“Sương quân cao niên, bệnh, tàn phế, được triều đình nhận dưỡng lão; binh sĩ ki thuật được lựa chọn giữ lại, còn các sương quân khác, sẽ cắt giảm theo tuổi tác và chính sách”

Cao Thao Thao thấy hơi choáng: “Là ý gì vậy?”

“Sương quân trên 60, bệnh trọng, hay bị thương mất sức lao động, sẽ nhận trợ cấp theo tháng tiếp cho đến cuối đời. Số sương quân này không nhiều lắm, quốc khố chi tiền dưỡng lão họ, vừa thể hiện nhân chính, vừa là khẩu hiệu tốt để cắt giảm”

“Rất hay, ta hoàn toàn đồng ý, ngươi nói tiếp xem”

Vậy là mục đầu tiên đã có sự ủng hộ của Cao Thao Thao, điều này khiến Đỗ Văn Hạo có thêm niềm tin, nói: “Đối với các sương quân kĩ thuật, chỉ cần còn trẻ đều có thể giữ lại, điều chỉnh lại binh sĩ trên công trường, hậu cần, và binh sĩ chuyên môn trên công trình. Ta tính rồi, binh sĩ kĩ thuật chiếm 3 phần quân số, tức 7 vạn, trong thời bình thế là đủ rồi. nhưng quản lí không nên giao cho các nha môn địa phương nữa, nếu không sẽ lại thành chân sai vặt cho họ”

Sương quân triều Tống có 2 lớp lãnh đạo, một là nha môn, hai là các soái thần như An vũ sứ hay kinh lược sứ, mà những người này hầu như là tri phủ kiêm nhiệm.

Cao Thao Thao nói: “Có lí, người cho là nên quản lí thế nào?”

“Hủy bỏ chế độ qua nhiều tầng lãnh đạo đi, tập trung quyền vào triều đình, khi có chiến tranh thì cần thống nhất việc điều phối các nhiệm vụ phụ trợ, thời bình, các sương quân có thể đến các công trình để kiếm tiền, nộp thuế là được, binh hậu cần có thể hồi dịch, sửa chữa quân dụng, nhưng chỉ có binh hậu cần thôi, còn binh tác chiến, nghiêm cấm bất kì hình thức kiếm tiền nào”

“Cái này có cần làm theo từng bước không?”

“Có, tất cả những gì ta đề cập đến, trừ trường hợp thân minh đặc biết đều làm theo từng bước, thí điểm cục bộ trước, rút kinh nghiệm, sau đó dần mở rộng, tạo thành phong trào trong xã hội”

“Vậy còn 6 phần còn lại làm thế nào?”

“6 phần còn lại là sương quân chuyển nghiệp, có thể giải quyết theo hai hướng, một là triều đình chi tiền 1 lần để nghỉ hẳn, sau đó muốn làm gì thì làm, hia là triều đình sẽ xắp xếp công việc cho”

“Chi tiền 1 lần? thế là sao?”

Đỗ Văn Hạo đáp: “ Đối với tướng lĩnh bậc 1, điều đến các nha mon làm việc, đãi ngộ không đổi, với cấp chỉ huy, tính theo năm phục dịch mà cung cấp tiền xuất ngũ, ngoài ra mỗi tháng nhận được 70% lương bổng cũ làm sinh hoạt phí, đối với cấp đô, cũng tính theo tuổi, nhưng không được hưởng đãi ngộ nhận lại lương bổng hàng tháng nữa”

“Ùm” Cao Thao Thao trầm ngâm một lúc rồi nói: “Ta thấy xử lí như vậy rất ổn thỏa, mà hi dụng không lớn lắm, mà lại khiến cho họ vừa lòng, đảm bảo được cuộc sống”

“Vậy còn sĩ binh sương quân?”

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 428: Địa vị của quân nhân

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Đỗ Văn Hạo nói: “Sĩ binh sương quân có thể cắt giảm theo nguyên tắc cắt giảm và chính sách, việc tính theo tuổi giống như quân quan, tính theo năm phục dịch. Về chính sách có thể có hai cách xử lí, một là mở nhiều tác phường, tiến hành sản xuất, có thể vào tác phường làm công nhân, tuy không có trợ cấp nhưng lại có lương. Số khác giải giáp về vườn, triều đình ban cho chính sách ưu đãi. Người đi khai hoang lập địa thì sẽ miễn thuế, hơn nữa triều đình có thể cho vay tiền để làm.”

“Vay?” Cao Thao Thao ngạc nhiên hỏi

“Ừ, giống như cho vay mạ vậy, do công ty cổ phần đứng ra, sau này chúng ta có thể mở ngân hàng để cho vay, nhưng đợi chế độ công ty ra đời đã”

“Được” Cao Thao Thao cũng không hỏi nhiều, tránh lan man công chuyện, tiếp tục câu hỏi vừa nãy: “Ta thấy kế hoạch của ngươi rất mới lạ mà lại hợp lí, nhưng ta muốn biết, công việc ban đầu của sương quân do ai phụ trách?”

“Cái này cần phải phân tích công việc của sương quân, lúc nãy đã nói rồi, tráng thành quân, kiều đạo quân có thể hợp nhất thành đội công trình. Mà trang phát quân trở thành quân hậu cần, với tác viện quân thì chuyển toàn bộ thành công nhân công trường”

“Binh công trường?”

“Chính là đại khí sở, ta chuyên thi sát đại khí sở, ta không bằng lòng với hiện trạng ở đó, nhất định phải thay đổi”

“Thay đổi thế nào?”

“Đầu tiên cần xây dựng lòng tôn trọng với nhân tài và tri thức, triều ta rất coi trọng bậc văn nhân mặc khách, nhưng lại coi nhẹ nhân tài kĩ thuật. Ta đã tận mắt chứng kiến một nhân tài kĩ thuật cao cấp bị đòn roi rât thảm hại. Người đó phát minh ra một loại cung nỏ gọi là “Thần tí cung”, có thể bắn xa hơn nhiều so với loại quân ta hiện đang sử dụng, nhẹ nhàng dễ di chuyển! nhưng vì tranh đấu phúc lợi cho một thờ rèn mà bị quan quân đánh cho rất thảm. Điều đó đã chứng minh sự thiếu tôn trọng vủa triều ta với họ”

“Ngươi nói đúng, nên trân trọng những nhân tài kĩ thuật, có cách gì hay không ngươi nói ta nghe đi”

Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: “Nên tập hợp những nhân tài kĩ thuật trong các lĩnh vực quân sự, kinh tế, và các ngành khác nữa lại, thành lập một sở nghiên cứu, độc lập với quân sở khí, trực thuộc triều đình quản lí. Những người này sẽ làm giàu cho giang sơn, nên có đãi ngộ tốt và đảm bảo an toàn, đồng thời phải có sự tôn vinh chí cao”

“Tốt, ta đồng ý, cái sở này, ngươi lo nhé, ta sẽ đề bạt”

Đỗ Văn Hạo giờ đã kiêm quá nhiều chức vụ rồi, nhưng chức vụ này không thể từ chối được, hắn gật đầu đồng ý: “Được, ta sẽ đảm nhận. Thầy dạy toán của hoàng thượng là Thẩm Khoát, do thất bại trong tác chiến Tây Hạ, nay đang ở địa phương vẻ bản đồ. Nghe đâu công việc đã tương đối. Con người này là kì tài, ta nghĩ nên điều người này về kinh thành, đảm nhiệm cục phán (phó sở trưởng) sở nghiên cứu khoa học”

“Không vấn đề gì, ngay ngày mai ta sẽ hạ chỉ triệu ông ta về kinh, cụ thể thế nào ngươi quyết”

“Ngoài ra cần nâng cao đãi ngộ với thợ rèn ở sở quân khí, công việc của họ nặng nhọc, nên giảm đi chút ít, và cho họ quyền tự do nhất định, cần phải quan tâm đến họ nhiều hơn thì họ mới có thể hết sức cống hiến cho đất nước được”

“Được, cứ làm vậy đi”, Cao Thao Thao nghĩ gì đó lại nói tiếp, “Ta chỉ lo người bên hậu cần lo vận chuyển quá ít, sợ không đủ người”

Sương quân sau khi cải biên, tuy chỉ còn khoảng 7 vạn người, nhưng lúc cao điểm quân số cũng chỉ là 10 vạn, vì vậy thế là đủ cho phục vụ quân dịch bình thường rồi. Nếu phát động chiến dịch quy mô lớn, khi không đủ có thể điều động dân phu, bách tính cũng có cơ hội kiếm thêm tiền. Đương nhiên khi có chiến tranh toàn diện, chỉ dựa vào đội quân chính quy thì không đủ, khi đó cần tổng động viên chiến tranh, số lương quân hậu cần cũng phải tăng theo nhu cầu, đó là ngoại lệ”

Cao Thao Thao cười nói: “Ý ta không phải như vậy, trước kia cá nha môn sai khiến sương quân quen rồi, một khi bị cắt giảm họ sẽ phản đối dữ lắm, cả các cấp quân quan nữa, điều này ngươi tính đến chưa?”

“Đương nhiên là đã từng nghĩ đến, ta và các chỉ huy sứ khi bàn đã tính cả rồi. Mọi người cho rằng khi cải cách nhất định sẽ động chạm đến quyền lợi của 1 số người, những lợi ích này là phi pháp, không nên có. Ví dụ, nha môn sử dụng sương quân, nhưng họ đâu có chi quân phí, sương quân do triều đình nuôi, họ dựa vào gì mà sai khiến? Còn các quan quân thì khỏi nói. Vì vậy về mặt lí luận, chúng ta làm vậy là đúng”

“Nói là vậy, nhưng … “

“Cái này không cần lo lắng, Thao Thao , theo như ta biết, khi tiên đế cắt giảm một nửa sĩ số sương quân, tuy có người phản đối nhưng so kiên quyết nên cuối cùng cũng hoàn thành việc giảm biên, chưa nói đến khi đó cắt giảm tiên đế không chi một hào nào. Lần này chúng ta đã tính đến các trở ngại, thực hiện chế độ tốt, chỉ còn phía nha môn thì bọn họ không có quyền phản đối. Ngoài ra chúng ta làm dần dần, các bước rõ ràng, sự phản đối sẽ bị phân tán, trở lực sẽ nhỏ đi rất nhiều, có thành công hay không chỉ còn phụ thuộc vào quyết tâm của chúng ta, đừng có nghĩ tởi nghĩ lui, như vậy rất dễ thất bại”

Cao Thao Thao bật cười, đánh hắn một cái: “Ngươi đang bảo ta nhu nhược không quyết đoán đúng không?”

Đỗ Văn Hạo nâng mặt Thái Hoàng Thái Hậu lên: “Thao Thao, nay nàng đang trên đỉnh cao của quyền lực, bách tính đang trông cậy vào nàng, dõi theo nàng, nàng muốn nước giàu binh mạnh thì phải dùng chính sách cứng rắn, nhớ, cường quyền là chân lí”

“Ừm, ta nghe ngươi!” Cao Thao Thao ôn hòa độ lượng, không giỏi mưu lược, nhưng lại bị bánh xe lịch sử đưa lên đỉnh cao quyền lực, ban đầu chỉ muốn đợi con trai lớn lên thì giao lại toàn bộ quyền lực, nhưng phẫn nộ khi Đỗ Văn Hạo liệt kê những chiến bại của quân Tống, để cho Đỗ Văn Hạo cải cách quâ đội. Đợi sau khi Đỗ Văn Hạo có được kế sách, bà ta cũng không biết có khả thi không, chỉ dựa vào cảm tính, tin Đỗ Văn Hạo “Chuyện gì cũng nghe Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nâng ly: “Nào! Vì một Thái Hoàng Thái Hậu sắt đá, cạn”

Cao Thao Thao cười nâng ly lên, học Đỗ Văn Hạo cạch một cái: “Được, cũng vì một đại tướng quân sắt đá”

“Vậy chúng ta không phải trở thành một đôi sắt đã sao?”

Cao Thao Thao hơi đỏ mặt, rồi hôn vào mặt hắn: “Mong đời đời kiếp kiếp được như ngày hôm nay!”

Hai người uống cạn ly rượu.

Đỗ Văn Hạo nói: “Ta nói tiếp, vấn đề thứ hai là địa vị của quân nhân và quân đội. Mọi người đều biết, địa vị quân nhân trong triều ta rất thấp, đối với võ tướng trong triều, trong 60 cấp bậc, cao nhất là Thái Úy cũng chỉ là quan Nhị phẩm, thấp hơn hai bậc so với quan văn. Hai vị quan cấp bậc khác nhau, khi gặp mắt, quan võ phải cung kính nhường nhịn hành lễ, họ đâu có can tâm? Điều đó đã tạo nên sự phân biệt giữa hai chức quan, như vậy làm sao mà xây dựng được quân đội vững mạnh?”

Cao Thao Thao nghĩ ngợi rồi nói: “Quan niệm của mọi người về quân nhân không tệ đến thế chứ?”

“Xấu hay không,nhìn đãi ngộ là biết liền, cấp bậc thấp hơn, còn đi lính thì bị đánh dấu, khắc phan hiều trên mặt, đương nhiên là để tránh đào ngũ, nhưng quy định này đã đặt binh sĩ vào tình trạng khó xử! Muốn biết, chỉ có nô tỳ và người trong phủ quan phạm tội mới bị khắc chữ, như vậy và binh sĩ như nhau? Trên thực tế, binh sĩ trong sương quân cũng tương đương với tộ phạm. Đi lính bảo vệ tổ quốc là một việc vinh quang, lại trở thành một nghề đáng xấu hổ. Chỉ điều này thôi đã đủ thấy địa vị của quân nhân rồi! Quân nhân là vị quốc gia, đổ máu mất mạng, mà địa vị thấp thế thì ai dám hi sinh cho giang sơn nữa? làm sao mà tuyển được binh sĩ tốt đây?”

Cao Thao Thao ngớ ra: “Trọng văn khinh võ, lấy ăn trị võ, hậu quả nghiêm trọng như vậy sao?”

“Đúng vậy, đây là sự đánh giá thấp đối với quân nhân, ảnh hưởng trực tiếp đến sức chiến đấu, mà cách nghĩ này đã dẫn đến sự không tín nhiệm đối với võ tướng, nghĩ đỉ mọi cách để cân bằng. biểu hiện rõ nhất ở chỗ, ‘quan văn cầm quân’, ‘phân quyền’, tướng tòng trung ngự’. việc này làm ảnh hưởng đến sức chiến đấu của quân ta”

“Ta đã biết tác hại của việc quan văn cầm quân, còn hai điểm sau?”

“Phân quyền là chia nhiều đội quân ra cho các tướng lĩnh quản lí, như vậy sẽ khó tạo phản, nhưng lại gây phân binh. Đáng nhẽ ra binh lực của ta hơn hẳn Đại Liễu và Tây Hạ, nhưng khi lâm trận lại chia làm nhiều ngả, làm giảm khả năng chiến thắng”

“Ta hiểu rồi, thế còn tướng òng trung ngự?”

“Bày mưu tính kế cách chiến trường nghìn dặm mà vẫn thắng chỉ là điều lí tưởng, thực tế không bao giờ làm được, chiến trường thiên biến vạn hóa, mà hoàng cung và chiến trường cách nhau quá xa, quan văn làm sao có thể dự đoán được tình hình, làm sao mà bày mưu tính kế? chỉ là khắc thuyền tìm kiếm, sao mà thắng được. Còn về quan văn cầm quân ra tiền tuyến, bọn họ đương nhiên hoan nghênh tướng tòng trung ngự, vì bọn họ vốn không hiểu việc quân, chấp hành theo mệnh lệnh của bề trên, bại trận bản thân cũng không bị trách tội, vì bản thân không trực tiếp chỉ huy. Không may thay, đa phần quan binh đều là vật hi sinh của kiểu cầm quân này”

Câu này của Đỗ Văn Hạo có phần khó nghe, làm cho Thái Hoàng Thái Hậu giật mình, bà ta cúi đầu nói: “Như vậy thì phải thay đổi, theo ngươi nên làm thế nào?”

“Thay đổi trên hai phương diện: 1 mặt nâng cao địa vị của quân đội và quân nhân, lập tức bỏ lệ thích tự, để nhân cách của quân nhân được coi trọng, nâng cấp bậc của quan võ để đạt tới sự cân bằng, quảng bá rộng rãi các chiến tích và sự hi sinh của quân nhân, xây dựng hình ảnh anh hùng, tuyên truyền tinh thần thượng võ và quan niệm tòng quân là vinh quang trong đời sống nhân dân, để quân nhân tình nguyện hi sinh cho giang sơn. Chỉ có sự tôn trọng của xã hội mới làm tăng sức chiến đấu cho quân đội”

“Nói hay lắm! Nên như vậy! Ta hoàn toàn đồng ý, quân nhân hi sinh tính mạng vì tổ quốc, cống hiến không nhỏ, không thể xem nhẹ! Còn mặt nữa?”

“Hủy bỏ chế độ tường tòng trung ngự và quan văn cầm quân, giao phó cho quan võ, đã nghi thì đừng dùng, mà đã dùng thi không nghi”

“Ồ, tướng tòng trung ngự còn dễ, nhưng quan văn cầm quân thì hơi khó. Vì đây là căn bệnh thâm căn cố đế của triều ta rồi”

Đỗ Văn Hạo nói: “Đúng vậy, việc này cần có thời gian, theo như ta thấy nên tăng quyền quyết đoán cho phó soái, không được phó soái chủ động tác chiến, cố gắng đừng để bại trận đã, thông qua đó khuyến khích chiến tích của các binh sĩ, công khai trừng phạt những văn thần bại chiến, để mọi người đều cảm thấy niềm vui của thắng trận, nhận định khả năng của võ tướng”

“Ta hoàn toàn đồng ý” nói đến đây thì Cao Thao Thao dừng lại: “Nhưng liệu có xảy ra chuyện quân nhân Nam Bắc triều chuyên chính không?

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 429: Võ trang chính quy

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “Ta biết, chế độ trọng văn khinh võ của Thái tổ hoàng đế là vì lo sợ quân nhân chuyên quyền. Điều này là có nguyên do của nó, nên có cách để ngăn ngừa đảo chính, có điều có cần phải trọng văn khinh võ như vậy không? Nói cách khác đâu chỉ mỗi cách này đúng không?”

Cao Thao Thao xưa nay chỉ ở trong thâm cung, đâu có nghĩ được sâu sắc như vậy, bà ta hoang mang nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nói: “Theo như kinh nghiệm từ hơn 100 năm lịch sử gần đây, sách lược này dùng để phòng tránh quân nhân chuyên quyền, kết quả là hình thành quân phiệt cát cứ, nhưng, nếu cứ như vậy, lại làm giảm sức chiến đấu của quân đội, trận nào cũng bại là điều không thể chấp nhận được với 1 quốc gia! Thực ra, có rất nhiều cách để ngăn ngừa quân nhân chuyên cần và quân phiệt cát cứ, không cần phải dùng cách làm giảm sức chiến đấu này”

Cao Thao Thao vui ra mặt: “Có cách gì vậy?”

“Đơn giản nhất là tăng cường tập quyền trung ương, không thực hiện chế độ phân phong nữa”

“Nói cụ thể hơn đi!”

“Được, có thể có hai trường hợp sau, là thời chiến và thời bình, cách thức không giống nhau. Hoàng thượng lo nhất là tướng lĩnh tạo phản, thực ra hoàng thượng là thống soái cao nhất, binh mã thiên hạ đều là của hoàng thượng, binh phái đi cũng vậy, có gì mà phải lo lắng? Tướng soái muốn tạo phản, nhưng binh lính thì chưa chắc, vì vậy phải đặt niềm tin với tướng lĩnh xuất quân. Quân đội xuất chinh không được vượt quá 30% toàn quân số. Như vậy thống soái muốn mưu phản chỉ có 10% binh lực, trong khi hoàng thượng có 70% còn lại, thừa đủ để đàn áp phản loạn. Nếu cuộc chiến cần nhiều hơn số đó thì hoàng thượng đích thân xuất chinh, tự làm tổng chỉ huy, về mặt tư tướng có thể tạo cho thống soái sự tin tưởng, về mặt cách thức có thể ngừa tạo phản, lại có thể đảm bảo sự chỉ huy độc lập của thống soái”

“Ừm, vậy thời bình phòng thế nào?”

“Hiện toàn quốc đang đóng quân theo đơn vị, đây là nguy cơ chia nhỏ quân nhân lớn nhất, nên duy trì chế độ này. Thông qua thương nghị, mọi người cho rằng, lúc tác chiến thường tướng không biết binh, đó là bởi vì do quân quan trung hạ cấp bị luân chuyển quá thường xuyên. Không cần phải luân chuyển thường xuyên như vậy, phải có được sự ổn định tương đối, để quân quan nắm vững tình hình binh sĩ, binh sĩ cũng quen với sự chỉ huy của quân quan, như vậy mới có thể phát huy sức chiến đấu, còn đối với tướng lĩnh cấp 1, có thể thay đổi nhiều cũng được, đề phòng ngồi lâu ấm chỗ. Tuyệt đối không thể phân phong cho vị vương gia nào quản lí được, rất dễ sainh ra địa phương cát cứ”

“Được, ta biết rồi, người nói tiếp đi”

“Ừm, triều đình còn 1 vấn đề nữa trong xây dựng quân đội, đó là coi nhẹ kỵ binh và dung túng cho các binh sĩ ra ngoài làm ăn. Kị binh là đội quân phản ứng nhanh, chúng ta quá thua thiệt về mặt này so với Tây Hạ và Đại Liêu, ta đã nói rất kĩ khi nói về chiến sử cho nàng rồi, không cần nhắc lại nữa. Muốn xây dựng đội quân lớn mạnh, không có chiến mã không được. Do nước ta hiện không có khu chăn nuôi ngựa và loại ngựa nào tốt, nên chỉ ó một cách để có được chiến mã, đó là đoạt lấy từ Tây Hạ hoặc Đại Liêu, so ra, thì lấy từ bên Tây Hạ vẫn dễ hơn. Đó là một trong những nguyên nhân ta muốn nhanh chóng phát động chiến tranh với Tây Hạ!”

Cao Thao Thao nói: “Ta cũng thường nghe tiên đế than thở về chuyện chiến mã này, đây đúng là chuyện tốt”

“Chuyện quân lính đi làm ăn ta đã từng nói với nàng rồi, quân đội và nhà nước tuyệt đối không được kinh doanh, nếu không sẽ làm giảm sức mạnh nội bộ, ta không cần nói chắc nàng biết, chỉ nói cách giải quyết thôi”

“Đúng vậy, chuyện này làm tiên đế rất đâu đầu, ngươi nghĩ ra cách gì hay không?”

“Đối phí với quân nhân kinh thương, cần phải tốn rất nhiều công sức. Đầu tiên cần đảm bảo chi tiêu quân phí, như vậy mới không có lí do kinh thương; thứ hai, cần phải gia hạn để quân binh cắt đứt với kinh thương, phải có giám quân đi đốc thúc, đối với người không chấp hành thì xử theo quân lệnh; thứ 3 phải nâng cao đãi ngộ với quân nhân, đặc biệt là với tướng quan; thứ 4 tăng cường đổi quân doanh để bọn họ không chuồn ra ngoài kinh thương được nữa, đâu tiên là nơi tệ hồi dịch diễn ra trầm trọng nhất, rồi từng bước làm với các nơi khác. Tóm lại về chế độ cần đảm bảo quân nhân không làm 4 việc: ‘bất tất vi, bất nguyện vi,bất năng vi và bất cản vi’, thì có thể triệt để dập tắt việc kinh thương. Đương nhiên việc này cần thời gian, quan trọng là sự kiên quyết của nàng”

“Được, ta nghe ngươi, ta nhất định kiên quyết chấn chỉnh chuyện này” Cao Thao Thao nắm chắt tay lại như muốn nắm nát mấy binh sĩ kinh thương kia.

Đỗ Văn Hạo nói: “Phương diện thứ hai và thứ 3 cũng là những tồn tại trong quân pháp, quân chính, quân kỉ, và việc ghi chép theo dõi sĩ số; cùng với vấn đền liên quan đến tuyển chọn và quản lí binh lính như lạm dụng chiêu thức, luyện tâp không chăm chỉ, luyện tập làm vì,… Chuyện này không phải ngày một ngày hia là giải quyết được, ta đã có cách, ta đã viết rất cụ thể rồi, nàng cứ từ từ xem”

“Người ta vẫn nói giang sơn dễ đổi bản tánh khó dời mà, việc này sẽ rất mất thời gian, ngươi hẳn bận rộn lắm”

“Việc nên làm mà, đúng rồi, nói đến ta mới nhớ có chuyện mới tham khảo ý của nàng, nàng xem được không”

“Nói đi”

“Ta muốn thành lập một đội quân hoàn toàn mới, do ta trực tiếp thống lĩnh điều động, được trang bị vũ khí mới nhất, luyện tập theo chỉ đạo của ta, quân số 5 nghìn người, chia làm hai quân, nhiệm vụ chủ yếu là đi trinh sát tình hình quân địch và phá hoại chiến lược hậu địch, đồng thời giải cứu con tin cho triều đình, xử lý những vấn đề phát sinh đột ngột. ngoài ra ta còn muốn thành lập một tổ chức chuyên bảo vệ an toàn quốc gia, cũng do ta thống lĩnh, nhiệm vụ gồm đối ngoại, đào tạo gián điệp, ám sát, phá hoại, trinh thám ngầm xử mưu phản. Những vụ án do họ thẩm tra độc lập với bộ Hình, các bộ viện đều không được hỏi đến. Đây là lực lượng võ trang chính quy của riêng hai chúng ta”

Đỗ Văn Hạo thiết nghĩ, đội quân này sẽ tương tự như cẩm y vệ thời Minh vậy.

Cao Thao Thao vẫn chưa hiểu lắm, nhưng Đỗ Văn Hạo muốn thành lập thì nàng cũng không phản đối, đặc biệt khi Đỗ Văn Hạo cường điệu đoạn ‘lực lượng vũ trang của riêng hai chúng ta’, cảm giác thân thiết này làm nàng rất vui, liền đáp: “Được, cần làm gì, người cứ nói để ta hạ chỉ”

Đỗ Văn Hạo rất vui mừng, trong tay đã có hai tấm bài chốt, hắn yên tâm hơn nhiều, ôm chặt lấy Cao Thao Thao.

Cao Thao Thao nói: “Nãy giờ ngươi nói nhiều vậy ta không nhớ đươc, ta nên làm gì trước, làm gì sau?”

Đỗ Văn Hạo chỉ vào tập báo cáo nói: “Ta viết hết trong này rồi, nàng chỉ cần hạ chỉ lần lượt như trong này là được”

“Thật sao, chỉ là ta lười không muốn nghĩ nhiều, cũng không thích tốn thời gian xem, ngươi nghĩ, ta làm. Ha ha, ngươi hãy nói cho ta công việc cần triểu khia đi, kẻo cái đầu của ta to lên mất”

“Tuân lệnh, con mèo lười của ta” Đỗ Văn Hạo mở báo cáo, giảng giải lại một hồi, hai người sau khi thương ghị không thấy vấn đề gì nữa, bèn quay ra ăn uống, qua trưa, Cao Thao Thao chuẩn bị nghỉ trưa, Đỗ Văn Hạo mới từ biệt ra về.

Đỗ Văn Hạo không cưỡi ngựa trong cung, có việc gấp thì ngồi kiệu, giờ đang rảnh nên hắn quyết định đi bộ, tiện thì suy nghĩ chút chuyện, xem mình lúc nãy nói có gì sai không, rồi việc thành lập các đội quân, dùng ai, huấn luyện như thế nào, sắp xếp gián điệp thế nào.

Hắn vừa đi vừa nghĩ, đột nhiên có người gọi lớn tên hắn: “Đại tướng quân”

Đỗ Văn Hạo quay đầu lại nhìn, thấy sau hòn non bộ có một thiếu nữ, chính là Du Cáp Nhi, liền cười đáp: “Thì ra là Du nương nương. Người ở đây làm gì vậy? Chơi trốn tìm sao?”

“Ta đang đợi ngươi”

“Đợi thần? có chuyện gì sao?”

“Không có chuyện gì thì không gặp ngươi được sao?” Du Cáp Nhi tiến lại gần, không có thị nữ, không biết định làm gì đây :D

Đỗ Văn Hạo mỉm cười: “Nương nương nói gì vậy, nương nương lúc nào cũng triệu tập được thần mà”

“Ấy, ta đâu dám, chưa nói ngươi là ân nhân cứu mạng ta, chỉ với thân phận ngươi bây giờ ai dám sai khiến ngươi nữa?”

“Thần làm gì có thân phận đó” Đỗ Văn Hạo nói, “nương nương hôm nay thật có hứng”

“Điều đó là tất nhiên, thoát chết thì phải biết quý trong sinh mạng hơn, lần trước nếu không có đại tướng quân, ta đã chết rồi, tưởng thật làm ta sợ hết hồn, giờ nghĩ lại vẫn thấy tim đập thình thịch!”

“Nương nương phúc lớn mạng lớn, gặp dữ hóa lành”

“Ngươi thật dẻo miệng! Đúng rồi, hôm nay ngươi rảnh không?”

“Dạ có, giữa trưa thế này thần có thể có việc gì cơ chứ, cứ cho là có chuyện thì phải giải quyết chuyện của nương nương trước mới đúng”

“Xem cái miệng của ngươi kìa, thảo nào Thái Hoàng Thái Hậu thích ngươi như vậy” Du Cáp Nhi cười lớn.

“Dạ, cũng đâu có cách khác, con người thần chỉ biết nói thật. Lâu ngày không gặp, nương nương ngày càng xinh đẹp”

“Ngươi thật viết nói chuyện, được rồi, trưa thế này không đứng phơi nắng nói chuyện phiếm nữa, ta và Đức Phi nương nương bày tiệc rượu, muốn mời người qua đó, không biết ngươi có nể mặt không?”

Đỗ Văn Hạo nghe đến Châu Đức Phi liền nhớ đến ngay vẻ mặt ngô ngố của vị nương nương này, dạo này bận việc công, không có thời gian đi thăm nương nương, giờ đúng là cơ hội tốt: “Nương nương thiết tiệc khoản đãi, dù thần đã rất no nhưng không dám chối từ. Uống một hai ly rượu chắc cũng tốt”

“Tốt lắm, vậy … mời”

Đỗ Văn Hạo theo chân Du Cáp Nhi đến tẩm cung của Châu Đức Phi, đến mới biết không chỉ hai người mà còn có cháu gái của Tô Đông Pha, Lâm Tiệp Hạo, còn có công chúa nước Tần nữa!

Đỗ Văn Hạo thấy Trưởng công chúa nước Tần lại nhớ đến lúc ở hồ băng, nghĩ đến đó mà đỏ mặt, thấy công chúa làm như không có chuyện gì, trộm nghĩ tiểu công chúa này thật điềm tĩnh.

Tô thị đứng dậy chào hỏi trước: “Đại tướng quân, ngài đã đến”

Đỗ Văn Hạo vội vàng đáp lễ. Châu Đức Phi cười gượng: “Đỗ Văn Hạo, ngồi đi. Hôm nay bọn họ muốn cám ơn ngươi đã cứu mạng, nói không chuốc say ngươi không cho ngươi về”

Đỗ Văn Hạo cười hi hi hỏi: “Nương nương dạo này khỏe không?”

“Vẫn ổn, hay ngươi bắt mạch cho ta xem, ta luôn cảm thấy bất an”

Đỗ Văn Hạo thấy nàng thần trí đã minh mẫn, ngẫm thấy thời gian quả là phương thuốc hữu hiệu nhất, Đức Phi đã dần dần hồi phục từ đau khổ tột cùng, vội vàng hỏi thăm sức khỏe bắt mạch, quả nhiên không còn gì đáng ngại, chỉ cần điều dưỡng một thời gian là ổn.

Đức Phi nghe vậy cũng yên lòng hơn.

Sau khi tất cả đã yên vị bên bàn tiệc, Du Cáp Nhi và Tô Thị kính Đỗ Văn Hạo một ly để tỏ lòng cám ơn.

Du Cáp Nhi nói: “Tướng quân cứu cái mạng nhỏ của ta, ta không có gì để báo đáp, đây là chuỗi ngọc hoàng thượng tặng cho ta, là cống phẩm, cái này tặng cho ngươi, để đáp tạ ơn cứu mạng”

Đỗ Văn Hạo khách khí vài câu, rồi nhận lấy, mở ra xem, quả là một báo vật , 1 hại ngọc to bằng quả trứng gà, phát ra ánh sáng dịu nhẹ, rất ưa nhìn.

Trong nhà Đỗ Văn Hạo giờ không thiếu vàng bạc châu báu, không còn thấy lạ lẫm với mấy thứ này nữa, thấy viên ngọc đẹp thì cảm ơn rồi bỏ vô túi.

Tô thị cũng mỉm cười nói: “Đại tướng quân, cái mạng ta là do ngươi cứu, nói thật, ngày đó ngươi dọa ta sợ phát khiếp, nếu không giờ ta đã là cô hồn rồi, cho đến bây giờ ta vẫn mơ thấy ác mộng, càng cảm thấy cảm kích với ân đức của đại tướng quân. Ta cũng không có gì đáng tiền, chỉ có vật này” nói rồi đưa cho Đỗ Văn Hạo một chiếc quạt màu đen tuyền.

Đỗ Văn Hạo vội cảm tạ, nhận lấy nhìn một cái, trên quạt có thêu hình một mĩ nữ mang vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, thấy quen quen, hóa ra là tân nương mới của mình!

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Cái này…. Cái này ai thêu vậy?”

“Là ta, thêu không đẹp lắm, để tướng quân chê cười rồi”

“Đẹp lắm! Cô gái này có phải thiên kim của Vương tể tướng không?”

“Đúng vậy, ta và cô ấy là bạn thân, nghe tin hai người đính hôn, sắp thành thân rồi, ta bèn thêu hình cô ấy để tặng ngươi, biết đâu ngươi lại thích”

“Thần thích lắm!”

Tô thị thấy vậy, trong lòng cũng vui lây, lại nói: “Đại tướng quân, chiếc quạt này vốn cũng là một bảo bối, là tiên đế tặng ta, ta bóc lớp vải đi thay bằng lớp khác rồi thêu lên”

Tô thị ấn cán chiếc quạt rồi mở ra, rồi quạt phe phẩy trước mặt Đỗ Văn Hạo, hắn lập tức ngửi thấy một hương thơm, giống như đang trong tiên cảnh vậy “Oa, thơm thật đấy, sao lúc nãy không có?”

Tô thị cười đáp: “Là của chiếc quạt này đây”, rồi quay ngược cán quạt lại, chỉ vào một cái lỗ nhỏ, “Bỏ phấn thơm vào đây, đóng lại, lúc dùng thì ấn cái nút này, hương thơm sẽ bay ra”

“Thật tinh xảo!” Đỗ Văn Hạo khen không ngớt lời, nếu thay bằng bột độc thì đúng là mộ thứ ám khí tuyệt vời!

Đỗ Văn Hạo thử thao tác vài lần, rất thuận tay, lại hỏi: “Cái quạt này làm từ gì mà sao nặng vậy?”

“Huyền thiết ô kim!”

“Ồ? Cứng thật?’

“Đúng vậy, dùng búa chặt cũng không đứt”

“Đúng là bảo bối, lúc cần có thể làm gậy được đó, xin đa tạ!”

Đỗ Văn Hạo ngắm nghía rồi đặt chiếc quạt xuống, kính rượu hai cô gái “Không biết công chúa chuẩn bị gì cho tôi?”

“Ta đâu cần tặng gì ngài, ngài đâu có cứu ta” Vị công chúa nói rồi nghĩ lại chuyện trước kia được Đỗ Văn Hạo cứu, nhưng mọi người đều không biết chuyện này, bèn nâng ly lên: “Tuy ngài không cứu ta, nhưng ngài đối với ta rất tốt! nào, đại tướng quân, ta kính ngài một ly”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cười nói: “Đa tạ công chúa!”

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 430: Hôn trộm

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Đức Phi cũng nâng ly lên: “Hoàng Thượng nói đệ làm gia sư cho người, dạy người nhiều điều mới lạ, người rất vui. Còn nói đệ dám phê bình người, dám nói thật, người rất phục đệ, người cũng biết đệ cũng chỉ muốn tốt cho người, vì vậy rất cảm kích, chiều nay người phải học, không thể đến kính đệ được, ta thay người kính đệ một ly!”

Đỗ Văn Hạo vội đáp: “Đa tạ người đã tín nhiệm, đệ chỉ lo đệ quá nghiêm khắc thôi”

“Thầy nghiêm mới có trò giỏi mà, cần nghiêm thì phải nghiêm”

Lâm Tiệp Hạo mỉm cười nói: “Các vị đều uống rồi, ta không uống thì không hợp đàn, chúng ta cùng uống một ly!”

“Vậy cũng phải có lí do gì chứ?” Đỗ Văn Hạo nháy mắt nói

“Lí do …” Lâm Tiệp Hạo nghiêng đầu nghĩ, “Để chúc mừng ước mơ của ngài đã thành hiện thực”

“ Ước mơ thành hiện thực?”

“Đúng vậy, khi đặt tên cho ngài đã dùng hai tự “Vân Phàm” là dự đoán ngài sẽ tung hoành thiên hạ, bây giờ ngài đã là tể chấp, lại được Thái Hoàng Thái Hậu trọng dụng, vậy không phải ước mơ thành hiện thực sao?”

Đỗ Văn Hạo cười đáp: “Câu này rất đúng. Xem ra, ta có được ngày hôm nay phải cảm ơn nàng đặt tên cho, nào, chúng ta cạn một ly”

Tất cả đều tìm được lý do để chúc Đỗ Văn Hạo, đến ly này thì dường như đã hết lí do, nhìn những món ăn do họ bày ra, quả là rất hấp dẫn, uống đến mức thấy đầu ngà ngà, Tô thị và Lâm Tiệp Hạo đều đã say gục xuống bàn, Du Cáp Nhi và Đức phi cũng đã lơ mơ, nâng ly lượu lên cũng không đưa được vào miệng.

Thoáng cái mặt trời đã ngả bóng về Tây, Đỗ Văn Hạo đứng dậy cáo từ, loạng choạng vài bước, chân mềm nhũn, hắn ta ngã ra đất, không them đứng dậy nữa, ngủ luôn trên đất.

Không biết đã bao lâu, Đỗ Văn Hạo cuối cùng cũng tỉnh, thấy miệng đắng ngắt, từ từ mở mắt, thấy trong phòng tối đen, thấy ánh trăng chiếu rọi vào phòng mới phát hiện cũng đều nằm trên đất ngủ.

Trước khi uống rượu, Đức Phi đã dặn thị nữ không gọi không được vào, vì vậy trong phòng tối đen cũng không ai vào thắp đèn.

Đỗ Văn Hạo nghe thấy bên ngoài có tiếng mưa tí tách, không biết tự lúc nào, hắn lồm cồm bò dậy, thấy tay mình gò bó, ngó sang thì hóa ra Đức Phi ôm chặt tay mình đắt lên ngực không chịu buông ra.

Đỗ Văn Hạo vội vàng thu tay, nói: “Xin … xin lỗi!”

Đức Phi ậm ừ gì đó, quay người, ngủ đối mặt với hắn.

“Tỉ tỉ! không được ngủ trên đất, kẻo bị nhiễm lạnh bây giờ!” Đỗ Văn Hạo định dìu Đức Phi đứng dậy nhưng người nàng đã mềm oặt, không đứng dậy nổi.

Đỗ Văn Hạo còn không đứng vững, mất công lắm mới đỡ được Đức Phi dậy, nhờ ánh trăng gương mặt Đức Phi hiện ra trắng mịn như ngọc, Đỗ Văn Hạo mượn hứng rượu, hôn lên mặt nàng.

Đức Phi vẫn chưa tỉnh, vẫn ngủ mê man như trước, Đỗ Văn Hạo thấy môi nàng căng mọng, bèn hôn nhẹ lên môi nàng.

Đức Phi như nói gì đó, giống như sắp tỉnh, Đỗ Văn Hạo sợ quá, vội đặt nàng dựa vào ghế, rồi buông ra.

Hắn vừa ngồi thẳng dậy thì Đức Phi tỉnh lại: “Ôi, cái đầu của mình… Văn Hạo! Đệ vẫn chưa đi sao?”

“Đệ … đệ uống say, cũng vừa tỉnh, đang chuẩn bị đi. Nào! Đứng dậy thôi! Trên đất lạnh lắm!” Đỗ Văn Hạo đứng dậy, đỡ Đức Phi dậy, nàng đã tỉnh nên cũng từ từ ngồi được lên ghế.

Đức Phi dựa vào ghế, nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Đệ cũng ngồi đi!”

Đỗ Văn Hạo thấy thần sắc nàng như vậy nào dám làm, chỉ sợ ngồi xuống là có chuyện xảy ra thôi, bèn đáp: “Mọi người đều say rồi, đệ phải đi thôi!”

“Chúng ta đã uống đủ đâu, đi là đi thế nào?!” Đức Phi bám vào ghế, cúi xuống lay lay Du Cáp Nhi, Lâm Tiêp Hạo, Tô thị: “Dậy đi nào! Uống tiếp thôi”

3 cô gái say mèm, khong nhúc nhích gì, tiếp tục ngủ.

Đỗ Văn Hạo vội nói: “Không uống nữa, đệ say rồi, phải đi thôi, trời tối rồi, không đi sẽ không ra gì cả. tỉ tỉ, tiểu đệ cáo từ!”

Nói rồi hắn cầm lấy chiếc quạt và cái hộp được tặng rồi loạng choạng đi ra, dặn dò cung nữ vào hầu hạ 3 vị nương nương đang say khướt, sau đó đi ra khỏi cung.

Theo chỉ dụ của Thái Hoàng Thái Hậu, Đỗ Văn Hạo được tự do ra vào cung, thị vệ không có quyền ngăn cản, vì vậy ra khỏi tẩm cung, hắn chỉ có 1 mình men theo con đường đá nhỏ mà đi.

Đêm đầu hạ, những hạt cát nhỏ ở phương Bắc theo gió bay nhè nhẹ giữa các tán cây, cây cỏ e thẹn cúi đầu như có tâm sự gì vậy, những hạt sương đọng lại như những giọt nước mắt bi thương.

Hắn mò mẫm ra được đến cửa hoàng cung, trong bóng tối có một bóng người nhỏ nhắn đi tới, nhẹ nhàng nói: “Anh, có phải anh không?”

Đỗ Văn Hạo nghe giọng quen quen, định thần nhìn, háo ra là Hà Nghiêu: “Sao em lại đến đây?”

“Trời tối anh mai không về nên đâm lo, nghe hộ vệ nói là anh vẫn chưa ra, vì vậy em đợi ở đây”

“Ngốc ạ!” Đỗ Văn Hạo cẩm động, rảo bước hơn, thấy Hà Nghiêu ăn mặc mỏng manh, lộ rõ những nét đẹp của cơ thể, bèn nói: “Còn phải nói, cái này, em gái anh quả là tuyệt sắc, chỉ riêng tướng mạo, trừ Vương Nhuận Tuyết ra, em là người đẹp nhất”

Hà Nghiêu nghe vậy liền biết là anh đã say, vội dìu hắn đi ra.

Tim Hà Nghiêu đập loạn xạ, mặ nàng lúc này ép sát vào ngực Đỗ Văn Hạo, hơi ấm này thật giống với lòng cha mẹ cô, nàng ngẩng lên nhìn hắn, thấy hắn đang nhìn mình liền đỏ mặt, muốn nói gì đó nhưng sợ Đỗ Văn Hạo ngã, đành cắn răng đỡ hắn tiếp.

Đi thêm một đoạn thì thấy bọn Hứa Văn Cường chạy đến, định đỡ cho Hà Nghiêu thì nàng nói: “Không cần đâu, các anh mang ngựa lại đây!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Ta say thế này còn cưỡi ngựa gì nữa, muốn ta ngã chết à?”

Hà Nghiêu cười trừ: “Vậy chúng ta đi bộ một lúc, đợi anh tỉnh táo hơn thì cưỡi ngựa được không?”

Đỗ Văn Hạo chỉ ậm ừ.

Hà Nghiêu dìu Đỗ Văn Hạo đi chàm chậm, Hứa Văn Cường thấy tuy Đỗ Văn Hạo đã say nhưng bước đi xem ra còn vững, hiểu ngay là nhân dịp này gần gũi với ‘em gái’ tí, bèn đi xa xa lên trước.

Đỗ Văn Hạo và Hà Nghiêu đều im lặng lắng nghe tiếng mưa tí tách trên những đường đá.

Mưa mỗi lúc một to, Hà Nghiêu nói: “Anh, thế này không ổn, hay chúng ta lên xe ngựa đi?”

“Ừ!”

Cuộc sống về đêm dưới triều Tống khá nhộn nhịp, tuy trời đã tối, đường phố vẫn đông, bắt xe ngựa không khó gì, Hà Nghiêu dìu Đỗ Văn Hạo lên xe, Đỗ Văn Hạo quay người kéo Hà Nghiêu lên xe.

Hà Nghiêu nói địa chỉ, xem ngựa lăn bánh, bọn Hứa Văn Cường theo sát sau.

Trong xe ngựa rất tối, Đỗ Văn Hạo say ngồi không vững ngả nghiêng, thi thoảng lại dựa vào người Hà Nghiêu, nàng thấy tim mình đập thình thịch, thấy Đỗ Văn Hạo nắm tay mình không chịu buông, nàng ngồi không nói gì nghĩ linh tinh.

Đỗ Văn Hạo thấy chóng mặt, liền ôm chặt lấy eo Hà Nghiêu, nàng kêu a một tiếng: “Buồn quá!”

“Vậy sao?” Đỗ Văn Hạo lại thò tay cù nàng.

Hà Nghiêu cười ha ha không ngừng, rồi Đỗ Văn Hạo mò dần lên ngực nàng!

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Hà Nghiêu nói xem ta có phải là người anh tốt không?”

Hà Nghiêu nói, giọng hơi run run: “Không tốt!”

“Sao lại không tốt?”

“Tự anh cũng biết mà!”

Đỗ Văn Hạo nhìn theo ánh mắt của Hà Nghiêu, mới phát hiện ra, luống cuống nói: “Haizz, sao trong xe tối thế nhỉ?”

“Ừ!” Hà Nghiêu có phần thất vọng, quay mặt đi nhìn xa xăm, rồi nói với Đỗ Văn Hạo: “Cái này không phải trong tính toán của anh sao?”

Câu nói này như đổ thêm dầu vào lửa vậy, Đỗ Văn Hạo thấy óc mình lùng bùng, toàn thân nóng rực, khi nãy hôn trộm Đức Phi, giờ lại bị châm chọc rồi, hắn cúi đầu nhìn, nhưng đã nói chỉ coi Hà Nghiêu như em gái, nếu tiếp tục làm thì sau này nhìn mặt nhau thế nào đây?

Hắn đang do dự thì chiếc xe lắc mạnh, Hà Nghiêu ngã vào lòng hắn, môi nàng chạm đúng vào môi Đỗ Văn Hạo.

Hà Nghiêu đột nhiên thấy đầu óc trống rỗng, không còn suy nghĩ được nhiều, tâm trí bay theo cảm giác hết rồi.

Hà Nghiêu chỉ thấy có gì ấm ấm bao vây lấy mặt mình, vị rượu nhẹ nhẹ cũng khiến nàng hơi say say, nàng cũng không biết phải làm thế nào nữa.

Cùng với nụ hôn đó, tim đạp nhanh dần, hai tay bám lấy vai của đối phương, cảm giác tê tê đi khắp cơ thể, hắn say sưa cảm thụ, hắn biết đôi mắt hắn không dám mở ra.

Hồi lâu, phu xe nói vọng vào: “Thưa! Đến nơi rồi ạ!”

Hai người vội buông ra Hà Nghiêu cúi đầu tránh ánh mắt của Đỗ Văn Hạo, mặt đỏ ửng.

Chỉnh lại quần áo, nàng đỡ Đỗ Văn Hạo xuống xe, gọi mấy hộ vệ lại đỡ hắn.

Vào đến phủ, nàng cúi đầu rảo bước về phòng mình, từ cửa sổ không thấy bóng dáng Đỗ Văn Hạo nữa, nàng đứng một mình trong bóng tối, hai tay ôm mặt, trong đầu vẫn lởn vởn cảnh lúc nãy trên xe.

Lâm Thanh Đại đang dạo quanh vườn, thấy Đỗ Văn Hạo về, vội chạy đến, đỡ lấy Đỗ Văn Hạo từ tay Hứa Văn Cường, dìu hắn về phòng, thấy mùi rượu nồng nặc bèn châm chọc: “Sao thế? Lại chuốc say ai à?”

“Ha ha, ta đâu có say”

Anh Tử mang một cốc nước trắng ấm đến, đây là thứ Đỗ Văn Hạo cần khi say, Đỗ Văn Hạo uống ừng ực, “Thật thoải mái”

“Chàng ngủ sớm đi” chợt chiếc quát và viên ngọc trong chiếc hộp rơi ra, lăn xuống sàn nhà, rồi chui biến vào gầm giường.

Anh Tử vội àng cúi xuống tìm, rồi kêu lên: “Áng sáng gì vậy?”

Nàng ta đưa tay về phía có ánh sáng đó, quả nhiên là viên ngọc, lấy vội ra, đặt lên để xem kĩ, nhưng lạ không thấy có gì bất thường.

Lâm Thanh Đại thấy lạ hỏi: “Sao rồi? có bị sao không?”

“Không, lúc nãy em thấy viên ngọc phát sáng!”

“Ồ! Để ta xem”

Lâm Thnh Đại cầm lấy viên ngọc, cũng không thấy gì, Đỗ Văn Hạo thấy hai người nói chuyện bèn nói: “Đưa ta xem nào!”

Hắn xem xét, rồi đặt vào chiếc hộp, rồi trùm chăn lên xem, rồi kinh ngạc thốt lên, viên ngọc phát ra một thứ ánh sáng màu lam nhạt!

Đây là một viên dạ minh châu!

Anh Tử thấy vậy tò mò chui vào chăn xem, Đỗ Văn Hạo thò đầu ra nói với Lâm Thanh Đại: “Nàng cũng vào xem đi! Đúng là phát sáng thật!”

“Thôi khỏi cần, thiếp tin là nó phát sáng”

Đỗ Văn Hạo đưa viên ngọc cho Lâm Thanh Đại: “Nàng lấy tay che lại chắc cũng nhìn thấy!”

Không thắng nổi sự tò mò, nàng cầm lấy viên ngọc, quả là nhìn thấy ánh sáng xanh nhạt, nhưng ánh sáng của đèn mạnh quá nên không thấy rõ, Lâm Thanh Đại bèn thổi tắt nến đi, cả căn phòng đen ngòm

Cả 3 người lập tức nhìn thấy viên ngọc trên tay Lâm Thanh Đại, giống như chiếc đèn lồng có đầy đom đóm của trẻ con vậy.

Anh Tử vội đi gọi Bàng Vũ Cầm, Tuyết Lôi và Liên Nhi dậy để xem vật báu. Đỗ Văn Hạo bị vây lấy hỏi, chỉ nói là của nương nương trong cung cho. Với địa vị của hắn, báu vật gì chả có, không thấy kì lạ như bọn họ, hơn nưa là có hơi men nên càng không thiết gì, hắn không nhếch nổi mi mắt lên nữa. Liên Nhi tinh ý thấy vậy nói: “Lão gia mệt rồi, để lão gia nghỉ ngơi?

Bàng Vũ Cầm gật đầu nói: “Phải đấy!” rồi đặt viên ngọc vào trong hộp để lên đầu giường Đỗ Văn Hạo. Để các cô gái lui xuống, nàng ngồi xuống bên Đỗ Văn Hạo nói: “Tướng công, lúc chiều, phủ doãn Khai Phong Thái Kinh đến, muốn mời chàng đi chữa bệnh cho ái thiếp của ông ấy, nói là bệnh rất nặng. còn mang theo nhiều lễ vật, thiếp đã trả không nhận, nhưng ông ấy nói kiểu gì cũng phải mời chàng đi”

“Thái Kinh?” Đỗ Văn Hạo lẩm bẩm, nghĩ đây là đại giant hần 20 năm sau, bây giờ đến nhờ cậy mình, không thể đẻ lại mầm họa này, phải phế bỏ sớm đi, bèn nói: “Được rồi! mai ta đi xem thế nào!”

“Chàng đi thật sao? Theo thiếp thấy bệnh là giả, kết bè mới là thật”

“Thì cũng tốt mà” Đỗ Văn Hạo mơ màng rồi nhanh chóng thiếp đi.

Dù hôm sau vẫn còn đau đầu, nhưng hắn vẫn cố dậy đúng giờ để luyện kiếm với Thanh Đại.

Luyện xong, tắm rửa, ăn sáng. Đang ăn thì có báo, đại nhân Thái Kinh đến.

Đỗ Văn Hạo mở cửa mời khách vào chính đường, rồi lại chậm rãi ăn sáng, sau khi thưởng thức tách trà thơm, ra vẻ không có chuyện gì hỏi: “Hà Nghiêu đâu? Con bé này sao chưa dậy?”

“Không biết ạ! Có thể mệt chăng” Bàng Vũ Cầm đáp

“Vậy sao?” hắn thấy không yên tâm. Uống xong trà hắn mới thong thả đi ra chính đường.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 431: Sứ thần bí mật.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Lúc này Thái Kinh đang cung kính ngồi ở chỗ kia, mái tóc thưa thớt được buộc cao, hai mắt híp, mũi củ tỏi, môi mỏng mà miệng thì rộng, nhìn qua là có thể đoán ra hắn là một kẻ biết ăn nói, thận choàng trường sam màu xanh, ở trong là trường bào màu đen, chân đi một đuôi giày vải hình lưỡi liềm, bên ngoài giày sạch sẽ không dính chút bùn.

Chân phải phải Đỗ Văn Hạo mới bước vào cửa, Thái Kinh đã nghe được tiếng bước chân, trong nháy mắt nở nụ cười lấy lòng, khom người chắp tay về phía trước: "Ty chức là Thái Kinh tham kiến Đỗ tể chấp!"

Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, đi tới ghế chủ tọa ngồi xuống, ra hiệu cho đối phương ngồi, đợi cho tỳ nữ dâng trà lui ra, Thái Kinh mới hạ thấp người, nói: "Ty chức đã tới từ hôm qua, lại đúng lúc Đỗ đại nhân tiến cung, cho nên không thể gặp mặt, hôm nay cuối cùng có thể gặp được, quả thật là vô cùng may mắn".

Đỗ Văn Hạo cười nhẹ, tiểu tử ngươi không phải tìm ta xem bệnh sao, tại sao lúc gặp ta lại không nôn nóng nữa? Liền chậm rãi nói: "Nghe nói Thái đại nhân tìm bổn quan để xem bệnh?"

Thái Kinh vội vàng chắp tay nói: "Ty chức không dám, thực ra là tiện thiếp sắp trở dạ rồi, đột nhiên thân thể không được khỏe, đã tìm nhiều người xem qua, không ngờ bệnh càng lúc càng nặng, cho nên ty chức mới.... Ty chức hiểu rằng đại nhân công vụ bận rộn, vốn không nên làm phiền đại nhân, chỉ là... chỉ là tiện thiếp.. hu hu". Nói đến chỗ thương tâm, Thái Kinh không nhịn được mà nghẹn ngào bật khóc.

Đỗ Văn Hạo đưa mắt lạnh lùng nhìn Thái Kinh, nhưng điệu bộ lại có vẻ chăm chú, hắn cười thầm trong bụng, nhưng ngoài mặt vẫn không hề có chút biểu lộ gì, thở dài nói: "Đã là như thế, vậy không nên ngồi lâu nữa, đi thôi?"

Thái Kinh có lẽ không ngờ rằng Đỗ Văn Hạo lại sảng khoái như vậy, nhất thời không kịp phản ứng, thấy Đỗ Văn Hạo đã đi ra đại sảnh, lúc này mới lúc này mới vừa mừng vừa sợ đuổi theo.

Đỗ Văn Hạo phân phó hộ vệ đội trưởng Hứa Hoa Cường chuẩn bị ngựa. Rất nhanh ngựa đã được chuẩn bị xong, Hứa Hoa Cường nói: "Đại tướng quân, ngài còn mang ai đi cùng không?"

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một chút, tính toán xem có nên mang theo nữ quyến theo không, Bàng Vũ Cầm y thuật tốt nhất, Tuyết Phi Nhi không tập trung không nghiêm túc, Kha Nghiêu học y chăm chỉ, đầu óc linh hoạt, cần cù học hỏi, cũng không sợ mất mặt, hơn nữa trí nhớ cũng rất tốt, có thể cho nàng đi theo tôi luyện. Chỉ là chuyện tối ngày hôm qua khiến cho hắn có phần chột dạ, tính đi tính lại thì không thể nghĩ và cũng không nên nghĩ đến nữa. Con người sống là phải biết lúc nào đủ, không nên quá tham lam. Nhân tiện nói: "Bảo phu nhân theo ta là được rồi".

Phủ Doãn Ứng Thiên phủ Thái Kinh, tương đương với thị trưởng Bắc Kinh ở thời hiện đại, tuổi còn trẻ mà đã ngồi được lên vị trí này, có thể bổn sự của hắn cũng khá cao. Nhưng mà vào phủ đệ của Thái Kinh thì thấy hắn cũng không quá mức khoa trương, so với nhà cửa của những quan viên cùng cấp bậc với hắn trong kinh thành cũng không tính là quá tráng lệ. Quan sát tứ phía có thể thấy chủ nhân thiết kế ngôi nhà rất lịch sự tao nhã. Hành lang gấp khúc, tiểu kiều, lương đình, cổng vòm cùng một vài vị trí thông thường đều được điêu khắc tranh hoa điểu ngư trùng(hoa cỏ, chim chóc, cá, côn trùng), chạm trổ cũng thập phần tinh tế, trong nội viện hoa cỏ không nhiều lắm, nhưng đều là những loài hiếm có, xem ra chủ nhân thật sự là người tao nhã. Thái Kinh một đường dẫn Đỗ Văn Hạo cùng Bàng Vũ Cầm đi tới một cái cổng vòm ở giữa nội viện. Trong cổng vòm thì ra là còn có bốn tiểu viện, mỗi tiểu viện lớn nhỏ không đồng đều, đi đến trước một tiểu viện ở phía Đông, Thái Kinh vươn tay làm ra một tư thế mời, thấp giọng nói: "Đỗ tể chấp, Đỗ phu nhân, mời vào!"

Chỉ thấy ở cửa tiểu viện có hai tỳ nữ đang đứng, cúi người hành lễ, sau đó vội chạy đến trước một căn phòng, vén rèm cửa lên, nói lớn: "Thất phu nhân, lão gia đã trở lại".

Vào gian phòng, chỉ thấy trong phòng chỉ thấy hương khói luẩn quẩn, sau màn lụa mỏng có thể thấy được một nữ tử nằm nghiêng trên giường. Thấy có người đến, lúc này tỳ nữ mới cẩn thận đỡ nàng ta ngồi dậy, hai tỳ nữ vén màn lụa mỏng lên. Đỗ Văn Hạo trông thấy một cô gái có độ tuổi ước chừng tương đương với Kha Nghiêu, bụng nhô cao, xem ra mang thai đã được tám chín tháng rồi.

Thái Kinh vội giới thiệu, cô gái này là tiểu thiếp của Thái Kinh, tên là Lâm Hân. Nàng gượng dậy muốn bước xuống hành lễ, liền bị Bàng Vũ Cầm giữ lại: "Ngươi thân thể không khỏe, cứ ngồi xuống đi".

Lâm Hân hơi ngẩng đầu lên, chỉ thấy một thanh niên tuấn tú môi hồng răng trắng đang đứng ở trước mặt mình, bên cạnh còn có một nữ tử dung mạo xinh đẹp, nhất thời cảm thấy ngượng ngùng, lại cúi đầu xuống, từ từ ngồi xuống giường.

Bàng Vũ Cầm lấy từ trong hòm thuốc ra chiếc gối chẩn mạch đặt lên chiếc bàn bên cạnh giường, tỳ nữ đưa ghế đến, Đỗ Văn Hạo ngồi xuống, Lâm Hân đưa tay đặt trên gối chẩn mạch, cũng không dám ngẩng đầu nhìn lên.

Lúc này hai nữ tử mặc y phục xanh và vàng bước vào, trên đầu trâm thoa lấp lánh. Nữ tử mặc áo xanh trông thấy vợ chồng Đỗ Văn Hạo thì có phần kinh ngạc, không biết thì thầm bên tai nữ tử áo vàng điều gì đó. Hai người nhìn nhau cười trộm, nữ tử áo xanh cười khẽ, tiến đến cất lời: "Lão gia, nghe nói người mời Đỗ đại nhân tới đây?"

Thái Kinh vội vàng giới thiệu: "Đúng vậy, còn không nhanh tới làm lễ, Đỗ tể chấp, hai người này là tứ thiếp và lục thiếp của ty chức".

Hai vị phu nhân đi đến trước mặt Bàng Vũ Cầm chắp tay thi lễ, Bàng Vũ Cầm đứng dậy hoàn lễ, còn Đỗ Văn Hạo chỉ khẽ gật đầu.

Thái Kinh ra hiệu cho hai người tìm chỗ ngồi xuống không được quấy rầy Đỗ Văn Hạo xem bệnh, hai người liền ngồi xuống bên cạnh Thái Kinh.

Đỗ Văn Hạo hỏi Lâm Hân: "Thất phu nhân, cảm thấy không khỏe ở chỗ nào?"

Lâm Hân mệt mỏi dựa lên đệm tựa trên giường, ôn nhu nói: "Cũng đã khá lâu rồi, không biết tại sao đại tiện luôn không thể thông thuận, lúc đại tiện có cảm giác bụng trướng đau nhức, sau khi xảy ra thì đã mời những vị đại phu khác xem bệnh, uống thuốc xong chẳng những không thoải mới hơn, ngược lại càng nghiêm trọng. Đầu tiên trong miệng nhạt nhẽo không có mùi vị, tiếp theo đắng miệng, lại mời thái y trong cung xem qua, thì cho rằng là do nội hỏa quá dồi dào dẫn tới ứ đọng. Nhưng mà, thếp thân mang thai cho nên thái y không dám kê đơn, chỉ cho một bài thuốc giảm nhiệt, sau khi phục dụng cũng không có hiệu quả gì. Lại mời thái y khác, vẫn như vậy, lại không ai dám kê đơn. Sau đó có một vị đại y chỉ điểm rằng chứng này chỉ có Đỗ đại nhân có thể trị, cho nên lão gia lúc này mới mạo muội đi tới mời Đỗ đại nhân".

Cũng không thể trách, Thái Kinh tốt xấu gì cũng là phủ doãn phủ Khai Phong, cũng là chức quan tam phẩm, ở triều đình cũng được tính là nhân vật tai to mặt lớn, ở Thái Y viện đều là hạng người đa mưu túc trí, xem bệnh đều chú trọng nắm chắc hoàn toàn, chỉ cầu không xảy ra điều ngoài ý muốn, cùng lắm thì nói mình không có bổn sự sẽ không dẫn tới phiền toái. Đối mặt với một nữ nhân có thai mấy tháng, lại là ái thiếp của phủ doãn đại nhân, mặc dù biết phân tích khảo chứng căn bệnh không sai, nên dùng loại dược thông tiện, nhưng mà không sợ vạn nhất chỉ sợ nhất vạn. Chỉ còn cách để cho Đỗ Văn Hạo đến khám và chữa bệnh, chủ ý này rất tuyệt vời, thứ nhất là Đỗ Văn Hạo y thuật cao minh. Thứ hai là Đỗ Văn Hạo thân là tể chấp, cho dù khiến cho phủ doãn phu nhân sinh non, phủ doãn Thái Kinh cũng không dám trách móc.

Đỗ Văn Hạo sau khi hiểu được điều then chốt, bèn mỉm cười, quay đầu liếc nhìn Thái Kinh: "Bệnh này của tôn phu nhân quả thật là ứ đọng. Trong Kinh Vân có nói: Hữu cố vô vẫn(là chỉ phụ nữ trong thời kỳ mang thai nếu gặp phải bệnh nặng không dùng thuốc thì cả hai mẹ con đều chết), động thì sinh sản, nếu không thì ứ đọng, không chỉ khiến cho tôn phu nhân khổ sở, chỉ sợ còn tổn hại đến hài nhi trong bụng. Nhưng mà, lúc này thông tiện có nguy hiểm nhất định, ta cũng không hoàn toàn nắm chắc".

Thái Kinh vội vàng chắp tay thi lễ, vẻ mặt đau khổ, nói: "Tể chấp đại nhân cứ việc dùng thuốc".

"Hắc hắc, Thái đại nhân cũng không nên lo lắng quá mức, chỉ cần dùng thuốc cẩn thận, sẽ không có gì đáng ngại".

Đỗ Văn Hạo khai một phương Tiêu Trệ Đạo Khí hoàn cho Thái Kinh. Thái Kinh vội vàng sai người đi tìm phương bốc thuốc. Sau đó bảo hai vị phu nhân mời Bàng Vũ Cầm đến khuê phòng nói chuyện uống trà, bản thân hắn thì dẫn Đỗ Văn Hạo đi vào chính đường dâng trà nói chuyện.

Hai ngươi phân ra chủ khách ngồi xuống, Thái Kinh chắp tay nói: "Ty chức chúc mừng đại nhân thăng chức!"

"Ha ha, có cái gì mà chúc mừng chứ. Thăng quan thì càng bận rộn. Mệt chết người đi được".

"Như vậy cũng gọi là phiền toái sao, ha ha".

Đỗ Văn Hạo nói: "Bệnh này của tôn phu nhân cũng không khó trị, đừng nói là ta, cho dù là đồ đệ của ta Tiền Bất Thu. Cũng chỉ là việc cỏn con, thái y của Thái y viện cũng là quá cẩn thận rồi, thật ra đại nhân tùy tiện tìm một lang trung ở trong kinh thành cũng có thể trị khỏi bệnh này, thật ra tất cả cũng chỉ một chữ 'đảm'(can đảm), xem bệnh tốt, làm việc cũng được, nhưng nếu không có lá gan thì việc gì cũng không thành".

"Đúng đúng, đại nhân nói nói đúng. Hắc hắc".

Đỗ Văn Hạo nghe hắn thừa nhận bèn cười nhẹ, nói: "Thật ra bệnh của tôn phu nhân không cần phải tới mức tể chấp ta đích thân tới chẩn bệnh, mà là do đại nhân cố ý mời đến, còn tặng ta một số lễ trọng như vậy. Chắc hẳn đại nhân còn có dụng ý khác?"

Thái Kinh vỗ đùi, khen: "Tể chấp đại nhân thật sự là thông minh hơn người, ty chức đang cân nhắc mở miệng như thế nào, mà đã nhân đã nhìn ra trước, hắc hắc".

Trong nội tâm Đỗ Văn Hạo cười thầm, nhìn cái bộ dáng lén lén lút lút của ngươi, cho dù kẻ ngốc cũng có thể nhìn ra! Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Thái đại nhân có việc gì cứ việc nói ra".

"Vâng, là như vậy, việc này nếu nói với người ngoài thì nhất định sẽ cho rằng ty chức mưu tư lợi cấu kết với nước ngoài để phản bội triều đình. Nhưng trời đất chứng giám, ty chức một lòng nghĩ cho triều đình, dù là làm bất cứ điều gì thì cũng như vậy".

"Điều này là đương nhiên, đại nhân có chuyện gì cứ việc nói, ta biết đại nhân là người trung quân ái quốc. Hắc hắc".

Thái Kinh vội vàng đứng người lên, khom lưng nói: "Đa tạ tể chấp! Có những lời này của tể chấp, ty chức cũng có thêm lòng can đảm, giống như lời của đại nhân vừa nói: Muốn làm việc thành công, nhát định phải có lá gan".

"Ta xem lá gan của ngươi cũng đã khá lớn rồi, hắc hắc, có việc gì ngươi cứ nói thẳng ra".

"Vâng vâng!" Thái Kinh xoa xoa tay. Ngồi trở lại cái ghế, suy nghĩ một lúc sau đó mới chậm rãi nói: "Đại Tống ta cùng Tây Hạ liên tục chinh chiến, cả hai bên đều có thắng có thua , quân dân hai nước đều tổn hai rất lớn. Cho nên ty chức một mực suy nghĩ, nếu song phương có thế biến chiến tranh thành tơ lụa, đối với tất cả mọi người thì mới có lợi, đặc biệt là đối với dân chúng, họ mới có thể an cư lạc nghiệp".

Trong nội tâm Đỗ Văn Hạo oanh một tiếng, không thể tưởng được tên đại gian thần trong tương lai vậy mà lại bàn tới điều này, không biết trong bụng hắn tính toán điều gì, cứ nghe một chút rồi nói sau. Lập tức ung dung thản nhiên thong thả nâng chén trà lên, nhẹ nhàng thổi thổi , đưa lên miệng nhấp một miếng. Tuy hắn không thích uống trà, nhưng vẫn cảm nhận được mùi hương nhàn nhạt của trà. Thấm sâu tới tận đáy lòng, rất là dễ chịu.

Thái Kinh vừa nói vừa quan sát sắc mặt của Đỗ Văn Hạo, lại cẩn thận nói tiếp: "Khi mà ty chức nghĩ tới việc này thì vừa vặn rằng Tây Hạ cũng đang âu sầu vì chuyện này. Lần trước trận chiến ở thành Vĩnh Nhạc, tuy quân ta tổn thất hai mươi vạn người, bọn họ cũng không chiếm được ưu thế hơn bao nhiêu. Vũ khí ôn dịch của chúng ta tạo thành bệnh dịch lan tràn khắp Tây Hạ, làm chết hơn mười vạn quân dân, về sau may mắn có được nước thuốc trừ độc cùng mặt nạ phòng độc của Đại tướng quân, lúc này mới có thể khống chế được bệnh dịch. Tình hình trong nước của bọn họ vốn đã rất kém , trải qua một kiếp này thì nguyên khí đại thương, thật sự là không có cách nào tiếp tục chiến tranh, cho nên vẫn một mực tìm cơ hội hòa đàm cùng chúng ta".

Đỗ Văn Hạo cười lạnh nói: "Có thật vậy không? Chẳng lẽ Thái đại nhân chẳng lẽ không biết, trước đó vài ngày bọn họ còn phái binh tập kích Khánh Kinh Lược Tư, giết mấy ngàn dân ta ở vùng biên giới . Dường như không có ý muốn cùng chúng ta hòa đàm".

"Vâng vâng, ty chức cũng đã khiển trách bọn họ như vậy".

"A? Thì ra đại nhân đã tiếp xúc với người Tây Hạ rồi à? Không thể tưởng được đại nhân cùng nước địch lại có qua lại bí mật như vậy. Hắc hắc".

Thái Kinh sợ hãi kêu lên một tiếng, vội vàng đứng dậy chắp tay thi lễ: "Tể chấp đại nhân, ty chức cũng không dám thông đồng cùng địch quốc. Chỉ là, ty chức có một người họ hàng gọi là Thái Đầu. Tổ tiên sinh sống ở vùng biên giới lân cận Tây Hạ, trước khi Đại Tống ta cùng Tây Hạ chưa khai chiến, hắn một mực qua lại giữa Tây Hạ cùng Đại Tống. Ngay cả hoàng thất Tây Hạ cũng thường cùng hắn trao đổi những vật quý hiếm cho nên hắn quen biết với một ít người của hoàng thất Tây Hạ. Trước đó vài ngày, Thái Đầu dẫn theo hai người đến hàn xá, mới biết được rằng là mệnh lệnh của Huệ Tông Đế Tây Hạ, đến tới đàm phán hòa bình".

"Buồn cười, đã muốn hòa đàm, thì đáng ra phải phải sứ thần đến chứ, vì sao phải lén lút phái người cùng thân tích của ngươi đến? Chẳng lẻ lại có chuyện tình gì không thể gặp mặt người khác hay sao?"

Thái Kinh gượng cười hai tiếng, nói: "Tể chấp đại nhân có điều không biết, Huệ Tông Đế cùng Lương thái hậu của thường hay bất hòa, mặc dù Huệ Tông Đế đã sớm tự mình chấp chính nhưng Lương thái hậu vẫn nắm đại quyền trong tay, không để tập trung vào hoàng đế. Huệ Tông Đế tâm hướng về Đại Tống, phổ biến rộng rãi hủy bỏ Phiên lễ, đổi sang dùng Hán lễ, nhưng Lương thái hậu cản trở nên không thành. Huệ Tông Đế từng muốn đem Hà Nam dâng tặng muộn quay về nương tựa Đại Tống ta, cũng phái Đại tướng Lý Thanh chuẩn bị tới đây thương nghị cùng chúng ta. Lương thái hậu biết được, liền phát động chính biến, giết chết Lý Thanh, sau đó lại đem Huệ Tông Đế giam cầm, sau này mặc dù để cho hắn ngồi lại vị trí cũ nhưng cũng không đem thực quyền trả lại. Phái quân đội tập kích quấy rối nước ta ở biên cảnh, cũng chính là chủ ý của Lương thái hậu, Huệ Tông Đế vì muốn quy phục Đại Tống cho nên âm thầm phái sứ thần tới, thông qua con đường bí mật tới để tiến hành đàm phán hòa bình, không dám để cho Lương thái hậu biết được".

Đỗ Văn Hạo đối với lịch sử của Tây Hạ biết rất ít, nghe Thái Kinh nói như vậy mới hiểu được đại khái, thì ra hoàng đế Tây Hạ chỉ là bù nhìn, thực quyền toàn bộ nằm trong tay thái hậu. Nhưng dù sao hắn cũng là hoàng đế, cho nên hẳn là vẫn có một số người ủng hộ, nếu như có thể lợi dụng mâu thuẫn lúc bấy giờ của đôi bên, xử lý Lương thái hậu, một lần nữa đưa Tây Hạ vào bản đồ Đại Tống, thì đúng là thượng sách không cần đánh mà vẫn khuất phục được kẻ địch.

Nhưng mà, lời này từ trong miệng Thái Kinh nói ra, người này tương lai là đại gian thần, lời của hắn chưa hẳn có thể tin, Đỗ Văn Hạo nghiêng mắt nhìn Thái Kinh: "Sứ thần ở đâu?"

"Hiện giờ đang ở hàn xá, có cần gọi hắn tới gặp mặt đại nhân?"

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ, Thái Kinh đã không sợ mình gặp sứ thần, vậy lời hắn vừa nói hẳn là sự thật, chuyện này có quan hệ trọng đại, phải suy nghĩ chu toàn rồi nói sau, bây giờ mình là tể chấp, thân phận không giống như trước kia, không thể tùy tiện bày tỏ thái độ. Cho nên hắc lắc đầu, nói: "Trước tiên chưa cần gặp hắn, như vậy đi, ngươi tiếp đón sứ thần cho tốt, đặc biệt phải chú ý giữ bí mật, chờ ta sau khi thương nghị với Thái Hoàng Thái Hậu cùng các vị tể chấp rồi quyết định".

"Vâng! Vâng!" Thái Kinh sau khi nghe xong, vội vàng chắp tay đáp ứng, suy nghĩ một lát lại thấp giọng nói: "Đỗ tể chấp, ty chức còn có điều này nữa, không biết có nên nói ra hay không".

"Ừm, cứ nói". Đỗ Văn Hạo tiếp lời.

"Theo ty chức biết, trước đó Huệ Tông Đế chuẩn bị liên lạc để quay về với Đại Tống, về sau sự tình bại lộ, chính là bởi vì trong triều có người đem chuyện này báo với Lương thái hậu. Cho nên, chuyện này cần phải hết sức cẩn thận, không thể để cho quá nhiều người biết được".

Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, trầm giọng nói: "Ngươi cho rằng là kẻ nào đã mật báo?"

"Ty chức không biết, nhưng mà vào lúc đó sự tình này vô cùng bí mật, người biết chuyện này có thể đếm trên đầu ngón tay, lại không biết rốt cuộc là ai, ty chức cũng không dám tự tiện suy đoán. Tiên đế từng phái người điều tra nhưng không có kết quả".

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm, người có khả năng biết được sự tình cơ mật như vậy. Ngoại trừ tể chấp chỉ sợ là không còn người khác, vừa rồi bản thân mình cùng các tể chấp thương nghị, may mà được Thái Kinh nhắc nhở nếu không một khi chuyện này lộ ra, chỉ sợ sẽ rất tồi tệ.

Hắn không kìm được mà liếc nhìn Thái Kinh, âm thầm cân nhắc, hai mươi năm sau tiểu tử này có thể trở thành một đại gian thần quyền thế lấn át vua, một tay nắm đại quyền của triều đình, thực sự chẳng những là do giỏi nịnh nọt. Từ chuyện này có thể thấy hắn rất có đầu óc tư duy, có vài phần bản lĩnh thật sự. Vốn muốn tìm cơ hội xử lý hắn, hiện tại xem ra chưa được, còn phải lợi dụng hắn liên lạc cùng Tây Hạ, giải quyết xong vấn đề Tây Hạ. Đến khi có thời gian thì phế hắn đi, để tránh đêm dài lắm mộng, tránh cho hắn có quyền lực to lớn, hại nước hại dân.

Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, nói: "Ừm, bổn quan hiểu rồi, ngươi cũng phải cẩn thận làm việc, nếu như hoàn thành tốt việc này! Nếu có thể hoàn thành, hắc hắc, ngươi đã làm được một việc lớn rồi đó!"

Thái Kinh mừng rỡ, đứng dậy thi lễ thật sâu: "Không dám, hết thảy đều dựa vào Đỗ tể chấp, không có quyết sách anh minh của Đỗ tể chấp, bực đại sự như thế này không thể nào hoàn thành được".

"Hắc hắc, trước hết chúng ta không cần bàn luận công lao, chờ sau khi xong chuyện rồi nói sau, sẽ không thiếu điều tốt cho ngươi".

"Vâng vâng, ty chức đa tạ tể chấp đại nhân dìu dắt".

Đỗ Văn Hạo sau khi biết được tin tức này, tất nhiên là đứng ngồi không yên, đứng dậy cáo từ ra đi, gọi Bàng Vũ Cầm, hai người lên xe rời khỏi Thái Kinh phủ đệ một đường đi thẳng về Ngũ Vị Đường.

Đỗ Văn Hạo tiến vào việng tử, thấy hai người Tuyết Phi Nhi cùng Liên Nhi đang nói chuyện dưới hành lang, hai nha hoàn đang quét dọn trong phòng Kha Nghiêu, chú hổ con Khả Nhi cũng dang ngoan ngoãn nằm ở cửa ra vào, tiểu hổ ở trong này thì hẳn là Anh Tử cũng ở bên trong . Hắn dừng bước, Khả Nhi chỉ nhẹ nhàng vẫy vẫy cái đuôi của mình, cũng không đứng dậy, mắt cũng không mở ra, đại khái là lúc Đỗ Văn Hạo tiến đến thì tiểu hổ đã ngửi thấy mùi thân thể của hắn rồi.

Quả nhiên Anh Tử bưng một lọ hoa đã tàn từ bên trong bước ra, trông thấy Đỗ Văn Hạo vội vàng cúi người thi lễ.

"Kha Nghiêu đâu? Đi ra ngoài rồi sao?" Đỗ Văn Hạo thăm dò.

Anh Tử mỉm cười đem Thanh Hoa Sứ trong tay đưa cho nha hoàn bên cạnh, nói: "Mấy ngày nay Nghiêu cô nương bận rộn cùng Tứ phu nhân học công phu, ta xem tâm tình nàng rất cao, ngài chân trước vừa bước đi, thì nàng đã kéo Tứ phu nhân ra ngoài rồi. Thiếu gia, hôm qua ngài vừa uống rượu, sáng hôm nay lại dậy sớm, thời gian gần đây dường như gầy đi một chút, còn phải bận rộn bao lâu nữa mới có thể nghỉ ngơi?"

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 432: Mò đá qua sông.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Thời gian gần đây đại khái cũng không có thời gian rảnh rỗi. Đúng rồi, tập phải tiến cung lập tức, khả năng là sự tình có thể rất bận rộn, trở về có lẽ sẽ đã khuya, các ngươi ăn cơm tối trước đi, không cần chờ ta".

Tuyết Phi Nhi nói: "Ca, hôm nay là sinh nhật của Kha Nghiêu. Vũ Cầm tỷ nếu như ngày hôm nay huynh có thời gian thì nên về sớm dùng cơm".

Đỗ Văn Hạo không có thời gian suy nghĩ, lập tức dáp: "Thế ư? Được rồi, nhất định ta sẽ trở về!" Liên Nhi nhịn không được cười nói: "Không được tay không trở về mới đúng".

Tuyết Phi Nhi nói: "Hôm qua Thanh Đại tỷ nói đùa với Kha Nghiêu, nói rằng nàng đã lớn, năm sẽ tìm cho nàng một người tốt, dù sao giờ đây nàng cũng là nghĩa muội của tể chấp tướng công, muốn tìm cho nàng một gia đình tốt không phải là rất dễ dàng sao? Trong thành Khai Phong này không ít quan lớn giàu có muốn đăng môn kết thân".

Bàng Vũ Cầm vội vàng nháy mắt với Tuyết Phi Nhi. Tuyết Phi Nhi dường như không hiểu ánh mắt đó có ý gì, cho nên nói tiếp: "Giờ đây nàng tuổi nàng cũng không còn nhỏ nữa, nếu không sớm tìm chồng, chỉ sợ thành lão cô cương rồi thì... Hì hì".

Sắc mặt Đỗ Văn Hạo xám lại, cũng không nói chuyện, chắp tay sau lưng đi vào phòng, để cho Anh Tử giúp đỡ thay đổi quan bào, buồn bực xuất môn, mang theo đội hộ vệ ky mã.

Liên Nhi nhẹ giọng hỏi: "Lão gia làm sao vậy? Giống như là không được vui".

Tuyết Phi Nhi nhếch miệng, cười nói: "Các ngươi không biết là hai ngày nay chỉ cần là lão gia chúng ta ở nhà, thì Kha Nghiêu nhất định sẽ không xuất hiện sao?"

Bàng Vũ Cầm trừng mắt liếc nàng, nói: "Phi Nhi. Tỷ hiệu muội nghĩ gì, muội không nên suy nghĩ nhiều. Muội quên rằng, khi ở trên núi trên núi Nga Mi. Kha Nghiêu ở trước mặt chúng ta đã xác nhận rằng nàng sẽ không gả cho lão gia nhà chúng ta, chắc là do trùng hợp thôi, cho nên mới không gặp".

Liên Nhi cũng phụ họa nói: "Đúng vậy, đừng xem cô nương Kha Nghiêu này ngày thường lúc nào cũng tươi cười với tất cả mọi người, thật ra trong xương tủy thanh cao tự ngạo vô cùng, nàng không chỉ một lần nói với người khác rằng thà cả đời không lấy chồng chứ không làm thiếp".

Tuyết Phi Nhi nói: "Miệng người hai da(chỉ lời nói không đắc bằng), chẳng lẽ mọi người đều tin sao?"

Bàng Vũ Cầm cùng Liên Nhi liếc nhìn nhau, lắc đầu. Bàng Vũ Cầm cười trộm nói: "Ngươi đó, ta còn tưởng rằng ngươi cùng Kha Nghiêu đã không có khúc mắc gì nữa, thì ra trong lòng vẫn còn canh cánh, lo lắng nàng gả cho tướng công?"

Tuyết Phi Nhi nghe xong lời này gấp đến mức khuôn mặt nhỏ nhắn cũng đỏ lên, nói: "Các ngươi sao mà không nhìn ra, vừa rồi ca mới nói buổi tối sẽ không về dùng cơm. Bảo chúng ta không cần chờ hắn, nhưng Anh Tử vừa nói hôm nay là sinh nhật của Kha Nghiêu, hắn ngay cả suy nghĩ cũng không cần, lập tức hứa sẽ trở về".

Liên Nhi nói: "Nhất định là ngươi quá đa tâm rồi, ta xem bất cứ người nào trong chúng ta như vậy, thì lão gia cũng sẽ trở về".

Tuyết Phi Nhi nói: "Chúng ta đều là thê thiếp của hắn. Tất nhiên là hắn sẽ trở về, nhưng Kha Nghiêu, nàng..."

Lời của Tuyết Phi Nhi còn chưa nói hết, thì từ bên ngoài vang lên một tràng cười vọng vào, Liên Nhi vội vàng nói với nha hoàn ở bên cạnh: "Nhanh bưng cháo cùng bữa sáng cho tứ phu nhân cùng Kha Nghiêu cô nương, bọn họ chưa ăn cơm đã đi ra ngoài, lúc này chắc là đã đói rồi".

Tuyết Phi Nhi cúi đầu nhỏ giọng thì thầm: "Hẳn là nàng có Thiên Lý Nhãn, cho nên mỗi lần đều nắm được thời gian lão gia xuất môn hoặc trở về, các ngươi còn chưa tin. Hừ, chúng ta cứ xem xem".

Lời của Tuyết Phi Nhi vừa dứt, Kha Nghiêu liền cất bước đi vào, thấy nàng đang mặc một thân áo gấm bằng gấm màu hồ lan, quần tơ lụa màu trắng, ở phía trên triêu ba đóa hồng mai nho nhỏ, một đai lưng màu trắng thắt lên cái eo nhỏ tinh tế của nàng. Mái tóc đen nhánh được bím lại có một cây trâm trâm ngọc hình hoa mai trắng xuyên qua, tuy giản dị nhưng lại rất ưu nhã, trên mặt trang điểm một lớp phấn mỏng. Đang liên tục bước tới, cười khanh khách tiến vào đại sảnh.

Bàng Vũ Cầm nói: "Đi ra ngoài lâu như vậy, đã đói bụng chưa?"

"Đúng vậy, đã rất đói rồi".

"Vừa rồi tỷ đã gọi các nàng mang đồ tới, bên ngoài ồn ào , chúng ta vào phía trong ngồi đi".

Chúng nữ vào trong nhà, ngồi xuống cạnh bàn.

Kha Nghiêu đưa thanh kiếm trong tay cho nha hoàn ở bên cạnh, sau dó dùng khăn ướt nha hoàn đem đến lau mồ hôi ở trước tràn, lúc này mới ngồi xuống.

Bàng Vũ Cầm thấy phía sau nàng không có người đi cùng , tò mò hỏi: "Không phải là muội đi cùng Thanh Đại tỷ sao? Tại sao không thấy nàng đâu?"

Kha Nghiêu che miệng cười nói: "Vừa rồi khi xuống núi, thấy ven đường có một cây Vương Lan thụ rất đẹp, muội nói rất thích, nàng liền khăng khăng hái để tặng quà sinh nhật cho muội. Mà cây này lại sinh trưởng ở bên vách núi,với thân thủ của muội đương nhiên là không thể tiến lên, chỉ có tỷ tỷ đi, vốn là mọi việc đều tốt. Không ngờ đêm qua mưa to, sườn dốc mềm mà nhão không chịu được lực nên sập xuống. Với thân thủ của Thanh Đại tỷ tất nhiên là không bị ngã, nhưng mà đạp phải bùn nhão khiến cho giày của nàng bẩn hết. Cho nên nàng đi về là vào phòng thay giày trước, sau đó mới tới dùng cơm".

Bàng Vũ Cầm giờ mới hiểu được nguyên nhân, nói: "Vẫn là Thanh Đại tỷ vô cùng thương yêu muội, chỗ nguy hiểm như vậy mà không hề lo lắng cho bản thân để làm muội vui, Kha Nghiêu chúng ta thật là may mắn, có được một tỷ tỷ thương yêu mình như vậy".

Nha hoàn bưng thức ăn lên, Liên Nhi múc ra một chén cháo đưa cho Kha Nghiêu, Kha Nghiêu mỉm cười tiếp nhận chén cháo. Đang muốn uống, chợt nghe Tuyết Phi Nhi nói: "Ai bảo chỉ có tỷ tỷ mới thương yêu, lão gia nhà chúng ta cũng vô cùng thương yêu cô em gái này". Nói xong câu này liền đưa mắt liếc nhìn Kha Nghiêu, thấy nàng sắc mặt không hề thay đổi đưa cháo lên thong thả uống.

Tuyết Phi Nhi nghĩ thầm, ngươi không cần giả vờ, ta còn lạ gì ngươi, liền nói tiếp: "Trước đó còn nói là buổi tối sẽ không trở về, sau khi nghe nói hôm nay là sinh nhật Kha Nghiêu, không cần suy nghĩ đã lập tức quyết định là sẽ về ăn cơm tối".

Trong nội tâm Kha Nghiêu loạn như con hươu, nhưng vẻ mặt lại bình tĩnh không có một tia biến hóa. Chỉ nhìn vẻ mặt mập mờ của Tuyết Phi Nhi nhìn mình, mỉm cười nói: "Đúng vậy , muội cũng cảm thấy ca ca rất thương yêu muội. Hôm nay dù huynh ấy không trở về muội cũng không trách huynh ấy".

Tuyết Phi Nhi vừa tức vừa buồn cười, đang muốn nói tiếp thì Lâm Thanh Đại bước vào, Bàng Vũ Cầm vội vàng mời Lâm Thanh Đại ngồi bên cạnh mình, nói: "Thanh Đại tỷ, sau khi ăn cơm xong chúng ta đi dạo, xem nên mua lễ vật gì thật đẹp cho tiểu nha đầu".

Lâm Thanh Đại nói: "Ta cũng nghĩ như vậy, đêm qua suy nghĩ một đêm nhưng không nghĩ được cái gì thích hợp. Nha đầu này cực kỳ khó tính, chúng ta nhọc lòng chọn lựa cho nàng, chưa hẳn đã hợp ý". Nói xong mỉm cười liếc nhìn Kha Nghiêu.

Kha Nghiêu cười nói: "Mọi người hao tâm tổn trí như vậy cho muội. Muội làm gì dám đòi hỏi gì nữa, Liên Nhi tỷ, tỷ định tặng muội gì nào".

Liên Nhi nói: "Ta đã nghĩ kỹ rồi, đã quyết định, lát nữa sẽ biết".

"Là cái gì?"

"Giờ chưa thể nói cho muội".

"Hừ!"

Lâm Thanh Đại nói với Tuyết Phi Nhi: "Phi Nhi muốn mua thứ gì?"

Tuyết Phi Nhi lúc này mới ngẩng đầu lên, nói: "Muội biết Liên Nhi muốn mua cái gì, vốn muội muốn mua thứ đó, chỉ là giờ đây không muốn mua cùng một thứ mà thôi".

Liên Nhi cười nói: "Xem ra chúng ta đều biết Kha Nghiêu thích gì, nhưng mà ta giành được trước rồi".

Kha Nghiêu thấy mọi người vì sinh nhật của mình mà hao tâm tổn trí như vậy, cảm thấy rất cảm động, nói: "Làm khó mọi người như vậy, cũng là vì muội mà suy nghĩ, bất kể là là lễ vật gì muội đều rất vui mừng, dù chỉ là một đóa hoa dại cũng là tâm ý của mọi người, Kha Nghiêu cảm kích còn không kịp ấy chứ".

Bàng Vũ Cầm: "Nên vậy mà, người một nhà phải như thế, muội nói gì vậy?"

Tuyết Phi Nhi lập tức đùa giỡn: "Giờ đây muội cũng đã lớn, dứt khoát năm nay gả muội ra ngoài, điều này cũng là một phần tâm ý của chúng ta".

Kha Nghiêu khẽ gắt: "Ngươi được lắm, tiểu ny tử, cả ngày này cũng không quên trêu chọc ta, để tối nay ta chuốc người say mèm rồi cho ngươi nằm ở bên ngoài cạnh khe nước thối".

"Hừ, đến đây đi! không biết ai say mèm phải nằm trong khe".

Đoàn người đều nở nụ cười.

Đỗ Văn Hạo cưỡi ngựa mang theo đội hộ vệ đi vào hoàng cung. Lúc xuống ngựa, do trong lòng sốt ruột, liền gọi kiệu thúc dục đi thẳng tới Phúc Ninh cung của Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao.

Hắn tiến vào Phúc Ninh cung không cần thông báo. Đi vào bên trong biết được Cao Thao Thao không có ở công địa, cũng không có ở trong phòng, mà đang ở biệt điện cửa Đông hoàng cung.

Sau khi Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao chấp chính muốn cùng các đại thần nghị sự thì có chút khó khăn, bởi vì các đại thần không thể tùy tiện vào cung, mà Thái Hoàng Thái Hậu dù sao cũng là tạm thời chấp chính, lại không thể đến trước đại điện ra lệnh, liền dùng biệt điện phía Đông hoang cung làm địa phương để các đại thần báo cáo công việc cũng như để nàng tiện ra chỉ thị. Như vậy nàng có thể không cần ra khỏi hoàng cung, các đại thần cũng không vào nội cung.

Cao Thao Thao giờ đây đang tới nơi để nghe báo cáo và quyết định sự việc. Tất nhiên là có chuyện trọng yếu cần thương nghị. Đỗ Văn Hạo đành phải chờ ở tẩm cung của Cao Thao Thao.

Cũng may không lâu sau Cao Thao Thao đã hồi cung, vừa thấy Đỗ Văn Hạo, Cao Thao Thao mặt mày hởn hở, sau khi lui vào màn che liền nhào vào trong ngực Đỗ Văn Hạo, nói: "Chàng tới thật đúng lúc, ta đang muốn cho người triệu chàng tiến cung bàn bạc công việc, không ngờ chàng đã đến rồi".

Hai người ôm nhau ngồi ở trên giường êm, Đỗ Văn Hạo nói: "Gọi ta tới có việc gì sao?"

"Tất nhiên là có việc rồi, chính chuyện tình hôm qua chàng đã nói đó! Tối hôm qua ta lại suy nghĩ một lần nữa, trước khi làm việc này cần phải suy nghĩ kỹ. Sáng sớm hôm nay triệu Lại bộ, Lễ bộ, cùng, Binh bộ Thượng thư đến thương nghị. Hạ mấy đạo ý chỉ, đang muốn chàng xem có thỏa đáng hay không".

"Ừm, hạ ý chỉ gì".

"Đều là những chủ ý hôm qua của chàng! Thứ nhất là hủy bỏ thích tự đánh đấu quân dân, miễn việc khắc chữ trên mặt của quân nhân hiện dịch. Đạo ý chỉ thứ hai là để cho Hàn Lâm Viện cùng giải quyết với Lễ bộ, Lại bộ, lập ra kế hoạch , tuyên truyền nhân vật anh hùng trong trận chiến giữa chúng ta cùng Tây Hạ. Tiến hành tuyên dương những anh hùng có công lao. Tiến hành trợ cấp đối với những gia đình có liệt sĩ tham gia chiến trận. Đạo ý chỉ thứ ba là cắt giảm bộ phận sương quân".

Đỗ Văn Hạo âm thầm giật mình, vội vàng cười nói: "Nàng hành động thật là nhanh, thế việc cắt giảm sương quân thế nào rồi?"

Cao Thao Thao nhìn ra vấn đề mà sau khi thương nghị lo lắng, cười nói: "Chàng yên tâm, sau khi ta cùng Binh bộ Thượng thư thương nghị đã quyết định, từ Quảng Nam đến Tây Xuyên bốn lộ phân biệt cắt giảm mười doanh sương quân( năm ngàn người). Trước cắt giảm một ít, sau này từ từ tích lũy kinh nghiệm. Hai vị trí này tương đối vắng vẻ, sương quân bị cưỡng bức lao động rất khổ sở, mà tiền kiếm được thì ít, cắt giảm không gặp nhiều cản trở, hơn nữa hai địa phương này cũng nhiều đất hoang cần khai khẩn. Đồng thời ta hạ chỉ cho Hộ bộ đem đất hoang này chia cho sương quân cắt giảm sử dụng. Đất hoang được khai khẩn thuộc về người khai hoang. Nha môn cho đăng ký ban phát khế đất, mười năm đầu miễn toàn bộ thuế mà, năm năm tiếp theo thì thu một nửa mức thuế. Đồng thời hạ chỉ thương khố ở hai nơi này cho vay với lợi tức một nửa mức bình thường cho đến khi bộ phận sương quân cắt giảm lần đầu tiên chuyển sang thời kỳ bình ổn".

Đỗ Văn Hạo cao hứng, hôn lên trên khuôn mặt mềm mại của nàng một cái: "Thao Thao thật là lợi hại! Nàng nghĩ thật chu đáo!"

"Hì hì!" Cao Thao Thao có vài phần đắc ý: "Điều này không phải đều là chủ ý của chàng hay sao. Không có chàng, tao nào dám làm như vậy! Có chàng, lá gan của ta cũng lớn hơn".

Đỗ Văn Hạo ôm cái eo thon nhỏ của nàng, vuốt ve mái tóc của nàng, thấp giọng nói: "Nàng nắm trong tay quyền lực lớn nhất, phải cẩn trọng mới được. Nàng còn làm gì nữa?"

"À, ta còn hạ chỉ mở các phân xưởng quan doanh dược liệu ở châu phủ hai vùng này, đem những sương quân không muốn khai hoang trồng trọt về an trí tại những phân xưởng này, hai vùng này có những vùng đất trồng được dược liệu, chế các loại dược liệu bán sỉ cùng thuốc pha chế sẵn bán vào thị trường".

"Ý kiến hay! Nhưng mà, lúc này những xưởng đó kinh doanh như thế nào? Ai bỏ vốn/ Người nào chịu trách nhiệm?"

Cao Thao Thao nằm trong vòng tay của hắn nói: "Theo như lần trước chàng nói với ta là chàng có mở một công ty liên doanh tư nhân ở Nhã Châu phủ Thành Đô mà!"

"Thật ư?" Đỗ Văn Hạo kinh hỉ đan xen, nói: "Cụ thể lo liệu như thế nào?"

"Ừm...Chính là như bình thường thương khố bỏ vốn bốn thành, thương hộ đầu tư xuất vốn sáu thành, sự tồn tại của công ty hoàn toàn tách biệt với nha môn, không được phép kiêm nhiệm bất cứ chức quan nào trong triều, công ty tự quy định điều lệ. Do cổ đông sẽ cử ra chủ tịch cùng quản lý. Còn phải lập hội đồng giám sát, nghiêm khắc làm việc theo chương trình. Tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm lời lỗ, gánh chịu trách nhiệm có hạn đối với tàn sản của công ty. Theo như quy định nộp lên thuế lợi, nha môn không có quền can thiệp vào. Nếu không có thể thông qua quan giám sát báo thẳng tới chúng ta, sẽ bị nghiêm khắc trừng phạt".

Đỗ Văn Hạo nhịn không được lại ôm nàng hôn một cái: "Thao Thao giỏi quá! Khong thể tưởng tượng được ta mới chỉ nói với nàng như vậy, nàng liền nhớ kỹ những nội dung phức tạp như vậy của công ty. Nàng thật là thông minh đó!"

Cao Thao Thao tươi cười: "Là chàng nói cẩn thận dễ hiểu, tất nhiên là ta phải nhớ kỹ rồi".

"Ha ha, Tô Thức còn chưa hồi màn, nàng không lo lắng công ty làm ăn không tốt, cứ lớn mật thúc đẩy như vậy ư?"

"Chàng đã thử nghiệm qua ở thành đô, ta tin tưởng rằng có thể làm được. Trước cứ xây dựng xem sao, dù sao chúng ta có trong tay hơn một ngàn ức , không sợ lỗ vốn. Hì hì".

"Ha ha!" Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: "Nàng có thể lấy ra ngân khố của mình để tiến hành cải cách, nàng có đảm lượng như vậy, lại có tài chính hùng hậu tiên đế lưu lại làm hậu thuẫn, chúng ta không sợ không thành đại sự! Nàng làm một bước này rất tốt, đã an trí xong sương quân, lại tiến thêm một bước phát triển quy chế công ty. Hay lắm! Thao Thao. Quy chế của công ty trong thị trường kinh tế chính là một trong những quy chế quan trọng nhất, lúc vừa mới thành lập nhất định sẽ gặp phải một số vấn đế, nhưng từ từ sẽ ổn định . Tống quốc buôn bán vô cùng phát đạt, quy chế này là chuẩn mực của thị trường, thúc đẩy kinh tế mạnh mẽ phát triển, tạo ra cho quốc gia càng nhiều tài lực. Chờ cho công ty được xây dựng nhiều hơn, mọi người sẽ dần dần có thể tiếp nhận, sau khi thấy chỗ tốt của công ty, khi đó chúng ta sẽ chính thức ban bố pháp luật về công ty, tiến hành quy phạm. Giờ đây cần phải khuyến khích xây dựng".

Cao Thao Thao đối với những từ câu xen lẫn với ngôn ngữ hiện đại của Đỗ Văn Hạo cái hiểu cái không, ngẩng mặt lên nói: "Vâng, ta nghe lời chàng!"

"Nàng đừng chỉ nghe lời ta! Nếu nàng cảm thấy không ổn thì cứ việc nói, chủ ý của ta chưa hẳn đã là tốt nhất. Có đôi khi không phải nhất nhất cứ làm vậy chúng ta phải thương lượng mới có thể phát hiện ra có vấn đề hay không".

"Ừm, ta cảm thấy chủ ý của chàng đều tốt. Hơn nữa, cho dù có điểm không chắc chắn cũng không sao cả. Sai rồi thì chúng ta có thể sửa đổi, không thử làm sao biết phương pháp này không tốt?"

"Hắc hắc, đúng vậy, thế này gọi là mò đá qua sông! Cải cách cần phải thử nghiệm, cũng có thể mắc phải sai lầm, sai rồi có thể sửa đổi, không thử nghiệm thì vĩnh viễn không phát hiện ra chỗ sai. Ha ha, tư tưởng của nàng rất giống tư tưởng của một vĩ nhân, thảo nào có thể làm lãnh tụ của một quốc gia".

Cao Thao Thao ngạc nhiên nói: "Vị vĩ nhân ấy là ai?"

Đỗ Văn Hạo đương nhiên sẽ không nói cho nàng biết về công cuộc cải cách ở xã hội hiện đại do Đặng Tiểu Bình trù tính, chỉ cười cười nói: "Ta cũng không nhớ được. Dù sao cũng đã từng có vị lãnh tụ nói qua như vậy. Đúng rồi, nàng còn hạ ý chỉ gì nữa?"

"Về hạn chấm dứt tuổi quân! Đối với việc cắt giảm tướng sĩ sương quân dựa theo suy nghĩ của chàng mà an bài, Hộ bộ, Lại bộ, cùng Binh bộ Thượng thư đều chưa từng làm như vậy. Đều nói phương pháp này rất mới mẻ, xem ra là tốn không ít tiền bạc nhưng có thể ổn định cắt giảm sương quân, tương lai tiết kiệm được sẽ vượt xa so với tốn kém".

"Đúng đúng, đây mới là người nhìn xa trông rộng! Còn có gì nữa không ?"

"Có". Cao Thao Thao nhìn hắn một cái, chậm rãi nói: "Ta còn hạ chỉ, chấm dứt tất cả các biến pháp rồi. Ta không thể để cho những biến pháp hại người này gây tai họa cho dân chúng".

Đỗ Văn Hạo mặc dù biết Cao Thao Thao là đầu lĩnh của phe bảo thủ, vừa chấp chính nhất định sẽ bãi bỏ toàn bộ hiến pháp, chỉ là không ngờ lại nhanh đến như vậy.

Cao Thao Thao nhìn thần sắc của hắn có chút ảm đảm, thấp giọng hỏi: "Ta đình chỉ việc áp dụng biến pháp chàng không vui sao?"

Đỗ Văn Hạo miễn cưỡng cười cười, thấp giọng nói: "Sao lại không. Giờ đây biến pháp đã hoàn toàn biến chất rồi, mất đi ý đồ vì nước vì dân năm xưa, thậm chí trở thành tranh giành lợi ích với dân rồi, phế bỏ di cũng tốt".

Cao Thao Thao lập tức cao hứng trở lại, vuốt vuốt tóc nói: "Ta cũng nghĩ như vậy, trước kia chàng đã nói với ta ràng thật ra ý định ban đầu của biến pháp là rất tốt, suy nghĩ cũng rất hay, nhưng mà trong lúc chấp hành thì bị biến dạng. Ta lại nghĩ, nó đã rối tinh rối mù như vậy rồi, nếu cứ để cho chàng tới thu thập cục diện rối rắm như vậy cũng phiến toái, không bằng cứ phế nó đi, tương lai chàng nghĩ ra biện pháp hay có thể ích quốc lợi dân, chúng ta lại áp dụng, chàng nói có đúng không?"

Đỗ Văn Hạo vừa mừng vừa sợ: "Nàng nguyện ý để cho ta áp dụng biến pháp?"

"Ừm, nhưng trước tiên chàng phải giúp ta chính lý quân đội, cũng để cho tất cả mọi người nhìn ra bản lĩnh thật sự của chàng, khiến cho mọi người tâm phục khẩu phục, khi đó ta lại cho chàng thực hiện biến pháp, lúc đó như nước chảy thành sông rồi".

"Hay lắm! Nàng nói không sai, nếu như ta ngay cả quân đội cũng không thể quản tốt thì nói gì đến chuyện biến đổi cả một quốc gia".

"Đúng vậy!" Cao Thao Thao ôm cổ hắn nhẹ nhàng hôn một cái: "Không nên vội vàng, chúng ta tiến từng bước một, chàng đã nói ' không thể vì cái lợi trước mắt mà phải hành tuần tự, đúng không nào?"

Đỗ Văn Hạo gật gật đầu: "Nàng nói không sai, nàng còn tuyên bố ý chỉ nào khác không?"

"Không có!" Cao Thao Thao sẵng giọng: "Xem chàng đi, từ sáng tới giờ ta làm nhiều việc như vậy, chàng lại còn ngại không đủ, muốn khiến cho ta mệt chết ư?"

"Hắc hắc. Khổ cực cho Thao Thao của ta rồi!" Đỗ Văn Hạo ôm lấy nàng đặt lên giường, rồi thân mật một hồi. Khiến cho Cao Thao Thao như lọt vào trong sương mù lúc này mới ngừng tay.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 433: Một vốn bốn lời.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Cao Thao Thao ỷ ôi trong lòng hắn, hỏi: "Ngày hôm qua chàng nói muốn xây dựng một quận đội bộ đội đặc chủng, còn muốn xay dụng một cơ quan quốc an, ta đã hạ chỉ cho Lại bộ công bộ Công bộ rồi, đặc biệt để cho chàng phân phó, chàng có thể lập tức tiến hành tuyển chọn, tu kiến rồi. Thiếu cái gì thì cứ nói cho ta biết".

Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: "Thật tốt quá, ta trở về lập tức bắt đầu hạng mục này. Nhưng mà giờ đây còn có một chuyện càng quan trọng hơn cần phải làm. Nếu như thành công thì chúng ta có thể không cần hao tổn một binh tướng nào mà vẫn có thể chế ngự Tây Hạ".

"Thật vậy ư?" Cao Thao Thao vui vẻ nói: "Sự tình như thế nào?"

Đỗ Văn Hạo liền đem chuyện tình vừa nói cùng Thái Kinh kể cho Cao Thao Thao, cuối cùng kết luận: "Nếu như chuyện này là thật, chúng ta kết hợp với Hạ Huệ Tông đế, vấn đề Tây Hạ có thể giải quyết triệt để".

Cao Thao Thao kinh hỉ đan xen, nhưng mà vẫn không thể tin được chuyện này, lưỡng lự một lát rồi hỏi: "Chàng cảm thấy việc này có phải là sự thật không?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Vừa rồi ta cũng đã cân nhắc rất kỹ. Ta nghĩ, người Tây Hạ làm làm việc này làm gì? Nếu như bọn muốn giả hòa đàm, thì trực tiếp phái sứ thần đi là được, lén lén lút lút tiếp xúc cùng chúng ta, đối với bọn họ có chỗ tốt gì? Nghĩ cả ngày trời cũng không ra người Tây Hạ có chủ ý quỷ quái gì trong sự việc này. Cộng thêm mấy năm trước, Huệ Tông Đế đã từng phái Đại tướng tiếp xúc cùng chúng ta, lúc ấy chuẩn bị đối phó với Lương thái hậu, về sau sự tình bại lộ, Huệ Tông Đế còn bởi vì nguyên nhân này mà bị nhốt nhiều năm, còn muốn tiếp tục liên hợp với chúng ta đối phó Lương thái hậu. Mục đích của hắn hiển nhiên là muốn nương nhờ lực lượng của chúng ta giúp hắn đoạt lấy đại quyền. Cho nên ta cảm thấy việc này không phải là giả".

"Vậy có khi nào khi hắn muốn lợi dụng chúng ta, sau đó lại đối phó với chúng ta?"

" Hắc hắc, chúng ta cũng không phải là đứa bé ba tuổi. Giúp đỡ hắn, tất nhiên là phải có điều kiện rồi, nàng phải xác định rằng, có cần liên minh với Hạ Huệ Tông đế hay không, nếu như muốn thì cần đòi hỏi điều kiện gì?"

Cao Thao Thao mấy chục năm sống trong nội cung, cũng không hỏi về chính sự. Giờ đây đột nhiên nắm giữ quyền lực cao nhất, vốn cũng có phần mơ hồ không biết phải làm sao. Giờ đây gặp chuyện lớn như vậy càng không biết phải làm sao cho phải. Suy nghĩ một lúc lại nhìn sang Đỗ Văn Hạo, nói: "Chàng cảm thấy thế nào?"

"Ta? Thao Thao, chuyện này nàng phải quyết định, ít nhất nàng cũng phải xác định điều thứ nhất, đó là có muốn liên minh cùng Hạ Huệ Tông đế , cùng đối phó với Lương thái hậu hay không?"

Cao Thao Thao miễn cưỡng cười nói: "Ta cũng không biết nữa, chàng nói giúp ta, giờ chàng giúp ta đề ra chủ ý đi".

Đỗ Văn Hạo nói: "Ta cảm thấy được, điều này đối với chúng ta là một chuyện tình một vốn bốn lời. Chỉ cần làm tốt là có thể thuận lợi thu lấy Tây Hạ, không chiến tranh mà có thể khuất phục người! Còn có điều gì tốt hơn điều này nữa? Cho dù thất bại, đối với chúng ta cũng không có tổn thất gì lớn, cũng không có nguy hiểm nào quá lớn. Chuyện này hoàn toàn có thể làm".

"Ừm, chàng nói có lý, cứ theo ý chàng mà lo liệu. Ta đồng ý!"

"Tốt lắm! Thứ hai, nàng phải quyết định, yêu cầu điều kiện gì?"

Cao Thao Thao vẫn lặp lại câu kia: "Chàng cảm thấy thế nào?"

"Ta nghĩ tốt nhất là yêu cầu hắn buông bỏ việc xưng đế, thậm chí không xưng Vương nữa, đem quân đội Tây Hạ nhập vào quân ta, cũng đem Tây Hạ sát nhập vào bản đồ Đại Tống! Đương nhiên, điều kiện này rất cao, Hạ Huệ Tông đế chưa chắc sẽ đồng ý.

"Vậy làm sao bây giờ?"

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ, đột nhiên linh cơ chớp động, nói: "Ta cảm thấy, trước tiên đi đàm phán với họ đã, nếu thật sự không được thì chúng ta có thể tiếp nhận giới hạn cuối cùng(lợi ích cao nhất có thể). Đại khái là thế này: Chúng ta giúp hắn xử lý Lương thái hậu. Đoạt lại thực quyền. Sau đó phong hắn làm Phiên vương thừa kế vương vị, thi hành hoàn toàn tự trị do hắn độc lập nắm quyền quản lý, bổ nhiệm quan viên, phát hành tiền tệ, thống trị tất cả dân chúng. Triều đình không quản tới, thuế phú trưng thu cũng không cần nộp lên triều đình, nhưng có hai điều phải do triều đình khống chế: Một là quyền quân sự, tất cả quân đội trong cảnh nội, có thể cho hắn một số lượng hoàng gia vệ đội nhất định, số lượng không vượt quá một vạn, lực lượng quân đội còn lại đều do chúng ta tiếp quản, cũng biên chế lại thành quân Tống. Đại Tống ta phái quân đội tiến vào chiếm giữ Tây Hạ, đảm nhiệm nhiệm vụ phòng ngự quân sự. Thứ hai, quyền ngoại giao thuộc về triều đình, dù cho muốn cùng quốc gia khác ký kết hiệp nghị gì thì đều do triều đình đại diện, chính phủ Tây Hạ không thể ra mặt . Cái này gọi là một quốc gia hai chế độ! Hắc hắc".

Đỗ Văn Hạo đem một quốc gia hai chế độ áp dụng ở Tống Triều, cảm thấy là rất sáng suốt, trong nội tâm cảm thấy rất là đắc ý.

Cao Thao Thao gật đầu nói: "Như vậy thì đương nhiên là rất tốt, nhưng mà hắn chưa hẳn đã tán thành đâu! Trong tay không có , không phải là chúng ta muốn xử lý lúc nào cũng được sao? Hắn cũng vị của hắn không được lâu dài, sớm muộn gì cũng bị chúng ta phế bỏ?"

Đỗ Văn Hạo sửng sốt một chút, nghĩ thầm lời này cũng rất đúng, việc này cùng với tình huống một quốc gia hai chế độ như Hong Kong hoàn toàn khác hẳn. Ngược lại rất giống với tình huống của Đài Loan. Hắn nghiêng đầu suy nghĩ, Trung Quốc đề xuất sự tình trao đổi Đài Loan trở về, còn nhớ hình như là chỉ giao nộp quyền ngoại giao, Đài Loan giữ lại hành chính, quyền tư pháp, thậm chí có thể cho phép Đài Loan giữ lại quân đội.

Đây là chính sách của đại lục, chỉ cần Đài Loan đồng ý xuất ra quyền ngoại giao, thực hiện thống nhất, tuy rằng nó còn có quân đội, nhưng tương lại muốn độc lập, đại lục liền xuất quân trực tiếp phế bỏ quân chính Đài Loan. Bọn Hoa Kỳ làm sao mà không triệt lui được chứ, điều này chủ yếu là dựa vào thực lực quân sự của đại lục cường đại hơn nhiều sô với Đài Loan.

Tây Hạ thì không giống như Đài Loan, sức chiến đấu của quân đội Tây Hạ mạnh hơn quân đội Đại Tống. Một khi Đại Tống giúp Hạ Huệ Tông đế đoạt lại thực quyền, chắc chắn hắn sẽ trở mặt không nhân nhượng. Đại Tống cũng không có cách nào gây khó dễ cho Tây Hạ. Cho nên, nhất định phải nghĩ ra một điều có thể chế ước Tây Hạ, nhưng lại có thể khiến cho Tây Hạ Huệ Tông Đế cảm thấy phương pháp này an toàn ở một trình độ nhất định nào đó.

Suy nghĩ một lát, Đỗ Văn Hạo nói: "Hay là cứ cho phép hắn giữ lại quân đội, nhưng số người thì phải hạn chế, không được vượt qua mười vạn người. Đồng thời, ta muốn đóng quân tại Tây Hạ, nhân số không ít hơn mười lăm vạn người, như vậy có thể cam đoan số lượng chiếm ưu thế.

"Vạn nhất hai bên đánh nhau thì phải làm sao?"

"Điều này cũng đúng, hay là như vậy đi: Yêu cầu hắn đem Tuyên Hoá phủ, Lương Châu cùng với ruộng đất phía Nam cắt cho Đại Tống ta. Giống như dĩ vãng quy phục Đại Tống, hàng năm tiến cống, chúng ta sẽ giúp hắn đoạt lại chính quyền".

Cao Thao Thao ngạc nhiên nói: "Hai địa phương này rất trọng yếu sao?"

"Rất quan trọng, mã trường Sơn Đan của Tuyên Hóa phủ là một trong những mã trường tốt nhất thế giới. Hơn nữa, ở đây dải dất hành lang Hà Tây, phía trên liên thông với vị trí hiểm yếu của Tây Vực. Vị trí địa lý vô cùng quan trọng, lại là ốc đảo trọng yếu của Tây Hạ, nghành chăn nuôi rất phát đạt. Là một khối thịt béo, chúng ta thì không thiếu những ốc đảo như thế này, nhưng mà chúng ta muốn lập quân đội mạnh mẽ thì không thiếu thiếu mã trường Sơn Đan này, nó là một sân bãi cực kỳ quý hiếm! Có thể có được thì rất tốt".

"Địa phương tốt như vậy, chưa hẳn hắn đã đồng ý giao ra".

"Hắn muốn cầu chúng ta, chúng xuất lực giúp hắn diệt Lương thái hậu, đoạt lại chính quyền, lợi ích này đối với hắn cũng là tương đối lớn, ở một phương diện nào đó thì có khả năng lớn hơn so với mã trường Sơn Đan cùng hành lang Hà Tây. Dù sao Tây Hạ rất rộng lớn, chúng ta chỉ yêu cầu hắn cắt nhường hai mảnh đất này, chỉ chiếm không đến một thành trong cả Tây Hạ. Hơn nữa, địa phương có thể nuôi ngựa của Tây Hạ có rất nhiều, đương nhiên mã trường Sơn Đan cũng không phải là mã trường tốt nhất. Cho nên mã trường Sơn Đan đối với hắn tuyệt đối không phải là vùng đất không thể vứt bỏ. Nếu như đàm phán thành công, hắn nguyện ý cắt cho chúng ta một khối đất đai này cũng tính là tương đối có lợi. Cho nên, chúng ta phải lợi dụng cơ hội lần này, thu hoạch được lợi ích lớn nhất".

"Ừm. Phái ai đi đàm phán đây?"

"Chuyện này không thể tuyền truyền rộng rãi, lần trước Tây Hạ phái sứ thần đến liên minh cùng chúng ta, là người của chúng ta để lộ tin tức với Lương thái hậu. Kết quả là khiến cho sự tình hỏng bét, lần này nếu như tiếp tục bại lộ chỉ sợ Lương thái hậu sẽ nổi sát tâm, vậy thì thật là đáng tiếc".

"....Nếu không thì chàng đi gặp sứ thần đàm phán đi. Chàng xảo quyệt như vậy hẳn là hiểu rõ nên đàm phán như thế nào".

Hai người lại thân mật một lúc nữa, lúc này Đỗ Văn Hạo mới rời khỏi tẩm cung của Cao Thao Thao.

Hắn vừa mới ra khỏi Phúc Ninh cung, thì lại gắp tiểu thái giám trong nội cung của Dụ Cáp Nhi cản đường: "Tiểu Đức Tử dập đầu bái kiến Đỗ tể chấp". Nói xong, tiểu thái giám quỳ xuống dập đầu làm lễ với Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nói: "Đứng lên mà nói".

Tiểu Đức Tử đứng dậy, khom người nói: "Nương nương nhà ta bị bệnh, để nô tài đến đây chờ Đỗ tể chấp".

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm, ngày hôm qua còn tốt. Chẳng lẽ là uống nhiều rượu quá rồi nằm trên đất dẫn đến cảm lạnh? Tuy rằng không muốn gặp cô nàng Dụ Cáp Nhi này, nhưng mà người ta vẫn là nương nương của tiên đế, còn cho người tới chờ đợi, cũng không nên để cho người ta nói: Tiên đế vừa mất thì mình đã khinh mạn các vị nương nương. Liền tùy tiện nói: "Dụ nương nương bị bệnh gì, có nặng không?"

Tiểu Đức Tử nói: "Nương nương nói cuống họng của người bị đau, lúc đầu thì hơi khàn khàn, về sau thì ngay cả nói chuyện cũng trở nên khó khăn, trong đêm qua gọi thái y của Thái y viện đến xem và cho uống thuốc. Sáng nay chẳng những không biến chuyển tốt hơn mà là càng nặng. Bây giờ lời nói cũng không phát ra được, so với với bị câm cũng chẳng khác là mấy. Nương nương cũng biết Đỗ đại nhân công việc bận rộn, vốn không muốn quấy rầy, nhưng mà bệnh tật quấn thân, thống khổ không chịu nổi, lúc này mới...."

Đỗ Văn Hạo nói: "Được rồi, ta đúng là bận rất nhiều việc, nhưng mà thân thể của nương nương quan trọng hơn, ta với ngươi đi xem một lúc".

Vào cửa tẩm cung, xuyên qua khu vường. Tiểu Đức Tử trực tiếp dẫn Đỗ Văn Hạo tới hậu hoa viên.

Chỉ thấy một nữ tử đang đứng, hơi cúi đầu trước một bồn hoa lục sắc. Nàng ta dung nhan tú lệ trong trẻo nhưng lạnh lùng, hai mắt sâu thăm thẳm, da thịt trắng muốt tinh tế tựa như 'nha điêu ngọc trác'( ngà voi và ngọc được mài dũa, chạm khắc). Chính là Dụ Cáp Nhi.

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm, dung mạo của Dụ Cáp Nhi trong cung mặc dù không phải là đẹp nhất, nhưng lại có ý vị đặc biệt, tự như làn gió êm dịu trong ngày xuân, như ngọn sóng mềm mại mờ ảo, là một cảnh đẹp làm cho người ta ngắm nhìn không bao giờ biết chán.

" Vi thần tham kiến Dụ nương nương". Đỗ Văn Hạo tiến lên, đi đến trước mặt nàng thi lễ.

Dụ Cáp Nhi ngẩng đầu lên, trong mắt mang theo vẻ vui mừng. Khóe miệng cong cong nhếch lên thoáng hiện ra hai cái lúm đồng tiền trên má, nàng vẫy vẫy tay với Đỗ Văn Hạo, ra hiệu cho hắn qua đó ngồi.

Quả nhiên Đỗ Văn Hạo phát hiện từ đầu đến cuối nàng đều không có nói, hắn đánh giá Dụ Cáp Nhi từ trên xuống dưới, sắc mặt xem ra rất tốt, chỉ là có phần mỏi mệt chán chường. Đỗ Văn Hạo hỏi: "Cuống họng của nương nương làm sao vậy? Nghe nói tìm thái y rồi, lại không hề có chuyển biến, có phải vậy không?"

Dụ Cáp Nhi bất đắc dĩ cười cười, lắc đầu, đi đến trước bàn đề bút viết mấy chữ trên giấy sau đó đưa cho Đỗ Văn Hạo xem, chỉ thấy trên đó viết: "Đêm qua đã bị như thế rồi, đều tại ngươi!"

Đỗ Văn Hạo cười khổ: "Điều này sao lại có thể trách ta? Ngươi ăn cái gì ngươi muốn mà?"

Dụ Cáp Nhi lấy trừ trong lòng ra một đơn thuốc, đưa cho Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo xem qua rồi đặt xuống, nói: "Ta bắt mạch cho ngươi".

Dụ Cáp Nhi đưa tay đặt ở trên gối chẩn mạch. Đỗ Văn Hạo giữ cổ tay bắt mạch, phát hiện mạch huyền tế, lại thấy tưa lưỡi màu hồng. Hai bên gò má thì đỏ bừng, bèn hỏi: "Mấy ngày gần đây nương nương ăn uống vẫn tốt chứ?"

Tiểu Đức Tử ở một bên nói: "Không tốt, chẳng những ăn uống không tốt, mà ngủ cũng không ngon. Buổi tối là ngủ nhiều nhất, nhưng cực hạn cũng chỉ hai canh giờ mà thôi".

Đỗ Văn Hạo lại hỏi: "Tâm tình vẫn tốt chứ?"

Sắc mặt Dụ Cáp Nhi trở nên ảm đạm, Đỗ Văn Hạo liền hiểu rõ bảy tám phần, liền nói: "Được rồi, ta đã hiểu đại khái rồi, nương nương không cần phải lo lắng, trước tiên dùng phó dược để cho tâm tình dễ chịu hơn một ít, không nên suy nghĩ quá nhiều. An tâm điều dưỡng thì không có bệnh gì không thể trị liệu". Nói xong. Đứng dậy đi đến trước thư án ngồi xuống viết một phương thuốc đưa cho Tiểu Đức Tử.

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: "Còn nữa, còn cần phối hợp với châm cứu để trị liệu cho nương nương , nhưng không thể tùy tiện được, hôm nay tạm thời thế đã. Ngày mai vi thần dẫn theo Tôn bà bà của Thái y viện đến châm cứu cho nương nương sẽ tiện lợi hơn".

Dụ Cáp Nhi không thể nói chuyện, nhưng thần sắc xem ra là đang rất cảm kích, đứng dậy viết mấy chứ, Đỗ Văn Hạo nhìn, chỉ thấy trên đó viết: "Biết rằng huynh đang rất vội vàng, huynh sẽ không ở đây lâu, đa tạ".

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm: 'Giờ đây Dụ Cáp Nhi cũng đã trở nên thành thục hơn một chút. Dụ Cáp Nhi vô ưu vô lự trước kia sau hơn một năm sống trong hoàng cung, vậy mà biến mất không còn bóng dáng'.

Đỗ Văn Hạo ra khỏi tẩm cung của Dụ Cáp Nhi. Tiểu Đức Tử một mực đưa đến ngoài cửa, thấp giọng hỏi: "Tể chấp đại nhân. Có phải là nương nương vĩnh viễn không thể nói chuyện được nữa không?"

Đỗ Văn Hạo lắc đầu: "Tất nhiên là không phải, nhưng mà do thời gian nhiễm bệnh hơi lâu rồi. Cho nên nếu chỉ uống thuốc sợ là sẽ không có hiệu quả, hơn nữa thái y trước đó khai phuong không thích hợp mới khiến bệnh của nàng không những chẳng thuyên giảm mà còn nghiêm trọng hơn, châm cứu chỉ là phương pháp trì hoãn chứng bệnh của nàng, khiến cho nàng chóng khỏi bệnh".

"Tể chấp đại nhân thật sự là tài ba. Chúng ta cả đời này nếu học được một thành y thuật của ngàu, cũng được người người kính trọng rồi".

Đỗ Văn Hạo nở nụ cười, vỗ vỗ bả vai Tiểu Đức Tử nói:: "Mỗi người đều có sở trường của riêng mình, ngươi cũng như vậy, ngươi trung tâm với chủ, điều này là rất tốt".

Nói xong, Đỗ Văn Hạo bước ra ngoài cung. Lên chiến mã, rung dây cương, chậm rãi đi vè phía trước. Đi được một lúc hắn ghìm chặt dây cương, quay đầu lại hỏi Hứa Hoa Cường: "Tối nay là sinh nhật của Kha Nghiêu, ngươi nói xem ta nên mua cho nàng cái gì thì tốt?"

Hứa Hoa Cường suy nghĩ rồi nói: "Ta nghe Đại phu nhân nói, nàng muốn mua cho Nghiêu tiểu thư một cái nghiên mực. Ta đã đến thư phòng của nàng xem qua, thấy rằng Kha Nghiêu tiểu thư thích đọc sách viết chữ, lễ vật này hẳn là nàng cũng yêu thích".

Đỗ Văn Hạo uể oải nói: "Ài! Bọn họ đều đi trước ta một bước rồi. Đến chợ xem qua rồi tính sau?"

Hứa Hoa Cường nói: "Vậy cũng được".

Lập tức hai người vừa nói chuyện vừa hướng về phía tẩm cung của Hoàng thái hậu.

Hai canh giờ sau, Đỗ Văn Hạo cùng Hứa Hoa Cường lại xuất cung. Đi thẳng về chợ phía Đông.

Vùng chợ phía Đông này phần lớn là đồ cổ, tranh chữ cùng tiệm châu báu. Đỗ Văn Hạo rất ít khi mua đồ cho nữ nhân, phần lớn là các nàng thích cái gì thì tự mình mua là được, vì thế nên lúc này hắn cảm thấy có phần khó khăn.

Hứa Hoa Cường mang theo đội hộ vệ đi cùng Đỗ Văn Hạo, không có mục đích mà đi loạn khắp nơi. Đầu tiên là đi ở phía sau hắn cũng không nói gì, về sau thấy hắn bước tới trước một cửa hàng, mà đây là nơi cuối cùng của chợ rồi, lúc này mới nhịn không được bước lên nhỏ giọng hỏi: "Lão gia, có phải là ngài chưa tìm được món lễ vật nào như ý để tặng Kha Nghiêu tiểu thư?"

Đỗ Văn Hạo xòe hai tay ra, tạo thành dáng điệu bó tay toàn diện: "Còn phải hỏi? Ngươi có ý kiến gì nói ra xem nào?'

"Hay là tặng ngọc khí trân quý?"

"Được đó!" Đỗ Văn Hạo nói, hai người liền bước vào một cửa hàng bán đồ ngọc. Chưởng quầy thấy người tới ăn mặc không tầm thường, tất nhiên chủ nhân là người có tiền, vội vàng đích thân bước tới nghênh tiếp, mặt mày hớn hở nói: "Vị khách quan này không biết muốn mua những thứ gì?"

Đỗ Văn Hạo đi đến trước tủ cẩn thận đánh giá một phen, lại không biết nên chọn những thứ gì, Hứa Hoa Cường ở một bên nói: "Lão gia nhà chúng ta muốn chọn một món quà sinh nhật để tặng muội muội mình, chưởng quầy thử cho ý kiến xem?"

Đỗ Văn Hạo còn chưa cất lời, lúc này ở ngoài cửa một người tiến vào. Chưởng quầy vội tiến lên khom người thi lễ, Hứa Hoa Cường đưa mắt nhìn thì chính là quản gia của Doãn phủ. Người nọ cũng nhìn thấy Đỗ Văn Hạo, không kịp nói chuyện với chưởng quầy, đi đến trước mặt Đỗ Văn Hạo cung kính muốn quỳ xuống. Đỗ Văn Hạo vội vàng ngăn cản. Điều này lọt vào mắt chưởng quầy, liền nghĩ thầm: người này hẳn là quan viên nào đó, nhìn thần sắc của quản gia thì ít nhất cũng phải đạt tới tứ phẩm, cửa hàng này mở trong kinh thành cũng đã được vài chục năm rồi. Loại quan viên nào cũng đã từng gặp gặp qua, nhưng mà trẻ tuổi như vậy , lại nhìn không ra chức quan gì, có lẽ cũng không nên sơ suất. Lão làm sao có thể nghĩ ra rằng, vị thanh niên tuấn tú trẻ tuổi này , vậy mà lại là một tể chấp trong triều.

Chưởng quầy vào nội thất, lấy ra một cái hộp gấm, mời Đỗ Văn Hạo ngồi xuống ở một bên, ra lệnh cho bọn tiểu nhị hầu trà, sau đó mới cẩn thận đặt hộp gấm kia trước mặt Đỗ Văn Hạo.

"Đỗ đại nhân không ngại nhìn xem vật gì ở trong, mặc dù không phải là vật gì hiếm có, nhưng cũng đáng để sưu tầm hoặc là làm quà tặng. Đã là thân nhân, tặng cái này thảo dân cảm thấy rất ổn rồi".

Hứa Hoa Cường mở hộp gấm ra, chỉ thấy ở bên trong có một vòng ngọc màu đen, chất lượng vô cùng tốt, xung quanh tỏa ra những ánh sáng nhu hòa trắng như mỡ dê, Đỗ Văn Hạo cầm lên cẩn thận vuốt ve một hai lần, lại quan sát vị trí tỏa ra ánh sáng. Chưởng quầy cũng không quấy rầy, để cho Đỗ Văn Hạo kiểm tra kỹ một lượt.

"Chưởng quầy, ta cũng không phải là người giỏi phân biệt đồ tốt, nhưng mà ta thấy ngươi lấy từ trong nội thất ra. Hẳn cũng không phải là đồ vật tầm thường". Đỗ Văn Hạo xem xong thì cẩn thận cho vào hộp gấm, mỉm cười nói với chưởng quầy kia.

Chưởng quầy khom người mỉm cười nói: "Đỗ đại nhân tự nhiên là hiểu được, đây chính là điền ngọc ngày hôm trước tiểu nhân mua về từ Tây Vực, loại ngọc này là thượng phẩm trong các loại ngọc, còn được gọi là ngọc mỡ dê, cũng khá là hiếm có. Đỗ đại nhân đã xem kỹ, nếu như mua về cho lệnh muội, nàng hẳn là sẽ rất vui mừng".

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 434: Lời thật.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Đỗ Văn Hạo đối với ngọc thạch quả thật là không có nghiên cứu gì, chỉ buồn bực là không có mang theo Bàng Vũ Cầm tới xem cùng. Đang do dự thì Hứa Hoa Cường ở một bên nói nhỏ: "Lão gia, thời gian không còn sớm nữa".

Đỗ Văn Hạo lập tức hỏi: "Thôi được, ngươi đã bảo tốt thì ta sẽ mua về, bao nhiêu tiền?"

Chưởng quầy nói: "Đỗ đại nhân quang lâm tiểu điếm chính là vinh hạnh của tiểu dân. Ngài xem, vật này...."

Đỗ Văn Hạo nở nụ cười, vị chưởng quầy này cũng biết tạo quan hệ? Trước đó tên quản gia kia cũng đã mang một hộp gấm đi rồi, không biêt bên trong là cái gì, nhưng mà cái hộp kia hẳn là cũng chứa đồ trang sức của nữ nhân. Nói trắng ra chính là hiềm nghi đút lót hối lộ, bản thân mình cũng không thiếu chút bạc này, liền nói: "Ngươi cứ nói bao nhiêu tiền đi, ngươi mua bao nhiêu cứ nói giá bấy nhiêu. Nếu bản thân ngươi cũng không biết giá trị của vật này, ta mua ngược lại không đáng tiền".

Chưởng quầy cười lấy lòng: "Đỗ đại nhân, hay là ngài cứ trả chín mươi lượng là được".

Đỗ Văn Hạo cười to, đứng dậy bước đi, chưởng quỹ kia cuống quýt, vội vàng đuổi theo, nói: "Đỗ đại nhân, ngài chớ đi, nếu ngài còn ngại quá đắt thì tiểu nhân có thể giảm giá".

Hứa Hoa Cường ở một bên nói: "Vừa rồi nói với ngươi rồi, đây là để tặng tiểu thư nhà chúng ta, vậy mà ngươi lại làm cho có đem một món hàng vài chục lượng bạc đến trước mặt lão gia nhà chúng ta, lão gia nhà chúng ta không đi còn ở lại chỗ này làm gì?"

Chưởng quầy gấp gáp tới mức trên trán mồ hồi chảy ròng ròng, vội vàng cất lời giải thích: "Tiểu nhân nào dám qua loa tắc trách, tiểu nhân có ngàn vạn lá gan cũng không dám qua loa tắc trách. Ngài nói không sai, nếu như ngọc này giá trị dưới một ngàn lượng ta cũng sẽ không đưa ra. Nhưng Đỗ đại nhân hạ cố tới cửa hàng, đó là vinh quang của cửa hàng, cho dù ngàn vàng cũng không mua được. Mà mở cửa buôn bán lại không thể cho không, cho nên mới thu chút tiền tượng trưng , vì vậy mới đưa ra cái giá này".

Đỗ Văn Hạo đứng lại trước cửa ra vào, liếc nhìn vị chưởng quỹ kia, nói: "Ừm, coi như là ngươi thành thật. Ta đã thấy qua không ít ngọc, loại vật phẩm nào cũng biết qua chút ít. Ngọc này của ngươi, tuyệt đối là cá già trị ngàn lượng, xem ra ngươi cũng là một người thành thật. Một ngàn lượng là được rồi, không thể để cho ngươi chịu tổn thất".

Chưởng quầy lập tức cảm động, thế gian vẫn còn có một vị quan như vậy, sợ mình bị thiệt thòi, ở đâu còn có quan viên lo lắng cho người khác bị tổn thất như vậy, nghẹn ngào nói: "Đỗ đại nhân, những lời đại nhân nói tiểu nhân chưa bao giờ được nghe qua, thật sự là vô cùng cảm động. Sau này chỉ cần đại nhân hoặc là người trong phủ, yêu thích thứ gì chỉ cần nói một tiếng, tiểu nhân sẽ để lại món tốt nhất cho đại nhân".

Đỗ Văn Hạo mỉm cười mang theo Hứa Hoa Cường ra khỏi cửa hàng ngọc khí, khi đã đi xa Hứa Hoa Cường quay đầu nhìn lại thì vẫn còn thấy chưởng quầy kia còn đứng ở cửa nhìn theo. Hứa Hoa Cường nói với Đỗ Văn Hạo: "Đại tướng quân, trong nhà trân bảo có rất nhiều. Tại sao không dùng một món để làm quà sinh nhật cho tiểu thư, cứ phải ra ngoài dùng tiền mua quà?"

"Ngươi thì biết cái gì!" Đỗ Văn Hạo cười nói: "Nàng là nghĩa muội của ta, ở trong nhà có cái gì thì cũng là của nàng, ngươi đã thấy ai dùng đồ trong nhà tặng người nhà mình chưa?"

"Nói vậy cũng đúng, hắc hắc".

Đỗ Văn Hạo mang theo đội hộ vệ trực tiếp đi vào nhà Thái Kinh, chuẩn bị cùng sứ thần bí mật Tây Hạ đàm phán, nhưng người gác cổng nói Thái Kinh vừa đi ra ngoài, cũng không biết là đã đi đâu, khi nào trở về, đều không nói. Đỗ Văn Hạo liền lưu lại lời, bảo rằng khi nào Thái Kinh vừa về đến thì lập tức thông báo cho mình. Người gác cổng lập tức đáp ứng.

Mấy người Đỗ Văn Hạo về đến nhà thì thấy mấy cái đèn lồng màu đỏ thẫm treo trước cửa, cũng lập tức cảm thấy vui vẻ, bước vào cửa phòng. Chỉ thấy trong sân xếp đặt mấy cài bàn, vài nha hoàn trả vải đỏ lên trên. Mái hiên phòng ốc đều được treo lụa đỏ, Hứa Hoa Cường nhìn thấy liền có cảm giác tò mò, thấp giọng nói: "Tại sao lại náo nhiệt như là thành thân vậy?"

Đỗ Văn Hạo không nhịn được mà nở nụ cười, lúc này đã thấy Bàng Vũ Cầm từ trong phòng của nàng đi ra, Đỗ Văn Hạo đi đến nói chuyện với Bàng Vũ Cầm.

"Các nàng mua cho nha đầu kia lễ vật gì vậy?" Đỗ Văn Hạo hỏi.

Bàng Vũ Cầm đáp: "Trong chốc lát lúc ăn uống mọi người đưa ra, chẳng phải tướng công sẽ biết hay sao? Còn chàng mua cái gì?"

Đỗ Văn Hạo cố ý thừa nước đục thả câu không chịu nói, Bàng Vũ Cầm cũng không tiếp tục hỏi cho ra, mà nói: "Chuẩn bị xong hết rồi, chàng xem có được hay không?"

Đỗ Văn Hạo nói: "Rất tốt, làm phiền phải lo chu toàn rồi".

Bàng Vũ Cầm đáp: "Ta nghĩ chỉ mấy người chúng ta thì không vui vẻ lắm, cho nên bảo Anh Tử phân phó làm cơm, để cho tất cả mọi người cùng tới dự sinh nhật Kha Nghiêu. Như vậy hẳn là sẽ vui vẻ hơn".

Đỗ Văn Hạo cũng cảm thấy như vậy rất hay. Bàng Vũ Cầm lại nói: "Tướng công, Kha Nghiêu nha đầu cũng đã đến tuổi lấy chồng rồi. Chàng cũng nên để ý tìm một nhà khá giả, cũng coi như là để cho nàng có chỗ nương tựa".

Trong nội tâm Đỗ Văn Hạo ầm một tiếng, chẳng biết tại sao lại cảm thấy chua xót, phẫn nộ, nhưng vẫn cố mỉm cười: "Nói cũng đúng, điều này ta sẽ ghi nhớ trong lòng".

Nói xong lại hỏi thời gian ăn cơm, liền mượn cớ mệt mỏi tránh vào thư phòng.

Kha Nghiêu trốn ở trong phòng, bởi vì hôm nay là sinh nhật của nàng, người ở trong nhà cũng không để cho nàng hỗ trợ, nàng cũng nhàn rỗi vô sự, lúc đầu thì nằm trên giường không ngủ được. Tiếng trò chuyện ở ngoài cửa líu ríu náo nhiệt vô cùng, nhưng trong lòng cảm thấy vô cùng ấm áp, tuy không phải thật sự là người một nhà nhưng có thể đối đối đãi với nàng như vậy, Kha Nghiêu làm sao mà không cảm động cho được? Thế là nàng đứng dậy đứng trước cửa sổ xem bọn họ bận rộn làm việc. Đột nhiên Kha Nghiêu nhìn thấy một thân ảnh quen thuộc từ cửa đi vào, đang tiến về phía này. Trái tim nàng đập thình thịch, tâm trạng khẩn trương, nàng vội ngồi xuống ghế, lỗ tai dán lên tường nghe bọn họ nói chuyện, sau khi nghe xong, trong lòng cảm thấy trống trải. Không nhịn được mà lẩm bẩm: "Cái đồ không có lương tâm, chiếm hết tiện nghi của người ta, giờ đây lại muốn đẩy người ta ra ngoài".

Nói xong thì hung hăng đá một cước vào chân bàn, chỉ nghe cạch một tiếng, chén trà trên bàn bị chấn động, lung lay trên mặt bàn vài lần rồi rơi xuống mặt đất, Kha Nghiêu lập tức hoa dung thất sắc. 'Ôi' một tiếng, ngồi xổm xuống, hai tay xoa xao bàn chân nhỏ, miệng không ngừng xuýt xoa.

Đỗ Văn Hạo trở lại thư phòng. Trong đầu nghĩ đến lời nói vừa rồi của Bàng Vũ Cầm, đã một thời gian rất lâu không thấy khuôn mặt tuyệt mỹ kia. Trong đầu Đỗ Văn Hạo hiện lên hình ảnh: Hoặc mừng hoặc lo, hoặc giận dữ hoặc phẫn nộ. Cô gái này không phải là đã nói không thích ta sao, nàng bất đồng với những nữ nhân khác, chợt gần chợt xa, không thể hiểu được rốt cuộc trong đầu nàng đang nghĩ gì.

Đỗ Văn Hạo nằm ở trên giường êm thất thần. Đột nhiên có tiếng gõ cửa, sau đó là Lâm Thanh Đại mặc một thân y phục màu hồng đi vào, hắn liền ngoắc tay ra hiệu cho nàng bước tới.

Lâm Thanh Đại đóng cửa lại, đi đến bên người Đỗ Văn Hạo ngồi xuống, thấy dường như là Đỗ Văn Hạo có tâm sự, liền cười nhẹ hỏi: "Thời gian gần đây chàng thật là vất vả, tại sao không xin nghỉ một thời gian để ở nhà tĩnh dưỡng?"

Đỗ Văn Hạo uể oải cười cười, nắm lấy tay của Lâm Thanh Đại, thở dài một tiếng: "Ta cũng muốn vậy lắm, nhưng giờ thì chưa thể được! Đúng rồi! Kha Nghiêu đang làm gì?"

Lâm Thanh Đại nhì thật sâu vào mắt Đỗ Văn Hạo. Nhìn tới mức Đỗ Văn Hạo không dám nhìn thẳng vào, nàng vốn rất hiểu mình, chẳng lẽ.......

Đỗ Văn Hạo vội vã lấp liếm: "Nàng nhìn cái gì, trên mặt ta bị rỗ sao?"

Lâm Thanh Đại nói: "Không có".

Đỗ Văn Hạo nói: "Vậy tại sao nàng lại nhìn ta như vậy?"

Lâm Thanh Đại vẫn nhìn như trước, con mắt lom lom nhìn Đỗ Văn Hạo, khiến cho nội tâm hắn càng hoảng hốt, liền ôm lấy Lâm Thanh Đại, như vậy là hai người sóng vai, nàng không thể nhìn thấy ánh mắt của mình nữa.

Lâm Thanh Đại hỏi: "Chàng cùng Kha Nghiêu làm sao vậy?"

Đỗ Văn Hạo giả ngu trả lời: "Làm sao vật là sao, rất tốt mà!"

Lâm Thanh Đại hừ một tiếng, xem thường nói: "Không nói thì thôi!" Nói xong làm ra vẻ muốn đứng dậy.

Đỗ Văn Hạo vội nói: "Thanh Đại tốt, nàng không nên vội vã, để ta nói cho nàng là được chứ gì". Nói xong liền kéo Lâm Thanh Đại ngồi xuống lần nữa, sau đó đem chuyện tình mấy ngày trước mình say rượu làm với Kha Nghiêu kể vắn tắt cho Lâm Thanh Đại nghe.

Lâm Thanh Đại nghe xong không nhịn được che miệng cười trộm: "Ta đã đoán là hai người nhất định xảy ra chuyện gì đó. Ta hỏi nàng, nàng lại giống như chàng lúc nãy, vậy chàng tính sao đây, thu xếp nàng ra sao?"

Đỗ Văn Hạo thì thào không biết nên trả lời như thế nào.

Lâm Thanh Đại nhìn thấy vẻ mặt của Đỗ Văn Hạo, liền nói: "Sao vậy? Chàng không thể cứ để như vậy, nha đầu nhìn thấy này vô cùng mẫn cảm, chàng không thể làm tổn thương nó. Tuy trước đây nàng nói như vậy, nhưng cũng không phải là nàng sai, thân thể của nàng vẫn còn trong sạch, nếu như chàng...."

Đỗ Văn Hạo đưa tay che cái miệng nhỏ nhắn của Lâm Thanh Đại, nói: "Xem nàng kìa, người ta chưa nói gì, thì cái gì nàng cũng đã nói ra hết rồi".

Lâm Thanh Đại duỗi ngón tay mảnh dẻ khẽ dứ vào trán Đỗ Văn Hạo một cái, rồi nói: "Chỉ biết rằng trong lòng hai người đều có quỷ, ta còn đang bận rộn, nói đi, nếu như không nói ta thật sự phải đi rồi".

Đỗ Văn Hạo lúc này mới tỉ mỉ đem việc mình sau rượu trong nội cung kể lại cho Lâm Thanh Đại nghe, Lâm Thanh Đại cũng không cười nữa. Đứng dậy đi tới trước cửa, không nói câu nào.

Đỗ Văn Hạo hỏi: "Nàng nghe xong cũng không nói gì, cuối cùng là nàng đang nghĩ gì thế?"

Lâm Thanh Đại quay đầu lại liếc nhìn Đỗ Văn Hạo, cười nói: "Còn có thể như thế nào nữa, chàng cũng không thể chiếm tiện nghi rồi cho qua, chẳng lẽ đợi muội tử nói ra?"

Đỗ Văn Hạo cười khổ nói: "Ta nói rồi, nhưng nàng là muội tử, nàng cũng đã từng nói tuyệt đối không làm thiếp".

Lâm Thanh Đại trừng mắt, nhíu mày: "Sự do chàng làm. Ài, ta không thẻ quản tới nữa, việc này là chuyện của hai người, dù sao các người cũng hơn mười ngày không gặp mặt. Không bằng thừa dịp tối nay là sinh nhật của nàng , thử buông lời thăm dò, tất cả mọi người đều uống rượu, dùng rượu lấp liếm, như vậy cũng sẽ không khó xử".

Đỗ Văn Hạo ngượng ngùng nói: "Nếu vậy nàng sẽ không để ý nếu ta lấy Kha Nghiêu?"

Lâm Thanh Đại chăm chú nhìn hắn một lúc, buồn bã nói: "Nếu ta nói không quan tâm thì chàng tin sao?" Dứt lời, Lâm Thanh Đại cũng không nhìn hắn nữa, mà đứng dậy mở cửa phòng đi ra ngoài.

Bàng Vũ Cầm không có lưu ý, lại gọi Lâm Thanh Đại, nói: "Thanh Đại, vừa rồi cha của Phi Nhi tới rồi, nghe nói là sinh nhật của Kha Nghiêu cho nên đã gọi người đưa đến hai hai bình rượu trắng tự mình ủ mem, ta đã nhìn qua rất ngon. Liên Nhi nói tỷ rất thích uống rượu Quế Hoa. Ta bảo nha hoàn lấy cho riêng tỷ.

Lâm Thanh Đại không đợi Bàng Vũ Cầm nói xong, âm thầm kéo vạt áo của Đỗ Văn Hạo, rồi sau đó đi thẳng xuống phía dưới, nói: "Không cần, ăn uống giống như mọi người là được rồi".

Nói xong, mọi người chờ Đỗ Văn Hạo tới vị trí chủ bàn ngồi xuống, sau đó mọi người đều ngồi vào vị trí của mình , Lâm Thanh Đại cố ý an bài Kha Nghiêu ngồi ở bên trái, Bàng Vũ Cầm thì ngồi ở bên phải ở bên phải, bản thân nàng ngồi với Tuyết Phi Nhi, Liên Nhi thì ngồi cùng một chỗ với Bàng Vũ Cầm.

Bàng Vũ Cầm thấy hạ nhân trong nhà đều đã ngồi xuống, lúc này mới nhỏ giọng nói với Đỗ Văn Hạo: "Lão gia, chàng nói vài câu đi".

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn Kha Nghiêu, thấy nàng cũng đang đưa mắt nhìn sang, bốn mắt nhìn nhau, Kha Nghiêu túng túng mỉm cười, đưa ánh mắt chuyển qua Tiền Bất Thu ở phía đối diện.

Đỗ Văn Hạo cười cười, hắng giọng một cái rồi nói: "Hôm nay là sinh nhật của Kha Nghiêu, lời đầu tiên đáng ra là để cho nàng nói, nhưng mà ta lại là huynh trưởng cho nên vì nàng mà nâng chén chúc phúc trước tiên, để cho ta nói hai câu cũng không có gì không được".

Kha Nghiêu ở một bên thấp giọng: "Nói cả nửa ngày, cũng không hiểu huynh đang nói điều gì".

Đỗ Văn Hạo nghe thấy Kha Nghiêu nói như vậy, trong lòng cười thâm, thật ra chính mình cũng không biết phải nói gì, tiểu ni tử ngươi cười cái gì, cẩn thận vui quá hóa buồn.

Đỗ Văn Hạo tùy tiện nói vài câu chúc mừng sinh nhật, sau đó mọi người cùng nhau đứng dậy nâng chén, có thể nhìn ra rằng Kha Nghiêu rất cảm động, mấy lần mở miệng muốn nói đều không được, đó là do nghẹn ngào không biết nên nói gì cho phải. Bàng Vũ Cầm thấy vậy liền bảo Kha Nghiêu nâng cốc lên uống cạn chén, kính mọi người trước, sau đó mọi người vui vẻ uống rượu dùng bữa.

Tuyết Phi Nhi vừa mới ăn được một lúc liền dắt theo Liên Nhi tới mời rượu Kha Nghiêu. Sau đó tất cả mọi người theo họ, Bàng Vũ Cầm ở một bên ngăn cản không nổi. Do Kha Nghiêu không hề cự tuyệt , chỉ cân chén tới là bản thân cũng cụng một ly đáp lễ. Vì vậy chỉ chốc lát sau nha đầu này mặt đã đỏ như quả gấc.

Đỗ Văn Hạo thấy cảnh này, cũng không khuyên can. Vốn là nha đầu này tửu lượng không cao, sau khi mỗi người đã chúc một chén, đến người thứ mười thì hắn khẽ chạm vào tay Lâm Thanh Đại, sau đó đưa mắt ra hiệu cho nàng. Lâm Thanh Đại hiểu ý đứng dậy nhẹ nhàng cản mấy người đang muốn chúc rượu Kha Nghiêu: "Được rồi, sinh nhật nên vui vẻ là chính, thân thể Kha Nghiêu tiểu thư vốn không tốt, nếu như say thì ngày mai sẽ không thoải mái, có lòng là tốt rồi, không nên để nàng uống quá nhiều".

Thấy tứ phu nhân mở miệng, mọi người cũng không tiếp tục mời rượu nữa. Đứng ở một bên nói lời chúc phúc , sau đó đưa rượu đi. Những người ở phía sau vốn là cũng muốn tiến lên mời rượu, nhưng thấy Tứ phu nhân nói vậy cũng không dám mời nữa.

Sau đó Lâm Thanh Đại bảo nha hoàn chuẩn bị cho Kha Nghiêu một bát nước canh giải rượu, chỉ thấy khôn mặt nhỏ nhắn xinh xắn của Kha Nghiêu đỏ bừng lên, đôi mắt long lanh như nước, phảng phất như muốn rơi ra vài giọt thanh lệ, khuôn mặt từ đầu tới cuối vẫn mang vẻ tươi cười. Có đôi khi lại lộ ra hàm răng trắng tinh, hẳn là do uống quá nhiều rượu, cho nên thỉnh thoảng lại đưa lưỡi liếm môi, động tác này vô cùng hấp dẫn, khiến cho Đỗ Văn Hạo ở một bên nhiệt huyết sôi trào.

Kha Nghiêu một tay bưng má, một tay đưa chén lên, miệng nói mấy câu mơ hồ không rõ: "Đến đây, tỷ tỷ, chúng ta uống rượu".

Lâm Thanh Đại đổi chén rượu trong tay Kha Nghiêu thành một bát sút dã rượu, dịu dàng nói: "Nha đầu láu lỉnh, uống cái này đi, uống sẽ không cảm thấy khó chịu nữa".

Kha Nghiêu tưởng là rượ, liền ngửa đầu uống liên tục một ngụm, không ngờ lại quá nhiều cho nên bị sặc, ho khan liên tục, Đỗ Văn Hạo vừa vặn ở phía sau Kha Nghiêu, Bàng Vũ Cầm thấy Đỗ Văn Hạo ngẩn người, liền nói: "Lão gia, nhanh vỗ lưng cho nha nha đầu".

Đỗ Văn Hạo nghe lời này mới hồi phục tinh thần vội vàng nhẹ nhàng vỗ lên lưng Kha Nghiêu mấy cái, đến khi Kha Nghiêu đỡ hơn mới dừng tay.

Kha Nghiêu đứng dậy quay đầu lại nhìn Đỗ Văn Hạo, cười nói: "Cầm tỷ tỷ, tỷ còn chưa biết rõ người này sao. Khi tỉnh táo thì nào có biết ân cần , lo lắng cho ai bao giờ đâu."

Lâm Thanh Đại thấy Đỗ Văn Hạo khó xử, hiểu rằng Kha Nghiêu đang nói tới việc say rượu đêm hôm đó, trong lòng cười thâm, trên mặt lại không lộ ra biểu tình gì, chỉ nói: "Muội xem muội không giữ mồm giữ miệng kìa, còn không biết mình đã uống nhiều quá, ngay cả ca ca của mình không nhường nhịn".

Mọi người nghe xong lời này, cũng không hiểu tại sao, nhưng đều nở nụ cười.

Kha Nghiêu hừ mũi một tiếng, ngồi thẳng dậy, Tuyết Phi Nhi hỏi: "Kha Nghiêu, không sao chứ?"

Kha Nghiêu cười cười nói: "Có thể có chuyện gì chứ? Yên tâm đi , ta sẽ không say đâu".

Tuyết Phi Nhi: "Vậy thì tốt rồi, giờ chúng ta lại uống tiếp".

Đỗ Văn Hạo sốt ruột, vội vàng nói: "Phi Nhi, Kha Nghiêu không thể uống nữa".

Tuyết Phi Nhi bĩu môi với Đỗ Văn Hạo, sau đó nói: "Người ta cũng không nói gì, sao ca ca ngươi lại đau lòng vậy?"

Lâm Thanh Đại: "Nói vậy cũng không đúng, huynh trưởng thương yêu muội muội của mình là đương nhiên chứ sao?"

Tuyết Phi Nhi liếc nhìn Kha Nghiêu, nói: "Thanh Đại tỷ tỷ nói không sai, vậy được rồi, lão gia đã không để cho ta uống cùng Kha Nghiêu, vậy thì không uống vậy".

Kha Nghiêu cũng không thuận theo, lắc la lắc lư đi đến trước mặt Tuyết Phi Nhi, khi đi ngang qua trước mặt Đỗ Văn Hạo, hai người liếc nhau một cái. Ánh mắt kia không giống với ngày thường, nhưng sau đó hai người đều nhanh chóng dời mắt đi.

Kha Nghiêu đi đến sau lưng Tuyết Phi Nhi, nói: "Mặc kệ hắn, hắn cũng không phải là thân ca ca của ta, chúng ta uống tiếp".

Liên Nhi sau khi nghe xong, không hiểu ý tứ trong đó, sợ Đỗ Văn Hạo nghe xong lời này sẽ không vui, cho nên vội vàng nói khẽ với Kha Nghiêu: "Kha Nghiêu, muội thật sự say rồi, muội nói vậy không sợ lão gia sẽ thương tâm hay sao?"

Liên Nhi cùng Tuyết Phi Nhi ngồi cùng một chỗ, Tuyết Phi Nhi cũng nghe thấy, nhân tiện nói: "Ta xem cũng chưa hẳn thế. Kha Nghiêu, hai người chúng ta uống rượu, uống rượu rồi mới có thể nói lời thật lòng!"

Kha Nghiêu cười khúc khích, cũng không biết là có say thật hay không. Giống như không nghe lời kia của Tuyết Phi Nhi, lại cạn chén với Tuyết Phi Nhi.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 435: Đàm phán.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Hai người uống xong, Tuyết Phi Nhi nói: "Kha Nghiêu, ngày thường lão gia đối với ngươi tốt nhất, hẳn là phải kính lão gia một ly?"

Chẳng biết tại sao thân thể Kha Nghiêu lung lay, Liên Nhi vội đỡ lấy nói: "Phi Nhi, đừng để cho Kha Nghiêu uống nữa, nàng thật sự say rồi".

Tuyết Phi Nhi cũng không để ý, dìu Kha Nghiêu đi đến trước mặt Đỗ Văn Hạo: "Lão gia, Kha Nghiêu đến mời rượu chàng này". Nói xong, nhìn Đỗ Văn Hạo cười quỷ dị, sau đó bỏ đi ngồi vào vị trí của mình.

Trái tim Kha Nghiêu đập thình thịch, nàng ngửi thấy mùi vị hôm đó, là cái tư vị của nam nhân, nàng có phần mê hoặc, một tay nâng chén, một tay đặt ở trên vai của Lâm Thanh Đại, vì không thể tự mình hành động nên nàng sai nha hoàn rót đầy rượu vào chén. Nàng hiểu rằng Đỗ Văn Hạo đang nhìn mình, nàng cũng không dam đối mặt, tất cả mọi người trong sân đang nhìn mình, nàng có phần chột dạ.

"Chúng ta uống rượu!" Kha Nghiêu cúi đầu nói.

Tuyết Phi Nhi buông lời trêu đùa: "Kha Nghiêu, từ lúc nào cả hai chữ ca ca cũng không chịu xưng hô?"

Bàng Vũ Cầm mỉm cười trừng mắt với Tuyết Phi Nhi, Tuyết Phi Nhi cũng chỉ cười cười.

Kha Nghiêu ha ha hai tiếng, cũng không nói gì, Đỗ Văn Hạo ôn nhu nói: "Tâm ý của muội ta xin nhận, chén rượu này ta uống , muội không cần uống nữa". Nói xong, đang muốn uống thì đã thấy Kha Nghiêu ngửa đầu muốn uống. Hắn vội vàng giữ tay nàng lại, khoảng khắc này thời gian như đông đặc lại, đình chỉ hoạt động. Một lúc sau, Đỗ Văn Hạo mới buông ra, nói: "Nghe lời đi, không cho muội uống nữa, muội không được uống nữa".

Kha Nghiêu thấy nhìn tay của Đỗ Văn Hạo buông cổ tay mình ra, nhưng nhiệt độ nắm tay của hắn vẫn còn dư âm. Nàng ngẩng đầu nhìn Đỗ Văn Hạo, trong ánh mắt có oán giận, có yêu thương, còn có nhiều biểu cảm rất khó diễn đạt.

Đỗ Văn Hạo Đỗ vội ho một tiếng, Tuyết Phi Nhi liền nói: "Lão gia, hôm trước phu nhân còn nói Kha Nghiêu nhà chúng ta qua năm nay cũng là một đại cô nương rồi, chúng ta cũng đã trở về, chàng cũng nên nhanh chóng tìm cho Kha Nghiêu một gia đình nhà chồng môn đăng hộ đối".

Kha Nghiêu nghe xong lời này, chén ở trên tay rung một cái, toàn bộ rượu đổ vào áo bào của Đỗ Văn Hạo. Liên Nhi thấy vậy, oán trách: "Kha Nghiêu, muội xem kìa, sao lại đổ hết rượu lên áo bào của lão gia".

Kha Nghiêu lúc này mới kịp phản ứng, "a!" một tiếng, vội đặt chén xuống , lấy ra một chiếc khăn thơm lau cho Đỗ Văn Hạo, nhưng ngược lại càng lau càng luống cuống. Đỗ Văn Hạo vội giữ chặt tay Kha Nghiêu lại, khẽ mỉm cười , nói: "Được rồi. Mọi người ăn cơm tiếp đi, muội không nên uống rượu nữa, ta trở về phòng thay một bộ y phục khác".

Trong lòng Đỗ Văn Hạo hiểu rõ vì sao mà Kha Nghiêu lại thất thố như vậy, hôm nay Tuyết Phi Nhi thỉnh thoảng lại khiêu khích. Xem ra là đã nhìn ra điều gì đó, nếu không thì với tính cách vốn có của nàng, nàng không phải là loại nữ tử hay gây sự".

Đỗ Văn Hạo bảo Lâm Thanh Đại đỡ Kha Nghiêu ngồi xuống, sau đó bảo mọi người tiếp tục ăn cơm, Liên Nhi đứng lên nói: "Lão gia , ta đi cùng với chàng". Nói xong liền đứng dậy.

Lâm Thanh Đại đột nhiên nói: "Tuy nói hôm nay là ngày thọ tinh của Kha Nghiêu, nhưng dù sao cũng chính là nàng làm bẩn y phục của ca ca . Liên Nhi, muội cứ ngồi ăn cơm, để cho Kha Nghiêu đi cùng lão gia là được rồi".

Bàng Vũ Cầm nói: "Điều này không thích hợp, hôm nay là sinh nhật của Kha Nghiêu cơ mà?"

Lâm Thanh Đại nói: "Không có gì đáng ngại cả, cứ để cho bọn họ đi đi".

Kha Nghiêu cũng đứng dậy nói: "Vậy muội đi cùng, ca ca! Chúng ta đi thôi".

Đỗ Văn Hạo không ngờ rằng Kha Nghiêu sẽ nói như vậy, nghĩ thế nào cũng không ra, nhưng bản thân hắn lại không biết tại sao không hề mở miệng, cũng không có chờ Kha Nghiêu, tự mình rời bàn trước.

Rời khỏi tiền viện, Đỗ Văn Hạo bước nhanh qua một cái cổng vòm, sau đó đừng ở cổng vòm. Lúc này liền nghe thấy tiếng bước chân vọng từ xa tới gần, lúc tiếng bước chân tới trước cổng vòm, Đỗ Văn Hạo đưa một tay ôm lấy thân thể Kha Nghiêu, nhân thể hai người ôm chặt nhau cùng một chỗ.

Qua một hồi lâu, Đỗ Văn Hạo mới buông Kha Nghiêu ra, cúi đầu nhìn thấy vẻ mặt thẹn thùng của Kha Nghiêu đang nhìn mình, trong lòng ngứa ngáy, muốn cắn cái miệng nhỏ nhắn hồng nhuận kia , hương vị nhất định là vô cùng ngọt ngào.

"Nha đầu ngốc, muội trốn tránh ta làm gì?" Sau đó Đỗ Văn Hạo đưa Kha Nghiêu tiến đến sau một hòn non bộ, hai người tìm một chỗ ngồi xuống, Đỗ Văn Hạo ôn nhu hỏi.

Kha Nghiêu cắn nhẹ môi một cái, cả nửa ngày cũng không nói gì.

Đỗ Văn Hạo cảm thấy nôn nóng, hiểu rằng mọi người ở tiền viện đều đang chờ bọn họ, hẳn là rất nhanh sẽ sai người tới gọi, liền nói: "Đang hỏi muội đó".

Kha Nghiêu ngập ngừng nói: "Muội đâu có ý trốn tránh huynh, nhưng mà lại sợ huynh uống nhiều rượu rồi lại làm chuyện điên khùng".

Đỗ Văn Hạo nở nụ cười, nói: "Thật vậy ư? Vậy muội xem bây giờ ta có say không?"

Kha Nghiêu không dám nhìn, Đỗ Văn Hạo đưa hai tay nâng khuôn mặt của Kha Nghiêu, hai người lúc này chỉ các nhau một cái nắm tay của đưa bé, cả hai đều có thể cảm nhận được hơi thở phát ra từ đối phương, Kha Nghiêu nuốt một ngụm nước bọt, cúi mặt xuống, thấp giọng nói: "Không biết".

Đỗ Văn Hạo cũng nhịn không được nữa, đôi môi của hắn nhẹ nhàng đi xuống, ôm nhu hôn lên mắt của nàng. Trong nháy mắt, một loại cảm động ngọt ngào làn tràn khắp nội tâm Kha Nghiêu, khiến cho nàng có cảm giác muốn rơi lệ, cũng với động tác ôn nhu như vậy, Đỗ Văn Hạo hôn lên từng vị trí trên khuôn mặt của nàng.

Kha Nghiêu khẽ run rẩy, hai mắt nhắm lại, đến khi hắn hôn lên môi nàng thì một cảm giác ngọt ngào khiến cho nàng chấn động, đây là cảm giác gì? Vì sao trước kia nàng chưa có cảm nhận được như vậy?

"Không! Không nên như vậy! Ca, không nên như vậy!" Kha Nghiêu nhẹ giọng rên rỉ: "Huynh chỉ biết khi dễ muội, mỗi lần say, huynh lại nổi điên đùa giỡn ta, đến khi tỉnh lại không nhớ gì nữa".

Đỗ Văn Hạo đau lòng cầm tay của Kha Nghiêu đặt lên ngực mình, nói: "Sao lại không nhớ cơ chứ, chỉ là chính muội đã nói... Ài!"

Đúng lúc này, hai tỳ nữ cách đó không xa đang tiến tới, Đỗ Văn Hạo nhìn vậy, vội vàng đỡ Kha Nghiêu dậy, hai tỳ nữ tiến đến làm lễ: "Lão gia, phu nhân nói tất cả mọi người đều đang tập trung ở tiền viện, người xem giờ tiếp tục ăn uống hay là giải tán?"

Đỗ Văn Hạo nhìn Kha Nghiêu rồi nói: "Khó có dịp mọi người tụ tập lại cùng một chỗ", không cần phải kết thúc sớm như vậy. Tiếp tục ăn uống".

Hai tỳ nữ sau khi nghe xong đều cảm thấy cao hứng, đều khom người lui xuống.

Đỗ Văn Hạo lại kéo tay của Kha Nghiêu, lúc này Kha Nghiêu lại tránh né, tựa ở trên hiên cửa, quay đầu lại cười gượng: "Ca, đừng vì chuyện này mà khổ não, coi như chúng ta chưa từng phát sinh chuyện gì. Sau này cũng đừng vụng trộm thân mật cùng muội nữa, muội sẽ cảm thấy áy náy. Huynh yên tâm, gặp được người phù hợp thì muội sẽ tự mình gả ra ngoài, sẽ không ỷ lại mà ở cạnh huynh cả đời , bằng không mọi người sẽ khinh thường muội".

"Kha Nghiêu!"

Lúc này Kha Nghiêu đã xoay người chạy xuống đường hành lang, chạy tới phòng trước.

Trong nội tâm Đỗ Văn Hạo không hiểu là cái tư vị gì nữa, hắn chắp tay sau lưng trở lại phòng, lúc này thấy Kha Nghiêu đang cùng mọi người uống rượu. Tiếng cười vang lên như chuông bạc.

Đỗ Văn Hạo đang muốn ngồi xuống, người gác cổng gấp gáp chạy tới, khom người bẩm báo: "Lão gia, Phủ Doãn Khai Phong Thái Kinh Thái đại nhân đến chơi!"

Đầu Đỗ Văn Hạo nghĩ nhanh, tên đại gian thần này cuối cùng đã trở lại! Đàm phán với sứ thần Tây Hạ chính là sự tình rất quan trọng, cũng không còn cách nào khác nữa, hắn vỗ vai Bàng Vũ Cầm: "Các nàng cứ tiếp tục uống, ta có công vụ khẩn cấp cần xử lý, khả năng là thời gian sẽ không ngắn, mọi người đừng uống say, đặc biệt là Kha Nghiêu, sinh nhật vốn là việc vui, nhưng uống sau thì ngày hôm sau rất khó chịu".

Kha Nghiêu cười nói: "Không say thì mới gọi là khó chịu ấy. Ca, đừng lo lắng, ta không sao! Huynh nhanh đi đi! Phi Nhi, không phải tỷ muốn cùng ta đánh cuộc ai say phải nằm ở cống ngầm sao? Chúng ta đấu rượu , thế nào?"

"Được đó! Ai sợ ngươi chứ!"

"Không được!" Lâm Thanh Đại nói: "Hai người các ngươi điên rồi? Uống với nhau, muốn uống rượu cũng phải có phương pháp, các ngươi uống rượu rồi, còn chúng ta còn chưa được uống, đừng quá ích kỷ như vậy".

Kha Nghiêu nói: "Đúng đúng! Tỷ nói rất đúng! Nào! Không nên uống như vậy, chúng ta chơi tửu lệnh đi!"

Bàng Vũ Cầm vỗ tay nói: "Ý kiến này rất hay! Uống tửu lệnh, tướng công bận việc thì nhanh đi đi, nếu không sẽ không để cho Kha Nghiêu uống rượu".

Kha Nghiêu trừng mắt nói: "Khó mà làm được lắm, đêm nay không uống say, thì cái sinh nhật này không có ý nghĩa rồi. Ca, huynh nhanh đi đi, muội không sao, các nàng muốn chuốc cho ta say khướt sợ rằng chưa có bổn sự".

Đỗ Văn Hạo hắc hắc cười , sau đó dặn Anh Tử mấy câu cẩn thận chăm sóc cho nàng, sau đó mời nhanh chóng bước khỏi tiểu viện, đi vào chính đường.

Đỗ Văn Hạo thấy chỉ có một người là Thái Kinh, hơi ngạc nhiên, Thái Kinh tiến lên khom người thi lễ: "Ty chức tham kiến Đỗ tể chấp!"

"Ừm!" Đỗ Văn Hạo nhìn hai bên một chút, giảm thấp âm thanh nói: "Sứ thần Tây Hạ đâu?"

"Tại chỗ ở của ty chức".

"Được, vậy chúng ta đi thôi, Thái Hoàng Thái Hậu đã đồng ý cùng bọn họ thương lượng. Cũng trao quyền cho bổn quan phụ trách đàm phán".

"Thật tốt quá!" Thái Kinh vui vẻ nói: "Vừa rồi ty chức còn lo lắng, trong phủ thường xuyên có người đến người đi, lúc nào cũng lo lắng bị người ta phát hiện ra , cho nên muốn tìm một chỗ an toàn để sứ thần chuyển đến. Nhưng tìm mãi mà vẫn không tìm được chỗ phù hợp".

"Không cần tìm nữa, nói chuyện xong có thể cho hắn trở về".

"Đúng vậy, ty chức cũng không ngờ lại nhanh như vậy, hắc hắc".

Bởi vì muốn che dấu tai mắt người khác , lúc này Đỗ Văn Hạo không dùng kỵ mã, mà ngồi kiệu đi tới phủ đệ của Thái Kinh.

Thái Kinh an trí sứ thần bí mật ở trong một sương phòng bên cạnh phòng mình. Sau khi vào cửa gặp một lão nhân đứng trước cửa, hai tay sau lưng đang thất thần nhìn ra bên ngoài. Nghe thấy tiếng bước chân, lúc này mới xoay mặt lại.

Thái Kinh vội vàng giới thiệu với người nọ: "Mã đại nhân, vị này chính là tể chấp tân nhậm của Đại Tống ta, Tam Nha Đô Điểm Kiểm Đỗ Văn Hạo Đỗ đại nhân. Đỗ tể chấp, vị này chính là sứ thần bí mật của Tây Hạ Huệ Tông Đế phái tới, tên gọi là Thiện Lý Cống Mã( gọi tắt là Nguy Mã), là thân cận của Huệ Tông Đế".

Nguy Mã lập tức đánh giá Đỗ Văn Hạo, sau đó chắp tay nói: "Nguy Mã hữu lễ!"

Người này nói tiếng hán cũng không tệ lắm, Đỗ Văn Hạo cũng chắp tay hoàn lễ, ngồi xuống chiêc ghế bên cạnh, sau đó ra hiệu cho Nguy Mã cũng ngồi xuống".

Đỗ Văn Hạo nói: "Nguy đại nhân đại diện cho Huệ Tông Đế tới đây sao?"

"Đúng vậy!" Nguy Mã lấy từ trong lồng ngực ra một quyển trục màu vàng, hai tay dâng lên cho Đỗ Văn Hạo: "Đây là công văn giao quyền của Huệ Tông Đế".

Đỗ Văn Hạo tiếp nhận, tiến hành xem xét, đích thật là thánh chỉ của Tây Hạ quốc, nhìn qua dòng chữ và con dấu chỉ thấy: "Trao quyền cho Nguy Mã trao đối với trao đổi 'chuyện quan trọng của hai nước' ".

Thánh chỉ ghi một cách mơ hồ, nhưng như thế có thể thấy Huệ Tông Đế này hết sức cẩn thận.

Đỗ Văn Hạo trả thánh chỉ lại cho hắn, nói: "Nguy đại nhân trước tiên nói về ý kiến của các ngài đi".

"Được , ta sẽ đi thẳng vào vấn đề. Vào lúc này, đại quyền đều rơi vào tay của Lương thái hậu, Hoàng Thượng muốn mời Đại Tống hỗ trợ đoạt lại hoàng quyền, xong việc nhất định sẽ có hậu lễ đáp tạ".

"Ừm, cụ thể các người muốn chúng ta giúp như thế nào để Huệ Tông Đế có thể đoạt lại hoàng quyền?"

"Được biết rằng Lương thái hậu sắp đưa quân thị sát biên cảnh Tống-Hạ. Đến lúc đó người của chúng ta sẽ đem hành tung của nàng nói cho các ngài biết, các ngài phái một chi tinh binh lẻn vào bố trí mai phục, có thể ám sát nàng".

Đỗ Văn Hạo cười cười: "Lương thái hậu nhất định sẽ đề phòng điều này chứ? Bên người chỉ sợ có không ít hộ vệ tinh nhuệ, nếu muốn xâm nhập nội cảnh phục kích, nguy hiểm sẽ rất lớn".

"Điều này thì chắc chắn rồi, chúng ta cũng chỉ có thể cố gắng đạt được sự thành công, cho nên sẽ chọn thời co thích hợp nhất để thông báo với các ngài. Chỉ cần song phương hoàn thành được mục đích lần này, các ngài nguyện ý giúp chúng ta giết chết Lương thái hậu, đoạt lại hoàng quyền, về phần hành động cụ thể như thế nào thì sẽ tiến hành thương nghị một nữa. Như vậy được không?"

"Việc này ta đã được trao quyền toàn diện, đồng ý với các ngài liên hợp giết chết Lương thái hậu, giúp các ngài đoạt lại hoàng quyền. Điều kiện tiên quyết là, điều kiện trao đổi mà các ngài đưa ra phải làm chúng ta hài lòng".

"Thật tốt quá! Ta thay mặt cho hoàng đế bày tỏ cảm ơn. Về phần điều kiện trao đổi, ý tứ của hoàng đế nước ta là: Chỉ cần đoạt lại được hoàng quyền, Tây Hạ ta nguyện cùng quý quốc vĩnh viễn kết thành huynh đệ, không động đao binh. Đồng thời, nguyện ý đem tù binh lao dịch của quý phương bị chúng ta bắt ở Vĩnh Nhạc trả lại toàn bộ, tổng cộng hơn bốn vạn người. Nhưng mà, hi vọng quý quốc có thể trả lại Phương Hoành sơn trước kia đã cướp đoạt của nước ta. Tiếp đó dâng tặng Trại Bảo ở phía Nam Tứ Xuyên. Cũng đem Gia Lô, Mễ Chi, Phù Đồ, An Cương cắt cho bổn quốc. Cống lễ hàng năm vẫn như hiệp nghị trước kia của song phương mà chấp hành".

Đỗ Văn Hạo mở trừng đôi mắt, mặc dù hai nước đàm phán nhất định sẽ cò kè mặc cả, nhưng hắn không thể nào tưởng tượng được Tây Hạ lại ra một điều kiện buồn cười tới mức đó, giận quá hóa cười: "Ý của ngươi là muốn nói, chúng ta giúp hoàng đế các ngươi đoạt lại hoàng quyền, chúng ta còn phải cắt đất đền tiền cho các ngươi? Mà các ngươi chỉ cần thả tù binh của chúng ta?"

"Đúng như vậy!"

Đỗ Văn Hạo tận lực ngăn chặn lửa giận trong lòng, lựa chọn từ ngữ không quá kích động, chậm rãi nói: "Ngụy đại nhân, ngài không biết rằng điều kiện các ngài đưa ra quá mức hoang đường hay sao?"

"Tể chấp đại nhân, nếu như ngài có thể nghe ta giải thích tỷ mỉ sẽ không thấy hoang đường nữa".

"Được, ngài thử nói xem".

"Hoành Sơn, Lan Châu và phía Nam của Trại Bảo là do quý phương đã xâm chiếm của lãnh thổ nước ta, nên cần phải trả, điều này hẳn là không cần hoài nghi, điều này Đỗ tể chấp không có ý kiến gì chứ?"

Đỗ Văn Hạo không biết có chuyện này hay không, hắn quay đầu liếc mắt nhìn Thái Kinh. Trong ánh mắt tràn đầy nghi vấn. Thái Kinh chậm rãi gật đầu.

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm: Quân Tống trước nay vẫn rất yếu, không ngờ lại có thể chiến được đất đai của Tây Hạ, thật sự là không thể nghĩ ra. Nhưng biểu hiện bên ngoài vẫn là không hề nhượng bộ: "Ngươi cứ nói tiếp đi".

"Quý phương xâm lấn quốc gia của ta. Vừa rồi ở trận chiến tại Vĩnh Nhạc thành đã thất bại, tù binh của quý phương bên ta là bốn vạn người. Hiện giờ dùng Gia Lô, Mễ Chi, Phù Đồ, An Cương để trao đổi, xem ra quý phương còn chiếm tiện nghi".

Đỗ Văn Hạo tức đến muốn nổ cả phổi, muốn điên lên rồi nhưng vẫn kìm nén, chậm rãi nói: "Chiến tranh chấm dứt, nên phóng thích tù binh một cách vô điều kiện. Đây là điều thiên kinh địa nghĩa, sao có thể dùng làm điều kiện trao đổi chứ?"

Nguy Mã ngạc nhiên nói: "Phóng thích vô điều kiện? Xin đại nhân không nên nói đùa như vậy".

"Ai nói đùa với ngươi chứ? Vốn là phải như vậy chứ sao".

Đỗ Văn Hạo dùng tư duy suy nghĩ thời hiện đại để áp dụng cho sự tình ở thời cổ, tù binh thời cổ đại chưa bao giờ được phóng thích vô điều kiện, bởi vì dân cư khan hiếm, tù binh thường được dùng làm nô lệ hoặc sung quân phục vụ chịu khổ dịch. Nhiều nhất là song phương trao đổi lẫn nhau. Cho nên Ngụy Mã đối với điều kiện phóng thích tù nhân vô điều kiện của Đỗ Văn Hạo, cảm thấy rất khó hiểu. Hắn lắc đầu nói: "Theo lời của đại nhân là không thể được, xin thứ cho bỉ quốc không thể tuân mệnh".

Thái Kinh cúi thấp người, thấp giọng nói: "Tể chấp đại nhân, bốn vùng đất Gia Lô, Mễ Chi, Phù Đồ, An Cương là không lớn, dùng để đổi về bốn vạn tù binh , tính ra cũng đáng giá".

Đỗ Văn Hạo vỗ mạnh lên tay vịn ghế: "ĐƯợc chỗ nào? Đất này không phải là hậu hoa viên nhà các ngươi, tất nhiên ngươi không thấy đau lòng tiếc rẻ! Nói cho các ngươi biết, muốn Đại Tống cắt đất bồi thường, muốn ta gật đầu thì trừ khi cắt đầu ta xuống".

Sở dĩ Đỗ Văn Hạo đối với việc cắt đất bồi thường mẫn cảm như vậy đó là do trong lịch sử cận đại Trung Quốc bị khuất nhục hành hạ, học lịch sử mà không biết làm sao để thay đổi lịch sử. Hiện tại bản thân hắn gặp phải yêu cầu như vậy, khiến cho hắn trở lại thời kỳ tám nước liên minh hạ thương hạ pháp chịu áp bức lăng nhục, trong nội tâm không nhịn được mà bừng bừng lửa giận.

Đỗ Văn Hạo đột nhiên nổi giận khiến cho Thái Kinh sợ hãi kêu lên một tiếng , vội vàng khom lưng liên tục nói đúng. Nguy Mã cũng không nghĩ rằng Đỗ Văn Hạo sẽ phản ứng như vậy, cái cổ nhịn không được mà rụt về phía sau.

Đỗ Văn Hạo mới nhớ là mình đang đàm phán, chuẩn bị tốt mới có lợi, lúc đàm phán thì phải khống chế tâm tình của mình, hắn nâng chén trà lên uống cạn một hơi, sau đó lau miệng, chắp tay nói: "Thật có lỗi, nói chuyện có phần hơi lớn tiếng, ngài nói tiếp đi".

"Ta... ta nói xong rồi". Ngụy Mã nói.

"Nói xong rồi?" Đỗ Văn Hạo lửa giận bốc muốn chảy đỉnh đầu, lạnh lùng nói: "Chúng ta giúp hoàng đế các ngươi giết chết Lương thái hậu đoạt lại hoàng quyền, chỉ để đổi về bốn vạn người? Hơn nữa còn phải cắt đất bồi thường, các ngươi thật là biết buôn bán!"

"Tể chấp đại nhân, chúng ta còn đáp ứng cùng quý quốc kết minh huynh đệ , vĩnh viễn không bao giờ động binh đao, đây không phải là kết quả mà quý quốc hi vọng hay sao?"

"Hắc hắc, các ngươi nghĩ rằng chúng ta sợ các ngươi, vừa nghe tới việc song phương bỏ việc binh đao, chúng ta nhất định là sẽ liên tục đáp ứng, đúng không?"

Nguy Mã không có trả lời, nhưng khóe miệng lại nở nụ cười. Hiển nhiên là có ý này. Trong mắt hắn thì đây là điều kiện ưu đãi tối đa của Tây Hạ, những kẻ chiến bại Đại Tống nhất định sẽ đáp ứng.

Hắn không thể tưởng tượng được rằng hắn đang đối mặt với một kẻ xuyên việt tới đây từ hiện đại, đối với lịch sử hơn một trăm năm khuất nhục căn giận đau đớn tới mức khắc cốt ghi tâm. Vốn đối với việc Đại Tống hằng năm phải tiến công thì đã rất bất bình rồi, giờ đây xuất binh hỗ trợ đoạt lại hoàng quyền, lại còn phải cắt đất bồi thường, đổi lại chỉ là được phóng thích từ binh cùng điều mà song phương đều mong muốn là hòa bình. Điều này đối với Đỗ Văn Hạo mà nói, không phải là đồng minh đàm phán, mà là một loại sỉ nhục.

Cho nên Đỗ Văn Hạo mới nổi giận , hắn đứng lên lạnh lùng nói: "Đủ rồi, trở về nói với hoàng đế bù nhìn của các ngươi một câu, ta tặng hắn câu này, nhớ cho kỹ".

"Nói cái gì?" Nguy Mã vô thức hỏi.

"Bảo rằng hắn chết đi".

Nguy Mã biến sắc, đứng dậy nói: "Tể chấp đại nhân, vì sao xuất lời càn rỡ?"

"Lời càn rỡ? Hắc hắc, đó là còn nhẹ đó, nói với cáí tên bù nhìn Vương Bát Đản đó của các ngươi rằng: Muốn đánh thì đánh! Đòi chúng ta cắt đất bồi thường để đối lấy hòa bình? Con mẹ nó chứ, đúng là xuân thu đại mộng! Phì! " Đỗ Văn Hạo hung hăng hung hăng hướng xuống mặt đất nhổ một ngụm, phất ống tay áo một cái, xiay người rời đi.

Nhưng Nguy Mã cũng không có tức giận, đoạt bước lên trước chắp tay nói: "Tể chấp đại nhân xin dừng bước".

Đỗ Văn Hạo ngang nhiên xoay người nói: "Ngươi toan tính thế nào?"

"Đại nhân, mọi việc đều có thể thương lượng, không nên nổi giận, đại nhân nếu cảm thấy điều kiện của chúng ta không thể chấp nhận thì có thể đưa ra điều kiện mà các ngài đồng ý. Nếu ta có thể quyết định thì sẽ quyết định luôn. Còn nếu ta không thể quyết định thì sẽ trở về bẩm báo hoàng thượng. Ta đến Đại Tống lần này có thật lòng muốn liên minh, xuất phát từ sự chân thành, tuyệt không có ý bất kính. Nếu như đắc tội với Đại tướng quân, kính xin bao dung, tha thứ!" Dứt lời lại cúi người hành lễ.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 436: Thế Cường.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Đỗ Văn Hạo thoáng sửng sốt, trong lòng hắn thầm khen ngợi. Thảo nào Hoàng đế Tây Hạ phái ông ta tới đàm phán. Lão già này thực sự biết nhẫn nhịn. Ngay cả khi mình nhục mạ Hoàng đế của lão, lão vẫn có thể không tức giận, không đáp trả. Lão quả thực là một cao thủ trong đàm phán. Khi nghe những lời thành thật của lão, lửa giận trong lòng Đỗ Văn Hạo cũng giảm xuống phân nửa. Hắn bất chở nghĩ tới việc đàm phán chính là một quá trình cò kè mặc cả. Ban đầu đối phương đưa ra điều kiện rất hà khắc cũng không có gì ngạc nhiên. Tiếp theo là tới hắn chính thức trả giá nên cũng không cần phải tức giận.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn ông ta một cái rồi mới chậm rãi quay lại, hắn vén áo bào ngồi xuống ghế nói: "Tốt lắm. Ta sẽ nêu lên điều kiện của chúng ta. Chúng ta sẽ không đưa ra một cái giá trên trời sau đó lại tiếp tục đàm phán với các ngươi. Chúng ta không có thời gian".

"Tại hạ xin rửa tay lắng nghe".

"Được. Điều kiện của chúng ta là chúng ta sẽ giúp Hoàng đế của các ngươi đoạt lại Hoàng quyền nhưng phải theo một phương thức an toàn. Để đổi lấy việc đó thì thứ nhất các ngươi không được tiếp tục xưng Đế. Đại Tống chúng ta sẽ sắc phong cho hắn làm Phiên Vương. Tây Hạ vẫn do hắn quản lý. Bổ nhiệm quan lại, quyền thu thuế, quản lý dân chúng vân vân. Tất cả được duy trì theo tình trạng hiện nay. Đại Tống không có bất kỳ can thiệp nào".

Đỗ Văn Hạo nói xong chờ Nguy Mã lên tiếng phản đối nhưng hắn không ngờ Nguy Mã vẫn ngồi yên lặng, lặng lẽ nhìn hắn như trước.

Đỗ Văn Hạo không biết rằng trước khi Tây Hạ xưng Đế vốn chịu xự quản lý của triều Tống, tiếp nhận sắc phong của triều Tống. Dù sau này Tây Hạ xưng Đế nhưng vẫn tiếp nhận sắc phong của Đại Tống, hàng năm vẫn tiến cống Đại Tống. Đương nhiên đổi lấy việc đó là "Ban thưởng hàng năm" càng nhiều. Đối với Hoàng đế Tây Hạ mà nói, có xưng đế hay không cũng chẳng quan trọng. Hoàng đế là danh hiệu tối cao nhất của người cai trị đối với người Hán, bọn họ đương nhiên không quá quan trọng việc đó. Bọn họ chỉ cần bản thân mình vẫn đứng đầu Tây Hạ là được. Từ Hoàng đế chuyển thành Phiên Vương mà có thể đổi lấy sự tiến cống hàng năm với số lượng lớn thì đối với bọn họ cũng đã quá ưu thế rồi. Vì vậy Nguy Mã có bất kỳ phản ứng nào với điều kiện của Đỗ Văn Hạo mới là chuyện lạ. Đương nhiên bọn họ sẵn sàng đồng ý với điều kiện của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo thầm kinh ngạc nhưng hắn vẫn nói tiếp: "Thứ hai, quân đội của các ngươi, ngoại trừ một vạn quân của đội bảo vệ Hoàng gia, tất cả quân đội còn lại phải tập trung ở biên giới với Đại Tống, do Đại Tống chỉ huy. Quân đội Đại Tống vào đóng quân ở Tây Hạ, có quyền sử dụng Sơn mã đan của Tây Hạ và các phương tiện quân sự khác. Vì bảo vệ Tây Hạ, quân đội Đại Tống có quyền đóng quân ở bất kỳ địa điểm nào trong Tây Hạ, đảm nhiệm việc phòng thủ, tất nhiên là ngoại trừ Hoàng cung".

Điều kiện này cuối cùng cũng khiến gương mặt tươi cười của Nguy Mã thoáng biến đổi nhưng ông ta vẫn không nói câu nào, yên lặng lắng nghe.

Đỗ Văn Hạo lại thầm than thở: lão già này quả thực rất lợi hại. Hắn nói tiếp: "Thứ ba. Từ nay về sau Tây Hạ không được tự do ký kết hiệp định với Đại Liêu hay bất kỳ quốc gia nào khác. Việc đối ngoại của quốc gia chỉ có thể do Đại Tống tiến hành. Hay nói một cách khác những chuyện có liên quan tới danh nghĩa quốc gia chỉ có thể do Đại Tống thực hiện. Tây Hạ không thể tham sự. Tốt lắm. Đây chính là ba điều kiện của chúng ta".

Dừng lại một chút rồi Đỗ Văn Hạo lại bổ sung: "Nói một cách đợn giản. Từ bây giờ Tây Hạ trở thành thuộc quốc của Đại Tống. Quyền quân sự, ngoại giao do Đại Tống phụ trách. Những quyền lực còn lại vẫn do Phiên Vương Tây Hạ các ngươi quản lý. Đại Tống sẽ không can thiệp. Tiền thuế thu được trong dân chúng cũng không phải giao nộp một phân nào cho triều đình. Hiểu chưa?'

Nguy Mã nuốt nước bọt một tiếng, cười gượng nói: "Những điều Tể Chấp đại nhân nói tại hạ đã nghe rõ. Đối với điều kiện thứ nhất tại hạ đã được Hoàng đế trao quyền nên có thể đồng ý. Đối với điều kiện thứ ba của ngài, tại hạ cần phải quay về bẩm báo với Hoàng thượng. bản thân tại hạ có thể nói điều kiện này không có vấn đề gì lớn. Nhưng đối với điều kiện thứ hai của ngài: biên chế lại quân đội Tây Hạ, quân đội Đại Tống tiến vào đóng ở Tây Hạ. Điều kiện này quá kà khắc, chúng ta không thể đồng ý".

Kết quả này hoàn toàn nằm trong dự tính của Đỗ Văn Hạo. Đối với điều kiện thứ nhất, trước kia bọn họ đã từng tiếp nhân hiển nhiên không có vấn đề gì. Điều kiện thứ ba về vấn đề ngoại giao. Đây chính là cái gọi là "nhược quốc không ngoại giao". Ở thời cổ đại, giao thông không phát triển, cũng chỉ có quan hệ với các quốc gia lân cận mà thôi. Trong khi đó lân cận với Tây Hạ chính là Đại Liêu và Thổ Phiên. Công việc ngoại giao vô cùng hạn hẹp. Hơn nữa người cổ đại cũng không quá chú tâm tới quyền ngoại giao độc lập.

Điều bọn họ quan tâm nhất chính là lợi ích thực tế. Dù điều này là một cái giá rất lớn nhưng so với Hoàng quyền còn đáng giá hơn nhiều nên cũng có thể miễn cưỡng chấp nhận. Điều kiện thứ ba là quyền quân sự. Không có quân sự, Hoàng quyền không thể đảm bảo. Chưa tới con đường cùng, bất kỳ ai cũng không đồng ý với điều kiện này.

Trong khi đó Tây Hạ còn lâu mới bước vào đường cùng. Hoàng đế Huệ Tông cũng hiểu rõ rằng không có quân đội Hoàng quyền có hắn dù có phục hồi thì sớm muộn cũng mất.

Thế nhưng đối với Đỗ Văn Hạo mà nói. Điều kiện thứ nhất và điều kiện thứ ba chỉ là hư. Điều kiện thứ hai mới là thực. Đây là điều kiện quan trọng nhất của Đỗ Văn Hạo. Dù đã nghĩ tới kết quả này nhưng hắn vẫn khá thất vọng, hắn cười nói: "Các người không bẩm báo lên Hoàng thượng của mình sao đã biết hắn sẽ không đồng ý?"

"Không cần phải bẩm báo. Tại hạ biết rõ Hoàng thượng có thể chấp nhận những điều kiện nào".

"Ồ?" Đỗ Văn Hạo cười nói: "Nếu đã như vậy trong tay Nguy đại nhân có quân bài tẩy của mình sao? Vậy không nên hao tổn tâm trí nữa, hãy xuất bài ra đi để xem chúng ta có thể tiếp nhận hay không. Ngài nên biết phế bỏ Lương Thái hậu, đoạt lại Hoàng quyền là chuyện rất cấp bách. Hãy coi chừng đêm dài lắm mộng".

"Đúng. Đại nhân nói không sai. Hoàng thượng tại hạ cũng lo lắng như thế nên muốn lần đàm phán thứ nhất đạt được ngay hiệp định, không tốn nhiều thời gian quanh co. Hãy tận dụng lần đàm phán này để đạt được điều kiện hai bên có thể chấp nhận được".

"Vậy hãy lật bài đi".

"Ha ha. Kỳ thật tại hạ không có lá bài nào. Điều kiện thứ nhất và thứ ba của đại nhân chúng ta hoàn toàn đồng ý. Điều kiện thứ hai của đại nhân chúng ta rất khó chấp nhận. Đại nhân có thể đổi lại một điều kiện khác không?"

"Vậy ngài hãy nói xem điều kiện nào ngài mới đồng ý?"

Đỗ Văn Hạo không ngờ thoáng cái con át chủ bài đã lộ ra. Bây giờ bọn họ đang đi cầu người khác. Người cần sôt ruột chính là bọn họ. Hắn phản tận dụng khả năng này thu hoạch được lợi ích lớn nhất vì vậy Đỗ Văn Hạo đã đá quả bóng sang phía đối phương để đối phương xuất hết bài.

Nguy Mã suy nghĩ một lát rồi chắp tay nói: "Thế này đi tiền cống hàng năm của Đại Tống cho Tây Hạ giảm đi một nửa, được không?"

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Tiền cống hàng năm sao? Ngài không nói chuyện này ta vẫn nói về chuyện này. Ngài cảm thấy hàng năm Đại Tống chúng ta phải ban tiền tiến cống là công bằng sao?"

"Đó là của Đại Tống ban cho Tây Hạ chúng ta".

"Ta trịnh trọng nói cho ngài biết, hy vọng ngài có thể chuyển lời tới Huệ Tông đế của ngài sau này Đại Tống của ta sẽ không trả tiền tiếng cống hàng năm nữa. Chúng ta muốn xoá bỏ quy định này bởi vì đây là một điều ước không công bằng".

"Không công bằng ư? Tại sao?"

"Tại sao? Ngài còn hỏi tại sao ư? Ha ha. Hai bên đều muốn hoà bình vậy dựa vào cái gì chúng ta phải trả tiền cống hàng năm để đổi lấy hoàn bình? Có phải các ngài nghĩ rằng chúng ta sợ các ngài sao?"

Nguy Mã bình tĩnh hỏi: "Tể Chấp đại nhân. Thế này đi, chúng ta hãy cùng thống nhất một số điều kiện. Lúc trước chúng ta đã nhất trí quý quốc đống ý xuất binh giúp Hoàg đế tại hạ giành lại Hoàng quyền. Hai bên sẽ kết nghĩa huynh đệ, vĩnh viễn không giao chiến với nhau".

"Ngưng chiến duy trì hòa bình là nguyện vọng của hai bên, không thể dùng làm điều kiện trao đổi".

Nguy Mã gượng cười nói: "Được, tại hạ đồng ý với điều kiện của Tế Chấp đại nhân, hai bên đạt được kết quả cuối cùng. Chúng ta sẽ trả lại quý quốc bốn vạn tù binh, đổi lại quý quốc trả lại Trại Bảo ở nam Lan Châu và Hoành Sơn đã xâm chiếm của chúng ta. Điều kiện này có được không?'

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: "Không được. Tù binh phải phóng thích không điều kiện. Nếu hai bên đã kết huynh đệ, không thể giam giữ bất kỳ ai. Đương nhiên đây chính là kết quả của việc kết huynh đệ. Các ngài đương nhiên phải trả lại chúng ta bốn vạn tù binh vô điều kiện".

Nguy Mã cười gượng nói: "Từ xưa tới nay không có chuyện trao trả tù binh vô điều kiện".

"Đến thời ta thì có" Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: "Ngược lại nếu như chúng ta bắt được tù binh của các ngài. Tơi khi hai bên kết huynh đệ xong, chúng ta cũng sẽ thả tù binh của các ngài vô điều kiện".

"Tể Chấp đại nhân, trong tác chiến trước kia của quý quốc với Tây Hạ chúng ta chưa từng có chuyện thả tù binh vô điều kiện".

Đỗ Văn Hạo nói: "Vậy thì ta sẽ cho người thống kê số tù binh của các ngài bị chúng ta bắt được, hai bên sẽ tiến hành trao đổi".

"Thế nhưng hình như chúng ta bắt được tù binh nhiều hơn quý quốc, như vậy chúng ta thiệt thòi rất nhiều".

"Thiệt thòi gì mà thiệt thòi? Một khi hai bên đã bãi binh, tù binh phải được thả ra vô điều kiện. Đây không phải là cuộc mua bán mà phải mặc cả".

Quả thực Nguy Mã dở khóc dở cười. Ông ta phát hiện ra muốn thuyết phục Đỗ Văn Hạo về điều kiện phóng thích tù binh rất khó khăn trong khi đó luc snày ông ta muốn nhanh chóng đạt được hiệp định kết đồng minh. Vấn đề tù binh không thoả thuận được, chỉ có thể dùng biện pháp khác. Nguy Mã nói: "Vậy vấn đề này chúng ta không nói nữa. Chúng ta hãy đàm phán vấn đề khác…".

"Không" Đỗ Văn Hạo thản nhiên nói: "Nếu muốn kết huynh đệ, nhất định phải trả lại tù binh vô điều kiện. Nếu không coi như chúng ta chưa từng thương lượng bất kỳ điều gì".

Rốt cuộc Nguy Mã cũng xa sầm mặt: "Nếu đại nhân đã nói như vậy khi hai bên đã ký kết đồng minh, quý quốc có trả lại phần lãnh thổ của chúng ta đã bị quý quốc chiếm hay không?"

Đỗ Văn Hạo liền nhớ tới lúc Trung Quốc và Liên Xô ký kết đồng minh. Lúc ấy Liên Xô cho rằng Trung Quốc phải dựa vào mình nên không chịu trả lại Trung Quốc phần lãnh thổ của Trung Quốc bị Sa Hoàng chiếm đoạt trước đó. Cuối cùng hai bên vẫn lý kết đồng minh nhưng Liên Xô nhất định không trả lại phần lãnh thổ đã chiếm trước đây. Bây giờ hắn quyết định cũng dựa theo cách làm của thế mạnh như vậy vì đối phương là người cầu cứu mình.

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Đât đai không giống như người. Đất đai người nào chiếm thì là của người đó. Tù binh trong chiến tranh bị các ngài bắt giữ là tướng sĩ của Đại Tống vậy nhất định phải trả lại cho quân ta".

"Tể Chấp đại nhân nói vậy không phải cưỡng từ đoạt lý sao?"

"Cưỡng từ đoạt lý sao? Ha ha, ta muốn hỏi Nguy đại nhân mấy vấn đề, được không?"

"Xin mời Tể Chấp đại nhân".

"Xin hỏi Tây Hạ các ngài lập quốc khi nào?"

"Cảnh Tông Hoàng đế lên ngôi năm Hiển Đạo, cũng là năm Bảo Nguyên của Đại Tống".

"Vậy ta xin hỏi trước đây Tây Hạ là đất đai của ai?"

"Lý thị Đảng Hạng".

"Bọn họ tiếp nhận sắc phong của ai?'

"Đại Liêu và Đại Tống".

Đỗ Văn Hạo vỗ đùi nói: "Hay. Lại nói tiếp đất đai của cả Tây Hạ các ngài là của Đại Tống, vậy có cần phải trả lại không?"

"Điều này không đúng. Khi ấy Đảng Hạng chỉ kết đồng minh với Đại Tống, tiếp nhận sắc phong mà thôi. Đại Tống không quản lý Tây Hạ".

Đỗ Văn Hạo cũng không biết nhiều lắm về thời kỳ lịch sử này nên cũng không biết ông ta nói có phải sự thật hay không vì vậy hắn tiếp tục vòng vo: "Thử hỏi chẳng lẽ từ khi Tây Hạ các ngài lập nước tới nay có từng chiếm đất của Đại Tống không? Đã từng xâm chiếm lãnh thổ của người khác chưa?"

Nguy Mã thoáng sửng sốt. Tây Hạ đã từng động binh đao với người Hồi Hột và chiếm một phần lớn lãnh thổ. Khi xảy ra chiến tranh với Đại Tống cũng đã từng chiếm đất đai của Đại Tống và cũng bị Đại Tống chiếm đất đai. Thật ra trong lãnh thổ của hai bên đều có phần đất chiếm lãnh của đối phương. Điều này là không thể tránh khỏi. Nếu như trong đàm phán bình thường nhất định ông ta sẽ chậm rãi quấy rối tranh cãi nhưng bây giờ ông ta có việc cầu người. Ông ta không thể làm thế chọc giận đối phương gây ra tác hại ngược lại.

Bây giờ ông ta muốn nhanh chóng liên kết đồng minh, lợi dụng lực lượng của Đại Tống đoạt lại Hoàng quyền. Đó chính là điều quan trọng nhất. Những lãnh thổ đã chiếm của đối phương cũng không muốn trả lại vậy càng không thể yêu cầu đối phương cắt trả lại đất đai. Nguy Mã cũng không muốn nhắc lại chuyện Đại Tống cắt bốn khu vực Gia Lô, Mễ Chi, Phù Đồ, An Cương nữa, ông ta hậm hực nói: "Điều này không phải là vấn đề thương thảo".

"Đương nhiên là một vấn đề" Đỗ Văn Hạo thầm đắc ý nhưng sắc mặt hắn lại lộ ra vẻ tức giận: "Nguy đại nhân, đàm phán phải xuất phát từ thành tâm. Không thể nói với nhau bằng miệng, cần phải có hành động thực tiễn mới được. Không nên nói những điều không tồn tại. Hãy nói tới những điều thật sự. Điều kiện đối với hai bên phải công bằng".

Nguy Mã thở dài nói: "Vậy theo như Nguy Mã đại nhân như thế nào mới gọi là điều kiện công bằng?"

Đỗ Văn Hạo cũng chẳng muốn vòng vo nữa. Hắn cũng hiểu bọn họ không chịu chấp nhận điều kiện thay đổi quân đội Tây Hạ nên nói: "Được. Ta thấy ngài là một người kiên quyết, nói thẳng thực. Bây giờ ta thay đổi điều kiện một chút. Các ngài chỉ cần đồng ý với mấy điều kiện này của chúng ta. Trong mấy điều kiện này, không thể sửa đổi bất kỳ điều kiện nào. Đồng ý thì đồng ý, không đồng ý thì thôi".

"Được, xin mời Tế Chấp đại nhân cứ nói".

Điều kiện để chúng ta xuất binh giết chết Lương Thái hậu, đoạt lại Hoàng quyền cho các ngài như sau. Thứ nhất, thả toàn bộ tù binh của chúng ta vô điều kiện. Thứ hai huỷ bỏ tiền tiến cống. Thứ ba từ bỏ xưng đế. Đại Tống chúng ta sắc phong làm Tây Hạ Vương. Tây Hạ vẫn do người Tây Hạ quản lý. Thứ tư phủ Tuyên Hoá, vùng đất phía nam Lương Châu cắt lại cho Đại Tống chúng ta".

Nguy Mã nghe mấy điều kiện trước thì liên tục gật đầu sau khi nghe điều kiện cuối cùng thì thoáng sửng sốt, cười gượng nói: "Đại nhân nói thật hay nói giỡn vậy? Vùng đất đó là một trong những nơi trù phú nhất Tây Hạ, sao có thể cắt nhường lại đây? Những điều kiện khác đều dễ dàng nhưng điều kiện cuối này..ha ha rất khó tuân theo. Hay là đại nhân hãy đổi lại điều kiện khác đi nha".

Đỗ Văn Hạo đứng dậy nói: Ta đã nói rồi. Mấy điều kiện này không thể sửa lại bất kỳ điều kiện nào. Đồng ý thì đồng ý, không đồng ý thì thôi. Các ngài không chịu cắt vùng đất này cho chúng ta, vậy cũng không sao. Dù sao sau này quân đội Đại Tống chúng ta cũng đoạt lại mấy vùng đất này. Các ngài không tin thì cứ chờ xem. Cáo từ!".

"Đại nhân! Có chuyện gì hãy từ từ thương lượng".

Đỗ Văn Hạo đã nghĩ rất kỹ. Đây chính là cơ hội ngàn năm một thuở để đoạt lấy trường nuôi ngựa Sơn Đan. Hắn muốn thành lập một đội quân kỵ binh thì nhất định phải trông cậy vào trường nuôi ngựa lớn thứ hai thế giới này. Điều kiện này nhất định không thể buông tha cho dù có thể buông tha hai điều kiện đầu tiên cũng được. Huống chi ba điều kiện đầu bọn họ đã đồng ý, chỉ coi như là điều kiện phụ vào vì vậy Đỗ Văn Hạo không muốn bàn tiếp, hắn không để ý tới Nguy Mã, quay lưng rời đi.

Thái Kinh vội vàng đuổi theo. Hắn cũng không dám nói lung tung điều gì, chỉ tiễn chân Đỗ Văn Hạo ra cửa. Trước khi lên kiệu Đỗ Văn Hạo dặn dò Thái Kinh chăm sóc vị sứ thần Tây Hạ này rồi lên kiệu về Ngũ Vị đường.

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 437: Vạn sự khởi đầu nan.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Khi quay về Ngũ Vị đường, Đỗ Văn Hạo biết Kha Nghiêu và Tuyết Phi Nhi cùng uống rượu, cả hai đều được đưa về phòng ngủ. Chúng nữ còn lại cũng say rượu, ai nấy cũng đều quay về phòng mình. Lúc này Đỗ Văn Hạo mới thở phào nhẹ nhõm.

Sáng sớm ngày hôm say Thái Kinh tới thăm hỏi Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo đoán chừng việc này có liên quan tới sứ giả Tây Hạ nên hắn không dám chậm trễ nhanh chóng ra tiếp Thái Kinh.

Quả nhiên Thái Kinh tươi cười nói sứ thần Tây Hạ muốn gặp lại Đỗ Văn Hạo tiếp tục đàm phán. Ông ta hy vọng Đỗ Tể Chấp có thể thay đổi điều kiện cắt đất vùng trường nuôi ngựa Sơn Đan. Đỗ Văn Hạo nói với Thái Kinh là không có điều kiện này không đàm phán.

Thái Kinh thấy thái độ của Đỗ Văn Hạo không giống với việc phô trương thanh thế nên ông ta cũng hiểu Đỗ Văn Hạo coi trọng trường nuôi ngựa này thì đồng ý quay về chuyển lời.

Dau khi Thái Kinh ra về, Đỗ Văn Hạo mang theo đội hộ vệ vào Hoàng cung, bẩm báo tình hình đàm phán với Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao. Thực ra Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao cũng không biết nên đặt điều kiện gì nhưng sau khi nghe Đỗ Văn Hạo nói nàng cảm thấy ba điều kiện đầu đã rất có lợi, cho dù không có trường nuôi ngựa cũng có thể đồng ý. Dù sao có thể hạ bệ Lương Thái hậu đối với Đại Tống vẫn là một chuyện tốt nhưng nàng thấy Đỗ Văn Hạo rất coi trọng trường nuôi ngựa nên lời nói ra tới miệng mà vẫn không dám nói ra, chỉ mỉm cười nói chuyện này do Đỗ Văn Hạo quyết định.

Cao Thao Thao nói với Đỗ Văn Hạo là nàng đã hạ chỉ trong cả nước, chiêu mộ rộng rãi những người thợ giỏi tay nghề trong các lĩnh vực để Đỗ Văn Hạo lựa chọn, thành lập cơ sở nghiên cứu khoa học do Đỗ Văn Hạo định ra làm hắn rất vui mừng.

Tiếp đó Đỗ Văn Hạo rời khỏi Hoàng cung tới bộ công xem xét thành lập cục an toàn quốc gia và quân đội đặc chủng.

Bộ công đã theo yêu cầu của Cao Thao Thao tính toán hai nơi dùng để thành lập hai cơ quan đó. Cục an toàn quốc gia đương nhiên đặt trong kinh thành, ở ngay phía sau Hoàng cung, cách nhà Đỗ Văn Hạo không xa lắm, rất thuận tiện cho hắn kịp thời thu nhận được thông tin. Quân đội đặc chủng cần phải huấn luyện nên được thiết lập ở một khe núi bí mật bên ngoài thành. Đỗ Văn Hạo dẫn theo quan viên bộ công tới quan sát hai nơi đó. Hắn cảm thấy việc thực hiện rất tốt, rất hài lòng. Dù sao đây chính là việc Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao muốn làm nên bộ công đương nhiên phải lựa chọn những nơi tốt nhất.

Đỗ Văn Hạo mời tất cả các quan viên bộ công tham gia thực hiện công việc. Hắn nói yêu cầu của bản thân mình, bộ công phụ trách việc sắp đặt quan viên và tiến hành thiết kế.

Bận rộn tới tận giữa trưa, Đỗ Văn Hạo ăn vội cơm trưa sau đó hắn triệu tập các quan chỉ huy cao cấp của tam nha. Cuộc họp có hai chủ đề. Một chủ đề là làm thế nào tăng cường huấn luyện quân sự, thay đổi lại việc chuẩn bị chiến đấu đã trở nên xao nhãng. Vấn đề thứ hai là thành lập quân đội đặc chủng.

Những quan quân chỉ huy này đều là tâm phúc của Đỗ Văn Hạo nên đương nhiên trước mặt Đỗ Văn Hạo cũng không giấu giếm gì cả. Ai cũng nói việc xao nhãng huấn luyện quân đội, cũng cảm thấy sự cần thiết phải lập lại các hoạt động huấn luyện quy mô lớn nhưng tất cả chỉ e việc quân đã bị bỏ quên khá lâu, các tướng sĩ nhất thời còn chưa quen.

Việc Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao ban chiếu huỷ bỏ chế độ Hồi dịch ( quân đội tham gia buôn bán ) của quân đội đã lan truyền khắp nơi. Đỗ Văn Hạo nói với mọi người phải lấy điều đó làm cơ sở. Tất cả hoạt động của quân đội phải lấy việc huấn luyện làm trọng. Tài liệu huấn luyện quân sự thì dùng "Võ Kinh tổng yếu" do Tống Nhân Tông biên soạn làm tiêu chuẩn. Thực hiện chế độ thưởng phạt, cũng sơ bộ định ra trước lập thu phải tiến hành diễn tập quân sự của cấm quân kinh thành. Tới khi đó sẽ căn cứ vào kết quả diễn tập, tiến hành thưởng phạt, thay đổi tất cả các chỉ huy bất tài.

Những quan quân này đều là tâm phúc của Đỗ Văn Hạo nên ai cũng khom người nhận lệnh, trong lòng thầm quyết tâm muốn huấn luyện quân đội thật tốt. Có viên quan quân mặt dầy hỏi Đỗ Văn Hạo là diễn tập quân sự ở những khoa mục nào. Đỗ Văn Hạo chỉ nói một câu là huấn luyện quân đội chủ yếu trong Võ Kinh tổng yếu. Diễn tập quân sự đương nhiên sẽ không vượt quá phạm vi đó. Nhưng tột cùng là diễn tập những khoa mục nào thì đương nhiên khi đó hắn sự tự mình quyết định.

Nội dung của Võ Kinh tổng yếu hết sức phong phú. Thời gian từ giờ tới khi lập thu chỉ còn hơn một tháng, các quan quân đều hết sức khẩn trương. Ai cũng biết Đỗ Văn Hạo hành xử nhân hậu. Nhưng trong việc cải cách quân sự này việc giết gà doạ khỉ là hoàn toàn có thể xảy ra. Ai nấy cũng chỉ hy vọng bản thân mình không trở thành vật tế thần đáng thương.

Tiếp theo Đỗ Văn Hạo nói chuyện mình muốn thành lập một đội quân đặc chủng với với các quan quân, hắn cũng nói sơ qua công dụng của đội quân đặc chủng, hạ lệnh cho tam nha phụ trách bí mật tuyển lựa nhân sự, lập tức phát công văn tới các nơi đóng quân trong cả nước, đặc biệt là lục lộ Thiểm Tây nơi tiền tuyến, phái tinh binh tới kinh thành tập trung chờ chọn lựa.

Điều kiện của việc chọn lựa thành viên đội quân đặc chủng là: tuổi từ mười tám tới ba mươi, thành thạo công phu đao kiếm, có thể nâng được cung cứng tám đấu, có thể chịu được việc hành quân đường dài. Đặc biệt ưu tiên chọn người đã kinh qua chiến trận, lập chiến công.

Triều Tống đã nhiều lần tiến hành lựa chọn Cấm quân. Cấm quân chia làm ba loại: thượng, trung và hạ đẳng. Những người không lọt vào tam đẳng đó thì xếp vào Sương quân. Tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn khi ấy là thân hình cao. Yêu cầu của "Thiên Vũ đệ nhất quân" Cấm quân khi đó đã lên tới một mét tám, ngoài ra lực bắn cung có thể tới chín đấu chính là người thượng đẳng. Một khi được xếp vào Cấm quân thượng đẳng, không chỉ có thể ở dưới chân Thiên Tử làm rạng rỡ tổ tổng, ngày thường kiêu căng tự mãn. Đặc biệt chế độ đãi ngộ, lương bổng và các loại đãi ngộ khác cao hơn Cấm quân khác vì vậy các địa phương tham gia tuyển chọn Cấm quân rất nhiệt tình.

Điều kiện Đỗ Văn Hạo đặt ra cho lần tuyển chọn lần nay lại không quá giống với các lần tuyển chọn Cấm quân thượng đẳng. Hắn không có yêu cầu với thân hình cao lớn. Yêu cầu với lực bắn cung cũng chỉ ở mức trung bình nhưng yêu cầu phải chịu đựng được hành quân đường dài. Một điều kiện ưu tiên khác đó chính là đã tham gia đánh trận, lập công đặc biệt.

Việc tác chiến của quân đội đặc chủng có yêu cầu rất cao với tố chất tâm lý cùng kỹ năng quân sự thực chiến. Hai điều này rất khó đạt được trong huấn luyện. Việc tham gia thực chiến đối với hai hạng mục này không thể thay thế được vì vậy Đỗ Văn Hạo mới chú trọng tới điều kiện đó. Hắn cũng muốn tận dụng lựa chọn trong những tướng sĩ đã tham gia tác chiến với Tây Hạ, chỉ có những tướng sĩ đã trải qua khói lửa chiến tranh mới là những tướng sĩ tốt nhất.

Quyền chỉ huy quân sự đối với quân đội đặc chủng này đương nhiên phải nằm trong tay hắn nhưng việc huấn luyện thường ngày thì phải giao cho một người tâm phúc. Đương nhiên đối tượng được tuyển là Lý Phố đã trung thành và tận tuỵ đi theo hắn. Đỗ Văn Hạo đặt tên cho đội quân này là "Chiến đội Rắn hổ mang'. Hắn hy vọng đội quân này có thể lặng yên tiến tới gần kẻ thù không một tiếng động như rắn hổ mang, bất thình lình giáng cho kẻ thù một đòn trí mạng. Chính Đỗ Văn Hạo là Chỉ huy sứ, Lý Phố là phó chỉ huy sứ. Việc chọn lựa thành viên cụ thể sẽ do Lý Phố phụ trách.

Sau khi sắp đặt xong mọi công việc liên quan, Đỗ Văn Hạo lại tới Tư Thiện đường ở Hoàng cung kiểm tra việc học tập của Hoàng thượng. Lần trước đã kiểm tra về Tứ thư ngũ kinh, kết quả không tệ lắm. Xem ra Hoàng thượng không còn lơi là việc học tập như trước kia.

Sau khi mọi việc xong xuôi thì trời đã tối.

Đỗ Văn Hạo đang định về nhà thì Thái Kinh tới nói cho Đỗ Văn Hạo biết một tin tức nửa vui nửa buồn. Đó là sau khi Thái Kinh truyền đạt lại lời nói của Đỗ Văn Hạo, Sứ thần bí mật Nguy Mã của Tây Hạ biết đây chính là điều kiện kiên quyết nhất của Đại Tống.

Nhưng bởi vì có liên quan tới vấn đề cắt đất, đặc biệt là khu vực tài nguyên chiến lược quân sự trường nuôi ngựa Sơn Đan nên Nguy Mã không thể làm chủ được. Ông ta đã quyết định quay về Tây Hạ, bẩm báo với Hoàng thượng của mình. Đợi sau khi Tây Hạ Huệ Tông quyết định thì sẽ tiếp tục đàm phán.

Đỗ Văn Hạo cũng không biết Tây Hạ Huệ Tông có đồng ý với điều kiện của hắn hay không. Nếu đổi là chính hắn thì hắn cũng cho rằng điều kiện đó rất hà khắc. Thế nhưng Đỗ Văn Hạo tin tưởng rằng: lần trước Tây Hạ Huệ Tông đã thất bại trong việc trong ứng ngoại hợp, chính hắn đã chuẩn bị dâng phần đất phía nam hành lang Hà Tây cho Đại Tống để đạt được mục đích Đại Tống trợ giúp đoạt lại Hoàng quyền. Nhưng lần này không tính trường nuôi ngựa Sơn Đan thì diện tích nhỏ hơn rất nhiều. Điều kiện lần này tuy có hà khắc hơn lần trước nhưng vì đã có căn bản lần trước nên Đỗ Văn Hạo hy vọng có thể thành công.

Đây chính là một canh bạc. Điều làm Đỗ Văn Hạo lo lắng chính là điều kiện lần này quá cao, có thể bức bách Tây Hạ Huệ Tông tìm sự trợ giúp của Đại Liêu, kết đồng minh với Đại Liêu. Khi đó đúng là lợn lành chữa thành lợn què.

Đây là một canh bạc chỉ có bảy phần thắng nhưng cho dù là như thế tâm trạng của Đỗ Văn Hạo vẫn rất háo hức.

Bây giờ không còn cách nào khác, chỉ còn mỗi cách kiên nhẫn chờ đợi.

Mấy ngày sau đó Đỗ Văn Hạo đều bận rộn tiến hành thành lập cục an toàn quốc gia, trụ sở của đội quân đặc chủng cùng viện khoa học. Cao Thao Thao đã ban cho hắn một khoản tiền không lồ dùng để xây dựng ba nơi đó.

Việc xây dựng phần cứng hắn chỉ việc đưa ra yêu cầu. Bộ công phải tiến hành sắp xếp và thi công. Đây là hạng mục đã có ý chỉ của cấp cao nhất, đương nhiên đã được bật đèn xanh. Hơn nữa việc kiến thiết phủ nha thời cổ đại đều do bộ công thống nhất tiến hành, không tồn tại cái gọi là giao cho các ban ngành chủ quản phụ trách, ra giá tuyển chọn người thi công, tiến hành giám sát chất lượng cùng với thời gian. Việc khởi công tiến hành rất nhanh. Công việc của Đỗ Văn Hạo với những việc này cũng tương đối đơn giản. Đối với hắn mà nói quan trọng nhất vẫn là vấn đề con người.

Việc cơ sở nghiên cứu khoa học cũng đã tàm tạm. Cao Thao Thao cũng đã ban chiếu chiêu hiền đãi sĩ. Hai hạng mục còn lại thì đau đầu hơn rất nhiều.

Đầu tiên là cục an toàn quốc gia. Muốn cục này phát huy tác dụng thì phải xây dựng được mạng lưới tình báo trong nước và ở nước ngoài. Một mạng lưới như vậy rất khó có thể thành lập trong khoảng thời gian ngắn. Phải có trong tay rất nhiều tiền thì mới dễ dàng xử lý công việc. Tiền có thể xui ma khiến quỷ, mua chuộc gián điệp cũng không khó khăn lắm. Thế nhưng nếu muốn mua chuộc được những quan viên cao cấp, thu hoạch được những tin tức chính trị, quân sự có giá trị tuyệt mật thì thực sự khó khăn hơn rất nhiều.

Vạn sự khởi đầu nan. Trong gian đoạn đầu ở Đại Tống, Đỗ Văn Hạo thành lập hai bộ phận. Trong hai bộ phận đó lần lượt là sở đặc vụ tình báo đối ngoại cùng sở đặc vụ tình báo đối nội. Sở tình báo đối ngoại phụ trách việc thu thập tin tức tình báo về chính trị, quân sự của hai nước Đại Liêu và Tây Hạ vân vân, cũng tiến hành các hoạt động phá hoại, ám sát, quấy rối. Sở đặc vụ tình báo đối nội phụ trách việc thu thập tình báo trong nước, thu thập các thông tin phản nghịch của quần thần, tiến hành bắt bớ người tình nghi, thẩm vấn và kết án.

Đỗ Văn Hạo biết thực lực của mình có hạn, không thể quan tâm hết tới hai vấn đề này vì vậy hắn muốn tìm hai trợ thủ đảm nhiệm việc này thay cho hắn, chia nhau phụ trách hai sở này.

Sở nội vụ hắn đã có một ứng cử viên rất tốt. Đó chính là Thẩm sư gia, rất quen thuộc với các đại thần trong triều cũng như các nha môn của triều đình.

Đỗ Văn Hạo gọi Thẩm Thăng Bình tới thương lượng. Sau khi Thẩm Thăng Bình nghe Đỗ Văn Hạo nói về chức trách của sở nội vụ này, ông ta rất vui vẻ. Trước kia khi phụ tá cho hai vị Tể tướng, ông ta cũng tiến hành khá nhiều những hoạt động thu thập tin tức tình báo này, tự biết mình có thể đảm nhiêm nên rất vui vẻ nhận lời.

Đối với người phụ trách sở đặc vụ đối ngoại, Đỗ Văn Hạo nghĩ tới ngay Thái Kinh kia. Ông ta có đường dây khắp Đại Tống, tổ tông đã từng buôn bán ở biên giới Đại Tống, rất quen thuộc lĩnh vực này. Đây chính là một vấn đề rất quan trọng.

Đỗ Văn Hạo cũng gọi Thái Kinh tới thương lượng. Đương nhiên Thái Kinh cũng đồng ý ngay.

Thái Kinh có một người thân thích là Thái Đầu, có thể cho người này phụ trách công việc thu thập tình báo biên giới. Tốt nhất là hắn phải bí mật ở một nơi gần đó thám thính tin tức vì vậy không phù hợp với việc quay lại kinh thành phụ trách sở ngoại vụ nên Đỗ Văn Hạo phải chọn người khác. Chuyện này đương nhiên phải do người có quan hệ mật thiết với Thái Đầu. Vì vậy dù Đỗ Văn Hạo không thích Thái Kinh như thế nào nhưng vì đại cục hắn vẫn quyết định để Thái Kinh quản lý sở tình báo ngoại vụ.

Đỗ Văn Hạo vốn muốn sau khi thu phục xong việc Tống Hạ, hắn sẽ tìm cơ hội giết chết Thái Kinh nhưng bây giờ hắn lại muốn Thái Kinh thu thập các thông tin tình báo. Hắn sẽ chờ sau khi công việc này tiến hành thuận lợi, sẽ tìm cơ hội giết Thái Kinh.

Mặc dù Thái Kinh là phủ doãn phủ Khai Phong, nhưng quan viên triều Tống thay đổi như đèn kéo quân, không phải như xã hội hiện đại đã lên là không thể xuống. Quan viên triều Tống có thể một bước lên trời nhưng cũng có thể té ngã. Vì vậy nếu muốn ngồi vững chắc ở một vị trí nào đó thì nhất định phải tìm được chỗ dựa vững chắc. Thái Kinh đã sớm hạ quyết tâm nhất định phải làm tốt công việc Đỗ Văn Hạo giao phó, tranh thủ tình cảm của Đỗ Văn Hạo, cuối cùng trở thành tâm phúc của Đỗ Văn Hạo và dựa vào Đỗ Văn Hạo để leo cao.

Nếu Thái Kinh sớm biết trong lòng Đỗ Văn Hạo đã sớm có ý nghĩ giết ông ta. Ông ta tuyệt đối sẽ hối hận vì suy tính của mình.

Sau khi Đỗ Văn Hạo xác định được người phụ trách sở nội vụ và ngoại vụ tình báo, giao cho hai người phụ trách triển khai các công việc có liên quan còn chính hắn phải gấp rút xử lý chuyện khác.

Công việc cần hắn xử lý rất nhiều. Trong đó có một việc rất khẩn cấp. Đó là hôn lễ sắp tới rồi.

Bản thân Tể Chấp đương triều, tam nha Đô Điểm Kiểm, người tâm phúc của Thái Hoàng Thái Hậu thành hôn, hơn nữa tân nương lại chính là thiên kim của Tể tướng Vương Giai, người đứng dưới một người trên vạn người. Hai nhân vật hùng mạnh này liên kết với nhau. Văn võ bá quan trong triều ai không dám tới?

Vì vậy chưa tới ngày hôn lễ, có rất nhiều nhân vật quan trọng ở kinh thành tới chúc mừng. Lễ vật thay nhau cung kính chuyển tới.

Trước khi thành thân một ngày Cao Thao Thao gọi Đỗ Văn Hạo vào Hoàng cung.

Sau khi hai người thân mật với nhau một lát, Cao Thao Thao tựa sát vào người Đỗ Văn Hạo, ngẩng gương mặt xinh xắn hỏi: "Vương Nhuận Tuyết, con gái của Vương Giai được xưng là đệ nhất mỹ nữ kinh thành. Ngươi cưới được mỹ nhân như vậy, còn nghĩ tới ta không?'

Đỗ Văn Hạo ôm Cao Thao Thao, hôn nàng một cái rồi trịnh trọng nói: "Yên tâm. Địa vị của Thao Thao trong lòng ta không ai có thể thay thế được".

"Thật vậy sao? Vậy nếu ta không phải là Thái Hoàng Thái Hậu, trong tay không chút quyền lực, ngươi có còn thích ta không?'

Đỗ Văn Hạo cũng đã nghĩ tới vấn đề này. Nói thực là hắn có tình cảm với Cao Thao Thao chủ yếu là lâu ngày nên nảy sinh tình cảm. Hắn bị Cao Thao Thao khơi dậy tình yêu. Trong lòng hắn không muốn dùng quyền lực này để mưu cầu danh lợi, hắn căn bản cũng không muốn dùng thân thể mình để đổi lấy quyền lực. Sau này khi áp dụng biến pháp có chút kết quả, Cao Thao Thao thăng chức cho hắn mới nảy sinh tình cảm này.

Vì vậy Đỗ Văn Hạo nghiêm mặt nói: "Thao Thao, nàng đừng xem thường ta. Ta chỉ yêu nàng chứ không yêu quyền lực của nàng, lại càng không muốn lợi dụng nàng để có quyền lực. Dù nàng trao quyền cho Hoàng thượng, trở thành một phụ nữ bình thường ta vẫn yêu nàng, vẫn gắn bó với nàng như cũ. Thưởng hoa dưới trăng, nghe mưa trên đảo giữa hồ, dạo bước trên cỏ xanh, múa kiếm ca hát, sát cánh bên nhau…".

Cao Thao Thao như mở cờ trong bụng, nàng duỗi tay ôm cổ Đỗ Văn Hạo, ánh mắt nàng bừng sáng nhìn hắn. "Ngươi có dám thề không?'

Đỗ Văn Hạo cúi đầu hôn nàng một cái rồi hắn giơ cao tay phải lên trời, cao giọng nói: "Ta Đỗ Văn Hạo, thề có trời đất, tất cả những điều ta vừa mới nói là sự thật. Nếu ta làm ngược lại, trời giáng thiên lôi, chết không chỗ chôn".

Phần lớn người cổ đại tin vào ông trời, thần linh, sự linh nghiệm của lời thề. Sau khi Đỗ Văn Hạo thề độc xong, mắt Cao Thao Thao mọng nước, nàng kiễg chân lên hôn hắn, hai người hôn nhau một lúc lâu.

Một lát sau, miệng Cao Thao Thao lướt qua gương mặt Đỗ Văn Hạo, nàng ghé sát vào tai hắn, nói như muỗi vo ve: "Văn Hạo…".

"Ừ, Thao Thao".

"Ta…ta nghĩ…".

"Nghĩ gì?" Đỗ Văn Hạo mỉm cười hỏi.

Cao Thao Thao lại hôn mặt Đỗ Văn Hạo rồi dáng điệu vô cùng thẹn thùng, nàng nỉ non vào tai hắn: "Ta nghĩ…giao thân thể…cho ngươi".

Tống Y

Tác giả: Mộc Dật

Chương 438: Phu Thê Thật Sự.

Nhóm dịch: Thiên Địa Môn

Nguồn: Sưu Tầm By 4vn

Đỗ Văn Hạo vừa mừng vừa sợ. Cao Thao Thao vì đạo thủ tiết hai năm mà từ chối thân cận với Đỗ Văn Hạo. Không ngờ hôm nay nàng lại chủ động đề nghị hiến thân. Đỗ Văn Hạo muốn hỏi Cao Thao Thao xem vì sao nàng lại thay đổi ý định nhưng hắn lại sợ khi hỏi thì nàng sẽ lại vứt bỏ hết dũng khí đã đã vất vả tích cóp từng tí một. Hắn không nói câu nào, ôm nàng rồi quay người ngã xuống giường. Hắn vừa hôn nàng vừa cởi bỏ y phục của nàng, đồng thời cũng cởi bỏ y phục của hắn rồi mạnh mẽ tiến quân xung trận.

Nhưng Đỗ Văn Hạo cũng không lập tức xông thẳng vào. Vì đây là lần đầu tiên của hai người nên hắn muốn Cao Thao Thao sung sướng.

Phụ nữ thời cổ đại chỉ là công cụ của nam nhân. Nam nhân gần như không nghĩ tới cảm nhận của phụ nữ, chỉ nghĩ tới hưởng thụ của chính mình. Dù Cao Thao Thao đã từng là xuất giá, cũng có kinh nghiệm phòng the nhưng nàng vẫn không phối hợp với Đỗ Văn Hạo, để mặc hắn tự do tác chiến.

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo không phải là người ích kỷ. Đặc biệt đây là lần đầu tiên, hắn muốn cho Cao Thao Thao hưởng khoái cảm cao nhất tiến tới đỉnh Vu Sơn. Hắn chuẩn bị khiêu gợi tinh thần, kích thích để Cao Thao Thao nhanh chóng có cảm xúc.

Cho tới khi ý xuân của Cao Thao Thao dâng trào, Đỗ Văn Hạo mới nhẹ nhàng tiến vào nàng, nỉ non bên tai nàng những lời yêu thương, hướng dẫn nàng phối hợp với hắn. Cao Thao Thao cực kỳ thẹn thùng nhưng nàng lại nhất nhất làm theo, dần dần hai người phối hợp ăn ý với nhau.

Gió cuốn mây trôi, mưa bay, sấm chợp. Cao Thao Thao không nhịn được phát ra những tiếng rên rỉ khoan khoái. Dưới sự tấn công liên tiếp của Đỗ Văn Hạo, rốt cuộc nàng cũng cởi giáp tan hàng, du xuân ngoạn thuỷ trên đỉnh Vu Sơn, cùng Đỗ Văn Hạo lên tiên cảnh.

Sau cuộc mây mưa, thân thể hai người đẫm mồ hôi, mềm nhũn, ôm nhau nằm trên giường.

Lần đầu tiên Cao Thao Thao được hưởng hương vị ngọt ngào của tinh yêu nam nữ say đắm, trong lòng như được tưới mật ngọt. Nàng không ngờ tình yêu nam nữ lại có cảnh giới như vậy. Trong lòng nàng càng yêu Đỗ Văn Hạo say đắm. Nàng nép sát người vào hắn, thì thào: "Văn Hạo, ngươi có biết tại sao hôm nay ta cho ngươi không?"

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo lắc đầu. Bây giờ dù có biết hắn cũng giả ngu để không cho Cao Thao Thao xấu hổ. Cao Thao Thao giấu mặt vào người hắn nói: "Sau khi ta nghe nói ngươi thành thân, ta cũng muốn trở thành thê tử của ngươi. Thế nhưng ta là Thái Hoàng Thái Hậu. Ta không thể… nhưng ta không cam tâm. Trong lòng ta vẫn do dự cho tới tận hôm nay…ngày mai ngươi sẽ lấy nhị phu nhân nhưng ta lại chỉ có thể đứng nhìn, ta thật sự không cam tâm…"

Đỗ Văn Hạo kéo nàng vào lòng, hôn lên đôi môi kiều diễm ướt át đỏ mọng của nàng nói: "Xin lỗi, Thao Thao".

"Ngươi không cần xin lỗi ta. Đây đều là số mệnh. Ai bảo ta là Thái Hoàng Thái Hậu" Cao Thao Thao cười buồn nói. "Ta thật sự hy vọng chỉ là một dân phụ bình thường, đi theo ngươi. Dù ngươi cho ta ăn trấu ta cũng rất vui".

"Thao Thao!" Đỗ Văn Hạo ôm nàng. Hắn xoay nàng đặt lên người mình. Hắn vừa vuốt ve vừa hôn lên đôi gò bồng đảo của nàng.

Cao Thao Thao thở hổn hển, nàng cầm tay Đỗ Văn Hạo, nhìn hắn nói: "Vì vậy khi ta hỏi ngươi lúc trước ngươi còn thề độc. Ta biết ngươi yêu ta chân thành, ta đã quyết định ta không thể để hạnh phúc vuột mất khỏi tay mình. Ta muốn chính thức làm phu thê với ngươi. Chu dù chỉ là vụng trộm, ta cũng đã thoả mãn rồi".

Nói tới đây Cao Thao Thao cười buồn nói tiếp: "Một khi ta đã quyết định làm phu thể chính thực với ngươi. Tuổi của ta lại nhiều hơn ngươi nhiều. Nếu như sau khi ta thủ hiếu ba năm, ta đã già. Hiện tại bây giờ ta còn trẻ hơn. Nếu bây giờ ta giao thân thể mình cho người, ngươi sẽ vui mừng hơn, ta cũng có thể làm phu thê với ngươi nhiều hơn ba năm".

Nói tới đây, hai mắt Cao Thao Thao đỏ hoe, nước mắt nàng trào xuống, nhỏ xuống mặt Đỗ Văn Hạo lành lạnh nhưng Đỗ Văn Hạo lại thấy lòng mình ấm áp. Đó là sự cảm động khi có được tình yêu của người khác.

Hắn không ngờ một Cao Thao Thao tính tình cẩn thận mà lại dám nghĩ dám làm. Vì chính bản thân mình mà không để ý tới chữ hiếu, xếp thứ nhất trong lễ giáo phong kiến.

Đương nhiên đối với một người hiện đại như Đỗ Văn Hạo có một cái nhìn rất thờ ơ với việc nhất định phải thủ hiếu ba năm với cùng người khác chung chăn gối bởi vì hiếu thuận với người chết là khi còn sống chứ không phải sau khi đã chết.

Đỗ Văn Hạo ôm nàng nói: "Thao Thao. Sau này khi hai người chúng ta ở riêng với nhau, ta gọi nàng là nương tử. Nàng gọi ta là phu quân. Được không?"

Cao Thao Thao vui mừng, nàng cúi người hôn hắn và hỏi: "Thật sao?"

"Ừ, nương tử".

"Phu quân".

Trong lòng Cao Thao Thao ngập tràn hạnh phúc. Nàng xoay người, quỳ gối bên cạnh Đỗ Văn Hạo, cúi dạp người xuống, vụng về dùng kỹ năng Đỗ Văn Hạo mới dạy nàng để giúp hắn một lần nữa giương cờ, dẫn dắt hắn tiến mào thánh địa đào nguyên một lần nữa.

Lần này mai nở hai lần. Hai người tác chiến liên tiếp lại càng sảng khoái, tới tận gần trưa mới lưu luyến thu quân.

Đỗ Văn Hạo rời khỏi Hoàng cung, ra tới cửa đã thấy chúng nữ Bàng Vũ Cầm đang đứng chờ hắn.

Đỗ Văn Hạo có tật giật mình, hắn cười giả lả hỏi: "Các nàng ở chỗ này làm gì?"

Tuyết Phi Nhi trừng mắt nói: "Không phải chàng muốn tới phủ đệ mới xem phòng tân hôn bố trí thế nào ư? Tại sao chàng lại quên?"

Toà phủ đệ mới Cao Thao Thao tặng cho Đỗ Văn Hạo đã xây dựng xong ba ngày trước, cũng đã ấn định tiến hành hôn lễ với thiên kim của Vương Tể tướng ở phủ đệ này. Hai ngày nay mấy người Bàng Vũ Cầm đã chuẩn bị chuyển nhà, hôm nay cả nhà sẽ chính thức chuyển tới phủ đệ mới, chuẩn bị kỹ lưỡng để ngày mai nghênh đón tân nương. Hôm qua mọi người thống nhất sáng sớm nay đi thăm việc bố trí tân phòng ở phủ đệ mới. Không ngờ mới sáng sớm hắn đã bị Thái Hoàng Thái Hậu gọi vào Hoàng cung.

Đỗ Văn Hạo cười nói: "Đúng đúng. Mọi người đã đi xem chưa?"

"Đã xem rồi nhưng Vũ Cầm tỷ nói chuyện tân phòng phải do chàng tới xem. Bọn thiếp cảm thấy tốt cũng không có ích gì hết".

"Nói cái gì vậy? Các nàng cảm thấy tốt là được".

"Chàng là tân lang. Nếu chàng không thích, bọn thiếp không gánh được".

"Ha ha. Vậy chúng ta mau đi thôi".

Cả một đoàn xe ngựa tới toà phủ đệ sau hoàng cung. Nơi này đã treo đèn kết hoa, không khí háo hức, phấn chấn.

Trước đây mấy ngày Đỗ Văn Hạo đã tranh thủ vào kiểm tra phủ đệ, hắn cảm thấy rất vừa lòng. Sự tránh lệ vượt qua sự tưởng tượng của hắn. Hôm đó việc bài trí đã thay đổi hoàn toàn nhưng vấn đề là do toàn phủ đệ quá lớn, nơi đóng quân của đội hộ vệ bên ngoài là còn có chút sinh khí, còn ở bên trong do tôi tớ quá ít nên trông toà phủ đệ rất trống rỗng.

Khi xem tân phòng, đương nhiên Đỗ Văn Hạo xấu hổ không dám nói gì. Cho dù có gì không hài lòng hắn cũng không dám chọn ba lấy bốn vì mấy thê thiếp của hắn đã đồng ý cho hắn lập nhị phòng, như vậy đã là quá tốt.

Sau đó là chính thức chuyển nhà. Vì tất cả đồ dùng bên phủ mới đã đầy đủ nên chỉ cần mang theo đồ châu báu, quần áo. Những thứ còn lại để lại cho xưởng dược liệu xử dụng.

Tối hôm đó cả nhà ăn một bữa cơm đoàn viên ở phủ mới. Đêm nay Đỗ Văn Hạo ngủ một mình để chuẩn bị sức lực ngày màu động phòng hoa chúc. Vấn đề là chúng nữ không biết sáng nay Đỗ Văn Hạo đã hao tổn rất nhiều sức lực. Nếu các nàng biết mà không vẹo mũi mới lạ.

Sáng sớm hôm sau đội ngũ đón dâu đã chuẩn bị sẵn sàng, Đỗ Văn Hạo đeo dải lụa đỏ, cưỡi tuấn mã, đội nhạc đi trước mở đường, theo sau là kiệu hoa màu đỏ. Âm thanh của pháo trúc vang lên không ngừng.

Phủ đệ của Đỗ Văn Hạo ở ngay cạnh phủ đệ của Tể tướng Vương Giai nhưng vì chuyện mừng nên đoàn đón dâu đi một vòng quanh Hoàng thành rồi mới tiến tới trước cửa phủ Tể tướng.

Dọc đường đi, tâm phúc của Đỗ Văn Hạo, phó Đô Chỉ Huy Sứ Lý Phố đã phái quân đội canh phòng nghiêm ngặt. Ở các lộ khẩu đều có binh sĩ kiểm tra, không cho phép mang theo bất kỳ binh khí gì. Dọc theo hai bên đường binh sĩ bảo vệ tầng tầng lớp lớp, dân chúng muốn xem náo nhiệt chỉ có thể đứng ngoài tuyến cảnh giới xem.

Hôn sự lần này được cho là có một không hai ở kinh thành. Đương nhiên có rất nhiều người tới xem. Cũng có không ít người bệnh và người nhà cảm động và nhớ tới ơn cứu mạng của Đỗ Văn Hạo, dù không vào được phủ cũng đứng hai bên đường chúc mừng.

Đỗ Văn Hạo chắp tay thi lễ đáp tạ. Sau khi vòng quanh Hoàng thành cuối cùng đoàn rước dâu cũng tới cổng phủ Tể tướng. Sau khi tân nương đội khăn trùm đầu xuất hiện bước lên kiệu hoa. Diễn tấu sáo và trống, pháo nổi lên, đoàn rước dâu lại đi một vòng Hoàng thành, sau khi được dân chúng toàn thành hoan hô chúc mừng mới quay về phủ tân lang ngay bên cạnh.

Trong sân ở phủ đệ của Đỗ Văn Hạo đã bày khoảng một trăm bàn tiệc rượu. Khách và bằng hữu dáng vẻ vui mừng đã ngồi đầy chật. Trước cửa bên ngoài đường có bày bàn tiệc cơ động, chiêu đãi những quan khách bình thường.

Giờ lành đã tới, dưới sự lĩnh xướng của quan dẫn dắt, nghi thức bái thiên địa bắt đầu. Vấn đề là cha mẹ của Đỗ Văn Hạo không xuyên không gian tới đây nên đành phải quỳ lạy ghế không.

Sau khi bái thiên địa, Tiêu công công thay mặt Thái Hoàng Thái Hậu tuyên đọc ý chỉ, phong Đỗ Văn Hạo làm Trấn Quốc công, Vương Nhuận Tuyết làm nhị phẩm cáo mệnh phu nhân ( giống với Bàng Vũ Cầm ) sau đó còn tặng rất nhiều kỳ trân dị bảo cho tân nương Vương Nhuận Tuyết, cũng truy phong phụ mẫu Đỗ Văn Hạo làm Lê Quốc công, truy phong mẫu thân hắn làm nhất phẩm cáo mệnh phu nhân, hài tử trong bụng Bàng Vũ Cầm làm lục phẩm Chiêu Vũ giáo uý. Tiểu tử này vẫn chưa ra đời mà đã có chức quan chờ sẵn.

Đỗ Văn Hạo thụ phong tước vị "Quốc công". Ngoại trừ nhóm thân Vương, nhóm đại thần đầu não, thường còn được tặng cho các trọng thần có quan hệ thông gia với Hoàng thất. Đỗ Văn Hạo không thuộc những mối quan hệ này. Hắn chỉ có mỗi quan hệ tình nhân với Cao Thao Thao, mà cũng chỉ có hai người biết với nhau. Cũng may tước vị Quốc công đôi khi cũng được Hoàng thượng ban tặng cho những người thân cận của mình nên không ai thấy kỳ quái.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo vô cùng cảm kích. Cao Thao Thao đã làm vinh quang của hắn lên tới tột đỉnh, cũng làm hắn hiểu ý nghĩ của tước vị được phong.

Ninh công công đại diện cho Hoàng thượng mang tới câu đối chúc mừng do chính Hoàng thượng ngự bút, tuyên đọc ở chính giữa đại đường. hơn nữa cũng tặng kỳ trân dị bảo, tổng cộng hơn mười gánh, tất cả đặt ở trước đường.

Thái Hoàng Thái Hậu và Hoàng thượng đích thân chúc mừng, Đỗ gia thăng quan tiến tước. Vinh dự này đủ để mọi người ngưỡng mộ mãi không thôi.

Sau khi mọi việc xong xuôi tới lượt người nhà phân định danh phận. Vương Nhuận Tuyết và Bàng Vũ Cầm lấy lễ ngang bằng nhau bởi vì hai người đều là dòng chính, không phân biệt lớn nhỏ.

Sau đó Vương Nhuận Tuyết đội khăn trùm đầu đi tiếp nhận lẽ quỳ lạy của ba thiếp Liên nhi, Tuyết Phi Nhi và Lâm Thanh Đại, cùng với đó là thưởng hồng bao.

Sau khi người trong nhà chào nhau, phân định danh phân, trong tiếng hô của quan xướng lễ, Đỗ Văn Hạo cầm lụa đỏ dẫn Vương Nhuận Tuyết vào động phòng.

Sau đó Đỗ Văn Hạo đi ra kính rượu tân nhạc phụ Vương Giai cùng quan khách.

Lễ mừng tân hôn đương nhiên là uống rượu cạn chén. Cũng may Bàng Vũ Cầm đã để Anh tử đi theo Đỗ Văn Hạo, không cho mọi người ép rượu hắn. Mọi người cũng không muốn ép Đỗ Văn Hạo uống quá say, không thể vào động phòng làm tân nương chịu thiệt thòi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#tachiphi