ToQuocAnNan70497

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tổ quốc ăn năn

Nguyễn gia Kiểng

Chương thứ :1 "

Tôi sang Pháp du học năm 1961, lúc 19 tuổi. Là đứa con của đồng quê Việt Nam, tôi được nuôi dưỡng lúc ban đầu bằng hình ảnh cánh đồng, lũy tre, bờ ruộng, con cò, bằng những câu ca dao: bầu ơi thương lấy bí cùng... ta về ta tắm ao ta, v.v... Lớn lên một chút nữa, bằng những bài học quốc văn giáo khoa thư, truyện Phạm Công Cúc Hoa, truyện Lưu Bình - Dương Lễ, truyện Tấm Cám, truyện Phù Đồng Thiên Vương, truyện Thạch Sanh - Lý Thông. Khi chớm có nhận thức, bằng những trang sử oai hùng của dân tộc: Ngô Quyn phá quân Nam Hán, Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm, Trần Hưng Đạo phá quân Nguyên, Lê Lợi bình quân Minh, Quang Trung đại thắng quân Thanh; bằng những gương tuẫn quốc của Trần Bình Trọng, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Điều. Vinh dự nhất là sự hy sinh dũng liệt của Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Vinh dự vì trong trang sử này gia đình tôi có góp phần hy sinh. Trí tuệ của tôi cũng được phần đào tạo bằng thơ văn Nguyễn Công Trứ, bằng Truyện Kiều, bằng tư tưởng Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, bằng Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, bằng Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo, bằng nhiều thơ văn ái quốc, kề cả những bài thơ của Đặng Phương - mà sau này tôi được biết là Nguyễn Ngọc Huy.

Tất cả cái vốn liếng tinh thần và văn hóa đó khiến tôi mang nặng một niềm tự hào dân tộc khi vừa tới Pháp. Trong thâm tâm, tôi tin rằng Việt Nam hơn Pháp, cũng như tôi đ tin Việt Nam hơn Trung Hoa. Nước Pháp chẳng qua chỉ có một nền văn minh vật chất, nhưng thua xa Việt Nam về văn hóa, tâm linh và sự thâm thúy. Nối chung Việt Nam hơn Pháp vì phương Đông hơn phương Tây.

Phương Đông là nền văn minh lâu đời về tư tưởng, đạo đức và văn hóa, phương Tây chẳng qua chỉ hơn nhất thời về khoa học và kỹ nghệ. Phương Đông có chiều sâu trong khi phương Tây chỉ có bề rộng. Phương Đông có bề trong, phương Tây chỉ có bề ngoài; phương Đông có hồn trong khi phương Tây chỉ có xác. Tôi còn nhớ đã nhiều lần tranh luận gay go với những bạn học người Pháp cũng đầy tự hào dân tộc như tôi.

Sau một vài năm tôi thạo tiếng Pháp. Tôi ham đọc sách nên kiến thức vè lịch sử, chính trị, văn hóa Pháp còn có phần trội hơn cả nhiều bạn Pháp. Tôi tin là mình đã hiểu rõ nước Pháp nói riêng và phương Tây nói chung.

Tất cả dần dần thay đỗi với thời gian. Càng sống với người Pháp, càng làm việc với họ và li có dịp qua lại thường xuyên các nước châu Âu tôi càng khám phá ra rằng tôi chưa hiểu họ. Dần dần niềm tự hào dân tộc giảm đi, nhường chỗ cho một sự hoang mang và sau cùng là một sự chua xót v thẹn thùng vè sự thua kém của đất nước Việt Nam và con người Việt Nam. Tôi cũng dần dần có dịp tiếp xúc với người Mỹ và qua lại nước Mỹ. Có một nỗi đau càng ngày càng lớn trong tâm hồn tôi, nó đến một cách chậm chạp, lặng lẽ nhưng mãnh liệt.

Tôi nhận ra người châu Âu rất nhân bản, thâm thúy, đầy óc sáng tạo, nền văn minh của họ hơn hẳn nền văn minh của đất nước ta, văn hóa của họ vượt hẳn văn hóa của nước ta cả về lượng lẫn phẩm.

Tôi tự hào về trống đòng, về thành Cỗ Loa, về chùa Hương, về chùa Phổ Minh, vè các lăng tẩm ở Huế đề rồi phải xấu hỗ trớc công trình nghệ thuật nhiều gấp bội, cổ kính hơn nhiều lần, vĩ đại hơn nhiều lần và tinh xảo hơn nhiều lần mà tôi gặp được mỗi khi dừng chân ở bất cứ một địa điểm nào tại các nước châu Âu. Thì ra tôi đã giống như một con ếch ngời đáy giếng.

Ngũ thập tri thiên mệnh. Năm mươi tuổi biết mệnh trời. Năm nay tôi đã ngoài 50 tuổi, không biết tôi đã tri thiên mệnh chưa, nhưng tôi đã khám phá ra một điều: đó là cái gì dù lạ lùng đến đâu cũng đều có một giải thích giản dị. Các nước phương Tây vượt trội bởi vì văn hóa của họ lành mạnh, tâm lý của họ đúng đắn. Nước Việt Nam đau khổ và nghèo nàn bởi vì văn hóa Việt Nam thui chột và tâm lý người Việt Nam bệnh hoạn. Điều đó dĩ nhiên chẳng có gì mới đối với bạn đọc và cũng chẳng có gì mới đi với tôi, chúng ta đã biết từ khá lâu rồi. Có điều cái biết bây giờ khác với cái biết của trước kia. Giữa hai sự hiểu biết đó có một khoảng cách, đó là kinh nghiệm. Kinh nghiệm là gì nếu không phải là sự khám phá lại những chân lý đơn giản và có ích? Nhưng kinh nghiệm không phải chỉ đem lại cho tôi sự chấp nhận thua kém, và niềm đau của sự thua kém đó. Nếu chỉ có thế thì chẳng có gì để nói và cuốn sách này không có lý do gì đề đến với độc giả. Kinh nghiệm đó còn giúp tôi khám phá ra rằng Việt Nam có thể tiến lên, tiến xa và tiến cao. Với điều kiện là phải nghĩ lại mình.

Đó là lý do ra đời của cuốn sách khiêm nhường này.

Xét lại mình là một thao dượt có khi rất đau nhức, nhưng phải nhìn chân dung mình ngay cả khi nó không đẹp. Tôi xin lỗi các độc giả mà những trang sau có thề làm phiền lòng. Khi một sự thực làm phiền lòng thì đó là một bằng chứng rằng sự thực đó cần được nói ra. Cuốn sách nhỏ bé này, nếu là một phân tích không nhân nhượng về nước Việt và người Việt thì cũng không phải là một cuốn sách tiêu cực, nó muốn được là một cuốn sách của hy vọng và niềm tin.

Và tác giả thực sự hy vọng.

Sẽ có nhiều độc giả nhận xét rằng cuốn sách này có nhiều thiếu sót. Thiếu sót chắc chắn là có và có nhiều, nhưng có hai loại: những điều thực sự tác giả không nhìn thấy và những điều tác giả thấy mà không nêu ra. Quan niệm của tôi là không nhắc lại những gì mình nghĩ là đa số đã đồng ý đễ chỉ tập trung thảo lun về những gì mà nhiều người chưa đồng ý và nhất là những gì mà đa số không chấp nhận. Tôi nghĩ nên cố gắng đề nói ra những điều mới, và nếu trong mười điều mới nói ra có tới chín điều sai và chỉ một điều đúng thì cũng còn có ích hơn là nói mười điều đúng cả mười nhưng đều là những điều đã biết. Khi không chấp nhận một ý kiến, người ta hay cho rằng ý kiến đó l sai, là dở. Nhiều độc giả sẽ thay nhiều điều nói ra trong những trang sau là sai và đánh giá tác giả là dở. Tôi chấp nhận sự kiện đó. Tôi cho rằng nói ra những điều mình nghĩ là đúng dù biết rng sẽ có nhiều người cho là sai và đánh giá thấp mình là một thái độ khiêm tốn. Đó là cách khiêm tốn của tôi.

Cuốn sách này đề tặng ba người: Hồ Quì, vợ tôi, Hiền con trai tôi và Hòa con gái tôi.

Hồ Quì thực ra là đồng tác giả cuốn sách này. Hồ Quì đã thảo luận với tôi vè mọi ý kiến trong cuốn sách này, đã đọc lại, sửa chữa và góp ý. Điều còn quan trọng hơn nữa là Hồ Quì ã cho tôi niềm vui trong lúc viết. Không những thế, tôi còn được vui vẻ chấp nhận một ngân sách thua lỗ. Với kinh nghiệm của những cuốn sách chính trị đứng đắn đã phát hành, cả hai chúng tôi đều không có một ảo tưởng nào vè tương lai tài chánh của cuốn sách.

Còn về Hiền và Hòa thì đây chỉ là một sự công bằng. Cuốn sách này là của chúng. Tôi không có may mắn được dành toàn thời gian cho hoạt động và nghiên cứu chính trị. Tôi có hoạt động nghề nghiệp và hơn thế nữa có hoạt động nghề nghiệp rất vất vả. Cuốn sách này đã được viết và sửa chữa trong thời gian mà bố mẹ chúng dáng lẽ phải dành cho chúng.

Cuốn sách này cũng đề tặng nhóm Thông Luận vì lý do cũng rất hiển nhiên. Thông Luận là tổ chức chính trị duy nhất mà tôi tham gia từ 1982 tới nay. Đó là gia đình thứ hai của tôi. Tôi đã may mắn gặp được ở đó một số đông đảo các trí thức và chuyên gia hàng đầu, nặng tình với đất nước. Sinh hoạt của Thông Luận, đối với tôi và đối với mọi người trong anh em chúng tôi, đã là cả một cuộc mạo hiểm của trí tuệ. Tôi đã học hỏi được rất nhiều điều ở đó và có thề nói cuốn sách này xuất phát từ đó. Nói như thế không có nghĩa là mọi người trong nhóm Thông Luận đều đồng ý với những gì tôi viết ra, mà chỉ có nghĩa là nếu không có Thông Luận nội dung cuốn sách sẽ khác đi nhiều. Anh em Thông Luận chúng tôi đồng ý với nhau về mục tiêu tranh đấu cho một thể chế dân chủ đa nguyên, trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, bằng những phương pháp bất bạo động; nhưng trong nhiều điểm khác chúng tôi khác nhau. Thông Luận chủ xướng đa nguyên và trước hết chúng tôi áp dụng chủ nghĩa đa nguyên trong nội bộ của mình. Kề từ đầu năm 2000, nhóm Thông Luận đã có danh xưng chính thức là Tập Hợp Dân Chủ Da Nguyên, nhưng vì cuốn sách này đã được bắt đầu viết từ vài năm trước nên trong nhiều đoạn cụm từ nhóm Thông Luận đã được dùng thay vì Tập Hợp Dân Chủ Da Nguyên. Cuốn sách này cũng đề tặng ba người đã mất. Lê Văn Đằng, Vũ Tiến Đạt và Nguyễn Hoàng Quốc Phái. Đằng và Đạt là bạn, Quốc Phái là con gái đầu lòng của tôi.

Sáng thứ bảy 4-5-1994 khi bảy người chúng tôi trong Ban Thường Trực của Thông Luận họp mặt trong phòng họp riêng của tôi chúng tôi uống cà-phê, ăn sáng và thảo luận rất thoải mái. Ngoài việc giải quyết một số vấn đề thông thường của tổ chức Thông Luận, chúng tôi bàn kế hoạch ủng hộ Đoàn Viết Hoạt, đang chịu một hoàn cảnh giam cầm nghiệt ngã. Chúng tôi đều đồng ý rằng điều cấp bách nhất là làm thế nào đễ Đoàn Viết Hoạt đừng chết. Chúng tôi không h nghĩ rằng một lát nữa một trong bảy người chúng tôi sẽ chết. Phiên họp vừa hết, Đằng muốn thêm một lời kết luận. Đang phát biểu, Đằng thình lình ngừng lại, ngất xỉu và chết ngay sau đó.

Đằng cùng tuổi với tôi, đậu tú tài cùng một năm với tôi và đi du học cùng một chuyến máy bay với tôi, rồi cùng về nước phục vụ trong cùng khoảng thời gian với tôi. Từ ngày gặp nhau chúng tôi vừa là chí hữu vừa là anh em. Đằng không phải là người bạn mà còn là một phần của con người và trí tuệ của tôi. Đằng mồ côi cha từ năm ba tuổi, rồi mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm sáu tuổi, sng nhờ sự nuôi dưỡng và thương yêu của các anh chị rất nghèo. Lúc mới tới Pháp, Đằng không có cả áo lạnh, phải lấy dầu cù-là thoa khắp cả người chống rét. Đằng xuất sắc về toán, đậu th khoa kỳ thi tuyển vào Đại Học Sư Phạm ban toán, nhưng khi được học bổng đi Pháp lại chọn học kinh tế tài chánh và cũng thành công mỹ mãn. Về Sài Gòn làm cố vấn tổng trưởng tài chánh, Đằng vẫn cố dành thì giờ đề đi dạy đại học. Cuộc đời của Đằng chỉ có cố gắng và phấn đấu.

Đằng không những là chuyên gia kinh tế xuất sc nhiều người, trong đó có tôi, coi Đằng là chuyên gia kinh tế tài chánh lỗi lạc nhất của Việt Nam - mà còn rất đam mê chính trị. ở bên ngoài Đằng có vẻ là một người trầm mặc, ôn hòa, nhưng trong nội bộ tổ chức Thông Luận chúng tôi, Đằng luôn luôn biểu quyết cho những lập trường táo bạo nhất. Có lẽ đó là cái bản chất của đứa con của đất miền Trung sỏi đá, nơi con người luôn luôn phải cứng cỏi và bướng bỉnh với thiên nhiên đề sống. Mối tình thân giữa chúng tôi đã bắt đầu từ đời trước. Thân phụ chúng tôi đều là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, cha của Đằng bị cộng sản giết chết, cha tôi may mắn thoát nạn. Cái gia phả chính trị đó đã gắn bó chặt chẽ chúng tôi với nhau.

Tôi đã học hỏi ở Đằng rất nhiều, đến nỗi giờ này tôi không thề phân biệt được trong những kiến thức và nhận thức của tôi cái gì là của tôi cái gì là của Đằng.

Tối hôm Đằng chết, khi đi thăm xác Đằng về, vợ tôi ngồi khóc và nói với tôi: Rồi anh sẽ ra sao đây? Anh sẽ chẳng bao giờ tìm được một người bạn như thế nữa.

Ngày 4-11-1961, ngày tôi rời Việt Nam đi du học đề gặp Đằng trong chuyến máy bay và kết nghĩa anh em, cũng là ngày tôi nhìn Vũ Tiến Đạt lần cuối. Đạt ra tiễn tôi tại phi trường hôm đó. Đạt cũng đậu tú tài năm đó nhưng không đi du học. Tôi quen Đạt không lâu trước đó, nhưng Đạt đề lại trong tôi một ấn tượng cực mạnh. Tôi có một nhóm bạn cùng lứa tuổi họp nhau đề bàn chuyện đất nước. Hoạt động chính trị duy nhất của chúng tôi là vận động cho liên danh Hồ Nhật Tân - Nguyễn Thế Truyền trong cuộc tranh cử tổng thống với Ngô Đình Diệm năm 1961. Rồi một hôm một người bạn đem Đạt tới. Đạt không giống ai. Hắn có bản năng và lối phát biểu mạnh mẽ một cách lạ lùng. Hắn đã đọc và thuộc vô số lý thuyết và phương pháp hoạt động chính trị. Hắn quả quyết một cách đáng sợ. Đạt không giấu ai ý định của hắn là muốn làm tổng thống Việt Nam sau này. Đấy là một cao vọng quá lớn và có thề là kềnh càng với một thanh niên 18 tuổi, nhưng Đạt trả giá cho tham vọng ấy một cách sòng phẳng. Hắn cố gắng vượt bực và cư xử một cách hùng tráng. Đậu xong luật, Đạt đi lính, hắn nói không dám đi lính là hèn, và hơn thế nữa hắn cho rằng đi sĩ quan cũng không phải là can đảm vì không nguy hiềm lắm. Hắn đi lính từ binh nhì, vào các ơn vị tác chiến, lên đại úy, rồi thi đậu khóa tuyền lựa tham vụ ngoại giao đầu năm 1975. Việc chuyển sang ngoại giao chắc chắn nằm trong kế hoạch trau dồi bản lãnh của hắn. Điều tiếc nhất trong đời tôi là trong suốt thời gian ở Việt Nam sau khi từ Pháp vè tôi đã không gặp được hắn, hắn ít về Sài Gòn và về trong những lúc tôi bận chuyện khác. Hắn cũng chỉ về chớp nhoáng rồi lại đi ngay. Mãi sau này tôi mới biết rằng hắn đã về bộ ngoại giao từ đầu năm 1975, nhưng lúc đó tình hình Việt Nam đã bắt đầu biến chuyển nhanh chóng khiến tôi không còn thì giờ và tâm trí để tìm gặp các bạn cũ nữa.

Trong trại cải tạo, sau ngày 30-4-1975, Đạt hiên ngang thách thức, hắn không nhận tội, không xin khoan hồng, lúc nào cũng dõng dạc đòi một điều duy nhất: được cư xử như một tù binh theo công ước quốc tế. Hắn cũng kêu gọi đồng đội đừng ngã lòng, phải giữ lấy khí phách và danh dự. Có lẽ hắn tự coi là một tổng thống và phải cư xử xứng đáng như một tổng thống. Một hôm hắn bị bắn chết trong lúc đi lao động, người ta bảo hắn định vượt trại. Điều này không ai kiểm chứng được.

Lúc đó tôi cũng đang ở tù.

Khi ở tù ra, sau hơn ba năm, tôi đã khóc rất nhiều trên mộ Quốc Phái, con gái duy nhất của tôi, chết trong lúc cả cha mẹ nó đang bị giam giữ. Lúc đó Quốc Phái mới được sáu tháng. Tôi tự hỏi tại sao tôi có thề khóc lâu như thế và tôi hiểu rằng tôi sẽ khóc cho đứa bé này ngay cả nếu nó không phải là con tôi. Tôi khóc cho một đứa bé gái duy nhất, xinh đẹp của một kỹ sư và một bác sĩ, một đứa bé mà cuộc đời đã hứa cho tất cả, nhưng đã chết như một đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ và được chôn cất sơ sài trong một nghĩa trang tiều tụy. Tôi khóc cho nạn nhân vô tội nhất của cuộc chiến này. Tôi chợt hiểu rằng tôi không thề bỏ cuộc. Nếu tôi không vì đất nước quyết định hồi hương thì Quốc Phái đã sinh ra ở Pari, sẽ lớn lên trong tình yêu và hạnh phúc, sẽ thành công mỹ mãn. Tôi cần một thắng lợi đễ làm quà tặng và xin lỗi Quốc Phái và thắng lợi đó phải thực quảng đại, xứng đáng với Quốc Phái và xứng đáng với nỗi đau không bao giờ nguôi trong tôi.

Trong thứ tự những người được đề tặng, độc giả có thề hỏi tại sao tôi không đề những người đã chết trước những người còn sống? Lý do là vì mặc dầu những tình cảm vô cùng tha thiết và vô cùng sâu đậm với người đã khuất, sự sống vẫn phải đi trước. Cuốn sách này muốn được là cuốn sách của hy vọng, viết cho những con người của đất nước hôm nay và ngày mai.

____________________________________________

Chương thứ :2 "

Tôi phải cám ơn trước hết toàn bộ các chí hữu trong gia đình Thông Luận, nơi kiến thức và nhận thức của tôi đã hình thành nhờ nhưng cuộc thảo luận và trao đỏi và cũng đã một phần nào được thử nghiệm qua hành động.

Một lòng biết ơn xâu xa xin được gởi tới những bậc thầy đã uốn nắn cách suy nghĩ của tôi. Các giáo sư Vũ Khắc Khoan, Lê Ngọc Huỳnh, Nguyễn Xuân Kỳ, hiện nay không còn nữa. Một lời tưởng nhớ cũng xin được gởi đến cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, một người bạn thân và một người anh lớn đã chỉ dạy cho tôi rất nhiều khi mới hoạt động chính trị, rất tiếc là ông đã mất trước khi chúng tôi có thể sát cánh với nhau trong cùng một tổ chức.

Dĩ nhiên tôi không thề không nhắc tới thân phụ tôi, người thày đầu tiên của tôi, đã tạo ra tôi cả xác lẫn hồn và mẹ tôi, người đã cho tôi bài học quí giá nhất : đấu tranh chính trị trước hết là bằng trái tim.

Đoàn Xuân Kiên, Võ Xuân Minh và Diệp Tường Bảo đã đọc lại và góp ý.

Lời cảm tạ sau cùng nhưng đặc biệt nhất xin dành cho Nguyễn Văn Huy, người đã thúc giục tôi viết cuốn sách này. Huy là tiến sĩ về dân tộc học và giảng dạy về môn dân tộc học vùng Đông Nam á tại Đại Học Paris 7. Huy rất say mê khảo cứu lịch sử Vit Nam và đã góp ý với tôi trong nhiều nhận định. Dù không chia sẻ hoàn toàn những gì tôi viết, Huy đã tình nguyện đọc lại, sửa chữa và thay tôi lo phần việc in ấn cuốn sách này.

Nguyễn Gia Kiểng

____________________________________________

Chương thứ :3 "

Cuốn sách này là một cuốn sách để thảo luận ý kiến, với mục đích chỉ đè xướng ra mà không kết thúc các cuộc thảo luận. Vì thế tác giả, do thời giờ eo hẹp, đã tự cho phép bỏ qua phần chú thích sau mỗi chương. S thiếu sót này là do điều kiện biên soạn cuốn sách: tác giả, vì không thề dành một khoảng thời gian liên tục để viết, đã phải lập trước một bố cục, sau đó viết dần dần từng chương một trong vòng bốn năm, trung bình mỗi ngày một vài giờ, đôi khi trên xe lửa hoặc máy bay. Cách viết như vậy không cho phép ghi chú tỉ mỉ những tài liệu trích dẫn. Bù lại, những trích dẫn quan trọng đã đưc ghi ngay trong các bài viết, như độc giả có thề nhận xét. Vì là một cuốn sách ý kiến, và hơn nữa ý kiến cá nhân, nên việc liệt kê tài liệu lại càng khó. Tác giả viết với kiến thc và suy tư cá nhân của mình cho nên nếu muốn liệt kê hết các tài liệu đã ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên cuốn sách thì có lẽ phải liệt kê hết tủ sách của mình. Điều này không phải ch khó mà còn không thể làm được vì, một mặt, có những tài liệu, như báo chí, tác giả đã tự ý huỷ bỏ vì không có chỗ lưu giữ và, mặt khác, có những biến cố đã khiến tác giả nhiều lần mất tất cả hay gần hết tủ sách. Trong những trích dẫn về Khổng giáo, tác giả sử dụng bản Luận Ngữ do Nguyễn Hiến Lê biên soạn và nhà xuất bản Văn Nghệ (Nam Cali, Mỹ) phát hành, có đối chiếu với các bản nghiên cứu Luận Ngữ bằng tiếng Pháp của Bùi Đức Tín (Pierre Gastine) và Anne Cheng. Ở đây xin lưu ý độc giả là tác giả không đồng ý với phần lớn những giải thích về Khổng giáo và Khổng Tử trong các lác phẩm này. Theo tác giả, Luận Ngữ và Khổng Tử cần được hiểu theo bối cảnh xã hội Trung quốc thời Xuân Thu Chiến Quốc trong khi các tác phẩm nói trên thường vô tình giải thích theo những quan niệm về Nho giáo được hình thành rất lâu sau giai đoạn này. Phần lớn các số liệu về thế giới được lấy từ những nguồn tài liệu được cập nhật hoá hàng năm sau đây: - Encyclopedia Universalis (Encyclopedia Universalis, Paris), - Etat du Monde (Edition de la Découverte, Paris), - Bilan Economique ét Social (của nhật báo Le Monde, Pháp), - The World Almanac (Houghton, Miftline Company, Hoa kỳ), The World Bank anual Report (do Ngân hàng thế giới phát hành hàng năm). Vì Tổ quốc ăn năn là một cuốn sách để thảo luận về ý kiến nên tác giả đã ít dùng những tài liệu thống kê. Các số liệu được đưa ra thường là những con số có ý nghĩa quan trọng đặc biệt vì thế độc giả có thề tin là chng đã được kiểm chứng một cách thận trọng. Về bố cục, cuốn sách này gồm năm phần. Mỗi phần gồm một số chương, trong cùng một chủ đề. Độc giả ít thời giờ có thề đọc từng chương một cách độc lập với nhau, nhưng cách đọc đúng nhất vẫn là đọc theo thứ tự của cuốn sách vì trong mỗi chương tác giả coi như độc giả đã nắm được ý của phần trước. Tuy được viết thành những chương ngắn nhưng Tổ quốc ăn năn không phải là một tuyển tập những bài nghị luận mà là một cuốn sách. Phần một: Đất nước và con người, gồm 24 chương, mỗi chương bàn về một khía cạnh của địa lý Việt nam và con người Việt nam, mục đích là để nhận diện những điểm mạnh và yếu của chúng ta. Như tinh thần đã được trình bày trong lời đầu, nó sẽ không nhắc lại những gì mà mọi người đều đã biết, đã đồng ý và tác giả cũng không thấy có gì đặc biệt cần nói thêm. Phần này chỉ tập trung nói lên những gì không ổn và cần được xét lại trong cách mà người Việt nam nhìn dân tộc và đất nước mình. Phần hai: Đoạn đường đã qua, gồm 19 chương về lịch sử, chắc chắn sẽ gây nhiều tho luận. Tác giả không có tham vọng viết lại lịch sử mà chỉ đặt lại một số vấn đề lịch sử. Có quá nhiều nhận định về lịch sử mà chỉ cần suy nghĩ bình tĩnh một chút ta có thề thấy ngay l sai nhưng vẫn cứ tiếp tục được coi là đúng và có ảnh hưởng rất lớn trên cách suy nghĩ và phát biểu của người Việt nam. Tại sao chúng ta có thề sai lầm về lịch sử của mình đến như vậy còn chờ đợi một giải thích, nhưng chính sự kiện chúng ta hiểu sai lịch sử của mình lại có thể giải thích những thảm kịch mà chúng ta đã phải gánh chịu. Nhận định của tác giả là người Việt nam chúng ta nói chung viết sử một cách không đứng đắn và cũng đọc sử một cách không đứng đắn do đó mà chúng ta không biết chúng ta là ai, từ đâu đến đây và sẽ phải làm gì. Nếu phần này gây ra tranh luận và, do đó, một ý thức xét lại lịch sử thì mục đích của nó đã đạt được. Phần ba: Vì đâu nên nỗi? gồm 17 chương vè các vấn đề tâm lý và văn hoá Việt nam. Những bi đầu cố gắng dưa ra một nhận định về di sản văn hoá nước ta với một khẳng định rằng chúng ta chỉ có thề vươn lên nhờ tiếng Việt và bằng tiếng Việt. Văn hoá Việt nam đã là văn hoá Khổng Mạnh trong gần hai ngàn năm và cũng sẽ còn là văn hoá Khổng Mạnh trong nhiều thập niên sắp tới dù thanh niên Việt nam có du học phương Tây, chương trình CNN có được truyền đi hàng giờ, các tiệm ăn Mac Donald có mọc lên khắp nơi và mỗi gia đình đều có Intemet. Bởi vậy cần tìm hiểu Khổng giáo và cách mà chúng ta đã tiếp thu Khổng giáo để hiệu chúng ta là ai và tại sao chúng ta lại là chúng ta ngày nay. Tác giả biết rằng phần này sẽ gây sóng gió, nhưng là một sóng gió cần thiết, nếu chúng ta không muốn ngủ yên trong sự thua kém. Phần bốn: Vài hành trang cho tương lai, gồm 15 chương, có mục đích đề nghị một số kiến thức và nhận thức cơ bản để nghĩ lại và làm lại nước Việt. Tác giả sẽ trình bày các vấn đè về phát triền kinh tế, quản lý kinh tế tài chính, các ý niệm nền tảng về quốc gia dân tộc, về dân chủ và vè chế độ chính trị. Độc giả có thề coi phần này như những đề nghị, dù thực ra tác giả chỉ đã cố gắng để trình bày một cách thực khách quan những kiến thức rất cơ bản nhưng tiếc thay vẫn chưa được nắm vững trong các cuộc thảo luận về đất nước, ngay cả trên những diễn đàn được coi hoặc tự coi là có trình độ cao. Ai cũng có quyền có lập trường riêng của mình nhưng tác giả không tin là có "quyền hiểu lầm" và "quyền lý luận sai" trên những sự kiện đã rõ rệt. Tác giả tin rằng nếu mọi người dân chủ nắm vững những khái niệm cơ bản này thì các cuộc thảo luận sẽ dễ dàng và tình hình đất nước có thề khai thông nhanh chóng. Sự hiểu biết cũng là một dụng cụ và một vũ khí. Phần này vì vậy là một hành trang đề nghị cho tương lai. Phần thứ năm: Vươn mình lớn dậy, cũng là phần kết, mở đầu bằng một cái nhìn thoáng qua một lục địa rất xa xôi là châu Phi để thấy thảm kịch của sự thiếu vắng một cố gắng cần thiết nhưng lại không được ý thức và do dó không được thực hiện; tiếp theo là chương Tổ quốc ăn năn, cũng là tên của cuốn sách, đặt lại tương quan giữa ngời Việt nam và nước Việt nam; sau cùng là bài Gởi vào giấc mộng nhắn ra cuộc đời trong đó tác giả mạn phép nói chuyện riêng với một số độc giả đặc biệt.

.

Chương thứ :5 "

Không biết ông Tố Hữu có phải là nhà thơ theo đúng nghĩa của một nhà thơ không. Nhưng ông có tài làm thơ, hiểu theo nghĩa những câu ngắn có vần ở cuối, và tài làm thơ đã góp phần quyết định đưa ông lên gần tới tột đỉnh của danh vọng và quyền lực. ông biết dùng những hình ảnh rất đẹp và giản dị ngay cả khi đề diễn tả những tình cảm giả tạo với những mục đích rất thực tiễn. Như khi ông dùng hình ảnh đứa bé tập nói để ca tụng Stahn, hay khi ông dùng hình ảnh một người con ân cần nắm tay cha ể nịnh Hồ Chí Minh. Bài thơ Từ ấy của ông được người cộng sản ca tụng như một bài thơ hay.

Nó bắt đầu như sau:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chiếu qua tim

Hon tôi là một vườn xanh lá

Rất đượm hương và rộn tiếng chim.

Qua những câu thơ này, ông Tố Hữu muốn diễn tả nỗi hân hoan của ông khi tìm ra chân lý Mác-Lênin và dấn thân tranh đấu trong Đảng Cộng Sản Việt Nam. Còn gì đẹp bằng màu xanh của lá và tiếng hót của chim?

ông Tố Hữu đã tranh đấu và đã thành công. Lý tưởng của ông đã đạt được. Con đường thắng lợi của đảng ông đã đi qua hàng triệu xác chết. Để đi đến kết quả nào?

Trong mùa hè 1992, một người bạn Pháp, sau chuyến đi công tác một tháng tại Việt Nam, kề cho tôi nghe là anh ta thường thức dậy sớm vì sai biệt giờ giấc. Anh ta nói khu anh ta ở không có chợ vì nằm ngoài thành phố và buổi sáng im lặng một cách lạ thường vì hoàn toàn không có một tiếng chim.

Anh ta có nhiều chuyện quan trọng hơn đề nói cho tôi nghe và tôi cũng có nhiều chuyện để hỏi anh ta; những số liệu, những cuộc gặp gỡ, những nhân vật đã tiếp xúc, nhận định, cảm tưởng v.v. Và tôi không lưu ý tới chi tiết này.

ít lâu sau, lại một người bạn khác, hay đi về Việt Nam, kể cho tôi nghe chuyện qua bắc Mỹ Thuận. Tôi thình lình nhớ tới những quán bán chim nướng và hỏi anh ta có ăn chim nướng ở đó không. Anh ta trả lời rằng có, nhưng đó chỉ là gà con mới nở được đem chiên thay cho chim chứ chim không còn nữa. Tôi bắt đầu lưu ý tới đàn chim Việt Nam.

Trong mùa hè 1993, nhiều anh em trong nhóm Thông Luận về thăm nhà. Tôi dặn mọi người đễ ý xem Việt Nam còn nhiều chim không. Họ đem thuật lại như nhau, và điều h nói làm tôi sửng sốt: Việt Nam không còn chim? Chỉ có một người bạn đi từ Nam ra Bắc mới thấy một con chim ở Vịnh Hạ Long, anh ta vội vã lấy máy hình ra chụp ảnh con chim ấy đem về cho tôi.

Cà Mau trước đây có một rừng cò lớn, có rất nhiều loại cò, nhiều đến nỗi có nhưng người chuyên đi vào rừng lượm trứng cò và mỗi ngày lượm được cả rổ đem ra chợ bán. Tôi dặn một người bn nhớ viếng khu rừng cò đó và anh ta cho tôi hay khu rừng cò chỉ còn rất ít cò ít một cách không đáng kể. Thế là cuộc cách mạng của ông Tố Hữu thành công và Việt Nam hết chim.

Còn màu xanh của lá?

Những người qua lại Việt Nam đều đồng ý. Rừng bị phá hoại thẳng tay. Cho tới năm 1993, hàng ngàn công ty thi nhau đốn cây lấy gỗ xuất khau. Hàng trăm ngàn gia đình sống bằng nghe phá rừng lấy củi đem bán cho hàng triệu gia đình cần chất đốt. Chỉ tới giữa năm 1993, nhà nước mới ra lệnh cấm xuất cảng gỗ, và mới bắt đầu có một cố gắng rất hình thức để trồng lại rừng, nhưng rừng vẫn tiếp tục bị phá nhanh chóng. Nhà nước cộng sản cũng không giấu giếm việc này, và nhiều báo chí đã lên tiếng báo động. Nhưng còn gì để báo động? Những con số đã thực kinh khủng: 3/4 rừng Việt Nam đã bị phá, chỉ riêng trong 20 năm từ 1975 đến 1995, kể từ ngày đất nước thống nhất hơn một nửa diện tích rừng trên toàn quốc bị phá hủy. Mùa hè 1999, tôi lại được đọc một nguồn tin của nhà nước theo đó thì khoảng 1/3 diện tích rừng đã bị phá từ năm năm qua. Rừng Việt Nam còn lại bao nhiêu có lẽ không ai biết được một cách chính xác nhưng tôi nghĩ sự thực có lẽ còn bi đát hơn các con số. Báo chí thế giới đã nói tới rất nhiều, và chính quyền còn nói nhiều hơn, về những tàn phá gây ra cho rừng vì những thảm bom B52 và nhất là chất độc màu da cam của Mỹ. Điều đó đúng, và rừng cây Việt Nam đã bị thiệt hại rất nhiều. Nhưng không thấm vào đâu so với những tàn phá của 25 năm quản lý đất nước bất chấp môi sinh. Người ta cứ tưởng đất nước Việt Nam vô tận, thiên nhiên Việt Nam vô tận nên cứ thẳng tay tàn phá.

Vô lý nhất là việc cho phép xuất cảng g cho tới vài năm gần đây cũng vô lý và đần độn như việc xuất khẩu kim loại phế thải trước đây với giá rẻ mạt, rồi bây giờ phải mua lại với giá đắt gấp mấy chục lần. Việt Nam chưa bao giờ dư gỗ cả. Chúng ta có gỗ để xuất khẩu chỉ vì chúng ta quá nghèo. Không cần nói tới miền Bắc và miền Trung, nơi cuộc sống nông thôn chỉ là một sự đầy đọa và ở đó chẳng làm gì có chuyện sắm bàn ghế, giường gỗ, tủ gỗ. Tôi đã đi qua các tỉnh miền Tây Nam phần trù phú, ở đó hầu như tất cả các căn nhà đòng quê đều dựng lên bằng tre, và mỗi gia đình chỉ có một hai chic giường bằng gỗ; bàn ghế hầu như không có. Khi mức sống đã tăng lên, và phải hy vọng là mức sống sẽ tăng lên, chúng ta sẽ phải nhập cảng một số lượng gỗ lớn.

Đất nước ta đã chật hp, đã không có tài nguyên thiên nhiên, còn bị phá hủy và trở thành cằn cỗi. Không còn rừng xanh và bặt tiếng chim!

Ngày xưa, Nguyễn Trãi kể tội quân Minh tàn phá nước ta: Tàn hại cả côn trùng thảo mộc? Quân Minh không phải là người Việt Nam và vì thế có thể không quí trọng thiên nhiên Việt Nam. Ngày nay chính người Việt Nam tàn phá đất nước Việt Nam. Khi đất nước Việt Nam đã bị tàn phá đn nỗi không còn sinh sống được nữa thì cũng không còn gì để nói và làm nữa. Tôi đã có dịp ghé thăm nước Tunisie. Quốc gia bé nhỏ này đang bị thiên nhiên tiêu diệt từ từ. Sa mạc ngày càng lấn lên từ miền Nam, nước Tunisie đã nhỏ lại càng nhỏ lại. Sự thiếu thốn thảo mộc đang làm thay đổi cả thời tiết. Mưa đổ ào xuống trong vòng 10 ngày mỗi năm, rồi sau đó là hạn hán. Những con sông trung bình chỉ có nước một hai ngày mỗi năm, những ngày còn lại chúng đề trơ lòng sông nứt nẻ. Cả một cố gắng vĩ đại và tuyệt vọng được tung ra dễ trồng cây ngăn chặn sự gậm nhấm của sa mạc. Nhưng đó là một thiên tai. ởViệt Nam tai họa do con người và do người Việt Nam.

Tuy vậy Tunisie vẫn còn chim, mắt tôi đã nhìn thấy nhiều đàn chim. Việt Nam không còn chim.

Chương thứ :6 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :7 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :8 "

Trong cuộc chuyển hóa vĩ đại từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp và dịch vụ chúng ta gặp một trở ngại lớn: khí hậu. Chúng ta là một nước nhiệt đới, gần như nóng quanh năm, nhất là ở miền Nam. Sự phá hủy cây rừng từ nhiều năm nay, và vẫn chưa chấm dứt hẳn dù rừng không còn bao nhiêu, lại càng cho khí hậu thêm phần gay gắt khó chịu.

Khí hậu nóng làm cho con người uể oải, thiếu quyết tâm và mất kiên nhẫn. Các nước phát triển mạnh thường không phải là những nước nhiệt đới. Singapore là một ngoại lệ, nhưng Singapore không phải là một quốc gia theo đúng nghĩa của nó, mà là một thành phố và một hải cảng. Vả lại, đó là một đảo, được biển bao quanh và nhờ vậy gió biển cũng làm dịu bớt khí hậu, như tại Mã Lai. Có nhiều nhà nghiên cứu khẳng định phát triển là đặc tính của các nước hàn đới và ôn đới. Bắc Mỹ phát triển hơn hẳn Nam Mỹ, Bắc Âu vượt hẳn Nam Âu. Các nước châu á phát triển mạnh cũng thé: Nhật, Triều Tiên, Hương Cảng, Đài Loan và có lẽ sau này Hoa Lục, cũng đều là những nước lạnh, hoặc ít ra không nóng. Có những nhà nghiên cứu xã hội lớn, như Max Weber và Alain Peyrefitte, không tin như vậy và giải thích bằng lý do văn hóa. Bắc Mỹ và Bắc Âu, theo họ, phát triển được nhờ tư tưởng Tin Lành phóng khoáng, trong khi Nam Mỹ và Nam ăn không phát triển vì ảnh hưởng giáo điều thủ cựu của Công Giáo. Phân tích này có phần đúng, nhưng cũng có thể giải thích rằng tại vì miền Bắc Âu lạnh, mà con người có nhiều sâu, phát triển óc phê phán và sáng tạo rồi chấp nhận Tin Lành.

Dầu sao thì khí hậu nóng cũng vẫn là một trở ngại lớn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng đồng ý các vùng bờ biển phát triển mạnh hơn các vùng lục địa. Biển là kho tàng hải sản vô tận, là sự nới rộng của bờ cõi, và, quan trọng hơn hết, là khả năng giao thông vận tải quan trọng và quí giá vô cùng.

Khi vừa mới tốt nghiệp kỹ sư, tôi làm việc cho hãng Pechiney, công ty đứng hàng thứ nhì thế giới và thứ nhất tại châu Âu vào đầu thập niên 1970 về kỹ nghệ nhôm. Pechiney nhập cảng quặng nhôm từ úc và châu Phi. Nhà máy luyện nhôm nơi tôi làm việc nằm ở trung tâm nước Pháp, cách cảng Marseille chừng 400 km. Chi phí chuyên chở bằng đường biền từ úc tới Marseille gần 20.000 km, nhẹ hơn chi phí chuyên chở 400 km đường sắt từ Marseille đến nhà máy.

Ưu thế bờ biển - lục địa quan trọng không kém ưu thế lạnh - nóng. Người ta có thể quan sát rằng từ hai mươi năm nay tại Trung Quốc, vùng duyên hải đã phát triển vượt hẳn vùng lục địa. Ưu thế của bờ biển càng rõ nét trong trường hợp Trung Quốc nếu người ta nhớ lại rằng trong thập niên 1950 Mao Trạch Đông đã cho thi hành kế hoạch đệ tam tuyến, chuyển hết kỹ nghệ vào lục địa đề phòng ngừa một cuộc đổ bộ của Hoa Kỳ. Kế hoạch này đã biến Trùng Khánh thành thành phố đông dân nht Trung Quốc, nó đã làm phá sản các vùng bờ biển.

Biển cũng làm cho khí hậu nóng bớt đi rất nhiều phần gay gắt. Nhờ biển và gió biển, khí hậu nước ta dễ chịu hơn nhiều so với khí hậu ở cng vĩ độ tại Lào và Thái Lan. Trừ một vài tháng đặc biệt, ở vài nơi và trong vài năm khác thường, hàn thử biểu ít vượt quá 35oC. Nhiệt độ trung bình những tháng nóng nhất của nước ta chỉ là 28 hoặc 29 oC, nghĩa là một nhiệt độ tuy không thoải mái nhưng vẫn còn chịu đựng được.

Chúng ta có rất nhiều bờ biển và biển của ta rất tốt. Bờ biển của ta dài 3.200 km, còn dài hơn cả chiều dài thực sự của nước ta. Cả nước ta là một dải bờ biển, điểm sâu nhất trong đất liền tại min Bắc là 600 km, trung bình bề dày của đất nước ta là 150km, tại Đồng Hới (Quảng Bình) bề dày này chỉ có 50 km. Dọc theo bờ biển, chúng ta có khả năng thiết lập vô số hải cảng tốt. Hiện nay ta mới chỉ sử dụng một phần rất nhỏ của khả năng này với các hải cảng: Hải Phòng, Vinh, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Sài gòn. Tiềm năng hải cảng hứa hẹn một tương lai xán lạn cho kỹ nghệ đóng tàu, bảo trì và sửa chữa tàu và chuyên chở hàng hải. Những ngành này cho tới nay ta hoàn toàn không khai thác. Tuy có nhiều cảng thiên nhiên nước sâu, nhưng nói chung bờ biển nước ta lại rất xoải và có cát mịn, đo đó chúng ta có nhiều bãi biển thiên nhiên tuyệt vời. Đó là những tiềm năng du lịch nếu được khai thác sẽ đem lại một nguồn lợi rất lớn vì bờ biển của ta giữ nhiệt độ quanh năm trên 25 oC. Chúng ta là cửa mở ra Thái Bình Dương của cả bán đảo Trung-ấn. Người ta có thể làm việc và kiếm tiền ở Thái Lan, Lào, Vân Nam, nhưng người ta bắt buộc phải nghỉ ngơi và tiêu xài tại bờ biển Việt nam. Kỹ nghệ du lịch của nước ta, nếu được phát triển đầy đủ, trong trung hạn có khả năng thu hút vài chục triệu du khách mỗi năm, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người trong ngành du lịch cũng như trong các ngành liên hệ. Vùng biền thuộc lãnh hải Việt nam có khả năng cung cấp hai triệu tấn cá mỗi năm. Bờ biển dài và thuận lợi của Việt nam cho phép đánh bắt thêm dễ dàng một trọng lượng cá tương đương trên biển cả. Ngư nghiệp và công nghiệp thực phẩm do nguồn hải sản cho phép ta nuôi sống một số người tương đương với nông nghiệp.

Bờ biển miền Nam còn cho ta một tiềm năng nuôi tôm cá rất quan trọng mà ta hiện chỉ khai thác được một phần rất nhỏ. Ngoài ra, vùng Đồng Tháp thuộc đồng bằng Nam Bộ, với nguồn nước và nguồn cá to lớn của sông Mê Kng, còn là một tài nguyên lớn lao nuôi cá nước ngọt mà ta hầu như chưa khai thác. Biển là tài sản quí báu nhất của non sông hoa gấm, có khả năng cao hơn nhiều so với nông nghiệp. Nhưng không phải ta ch có biển tốt mà ta còn có một vị trí vô cùng thuận lợi. Chúng ta là đường ra biển của Cam-bốt, Lào, Thái Lan và miền Tây-nam Trung Quốc, chúng ta nằm sát các trục giao thông hàng hải quan trọng và ở ngay trung tâm của một vùng phát triển mạnh. Chức năng thiên nhiên của ta do biển đem lại là chức nng của một nước du lịch, công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ. Nguồn lợi chính mà biển đem lại là nguồn lợi của giao thương với thế giới.

Nhưng muốn phát huy chức năng đó, điều bắt buộc tự nhiên là ta phải hội nhập với thế giới, có một chế độ chấp nhận được cho cả thế giới. Nghĩa là dân chủ.

Chương thứ :9 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :10 "

Độc giả đọc tới đây có thể rút ra một kết luận tương đối bi quan. Chúng ta đất hẹp, người đng, thiên nhiên bị tàn phá, lại đang rất nghèo nàn lạc hậu. Lợi thế của chúng ta là biển và vị trí thì lại hầu như hoàn toàn chưa được khai thác và dân ta còn phải học hỏi nhiều mới có thể sử dụng được. Như thế có lẽ tương lai của ta mờ mịt lắm. Tôi xin cảnh giác trước độc giả về hai điều mâu thuẫn với nhau. Điều thứ nhất là độc giả sẽ còn phải chờ đợi ở những phần sau nhiều yếu tố tiêu cực hơn nữa, việc kiềm kê những điểm yếu của nước ta mới chỉ bắt đầu mà thôi. Điều thứ hai là, ngược lại, tất cả những nhược điềm vừa kể về địa lý thiên nhiên thc ra không quan trọng lắm và không đáng khiến ta phải quá bi quan, nhất là địa lý của chúng ta cũng không đến nỗi quá bất lợi.

Xin dẫn chứng một câu chuyện có thực mà tôi đã sống. Trại học tp cải tạo của chúng tôi ngoài các sĩ quan công chức của chế độ cũ ra còn có cả một số thường phạm. Điều đó chứng tỏ là chúng tôi là tù chứ chẳng phải là cải tạo viên gì cả. Số tù thường phạm gồm đủ loại: móc túi, đánh bài, buôn lậu, ăn trộm, ăn cướp và có một số cán bộ cộng sản bị phạt tù vì những lý do ngoài chính tr thí dụ như một anh được sĩ bán thuốc nhà nước cho chợ trời, một anh đại đội trưởng bắn chết người.

Trong số những thường phạm có Nguyễn Văn Khánh, một thành phần bất hảo rất nguy hiểm bị giam chung với tôi. Khánh là cháu ngoại Sáu Cường, võ sĩ khét tiếng miền Nam hồi thập niên 1930 đã từng thi đấu nhiều lần và chưa hề thua ai bao giờ. Mẹ Khánh cũng là một cao thủ võ lâm với cuc sống rất phóng đãng. Khánh nói với tôi: Ông thầy biết không, mẹ tôi đã qua tất cả mọi binh chủng . ý Khánh muốn nói mẹ nó đã chung chạ với rất nhiều người, trong đó có những quân nhân thuộc mọi binh chủng của quân đội miền Nam. Khánh cũng như các anh em của nó đều mang họ mẹ vì không biết cha là ai. Khánh vạm vỡ khỏe mạnh và lúc nào cũng sẵn sàng ẩu đả, lại sân có máu con nhà võ nên chẳng sợ ai cả. Lúc đó Khánh mới 20 tuổi mà thành tích đã ghê gớm, không biết bao nhiêu lần vào tù ra khám dưới chế độ cũ và chỉ sáu tháng dưới chế độ cộng sản Khánh đã là bộ mặt rất quen thuộc đối với công an tỉnh Cà Mau. Tất cả là những tội trạng giống nhau : trộm cướp, đánh lộn, đưa dẫn và làm tiền gái bán dâm. Khánh không biết đọc, không biết viết không biết gì c, lại rất lười biếng và chỉ có một trí thông minh dưới mức trung bình. Khánh bị bắt trong một đợt càn quét tệ đoan xã hội và bị đưa đi cải tạo vô hạn định. Vì là thành phần bất hảo, gan l, Khánh bị quyện cả hai chân. Lúc vào tù, Khánh chỉ có một bộ quan áo, và dĩ nhiên không có người thăm nuôi. Mẹ Khánh không biết đã lưu lạc nơi nào, các anh em Khánh hoặc đang sống lang thang vô gia cư, hoặc cũng đang ở tù với một tội trạng tương tự như Khánh. Nói chung, Khánh đang ở trong một hiện tại bi đát, không có một tương lai nào và cũng không có ai ưa Khánh đễ có thể dìu dắt, giúp đỡ. Trong một đêm giao thừa Khánh nói với tôi: Cuộc đời tôi tàn rồi! .

Đêm hôm đó, từ chiếc radio của người công an gác đêm vọng ra lời chúc Tết của chủ tịch Tôn Đức Thắng. Cả nước biết ông Tôn Đức Thắng đã xấp xỉ chín mươi tuổi và đã yếu lắm. Tôi hỏi Khánh :

- Mày nói đời mày tn rồi, thế nếu đổi cuộc đời mày lấy cuộc đời của chủ tịch Tôn Đức Thắng mày có chịu không?

Khánh giẫy nẩy lên:

- Đâu được? Ông nói giỡn sao, ông ấy sắp chết đến nơi rồi.

Cả hai chúng tôi đều phá ra cười.

Thì ra, cũng như hầu hết mọi người, Khánh quá chú tâm đến những thành công và danh vọng đề quên rằng thực ra điều quí giá nhất trong một đời người là sức khỏe và tuổi trẻ. Còn sức khỏe và còn trẻ là còn hy vọng. đối với một đất nước, điều quan trọng nhất là con người, còn con người là còn tất cả dù tình trạng hiện tại ra sao. Bởi vì con người có thể làm ra tất cả.

Nước Pháp không xa Hòa Lan. Tôi có nhiều người bạn ở đó, và có cả một nghĩa tử. Năm nào tôi cũng qua Hòa Lan nhiều lần. Đường đi lại dễ dàng, chỉ cần vài giờ lái xe. Từ cửa nhà tôi tới cửa nhà Đặng Minh Kỷ, phối trí viên của nhóm Thông Luận Hòa Lan, chỉ có 500 cây số.

Nước Hòa Lan chỉ rộng bằng một phần mười diện tích của Việt nam, với một dân số 15 triệu. Hòa Lan có mật độ dân số cao vào bậc nhất thế giới, gần gấp hai lần Việt nam, gấp bốn lan nước Pháp. Ngoài một mỏ khí đốt ở miền Bắc, tại Groningen, Hòa Lan không có một tài nguyên nào đáng kề cả. Đất của Hòa Lan thấp hơn mức nước biền nên ngập lụt là một đe dọa thường trực. Tên của nước Hòa Lan là Nederland, có nghĩa là đất thấp. Đất hẹp và bất lợi, người đông, tài nguyên thiên nhiên ít ỏi, nhưng Hòa Lan là một thiên đàng hạ giới, do chính con người tạo ra. Người Hòa Lan thường tự hào: Thượng Đế đã tạo ra thế giới, nhưng chính chúng tôi đã làm ra đất nước này. Hoàn toàn đúng. Dù nhỏ bé về cả đất đai lẫn dân số, nhưng Hòa Lan là một cường quốc kinh tế. Tổng sản lượng quốc gia của Hòa Lan trên 300 tỷ USD, gần 15 lần tổng sản lượng của Vit nam với 78 triệu dân, gấp rưỡi tổng sản lượng gộp lại của tất cả lục địa châu Phi với trên 600 triệu dân. Hòa Lan có mặt một cách tích cực trên mọi thị trường thế giới. Trên thềm thế k 21, ngoại thương của Hòa Lan cao hơn hẳn ngoại thương của Trung Quốc ngay cả sau hơn hai thập niên theo đuổi chủ trương giàu có là vinh quang, gấp năm lần ngoại thương của ấn Độ và lúc nào cũng xuất siêu. Các công ty lớn của Hòa Lan như Philips, Royal Dutch, Unilever có chi nhánh trên khắp các lục địa và tại tất cả các quốc gia phát triển. Nông phẩm của Hòa Lan, nhất là sữa và thịt, tràn ngập các thị trường châu Âu.

Đất nước Hòa Lan đẹp đẽ với những xa lộ tuyệt vời chạy qua những cánh đồng xanh tốt, với những đàn bò béo mập và những cây xanh rất thẩm mỹ. Hòa Lan chưa phải trải qua một cuộc cách mạng nào, nhưng Hòa Lan là một nước dân chủ và tự do nhất thế giới. Không ở đâu con người được quí trọng như ở Hòa Lan và có lẽ cũng không ở đâu cái thú làm dân lại có thể lớn hơn ở Hòa Lan. Tôi ưa sang Hòa Lan vì những người bạn quí ở đó, nhưng cũng vì tôi ngưỡng mộ vô cùng đất nước và con người Hòa Lan. Người Hòa Lan đã làm cho tôi hiểu một cách âm thầm và chắc chắn rằng mưu sự tại nhân mà thành sự cũng tại nhân. Tôi cám ơn sâu xa và thành thực Hòa Lan đã cho tôi hy vọng và niềm tin, nhờ đó mặc dầu những khó khăn và trở ngại ngày hôm nay tôi không bao giờ mất niềm tin rằng vẫn còn có thể có một nước Việt nam tương lai xứng đáng đề những người Việt hôm nay đầu tư cố gắng và đề cho các thế hệ ngày mai có thể yêu mến và tự hào.

Chương thứ :11 "

Trong cuốn sách Việt nam Sử Lược quen thuộc với mọi người, Trần Trọng Kim viết về người Việt nam như sau: Về đằng trí tục và tính tình thì người Việt nam có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại c tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỉ quyệt, và hay bài bác nhạo chế. Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự hòa bình, nhưng mà đã đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.

Tâm địa nông nổi, hay làm liều, không kiên nhn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma tin quỉ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tín tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn.

Trần Trọng Kim, xuất thân là một giáo viên, được gởi đi học và tốt nghiệp Trường Thuộc Địa (Ecole Coloniale) tại Pháp. Trường Thuộc ịa Pháp vào đầu thế kỷ này là một trường có trình độ trung học, có mục đích khai mở nền văn minh Pháp nói riêng và phương Tây nói chung cho những trí thức Việt nam dầu tiên để họ về nước phc vụ cho chính quyền thuộc địa. Năm 1911, ông Hồ Chí Minh, lúc đó làm bồi tàu và mới tới Pháp, cũng có làm đơn với lời lẽ thống thiết viện cớ có cha đậu tiến sĩ Hán học để xin vào trường này, nhưng bị từ chối.

Tuy vốn liếng khoa bảng không có bao nhiêu (nhưng vào thời đó trình độ của Trường Thuộc Địa cũng đã là cao lắm rồi), nhưng ông Trần Trọng Kim đã dày công học hỏi và nhờ trí tuệ xuất sắc ông trở thành một học giả lớn. Ngoài kiến thức uyên bác, Trân Trọng Kim còn là một người liêm khiết, lương thiện. Ông có uy tín rất lớn trong thời đại của ông. Năm 1945, khi nhật đảo chánh pháp, trả độc lập trên nguyên tắc cho Việt nam, ông Trần Trọng Kim, lúc đó đã về hưu, được vua Bảo Đại mời ra làm thủ tướng theo ý của người Nhật. Sự kiện ông được chỉ định làm thủ tướng là một ngạc nhiên cho rất nhiều người. Phần đông giới theo dõi thời cuộc lúc đó chờ đợi ông Ngô Đình Diệm, một cựu thượng thư, có uy tín, có tham vọng chính trị và nhất là đã giao dịch với Nhật từ lâu. Ông Diệm đã tham gia từ 1941 tổ chức Việt nam Phục Quốc Hội của hoàng thân Cường Để do Nhật đỡ đầu. Người ngc nhiên nhất chính là ông Ngô Đình Diệm. Thực ra ngay từ khi đỗ bộ vào Việt nam, Nhật cũng đã có ý định dùng Trần Trọng Kim như một lá bài thay thế cho Ngô Đình Diệm, có lẽ vì họ nghĩ Ngô Đình Diệm là một chính khách sắc bén hơn và có thể đòi hỏi họ nhiều hơn là Trần Trọng Kim. Tuy vậy ông Trần Trọng Kim cũng đã dần dần đòi hỏi được nơi người Nhật tất cả những nhượng bộ cần thiết. Nếu người Nhật coi Trần Trọng Kim là người không đáng lo ngại thì người Pháp sau này lại lo ngại Trần Trọng Kim và làm áp lực để Bảo Đại chọn Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng năm 1948 thay vì Trần Trọng Kim. Sau đó Trần Trọng Kim qua Phnom Penh sống với người con gái, ông mất vài năm sau đó, khi vừa trở về Việt nam.

Trần Trọng Kim tóm lược cuộc đời chính trị của ông trong thiên hồi ký ngắn Một cơn gió bụi . Có lẽ những ai có ý định viết hồi ký đều nên đọc cuốn sách nhỏ ny trước đã. Đó thực sự là một cuốn hồi ký. Nó được viết một cách thực thà, lương thiện, rành mạch, điều ít thấy trong các cuốn hồi ký khác. Hồi ký là một loại sách đặc biệt. Nó có tác dụng chính, và có thể nói là duy nhất, là ghi chép các sự kiện đễ làm chứng cho một giai đoạn. Đòi hỏi duy nhất của nó là phải trung thực, phải có giá trị của một tài liệu. Người Việt nam, nhất là các tướng tá quân đội miền Nam cũ, hay dùng hồi ký đề bóp méo sự thật, tán dương hay chạy tội cho mình, bôi nhọ người khác. Những hồi ký như vậy không thể dùng làm tài liệu. Trần Trọng Kim ược mọi người kính trọng, người ta kính trọng kiến thức của ông và người ta còn kính trọng hơn nơi ông nhân cách của một trí thức chân chính. Nếu không phải Trần Trọng Kim mà một người khác viết ra những dòng trên, thì chắc chắn sẽ bị cả một loạt bài đả kích và mạt sát thậm tệ vì đã dám coi thường người Việt Nhưng vì là do Trần Trọng Kim viết ra nên không ai cãi lại, và hầu hết nhìn nhận là đúng. Tôi cũng có đọc trong nhiều cuốn sách cũ của các học giả Pháp một nhận định tương tự như vậy về người Việt, không biết có một sự tham khảo nào không. Điều chắc chắn là Trần Trọng Kim chỉ viết những điều ông tin là đúng.

Nói chung, Trần Trọng Kim nhận định người Việt nam có cấu tạo cơ thể tốt có trí óc tương đối tốt, siêng năng, hiếu học, biết trng đạo đức, nhưng tâm lý thì rất dở. Ông không nói người Việt Nam nói chung có yêu nước hay không, đó cũng là một điều lạ trong cuốn sách sử.

Tôi đã đề cập phần trước tới nước Hòa Lan như là một kỳ quan của thế giới. Quan sát kỹ người Hòa Lan, thành thực tôi không thấy họ thông minh hơn người Việt, hay có hơn cũng không hơn bao nhiêu. Họ cũng không chăm chỉ hơn người Việt nam, hay có hơn cũng không hơn bao nhiêu. Vậy mà họ đã tạo nên được quốc gia đáng phục nhất thế giới. Tôi làm việc với người Pháp và cũng đi tới một nhận định tương tự. Riêng người Anh thì phải nói tuy họ có nét độc đáo riêng, nhưng trí tuệ của họ cũng chỉ xấp xỉ như người Hòa Lan và người Pháp, ngoài ra họ lười biếng hơn hẳn người Việt nam.

Vậy mà tại sao các quốc gia đó giàu mạnh đn thế, trong khi nước ta nghèo nàn lạc hậu và tang tóc đến thế.

Khi một máy vi tính hoạt động dở thì chỉ có hai giải thích : một là cái hardware (phần vật liệu hay phần cứng) của nó dở, hai là cái software (phần trí liệu hay phần mềm) của nó dở. Chất liệu, nghĩa là cấu tạo cơ thẻ và trí óc của người Việt nam tốt. Vậy thì phải chăng cái software, nghĩa là cái văn hóa và tâm lý, của người Việt nam tồi dở? Tôi tin như thế. Một người bạn tôi sau hơn một thập niên làm cố vấn cho các chính phủ châu Phi đã chỉ rút ra được một kt luận rõ nét: các nước đó không vươn lên được vì trở ngại văn hóa và tâm lý.

Đọc những bài đóng góp gần đây của các tác giả Việt nam về vấn đề phát triển đất nước, phần đông có giá trị, nhiều bài rất xuất sắc tôi ít thấy đề cập đến yếu tố tâm lý (hay văn hóa cũng thế vì tâm lý và văn hóa rất gần nhau), trong khi đó tất cả các nhà bác học có thẩm quyền ở tam vóc thế giới về vấn đề phát triển đều coi yếu tố tâm lý là ye~u tố cốt lõi. Nhiều tác giả còn gọi phát triển là một cấu trúc tâm lý (structure mentale).

Tâm lý của một dân tộc, nhiều người thích dùng cụm từ hồn tính dân tộc, một phần do điều kiện thiên nhiên tạo thành, nhưng một phần lớn là do các giá trị đã được nhìn nhận từ lâu đời và đã tạo ra một nếp sống. Các giá trị ấy hình thành có khi do sự khám phá trong cuộc sống của dân tộc, có khi được du nhập và hấp thụ, được kiểm chứng và xét lại theo kinh nghiệm lịch sử. Lịch sử vì thế đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành tâm lý dân tộc. Lịch sử là trí nhớ tập thể của dân tộc, một nguồn tài liệu và gợi ý. Lch sử cũng là tấm gương đề một dân tộc nhận diện được mình, hiểu mình, biết mình nên làm gì và có thể làm gì. Muốn như thế, lịch sử phải chính xác và cũng phải được phân tích và khai thác một cách sáng suốt và khách quan.

Nhưng một mặt lịch sử của ta không chính xác, và, mặt khác, chúng ta rút ra từ lịch sử những kết luận và những bài học sai lầm.

Chương thứ :12 "

Người Việt nam rất hiếu học. Tính hiếu học của người Việt là có thực. Điều này mọi người đều đồng ý và chính tôi cũng có thể kiểm chứng trong những môi trường mà tôi đã sống và những người mà tôi đã biết, ngay cả trong gia đình tôi.

Tại trung học Trần Lục, nơi tôi theo học từ đệ thất (lớp 6 bây giờ) tới đệ Tứ (lớp 9), các học sinh phần lớn là di cư từ ngoài Bắc vào, chính trường Trần Lục cũng là một trường di chuyền từ Phát Diệm vào. Trường do các linh mục Phát Diệm thành lập và mang tên linh mục Trần Lục, còn gọi là cha Sáu, một tu sĩ có đức hạnh và rất tha thiết với văn hoá Việt nam. Ông Trần Lục có làm một tập thơ, mà tôi không nhớ tên, giáo huấn về đạo đức. Ông cũng xây dựng một nhà thờ lớn theo kiến trúc cổ truyền Việt nam được coi là rất thành công về nghệ thuật. Nhìn trên ảnh, nhà thờ này giống như một ngôi chùa. Tôi vào học trưng Trần Lục vì một lý do tình cờ. Anh em tôi sau tiểu học định thi vào trường Chu Văn An, trường mà mẹ tôi vẫn ca tụng là hay và mơ ước chúng tôi sẽ học tại đấy. Nhưng năm đó, bà có ý định mua một căn nhà trong một ngõ hẻm gần Tân Định nên chúng tôi thi vào Trần Lục để đi học cho gần. Về sau tuy việc mua nhà này không thành chúng tôi vẫn tiếp tục học ở đó. Lúc đó là những năm 1955-1956, các học sinh trừ một hai ngoại lệ, đều rất nghèo, gia đình họ vốn đã không giàu có lại mất hết của cải trong đợt di cư nên càng nghèo. Đã thế, trường Trần Lục lại là một thứ trường tầm gửi, một thứ trường không có trường, phải học nhờ trường tiểu học Đồ Chiểu. Giải pháp tìm ra là học buổi trưa. Trường tiểu học Đồ Chiểu học sớm đi một chút buổi sáng và trễ một chút buổi chiều. Trường Đồ Chiểu tan học buổi sáng, vào lúc 10g30, trường Trần Lục học từ 10g30 đến 14g30, rồi trường Đồ Chiểu lấy lại trường sau đó. Học buổi trưa là cả một cực hình dưới trời nóng gay gắt. Cả thầy lẫn trò đều mệt mỏi, học sinh phần lớn đều không có tiền mua sách, có khi còn thiếu cả tiền mua vở và bút. Một cây bút chì, một quyển vở đều quí báu cả. Hầu hết các gia đình chúng tôi đều ở trong những căn nhà lụp xụp, nhiều nhà không có điện, tối phải thắp sáng bằng đèn dầu, vừa học vừa đập muỗi. Những buổi tập thể dục mặc quần xà lỏn để lộ đùi ra thì thấy đứa nào cũng đầy dấu muỗi chích. Vậy mà cả trường đậu học hành chăm chỉ và đậu giỏi cả.

Trong khu tôi ở cũng c nhiều học sinh, họ không sáng dạ lắm nhưng học chăm chỉ một cách kỳ lạ, họ học tới khuya, nhiều người uống thuốc Maxiton cho đỡ buồn ngủ. Tờ mờ sáng họ đã thức dậy, học to tiếng để chống buồn ngủ, tiếng họ học đánh thức anh em tôi dậy. Có nhưng anh đã bắt đầu luyện thi tú tài khi tôi mới lên trung học, đến khi tôi đậu xong tú tài họ vẫn rớt dài dài, nhưng vẫn tiếp tục học. Có chí thì nên, khi tôi ở Pháp về, sau 12 năm vắng mặt, phần lớn đậu đã tốt nghiệp đại học làm giáo sư, luật sư, được sĩ. Điều không may cho họ là trong thời gian 12 năm ấy xã hội miền Nam đã ổi mới, nhưng nghề trí óc không còn vinh hiển nữa và họ không sung túc bao nhiêu sau những cố gắng thật phi thường. Người khá nhất trong bọn họ là một anh thi mãi không đậu tú tài đi làm bánh mì, sau trở thành chủ. Những lần đi ăn nhậu với nhau anh ta đều trả tiền.

Tôi học xong đệ tứ thì bỏ trường Trần Lục đi làm ban ngày, buổi tối theo học lớp Khuyến Học Bổ Túc của Hội Bình Dân Giáo Dục và lại gặp một loại người khác. Họ là công chức, quân nhân, muốn lấy thêm một mảnh bằng để thăng tiến, là những người đã di làm, và phần lớn đã có gia đình, muốn có thêm học vấn, hay những học sinh nghèo ban ngày phải đi làm kiếm tiến. ở hàng đầu là các cô phần lớn đã đi làm, có người đã có chồng con. Trong một lớp bên cạnh có ông Cao Văn Viên, sau này là đại tướng tổng tham mưu trưởng Quân Lực Việt nam Cộng Hòa. Họ học say mê, miệt mài mặc dầu học rất khó khăn.

Lớp học của tôi sau này có nhiều người khá thành công. Trương Văn Vân sau học khoa học rồi tình nguyện đi sĩ quan Dà Lạt, làm tiểu đoàn phó binh chủng Dù, vợ Vân là Thúy, do tôi giới thiệu làm được sư, con một thương gia giàu có, học trò cũ ca tôi lúc tôi đi dạy kèm để kiếm tiền. Vân đi học tập cải tạo 12 năm sau ngày 30-4-1975. Vân và Thúy hiện định cư ở Seattle, Hoa Kỳ. Nguyễn Thiện Tường sau làm luật sư. Tường thi rớt tú tài 1, tôi phải dành cả mùa hè năm đó đễ kèm Tường. Chúng tôi hẹn nhau ở mái hiên sau của Thư Viện Quốc Gia, bên cạnh trường Petrus Ký và Chu Văn An, nơi có một số bàn ghế vứt bỏ. Tôi đem theo tiễu thuyết đễ đọc Tường ngồi học bên cạnh, có gì bí thì hỏi tôi. Anh của Tường là Nguyễn Thiệu Hùng cũng là một gương hiếu học. Anh đậu tú tài trước chúng tôi và đi dạy trung học vừa học văn khoa. Không những thế, anh còn làm thơ và làm thơ hay. Tập thơ Bốn Mươi Bài Thơ của Hùng (bút hiệu Mai Trung Tnh) làm chung với Lê Đức Vượng (bút hiệu Vương Đức Lệ) được giải nhất Thơ Văn Toàn Quốc năm 1960. Nguyễn Thiệu Hùng và Lê Đức Vượng gần đây tham gia nhóm Diễn Dàn Tự Do với Đoàn Viết Hoạt và bị bắt. Tháng 7- 1993, Hùng bị kết án bốn năm tù, Vượng bị năm năm. Ra trước tòa, Vượng chỉ xin chính quyền trả lại cho anh tập thơ hai mươi ngàn bài mà anh đã sáng tác trong gần hai mươi năm qua, nhưng chính quyền trả lời là tập thơ đã thất lạc.

Trịnh Văn Thi sau này tốt nghiệp cử nhân luật, làm thiếu tá cảnh sát, không biết bây giờ ở đâu. Đinh Văn Hoạt cũng tốt nghiệp cử nhân khoa hc, vừa làm giáo sư vừa dạy võ Việt nam.

Một hôm đi ăn tiệm ở Paris, ông chủ nhận ra tôi, rồi tự giới thiệu là Nguyễn Văn Ngọ, học lớp bên cạnh, cùng với ông Cao Văn Viên. Ông ta sau này cũng đậu cử nhân luật, làm tham vụ ngoại giao và ở nước ngoài nên thoát nạn ngày 30-4-1975. Chính ông Viên, sau khi đậu tú tài và làm tướng vẫn tiếp tục học và đậu cử nhân văn chương.

Mỗi lần hồi tưởng lại thời gian ấy, tôi vẫn cảm thấy một sự cảm phục xâu xa và một niềm hãnh diện vô cùng về tính hiếu học của người Việt. Tôi còn nhớ mãi đôi mắt quầng thâm của chị bạn ngồi bàn trên tôi. Có lẽ chị đã thức đêm nhiều lắm để học. Tôi vẫn tin tính hiếu học là hy vọng lớn nhất của dân tộc ta để vươn lên.

Chương thứ :13 "

Người Việt nam ta không những chỉ ham học mà còn học giỏi. Những trường hợp tôi đã kể cũng đã một phần nào chứng minh điều đó. Nhưng chưa đủ. Ngoài những nhân vật nổi tiếng như Phạm Qunh, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, ta còn vô số những trường hợp thành công rực rỡ khác.

Nước Pháp mới đặt nền đô hộ trên nước ta từ 1883, thì chỉ cần tới năm 1900 đã có những người Việt tốt nghiệp các trường lớn nhất tại Pháp. Sang tới thập niên 1920, 1930 thì đếm không xuể những người tốt nghiệp các bằng cấp lớn. Tôi cũng có thể nhìn thấy sự thông minh của người Việt ngay chung quanh tôi. Tôi đi du học năm 1961, đó là đợt du học sang Pháp thứ hai sau mấy năm gián đoạn. Sau vụ xung đột giữa Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Hinh, rồi vụ Bình Xuyên, liên hệ giữa Việt nam Cộng Ha và Pháp trở nên căng thẳng và Việt nam không còn gởi du học sinh sang Pháp nữa cho tới năm 1960. Lúc đầu chỉ những sinh viên thật xuất sắc mỗi năm vài chục. Cho tới năm 1964 mới có phong trào ồ ạt gởi sinh viên qua Pháp, để du học cũng có mà để khỏi phải đi quân dịch cũng có, và trình độ mới sút giảm. Nhưng số sinh viên Việt nam vẫn còn rất ít so với các nước thuộc Pháp cũ. Tổng cộng ch vài ngàn. Vậy mà chúng tôi áp đảo hẳn các sinh viên ngoại quốc khác Trường khó đến đâu người Việt nam cũng vào lọt, bằng cấp nào sinh viên Việt nam cũng đậu, và thường đậu một cách vẻ vang. i du học cùng năm với tôi có khoảng 50 người, trong đó một nửa là đi học bổng, một nửa đi tự túc. Nhóm học bỏng dĩ nhiên trội hơn, nhưng tất cả đều thành công vẻ vang và mau chóng. Ngay cả những người đi sau 1964 không được gạn lọc cũng đậu thành công trong việc học và sau này trong sinh hoạt nghề nghiệp. Người Việt nam không những chỉ sáng dạ trong trường học mà còn có khả năng hấp thụ mau chóng các kiến thức trong cuộc sống. Không phải chỉ có những sinh viên mà ngay cả những người bình dân cũng chứng tỏ một khả năng học hỏi và suy nghĩ rất lớn. Trong trại cải tạo, chúng tôi thường đánh cờ giết thì giờ, và nhiều người chẳng có trình độ học vấn nào đáng kể mà đánh cờ cao một cách lạ lùng. Có một anh trưởng ấp chỉ học hết tiễu học mà hạ tôi dài dài, làm tôi có lúc lồng lộn lên vì đánh cờ vốn là một môn khá của tôi. Trong cả năm trời đụng độ với anh ta, mặc dầu suy nghĩ đủ mọi chiêu pháp, tôi không sao dứt điểm nỗi anh ta, cùng lắm là có qua có lại. Có một anh trung úy thuộc lòng tất cả mọi bộ kiếm hiệp của Kim Dung, một anh cán bộ xây dựng nông thôn chỉ nghe kể chuyện mà dần dần nhớ hết mọi chi tiết của truyện Tam Quốc. Tôi chỉ kể vài th dụ, nhưng những thành tích tương tự như vậy có vô số trong đám hơn một ngàn tù binh trong trại. Những năm đi cải tạo cũng là những năm khiến tôi khám phá ra trí thông minh xuất chúng của người Việt.

Năm 1980, lúc đang loay hoay tìm cách vượt biên, tôi gặp Sáu Thinh. Năm 1954 anh ta đã ngoài hai mươi tuổi và đã bỏ học đi theo Việt Minh vài năm trước đó. Anh ta ra Bắc tập kết, vào đảng cộng sản đậu kỹ sư và làm trung tá tại bộ tổng tham mưu quân đội nhân dân tại Hà Nội, anh ta được ông Giáp quí mến. Vào năm 1975, anh ta mất niềm tin ở chủ nghĩa cộng sản, bắt đầu đề cao dân chủ trong các sinh hoạt đảng, rồi bị hạ tầng công tác dần dần. Sáu Thinh giúp tôi nhiều công việc chuẩn bị. Tôi rất phục Sáu Thinh về sự thông minh của anh ta, nhưng chính anh ta lại kể cho tôi nghe một giai thoại ngộ nghĩnh.

Sau ngày chiến thắng, Sáu Thinh cùng người em, là tiễu đoàn trưởng đặc công và được nhiều huân chương anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, vinh quang về quê cũ thăm bà mẹ già ở Rạch Giá. Bà mẹ đã ngoài bảy mươi lấy ghe máy chở hai con trai anh hùng dân tộc đi thăm bà con với tất cả hãnh diện. Nửa đường bất thình lình mấy hư. Hai vị anh hùng ngơ ngẩn không biết phải làm g, bà cụ loay hoay mở bu-gi ra chùi vào quần rồi lắp lại. Máy nổ trở lại và ba mẹ con đi tiếp. Sáu Thinh nói với tôi: Mình vừa phục vừa ngượng, không biết bà cụ học nghề máy lúc nào, ngày mình đi bà chỉ biết làm ruộng.

Trong mấy năm qua lại miền Tây Nam Phần, tôi đã nhiều lần ngạc nhiên về sự khéo léo và nhanh trí của nông dân tại đây. Họ tự sửa chữa lấy máy bơm, máy cày, máy phát điện một cách thật tài tình, có khi còn đổi cả chi tiết máy để tăng hiệu lực. Vào những năm 1979- 1981, các bộ phận rời rất hiếm, hỏng bộ phận nào nông dân chỉ cần ra khu chợ sẽ có thể tiện làm cho ngay. Do hay mua máy tàu đễ vượt biên, có khi cho chính mình, có khi cho bè bạn, tôi làm quen được với một tổ thợ máy gần Ngã Ba ông Tạ. Tổ hợp này gồm toàn bộ đội miền Bắc xuất ngũ ở lại miền Nam làm ăn, có người đào ngũ. Trước 1975, họ chỉ là những người lính xuất thân từ miền quê Bắc Việt và hoàn toàn không biết gì về máy móc. Họ đến với nghề máy chỉ vì có tư thế bộ đi, đảng viên nên không bị làm phiền phức và có thể di chuyển, chuyên chở dễ dàng những phụ tùng máy dầu lúc đó gần như là đồ quốc cấm. Mới đầu làm chung với những thợ máy miền Nam, về sau, khi những thợ máy miền Nam đã vượt biên hết, họ tự lập. Chỉ trong một thời gian ngắn ngủi họ trở thành những người thợ máy rất lành nghề, nhìn thoáng qua một bộ phận họ biết ngay là thuộc máy nào, mua được không, nếu không thì chế tạo như thế nào. Một trong những vấn đề nan giải cho máy dầu dùng để vượt biên lúc đó là thiếu những bộ bạc sếch-măng, những vòng thép tròn nằm giữa pt-tông và xy-lanh. Bạc phải làm bằng thứ thép thật cứng mà Việt nam không có. Lúc đó bạc nhập cảng đã cạn rồi, mua rất đắt tiền mà cũng may lắm mới có. Dùng bạc nội địa thì rất nguy hiểm vì thép không đủ cứng để có thể chịu đựng được sự ma-sát liên tục của pít-tông xấp xỉ một ngàn chuyển động trong một phút. Một tỷ lệ khá lớn các tàu vượt biên bị hư máy giữa đường với những hậu quả bị thảm là do bạc bị gẫy. Tôi thường khuyên các bạn tôi là bằng bất cứ giá nào phải kiếm cho bằng được bộ bạc tốt. Vấn đề sau đó được giải quyết một cách ổn thỏa. Một tổ hợp cơ khí, cũng của các bộ đội gốc miền Bắc, lấy nòng súng đại bác cưa ra và tiện thành bạc. Không có thép nào cứng bằng thép của nòng súng đại bác. Việc họ tìm đâu ra nòng súng lại cả là một bí mật, họ nói đó là những khẩu pháo phế thải, nhưng tôi thấy có những nòng còn mới lắm. Đám anh em này làm tôi cảm phục vô cùng khả năng học hỏi và thích nghi mau chóng của người Việt, mặc dầu không thể tán thành việc họ lấy trộm nòng đại bác ở kho quân đội ra để tiện làm bạc sếch-măng.

Hơn tất cả mọi tài liệu, sách báo, chính những tiếp xúc với thực tế với những con người đã cho tôi nhìn thấy rõ sự sáng dạ và khả năng thích nghi nhanh chóng của người Việt. Chính vì thế mà mặc dầu những khó khăn và suy thoái trầm trọng về nhiều mặt ngày hôm nay tôi vẫn giữ được niềm tin vào tương lai đất nước.

Chương thứ :14 "

Chúng ta có những con người rất hay, chỉ một thời gian ngắn sau khi người Pháp tới Việt nam đã có những người Việt nam đậu được những bằng cấp cao nhất và khó nhất. Chỉ một vài năm sau khi người Mỹ can thiệp đổ người đổ của vào Việt nam là nông dân miền Nam đã biết sử dụng, sửa chữa máy cày máy bơm. Chỉ cần một năm đã biến anh bộ đội gốc nông dân thành một thợ máy lành nghề. Vài năm cũng đã đủ để các cán bộ tháng 5-1975 còn ngồi xổm trên xe hơi, mơ ước một ly cà-ph cái nồi ngồi trên cái cốc và một điếu thuốc thơm có cán biết đòi hỏi xe hơi phải có máy lạnh, biết phân biệt các loại cognac ngon nhất và biết đầu cơ trên hối suất đồng đô-la. Người Việt ta học bài rất nhanh, nhưng chúng ta còn có gì đặc sắc nữa hay không hay chỉ giản dị là những học trò giỏi? Đó là một câu hỏi lớn? Có lần ngồi nói chuyện tếu, tôi giảng giải cho một cán bộ miền Bắc rằng con heo và con lợn là hai con vật khác nhau, chứ không phải chỉ là cùng một con vật mà miền Bắc gọi một tên, miền Nam gọi một tên khác.

Tôi nói với anh ta rằng con lợn là một con vật chỉ nặng trung bình 50 kí-lô, hay cùng lắm là 70 kí-lô, được nuôi quanh năm bằng bèo và cám, trong những chuồng rơm bẩn thỉu và hôi hám, bố nó là một con lợn con chỉ lớn hơn cái hộp sữa Guigoz một chút, được chọn trong đàn lợn con vì là con đẹn nhất, yếu nhất không bõ bèo cám để nuôi. Ngược lại, con heo là con vật to lớn, có thể nặng tới 200 kí-lô, và chỉ tám tháng đã đạt tới trng lượng trên 100 kí-lô. Nó được nuôi không những bằng cám, mà còn bằng thức ăn riêng của nó, có khi bằng cơm, bằng khoai, trong những chuồng bằng xi- măng sạch sẽ, có khi ngay trong nhà cùng với người, thỉnh thoảng được tắm rửa. Bố nó là một con heo to lớn, khỏe mạnh, lông rậm như chó, trông rất đẹp, được nuôi nấng rất chu đáo, mỗi khi làm phận sự xong được chủ cho ăn mấy trái trứng sng để lấy sức. Dĩ nhiên là chuyện ngụy biện tếu. Nhưng quả thật cách nuôi lợn tại miền Bắc thật là lạc hậu. Nuôi lợn không hợp vệ sinh, dinh dưỡng kém, chọn giống lại rất tầm bậy. Tại min Nam, con heo giống, còn gọi là heo nọc, là cả một tài sản được chăm sóc chu đáo.

Nó được chọn một cách kỹ lưỡng, có khi cả chục đàn heo không chọn được con nào đáng làm heo nọc, người ta phải đi mua ở xa về. Con heo nọc lúc nào cũng khỏe mạnh, đẹp đẽ. ở ngoài Bắc, con lợn giống lại là con lợn vất đi, nuôi được vài ba tháng, nhảy xong là bị đem làm thịt. Giống đã xấu, thức ăn thiếu thốn, chuồng lại dơ bẩn, lợn ở ngoài Bắc lớn không được và lại hay chết vì thiếu vệ sinh. Thực ra giống lợn ở ngoài Bắc cũng khác, màu đen, mặt bẹt, bụng cong và dù có nuôi thế nào cũng không đạt được tầm vóc của heo trong Nam được nhập cảng vào từ vài chục năm nay. Nhưng không hiểu tại sao từ ngàn năm nay, người miền Bắc không biết xét lại cách nuôi lợn. Điều đó tố cáo sự thiếu óc sáng tạo và đổi mới của người Việt

Cái cày ở đồng quê Bắc Việt cũng là cả một kỳ quan. Phải chọn một cây thật lớn và thật chắc, cây ổi nếu có thể được. Cái cày to, tròn và rất nặng, muốn vác cày ra đồng phải khá lực lưỡng. Lưỡi cày tròn ở dưới, nhọn ở đầu, sức cản lớn, cày lại nặng, khó ăn vào đất, trâu kéo ì ạch. Con trâu khỏe lâm cũng chỉ cày được ba sào đất mỗi ngày (mỗi sào là 360 m2, ba sào tương đương với một công đất ở miền Nam). Thế mà từ đời này qua đời khác vẫn không ai nghĩ đến việc thay thế cái cày quái đản ấy, đến lúc rời làng ra tỉnh, tôi vẫn còn thấy cái cày đó. Trong khi đó tại miền Nam, cái cày được làm bng một khúc cây cỡ bằng cổ chân, một tay xách cũng được. Lưỡi cày dẹp, bắt đất dễ dàng, trâu kéo nhẹ nhàng. Chỉ một chuyện giản dị như vậy thôi mà ta cũng không thay đổi được. Người Việt ta hễ nhìn thấy thì bắt chước mau chóng, nhưng phát minh và sáng tạo quả không phải là khả năng của ta.

Người miền Nam, do được thiên nhiên ưu đãi hơn, cuộc sống phong phú hơn và cũng vì được tiếp xúc nhiều với người nước ngoài nên có phần cởi mở và phóng khoáng hơn, nhưng nói chung vẫn là bắt chước chứ không phải tự mình tìm ra.

Trên các kinh rạch miền Tây Nam Phần, nhà nào cũng làm cầu tiêu trên sông. Thật là gớm ghiếc. Tắm trên sông, rửa chén bát trên sông, giặt quần áo trên sông, đôi khi lấy nước uống trên sông, khi thiếu nước mưa, rồi cũng xả rác và phóng uế xuống sông. Trong khi đó chỉ cần đào một ngày là xong một hầm cầu, tốn kém chẳng bao nhiêu là có một cầu tiêu sạch sẽ. Nhưng đó là một nếp sống mà ngưi ta đã quen rồi và không muốn thay đổi. Một ngày cũng là một ngày, và tại sao nhà này làm trong khi nhà khác vẫn không làm?

Nhưng điều đáng ngạc nhiên là cho tới nay mọi chính quyền đều không ngh đến vấn đề đơn giản này. Năm 1956, các anh tôi học trung học đệ nhị cấp (lớp 10 trở lên) và bắt đầu theo các khóa huấn luyện quân sự. Tôi tò mò đọc sách quân sự của các anh tôi và thấy có những bài học như cách chống chiến xa, chống máy bay, v. v... Tôi hỏi các anh tôi có phải mục đích của các khóa huấn luyện này là để đào tạo ra các binh sĩ cộng sản để họ chống lại xe tăng và máy bay của phe quốc gia hay không. Lúc đó, và nhiều năm sau này chỉ có Việt nam Cộng Hòa là có chiến xa và máy bay. Từ năm 1969 trở đi quân đội cộng sản mới bắt đầu dùng chiến xa và cũng chỉ sử dụng ở miền Trung, còn máy bay thì không bao giờ họ dùng. Thì ra đó là những bài học của quân đội Pháp, bộ tổng tham mưu quân đội miền Nam đem dịch ra để giảng dạy. Thật là bắt chước một cách ngu ngốc. Có khi nước đến chân họ vẫn không biết thích ứng. Tháng 3-1975, sau khi mất Buôn Ma Thuộc và sau cuộc triệt thoái thê thảm tại Cao Nguyên, mt số công tư chức trong tình trạng hoãn dịch bị gọi ra nhập ngũ. Tôi gặp một anh bạn ở cơ quan của tôi về phép sau hai tuần huấn luyện. Tôi hỏi anh ta tập gì, anh ta trả lời rằng chưa tập vũ khí hiện mới chỉ tập mặc quân phục tề chỉnh, xếp hàng, điểm danh, đi theo đội ngũ và thể dục cơ bản. Một tháng sau thì miền Nam đầu hàng. Những người Việt nam học giỏi và đậu bằng cấp cao thì rt nhiều, nhưng rất ít ai tín ra được một ý mới, viết ra được một tác phẩm có sáng tạo, sáng chế ra được một cái gì, hay khám phá ra một định lý nào. Tôi may mắn biết một số người có phát minh thực sự, nhưng tỷ lệ của họ quá ít. Kết quả là chúng ta vẫn chỉ là những học trò. Học trò giỏi vẫn là học trò.

Chúng ta học thì giỏi thực, và khi đã học thì thường hay có thể biến hóa đôi chút, nhưng nói chung trí tuệ của ta hình như chỉ dừng ở đó. Hình như thiếu óc sáng tạo không phải là một đặc tính riêng của người Việt, mà là đặc tính chung của người á Đông, mặc dầu căn bệnh này có phần hơi trầm trọng hơn nơi người Việt nam. Ngày nay Nhật Bản, Cao Ly và Đài Loan đã phát triển mạnh lắm rồi. Nhật Bản và Đài Loan còn dư một số tiền lớn không biết đầu tư vào đâu. Họ nhiều phương tiện hơn cả Hoa Kỳ và Tây Âu, nhưng họ không có những phát minh lớn và cũng không có thành công nào đáng kể về nghệ thuật và tư tưởng. Họ vẫn chỉ chạy theo sau người phương Tây, dù là chạy nhanh.

Đầu thập niên 90, nước Nhật khốn đốn với Truyền Hình Siêu Phẩm (High Definition Television- HDT). Họ cải tiến rất xuất sắc phương pháp truyền hình cổ điển theo khái niệm đồng lý (analogic) và đạt tới một hình ảnh gần như tuyệt đối trung thực về cả nét lẫn màu. Đó là một tiến bộ lớn nhưng vẫn chỉ là cải tiến cái sẵn có. Họ nghĩ là đã vượt qua được Hoa Kỳ về kỹ thuật truyền hình. Nhưng ngay sau đó, Hoa Kỳ tìm ra phương pháp truyền hình bằng số (Digital Television-DT). Các hình ảnh được ghi nhận bằng số mã. Kết quả là máy truyền hình sắp tới của Hoa Kỳ tuy hình ảnh chưa được bằng HDT của Nhật - dù cũng đẹp hơn nhiều so với hiện nay - nhưng lại hơn Nhật về mọi mặt. Máy truyền hình của Nht sẽ tốn 10.000 USD và chỉ là một máy truyền hình thụ động, trong khi máy truyền hình DT của Hoa K, sẽ chỉ tốn 5.000 USD và sẽ là một computer. Các hình ảnh có thể thu trên đĩa cứng như những hồ sơ (files) và có thể phát lại khi nào muốn. Máy truyền hình digital có thư viện riêng chứa phim ảnh, tài liệu riêng của mỗi gia đình và cũng có thể tham khảo, tiếp nhận phim ảnh, tài liệu từ nhiều nguồn khác. Nó cũng là một computer của gia đình để đặt hàng, mua hàng, thanh toán v.v. Người Nhật đã mau chóng nhìn nhận sự hơn hẳn quá rõ ràng của phương pháp truyền hình mới của Mỹ và bỏ cuộc. Họ đã tốn hàng trăm tỷ USD và bị thua sút Mỹ ít nhất mười năm. Mười năm đối với một đại cường và trong thời đại này là một thảm bại. Lịch sử thế giới của hai thế kỷ nay chủ yếu là lịch sử những cố gắng của phần còn lại của thế giới để đương đầu với ưu thế của người phương Tây và hình như có một kịch bản cố định: người phương Đông thua kém, cố hết sức bắt kịp người phương Tây, đến khi họ tưởng sắp qua mặt được người phương Tây thì phương Tây lại tìm ra một phát minh mới và lại bỏ xa họ.

Người phương Tây hơn người phương Đông vì họ có óc sáng tạo vượt trội. Điều này có thể thấy rõ nếu nhìn qua quốc tịch của những nhà bác học được gii Nobel. So với các dân tộc châu á khác thì người Việt nam lại còn thiếu óc sáng tạo hơn nhiều. Đó là một nhược điểm lớn mà chúng ta phải khắc phục, và phải khắc phục khẩn cấp bằng một cố gắng liên tục và mãnh liệt. Sự thiếu óc sáng tạo của người Việt không còn là một bí mật đối với ai. Chúng ta đều biết, nhưng chúng ta chưa ý thức được hai điều. Một là chỉ có những con ngưi tự do mới có thể có óc sáng tạo, chúng ta không thể vừa kêu gọi phải sáng tạo lại vừa theo đuổi một chế độ đầy cấm đoán. Hai là thế giới sắp rời kỷ nguyên công nghiệp để đi vào kỷ nguyên của trí tuệ trong đó óc sáng tạo là tất cả, thiếu óc sáng tạo chúng ta sẽ mãi mãi tụt hậu và chịu sự thống trị của người nước ngoài. Và cũng cần ý thức rằng sự thiếu sáng tạo cũng là nguyên nhân của thảm kịch của chúng ta hiện nay : những người cầm quyền cứ ôm chặt lấy một chủ nghĩa đã phá sản và bị cả thế giới vứt bỏ, không khác gì những người nông dân hủ lậu khư khư giữ lấy chuồng lợn và cái cày.

Xét cho cùng thì ở thời đại nào óc sáng lạo vẫn ở trên tất cả. Thượng đế cũng đã chỉ được tôn thờ vì Người là tạo hóa, bởi vì Người sáng tạo.

Chương thứ :15 "

Vào năm 1956, ông Hoàng Văn Chí vượt tuyến vào Nam và cho xuất bản cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc cùng với nhiều tài liệu khác mà ông đem vào. Ông đã gây được một sôi nổi lớn tại miền Nam. Chính phủ Ngô Đình Diệm khai thác triệt để các tài liệu này vì lúc đó đang phát động chiến dịch tố cộng. Các tài liệu được phổ biến rộng rãi. Ti liệu được đặc biệt chú ý là bản tham luận của luật sư Nguyễn Mạnh Tường, từ đó tôi đã được đọc rất nhiều bài nói về ông. Điều làm tôi chú ý là tất cả mọi bài đều ca tụng ông Nguyễn Mạnh Tường đã đậu hai bằng tiến sĩ luật khoa và văn khoa khi mới ngoài hai mươi tuổi. Ngoài ra không thấy nói ông Tường đã đạt được một thành tích nào.

Vài năm trước khi qua đời, ông Nguyn Mạnh Tường có dịp di Pháp và báo chí hải ngoại lại đề cập đến ông như là một trí thức đã bị cộng sản lừa gạt và ngược đãi. Trong tất cả những bài viết về ông Tường đều có nhắc li việc ông đậu hai bằng tiến sĩ, thêm vào đó là việc ông đã tỏ ra có khí phách khi viết bài tham luận tố giác những tội ác của vụ cải cách điền địa. Ngoài ra cũng không có gì khác

Hồi tháng 5-1994, tôi có viết một bài tham luận về trí thức Việt nam đăng trên báo Ngày Nay, xuất bản ở Houston, Hoa Kỳ. Bài này là một bài tham luận về văn hóa và tư tưởng. Những điều tôi viết đã không làm hài lòng một số trí thức và đã có một số bài phản ứng. Ông Phạm Nam Sách có viết một bài góp ý trên tờ Thời Luận, xuất bản tại Los Angeles, Hoa Kỳ. Bài của ông Sách lại đưa đến một bài báo khác ký tên Công Tôn Hoàng, chắc chỉ là một bút hiệu, đả kích cả ông Sách lẫn tôi. Tác giả cho biết chỉ đọc bài của ông Sách chứ không đọc bài của tôi. Tôi bị đả kích thật nặng lời hơn cả ông Sách, mặc dù những điều tác giả đả kích thực ra là do ông Sách viết chứ không phải tôi. Nhưng điều đó không quan trọng lắm. Điều đáng ể ý là cả hai bài này đều đề cập đến ông Nguyễn Mạnh Tường, và một lần nữa nhắc lại việc ông Tường đậu hai bằng tiến sĩ.

Trong tất cả bài viết về ông Tường mà tôi đã được đọc cho đến nay không có bài nào không nói đến hai bằng tiến sĩ của ông. Ngoài ra không có gì đặc biệt. Hình như việc ông đậu hai bằng tiến sĩ là quan trọng nhất trong cuộc đời ông dưới mắt nhiều người. Sự kiện đó được coi là đủ để kết luận ông là người giỏi và những điều ông nói là cao siêu.

Tôi có dịp gặp ông Tường tại Paris tại nhà một người bạn. Buổi nói chuyện kéo dài khá lâu và tôi thú thực không thấy gì đặc sắc. Ông nói nhiều điều đúng, không có gì để phản đối cả, nhưng đều là những điều rất thông thường.

Tôi cũng có đọc nhiều bài nói về ông Trần Đức Thảo, và tất cả mọi bài đều nói đến việc ông đậu thạc sĩ triết học. Có một số bài còn nói đến việc ông từng tranh luận với Jean-Paul Sarlre, nhưng các tác giả đều không biết ông tranh luận về cấp gì và đưa ý kiến gì. Tác giả nào hình như cũng ngưỡng mộ ông về mảnh bằng thạc sĩ ca ông, việc tranh luận với Sartre chỉ được nêu ra để minh họa thêm trình độ cao của ông mà thôi. Tôi chỉ đọc được một bài của ông Hoàng Khoa Khôi, một người thợ tự học và một người cách mng mà tôi rất quý mến, tranh luận một cách không nhân nhượng với ông Thảo và tỏ ra không hề mặc cảm về cái bằng thạc sĩ của ông. Ông Thảo hình như làm luận án về hiện tượng luận, nhưng biết học trừu tượng không phải sở thích của tôi, nên tôi không đọc tác phẩm nào của ông cả. Tôi chỉ đọc một tập sách ngắn - đúng ra phải gọi là một bài dài - của ông nhan để ùn itméraire (Một lộ trình), trong đó ông tóm lược diễn tiến tư tưởng của ông. Thú thực tôi thấy nó rất xoàng, phải nói thẳng là quá xoàng. Tuy nhiên đối với rt nhiều người, việc ông đậu bằng thạc sĩ là đã đủ để bảo đảm giá trị của những gì ông viết.

Tháng 7 năm 1990, tôi đi dự đám tang của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, một người mà tôi rất quí mến, tôi cũng được nghe một bài điếu văn liệt kê tất cả những bằng cấp của ông một cách rất trân trọng, mặc dầu cuộc đời đấu tranh phong phú của Nguyễn Ngọc Huy có rất nhiều điều đáng nói hơn.

Hình như đối với người Việt, bằng cấp là quan trọng nhất, và một con người trước hết được đánh giá qua nhưng bằng cấp mà mình có. Bằng quí như thế nên tôi đã từng thấy những người chơi bằng. Họ có đủ mọi loại bằng cấp, mặc dầu chỉ làm được có một nghề. Có những người ngoài bốn mươi tuổi vẫn còn cố đi học đ lấy thêm một bằng cấp khác, không biết để làm gì. Những thì giờ đó nếu họ dùng để học hỏi mở mang kiến thức thực sự, hay để sống với vợ con, hay ngồi nghỉ ngơi và suy tư thì hay biết my.

Trong sinh hoạt nghề nghiệp, tôi có dịp phỏng vấn nhiều người Việt nam để tuyền dụng. Hồ sơ ứng tuyển của họ lọt dễ dàng vòng sơ khảo của sở nhân viên để đến tay tôi vì họ có bằng cấp rất khá. Dần dần kinh nghiệm cho tôi một nhận định rất rõ ràng: người~ Việt thường có bằng cấp quá cao so với giá trị của họ. Không những thế, thường thường họ hiểu biết rất ít về nhng gì họ đã làm.

Trong ngành tin học ứng dụng vào quản trị, hoạt động chính của tôi trong những năm gần đây, các kỹ sư Việt nam thường chỉ biết tin học và mù tịt về quản trị. Trong khi tin hc chỉ là phương tiện, quản trị mới là mục đích. Đã thế họ còn diễn đạt một cách rất khó hiểu. Điều trớ trêu là phần lớn cũng biết như vậy nhưng đã giải quyết một cách khác: trong CV (lý lịch) của họ, ngoài bằng kỹ sư tin học, có khi còn có thêm bằng tốt nghiệp một trường quản trị. Họ tin rằng với một bằng về tin học và mt bằng về quản trị dĩ nhiên mình phải được coi là giỏi cả về tin học lẫn quản trị. Có bằng là có tài và chúng ta yên trí.

Trong giao dịch nghề nghiệp, tôi có dịp tiếp xúc với đủ loại ngưi và khám phá nơi người Việt mình một đặc tính : họ có the bị lừa bởi bằng cấp của chính họ. Một khi đã có bằng cấp về một môn nào đó, họ tin chắc là họ giỏi về môn đó, mặc dầu trên thực tế họ chỉ biết rất lơ mơ. Sự đánh giá bằng cấp của người Việt thật là kỳ lạ đối với người Pháp mà tôi biết khá rõ, bằng cấp là chứng nhận một trình độ hiểu biết, bằng cấp nói lên khoảng một phần ba nhưng gì họ biết, đối với người Việt nam nó là ba lần những gì họ biết. Người Việt nam mình đánh giá người khác qua bằng cấp và sau cùng cũng tự đánh giá mình qua bằng cp. Bằng cấp đối với người Việt vì vậy có một tầm quan trọng rất đặc biệt. Có thể nói người Việt vì vậy có một tầm quan trọng rất đặc biệt. Có thể nói người Việt nam đi học để lấy bằng cấp chứ không phải đễ lấy kiến thức. Bằng cấp không những là phương tiện để lừa người khác mà còn là phương tiện để đánh lừa chnh mình. Tôi đã ca tụng tính hiếu học của người Việt trong những trang trước. ở đây, tôi phải đánh một dấu giáng trên niềm tin đó. Hiếu học là hay, những học để làm gì còn quan trọng hơn. Khổ thay phải nhìn nhận rằng nguyên nhân tính hiếu học của người Việt không lấy gì làm trong sáng lắm.

Nếu bằng cấp là hãnh diện cho kẻ có thì nó cũng là một tủi hổ cho người không có. Một anh lúc ở Việt nam là một tư chức nhỏ, trình độ học vấn của anh ta cỡ vào khoảng giữa bậc trung học. Anh ta mơ mảnh bằng tiến sĩ, điều đó quan trọng vô cùng đối với anh, đến nỗi anh vật vã trong hơn mười lăm năm miệt mài, ban ngày đi làm lặt vặt kiếm sống, tối học đi thi lấy bằng tiến sĩ. Anh ta ghi danh vào một trường đại học không đòi hỏi bằng tú tài và cho làm luận án tiến sĩ mà không òi hỏi bằng cao học, nghĩa là một thứ tiến sĩ đại hạ giá. Sau khi đã có bằng tiến sĩ, tôi không thấy anh ta khá hơn trước. Nhưng sự kiện có bằng tiến sĩ khiến anh ta trở nên thoải mái, tự tin, trông mặt anh ta sáng hẳn lên. ít ra mảnh bằng đã cho anh ta hạnh phúc.

Phải giải thích thế nào óc trọng bằng cấp và ham bằng cấp của người Việt? Nó là biểu hiện của một dân tộc thiếu óc làm chủ, một dân tộc có bản năng làm công và làm mướn. Nếu không có ý định đi xin việc làm mà nhất quyết xây dựng một cơ sở của riêng mình chắc chắn người ta không cần bằng cấp, mà chỉ cần kiến thức.

Những người Trung Hoa ở Chợ Lớn không cần bằng cấp vì họ không có ý định xin việc làm, họ làm cho chính họ. Và họ thành công hơn người Việt, và cũng giỏi hơn người Việt. Thi gian làm việc tại miền Nam trước 1975, đã cho tôi nhiều cơ hội để tiếp xúc và tìm hiểu họ. Trái với dư luận thông thường, họ không phải là những nhà triệu phú vô học, viết chữ còn run tay. H là những con người xuất chúng, có kiến thức rất sâu và rất rộng, có lý luận rất sắc bén và có cách trình bày rất minh bạch. Chắc chắn họ đã học hỏi rất nhiều. Có điều là họ học cho giỏi chứ không học để lấy bằng.

Chương thứ :16 "

Rất nhiều người Việt nam gán cho người Nhật một câu so sánh giữa người Nhật và người Việt mà chính tôi dù quen biết khá nhiều người Nhật chưa bao giờ nghe họ nói: Một người Việt hơn một người Nhật, nhưng ba người Việt nam hợp lại thua ba người Nhật. Câu nói đó có vẻ như một nhận xét khiêm nhường, nhìn nhận sự thua kém về khả năng làm việc tập thể của người Việt, nhìn nhận khuyết điềm chính của người Việt là thiếu đoàn kết. Tuy vậy trong cách nói vẫn có sự thỏa mãn : Một người Việt hơn một người Nhật, vế đầu này có vẻ được nhấn mạnh hơn vế sau.

Nếu quả thực người Nhật nào đã có nói câu đó thì nó cũng chỉ là một câu khẳng định sự hơn hẳn của dân tộc Nhật, nó phải được hiểu là: Ngay cả nếu một người Việt nam có hơn một người Nhật đi nữa, thì ba người Việt nam hợp lại vẫn thua ba người Nhật. Nói một cách khác, sự thua kém ca dân tộc Việt nam so với dân tộc Nhật là tuyệt vọng, hết thuốc chữa. Còn một người Việt nam có hơn một người Nhật hay không lại là một vấn đề khác. Tôi tin là không, theo nhưng kinh nghiệm sống.

Lúc còn đi học và ở cư xá đại học Paris, tôi đã có dịp làm quen với nhiều bạn Nhật.

Trước hết họ là những người đáng tin. Họ hứa điều gì, họ làm hết sức để giữ lời hứa, rủi làm không xong họ khiêm tốn và thành thực nhận lỗi, không viện dẫn một lý do nào cả. Thứ hai là họ thực sự chuyên cần, làm cái gì đều làm đến nơi đến chốn, học cái gì đều cố gắng hc cho hiểu thật tường tận, không như người mình chỉ làm cho xong, học tắt, học tủ đẻ thi đậu, bất chấp có thực sự hiểu hay không. Người Nhật hiểu biết một cách chắc chắn, vì họ học đễ lấy kiến thức, nhưng thi có thể thua người Việt vì người Việt học để đi thi lấy bằng. Bằng cấp của người Nhật có thể thấp hơn bằng cấp của người Việt mà sự hiểu biết của họ vẫn hơn. Tôi có được đọc một luận án của một sinh viên Nhật về xã hội Việt nam dưới thời Tự Đức. Anh ta dày công sưu tập tài liệu, suy nghĩ chín chắn và nhận định rất chính xác. ít có một công trình biên khảo nào của người Việt về nước Việt có giá trị như thế, nhưng luận án của anh chỉ là mt luận án tiến sĩ đệ tam cấp, nghĩa là một bằng cấp tiến sĩ thấp nhất trong thứ bậc các bằng tiến sĩ, và anh ta ghi rõ như vậy trong luận án. Dầu vậy, luận án của anh ta được đánh giá cao, và được một nhà xuất bản Pháp in, được quần chúng Pháp đọc, trong khi nhiều luận án tiến sĩ quốc gia, cấp tiến sĩ cao nhất, của người Việt về nước Việt không được như vậy.

Người Nhật rất yêu nước, và vì yêu nước họ học hỏi rất kỹ về những khả năng của đất nước họ. Các bạn Nhật của tôi thường nói: Nước Nhật chúng tôi kẹt lắm, đất hẹp, người đông, tài nguyên thiên nhiên không có, con người lại không thông minh, chúng tôi cố gắng làm cũng không thể bằng được các nước khác . Nhờ sự lo âu thường trực đó mà họ đã xây dựng ra cường quốc số một tại châu á, và trên nhiều địa hạt cũng số một trên thế giới. Họ không tự hào là có giang sơn gấm vóc, dân tộc tinh anh.

Nhưng trên thực tế họ rất thông minh. Tôi đã đọc trên tuần báo Newsweek, một bài so sánh hệ số thông minh (I.Q.) của các dân tộc, và thấy người Nhật đứng đầu khá xa. Tuy vậy tôi chưa hề gặp một người Nhật nào tự hào dân tộc họ là thông minh. Thì ra họ vừa thông minh vừa khiêm tốn. Sự khiêm lốn đó tôi đã thấy ngay trong các bạn Nhật của tôi.

Trong cư xá đại học tôi có một cô bạn người Nhật là Ichiko học về hội họa và điêu khắc. Thân nhau rồi, Ichiko rủ tôi về phòng và cho tôi xem các tác phẩm của cô, con mắt mỹ thuật kém cỏi của tôi cũng phải bắt buộc tôi nhìn nhận đó là những tác phẩm rất hay. Tôi rủ một người bạn Pháp mê hội họa và điêu khắc tới xem, ra về anh ta tấm tắc khen hay. Thế nhưng khi tôi bảo Ichiko nên làm triển lãm thì cô dẫy nẩy từ chối, bảo rằng mình còn dở quá. Dầu vậy, Ichiko có lý do để tin mình không dở, cô đã được giải nhất về điêu khắc trong một cuộc triển lãm của Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật.

Người Việt nam, nhất là đám sinh viên Việt nam tại Paris chúng tôi, thường hay chê người Nhật là kém về ngôn ngữ. Quả thật họ nói tiếng Pháp rất dở. Ông thày dạy võ của tôi chẳng hạn, sang Pháp đã mười mấy năm mà tiếng Pháp chẳng ra đâu vào đâu cả. Ông nói những tiếng thật tức cười như levez pieds (nhắc chân lên), baissez bras. Nhưng khi tới thăm ông, tôi gặp ông đang đọc một cuốn sách tiếng Nhật, hỏi ra thì được biết thú tiêu khiền chính của ng là đọc sách tiếng Nhật. Nhìn cách bố trí căn phòng có thể thấy ngay là ông chuẩn bị rất chu đáo đẻ tận hưởng thú đọc sách. Ông có cả một cái bàn thấp để ngòi xếp bằng đọc sách, trên bn là một cái giá sách nghiêng do ông đóng lấy. Cách sắp xếp trong phòng rõ ràng là để có thể đọc sách trong những điều kiện tốt nhất. Các bạn Nhật của tôi đâu nói tiếng Pháp kém cả, nhưng bù li họ nói rất dề hiểu, bởi vì họ hiểu rõ những gì họ nói và khi không hiểu họ nói rõ ràng không hiểu chỗ nào. Dần dần tôi hiểu rằng họ không nói giỏi tiếng Pháp là vì họ chú trọng học lấy kiến thức và vì họ coi trọng văn hóa của họ. Là một dân tộc lớn, họ cho học tiếng mẹ đẻ là quan trọng hơn cả, họ học hỏi tiếng nước ngoài như một phương tiện đễ hiểu và học hỏi người khác. Người Nhật chác chắn không phải là một dân tộc có biệt tài về hùng biện, nhưng tôi phải thú nhận họ diễn tả rõ ràng và mạch lạc hơn người Việt. Người Việt là một trong những dân tộc dở về truyền thông nhất, điêu này tôi sẽ có dịp đề cập đến.

Nhưng hãy trở lại với người Việt mình. Nếu ngay cả lấy ba người Việt có khả năng hơn ba người Nhật mà kết quả cũng chỉ là để tạo ra một nhóm ba người dở hơn nhóm của ba người Nhật kia thì chắc chắn là người Việt mình không có khả năng làm việc chung. Mà đã không cố khả năng làm việc chung được thì không thể nói là mình hay được bởi vì khả năng quan trọng nhất, khó khăn nhất chính là khả năng làm việc chung. Nó đòi hỏi trước hết sự lương thiện, bơi vì một tập hợp của chung con người chơi gian, chơi xấu, chơi gác nhau không thể kéo dài. Nó cũng đòi hỏi vô số đức tính khác : nhạy cảm, biết lắng nghe, biết truyền đạt ý kiến, có ý kiến hay, đủ bao dung để hiểu cái lý của người khác và nhất là đủ thông minh đễ thấy sự cần thiết của tổ chức và để thích ứng quyền lợi của mình với quyền lợi của tổ chức. Nếu con người chỉ sống và làm việc một mình thôi thì sự hay dở có lẽ không đặt ra, mình làm mình hưởng, mình làm mình biết, làm sao đánh giá được hay, dở? Cái trí thông minh lớn nhất chính là khả năng làm việc chung. Đã không biết làm việc trong khuôn khổ một tổ chức thì không thể nói là mình thông minh.

Chương thứ :17 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :18 "

Ta không cố tự hào dân tộc, mà đã không có tự hào dân tộc thì không thể yêu nước. Làm sao có thể yêu một cái gì mà ta coi thường? Cho nên lòng yêu nước của ngưi Việt, mà mọi người quả quyết là mạnh, có thể chì là một sự hiểu lầm.

Có một lập luận mà cả hai phe cộng sản và quốc gia đều đồng ý nhưng rất sai, là những người cộng sản đã chiến ấu dũng cảm vì lòng yêu nước chứ không phải vì chủ nghĩa cộng sản. Lập luận này tiện cho cả đôi bên. Đảng cộng sản dĩ nhiên phải nói rằng họ tranh đấu vì lòng yêu nước, có như thế họ mới tranh thủ được sự hưởng ứng của những người chưa vào đảng cộng sản, mới có thể kết tội những đối thủ của họ là phản quốc, là bán nước, mới tranh thủ được sự ủng hộ của dư luận các nước không cộng sản. Còn bên chống cộng dĩ nhiên cũng phải nói rằng đa số những người theo phe cộng sản đã chỉ theo vì lòng yêu nước mà thôi. Có như thế họ mới có thể buộc tội đảng cộng sản là đã lừa bịp những người yêu nước nhẹ dạ, là tiếm đoạt hy sinh xương máu của nhân dân vì độc lập dân tộc; có như thế họ mới nói được chủ nghĩa cộng sản phi nhân bất nghĩa, chẳng ai theo nếu biết thực chất. Gần đây những người công sản ly khai cũng lại sử dụng lập luận này vì nó cũng tiện cho họ. Họ đã đoạn tuyệt với đảng cộng sản, đã từ bỏ chủ nghĩa cộng sản rồi thì tự nhiên họ phải biện minh cho hoạt động trong quá khứ của mình bằng điều mà họ nghĩ mi người chấp nhận, nghĩa là lòng yêu nước.

Kết quả là một sự dối trá khổng lồ từ cả mọi phía. Và cứ thế cuộc tranh cãi thiếu lương thiện này tiếp tục gây ngộ nhận trong đầu óc mọi người.

Tôi đã nghiên cứu, quan sát, và tâm tình với rất nhiều người cộng sản ở mọi trình độ và đi tới kết luận quả quyết rằng đại đa số những đảng viên cộng sản dã theo đảng vì chủ ngha chứ không phải vì lòng yêu nước. Người cộng sản cũng yêu nước như mọi người Việt nam khác, không kém nhưng cũng không hơn. Lòng yêu nước có thực nhưng chỉ đóng một vai trò rất thứ yếu trong chọn lựa của ho. Nó đã chỉ được dùng làm một chiêu bài, nó không phải là động cơ.

Vả lại lòng yêu nước làm sao có thể là động cơ dược, nếu nó không mạnh? Độc giả sẽ tự nhận ra nhưng tôi cần cảnh giác trước hết rằng tôi hoàn toàn không có ý định làm một cáo trạng đối với người cộng sản và đảng cộng sản. ở đây tôi chỉ muốn nhận diện đất nước, điều tôi muốn làm sáng tỏ là lòng yêu nước rất mờ nhạt trong lòng người Việt nam, dù là cộng sản hay không cộng sản. Đã đến lúc chấm dứt sự ngộ nhận này để đem lại cho cuộc thảo luận về đất nước s nghiêm túc phải có.

Chúng ta cần thắng một đặc tính rất kỳ lạ của người Việt là thường đặt nền tảng quan hệ và trao đổi trên một căn bản giả dối, không ai thực sự nghĩ nhưng mọi ngưi đều muốn người khác tin là mình nghĩ. Thí dụ các tổ chức chống cộng hải ngoại đều kêu gọi ngồi lại với nhau nhưng trong thâm tâm không ai thực sự muốn ngồi lại với nhau cả, mà chỉ muốn ngi lên đầu nhau. Kết quả tất nhiên là rất khó đồng ý với nhau. Tôi mong độc giả lưu ý cái dân tộc tính này trước khi đọc những dòng kế tiếp.

Ai đã có dịp vào thăm Viện Bảo Tàng Cách Mạng đều có thể nhìn thấy lá cờ lịch sử của Phong Trào xô Viết Nghệ Tĩnh, cái nôi tình cảm của đảng cộng sản Việt nam. Lá cờ màu đỏ này chỉ có tám chữ Vạn Tuế Sô Nga, Sô Nga Vạn Tuế, chỉ có thế. (Chữ Sô viết bắt đầu bằng chữ S trên lá cờ). Vả lại cái tên Xô Viết Nghệ Tĩnh cũng đã đủ nói lên bản chất của phong trào. Cái gì đã thực sự làm nức lòng người, không phải là lòng yêu nước mà là giấc mơ cộng sản, giấc mơ được giải phóng khỏi sự áp bức, bóc lột và chà đạp. Giấc mơ ấy đã khiến những người nông dân cùng khổ miền Nghệ Tĩnh vùng lên, chấp nhận chết chứ không chấp nhận tiếp tục cuộc sống tôi đòi. Phong Trào Xô Viết Nghệ Tĩnh đã thẳng tay tàn sát những kẻ thù của giai cấp vô sản, bất luận họ c yêu nước hay không yêu nước. Nó đã bị đàn áp trong một biển máu, sau khi đã làm đổ ra một biển máu. Sự dũng cảm của những con người của Phong Trào xô Viết Nghệ Tĩnh đã rất phi thường, nhưng nó hoàn toàn không do lòng yêu nước mà đã chỉ được thúc đẩy bởi giấc mơ một cuộc sống không còn áp bức.

Tôi đã nói chuyện với vô số người cộng sản và cố gắng vượt qua cái vỏ bề ngoài của họ, tôi luôn luôn tìm thấy giấc mơ đó đằng sau cái bình phong yêu nước. Đó mới chính là lý tưởng đã khiến họ chấp nhận mọi gian khổ, nếu cần hy sinh cả tính mạng. Tôi cũng đã quan sát và trao đỗi với các trí thức cộng sản. Điều tôi có thể quả quyết là không ai lầm lần cả. Tất cả đều đã tán thành chủ nghĩa cộng sản, hay ít ra đã chấp nhận nó. Không có một người nào đã theo phong trào cộng sản vì tưởng rằng nó không phải là cộng sản cả.

Đảng cộng sản cũng không hề giấu mục tiêu của họ. Họ sử dụng danh nghĩa giải phóng dân tộc song song với lý tưởng cộng sản chứ không phải thay cho lý tưởng cộng sản. Lúc nào họ cung đề cao đấu tranh giai cấp, ngay cả khi họ giải tán một cách tượng trưng Đảng cộng sản Đông Dương. Vả lại, ngay cả cái tên Đảng cộng Sản Đông Dương cũng đủ để nói lên rằng yếu tố Việt nam không hề có trong ưu tư của họ. Không thể nói là họ đã lường gạt. Sự bội ước này có thực, nhưng không phải ở chỗ họ đã đem áp dng chủ nghĩa cộng sản, mà ở chỗ đảng cộng sản đã không thực hiện được lý tưởng công bằng xã hội mà chủ nghĩa cộng sản đã hứa hẹn, thay vào đó là một chế độ đầy rẫy bất công và tham nhũng. Cũng có những người đã thất vọng vì nhận ra chủ nghĩa cộng sản là không tưởng. Nhưng không có ai không biết ngay từ đầu rằng mục đích của mặt trận Việt Minh là để thiết lập một chế độ cộng sản cả. Nói như vậy là không thành thực.

Vả lại, năm 1976, khi, sau chiến thắng, Đảng Lao Động được đỗi tên thành đảng cộng sản và chế độ cộng sản được chính thức tuyên bố, ti hoàn toàn không thấy ai ngạc nhiên hay phẫn nộ cả. Tất cả nhưng người đã đóng góp cho thang lợi của đảng cộng sản đều hân hoan, hay ít ra không thất vọng. Thất vọng chỉ đến sau đó khi chế đ trở thành tham nhũng và đất nước bị suy thoái, đời sống nhân dân trở thành cơ cực.

Tôi không lên án người cộng sản là không yêu nước, tôi chỉ muốn nói là lòng yêu nước của người Việt mình nói chung là rất yếu. Trong thời kỳ Pháp thuộc, có lẽ chỉ có Việt nam Quốc Dân Đảng và một số hệ phái Đại Việt là thực sự chỉ lấy lòng yêu nước làm nền tảng. Nhưng Việt nam Quốc Dân Đảng đã không mạnh lên được, một phần vì thiếu tổ chức, một phần bị mọi thế lực đánh phá, nhưng lý do căn bản, theo tôi, vẫn là vì lòng yêu nước, lý tưởng duy nhất của Việt nam Quốc Dân Đảng, không đủ mạnh trong lòng người Việt nam để có thể động viên được sự hy sinh của nhiều người, như lý tưởng cộng sản.

Để đối đầu với đảng cộng sản, các chính quyền quốc gia đều ch yếu do những người không yêu nước cầm đầu. Các chính quyền Bảo Đại, Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, ngoại trừ một vài nhân vật của Đại Việt và Việt nam Quốc Dân Đảng xuất hiện ngắn ngủi trong một thỏa hiệp giai đoạn, gồm toàn bộ những người đã hợp tác với chính quyền thuộc địa Pháp. Nhưng họ đã thất bại vì tham ô, kém cỏi chứ không phải vì không được coi là những người yêu nước.

Ông Ngô Đình Diệm xuất hiện đột ngột vào chính trường Việt nam và cầm quyền. Ông cũng không phải là một người yêu nước trái lại ông có một quá khứ dài hợp tác với người Pháp và đàn áp các phong trào yêu nước. Nhưng ông đã suýt nữa thành công. Ông thất nhân tâm vì vụng về, thiển cận chứ không phải vì bị lên án là không yêu nước. Yêu nước chưa bao giờ là một yếu tố quyết định để tranh thủ lòng người tại Việt nam. Người Việt nam hoặc không yêu nước, hoặc chỉ yêu nước một cách rất tương đối. Người cộng sản yêu chủ nghĩa của họ hơn đất nước. Người Công Giáo coi trọng tôn giáo của họ hơn đất nước. Những người cầm quyền phe quốc gia đặt quyền lợi của họ trên đất nước. Nhóm Phật Giáo ấn Quang tranh đấu để giành quyền lực và ảnh hưởng cho họ hơn là cho đất nước. Quần chúng Việt nam lo âu quyền lợi và sự yên ổn của mình hơn là cho tương lai đất nước. Tại sao và làm thế nào để khắc phục là những câu hỏi mà ta cần đặt ra. Nhưng ít nhất phải nhìn nhận sự thực đó, phải coi nó là một dữ kiện trong đầu đề của bài toán đất nước, để đừng tiếp tục cường điệu với nhau, đeo mặt nạ và nói chuyện với nhau bằng ngôn ngữ của lưỡi gỗ.

Lòng yêu nước của người Việt nam không phải là không có nhưng rất mờ nhạt. Nó đã chỉ được thổi phồng lên do sự chia rẽ trầm trọng của dân tộc Việt nam. Nó không phải là một tình yêu vì người ta chỉ nhân danh tổ quốc để giết nhau chứ có bao giờ nhân danh tổ quốc để tha thứ và nhường nhịn nhau đâu. Sự xung đột đã khiến mọi phe phái đều phải ề cao một điều duy nhất mà mọi người có thể chấp nhận, đó là lòng yêu nước. Nhưng sự xung đột này tự nó cũng là bằng cớ rằng người Việt nam không yêu nước. Nếu thực sự yêu nước thì người Việt nam trước hết phải thương yêu nhau đã, chứ không thể phủ nhận, mạt sát, lên án, tiêu diệt nhau một cách dề dàng như vậy. Có thể nào tưởng tượng được một gia đình trong đó mọi người đều tha thiết yêu gia đình, nhưng lại xung đột, xâu xé nhau và sẵn sàng giết nhau hay không?

Một bằng cớ khác chứng tỏ người Việt nam không yêu nước lắm là có một số đông vẫn chống lại tinh thần hòa giải dân tộc. Vấn đề giản dị như thế này: khi một dân tộc đã có xung đột gay gắt thì chỉ có hai chọn lựa, một là hòa giải với nhau để quốc gia tiếp tục tồại và đi tới hai là không hòa giải và chấp nhận tan vỡ.

Nhưng dầu sao thì lòng yêu nước cũng vẫn là mẫu số chung của dân tộc này để tồại và tiến lên. Lòng yêu nước đó chưa có ở một mức độ cần có, chúng ta phi tạo ra hay phát minh lại. Trong khi chờ đợi, không nên lợi dụng và nhảm nhí hóa nó, vì nó vẫn là hy vọng thoát nguy duy nhất của ta.

Chương thứ :19 "

Giáo sư Nguyễn Huy Bảo sinh năm 1908. Ông du học tại Pháp, tốt nghiệp cử nhân triết học, roofi về nước dạy học tại Huế từ trước thế chiến II. Một s đông các trí thức miền Trung là học trò của ông. Ông làm khoa trưởng Đại Học Văn Khoa Sài Gòn cho tới năm 1964, rồi rời Việt nam làm chuyên viên cho Liên Hiệp Quốc và thực hiện nhiều công tác văn ha giáo dục tại các nước châu Phi. Kinh nghiệm sống của ông đã giúp ông hiểu tại chỗ lý do khiến nhiều quốc gia không phát triển được. Là một người hoạt động không ngừng nghỉ, dầu tuổi đã ngoài chín mươi, tương lai của Việt nam không còn một quan trọng nào đối với ông nữa, ông vẫn còn tham gia tích cực vào các hoạt động của nhóm Thông Luận. Ông là một người Việt nam yêu nước thực s và nồng nàn. Trong một buổi thuyết trình tại Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận về đề tài Việt nam có thể có dân chủ được không?, ông đã phân tích những nhược điểm của người Việt nam. Ông kể lại rằng khi ông còn trẻ vừa tới Pháp du học, một giáo sư người Pháp có kinh nghiệm nhiều về Việt nam đã nói về người Việt nam rằng: Ils ne saiment pas (Họ không ưa nhau). Câu nói đó chắc là ông Nguyễn Huy Bảo đã phải kiểm chứng thấy trong cuộc đời của ông và đã phải làm ông đau lòng lắm, để đến nỗi 60 năm sau, ông vẫn còn ấm ức v nhắc lại một cách rất thất vọng.

Phải giải thích người Việt nam không yêu nước vì họ không quí mến nhau, hay người Việt nam không quí mến nhau vì họ không yêu nước? Hai tình cảm đó luôn luôn đi đôi với nhau, hoặc có cả hai hoặc không có cả hai chứ không thể có một trong hai.

Ca dao ta có hai câu mà hầu như mọi người đều biết bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn và nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng. Thực là ai oán. Hai câu ca dao đó hình như đã xưa lắm rời. Tôi có đọc một cuốn sách nói rằng câu bầu ơi thương lấy bí cùng... có từ thời Hai Bà Trưng? Tôi không phải là một nhà nghiên cứu văn học để có thể có ý kiến về thời điểm xuất phát của những câu ca dao này, nhưng mọi người có thẩm quyền về văn học mà tôi quen biết đều xác nhận đó là những câu ca dao đã có từ rất lâu. Như thế có nghĩa là từ lâu rồi người Việt tệ bạc với nhau tới độ có những người phải đau lòng thốt ra những lời nhắn nhủ não nùng như thế.

Nguyễn Văn Thanh, người anh kết nghĩa trong tù của tôi nam nay đã 76 tuổi và sống tại Los Angeles, kể cho tôi nghe thời anh học trường Bưởi, giáo sư Đỗ Trí Lễ dạy Vật Lý, mỗi lần bực bội với học trò thường đi đi lại lại trong lớp và lẩm bẫm: Les Annamites sont des menteurs, des voleurs ét des assassins (Người Việt nam là bọn dối trá, trộm cắp và sát nhân). Sau này do những liên hệ hôn phối tôi được biết về giáo sư Đỗ Trí Lễ. Ông là một nhà giáo hiền lành, đức độ. Câu ông nói không phải do ông sáng tạo ra mà ông chỉ nhắc lại bởi vì tôi cũng đã được nghe nhiều lần ở miệng người khác. Thật khó tin là người Việt nam có thể khinh ghét nhau đến thế được. Người Việt nam tìm đủ mọi lý do để ghét nhau. Người thành thị thì gọi người nông thôn một cách khinh bỉ là bọn nhà quê với ngụ ý nói là những người dốt nát, đần độn, ngớ ngẩn. Còn người nông thôn thì 'gọi người thành thị là kẻ chợ với hàm ý là gian trá, lật lọng. Người ta mạt sát nhau vì lý do nghề nghiệp: đồ hàng cá, hàng thịt?. Khi còn ở ngoài Bắc, tôi đã được nghe câu tục ngữ: bạc quân xứ Huế, tệ quân xứ Nam. Xứ Huế đây là để chỉ miền Trung. Như vậy là người Trung và người Nam đều tệ bạc, chỉ có người Bắc là chung thủy thôi sao? Nhưng vào ti trong Nam, tôi lại thấy phần đông người miền Nam coi người Bắc và người Trung là không ngay thẳng. Ra tới Huế, tôi lại có thể nhận thấy rõ ràng người Huế tự nghĩ mình có văn hóa và có chiều su hơn người miền Nam và miền Bắc. Tuy họ không nói trắng ra nhưng tôi có thể cảm thấy rõ ràng rằng theo họ, trừ một vài ngoại lệ, nói chung người Bắc và người Nam tuy có khác nhau nhưng đều hời hợt và phù phiếm.

Thế nhưng một ông vua nhà Nguyễn (Minh Mạng hay Tự Đức) lại mạt sát xứ Huế của chính ông là sơn bất cao thủy bất thâm, nam đa trá nữ đa dâm (Núi không cao, sông không sâu, con trai gian trá, con gái đa dâm). Đó là mạt sát theo thành kiến của một thời đại thôi chứ đa dâm thực ra là một tính tốt, nó chứng tỏ con người giàu sinh lực nhạy cảm và thông minh. Như vậy rõ ràng là người Việt nam khinh ghét nhau giữa những người khác miền với nhau và ngay cả giữa những người cùng sống một nơi. Khác biệt địa phương, cũng nh mọi khác biệt, đều chỉ là những lý cớ để người Việt biểu lộ sự khinh ghét lẫn nhau đã sẵn có ở trong lòng.

Claude Renaud là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp. Ông là người úc gốc Pháp, học chính trị tại Pháp, quen một cô bạn Việt nam xinh đẹp và lịch duyệt rồi cưới nhau. Renaud là một nhân vật cao cấp tại bộ ngoại giao và ngoại thương úc, từng làm cố vấn tòa đại sứ úc tại Việt nam, rồi cố vấn tòa đại sứ úc tại Pháp. Trong ngành ngoại giao cố vấn có hàm bộ trưởng.

Claude Renaud kể cho tôi nghe một cách thú vị những gian truân của anh trong việc chinh phục người đẹp. Gia đnh vợ anh không hài lòng lắm để cho con gái lấy chồng ngoại quốc, nhưng trở ngại lớn nhất là bà nội vì bà rất bảo thủ. Sau cùng sự kiên nhẫn và khôn khéo của nhà ngoại giao cự phách đã thuyết phục được bà cụ. Bà cụ đành nói: Thôi, thà để nó lấy chồng Tây còn hơn là để nó lấy chồng Bắc Kỳ? Bà cụ là người hiền lành, không hiểu sao cụ ghét người Bắc đến thế. Có lẽ đó là một thành kiến, nhưng nó chứng tỏ người Việt nam không ưa nhau.

Yếu tố cùng là người Việt nam có lẽ chỉ có một trọng lượng rất nhỏ, nên người Việt khi kết hợp với nhau thường dựa trên một mẫu số chung nào đó ngoài sự kiện cùng là người Việt. Cứ nhìn ngay những tổ chức chính trị, mà mục đích là tranh đấu cho một nước Việt nam thống nhất và đoàn kết. Không cần phải là một nhà quan sát tinh tường cũng đủ thấy. Người ta thường kết hợp với nhau trên một mẫu số chung địa phương, hay thành phần xã hội, hay tôn giáo: người Bắc, người Nam, người Trung, cựu hải quân, cựu học viên Quốc Gia Hành Chánh, Công Giáo, Phật Giáo, Hòa Hảo v.v... Rất ít thấy nhưng tổ chức vượt ra ngoài được những yếu tố đó. Dĩ nhiên là cũng c. Đảng cộng sản có cả Bắc Trung Nam, nhưng họ có một mẫu số chung khác là chủ nghĩa cộng sản và họ cũng chỉ kết hợp giai cấp vô sản. Việt nam Quốc Dân Đảng cũng hiện diện tại cả Bắc Trung Nam, nhưng những hệ phái Bắc, Trung, Nam trên thực tế là những đảng riêng biệt với nhau. Một thí dụ cụ thể là năm 1967, ông Vũ Hồng Khanh, chủ tịch Việt nam Quốc Dân Đảng miền Bắc, ra ứng cử tổng thống thì ông Nguyễn Hòa Hiệp (Việt nam Quốc Dân Đảng miền Nam) cũng ra tranh cử. Các hệ phái Việt nam Quốc Dân Đảng tại ba miền không phải là những chi nhánh của một đảng mà là những đảng riêng biệt, không những không liên kết với nhau mà còn chống nhau vì hệ phái nào cũng cho mình là chính thng.

Khi miền Nam đang lâm nguy trước sự tiến công của cộng sản, một kết hợp chính trị ra đời, nhóm Liên Trường, kết hợp những người có một mẫu số chung là đã từng học các trường trung học miền Nam trước đây. Biết Nguyễn Ngọc Huy cũng tham gia, dù là một cách kín đáo, tôi có lần bực bội chất vấn : Nước sắp mất, không có lý tưởng nào để kết hợp hay sao mà lại kết hợp nhảm nhí như vậy?, ông Huy phân trần: Đó là mấy thằng bạn nó làm, mình không tham gia thì kỳ quá?.

Chính cá nhân tôi cũng đã từng được kiểm chứng cái tính ghét nhau của người Việt. Tôi có viết một số bi báo, trình bày quan điểm chính trị của tôi. Quan điểm đó không được sự tán thành của một số người. Điều đó không hề làm tôi buồn lòng, trái lại về một khía cạnh nào đó tôi còn vui lòng vì sự kiện nhiều người không đồng ý với mình chứng tỏ ý kiến của mình là mới. Tôi quan niệm đưa ra mười ý mới trong đó có chín ý sai và một ý đúng vẫn còn hơn là nói mười điều đúng cả mười nhưng chỉ là những ý cũ. Vậy thì khi người ta đả kích tôi, tôi không buồn. Nhưng sao những lời lẽ lại có thể hằn học và nặng nè đến thế Bọn, tên, chúng, phản bội, cơ hội chủ nghĩa, đón gió trở cờ, phải vạch mặt chỉ tên, phải có thái độ, v.v.

Xét cho cùng không phải người ta phản đối những điều tôi viết ra, bởi vì họ bịa đặt ra những điều tôi không hề viết hay nói, cắt xén những câu viết hay câu nói làm đổi hẳn ý nghĩa rồi dựa vào đó mà lên án. Lý do thực sự là họ có nhu cầu cần phải thóa mạ và đả phá một ai đó.

Phần lớn nhưng người viết bài đ kích tôi đều không biết tôi là ai cả vì lý do giản dị là tôi chẳng làm được gì đáng để được biết tới và cũng không thuộc một gia đình lớn nào để họ có thể lục lọi nguồn gốc, tôi ch là đứa con của những ruộng đồng không tên, không tuổi. Dầu vậy họ có thể viết tôi là đồ mất gốc, dòng dõi bán nước, một câu Kiều và một chữ Bình Ngô Đại Cáo không biết. Có người còn qu quyết tôi là cộng sản nằm vùng, có bài còn tả tôi là người điên, mặt mũi láo liên, chân đi hai hàng?

Rồi một số người biết tôi rất rõ cũng làm ngơ trước những xuyên tạc mà họ biết chắc chắn là sai, dù phần lớn có cảm tình với tôi. Tôi tự hỏi tại sao? Câu trả lời của tôi là tuy khng diễn tả ra dược nhưng trong bản năng của họ, họ đều nghĩ rằng sự độc ác của người Việt trong cách đối xử với nhau là một chuyện thường, chẳng có gì đáng ngạc nhiên.

Chương thứ :20 "

Cái bản năng thù ghét nhau trong con người Việt nam mạnh đến nỗi nó có thể bùng nỏ một cách rất bất ngờ, ngay cả giữa những người thân quen. Ông A và ông B là hai nhân vật có học thức và được nhiều người biết. Câu chuyện giữa họ mà tôi kể lại sau đây cũng đã được phơi bày trên nhiều tờ báo hải ngoại. Họ cũng là hai người bạn thân. Họ có tất cả mi lý do để thân nhau. Họ là đồng nghiệp, cả hai đều giữ cùng một chức vụ dân cử quan trọng dưới thời Việt nam Cộng Hòa, và hơn thế nữa đều là những người có uy tín nhất; cả hai đều là nhng nhà nghị luận có tên tuổi; cả hai đều chống cộng; cả hai đều đối lập với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Trước nguy cơ sụp đổ chắc chắn của Việt nam Cộng Hòa, cả hai đều đồng ý là phi lật đổ Nguyễn Văn Thiệu mới có hy vọng cứu nguy. Họ cùng nhau âm mưu, rồi cùng bị bắt và bị giam với nhau. Trốn khỏi Việt nam sau ngày 30-4-1975, cả hai đều là những khuôn mặt lớn trong cộng đồng, đều nỗ lực hoạt động cho mục tiêu chấm dứt chế độ cộng sản. Lập trường của họ giống nhau, đường lối của họ cũng giống nhau. Khi nhóm Thông Luận chúng tôi để xướng lập trường dân chủ đa nguyên và hòa giải và hòa hợp dân tộc, cả hai ông đều là những người đả kích và lên án chúng tôi gay gắt nhất. Sau đó, và hình như vào cùng một thời điểm, cả hai ông đều hiểu chúng tôi và ác cảm biến thành thiện cảm. Họ đều là những trí thức lớn mà tôi quí trọng. Năm 1993, ông A làm một cuộc thuyết trình và sau đó công bố bài thuyết trình trên nhiều tờ báo Việt ngữ tại hải ngoại. Trong bài thuyết trình này ông chấp nhận đường lối hòa giải và hòa hợp dân tộc trong một số điều kiện. Những điều kiện này được ông trình bày một cách khá rõ rệt, nó chứng tỏ lập trường chống cộng của ông vẫn không thay đổi, nghĩa là vẫn mãnh liệt như trước. Điều mà ông trình by chỉ là một chiến lược để sớm chấm dứt chế độ cộng sản và thiết lập dân chủ mà thôi. Chỉ có một điều sơ suất là ông đã trích dẫn sai lời tuyên bố của Võ Văn Kiệt, ông nói ông Kiệt chấp nhận hòa giải dân tộc trong khi thực ra ông Kiệt chỉ kêu gọi hòa hợp dân tộc, hiểu theo nghĩa đoàn kết dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản mà thôi. Có lẽ vì lúc viết, ông A không có bản văn trong tay chứ không phải ông bênh vực Võ Văn Kiệt. Lập trường chống cộng của ông được phát biểu rất rõ rệt.

Nhưng chỉ cần như thế cũng đủ để ông B phản ứng bằng một bài báo gay gắt, lên án ông A là cơ hội chủ nghĩa, đón gió trở cờ, phản bội lý tưởng của mình trước đây. Không những thế, ông B còn vạch những chi tiết trong liên hệ riêng tư để chứng tỏ ông A là ngưi không ra gì. Rõ ràng là đánh thẳng tay, đánh cho chết luôn. Dĩ nhiên ông A không để yên. Ông trả đũa bằng một bài báo rất độc. Bài báo tuy không xuyên tạc lập trường và cuộc đời của ông B nhưng dùng những lý luận rất công phu để chứng tỏ ông B là một con người thiếu tế nhị, vi phạm những qui luật sơ đẳng nhất của đạo đức. Rõ ràng cũng là đánh lại thẳng tay, đánh cho chết luôn. Bình thường ra, ông B có quyền buồn phiền về sự thay đổi lập trường - nếu ông nghĩ là có - của ông A. Ông có thể phản bác lại, đó là quyền của ông và hơn thế nữa, đó là phản ứng tự nhiên của một người đấu tranh chính trị. Nhưng tại sao ông có thể phản ứng một cách cạn tàu ráo máng như thế. Ngược lại, nếu ông B đã lỡ viết ra mt bài như thế, thì ông A hoặc có thể bỏ qua, hoặc có thể biện minh, nhưng sao lại ra tay tàn nhẫn như vậy?

Nhưng chúng ta không bình thường. Người Việt nam chúng ta trong tiềm thức không ưa nhau, chúng ta có sẵn một bản năng tiêu diệt lẫn nhau, chỉ đợi cơ hội là bùng phát.

Anh em Thông Luận chúng tôi, và cá nhân tôi, đã là đối tượng của những đả kích rất gay gắt, xuyên tạc và mạ lỵ. Nhưng chúng tôi hằng bảo nhau là phải coi chừng cái tâm lý thù ghét nhau và phải đè bẹp nó, không cho nó cơ hội cất cái đầu xấu xa của nó lên. Chúng tôi đã im lặng trước mọi công kích, chúng tôi chỉ tiếp tục tranh đấu cho lập trường của mình mà thôi. Tưởng như thế là yên thân, không ngờ chúng tôi lại bị nhiều người buộc tội vì chính sự chịu đựng đó. Tòi nói chuyện với cô Thụy Giao, chủ bút báo Xây Dựng tại San José, và cô Thụy Giao lên án chúng tôi: Các anh khinh người quá người ta đả kích các anh, các anh không thèm trả lời, như thế là các anh coi mọi người là đồ bỏ?.

Tôi trả li: Chúng tôi có trả lời đấy chứ, chúng tôi đọc nhưng bài đả kích và rút kinh nghiệm để trình by rõ lập trường của chúng tôi, giải đáp nhưng chất vấn đã nêu ra.

Mà thực tế là như thế.

Thực ra chúng tôi cũng muốn trả lời một cách trực tiếp, nhưng nhưng bài đả kích gay gắt và hằn hc quá, rõ ràng các tác giả không muốn đối thoại.

Làm thế nào để khỏi bị lên án? Có lẽ không có cách nào cả vì người Việt chúng ta mang sẵn cái bản năng buộc tội và kết án lẫn nhau ở trong lòng. Chúng la cần cảnh giác coi chừng chính mình.

Chương thứ :21 "

Năm 1964, nước Pháp lấy quyết định công nhận và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Trung Hoa Lục Địa. Quyết định này có nghĩa là họ chấp nhận điều kiện của Bắc Kinh, thôi không nhìn nhận Đài Loan là đại diện chính thức của Trung Hoa nữa và cũng không nhìn nhận Đài Loan là một quốc gia mà chỉ là một phần của nước Trung Hoa do Bắc Kinh đại diện.

Trong cuộc họp báo công bố quyết định này, tướng De Gaulle, tổng thống Pháp lúc đó, nói về nước Trung Hoa như sau: Trung hoa, quốc gia vĩ đại với lịch sử dài hàng ngàn năm, nơi mà từ thế hệ này qua thế hệ khác sự khéo léo của con người đã bù đắp lại sự thiếu sót về phương pháp và gắn bó... (La Chine, pays immense à lhistorie millénaire où depuis des générations lindustre des hommes a compensé le défaut de méthode ét de cohésion...).

Hơn ba mươi năm đã trôi qua kể từ ngày tôi ngồi trước máy truyền hình theo dõi cuộc họp báo của tướng De Gaulle nên có thể tôi không nhắc lại được đúng những lời của tướng De Gaulle, nhưng ông đã nói gần gần như thế. Tôi đã cố viết lại câu nói tiếng Pháp của ông vì sự hiện diện của hai danh từ quan trọng: méthode (method trong tiếng Anh) và cohésion (cohesion). Dịch hai tiếng này không phải dễ.

Phải dịch cohésion là gì? Nó là một tình trạng của một toàn bộ, trong đó mọi thành tố ph hợp với nhau, bổ túc cho nhau, hỗ trợ cho nhau để tạo ra một tổng thể chung bền vững. Tạm dịch là gắn bó. Tiếng Việt ta không có từ ngữ để diễn tả khái niệm này bởi vì người Việt ta không có ý niệm cohésion. Vì không có giác quan về sự gắn bó (cohésion) nên người Việt ta không thể kết hợp với nhau để làm những công trình lớn, gồm nhiều phần và đòi hỏi sự đóng góp của nhiều ngưi với nhiều tài năng khác nhau.

Methode thì ta có tiếng phương pháp. Từ ngữ này không thấy trong văn học và tài liệu của ta trước thế kỷ 20. Có lẽ là ta đã dùng lại một chữ mà người Trung Hoa mới sáng chế ra gần đây để chỉ một khái niệm du nhập từ phương Tây. Tướng De Gaulle có lẽ cũng nghĩ là người Trung Hoa không có phương pháp. Trước đây, theo nhiều biết hạn hẹp của tôi, người Trung Hoa chỉ có chữ phương để chỉ một phương hướng (phương Đông, phương Tây), cũng có những chữ phương có nghĩa khác, thí dụ là thơm hay đầy đn. Ngoài ra người Trung Hoa còn có còn chữ pháp để chỉ qui luật, phép tắc. Thí dụ như Tôn Tử binh pháp có nghĩa là qui luật dùng binh của Tôn Tử.

Chữ phương pháp được người mình hiểu là cách làm, nhưng như vậy không đúng với nội dung của từ méthode. Méthode có nghĩa đó thực nhưng trong khoa học tổ chức còn có nghĩa phong phú hơn nhiều, và nghĩa này thì tôi thấy tuyệt đại đa số người Việt không biết đến. Vì thế mặc dầu đã có danh từ phương pháp nhưng thật ra ta vẫn chưa có phương pháp.

Phương pháp trong khoa học tổ chức bao gồm một cố gắng phân tích một công trình, tìm ra những yêu cầu về khả năng, phương tiện, vật liệu, thời hạn, kiểm điểm những gì mình đã có và những gì cần phải thụ đắc, chia công trình hay dự án ra làm những thành phần, quyết định sử dụng kỹ thut nào cho mỗi phần, quyết định ai làm gì và làm như thế nào, vào lúc nào, theo dõi diễn tiến của dự án như thế nào, lấy những tiêu chuẩn nào để kiểm tra sự tiến hành nghiêm túc. Và điều quan trng hơn hết là phương pháp phải được mọi người có trách nhiệm trong dự án hiểu biết và áp dụng. Phương pháp phải duy nhất trong dự án. Không thể có nhiều phương pháp trong một dự án bởi vì phương pháp cũng là ngôn ngữ chung cho cả dự án. Mọi người phải nói cùng một thứ tiếng. Mỗi từ ngữ phải có ý nghĩa rõ rệt của nó và phải có cùng một nghĩa đối với mọi người. Trong sinh hoạt nghề nghiệp của tôi, từ kỹ sư, dự án trưởng, đến giám đốc kỹ thuật, tôi đã tham gia vào nhiều dự án thuộc khá nhiều ngành. Bất cứ một dự n nào người ta cũng có thể chọn lựa giữa nhiều phương pháp.

Các công ty lớn trước khi bát đầu thực hiện một công trình dành rất nhiều thì giờ cho phương pháp. Họ hội họp rất nhiều và thảo luận rất kỹ càng để yên trí mọi người hiểu rõ phương pháp đã dược chọn lựa, và biết chắc mình phải làm gì và làm như thế nào. Ngay cả các tài liệu thông tin nội bộ cũng có mẫu rõ ràng. Dự n càng mới, kỹ thuật càng hiện dại thì càng càn nhiều thì giờ cho phương pháp. Tôi từng tham dự vào một dự án chỉ kéo dài một năm mà trong đó có hai tháng hội họp để chỉ bàn về phương pháp và sau đó trong các buổi họp hàng tuần phương pháp luôn luôn được nhắc lại.

Nghe tướng De Gaulle nói về người Trung Hoa như vậy tôi nghĩ thầm nếu người Trung Hoa không những khéo léo mà còn có cả phương pháp và sự gắn bó thì họ đâu đến nỗi thoái hóa như ngày hôm nay.

Trong Việt nam Sử Lược, Tràn Trọng Kim nhận định: Nước ta về văn hóa, tư tưởng, nếp sống đều bắt chước theo người Tàu, nhưng cái gì cũng sau người Tàu một bước . Nhiều người còn chua chát nhận định văn hóa, tư tưởng Việt nam chỉ là một cóp nhặt của văn hóa, tư tưởng Tàu, và người Việt chỉ là một ấn bản mờ nhạt của người Tàu.

Nhận xét này tuy hơi tàn nhẫn nhưng không phải là sai. Người Việt nam còn thiếu phương pháp hơn người Tàu nhiều, như tôi có thể nhận thấy ngay trong các tiệm ăn Tàu nhỏ. Người hầu bàn tính tiền rất chính xác mà không cần nhớ hay đọc lại phiếu đặt hàng. Họ xếp một chồng đĩa nhựa nhỏ ở góc bàn ăn, mỗi đĩa theo màu sắc là một món có giá nhất định. Chỉ cần đếm đĩa là họ tính tiền được ngay. Trong bữa ăn so sánh số đĩa trên bàn với phiếu đặt hàng họ biết còn thiếu những món gì. Giản dị và hiệu quả. Sự thiếu sót về gắn bó của người Việt có thể nhận thấy rõ ràng trong các cơ quan chính quyền, các công ty, nhất là các công ty quốc doanh, và các hội đoàn. Tôi chưa được thấy một đơn vị nào mà mọi người làm việc nhịp nhàng với nhau. Tôi chưa thấy một người lãnh đạo nào hiểu rằng vai trò của người lãnh đạo trước hết là tạo ra và giữ gìn sự gắn bó của đơn vị. Cơ quan này phá đám cơ quan kia, trong cùng một cơ quan đơn vị này bất chấp đơn vị kia cần gì và làm gì. Có khi cùng một đơn vị mà ở hai phòng khác nhau hai người đang làm cùng một việc, trong khi có những việc rất cần làm mà không ai làm.

Lý do của sự thiếu đồng bộ là vì người Việt nam không ưa nhau như đã nói trong phần trước, nhưng cũng vì ý niệm tm kiếm đồng thuận hình như vắng bóng trong đầu óc người Việt. Chúng ta chỉ biết áp đặt và khi không thể áp đặt thì chúng ta bất lực. Một thí dụ đã kéo dài hai mươi năm qua tại hải ngoại là những cố gắng để kết hợp các tổ chức, trong tinh thần rất cẩu thả nhưng được diễn tả một cách rất kêu là gạt bỏ mọi dị đồng chính kiến . Nhưng như thế nào là gạt bỏ dị đồng chính kiến? Gạt bỏ chính kiến của ai? Hay gạt bỏ mọi chính kiến? Nếu vậy thì ngồi lại với nhau để làm cái gì? Nhưng dĩ nhiên là không ai chịu gạt bỏ chính kiến của mình cả. Và dĩ nhiên giấc mơ kết hợp chỉ là hoang tưởng. Làm thế nào để kết hợp những tổ chức không theo đuổi cùng một mục đích, không sử dụng cùng một phương tiện, và nhất là không bao giờ chấp nhận ai hơn mình?

Khi tôi tới Paris hồi cuối năm 1982, một số thân hữu rủ tôi lập một tổ chức, tổ chức đó sau này được gọi là nhóm Thông Luận, rồi Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Tôi đã đề nghị là hãy dành hai năm để chỉ thảo luận với nhau mà thôi, và sẽ chỉ thành lập một tổ chức khi đã đồng ý với nhau trên tất cả những vấn đề cần được đặt ra, trên tầm quan trọng của mỗi vấn đề, và trên hướng giải quyết của những vấn đề đó. Và sự đồng ý đó phải được ghi nhận trên giấy trắng mực đen. Kết quả của hai năm làm việc đó là tập tài liệu Có Sở Tư Tưỏng. Sau khi tập tài liệu thành hình, chúng tôi ngừng gặp nhau một thời gian để mọi người suy nghĩ một minh và quyết định đi tới hay không đi tới. Chính nhờ thế mà sau này dù bị nhiều vu cáo, đánh phá, chúng tôi vẫn gắn bó với nhau. Trong khi đó tôi đã quan sát nhiều tổ chức tan rã bởi vì sau một thời gian hoạt động mọi ngưi khám phá ra rằng thực ra mình không đồng ý với nhau như đã quá lạc quan mà tin tưởng lúc ban đầu.

Thiếu gắn bó cũng là một hậu quả tự nhiên của thiếu phương pháp. Mỗi người hiểu một cách, mỗi người làm một cách, làm sao có thể hoạt động được với nhau? Một kỹ sư Việt nam tốt nghiệp sau năm, sáu năm miệt mài ở đại học, có khi tốt nghiệp xong còn bỏ thì giờ học thêm hai ba bằng cấp khác, nhưng lại không chịu bỏ ra một hai tuần lễ để đọc một quyển sách về phương pháp trong ngành của mình, hay ngay cả một cuốn sách về phương pháp làm việc trong mọi ngành: cách cư xử với ồng đội, cách giao thiệp với cấp trên, cách điều khiền một đơn vị. Có người vào làm trong một công ty mà sau hai ba nam vẫn chưa thèm đọc sơ đồ tổ chức của công ty

Sự thiếu phương pháp của người Việt không những chỉ thể hiện trong công việc mà còn cả trong đời sống hằng ngày. Tôi rất ít gặp những người Việt nam giữ một cuốn nhật ký, hay đặt ra những mục tiêu mình phải đạt tới trong tháng, trong năm để có thể nhìn lại mình, kiểm điểm và rút kinh nghiệm, trong khi đó là điều mà đại đa số người phương Tây đều làm. Phương pháp làm việc của chúng ta là cứ đến đâu hay đến đó.

Chọn người bạn đường, vợ hay chồng, có lẽ là vấn đề quan trọng nhất của một đời người, quan trọng hơn danh vọng, bằng cấp v tài sản bởi vì nó quyết định cuộc đời ta sẽ sung sướng hay đau khổ. Các cụ thường nói: Trai khôn tìm vợ, gái ngoan tìm chồng. Tuy vậy đã có bao nhiêu thanh niên nam nữ, đặt vấn đề hôn nhân một cách nghiêm túc và giải quyết một cách đứng đắn? Lấy vợ chồng ẩu, rồi sống cuộc sống hôn nhân cũng ẩu. Hầu như tất cả trai gái Việt nam trước khi lấy vợ lấy chồng đều không chịu đọc một cuốn sách nào về đời sống gia đình, về tâm lý bạn trai bạn gái, hên hệ tình cảm và tình dục giữa vợ chồng, về những niềm vui và ràng buộc của lứa đôi, mặc dầu đó là một vấn đề rất phc tạp. Thế rồi bực bội, cãi cọ, gia đình không có hạnh phúc, hay không có hạnh phúc như có thể có. Điều ngộ nghĩnh nhất là các lớp huấn luyện chuẩn bị cho hôn nhân thường diễn ra trong các chùa hay các nhà thờ do các linh mục và đại đức hướng dẫn, trong khi trên nguyên tắc họ là những người ít có thẩm quyền nhất để bàn về đời sng vợ chồng.

Có rất đông người có tới sáu bảy con (số con thường là một sự tình cờ không có chủ đích trước) mà không hề học hỏi bao giờ về tâm lý trẻ thơ và cách giáo dục con cái, rồi ngạc nhiên là con cái mỗi đứa một tính và kết luận cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Cái may mắn nhất của tôi khi được đi du học không phải là nhưng kiến thức (tôi đã có thể tự học trong sách) mà là được nhìn, được sống, làm quen và làm việc với những người thuộc các dân tộc tiến bộ. Kết luận của tôi rất rõ ràng và đau đớn : so với họ, người Việt nam mình thiếu phương phấp một cách thê thảm.

Chương thứ :22 "

Tôi có một người bạn rất say mê Kinh Dịch và thuộc lòng tất cả các quẻ bát quái. Anh ta giải thch cho tôi rằng con số 8 là một con số kỳ diệu. Nó là một kết hợp chắc và mạnh nhất. Là một nhà khoa học, anh ta càng phục quẻ bát quái vì nó có một kiểm chứng khoa học. Các nguyên tử mà vòng ngoài có 8 điện tử (électrons) là những nguyên tử chắc nhất. Anh ta thán phục người Trung Hoa từ đời nhà Chu đã khám phá ra những nguyên lý kỳ diệu. Anh ta tin là vào đời nhà Chu, nước Tàu đã tiến tới một trình độ văn minh rất cao siêu mà về nhiều mặt thế giới hiện nay chưa bắt kịp. Để thuyết phục tôi, anh ta dẫn chứng những kinh nghiệm tổ chức. Các buổi họp 8 người là tốt nhất, các tổ chức khoảng 8 người là những tổ chức hiệu lực nhất. Điều này người ta có thể quan sát được. Nhiều tổ chức lúc đầu khi mới thành lập với một số thành viên dưới 10 người thì lành mạnh và hiu lực lắm, sau khi bành trướng ra thì lủng cũng, chia rẽ, rồi tan rã.

Tuy nhiên, điều anh bạn giải thích một cách huyền bí khoa học tổ chức có thể giải thích một cách kỹ thuật.

Khi hai người thảo luận với nhau thì rất giản dị, người nọ nói người kia tiếp thu và ngược lại, chỉ có hai luồng giao cảm từ người nọ đến người kia và ngược lại. Nhưng khi ba người A, B, C trao đổi với nhau thì có tới 12 luồng giao cảm: hai giữa A và B, hai giữa A và C, hai giữa B và C, hai giữa A và nhóm hợp thành bởi B và C, hai giữa B và nhóm hợp thành bởi A và C, và sau cùng hai luồng giao cảm giữa C và nhóm hợp thành bởi A và B. Bằng ấy luồng giao cảm qua lại trong một phối hợp giữa ba người mà thôi. Số quảng giao cảm tăng lên một cách rất nhanh chóng với số người tham dự. Bạn đọc nào thích toán hãy thử làm tính sẽ thấy nếu có năm người số lượng giao cảm qua lại là hơn một ngàn. Khoa học tổ chức kết luận một cách quả quyết là không thể chờ đợi một kết luận thông minh nào những buổi họp có quá 5 người bình đẳng với nhau về mọi mặt.

Trong thực tế cũng có những buổi họp có rất đông người mà vẫn có kết quả tốt nhưng đó là những buổi làm việc rất đặc biệt. Đó thực ra là những buổi họp có tính thông tin, trong đó một người, hay một vài người, thuyết trình và thông báo những quyết định cho cử tọa, phần còn lại chỉ ghi nhận. Cũng có những buổi họp tuy trên lý thuyết là thảo luận nhưng trong đó một người hay một vài người có vai trò vượt trội hơn những người khác, những quảng giao cảm ít ỏi liên hệ tới họ mạnh hơn hẳn và lấn át những quảng giao cảm khác, giản dị hóa sự trao đỗi và giúp cho buổi họp đạt kết quả. Vì trong thực tế không thể có 8 người thực sự bình đẳng với nhau về mọi mặt nên con số 5 lý thuyết của khoa học tổ chức có thể nâng lên 8.

Xem như thế cái định luật 8 của anh bạn tôi không có gì là huyền bí và không chứng tỏ sự hiểu biết sâu xa ca Kinh Dịch về sự mầu nhiệm của tạo hóa. Nó chỉ là một vấn đề cụ thể của tổ chức và phương pháp.

Nếu trong những điều kiện tuyệt đối khách quan, 5 người là con số tối đa để có thể làm việc với nhau, thì trong những điều kiện bình thường và tự nhiên trong cuộc sống, 8 là con số trung bình. Trong những điều kiện tự nhiên luôn luôn có một hay một vài nhân vật nói hơn phần còn lại và tạo ra quanh họ những liên hệ mạnh hơn hẳn và giữ cho tập thể được gắn bó.

Cũng có thể là vì một mục đích, một mục tiêu chung đủ rõ rệt đối với mọi người mà những quảng giao cảm giữa các thành phần bớt đi phần quan trọng so với những quảng giao cảm của mọi người với những người có trách nhiệm thực hiện mục tiêu, vi điều kiện là những người có trách nhiệm được chỉ định theo một the thức chấp nhận được cho tất cả mọi người. Đó là cái tại sao của các nền dân chủ. Đó là lối thoát ra khỏi cái giới hạn khe khắt của định luật 8. Một lối thoát khác là kỷ luật sắt và khủng bố.

Người Việt nam ta vì dành quá ít suy nghĩ và tìm tòi cho phương pháp mà thiếu hẳn khả năng làm việc có tổ chức. Do đó hoặc là chúng ta làm cho một tổ chức có sẵn và chịu sự lãnh đạo một cách thụ động, hoặc chúng ta lập ra một tổ chức rồi tổ chức tan rã sau khi đã tăng trưởng quá mức giới hạn. Vì không biết tới phương pháp, nhiều khi ta không ý thức được sự cần thiết và nghiêm chỉnh của phương pháp. Tôi đã dự không biết bao nhiêu buổi họp, trong đó nhiều người nói một cách chắc nịch: Phải làm như thế này.... Chỉ cần nghe họ phát biểu, tôi cũng có thể nhận ngay ra rằng họ không biết gì về phương pháp cả hay chỉ nghe nói tới một cách rất lơ mơ. Nhưng họ cứ phát biểu vung vít, nói một cách rất quả quyết. Đôi khi có những người nói đúng, chứng tỏ có kinh nghiệm làm việc tập thể, nhưng tiếng nói của họ chìm đám trong vô số phát ngôn bừa bãi khác, và cử tọa không đủ hiểu biết để phân biệt cái đúng với cái sai. Kết quả của những buổi ngồi lại với nhau như thế chẳng có gì khó dự đoán. Người ta không làm được gì và chỉ chia tay nhau với kết luận hậm hực rằng anh này, anh kia nói bậy không biết gì cả. Nhưng người ta không chịu nhìn nhận rằng chính mình cũng không biết gì cả và chỉ nói khơi khơi. Đã không biết thế nào là đúng thì làm sao biết được mình sai?

Tôi cũng đã chứng kiến không biết bao nhiêu cố gắng để kết hợp hàng chục đoàn thể với nguyên tc đặt ra là bình đẳng tuyệt đối giữa các thành viên, một nguyên tắc được coi là đứng đắn, rồi đi đến đè nghị lãnh đạo luân phiên, một nguyên tắc cũng được coi là rất công bình. Mỗi lần như thế tôi biết trước chắc chắn là họ sẽ mất thì giờ vô ích. Không những vô ích mà còn rất có hại vì sau khi đã kết hợp với nhau và thất bại người ta còn đỗ lỗi cho nhau.

Thiếu phương pháp làm việc chung là nhược điểm trầm trọng của người Việt, là lý do tại sao chúng ta thua kém các dân tộc khác mà trình độ hiểu biết có thể không hơn ta. Nó giải thích tại sao ba người Việt thua ba người Nhật ngay cả nếu mỗi người Việt không thua mỗi người Nhật.

Phương pháp có thể học được một cách tương đối dễ dàng rồi theo thực tế mà nhuần nhuyễn. Nhưng chúng ta không nhng không có phương pháp mà còn không chịu học hỏi phương pháp bởi vì học hỏi về phương pháp là một học hỏi thực dụng không đem lại hai bằng tiến sĩ. Cuối cùng chúng ta không có cả ý thức về phương pháp. Yêu cầu cấp bách của chúng ta là phải phá vỡ định luật 8.

Chương thứ :23 "

La Quán Trung mở đầu truyện Tam Quốc bằng câu: Phàm việc lớn trong thiên hạ cứ hợp rồi lại tan, tan rồi lại hợp. Hợp tan là một triết lý trong tư tưởng á Đông. Có ngời nói nó là một lẽ tự nhiên của tạo hóa, bởi vì có âm thì có dương, có cùng thì có thông, có tan thì có hoàn như Kinh Dịch đã nói. Nhưng tại sao cứ hợp rồi lại tan? Hợp thì dễ hiểu vì hợp quan gây sức mạnh, con người tìm sức mạnh và sự thành công trong hợp quàn Nhưng tại sao hợp rồi lại tan? Có phải thực sự là lẽ trời không? Hay ta quen đỗ cho ông Trời những gì ta không giải thích đưc. Ông Trời có sức mạnh vô biên mà cũng có xương sống đủ vững chắc để nhận tất cả những gì mà ta chất lên lưng ông.

Xin thưa là không, chẳng có lý do màu nhiệm nào cả. Sự nhiệm mầu có chăng là ở chỗ sau quá nhiều hợp tan người á Đông, và nhất là người Việt nam, vẫn chưa ý thức được sự cần thiết của phương pháp và tổ chức. Khoa học xã hội khẳng định mỗi kết hợp là một sinh vật riêng, một sinh vật phức tạp, khác với những cá nhân cấu tạo ra nó. Sức khỏe của sinh vật phức tạp đó là đồng thuận giữa các thành viên. Đồng thuận mạnh, tập thể mạnh. Đông thuận yếu, tập thể yếu. Đồng thuận mất, tập thể tan. Không có gì là huyền bí cả.

Cứ lấy thí dụ một kết hợp lỏng lẻo nhất trong mọi kết hợp: những người đi cùng một chuyến xe lửa. Họ cũng phải có đồng thuận. Họ phải đồng ý với nhau trên khá nhiều mặt: cùng một mục đích là đi từ điểm này tới điểm nọ trên một lộ trình, đồng rằng xe lửa là phương tiện tốt nhất, đồng ý rằng ai lên trước thì được chỗ ngồi, ai tới sau không được xô người khác để chiếm chỗ, đồng ý rằng đi xe phải mua vé, v. v... Khi xe lửa tới nơi, đồng thuận không còn nữa và tập thể tan.

Lẽ hợp tan ngày xưa có thể giải thích như thế này: gặp thời loạn lạc ước nguyện của mọi người là có hòa bình để được sinh sống yên ổn. Tái lp hòa bình và kỷ cương là đồng thuận. Đồng thuận này đủ mạnh để động viên mọi người quanh một con người may man được nhìn như là hy vọng. Hòa bình thiết lập được rồi, một thời kỳ thịnh trị mở ra vì đồng thuận kế tiếp của mọi người là cố gắng để mưu tìm sự sung túc. Sau một thời gian, khi sự sung túc đã tạm thời đạt được, đồng thuận yếu dần đi, những xung khắc quyền lợi ngày càng gia tăng rồi loạn lạc và tan rã. Các anh quân, minh chúa có thể làm cho đồng thuận mạnh thêm và kéo dài các triều đại, nhưng nếu không có những thay đổi cơ bản trong chiều sâu của xã hội thì lẽ hợp tan là điều dĩ nhiên.

Một tập thể là một sinh vật rất phức tạp cần được qun lý một cách rất có phương pháp. Tập thể càng lớn, đồng thuận càng khó quản lý Chín người mười ý. Nếu không cẫn thận, tập thể có thể tan vì chính sự lớn mạnh của mình.

Tôi sang Paris năm 1961, lúc đó có một Tổng Hội Sinh Viên Việt nam tại Pháp do một số sinh viên thân miền Nam lãnh đạo. Nói chung họ là những người tốt, ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm do lý trí hơn là do tình cảm. Ch độ Ngô Đình Diệm không được lòng người nên tổng hội này yếu. Khi chính phủ Ngô Đình Diệm đổ, có một cố gắng lớn để thành lập một tổng hội sinh viên khác. Lúc đó sinh viên Việt nam đã đông hơn và các hoạt động thành lập tổng hội sinh viên diễn ra rất sôi nổi. Có rất nhiều nhóm ra đời giành nhau vai trò lãnh đạo tổng hội, nhóm nào cũng có nhiều người giỏi với tô chức có qui củ. Nhưng rồi họ dần dần lủng cũng và yếu đi trước khi tổng hội sinh viên được thành lập.

Tôi chỉ theo dõi một cách bàng quan những hoạt dộng đó. Lúc đó chúng tôi có một nhóm bạn bè nhỏ, đa số nhưng sinh viên học để thi vào các trường lớn (grandes écoles). Nước Pháp có hai hệ thống giáo dục đại học song song, một hệ thống đại học bình thường đào tạo cử nhân, tiến sĩ và một hệ thống riêng của các trường lớn. Chúng tôi chẳng có tổ chức gì cả, chỉ chơi với nhau trên tinh thần bạn bè. ít ai có ý thức chính trị, nhưng bù li chúng tôi đều có thiện chí và đều biết điều, và vì tất cả đều khá sáng dạ nên cái gì chưa biết cũng có thể học hỏi nhanh chóng và sau đó biết lý luận để phân biệt phải trái.

Các nhóm tranh nhau tổng hội cuối cùng đều suy yếu và tan rã đi, chính tổng hội cũng sắp tan rã, cuối cùng chúng tôi không giành mà được đẩy ra nắm ban chấp hành tổng hội. Từ đó chúng tôi đặt ra một nếp sinh hoạt lành mạnh cho tổng hội, khiến tổng hội sống vững mãi cho đến nay. Tổng Hội Sinh Viên Việt nam tại Paris tới nay đã gần bốn mươi tuổi, và là tổ chức không cộng sản lâu đời nht tại hải ngoại. Sự thành công trong việc làm sống lại một tổng hội sinh viên sắp chết và cho nó một nội lực để có thể kéo dài khiến chúng tôi được rất nhiều người khen là xuất sắc. Nhưng lý do không phải như thề. Chúng tôi đã thành công và đứng vững chỉ vì chúng tôi không phức tạp, chúng tôi không đặt ra những cơ chế rườm rà như những nhóm khác nên đã tránh được những mâu thuẫn nội bộ. Khi nắm được ban chấp hành, chúng tôi đã chẳng câu nệ chủ tịch, tổng thư ký, ủy viên; chúng tôi còn không phân biệt cả người trong ban chấp hành và người ngoài ban chấp hành. Cứ cùng một nhóm bạn bè, cùng đồng ý ủng hộ Việt nam Cộng Hòa, còn việc thì cứ ai làm được là làm. Lối làm việc giản dị đó mà thành công hơn hẳn vì chúng tôi có những đồng thuận rõ ràng và gắn bó với nhau. Không phải là chúng tôi đã không gặp những vấn đề nan giải. Chẳng hạn như khi các tướng tá tỏ ra tham nhũng và vô tư cách, chúng tôi nhận xét là không thể duy trì đồng thuận ủng hộ chính quyền Sài Gòn nữa. Chúng tôi bèn họp nhau lại thảo luận trong nhiều đêm không ngủ và cùng đi tới kết luận ủng hộ chính thể cộng hòa chứ không ủng hộ chính phủ Sài Gòn. Tổng hội lại đứng được. Bí quyết thành công của chúng tôi có lẽ là vô tình chúng tôi đã làm việc có phương pháp: không ai bịa đặt ra vấn đề, phân tích rõ các vấn đề đặt ra, giản dị hóa tối đa, rồi tìm giải pháp dễ thực hiện nhất. Các tổ chức khác đã tan vì họ quá phức tạp. Họ đặt ra những cơ chế và những chức vụ không cần thiết, họ đặt ra những vấn đề mà họ không giải quyết được. Họ nghĩ là họ có tổ chức hơn chúng tôi và ngạc nhiên tại sao họ tan rã trong khi chúng tôi vẫn sống mạnh.

Gần đây, năm 1993, một tổ chức thanh niên sinh viên Việt nam tại Pháp có tổ chức rất thành công một ngày gặp gỡ và thảo luận. Các trao đổi đã diễn ra ở một trình độ rất cao, mọi người đều thỏa mãn, uy tín của tổ chức đó lên rất cao. Tuy nhiên thực tế hơi khác.

Việc chuẩn bị và tổ chức ngày hội thảo đó đã rất phức tạp và đã gây ra những xích mích đáng tiếc trầm trọng trong nội bộ. Sau đó ban chấp hành tan rã. Họ đã làm mt công việc quá sức họ. Quá sức có nghĩa là họ đã làm một công việc khó khăn hơn mức độ mà sự đồng thuận của họ cho phép. Đây là một trường hợp điển hình. Tôi có thói quen hễ nghe tin một tổ chức nào vừa làm xong một công tác lớn được mọi người ca tụng là lại lo thầm rằng tổ chc đó sắp có vấn đề

Sau khi tan rã, người ta giận ghét nhau, gán cho nhau vô số tính xấu: lưu manh, gian dối, vô trách nhiệm, vô tư cách, v.v... Người ta giải thích bằng những lý do đạo đức một sự kiện chỉ giản dị là hậu quả của sự thiếu hiểu biết phương pháp làm việc tập thể.

Người Việt nam chúng ta không làm việc chung được với nhau bởi vì chúng ta không ý thức được rằng đồng thuận là sức khỏe của mọi kết hợp và một tổ chức muốn sống phải giữ được đồng thuận. Giữ đồng thuận đòi hỏi mọi người hy sinh ý kiến riêng của mình. Chúng ta không quan tâm giữ gìn đồng thuận mà chỉ đòi thực hiện cho bằng được ý kiến của riêng mình. Chúng ta thiếu giác quan đồng thuận.

Trong Binh Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi kể tội quân Minh bằng một câu rất lạ: chấp nhất kỷ chi kiến, giá họa ư tha nhân (chỉ biết có ý kiến của riêng mình, luôn luôn cáo buộc người khác). Tôi có cảm tưởng Nguyễn Trãi kể tội đồng bào của chính ông. Câu trên Trần Trọng Kim dịch là cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người. Câu dịch thật là sai ý của tác giả. Quân Minh sang nước ta để cướp bóc, có chính nghĩa nào đâu để có thể cậy mình là phải? Bản dịch đã không lt được một ý chắc đã dằn vặt tác giả hiểu lầm trong cuộc vận động kết hợp để giải phóng đất nước, và làm ông nhức nhối đến nỗi ông viết một câu lạc lõng vào một bài lên án quân xâm lược.

Chương thứ :24 "

Hồi còn ở tiểu học, tôi có làm một bài luận với đầu đề : Trong những anh hùng nước Nam, em thích vị nào nhất? Hãy nói tại sao? . Bài luận này rất phổ thông, hình như người nào học tiểu học chương trình Việt cũng đã gặp. Chỉ sau khi đảng cộng sản nắm chính quyền, câu hỏi mới không đặt ra nữa, vì lúc đó người anh hùng vĩ đại nhất từ xa đến nay của Việt nam dĩ nhiên bắt buộc phải là chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tôi chọn vua Quang Trung, tức Nguyễn Huệ. Lý do là vì ông ấy giỏi võ và đánh thắng năm mươi vạn quân Thanh tại trận Đống Đa. Trong lớp tôi có tới gần một nửa cũng chọn Nguyễn Huệ. Phần còn lại chọn Trần Hưng Đạo, Đinh Tiên Hoàng, một vài đứa chọn Ngô Quyền, Trần Bình Trọng, Lê Lợi, Lê Lai, Trần Quốc Toản, Lý Thờng Kiệt.

Sau khi du học Pháp về lôi hỏi một số giáo viên tiểu học về bài luận. Họ cho biết năm nào cũng ra đề tài này và Nguyễn Huệ luôn luôn về nhất khá xa, kế tiếp là Trần Hưng Đạo, Đinh Tiên Hoàng. Thỉnh thoảng có Nguyễn Trãi, Ngô Quyền, Trần Bình Trọng, Nguyễn Công Trứ.

Nói chung ba ngôi vị đầu vẫn thế, ở đoạn cuối bảng danh dự đã bắt đầu xuất hiện những nhân vật mới có thành tích về văn hóa. Nhưng mẫu số chung giữa các vị anh hùng này vẫn không đỗi: tất cả đều là võ tướng. Nguyễn Trãi tuy xuất thân là nho sinh nhưng đã cầm quân đi đánh giặc và làm quân sư (ở đây xin chú thích chữ quân sư thường được hiểu trong ngôn ngữ dân gian là người bày mưu kế nhưng thực ra nó có nghĩa là tư lệnh, các quân sư được ra lệnh cho các tướng). Nguyễn Công Trứ tuy có sự nghiệp văn chương lớn, nhưng cũng là võ tướng, cầm quân đánh dẹp khắp nơi, từng là Bình Tây Đại Tướng, ông được coi là người văn võ kiêm toàn. Tuyệt đối kháng thấy Nguyễn Du, Lê Quí Đôn, Chu Văn An, Ngô Sĩ Liên, Lê Văn Hưu, Phan Huy Chú. Như thế anh hùng của Việt nam bắt buộc phải là võ tướng, và hơn thế nữa phải thắng trận. Trần Bình Trọng, Lê Lai là những võ tướng được tôn vinh vì lòng can đảm, nhưng dần dần lọt sổ. Trường hợp Nguyễn Trãi có điều đáng nói. Ông giúp Lê Lợi, cầm quân đánh giặc giành lại được độc lập cho nước ta, nhưng gặp nạn ở cuối đời, bị tru di tam tộc, về sau mới được Lê Thánh Tông phục hồi danh dự. Sự oan nghiệt đó có lẽ đã không khiến ông xuất hiện một cách lộng lẫy dưới con mắt của trẻ thơ.

Trẻ thơ là tấm gương soi tâm hồn của một dân tộc. Từ những bài luận của học sinh tiểu học, phải suy ra rằng người Việt nam có tâm lý tôn thờ bạo lực rất mạnh. Bạo lực càng nhiều, công đức càng cao.

Nguyền Huệ xuất thân là tướng cướp, nhờ liên hệ với quân Thượng và quân gốc Chiêm Thành và đám cướp biên ngưi Tàu mà mạnh dần lên, rồi nhờ tài dùng binh mà lên làm vua. Ông là người đặc biệt hung tợn và hiếu sát. Sự nghiệp của ông là những trận đánh khốc liệt trong đó người Việt nam tàn sát lẫn nhau; chỉ có hai ngoại lệ là một trận đánh thắng quân Xiêm và một trận Đống Đa, trong đó ông phá tan quân Thanh. Trong một bài sau tôi sẽ trở lại với nhân vật Nguyễn Huệ và trận Đống Đa. ở đây tôi chỉ xin đưa một nhận định tạm thời. Nếu nhìn một cách bình tĩnh thì công lao của Nguyễn Huệ thực ra không thấm tháp gì so với những tàn phá và chết chóc mà ông đã gây ra cho đất nước. Việc ông được tôn sùng quá đáng tố giác một tâm lý kính sợ bạo lực của người Việt nam; việc người ta tô vẽ cho ông nhưng đức tính mà ông hoàn toàn không có như giỏi trị nước an dân, có lòng nhân ái, v. v... chứng tỏ rằng ta tôn sùng bạo lực tới độ ta sẵn sàng làm đẹp nó.

Hình như ta còn cho rằng chỉ có những chiến công mới là đáng kể, những gì đạt được phải đạt bằng bạo lực mới là hay. Chu Văn An đã viết ra nhiều sách, Lê Quí Đôn có công làm ra bộ tự điển bách khoa đầu tiên, Lê Văn Hưu mở đầu cho khoa sử ở nước ta, Ngô Sĩ Liên là người đầu tiên biết nhận định lịch sử một cách chính xác, có thể coi như nhà lý luận chính trị đầu tiên của nước ta, Phan Huy Chú là tác giả công trình biên khảo lớn nhất. Tuy vậy, tt cả đều không phải là những anh hùng dân tộc. Nguyễn Du chỉ được biết tới như một nhà thơ lớn.

Không những người cộng sản, mà cả nhưng người chống cộng, đêuf nghĩ rằng thành tích to lớn nhất và cũng là nền tảng của sự chính đáng của đảng cộng sản là đã đánh Pháp, đánh Mỹ, đánh phe quốc gia. Nhưng nếu không đánh thì sao? Nếu biết vận dụng trí tuệ để tranh đấu bất bạo đng chắc chắn chúng ta cũng đã được độc lập và thống nhất không muộn hơn, mà lại không phải trải qua những đỗ vỡ trầm trọng. Ta tôn thờ bạo lực ngay cả khi bạo lực có hại.

Người cộng sản không có độc quyền tôn thờ bạo lực. Việt nam Quốc Dân Đảng dù không có một hy vọng mảy may nào thắng được người Pháp bằng bạo lực vẫn chủ trương dùng con đường bạo lực ngay từ đầu. Quyết định khởi nghĩa năm 1930 chỉ là một quyết định tự sát.

Sự hấp dẫn của bạo lực đối với chúng ta quá mạnh. Mạnh đến nỗi ta không những chấp nhận mà còn mơ ước bạo lực. Khi không có bạo lực, ta phải cố bịa đặt để tưởng tượng rằng mình có bạo lực. Các tổ chức chống cộng hải ngoại trước đây đều đồng thanh chủ trơng phải giải phóng quê hương bằng bạo lực, dù hoàn toàn không có phương tiện của bạo lực.

Ông Võ Đại Tôn có lực lượng gì đâu, ông chỉ cùng với hai ba người qua biên giới Lào chụp ảnh để gây ấn tượng trong cộng đồng người tị nạn. Ông Hoàng Cơ Minh lập một doanh trại ở Thái Lan rồi bảo đó là chiến khu quốc nội. Trách họ là bịp bợm có thể đúng nhưng quả là quá dễ và, theo tôi, không công bình. Họ phải làm như thế để tranh thủ sự ủng hộ. Giả thử nếu ông Võ Đại Tôn không tạo cái ảo tưởng là có bạo lực thì ông cũng không khác nhiều người hoạt động khác. Nếu ông Hoàng Cơ Minh không lập chiến khu thì liệu ông có được sự ủng hộ mạnh mẽ đến thế không?

Sự thực ra cũng không thể trách họ là bịp bợm. Tôi sang Pháp lúc ông Hoàng Cơ Minh đang nỗi như cồn. Tôi đã nói chuyện với rất nhiều người, và không ai, kể cả những người ủng hộ ông, tin là ông có chiến khu thực sự đâu. Vậy làm sao có thể ni là đã bị lừa gạt? Nói như vậy là không thành thực. Sở dĩ người ta ủng hộ ông là vì ông đã có công tạo ra một ảo tưởng bạo lực, và ảo tưởng đó là giấc mơ của đa số người tị nạn thi đó. Họ đóng góp cho ông Hoàng Cơ Minh vì ông cho phép họ nuôi dưỡng giấc mơ đó. Họ đóng góp cho ông để ông diễn tuồng kháng chiến võ trang cho họ xem.

Ông Võ Đại Tôn đã phải trải qua mười năm tù tội. Ông Hoàng Cơ Minh đã thiệt mạng. Nhiều người khác đang mòn mỏi trong các nhà tù. Họ là những nạn nhân đáng thương của tâm lý tôn sùng bạo lực của người Việt nam.

Tôi không bao giờ tán thành bạo lực, và hoàn toàn không tán thành đường lối đấu tranh của họ. Nhưng đối với họ tôi luôn luôn có một tình cảm bùi ngùi, thương xót. Điều đáng trách là tâm lý tôn sùng bạo lực của con người Việt nam.

Nhóm Thông Luận đã bị phản đối dữ dội vì chủ trương từ bỏ bạo lực, và do đó đụng chạm tới một sự sùng ái lâu đời. Một dân tộc không nhiều thì ít cũng xứng đáng với số phận của mình.

Sở dĩ ngày hôm nay đất nước chúng ta kiệt quệ như thế này cũng vì cái tâm lý tôn sùng bạo lực ấy. Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm. Chúng ta tôn sùng bạo lực và ngạc nhiên thấy mình là nạn nhân của bạo lực.

Chương thứ :25 "

Đầu năm 1974, tôi đang làm chuyên viên tại Ngân Hàng Việt nam Thương Tín. Một đồng nghiệp ở phòng bên xông vào phòng tôi, với nét mặt lầm lì, ném một tài liệu xuống ngay trước mặt tôi và nói một cách sừng sộ:

- Đọc đi?

Tôi tưởng có chuyện gì nghiêm trọng nên đọc ngay trong khi anh bạn đứng đợi. Nhưng không, đó là một bài lăng nhăng, không tp trung vào một đề tài nào cả và cũng chẳng ra câu cú gì cả. Rất nhiều thì, mà, là, tại, v.v... nhưng rất ít ý và văn phạm. Tôi càng đọc càng bực bội. Trong câu cuối cùng mà tôi đọc, tác giả chê sự câu nệ bằng cấp bằng một câu : Thấy thằng nhỏ nó làm việc được thì lại không cho nó làm, bắt nó có bằng tú tài mà nó có bằng tú tài rồi thì nó có làm giỏi không?. Đến đây sức chịu đng của tôi đã vượt quá giới hạn, tôi giận dữ hỏi gằn:

- Thằng nào đây? Bớp tai cho nó mấy cái?

Anh bạn phá ra cười:

- Tổng thống đấy!

Thì ra đó là một bài nói chuyện của ông Nguyễn Văn Thiệu, trong một buổi hội nghị công chức cao cấp. Tổng thống ăn nói như vậy thì cán bộ học hỏi được cái gì? Điều bi đát là ông Thiệu không phải là người ăn nói dở so với những cấp lãnh đạo Việt nam khác. Nhưng bài nói chuyện của ông nếu chép lại thì thấy là chẳng ra đâu vào đâu cả nhưng nếu nghe ông nói trực tiếp cũng có th hiểu ông định nói gì, đó là điều ít khi xảy ra đối với những người lãnh đạo chính quyền, chính đảng hay hiệp hội khác, nhưng người trên nguyên tắc phải có khả năng truyền thông cao. Tôi đã nghe khá nhiều bài thuyết trình, đọc nhiều bài báo mà chẳng hiểu tác giả định nói cái gì. Các tác giả sắp xếp lộn xộn thứ tự của các ý kiến (khi họ có ý kiến, một điều tương đối hiếm), ôm đồm quá nhiều ý trong một câu dùng từ ngữ sai và bất chấp văn phạm. Đã thế khả năng tiếp thu của thính giả hay độc giả còn kém hơn họ (vì ít ra họ còn dám nói và dám viết). Kết quả của sự trao đỗi không có gì khó dự đoán. Điều ai cũng có thể nhận thấy trong những buổi hội thảo của người Việt nam là cử tọa chờ cho diễn giả nói xong, đến phần quí vị nào có câu hỏi... một vài người xin phát biểu để nói (rất dài) ý kiến đã soạn sẵn của mình, dù không hên hệ gì tới những điều diễn giả vừa nói.

Phần dẫn nhập dài dòng này là để cảnh giác về một thiếu sót trầm trọng, bi đát, kinh khủng của người Việt: chúng ta không biết truyền thông. Chúng ta viết cẩu thả, nói lộn xộn, đọc sơ qua, nghe lõm bom, cho nên chúng ta không hiểu được nhau, rồi cãi cọ với nhau, thù nhau, đánh phá nhau, và giết nhau. Người Việt nam không ý thức được hai điều tối quan trọng. Điều thứ nhất liên quan đến cá nhân: khả năng truyền thông là khả năng quan trọng nhất trong mọi khả năng của một con người để thành công. Điều thứ hai liên quan đến xã hội: một khả năng truyền thông tối thiểu là yếu tố không thể thiếu cho hòa bình giữa những con người. Cách đây hơn mười năm, lúc đó tôi làm việc cho một công ty dịch vụ tin học, tôi được nha thương mại thông báo là một công ty dịch vụ chứng khoán lớn đang cần một số kỹ sư tin học để thực hiện một dự án tin học lớn. Việc đầu tiên là phải tìm một kỹ sư dự án trưởng, biết rành các kỹ thuật tin học sử dụng trong dự án và am tường các nghiệp vụ chứng khoán.

Chỉ có một kỹ sư đáp ứng hai đòi hỏi đó. Anh ta tốt nghiệp một trường kỹ sư khá danh tiếng, có mười năm kinh nghiệm trong ngành tin học, thông thạo các kỹ thuật tin học sử dụng trong dự án và lại đã từng tham gia vào việc thực hiện một dự án lớn về chứng khoán kéo dài hơn một năm. Quả là một con người lý tưởng cho hoàn cảnh, một con chim lạ, như người Pháp nói ùn oiseau rare. Anh giám đốc thương mại phấn khởi vô cùng: May quá, thế thì thắng lợi chắc chắn rồi?. Nhưng tôi không chắc chắn như anh ta bởi vì tôi nhìn thấy một mối nguy lớn mà anh ta không biết: anh kỹ sư đó là người Việt nam, và kinh nghiệm đã dạy cho tôi rằng người Việt truyền thông một cách rất luộm thuộm. Tôi lại không biết rõ anh kỹ sư này vì anh thuộc một công ty nhỏ mà chúng tôi vừa mới sát nhập nên tôi không theo dõi anh trong dịp tuyển dụng. Từ ngày anh ấy hết công tác và về đây chờ đợi công tác khác, tôi cũng bận rộn chỉ chào hỏi và nói chuyện qua loa.

Mối lo của tôi được kiểm chứng hoàn toàn. Tôi mời anh lên, hỏi anh về dự án chứng khoán mà anh ta đã làm qua. Một sự im lặng nặng nề và tuyệt đối kéo dài gần mười phút. Tôi bối rối và hoảng hốt vì chính sự im lặng đó. Anh không có gì để nói cả? Vì hai lý do.

Lý do thứ nhất, anh ta không hiểu rõ dự án đã làm và không nhớ. Người Việt nam mình có một khả năng kỳ dị là có thể làm rất lâu trong một công việc mà mình không thích và không hiểu. Cái gì cấm anh nếu không thích ngành chứng khoán thì bỏ đi làm một việc khác? Với bằng cấp của mình, anh có thể tìm việc khác một cách dễ dàng. Người Việt nam kiên nhẫn và cần cù, điều đó đúng, nhưng sự càn cù đó lại thường đi đôi với sự thụ động.

Lý do thứ hai, anh hoàn toàn không biết diễn đạt như phần lớn người Việt nam khác. Dù có hiểu và nhớ, anh cũng không thể trình bày được. Tôi phải khuyến khích, hối thúc, đặt những câu hỏi ngắn, nói chung phải cạy mồm anh ra, mới được một số câu trả lời vụn vặt, nghèo nàn. Chỉ sang phần kỹ thuật trong tin học là thấy anh ta có vẻ thoải mái, mặc dầu cũng không lấy gì làm xuất sắc, bởi vì tuy anh ta biết nhiều nhưng lại không trình bày được một cách mạch lạc.

Cuối cùng tôi kết luận rằng anh không phù hợp với công tác, vì đây là một công tác đòi hỏi khả năng lãnh đạo, thì anh ta phản đối. Anh ta nói anh ta là kỹ sư, có mười năm kinh nghiệm thì dĩ nhiên anh xứng đáng giữ một vai trò quan trọng, nhiều người không có bằng cấp bằng anh ta mà chỉ năm năm đã có thể làm dự án trưởng. Tôi cố gắng giải thích rằng bằng cấp và thời gian kinh nghiệm của anh khá vững, nhưng công tác này đòi hỏi một sự hiểu biết tường tận về nghiệp vụ chứng khoán và một khả năng truyền thông rất cao vì phải tiếp xúc với rất nhiều người, tham dự và điều khiển nhiều phiên họp. Tôi cũng khuyến khích anh ta nên chú ý tới nội dung của các dự án hơn là khía cạnh kỹ thuật, và nhất là nên cải tiến khả năng ăn nói. Anh vẫn khăng khăng biện luận rằng đã có bằng cấp ấy và thời gian kinh nghiệm ấy là đương nhiên anh ta phải phù hợp với công tác. về sau chúng tôi không làm việc với nhau nữa. Một lần một người quen thuật lại cho tôi nghe anh ấy nói tôi là người không tử tế với người Việt.

Một giám đốc của một công ty khách hàng biết rõ tôi vì là bạn học cùng lớp một lần gọi điện thoại cho hãng tôi mm job trong nha điện toán của anh. Nhưng anh ta lại nói thêm: Nhưng mày đừng gởi cho tao một đồng hương của mày nghe? Người Việt của mày giỏi về kỹ thuật nhưng về truyền thông thì lại dở quá, mà job này đòi hỏi rất nhiều liên lạc.

Tại sao chúng ta dở về truyền thông như vậy? Bởi vì con người Việt nam không được giáo dục về truyền thông, mà hơn thế nữa lại được khuyến khích để đừng biết truyền thông. Xã hội ta là một phân chia ẳng cấp, trên nói dưới nghe, không có trao đỗi. Liên hệ trong xã hội ta là một tương quan lực lượng chứ không phải là một liên hệ trao đỗi. Khả năng truyền thông bị coi là một tật xấu cần phải bỏ. Đứa trẻ hay nói bị mắng là lắm mồm, thiếu hạnh kiểm. Cấp dưới dám bàn cãi về quyết định của cấp trên bị coi là cứng đầu và bị trù dập.

Cách truyền đạt tư tưởng trực tiếp và sáng sủa bị coi là tầm thường, không sâu sắc. Khi Trịnh Kiềm hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm là có nên bỏ vua Lê để lên làm vua hay không thì Nguyễn Bỉnh Khiêm nói bóng nói gió: Năm nay mất mùa nên đem hạt ging cũ gieo lại thì hơn. Cũng thế, khi Nguyễn Hoàng lâm nguy tới van kế Nguyễn Bỉnh Khiêm, thì Nguyễn Bỉnh Khiêm thay vì khuyên Nguyễn Hoàng nên vào Nam lập nghiệp lại cũng nói bóng gió: Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân. Cách nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là hay, là thâm thuý.

Cái vòng luẩn quẩn là chúng ta truyền thông rất dở, rồi vì không chịu nhìn nhận nhược điểm của mình chúng ta đồng ý coi truyền thông là xấu. Kết quả là chúng ta không hiểu nhau. Trong trường hợp tốt nhất, mạnh ai nấy làm theo ý mình, công việc chung mâu thuẫn và thiếu gắn bó. Trong trường hợp tệ nhất, chúng ta gán cho nhau những ý đồ đen tối, rồi xung khắc và thù địch nhau. Tôi đã chứng kiến hàng trăm, hàng ngàn cuộc cãi vã gay go trong đó thực ra người ta đồng ý với nhau, nhưng chống đối nhau kịch liệt chỉ vì không hiểu nhau, người nói đã nói dở người nghe lại không chịu nghe.

Và tôi cũng tin rằng nếu người Việt biết truyền thông, nghĩa là biết diễn đạt và biết nghe nhau, họ đã khám phá ra rằng người trước mặt mình cũng có những lý tưởng và mục tiêu gần giống mình và đã không giết nhau trong suốt ba mươi năm sau thế chiến thứ hai.

Chương thứ :26 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :27 "

Người Việt nam không thông minh hơn ai, có sáng dạ thực nhưng là sáng dạ để bắt chước chứ không phải để phát minh. Người Việt có tâm lý tồi kém, không làm việc tập thể được. Người Việt hiếu học nhưng hiếu học để lấy bằng cấp chứ không phải để lấy kiến thức. Người Việt thiếu tự hào dân tộc và lại đố ky, ghen ghét nhau. Ngưi Việt tôn thờ bạo lực và ác độc đối với nhau. Người Việt không có óc phương pháp. Người Việt không biết truyền thông, không biết đọc, không biết viết, v.v...

Độc giả đọc tới đây có th bực bội và phẫn nộ như đang phải đọc một cáo trạng đối với dân tộc mình, có thể tự hỏi phải chăng mình đang đọc một cuốn sách đáng lẽ phải có tựa đề là Người Việt tòi dở?. Nhưng k tội và bêu xấu người Việt để làm gì, và để bêu xấu ai, khi chính tác giả là người Việt và nhận mình mãi mãi là người Việt? Đó cũng là việc làm dễ dàng quá vì nếu muốn tìm những cái xấu của người Việt thì có khó gì đâu, tác giả chỉ cần nhận xét chính mình. Đó là việc tôi đã làm, những nhược điểm của người Việt một phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, tôi có thể tìm thấy ở chính mình.

Hơn nữa, những tật xấu và nhược điểm đó không phải là của riêng dân tộc Việt nam, mà dân tộc nào cũng có. Điều đáng tiếc là ở người Việt chúng mạnh mẽ, rõ rệt và áp đảo quá đáng. Chúng đè nặng lên chúng ta, có thể nói là đè bẹp chúng ta, và giam giữ chúng ta trong cảnh tang tóc, bần cùng, lạc hậu. Xét lại mình chính là để tiến lên. Phải nhìn vào chân dung của mình ngay cả nếu nó không được đẹp. Nếu cuốn sách nhỏ này đã dành nhiều trang để phân tích người Việt, thì cũng vì con người là vốn liếng quí báu nhất của chúng ta. Nếu nó đã được viết ra thì cũng vì tác giả còn hy vọng. Hy vọng ấy chính là con người Việt nam. Con người Việt nam, dù mang nhiều khuyết tật nhưng nói chung vẫn là con ngưi có trí thông minh và có tâm hồn.

Vào khoảng năm 1980, tôi tới thăm một người bạn trong một hẻm đường Cách Mạng Tháng 8, đang ngồi hàn huyên trước hiên nhà, tôi thình lình được biết một câu chuyện. Một câu chuyện tương tự như rất nhiều câu chuyện khác mà tôi đã được biết, nhưng nó đã ghi vào ký ức tôi vì sự nhỏ bé và tầm thường của nó. Chính vì thế mà nó có tính tiêu biểu cao.

Tiếng khóc nỉ non không biết từ bao giờ, nhưng tôi chợt nghe được và chú ý khi bà cụ rống lên nức nở: Mày đụ cho nó đã cái lồn mày, rồi mày đẻ con mày để cho tao nuôi, gạo đâu tao nuôi. Bà cụ gầy ốm, lem luốc, da mặt nhăn nheo, mỗi vết nhăn như đánh dấu một sự đau khổ. Bên cạnh bà cụ là hai đứa cháu gái khoảng bốn tuổi và mười tuổi rách rưới, xanh xao. Đứa nhỏ xíu sụt sùi khóc, đứa lớn im lặng ngơ ngác. Câu chuyện giữa chúng tôi bỗng nhiên trở thành vô nghĩa hoàn toàn dù chúng tôi đang nói về quê hương đất nước. Vợ bn tôi nhận ra sự im lặng khổ tâm của chúng tôi và chị lại gần rồi kể cho chúng tôi nghe sự tình. Bà cụ này hiền lành, chất phác, từ trước vẫn nghèo lắm, tối ngày đi xin cơm thừa bán lại cho người ta nuôi heo. Lúc khá nhất bà nuôi được một con heo. Con gái bà lấy chồng làm lính Việt nam Cộng Hòa đạp xích-lô từ sau 30-4-1975, hiện đang bệnh về nằm nhà mẹ. Người con gái theo bạn hàng gồng gánh, khuân vác và giúp người ta bán gạo lậu. Hồi đó buôn bán gạo là buôn lậu vì nhà nước cấm. Lâu lâu chị mới về một lần. Nghe nói gạo vừa mới bị bắt nên lâu nay không có tiền đem về cho mẹ nuôi con. Dạo này cơm thừa không còn nữa, bà cụ có một thùng thuốc lá đem bán đầu con hẻm nhỏ đò ra hẻm lớn, nơi chúng tôi đang ngồi. Ngoài thuốc lá bán lẻ từng điếu, bà cụ còn bán vài cái kẹo, một ít vé số. Trên tủ thuốc lá là một ngọn đèn dầu nhỏ để khách châm thuốc hút. Dạo này phải ăn vào vốn, và bây giờ thì gia tài hết sạch. Tôi nhìn vào tủ thuốc và có thể kiểm chứng điều đó. Thùng thuốc vốn đã nhỏ lại rỗng tuếch, chỉ còn vài gói thuốc lá nội hóa Đà Lạt nhợt nhạt vì phơi nắng khá lâu rồi. Tôi thấy lạ là trước một cảnh thương tâm như vậy chị vợ bạn tôi có vẻ rất bình tĩnh. Chị bình tĩnh vì một lý do khác mà tôi hiểu ngay sau đó. Một người đàn bà ăn mặc xuềnh xoàng tiến lại gần, ngồi xuống bn cạnh cái ghế thấp bên cạnh bà cụ, không biết nói gì với bà cụ và đưa cho bà cụ một bao bằng giấy. Tôi có thể hiểu dễ dàng đó là một bao gạo, đủ để ba bà cháu ăn vài bữa. Người đàn bà này cũng móc trong túi đưa cho bà cụ một vài tờ giấy bạc. Thì ra chị bạn tôi yên trí là thế nào cùng có người tới giúp bà cụ, chị hiểu rằng hàng xóm sẽ không bỏ rơi ba bà cháu. Một lát nữa chị bạn tôi cũng vào nhà trong rời trở ra tới chỗ bà cụ. Chị quay lưng lại phía chúng tôi nhưng tôi cũng hiểu là chị đưa tiền cho bà cụ. Nhìn cử chỉ từ chối ngượng ngùng của bà cụ, tôi hiểu là chị đã giúp cho bà cụ số tiền đủ để tiếp tục bán thuốc lá. Tiếng khóc nỉ non và lời than của bà cụ là một thông điệp gởi đến hàng xóm: tôi đang gặp hoạn nạn. Thông điệp ấy đã đến nơi và đã được hồi âm. Máu chảy ruột mềm.

Câu chuyện cũng có một happy end. Sau đó tôi được biết người con gái cũng về đem cho bà cụ ít tiền. Cuộc sống nghèo nàn của ba bà cháu lại tiếp tục. Kề lại câu chuyện trên đây, có lúc tôi đã định viết tắt một chữ trong lời nói của bà cụ. Nhưng rồi tôi thôi, tôi nghĩ câu nói ân tình đó nên được nhắc lại một cách trung thực như thế.

Những cảnh đùm bọc như thế, tôi đã được thấy nhiều lần. Đủ nhiều khiến tôi tin rằng người Việt nam ta dù thiếu nhiều đức tính nhưng không thiu lòng hảo tâm, íl nhất với những người quen biết. Nhưng lòng hảo tâm của người Việt nam cũng còn có thể mở rộng cho cả những người mình không quen biết.

Tôi đã thấy tận mắt từ thời thơ ấu. Nạn đói năm 1945 xảy ra vào lúc tôi chưa đầy ba tuổi, nhưng những hình ảnh cực mạnh đã in vào đầu tôi và còn theo tôi suốt đời. Nhà tôi tuy không giàu có theo tiêu chuẩn bình thường nhưng vào thời đó và ở vùng đó là một gia đình khá giả. Mẹ tôi tuy cũng phải chân lấm tay bùn quanh năm nhưng gia đình tôi có ruộng, có vườn, có ao và dư go ăn. Quân đội Nhật lúc bấy giờ dữ lắm, nhà nào có gạo là bị tịch thu, cho người đói ăn là một hành dộng có thể có hậu quả hiềm nghèo. Mẹ tôi phải giấu gạo, nhưng đêm nào cũng nấu cháo v dưới ánh đuốc bập bùng hàng đoàn người nối đuôi nhau trước cổng để được húp mỗi người một gáo cháo. Có những người đói đến nỗi kiệt sức mà chết. Ngay cổng vào nhà tôi có một căn nhà mà người trong nhà gọi là nhà xác. Hình như đêm nào cũng có người chết vì ngày nào cũng thấy bó chiếu chôn người. Tôi có nhiều anh và chị nuôi, một số là con cái của những người đã chết đói. Không ai bắt mẹ tôi phải làm cái việc tốn kém và nguy hiểm đó, ngoại trừ tình người và tình đồng bào. Và mẹ tôi cũng không phải là người duy nhất trong vùng làm việc đó. Sau năm 1975, và sau khi đi cải tạo về, tôi còn được biết một câu chuyện về tình người đặc biệt trong sáng khác. Và lần này câu chuyện cũng liên hệ trực tiếp tới gia đình tôi.

Mẹ tôi có một người em gái. Dì tôi góa chồng năm 1946 khi chú tôi, một đảng viên Việt nam Quốc Dân Đảng, bị Việt Minh thủ tiêu để lại hai con trai sáu tuổi và hai tuổi. Lúc đó dì tôi còn rất trẻ, mới 25 tuổi. Trước hiệp định Genève, dì tôi có một quan hệ tình ái. Một bé gái ra chào đời đúng lúc cha nó vào Nam, gia đình tôi lúc đó ở Hà Nội, rồi từ Hà Nội di cư vào Nam, nên hoàn toàn không biết chuyện này. Vào Nam, chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc với dì tôi. Cho đến năm 1979.

Trong vụ cải cách điền địa tại Bắc Việt năm 1955, ông Bùi Tín nói con số nạn nhân chỉ vào khoảng 20.000 người. Một số đảng viên cộng sản khác mà tôi quen biết sau này, và cũng thành thực không kém Bùi Tín, lại nói rằng số nạn nhân có thể trên 100.000 người. Có thể là 50.000 người chăng? Nhưng ai biết được con số chính xác? Có một thống kê nào đâu? Nhưng tôi biết rõ ràng là có ít nhất ba nạn nhân không được kể là nạn nhân.

Dì tôi bị đem đấu tố là địa chủ gian ác vì có mười mẫu ruộng (tức ba héc-ta rưỡi). Bà bị trói, bị đánh đập, bị xỉ vả là con đĩ, là gian ác rồi bị đuổi khỏi nhà, bà làm một cái lều bên đường và đi xin ăn, nhưng ít ai dám cho. Đứa con trai nhỏ chết đói xong thì bà cũng chết. Đứa con trai lớn, Nhuệ, em họ tôi, là một thiếu niên ngô nghịch và táo bạo. Nó ăn trộm, ăn cướp nuôi em gái nhỏ, lang bạt tới Hải Phòng thì bị bắt rồi chết trong tù. Đứa em gái nhỏ, lúc đó mới bốn tuổi, bò lang thang sắp chết đói thì gặp bà Năm.

Bà Năm quê ở Bến Tre. Vào đầu thập niên 1940 bà là một thiếu nữ trung lưu có nhan sắc. Khi tôi gặp bà vào năm 1980, bà đã 60 tuổi nhưng những nét đan thanh trên mặt bà cũng chứng tỏ rằng hồi thanh xuân bà đp vô cùng. Nhan sắc của bà lọt mắt một ông đốc phủ sứ, sau này nổi tiếng là một nhân sĩ có đạo đức lớn tại miền Nam, và ông ta nhất định bắt bà làm vợ bé. Phẫn uất quá, bà Năm trốn đi theo đảng cộng sản. Bà được kết nạp vào đảng cộng sản, lấy chồng đảng viên cộng sản rồi ra Bắc tập kết năm 1954. Cả hai vợ chồng làm việc tại cảng Hải Phòng. Đầu năm 1957, một tai nạn khủng khiếp xảy ra, ông chồng bị chết ngay tức khác còn bà Năm bị dây cáp cắt đứt một chân. Lúc đó họ đã có hai con trai. Bà Năm ở bệnh viện ra thì gặp em bé lang thang, bà bèn nhận nó làm con nuôi. Như thế đã là tuyệt vời, nhưng điều tuyệt vời hơn nữa là sau đó. Em tôi lúc đó còn quá bé để có thể nói cha mẹ nó là ai, quê hương nó ở đâu, nhưng bà Năm nhờ dò hỏi biết nó có một thằng anh chết trong tù, và bà chống nạng đi khắp các cơ quan điều tra. Bà tìm về được tới làng của dì tôi, hỏi được tên bố mẹ và cả ngày sinh gần đúng. Tuy bà có thể làm khai sinh cho nó là con bà nhưng bà đã làm lại khai sinh chính xác cho nó. Nhờ là liệt sĩ có công với cách mạng, bà đã che chở được cho đứa con địa chủ gian ác này. Bà bảo v nó như cọp cái giữ con, không ai có thể đụng tới con gái bà.

Năm 1979, bà vào Nam và tìm được gia đình tôi. Bà thành người bạn của gia đình tôi. Bà dẫn đứa con gái nay đã có chồng vào nhận h hàng của nó. Bà hay đến dùng cơm, kể lại quá khứ của mình. Bà Năm rất tin tưởng vào chủ nghĩa cộng sản như một chủ nghĩa quảng đại và trong sáng.

Bà chống đối gay gắt chính quyền cộng sản nhưng vì một lý do khác hẳn với lý do của những người chống cộng. Bà nói: Chúng nó phản bội lý tưởng cộng sản. Mẹ tôi, dù ghét cay ghét đắng cả đảng cộng sản lẫn chủ nghĩa cộng sản, vẫn rất quí trọng bà, hai bà có thể nói chuyện cả ngày mà không biết chán. Bà Năm đặc biệt thích tôi, bà hay bắt tôi ngoi nghe bà kể chuyện và bà còn đọc cho tôi nghe một truyện dài bằng thơ lc bát mà bà làm để kể đời mình và tâm sự mình.

Bà hay nói: Bây giờ bác nuôi con Hà như vậy là đã làm tròn bổn phận, bác đem trả lại cho gia đình cháu đấy?. Có lần tôi gắt lên với bà: Bác đừng nói như thế, nó chẳng là con của ai khác cả, nó chỉ là con của bác, của một mình bác thôi!

Đôi mắt bà Năm ứa lệ. Từ lâu nay tôi không còn được tin bà Năm nữa. Những dòng trên đây xin đưc tặng bà Năm để bày tỏ lòng kính mến và biết ơn sâu xa đối với một người phụ nữ đã cho phép tôi, trong bao nhiêu thất vọng, vẫn còn tự hào được làm người Việt

____________________________________________

Chương thứ :28 "

Báo chí trong nước hồi năm 1992 thuật lại một cuộc thảo luận được coi là sôi nổi và hào hứng nhất từ xưa đến nay. Đó là cuộc tranh cãi về lời nói đầu của hiến pháp 1992, đúng ra là tranh cãi về câu đầu của lời nói đầu. Các đại biểu quốc hội không đồng ý nên viết Trải qua bốn ngàn năm lịch sử hay Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, hay Trải hơn bốn ngàn năm lịch sử. Kết quả là ban lịch sử của Trung ương Đảng cộng Sản Việt nam quyết định chọn câu: Trải hơn bốn ngàn năm lịch sử và các đại biểu quốc hội đã vâng lời. Họ không bao giờ là đại biểu. Họ chỉ là những người được đảng chỉ định vào quốc hội.

Cuộc tranh cãi này đáng chú ý về sự hời hợt của họ. Nó xoay quanh một con số, mà ai cũng biết là không chính xác, về chiều dài của lịch sử chứ không đi vào nội dung của lịch sử. Lịch sử dĩ nhiên là rất quan trọng. Nó là một kho kinh nghiệm và một nguồn suy tư. Nó cho phép một dân tộc, hiểu theo nghĩa là sự sống liên tục của những đời người ngắn ngủi kế tiếp nhau và gắn bó với nhau trong một số phận chung, nhìn lại mình và hiểu mình đ tiếp tục sống và tiến lên.

Quan tâm tới lịch sử đánh dấu sự hình thành của ý niệm quốc gia. Hiểu như thế thì tuy đất nước Việt nam (hiểu theo nghĩa đen là đất và nước) đã có từ hàng chc triệu năm và những con người Việt nam cũng đã có từ hàng chục ngàn năm và đã dần dần sống thành xã hội có tổ chức nhưng ý niệm về quốc gia Việt nam chỉ mới xuất hiện rất gằn đây, vào đu thế kỷ thứ 13 khi Lê Văn Hưu soạn ra bộ Đại Việt Sử Ký. Điều này tự nó cũng đầy ý nghĩa. Nước Việt đã thành lập xong rồi, ý thức quốc gia của người Việt nam mới bắt đầu xuất hiện. S kiện này nói lên đặc tính của dân tộc Việt nam: ý niệm đi rất sau thực tiễn, hành động đi trước ý thức. Nhược điểm tổ tông truyền này vẫn còn có thể nhận thấy rất rõ rệt ngay trong thời đại chúng ta: cứ làm mà không cần suy nghĩ về tinh thần và cái trở thành của việc mình đang làm. Chính vì thế mà chúng ta luôn luôn thụ động để cho thực tế xô đẩy chứ không chủ động việc tổ chức tương lai của mình.

Quan tâm về lịch sử, nghĩa là ý niệm quốc gia, đã tới chậm như vậy lại không được coi trọng. Sử bị bỏ rơi trong hơn hai thế kỷ, mãi đến đời Lê Thánh Tông, Ngô Sĩ Liên mới soạn lại lần thứ hai bộ Đại Việt Sử Ký. Điều đáng ngạc nhiên là nhà Trần đã không cảm thấy cần chép lại chiến công hiển hách ph quân Nguyên của mình. Như thế phải hiểu rằng người Việt nam không quan tâm lắm về đất nước của mình. Bản Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo chỉ thúc dục các tướng chịu ơn vua phải chiến đu cho vua chứ không nói đến dân tộc và đất nước. ý thức quốc gia chỉ thể hiện một cách mạnh mẽ rõ rệt trong bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi. Vì thế nếu coi Bình Ngô Đại Cáo là tuyên ngôn lập quốc cũng không phải là quá đáng. Lúc đó đã là thế kỷ thứ 15.

Muốn có ích, nghĩa là muốn làm một nguồn kinh nghiệm cho phép rút ra những bài học chung cho dân tộc, lịch sử phải chính xác v đầy đủ. Lịch sử là một tài liệu để làm việc. Lịch sử không đầy đủ và không chính xác có nghĩa là chúng ta làm việc trên một tài liệu vừa thiếu vừa sai. Như thế làm sao có thể rút ra những kết luận đúng đắn? Nhưng lịch sử của ta rất sơ sài, lại rất thiếu chính xác. Các nhà viết sử đều là những bày tôi ăn cơm vua, mặc áo chúa phải viết cho vừa lòng chủ chứ không viết theo sự thực. Bước vào thời đại mới, chúng ta lại chỉ có những chính quyền thiển cận coi lịch sử là dụng cụ tuyên truyền cho chế độ. Lịch sử, kể cả lịch sử cận đại của ta, không những thiếu sót mà còn bị xuyên tạc. Đã thế, vô số lý luận hồ đồ lại còn được tung ra với mục đích giải thích lịch sử theo chiều hướng có lợi cho một phe phái. Người Việt nam, kể cả trí thức, vốn đã thiếu óc phê bình, lại còn bị khủng bố bởi cả một phong trào khai thác lịch sử.

Cuối cùng chúng ta không những không biết rõ lịch sử của mình, mà còn bị tiêm nhiễm những nhận định rất lệch lạc. Chúng ta là một dân tộc mất ký ức tập thể. Điều đó có thể giải thích một phần tại sao một dân tộc khá tốt bụng, khá sáng dạ, khá siêng năng, có một địa lý khá thuận lợi lại không vươn lên được và vẫn quằn quại mãi trong nghèo khó và lạc hậu.

Chương thứ :29 "

Người Trung Hoa tự coi là con Trời, người Nhật tự coi là con cháu của Mặt Trời, người Việt nam ta tự coi mình là con cháu Tiên Rồng. Dân tộc nào cũng có tự ái riêng và đều muốn tự gán cho mình một dòng dõi cao quí. Những huyền sử đó có thể coi là ý thức cộng đồng đầu tiên. Mỗi dân tộc cần có một niềm tự hào nào đó để tự duy trì. Bài học đầu tiên mà ta có thể rút ra từ huyền sử đó là muốn trưng tồn và tiến lên ta luôn luôn cần có thêm những lý do mới để tự hào. Từ đó ta có thể tự đặt cho mình câu hỏi: Hiện nay ta có lý do nào để tự hào không? Nếu có là ta đang tiếp tục củng cố dân tộc, nếu không là ta đang làm hao mòn vốn cũ.

Niềm tự hào con cháu tiên rồng, hiểu theo nghĩa một huyền thoại thống hợp gắn bó chúng ta với nhau, có cái lợi là làm ta hãnh diện muốn tiếp tục lm người Việt, nhưng bù lại nó có thể cho chúng ta cái cảm tưởng rằng chúng ta là một giống nòi thuần nhất và làm ta quên mất thực sự ta là ai, và đó mới là điều quan trọng. Cứ theo huyền sử thì tổ nước ta là Sùng Lãm, tức Lạc Long Quân, con cháu của vua Thần Nông bên Tàu. Nước gốc của chúng ta là Xích Quỷ bao gồm cả một vùng đất rộng lớn của Trung Quốc, từ phía Nam sông Dương Tử và mt phần nhỏ hơn nhiều là miền Bắc nước ta bây giờ. Sự tích kế tiếp là Sùng Lãm lấy bà Âu Cơ đẻ ra một trăm con, sau đó hai người chia tay nhau, mỗi người giữ năm mươi con. Âu Cơ ở lại núi, còn Sùng Lãm đem năm mươi con xuống vùng bể Nam Hải. Sau đó Sùng Lãm phong cho người con trưởng lên làm vua nước Văn Lang, tức là miền Bắc nước ta. Nước Văn Lang sau này được mở rộng thành nước Việt nam ngày nay.

Như vậy, cũng phải tương đối hóa dòng dõi con ròng cháu tiên của chúng ta. Thực ra như vậy, theo huyền sử của chính chúng ta, thì người Hoa Nam mới là con rồng cháu tiên, còn chúng ta chỉ là một hệ phái của con rồng cháu tiên được lai giống với người địa phương. Chúng ta ít con rồng cháu tiên hơn người Trung Hoa ở phía Nam sông Dương Tử. Và chúng ta lai con rồng cháu tiên chắc không nhiu, bởi vì giữa Hoa Nam và nước ta núi non hiểm trở, người đi dân xuống miền Nam không có bao nhiêu. Chính vì thế mà dù bị hơn một ngàn năm Bắc thuộc, chịu hoàn toàn ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa mà chúng ta tiếp thu một cách nồng nhiệt và say mê, chúng ta vẫn có tiếng nói riêng, nếp sống riêng. Như Nguyễn Trãi nói: Lãnh thổ có núi ngăn chia, phong tục Bắc Nam khác nhau Có nhà dân tộc học còn quả quyết người Việt nam thuộc chủng tộc Mã Lai - ấn Độ. Như thế đủ biết cái thành tố con rồng cháu tiên trong huyết thống của chúng ta không có bao nhiêu.

Nhưng cái huyền sử con rồng cháu tiên không phải là không có cơ sở thuần lý. Nó nói lên một nét dậm trong quá trình hình thành của nước ta, đó là cuộc Nam Tiến đã khai sinh ra nước ta và vẫn còn tiếp tục cho tới cuối thế kỷ 18. Đất nước Việt nam được thành lập ban đau do hậu quả của cuộc Nam Tiến của người Trung Hoa và sau đó của chính người Việt. Nước Trung Hoa hình thành tại vùng đất giữa sông Hoàng Hà và sông Dương Tử, rồi vì người càng ngày càng đông, một phong trào di dân tìm đất mới về phương Nam đã xuất hiện. Chuyện Lạc Long Quân đem năm mươi con xuống vùng bề Nam Hải có thể coi là một đợt di dân, tương tự như Nguyễn Hoàng đem dân vào miền Trung sau này.

Cuộc Nam Tiến của người Trung Hoa đến Quảng Đông, Quảng Tây thì khựng lại vì gặp bức tường núi dầy gần 100 cây số. Chỉ có một s ít người vượt được núi, hợp với thổ dân mà tạo ra nước Văn Lang.

Người Việt nam ta có lẽ vì chỉ coi huyền sử như chuyện hoang đường hoàn toàn nên ít suy nghĩ về quá trình lập quốc của mình. Không thiếu gì trí thức lẫn lộn các giống Việt ở miền Nam Trung Hoa, sống trong nhiều nước nhỏ gọi là Bách Việt, với người Việt nam. Triết gia Kim Định coi người Việt nam là người Bách Việt, ng cho Nho Giáo là một phát minh của người Việt chứ không phải của người Tàu. Trong thập niên 1960, các trí thức và sinh viên Việt nam mở một loạt lớp học dạy miễn phí cho các học sinh trung học nghèo tại Sài Gòn. Cố gắng đáng ca tụng này được biết dưới danh hiệu Trung Tâm Bách Việt. Nhưng nếu người Bách Việt không phải người Trung Hoa thì ai là người Trung Hoa? Chúng ta cũng có mang huyết thống Bách Việt trong người, nhưng yếu tố đó chỉ là một phần nhỏ thôi. ảnh hưởng văn hóa và tư tưởng của Trung Hoa lên nước ta quan trọng gấp bội yếu tố huyết thống.

Nước Văn Lang được thành lp do pha trộn của một số nhỏ người Hoa Nam với một số đông người bản xứ, và cả những sắc dân từ quần đảo Nam Dương. Chúng ta có thể quả quyết là về nhân chủng yếu tố địa phương đã mạnh hơn bởi vì sau cả ngàn năm dưới sự thống trị của người phương Bắc trong đó chữ Nho vừa được độc quyền vừa được tôn vinh, người Việt vẫn giữ được và không những thế còn phát triển được và cải thiện được ngôn ngữ riêng của mình. Sau này, nhất là từ thế kỷ 15 trở đi, khi nưc Văn Lang dần dần mở rộng về phía Nam, chúng ta đã tiếp nhận nhiều yếu tố huyết thống khác, kể cả một đợt di dân mới bằng đường biền của người Trung Hoa vào thẳng miền Nam Việt nam.

Nước Việt nam ta vì vậy là một quốc gia biến đỗi không ngừng do những đóng góp đất đai và chủng tộc mới. Sự thay đổi không ngừng đó, thể hiện ngay trong quốc hiểu của ta: Văn Lang, âu tạc Nam Việt, Giao Chỉ, An Nam, Tượng Quận, Giao Châu, Vạn Xuân, Đại Cò Việt, Đại Việt, Đại Ngu, Việt nam, Đại Nam. Sự thay đổi đó khiến chúng ta nhiều khi lẫn lộn tên nước mình. Sách Nam Hải Dị Nhân Liệt Truyn rõ ràng coi Nam Hải là tên nước ta, mặc dầu đó chỉ là tên của tỉnh Quảng Đông bên Trung Quốc vào thời Bắc thuộc. Ngay cả tên Việt nam ngày nay thực ra cũng rất mới. Vua Gia Long sau khi thống nhất đất nước muốn đặt quốc hiểu là Nam Việt nhưng vì nhà Thanh không cho, sợ lẫn lộn với nước Nam Việt của Triệu Đà gom cả Quảng Đông và Qung Tây, nên đã chọn quốc hiệu là Việt nam. Nhưng sau đó 18 năm, khi vua Gia Long chết, vua Minh Mạng lại bỏ tên Việt nam và đổi thành Đại Nam. Khi người Pháp đô hộ nước ta, hai tiếng Việt nam cũng không xuất hiện trở lại, nước ta bị chia làm Cochinchine, An nam, Tonkin. Đảng cộng sản lúc mới thành lập cũng không dùng chữ Việt nam, họ tự gọi là Đông Dương Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng. Vit nam Quốc Dân Đảng là chính đảng đầu tiên sử dụng trở lại hai tiếng Việt nam. Hai tiếng Việt nam đã trở thành thiêng liêng khi 13 liệt sĩ Việt nam Quốc Dân Đảng lên đoạn đầu đài tại Yên Bái ngày 17- 6-1930 hô to: Việt nam muôn năm!. Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa, rồi ba năm sau Bảo Đại cho ra đời Quốc Gia Việt nam. Như thế tên Việt nam đã trở thành linh thiêng từ 1930 và mới trở thành chính thức từ 1945 trở di.

Chúng ta không ý thức được sự năng động trong quá trình lập quốc của mình nên đã cố bắt chước nơi người Tàu một quan niệm quốc gia cứng nhắc. Đất nước Việt nam được coi như là đất của một sắc tộc sắc tộc Kinh. Văn hóa của ta là văn hóa của người Kinh. Đạo đức của ta là đạo đức của người Kinh, pháp luật của ta là pháp luật của người Kinh. Lịch sử của ta cũng chỉ là lịch sử của người Kinh. Tất cả đều là của người Kinh, các sắc tộc khác hoàn toàn bị bỏ qua.

Trong khi khái niệm người Kinh tự nó cũng rất mơ hồ. Nó cũng chỉ là một sự hòa trộn của nhiều chủng tộc. Nó chỉ là tập thể của những người chịu anh hưởng văn hóa của Trung Hoa mà thôi, trong khi ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa càng ngày càng yếu đi trước ảnh hưởng của văn hóa phương Tây.

Tại sao, những Phạm Hùng, Chế Bồng Nga lại không được coi là các vị vua của Việt nam?

Tôi không phải là một nhà sử học và cũng không phải là một nhà dân tộc học nên hoàn toàn không dám có tham vọng đưa ra một luận thuyết mới về nguồn gốc và sự hình thành của nước ta. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh về hai đặc điểm quan trọng nhất của dân tộc Việt nam.

Đặc điểm thứ nhất là chúng ta không phải là một quốc gia thuần nhất, mà là một quốc gia đa nguyên về bản chất. Vì thế chúng ta cần một ý thức quốc gia riêng: Quốc gia Việt nam không thể được định nghĩa như một chủng tộc mà cần được quan niệm như là sự chấp nhận chia sẻ một tương lai chung.

Đặc điểm thứ hai là dù có lịch sử tương đối dài, chúng ta trên thực tế là một quốc gia rất mới. Cả một nửa lãnh thổ, và một phần đáng kể dân chúng, chỉ mới hội nhập từ bốn thế kỷ nay, nhiều vùng chỉ từ một thế kỷ nay. Cho nên chúng ta không thể thủ cựu, trái lại phải năng động, liên tục thích nghi và đổi mới bởi vì sự nghiệp mở nước vẫn chưa thế coi là đã xong hẳn.

Chương thứ :30 "

Tôi mở mắt và nghe mình nhỏ lệ

Những trận giặc kéo dài qua nhiều năm

Nhân loại đau buồn kể lể

Thành phố bị chiếm tiêu điều

Làng mạc hắt hiu trong cơn điên cuồng lửa đạn

Em là người hậu chiến hon hắt hủi bơ vơ ngoài phố

Thương bằng hữu bỗng biến thành kẻ tội tù.

Mai Trung Tính (40 bài thơ)

Không hiểu do cảm hứng nào mà Mai Trung Tính làm ra những vần thơ tiên tri như thế. Mai Trung Tĩnh tên thật là Nguyễn Thiệu Hùng, anh ruột của Nguyễn Thiện Tường, bạn thân của tôi. Tôi hay lui tới gia đình Tường, nhất là những sáng chủ nhật. Lúc đó ba của Hùng và Tường mất có lẽ đã lâu lắm rồi, mẹ Tường hay cho chúng tôi tiền để đi ăn phở với nhau. Không biết bà cụ buôn bán gì nhưng gia đình tương dối khá giả, bà cụ coi tôi gần như một đứa con của gia đình. Tường học đệ nhị với tôi ở lớp Bình Dân Giáo Dục. Thực ra Tường có đủ điều kiện để đi học bình thường như những người khác nhưng cũng ghi tên học Bình Dân Giáo Dục buổi tối để học với tôi cho có bạn. Lúc đó, năm 1960, Hùng đã đậu xong tú tài đang học Đại Học Văn Khoa, ngoài ra còn đi dạy Việt văn ở cấp trung học để kiếm thêm lợi tức cho gia đình. Hùng thích Sartre, Gide và Camus, tuần nào cũng bỏ tiền ra mua Paris Match vì thích nhưng bài bình luận chính trị của Raymond Cartier. Khi viết câu: Em là người hậu chiến hồn hắt hủi bơ vơ ngoài phố thương bằng hữu bỗng biến thành kẻ tội tư, Hùng không ngờ câu đó lại ứng nghiệm cho mình tới hai lần trong khoảng 15 năm. Tập thơ 40 bài thơ, của Hùng làm chung với Lê Đức Vượng (tức Vương Đức) được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc năm 1960. Mỗi người hai mươi bài. Những câu thơ trên lấy từ bài Lịch sử của Hùng. Tôi còn nhớ, ngay ngày cuốn sách in xong, Hùng ân cần tặng tôi một bản. Tôi thích bài Lịch sử và nhớ cho tới bây giờ.

Tuy là giáo sư, nhưng như mọi người trong lứa tuổi, như các anh em tôi, Hùng cũng thuộc diện sĩ quan biệt phái. Ai cũng biết sĩ quan biệt phái chỉ là một cụm từ rỗng nghĩa, có mục đích để chính quyền Việt nam Cộng Hòa có thể gọi nhập ngũ trở lại một số người bất cứ lúc nào. Nhưng trên thực tế đó là những người không có hay không còn, liên hệ gì tới quân đội. Bằng cớ là ngay trước lúc sắp sụp đổ, chính quyền Sài Gòn cũng không gọi họ nhập ngũ. Tuy vậy cái nhãn sĩ quan biệt phái, đã khiến Hùng bị bắt đi cải tạo gần bảy năm. Tôi gặp lại Hùng mùa thu năm 1982 khi Hùng mới đi cải tạo về và tôi cũng sắp đi Pháp. Bẵng đi tám năm, tôi không liên lạc với Hùng, rồi không ngờ lại được tin Hùng trong một trường hợp khác.

Phải nói là rất không ngờ. Sau khi đi cải tạo về, tôi gặp một số trí thức trẻ có ưu tư với đất nước và chúng tôi giao du với nhau thành một nhóm chia sẻ lập trường dân chủ. Gặp Hùng, tôi không rủ Hùng gia nhập vì lúc đó Hùng mới đi tù về còn đang yếu mệt và tôi cũng sắp đi Pháp, vả li tôi biết Hùng không thích chính trị. Đoàn Viết Hoạt ở tù ra năm 1988 thì ít lâu sau đó bắt liên lạc được với chúng tôi. Tôi biết Hoạt có thành lập một nhóm bạn dự định cho lưu hành tập tài liệu Diễn Dàn Tự Do nhưng không biết rằng Hùng cũng có trong đó. Chỉ sau khi nghe tin Hoạt và nhóm Diễn Dàn Tự Do, trong đó có Hùng, bị bắt tôi mới biết và ngạc nhiên. Hùng bị kết án năm năm, sau đó kháng án và được giảm xuống bốn năm.

Cái nhìn lịch sử của nhà thơ rất chính xác. Lịch sử nước ta là một lịch sử đau thương. Đó là một chuỗi ngoại thuộc và chiến tranh.

Cứ coi như nước chúng ta thực sự thành lập với nhà Hồng Bàng với 18 đời vua. Cứ tính trung bình mỗi vị chừng mưi lăm năm thì nhà Hồng Bằng kéo dài được non ba trăm năm thì bị nhà Thục cướp ngôi năm 258 trước công nguyên. Như thế thì có nghĩa là chúng ta có khoảng hai ngàn năm trăm năm lịch sử. Thế nhưng cỗ sử của ta lại chép rằng Kinh Dương Vương, ông nội của vua Hùng Vương thứ nhất làm vua nước Xích Quỷ từ năm 2879 trước tây lịch, như thế là ta có tới gần năm ngàn năm lịch sử. Như vậy có một khoảng trống trên hai ngàn năm. Khoảng thời gian ấy là khoảng thời gian cần thiết để một số người từ Hoa Nam vượt vách núi dầy đặc trên một trăm cây số. Giả thuyết hợp lý nhất là vào khoảng th kỷ thứ 5 trước công nguyên một số người đã qua được vách núi đến được giáp vùng đồng bằng sông Hòng để cùng với người thổ dân lập ra nước Văn Lang. Huyền sử con rồng cháu tiên có lẽ ã xuất phát từ một lý do rất thực tiễn. Muốn khuất phục những con người thô sơ, không gì bằng dựa vào phép thần tiên, và những người ít ỏi từ miền Bắc xuống đã tự tạo cho mình mt nguồn gốc thần tiên để thu phục người bản xứ.

Trong khoảng năm trăm năm đầu, đất nước Văn Lang chắc là có rất ít người. Bằng chứng là nhà Thục, dòng họ đã diệt họ Hòng Bằng, không h có một dấu vết nào trong lịch sử Trung Hoa cả, đó chỉ là một gia đình nào đó đã từ Hoa Nam sang Bắc Việt và qui tụ được một số gia nhân lập thành một giang sơn riêng. Vậy mà nhà Thục đã diệt được họ Hồng Bằng thì đủ biết tầm vóc của Văn Lang lúc đó không hơn một bộ lạc là bao.

Dù nhỏ bé như vậy, mà trong năm trăm năm đầu trước công nguyên, dân ta đã phải chịu ba cuộc chiến tranh: nhà Thục diệt Hồng Bằng, rồi nhà Triệu diệt nhà Thục, rồi nhà Triệu bị nhà Hán bên Trung Hoa tiêu diệt và nước ta bị sát nhập vào Trung Quốc.

Kế tiếp là hơn một ngàn năm Bắc thuộc. Trong khoảng thời gian này cũng đã có vô số binh biến đẫm máu. Hai Bà Trưng khởi nghĩa, làm chủ đất nước và cầm cự được ba năm, rồi cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Chinh và Triệu Quốc Đạt. Rồi vô s những loạn lạc đao binh khác, có khi do chính các quan cai trị muốn xưng hùng xưng bá đánh giết lẫn nhau, có khi do nhân dân nồi dậy chống áp bức. Có lần dưới thời Tam Quốc bên Trung Hoa, lúc nước ta đang dưới sự đô hộ của nhà Ngô, dân Giao Châu nổi lên giết được quan thái thú rồi đi thần phục nhà Ngụy ở mãi tận phương Bắc, để rồi lại bị Đông Ngô đánh dẹp. Trong thời gian năm trăm năm của thời Bắc thuộc lần thứ hai, từ năm 43 đến nam 554, nước ta lúc nào cũng có binh biến, và binh biến thường thường do các quan cai trị Trung Hoa thấy Giao Châu có núi ngăn cách với Trung Hoa muốn thành lập một quốc gia độc lập. Cuối cùng Lý Bôn, một người gốc Trung Hoa, làm chủ được đất nước, lập ra nhà Tiền Lý, kéo dài được sáu mươi năm. Nhìn vào giai đoạn này, ta có thể rút ra hai kết luận: Một là ý thức về mình như một xã hội riêng biệt với phương Bắc của ta đã do chính những quan đô hộ người Trung Hoa đem đến. Hai là nước ta đã được thai nghén trong binh lửa và đó cũng là một điều không may.

Trong sáu mươi năm ngắn ngủi của nhà Tiền Lý, nước ta đã phải đương đầu vi cuộc tái chiếm của Trung Hoa, rồi cuộc nội chiến giữa Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử, cuối cùng lại rơi vào Bắc thuộc một lần nữa.

Trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba này chiến tranh lại còn triền miên và dữ dội hơn nữa. Chiến tranh với Lâm ấp (Chiêm Thành), cuộc nổi dậy của Mai Thúc Loan, của Phùng Hưng, rồi lại đánh Chiêm Thành, rồi chiến tranh với nước Nam Chiếu (ở khu vực Vân Nam, Trung Quốc bây giờ), và dĩ nhiên, yếu tố thường trực vẫn là những cuộc tranh giành giữa các quan đô hộ.

Trong thời gian ấy xã hội Việt nam vẫn tiếp tục hình thành, người mỗi ngày mt đông, trí tuệ mỗi ngày một mở mang, ý thức cộng đồng càng ngày càng rõ rệt, kìm kẹp của ách thống trị càng ngày càng bất lực. Đến đầu thế kỷ thứ 10, năm 906, một hiện tượng lạ lùng xảy ra, hệ thống đô hộ của người Trung Hoa tự nó sụp đổ và dân Giao Châu tôn Khúc Thừa Dụ lên làm chủ. Đất nước Việt nam coi như đã thực sự hình thành. Người Trung Hoa định tái lập nền thống trị nhưng không được nữa, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán rồi xưng vương, dân đất nước vào giai đoạn độc lập chính thức.

Một ngàn năm Bắc thuộc thường được coi như một giai đoạn đen tối ca nước ta, nhưng đó cũng là giai đoạn đất nước ta thai nghén và hình thành như một đất nước theo khuôn mẫu chính trị Trung Hoa. Quá trình hình thành của nước ta là một chuỗi dài chinh chiến. Đứa trẻ Việt nam vì thế đã ra đời với một cơ thể yếu.

Nhưng được độc lập rồi, loạn lạc, chiến tranh không giảm mà còn tăng. Nhà Ngô trị nớc chẳng được bao lâu thì rơi vào loạn mười hai sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước và thi hành một chính sách trị nước cực kỳ tàn bạo, kéo dài mười bốn năm. Lê Hoàn soán ngôi nhà Đinh lập ra nhà Tiền Lê trị vì ba mươi năm. Trong vòng ba mươi năm đó dân ta đã phải chịu đựng một cuộc chiến tranh với nhà Tống, một cuộc chiến tranh với Chiêm Thành và nhiều cuộc chiến tranh bình định khác. Nhà Tiền Lê chấm dứt với triều Lê Long Đỉnh kéo dài năm năm, từ 1005 đến 1009. Lê Long Đỉnh tuy chỉ làm vua trong một thời gian ngắn ngủi nhưng đã để tên lại trong lịch sử như là bạo chúa kinh khủng nhất của nước ta. Sự thực hay chỉ là một bịa đặt của nhà Lý để bào chữa cho việc cướp ngôi nhà Tiền Lê? Thế kỷ đầu của độc lập, đối với dân ta, còn đau thương hơn cả thi Bắc thuộc.

Triều Lý vẫn được coi là một thời thịnh trị của nước ta vì đã lập ra triều chính, kỷ cương, văn hóa, thi cử như một quốc gia thực sự. Điều đó đúng, những nếu nhìn kỹ hơn một chút thì trong hơn hai thế kỷ dưới thời Lý dân ta cũng không sung sướng là bao. Chiến tranh cũng rất thường xuyên: đánh dẹp Nùng Trí Cao, đánh dẹp các tù ương không thần phục, đánh Chiêm Thành, Ai Lao, rồi lại đánh Chiêm Thành, rồi đem quân đánh Tống, rồi kháng cự với quân xâm lăng Tống và mất Cao Bằng, Lạng Sơn, rời lại đánh Chiêm Thành, rồi giặc Thân Lợi, giặc Phạm Du, cuộc nổi loạn của đám tướng Phạm Bình Di - Quách Bốc làm nhà vua phải bỏ cả kinh dô mà chạy, cầu cứu họ Trần rồi mất ngôi về tay nhà Trần.

Công lao lớn nhất của nhà Trần là đã phá được quân Mông Cỗ trong ba cuộc chiến tranh khóc liệt bậc nhất trong lịch sử nước ta. Nhưng cũng không phải chỉ có thế. Anh em nhà Trần có lúc còn đánh lẫn nhau, giặc gi ở trong nước cũng không ít: giặc Mường, giặc Đoan Thượng, giặc Nguyễn Nọn, giặc Phạm Sư ổn, Dương Nhật Lệ, rồi nhưng cuộc chiến tranh liên miên với Chiêm Thành, trong đó quân Trần bại nhiều hơn thắng, kinh đô Thăng Long bị tàn phá nhiều lần. rồi đánh nhau với Ai Lao. Ngày nay nhiều người vẫn coi nhà Trần là một thời thịnh trị, gần nh nhà Lý, vì nhà Trần đều có công đánh được quân Nguyên, nhưng xét ra có lẽ chưa đời nào dân ta khổ bằng dưới thời nhà Trần.

Nhà Trần mất, nhà Hồ lên, quân Minh sang đánh chiếm nước ta. Lập tức Giản Định Đế, Trùng Quang Đế nổi lên rồi bị dẹp. Kế tiếp là cuộc kháng chiến mười năm của Lê Lợi. Giành được độc lập rồi, nhà Hậu Lê cũng phải đương đầu với vô số cuộc nổi dậy, nhất là cuộc nổi dậy của Trần Cao, kinh thành bị tàn phá mấy lần. Nhà Lê mất, một cuộc nội chiến phù Lê diệt Mạc bùng lên, kế tiếp là Trịnh Nguyễn phân tranh, rồi cuộc nồi dậy của anh em Tây Sơn, cuộc chiến tranh với quân Thanh và quân Xiêm, cuộc nội chiến giữa Tây Sơn và dư đảng phù Lê, cuộc nội chiến khốc liệt giữa Tây Sơn và Nguyễn ánh.

Nhà Nguyễn thống nhất được đất nước, làm vua được tám mươi năm thì mất nước vào tay người Pháp, sau khi đã phải đánh dẹp chật vật nhiều cuộc nỗi dậy khác, nhất là cuộc ly khai của Lê Văn Duyệt được Lê Văn Khôi tiếp nối. Sau th chiến II, chúng ta chiến tranh khốc liệt cho tới năm 1975.

Trong suốt dòng lịch sử của ta, dân ta được bao nhiêu năm hòa bình? Có lẽ chỉ được khoảng một trăm năm mươi năm yên ổn dưới thời Lý, gần một thế kỷ dưới thời Trần, tám mươi năm dưới thời Hậu Lê, xấp xỉ bảy mươi năm (1672- 1739) tại miền Bắc trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh (dưới thời các chúa Trịnh Tạc, Trịnh Cán, Trịnh Cương). Và sáu mươi năm dưới thời Pháp thuộc, nhưng lại là hòa bình trong ngoại thuộc. Xét ra, trong hai ngàn năm trăm năm lịch sử của ta, chúng ta chỉ có được khoảng bốn trăm năm vừa có độc lập vừa có hòa bình tương đối. Thế nhưng ngay cả khi có hòa bình tương đối, chúng ta cũng luôn luôn phải chịu đựng những chế độ hà khắc. Chúng ta rất ít có hoà bình và chưa bao giờ có tự do. Gần đây, dưới chế độ cộng sản, chúng ta cũng đã phải chịu một cuộc chiến tranh biên giới ngắn nhưng dữ dội với Trung Quốc, một cuộc chiến tranh dai dẳng tại Cam-bốt, và một cuộc nội chiến rất đặc biệt tuy không có tiếng bom đạn nhưng cũng diễn ra một cách thảm khốc trong lòng người. Hàng trăm ngàn người đã bị tù tội, hàng triệu người b cướp đoạt tài sản, bị phân biệt đối xử, bị trù dập và cấm đoán. Hơn một triệu người bỏ nước ra đi. Biết bao nhiêu là đau thương và thù hận.

Cuộc hành trình vội vã qua lịch sử này có mục đích để chúng ta mở mắt và nhỏ lệ cho thân phận của đất nước mình. Chúng ta chiến tranh nhau quá. Không có dân tộc nào trên mặt đất này chịu nhiều chiến tranh như chúng ta. Chiến tranh đã khiến chúng ta trở thành một dân tộc không bình thường. Câu hỏi tại sao nước ta có địa thế tốt, con người cần mẫn và tinh khôn mà lại không vươn lên được có lẽ đã có câu trả lời. Chiến tranh đã đầy đọa chúng ta trong suốt dòng lịch sử để rồi trở thành một bản năng của chúng ta. Những người lãnh đạo cộng sản lấy những quyết định chiến tranh một cách thản nhiên dễ sợ. Nhưng họ cũng không khác bao nhiêu so với những người Việt nam khác, họ chỉ thể hiện một chứng bệnh tâm thần tập thể của chúng ta mà thôi.

Thử nhìn nhng cuộc tranh cãi chính trị tại hải ngoại. Chỉ vì một ý kiến không hợp ý mình, người ta có thể công kích nhau một cách thậm lệ, dữ dằn. Nếu có binh quyền trong tay chắc chắn là người ta không ngn ngại tuyên chiến.

Mộng ước của mọi người Việt nam hôm nay là đổi hướng đi của lịch sử và mở ra một kỷ nguyên của tiến bộ và hạnh phúc. Đó là một cuộc đổi đời rất lớn. Nhưng có cuộc đổi đời nào không đòi hỏi một thay đổi lớn về tâm lý? Nếu biết nhỏ lệ xót thương cho số phận của đất nước ta, biết dứt khoát tiêu diệt cái bản năng chiến tranh trong con người của môi chúng ta, biết lấy đối thoại, tương kính, tương nhượng làm căn bản dựng nước mới là chúng ta đã rút được bài học lịch sử quí giá nhất v đã vượt được trở ngại kinh khủng nhất.

Chương thứ :31 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :32 "

Trong một thời gian cách nhau hơn một thế kỷ, nước ta đã có hai trường hợp cướp ngôi. Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần năm 1400, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê năm 1527. Hai trường hợp khởi đầu trong một kịch bản tương đối giống nhau: một dòng họ hư đốn làm cho đất nước suy đồi, rồi một đại thần phế bỏ vua, tự lập lên ngôi. Trong cả hai trường hợp, vị vua cũ bị giết hại. Trong cả hai trường hợp, các triều thần của dòng vua cũ được mời ở lại giúp vua mới. Nhưng kết quả đã khác nhau, và sự phán xét của lịch sử đã rất lạ lùng.

Hồ Quí Ly là một đại thần bất lực, bên trong làm cho đất nước suy đồi, bên ngoài thì không giữ được bờ cõi. Quân Chiêm Thành ra vào cướp phá như chỗ không người, kinh đô mấy ln bị rơi vào tay quân địch, Hồ Quí Ly chỉ biết dắt vua bỏ chạy. Chẳng có công lao gì với đất nước nhưng Hồ Quí Ly cũng đã trấn áp được vua Trần rồi cướp ngôi. Hồ Quí Ly cũng tỏ ra đặc biệt bội bạc với đất nước Việt nam đã cho ông ta tất cả, ông ta vẫn tự coi là người Tàu dù tổ tiên đã lập nghiệp tại Việt nam từ bốn đời. Cướp được ngôi vua, Hồ Quí Ly, trước đó mang họ Lê theo bố nuôi, đã lấy lại họ Hồ theo họ cũ của mình và đổi tên nước ta từ Đại Việt thành Đại Ngu theo tên cố quốc của mình, rồi thi hành một chính sách cướp bóc ra mặt đối với dân chúng. Nguyên Trãi kể tội Hồ Quí Ly: Vừa qua nhà Hồ vì chính sách phiền hà làm cho lòng người oán giận. Kết quả là Hồ Quí Ly làm mất nước, nước ta lại rơi vào vòng Bắc thuộc sau gần năm trăm năm độc lập. Tội của Hồ Quí Ly đối với Việt nam thực là lớn. Thế nhưng xem ra Hồ Quí Ly chỉ bị lên án vừa phải thôi, không những thế còn được khen là con người lỗi lạc, một trí tuệ siêu việt và sáng tạo.

Mạc Đăng Dung, hơn một trăm năm sau, có công giúp vua dẹp loạn rồi được tin dùng và lợi dụng cơ hội để cướp ngôi. Cũng như trường hp Hồ Quí Ly, đám con cháu của triều đình cũ sang Tàu cầu cứu và quân Tàu rục rịch đánh nước ta. Mạc Đăng Dung tự trói mình xin thần phục Trung Quốc và giữ được nước. Nhà Mạc sau đó không tỏ ra dấu hiệu hà khắc nào, không gặp giặc giã nào đáng kể, dân tình không đến nỗi khổ sở. Nhưng nhà Mạc đã gặp cuộc chiến tranh qui mô để tái lập nhà Lê do Nguyễn Kim, rồi Trịnh Kiểm và Trịnh Tùng lãnh đạo, rồi bị tiêu diệt sau sáu mươi lăm năm. Mạc Đăng Dung đã bị tất cả các sử gia và trí thức mạt sát thậm tệ. Cách phán xét nhà H và nhà Mạc cho tới nay ít làm ai ngạc nhiên. Cũng cùng thoán nghịch mà sao người làm mất nước lại không bị lên án gay gắt bằng người không làm mất nước? Đối với người lãnh đạo quốc gia có ti nào lớn hơn tội làm mất nước? Người ta lên án Hồ Quí Ly và Mạc Đăng Dung đã phản bội vua và cướp ngôi. Điều này vào thời đại đó và với khuôn mẫu đạo lý đó là đúng. Nhưng ngày nay nhìn lại thì sao? Nếu chúng ta coi khuôn mẫu Khổng Giáo vẫn còn là tốt cho đất nước và cần được duy trì thì cả Hồ Quí Ly và Mạc Đăng Dung đều đáng lên án. Ngược lại nếu chúng ta coi khuôn mẫu Khổng Giáo là khuôn mẫu cỗ hủ đáng lẽ không được duy trì quá lâu như vậy, thì hành động thoán nghịch của Hồ Quí Ly và Mạc Đăng Dung phải được coi là đáng khen vì nó là một thách thức đối với khuôn mẫu Khổng Giáo. Còn nếu chúng ta không có ý kiến dứt khoát thì hành động thoán nghịch chẳng là công mà cũng chẳng là tội. Nó chỉ là một biến cố chính trị. Vậy thì ngoại trừ đối với một số người thủ cựu một cách mê muội, cái tội thoán nghịch không nên đặt ra nữa. Cái gì bắt một dân tộc phải tiếp tục chịu đựng những ông vua tồi tệ như cuối đời Trần hay cuối đời Hậu Lê? Đạo lý nào bắt buộc như vậy chỉ là một đạo lý tồi tệ. Xét công, tội của Hồ Quí Ly và Mạc Đăng Dung phải dựa vào những gì họ để lại sau ó.

Hồ Quí Ly không làm được gì cho đất nước, chỉ làm khổ dân và rồi làm mất nước. Người ta ca tụng Hồ Quí Ly là có nhiều ý kiến sáng tạo: đổi lại hệ thống giáo dục một cách thực dụng hơn, đem toán học, địa lý và nông nghiệp vào giáo dục, lập các trạm y tế ở khắp nơi. Nhưng câu hỏi đặt ra là nếu quả thực đó là những ý kiến mà Hồ Quí Ly cho là ích quốc lợi dân thì tại sao trong mấy chục năm làm thái sư, có tất cả mọi quyền trong tay, kể cả quyền giết vua mà Hồ Quí Ly đã sử dụng một cách thường xuyên, Hồ Quí Ly không đem áp dụng? Đó là một câu hỏi lớn mà sẽ khng bao giờ la tìm được câu trả lời chính xác. Một trong những giải thích có thể là Hồ Quí Ly cũng chẳng thực sự coi trọng nhưng biện pháp canh tân sau đó Quí Ly cũng coi trọng cái học từ chương như mọi người thời đó, những biện pháp mà Quí Ly đưa ra chỉ là để đánh đổ các giá trị cũ để đào thải lớp nho sĩ thời đó, được quí trọng vì cái học từ chương và trong đại đa số không ủng hộ Quí Ly.

Người ta cũng ca tụng Quí Ly đã biết phát minh ra tiền giấy. Có người còn nói Quí Ly dáng được coi là thủy tổ của ngành ngân hàng! Những điều này hoàn toàn sai và chứng tỏ rằng những người nói như vậy chỉ phát ngôn bừa bãi chứ họ không biết gì về ngân hàng và tiền tệ. Tiền giấy của Quí Ly không khác gì tiền mã đã có t lâu rồi để cúng tế người chết mà thôi, nó hoàn toàn không có một giá trị thanh toán nào cả. Hành động của Quí Ly chỉ là một hành động của kẻ tham lam muốn cướp hết vàng bạc trong nước cho mnh và những đồng tiền giấy chỉ là những chứng nhận đã nộp vàng để được yên thân mà thôi.

Nếu quả thực những điều Quí Ly làm là những biện pháp canh tân thực sự, thì một trí tuệ đủ kh năng nhìn ra những biện pháp đó cũng phải ý thức được, ít nhất một phần nào, những khó khăn của việc thực hiện và đã không thi hành một cách vội vã, cẩu thả như Quí Ly đã làm. Trên thực tế, ngoại trừ việc cướp bóc vàng bạc, Quí Ly chẳng làm được gì cả. Nhà Hồ cung chỉ kéo dài được bảy năm. Người ta trách Mạc Đăng Dung là làm nhục quốc thể, quì lạy tướng Trung Hoa và cắt đất dâng cho Trung Quốc. Việc quì lạy tướng Tàu là tồi thực, nhưng đó là điều mà các vua Việt nam ngày trước vẫn thường làm trước sứ giả Trung Quốc, không phải riêng gì Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung đã quỵ luỵ hơn các vua khác vì lúc đó ông ta không đứng trước một sứ giả mà trước một đạo quân hùng mạnh sắp tràn vào Việt nam xâm chiếm. Hành động hèn nhát của Đăng Dung đã cứu được đất nước khỏi chiến tranh và ngoại thuộc. Hèn thực, nhưng cũng may thay cho nước ta. Người ta lên án Mạc Đăng Dung đã dâng đất cho Trung Hoa. Nhưng sự dâng đất này chỉ là hình thức và không đáng kể. Mạc Đăng Dung chỉ dâng năm động ở Cao Bằng. Năm cái động đó có đáng gì đâu so với ngay cả những đất đai mà nhà Lý, được coi là oanh liệt, đ phải nhượng cho Trung Quốc để cầu hòa, sau nhiều cố gắng chiến dấu. Vả lại, người Trung Hoa chẳng bao giờ sang tiếp thu năm cái hang núi này c, cho nên trên thực tế, Mạc Đăng Dung không làm mất một tấc đất nào.

Người ta coi Hồ Quí Ly hơn Mạc Đăng Dung, ở chỗ Hồ Quý Ly đã dám đánh lại quân Tàu, dù là đánh để rồi thua và mất nước. Người ta sỉ vả Mạc Đăng Dung là đã hèn nhát xin hàng tướng Tàu, dù nhờ đó mà Việt nam tránh được chiến tranh và không mất nước. Mà thực sự Hồ Quí Ly có đánh được gì đâu, quân Minh đi đến đâu, quân Hồ bỏ chạy đến đó, như ngày trước quân Chiêm liến đến đâu, Hồ Quí Ly chạy đến đó, chỉ trong vài tháng cả vua quan bị bắt trói giải về Tàu.

Tại sao lại có việc trọng Hồ Quí Ly, khinh Mạc Đăng Dung? Có hai lý do. Lý do thứ nhất là tinh thần quốc gia chúng ta không cao. Ta không coi trọng những gì có lợi cho đất nước mà chỉ để ý xem cái gì là độc đáo trong một con người; chúng ta vẫn suy luận như những cá nhân chứ không phải như một dân tộc. Lý do thứ hai là óc tôn thờ chiến tranh đã nói ở một phần trước trong sách này. Đánh bao giờ cũng có sức quyến rũ hơn hòa, dù là đánh ngu xuẩn như Hồ Quí Ly. Cho đến ngày nay, lập trường trọng Hồ khinh Mạc vẫn còn ngự trị, điều đó chứng tỏ trí tuệ tập thẻ chúng ta vn còn mê muội, tâm lý của chúng ta vẫn chưa được khai thông.

Chương thứ :33 "

Ông Hồ Chí Minh để lại một câu nói nổi tiếng, đã rất nhiều lần được nhắc lại và phá vài kỷ lục về in ấn: Nước Việt nam là một, dân tộc Việt nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không thể nào thay đổi, ông ấy không nói thêm nhưng mọi người đều hiểu: nước Việt nam phải thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng Sản Việt nam. Đó là một câu nói bày tỏ quyết tâm sắt đá áp đặt bằng mọi giá chế độ cộng sản trên toàn cõi Việt nam. ở vào thời điểm 1969, khi cuộc chiến Nam Bắc đang diễn ra khc liệt, đó là một khẩu hiệu chiến tranh. Mọi người đều đã hiểu như vậy và đúng là phải hiểu như vậy.

Ngoài ra, câu nói Nước Việt nam là một chỉ có thể là một quyết tâm chứ không phải là một sự thực nếu nhìn vào lịch sử nước Miền Nam Việt nam được mở ra cùng với thế kỷ 17, khi Nguyễn Hoàng, còn gọi là chúa Tiên, bắt đầu khai phá, một thời gian sau khi đem dân vào Nam tránh họa Trịnh Kiểm. Con cháu Nguyễn Hoàng thiết lập ra một đất nước riêng biệt, đánh nhau với họ Trịnh để giữ bờ cõi trong gần một thế kỷ, sau đ Đàng Trong (tức miền Nam) và Đàng Ngoài (tức miền Bắc) sống như hai quốc gia riêng biệt và thù địch cho tới khi nhà Nguyễn bị Tây Sơn tiêu diệt vào năm 1778. Kế đó anh em Tây Sơn chia rẽ nhau và đất miền Nam của chúa Nguyễn bị chia làm hai, phía Bắc thuộc Nguyễn Huệ, phía Nam thuộc Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ. Ngay khi nhà Tây Sơn dựng lên, Nguyễn ánh khởi binh khôi phục nhà Nguyễn, mấy lần chiếm li Gia Định rồi lại bị đánh bại. Nhưng khi anh em Tây Sơn chia rẽ nhau, Nguyễn ánh đã làm chủ được vùng đất từ Biên Hòa trở vào cho tới mũi Cà Mau. Cho tới trận Đống Đa, năm 1789, nước ta thực s bị chia làm bốn nước. Miền Bắc của vua Lê, từ Nghệ An cho tới Quang Nam của Nguyễn Huệ, miền Nam Trung Phần của Nguyễn Nhạc, và Nam Phần thuộc về Nguyễn ánh. Có lúc chúng ta có tới ba hoàng đế: Chiêu Thống tức Lê Duy Kỳ, Quang Trung tức Nguyễn Huệ và Thái Đức Hoàng Đế tức Nguyễn Nhạc, và một vương: Nguyễn ánh. Sau trận Đống Đa, Nguyễn Huệ diệt nhà Lê, ta còn lại hai hoàng đế và một vưng. Đến năm 1802, Gia Long mới thống nhất được sơn hà. Như thế có nghĩa là một nửa của đất nước mới bắt đầu được hội nhập dần dần theo một tiến trình bắt đầu từ cách đây hơn bốn trăm năm và mới kết thúc cách đây hai trăm năm. Trong khoảng thời gian bốn thế kỷ qua, cùng với sự mở rộng đất nước, chúng ta chia đôi trong hơn hai thế kỷ, có lúc chia ba, có lúc chia bốn. Gia Long thống nhất đất nước được sáu mươi hai năm thì Nam Phần bị Pháp chiếm làm thuộc địa, rồi hai mươi năm sau đó cả nước bị Pháp đô hộ và chia ra làm ba Kỳ: miền Bắc, miền Trung và miền Nam với ba chế độ chính trị khác nhau. Sau thế chiến hai, nước Việt nam bị chia làm hai vùng quốc gia và cộng sản, dưới hai chế độ khác nhau. Từ năm 1954 đến năm 1975, hai vùng quốc gia và cộng sản tập trung lại thành hai miền Nam Bắc tiếp giáp nhau ở sông Bến Hải, vĩ tuyến 17. Đất nước lại thống nhất trở lại từ năm 1975.

Nói chung là từ ngày bắt đu mở ra miền Nam, cách đây trên bổn trăm năm, chúng ta có được tám mươi năm thống nhất. Tám mươi năm trong thời gian hơn bốn trăm năm kể ra là quá ít, nhưng con số rất khiêm nhường đó cũng đã bỏ qua đi những chuyện các sứ quân nói lên hùng cứ một phương như vẫn xảy ra thường xuyên dưới triềư Nguyễn. Nó cũng không kể tới sự kiện là ngay cả khi có thống nhất về mặt hành chánh chúng ta cũng không có thống nhất trong dân tộc. Dưới thời nhà Nguyễn, nhân dân bị chia làm hai loại, giữa những người không có hay có đạo Công giáo. Khoảng một trăm ngàn người Công giáo đã bị sát hại chì vì tín ngưỡng của họ. Từ sau 1975, dân tộc cũng bị chia làm hai loại người, những người cộng sản rất thiểu số nhưng lại chiếm tất cả mọi quyền hành và những người không cộng sản chiếm đại đa số nhưng lại chỉ có quyền phục tùng.

Tóm lại, từ bốn thế kỷ qua, đất nước Việt nam ít khi là một, còn dân tộc Việt nam thì chưa bao giờ là một cả. Không những có chia cắt và chia rẽ, mà còn chia cắt để tàn sát lẫn nhau, chia rẽ để chà đạp và bách hại lãn nhau. Làm sao có thể ngạc nhiên nếu chúng ta không vươn lên được?

Cái quá trình chia cắt và chia rẽ đó khiến chúng ta nhìn nhau không phải như người cùng một nước, mà là những người quốc gia hay cộng sản, người Bắc hay người Nam hay người Trung, người Công Giáo hay người Phật tử, người giàu hay người nghèo. Không những chia rẽ nhau mà còn thù ghét nhau.

Năm 1946, khi người Pháp trở lại Nam Phần, họ lập tức tìm được những người cộng tác để lập ra Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc! với chủ trương tách Nam Phần thành một quốc gia riêng. Phong trào đầu tiên mà chính quyền này phát động là bách hại những người gốc miền Bắc không may có mặt tại Sài gòn. Kỹ thuật rất giản dị, một người khả nghi bị chặn lại và bị bắt phải nói ba tiếng Tân Sơn Nhất. Nếu phát âm là Tâng Sưng Nhức thì được coi là người Nam, tức là người tốt; còn nếu phát âm là Tân Sơn Nhất là bị nhận ra là Bắc kỳ và bị ăn đòn. Điều đáng buồn là đây không phải chỉ là một chủ trương tồi tệ của một thiểu số manh động, đa số những người tham dự vào cái trò chơi đánh Bắc kỳ này là những người rất bình thường. Tất cả những nạn nhân đều không phải là những người giàu có và thế lực, những người này có đầy đủ mọi quan hệ cần thiết để che chở cho họ, họ vẫn sống yên ổn. Tất cả những nạn nhân đều là những người cùng khổ bị đem vào làm phu ở trong Nam. Năm 1945, sau khi tuyên bố thành lập nước Vit nam Dân Chủ Cộng Hòa và nam được chính quyền, đảng cộng sản đã tàn sát thẳng tay những phần tử Việt nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt, mà họ thừa biết là rất yêu nước, vì không chấp nhận chủ nghĩa của họ.

Ông Hồ Chí Minh coi tất cả những người cộng sản trên thế giới là anh em (ông từng viết: Năm châu bốn bề là nhà, bốn phưng vô sản đều là anh em), nhưng ông lại coi những đồng bào Việt nam của ông không chia sẻ lý tưởng Mác-Lênin của ông là thù địch và ông giết họ không gớm tay. Ngay cả những người cộng sản Đệ Tứ, cũng tôn sùng Mác và Lênin như ông nhưng không thuộc trường phái Stalin, ông cũng thẳng tay tiêu diệt. Dĩ nhiên để có lý cớ tàn sát họ, ông buộc cho họ đủ thứ tội phản động, phản quốc, Việt gian, v.v. Yêu nước trước hết là phải yêu đồng bào. Ai muốn nói ông Hồ Chí Minh tài giỏi, quyết tâm, can đảm là quyền của họ, nhưng không ai có thể thuyết phục tôi rằng ông là một người yêu nước. Phải nghĩ thế nào về cuộc cải cách ruộng đất tại miền Bắc năm 1955? Những tài liệu và nhân chứng khác nhau ước lượng số người bị giết từ 20.000 đến 100.000. Trong đại bộ phận họ không phi là những người giàu - mà giàu có phải là một tội đáng chết không? - họ chỉ là những người có năm, mười mẫu ruộng, tuy không đến nỗi cng khổ như những người bần cố nông khác nhưng cũng là những người nghèo. Tôi đã gặp rất nhiều người từng chứng kiến những vụ đấu tố hồi đó, họ cho hay rằng có những người dân quê rất bình thường đã tham gia một cách man rợ vào những cuộc giết người đó, không phải vì bị ép buộc mà với những con mắt rực lửa hận thù. Nếu cải cách điền địa chỉ là do đã tâm của đảng cộng sn và của các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hồ Viết Thắng thì cũng đã là ghê gớm lắm rồi. Nhưng thực tế còn đau lòng gấp nghìn lần. Nó chứng tỏ rằng người Việt nam ác độc với nhau, và do đó không đáng với tên gọi là một dân tộc.

Ngay gần đây, vào năm 1992, tại trại cấm Hồng Ông, nơi hàng chục ngàn người Việt nam tị nạn bị nhốt vào các trại tù để sắp sửa bị đuổi về cũng đã xảy ra một trường hợp hổ nhục. Những con người cùng xấu số và đều khổ như nhau đó đã không thương nhau mà còn tàn sát nhau giữa người ra đi từ miền Bắc và người ra đi từ miền Nam.

Ti may mắn được đi du học rồi lớn lên và làm việc tại các nước phương Tây. Điều tôi học hỏi được không phải ở trong những cuốn sách mà ở trong những cái nhìn. Người Mỹ nhìn nhau là người Mỹ, rất ít khi họ để ý nhãn hiệu dân chủ hay cộng hòa, người ở bang New York hay người ở bang Michigan. Người Pháp nhìn nhau như những người Pháp trước khi là người ủng hộ đảng Xã Hội hay đảng De Gaulle, người Anh nhìn nhau như những người Anh trước khi là những người lao động hay bảo thủ. Họ là những dân tộc. Hơn hai ngàn năm lịch sử dng nước của ta không đem ta lại gần nhau mà còn khiến ta thù địch với nhau. Chúng ta phải nhìn lại mình và nghĩ lại mình.

Dĩ nhiên chúng ta đều muốn nước Việt nam thống nhất và dân tộc Việt nam hòa hợp. Đó là điều kiện bắt buộc. Hoặc là thế, hoặc là chúng ta sẽ không có một tương lai nào cả. Nhưng nước Việt nam là một, dân tộc Việt nam là một là điều mà chúng ta phải xây dựng ra ch chưa sẵn có. Và để xây dựng đất nước Việt nam đó chúng ta cần một tinh thần mới. Đó là tinh thần chấp nhận nhau, quí mến nhau, tôn trọng những dị biệt của nhau để cùng nhau xây dựng một tương lai chung.

Tinh thần đó là bắt buộc nhưng chưa đủ, chúng ta cần ý thức được một cách thật sâu đậm sự phân hóa và thù hận trầm trọng ca đất nước ta. Chúng ta cần ý thức được rằng Hòa Giải và Hòa Hợp Dàn Tộc là một vấn đề vô cùng nặng nề và gai góc, cho nên cần được thực hiện với tất cả quyết tâm, với tất cả tâm hn và với tất cả kiên nhẫn.

Khi nhóm Thông Luận để xướng ra lập trường Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc, cái nhìn của chúng tôi không phải chỉ hạn hẹp trong khuôn khổ cuộc tranh chấp quốc gia - cộng sản, mà là cái nhìn bao quát cho cả một dòng lịch sử đau thương của dân tộc này. Chúng tôi đã gặp sự tiếp nhận nào? Chúng tôi đã gặp những đả kích gay gắt và hằn học từ đủ mọi phía. Ngưi ta mạt sát chúng tôi là bọn cơ hội chủ nghĩa, bọn đón gió trở cờ, bọn phản bội. Nhưng phản bội cái gì?

Cũng có những người phản bác rằng Dân tộc Việt nam là một khối thống nhất, không có gì để thù hằn nhau. Cường điệu hay vô ý thức?

Ôn hòa hơn, nhiều người đánh giá chúng tôi là ngây thơ ấu trĩ, là thiếu căn bản dân tộc, là mất gốc, là không thuộc lịch sử. Nhưng dân tộc no, gốc nào và lịch sử nào? Một số người độ lượng hơn cho chúng tôi là những người tình cảm và không tưởng. Nhưng làm sao có thể đoạn tuyt được với cái quá khứ đau buồn đè nặng từ nhiều thế kỷ và vượt lên trên được cả một khối hận thù chồng chất này nếu không có một tấm lòng thực lớn?

Để thắng những trở ngại quá lớn lao, thái độ thực tiễn nhất là phải ước mơ. Vấn đề thống nhất đất nước - thống nhất không những về mặt hành chánh mà cả trong lòng người - và hòa hợp dân tộc chắc là không thể giải quyết xong ngay trong sinh thời của tác giả và độc giả cuốn sách này, nhưng nếu dồn mọi cố gắng, chúng ta có thể giải quyết một phần trong thời đại của chúng ta, và tạm xong sau vài thế hệ kế tip.

Chương thứ :34 "

Lúc sắp rời Việt nam đi du học tôi có được nghe nói khá nhiều về một cuốn sách mới xuất bản với một cái tên khá ngộ nghĩnh Đem Tâm Tnh Viết Lịch Sử. Hình như là của Nguyễn Kiên Trung nếu tôi không nhớ sai.

Cuốn sách đó tôi không đọc một phần vì không có cơ hội, một phần cũng vì cái tên ngộ nghĩnh đó. Tại sao lại có thể ly tâm tình mà viết lịch sử? Lịch sử phải chính xác và khách quan mới có thể dùng làm tài liệu để suy nghĩ và làm việc. Đem tâm tình để đọc lịch sử cũng đã là điều phải rất thận trọng, còn đem tâm tình mà viết lịch sử là điều hết sức nguy hiểm. Tâm tình nhất định là chủ quan rồi. Nếu tâm tình của mình sai lệch thì sao? Mình có thể đầu độc những tâm hồn trong trắng.

Nhưng Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử là một truyền thõng của các xã hội thuộc văn hóa Trung Hoa. Các quan viết sử nhục mạ và bôi bẩn một số nhân vật làm cho họ bị đời sau nguyền rủa đồng thời cũng tâng bốc, làm đẹp và thánh hóa một số nhân vật khác để làm gương mẫu cho các thế hệ sau.

Cách viết sử này chỉ nhắm một mục đích chính trị ngắn hạn nhưng với thời gian nó đã tạo ra một tâm lý tai hại là lấy người xưa và việc xưa làm mẫu mực. Không những tai hại mà còn nguy hiểm, bởi vì qua các anh hùng, một số giá trị bệnh hoạn được lưu truyền và làm ô nhiễm trí tuệ.

Một thí dụ. Còn gì trong trắng hơn tâm tình các em bậc học sinh tiểu học? Vậy mà đa số các em lại say mê Quang Trung Nguyễn Huệ, một con người vô cùng hung bạo v hiếu sát. Trong đầu họ, và trong đầu chính tôi vào lứa tuổi đó, Nguyễn Huệ là tấm gương sáng. Đó cũng là vì đầu óc ngây thơ của tôi đã bị ảnh hưởng của những bậc chú bác đem tâm tình viết và đọc lịch sử. Nhìn vào lịch sử để hiểu tâm lý và tập quán của dân tộc mình, để thấy cái mạnh cái yếu của nước mình, để biết cái gì có thể làm và cái gì không nên làm thì rất hay. Nhng bắt chước cả kỹ thuật của người xưa là điều rất khờ khạo. Tâm lý bắt chước người xưa thực ra còn mạnh lắm. Vào cuối thập niên 80, một tổ chức chính trị lưu vong, Mặt Trận Quốc Gia Thng Nhất Giải Phóng Việt nam của ông Hoàng Cơ Minh, đã tung ra cả một đợt học tập qui mô về Quang Trung Hoàng Đế. Thôi thì đức của vua Quang Trung, phép trị nước của vua Quang Trung, mưu thuật Quang Trung, v. v... Nguyễn Huệ trở thành một đề tài học tập, một thứ cẩm nang hành động. Sự tôn thờ thần tượng đã làm cho chúng ta quên mất rằng thời đại của chúng ta đã tiến bộ rất nhiều so với thời xưa. Chúng ta có thê rút tỉa ra bài học chính trị nào của một thời đại trong đó vị hoàng dế muốn làm gì thì làm, muốn giết ai thì giết? Chúng ta có thể rút tỉa ra bài học văn hóa nào ở thời đại chỉ có chiến tranh và chém giết chứ không có máy in, và thiếu cả bút mực? Chúng ta có thể bắt chước chiến thuật nào nơi những người đi b đánh nhau bằng gươm giáo?

Tâm lý tôn thờ Nguyễn Huệ thật là dễ sợ và tôi đã có hai kinh nghiệm.

Lan thứ nhất trong một bữa ăn sinh nhật của một cô bạn, tôi nói chuyện với một cựu đại úy quân đội Việt nam Cộng Hòa đồng thời cũng là cựu giáo sư trung học. Câu chuyện xoay sang Nguyễn Huệ vì anh này lúc đó là một cán bộ của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh và muốn chia sẻ với chúng tôi những điều anh vừa học tập. Anh ta quả quyết rằng nếu Nguyễn Huệ còn sống thì Nguyễn ánh không những không thống nhất được đất nước mà còn toi mạng dưới tay Nguyễn Huệ. Tôi đáp lại rằng điều đó không chắc vì đất Gia Đình giàu có, dư khả năng cung cấp lương thực, trong khi miền Bắc lúc đó suy kiệt, vả lại Nguyễn ánh cũng là một người đởm lược, lại còn học được cách dùng binh của phương Tây do một số tay đánh thuê mà ông ta chiêu mộ, về vũ khí Nguyễn ánh chắc cũng hơn. Chỉ có thế thôi mà cũng đủ làm bùng lên một cơn thịnh nộ đến nỗi cô chủ nhà phải ra xem. Anh ta tha tội cho tôi, nhưng ân cần nhắn nhủ: Anh nên học lại sử Việt nam!. Người cộng sản có lý do, và dụng ý để tôn thờ Nguyễn Huệ, những một tổ chức chống cộng lấy chiêu bài tự do dân chủ mà cũng tôn vinh Nguyễn Huệ thì quả là bắt chước một cách ngờ nghệch.

Kinh nghiệm thứ hai đỡ gay cấn hơn, nhưng lại nhiều ý nghĩa hơn. Nó xảy ra trong một cuộc họp mặt của một nhóm trí thức thượng lưu tại Paris. Đó là những người cởi mở, nhã nhặn và có tiếng tốt trong cộng đồng. Không biết ai tự nhiên đề cập đến chiến dịch học tập mưu thut Quang Trung nói trên. Một bà, tác giả của nhiều bài nghiên cứu có giá trị về sử và, theo tôi biết, hoàn toàn không có cảm tình với tổ chức Hoàng Cơ Minh, hỏi tôi nghĩ gì về Nguyễn Huệ. Tôi đáp lại rằng Nguyễn Huệ không thể bắt chước, ông ta hay ở chỗ võ nghệ hơn người, tính tình quả quyết và tự tin; những cái đó hoặc mình có hoặc mình không có chứ không thể bắt chước. Còn về kiến thức binh bị thì nếu sống lại bây giờ, tôi không chắc là ông ấy có được một nửa những kiến thức của một hạ sĩ quan. Sự bất đồng ý kin xuất hiện rõ rệt trên mặt bà nữ sĩ, và bà quả quyết rằng nếu Nguyễn Huệ sống lại và cầm quân ngay lúc này ông vẫn là một vị tướng giỏi.

Cũng trong buổi gặp mặt của giới tao nhân mặc khách đó, tôi lại đụng độ với một người bạn về một nhân vật khác mà cả hai chúng tôi đều ngường mộ: Nguyễn Du. Buổi gặp mặt đó thực là vất vả cho tôi.

Nguyễn Du thì ai cũng phải nhìn nhận là một thiên tài về thơ văn rồi. Vấn đề là tôi nghe các bạn chê văn hóa thời nay và lên tiếng bênh vực. Tôi biện luận rằng trong vòng nửa thế kỷ qua văn học và nghệ thuật Việt nam đã tiến xa gấp nhiều lần con đường đã đi được trong suốt thời gian trước đó lừ thời lập quốc. Tôi nói rằng các tác phẩm ngày nay có phẩm chất hơn ngày xưa nhiều lắm, nhưng chỉ vì nhiều tác giả quá, mà lại không ai vượt lên được, nên không thấy những hiện tượng như Nguyễn Du, Cao Bá Quát trong thời đại của họ. Có lẽ nếu dừng ở đấy th mọi người đều nghe lọt tai, nhưng tôi lại dại dột viện dẫn một thí dụ. Tôi nói nếu lấy một người rất rành về tiếng Việt nhưng chưa biết truyện Kiều rồi đưa cho anh ta đọc truyện Kiều và một tập thơ gồm những bài thơ đăng trên các báo chí ở khu Bolsa, tôi bảo đảm họ sẽ thấy tập thơ Bolsa hay hơn truyện Kiều. Tôi bị phản đối dư dội, một chị hỏi tôi đã uống rượu chưa mà phái ngôn bừa bãi như thế. Hình như mọi người, trừ tôi, đều đồng ý là cho tới nay vân chưa tác phẩm nào qua mặt được truyện Kiều. Cũng may là trong văn thơ không có việc biểu quyết giá trị, nếu không thì tôi đã thảm bại rồi. Cái tâm lý tôn sùng và bắt chước người xưa không phải chỉ giới hạn trong cách viết và đọc sử. Nó đã lây lan ra văn học cũng như mọi bộ môn khác.

Tôi rất sợ những người đem tâm tình viết lịch sử vì một cách chân tình họ có thể bóp méo lịch sử, thần thánh hóa người xưa và cũng có cái tập quán tai hại là lấy người xưa làm khuôn mẫu. Chúng ta thần thánh hóa người xưa vì chúng ta không quí trong chính mình: chúng ta không tin ở chính mình nên chúng ta đã không nhận ra được nhưng hào kiệt ngay trong thời đại này, mặc dầu họ khá dông đảo, vì lý do giản dị là họ có nhiều điểm giống mình hoặc không hơn gì mình; mà đã không hơn mình thì nhất định là phải tầm thường rồi.

Chúng ta chưa biết cách quản lý tổ tiên. Chủng ta cần tìm ra cách nào khác để quí trọng người xưa. Để vẫn yêu quí tổ tiên mà vẫn quí mình. Có quí mình chúng ta mới có thể nhìn ra những con người lỗi lạc ngay giữa chúng ta. Và chỉ có những hào kiệt của thời nay mới giúp được chúng ta. Trên đường chinh phục tương lai, chúng ta cần nhìn về đằng trước, chứ không thể chỉ nhìn đằng sau. Cũng như khi lái xe, chúng ta không thể chỉ nhìn kính chiếu hậu. Ôn cố tri tân (ôn lại chuyện xưa để biết chuyện ngày nay) là một phương pháp sai. Lấy những giải pháp ngày xưa cho nhng vấn đề hôm nay còn vụng về hơn là áp dụng những khuôn mẫu bên Tây bên Tàu cho nước ta. Lầm thời đại nghiêm trọng hơn lầm không gian.

Chương thứ :35 "

Những điều tôi vừa viết về Nguyễn Huệ chắc đã làm một số độc giả nỗi nóng. Một số vị có thể hỏi tại sao tôi lại gây tranh cãi vô ích về những vấn đề văn hóa và lịch sử giữa lúc cần dồn hết nghị lực cho cuộc vận động dân chủ. Lý do là vì tôi thấy những cuộc tranh cãi này không những không vô ích mà còn rất cần thiết. Cuộc tranh đấu cho tự do và dân chủ đã đi vào một giai đoạn mới. Sau nhiều tranh luận, những người dân chủ Việt nam đã đạt tới đồng thuận về một lập trường tranh đấu. Đây là một khai thông quan trọng và rất đáng mừng. Nhưng tại sao có đồng thuận rồi mà cuộc vận động dân chủ vẫn chưa khởi sắc, đồng bào trong và ngoài nước vẫn chưa hưởng ứng ở mức độ chờ đợi? Theo tôi, đó là vì chúng ta đụng phải một bức tường tâm lý kiên cố do lịch sử và văn hóa để lại. Không chọc thủng được bức tường này chúng ta sẽ dẫm chân tại chỗ, không giành được dân ch, và ngay cả nếu có giành được dân chủ cũng không thể vươn lên bắt kịp các quốc gia tiên tiến. Mà muốn chọc thủng bức tường tâm lý này th bắt buộc phải đặt lại một số vấn đề văn hóa và lịch sử.

Tôi không vô ý thức đến độ không biết rằng đụng tới lịch sử và văn hóa là đụng tới phần thầm kín, thiêng liêng và cấm kỵ của một dân tộc, do đó tất nhiên phải chờ đợi những phản ứng giận dữ. Chúng ta thua kém thế giới một cách bi đát và sự tồn vong của đất nước đang bị đe dọa. Khi mộng ước của rất nhiều người hiện nay chỉ giản dị là được rời Việt nam đi làm công dân một nước khác, khi có những bà mẹ đặt đứa con ba tuổi lên chiếc thuyền mỏng manh vượt biên với hy vọng duy nhất là nó tìm đưc một cuộc sống bình thường thôi tại một phương trời xa lạ nào đó, là chúng ta đang sống một thảm kịch quốc gia.

Nhưng giải thích thảm kịch đó bằng những lý do cụ thể như bối cảnh thế gii, sự mù quáng của vua quan nhà Nguyễn, chính sách đen tối của thực dân Pháp, sự thô bạo của đảng cộng sản, sự tồi dở của các chính quyền quốc gia, những âm mưu của người Mỹ, v.v. là những lp luận mà chúng ta dễ chấp nhận. Ngược lại nói rằng số phận hẩm hiu của chúng ta là hậu quả của chính cái mà chúng ta trân trọng nhất: hồn tính, giáo dục, di sản tinh thần của ông cha để lại thì chúng ta cảm thấy bị xúc phạm.

Di sản tinh thần của một dân tộc thể hiện rõ nhất qua các anh hùng. Các anh hùng dân tộc là thuốc thử màu bộc lộ tâm lý của một dân tộc. Qua cách chọn lựa và tôn vinh các anh hùng, các dân tộc tiết lộ những giá trị mà mình ôm ấp. Nếu chúng ta thay đổi cách nhận định anh hùng dân tộc thì đồng thời chúng ta cũng thay đổi các giá trị nền tảng của xã hội ta, chúng ta sẽ thay đổi cách suy nghĩ và hành động và do đó thay đổi số phận của chúng ta.

Đối với đại đa số người Việt, Nguyễn Huệ không phải chỉ là một anh hùng mà còn là một thần tượng. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương, mà tôi rất ái mộ, đã ca tụng Nguyễn Huệ và chiến thắng Đống Đa bằng những vần thơ nồng nàn trong một bài thơ rt dài mà tôi xin trích hầu độc giả hai câu:

Muôn chiến công một chiến công dồn lại

Một tấm lòng muôn vạn tấm lòng mang.

Chúng ta đã được huấn luyện ngay từ buổi đầu đời, từ ghế trưng tiểu học để sùng bái Nguyễn Huệ. Như vậy Nguyễn Huệ vừa là thần tượng vừa là mối tình đầu của trí tuệ Việt nam, đụng tới ông là đụng tới cả một tín ngưỡng và một đam mê.

ở đây xin mở một dấu ngoặc đơn ngắn. Có một cái gì rất không ổn trong cách mà thanh thiếu niên Việt nam được giáo dục để đánh giá các anh hùng dân lộc. Nước ta có nhiều anh hùng nhưng có ba vị có công lớn nhất: Lý Công Uẩn mở ra đất nước có kỷ cương, văn hiến; Trần Hưng Đạo đánh đuổi quân Nguyên giúp chúng ta giữ được bờ cõi tránh đợc sự dầy đạp của quân Mông Cỗ hung bạo; Nguyễn Hoàng mở ra miền Nam trù phú. Cả ba đều là nhưng con người đức độ, đem phồn vinh cho dân chúng. Thế mà chỉ có Trần Hưng Đạo được nhắc tới thường xuyên, nhưng cũng rất xa sau Nguyễn Huệ; Lý Công Uẩn thì họa hiếm; còn Nguyễn Hoàng thì không bao giờ.

Cần phải trở lại trường hợp Nguyễn Huệ bởi vì đó là một sai lầm đã kéo dài quá lâu và đã gây quá nhiều tác hại. Tôi không phải là sử gia, cũng không phải là một nhà nghiên cứu mà là một người hoạt động chính trị. Người hoạt động chính trị nói những điều cần nói, có bổn phận phải nói trung thực, dựa vào những sự kiện nghiêm túc và lý luận một cách lương thiện. Nhưng người hoạt động chính trị nếu không có th giờ như trường hợp của tôi, không có bổn phận phải ghi chú dữ kiện lấy từ sách nào, chương nào, trang nào, v.v... Đó là công việc của nhà nghiên cứu. Những dữ kiện mà tôi dựa vào để bàn về Nguyễn Huệ là có thực, các sử gia đều có. Trước hết là một vài nhận định về chiến thắng Đống Đa.

Nguyễn Huệ được tôn sùng nhờ trận Đống Đa mùa Xuân Kỷ Dậu 1789. Những công đức và thành tích khác của ông chỉ là phụ họa, đôi khi thêm thắt và thêu dệt. Theo ký ức tập thể của chúng ta trong trận này Nguyễn Huệ đã chỉ trong một đêm phá tan hai mươi vạn (hai trăm ngàn) quân Thanh, tránh cho chúng ta ách Bắc thuộc. Thực ra các tài liệu của nhà Thanh cho thấy một cách rất rõ rệt là vua Càn Long không có ý định đánh chiếm nước ta. Không những thế vua Càn Long còn cấm Tôn Sĩ Nghị giao chiến. Nhà Thanh can thiệp vì có sự cầu cứu của mẹ vua Lê Chiêu Thống và đám quần thần nhà Lê, nhưng ý đồ của họ chỉ là dọa để Nguyễn Huệ thần phục Lê Chiêu Thống, và ngay cả nếu Nguyễn Huệ cứng đầu không chịu cũng chỉ giúp Lê Chiêu Thống có thanh thế mà chiêu tập lực lượng để chia đất với Nguyễn Huệ mà thôi. Dĩ nhiên nếu Vit nam tự nguyện sát nhập vào Trung Quốc thì nhà Thanh sẽ rất hài lòng nhưng họ không chấp nhận trả một giá nào cả.

Con số hai chục vạn quân Thanh cũng rất sai sự thực. Tôn Sĩ Nghị sang bằng đường bộ, mà đường bộ thì bị vách núi dầy đặc ngăn cách không thể di chuyển một số quân khổng lồ như vậy. Trong những lần xâm chiếm qui mô Việt nam, quân Trung Quốc đều chủ yếu xâm lăng bằng đưng thủy qua cửa Bạch Đằng hay Nghệ An. Thành phố Hà Nội hồi đó có bao nhiêu dân cư? Mười ngàn, mười lăm ngàn, hay hai chục ngàn là cùng. Không cần hai trăm ngàn, chỉ cần năm chục ngàn thôi thì cũng đã là cả một sự tràn ngập không còn chỗ đứng, chưa nói tới việc quân Thanh kéo nhau đi chợ mua bán như sử chép. Các tài liệu còn giữ lại chỉ nói quân Thanh đóng đồn ở vài làng nhỏ cạnh Hà Nội.

Niềm tự hào dân tộc của tôi bị thương tổn lần đầu tiên vào khoảng năm 1958. Tôi đọc báo về cuộc thuyết trình của giáo sư Tưởng Quân Chương, một chuyên gia người Đài Loan về Việt nam, tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Sự hiểu biết rất non nớt của tôi lúc đó cũng đủ để tôi ý thức rằng ông hơn hẳn nhiều trí thức Việt nam ngay v chính lịch sử và văn hóa Việt nam. Ông lập luận chắc chắn, dẫn chứng tài liệu đầy đủ về văn học Việt nam, từng tác phẩm, từng tác giả. Đề cập đến trận Đống Đa, Tưởng Quân Chương dẫn tài liệu của Thanh triều, nói rằng Tôn Sĩ Nghị tổng đốc Lưỡng Quảng đã đem sáu ngàn kỵ binh sang Việt nam để phô trương thanh thế và làm lễ thụ phong cho Lê Chiêu Thống nhưng đã bị Nguyễn Huệ đnh bất ngờ, thua chạy về và bị cách chức. Con số này theo tôi là hợp lý. Tôn Sĩ Nghị từ Trung Quốc sang Việt nam trong một hai tuần lễ thì chắc chắn là sang bằng ky binh rồi, mà ky binh thì sáu ngàn đ là nhiều lắm đối với hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, muốn hơn cũng không có. Nên nhớ là nhà Thanh lúc đó yên bình đã mấy trăm năm nên không còn giữ quân đội hùng hậu nữa. Tôi chưa thấy sử gia Việt nam nào bác bỏ sự kiện của ông Tưởng Quân Chương.

Một tài liệu do người Việt nam viết về trận Đống Đa là cuốn Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia Văn Phái, một cuốn sách khá thuận cho Tây Sơn. Theo cuốn sách này thì khi quân Thanh đến, Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm bàn với nhau rằng đánh quân Thanh không được vì dân chúng Bắc Hà

Chương thứ :36 "

Khi đem tâm tình viết lịch sử mà tâm tình lại có trộn lẫn đam mê thì lịch sử không thể chính xác. Nhưng hậu quả khác nhau tùy theo đam mê theo hướng nào. Nếu đam mê theo chiều hướng sùng ái như đói với Nguyễn Huệ thì hậu quả là ta đi vào con đường thủ cựu tôn thờ quá khứ. Nếu ngược lại, đam mê theo chiều hướng thù ghét ta có thể phạm vào một bất công lớn đối với một người đã nằm xuống không còn khả năng trả lời nữa, và nhất là có thể tạo ra đỗ vỡ lớn giữa những người còn sống. Giữa một người đề cao Nguyễn Huệ và một người đề cao Nguyễn ánh vẫn có thể có sự cảm thông, nhưng một người chống Nguyễn ánh và một người đề cao Nguyễn ánh khó có thể đối thoại với nhau. Lê Chiêu Thống và Nguyễn ánh là hai trường hợp điển hình cho đam mê lịch sử theo chiều hướng bài xích.

Lê Chiêu Thống bị mọi người mạt sát vì đã cứu viện quân Thanh, cõng rắn cắn gà nhà và không có ai bênh vực. Ký ức về ông mãi mãi hoen ố. Nhưng Lê Chiêu Thống không đáng phải chịu bản án lịch sử quá nặng nề đó. Khi Nguyễn Huệ vừa diệt xong nhà Trịnh và cưới công chúa Ngọc Hân thì vua Hiển Tông nhà Lê lâm bệnh nặng rồi từ trần không con nối dõi. Họ Lê thù họ Trịnh áp bức mình quá đáng nên quyết nhân cơ hội này lập lại cơ đo thực sự. Họ suy tôn con ngời lỗi lạc nhất của dòng họ Lê lúc đó là hoàng tôn Lê Duy Kỳ, một người xét theo gia phả đáng lẽ không được làm vua. Duy Kỳ lên ngôi đặt niên hiểu là Chiêu Thống Hoàng Đế. Nội cái tên cũng chứng tỏ cao vọng của ông. Nhưng Chiêu Thống hoàn toàn không có vây cánh và của cải. các Cựu thần mang tiếng là cựu thần nhà Lê nhưng đều là của nhà Trịnh. Trong hơn hai thế kỷ cầm quyền của nhà Trịnh, họ không những không có liên hệ nào với nhà Lê mà còn bị cấm tuyệt đối không được giao dịch với nhà Lê. Lê Chiêu Thống hoàn toàn cô đơn. Ông vừa cố hết sức thu thập được vài bộ hạ thì dư đảng họ Trịnh đã nỗi lên đem Trịnh Bồng về lập lại phủ chúa. Chiêu Thống bí mật vời Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân Nghệ An ra dẹp Trịnh Bồng. Đây cũng là một quyết định rất can đảm bởi vì nếu âm mưu bại lộ, ông chắc chắn sẽ bỏ mạng về tay phe đảng Trịnh Bồng. Nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh vốn đã là thủ hạ của họ Trịnh mà còn diệt nhà Trịnh thì chắc chắn không có lý do gì để phò Chiêu Thống. Nguyễn Hữu Chỉnh lại chuyên quyền, và Lê Chiêu Thống đành chịu. Lê Chiêu Thống chỉ lợi dụng thời kỳ hỗn loạn, họ Trịnh b ghét, Nguyễn Hữu Chỉnh còn bị ghét hơn, để mua thời gian, chiêu nạp thêm thủ trúc. Dự định chưa đi đến đâu thì Nguyễn Huệ đã sai Vũ Văn Nhậm ra giết Nguyễn Hữu Chỉnh và nắm quyền. Chiêu Thống cùng đám thủ hạ ít ỏi bỏ kinh đô trốn vào dân gian, bôn ba kháp đây đó lo việc khôi phục. Lê Chiêu Thống chỉ ở Thăng Long được hơn một năm. Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí nói khá tỉ mỉ về nhng cố gắng và gian lao của Chiêu Thống trong giai đoạn này, qua đó ta có thể thấy Lê Chiêu Thống là một con người rất xông pha. Lúc Chiêu Thống đương chật vật ở Thanh Hóa thì một số cựu thần nhà Lê đem mẹ ông sang Tàu cầu cứu nhà Thanh. Quân Thanh sang, Lê Chiêu Thống về Thăng Long được mấy ngày thì Nguyễn Huệ đem quân đánh tan quân Thanh. Lê Chiêu Thống chạy trốn sang Tàu. Quần thần theo ông sang Tàu lúc đó cư xử khá liêm sỉ. Mặc dầu cô đơn họ cũng dám đương đầu với nhà Thanh. Có người chửi mắng quân Thanh, để rồi tất cả bị án đầy đi khắp nơi, sang Tây Vực, lên Mãn Châu. Riêng Lê Chiêu Thống buồn phiền mà chết. Lê Chiêu Thống tỏ ra là một người yêu quê hương, trước khi chết dặn người nhà sau này nhớ đem xác ông về chôn tại cố quốc. Đó là một tình cảm mà trước ông không một người Việt nam lưu vong ở Trung Quốc nào bày tỏ. Sử chép sau khi Tây Sơn bị diệt, gia nhân đào xác Lê Chiêu Thống lên để đem về Việt nam theo lời dặn của ông thì thấy cơ thể đã tan nhưng trái tim vẫn còn tươi đỏ. Câu chuyện này chắc chắn là bịa đặt, nhưng có thể giải thích rằng gia nhân ông biết ông chết với tấm lòng tức tưởi nên tưởng tượng ra câu chuyện đó.

Lê Chiêu Thống thực sự muốn cầu cứu nhà Thanh hay là việc cầu cứu này hoàn toàn do đám tôn thất nhà Lê chủ xướng lúc vắng mặt ông? Câu hỏi này có lẽ không bao giờ sáng tỏ, nhưng khi quân Thanh đã vào tới Thăng Long rồi thì Lê Chiêu Thống khó có chọn lựa nào khác là về Thăng Long. Nếu ông không về chắc chắn Tôn Sĩ Nghị sẽ bảo họ Lê tìm người khác v họ Lê chắc chắn cũng không vì Chiêu Thống mà bỏ cơ hội ngần năm một thuở đó. Nhưng dù muốn hay không Lê Chiêu Thống đã về và đã trình diện Tôn Sĩ Nghị thì ông phải chịu trách nhiệm như chính ông đã gọi quân Thanh vào. Tội cầu viện quân Thanh nặng đến mức nào tùy quan điểm của mỗi người. Điều quan trọng là nên cố gắng tìm hiểu bối cảnh thời đại đó. Miền Nam lúc đó chưa hề hội nhập vào miền Bắc, nên người miền Bắc coi miền Nam gần như một nước khác. Có lẽ anh em Tây Sớn cũng coi như thế, nên Nguyễn Nhạc đã xưng hoàng đế ở trung Nam và dùng từ quý quốc để xưng hô với vua Lê. Người miền Bắc coi Tây Sơn gần như một đạo quân ngoại xâm, hơn nữa còn là một dám quân cướp hung bạo, nên việc họ đi cầu viện quân Thanh chống Tây Sơn là có thể hiểu được. Đọc tập thư từ của các giáo sĩ có mặt tại Bắc Hà lúc đó, ta có thể thấy rằng đa số dân Bắc Hà tán thành việc Chiêu Thống sang cầu viện nhà Thanh. Các giáo sĩ này đều là những người ủng hộ Tây Sơn cả. Giờ đây, sau hai trăm năm lịch sử, biết bao máu và nước mắt đã đổ ra trên đất nước này, ý thức quốc gia của chúng ta đã rõ rệt hơn nhiều, việc cầu viện ngoại bang có thể lên án một cách không lưỡng lự, những có lẽ không nên đem ý thức của thời nay mà xét người ngày xưa. V lại chính Nguyễn Du mà chúng ta tôn vinh như một trí tuệ siêu việt cũng đã cố chạy theo Chiêu Thống mà không được. Về mặt lập trường Nguyễn Du không khác Chiêu Thống.

Xét trong ba người giành nhau ngôi bá chủ ở thời đó: Chiêu Thống, Quang Trung và Gia Long, thì cả ba đều là những người có ý chí mạnh, có can đảm, có bản lãnh. Nhưng Quang Trung và Gia Long giống nhau ở chỗ họ đều là những con người thủ đoạn và sắt máu. Chiêu Thống là con người nhân hậu và tình cảm nhất. Trong cái thời đại đao binh chém giết như thế, ở vào lúc mà những bản năng tàn sát được thả lỏng như thế, một con người như Chiêu Thống kể ra cũng hiếm.

Độc giả đọc tới đây chắc chắn phải tự hỏi: Tên Nguyễn Gia Kiểng này điên chăng, hắn ăn cái giải gì mà bênh vực tên việt gian Lê Chiêu Thống? Sao hắn ngu đến thế, rồi đây tên tuổi hắn sẽ bị gắn liền với Lê Chiêu Thống. Nhưng nếu làm chính trị chỉ là tính toán thiệt hơn thì cũng buồn thực. Tôi chẳng có họ hàng gì với Lê Chiêu Thống, tổ tiên tôi cũng chẳng có ai làm quan nhà Lê. Nhưng tôi thấy cần phải sửa chữa lại một bất công quá đáng kéo dài quá lâu với một người đã chết. Lê Chiêu Thống là người Việt nam, tôi cũng là người Việt nam. Hơn nữa ông là một nhân vật lịch sử và tôi cần nhìn rõ lịch sử của nước tôi. Quan hệ giữa ông ta và tôi chỉ có thể. Tìm trong lịch sử Việt nam tôi khám phá ra rằng việc mạt sát Lê Chiêu Thống chỉ mới gần đây thôi, đúng ra từ 1945 trở đi và có một mục đích chính trị chứ không phải hoàn toàn vô tư. Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí của dòng họ Ngô rất gắn bó với Tây Sơn cũng không hề lên án Lê Chiêu Thống, trái lại còn bày tỏ sự cảm thương. Sau thế chiến hai, đảng cộng sản Việt nam nắm được thế chủ động. Trước mt họ là các đảng phái quốc gia Việt nam Quốc Dân Đảng, Việt nam Cách Mạng Đảng và Đại Việt được quân Tưởng Giới Thạch ủng hộ. Nếu Lê Chiêu Thống bị mọi người lên án vì cầu viện quân Thanh thì chính nghĩa của các đảng phái quốc gia này ở chỗ nào? Cho nên Lê Chiêu Thống phải bị mạt sát. Sau này mạt sát Lê Chiêu Thống cũng vẫn cần vì nó đánh vào nhược điểm của phe quốc gia là dựa vào người Pháp rồi người Mỹ. Lê Chiêu Thống trở thành một chiêu bài. Lịch sử được uốn nắn để sử dụng cho mục đích chính trị. Các chính phủ quốc gia kế tiếp nhau chỉ gồm những người lãnh đạo rất yếu về căn bản dân tộc và cũng yếu về lý luận chính trị nên đã không nhìn thấy cái bẫy Lê Chiêu Thống quá lớn này. Đặc điểm của những người cầm đầu phe quốc gia là họ có khá nhiều học vị nhưng lại chỉ có rất ít quan tâm về chính trị và càng ít quan tâm đối với lịch sử Việt nam. Họ, hay đúng hơn một vài trí thức có trình độ trung bình ủng hộ họ, chỉ biết phản pháo bằng cách cũng lên án Lê Chiêu Thống nhưng buộc tội đảng cộng sản bỏ tổ quốc, đem Liên Xô, Trung Quốc và chủ nghĩa cộng sản ngoại lai về đầy đọa quê hương như Lê Chiêu Thống. Nhưng lập luận của phe quốc gia hời hợt và giả tạo nên đã thiếu hẳn sức thuyết phục. Kết quả là hai bên thi nhau mạt sát Lê Chiêu Thống, và hơn nữa lại cũng đồng ý với nhau rằng Lê Chiêu Thống là con người nhu nhược và hèn nhát, một điều hoàn toàn không đúng sự thực vì Lê Chiêu Thống là con người rất có đảm lược và bản lãnh, không ngại vào sinh ra tử. Lê Chiêu Thống đã là nạn nhân của sự khôn ngoan của phe cộng sản và sự nông cạn của những người càm đầu phe quốc gia, một nạn nhân đáng thương vì con cháu nhà Lê không còn để bênh vực ông, số rất ít cựu thần nhà Lê đã thành cựu thần nhà Nguyễn. Nhưng bây giờ thì cuộc chiến đã xong rồi. Có lẽ nên để cho người chết yên nghỉ thì hơn.

Vả lại, nếu buộc tội Lê Chiêu Thống rước quân Thanh vào, thì tại sao người cộng sản không ca tụng Ngô Đình Diệm đã chết vì không chịu cho Mỹ đổ bộ? Người cộng sản nên ôn hòa hơn với Lê Chiêu Thống khi họ cũng dùng vũ khí và cố vấn Liên Xô, dùng cả quân Trung Quốc trong cuộc chiến vừa qua. Nhất là hiện nay họ cũng rất lễ độ với Trung Quốc dù Trung Quốc vẫn tiếp tục ln chiếm. Đảng cộng sản từ trước vẫn tự coi là có chính nghĩa nhờ một lập luận quái đản: các anh có tội đem quân nước ngoài vào để nó giết người Việt, trong khi chúng tôi có chính nghĩa vì chng tôi tự tay giết người Việt. Vậy mà lập luận này đã có sức thuyết phục trong nhiều thập niên. Điều này chứng tỏ rằng một dân tộc hiểu sai lịch sử của mình cũng không khác một người mất trí và có thể chìm rất sâu trong sự mê muội.

Khi ông Hồ Chí Minh chết, ông là chủ tịch nước Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa nhưng ông chỉ mơ ước về bên kia thế giới gặp cụ Marx, cụ Lênin. Khi Lê Chiêu Thống chết, ông lưu lạc bơ vơ và bị non sông ruồng bỏ nhưng ông lại mong được tìm về đất cũ. Giữa hai tâm hồn ấy, kể ra cũng có một sự khác biệt.

Về chiêu sâu, tôi nghĩ rằng khi một người đã chết thì không còn gì quan trọng nửa. Dù chết đi trong tiếng khóc thương, hay trong tiếng nguyền rủa hận thù thì cũng thế thôi, cát bụi vẫn là cát bụi. Nhưng còn một lý do nữa khiến tôi thấy cần nhắc lại trường hợp Lê Chiêu Thống, đó là để rút ra một bài học có ích. Tại sao một con người xuất chúng như Lê Chiêu Thống lại có th làm việc đi cầu cứu quân Thanh? Và tại sao một số đông đảo dân chúng Bắc Hà lúc đó lại tán thành hành động này? Đó là vì tinh thần dân tộc của ta đã rách nát sau những cuộc phân tranh triền min. Đó cũng là vì các phe phái hận thù nhau đến độ mất cả sự sáng suốt. Bài học mà ta cần phải rút ra là sự liên đới dân tộc và tinh thần trách nhiệm chỉ có thể xây dựng trong hòa bình mà thôi.

Một bài học khác là không nên dựa vào lý mà cũng đừng dựa vào thế mạnh để bắt bí nhau, đừng đẩy người đuối lý hay kém thế vào những chọn lựa tuyệt vọng.

Từ năm 1945 cho đến năm 1975, người cộng sản không những không muốn thỏa hiệp với người quốc gia để tìm một giải pháp chấp nhận được cho mọi người, mà trái lại họ còn cố đẩy người quốc gia vào chỗ càng ngày càng lệ thuộc ngoại bang hơn, và họ vui mừng khi thấy phe quốc gia dựa vào ngoại bang để họ giành độc quyn chính nghĩa. Phe quốc gia cũng có cùng một thái độ, tuy không có cùng một mức độ thành công. Kết quả ra sao cho đất nước, chúng ta đều đã thấy.

Bài học đó đang có chiều hướng lập lại một lần nữa. Vấn đề cơ ban hiện nay là dân chủ hóa. Đối lập dân chủ có lý hoàn toàn khi đòi dân chủ da nguyên và đảng cộng sản vô lý hoàn toàn khi phủ nhận dân chủ đa nguyên. Nhưng hậu quả gần nh tất nhiên của việc áp dụng dân chủ đa nguyên là đảng cộng sản sẽ mất chính quyền, cho nên đảng cộng sản coi những đòi hỏi dân chủ như một sự bắt bí. Ngược lại họ có quyền, có sức mạnh và họ sử dụng sức mạnh đó để đàn áp những nguyện vọng dân chủ, dần dần họ bị cô lập với dân chúng. Càng yếu đi họ càng phải nhượng bộ ngoại bang, quy luỵ với Trung Quốc dù Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ và lãnh hải, quy luỵ với các thế lực tài phiệt ngoại quốc và nhượng cho họ những vùng đất có tầm quan trọng kinh tế lớn nhất. Chìa khóa của giải pháp cho đất nước là phải thỏa hiệp với nhau để tìm ra một giải pháp vẫn thực hiện được dân chủ mà không để dọa tương lai của bất cứ ai. Trong tình hình đất nước hôm nay trái tim cần hơn lý trí. Chúng ta cần những luật sư hơn những biện lý.

Chương thứ :37 "

Nếu nỗi oan khiên kéo dài của Lê Chiêu Thống có thể giải thích được thì sự lên án Nguyễn ánh là cõng rắn cắn gà nhà lại càng khó hiểu.

Nguyễn ánh bị nhiều người lên án là đã rước quân Pháp vào Việt nam, để rồi Việt nam bị Pháp đô hộ. Điều này hoàn toàn sai. Nguyễn ánh chết năm 1820, trong khi người Pháp chỉ bắt đầu xâm chiếm nước ta t năm 1858, nghĩa là 38 năm sau dưới triều Tự Đức cháu nội ông. Hai vị vua nhà Nguyễn, Minh Mạng và Tự Đức, xứng đáng bị lên án nặng nề, nhưng không phải vì họ đã thỏa hiệp với Pháp mà vì họ đã chống Pháp một cách điên cuồng và mù quáng. Nguyễn ánh không phải đã không làm những việc sai trái. Năm 1784, ông đã gởi hoàng tử Cảnh theo giám mục Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện Louis XVI. Hai bên ký kết thỏa ước, theo đó Nguyễn ánh sau khi thành công sẽ dành nhiều đặc quyền lớn cho người Pháp và nhượng đứt đảo Côn Lôn cho Pháp. Ông cũng đã cầu viện quân Xiêm sang Việt nam giúp đánh quân Ty Sơn. Nhưng cả hai việc làm đáng trách này đã không giúp được gì cho ông. Thỏa ước ký với Louis XVI đã không được thực hiện, còn đám quân Xiêm thì đã bị Nguyễn Huệ đánh tán nhanh chóng. Sau này Nguyễn ánh thành công, khôi phục được nhà Nguyễn hoàn toàn dựa vào cố gắng của chính ông. Nguyễn ánh có sử dụng một số tay đánh thuê người Pháp, nhưng đó chỉ là những cá nhân, điều này rất bình thường thời đó. Anh em Tây Sơn cũng đã sử dụng bọn cướp biển Lý Tài và Tập Đình; họ cũng cố tranh thủ sự ủng hộ của người phương Tây mà không được vì người phương Tây chỉ coi Tây Sơn là quân cướp.

Có người nói vì Nguyễn ánh cầu viện mà người Pháp mới biết tới Việt nam. Lời buộc tội này lại càng ngây ngô hơn nữa. Ngưi châu Âu nói chung và người Pháp nói riêng đã đến Việt nam từ đầu thế kỷ 16, lúc tổ tiên Nguyễn ánh là Nguyễn Hoàng chưa ra đời, rồi liên tục gia tăng sự hiện diện. Họ đã thiết lập nhiều trung tâm thương mại tại Hội An, Hà Nội và Hưng Yên. Người châu Âu đến nước ta là lẽ tự nhiên vì lúc đó họ đã mạnh và đang bung ra khám phá thế giới. Việc họ đến nước ta, đem theo một văn hóa và một kỷ thuật mới đáng lẽ phải là một may mắn lớn cho nước ta, chỉ tiếc rằng chúng ta đã không đủ sáng suốt để lợi dụng. Nguyễn ánh có công lớn với đất nước. Chính ông đa thống nhất được đất nước. Không có ông không chừng ngày nay miền Nam và miền Bắc vẫn còn là hai quốc gia riêng biệt. Phe cộng sản mạt sát Nguyễn ánh là điều dễ hiểu, nhưng điều ngạc nhiên là Nguyễn ánh bị lên án một cách hò đồ như thế mà không được minh oan một cách rõ rệt, trong khi tôn thất nhà Nguyễn, ngày trước và ngay bây giờ, không thiếu những người có kiến thức và trình độ cao. Đó là vì một bên có lý do để ra sức buộc tội Nguyễn ánh, còn một bên dù muốn bênh Nguyễn ánh cũng không thể bào chữa cho ông một cách thông suốt. Nếu muốn bào chữa cho Nguyễn ánh thì phải mổ xẻ sự nghiệp của ông một cách khách quan nhưng điều này lại khó làm. Muốn nói rõ về Nguyễn ánh thì bắt buộc phải nhìn nhận những sai phạm của ông đối vi đất nước - cầu viện Pháp, cầu viện Xiêm, và cách đối xử thô bạo của ông đối với con cháu Tây Sơn. Cũng phải luận việc ông bội bạc và giết hại các công thần. Điều này các vua nhà Nguyễn không cho phép vì họ không thể chấp nhận một phê phán nào về ông tổ của họ. Sau này Ngô Đình Diệm, sau khi đã truất phế vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, cũng không dại gì mà bênh vực ông tổ nhà Nguyễn. Sau Ngô Đình Diệm là chế độ của các tướng tá, trong đó nhưng vấn đề văn hóa, lịch sử không đặt ra nữa. Nguyễn ánh bị buộc tội oan trong khi ông là người có công lớn, và hơn thế nữa tổ tiên ông còn có công rất lớn là đã khai phá ra một nửa đất nước.

Nếu ai hỏi tôi ai là người có công nhất đối với Việt nam, tôi sẽ lỡng lự giữa Lý Công Uẩn và Nguyễn Hoàng. Lý Công Uẩn có công lập ra một quốc gia Việt nam thực sự, có kỷ cương, có triều chính, có văn hóa và đặt nền nếp cho Việt nam từ đó về sau (nhưng đồng thời ông cũng vô tình làm một điều tai hại là khẳng định vai trò của Khổng Giáo như một văn hóa chính thức). Nguyễn Hoàng có công mở ra một nửa đất nước, và đó cũng là nửa nước trù phú nhất. Lưỡng lự giữa hai người nhưng nếu bắt buộc phải chọn một người có lẽ tôi thiên về Nguyễn Hoàng.

Trước năm 1945, hình như không có chuyện buộc tội Nguyễn ánh. Phan Chu Trinh, một người chủ trương dân chủ và công khai bài xích triều Nguyễn, khi xỉ vả vua Khải Định là hèn đốn đã viết:

Ai về âm phủ hỏi Gia Long,

Khải Định thng này phải cháu ông?

nghĩa là cũng nhìn nhận Nguyễn ánh là bậc anh hùng. Sau năm 1945, nhà Nguyễn đã thoái vị, đảng cộng sản đã nắm chính quyền tất nhiên không còn muốn lòng dân nhớ nhà Nguyễn na. Lời cáo buộc Gia Long cõng rắn cần gà nhà bắt đầu từ đấy. Khi cựu hoàng Bảo Đại trở về thành lập chính quyền quốc gia, mạt sát và hạ bệ Gia Long dĩ nhiên nằm trong chính sách tuyên truyền ca đảng cộng sản. Dưới chế độ cộng sản bênh vực Gia Long, chưa nói đến khen Gia Long, là phạm tội phản động.

Vụ án Gia Long tuy không ồn ào bề ngoài nhưng trong chiều sâu đã gây chia rẽ không nhỏ trong hàng ngũ miền Nam trước năm 1975. Tôi đều có nhiều dịp nhận ra điều đó. Một lần tôi được chứng kiến một cuộc cãi vã ngắn nhưng rất dữ dội. Trong một câu chuyện vãn, không hiểu tại sao hai nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ và Nguyễn ánh lại được đề cập tới. Một anh bạn khen Nguyễn Huệ là anh hùng, chê Gia Long là tầm thường, may nhờ Nguyễn Huệ mất sớm mà thắng được. Một anh bn khác phản ứng một cách giận dữ: Nguyễn Huệ là một tên tướng cướp gặp thời, Gia Long mới có công thống nhất đất nước. Anh kia cũng không chịu thua. Cả hai đi tới kết luận là người trước mặt mình không có trình độ, rồi họ chấm dứt cuộc thảo luận với cùng một nét mặt khinh bỉ. Về sau tôi có hỏi người nọ về người kia, cả hai đều nói về nhau một cách nặng lời, chắc chắn là không thể hợp tác với nhau được nữa. Tại sao một giai đoạn lịch sử hai trăm năm về trước lại có thể chia rẽ chúng con người ngày hôm nay? Chúng ta đặt quá nhiều đam mê và xúc động vào một lịch sử rất không chính xác.

Thương nhau thương cả đường đi

Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.

C lẽ nhiều người đã giận các vua Minh Mạng, Tự Đức mù quáng và ngoan cố làm mất nước, ghét Bảo Đại hèn nhát trác táng, rồi ghét luôn cả Gia Long. Nhưng cách vận dụng lịch sử thiếu lương thiện nhất eâxn thuộc về đảng cộng sản. Họ luôn luôn bóp méo lịch sử cho những mục đích tuyên truyền. Năm 1979 khi vừa cải tạo về tôi nghe đứa cháu gái tôi học lịch sử: Năm... tên bán nước Gia Long đem quân đánh Phú Xuân. Tôi giật mình, sách sử gì mà ngôn từ hạ cấp như vậy? Tôi đòi xem cuốn sách và còn thấy cả tên cướp nước Triệu Đà. Triệu Đà chết đã hơn hai ngàn năm nay cũng bị vạ lây, bởi vì lúc đó hai chế độ cộng sản Việt nam và Trung Quốc đang xung đột. Để ý đến cách dạy sử lúc đó, tôi phải phẫn nộ. Hình như Việt nam chỉ mới thực sự thành lập từ khi có đảng cộng sản.

Những đề tài thi sử thường gặp lúc đó là: Đảng cộng Sản Việt nam thành lập ngày nào, năm nào? Quân Dội Nhân Dân Việt nam thành lập ngày nào, năm nào? Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nớc năm nào, ở đâu?. Và câu hỏi quan trọng nhất: Ngày 2-9-1945 tại vườn hoa Ba Đình, trước khi đọc tuyên ngôn độc lập, Bác Hồ đã nói gì? (Câu trả lời là Bác Hồ đã nói: Tôi nói đồng bào có nghe rõ không?).

Sự sửa đổi lịch sử được thể hiện trên thực tế. Tại Sài Gòn, đường Nguyễn Hoàng được thay bằng đường Trần Phú, theo tên một cấp lãnh đạo cộng sản đã chết. Chúa Hiền, ngời có công khai mở miền Nam, nhường tên đường cho Võ Thị Sáu, một nữ cán bộ khủng bố cộng sản. Đường Gia Long dĩ nhiên không còn, nay là đường Lý Tự Trọng. Vô số công thần lập quốc bị xóa tên đường nhường chỗ cho nhưng cán bộ cộng sản không tên không tuổi. Từ ngày 30-4-1975, nước Việt nam không phải chỉ thay đổi hiện tại và tương lai mà còn thay đổi cả quá khứ.

Lịch sử là gia phả chung của đất nước, là ký ức tập thể của dân tộc xuyên tạc nó là xúc phạm đến trí tuệ của dân tộc. Chưa nói rằng bôi nhọ một ngưi đã nằm xuống từ lâu rồi cho một mục đích giai đoạn là một việc mà chỉ có những kẻ thấp kém mới làm. Làm như thế đang cộng sản cũng đã hạ giá chính cái lý tưởng của họ. Nếu lý tưởng của họ trong sáng, dự án chính trị của họ đặc sắc thì họ cần gì phải vận dụng những thủ đoạn tồi tàn như vậy?

Nhưng một câu hỏi cũng đặt ra cho chúng ta? Tại sao họ lại có thể làm như thế và một phần nào đó đã thành công? Đó là vì chúng ta thiếu một sử quan đứng đắn. Lịch sử của ta thiếu sót và thiếu chính xác, đó là một điều đáng tiếc; nhưng điều còn đáng tiếc hơn nữa là cách tiếp cận lịch sử của chúng ta. Chúng ta không coi lịch sử như một tài sản chung của dân tộc mà mọi người phải trân trọng. Từ bao đời rồi lịch sử vẫn chỉ được coi là một diễn đàn ể hạ nhục đối phương và tâng bốc mình lên. Tập quán đó dần dần ăn rễ vào tâm lý mọi người, trong tiềm thức chúng ta. Chúng ta không coi việc xuyên tạc lịch sử là nghiêm trọng, chúng ta không coi lịch sử là ký ức của những cố gắng dựng nước, trái lại chúng ta coi lịch sử như là sự nối tiếp nhau của những trận đánh tàn phá đất nước. Chúng ta đọc lịch sử một cách sơ sài và dựa vào lịch sử để đưa ra những phê phán hồ đồ nhưng chắc nịch. Các dân tộc khác có thể chia rẽ vì không đồng ý với nhau trên nhưng việc cằn làm cho hôm nay và ngày mai; người Việt nam lại còn có thể chia rẽ và hận thù nhau vì những chuyện đã hoàn toàn thuộc về quá khứ mà mọi người chỉ biết mt cách rất mơ hồ.

Chương thứ :38 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :39 "

Giai đoạn Pháp đánh chiếm Việt nam là một giai đoạn lịch sử có tài liệu khá đầy đủ nhưng lại là giai đoạn khó học nhất. Hồi còn là học sinh tôi rất chán học giai đoạn này, dù khá mê sử. Lý do là vì chán nản quá. Chỉ thấy tháng này bị thua to ở chỗ này, tháng tới bị đại bại ở chỗ khác. Nm này mất tỉnh này, năm sau mất tỉnh khác. Và thua một cách rất nhục nhã. Năm 1772, Francis Garnier đem 170 lính tới Hà Nội, yết bảng bãi bỏ luật lệ nước ta, ban hành luật của riêng mình, các quan quân cũng không dám phản ứng. Đã thế cũng chưa yên, Garnier còn bắt Nguyễn Tri Phương đầu hàng vô điều kiện, phải tự đến nộp mình. Nguyễn Tri Phương không chịu, Garnier đánh thành, chỉ trong chớp nhoáng là xong, mấy ngàn quân Việt vất vũ khí mà chạy. Các tướng Việt, người chết, người bị bắt sống. Kế đó một thiếu úy Pháp đem bảy người lính tới chiếm Ninh Bình, quan quân đem lọng ra đón xin hàng, các quan bị bắt trói, quân đội phải quì xuống hạ khí giới. Chỉ lúc đã trưởng thành tôi mới có đủ kiên nhẫn và chịu đựng để đọc lịch sử về giai đoạn này. Bây giờ đã ngoài năm mươi tuổi, đã đọc đi đọc lại nhiều lần, mà mỗi lần đọc vẫn thấy nhục nhã quá chừng.

Tinh hình nguy ngập như vậy, nhưng các vua quan nhà Nguyễn hoàn toàn không ý thức được. Họ hoàn toàn không biết gì về thế giới bên ngoài cũng như về tình hình bi đát của đất nước. Bất lực và thờ ơ trước cuộc xâm lăng từ bên ngoài bao nhiêu họ tỏ ra quan tâm và hiệu lực bấy nhiêu trong việc cấm đạo. Các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức rất ít khi ra khỏi thành phố Huế, trừ một vài lần ngự giá đi săn.

Quân Pháp bắt đầu thực sự đánh chiếm Việt nam từ năm 1858. Họ đánh chiếm Đà Nng, sau đó vào chiếm miền Nam, rồi ra đánh Bắc Việt, áp đặt nền đô hộ vào năm 1883.

Cuộc chinh phục đã kéo dài 25 năm. Thời gian đó tương đối dài, không phải vì do sức kháng cự mạnh mẽ của Việt nam mà vì sự do dự của nước Pháp. Nếu quả thực có quyết tâm muốn chiếm Việt nam, có lẽ người Pháp không cần quá một năm. Sức kháng cự của quân Việt nam không đáng kề. Cần đính chính một quan điểm rất phổ biến nhưng rất sai là nước Pháp, cũng như mọi đế quốc thực dân châu Âu trong thế kỷ 19, có âm mưu khuất phục và chiếm đng Việt nam. Sở dĩ chúng ta dễ nghĩ hoặc tin như vậy là vì chúng ta quen với lịch sử châu á trong đó mọi chinh phục đều do các nhà nước khởi xướng và thực hiện. Nhưng đó không phải là tình trạng của châu Âu. Các nước châu Âu quả nhiên đã tranh giành nhau chiếm đóng châu Mỹ vì họ coi đó là phần đất vô chủ mạnh ai nấy chiếm. Nhưng chính sách của họ đối với châu á lại khác. Việc chinh phc châu á chủ yếu do các công ty tư phát động. Các công ty này chỉ có đủ lực lượng để chiếm những phần đất chưa có chủ quyền, như tại ấn Độ, Mã Lai, Indonesia. Việc Tây Ban Nha chiếm Phi-líp-pin là một ngoại lệ, nhưng Phi-líp-pin là một quần đảo vô chủ vào lúc đó. Các chính quyền châu Âu không có chính sách khuất phục và chiếm đóng các nước đã có tổ chức nhà nước. Cùng lắm họ chỉ can thiệp để bảo vệ các hoạt động thương mại hay truyền giáo, và ngay trung trường hợp này họ cũng rất thận trọng. Họ thường liên kết với nhau chứ không ra tay một mình. Nói chung họ nhắm tìm th trường và thường cố thỏa hiệp để tránh chiến tranh và thiệt hại. Việc Pháp đánh chiếm Việt nam là một ngoại lệ lớn mà nguyên nhân là chính quyền nhà Nguyễn vừa quá ngoan cố lại vừa quá yếu.

Lý do chính khiến người Pháp đánh chiếm Việt nam là việc cấm đạo, lý do phụ là Pháp muốn bành trướng thương mại tại Viễn Đông. Cũng vì lý do chính khiến người Pháp chiếm Việt nam là do chính sách cấm đạo mà cho tới nay nhiều người ghét đạo Công Giáo, vẩn đỗ tội cho đạo Công Giáo đã làm Việt nam mất nước. Đó là một luận điệu rất ngây ngô. Cấm đạo là một chính sách xằng bậy, tàn sát dã man người Công Giáo là một tội ác đối với loài người. Nhà Nguyễn làm bậy để mất nước là lỗi tại nhà Nguyễn, sao lại buộc tội người Công Giáo, chỉ là nạn nhân mà thôi? Nếu chúng ta không thích người hàng xóm, xách súng sang giết họ rồi bị đi tù thì có thể đổ lỗi rằng vì người hàng xóm mà mình bị đi tù được không?

Nối rằng lý do chính là cấm đạo cũng chưa đúng. Phải nói rằng lý do chính là sự ngoan cố quá đáng và sự tàn nhẫn quá đáng trong việc cấm đạo thì đúng hơn.

Vua Minh Mạng lên ngôi năm 1820, thì năm 1825 ra dụ cấm đạo Lúc này nước Pháp hoàn toàn vắng mặt tại Việt Nam và còn đang khốn đốn vì xung đột nội bộ và những tàn phá do những cuộc chiến thảm khốc của Napoléon I để lại. Lý do cấm đạo trong dụ là đạo Phương Tây là tà đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục. Cùng năm ấy, một dụ cấm đạo khác gay gắt hơn nữa được ban hành và kèm thêm biện pháp treo giải thưởng cho những ai bắt được giáo sĩ đem nộp. Chính biện pháp này đã gây ra một phong trào bắt đạo và giết đạo tại khắp nơi. Chia rẽ lương giáo bắt đầu trầm trọng từ đó. Hận thù trong dân tộc tăng cao. Bắt đạo và giết đạo trở thành một phong trào dân gian, cho nên sau các hiệp ước Nhâm Tuất (1862) và Giấp Tuất (1874), mặc dù triều đình chấp nhận không cấm đạo nữa nhưng các phong trào Văn Thân vẫn đi đánh phá các làng Công Giáo. Vua Minh Mạng tỏ ra rất ngây thơ khi sai một phái bộ sang Pháp yêu cầu Pháp ngừng việc truyền giáo tại Vit Nam. Làm sao chính quyền Pháp có thề thỏa mãn yêu cầu vô lý này?

Việc cấm đạo tiếp tục qua thời Thiệu Trị rồi trở nên đặc biệt gay gắt dưới thời Tự Đức. Vua Tự Đức vừa lên ngôi năm 1848 là ra ngay một dụ cấm đạo, và năm 1851 lại có thểm một dụ cấm đạo khác khắc nghiệt hơn nữa. Mải tới năm 1862, sau khi phải ký hiệp ước Nhâm Tuất nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp, triều đình nhà Nguyễn mới chính thức công nhận quyền giảng đạo và theo đạo.

Tuy triều đình chấp nhận ngoài mặt như vậy nhưng việc cấm đạo vẫn tiếp tục trên thực tế do các nhóm Văn Thân chủ trương. Sau hiệp ước Giáp Tuất, vua Tự Đức phải ra dụ truyền cho đảng Văn Thân không được giết hại giáo dân nữa, nhưng họ vẫn tiếp tục, bất chp cả lệnh vua. Việc cấm đạo đã tạo ra một cuộc nội chiến giữa các toán quân Văn Thân đánh phá các làng đạo và dân Công Giáo cố thủ để tự vệ.

Từ khi vua Minh Mạng cấm đạo năm 1825 đến nm 1858, khi Pháp bắt đầu đánh Việt nam, 33 năm đã trôi qua. Trong thời gian ấy người Pháp, và cả người Tây Ban Nha, tuy rất bất bình về việc cấm đạo vẫn còn do dự không muốn gây chiến với Việt nam. Các tài liệu của người Pháp về giai đoạn này khá đầy đủ và cho thấy chính phủ Pháp đã chịu rất nhiều áp lực của dư luận Pháp, phẫn nộ trước việc cấm đạo và đòi can thiệp.

Chính quyền Hoa Kỳ cũng đã đem một chiến thuyền tới làm áp lực gay gắt đòi bỏ dụ cấm đạo, nhưng rồi lại đi dù không kết quả. Tuy vậy, năm 1856, chính phủ Pháp chỉ cử chiến hạm Catinat đến đòi bỏ dụ cấm đạo. Vua quan ta không chịu tiếp. Tàu Catinat bắn phá Đà Nẵng cảnh cáo rồi bỏ đi. Mấy tháng sau, họ lại quay lại xin bỏ cấm đạo, quan quân nhà Nguyễn đã không coi sự cảnh cáo trước đây là nghiêm trọng còn lên mặt đòi Pháp phải xin lỗi. Họ xin lỗi, nhà Nguyễn vẫn cứ tiếp tục cấm đạo. Vào lúc đó, người Pháp nhận thấy rằng không còn giải pháp nào khác: hoặc họ phải để nhà Nguyễn tiếp tục tàn sát người Công Giáo trước sự công phân ngày càng lẽn cao của dư luận quần chúng Pháp, hoặc họ phải dùng võ lực thực sự. Việc dùng võ lực vừa dễ vì nhà Nguyễn tuy hung bạo nhưng lại không có lực lượng nào đáng kể lại vừa phù hợp với quyền lợi thương mại của Pháp nên cuối cùng Pháp đi đến quyết định đánh Việt nam.

Năm 1858, Pháp liên kết với Tây Ban Nha đem chiến thuyền bắn phá và đổ bộ đánh chiếm Đà Nẵng rồi sau đó quay vào Nam đánh chiếm Nam Kỳ. Năm 1860, tình hình đã nguy ngập lắm, Pháp đang đánh Nam Kỳ mà vua Tự Đức vẫn chỉ lo cấm đạo. Lại một dụ khác. Lần này nhà Nguyễn ra lệnh phá tất cả các làng Công Giáo, bắt giáo dân thích hai chữ t đạo vào mặt rồi phân phối đi các làng khác. Cứ năm người không có đạo được cử canh giữ một người có đạo. Thế rồi năm 1862 triều đình phải ký hiệp ước nhường đứt ba tỉnh miền Đông v đảo Côn Lôn cho Pháp, phải bỏ dụ cấm đạo và bồi thường chiến tranh nặng nề cho Pháp. Chẳng bao lâu sau, Pháp lấy nốt ba tỉnh miền Tây Nam Phan. Sự mù quáng của vua quan nhà Nguyễn đã làm mất đi miền trù phú nhất của đất nước.

Dù đã bị thiệt hại nặng nề, vua quan nhà Nguyễn vẫn chưa sáng mắt ra để nắm lấy một hy vọng cuối cùng. Nước Pháp, sau khi chiếm được Nam Kỳ, đã thỏa mãn và có ý ổn định tình thế ở đó. Năm 1872, có vụ Francis Garnier ra Bắc lộng hành rồi bị quân Cờ Đen giết chết, nhưng việc đó không nằm trong chính sách can thiệp của chính phủ Pháp. Nước Pháp muốn hòa nên đã ký với triều Nguyễn hiệp ước Giáp Tuất (1874), với những điều khoản tương đối có lợi cho Việt nam, trong đó có cả không điều khoản giúp cho Việt nam 5 chiến hạm với đầy đủ súng đạn và 1.000 khẩu súng. Pháp còn cam kết gởi huấn luyện viên giúp Việt nam đào tạo quân đội.

Chỉ cần sáng suốt một chút thôi triều Nguyễn đã phải hiểu rằng mình hoàn toàn không đủ sức để chống lại với Pháp, chọn lựa duy nhất là khai dụng triệt để hiệp ước Giáp Tuất để gia tăng sức mạnh, khi nào có sức mạnh rồi mọi việc sẽ trở thành dễ dàng, kể cả việc lấy lại Nam Kỳ. Nhưng triều đình Nguyễn lại phá hoại hiệp ước Giáp Tuất, kiếm đủ cách để làm khó dễ. Đến sứ thần Pháp xin yết kiến vua mấy lần cũng không cho. Để rồi di đến đâu? Chín năm sau (1883) phải ký hiệp ước chấp nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn lãnh thổ, và từ đó ngay việc lên ngôi của vua cũng phải được Pháp cho phép và tấn phong. Nước ta hoàn toàn mất chủ quyền. Ngôi vua của nhà Nguyễn chỉ còn là hư vị.

Ai đọc những trang sử này mà không thấy giận cho sự mù quáng kinh khủng của vua quan nhà Nguyễn? Vua quan chỉ biết ngâm vịnh, kiến thức không ngoài Tứ Thư, Ngũ Kinh, Nghiêu Thuấn, Xuân Thu, Tam Quốc. Sử gia Trần Trọng Kim than: Việc mấy nghìn năm trước cứ đem làm gương cho thời hiện tại rồi cứ nghễu nghện xưng mình là hơn người, cho thiên hạ là dã man? Biết bao nhiêu người đã dâng sớ canh tân mà không được nghe, thấy nước mất chắc chắn mà không làm gì được. Ngày nay nhớ lại quãng thời gian đó ta cũng không khỏi bùi ngùi cho những Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Điều, Nguyễn Hiệp, Lê Đình, Phan Liêm, Bùi Viện. Có lẽ họ chết không nhắm mắt được.

Nhưng có phải quả thực là vua quan nhà Nguyễn ngu dốt, hèn nhát như nhiều người vẫn phê phán hay không? Điều đáng buồn là không, các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức không phải là những hôn quân, bạo chúa. Trừ những sai lầm trong cách giao tiếp với người Phương Tây, những biện pháp khác của họ không phải là dở. Mặc dầu gặp rất nhiều khó khăn, văn học của ta chưa bao giờ thịnh bằng thi Nguyễn. ở vào một thời đại khác, các vị vua ấy, nhất là vua Tự Đức, có thể đã là những bậc anh quân.

Nhà Nguyễn cũng không thiếu những bầy tôi có tài lương đống: Nguyễn Tri Phương, Hoàng Kế Viêm, Phạm Đăng Quế, Nguyễn Đình Giản, Phạm Phú Thứ, Phan Thanh Giản, Trần Đình Túc, v. v... ở một thời đại khác chắc các vị này đã để tên trong lịch sử như những con người lỗi lạc tận trung báo quốc. Điều đã khiến các vua nhà Nguyễn và các đại thần thất bại là họ không ý thức được rằng thế giới đã thay đổi và họ đang sống trong một khúc quanh lịch sử lớn. Những cố gắng và hy sinh của họ đều đã vô ích chỉ vì không còn hợp thời nữa. Lên án họ là mù quáng, thiển cận thì cũng đúng thôi, nhưng họ có phải là nhưng con người thiển cận một cách bất thường hay không?

Tôi nghĩ là không. Thiển cận và thiếu giác quan về chuyển hóa và thời đại không phải là của riêng họ, mà là một hằng số của chính trị Vit nam. Chúng ta không có tư tưởng, và càng không có tư tưởng chính trị. Và hình như chúng ta vẫn chưa thức tỉnh để nhận ra điều đó.

Các vua quan nhà Nguyễn quả là không hiểu gì về thời thế. Sức mạnh áp đảo của người Pháp đã quá rõ rệt mà họ cứ ngoan cố chống lại và đôi khi còn khiêu khích. Đi từ thất bại này đến thết bại khác phải chấp nhận ngày hôm nay những nhượng bộ bốn ln lớn hơn nhưng gì mà dối phương đòi hỏi ngày hôm qua mà họ vẫn không mở mắt. Nước Tàu đã khốn khó, bị đánh tả tơi mà triều đình Nguyễn vẫn tôn sùng và tin là có thể nhờ cậy được. Giặc ngoài đáng sợ như vậy mà cứ quay về đàn áp những người dân Công Giáo bên trong. Sự thiển cận của họ thật là kinh khủng, nhưng nó cũng khó so sánh được với sự thiển cận của các lực lượng chống cộng hải ngoại sau 1975.

Rõ ràng là sau năm 1975 không thể có giải pháp võ trang nữa nhưng tổ chc nào cũng chủ chiến, cũng hô hào bạo lực. Sự mê muội của triều đình Nguyễn khi trông đợi vào nước Trung Hoa đã suy kiệt có lẽ không lớn bằng sự mê muội của chủ trương tái lập chế độ Việt nam Cộng Hòa đã chết hẳn rồi, và đã chết một cách thực hổ nhục. Thái độ châu chấu đá voi của triều Nguyễn chống Pháp tới cùng xét ra không lố bịch bằng thái độ của những người đã thảm bại và thua chạy nhưng vẫn nhất định đòi những người cộng sản phải tỉnh ngộ quay về với chính nghĩa quốc gia. Vua quan nhà Nguyễn tuy thủ cựu nhưng cũng không ngược đãi những người chủ trương canh tân bằng các lực lượng chống cộng đối xử với những người chủ trương dân chủ đa nguyên, hòa giải và hòa hợp dân tộc, bất bạo động. Nếu vấn đề đặt ra cho triều Nguyễn lúc đó là canh tân, tôn trọng lự do tín ngưỡng, tránh đụng độ với người Pháp để tập trung mọi cố gắng mà tiến lên và mạnh lên, thì vấn đề của đối lập Việt Nam sau 1975 là phải tận dụng sự thức lỉnh của những người cộng sản tiến bộ để hòa giải với họ và cùng họ hình thành một kết hợp dân chủ mới. Cùng một vấn dề và cũng cùng một thái độ cố chấp. Ngày nay có hơn gì ngày xưa đâu. Chỉ khác ở chỗ các vua quan nhà Nguyễn còn có thể hưởng sự giảm khinh vì họ không được nhìn thấy thế giới bên ngoài.

Chính quyền cộng sản có sng suốt gì hơn vua quan nhà Nguyễn không? Ngày hôm nay vấn đề là bảo vệ chủ quyền dân tộc, đoàn kết dân tộc để phát triển đất nước. Nhưng họ đã làm gì? Họ đã cố bám lấy chủ nghĩa Mác-Lênin như nhà Nguyễn ngày xưa cố bám vào Nho Giáo. Họ quy luỵ trước một Trung Quốc đang bối rối như các vua nhà Nguyễn quỵ lụy với Thiên Triều đang khốn khổ ngày xưa. Họ bách hại những người dân chủ như các vua Nguyễn ngày xưa cấm đạo. Và họ cũng cấm đạo thực sự. Họ đàn áp Phật Giáo, Công Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo. Họ có khác gì nhà Nguyễn? Có khác chăng là ở chỗ các vua Nguyễn không có đủ phương tiện, không có báo chí, radio, truyền hình, không có các tòa đại sứ ở khắp nơi để thấy được sự thay đổi của thế giới như họ.

Nhưng sự thiển cận không phải là tất cả. Còn một lý do khác khó chấp nhận hơn. Nếu thực sự yêu nước, nếu suy nghĩ một cách lương thiện về quyền lợi của đất nước và chỉ quan tâm tới quyền li của đất nước mà thôi, thì đường đi về tương lai không có gì khó, tất cả mọi vấn đề trở thành sáng sủa. Nhưng một lần nữa, phải nhìn nhận ràng đại đa số chúng ta bất chấp đất nước. Ngay cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta yêu nước thì thực ra chúng ta đang yêu một cái gì khác. Chúng ta yêu chỗ đứng, quyền lợi hay lòng tự ái của chúng ta. Chúng ta yêu các thành kiến của chúng ta mà chng ta cho là ý kiến, chúng ta yêu sự cố chấp của chúng ta mà chúng ta tạm coi là sự kiên trì. Chúng ta yêu chính mình và yêu sự mê muội của mình.

Chấp nhất kỷ chi kiến giá họa ư tha nhân, chỉ biết ý kiến mình mà thôi, lúc nào cũng sẵn sàng buộc tội người khác. Câu viết lạc lõng của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô Đại Cáo vô tình nói lên nhận định của ông về con người Việt nam. Gần sáu th kỷ đã trôi qua rồi mà sao Nguyễn Trãi vẫn còn đương thời đến thế.

Chương thứ :40 "

Tấm áo nâu,

Dắt dìu nhau vào chốn rừng sâu,

Dắt dìu nhau vào tới Cà Mau.

Phạm Duy (Tình Ca)

Đại đa số người Việt nam nhìn nhận ông cha mình đã tiêu diệt Chiêm Thành và lấn chiếm Cam-bốt. Sự nhìn nhận này đi đôi với một mặc cảm phạm tội. Tôi đã nghe nhiều người than Ông cha mình kể ra cũng ác thực!. Tội ác của Việt nam đi với Chiêm Thành được coi là ghê gớm gấp nhiều lần đối với Cam-bốt vì Cam- bốt chỉ bị mất đất đai trong khi Chiêm Thành bị tuyệt diệt. Tháng 4 năm 1975 một đồng nghiệp, bàn về cuộc thảm bại của Việt nam Cộng Hòa và cuộc tháo chạy đẫm máu của dân và quân miền Nam trên quốc lộ 7B tại miền Trung, nói với tôi: Đó là vua Chàm báo thù người Việt!. Vua Chàm theo ngôn ngữ của anh là tổng thng Nguyễn Văn Thiệu, bởi vì ông Thiệu người Phan Rang, trung tâm chính trị của nước Chiêm Thành trước đây, nơi mà hiện nay vẫn còn Tháp Chàm, một công trình lớn của người Chiêm Thành.

Năm 1989, tôi có được mời tham dự một cuộc hội thảo quốc tế tại Paris về vấn đề Cam-bốt. Theo chương trình nghị sự thì mục đích của cuộc hội thảo là vấn đề Việt nam chiếm đóng Cam-bốt và những giải pháp cho cuộc khủng hoảng này. Tuy vậy cuộc hội thảo đã mau chóng biến thành một diễn đàn chống Việt nam, chống nước Việt nam và người Việt nam, chứ không phải chỉ chống chính quyền cộng sản Việt nam. Việt nam được mô tả như một dân tộc hiếu chiến và bành trướng, đã tàn sát dân tộc Chim Thành, chiếm đất đai của Cam-bốt và hiện đang âm mưu tiêu diệt Cam-bốt và Lào. Hiện diện trong hội nghị có đại diện các tổ chức đối lập Cam-bốt và nhiều chuyên gia Pháp về Đông Dương. Lúc đó cuộc chiếm đóng Cam-bốt của quân Việt nam đã kéo dài hơn mười năm. Các tổ chức đối lập Cam-bốt dĩ nhiên giành nhau chức vô địch chống Việt nam, nhưng các chuyên gia Pháp về Đông Dương cũng không nói gì khác, họ đều cảnh tỉnh người Cam-bốt hãy đoàn kết chống lại nguy cơ thôn tính của Việt nam mà họ coi là thường trực. Mặc dầu ngày hôm đó tôi được mời thuyết trình với tư cách một chuyên viên kinh tế và đề tài của tôi là nhận định về những khả năng phát triển của Cam-bốt, tôi đã cảm thấy phải lên tiếng bác bỏ những ngộ nhận quá lớn về lịch sử cuộc nam tiến của người Việt. Tôi đưa ra một số sự kiện và yêu cầu các chuyên gia về Đông Dương có mặt trong phòng hội đóng góp. Dĩ nhiên buổi hội thảo đã trở nên rất gay go, nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là các chuyên gia khẳng định bản tính xâm lược của người Việt đã chỉ có một hiểu biết rất sơ sài về cuộc nam tiến của dân tộc ta. Bản tính xâm lợc hiếu chiến của người Việt chỉ là một thành kiến chứ không phải một nhận định nghiêm chỉnh dựa trên tư liệu. Điều đáng nói là thành kiến này đa số người Việt nam cũng chia sẻ, vì chúng ta đã chịu quá nhiều ảnh hường của những luận điệu được lập lại nhiều lần trong suốt thời pháp thuộc.

Chúng ta cần nhận thức rõ cuộc nam tiến của dân tộc ta vì hai lý do: một là vì đó là sự kiện rất vĩ đại đối với chúng ta, hơn một nửa lãnh thổ của ta đã có được nhờ cuộc nam tiến đó; hai là vì chúng ta cần chấm dứt một mặc cảm tội lôi không đúng.

Trước hết hãy nhìn li trường hợp của nước Chiêm Thành. Sự đụng độ giữa nước Việt nam cổ xưa (với các quốc hiệu Văn Lang, Giao Châu, rồi Đại Việt) với Chiêm Thành đã diễn ra ngay từ lúc Việt nam chưa thực sự thành một quốc gia độc lập. Đó là sự đụng độ giữa hai nền văn minh. Một bên là văn minh Nho Giáo và nông nghiệp dưới ảnh hưởng Trung Hoa, một bên là văn minh ấn Độ dựa trên hai giai cấp tăng sĩ và chiến binh. Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, hình như lúc nào cũng có chiến tranh giữa quận Giao Chỉ thuộc Trung Quốc và nước Chiêm Thành. Từ khi Việt nam được độc lập, trong các triều đại kế tiếp nhau, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn, chiến tranh Việt-Chiêm là một hằng số. Lịch sử các triều đại Việt nam thường chỉ ghi vắn tắt kiểu Năm..., quân Chiêm Thành sang quấy phá, vua sai... Đi tiễu trừ, quân ta chiếm được... .

Cũng có đôi khi sử ta ghi lý do là vì Chiêm Thành bỏ lệ triều cống. Nguyên nhân của những cuộc chiến liên tiếp gần hai ngàn năm này do đâu? Nếu dựa vào lịch sử Việt nam thì thường thường là do Chiêm Thành gây hấn trước. Mặc dầu vào các thời đại đó đánh Chiêm Thành là một lẽ thường không cần gì phải biện bạch, và do đó các sử gia không có lý do gì để xuyên tạc nguyên do, nhưng không thể lấy sử Việt nam làm sự thực tuyệt đối. Nền văn minh ấn Độ hồi đó lấy thần linh và chiến tranh làm nền tảng, nước Chiêm Thành coi chiến tranh là lý tưởng nên có thể họ gây chiến thường hơn, nhưng đó chỉ là suy luận. Xung đột Đại Việt - Chiêm Thành ngày nay đã thuộc hẳn vào quá khứ, cả Đại Việt lẫn Chiêm Thành đều đã là những nhân tố lịch sử cấu tạo ra nước Việt Nam ngày nay. Người Việt nam ngày nay không có lý đo gì để bênh bên này hay bên kia cả. Tất cả đều đã thuộc vào gia phả của chúng ta. Nhận định chỉ có mục đích để hiểu.

Vấn đề là qua cả ngàn năm đụng độ, Chiêm Thành và Đại Việt đã trở thành hai quốc gia không thể sống chung, chỉ một quốc gia có thể tồn tại và nước nào yếu sẽ bị tiêu diệt. Đó đã có thể là số phận của Đại Việt, nhưng đó đã là số phận của Chiêm Thành. Cái lý một mất một còn có lẽ mọi người đều hiểu. Nhưng điều nghiêm trọng là nhiều người, kể cả người Việt nam, cho rằng người Việt có tội đã tàn sát và diệt chủng người Chiêm Thành. Điều này trước hết rất vô lý. Giả thử Đại Việt có tiêu diệt Chiêm Thành thực đi nữa thì một người Việt nam hôm nay làm sao biết mình có bao nhiêu phần trăm gốc Việt, bao nhiêu phần trăm gốc Chàm, hay bao nhiêu phần trăm gốc Hoa, gốc Miên, v.v... Để biết mình là tội phạm hay là nạn nhân. Điều này cũng hoàn toàn không được lịch sử chứng minh. Lịch sử ta có ghi lại nhiều cuộc tàn sát đã man trong nhiều lần chinh chin qua nhiều thời đại vào lúc nước Chiêm Thành hãy còn nhưng không hề ghi chép một cuộc tàn sát sau cùng nào đưa đến sự diệt chủng của người Chiêm Thành.

Theo lý luận thì cũng không thể có việc diệt chủng. Cuộc chinh phục Chiêm Thành trở thành dồn dập trong thế kỷ chót của nước này, nghĩa là thế kỷ 17, dưới thời các chúa Nguyễn. Các chúa Nguyễn đem được bao nhiêu dân từ ngoài Bắc vào khai phá Đàng Trong? Chắc chắn là không nhiều lắm, bởi vì ở thời đại ấy một con số khoảng một trăm ngàn người nhất định đã phải tạo ra một cuộc di dân rất qui mô được ghi chép lại. Nhưng lịch sử lại không hề nói tới một cuộc di dân lớn nào. Và từ thế kỷ thứ 17 trở đi, hai họ Trịnh - Nguyễn giao tranh với nhau, việc di dân vào Nam chắc chắn là rất khó khăn nếu có những người tiếp tc vào Nam thì cũng chỉ là nhưng chuyến đi lẻ tẻ. Dù ước lượng một cách rộng rãi tới đâu đi nữa thì người Việt từ Bắc vào khai phá đất Chiêm Thành từ thế kỷ 17 về sau cũng không thể quá một trăm ngàn người. Thực ra cuộc di dân đã bắt đầu từ rất lâu trước Nguyễn Hoàng. Dưới triều Lê Thánh Tông, người Việt đã vào tới Nha Trang. Nhưng đây chỉ là nhưng đợt di dân rất lẻ tẻ. Nếu chỉ dựa vào người Việt di cư hoặc đã định cư ở Đàng Trong thì các chúa Nguyễn nhất định không đương đầu được với họ Trịnh. Chắc chắn phải có sự hòa nhập giữa người Việt di dân và ngưi Chàm tại chỗ. Sự hòa nhập này đã diễn ra một cách liên tục và âm thầm từ thế kỷ 11, nó đã chỉ tăng vận tốc dưới thời các chúa và vua họ Nguyễn. Một sự kiện đã được ghi nhận trong lịch sử là vua Minh Mạng đã từng bắt tất cả người Chàm phải mặc quần áo như người Việt và lấy họ Việt, nhất là họ Nguyễn. Biện pháp thô bạo này ít nhất chứng tỏ rằng không có sự tàn sát mà chỉ có sự hòa nhập, dù là hòa nhập bằng đồng hóa. Sự hòa nhập này cũng có thể nhận thấy ở ngay giọng nói của người miền Trung. Sự hòa nhập liên tục trên một qui mô lớn đã khiến Đàng Trong ca các chúa Nguyễn có đủ người để vừa khai khẩn miền Trung vừa khai phá miền Nam.

Trong sự hòa nhập này, chắc chắn người Chàm chiếm đa số, nhưng nó đã được coi như một sự Việt hóa bởi vì người Việt, kẻ chiến thăng, chiếm tất cả mọi vai trò lãnh đạo và áp đặt văn hóa, nếp sống của mình. Dần dần trọng lượng Việt tăng cao vì hai lý do. Lý do đầu tiên là điều mà một số nhà xã hi học gọi là định luật của đất: mỗi vùng đất tùy mức độ phì nhiêu và trong một điều kiện sinh sống nào đó có mật độ dân số riêng, dân số ít sẽ gia tăng mau chóng để đạt tới mức đó rồi khựng lại. Người di dân Việt nam và người Việt gốc Chàm chiếm được những vùng đất canh tác tốt nên sinh sản mau chóng hơn người Chàm thuần túy bị dồn vào rừng núi. Lý do thứ hai là sự Việt hóa càng ngày càng toàn diện do sự áp đặt văn hóa và nếp sống của kẻ chiến thắng.

Những người mà chúng ta gọi là người Chàm hiện nay chỉ là một phần của dân Chiêm Thành, gồm những người bt khuất không chịu sự đồng hóa của người Việt đã di tản vào miền rừng núi hiểm trở, và ở đó họ cũng chịu định luật của đất: thủy thổ đó, ở mức độ văn minh đó chỉ có đất sống cho từng đó người. Dân số của họ sút giảm đi với thời gian.

Dầu sao thì hiện nay cuộc tranh cãi về sự biến mất của nước Chiêm Thành cũng không còn là một đề tài thời sự nữa. Vấn đề đặt ra là đảm nhận sự hòa nhập đó, một sự hội nhập bất công đối với người Chiêm Thành vào giai đoạn đó, dù giải thích thế nào đi nữa chúng ta cần tìm ra một thái độ đứng đắn trong khi nhìn lại vấn đề Chiêm Thành. Những người Chàm đã mất hay còn sống, đã hội nhập hay chưa hội nhập phải được coi là những con người thực sự của đất nước Việt nam. Lịch sử nước Chiêm Thành, cũng nh lịch sử Văn Lang, Giao Châu, Đại Việt phải được coi là lịch sử của Việt. Nam. Phạm Hùng, Chế Mân, Chế Bồng Nga phải được coi là các vị vua của Việt nam ngày xưa. Văn hóa Chiêm Thành cần được sưu tầm và gìn giữ như là tài sản của đất nước Việt nam. Vấn đề Chiêm Thành ngày nay đã trở thành một vấn đề hoàn toàn Việt nam. Người Việt nam cần nhìn và đảm nhận lịch sử của chính mình một cách đúng đắn.

Đó cũng là một vấn đề hoàn toàn nằm trong chính sách đối nội của chúng ta, không giống như việc khai phá và hội nhập đất Chân Lạp.

Chương thứ :41 "

Các sử gia và các nhà bình luận vô tình hay cố ý đã làm cho nhiều người, Việt nam cũng như ngoại quốc, quên rng miền Nam Việt nam đã được mở ra chủ yếu do một cuộc di dân hòa bình để khai phá đất hoang chứ không phải do một cuộc lấn chiếm bằng bạo lực bờ cõi sẵn có của một nước Cam-bốt hiền hòa.

Trong thâm tâm, đa số người Việt nam nhìn nhận như một sự thực không cần chứng minh rằng Việt nam có lỗi với Cam-bốt. Những vụ cáp dồn (tiếng Khmer có nghĩa là chém đầu người Việt) dù có gây ra nhiều phẫn nộ cũng không làm thay đổi được mặc cảm này. Đây là một trường hợp điển hình chứng tỏ phải coi chừng những sự thực không cần chứng minh. Trái với một cảm tưởng rất lan tràn, Cam-bốt không phải là đất nước của những con người hiền hòa, nạn nhân của những tham vọng bành trướng và thống trị từ lân bang. Có thể nói đất nước Cam-bốt đã ra đời bằng bạo lực, đã trưởng thành trong bạo lực và đã suy tàn vì bạo lực.

Được bồi đắp từ lòng biển do phù sa sông Cửu Long, vùng đất gồm nước Cam-bốt và miền Nam Việt nam mới đầu thuộc đế quốc Phù Nam với những sắc dân đến từ biển, nhất là từ Indonesia và từ ấn Độ qua ngả Miến Điện và Thái Lan. Phù Nam đã mau chóng biến thành một đế quốc hiếu chiến. Vào thế kỷ thứ 7, người Khmer, một sắc dân theo văn minh ấn Độ, từ miền Nam Lào tràn xuống tiêu diệt đế quốc Phù Nam và dần dần khắc phục các sắc dân địa phương, chiếm quyền bá chủ trong vùng để lập ra đế quốc Khmer. Đế quốc Khmer còn tỏ ra hiếu chiến và bạo ngược hơn hẳn đế quốc Phù Nam. Đế quốc Khmer đã chế ngự được cả một vùng rộng lớn bao gồm cả Thái Lan, một phn Miến Điện và cả miền Nam Việt nam. Vào thế kỷ 12 đế quốc Khmer còn bành trướng về phía Bắc, chiếm gần hết đất Chiêm Thành, đến tận đèo Hải Vân của Việt nam hiện nay. Nhưng lãnh thổ thực sự của nó tập trung ở vùng Angkor. Nhưng đền đài Angkor không phải chỉ là dấu tích của một nền văn minh mà trước hết là di tích của sự tàn bạo. Những sử liệu ít ỏi còn lại, mà đặc sắc nhất là ký ức của Chu Tá Quan, một sứ giả của nhà Nguyễn có mặt tại Cam-bốt, mô tả cảnh những người nô lệ bị xiềng xích vào nhau để xây đền đài dưới sự điều động tàn bạo của các tăng sĩ và chiến sĩ Khmer. Họ phải lao lực đến kiệt sức và khi chết thi hài được lôi ra làm thức ăn cho cầm thú. Từ thế kỷ 13 trở đi, người Thái Lan bắt đầu tiến lên, sức mạnh của họ đã dn dần bắt kịp và vượt người Khmer. Họ giành được độc lập rồi tiến đánh trả thù người Khmer trong hàng thế kỷ đã bắt họ làm nô lệ xây đèn đài cung điện. Họ đã hủy diệt đế quốc Khmer, tàn phá Angkor Vát và bắt người Khmer về làm nô lệ xây đền đài cho họ. Nền văn minh Angkor cáo chung vào năm 1431 với sự phá hủy lần cuối cùng thủ đô Angkor. Đế quốc Khmer xây dựng trên sự tàn bo đã sụp đổ trong sự tàn bạo. Sự tàn phá và tàn sát của người Thái Lan đã khủng khiếp đến độ tất cả dấu tích đồ sộ của trung tâm Angkor bị chìm mất trong rừng sâu và không một nhân chứng nào sống sót để nhớ lại sự hiện hữu của nó. Phải đợi đến năm 1850, một nhà khảo cứu Pháp mới tình cờ khám phá lại di tích Angkor mà ngay những người Cam-bốt cách đó hai trăm cây số không hề biết đến nữa.

Kể từ 1431 chung quanh Phnom Penh chỉ còn lại một triều đại Chân Lạp yếu nhược với ảnh hưởng không đáng kể trên những vùng đất trước kia thuộc ảnh hưởng của đế quốc Khmer. Cuộc nam tiến của người Việt đã đến rất lâu sau khi vùng đất miền Nam trở thành vô chủ. Những người Việt đầu tiên khai phá miền Nam không phải là những đạo quân viễn chinh mà phần lớn là những người nông dân nghèo khổ, chạy trốn cuộc chiến phân tranh Trịnh - Nguyễn. Từ năm 1623 trở đi, trong khoảng một thế kỷ rưởi, Việt nam đã sát nhập nhiều vùng đất mới ở phía Nam. Những những sát nhập hành chánh này chỉ là sự hợp thức hóa một thực tại; những phần đất ấy từ lâu đã do người Việt sinh sống và khai thác. Cuộc nam tiến của nước ta chủ yếu là một sự bành trướng trong hòa bình. Sự mở mang lãnh thổ Việt nam đã chấm dứt khi anh em Tây Sơn nổi lên năm 1771 và Việt nam bắt đầu lâm vào nội chiến. Vua Sihanouk, bằng thái độ và bằng hành động của ông, lập lại y hệt hình ảnh của những vị vua Chân Lạp trong hai thế kỷ 17 và 18. Sihanouk trở mặt như chong chóng và đổi đồng minh như thay áo, ông được nhiều nhà bình luận chính trị phương Tây coi là khôn ngoan và mưu lược, nhưng tài trí của ông đã chỉ khiến nước Cam-bốt phải chịu những tàn phá kinh khủng nhất.

Các vị vua Chân Lạp, tổ tiên của Sihanouk, cũng đã cư xử không khác gì ông. Một vị vua Chân Lạp có thể ngày hôm nay cầu viện Việt nam để tranh ngi vua với một người anh em họ, để rồi ngày mai lại cầu viện Thái Lan chống lại Việt nam và ít lâu sau thần phục Việt nam chống lại Thái Lan. Mỗi lần cầu viện ngoại bang họ đầu dâng lễ vật hay dâng đất. Việc dâng đất đối với họ không có gì là quan trọng vì trên thực tế đó là những vùng đất mà họ đã mất chủ quyền từ lâu. Việc dâng đất chỉ có nghĩa là nhìn nhận một thực lại và cam kết sẽ không quấy nhiễu. Một câu hỏi có thể được đặt ra là tại sao người Cam-bốt lại thù ghét Việt nam hơn Thái Lan, trong khi Thái Lan đã xung đột nhiều hơn với Cam-bốt, đã sát nhập nhiều đất của Cam-bốt hơn, đã từng tàn sát người Cam-bốt một cách dã man, và nhất là đã tiêu diệt đế quốc Khmer?

Trước hết là sự xung đột giữa hai nền văn minh ấn Độ và Trung Hoa. Người Cam-bốt và người Thái Lan cùng chịu ảnh hưởng của văn minh ấn Độ nên dù đã có cả một quá khứ xung đột vô cùng đẫm máu họ ván thấy gần gũi với nhau trong khi người Việt nam, thuộc ảnh hưởng văn minh Trung Hoa, đối với họ là những kẻ lạ mặt. Nhưng trầm trọng hơn nữa là chính sách chia để trị của chính quyền thuộc địa Pháp. Người Pháp đã tạo ra cái huyền thoại nước Việt nam tham đất và đói đất để biến Việt nam thành một de doạ và một đối tượng thù ghét cho người Cam-bốt.

Trong chiều sâu còn một hằng số quan trọng hơn mà ta cần nắm vững khi nhận định về những tương quan giữa nước ta và Cam- bốt: người Cam-bốt rất thực tiễn, họ không đặt nặng những vấn đề văn hóa và lịch sử mà hành động chủ yếu theo những cái lợi trước mắt. Cho tới nay, những ngưi lãnh đạo Cam-bốt luôn luôn hòa hoãn với các quốc gia có thể có ảnh hưởng mạnh lên nước họ và sẵn sàng lấy thái độ thù địch với những quốc gia mà họ nghĩ là không có hay không còn khả năng để dọa họ, nếu họ thấy là có lợi. Họ thường có thái độ thù địch đối với Việt nam vì trong nhiều giai đoạn họ nhận định Việt nam vừa không có lợi gì cho họ lại vừa không làm gì được họ.

Cũng nên nhìn rô một đặc tính của người Khmer: trong suốt dòng lịch sử họ luôn luôn phải chịu đựng những chế độ hung bạo cho nên sự hung bạo đã ăn rễ trong dân gian; người Cam-bốt rất dễ bị sách động vào các cuộc thảm sát. Trong một quốc gia khác, nhưng lãnh tụ dù khát máu như Pol Pot cũng không thể gây ra một cuộc thảm sát như thế giới đã thấy tại Cam-bốt. Nhìn vào những gì người Cam-bốt đã làm với nhau, ta sẽ thấy rằng sự hung bạo của người Cam-bốt không phải là bằng chứng của hận thù, bởi vì họ hung bạo ngay với đồng bào họ. Do đó không nên coi những vụ thảm sát người Việt tại Cam-bốt như là dấu hiệu của một hận thù không thể vượt qua được.

Một số đông chúng ta không hiểu rõ lịch sử của chính nước mình, nhất là cuộc nam tiến của dân tộc Việt nam, và do đó vẫn còn bị ảnh hưởng của luận điệu của chính quyền thuộc địa Pháp, rồi cũng mang mặc cảm tội lỗi đối với Cam-bốt. Chúng ta đừng quên rằng, ngoại trừ một vài qui định hành chánh dưới thời Pháp thuộc không nhất thiết có lợi cho Việt nam, biên giới giữa hai nước không hề thay đổi từ hơn hai thế kỷ qua. Đó là một trong những biên giới ổn định nhất thế giới. Điều này đủ để bảo đảm cho khả năng chung sống hòa bình giữa hai nước. Chúng ta cũng đừng quên rằng về phương diện địa lý Cam-bốt cần Việt nam hơn là Việt nam cần Cam-bốt. Trong tương lai, nếu Cam-bốt gượng dậy được từ thảm kịch hiện nay, họ sẽ không có chọn lựa nào khác là hợp tác chặt chẽ với Việt nam, và lúc đó họ sẽ hợp tác với chúng ta một cách rất nồng nhiệt.

Điều quan trọng trong quan hệ với Cam-bốt là chúng ta cần từ bỏ một mặc cảm tội lỗi không đung để vạch ra một chính sách sống chung trên căn bản tương kính, có lợi cho cả đôi bên. Đối với cuộc nam tiến mở nước của chúng ta, chúng ta cần ghi ân trước hết những hy sinh của những tổ tiên rất khiêm nhường của ta, những tấm áo nâu dắt dìu nhau vào chốn rừng sâu và dắt dìu nhau vào tới Cà Mau. Công mở nước là của họ chứ không phải của các vua chúa và các danh tướng.

Chương thứ :42 "

Nhân nói về cuộc nam tiến, cũng cần nhận định rằng lịch sử nước ta có cái gì đó thực u uất. Trong suốt quá trình mở nước và dựng nước của ta hình như các biến cố trọng đại lúc nào cũng khởi đầu từ những sự không may. Những người Lạc Việt đầu tiên đã từ Trung Hoa xuống miền Nam để tránh sự hà khắc, rồi hội nhập với người tại chỗ để lập ra nước Việt. Cuối thế kỷ 16, Nguyễn Hoàng vì sợ bị bách hại, đem dân vào Hoành Sơn, cùng với những người di dân Việt đã theo nhau đến đó từ một hai thế kỷ trước hội nhập với người Chiêm Thành mà mở rộng miền Trung. Cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn đã khiến một số đông đảo chạy trốn về phía Nam, tránh sưu cao thuế nặng và tránh cho con cái khỏi bị bắt lính, rồi miền Nam dần dần thành hình. Lúc nào cũng theo người Việt chạy trốn một sự bất hạnh rồi vô tình đi thêm một bước đường mở nước. Sau năm 1975, chúng ta lại có một bạo quyền khác và vì đã tựa lưng vào biển cả, đàn chim Việt đã vượt trùng dương, tạo ra cộng đồng người Việt hải ngoại, tỏa sự hiện diện của Việt nam ra khắp thế giới.

Tất c những biến cố này đều là những biến cố trọng đại và vô cùng ích lợi. Chúng nói lên khả năng phi thường của một dân tộc luôn luôn đủ khôn khéo để biến họa thành phúc. Nhưng đồng thời chúng cũng là một hổ nhục lớn cho những người lãnh đạo. Đến bao giờ chúng ta mới có thể chủ động thay vì chỉ phản ứng trước một tình thế bắt buộc? đến bao giờ chúng ta mới có thể có những chuyển biến tốt do chủ ý, xuất phát từ một dự tính lạc quan? Tất cả những câu hỏi này chất vấn những người có chức năng lãnh đạo đất nước, nghĩa là những người tri thức.

Đến đây, tôi đ mời độc giả cùng làm một cuộc hành trình khá dài qua lịch sử nước ta, từ lúc lập quốc cho đến khi đạt tới lãnh thổ hiện nay. Cuộc hành trình này chỉ có mục đích giúp ta nhìn rõ hơn chúng ta l ai, hay ít nhất đừng hiểu lầm chính mình. Chúng ta đã đi được một đoạn đường khá dài, và vừa đến một trạm xá thuận lợi để tạm dừng chân, ngồi xuống và nghĩ về mình.

Chương thứ :43 "

Người Pháp khởi sự bắn phá Đà Nẵng năm 1858 rồi bỏ đi. Vài năm sau họ trở lại với một ý chí chinh phục thực sự. Năm 1862 họ đánh chiếm ba tnh miền Tây, sau đó chiếm hoàn toàn miền Nam rồi tiến ra Bắc. Nếu tính từ cột mốc 1862 này đến khi Việt nam tuyên bố độc lập năm 1945 thì cuộc đô hộ của người Pháp đã kéo dài 83 năm. Tuy nhiên, chỉ từ năm 1884 trở đi sự thống trị của người Pháp mới được thiết lập trên toàn lãnh thổ. Nếu lấy cột mốc 1884 thì cuộc đô hộ của người Pháp kéo dài 61 năm. Thực ra hiệp ước Patenôtre trn lý thuyết cũng không đặt toàn bộ lãnh thổ Việt nam dưới ách đô hộ của người Pháp. Nó chia Việt nam làm ba phần. Nam Phần là thuộc địa hẳn hoi của Pháp, Bắc Phần vẫn là lãnh thổ của triều đình Nguyễn nhưng đặt dưới sự bảo hộ của Pháp. Còn Trung Phần vẫn hoàn toàn thuộc chủ quyền nhà Nguyễn. Nhưng người Pháp đã nhanh chóng lấn chiếm thêm chủ quyền Việt nam trước sự bất lực của triều Nguyễn. Đến năm 1888, vua Thành Thái lên ngôi ký thêm một hiệp ước nhượng bộ nữa, đặt toàn lãnh thổ Việt nam dưới sự đô hộ của Pháp. Từ đó người Pháp tha hồ phế lập các vua nhà Nguyễn. Những sự kiện này mọi người đọc qua lịch sử Việt nam đều biết. Sự kiện cần được nhấn mạnh là nói chung, trừ một số sĩ phu bất khut, người Việt nam đã hoan hô sự thống trị của Pháp, hay ít nhất đã ưa chính quyền thuộc địa Pháp hơn là triều đình nhà Nguyễn. Tại miền Bắc, các cô tôi kể chuyện các bà có thai cố gắng đi vào Hà Nội để để con vì Hà Nội, không giống như các tỉnh miền Bắc khác, được coi là thuộc địa từ năm 1888 và những người ra sinh ra tại Hà Nội được coi là thần dân Pháp (sujet francais).

Tới đây có lẽ cũng nên mở một ngoặc đơn để nhận xét một đặc tính của người Pháp. Tại sao lại thần dân mà không phải là công dân (citoyen francais)? Lại là một trò chơi chữ và phân biệt tinh vi của người Pháp. Người Pháp có biệt tài lấp lửng và mơ hồ để bắt cá hai tay, vừa thủ lợi vừa tránh né trách nhiệm khi cần. Năm 1948 lại vịnh Hạ Long, Pháp thỏa thuận với Bảo Đại để Việt nam được độc lập, nhưng lại bắt buộc Việt nam ở trong khối Liên Hiệp Pháp. Bình thường ra đã độc lập thì phải có quyền gia nhập hoặc không gia nhập một khối nào, nhưng chính quyền Pháp đã ràng buộc hai vấn đề với nhau. Pháp thừa nhận Việt nam độc lập, nhưng độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, có nghĩa là nếu Quốc Gia Việt nam quyết định rút ra khỏi khối Liên Hiệp Pháp thì Pháp cũng không còn nhìn nhận nền độc lập của Việt nam nữa. Người Pháp chia rẽ nhau trên một giải pháp cho Việt nam và họ chọn một giải pháp nửa chừng và mâu thuẫn. Chưa hết, người Pháp còn đẩy trò chơi chữ đến một mức độ lố bịch, khôi hài. Câu nhìn nhận Việt nam độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp chỉ được viết bằng tiếng Việt chứ không được dịch ra tiếng Pháp trong hiệp ước Hạ Long. Người Pháp không có óc minh bạch của các dân tộc Anglo-saxon. Phải nói ngay rằng trong tiếp xúc với phương Tây ta đã không được tiếp xúc với phần tinh hoa nhất của họ, đó là điều đáng tiếc.

Tuy nhiên, mặc dầu những khổ nhục của tình trạng ngoại thuộc tám mươi năm Pháp thuộc đã đem lại cho đất nước ta những tiến bộ rất trọng đại. Đó là giai đoạn mà nước ta phát triển mau chóng nhất. Người Pháp đã xây dựng ra nhiều thành phố lớn, trong đó có hai cảng Hải Phòng và Sài gòn, đã xây dựng phần lớn các trục lộ giao thông lớn. Họ cùng đã đem văn hóa, nếp sống, cách tổ chức và những giá trị phương Tây vào đất nước ta. Có thể nói Pháp đã còng tay Việt nam và dẫn vào thời đại mi. Đóng góp của người Pháp cho nước ta không thể chối cãi, ngay cả dưới mắt một người Việt nam yêu nước. Năm 1936 khi chính phủ Mặt Trận Bình Dân Pháp của thủ tướng Lon Blum có ý định trở lại hiệp ước 1884, nghĩa là trả lại miền Bắc và miền Trung cho triều đình Nguyễn họ đã bị ngay những trí thức Việt nam tiến bộ phản đối dữ dội. Các trí thức này không phải không muốn độc lập, nhưng họ không muốn lập lại sự cai trị của triều đình Huế. Không ai, kể cả vua Bảo Đại và các cận thần, ngạc nhiên trước sư phản đối này. Chúng ta đã bị ngoại thuộc nhiều lần trong quá khứ, nhưng lần này là một ngoại thuộc hoàn toàn khác. Từ trước kẻ xâm lăng đến vò vét tài sản, tàn phá đất nước và đẩy dân chúng vào cảnh cơ cực.

Làn này kẻ thống trị ngoại bang mở mang đất nước, nâng cao mức sống và trí tuệ của dân ta. ách đô hộ của người Pháp, với sự du nhập của văn hóa và các giá trị phương Tây còn có giá trị giải phóng của nó. Chính từ giai đoạn này mà chúng ta hoàn toàn không còn lệ thuộc Trung Quốc về mặt chính trị nữa và cũng có luôn khả năng ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đá quá lỗi thời. Không những bảo vệ Việt nam đối với Trung Quốc, người Pháp còn đủ sức mạnh để buộc Trung Quốc chấp nhận những thỏa hiệp có lợi cho Việt nam, chẳng hạn như hiệp ước về vịnh Bắc Phần.

Người Pháp còn cho Việt nam một cơ hội mở rộng không gian sinh hoạt. Họ thành lập ra Liên Hiệp Đông Dương gồm ba kỳ của Việt nam, Lào và Cam-bốt. Hai nước Lào và Cam-bốt vừa quá ít dân so với Việt nam, lại vừa ở mức độ phát triển thấp hơn nên Đông Dương thực ra là Việt nam. Chỉ trong vài thập niên, phần lớn các công chức cao cấp tại hai nước này đã là người Việt. Điều nghịch lý l sau thế chiến II, khi người Pháp bằng lòng trả độc lập cho các nước Đông Dương nhưng đòi duy trì Liên Bang Đông Dương trong khối Liên Hiệp Pháp, chính phủ cách mạng Việt nam, do ông Hồ Chí Minh cầm đầu, đã phản đối dữ dội làm cho hội nghị Đà Lạt năm 1946 thất bại. Dĩ nhiên, tại Hội Nghị à Lạt, Pháp còn đưa nhiều đòi hỏi bắt chẹt khác, thí dụ như đòi tách Nam Kỳ ra riêng, nhưng điều đáng để ý là chính phủ Hồ Chí Minh đã phản đối dữ dội Liên Bang Đông Dương mà sau này họ đi lập lại. Điều này chứng tỏ rằng những người làm chính trị của Việt nam thiếu hẳn viễn kiến. Nhiều người Việt nam ngày hôm nay vẫn còn tiếc cơ hội đó. Nhưng tiếc hay không cũng là sự đã ri. Vấn đề là Liên Bang Đông Dương không nên nhắc lại nữa. Nó chỉ gây ngờ vực và lo âu cho hai nước Lào và Cam-bốt đối với Việt nam mà thôi. Điều chúng ta cần mưu tìm là một hợp tác bình đẳng trong tinh thần tương kính với hai nước láng giềng này. Một sự hợp tác như thế sẽ có lợi cho cả ba dân tộc. Chính vì sự thành công của chính quyền thuộc địa Pháp mà thái độ đối với nó đã gây chia rẽ trầm trọng giữa người Việt nam. Có những người cho chế độ thuộc địa Pháp là hay và nên tiếp tục cũng có những người cho rằng độc lập là cần thiết nhưng cần phải tiếp tục hợp tác với người Pháp để mở mang dân trí và dân sinh trước đã, trong số những người này có hai trí thức lỗi lạc nhất đầu thế kỷ 20 là Phan Chu Trinh và Phạm Quỳnh. Sau cùng cũng có những người cho rằng phải đánh đuổi người Pháp để chấm dứt cái nhục bị đô hộ và giành lại chủ quyền ngay tức khắc. Các khuynh hướng này thay vì thảo luận bình tĩnh với nhau đã mạt sát và kết án lẫn nhau. Người này gọi người kia là ngu dốt, người kia gọi người này là phản quốc bán nước.

Vấn đề thực là phức tạp. Điều phức tạp hơn nữa là giữa những người chủ trương giành độc lập ngay tức khắc cũng không có đồng thuận Có những người chỉ chủ trương giành độc lập, nhưng cũng có những người chủ trương đánh đuổi người Pháp để thiết lập một chế độ cộng sản. Và hai khuynh hướng này cũng sẵn sàng tàn sát nhau.

Chúng ta đã không biết ra khỏi ách đô hộ của người Pháp một cách tốt đẹp bởi vì chúng ta đã thiếu hẳn một đồng thuận dân tộc. Đồng thuận dân tộc không phải là dễ, nó đòi hỏi một tư tưởng quốc gia và nó cũng đòi hỏi những khuôn mặt uy tín để có thể thuyết phục và qui tụ mọi người trên những chọn lựa quan trọng. Nhưng tư tưởng của chúng ta vốn đã rát kém, nếu không muốn nói là không có gì. Tư tưởng Khổng Giáo đã sụp đổ, nhưng thời gian tiếp xúc với phương Tây vẫn còn quá ngắn nên chưa xuất hiện được những nhà lý luận mới. Phan Chu Trinh là một nhân vật đã có thể góp phần tốt đẹp vàn cuộc chuyển hóa tư tưởng trọng đại của đất nước ta, nhưng tiếc thay ông đ qua đời quá sớm, năm 1925, lúc mới vừa 52 tuổi

Chương thứ :44 "

Lý do vẫn thường được viện dẫn để giải thích tại sao chúng ta bị người Pháp thôn tính là: vì ta thiếu vũ khí và kỹ thuật tói tân. Chúng ta có vẻ hài lòng với giải thích đó, nhưng khi sự thôn tính đó diên ra một cách quá dễ dàng thì vũ khí không giải thích tất cả. Vũ khí ngay cả thêm kỹ thuật tổ chức quân đội, cũng không thể giải thích tht bại quá hổ nhục của ta.

Để đánh thành Hà Nội do Nguyễn Tri Phương có chuẩn bị trước để phòng vệ, người Pháp đã chỉ cần 170 quân và họ hạ thành Hà Nội trong nháy mắt, bắt sống Nguyễn Tri Phương. Lần thứ hai, họ đem một số quân đông gấp ba, gần 500 người, nhưng lần này Hoàng Diệu không kháng cự mà tự tử để quân Pháp chiếm thành. Để chiếm Hải Dương, quân Pháp đã chỉ cần 15 người lính bắn vài phát súng là xong. Quân nhà Nguyễn đã không kháng cự chứ không phải đã thua trận. Tại Ninh Bình chúng ta còn nhục nhã hơn nhiều. Một viên thiếu úy dẫn bảy tên lính tới thành. Tổng đốc Nguyễn Đức Tuân và toàn bộ quân sĩ Việt nam phải hạ khí giới, quì xuống hai bên đường đầu hàng.

Trước đó, Jean Dupuis, một lái buôn với vài tên lính đánh thuê do y tuyển dụng đã có thể làm mưa làm gió mỗi lần đưa tàu buôn ra Bắc. Các quan lại Việt nam tại Hà Nội mỗi khi thấy tàu Dupuis tới gần phải chạy trước, sợ y bắt và nc ra đánh.

Nếu bảo rằng ta thua vì không có vũ khí thì tại sao vài ngàn quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc lại hai lần đánh bại quân Pháp một cách dễ dàng, chém đầu viên chỉ huy Pháp? Mà Lưu Vĩnh Phúc có đánh lén đâu. Trong lần Henri Rivière ra Hà Nội, cũng là lần Pháp đem lực lượng hùng hậu nhất, trên 500 người, Lưu Vĩnh Phúc đem quân đến sát Hà Nội, đóng doanh trại, gởi chiến thư gọi Rivière ra đánh. Cách đối địch này chẳng có gì là độc đáo. Henri Rivière đem quân ra. Quân Cờ Đen xông tới tàn sát quân Pháp, chém Henri Rivière, đem bêu đầu. Năm đó là năm 1872.

Trước đó, đầu thế kỷ 19, giữa lúc Pháp hùng mạnh nhất về quân sự, với hoàng đế Napoléon I làm bá chủ cả châu Âu, thì những người nô lệ da đen trên đảo Haiti nổi dậy thành lập một quốc gia độc lập thách thức đế quốc Pháp. Napoléon I đã cử một hạm đội hùng hậu gồm 86 chiến thuyền và 34.000 lính thủy dưới sự chỉ huy của đô đốc Leclerc, em rể Napoléon I, sang chinh phạt. Dưới quyền đô đốc Leclerc là 13 trung tướng và 27 thiếu tướng. Đạo quân hùng hậu và tinh nhuệ này còn mang theo một đàn chó trận được tập luỵện để săn người da đen. Chúng sử dụng những biện pháp cực kỳ tàn bạo, treo cổ, nhận nước cho chết, thả tù nhân cho chó ăn thịt, v.v... Nhưng những người da đen đơn sơ đã chống trả, họ đã đánh tan đạo quân này trong thời gian không đầy hai năm, buộc quân Pháp phải đầu hàng. Lúc đó tổng số người da đen tại Haiti chưa tới nửa triệu người.

Thành tích này thật nổi bật so với Việt nam. Lúc đó chúng ta đã có khoảng xấp xỉ mười triệu dân, đã có một lịch sử dài với nhau quá khứ chống ngoại xâm và mở mang bờ cõi rất oanh liệt. Quân Pháp sang chiếm nước ta cũng chỉ vài ngàn người với phương tiện thô sơ, mỗi lần ra Bắc họ chỉ đem vài trăm lính dưới sự chỉ huy của những sĩ quan trung cấp.

Vũ khí kỹ thuật tổ chức, ngay cả số đông cũng không phải là tất cả. Chúng ta thua, và thua rất nhục nhã, chỉ vì tinh thn dân tộc của chúng ta không còn. Mỗi lần quân Pháp ra đánh Bắc Hà, dân chúng kéo nhau đi xem quân Tây và quân Nam đánh nhau như những người bàng quan. Các vua nhà Nguyễn đã chỉ coi miền Bắc và miền Nam như những vùng đất xa xôi. Các chính sách hà khắc, giết hại công thần, cấm đạo đã làm tan vỡ hoàn toàn đồng thuận dân tộc. Nước Việt nam vào giai đoạn đó chỉ còn là một hư cấu và vì thế nó đã mất hết sức tự vệ.

Từ đó đến nay chúng ta có xây dựng cho lòng yêu nước mạnh hay không? Một cách ngược đời, giai đoạn Pháp thuộc đã làm tăng trưởng tinh thần quốc gia và lòng yêu nước. Ba yếu tố đã đóng góp vào sự tăng trưởng này. Một là sự hổ nhục vì bị đô hộ bởi một số ít thực dân, thuộc một chủng tộc khác và đn từ phương xa, đã gây ra một phản ứng liên đới giữa những người cùng chung nòi giống và văn hóa. Hai là do tiếp xúc với phương Tây, chúng ta đã tiếp thu được ý thức quốc gia, một ý thức trước đó chúng ta chỉ có một cách mơ hồ và người phương Tây cũng chỉ khám phá trước chúng ta không bao lâu; tôi sẽ còn trở lại vấn đề này trong những trang sắp tới. Ba là thời Pháp thuộc đã đem lại phồn vinh, và do đó một sinh lực mới cho cộng đồng dân tộc.

Sức mạnh mới đó đã khiến dân ta quật khởi vùng lên giành chủ quyền. Đảng cng sản đã vận động được lòng yêu nước đó để dựa vào chiêu bài giải phóng dân tộc mà tranh đấu cho chủ nghĩa cộng sản và họ cũng đã giáng một đòn chí tử vào lòng yêu nước vừa mới có đợc một sức mạnh. Lần đầu tiên ở nước ta xuất hiện một lực lượng không kêu gọi đoàn kết dân tộc mà kêu gọi hận thù giữa dân tộc. Tiếng gọi đấu tranh giai cấp về thực chất là một tiếng gọi nội chiến, một tiếng gọi giải thể quốc gia, thay thế tinh thần quốc gia bằng tinh thần giai cấp. Sau đó chính sách toàn trị của họ đã biến đất nước thành của riêng một đảng - như ngày trớc nó là của riêng một dòng vua - và trục xuất đại khối dân tộc khỏi định mệnh đất nước. Đã thế, đảng cầm quyền lại còn áp dụng vô số biện pháp phân loại dân chúng và phân biệt đối x. Những đỗ vỡ và thất vọng kéo dài quá lâu đã làm sụp đổ lòng yêu nước của người Việt.

Ngày trước, chính sự suy sụp của tinh thần dân tộc đã khiến chúng ta thua một cách hỗ nhục dưới tay người Pháp chứ không phải vì người Pháp mạnh. Ngày nay cũng chính sự suy sụp tinh thần dân tộc đã khiến chung la không tự giải phóng được khỏi tay đảng cộng sản chứ không phải vì chế độ cộng sản mạnh. Có những lúc mà những bài học lịch sử thật đáng suy ngẫm.

Chương thứ :45 "

Cuốn sách này dĩ nhiên không thể có tham vọng lố bịch là viết lại lịch sử. Nó đã mời độc giả theo dòng lịch sử mà nghĩ lại một số nhân vật và sự kiện với một dụng ý khác.

Cách mà một dân tộc đánh giá các triều đại và các nhân vật lịch sử nói lên rất nhiều về tâm lý của dân tộc đó. Chính qua cách chọn lựa và tôn vinh các anh hùng mà mỗi dân tộc bộc lộ hon tính của mình.

Một mặt, việc luận công và tội trong lịch sử tùy thuộc ở các giá trị mà mỗi dân tộc đề cao hơn là những sự kiện đã thực sự xảy ra, và vì thế có thể thay đối với thời gian. Một thí dụ là hoàng đế Napoléon I của nước Pháp. Napoléon là một thiên tài về quân sự, đã đánh bại và chế ngự gian hết châu Âu. Ông cũng là một nhân vật hào hoa phong nhã, có sức truyền cảm khó bì và không những chỉ đem vinh quang quân sự cho nước Pháp, ông còn làm ra luật pháp, đặt ra những định chế quan trọng mà nước Pháp tới nay vẫn còn gìn giữ và tự hào. Thời đại của ông cũng để lại những công trình lớn, vĩ đại cả về tầm vóc lẫn mỹ thut. Có một dạo người Pháp tôn sùng ông như một thần tượng, nhưng ngày nay, nếu được hỏi, ít có người Pháp nào còn bày tỏ sự ái mộ với Napoléon. Không phải vì Napoléon đã thay đổi mà vì tâm lý và cách nhìn lịch sử của người Pháp đã thay đổi.

Mặt khác, những nhận định và đánh giá rõ ràng là sai lầm mà lại kéo dài quá lâu cũng tố giác sự hời hợi và sự thiếu óc phê phán của một dân tộc.

Đặt lại một số vấn đề lịch sử như vậy cũng là chất vấn tâm lý tập thể của một dân tộc và rà soát lại các giá trị nền tảng, các giá trị đã góp phần quyết định tạo ra số phận của dân tộc đó. Các nhà tư tưởng hiện nay đều đồng ý trên một điểm: tâm lý và các giá trị là tất cả đối với một dân tộc; địa lý, tài nguyên thiên nhiên và ngay cả bối cảnh quốc tế chỉ là thứ yếu. Các dân tộc như Mỹ, Đức, Nhật, dù ở hoàn cảnh nào, dù có bị tàn phá đến đâu cũng vẫn nhanh chóng phục hồi và vươn lên trong khi nhiều dân tộc khác dù được thiên nhiên và hoàn cảnh ưu đãi tới đâu cũng vẫn thua kém. Một dân tộc vì thế chỉ thay đổi được số phận của mình nếu thay đổi tâm lý và các giá trị, nghĩa là thay đổi văn hóa, thay đổi cách suy nghĩ, hành động và ứng xử.

Cuộc hành trình qua lịch sử mà cuốn sách này mời độc giả cùng đi đã không thoải mái. Tôi hiểu là những phân tích không khoan nhưng đã làm phiền lòng không ít độc giả. Những gì mà chúng ta đã biết hoặc đã tin là một phần của chính chúng ta, và dĩ nhiên chúng ta cảm thấy như bị xúc phạm và bị đả thương khi có người bác bỏ. Tôi mong các độc giả đó hiểu cho rằng chính tôi đã rất đau nhức khi phải xét lại những gì mà chính mình trong một thời gian dài đã cho là đúng và lấy làm nền tảng cho nhiều lý luận khác. Nhất là khi tôi phải làm việc đó tự mình và một mình, trong một cuộc xung đột với chính mình.

Nhưng đó là việc phải làm. Chúng ta phải nhận định lại lịch sử để nhận diện lại chính chúng ta và thay đổi số phận của chúng ta. Hoàn cảnh bi đát của chúng ta hiện nay không cho phép chúng ta thỏa mân. Khi chúng ta nhìn lịch sử của mình một cách khác cũng là lúc chúng ta nghĩ về mình một cách khác, đ từ đó chấp nhận một cách ứng xử khác và tiến tới một tương lai khác.

Cuộc hành trình này đã dẫn chúng ta tới lịch sử hiện đại, nghĩa là phản lịch sử còn đang diễn ra mà chúng ta còn có thể tác động. Phần lịch sử này chúng ta sẽ phải đề cập một cách khác. Nhưng tới đây chúng ta đã có thể rút ra một vài nhận định quan trọng.

Một là đất nước ta đã hình thành như một phần của Trung Quốc, rồi do hoàn cảnh địa lý mà tách rời ra, nhưng chỉ tách rời về mặt hành chánh chứ không tách rời về mặt văn hóa. Như vậy ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa trên chúng ta rất lớn, ngay cả khi chúng ta không ý thức được. Không phải là một sự ngẫu nhiên mà các vua quan nhà Nguyễn vẫn cố bám vào Trung Quốc giữa lúc chính Trung Quc cũng đang rất khốn đốn. Cũng không phải là một ngẫu nhiên mà sau khi đã bị Pháp đô hộ và đã chịu ảnh hưởng nặng nề của Pháp, Việt nam Quốc Dân Đảng mà những người chủ xướng đều có Tây học, vẫn chủ trương rập khuôn Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Cũng không phải là một ngẫu nhiên mà đảng cộng sản Việt nam luôn lếch thếch chạy theo Đảng cộng sản Trung Quốc, dù có lúc hai bên đã thù ghét nhau thậm tệ. Cho dù thương nhau hay ghét nhau, cùng một văn hóa thì vẫn cùng một cách hành động. Chúng ta còn muốn tiếp tục đi theo và đi sau người Trung Hoa nữa không, hay chúng ta đã nhìn thấy những khuôn mẫu khác và những lộ trình khác tốt đẹp hơn? Nếu không muốn theo mô hình Trung Quốc nữa thì chúng ta cần một cố gắng cởi trói, vượt thoát và khai thông rất trọng đại.

Hai là trong quá trình lịch sử chúng ta đã bị ngoại thuộc nhiều hon là độc lập, chúng ta đã chịu đựng quá nhiều chiến tranh và chỉ được hưởng quá ít hoà bình, đã bị chia cắt nhiều hơn thống nhất. Đó là một lịch sử rất chật vật và vì thế chúng ta là một dân tộc bị chấn thương nặng. Cách suy nghĩ và hành động của chúng ta chắc chắn là không bình thờng. Do đó cần rất dè dặt trong các phân tích và các dự đoán chính trị. Có những sự kiện đáng lẽ phải xảy ra lại không xảy ra và cũng có những biến cố đáng lẽ không thể có lại vẫn có. Trong nhưng trường hợp như thế, một nhận định bình thường, nghĩa là không kể đến tình trạng bất bình thường của dân tộc ta, rất dễ khiến chúng ta lý luận gượng ép, khen chê một cách sai lạc và gây khó khăn thêm cho sự tìm kiếm một giải pháp đúng đắn. Trong hoàn cảnh phức tạp và khủng hoảng tinh thần này, chúng ta cần rất nhiều bình tĩnh và sáng suốt.

Sau cùng, tuy chúng ta có một lịch sử dài nhưng lại là một quốc gia mới hình thành xong. Chúng ta đã không ngừng đón nhận nhiều đóng góp về đất đai và chủng tộc. Cấu tạo địa lý và nhân văn của chúng ta mới chỉ rõ rệt từ nửa sau thế kỷ 18. Từ đó đến nay lại là giai đoạn đầy rẫy những thảm kịch nội chiến, ngoại xâm, ngoại thuộc, chia cắt, xung đột ý thức hệ, v. v... Chúng ta là một quốc gia chưa ổn vững, cần được cũng cố, xây dựng và gìn giữ với tất cả thận trọng, nhất là vào giữa lúc mà ý niệm quốc gia đang bị công phá khắp nơi trên thế giới. Nguy cơ tan rã có thực. Trong khi dù muốn hay không chúng ta vẫn cần có một quốc gia để làm không gian liên đới cho cố gắng xây dựng một tương lai chung. Vì nhiều lý do, mà lý do giản dị nhất là không ai muốn ha nhập với một dân tộc nghèo khó như chúng ta.

Chương thứ :46 "

Một cuộc hành trình dù vội vã đến đâu qua lịch sử Việt nam cũng không thể bỏ qua đảng cộng sản. Tác động của nó vào lịch sử Việt nam ã vô cùng to lớn.

Đó là phong trào Việt nam lần đầu tiên tôn vinh đế quốc Nga (dưới mỹ từ Liên Bang Xô viết). Sự thần phục này nghịch lý về nhiều mặt. Nga là nước không những ở rất xa nước ta, chưa hề có một quan hệ nào với nước ta, mà lại là nước do điều kiện địa lý rất ít giao thiệp với thế giới bên ngoài. Nga có trình độ phát triển thấp hơn hẳn các nước phương Tây. Văn hóa Nga dù không tồi cũng không sánh được với văn hóa phương Tây.

Chọn lựa đồng minh và quan thày kỳ lạ này đến từ một chọn lựa độc đáo khác: Đảng cộng sản Việt nam cũng là phong trào nổi dy đầu tiên không lấy quốc gia làm đối tượng phục vụ, hơn thế nữa mục đích sau cùng của nó còn là giải thể quốc gia Việt nam (cũng như mọi quốc gia khác) để hội nhập vào một thế giới vô sản. Chủ nghĩa đã mạnh hơn các quan tâm về địa lý, lịch sử và văn hóa. Điểm này cần được nhận định đúng đắn để rút một suy tư về đất nước.. Chính vì khó có thể tin rằng một phong trào không nhắm phục vụ mà còn nhắm giải thể Việt nam mà lại được người Việt nam ủng hộ nên ngay cả một số những người chống cộng vẫn cố bin bạch rằng phong trào cộng sản là một phong trào yêu nước.

Nhưng sự thực không phải như thế. Sự lấn cấn sở dĩ có là vì chúng ta không phân biệt hai khái niệm khác nhau: người cộng sản và đảng cộng sản. Có và có nhiều người cộng sản yêu nước, nhưng Đảng cộng sản không phải là một đảng yêu nước.

Đảng cộng sản thành lập lúc ban đầu dưới danh xưng là Đảng Cộng Sản Đông Dương với vai trò phân bộ của phong trào cộng sản quốc tế. Nó nổi dậy lần đầu với tên gọi Xô Viết Nghệ Tĩnh và lá cờ đỏ mang khẩu hiệu Vạn Tuế Sô Nga. Cuộc nổi dậy này hoàn toàn chỉ do những động cơ giai cấp, dưới khẩu hiệu trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ nó chỉ nhắm tàn sát những người bị coi là kẻ thù của giai cấp vô sản. Trên thực tế đây không phải là một cuộc nổi dậy vì Việt nam. Chiêu bài dân tộc chỉ được dùng tới sau đó, do một chọn lựa chiến lược mà Stalin áp đặt lên đệ tam quốc tế: chiến lợc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong từng quốc gia. Những người cộng sản Việt nam đầu tiên không phải đã hân hoan đón nhận mệnh lệnh này. Họ đã chỉ tuân hành nó một cách miễn cưỡng. Điều đã thôi thúc những người cộng sản trung kiên, đã khiến họ có thể hy sinh tính mạng và đã đem lại sức mạnh cho đảng cộng sản, vẫn là lý tưởng quốc tế vô sản.

Đảng cộng sản cũng khiến Việt nam một thời được cả thế giới biết đến và nẻ phục như một dân tộc anh hùng bất khuất đã chống trả một cách thắng lợi với hai cường quốc lớn Mỹ và Pháp. Nó cũng là phong trào lần đầu tin đánh bại Hoa Kỳ. Mỗi người Việt nam, kể cả những người chống cộng và đã thực sự đứng trong hàng ngũ đối địch với đảng cộng sản, sẽ lầm nếu phủ nhận những chiến công này. Phủ nhận chúng cũng như người Ai Cập phủ nhận các kim tự tháp hay như người Trung Hoa phủ nhận Vạn Lý Trường Thành. Đó là những công trình được xây dựng trên mồ hôi, nước mắt và xương máu của các dân tc nhưng đồng thời cũng là những di sản của họ. Ngược lại, những người cộng sản cũng nên tương đối hóa những chiến thắng đó. Cùng lắm chúng chỉ khiến chúng ta xuất hiện như là một dân tộc giỏi chiến tranh trong một thế giới ngày càng tôn vinh những giá trị khác và trong đó chỗ đứng và sự vinh nhục của các dân tộc được quyết đnh bởi những thành tựu về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, thương mại. Hơn nữa chúng ta đã phải trả giá quá đắt cho những chiến thắng này. Chúng ta đã kiệt quệ hoàn toàn và còn thù ghét lẫn nhau, đ rồi bế tắc trong sự thua kém.

Đảng cộng sản đã làm chết bốn triệu người qua ba mươi năm chiến tranh (con số sẽ cần được khảo sát một cách chính xác) nhưng đã nắm được chính quyền và thng nhất đất nước. Họ đã thất bại khi cầm quyền. Cần nói rõ về sự thất bại này để tránh ngộ nhận chủ quan: chế độ cộng sản, sau những đập phá lúc ban đầu do bản chất cách mạng của nó, đã làm nhiều cố gắng xây dựng đúng. Nó đã nâng cao phần nào cuộc sống của người dân mặc dầu dân số Việt nam tiếp tục tăng nhanh. Nó cũng đã thúc đẩy nhiều công trình nghiên cứu có ích, và n cũng dành cho người dân một chỗ đứng và một phẩm giá lớn hơn hắn các chế độ quân chủ tại Việt nam trước đó Nếu chúng ta không tự giới hạn trong cuộc tương tranh quốc- cộng mà cố gắng nhìn cả chiều dài của lịch sử thì chế độ cộng sản phải được coi là chế độ hay nhất mà chúng ta đã có từ trước đến nay trong những chế đ đã cai trị toàn bộ Việt nam (không kể chế độ Việt nam Cộng Hòa, một công thức canh tân được đề ra để đối đầu với công thức cộng sản, nhưng đã thất bại sau 27 năm tồn tại và chưa bao gi kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ và dân số Việt nam).

Đảng cộng sản không thất bại so với các triều đại đã cai trị Việt nam trước họ. Nhưng họ đã thất bại so với thế giới. Các vua chúa Việt nam trước đây tuy không bằng họ ngày nay, nhưng lại hơn các lân bang lúc đó và vì thế Việt nam đã đứng vững được và bành trướng được. Đảng cộng sản hơn các vua chúa ngày xưa nhưng lại thua kém các chính quyền khác trên thế giới ngày nay nên Việt nam tụt hậu. Trong khi các quốc gia khác tiến rất xa so với quá khứ của họ, Việt nam dưới chế độ cộng sản chỉ tiến khá xa so với quá kh của mình mà thôi. Đó là tất cả vấn đề. Tội chính của Đảng cộng Sản Việt nam là tội làm mất thì giờ của đất nước, mà trong thời đi này thì giờ là tất cả, mất thì giờ nhiều quá có thể mất nước luôn. Việt nam trong thập niên 1960 và trong nửa đầu thập niên 1970 đã được cả thế giới biết đến và nề phục vì đã làm một việc phi thường là dám chống lại quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Việt nam bước vào thế kỷ 21 cũng đang được cả thế giới biết đến, nhưng không nề phục chút nào, vì đang làm một việc cũng rt phi thường khác là tiếp tục theo đuổi một chủ nghĩa ngây ngô đã sụp đổ. Nhưng làm sao có thể ôm lấy một cái gì đã đỏ nát tung tóe? Chế độ cộng sản Việt nam hiện nay chẳng phải là cộng sn. Nó chỉ là một pha trộn quái dị của nhiều thành tổ cộng sản, tư bản, phát-xít, quân phiệt và mafia. Trong chiều dài của lịch sử, đảng cộng sản đã có một thành tích quan trọng. Họ đã thống nhất đất nước. Đó là một thành tích lớn dù nhiều người, trong đó có tôi, tin rằng chúng ta có thể thống nhất đất nước một cách ít tốn kém và đỗ vỡ hơn.

Họ đã chấm dứt vĩnh viễn được cuộc tranh cãi, không còn lý do nữa nhưng vẫn không chịu chấm dứt hẳn, xem tôn giáo nào đáng được coi là quốc giáo. Họ đã dứt khoát khẳng định Việt nam là một nhà nước thế quyền. Trong thế giới ngày nay, loại trừ được ảnh hưởng của các tôn giáo trong sinh hoạt chính trị là một may mắn lớn. Tuy nhiên nhiều người, trong đó có tôi, tin rằng chúng ta vẫn có thể làm được việc này bằng một cố gắng văn hóa, chính trị đứng đan mà không phải dùng tới những biện pháp thô bạo. Vấn đề nên làm là đưa các tôn giáo ra khỏi chính trị, đảng cộng sản đã làm điều ngược lại là đem chính trị vào tôn giáo. Điều mà đảng cộng sản cố gắng làm - nhưng không làm được - là tiêu diệt các tôn giáo. Họ cũng đã thay đổi một cách quan trọng tập tính người Việt. Đạo đức truyền thống đã bị phá sản hoàn toàn. Biết bao nhiêu người, kể cả những người cộng sản ngoan cố, đã than phiền sự băng hoại của đạo đức. Con người trở thành vị kỷ, lưu manh, thô lỗ. Nhưng cuộc chuyển hóa tư tưởng này không hoàn toàn tiêu cực. Trên ít nhất hai điểm nó rất tích cực.

- Một là nó đã tiêu diệt được óc tôn sùng bằng cấp, một căn bệnh tâm thần rất tai hại của người Việt. Không phải đảng cộng sản nhận thức được sự tai hại của tâm lý trọng bằng cấp và dụng tâm đánh đổ nó. Trái lại chính vì họ quá trọng bằng cấp mà đã cấp phát bừa bãi cho các đảng viên những học vị to lớn, với kết quả là khiến các bằng cấp trở thành những mảnh giấy lộn không hơn không kém. Tình trạng này đưa đến hậu quả tốt mà họ không ngờ là con người từ đây sẽ chỉ được đánh giá theo khả năng. Từ đây người Việt nam sẽ phải học để biết, để có khả năng chứ không học để giành lấy một bằng cấp không còn chứng minh gì nữa. Nói một cách khác, từ đây người ta sẽ phải có thực học thay vì chỉ cần học vị. Đây là một cuộc cách mạng văn hóa rất lớn, mà vô tình đảng cộng sản đã làm được.

Hai là nó đã phần nào biến dân tộc Việt nam từ một dân tộc từ chương, công chức và làm công thành một dân tộc buôn bán và kinh doanh. Ngay lúc đi tù v tôi đã chứng kiến cuộc chuyển hóa vĩ đại này. Hình như nhà nào cũng buôn bán một cái gì. Một tủ kem, một thùng thuốc lá, một quảy tạp hóa tí hon, một quán cà-phê đột xuất v.v. Cũng có những ngời suốt ngày tháng loay hoay chạy mối bán thuốc tây, hàng vải, đủ thứ. Từ ngàn xưa chúng ta coi thờng và bài xích thương mại và do đó đã nghèo khó, lạc hậu và thua kém. Chế độ cộng sản vô tình - hoàn toàn vô tình vì chủ nghĩa của họ không những bài xích mà còn thù ghét thương mại - đã chữa được cho người Việt nam chứng bệnh tâm lý tổ tông truyện này. Trái với một số người, tôi không quá lo ngại về sự băng hoại đạo đức hiện nay. Thật ra chúng ta đòi hỏi gì ở con người? Chúng ta mong muốn những con người có khả năng, chăm chỉ, lương thiện và nhã nhặn. Tất cả những đức tính đó một sinh hoạt kinh tế thị trường đúng nghĩa, nhất là hoạt động buôn bán, sẽ đem lại. Trong một sinh hoạt kinh tế thị trường thực sự, không có khả năng, lười biếng, gian trá thì mất việc; có khả năng, lương thiện, chăm chỉ thì lên chức, lên lương. Buôn bán mà gian trá, thô lỗ thì mất khch và phá sản. Kinh tế thị trường tự do cũng có cái lô-gích và cái đạo đức của nó. Phần lớn những thói hư tật xấu đều có thể khắc phục được trong vòng một thế hệ nếu chúng ta mau chóng có được một nhà nước dân chủ pháp trị đúng đắn, tin tưởng vào kinh tế thị trường và khai thác triệt để mọi ưu điểm của nó.

Một thành quả cũng rất vô tình nhưng vô cùng vĩ đại ca chế độ cộng sản là đã tạo ra cộng đồng người Việt hải ngoại. Lúc đi du học trong thập niên 1960, tôi nỡ ngàng khám phá ra là Việt nam không có cộng đồng hải ngoại như các dân tộc cùng tầm vóc khác. Đó là một thiệt hại rất lớn. Cộng đồng hải ngoại là những đầu cầu thương mại, văn hóa, khoa học và kỹ thuật rất quí báu nhưng, điều còn nhiều lần quí báu hơn, nó cũng là con mắt của một dân tộc để nhìn và hiểu thế giới. Một dân tộc không có cộng đồng hải ngoại không khác gì một người mù. Không có cộng đồng hải ngoại thì không có gì đáng ngạc nhiên nếu chúng ta thin cận, mù quáng, hẹp hòi, bất dung, cố chấp, và sau cùng lạc hậu. Tất cả các quốc gia mới vươn lên gần đây đều đã nhờ sự đóng góp tích cực của một cộng đồng hải ngoại hùng mạnh.

Đảng cộng sản đã không chủ đích thành lập một cộng đồng người Việt hải ngoại vì nhìn thấy vai trò của nó. Họ không có một viễn kiến quốc gia nào. Chính sự bạo ngược của họ đã làm cho hàng triu người phải liều chết vượt biền ra đi, và họ còn cấm cản một cách đã man lần sóng vượt biên. Sau cùng chính họ cũng đứng ra tổ chức vượt biên, nhưng chỉ để làm tiền và trục xuất người Việt gốc Hoa theo một quan niệm dân tộc hẹp hòi. Họ đã làm mất đi một tài nguyên nhân lực quan trọng của đất nước, đương thời cũng khiến cộng đồng người Việt hải ngoại không có được tiềm năng đóng góp mà đáng lẽ số lượng của nó phải đem lại bởi vì phần lởn người Hoa khi còn ở Việt nam là những người Việt gốc Hoa nhưng khi ra nước ngoài chỉ còn là những người Mỹ, người Pháp, người úc gốc Hoa. Tuy vậy, kết quả vẫn còn đó, một cộng đồng người Việt hải ngoại gần ba triệu người, trong đó phân nửa sinh ra tại hi ngoại đã thành hình. Và đây là một trong những sự kiện lịch sử vĩ đại nhất từ ngày lập quốc

Một lời sau cùng trước khi sang phần khác: chúng ta sẽ rất lầm nếu căm thù đảng cộng sản và chế độ cộng sản. Chế độ cộng sản là một giai đoạn chuyển tiếp lô-gích từ chế độ quân chủ Khổng Giáo sang một chế độ dân chủ. Chủ nghĩa cộng sản, dù được văn bản hóa tại châu Âu, ch là một cải tiến của Khổng Giáo. Về bản chất, cộng sản và Khổng Giáo chỉ là một; ý thức hệ cộng sản đã cải tiến Khổng Giáo bằng cách đem vào, ở một mức độ thấp, một số ý niệm mới: luật pháp và nhân quyền, cùng với một kỹ thuật tổ chức hiệu lực hơn. Đó là điều sẽ được trình bày trong phần sau.

ở đây tôi chỉ xin đưa ra hai nhận định. Một là, lý do chính khiến đảng cộng sản đã được hưởng ứng và đã thành công là vì chủ nghĩa cộng sản rất phù hợp với văn hóa Khổng Mạnh mà chúng ta đã thấm nhuần và trân trọng trong suốt dòng lịch sử. Chúng ta đã phải đi qua đoạn đường cộng sản bởi vì đó là một giai đoạn chuyển tiếp tự nhiên trừ khi chúng ta làm mt bước nhảy vọt về văn hóa và tâm lý, nhưng bước nhảy vọt này đã không có. Hai là, chế độ cộng sản, nhìn như một giai đoạn chuyển tiếp từ chế độ quân chủ tuyệt đối đặt nền tảng trên Khổng Giáo sang một chế độ dân chủ, đã kéo dài bởi vì chúng ta chịu ảnh hưởng của Khổng Giáo một cách quá nặng nề. Chúng ta đã phải đi qua đoạn đường cộng sản vì, do thiếu kém tư tưởng, chng ta đã không dám hoặc không muốn vứt bỏ một cách dứt khoát và nhanh chóng Khổng Giáo để quả quyết chọn lựa dân chủ. Không thiếu những người vừa chống cộng kịch liệt vừa đề cao Khng Giáo như một đạo lý cao đẹp chỉ cần cải tiến để thích nghi với thời đại mới mà không ý thức được rằng chủ nghĩa cộng sản chính là một cải tiến lớn của Khổng Giáo. Không phải là một sự tình cờ mà phong trào cộng sản đã thành công ở cả ba nước theo Khổng Giáo: Trung Quốc, Cao Ly và Việt nam (trái với một nhận định hời hợt, Nhật Bản không phải là một nước Khổng Giáo). Cũng không phải là một sự tình cờ mà ba trong bốn nước cộng sản còn lại là những những nước thuộc văn hóa Khổng Giáo. Cộng sản không phải là một tai họa từ trên trời rơi xuống, nó tự chính chúng ta mà ra. Đó là một di sản của lịch sử mà chúng ta phải nhìn nhận và quản lý đúng đắn để thoát khỏi.

Chương thứ :47 "

Trước khi vào Nam nhà tôi ở ngay dốc Cổ Ngư. Tiếp theo dốc Cổ Ngư là đường Cỏ Ngư nối liền đê Yên Phụ và vườn Bắch Thảo. Cỗ Ngư là một con đờng đặc biệt nhất Hà Nội, nó nằm giữa hai hồ: hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Khoảng gần giữa đường Cồ Ngư còn có một con đường khác nối đường Cỗ Ngư với một hòn đảo nhỏ trên Hồ Tây, và trên hòn đảo này có chùa Trấn Quốc xây lại từ thời nhà Lý nhưng đã có từ thời Tiền Lý vào thế kỷ 6. Chính quyền cộng sản không có tinh thần tôn trọng các địa danh nên sau này họ đổi tên đường Cổ Ngư thành đường Thanh Niên cho có vẻ cách mạng và hiện đại. Có người bạn ở Hà Nội nói với tôi đây là sáng kiến của chính ông Hồ Chí Minh.

Dù chỉ sống ở đó có hơn một năm thôi nhưng ường Cỗ Ngư đã rất quen thuộc đối với tôi, tôi hay chạy tung tăng trên con đường đó và quen từng xe bánh tôm. Nhiều bà bán bánh tôm quen biết tên tôi và thỉnh thoảng gọi tôi lại cho một miềng bánh tôm, một phần tư của một cái bánh tròn và dẹp, đường kính chừng 8 cm. Cử chỉ giản dị nhưng âu yếm.

Chùa Trấn Quốc yên tĩnh và thâm nghim đến độ tôi quen thuộc đường Cổ Ngư đến thế mà cũng sợ không dám vào, chỉ có hai lần vào chùa Trấn Quốc cùng với người lớn. Chùa không lớn lắm nhưng sạch sẽ và đẹp, hồi đó tôi chưa ý thức được giá trị lịch sử của sự kiện chùa đã có từ mười mấy thế kỷ.

Bên kia vườn Bắch Thảo, đi bộ một quãng đường không xa là tới Chùa Một Cột. Chùa nhỏ xíu, ở chính giữa một hồ sen cũng nhỏ xíu. Như tên gọi của nó, chùa nằm trên một cột lớn, chung quanh cột tua tủa những xà cong vươn lên như những cánh tay đỡ chùa. Chùa Một Cột cũng có từ thời nhà Lý, vào khoảng thế kỷ thứ 11 hay thế kỷ thứ 12, một chi tiết mà tôi chưa bao giờ cố gắng để nhớ.

Trường tiểu học của tôi nằm ở chùa Kim Liên, cũng nằm trên dê Yên Phụ, chiếm hết một mỏm đất khá rộng phình ra trên Hồ Tây, kế ngay bên làng hoa Yên Phụ. Làng Yên Phụ là làng đẹp nhất mà tôi đã thấy. Cả làng sống bằng nghề trồng hoa và nuôi cá vàng. Hàng năm vào dịp Tết có hội ngay sân chùa, dân làng thi đua triền lãm hoa và cá. Thú nhất là những cuộc chọi gà trong hội này. Những con gà chọi oai vệ màu xám tro, màu đen nhánh, màu đỏ lửa với những cái cỗ vừa dài vừa to, trần trụi và đỏ rực một cách ngạo nghễ. Tôi mê gà chọi từ hồi đó. Có dạo lớp tôi học ở ngay trong chính tòa của chùa, kế bên bàn thờ với một tượng Phật ngồi rất lớn. Về sau lớp tôi chuyển sang một trong những lớp nằm trong hai dẫy nhà trước chùa đối diện nhau bên này và bên kia sân chùa, nhường chỗ cho lớp mẫu giáo. Lý do có lẽ là các thầy sợ chúng tôi, lớp nhì, đã khá lớn nên hay phá phách, các em bé mẫu giáo ngoan ngoãn hơn. Chùa Kim Liên khá lớn, nhưng không còn sư sãi nên được dùng làm trường tiểu học. Lúc đó chùa là đình, nghĩa là nơi hội họp của dn làng, hơn là chùa. Chùa Kim Liên là chùa thân quen với tôi nhất nhưng cũng là chùa mà tôi chưa gặp trong một tài liệu nào. Hình như chùa không lâu đời bằng chùa Trấn Quốc nhưng cũng là một ngôi chùa rt cổ nếu căn cứ vào mái và các kèo cột.

Kiến thức về kiến trúc của tôi không phải là thấp mà là số không, nhưng đại khái tôi thấy chùa nào cũng giống nhau, cũng mái cong, ngói nâu, cột gỗ, sn gạch, nền cao hơn sân vài bậc gạch. Hai người bạn tôi đều là kiến trúc sư và đều có nghiên cu nhiều về kỹ thuật kiến trúc của các chùa Việt nam có hai nhận định khác hẳn nhau. Một anh thì nói đó là một kỹ thuật rất tinh vi và một trình độ nghệ thuật rất cao. Một anh, trái lại, chê các chùa Việt nam là không đa dạng, không mấy thay đổi từ đời này qua đời khác và tố giác sự thiếu sáng kiến của người Việt; anh này cũng nói là kiến trúc các chùa mang nhiều sai phạm về kỹ thuật. Tuy nhiên có hai điểm mà cả hai người đấu nhìn nhận: một là các chùa Việt nam là một trong những di sản phong phú và đáng tự hào của nước ta, hai là các di tích lịch sử của Việt nam quá ít về số lượng và thua kém hẳn các di tích lịch sử tại các nước châu á khác. So với châu Âu, cả hai đều nhìn nhận chúng ta thua kém rất xa.

Dĩ nhiên chúng ta còn nhiều di tích lịch sử quí báu khác. Thành C Loa, đền Hùng, đền vua Đinh, chùa Phổ Minh, chùa Hương Tích, chùa Non Nước, tháp Chàm (tôi không hiểu tại sao một số người không coi tháp Chàm là một di tích lịch sử của người Việt), cổ thành Quảng Trị, chùa Linh Mụ, cổ thành Huế, Tháp Mười, v.v... Để chỉ kể một vài di tích trong nhiều di tích. Nhưng phải nói là so với dòng lịch sử trên hai ngàn năm thì như thế vẫn là quá ít, và nói chung không độc đáo. Bốn ngàn năm văn hiến của chúng ta không để lại bao nhiêu chứng liệu vật chất.

Năm 1986, tôi có dịp nói chuyện với tinh mục Lương Kim Định. Tôi biết đến ông lằn đầu tiên năm 1968 khi một người bạn đưa cho đọc một số tác phẩm của ông về triết lý Việt Nho và An Vi. Tôi không đọc hết một cuốn sách nào của ông cả, bởi vì đọc tới gần nửa cuốn thì có cảm tưởng đã nắm được ý cho nên phần sau chỉ đọc lướt và đọc chéo. Nhân một dịp tôi sang Mỹ mùa thu 1987, Kim Định, vì có đọc một số bài báo của tôi, tỏ ý muốn gặp tôi để thảo luận. Lúc đó ông đã nổi tiếng là một triết gia lớn của Việt nam, nhất là tại hải ngoại. Ông rất đẹp lão, gương mặt sáng láng, thái độ ung dung, ngôn từ sáng sủa, mạch lạc và còn rất tráng kiện ở tuổi 70. Chng tôi thảo luận khá lâu về Nho Giáo mà Kim Định khẳng định là của người Việt chứ không phải của người Trung Hoa và không được triển khai đúng đắn chứ thực ra là một triết lý rất hoàn hảo cần được dùng làm nền tảng xây dựng đất nước sau này. Chúng tôi đi đến một thỏa thuận là không đồng ý với nhau.

Cuối câu chuyện, sang đến phần triết lý An Vi của ông mà Lương Kim Định coi là một thông điệp của trống đồng, tôi nói với Kim Định là cách tiếp cận văn hóa Việt nam của ông rất phiêu lưu bởi vì các di tích lịch sử và văn hóa của chúng ta quá ít ỏi để có thể là một thông điệp sáng sủa và chắc chắn. Chúng ta phải suy diễn rất nhiều mà suy diễn thì lúc nào cũng chủ quan và dễ sai lầm. Kim Định giảng giải cho tôi về những ý nghĩa của trống đồng mà ông cho là rõ rệt và đầy đủ. Thấy tôi có vẻ không tin tưởng lắm, Kim Định hỏi lại: Thế thì cậu đề nghị cách tiếp cận nào?. Tôi đáp là phải tiếp cn bằng con người Việt nam, bởi vì nền văn minh Việt nam là một nền văn minh không có di tích vật chất. Tất cả ở trong con người, quá khứ tồn đọng trong con người và tương lai cũng chỉ là con người. nền văn minh Việt nam chắc chắn là có và đáng kể dù các di tích của ta không vĩ đại và phong phú bằng các nước láng giềng Trung Hoa, Thái Lan, Miến Điện, Cam-bốt và Lào. Vì thế cách tiếp cận dúng để tìm hiểu Việt nam là tâm lý học và xã hội học chứ không phải là khảo cổ học. Sự kiện chúng ta có những con người có thể mau chóng hấp thụ những kiến thức phức tạp và khó khăn nhất, có thể thích nghi ít nhất một cách tương đối với những thay đổi bối cảnh đột ngột nhất, có thể sng qua những thảm kịch ghê gớm nhất là bằng chứng của một nền văn minh đặc sắc. Tuy nhiên khối người tinh nhuệ đó đã chỉ đi từ tai họa này đến thảm kịch khác như vậy rõ ràng là họ phải c một tật nguyền tập thể nào đó. Con người Việt nam là cả một bí mật chưa được khám phá, nhưng điều chắc chắn là nó mang một tiềm năng rất lớn chưa phát huy được vì một số bế tắc tâm lý. Khai thông được bế tắc này chúng ta sẽ giải tỏa một nguồn năng lượng vô cùng lớn và sẽ vươn lên rất mãnh liệt.

Lương Kim Định cũng phân vẫn trước cách tiếp cận của tôi như tôi nghi hoặc trước cách tiếp cận của ông. Không phải chỉ có một mà có nhiều cách tìm hiểu nước Việt. Và tất cả đều có mặt đúng và có mặt yếu. Cái khó của chúng ta là phải làm một việc mà từ trước chng ta đã không cố gắng để làm, nghĩa là tìm hiểu chúng ta là ai.

Từ đó tôi không còn cơ hội để gặp lại Kim Định. Tôi thường hỏi thăm về ông và vài năm sau được biết ông đau nặng, cho nên khi được tin ông qua đời, tôi không ngạc nhiên. Hình ảnh còn lại trong tôi về Kim Định là một con người rất độc đáo. Ông được đào tạo theo giáo dục phương Tây, nhưng lại dùng nn kiến thức đó làm dụng cụ để tìm về nguồn gốc dân tộc, khám phá cái hay của dân tộc, đi đến niềm tự hào - theo tôi quá chủ quan về dân tộc và đề xướng một đường lối phát triển thuần túy Việt nam - mà tôi cho là gượng ép. Là một linh mục công giáo nhưng ông lại gần gũi với triết lý á Đông hơn là triết lý Thiên Chúa Giáo. Đức tin công giáo của ông hình như chỉ rất tương đối. Dù không đánh giá cao lắm những công trình nghiên cứu của Kim Định, nhất là về điểm mà đa số thán phục ông, nghĩa là Nho Giáo, tôi vẫn dành cho ông một sự cảm mến đối với một người đã tận tụy với văn hóa dân tộc.

Trong lần gặp gỡ duy nhất ấy, chúng tôi khác ý với nhau nhiều nhưng chúng tôi đồng ý là lịch sử của chúng ta quá sơ sài và thiếu sót, di sản văn học của chúng ta không có bao nhiêu.

Chương thứ :48 "

Nếu có một thành tích đặc biệt xuất sắc, có thể coi như một phép mầu của dân tộc ta thì đó là văn học. Xin nhấn mạnh cụm từ của dân tộc ta.

Độc giả đ đọc qua những trang trước của cuốn sách này chắc không nghĩ là tôi tự hào dân tộc thái quá, nhiều vị vì thế có thể hỏi ta có gì xuất sắc về văn học? Quả nhiên ta có rất ít lý do để tự hào. Về múa chúng ta quả thật là kém. Ta thua hẳn hai dân tộc láng giềng tầm vóc nhỏ hơn là Lào và Cam-bốt, và có thể nói là thua xa mọi nước khác. Trong bộ môn này chúng ta đội sổ trong số các dân tộc có lịch sử tương đối dài. Điêu khắc và hội họa cũng chỉ mới khởi sắc gần đây, vào đầu thế kỷ thứ 20, do người Pháp đem đến. Trước đây ta có rất ít tranh và không có bức tranh nào có giá trị. Ta cũng có nhiều chạm trỗ trên kèo cột, giường tủ với mục đích bằng trí nhưng có thể nói những chạm trỗ này hoàn toàn không có một giá trị nghệ thuật nào. Các tượng tạc và đúc của ta cũng thế, chỉ là những biểu tượng gợi ý chứ không thể coi là những tác phẩm nghệ thuật, các tác giả là những người khéo tay chứ không phải là những nghệ sĩ. Rất khó phân biệt một công trình ngh thuật của ta thuộc thế kỷ thứ 10 hay thuộc thế kỷ 19 bởi vì không có tiến bộ. Tất cả chỉ dừng lại ở sự khéo tay tự nhiên của con người. Học giả Trần Quang Hải, kế nghiệp cha là học giả Trần Văn Khê, đã dày công biên khảo, thu thập gia tài âm nhạc của chúng ta qua các thời đại. Phạm Duy, người nhạc sĩ thiên tài với lòng yêu nước thiết tha, đã cố gắng vượt bực để vừa ký âm hóa vừa phong phú hóa cổ nhạc Việt nam. Tất cả những cố gắng đó đưa tới một bảng tổng kết đáng buồn: âm nhạc của ta cũng rất nghèo nàn. Nhu cầu nghệ thuật và sáng tạo hầu như hoàn toàn thiếu vng ở dân tộc ta. Văn hóa nghệ thuật của ta chỉ là văn hóa nghê thuật nghỉ ngơi, nhàn dư chứ không phải là văn hóa nghệ thuật nhức nhối và khai phá. Không gì đáng ngạc nhiên nếu chúng ta không có tc phẩm đáng giá.

Nói tới văn hóa Việt nam thực ra chỉ là nói đến thơ văn. Và thơ văn của chúng ta chỉ xuất hiện từ thời nhà Lý, nghĩa là từ thế kỷ 11 trở đi Trước đó chúng ta có rất ít dấu tích thơ văn Việt nam. Có thể là do hoàn cảnh lịch sử, những thơ văn của người Việt đã có trước thế kỷ 11nhưng đã bị thất lạc. Nhưng cứ nhìn vào thành tích thơ văn của bốn thế kỷ Lý Trần, ta có thể khẳng định là thơ văn Việt nam trước đó nếu có cũng không. Đáng kể, cả về phẩm lẫn lượng. Bốn trăm năm độc lập, dưới hai triều đại mà chúng ta cho là huy hoàng nhất trong lịch sử, chắc chắn thơ văn Việt nam đã làm một bước nhảy vọt vĩ đại so với thời gian trước. Vậy nhìn vào thơ văn.

Lý Trần ta có thể hình dung được thơ văn trước đó. Những công trình khảo cứu đã tổng kết được khoảng hơn sáu trăm bài thơ và văn đủ loại trong bốn thế kỷ. Cứ coi là một số đã bị thất lạc và cộng thêm một ngàn bài nữa để đưa con số này lên một ngàn sáu trăm thì, nói chung, chúng ta cũng chỉ sáng tác được mỗi năm bốn bài. Các bài lại thường thường rất ngắn, có khi chỉ vài câu thôi. Trung bình mỗi bài chưa tới một trăm chữ. Như vậy, ngay cả nếu ước lượng một cách rất rộng rãi thì trung bình trong bốn thế kỷ cực thịnh đó cả nước đã chỉ sáng tác được mỗi ngày một chữ? Có một sự kiện cần lưu ý là sau khi tiêu diệt được nhà Hồ (năm 1407), hoàng đế Trung Quốc là Minh Thành Tố đã ra lệnh cho quân Minh thu thập rồi tiêu hủy hay chở về Trung Quốc các tác phẩm bằng chữ Nho của Việt nam. Lệnh này đã không được thi hành nghiêm túc (tại sao? phải chng là các quan nhà Minh thấy chẳng có gì đáng kẻ?) nên Minh Thành Tồ phải ra một lệnh thứ hai quở trách quan tướng nhà Minh và đòi phải thi hành triệt đề. Nhà Minh đã cướp mất của chúng ta những gì không ai biết rõ. Trong Việt nam Sử lược, Trần Trọng Kim dựa vào các pho sử có trước nói rằng quân Minh đã lấy của chúng ta 24 bộ sách. Thực tế có thể là hơn. Nhưng dựa vào những gì còn lại ta có thể kết luận là cũng không có gì đáng tiếc lắm, ít nhất về phẩm. Chúng ta hay nói tới các tác phầm của Chu Văn An, nhưng dựa vào những gì còn sót lại của Chu Văn An thì cũng có thể kết luận rằng các tác phẩm của ông cũng không có giá trị đặc biệt nào.

Thơ văn Việt nam thực ra chỉ khởi sắc dưới thời Hậu Lê với các tác giả Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, và chỉ phát trin mạnh từ thế kỷ 18 trở đi để đạt tới cao điểm vào thế kỷ 19 dưới triều Nguyễn, với các tác giả lớn như Lê Quý Đôn, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Đặng Trần Côn, Nguyn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Huy Tự, Phan Huy Chú, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê... Sự khởi sắc đột ngột này có một nguyên nhân quan trọng, đó là thắng lợi của chữ Nôm trên chữ Hán.

Điều cần lưu ý là trong mười lăm thế kỷ đầu của công nguyên, ngay cả trong bốn thế kỷ Lý - Trần, các chính quyền, các vua chúa Việt nam và các sĩ phu Việt nam chỉ lo quảng bá tiếng Trung Quốc chứ không lo phát triển ngôn ngữ Việt nam. Không những không phát triển mà còn miệt thị (nôm na là cha mách qué). Điều khó tưởng tượng là các chính quyền và thành phần khoa bảng Việt nam đã say mê thực hiện một chính sách Hán hóa đất nước mình. Nếu văn hóa nước ta còn, và do đó đất nước ta còn, là vì họ đã thất bại? Công lao giữ nước như vậy không phải do các vua chúa, các anh hùng, các công hầu khanh tướng, cũng không do giới sĩ phu mà hoàn toàn do những người nông dân Việt nam.

Điều mầu nhiệm là mặc dầu bị chà đạp và miệt thị, không những bởi ngoại nhân mà còn do chính thành phần được coi là ưu tú của mình, xã hội Việt nam vẫn giữ được tiếng nói riêng của mình, để rồi dần dần tiếng Việt toàn thắng trên đất Việt. Người nông dân Việt nam đã giữ được ngôn ngữ của mình và khuất phục được giơi sĩ phu? Sau đó người Việt đã dựa vào chữ Hán để chế ra chữ Nôm mà tạo ra chữ viết riêng của mình, âm thầm tu bổ nó, dần dần biến nó thành một ngôn ngữ có giá trị văn chương.

Văn thơ chữ Nôm bắt đầu xuất hiện chính thức với bài Văn Tế Cá Sấu của Nguyễn Thuyên cuối đời nhà Trần, vùng lên mạnh mẽ vượt qua chữ Hán dưới thời Lê Trung Hưng (Trịnh-Nguyễn) đ chiếm ngữ toàn bộ sân khấu văn chương dưới triều Nguyễn, chỉ để lại cho chữ Hán vai trò ngôn ngữ biên khảo. Sự thịnh hành của chữ Nôm đã giúp cho trí tuệ Việt nam phát triển, đã nâng cao trình độ sĩ phu Việt nam và làm xuất hiện những tác phẩm dài, thơ văn cũng như biên khảo, bằng chữ Nôm và bằng cả chữ Hán. Cần lưu ý là trong suốt thời độc tôn của chữ Hán chúng ta đã chỉ có những tác phẩm vụn vặt.

Từ đó cho tới thế kỷ 20, tổng kết văn thơ Việt nam, ngoại trừ bài Bình Ngô Đại Cáo, tất cả những tác phẩm lớn của chúng ta đều bằng chữ Nôm. Không có chữ Nôm thì chúng ta đã không th có những tác phẩm để tự hào: Chinh Phụ Ngâm, truyện Kiều, Hoa Tiên, Nhị Độ Mai và những bài thơ bài phú bất hủ của Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến. Văn học của ta đã chỉ c giá trị sáng tạo từ khi chuyển sang chữ Nôm.

May mắn làm sao mà văn Nôm, tức văn Việt nam, nở rộ lên trong thế kỷ 19. Thử tưởng tượng cái gì sẽ xảy ra vào cuối thế kỷ 19, khi người Pháp áp đặt ách đô hộ lên nước ta và đem tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính thức, nếu lúc đó ta vẫn chưa có một văn học Việt nam riêng mà vẫn hoàn toàn dựa vào chữ Nho? Chúng ta sẽ không thể có Nam Phong Tạp Chí, Tự Lực Văn Đoàn với những tiếp nối của chúng. Chúng ta sẽ ở vào cùng một tình trạng bi đát như Lào và Cam-bốt hiện nay.

Các dân tộc châu Âu mặc dầu bị đế quốc La Mã đô hộ và áp đặt tiếng La Tinh cũng đã xây dựng được ngôn ngữ riêng của họ để dần dần thay thế tiếng La Tinh. Họ là những dân tộc tinh anh. Chúng ta cũng như họ. Nhưng dân tộc ta đã thắng một cuộc đấu tranh cam go hơn nhiều bởi vì chính những thành phần ưu tú của đất nước ta đã đóng góp phồ biến chữ Hán và ngăn chặn sự phát triển của tiếng Việt.

Các dân tộc châu Âu đã chỉ đạt tới nền văn hóa huy hoàng của họ sau khi họ tự giải thoát khỏi tiếng La Tinh để dựa trên ngôn ngữ của riêng mình. Cũng tương tự, người Việt đã chỉ đạt tới một nền văn học có giá trị từ khi dựa trên tiếng Việt. Đó là một bài học cần được ghi nhớ. Ngôn ngữ là dụng cụ của tư tưởng và tiến bộ, và mỗi con người chỉ phát huy được cao độ khả năng suy nghĩ và diễn tả của mình qua tiếng mẹ đẻ. Một giáo sư ngữ học người Pháp, người Mỹ dù bỏ cả cuộc đời để học hỏi và trau dồi tiếng Việt cũng không thể viết nổi những câu thơ của Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Trịnh Công Sơn. Ngược lại, một người Việt nam dù học tiếng Pháp từ lúc mới chào đời và đậu thạc sĩ văn phạm như Phạm Duy Khiêm cũng không thể đạt tới trình độ của những nhà văn lớn của Pháp. Vẫn còn lại một cái gì đó, một phần trăm hay một phần ngàn thôi nhưng quyết định tất cả, và phân biệt một tác phẩm kiệt xuất với một tác phẩm khá.

Xây dựng, mài dũa, hoàn thiện không ngừng tiếng Việt là nhiệm vụ trên hết mọi nhiệm vụ. Đó là dụng cụ không có không được của chúng ta để vươn lên. Cho tới nay sự quí trọng tiếng Việt của chúng ta còn ở rất xa mức độ cần có. Hàng chục thế kỷ khinh miệt tiếng mẹ đẻ vẫn còn để lại trong chúng ta những tàn dư tồi tệ. Khi viết một tài liệu bằng tiếng Việt, chúng ta (chúng tạ ở đây xin hiểu là đa số) cảm thấy không cần lo âu gì cả, viết sao cũng được; trái lại, khi viết bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, ta tra tự điển xem có đúng chính t không, đắn đo không biết nên dùng chữ này hay chữ khác, hỏi ý kiến bạn bè, v.v... Chúng ta rất vô lễ với tiếng Việt. Không thiếu những nhà bình luận viết không có bố cục và không ra câu cú. Câu văn dài lòng thòng, chấm phẩy tùy tiện, mệnh để chính và phụ hỗn độn, chữ dùng không chính xác và viết sai chính tả. Có cả những bài thơ mang những lỗi ngữ vựng rất thông thường.

Chúng ta đừng quên ngôn ngữ không phải chỉ là dụng cụ phát biểu ý kiến mà còn là cấu trúc của tư tưởng. Chúng ta suy nghĩ bằng ngôn ngữ trước khi diễn tả bằng ngôn ngữ.

Vợ chồng ông hàng xóm của tôi người Trung Hoa; họ ở bên Pháp đã hơn hai mươi năm mà vẫn không nói được tiếng Pháp. Mỗi lần có ngời Pháp đến hỏi họ đều phải cầu cứu chúng tôi. Chỉ sau này khi các con đã lớn và học khá họ mới không cần vợ chúng tôi nữa. Ông bà ấy nói bằng tiếng Việt để chúng tôi thông ngôn sang tiếng Pháp. Nhưng họ không phải là những người Việt gốc Hoa, mà là những người Miên gốc Hoa. Họ sinh ra và lớn lên tại Phnom Penh. Năm 1976 họ chạy trốn Pol Pot sang Việt nam và rời Việt nam sang Pháp hai năm sau. Thời gian hai năm đó đủ để họ nói được tiếng Việt và nhớ mãi tới hai mươi năm sau mặc dầu không hề cố gắng học tiếng Việt. Trái lại, từ khi tới Pháp họ đã theo học nhiều lớp tiếng Pháp nhưng sau hai mươi năm sống trên đất Pháp vẫn không nói được. Đó là vì cấu trúc của tiếng Pháp quá khác với cấu trúc của tiếng Tàu, trong khi tiếng Việt và tiếng Tàu khá gần nhau.

Vẫn còn nhiều người nghĩ rằng trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, khi tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ quốc tế, chúng ta cần hoàn thiện tiếng Anh trước đã, tiếng Việt tàm tạm đủ dùng thôi cũng được. Như thế là quên rằng chúng ta suy nghĩ bằng tiếng mẹ đẻ, nếu chúng ta không nắm thật vững tiếng mẹ đẻ thì chúng ta sẽ suy nghĩ kém, trí óc sẽ không thể phát triển tới mức tối đa được. Chúng ta sẽ thiếu một cái gì đó, cái một phần trăm hay một phần ngàn quyết định tất cả và phân biệt cái hơn hẳn với cái bình thường. Và chúng ta sẽ vĩnh viễn thua kém.

Chương thứ :49 "

Chúng ta đều biết nước Cao Ly là nước nào. Tuy nhiên ngay việc gọi tên nó cũng làm nhiều người phân vân: Triều Tiên hay Hàn Quốc? Quốc hiệu của nước này đã thay đổi nhiều lần trong lịch sử và ngay bây giờ cũng không đồng nhất. Từ sau thế chiến II trên bán đảo Cao Ly có hai nước được thành lập và xung đột với nhau, Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên ti miền Bắc và Đại Hàn Dân Quốc tại miền Nam. Như vậy miền Bắc tự gọi là Triều Tiên trong khi miền Nam là Đại Hàn. Tuy vậy khi giao thiệp với các nước Tây Phương họ lại dịch giống nhau và đều dùng chữ Cao Ly (Korea, Corée). Miền Bắc là Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Cao Ly (Democratic Peoples Repubhc of Korea, République Démocratique ét Populaire de Corée), miền Nam là Cộng Hòa Cao Ly (Republic of Korea, République de Corée). Vậy khi cần nói đến cả hai miền của đất nước này la có thể tạm dùng chữ Cao Ly, một danh xưng mà ngôn ngữ Việt nam ít dùng, vì thường sử dụng thẳng quốc hiệu chính thức của hai chế độ, nghĩa là Triều Tiên hay Đại Hàn.

Triều Tiên là quốc hiệu được Trung Quốc nhìn nhận từ năm 1391; Cao Ly là tên gọi của nước này trong năm thế kỷ trước đó; trong khi Hàn là tên một con sông ở chính giữa nước, và cũng là tên của một dân tộc đã sinh sống tại miền Nam bán đảo Cao Ly và là nguồn gốc của đa số dân Cao Ly. Một ngày nào đó, nếu nước này được thống nhất có rất nhiều triển vọng họ sẽ sử dụng tên Cao Ly. Vả lại những danh xưng Triều Tiên, Đại Hàn ngay từ bây giờ đã không có công dụng quốc tế.

Cao Ly có một lịch sử bình thường hơn nước ta. Đất nước này đã thành hình do sự sát nhập và thống nhất nhiều vương quốc nhỏ trên bán đảo. Kể từ thế kỷ 13 lãnh thổ của họ không thay đổi nữa, gồm toàn bộ bán đảo, ngăn cách với Trung Quốc bởi con sông áp Lục.

Nhiều người Việt nam không am hiểu lịch sử Cao Ly, và do tự ái dân tộc, thường cho rằng trước đây không lâu nước ta còn tiến bộ và hng mạnh hơn Cao Ly, sự thua kém của ta chỉ là gần đây mà thôi. Sự thực rất khác. Dân tộc Cao Ly từ lâu đã tiến bộ hơn ta nhiều về mọi mặt. Họ đã được độc lập trong suốt dòng lịch sử. Đôi khi vì suy yếu hơn nước Trung Hoa họ đã phải nhận vai trò chư hầu nhưng vẫn giữ được nền tự chủ, ít ra là tự trị, trái với Việt nam bị sát nhập làm một phần của Trung Quốc trong hơn một ngàn năm. Di sản của một ngàn năm nô lệ này vẫn còn để lại trong hồn tính và tư tưởng của chúng ta nhưng tật nguyền mà người Cao Ly, vì là một dân tộc độc lập không có. Họ có tinh thần dân tộc cao hơn ta, có óc sáng tạo hơn ta và đã tiến triển rất sớm. Những tranh vẽ còn lại trong các ngôi mộ từ thế kỷ 4 chứng tỏ một trình độ nghệ thuật rất cao, không thua gì người Trung Hoa. Cũng tại các ngôi mộ này ta thấy các dấu tích về quần áo, kiến trúc, công nghiệp, giải trí và binh bị rất đáng ngạc nhiên về sự tinh vi. Nếu ngày nay nước Cao Ly, ít nhất phần phía Nam được gọi là Đại Hàn Dân Quốc, tiến bộ mau chóng cũng nhờ họ được thừa hưởng một di sản văn hóa rất phong phú và đặc sắc.

Điều đặc sắc nhất là họ đã có một ngôn ngữ Cao Ly riêng, đã để lại nhưng bài thơ có giá trị triết lý, văn học ngay từ thế kỷ thứ 6. Ngôn ngữ này được sáng chế ra bằng cách sử dụng những bộ chữ của người Trung Hoa, gần ging như chúng ta đã dựa vào chữ Hán để chế ra chữ Nôm, nhưng sớm hơn. Ngay từ thế kỷ thứ 7, người Cao Ly đã biết kỹ thuật in sách. Cho tới nay, theo một số nhà nghiên cứu, bản in xưa nhất thế giới là bản in một cuốn sách của người Cao Ly. Ngay từ thế kỷ 7, người Cao Ly đã quan tâm học hỏi các môn toán thiên văn, y học. Năm 717 họ đã lập ra các học vị tiến sĩ Toán, tiến sĩ Y khoa, tiến sĩ Thiên văn. Trước đó, năm 692 họ đã có những tiến sĩ Luật. Nếu nhìn lại lịch sử của ta thì phi thấy ta thua họ xa lắm và từ lâu rồi. Cho đến đầu thế kỷ 20 ta vẫn chỉ có những cử nhân tiến sĩ về văn chương mà thôi.

Kinh nghiệm Cao Ly mà tôi muốn nói tôi ở đây là kinh nghiệm về ngôn ngữ. Người Cao Ly rất hiếu học và cầu tiến. Từ thế kỷ thứ 10 họ say sưa học hỏi văn hóa Trung Hoa, treo giải thưởng cho những ai tìm được sách của Trung Hoa, rồi sao chép và phổ biến trong giới ưu tú. Lúc đó nước Trung Hoa lại may mắn gặp những thời kỳ thịnh trị qua suốt các triều đại Đường, Tống, Nguyễn, Minh. Văn học, triết lý và chính trị của Trung Hoa đều rất thịnh trong các triều đi này. Trí thức Cao Ly say mê học hỏi rồi dần dần bỏ quên cả ngôn ngữ gốc của mình. Chữ Hán với thời gian chiếm vai trò của ngôn ngữ chính thức, át hẳn tiếng Cao Ly. Hậu quả của việc tôn sùng tiếng Trung Hoa là dần dần Cao Ly thua kém Trong Hoa và suy thoái đi, bởi vì chữ Hán chỉ phổ biến trong giới thượng lưu mà thôi. Quần chúng Cao Ly vẫn chỉ sử dụng tiếng Cao Ly bản xứ. Vì ngôn ngữ này không được phát triển, trình độ văn hóa của quần chúng không vươn lên được.

Sau hơn bốn thế kỷ bỏ rơi ngôn ngữ của chính mình để chạy theo một ngôn ngữ và một văn hóa nước ngoài, người Cao Ly đã nhận ra sự sút kém của mình. Đầu thế kỷ 15 họ quay trở lại phát triển tiếng Cao Ly và lần này họ làm một phát minh độc đáo: một tiếng Cao Ly mới xuất hiện với một mẫu tự riêng, gom 26 chữ cái, mỗi chữ cái diễn tả một âm riêng giống như các ngôn ngữ phương Tây, nhưng các mẫu tự dĩ nhiên là khác với các mẫu tự la tinh ABC vì lc đó Cao Ly chưa biết tới châu Âu.

Cuộc cách mạng văn hóa này đã gặp nhiều chống đối của giới sĩ phu sính chữ Hán, nhưng nhờ quyết tâm của chính quyền nó đã thành công và nước Cao Ly vươn lên mạnh mẽ. Cho tới nay, đây vẫn là ngôn ngữ chính thức của nước Cao Ly và đã được phong phú hóa rất nhiều để trở thành một ngôn ngữ đầy ủ khả năng để chuyên chở mọi kiến thức văn học, khoa học kỹ thuật.

Vào đầu năm 1998, một bài báo của một thân hữu được đăng trên tờ Cánh én tại Đức và Thông Luận đã phê phán một bài báo khác của tôi. Tác giả phê phán tôi cực đoan trong cách nhận định văn hóa và lịch sử dân tộc và đưa ra nhận định là hình như những người hoạt động chính trị Việt nam đều có chung nhau một điểm là hay chọn lựa thái độ cực đoan. Đề cập tới hai khuôn mặt chính trị Việt nam hồi đầu thế kỷ, tác giả nhận định Phan Bội Châu đã cực đoan trong thái đõ thân Nhật, một chọn lựa mà nếu thành công vào lúc đó sẽ là một thảm kịch cho dân tộc Việt nam; Phan Chu Trinh đã quá khích trong cố gắng cỗ võ dùng chữ quốc ngữ thay chữ Nho với hậu quả là người Việt nam đã mất mát rất lớn vì bị đoạn tuyệt với văn hóa Trung Hoa, văn hóa gốc của mình. Tác giả viện dẫn trường hợp Cao Ly để nói rằng người Cao Ly, cũng như người Nhật, đã tiến mạnh nhờ tiếp tục sử dụng tiếng Hán. Tôi chia sẻ với bạn đó nhận định về Phan Bội Châu nhưng không thể đồng ý về trường hợp Phan Chu Trinh và chữ quốc ngữ, nhất là về thí dụ Cao Ly. Cao Ly đã sùng ái chữ Hán trong vòng bốn thế kỷ nhưng vẫn có ngôn ngữ riêng của họ và từ năm thế kỷ gần đây ngôn ngữ riêng là ngôn ngữ chính thức chứ không phải chữ Hán. Họ tiến nhờ ngôn ngữ riêng chứ không phải nhờ chữ Hán mà họ chỉ sử dụng như một ngoại ngữ. Theo chỗ tôi biết, trong tiếng Cao Ly hiện nay chỉ có khoảng hai ngàn chữ có gốc chữ Hán mà thôi, nghĩa là rất ít so với sự hiện diện của chữ Hán trong tiếng Vit. Các chữ Hán vay mượn này cũng đã được Cao Ly hóa, nghĩa là viết bằng mẫu tự Cao Ly, chẳng khác gì ta viết chữ gốc Hán như ân nhân bằng mẫu tự la tinh. Sử dụng ngôn ngữ của riêng mình là một bắt buộc đối với mọi dân tộc muốn trường tồn. Suy nghĩ và diễn tả là hai hành động cơ bản nhất của loài người. Chúng ta suy nghĩ và diễn tả bằng một ngôn ngữ, và chúng ta chỉ thoải mái và chỉ thành công tối đa trong ngôn ngữ của chính mình. Sử dụng một ngoại ngữ chúng ta sẽ bị giới hạn trong cả suy nghĩ lẫn diễn đạt, chúng ta sẽ thua kém. Đó mới chỉ là nói về giới trí thức. Đối với cộng đồng dân tộc việc sử dụng ngoại ngữ thay vì quốc ngữ còn nguy hiểm gấp bội. Quần chúng chỉ có thể dùng ngôn ngữ của mình chứ không thể thấu hiểu một ngoại ngữ. Bỏ rơi quốc ngữ là bỏ rơi đại bộ phận dân tộc và chấp nhận vĩnh viên số phận nhược tiểu, trừ trường hợp dám thẳng thắn xóa bỏ văn hóa của mình để chấp nhận một văn hóa mới. Nhưng cố gắng xóa bỏ văn hóa của chính mình này sẽ đòi hỏi nhiều thế kỷ và tới nay chưa dân tộc nào làm được. Nước Việt nam của chúng ta đã thử nghiệm trong mười thế kỷ Bắc thuộc và hơn bốn thế kỷ độc lập sau đó nhưng đã không thành công.

Đất nước ta đang mở ra với thế giới vào giữa lúc mà tiếng Anh đang thời thượng. Chẳng bao lâu một cuộc thảo luận lớn sẽ diễn ra: nên đầu tư tích cực vào tiếng Anh để hội nhập mau chóng vào sinh hoạt thế giới hay nên dồn một cố gắng vĩ đại vào việc phát triển tiếng và cải tiến tiếng Việt? Nhiều người lý luận rằng với tiếng Anh chúng ta sẽ hiểu được cả thế giới và ngược lại cũng được cả thế giới hiểu. Tiếng Việt có rất nhiều trở ngại: tiếng đơn âm, khó kết hợp và biến hóa để tạo ra những từ mới, diễn tả những ý niệm mới; dấu phức lạp, khó dùng trong truyền thông và tin học; hơn nữa lại không được thế giới biết đến, đằng nào cũng vẫn phải dùng tiếng Anh trong các giao dịch quốc tế.

Mặc dầu tất cả những trở ngại rất lớn và có thực đó, lập trường của tôi rất rõ rệt: phải dùng tiếng Việt và phải đầu tư vào tiếng Việt. Lập trường của tôi không xuất phát từ một tinh thần quốc gia mà từ một nhận định thực tiễn: người Việt chỉ thành công qua tiếng Việt mà thôi. Chúng ta sẽ không có hy vọng nào để cả nước thông thạo tiếng Anh, mà có thông thạo đi nữa thì cũng không bao giờ thông thạo được bằng người Anh hay người Mỹ. Chúng ta sẽ học tiếng Anh, nhưng đó sẽ chỉ là ngôn ngữ giao dịch với bên ngoài. Tiếng Việt sẽ vẫn là ngôn ngữ để học hỏi, để suy nghĩ, để giáo dục, huấn luỵện, đào tạo và trao đổi giữa chúng ta. Đó là chọn lựa duy nhất của chúng ta. Chúng ta đã có kinh nghiệm chữ Hán và chữ Nôm. Chúng ta đã chỉ thực sự tiến bộ khi chữ Nôm trưởng thành. Dân tộc Cao Ly cũng đã có một kinh nghiệm tương tự về ngôn ngữ của họ sau khi đã sùng ái chữ Hán. Các dân tộc châu Âu cũng đã chỉ vươn lên nhờ biết sáng tạo và cải tiến tiếng mẹ đẻ của họ để thay thế cho tiếng La Tinh.

Chúng ta cũng có một kinh nghiệm ngược lại đầy ý nghĩa. Tỉnh Québec của Canada gom đại đa số là người gốc Pháp, và họ có đủ điều kiện để phát triển tiếng Pháp, nhưng họ không phải là một phần của nước Pháp cho nên mặc dầu có phương tiện dồi dào và có ý chí mạnh mẽ giữ gìn tiếng Phấp, họ đã không sáng tác được gì đáng kể bằng tiếng Pháp. Nước Việt nam ta với điều kiện địa lý và nhân văn có triển vọng để trở thành một nước lớn và giàu mạnh, nhưng triển vọng đó sẽ chỉ được thực hiện với tiếng Việt. Vậy chúng ta chỉ có một chọn lựa: xây dựng, cải tiến và phong phú hóa ting Việt.

Chương thứ :50 "

Khi Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều để về quê sau một thời gian say sưa ân ái, Nguyễn Du tả cảnh chia tay bằng hai câu thơ bất hủ:

Người lên ngựa, kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.

Kẻ ra đi, người còn bịn rịn nắm áo giữ lại, đến lúc biệt ly mới ngỡ ngàng nhận ra là mùa thu đã đến từ lúc nào không hay, lá vàng đã phủ đầy lối đi. Thì ra đôi uyên ương đã quá say sưa đến quên cả thời gian.

Nhưng vần thơ trác tuyệt như vậy đầy rẫy trong truyện Kiều. Thiên tài của Nguyễn Du là đã vừa viết truyện vừa sáng tác ra ngôn ngữ để viết. Và những sáng lạo ngôn ngữ của ông quả là tuyệt vời. Nhưng cụm từ của ông đã trở thành những thành tố quan trọng của tiếng Việt. Sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, rạch đôi sơn hà, hàng thần lơ láo, đội trời đạp đất, tài tử giai nhân, sở khanh, v.v... Kiến thức về văn học của tôi không có bao nhiêu, nhưng tôi cũng đã đọc khá nhiều tác giả lớn bằng tiếng Pháp và ting Anh và nhiều truyện Tàu. Tôi chưa hề thấy một nhà văn nào sáng tạo ra ngôn ngữ nhiều như Nguyễn Du.

Những về một khía cạnh khác, truyện Kiều lại đem đến cho tôi một tâm sự chua chát. Đoạn Trường Tân Thanh là tên của một tiểu thuyết vô danh của một tác giả vô danh bên Trung Quốc, Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyễn Du đã giữ nguyên tên tác phm và, theo một số nhà nghiên cứu văn học, cũng giữ nguyên cả cốt truyện, kể cả những chi tiết ngớ ngẩn như hồn ma Đạm Tiên, Từ Hải chết đứng, Thuý Kiều chết đi sống lại và gặp vãi Giác Duyn... Ông cũng giữ nguyên cái triết lý tài mệnh tương đố bi quan và rẻ tiền. Nói chung, Nguyễn Du không có cảm hứng và tư tưởng của chính mình mà chỉ hòa nhịp theo cảm hứng của một tác giả tầm thờng của Trung Quốc và đi theo mạch tư tưởng rất tầm thường của người này. Nguyễn Du là khuôn mặt văn học lớn nhất và cao nhất của nước ta cho tới ngày nay, cho nên nhưng thiếu sót của ông càng áng tủi hổ cho chúng ta hơn là nơi những tác giả khác. Hình như không có câu thơ nào trong Cung Oán Ngâm Khúc mà lại không có một điển tích văn hóa hay lịch sử Trung Hoa và quyết nhiên không có một qui chiếu Việt nam nào cả. Chinh Phụ Ngâm là tác phẩm hoàn toàn của người Việt nam, bản chữ Nho của Đặng Trần Côn cũng như bản chữ Nôm của Đoàn Thị Điểm, nhưng đó lại là một truyện Tàu, bối cảnh và các nhân vật của nó đều là Trung Hoa. Tâm hồn của người chiến sĩ lên đường được diễn tả qua hai câu thơ:

Săn lâu lan rằng theo Giới T

Tới Man Khê bàn sự Phục Ba.

Nhưng sự Phục Ba là sự gì? Đó là việc tướng nhà Hán Mã Viện, có tước Phục Ba Tướng Quân, đem quân đánh bại Hai Bà Trưng, dẹp cuộc khởi nghĩa giành độc lập đu tiên của Việt nam, và đặt ách đô hộ một ngàn năm trên nước ta. Một sự kiện như vậy mà lại gây hứng khởi trong lòng hai danh sĩ xuất sắc bậc nhất của nước ta đủ chứng tỏ cảm hứng của s phu Việt nam vào thời đó đều chỉ hoàn toàn là vay mượn.

Trong thế kỷ 19 thơ văn Việt nam đã làm một bước nhảy vọt vĩ đại cả về phẩm lẫn lượng. Bước nhảy vọt này đã được tiếp nối và tăng cường trong thế kỷ 20 với sự bành trướng của chữ quốc ngữ, thơ mới và tiểu thuyết theo kiểu phương Tây. Cũng trong thế kỷ 20 mà chúng ta bắt đầu làm quen với văn nghị luận và biên khảo. Nhưng chúng ta vẫn chưa có một tác phẩm nào lớn, có tầm vóc quốc tế. Cảm hứng vụn vặt, đam mê chốc lát - di sản của một nền văn hóa nhàn d - đã chỉ đẻ ra những tác phẩm nhỏ, hoặc họa hiếm lắm là trung bình như trường hợp truyện Kiều. Chúng ta thiếu óc sáng tạo và thiếu sự dài hơi. Tại sao?

Không phải chúng ta thiếu tài năng. Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, v.v... đều đáng được coi là những thiên tài của ngôn ngữ.

Không phải chúng ta thiếu đề tài và chất liệu. Mười lăm thế kỷ đấu tranh với thiên nhiên để khai mở đồng bằng sông Hòng, đấu tranh với ngoại bang, vua quan và sĩ phu để giữ gìn căn cước. Cả một cuộc nam tiến vĩ đại kéo dài bảy thế kỷ trong đó những tấm áo nâu đã dắt dìu nhau vào tới Cà Mau. Hơn một trăm năm Trịnh - Nguyễn phân tranh, ba mươi năm tranh hùng Nguyễn ánh - Tây Sơn; cuộc xâm lăng của người Pháp và gần một thế kỷ Pháp thuộc mang theo một cuộc đụng độ dữ dội chưa từng có giữa hai thế giới và hai nền văn hóa khác hẳn nhau. Thế rồi cuộc chiến đấu giành độc lập, cuộc can thiệp của Hoa Kỳ, cuộc chiến tranh Nam - Bắc kéo dài hai mươi năm, nhưng cuc di tản lịch sử đem người Bắc vào Nam và đem người Việt trải rộng ra khắp thế giới, v. v... Biết bao đổi thay bị hùng tráng lệ, biết bao đau khổ, mừng vui, tình nghĩa, phản trắc. Tất cả những đảo lộn dồn dập đó, nhất là trong hơn bốn thế kỷ gần đây, đã có thể cũng cấp đề tài cho những tác phẩm tầm cỡ lớn hơn Chiến Tranh và Hòa Bình, Anh em Karamazov, Les Hommes de Bonne Volonté, Les Thibault, Gon withthe Wind, Grapes of Wrath, A Farewell to Arms... Chúng ta không sáng tác được vì chúng ta thiếu tầm nhìn và cách nhìn để thấy được cái vĩ đại ngay chung quanh chúng ta. Chúng ta thiếu tư tưởng.

Sự thiếu tư tưởng của chúng ta là quá rõ rệt. Chúng ta không có một đóng góp nào cho tư tưởng thế giới đã đành nhưng chúng ta cũng không nhận thức được về chính mình. Việc du nhập một cách cuồng tín chủ nghĩa cộng sản vào Việt nam, cũng như sự kéo dài dai dẳng của nó, và của lập trường chống cộng, tố giác một cách phũ phàng sự yếu kém về tư tưởng của chúng ta. Hiện tượng Kim Dung trong thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 mới thực là kỳ quái? Truyện kiếm hiệp của Kừn Dung chỉ có giá trị tương đương với một bộ truyện giải tr nhi đồng, một bộ truyện bằng tranh hay một phim hoạt họa. Nó không dựa trên một sự thực nào, không có một giá trị văn học nào mà cũng không chuyên chở một tư tưởng nào, hay một nhãn quan nào về cuộc sống và thế giới. Nó chỉ có cái khác với các bộ sách kiếm hiệp cổ điền ở chỗ nó tương đối hóa tất cả, pha trộn thiện ác, chính t. Hình như nó cũng có tham vọng qua các nhân vật và phe phái phản ảnh phần nào thế tranh hùng trên thế giới. Nhưng nó trình bày một cách ngây ngô hời hợt. Và nhất là nó hoàn toàn không có giá trị văn học. Vậy mà cả miền Nam say mê, ngay cả các trí thức được coi là lớn cũng bỏ công nghiên cứu và bàn luận. Tôi cũng có đọc một số truyện nổi tiếng nhất của Kim Dung với mục đích phân tích tâm lý của trí thức miền Nam lúc đó. Thể thực là tôi rất thất vọng, thất vọng về truyện Kim Dung thì ít vì dầu sao nó cũng có giá trị giải trí, nhưng thất vọng lớn về sự thấp kém bi đát của trí thức miền Nam lúc đó. Thiếu tư tưởng và cảm hứng thì dĩ nhiên ta không thể sáng tạo mà phải đi vay mượn của nước ngoài. Nhưng có những bộ môn nghệ thuật trong đó chúng ta bắt buộc phải sáng tạo, phải có cảm hứng của chính mình, dựa trên những chất liệu quanh mình, chẳng hạn như hội họa, điêu khắc và, ở một mức độ bớt gay gắt hơn, ca múa. Chúng ta yếu trong những bộ môn này là lẽ dĩ nhiên. Điều đáng buồn là, ngoại trừ thơ văn, những sáng tạo ít ỏi của chúng ta cho đến dầu thế kỷ 20 này, dù là hội họa, kiến trúc, âm nhạc, múa, v.v... dều không do những phần tử sĩ phu mà do dân gian.

Điều cũng đáng buồn là hầu hết những người lỗi lạc nhất của chúng ta, những Nguyễn Trãi, Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, Cao B Quát, v. v... Đều nhờ đã từng đi sứ hay xuất ngoại và học hỏi được ở nước ngoài. Như thế phải nói ngay rằng nền giáo dục của chúng ta không đào tạo ra được nhân tài. Cái gì đã giam hãm trí tuệ Việt nam, không cho nó vượt thoát, sáng tạo và bay bổng?

Giải thích đầu tiên là do lịch sử nước ta, mà chúng ta đã cùng nhau lược qua trong cuốn sách này. Chúng ta không phải là một dân tộc tự do. Trong hai ngàn năm sau công nguyên, nghĩa là gần như trọn chiều dài lịch sử đích thực của chúng ta, chúng ta đã bị ngoại thuộc hơn một ngàn năm, chúng ta đã phải chịu đựng những cuộc chiến thảm khốc trong phần lớn thời gian còn lại; ưu tư phải dành cho sự sống còn thay vì cho suy nghĩ và sáng tạo. Các chế độ tự chủ của ta chẳng qua cũng chỉ là những bạo quyền bản xứ. Chúng ta không có tự do. Và một con người không có tự do thì cũng không thể có óc sáng tạo.

Giải thích thứ hai là do địa lý. Nước ta được dựng lên từ châu thổ sông Hồng. Các công trình thủy lợi, đắp đê ngăn nước, đào kênh dẫn nước là chuyện sinh tử của xã hội. Chúng ta cần những chế độ bạo ngược áp đặt những hy sinh tàn nhẫn để chống cự vi thiên nhiên cho sự sống sót của tập thể. Đó là số phận nô lệ chung trong quá trình hình thành của mọi dân tộc sống quanh những con sông lớn, với lưu lượng thay đổi đột ngột. Sau hàng ngàn năm bị chà đạp và hành hạ như thế, chúng ta hấp thụ bản chất nô lệ cộng thêm với cuộc sống nông dân cơ cực phải vật lộn với đất để lấy từ đất ra miềng ăn cho từng ngày. Kết quả là chúng không biết nhìn xa và sáng tạo. Cái địa lý đã nuôi ta cũng đồng thời để lại cho chúng ta những tì vết. Vậy thì để vươn lên chúng ta phải thắng được di sản lịch sử và địa lý đó. Các tiến bộ kỹ thuật đã giải tỏa chúng ta khỏi ách nô lệ của đê điều. Còn lại là di sản tâm lý do quá khứ để lại. Chúng ta cần một quyết tâm sống như những con người tự do và xây dựng đất nước trên tự do, bởi vì chỉ có những con người tự do mới có khả năng sáng tạo.

Lịch sử và địa lý không giải thích tất cả. Còn những yếu tố khác mà chúng ta có lẽ đã chấp nhận do hoàn cảnh lịch sử và địa lý, nhưng với thời gian chúng đã đóng một vai trò còn quan trọng hơn.

Chương thứ :51 "

Cuối thế kỷ 19 chúng ta bị người Pháp đánh bại và khuất phục một cách dễ dàng. Thất bại này đầy hổ nhục vì nớc Pháp lúc đó cũng đang chao đảo mạnh. Năm 1872 là năm quân Pháp đánh hạ Thăng Long, nghĩa là chỉ hai năm sau khi Pháp đại bại trước quân Đức, hoàng đế Napoléon III, cháu của Napoléon I, thua trận, b bắt sống và đế quốc thứ hai của Pháp sụp đổ. Nhưng đạo quân viễn chinh của Pháp cũng không có bao nhiêu. Cả hai lần hạ thành Thăng Long họ đều chỉ cần vài trăm quân.

Cuối thế kỷ 20, khi nhiu quốc gia châu á khác cũng ở một tốc độ phát triển tương đương với chúng ta trong thế kỷ trước đã tiến lên mạnh mẽ, sự thua kém của chúng ta so với phương Tây vẫn tiếp tục trầm trọng thêm. Lợi tức bình quân trên mỗi đầu người của ta vào năm 2000 được ước lượng là 300 USD, nghĩa là chỉ xấp xỉ bằng 1/100 của Hoa Kỳ, Nhật và các nước Tây Âu mà thôi. Tóm lại trong hơn một thế kỷ đổi mới tuy chúng ta đã tiến triển khá nhiều, nhưng các nước tiên tiến còn tiến bộ nhanh hơn và khoảng cách giữa họ và chúng ta không hẹp lại mà còn rộng ra, trong khi nhiều nước cũng chậm tiến nh chúng ta trước đây đã vươn lên mạnh mẽ.

Tại sao có sự thua kém đó?

Cần phải gạt đi ngay những câu trả lời quanh co: chúng ta không may mắn, chúng ta bị chiến tranh nhiều quá, các lãnh tụ của chúng ta tồi tàn quá, v. v... Đó không phải là những câu trả lời thực sự. Thế tại sao chúng ta lại gặp toàn những xui xẻo, tại sao lại chiến tranh nhiều quá, tại sao lại chỉ có những người lãnh đo tồi? Định mệnh nào khiến chúng ta cứ, như Nguyễn Du nói, tìm toàn những ngả đoạn trường mà đi?

Khi một quốc gia thua kém mặc dù những điều kiện địa lý không đến nỗi quá bất lợi thì chỉ có thể có hai giải thích, một là con người tồi, hai là văn hóa tồi mà thôi. Nhưng có thực là có hai giải thích không hay chỉ có một? Tất cả các nhà bác học về nhân chủng, y khoa, tâm lý đều đã đng ý với nhau về một kết luận: chỉ có một giống người trên thế giới này mà thôi và mọi dân tộc đều có những khả năng như nhau hay ít ra gần như nhau. Chỉ có những phần tử cực đoan và kỳ th, thường thường vô học, mới phủ nhận kết luận này. Với thời gian càng ngày nó càng được xác nhận. Có thể vẫn có những người hồ nghi về sự bình đẳng khả năng trí tuệ thực sự giữa những con người, coi đó là một xác quyết có tính cách triết học và nguyên tắc hơn là một sự kiện khoa học và khách quan nhưng cho tới nay họ chưa đưa ra được một lập luận giá trị nào. Nhưng ngay cả nếu chúng ta chấp nhận để tạm không bàn cãi về sự hồ nghi đó thì vấn đề vẫn không đặt ra đối với người Việt nam. Người Việt nam qua tiếp xúc với văn hóa, khoa học và kỹ thuật phương Tây đã chứng tỏ khả năng hấp thụ nhanh chóng bất cứ một kiến thức nào. Hơn hai triệu người Việt hải ngoại, sau một thời gian thích nghi rất ngắn ngủi, đã đạt được một mức sống và một trình độ gn tương đương với dân tộc các nước tiếp cư. Con người Việt nam không tồi.

Nguyên nhân của sự thua kém bi đát hiện nay như vậy chỉ là vì văn hóa của chúng ta quá tồi mà thôi. Vậy chúng ta phải thay đổi văn hóa nếu muốn vươn lên.

Mà văn hóa là gì? Đó lại là cả một câu hỏi phức lạp có thể tranh cãi vô cùng tận. Nhưng trong sự suy nghĩ để đi tìm tiến bộ chung, chúng ta có thể tạm chấp nhận một định nghĩa thu hẹp: văn hóa của một dân tộc là toàn bộ những nhận thức và những giá trị đã tạo ra cho dân tộc đó một cách suy nghĩ và hành động, một cách tiếp cận và ứng xử với môi trường chung quanh.

Đến đây cần nhấn mạnh, và nhấn thực mạnh, một điều. Đó là nếu quan sát kỹ chúng ta sẽ thấy tất cả mọi giá trị, tốt cũng như xấu, đều hiện diện trong mọi nền văn minh, hay cũng như dở. Điều khác biệt là tầm quan trọng tương đối của các giá trị trong mỗi nền văn hóa. Các nền văn hóa khác nhau không phải vì chúng chứa dựng những giá trị khác nhau mà vì chúng dành cho các giá trị những trọng lượng khác nhau. Và sự khác biệt này có thể đưa đến những hậu quả cực kỳ lớn. Con sên cũng chuyển động, con ngựa cũng chuyển động, nhưng hai con vật này không chuyn động với cùng một vận tốc. Như vậy, trong cuộc thảo luận về văn hóa, chúng ta đừng nên mất thì giờ để biện luận Khổng Giáo cũng có cái này, Công Giáo cũng có cái kia, Phật Giáo cũng có cái n, v.v... Khi chúng ta nói cần thay đổi văn hóa (hay cần làm một cuộc cách mạnh văn hóa) là chúng ta muốn nói cần thay đổi trọng lượng tương đối của các giá trị dựa trên kinh nghiệm của những dân tc tiến bộ chứ không phải là cần nhập cảng giá trị này, loại bỏ giá trị kia. Không phải là một tình cờ mà Việt nam và Trung Quốc có thân phận gần giống nhau. Cả hai nước đều chịu những thảm kịch lớn, đều vướng mắc với một chủ nghĩa đã bị đào thải, đều thua kém bi đát trong khi những người dân của cả hai nước lập nghiệp tại nước ngoài đều khá thành công. Cũng không phải là mt sự tình cờ mà Đảng cộng Sản Việt nam luôn luôn lẽo đẽo chạy theo Đảng cộng sản Trung Quốc như các vua chúa nhà Nguyễn lẽo đẽo chạy theo triều Thanh. Cùng một văn hóa đưa tới cùng một cách suy nghĩ và hành động, và cuối cùng đưa tới những chọn lựa giống nhau. Việt nam cùng một văn hóa với Trung Quốc, nghĩa là cùng đề cao một số giá trị và cùng xem thường một số giá trị khác, bởi vì đã bị lệ thuộc Trung Quốc trong hơn một ngàn năm và đã cố gắng rập khuôn theo Trung Quốc trong gian một ngàn năm sau đó.

Ngày nay, trước hoàn cảnh bi đát của đất nước, nhiều người đã thao thức đặt vấn đề làm thế nào để đưa đất nước đi lên. Đại đa số những phát biểu này thuộc hai loại.

Loại thứ nhất phân tích những sai lầm hoặc tố giác những đã tâm trong quá khứ đã đưa đến tình trạng hiện nay.

Loại thứ hai quay lưng lại với quá khứ và hướng về tương lai, gồm những đề nghị về kế hoạch và kinh tế, đôi khi dựa trên những thống kê được sưu tập khá công phu.

Tôi cho cả hai cách tiếp cận này đều không đúng. Nếu vẫn giữ nguyên một văn hóa cũ thì dù không làm sai lầm này người ta cũng sẽ làm sai lầm khác. Còn các kế hoạch kinh tế tài chánh thì tôi hoàn toàn dị ứng. Không phải vì ta thực hiện kế hoạch kinh tế này thay vì kế hoạch kinh tế khác mà đất nước ta sẽ khá hơn. Những chuyên gia nghĩ như vậy không hiểu gì về kinh tế và tạo ra cho người khác những ảo tưởng sai lầm. Họ không đóng góp mà còn đánh lạc hướng những suy tư khỏi nguyên nhân chính của mọi đau khổ của chúng ta hiện nay.

Chúng ta đã như ngày nay bởi vì chúng ta đã có một văn hóa tồi tệ. Chúng ta chỉ vươn lên được nếu ý thức được rằng văn hóa của ta tồi, cần phải thay thế bằng một văn hóa khác. Ngay cả nếu chỉ giới hạn trong phát triển kinh tế mà thôi thì cũng cần ý thức rằng phát triển kinh tế chủ yếu vẫn chỉ là một vấn đề tâm lý và văn hóa.

Chương thứ :52 "

Đọc xong những dòng trước độc giả đã có thể đoán là tôi sắp đặt vấn đề Nho Giáo. Văn hóa truyền thống của ta là văn hóa Nho Giáo. Nói rằng văn hóa của ta cần được xét lại có nghĩa là chúng ta phải nhận định lại Nho Giáo.

Nhiều độc giả có Tây học, nhất là những độc giả trẻ, có thể sẽ phản ứng: tại sao lại cần đặt vấn đ Nho Giáo? Văn hóa của chúng ta ngày nay đâu còn là văn hóa Nho Giáo nữa, người Việt nam đã thôi học chữ nho và tư tưởng Nho Giáo từ gần một thế kỷ nay rồi. Tôi có biết Tứ Thư, Ngũ Kinh là gì đâu? v. v... Xin các bạn bình tĩnh. Văn hóa của chúng ta vẫn là văn hóa Nho Giáo. Từ giã một nền văn hóa không dễ đâu; nó đòi hỏi một cố gắng tàn bạo đối với chính mình, điều mà cho tới nay chúng ta vn từ chối không làm. Kiến thức của chúng ta có thể đã đổi mới rất nhiều nhưng văn hóa không phải chỉ là kiến thức. Và văn hóa của chúng ta chưa thay đổi bao nhiêu. Một nếp sống mà chúng ta đã theo trong mấy ngàn năm không dề gì chúng ta có thể đoạn tuyệt trong vòng một thế kỷ, nhất là trong suốt thế kỷ đó chúng ta lại rất ít đặt vn đề triết lý và tâm lý. Chúng ta vẫn giữ hồn tính cũ và nói chung chỉ tiếp thu những hiểu biết mới một cách thực dụng, để sử dụng chúng với tâm lý có sẵn nghĩa là tâm lý Nho Giáo. Đó là nói về những người có học thức, còn đối với đại đa số quần chúng thì lâm lý Nho Giáo lại còn tồn tại mạnh hơn.

Văn hoá và tâm lý chủ yếu nằm trong nếp sống, và một nếp sống có cách lưu truyền riêng của nó, qua sinh hoạt gia đình, qua hành động, cử chỉ, thái độ và những cái nhìn của cha mẹ và người chung quanh, qua những gương anh hùng, liệt sĩ, vĩ nhân mà chúng ta tiếp thu tại học đưng, qua những chuyện quyền bà kể cho cháu, cô giáo kể cho học trò ở ngay đầu đời. Văn hóa là toàn bộ những ý niệm và giá trị mà chúng ta đã được giáo dục để coi là đúng và do đó quyết định cách suy nghĩ, hành động và ứng xử của chúng ta. Kiến thức chỉ là bề mặt của văn hóa, là những dụng cụ để thể hiện một văn hóa. Văn hóa không đến với chúng ta bằng lý trí để chúng ta có th biện luận, chọn lọc và phản bác. Nó đến một cách kín đáo và vô tình; nó nằm trong vô thức của chúng ta, nó xâm nhập tâm hồn chúng ta, trở thành bản năng của chúng ta. Nó khống chế và chỉ huy chúng ta mà chúng ta không ý thức được nên càng khó cưỡng lại. Nó là một phần của chính chúng ta nên chúng ta chỉ có thể xét lại nó nếu dám ra khỏi mình để chống lại chính mình. Do đó văn hóa và tâm lý có sức sống cực kỳ dai dẳng. Chúng ta vẫn tiếp tục được đào tạo theo Nho Giáo ngay cả nếu chúng ta không ý thức được như vậy. Nho Giáo vẫn còn hiện diện rất mạnh mẽ trong xã hội Việt nam và trong con người Việt nam. Bởi vậy chúng ta phải tìm hiểu nó để biết chúng ta là ai.

Nho Giáo thường được gọi là Khổng Giáo. Mặc dầu cách gọi này không đúng nhưng với thời gian nó đã thành chính thức. Từ khi có trao đổi giữa phương Đông và phương Tây thì danh xưng Khổng Giáo đã thay thế hẳn danh xưng Nho Giáo, vì người phương Tây chỉ biết đến danh xưng Khổng Giáo (Confucianism) mà thôi. Trước khi bàn về Khổng Giáo cần đặt ra ngoài vòng trách nhiệm một nhân vật: ông Khổng Khâu. Ông này thường được gọi một cách tôn kính là Không Phu Tử hay Khổng Tử. Người á Đông, nhất là người Trung Quốc và người Việt nam, gọi ông là Đức Khổng, coi ông như một vị thánh, thánh tổ của một tôn giáo.

Không thiếu những tác phẩm nói đến Đạo Khổng.

Khổng Khâu sinh năm 551 trước Tây lịch và mất năm 479 trước Tây lịch, nghĩa là ngay chính giữa một thời đại dài 500 năm (722-221 trước Tây lịch) mà lịch sử gọi là thời Xuân Thu Chiến Quốc. Lúc đó Trung Quốc đã có gần bốn ngàn năm lịch sử rồi. Theo sử Trung Quốc thì vị vua đầu tiên là Phục Hi (4480-43 65 trước Tây lịch) đã ặt ra tám quẻ bói toán để dò ý trời đất, quỉ thần. Niên đại có thể không được chính xác, nhưng sự kiện này chứng tỏ rằng ngay từ một thời đại rất xa xưa, khi hầu như cả nhân loại còn rt bán khai thì xã hội Trung Quốc đã tiến hóa đến mức những băn khoăn siêu hình đã xuất hiện. Từ quá trình lịch sử rất dài đó đã hình thành một sinh hoạt văn hóa và chính trị có nền nếp: Nho Gio.

Thời đại của Khổng Tử là thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng là thời nhà Chu, một triều đại kéo dài hơn 900 năm, từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 3 trước Tây lịch. Nửa đầu nhà Chu rất ổn định, nhưng từ nửa sau thế lực của chính quyền trung ương suy yếu đi, đến độ phải dời đô về phương ông để tránh giặc. Các nước chư hầu không còn thần phục trung ương nữa, mặc sức tranh giành và thôn tính lẫn nhau. Khổng Tử sinh sống trong nửa sau này. Lúc đó Nho Giáo đã thành hình từ rất lâu rồi.

Nho Giáo là một hệ thống giáo dục và đào tạo những người phục vụ cho các vua chúa, vua nhà Chu cũng như các vua chư hầu. Chữ Nho trong tiếng Trung Quốc gồm một chữ Nhân, có nghĩa là người, bên cnh một chữ Nhu có nghĩa là cần thiết. Như vậy nho có nghĩa là người cần thiết để giúp các vua chúa trị nước. Cần hiểu rõ như vậy để đừng ngộ nhận coi Nho Giáo là một triết lý. Nho Giáo chỉ là sự giảng dạy những đức tính và kiến thức phải có để được chọn ra làm quan; nói theo ngôn ngữ ngày nay, đó là một chương trình đào tạo công chức. Không phải ai theo học đạo Nho cũng đều đưc làm quan.

Vào thời nhà Chu và trước đó, những người được chọn để ra làm quan được gọi là sĩ và được đặt dưới quyền quản lý của một quan tư đồ; họ được huấn luỵện sáu nghề: l (các nghi thức), nhạc, xạ (võ và ban cung), ngự (điều khiền xe, ngựa), thư (ghi chép tài liệu) và sổ (bói toán). Nếu lấy hình ảnh thời nay thì sĩ là những học viên của một trường quốc gia hành chính.

Xã hội Trung Quốc từ ngày lập quốc đến rất lâu sau khi Khổng Tử ra đời và mất đi, cần nhấn mạnh là rất lâu sau khi Khổng Tử mất, được chia làm ba giai cấp vương hầu, quân tử và tiểu nhân. Sự phân chia này thuần túy dựa vào chỗ đứng trong xã hội chứ không mang một nội dung đạo đức nào. Vương hầu là những quí tộc giàu có, có đất đai và nông nô. Tiều nhân, còn gọi là dân, là nhưng nông nô bần cùng sống dưới sự thống trị của giai cấp quí tộc, dĩ nhiên giai cấp tiểu nhân chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội. Quân tử là giai cấp trung gian giúp giai cấp quí tộc thống trị giai cấp tiểu nhân.

Phần lớn nhân sinh quan của Khổng Khâu được ghi chép lại trong sách Luận Ngữ. Khổng Khâu làm công việc đào tạo ra các quân tử, ông vạch ra một người quân tử kiểu mẫu. Thường thường những lời giáo huấn của Khổng Khâu có hai vế: Người quân tử thì... còn kẻ tiểu nhân thì... . Khổng Tử không tiết kiệm lời đề cao người quân tử và cũng không tiếc lời mạt sát đm tiểu nhân. Ông đứng hẳn về phía các vua chúa. Trong lịch sử Trung Hoa và thế giới chưa có ai có thái độ khinh bỉ đối với quần chúng bằng ông. Điều rất đáng ngạc nhiên là tuyệt đại đa số những người bàn luận về Khổng Giáo không hiểu ý nghĩa của những từ ngữ quân tử và tiểu nhân ở vào thời đại của Khổng Khâu (và rất lâu sau khi ông đã qua đời) nên họ thường hay coi sĩ và quân tử là những giá trị tinh thần, biểu tượng của một nhân cách, một đạo đức và họ hay đồng hóa sĩ và quân tử với sự cao thượng. Thực ra nho chỉ là những người học để ra làm quan, sĩ là những nho được tuyền chọn để được huấn luỵện thành quan, quân tử là một giai cấp, giai cấp của kẻ sĩ, nhưng kẻ làm tay sai cho các vua chúa để thng trị quần chúng. Còn tiểu nhân chỉ có nghĩa là quần chúng mà thôi. Có thể với thời gian ý nghĩa của những danh từ tiểu nhân, quân tử đã biến đổi, nhưng ở vào thời đại của Khổng Khâu và rất lâu sau khi ông đã qua đời đó chỉ là những thành phần xã hội.

Giai cấp quân tử, hay sĩ, do đâu mà có? Đó có thể là những người trong giai cấp tiểu nhân may mắn được các vua chúa tin dùng, nâng đỡ rồi nhờ chức vụ mà đạt tới sự hiểu biết hơn quần chúng. Đó cũng có thể là những quí tộc sa sút, hay những người thua trận được kẻ chiến thắng dùng làm tay chân.

Khổng Tử là một sĩ. Ông là con của một vị quan nhỏ nước Lỗ tên là Thúc Lương Ngột. Năm 19 tuổi ông được bổ nhiệm vào chức vụ một quan thu thuế, rồi sau đó đưc cử trông coi đàn súc vật dùng vào việc cúng tế. Vào thời đại đó, cúng tế trời đất quỉ thần là một việc quan trọng hàng đầu. Theo sử sách thì Khổng Tử say mê việc cúng tế ngay từ hồi còn thơ ấu cho nên thạo việc cúng tế rất sớm; ngay khi ông còn trẻ đã có những gia đình gởi con theo ông học nghề cúng. Như vậy nghề chính của Khổng Tử là nghè thầy cúng. Hai nghề thu thuế và thày cúng đã có ảnh hưởng quyết định lên cá tính của ông. Trong suốt cuộc đời, Khổng Khâu rất trọng sự chính xác và các nghi thức, ông tin vào những sự huyền bí mà không bao giờ thắc mắc. Rất xuất sắc trong cúng tế, Khổng Khâu được vua nước Lỗ gởi về kinh đô nhà Chu để học hỏi thêm về lễ nghi. Nhờ cuộc du học đó mà ông rất được kính trọng khi trở về nước Lỗ. Cần nhấn mạnh là vào thi đó cúng là việc quan trọng nhất. Các triều đình có hai loại quan, loại quan Chúc lo việc cúng tế và loại quan Sử lo việc lo việc thường ngày; nhưng quan Chúc cao hơn quan Sử vì cúng tế được coi là cao nhất. Tuy vậy, vua nước Lỗ vẫn không tin dùng ông. Mãi tới năm 51 tuổi, một tuổi rất cao vào thi đó, Khổng Tử mới được bổ nhiệm vào chức Trung Đô Tể và sau đó thăng dần tới chức tướng quốc, chức vụ đứng đầu các quan. Theo sách sử thì ông trị nước rất nghiêm minh và đã đem lại ổn định và phồn thịnh cho nước Lỗ. Nhưng chỉ một năm sau khi nhận chức tướng quốc, ông từ chức vì một lý do rất nhỏ mọn: vua nước Lỗ đã không chia phần thịt cho ông trong buổi tế Giao. Từ đó ông bắt đầu một cuộc hành trình vất vả dài 11 năm qua nhiều nước để xin làm quan, nhưng ông không được vua nào dùng cả. Khi ông chán nản trở về nước Lỗ thì đã 68 tuổi, ông bỏ mộng làm quan và tp trung cố gắng để viết sách.

Trong việc biên soạn sách, Khổng Khâu hoàn toàn không sáng tác gì cả mà chỉ ghi chép những gì đã có sẵn. Ông nói: Ta chỉ thuật lại mà không sáng tác, ta tin và thích những gì của đời xưa (thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ). Đó không phải là một câu nói khiêm tốn như ta có thể nghĩ mà là cả một tín chỉ của Khổng Khâu. Ông coi những triết lý và hiểu biết của người xưa là đầy đủ và hoàn chỉnh, đời sau cứ thế mà theo không được sửa đổi, thêm bớt gì cả.

Khổng Khâu chép lại năm cuốn sách được gọi là Ngũ Kinh, Kinh Dịch (bói toán), Kinh Thư (văn từ của các vua quan), Kinh Thi (các bài thơ và các bài hát), Kinh Lễ (các nghi thức về cúng tế và hội họp trong triều đình) và Kinh Nhạc. Ngoài ra Khổng Khâu còn soạn ra bộ sách Xuân Thu, cũng được gọi là kinh, chủ yếu kể chuyện về các vua chúa nước Lỗ. Các cuốn kinh này đều đã bị thất lạc. Đến khi nhà Hán trọng nho học mới cho tìm lại nhưng không được bao nhiêu. Các đệ tử hậu bối của Khổng Tử thêm bớt vào rất nhiều, tạo thành năm cuốn sách gọi là Ngũ Kinh: Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Thi và Kinh Xuân Thu. Riêng Kinh Nhạc chỉ còn lại một chương được cho vào Kinh Lễ.

Các nho sĩ đời sau còn viết ra bốn cuốn sách khác là Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử. Bốn cuốn sách này, được gọi chung là Tứ Thư Đại Học (do người học trò của Khổng Tử là Tăng Tử vit) và Trung Dung (do người học trò của Tăng Tử là Khổng Cấp viết) thật ra chỉ là một số chương đã có trong Kinh, Luận Ngữ (do Tăng Tử và các môn đệ soạn) ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử; Mạnh Tử là cuốn sách do Mạnh Tử, tên thật là Mạnh Kha, sinh ra hơn một trăm năm sau ngày Khổng Tử mất, và các môn đệ của ông, chép lại nhng lời nói của Mạnh Tử.

Tứ Thư và Ngũ Kinh được coi như những cuốn sách căn bản của Nho Giáo, trong đó Luận Ngữ quan trọng hơn cả. Khổng Giáo, hay đúng hơn là Nho Giáo, đã được nhiều đóng góp của nhiều nho sĩ qua nhiều thời đại. Trong nhưng nho sĩ này, người nổi tiếng nhất là Mạnh Tử; tên Mạnh Tử được ghép liền với Khổng Tử, Khổng Giáo vì thế còn được gọi là đạo Khổng Mạnh. Sau Mạnh Tử khoảng nửa thế kỷ còn một nho sĩ rất xuất sắc khác là Tuân Tử. Tuân Tử vừa có khả năng lý luận xuất chúng lại vừa có óc phê phán, ông bài bác tinh thần thủ cựu của những người i trước đả phá sự mê tín vào thần linh, đề cao vai trò của giáo dục. Tuân Tử rất phóng khoáng, đi rất sâu vào tâm lý con người và phân tích khá cặn kẽ về sự hiểu biết. Ông là một triết gia thc sự và lẽ ra đã phải mở đường cho Nho Giáo đổi mới và tiến lên. Tiếc rằng ông bị cả một khối nho sĩ đông đảo chê bai, các vua chúa dĩ nhiên cũng không chấp nhận sự phóng khoáng của ông nên Tuân Tử không được coi là thánh hiền và tư tưởng của ông không được đề cao.

Sau thời Đông Chu Liệt Quốc, những đóng góp quan trọng nhất cho Nho Giáo là của Đồng Trọng Thư và Dương Hùng dưới thời nhà Hán (202-220 trước Tây lịch); Vương Thông vào thời nhà Tùy (581-618), Hàn Dũ vào thời nhà Đường (618-906); Vương An Thạch, Chu Đôn Di, Trương Tái, Trình Hạo, Chu Di vào thời nhà Tống (960- 1280); Vương Dương Minh đời nhà Minh (1368- 1648). Những đóng góp đó đã khiến các học giả bối rối khi bàn về Nho Giáo và thường đặt câu hỏi Nho Giáo nào? Hán Nho, Đường Nho, Tống Nho hay Minh Nho?. Tuy nhiên, các thay đổi này chỉ là những thay đổi về cách diễn đạt và áp dụng mà không thay đổi bản chất và tinh thần của Nho Giáo. Nho Giáo vẫn là một h thống ý thức tôn trọng chế độ quân chủ cực quyền, bảo thủ và bất dung. Đối với Nho Giáo, Khổng Tử không sáng tác gì cả. Đóng góp của ông không đáng kể so với Mạnh Tử và cũng kém hẳn các danh nho sau này. Ông đã chỉ chép lại các sách cũ và hơn nữa các sách của ông đều đã thất lạc. Như vậy khi phê phán tư tưởng Khổng Giáo, dù đ bênh vực hay lên án, dù để khen hay chê, cần phải tách rời nó khỏi nhân vật Khổng Khâu. Về mặt tư tưởng, nên nhấn mạnh là về mặt tư tưởng, ông là một người vô can.

Chương thứ :53 "

Khổng Tử tuy không có đóng góp quan trọng nào về mặt tư tưởng nhưng lại có ảnh hưởng lớn trên sự phát triển của Nho Giáo, vì thế mà người ta đã gọi Nho Giáo là Khổng Giáo. Một cách gián tiếp Khổng Tử đã góp phần quyết định làm cho tư tưởng Nho Giáo bế tắc và không đổi mới được với thời gian. Đến lượt nó, Nho Giáo đã khiến các xã hội á Đông thuộc văn hóa Trung Hoa dẫm chân tại chỗ trong hơn hai ngàn năm.

Tôi có viết một bài báo phê phán Khổng Giáo và đã nhận được một số phản ứng, tán thành có mà phản đối cũng có. Các vị phản đối thường trách tôi một điều là đem ý thức thời nay để phê phán người xưa, nghĩa là đặt lầm bối cảnh. Thực ra chính các vị này làm lẫn lớn về thời gian, họ đem bối cảnh tâm lý và xã hội của thế kỷ 19 để bàn luận về Khổng Tử.

Dù vai trò thực sự của ông thế nào, Khổng Tử đã được coi là vị thánh, một vị thầy của muôn đời (vạn th sư biểu); cung cách của ông và những lời ông nói được lấy làm mẫu mực lập thân cho nhiều dân tộc á Đông, trong đó có Việt nam, nên chúng ta cần hiểu ông. Trước hết là đóng góp của ông đối với Nho Giáo. Đóng góp này rất lớn, Khổng Tử là người đầu tiên ghi chép lại một cách công phu và toàn bộ những kiến thức của Nho Giáo. Nhờ ông mà người đương thời có được một cái nhìn tổng quát về Nho Giáo và có thể học hỏi Nho Giáo một cách dễ dàng hơn hẳn lúc trước. Tuy vậy ông không đóng góp gì cho tư tưởng Nho Giáo, đồng hóa ông với Nho Giáo cũng sai lầm như coi một giáo sư toán có công biên soạn một số sách giáo khoa toán là một nhà toán học.

Tại sao Khổng Tử lại được tôn vinh như một vị thánh? Không phải đợi đến khi Hán Cao Tổ (tức Lưu Bang) sang nước Lỗ lễ mộ Khổng Tử, hay Hán Vũ Đế đưa Nho Giáo lên làm quốc giáo Khổng Tử mới được tôn vinh. Trước đó đã có võ số sĩ tử sùng bái Khổng Tử. Phải hình dung bối cảnh thời đó mới hiểu được sự sùng bái Khổng Tử và đóng góp to lớn cho xã hội của ông.

Khổng Tử lưu lạc khắp nơi, không được vua chúa nào dùng phải quay về cố hương là nước Lỗ ể mở trường dạy học. Nhờ uy tín Khổng Tử đã mở được trường tư đầu tiên tại Trung Quốc và đó là biến cố vô cùng quan trọng. Trước đó việc đào tạo kẻ sĩ là của triều đình và chỉ có những người được chọn làm sĩ mới được huấn luỵện để ra làm quan mà thôi, nhưng làm thế nào để có thể trở thành sĩ nếu không phải đã sẵn là con quan như chính Khổng Tử? Đám tiểu nhân, hay quần chúng, không có phương tiện nào để tiến thân cả trừ ra những cơ hội cực kỳ may mắn được các vua chúa đoái hoài tới. Chính nhờ Khổng T mà quần chúng có được một phương tiện để thăng tiến qua giáo dục. Đây là một cuộc cách mạng văn hóa lớn, thay đổi hẳn tương quan xã hội, tạo ra một quan hệ lưu thông giữa hai giai cấp quân t và tiểu nhân. ở vào thời đại của Khổng Tử, số phận đám tiểu nhân chỉ là sự đầy đọa mà thôi. Khổng Tử đã tạo ra gần ba ngàn môn đồ, giúp họ ra khỏi sự đầy đọa đó, họ mang ơn ông và thờ ông là lẽ tự nhiên. Đến lượt họ cũng mở trường dạy học và cũng truyền bá sự tôn thờ sư tổ của mình, vì thế mà Khổng Tử trở thành sư tổ của mọi nho sĩ. Cũng cần nhạn định rằng chỉ sau khi Khổng Tử mở trường nho và sĩ mới đồng nhất. Trước ông nho là những người học, sĩ là những nho được chọn để được huấn luỵn. Từ Khổng Tử trở đi ai muốn học cũng được và cũng có thể được bổ nhiệm ra làm quan. Khổng Tử đã sát nhập được hai thành phần nho và sĩ và, cần nhắc lại một lần nữa công lao to lớn này của Khổng Tử, ông cũng đã giảm bớt sự ngăn cách khe khắt giữa hai giai cấp quân tử và tiểu nhân. Sự nghiệp lớn nhất của Khổng Tử như vậy là về mặt xã hội. Ông đã góp phần quan trọng trong thay đổi sinh hoạt chính trị Trung Quốc.

Nhưng phải nói, đây là một đóng góp rất vô tình, Khổng Tử không hề muốn xóa bỏ sự ngăn cách giữa hai giai cấp quân tử và tiểu nhân. Trong nhưng lời giáo hun học trò, ông phân biệt rõ quân tử và tiểu nhân, như cái đúng và cái sai, như ánh sáng và bóng tối, sự cao thượng và sự hèn hạ, cái đẹp và cái xấu. Tiểu nhân dưới mắt Khổng Tử là hạng người không đáng được bất cứ một quan tâm nào, hay bất cứ một sự nể nang nào. Ông từng nói: Hình phạt không được dùng cho quan lớn, lễ nghi không được dùng đối với đám thứ dân (hình bất thướng ại phu, lễ bất há thứ dân). Khổng Tử đã đóng góp khai phóng quần chúng khi tạo ra trường tư, nhưng đó là điều hoàn toàn ngoài ý muốn của ông.

Một cách tương tự ta cũng có thể so sánh công trạng vô tình của Khổng Tử với một số sự kiện tích cực mà đảng cộng sản vô tình tạo ra. Họ khc nghiệt quá khiến hàng triệu người bỏ trốn ra nước ngoài, nhờ đó mà Việt nam có một cộng đồng hải ngoại đáng kể từ sau ngày 30-4-1975. Đây là một sự kiện rất quan trọng và rất có lợi cho Việt nam, nhưng không phải do đảng cộng sản chủ ý tạo ra, trái lại họ đã hết sức cấm cản mà không được.

Đảng cộng sản cực lực bài xích và cấm đoán thương mại, nhưng những khó khăn mà chính sách của họ tạo ra sau ngày 30-4-1975 đã buộc mọi người phải xoay sở để sống, kết quả là hầu hết mọi gia đình Việt nam đều phải buôn bán một cái gì đó. Người Việt nam vì thế đã bỏ đưc phần nào tâm lý làm công ăn lương và chuyển sang tâm lý buôn bán kinh doanh. Đây cũng là một chuyển biến tâm lý rất đáng mừng nhưng không do chủ ý.

Khổng Tử xuất thân là một quan lại thu thuế và một thày cúng. Cả hai nghề này đều tập cho ông thói quen câu nệ thủ tục và hình thức. Nhất là nghề cúng tế mà không những chỉ hành nghề Khng Tử còn say mê từ hồi thơ ấu. Suốt đời Khổng Tử không thay đổi từ cách ăn, cách mặc, cách đi đứng, cách cư xử, lúc nào ông cũng câu nệ và qui ước. Sách Luận Ngữ mô tả khá rõ rệt về ông: đồ ăn phải nấu thật chín, món ăn phải đúng mùa, phân lượng rau và thịt không thay đổi, chỉ có rượu là ông uống không đo lường, dù không khi nào say, đi dự tiệc thì kính cẩn đứng lên khi đồ ăn được đem ra, nhưng khi nhận quà tặng của bằng hữu thì chỉ nghiêng mình chào nếu là quà để dùng cho cúng tế; về y phục thì từ chối một số màu sắc, quần áo mùa đông và mùa hè có kiểu riêng, l phục thì cánh tay mặt phải dài hơn cánh tay trái, quần áo ngủ phải dài hơn quần áo ban ngày nửa thước; nằm nghiêng, không nói lúc nằm, không ngồi trên một chiếc chiếu trải không ngay ngắn, ngồi trên xe thì ngồi thẳng không nhìn về đàng sau; không nói nhanh và không dùng ngón tay để chỉ một vật gì. Trong triều đình cung cách của Khổng Tử thay đổi tùy người. Đối với các quan cấp dưới thì cứng cỏi, đối với các quan cấp cao thì uyển chuyển. Khi đưa khách vào yết kiến thì tỏ thái độ bối rối, rồi chắp tay và quay sang khách sau đó dang tay mà giới thiệu với vua. Sau buổi yết kiến khi khách ra về thì hô lên: Khách không quay lại nữa. Khi đi sứ gặp vua nước khác thì tỏ vẻ ân cần, kinh sợ. Tóm lại, tất cả đều theo một nghi thức được qui định một cách rất chi tiết từ trước. Đó là chân dung của một con người cực kỳ qui ước, hoàn toàn không tùy cơ ứng biến và không sáng tạo.

Khổng Tử được coi là một người cố đức lớn. Chữ đức vào thời đại đó phải được hiểu là làm đúng nghi lễ chứ không phải là có lòng tốt. Không thấy có sách nào ghi chép Khổng Tử giúp đỡ người nghèo khổ hay gặp khó khăn, hoạn nạn. Tuy vậy ông dạy học trò nên cư xử trung thực, giữ tín nghĩa với bằng hữu, phải phụng dương cha mẹ, giúp người già sống yên ổn, yêu trẻ thơ. Tất cả những đức tính đó đều đáng quí cả nhưng cũng chỉ là những đức tính thông thường đã được nhìn nhận từ lâu. Khổng Tử đã sống và truyền bá một cuộc sống lương thiện theo tiêu chuẩn lúc đó, ông là một người đứng đắn nhưng bảo rằng ông có đức lớn thì không đúng. Ông không có lòng thương bao la với cả nhân loại, hay ước vọng cứu đời, cứu người như Phật Thích Ca, Giê-su Ki-tô, Gandhi hay Mẹ Teresa. Hay như hàng ngàn hàng triệu người khác qua các thời đại lặn lội vào chốn sỏi đá, rừng sâu đem sự giúp đỡ và niềm an ủi tới cho những người xấu số. Hay như bao người trên khắp thế giới trong thời nay chịu giam cm tù tội để tranh đấu cho quyền làm người. Khổng Tử là một nhà giáo đứng đắn và có tài, thế thôi. Vì ông đã có công giáo dục nhiều đệ tử, giúp họ ra khỏi số phận hầm hiu nên họ biết ơn và tôn kính ông. Vì chủ nghĩa thủ cựu và tôn quân của ông có lợi cho các chế dộ quân chủ mà các vua chúa về sau đã tôn ông lên làm thánh để làm mẫu mực cho mọi người, nhưng đó chỉ là vì một mục đích chính trị.

Khổng Tử có thực sự là một người có lòng nhân đạo không? Chắc chắn là không. Ông mạt sát những người thứ dân khốn khổ một cách thô bạo. Kẻ tiểu nhân đối với ông ch là đối tượng để khinh bỉ và chà đạp mặc dầu họ không có tội gì ngoài tội đã không may sinh ra vào giai cấp cùng khổ. Nhiều người biện hộ cho Khổng Tử, nói rằng quân tử và tiểu nhân là những giá trị đạo đức. Nói như vậy là đem bối cảnh thế kỷ 19 để áp đặt vào thời đại Xuân Thu Chiến Quốc của Khổng Tử và hoàn toàn sai: Nh đã nói, vào giai đoạn đó quân tử và tiểu nhân chỉ là hai thành phần xã hội phân chia theo tương quan quyền lực và kinh tế mà thôi. Chính bản thân Khổng Tử không coi quân tử và tiểu nhân là những tiêu chuẩn đạo đức ông từng nói trong Luận Ngữ. Người quân tử mà có đạo thì yêu người, đứa tiểu nhân mà có đạo thì dễ sai (quân tử học đạo tác ái nhân, tiểu nhân học đạo tạc đi sử giả) hoặc quân tử có dũng mà không có nghiã thì làm loạn, tiểu nhân có dũng mà không có nghĩa thì đi ăn trộm (quân tử hữu dũng nhi vô nghĩa vi loạn, tiểu nhân hữu dũng nhi vô nghĩa vi đạo). Sau này chính nh những giáo huấn của Khổng Tử mà quân tử được coi là đồng nghĩa với sự cao thượng và tiểu nhân được coi là đồng nghĩa với sự hèn hạ. Đó chẳng qua chỉ là sự xấc xược miệt thị những người yếu kém, cũng như sau này người cộng sản thóa mạ những người không đồng chính kiến với họ là phản động, phản quốc, v.v... Điều khác giữa cộng sản và Khổng Giáo là đảng cộng sản đã miệt thị những đối thủ tranh giành quyền lực với họ, trong khi Khổng Tử và các nho sĩ đã miệt thị những người cùng khổ không hề và cũng không dám chống lại họ. Đó chỉ là một sự tàn nhẫn thuần túy.

Còn một điểm khác chưa thấy học giả nào đặt ra khi bàn về lòng nhân của Khổng Tử. Ông là một chuyên viên cao cấp về cúng tế và rt say mê cúng tế, sử chép rằng hễ chỗ nào có tế lễ là đi xem rất chăm chú. Chắc chắn là chính ông cũng cử hành nhiều buổi tang lễ cho các vua chúa và các nhà quyền quí. Vào thời đó có tục chôn sng người trong các đám tang quí tộc để đưa đi hầu hạ người chết trong thế giới bên kia. Mãi đến đời Tần Thủy Hoàng (thống nhất và làm hoàng đế Trung Hoa năm 221 đến năm 210 trước Tây lịch) tc lệ dã man ấy mới bị cấm. Chắc chắn là Khổng Tử đã chứng kiến nhiều vụ chôn sống người và chính ông đã cử hành nhiều buổi lễ như vậy nhưng Khổng Tử không những không xúc động mà còn cho rằng nghi lễ của người xưa để lại là hoàn toàn đúng không có gì cần sửa đổi. Về điểm này Tần Thủy Hoàng còn nhân đạo hơn ông.

Tài trí của Khổng Tử ra sao? ông có vẻ khá tự tin về học vấn của mình, ông từng nói: Bảo ta là thánh thì ta không dám, nhưng ta làm việc thánh không biết chán, dạy người không biết mỏi (nhược thánh dù nhân tắc ngô khởi cảm, ức vi chi bất yếm, hối nhân bất quyền), hoặc ta không phải sinh ra đã biết, nhờ thích việc ngày xưa, có học mà được. Khổng Tử còn tin tưởng hơn về tài trị nước của mình, ông nói: Vua nào mà dùng ta thì chỉ một năm đã khá, ba năm là thành công . Sự tự tin này đã không được thực tế xác nhận. Khổng Tử làm quan lớn tại nước Lỗ trong sáu năm, từ chức Trung Đô Tể lên đến Đại Tư Khấu rồi sau này Nhiếp Tướng Sự nhưng không thấy nước Lỗ giàu mạnh được bao nhiêu. Ông làm Nhiếp Chính Sự (tướng quốc) được một năm thì từ quan và đi lưu lạc. Lý do khiến ông từ quan là vì vua nước Lỗ không chia phần thịt cho ông trong lễ Giao. Lý do này thực là nhỏ mọn và làm cho các nho sĩ đời sau rất phiền lòng. Chỉ vì miếng thịt mà bỏ chức tướng quốc thì còn thể thống gì, còn gì là chí lớn trị quốc, bình thiên hạ nữa. Vì vậy họ cố tình biện luận rằng đó chỉ là cái cớ, lý do thực sự khiến Khổng Tử bỏ đi là vì Khổng Tử thấy vua không còn biết giữ lễ nghĩa nữa. Nhưng đó chỉ là những giả thuyết được đưa ra để biện hộ cho cái đức của Khổng Tử chứ không dựa vào căn cứ nào. Người ta chỉ kể được những chuyện vua nước Lỗ say mê xem đám vũ nữ nước Te sang múa hát, bỏ việc ba ngày không nghị triều, nhưng Khổng Tử đã từng làm quan cho nước Lỗ sáu năm rồi, sao đến bây giờ mi bỏ đi. Vả lại, theo Luận Ngữ thì chính Khổng Tử cũng rất say mê đàn hát. Sang nước Tề học đàn ba tháng, không biết đến miếng thịt (văn thiều tam nguyệt bất tri nhục vị). Lập luận cho rằng Khng Tử từ quan bỏ đi vì vua nước Lỗ say mê vũ nữ càng không đúng vì sau khi bỏ Lỗ sang Vệ, Khổng Tử lại bị lai tiếng về một vụ nữ sắc. Theo sách chép thì vua nước Vệ có người vợ là Nam Tử, rất đẹp và cũng rất dâm đãng. Khổng Tử muốn được làm quan nước Vệ nên phải vào yết kiến nàng này và còn đi theo xe du ngoạn, vì thế đã bị dư luận lúc đó chê cười. Khổng Tử cũng không trọng nguyên tắc như người ta vẫn đề cao ông, bởi vì trên bước đường bôn ba tìm chủ, có lúc ông định đi theo phò một phản thần là Phất Bật. Bị học trò là Tử Lộ chất vấn, ông biện bạch rằng người trong sạch thì dẫu có vào chỗ đen tối cũng vẫn trong sạch. Thật là ngụy biện.

Tại sao Khổng Tử lưu lạc khắp nơi trên mười năm trời xin làm quan mà không vua chúa nào dùng? Đó là vì ông hoàn toàn lỗi thời. Lúc đó nhà Chu đã mạt vận lắm rồi, chẳng còn uy tín nào nữa. Các chư hầu dù muốn hay không cũng phải tự quyết và trong thực t mọi vua chư hầu đều mơ ước làm minh chủ, nhưng Khổng Tử đi đâu cũng đề cao nhà Chu. Ông nói: Việc lễ nhạc và chinh phạt phải do Thiên Tử (tức nhà Chu) khởi xướng, các vua chư hầu mà đặt lễ nhạc và chinh phạt là vô đạo (Thiên hạ hữu đạo tắc lễ nhạc chinh phạt tự Thiên Tử xuất; thiên hạ vô đạo tắc lễ nhạc chinh phạt tự chư hầu xuất). Muốn đi phò người ta mà lại bài bác người ta như vậy thì ai dùng? Khổng Tử cũng chủ trương tập trung mọi quyền lực vào tay vua, truất bỏ quyền tham gia chính trị của các đại thần (Thiên hạ hữu đạo, tắc chính bất tại đại thần). Một nhn quan chính trị như vậy không những đã rất hủ lậu và thiển cận mà còn làm các quan đại thần bất bình. Không có gì đáng ngạc nhiên khi họ khuyên các vua đừng nên dùng Khổng Tử. Vả lại nếu kiến thức và tài dạy học của ông được mọi người đương thời nhìn nhận thì ngược lại thành tích trị nước của ông chưa được bảo đảm. Với một lập trường tôn Chu tuyệt đối như vậy tại sao Khổng Tử không đến thẳng kinh đô nhà Chu không xa nước Lỗ bao nhiêu xin việc mà lại cứ dai dẳng xin phò các chư hầu không còn phục nhà Chu nữa? Lý do là vì triều đình nhà Chu lúc đó rất nghèo. Nhưng Khổng Tử vừa bỏ rơi nhà Chu và chạy theo các chư hầu lại vừa đòi họ phục tùng nhà Chu!

Khổng Tử cũng vô lý như người giữa mùa hè chính mình cũng cởi trần nhưng lại hô hào mọi người nên mặc đồ thật ấm. Khổng Tử có tâm hồn nghĩa hiệp không? Câu hỏi này hình như chưa ai đặt ra, và đó cũng là một sự kiện đáng lưu ý. Ông thấy nưc nào thịnh thì tìm đến xin làm quan, thấy nước nào khó khăn thì bỏ đi, ông không phải là người để đương đầu với thử thách và vượt qua trở ngại. Quan niệm lập thân của ông chỉ giản dị là cầu an và cầu vinh. Ông nói: Nước lâm nguy thì không nên vào, nước bị loạn thì không nên ở, lúc thiên hạ có đạo lý thì ta xuất hiện, lúc không có thì ta lên ở ẩn (nguy bằng bất nhập, loạn bằng bt cư, thiên hạ hữu đạo tác kiến, thiên hạ vô đạo tắc ẩn). Khổng Tử xứng đáng được tôn làm ông tổ của tị nạn kinh tế. Cái triết lý ẩn, tránh khó khăn và gian nguy của ông, về bản chất là một thái độ thấp hèn, đã trở thành một thứ đạo lý cho nho sĩ về sau. Tại nước ta vào cuối thế ky 19 đầu thế kỷ 20 có ông Nguyễn Khuyn đáng được coi là tiêu biểu cho cái đạo lý tồi tàn này. Nguyễn Khuyến là nho sĩ danh giá nhất thời đó, ông đậu đầu cả ba kỳ thi hương, thi hội và thi đình nên được gọi là Tam Nguyên. Lúc đó ta mất nước về tay người Pháp, Nguyễn Khuyến làm gì? Ông rút về ở ẩn để ngâm vịnh, thỉnh thoảng cũng làm vài bài thơ châm biếm vua quan và xã hội thời Pháp thuộc. Với một thái độ trốn tránh trch nhiệm như vậy, Nguyễn Khuyến vẫn được ca tụng như một nhà nho đầy tiết tháo.

Chỗ đúng của Khổng Tử trong tư tưởng cần được nhận định như thế nào?

Xã hội Trung Quốc cho đến đời Khổng Tử đã tiến hóa rất nhiều cả về mặt kỹ thuật lẫn tư tưởng. Đến đời Xuân Thu thì các vấn đề xã hội đã trở nên rất phức tạp, chế độ tập quyền sơ sài vẫn có từ trước đến đời nhà Chu không còn hợp thời nữa. Tổ chức chính trị Trung Quốc lúc đó đã đến lúc cần phải xét lại. Một khuynh hướng tản quyền tự nhiên dần dần xuất hiện, và bởi vì nhà Chu không cải tiến gì cả để phù hợp với tình thế mới nên dần dần mất quyền lực và ảnh hưởng. Chỉ có hai con đường, một là chấp nhận sự tản quyền đó và tìm ra một giải pháp mới để phối hợp các chư hầu; hai là tổ chức lại bộ máy cai trị trung ương để nó có đủ sức mạnh đè bẹp các chư hầu và cai trị một đất nước đã trở thành rộng lớn, ông dân hơn và phức tạp hơn. Khổng Tử đã hoàn toàn không nhìn thấy điều đó, ông chủ trương phục hồi lại quyền hành nhà Chu với y nguyên lề thói cũ. Cho nên ông hoàn toàn lạc điệu và lỗi thời. Nhận thức chính trị của ông thực là kém cỏi.

Về mặt tư tưởng, các tiến bộ tích lũy từ hơn bốn ngàn năm đã lên tới cao điểm. Thời Xuân Thu Chiến Quốc là thời cực thịnh tư tưởng Trung Quốc. Ngay sau khi Khổng Tử qua đời, đoạn cuối của thời Xuân Thu Chiến Quốc đã xuất hiện cả một phong trào khai phá tư tưởng rộng khắp, với tầm vóc lớn hơn nhiều lần giai đoạn hoàng kim của tư tưng Hy Lạp. Các nhà tư tưởng xuất hiện sau Khổng Tử như Tuân Tử, Mặc Tử, Hàn Phi, Công Tôn Long, v,v... Đã vượt rất xa Khổng Tử.

Tư tưởng Trung Hoa cho đến thời Xuân Thu Chiến Quốc vẫn chỉ là Nho Giáo. Chính sự trưởng thành của Nho Giáo đã làm nở rộ tư tưởng của thời Đông Chu Liệt Quốc. Tư tưởng, nhất là tư tưởng chính trị Trung Quốc trải qua một thời kỳ xét lại lộng lẫy và đầy ha hẹn. Tiếc rằng nó đã khựng lại sau đó vì trong hai chiều hướng chuyển biến chính trị, đẩy mạnh tản quyền hoặc tăng cường sức mạnh tập trung, khuynh hướng thứ hai đã thắng. Nho Giáo được phục hồi và Trung Quốc đã dẫm chân tại chỗ từ đó.

Khổng Tử kém xa, rất xa, các nhà tư tưởng sau ông, nhưng phải nhìn nhận rằng ông đã có đóng góp quan trọng cho giai đoạn cực thịnh của tư tưng Trung Hoa vào cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc. Nhờ trường tư của ông, ông đã đào tạo ra hàng ngàn sĩ tử và đến lượt họ đã đào tạo ra vô số sĩ tử khác. Các nhà trí thức lỗi lạc sau này dù vượt xa Khổng Tử và bài bác Khổng Tử cũng đều là những hậu bối tinh thần của Khổng Tử. Một lần nữa ta nhìn thấy vai trò khai phóng của giáo dục. Còn về sau, việc phục hồi Nho Giáo cũng như việc tôn thờ Khổng Tử làm thánh nhân mâu mực muôn đời hoàn toàn không do trách nhiệm của Khổng Tử. Đó chỉ là do ý đồ của các chế độ quân quyền dùng Nho Giáo và Khổng Tử để cũng cố nền tảng của họ. Ông chỉ là nạn nhân của một khai thác chính trị.

Khổng Tử là một nhà giáo có tài và một nhà biên soạn sách có tài. Ông nghèo về tình cảm, kém về tư tưởng và nhận thức xã hội. Toàn bộ quan điểm chính trị và triết học của ông đều lỗi thời ngay cả vào lúc đó Nhưng ông nghĩ như thế và phát biểu như thế, đó là quyền của ông, ông không thể tiên đoán được những lạm dụng về sau.

Chương thứ :54 "

Có thể nói lịch sử của nước ta thực sự bắt đầu vào thời Xuân Thu Chiến Quốc.

Giai đoạn này tương ứng với thời các vua Hùng mở nước. Theo huyền sử thì nguồn gốc của chúng ta cũng bắt đầu từ vua Thần Nông bên Trung Quốc. Huyền sử chỉ có một mức độ chính xác rất tương đối nhưng ít nhất nó nói lên một sự kiện, đó là người Việt nam và người Trung Hoa có cùng một cội nguồn. Chắc chắn là cũng đã có những người tiền sử sinh sống trên đất nước ta từ trước và đã hòa nhập với người di dân từ phương Bắc xuống vào giai đoạn này, họ đông đảo hơn nhưng thành tố phương Bắc là chế ngự. Ngày nay hầu hết các họ của chúng ta cũng là những họ Trung Quốc. Như vậy giai đoạn từ Xuân Thu Chiến Quốc trở về trước có thể coi là lịch sử chung của cả hai dân tộc trước khi hai quốc gia riêng biệt được hình thành. Nhưng chúng ta cũng chỉ mới được độc lập không được bao lâu thì lại bị sát nhập vào Trung Quốc trong hơn một ngàn năm. Hơn nữa, một quốc gia không phải chỉ là lãnh thổ và con người mà còn là một nền văn hóa, mà văn hóa của ta thì chủ yếu là văn hóa Khổng Mạnh đã được tổng hợp trong giai đoạn này.

Nếu thời Xuân Thu Chiến Quốc kết thúc một cách khác đi, nghĩa là nó không kết thúc với một chế độ quân chủ chuyên chính tập trung, và với Khổng Giáo được lấy làm quốc giáo độc tôn, thì số phận và lịch sử của nước ta đã khác hẳn.

Tư tưởng Trung Quốc hình thành một cách thực nghiệm với thời gian, đến thời Xuân Thu Chiến Quốc nó đạt tới một mức độ trưởng thành vừa đòi hỏi một cố gắng hệ thống hóa vừa cho phép những khai phá lớn khác. Nền văn minh Trung Quốc lúc đó như một cây đã đủ lớn và đến lúc trổ hoa. Cả một phong trào tư tưởng rộ lên như hoa nở mùa xuân. Các sách còn lưu giữ được, nhất là bộ truyện Đông Chu Liệt Quốc, mô tả một không khí tưng bừng khai phá tư tưởng. Có những nhà hào phú nuôi cả trăm, ngàn thực khách chỉ để biện luận tìm ra chân lý về vũ trụ, xã hội và con người. Cũng có hàng trăm, hàng ngàn biện sĩ đi khắp các nước chư hầu đề nghị với các vua chúa các l thuyết trị nước.

Khí thế của phong trào tư tưởng này thật là mạnh mẽ và nhưng thành lựu của nó lại càng lớn hơn. Có thể nói tất cả những triết lý và học thuyết của Trưng Quốc đều xuất hiện trong giai đoạn này. Và cũng có thể nói là mọi khái niệm triết lý và chính trị đều đã được đề cập tới và đẩy khá xa. Ngày nay nói tới tư tưởng thời Xuân Thu Chiến Quốc người ta thường hay nhắc tới Lão Tử, Mặc Tử, Tuân Tử, Mạnh Tử, Hàn Phi, Công Tôn Long, v.v... nhưng thực ra các triết gia và lý thuyết gia này không phải là đơn độc, họ chỉ là những phát ngôn viên còn được nhớ lại của các trường phái tư tưởng. Thời đó chưa có sự tranh giành tác quyền về tư tưởng.

Trường phái Lão Tử chẳng hạn đã đưa ra cả một triết thuyết về vũ trụ mà ngay cả trong thời đại khoa học ngày nay người ta cũng không thể đánh giá là ngây ngô. Có thể coi những khai phá của Mặc Tử trong thuyết kiêm ái như là những viên đá đầu tiên cho một chủ nghĩa dân chủ xã hội nhân bản. Mặc Tử, Tuân Tử và Hàn Phi khởi xướng ra chủ trương nhà nước pháp trị. Kiêm ái và pháp trị nếu được phối hợp và phát triển chắc chắn dẫn ti dân chủ. Công Tôn Long đi rất xa về lô-gích trừu tượng, phân tích rất sâu về nguyên ủy và hậu quả (trứng có lông) về sự vật và cách nhìn sự vật (ngựa trắng không phải là ngựa).

Nhưng cả một rừng hoa đó cuối cùng đã không kết trái, hay đều kết trái nhưng trái đã không chín được để sinh ra những hạt giống cho sự sống tiếp tục. Tại sao?

Câu trả lời đầu tiên là, trái với văn minh phương Tây, thời Xuân Thu Chiến Quốc đã có những tiến bộ về tư tưởng mà không có tiến bộ về khoa học thuần túy. Họ đã có những Socrate nhưng không có được những Archimède. Triết lý không có sự chuyên chở của khoa học kỹ thuật thì không bay bổng lên được và không ăn rễ được vào xã hội.

Giải thích như vậy cũng tạm ổn, nhưng chính sự thiếu vắng khoa học thuần túy cũng cần được giải thích.

Trung Quốc được thành lập trên lưu vực của hai con sông lớn, sông Hoàng Hà và sông Dương Tử. Cả hai con sông này đều là những dòng sông dũng mãnh đem phù sa và sự sung túc lại cho cái nôi đầu tiên của Trung Quốc, nhưng đồng thời cũng là một đe dọa kinh niên cho sự tồn vong của con người. Tới mùa lũ dòng sông có thể tràn bờ biến ruộng đồng thành biển cả, cuốn đi của cải và sinh mạng. Trong điều kiện như thế, ưu tiên thường trực nếu không muốn nói duy nhất của tp thể là chống lại nước. Các vị vua đầu tiên của Trung Hoa đều là những người có công trị thủy. Vua Thuần nhường ngôi cho vua Vũ vì ông Vũ có công đắp đê ngăn nước lụt.

Mọi xã hội hình thành bên cạnh nhưng dòng sông lớn với lưu lượng thay đổi đột ngột đều cần những vị vua có uy quyền tuyệt đối để áp đặt những cố gắng tập thể ghê gớm. Không phải là một sự tình cờ mà tất cả các chế độ được xây dựng bên cạnh những con sông lớn đều là những xã hội cực kỳ chuyên chế, dù là ở Trung Hoa, Việt nam, Cam-bốt, ấn Độ, Ethiopia, hay Ai Cập... nền tảng của các xã hội cổ xưa này là một khế ước bạo quyền bất thành văn nhưng rất rõ rệt giữa người chủ tể và dân chúng. Người chủ tể phải áp đặt những đòi hỏi thật dã man, đôi khi hy sinh cả một phần dân chúng, để đắp và bảo vệ đê điều, nhưng ngược lại chính nhờ những hy sinh kinh khủng đó mà cộng đồng tồn tại được thay vì bị nước cuốn đi. Các nạn nhân có thể nguyền rủa bạo chúa, nhưng con cháu họ lại mang ơn bạo chúa vì đã bảo đảm cho họ mùa màng và cuộc sống. Dần dần sự tàn bạo được chấp nhận như một định luật. Khổng Tử thừa hưởng di sản tinh thần của hệ thống xã hội đặt trên khế ước bạo quyền đó. Điều đặc biệt nơi ông là thay vì nhìn khế ước bạo quân đó như một cái tệ cần thiết ông lại thấy nó toàn thiện, toàn mỹ. Khổng Giáo chủ yếu là cố gắng để chính đáng hóa bạo quyền và nâng sự chấp nhận kiếp sống nô lệ lên hàng một đạo đức tuyệt đối.

Khổng Tử sống trong một giai đon chuyển tiếp quan trọng. Với thời gian uy quyền của bạo chúa bị suy giảm vì hai lý do, một là đê điều tương đối đã ổn vững, công tác chủ yếu chỉ còn là giữ gìn và tu bổ, vai trò của bạo cha không còn cần thiết như trước nữa; hai là xã hội ngày càng phát triển, mức sống cao hơn, dân số đông hơn, các nhu cầu mới xuất hiện, nhiều tiểu chủ địa phương xuất hiện và trở thành mạnh. Ti một mức độ chín muồi nào đó nhận thức về xã hội và cách tổ chức xã hội cần được xét lại. Đó là hiện tượng đã xảy ra dưới triều đại nhà Chu. Các sử gia vẫn thường nhận định là nhà Chu suy vì để mất uy quyền thiên tử, thực ra là vì xã hội đã tiến hóa và đòi hỏi một hệ thống chính trị khác.

Nhà Chu không còn uy quyền trấn áp các chư hầu nữa thì tất nhiên các chư hầu cạnh tranh và cấu xé lẫn nhau. ý hệ độc tôn quân quyền không còn hợp thời nữa thì tất nhiên xuất hiện những suy tư mới.

Thời Đông Chu Liệt Quốc chính là khúc quanh lịch sử vĩ đại đó. Nhưng tập quán chính trị chuyên chính đã kéo dài gần bốn ngàn năm và đã ăn rễ vào tâm lý con người nên các tham vọng chuyên chế dĩ nhiên còn rất mạnh và còn có chỗ dựa tâm lý mạnh. Phải có một phép mầu ghê gớm các xã hội thiết lập bên các dòng sông lớn mới lột xác và biến đổi được. Nhưng phép mầu đó đã không xảy ra tại Trung Quốc cũng như nó đã không xảy ra tại mọi nước khác. Người dân đã được điều kiện hóa để chấp nhận sự tàn bạo và như thế khi một chế độ tàn bạo cáo chung nó chỉ nhường chỗ cho một chế độ tàn bo khác thích nghi hơn với thời đại mới. Giữa hai chuyền hướng bắt buộc phải có cho chế độ nhà Chu, một là chấm dứt khế ước bạo quyền, chính thức hóa sự tản quyền và nới rộng tự do cho dân chúng, hai là, ngược lại, tăng cường tới cực điểm bạo lực của trung ương để khuất phục các chư hầu và đập tan mọi ý đồ chống đối; cui cùng Trung Quốc đã theo con đường thứ hai. Nhà Chu đã chấm dứt nhường chỗ cho nhà Tần với một bộ máy cai trị lớn hơn và mạnh hơn. Từ nhà Tần trở đi, một hệ thống chính trị khác, hệ thống quân chủ tập quyền và tuyệt đối dựa trên bạo lực không cần thiết đã ra đời thay thế cho hệ thống chính trị quân chủ dựa trên bạo lực cần thiết trước đó.

ở đây cũng cần mở một dấu ngoặc để nói về một sự kiện rất đáng chú ý. Sở dĩ, trong các chư hầu, nhà Tần đã mạnh lên để tiêu diệt các chư hầu khác và gom thâu thiên hạ là vì đã áp dụng lý thuyết của Hàn Phi, chủ trương xiết chặt về chính trị nhưng cởi mở về kinh tế. Cái gọi là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ngày nay cũng không khác gì về nội dung, nó chỉ là một sự áp dụng lại một l thuyết đã được đưa ra cách đây 22 thế kỷ. Nhà Tần đã chỉ tồn tại được vài chục năm bởi vì chính sách độc tài chính trị cởi mở kinh tế đã mau chóng tích lũy mâu thuẫn và đã sụp đổ. Đy là một bài học, lịch sử hình như đang diễn lại.

Nhà Hán sau khi đã tiêu diệt nhà Tần đã xiết lại luôn về kinh tế, đem Khổng Giáo làm quc giáo độc tôn, cấm đoán mọi ý đồ xét lại. Từ đó chế độ chính trị Trung Quốc không còn thay đổi nữa và Trung Quốc dẫm chân tại chó hơn hai mươi thế kỷ.

Các xã hội nông nghiệp hình thành bên các dòng sông lớn đều mang một tật nguyền chung của các nền văn minh phù sa là tư tưởng và sáng kiến bị thui chột. Phải hàng ngàn năm mới đắp xong những con đê lớn với những chịu đựng ghê gm. Cuộc sống đầy đọa và gắn chặt với đất đó đã nhồi nặn ra những con người chỉ quanh năm vất vả với đất để kiếm miếng ăn, dần dần sự thủ cựu và thiển cận biến thành một bản chất, không biết nghĩ và không dám nghĩ.

Chúng ta là một dân tộc như thế. Cả lịch sử lập quốc của ta đã chỉ là lịch sử con đê sông Hồng Hà. Ta hệ lụy với dòng sông hơn mọi dân tộc khác, đến nỗi gọi quốc gia là nước. Quốc gia của ta chỉ quanh quẩn là đất nước, núi sông, sơn hà. Chúng ta còn tật nguyền hơn mọi dân tộc phù sa khác. Trí tuệ của ta thui chột một cách thê thảm. Người Trung Quốc còn biết xét lại và đổi mới, dù chỉ là một cách vụn vặt, Khổng Giáo của họ qua các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyễn, Minh, Thanh; người Việt nam chúng ta thì hoàn toàn không. Người Trung Quốc còn biết dùng lịch phương Tây ngay từ đời nhà Minh; ta thì tới cuối thế kỷ 19 vẫn bám chặt lịch cũ thay đổi đã chỉ đến do sự áp dặt của người Pháp khi ta đã mất chủ quyền. Ta có một bờ biển dài và đẹp, mở thênh thang ra một đại dương hiền hòa nhưng ta vẫn chỉ sống đời này qua đời khác với đất như một dân tộc lục địa.

Đối với các dân tộc khác, tự do, dân chủ (hay nhân quyền cũng thế vì đó chỉ là những gốc nhìn khác nhau của cùng một sự kiện là con người được quí trọng, được phát huy hết khả năng của mình, được có ý kiến và sáng kiến) là một phương thức tổ chức xã hội; đối với chúng ta nó còn là một liều thuốc trị bệnh tê liệt trí não. Chúng ta là một bệnh nhân mà tự do là liều thuốc chữa. Chúng ta phải uống thuốc tự do nếu muốn lành bệnh để tranh đua với thế giới.

Chương thứ :55 "

Những người bênh vực Khổng Giáo thường gắn liền Khổng Giáo với đạo đức. Bài bác Khổng Giáo bị coi là bài bác đạo đức, nghĩa là vô đạo. Trong một cuc bút chiến với Phạm Quỳnh, ông Phan Kế Bính, một trí thức xuất chúng và cũng có Tây học, đã có công đóng góp nhiều cho văn hóa Việt nam và có tên đường ở Sài Gòn và Hà Nội, đã viết một câu chắc nịch: Đạo lý là đạo lý Khổng Mạnh Như vậy phải chăng các dân tộc không biết tới Khổng Mạnh là những dân tộc không có đạo đức?

Khổng Giáo đề cao một số giá trị mà con người phải c gắng để đạt được. Nhưng nếu ta hỏi các nhà nghiên cứu Khổng Giáo những giá trị đó là gì thì các vị này sẽ rất bối rối. Có vị bảo là trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cũng có vị bảo đó là nhân, trí, dũng, văn, có vị lại thêm trực (ngay thẳng), tri (hiểu biết), đạo, cung, kinh, dung (dễ chấp nhận người khác). Đọc Luận Ngữ và sách của các danh nho khác còn phải thêm: đạt, mẫn, tôn, trọng, thuận. Như vậy đủ thấy đạo lý Khổng Giáo dù đã xuất hiện và ngự trị từ cả hàng nghìn năm vẫn còn rất mập mờ.

Các giá tr thường được nhắc tơi là trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Các giá trị này đã được cải thiện dần dần với thời gian và đi vào quần chúng. Lúc ban đầu chúng chỉ là những giá trị dành cho người quân tử, tức người làm quan hay học để làm quan, và có ý nghĩa đặc biệt của chúng.

Luân lý Khổng Giáo thường được tóm gọn trong tam cương, ngũ thường. Tam cương là ba bổn phận của kẻ s: trung với vua, hiếu với cha mẹ, thủy chung với vợ. Tam cương không được rõ ràng lắm. Cũng có những học giả coi tam cương là quân, sư, phụ nghĩa là bổn phận đối với vua, với thầy và với cha. Ngũ thường thì vẫn được coi là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Khổng Giáo về sau được bồ túc bởi một loạt giá trị dành cho phụ nữ, đó là tam tòng, tứ đức.

Tam tòng là ba sự phục tùng mà người đàn bà phải tuân thủ: lúc còn con gái thì phải phục tùng cha, lấy chồng thì phải phục tùng chồng, chồng chết thì phải phục tùng con (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Tứ đức là bốn đức tính người đàn bà phải rèn luỵện, đó là công (khéo tay), dung (nhan sắc), ngôn (ăn nói) và hạnh (hạnh kiểm). Thêm vào đó lại có một giá trị đặc biệt cho người đàn bà: chữ trinh.

Nếu hiểu hiếu là kính trọng và tận tụy với cha mẹ, nhân là yêu thương người, lễ là kính trọng người khác trong mọi giao dịch, tín là giữ lời hứa và tôn trọng mọi cam kết, trí là cố gắng để đạt tới sự hiểu biết rộng thì dĩ nhiên đó là những giá trị của mọi xã hội và mọi nền văn minh chứ không phải của riêng Khổng Giáo. Nếu muốn ni tới các giá trị của Khổng Giáo thì phải nói tới các giá trị chỉ có trong Khổng Giáo hay được đặc biệt nhấn mạnh và đề cao trong Khổng Giáo mà thôi.

Nhưng trước khi bàn về nội dung của Khổng Giáo ta phải nhận định một điểm rất quan trọng, đó là Khổng Giáo dứt khoát không phải là một đạo lý. Ngôn ngữ Việt nam và Trung Quốc thường hay lẫn lộn về khái niệm nên có thể nhưng điều sau đây không được sự nhất trí của nhiều độc giả, nhưng vấn đề là có thực. Triết học phân biệt đạo lý hay đạo đức (éthique, ethic) và luân lý (morale, moral). Đạo lý là nhưng giá trị có căn bn triết học, được phân tích rõ ràng, được biện luận đến nơi đến chốn và sau cùng được chấp nhận như là kết quả của một cố gắng suy tư. Luân lý, trái lại, chỉ là những điều được áp đặt và trở thành thói quen và qui luật trong một xã hội. Không thể coi việc người Do Thái cấm ăn thịt heo hay thịt những con vật mà móng chân sẻ ra, cấm ăn cá không có vẩy là một đạo lý được. Đó chỉ là một luân lý, nghĩa là một qui luật được luân chuyền từ thế hệ này sang thế hệ khác mà thôi.

Khổng Tử và các môn đệ không hề phân tích, biện luận mà chỉ phán ra các mệnh lệnh mà thôi, nên Khổng Giáo không phải là một đạo lý mà chỉ là một luân lý mà thôi. Về nội dung các giá trị Khổng Giáo thì sao?

Trước hết, hệ thống giá trị áp đặt cho phụ nữ rất mọi rợ và vô nhân đạo. Nó hạ giá người phụ nữ xuống hàng một nô lệ và một vật dụng. Trí tuệ và nhân cách của người đàn bà không được kể đến. Công, dung, ngôn, hạnh là gì? Công chỉ là tài thêu thùa, may mặc, nấu bếp, nghĩa là tài hầu hạ, phục dịch. Dung không phải là sắc đẹp mà là cấm không được làm đẹp vì như thế là lòe loẹt, lẳng lơ. Ngôn là ăn nối phải e dè, càng nói ít càng tốt. Còn Hạnh chỉ là sự chăm chỉ phục tùng, phục tùng cha mẹ, rồi phục tùng chồng, rồi phục tùng cả con trai mình. ấy là chưa kể trong gia đình còn phải phục tùng cả chú bác, anh chị. Nếu là một người con gái út trong gia đình nghèo thì địa vị của một phụ nữ chẳng còn gì. Rồi lại có cái chữ trinh cực kỳ đểu cáng. Một người phụ nữ đã có quan hệ tình dục với ai bị coi là mất thân, có tì vết, mất hết giá trị. Không phải chỉ có phụ nữ bình thường mà ngay cả các công chúa cũng không thoát khỏi sự khống chế tàn tệ của chữ trinh. ở Việt nam có chuyện Chử Đồng Tử. Anh chàng này nghèo khổ, không có nỗi cái khố, một hôm một cô công chúa vô tình quay màn tắm ngay chỗ anh ta trần trung nằm chui dưới cát. Đến khi dội nước thì lộ ra anh ta. Cô công chúa chỉ lỡ nhìn thấy anh ta trần truồng mà coi như bị mất trinh, đành phải cưới anh ta làm chồng cho phải đạo? Văn học Trung Quốc cũng không thiếu những câu chuyện các cô gái vì vô tình đụng chạm phải một người đàn ông mà phải coi như đã mất trinh, đành phải lấy người đó làm chồng. Chữ trinh là một sáng tạo dã man của đn ông để nô lệ hóa phụ nữ và coi phụ nữ như một đồ chơi độc quyền của họ. Ngày nay chúng ta đều đồng ý rằng quan niệm của Khổng Giáo về người phụ nữ là rất lạc hậu. Nhưng chúng ta đã thực sự vất bỏ nó chưa? Tôi chưa chắc, quán tính của chúng ta vẫn còn nặng lắm. Cái tâm lý chồng chúa vợ tôi vẫn còn hiện diện rất mạnh, ngay trong cả các gia đình trí thức sinh sống tại các nước tân tiến phương Tây. Người vợ dù là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư đại học vẫn là nạn nhân của một sự phân công quái gở là lo chuyện bếp núc, phục dịch trong gia đình trong khi đức ông chồng ung dung hưởng thụ. Người chồng Việt nam là một trong những người chồng thô bỉ nhất thế giới.

Tôi có lần nói chuyện với một học giả, giáo sư đại học. Ông ta lo lắng vì con gái đã lớn và học chung với nhiều bạn trai. Mối lo của ông ta là con gái sẽ giao du với bạn trai. Tôi nói giao du là chuyện dĩ nhiên chẳng có gì đáng sợ, ông ấy trả lời rằng trai gái bây giờ nó tự do lắm, nó cứ bắt tay nhau một cách tự nhiên, có khi còn hôn nhau khi gặp gỡ hoặc chia tay. Tôi hỏi thì đã sao?. Và ông ta nỗi đóa: Nó hôn má, rồi có ngày nó sẽ hôn môi, rồi nó sẽ làm tình!. Đối với ông ta hình như nếu con gái ông ta có bồ và hôn môi một chàng trai nào, nhất là lại làm tình thì không khác gì trời sập. Nhưng ngược lại, nếu đứa con trai ông ta cũng làm những điều ấy thì lại rất bình thường. Đó là một trí thức uyên bác đã sống tại Pháp gần 40 năm.

Chữ trung và chữ hiếu được định nghĩa từ đời nhà Tống một cách rõ rệt như thế này: Vua bảo phải chết mà không chịu chết là bất trung, cha bảo phải chết mà không chết là bất hiếu (quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu). Trong Luận Ngữ, Khổng Tử định nghĩa chữ hiếu như sau: cha còn sống thì phải theo ý cha, cha mất thì theo việc cha làm, ba năm không được sửa đổi những gì cha đặt ra (phụ tại quan kỳ chí, phụ một quan kỳ hành, tam niên vô cải ư phụ chi đạo), cha mẹ có lầm lỗi can gián không được cũng không được làm trái ý, đau lòng cũng không được giận (sự phụ mẫu cố gián, kiến chí bất tòng, hữu kính bất vi, lao nhi bất oán); cha mẹ còn sống thì không được đi xa (phụ mẫu tại, bất viễn du). Cũng cần lưu ý là chữ hiếu của Khổng Giáo chủ yếu là hiếu với cha mà thôi, người mẹ rất ít được đề cập tới. Sự kính mến người mẹ ở trong các xã hội thuộc văn hóa Trung Hoa có thể được nhìn như là một phản ứng dân gian trước sự tàn nhẫn của Khổng Giáo đối với phụ nữ. Chữ hiếu của Khổng Tử không những bệnh hoạn mà còn bất lương. Khổng Tử bàn luận với Diệp Công về sự ngay thẳng (trực cng là một giá trị của Khổng Giáo). Diệp Công nói rằng người ngay thẳng nếu cha mình đi ăn trộm cũng phải tố giác, Khổng Tử phản đối nói rằng đạo làm con thì dù cha có đi ăn trộm cũng phải bênh, như thế mới là trực. Đó là những lời vàng ngọc của đức thánh Khổng?

Về sau các nho sĩ cũng không làm cho trung và hiếu lành mạnh hơn, trái lại chỉ thêm vào những điều xằng bậy, thí dụ như, hiếu được định nghĩa phải có con trai. Có ba tội bất hiếu, tội nặng nhất là không có con trai (bất hiếu hữu tam, vô hậu chi đại), trung được định nghĩa chỉ được thờ một chủ mà thôi.

Về ch nhân, Khổng Tử định nghĩa một cách rất lăng nhăng. Nhan Hồi hỏi ông về nhân, Khổng Tử đáp đó là các đức tính cung (kính cẩn), khoan (khoan dung), mẫn (thông minh), huệ (may mắn). Như vậy thì nhân khng phải là một giá trị riêng mà chỉ là tổng hợp năm giá trị khác của Khổng Giáo. Việc coi mẫn và huệ là những thành tố của nhân cũng đáng ngạc nhiên. Khi Phần Trì hỏi thì ông đáp nhân có nghĩa là yêu người; đây là lần duy nhất mà Khổng Tử định nghĩa khái niệm nhân một cách gần đúng. Khi Trọng Cung hỏi thì ông đáp nhân là ra khỏi cửa phải như gặp thượng khách, sai dân thì phải uy nghi như tế lễ lớn, mình không muốn điều gì thì đừng làm cho người khác (xuất môn như kiến đại tân, sử dân như thừa đại tế, kỷ sở bất dục vật thi ư nhân); ở đây nhân chỉ giản dị là sự đúng đắn. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử còn đưa ra một định nghĩa khác về nhân: người trí thì thích nước, người nhân thì thích núi, người trí thì động còn người nhân thì tĩnh (trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn, trí giả động, nhân giả tĩnh). Định nghĩa quái đản này tuy vậy cũng nói lên nhân sinh quan của Khổng Tử, ông không có lý tưởng giúp đời, nhân của ông là tĩnh, nghĩa là bất động, chứ không phải xông pha vào khó khăn để giúp người. Điều này phù hợp với đạo lập thân mà ông đã dạy người quân tử: nước nguy thì không nên đến, nước loạn thì không nên ở, xã hội lành mạnh thì ra làm quan, xã hội không lành mạnh thì rút về ở ẩn. Như vậy chữ nhân của Khổng Tử dứt khoát không phải là chữ nhân mà chúng ta thường hiểu. Khổng Tử được tôn thờ nên đời sau đã cố tình đem cái lòng tốt của mình mà hiểu những điều ông nói Khổng Tử đặc biệt bối rối khi nói về nhân vì cá nhân ông không có lòng nhân đạo, ông mạt sát thậm tệ những người dân cùng khổ và chắc chắn là ông đã từng chủ trì nhiều buổi lễ chôn sống những người vô tội trong những đám tang của những gia đình quí tộc.

Nhân nói về chữ nhân cũng nên dừng lại giây lát để bàn về một chủ nghĩa chính trị có tên là nhân trị của Khổng Giáo. Đại đa số những người bàn về nhân trị thường cho đó là một chủ nghĩa nhân bản, lấy sự quí trọng con người làm căn bản. Điều này hoàn toàn sai. ý niệm nhân được định nghĩa một cách mơ hồ như đoạn trên không thể là nền tảng cho một thể chế chính trị nào. Chữ nhân trong nhân trị chỉ có nghĩa là cá nhân mà thôi, nhân trị vì vậy có nghĩa là để cho một người cai trị một cách tùy tiện, đối ngược lại với pháp trị có nghĩa là cai trị theo luật pháp. Nhân trị chỉ giản dị là độc tài cá nhân tuyệt đối; mà về bản chất thì mọi chế độ độc tài tuyệt đối đều dã man vô nhân đạo cả nên thuyết nhân trị cũng phải được xếp vào loại chủ thuyết dã man. Phan Chu Trinh đã phân tích khá rõ ràng về điểm này. Chữ Hán, nhất là khi đọc theo lối Việt, có nhiều chữ cùng âm mà khác nghĩa cho nên có những trường hợp ngộ nghĩnh là người Việt hiểu sai hẳn. Tôi từng được nghe rất nhiều người viện dẫn câu quân tử hợp quan, tiểu nhân hợp đảng để từ chối tham gia vào các tổ chức chính trị. Đối với họ tổ chức chính trị là đảng và như vậy những người quân tử cao thượng như họ không thèm gia nhập, đạo lý Khổng Mạnh đã dạy như vậy. Thực là oan cho Không Mạnh quá. Chữ đảng ở câu này không có nghĩa là đảng chính trị mà có nghĩa là xóm làng. Quân tử hợp quan, tiểu nhân hợp đảng có nghĩa là người có danh phận (quân tử) thì có thể kết hợp với nhau (hợp quần) còn dân chúng (tiểu nhân) thì chỉ sống chung với nhau trong xóm, nghĩa là không giao du và kết hợp rộng rãi.

Chữ lễ, của Khổng Giáo cũng là một sự hiểu lầm. Đọc Kinh Lễ và Luận Ngữ thì rất rõ ràng là lễ chỉ là nghi thức và hình thức mà thôi, thí dụ như tế trời thì phải mặc áo nào, gặp vua thì quì như thế nào, lạy bao nhiêu lạy, lúc tiếp chỉ của vua thì phải có cũng cách nào, gặp quan lớn phải có thái độ nào, gặp quan nhỏ thì ra sao, v.v... Khổng Tử khi đưa khách vào gặp vua thì giang tay cúi đầu giới thiệu, rồi cung kính đứng đợi, đến lúc khách quay ra thì hô lên khách không quay lại nữa. Đó là lễ của Khổng Giáo, nó không có nghĩa là sự đối xử lịch sự, bặt thiệp trong xã hội đối với mọi người.

Về lễ chính Khổng Tử đã nói một câu kinh khủng: lễ không kể đến bọn thứ dân (lễ bất há thứ dân).

Về lễ phép, phải nối rằng người á Đông rất vô lễ, nhất là những dân tộc chịu ảnh hưởng Khổng Giáo. Người phương Tây đi qua mặt một ai đều xin lỗi, nhận của ai món đồ nào đều cám ơn, gặp nhau chúc tụng nhau ngày vui, đi thì nhường bước cho phụ nữ... Ngay cả giữa các đối thủ với nhau, họ cũng tỏ ra trang nhã. Wellington đánh bại Napoléon I, nhưng khi Napoléon bị cầm tù và chết trên đảo Sainte Hélène ông cũng tới đó nghiêng mình kính cẩn. Ngược lại, các tướng Trung Hoa ra trận thì chửi nhau, bắt được địch thì đối xử tàn tệ. Quan Vân Trường được coi là bậc thánh, nhưng khi Lưu Bị giới thiệu đứa con nuôi là Lưu Phong thì hỏi Lưu Bị ngay trước mặt Lưu Phong: Anh đã có con rồi, nuôi giống con tổ vò này làm gì?; bắt được tướng địch là Vu Cấm thì nói: Tao giết mày cũng như giết giống chó ngựa thôi. Tập quán á Đông đối với kẻ trên, kẻ thắng thì khúm núm, đối với kẻ dưới, k bại thì thô lỗ. Đó không phải là lễ hiểu theo nghĩa đúng và đẹp của nó.

Gần đây có phong trào kêu gọi tái lập phương châm tiên học lề hậu học văn. Những người chủ trương như vậy hoặc c dụng ý thống trị hoặc không hiểu ý nghĩa thực sự của tôn chỉ này. Tiên học lễ hậu học văn chỉ có nghĩa là trước hết học nghi thức và hình thức, học lạy, học quì và cúi đầu, nói chung là cúng tế, rồi sau đó mới học tới kiến thức. Tiên học lễ hậu học văn chỉ có nghĩa là trước học cúng rồi sau mới học chữ.

Cũng phải hiểu rằng, lễ và nhạc trong Khổng Giáo là những dụng cụ thống trị, mục đích của chúng là lấy nghi thức và âm thanh để trấn áp tinh thần và khuất phục.

Nhiều độc giả tới đây sẽ phê phán tôi là dựa vào kinh sách để lên án Khổng Giáo, trong khi Khổng Giáo được thể hiện một cách khác trong cuộc sống. Các vị có lý, luân lý Khổng Giáo trong đời sống hang ngày không đến nỗi như vậy.

Tại sao? Đó là vì Khổng Giáo là một hệ thống giá trị khe khất, máy móc và vô nhân đạo được các vua chúa đem áp đặt vào cuộc sống. Người dân đành phải chấp nhận và vì không thể chấp nhận nguyên vẹn nó, người dân đã phản ứng lại bằng cách thay đổi nội dung của nó để bớt đi phần nào sự khe khắt. Do đó mà Khổng Giáo đã phần nào được nhân bản hóa. Chữ trung thì họ không đổi được, nhưng chữ hiếu đã được hiểu là sự quí trọng và săn sóc cha mẹ. Lễ được hiểu là cách đối xử đẹp đẽ giữa người và người, nhân cũng mang màu sắc của tình thương.

Nhà văn Bá Dương của Trung Quốc, trong một loạt bài tạp văn được tập trung trong một cuốn sách nhan đề Người Trung Quốc Xấu Xí (Sửu lậu đích Trung Quốc nhân), gọi văn hóa Khổng Giáo là một hũ tương đặc sệt. Tôi thấy cách gọi này không đúng hẳn. Tương chỉ làm bởi một chất chính là đậu, ngâm vào muối để cho rã ra và phân hóa lâu ngày mà thành. Khổng Giáo có đủ thứ, nào là kinh sợ quỉ thần, tuyệt đối phục tùng nhà vua, rồi lại đến cách ăn ở giữa vợ chồng, cha con, thầy trò, cách học hỏi, tu thân, v.v... Vật chất cũng có, tinh thần cũng có, siêu hình cũng có, luân lý cũng có mà chính trị cũng có. Nói chung là đủ thứ được pha trộn lộn xộn lâu ngày với nhau, thâm nhập vào nhau và biến chất lẫn nhau. Phải coi đó là một hũ mắm thập cẩm, thịt có, cá có, tôm có, mà rau cũng có. Mỗi người nếm nói một cách riêng, người thì bo là thịt, người thì nói là cá, người lại nói là tôm. Ai cũng đúng cả mà cũng chẳng ai đúng cả. Cho nên có người nói Nho Giáo là hệ thống chính trị, có người nói đó là một triết lý và cũng có người coi nó là đạo lý. Điều quan trọng đối với chúng ta là những tập tính mà Khổng Giáo đã tạo ra trong nếp sống dân gian.

Trước hết là óc thủ cựu. Tôn chỉ thuật nhi bất tác, chỉ lập lại mà không sáng tạo, đã được các vua chúa áp đặt như một mệnh lệnh tuyệt đối. Với thời gian nó thành một đạo lý và làm tê liệt cả trí não các dân tộc theo văn hóa Trung Hoa, nhất là Trung Quốc v Việt nam. Chúng ta không những không tìm cái mới mà còn thù ghét cái mới.

Thứ hai là óc bất dung, độc quyền lẽ phải. Các vua chúa áp đặt địa vị độc tôn của Khổng Giáo, rồi dùng bọn nô nho mạt sát mọi tư tưởng khác biệt nhân danh chính nghĩa vệ đạo. Dần dần chúng ta bỏ mất cả khả năng đối thoại. Chúng ta không thể thảo luận với nhau một cách bình tĩnh và tương kính, hễ khc ý kiến là phải dùng những lời lẽ hận thù, hằn học, là thấy cần phải tiêu diệt nhau. Chúng ta coi tranh luận có nghĩa là hạ bệ người trước mặt, làm cho hắn mất uy tín và bị lên án nếu được. Tôi có thể làm chứng về tinh thần vệ đạo, này bằng kinh nghiệm cá nhân. Tôi có viết một số bài báo trình bày một số ý kiến cá nhân và đã nhận được một loạt bài phản bác. Có những bài rất cay nghiệt, nhưng các tác giả không phản bác được gì cả vì họ chỉ tập trung cố gắng để khiến độc giả ghét tôi thay vì tranh luận ý kiến!

Thứ ba là sự sùng bái người xưa một cách bệnh hoạn, hậu quả tổng hợp của sự sùng bái quỉ thần và chữ hiếu được đẩy quá xa. Yêu quí người xưa là một tình cảm tốt vì đó là cội nguồn của ta. Tổ tiên đã khổ sở và vất vả để lại cho chng ta một di sản, di sản đó dù nhiều hay ít chúng ta cũng là người thừa kế và thụ hưởng. Nếu khng có di sản đó thì ngày nay chúng ta vẫn còn ăn lông ở lỗ. Nhưng cái bệnh hoạn là ở chỗ ta tin người xưa là đúng và lấy họ làm mẫu mực. Chúng ta không dám tin rằng thế giới càng ngày càng tiến, chúng ta hiểu biết nhiều và thông minh hơn cha ông, cũng như con cháu chúng ta sẽ thông minh và hiểu biết hơn chúng ta.

Thứ tư là lô-gích bạo lực. Nhiều người sẽ phản đối và viện dần vô số câu nói rất hòa bình và khoan dung. Nhưng quả thực phải nói nền tảng của xã hội Khổng Giáo là bạo lực. Vua không bao giờ có lỗi thì làm sao mà thay thế những hôn quân, bạo chúa? Đạo lý Khổng Mạnh không cho phép chống lại vua, cho nên chỉ có nhưng kẻ bất chấp đạo lý nổi loạn giết vua mới thay đổi được tình thế. Kẻ ấy nếu thua thì bị coi là giặc, là phản, là vô đạo, nhưng nếu may mắn thắng đợc thì các nho sĩ sẽ quì xuống thần phục và giải thích là mệnh trời đã đổi. Mọi thay đổi chính quyền đều phải diễn ra qua bạo lực và đổ vỡ chứ không thể diễn ra một cách hòa bình. Đảng cộng sản Việt nam khi chủ trương chống diễn biến hòa bình đã chỉ lập lại một tâm lý bạo lực đã sẵn có trong văn hóa Khổng Giáo. Dĩ nhiên thơng tật nặng nề nhất trong tâm lý Trung Quốc và Việt nam vẫn là tâm lý tôi đòi, nhẫn nhục trước độc tài chuyên chế. Như đã nói, chúng ta thừa hưởng tâm lý đó từ nền văn hóa phù sa. Khổng Tử chịu ảnh hưởng nặng nề của tâm lý đó, đưa nó lên hàng một đạo lý. Đến lượt Khổng Tử cũng được tôn lên hàng thánh nhân và một mẫu mực. Mấy chục thế kỷ chuyên chế của quân quyền về mặt chính trị và của Khổng Giáo về mặt tư tưng đã biến tâm lý chấp nhận bạo quyền thành một bản năng; ta có thể là nạn nhân của một chế độ chuyên chính và chống lại chuyên chính ấy, nhưng nếu thành công ta sẽ áp đặt một thứ chuyên chnh khác. Ta chưa dứt khoát được tư tưởng bởi vì, do di sản Khổng Giáo, ta vẫn còn mang mầm độc tài chuyên chính ngay trong lòng mình.

Chương thứ :56 "

Tôi không dùng hai chữ Việt Nho cùng một nghĩa với linh mục Kim Định. Theo linh mục Kim Định thì đạo Nho nguyên là đạo của người Việt, người Trung Quốc chỉ đã học được của người Việt do đó coi đạo Nho là đạo của người Trung Quốc là một sai lầm. Có nhiều lý do khiến tôi không chia sẻ quan điểm đó. ở đây tôi dùng chữ Việt Nho để chỉ Khổng Giáo tại Việt nam, nghĩa là Khổng Giáo du nhập từ bên Trung Quốc sang, được tiếp thu và thể hiện tại Việt nam. Những ai đã bối rối khi đặt vấn đề Nho nào, Hán Nho, Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho hay Thanh Nho sẽ còn phải bối rối nữa vì còn có thêm Việt Nho, cũng khác các thứ Nho kia. Khác với Khổng Giáo Trung Quốc, Khổng Giáo Việt nam không xuất hiện một cách tự nhiên và dần dần chín muồi với thời gian. Nó đã được h thống cai trị đem đến và áp đặt như một dụng cụ cai trị. Triệu Đà chiếm được nước Âu Lạc của Thục An Dương Vương, sát nhập vào với hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây mà lập ra nước Nam Việt vào cuối đời nhà Tàn, đầu đời nhà Hán và đem Khổng Giáo, tức là hệ thống cai trị của hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, vào Việt nam. Sau khi nhà Triệu bị diệt thì Việt nam trở thành một phần đất chiếm đóng của Trung Quốc. Không hề thấy sử sách ghi lại một cố gắng khai mở nào về mặt văn hóa. Như thế phải hiểu rằng Khổng Giáo trong những thế kỷ đầu sau khi được du nhập vào Việt nam chỉ thuần túy là văn hóa của kẻ chiếm đóng và cùng lắm là của một số những người có danh phận hợp tác với chính quyền mà thôi. Phải mãi tới thời Tam Quốc, thế kỷ thứ 3 sau Tây lịch mới có Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp mở mang việc học. Trước đó, thời Đông Hán, sách sử có ghi ba người là Lý Tiến, Lý Cầm và Trương Trọng đậu khoa hiu liêm, nhưng rất có thể là họ đậu từ bên Tàu rồi được cử sang làm quan hoặc chính họ là con quan cai trị người Tàu. Nói chung, dân bản xứ không được huấn luỵện Khổng Giáo.

Như vậy phải nhận diện hai yếu tố: Một là trong bốn thế kỷ đầu của Bắc thuộc người Trung Hoa không có ý định giáo dục để đồng hóa người Việt thành người Trung Hoa, họ sang Việt nam để thống trị và khai thác mà thôi, và Khổng Giáo chỉ thể hiện qua bộ máy thống trị. Hai là khi Khổng Giáo bắt đầu đưc phổ biến tại Việt nam thì cái hào quang của mùa xuân tư tưởng Xuân Thu Chiến Quốc đã qua rồi. Khổng Giáo đã thành Hán Nho, tức là thứ Nho Giáo đã xuống cấp, đã bị tước bỏ hết mọi tinh hoa của các Mặc Tử, Tuân Tử, Hàn Phi... Để chỉ còn là một thứ Nho Giáo thui chột. Cả hai yếu tố đều quan trọng khi nhận định về Nho Giáo ở Việt nam.

Chính sách ngu dân của người Trung Quốc rất rõ rt. Trong hơn một ngàn năm đô hộ không có dấu tích lăng miếu nào của Khổng Giáo cả. Mãi tới đời nhà Lý khi nước ta đã độc lập, các vua Việt nam mới bắt đầu xây Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử và 72 môn đệ của Khổng Tử. Nho học mới bắt đầu thực sự phát triển từ đó đến khi nhà Minh diệt được nhà Hồ, vua Minh Thành Tổ ra lệnh cho các quan cai trị phải tịch thu và tiêu hủy tất cả nhng cuốn sách bằng chữ Nho của người Việt nam. ít lâu sau hình như thấy lệnh này không được thi hành triệt để, Minh Thành Tổ lại xuống chỉ nhắc lại một lần nữa. Nhà Minh tịch thu sách chữ Nho mà không tịch thu sách chữ Nôm vì họ nghĩ rằng Nho Giáo là tinh hoa của họ, họ sợ người Việt học chữ Nho sẽ trở nên hùng mạnh và thành mối nguy cho họ. Sử nước ta hay có thói quen cho rằng người Trung Quốc cố gắng đồng hóa để sát nhập Việt nam, nhưng xét theo những việc họ làm thì chỉ thấy họ muốn thống trị Việt nam để vơ vét mà thôi chứ không muốn người Việt nam trở thành ging như người Tàu. Sự bành trướng của Trung Quốc có chỗ nghịch lý là chính người Trung Quốc hình như không muốn bành trướng, họ xây Vạn Lý Trường Thành để ngăn chặn các sắc dân phía Bắc. Những mở mang đất đai quan trọng của Trung Quốc như sát nhập nước Kim, Mông Cỗ và Mãn Châu đều do chính những sắc dân này chinh phục được và sát phạt Trung Quốc rồi vì dân số ít mà bị đồng hóa. Có l nước ta còn đến ngày nay là vì chúng ta chưa hề thắng và thống trị Trung Quốc.

Tóm lại, Nho Giáo Việt nam là thứ Nho Giáo cấp thấp được người Việt nam tiếp thu một cách muộn màng và sùng bái mà không có đóng góp nào. Cố gắng Hán hóa Việt nam quan trọng nhất đã diễn ra dưới hai triều đại Lý, Trần rồi tiếp tục dưới mọi triều đại kế tiếp. Trí thức Việt nam thường hay lên án âm mưu đồng hóa của Trung Quốc, nhưng nếu họ bình tĩnh mà nhìn vào lịch sử nước ta họ sẽ thấy cố gắng đồng hóa trước hết đến từ các vua chúa Việt nam. Cũng may là cố gắng này không thành công, những người Việt nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của Khổng Giáo dưới dạng sơ đẳng và cằn cỗi nhất. Chính vì vậy mà văn hóa của Việt nam thp kém và bất dung hơn Trung Quốc.

Nho Giáo đã chỉ phát triển sau một thời gian rất dài trong đó Phạt Giáo được tự do bành trướng. Nhờ ảnh hưởng của Phật Giáo mà mới đầu Nho Giáo dưới thời L có phần nhân bản hơn Trung Quốc. Chỉ từ thời Hậu Lê trở đi khi Phật Giáo đã suy vị, Việt nam mới theo hẳn một hệ thống chính trị Nho Giáo khác nghiệt.

Một số tác giả hay nói tới một đặc tnh của văn hóa Việt nam là tam giáo đồng nguyên, ý nói sự sống chung hài hòa giữa Phật Giáo, Nho Giáo và Lão Giáo. Nhưng tam giáo đồng nguyên là một cụm từ của Trung Quốc rất vô nghĩa và cũng rất sai trong bối cảnh Việt nam. Phật Giáo đã phát triển trước Nho Giáo rất lâu, Nho Giáo phát triển được không bao lâu thì quay ra hạ bệ Phật Giáo ngay, không làm gì có sự chung sống hài hòa. Còn ảnh hưởng của đạo Lão tại Việt nam thì không đáng kể, người Việt hình như không hiểu gì về triết lý Lão Tử, chỉ tiếp thu một vài yếu tố hời hợt và mau chóng hội nhập chúng vào những mê tín đồng bóng.

Một yếu tố quan trọng khác của văn hóa Việt nam là đặc tính văn hóa phù sa rất mãnh liệt. Huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ để ra trăm con, một nửa theo mẹ lên núi, một nửa theo cha xuống biển là ở thời Xuân Thu Chiến Quốc. Tại sao lại xuống biển? Có lẽ phải hiểu là xuống vùng đồng bằng sông Hồng, lúc đó còn ngập nước sông vào mùa lũ, như vậy là lúc đó con đê sông Hồng chưa có và mới chỉ được đắp lên sau đó. Đê sông Hồng chỉ bắt đầu đáp lên sớm nhất là dưới thời nhà Triệu và được các quan cai trị người Tàu đốc thúc xây dựng tiếp. Hiện tượng này có tầm quan trọng đặc biệt. Người Trung Quốc đã phải mất ba bốn ngàn năm để ồn định việc đê điều trên hai con sông Hoàng Hà và Dương Tử. Chúng ta có lẽ là nền văn minh phù sa muộn nhất. Tổ tiên ta vốn đã ít người mà lại phải thực hiện trong khoảng thời gian một ngàn năm công việc mà các dân tộc khác đã thực hiện trong ba, bốn ngàn năm, sự tàn bạo mà họ phải chịu đựng đã gấp ba bốn lần. Mọi xã hội phù sa đều chật vật và hệ lụy nặng nề với nước và đất, nhưng tổ tiên ta chắc chắn đã khổ cực với nước và đất hơn nhiều, họ đã phải trả những giá vô cùng đắt cho việc hình thành đồng bằng sông Hồng, đến nỗi nước và đất là tất cả đối với họ.

Quốc gia nào thành lập trên lưu vực của những con sông lớn cũng đều mang nặng dấu ấn của nền văn minh phù sa: cần cù, nhẫn nại, nhưng thủ cựu, thiếu sáng kiến v thiếu óc mạo hiểm. Chúng ta còn mang nặng đặc tính văn minh phù sa hơn những xã hội khác, những ưu và khuyết điểm đó còn hiện diện mạnh mẽ hơn trong tâm lý và văn hóa của chúng ta.

Một nét đậm khác là chúng ta là một dân tộ bị nô lệ quá lâu. Chúng ta nô lệ người Trung Quốc hơn mười thế kỷ. Các chế độ độc lập sau đó cũng đã rập khuôn theo guồng máy thống trị của người Trung Quốc. Việt nam tuy có độc lập nhưng thân phận của người trong nước không thay đổi là bao. Niềm an ủi duy nhất, và không phải không có tầm quan trọng, là được thấy các vua quan cũng giống mình và nói cùng ngôn ngữ với mình. Một cách trớ trêu có lẽ thời Pháp thuộc lại là thời dân ta được tự do suy nghĩ và phát biểu nhất, ngoại trừ một khoảng thời gian ngắn ngủi tại miền Nam Việt nam. Lch sử chật vật đó đã để lại những dấu ấn rất đậm trong văn hóa, trong cách suy nghĩ và hành động của chúng ta. Bản chất nô lệ vẫn chưa rời hẳn chúng ta. Nói ra như vậy có thể làm phiền lòng một số độc giả, chính tôi cũng rất phiền lòng, nhưng di sản của ta thế nào thì ta phải nhận thế ấy. Ta cần biết mình là ai để biết mình có thể làm gì và phải làm gì. Vả lại ta không nên quan niệm đất nước chỉ là lịch sử và địa lý. Đất nước trước hết là một dự án tương lai chung. Nếu từ những di sản không mấy thuận lợi này mà ta xây dựng được đất nước đáng tự hào thì cuc sống của chúng ta lại càng có ý nghĩa.

Chương thứ :57 "

Ông Bùi Tín sinh ra trong một gia đình Nho Giáo truyền thống. Thân sinh ông là Bùi Bằng Đoàn, làm thượng thư (bộ trưởng) trong triều đình Huế. Cách mạng tháng 8 bùng ra lúc cậu Bùi Đường ấm, sau này đổi tên là Bùi Tín, mới vừa 19 tuổi. Ông Bùi Bằng Đoàn, nổi tiếng thanh liêm và học giỏi, trở thành chủ tịch quốc hội đầu tiên của chế độ Việt nam Dân Ch Cộng Hòa, một chức vụ hữu danh vô thực. Ông Bùi Bằng Đoàn chỉ ở đó để đem lại cho chính phủ Hồ Chí Minh một bộ mặt tri thức và đoàn kết dân tộc. Ông Bùi Bằng Đoàn tham gia chính quyền Việt Minh vì sợ hơn là vì nhiệt tình. Ông Phạm Quỳnh, thủ tướng Nam Triều, đã bị giết, như nhiều quan chức triều đình Huế khác.

Nhưng nếu ông Bùi Bằng Đoàn chỉ theo Việt Minh vì sợ thì cậu ấm Bùi Tín lại theo vì lý tưởng. Cậu hăng say theo cách mạng mùa thu, đi bộ đội, tham dự nhiều trận đánh, từng bị thương và sau cùng được sử dụng ngay trong sở trưởng của cậu, nghề viết báo. Bùi Tín trở thành đại tá phó tổng biên tập tờ Nhân Dân, cơ quan trung ương của đảng cộng sản Việt nam. Chức vụ này rất lớn, bởi vì tuyên truyền là công tác trọng yếu hàng đầu của chính quyền cộng sản.

Tờ Nhân Dân quan trọng hơn nhiều so với một bộ, nó được tổ chức như một chính phủ trong một chính phủ, với tất cả các ban tương ứng với các bộ: ban quốc phòng, ban quốc tế, ban nông nghiệp, ban công nghiệp, ban văn hóa, xã hội, v. v... Vị thế của Bùi Tín cao hơn một thứ trưởng, vai trò của ông đặc biệt quan trọng. Bùi Tín là thành viên của phái đoàn cộng sản trong hội nghị bốn bên tại Tân Sơn Nhất. Do một sự tình cờ Bùi Tín cũng là người đại diện cho phe cộng sản nhận sự đầu hàng của tướng Dương Văn Minh sáng ngày 30-4- 1975.

Nhưng năm 1990, trong một chuyến công du sang Pháp Bùi Tín lấy quyết định xin tị nạn chính trị. Từ đó Bùi Tín đã viết rất nhiều bài báo, trả lời nhiều cuộc phỏng vấn, tố giác chế độ cng sản và vận động cho dân chủ đa nguyên. Bùi Tín cũng viết một số sách thuật lại những gì mà ông đã thấy trong một cương vị đặc biệt thuận lợi để quan sát chế độ cộng sản từ bên trong.

Trong cuốn Mặt Thật, cuốn sách gây sôi nổi nhất của ông, Bùi Tín mô tả chiến dịch cải cách ruộng đất được chính phủ Hồ Chí Minh phát đng năm 1955, trong đó hàng ngàn, hàng vạn người bị giết oan.

Bùi Tín kể:

Các cố vấn Trung Quốc ngồi ưỡn bụng ra, để chân lên bàn uống rượu Mao Dài, vừa nhổ nước bọt ồn ào, vừa dạy dỗ các học trò dễ bảo Trường Chinh (tổng bí thư đảng cộng sản), Hoàng Quốc Việt (ủy viên bộ chính trị, sau đó là chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc), v v. Về cải cách điền địa. Họ ra lệnh giết bà Nguyễn Thị Năm, người đã từng ủng hộ Việt Minh từ năm 1937, đã từng che chở và nuôi dưỡng chính các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt và có con đang làm chính ủy trung đoàn. Ông Hồ Chí Minh được tin la lên là không thể giết một phụ nữ, một ân nhân cách mạng, một người mẹ của một anh hùng quân đội. Nhưng các cố vấn Trung Quốc bảo là đã quá trễ, mọi việc đã chuẩn bị xong. Ông Hồ Chí Minh im mồm, và bà Năm bị bắn.

Phong cách của ông Ho Chí Minh là thế. Còn các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt thì không biết phải gọi là hạng người gì. Ông Phạm Văn Đồng thấy các bộ trưởng, thứ trưởng của mình bị vu oan, bị thanh trừng, bị bỏ tù, không dám lên tiếng bênh vực Sau khi nghỉ hưu dù đã ngoài tám mươi tuổi, ông còn cố bám ly hư vị cố vấn để giữ lợi lộc. Ông Lê Đức Thọ là một con người nham hiểm, dùng đủ mọi thủ đoạn nhơ bẩn và độc ác để triệt hạ các đồng chí cũ của ông. Ông Lê Duẩn là một thứ ếch ngồi đáy giếng, vừa thiển cận, vừa lỗ mãng, vừa tự cao tự đại.

Các ông tướng Nguyễn Chí Thanh, Chu Huy Mân, Lê Đức Anh, Đoàn Khuê, Lê Khả Phiêu, v.v... đều thiếu văn hóa, nông cạn và cực đoan Riêng ông Nguyễn Chí Thanh thì còn hèn nhát, lúc bị mật thám Pháp bắt đã khai nhiều bí mật gây thiệt hại nặng cho đảng rồi đổ tội cho người đồng chí cùng bị bắt với mình là Đặng Xuân Thiều làm ông này bị trù dập hơn ba mươi năm cho đến lúc về hưu.

Còn ông Đỗ Mười? ông là thợ sửa khóa, nhận thức chính trị sơ sài và lại mắc bệnh tâm thần, ban đêm leo lên cây bàng ngồi ngất ngư.

Ngòi bút Bùi Tín mô tả các lãnh tụ cộng sản một cách tàn nhẫn. Tàn nhẫn vì Bùi Tín chỉ kể lại mà không phê phán. Tay nghề bốn mươi năm cầm bút của Bùi Tín là ở chỗ đó. Mặt Thật là một cun sách hay, một tài liệu lịch sử thành công về diễn đạt và có giá trị văn học. Một cuốn sách cằn đọc. Tôn Thất Thiện trong một lá thư cho tôi nói rằng đọc xong ông phải kinh phục (kinh không có dấu sắc) tác giả.

Nhưng nếu như vậy thì phải đặt ra một số câu hỏi. Tại sao những con người như vậy lại có thể khuất phục được cả một dân tộc? Tại sao hàng ngàn, hàng vạn trí thức lỗi lạc đã phục tùng họ một cách ngoan ngoãn, và còn hết lời tâng bốc họ, làm biết bao nhiêu người khác tưởng họ là những thần tượng và chạy theo họ? Chính Bùi Tín, tác giả cuốn Mặt Thật, trong bao nhiêu năm làm đại tá - nhà văn - nhà báo cũng đã tô son điểm phấn một cách đắc lực cho cái chế độ mà ngày nay ông muốn lột trần bộ mặt thật. Không lẽ trong cả mấy chục năm trường những trí thức xuất sắc như thế lại không nhận ra thực chất tồi tệ của những người lãnh đạo cộng sản? Tại sao họ đã tự lừa dối lương tâm mình và đóng góp lường gạt cả một dân tộc?

Người trí thức cộng sản không thể trả lời được những câu hỏi gay gắt đó, nhưng họ có thể hỏi ngược lại những người chất vấn họ những câu hi không kém nhức nhối. Bởi vì đa số - dù không phải là tất cả những trí thức không cộng sản cũng đã phục tùng những công cụ chẳng ra gì của ngoại bang. Những trí thức quốc gia cũng đã đem hết tâm huyết hô hào biết bao nhiêu thanh niên bỏ mình cho một lý tưởng dân chủ không hề làm bận tâm ông Diệm, ông Nhu, hay cho một chính nghĩa quốc gia không hề có trong đầu óc các ông Big Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu. Nhiều trí thức khác đã tự đặt mình ra ngoài lề lịch sử, tự cắt bỏ khỏi s phận đất nước, đào nhiệm và cầu an.

Cuối cùng đất nước như ngày hôm nay, sau tất cả những gì đã xảy ra. Vai trò của người trí thức Việt nam - cộng sản và không cộng sản - thật là bẽ bàng. Công bình mà nói cũng có những trí thức Việt nam không làm tay sai cho một bè lũ hay một chế độ gian trá nào mà vẫn phấn đấu, vẫn cố hiện diện trong cuộc vận hành của lịch sử. Nhưng họ đã tht bại. Trí thức Việt nam đã thất bại hoàn toàn. Đỗ lỗi cho nhau, luận tội nhau chỉ là để xem ai tồi hơn ai, có ích lợi gì? Hơn nữa, lên án và kết tội nhau còn sai vì nói chung trí thức Việt nam lương thiện, yêu nước và cũng đã hy sinh nhiều. Có một cái gì đó vượt khỏi lô-gích bình thường mà ta cần nhận diện để đừng buộc tội lẫn nhau một cách bất công và vô ích. Có lẽ chúng ta phải tìm giải thích cho sự phá sản này trong lý lịch và trong gia phả của người trí thức Việt nam chúng ta.

Trí thức Việt nam ngày nay là hậu thân của giai cấp sĩ phu ngày trước. Mối liên hệ phụ-tử vẫn còn rất thắm thiết. Kẻ sĩ vẫn còn là mẫu mực của rất nhiều trí thức Việt nam. Ngày nay người ta vẫn còn tự hào là có tư cách của kẻ sĩ, người ta vẫn còn khen nhau là có thái độ của kẻ sĩ.

Nhưng kẻ sĩ là gì nếu không phải là một mẫu người tồi hèn, vong thân?

Chúng ta vẫn còn là kẻ sĩ, và vì thế vẫn còn mang cái tật nguyền này của kẻ sĩ. Vấn đề là như thế. Người ta có thể hấp thụ mau chóng những kiến thức và những kỹ thuật mới, nhưng từ bỏ một tập quán và một tâm tính đã được nhào nặn qua nhiều thế hệ, đã ăn rễ vào con người và đã biến thành một bản năng, là một điều khó gấp nhiều lần. Hãy thử lấy một thí dụ về trọng lượng của tập quán.

- Tại sao người Nhật lại lái xe bên tay trái? Họ có bị người Anh đô hộ bao giờ đâu? Lý do chỉ giản dị là các hiệp sĩ Nhật quen đi bên trái các hành lang để có thể nhanh chóng rút gươm bằng tay mặt!

Nho Giáo không tạo ra kẻ sĩ để làm một con người tự do, dễ chịu trách nhiệm trước xã hội và để lãnh đạo xã hội mà chỉ tạo ra kẻ sĩ để làm dụng cụ cho một guồng máy và làm thủ hạ cho các vua chúa. Trong suốt dòng lịch sử, kẻ sĩ Trung Hoa và Việt nam đều chỉ biết sống với số phận tôi tớ. Sĩ là một nghề, nghề đi học và nghề làm quan. Trước sau là nghề quì. Quì trước mặt thày để học với ước vọng thành đạt đ được quì trước các vua chúa. Nếu quì là thái độ của kẻ sĩ thì chờ đợi là triết lý của kẻ sĩ. Thời gian trưởng thành của kẻ si được gọi là thời chưa gặp (lúc vị ngộ hối tàng nói bong tất), gặp một chủ để thờ. Kẻ sĩ không khởi xướng ra một sự nghiệp nào mà chỉ chờ đợi để được làm bày tôi cho một minh chủ nên hậu quả tất nhiên là kẻ sĩ phải chấp nhận luật chơi sẵn có của kẻ đã làm nên sự nghiệp, đem trí tuệ của mình minh họa cho ý của chủ. Và luật chơi của chủ rất khắc nghiệt. Các vua chúa muốn dùng họ thì dùng, muốn cách chức đuổi đi, muốn căng nọc ra đánh, muốn thiến họ như thiến heo thiến gà, muốn giết họ thì giết, muốn giết cả nhà họ cũng được, kẻ sĩ cam chịu hết. Thân phận kẻ sĩ chẳng có gì vinh, đó chỉ là thân phận của một tôi tớ, một dụng cụ thuộc quyền sử dụng và vứt bỏ tuỳ tiện của các vua chúa. Cái bản chất dụng cụ và tôi tớ ấy ngay cả những kẻ sĩ lỗi lạc nhất cũng không trút bỏ được. Điều kinh ngạc là trong hàng chục thế kỷ kẻ sĩ đã có thể chấp nhận một khuôn mẫu đầy đọa và hạ nhục mình như thế, để rồi cuối cùng sự phục tùng vô điều kiện trở thành một bản năng và một giá trị. Khổng Minh tài ba như thế mà gặp thời nhiễu nhương cũng chỉ biết ngồi trong lều cỏ để chờ một minh chúa.

Nguyễn Trãi là một kẻ sĩ siêu việt cả về văn lẫn võ, lại có cả chí khí hơn người, Lê Lợi là một phú nông cục mịch. Tại sao lại Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần? Tấn thảm kịch còn lớn hơn ở chỗ Lê Lợi không có đủ trí tuệ để viết ra câu đó, chính Nguyễn Trãi đã sáng tác ra câu đó.

Cao Bá Quát là một kẻ sĩ ưu việt và ngang ngược, dám nổi loạn chống lại nhà Nguyễn. Nhưng Cao Bá Quát không lãnh dạo cuộc nổi dậy mà chỉ phò Lê Duy Cự. Giả thử cuộc nổi dậy thành công thì cũng chỉ để đưa đến kết quả Lê Duy Cự vi quân, Cao Bá Quát vi thần . Ngay cả khi kẻ sĩ chống lại một ông chủ thì cũng chỉ để hy vọng được phò một ông chủ khác, họ không sinh ra để làm chủ. Cao Bá Quát thất bại, bị chặt đầu và tru di tam tộc. Nguyễn Trãi thành công, để cũng chỉ được cái vinh dự quì gối trước Lê Lợi, rồi cũng bị chặt đầu và tru di tam tộc.

Trong lịch sử Trung Hoa, những kẻ làm nên nghiệp đế vương, dù là Lưu Bang, Hạng Võ, Lý Thế Dân, Triệu Khuông Dận, Thành Cát Tư Hãn, Chu Nguyễn Chương đều không phải là kẻ sĩ. Họ là hào phú, là các tay anh chị, hay vốn thuộc dòng dõi bá vương. (Tào Tháo là một ngoại lệ, nhưng Tào Tháo bị kẻ sĩ chối bỏ và lên án là gian thần).

Trong lịch sử Việt nam, những kẻ giành được ngôi vua, dù là Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, Lê Lợi, Mạc Đăng Dung, Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn ánh đều là quí tộc, võ tướng hay các tay anh chị chứ không phải là kẻ sĩ. (Hồ Quí Ly là một ngoại lệ, nhưng Hồ Quí Ly hành động như vậy vì tự coi mình là người Hoa hơn là người Việt nên coi thường nề nếp Việt nam; chiếm được ngôi vua, Hồ Quí Ly đã lập tức đổi tên nước là Đại Ngu theo tên cố quốc của mình).

Một thực tế thê thảm như vậy chứng tỏ khuôn mẫu Khổng Nho đã tha hóa kẻ sĩ tới mức nào. Một thực tế bi thảm khác là tất cả những tiến bộ về tư tưởng của Trung Hoa đã chỉ có trước khi Khổng Giáo được đưa lên hàng một quốc giáo. Hơn hai ngàn năm ngự trị của khuôn mẫu Khổng Giáo đã làm tê liệt hẳn óc sáng tạo. Các hậu quả vẫn còn thấy được: nhiều nước châu á, nhờ không chịu ảnh hưởng Khổng Giáo một cách quá nặng nề, ngày nay đã rất phát triển, những người châu á vẫn hầu như vắng mặt trong các giải Nobel, họ vẫn thua xa người phương Tây về óc sáng tạo trong mọi địa hạt.

Trong xã hội Khổng Nho, kẻ sĩ không hội nhập vào xã hội. Lúc hàn vi kẻ sĩ sống qua ngày, đợi cơ hội làm quan. Lúc được làm quan kẻ sĩ trở thành nhưng tay sai không điều kiện cho các vua chúa để thống trị quần chúng. Kẻ sĩ được vua chúa xếp hàng đầu trên nông, công, thương, nhưng thực ra kẻ sĩ bị loại khỏi xã hội. Một điều rất đáng chú ý là trong xã hội ta ngày xưa kẻ sĩ hoàn toàn vắng mặt trong các chức quyền địa phương xuất phát từ dân gian như chánh tổng và lý trưởng, những chức vụ đã có thể là những bàn đạp để tiến lên quyền lc quốc gia. Kẻ sĩ không có hậu thuẫn quần chúng vì sống ngoài lề xã hội. Kẻ sĩ cũng không có tài sản vì không biết và cũng không muốn kinh doanh buôn bán, không những thế kẻ sĩ còn được giáo dục và nhồi nặn để khinh thường và thù ghét hoạt động kinh doanh, buôn bán. Phi thương bất phú, kẻ sĩ không có độc lập về kinh tế cho nên cũng không có thể có tự chủ về chính trị. Tại sao lại Nguyn Trãi vi thần? Bởi vì không muốn vi hành cũng không được. Nguyễn Trãi không có thủ túc và cũng không có tài sản để phất cờ khởi nghĩa. Kẻ sĩ trong khuôn mẫu Khổng Nho là mẫu người lệ thuộc vào vua chúa và cuối cùng chịu ơn vua chúa. Quyền lực quốc gia chỉ truyền tay giữa một bên là các vua chúa và một bên là đám anh hùng áo vải, không người không chịu ơn vua chúa và do đó dám thách thức vua chúa.

Tình trạng vong thân kéo dài từ đời này sang đời khác đã khiến kẻ sĩ mất hẳn lòng tự tin. Tuy bề ngoài có khi kẻ sĩ huênh hoang có giang sơn thì sĩ đã có tên, từ Chu Hán vốn sĩ này là quí (Nguyễn Công Trứ), nhưng trong thâm tâm kẻ sĩ không tin ở mình và cũng không tin ở cả giai cấp sĩ của mình; do đó kẻ sĩ không những không dám có ý định dựng nghiệp mà còn không sẵn sàng giúp một kẻ sĩ khác dựng nghiệp. Kẻ sĩ phải làm bầy tôi, nếu từ chối số phận tôi tớ và dám mơ ước làm vua, kẻ sĩ đã vi phạm đạo lý của giai cấp mình và bị lên án là gian thần, thoán nghịch, phản tặc. Nguyễn Hữu Chỉnh coi thường vua Lê chúa Trịnh bất lực và muốn nắm quyền thì đã sao, mà người ta ln án ông là gian hùng và hả hê khi ông bị bốn ngựa xé xác? Có sử gia nào đủ khách quan để nhận định rằng chính hành động vào Nam liên kết với Tây Sơn của Chỉnh đã mở đầu cho tiến trình thống nhất đất nước?

Luân lý Nho Giáo bắt người có học không được làm chủ mà chỉ được làm tôi cho một ông chủ nào đó, và tệ hơn nữa phải làm tôi suốt đời cho một chủ bởi vì tôi trung không thờ hai chúa. Kẻ sĩ trong quan niệm Nho Giáo là một kẻ nô lệ chứ không phải là một con người tự do. Do bản năng và địa vị xã hội, kẻ sĩ không dám và không thể, và do đó khiếp phục những kẻ dám và có thể. Bài Bình Ngô Đại Cáo hùng tráng vì Nguyễn Trãi viết cho Lê Lợi chứ không viết cho mình, vì lúc viết Nguyễn Trải đã tự đặt mình vào địa vị của Lê Lợi, tưởng tượng mình l vua (Trẫm đây, núi Lam Sơn dấy nghĩa..., một mảnh nhung y dựng nên nghiệp lớn...). Toi nói nhiều về kẻ sĩ như vậy bởi vì cái tâm lý kẻ sĩ vẫn còn hiện diện rất mạnh trong tiềm thức của chúng ta. Di sản nặng nề nhất là triết lý ở ẩn, tránh hiểm nguy và chờ thời. Tâm lý này ngự trị trong đầu óc hầu hết mọi trí thức Việt nam. Nó cũng ngự trị ngay cả trong đầu óc những người có ý chí nhất dám hoạt động chính trị. ở các vị này nó thể hiện qua lối làm chính trị nhân sĩ. Nhưng người trí thức tự cho là mình có một giá trị nào đó - có khi chỉ là do một sự tự đánh giá mình rất chủ quan - thường không chịu tham gia tạo dựng ra một lực lượng chính trị nào và cũng không lên tiếng bênh vực một lập trường nào, ngay cả khi họ thấy là đúng. Họ chỉ muốn là những nhân sĩ đứng ngoài các tổ chức và các cuộc tranh cãi gay go để vừa khỏi tốn công sức vừa khỏi bị cháy. Họ tin rằng một khi họ đã là nhân sĩ thì dù ai nắm được chính quyền cũng vẫn cần họ. Đó là một tính toán mà họ cho là sáng suốt và quả thực là một chọn lựa sáng suốt khi người ta chỉ có tham vọng làm công cụ. Chính cái thái độ nhân sĩ ny, hậu thân của tâm lý kẻ sĩ ngày xưa đã khiến các tổ chức đối lập dân chủ hiện nay không được hưởng ứng và không mạnh lên được trong một giai đoạn đầy thử thách như giai đoạn chúng ta đang sống.

Một di sản khác là sự thiếu quyết tâm. Trí thức Việt nam có nhiều người không thiếu ý kiến nhưng cái quán tính không dám và không thể thừa hưởng từ tâm lý kẻ sĩ do hàng ngàn năm uốn nn này vẫn còn quá manh khiến họ do dự bất quyết, sẵn sàng thỏa hiệp và nhượng bộ trước những giải pháp thô bạo trái ngược với nguyện ước của mình, rồi sau cùng đánh mất chính mình. Nhiều trí thức còn thực sự ngưỡng mộ những tay anh chị bởi vì họ ngưỡng mộ cái liều, cái bạo mà họ không có được. Họ bị hớp hồn trước những người có bản năng mạnh và dám làm, bởi vì đó là mt phần của chính họ mà họ đã mất đi và vẫn tiếc.

Mẫu người kẻ sĩ không phải chỉ còn tồn tại mà còn đang có cơ được hồi sinh. Các chế độ độc tài tại châu á, trong đó có Trung Quốc và Việt nam, đang dụng tâm thiết lập một thứ Khổng Giáo Mới làm chỗ dựa cho các chế độ độc tài ngày nay, như Khổng Giáo Cũ đã từng làm nền tảng cho các chế độ quân chủ chuyên chế ngày xưa. Một âm mưu tha hóa trí thức mới đang xuất hiện. Và lần này kẻ sĩ có một cái tên gọi mới: chuyên viên. Ngay trong lúc này đang có nhiều trí thức Vit nam chủ trương hãy thôi làm chính trị, tạm chấp nhận chế độ này, hợp tác với nó trên các mặt chuyên môn. Họ hy vọng sẽ dần dần dân chủ hóa được chế độ. Nhưng nếu kẻ sĩ ngày trước trong hơn hai ngàn năm không thay đổi được chế độ quân chủ thì trí thức chuyên viên ngày nay dù có bản lĩnh hơn và có bối cảnh thuận lợi hơn cũng không thể thay đổi được chế độ độc tài này trong mt hai thể hệ, nếu họ chỉ là những chuyên viên.

Hãy coi chừng lịch sử lập lại. Tại sao chủ nghĩa cộng sản bị phủ nhận tại Tây Âu, nơi đã khai sinh ra nó, mà lại thành công tại Trung Hoa, Việt nam và Triều Tiên? Tại sao, ngoại trừ hòn đảo Cuba nhỏ bé, chế độ cộng sản chỉ tồn tại được trên ba nước này? Lý do chính là vì chủ nghĩa cộng sản đã xuất hiện hồi đầu thế kỷ này như là một thứ Khổng Giáo Mới. Có gì khác giữa Khổng Giáo và chủ nghĩa Mác Lênin? Cũng đặt nền tảng trên bạo lực, cũng độc tài toàn trị, cũng giáo điều, cũng độc tôn, cũng nhân trị nghĩa là cai trị một cách tùy tiện bất chấp luật pháp, cũng bưng bít, cũng cấm đoán tư tưởng, cũng bài xích các tôn giáo, cũng triệt hạ kinh doanh, cùng đề cao sự nghèo khó để cai trị bằng sự nghèo khổ. Cả hai đều là những hệ thống nửa tôn giáo, nửa chính trị. Cả hai đều đưa đến bế tắc và cả hai đều có cùng một biện hộ sau khi đã thất bại: không phải lý thuyết sai mà là áp dụng sai. Chỉ cần lấy Marx và Anghen đạt vào địa vị của Khổng Tử và Mạnh Tử, lấy các cuốn Tư Bản Luận, Lênin Toàn Tập thay cho Tứ Thư và Ngũ Kinh, lấy Trung ương Đng thay cho Triều Đình, đem các đảng viên thay cho đám quân tử là đâu lại vào đó. Khổng Giáo đã dọn đường cho các chế độ cộng sản. Chỉ có điểm mới là chủ nghĩa cộng sản tâng bốc quần chúng vô sản mà Khổng Giáo mạt sát, dù chỉ là một sự tâng bốc giả dối. Nếu trước đây Khổng Giáo đã dọn đường cho các chế độ cộng sản thì ngày nay những tồn đọng của tư tưởng Khổng Giáo đang giúp các chế độ này kéo dài.

Chương thứ :58 "

Có một sự kiện gần như một định luật trong lịch sử Việt nam là những người dựng nên đế nghiệp thường hay giết hại công thần sau khi đã thành công. Tại sao? Câu trả lời gần như tự động là những người đó gian xảo, bội bạc. Xét cho cùng thì câu trả lời này không đúng.

Những người đã có khả năng qui tụ nhân tài, khiến họ tận tụy và nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử với mình tất nhiên phải có những đức tính đặc biệt. Họ phải là những người có khả năng thu hút, chinh phục lòng tin và sự trung thành bằng cách chứng tỏ tài năng và đức độ. Trừ một vài ngoại lệ rất họa hiếm, họ phải là những người khá tốt và thủy chung. Ngày nay một người tham gia một tổ chức chính trị chỉ kết bạn với lãnh tụ mà thôi, nếu thất vọng có thể bỏ ra đi, nhưng ngày xưa thì khác hẳn. Lãnh tụ không những phải là người lãnh đạo mà còn là minh chủ, một chúa công có quyền trên tính mạng của thuộc hạ. Các nhân tài ngày xưa vì vậy chọn chúa rất thận trọng, họ hỏi han về minh chủ, tới yết kiến minh chủ, quan sát từng thái độ, cử chỉ, lời ăn tiếng nói, có khi xem tướng rồi mới quyết định vì đó là quyết định vô cùng quan trọng đối với họ. Họ khó có thể lầm được. Muốn được họ thờ thường phải là người có đức lớn. Trong vô số những người phất cờ khởi nghĩa chỉ có một người thành công thì người đó phải là người có bản lãnh phi thường, mà bản lãnh lớn nhất là qui tụ, điều động, chinh phục lòng tin. Khó mà có thể giả dối được bởi vì không thể đánh lừa một số người đông đảo trong suốt một thời gian dài tranh đấu cam go.

Vậy mà ông vua nào thành công dựng được nghiệp đế cũng giết hi công thần cả. Như thế việc giết hại công thần phải có một giải thích khác hơn là sự bội bạc. Giải thích đó là sự giết hại công thần là cần thiết trong lô-gích Khổng Giáo.

Khổng Giáo coi quyền của vua là quyền thiêng liêng của trời cho. Quần thần phải phục tùng vô điều kiện, có chết cũng không được thắc mắc. Đã là quyền thiêng liêng thì trời ban cho ai, người đó được. Đã là k sĩ, nghĩa là đã từ bỏ mọi ý định làm chủ để chỉ nuôi giấc mộng làm tôi cho một minh chủ, thì dĩ nhiên phải tự coi là mình không có mệnh trời đó rồi. Hạnh phúc của kẻ sĩ chỉ là được vào chốn cũng đình, thấy mặt long nhan, được chút chức vị và hầu hạ một người được trời trao thiên mệnh. Nhưng những kẻ sĩ giúp một anh hùng lập nghiệp đế thì lại khác. Họ đã được gặp một người dựng nghiệp, nghĩa là còn có mệnh trời hơn hẳn những ông vua khác. Họ đã chia cơm sẻ áo, chen vai sát cánh với kẻ anh hùng đó. Họ đã chứng kiến những sự lo âu, hốt hoảng, những sai lầm và nhát sợ của người anh hùng đó. Họ đã chứng kiến tận mắt và đầy đủ một cuộc lập nghiệp đế vương và đã khám phá ra rằng cuộc dựng nghiệp này chẳng có gì là thần thánh cả. Họ không còn là nhưng kẻ sĩ chân chính nữa. Những công thần đã giúp vua dựng nghiệp cũng phải là những người rất đởm lược, họ dễ nhận ra là ông vua anh hùng nhất cũng không khác họ bao nhiêu. Họ đã nhìn thấy bí quyết dựng nghiệp, họ đã nhận ra sự tương đói của thuyết thiên mệnh và biết đâu họ đã thấy chính họ cũng có thể làm vua. Vì thế họ phải chết.

Kẻ đế vương thực ra cũng không có chọn lựa. Tất cả căn bản quyền lực của ông ta dựa trên sự chính đáng của thiên mệnh, ông ta không thể dung túng những kẻ không còn tin tởng tuyệt đối ở sự huyền bí đó nữa và lại có khả năng ngang tầm với ông ta. Đó không phải chỉ là mối nguy mất ngôi vua mà còn là mói nguy mất mạng và tuyệt giống bởi vì trong hệ thống quân chủ chuyên chế, thiên mệnh đã được trao cho ông ta rồi thì chỉ có cái chết mới có thể tước đoạt, và nhổ cỏ thì phải nhỏ tận gốc. Những công thần có khả năng để dọa ngôi báu hay làm mất đi tính thiêng liêng của nó vì vậy phải bị tiêu diệt.

Nhưng những công thần trung thành tuyệt đối cũng không thể dung túng được, bởi vì họ để dọa trật tự của chế độ quân chủ tuyệt đối trong đó quần thần không hơn những con vật trước mặt nhà vua, vua muốn nọc ra đánh, muốn thiến tùy ý. Những khai quốc công thần không còn là những kẻ sĩ chân chính nữa vì họ đã quá quen với vua, đối xử với họ như vậy không khỏi mang tiếng tệ bạc, mà không đối xử như vậy thì không còn kỷ cương triều đình. Họ là những cái gai phải nhổ để trật tự vua tôi được trở lại bình thường.

Mi liên hệ vua tôi, cốt cán của tư tưởng chính trị Khổng Giáo, đưa tới hai hậu quả.

Một là, kẻ sĩ, tinh hoa của xã hội, mất hết nhân cách, xã hội vì thế lẫn quẩn trong sự thui chột và hèn kém.

Hai là, các cuộc khủng hoảng xã hội rất khó có lối thoát. Kẻ sĩ chân chính không phải là người khởi nghiệp. Triết lý của họ là lúc khó khăn thì lánh mặt. Chỉ có một số rất ít có chí khí để tham gia tranh đấu trong thời ly loạn mà thôi. Những kẻ này phải chọn minh chủ thật kỹ. Trước hết minh chủ phải là người có chân mạng đế vương, nếu không thì theo ông ta chỉ uổng mạng mà thôi, sau đó minh chủ lại phải là người thật trung hậu, nếu không thì khi thành công mạng mình cũng toi mạng về tay ông ta. Lịch sử Trung Quốc không thiếu những chuyện những người giúp chủ dựng nghiệp, lúc thành công thì vội vã cao bay xa chạy. Kết quả là ít ai nhập cuộc, những loạn lạc thường kéo dài rất lâu, những kẻ có gan dạ dấn thân đã rất ít mà trong số này, những người tìm được minh chủ lại càng khó. Và những người dám đứng lên khởi xướng thì lại không thể kết hợp được với nhau, bởi vì không ai dám nhường ngôi minh chủ cho người khác, nhường ngôi minh chủ là nhường tất cả chứ không có thoả hiệp nào. Với thời gian chọn đúng chúa mà thờ trở thành một lo âu làm tê liệt những kẻ sĩ hiếm hoi có ý định cứu đời. Trong đa số trường hợp đưa họ trở lại sự thụ động cố hữu.

Ngày nay triết lý thiên mệnh của Khổng Giáo đã đi vào quá khứ, ít ai còn tin có nhưng kẻ có thiên mạng đế vương nữa. Nhưng cái tâm lý chọn minh chủ vẫn còn tồn tại, và bởi vì nó là một tâm lý, nó nấp kín trong thâm sâu của chúng ta, nó chi phối hành động của chúng ta mt cách bí mật đến nỗi chính chúng ta không thấy. Hai câu chuyện sau đây chứng tỏ cái tâm lý mà ta tưởng như đã hoàn toàn biến mất thực ra vẫn còn lảng vảng đâu đây. Tôi kể ra chỉ để độc gi thấy rằng đoạn tuyệt với một văn hóa là một điều rất khó.

Cách đây không lâu, một lãnh tụ của một tổ chức chính trị có lúc gây được tiếng vang đã có nhã ý đến thăm tôi. Tôi hỏi anh lý do nào có thể khiến một người tham gia tổ chức của anh. Anh đắn đo rồi trả lời bởi vì người ta ngưỡng mộ một lãnh tụ như anh. Đó là một thanh niên hoàn toàn được đào tạo tại một nước tn tiến.

Tôi cũng biết hai người khoa bảng khác được đào tạo tại phương Tây. Không những chỉ có bằng cấp lớn mà họ còn thực sự có khả năng và bản lãnh lớn, tôi rất ngưỡng mộ họ. Câu chuyện của họ lại có liên quan tới chính tôi. Chúng tôi đã sát cánh cùng nhau tranh đấu cho dân chủ trong một thời gian. Có cố gắng dài hơi nào mà không có lúc đem tới sự mệt mỏi và nghi hoặc? Một hôm tôi được họ mời đi ăn tối cùng với một người lạ mặt mà sau này tôi được biết là một nhà tướng số nổi tiếng. Chúng tôi nói chuyện vui vẻ, nhà tướng số kia đặt nhiều câu hỏi về tôi. ít lâu sau cả hai bạn tôi tuyên bố ngưng hoạt động. Mãi về sau tôi mới hiểu là tất cả do bữa cơm tối đó. Họ đã nhờ nhà tướng số kia cho biết về tôi và kết luận của vị này là tôi không có tướng của một minh chủ.

Tôi rất buồn vì mất hai bạn đồng hành hiếm có, nhưng tôi rất kính trọng họ, họ là những trí thức hiếm hoi còn có ý định dấn thân, và thực sự đã vất vả với tôi trong một thời gian. Tôi chỉ giận cái tâm lý kẻ sĩ của Khổng Giáo không chịu cút hẳn khỏi tâm hồn người Việt. Tôi cũng không giận ông thày tướng kia vì thực ra ông ta nói đúng: thời này làm gì còn minh chủ, chỉ có những kẻ khùng mới nuôi mộng làm minh chủ mà thôi. Tôi chỉ muốn góp phần nhỏ bé của mình cho thắng lợi dân chủ mà thôi. Vậy mà cũng gian truân.

Chương thứ :59 "

Chương Mặt Thật Của Ai? mà quí vị vừa đọc phần lớn lấy từ một bài báo cùng để tựa mà tôi đã gởi đăng báo Ngày Nay (Houston, Hoa Kỳ). Bài báo này đã gây cho tôi khá nhiều vấn đề. Trước hết là ngay trong nội bộ nhóm Thông Luận. Mới đầu tôi định đăng báo Thông Luận, tôi không ngờ gặp phải những phản ứng rất mạnh của những người bạn mà tôi đưa đọc trước. Họ sợ một bài báo như thế sẽ đem lại cho nhóm Thông Luận nhưng thù ghét mới. Thấy rằng nếu đăng báo Thông Luận có thể sẽ gây sứt mẻ đáng tiếc, tôi gởi đăng báo Ngày nay, rồi lại gặp một vấn đề khác. Một anh bạn đọc xong, nỗi giận nói rằng một bài đặc sắc như vậy sao không đăng báo mình mà lại đem đăng báo khác. Bài đăng trên báo Ngày Nay cũng làm tôi vất vả.

Một loạt bài phản bác dữ dội được tung ra ngay sau đó. Một vị ở Houston, mà sau này tôi được biết là có kiến thức khoa học, cho rằng bài đó là một xúc phạm lớn đối vi tổ tiên; Nguyễn Gia Kiểng là tác giả bài đó thì là chính phạm, nhưng báo Ngày Nay đã đăng bài đó thì cũng là tòng phạm. (chính phạm và đồng phạm là những tiếng được dùng trong bài). Nếu có quyền, chắc chắn các vị này đã lôi cổ tôi ra tòa và tặng cho vài cuốn lịch rồi. Cả tác giả bài đ kích này lẫn tờ báo đăng nó đều đang nỗ lực tranh đấu lên án cộng sản chuyên chính giáo điều, chà đạp tự do ngôn luận và báo chí.

Một nhân sĩ nhân đọc bài báo của tôi trên Ngày Nay, cảm hứng viết một bài góp ý, với tựa để là Nghe Quì , đóng góp thêm một số ý kiến cá nhân đồng thời phê phán một số nhân vật. Thế là tôi lại lãnh một bài đánh khác, mà lần này đánh oan vì những ý kiến làm tác giả bài đánh này nỗi giận không phải là của tôi mà là của vị nhân sĩ kia. Quá giận, tác giả lôi cả thân thế tôi ra phê phán và kết luận tôi là hạng người vô liêm sỉ. Cũng may lc đó tôi có chút thời giờ rảnh rỗi nên đã gởi nguyên văn bài của mình cho tác giả. Ông này tỏ ra rất đứng đắn vì sau đó, khi đã biết có sự hiểu lầm, ông viết cho tôi một lá thư ngắn với li lẽ thân thiện và cho đăng một bài cải chính trên ngay tờ báo đã đăng bài đánh tôi. Đó là lần duy nhất tôi thấy một người đánh oan một ngời khác đã giải oan cho người đó. Bình thường thôi đánh cũng là phúc lắm rồi.

Một lần chúng tôi gặp một sự cố trong một buổi họp Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận. Bình thường thì những bui họp của Câu Lạc bộ là sự gặp gỡ thân thiện của những người có cảm tình với nhau dù cùng hay không cùng chính kiến. Khi thành lập, chính tôi đề nghị đặt tên là Câu Lạc Bộ Độc Giả Thông Lun nhưng đề nghị của tôi bị phản bác, một vị đã đề nghị thay Độc Giả bằng Thân Hữu với lập luận rằng ai muốn là độc giả chẳng được, nhưng muốn gặp nhau thảo luận thì phải có tinh thần thân hữu, thân hữu không có nghĩa là đồng ý mà chỉ là thái độ thân thiện, tương kính. Tôi vẫn thấy hai chữ Thân Hữu có vẻ giới hạn quá. Biểu quyết, và tôi thua. Kết quả là Câu Lạc Bộ Thân Hu Thông Luận ra đời với mục đích là lâu lâu gặp nhau một lần để thảo luận trong tinh thần không có ý kiến nào cấm nêu ra, không có đề tài nào cấm bàn đến.

Trớ trêu thay hôm xảy ra vụ lộn xộn đó, thuyết trình viên lại chính là người đề nghị thay độc giả bằng thân hữu. Việc ông được chọn để dẫn nhập buổi gặp gỡ đó đã được quyết định từ mấy tháng trước, nhưng trong khoảng thời gian đó ông trở thành tổng thư ký của một tổ chức mới, tuy vừa thành lập nhưng có sức mạnh vì chỉ là mặt ngoài của một tổ chức đã có từ lâu và có rất nhiều phương tiện. Chức vụ mới đó đã khiến ông không còn thân hữu với chúng tôi nữa và ông đem đến cả một lực lượng hùng hậu. Buổi họp biến thành một tòa án nhân dân xử nhóm Thông Luận. Lực lượng này nhao nhao lên, bất chấp chủ tọa, muốn nói là nói, nói gì cũng được vì họ sẵn sàng ẩu đả và hình như chỉ đợi cơ hội để ẩu đả. Chúng tôi cố nhịn nhc cho qua. Rồi buổi họp cũng xong, nhưng một thanh niên xấn lại phía tôi, chỉ tay vào mặt tôi mà nói: Anh là đồ ngây thơ ấu trĩ, anh không hiểu gì về cộng sản cả.

Tôi biết lúc đó không phải là lc để thảo luận với anh ta. Tôi cũng không giận anh ta, từ đầu buổi họp tôi nhận xét anh ta là một trong những người ôn hòa nhất của lực lượng này. Dáng dấp anh ta cũng khá trí thức, đôi mắt thông minh và hiền lành. Vả lại anh ta cũng khá khoan dung đối với chúng tôi: chúng tôi chỉ ngây thơ ấu trĩ và không biết gì về cộng sản chứ không phải là những tên phản bội, những tay sai cộng sản như các bạn anh ta nói sang sảng trong suốt buổi họp. Anh ta trạc độ ba mươi tuổi.

à, nếu tôi có thể ngây thơ ấu trĩ được thì diễm phúc biết bao nhiêu? Tiếc quá, lúc đó tôi đã gần năm mươi tuổi ri mà chưa làm được gì ra hồn, cuộc đời cũng chẳng có gì vui, đã nhiều thất vọng và mất mát. Muốn ngây thơ cũng không được nữa.

Không biết gì về cộng sản? Tôi biết không nhiều nhưng cũng biết chút đỉnh. Lớn lên ở vùng quê do cộng sản kiềm soát, cha bỏ trốn, chú bác bị giết, mẹ dắt ra hầu tòa án nhân dân từ thời năm tuổi. Lớn lên chống cộng từ thời sinh viên, chống cộng trong hàng ngũ Việt nam Cộng Hòa, đi tù cộng sản, làm viên chức cộng sản, làm dân cộng sản, sống ngoài vòng pháp luật dưới chế độ cộng sản, rồi ra hải ngoại chống cộng sản. Có thể nói tôi là một trong những người có cơ hội quan sát cộng sản dưới mọi gốc nhìn và cọ sát với cộng sản trên nhiều cương vị. Anh thanh niên kia chắc có thân nhân bị đi tù cải tạo, gia đình có thể đã bị tịch thu tài sản và đã gian lao tìm cách vượt biên, như thế là đủ để anh ấy nghĩ mình biết rõ cộng sản đủ tư cách để coi những người không coi cộng sản như quỉ ma, thể dữ là không biết gì về cộng sản.

Thái độ của anh ta không làm tôi ngạc nhiên chút nào, bởi đó là thái độ tự nhiên của con người trong văn hóa Khổng Mạnh, một văn hóa được lưu truyền qua cuộc sống, từ đời này qua đời khác trải mấy nghìn năm, mà người ta tiếp thu một cách tự nhiên và vô tình. Văn hóa Khổng Mạnh là thứ văn hóa xác quyết, bất cần chứng minh. Ông Khổng Khâu, ông Mạnh Kha và tất cả các danh nho qua các thời đại chỉ khẳng định một cách chắc nịch thôi chứ có bao giờ cần chứng minh cái gì đâu. Ông Khổng Khâu nói người có hiếu thì cha chết ba năm không được thay đổi nếp sống gia đình do cha để lại, người ngay thẳng thì cha có đi ăn trộm cũng phải bao che, nhưng ông không hề bận tâm giải thích tại sao. Các ông thánh hiền kế tiếp nói rằng đã là đàn bà đức hạnh thì phải phục tòng cả cha, lẫn chồng, lẫn con cũng có cần biện luận gì đâu. Văn hóa của chúng ta là cái. Văn hóa trong đó mình cứ ném bừa chân lý của mình vào mặt người khác mà không cần suy nghĩ xem đó có phải là những chân lý thực không.

Văn hóa Khổng Mạnh là văn hóa phủ nhận kiến thức. Người ta không cần nghiên cứu, tìm hiểu, miễn là cứ thấy phải đạo là có thể tự tin và tự hào được rồi. Tất cả các cun Tứ Thư, Ngũ Kinh nếu gộp chung lại tất cả và in thành một cuốn sách thì cũng chỉ vài trăm trang thôi, nghĩa là chỉ bằng một nửa cuốn sách mà các vị đang cầm trong tay thôi. Một người bình thường có thể học một tuần lễ là xong, thế mà các sĩ tử cứ nhai đi nhai lại trong mấy ngàn năm thì hỏi kiến thức có cái gì đáng kể? Ông Phần Khôi là một nhà nho xuất chúng, ông đi học chữ quốc ngữ tới trình độ tiểu học và quả quyết là đã học hỏi được nhiều hơn hẳn so với thời kỳ học chữ nho. Với thời gian, cả một xã hội học thói quen nói và làm mà không cần một kiến thức nào cả. Thái độ này tạo ra một niềm tin thầm kín rằng mọi người như nhau, chẳng ai biết gì hơn ai. Người ta có thể nói với bất cứ ai anh không biết gì cả, bởi vì thực ra trong tiềm thức người ta đang ni về chính mình.

Không những không trọng kiến thức, mà người ta còn bài bác việc mở mang kiến thức, bởi vì văn hóa Khổng Mạnh chống lại điều mới, nghĩa là chống lại sự tìm hiểu. Khổng Tử ni: Bỏ công ra học điều lạ chỉ có hại (Công hồ dị đoan, tư hại đã dĩ). Những lời vàng ngọc đó trải đời này qua đời khác tạo ra tâm lý coi điều khác lạ là xấu là dở, là sai. Trong ngôn ngữ Trung Quốc mà ta du nhập, chữ dị, nghĩa là khác, đồng nghĩa với xằng bậy. Dị đoan theo nghĩa chiết tự của nó chỉ có nghĩa là điều lạ thôi, nhưng tập quán và thời gian đã biến nó thành nhảm nhí. Lp dị, quái dị, dị nghị, dị hợm đều mang nghĩa xấu cả. Về điểm này đôi khi tôi thấy vui lòng là người Việt nam còn giữ được chữ khác với nghĩa khách quan. Không những bài bác điều mới, văn hóa Khổng Mạnh còn hung bạo với điều mới. Khổng Tử lên làm tướng quốc nước Lỗ thì lập tức giết thiếu chính Mão. Chẳng thấy ông Mão có tội cụ thể nào ngoài tội có tài biện luận và lung lạc người khác. Những ai lên án đảng cộng sản đàn áp những người phát biểu ý kiến ngược lại với đảng nên suy nghĩ lại chuyện này. Nho sĩ theo gương bậc vạn thế sư biểư này đã để xướng lên c một bổn phận đạo đức: vệ đạo. Vệ đạo là chủ trương bảo vệ toàn bộ các giá trị Khổng Giáo bằng cách đánh phá gay gắt và tiêu diệt bằng bạo lực những kẻ dám đi ra ngoài khuôn mẫu có sẵn. Khổng Khâu và các môn đệ, hậu bối của ông, cũng khuyến khích sự tìm tòi, khảo cứu nhưng với điều kiện là đó chỉ là những tìm tòi phải đạo, với mục đích minh họa những ý đã có sẵn, tương tự như đảng cộng sản kêu gọi sáng tạo với điều kiện là sáng tạo trong đường lối do đảng vạch ra, trong khuôn khổ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Cái chủ trương vệ đạo đó đã làm thui chột cả trí tuệ á Đông và đã dẫn ra pháp trường vô số những người có trí tuệ, đáng lẽ đã có thể cống hiến những đóng góp quí báu. Tôi không thù ghét những người đã đả kích tôi một cách gay gắt, đòi lên án, đòi phải có thái độ, đòi hành hung (kể cả đả thương thực sự) bởi vì đó chỉ là di sản văn hóa của cái tâm lý vệ đạo đã mọc rễ vào tâm hồn chúng ta ngay cả khi chúng ta không ý thức được. Viết một cuốn sách hay về dân chủ không khó bằng không nổi giận khi có người phát biểu ngược ý minh vì một đằng là kiến thức, một đằng là tâm lý. Kiến thức dễ tiếp thu và cũng dễ thay đổi; tâm lý, trái lại, là cái mà chúng ta không ý thức được và do đó không cảnh giác.

Những phản ứng giận dữ đối với một số bài viết về văn hóa và lịch sử của tôi còn xuất phát từ một di sản khác của Khổng Giáo, đó là tâm lý tôn sùng người xưa. Quí trọng tổ tiên là một tình cảm tự nhiên và cũng là một phần của trí thông minh của loài người. Nó cho phép loài người nối dài cuộc sống trí tuệ của mình tới một thời xa xưa, hiểu được cuộc hành trình đã dẫn tới ngày hôm nay, và cũng ý thức được những điều nên làm cho tương lai. Lòng quí trọng người xưa biến cuộc sống thành liên tục và vĩnh cửu, sinh và tử chỉ là nhưng chốc lát trong cuộc sống liên tục và không ngừng biến đồi của loài người. Quan sát việc làm của người xưa ta rút ra được những kinh nghiệm để xây dựng ngày mai, ta học được những cái đúng của họ, va ta rút nhiều kinh nghiệm quí bu hơn ở những sai lầm của họ. Nhưng sự tôn sùng người xưa của Khổng Giáo không phải như vậy. Nó là một sự tôn sùng bệnh hoạn, coi người xưa là hơn ngày nay, coi người xưa là hoàn toàn đúng, chúng ta chỉ cằn lập lại là đủ. Khổng Tử chủ trương cứ học người xưa là biết việc ngày nay (ôn cố tri tân). Nhan Uyên hỏi ông về việc trị nước, Khổng Tử trả lời: Cứ theo lịch nhà Hạ, đội mũ nhà Chu, dùng nhạc của vua Thuấn, Các nho sĩ sau này còn đề cao hơn nữa cái tinh thần sùng bái và bắt chước tổ tiên đó, và người được đề cao làm mẫu mực hơn cả lại chính là Khổng Tử. Ngay cả những câu nói rất tầm thường, và tầm bậy, của ông như cha con phải giấu tội cho nhau, nước loạn thì chớ ở lại cũng được đưa lên hàng đạo lý. Chính Khổng Tử khi nói những câu này cũng không thể ngờ rằng có ngày chúng sẽ được coi là nhưng khuôn vàng thước ngọc. Ông thủ cựu và kêu gọi th cựu, nhưng đó chỉ là những ý kiến thôi, chính các triều đại về sau mới biến nhưng ý kiến của ông thành chân lý bất di bất dịch. Cá nhân Khổng Tử nhiều lần dạy đệ tử không nên phò những vua chúa bất nghĩa, nhưng chính ông cũng hai lần định làm gia nhân cho những kẻ phản bội. Như vậy Khổng Tử tuy thủ cựu nhưng không cứng chác như người ta tưởng. Như đã nói, khi phê phán Khổng Giáo, ta không nên qui trách hết cho Khổng Tử.

Mặc Tử, nhà tư tưởng vĩ đại nhất của Trung Quốc, đã nhiều lần lên án tâm lý rập khuôn theo người trước. Nếu Mặc Tử, thay vì Khổng Tử, được ly làm mẫu mực thì Trung Quốc đã không thua kém như ngày nay. Mặc Tử có lý: nếu tất cả mọi thế hệ đều lấy những thế hệ trước làm mẫu mực thì xã hội vẫn còn như thời Phục Hy, Thần Nông, nghĩa là vẫn còn ăn lông ở lỗ.

Tinh thần tôn sùng và rập khuôn theo người xưa hình như vẫn còn nặng làm trong tâm lý trí thức Việt nam. Một người bạn của tôi có hai bằng cấp khoa học rất cao tại Mỹ và Pháp, có lần giảng cho tôi về sự cao siêu huyền bí và tính khoa học của khoa tử vi. Tôi hỏi anh ta tại sao anh không thấy cái nhảm nhí của tử vi, chỉ có năm yếu tố thôi: giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh, nam, nữ mà suy ra tới 108 sao, nghĩa là chỉ có năm phương trình bậc nhất mà có tới 108 ẩn số thì hoặc là hệ thống phương trình đó không có giải đáp chính xác, hoặc là thực ra chỉ có năm ẩn số mà thôi, 103 ẩn số còn lại tự động suy ra từ năm ẩn số chính, nghĩa là vất đi cũng được. Vậy thì khoa tử vi sai ngay từ đầu, nó chỉ là một bài toán ngây ngô do sự kiện trí tuệ chưa được mở mang mà có. Anh ta cự lại: Tử vi không phải là toán?. Tôi còn biết nói gì đây? Toán có là gì đâu, ngoại trừ là một cách lý luận đng? Nếu bảo có những cái không cần đúng thì còn gì để bàn? Tức quá, tôi bảo anh ta thử lấy số tử vi của tôi xem sao. Anh ta bèn bấm đốt ngón tay và quả nhiên tôi thấy chỉ có năm sao, tôi không nh sao nào, là phải căn cứ vào năm dữ kiện ban đầu mà thôi, những sao khác cứ tự nhiên theo năm sao này mà định vị trí, nhưng anh ta vẫn không chịu thua, anh ta kết luận là tôi không hiểu được cái kin thức cao siêu của người xưa. Trình độ toán học của anh ta cao hơn tôi nhiều, nhưng anh ta không thấy được cái sai lầm rành rành ra đó vì anh ta đã sẵn có định kiến là người xưa có lý rồi.

Một anh bạn khác cũng tốt nghiệp kỹ sư tại Mỹ và trước đó nổi tiếng là học sinh tú tài xuất sắc nhất của trường Chu Văn An, lận đận tìm cách vượt biên sau năm 1975. Chúng tôi gặp nhau sau khi đi tù cải tạo về và cùng có ý định là trốn khỏi Việt nam. Mỗi lần tính chuyện vượt biên anh đều xem bói dịch. Anh ta giải thích với tôi là bói dịch rất đúng bởi vì nó do Chu Văn Vương chế ra. Tôi nói Chu Văn Vương là tổ nhà Chu, sống vào thế kỷ 12 trước Tây lịch, lúc loài người còn rất man rợ, có gì là thông thái, chẳng qua đó là niềm tin ngây thơ vào quỉ thần của mọi dân tộc bán khai. Anh ta tiếc cho tôi không hiểu được cái huyền bí của Kinh Dịch, bởi vì thời đó con người còn trong sáng và còn giao cảm được với thần linh. Điều nghịch lý là đã mấy lần anh ấy ra đi sau khi trúng một quẻ tốt và lần nào cũng bỏ của chạy lấy người hoặc bị công an bắt trói phải chuộc mạng nhưng anh ấy vẫn tiếp tục tin Kinh Dịch.

Cả hai anh bạn tôi trên đây lúc bình thường đều là những người rất sáng suốt và chính xác, nhưng mỗi khi gặp quyết định khó khăn với một xác suất rủi ro lớn họ lại quay về với những tín ngưỡng cỗ lậu bởi vì sự tôn sùng cổ nhân được truyền từ đời này qua đời khác vẫn còn mai phục trong trí óc họ. Đó là chuyện xa, nhưng còn chuyện gần hơn? Tôi được đọc không biết bao nhiêu tuyên cáo buc tội lẫn nhau giữa các phe phái trong các đảng Đại Việt và Việt nam Quốc Dân Đảng. Phe nọ lên án phe kia là phản bội đường lối của các cố đảng trưởng, phe nào cũng tự hào là tuyệt đối trung thành với đường lối của các ngài. Sự theo đúng đường lối do người đi trước vạch ra hình như được coi là một tiêu chuẩn để quyết định ai đúng ai sai, ai chính ai tà. Cái tiêu chuẩn kỳ cục này có lẽ chỉ có ở Trung Quốc và Việt nam. Hai dân tộc này coi sự kiện không làm đúng như người xưa là xúc phạm đến người xưa. Trong các nước cộng sản, Trung Quốc và Việt nam cũng là hai nước chống xét lại một cách gay gắt nhất. Đó là di sản của tinh thần bất tác, vô cải mà Khổng Giáo đề cao. Nên nhớ rằng Khổng Tử coi như bổn phận ca người con có hiếu là không sửa đổi gì hết nền nếp của cha trong vòng ít nhất ba năm sau khi cha đã mất, nghĩa là nếu mãi mãi không sửa đổi gì thì còn hiếu hơn.

Trong thế giới thay đổi dồn dp này, mà sức mạnh, chỗ đứng và sự vinh nhục của các dân tộc được quyết định bởi ý kiến và sáng kiến, bởi vận tốc của đổi mới, nếu có một tâm lý mà chúng ta phải khẩn cấp từ bỏ thì đó chính là tâm lý thủ cựu.

Chương thứ :60 "

Như tôi đã trình bày, khi phê phán Khổng Giáo không nên đồng hóa nó với ông Khổng Khâu, càng không nên đổ hết trách nhiệm cho ông. Ông không chí thánh chí nhân như ông Trần Trọng Kim viết trong cuốn Nho Giáo, những cũng là người tốt, ông mở trường tư đầu tiên và tạo ra một cơ hội tiến thân quan trọng cho tàng lớp thứ dân. Thế cũng là một người có công lớn với đời rồi. Ông dạy học trò nhiều điều về luân lý thực tiễn. Xét theo bối cảnh thời đại của ông, trong những điều ông nói có những điều khá đúng, những điều hơi sai và những điều rất sai. Đó là lẽ tự nhiên, không có học giả, triết gia nào chỉ phát biểu những điều hoàn toàn đúng. Socrate, Platon, Aristote cũng vậy thôi, họ có những ý kiến thật sáng nhưng cũng có những nhận định sai lầm, thiếu sót. Bổn phận của những người đi sau là giữ lại, bổ túc và khai triển những đóng góp đúng, bỏ đi những sai lầm và, dĩ nhiên, không ngừng thêm vào những khám phá mới.

Văn hóa Khổng Giáo trở thành độc hại không phải vì nó sai ngay từ đầu mà vì nó đã không biết đổi mới. Nó đã khai thác triệt để hai tính xấu ca Khổng Tử là tinh thần thủ cựu, bài bác điều mới lạ, và tinh thần bất dung (thí dụ như việc giết thiếu chính Mão chỉ vì ông Mão có tài biện luận và không đồng ý với Khổng Tử). Không những thế nó còn bóp méo tư tưởng của chính Khổng Tử.

Một thí dụ của sự xuyên tạc đó là tinh thần an bần lạc đạo, nghĩa là cam phận nghèo mà vui với đạo đức. Tinh thần này theo các nho sĩ lấy từ một câu trong Luận Ngữ. người quân tử chỉ lo giữ đạo lý chứ không lo nghèo (quân tử ưu đạo bất ưu bần). Nhưng Khổng Tử nào đâu có ý định nói như thế. Ông nói nguyên văn như thế này: Người qun tử mưu tìm học đạo chứ không mưu tìm miếng ăn. Làm ruộng có khi mất mùa cũng đói, còn học đạo thì có lộc. Người quân tử chỉ cần lo học cho giỏi chứ đừng sợ nghèo (Quân tử mưu đạo bất mưu thực. Canh dã, nỗi tại kỳ trung hĩ. Học dã, lộc tại kỳ trung hĩ. Quân Tử ưu đạo bất ưu bần). Đó chỉ là một lời khuyên thực dụng mà thôi, có nghĩa là cứ lo học đi rồi sẽ được làm quan và sẽ có ăn. Nên nhớ rằng mục đích của việc học đạo chỉ là để được làm quan. ý Khổng Tử qua câu nói này hoàn toàn không phải là sự chấp nhận nghèo khổ miễn là sống hợp đạo đức. (Cần hiểu chữ đạo của Khổng Tử đồng nghĩa với nghề, nghĩa là học thi, thư, lễ, nhạc cho thạo để ra làm quan chứ không phải là đạo đức như ta hiu). Chính Khổng Tử cũng rất ham phú quí, ông từng nói phú quí mà cầu được thì dù phải làm kẻ cầm roi đánh xe ngựa ta cũng nhận (phú quí nhi khả cầu dã, tuy chấp tiên chi sĩ, ngô diệc vi chi). Khổng Tử lương thiện nhưng không phải vì thế mà ông đề cao sự nghèo khổ. Ông đã đi khắp nơi cầu được làm quan, có lúc sẵn sàng làm gia nhân cho những kẻ giàu có phản trắc. Nhân sinh quan của ông rất thc dụng: cầu ích lợi cho mình và sống lương thiện. Đó là một nhân sinh quan rất khiêm tốn về mặt đạo đức.

Từ đời nhà Hán, luân lý của Khổng Giáo bị bóp méo đi để biến thành một thứ luân lý nông nghiệp lạc hậu. Lưu Bang, tức Hán Cao Tổ, sau khi diệt được Tần và Sở, thống nhất thiên hạ, nhận định rằng mối nguy cho dòng họ mình là những kẻ giàu có và gan dạ. Ông bèn xóa bỏ thương nghiệp và chỉ giữ lại nông nghiệp. Việc phân chia xã hội ra bốn giai cấp sĩ, nông, công, thương bt đầu từ đó. Nếu chỉ xét về mục đích duy trì quyền hành thì nhà Hán hoàn toàn có lý. Nghe nông chân lấm lấy bùn, được mùa thì no, mất mùa thì đói, không thể nào giàu lớn được, gia tài chỉ là ruộng đất, có bao nhiêu triều đình thấy rõ hết. Vả lại, người nông dân ở yên một chỗ, kiến thức hạn hẹp mà đởm lược cũng không có bao nhiêu. Trái lại, người buôn bán giao du nhiều, hiểu biết rộng rãi, lại quen đương đầu với rủi ro thành ra gan dạ (có gan làm giàu). Nghề buôn bán lại dẽ phát đạt, có thể đưa tới những tài sản rất lớn, kín đáo và dễ di chuyển. Những thương nhân giàu có này lại không làm quan ăn lộc vua và do đó không mang ơn vua như lớp nho sĩ, họ có thể là những đe dọa lớn cho các vua chúa. Chính vì thế mà nhà Hán dẹp bỏ thương nghiệp, và khi thương nghiệp đã bị xóa bỏ, sự trao đổi hàng hóa không còn nữa thì công nghiệp chỉ còn là một nghề phụ của nghề nông, làm ra những nhu yếu phẩm cho xóm làng mà thôi. Dưới đời nhà Hán, thương nhân không những bị trù dập thô bạo mà còn bị miệt thị như những kẻ xấu xa, đáng khinh bỉ.

Các triều đại về sau có lúc nới lỏng cho thương nghiệp đôi chút nhưng rời lại xiết lại ngay. Triều đại nào cũng coi thương nghiệp là mối nguy và đều ra sức trù dập và miệt thị. Cuối cùng với thời gian một giá trị mới đã được thêm vào Khổng Giáo, đó là tm lý khinh bỉ nghe buôn bán. Phải công bình mà nói, tâm lý này hoàn toàn không có trong đầu óc Khổng Tử. Cả Khổng Tử lẫn các môn đệ của ông đầu không bao giờ bài xích thương nghiệp, cũng như Marx không bao giờ tưởng tượng có việc kiểm duyệt báo chí hay những chiến dịch tẩy não, những trại tù cải tạo tư tưởng của các chế độ cộng sản sau này.

Thương nghiệp là động cơ tiến hóa của mi xã hội. Nó vừa là sự chấp nhận rủi ro cho đổi mới vừa là sự giao lưu của người, của kiến thức, ý kiến và sáng kiến. Nó cũng là sự giàu có. Thương nghiệp đối với xã hội cũng như máu đi với cơ thề, nó là yếu tố tối cần thiết cho mọi sinh hoạt khác, dù là nông nghiệp, cộng nghiệp hay văn hóa xã hội. Có thương nghiệp mới có tiến bộ. Không có thương nghiệp thì xã hội tê liệt v dẫm chân tại chỗ, kể cả về vật chất lấn tinh thần, là lẽ tự nhiên. Trong những yếu tố độc hại của Khổng Giáo, yếu tố độc hại nhất trên hẳn mọi yếu tố khác chính là sự thù ghét thương nghiệp, mà về việc này thì Khổng Tử hoàn toàn vô can. Nó là một phát minh của Hán Nho và được duy trì vì cần thiết cho sự ồn vững của các chế độ quân chủ chuyên chế. Không phải là mt sự tình cờ mà các tiến bộ lớn của nhân loại đã phát sinh từ các thị trấn buôn bán và tư tưởng dân chủ cũng như các chế độ dân chủ đầu tiên đã nảy sinh từ đó. Cũng không phải là một s tình cờ mà Hoa Kỳ, một quốc gia tạp chủng, khởi hành từ số không những có mẫu số chung là business, đá mau chóng trở thành siêu cường số một của thế giới.

Như đã nói, Việt nam vừa hình thành thì đã tiếp thu Khổng Giáo từ đời nhà Hán, nghĩa là khi Khổng học đã bị tồi tệ hóa do sự thêm vào nhiều yếu tố độc hại, trong đó độc hại nhất là tâm lý thù ghét thương nghiệp. Suốt dòng lịch sử, chúng ta đã chỉ biết có tâm lý này, không như người Trung Hoa ít ra đã có một thời Xuân Thu Chiến Quốc trong đó cả một rừng hoa tư tưởng nở rộ và thương nghiệp phát triển mạnh. Chính vì thế mà văn hóa của ta thấp kém hơn văn hóa Trung Quốc. Chính vì thế mà chúng ta dở về buôn bán hơn tất cả mọi quốc gia có cùng một chiều dài lịch sử.

Như một người mù lòa quen với bóng tối, Việt nam cũng như Trung Quốc, nhưng hơn cả trung Quốc, đã thích nghi với sự nghèo khổ và tìm an ủi ngay trong sự nghèo khổ. An bần lạc đạo là một triết lý và một thứ thuốc an thần ru ngủ trí tuệ ta. Đáng lẽ chỉ nên coi sự nghèo khổ là một tình trạng đáng buồn cần chấm dứt, chúng ta coi nó như một sự vinh quang. Đáng lẽ chỉ nên coi người nghèo là những người không may cần được giúp đỡ, ta lại coi họ là những người trong sạch đáng tôn vinh. Tâm lý này lại là tâm lý của kẻ sĩ, nghĩa là thành phần tinh nhuệ nhất, hiểu biết nhất.

Nếu thù ghét thương mại là di sản độc hại nhất của Khổng Giáo thì nó cũng là di sản nặng nề nhất của người Việt, ngay trong lúc này.

Thế hệ của tôi, những người vào đại học trong thập niên 1960, hoàn toàn bị tâm lý trọng sĩ khinh thương chế ngự. Ước mơ của chúng tôi chỉ là đậu cử nhân, tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư để được làm giáo sư gim đốc. Cha mẹ chúng tôi cũng chúc tụng và mơ ước cho chúng tôi tương lai đó. Tâm lý của chúng tôi hoàn toàn là tâm lý kẻ sĩ, nghĩa là tâm lý làm quan hoặc làm công ăn lương, dù chúng tôi chng hề học Tứ Thư, Ngũ Kinh bao giờ. Cái tâm lý đó, chúng tôi đã tiếp thu từ sinh hoạt gia đình và xã hội. Và chúng tôi cũng đã được giáo dục ngay tại trường học theo tâm lý đó. Nhưng mẫu người mà chúng tôi được khuyến khích dề noi gương chỉ là những danh tướng, danh thần, những nhà nho liêm chính, những nhà thơ, nhà văn, hoàn toàn không có một doanh nhân nào. Ngay cả những danh nhân ngoại quốc chúng tôi biết đến cũng chỉ là những ông vua, ông tướng, hay các nhà bác học, các nhà chính trị và các nhà văn lớn chứ hoàn toàn không có một doanh nhân nào. Doanh nhân là một giống người không ra gì. Chúng tôi đã lớn lên với một hệ thống giá trị như thế. Chúng tôi được đào tạo để làm những con người sống ngoài lề xã hội hay, nếu may mắn hơn, sống trên xã hội chứ không hội nhập và sng trong xã hội. ở vào thế hệ của tôi, và một phần nào đó ngay bây giờ tại Việt nam, học hết tú tài là đã thuộc thành phần tinh nhuệ của xã hội. Tôi may mắn thuộc vào thành phần tinh nhuệ nhất của thành phần tinh nhuệ đó. Bạn bè quen biết của tôi có vài trăm người được đi du học tại châu Âu, Hoa Kỳ, úc, New Zealand và Nhật. Tất cả đều thông minh tuấn tú, tất cả đều đã thành công theo tiêu chuẩn Việt nam, nghĩa là ngày nay chúng tôi đều có văn phòng luật sư, phòng mạch bác sĩ, nha sĩ, làm giáo sư hay kỹ sư, với một cuộc sống tương đối thoải mái, nhưng doanh nhân thì chỉ có một vài người. Một số kỹ sư, chuyên viên nay đã ngoài năm mươi tuổi, lương quá cao so với yêu cầu của xí nghiệp đang hòi hộp lo âu bị cho nghỉ việc, có những người đã mất việc. Nếu khối sinh lực và trí tuệ đó được dồn vào kinh doanh thì đất nước đã khá hơn biết bao nhiêu, và ngay cả cuộc sống của mỗi chúng tôi cũng khá hơn nhiều. Hơn nữa nghề làm công, hay nghề cá nhân, đã không cho chúng tôi những cơ hội để tiếp xúc và học hỏi, cũng không đặt chúng tôi trước những trách nhiệm quan trọng; kết quả là giờ đây, vào giai đoạn gn chót của sự nghiệp, chúng tôi không những chỉ bình thường về vật chất mà còn kém cỏi cả trong tầm vóc và sự hiểu biết.

Thế hệ chúng tôi đã thừa hưởng một hệ thống giá trị độc hại v đã truyền lại nọc độc cho thế hệ sau. Tôi chưa nhận thấy một chuyển biến tâm lý đáng kể nào trong giới trẻ Việt nam. Phần lớn các con cháu của các bạn tôi đều hướng về những ngành học thuần túy ký thuật, và khi họ có học về doanh thương thì cũng chỉ với tâm lý công nhân mà thôi. Tôi tiếp xúc với nhiều thanh niên và lúc nào cũng hi họ dự định thế nào cho tương lai, họ sẽ làm gì ở tuổi bốn mươi. Cho tới nay những câu trả lời của họ cũng không khác bao nhiêu so với thế hệ chúng tôi. Việt nam vẫn còn chờ đợi một chuyển biến tâm lý lớn, dù đã trải qua nhiều xáo trộn khốc liệt. Đó là tôi chỉ gặp một thành phần thanh niên may mắn có cơ hội để tiếp xúc với thế giới tiến bộ bên ngoài, những người lớn lên ti hải ngoại, hoặc những thành phần ưu tú được gởi ra nước ngoài làm nghiên cứu sinh hay thực tập sinh. Những thanh niên ở Việt nam sang còn cho tôi hay tâm lý của thanh niên trong nước còn trì trệ hơn họ về mặt kinh doanh. Tình trạng này cho thấy ảnh hưởng của một nền văn hóa dai dẳng tới mức nào.

Chúng ta vẫn còn là những đứa con tinh thần của Khổng Giáo Việt nam một thứ Khổng Giáo đặc biệt tăm tối. Cái văn hóa Khổng Giáo đó đã làm thui chột cả một dân tộc. Nó khiến chúng ta dị ứng thương nghiệp đã đành, nhưng nó cũng gây ra một mặc cảm thấp kém ngay cả trong một số hiếm hoi dám kinh doanh buôn bán. Một người Việt nam hãnh diện với một đứa con tốt nghiệp đại học và lãnh lương vừa đủ sống hơn là một đứa con bán phở với lợi tức gấp bốn, năm lần. Một thương gia giàu có cũng thích gả con gái cho một tiến sĩ hơn là một thương gia trẻ, và cũng rất hài lòng nếu tất cả các con mình trở thành bác sĩ, kỹ sư và bỏ nghề buôn. Họ không thể trở thành những thương gia lớn được bởi vì họ không hãnh diện về nghề nghiệp của họ, và họ không hãnh diện về nghề nghiệp của họ vì thành phần xã hội của họ bị khinh khi. Ngôn ngữ Việt nam không thiếu những danh từ thóa mạ đối với người buôn bán: tên lái buôn, bọn con buôn, bọn hàng tôm hàng cá, v.v:.. Sự khinh bị này đưa tới một hậu quả thực sự là nhng người buôn bán nhỏ bị co cụm lại thành những nhóm cô lập, hờn giận với phần còn lại của xã hội, rồi cũng mất đi sự tự trọng và cư xử một cách rất thô lỗ trái ngược với tinh thần phi có của thương nghiệp. Kết quả là cả nghề buôn bán lẫn việc buôn bán đều không vươn lên được.

Văn hóa Khổng Giáo Việt nam tạo ra những thành kiến rất sai lầm và bất công đối với các thương gia. Sau khi đậu xong tú tài I tôi được một thương gia giàu có mướn dạy kèm cô con gái vừa lên đệ tứ, tức lớp 9 bây giờ. Những thành kiến sai lầm đã khiến tôi hình dung ông ta là một con người vô học chỉ sống vì đồng tiền, và chắc là giả dối và gian lận. Tôi khám phá ra mình ngu dốt. Hai ông bà vất vả suốt ngày, họ chỉ về nhà vào khoảng 9, 10 giờ tối. Họ bặt thiệp, hiền lành và rất hiểu biết. Tôi nhận ra bà ấy thông minh hơn hẳn các bà mẹ Việt nam khác và ông ấy có kiến thức cao hơn và rộng hơn hẳn những giáo sư của ti. Ông bà ấy hình như chưa học hết bậc trung học, nhưng họ đã đạt tới trình độ hiểu biết cao nhờ học hỏi trong cuộc sóng, bằng sự giao tiếp trong xã hội và bằng suy tư cá nhân. Cuộc gặp gỡ ko dài hơn một năm này đã là một may mắn lớn cho tôi. Tôi được một số tiền thù lao khá lớn, đủ sống cho mình mà còn giúp đỡ được cả gia đình; nhưng tôi còn được cả một sự tỉnh ngộ.

Sau khi đi du học về, tôi làm tại Ngân Hàng Việt nam Thương Tín rồi sang Bộ Kinh Tế và lại có dịp gặp gỡ nhiều doanh nhân khác. Ngay khi về Việt nam tôi đã được nghe nhiều huyền thoại về các doanh nhân người Hoa, những Lý Long Thân, Huỳnh Trù, Trần Thành, Trương Đông Lương, v.v... Họ được mô tả là những người giàu sụ, có biệt tài làm ra tiền mặc dầu dốt nát tới độ ký tên mình còn run tay. Sự hiểu ngầm ở đàng sau là họ giàu có nhờ khôn vạt, láu cá, mánh mung.

Điều đáng để ý là thành kiến không tốt đối với các doanh nhân gốc Hoa này không phải chỉ có trong dân chúng và báo chí, mà còn hiện diện ngay cả trong giới chuyên viên tài chánh, đáng lẽ ra phải được giác ngộ về kinh doanh. Hoàn cảnh đã cho tôi cơ hội gặp gỡ với nhng người này, và tôi nhận ra họ là nhưng con người rất thông minh và ngay thẳng. Không những thế, họ còn có kiến thức rộng rãi về những vấn đề chính trị, văn hóa và xã hội. Trong buổi lễ khánh thanh một nhà máy cán sắt mới của công ty Vicasa, Lý Long Thân, chủ tịch công ty, sắp xếp để tôi ngồi ngay bên cạnh ông, buổi tiệc đã kéo dài hơn thường lệ vì sau cà phê Lý Long Thân còn trò chuyện với tôi hơn hai giờ nữa. Lý Long Thân không cần gì tôi cả, ông ấy chỉ nói chuyện vì gặp người hợp ý mà thôi. Ông ấy kể cho tôi những cuộc gp gỡ và nhưng câu chuyện giữa ông ấy với các cấp lãnh đạo Việt nam Cộng Hòa và đặc biệt là buổi gặp gỡ một tuần trước đó với đại sứ Mỹ Graham Martin. Lý Long Thân hiểu biết nguy cơ đối với Việt nam Cộng Hòa hơn là các cấp lãnh đạo Việt nam mà tôi thường gặp. Nếu Nguyễn Văn Thiệu thực sự dùng Lý Long Thân làm cố vấn như nhiều lời đồn đại thì có thể Việt nam Cộng Hòa đã may mắn hơn.

Tâm lý bài bác thương nghiệp và tôn vinh sự thanh bạch tạo ra cho người Việt nam một quan hệ bệnh hoạn và tội lỗi đối với tiền bạc. Chúng ta đều biết quyền lực của đồng tiền, câu tục ngữ có tiền mua tiên cũng được không phải mới có. Hai chữ nói lái đầu tiên là tiền đâu cũng không mới. Chúng ta đều cần tiền và muốn có tiền nhưng chúng ta không đám công khai kiếm tiền, chúng ta được giáo dục để coi kiếm tiền như là một sự vẩn đục và chúng ta cố làm ra vẻ khinh thường sự giàu có và hãnh diện với cảnh thanh bần. Chúng ta muốn mà không dám, chúng ta ao ước và giấu giếm như một tiểu thư con nhà gia giáo bề ngoài đề cao tiết hạnh dù trong phòng vắng nhiều đêm cũng trằn trọc mơ ước những giây phút hoan lạc của một cô gái phá lệ. Cả một xã hội sống trong sự giả dối. Tâm lý này tạo ra cả một truyền thống tham nhũng. Thành phần tinh nhuệ đua nhau đi làm quan thay vì làm giàu. Mặt khác, các ông quan thời xưa và các quan chức nhà nước ngày nay không thể sống với đồng lương chật hẹp cho nên phải dựa vào quà cáp, hay phải nhắm mắt để các bà vợ ăn tiền thay mình để giữ được một mức sống đàng hoàng. (Hình như ngày nay đã tiến bộ hơn, các quan chức thẳng thắn đòi tiền hối lộ chứ không cần qua một trung gian nào cả). Chống tham nhũng ở Việt nam rất khó vì chúng ta có cả một văn hóa tham nhũng do truyền thống để lại.

Văn hóa thanh bần của Khổng Giáo cũng đã đem lại cho chúng ta những tai họa về chính trị. Ông Hồ Chí Minh và ông Ngô Đình Diệm đều được kính trọng vì họ tỏ ra là nhng người thanh liêm. Họ không có vợ, và điều đó hình như kéo theo hệ luận là họ trong sạch, thanh liêm. Họ được tín nhiệm về đức chứ không phải vì tài và thực sự cả hai đều không có khả năng, cả hai đều thiếu bản lĩnh, đều không nhìn thấy những vấn đề và những giải pháp cho đất nước, nhưng họ đã được văn hóa và tâm lý Vit nam đặt vào vị trí quyết định vận mệnh của đất nước trong một giai đoạn trọng đại. Ông Hồ Chí Minh được tôn sùng hơn ông Ngô Đình Diệm vì đóng kịch khéo hơn, ông xuất hiện như một nhà nho khổ hạnh, sống suốt đời và tất cả cho dân tộc, trong khi thực ra ông là một người ham thụ hưởng hơn hắn mức trung bình. Cả hai ông, dù đã được ngoại bang nâng đỡ hay đặt để, cũng đã là sản phầm của văn hóa Khổng Giáo. Hai ông không chiếm độc quyền sân khấu chính trị Việt nam nhưng là những nhân vật tiêu biểu nhất. Những người lãnh đạo chính trị khác, khi không hoàn toàn do ngoại bang chọn lựa, cũng giành được địa vị vì những lý do thuần túy thuộc đức . Họ được tiếng là những người, hoặc thanh liêm, hoặc can trường, hoặc có công vì đã vào tù ra khám, chứ hoàn toàn không phải vì họ được nhìn nhận là có khả năng làm cho đất nước giàu có hơn. Kết quả: bốn triệu người chết và một GDP 300 đô la mỗi năm cho mỗi đầu người.

Văn hóa Khổng Giáo còn để lại cho chúng ta một di sản khác là sự vô lễ quá đáng. Mới đây tôi được đọc trên một tờ báo trong nước một bài của nhà văn Trần Mạnh Hảo đả kích một nhà văn khác vừa được giải thưởng văn học. Trước đây tôi đã được biết đến Trần Mạnh Hảo qua tác phẩm Ly Thân và có cảm tình với ông. Sau này tôi lại được nghe những dư luận không tốt về tư cách của ông từ những người mà tôi kính trọng về kiến thức và nhân cách. Tôi vẫn còn phân vân và bài báo của Trần Mạnh Hảo một phần nào đã giải tỏa cho tôi sự phân vân đó. Trần Mạnh Hảo đả kích đoạn của tác phẩm thuật lại chuyện vua Hàm Nghi bị Pháp bắt. Trần Mạnh Hảo hoàn toàn không dựa vào một tài liệu nào cả, nhưng cảm thấy có thể thẳng thắn bác bỏ chuyện của tác giả kia. Tại sao? Chỉ giản dị là tại cách xưng hô. Tác phẩm kia thuật lại những lời đối đáp của viên công sứ Pháp gọi vua Hàm Nghi là ngài, là nhà vua, v.v... Như thế là đủ để Trần Mạnh Ho quả quyết là tác giả đó đã bịa đặt trắng trợn bởi vì có khi nào một người chiến thắng lại nói với một tù nhân với lời lẽ cung kính như vậy. Trần Mạnh Hảo không hiểu rằng đó là cách đối xử rất tự nhiên và rất bình thường của người phương Tây, bởi vì Trần Mạnh Hảo thuộc văn hóa Việt-Trung, trong đó sự lỗ mãng là một thông lệ. Những ai đọc truyện Tàu và truyện đã sử Việt nam đều đã quá quen với ngôn ngữ xỉ vả và thóa mạ kẻ thù, nhất là kẻ thù sa cơ thất thế (trong các truyện Tàu tôi chỉ thấy thời Tam Quốc có Tào Tháo và Tôn Quyền là đôi khi đối đáp nhã nhặn với người chiến bại). Một chi tiết khác trong bài của Trần Mạnh Hảo là lời lẽ của nó rất gay gắt. Đó cũng là đặc tính chung của phần ln những bài tranh luận giữa người Việt nam thuộc mọi thế hệ. Hình như chúng ta cảm thấy có bồn phận phải nổi giận khi không đáng.

Nhưng sự lỗ mãng không phải là một nét đặc trưng của riêng văn hóa Khổng Mạnh, mà là của mọi nền văn hóa trong đó thương mại thiếu vắng. Thương mại khiến người ta gặp gỡ nhiều, tiếp xúc rộng và trở thành lịch sự. Thương mại cũng bắt buộc người ta tìm lời lẽ trang nhã để thuyết phục khách hàng. Thương mại cũng bắt buộc người ta tìm hiểu khách hàng, đặt mình vào địa vị khách hàng để cố khám phá khách hàng muốn gì và sau đó để chinh phục cảm tình của khách, để khách mua hàng hóa hay dịch vụ cần dùng nơi mình thay vì nơi một nhà cũng cấp khác. Những người có chút kinh nghiệm về thương mại đều hiểu rằng muốn như thế thì chỉ có một cách là phải rất lương thiện, rất lễ độ và quí mến khách hàng một cách thực sự. Cảm tình và khả tín là hai vốn quí nhất của một doanh nhân. Thiếu hai đức tính đó thì tốt hơn hết là đừng đi vào thương nghiệp, cùng lắm chỉ thành công nhỏ và tạm bợ mà thôi. Chính vì thế mà các dân tộc buôn bán cũng là những dân tộc khả ái nhất.

Đọc một số bài phê phán văn hóa Khổng Giáo của tôi một số thân hữu thường bày tỏ sự lo ngại là nếu không còn Khổng Giáo liệu chúng ta có mất luôn các lễ giáo cỗ truyền của mình không? Xin các bạn yên tâm. Trước hết, chỉ 10 các bạn không bỏ được sớm thôi, từ giã một nền văn hóa khó lắm. Sau đó, chúng ta sẽ lễ độ hơn chứ không mất lễ độ đâu. Một cách không chủ ý nhưng có thực, văn hóa Khổng Giáo, vì loại bỏ thương mại, đã khiến con người trở nên vô lễ. Có những thân hữu khác lại biện luận rằng không nên bài xích Khổng Giáo vì chính nhờ Khổng Giáo mà Việt nam và Trung Quốc đã được ổn định trong hơn hai ngàn năm. Nhưng ổn định nào? ổn định trong sự dậm chân tại chỗ, trong sự nghèo khổ, kìm kẹp và thua kém, có phải là một ổn định đáng mong muốn không? Chúng ta đã là chúng ta ngày hôm nay chính vì chúng ta đã là nạn nhân của sự ổn định đó. Mà thực ra có ổn định gì đâu. Lịch sử Trung Hoa và Vit nam, nhất là Việt nam trong hai mươi thế kỷ Khổng Giáo cho đến thế kỷ 19 đã đấm máu hơn lịch sử của mọi dân tộc khác, với đàn áp thường trực và nỗi loạn triền miên, khi không có chiến tranh với ngoại bang. Các bạn thử đọc lại thật kỹ lịch sử nước ta xem trước khi người Pháp đến, chúng ta có bao nhiêu năm chiến tranh? Các bạn sẽ khám phá ra con số thật kinh khủng và các bạn cũng sẽ thấy rằng con số những năm chiến đấu chống ngoại xâm chỉ chiếm một tỷ lệ không đáng kể. Văn hóa Khổng Giáo do tính bất dung và vô nhân đạo của nó đặt xã hội trong tình thế thù địch thường trực. Cái mà chúng ta gọi là sự ổn định thực ra chỉ là sự trì trệ.

Truyền thống nào cũng có sức mạnh quán tính của nó.

Truyền thống càng dài quán lực càng cao. Không có gì đáng ngạc nhiên nếu khi phải từ giã một tập quán chúng ta cảm thấy một mất mát lớn, bởi vì các lập quán nằm trong vô thức của chúng ta và gắn bó với cơ th của chúng ta. Sự nghèo khổ không phải chỉ là một tình trang mà là cả một hệ thống có cả đạo đức, triết lý, sự thỏa mãn và niềm hãnh diện của nó. Thoát ra khỏi sự nghèo khổ không phải là d bởi vì chính những người nghèo cảm thấy nếp sống của họ là đúng đắn, không có gì phải thay đổi. Cũng thế, những lập quán tệ hại đến đâu vẫn có cái tiện nghi gớm ghiếc, nhưng có thực, ca chúng. Những người chống đối hủ tục bó chân phụ nữ của Trung Hoa không ai khác hơn là chính các phụ nữ Trung Hoa. Nhưng người lúc ban đầu phản đối mạnh nhất chiếc áo dài duyên đáng hiện nay ca phụ nữ Việt nam không ai khác hơn là chính các phụ nữ Việt nam. Cũng những phụ nữ Việt nam và Trung Hoa khả kính đã bảo vệ một cách nồng nhiệt nhất tam tòng, tứ đức - và chữ, trinh gớm ghiếc - đã đầy đọa họ trong hàng chục thế kỷ.

Đọc lịch sử Việt nam, có một trang mà chúng ta không thể đọc mà không nhỏ lệ. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta đã có hàng chục ngàn người dân rt bình thường, chọn lựa đi tới trước đao phủ thay vì từ bỏ lòng tin của mình. Đó là những người Công Giáo dầu tiên của Việt nam, nạn nhân của chính sách cấm đạo dưới triều Nguyễn. Dù chia sẻ hay không tin tín ngưỡng của họ, mọi người Việt nam đều có thể hãnh diện về sự dũng cảm đó. Đối đầu với họ, những người hưởng ứng chính sách cấm đạo và xả thân đi đánh các họ đạo là ai? Đó là những người Văn Thân, Cần Vương, những người cũng đáng quí nhất của dân tộc, nghĩ rằng mình đang hy sinh bảo vệ đất nước của cha ông chống lại một cuộc xâm lăng mới và một tà thuyết mới. Nếu chúng ta, thay vì là một xã hội nông nghiệp khép kín, là một dân tộc có truyền thống thương mại và trao đổi thì phản ứng của chúng ta chắc chắn sẽ không như thế.

Điều mà chúng ta đang cần là một sự mạnh bạo đoạn tuyệt với một tâm lý lỗi thời và dám đổi mới, dám từ bỏ đường xưa lối cũ, dám muốn đi tới những chân trời mới, tìm những thành công thật lớn. Các bạn có thể hỏi tôi, nói lung bung như vậy có ích lợi gì không, có đề nghị cụ thể gì không? Có một đề nghị nhỏ rất dễ làm, mà nếu các bạn cùng làm tôi bảo đảm là chỉ trong vòng một thế hệ đất nước sẽ rất khá. Đề nghị đó như th này: khi một đứa trẻ ra chào đời các bạn hãy hôn và chúc nó: Con sẽ là doanh nhân, con nhé?.

Chương thứ :61 "

Có một điều đáng để ta ngạc nhiên và suy nghĩ là tại sao một nước lớn như Trung Quốc lại thường bị đánh bại rất dễ dàng? Các nước thời Xuân Thu Chiến Quốc phải xây tường ngăn chặn các sắc tộc phương Bắc thay vì chinh phục họ. Tần Thủy Hoàng binh hùng tướng mạnh như thế, gồm thâu cả lục quốc mà sau khi thống nhất Trung Quốc cũng không làm gì hơn là tiếp tục xây Vạn Lý Trường Thành ngăn chặn thay vì tiến công. Như thế thì cái sức mạnh đó cũng đáng đặt một dấu hỏi lớn. Người Mông Cổ ở thế kỷ 12 chắc không tới một triệu dân mà đánh chiếm được Trung Quốc. Trước đó nhà Tống cũng đã bị nước Kim nhỏ bé ở phía Đông Bắc khuất phục. Người Mông Cổ chiếm Trung Quốc lập ra nhà Nguyễn mà không gặp chống đối. Nhà Nguyễn sụp đổ sau hơn một thế kỷ thống trị Trung Quốc không phải do một cuộc kháng chiến quốc gia nào mà chỉ vì quan lại Mông Cổ về sau tham tàn dồn dân chúng tới tình trạng không chống lại cũng chết ói. Giặc giã nổi lên khắp nơi, Chu Nguyên Chương, sáng tổ nhà Minh, là thủ lãnh một trong những nhóm nổi dậy đó. Chu Nguyên Chương giành được ngôi bá chủ phần lớn là vì ông ta không chống quân Nguyên, trái lại ông ta để cho các nhóm khác đánh nhau với quân Nguyên cho đến khi kiệt quệ rồi đột kích tiêu diệt họ. Chu Nguyên Chương không có mục đích đánh đuổi quân Nguyên giành lại độc lập cho Trung Quốc mà chỉ lo lập nghiệp đế cho mình, ông không đặt vấn đề dân tộc. Dưới mắt ông ta, quân Nguyên hay các nhóm khác đều là những đối th như nhau. Thắng lợi của Chu Nguyên Chương. không phải là thắng lợi của một cuộc chiến tranh giải phóng, mà chỉ là thắng lợi của một thủ lãnh tham vọng nhất và khôn lỏi nhất trong một thời mà Trung Quốc phân lán. Người Trung Quốc chống lại triều Nguyên một cách bất đắc dĩ vì bị ức hiếp quá chứ không phải vì tinh thần dân tộc.

Ba thế kỷ sau, Trung Quốc, dưới triều Minh lại bị nước Mãn Châu nhỏ bế thôn tính, và lần này mọi nhóm chống đối đầu bị tiêu diệt. Cuộc nổi loạn lớn nhất do Hồng Tú Toàn lãnh đạo đã bị chính những nho sĩ Trung Quốc phục vụ nhà Thanh đánh bại. Nhà Thanh đã chỉ sụp đổ trước sức công phá của phương Tây và trước trào lưu dân chủ.

Xét trong dòng lịch sử thì tinh thần dân tộc của người Trung Quốc rất yếu, nếu không muốn nói là không có. Kẻ nào mạnh nhất trong số những cường hào lãnh chúa kẻ đó làm chủ Trung Quốc, bất luận ông ta là người Hoa hay không.

Năm 1778, khi nước Anh đã chinh phục được ấn Độ, toàn quyền Anh tại ấn cử một cộng sự viên là Chapman sang điều nghiên về tình hình Việt nam. Lúc đó anh em Tây Sơn đã diệt được chúa Nguyễn, thanh thế kinh động cả nưc. Tám năm sau Tây Sơn diệt Trịnh dễ như trở bàn tay. Chapman đi tham quan khắp nơi và được anh em Tây Sơn tiếp đón ân cần nên có dịp nhìn thấy rõ lực lượng của các phe, đặc biệt là phe Tây Sơn mnh nhất lúc đó. Chapman phúc trình cho toàn quyền Anh tại ấn Độ như sau: quân đội của Nguyễn Nhạc không đáng kể, giá trị quân sự rất kém. Tôi có thể nói chắc chắn là độ một trăm người có kỷ luật sẽ đánh bại toàn bộ quân lực của ông ta

Cái gì đã khiến Chapman đánh giá lực lượng Tây Sơn thấp quá như vậy. Không phải chỉ là sự tin tưởng vào vũ khí công hiệu hơn, vả lại Chapman chỉ nói tới kỷ luật. Những người nô lệ da đen nổi lên tại Hai ti đã đánh tan cả một quân lực hùng hậu của Napoléon I quân đội Anh tinh nhuệ như vậy mà cũng đã bị tiêu diệt toàn bộ một lữ đoàn trước một số bộ lạc Nam Phi chỉ trong một trận đánh. Vũ khí không quyết định tất cả như ta có thể nghĩ. Sự yếu kém của một quân đội chủ yếu là vì nó thiếu lý do để chiến đấu, và vì thế thiếu tổ chức và gắn bó.

Một thế kỷ sau, người Pháp đỗ bộ vào Việt nam và cũng đánh bại quân Việt nam dễ dàng. Tại miền Nam, Phan Thanh Giản tự vẫn thay vì chống lại, để quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây không tốn một viên dạn. Phan Thanh Giản đã tuân tiết thì chắc chắn không phải là người thiếu dũng cảm, ông đã chỉ thấy tình hình tuyệt vọng mà thôi. Tại miền Bắc, vài trăm quân Pháp đã có thể hai lần đánh bại quân Việt nam trong chớp mắt. Cả Nguyễn Tri Phương lẫn Hoàng Diệu đều là những tướng có thừa dũng cảm nhưng h không làm gì được bởi vì quân đội nhà Nguyễn tuy đông nhưng không có sức mạnh. Để chiếm các tỉnh miền Bắc có khi Pháp chỉ cần mười người lính bắn vài phát súng thị uy là tổng đốc bỏ chạy hoặc tự trối ra hàng. Nếu bảo rằng đó là do vũ khí tối tân thì tại sao vài ngàn quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc lại đánh bại được quân Pháp?

Lý do thực sự là vì chúng ta thiếu tinh thần quốc gia dân tộc.

Và một khi đã thiếu tinh thần quốc gia dân tộc thì sức mạnh của quân đội chỉ dựa trên quyết tâm và bản lãnh của người thủ lãnh. Khi chúng ta có những thủ lãnh giỏi như dưới thời Lý, Trần hay trong cuộc khơi nghĩa của Lê Lợi thì ta có sức mạnh, khi ta không có tướng giỏi thì quân đội ta không có giá trị. Các triều đại Trung Hoa và Việt nam có thể suy sụp rất nhanh chóng vì một ông vua dở bởi vì vua là tất cả. ý niệm quốc gia dân tộc không có, do đó không có một sức mạnh quốc gia độc lập với nhà vua. Cái lô-gích về sức mạnh tại Trung Quốc và Việt nam rất giản dị: một người, nhờ bản lãnh hay địa vị, qui tụ quanh mình một đội ngũ nhỏ, rồi dùng đội ngũ đó để khống chế dân chúng, bắt dân chúng phải phục tùng mình và chiến đấu cho mình chứ không dựa trên một ý chí chung. Chính vì thế mọi lực lượng có thể thay đổi rất mau chóng tùy theo người thủ lĩnh.

Trong một bài báo tôi có phát biểu rằng ý niệm quốc gia dân tộc rất mới đối với chúng ta, các cụm từ yêu nước hay ái quốc hoàn toàn không có trong ngôn ngữ Việt nam trước thế kỷ 20. Nhận định này đã bị một số người phản đối, họ quả quyết sẽ tìm được bằng cớ ngược lại. Gần bốn năm đã trôi qua vẫn chưa ai tìm được. Có thể sau này có vị sẽ tìm thấy trong một tài liệu nào đó, nhưng một thí dụ hiếm hoi cũng sẽ không phản bác được nhận xét của tôi là tinh thần quốc gia của chúng ta chỉ mới xuất hiện trong th kỷ này. Các quân tướng và sĩ tử của ta trước đây chỉ biết có vua chứ không biết tới nước.

Tại sao tôi dám quả quyết như vậy mặc dù chưa đọc hết các tài liệu và tác phẩm Việt nam? Đó l vì khái niệm nước như là một thực thể khác với vua, của chung mọi người và mọi người có bổn phận phục vụ và bảo vệ, chưa có. Mà nước đã không có thì làm gì có chuyện yêu nước. Văn hóa Khổng Giáo, độc tôn trên đất nước ta cho tới thế kỷ 20, không nhìn nhận sự hiện hữu của quốc gia. Đó là một điều chắc chắn.

Khi Khổng Tử dạy các sĩ tử nước nguy thì đừng tới, nước loạn thì đừng ở, nước có đạo thì ra ra làm quan, nước vô đạo thì ta ở ẩn rõ ràng ông không nhìn nhận bất cứ một bổn phận nào đối với nước cả, ông chỉ coi nước là của một chủ, kẻ sĩ thấy phục vụ ông chủ đó có lợi thì làm không có lợi thì thôi. Cái triết lý ở ẩn mà Khổng Tử nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Luận Ngữ v sau này đã trở thành cả một đạo sống của nho sĩ, là gì nếu không phải là sự phủ nhận quốc gia và sự khước từ mọi nhiệm vụ đối với cộng đồng? Thái độ của kẻ sĩ rất rõ rệt: chỉ mưu lợi cho mình và sống trung thành với nghề sĩ, nghĩa là nghề đi học và làm quan của mình. Phải nói rằng các nho sĩ rất có đạo lý nghề nghiệp. Họ trung thành tuyệt đối với người chủ đã dùng họ và dù được làm quan hay thất nghiệp họ vẫn hãnh diện với nghề của mình và tôn trọng những giá trị của nó. Những nhà nho không có tổ quốc, họ chỉ biết tới các tổ nghề, nghĩa là các thánh hiền của họ, và người chủ tuyển dụng họ, nghĩa là nhà vua.

Quốc gia là một ý niệm trừu tượng cần được nuôi dưỡng bởi những người có văn hóa, nhưng trong xã hội Khổng Giáo những người có văn hóa duy nhất là các nho sĩ lại không nhìn nhận quốc gia, như thế thì không thể có quốc gia theo ý nghĩa một thực thể riêng biệt được. Trong xã hi Khổng Giáo, nước chỉ là vùng đất thuộc quyền sở hữu của nhà vua mà thôi, những con người sống trên vùng đất đó chỉ là những nô lệ của vua, vua muốn cắt đất nhường dân cho ai tùy ý. Bài th Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt mà chúng ta coi là một bài thơ yêu nước cũng chỉ nhắc lại quan niệm đó: Nam quốc sơn hà Nam đế cư (núi sông nước Nam là của vua nước Nam).

Cái gương Khổng T đi hết nước này sang nước khác để xin làm quan (có lúc ông định vượt biển sang phò vua Cao Ly) đã chứng minh rõ ràng kẻ sĩ không có tổ quốc. Vả lại cho đến khi người phương Tây sang chinh phục vn đề quốc tịch không hề đặt ra; ai sống ở đâu thì là dân của ông vua nơi đó, có thể làm quan cho ông vua đó, nhưng nếu đi nước khác cũng có thể làm quan và tuyệt đối trung thành với một ông vua khác, ngay cả nếu phải cầm quân đi đánh nước cũ. Ngũ Tử Tư đời chiến quốc bị trách là rước voi về dày mả tổ bởi vì tổ tiên ông và chính ông đã làm quan nước Sở mà sau này ông lại dẫn quân Ngô về dày xéo lăng miếu nước Sở. Sẽ không ai trách ông nếu trước đó tổ tiên ông và chính ông chỉ là thường dân nước Sở. Trong lịch sử Trung Hoa, không thiếu những người nước này sang làm tướng quốc nước khác. Trong lịch sử Việt nam, Đàng Trong (miền Nam) và Đàng Ngoài (miền Bắc) được coi là hai nước riêng biệt, Nguyễn Nhạc và vua Lê Hiển Tông khi đối đáp với nhau gọi lãnh thổ của nhau là quí quốc một cách rất tự nhiên.

Khi quân Thanh sang Việt nam năm 1789, để rồi bị Nguyễn Huệ đánh bại, dân Bắc Hà thấy gần gũi với quân Thanh hơn là quân Tây Sờn và cầu mong cho quân Thanh thắng. Dĩ nhiên cuộc chung đụng trong hàng ngàn năm phải làm nảy sinh ra một tình cảm cộng đồng, nhưng nó chỉ là tình cảm của những người cùng chung và cùng chịu một số phận (bầu ơi thương lấy bí cùng tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn), nó còn ở rất dưới điều mà ta có thể gọi là tinh thần quốc gia dân tộc hay lòng yêu nước. Điều đó dễ hiểu, kẻ sĩ, những kẻ còn được hưởng một vinh quang nào đó của chế độ chính trị, đã không có tổ quốc thì người dân, những người nô lệ, lại càng không có lý do gì để có tổ quốc. Nớc là vua, mà vua là cái gông cùm. Không có tội nhân nào yêu gông cùm cả. Những kẻ không có gì thì cũng không có bổn phận nào. Khi người Mông Cổ, Mãn Thanh và những nước phương Tây xâm chim Trung Quốc, họ đã không đụng độ với nhân dân Trung Quốc, mà chỉ đụng độ với cấc vua nhà Tống, nhà Minh, nhà Thanh. Khi người Pháp sang chinh phục Việt nam, họ đã không đụng độ với dân tộc Vit nam mà chỉ đụng độ với các vua nhà Nguyễn. Chính vì thế mà họ đã thắng lợi dễ dàng. ý niệm quốc gia dân tộc đã ra đời một cách chậm chạp tại phương Tây cùng với sự tăng trưởng của tự do và sự hình thành của xã hội dân sự. Người dân có tự do hơn và làm chủ cuộc sóng của mình hơn nên đã bắt đầu cảm thấy mình có một chỗ đứng nào đó trong xã hội, rồi dần dần cảm thấy gn bó và có bổn phận với cộng đồng trong đó mình đang sống. Càng có chỗ đứng họ càng đòi hỏi một chỗ đứng lớn hơn. ý niệm quốc gia dân tộc nảy sinh như thế và ngày một mạnh, càng mạnh nó càng đẩy lùi quyền lực của các vua chúa. Sau vài thế kỷ thai nghén, sự thành lập một nước cộng hòa tại Hòa Lan, sự hình thành của Hoa Kỳ và cuộc cách mạng Pháp đã chính thức khai sinh ý niệm quốc gia. Đó là ý niệm đất nước của mọi người thay vì là của một dòng họ. Người dân làm chủ đt nước và vì thế yêu nước và có bổn phận với đất nước. ý niệm quốc gia dân tộc ra đời với cao vọng tận dụng tinh thần trách nhiệm, sinh lực, ý kiến và sáng kiến của mọi người. Niềm tin nn tảng của nó là những con người tự do mạnh hơn và cống hiến nhiều hơn là những con người nô lệ, xã hội của những con người tự do mạnh hơn là một tập thể nô lệ. Một guồng máy nhà nước mi ra đời và có sức mạnh hơn hẳn bởi vì được sự hỗ trợ của moi người. Khi đi chinh phục thế giới, sức mạnh chính của các nước phương Tây là bộ máy nhà nước hiện đại chứ không phải là vũ khí hiện đại.

Như thế phải hiểu rằng ý niệm quốc gia dân tộc liên hệ mật thiết với dân chủ và tự do. Không có dân chủ và tự do thì không thể có quốc gia, hay cùng lắm chỉ có quốc gia ở dạng bò sát thấp kém. Tại Việt nam, một cách nghịch lý, tinh thần quốc gia đã xuất hiện dưới thời Pháp thuộc do ba yếu tố:

1. Người Pháp giáo dục trí thức Việt nam theo văn hóa của họ, trong đó tinh thần quốc gia là một thành tố quan trọng;

2. Vai trò của vua nhà Nguyễn trở thành mờ nhạt, họ không còn là chủ đất nước nữa, đất nước trở thành một tài sản chung của mọi ngưi Việt đang bị người nước ngoài chiếm đoạt; và

3. Chính sách phân biệt đói xử xấc xược của người Pháp khiến người Việt nam ý thức được rằng mình là một khối dân tộc cùng một tổ tiên và cùng chia sẻ một sự tủi nhục. Cùng với thế kỷ 20 bắt đầu xuất hiện một số trí thức được gọi là các nhà ái quốc. Trong tuyệt đại đa số, nếu không muốn nói là lất cả các nhà ái quốc này đều kêu gọi canh tân, bỏ cũ theo mới.

Trong một bài báo (Một cách nhìn cuộc chiến, Thông Luận số 82, tháng 05/95), tôi có viết rằng lòng yêu nước của người Việt nam có thể chỉ là một ngộ nhận. Nhiều vị đã xúc động và lên tiếng phản đối. Tôi hiểu tình cảm của các vị đó và tôi rất kính trọng tình cảm đó, tôi không mong gì hơn là mình đã nhận định sai. Nhưng quả là chúng ta đã ngộ nhận.

Chúng ta ngộ nhận khi nói rằng ý thức quốc gia dân tộc đã có từ lâu trong khi thực ra nó chỉ là một khái niệm mới xuất hiện từ thế kỷ 20, nghĩa là còn rất non trẻ so với chiều dài lịch sử của ta. Chúng ta ngộ nhận khi nghĩ rằng lòng yêu nước của người Việt rất cao trong khi thực ra nó rất thấp. Chính vì nó thấp mà khi người Pháp xâm chiếm nước ta đã chỉ có một thiểu số trí thức thực sự dấn thân đấu tranh vì nước còn đại đa số vẫn đứng ngoài cuộc, và thái độ đứng ngoài cuộc đó của những Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Tản Dà, Trần Tế Xương, v.v... hoàn toàn không khiến họ bị chê trách. Chính vì nó thấp mà một số nhỏ người Pháp đã có thể cai trị được cả khối người Việt, dùng chính người Việt để thống trị người Việt. Đặc biệt là trong giai đoạn thế chiến II, một nắm nhỏ người Pháp đã thua trận và đã mất nước vẫn thống trị được Việt nam một cách tàn bạo.

Tôi tình cờ sinh ra trong một gia đình Việt nam Quốc Dân Đảng. Giáo dục gia đình đã khiến tôi thù ghét và khinh bỉ một cách thậm tệ những người hợp tác với Pháp; tôi coi họ là đồ hèn hạ, lưu manh. Ln lên, tôi được tiếp xúc với nhiều người như thế, tôi nhận ra họ là những người cũng lương thiện và tử tế như những người đấu tranh cách mạng, chỉ có một điều là họ không có ý thức dân tộc đủ mạnh để chấp nhận chịu gian khổ hay hy sinh quyền lợi. Càng trưởng thành tôi càng thấy không nên trách họ bởi vì dù đã hấp thụ nhiu kiến thức mới của phương Tây, về mặt tâm tính họ vẫn thuộc hệ văn hóa Khổng Giáo, một văn hóa vô tổ quốc.

Cũng chính vì lòng yêu nước của người Việt nam không mạnh mà đảng cộng sản đ thắng lợi. Về bản chất, phong trào cộng sản không những vô tổ quốc mà còn chống tổ quốc, nó là một phong trào thế giới, nhắm thăng tiến giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Nếu không quá lạm dụng bạo lực chủ nghĩa cộng sản có thể là một chủ nghĩa cao quí, dù chỉ là một ảo tưởng, nhưng phong trào cộng sản không phải là một phong trào yêu nước. Khẩu hiệu của nó là người vô sản không có tổ quốc. Tiếng gọi đấu tranh giai cấp, trong khuôn khổ của một nước, là một lời kêu gọi nội chiến. Phong trào xô Viết Nghệ Tĩnh, cái nôi của đảng cộng sản Việt nam, nổi lên với lời tung hô: vạn tuế Sô Nga và tiếng thét: trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ hoàn toàn không phải là một phong trào dân tộc. Nhưng người cầm đầu đảng cộng sản và những đảng viên trung kiên nht không phải là những người yêu nước mà chỉ là những người cộng sản Có thể đa số những người theo đảng cộng sản đã theo vì lòng yêu nớc, nhưng khi nhận định bản chất của một tổ chức ta nên xét theo chủ trương, đường lối của nó và lý tưởng của những người cầm đầu nó chứ không nên dựa trên những người đi theo.

Hoàn cnh đất nước sau ngày 30-4- 1975 đã khiến tôi có dịp tiếp xúc với vô số người cộng sản thuộc đủ mọi cấp bậc và tôi đã có thể kiểm chứng một điều: trong hàng ngũ cộng sản, một người có thể nói một cách quả quyết rằng quốc gia chỉ là một ý niệm vớ vẩn lạc hậu cần vất bỏ mà vẫn không hề bị trở ngại trong việc thăng tiến, trái lại nếu anh ta dám nói chủ nghĩa cộng sản chỉ là một chủ nghĩa tồi tệ chắc chắn anh ta sẽ lâm nguy, có thể mất mạng luôn. Bằng cớ rằng đảng cộng sản không phải là một tổ chức yêu nước cũng có thể tìm thấy trong các chính sách liên tục của họ. Suốt 30 năm chiến tranh, tôi chưa bao giờ ghi nhận một quan tâm thực sự nào của họ trước những đỗ vỡ kinh khủng về tinh thần, vật chất và nhân mạng cho đất nước. Họ có thể tiêu diệt thẳng tay những người Việt nam, yêu nước hay không, không đồng quan điểm với họ, có khi họ sẵn sàng tiêu diệt cả một số thành phần dân tộc. Trong cuộc cải cách ruộng đất 1955-1956, họ chủ trương tiêu diệt toàn bộ giai cấp địa chủ. (Chính sách này, vì nhưng hậu quả tai hại của nó, sau đó được coi là một sai lầm nhưng không bị coi là mt tội, những người cầm đầu và phát động nó chỉ bị kiểm điểm).

Sự thù ghét lẫn nhau và ác độc đối với nhau của người Việt nam là điều không ai có thể chối cãi, nhưng để cố bào chữa cho lòng yêu nước nói chung của người Việt, lại có một nhận định giảm khinh: chúng ta yêu nước, nhưng không yêu nhau. Như vậy yêu nước là gì? Đất nước là lãnh thổ, là lịch sử, là con người và là một dự án tương lai chung. Trong các yếu tố đó, con người có tầm quan trọng vượt hẳn. Đất nước, lịch sử đều là của người, dự án tương lai cũng là của người. Nếu đồng hóa nước Việt vi người Việt thì cũng không sai (và trên thực tế đã có những học giả đồng hóa quốc gia và dân tộc). Mà người Việt không phải là một ý niệm trừu tượng mà là từng người và mọi người. Không yêu nhau là không yêu nước. Chấm.

Nếu mức độ quốc gia quá cao để ta có thể nhận định một cách rõ rệt thì hãy lấy thí dụ khuôn khổ gia dình. Ta có thể coi một người là yêu gia đình được không, khi người đó lúc nào cũng sẵn sàng đốt nhà, đập phá, ẩu đả và sát hại mọi anh chị em không vừa ý mình? Nếu anh ta tự nghĩ anh ta là người yêu gia đình thì anh ta chỉ là người điên. Và nếu có ai coi anh ta là người yêu gia đình thì người đó cũng nên ghé thăm một bác sĩ tâm thần.

Nếu phi nhận định một cách thực vắn tắt đại hội VIII của Dâng Cộng Sản Việt nam, tháng 6- 1996, thì ta có thể nói đó là một đại hội chống tổ quốc. Đảng cộng sản, sau nhiều thất bại thê thảm, nht là khi khối cộng sản tan vỡ, đã đổi mới về kinh tế thị trường và đời sống một phần dân chúng đã được cải thiện; sinh hoạt đất nước bắt đầu khởi sắc, nhưng vị trí độc tôn và độc quyền của họ bị lung lay. Họ bèn lấy quyết định chặn đứng đà phát triển để cũng cố lại quyền lực của họ mặc dầu biết rõ làm như vậy đất nước sẽ bị thiệt hại nặng. Đại hội VIII là biến cố trong đó một đảng cầm quyền cố tình lấy quyết định có hại cho đất nước vì quyền lợi của riêng mình. Tuy vậy cũng không nên quá khe khắt đối với những người lãnh đạo cng sản. Thực ra họ cũng không khác với đa số người Việt.

Yêu nước tại Việt nam là một ngoại lệ chứ không phải là một thông lệ. Chúng ta là một dân tộc được nhào nặn trong suốt dòng lịch sử bằng văn hóa Khổng Giáo, một văn hóa vô tổ quốc, lòng yêu nước của ta yếu kém là lẽ dĩ nhiên. Chúng ta chớ nên nghĩ rằng mình đã ra khỏi văn hóa Khổng Giáo. Chúng ta vẫn còn chịu ảnh hưởng Khổng Giáo một cách nặng nề lắm, ngay cả khi chúng ta không ý thức được và không nhìn nhận như vậy. Cứ lấy thí dụ triết lý ở ẩn, xem ra rất xa lạ đối với trí thức ngày nay. Có thể một người khoa bảng thời nay sẽ phản đối: tôi có biết triết lý ở ẩn là cái quái gì đau, anh chỉ nói lẩm cẩm, nhưng chính anh ta đang theo triết lý ở ẩn và, tuy không nói ra, rất tán thành triết lý đó.

Ông Hoàng Xuân Hãn là một thí dụ rất điển hình. Ông có kiến thức uyên bác trên rất nhiều lãnh vực và có đạo đức cá nhân rất cao. Ông theo đúng triết lý Khổng Giáo nước loạn không ở, nước nhiễu nhương thì ở ẩn. Mặc dầu là một nhân vật rất có uy tín và đã có thể đóng góp thay đổi số phận đất nước, ông đã chọn bỏ nước ra đi vo giữa lúc đất nước đang chuyển động lớn. Ông sang Pháp ở ẩn cho tới lúc qua đời. Ông Hãn là một người sáng suốt và lương thiện, ông hiểu rõ hậu quả của chọn lựa này. Trong một bài phỏng vn mà tôi được đọc trên tờ báo Bulledingue (một tờ báo tiếng Pháp, nay đã đình bản, rất có giá trị của một nhóm trí thức Việt nam tại pháp từng ủng hộ đảng cộng sản), ông trả lời về tương lai của cộng đồng người Việt hải ngoại như sau: Tôi sợ rằng rồi cũng như người Việt tại Trung Quốc, thế hệ đầu tha thiết với đất nước, thế hệ sau không còn nói thạo tiếng Việt nữa và thế hệ thứ ba quên là mình có gốc Việt. Ông Hoàng Xuân Hãn dư biết về lâu về dài ra đi là từ bỏ đất nước, nhưng vẫn ra đi bởi vì ở ẩn là cả một đạo lý cao thượng đối với người Việt nam và ông Hãn dù đã du học phương Tây và đậu những bằng cấp cao nhất vẫn là người Việt nam. Khi ông Hãn qua đời, trí thức Việt nam trong nước cũng như ngoài nước đồng loạt lên tiếng ca ngợi ông nh một người mẫu mực, không thấy ai bày tỏ sự phiền lòng rằng một người lỗi lạc như ông đáng lẽ phải có một chọn lựa tích cực hơn đối với đất nước. Thế hệ trước đã ca tụng Nguyễn Khuyến, thế hệ sau ca tụng Hoàng Xuân Hãn. Những Nguyễn Khuyến của thế hệ trước đã rất đông đảo, những Hoàng Xuân Hãn của thế hệ sau còn đông đảo hơn, ngay cả về tỷ lệ. Xem ra, dù đã kinh qua nhiều biến cố trọng đại, tâm lý người Việt ván chưa thay đổi bao nhiêu, tránh gian nguy và ở ẩn vẫn còn là một nhân sinh quan rất phải đạo. Ngời Việt nam vẫn còn chưa mất gốc, họ vẫn còn là những người Việt nam chân chính, nghĩa là không yêu nước, hoặc chỉ yêu nước một cách không tốn kém. Đọc tới đây xin độc giả đừng nghĩ rằng tôi có một dụng ý mỉa mai nào. Tôi thực sự quí trọng những người như Nguyễn Khuyến và Hoàng Xuân Hãn. Họ cao thượng thực sự, nhưng họ là sản phẩm của một nền văn hóa cam chịu và ẩn dật, họ đã sống phù hợp với nền văn hóa đó và họ là những mẫu người cao quí của nền văn hóa đó.

Tôi quen biết, hoặc được biết, khá nhiều trí thức Việt nam trong nước. Tất cả đều đồng ý chế ộ hiện nay là tồi dở và độc hại, tất cả đều mong nó chấm dứt càng sớm càng hay, nhưng chỉ một số rất nhỏ chấp nhận rủi ro đứng lên đòi dân chủ, tuyệt đại đa số còn lại chỉ lo sống v tồn tại. Và để tồn tại họ phải chấp nhận thỏa hiệp với chế dộ, hợp tác với nó, và như thế giúp nó tiếp tục tồn tại, điều mà họ hoàn toàn không muốn. Mà những đặc ân mà họ được hởng có lo lớn gì cho cam, chúng chỉ là những chức phó vụ trưởng, ủy viên hội đồng nhân dân tỉnh, v.v..., với lương và phụ cấp không quá 200 đô-la mỗi tháng. Hay một cửa hàng nhỏ của vợ con, hay khả năng được xuất bản vài tập truyện ngắn vô hại, hay được vẽ và bán vài bức tranh kiếm sống, được xuất ngoại vài năm một lần. Hoặc chỉ giản dị là cuốn sỗ lương hưu hai chục đô-la mỗi tháng. Hoặc giản dị hơn nữa là khỏi bị phiền hà. Tất cả đều hiểu những ân huệ đó chẳng có gì đáng kể, tất cả đều tin rằng nếu chế độ này chấm dứt thì không những đất nước sẽ khá hơn nhiều mà chính bản thân họ cũng khá hơn hẳn. Nhưng họ không chấp nhận một hy sinh, dù là tạm thời và nhỏ bé, nào cả bởi vì lòng yêu nước, nghĩa là sự gắn bó và tinh thần trách nhiệm với cộng đồng dân tộc, của họ không đủ mạnh. Mỗi người có cách riêng để luồn lách và tồn tại. Tất cả đều khôn, không ai chịu dại cả. Kết quả tổng hợp là đất nước vẫn tiếp tục quằn quại trong độc tài và lạc hậu. Một dân tộc gồm toàn những người khôn là một dân tộc rất đần độn. Chỉ có thể coi là yêu nước những người sẵn sàng chấp nhận một sự dại dột nào đó cho đất nước.

Trong cuộc xung đột dài và đẫm máu vừa qua, yêu nước đã là một khẩu hiệu được mọi phe phái sử dụng để giành giật hậu thuẫn. Hô mãi hoặc nghe mãi, khẩu hiệu đó trở thành một sự khủng bố tinh thần rồi chúng ta đã ghi nhận nó trong tiềm thức như một ngôn ngữ bắt buộc. Nhưng chúng ta cường điệu và dối trá, chúng ta đeo mặt nạ và sử dụng ngôn ngữ của lưỡi gỗ với nhau, khi xưng mình là người yêu nước. Và chúng ta sai lầm lớn khi nghĩ rằng đa số người Việt nam yêu nước. Chỉ cần bình tĩnh quan sát sự thờ ơ bao trùm chung quanh chúng ta để nhận được một cải chính dứt khoát. Người Việt nam rất khó yêu nước. Trong vòng hơn hai ngàn năm chúng ta được nhào nặn bởi văn hóa Khổng Giáo, một văn hóa vong thân, vị ky và phủ nhận đất nước. Từ gần một nửa thế kỷ nay chng ta bị áp đặt văn hóa cộng sản không khác với Khổng Giáo bao nhiêu về bản chất. Cả hai đều là những văn hóa kỳ thị, đặt nền tảng trên một giai cấp chứ không phải trên tinh thần dân tộc. Mt kẻ sĩ Việt nam ngày xưa gắn bó với một kẻ sĩ Trung Hoa hơn là một thứ dân Việt nam. Một bần cố nông Việt nam gần đây được nhoi sọ để coi mọi người vô sản thế giới là anh em và coi người tư sản Việt nam là kẻ thù.

Đã thế, người ta còn nhân danh tổ quốc để phạm tội ác, để hạ sát hàng ngàn hàng vạn nạn nhân vô tội. Những nạn nhân bị ghép tội phản quốc trong đại đa số lại chính là những người yêu nước hiếm hoi. Người ta còn cưỡng đoạt tổ quốc và cố gắng hòa tan nó trong một chủ nghĩa (yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội). Không có gì đáng ngạc nhiên nếu đa số người Việt chọn lựa đứng ngoài mọi hệ lụy với đất nước.

Quốc gia chỉ mạnh nếu là đất nước của những con người tự do, tận dụng được hết sinh lực, thi thố được mọi tài năng, phát huy được mọi ý kiến và sáng kiến của mình. Nhưng quốc gia cũng không thể mạnh nếu không có lòng yêu nước, cũng như một gia đình không thể có hạnh phúc nếu không có tình yêu.

Thuận vợ thuận chồng tát biền Đông cũng cạn không ai ngờ vực mãnh lực ghê gớm của tình yêu, chúng ta cần ý thức rằng lòng yêu nước cũng có mãnh lực tương tự trong việc xây dựng một tương lai chung cho dân tộc. Chúng ta rất cần một sức bật của lòng yêu nước. Nhưng chúng ta cũng cần ý thức rằng lòng yêu nước của chúng ta rất non yếu và tật nguyền cần được điều trị và gây dựng, chứ không phải một vốn đ sẵn dồi dào để sử dụng và lạm dụng. Lòng yêu nước ấy, những người dân chủ phải xây dựng ra chứ không thể mong chờ gì ở chế độ độc tài này. Mọi chế độ chuyên chế, dù là chế độ quân chủ ngày xưa hay chế độ độc tài cộng sản ngày nay, đều có chung một chủ trương là tiêu diệt mọi ý thức cộng đồng và mọi liên hệ gắn bó trong xã hội để có thể thống trị một đám đông c đơn. Họ không cần người dân yêu nước, họ chỉ cần người dân khuất phục. Họ không cần người dân yêu họ, họ chỉ cần người dân đừng yêu nhau. ý niệm quốc gia dân tộc do dân chủ mà có, chỉ có dân chủ mới có thể giúp ta gây dựng và phát huy nó. Cuộc đấu tranh cho dân chủ cũng là cuộc đấu tranh nhằm đem lại cho người Việt lý do để yêu nước.

Những người dân chủ phải khẳng định dự án xây dựng một nhà nước khiêm tốn phục vụ thay vì khống chế xã hội dân sự, đặt mình dưới người dân thay vì trên người dân, một nhà nước tối thiểu để nhường không gian tối đa cho sinh lực, ý kiến và sáng kiến của công dân. Và họ cũng cần khẳng định: người dân không có bổn phận phải yêu nước; chính nhà nước và thành phần ưu tú của đất nước, nghĩa là thành phần trí thức, phải làm cho đất nước trở thành đáng yêu. Đất nước không được hạch hỏi người dân đã làm gì cho mình, trái lại phải tự hỏi mình đã có ích lợi gì cho người dân. - Có lẽ chính vào lúc lòng yu nước không còn là một cưỡng bách nữa mà chúng ta sẽ có được lòng yêu nước thực sự, hay ít ra nhận diện được những người thực sự yêu nước, và nhờ đó có thể kết nghĩa với nhau để cùng nhau đưa đất nước ra khỏi bế tắc.

Chương thứ :62 "

Nói tới Khổng Giáo thì phải nói ngay tới kẻ sĩ. Mục đích duy nhất của Khổng Giáo là đào tạo ra kẻ sĩ. Kẻ sĩ được coi là một lý tưởng mà mọi người phải hướng tới.

Bức chân dung kẻ sĩ, như một mẫu người vong thân và vị kỷ, được mô tả trong những trang trước phải chăng là quá đáng? Nhiều người, trong đó có c những thân hữu quí mến của tôi, đã hơn một lần phát biểu rằng nhận định của tôi về kẻ sĩ qua các bài báo đã được đăng là sai lệch. Vậy thì tôi xin nhường lời cho một kẻ sĩ chân chính vit về chính kẻ sĩ. Đó là Nguyễn Công Trứ qua bài Kẻ Sĩ của ông. Kẻ sĩ không thể có một đại diện nào hoàn hảo hơn Nguyễn Công Trứ. Ông trải qua tất cả tiến trình học tập, sống và hành động của một kẻ sĩ lý tưởng. Ông cũng là một mẫu mực thành công của kẻ sĩ. Cả văn nghiệp lẫn võ nghiệp của ông ít ai bì kịp, ông cũng rất dũng cảm và thanh liêm. Điều làm người ta quí mến ông hơn nữa là ông lại phóng khoáng và đầy nghệ sĩ tính. Ông là một trong những kẻ sĩ lỗi lạc nhất và đáng kính phục nhất trong lịch sử Việt nam.

Nguyễn Công Trứ trải qua một thời thanh niên lận đận, ông đậu Giải Nguyễn (thủ khoa kỳ thi hương) năm đã 43 tuổi. Sự muộn màng này không phải do ông không thành công trong các bài thi mà vì quan trưng thấy giỏi quá sợ ông thành kiêu căng nên đánh rớt ông để tập cho ông tính khiêm nhường. Nguyễn Công Trứ mất hơn hai mươi năm cường tráng nhất của đời minh vì chữ khiêm của kẻ sĩ ông theo đng phương châm vững lòng tin, chăm học, kiên trì, cải thiện trình độ nho học (độc tín, háo học, thủ tử, thiện đạo) trong lúc chưa gặp thời. Sau đó ông thi đậu rồi làm quan và làm tướng một cách thật xuất sắc, thăng lên những chức vụ rất cao, đánh Nam dẹp Bắc lập những chiến công thật lẫy lừng. Ông cũng đã đem dân đi dinh điền lập ra nhiều huyện trù phú tại tỉnh Thái Bình. Nguyễn Công Trứ rất hài lòng về sự nghiệp của mình, ông tự thuật như sau:

Khi thủ khoa, khi tham tán, khi tổng đốc Đông

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

Lúc bình Tây cờ đại tướng...

Hoạn lộ của ông khá nhiều gian truân. Có lúc ông bị gièm là có ý làm phản, có lúc ông bị cách chức tuột xuống làm lính, nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn kiên trì bày tỏ tài năng và lòng trung nghĩa và rồi lại vươn lên. Ông về hưu sau ba mươi năm hoạt động mãnh liệt. Nhưng mặc dầu công việc dồn dập ông vẫn để lại một văn nghiệp to lớn về cả phẩm ln lượng.

Tác giả đã đặc sắc như vậy, bài Kẻ Sĩ cũng đặc sắc không kém. Nó tóm gọn một cách đẹp đẽ tất cả nhân sinh quan của kẻ sĩ. Nó lại được viết bằng một thể văn đặc biệt, th hát nói. Đó là loại thơ được sáng tác trong lúc hát cô đầu, lúc kẻ sĩ phóng khoáng nhất. Cái gì quá đẹp thì khó đúng, có thể bức chân dung kẻ sĩ của Nguyễn Công Trứ không trung thực vì đã được lộng lẫy hóa quá đáng. Kẻ sĩ mà Nguyễn Công Trứ mô tả là kẻ sĩ tráng lệ nhất. Tôi có hỏi một số học giả và được biết là Trung Quốc không có bài thơ hay bài văn nào mô tả kẻ sĩ đẹp đ và hùng tráng hơn bài Kẻ Sĩ sau đây của Nguyễn Công Trứ, mà tôi chép lại nguyên văn và đánh số từng câu để chú giải.

1. Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt

2. Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên

3. Có giang sơn thì sĩ đã có tên

4. Từ Chu, Hán vốn sĩ này là quí

5. Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị

6. Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường

7. Khí hạo nhiên chí đại, chí cương

8. So chính khí đã đầy trong trời đất

9. Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất

10. Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn

11. Xe bồ luân dầu chưa gp Thang Văn

12. Phù thế giáo một vài câu thanh nghị

13. Cầm chính đạo để tịch tà, cự bí

14. Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên

15. Rồng mây khi gặp hội ưa duyên

16. Đem quách cả sở tồn làm sở dụng

17. Trong lăng miếu ra tài lương đống

18. Ngoài biên thùy rạch mũi Can Tương

19. Làm sao cho bách thế lưu phương

20. Trước là sĩ sau là khanh tướng

2 1. Kinh luân khởi tâm thượng binh giáp tàng hung trung

22. Vũ trụ chi gian giai phận sự

23. Nam nhi đáo thử thị hào hùng

2 4. Nhà nưóc yên mà sĩ được thung dung

25. Bấy giờ sĩ sẽ tìm ông Hoàng Thạch

26. Dăm ba chú tiểu đồng lếch thếch

27. Tiêu dao nơi cùng cốc thâm sơn

28. Nào xe, nào ngựa, nào địch, nào đờn

29. Đồ thích chí chất đầy trong một túi

30. Mặc ai hỏi mặc ai không hỏi tới

31. Nhắm cuộc đời mà ngẫm kẻ trọc thanh

32. Này này, sĩ mới hoàn danh.

Bài thơ này dùng khá nhiều chữ Hán nên có lẽ một số độc giả cần vài giải thích.

Hai câu (1) và (2) nói rằng trong năm tước quan (công, hầu, bá, tử, nam), kẻ sĩ đều có mặt và trong bốn giai cấp xã hội (sĩ, nông, công, thương), kẻ sĩ đứng đầu. Thật là hãnh diện được làm kẻ sĩ.

Trong câu (4), Chu và Hán là hai triều đại lớn của Trung Quốc gần sát nhau, từ thế kỷ 12 trước Tây lịch tới thế kỷ 3 sau Tây lịch.

Hai câu (5) và (6): ở xóm làng (lưỡng đảng), kẻ sĩ đã được tôn knh là người có lý luận (hiếu nghị) nên phải sống đúng tam cương (quân, sư, phụ hay bổn phận đối với vua, với cha mẹ và với thầy dạy học) và ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín).

Hai câu (7) và (8): Bản chất của kẻ sĩ (khí hạo nhiên) rất lớn và rất vững (chí đại, chí cương), tinh thần (chính khí) của kẻ sĩ đầy trời đất.

Hai câu (9) và (10): Khi chưa gặp (lúc vị ngộ) được minh chúa thì ở yên (hối tàng) trong lều cỏ (bồng tất) nghèo nàn, cứ thanh thản mà vui chơi bằng cách câu cá trên sông Vị (điếu Vị) hay trồng trọt trên đất Sằn (canh Sẵn). Đầu đời nhà Chu, Khương Tử Nha ngồi câu cá trên sông Vị đợi minh chúa tới năm đã ngoài 80 tuổi mới được Chu Văn Vương đem xe đến đón về làm quan. Trước đó một nhân vật huyền bí khác của Trung Quốc, làm ruộng ở đất Sằn cho đến khi được minh chúa tới đón. Tất cả những hoạt động câu cá, trồng trọt này không có mục đích sản xuất (Chương Tử Nha câu cá bằng lưỡi câu thẳng) mà chỉ có mục đích chờ thời mà thôi.

Hai câu (11) và (12): Dù chưa gặp được các minh chúa như vua Thang, vua Văn đem xe có quấn cỏ vào bánh (bờ luân) cho êm tới đón về, vẫn giữ đạo nho bằng cách nói lên những lời đúng (thanh nghị).

Ba câu (13), (14) và (15): Giữ vững chính đạo, tức Khổng Giáo, để tiêu diệt những tà thuyết (tịch tà), chống lại những khó khăn của cuộc sống (cự bi). Quyết tâm quay ngược lại sóng dữ (hồi cuồng lan) ngăn nước của cả trăm con sông.

Năm câu từ (16) đến (20): Khi đã được ra làm quan (kẻ sĩ được làm quan cũng sung sướng như rồng gặp mây) thì đem lết cả tài mình có (sở tồn) ra sử dụng. Trong triều đình (lăng miếu là mộ các vua, thường chôn ở ngay triều đình, kẻ sĩ coi là một diễm phúc được nhìn mộ các vua trước) thì trổ tài làm quan (tài lương đống), ngoài trận mạc biên thùy thì vung gươm báu (Can và Tương là một cặp vợ chồng thời xưa ở Trung Quốc làm nghề luỵện kiếm và đã hy sinh vì kiếm báu). Làm thế nào để cả trăm thế hệ về sau biết đến tiếng thơm (bách thế lưu phương) mới hay. Trước là làm đẹp hình ảnh kẻ sĩ, sau là làm quan lớn (khanh tướng).

Ba câu (21), (22) và (23) tóm lược thế nào là một người trai anh hùng: phải có kiến thức trị nước (kinh luân) ở sẵn trong đầu (tâm trương) và phải chứa sẵn tài cầm binh ở trong bụng (binh giáp tàng hung trung). Khắp nơi đều là phạm vi hoạt động (vũ trụ chi gian giai phận sự). Làm trai như thế mới đúng là anh hng hào kiệt. Những câu cuối nói rằng khi đã làm tròn phận sự thì kẻ sĩ lại rút về ở ẩn ngao du danh lam thắng cảnh, hưởng thể đàn hát và không màng đến xã hội nữa. Như thế là kẻ sĩ hoàn tất một cuộc đời đẹp (hoàn danh).

Chúng ta thấy gì qua cái chân dung lẫm liệt của kẻ sĩ này? Trước hết nó bộc lộ một thái độ thuần phục văn hóa tuyệt đối với Trung Quốc. Mọi điển tích, mọi địa danh, triều đại đều là của Trung Quốc cả. ý niệm quốc gia dân tộc hoàn toàn vắng mặt, tổ quốc của kẻ sĩ là Trung Quốc, đúng ra là Khổng Giáo Trung Quốc.

Sau đó là tâm lý tôi tớ. Kẻ sĩ chỉ chờ để được làm tôi tớ cho một ông chủ, chứ hoàn toàn không có ý chí xây dựng một sự nghiệp của riêng mình trong mọi hoàn cảnh. Không được một minh chúa dùng làm tôi tớ kẻ sĩ sẵn sàng để phí uổng đời mình. Cả đời kẻ sĩ chỉ sống với giác mộng được làm tôi tớ. Đúng là một thái độ vong thân tuyệt đối.

Suốt cuộc đời hoặc không may thì ở ẩn cam chịu cuộc sống nghèo nàn trong lều cỏ, hoặc may thì làm bầy tôi cho một ông vua, sau đó vui chơi. Hoàn toàn không thấy có một trách nhiệm nào đối với cộng đồng cả. Cuộc sống hoàn toàn vị kỷ.

Và dĩ nhiên chỉ có người con trai mới đáng kể, phụ nữ không thể là kẻ sĩ vì thế không đáng đếm xỉa tới.

Tôi đã đề cập đến Nguyễn Trãi và lần này lại đề cập tới Nguyễn Công Trứ. Tôi hoàn toàn không dám mai mỉa hai vị tiền bối này. Tôi rất kính trọng họ, bởi vì họ là tinh hoa của lịch sử Việt nam, là những người đã có công lớn với đất nước và cũng là những người mà chúng ta có thể tự hào. Điều cần lên án là cái văn hóa Khổng Gio tồi tệ đã tha hóa cả những con người lỗi lạc như thế. Riêng đối với Nguyễn Trãi, ông đã có công lớn giành lại độc lập cho Việt nam từ tay quân Minh, ông cũng là tác giả Bình Ngô Đại Cáo, áng văn nghị luận chính trị đầu tiên của Việt nam đồng thời cũng là một bản tuyên ngôn độc lập hùng tráng, nhưng ông đã chết tức tưởi và cả họ bị giết hại. Thủ phạm là ai nếu không phải là chế độ quân quyền dựa trên Khổng Giáo, là cái giá trị tam cương độc hại của Khổng Giáo?

Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ và vô số kẻ sĩ lỗi lạc khác nếu thi thố được hết tài năng và sáng kin của mình thì còn vĩ đại gấp trăm lần và còn cống hiến cho đất nước những thành quả to lớn gấp trăm lần. Nhưng họ là kẻ sĩ và đã phải chấp nhận cuộc sống vong thân của kẻ sĩ.

Tâm lý kẻ sĩ vẫn còn hiện diện mạnh lắm trong chúng ta. Không thiếu những người rất đáng quí trọng hiện nay ao ước được sống như kẻ sĩ hay hãnh diện đã sống như kẻ sĩ. Nguyễn Xuân Tụ, người bạn qu mến của tôi, lấy tên là Hà Sĩ Phu, có thể có nghĩa là sĩ phu Bắc Hà, cũng có nghĩa của một câu hỏi còn ai là kẻ sĩ ngày nay hay thế nào là sĩ phu do sự thiếu chính xác của tiếng Trung Quốc và tiếng Việt. Ông Tụ trân trọng kẻ sĩ lắm, cũng như nhà văn Hoàng Tiến, người đã viết kháng thư trách chính quyền cộng sản đối xử tệ bạc với trí thức mà ông coi là những kẻ sĩ của thời nay. Tôi th chỉ thấy kẻ sĩ là một bóng ma tiều tụy và vong thân cần phải tống cổ một cách tức khắc và không nề nang ra khỏi trí tuệ và tâm hồn của chúng ta, nếu chúng ta muốn một tầm vóc khác cho đời mình và một tương lai khác cho đất nước.

Chương thứ :63 "

Tới đây có lẽ một số độc giả đã cảm thấy mệt mỏi và chán nản với những biện luận về lịch sử và tư tưởng, nhiều vị chắc đã muốn gấp cuốn sách này lại và cất đi. Vậy để quí vị giải khuây chốc lát và lấy lại can đảm để đọc tiếp, tôi xin kể một vài câu chuyện cồ tích. Những câu chuyện này đều ngắn vì tôi chỉ biết một cách sơ sài. Chuyện thứ nhất là Phù Đổng Thiên Vương, còn gọi là Thánh Gióng, có lẽ vì Gióng là tên nôm của làng Phù Đổng chăng? Điều này có thể kiểm chứng khá dễ dàng nhưng tôi vẫn không có thì giờ để làm. Hiện nay hàng năm, tại làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Vĩnh Phú vẫn có ngày hội lớn về sự tích Thánh Gióng. Tục truyền rằng vào đời vua Hùng Vương thứ 6, nước ta, thời bấy giờ gọi là Văn Lang, bị giặc Ân đánh phá (không tài liệu sử nào cho biết giặc Ân là giặc nào), vua cho đi rao truyền trong nước tìm người tài ra đánh giặc. Lúc đó tại làng Phù Đổng, có một đứa bé đã ba tuổi mà vn chưa biết nói, chỉ nằm một chỗ, nghe tiếng loa truyền bỗng nhiên ngồi dậy, vươn mình thành một thanh niên cao một trượng, rồi theo sứ giả v cầu vua, xin đúc một cây rồi sắt và một con ngựa sắt. Được cấp roi, ngựa, chàng thanh niên liền nhảy lên yên. Ngựa sắt bỗng nhiên cử động được. Chàng thanh niên phi ngựa ra trận đánh tan quân giặc. Đến núi Sóc Sơn thì giặc tan hết và chàng thanh niên cũng về trời mất tích. Dân chúng tưởng nhớ tôn làm Phù Đổng Thiên Vương, hoặc Thánh Gióng. Đây là chuyện cổ tích mà lúc còn nhỏ tôi thích nhất bởi vì nó vừa là chuyện của một đứa bé, vừa là chuyện kiếm hiệp và cũng vừa là chuyện thần thoại.

Chuyện thứ hai là chuyện Chử Đồng Tử. Vào đời vua Hùng Vương 16, Chử Đồng Tử là mt thiếu niên mồ côi mẹ sống với cha bằng nghề bắt cá trên sông. Hai cha con nghèo đến độ chỉ có một cái khố phải chia nhau mà mặc. Các bạn trẻ có lẽ không biết cái khố là gì. Tôi tuy không già lắm nhưng hồi còn trẻ ở nhà quê cũng đã được nhìn thấy những người mặc khố (ngôn ngữ nông thôn gọi là đóng khố thay vì mặc khố). Nó gần giống như một quần xi-líp, nghĩa là rất ít vải, tác dụng duy nhất của nó chỉ là để che hậu môn và bộ phận sinh dục.

Một hôm, giữa lúc cha đang đóng khố, Chử Đồng Tử đang trần truồng bên bờ sông thì một công chúa được lính hầu kiệu tới. Chử Đồng Tử hốt hoảng không biết trốn đâu bèn chui đại xuống bãi cát, lấy cát phủ lên mình. Không biết anh ta thở cách nào nhưng anh ta tự chôn khá kín, công chúa cũng như lính đều không thấy. Sự tình cờ đã khiến công chúa chọn ngay chỗ anh ta vùi mình để quây phòng tắm. Công chúa cứ thoải mái múc nước gội lên mình, cho đến lúc giật mình nhận ra một chàng trai cường tráng lõa thể ngay dưới chân mình bởi vì trong lúc xối nước cô đã làm trôi di lớp cát phủ trên thân Chử Đồng Tử. Thế là một đôi trai gái trần truồng gặp nhau trong mt phòng kín. Công chúa như thế đã bị coi như mất trinh tiết với Chử Đồng Tử, nhà vua chỉ còn cách cho hai người kết hôn, và Chử Đồng Tử trở thành phò mã. Câu chuyện này rất vui, bởi vì nó vừa là một chuyện tình vừa là một câu chuyện của sự may mắn, một chàng trai đánh cá nghèo khổ tình cờ lấy được công chúa. Chuyện thứ ba là chuyện Lưu Bình - Dương Lễ. Đây vừa là một câu chuyện v tình bạn, vừa là câu chuyện lập thân. Không biết câu chuyện xẩy ra ở bên Tàu hay tại nước ta nhưng hình như người Việt nam nào cũng biết.

Lưu Bình và Dương Lễ là đôi bạn thân thiết. Sau một kỳ thi Dương Lễ đỗ, được ra làm quan và sống phú quí, trong khi Lưu Bình thi rớt. Lưu Bình đến thăm bạn và bị Dương Lễ sai lính cầm roi đánh đuổi một cách khinh bỉ. Tức quá, Lưu Bình về nhà quyết chí học cho đậu để rửa nhục. Đang lúc túng thiếu thì bỗng nhiên Lưu Bình gặp được một cô gái xinh đẹp và có tài sản, bằng lòng lấy Lưu Bnh và nuôi Lưu Bình ăn học. Hạnh phúc làm con người trở thành thông minh và chuyên cần, khóa sau Lưu Bình đỗ cao và trở thành quyền quí. Lúc đó Lưu Bình mới mời Dương Lễ tới nhà mình để chứng kiến sự giàu sang của mình, với dụng ý làm cho Dương Lễ phải xấu hổ vì sự bội bạc ngày xưa. Nhưng cuộc gặp gỡ này chỉ là dịp để Lưu Bình khám phá ra rằng vợ mình thực ra là một tì thiếp của Dơng Lễ, được gởi tới để giúp Lưu Bình ăn học. Dương Lễ đã giúp bạn một cách khôn ngoan, vừa làm nhục bạn để kích thích ý chí, vừa giúp phương tiện để bạn học thành công. Câu chuyện này đẹp và có giá trị giáo dục nên tôi được nghe kể khá nhiều lần và lần nào cũng thích thú lắng nghe dù đã thuộc lòng.

Chuyện thứ tư là một chuyện đã sử. Đó là câu chuyện Thị Lộ, còn gọi là chuyện rắn báo thù và liên hệ đến cái chết bi thảm của Nguyễn Trãi, một khai quốc công thần có công phò Lê Lợi đánh đuổi quân Minh giành độc lập cho nước ta và cũng là nhà tư tưởng chính trị lớn của nước ta. Sau khi giúp vua lấy lại được đất nước, Nguyễn Trãi được phong đứng đầu trăm quan, rời sau đó cáo quan về quê.

Khi về hưu, Nguyễn Trãi ra lệnh cho gia nhân dọn sạch khu vườn bấy lâu bị bỏ hoang nên đầy bụi rậm và cỏ đại. Đêm trước ngày khởi sự, Nguyễn Trãi nằm mơ thấy một con rắn biết nói tới xin ông hoãn lại việc dọn vườn vì nó mới sinh con nhỏ nên chưa thể đi ngay chỗ khác được. Cho là chuyện mộng mị vớ vẩn, Nguyễn Trãi không để ý tới và cũng chẳng nói với ai. Ngày hôm sau gia nhân dọn vườn và trình với ông đã thấy một ổ rắn, họ đã giết được bày rắn con nhưng rắn mẹ chạy thoát, họ chỉ chặt được một khúc đuôi. Tối hôm đó Nguyễn Trãi đang nằm đọc sách thì một giọt máu từ nóc nhà nhỏ xuống ngay cuốn sách thấm ba trang. Đó là máu của con rắn mẹ đã leo lên nóc nhà.

ít lâu sau Nguyễn Trãi gặp Thị Lộ, một cô gái trẻ vừa xinh đẹp vừa giỏi thơ văn, ông bèn lấy làm thiếp và rất chiều chuộng. Một hôm, vua Lê (đây là Lê Thái Tông, con của Lê Lợi tức Lê Thái Tổ) du hành qua đấy bèn ghé thăm Nguyễn Trãi và ngủ đêm tại nhà ông. Thấy Thị Lộ xinh đẹp, vua bèn bảo Nguyễn Trãi để Thị Lộ ngủ với mình. Đêm hôm đó, không biết vua say sưa hoan lạc với Thị Lộ thế nào mà chết, Nguyễn Trãi bị buộc tội giết vua v bị giết cùng với cả họ hàng ba đời. Lúc đó người ta mới hiểu Thị Lộ chính là hồn ma của rắn mẹ hiện hình làm gái để báo thù Nguyễn Trãi, và giọt máu thấm ba trang giấy là điềm báo trước Nguyễn Trãi sẽ bị tru di tam tộc.

Câu chuyện này tuy thương tâm, nhưng có sức hấp dẫn đặc biệt. Nó ly kỳ và ma quái, hơn nữa nó lại là chuyện về rắn, con vật vừa kinh dị vừa quyến rũ.

Bây giờ, các bạn đã được giải khuây rồi tôi xin thưa một điều. Đó là những câu chuyện bề ngoài rất vô hại, và đôi khi còn có tính giáo dục, cũng có thể chuyên chở những giá trị rất độc hại. Càng độc hại hơn nửa khi chúng là những câu chuyện bà kể cho cháu, vì chúng ta tiếp thu một cách ngây thơ, vô tình và không cảnh giác. Những câu chuyện như thế tiếp thu ở tuổi thơ ngây đã là những dấu ấn đầu tiên trong trí tuệ và khiến chúng ta chấp nhận một cách thụ động, không bàn cãi những giá trị thực ra có tác dụng quan trọng đối vi xã hội và con người.

Cả bốn câu chuyện này không vô tư như chúng ta tưởng, chúng đều có tác dụng truyền bá những giá trị cũng cố cho một trật tự có sẵn: quyền lực tuyệt đối của vua, lý tưởng nô dịch của kẻ sĩ, và thân phận thấp kém của phụ nữ.

Phù Đổng là một vị thần chứ không phải là một con người. Sinh ra được ba năm mà vẫn nằm im, rồi vươn vai một cái mà cao đến mt trượng, rồi cưỡi ngựa sắt, một mình đánh tan giặc, rồi lên núi về trời. Một vị thần như vậy mà cũng phò vua thì chắc chắn vua phải là trời, và đã là trời thì dĩ nhiên quyền lực của vua phi tuyệt đối. Chuyện Thánh Gióng là một câu chuyện bịa đặt, có thể dựa trên một sự kiện có thực nhưng rất khác, trong mục đích đặt nền tảng cho chế độ quân chủ chuyên chế. Ngày nay trong nưc đang có một khuynh hướng khai thác chuyện Thánh Gióng cho một mục đích chính trị đúng đắn, lấy gương Thánh Gióng cao thượng sau khi dẹp xong gic đã bỏ đi để nhắc nhở đảng cộng sản và phê phán thái độ lì lợm khư khư giữa lấy quyền lực của họ. Tôi rất ngờ vực tác dụng của cuộc vận động này. Ví những chiến công của đảng cộng sản với Thánh Gióng là nhìn nhận rằng những cuộc chiến mà đáng cộng sản khởi xướng và điều động có chính nghĩa và có ích cho dân tộc. Điều này không hiển nhiên, nhưng không phải là điều tôi muốn bàn. Điều tôi muốn bàn là sự thiếu sức thuyết phục của lập luận. Tại sao lại phải bỏ ra đi sau khi đã lập công? Tại sao không ở lại tiếp tục giúp nước? Thực ra chúng ta không có quyền đòi đảng cộng sản phải ra đi chúng ta chỉ đòi họ ra đi khi không còn được nhân dân chấp nhận nữa. Chỉ có cuộc bầu cử tự do mới cho thấy nhân dân còn muốn họ ở lại hay không.

Tại sao một công chúa, chỉ vì vô tình nhìn thấy một thanh niên khỏa thân mà lại có thể bị coi là mất tiết hạnh? Một công chúa mà còn như vậy thì một cô gái con nhà thứ dân ra sao? Số phận người phụ nữ sao mà rẻ rúng thế! Câu chuyện Chử Đồng Tử không vô tư, nó có mục đích cũng cố sự thống trị của nam giới trên nữ giới, đồng thời nó cũng có mục đích tôn vinh quân quyền. Lấy công chúa được coi là diễm phúc lớn nhất của đời người. Bất luận công chúa tuổi tác nhan sắc, đức hạnh ra sao. Trẻ em Việt nam bị đầu độc nặng đến nỗi không có đứa nào đặt câu hỏi thế Chử Đông Tử có bằng lòng lấy công chúa không?. Câu chuyện không phải chỉ có mục đích giải trí, nó còn có dụng ý giáo dục.

Người vợ của Lưu Bình sau này sẽ tiếp tục là vợ Lưu Bình hay sẽ về với chồng cũ là Dương Lễ. ở với Lưu Bình thì sẽ không còn được quí trọng vì đã qua tay Dương Lễ, nghĩa là đã ô u rồi, mà về với Dương Lễ cũng không xong bởi vì cũng đã chung sống với Lưu Bình. Thân phận tì thiếp lầm lũi là lối thoát hợp đạo lý duy nhất cho cô. ở cương vị tì thiếp, cô có thể bị trao đi một cách rất phải đạo như một vật dùng. Cái chữ trinh mà đàn ông bắt đàn bà phải tôn trọng như tính mạng chính họ lại chà đạp lên một cách thản nhiên. Nhưng chuyện Lưu Bình - Dương Lễ không phải là chuyện trai gái mà là chuyện quan trường. Nó cho thấy mộng đời duy nhất của thanh niên là thi đỗ để làm quan. Không làm quan thì không là gì cả, còn hễ làm quan thì có tất cả, nhà cao cửa rộng, thê thiếp đầy đàn. Cái lý tưởng mà đứa trẻ được nhồi sọ ngay lúc ra chào đời là cố học để làm quan, là trong sách có gái đẹp. Sách thánh hiền thật là cao quí!

Câu chuyện Lưu Bình - Dương Lễ còn chứa đựng cả một quan niệm về công quyền, đó là quan niệm chức quyền thay vì chức trách. Chức vụ là một địa vị cho phép thụ hưởng chứ không phải là một trách nhiệm. Lưu Bnh cũng như Dương Lê chỉ mới đậu xong và ra làm quan đã lập tức trở thành giàu sang, phú quí. Đằng sau câu chuyện có mục đích giáo dục đó là cả một văn hóa tham nhũng. Còn chuyện Thị Lộ? Câu chuyn này chắc chắn là một sự bịa đặt của triều đình nhà Lê để dùng sự huyền bí chạy tội ác man rợ tàn sát cả ba họ một khai quốc công thần. Nhưng nó cũng có tác dụng bình thường hóa bản cht thô bạo của văn hóa Khổng Giáo. Thị Lộ là phụ nữ và đã là phụ nữ thì nhân phẩm của bà không đáng kể. Bà là thiếp của Nguyễn Trãi, nhưng vua muốn thỏa mãn nhục dục bà cũng phải tuân theo. Ci chữ tiết trinh được đề cao như đạo lý tuyệt đối của phụ nữ cũng phải dừng lại trước đòi hỏi của nhà vua: ở đây người đàn bà còn bị ví với rắn độc. Thật là tàn nhẫn, người phụ nữ Việt nam không những chỉ bị chà đạp, khinh bỉ mà còn bị thù ghét.

Còn Nguyễn Trãi? Vị đệ nhất công thần này từng nằm gai nếm mật cạnh Lê Lợi, bố của Lê Thái Tông, cũng phải nộp người yêu của mình cho một thằng bé bằng tuổi con mình hành lạc ngay tại nhà mình, không chừng còn phải lạy tạ ơn mưa móc và dọn giường chiếu cho nó. Và khi không may vua vì quá đê mê mà chết thì bị kết tội và bị giết cả ba họ. Vua là trời, quần thần không là gì cả. Một ông quan, nghĩa là một kẻ sĩ may mắn thành đạt, dù tài giỏi tới đâu đi nữa, dù chức phẩm cao tới đâu đi nữa cũng không hơn gì một con vật trước mặt vua, vua muốn nọc ra đánh vài chục trượng, muốn thiến, muốn giết bỏ tùy ý. Và muốn giết sạch cả cha mẹ, anh em, con cháu cũng được luôn. Vậy mà làm quan vẫn là giấc mơ của kẻ sĩ! Những đứa trẻ được nuôi dưỡng bằng những câu chuyện như thế làm sao lớn lên giữ được phẩm cách, làm sao tránh khỏi tâm lý vong thân?

Văn hóa của một dân tộc là toàn bộ những giá trị đã được chấp nhận và tạo ra cách suy nghĩ, hành động và ứng xử của dân tộc đó. Khi nhận định về văn hóa cá nhân của mình, chúng ta thường mắc phải một sai lầm rất lòn là đồng hóa văn hóa với kiến thức, trong khi kiến thức chỉ là một phần không quan trọng của văn hóa. Chúng ta có thể có những kiến thức rất sâu sắc về y học, điện tử, động nhiệt học, kế toán và cả triết lý nữa, nhưng văn hóa của chúng ta, nghĩa là cách sống, suy nghĩ, hành động và ứng xử của chúng ta vẫn theo một hệ thống giá trị có sẵn nào đó.

Và văn hóa có cách lưu truyền của nó. Một số giá trị ban đầu, nảy sinh do một bối cảnh xã hội đặc thù hay được kẻ cầm quyền áp đặt tạo ra một nếp sinh hoạt xã hội. Đến lượt nó, nếp sinh hoạt đó, với những thể hiện vật chất và tâm tính, điều kiện hóa con người, để rồi con người truyền lại cho nhau qua các thế hệ. Chúng ta tiếp thu một văn hóa lúc mới chào đời khi trí tuệ còn non nớt chưa có khả năng tự vệ, chúng ta chấp nhận những giá trị của văn hóa đó như những sự hiền nhiên không cần bàn cãi, bởi vì những giá trị đó không đến với chúng ta bằng lý luận. Chúng đến với chúng ta qua kiến trúc của làng xã, phố phường, bề rộng của những con đường, hình dạng của căn nhà, kích thước của cái cửa sổ. Chúng đến với chúng ta qua sinh hoạt gia đình và bằng hữu. Chúng cũng đến với chúng ta qua những cu chuyện bà kể cho cháu, cô giáo kể cho học trò. Nói chung, chúng thường đến một cách gián tiếp và giấu mặt khiến chúng ta chấp nhận một cách vô tình, chứ không đến một cách trực tiếp và lộ din để chúng ta có thể nhận định và chọn lựa. Chính vì thế mà một số người Việt nam có thể không hề nhìn thấy một lần trong đời cuốn Luận Ngữ và không biết gì về sử Trung Hoa mà vẫn thuộc văn hóa Khổng Giáo và vẫn là sản phẩm tinh thằn của Đông Chu Liệt Quốc. Một cách tương tự một người châu Âu dù chưa từng nghe nói tới Socrate, Plalon và chưa đọc một chuyện thần thoại Hy Lạp nào, vẫn bị ảnh hưởng nặng nề của văn hóa Hy Lạp và vẫn là đứa con tinh thần của Ulysse. Rất có thể là có những bạn đọc trẻ không hề biết tới một chuyện nào trong cả bốn câu chuyện cồ tích mà tôi vừa kề, nhưng không nhiều thì ít, và nhiều chứ không ít, các bạn vẫn chịu ảnh hưởng của những giá trị mà chúng chuyên chở, bởi vì các giá trì ấy đã được môi trường sinh sống và những người đã tiếp thu chúng trước truyền lại cho các bạn. Tôi thường được nghe nhiều vị phân vân nếu bỏ văn hóa truyền thống thì chúng ta còn lại gì, chúng ta có mất mát lớn hay không. Xin quí vị yên lòng, quí vị dù muốn cũng không bỏ được đâu. Chính tôi, một người phê phán gay gắt Khổng Giáo, tôi ván là một sản phẩm của Khổng Giáo. Một văn hóa cố sức sóng dai dẳng khó tưởng tượng nỗi của nó. Nếu thay đổi một nền ván hóa là việc dễ dàng thì bộ mặt thế giới đã khác hẳn, đã không có những quốc gia có lợi tức bình quân trên mỗi đầu người lớn gấp một trăm lần nhiều quốc gia khác.

Văn hóa quyết định tổ chức xã hội, và tổ chức xã hội quyết định chỗ đứng và sự hơn kém của các dân tộc. Chế độ cộng sản không phải là một sự ngẫu nhiên của lịch sử. Nó thành công và tồn tại được mà không gặp sự chống trả đáng lẽ phải có bởi vì nó chỉ là sự kết tinh của nhưng giá trị nền tảng của xã hội ta.

Tôi sinh sống bằng nghề kỹ sư cố vấn. Nghề nghiệp của tôi thường cho tôi cơ hội để thậm định giá trị của các hệ thống quản trị bằng tin học. Kinh nghiệm cho thấy chỉ có hai nguyên nhân đưa tới một hệ thống tin học dở: một là máy (hardware) dở, hai là các chương trình (software) được đặt vào máy dở. Cũng thế, khi một quốc gia lạc hậu và thua kém thì chỉ có hai giả thuyết: một là con người tồi, hai là văn hóa tồi.

Nhưng con người của ta không tồi, chúng ta khá thông minh và chúng ta cũng rất chăm làm. Vậy thì cái gì khiến chúng ta không vươn lên được nếu không phải là vì văn hóa của ta độc hại? Muốn vươn lên chúng ta phải thay đổi văn hóa, nghĩa là các giá trị nền tảng. Nhưng đây lại là một việc rất gian lao vì, xin nhắc lại một lần nữa, văn hóa có sức sng rất dai dẳng. Nếu quả quyết và dứt khoát thì cũng chưa chắc gì sau 50 năm nữa chúng ta đã thay đổi được. Nếu lại còn lưỡng lự tiếc nuối thì không biết đến bao giờ. Thế kỷ 20 đối với chng ta đã là một thế kỷ của canh tân, nhưng chúng ta chưa đi đến đâu trên lộ trình canh tân, bởi vì chúng ta tuy đã thấy được sự lạc hậu của các giá trị cũ nhưng lại không muốn chấp nhận những giá trí mới. Cái gốc của chúng ta dở nhưng chúng ta lại sợ mất gốc. Chúng ta như người ra đi nhưng không biết đi đâu, cho nên chúng ta không thể đi xa.

Thế giới đang nhỏ lại và các dân tộc đang đến gần nhau.

Không có những giá trị phương Đông và những giá trị phương Tây, chỉ có nhưng giá trị tốt và nhưng giá trị có hại. Những giá trị tốt là hòa bình, tự do, dân chủ, bình đẳng, nhân quyền, nhà nước pháp trị, đối thoại, hợp lác, lợi nhuận, liên đới và môi trường. Những giá trị đó đã tạo ra sức mạnh của các nước phương Tây. Chúng không phải là những giá trị của phương Tây mà là những giá trị phổ cập của loài người, có sẵn trong mọi dân tộc và mọi nền văn minh, nhưng chỉ gần đây mới có một số ít dân tộc triệt để phát huy chúng và trở thành giàu mạnh hơn hẳn phần còn lại của thế giới.

Đến đây tôi xin khẩn khoản thưa với độc giả đôi lời tha thiết. Tất cả người Việt chúng ta, dù ở trong hay ngoài nước, dù ở lứa tuổi nào vẫn còn bị nhiễm độc rất nặng nề vì nền văn hóa Khổng Mạnh được du nhập vào nước ta với cái nội dung còn tồi tệ hơn nguyên bản của nó tại Trung Quốc. Xin chớ vội nghĩ rằng tư tưởng của chúng ta đã hoàn toàn đổi mới. Cái di sản văn hóa hai ngàn năm đó vẫn khống chế chúng ta. Chúng ta phải ý thức điều đó thì mới có hy vọng rũ bỏ được nó để bay bỏng và tiến xa. Một bệnh nhân không biết mình mắc bệnh thì không thể chữa bệnh.

Chương thứ :64 "

Tôi không phải là một nhà khảo cổ hay một nhà nhân chủng học. Kiến thức của tôi về nguồn gốc con người chỉ rất sơ sài. Một vài hiểu biết của tôi về vấn đề này có được do một sự tình cờ. Tôi có hai con nhỏ và hàng năm vào mùa hè chọn đi nghỉ tại thị xã Menton trên bờ biển Địa Trung Hải miền Nam nước Pháp, giáp ranh với nước ý. Thị xã Menton này là một thành phố rất dễ thương, nóng suốt mùa hè, rất ít khi có mưa. Trong suốt sáu mùa hè liên tiếp, tôi chưa bao giờ bị một trận mưa nào trong lúc nghỉ hè, có nghĩa là được tắm biển mỗi ngày. Đó là một điều rất quan trọng. Ngày hè ngắn ngủi, mất ngày nào là uổng ngày đó. Menton lại có một vũng biển rất tốt, kín gi và hầu như không có sóng, các con tôi có thể bơi lội an toàn Hai dứa rất thích Menton và hàng năm cứ đến gần tháng bảy là chúng nô nức rạo rực chờ đợi đi Menton. Menton là một thành phố dành cho trẻ con và người già. Thanh niên rất ít đến đây vì không nhộn nhịp như các bờ biển khác, Saint Tropez, Saint Maxime, Nice, Cannes chẳng hạn. Nhưng cái duyên của Menton cũng là ở chỗ đó. Thành phố yên tĩnh, khang trang và lịch duyệt. Dân ở đây phần lớn là người giàu có đã về hưu, họ lịch sự và hòa nhã.

Nhưng Menton còn có một đặc điểm khác mà tôi rất thích. Menton có nhiều lịch sử. Chung quanh Menton có nhiều hang động mang vết tích con người từ vài chục ngàn năm (tại nước ta những dấu vết về sự sống của con người không quá mười ngàn năm). Đi về hướng Bắc một chút có Vallée des Merveilles trong đó người ta còn thấy những vách đá có chạm trổ những tranh vẽ thô sơ của con người cách đây cả chục ngàn năm. Mỗi lằn đứng trước những chạm trồ tôi đều có một xúc cảm lớn, tưởng chừng như những con người đó còn đâu đây ngay gần sát với mình.

ở Menton người ta cũng đào được một hài cốt một người đã chết cách đây trên mười ngàn năm nhưng còn nguyên vẹn. Đây quả là một kỳ quan. Xác người này rất đẹp. Đó là một người đàn ông cao độ 1,80 mét, một chiều cao phi thường vào thời đại đó, khi chiều cao trung bình của con người chỉ vào khoảng 1,40 mét. Không biết hồi đó kỹ thuật ướp xác đã cao đến mức nào, hay chỉ do một sự tình cờ, nhưng xác còn nguyên vẹn, còn nguyên cả da thịt dù đã khô lại. Xác nằm cong queo, hình như là do cách bố trí chôn cất thời đại đó, đầu đội mũ làm bằng những vỏ óc nhỏ xiên thành từng chuỗi, cái mũ cũng còn nguyên vẹn. Xác này được đặt ngay chính giữa viện bảo tàng tiền sử, một kiêu hãnh của thành phố Menton.

Trong viện bảo tàng này có rất nhiều dụng cụ và di tích từ vài trăm ngàn năm, và nhiều cảnh sinh hoạt được các nhà khảo cổ dựng lại giúp ích cho những người thường như tôi hiểu người xưa đ sống như thế nào. Trên tường lại có cả những bản chỉ dẫn tóm lược về diễn biến của trái đất kể từ ngày khai thiên lập địa. Đặc sắc hơn, có một phòng chiếu phim tân kỳ với đủ mọi loi phim tài liệu có tính giáo dục. Khách vào thăm viện bảo tàng chỉ cần bấm một cái nút vào bên cạnh tên một phim là sau đó được bình thản ngồi xem những phim tài liệu về nguồn gốc con người. Năm nào tới Menton tôi cũng vào thăm viện bảo tàng trên dưới mười lần và say sưa xem những phim ảnh đó. Có những phim đã xem mấy chục lần vẫn chưa biết chán.

Qua những phim ảnh đó và những dấu tích của viện bảo tàng tôi được biết là khoảng mười lăm triệu năm trước đã xuất hiện các loài khỉ lớn, thủy to của loài người. Nhưng sau đó, trong mười triệu năm người ta không còn tìm thấy một vết tích nào về sự sống của các loài khỉ này cả. Cái gì đã xảy ra? Có thể chẳng có gì là đặc biệt cả các loài khỉ vẫn sống và tiếp tục tiến hóa những người ta đã không tìm ra vết tích. Cũng cần phải nói là các dấu tích chấm phá được rất rời rạc, sự mất dấu tích có thể chỉ là tình cờ. Nhưng từ năm triệu năm gần đây, người ta lại tìm thấy dấu tích của một số loài khỉ lớn, và lần này với một thay đổi nhỏ: bàn tay của một loài trong các loại đã nhân đã dài ra, bốn ngón tay trước nhô ra đằng trước trong khi ngón tay cái thụt về phía sau. Tại sao? Không có ai có thể giải thích một cách rõ ràng. Rất có thể là, do điều kiện sinh sống, có những loài khỉ đã tìm được lá cây và trái cây ngay sát mặt đất và tiếp tục bò đi kiếm ăn, nhưng cũng có những loài khỉ đã phải đu cây thường xuyên, và kết quả của mười triệu năm đánh đu đó là hình dạng bàn tay thay đổi. Sự thay đổi tình cờ và nhỏ bé này đã có hậu quả vô cùng lớn là tạo ra giống người và thế giới con người. Do sự sắp xếp bàn tay mới mà lần này khi bàn tay nắm lại, ngón tay cái trở thành đối diện với bốn ngón kia tạo ra một sức nắm chắc và mạnh hơn hẳn so với một bàn tay mà cả năm ngón đều ở gần cùng một mức. Sức nắm này tạo ra một khả năng mới: con người có thể dùng đụng cụ và dần dần biết dùng dụng cụ, rồi với thời gian biết tìm cách cải tiến dụng cụ. Sự suy nghĩ bắt đầu, từ đó khối óc mở mang ra. Hơn nữa, có lẽ cũng do mười triệu năm đánh đu mà con người thẳng ra, dần dần biết đứng, biết đi. Hai bàn tay được giải tỏa, không cần phải dùng cho việc di chuyền nữa, để dùng hoàn toàn vào việc sử đụng dụng cụ. Trí óc lại càng mở mang. Và sau đó, cách đáy khoảng hai triệu rưỡi năm, giống người thực sự xuất hiện. Các nhà bác học về khảo cổ ước lượng con người xuất hiện cách đây khoảng ba triệu hay hai triệu rưi năm tại châu Phi, vào lúc đã biết chế tạo những dụng cụ đầu tiên bằng đá, rồi từ châu Phi mà tỏa ra châu Âu và châu á.

Giả thuyết về nguồn gốc con người này - dầu sao cũng chỉ là một giả thuyết dù nó được tất cả mọi nhà bác học chấp nhận - nhắn nhủ chúng ta, tất cả loài người, cần có một thái độ khiêm tốn. Chỉ nhờ một biến đổi rất chi tiết và rất vô tình của cấu trúc bàn tay mà có loài người văn minh. Nếu không, có lẽ chúng ta vẫn chỉ là loài khỉ lom khom hái lá mà ăn trong rừng núi. Nếu không, chúng ta cũng đã chẳng có các tín ngưỡng, thượng đế, máy điện tử, xe hơi, máy bay, những tư tưởng lớn và Intemet. Đồng thời nó cũng cho ta một nhận định: một biến cố rất nhỏ bé và tình cờ lúc ban đầu có thể có khả năng với thời gian dán tới những thay đổi thật vĩ đại.

Như chúng ta sẽ thấy trong những trang sau, lịch sử của sự phát triển của những nền văn minh rất huy hoàng cũng khởi đầu bằng những sự kiện rất tình cờ.

Đoạn này là một dẫn nhập có mục đích chuẩn bị tinh thần cho một cuộc thảo luận chi tiết về hiện tượng phát triển, đặc biệt là phát triển kinh tế, ở nhưng trang sau. Nhưng ngay bây giờ ta có thể làm một con tính nhẩm. Loài người xuất hiện cách đây ba triệu năm, nền văn minh công nghiệp mới xuất hiện từ khoảng 300 năm nay tại một vài nước. Như vậy nếu đem so sánh cả quá trình tiến triển ba triệu năm của loài người với một năm thì hiện tượng phát triển chỉ mới bắt đầu vào hỏi 23 giờ 59 phút ngày 31tháng 12, phút cuối cùng của năm.

Phát triển như vậy là một hiện tượng rất mới và cũng chỉ giới hạn trong một sổ quốc gia nhỏ do một vài yếu tố mà dân tộc Việt nam, cũng như mọi dân tộc còn lạc hậu và đang ao ước phát triển, cần nhìn rõ để chụp bắt.

Chương thứ :65 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :66 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :67 "

(Hành hương về cội nguồn của phát triển và phồn vinh)

Vượt lên lên mọi đam mê chính trị, thảm kịch của chúng ta ngày nay là một sự tụt hậu đầy hổ nhục cho mọi người Việt nam dù thuộc quá khứ nào hay theo khuynh hướng nào. Mọi cuộc đấu tranh chính trị đều là vô nghĩa nếu không nhắm mục đích sau cùng là đưa đất nước tiến lên và cũng vô nghĩa nếu không biết con đường nào sẽ đưa đất nước đi lên.

Điều chúng ta cần nhắc lại một lần nữa là hiện nay, trên thềm thế kỷ 21và thiên niên kỷ thứ ba, phát triển là một hiện tượng rất mới và chỉ giới hạn trong một số rất ít quốc gia, nhờ một số điều kiện rất đặc biệt mà ta cần quan sát.

Tôi xin mời độc giả làm một cuộc du lịch thăm viếng một số nước, nơi hiện tượng phát triển đã xuất hiện trước tiên và một cách ngoạn mục. Đây là một cuộc thăm viếng có hướng dẫn, rất nhanh chóng và có chủ đích. Chúng ra sẽ chỉ quan sát nhưng gì giúp chúng ta tr lời câu hỏi tại sao họ đã phát triển?. Cuộc tham quan này tuy vội vã nhưng vẫn thật thà, không giấu giếm. Những gì không được quan sát sẽ không phản bác kết luận mà chúng ta sẽ rút ra. Đây là một cuộc hành hương về cội nguồn của hiện tượng phát triển để tìm hiểu. Chúng ta sẽ thành công nếu vào một lúc nào đó ánh sáng bỗng dưng bng lên và chúng ta vui mừng thốt lên: Hiểu rồi, thì ra thế!.

Hiện tượng phát triển trên qui mô quốc gia đã xuất hiện hầu như cùng một lúc tại châu Âu và Hoa Kỳ. Châu âu đi trước một chút và pht triển nhanh chóng hơn trong giai đoạn đầu. Nói là châu Âu nhưng thực ra, nếu muốn chính xác hơn, phải nói là Hòa Lan và Anh, các nước khác đã chỉ bị, hay được, lôi kéo theo. Một cách vắn tắt, có thể nói thế kỷ 17 đã là thế kỷ Hòa Lan, thế kỷ 18 là thế kỷ Anh, từ thế kỷ 19 Hoa Kỳ lên ngôi bá chủ hoàn cầu. Cũng từ nửa sau thế kỷ 19, Nhật Bản vươn lên mạnh mẽ dù chưa bao giờ đạt tới sức mạnh của Hoa Kỳ. Viết tới đây tôi sợ bị một số học giả chê là quá sơ sài, vì thực ra hiện tượng phát triển vốn đã có từ trước với các thành phố buôn bán. Venice (ý) ngay từ thế kỷ 12 đã đạt tới một sức mạnh kinh tế, chính trị và cả về quân sự rất huy hoàng. Antwerpen (Bỉ) từ thế kỷ 15 đã trở thành trung tâm thương mại số một của thế giới. Nhiều thị trấn khác trong vùng biển Baltic băng giá, một Địa Trung Hải của Bắc Âu, cũng đã trở nên rất phồn thịnh trong cùng một thời điểm. Nhưng tất cả những thành tựu ngoạn mục này, ngay cả trường hợp Venice, chỉ là những ốc đảo phồn vinh cô lập. Điều tôi muốn nhận định ở đây là hiện tượng phát triển lên qui mô quốc gia. Sẽ là một sự lố bịch, có thể nói là một sự xúc phạm đối với trí tuệ, nếu muốn tóm tắt lịch sử phát triển của Hòa Lan, Anh, Hoa Kỳ và Nhật Bản trong một vài trang giấy. Mục đích ở đây là tìm ra cái gì đã làm nảy sinh ra phát triển và sau đó đã duy trì được đà phát triển. Xin nói ra ngay rằng kết luận sẽ chẳng có gì thực sự độc đáo. Điều quan trọng là sau đó chúng ta thực sự tin. Và niềm tin là tất cả, nó sẽ tránh cho chúng ta những hoang mang, bối rối và lạc lối trong những biện luận mông lung. Chúng ta đang rất cần niềm tin đó.

Bây giờ, xin mời độc giả khởi hành.

Chương thứ :68 "

Cho tới giữa thế kỷ 16, quyền lực tại châu Âu tập trung về phía Nam, với Tây Ban Nha làm bá chủ. Đế quốc của Charles Quint, trong đó Tây Ban Nha vượt trội nhất, bao phủ gần hết châu Âu và cả miền đất rộng lớn vừa khám phá ra, nghĩa là châu Mỹ. Nhưng đột nhiên vào giữa thế kỷ 16, năm 1568, châu Âu rung động vì cuộc nổi dậy tại Hòa Lan. Càng ngạc nhiên hơn nữa vì đất nước nhỏ bé này đã kháng cự thắng lợi trước sức mạnh của quân lực Tây Ban Nha hùng hậu trong hơn bốn mươi năm, trong một cuộc chiến được mệnh danh là chiến tranh cho tự do, buộc Tây Ban Nha phải ngừng chiến, chấp nhận thực tế của sự ly khai và sau đó ký thỏa ước Den Haag chính thức nhìn nhận Nước Cộng Hòa Hòa Lan. Từ đó Hòa Lan, với không đầy mười triệu dân, tiếp tục tiến lên mạnh mẽ, trở thành siêu cường số một của thế giới trong thế kỷ 17. Cái gì đã xảy ra?

Montesquieu (1681-1755), thủy tổ của lý thuyết tam quyền phân lập và lý thuyết những bất lợi tiên khởi, nhận định rằng người Bắc Âu đã bị thiên nhiên ngược đãi nên phải phấn đấu để tiến lên, và để tiến lên cần tự do, trong khi các dân tộc Nam Âu vì được thiên nhiên ưu đãi nên không cần phấn đấu và do đó dể chấp nhận cuộc sống nô lệ.

Max Weber (1864- 1920), dựa vào thành tựu của Hòa Lan, và của Anh và Mỹ sau đó, cho rằng phát triển là do ảnh hưởng của đạo Tin Lành năng động và cởi mở hơn đạo Công Giáo. Đi xa hơn nữa, Weber cho rằng chủ nghĩa tư bản là một sản phẩm của đạo Tin Lành. Karl Marx, thiên tài trong nghệ thuật lấy ý kiến của người khác làm khám phá của mình bằng cách nói ngược lại, cho rằng chính chủ nghĩa tư bản đã khai sinh ra đạo Tin Lành. Quanh quẫn vẫn chỉ là một ý: c một liên hệ mật thiết giữa một tôn giáo (Tin Lành) và phát triển.

Phải nghĩ gì về những giải thích này?

Dĩ nhiên dân tộc nào cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của điều kiện địa lý, nhưng lý thuyết những khó khăn tiên khởi rất khó đứng vững. Nếu bảo rằng nhờ bị thiên nhiên ngược đãi mà nhiều dân tộc đã phải phấn đấu, rồi nhờ đó tiến lên thì rất khó giải thích tại sao nước Mỹ, với tài nguyên bao la và điều kiện sinh sống dễ dãi, đã vươn lên mạnh mẽ? Ngược lại, một số dân tộc khác như Mali, Ethiopia, Bangladesh lạc hậu cùng cực và bị coi là tuyệt vọng chính vì thiếu tài nguyên thiên nhiên. Các giải thích của những nhà nghiên cứu về điều kiện thiên nhiên thường rất mâu thuẫn. Có khi cùng một sự kiện được sử dụng cho hai giải thích hoàn toàn trái ngược nhau: có lúc họ nói rằng nước Anh đã trở thành hùng mạnh nhờ than đá và sắt, có khi họ lại lý luận rằng nước Nhật đã phát triển vì người Nhật bt buộc phải sản xuất nhiều để xuất cảng lấy ngoại tệ mua nguyên liệu và nhiên liệu. Lý thuyết những khó khăn tiên khởi độc đáo ở chỗ nó vừa ngược đời vừa hùng hồn, nhưng không đúng. Tài nguyên thiên nhiên chắc chắn là có ảnh hưởng, và dĩ nhiên về lâu về dài có ảnh hưởng tốt, nhưng không thể giải thích tất cả.

Khí hậu cũng thường được viện dẫn như một lý do giải thích s phát triển, dựa vào nhận xét chung là các nước khí hậu lạnh thường phát triển hơn các nước nhiệt đới. Nhưng Nga và Mông Cổ (chưa nói dân Esquimo?) cùng có khí hậu rất lạnh mà tại sao không phát triển

Còn lý do tôn giáo? Chắc chắn là các dân tộc theo một tín ngưỡng tiêu cực coi cuộc đời không đáng sống và không đáng cải thiện, như ấn Độ và Tây Tạng, sẽ rất khó ra khỏi cảnh nghèo khổ nếu không thay đổi tâm lý, vì một lý do dễ hiểu là họ không coi nghèo khổ là một tai họa. Nhưng bảo rằng đó là do ảnh hưởng của đạo Tin Lnh thì phải trả lời thế nào về sự trỗi dậy ngoạn mục của Nhặt Bản?

Chắc chắn phải có một lý do căn bản hơn trong khi nhưng lý do khác như tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, tôn giáo chỉ là những biểu hiện ngoài mặt.

Từ thế kỷ 15, trung tâm quyền lực tại châu Âu dời về miền Nam, các vùng phía Bắc chung quanh Hòa Lan ít được quan tâm tới. Đó lại là vùng đất thấp, sình lấy và giá lạnh, cảnh trí chẳng có gì là hùng vĩ, thành quách lâu đài cũng khó xây dựng. Các vùng này ở trong một tình trạng đặc biệt: một mặt họ nằm dưới quyền lực của các triều đình lớn và không thể lập ra một chính quyền mạnh của mình mà không sợ búa rìu, mặt khác vì gần như bị bỏ quên nên họ phải tự tổ chức sinh hoạt riêng của mình. Công thức duy nhất và bắt buộc là cố gắng ùm ra đồng thun để sống yên với nhau, tránh mọi xung đột có thể lôi kéo sự can thiệp của triều đình Tây Ban Nha. Một xã hội tự do dân chủ dần dần thành hình với một chính quyền rất giản dị, người cai trị Hòa Lan không phải là một ông vua, cũng không phải là một lãnh chúa mà chỉ được gọi là một đại thường trú vì ông cư ngụ và làm việc ở tòa nhà được dựng ra để giải quyết các vấn đề hành chính tối cần thiết.

Nhưng người Hòa Lan cũng không thể có vinh quang được làm vương, làm tướng, họ chỉ còn một lý tưởng là làm giàu. Một thanh niên Hòa Lan lớn lên không thể nuôi mộng gì khác hơn là kinh doanh buôn bán thành công.

Một xã hội mới dàn dàn thành hình. Chính cái xã hội tự do dân chủ này, với một guồng máy chính quyền thật nhẹ và thu hẹp nhường không gian tối đa cho cá nhân, và trong đó mọi cá nhân theo đuổi lý tưởng làm giàu, đã thúc đẩy sáng kiến và cố gắng và tạo nên sự phồn vinh của Hòa Lan. Vào năm 1551, khi hoàng đế Charles Quint phong cho dòng họ Bourguignon 12 quận đất thấp phía Bắc (gồm Hòa Lan và Bỉ ngày nay), vùng đất này đóng thuế cho triều đình Tây Ban Nha một số tiền gấp bảy lần lợi nhuận quan trọng đem về từ toàn châu Mỹ. Hòa Lan đã phồn vinh hơn hẳn Tây Ban Nha. Mười bảy năm sau, họ nổi dậy tuyên bố rũ bỏ ách thống trị của mẫu quốc. Sức mạnh kinh tế và quyết tâm sống tự do đã khiến họ đẫy lùi được đạo binh hùng hậu của Tây Ban Nha.

Trái với nhận xét của Max Wteber, không phải đạo Tin Lành đã tạo ra sự phồn vinh của vùng đất thấp bao gồm Hòa Lan và Bỉ, bởi vì phần lớn của cải vẫn nằm trong tay những nhà kinh doanh theo đạo Công Giáo. ở một khía cạnh nào đó, có thể nói người Công Giáo còn năng động hơn cả người Tin Lành trong giai đoạn đầu. Nhưng dần dần do sự bách hại đạo Tin Lành tại Pháp, ý, Tây Ban Nha, những người Tin Lành đã di cư tới Bỉ và nhất là Hòa Lan để tị nạn. Họ là một đóng góp quan trọng cho sự phồn vinh của Hòa Lan, nhưng họ không phải là yếu tố quyết định nhất. Đóng góp quyết định nhất là những nghệ nhân, thợ khéo, thương gia di cư tới Hòa Lan để tránh những chính quyền độc tài khắc nghiệt. Không khí tự do dân chủ tại Hòa Lan đã giúp họ làm giàu cho mình và cho quê hương mới. Descartes (1596-1650), nhà toán học và tư tưởng ln bậc nhất của nước Pháp vào thời đại của ông, năm nào cũng phải tới Hòa Lan sống vài tháng để lấy hứng sáng tác trong không khí tự do, dù ông là người Công Giáo.

Chương thứ :69 "

Nước Anh, từ sau khi vua John Lack Land (Jean Sans Terre) ký Đại Hiến Chương (Magna Carta) năm 1215 nhìn nhận những quyền tự do lớn cho giới quí tộc, đã không còn là một nền quân chủ tuyệt đối trung ương tập quyền nữa. Sự áp bức vẫn còn nhưng là những áp bức của các lãnh chúa địa phương không đủ mạnh, phải dựa vào dân chúng, do đó cần người dân và phải tương đối nể nang người dân. Đặc điểm của Đại Hiến Chương là nó định chế hóa đối thoại chính trị, buộc nhà vua phải tham khảo với một nghị viên. Nó cũng nhìn nhận cả quyền nổi loạn chống bạo quyền. Cuộc cách mạng của Oliver Cromwell (1599-1658), năm 1649 giáng một đòn chí tử vào cả quyền lực lẫn danh giá của triều đình London (vua Charles I bị hành quyết và một thể chế cộng hòa ngắn ngủi được thành lập). Năm 1688, sau một cuộc cách mạng ngắn, các nguyên tắc tự do dân chủ được chính thức ban hành, mở đầu một giai đoạn phát triển huy hoàng. Sự hiện din của chính quyền từ đó trở nên giới hạn và ngay cả các giá trị cũng thay đổi. Làm quan tướng trong triều đình không vinh quang hơn là làm những phú nông, phú thương. Phải nói ngay rằng những thay đổi ngoạn mục này có rễ từ rất lâu đời. Thói quen sinh sống trong bối cảnh phóng khoáng đã đem lại cho người Anh, kể cả quí tộc, một tâm lý rất khác so với lục địa châu Âu. Họ không khinh thường những hoạt động sản xuất (có cả một huân tước được mang danh hiệu huân tước củ cải vì trở thành giàu có nhờ sản xuất và cỗ võ cho c cải đường). Cuộc sống hải đảo đã đem lại cho họ một tâm lý đặc biệt, phiêu lưu mạo hiểm nhưng lại không màng những đanh giá phù phiếm của quyền lực. Vả lại, cũng tương tự như trường hp Hòa Lan, họ vừa được các đế quốc hùng mạnh ở lục địa bỏ quên, vừa không thể xưng hùng xưng bá để tránh búa rìu. Sau này vào thế kỷ 18 trở đi khi họ đã tự nhận ra mình đã quá mạnh và đi chinh phục thế giới là một chuyện khác.

Nét đặc thù của nước Anh từ trước thế kỷ 17, khi hiện tượng phát triển bắt đầu xuất hiện một cách rõ rệt, là một không khí cởi mở, phóng khoáng v tự do. Nước Anh đã là nước dân chủ đầu tiên trên thế giới, trước rất lâu so với các nước khác. Tại sao? Đó là câu hỏi rất phức tạp m một cuốn sách vài trăm trang cũng không thể trả lời một cách đầy đủ, nhưng lý do chủ yếu có lẽ là địa lý. Đối với chúng ta ngày nay, Anh là một đảo nhỏ về diện tích, nhưng cho tới thế kỷ 16 đó là một lãnh thổ bao la đối với khoảng 3 hay 4 triệu dân. Cuộc sống tản mác trên một lãnh thồ phì nhiêu đồng đều đó không cho phép ra đời một chính quyền trung ương mạnh. Cuộc sống hải đảo biệt lập cũng không làm nảy sinh ra những tham vọng quyền lực điên cuồng. Thêm vào đó, những con người sống với biển cả và dám thách thức biển cả cũng không dễ chấp nhận cuộc sống phục tùng tuyệt đối của những kẻ nô lệ.

Cuộc sống thủy thủ cũng đã đem lại cho họ tập quán yêu thích buôn bán. Napoléon I có lần nhận định một cách không mấy nể nang rằng người Anh là một dân tộc bn tiệm (ùn peuple de boutiquiers). Ông đã lầm, người Anh không chỉ bán tiệm, họ là những thương gia có viễn kiến rất sớm. Ngay từ thế kỷ 15, họ đã thành lập nhiều công ty buôn bán có tầm vóc lớn. Một trong những công ty đó mang một tên đầy ý nghĩa Đồng Đội Của Những Nhà Mạo Hiểm Thương Mại Luân Đôn (Fellowship of the Merchant Adventurers of London). Cần ghi nhận mạo hiểm nhưng cũng cần ghi nhận đồng đội.

Người Anh có một đặc điểm là rất thích những kết hợp ngoài chính quyền, những kết hợp của những người cùng theo đuổi một mc đích và cùng chấp nhận một luật chơi. Chính họ đã phát minh ra các Club, mà hầu hết mọi ngôn ngữ khác đem dùng và chúng ta phiên âm là Câu Lạc bộ. Xã hội dân sự tại Anh xuất hiện rất sớm và phát triển rất nhanh, rất mạnh. Cho đến nay, tham gia các hội đoàn và Câu Lạc bộ vẫn là một nét đặc thù của người Anh. Tất cả những yếu tố đó đều là đặc tính của một sinh hoạt dân chủ. Ngưi Anh gieo hạt giống dân chủ một cách vô tình, rất lâu trước khi họ có tư tưởng dân chủ. Và họ cũng đều có tư tưởng dân chủ rất sớm. Vài dẫn chứng: Một nhà tư tưởng, Dudley North, viết năm 1691: Hòa bình, cố gắng và tự do, chứ không bất cứ một lý do nào khác, đem lại thương mại và giàu có và vai trò của luật pháp là đảm bảo hòa bình, công lý và khuyến khích các công nghệ bằng cách tôn vinh chúng. Vài năm sau, năm 1699, Charles Davenant (1656-1714), dân biểu Anh, viết: Tự do và phồn vinh đi cùng với nhau tay trong tay?

Lý do nào đã khiến một dân tộc vài triệu dân trên một hòn đảo vào thế kỷ 16 trở thành bá chủ hoàn cầu hai thế kỷ sau đó? Câu trả lời ở đây rất là hiển nhiên: một chế độ tự do dân chủ, nhà nước nhẹ, một xã hội dân sự năng động và lòng yêu thích thương mại. Nhưng điều cần được đặc biệt chú ý ở đây là bối cảnh tự do đã xuất hiện rất lâu trước khi sự giàu có ló dạng. Những hạt giống của tự do dân chủ đâm mộng, thành cây, rồi trổ hoa kết trái. Trái cây ở đây là sức mạnh và sự phồn vinh.

Chương thứ :70 đất nước của những con người tự do và dũng cảm "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :71 "

Người Việt nam sùng bái sự học một cách quá đáng và lệch lạc nên bất cứ một điều gì, dù sai tới đâu, mà đã được nhồi sọ ở trường học cùng trở thành một chân lý rất khó lay chuyển. Một trong những sai lầm lớn mà hầu như mọi người Việt nam, bất luận có bằng cấp nào, cũng tin một cách chắc nịch là nhờ vua Minh Trị sáng suốt biết canh tân kịp thời mà nước Nhật đã trở thành tân tiến và hùng mạnh. Tôi đã gặp không biết bao nhiêu trí thức tiếc rằng các vua Minh Mạng, Tự ức đã không được như Minh Trị, nếu không Việt nam chắc đã không thua Nhật Bản. Sự thực Minh Trị không hơn gì Tự Đức, và nước Nhật đã không tiến lên nhờ Minh Trị. Không những thế, còn có thể nói chính Minh Trị đã bẻ gãy, hay đúng hơn đã là dụng cụ để giúp đám quân phiệt bẻ gãy đà tiến hài hòa của Nhật Bản về tương lai. Cuối lộ trình Minh Trị là một cuộc chiến tự hủy, hai trái bom nguyên tử và một phần quan trọng của lãnh thổ bị mất. Minh Trị lên ngôi năm 1867, lúc mới 14 tuổi. Phải mê tín dị đoan mới có thể tin một cậu bé bằng ấy tuổi và được nuôi nấng trong hoàng cũng có thể có cả một dự án canh tân đất nước. Thực ra Minh Trị lên ngôi vào đúng lúc quyền bính nước Nhật rối loạn hoàn toàn, các sứ quân liên kết với nhau lật đổ và chấm dứt chế độ chúa công (shogun) được thiết lập từ thế kỷ 12 theo một mô hình tương đương như vua Lê chúa Trịnh tại nước ta. Lúc đó nước Nhật đã tiếp xúc với phương Tây từ hơn ba thế kỷ, từ năm 1543, nghĩa là cùng một lúc với Việt nam.

Vào thời điểm Minh Trị lên ngôi, nước Nhật đã thay đổi rất nhiều rồi, khác hẳn với Việt nam. Câu chuyện sau đây đủ nói lên mức độ phát triển của nước Nhật trước khi người phương Tây đến. Một người Bồ Đào Nha, tên là Pinto, đến nước Nhật vào khoảng cuối thế kỷ 16 đem theo một cây súng. Ông ta khoe hiệu lực của cây súng hơn hẳn những thanh kiếm của các hiệp sĩ Nhật, rồi cho mượn. Vài tháng sau, khi ông ta ra đi, người Nhật đã chế ra được 500 khẩu súng giống hệt như vậy. Hai năm sau trên toàn nớc Nhật có tới 300.000 khẩu súng Pinto. Kỹ năng của người Nhật đã tiến tới một trình độ rất cao ngay từ thế kỷ 16.

Các tài liệu của nước ta, cũng như phần lớn các tài liệu phiến diện của phương Tây mà ta sao dịch lại, đánh dấu sự mở cửa của Nhật về phương Tây từ năm 1853 (tức mưi bốn năm trước khi Minh Trị lên ngôi) khi phó đề đốc (comodore) Perry chỉ huy một đoàn chiến hạm Mỹ tiến vào cảng Đông Kinh đưa tối hậu thư buộc Nhật mở cửa khẩu cho tàu bè phương Tây, và Nhật nhượng bộ. Thực ra, một cách không chính thức, Nhật đã mở cửa cho phương Tây và đã tiếp thu rất nhiều kỹ thuật và phương pháp phương Tây từ ba thế kỷ trước rồi. Người Nhật đã quen với phương Tây và đã đủ tiến hóa để hiểu sức mạnh của phương Tây. Họ nhượng bộ vì hiểu biết chứ không phải vì nhát sợ. Họ đã quen sử dụng lịch phương Tây từ lâu, cho nên năm 1873 họ bỏ hẳn lch Tàu để chỉ dùng lịch Tây. Họ cũng đã mở những trường học về y khoa và khoa học cơ bản từ thập niên 1720, nổi tiếng nhất là Trường Hòa Lan (người Nhật quả nhiên biết chọn thày?). Năm 1744, họ xây một đài quan sát thiên văn với hai kính viễn vọng lớn. Từ năm 1810, họ tổ chức cả một cơ quan chuyên môn dịch sách khoa học kỹ thuật phương Tây. Ngày 7 tháng 1năm 1870, đúng ba năm sau khi Minh Trị lên ngôi, bức điện tín đầu tiên được đánh đi từ Tokyo.

Nước Nhật đã rất tiến bộ khi người phương Tây đến. Chính nhờ tiến bộ mà họ đã nhận thức được sự hơn hẳn của phương Tây và đã hấp thụ rất mau chóng các kỹ thuật phương Tây. Tại sao? Đó là nhờ một sự kiện ngoài chủ đích của mọi người. Xã hội Nhật do các lãnh chúa thống trị dựa trên giai cấp hiệp sĩ. Các lãnh chúa và các hiệp sĩ cực kỳ kiêu căng không thèm hòa trộn với dân chúng mà để mặc quần chúng tự tổ chức lấy cuộc sống của mình, miễn là nộp đủ thuế. Trong tình trạng ấy, quần chúng Nhật tuy ở sát nhưng thực ra lại sống rất xa giai cấp thống trị. Họ không thể tổ chức thành chính quyền nếu không muốn lãnh búa rìu và họ phải tìm cách sinh sống với nhau trong đồng thuận để tránh những can thiệp của bọn hiệp sĩ. Một cách tiệm tiến và thầm lặng, một sinh hoạt tự do đã hình thành giữa quần chúng với nhau, dưới sự giám sát từ xa của các lãnh chúa. Đó là lý do khiến xã hội Nhật đã phát triển, rồi chính sự phát triển này đã tạo ra áp lực buộc giới cầm quyền Nhật nhượng bộ dần dần.

ở đây, Nhật cũng không phải là một ngoại lệ. Nhật cũng đã phát triển nhờ tự do dân chủ, dù là tự do trá hình, dân chủ giấu mặt. Không hiểu được điều này là không hiểu phép mầu Nhật Bản, một phép mầu đã bắt đầu từ trước khi người phương Tây tới và đã gia tăng vận tóc sau đó. Minh Trị sau khi lên ngôi đã chỉ là một biểu tượng giúp cho đám quân phiệt tiêu diệt dần tự do dân chủ và đưa Nhật Bản đến bế tắc. Những năm cuối của triều đại Minh Trị còn là những năm đen tối cho nước Nhật: bành trướng quân sự, chiếm Đài Loan và Cao Ly, đàn áp đẫm máu ở trong nước. Khi Minh Trị chết, năm 1912, chế độ Nhật trở thành một chế độ độc tài quân phiệt thuần túy với hậu quả mà chúng ta đã thấy. Sau thế chiến II, Nhật bại trận, phải đầu hàng không điều kiện, chấp nhận một hiến pháp tự do do Hoa Kỳ áp đặt và giám sát, và nước Nhật lại vươn lên.

Chương thứ :72 "

Đến đây chúng ta đã xong một cuộc hành trình qua những kinh nghiệm phát triển. Chúng ta đã dừng chân ngắn ngủi tại các chặng đường Hòa Lan, Anh, Mỹ và Nhật. Cuộc hành trình vội vã này đã không cho phép chúng ta dừng lại ở một số phép mầu tại một số quốc gia khác.

Như Thụy Sĩ, quốc gia nhỏ bé và bị quên lãng trong nhiều th kỷ, không có bờ biển, không tài nguyên thiên nhiên, lại thêm núi non trùng điệp, vậy mà đã trở thành quốc gia giàu có nhất thế giới. Trong nhiều thế kỷ Thụy Sĩ đã là vùng đất không nước nào dòm ngó, nó đã thành đất dung thân của người Đức, người Pháp, người ý muốn xa lánh bạo lực và sự bất dung. Người Thụy Sĩ đã xây dựng với nhau một xã hội tự do dân chủ theo phương châm dĩ hòa vi quí. Và họ đã tìm được hạnh phúc. Đặc điểm của Thụy Sĩ mà mọi người đấu biết là có một chế độ dân chủ đi xa nhất trong mọi chế độ dân chủ: dân chủ trực tiếp ở một số địa phương. Hay như trường hợp của các nước Bắc Âu, Đan Mạch và Thụy Điển (cho tới gần đây Thụy Điển là nước có lợi tức bình quân trên mồi đầu người cao nhất châu Âu). Các quốc gia xa xôi băng giá và ít người này cũng ở trong thế chẳng ai để ý đến họ và họ cũng chẳng dám vênh váo thách thức với ai. Họ tổ chức với nhau một xã hội đng thuận và khiêm nhường, tôn trọng tự do và sáng kiến của mỗi người. Và họ đã là những quốc gia phát triển đầu tiên; như phần đầu bài này đã nói, vùng biển Baltic đã phát triển rất sớm.

Chương thứ :73 "

Điều ngạc nhiên và lý thể là dưới nhưng bề ngoài có vẻ rất khác nhau cùng một hiện tượng đã được lặp lại.

Hiện tượng diễn ra như sau: một cộng đồng quốc gia vào một lúc nào đó, do một tình cờ địa lý hay lịch sử, rơi vào một hoàn cảnh đặc biệt, quyền lực khống chế không quan tâm tới họ và để mặc họ sống với nhau. Một tổ chức xã hội mới đã dần dần hình thành với bốn đặc tính: một là vì không có chọn lựa nào khác họ đã tổ chức với nhau một chính quyền tối thiểu, thậm chí không chính thức, và sinh sống vi nhau theo qui luật tự nhiên của thị trường; hai là do không thể có tham vọng quyền lực, mọi người tập trung cố gắng làm giàu; ba là do chính quyền không can thiệp vào đời sống hàng ngày, người dân được hưởng một mức độ tự do lớn, do đó phát huy tối đa sáng kiến; bốn là thương mại được ưa chuộng và tôn vinh. Yếu tố thứ tư thực ra chỉ là một hậu quả của yếu tố thứ hai và nhất là thứ ba. Đã chủ tâm làm giàu và lại được tự do phát huy sáng kiến thì chắc chắn con người trở thành mạo hiểm, thích trao đổi và buôn bán. Chnh quyền nhẹ, tự do và dân chủ, kinh tế thị trường, ham mê làm giàu, trọng thương mại và cởi mở với thế giới bên ngoài là những yếu tố đem tới sự giàu có. Những yếu tố đó là nguyên nhân thc sự của phát triển, cho dù chúng xuất phát trong hoàn cảnh nào. Chúng ta có thể coi đó là một định luật đúng trong mọi trường họp. Ngay cả các thị trấn thương mại đã phát triển sớm nhất cũng không phải là ngoại lệ. Kiến thức của tôi rất nhiều giới hạn, nhưng nhưng kinh nghiệm phát triển mà tôi có dịp nghiên cứu, và tôi có cảm tưởng không bỏ sót trường hợp quan trọng nào, cho tôi một nhận xét là trong chiều sâu mọi phát triển trên phạm vi quốc gia đều có cùng một nguyên nhân, dù bề ngoài chúng có thể bộc lộ dưới một lý do đặc biệt: tôn giáo, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, v.v... Điều đáng lưu ý là thực ra nhiều chế độ độc tài hoặc thiếu dân chủ cũng đã nhận ra điều này. Đó là lý do khiến họ cho phép lập ra những khu chế xuất, vùng kinh tế đặc biệt, v.v... mà đặc tính là ở đó tự do được thả lỏng, các thủ tục được giảm nhẹ, sự hiện diện của chính quyền bớt lộ liễu. Các vùng này đều đã thành công và khiến nhiều kinh tế gia coi chúng như một giải pháp. Nhưng đây chỉ là một biện pháp nửa chừng. Nếu các khu chế xuất có lợi, tại sao không mở rộng cho cả nước?

Nét đậm nhất cần ghi nh sau những dòng này là, một mặt, xã hội tự do dân chủ kích thích cố gắng và cho phép con người phát huy tối đa khả năng của mình, và mặt khác, tự do dân chủ không đòi hỏi một điều kiện nào, nó phù hợp với mọi xã hội và mọi trình độ. Các dân tộc vươn lên đầu tiên đã tình cờ đạt tới tự do và dân chủ trong trường hợp đặc biệt. Ngày nay, đã hiểu được phúc lợi của tự do và dân chủ, chúng ta có thể cố ý tạo dựng tự do và dân chủ để vươn lên.

Kết luận trên đây có phải là hiển nhiên quá đến độ nhạt nhẽo không? Nếu được như vậy thì còn gì hơn, nhưng điều đáng buồn là không. Tôi đã quá nhiều lần được nghe từ miệng nhưng vị khoa bảng cao, kể cả những vị tự coi và được coi là những chuyên viên kinh tế, kể cả một số người hoạt động chính trị dưới danh nghĩa dân chủ, nói tới một trình độ dân trí tối thiểu để có dân chủ, hay tự do quá trớn, dân chủ quá trớn, hay dân chủ tự do có nguy cơ dẫn tới vô trật tự và hỗn loạn v.v... Những lúc đó tôi chua chát nhớ tới lời nói của một ông thầy tôi: Có bằng cấp chưa phải là có kiến thức và thực học.

Trước khi chấm dứt bài này, tôi thấy cần thêm hai chú thích. Một là, những dòng trên có thể khiến độc giả nghĩ tôi phản bác Max Weber. Sự thực là không, Weber là một trong những nhà lý luận về kinh tế và xã hội mà tôi ngưỡng mộ nhất. Những đóng góp của ông thật là to lớn. Nếu nhìn mặt trăng thay vì chỉ nhìn ngón tay chỉ mặt trăng thì ta thấy Weber nói đúng. Đạo Tin Lành chỉ là ngón tay mà thôi, điều mà Weber thực sự khám ph ra cho chúng ta là tầm quan trọng quyết định của văn hóa. Chính vì thế mà các quốc gia tự do dân chủ như nhau đã có những nhịp độ phát triển khác nhau vì văn hóa khác nhau. Phát triển, kể cả phát triển kinh tế, chủ yếu là do tâm lý con người, mà tâm lý con người là sản phẩm của văn hóa. ở thời đại mà Weber nghiên cứu, thời đại của các thế kỷ 16, 17 và 18, tôn giáo là yếu tố áp đảo của văn hóa. Văn hóa Tin Lành cởi mở, phóng khoảng, lấy đối thoại làm căn bản thay cho giáo điều, khuôn phép. Đó là một văn hóa tự do. Đạo Tin Lành đã đem lại phồn vinh (không ai có thể chối cãi là các dân tộc theo đạo Tin Lành tiến bộ hơn hẳn các dân tộc theo các tôn giáo khác) vì nó chuyên chở văn hóa tự do và đối thoại. Nhưng chúng ta cũng có thể đạt tới một văn hóa tự do, lấy chính tự do, dân chủ và đa nguyên làm những giá trị căn bản, mà không cần cỗ xe Tin Lành. Hai là, nhưng biện luận trên đây có một chỗ yếu là đã gán ghép t do và dân chủ, trong khi các kinh nghiệm chỉ chứng tỏ tự do đã đóng vai trò quyết định. Các nước phát triển đầu tiên đã bắt đầu phát triển ngay từ khi chưa hẳn có dân chủ, nếu hiểu dân chủ là thể chế chính trị trong đó những người cầm quyền được dân chúng tự do bầu ra trong một nhiệm kỳ giới hạn nhất định. Trong một phần khác tôi sẽ trở lại vai trò của dân chủ. ở đây chỉ xin nói một cách vắn tắt: quả thực tự do mới cần thiết và mới là cứu cánh, nhưng dân chủ là yếu tố cần thiết để đảm bảo tự do, để đà phát triển có thể tiếp tục thay vì bị gãy đổ giữa ường.

Chương thứ :74 "

Tự do, dân chủ đi trước và tạo ra phát triển kinh tế chưa phải là một niềm tin phổ cập. Cho tới nay vẫn có một số khá đông người cho rng phát triển kinh tế tạo ra dân chủ, với hệ luận là các dân tộc đang chịu ách độc tài hãy cứ tạm gác những đòi hỏi về tự do dân chủ để tập trung cố gắng phát triển kinh tế, sau đó chính phát triển kinh tế sẽ mang lại tự do dân chủ. Đây là một lý luận rất tiện nghi cho các chế độ độc tài như Việt nam; không có gì ngạc nhiên nếu họ sử dụng nó. Điều đáng tiếc là nhiều người khao khát tự do dân chủ cũng hoài nghi và không thể phản bác luận điệu kinh tế đi trước chính trị một cách thực dứt khoát.

Những phân vân về tương quan giữa dân chủ và phát triển có ít nhất ba nguyên nhân.

Một là, trên thực tế phát triển kinh tế cũng thúc đẩy dân chủ và tự do vì thế mà chúng ta dễ lẫn lộn hậu quả với nguyên nhân. Hai là do chính hiệu lực nhanh chóng của tự do dân chủ: nó lập tức đưa đến tiến bộ về mặt kinh tế, do đó một số người không nhận ra cái gì trước cái gì sau. Ba là, vì nhiều lý do, trong đó lý do quan trọng nhất là sự kháng cự của những người lãnh đạo không chịu từ bỏ lập tức những đặc quyền đặc lợi, dân chủ và tự do không tới toàn bộ cùng một lúc mà thường tới từng đợt một, dưới sức ép của thực tại xã hội theo từng mức độ phát triển người quan sát thiếu chăm chú khó thấy được rằng ở mỗi giai đoạn một mức độ dân chủ tự do lớn hơn đã cho phép một mức độ phát triển lớn hơn. Trong cuộc kháng cự lồng lộn để cố giữ nguyên quyền lực của họ, các chế độ độc tài dùng đủ mọi lập luận, nhiều khi dựa vào những giải thích gian trá của chính hiện tượng phát triển tại các quốc gia đang dân chủ hóa. Những kinh nghiệm thường được viện dẫn để phản bác những đòi hỏi dân chủ và nhân quyền là trường hợp của những nước được mệnh danh là cc con rồng châu á như Đài Loan, Nam Hàn, Mã Lai, Thái Lan, Singapore, Indonesia và Brunei, và đói khi ngay cả Hồng Kông. Các chế độ độc tài châu á, nhất là Việt nam, thường căn cứ vào đó để nói rằng có thể phát triển mà không cần dân chủ và chính phát triển kinh tế sẽ đem lại dân chủ. Sự thực như thế nào? Chúng ta lại thử làm một vòng khảo sát.

Cần loại bỏ ngay trường hợp Hồng Kông. Đó là một nhượng địa của nước Anh cho tới ngày 30-6-1997. Một toàn quyền người Anh đại diện cho nước Anh, giao toàn bộ việc quản lý đời sóng hàng ngày cho một guồng máy hành chính người Hồng Kông. Vị toàn quyền không ở đó để áp đặt một ách thống trị, vai trò của ông là đảm bảo các quyền tự do theo quan niệm của nước Anh. Trong những nm cuối cùng trước khi trao trả Hồng Kông cho Bắc Kinh, toàn quyền Chris Patten còn xuất hiện như một người luật sư của tự do, dân chủ và nhân quyền tại châu á. Ông bị nhiều chế độ châu á đả kích như một nhân vật giáo điều nhân quyền.

Dưới sự giám sát và bảo vệ của nước Anh, Hồng Kông là một mẫu mực thành công của khuôn mẫu dân chủ tư bản phương Tây. Hồng Kông không những không chứng minh rằng có thể phát triển mà không cần dân chủ, trái lại nó còn là bằng chứng đầu tiên tại châu á về phép mầu dân chủ tư bản.

Cũng phải loại bỏ trường hợp của Brunei trong cuộc thảo luận về tương quan giữa dân chủ và phát triển. Đúng là vương quốc nhỏ bé này không có dân chủ, chế độ của nó là một chế độ quân chủ tuyệt đối mặc dầu vậy nó vẫn có một mức sống rất cao. Những trước hết Brunei chỉ giàu chứ không phát triển. Brunei là một quốc gia giàu có lạc hậu. Hãy cứ nhìn trong những phim tài liệu những rác rưởi trôi lềnh bềnh và ngập ngụa dưới chân những làng cất trên cọc cao bên mé sông, mé biển. Brunei cũng không phải là một quốc gia mà chỉ là một giếng dầu. 260.000 dân sống trên một diện tích nh xíu chưa đầy 6.000 km2, trong đó quá ba phần tư là rừng hoang. Brunei không muốn độc lập mà đã bị nước Anh bắt phải độc lập và đã tự an ủi bằng cách xây một hoàng cung tốn kém 350 triệu USD, tn kém này nếu đem chia cho dân số thì mỗi người phải đóng góp 1500 USD. Muốn hình dung sự hoang phí này phải tưởng tượng nước Mỹ bỏ ra 350 tỷ USD để xây tòa Bạch ốc. Sự giàu có của Brunei không do con người làm ra mà đã phun từ lòng đất lên. Con người ở đây không cần làm gì cả, cũng không phải đóng một loại thuế nào, mà được chu cấp tất cả một cách dồi dào. Chắc chắn họ có thể chp nhận bỏ qua dân chủ và tự do với giá này. Nhưng thực ra là họ cũng không mất gì cả. Họ sống quá sung túc và không cần tranh đấu đòi hỏi bất cứ gì, do đó không có ý định chống lại nhà vua, và ngược lại nhà vua cũng không cần kiểm soát họ. Nhà vua cũng không cần cấm đoán họ đi đâu vì đi đâu họ cũng không sung túc như ở chính nước họ. Cũng không có một quốc gia nào ngăn cản những du khách Brunei tới nước họ để tiêu xài. Kết quả là do sự sung túc cực kỳ người Brunei có tất cả mọi quyền tự do, trừ quyền tự do trai gái hôn nhau ngoài đường do phong tục Hồi Giáo. Brunei vẫn thiếu mở mang.

Chương thứ :75 "

Singapore cũng là một trường hợp rất hi hữu. Nó là một thành phố thương cảng hơn là một quốc gia và cũng không phải là một thành phố lớn, với một diện tích 639 km2 và một dân số chưa đầy ba triệu. Nhưng Singapore không phải là một ngoại lệ đối với qui luật tự do dân chủ tạo ra phát triển. Được thành lập t đầu thế kỷ 19 bởi một người Anh, bắt đầu từ một làng đánh cá với khoảng một trăm người, Singapore chưa hề biết tới một tổ chức xã hội nào khác hơn là khuôn mẫu tự do dân chủ phương Tây. Singapore được hoàn toàn tự trị dưới sự giám sát của người Anh tương tự như Hồng Kông từ 1959 và trở thành một nước độc lập từ 1965. Chính quyền nằm trong tay một quốc hội xuất phát từ bầu cử tự do và quốc hội chỉ định một thủ tướng. Chắc chắn Singapore không phải là một chế độ dân chủ gương mẫu. Đảng Nhân Dân Hành Đồng, cầm quyền từ ngày độc lập, đã sử dụng những bin pháp không mấy lương thiện để tiếp tục nắm chính quyền, chẳng hạn như trợ cấp cho những khu nào bầu cho đảng cầm quyền. Nhưng các đảng đối lập không bị cấm, người đối lập không bị bỏ tù, báo chí không là độc quyền của nhà nước. Đảng cầm quyền dùng các biện pháp bất chính để thắng cử nhưng không cấm đối lập ứng cử và không gian lận kết quả các cuộc bầu cử. Singapore cũng là một nước có luật lệ khá khe khắt, nhưng với một diện tích quá nhỏ và một mật độ dân số 5.000 người trên một cây số vuông, đó có l là cái giá phải trả để giữ gìn trật tự an ninh. Vả lại luật pháp tuy khe khắt nhưng lại được áp dụng một cách đứng đán cho tất cả mọi người. Và dẫu sao nhu cầu dân chủ cũng không đặt ra cho một thành phố nhỏ như Singapore một cách gay gắt như đối với một quốc gia lớn. Dân chủ chủ yếu là phương thức sinh hoạt cho một nước có tầm vóc đáng kể, phải đương đầu với những chọn la lớn và phải cai trị một dân số đông đảo với nhưng điều kiện sinh hoạt, những ưu tư và nguyện ước khác nhau. Singapore không có nhưng vấn nạn đó. Chức năng của nó rất ro rệt vì con người ở đây không có mục đích nào khác hơn là làm giàu; điều mà họ mong muốn là được tự do sinh sống và làm ăn, và họ đã đạt được. Nhu cầu dân chủ chỉ là thứ yếu.

Trong những năm gần đây, cựu thủ tướng Lý Quang Diệu, người đã có công dẫn dắt Singapore trong hơn ba mươi năm trên con đường đi tới phồn vinh, đã lên tiếng nhiều lần đề cao những giá trị châu á với một giọng điệu bài bác chung chung các giá trị của phương Tây. Vì tự do, dân chủ và nhân quyền được coi là những giá trị của phương Tây nên những phát biểu của họ Lý được hiểu là không thuận cho tự do, dân chủ và nhân quyền. Nhà cầm quyền cộng sản Việt nam đã lập tức tôn ông Lý làm bậc thầy (trên thực tế họ đã mời ông làm cố vấn, để rồi có lúc bị ông mắng là không chịu cải tổ kịp thời).

Nhưng đối với Singapore, chúng ta không nên quên hai sự kiện rất cơ bản:

Một là, dù Singapore có phồn vinh đến đâu đi nữa nó cũng chỉ là một thành ph trung bình và dù ông Lý Quang Diệu có thành công đến đâu đi nữa ông cũng chỉ có kinh nghiệm của một viên thị trưởng. Ông có thể lấy kinh nghiệm của mình để làm cố vấn cho một thành phố thương cảng như Sài Gòn, Đà Nẵng, Hải Phòng nhưng ông không thể dạy bảo một quốc gia với những vấn đề mà ông chưa bao giờ biết tới.

Hai là, có một cái gì rất khôi hài trong những giá trị của châu á, mà Lý Quang Diệu đề cao khi đã về hưu. Hơn tất cả mọi quốc gia và hơn cả Hồng Kông, Singapore là nước châu á bị Tây phương hóa nặng nhất. Mọi người Singapore đều thạo tiếng Anh và đa số không viết thạo tiếng Tàu. Tập tính của người Singapore là tập tính buôn bán, tôn giáo của Singapore là của cải vật chất, cái Khổng Giáo mà ông Lý đề cao chỉ là một thứ Khổng Giáo đô-la. Trong suốt cuộc đời hoạt động của ông, Lý Quang Diệu đã dồn mọi có gắng để bắt chước phương Tây tối đa. Chỉ đến khi về già, ông mới bày tỏ một s lưu luyến muộn màng với nguồn gốc Trung Hoa của ông. Đó chẳng qua là tâm lý lá rụng về cội thông thường của con người. Người ta có thể hiểu ông nhưng không thể lấy những lời nói của ông làm tiền mặt.

Chương thứ :76 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :77 sự thành công của những chế độ độc tài sáng suốt?"

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :78 "

Thái Lan chỉ được biết tới như một con rồng hay con cọp tương lai trong vài năm trước cuộc khủng hoảng tài chánh châu á khởi đầu từ tháng 7-1997 tại chính Bangkok. Thái Lan không phải là một mẫu mực thành công về kinh tế và vì thế về cơ bản không chứng minh điều gì rõ rệt. Điều đáng nói là Thái Lan đã phải thành công hơn.

Quốc gia này may mắn nhất Đông Nam á, có lịch sử khá lâu đời và không bị ngoại thuộc, ngoại trừ thời gian ngắn ngủi bị Nhật chiếm đóng nhưng không gây đỗ vở. Thái Lan đã kháng cự một cách rất hình thức trong vòng vài giờ rồi đầu hàng và sau đó cũng chỉ bị Nhật chiếm đóng một cách hình thức cho đến khi Nhật đầu hàng. Thái Lan cũng may mắn có một hình thức dân chủ thật sớm, ngay từ 1932 khi một cuộc đảo chánh buộc vua Thái chấp nhận chế độ quân chủ lập hiến, nhường thực quyền cho một chính phủ xuất phát từ một quốc hội do dân bầu.

Với sự chuyển hóa mau chóng và bình ổn lâu dài nh vậy đáng lẽ Thái Lan phải là nước phát triển bậc nhất châu á, nhất là Thái Lan có đất rộng, vị trí khá thuận lợi và tài nguyên khá phong phú. Nhưng sự thực đã không diễn ra như vậy, vì có bề ngoài nhưng cũng còn có bề trong. Mà bề trong là gì?

Đó là các tập đoàn tướng lãnh đã thay nhau cầm quyền dưới một chế độ dân chủ trong hình thức nhưng độc tài quân phiệt trong nội dung. Lịch sử cận đại của Thái Lan có thể tóm tắt như thế này: khi một nhóm tướng lãnh cảm thấy đủ sức mạnh, họ đảo chính lật đổ đám tướng lãnh đang cầm quyền và nhóm tướng lãnh bị hất cẳng quay ra làm thương mại hoặc cạo đầu đi tu chờ cơ hội trở lại cầm quyền. Nhưng cuộc đảo chánh không đổ máu kế tiếp nhau trước sự dửng dưng th động của quần chúng. Tình trạng này đã chỉ thật sự chấm dứt tháng 9- 1992, khi lập đoàn quân phiệt phải nhượng bộ, sau khi đã đàn áp đẫm máu mà không dẹp được, những cuộc xuống đường rm rộ đòi dân chủ. Chế độ độc tài quân phiệt Thái Lan đã kéo dài suốt sáu mươi năm bởi vì nó dựa trên một liên minh rất vững chắc giữa quân phiệt, tài phiệt và nhà vua, nghĩa là một liên minh va có bạo lực, vừa có tiền lại vừa có tính chính đáng do lịch sử và truyền thống. Chưa kể là nó còn có một đồng minh gián tiếp là Phật Gio Tiểu Thừa, một tôn giáo nhân nhục và thụ động.

Nếu trường hợp Thái Lan có chứng minh điều gì thì đó là dân chủ không do phát triển kinh tế mang lại. Trong suốt thời gian sáu mươi năm, mặc dù mức độ tăng trưởng không cao nhưng sinh hoạt kinh tế xã hội cũng đã thay đổi rất nhiều. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh giành dân chủ đã chỉ do sinh viên chủ động, mà sinh viên thì không thuộc một thành phần kinh tế nào, còn gia đình họ thì hầu hết thuộc thành phần quân phiệt hoặc tài phiệt, nghĩa là những thành phần được ưu đãi và đáng lẽ phải gắn bó với chế độ. Người ta không ghi nhận một cuộc đấu tranh có động cơ kinh tế nào trong suốt thời gian này. Các sinh viên đã chỉ xuống đường vì những lý tưởng tự do, dân chủ, nhân duyên do ảnh hưởng của văn hóa và truyền thông. Mọi cuộc biểu tình của sinh viên đều bị đàn áp thẳng tay, mỗi lần vài chục sinh viên thiệt mạng, trong khi những cuộc đảo chánh quân sự rất ít khi có người chết hay bị thương.

Mùa Xuân 1992, sau một cuc bầu cử gian dối, lực lượng sinh viên xuống đường đã mạnh gấp bội nhưng lần trước, không phải vì cơ cấu kinh tế đã thay đổi mà vì sự sụp đổ của bức tường Bá Linh và khối cộng sản đã đẩy thế giới vào kỷ nguyên dân chủ. Khí thế đấu tranh cho dân chủ đạt một cường độ chưa từng có, trong khi tập đoàn quân phiệt Thái vừa lung lay như mọi tập đoàn độc tài trên thế giới, vừa mất lý cớ cầm quyền để chống nguy cơ cộng sản. Chế độ quân phiệt Thái cáo chung. Về mặt kinh tế, Thái Lan đã chỉ phát triển chậm chạp cho tới giữa thập niên 1960, sau đó Thái Lan, nhờ vị trí hậu cần cho đoàn quân Hoa Kỳ tại Việt nam, đã nhận được một khoản viện trợ lớn và kinh tế đã có phần khởi sắc, tuy vậy Thái Lan cũng vẫn còn thua xa nước láng giềng Mã Lai. Phải chờ đợi đến sau 1992 khi chế độ quân phiệt chấm dứt, kinh tế Thái Lan mới thực sự cất cánh. Từ đó trở đi người ta mới bắt đầu nói tới Thái Lan như con rồng mới. Cuộc khủng hoảng tài chánh ập tới, đưa Thái Lan trở lại với một tham vọng khiêm nhường hơn. Mùa hè 1998, đúng một năm sau cuộc khủng hoảng, tôi có dịp trở lại thăm viếng Thái Lan và nhận xét một cách rất khác với nhiều người. Tôi thấy đó là một quốc gia dân chủ, với sinh hoạt kinh tế đang được lành mạnh hóa và một tâm lý kinh doanh rất rõ rệt. Trái với nhiều người, tôi lạc quan cho Thái Lan sau này hơn là trước mùa hè 1997.

Điều cần chú ý là Thái Lan đã phát triển mạnh sau khi dân chủ hóa, và từ đó không còn những xung đột đẫm máu như trước nữa. Trường hợp Thái Lan như vậy cũng không phải là một ngoại lệ của qui luật dân chủ đi trước và kéo theo phát triển. Hơn nữa nó còn bẻ gãy một lý cớ quen thuộc của các tập đoàn độc tài là dân chủ đưa tới hỗn loạn. Chính dân chủ đã tránh cho Thái Lan một thảm kịch. Thử tưởng tượng cái gì sẽ xảy ra vào mùa hè năm 1997, khi một cách rất đột ngột kinh tế gần như sụp đổ hoàn toàn, nếu chế độ vẫn là độc tài quân phiệt? Chắc chắn sẽ có bạo loạn và đổ máu lớn.

Chương thứ :79 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :80 "

Nước đuy nhất có thể coi là độc tài trong khối ASEAN cho tới gần đây là Indonesia. Nhưng Indonesia cũng là nước lạc hậu nhất trong sáu nước thành viên kỳ cựu của khối ASEAN, với lợi tức bình quân trên mỗi đầu người là 800 USD mỗi năm. Cần lưu ý là con số bi đát này dầu sao cũng cao gấp ba lần lợi tức của người Việt nam.

Một nước độc tài quân phiệt rồi bị nghèo khó lạc hậu thì có gì đáng nói? Indonesia cùng lắm chỉ chứng minh một chế độ độc tài quân phiệt không đến ni tai hại bằng một chế độ cộng sản như tại Việt nam. Nếu có gì cần ghi chú, nhưng ngoài khuôn khổ của cuộc thảo luận ngắn này mà mục đích là tìm ra tương quan giữa dân chủ và phát triển, thì đó là thực ra chế độ quân phiệt tại Indonesia không đến nỗi độc tài như người ta tưởng.

Ngay trong thời gian bị Hòa Lan đô hộ, các đảng phái chính trị vẫn được phép thành lập và hoạt động nhưng họ quá yếu để có thể để dọa guồng máy cai trị của Hòa Lan. Sau thế chiến II, dưới chế độ Sukamo, các chính đảng còn gặp thời cơ thuận tiện hơn, đặc biệt đảng cộng sản phát triển mạnh nhất. Vào năm 1965, trước khi âm mưu đảo chánh thất bại và bị tiêu diệt, đảng cộng sản Indonesia đã có tới ba triệu đảng viên và hai mươi triệu đoàn viên. Từ năm 1965 trở đi quân đội khống chế chính trường Indonesia nhưng cũng không cấm đoán các đảng đối lập; báo chí vẫn còn được hưởng một mực độ độc lập tương đối.

Nhng khó khăn của Indonesia thực ra là những khó khăn của một quốc gia đang thành lập một cách vội vã, dựa trên bạo lực và bất chấp đồng thuận. Cho tới khi người Hòa Lan đến, vào thế kỷ 16, Indonesia hoàn toàn không có đặc tính nào của một quốc gia, mà là cả một thế giới phức tạp với khoảng 17.000 hòn đảo lớn nhỏ, trải rộng 5.000 km từ Đông sang Tây và 2.000 km từ Bắc xuống: Nam, với hàng trăm sắc dân và thổ ngữ. Vô số vương quốc không tên không tuổi được thành lập rồi bị tiêu diệt. Một cuộc kiểm kê không đầy đủ năm 1939 cho thấy trên quần đảo Indonesia còn có 269 vương quốc hoàn toàn độc lập với nhau. ánh sáng leo lét của văn minh đã chỉ dừng lại tại hai hòn đảo Sumatra và Java; càng về phía Đông sự bán khai càng gia tăng. Mặc dầu đã tiến bộ khá nhiều nhờ tiếp xúc với thế giới bên ngoài, phần lớn các bộ lạc trên các đảo phía Đông vẫn còn ở trong tình trạng tiền sử, một số vẫn còn ăn thịt người, chiến tranh giữa các bộ lạc không cần một lý do nào cả vì là một tập quán. Việc thành lập nước Indonesia với lãnh thổ hiện nay trên thực tế chỉ là trao cho đảo Java trách nhiệm khai hóa các đảo miền ông: Borneo, Irian Jaya, Sulawesi, v.v..., một trách nhiệm hoàn toàn vượt quá khả năng của đảo Java nghèo nàn và lạc hậu. Hoa Kỳ đã phản đối việc thành lập này và đều có lý. Đáng lẽ đã phải đặt các đảo này dưới quyền sở hữu của Liên Hiệp Quốc và sau đó Liên Hiệp Quốc ủy nhiệm cho các quốc gia tiên tiến và giàu mạnh khai phá. Với sự thành lập duy ý chí như vậy, đảo Java không có cách g để giữ sự gắn bó giữa các đảo ngoại trừ quân lực, cho nên việc quân đội nắm chính quyền có thể coi như cái giá mà Indonesia đã phải trả cho tham vọng thành lập nhanh chóng một nước lớn. Điều đáng lưu ý là quân đội Indonesia do người Hòa Lan thành lập ra và chịu ảnh hưởng của tinh thần Hòa Lan, một tinh thần không quân phiệt chút nào, do đó quân đội Indonesia rất hợp hiến, họ không trực tiếp nắm chính quyền mà luôn đứng sau một chính quyền dân sự. Quân đội cũng tôn trọng chính quyền dân sự đó, chỉ can thiệp trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Hậu quả là vẫn có một mức độ tự do dân chủ tương đối và quân đội một phần nào đó còn xuất hiện như một bảo đảm cho dân chủ trước những tham vọng chuyên chính của đảng cộng sản và của các lực lượng Hồi Giáo sau đó.

Nếu muốn nhận diện tương quan giữa dân chủ và phát triển thì có lẽ nên nhìn vào sự thay đổi nhanh chóng của đảo Java, trung tâm quyền lực của Indonesia. Nhờ một sinh hoạt ít nhiều dân chủ, hòn đảo bán khai này đã tới một mức độ phát triển khả quan, cao hơn cả Trung Quốc, một nước đi trước họ cả ngàn năm với tài nguyên và nhân lực hơn hẳn. Nếu không mang gánh nặng khai phá các đảo phía Đông chắc chắn đảo Java còn mở mang hơn nhiều. Indonesia, mặc dầu khởi hành rất sau Trung Quốc với những điều kiện khó khăn hơn nhiều, đã phát triển hơn Trung Quốc vì đã mở cửa tiếp nhận các giá trị tự do và dân chủ trong khi Trung Quốc đã chỉ chọn một thứ chế độ Khng Giáo hiện đại hóa, nghĩa là cộng sản.

Tháng 5-1998, chế độ độc tài quân phiệt Suharto sụp đổ sau gần một năm chao đảo vì cuộc khủng hoảng tài chính châu á. Một năm sau, một cuộc tổng tuyển cử đã đem lại thắng lợi cho các lực lượng đối lập dân chủ. Cuộc chuyển hóa về dân chủ của Indonesia sẽ không dễ đàng bởi vì tình hình Indonesia quá phức tạp và vì chính các lực lượng dân chủ cũng chưa đủ trưởng thành. Nhưng dù gặp khó khăn thế nào đi nữa, Indonesia cùng đã khá hơn trước và chắc chắn sẽ vươn lên, trừ trường hợp các thế lực quân phiệt một lần nữa phản công bẻ gãy tiến trình dân chủ hóa.

Chương thứ :81 "

Trường hợp duy nhất tại châu á có vẻ như chứng minh rằng có thể phát triển mà không cần dân ch là Đài Loan. Càn nhấn mạnh là có vẻ vì đó chỉ là một cái nhìn phiến diện. Quả thực từ năm 1949, khi đám tàn quân của Tưởng Giới Thạch chạy ra đảo Đài Loan và thiết lập tại đó một quốc gia ly khai với Hoa Lục, Đài Loan đã chỉ có nhưng chính quyền xuất phát từ Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Hai cha con Tưởng Giới Thạch và Tưởng Kinh Quốc kế tiếp nhau làm tổng thống trong gần bốn mươi năm cho tới năm 1988. Quân luật được thi hành cho tới 1987. Mặc dầu vậy, kinh tế Đài Loan vẫn tiếp tục phát triển một cách mạnh mẽ và hiện nay Đài Loan đã trở thành một nước dân chủ với một sức sống gần tương đương với Tây Âu, với một nền kinh tế lành mạnh hơn hẳn: thất nghiệp hầu như không có, dự trữ ngoại tệ tính trên mỗi đầu người cao hơn hẳn mọi quốc gia trên thế giới.

Trường hợp Đài Loan đã được một số người viện dẫn để bảo vệ lập trường cho rằng có thể bỏ qua dân chủ, tập trung mọi sức lực xây dựng kinh tế rồi phát triển kinh tế sẽ đem đến dân chủ. Sự thực như thế nào?

Đảo Đài Loan cho tới thế kỷ thứ VIII gần như hoang vu, với một số ít thổ dân gốc Mã Lai (điều này cho thấy các sắc dân gốc Mã Lai từ ngàn xưa đã trải rộng khắp Đông á). Dần dần người di dân từ hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến đã khiến người gốc Hoa trở thành đa số, nhưng những người gốc Hoa này coi họ là người Đài Loan hơn là người Trung Hoa. Từ cuối thế kỷ 15 đảo này đã bị người Tây Ban Nha, rồi Hòa lan chiếm đóng và khai thác. Giữa thế kỷ 17, sau những đợt di dân lớn từ Hoa Lục, Đài Loan trở thành một vương quốc độc lập, rồi bị nhà Thanh chinh phục và sáp nhập thành một tỉnh của Trung Quốc. Năm 1895, nhà Thanh thua trận phải nhường đảo này cho Nhật. Lưu Vĩnh Phúc, viên chủ tướng tài ba ca quân Cờ Đen từng tận lực giúp Việt nam chống Pháp, đã cùng với tổng đốc Đài Loan Dương Tinh Tùng tuyên bố thành lập nước Cộng Hòa Đài Loan. Nước cộng hòa đầu tiên lại châu á này đã bị qun Nhật đánh bật khỏi Đài Bắc trong vòng một tuần lễ, dù Lưu Vĩnh Phúc vẫn còn kháng cự tại miền Nam gần mười năm nữa. Sau thế chiến II, Đi Loan, với khoảng 10 triệu dân, được trao trả lại cho Trung Quốc. Bước ngoặt lớn của Đài Loan xảy ra năm 1949 khi Tưởng Giới Thạch bỏ lục địa đem gần hai triệu người gồm gia đình, đảng viên v quân đội Quốc Dân Đảng sang đây. Trong những thập niên đầu Đài Loan không phải là một quốc gia mà là một chiến khu. Lực lượng Quốc Dân Đảng di tản sang đây tự coi là một chính phủ Hoa Lục di tản, với đầy đủ quốc hội, chính phủ và quân đội; họ ván tiếp tục tự nhận là chính quyền của toàn thể Trung Quốc và chỉ coi Đài Loan là một tỉnh. Qui chế chiến khu là một thực tế. Chiến tranh vẫn tiếp tục xảy ra tại eo biển, cạnh các hòn đảo Kim Môn, Mã Tổ, Trần Thành: Bên ngoài thì Hạm đội 7 của Mỹ túc trực.

Cần hiểu rõ tình trạng này khi nhận định về vấn đề dân chủ tại Đài Loan. Dân chủ là một phương thức sinh hoạt quốc gia cho phép đạt tới một đồng thụân được chấp nhận giữa các khuynh hướng khác nhau dù không thỏa mãn mọi người. Nhưng tại Đài Loan vấn đề đồng thuận không đặt ra. Những người Quốc Dân Đảng sang đây hoàn toàn đồng ý với nhau trên hầu như tất cả và rất đoàn kết trong một mục tiêu chung là chống lại Hoa Lục, dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch mà họ coi là một lãnh tụ anh minh. Vấn đề dân chủ thực sự chỉ đặt ra vài thập niên sau đó, khi những người bản địa ài Loan đã tiến lên về kinh tế và văn hóa, và đòi hỏi tổ chức Đài Loan như một quốc gia. Trong những thập niên đầu, đoàn người di tản từ Hoa Lục sang hơn hẳn dân bản địa về mọi mặt. Họ là tập hợp tinh nhuệ nhất của Trung Quốc, đồng thời họ cũng mang theo những tài sản rất lớn. Có thể nói vào năm 1949 đại bộ phận chất xám và tư bản Trung Quốc đã tản cư qua Đài Loan làm sinh hoạt kinh tế và mức sống Đài Loan gia tăng mau chóng, cải thiện một cách ngoạn mục mức sống của những người bản địa Đài Loan. Đối lập với Quốc Dân Đảng trên đảo Đài Loan cũng không có vì các thành phần cộng sản đã bị tiêu diệt hoàn toàn một năm trước cuộc di tản, vào năm 1948, khi các cuộc bạo động xuống đường bị đàn áp trong một biển máu, với hơn mười ngàn người bị hành quyết trong vài ngày, phần đông là đảng viên cộng sản.

Sự sáng suốt của chính quyền Quốc Dân Đảng là đã hiểu ngay rằng họ sẽ phải biến Đài Loan thành một quốc gia thật sự. Họ đã nỗ lực nâng cao mức sống và trình độ văn hóa người địa phương, mà đại đa số có gốc Trung Hoa, để hội nhập người địa phương vào sinh hoạt chính trị. Mức sống và trình độ văn hóa càng tiến triển họ càng nới rộng tự do và dân chủ, và luôn luôn đi trước yêu cầu. Trường hợp Đài Loan về thực chất là một cố gắng xây dựng một quốc gia và một ch độ dân chủ từ một chiến khu. Điều mà thế giới đang chứng kiến là sự ra đời của một quốc gia thật sự tại Đài Loan.

Thất bại mau chóng của Quốc Dân Đảng tại Hoa Lục cũng như hào quang ca chế độ cộng sản và lãnh tụ Mao Trạch Đông sau đó đã khiến dư luận thế giới miệt thị tập đoàn Tưởng Giới Thạch như một tập đoàn bất lực và tham nhũng, nhưng ngày nay chúng ta đã có bước lùi cần thiết để nhìn lại lịch sử cận đại Trung Quốc. Tưởng Giới Thạch và bộ tham mưu của ông không tồi dở như người ta tưởng. Chính di sản Trung Quốc do nhà Thanh để lại mới là tồi tàn. Kinh tế lụn bại, đất nước phân tán dưới những sứ quân tham tàn và xâu xé nhau. Tưởng Giới Thạch đã phải có bản lãnh lắm mới thống nhất được Trung Quốc, nhưng ông đã thất bại trước Mao Trạch Đông vì thử thách mà chính quyền của ông tự đặt cho mình quá lớn: đó là xây dựng một Trung Quốc theo mô hình dân chủ phương Tây, điều mà người Trung Quốc không hiểu và do đó không chia sẻ. Cuộc tương tranh quốc - cộng tại Trung Quốc cũng như tại Việt nam chủ yếu là một cuộc xung đột giữa hai mô hình xã hội được đề nghị để thay th ý thức hệ Nho Giáo đã lỗi thời và sụp đổ. Một bên là mô hình dân chủ kiểu phương Tây và một bên là mô hình cộng sản. Về bản chất, chủ nghĩa cộng sản là một thứ Khổng Giáo cải tiến khá gần gũi với xã hội Nho Giáo: cũng đặt nền tảng trên một chủ nghĩa nửa chính trị nửa tôn giáo, cũng giáo điều độc tôn, cũng tập trung tuyệt đối, cũng khống chế tư tưởng, cũng bóp nghẹt xã hội dân sự và đè bẹp cá nhân, cũng cấm đoán thương mại và sự giàu có, nhưng quan tâm tới quần chúng hơn và có tổ chức tinh vi hơn. Chính vì thế mà chủ nghĩa cộng sản dễ hiểu đối với người dân cc nước thuộc văn hóa Khổng Giáo và đã được ủng hộ. Ngược lại mô hình dân chủ phương Tây đòi hỏi một đoạn tuyệt văn hóa quá lớn nên đã không được hưởng ứng. Tưởng Giới Thạch đã thua vì xã hội Trung Hoa sau hơn hai ngàn năm Nho Giáo chưa chín muồi cho thay đổi, chứ không phải vì ông ta kém Mao Trạch Đông. Giờ này chắc không còn ai ngờ vực là nếu Tưởng Giới Thạch thắng, thay vì Mao Trạch Đông, thì Trung Quốc đã khá hơn rất nhiều so với hiện nay.

Không thực hiện được cuộc canh tân theo mô hình phương Tây trên đất nước Trung Quốc bao la và phân rã, phe Quốc Dân Đảng đã thực hiện nó trên khuôn khổ hạn hẹp của Đài Loan và họ đã thành công. Điều cần chú ý là tại Đài Loan chính quyền Quốc Dân Đảng đã luôn luôn chủ động, nới rộng tự do một bước trước khi những thay đổi về kinh tế xã hội đòi hỏi. Chính vì vậy mà Đài Loan đã ổn vững và liên tục tiến lên. Ngay từ 1969, chính quyền Quốc Dân Đảng đã tổ chức những cuộc bầu cử bổ túc các dân biểu địa phương vào quốc hội, các quyền tự do phát biểu và hội họp đã được thừa nhận. Năm 1986, các chính đảng được phép thành lập và tranh cử. Năm 1987, quân luật được bãi bỏ hẳn. Từ 1991 mọi đạo luật của thời kỳ quân luật đều được bãi bỏ, Đài Loan trở thành một nước dân chủ thật sự, và cũng là nước dân chủ nhất châu á, ngoại trừ Nhật Bản. Đa số những cấp lãnh đạo tối cao của Đài Loan hiện nay là người địa phương. Sự thành công của Quốc Dân Đảng chính là ở chỗ họ đã biết thăng tiến người địa phương và sau đó tự hội nhập vào với người địa phương. Trong cuộc bầu cử quốc hội hoàn toàn tự do và lương thiện năm 1998 họ đã thắng lớn. Họ đã thất bi trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 vì chia rẽ chứ không phải vì không được cử tri tín nhiệm.

Trong cuộc khủng hoảng kinh tế châu á bắt đầu từ mùa hè 1997, Đài Loan đã là nước ít bị thit hại nhất, bởi vì nó là quốc gia dân chủ và lành mạnh nhất trong những nước vừa vươn lên.

Không, Đài Loan không phải là một ngoại lệ của qui luật dân chủ đi trước và tạo ra phát triển. Đ chỉ là quốc gia ra đời trong một trường hợp đặc biệt.

Chương thứ :82 "

Vòng du lịch vội vã một số nước châu á trên đây đã chứng minh, nếu cần phải lặp lại một lần nữa, là dân chủ, tự do và nhân quyền không hề đưa đến hỗn loạn mà trái lại còn đem tới hòa bình và ổn vững, không hề cản trở mà còn tạo ra và thúc đẩy phát triển kinh tế. Vì vấn ề chủ yếu của chúng ta là nhận diện liên hệ mật thiết giữa dân chủ và phát triển nên có lẽ chúng ta sẽ còn thiếu sót nếu không nhìn qua, dù chỉ là một cách sơ lược các nước châu Mỹ La Tinh.

Các quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên này đã được độc lập từ đầu thế kỷ 19, nghĩa là gần hai thế kỷ nay, nhưng trong hơn một thế kỷ rưỡi đã quằn quại trong nghèo khó và bạo loạn. Vì sao? ó là vì ngay từ khi được độc lập, họ đã phải chịu dựng những chế độ độc tài với những người hùng oai phong lẫm liệt, tài ba xuất sắc, ngự trị trong hàng mấy chục năm. Người hùng nào cuối cùng cũng đã có công lớn là làm cho đất nước kiệt quệ và phân rã. Các nước châu Mỹ La Tinh đã chỉ vươn lên bắt đầu từ thập niên 1980 khi dứt khoát chuyển hóa về dân chủ. Một lần nữa qui luật dân chủ đi trước và tạo ra phát triển được ứng nghiệm.

Một ngoại lệ: nước Chile. Nhưng đây không phải là ngoại lệ của qui luật dân chủ đi trước và tạo ra phát triển mà lại là ngoại lệ của châu Mỹ La Tinh. Chile đã là nước châu Mỹ La Tinh duy nhất chọn con đường dân chủ rất sớm. Và, trùng hợp làm sao, Chile cũng là nước phát triển hơn hẳn mọi nước châu Mỹ La Tinh khác. Trong cuộc lược duyệt này chúng ta đã bỏ qua bốn nước châu á: Miến Điện, Lào, Kampuchea và Việt nam. Có gì cần nhận định về trường hợp bốn nước này? Có, và có hai điều mà không ai có thể chối cãi: một là cả bốn nước này đều đã phải chịu đựng từ lâu các chế độ độc tài đồng thời cả bốn đều là những nước nghèo khó và tụt hậu nhất trong vùng; hai là, cả bốn nước đều đa đạt được một số tiến bộ trong nhưng năm gần đây sau khi đã chấp nhận nới rộng một phần nào tự do.

Chú thích thêm về trường hợp Chile

Vào lúc tôi đang viết những dòng này, thế giới đang sôi nổi vì cựu tổng thống Chile Augusto Pinochet bị giữ lại tại Anh và có thể bị dẫn độ sang Tây Ban Nha để bị xét xử về tội ác đối với loài người. Các thủ tục kéo dài và sau cùng Pinochet được phép về nước vì đã già yếu.

Chế độ Pinochet khiến người ta dễ đồng hóa Chile với chế độ độc tài. Thực ra Pinochet chỉ là một ngoặc đơn ngắn trong lịch sử Chile. Chile đã có một chế độ dân chủ lưỡng đảng ngay từ năm 1823. Sau đó thỉnh thoảng vẫn có những người hùng thiết lập những chế độ độc tài nhưng dân chủ vẩn được mau chóng vãn hồi. Chile cũng là một nước có hiến pháp ổn định. Hiến pháp năm 1823 được áp dụng tới 1925, và sau 1925 một hiến pháp dân chủ khác được ban hành và kéo dài tới 1973. Năm 1969, một người cộng sản, ông Salvađor Allenđe, đắc cử tổng thống một cách khó khăn. Bản tính cực đoan và nóng nảy, Salvador Allende đã muốn mau chóng biến Chile thành một nước cộng sản và tỏ ra chống Mỹ kịch liệt. Trong một thời gian ngắn, kinh tế Chile hoàn toàn suy sụp, các công ty ngoại quốc rút ra hoặc chuẩn bị rút ra. Bất mãn tăng cao, dân chúng xuống đường biểu tình phản đối liên tục. Allende còn làm một phiêu lưu nguy hiểm khác là thành lập các đoàn võ trang riêng của mình. Cơ quan lình báo Mỹ, CIA, một mặt ráo riết thúc đẩy chính phủ Mỹ và các công ty Mỹ tẩy chay Chile, mặt khác xúi giục quân đội và các đảng cánh hữu lật đổ Allende. Năm 1973, quốc hội Chile, định chế đã chung quyết bầu ra Allende sau khi cuộc bầu cử tổng thống qua phổ thông đầu phiếu không đem lại kết quả ngã ngũ biểu quyết coi Allende không còn là tổng thống hợp pháp nữa. Quân đội, dưới quyền tướng Pinochet, coi quyết định này như một lệnh truất phế và tiến đánh dinh tổng thống, Allende bị giết chết. Về mặt thuần túy pháp lý, cuộc đảo chánh của Pinochet không phải hoàn toàn phi pháp. Pinochet chỉ trở thành bt hợp pháp sau khi ông ta nắm được chính quyền, giải tán quốc hội và thi hành chính sách khủng bố. Pinochet đã lãnh đạo Chile với bàn tay sắt, đàn áp thô bạo các phần tử cộng sản và thân cộng, thủ tiêu hơn 3.000 người. Nhưng chính Pinochet cũng chuẩn bị để vãn hồi dần dần dân chủ. Năm 1988, sau một cuộc trưng cầu dân ý trong đó ông thất bại, Pinochet nhường quyền cho một chính quyền dân sự, nhưng vẫn giữ quân đội và đã chỉ chấp nhận từ bỏ quân đội sau khi đã đòi được làm thượng nghị sĩ suốt đời để hưởng qui chế bất khả xâm phạm.

Chế độ độc tài của Pinochet kéo dài tổng cộng 17 năm, tuy nhiên trong mười năm về sau các đảng không cộng sản vẫn được tự do hoạt động. Trong lịch sử gần hai trăm năm của nền dân chủ Chile khoảng thời gian độc tài của Pinochet tương đối ngắn. Việc Pinochet bị dư luận thế giới và đa số nhân dân Chile lên án là bằng chứng rằng nhân loại đã văn minh hơn. Nếu cứu cánh có thể biện minh cho phương tiện thì chắc chắn Pinochet không thể bị lên án. Ông ta đã sử dụng những biện pháp bạo ngược nhưng đã đạt được cứu cánh tốt đẹp là ngăn chặn âm mưu thiết lập một chế dộ chuyên chính, ổn định được xã hội, phát triển được đất nước và sau cùng xây dựng được dân chủ. Nhưng ngày nay dân chủ đã đủ trưởng thành để kết án cả những kẻ đã phục vụ nó bằng nhưng biện pháp thô bạo. Những tập đoàn độc tài không bằng Pinochet, nghĩa là không những đã thô bạo mà còn làm cho đất nước kiệt quệ đi, càng đáng bị lên án một cách quả quyết hơn.

Chương thứ :83 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :84 "

Cái đầu quả nhiên nhanh hơn đôi chân và hơn cả máy bay phản lực. Qua một vài chục trang giấy, chúng ta đã du hành ngược thời gian, lên đến thời tiền sử rời lại xuôi dòng về đến hiện tại, sau khi đã thăm viếng những cái nôi đầu tiên của phát trin tại châu Âu và Hoa Kỳ, rồi các nước vừa phát triển tại châu á và châu Mỹ La Tinh.

Chúng ta đã nhận định và cũng đã khảo sát cả những lập luận trái ngược. Đến đây chúng ta có thể rút ra những kết luận. Nếu chúng ta tự so sánh với một nhà khoa học rút ra những định luật sau khi đã quan sát các thí nghiệm, chúng ta cũng có thể rút ra một số định luật cho một xã hội muốn phát triển hay muốn tiếp tục phát triển. Dĩ nhiên, với thái độ khiêm tốn phải có, bởi vì các định luật trong khoa học nhân văn không chính xác như những định luật trong khoa học vật lý, chúng luôn luôn đòi hi một ứng dụng sáng tạo phù hợp với môi trường.

Định luật 1: Tất cả mọi thành tố cơ bản của phát triển đều vô hình, nằm trong con người và xã hội. Phát triển chủ yếu là một vn đề tâm lý và văn hóa.

Định luật 2: Dân chủ là nguyên nhân tạo ra phát triển và cũng là môi trường của phát triển. Mức độ dân chủ quyết định giới hạn tối đa của phát triển. Dân chủ càng cao khả năng phát triển càng cao. Không có dân chủ quá đáng.

Định luật 3: Phát triển đòi hỏi một đồng thuận dân tộc trong một dự án tương lai chung, phù hợp với quyền lợi của mỗi cá nhân. Hin pháp và luật pháp thể hiện đồng thuận xây dựng một tương lai chung đó và vì thế được ổn vững và được coi như nền tảng duy nhất của tổ chức xã hội.

Định luật 4: Phát triển đòi hỏi kinh tế phải được tự do vận hành theo qui luật tự nhiên của thị trường thay vì bị gò bó trong một kế hoạch. Chính quyền phải tránh can thiệp và đặt ra nhưng cưỡng chế mâu thuẫn với qui luật của thị trường.

Định luật 5: Các thủ tục hành chánh phải được giảm tới mức tối thiểu cần thiết. Chính quyền tốt nhất là chính quyền nhẹ nhất, nhường không gian tối đa cho xã hội dân sự, cá nhân, ý kiến và sáng kiến.

Định luật 6: Phát triển lành mạnh đòi hỏi hủy bỏ mọi đặc quyền đặc lợi, mọi thế lực ngoài qui định luật pháp, mọi thành kiến và giáo điều, mọi phân biệt và ngăn cách.

Định luật 7: Tự do là tâm hồn, động cơ và sức mạnh của xã hội. Trong một xã hội muốn phát triển mạnh không thể có nhưng ý kiến cấm nêu ra và cũng không thể có đề tài cấm bàn đến.

Định luật 8: Bạo lực phải bị tuyệt đối lên án và hoàn toàn xóa bỏ như một phương thức ứng xử. Mọi mâu thuẫn trong xã hội phải đưc giải quyết qua đối thoại và thỏa hiệp.

Định luật 9: Vận tốc phát triển tỷ lệ thuận với chỗ đứng dành cho thương mại. Thương mại càng được ưa thích và quí trọng, xã hội phát triển càng nhanh chóng: Thương mại phải được coi là động cơ của mọi tiến bộ khoa học, kỹ thuật, văn hóa, đạo đức.

Định luật 10: Mọi luật và qui định phải phù hợp với trình độ hiểu biết của dân chúng và liên lục thích nghi với bối cảnh xã hội, nhưng luôn luôn phải giản dị, dễ hiểu, dễ tuân thủ cho mọi người và được áp dụng triệt để.

Mười định luật trên đây thực ra là những đnh luật căn bản. Chúng ta đã bỏ qua những yếu tố khác tuy rất quan trọng nhưng tự nhiên sẽ được khám phá ra khi những định luật căn bản đã được thỏa mãn, như sức khỏe, giáo dục, truyền thông, hạn chế dân số, bảo vệ môi trường, v.v...

Sự liệt kê giản lược này dĩ nhiên cần một số ghi chú bổ túc:

Định luật 1 là một khám phá mới. Cho tới một ngày khá gần đây các nhà nghiên cứu, khi giải thích hiện tượng phát triển, đều đề cao vai trò của những yếu tố vật chất như tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, vị trí địa lý. Max Weber là một trong những nhà tư tưởng hiếm hoi đề cao vai trò của tâm lý và văn hóa, nhưng ông lại tập trung lý luận vào châu Âu và dành cho đạo Tin Lành một vai trò chủ yếu. Tư tưởng của ông vì vậy khó có tiếng vọng nơi các xã hội không theo Thiên Chúa Giáo. Chỉ cho tới một ngày rất gần đây, nhờ sự quan sát của các nhà ngoại giao, các chuyên viên trong các chương trình hợp tác phát triển và các phái viên của các tổ chức thiện nguyện, người ta mới ý thức được rằng sự tụt hậu và trì trệ là do một cấu trúc tâm lý không thích hợp. Một quốc gia không thể phát triển nếu quyền lực thay vì được coi là một trách nhiệm lại được nhìn như một phần thưởng, nếu danh giá trong xã hội là làm quan thay vì kinh doanh, nếu tâm lý quần chúng là một người làm quan cả họ phải được nhờ, nếu sự giàu có bị thù ghét, nếu hoạt động kinh tế được nhìn như một cuộc chơi với tổng sổ là số không, người này giàu tất nhiên kẻ khác phải nghèo, vì thế kinh doanh đồng nghĩa với bóc lột. Muốn phát triển một xã hội, phải từ bỏ tâm lý cũ đã tạo ra sự lạc hậu và đề cao những giá tr tiến bộ: hòa bình, tự do, dân chủ, nhân quyền, nhà nước pháp trị, đối thoại, hợp tác và lợi nhuận. Cần nhấn mạnh giá trị lợi nhuận.

Định luật 2 là kết luận căn bản nhất rút ra từ sự quan sát các nước đã phát triển đầu tiên và các nước mới phát triển gần đây sau cuộc du lịch tham quan của chúng ta trong nhưng bài trước. Điều đặc biệt cần ghi nhận là định luật này không có mt ngoại lệ nào nếu ta nhìn trong chiều sâu thay vì một cách phiến diện. Định luật 3 gần như là một hệ luận của định luật 2, nhưng nhấn mạnh tầm quan trọng của khả năng động viên quần chúng. ồng thuận là điều kiện để lòng yêu nước có thể đóng được vai trò kết hợp và thôi thúc của nó. Định luật này giải thích tại sao các ch độ phát-xít quân phiệt tại Đức, ý và Nht trước thế chiến II đã đạt được những tiến bộ đáng kể trước khi sụp đổ trong máu lửa. Đó là vì do hoàn cảnh lịch sử, các dân tộc này đã có một đồng thuận lớn và đã được động vin trong một cố gắng chung, dù chỉ là đồng thuận mê muội trên một ý đồ bá quyền nước lớn. Sau đó chính vì không có dân chủ mà các nước này tích lũy mâu thuẫn và bị đẩy vào chiến tranh tự hủy. ở đây cũng cần hiểu rõ những định nghĩa khác nhau của ổn định. ổn định có lợi và cần thiết cho phát triển là ổn định trong sinh hoạt xã hội, nghĩa là hiến pháp và luật pháp, không bị thay ổi tùy tiện theo ý muốn của người cầm quyền. Đó hoàn toàn không phải là sự ổn định được hiểu như là sự không thay đổi người cầm quyền. Từ sau thế chiến II, Nhật và ý là hai quốc gia thay ổi chính phủ rất thường xuyên, trung bình một chính phủ chỉ kéo dài xấp xỉ một năm, mà vẫn phát triển mạnh bởi vì luật chơi, nghĩa là hiến pháp và luật pháp không thay đổi. Trái lại, các nước độc tài, với những chính quyền kéo dài nhiều thập niên, lại rất tụt hậu. Tại sao? Bởi vì, như đã được trình bày trong bài trước nhưng nhắc lại một lần nửa tưởng không phải là vô ích, chế độ độc tài cho phép người cầm quyền thay đổi luật chơi một cách tùy tiện, tạo ra xáo trộn và bất ổn thường trực cho sinh hoạt của xã hội.

Định luật 4 cũng hiển nhiên như định luật 2, nhưng có lúc đã bị che khuất bởi những trình bày dối trá. Các chế độ phát-xít Đức, ý và Nhật trước tác chiến II và nhất là các chế độ cộng sn, bằng những giấu giếm và thống kê bịp bợm, đã làm cho nhiều người tưởng là có thể phát triển bằng những kế hoạch duy ý chí, bất chấp các qui luật của thị trường. Sự sụp đổ của phong trào cộng sản đã chỉ là sự tái lập lại một chân lý vốn đã có từ lâu.

Định luật 5 tập hợp hai nhận thức cơ bản: một là chính ý kiến và sáng kiến, chứ không phải nguyên nhân nào khác, làm cho kinh tế tăng trưởng, mà muốn ý kiến và sáng kiến nảy nở thì xã hội dân sự và các cá nhân phải được giải phóng khỏi mọi gò bó; hai là các thủ tục rườm rà vừa ngăn cản sáng kiến vừa đề ra tham nhũng, bệnh ung thư của hoạt động kinh tế. Tham nhũng là gì nếu không phải là sự lạm dụng công quyền cho lợi ích cá nhân? Muốn tránh tham nhũng thì trước hết phải giới hạn vai trò của chính quyền. Cũng phải nhận xét rằng thủ tục đẻ ra thủ tục bởi vì nó tạo ra những công chức sống nhờ thủ tục và cố gắng tạo ra thêm càng nhiều thủ tục càng tốt để cũng cố địa vị. Mặt khác, chính quyền ôm đồm quá nhiều sẽ không làm tròn được những nhiệm vụ tối cần thiết của một chính quyền, nghĩa là bảo vệ trật tự an ninh, trng tài đúng đắn những mâu thuẫn và tranh tụng trong xã hội, thi hành đúng đắn luật pháp, gìn giữ liên đới xã hội, quản lý đúng đắn tiền tệ. Một xã hội được cai trị quá nhiều cũng là một x hội không được cai trị đầy đủ.

Định luật 6 nói lên sự cần thiết của một đoạn tuyệt văn hóa và tâm lý. Mỗi quốc gia có những lý do khác nhau để bị trì trệ. Lý do có thể là những đặc quyền dành cho một giai cấp, một tập đoàn hay một số gia đình, thành phần được ưu đãi này dựa vào địa vị áp đảo của mình để kiềm giữ thành phần còn lại của xã hội trong sự nghèo khổ ngõ hầu giữ nguyên vai trò thống trị của mình. Hay là một số người và nghề được tôn vinh quá đáng, ngược lại một loại người và nghề bị khinh bị và loại trừ, xã hội bị chia cắt thành những tập thể mâu thuẫn với nhau, phá hoại lẫn nhau và triệt tiêu lẫn nhau; sự lưu thông bị tắc nghẽn, xã hội ở trong một tình trạng nội chiến thường trực. Một thí dụ trong các xã hội theo văn hóa Khổng Giáo là lâm lý trọng văn khinh nghề, một tâm lý từ chối sự giàu mạnh. Một thí dụ khác, cũng trong các xã hội này, là tâm lý trọng nam khinh nữ, chà đạp và loại trừ khỏi hoạt động xã hội một nửa tài nguyên nhân lực.

Đoạn tuyệt văn hóa rất khó, như chúng ta đã nhận xét trong nhiều trang trước, nhưng đó là điều kiện tiên quyết để c thể phát triển. Nhiều người chất vấn: xã hội ta đặt nền tảng trên những giá trị Khổng Giáo, nếu bỏ đi chúng ta còn lại gì? Phải trả lời dứt khoát: chẳng thà không có gì còn hơn là có thuốc độc. Người phá rừng hoang làm đất canh tác không thể tự hỏi: khu đất này chỉ có cây hoang nếu phá hết thì còn lại gì? Trước hết phải đốn hết cây dại trước khi làm đất và trồng cây ăn trái.

Đình luật 7 nói lên một niềm tin rất nền tảng: tự do có khả năng sửa chữa những khuyết tật của chính nó. Nếu trong nhất thời tự do quá trớn có thể để ra những hậu quả xấu thì sau đó chính cái tự do quá trớn đó sẽ xóa bỏ những hậu quả xấu này. Đây là niềm tin vào trí tuệ của con người. Định luật này cũng là một đồng minh của định luật 6. Tự do phát biểu tuyệt đối là vũ khí tiêu diệt mọi thành kiến lệch lạc, mọi ngăn cách, mọi đặc quyền đặc lơi. Đó cũng là vù khí hiệu lực nhất để chống tham nhũng. Tại sao nước Mỹ đã vươn lên từ một vùng đất hoang thành siêu cường số một của thế giới. Một trong nhưng lý do là hiến pháp Mỹ không những khẳng định tự do phát biểu mà còn cấm quốc hội biểu quyết bất cứ một đạo luật nào giới hạn tự do phát biểu, dù với đa số nào. Đễ có thể có một đoạn tuyệt văn hóa và tâm lý như định luật 6 đòi hỏi chúng ta không thể chỉ chấp nhận tự do, mà còn phải coi tự do như một quốc giáo và khuyến khích tự do dưới mọi hình thức như tự do suy nghĩ, phát biểu, chọn lựa, thụ hưởng, kể cả tự do cơ thể. Tự do cơ thể đặc biệt quan trọng bởi vì khi cơ thể đã được giải phóng thì rất nhiều thành kiến cũng tiêu tan và cách suy nghĩ sẽ thay đổi. Các trí thức canh tân của ta đầu thế kỷ 20 đ rất đúng khi họ kêu gọi cắt tóc ngắn, động tác giản dị này đã có ảnh hưởng tâm lý quyết định.

Đình luật 8 là tuyên cáo của một xã hội nhân bản và một nền văn minh mới. Bạo lực phải bị lên án ngay trong ý niệm chứ không phải chỉ trong thực tế. Dù không dùng bạo lực thực sự đi nữa thì khả năng sử dụng bạo lực hay ý nghĩ bạo lực cũng làm cho con người có thể thù ghét nhau vì bất đồng ý kiến hay mâu thuẫn quyền lợi. Loại trừ hẳn bạo lực ngay trong ý niệm sẽ khiến mọi người không còn chọn lựa nào khác ngoài đối thoại tương kính để đi đến thỏa hiệp và như thế không những bảo đảm hòa bình trong xã hội mà còn đem lại hòa bình trong tâm hồn mọi người.

Định luật 9 cần được đặc biệt chú ý vì nó là sự thực đã bị các quyền lực chính trị cố tình xuyên tạc và che đậy. Thương mại luôn là động cơ của mọi tiến bộ. Xã hội Hy Lạp nguyên thủy coi thương mại là hoạt động cao quí nhất, họ đặt giai cấp kỹ sư và thợ thủ công dưới giai cấp thưng nhân. Dù là một phân biệt giai cấp không chính đáng, quan niệm này cũng bày tỏ một sự đánh giá có căn bản: thương nhân là những con người có bản lãnh nhất, giao thiệp nhiều, hiểu biết rộng, nhiều sáng kiến và dám chấp nhận rủi ro. Người á Đông từ lâu cũng đã nhận định phi thương bất ph (không làm thương mại thì không thể giàu có). Từ chối thương mại như vậy chính là từ chối sự giàu mạnh. Các chế độ độc tài toàn trị đều sợ thương nhân vì thế chà đạp thương nhân để trit tiêu một mối để dọa cho quyền lực của chúng. Một mặt chúng dùng bạo lực đàn áp, mặt khác chúng dùng độc quyền ngôn luận để phỉ báng thương nhân như là hạng người gian trá tham lam. Với thi gian chúng đã thành công tạo ra một thành kiến thù ghét đối với hoạt động kinh doanh làm giàu. Nho Giáo từ đời nhà Hán bắt đầu bài xích và cấm đoán thương mại. Các chế độ cộng sản trong thế kỷ 20 cũng có cùng một chọn lựa. Các xã hội Khổng Giáo ngày xưa và cộng sản gần đây trì trệ là vì thế. Nguyên nhân sâu xa của chính sách bài bác thương mại là một triết lý chính trị: ưu tư gìn giữ chính quyền được đặt trên sự giàu mạnh của xã hội. Các chế độ độc tài toàn trị không cần quốc gia giàu mạnh, trái lại chúng cần dân chúng nghèo khó và ngu dốt để có thể tiếp tục thống trị.

Thương mại đòi hỏi và làm phát triển nhiều đức tính tốt. Người làm thương mại phải hiểu nhu cầu của xã hội và vì thế phải cố gắng tìm hiểu xã hội. Người làm thương mại sống bằng chữ tín nên phải thực thà, nếu không muốn bị tẩy chay và phá sản. Người làm thương mại cần khách hàng nên phải thực sự quí trọng người khác vì không có sự giả dối nào có thể kéo dài. Người làm thương mại phải tỏ ra dễ mến để tranh thủ khách hàng cho nên ngôn ngữ và thái độ phải trang nhã. ở một chương trước chúng ta đã nói rằng chính vì thương mại không phát triển mà con người trong các xã hội Khổng Giáo thường rất thô lỗ.

Thực tế cho thấy các tiến bộ đầu tiên, kể cả dân chủ, đã xuất hiện tại các trung tâm thương mại. Các thí dụ phát triển đầu tiên tại Hòa Lan, Anh và Mỹ cũng đã chứng tỏ vai trò quyết định của thương mại.

Định luật 10 và một nhận định thực tiễn. Xã hội phát triển chỉ có thể là xã hội dân chủ pháp trị. Nhưng muốn luật pháp được tôn trọng, trước hết luật pháp phải được mọi người thấu hiểu. Không thể lấy một đạo luật, dù hay tới đâu, của một nước đã phát triển và có hoạt động kinh tế phức tạp để áp đặt vào một nước mà đa số dân chúng chưa đọc thông viết thạo và hoạt động kinh tế chủ yếu là trao đổi trực tiếp hay buôn bán lặt vt, hay sản xuất trên qui mô gia đình. Luật pháp phải phù hợp với trình độ hiểu biết trung bình của xã hội.

Luật pháp không hoàn chỉnh nhưng áp dụng được còn hơn luật pháp hoàn chỉnh những ngưi dân không hiểu nổi và do đó không thể tuân thủ. Luật pháp phải được xây dựng một cách liên tục và trưởng thành cùng với sự phát triển của quốc gia. Nhưng ở đây phải đặc biệt cảnh giác trớc một sự gian trá khác. Đó là giới hạn tự do và dân chủ viện cớ dân trí chưa cao. Ngược lại, và ngược hẳn lại, chính trong hoàn cảnh dân trí chưa cao và hoạt động kinh tế chưa phức tạp, luật pháp phải ít gò bó hơn, ít giới hạn hơn. Sự gian trá của các chế độ độc tài đập vào mắt mọi người: chúng nhằm đàn áp trước hết những người có trình độ cao, chúng dồn những cố gắng rất tốn kém để kiểm soát tư tưởng, trong khi để mặc cho các tệ đoan xã hội hoành hành. Các xã hội độc tài khắc nghiệt thường rất hỗn loạn v vô kỷ luật: trộm cướp, mãi dâm, buôn lậu, phóng uế, phá hủy môi trường, đánh cá bằng chất nỗ v.v... hầu như không bị kiểm soát vì lý do dễ hiểu là các tệ nạn này không đe dọa tập đoàn cầm quyền.

Mười định luật về phát triển trên đây có thể tóm gọn trong bốn chữ: dân chủ đa nguyên. Trong một xã hội dân chủ đa nguyên tất nhiên mọi người phải được tôn trọng, được tự do kết hợp, bầu cử và ứng cử. Chính quyền như thế sẽ xuất phát từ dân chúng và được dân chúng ủng hộ. Trong một xã hội dân chủ đa nguyên tất nhiên mọi ý kiến, dù mới mẻ và có vẻ ngược đời đến đâu cũng vẫn được quyền phát biểu. Tinh thần đa nguyên, nghĩa là tinh thần tôn trọng mọi khác biệt, có hệ luận tự nhiên là người ta không được dùng bạo lực để tiêu diệt người khác ý kiến và quyền lợi với mình, mà phải tìm cách sống chung qua đối thoại và thỏa hiệp. Đã không tiêu diệt và đàn áp lẫn nhau thì cố gắng tự nhiên là tìm đồng thuận. Đã tôn trọng mọi người, dù thuộc thành phần xã hội nào và khuynh hướng nào, thì tất nhiên không thể có những đặc quyền đặc lợi, thành kiến và ngăn cách; hay nếu có cũng sẽ bị xóa bỏ với thời gian. Sau cùng, một xã hội dân chủ đa nguyên, sau khi các thành kiến và đặc quyền đã được hủy bỏ, chắc chắn sẽ khám phá ra vai trò chủ đạo của thương mại vì đó là một s thực hiền nhiên, mọi người đều có thể thấy một cách dễ dàng và nhanh chóng.

Tới đây có lẽ cũng nên có một nhận định tổng hợp và đúc kết về hiện tượng phát triển kinh tế: tăng trưởng kinh tế, nguyên nhân của phát triển, xảy ra khi xã hội hội đủ ba yếu tố: (1) nhiều người lạc quan và muốn kinh doanh, (2) họ có thể kinh doanh và (3) họ có phương tiện để kinh doanh.

Để lạc quan và muốn kinh doanh, họ cần một bối cảnh tâm lý thuận lợi: hoạt động kinh doanh được xã hội quí trọng, ý kiến và sáng kiến được đề cao, sự chấp nhận rủi ro được đề cao và dĩ nhiên lòng tin trong kinh doanh sẽ thành công.

Để có thể kinh doanh, doanh nhân cần trật tự an ninh, cần được tự do hoạt động và được luật pháp bảo vệ và luật pháp không thay đổi một cách tùy tiện. Họ cũng không thể bị trói buộc bởi quá nhiều qui định, không bị gò bó trong một kế hoạch quốc gia cứng nhắc, và nhất là không bị sách nhiễu bởi tệ tham nhũng, một căn bệnh trầm kha của mọi chế độ độc tài.

Phương tiện kinh doanh không phải chỉ là vốn. Trước hết là một nguồn nhân lực có phẩm chất, hạ tầng cơ sở và các phương tiện giao thông và truyền thông tốt, một hệ thống ngân hàng đắc lực khi cần vốn luân chuyển. Vốn đầu tư chỉ là một trong những phương tiện và cũng không phải là phương tiện quan trọng nhất. Tư bản có trí khôn và lô-gích riêng của nó, ở đâu kinh doanh có lợi vốn sẽ tự nó tìm đến. Yếu tố quan trọng nhất vẫn là những con người cần mẫn và có kỹ năng.

Cả ba yếu tố nền tảng trên đây cho tăng trưởng kinh tế, và phát triển kinh tế sau đó, một lần nữa nhắc nhở chúng ta một chân lý: phát triển hay trì trệ chủ yếu là một vấn đề tâm lý và văn hóa.

Chúng ta cần thay đổi văn hóa, nghĩa là thay đổi xã hội và con người để có thể phát triển.

Một lời trước khi chấm dứt. Những qui luật phát triển trên đây có thể làm cho một số độc giả phân vân: phải chăng chúng ta tiến tới một xã hội do đồng tiền ngự trị? Sự phân vân càng day dứt đối với tâm hồn á Đông, và nhất là Việt nam, từ ngàn xưa đã coi sự thanh bản như một giá trị cao quí. Nhưng thực ra một xã hội phát triển và tự do không phải chỉ đem lại sự giàu có; nó còn đem lại phẩm giá cho con người, đem lại sự sáng tạo trong mọi địa hạt. Tôi không biết một triết gia phương Tây nào đó đã nói: Đồng tiền là một đầy tớ tốt nhưng là một chủ nhân xấu. Câu nói này được rất nhiều người coi là cao siêu nhưng thực ra nó chỉ là một nhận xét của một người thiếu hiểu biết. Đông tiền chắc chắn không phải là ông chủ tốt bởi vì nó không có lương tâm và tình cảm, nhưng nó cũng không thể là một đầy tớ. Nó quá mạnh và kiêu hãnh. Nếu bị coi là một đầy tớ, nó sẽ phản ứng thẳng tay và làm chúng ta đau đớn. Đồng tiền, hay đúng hơn tài sản, khi đã đạt tới một tầm vóc nào đó, có cuộc sống riêng của nó và cũng có lô-gích riêng của nó; chúng ta phải thảo luận và thỏa hiệp với nó chứ không thể coi nó như một vật dụng. Nó cần được đối xử như một người bạn và một người đồng đội chứ không phải một chủ nhân hay một đầy tớ. Nó không thống trị mà cũng không khuất phục. Vả lại, ngay cả sự thống trị của đồng tiền, dù không phải là lý tưởng, cũng vẫn dễ chu hơn là sự chuyên chế của đức hạnh. Đồng tiền là tiện nghi, là tự do và là điều ai cũng có thể hiểu và chấp nhận, trong khi đức hạnh thường chủ quan và thay đổi theo người, hay lớp người, có quyền quyết định cái gì là đức hạnh, cái gì là trái với đức hạnh. Đức hạnh có thể là một nhà tù vô hình nhưng rất nghiệt ngã.

Chương thứ :85 "

Ngày nay, khi bàn về tình hình đất nước, người ta sẽ rất may mắn nếu được coi là một chuyên viên kinh tế. Tâm lý quần chúng, kể cả đa số trí thức, dành cho các nhà kinh tế một sự nể trọng đặc biệt, như thể là chỉ có họ mới thực sự có thẩm quyền để nói về tương lai đất nước. Thái độ này xuất phát từ ý thức càng ngày càng mạnh rằng vấn đề cơ bản của chúng ta là phát triển kinh tế ý thức này rất đúng, chỉ có kết luận rút ra từ đó, nghĩa là đề cao những người được coi là kinh tế gia, mới sai. Hỏi các nhà kinh tế làm thế nào để phát triển đất nước cũng giống như hỏi một ông hàng thịt cách nuôi heo. Họ không biết.

Cái gì làm cho kinh tế phát triển? Đó là nhờ một kỹ sư phát minh ra một cái máy mới nào đó hay một phương thức sản xuất nào đó làm cho số lượng sản phẩm tăng lên với cùng một vốn đầu tư và cùng một số công nhân. Đó là nhờ một nhà kinh doanh sau nhiều quan sát và suy nghĩ đã nhìn ra một yêu cầu mới của thị trường rồi tạo ra một cơ sở kinh doanh, tuyển dụng một số nhân công mới, vừa kiếm được một tài sản cho mình, vừa giải quyết sinh kế cho nhiều gia đình, vừa kích thích một số hoạt động kinh tế khác. Đó là nhờ một nhà kinh doanh ký được một hợp đồng xuất cảng với nước ngoài. Đó là nhờ một doanh nhân hợp tác vi một nhà sáng chế lập ra một số cơ sở sản xuất một sản phẩm mới, thỏa mãn một cách tốt đẹp hơn nhu cầu của người tiêu thụ, v.v... Tất cả những yếu tố đó thường chẳng có mấy liên hệ với môn kinh tế học. Độc giả có thể phản bác rằng những thí dụ trên chỉ là những trường hợp cá nhân, lẻ tẻ trong khi chúng ta đang nói về kinh tế trên qui mô quốc gia. Xin thưa rằng kinh tế quốc gia không gì khác hơn là tổng số những trường hợp cụ thể đó. Sáng kiến, sản phẩm mới, kỹ thuật mới, phương pháp mới, thị trường mới, và tính mạo hiểm kinh doanh làm cho kinh tế phát triển.

Tuyệt đai đa số nhưng chuyên viên kinh tế làm việc trên những vấn đề rất giới hạn: những biến thiên trong số lượng tiêu thụ của loại sản phẩm; nhưng biến thiên về giá và số lượng sản xuất ca một nguyên liệu; những chuyển biến của một ngành đặc biệt và những nguyên nhân tạo ra các chuyển biến đó; những thay đổi trong cách tiêu xi của quần chúng; trọng lượng tương đối của dầu khí trong giá thành cửa một loại mặt hàng; trọng lượng tương đối của các thành phần xã hội trong tổng sản lượng quốc gia; biến thiên của mức lương trung bình trong một thời gian nào đó của một khu vực nào đó; sự phân phối lợi tức giữa các thành phần xã hội, v.v... Tất cả những công việc này đòi hỏi một sự hiểu biết lường tận về đối tượng nghiên cứu, những quan sát rất chi tiết và đôi khi những dụng cụ toán học khá phức tạp, đặc biệt là về môn thống kê. Tuy vậy chúng ta thường chỉ coi là kinh tế gia những người hiểu biết, hoặc tỏ ra hiểu biết, về hoạt động kinh tế tổng hợp của cả quốc gia như tổng sản lượng quốc gia, khối lượng tiền tệ lưu hành, tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp, tương quan giữa các khu vực cấp một, cấp hai, cấp ba, giữa các ngành hoạt động v.v...., nói một cách khác về môn kinh tế chính trị (economics hay économie politique), trong khi những hiểu biết này vừa ít lại vừa dễ.

Kinh nghiệm của tôi tuy chẳng bao nhiêu nhưng cũng đủ để cho phép tôi khẳng định về môn kinh tế chính trị nó rất dễ. Một người bình thường với trình đ tú tài, hơn một chút nữa càng hay, nếu tự tin và quyết tâm có thể nắm vững những kiến thức cơ bản của môn kinh tế chính trị trong vòng một năm, dĩ nhiên với điều kiện là có được sách tốt hoặc thầy tốt. Một số độc giả đọc đến đây có thể giẫy nẩy lên: Tên này xấc xược dốt nát nên nói bậy. Lời phê phán này lại càng có cơ sở bởi vì kinh nghiệm đã cho thấy không thiếu những người rất thông minh, có học vị rất cao, đã từng bỏ ra nhiều năm nghiên cứu và đã giữ những chức vụ rất quan trọng vẫn có thể tuyên bố những điều rất sai về kinh tế. Nếu môn kinh tế chính tr chỉ giản dị và dễ dàng như vậy thì tại sao những người rất giỏi lại có thể có những nhận định rất sai?

Quả thực chính tôi cũng đã chứng kiến nhiều trường hợp như vậy. Một thí dụ, ti đã hai lần được nghe hai vị tiến sĩ kinh tế, một tại Pháp và một tại Mỹ, nói rằng tham nhũng cũng là một yếu tố kích thích cần thiết cho phát triển kinh tế. Vị tiến sĩ tại Mỹ thì tôi không rõ lắm nhưng vị ở Paris thì tôi biết khá rõ, có học vị thực sự và đang giữ một chức vụ quan trọng trong một cơ quan nghiên cứu rất lớn và đầy uy tín. Về phía các nhân vật quốc tế tôi cũng đã từng được nghe những vị có uy tín và chức quyền rất cao phát biểu những điều rất sai, sai một cách lố lăng. Mà không phải do tôi, một cách ch quan coi những phát biểu này là sai, nhiều chuyên gia rất có thẩm quyền khác đã chứng tỏ sự sai lạc của chúng một cách rõ rệt như hai cộng với hai là bốn.

Tại sao những người rất giỏi lại có thể nghĩ và nói những điều rất sai như vậy? Theo tôi có ba nguyên nhân chính. Một là những kiến thức cơ bản thường rất tẻ nhạt hay ít quyến rũ bởi thế nhiều người thông minh coi chúng là thiên nhiên, rời không chịu đầu tư thời giờ nắm cho thật vững, mà có nắm thật vững thì những kiến thức đó mới nhập tâm và trở thành phản xạ trong lý luận. Không phải ai học thức các định lý đều c thể giải được những bài toán, chỉ có những người đã nhập tâm những định lý đó mới sử dụng chúng một cách tự nhiên. Nhiều người học kinh tế vội vã tiến ngay vào những chủ để sôi động, có thể gây được sự chú ý và thán phục. Đó là thói thường của những người nghĩ mình giỏi, khiến họ đôi khi hụt hẫng. Điều tai hại là do địa vị của họ, những điều họ nói dễ được tin, gây ra thành kiến sai cho nhiều người khác. Cuối cùng một vấn đề đáng lẽ giản dị trở thành phức tạp. Không thiếu gì những người học võ không đủ kiên nhẫn chịu mất thì giờ để tập đứng tấn, luyện hô hấp và di chuyển, mà muốn học ngay những bài quyền, những thế đánh ngoạn mục. Không thiếu những nhà văn, nhà thơ không chịu mất thì giờ tìm hiểu ngữ pháp và ngữ vựng mà đã vội vã sáng tác và xuất bản tác phẩm.

Hai là mọi lý luận kinh tế đều phải dựa trên những sự kiện thực tế, mà những sự kiện này thường đòi hi rất nhiều thì giờ để tìm kiếm và còn đòi hỏi một thì giờ lớn hơn nữa để thấu hiểu, cho nên những người thông minh nhất cũng rất dễ tưởng rằng mình đã thấu hiểu, rồi đưa ra những kết luận vội vã và sai lạc.

Ba là bản tính con người, dù thuộc chủng tộc hay văn hóa nào, thường rất ít khi mất thì giờ để kiểm điểm những kiến thức và niềm tin của mình để tìm xem có gì mâu thuẫn không, cho nên một con người rất thông thái vẫn có thể cùng một lúc tin ở những sự kiện hoàn toàn trái ngược nhau. Thái độ ba phải này hnh như đặc biệt trầm trọng nơi người á Đông nói chung và người Việt nam nói riêng. Một thí dụ là quan điểm tam giáo đồng nguyên của chúng ta, ván thường được viện dẫn để chứng minh và tự hào, rằng người Việt nam rất bao dung và đã tổng hợp được một cách đẹp đẽ ba dòng tư tưởng Khổng, Phật, Lão. Thế nào là đồng nguyên? Nếu hiểu là cùng nguồn gốc địa lý thì chắc chắn sai vì Pht Giáo xuất phát từ ấn Độ trong khi Lão Giáo và Khổng Giáo xuất phát từ Trung Hoa. Nếu hiểu là cùng một thái độ thì cũng sai vì chọn lựa cơ bản của Khổng Giáo chỉ thực tiễn là làm quan lại, chn lựa của Lão Giáo là không tìm kiếm bất cứ gì, trong khi chọn lựa Phật Giáo là tìm giải thoát cá nhân cho những đau khổ của cuộc sống. Người ta có thể kính trọng cả ba nhưng không thể nghĩ rằng có thể theo cả ba cùng một lúc và càng không thể coi chúng là đồng nguyên được. Một thí dụ động trời khác là chủ trương kinh tế thị trường theo định hướng Mác-Lênin. Làm sao có thể mâu thuẫn đến như thế được, chủ nghĩa Mác Lênin là gì nếu không phải là sự phủ nhận một cách thù ghét thị trường? Nếu mỗi người chúng ta thỉnh thong bỏ thời giờ kiểm điểm những hiểu biết của mình và cố gắng tìm ra nhưng mâu thuẫn giữa những hiểu biết đó thì hay biết bao. Đến đây, tôi đã nói mông lung lắm rồi, xin đi vào một số vấn đề cụ thể.

Chương thứ :86 "

Vấn đề đầu tiên là kế hoạch kinh tế. Tôi vẫn thường được hỏi: Các anh có kế hoạch gì để phát triển kinh tế. Người Việt nam chúng ta, miền Nam cũng như miền Bắc, cộng sản cũng như chống cộng, rất coi trọng kế hoạch. Chính quyền miền Nam ngày trước có cả một Bộ Kế Hoạch. Chính quyền miền Bắc ngày trước (và Việt nam ngày nay) có một phó thủ tướng đặc trách kế hoạch đứng đầu ngành kinh tế, chỉ gần đây kế hoạch mới hơi xuống giá, chỉ còn lại một Bộ Kế hoạch và Đầu t mà thôi. Phải nói thẳng tôi rất dị ứng với kế hoạch. Lý do là vì tôi tin tưởng vào kinh tế thị trường, mà kinh tế thị trường là gì nếu không phải là để cho thị trường quyết định giá cả cũng như số lượng của từng sản phẩm? Làm sao có thể vừa tin ở kinh tế thị trường - nghĩa là để cho tư nhân theo quan sát thị trường tự quyết định làm gì, làm tới đâu, và với giá nào - lại vừa quyết định là trong năm năm tới phải sản xuất bao nhiêu quần áo, bao nhiêu xe gắn máy? Cùng lắm chúng ta chỉ có thể tiên liệu để biết sẽ phi thích nghi như thế nào. Cùng lắm nhà nước chỉ có thể có những kế hoạch xây dựng hạ tầng cơ sở. Giữa hai điều, kế hoạch và kinh tế thị trường, phải chọn một. Các nước tư bản phát triển không có bộ kế hoạch. Nước Pháp cho tới đầu thập niên 1980 vẫn còn Cao ủy Kế hoạch, giờ đây không thấy ai nói đến nữa, Cao ủy Kế hoạch vẫn còn, nhưng vai trò chủ yếu của nó là phân phối những cơ sở vật chất mà nó đứng tên làm chủ quản, trước khi biến mất. Người cộng sản, trước đây, có lẽ ít mâu thuẫn hơn người không cộng sản ở điểm này vì họ phủ nhận tự do kinh doanh và tin, hay ít nhất tuyên bố là tin, ở kế hoạch. Nhưng giờ đây khi họ cũng đã tin, và có lẽ là tin thực, ở kinh tế thị trường thì họ cũng phải chọn lựa. Một mâu thuẫn khổng lồ khác của chính quyền cộng sản là, một mặt tin rằng kế hoạch là cốt lõi của kinh tế và kinh tế rất phức tạp, một mặt lại chỉ đặt vào địa vị lãnh đạo kế hoạch và kinh tế những người hoàn toàn không có một khả năng chuyên môn nào về kinh tế và cũng chưa hề quen biết với những vấn đề kinh tế. Chẳng hạn như nhà thơ Tố Hưu được đưa lên làm phó thủ tướng đặc trách kế hoạch kinh tế, rồi đến ông Võ Văn Kiệt, một vị tướng công an suốt cuộc đời hoại động chỉ lo tổ chức tuyên truyền, bắt cóc, ám sát. Sau ông Kiệt là ông Phan Văn Khải, một người, theo những người từng học và làm việc với ông, tuy có được gởi sang du học Liên xô vài năm nhưng vì vốn tiếng văn hóa và ngoại ngữ quá yếu nên chẳng học được gì và phần lớn sự nghiệp là làm phụ tá ngoan ngoãn cho ông Kiệt. Những nhà kinh tế thực sự phải có can đảm nói thẳng, mỗi khi được hỏi, là chúng ta không thể có kế hoạch kinh tế nếu chúng ta thực sự chọn kinh tế th trường, nghĩa là nếu chúng ta thông minh.

Chương thứ :87 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :88 "

Trên những khái niệm rất cơ bản về chính trị hầu như chúng ta không có cùng một ngôn ngữ. Thảo luận chính trị là điều khá mới đối với người Việt, nếu thêm vào đó chúng ta lại không đồng ý trên những khái niệm như quốc gia, dân tộc, nhà nước, v.v... thì cuộc thảo luận lại càng khó khăn. Điều này thực ra không đáng ngạc nhiên lắm vì ít nhất hai ly do.

Lý do đầu tiên là do chính sự phức tạp của những khái niệm chính trị cơ bản, đó là những phát minh rất phức tạp của trí tuệ mà cho tới nay vẫn chưa có đồng thuận dứt khoát.

Lý do thứ hai là do cách tiếp cận của người Việt nam (đúng ra là của người Trung Hoa mà người Việt bắt chước) đối với các khái niệm chính trị đến từ phương Tây. Cách tiếp cận này là lấy một từ ngữ được coi là tương đương của ngôn ngữ Trung Hoa để dịch một từ ngữ của phương Tây, trong khi những từ ngữ tương đương đó có thể chẳng tương đương chút nào vì chứa đựng hai khái niệm khác nhau, có khi còn ngược hẳn với nhau. Cách tiếp cận này đưa đến ngộ nhận cả trong các cuộc thảo luận lẫn trong cách suy nghĩ.

Một vài thí dụ:

Càng ngày tôi càng được đọc nhiều bài của các vị rất uyên thâm, trong đó từ ngữ dân tộc được kèm theo trong ngoặc đơn chữ nation. Các vị này muốn nhấn mạnh dân tộc có nghĩa là nation trong tiếng Pháp và tiếng Anh. Khi viết dân tộc (nation), chắc chắn tác giả rất tin tưởng về sự hiểu biết của mình và sợ người đọc không hiểu. Tuy nhiên cũng những vị này, có khi trong cùng một bài, lại dịch peuple, hay people, cũng là dân tộc, trong khi trong tiếng Pháp peuple và nation là hai khái niệm khác nhau. Tôi cũng đã từng gặp nhiều vị dịch từ kép nation-state (hay état-nation) là quốc gia dân tộc. Tôi tưởng tượng ra sự bối rối của những độc giả có đôi chút kiến thức chính trị. Cụm từ quốc gia dân tộc trong tiếng Việt từ trước đến nay vẫn chỉ là cách viết tắt của quốc gia và dân tc. Tranh đấu vì quốc gia dân tộc có nghĩa là tranh đấu cho quốc gia và dân tộc. Mỗi ngôn ngữ có những đặc tính riêng, một trong những đặc tính của tiếng Việt là hay tiết kiệm chữ và. Chúng ta hay nói anh em họ hàng thay vì anh em và họ hàng. Tinh thần quốc gia dân tộc có nghĩa là tinh thần quốc gia và dân tộc. Từ kép nation-state (hay état-nation) có một ý nghĩa hoàn toàn khác. Chúng ta sẽ còn trở lại trong đoạn sau. Ngộ nghĩnh hơn nữa, nhiều vị còn chiết tự những danh từ chính trị theo chữ Hán. Chẳng hạn như nhiều vị giải thích danh từ pháp luật bằng cách giải nghĩa pháp là gì, luật là gì, v.v... trong khi khái niệm pháp luật của phương Tây và của Trung Hoa rất khác nhau, và tác giả đang nói về luật pháp theo nghĩa thông dụng đối với mọi người hôm nay, nghĩa là theo quan niệm phương Tây, do đó không thể chiết tự theo chữ Hán.

Chúng ta đã không quen với lý luận chính trị mà lại hiểu khác nhau những khái niệm cơ bản thì làm sao hiểu được nhau? Như vậy chúng ta cần đồng ý với nhau trên ý nghĩa của một số từ ngữ trước khi muốn đồng ý với nhau về lập trường. Có thể sau khi đã đồng ý với nhau về từ ngữ, chúng ta sẽ khám phá ra rằng chúng ta không có gì khác biệt.

Tôi sắp liều lĩnh đề nghị một số định nghĩa cho một số từ ngữ cần thiết cho các cuộc thảo luận chính trị. Liều lĩnh, bởi vì quốc gia, dân tộc, nh nước, chủ quyền, v.v... là những ý niệm tuy thường gặp nhưng lại rất phức tạp. Đã có hàng trăm cuốn sách trong đó có nhưng cuốn dầy cả ngn trang đề cập tới những khái niệm này mà vẫn chưa sáng tỏ. Những đề nghị sau đây chỉ có thể là sơ sài. Tôi cũng tự giới hạn trong cái nhìn của một người dân chủ, nhưng điều này có lẽ cũng không thực sự là một giới hạn nếu ta hiểu rằng cái nhìn dân chủ là cái nhìn chung của cả thế giới hiện nay. Độc giả sẽ lưu ý là tôi dùng nhiều qui chiếu bằng tiếng Pháp hơn là tiếng Anh. Lý do là các dân tộc Anh và Mỹ nặng đầu óc thực nghiệm, không mất thì giờ để định nghĩa những ý niệm phức tạp về mặt lý thuyết. Họ cũng không có yêu cầu, bởi vì gần như họ không có tranh luận chính trị thực sự. Họ đã chấp nhận ngay từ đầu chủ nghĩa cá nhân tự do, với cái hệ luận tất yếu của nó là dân chủ thị trường, và không bao giờ phải đặt lại những vấn đề triết lý chính trị và chủ nghĩa. Đó là những dân tộc may mắn, nhưng cũng vì thế mà tư tưởng chính trị của họ không phong phú bằng Pháp, đất nước của các cuộc cách mạng và xung đột ý thức hệ.

Chương thứ :89 "

Trước hết là quốc gia, danh từ Việt nam để dịch chữ nation, cả trong tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Quốc gia là một khái niệm rất trừu tượng được phát minh ra trong cuộc cách mạng Pháp để bao gồm một lãnh thổ, một chính quyền, một di sản văn hóa trong đó thông thường ngôn ngữ là chính, một lịch sử và một tập thể nhưng con người chấp nhận lịch sử đó và di sản vn hóa đó, chịu sự chi phối của chính quyền đó và cùng xây dựng với nhau một lương lai chung. Điều khó hiểu trong định nghĩa này là phần lớn các thành tố của quốc gia lại không chắc chắn. Quốc gia Hoa Kỳ chẳng hạn đã ra đời vào lúc hầu như chưa có lịch sử với nhiều di sản văn hóa khác nhau. Lãnh thổ có thể bị chiếm đóng, chính quyền có thể bị lưu vong hoặc tạm thời tan rã, ngôn ngữ có thể không phải chỉ có một, v v. mà quốc gia vẫn có hoặc vẫn còn. Ngoại trừ dân tộc và ý định chia sẻ một tương lai chung hình như không có thành tố nào tuyệt đối phải có, mặc dầu nếu có cũng có thể làm rõ hơn sự hiện hữu của quốc gia. Một thành tố mạnh, thí dụ như di sản văn hóa, có thể bù lại cho sự yếu kém, hoặc ngay cả vắng mặt, của một hay nhiều thành tố khác

Người ta có thể định nghĩa một quốc gia bình thường nhưng lại gập bối rối lớn trong những trường hợp đặc biệt. Quốc gia trước hết là một khái niệm tinh thần và tình cảm, trong đó nguyện ước chia sẻ một tương lai chung có tầm quan trọng quyết định. Một quốc gia trong đó mọi người không theo đuổi một dự án tương lai chung, vì có nội chiến hay vì quốc gia bị đặt dưới quyền định đoạt tùy tiện của một số người trong khi đa số dân chúng không có tiếng nói trong những quyết định lớn, không còn là một quốc gia đúng nghĩa. Đồng nghĩa với quốc gia là nước, đất nước, non sông hay tổ quốc được dùng tùy trường hợp.

Nước được dùng khi ta muốn nhấn mạnh đến yếu tố địa lý. Về nưc có nghĩa là về lãnh thổ Việt nam. Nước cũng được dùng khi muốn đề cập đến quốc gia một cách giản dị. Tương đương với nước trong tiếng Pháp là pays, trong tiếng Anh là country. Đất nước đưc dùng để chỉ quốc gia một cách tình cảm. Non sông càng tình cảm hơn vì bé nhỏ và gần gũi hơn, cũng như sơn hà, sông núi.

Tổ quốc cũng tình cảm như đất nước, non sông, nhưng nhấn mạnh hơn về lịch sử và di sản văn hóa. Chính vì nó gợi lại lịch sử và tổ tiên, mà tổ quốc có tính thiêng liêng hơn, và do đó cũng xa cách hơn đất nước. Tổ quốc, do đó, chỉ nên dùng trong những trưng hợp đặc biệt trang trọng. (Dùng tổ quốc để đạt tên cho một tổ chức chính trị, nhất là một tổ chức bù nhìn như Mặt Trận Tổ Quốc, là một sự thô bỉ).

Chương thứ :90 "

Đi kèm với quốc gia là nhà nước, danh từ của tiếng Việt tương đương với từ état của tiếng Pháp hay state của tiếng Anh. Chắc không khỏi có những độc giả xua tay phn bác: Tầm bậy, quốc là nước, gia là nhà, quốc gia là nhà nước. Xin chớ nóng nảy, chúng ta đang nói tiếng Việt, và không phải tiếng Việt nào cũng phải rập khuôn theo chữ Hán. Máy bay trực thăng không đồng nghĩa với máy bay lên thẳng vì có những máy bay lên thẳng không phải là trực thăng. Trực thăng là loại máy bay lên thẳng và có quạt trên nóc. Người Việt nam ta hiểu khá rõ thế nào là nhà nước. Đó là toàn bộ guồng máy chính quyền: lập pháp, tư pháp và hành pháp. Nói một cách giản dị đó là quốc hội, các tòa án, chính phủ và các cơ quan thuộc quyền điều khiền của chính phủ.

Nếu đnh nghĩa vật chất của nhà nước khá giản dị thì ý nghĩa và vai trò của nó lại rất phức tạp. Georges Burdeau, một trong những học giả nổi tiếng của nước Pháp về các định chế chính trị, từng nói rằng nhà nước là phát minh phức tạp nhất của loài người từ ngày khai thiên lập địa. Nhận định này không phải là quá đáng. Đặc tính nổi bật của nhà nước là nhà nước là thực thể duy nhất trong quốc gia có quyền áp đặt một cưỡng chế thân xác trên con người. Nhưng đây là một đặc tính chứ không phải là một định nghĩa. Nhà nước (état, State) đảm nhiệm vai trò đại diện toàn quyền và đuy nhất cho quốc gia. Thế giới chỉ biết đến quốc gia qua nhà nước. Đối với quốc tế, nhà nước là quốc gia. Chính vì thế mà một số nưc đã tự giới thiệu mình là état hay state. Trước đây chúng ta đã có Quốc Gia Việt nam, được dịch ra là état du Vietnam, hay State of Việt nam. Hiện nay có état dIsrael hay State of Israel, sắp tới có état Palestinien hay Palestinian State, có thể dịch là Quốc Gia Do Thái, Quốc Gia Palestine, nhưng thực ra là Nhà Nước Do Thái, Nhà Nước Palestine. Lý do khiến các quốc gia này hay xưng mình là état hay State thay vì nation là vì ý niệm nation vừa phức tạp vừa tình cảm mà lại thiếu sự xác nhận rõ rệt và mạnh mẽ là có một guồng máy chính quyền tự chủ.

Nếu sau hiệp ước Hạ Long năm 1948, ông Bảo Đại thay vì dùng cm từ Quốc Gia Việt nam đã dùng cụm từ Nhà Nước Việt nam để dịch cụm từ état du Vietnam mà ông đã thỏa thuận với nước Pháp thì chúng ta đã tránh được sự lấn cấn này.

Một chức năng khác của nhà nước là có toàn quyền, theo luật định, trên khắp lãnh thổ. Một quốc gia chỉ có thể có mt nhà nước. Trong trường hợp của các nước theo thề chế liên bằng phải hiểu rằng quyền hành của các chính quyền tiểu bang là quyền được chính quyền liên bang chuyền nhượng. Nhà nước Hoa Kỳ là chính quyền liên bang. Trong trường hợp nước Mỹ, chúng ta lại gặp một sự lẫn lộn do lịch sử để lại là các bang cũng được gọi là state, nhưng đó không phải là những nhà nước cũng không phải là những quốc gia. Người Đức chỉ gọi các bang là các lander (vùng).

Một danh từ khác đáng lẽ đã có thể dùng để thay thế cho nhà nước là chính quyền. Trong tiếng Việt, thói quen cho đến nay là chính quyền thường được dùng để chỉ bộ máy hành pháp, đôi khi bao gồm cả các tòa án. Thực ra chính quyền và nhà nước chỉ là một.

Chương thứ :91 "

Sự lẫn lộn giữa nhà nước và quốc gia, do cách chuyển ngữ état, hay state, thành quốc gia đã khiến nhiều tác giả bối rối trước cụm từ état-nation (hay nation-state). Bối rối là vì état đã dịch là quốc gia nếu nation cũng là quốc gia thì không lẽ cụm từ nation- state là quốc gia - quốc gia hay sao? Đề tháo gỡ bối rối này, các vị dịch nation là dân tộc, như vậy cụm từ nation-stale sẽ là quốc gia dân tộc. Thế là xong? Nhưng thực ra đây chỉ là tránh ngã xe đp để rồi bị rớt máy bay vì cụm từ quốc gia dân tộc hoàn toàn chẳng có một liên hệ nào với nation-state. Nếu nhìn vào nội dung và tìm cách diễn tả nội dung thay vì chỉ tìm cách giải quyết vấn đ thuật ngữ chúng ta sẽ thoải mái hơn nhiều.

Nation- state (état-nation) có nghĩa gì? Đây là một cụm từ chỉ mới xuất hiện trong ngôn ngữ chính trị gần đây mà thôi, từ khi khuynh hướng toàn cầu hóa xuất hiện đòi xét lại quyền hạn của các nhà nước để đi đến một thế giới đồng điều hơn, với một luật pháp quốc tế và trong đó một số quyền hành của các nhà nước được chuyển giao cho các định chế cao hơn, hoặc quốc tế như Liên Hiệp Quốc, hoặc khu vực kiểu Liên Hiệp Châu Âu. Trong chiều sâu đây là một sự xét lại khái niệm quốc gia với nhận định rằng quốc gia không phải là ơn vị cao nhất đối với một con người, mà phải được đặt dưới một số định chế quốc tế. Khuynh hướng này gặp phản ứng của một số quốc gia muốn giữ tối đa bản thể và quyền tự quyết. Cụm từ nation-state, hay état-nation, trong đó state, hay état, là danh từ và nation đóng vai trò tính từ, xuất hiện để chỉ các nhà nước muốn giữ nguyên ý nghĩa quốc gia của mình. Nói một cách khác, đó là những nhà nước độc lập, nhưng nhà nước giữ tối đa chủ quyền. Như vậy dịch cụm từ nation-state, hay Etat-nation, không có gì khó. Ta có thể dịch là nhà nước độc lập, nhà nước tự chủ, nhà nưc toàn quyền, hoặc nhà nước - quốc gia, ba cụm từ này hoàn toàn đồng nghĩa. Nhưng dứt khoát không phải là quốc gia dân tộc. Nhưng nhà nước đầu tiên ra đời đã là những nhà nước-quốc gia. Nhưng t nửa sau thế kỷ 19 trở đi đã bùng ra một cuộc tranh cãi sôi nỗi về các ý niệm quốc gia và nhà nước. Karl Marx tỏ ra đặc biệt tích cực trong cuộc tranh luận này. Một trong những sai lầm cơ bản của chủ nghĩa cộng sản là đã không đánh giá đúng vai trò của các nhà nước-quốc gia. Sự tập trung quyền lực trên toàn thế giới không những là điều không thể thực hiện được mà còn là điều không nên thực hiện vì nặng nề và trói buộc. Ngay cả những nước lớn cũng còn phải tản quyền thành nhưng địa phương tự quản với một chính quyền trung ương làm công tác điều hợp. Thế giới đại đồng trong lương lai sẽ là thế giới của sự phối hợp giữa những quốc gia chung sống và hợp tác với nhau, cùng chia sẻ với nhau một số giá trị phổ cập và cùng chấp nhận một số qui ước chung chứ khng phải thế giới trong đó các quốc gia bị xóa bỏ. Sự ra đời của những nhà nước- quốc gia thay thế cho những nhà nước quân chủ đã là là một biến cố trọng đại thúc đẫy tiến bộ. Các nhà nưc-quốc gia đầu tiên đã hình thành tại phương Tây và đã đem lại cho các dân tộc phương Tây một sức mạnh hơn hẳn.

ý niệm quốc gia, như một thực thể của chúng thay vì của một người hay một nhóm người, đã động viên được sinh lực và sáng kiến của mọi người và đã khai sinh ra tổ chức nhà nước hiện đại. Khi đi chinh phục thế giới vào thế kỷ 18 và 19, sức mạnh chính của người phương Tây không phải là vũ khí và kỹ thuật hiện đại mà là tổ chức nhà nước hiện đại phục vụ cho một quốc gia được quan niệm như là không gian liên đới của một tập thể người có nhiều điểm chung và cùng xây dựng một tương lai chung. Quan niệm này khiến quốc gia vừa có ích vừa cần thiết, nó cũng đem lại cho nhà nước sự chính đáng và, do đó, sức mạnh.

Một chú thích. Cũng như tất cả mi ý niệm mới, ý niệm quốc gia đã không tránh khỏi những tật bệnh trong quá trình hình thành và trưởng thành; mà tật bệnh độc hại nhất là chủ nghĩa quốc gia (nationalisme), coi quốc gia như là cứu cnh duy nhất và không gian trách nhiệm duy nhất. Chủ nghĩa quốc gia đồng hóa sự thù ghét các dân tộc khác với sự quí mến dân tộc mình. Nó lẫn lộn tinh thần bài ngoại với lòng yêu nước, nó là một quan niệm hẹp hồi về dân tộc. Nhưng tật bệnh này ngày càng được nhận diện và điều trị, và một khi đã được điều trị xong, ý niệm quốc gia sẽ lấy lại được ý nghĩa thực sự của nó, sẽ đp hơn, mạnh hơn chứ không yếu đi.

Chương thứ :92 "

Còn dân tộc? Cho đến nay mọi người Việt nam có kiến thức Tây học đều đã đồng ý dân tộc tương đương với từ peuple của tiếng Pháp và people của tiếng Anh. Dân luôn luôn phải là người và chỉ có thể là người. Chưa thấy ai đặt lại cách dịch này. Vấn đề là một số học giả cũng dùng tiếng dân tộc để dịch chữ nation. Cách dịch này chắc chắn là sai vì trong tiếng Pháp nation và peuple là hai ý niệm rất khác nhau về mặt lý thuyết (trong tiếng Anh, sự khác biệt giữa people và nation không rõ rệt bằng). Chúng ta đều hiểu dân tộc là tiếng dùng để chỉ toàn bộ những con người của một quốc gia, nghĩa là những người chấp nhận đảm nhiệm cùng nhau một di sản và chia sẻ với nhau một tương lai chung. Mặc dầu sự hiện diện của chữ tộc, dân tộc không mang một nội dung huyết thống chủng tộc nào. Trong những yếu tố cấu tạo của quốc gia (lãnh thổ, nhà nước, lịch sử, di sản văn hóa, dân tộc và dự án tương lai chung) chắc chắn dân tộc là yếu tố hữu hình quan trọng nhất (cũng như dự án tương lai là yếu tố vô hình quan trọng nhất), nhưng không phải là tất cả. Đồng hóa dân tộc với quốc gia có thể là gần đúng về mặt sinh hoạt thường ngày nhưng rất sai về mặt lý thuyết như ta sẽ trở lại trong phần sau, khi đề cập đến chủ quyền.

Cần lưu ý là dân tộc, cũng như peuple, không phải chỉ là những công dân hiện có, mà còn có ý nghĩa vượt thời gian, ngược về quá khứ và nối dài về tương lai, để chỉ chung những con người đã, đang và sẽ thuộc về quốc gia. Khi ta nói đến cuộc Nam tiến của dân tộc Việt nam thì dân tộc là để chỉ chung một khối người từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 18.

Một danh từ tương đương với dân tộc là nhân dân. Cho đến nay nhân dân vẫn được dùng để chỉ dân tộc trong trường hợp ta muốn nhấn mạnh tới những người đang sống. Đôi khi nhân dân cũng được dùng kèm với một địa danh để chỉ tập thể những người dân trong một vùng. Chẳng hạn như nhân dân Thái Bình. Đây có thể coi là một sự phong phú của tiếng Việt, nhưng về nội dung dân tộc và nhân dân không khác nhau.

Dân và dân chúng dùng để chỉ mọi người hay toàn bộ những con người sống dưới sự quản lý của một nhà nước. Quần chúng chỉ có nghĩa giản dị là khối đông người, thường được dùng để đối lại với một thiểu số chọn lọc.

Cần lưu ý một sự cẩu thả của chế độ cộng sản Việt nam là họ dùng cả danh từ dân tộc để chỉ các sắc tộc, như dân tộc Kinh dân tộc Tày, dân tộc Dao , v.v... để rồi đi đến nhận xét lúng túng dân tộc Việt nam gồm nhiều dân tộc , trong khi trong nhiều trường hợp họ lại quả quyết dân tộc Việt nam là một. Sự cẩu thả còn để ra một quái thai về ngôn ngữ: người dân tộc, được dùng để chỉ những người thuộc một trong những sắc tộc ít người.

Chương thứ :93 "

Còn chủ quyền (souveraineté)? Như đã nói, khái niệm quốc gia (nation), dù đã hiện hữu bàng bạc từ lâu do sự sống chung của những con người trên cùng một lãnh thổ và chia sẻ cùng một số phận, chỉ được chính thức phát minh ra trong cách mạng Pháp 1789 vì nhu cầu trả lời câu hỏi chủ quyền, tức quyền cao nhất và bao trùm, thuộc về ai một khi chế độ quân chủ đã bị lật đổ? Trước đó Jean-Jacques Rousseau, thủy tổ đích thực của chủ nghĩa cộng sản, chủ trương rằng chủ quyền thuộc về dân tộc, hay nhân dân. Mới thoạt nghe, lập trường này có vẻ hợp lý nhưng đem ra thực hiện người ta nhận ra là nó đưa đến những hậu quả nguy hiểm.

Nếu nhân dân làm chủ thì hệ luận tất nhiên là phải làm thế nào để nhân dân trực tiếp cầm quyền. Nếu khối nhân dn quá đông thì nhân dân sẽ chỉ định ra, bằng cách này hay cách khác, những đại biểu thay mặt cho mình, nhưng theo triết lý nhân dân làm chủ mỗi đại biểu này phải hoàn toàn làm việc theo mệnh lệnh của người dân trong đơn vị đã chỉ định mình và có thể bị thay đổi bất cứ lúc nào. Nhiều nhà tư tưởng trong cách mạng Pháp đã nhìn thấy mi nguy của triết lý chính trị này. Trước hết là quần chúng không đủ trình độ để quyết định những vấn đề khó khăn và phức tạp, kế đó là cơ quan quyền lực sẽ xung đột và lê liệt vì những đòi hỏi ích kỷ của địa phương, sau cùng và nguy hiểm nhất là nếu có một đảng mị dân hay khủng bố, hay vừa mị dân vừa khủng bố, nào đó khống chế được quần chúng thì họ sẽ nhân danh nhân dân nắm tất cả quyền hành, biến các đại biểu thành những con tin, và đưa đến độc tài toàn trị; người dân sẽ mất tất cả mọi quyền, có thể kể cả quyền sống. Từ đó nẩy ra một cuộc tranh cãi, và tranh đấu, sôi nổi giữa một phe quá khích chủ trương chủ quyền dân tộc (souveraineté populaire) và một phe ôn hòa chủ trương chủ quyền quốc gia (souveraineté nationale). Hậu duệ của phe chủ trương chủ quyền nhân dân không ai khác hơn là các đảng cộng sản và phát-xít, trong khi hậu duệ của phe chủ trương chủ quyền quốc gia là các chế độ dân chủ. Theo quan điểm của trường phái dân chủ thì nhân dân không làm chủ, chủ quyền thuộc về một cái gì đó cao hơn cả nhân dân, bao gồm cả lãnh thổ, lịch sử, di sản văn hóa, chính quyền, dân tộc và dự án tương lai chung. Điều này có nghĩa là ngay cả nếu tất cả mọi người đồng ý, họ vẫn không có toàn quyền trên đất nước. Khối toàn dân này vẫn phải tôn trọng một số nguyên tắc. Các cử tri ở mỗi đơn vị không bầu ra đại biểu của đơn vị mình, mà chỉ được trao trách nhiệm chọn lựa một trong những đại biểu cho quốc gia. Một khi đã được bầu, người đại biểu là của quc gia, không nhận mệnh lệnh của cử tri trong đơn vị mà được hoàn toàn hành động theo sự suy nghĩ của mình, các cử tri trong đơn vị không có quyền bãi nhiệm đại biểu trong suốt nhiệm kỳ. Những nhà tư tưởng dân chủ cho rằng phương thức này, một mặt, bảo đảm cho công việc chung được quản lý một cách thông minh và, mặt khác, tránh được nguy cơ chủ quyền bị một đảng chiếm đoạt. Trên thc tế, người đại biểu muốn được đơn vị mình tiếp tục tín nhiệm cũng phải lắng nghe và thỏa mãn nguyện vọng của các cử tri, người dân vẫn làm chủ, nhưng một cách tương đổi và gián tiếp. Triết lý chủ quyền quốc gia còn một hệ luận khác, tuy lý thuyết nhưng rất quan trọng, là nhà nước (chính phủ và quốc hội) tuy xuất phát từ một đa số vẫn không thể tự coi là có thể hoàn toàn định đoạt một cách tùy tiện. Do đó các thiểu số vẫn phải được tôn trọng.

Ngược lại, đối với phe cộng sản, quốc gia chỉ là một phát minh của giai cấp tư sản nhằm chiếm đoạt quyền làm chủ của quần chúng vô sân cho liên minh tư sản-trí thức.

Một lần nữa, cần nhác lại quốc gia là một ý niệm trừu tượng được phe dân chủ phát minh để giải quyết bài toán dân chủ. Đến đây, xin lưu ý bốn điều:

Một là khái niệm quốc gia đã nảy sinh cùng với khái niệm dân chủ, hồi sau một chút thì đúng hơn. Trong một bài báo tôi đã vit như vậy và đã bị nhiều phản bác, nhưng quả thực là như thế. Các vương quốc trước đây, kể cả Việt nam, không phải là những quốc gia thực sự, lãnh thổ không rõ rệt, người dân không chia sẻ một dự án tương lai chung nào cả mà chỉ chịu đựng ách thống trị được áp đặt bằng bạo lực. Các vương quốc đó có thể là bước đầu để xây dựng một quốc gia chứ chưa phải là những quốc gia.

Hai là cần lưu ý sự hụt hẫng của thói quen chiết tự. Cho đến nay chúng ta vẫn hiểu dân chủ một cách giản dị là dân làm chủ. Cũng đúng thôi, nhưng không đúng hẳn. Về lý thuyết, các chế độ dân chủ đã ra đời do sự phủ nhận chủ quyền dân tộc để thay thế bằng chủ quyền quốc gia, nói một cách khác, theo triết lý dân chủ thì dân không làm chủ, quốc gia mới là chủ; dân là thành phần chủ yếu của quốc gia, thay mặt quốc gia để chọn lựa phương thức tổ chức xã hội và chỉ định những người cầm quyền, nhưng không phải là quốc gia. Quốc gia là một sáng tạo của trí tuệ cao hơn dân tộc. Quốc gia là một khái niệm tinh thần và tình cảm.

Ba là cuộc tranh luận giữa hai trường phái chủ quyền dân tộc (cộng sản và phát-xít) và chủ quyền quốc gia (dân chủ) hiện nay tuy đã ngã ngũ trên thế giới (với sự toàn thắng của phe dân chủ) mà vẫn còn dai dẳng ở Việt nam. Chúng ta có thể lưu ý sự phủ nhận khái niệm quốc gia ca mọi chế độ cộng sản, kể cả chế độ cộng sản Việt nam. Họ chỉ sử dụng từ ngữ dân tộc, hay nhân dân, hay quốc dân, trong ngôn ngữ chính trị: Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, kinh tế quốc dân, quân đội nhân dân, công an nhân dân, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân. Từ quốc gia mới chỉ được dùng gần đây và chỉ có nghĩa đa lý, tương đương với toàn lãnh thổ, như giải bóng đá quốc gia. Những người dân chủ cần lưu ý điểm này trong cuộc vận động tư tưởng hiện nay. Lấn cấn từ ngữ có thể đưa đến bối rối trong lý luận. Đảng cộng sản đã thống trị trong một nửa thế kỷ tại miền Bắc và một phần tư thế kỷ trên cả nước, di sản ngôn ngữ của họ chắc chắn là đáng kẻ, điều quan trọng là phải biết mình đang nói về cái gì.

Bốn là chế độ cộng sản Việt nam còn đóng góp thêm cho sự hỗn loạn ngôn ngữ bằng khẩu hiệu dân làm chủ, đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý. Thực ra, trong các chế đ cộng sản, nhà nước thực sự chính là bộ máy đảng. Nhà nước này đứng trên quốc gia và đứng ngoài pháp luật mà nó ban hành, trong khi nhà nước chính thức chỉ là công cụ của bộ máy đảng. Tách rời đảng và nhà nước là thay đổi hẳn bản chất của chế độ. Chính vì thế mà chủ trương tách rời đảng và nhà nước có lúc được nêu ra đã mau chóng bị bóp nghẹt.

Chương thứ :94 "

Như định nghĩa trên đây thì quốc gia là trên hết. Nhà nước tuy là đại diện toàn quyền nhưng cũng chỉ là công cụ của quốc gia với sứ mệnh phục vụ quốc gia. Như vậy dứt khoát nhà nước phải ở trong và ở dưới quốc gia. Nhưng đây chỉ là lý luận trọng tinh thần dân chủ. Trên thực té tùy ở bản chất của nhà nước mà nó cao hơn hay thấp hơn quốc gia.

Trong các chế độ quân chủ chuyên chính trước đây, chỉ có chính quyền của vua và những thần dân sống trên đất của vua chứ không có quốc gia đúng nghĩa. Nhà nước là tất cả và tất cả nhà nước qui vào vua.

Trong các chế độ độc tài, nhà nước định đoạt một cách tùy tiện. Nhà nước ban hành luật lệ nhưng lại không bị ràng buộc bởi chính các luật lệ đó. Vai trò của người dân hoặc bị phủ nhận (như trong các chế độ độc tài quân phiệt), hoặc bị thoán đoạt (như trong các chế độ cộng sản). Không làm gì có sự chia sẻ tự nguyện một tương lai chung, chỉ có một ước vọng chung là tự do và dân chủ, nhưng đó là một dự án tương lai chung bị cấm đoán. Nhà nước khống chế và ở trên quốc gia. Quốc gia, nếu có, cũng chỉ ở tình trạng thoi thóp.

Điều cần lưu ý là ngay trong các chế độ được coi là dân chủ chân chính như nước Pháp, tương quan giữa nhà nước và quốc gia cũng chưa rõ rt. Các nhà tư tưởng chính trị Pháp vẫn còn đang đồng ý trên một điểm quan trọng, và trầm trọng, là vấn đề của nước Pháp vẫn còn là giảm nhẹ nhà nước xuống cho ngang hàng với quốc gia (réduction de l état à la Nation). Nhà nước Pháp vẫn chưa thực sự dân chủ, bởi vì nó vẫn còn quá nặng, quá lớn, quá tập trung và bởi vì quyền hành của tổng thống Pháp vẫn còn quá áp đảo. Chế độ tổng thống cộng với nhà nước tập trung đưa đến một chế độ có thể gọi là quân chủ cộng hòa, trong đó nhà nước ở trên quốc gia và áp đảo quốc gia. Kết luận này của các nhà tư tưởng Pháp thực đng suy ngẫm.

Dân chủ thực sự chỉ đến khi nhà nước ở trong và ở dưới quốc gia với sứ mạng phục vụ quốc gia, có vai trò tạo điều kiện lý tưởng nhất để mọi người chia sẻ, hưởng ứng và cùng nhau xây dựng một tương lai chung. Nó phải nhẹ, phải tản quyền, phải kính trọng mọi người và liên tục mưu tìm đồng thuận của mọi ngưi. Nói một cách khác, nó phải đa nguyên. Dân chủ thực sự là dân chủ đa nguyên. Đó là chế độ tương lai của loài người tiến bộ.

Chương thứ :95 "

Tất cả phần trên chỉ là một sự ghi chép với đôi chút chủ quan, chẳng hạn như sự nhấn mạnh trên tầm quan trọng của một dự án tương lai chung trong định nghĩa quốc gia. Mong các vị học giả châm chước cho về một sự tóm lược quá đáng trên những khái niệm tư chúng vốn đã rất tế nhị mà lại còn bị ngôn ngữ chính trị thông thường làm mờ tối thêm. Sau lời cáo lỗi thành thực đó, tôi cũng xin được có một ý kiến cá nhân về đất nước mình.

Sự phát minh ra khái niệm quốc gia (và nhà nước hiện đại dựa trên đồng thuận dân tộc mà nó đi kèm) đã là phát minh trọng đại nhất từ xưa đến nay của loài người. Nó đã được quan niệm như là một không gian liên đới của một cố gắng chung. Nó đã tạo ra sức mạnh của các nước phương Tây. Nhưng ngày nay các quốc gia tiên tiến đã đạt đến một mức độ phát triển ở đó sự cần thiết của quốc gia không còn là tuyệt đối nữa. Họ đang xét lại ý niệm quốc gia trong ý định đi một bước tiến xa hơn nửa.

Những khái niệm quốc gia đã rất cần thiết và có ích cho một giai đoạn phát triển. Thảm kịch của chúng ta là chúng ta còn đang ở một giai đoạn phát triển rất cần quốc gia, nhưng chúng ta chưa hình thành nổi một quốc gia vào lúc ý niệm này đã sắp sửa bị vượt qua. Như vậy chúng ta vừa phải xây dựng một quốc gia vừa phải đúng hẹn với trào lưu tiến bộ của thế giới.

Công việc đã khó lại càng khó hơn vì phải nói người Việt chúng ta có rất ít suy tư về quốc gia và dân tộc. Chúng ta có lẽ là dân tộc duy nhất trên thế giới này gọi quốc gia là nước. Đối với chúng ta, quốc gia ván chỉ giản dị là nước, là đất nước, là sông núi, quanh quẩn vẫn là đất và nước, những yếu tố hoàn toàn vật chất và địa lý. Điều này tố giác rõ rệt sự thiếu vắng của một tư tưởng chính trị và một suy tư về quốc gia. Do đó tinh thần dân tộc và lòng yêu nước của chúng ta dĩ nhiên là rất yếu. Chính vì lòng yêu nước của chúng ta quá yếu mà chúng ta vần chưa hình thành được một lực lượng dân tộc dân chủ có tầm vóc để chấp nhận thách đố của một đảng cầm quyền đã đưa đất nước từ đỗ vỡ này đến thảm kịch khác. Đừng chạy trốn sự thực, có hiểu được bệnh của mình mới có hy vọng lành bệnh.

Người Việt nam chúng ta rất cần một quốc gia, như là một không gian liên đới của một cố gắng chung, để nhờ đó cùng nhau vươn lên tới một cuộc sống phồn vinh và đáng tự hào. Và trong thế kỷ 21, với nhân quyền và dân chủ được coi như những giá trị cơ bản và phổ cập, sẽ chỉ tồn tại được những quốc gia không những được định nghĩa như một không gian liên đới, một tình cảm và một lương lai chung, mà còn phải thành công trong việc đem lại phúc lợi và niềm tự hào cho người dân. Nói một cách khác, những quốc gia thực sự dân chủ, đa nguyên và được quản lý một cách thông minh. Các quốc gia khác sẽ tan vỡ.

Hiện nay chúng ta chỉ có một chế đô độc tài, quản lý đất nước một cách tồi dở, với một dự án tương lai mà nhà nước áp đặt nhưng bị toàn dân khước từ là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự tồn vong của đất nước ta đang bị đe dọa nặng nề, không phải vì một ngoại bang nào dòm ngó xâm chiếm mà vì bị tụt hậu nhục nhã giữa trào lưu tiến bộ mãnh liệt của thế giới và vì, hơn thế nữa, dưi mắt người dân, quốc gia là một gánh nặng chứ không phải một chỗ dựa.

Chúng ta phải có dân chủ và phải có dân chủ thật mau chóng; đấu tranh cho dân chủ là tên gọi mới của cuộc đấu tranh giữ nước. Chúng ta phải tiến và phải tiến nhanh, nghĩa là phải vượt lên trên mọi hận thù, chia rẽ và ngờ vực để động viên được mọi khối óc, mọi trái tim và mọi bàn tay Việt nam trong một cố gắng chung; hòa giải và hòa hợp dân tộc là tiếng kêu cứu khẩn cấp của tổ quốc lâm nguy.

Chương thứ :96 "

Trong những trang trước, khi bàn về phát triển cũng như về những khái niệm quốc gia, dân tộc, chúng ta đã đề cập tới dân chủ. Dân tộc ta đã là nạn nhân của sự thiếu vắng dân chủ nhưng lại chưa thực sự ý thức được sự cần thiết của nó. Điều đáng ngạc nhiên là ít ai ngạc nhiên về sự nghịch lý này, kể cả đa số trí thức. Cần nhấn mạnh trạng từ thực sự vì quả nhiên đại đa số người Việt, nếu không muốn nói là tất cả, muốn có dân chủ, nhưng đó chỉ là một ý muốn bàng bạc thôi. Nếu đem dân chủ cho không thì chúng ta vui vẻ chấp nhận, nhưng nếu phải trả một giá nào đó thì rất ít người sẵn sàng, dù cái giá đó vào thời điểm này chỉ rất vừa phải. Chúng ta chưa có dân chủ vì chúng ta chưa thực sự tin tưởng vào sự cần thiết của nó. Chúng ta chưa thấy nó quan trọng cho đời sống của chính chúng ta. Nếu chúng ta thực sự muôn dân chủ chúng ta sẽ có dân chủ. Khi ngồi viết những dòng này, vào cuối năm 2000, tôi phải nhìn nhận một điều: chế độ cộng sản hiện nay dưới con mắt của một quan sát viên quốc tế khách quan không phải là một chế ộ hung bạo. Độc tài, ngoan cố, lì lợm, gian trá thì đúng, nhưng đàn áp đối lập dân chủ một cách hung bạo thì không. Từ tháng Giêng 1996 đến nay, họ đã chỉ bắt giam một trí thức đối lập, Nguyễn Thanh Giang trong vòng hai tháng, quản chế và sách nhiễu bốn người, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự và Mai Thái Lĩnh, và cắt điện thoại của khoảng hai mươi người. Theo tiêu chuẩn quốc tế đó không phải là một chính sách đàn áp dã man. Sự dã man đã có trước đây: chỉ vì phát biểu lập trường của mình mà Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Đình Huy, Lê Công Minh, Đinh Thế Vinh, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thái và hàng trăm người khác đã bị xử những bản án rất nặng nề, chung thân, hai mươi năm tù, v.v... Nhiều người dân chủ khác như Phạm Quang Cảnh, Trần Thanh Đình, v.v... đã bị xử tử Nhưng ngày nay sự hung bạo đã giảm rất nhiều. Chế độ cộng sản đã nhượng bộ trước dư luận thế giới hay họ đã chỉ nhận ra là phong trào dân chủ không nguy hiểm? Đó còn là một câu hỏi, nhưng thực tế là hiện nay phong trào dân chủ yếu vì nó thực sự yếu chứ không phải vì bị đàn áp thẳng tay, và nó yếu vì ý thức dân chủ của chúng ta không mạnh.

ý thức về dân chủ của người Việt nam yếu kém là một điều không thể chói cãi. Tôi rủ một trí thức rất có trình độ và thiện chí tham gia vận động dân chủ và được trả lời l anh không thích chính trị, anh chỉ dồn hết cố gắng để tranh đấu cho nhân quyền. Trong cách suy nghĩ của anh, tranh đấu cho nhân quyền là điều trong sạch, gần như một công tác từ thiện, trong khi đấu tranh cho dân chủ là làm chính trị với tất cả những phức tạp và xấu xa như thủ đoạn, lòng tham, v.v... Một trí thức từ trong nước ra nói với tôi rằng người trong nước (ý anh ta muốn nói trí thức trong nước) chỉ quan tâm tới những vấn đề cụ thể như công ăn việc làm thôi, còn dân chủ thì ít ai nghĩ tới vì không thực tiễn.

Vậy vấn đề dầu tiên cần được đặt ra là dân chủ là gì? Tôi xin đưa một định nghĩa ngắn gọn, hiểu được cho mọi người và cũng được mọi người chấp nhận, dù các học giả uyên thâm có thể nghi là chưa đầy đủ: dân chủ là một cách tổ chức xã hội, nói khác đi một chế độ chính trị, trong đó các quyền tự do ngôn luận và báo chí, tự do thành lập và gia nhập các tổ chức, tự do bầu cử và ứng cử được tôn trọng.

Tất cả tự do này, và nhiều quyền tự do khác nữa, được qui định rô ràng trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế nhân Quyền năm 1948 (và được Liên Hiệp Quốc đưa vào hiến chương). Nh vậy bản Tuyên Ngôn Quốc Tế nhân Quyền cũng là bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Dân Chủ. Phân biệt nhân quyền và dân chủ là sai. Nhân quyền và dân chủ chỉ là hai cách nhìn của cùng một vấn đề. Nhân quyền là dân chủ dưới gốc nhìn cá nhân, dân chủ là nhân quyền dưới gốc nhìn quốc gia.

Đã là một cách tổ chức thì về phương diện triết lý dân chủ chỉ là một phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Cứu cánh là làm thế nào để con người ngày một tự do hơn và sung túc hơn. Nói một cách huỵch toẹt thì cứu cánh là vừa có tự do vừa có tiền. Nếu có một phương thức nào khác cho phép đạt ti một mức độ tự do lớn hơn và một mức sống sung mãn lớn hơn thì ta không bắt buộc phải chọn dân chủ. Nhưng dân chủ là kết quả của kinh nghiệm nhiều ngàn năm dò dẫm của loài người. Churchill ã nói một câu châm biếm bất hủ rằng dân chủ là chế độ chính trị dở nhất, trừ khi ta so sánh nó với mọi chế độ chính trị đã được biết tới. Cho tới nay dân chủ đã là chế độ chính trị duy nhất đem lại tự do và hạnh phúc, vậy thì cũng là một chọn lựa bắt buộc giữa nhưng chế độ chính trị đã được thử nghiệm. Một điều bắt buộc phải có mà ta chưa có cũng phải được coi như một mục đích giai đoạn trước khi nhìn xa hơn. ở thời điểm này chúng ta có quyền tiếp tục suy ngh về những phương thức khác hay hơn dân chủ để làm cho thế giới giàu đẹp và tự do hơn nhưng chúng ta không thể chấp nhận thái độ từ khước dân chủ, nhất là để ngoan cố duy trì một chế độ đ được thử nghiệm và đã thất bại.

Nhận định dân chủ chỉ là một phương tiện, hay một mục tiêu giai đoạn, là cần thiết cho chính cố gắng xây dựng dân chủ. Nếu ta coi tự do (và cái hệ quả ã được chứng minh của nó là phồn vinh) mới là cứu cánh thì chính quyền trước hết phải là một chính quyền tối thiểu đã. Chính quyền dân chủ, nghĩa là chính quyền tốt, cũng không bằng không có chính quyền nếu không thực sự cần thiết. Một chính quyền dù xuất phát từ những cuộc bầu cử tự do và lương thiện nhưng nếu can thiệp vào tất cả mọi địa hạt, qui định quá nhiều và đm nhiệm quá nhiều sinh hoạt cũng là một chính quyền kềnh càng gây trở ngại cho người dân. ý thức rõ ràng rằng tự do mới là cứu cánh chúng ta sẽ hiểu rằng chính quyền tốt nhất là chính quyền nh nhất và nguyên tắc tiên quyết của một nhà nước là những gì người dân có thể làm được nhà nước sẽ không làm.

Cũng cần ý thức rằng nền tảng của tự do là sự hiểu biết, quyền tự do cần bản nhất là quyền được thông tin đầy đủ. Tự do thực sự là tự do trong sự hiểu biết chứ không phải tự do trong sự u mê. Trong thánh kinh Thiên Chúa Giáo, thượng đế đã tạo ra Adam và Eva, hai ngưi nhởn nhơ trong vườn địa đàng trong sự ngu dốt, họ chỉ thành những con người tự do sau khi Eva rủ chồng ăn trái cây hiểu biết. Thượng đế đã chỉ tạo ra hai động vật, Eva đã tạo ra loài người. Chúng ta đã nói, nhưng cần nhắc lại vì tầm quan trọng của nó, đặc tính đầu tiên của dân chủ là cho tới nay nó đã là thể chế duy nhất đem lại tự do và sung túc. Sự thực hiển nhiên này thực ra mới chỉ hoàn toàn sáng tỏ trước mắt mọi người từ hơn một thập niên nay sau khi phong trào cộng sản thế giới sụp đổ. Trước đó những thành quả ngoạn mục của các chế độ phát-xít Nhật, Đức, ý, rồi các chế độ cộng sản, nhất là Liên Xô, có lúc đã làm một só khá đông người tin rằng một chế dộ độc tài thông minh có thể đem lại một nhịp độ phát triển nhanh hơn. Thực ra những thành tích ngoạn mục của các chế độ độc tài, phát-xít và cộng sản, ngay cả khi có thực, cũng chỉ là những bịp bợm nếu được đồng hóa với pht triển kinh tế. Về bản chất đó là sự gia tăng của đầu ra (output) hậu quả của sự gia tăng của đầu vào (input). Cố gắng lớn hơn đã đưa tới kết quả lớn hơn chư không phải bộ máy đã hiệu lc hơn. Trong hầu như mọi trường hợp, cố gắng quá lớn về nhân lực và tài nguyên còn đưa tới sự kiệt quệ sau đó. Tần Thủy Hoàng đã xây được Vạn lý Trường Thành, các vua Ai Cập đã xây được những kim tự tháp chỉ nhờ áp đặt những hy sinh tàn bạo; chế độ Liên xô sau này đã bắn được nhiều vệ tinh vào không gian và chế ra hàng ngàn đầu đạn nguyên tử nhờ những đầu tư quá sức chịu đựng của Liên Xô. Tất cả những thành quả ấy đã được xây dựng trên máu và nước mắt và đã làm kiệt quệ tiềm năng quốc gia. Các chế đ bạo ngược chà đạp lên tự do đã đành nhưng cũng không đem lại phát triển. Phát triển là gia tăng đầu ra ở một tỷ lệ lớn hơn so với gia tăng của đầu vào, nghĩa là không những gia tăng đầu tư mà còn gia tăng năng suất nhờ một cách làm việc hay hơn.

Đặc tính quan trọng thứ hai của dân chủ là hầu như mọi suy tư lớn về dân chủ đã xuất hiện như một sự phản bác đối với chế độ đưng hành. Platon, nhà tư tưởng dân chủ đầu tiên, thực ra đã lý luận về dân chủ để phản bác chế độ dân chủ sơ khai được hình thành một cách ngẫu nhiên tại Hy Lạp. Ông định nghĩa dân chủ như sau: Dân chủ đến sau khi những người nghèo lật đổ những người giàu, tàn sát một số, lưu đầy một số và giữ lại một số khác. Đó là chính quyền của người nghèo. Với một nhận định khinh bỉ như vậy dĩ nhiên Platon đề nghị một chế độ khác mà ông cho là lý tưởng hơn, đó là chế độ cộng hòa đặt dưới sự lãnh đạo của những hiền triết. Tuy phản bác dân chủ như nó xuất hiện vào thi điểm của ông, nhưng thực ra Platon đã đóng góp nhiều ý kiến quí báu cho dân chủ sau này. Các nhà tư tưởng dân chủ tại La Mã và tại châu Âu sau này cũng đã lên tiếng để phản bác các chế độ đương thời của họ. Những người đấu tranh cho dân chủ ở mọi nước hiện nay cũng không khác. Như vy một nét đặc thù cần được ghi nhận của dân chủ là nó có sự năng động riêng của nó. Do bản chất phản bác của nó, dân chủ luôn luôn nhận ra và sửa đồi những sai lầm của chính nó. Nhờ khả năng tự phê phán và điều chỉnh đó, một mặt ta không lo các xã hội dân chủ sẽ thỏa mãn và dừng lại ở một lúc nào đó, nghĩa là sẽ không có sự chấm dứt của lịch sử như Francis Fukuyama tiên đon, và mặt khác cũng không cần lo sợ sẽ có dân chủ quá độ.

Đặc tính quan trọng thứ ba của dân chủ là những cuộc tranh luận về dân chủ tự chúng đã rất có lợi cho xã hội. Thảo luận về dân chủ là thảo luận về công việc quốc gia, nhờ đó, một mặt, người dân hiểu được việc nước và cảm thấy gắn bó với đất nước, mặt khác, họ cũng qua đó mà hấp thụ được nhiều kiến thức mà họ khó có thể có một cách khác. Tôi xin dẫn chứng một kinh nghiệm mà cá nhân mình đã sống. Nhóm Thông Luận chúng tôi mặc dầu đại bộ phận l thành phần được gọi (hay bị gọi) là trí thức khoa bảng nhưng phần lớn là kỹ sư. Chúng tôi chỉ có rất ít chuyên viên về luật. Về luật hiến pháp chúng tôi lại càng thiếu. Năm 1995, để chuẩn b cho việc tu chỉnh Dân Chính Trị dân Chủ Đa Nguyên 1996, chúng tôi quyết định thảo luận và biểu quyết một cách dân chủ việc đề nghị một định chế chính trị cho Việt nam trước các đại hội thành viên. Nhiều người cho đây là một quyết định liều lĩnh và phiêu lưu vì anh em phần đông có rất ít kiến thức về các định chế chính trị và có thể biểu quyết không đúng. Chúng tôi đã có rất nhiều cuộc thảo luận sôi nổi và chính nhờ những cuộc thảo luận này mà kiến thức chính trị trung bình của tổ chức cao hẳn lên. Phải hơn một năm sau chúng tôi mới đi đến đồng thuận nhưng sau đó ti nhận xét là sự hiểu biết của nhiều bạn tôi về các định chế chính trị còn hơn cả một số vị mà trước đó chúng tôi coi là chuyên viên về hiến pháp. Tôi khám phá một cách thích thú một điều không ngờ là phúc lợi của dân chủ càng lớn khi quần chúng thiếu hiểu biết về chính trị. Chính khía cạnh mà nhiều người coi là tiêu cực của dân chủ, nghĩa là những cuộc thảo luận triền miền do sự thiếu hiểu biết, lại là khía cạnh tích cực nhất, bởi vì sau đó là một bước nhảy vọt của sự hiểu biết, và sự hiểu biết là nền tảng của tiến bộ.

Đặc tính thứ tư của dân chủ, đã được đề cập tới trong một chương trước nhưng vẫn cần nhắc lại, là nó là điều kiện không có không được để có thể nói tới quốc gia hay lòng yêu nước mọt cách đúng đắn. Khi đất nước đã bị chiếm đoạt làm của riêng dưới quyền định đoạt tùy tiện của một người hay một nhóm người thì dân chúng không còn lý do gì để phải lo âu cho đất nước cả. Lý do thật giản dị: đất nước đã là của riêng anh thì anh cứ lo liệu lấy một mình, tôi đã không có quyền thì cũng chẳng có bổn phận. Chưa kể là nếu anh chà đạp tôi thì tôi còn phá cho bõ ghét, không phá công khai được thì tôi cũng phá ngầm.

Các chế độ độc tài như vậy hủy diệt ý thức quốc gia và lòng yêu nước. Di sản độc hại nhất của các chế độ cộng sản chính là sự phá hoại này. Một thí dụ: ai cũng biết nước Nga ngày nay đang bị khủng hoảng tài chính rất nặng và hầu như không có lối thoát. Tuy nhiên rất ít người biết rằng đó là một cuộc khủng hoảng tài chính rất kỳ cục: nước Nga thiếu tiền trong khi vẫn xuất siêu (xuất cảng nhiều hơn nhập cảng) một cách liên tục và ở một mức đ rất cao. Trên nguyên tắc tình trạng đó phải đưa tới một sự dồi dào ngoại tệ, nhưng ngược lại ngân quỹ nhà nước Nga lại thiếu ngoại tệ một cách cực kỳ bi đát, ngân sách trống rỗng đến ni không trả được cả lương công chức. Đó là vì người Nga hoàn toàn không còn tinh thần trách nhiệm đối với quốc gia, họ coi trốn thuế và gian lận thuế như một môn thể thao lành mạnh. Những ngưi có tiền thì cất giấu trong nhà hoặc tại các ngân hàng ngoại quốc. Nước Nga rộng lớn mênh mông như vậy nhưng cũng là một trong những nước mà môi trường bị hủy hoại trầm trọng nhất bởi vì người Nga thiếu tinh thần quốc gia và do đó hành xử một cách vô trách nhiệm.

Các chế dộ độc tài còn tạo ra một mối nguy khác là để chúng thường khơi dậy tinh thần dân tộc hẹp hòi, nghĩa là sự thù ghét người khác để thay thế cho lòng yêu nước, nghĩa là sự yêu mến và gắn bó với dân tộc và đất nước mình. Tinh thần dân tộc hẹp hòi này ngăn cản những hợp tác lành mạnh giữa các quốc gia và là mối đe dọa cho hòa bình.

Sau cùng, cần lưu ý đặc biệt là các chế độ cộng sản đã phản bội chính lý tưởng cộng sản. Trong cuộc thảo luận sôi nỗi về dân chủ ở thế kỷ 19, vn đề trọng tâm là làm thế nào để thực hiện dân chủ. Những lý thuyết gia cộng sản tiên khởi, kể cả Karl Marx khi ông chưa bị lão hóa, không hề đặt lại nguyên tắc cơ bản của dân chủ (tự do ngôn luận, tự do thành lập và gia nhập các tổ chức, tự do bầu cử và ứng cử). Họ chỉ cố gắng tìm một phương thức để bảo đảm dân chủ thực sự, nghĩa là dân chủ cho những người nghèo khổ, chiếm đại đa số lúc đó. Lý luận của họ là những người nghèo và thiếu kiến thức sẽ không có khả năng, cả tinh thần lẫn vật chất, để sử dụng các quyền tự do mà họ được hưởng trên lý thuyt và như thế chính quyền cuối cùng vẫn ở trong tay một thiểu số giàu có. Từ đó họ chủ trương tập thể hóa các phương tiện sản xuất và phủ nhận quyền tư hữu để bảo đảm sự bình đẳng thc sự về chính trị. Về cơ bản những ý kiến của họ nhằm cải tiến chứ không phủ nhận dân chủ. Trong hai hướng để tăng cường dân chủ, một hướng là nâng cao các quyền tự do chính trị và một hướng thứ hai là mở rộng dân chủ cho thật nhiều người, họ đã đặt trọng tâm vào hướng thứ hai và coi nhẹ hướng thứ nhất. Họ vấp vào hai sai lầm cơ bản, một về chính trị và một về kinh tế. Về chính trị, họ không nhận thức được rằng dân chủ là một chế độ mới và sẽ còn thay đổi không những về hình thức mà còn cả về nội dung quyền lực chính trị, họ đã quá nóng vội. Về kinh tế, họ nhìn hoạt động kinh tế như một trò chơi với tổng số cố định người này được người kia phải thua; họ không nghĩ là mọi người đu có thể cùng tiến lên sự sung túc; họ không thể tưởng tượng một xã hội trung đó những người thất nghiệp cũng sẽ có xe hơi. Họ lầm, nhưng dứt khoát họ không phủ nhận dân chủ. Trong đầu óc họ không có độc quyền báo chí của nhà nước, không có những cuộc bầu cử bịp bợm, với kết quả định sẵn, không có những nhà tù chính trị, không có việc cấm đoán các hội đoàn. Các chế độ cng sản sau này thực ra chỉ là một sự thoán đoạt, sau khi đã phản bội, những tư tưởng của các nhà lý thuyết cộng sản đầu tiên. Bây giờ hãy bàn về một số lấn cấn của người Việt nam chung quanh vấn đề dân chủ.

Dân chủ sẽ đưa tói hỗn loạn! Lập luận này được đảng cộng sản đưa ra như một sự thực hiển nhiên không cần chứng minh và được một số người chấp nhận một cách thụ động. Nhưng nó chỉ là một lập luận lỗ mãng, bất chấp cả lý luận lẫn thực tại đất nước. Hiện nay nước ta đang hỗn loạn và - hơn thể na - đang rất hỗn loạn. Trộm cướp hoành hành như chỗ không người. Buôn lậu có kho nhà nước, tàu chiến, xe tăng. Móc ngoặc, tham nhũng, hối mại quyền thế trở thành một nếp sống. Cây rừng, bờ biển, danh lam thắng cảnh, ngay cả di tích lịch sử bị phá hủy một cách vô tội vạ. Chưa kể loạn sứ quân, bắt người tùy hứng, giam giữ, tra tấn. Ngoại trừ chính sách khủng bố chính trị, Việt nam đang ở trong một tình trạng gần như vô chính phủ.

Kinh nghiệm sống dưới chế độ cộng sản Việt nam và những trao đổi với những người đã trưởng thành và làm việc trong các chế độ độc tài khác cho tôi một kết luận rất rõ rệt: không cứ gì Việt nam mà mọi chế độ cộng sản, nói chung mọi chế độ độc tài, đều rất hỗn loạn. Một người có thể vượt đèn đỏ, đánh vợ con, đả thương trầm trọng đồng nghiệp, gây mất mát nặng nề cho cơ quan mình, phóng uế bừa bãi, v.v... mà chỉ bị cảnh cáo, hay phạt qua loa. Các chế độ độc tài dung túng sự vô kỷ luật và vô trách nhiệm để bù lại sự thiếu tự do, họ chỉ thù ghét những phát biểu đứng đắn của trí tuệ, chứ không thù ghét những tệ đoan xã hội.

Dân chủ không đưa ti hỗn loạn, trái lại nó đem lại luật chơi rõ ràng minh bạch, nó bảo đảm công lý và luật pháp, nó đem lại tinh thần trách nhiệm vì nó cho phép mọi người có chỗ đứng và tiếng nói trong việc nước. Nó đem lại trật tự trong đầu óc con người và trong xã hội.

Dân chủ không có lợi cho phát triển kinh tế! Một xác quyết nông cạn phát xuất từ ngộ nhận về bản chất của dân chủ do sự nhận din hời hợt hoặc gian trá về những lúng túng của một số quốc gia trong giai đoạn chuyển tiếp về dân chủ. Dân chủ không phải là chiếc đũa thần giải quyết mọi vấn đề và đem lại phồn vinh. Dân chủ không thay thế cho những chính sách và nhưng con người. Dân chủ là một phương thức sinh hoạt cho phép đặt vấn đề một cách đứng đắn tìm giải pháp một cách đứng đắn và chọn lựa một cách đúng đắn những người trách nhiệm. Tự nó, dân chủ không giải quyết một vấn đề nào cả, nhưng không có dân chủ thì không có vấn đề nào có th giải quyết được một cách đứng đắn. Chính vì thế mà mức độ dân chủ quyết định giới hạn cho phát triển nói chung và phát triển kinh tế nói riêng. Chính vì thế mà các nước giàu mạnh đều là các nước dân chủ trong khi các nước độc tài đều chậm liến. Khuyết tật của thái độ thực tiễn cho rằng nên gác lại nhưng đòi hỏi chính trị để tập trung cố gắng vào vấn đề phát triển kinh tế rồi chính phát triển kinh tế sẽ đem lại dân chủ chính là ở chỏ nó không thực tiễn: chấp nhận độc tài để hy vọng phát triển kinh tế người la sẽ chỉ có độc tài mà không có phát triển. Dân chủ không đem cơm áo và hạnh phúc để phát không. Dân chủ không bố thí. Nó tạo ra những con người tự do và trách nhiệm, làm chủ đời mình, phát huy được khả năng và sáng kiến của mình để xây dựng đời mình và đất nước mình. Chính vì thế mà dân chủ đã giải tỏa được sinh lực quốc gia và đem đến sự phồn vinh.

Chính vì thế mà dân chủ mới đẹp.

Dân chủ là một xa xỉ phẩm đối với các nước thiếu mở mang! Quả là một thái độ miệt thị và kỳ thị chủng tộc. ở miệng những người thuộc các quốc gia thiếu mở mang, nó còn là một sự mạ lị chính mình một cách ngu ngốc. Dân chủ không phải là một xa xỉ phẩm đối với bất cứ một dân tộc nào. Khi các dân tộc phương Tây bt đầu dân chủ hóa, họ ở một mức độ kinh tế, xã hội và dân trí còn kém xa chúng ta ngày hôm nay. Riêng người Mỹ chưa hề biết một chế độ nào khác hơn là dân chủ, họ bắt đầu dân chủ từ nhng con người đến từ nhiều nguồn gốc và phong tục, thiếu thốn tất cả, kể cả văn hóa và đồng thuận. Nhờ có dân chủ họ đã tạo ra quốc gia hùng mạnh nhất trái đất. Những dân chủ có thể là một xa xỉ phẩm, và trên thực tế dân chủ đã từng là xa xỉ phẩm trong nhiều trường hợp. Dân chủ bịp bợm quả nhiên là một trò chơi vô cùng tốn kém và là một gánh nặng. Trái lại dân chủ thành thực là một dụng cụ quí giá. Những người cầm quyền cho rằng dân chủ là một xa xỉ phẩm thực ra chỉ có ý định dàn dựng một thứ dân chủ bịp bợm.

Dân chủ thành thực không nhất thiết là dân chủ hoàn chỉnh, mức độ hoàn chỉnh của một nền dân chủ tăng lên với thời gian, cùng với mức độ phát triển và dân trí; nhưng một nền dân chủ thành thực vần có nhưng thành tố tối thiểu của nó: tự do ngôn luận, đa đảng và bầu cử tự do. Kinh nghiệm cá nhân qua những trao đổi đã cho tôi một nhận định là tất cả những người lo âu một cách lương thiện rằng dân chủ có thể là mt xa xỉ phẩm khi dân trí còn thấp đều làm một sai lầm chung: họ trừu tượng hóa dân chủ. Nếu thay vì dặt câu hỏi: Việt nam có thể có dân chủ không?, họ đặt những câu hỏi cụ thể như có nên có tự do ngôn luận không, có nên có bầu cử, tự do lập hôi không, v.v... họ sẽ không còn băn khoăn.

Cũng không nên cuồng tín và quá khích. Phải thực tế mà nhìn nhân dân chủ sẽ không thể đem lại tất cả mọi phúc lợi của nó trong một tình trạng dân trí chưa mở mang. Nhưng điều cần phải ý thức một cách rất rõ rệt là dù trong hoàn cảnh nào dân chủ cũng hơn xa độc tài.

Dân chủ tự nhiên sẽ tới! Nếu dễ dàng như vậy thì tại sao mặc dầu mọi nước dân chủ đều giàu mạnh nhưng chỉ có một số ít dân tộc có được dân chủ? Dân chủ là một điều quí giá cho nên nó không tự nhiên mà mọc lên như cỏ đại mà phải tranh đấu để có. Các nước dân chủ phương Tây, mà đa số người Việt nam mơ ước, đã phải tranh đấu cam go lắm mới có được dân chủ như ngày nay và họ vẫn còn rất cảnh giác bảo vệ nền dân chủ đã tranh thủ được. ở đâu và bao giờ cũng thế, khuynh hướng chuyên quyền độc đoán luôn luôn là một cám dỗ mạnh. Nếu chúng ta không phấn đấu mà chỉ ngồi chờ để có dân chủ thì chắc chắn chúng ta sẽ chỉ có cái ngược lại của dân chủ.

Cũng chớ nên lạc quan mà nghĩ rằng dân chủ sẽ tới nhờ áp lực của đà tiến chung của thế giới. Nhưng áp lực này có thể đem đến dân chủ nhưng cũng có thể làm sụp đổ chính quốc gia. Vấn đề là chúng ta có đủ thì giờ không, đất nước ta có thể tồn tại được cho đến khi có dân chủ hay không? Như đã nói ở một phần trước của cuốn sách này, ý niệm quốc gia dân tộc đang bị công phá một cách gay gắt. Sẽ chỉ còn lại trong thế kỷ 21 những quốc gia được xây đựng trên một đồng thuận nghĩa là những quốc gia có dân chủ. Các quốc gia khác sẽ tan vỡ trong hỗn loạn. Với đà tiến hóa dồn dập hiện nay sự tan vỡ có thể là rất nhanh chóng. Chần chừ mãi trong cố gắng xây dựng dân chủ chúng ta có thể sẽ không còn quốc gia trước khi đạt tới dân chủ. Không cần phải là một nhà thông thái mới thấy được nguy cơ này, chỉ cần một chút quan sát và suy nghĩ lương thiện. Có cần một kết luận cho cuộc mạn đàm chung quanh vấn đề dân chủ này không? Có lẽ không, nhưng thay vào đó là một nhận định về sự khó khăn của cuộc thảo luận về dân chủ, và về chính trị nói chung. Khó ở chỗ người Việt nam hình như có một bản năng tự tin ghê gớm về lý luận chính trị. Nhiều người, kẻ cả nhưng trí thức có tầm vóc, có thể tin chắc như đinh đóng cột vào những lập trường không được xây dựng trên một cơ sở hiểu biết đúng đắn nào, và ở mỗi giai đoạn lại có thể tin chắc như đinh đóng cột vào những lập trường khác nhau. Những xác quyết cứ tự nhiên mọc ra, lúc nào cũng tuyệt đối, và không cần được xây dựng trên một vốn hiểu biết nào. Người Việt nam chúng ta, kể cả trí thc, thật rất vô lễ đối với kiến thức.

Một vị đàn anh của tôi, tốt nghiệp cùng trường nhưng trước nhiều năm, cách đây ba mươi năm thuyết phục tôi tham gia một phong trào trung lập của anh. Anh quả quyết chỉ có con đường đó là cứu vãn được đất nước, anh cũng quả quyết phải đấu tranh rất cam go chứ không thể khoanh tay chờ đợi. Lập trường của anh không dựa trên một hiểu biết đặc sắc nào. Có lẽ anh chỉ tình cờ đọc được một cuốn sách hay một vài bài báo và nghĩ rằng đó là những kiến thức không ai có. Những tôi không thảo luận được với anh vì anh quá quả quyết trong những ý kiến của mình. Sau đó tôi về Việt nam, còn anh, người đã thuyết phục tôi phải dấn thân tranh đấu cam go, vẫn ở lại Pháp. Hơn ba mươi năm sau tôi gặp lại anh và lần này cũng không thảo luận đợc với anh vì anh lại tin tưởng chắc nịch vào một chân lý mới là cách làm chính trị hay nhất là đừng làm chính trị? Anh nói bằng tiếng Pháp: La meilleure politique, cest pas de politique du tout? . Anh coi những hoạt động của tôi chỉ có hại vì các anh càng đòi dân chủ đảng cộng sản càng chống dân chủ, cứ để mặc họ, họ sẽ tự động dân chủ hóa.

Cái nghiệp hoạt động chính trị nhiều khi cũng o le. Biết tôi có chút ít hoạt động, nhiều người thường hay muốn gặp tôi để trình bày những con đường cứu nước mà họ đã khám phá ra. Có người vẽ ra những vòng tròn, có người vẽ ra những hình tam giác, có người giảng giải cho tôi về lẽ tuần hoàn của trời đất, có người nói chỉ có triết lý đạo Phật mới là nền tảng vững chắc xây dựng đất nước, cũng có người quả quyết rằng ạo Cao Đài là con đường bắt buộc của Việt nam. Những người này đều giống nhau ở một điểm là họ cho những điều họ nghĩ là hoàn toàn đúng và do đó không thể nghe một lập luận nào khác.

Mt người mệt mỏi chỉ có thể nói chứ không thể nghe, vì nghe đòi hỏi sức khỏe và sự tỉnh táo. Có lẽ chúng ta là một dân tộc đã quá mệt mỏi sau nhiều đỗ vỡ và mất mát. Và chính sự mệt mỏi này đã là lý do đầu tiên khiến chúng ta khó thảo luận với nhau về các vấn đề chính trị mà đặc điểm chung là bề mặt có vẻ như rất đơn giản trong khi trong chiều sâu chúng rất phức tạp.

Lý do thứ hai gây khó khăn, và đôi khi hỗn loạn, cho các cuộc thảo luận chính trị là chúng ta không ý thức được rằng muốn lý luận chính trị một cách đúng đắn cần qua một giai đoạn nhập môn nghiêm tc. Đó là giai đoạn nhập tâm những khái niệm căn bản của chính trị, quốc gia, dân tộc, nhà nước, chủ quyền, nhân quyền, tự do, dân chủ, văn hóa, phát triển, v.v... Và nhất là tìm ra mối liên hệ gia các khái niệm đó. Cố gắng nhập môn này rất khó và đòi hỏi rất nhiều thì giờ, nhưng là một sự bất buộc nếu không người ta sẽ rất dễ quên mình đang nói về cái gì, rồi sẽ nhảy loạn xạ từ khái niệm này sang khái niệm khác, từ đầu Ngô sang mình Sở, sẽ mâu thuẫn với những gì mình mới nghĩ tuần trước và những gì mình có thể nói ngày mai. Tôi đã từng được nghe nhiều bài thuyết trnh và đọc nhiều bài tham luận trong đo tác giả mâu thuẫn với chính mình trong vòng vài phút phát biểu hay trong một trang giấy. Những khái niệm chính trị có vẻ giản đơn nhưng thực ra chúng rất phức tp.

Những người muốn tham gia vào cuộc thảo luận chính trị, và nhất là vào cuộc vận động dân chủ, có lẽ nên quan sát các tu sĩ. Không phải các vị đại đức, thượng tọa, linh mục, mục sư đều có trình độ hiểu biết cao, nhiều vị chỉ có những kiến thức rất sơ sài. Nhưng tại sao nói chung họ vẫn sống và phát biểu được đúng tín ngượng của tôn giáo họ? Đó là vì họ đã trải qua cố gng nhập môn. Mười điều giáo lệnh, tứ điều đế, v.v... có gì là phức tạp đâu, thế mà họ ván tụng kinh, gõ mõ, lằn tràng hạt hàng ngày. Nhờ đó họ nhập tâm. Các khái niệm chính trị còn phức tp hơn nhiều, nhưng nếu mọi người phát biểu về chính trị dành được một phần thời giờ mà các nhà tu dành cho việc tụng niệm để nhập tâm chúng thì cuộc thảo luận về dân chủ chắc chắn sẽ đợc nâng cấp. Và tương lai đất nước cũng sẽ khá hơn.

Chương thứ :97 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :98 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :99 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :100 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :101 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :102 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :103 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Chương thứ :104 "

Hồn ai có đi về trên khói sóng

Và giờ đây thông cảm với hồn ta

Thì lắng tai nghe mấy lời ca

Gở vào giấc mộng, nhắn ra cuộc đời.

Vũ Hoàng Chương

Xin cảm ơn các độc giả đã chiếu cố đến cuốn sách này. Nếu bạn đã đọc đến đây thì hẳn bạn phải là một người khá đặc biệt, một người không cần đọc cuốn sách này để tìm những kiến thức và ý kiến. Bạn đã đọc hết cuốn sách vì đã tìm thấy ở đây một phần tư duy của chính mình.

Vy xin kết thúc cuốn sách bằng một lời phi lộ. Một lời riêng nhưng cũng là chung.

Tôi ra đời vào giữa thế chiến II, lúc đất nước còn đang bị ngoại thuộc và, hơn thế nữa, bị ngoại thuộc một cách ô nhục nhất. Một nắm nhỏ người Pháp, đã thua trận và mất nước, vẫn còn duy trì được một ách thống trị khắc nghiệt trên cả nước. Họ đã chỉ bị quân Nhật lật đổ chứ không phải bị người Việt nam đứng lên đánh bại. Đã có nhiều người Việt nam đứng lên, nhưng trước mặt họ lại có một số người Việt nam đông đảo hơn nhiều tiếp tay giúp người Pháp duy trì ách thng trị trên dân tộc mình. Điều này mãi mãi là một vết thương đầu cho tôi bởi vì nó không cho phép tôi tự hào về dân tộc mình.

Từ đó đến nay đất nước không ngừng thua kém hơn so với thế gii, trong khi chúng ta đã phải trả những cái giá rất khủng khiếp. Nhưng thất vọng liên tục chồng chất đã làm đại đa số người Việt mất lòng tin vào đất nước, không còn nghĩ tới nước nữa. Chúng ta không còn dự định chung, do đó chúng ta rã hàng và bất lực. Và đất nước trôi giạt về một tương lai đầy bất trắc.

Khi tôi ngồi viết những dòng này, tình hình đất nước cũng tương tự như khi tôi ra chào đời. Một nhóm người rất nhỏ, theo đuổi một chủ nghĩa đã hoàn toàn phá sản, lấy làm quan thầy và mẫu mực một chế độ đã sụp đổ, vẫn tiếp tục duy trì được ách thống trị thô bạo và chặn đường tiến của dân tộc về tương lai mà không gặp một chống đối đáng kể nào. Tôi vẫn không thể hãnh diện là người Việt. Tôi đã có dịp sống và làm việc trong lòng chế độ cộng sản, đã trao đổi thân mật và hiện nay vẫn thường xuyên được tiếp xúc với nhiều người của chế độ, có khi ở những cấp bậc khá cao. Tất cả đầu đồng ý rằng chế độ này phải dân chủ hóa, nó không thể và không được quyền tiếp tục như hiện nay. Nhưng chế độ vẫn còn đó, và tiếp tục cai trị một cách thô bạo. Cũng như trong thi thế chiến II, mọi người đều muốn dân chủ nhưng chỉ có một số ít đứng lên, trước mặt họ là một số đông đảo gấp bội cố luồn lách để sống yên và, để sống yên, phải hợp tác với chế độ và giúp chế độ tiếp tục tồn tại. Sau hơn một nửa thế kỷ thăng trầm và đổ vở, thảm kịch của Việt nam vẫn thế. Đó là thảm kịch của ý chí và niềm tin.

Tôi đã là một đứa trẻ may mắn. Cả làng tôi, và có lẽ cả huyện tôi, đã chỉ có một mình tôi được đi học đến nơi đến chốn, được đi du học sớm, được quan sát thế giới và cũng được một địa vị tương đối khá trên cả quê mình lẫn quê người. Dù đã trải qua nhiều khổ đau và mất mát, tôi vẫn là người rất được số phận ưu đãi so với đồng bào tôi. Có thể nói ngày nay tôi là một trong những người Việt ít ỏi không cần đất nước, nếu chỉ cầu mong một cuộc sống thoải mái cho mình. Những lòng không thể yên. Vẫn còn cái tâm sự bẽ bằng của một đứa con nhà nghèo đi làm con nuôi nhà giàu bỏ rơi anh em. Vẫn có sự hổ nhục âm thầm như khi đạp ga cho xe chạy nhanh, làm như không nhìn thấy gia đình ngời quen hư xe bên đường giữa một đêm mưa gió. Và một niềm ân hận rằng mình đã không phát huy được hết khả năng của mình, đã không làm được tất cả những gì mình muốn làm và có thể làm vì không ở trong môi trường tự nhiên của mình; cuộc đời mình nhỏ lại và thấp xuống.

Điều làm tôi dằn vặt nhất hiện nay là hình như đại đa số người Việt không nhìn thấy một mối nguy lớn cho ất nước. Chúng ta đều đồng ý ràng tình hình hiện nay rất tệ hại cho đất nước và phải chấm dứt. Nhưng hình như chúng ta chỉ nghĩ rằng nếu tình hình này cứ tiếp tục thì đất nước sẽ trì tr, sẽ chậm tiến và bị thua kém thế giới mà thôi. Chúng ta chưa ý thức rằng tình hình này có thể đưa đất nước đến chỗ giải thể. Thế giới đã đi vào một kỷ nguyên mới, trong đó ý thức quốc gia dân tộc bị xét lại một cách triệt đẻ. Những quốc gia không được hiểu như một dự án tương lai chung, một tình cảm và một không gian tương trợ cho cố gắng vươn lên của mọi người s không còn lý do tồn tại và sẽ không thể tồn tại. Những quốc gia như thế sẽ giải thể trong lòng người, rồi giải thể thực sự. Chúng ta đã chứng kiến nhiều quốc gia tự tan vỡ mà không bị ngoi xâm. Chúng ta cũng đã thấy nhiều quốc gia rất dân chủ và phồn vinh mà vẫn bị chao đảo vì những chủ trương ly khai chỉ vì người dân không còn nhìn thấy công dụng thực sự của quốc gia nữa. Sẽ còn nhiều quốc gia khác bị tan vỡ, và những quốc gia tan vỡ đầu tiên sẽ là những quốc gia mà biên giới được coi là hàng rào ngăn cản những giá trị phổ cập của loài người, mà chủ quyền dân tộc được hiểu như quyền tự do lộng hành của một tập đoàn cầm quyền. Chúng ta đang là một quốc gia như thế và chúng ta đang đứng trước một tình trạng khẩn cấp.

Một dằn vặt khác của tôi là hình như đa số người Việt không nhìn thấy sự cần thiết của đất nước cho chính đời mình. Chúng ta mơ ước, hoặc hài lòng với một cuộc sống trung bình tại hải ngoại. Chúng ta thoả mãn khi tìm được một việc làm vừa đủ sống và không bị công an hạch sách ở trong nước. Những khổ đau và chịu đựng quá lớn và quá lâu đã làm cho chúng ta mt tham vọng và nhỏ lại. Chúng ta định cư trong sự nhỏ bé tinh thần và vật chất. Chúng ta đã mất đi sự cao cả trong trí tuệ và tâm hồn. Chúng ta không thấy rằng một quốc gia lành mạnh sẽ là một không gian phát triển cho phép đời ta vươn tới một tầm vóc lớn hơn, dù chúng ta sống ở trong nước hay ở nước ngoài.

Tôi đã sống lâu năm tại Pháp, trong tuổi sinh viên và trong tuổi hành nghề. Cuộc sống tại Pháp đã cho phép tôi nhìn thấy một vài điều. Nước Pháp có 60 triệu dân và có hơn nửa triệu xí nghiệp hoạt động một cách lành mạnh. Nước Pháp có khoảng một triệu cấp lãnh đạo, trong ó ít nhất một trăm ngàn cấp lãnh đạo rất quan trọng. Trong khi tôi đang viết những dòng này thì tổng sản lượng quốc gia của Pháp bằng 60 lần Việt nam, lợi tức của mỗi người Pháp bằng 80 lần mi người Việt. Pháp không phải là một mẫu mực tại Tây Âu. Ho thua kém nhiều nước châu Âu khác. Tổ chức chính quyền của họ tập trong và kềnh càng. Các hoạt động phân phối một cách không đồng đu trên lãnh thổ. Tâm lý người Pháp cũng không lành mạnh. Nước Pháp gần như bị chia đôi, một nửa dân Pháp năng động và sáng tạo trong khi nửa kia vô trách nhiệm và trông đợi ở bao cấp. Nhưng nếu chúng ta bằng được nước Pháp? Đất nước chúng ta sẽ là một môi trường bao la cho biết bao tham vọng chính đáng, sẽ là đất dụng võ cho biết bao tài năng, sẽ là biết bao trách nhiệm vẻ vang cho biết bao nhiêu người. Chúng ta sẽ thiếu rất nhiều người cho rất nhiều công việc quan trọng và đầy say mê. Mọi người, trước hết là những người có kiến thức, sẽ đều có nhưng trách nhiệm đáng tự hào, sẽ không ai phải lo âu không có được một chỗ đứng xứng đáng. Và chúng ta sẽ không còn phải hổ thẹn trước mặt người ngoại quốc.

Chúng ta sẽ hãnh diện mà gọi tên đất nước mình.

Và tại sao chúng ta lại không thể bằng nước Pháp? Tôi học với họ và làm việc với họ, tôi rất ngưỡng mộ người Pháp, nhưng tôi cũng không thấy họ hơn người Việt nam, hay có hơn cũng không bao nhiêu. Con người Việt nam có chất liệu tốt, chúng ta khá thông minh, hiếu học, rất chăm làm và cũng giỏi chịu đựng. Chúng ta có thể bắt đầu ngay bằng cái sở trường của chúng ta là chịu học và chăm làm. Dĩ nhiên về lâu về dài như thế chưa đủ; chỗ ứng sau cùng của một dân tộc vắn được quyết định bởi óc sáng tạo và tinh thần mạo hiểm, hai đặc tính mà chúng ta rất thiếu và cần phát minh ra; nhưng trong tình trạng thua kém bi đát hiện nay, hiu học, chăm làm và chịu đựng cũng là khá đủ để vươn lên. Rồi trong quá trình vươn lên chúng ta sẽ phát triển óc sáng tạo và tinh thần mạo hiểm. Rất nhiều dân tộc chậm tiến không có nổi tiềm năng con người của chúng ta. Về lâu về dài chúng ta cũng không phải là không có thể mạnh. Chúng ta là một quốc gia bờ biển, biển mở rộng lãnh thổ của chúng ta, mở cửa đất nước chúng ta ra thế gii và đem thế giới đến với chúng ta. Chúng ta lại có một vị trí tuyệt vời, nằm ngay giữa trung tâm của một vùng đầy hứa hẹn và ngay sát nhiều trục giao thông quan trọng. Chúng ta có thể phát triển rất mạnh và, hơn thế nữa, còn có thể hưởng thụ được cả sự phát triển của các nước khác, bởi vì trong một châu á phồn vinh sau này, chúng ta là bờ biển Thái Bình Dương của cả Thái Lan, Kampuchea, Lào và Việt Nam. Điều mà chúng ta thiếu chỉ là ý chí và tham vọng.

Hiện nay chúng ta đang đứng trước một ngã ba đường đặc biệt. Một ngả là sự giải thể quốc gia và cơn hấp hối rt dài, trong đó người Việt sẽ lầm lũi, bơ vơ, bị thế giới khinh thường và hắt hủi. Một ngả khác là một nước Việt nam phồn vinh đem lại hạnh phúc và tự hào cho mọi người. Chúng ta chỉ có hai lối đi: một bên là đường hầm đen tối và lầy lội dẫn tới cái chết, một bên là đại lộ thênh thang dẫn tới vinh quang.

Đại lộ vinh quang, hơn nữa, cũng là đại lộ an toàn. Dân tộc ta đã phải trả giá quá đắt cho hận thù và chia rẽ, cho óc độc quyền lẽ phải, cho sự cuồng tín và tôn thờ bạo lực. Chúng ta đã hiểu bằng máu và nước mắt và đã chấp nhận trong da thịt những giá trị giản dị nhưng mầu nhiệm như hòa bình, tự do, dân chủ và bao dung. Chế độ độc tài này sẽ là chế độ độc tài cuối cùng tại Việt nam, với điều kiện là chúng ta vẫn còn là một quốc gia sau cuộc thử thách này. Rũ bỏ được nó, chúng ta sẽ vĩnh viễn đi vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tự do, dân chủ, kỷ nguyên của những cố gắng chung và của thành công chung. Con đường tiến tới tương lai ca chúng ta như vậy sẽ không quanh co. Mặt khác, trong khi các nước châu á khác, vì chưa trải qua những kinh nghiệm đắt giá của chúng ta, còn lưỡng tự giữa truyền thống và tiến bộ, chúng ta sẽ chấp nhận một cách quả quyết và nhiệt tình những giá trị phổ cập của loài người tiến bộ, sẽ lấy t do làm động lực để tiến tới, và chúng ta chắc chắn sẽ mau chóng bắt kịp được sự chậm trễ.

Sự chọn lựa là hiển nhiên. Tất cả vấn đề là chúng ta có còn đủ lạc quan và tin tưởng để chọn con đường thênh thang, và thực ra dễ dàng, dẫn tới vinh quang không, hay sẽ để cho sự mệt mỏi và tuyệt vọng xô đẩy vào con đường chông gai và tăm tối dẫn đến sự tiêu vong?

Chính vì thế mà, hơn lúc nào hết, đất nước đang cần những con người hiếm hoi còn giữ được niềm tin và lòng yêu nước, như một cơ thể suy nhược cố tập trung sức lực còn lại. Những người này phải ý thức đợc rằng họ là một sắc tộc thiểu sổ phải dựa vào nhau để sống và vươn lên. Giữa họ phải có tinh thần kết nghĩa, phải chưa gặp đã là anh em, chưa quen đã là chí hữu. Phải kết hợp nhanh chóng, mạnh dạn, nhiệt tình.

Họ phải hãnh diện vì sứ mạng trọng đại và cao cả của mình. Đổi lại dòng lịch sử, đổi số phận của cả một dân tộc đông đảo gần một trăm triệu người không phải là một cơ hội mà đời người nào cũng có thể có.

Họ phải nhận diện đúng những trở ngại trước mắt. Trở ngại lớn nhất không phải là sự ngoan cố của chế độ cộng sản mà là s mệt mỏi và tâm lý bỏ cuộc của người Việt. Thắng được sự thụ động của quần chúng, tạo được một sức bật mới của lòng yêu nước và của ý chí làm lại đất nước thì sự ngoan cố của chế độ cộng sản sẽ tan biến mau chóng. Chế độ này thiếu cả sức mạnh lẫn quyết tâm, nó xấc xược chỉ vì chúng ta nhu nhược.

Họ sẽ phục hồi thế giá cho hoạt động chính trị và cho những ngời đấu tranh vì đất nước bằng thái độ và hành động. Họ sẽ không mất thì giờ cho những hành động mị dân nhằm giành giật cảm tình của một quần chúng cần được thức tỉnh thay vì mơn trớn. Họ sẽ đốt đuốc đi tìm nhau. Họ sẽ nhận diện nhau như những tinh hoa của đất nước và như ý chí còn lại của dân tộc. Họ sẽ kính trọng nhau và truyền sự kính trọng đó cho quần chúng, gây lại niềm tin cho quần chúng và tranh thủ sự hưởng ứng của quần chúng.

Nếu trong cái rủi cũng có cái may thì trong cái khó cũng có cái dễ. Cái khó l với tình trạng quần chúng hiện nay chúng ta không thể hy vọng hình thành nhanh chóng được một kết hợp lớn. Cái dễ là trong tình trạng phân rã hiện nay chúng ta không cần một lực lượng lớn mà vẫn có thể là lực lượng áp đảo nhất, và thành công. Trước hết hãy tự giới hạ trong thành phần tinh nhuệ, nghĩa là thành phần có đạo đức, lý tưởng, quyết tâm, có trình độ hiểu biết tạm đủ, và có khả năng hội nhập trong một đội ngũ. Một ngàn người như thế có thể là một lực lượng đủ để hành động. Hình thành được một tập hợp như vậy là chúng ta đã có thể báo tin mừng cho dân tộc về sự ra đời của hy vọng, bởi vì sau đó mọi việc đều dễ và tình hình đất nước có thể thay đổi rất nhanh chóng.

Chúng ta có cả một kho tàng nhân sự chưa được khai thác.

Nhưng người muốn đổi đời không thiếu trong nước cũng như ngoài nước, trong cũng như ngoài bộ máy nhà nước, kể cả đa số đảng viên cộng sản. Điều chúng ta thiếu là một tụ điểm cho những khát vọng. Một tp hợp của khoảng một ngàn người có trí tuệ và trái tim đủ để làm tụ điểm đó. Khó khăn là tạo ra tập hợp này. Nhưng đó là mục tiêu trong tầm tay.

Chúng ta không khởi hành từ số không. Chúng ta đã sẵn có một số người. Chúng ta có khát vọng thay đổi của tám mươi triệu người. Chúng ta cũng có cả một kho tàng những người muốn làm một cái gì cho đất nước nhưng còn cảm thấy bất lực vì cô đơn và đang chờ đợi một kết hợp dân chủ đáng tin cậy.

Nhưng hành trang quan trọng nhất của chúng ta vẫn là một niềm tin và hãnh diện âm thầm nhưng mãnh liệt ở trong lòng. Chúng ta đang phấn đấu để cứu đất nước do ông cha để lại và để chuyền nhượng lại một đất nước đẹp hơn và đáng tự hào hơn. Đó là một cuộc đấu tranh cao cả vì nó không nhằm tiêu diệt hay hạ nhục một ai, mà nhàm giải thoát và thăng hoa mọi người. Đó là một cuộc đấu tranh chính nghĩa. Lòng dân hôm nay là của ta, chúng ta thực hiện di chúc dựng nước của người xưa với tình yêu nồng nàn dành cho các thế hệ mai sau. Chúng ta có đồng bào, tổ tiên và con cháu. Chúng ta có hiện tại, nghìn trước và nghìn sau.

Vậy thì chúng ta hãy nắm tay nhau cùng phấn đấu và cùng mơ ước một tương lai Việt nam chung. Ngay hôm nay và bây giờ.

Paris, ngày 8 tháng 11 năm 2000

Chương thứ :105 "

Tổ quốc ăn năn là một tác phẩm chính luận rất khác với những gì chúng ta thường đọc. Mục dịch của nó là ề nghị một kế sách cho việc phát triển đất nước khi thật sự bước vào kỷ nguyên dân chủ đa nguyên. Nhưng không phảí chỉ có thế. Tác giả quyển sách đã trải qua kinh nghiệm của một nhà hoạt động, và dựa trên kinh nghiệm bản thân để nhận ra những khó khăn của một hành tnnh dân chủ và phát triển cho đất nước. Tác giả đã làm một việc rất mới đối với một luận văn chính trị: đó là duyệt lại đi sản của lích sử và văn hóa của dân tộc mà ông xem là những trở ngại chính cho một hành trình về tương lai phồn vinh cho đất nước.

Di sản của lịch sử và văn hóa là những nguyên lai của sự kiện tại sao dân tộc chúng ta lại lạc hậu bần cùng như ngày nay. Duyệt lại di sản văn hóa của dân tộc là một việc lớn, và khó. Tác giả đã làm một việc như thế trong suốt ba phần đu của sách. Một cống hiến xuất sắc nữa là tác giả đã đưa ra một chương trình kiến tạo lái đt nước để thật sự tiền về kỷnguyên dân chủ đa nguyên, phồn vinh và phát triển.

Bàng bạc sau những trang viết là một tấm lòng nhân ái và tấm lòng lo trước của một công dân yêu tổ quốc thắm thiết.

Đoàn Xuân Kiên

(chuyên viên ngữ học, nhà bình luận, Lon don)

Được đọc góp ý và sửa chữa Tổ quốc ăn năn là một niềm vui lớn cho tôi. Độc giả có thể đồng ý hay không đồng với tác giả, nhưng Tổ quốc ăn năn là cuốn sách chính luận độc đáo nhất do một người Việtnam viết ra trong thế kỷ 20. Nó cũng là một cuốn sách có thể dùng làm chuyên cho thể văn chính luận tiếng Việt v, một phần nào cho tiếng Việt nói chung. Rất ít khi tiếng Việt được sử dụng một cách chính xác và truyền cảm bằng trong cuốn sách này, nó làm cho người ta yêu tiếng Việt và tự hào về tiếng Việt. Chắc chắn nhiều độc giả sẽ đồng ý với tôi

Nguyễn Văn Huy

(chuyên viên dân tộc học, nhà văn, nhà báo)

Nguyễn Gia Kiểng không thích đi đường mòn. Hắn luôn khai phá. Luôn đặt ngược những sự việc đã tưởng mặc nhiên là thế, không cần bàn cãi nữa. Chuyện hắn thích chọc ngoáy những cái đã định hình, và chuyện về những vấn đề mà hắn đã nêu ra và sẽ còn nêu ra, là chuyện thường ngày, chuyện đương nhiên, không thể khác. Chấp nhận hay không chấp nhận lập luận của Kiểng là việc của mỗi người đọc hắn, tùy thuộc nhãn quan, và cả tính tình, của người đó.

Cái m Kiểng muốn là sự tranh cãi, chứ không phải những tràng vỗ tay. Hãy để cho hắn có cái mà hắn muốn. Tôi không thích tranh luận về những đề tài Kiểng nêu ra. Phần lớn chúng nằm ngoài thời biểu của tôi. Một số nằm ngoài tầm hiểu biết của tôi.

Điêu tôi ghi nhận ở những gì tôi đọc được của Kiểng là cái mới, cái độc đáo của văn phong mang dấu ấn không trộn lẫn được của Nguyễn Gia Kiểng. Hắn đưa vào tiếng Việt những cách nói mới, có vẻ phương Tây đấy, mà lại rất Việt. Sẽ có nhưng người nghiên cứu ngữ ngôn đánh giá công lao của hắn, và biết đâu đấy, rồi đây họ lại chẳng trân trọng cho hắn hẳn một vòng nguyệt quế.

Vũ Thư Hiên

(nhà văn, tác giả Đêm Giữa Ban Ngày, Pháp)

Một lằn nữa, kẻ hèn Nguyễn Gia Kiểng lại làm một chuyện chẳng hèn chú tnào: một quyển sách dày 600 trang và buộc tất cả chúng ta phải xét lại toàn bộ những định kiến về lịch sử, văn hóa và con người Việt nam. Chúng ta đã được hé thấy một phần suy nghĩ táo bạo của tác giả qua mấy bài đã được công bố trên báo lấy từ cuốn sách ra: bài về kẻ sĩ, bài về Quang Trung, v.v... Không ít người bực tức vì những niềm tin st đá được nuôi dưỡng từ nhỏ, từ trong gia đình ra ngoài xã hội đến vào học đường, bỗng một sớm một chiều bị lung lay tận gốc rễ. Nhưng ở trong đời, chính những biến cố lớn, những vụ động đất mới để làm cho ta thức tỉnh. Đồng ý hay không là một chuyện, nhưng có điều thực là sống mà tỉnh thức thì rất nên, nên lắm nữa là khác.

Nguyễn Ngọc Bích

(học giả, nhà báo, Hoa Kỳ)

Nguyễn Gia Kiểng thuộc hàng ngũ chuyên viên trẻ phải bỏ nước ra đi sau năm 1975. Sáng kiến, lối suy luận độc đáo, can đảm trí thức và lòng yêu nước đã tạo cho ông một thế đứng đặc biệt trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Các bài viết của ông từng gây ra tranh luận sôi nổi và tạo cho ông lắm kẻ thù nhưng cũng đem lại cho ông nhiều người mến mộ. Nếu cứ nhìn vào việc trước mà tính đến chuyện sau, người ta có thể đoán rằng cuốn Tổ quốc ăn năn sẽ gây ra nhiều tranh luận và kích thích được những suy nghĩ hữu ích. Trong thư viết cho bạn bè, ông tâm sự rằng nếu tôi nói lên được mười điều mà trong đó có chín điều sai, một điều đúng thì cũng là một đóng góp rồi? Lập luận đó làm tôi giật mình. Một người nhún nhường quá đáng hoặc đang bị lửa đốt tâm can mới thốt ra như vậy. Người làm chính trị mà như vậy, nhỡ người ta bảo rằng anh này sai nhiều hơn đúng thì sao?

Nguyễn Mạnh Hùng

(giáo sư đại học George Mason, Virginia,

chủ tịch Indochina Institute, Hoa Kỳ)

Nguyễn Gia Kiểng là một trí thức dám thẳng thắn và can đảm nói lên những điều mình nghĩ, minh tin là đúng, cho dù có làm phật lòng ngưi khác. Đó là điểm son của Nguyễn Gia Kiểng. Khác với đa số người khác, chỉ nói cho phải đạo với đám đông.

Đinh Quang Anh Thái

(ký giả, cựu tù nhân chính trị, Hoa Kỳ)

Ông Nguyễn Gia Kiểng là một người vốn có ý kiến độc đáo về các vấn đề đất nước. Và cách trình bày của ông thường làm người khác ý kiến dễ bất mãn. Nhưng - tôi nghĩ - chủ ý của ông Kiểng là bằng cách đó mi tạo ra tranh luận để các vấn đề được đào sâu. Tổ quốc ăn năn, chỉ đọc cái đầu để của cuốn sách đã muốn tranh luận rồi, huống chi đọc hết hơn 600 trang cuốn sách đa sự của ông.

Trần Bình Nam

(nhà hoại động và bình luận chính trị, Hoa Kỳ)

Nguyễn Gia Kiểng nhìn về tương lai mà không để ý đến quá khứ. Th quan về phân tách m à xao lãng tổng hóp. Phê phán nhiều mà ít khi khen ngợi. Hình như chỉ muốn đi tìm đối thủ mà ít khi kết nghĩa bạn bè. Tuy nhiên điều kỳ lạ là mới gặp anh lần đầu mà tôi đã có cảm tưởng như đã quen biết từ nhiều kiếp trước. Anh phê phán nhiều vì dân tộc chúng ta đang giẫy chết trên xảo ngữ ngọt ngào. Anh chỉ phân tách vì chúng ta đầy ắp những tổng hợp vô giá ttị. Anh dũng mãnh tiến vào tương lai vì đã gói ghém trong tâm thức quá khứ đsu thương của dân tộc Tôi coi Nguyễn Gia Kiểng là một đồng chí rất tốt trong cuộc đấu tranh cho tương lai Việt nam.

Đào Tăng Đức

(luật sư Hiệp Hội Dân Chủ Pháp Trì,

tác giả Việt nam Dân Chủ Tranh Dấu Luận, úc)

Nếu giá trị của nghị luận chính trí là thúc đẩy người đọc hình thành một nhận định, có một thái độ và từ đó (nếu có thể) làm một hành động chính trị, thì Nguyễn Gia Kiểng là người thành công nhất ở hải ngoại và trong một giới hạn nào đó, cả ở trong nước. Tại sao những bài viết của Nguyễn Gia Kiểng có sức hấp dẫn người đọc? Tôi cho là ông Nguyễn Gia Kiểng nắm được cả hai yếu tố nội dung và hình thức khiến một bài nghị luận phải đợc chú ý. ấy là ý tưởng và nghệ thuật diễn đạt ý tưởng.

Nhờ có đầu óc cấp tiến, một kỹ thuật phân tích thuận lý và một cách lý luận thông minh, Nguyễn Gia Kiểng gây hứng khởi cho rất nhiều suy nghĩ về tương lai Việt nam. Gía trị các bài viết của Nguyễn Gia Kiểng còn đọc nhân lên nhiều lần nhờ lối hành vẫn trong sáng.

Bằng một thái độ tranh luận thẳng thắn, lương thiện và triệt để, Nguyễn Gia Kiểng đã tạo được sự chú ý của dư luận qua nhiều cuộc tranh cãi sôi nổi trong nhiều tầng lớp người Víệt hải ngoại. Cũng chính những đức tính ấy đã góp phần tạo nên sắc thái độc đáo của riêng một Nguyễn Gia Kiểng trên diễn đàn dân chủ hiện nay.

Sơn Dương

(ký giả, úc)

Tôi muốn có nhiều Nguyễn Gia Kiểng hon nữa, nhưng đồng thời muốn những Nguyễn Gia Kiểng série 2 này, ngoài thái độ khiêu khích về mặt tư tưởng, thì lại rất khiêm tốn về mặt hành văn, rất thận trọng trong sự lựa chọn từ ngữ đ tránh gây trong độc giả cảm tưởng rằng tác giả khinh miệt mình, cho mình là number ten trong khi tác giả là number one về mặt trí tuệ, kiến thức và lo cho phúc lợi chung.

Tôn Thất Thiện

giáo sư, nhà nghiên cứu và bình luận chính trị, Canada

Lập trường của Nguyễn Gia Kiểng là chỉ nên đưa ra nhưng ý kiến mới, hoặc khác; nếu mình nói ra mười điều mới trong đó có tới chín điều sai và chỉ có một điều đúng thì mình vẫn còn đóng góp được một cái gì đó, còn hơn là viết mưòí điều đúng cả mười nhưng đều là những điều đã biết rồi. Tôi cho đó là một thái độ khiêm tốn, tõn trọng thì giờ của người đọc.

Nguyễn Hữu Chung

chuyên gia, nhà bình luận chính trị, Canada

____________________________________________

Chương thứ :106 "

Lỗi đường truyền, không thể lấy nội dung chương này! Hãy chép lại chương này sau.

Copy từ VNthuquan.net bởi Huỳnh Hữu Phước - Nha Trang Khánh Hòa. Bạn nào cần sách, truyện gì trên Vnthuquan.net có thể liên hệ vào email bên dưới sẽ được đáp ứng ngay.

Website: http://bahy.vnbb.com

Email: [email protected]

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro