tothukiep1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

TỐ THỦ KIẾP

Nguyên tác: Ngọa Long Sinh

Dịch giả: Lão Sơn Nhân

tangkinhcac.maihoatrang.com

MỤC LỤC

Phi lộ

Hồi 1: Trung nguyên tứ quân tử

Hồi 2: Đoạn hồn Bách Trượng phong

Hồi 3: Liều mình báo thù cha

Hồi 4: Võ lâm đệ nhất gia

Hồi 5: Thủy tinh kính, ngọc ngô công

Hồi 6: Hồng nhan họa thủy

Hồi 7: Trận kiếm thất tinh

Hồi 8: Đường lão thái thái

Hồi 9: Ba mươi năm bí mật

Hồi 10: Bàn tay trắng xinh xinh

Hồi 11: Ba vị hòa thượng Thiếu Lâm

Hồi 12: Phơi thây băng thất

Hồi 13: Mẹ con tình nặng

Hồi 14: Mưa gió hầm băng

Hồi 15: Còi quỷ giục thây ma

Hồi 16: Giao phong trên mặt nước

Hồi 17: Dạ chiến trong rừng hoang

Hồi 18: Tay trắng lại xuất hiện

Hồi 19: Đã có chủ trì

Hồi 20: Tố nữ báo động

Hồi 21: Thực giả khó phân

Hồi 22: Động chế thuốc bí mật

Hồi 23: Nhân thuật hiệp tâm

Hồi 24: Nữ ma nhát hồn vía

Hồi 25: Mẹ chồng nàng dâu

Hồi 26: Sự bí mật trọng đại

Hồi 27: Bày mưu định kế

Hồi 28: Rủ nhau làm bậy

Hồi 29

Hồi 30: Cái bang ngũ lão

Hồi 31: Cao thủ giao đấu

Hồi 32: Biện luận thắng bại

Hồi 33: Đàn rắn cùng bay

Hồi 34: Ma Già pháp vương

Hồi 35: Kinh hồn dục đoạn

Hồi 36: Gỡ mối nghi ngờ

Hồi 37: Mưa gió canh trường

Hồi 38: Xả thân cứu kỳ hiệp

Hồi 39: Đường tuyết gian nan

Hồi 40: Thạch lao

Hồi 41: Tận tụy cứu võ lâm

Hồi 42: Vì nghĩa phận huy quyền can thiệt

Hồi 43: Chính khí cứu cao tăng

Hồi 44: Thần quyền kinh ác quỷ, tố thủ khiếp cao tăng

Hồi 45: Ngán nỗi chưởng môn mà thù địch, buồn thay đồng đội lại can qua

Hồi 46: Từ ghen hóa ghét thi độc kế, do oán thành thù quét võ lâm

Hồi 47: Cờ sai một thế, kế độc vô song

Hồi 48: Cờ thua một nước

Hồi 49: Cố nhịn đau bày khổ nhục kế

Hồi 50: Mạo nguy hiểm tra xét mật kiện

Hồi 51: Học nghề trộm cướp, lẻn vào hang hùm

Hồi 52: Mượn đao giết người

Hồi 53: Mê hồn lạc phách, thú thực chân tình

Hồi 54: Trạm truyền thanh, thi mưu đấu trí

Hồi 55: Còn mất chỉ bằng treo sợi tóc

Hồi 56: Biến đổi cơ trời

Hồi 57: Hiệu triệu quần hùng, đột nhập mật thất

Hồi 58: Giữa phút mê hồn chạm trán thù nhân

Hồi 59: Tay trắng san bằng sát kiếp, kiếm quan chặt cụt đầu ma

Phi lộ

Đêm trở nên thê lương. Mây đen nghịt trời che kín trăng sao. Gió gào, mưa trút, điện chớp loang loáng, sấm nổ ầm ầm, quang cảnh rừng núi như cuồng loạn cả lên.

Một tiếng "hu... u... u... hú" kéo dài, lẫn vào tiếng sấm, tiếng mưa gió, truyền mãi đi, vang dội cả một vùng rừng nội.

Một lằn chớp lóe lên, tiêu tan cảnh đêm tối trong nháy mắt đồng thời chiếu sáng một thân hình ăn vận áo bào văn nhã, với bộ mặt thanh tú đầy những hạt mưa đọng lóng lánh như hạt châu, tay xách ngược thanh trường kiếm, chân gấp bước, thần thái hớt hãi.

Vụt cái, nổi lên mấy tiếng thét dữ dội, trong lằn mưa gió tơi bời hiện ra ba cái bóng người ngược chiều chạy tới, đứng chặn lối đi người kia.

Ba người này ăn vận hệt nhau, đồ chẽn sắc đen, đầu cũng bao quấn lụa đen, chỉ lộ ra hai con mắt.

Người đứng giữa, bỗng đưa tay phách ra một chưởng. Chưởng phong hô gió, vén hẳn ra một khoảng trống rộng ước hơn một thướt đánh giạt cả lằn mưa gió đi.

Người vận áo bào ra vẻ văn nhã, dừng bước lại, tay trái đưa lên phẩy một cái từ trước ngực vạch thành một đường tròn tống ra, cất cao giọng hỏi, "Chư vị bịt mặt bằng khăn đen, kín kín hở hở! Sao đáng gọi anh hùng hảo hớn?" Câu hỏi chưa dứt, hai chưởng lực giập vào nhau, "binh" một tiếng. Công lực của người áo bào hơi kém, bị đẩy lùi lại sau hai bước.

Người áo chẽn đen đứng phía tay mặt, cười lạnh lùng mà rằng, "Năm hồ, Bốn biển, Đại giang Nam Bắc, nhân vật trong làng võ, ai cũng muốn giết ngươi đi!"

Người áo chẽn đứng bên tay trái, đằng hắng rồi nói, "Hiện ngươi đương bị hãm trong vòng bao vây trùng điệp rồi! Đừng nói là thân thể bằng xương thịt, dù là Kim cương La Hán, xương đồng da sắt, cũng không chống lại được cuộc vây đánh của những cao thủ trong làng võ hiện giờ!"

Người áo đen đứng giữa, trầm giọng nói, "Đây cũng là một cơ hội cuối cùng. Có hai đường sống và chết. Tùy ý ngươi lựa chọn."

Giữa lúc đương nói, trong màn mưa mù mịt, bóng người qua lại như bay trên mười kẻ áo chẽn sắc đen, đầu bịt khăn đen, như ong vọt tới, bao vây lấy người áo bào dài.

Chợt có tiếng một người già từ phía bên nói, "Sinh mạng con người đáng quý biết bao? Nếu như vì một vật ngoại thân mà lựa chọn con đường chết, quả thực đáng tiếc!" Giọng nói không lớn, nhưng rõ ràng, từng chữ lọt vào tai.

Người áo bào dài đưa mắt quét vòng một lượt nhìn bọn người bao vây, đoạn cất giọng lẫm liệt nói, "Tiên tổ để lại! Hà có thể để huỷ mất về tay ta! Đại trượng phu coi sống chết là cái gì."

Chợt lại nghe có tiếng con gái dịu dàng nói tiếp vào, "Trên còn cha mẹ, dưới còn vợ con, tuổi chưa mấy mà chỉ những nói chết. Rõ thực vô nghĩa!"

Lại có tiếng oang oang, ra vẻ nóng nẩy, "Hạng người này đến chết cũng chưa tỉnh ngộ. Khỏi phí lời vô ích!"

"Vèo" một cái, cùng với câu nói, người ấy vọt tới tống ra một quyền nhằm giữa ngực đối phương.

Người áo dài bước sang ngang hai bước, tay trái phát ra một ngọn "Gió tây vén mành" gạt chéo đi, miệng cười nhạt nói, "Coi lối quyền của nhà ngươi, có thể là môn hạ của Ngôn gia ở Thìn Châu!"

Người to lớn vừa ra một quyền đó, bị chàng thiếu niên nói đúng tẩy. Hắn giật mình, hơi chậm tay lại.

Chàng thiếu niên áo dài vừa nói, tay trái vừa gạt vừa hoàn đòn, lẹ đến nỗi đại hán kia chỉ hơi ngừng chậm hơn một chút đã bị đầu ngón tay chàng quét trúng vai, lùi lại sau đến ba bước.

Lập tức từ mé trái, một giọng cười lạnh lùng âm hiểm nổi lên, một bóng đen bé nhỏ nhào tới liền với một ngọn "Phất móng lên năm dây đàn" đập chéo vào lưng thiếu niên.

Quay đi nửa vòng, thanh trường kiếm trong tay mặt thiếu niên đồng thời loáng lên, hàn quang rợn người trong màn mưa gió, chém tạt ngang vào cổ tay đối phương.

Người nhỏ bé kia nổi giận quát, "Nhãi con! Trêu vào tay ta!" Vừa quá, vừa thâu tay mặt về, tay trái thuận thế ra một đòn "Phi bạt tràn chung" lẹ như chớp đánh vào vai tay mặt đối phương.

Thiếu niên áo dài có vẻ dè dặt, không muốn làm thương tổn người kia, nên mũi kiếm chuyển hướng múa lên một lằn kiếm quang che kín lấy mình, cất giọng trịnh trọng nói, "Đường quyền của các hạ, về phần cứng, mạnh thì có thừa, nhưng phần nhu biến thì chưa đủ. Phải chăng là Lỗ lão tiền bối tức là Thần quyền Lỗ Bính ở phủ Tào Châu thuộc Sơn Đông?"

Người nhỏ bé áo đen tự nhiên nhảy lùi lại, rút lui, lặng ngắt không nói nửa lời.

Thiếu niên nho sinh, ngửa mặt nhìn trời, cười ha hả, "Chư vị dù bịt đầu, che mặt, ta tin rằng chư vị đều là những nhân vật có tên tuổi trong làng võ đương kim..."

Chàng chưa hết câu, một cái bóng người vụt lao tới với hai tia sáng lóe điểm thẳng vào hai yếu huyệt trên mình chàng.

Chàng thanh niên đưa xiên lưỡi gươm dài lên, một ngọn "Thiết Thụ Ngân hoa" kiếm hoa loé ra, nổi lên mấy tiếng keng keng chát chúa, đánh bật hai ngọn Phán quan bút trong tay người kia ra một bên.

Người kia vội đổi đòn, đôi bút tức thời biến thành "Phượng hoàng gật đầu" cổ tay trái gằn mạnh một cái loá ra ba điểm hàn quang điểm vào ba nơi trọng huyệt, đồng thời tay mặt ngọn bút ngầm dùng ngọn "Quỷ vương điểm hồi" thình lình thọc vào huyệt đan điền. Kiếm thế của chàng thanh niên lẹ như chớp, một ngọn "Tám phương mưa gió" vãi ra một lớp kiếm quang, giữ kín lấy mình, rồi bất thần nhảy lùi lại hai bước.

Người kia cười nhạt, xô vào theo. Hai ngọn bút liên hoàn vừa đâm vừa quật, nháy mắt tuôn ra năm đòn.

Thanh niên vận kiếm rít gió, khắp người trên dưới xung quanh đều như một màn kiếm bao phủ, mặc dù ngọn bút người kia tuôn đánh ra như mưa, cũng không tìm ra một khe trống để luồn đòn vào được.

Mưa càng như trút xuống gió reo ù ù, chớp nhoằng lẫn với những lằn kiếm quang bút ảnh vụt sáng, vụt tắt trong một trận mưa gió điên cuồng.

Hai ngọn bút của người áo đen giao hỗ công tập, phối hợp với cái thân pháp như mây bay nước chảy, trong một loáng tuôn ra đã mười sáu, mười bảy đòn.

Chỉ thấy khí kiếm thoát ra lạnh như băng văng, tung hoàng trên dưới, quả nhiên đã luyện tới cái bí quyết chữ "ổn" trong công phu võ nghệ. Dù chàng chỉ "thủ" chứ không "công", vậy mà giữ mình hết sức kín đáo, mặc cho đôi bút người kia xoay trở đánh ra những ngọn kỳ lạ hiểm hóc, vẫn không lọt qua được làn kiếm kỳ diệu của chàng.

Sau hai chục ngọn liên tiếp của người áo đen, chàng thiếu niên bỗng vận kiếm hoàn đòn. "Soạt... soạt" hai nhát gươm lợi hại vô cùng, bức người áo đen phải lùi về mấy bước, chàng ngừng tay gươm nói, "Hai ngọn bút của các hạ, đòn ra thần kỳ. Biến hoá rất hay nhưng thiếu trầm ổn. Các hạ là cao thủ trong phe Hình Ý môn! Phải thế không?"

Người kia mặt lặng ngắt, môi mấp máy, quay mình đi ra.

Chợt một tiếng to lớn, oang oang cất lên, "Tiếp một ngọn đao này!"

Giữa làn mưa xối xả, một đạo hàn quang cùng bóng người vọt ra. Lưỡi dao Khai sơn rộng bản, sống dao dầy như sống dao rựa hô gió, đập xuống đỉnh đầu chàng thanh niên, nghe véo một tiếng.

Sức đao trầm hậu, sức tay lại khoẻ, một lưỡi đao tận lực chém xuống, như xé gió gầm lên.

Thiếu niên cùng với lưỡi gươm cùng bay lẹ ra bên đến ba thước.

Lười dao chém hụt, người kia lắng cổ tay một cái như có máy hãm, đồng thời với chân tiến lên, lưỡi dao đương chém dọc, nay biến thành phạt chéo ngang lưng khí, thế càng mạnh mẽ!

Thiếu niên di bộ, lánh người để tránh, trong khi đó đã nhận rõ ràng tình thế phía bên mặt. Một hàng bốn người áo đen đứng ngang ra, cách xa chàng không đầy ba thước. Giả như chàng lánh đòn bước thêm một bước rộng, tất nhiên là bị đâm sầm vào họ. Tình thế buộc chàng không thể cứ nhường nhịn nữa lập tức gằn cổ tay một cái, thân kiếm rung lên thành một ngọn "Uyển để phiên vận". Cùng với thân kiếm rung lên, ba lằn kiếm hoa sáng ngời tỉa thẳng vào nơi đại huyệt phản kích đối phương.

Ngọn kiếm ấy thần dị vô cùng. Tuy là phát ra sau ngọn dao, nhưng lẹ vượt mức không khác chi cùng với ngọn dao cùng thoát ra một lúc. Và kiếm hoa loang đi như chớp người áo đen không thể không kịp thâu đao nhảy lùi về, bởi lẽ nếu ham ăn người thì đồng thời cũng bị người ăn. Với cái lối đổi đòn ấy, một là đối phương đã dụng ý thì họ có lợi hơn, hai là cả hai cùng tổn thương hoặc "đồng quy ư tận".

Người kia lùi ra rồi, chàng thanh niên cũng ngừng kiếm, cười và hỏi, "Các hạ ra một ngọn dao, trầm trọng ghê gớm, thực hiếm có trên giang hồ. Chắc chắn các hạ phải là tay đao nổi tiếng Nhất đao Khai sơn Chư Ngọc Tường lão tiền bối?"

Người kia ngạc nhiên, nói, "Nhãi con! Khá thiệt!"

Ngọn đao Khai sơn khoa lên một cái cùng với người nhảy lùi lại sau hơn năm thước.

Vì cả bọn đều bịt đầu bịt mặt bằng khăn đen, nên ngoài việc nhận xem thân hình cao thấp, béo gầy khác nhau, chỉ còn cách nhận ở đòn đánh ra để có thể đoán định họ thuộc môn phái nào!

Người kia vừa rút lui khỏi, thì một tiếng quát lanh lảnh nổi lên, cùng một bóng người mảnh dẻ, như một mũi tên bắn đi. Chưa nhận rõ ra người, một lằn ánh sáng lạnh đem theo tiếng thét gió, xé không khí xiên tới.

Thiếu niên hơi cau mày, trường kiếm quạt ngang vèo đi "keng" một cái ngân lên thành tiếng trong vắt, ngăn chặn thế kiếm đối phương lại. Đồng thời có tiếng nhỏ nhẹ rót vào tai, "Ngươi giỏi đoán coi ta là ai? Nói mau!" Tiếng oanh trong vắt, đúng là giọng con gái.

Thiếu niên cầm ngang ngọn kiếm, trầm ngâm nửa giây, đoạn cười gượng, "Non sông thiếu gì người tài. Chỉ vì tại hạ lịch duyệt có giới hạn, há dám khoe rằng biết hết cao nhân trong thiên hạ. Tuy nhiên, cứ một đòn cô nương vừa ra, kiếm thế lặng lẽ, vả vận sức cổ tay trầm hùng kinh nhân, nhất định là lai lịch chẳng tầm thường!"

Ba tiếng "chẳng tầm thường" chàng chưa nói hết, thiếu nữ đã phì cười và quát, "Nói chuyện dằng dai vớ vẩn! Coi gươm ta!"

Cùng với tiếng "gươm ta" cổ tay trắng nõn như ngô cẩn phất lên một cái "loằng nhoằng, veo veo" trong nháy mắt tuôn ra một lúc bảy ngọn kiếm, ba đâm, bảy chém, có cái khí thế mưa dồn sóng giập khiến đối phương ngộp thở.

Thiếu niên nghe chừng đêm nay khó mà có kết cục tốt đẹp yên lành được, bèn không nhường đòn nữa. Một mặt vung gươm lên vùn vụt đi như "cầu vồng quán nhật" đánh chặn những ngọn ác liệt lại, một mặt lưu ý nhận xét đường kiếm, hòng tìm hiểu nàng thuộc môn phái nào.

Về phía cô nàng áo đen, hình như cố ý không để chàng nhận xét ra lai lịch mình, cho nên kiếm thế biến hoá hết sức ly kỳ, những đòn đánh ra nhiều khi dụng ý thêm bớt lai căng, không liên hệ đến môn học chính tông của nàng.

Qua lại, vào ra, xô lấn sau mười bốn, mười lăm hiệp liền, chàng thanh niên tức đến phì khói tai ra nhưng vẫn chưa nhận ra môn phái đối phương. Bụng nghĩ thầm, "Chỉ cần gọi đúng lai lịch họ ra là họ lảng tránh liền. Nếu như con bé này, đánh dằng dai mãi, chung quanh còn vài chục kẻ khác lần lượt nữa thì đến bao giờ mới thôi." Nghĩ vậy, chàng hăng tiết lên, kiếm thế chợt đổi, như ngàn cân, như sấm sét, dồn tiếp phản công.

Chàng chuyển thần lực, đánh đâm tới tấp tơi bời, khiến cô nàng không kịp thở, cốt buộc nàng phải thi triển tuyệt kỹ ra. Chỉ cần một đòn "lộ tẩy" là chàng đoán ra được.

Quả nhiên bị áp lực của chàng quá mạnh, nàng cuống cả tay chân lên. Tuy rằng thân bác học biết nhiều môn phái, nhưng đến lúc bị đòn quá gấp, cơ hồ rúm cả người lại, nàng không thể không đem hết gia truyền tuyệt học ra đối phó.

Thiếu niên phản công vài nhát gươm, lập tức tranh hồi được thế chủ động, một ngọn "Mây phong Ngũ Nhạc". Kiếm ảnh tuôn ra trùng trùng lớp lớp chụp lấy cô nàng.

Một ngọn ấy uy thế kỳ cường, như núi sóng dồn tới. Nàng áo đen ngộp mình trong muôn trùng đợt sóng gươm ấy, vụt cái tay nâng gấu áo tung mình nhảy vọt lên, kiếm lan ra như cầu vồng ngang trời, "keng keng, reng reng" gươm đập vào nhau nẩy lửa ra, reo lên từng hồi, thân hình nàng như trái banh vọt đi xa ngoài một trượng, từ từ xà xuống ngực nàng lên xuống, thở hắt hơi trở ra.

Chàng thanh niên cũng rùng mình run tay, thâu kiếm, chép miệng thở dài mà rằng, "Một đường kiếm "Cánh băng muôn dặm" của cô nương giống với những ngọn tâm pháp bí truyền của phái Nga My là một trong bốn phái kiếm lừng danh thiên hạ. Cô nương! Phải chăng thuộc phái Nga My?"

Sau lớp the mỏng che mặt, lúc đó chẳng ai nhận thấy vẻ mặt vừa kinh ngạc, vừa thẹn thò của nàng. Chỉ thấy cổ tay trắng nõn buông lõng, mũi gươm chỉ xuống đất, nàng lặng lẽ không nói gì, quay mình lùi hẳn về phía sau.

Bỗng một giọng nói vang vang như tiếng chuông, "Cả hai phái tà chính trong thiên hạ đều phát thệ không đội trời chung với ngươi. Vậy lúc này là cơ hội cuối cùng. Lúc này nếu ngươi không chịu, thì đêm này năm tới sẽ là ngày giỗ đầu của ngươi!"

Thiếu niên chợt ngẩng mặt lên trời cười một tràng dài rồi nói, "Tiên tổ đổi máu với mồ hôi mới có được chút vinh diệu há có thể do bàn tay tại hạ vứt bỏ đi sao? Đêm nay chư vị cố tình ép bức ta, hẳn là có ý quyết phải giết ta đi. Vì bảo vệ vinh dự của tổ tiên, ta xin thanh minh. Bắt đầu từ giây phút này, lưỡi gươm trong tay ta, quyết không nhân nhượng ai nữa!"

Một giọng âm trầm từ phía bên đông nổi lên, "Đến chết ngươi vẫn chưa tỉnh ngộ! Đành vậy! Không thể làm gì khác hơn!" Ngừng một chút, lại tiếp, "Xung quanh vây bọc đầy, có thể nói rằng toàn những tay cự phách bậc nhất trên chốn giang hồ. Ngươi lượng sức liệu có địch lại không?"

Thiếu niên, mắt sáng như sao, đưa ngang một cái, nói một cách hào hùng, "Có thế! Tại hạ biết rằng đêm nay khó thoát! Nhưng cũng tự tin rằng, các vị cũng phải trả bằng một giá rất đắt!"

Lại có tiếng trầm trầm nói, "Khẩu khí ngông cuồng! Khỏi nhiều lời nữa!"

"Vù" một cái, một luồng kình phong quét tới.

Thiếu niên đưa mắt, nhận ra người kia thân hình cao lớn, vung cây gậy sắt lớn bằng bắp tay trẻ con, quạt ngang tới. Bụng chàng nghĩ, người này sức lực ghê gớm, gậy sắt hô gió, há tầm thường. Chàng vận sức cổ tay, lưỡi gươm xiên chếch gạt ngang một cái. Lửa loé lên như sao, "chát" một tiếng rùng rợn, binh khí chọi nhau, ngọn côn sắt lệch đi một bên, chàng cảm thấy cổ tay nhói lên.

Ngay đó, phía sau có tiếng binh khí gào gió đánh tới.

Chàng thét to một tiếng, một ngọn "Hồi quang phản xạ" lưỡi kiếm văng ra phía sau đánh bật một lúc một lưỡi dao, một lưỡi gươm, tà áo chàng bay lên, thân mình quay ngoắt nửa vòng ánh gươm loé lên một cái đâm thẳng vào cổ tay mặt người to lớn cầm côn sắt.

Kiếm thế biến hoá thần tốc như gió mây, luân chuyển tuyệt diệu.

Đại hán "hừ" một tiếng nhảy lùi hai bước, cổ tay mặt nâng lên đưa chiếc côn sắt dài hơn trượng đập vào đầu gối bên mặt đối phương.

Thiếu niên ngầm vận công lực, kiếm thế phát ra, điểm mạnh vào thân chiếc côn, miệng nói một cách trịnh trọng, "Côn pháp các hạ tinh kỳ, giống với tuyệt nghệ Thiếu Lâm, trong lối trường côn Thập bát La Hán!"

Đại hán không trả lời, lẳng đôi vai một cái nhảy lùi về năm bước, thuận đà quai gậy từ dưới lên nhắm đầu chàng đập xuống.

Thiếu niên giận lắm, nói lớn, "Ta nghĩ rằng đêm nay chỉ là những cao thủ trong làng "hắc" và "bạch" trên giang hồ! Không ngờ bao gồm cả các Đại môn phái trên chốn giang hồ. Đã có mặt phái Nga My, Thiếu Lâm, hẳn là có cả Võ Đang nữa?"

Chưa dứt câu, chợt nghe tiếng binh khí thét gió, từ bốn phía, tám mặt đao kiếm loang loáng như chớp, bóng người nhảy tới lăn xả vào đánh chém.

Chàng thiếu niên gầm lên một tiếng, kiếm quang loé lên, bóng người vươn theo, tiếng binh khí giập nhau chát chúa. Lưỡi gươm của chàng múa lên như thần long xuất hải, một mình qua lại trong rừng đao núi kiếm, địch với mấy chục tay võ lâm quái kiệt, ngoài một trăm hồi hiệp rồi mà sức không nao núng.

Mưa từ từ thưa hột, gió cũng dịu dần, tiếng binh khí chạm nhau vang dội cả một góc núi.

Chợt nghe chàng thanh niên quát mắng, "Đàn chuột nhắt giở trò hèn hạ!"

Thanh gươm trong tay chàng bỗng tự nhiên từ từ chậm lại.

Giữa lúc đó, một lưỡi gươm dài sáng loáng thừa dịp luồn vào, đâm một mũi trúng phía sườn bên tay mặt, máu tươi vọt ra.

Chàng thanh niên hú lên một tiếng dài, như rồng ngân chuyển động cả tầng mây, lưỡi kiếm của chàng thét gió quạt ra, một tiếng rú rùng rợn nổi lên cùng với một chiếc đầu lâu người phun máu, bay đi xa bảy tám thước, một thân người vận áo chẽn sắc đen đổ ập xuống.

Ngay lúc đó một ngọn thiết côn đập tới, thế lẹ như chớp. Lưỡi gươm chàng chàng thiếu niên lúc ấy đương chống chọi với hai mặt phía bên và phía sau, trong khi ngọn côn trước mặt giáng xuống một cách thần tốc, tránh né không kịp. Chàng vội vận khí ra cánh tay trái đưa phắt lên đỡ lấy.

Chỉ nghe đánh "rắc" một tiếng, ngọn côn bật sang một bên, chàng thanh niên rùng mình hơi nhăn mặt. Ngọn thiết côn đã đập gãy cánh tay chàng.

Bị thương khá nặng rồi, tự biết là khó lòng tiếp tục chiến đấu nữa, chàng thanh niên nghiến chặt hàm răng, trường kiếm tay mặt gấp rút quạt ra một đường "Liên hoàn Tam Kiếm". Ba lằn kiếm như lồng vào nhau vạch ra ba vòng tròn, xung quanh trên dưới, trong phạm vi rộng gần hai trượng, mù mịt chỗ nào cũng có kiếm quang. Bọn người bao vây chàng đều rạt cả ra như bèo bị gió thổi. Chàng quát lên một tiếng, thân mình như lằn khói tuôn đi về phía những ngọn núi cao thấp trước mặt.

Mấy chục con mắt ngây ra nhìn theo. Họ đều thán phục cái khí hào hùng của chàng thanh niên. Bỗng một người trong bọn hô lên một tiếng, thế là cả bọn đều phóng chân đuổi theo.

Chàng thanh niên, lúc đầu chạy lẹ như gió, được một quãng xa thì tốc độ đã giảm trông thấy, vì vết thương do ám khí của bọn kia đánh lén trên lưng bắt đầu phát tác, làm cho người chàng như tê liệt dần đi, lại còn chỗ bên sườn, máu chảy, cánh tay bị giập gẫy. Chàng cảm thấy cái chết đã đến nơi rồi.

Quay lại nhìn, mấy chục cái bóng đen đương lao mình vùn vụt đuổi theo, tai chàng nghe rõ cả tiếng áo họ quạt gió phạch phạch.

Chàng dồn hết sức thừa lại, há miệng hớp một ngụm không khí, phóng mình đi, thêm tốc độ. Rốt cuộc, chàng vượt lên tới một ngọn núi trơ vơ, quay mặt lại, cầm ngang lưỡi kiếm, đứng đợi.

Liền đó, bọn người đuổi theo cũng lần lượt lên tới nơi. Thấy chàng quắc mắt, cầm ngang thanh kiếm, khí thế như thiên thần, thành thử không ai dám đương nhiên nhảy vào.

Một giây nghiêm trọng...

Bỗng chàng thanh niên trợn mắt lên, tinh quang loáng như điện từ từ quét ngang nửa vòng nhìn bọn kia, đoạn ngửa mặt lên trời cười dài một tiếng... Bất thần "vèo" một cái, một cái bóng người bật đi rớt thẳng xuống dưới vực sâu ngàn trượng...

Chuỗi cười của chàng thanh niên áo bào rộng cứ chìm xuống, xa dần, chỉ nháy mắt là biến mất vào trong lòng vực thẳm tối đen như mực...

Hồi thứ nhất

Trung nguyên tứ quân tử

Mặt trời từ từ chìm sau dãy núi phía tây, khắp trời mây ráng ửng đỏ, cảnh sắc đó thực là ngoạn mục.

Một thiếu niên anh tuấn, vận áo dài màu lam, đương bồi hồi đi lại trên bãi cỏ rộng. Có lúc chàng chợt cất đầu nhìn lên đầu ngọn núi cao, thần sắc có vẻ lo lắng.

Cảnh mặt trời lặn đẹp vô cùng, gần hoàng hôn cảnh sắc càng ngoạn mục, nhưng chỉ chốc lát, áng mây đỏ tía biến dần thành bóng tối bao trùm muôn vật.

Dưới một gốc bách cổ kính, hai thiếu niên áo xanh đương chăm chú vào nước cờ. Một thiếu niên, trên vai gài đôi Phán quan bút, ăn vận áo chẽn, ngồi bên lặng lẽ theo dõi từng nước.

Hoàng hôn tắt hẳn bóng. Trời tối sập hẳn.

Thiếu niên áo chẽn, vai gài Phán quan bút, bỗng thở dài, "Trời tối rồi! Còn thấy gì nữa mà cứ..."

Thiếu niên áo xanh ngồi quay mặt về hướng bắc cười ha hả, "Liễu huynh à! Hết lối gỡ. Xe đệ lấp mất tượng. Pháo đập vào... hà hà..."

Thiếu niên áo màu lam đương thơ thẩn đi lại trên bãi cỏ chợt quay lại, rảo bước tới bên, cất tiếng nói, "Hai tay cùng cao hứng, chơi từ sớm tới giờ mà vẫn chưa hả. Nghỉ tay đi thôi!"

Thiếu niên họ Liễu mỉm cười, "Bạch huynh chớ giục! Mau gỡ cho đệ một nước."

Thiếu niên áo lam cười, "Đệ bữa nay không có hứng thú! À, ra xe hai nước giữ mã!"

Cả bốn người đều có nhãn lực khác thường. Trời tối như vậy họ vẫn trông rõ từng tý.

Thiếu niên áo chẽn, tay mặt nắm chặt đập lên lòng bàn tay trái, gật đầu nói, "Cao thật! Vừa giữ mã, vừa uy hiếp pháo!"

Thiếu niên ngồi quay mặt về hướng bắc, tay mặt bóp trán, cau mày lại nghĩ. Nước cờ ấy khiến chàng đương thắng hóa bại.

Thiếu niên áo dài lam, lắc đầu, "Thế cờ này còn lâu mới tàn cuộc được."

Thiếu niên áo chẽn ngẩng đầu nhìn trời, "Trời tối lắm rồi! Mấy vị lão gia còn làm gì chưa về?"

Thiếu niên họ Liễu sẽ đưa tay xoá bàn cờ, nói, "Ván này đệ nhận thua! Không gỡ được!"

Thiếu niên ngồi quay mặt phía bắc, nghiêng đầu nhìn thiếu niên áo dài lam, mà rằng, "Bạch huynh nóng ruột làm gì? Võ nghệ của gia sư với mấy vị lão tiền bối, vả lại danh vọng của các vị trong làng võ, thiết tưởng chẳng có gì đáng ngại."

Một tiếng cú đêm kêu lên, tiếng vang dội lại, càng thêm ghê rợn.

Thiếu niên áo chẽn thở dài một tiếng, "A! Đệ nhớ tới một việc! Mai là ngày sinh nhật sư muội của tại hạ. Chồng chưa cưới của nàng từ tận Tĩnh Xuyên đem đồ mừng tới. Gia sư dưới gối chỉ được một mình nàng, cưng như hạt châu trên tay, quyết không để lỡ việc sửa soạn bữa mai. Vậy mà tới giờ còn chưa về! Lạ thật!"

Thiếu niên áo xanh ngồi quay mặt phía bắc, hình như bực tức điều gì, đưa mắt nhìn thiếu niên áo chẽn, cười nhạt mà rằng, "Lệnh sư muội chê chỗ gần, kén chỗ xa. Tỳ bà thuyền ai."

Thiếu niên áo chẽn vội ngắt lời, "Tống huynh! Xin tự trọng! Việc ấy không thể nói giỡn đùa đâu!"

Thiếu niên họ Liễu chép miệng nói, "Năm trước, tại hạ tới bái phỏng Diệp sư bá, nhân được chiêm ngưỡng ngọc dung của lệnh sư muội. Thực là hoa hờn nguyệt thẹn, đẹp tuyệt nhân hoàn... chà!"

Thiếu niên họ Tống, vốn tính tự nhiên thoát lạc, mỉm cười hỏi, "Sao? Liễu huynh có vẻ khó quên đi được... hà hà..." Chàng cười một trận, quay lại nhìn thiếu niên họ Bạch nói, "Bạch huynh à! Bọn bốn người chúng ta đây, đã có hai người là kẻ đau lòng."

Thiếu niên áo chẽn cau mày, lườm, "Tống huynh! Ăn nói phải có đức độ một chút! Nếu như đến tai gia sư thì phiền lắm đó!"

Thiếu niên họ Tống cười ha hả, "Diệp sư thúc vốn tánh hào phóng, sai thoát khác tục. Dù có đến tai người, chắc chắn cũng chẳng quở trách đệ."

Thiếu niên họ Liễu lặng ngặt một lúc, cất tiếng, "Chắc hẳn vị hôn phu của lệnh sư muội phải là một nhân vật có danh tiếng lớn lắm."

Thiếu niên áo sắc lam đột nhiên nói gạt đi, "Chúng ta ruột gan nào mà cứ lai nhai câu chuyện phiếm ấy! Việc cần kíp trước nhất là việc..."

Thiếu niên họ Tống vụt đứng thẳng lên, nói, "Bạch huynh, có gan hãy lên núi coi xem sự thể... Đệ tình nguyện chịu các vị tiền bối quở phạt."

Thiếu niên áo lam ngẩn mặt ra. Một lúc mới nói, "Lệnh của gia sư nghiêm hệ vô cùng. Chưa được lệnh, sao dám..."

Thiếu niên họ Vạn cười nhạt mà rằng, "Bạch huynh đã không dám lên núi coi, vậy thì sốt ruột cũng vô ích!"

Thiếu niên áo lam nói, "Đệ cảm thấy như có điều gì chẳng lành."

Thiếu niên họ Tống cười hềnh hệch, "Bạch huynh quá lo xa! Đừng nói là bốn vị lão nhân gia cùng họp ở một nơi! Giả như độc một mình thôi, thử hỏi trong làng võ đương kim, còn kẻ nào dám tới vuốt râu cọp?"

Thiếu niên áo lam sẽ thở dài, yên lặng.

Thiếu niên họ Liễu chợt giơ tay vẫy hỏi, "Nghe! Tiếng chi vậy?"

Bốn người cùng lặng yên, vểnh tai lên. Quả nhiên có tiếng bì bạch bì bạch từ xa đưa lại.

Thiếu niên áo chẽn cau mày, "Tiếng vó ngựa trên đường núi?"

Thiếu niên áo lam lắc đầu, "Không đúng! Không phải!"

Họ Tống nối lời, "Hoang sơn cùng cốc này, xa đường cái quan, đêm khuya làm gì có tiếng vó ngựa?"

Tiếng "bì bạch" mỗi lúc một rõ, chốc lát chỉ còn cách vài trượng.

Thiếu niên áo chẽn có vẻ sốt ruột, nghiêng mình bước ra định xông lại coi, nhưng bị chàng họ Liễu nắm áo giữ lại.

Thiếu niên áo dài sắc lam, vận dụng hết sức mắt ra nhìn chỉ thấy như một đoàn bóng đen từ từ di động trong đêm tối mờ mịt.

Gió thổi ào đi, cành lá cây cỏ như múa lên, chỗ nào cũng có bóng đen lay động với tiếng sột soạt. Chàng vốn tính cẩn thận, chưa nhận rõ ra vật gì nên cứ yên lặng chờ!

Thiếu niên họ Tống hình như nhận ra cái hình bóng đen di động từ từ. Chàng cúi xuống lượm một cục đá.

Tính chàng ngổ ngáo, nhưng trước mặt ba người kia chàng cũng không dám làm liều hấp tấp, vì sợ họ chê cười, bèn cũng chú ý ngầm ngầm chuẩn bị.

"Bì bạch" "lộp độp" tiếng đó lại gần hẳn, mọi người nhìn rõ sự vật!

Một người ăn vận toàn sắc đen, nách chống nạng, men theo con đường nhỏ đi lên. Tiếng "bì bạch" là do chiếc nạng chống xuống đá, phát ra.

Bốn người cùng cảm thấy rằng sự xuất hiện của người chống nạng trên đường núi, đêm tối, có vẻ thần bí, khủng bố. Bất luận là ai trong bốn người, giả như một mình mà gặp sự kiện như thế, nhất định là nhảy tới chặn giữ người kia lại, hỏi cho rõ lai lịch. Nay bốn người đứng cả một chỗ, tự nhiên là chẳng ai bảo ai, không nhúch nhích, tám con mắt đều chú vào nhìn người kia, không ai nói năng gì.

Nguyên vì cả bốn người đều là học trò các bậc võ lâm cao thủ, họ giữ phong độ đứng đắn, nhất là trầm tĩnh. Trước sự xuất hiện đột ngột kỳ lạ của người chống nạng, ai cũng giữ tiếng, không nhảy ra tra hỏi làm gì.

Người chống nạng hình như cũng không trông thấy bốn chàng thiếu niên, nên cứ việc "bì bộp" từ từ tiến đi, cũng chẳng ngó nhìn xung quang làm gi. Một lúc tiếng "bì bộp" xa dần, biến thành tiếng "bạch bạch" rồi chìm mất vào trong yên lặng.

Thiếu niên có đôi Phán quan bút, chợt thở dài một tiếng, "Tên thọt cẳng sao đi lẹ vậy?"

Chàng nói với giọng đầy ngờ vực. thiếu nữ áo dài lam cũng nói, "Liễu huynh nói đúng lắm! Đệ nghe tiếng chiếc nạng chạm xuống đá, có vẻ là nạng bằng thép vậy."

Thiếu niên họ Tống đưa mắt cho ba người, rồi nói, "Chư huynh đã nhận ra người kia là tay võ công, với chiếc nạng bằng thép! Tại sao không lên tiếng hỏi và chặn ngay người ta lại?"

Thiếu niên áo chẽn, nghiêm nét mặt nói, "Chẳng lẽ Tống huynh cũng không nhận ra người thọt kia, với cử động từ từ, kỳ thực vẫn có vẻ như vội vã."

Thiếu niên họ Liễu cũng thêm vào, "Có thật Tống huynh không nhận ra chiếc gậy nạng của hắn ta bằng thép?"

Thiếu niên họ Tống thở dài, "Cả bốn chúng ta đều cảm thấy sự xuất hiện của người thọt có vẻ quái dị, đều biết chiếc gậy chống của hắn bằng thép, đều cảm giác hắn chẳng phải tay tầm thường, vậy mà cứ đứng ngẩn ra ở đây. Hắn đi xa rồi, còn nói với đuôi làm gì?"

Vừa nói tới đây, chợt văng vẳng có tiếng hổn hển, phì phò. Tiếng đó, có vẻ như trong tình trạng cực nguy cấp, thở hắt ra, đứt nối giữa sự yên tĩnh của rừng núi đêm khuya, thực là thê lương, hãi hùng.

Bốn người đột nhiên trầm lặng trở lại. Do kinh nghiệm vừa qua, mọi người đều ngấm ngầm chuẩn bị, cùng hết sức lắng tai nghe ngóng.

Tiếng thở nặng và gấp, cùng với tiếng chân bước trầm trọng từ xa lại gần. Rõ ràng là có một vật gì to lớn đương đi tới.

Cách gốc cây bách chỗ bốn người đứng độ một trượng có một con đường tắt, nhỏ hẹp. Không rõ con đường này bắt đầu từ đâu và đi tới đâu. Một cái bóng đen, lớn, đương lù lù tiến lại. Dưới ánh trăng yếu ớt, mọi người nhận ra đó là một con trâu nước.

Trên mình trâu, một đứa con gái nhỏ, tóc bện thành đôi bím buông xuống vai, ngồi ngược chiều, quay mặt về phía đuôi trâu.

Đêm tối mơ hồ, càng không nhận rõ được mặt mũi, đại để chỉ đoán ra rằng đứa con gái cỡ mười ba, mười bốn tuổi.

Lần này, mọi người lại càng kinh ngạc hơn, cũng cảm thấy máu trong người chạy như cuồng, trái tim đập liên hồi.

Thiếu niên áo chẽn họ Vạn vốn tính cấp táp, không thể trấn tĩnh được, bất giác "hừ" một tiếng, đột nhiên rộng bước tiến ra, ngăn lối đi của thiếu nữ.

Chàng nhảy ra, thì cả ba chàng kia hầu như đồng thời cùng vọt theo thành một hành, chặn ngang lối.

Thiếu nữ quay phắt lại. Lúc đó hai bên chỉ cách nhau độ vài thước, sức mắt của bốn người lại sáng tỏ khác thường, nên nhận rõ hình dáng, diện mạo đối phương.

Đôi mắt nàng lớn, tròn thao láo dưới bộ lông mày cao, hơi xếch lên chân mái tóc. Hai bên mái tóc là hai chiếc bím, kết thành cánh bướm có đuôi buông xuống. Đêm tối, tuy không rõ màu da, sắc mặt, nhưng cứ hình dáng cũng ước đoán là một cô bé xinh xắn.

Ngồi trên lưng trâu, hai chân huy động cùng một lúc, nàng đã xoay ngược, ngồi ngay ngắn lại, dáng bộ rất trầm ổn, sẽ sẽ vỗ tay lên sừng trâu một cái. Con trâu ngừng ngay lại. Nàng đưa mắt nhìn mọi người ra vẻ ngạc nhiên, không nói năng gì hết.

Thiếu niên họ Vạn cười nhạt hỏi, "Con bé con này! Đêm khuya còn cưỡi trâu đi đâu? Không biết sợ hay sao?"

Đứa con gái lắc đầu lia lịa, đưa ngón tay bên mặt lên chỉ chỏ vào miệng. Thiếu niên họ Vạn "a" một tiếng, "Sao? Té ra câm à?" Con bé nhoẻn miệng cười, phô ra đôi hàm răng trắng nõn, vừa nhỏ vừa đều. Vẻ mặt con bé tự nhiên, thơ ngây, chẳng ai hiểu là nó có nghe hiểu hay không.

Thiếu niên họ Vạn quay lại nhìn chàng họ Tống, sẽ gọi, "Tống huynh!"

Họ Tống cười tủm tỉm hỏi, "Gì vậy?"

Họ Vạn sẽ nói, "Con bé này, lai lịch có vẻ khả nghi? Nó từ đâu tới?"

Thiếu niên áo lam đưa mắt nhìn xa xa, lạnh lùng nói, "Hình như nó từ phía núi cao kia tới?"

Họ Liễu cũng nói tiếp vào, "Đường núi chật hẹp, đi chân cũng khó. Nay cưỡi trâu mà đi thông suốt cả dãy núi kỳ khu hiểm trở thế kia!"

Họ Vạn nói, "Chính vì thế mà đệ có điểm lấy làm ngờ!"

Thiếu niên họ Tống cười nhạt, tay mặt lanh như chớp đưa ra chộp, miệng quát lên, "Ranh con! Dám vờ vịt giở trò bịp bợm với ta."

Bất thần bị họ Tống đưa tay ra chộp, con bé ra vẻ kinh hãi vội ưỡn người về phía sau định tránh.

Nhưng trên lưng trâu chật hẹp, tránh sao thoát, cổ tay nó đã bị họ Tống chộp trúng, tê dại hẳn đi. Họ Tống xách cao nó lên khỏi mình trâu, bất thần buông xuống "huỵch" một tiếng, cát đá bay mù lên.

Bản tâm họ Tống nghĩ rằng khó lòng mà chộp bắt ngay được con bé. Không ngờ vừa ra tay đã tóm được cổ tay nó một cách dễ dàng. Chàng hơi giật mình, thuận tay buông ra, cũng chẳng ngờ rằng nó không gượng nổi, té lộn ngay xuống.

Một lúc sau con bé mới lóp ngóp bò dậy được. Trán nó bị sướt da, máu chảy đỏ lòm. Nhưng hình như nó gan lỳ, không thấy rên la, không thấy nước mắt.

Thiếu niên họ Liễu chợt thở dài, "Chắc con bé chẳng biết chút võ nghệ nào."

Thiếu niên áo lam, lấy ở bọc một chiếc bình ngọc đưa ra và nói to lên vì sợ nó điếc, "Thuốc trong bình này chữa thương tích như thần! Cầm lấy, dùng một viên, bóp nhỏ ra, rắc lên vết thương một lần là khỏi."

Con bé cầm lấy chiếc bình, cố sức leo lên lưng trâu, vỗ lên đầu nó một cái. Con trâu thở phì phò từ từ tiến bước.

Tám con mắt cùng nhìn theo. Người và trâu dần dần biến vào trong tối.

Thiếu niên họ Vạn thở dài, nói, "Con bé! Thực là tai bay vạ gió! Ngã một cái khá đau."

Trong bốn người, chàng là kẻ thô bạo nhất, nhưng cũng là kẻ từ thiện nhất!

Chàng áo lam nói, "Đệ quyết chẳng tin! Con bé đã từ dãy núi hiểm trở cao vót kia lại, thì dù nó biết võ hay chẳng biết võ, mà hành tung của nó cũng đáng ngờ lắm!"

Chàng họ Tống bỗng quát to lên, "Con ranh con lắm quỷ kế thiệt! Chúng ta lại bị nó bịp rồi!"

Họ Liễu ngạc nhiên, hất hàm, "Nó bịp cái gì chứ?"

Họ Tống dậm chân, "Con oe con ấy..." chàng bỗng im bặt.

Họ Vạn cười hỏi, "Con oe ấy sao chứ?"

Họ Tống chép miệng, "Nó... nó lừa chúng ta..."

Họ Liễu cũng hỏi, "Thì nó lừa cái gì chứ?"

Họ Tống lại dậm chân, "Nó khéo che mắt chúng ta. Và lừa... lừa lấy mất của Bạch huynh cả bình thuốc quý."

Họ Vạn nói, "Bạch huynh tự ý cho nó, để nó rịt vết thương. Sao gọi là nó lừa được. Còn như nói rằng nó che mắt Tống huynh, điều đó cũng khiến ta không hiểu."

Họ Tống lắc đầu, cười nhạt, "Anh em nghĩ lại coi! Thoạt tiên thấy nó, phải chăng anh em đều có cảm giác rằng nó chẳng phải hạng thường?"

Họ Liễu gật đầu, "Đại để ai cũng cảm thấy như thế?"

Họ Tống cười nhạt, nói "Liễu huynh chớ ngắt lời nói ngang, cứ để đệ nói nghe xem!" Họ Tống đằng hắng một tiếng, tựa hồ nhắc mọi người chú ý nghe rồi nói tiếp, "Vừa rồi đệ ra một đòn khá nặng. Đừng nói là con ranh mới trên mười tuổi, ngay đến hạng trai tráng khoẻ như trâu, cũng không đương nổi, tất nhiên phải ngất lịm đi. Vậy mà con nhãi ấy tự động trở dậy được, lại leo được lên mình trâu?"

Chàng áo lam đột nhiên ngắt ngang lời, "Hàng năm, cuộc họp của bốn vị tiền bối chưa từng bao giờ quá canh một. Nay canh một qua rồi vẫn chưa về. Đệ muốn lên núi coi xem. Anh em nghĩ sao?"

Thiếu niên họ Liễu gật đầu, "Đệ cũng có ý ấy!"

Họ Vạn nói, "Đệ xin theo!"

Họ Tống chậm rãi nói, "Nếu như Bạch huynh không sợ bị trách phạt, thì đệ cũng xin theo."

Họ Bạch, chàng áo lam nói, "Dù bị gia sư trách phạt nặng nề, cũng còn hơn là cứ đứng đây mà sốt ruột lo ngại!"

Dứt lời, chàng quăng chân chạy đi trước.

Họ Tống, họ Vạn, họ Liễu cùng thi triển khinh công vọt theo.

Bốn cái bóng người bay nhảy trong bóng đêm, theo con đường ngoằn ngoèo ruột dê leo lên vách núi chênh chênh.

Họ đều ra sức thi triển thân pháp, không ai nhường ai đi trước. Mỗi người đều tự phụ ở công phu của mình.

Lên đến đầu ngọn núi cao hàng trăm trượng, người nào người nấy đều mồ hôi đầm đìa. Họ Tống với họ Bạch cùng lên tới đỉnh ngọn đầu tiên, chính ra họ Tống chạy sau, vậy mà lại cùng tới với họ Bạch, đủ thấy khinh công của chàng nhất bọn.

Họ Vạn với họ Liễu tụt lại sau vài ba bước. Bốn người bắt đầu chậm bước, thần sắc đều có vẻ nghiêm trọng, nghe nhìn.

Chỏm núi bất quá rộng chừng trên dưới mười trượng, bốn bề toàn là đá mọc lởm chởm đủ các hình dạng kỳ lạ, vây quanh lại nhưng một bức tường thiên nhiên.

Trong vùng quái thạch gồ ghề có một toà đá lớn vụt nhô lên. Bốn người đều dồn mắt nhìn lên phía trên toà đá ấy.

Dưới ánh sao mờ tỏ ẩn hiện có thể trông thấy xung quanh toà đá lớn ấy có bốn người vận áo bào chia ngồi ở bốn góc. Với sức mắt tuyệt luân của bốn người có thể nhìn rõ ràng sự vật ban đêm. Họ để ý coi không có gì kỳ lạ xảy nên cũng được yên dạ, không sốt ruột như trước nữa.

Chàng họ Tống dừng chân trước tiên, giơ tay chỏ, sẽ nói, "Gia sư cùng ba vị sư bá, sư thúc hình như đương vận hành nội công. Chúng ta chớ ồn ào, càng không nên leo lên đó. Cứ ở đây canh chừng cho các vị luyện xong công phu."

Họ Vạn cùng họ Liễu cùng gật đầu, thì thầm, "Tống huynh nói phải lắm!"

Duy có họ Bạch, chỉ sẽ cau mày, lặng thinh.

Một trận gió lùa tới, thổi tung bốn bộ râu dài cùng áo bào rộng của bốn ông già lên. Trận gió qua rồi, đâu đấy lại yên lặng dưới ánh sáng thê lương, mờ mờ.

Chàng áo lam họ bỗng thở dài, lẩm nhẩm nói, "Bốn vị lão nhân gia, nội công vào hạng tinh thâm bậc nhất, có thể lấy tai thay mắt, dùng tay thay cho tai. Tại sao chúng ta leo lên tới đây rồi mà các vị hình như không hay biết?"

Họ Vạn gật đầu, "Bạch huynh nói phải lắm! Gia sư bình sinh rất cưng sư muội, vô luận là có việc gì cần gấp không khi nào không lo về sớm để liệu lý công việc của sư muội ngày mai."

Họ Tống len vào giữa hai người nói góp, "Trung Nguyên Tứ Quân Tử, sau mỗi lần tụ họp như thế này, thể nào cũng sáng tạo vài đòn lạ cho ra đời. Ba sư huynh đều là người từng được thấy qua hẳn cũng biết là đệ nói đúng..." ngừng một chút, cố ý nói to hơn, "Hoặc giả bốn vị lão nhân gia, mới tìm ra được phương pháp nội công gì lạ, lúc này đương tụ tập cả tinh thần để thể nghiệm chăng?"

Chàng như cảm thấy có điều gì chẳng lành, cố ý nói to lên làm kinh động bốn ông già đương ngồi trên toà bàn thạch.

Tám con mắt cùng với nhìn lên cao, chỉ mong các vị trên đó hoặc lắc đầu, hoặc vẫy tay ra hiệu là họ hết nghi hoặc.

Nhưng bốn ông già vẫn ngồi yên như cũ, không chút động cựa.

Chàng họ Bạch hình như sốt ruột, không phép nào tự kìm chế lại nữa, sẽ "hừ" một tiếng, gấp bước chạy vọt lên. Phía sau chàng tiếng áo quạt gió phạch phạch ba người kia cũng vội theo lên. Họ cùng ngừng bước trố mắt ra nhìn. Bốn ông già ngồi xếp bằng tròn, đôi mắt hơi nhắm, tựa hồ như đương vận hành khí huyết, điều hoà hơi thở... Trên bàn đá, rượu với đồ nhắm còn thừa, bừa bãi ra đó.

Bốn chàng thiếu niên đưa mắt cho nhau, cùng quỳ xuống rập đầu lạy, miệng nói, "Thưa sư phụ!"

Theo lệ, Trung Nguyên Tứ Quân Tử mỗi năm có một cuộc tụ họp, đó là một thịnh sự rất lớn trong võ lâm. Bởi vì sau mỗi lần tụ hội như vậy, tất nhiên bốn người lại sáng nghĩ ra được một vài ngọn quyền cước, binh khí hoặc chưởng pháp, nội công tân kỳ. Có điều rằng cuộc tụ hội của bốn vị Quân tử này đầy vẻ thần bí, nghiêm túc, chẳng những không cho ai tham gia, cả đến tụi học trò cũng không được đi theo.

Để giữ cho cuộc tụ họp cho thực bí mật, kín đáo, mỗi lần họ tụ hội ở một nơi, có khi ở dưới thuyền, có khi trong rừng thẳm, và lần này trên tuốt đỉnh núi.

Cũng chẳng ai rõ vì sao họ lựa chọn ngày này tháng này, chỉ biết rằng mười năm như một, chưa năm nào gián đoạn.

Nhân đó, trên chốn giang hồ đồn đại ra nhiều giả thuyết. Có tin đồn rằng Tứ Quân Tử mượn tiếng là tụ họp để nghiên cứu võ công, thực ra để mưu toan việc gì bí mật. Có thể là theo tình hình làng võ hiện tại, các vị tụ họp là cốt để sáng lập ra một phái chủ yếu ngoài các Đại môn phái hiện hữu.

Người thì đoán rằng họ tiến hành một âm mưu oanh động giang hồ.

Lại cũng có tin loan truyền Tứ Quân Tử ngấm ngầm lãnh đạo các tay lục lâm đại đạo cả vùng Đại giang Nam Bắc và mỗi lần tụ họp mục đích là hoạch định mọi hành động cho bọn lục lâm phải theo trong mỗi năm.

Kỳ thực thì chỉ là lời đồn đại! Ngay đến bọn đệ tử thân cận cũng chẳng hiểu biết gì hết.

Lần này là lần họp thứ mười của Tứ Quân Tử, nơi họp là Bách Trượng Phong trên dãy núi chỗ tiếp giáp của hai tỉnh Triết Giang và An Huy tức là tỉnh Hoãn xưa.

Lại nói chuyện bốn thanh niên họ Tống, Vạn, Bạch, và Liễu tự biết rằng đã phạm vào cấm lệ của sư phụ sau khi leo lên Bách Trượng Phong, nên cùng quỳ cả xuống, miệng kêu "sư phụ" xin chịu quở phạt, trong bụng tin chắc rằng có thể nào sư phụ cũng nổi giận sấm sét và hình phạt hẳn là khốc liệt. Họ quỳ xuống rồi, một lúc sau không thấy động tĩnh bèn ngước mắt nhìn.

Bốn vị lão nhân vẫn ngồi yên như bốn toà bụt mộc, chỉ thấy râu tóc với áo bào lay động trước gió. Mỗi vị sư phụ đều có một mảnh lụa trắng đeo ở trước ngực.

Mảnh lụa trắng cột chặt trên hàng cúc áo nên dù gió to vẫn không chút lay động.

Dưới ánh sao mờ, phảng phất như có hàng chữ viết trên mảnh lụa. Thiếu niên họ Bạch thò tay vào túi lấy ra "ống mồi lửa" giơ lên phất tay một cái. Ánh lửa bừng lên, nhìn vào mảnh lụa thấy hàng chữ rằng, "Truyền cho đồ đệ là Thiết Sinh. Cái tin thầy đã chết, tạm thời không được loan truyền trong làng võ lâm. Nhân đêm tối, đem xác thầy trở về quê, đình quan tài, đặt ở nơi thư xá sau vườn. Đợi ba tháng sau hãy phát tang. Chu Thiên Thượng tuyệt bút." Nét chữ sương kính đúng là thủ bút của sư phụ.

Mỗi hàng chữ khác nào một nhát gươm đâm vào ruột gan Bạch Thiết Sinh, chàng cất tiếng khóc rống lên.

Một người khóc, ba người kia khóc theo, trong khoảnh khắc, trên đỉnh núi cao, giữa cảnh hoang lương, vang dội lên chỉ có tiếng gào khóc.

Trong bọn, có họ Tống là người sai thoát hiểu việc hơn cả. Khóc một trận rồi, chàng chợt gạt nước mắt, gọi to lên, "Xin các bạn chớ khóc nữa! Lúc này phải lo sửa soạn mọi việc thì hơn!"

Bạch Thiết Sinh tuy ngừng tiếng khóc, nhưng thương tâm đầy uất, nước mắt cứ tuôn ra như suối, không phép cầm lại.

Họ Tống trước hết tới gỡ những mảnh lụa trắng ra, trải ở trên bàn đá, gọi mọi người lại và nói, "Chư huynh! Hãy nhận kỹ xem chữ viết ở đây có đích xác là nét chữ của các vị sư trưởng mình không?"

Bạch Thiết Sinh để ý nhìn, thấy trên bốn mảnh lụa, ngoài trừ đề tên họ cho mỗi người học trò với tên ký của mỗi vị sư trưởng là khác nhau, còn lời lẽ, từng câu từng chữ đều hệt một điệu. Chàng hơi ngờ vực, nghĩ thầm, "Lẽ nào trước khi chết, các vị sư trưởng còn bàn nhau cả đến cách viết nữa hay sao?"

Chợt nghe họ Liễu nói, "Nét chữ của gia sư, chỉ cần liếc qua là nhận rất được. Chữ này đúng là thủ bút của Người!"

Họ Vạn cũng nói, "Di thư này, đúng là tự tay gia sư viết ra!"

Chàng họ Tống đưa mắt nhìn bốn mảnh lụa trắng, trầm ngâm giây phút rồi nói, "Bạch huynh! Xin nhận kỹ lại. Trong hàng Tứ Quân Tử thìChu sư thúc nổi tiếng về thư pháp với nét bút già dặn có sức, khó ai bắt chước lối được. Bạch huynh nhận kỹ xem, may có tìm ra điều chi lạ. Đệ quyết không tin rằng, trước khi chết các vị còn bàn nhau cách đặt câu, dùng chữ hệt nhau như vậy..."

Lúc này ống dẫn lửa vừa hết mồi, phụt một cái, lửa bùng lên rồi tắt ngấm, đêm tối lại che phủ hết thảy. Chỉ nghe tiếng Bạch Thiết Sinh thở dài, nói, "Coi nét chữ đích xác là chữ gia sư rồi. Đệ cùng ý nghĩ như Tống huynh, không tin rằng bốn vị lão nhân gia, tới khi chết, còn ung dung thương lượng cách viết di ngôn giống hệt nhau? Ở trong hẳn là còn có điều gì khác!"

Họ Liễu cũng góp ý kiến, "Coi vậy thì bốn vị sư trưởng hẳn là đã có chuẩn bị sẵn. Trên Bách Trượng Phong làm gì có bút mực, làm gì sẵn lụa trắng?"

Họ Vạn gật đầu, "Liễu huynh nói có lý! Nếu chẳng phải bốn vị lão nhân gia cố ý tự sát, thì trong làng võ nghệ đương kim, ai mà dám động chạm tới các vị..."

Bạch Thiết Sinh đưa tay ra vơ lấy một mảnh lụa trên phiến đá, đoạn cất tiếng gọi, "Văn Quang huynh à!"

Chàng họ Tống đương mải miết suy nghĩ, nghe gọi đến tên mình, vội hỏi, "Việc gì thế! Bạch huynh?"

Bạch Thiết Sinh ngửa mặt nhìn trời rồi nói, "Giờ đã khuya! Nếu theo đúng di ngôn của các vị sư trưởng thì ngay lúc này ta phải làm việc, đưa di hài xuống núi trước khi trời sáng!"

Tống Văn Quang quay sang hỏi Liễu sinh, "Vân Phi huynh có ý kiến gì chăng?"

Liễu Vân Phi nói, "Tiểu đệ rối cả ruột lên, không có ý kiến gì khác. Tống huynh hẳn là có chủ ý, đệ xin theo!"

Văn Quang lại nhìn chàng áo chẽn, và hỏi, "Xung huynh! Thế nào?"

Vạn Xung vén tay áo quết nước mắt, nói, "Di thư đã do các vị lão nhân gia chính tay viết ra, chúng ta là học trò, chỉ việc tuân theo. Theo ý đệ, trước hãy lo đem thi thể các vị sư trưởng về quê quán, sau ra công truy xét nguyên nhân cái chết này!"

Văn Quang nhìn mấy mảnh lụa trắng, rồi nói, "Liễu huynh, Vạn huynh trước hãy thu những mảnh lụa lại, đó là tuyệt mệnh di thư, và là một tài liệu can hệ trong việc điều tra nguyên nhân sau này."

Liễu Vân Phi và Vạn Xung đều lượm lấy mảnh lụa trắng cất vào trong bọc.

Văn Quang nhìn đuôi sao Bắc Đẩu rồi nói, "Giờ ước chừng canh tư. Còn một canh nữa trời sáng. Theo đệ nghĩ, đợi mờ sáng hãy dời khỏi cũng không muộn."

Vạn Xung lắc đầu, "Giữa ban ngày, mỗi người vác một cái xác trên vai, đi trên đường cái lớn, thiên hạ chết khiếp cả đi!"

Tống Văn Quang giơ tay ra hiệu, "Xung huynh chớ nóng nảy! Nghe đệ nói hết đã. Bốn vị sư trưởng đột nhiên chết một cách thần bí, để lại tuyệt mệnh thư cũng có vẻ thần bí, thực là không ai có thể ngờ tới. Trước biến cố này, đừng nói là thiếu kinh nghiệm như bọn ta, ngay các tay có định lực và kinh nghiệm tuyệt luân, cũng phải hoang mang quẫn óc. Đệ tuy lòng đau như cắt, nhưng vẫn ức hận về cái chết này quá ư ly kỳ. Hồi tưởng lại vài tháng trước đây, không thấy có một dự liệu nào lạ hết, càng khiến đệ thêm ngờ vực. Nay giữa đêm tối, không tài nào nhận ra chút vết tích gì khác. Thầy chết vẫn y nguyên chỗ như kia, hoặc giả có thể tìm ra dấu vết gì khác nữa chăng. Nếu như di động đi ngay, e rằng phương hại đến việc tra xét vết tích. Cho nên đệ có ý đợi sáng rõ, xem xét cẩn thận lại xem. Sau đó chuyển vận di hài cũng không muộn."

Liễu Vân Phi gật đầu, "Tống huynh trầm tĩnh suy tính như vậy, thực đáng phục!"

Văn Quang quay sang nhìn Vạn Xung rồi nói, "Còn như việc đem di hài đi, nên như thế nào, đệ đã nghĩ kỹ! Phải chờ Vạn huynh vất vả một phen!"

Vạn Xung nói, "Tống huynh cứ sai bảo! Vất vả cái gì!"

Văn Quang nói, "Xung quanh Bách Trượng Phong đều là núi cao liên miên lấy gì ra để chuyển vận bốn cỗ di hài. Lại còn lo giữ sao cho kín tiếng. Theo như di thư đã dạy, hẳn là có ý nghĩa gì đó. Vậy chỉ còn một cách là phiền Vạn huynh gấp đường trở về núi lao trúc, đem một chiếc xe ngựa nhẹ, có mui che kín, tới đây làm phương tiện di chuyển di hài."

Vân Phi gật đầu khen, "Ý kiến đó quả nhiên là cao minh!"

Văn Quang nói tiếp, "Đệ ước lượng hành trình thì đêm mai, khoảng canh hai Vạn huynh đã trở về tới chân núi Bách Trượng này!"

Vạn Xung đứng phắt lên, nói, "Không nên chậm trễ! Đệ đi ngay!"

Quay mình đi vài bước, chàng bỗng dừng chân quay đầu lại, "Đệ đi rồi, đối với cái chết của gia sư, không được tự tay điều tra, coi xét lại...?"

Văn Quang nói, "Vạn huynh yên trí! Trong cái chết của bốn vị lão nhân gia dù có khác nhau, cũng chẳng khác mấy chút.Và chúng tôi cứ giữ nguyên như đây, đợi Vạn huynh về mới di chuyển mà!"

Vạn Xung giơ tay chào, quay mình tung bước chạy xuống núi.

Trong khi đó Bạch Thiết Sinh ngồi lặng nghĩ. Chàng cố nén bi thương, để ý phân tách tình hình, bụng nghĩ, "Bốn mảnh lụa vuông vắn hệt nhau. Nhất định là có sự sửa soạn từ trước rồi. Nhưng Tứ Quân Tử ngoài việc mỗi năm một lần tụ tập, ngày thường rất hiếm đi lại với nhau. Xét vậy trừ phi trong lần hội họp năm trước đã có ước hẹn cùng chết và đều dùng lụa trắng viết sẵn tuyệt mệnh thư. Xét ra việc đó vô lý hết sức. Nhưng ngoài cái lý ấy ra, chỉ còn có một lẽ nữa là giữa lúc Tứ Quân Tử tụ họp trên núi, đột nhiên có kẻ dùng võ công hoặc dùng thuật gì khác, cưỡng bách bốn người hạ bút viết vào bốn mảnh lụa do kẻ đó sửa soạn sẵn. Viết song, kẻ kia hạ độc thủ giết cả bốn người đi."

Nghĩ vậy, nhưng rồi chàng lại vội vã bỏ ý nghĩ ấy đi. Chàng luận lý rằng, "Đừng nói là võ nghệ của Tứ Quân Tử ít kẻ nào đối địch nổi, dù là một chọi một. Giả như có kẻ nào võ nghệ cao siêu hơn cả bốn vị, thì bốn vị ấy quyết cũng chẳng chịu khoanh tay cho mà giết. Ít nhất cũng phải có một cuộc vật lộn đã. Nay bốn vị cùng ngồi xếp bằng tròn, bộ điệu êm ả như kia, không có di tích gì là kháng cự phản ứng hết. Giả thử như bị đầu độc đi nữa, thì ít nhất cũng phải lăn lộn với dáng điệu khác hẳn."

Chợt nghe Văn Quang thở dài, hỏi, "Bạch huynh! Có tìm ra được đầu mối gì chăng?"

Thiết Sinh lắc đầu, nhăn nhó, "Trăm đầu ngàn mối! Không biết đâu mà lần gỡ..."

Tống Văn Quang nói, "Hiện giờ chúng ta đều rối loạn cả óc. Theo đệ, xin hãy gác sự bi thương ra, ngồi lặng yên dưỡng thần đã. Chừng nào tâm thần lắng tĩnh, sẽ tìm xét nguyên nhân!"

Bạch Thiết Sinh nói, "Xin tuỳ ý nhị huynh!"

Văn Quang nói, "Vậy thôi, xin Liễu huynh đứng canh chừng cho Bạch huynh cùng đệ toạ công điều tức. Sau đó đến lượt Liễu huynh toạ công."

Văn Quang ngồi xuống, nhắm mắt nói, "Bạch huynh hành công ngay đi. Chẳng mấy lúc trời sáng."

Bạch Thiết Sinh nhắm mắt lại, nhưng trong lòng thì lớp lớp sóng nhồi, không sao lắng tâm được.

Tai nghe gió thổi, thông reo, càng nghĩ càng thấy sự thể ly kỳ quái đản, càng như mê lạc trong sương mù vô hướng.

Chàng mở mắt nhìn, thấy Liễu Vân Phi tựa mình chống tay lên má mà ngồi, đương ngó nhìn sao trên trời, còn Văn Quang thì thở ra hít vào rất đều. Chàng vội nhắm mắt lại, điều hoà hơi thở, chợt thấy động tâm, nghĩ rằng, "Lần này Tứ Quân Tử họp ở đây, các tay võ lâm khó mà biết được. Vậy trừ bốn người học trò chúng ta ra, không còn kẻ thứ năm nào rõ được nơi chốn tụ họp. Nếu bảo rằng Tứ Quân Tử bị kẻ nào ám toán, chỉ trừ một trong bốn người học đã tiết lộ tin tức ra ngoài...?"

Nghĩ vậy bụng càng ngờ vực, chàng mở mắt thao láo nhìn vào mặt Tống Văn Quang.

Chợt nghe Văn Quang thở dài, mở bừng mắt rồi nói, "Đệ suy nghĩ rất kỳ, càng thấy cái chết này khả nghi nhiều lắm!"

Thiết Sinh gật đầu, "Đệ cũng nghĩ vậy."

Văn Quang đưa mắt nhìn Liễu Vân Phi rồi nói, "Việc tụ họp ở Bạch Trượng Phong này không ai biết tới!"

Vân Phi gật đầu, "Đúng thế..."

Thiết Sinh nói luôn, "Vậy là bọn anh em ta không tránh khỏi được sự hiềm nghi...?"

Văn Quang nói, "Đệ nghĩ hơi khác!"

Thiết Sinh hỏi, "Xin cho biết cao kiến?"

Văn Quang hỏi, "Theo đệ thì ngoài bốn ta ra, còn có kẻ khác cũng rõ việc này?"

Thiết Sinh cau mày, "Việc Tứ Quân Tử mỗi năm một lần tụ họp, thiên hạ võ lâm ai mà chẳng biết! Duy có thời gian với nơi tụ họp thì người ngoài không ai biết nổi. Theo đệ nghĩ thì lần này gia sư tới đây, trừ đệ ra, không ai biết hết. Cho nên nếu nghĩ rằng sự tình tiết lộ, thì đệ là kẻ duy nhất đáng ngờ mà thôi!"

Liễu Vân Phi đưa tay lên vỗ vào đầu rồi nói, "Gia sư cũng vậy! Lần đi này cũng chỉ một mình đệ biết!"

Văn Quang nói, "Về phần gia sư, trừ việc truyền dạy võ công cho đệ, rất ít gặp mặt người lạ. Lần này một tháng trước khi lên đường dự cuộc họp, chưa hề thấy một kẻ lạ nào tới gặp mặt. Ngay như việc đến Bạch Trượng Phong thì cũng tới khi lên đường mới nghe sư phụ nói ra. Như vậy, trừ đệ ra, không ai được rõ hành tung hết!"

Liễu Vân Phi nói, "Trong gia đình Diệp sư thúc, vì người nhiều, lắm miệng. Ngoài Vạn huynh ra còn có cô con gái cưng đã lớn. Nếu quả cái chết của Tứ Quân Tử đúng là bị mưu sát, thì việc tiết lộ thời gian với địa điểm tụ họp, về phía Vạn huynh có thể coi là quan hệ lớn!"

Bạch Thiết Sinh nói, "Theo đệ thì bốn chúng ta, không ai thoát khỏi hiềm nghi!"

Văn Quang nói, "Bạch huynh nói phải lắm!"

Liễu Vân Phi cau mày, "Bạch huynh nói vậy, không khỏi là võ đoán!"

Thiết Sinh từ từ đưa mắt nhìn Vân Phi rồi hỏi, "Liễu huynh có vẻ như trong lòng không yên?"

Vân Phi nhảy chồm lên, quát, "Bạch huynh! Ăn nói phải thận trọng..."

Văn Quang vôi can, "Hai vị chớ tranh chấp! Đợi Vạn huynh trở về, bốn chúng ta đều có lời thề rất độc trước di thể ân sư, để tỏ rõ lòng ngay thẳng..."

Bạch Thiết Sinh cười nhạt, "Thề thốt thì làm gì! Ở đời miệng nói một đằng, bụng nghĩ một nẻo! Giả thử bắt thề năm mười lượt thì cũng vẫn vậy thôi!"

Văn Quang hỏi, "Theo Bạch huynh thì...?"

Thiết Sinh đón lời, "Thì bốn người chúng ta kết nhà cỏ trên Bạch Trượng Phong, suốt đời coi giữ nấm mồ của bốn vị sư phụ. Một thằng trong bọn mà dời khỏi đây, thì ba thằng kia hợp lực lại giết quách đi!"

Chàng gằn giọng, nói từng tiếng một, mặt mũi trang nghiêm cả quyết, mỗi lời là một uất hận phát ra từ gan ruột.

Văn Quang và Vân Phi đều ngẩn ra, cùng hỏi, "Chúng tôi thực không hiểu Bạch huynh nói vậy là ý thế nào? Bên thầy ấp mồ, đó là việc đệ tử tận hiếu đạo với thầy. Nhưng suốt đời ở đây giữ mồ thì được việc gì...?"

Thiết Sinh nói, "Đệ tin chắc cái chết của bốn vị lão nhân là có nguyên do gì khác. Dù là tự tử, thì cũng là do tình thế... bức bách..."

Văn Quang gật đầu, "Trước khi tìm ra nguyên nhân, vô luận Bạch huynh đa nghi thế nào, cũng không thể đoán liều..."

Liễu Vân Phi hỏi, "Nhưng chẳng hay việc này có quan hệ gì đến việc anh em ta phải lưu ở đây để trọn đời giữ mồ?"

Bạch Thiết Sinh nói, "Có quan hệ lắm chứ! Việc bốn vị lão nhân tụ họp nơi đây, ngoài anh em ta ra không ai biết cả! Do đó ta tin rằng nguyên nhân cái chết này, nhất định phải có liên quan đến một người trong bốn anh em ta..." tia mắt lạnh lùng nghiêm lệ của chàng từ từ liếc qua, nhìn hai người kia rồi nói tiếp, "Nhưng chúng ta chẳng ai chịu nhận là hung thủ mưu giết ân sư! Ta tin rằng hung thủ đã có thể mưu sát ân sư, tất nhiên là có tác dụng gì đó. Có tác dụng thế tất xong việc là tìm cách xa dời nơi đây ngay. Cho nên, kẻ nào đi khỏi đây trước tiên, tức là kẻ có mưu đồ tác dụng. Dẫu kẻ đó chưa hẳn là chính tay giết người, nhưng cũng là kẻ có đồng mưu hay liên quan với hung thủ. Hãy tóm cổ kẻ ấy trước đã. Tẩn cho một trận đòn là ra manh mối!"

Văn Quang và Phi Vân cúi đầu lặng yên. Họ đều nghĩ rằng lời chàng nói kể cũng có lý, nhưng cũng có điều quá đáng, không thể theo được.

Bỗng nghe Thiết Sinh cười vang lên, rồi hỏi, "Hai vị có vẻ như sợ không dám ở ngọn núi hoang vu này chăng?"

Liễu Vân Phi nói, "Đệ rất kính phục tấm lòng Bạch huynh sùng kính sư trưởng. Nếu như không có cách gì khác tìm ra nguyên nhân câu chuyện này thì chỉ có cách y theo lời Bạch huynh là hơn!"

Văn Quang nói, "Hãy đợi Vạn huynh trở về. Ta sẽ bàn kỹ..." Chàng ngửa mặt nhìn sông Ngân Hà, rồi nói tiếp, "Nay nghĩ lại thì người chống nạng với đứa con gái cưỡi trâu, thực đáng ngờ quá!"

Liễu Vân Phi giậm chân, la, "Đúng thế! Đệ đuổi theo, tộp cổ chúng đem về!"

Dứt lời, chàng vụt quay mình nhảy vọt đi xa đến ngoài trượng.

Bạch Thiết Sinh cau mày gọi, "Liễu huynh! Chớ vội!"

Vân Phi quay lại, "Sao? Anh sợ rằng ta không trở lại ư?"

Thiết Sinh nói, "Nếu quả thực người chống nạng sắt cùng con bé cưỡi trâu có liên quan đến cái chết của các vị sư gia thì Liễu huynh chẳng tài nào đuổi kịp họ nữa. Nếu họ chỉ là kẻ thường, ngẫu nhiên qua lại, thì dù đuổi kịp, bắt về, có ích gì?"

Vân Phi cố cãi, "Nói vậy có lý lắm! Nhưng hãy cứ hết sức mình thử coi xem, càng không đuổi kịp, càng yên trí rằng hai người đó là có liên can, vậy cũng là có ích cho việc gặp gỡ sau này. Hai vị cứ đợi, trước khi trời sáng rõ, đệ đã có đây!"

Tống Văn Quang nói, "Đệ liệu trước, Liễu huynh đuổi theo, chẳng gặp ma nào hết!"

Vân Phi không cãi nữa, quăng chân lên chạy. Chỉ thấy loang loáng vài lần lên xuống, bóng hình đã lẫn vào đêm tối.

Văn Quang đứng lên, đi đi lại lại, đôi mày cau nhìn, đầu óc đương chìm vào suy nghĩ.

Thiết Sinh thì ngồi xếp bằng tròn, ngửa mặt trông trời, âm thầm lặng ngắt. Cái chết của Tứ Quân Tử hiển nhiên đã gieo mối ngờ vực giữa bọn đệ tử!

Văn Quang bỗng ngừng chân, quay lại nói, "Theo ý Bạch huynh đã xác nhận rằng cái chết này có liên quan đến bốn anh em chúng ta sao?"

Thiết Sinh nói, "Đệ không dưng có đặt điều ra làm chi! Bốn vị lão sư đều giữ bí mật thời gian, nơi họp. Trừ bốn chúng ta ra, ai mà biết được. Vậy chỉ có anh em ta đã hữu ý hay vô tình tiết lộ bí mật ra thôi!" Chàng thở dài, nói thêm, "Nếu như bốn vị ân sư định tự tuyệt mà chết thì cần gì phải lựa chọn nơi đây. Huống chi riêng đệ tin rằng sư phụ của đệ không hề có ý tự tuyệt ấy..."

Văn Quang nói, "Đúng thế! Danh dự của các vị mỗi ngày mỗi lớn. Không lý gì..."

Thiết Sinh nói tiếp, "Vì thế đệ mới chủ trương cả bốn anh em dựng nhà ở đây. Chưa tìm ra manh mối, không ai được dời khỏi ngọn núi này!"

Văn Quang hỏi, "Nhưng di thư còn đây, đều ra lệnh cho bọn ta chuyển linh cữu về làng, định tang ba tháng. Bạch huynh muốn ở lại chẳng hoá ra trái di mệnh sao?"

Thiết Sinh nói, "Chẳng dấu gì Tống huynh! Đệ rất ngờ vực mấy mảnh di thư ấy! Dù chính do tay các vị viết ra, nhưng đều là thế không đừng được, bị bức bách mà viết!"

Văn Quang hỏi, "Trong bốn anh em ta, Bạch huynh có thể ngờ vực ai nhiều nhất?"

Không ngờ Văn Quang hỏi đột ngột như vậy, Bạch Thiết Sinh ngẩn người ra, ngẫm nghĩ một lúc mới nói, "Bốn anh em ta, ai cũng có thể là hung thủ giết ân sư được hết. Nhưng cứ theo chỗ đệ với chư huynh chơi với nhau lâu năm rồi, thì bất luận là thế nào, trước khi rõ manh mối, đệ chưa dám bàn luận, suy đoán."

Tống Văn Quang nói, "Cứ theo hành vi công việc mà xét thì Vạn huynh chất phác, vốn ít tâm cơ. Trừ Vạn huynh ra thì Liễu huynh, Bạch huynh với đệ đều là kẻ có cơ trí, láu lỉnh."

Thiết Sinh gật đầu, "Bình sinh đệ trầm mặc ít nói. Gặp việc là suy xét kỹ. Cho nên cũng đáng chịu nhiều hiềm nghi hơn cả..." Chàng hơi ngừng một chút, nói tiếp, "Tống huynh thì bề ngoài hào phóng, mà trong lòng thì lo lắng đủ điều, được kể là đáng hiềm nghi bậc nhì..."

Văn Quang cười nhạt yên lặng.

Thiết Sinh đưa mắt nhìn bốn cỗ thây ma, rồi nói tiếp, "Đến như Liễu huynh lúc thì thô lồ, hào hùng, chợt lại cẩn thận từng tý, khó mà xét được tâm tình. Vậy nên ngoại trừ Tống huynh và đệ ra, Liễu huynh là kẻ đáng ngờ nhất..."

Văn Quang ngửa mặt cười nhạt mà rằng, "Lối xét đoán của đệ với Bạch huynh đại để nhiều điểm hơi khác."

Bạch Thiết Sinh hỏi, "Xin nghe cao luận?"

Văn Quang nói, "Theo đệ xét thì trong bốn người, Liễu huynh là đáng ngờ bậc nhất..." bỗng hạ giọng nói vẻ, "Trước khi nhắc đến người chống nạng với con bé cưỡi trâu, đệ đã nghĩ đến rằng một khi nhắc đến là Liễu huynh hăng hái đuổi theo ngay. Quả nhiên là đúng. Vả lại Bạch huynh từng có lời ngăn lại, Liễu huynh cũng nhất định cứ đi??"

Nghe nói vậy, trong lòng Thiết Sinh hơi ngợ tuy trong lúc đó vẫn chưa thực hiểu ý Văn Quang nói vậy là thế nào, bất quá chỉ gật gù đầu làm như bộ lãnh hội điều gì!

Văn Quang đưa mắt nhìn xung quanh một vòng rồi nói, "Nếu như đệ dự đoán không sai, thì tình cảnh trước mắt..."

Đương nói thì bỗng có một tiếng "hú" dài đưa lại làm Văn Quang không nói nữa.

Thiết Sinh đứng phắt lên, "Tiếng hú của ai?"

Văn Quang nói, "Nghe âm giọng lạ tai hết sức!"

Sắc mặt Bạch Thiết Sinh biến đổi hẳn đi. Chàng cau mày lắng tai một lúc lại ngồi xuống. Rõ ràng là trong khoảnh khắc chàng đã lo lắng quá nhiều, cuối cùng chỉ còn cách ngồi đó đợi sự biến đổi.

Văn Quang cười nhạt mà rằng, "Lấy tĩnh chế động, lấy dài đãi lao, lối đó rất hay!"

Nói rồi chàng cũng xếp chân ngồi bằng tròn, từ từ nhắm mắt lại.

Chợt nghe từ dưới chân núi có tiếng trầm trọng, rất mạnh nói, "Hân hạnh được mời, gấp đường để tới. Nhưng đường đất xa xôi, tới nơi đã khuya. Cũng may là chưa lỡ kỳ hẹn..." Câu nói tới đây bỗng đứt, rõ ràng là cố ý đợi người phía trên trả lời.

Bạch Thiết Sinh và Tống Văn Quang nghe nói, cảm thấy như ngực bị người ta đấm, rùng mình lên, sẽ đưa mắt cho nhau, cùng mở miệng định lên tiếng. Nhưng vừa sắp lên tiếng, cả hai bỗng vội ghìm giọng kín miệng lại.

Hồi thứ hai

Đoạn hồn Bách Trượng phong

Đại khái người ở phía dưới đợi mãi không thấy bên trên trả lời, liền tự động leo lên. Chỉ nghe tiếng chân trầm trọng, một lúc nghe rõ tiếng áo sột soạt.

Bạch Thiết Sinh sẽ hé mi mắt nhìn, thấy một người thân hình cao lớn, bộ râu dài phất phơ trước ngực, ăn vận gọn ghẽ, áo trùm ngoài rất rộng, theo sau là một thiếu niên ăn vận đồ chẽn, đương rộng bước đi tới. Họ như dụng ý làm kinh động mọi người cố tình giậm mạnh bước chân, nghe huỳnh huỵch.

Người cao lớn râu dài đi tới gần chỗ Tứ Quân Tử ngồi, ôm tay quyền lên cao, thi lễ rồi nói, "Tại hạ là Đồ GiangNam , từ lâu ngưỡng mộ đại danh của các vị, cho nên nhận được thiếp mời, vội cùng thằng cháu tới đây gấp."

Vừa nói tới đó, ông ta chợt nhận thấy ngồi vây quanh sơn thạch có tới sáu người, bèn lại đổi giọng nói, "Còn hai vị đây quý tính cao danh là gì? Tại hạ xin có lời chào!"

Nói xong lại chắp tay vái dài một cái nữa!

Nhưng chỉ nghe tiếng gió núi thổi vào tà áo của họ phần phật, mà không nghe thấy tiếng trả lời.

Tống Văn Quang và Bạch Thiết Sinh tuy nghe ông khách nói rõ ràng từng tiếng, nhưng vẫn làm như người điếc, cứ nhắm mắt ngồi yên, chẳng nói chẳng rằng.

Đồ GiangNam cau đôi mày lại, đằng hắng một tiếng, rồi quay lại bảo người thiếu niên đứng phía sau, "Hài nhi, Tứ Quân Tử đang vận khí điều tức, ta không nên làm rộn người. Chúng ta đi gấp đường lên đây, thành ra cha cũng thấy hơi mệt, hãy ngồi đây nghỉ một lúc đã."

Nói xong liền thủng thỉnh bước lùi lại chừng hơn một trượng, ngồi xuống xếp chân bằng tròn dưỡng thần.

Người thiếu niên cũng bước tới sát bên cạnh cha ngồi xuống.

Bạch Thiết Sinh tự nhủ thầm, "Quái lạ! Không biết tại sao ông già này lại biết việc bốn vị sư trưởng tụ họp ở đây? Nếu muốn tra nguyên nhân cái chết của bốn vi, thì đây chính là một đầu mối rất tốt."

Tống Văn Quang sẽ hé mắt nhìn bỗng một cái, rồi thi triển công phu thiên lý truyền âm nói, "Bạch huynh có biết hai người kia là ai không?"

Bạch Thiết Sinh cũng dùng phép thiên lý truyền âm đáp lại, "Hồi huynh đệ hay đi hầu gia sư, cũng có nghe người nói đến tên Đồ GiangNam một vài lần. Hình như ông ta ở trong Tam Thương Thất trạch, cũng có đôi chút tiếng tăm thì phải. Còn lai lịch của ông ta thế nào, huynh đệ cũng không rõ lắm."

Bạch Thiết Sinh mới nói tới đây, lại nghe thấy dưới chân núi đưa lên một tràng cười dài, kế lại nghe tiếng nói, "Vị nào chấp sự ở trên núi thế? Tại ha là Cửu Giang Đàm Khiếu Thiên, mong ơn cho triệu nên đến bái yết đây!"

Bạch Thiết Sinh giật mình vội hỏi Tống Văn Quang, "Tống huynh! Thế là cái gì? Việc bốn vị sư trưởng tụ họp ở trên toà núi cao trăm trượng này, có lẽ đã truyền đi khắp giang hồ rồi hay sao?"

Tống Văn Quang nói, "Lạ thật! huynh đệ cũng chịu không sao hiểu nổi!"

Kế lại nghe dưới chân núi có một giọng ồm ồm cất lên, "Đàm huynh vừa đến đấy à?"

Đàm Khiếu Thiên nói, "Tứ Quân Tử gửi thiếp đến mời, huynh đệ đâu dám trái mệnh."

Người có giọng ồm ồm lại cười nói, "Địa điểm và thời gian tụ hội của Trung Nguyên Tứ Quân Tử xưa nay vẫn giữ rất bí mật, không hiểu tại sao lần này lại gửi thiếp mời chúng ta, tất nhiên phải xảy ra sự gì quan trọng lắm chớ chẳng không!"

Đàm Khiếu Thiên nói, "Rất có thể trong vòng mười năm nay, trong những kỳ tụ họp, Trung Nguyên Tứ Quân Tử đã nghiên cứu sáng chế ra được môn võ công tân kỳ nào, nên muốn mời anh hùng thiên hạ đến chứng kiến chăng?"

Người có giọng ồm ồm lại cất tiếng cười ha hả, rồi im không nói gì nữa.

Kế lại nghe thấy tiếng chân đi, rồi hai cái bóng người nhảy lên đỉnh núi.

Bạch Thiết Sinh sẽ hé mắt nhìn, trong bóng đêm lờ mờ chỉ thấy hai người sóng vai cùng đi.

Người phía trái hơi dong dỏng cao, để râu dài, mình mặc áo trường bào, sau lưng có hai món võ khí cài chéo qua nhau, trong bóng tối con hơi lờ mờ nhận thấy chiếc chuôi kiếm động đậy, hơi thò đầu lên khỏi vai bên phải. Còn món võ khí kia thì trông không rõ là vật gì.

Tống Văn Quang lại dùng phép thiên lý truyền âm nói, "Bạch huynh, ta cứ mặc họ, đừng hỏi gì cả, ngồi yên mà xem đêm nay tất cả có bao nhiều người tìm lên ngọn núi này."

Chỉ thấy hai người mới tới bước lại gần tảng đá lớn chắp tay, rồi người đứng mé bên trái cất tiếng nói, "Đàm Khiếu Thiên được Tứ Quân Tử rủ lòng yên hạ cố cho gọi, rất lấy làm vinh hạnh, xin đến bái hầu."

Người bên phải thân hình bé nhỏ, nói tiếp, "Huynh đệ Lỗ Bình ở phủ Tào Châu tỉnh Sơn Đông là một kẻ tiểu tốt vô danh, may được Tứ Quân Tử hạ mình kết giao, thật là vinh hạnh cho tiểu đệ vô cùng."

Hai người báo danh xong, cùng cúi xuống vái một cái thật dài.

Gió đêm lồng lộng, làm cho hơi rượu thịt bốc lên ngào ngạt đưa và mũi hai người, nhưng không nghe thấy tiếng ai đáp lại.

Đàm Khiếu Thiên hơi biến sắc mặt, đứng thẳng người lên đưa mắt nhìn hết Tứ Quân Tử, rồi lại nhìn Tống Văn Quang cười nhạt nói, "Đại trượng phu có thể giết chớ không thể nhục, các vị đã không có bụng muốn kết giao, thì hà cố gì lại gửi thiếp mời chúng tôi? Trung Nguyên Tứ Quân Tử tuy danh tiếng lừng lẫy một thời, nhưng thiết tưởng cũng không nên quá khinh đời, coi người bằng nửa con mắt như vậy!"

Lỗ Bính ngoảnh lại nhìn Đàm Khiếu Thiên rồi nói, "Đàm huynh, chúng mình bị người ta coi thường như thế, còn mặt mũi nào mà đứng ở đây nữa? Thôi, ta hãy về đi, rồi mọi chuyện sẽ tính sau."

Đồ GiangNam ngồi ở phía xa, lúc này mới lên tiếng, "Trung Nguyên Tứ Quân Tử còn đang vận khí điều tức, hai vị không nên vội giận, đã đến đây thì hãy ngồi chơi chờ một lúc, có sao!"

Đàm Khiếu Thiên nghe tiếng, liền ngẩng lên hỏi, "À! Đồ huynh cũng đến đấy à?"

Đồ GiangNam nói, "Tôi còn đến sớm hơn hai vị một lúc."

Đàm Khiếu Thiên đăm đăm nhìn vào mặt Bạch Thiết Sinh và Tống Văn Quang rồi nói, "Lỗ huynh, hai người trẻ tuổi này chắc là đệ tử của Trung Nguyên Tứ Quân Tử?"

Lỗ Bình ho khan vài tiếng, rồi nói, "Theo chỗ tiểu đệ biết, thì Tứ Quân Tử mỗi người đều có một đệ tử y bát, nhưng thật chưa trông thấy bao giờ."

Đàm Khiếu Thiên nói, "Chẳng lẽ cả bọn họ cũng nhập định nốt hay sao?"

Nghe giọng nói của ông ta vẫn đượm vẻ cáu kỉnh tức bực, chợt nghe phía sau nổi lên một giọng nói lạnh như băng, "Các vị nếu không có hứng thú dự thịnh hội của Tứ Quân Tử mời, thì cứ việc về đi, hà tất phải đứng đây so kè bẻ măng, lại tỏ ra người nhỏ nhen, hẹp lượng."

Đàm Khiếu Thiên nổi giận nói, "Ai thế? Ăn nói..."

Vừa quay đầu lại nhìn, bất giác im bặt, không thốt ra được câu nào nữa.

Lỗ Bình liếc mắt nhìn qua người vừa tới, rồi cũng lẳng lặng cúi đầu, không nói gì hết.

Người vừa tới không biết đã bước đến bên hai người từ lúc nào, sau tuyệt không hề nghe thấy một tiếng động nhỏ.

Đàm Khiếu Thiên ngẩn người ra một lúc, rồi chắp tay cười hỏi, "Ngôn huynh đã đến từ sớm phải không?"

Người này cười một cách lạnh nhạt rồi nói, "Đến sau hai vị một lúc."

Bạch Thiết Sinh nghe giọng lưỡi Đàm Khiếu Thiên tự nhiên đổi hẳn, biết người mới tới, tất phải là một vị cao nhân, bèn hé mắt ra nhìn, chỉ thấy người ấy thân thể vừa cao vừa gầy, mình mặc áo dài đen, vì đứng cách đấy tới bảy, tám thước, đêm tối tuy không trông rõ diện mạo, nhưng chỉ ngắm cái dáng điệu thần tình của ông ta, cũng đủ làm cho người ta cảm thấy rờn rợn.

Người đứng chết sững ở bên cạnh là Lỗ Bình. Lúc ấy, chợt cũng chắp tay thi lễ, hỏi rằng, "Đại gia có phải vị Đương gia chưởng môn nhân của nhà họ Ngôn ở Thần Châu, quý danh là Ngôn Phượng Cương không?"

Người mặc áo đen không đợi Lỗ Bình dứt lời, lập tức lạnh lùng đáp, "Phải, tại hạ chính là Ngôn Phượng Cương."

Lỗ Bình vội nói, "Huynh đệ vẫn ngưỡng mộ đại danh đã lâu."

Ngôn Phượng Cương thốt nhiên bước tới một bên, ngồi xuống xếp bằng tròn lại. Thấy ông ta đã ngồi, Đàm Khiếu Thiên và Lỗ Bình cũng phải bước theo, bắt chước cùng ngồi một lượt.

Chưởng môn nhân Ngôn nha môn đất Thần Châu, địa vị và danh vọng không kém gì Trung Nguyên Tứ Quân Tử. Việc ông thân hành tới đỉnh ngọn núi cao trăm trượng này không những ra ngoài ý liệu của bọn Đàm Khiếu Thiên và Lỗ Bình, cả đến Bạch Thiết Sinh và Tống Văn Quang cũng phải lấy làm sửng sốt, không hiểu đầu đuôi ra sao.

Trên đỉnh núi hoang vu lúc này lại khôi phục được cái vẻ u tĩnh của lúc bình thường. Luồng gió ban đêm ào ào từng trận điểm xuyết cho cảnh sắc thê lương càng tăng thêm phần tịch mịch.

Trong khi ấy, một bóng người nhanh như tên bắn, từ xa bay lại, tiếng gió thổi vào vạt áo phần phật, phá tan cảnh trầm tịch của canh khuya.

Người này dừng chân trên một mỏm đá, đưa mắt nhìn cảnh vật xung quanh, rồi chẳng nói chẳng rằng, lui ra một bên, ngồi xuống.

Bạch Thiết Sinh sợ lộ hình tích, không dám hé mắt nhìn, chàng biết là trên đỉnh núi lại mới có thêm một người nữa, nhưng không biết người ấy là ai.

Thời gian trôi qua trong cái khng cảnh ly kỳ huyền ảo đó. Bầu trời đã dần dần sáng.

Ở trong hoàn cảnh ấy, Tống Văn Quang và Bạch Thiết Sinh không thể ngẩng lên trông trời được, nhưng cũng đoán chắc là lúc này đã vào khoảng canh năm.

Trước khi bình minh, bao giờ cũng phải tối sầm lại một lúc, sắc trời tự nhiên đen như mực, gió đêm cũng theo đó mà thổi mạnh hơn, trên đỉnh núi cao tiết trời lại càng lạnh dữ.

Thật là một hoàn cảnh đầy vẻ bí mật, khủng khiếp, bảy tám vị võ lâm cao thủ, nín thở ngồi vây xung quanh bốn cái xác chết mà không biết.

Sau một thời gian ngắn, bóng tối qua đi, sắc trời lại dần dần hửng sáng, phía đông đã hiện lên một màu nhờ nhờ như ruột cá.

Liễu Vân Phi xuống núi đuổi theo người què chống nạng và cô bé cưỡi trâu, vẫn chưa thấy trở về.

Trong bọn người ngồi vây quanh xác chết đó, mỗi người đều có một cảm tưởng khác nhau nhưng chỉ có Bạch Thiết Sinh và Tống Văn Quang là khó chịu nhất. Trước mắt họ đều là những tay cao thủ đệ nhất giang hồ, cùng trong một lúc cùng chạy tới Bách Trượng Phong, thật không ai hiểu dụng tâm chân chính của họ ở chỗ nào? Hai người hết đau đớn lại buồn rầu, hết buồn rầu lại chuyển thành lo lắng.

Tuy họ lo lắng sốt ruột vô cùng, muốn mở miệng bàn tính với nhau, nhưng lại không dám.

Chợt nghe Ngôn Phượng Cương ho mạnh một tiếng rồi nói, "Trời sáng rồi!"

Giọng nói của ông ta vừa nặng nề, vừa lạnh lẽo, lại chỉ ngắn ngủi có ngần ấy tiếng, khiến không ai đoán được ý ông ta muốn nói gì, nên không ai tiếp lời.

Thốt nhiên, một tiếng niệm Phật oang oang từ dưới một chân núi truyền lên, trong ánh sáng rạng động, chỉ thấy một vị hoà thượng mặc áo xám, vai vác thiền trượng, phơi phới đi lên.

Trừ Trung Nguyên Tứ Quân Tử và Tống Văn Quang, Bạch Thiết Sinh ra, còn các người khác đều bị giật mình vì tiếng niệm Phật oang oang đó. Họ cùng mở choàng mắt ra nhìn vị hoà thượng mới tới.

Chỉ thấy tà áo tăng bào gió bay phấp phới, trên môi hoà thượng vẫn điểm một nụ cười, ung dung bước đến bên tảng bàn thạch, một tay đặt trước ngực, khom mình nói với bốn vị Trung Nguyên Tứ Quân Tử đang ngồi xếp bằng tròn nhập định, "Tệ Chưởng môn vì đang thời kỳ bế quan, không thể thân hành đến ứng triệu được, nên phái bần tăng tới đây đại diện."

Một luồng gió ban mai lồng lộng ùa tới, làm cho những tà áo và mấy chòm râu của bốn vị quân tử đều tung bay phấp phới nhưng bốn vị vẫn ngồi im, chẳng nói chẳng rằng, cả đến rèm mắt cũng không buồn mấp máy.

Vị tăng nhân áo xám độ lượng thật rộng rãi, khoan hồng, thấy thế chỉ cười, quay lại nhìn mấy người đang ngồi xếp bằng tĩnh toạ bên cạnh hỏi, "Các vị đến sớm quá nhỉ?"

Ngôn Phượng Cương cười nhạt một tiếng, rồi nói, "Lão thiền sư nhã lượng quá nhân, huynh đệ thật hết sức bội phục!"

Khôi bào tăng nhân cười nói, "Trung Nguyên Tứ Quân Tử danh trọng nhất thời, bần tăng dẫu bị khuất nhục một chút cũng không sao. Kẻ xuất gia đã trừ diệt tính nóng từ lâu. Ngôn chưởng môn có nói khích, cũng không làm cho bần tăng tức giận đâu mà!"

Giọng nói của ông ta tuy vẫn uyển chuyển ôn hoà, nhưng ý câu nói đã lộ vẻ bất mãn.

Chợt lại nghe thấy một giọng giận dữ nổi lên, "Trung Nguyên Tứ Quân Tử danh giá tuy lớn, nhưng cũng không thể khinh người như rác thế được!"

Quần hào ngoảnh lại chỉ thấy một người mặc áo xanh đang xăn áo xăm xăm bước tới.

Người này tuổi chỉ chừng trên dưới hai mươi, mày thanh mắt sáng, mặt trắng môi son, thần thái cực kỳ phong lưu tiêu sái, tay cầm chiếc quạt, bước thẳng đến phía Tứ Quân Tử ngồi.

Quần hùng trên đỉnh núi, ai cũng bất mãn về thái độ lạnh lùng vô lễ của Trung Nguyên Tứ Quân Tử, nhưng lại khiếp vì uy danh của họ, nên đều không muốn đứng lên trách hoi trước nay. Bỗng dưng có người phát tác hộ thì còn gì hơn. Nên mặc cho chàng thiếu niên muốn làm gì thì làm, tuyệt không một ai ngăn trở.

Bạch Thiết Sinh và Tống Văn Quang nghe bước chân mỗi lúc một tiến lại gần bốn vị sư trưởng ngồi, bất giác sợ cuống lên, cùng mở choàng mắt ra nhìn.

Chỉ thấy một thanh niên văn sĩ đã bước tới gần hòn cổ thạch, rồi giơ chiếc quạt lên điểm vào mình một vị quân tử.

Tống Văn Quang thốt nhiên vùng đứng dậy, quát lên một tiếng, "Dừng tay lại!"

Tiếng quát chưa dứt, người đã đứng chắn ngang trước mặt chàng thiếu niên văn sĩ.

Thì ra người bị chàng thiếu niên điểm đó, chính là sư phụ của Tống Văn Quang, vì thế nên hắn càng lo sợ hơn Bạch Thiết Sinh, quên cả việc giả vờ tĩnh toạ.

Chàng thiếu niên áo xanh cười nhạt một tiếng mà rằng, "Thì ra trong bọn ngươi vẫn còn có một người sống!"

Tống Văn Quang giận dữ thét lên, "Ngươi mở mồm ra là rủa xả người khác, dụng ý muốn gì?"

Rồi lập tức giơ quyền đánh ra, nhưng quyền chưa chạm tới đối phương, lại chợt cảm thấy không ổn, bèn rụt vội tay về, bước lùi lại hai bước.

Chàng thiếu niên chỉ lẳng lặng đứng yên, nhưng đôi mắt sáng như điện vẫn đăm đăm nhìn vào mặt Tống Văn Quang.

Ngôn Phượng Cương chợt đứng lên bước đến gần, đưa mắt nhìn qua Tứ Quân Tử một lượt, rồi lạnh lùng nói, "Bốn vị gửi thiếp mời, hẹn chúng tôi đi gấp đến đây, mà sao lại khinh thường khách quá vậy? Có lẽ các vị cố ý làm trò đùa..."

Vừa nói tới đấy, chợt ho khan một tiếng rồi ngừng bặt không nói nữa.

Thì ra ông ta vừa nhận thấy Trung Nguyên Tứ Quân Tử người nào sắc mặt cũng trắng bệch như da người chết đã được mấy ngày, trong bụng lập tức cảm thấy tình thế có vẻ bất ổn.

Tống Văn Quang chợt chắp tay nói, "Các vị sư trưởng tôi xưa nay tụ hội ở đâu, thường vẫn giấu không cho ai biết, không hiểu vì cớ gì mà các vị lại tìm đến đây?"

Ngôn Phượng Cương đôi mắt vẫn chăm chú nhìn vào mặt Tứ Quân Tử, hình như không nghe thấy câu hỏi của Tống Văn Quang.

Vị thanh niên văn sĩ hình như cũng nhận thấy tình hình khác lạ, nên chỉ cau mày suy nghĩ, không nói gì cả.

Chợt lại nghe thấy một giọng oang oang cất lên, "Nếu Tứ Quân Tử không phí thiếp mời, thì bọn ta cũng không tự nhiên đến đây quấy nhiễu, để mua lấy chuyện bực mình."

Người nói câu ấy chính là Đàm Khiếu Thiên, ông ta vừa nói vừa thủng thỉnh đi tới.

Tống Văn Quang trong bụng càng lo, tự biết những người này toàn là tay lão luyện giang hồ, nếu để họ đến gần các vị sư trưởng thì thế nào họ cũng nhận ngay ra là Trung Nguyên Tứ Quân Tử đều đã tắt thở, nhưng muốn ngăn trở thì lại không ngăn nổi, trong lúc thảng thốt, không biết tính thế nào, chỉ toát mồ hôi ra như tắm.

Đột nhiên Ngôn Phượng Cương hét vang lên như sấm, "Diệp huynh, lệnh nữ không cùng đi với anh ư?"

Mấy câu nói của ông ta vang vang như tiếng sấm, dẫu người đứng cách xa tới năm, ba trăm trượng cũng nghe thấy rõ ràng, vậy mà Trung Nguyên Tứ Quân Tử vẫn hình như không nghe tiếng.

Đàm Khiếu Thiên sẽ nói, "Ngôn chưởng môn."

Ngôn Phượng Cương quay lại hỏi, "Cái gì thế?"

Đàm Khiếu Thiên đáp, "Những người đến dự hội hôm nay chỉ có Ngôn huynh là danh tiếng lừng lẫy nhất, địa vị cũng cao nhất."

Anh chàng thiếu niên văn sĩ đã lâu không nói câu nào. Lúc này mới cười khẩy một tiếng, chửi liền, "Đồ vô dụng!"

Đàm Khiếu Thiên chợt cảm thấy hai tai nóng bừng, huyết khí bốc lên ngùn ngụt, rảo bước đến trước mặt chàng thiếu niên, sừng sộ hỏi, "Thằng bé này giỏi, mày mắng ai thế?"

Chàng thanh niên ngửng mặt lên trông trời, không thèm nhìn Đàm Khiếu Thiên, chỉ lạnh lùng nói, "Ta thích chửi ai thì chửi người ấy, ngươi hỏi làm gì?"

Thái độ lạnh lùng của chàng thanh niên còn hàm chứa một khí thế đủ làm cho người ta phải e dè sợ sệt, nên Đàm Khiếu Thiên vừa hầm hầm xông đến, trừng mắt nhìn chàng, rồi thốt nhiên lại bước lùi trở lại.

Ngôn Phượng Cương đôi mắt đang nửa nhắm nửa mở, chợt mở bừng lên, phóng ra hai luồng nhỡn quang sáng loáng như điện, lạnh lùng nhìn chàng thiếu niên một lượt, rồi lại nhìn thẳng vào mặt Tống Văn Quang, hỏi bằng một giọng lãnh đạm, "Lão phu và Trung Nguyên Tứ Quân Tử chơi với nhau đã mấy chục năm nay chẳng lẽ các ngươi không nghe lệnh sư nói đến bao giờ ư?"

Tống Văn Quang đáp, "Cháu đã được nghe đại danh lão tiền bối từ lâu, chỉ vì vô duyên chưa được bái kiến, hôm nay tình cờ được gặp, vãn bối rất lấy làm hân hạnh."

Ngôn Phượng Cương ngoảnh lại nhìn quần hùng một lượt rồi nói tiếp, "Không biết tại sao bốn vị lệnh sư trưởng lại gửi thiếp mời anh hùng thiên hạ đến đây họp mặt?"

Ông ngừng một lát, lại thủng thỉnh nói, "Cuộc hội họp của Trung Nguyên Tứ Quân Tử xưa nay vẫn hết sức bí mật, điều ấy khắp giang hồ không ai là không biết. Ngay cả tại hạ đối với bốn vị, giao tình không phải tầm thường, vậy mà cũng không biết mỗi năm một lần, các vị họp nhau ở đâu. Vậy nên khi thiếp mời, tại hạ vừa kinh ngạc vừa sung sướng vội vã đi gấp ngày đêm lên đây..."

Nói đến đấy, ông ta chợt ngửa cổ lên trời cười ha hả một hồi, rồi lại tiếp, "Ta tưởng các vị đến dự hội hôm nay, phần đông đều cùng một tâm trạng giống như lão phu. Ai ngờ lệnh sư gửi thiếp mời người ta lên họp ở trên một toà núi cao trăm trượng này, rồi chỉ mải ngồi điều tức, không thèm đếm xỉa gì đến khách! Hừ, đã thế lại còn phong bế cả huyệt mạch, đoạn tuyệt cả hơi thở! Hà hà! Cái trò này kể cũng hơi thái quá đấy! Lão phu với Trung Nguyên Tứ Quân Tử giao tình thâm hậu, không nói làm gì, nhưng còn người khác, chỉ e họ không kham nổi!"

Ông ta nói bằng một giọng hách dịch, phách lối, tựa như không còn ai hơn mình nữa.

Anh chàng thiếu niên văn sĩ có thái độ lạnh lùng cao ngạo, lúc ấy chợt cất tiếng hỏi xen, "Nhưng người ông chỉ đó, không phải là nói gồm cả tôi..."

Ngôn Phượng Cương đôi mắt lại long lanh sáng quắc, lạnh lùng hỏi, "Ngươi có biết ta là ai không?"

Chàng văn sĩ nói, "Trong con mắt tôi thì dù đương kim hoàng đế hay kẻ thứ dân cũng chẳng khác gì nhau!"

Ngôn Phượng Cương giận lắm, cười nhạt một tiếng rồi nói, "Ngươi mới một nhúm tuổi đầu, không đáng nói chuyện với lão phu. Ngươi là môn hạ của ai, mau nói tên ra, ta sẽ tìm lệnh sư tính toán."

Thanh niên văn sĩ cầm chiếc quạt xua xua, cười nói, "Gia sư còn ở tận chân trời. Tìm tôi cũng thế!"

Ngôn Phượng Cương giận đến tái xanh cả mặt, giậm chân xuống tảng sơn thạch, rên lên, "Hỏng, hỏng! Nếu bữa nay ta không cho mày một bài học thì Ngôn gia môn mặt nào còn đứng được ở chốn giang hồ?"

Trong khi nói, ông ta đã ngầm tụ sẵn công lực.

Chàng thanh niên không quay đầu lại, cũng không biết rằng Ngôn Phượng Cương rất có thể giận quá nổi xung lên đánh mình được, và hình như cũng không để ý gì đến câu chuyện ấy nữa.

Chỉ thấy chàng vung chiếc quạt lên trỏ một cái, rồi nói, "Hôm nay đông ghê! Lại có người đến nữa kia!"

Ngôn Phượng Cương vừa định xúc thế phóng ra, nghe chàng nói vậy, bèn dừng lại, ngẩng đầu lên trông xem ai.

Thì ra quả có một bọn ba người, hai vị trung niên đạo nhân và một ông già râu bạc dài tới đầu gối, tay chống gậy, đang sóng vai đi tới.

Ba người vừa xuất hiện, làm cho quần hào ngồi trên đỉnh núi đều giật mình kinh ngạc, cuộc phân tranh vừa rồi cũng vì thế mà lắng hẳn.

Cặp mắt quần chúng đều đổ dồn cả vào ba người mới tới, duy có chàng thanh niên văn sĩ vẫn thản nhiên như không trông thấy, chỉ ngửa mặt lên nhìn trời.

Tống Văn Quang vừa thấy ba người ung dung đi tới, đã biết ngay rằng, cái chết của Trung Nguyên Tứ Quân Tử không thể còn giấu ai được nữa.

Ngôn Phượng Cương từ lúc thấy ba người lên núi, cái vẻ cao ngạo ngông nghênh cũng lập tức tiêu tan mất cả.

Bạch Thiết Sinh thấy người đến mỗi lúc một nhiều, mà trời vẫn chưa sáng rõ, cứ xem tình hình này thì không biết chừng hôm nay còn bao nhiêu người lên Bách Trượng Phong nữa!

Cục thế biến đổi hoàn toàn ra ngoài ý liệu, Bạch Thiết Sinh trong bụng bối rối, không biết tính cách nào, bèn từ từ đứng dậy!

Lại thấy chàng văn sĩ áo xanh cất giọng sang sảng nói, "Lại hãy còn người nín thở giả chết nữa à?"

Ngôn Phượng Cương quay lại lườm chàng thanh niên một cái, rồi sẽ hỏi nhỏ Tống Văn Quang, "Người ấy là ai thế?"

Tống Văn Quang đáp, "Vãn bối chưa từng gặp hắn bao giờ!"

Trong khi hai người thì thầm nói chuyện thì ông già râu dài và hai đạo sĩ đã đi đến gần hòn giả thạch.

Ông già râu dài đảo mắt nhìn khắp hình thế xung quanh, rồi hỏi, "Ở đây vừa có chuyện gì xảy ra, các vị đến toà cô phong hẻo lánh này làm gì thế?"

Ngôn Phượng Cương chắp tay nói, "Lâu lắm không được gặp Thượng huynh, không ngờ bữa nay may mắn lại..."

Ông ta chợt nhân thấy câu nói của mình không ăn nhập gì với câu hỏi, liền ngừng một lúc, rồi nói tiếp, "Huynh đệ tiếp được phi thiếp của Trung Nguyên Tứ Quân Tử liên danh, mời dự cuộc họp, nên vội đi gấp lại đây."

Quần hào cũng đồng thanh nói tiếp, "Chúng tôi cũng tiếp được thiếp mời, nên mới tới đầy phó ước."

Ông già tay phải lên vuốt chòm râu, rồi tiếp, "Trung Nguyên Tứ Quân Tử xưa nay hội họp ở đâu, thường vẫn giấu kín, không biết lần này tại sao lại làm trái hẳn thường lệ, phí thiếp mời các vị tới đỉnh núi này để làm gì?"

Ngôn Phượng Cương nói, "Đó chính là chỗ mà bọn tiểu đệ không sao hiểu nổi!"

Tống Văn Quang chợt chạy đến bên Bạch Thiết Sinh, ghé tai nói sẽ, "Bạch huynh, cứ xem tình hình này thi không khéo việc bốn lão nhân tạ thế, đã bị người ta biết cả rồi..."

Chàng ngừng lại một giây, rồi lại tiếp, "Ngần này người thiên nam địa bắc, mỗi người ở một phương, sao lại đồng thời cùng nhận được thiếp mời của bốn vị lão nhân gia, thật là ly kỳ khó hiểu!"

Bạch Thiết Sinh nói, "Tống huynh định tuyên bố cái chết của bốn vị sư trưởng ra cho mọi người cùng biết hay sao?"

Tống Văn Quang nói, "Mình không tuyên bố, chỉ sợ khó lòng che nổi mắt người ta!"

Bạch Thiết Sinh nói, "Nếu làm thế chẳng hoá ra trái với ý của bốn vị lão nhân đã dặn trong di thư sao?"

Tống Văn Quang nói, "Tình thế này còn làm sao mà nghĩ đến điều ấy được nữa?"

Chợt lại nghe tiếng ông già râu dài nói, "Việc này lão phu không sao có thể tin được..."

Ông thò tay phải vào bọc lấy rất một phong bạch giản rồi lại tiếp, "Các vị hãy lấy phong thiếp mời của Tứ Quân Tử ra đây, kiểm soát lại xem nào."

Hình như ông ta không tin rằng tất cả ngần này người lại cùng nhận được thiếp mời một lúc như thế.

Quần hào nghe xong, ai cũng thò tay vào bọc lấy phong giản thiếp ra, chỉ có chàng thiếu niên văn sĩ là vẫn đứng im không nhúc nhích, hình như không nghe thấy gì cả.

Ông già râu bạc xem xong ngần ấy phong bạch giản, lại nhướng cao đôi mày rậm, lẩm bẩm nói một mình, "Quái lạ! Lạ thật! Thế này là nghĩa lý gì?"

Bạch Thiết Sinh thấy tất cả quần hào đều lấy ra phong thiếp mời có chữ ký của Tứ Quân Tử, trong bụng lại càng mê hoặc, bất giác thở dài một tiếng, nói với Tống Văn Quang, "Tống huynh, tình thế này quả không thể sao giấu được hung tin của bốn vị lão nhân gia, nếu để họ tự phát giác thì thà mình tuyên bố trước còn hơn!"

Tống Văn Quang hỏi, "Bạch huynh đồng ý chứ?"

Đoạn chàng bước đến bên tảng sơn thạch, vòng tay nói với mọi người, "Thưa các vi lão tiền bối, tại hạ có lời chào các vị."

Quần hào có mặt tại trường đều linh cảm thấy chàng sắp tuyên bố điều gì hết sức quan trọng, nên đều nín im thin thít, bao nhiêu cặp mắt đều đổ dồn vào Tống Văn Quang, lắng tai nghe chàng nói.

Tống Văn Quang vẻ mặt trang nghiêm, bằng một giọng đau đớn, nói, "Chư vị lão tiền bối đều là những người có địa vị rất cao trong giới võ lâm đương thời, không quản xa xôi lặn lội tới đây phó ước, vãn bối rất lấy làm cảm tạ."

Chàng nói đến đây thốt nhiên không kìm nổi hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi.

Ông già râu dài ho khan một tiếng rồi nói, "Bé con, thôi đừng khóc nữa, mau nói cho chúng ta nghe, Trung Nguyên Tứ Quân Tử gặp biến cố gì vậy?"

Tống Văn Quang buồn bã nói, "Gia sư và ba vị sư trưởng đều bị ngộ hại cả..."

Việc này tuy đã ở trong ý liệu của mọi người, nhưng khi nghe Tống Văn Quang nói ra, quần hào vẫn cảm thấy xúc động, bàng hoàng.

Đỉnh núi cao vắng vẻ, đột nhiên như bị bao trùm bởi một đám mây đen thảm thê u ám, sắc mặt người nào cũng tỏ vẻ đau đớn ngậm ngùi.

Ta nên biết rằng Trung Nguyên Tứ Quân Tử ở trong giới võ lâm đều có một địa vị rất cao, danh tiếng lẫy lừng. Bốn người chơi với nhau rất thân, nghĩa đồng sinh tử, nay thốt nhiên bị người ám hại cả bốn, thật là một vụ án rất lớn, đủ làm chấn động nhân tâm giới giang hồ.

Một bầu không khí tịch mịch thê lương kéo dài tới chừng nguội một chén nước trà, chàng thanh niên văn sĩ thốt nhiên thở dài một tiếng mà rằng, "Sóng gió nổi hề! Tai ương đã dấy..."

Thốt nhiên chàng quay ngoắt mình, rảo bước đi ngay.

Ngôn Phượng Cương quát to, "Đứng lại!"

Rồi nhanh như cắt, bàn tay vươn ra, nắm lấy bả vai chàng thanh niên.

Chàng thanh niên làm như không nghe thấy tiếng quát, đầu cũng không buồn quay lại, hai chân bước thật nhanh, nhẹ nhàng tránh khỏi hai thế của đối phương.

Động tác của chàng cực kỳ nhanh nhẹn, vừa tránh thoát cái nắm của Ngôn Phượng Cương, người đã cách xa tới bảy, tám thước.

Đàm Khiếu Thiên đạp mạnh hai chân xuống đất, thân hình bay vụt lên, vòng ra phía trước, chắn ngang trước mặt chàng thanh niên.

Thanh niên không buồn liếc mắt nhìn, chỉ hơi vươn lưng một cái, thân hình chợt xông thẳng về phía trước, vừa vặn tránh khỏi cái thế của Đàm Khiếu Thiên.

Trên đỉnh núi chợt nổi lên những tiếng xôn xao, hành động kỳ dị của chàng thanh niên, hình như đã làm cho mọi người coi như cừu địch, chỉ thấy bóng người thoang thoáng, áo quần phấp phới, ùa ra đuổi theo.

Chàng thanh niên thốt nhiên quay lại, lạnh lùng hỏi, "Các người muốn đánh nhau hả?"

Diện mạo, thần thái của chàng tuy tuấn tú văn nhã, nhưng trong hai con mắt sáng như điện còn ẩn một luồng sát khí kinh người. Chàng vừa quay lại hỏi, quần hào đều lập tức dừng lại, trong phút chốc không một ai lên tiếng.

Ước chừng nguội một chén trà, ông già râu bạc mới gõ đầu gậy xuống đất, nói với mọi người, "Hắn đã có thiệp mời tất nhiên phải có giao tình với Tứ Quân Tử. Vậy thì cùng là bạn đồng đạo cả, chúng ta không nên lỗ mãng!"

Ông ta tuổi cao đức trọng, thanh danh vũ học đều vượt cả mọi người, nên khi thấy ông đứng ra can thiệp, quần hào đều lẳng lặng, không ai nói gì nữa.

Chàng thanh niên cất cao giọng nói, "Lão tiền bối đoán sai rồi, tại hạ không được hân hạnh quen biết Trung Nguyên Tứ Quân Tử. Hôm nay tới đây chỉ là một sự tình cờ mà thôi!"

Ông già đôi mắt long lanh, hình như cũng bị chàng văn sĩ áo xanh chọc tức, nhưng chỉ trong thoáng chốc, ông lấy lại được sắc mặt hoà nhã, mỉm cười một cách nhạt nhẽo, "Những hạng thanh niên, tính nết hay bướng bỉnh..."

Ông ngừng một lúc, rồi lại nói, "Các hạ tự nhiên vô cố chạy đến chỗ hoang sơn vắng vẻ này đừng nói lão phu không tin, dẫu đến đứa trẻ lên ba, cũng chưa chắc đã loè nổi nó. Và trên ngọn núi này, toàn là những người có đôi chút tiếng tăm trong giang hồ cả, đối với thái độ ngông nghênh ngạo mạn của các hạ, ai không khó chịu?"

Chàng thanh niên nói, "Tại hạ đến cũng chỉ có hai tay không, mà đi cũng chỉ có hai tay không. Tại hạ không tin rằng có người dám coi tại hạ như hung thủ giết bốn vị Quân Tử Trung Nguyên."

Ngôn Phượng Cương cười nhạt một tiếng, rồi nói với ông già râu dài, "Những hạng người ngông cuồng như vậy, Ngôn Phượng Cương này mới trông thấy là lần đầu. Thượng huynh hà tất phải nói với hắn cho phí lời. Trước hết ta hãy bắt lấy hắn, rồi sau sẽ tra xem hung thủ giết hại Tứ Quân Tử là ai. Dưới con mắt của ngần này người, không lẽ lại không tìm ra đầu mối?"

Chàng thanh niên sắc mặt vẫn nghiêm nghị lạnh lùng nói, "Nếu vị nào coi tại hạ là chướng mắt, thì xin cứ việc ra tay thử coi!"

Ngôn Phượng Cương địa vị là tôn sư một phái, tuy đã biết võ công của chàng không phải tầm thường, nhưng trước mặt quần hào, chẳng lẽ lại cam nhịn nhục, bèn cười nhạt một tiếng, bước lên hai bước, định xông vào tấn công.

Ông già râu dài thốt nhiên cầm cây gậy trúc đưa ngang ra ngăn Ngôn Phượng Cương lại, nói, "Ngôn huynh hãy thong thả. Trước hết chúng ta hãy tra xem Tứ Quân Tử chết vì cớ gì đã. Đó là việc cần thiết hơn cả."

Vừa nói vừa đưa mắt, ngầm bảo Ngôn Phượng Cương đừng vội lỗ mãng.

Ngôn Phượng Cương tuy chưa hiểu rõ ý ông già ngăn không cho mình động thủ là vì cớ gì, nhưng cũng không cố cưỡng.

Ông già thu gậy về, cất cao giọng nói, "Việc Trung Nguyên Tứ Quân Tử bị người mưu hại, không những lão phu không ngờ, mà các vị dám chắc cũng đều cảm thấy ngạc nhiên. Điều ấy làm cho lão phu băn khoăn tự hỏi không biết trong những thanh giản thiếp có cái gì đáng ngờ không?"

Ngôn Phượng Cương gật đầu khen, "Thượng huynh nói có lý lắm!"

Vị tăng nhân mặc áo xám lâu lắm không nói câu nào, lúc này chợt cất tiếng xen vào, "Bần tăng phụng mệnh tệ Chưởng môn phương trượng đến đây, và các anh hùng trong thiên hạ ai cũng biết tệ Chưởng môn có tài nhận biết nét chữ. Nếu phong thiếp mời có giả tạo thì làm sao qua được mắt người? Vì thế nên bần tăng dám quả quyết rằng những phong giản thiếp đó toàn là thủ bút của Tứ Quân Tử cả."

Xem ý ông ta đối với Chưởng môn phương trượng thực đã bội phục vạn phần nên trong khi nói, thái độ vẫn tỏ ra hết sức cung kính.

Ngôn Phượng Cương nói, "Vô luận thế nào, cái chết của Tứ Quân Tử cũng làm dao động nhân tâm trong giới giang hồ. Vậy ta cần phải tra xét cho đến nơi đến chốn."

Lúc này chợt nghe có tiếng khóc nức nở từ dưới chân núi đưa lên.

Quần hùng cúi đầu trông xuống, thấy một thiếu nữ mặc toàn đồ trắng, đang hấp tấp chạy lên.

Phía sau thiếu nữ lại có một vị thiếu niên anh tuấn, mày thanh mắt sáng, lưng đeo trường kiếm, theo sát chân nàng.

Tiếng khóc của bạch y thiếu nữ nghe rất thê thảm đau đớn. Vì nàng đưa tay phải lên che mặt, nên không ai trông rõ dung mạo, nhưng cứ coi cái thân hình uyển chuyển dịu dàng, với bàn tay trắng nuột như ngọc của nàng, cũng đoán biết đó là một mỹ nhân dung nhan tuyệt thế.

Người thiếu niên đeo kiếm đi sau thần sắc có vẻ nghiêm trang kính cẩn.

Đàm Khiếu Thiên trông thấy từ phía xa xa, đã chắp tay chào hỏi, "Đường công tử, lâu lắm không gặp!"

Chàng thiếu niên cũng chắp tay thi lễ, nói, "Đàm huynh lâu nay vẫn mạnh chứ?"

Bạch y thiếu nữ thốt nhiên rảo bước chạy nhanh đến chỗ Tứ Quân Tử, nức nở gọi, "Gia gia!"

Rồi nàng quỳ sụp xuống trước mặt người ngồi mé bên phải lạy luôn mấy lạy, đoạn lại phục xuống đất, khóc rầm lên.

Tống Văn Quang hỏi nhỏ, "Có phải Diệp cô nương đấy không?"

Thiếu nữ nghe tiếng, bỏ tay ra, ngửng bộ mặt phấn còn đầm đìa nước mắt lên cất đầu hỏi, "Phải tôi đây! Huynh đài là ai?"

Tống Văn Quang nói, "Tại hạ là Tống Văn Quang, gia sư là Kim Thánh Nghi..."

Tống Văn Quang trỏ Bạch Thiết Sinh giới thiệu, "Vị này là Bạch huynh, học trò củaChu sư bá."

Thiếu nữ tuy đang trong cơn đau đớn, nhưng tâm thần vẫn sáng suốt, bèn gật đầu chào Bạch Thiết Sinh rồi nói, "Tiểu muội vẫn được nghe gia phụ nói đến Bạch huynh luôn."

Bạch Thiết Sinh khiêm tốn vài câu rồi hỏi, "Diệp sư muội đã gặp Vạn Xung huynh chưa?"

Bạch y thiếu nữ đáp, "Vì tiểu muội gặp Vạn sư huynh ở dọc đường, nên mới biết là gia phụ và ba vị bá bá đã bị ngộ hại, bèn vội đi gấp đường về đây. Tiểu muội nhờ có ngựa tốt nên đi được nhanh hơn, Vạn sư huynh chắc cũng sắp tới."

Ánh dương quang vàng hoe chiếu thẳng vào khuôn mặt diễm lệ tuyệt trần của người thiếu nữ, những giọt nước mắt long lanh trên khoé mắt và hai gò má, không những đã không làm giảm cái sắc đẹp thiên nhiên của nàng, trái lại những nét đau đớn bi thương, còn tạo thêm cho nàng một vẻ đẹp dịu dàng đáng mến.

Bao nhiêu làn nhỡn tuyến của những người ở trên đỉnh núi lúc này đều đổ dồn lên khuôn mặt ngọc của thiếu nữ, rõ ràng là cái sắc đẹp của nàng đã làm cho tất cả bấy nhiêu người đều bay hồn lạc vía, mắt choáng, hồn mê.

Tống Văn Quang thở dài một tiếng, rồi nói, "Diệp sư muội đừng buồn nữa. Việc đã thế này ta nên thu xếp hậu sự cho chóng là hơn. Những người ở đây đối với cái chết của bốn vị sư trưởng, ai cũng đau xót. Họ đương bàn định với nhau để tìm cho ra hung thủ."

Bạch y thiếu nữ thở một hơi thật dài, gật đầu nói, "Tống sư huynh nói rất phải."

Chàng thiếu niên đeo kiếm, thốt nhiên rảo bước đi tới, lạnh lùng nhìn Tống Văn Quang và Bạch Thiết Sinh một lượt, rồi đưa tay đỡ thiếu nữ dậy, sẽ nói, "Diệp muội đã khóc suốt dọc đường rồi, bây giờ hãy nghỉ một lúc cho khoẻ."

Bạch y thiếu nữ sẽ kéo cánh tay bị chàng nắm lại, nói, "Tôi muốn được ngồi bên gia gia, để ngắm kỹ di chung của người."

Nói đến chỗ thương tâm, hai hàng nước mắt lại tràn ra hai khoé mắt.

Chàng thiếu niên đeo kiếm thở dài nói, "Thôi đừng khóc nữa, phải giữ gìn sức khoẻ chứ!"

Chợt chàng ngẩng lên chắp tay thi lễ với Bạch Thiết Sinh và Tống Văn Quang, rồi tự giới thiệu, "Huynh đệ là Đường Thông, ngày thường vẫn được nghe nhạc gia nhắc đến đại danh của hai vị sư huynh, tiếc vì chưa có dịp bái kiến. Lần này nhân phụng mệnh từ mẫu xuyên trung xuốngNam thăm sức khoẻ nhạc gia, và thuận đường đếm bái vọng các vị trưởng bối. Không ngờ bốn vị lão nhân gia lại cùng bị ám hại một ngày, thật là đại bất hạnh!"

Giọng nói của chàng tuy khiêm tốn uyển chuyển những một điều nhạc gia, hai điều nhạc gia, hình như cố ý tỏ cho mọi người biết thân phận của mình.

Tống Văn Quang vội chắp tay đáp lễ, nói, "Thì ra là Đường huynh, tiểu đệ cam chịu tội thất kính!"

Bạch Thiết Sinh cũng nói, "Hôm qua vừa nghe Vạn huynh nhắc tới huynh đài..."

Đường Thông than rằng, "Nhạc gia và ba vị lão tiền bối đều là những vị danh cao vọng trọng trong giới võ lâm hiện thời, rút cuộc đều cùng bị bại một lượt, thật là một biến cố vô cùng quan trọng. Huynh đệ đã lập tức phái người đi gấp ngày đêm về bẩm với gia mẫu, để người tới đây chủ trì công việc tìm kiếm hung thủ."

Ngôn Phượng Cương nói chen, "Vũ công và uy vọng của lệnh đường đều cùng tuyệt thế, nếu người chịu đứng lên cáng đáng việc này, thì lo gì không tìm ra hung thủ!"

Ông già râu dài cũng nói, "Lão hủ không biết hai họ Đường, Diệp đã kết thông gia với nhau. Vậy xin có lời mừng tới Đường thế huynh."

Đường Thông cười nói, "Việc này do gia mẫu và nhạc gia quyết định, vãn bối được nhờ dư ấm tổ tiên..."

Hắn định nói "nhơ dư ấm Tổ tiên nên lấy được vợ đẹp" chợt lại nghĩ, nói thế không tiện, bèn ngừng lại không tiếp nữa.

Đồ GiangNam từ nãy vẫn ngồi yên, lúc này mới lên tiếng, "Tục ngữ có câu "Rắn không đầu khó luồn, chim không cánh khó bay," chúng ta lắm người chỉ thêm nhiều điều, người này nói một câu, người kia chen một tiếng, rút cuộc vẫn chẳng đi đến đâu. Theo ý tại hạ thì bây giờ ta nên bầu lấy một hai người chủ sự đứng ra liệu lý việc tang sự cho bốn vị Quân tử, và cắt người điều tra hung thủ, đó là việc cần thiết hơn cả."

Đàm Khiếu Thiên nói, "Đồ huynh nói phải lắm, tiểu đệ cũng đồng ý."

Mọi người ai cũng tán thành, cùng đồng thanh bầu Thượng Tam Đường và Ngôn Phượng Cương làm minh chủ đại cuộc. Hai người cố nhún nhường không được, Thượng Tam Đường vuốt râu cười nói, "Các vị đã có lòng quá yêu, tín nhiệm lão hủ, lão hủ từ chối mãi cũng không tiện. Còn mong các vị giúp đỡ thêm vào, công việc mới có thể hoàn hảo được."

Nói xong, lại đưa mắt nhìn bọn Tống Văn Quang, Bạch Thiết Sinh và Đường Thông, rồi nói, "Trung Nguyên Tứ Quân Tử bị hại, các vị tuy đau thương vô hạn, nhưng việc này còn quan hệ đến tình thế toàn thể võ lâm, không cứ gì những phong thiếp mời đó có phải thủ bút của Tứ Quân Tử không, lão phu trong nhất thời tuy không thể thấu suốt được mọi nhẽ, nhưng quyết không phải là do sự xảo hợp ngẫu nhiên. Kẻ hung thủ âm mưu ám hại Tứ Quân Tử, tất nhiên không coi bọn lão hủ và các vị anh hùng trong thiên hạ vào đâu..."

Ông ngừng lại một chút, rồi lại tiếp, "Vì thế lão hủ mong các vị, ai có chứng cứ gì liên quan đến việc này, xin bỏ ra đây, để tất cả mọi người cùng kiểm soát lại, họa may có tìm ra được đầu mối gì chăng?"

Mọi người nghe nói, đều thò tay vào túi lấy phong thiếp mời ra đặt lên một tảng sơn thạch.

Tống Văn Quang chú ý nhìn kỹ, chỉ thấy trên thiếp viết rằng, "Trước giờ ngọ ngày hai mươi ba tháng Tám, xin kính mời đại giá tới đỉnh Bách Trượng Phong phía bắc tỉnh Triết Giang hội họp. Quá giờ ấy xin miễn chờ." Phía dưới ký tên "Lam Triệu Thường, ChuThiên Trượng, Kim Thánh Nghi, Diệp Trường Thanh."

Tất cả các thanh giản thiếp, thanh nào cũng viết đúng như thế, vừa giản dị vừa lạc thảo, hình như đều do tay một người viết ra, nhưng bốn chữ ký thì mỗi chữ một khác.

Thượng Tam Đường lại hỏi Tống Văn Quang và Bạch Thiết Sinh, "Hai vị có tìm thấy vật gì khả nghi ở trong mình lệnh sư không?"

Tống Văn Quang sẽ hỏi Bạch Thiết Sinh, "Có nên cho họ xem tờ di chúc của các vị sư trưởng không?"

Bạch Thiết Sinh cũng thì thầm đáp, "Nếu quả họ có bụng tốt, thực tâm muốn truy cứu hung thủ, thì dẫu có bắt chúng ta phải nhảy vào lửa, lội xuống nước, ta cũng không từ. Việc gì phải giấu."

Nói xong liền thò tay vào mình, lấy ra một cái túi trong đựng tờ di chúc, đặt lên tảng đá, rồi nói, "Chúng tôi lên tới đỉnh núi, thì bốn vị sư trưởng đã tắt thở từ lâu, trừ mảnh lụa viết thành di chúc này ra, thì không còn tìm thấy vật gì khả nghi nữa."

Thượng Tam Đường nhìn qua mảnh lụa, rồi lại hỏi, "Hai vị có xê dịch thi thể của các vị lệnh sư không thế?"

Tống Văn Quang đáp, "Thưa không!"

Thượng Tam Đường thủng thỉnh đi vòng quanh thi thể bốn người, chú ý xem xét một lượt, rồi mới cầm tờ di chúc lên coi, đoạn lại hỏi, "Bức di chúc này, có phải đúng là thủ bút của Tôn sư không?"

Bạch Thiết Sinh nói, "Vãn bối tuy cũng hơi ngờ, nhưng nét chữ thì đúng lắm!"

Chợt thấy chàng thanh niên mặc áo xanh cười nhạt một tiếng rồi nói, "Điều tra theo lối ấy, thì có đến một năm nữa cũng không tìm ra nguyên nhân cái chết của Tứ Quân Tử!"

Thượng Tam Đường buông mảnh lụa xuống, đứng lên vòng tay nói, "Lão hủ quên chưa thỉnh giáo đai giá quý tính đại danh là gì? Tôn sư là ai?"

Chàng thiếu niên đáp, "Tại hạ là một kẻ vô danh, không dám đếm xỉa, còn gia sư thời ẩn cư đã lâu, nói ra chắc các vi cũng không biết."

Thượng Tam Đường biến sắc mặt nói, "Lão phu đã đi mòn giày cỏ, vẹt gậy tre khắp đông, tây, nam, bắc bốn phương, tự tin là đã biết người rất nhiều. Ba mươi năm về trước, các bậc võ lâm đồng đạo, đại phàm người nào hơi có danh vọng một chút, nếu lão hủ chưa gặp mặt thời tất cũng đã được nghe danh. Các hạ cứ nói cho ta nghe."

Chàng thanh niên chợt ngửa mặt lên trời, cười ha hả nói, "Gia sư xưa nay không hề giao thiệp với các nhân vật võ lâm, nói ra cũng chẳng khác gì không nói. Nhưng về vụ án này, vãn bối có biết một hai điều, cũng xin góp ý kiến! Sao lão anh hùng không mở bàn tay phải của bốn vị Quân tử đặt trên đầu gối ra, xem lòng bàn tay có gì khác không?"

Hồi thứ ba

Liều mình báo thù cha

Toàn trường ai cũng kinh ngạc sửng sốt về lối luận đoán quả quyết của chàng thanh niên, bất giác bao nhiêu cặp mắt đều đổ dồn vào mình chàng.

Thiếu nữ áo trắng Diệp Sương Y cũng ngước đôi mắt bồ câu đen láy lên nhìn chàng thiếu niên văn sĩ, chỉ thấy luồng nhỡn tuyến lạnh lẽo xa xôi của chàng đang trông thẳng về một góc chân trời, hình như không biết là mọi người đang đăm đăm nhìn mình. Cái thái độ lạnh lùng kiêu ngạo đó, hình như cách biệt rất xa với thế giới hiện tại.

Thiếu nữ nghĩ thầm, "Người đâu mà kiêu ngạo quá vậy? Chẳng lẽ trên đỉnh núi này không có ai đáng lọt vào mắt của hắn hay sao?" Nàng đã bắt đầu ghét cái mặt anh chàng khinh người ấy.

Thượng Tam Đường chống mạnh cây gậy tre xuống đất nói, "Thì lão phu cũng tạm nghe láo một câu xem nào!"

Rồi ông ngoảnh lại bảo Tống Văn Quang và Bạch Thiết Sinh, "Các ngươi thử mở bàn tay phải của các vị lệnh sư ra xem sao?"

Tống Văn Quang do dự một lúc, rồi cũng theo lời mở bàn tay phải của Tứ Quân Tử ra xem.

Nhưng khi nhìn kỹ, quả thấy lòng bàn tay mỗi vị đều có một cái dấu đỏ, vuông vắn đủ bốn góc.

Trong cái ấn đỏ ấy còn rất nhiều những vạch ngang vạch dọc nhỏ li ti, tựa như nét chữ, lại giống như những chỉ tay, nhưng vì nó nhỏ quá, mắt phàm không thể trông rõ được, nên không ai biết là cái gì.

Chợt nghe thiếu nữ áo trắng kêu lên, "Ủa, thôi hắn chạy mất rồi!"

Quần hào đều giật mình quay đầu lại, quả nhiên không thấy chàng ta đâu cả.

Ngôn Phượng Cương cau mày nói, "Quái lạ, không biết tại sao thằng bé này lại biết là trong lòng bàn tay của Tứ Quân Tử có dấu?"

Đồ GiangNam nói, "Rất có thể hắn chính là một tên trong bọn hung thủ cũng nên."

Thần Quyền Lỗ Bình nói, "Dù hắn không phải là hung thủ, thì tất cũng phải biết lai lịch của hung thủ."

Thượng Tam Đường gõ đầu gậy xuống đất, than rằng, "Lão phu đã từng vượt qua bao nhiêu cơn sóng gió, không ngờ ngày nay lại bị chết đuối ở ngòi lạch."

Đường Thông nói, "Chắc hắn đi cũng chưa xa, chúng ta đuổi theo may ra còn kịp."

Thiếu nữ thở dài nói, "Chỉ sợ đuổi không kịp, hắn rút lui một cách rất nhẹ nhàng, không một tiếng động. Chúng ta tuy đông người, mà cũng không ai biết hắn chuồn đi lúc nào, thì còn nói gì đuổi theo?"

Mấy câu nói của nàng làm cho cử toạ đều cảm thấy đỏ mặt.

Thượng Tam Đường lại gõ đầu gậy xuống đất nói, "Việc cần thiết lúc này, là phải tìm một chỗ an toàn, rước thi thể Tứ Quân Tử quàn tạm, rồi lão phu và chư vị cùng liên danh gửi thiếp đi khắp Đại giang Nam Bắc, nhờ các bạn đồng đạo võ lâm tìm cho ra tông tích cái anh chàng văn sĩ hỗn xược ấy."

Vị tăng già Thiếu Lâm lúc này thốt nhiên đứng dậy, chắp tay ngang ngực, nói với mọi người, "Bần tăng đến đây là do mệnh lệnh Chưởng môn phương trượng, sai tới tham dự đại hội của Trung Nguyên Tứ Quân Tử mời. Bây giờ Tứ Quân Tử đã bị hại, bần tăng phải lập tức trở về phúc mệnh. Vậy xin phép cáo từ trước."

Nói xong, vác thiền trượng lên vai, xăm xăm bước đi.

Vị đạo nhân cùng đi với Thượng Tam Đường lên núi lúc nãy, bấy giờ mới lên tiếng, "Các dấu đỏ trong lòng bàn tay của bốn vị quân tử hình như là một loại dấu hiệu đặc biệt. Trông những nét ngang dọc ở bên trong, có vẻ giống như lối chữ Triện thì phải."

Ngôn Phượng Cương quay lại nhìn đạo nhân rồi hỏi, "Dám hỏi đạo trưởng pháp hiệu là gì?"

Đạo nhân mỉm cười đáp, "Bần đạo là Huyền Nguyệt."

Ngôn Phượng Cương sửng sốt giây lâu rồi chắp tay nói, "Tiểu đệ cam chịu tội thất kính!"

Huyền Nguyệt cười nói, "Bần đạo ít khi ra chốn giang hồ, nên Ngôn chưởng môn không biết là phải. Bần đạo đâu dám trách!"

Tống Văn Quang, Bạch Thiết Sinh hình như cũng đã từng nghe danh Huyền Nguyệt đạo trưởng, nên vừa nghe thấy ông ta xưng danh, đều quay lại nhìn. Cả đến Diệp Sương Y cũng buông tay áo che mặt xuống, ngước cặp thu ba long lanh ngắm nghía phong thái của một tay đanh kiếm Vũ Đương khét tiếng một thời.

Huyền Nguyệt bước lại gần ba người, rồi nói với Tống sinh và Bạch sinh, "Hai vị hiền điệt tuy chưa biết bần đạo, nhưng chắc đã nghe tôn sư nói đến tên bần đạo rồi chứ?"

Tống Văn Quang chắp tay thi lễ rồi nói, "Vãn bối quả có được nghe Tiên sư nói đến đại danh lão tiền bối, chỉ giận vì vô duyên chưa được bái kiến."

Huyền Nguyệt thở dài nói, "Ôi, thật là một việc ghê gớm quá sức tưởng tượng, nếu bần đạo đến sớm một chút, thì may ra không đến nỗi..."

Ông ngừng lại một giây rồi tiếp, "Ba tháng trước, bần đạo tiếp được một phong thư củaChu huynh, trong thư có nhắc tới một chuyện rất quái lạ. Ông nói mấy tháng gần đây, hình như luôn luôn có người ngầm theo dõi hành tung của các ông ấy. Người đó hình như một cái bóng ma, ẩn ẩn hiện hiện không biết đâu mà dò. Trong thư cũng nhắc đến kỳ hội họp trên Bách Trượng Phong ngày hai mươi ba tháng Tám, và dặn bần đạo đến sớm để cùng bốn vị họp mặt."

Trung Nguyên Tứ Quân Tử tuy danh trọng một thời, nhưng những người bạn thật là tri kỷ thì lại không có mấy, giao tình của bần đạo đối với bốn vị lệnh sư trưởng có thể gọi là một trong những vị tri kỷ đó. Lẽ ra tôi đến đây từ hôm qua, không ngờ lúc sắp đi, chưởng môn sư huynh lại gọi đến, giao cho mấy việc vặt của bản môn, đến nỗi lỡ mất hành kỳ. Chỉ vì đến chậm một ngày, mà thành ra vĩnh quyết.

Bạch Thiết Sinh nói, "Trừ những ngày bốn vị sư trưởng hội họp ở trên Bách Trượng Phong ra, thì nửa năm nay, vãn bối chưa hề rời gia sư một bước, sao không hề nghe thấy chuyện đó?"

Huyền Nguyệt nói, "Lệnh sư chỉ nói cho tôi biết sự lo lắng ngờ vực đó thôi, còn ngoài ra chưa từng nói cho ai biết cả."

Bạch Thiết Sinh đau đớn, ứa nước mắt nói, "Vãn bối ngu xuẩn, không đoán được những nỗi lo lắng của gia sư, bây giờ nghĩ lại càng thấy xấu hổ."

Huyền Nguyệt đạo trưởng thở dài nói, "Hiền điệt cũng không nên buồn bực, trong việc này ta còn tự trách mình hơn các hiền điệt. Ta nguyện xin tận hết khả năng để điều tra về nguyên nhân cái chết của Tứ Quân Tử. Khi nào cần, bần đạo sẽ thỉnh chưởng môn sư huynh phái thêm người trợ thủ."

Đoạn ông quay ra phía quần hào hỏi, "Thế nào, các vị đã tìm thấy đầu mối gì chưa?"

Thượng Tam Đường đáp, "Đầu mối duy nhất chỉ là bốn cái dấu đỏ trong lòng bàn tay của bốn vị quân tử đó thôi. Chỉ vì nét chữ nhỏ quá, không sao nhận biết được rõ ràng. Lão phu đang định đi mượn thuỷ tinh kính về soi thử xem sao."

Ngôn Phượng Cương hỏi, "Thuỷ tinh kính có phải của nhà "Vũ lâm đệ nhất gia" không?"

Thượng Tam Đường nói, "Chính đó. Một trăm năm về trước, anh hùng thiên hạ họp nhau trên đỉnh núi Thiếu Thất luận kiếm tỷ võ, đều quyết nghị Nam Cung Minh võ công cao nhất. Nên các vị chủ não mấy môn phái lớn làm một cái biển đề năm chữ "Thiên Hạ Đệ Nhất Gia", cùng ký tên vào đưa tặng. Ngoài ra lại còn tặng thêm ba món bảo vật là Thuỷ tinh kính, Ngọc ngô công, Hiên viên đao và đính ước bốn điều, phàm các đồng đạo võ lâm đều phải tuân theo."

Đàm Khiếu Thiên hỏi, "Thượng đại hiệp có biết ba món bảo vật ấy dùng vào việc gì không?"

Thượng Tam Đường nói, "Lão phu chỉ biết cái Thuỷ tinh kính có thể soi được những vật rất nhỏ. Ngọc ngô công có thể giải trừ bách độc. Còn dao Hiên viên thì nghe đâu như thời Hiên Viên Hoàng đế đánh Xuy Vưu, thường giắt bên mình. Con dao này chỉ được cái lâu đời, ngoài ra chẳng có công dụng gì đặc biệt."

Ông ngừng một lúc, rồi lại tiếp, "Trung Nguyên Tứ Quân Tử uy danh lừng lẫy một thời, dẫu có đi đâu một mình, cũng chưa chắc đã ai hạ nổi. Huống hồ lại cả bốn người tụ họp một chỗ, thì dù đối phương võ nghệ cao cường đến đâu, nếu không qua một cuộc chiến đấu kịch liệt, vị tất đã có thể giết chết được cả bốn. Vì thế nên lão phu dám quả quyết rằng trước khi bị hại, tất cả bốn người đều đã bị trúng thuốc mê, hoặc bị một lại ám khí gì rất độc. Nếu ta có Thuỷ tinh kính, thì có thể coi được những vết nhỏ ở trong cái dấu đỏ kia xem là cái gì, hoặc nếu có viên ngọc rết thì cũng có thể biết là bốn người bị trúng chất độc gì. Sau đó mới có manh mối mà điều tra ra hung thủ."

Huyền Nguyệt nói, "Nghe đâu Nam Cung thế gia vì cớ bảo vệ thanh danh "Võ lâm đệ nhất gia" và ba món vật báu, nên năm vị chủ nhân năm đời đều bị ám sát. Bây giờ chúng ta đến hỏi, lại sợ phạm phải bốn điều cấm kỵ, ngộ lỡ họ không cho mượn thì đi đi về về mất công."

Thượng Tam Đường nói, "Tại hạ và ông chủ đời thứ ba nhà Nam Cung đã từng cùng ngồi ăn uống với nhau một lần. Ông ta quý lão phu lắm, nên có mời phu nhân ra hội kiến..."

Ông thở dài một tiếng, rồi lại tiếp, "Đó là việc bốn chục năm về trước. Lão phu và vị tam đại chủ nhân nhà Nam Cung sau bữa cơm đó là thôi không gặp nhau nữa. Được ít lâu thì nghe tin ông ta bị ám sát."

Huyền Nguyệt đạo trưởng nói, "Nếu Thượng lão anh hùng và nhà Nam Cung đã có tình thân hữu thì may ra có hy vọng mượn được hai món bảo vật ấy."

Ngôn Phượng Cương cau mày nói, "Nam Cung thế gia cách đây hàng ngàn dặm, vừa đi vừa về ít nhất cũng phải mất gần một tháng. Huynh đệ trong lúc đi vội vàng, chưa kịp thu xếp việc nhà, chỉ sợ khó lòng đi theo các vị được."

Thượng Tam Đường vội nói, "Ngôn huynh là người chủ sự đại cuộc, sao từ biệt dễ dàng thế được?"

Ngôn Phượng Cương mỉm cười nói, "Đã có Thượng huynh và Huyền Nguyệt đạo huynh, còn cần gì đến huynh đệ nữa?"

Đồ GiangNam cũng ngoảnh lại bảo chàng thiếu niên ngồi bên, "Chúng ta và Tứ Quân Tử không có giao tình gì cả, thiết tưởng cũng không nên tham dự vào việc này. Ta nên về thôi!"

Lỗ Bình và Đàm Khiếu Thiên cũng nhấp nhổm muốn tháo lui.

Thượng Tam Đường không ngờ câu chuyện lại xảy ra như thế, mắt trông thấy mọi người đều kiên quyết muốn đi. Trong phút chốc trong bụng cũng bối rối, chưa biết nghĩ ra cách gì được.

Diệp Sương Y thấy tình hình như vậy, liền kêu to, "Các vị tiền bối thong thả hãy đi, xin nghe tiện nữ trình bày một câu đã."

Giọng của nàng dịu dàng uyển chuyển như tiếng chim hoàng oanh, làm cho quần hào có người đã đi được vài bước, lại như bị tiếng nói thôi miên, đều dừng cả lại.

Chỉ thấy nàng sẽ cất gót sen, từ từ đi tới trước thi hài cha, quỳ xuống khấn rằng, "Nữ nhi tài hèn, e không đủ sức báo thù cho cha, nhưng cha chết một cách vô cùng thảm khốc, phơi thây ở chốn núi hoang. Nếu con không báo được thù, thì mặt nào còn đứng ở trong trời đất? Cha có khôn thiêng, xin tha cho con cái tội rông càn."

Nàng khấn xong, đôi mắt long lanh, cặp má ửng hồng, nhẹ nhàng đứng lên. Đường Thông đứng bên đằng hắng một tiếng rồi hỏi, "Diệp muội muốn nói gì?"

Diệp Sương Y cười một cách đau khổ, nói, "Anh để mặc tôi."

Đường Thông hơi biến sắc mặt, nhưng vẫn cố ôn tồn nói, "Chỗ này không phải là con gái đứng ra mà cao đàm khoác luận được."

Thiếu nữ thốt nhiên quay phắt lại, trừng mắt nhìn chàng, sẵng giọng nói, "Gia gia tôi đã mất, cuộc hôn nhân của chúng ta từ nay thôi không kể đến nữa!"

Đường Thông ngẩn người ra, lắp bắp hỏi, "Sao? Diệp muội nói sao?"

Thiếu nữ nói, "Việc báo thù cho gia gia tôi còn nặng gấp mấy nghìn lần việc hôn nhân của tôi. Vả gia gia tôi có trối lại bắt tôi phải lấy anh đâu..."

Đường Thông giậm chân nói, "Hoang đường, hoang đường..."

Thiếu nữ cười khẩy nói, "Tôi lo báo thù cho thân phụ, sao lại gọi là hoang đường?"

Nói xong nàng tiến lên hai bước, tới trước mặt Huyền Nguyệt chắp tay vái, rồi nói, "Sư thúc là một trong những người bạn tri kỷ của gia phụ, xin vì điệt nữ tác chủ."

Huyền Nguyệt đạo trưởng nói, "Hiền điệt nữ có việc gì cần cứ nói, nếu có phải vì muốn tra cứu nguyên nhân cái chết của lệnh tôn, hoặc dò tìm hung thủ thì bần đạo xin cố sức."

Diệp Sương Y vái tạ, đưa mắt nhìn khắp quần hào một lượt rồi nói, "Trong các quý vị, bất kỳ ai, nếu có thể tra xét được hung thủ giết hại gia gia tôi và các vị sư bá, lại thay tôi rửa hận thù, thì Diệp Sương Y này xin tình nguyện sung làm tỳ thiếp để báo đáp."

Giọng nói của nàng tuy nhỏ, nhưng ở trong tai quần hào nghe ra, thì chẳng khác gì tiếng sấm dội. Ai nấy đều sửng sốt đứng ngây người ra.

Diệp Sương Y sẽ lấy mấy ngón tay búp măng vén những sợi tóc mây loà xoà trước trán, hai hàng châu lệ cũng từ từ theo khoé mắt rơi xuống gò má.

Ngôn Phượng Cương chợt ngửa cổ lên trời cười ha hả, "Thật là một cô con gái có hiếu, biết hứa thân để báo thù cha. Chuyện này có thể thành một thiên mỹ đàm trong lịch sử võ lâm được."

Đồ GiangNam ngoảnh lại nhìn con trai, rồi nói, "Hài tử, chúng ta cũng nên lưu lại đây, may ra gặp vận may cũng chưa biết chừng."

Bao nhiêu người vừa rồi rục rịch toan đi, chỉ vì mấy câu nói của thiếu nữ, lại thay đổi chủ ý.

Đường Thông giận đến tái xanh cả mặt, máu uất bốc lên không sao nén được. Chàng cười gằn một tiếng bảo thiếu nữ, "Được, để rồi ta xem kẻ nào bạo phổi dám đứng ra nhận lãnh việc ấy để mua chuộc lòng nàng."

Vừa nói dứt lời, tay phải chợt vung lên, tức thì ba cái kim châm nhỏ như ba sợi tóc tuột tay bay vút lên không.

Thốt nghe trên không nổi lên mấy tiếng kêu nho nhỏ. Ba con chim hoạ mi vừa bay qua đều bị rơi cả xuống đỉnh núi chết ngay tức khắc. Môn ám khí tẩm thuốc độc của nhà họ Đường đất Tứ Xuyên quả độc vô cùng, chỉ hơi rớm máu là chết, không còn cách gì chữa được.

Quần hào trông thấy ba con chim chết, trong bụng cũng đều kính sợ bội phục. Cái tiếng "ám khí thế gia của họ Đường" mấy trăm năm nay lừng lẫy võ lâm, thật là danh bất hư truyền.

Huyền Nguyệt đạo trưởng thở dài một tiếng rồi nói, "Hiền điệt nữ có lòng hiếu muốn báo thù cha tuy đáng khen thật, nhưng cái hành động trái lễ giáo ấy, e rằng không hợp lý."

Thiếu nữ nói, "Cái thù giết cha không đội trời chung, nếu chỉ tích chứa trong bụng, đến nỗi đau đớn quá mà chết, hoặc rút kiếm đâm cổ tự tử ngay trên đỉnh núi này, có lẽ lại được tiếng là hiếu nữ!"

Huyền Nguyệt đạo trưởng nói, "Cách đó tuy là hạ sách, nhưng cũng không thẹn với hai chữ hiếu nữ."

Diệp Sương Y lấy tay áo lau nước mắt, thổn thức nói, "Rất có thể điệt nữ làm việc này bị người đời chê là bội nghịch cương thường, coi rẻ luân lý. Nhưng cháu chỉ biết hết lòng thay cha báo thù, còn ai muốn chê trách chửi rủa thế nào mặc họ, miễn là cháu được thoả chí báo thù thì thôi. Kẻ nào làm cho cháu đau đớn vì mất cha, kẻ ấy sẽ phải đem máu ra mà bồi thường. Có gì là trái đạo?"

Nàng nói đâu ra đấy, rõ ràng lý lẽ phân minh. Ngay trong lúc bấy giờ, không ai dám quyết đoán là phải hay trái.

Thượng Tam Đường gõ đầu gậy trúc xuống đất, nói, "Lão hủ sống gần bảy chục tuổi đầu, những chuyện ngược đời thế này, bây giờ mới được nghe là một."

Đường Thông chợt dõng dạc tiếp lời, "Việc hai họ Đường, Diệp liên thân, đã được gia mẫu và tiên nhạc quyết định, võ lâm xuyên trung ai cũng biết cả. Ai dám làm cho họ Đường, họ Diệp thay đổi ý kiến, huynh đệ xin vì danh dự họ Đường, hãy cho họ nếm thử mười ba mũi ám khí tẩm độc này cho họ biết tay!"

Bạch y thiếu nữ lạnh lùng nói, "Gia gia tôi chưa hề nói cho tôi biết việc hôn nhân của đôi ta mà trùng nhiên có việc ấy thật, thì bây giờ gia phụ đã mất, còn ai cai quản được hôn sự của tôi nữa? Hừ, nếu anh quả là một bậc trượng phu có chí khí thì tại sao không đứng ra nhận lãnh trách nhiệm rửa thù cho gia gia tôi? Hay còn hiềm vì võ công kém quá, không đủ sức đối địch với người ta chăng?"

Đường Thông biến sắc mặt nói, "Đường môn thế gia lập túc giang hồ hàng mấy trăm năm nay, phải sợ đứa nào? Đàn bà con gái, phải biết đạo tam tòng tứ đức. Nàng có mối thù cha, thì đã có họ Đường đứng ra thay nàng rửa hận. Việc gì phải phơi đầu lộ mặt ra chốn giang hồ, lấy sắc đẹp dụ người ta báo thù cho cha. Câu chuyện ấy đồn đi, còn ra thế nào nữa?"

Diệp Sương Y vừa toan cãi lại, thì Ngôn Phượng Cương đã đón lời, "Đường thế huynh không nên giận. Người ta có câu rằng "Đại trượng phu cũng khó giữ được vợ hiền con hiếu." Huống hồ Diệp cô nương cũng chưa về nhà họ Đường..."

Đàm Khiếu Thiên cũng nói, "Ngôn huynh nói rất phải. Diệp cô nương làm việc này tuy cũng có chút khác đời thật, nhưng cái đảm khí của nàng cũng đáng bội phục."

Kế rồi mỗi người một câu, nhao nhao phụ hoạ. Thượng Tam Đường thấy sắc mặt Đường Thông lúc thì xanh ngắt, lúc lại tái nhợt, biết chàng đã căm tức đến cực điểm. Nếu còn để chúng nói nữa, tất gây ra sự chẳng lành. Bèn vội gõ đầu gậy xuống đất, nói to, "Thôi, tôi xin các vị. Lúc này không phải là lúc để chúng ta bàn chuyện phiếm..."

Huyền Nguyệt đạo trưởng cũng nói với Diệp Sương Y, "Hiền điệt nữ làm việc này dù phải dù trái, trong nhất thời lão phu cũng không sao đoán định được. Nhưng việc cần thiết lúc này, là phải điều tra nguyên nhân cái chết của Tứ Quân Tử. Nghe người ta nói nhà Nam Cung thế gia có viên ngọc rết, người bị trúng độc, dùng việc ngọc ấy thử, sẽ biết là trúng phải loại độc gì. Lại còn cái ấn đỏ trong lòng bàn tay của các nạn nhân, cũng cần phải mượn thuỷ tinh kính soi cho biết là dấu hiệu đặc biệt gì. Có biết rõ hai điều ấy, mới có đủ chứng cớ để truy tầm kẻ sát nhân. Vậy nên ta phải lập tức đi ngay, đến nhà Nam Cung thế gia mượn hai vật ấy, không nên chậm trễ."

Thượng Tam Đường hỏi, "Thế còn bốn cỗ thi thể này thì sao? Chẳng lẽ cũng khiêng cả đến nhà Nam Cung thế gia hay sao?"

Huyền Nguyệt đạo trưởng nói, "Cố nhiên là phải mang đi. Nhưng tất phải thuê mấy cỗ xe ngựa."

Diệp Sương Y nói, "Sư huynh cháu đang đi thuê xe ngựa, chắc đến chiều tối mới về tới đây?"

Huyền Nguyệt trầm ngâm một lúc rồi nói, "Bây giờ chúng ta phải chia ra làm hai toán. Thượng đại hiệp và Ngôn chưởng môn đi trước đến nhà Nam Cung thế gia hỏi mượn hai món bảo vật đi đã, còn bần đạo và các vị khác sẽ hộ tống linh thể đi sau. Phải nói cho họ biết là mình chỉ mượn một lát, soi xong đem trả lại ngay. May ra họ nể mặt Thượng đại hiệp mà cho mượn chăng?"

Thượng Tam Đường gật đầu khen phải. Đàm Khiếu Thiên nói, "Tại hạ cũng xin đi trước với hai vị."

Kế rồi cả ba cùng cáo từ đi trước. Chờ cho bọn họ đi khỏi, Huyền Nguyệt đạo trưởng mới vẫy tay gọi Tống Văn Quang, Bạch Thiết Sinh rồi hỏi, "Các vị hiền điệt lên tới đỉnh núi đã thấy lệnh sư tắt thở lâu chưa?"

Tống Văn Quang nói, "Gia sư và các vị sư trưởng chắc đã tắt nghỉ lâu rồi. Chỉ vì thấy dáng ngồi của các vị vẫn nghiễm nhiên như lúc còn sống, nên chúng cháu không dám kinh động. Vì thế mãi đến sau này mới biết."

Huyền Nguyệt đạo trưởng thở dài nói, "Ta không thể nào tin được là trong khi bốn vị quân tử tụ họp một chỗ, mà lại bị giết một cách êm thấm như thế. Việc này bên trong còn nhiều uẩn khúc, khó giải thích quá!"

Ngừng một lúc, ông ta lại nói tiếp, "Con đường từ đây sang Nam Cung thế gia xa hàng mấy ngàn dặm. Bần đạo định lợi dụng đoạn hành trình đó, vừa đi vừa để ý dò tìm xem có thấy dấu vết gì chăng. Lát nữa hai vị hiền điệt nên giữ linh xa, để bần đạo núp trong đó cho tiện nghe ngóng. Các người ngồi ngoài, hễ thấy ai lảng vãng đến gần thì phải chú ý theo dõi hành động của họ."

Tống, Bạch đều kính cẩn vâng lời.

Không bao lâu, mặt trời đã ngả về Tây. Vạn Xung, đồ đệ của Diệp Trường Thanh đã thuê được một cỗ xe bốn bánh đem đến.

Hồi thứ bốn

Võ lâm đệ nhất gia

Trời đã gần tối, bốn cỗ thi hài của Trung Nguyên Tứ Quân Tử đều được đặt lên chiếc xe ngựa mà Liễu Vân Phi, người đi đuổi theo cô gái cưỡi trâu vẫn chưa thấy trở về.

Huyền Nguyệt đạo trưởng sai Bạch Thiết Sinh đánh xe, còn mình thì ngồi bên mấy cỗ thi thể, quần hào đều cưỡi ngựa theo sau. Một đoàn rầm rộ tiến sang Nam Dương.

Dọc đường, nhờ được ngựa khoẻ, xe nhẹ, đi gấp ngày đêm, nên đến cuối tháng Chín, tàn thu, giữa mùa hoa cúc nở, thì đoàn linh xa đã vào tới Nam Dương.

Phủ trạch của Nam Cung thế gia toạ lạc trong một khu đồi, phía ngoài thành Nam Dương.

Bữa ấy trời vừa xế chiều, cỗ linh xa đã đậu dưới góc sườn núi.

Bóng tà dương phản chiếu lên nền trời, qua những đám mây, biến ảo thành muôn màu rực rỡ. Hàng ngàn vạn gốc thuỳ dương thướt tha bao phủ quanh một khu thôn lạc, bên trong kiến trúc cực kỳ nguy nga vĩ đại.

Ngọn gió chiều thu đã có vẻ hơi lành lạnh, thổi những lá liễu vàng, bay phấp phới trên không, làm cho cảnh sắc đã tiêu điều lại càng thêm hiu hắt.

Thần Quyền Lỗ Bình đi đầu, chợt lắc dây cương cho ngựa dừng lại, rồi nói, "Cứ theo lời đồn của thiên hạ, thì đã có quy luật nhất định là muốn vào "Vũ lâm đệ nhất gia", cách năm dặm phải xuống ngựa đi bộ vào, cách ba dặm phải tháo bỏ vũ khí, không biết còn xe ngựa thì phải xử trí thế nào?"

Huyền Nguyệt đạo trưởng nói, "Bọn Thượng đại hiệp tất đã đến từ lâu, sao không thấy ra đón chúng mình?"

Vừa nói tới đó, chợt nghe một tiếng đồng la nổi lên, rồi từ phía sau một cây bạch dương cao lớn nhảy ra một chú bé con mày thanh mắt sáng, hai tay vác một chiếc mộc bài trên đề bốn chữ thật lớn "Mời ông xuống ngựa" giơ cao lên khỏi đỉnh đầu.

Cái thể lệ năm dặm xuống ngựa, ba dặm tháo vũ khí, là do anh hùng võ lâm thiên hạ, vì cớ sùng kính Nam Cung Minh là một tay võ công tuyệt thế, nên mới cùng ký tên lên một tấm biển vuông, trên đề năm chữ "Võ công đệ nhất gia", ngoài ra còn đặt bốn điều quy lệ thông tri cho tất cả các bạn võ lâm đồng đạo trong thiên hạ đều phải tuân theo. Lại nhân những người ký tên trong tấm biển bao gồm cả chưởng môn chín đại môn phái giang hồ và các vị bá chủ nam, bắc hai đường thủy bộ. Vì thế nên mấy chục năm nay không ai dám đem thân thử phạm vào bốn điều đại quy đó.

Lỗ Bình đi đầu tiên, đưa mắt nhìn tấm mộc bài một lượt, rồi nhảy xuống ngựa, kế đó quần hào cũng lần lượt nhảy xuống theo.

Lỗ Bình vòng tay nói với chú đồng tử, "Chào chú bé!"

Chú bé lắc đầu, lấy tay chỉ vào miệng, rồi lại nhảy về phía sau cây bạch dương.

Lỗ Bình ngẩn người ra một lúc, rồi quay lại nói với Đồ GiangNam , "Đồ huynh! Thằng bé xinh xắn thế mà bị câm à? Chả có lẽ?"

Đồ GiangNam nói, "Rất có thể là nó không muốn nói. Thôi thì chúng ta cứ tuân theo quy cũ, giắt ngựa mà đi. Hãy cứ thử vào quá bên trong xem sao, rồi sẽ liệu."

Thế là cả bọn đều giắt ngựa tiến vào. Tên đồng tử ngoảnh lại nhìn mọi người nhưng không ngăn trở gì cả.

Bên trong là một khu rừng rất rộng, nhưng trừ hai loại cây thuý liễu và bạch dương ra, thì chẳng có cây gì khác nữa. Có những con đường nhỏ lát bằng đá trắng, nằm vắt ngang vắt dọc trong khắp khu rừng.

Trừ những tiếng gió thổi vi vu, lá khô bay xào xạc ra thì trong khu rừng chu vi hàng mười dặm này hoàn toàn im vắng, tịch mịch như một cõi chết.

Lúc này, tiếng xe lộc cộc, tiếng chân ngựa dẫm lộp cộp đã phá tan bầu không khí tịch mịch đến rợn người.

Đại khái trông bốn điều quy chế, không nói đến việc cấm xe. Vì thế nên tên đồng tử trông thấy Bạch Thiết Sinh đánh chiếc xe mui đen tiến vào, chỉ lấy tay vỗ vào sau gáy, chớ không lên tiếng ngăn trở. Trông bộ dạng thằng bé, hình như nó cũng đang lấy việc đó làm khó xử.

Trừ thằng bé vác mộc bài ra, thì trong khu rừng rộng đó hình như không còn ai canh gác nữa. Quần hào đi sâu vào bên trong đến mấy chục trượng cũng không thấy ai ngăn trở.

Những cây bạch dương và thuý liễu cành lá rậm rạp giao nhau y như những bức bình phong. Bạch Thiết Sinh dong xe đi giữa rừng, cứ phải quanh bên nọ, quẹo bên kia, vất vả lắm mới tiến lên được một quãng.

Chợt nghe có những bước chân đang từ trong rừng sâu dồn dập tiến ra. Lỗ Bình đi đầu vội dừng lại.

Vì nhà Nam Cung thế gia không những đã đoạt được cái mỹ hiệu "Võ lâm đệ nhất gia", ở biệt lập một khu rừng ngoại thành Nam Dương, bên ngoài lại còn bao trùm một lớp áo cực kỳ thần bí, nên người ngoài không ai biết rõ nội tình của những người trong toà nhà ấy. Chỉ biết rằng họ tuy được hưởng cái vinh dự đẹp đẽ mà thiên hạ ai cũng hâm mộ đó. Họ cũng đã phải trả giá bằng một sự thống khổ vô biên.

Các nhân vật trong làng võ đối với sự bí mật của nhà Nam Cung thế gia chỉ có hai quan niệm, ghen ghét và hâm mộ.

Tiếng chân đi mỗi lúc một gần, rồi có ba người sánh vai nhau từ trong rừng bước ra. Ba người đó chính là bọn Thượng Tam Đường, Ngôn Phượng Cương và Đàm Khiếu Thiên.

Thượng Tam Đường vòng tay nói, "Chư vị đã đến đấy ư?"

Rồi đưa mắt nhìn cỗ xe mui, chợt cau mày nói, "Huyền Nguyệt đạo trưởng..."

Huyền Nguyệt đạo trưởng thưa một tiếng, rồi từ trong xe nhảy xuống.

Hơn hai mươi ngày nay, vị danh kiếm phái Vũ Đương vẫn nằm núp trong cỗ xe mui đen, làm bạn với bốn cỗ thi hài. Chỉ trừ những bữa ăn, còn thì ban đêm cũng ngủ liền ở trong xe, không dời nửa bước. Hình như đối với bốn cỗ thi hài, ông ta có một hứng thú gì đặc biệt, đến nỗi ngày đêm kề liền bên cạnh mà không thấy chán.

Thượng Tam Đường sẽ hỏi, "Di thể của Tứ Quân Tử đã biến mùi chưa?"

Huyền Nguyệt lắc đầu, "Chưa thấy mùi gì hết, thế mới lạ chứ! Chính bần đạo cũng rất lấy làm ngạc nhiên, không hiểu tại sao lại thế. Thượng đại hiệp đã điều đình với họ cho mượn ngọc rết và kính thuỷ tinh chưa?"

Thượng Tam Đường cau mặt nói, "Chưa. Vì chủ nhân Nam Cung thế gia đang bị đau nặng nên chưa nói được chuyện gì hết."

Huyền Nguyệt lại hỏi, "Người chủ trương công việc gia đình nhà Nam Cung thế gia hiện thời là ai?"

Thượng Tam Đường lắc đầu, "Lão phu cũng không rõ lắm."

Huyền Nguyệt nói, "Thôi, bây giờ đại hiệp hãy đưa chúng tôi vào trong nhà, rồi sẽ hay."

Thượng Tam Đường mấp máy đôi môi, hình như muốn nói gì lại thôi, rồi đi lên trước dẫn đường. Huyền Nguyệt và mọi người đều lũ lượt theo sau. Diệp Sương Y vẫn đi kèm bên cỗ linh xa.

Đi một lúc không lâu, chợt thấy khu rừng đột nhiên mở rộng, trước mặt hiện ra một khoảng đất không, vuông vắn chừng vài chục trượng. Hai bên khoảng đất trống có bày hai cái giá gỗ, giữa cắm một chiếc biển trên đề bốn chữ "Xin bỏ binh khí."

Trên hai giá gỗ đã cắm đầy dao kiếm, nhiều chiếc có lẽ vì đã quá lâu ngày, nên lưỡi đã hoen rỉ, chuôi đã mục nát. Ngôn Phượng Cương cười nhạt nói, "Một trong bốn giới pháp là không được mang binh khí nào vào nhà Nam Cung thế gia, xin các vị bỏ đao kiếm xuống!"

Huyền Nguyệt tháo thanh kiếm đeo bên mình, cắm vào chiếc giá gỗ mé tay phải. Quần hào cũng đều lần lượt làm theo.

Thượng Tam Đường gài cây gậy trúc lên giá rồi nói, "Các vị có ai giắt ám khí trong mình, cũng xin bỏ ra để cả lại đây."

Miệng nói, mắt lại liếc nhìn Đường Thông. Đường Thông cười nhẹ một tiếng, thò tay vào mình lấy ra một chiếc túi da treo lên giá gỗ, rồi nói, "Tất cả ám khí của tại hạ đều ở trong chiếc túi này."

Thượng Tam Đường nói, "Bốn điều giới pháp là do anh hùng thiên hạ bàn định với nhau rồi lập ra, vậy nên lão hủ rất mong các vị tự động tuân thủ."

Nói xong rảo bước đi lên trước dẫn đường. Huyền Nguyệt đạo trưởng vừa đi vừa hỏi, "Chủ nhân nhà này là nhân vật thế nào mà hách dịch quá thế?"

Thượng Tam Đường lắc đầu, "Điều ấy lão phu cũng không rõ lắm. Bọn lão phu ở đây mấy hôm, chỉ thấy hai con tỳ nữ đưa cơm nước, ngoài ra không thấy ai khác nữa."

Huyền Nguyệt đạo trưởng nói, "Đã vậy ta cứ cho dắt xe ngựa vào thẳng bên trong, vì theo như bốn điều giới luật, không thấy khoản nào nói đến cấm xe. Dù họ bẻ, ta cũng có cớ mà nói!"

Thượng Tam Đường gật đầu, "Đạo trưởng nói cũng có lý."

Huyền Nguyệt quay lại vẫy Bạch Thiết Sinh bảo cứ đánh xe vào. Lại đi thêm chừng ba bốn dặm nữa, cảnh vật trước mắt chợt biến đổi khác hẳn. Hoa thơm cỏ lạ vây kín xung quanh một toà trang viện cực lớn, nóc lợp ngói xanh, cửa sơn màu đỏ, trên gác cổng treo một tấm biển lớn chữ vàng nền đen, viết năm chữ đại tự "VÕ LÂM ĐỆ NHẤT GIA".

Phía trái chỗ góc tấm biển biên chi chít những hàng chữ nhỏ, chữ thì viết lối khải, chữ thì viết lối thảo, toàn là chữ ký của chưởng các phái, hoặc hùng chúa các phương.

Thượng Tam Đường sắc mặt nghiêm trang, dẫn quần hùng đi vòng qua vườn hoa, rồi bước lên thềm đá.

Huyền Nguyệt chợt quay lại dặn nhỏ Bạch Thiết Sinh, "Hễ có xảy ra sự gì lạ, hiền điệt cũng đừng lên tiếng, cứ để mặc bần đạo liệu cách đối phó."

Bạch Thiết Sinh vâng lời, Huyền Nguyệt lại rảo bước đi lên sóng vai với Thượng Tam Đường, đi qua bảy bực thềm đá.

Hai cánh cửa sơn đỏ mở rộng bên trong bày la liệt những chậu hoa, qua một cái sân rất rộng, rồi đến từng cửa thứ hai, nhưng đây đó vẫn im lặng như tờ, không thấy bóng người qua lại.

Một tòa đình viện tráng lệ huy hoàng, hoa cúc hoa quế xông hương sực nức. Chỉ vì vắng vẻ trầm tịch quá, khiến cho người ta cảm thấy cảnh vật xung quanh như bị bao trùm bởi một tấm màn bí mật.

Tới trước cửa lớn, Thượng Tam Đường sẽ nói với Huyền Nguyệt, "Đạo trưởng, xe ngựa không thể dắt qua thềm đá được. Ta hãy cho dừng lại ở đây thôi."

Huyền Nguyệt cau mày hỏi, "Tại sao nhà Nam Cung thế gia không có một người nào thông báo cả nhỉ?"

Nói vừa dứt lời, chợt thấy từ phía sau dãy chậu hoa có một người con gái mặc áo xanh, tuổi trạc mười bốn, mười lăm, mắt sáng mày thanh, tóc bện ngang vai, thủng thỉnh bước ra.

Huyền Nguyệt đưa mắt nhìn Thượng Tam Đường, chỉ thấy ông nghiêm trang đứng im, rõ ràng là ông cũng chưa biết thiếu nữ đó là ai. Bèn chắp tay ngang ngực, khom lưng nói, "Xin kính chào cô nương."

Thiếu nữ áo xanh ngước đôi mắt to đen láy, nhìn khắp mọi người một lượt, rồi khom lưng nói với Huyền Nguyệt, "Xin hỏi pháp hiệu của đạo trưởng, và người tới đây có việc gì?"

Tiếng nói rõ ràng rành rẽ, tỏ ra một người có sức lực dồi dào.

Huyền Nguyệt đạo trưởng tươi cười nói, "Bần đạo là Huyền Nguyệt, có chút việc cần, muốn được bái kiến chủ nhân Nam Cung thế gia."

Thanh y nữ tỳ lại ngước mắt nhìn cỗ xe ngựa, rồi lắc đầu thở dài nói, "Đạo trưởng đã biết bốn điều giới pháp ở đây chưa?"

Huyền Nguyệt gật đầu, "Bần đạo đã hiểu, và chưa từng làm trái kỷ luật."

Thiếu nữ nói, "Đánh xe vào thẳng trang viện nhà Nam Cung thế gia chưa hề xảy ra việc ấy bao giờ."

Huyền Nguyệt cười nói, "Chúng tôi sở dĩ không quản xa xôi ngàn dặm tới đây, cầu kiến Nam Cung thế gia, chính chỉ vì muốn giải quyết những sự nghi nan ở trong xe này thôi."

Thượng Tam Đường cũng chắp tay nói, "Bọn lão phu đến đây đã được ba hôm, mong ơn hậu đãi, ở lại quý trang..."

Thanh y nữ lạnh lùng ngắt lời, "Nam Cung thế gia đối với quý khách đến thăm, bao giờ cũng tiếp đãi tận lễ, nhưng quyết không dung những kẻ khinh thường bốn đại giới pháp."

Huyền Nguyệt vẫn tươi cười nói, "Bọn bần đạo ở xa đến, hoặc giả có xúc phạm đến bốn điều giới luật, cô nương trách cứ cũng không đàm oán. Chỉ mong cô nương thông báo với lệnh chủ nhân giùm cho một tiếng, bần đạo cảm kích vô cùng."

Thiếu nữ trầm ngâm một lát, rồi nói, "Các vị dong xe vào trang viện, mặc có phạm vào bốn điều giới luật hay không, nhưng cái tội khinh thường nhà Nam Cung thế gia cũng không phải nhỏ."

Huyền Nguyệt nói, "Để lát nữa được bái yết chủ nhân, bần đạo sẽ đương diện thỉnh tội."

Thiếu nữ nói, "Vậy xin mời các vị vào trong sảnh ngồi chơi một chút, được để tôi vào bẩm với chủ nhân, chờ lệnh định đoạt."

Nói xong thủng thỉnh bước lên, vừa đi vừa nói, "Xin các vị thứ lỗi, tôi xin phép đi trước dẫn đường."

Huyền Nguyệt ngoảnh lại dặn Bạch Thiết Sinh ở lại trông xe, còn mình thì cùng quần hào theo thiếu nữ vào trong sảnh.

Xuyên qua mấy dãy chậu hoa rồi tới tầng cửa thứ hai, thiếu nữ chỉ dãy phòng ốc mé bên trái, nói, "Mời các vị hãy vào phòng khách nghỉ ngơi một lát, để tôi thỉnh mệnh chủ nhân xong, sẽ lại ra nói với các vị."

Thiếu nữ tuy nhỏ tuổi, nhưng nói năng lanh lợi, rõ ràng, đâu ra đấy, cử chỉ lại đứng đắn ung dung, tỏ ra một tay lão luyện.

Khách tuy toàn là các vị hào khách võ lâm, tiếng tăm lừng lẫy, nhưng đối với nhà Nam Cung thế gia thần bí này, trong bụng vẫn có một vài phần kiêng nể, nên không dám lỗ mãng, nhất nhất đều tuân theo lời thiếu nữ chỉ bảo.

Thiếu nữ chờ mọi người nồi yên đâu đấy, mới leo lên thềm đá, đi vào lớp cửa thứ hai.

Trong phòng khách bài trí rất u nhã, cửa sổ, bàn ghế đều được lau chùi bóng lộn, không có qua một mảy may bụi. Trên chiếc bàn bát tiên sơn đỏ đã bày sẵn những chén trà thơm, vừa đúng mỗi người một chén, chén nào cũng bốc hơi nghi ngút, rõ ràng là vừa mới pha xong, nhưng trong nhà thì tuyệt không thấy ai ra tiếp khách cả.

Bất cứ mọi vật, mọi việc gì ở trong nhà Nam Cung thế gia đều có vẻ thần bí khác thường cả.

Quần hào đều ngồi xuống ghế, nhưng không ai bưng chén trà lên nhấp giọng.

Ước chừng ăn xong bữa cơm, mới thấy phía ngoài có tiếng giầy nhè nhẹ tiến vào. Người nữ tỳ áo xanh lúc nãy lại xuất hiện.

Đối với cô bé thần thái ung dung, nghiêm nghị, quần hào không sao dám khinh thường, tất cả đều đứng lên nghênh tiếp.

Thiếu nữ cúi mình nói, "Chư vị không quản xa xôi ngàn dặm tới đây, chủ nhân tôi rất lấy làm vinh hạnh, nên tuy lúc này bệnh nặng chưa khỏi, chủ nhân cũng gắng gượng ra tiếp khách. Vậy xin mời các vị vào nội sảnh tương kiến."

Trong khi nói, đôi mắt thiếu nữ vẫn long lanh đưa qua đảo lại, nhìn vào tận mặt từng người. Nhiều người bị cái nhìn soi mói sắc sảo của nàng đều cảm thấy bứt rứt khó chịu.

Huyền Nguyệt chắp tay nói, "Xin phiền cô nương dẫn lối."

Thiếu nữ xin lỗi rồi bước lên trước.

Qua hai cánh cửa lớn tới một con đường nhỏ, hai bên trồng toàn hoa, hương thơm thoang thoảng, gió thổi hiu hiu, cảnh sắc mười phần thơ mộng, nhưng vì không khí quá lặng lẽ tịch mịch nên làm cho người ta chỉ cảm thấy rờn rợn sợ sệt.

Cô gái áo xanh đưa mọi người tới trước một toà nhà nguy nga tráng lệ, sẽ gõ nhẹ vào chiếc vòng đồng trên hai cánh cửa sơn son khép chặt.

Chợt nghe một tiếng "ké... ét" mạnh, rồi cánh cửa từ từ mở ra, quần hào ngẩng đầu lên trông vào bên trong, chỉ thấy trước mắt một màu sáng chói!

Thì ra trong toà đại sảnh rộng rãi mênh mông, bốn mặt lát toàn bạc mỏng, bàn ghế đồ vật đều bọc toàn gấm trắng, thành ra cả toà nhà đều sáng rực.

Thiếu nữ đưa khách vào tới cửa, liền đứng nép về một bên nhường lối. Huyền Nguyệt đi đầu, sẽ đưa mắt liếc quanh một lượt, thấy trong nhà từ đồ vật cho đến những thứ trang hoàng trần thiết, đều dùng toàn màu trắng, không lẫn một màu gì khác nữa.

Quần hào lũ lượt theo sau, mặt người nào cũng lộ vẻ nghiêm chỉnh, cung kính. Cách bài trí trang hoàng trong căn phòng này vừa đặc biệt vừa trang nghiêm, khiến ai mới bước chân vào tự nhiên cũng nảy ra cái ý tự ti mặc cảm.

Người con gái áo xanh chờ cho khác vào hết, mới cất tiếng hô to, "Giai khách đã tiến vào nội sảnh!"

Tức thì bên trong chợt đưa ra một tiếng thở dài, tấm màn trắng sẽ từ từ hé mở, rồi một bà cụ già tóc bạc da mồi thủng thỉnh bước ra.

Đó là một lão phụ thân thể gầy gò, nước da vàng khô. Rõ ra một người ốm đã lâu ngày, tay phải còn chống một cây gậy trúc.

Bà mặc áo trắng dài, mái tóc bạc được bọc gọn trong một tấm khăn lụa trắng.

Cách phục sức với cỡ tuổi của bà ta đều quá ư tương phản.

Theo sau bà ta còn có bốn vị phụ nhân cũng mặc áo trắng theo hầu. Sắc mặt người nào cũng lộ vẻ nghiêm trang và u uất, làm cho người ta trông thấy đều có cái cảm giác nặng nề bứt rứt.

Huyền Nguyệt đưa mắt nhìn bà cụ già một lượt, rồi nghĩ thầm, "Chẳng lẽ bà cụ già ốm yếu thế kia lại chính la Nam Cung phu nhân?"

Bụng tuy nghĩ vậy, nhưng ông ta vẫn đứng lên, chắp tay ngang ngực, cúi đầu nói, "Bần đạo Huyền Nguyệt xin kính chào lão tiền bối!"

Bà già gõ nhẹ đầu chiếc gậy trúc xuống đất, cười nói, "À, Vũ Đương danh gia, lão thân cam thất kính!"

Huyền Nguyệt hơi giật mình, nghĩ bụng, "Bà lão này rõ ra người đã lăn lộn giang hồ lâu năm, nên có vẻ lão luyện lắm."

Bà già lại tươi cười nói, "Xin mời các vị ngồi. Lão thân vì mới bị cảm, nên không thân hành ra đón quý khách được, mong các vị miễn trách cho."

Nói xong liền ngồi xuống ghế trước.

Bốn thiếu phụ mặc áo trắng, tuổi tác không đều nhau, đứng xếp thành một hàng dài, phía sau lưng bà lão.

Quần hào thấy chủ nhân đã ngồi, bèn cùng lần lượt ngồi xuống.

Ngôn Phượng Cương sẽ hỏi Thượng Tam Đường, "Bà cụ già kia có phải là Nam Cung phu nhân không?"

Thượng Tam Đường cũng thì thầm đáp lại, "Huynh đệ chỉ quen vị chủ nhân thứ ba nhà này, ngoài ra không biết ai cả. Vị trung niên phu nhân đứng hàng thứ hai kia tức là vợ ông ta."

Hai người nói rất nhỏ, nhưng hình như cũng bị bà già nghe tiếng. Chợt nghe bà ta cười nhẹ một tiếng rồi nói, "Nam Cung thế gia đã có quy cũ thành nếp, không bị lễ giáo của người đời bó buộc..."

Nói xong, lại quay lại bảo người thiếu phụ đứng hàng thứ hai, "Sao con trông thấy bạn cũ của vong phu mà không ra chào một tiếng?"

Thiếu phụ cúi đầu sẽ nói, "Tôn tức xin tuân lệnh."

Nói xong sẽ nhấc gót sen, đứng cách xa xa, đối trước Thượng Tam Đường, khom mình thi lễ, nói, "Vị vong nhân Thường Tố Ngọc bái kiến Thượng đại kha."

Thượng Tam Đường vội đứng lên, chắp tay đáp lễ nói, "Phu nhân trí nhớ tốt quá! Tại hạ không thể biệt tận tâm lực lo lắng hậu sự cho Nam Cung huynh, mỗi lần nghĩ đến, thực rất lấy làm ân hận."

Thường Tố Ngọc buồn bã nói, "Thượng đại kha không quản xa xôi ngàn dặm tới đây phúng điếu vong phu, Thường Tố Ngọc rất lấy làm cảm kích."

Nói xong lại cúi mình thi lễ, rồi lui về chỗ cũ.

Huyền Nguyệt đứng lên chắp tay nói với lão phụ nhân, "Bần đạo nghe tiếng Nam Cung thế gia đã lâu. Hôm nay rất lấy làm hân hạnh được các vị phu nhân tiếp kiến."

Lão phu nhân cười một cách buồn bã nói, "Vong phu Nam Cung Minh, vì không nghe lão thân can gián, sinh dũng nhất thời, tranh hùng trên đỉnh núi Thiếu Thất, đến nỗi..."

Thượng Tam Đường ngắt lời nói, "Nam Cung lão tiền bối là một bậc nhân kiệt, khi ở trên Thiếu Thất sơn, một mình đánh bại anh hùng thiên hạ, khiến cho quần hào phải khuynh phục, đồng tâm phụng tặng vinh diệu "Võ lâm đệ nhất gia". Thiết tưởng trăm ngàn năm nay mới có một nhà Nam Cung là được hưởng cái vinh diệu ấy..."

Lão phu nhân ngắt lời, "Vì được cái vinh diệu ấy nên mới khiến cho nhà tôi già trẻ lớn bé năm đời đều thành quả phụ. Chúng tôi đã phải mua cái vinh diệu ấy bằng một giá quá đắt."

Bà quay lại nhìn bốn thiếu phụ đứng sau lưng một lượt, rồi lại nói tiếp, "Những nỗi đau đớn uất ức, lão thân đã phải ẩn nhẫn suốt mấy chục mùa mưa nắng, chưa từng hé răng than thở với ai. Chỉ đáng thương cho các con dâu, cháu dâu tôi, hết thảy lại dẫm cả vào vết xe đổ của tôi..."

Bà nói đến đấy, giọng bỗng chìm hẳn xuống, hai hàng lệ già từ từ lăn xuống hai gò má.

Huyền Nguyệt đưa mắt nhìn bốn vị phu nhân đứng sau bà già, thấy người đứng đầu hàng mé phải tuổi trạc năm mươi, người thứ hai tuổi ước chưa đầy bốn chục, người thứ ba chỉ vào khoảng ba mươi hoặc ba mươi hai, còn người đứng cuối cùng có lẽ mới độ mười bảy mười tám. Người nào cũng mặc quần áo trắng, bịt tóc bằng khăn trắng, không tô son phấn, kẻ nhạt lông mày. Nói về dung sắc, thì người nào cũng đáng gọi là mỹ nhân cả.

Chợt nghe cái giọng ai oán của bà già lại cất lên, "Nam Cung thế gia xưa nay vẫn ít đi lại với các nhân vật võ lâm, nên cũng không thể nói đến chuyện ân oán được. Chỉ vì vong phu tự ý sinh cường, chiếm được cái vinh diệu "Vũ lâm đệ nhất gia" thì cũng rước ngay cho nhà Nam Cung chồng tôi một cái thảm hoạ đứt ruột đau lòng, tuyệt nòi mất giống, một nhà toàn đàn bà goá. Các vị thử nghĩ xem trong các nhân vật võ lâm, còn có nhà nào cảnh huống thê lương hơn nhà tôi không?"

Huyền Nguyệt đạo trưởng cũng ngậm ngùi than thở giây lâu rồi nói, "Uy danh của nhà Nam Cung thế gia đã làm chấn động Đại giang Nam Bắc. Nhưng trong giới võ lâm, đã có mấy ai biết đến những nỗi đau đớn khổ tâm của năm vị phu nhân! Ôi! Danh lợi hại người đến thế kia ư?"

Lão phu nhân chỉ thở dài một tiếng, lặng ngắt không nói gì nữa.

Một bầu không khí ảm đạm thê lương như bao trùm lấy toà nội sảnh. Một lát sau, Huyền Nguyệt mới lên tiếng, "Anh em chúng tôi đến quấy nhiễu quý phủ hôm nay, trong bụng rất lấy làm thắc mắc, mong lão tiền bối tha thứ, và sẵn lòng giúp đỡ chúng tôi một chút."

Lão bà ngẩng lên hỏi, "Đạo trưởng muốn lão thân giúp đỡ việc gì, xin cứ nói thẳng cho biết!"

Huyền Nguyệt nói, "Lão tiền bối có biết tiếng Trung Nguyên Tứ Quân Tử không ạ?"

Lão phu nhân nói, "Lão thân tuy chân không hề bước ra khỏi cửa, nhưng các bạn cũ của vong phu thỉnh thoảng lại chơi, bàn về các việc trong giang hồ, cũng có thấy nhắc đến tên bốn vị ấy."

Huyền Nguyệt nói, "Trung Nguyên Tứ Quân Tử bị ám hại ở trên Bách Trượng Phong phía Bắc tỉnh Triết Giang cùng một lúc. Trước khi bọn họ bị hại, còn có người giả danh phi thiếp mời rất nhiều nhân vật cao thủ võ lâm tới Bách Trượng Phong dự hội. Nhưng khi quý vị cao bằng đến nơi, thì Tứ Quân Tử đã tắt nghỉ rồi. Khắp mình bốn người không có thương tích gì, chỉ thấy lòng bàn tay phải hơi hiện lên một cái dấu đỏ. Vì những nét bên trong nhỏ quá sức mắt không sao hiện nhận được, nên chúng tôi không quản xa xôi nghìn dặm tới đây, định mượn quý phủ viên ngọc rết và chiếc kính thuỷ tinh để soi cho rõ. May ra có thể tìm được vết tích gì của hung thủ chăng. Rồi lại xin phụng hoàn quý phủ lập tức."

Lão bà thở dài một tiếng mà rằng, "Trung Nguyên Tứ Quân Tử có khôn thiêng, tất cũng phải cảm kích các vị đã tận tình tận nghĩa đối với bạn bè như vậy. Ôi! Gia đình Nam Cung nhà tôi ông cháu, cha con năm đời đều bị ám hại, thì chẳng thấy một nhân vật võ lâm nào tra cứu hộ cho."

Thượng Tam Đường nói, "Năm xưa chín đại môn phái và hào kiệt bốn phương liên danh tặng tấm biển "Vũ lâm đệ nhất gia", lại lập ra bốn điều giới luật bắt buộc các nhân vật trong võ lâm đều phải nhất luật tuân theo, thành ra lại vô tình mua cho gia đình Nam Cung thế gia một thảm hoạ tày trời, đến nỗi gia trưởng năm đời đều phải chết thảm. Nếu bây giờ lão phu nhân chịu phi thiếp mời tất cả các môn phái, giao cho họ trách nhiệm điều tra hung thủ. Tôi tin rằng không khi nào họ từ chối."

Đôi mắt lão bà chợt loé lên một ánh sáng kỳ dị, nhưng chỉ một thoáng qua, lại khôi phục được vẻ bình thường cười, nói, "Chỉ lo sợ lão thân không mặt mũi nào..."

Rồi quay lại bảo người đàn bà lớn tuổi nhất, "Con vào trong nhà lấy cái kính thuỷ tinh ra đây..."

Người đàn bà vâng lệnh quay vào. Bà ta lại bảo Thường Tố Ngọc, "Cháu vào lấy cho ta viên ngọc rết."

Thường Tố Ngọc cũng vâng lệnh lui ra. Lão bà gõ chiếc gậy xuống đất, đứng lên hỏi, "Linh thể của Trung Nguyên Tứ Quân Tử hiện nay ở đâu?"

Thượng Tam Đường chắp tay nói, "Xin lão phu nhân thứ cho chúng tôi cái tội mạo muội, bốn cỗ thi hài hiện đặt ở trong xe ngoài cửa phủ."

Lão bà "a" một tiếng rồi nói, "Nam Cung thế gia trừ mấy mụ gái goá này ra, thì còn ai nữa? Cố nhiên là các vị không coi vào đâu?"

Ngừng một giây, rồi lại tiếp, "Lão phu bị cảm chưa khỏi hẳn nên không thể bồi tiếp các vị lâu được, xin cáo lui trước."

Rồi cũng không chờ bọn Huyền Nguyệt trả lời, bà già chống gậy thủng thỉnh bước vào nhà trong. Hai thiếu phụ cũng đi theo.

Thế là trong nội sảnh chỉ còn trơ lại bọn khách, cả tên nữ tỳ áo xanh, từ nãy vẫn đứng chờ ngoài cửa, lúc này cũng biến đâu mất nốt.

Một cơn gió nhẹ, thổi vào chiếc màn trắng, làm cho bức màn răn răn từng nếp sóng gợn, khắp gian phòng chỉ có một màu trắng toát, càng làm cho không khí tăng thêm phần khủng bố và thê lương.

Thượng Tam Đường se sẽ thở dài một tiếng, nói nhỏ với Huyền Nguyệt, "Đạo trưởng, việc ta cho người dong xe, vào trong viện làm cho chủ nhân Nam Cung thế gia tức giận, có thể bất lợi cho mình."

Huyền Nguyệt lạnh lùng nói, "Việc đã lỡ rồi, cũng chỉ đành ngồi mà đợi biến. Chủ nhân đã sai người đi lấy ngọc và kính, chẳng lẽ lại giở mặt."

Thượng Tam Đường tỏ vẻ lo lắng hỏi, "Lão phu chỉ lo chọc giận chủ nhân Nam Cung thế gia thì phiền lắm."

Ngôn Phượng Cương cười nhạt nói, "Trong mấy hôm ở đây, huynh đệ đã nhẫn nại đến cực điểm rồi. Nam Cung thế gia tuy vinh quy, nhưng huynh đệ dù sao cũng là chưởng môn một phái, bình sinh chưa hề để ai khinh dễ bao giờ."

Thượng Tam Đường vội xua tay nói, "Thôi thôi. Ngôn huynh hãy nể mặt tiểu đệ, cố nhẫn nhục thêm ít nữa..."

Bức màn trắng thốt nhiên lại hé mở, rồi người trung niên phụ nhân tay bưng một cái hộp nhỏ bằng gỗ, chạm trổ rất khéo thủng thỉnh bước lại gần bàn, đặt chiếc hộp gỗ xuống nói, "Trong hộp gỗ này có cái kính thuỷ tinh, mà các vị hỏi mượn... Vị nào nhận vật này đây?"

Thượng Tam Đường chỉ Huyền Nguyệt nói, "Xin đưa cho vị đạo trưởng này."

Người đàn bà đưa cặp mắt lạnh như băng nhìn Huyền Nguyệt hỏi, "Đạo trưởng xuất thân ở môn phái nào, xin hãy cho biết đã."

Huyền Nguyệt nói, "Bần đạo là Huyền Nguyệt phái Vũ Đương."

Người đàn bà chỉ chiếc hộp trên bàn, nói, "Cái kính trong hộp này xin giao cho đạo trưởng, trước khi mặt trời lặn, xin lại đem đến chỗ này mà trả."

Nói xong, không đợi Huyền Nguyệt trả lời, lập tức rảo bước, lẩn vào sau bức màn trắng.

Đàm Khiếu Thiên nói nhỏ, "Đạo trưởng thử mở cái hộp ra xem nào."

Huyền Nguyệt mỉm cười nói, "Theo tôi đoán thì quyết không sai đâu."

Ngoài miệng tuy nói ra giọng quả quyết như vậy, nhưng trong bụng vẫn không khỏi nghi ngờ, bèn thuận tay mở nắp hộp ra.

Tất cả ngần ấy người, tuy đã được nghe tên ba món bảo vật từ lâu, nhưng đều chưa trông thấy bao giờ. Thấy Huyền Nguyệt mở nắp hộp ra, liền lập tức xúm cả lại xem.

Chỉ thấy trong chiếc hộp gỗ lót một lớp nhung đỏ rất dầy. Giữa hộp đặt ngay ngắn một miếng đá thủy tinh, vuông vắn hai tấc, dầy chừng nửa tấc, trong suốt.

Đó là chính tấm kính thuỷ tinh, một trong ba món bảo vật trông chỉ tầm thường có thế thôi. Quần hào xem xong không khỏi thất vọng. Ngôn Phượng Cương cười khẩy nói, "Thì ra chỉ là một miếng đá thủy tinh thường, thế mà cũng được liệt vào hàng bảo vật! Mới biết các cụ ngày xưa cũng hay phóng đại quá."

Huyền Nguyệt lại cầm miếng kính ngắm kỹ một lúc, tuyệt không tìm thấy đặc điểm của nó ở chỗ nào, trong bụng bất giác cũng hơi ngớ, tự nghĩ, "Miếng kính này có gì quý, mà được liệt vào hàng ba món bảo vật?"

Ông để kính lên mắt soi, mới thấy cảnh vật trong nhà không một tơ hào nào không bị thu vào miếng kính, bốn phương tám góc, một mảy tóc cũng trông thấy rành rành.

Ngôn Phượng Cương thấy thần sắc Huyền Nguyệt có vẻ say sưa mê mải, trong bụng lấy làm kỳ quái, bèn hỏi, "Đạo trưởng có thấy gì lạ không?"

Huyền Nguyệt tấm tắc khen, "Tinh hoa của nhật nguyệt dựng đục nên, lại do tay thợ khéo mài giũa, liệt danh vào hàng ba món bảo vật, quả không phải là hư truyền."

Ngôn Phượng Cương kinh ngạc nói, "Nếu vậy chắc là có ma thuật? Đạo trưởng đưa tôi mượn xem một chút."

Huyền Nguyệt nói, "Chúng ta hãy đem ra ngoài này soi thử cái dấu đỏ trong tay Tứ Quân Tử đã, rồi Ngôn huynh xem sau cũng không muộn."

Vừa nói vừa đứng lên bước ra ngoài sảnh. Quần hùng vừa toan đi theo, chợt nghe một giọng đàn bà lạnh lùng cất lên ở phía sau lưng, "Các vị hãy thong thả. Ngọc rết giao cho ai đây?"

Mọi người ngoảnh đầu lại, thấy Thường Tố Ngọc tay bưng chiếc hộp sắt, vừa từ trong nhà bước ra.

Thượng Tam Đường vừa toan chạy lại đỡ, thì Ngôn Phượng Cương đã bước lên đón trước nói, "Xin giao cho tại hạ."

Thường Tố Ngọc nói, "Xin các hạ cho biết tôn tính."

Ngôn Phượng Cương đáp, "Tại hạ Ngôn Phượng Cương, chưởng môn đời thứ mười Ngôn gia môn đất Thần Châu."

Thường Tố Ngọc nói, "Trước khi mặt trời lặn, xin lại đưa đến đây cho."

Nói xong cúi đặt chiếc hộp xuống đất, rồi nói, "Trai gái không được trao tay cho nhau. Xin Ngôn chưởng môn thứ cho tôi cái tội vô lễ."

Ngôn Phượng Cương ho khan mấy tiếng rồi nói, "Đó là lễ giáo, tôi đâu dám trách phu nhân."

Thường Tố Ngọc lạnh lùng cười nói, "Xin phiền chưởng môn."

Nói xong quay ngoắt mình lại rảo bước đi ngay.

Ngôn Phượng Cương nhặt chiếc hộp lên, mở ra xem, bất đồ một luồng hơi lạnh từ trong hộp xông lên ông ta lẩm bẩm khen, "Chẳng trách người ta liệt vào hàng tam bảo, cũng phải chỉ riêng có cái hơi lạnh của nó cũng đã đáng quý lắm rồi."

Chú ý trông trong hộp, chỉ thấy một viên ngọc rết trắng muốt, dài ngắn chừng ba tấc, soi rõ cả tóc râu mặt mũi, không khác gì tấm gương. Toàn thân viên ngọc đều trong suốt duy có sống lưng, là hơi lờ mờ hiện lên một cái gân đỏ. Ngọc đã quý lại nhờ được tay thợ khéo mài giũa, nên trông rất linh động, chỉ hơi nhác đi một chút, là trông loạn mắt ngay.

Ông ta đậy nắp hộp lại, rồi rảo bước đi ra.

Hồi thứ năm

Thủy tinh kính, ngọc ngô công

Huyền Nguyệt đạo trưởng dẫn đầu. Vòng qua mấy dãy chậu hoa, rồi ra đến cửa lớn.

Lúc này Bạch Thiết Sinh vẫn ngồi trên xe ngựa, dáng điệu có vẻ nóng nảy bồn chồn. Vừa trông thấy Huyền Nguyệt, vội đứng lên đón, vồn vã hỏi, "Lão tiền bối có mượn được hai bảo vật không?"

Huyền Nguyệt giơ chiếc hộp gỗ lên, nói, "Mượn được đây rồi. Hiền điệt mau mở rèm xe ra."

Bạch Thiết Sinh mở rèm xe, Huyền Nguyệt liền cầm chiếc hộp gỗ nhảy lên.

Từ lúc đặt bốn cỗ thi hài vào trong xe, trừ Huyền Nguyệt đạo trưởng ra, thì không ai ngó vào xe làm gì nữa. Lúc này rèm xe được cuốn lên, mọi người nhìn vào, mới thấy bốn vị quân tử vẫn ngồi xếp bằng tròn đối diện y như lúc ở trên đỉnh núi.

Huyền Nguyệt tay phải cầm kính, tay trái mở bàn tay của Lam Triệu Thường ra xem, nhờ ánh sáng ngoài cửa xe lọt vào, tỉ mỉ soi kỹ một lúc, sắc mặt chợt tái hẳn lại.

Đoạn ông bỏ tay Lam Triệu Thường xuống, rồi cầm tay Chu Thiên Thượng lên xem, càng xem, sắc mặt ông càng tái xanh, đôi mày cau có, rõ ràng là trong bụng đang bối rối dị thường.

Chỉ một lúc không lâu, ông đã xem hết bốn bàn tay, rồi ngửng mặt lên trời, thở ra một hơi dài, đoạn lại nhảy xuống xe.

Bạch Thiết Sinh vội hỏi, "Lão tiền bối có tìm thấy gì lạ không?"

Huyền Nguyệt sắc mặt trầm trọng, đưa mắt nhìn khắp mọi người, rồi hỏi, "Trong các vị đây, có ai biết cái tên "Cừu võ lâm" không?"

Thượng Tam Đường lẩm bẩm, nhắc lại, "Cừu võ lâm, Cừu võ lâm!"

Chợt ông ngẩng lên lắc đầu, "Lão phu đã moi hết bộ óc khô này ra rồi, mà chẳng thấy cái tên kỳ dị ấy đâu cả!"

Ngôn Phượng Cương cau mày nói, "Cừu võ lâm? Tên gì mà lạ thế? Rõ ràng là có kẻ nào thù hận võ lâm, nên mới đặt cái danh hiệu quái gở ấy. Chớ ở đời này làm gì có con người đó?"

Thượng Tam Đường chợt vỗ tay reo, "A phải rồi, Ngôn huynh nói có lý lắm! Tiểu đệ xin bái phục!"

Bạch Thiết Sinh cau mặt hỏi, "Chẳng lẽ trừ ba chữ "Cừu võ lâm" ra, không còn dấu vết gì khác nữa sao?"

Huyền Nguyệt nói, "Hiền điệt lên mà xem, tự khắc sẽ rõ."

Thiết Sinh đỡ lấy tấm kính, rồi cũng nhảy lên xe, lần lượt soi vào bốn bàn tay người chết.

Nhưng sao khi xem xong, sắc mặt chàng cũng tái nhợt, chẳng kém gì Huyền Nguyệt, rồi thở dài một tiếng, nhảy xuống xe, đưa trả tấm kính cho Huyền Nguyệt.

Thượng Tam Đường rất lấy làm kỳ dị, nghĩ bụng, "Tại sao ai xem xong cũng cau mặt, tái mặt thế kia là lý gì?"

Ông không sao dằn nổi tính tò mò, bèn cũng cầm kính nhảy lên xe xem.

Lên đến xe, Thượng Tam Đường mở tay Lam Triệu Thường ra soi trước.

Nhưng vệt đỏ nhỏ như tơ nhện trên lòng bàn tay nạn nhân, dưới tấm kính thuỷ tinh đã hiện thành một bản đồ án, chữ nhỏ li ti, rõ ràng từng nét.

Đàm Khiếu Thiên đi lại bên xe, sẽ nói, "Lão tiền bối trông thấy những gì, có thể thuật lại cho chúng tôi nghe được không? Nếu để cả ngần này người phải lên xem lấy, thì mất nhiều thì giờ quá."

Thượng Tam Đường đưa mắt nhìn Huyền Nguyệt, thấy ông ta không tỏ ý phản đối, bèn gật đầu, nhìn vào lòng bàn tay người chết, sẽ đọc, "Ký tử lục..." (sổ ghi tên người chết)

Vừa đọc đến đấy, Ngôn Phượng Cương chợt cao giọng nói, "Hừ, thật là đồ khùng! Không biết đứa nào mà đại ngôn quá thế!"

Thượng Tam Đường lại đọc tiếp, "Người ta không có ai là sống mãi, nhưng chết cũng có kẻ trước người sau. Trung Nguyên Tứ Quân Tử chẳng qua chỉ là những người được tuyển đầu tiên."

Ngôn Phượng Cương vừa nghe, vừa lẩm bẩm, "Điên, điên, thật là thằng điên!"

Thượng Tam Đường vẫn tiếp tục đọc, "Chết chóc dần dần, tiền nhân báo trước, tên ở sổ này, khó lòng tránh thoát..." Vừa đọc đến đấy, thốt nhiên dừng lại, không đọc nữa.

Ngôn Phượng Cương quay lại nhìn bọn Đồ GiangNam cười nói, "Không biết bọn mình có vinh hạnh được đăng tên trong cuốn sổ ấy không?"

Thượng Tam Đường thở dài đáp, "Ngôn huynh đừng lo, trong mười tên trong sổ, cũng có cả đại danh của Ngôn huynh đây này."

Ngôn Phượng Cương giật bắn người lên, xương sống lạnh toát, đằng hắng một tiếng, gượng cười nói, "Nếu vậy thì quả thật vinh hạnh cho tiểu đệ!"

Miệng tuy nói cứng như vậy kỳ thực thì trong bụng đã sợ run lên, nghĩ đến cái chết của Tứ Quân Tử, biết rằng hung thủ không phải chỉ nói khoác.

Thượng Tam Đường lại xem kỹ một lúc nữa, thốt nhiên sắc mặt tái mét, nhảy xuống xe, đưa trả tấm kính cho Huyền Nguyệt. Rồi nói với bọn Ngôn Phượng Cương, "Ở dưới toàn là tên người, khỏi cần phải xem nữa."

Lỗ Bình rụt rè hỏi, "Thượng huynh, có tên tại hạ ở trong đấy không?"

Thượng Tam Đường nói, "Nếu tôi không trông lầm, thì hình như cũng có cả tên Lỗ huynh thì phải."

Huyền Nguyệt nói, "Có một điều lạ, là tại sao chỉ có một cái dấu cỏn con như vậy, mà họ biên được lắm chữ thế? Thật là thần kỳ!"

Ngôn Phượng Cương nói, "Đó chỉ là một xảo thuật. Bây giờ ta lại thử viên ngọc rết xem Tứ Quân Tử trúng phải thứ thuốc độc gì!"

Nói xong liền nhảy lên xe, mở hộp lấy viên ngọc rết ra, đặt lên lòng bàn tay Chu Thiên Thượng, đúng chỗ có cái dấu đỏ. Quần hùng đều xúm cả lại xem.

Chỉ thấy viên ngọc rết trắng muốt như tuyết, vừa chạm vào cái dấu đỏ, lập tức biến sắc dần dần. Nhất là cái chỉ đỏ ở lưng viên ngọc, phản ứng lại càng mau lẹ, chỉ trong nháy mắt đã biến thành màu tím đen.

Thượng Tam Đường chợt quay lại nói với Huyền Nguyệt, "Quả nhiên Tứ Quân Tử bị trúng kịch độc thật."

Ngôn Phượng Cương thấy viên ngọc rết, đã dần dần biến thành màu đen, bèn vội thu về, nhảy xuống xe, ngẩn người ra nhìn viên ngọc, luống cuống không biết làm thế nào.

Thì ra, ông ta thấy viên ngọc đã trở thành màu đen, trong bụng băn khoăn lo lắng, không biết làm thế nào cho nó trở lại màu trắng như cũ, chỉ chép miệng thở dài, "Hoài của, viên ngọc quý, hiếm có thế này mà chỉ dùng được có một lần là hỏng. Uổng quá!"

Huyền Nguyệt sắc mặt cực kỳ trầm trọng, sẽ nói với Thiết Sinh, "Hiền điệt nếu thấy trong mình khó chịu, thì phải nói ngay cho bần đạo biết."

Ngôn Phượng Cương cúi đầu nhìn chiếc hộp thiếc trong tay rồi nói, "Chúng ta vượt hàng ngàn dặm tới Nam Dương, mục đích chỉ là để tìm xem nguyên nhân cái chết của Tứ Quân Tử có phải vì trúng độc không. Bây giờ mọi việc đã xong, ta đem kính và ngọc trả họ thôi chứ?"

Huyền Nguyệt nói, "Cố nhiên, "ngọc bích lại hoàn họ Triệu." Thôi chúng ta đem trả mau lên, rồi còn đi cho sớm."

Nói rồi bưng hộp kính đi lên trước. Quần hào lũ lượt theo sau. Chỉ có Bạch Thiết Sinh, Đường Thông là ở lại coi xe. Diệp Sương Y vẫn phủ miếng khăn đen che mặt, đứng tựa gốc cây bạch dương, ngẩng mặt trông trời, hình như đang mải suy nghĩ chuyện gì.

Đường Thông đột nhiên hạ giọng hỏi Bạch Thiết Sinh, "Bạch huynh xem cái dấu đỏ trong lòng bàn tay lệnh tôn sư, có phát hiện được điều gì lạ nữa không?"

Bạch Thiết Sinh lắc đầu nói, "Phát hiện được điều gì thì Huyền Nguyệt đạo trưởng và Thượng lão tiền bối đã tuyên bố cả rồi, huynh đệ không có ý kiến gì khác cả."

Đường Thông cau mày nói, "Bạch huynh đừng có nói dối, tiểu đệ không tin là Bạch huynh không tìm thấy manh mối gì khác lạ..."

Hắn ngừng một lúc rồi lại tiếp, "Việc này không những Bạch huynh đã tìm ra manh mối mà cả đến Huyền Nguyệt đạo trưởng và Thượng lão tiền bối cũng đều biết cả. Nếu các vị đã phát giác được đây không phải là một vụ án tầm thường, thì tại sao lại bí mật không chịu tuyên bố?"

Thiết Sinh ấp úng, "Vì là... vì là..."

Giữa lúc ấy chợt nghe có tiếng chân đi tới, hai người đều im bặt, không nói gì nữa.

Chỉ trong thoáng chốc, đã thấy một tên nữ tỳ áo xanh, từ trong trang viện bước ra.

Tên nữ tỳ vừa bước ra, đã giương đôi mắt to đen láy nhìn khắp mọi người, rồi dịu dàng hỏi, "Trong mấy vị, ai có trách nhiệm trông coi ở đây?"

Bạch Thiết Sinh đưa mắt cho Đường Thông rồi hỏi, "Có việc gì thế?"

Người con gái áo xanh đăm đăm nhìn cỗ xe, hỏi, "Cỗ xe ngựa kia chở thi hài đấy à?"

Thiết Sinh gật đầu, "Vâng, phải đó!"

Tên nữ tỳ biến sắc mặt lạnh lùng nói, "Chủ nhân tôi truyền lệnh, các ông phải đem ngay cỗ xe này ra khỏi rừng dương liễu."

Thiết Sinh cau mày nói, "Xin để tôi bẩm mệnh với mấy vị tiền bối đã, rồi mới có thể quyết định được."

Người con gái quắc mắt lên, thủng thỉnh bước đến bên cỗ xe. Vừa đi vừa nói, "Các người đã không muốn bận tay thì để tôi làm đỡ."

Nói vừa dứt lời, liền giơ tay nắm lấy cương ngựa, Bạch Thiết Sinh giật mình kinh sợ, vội rảo bước tiến lên, đứng chắn ngang đầu cỗ xe, sẵng giọng nói, "Buông ra!"

Thiếu nữ chỉ "hừ" một tiếng, tay cầm chặt dây cương kéo thật mạnh cỗ xe tức thì bon bon chạy lên phía trước.

Đường Thông nhún hai chân một cái lăng không nhảy vọt lên ngăn lại, một tay nắm dây cương, một tay đẩy xe, con ngựa lại bước giật lùi về chỗ cũ.

Thiếu nữ giận lắm nói, "Hai vị đã ương ngạnh như vậy, xin đừng trách tôi vô lễ."

Nói xong rảo bước chạy đến bên cỗ xe.

Bạch Thiết Sinh vội chạy theo năn nỉ, "Cô nương hãy vui lòng cho chờ thêm chút nữa, để chúng tôi bẩm qua các vị tiền bối một tiếng, rồi xin tức khắc đi ngay không dám để cô nương bận tâm."

Người con gái do dự một lúc rồi nói, "Thôi được, chỉ trong vòng ăn xong bữa cơm, nếu các người không ra khỏi khu rừng này, tôi sẽ đốt xe."

Nói xong, lập tức quay đi. Bạch Thiết Sinh trông theo sau lưng thiếu nữ, chờ nàng đi khuất, sẽ bảo Đường Thông, "Đường huynh, trông xe giùm một lúc, để tiểu đệ vào trang xem thế nào."

Đường Thông cười nói, "Bạch huynh sợ con ranh con ấy đốt xe thật ư?"

Bạch Thiết Sinh cũng cười nói, "Thực ra, tiểu đệ không thích gây chuyện với họ, vì chẳng gì mình cũng phạm vào bốn điều giới luật của người ta, người ta vẫn có quyền nói được."

Nói xong, rảo bước đi vào trang, nhưng mới đi được một quãng đã trông thấy bọn Huyền Nguyệt từ trong cổng lớn đi ra.

Huyền Nguyệt bước đến gần Bạch Thiết Sinh, sẽ nói, "Ta đi thôi!"

Bạch Thiết Sinh lập tức nhảy lên xe, giong cương cho xe chạy.

Chiếc xe ngựa len lỏi đi trong khu rừng liễu mông mênh, tiếng bánh xe nghiến trên đường đá lọc lọc, phá tan cảnh tịch mịch âm u của khu rừng vắng lạnh.

Quần hào lũ lượt đi theo sau xe, tất cả đều im lặng, không ai lên tiếng. Dường như trong bụng mỗi người đều mang nặng một bầu tâm sự.

Ra tới chỗ giá kiếm, ai nấy đều lấy vũ khí đeo vào mình. Lúc này Ngôn Phượng Cương mới thở ra một hơi dài, rồi nói, "Khu vườn rộng thế này, riêng chỉ việc quét lá cũng phải hàng trăm người mới có thể làm nổi. Tại hạ thật không sao tin được rằng trong nhà Nam Cung thế gia lại chỉ có mấy người quả phụ ấy thôi."

Đàm Khiếu Thiên nói, "Huynh đệ từ nhỏ đến giờ vào nam ra bắc, đi đã nhiều nơi mà chưa hề thấy nơi nào có cái không khí âm u, khủng bố như gia đình nhà Nam Cung này."

Thượng Tam Đường cười nói, "Vô luận cảnh tưởng ở đây ra sao, nhưng họ đối với mình quả cũng tử tế hết sức. Tôi hãy hỏi trong các vị đây, đổi thử vị nào có viên ngọc rết và tấm kính thuỷ tinh quý ấy thì có vui lòng cho ai mượn một cách dễ dàng như họ không?"

Quần hào đều cúi đầu nín lặng, hình như họ cùng tự nhủ, "Có vậy, nếu hai vật đó là của mình, thì dù người thân đến đâu cũng đừng hòng hỏi mượn."

Ngôn Phượng Cương ho khan một tiếng, lẩm bẩm nói một mình, "Hoài của viên ngọc rết!"

Hình như trong bụng ông ta vẫn không sao quên được viên ngọc.

Huyền Nguyệt từ nãy đến giờ vẫn mặt ủ mày chau, chẳng nói chẳng rằng, lúc này chợt cất tiếng hỏi, "Hoài của cái gì? Hoài của..."

Ông rất ghét cái tính tham lam của Ngôn Phượng Cương nên định nói, "Hoài của, nhà Nam Cung thế gia không tặng Ngôn huynh viên ngọc ấy chăng?" Nhưng lại sợ câu nói của mình rất có thể khiến cho họ Ngôn thẹn quá hoá giận, lại gây ra những chuyện không hay nên không nói tiếp nữa.

Ngôn Phượng Cương không hiểu ý ấy, nên vẫn thản nhiên cười đáp, "Hoài của viên ngọc quý như vậy, mà chỉ dùng được có một lần, đã tím đen lại."

Huyền Nguyệt nói, "Nếu viên ngọc rết quả chỉ dùng được một lần rồi vứt đi, thì đã chẳng đến phần Ngôn chưởng môn."

Ngôn Phượng Cương chợt tỉnh ngộ, vội nói, "Đạo trưởng nói cũng có lý. Nhưng người ta làm thế nào cho nó lại trắng ra như mới?"

Huyền Nguyệt cười nói, "Có khó gì đâu? Chỉ việc bỏ viên ngọc vào một chén sữa tươi, ước chừng nguội chén nước trà, là sữa sẽ hút hết chất độc trong viên ngọc ra, viên ngọc lại trong suốt như cũ."

Ngôn Phượng Cương cười nói, "À, thì ra là thế!"

Lúc này mọi người đã ra khỏi khu rừng liễu. Diệp Sương Y liền hỏi Huyền Nguyệt, "Lão tiền bối hết săn sóc cho gia phụ và các vị sư thúc bá, điệt nữ thật cảm kích vô cùng. Nhưng điệt nữ muốn hỏi ý kiến chư vị lão tiền bối..."

Huyền Nguyệt ngắt lời hỏi, "Hiền điệt nữ muốn thế nào cứ nói, đừng ngại!"

Diệp Sương Y buồn bã nói, "Điệt nữ muốn hộ tống di hài tiên phụ và các vị sư trưởng về quê, nhưng chỉ sợ lâu ngày quá, thi thể bị hư nát mất."

Huyền Nguyệt nói, "Điều đó hiền điệt nữ khỏi lo, vì bốn cỗ thi hài này dẫu để thêm năm ba tháng nữa cũng không hề gì."

Diệp Sương Y ngạc nhiên hỏi, "Tại sao thế ạ?"

Huyền Nguyệt trầm ngâm một lát, rồi nói, "Vì nếu bốn cỗ thi hài này mà nát được thì tất đã nát từ lâu rồi, còn đâu đến hôm nay? Hiền điệt nữ hẳn cũng đã biết trong ngần ấy ngày đi đường, bần đạo đều nằm lỳ trong xe, làm bạn với mấy cái xác chết rồi chứ?"

Diệp Sương Y gật đầu nói, "Chính vì thấy lão tiền bối quá tận tâm mà điệt nữ càng thêm cảm kích, không biết làm thế nào báo được ơn sâu."

Huyền Nguyệt chợt tỏ vẻ xúc động vô cùng, hai mắt long lanh ngấn lệ, hình như có một tâm sự cực kỳ đau đớn mà không nói ra được.

Quần hào thấy thế, ai cũng ngạc nhiên, bao nhiêu cặp mắt đều dồn vào mặt ông ta.

Thượng Tam Đường sẽ nói, "Đạo trưởng, theo ý lão phu thì bất nhược ta cứ nói phắt ra cho mọi người cùng biết, để họ khỏi nghi ngờ, thắc mắc có phải hơn không?"

Huyền Nguyệt trầm ngâm một lát, rồi thở dài nói, "Thôi được, nhưng đứng đây nói chuyện không tiện, chúng ta hãy tìm chỗ nào vắng vẻ rồi bần đạo sẽ nói cho các vị nghe."

Đoạn rồi cả đoàn lại kéo nhau đi.

Hồi thứ sáu

Hồng nhan họa thủy

Đoạn đường mà quần hào đang đi, chỉ là một cánh đồng hoang không có một thôn xóm nào cả.

Chợt từ trên không nổi lên những tiếng sấm ầm ỳ, rồi tiếp đấy là một đám mây đen từ phương chính Bắc cuồn cuộn kéo đến, không bao lâu mây đen kéo đầy trời, chớp dây loang loáng, sấm sét vang rền.

Thượng Tam Đường ngẩng đầu trông trời, rồi chép miệng than, "Cơn mưa to quá!..."

Vừa nói tới đó, những hạt mưa lớn bằng hạt đậu đã lắc rắc ném xuống, rồi kế đến một trận mưa rào ào ào dội xuống.

Huyền Nguyệt chỉ về phía một khu rừng rậm ở phía xa xa, nói, "Trong khu rừng kia hình như có người ở, chúng ta cố chạy đến đấy tránh mưa một lúc đã."

Bạch Sinh vung mạnh cây roi, chiếc xe ngựa lồng lên rồi chạy như bay về khu rừng rậm. Quần hào cũng đều rảo bước chạy theo.

Khi chạy đến nơi mới biết đó chỉ là bãi tha ma, trong trồng đầy một giống thủy bách. Bên ngoài bãi đất có ba gian nhà tranh nho nhỏ.

Ngôn Phượng Cương cau mày nói, "Ngôi nhà bé thế này, dù có tống cả chủ nhân ra ngoài cũng không đủ chỗ cho chúng ta ngồi."

Thượng Tam Đường cười nói, "Người ta đã có câu "Xỉnh nhà ra thất nghiệp", Ngôn huynh hãy chịu khó một chút."

Nói xong, xăm xăm bước lên gõ cửa.

Chỉ nghe "kịch" một tiếng, cánh cửa gỗ đã hé mở ra, rồi một cái đầu đàn ông tóc bạc phơ, da dẻ nhăn nheo thò ra ngoài. Thượng Tam Đường chắp tay nói, "Xin kính chào lão trượng!"

Ông già nghiêng tai, như cố lắng nghe rồi hỏi, "Ngươi nói gì thế?"

Thượng Tam Đường lại nói to hơn, "Chúng tôi đi ngang qua đây, gặp trời mưa to, xin lão trượng cho trú chân một lát. Mưa tạnh, chúng tôi xin đi ngay."

Ông già đưa mắt nhìn mọi người một lượt, rồi lắc đầu nói, "Nhà chật lắm làm sao chứa được bấy nhiêu người..."

Lão ho mạnh hai tiếng, rồi lại nói, "Ở trong bãi tha ma có một nhà từ đường rộng rãi lắm. Các ông đi quá vào trong đó mà tránh mưa."

Vừa nói dứt lời, "sầm" một tiếng, cánh cửa đã đóng sập lại.

Thượng Tam Đường quay lại nói với mọi người, "Chúng ta hãy thử vào trong kia xem đi. Chắc ông già này không nói dối đâu."

Ngôn Phượng Cương cười nhạt nói, "Tôi không tin là lão ta bị điếc."

Đàm Khiếu Thiên nói, "Nếu lão nói dối, tý nữa trở ra, ta sẽ đốt gian nhà này cho mà coi."

Chợt nghe "két" một tiếng, cánh cửa gỗ lại từ từ hé mở, ông già hồi nãy lại thò đầu ra nói, "Các ông có thể vào trong từ đường được, nhưng ngựa phải để ở ngoài."

Nói xong, "sầm" một tiếng, cánh cửa đóng sập lại.

Lúc này mây mỗi lúc mỗi đen, mưa mỗi lúc một mau, trông chừng cũng phải bốn năm tiếng đồng hồ nữa mới có thể ngớt được. Cả bọn, người nào người nấy quần áo đều ướt như chuột lột, ai cũng muốn được chổ nghỉ ngơi cho sớm, nên cùng rảo bước chạy thật nhanh vào trong bãi tha ma.

Bên trong toàn những giống cây bách, già có tới hàng trăm năm, cây nào cũng lớn tầng ôm, cành lá rườm rà nên cũng cản đỡ được nhiều mưa gió.

Chỉ khổ một nỗi là xe ngựa đi trên một khu đất đầy mồ mả và cây cối, cực kỳ vất vả. Bạch Sinh phải xuống xe dắt ngựa đi, mà cũng phải khó khăn lắm mới vào tới được giữa rừng.

Quả nhiên bên trong có một ngôi từ đường, qui mô tuy không lấy gì làm rộng lắm nhưng cách kiến trúc thì tinh xảo vô cùng.

Bạch Sinh tìm một gốc cây lớn, cành lá rậm rạp, buộc xe ngựa cẩn thận rồi cũng theo mọi người vào trong chính sảnh.

Trong nhà quét dọn rất sạch sẽ, nền nhà lát đá xanh, tường sơn trắng, phía sau hương án đặt một bài vị của tổ tông mấy đời nhà họ Vương.

Ngôn Phượng Cương vừa rũ bớt những giọt nước mưa đọng trên áo, vừa nói, "May quá, nếu mưa suốt đêm nay, ta cũng có thể ngủ tạm trong từ đường này được rồi."

Huyền Nguyệt nhìn khắp nơi một lượt rồi nói, "Thôi! Bây giờ xin mời các vị thay quần áo và ngồi vận khí điều tức một lúc."

Ngôn Phượng Cương cười hỏi, "Việc gì phải điều tức? Có lẽ đạo trưởng sợ chúng ta bị một cơn mưa làm ướt rồi bị bệnh hết cả sao?"

Huyền Nguyệt lắc đầu, "Bần đạo chỉ muốn các vị nghỉ ngơi cho tinh thần bình tĩnh một chút."

Sắc mặt ông trở nên nghiêm trang, trịnh trọng tiếp, "Vì bần đạo còn muốn tố cáo với các vị một việc hết sức quan trọng."

Mọi người đều linh cảm là có một sự gì hết sức đặc biệt quan trọng sắp sửa xảy ra nên đều nghe lời Huyền Nguyệt, mở khăn gói lấy quần áo khô ra thay, đoạn tìm một chỗ ngồi vận khí dưỡng thần.

Nhưng chỉ trong chốc lát, Ngôn Phượng Cương lại mở mắt ra nhìn mọi người một lượt rồi đứng lên rón rén bước về phía Diệp Sương Y, thì thào gọi, "Diệp cô nương!"

Diệp Sương Y mở mắt ra hỏi, "Lão tiền bối định bảo gì ạ?"

Ngôn Phượng Cương ngồi xuống cạnh nàng, cười hì hì nói, "Có chuyện gì đâu! Ngồi buồn quá nên tìm cô nương nói chuyện một chút cho vui."

Diệp Sương Y giật mình vội ngồi thụt vào góc tường, cau mặt nói, "Xin lão tiền bối hãy thận trọng một chút..."

Đường Thông ngồi cách đó một quãng, quay phắt lại cười nhạt hỏi, "Ngôn lão tiền bối năm nay bao nhiêu tuổi rồi?"

Ngôn Phượng Cương cười ha hả đáp, "Tại hạ năm nay được năm mươi tám cái xuân xanh rồi. Ngươi hỏi làm gì?"

Đường Thông vỗ vào thắt lưng nói, "Ngôn quyền nhà họ Ngôn danh chấn thiên hạ, nhưng không biết so với môn ám khí tẩm độc của họ Đường nhà ta thế nào? Lão tiền bối có muốn thử không?"

Ngôn Phượng Cương biến sắc mặt, mặt bừng sát khí, lạnh lùng đáp, "Ngươi có muốn thử, ta cũng xin sẵn lòng bồi tiếp!"

Đường Thông đứng phắt dậy, lùi lại phía sau mấy bước, tay phải đã thò vào chiếc túi da đựng ám khí, Ngôn Phượng Cương cũng đứng lên giơ tay thủ thế.

Tình trạng đã gay go cực điểm chỉ trong nháy mắt có thể nổ bùng.

Thượng Tam Đường vội bước lên, chắn giữa hai người can, "Thôi xin hai vị có chuyện gì hãy bàn nhỏ với nhau, quyết không nên động thủ."

Kỳ thực thì Đường Thông cũng hơi ngán ngón quyền của họ Ngôn, mà họ Ngôn cũng hơi ngán môn ám khí tẩm độc của họ Đường. Nhưng tình thế đã đi đến chỗ tên đã đặt lên nỏ, kiếm rút khỏi bao, chả lẽ lại thôi đi thì mang tiếng là hèn nhát. Nay thấy có người đứng ra dàn xếp, thật là gãi trúng chỗ ngứa, làm gì mà không lui.

Huyền Nguyệt chắp tay trước ngực, nghiêm trang nói, "Các vị ở đây, người thì là chưởng môn một phái, người thì là hùng chúa một phương, xin hãy nghĩ tới địa vị mình mà nhường nhịn nhau một chút. Các vị hãy nghỉ ngơi chốc lát cho lại sức rồi bần đạo sẽ tuyên bố một việc cực kỳ khủng khiếp để các vị tìm lấy một giải pháp quyết định."

Huyền Nguyệt vẫn là người được quần hào kính nể nhất trong này, nên khi nghe ông nói vậy, tất cả đều quay về chỗ ngồi vận khí điều tức.

Một mình Diệp Sương Y lui ra ngoài thềm, đứng tựa lưng vào cột, sắc mặt cực kỳ u uất.

Quang cảnh ngôi từ đường giờ đây lại khôi phục cái vẻ hoang lương tịch mịch, ngoài tiếng gió rít mưa gào thì thật hoàn toàn yên ắng.

Mọi người nghỉ ngơi một lút, tinh thần đã phấn chấn như cũ. Ai nấy đều nhìn chăm chăm Huyền Nguyệt, chờ ông ta tuyên bố sự gì, mà mọi người đều đoán là quan trọng lắm.

Huyền Nguyệt vẫn nhắm mắt ngồi yên, dường như ông ta vẫn chưa điều tức xong.

Ngôn Phượng Cương có vẻ sốt ruột liền đằng hắng mấy tiếng rồi khẽ hỏi Thượng Tam Đường, "Thượng huynh! Việc gì mà bí mật thế? Thượng huynh có biết thì nói cho tiểu đệ nghe cũng được, hà tất phải đợi Huyền Nguyệt đạo trưởng."

Thượng Tam Đường có ý ngần ngại, "À! À! Cái ấy... cái ấy..."

Ông ta lắp bắp một hồi, rốt cuộc chẳng nói được câu gì cả. Huyền Nguyệt chợt mở bừng đôi mắt, chiếu thẳng luồng nhỡn quang lạnh như điện vào mặt Ngôn Phượng Cương hỏi, "Ngôn huynh muốn biết lắm à?"

Ngôn Phượng Cương cười nói, "Lẽ dĩ nhiên là tiểu đệ muốn được biết ngay câu chuyện bí mật đó."

Huyền Nguyệt từ từ đứng lên, ngước mắt nhìn mấy đám mây đen kịt đang bay ngoài cửa từ đường thủng thẳng nói, "Đây là một tin tức cực kỳ ghê gớm, nói ra ai cũng phải rụng rời. Nhưng bần đạo chưa dám tin chuyện ấy có thật."

Mấy câu nói của ông ta thật là mập mờ chẳng đâu vào đâu. Tuy nhiên, cái địa vị và danh phận của ông quyết không khi nào lại tỏ vẻ xúc động mãnh liệt ở trước mắt mọi người như vậy. Vì thế nên quần hào đều kinh ngạc, đưa mắt nhìn nhau không ai biết nói thế nào.

Chợt lại nghe Huyền Nguyệt thở dài một tiếng, trầm trọng nói, "Bần đạo đã phát giác thấy trên bốn thì hài của Trung Nguyên Tứ Quân Tử."

Vừa nói đến đây ông chợt im bặt, rảo bước chạy ra cửa từ đường.

Ngôn Phượng Cương gọi to, "Đạo trưởng phát giác được cái gì? Sao không nói đi?"

Chợt Huyền Nguyệt quát to, "Ai thế?"

Nhưng bên ngoài trừ tiếng gió mưa sầm sập ra thì chẳng có tiếng gì đáp lại.

Ngôn Phượng Cương chợt giậm mạnh hai chân xuống đất, người như khúc tên lìa khỏi cung lao vút lên mái nhà.

Đàm Tiếu Thiên tặc lưỡi khen, "Tôn sư một phái có khác, võ công khá thật!"

Diệp Sương Y quay lại hỏi Huyền Nguyệt, "Lão tiền bối! Sao cháu chẳng nghe thấy tiếng gì lạ cả?"

Huyền Nguyệt cười một cách hiền từ đáp, "Bần đạo tự tin là tai hãy còn chắc lắm, không đến nỗi nghe lầm."

Đường Thông trông ra phía ngoài mưa vẫn còn như trút nước lẩm bẩm nói, "Ngôn Phượng Cương đi lần này chỉ sợ không bao giờ về nữa."

Đồ GiangNam ngồi một bên "hứ" một tiếng nói, "Đồ nói láo!"

Đường Thông quay lại nhìn cha con Đồ GiangNam , lạnh lùng nói bâng quơ, "Người ta lúc sắp chết bây giờ cũng hồi quang phản chiếu."

Đồ GiangNam đứng phắt dậy, giận dữ hỏi, "Ngươi rủa ai?"

Rồi xông tới trước mặt Đường Thông. Đường Thông sắc mặt tái xanh, bừng bừng sát khí, cũng đứng dậy nói, "Ngươi có giỏi thì ra đây!"

Đồ GiangNam nói, "Lão tử đâu có sợ ngươi."

Nói dứt lời, lập tức tung mình nhảy ra sân.

Huyền Nguyệt vừa toan cất tiếng ngăn lại, đột nhiên cảm thấy một luồng muôn khí dâng lên lồng ngực, hình như muốn trông thấy một cuộc chém giết cực kỳ tàn nhẫn mới có thể tan được luồng khí quái gở ấy.

Một bậc lão thành trì trọng như Thượng Tam Đường, mọi khi vẫn hay bày giải can gián những chuyện rắc rối của người khác, mà lúc này cũng chỉ ngồi im không động, mắt đăm đăm nhìn ra ngoài từ đường, có cái vẻ như người ngồi trên núi đang chờ xem hai hổ đánh nhau.

Lỗ Bính, Đàm Khiếu Thiên cũng đổ xô ra cửa xem.

Diệp Sương Y thấy thế vội nói với Huyền Nguyệt, "Lão tiền bối không can đi, không lẽ cứ để mặc họ đánh nhau đến chết sao?"

Huyền Nguyệt lạnh lùng cười nói, "Cứ để cho họ đánh nhau một trận cho hả đi."

Diệp Sương Y cau mày hỏi, "Mặc thế nào được? Hai người đánh nhau tất xảy ra lưu huyết."

Trong khi hai người nói chuyện, Đường Thông và Đồ GiangNam đã vận khí điều tức, chuẩn bị để xông vào đánh nhau.

Diệp Sương Y đưa mắt nhìn khắp quần hào, thấy ai nấy đều chắp tay ra sau lưng như đang chờ xem một trò vui sắp sửa diễn, tuyệt không một ai có ý định ngăn cản, bất giác la toáng lên rảo bước lại gần phía hai người quát to, "Đứng im!"

Hai họ Đường và Đồ đều trừng mắt nhìn thiếu nữ hỏi, "Cái gì?"

Diệp Sương Y đứng xen vào giữa hai người lạnh lùng hỏi, "Tại sao các người lại đánh nhau?"

Đường Thông nói, "Đứng lui ra! Không tôi ném ám khí lại chạm vào mình."

Diệp Sương Y thở dài nói, "Các vị đến đây là để giúp thân phụ tôi điều tra hung thủ, bất cứ ai chết hoặc bị thương tôi cũng không muốn."

Lúc này trời vẫn mưa như trút nước, ba người vừa thay quần áo xong, đứng giữa sân lại bị ướt như chuột lột.

Chợt nghe tiếng Ngôn Phượng Cương gọi to, "Diệp cô nương nên đi vào đi."

Diệp Sương Y vẫn đứng yên, chỉ đưa mắt nhìn hai người rồi nói, "Hai vị không oán không thù, chỉ vì một câu khích bác nho nhỏ mà đến mạng phải đem tính mạng ra thử thách. Sao lại coi rẻ mình quá thế vậy?"

Nói xong, quay vào từ đường. Ngôn Phượng Cương cười nói, "Cô nương cứ để mặc họ đánh nhau, hơi đâu mà can. Thật ra họ thù nhau không phải vì một câu khích bác, mà chính là vì cô nương đấy thôi."

Diệp Sương Y cau mày chưa kịp nói gì, thì ở ngoài sân hai họ Đồ, Đường đã xông vào đấm đá dưới cơn mưa tầm tã.

Đồ GiangNam công lực thâm hậu, ngón quyền mãnh ác dị thường, quyền phong vù vù lẫn vào trong tiếng gió mưa sầm sập.

Đường Thông thì thân pháp lẹ làng, biến hóa kỳ diệu, luôn luôn tránh được những ngọn quyền phong ác liệt của đối phương.

Diệp Sương Y lại đưa mắt nhìn Thượng Tam Đường và Huyền Nguyệt đạo trưởng, chỉ thấy hai người cùng nhìn đăm đăm hai người đang đánh nhau, sắc mặt người nào cũng lộ vẻ sung sướng, tựa hồ như cùng mong cho hai người họ đều bị chết hoặc bị thương.

Thốt nhiên nàng cảm thấy lạnh tóc gáy toát cả mồ hôi vì nàng vừa nhận ra từ lúc bọn này từ nhà Nam Cung ra tâm tính đều thay đổi khác hẳn, hình như người nào cũng tàn nhẫn độc ác, ngay cả Huyền Nguyệt đạo trưởng, một kẻ xuất gia đức hạnh nhân từ và Thượng Tam Đường, một bậc lão thành xưa nay vẫn nổi tiếng là hay hòa giải những sự bất bình trong thiên hạ mà lúc này cũng biến thành kẻ lạnh lùng tàn ác.

Trong trường kịch chiến bỗng nổi lên tiếng quát giận dữ xen lẫn một tiếng "hực" đưa ra.

Đứng trong nhìn ra, chỉ thấy Đường Thông thân hình lảo đảo bước lùi lại phía sau đến năm sáu bước.

Lỗ Bình quay lại nhìn Đàm Khiếu Thiên nói, "Đàm huynh! Nếu ngọn quyền ấy là của tiểu đệ thì đã thừa sức đánh gục thằng bé này rồi."

Đàm Khiếu Thiên lạnh lùng "hừ" một tiếng rồi nói, "Chưa chắc, Đường gia ở Tứ Xuyên tuy chỉ nổi tiếng về môn ám khí tẩm thuốc độc, nhưng còn công phu quyền cước vị tất đã thua ai."

Lỗ Bình nổi giận nói, "Vậy thì cái tiếng Thần Quyền của tiểu đệ chỉ là hư danh sao?"

Đàm Khiếu Thiên nói, "Trên giang hồ thiếu gì người chỉ có cái hư danh!"

Lỗ Bình quát to, "Nếu Đàm huynh không tin thì hãy thử xem."

Đàm Khiếu Thiên nói, "Lỗ huynh không sợ quyền cước vô tình thì cứ hãy thử."

Diệp Sương Y nghe xong, sửng sốt nghĩ thầm, "Quái lạ! Có lẽ những người này đều đã bị hóa điên hết rồi chăng? Hình như trong bụng của mỗi người đều có cái gì bực dọc, bứt rức chỉ muốn liều mạng đánh nhau một trận cho kịch liệt thừa sống thiếu chết mới hả hơi hay sao ấy?"

Lại nghe tiếng Đường Thông quát to, "Người quanh minh lỗi lạc không thèm làm những chuyện mờ ám. Coi huynh đệ dùng ám khí đây này."

Tiếp theo đó là một tiếng thét nửa chừng, rồi một tiếng "huỵch", Đồ Giang Nam đã nằm sóng xoài ra giữa trời mưa.

Chợt lại nghe một tiếng la thất thanh "gia gia" kèm theo một bóng người nhanh như cắt, nhảy đến trước mặt Đường Thông.

Diệp Sương Y nhác trông đã thấy đó là một chàng thiếu niên trạc tuổi mười bảy, mười tám tuổi, là con trai của Đồ GiangNam.

Trong làn mưa lờ mờ còn trông thấy mặt của Đường Thông bừng bừng sát khí, cặp mắt đỏ ngầu. Vừa trông thấy chàng thanh niên xông ra, liền ngửa mặt lên trời cười ha hả, "Đường mỗ hôm nay đã đại khai sát giới, dù giết một người hay mười người cũng vậy thôi."

Nói xong tay phải giơ lên, nhằm chàng thiếu niên phóng luôn ba mũi ám khí.

Chàng thiếu niên này là con trai duy nhất của Đồ GiangNam. Bình nhật được phụ thân cưng chiều như trứng mỏng, chẳng những đã đem võ công của mình truyền hết lại cho, mà còn cho theo hai người bạn tri giao để luyện tập thêm các môn tuyệt nghệ nên tuy tuổi còn nhỏ mà công lực cũng đã khá cao. Gã vừa thấy ba mũi ám khí của đối phương vừa ném tới gần đến trước mặt, bèn lập tức vận khí đan điền xoay mình một cái, hai chân chưa chấm đất thân hình đã lánh kịp sang một bên.

Diệp Sương Y thấy cục thế đã trở nên hỗn loạn, câu chuyện lôi thôi giữa hai họ Đàm, Lỗ đã thành ra một mũi tên đã đặt lên dây cung, không thể không bắn đi được nữa. Đường Thông và cha con họ Đồ đã biến thành tử thù, không có cách gì giải được. Đồ GiangNam bị trúng độc chưa biết sống chết thế nào, người con trai không kể gì đến thân liều mạng xông vào trả thù cho cha, tình hình cũng có vẻ nguy ngập. Ngôn Phượng Cương đứng ngoài, đôi mắt hau háu nhìn như hổ rình mồi, trên môi thoáng nở một nụ cười thâm hiểm.

Điều làm cho Diệp Sương Y thắc mắc nhất là thái độ của Huyền Nguyệt đạo trưởng và Thượng Tam Đường, cả hai đều đã khác hẳn bản tính thường ngày. Không những đã không ngăn cản thì chớ, trái lại còn lộ vẻ khoái trá, khoanh tay đứng xem, như người xem diễn kịch.

Bạch, Tống, Vạn ba vị sư huynh, đệ thì đứng xúm lại một chỗ thì thào bàn tán, hình như họ mải mưu tính một sự gì hết sức quan trọng và bí mật, đến nỗi không ai thèm chú ý đến cuộc chiến đấu sinh tử của hai đấu thủ tại chính trường.

Diệp Sương Y băn khoăn đứng dựa cột hồi lâu, đột nhiên nàng nhận thấy những người này hình như bị loạn óc, trong bụng họ có lẽ chứa đầy sự oán thù, thâm độc nên không những họ thản nhiên đứng xem người ta chém giết nhau mà trong đôi mắt của họ lộ vẻ thích thú, nhấp nhổm chực xông vào đánh hôi là khác.

Nàng thở dài nghĩ thầm, "Từ lúc từ trong nhà Nam Cung trở ra, hình như người nào cũng biến đổi tâm tính thế là lý gì? Tại sao lại có sự lạ lùng như vậy?"

Còn đang nghĩ ngợi, chợt thấy Đường Thông nhảy lùi về phía sau hơn một trượng, thiếu nữ biết hắn đánh lâu sốt ruột nên muốn sử dụng ám khí.

Nàng không kịp suy tính gì nữa vội rảo bước chạy ra giữa trận miệng thì quát, "Khoan đã! Không được đánh nhau nữa!"

Đường Thông đã đeo lên tay một cái bao tay bằng da hươu, thò tay vào túi móc ra một nắm "Đoạt hồn sa", vừa giơ tay toan ném, chợt nghe tiếng quát liền buông tay xuống.

Gã thiếu niên ngoảnh lại nhìn Diệp Sương Y, nét mặt đầy vẻ đau đớn ngơ ngác như người mất hồn.

Thiếu nữ đứng giữa ngăn hai người, ôn tồn nói, "Các ngươi không nên vì một chuyện nhỏ nhặt mà chém giết nhau như thế."

Gã thanh niên nước mắt ràn rụa đáp, "Nhưng hắn giết gia gia tôi, cô nương bảo tôi không báo thù hay sao?"

Đường Thông thản nhiên lạnh lùng nói, "Ai bảo gia gia ngươi học nghệ chưa tinh đã dám..."

Diệp Sương Y vội ngắt lời, "Thôi không được nói lời lôi thôi nữa!"

Rồi nàng hỏi Đường Thông, "Ngươi đã dùng ám khí gì để đả thương Đồ lão tiền bối?"

Đường Thông cười một cách rất đắc ý, "Ám khí của Đường gia ở Tứ Xuyên phần nhiều đã được tẩm thuốc độc."

Diệp Sương Y sẵng giọng, "Tôi biết rồi! Bây giờ tôi chỉ hỏi anh có đem theo thuốc giải độc không?"

Đường Thông trầm ngâm một lúc rồi nói, "Có thì có! Nhưng tôi không muốn cứu hắn."

Diệp Sương Y cau mặt nói, "Đánh người ta bị thương lại không chịu chữa bịnh, muốn để cho hắn chết à?"

Đường Thông sầm nét mặt nói, "Nếu người bị thương là tôi thì cô nương có cứu không?"

Diệp Sương Y nói, "Bất cứ là ai bị thương tôi cũng không đành tâm ngồi nhìn người ta chết được."

Giữa lúc ấy, chợt nghe bên trong từ đường vang lên một tiếng thét vang như sấm, "Nếu không tin ngươi cứ thử nếm quyền lực của lão phu xem nào."

Tiếp theo tiếng quát là mấy tiếng "xoảng, xoảng", hai miếng ngói trên nóc miếu đã rơi xuống vỡ tan tành.

Ngoảnh lại thì ra đó là hai ông già Lỗ Bình và Đàm Khiếu Thiên đã lôi nhau ra quần thảo.

Hai người công lực đều thâm hậu, võ nghệ đều dùng toàn đòn mạnh trong khi giao đấu, uy thế cực kỳ mãnh liệt, quyền đi cước lại, chưởng phong vù vù.

Ngôn Phượng Cương lạnh lùng nói, "Hai vị muốn đánh nhau thì ra sân mà đánh, trong này chật hẹp không những vướng chân vướng tay, mà còn đụng chạm đến anh em, như thế phiền lắm."

Đàm Khiếu Thiên và Lỗ Bình quả nhiên nghe lời, vừa đánh vừa lùi dần ra sân, nhưng hai tay vẫn không hề dừng lại.

Ngôn Phượng Cương quay lại nhìn Thượng Tam Đường khẽ gọi, "Thượng huynh..."

Thượng Tam Đường đang mải mê xem cặp Đàm, Lỗ đánh nhau nên không nghe thấy tiếng gọi.

Ngôn Phượng Cương vừa gặp ngọn lửa vô danh đang bốc lên ngùn ngụt không biết trút vào đâu, bèn mượn cớ sinh sự hầm hầm quát, "Thượng huynh điếc tai hay sao đấy?"

Thượng Tam Đường bình nhật tính tình rất trầm tĩnh, lúc này không biết tại sao cũng rất dễ nổi cáu, bèn chống mạnh cây gậy xuống đất thét lớn, "Ngươi chửi ai thế?"

Ngôn Phượng Cương cười nhạt, "Cố nhiên là chửi ngươi, thế đã sao chứ?"

Thượng Tam Đường nổi giận giơ gậy vụt ngang một cái, Ngôn Phượng Cương trong lúc bất ngờ không kịp né tránh, suýt chút nữa là bị quật trúng vào yếu huyệt ở sau lưng.

Diệp Sương Y thấy tình hình càng lúc càng đi đến chỗ đổ vỡ, trong lòng nóng như lửa đốt, dậm chân gắt bảo Đường Thông, "Trời ơi! Ngươi có cho thuốc giải độc hay không thì bảo?"

Đường Thông khẽ đằng hắng một tiếng rồi chạy đến bên Đồ GiangNam. Gã thiếu niên hốt hoảng kêu lên, "Đừng chạm vào cha ta!"

Diệp Sương Y vội ngăn gã lại, "Cứ để cho hắn chữa cho lệnh tôn, hắn không dám làm gì đâu."

Chỉ nghe tiếng Ngôn Phượng Cương quát tháo, "Tránh xa ra!"

Thì ra lúc họ Ngôn và Thượng đã dốc toàn lực ra chiến đấu. Hai người công lực đều cao siêu tuyệt đỉnh, một khi đã liều mình tử chiến thì uy lực mãnh liệt thế nào cứ tưởng tượng cũng đủ rõ. Cây gậy trong tay họ Thượng thoắt cái vụt ngang, thoắt cái đưa dọc, biến hóa kỳ ảo khôn lường. Cứ trong cái lối ra đòn vừa nhanh vừa ác, tuyệt không hợp với con người tâm tính lúc nào cũng vui vẻ khoan hòa như ông.

Ngôn Phượng Cương vẫn dùng tay không cự địch. Ngôn gia quyền đã từng khét tiếng võ lâm, quả danh bất hư truyền. Hai tay ông liên tiếp đánh ra, quyền phong ào ào như thác cuộn biến hóa vô cùng, chỉ trong phút chốc đã kềm hãm được đầu gậy của họ Thượng.

Lúc này gã thiếu niên bị Diệp Sương Y ngăn lại, chịu để Đường Thông xem bịnh cho cha nhưng hai mắt vẫn hau háu nhìn, chỉ sợ hắn thừa cơ hạ độc thủ.

Giữa lúc ấy thì tiếng quyền phong vù vù, quảy phong vun vút của cặp Ngôn, Thượng đã ra đến giữa sân.

Diệp Sương Y tuy thông minh tuyệt đỉnh nhưng dù sao cũng là một khuê nữ, ít từng trải giang hồ. Từ nhỏ đến giờ, chưa từng thấy một cuộc ẩu đả loạn xạ hi hữu như thế bao giờ, trong bụng hết sức khó chịu, tự nghĩ, "Những người này đều vì cha mình mà tới đây, bây giờ để họ hiểu lầm nhau mà gây nên thù oán chẳng qua cũng là lỗi tại mình." Nàng càng nghĩ càng cảm thấy hối hận, cố suy nghĩ tìm cách hòa giải cho êm.

Nhưng giờ đây lại thấy Thượng Tam Đường cũng xông vào vòng chiến, cái ý niệm của nàng bất giác cũng lung lay, tự nghĩ, "Nếu bảo vì mình mà gây ra cuộc tàn sát này thì Thượng lão tiền bối là một bậc lão thành, đạo cao đức trọng trong võ lâm ai cũng kính nể, chẳng lẽ cũng lại là phường hiếu sắc hay sao? Thật là vô lý!"

Còn đang suy nghĩ miên man, chợt nghe phía sau có tiếng nói, "Hắn đã trúng phải hai mũi "Truy hồn bạch cốt đinh", một mũi trúng vào chỗ yếu hại nên không chết cũng bị hỏng một cánh tay."

Đó là tiếng Đường Thông, thiếu nữ hỏi, "Ngươi đã cho ông ta uống thuốc giải độc chưa?"

Đường Thông gật đầu. Gã thiếu niên lườm hắn một cái rồi hậm hực nói, "Nếu gia phụ có mệnh hệ nào thì Đồ Tiểu Giang này quyết không tha thứ cho ngươi được."

Đường Thông cười nhạt, vừa toan đối trả thì Diệp Sương Y đã xua tay ngăn lại. Gã thiếu niên chạy tới bên Đồ GiangNam bế cha vào trong từ đường.

Đường Thông đột nhiên bước lại bên Diệp Sương Y nắm lấy tay nàng nói nhỏ, "Tình hình đã hỗn loạn quá sức, nàng là con gái có một thân một mình hà tất phải lưu luyến ở đây làm gì, ta nên bỏ đi thôi."

Diệp Sương Y cau đôi mày liễu, khẽ gắt, "Buông ra!"

Nàng ngước đầu lên, chợt Đường Thông mặt đỏ bừng bừng, đôi mắt quắc lên một tia sáng kỳ dị.

Thiếu nữ linh cảm thấy một sự chẳng lành bèn vừa vùng vẫy giằng tay ra, vừa kêu lên một tiếng thật lớn.

Vạn Xung nghe tiếng kêu lớn, vội chạy ra trợn mắt nhìn Đường Thông quát, "Ngươi làm trò gì thế?"

Đường Thông bị tiếng thét lớn của Diệp Sương Y làm cho dục hỏa nguội dần, lại nghe Vạn Xung quát hỏi bèn khẽ ho khan một tiếng, lạnh lùng đáp, "Chẳng làm gì cả!"

Rồi thủng thỉnh bước lên thềm, chắp tay ra sau lưng xem đánh nhau.

Đột nhiên từ trên không lóe lên một tia chớp sáng rực, tiếp theo đó là một tiếng sét nổ vang trời, mưa gió càng mạnh, những cuộc đánh nhau càng hăng.

Chợt nghe hai tiếng "bực, bực", cặp Thần quyền Lỗ Bình và Đàm Khiếu Thiên cùng đồng thời ngã sóng soài ra đất.

Thì ra hai người này công lực ngang nhau, đấu luôn mấy mươi hiệp vẫn không phân thắng bại. Lỗ Bình một quyền đánh trúng vào vai bên trái của Đàm Khiếu Thiên, Đàm Khiếu Thiên cố nhịn đau đánh một quyền trúng vai Lỗ Bình. Thế là cả hai cùng bị trọng thương ngã ra một lúc.

Huyền Nguyệt đạo trưởng vẫn nhắm mắt ngồi ngay giữa cửa, đối với những cuộc chém giết lẫn nhau ở ngay trước mắt hình như không hề hay biết gì cả.

Cặp võ lâm cao thủ họ Ngôn và họ Thượng lúc này đang đấu với nhau đến chỗ gay go nhất. Cây gậy trúc của Thượng Tam Đường khi co khi giãn, tùy ý điều khiển, điểm, đỡ, đánh, gạt bao nhiêu ngón đòn hóc hiểm đều cho ra bằng hết. Chỉ một cây gậy tre mà gồm đủ đao, song, côn, kiếm biến hóa trăm khoanh.

Ngôn Phượng Cương thì hay tay quyền đã dùng hết bí quyết của chử "ẩn", bất kỳ Thượng Tam Đường tấn công mãnh liệt đến đâu ông ta vẫn điềm tĩnh ung dung, môn hộ phong bế cực kỳ kín đáo, làm cho đối phương không kịp phát chiêu đã phải biến đổi thế công.

Cục thế đã biến diễn rõ ràng, cứ bề ngoài mà trông thì cây gậy trong tay Thượng Tam Đường gạt ngang đánh dọc, chiếm hết ưu thế. Ngôn Phượng Cương chỉ tránh né giữ thế thủ chớ không đánh lại. Kỳ thực thì bao nhiêu tinh hoa sắc sảo lão không lộ ra ngoài nhưng cái thắng đã nắm phần chắc. Trong vòng một trăm chiêu, Thượng Tam Đường thoát ra khỏi được chưởng phong của lão đã là một sự may mắn vô cùng.

Nước mưa đã làm cho người ta chóng khôi phục được tri giác, Đàm Khiếu Thiên và Lỗ Bình chỉ ngất đi một lúc lại cùng từ từ tỉnh dậy.

Đàm Khiếu Thiên rùng mình một cái cho những giọt nước mưa đọng trên mình rơi xuống, rồi thở một hơi dài, đưa tay rút đơn đao cài nơi vai ra, lạnh lùng quát, "Họ Lỗ kia mau rút binh khí ra. Hôm nay chúng ta không chết thề quyết không thôi."

"Lỗ Bình này đánh nhau không bao giờ dùng binh khí."

Đàm Khiếu Thiên quát lớn, "Mày đã muốn chết, đừng trách ta là ác!" Dứt lời hai bên lại xông vào tử chiến.

Huyền Nguyệt đạo trưởng đột nhiên mở mắt quát to lên như sấm, "Dừng tất cả lại!" Vừa quát vừa đứng phắt lên, thuận tay rút thanh trường kiếm cài sau vai, xông vào giữa vòng chiến của cặp Ngôn, Thượng, vung kiếm múa lên, hóa thành một vòng kiếm quang hơi lạnh kinh người, rẽ hai người sang hai bên.

Ngôn Phượng Cương đã cầm chắc phần thắng trong tay, chợt bị Huyền Nguyệt đạo trưởng phá đám thì giận lắm, cười nhạt nói, "Đạo trưởng định giở trò gì thế? Hay là định hai người đánh một chăng?"

Huyền Nguyệt đạo trưởng ngửa mặt lên trời cười ha hả, "Ngôn chưởng môn đừng nói quá nặng lời! Bần đạo tự tin là thanh kiếm này không đến nổi phải nhường ngón quyền của nhà họ Ngôn..."

Nói đến đây, ông dừng lại thở dài một tiếng rồi tiếp, "Hai vị nên tĩnh tâm nghĩa lại cho kỹ, cứ cái địa vị và danh tiếng của hai vị ở trong võ lâm, tại sao lại không nhịn nổi vài câu khách khí nhỏ nhặt? Huống hồ Thượng huynh đã có tiếng là người hay hòa giải những chuyện lộn xộn của người khác, thì sao lúc này lại gây chuyện với Ngôn chưởng môn làm chi?"

Ngôn Phượng Cương ngẩn người một lúc rồi nói, "Ừ nhỉ! Không hiểu tại sao lại lạ thế không biết?"

Lúc này ông ta vừa kịch đấu trận, những cái ấm ức bức rứt trong bụng và cái khí huyết đang vương lên ở trong mình cũng đã phát tiết được ít nhiều, hỏa khí cũng đã giảm bớt.

Huyền Nguyệt đạo trưởng ngửa mặt lên trời cho những giọt nước mưa chan hòa vào mặt rồi nói tiếp, "Chẳng giấu gì các vị, vừa rồi cũng chính bần đạo đã bị kích thích rất mạnh, chỉ muốn rút kiếm ra đánh một trận, có trông thấy máu mới có thể giải được những gì uất ức trong bụng, nhưng may sao lại tỉnh ngộ được sớm, vội điều khí vận tức, tâm hồn mới bình tĩnh lại được. Cứ lấy đó mà suy cũng đủ biết chắc các vị cũng có cùng một cảm giác như bần đạo?"

Thượng Tam Đường ho khan một tiếng rồi nói, "Đúng, đúng! Chính lão hủ cũng có cái cảm giác lạ lùng như thế."

Huyền Nguyệt đạo trưởng đưa mắt nhìn cặp Lỗ, Đàm đang say sưa chiến đấu nói, "Hai vị kia chắc cũng vì thế đấy thôi!"

Ngôn Phượng Cương đột nhiên vung tay lên, một luồng quyền phong ào ào như gió bão đánh vào khoảng giữa hai đối thủ làm cho những giọt nước mưa bắn tung tóe ra bốn phía.

Hai người cùng dừng tay ngoảnh lại nhìn Ngôn Phượng Cương đồng thanh hỏi, "Ngôn huynh làm thế là có ý gì?"

Ngôn Phượng Cương cười hì hì, "Hai vị hãy dừng tay một lát, rồi có muốn đánh nhau nữa cũng chưa muộn."

Huyền Nguyệt đạo trưởng nói, "Mời tất cả các vị vào cả trong này, bần đạo có việc muốn khẩn cáo."

Mọi người theo vào sảnh đường, bao nhiêu cặp mắt đều đổ dồn vào Huyền Nguyệt đạo trưởng, không ai lên tiếng nhưng đều ngầm vận khí điều tức cho tinh thần bình tĩnh.

Huyền Nguyệt đạo trưởng tra kiếm vào bao rồi thở dài nói, "Bần đạo từ hồi vào cửa từ bi, tuy chưa hoàn toàn thanh thản được cửa ải danh lợi, nhưng mười năm trời nay chưa từng thấy bao giờ tâm thần bị xung động kịch liệt như hôm nay. Chắc các vị cũng cảm thấy thế phải không?"

Đàm Khiếu Thiên cau mày nói, "Đạo trưởng nói đúng đấy. Tại hạ và Lỗ huynh xưa nay không thù oán gì cả thật không có bụng muốn động thủ nhưng không hiểu tại sao như có một cái gì bực bực tức tức trong lòng, tưởng nếu không đánh nhau thì không phát tiết ra được."

Lỗ Bình cũng nói, "Huynh đệ cũng cùng cảm giác ấy, lòng luôn luôn tự vẫn là không nên đánh nhau với Đàm huynh, vậy mà không hiểu tại sao hai tay cứ phải đánh nhau, không đánh không chịu nổi."

Huyền Nguyệt đạo trưởng gật đầu nói, "Chính vì có chuyện ấy nên bần đạo khuyên các vị hãy dừng tay là thế. Việc này lạ lắm, bần đạo hết sức hoang mang không hiểu ra sao cả."

Ngôn Phượng Cương nói, "Căn bệnh của chúng ta là do từ nhà Nam Cung mà ra, điều ấy không còn hoài nghi gì nữa, nhưng huynh đệ thật không hiểu tại sao nhà Nam Cung lại cố ý hại chúng mình? Và nếu đã có ý hại mình thì tại sao họ không hề bỏ thuốc độc cho mình chết hết đi, có phải giản dị đi không? Hà tất phải dùng cách làm cho chúng ta phải tự tàn sát lẫn nhau mà chết?"

Huyền Nguyệt đạo trưởng đột nhiên tuốt kiếm ra vung lên thành một đường sáng bạc cau mày nói, "Căn bệnh này cố nhiên là do nhà Nam Cung thế gia gây nên, chúng ta đều đã bị trúng độc cả rồi, chỉ là trong lúc này không biết là trúng độc gì?"

Vừa lúc đó, chợt từ bên ngoài nổi lên những tiếng cộc cộc của cây gậy tre chống xuống đất đưa vào, ngắt ngang câu nói của Huyền Nguyệt đạo trưởng.

Mọi người đều chú ý nhìn ra, chỉ thấy một bà mụ già da nhăn tóc bạc, tay chống gậy trúc thủng thỉnh bước vào. Theo sau bà ta có hai tỳ nữ vận áo xanh, tuổi trạc hai mươi, trên tay mỗi người đều cầm một cái bát bằng bạc đậy kín.

Thượng Tam Đường ngạc nhiên, đăm đăm nhìn bà lão một lúc rồi buột miệng kêu, "Nam Cung chủ nhân..."

Bà già cử động trong bề ngoài thì thủng thỉnh ung dung nhưng kỳ thật thì nhanh nhẹn vô cùng. Thượng Tam Đường nói chưa dứt câu thì mụ đã tiến vào trong sảnh, chống mạnh cây gậy trúc xuống đất rồi lạnh lùng nói, "Phải chính lão thân là chủ nhân của Nam Cung Thế Gia!"

Lúc này mưa đã tạnh nhưng mây xám vẫn chưa tan, từng trận thu phong hầm hét lùa qua những cây bách trên bãi tha ma hát lên những tiếng xào xạc rào rào của lá cây va chạm vào nhau.

Bà già mặc áo đen, da mặt trắng xanh ngắt nhưng hai thiếu nữ đi theo hầu thì lại xinh đẹp như tiên, hai má hồng hồng, tóc xanh óng mượt, da trắng như tuyết, mắt đen như nhung.

Bà già tuy sắc diện đầy vẻ bệnh hoạn nhưng đôi mắt long lanh như điện, nhìn vào ai thì như thấu đến gan ruột người ta. Huyền Nguyệt đạo trưởng tinh thần trấn tỉnh hơn cả, trừng mắt quát lớn, "Nam Cung phu nhân..."

Vừa nói được mấy câu, đột nhiên một luồng hơi nóng từ dưới đan điền lại cuồn cuộn dâng lên, vội nhắm nghiền hai mắt, không dám nói nữa.

Nam Cung phu nhân ngẩng mặt lên trời nhìn đám mây đen dày đặc miệng cười khanh khách nói, "Mới có mấy chục mùa nóng lạnh mà con cháu cha ông mấy đời nhà họ Nam Cung đều bị chết yểu, mối thù này chẳng lẽ không báo..."

Huyền Nguyệt đạo trưởng trong lòng vẫn sáng suốt như thường, tự nghĩ, "Nam Cung phu nhân đang ốm mà vẫn gắng gượng đến đây, đủ hiểu là họ đã mưu mô sắp đặt từ trước, nếu mình không tìm cách chuồn đi ngay thì nguy lắm." Lòng nghĩ như vậy, nhưng hai chân dường như bị tê liệt không sao nhúc nhích nổi.

Nam Cung phu nhân nhìn khắp mọi người một lượt rồi nghiêm nghị nói, "Nhà Nam Cung thế gia đối với hai phái Hắc, Bạch trong giang hồ xưa nay vốn không thù không oán, nhưng mấy mươi năm nay một nhà bốn đời đều bị tai họa mà tuyệt không ai biết rõ họ bị nguyên nhân gì mà chết? Chết về tay ai? Cả đến thi thể cũng không tìm thấy nốt. Bây giờ chỉ còn năm người quả phụ không cần ai tìm giết, cũng chỉ khoảng chừng mấy chục năm nữa là giòng họ nhà Nam Cung tự nhiên sẽ phải tuyệt tích trên giang hồ. Cái thủ đoạn thâm độc ấy trăm ngàn năm nay chưa hề nghe thấy."

Lúc này quần hào đã trở lại cái trạng thái như lúc mới đến, mặt người nào người nấy đều đỏ như gấc chín, trong cái tâm tình hỗn loạn chỉ muốn đánh đấm cấu xé, còn xen lẫn một ngọn lửa dục, đang bốc cháy ngùn ngụt, không sao dập nén được. Đến nỗi bao nhiêu con mắt đều nhìn hau háu vào hai thiếu nữ như chỉ muốn ăn tươi nuốt sống, không ai thèm để tai nghe Nam Cung phu nhân nói những câu gì.

Bà già lại cười khanh khách một hồi, quay lại bảo hai tỳ nữ, "Đã đến giờ rồi, hãy để họ cố gắng chịu đựng một chút nữa thì họ hóa điên mất, chúng ngươi động thủ đi thôi."

Hai người con gái vâng lệnh, lập tức cởi bỏ áo ngoài, lưng ong khẽ uốn chẳng khác gì một đôi bướm xuyên hoa xông tới trước mặt quần hào, thân pháp cực kỳ linh diệu.

Quần hào lúc này đã mất hết lý tính, đều đứng phắt dậy xông ra túm lấy hai thiếu nữ và đấm đá nhau loạn xạ. Thật là một cuộc ẩu đả vô cùng sôi nổi, không ra lề lối gì cả.

Trong đám ẩu đả hỗn loạn đó, người nào võ công cao cường tất là được lợi thế hơn, người nào công lực kém hơn mình mẩy bị đầy vết thương, máu chảy ròng ròng.

Lạ nhất là những người này đều bị một ma lực gì sai khiến, nên tuy đã bị trọng thương mà vẫn không chịu dừng tay.

Huyền Nguyệt đạo trưởng lúc đầu còn nhờ có định lực nội công thâm hậu, trấn át được dục niệm, nhưng chỉ lát sau, dần dần cũng bị lôi cuốn vào đám loạn đả.

Cuộc hỗn chiến kéo dài chừng ăn xong bữa cơm, Đàm Khiếu Thiên không sao gắng gượng nổi bị Ngôn Phượng Cương đấm cho một quyền vào giữa ngực, phun ra một phún máu tươi rồi ngã gục xuống. Tiếp theo đó là Tống Văn Quang, Bạch Thiết Sinh, Vạn Xung cùng lần lượt ngã cả. Toàn trường chỉ còn lại bốn tay có võ công cao nhất là Huyền Nguyệt đạo trưởng, Thượng Tam Đường, Ngôn Phượng Cương và Lỗ Bình vẫn còn đấm đá túi bụi, chưa chịu dừng tay.

Lão bà cau mày lẩm bẩm nói một mình, "Bốn người này võ công cao lắm, nếu để họ đánh nhau mãi chỉ sợ còn lâu..."

Hai nữ tỳ đột nhiên hét to lên một tiếng, bốn cánh tay trắng muốt cùng giơ lên, đánh thẳng vào giữa bọn bốn người.

Bọn này tuy trong bụng bị kích thích mãnh liệt nhưng tinh thần vẫn chưa đến nỗi hoàn toàn mê lú, nên khi bị chưởng phong của hai thiếu nữ phóng tới, vẫn còn biết giơ tay chống gạt.

Nhưng mấy người này vì đánh nhau quá lâu, mất sức quá nhiều, lại thêm chưởng phong của hai nữ tỳ cực kỳ quái dị khó đoán, nên chỉ trong một khắc, họ đều bị hai thiếu nữ đánh trúng huyệt đạo, ngã lăn xuống đất.

Mụ già thích chí mỉm cười, bảo nhỏ hai thiếu nữ, "Chúng bay kéo họ vào góc nhà kia."

Hai thiếu nữ vâng lời, mặc áo dài vào đoạn khiêng từng người một đặt vào xó nhà.

Lúc này, chỉ một mình Diệp Sương Y là không tham dự vào cuộc hỗn chiến, nàng vẫn lẳng lặng đứng một bên. Cuộc hỗn chiến thảm khốc vừa rồi đã làm cho nàng thất đảm, ngơ ngác rụng rời đến nổi quên cả chạy trốn.

Chợt nghe cái giọng lạnh như thép của bà già quát bảo, "Bỏ tấm khăn che mặt ra!"

Thiếu nữ ngẩng lên nhìn mụ nhưng vẫn đứng chết sững, chẳng nói chẳng rằng.

Bà già cau mặt dằn giọng, "Mi có nghe ta nói không? Hay là phải để ta ra tay lấy?"

Diệp Sương Y đôi mắt đầy vẻ hoảng sợ, giơ tay lên từ từ tháo chiếc khăn xuống.

Bà lão chăm chăm nhìn vào mặt nàng giây lát, gật gù nói, "Cô bé đẹp quá!"

Diệp Sương Y cảm thấy đôi mắt mụ sáng lên một luồng sát khí, trong bụng sợ hãi vô cùng, tự nghĩ, "Người này nội công thâm hậu kinh khủng, mà mắt mụ hình như lại chứa đầy vẻ oán độc, căm thù, không khéo mụ giết mình chết."

Nàng tuy là một thiếu nữ mới lớn chưa am hiểu hết việc đời, nhưng được cái là thông minh và có trí hơn đời, nàng biết mấy người trong bọn sở dĩ điên cuồng bên trong tất phải có duyên cớ, nữ chủ nhân Nam Cung thế gia nhân lúc hỗn loạn đột nhiên chạy đến, chắc là họ có sắp đặt từ trước, cái âm mưu bí mật đó chỉ trong chốc lát sẽ được phanh phui vậy nên nàng cũng không muốn nhân dịp bỏ trốn vội.

Mụ già nhìn kỹ thiếu nữ một lát, đột nhiên cười lạt nói, "Bé con tốt lắm!"

Giọng nói của bà ta đột nhiên trở nên thân mật, ôn hòa nhưng tia mắt vẫn lạnh như băng.

Diệp Sương Y nghĩ thầm, "Ta phải giả bộ ngây ngô ngốc nghếch để mụ không đề phòng thì mới thừa cơ trốn đi được." Nàng ngước đôi mắt ngây thơ nhìn bà già vờ hỏi, "Tôi tốt gì cơ?"

Mụ già cười nhạt nói, "Mi không bị trúng độc."

Rồi quay lại bảo hai tên nữ tỳ, "Điểm huyệt cho những người kia, rồi đổ "Tỉnh thần thang" cho họ uống, cho họ tỉnh lại."

Hai tỳ nữ "dạ" một tiếng, điểm huyệt quần hào xong, lại mở chiếc bát bạc ra, trong bát đựng đầy một thứ nước màu xanh biếc, hương xông lên sực nức thấm vào tới gan phổi người ta.

Hai tỳ nữ cạy răng từng người, đổ nước xanh đó vào miệng họ.

Bà lão khẽ gõ đầu gậy xuống đất hỏi Diệp Sương Y, "Hài tử! Ngươi muốn biết rõ đầu đuôi câu chuyện này lắm phải không?"

Diệp Sương Y thấy bà ta đoán đúng tâm sự mình bất giác quả tim đập thình thịch, nghĩ thầm, "Mụ này ghê gớm thật! Hình như mụ nhìn thấu cả ruột gan người ta."

Lại thấy mụ ngửa mặt lên trời cười nhạt nói, "Trên đời này chưa có ai biết rõ sự bí mật của Nam Cung thế gia mà còn được sống sót. Bé con, mi muốn biết cũng được, nhưng biết rõ rồi thì đừng hòng sống nữa con ạ!"

Diệp Sương Y lạnh toát cả xương sống, nghe câu nói của mụ mỗi câu đều như mũi kim đâm suốt trái tim. Và mụ nói một cách quả quyết hình như không còn gì có thể lay chuyển nổi ý định của mụ, nên nàng chỉ đành lẳng lặng đứng nghe chứ không biết nói gì nữa.

Nước tỉnh tửu thang quả nhiên kiến hiệu như thần, quần hào uống một lúc không lâu, đều lần lượt tỉnh lại.

Bà lão đưa mắt nhìn mọi người một lượt rồi lạnh lùng nói, "Nhà Nam Cung thế gia đối với các nhân vật giang hồ hơi có chút đỉnh tiếng tăm thời này đều có cái thù không đội trời chung. Sự đau đớn thống khổ của năm đời quả phụ nhà ta cần phải lấy máu tươi của mấy trăm hoặc mấy ngàn nhân vật võ lâm mà gội rửa, bồi thường cho đã..."

Mụ ngừng một lát rồi nói tiếp, "Nhưng lão thân không muốn cho các ngươi chết một cách hồ đồ, trước khi các ngươi chết, lão thân sẽ vạch sẵn ra mấy con đường cho các ngươi lựa chọn..."

Mụ ngửa mặt lên trời cười khanh khách rồi lại nói, "Nhưng dù theo con đường nào thì các ngươi đừng hòng gặp may mắn, vì mỗi con đường đều có sự thống khổ vô tận của nó."

Huyền Nguyệt đạo trưởng thần trí tỉnh táo trước nhất, nghe mụ nói chỉ khẻ "hứ" một tiếng rồi cười nhạt, "Dùng mưu mẹo quỉ quái để đánh lừa người ta không biết đáng gọi là nhân vật gì?"

Mụ già cười một cách lạnh lùng, "Cái thủ đoạn giết hại bốn đời nhà Nam Cung thế gia có phải là mưu mẹo quỉ quái không?"

Thượng Tam Đường lúc này cũng đã tỉnh lại, bèn nói, "Trong ngần người này, ai là kẻ đã dự vào việc giết hại con cháu bốn đời nhà Nam Cung? Cái lối tội người này gán cho người kia không phải là đường lối của kẻ anh hùng."

Mụ già tóc bạc cười một cách đanh ác, "Ta không hơi đâu mà cãi lý với các ngươi, bây giờ ta chỉ vạch ra hai con đường rồi tùy các ngươi lựa chọn."

Mụ lại gõ cây gậy xuống đất nói tiếp, "Việc này ta phải nói lại từ đầu cho các ngươi chết được nhắm mắt, ngay lúc mới bước chân vào nhà Nam Cung thế gia, các ngươi đã được uống một chén trà, trong đó đã có bỏ thuốc độc."

Diệp Sương Y giật mình nhớ lại, lúc ngồi chờ trước cửa nhà Nam Cung, có một con tiểu tỳ đem nước trà ra mời, may sao nàng từ chối không uống, nếu không lúc này mình sẽ ra thế nào? Nàng chợt đỏ bừng đôi má không dám nghĩ tiếp nữa.

Lại nghe mụ già nói tiếp, "Cái lối đó thì thật ra cũng hơi ngốc, nhưng ta đoán các vị mới tới nhà Nam Cung lần này là lần đầu chắc cũng không ai ngờ là lão thân lại bỏ thuốc độc vào trà để đãi khách."

Thượng Tam Đường lẩm bẩm một mình, "Không ai ngờ thật!"

Mụ già lại cười hềnh hệch nói tiếp, "Đầu tiên ta định cho các ngươi ngã ngay nhà Nam Cung thế gia, song nghe trong bọn ngươi có một thiếu nữ, thế là ta đã thay đổi chủ ý, ta không bỏ thuốc độc vào trong trà mà lại bỏ vào một thứ thuốc xuân tình cực kỳ mãnh liệt để các ngươi uống xong, không sao nén được lửa dục mà tự tàn sát nhau vì đứa con gái."

Huyền Nguyệt đạo trưởng "hừ" một tiếng giận dữ nói, "Mưu kế thâm độc thật!"

Mụ già vẫn điềm nhiên nói, "Bây giờ ta cho các ngươi lựa lấy hai con đường, một đường sống và một đường chết. Trước hết ta hãy nói về con đường sống..."

Mụ nói tới đây lại còn trầm ngâm như đang suy nghĩ cần nói câu gì trước. Một lúc lâu mụ mới thủng thẳng lên tiếng, "Trên đời này trừ nhà Nam Cung ta ra, dám chắc không còn ai biết là trên cơ thể con người đều có bốn cái huyệt rất lạ, những cái huyệt này không thuộc vào trong hệ thống kinh huyệt phổ thông nhưng đều có một diệu dụng vô cùng..."

Huyền Nguyệt đạo trưởng giật mình kinh sợ vội hỏi, "Có chuyện thế cơ à?"

Mụ già cười khẩy, "Ngươi không tin thì thử chọn con đường ấy xem!"

Rồi mụ thở dài nói tiếp, "Người bị điểm vào bốn huyệt đó sẽ hoàn toàn mất hẳn trí nhớ nhưng trái lại võ công thì tăng tiến một cách khá nhanh. Có những môn võ công người thường luyện một cách khó khăn mà người bị điểm huyệt lại luyện một cách dễ dàng như không. Không khó nhọc gì cả."

Quần hào đều đưa mắt nhìn nhau, không ai lên tiếng.

Mụ già cười the thé một hồi rồi nói tiếp, "Nếu các vị chọn con đường sống, lão thân sẽ lập tức điểm vào bốn huyệt bí mật đó. Sau khi điểm huyệt rồi sẽ lập tức quên hết mọi chuyện, dẫu cha mẹ con cái cũng không nhận ra nữa, và sẽ vui vẻ làm nô lệ cho nhà Nam Cung suốt đời."

Huyền Nguyệt đạo trưởng mắt trợn tròn xoe, thần quang tóe lửa nhìn vào mặt mụ già hỏi, "Còn con đường chết thì thế nào?"

Mụ già đáp ra ngoài câu hỏi, "Ngươi có nội công thâm hậu lắm, lão thân mới chỉ được gặp vài tay cao thủ như ngươi."

Huyền Nguyệt đạo trưởng đang tự tìm cách giải huyệt lấy, nhưng thấy thủ pháp điểm huyệt cực kỳ quái lạ không sao giải được nên đành lại thôi, trừng mắt hỏi lại, "Ta hỏi ngươi con đường chết như thế nào? Sao ngươi không nói?"

Mụ già đột nhiên lại cất tiếng cười the thé, "Đường chết ấy à? Giản dị lắm. Trước hết lão thân sẽ giải huyệt cho các ngươi, rồi mới cho các ngươi uống một thứ thuốc độc chậm ngấm trong vòng bảy ngày chất thuốc chưa phát."

Ngôn Phượng Cương nói, "Hết bảy ngày chất thuốc phát ra thì chết chứ gì? Ta xin tình nguyện chọn con đường chết."

Mụ già cười khẩy, "Nếu quá dễ dàng như vậy thì ta dám chắc tất cả các ngươi sẽ chọn con đường chết cả. Nhưng không đâu, cho các ngươi uống thuốc độc xong, ta sẽ quét vào người các ngươi một lớp mật ong bỏ ra hang cốc cho kiến và sâu bọ, chim chóc sẽ ngửi thấy mùi mật mà kéo đến. Các vị uống thuốc xong, toàn thân gân cốt đều mềm nhũn ra không cử động gì được, tha hồ cho sâu bọ đục khoét."

Huyền Nguyệt đạo trưởng lạnh lùng nói, "Phương pháp đó quả thật âm độc có một không hai!"

Mụ già gật gù nói, "Vì thế nên ta tin rằng các vị không ai muốn chọn con đường chết. Thời gian bảy ngày tuy ngắn ngủi, nhưng một người sống mà mình bôi đầy mật nằm trong chỗ núi hoang vắng vẻ để cho sâu kiến, ruồi bọ đục khoét dần thì chịu sao nổi?"

Huyền Nguyệt đạo trưởng lẳng lặng cúi đầu chẳng nói chẳng rằng, rõ ràng là ông ta đã khiếp sợ vì những lời đe dọa của mụ.

Lại nghe tiếng mụ già the thé đưa ra, "Lão thân tuy nóng lòng muốn báo thù, nhưng đối đãi với thuộc hạ bao giờ cũng khoan dung đức độ. Nếu các ngươi chịu đầu hàng nhà Nam Cung thế gia, thì lão thân này quyết không bạc đãi. Bốn huyệt bị điểm, tuy làm cho các vị quên hết trí nhớ, mất sạch phiền não nhưng cũng có cái hay là từ nay các vị sẽ được thảnh thơi tâm trí mà an hưởng cuộc đời khoái lạc vô song."

Trong khi nói, thần sắc mụ lộ vẻ say sưa mê mải như chính mình được hưởng cái cảnh khoái lạc đó. Mụ nói tiếp, "Đó là một thế giới riêng biệt không có ký ức, không biết phiền não, tất cả người đời đối với các ngươi không còn liên hệ gì nữa trong đời sống của mình, các ngươi chỉ cần biết có ba điều, ăn uống, trai gái, và giết người..."

Quần hào nghe đến đó đều rùng mình, xương sống lạnh toát.

Diệp Sương Y từ nãy giờ chỉ cúi đầu lẳng lặng nghe, lúc này nàng đột nhiên lên tiếng, "Lão tiền bối! Trung Nguyên Tứ Quân Tử có phải cũng chính lão tiền bối giết không?"

Mụ già gật đầu nói, "Ừ! Mi hỏi hay đấy! Nhưng Trung Nguyên Tứ Quân Tử vẫn còn sống nhăn, ai bảo là chết? Có điều là lúc này bọn họ đã quên hết dĩ vãng rồi, mi tuy là con gái của Diệp Trường Thanh nhưng ông ta cũng không nhận ra nữa đâu."

Huyền Nguyệt đạo trưởng hậm hực nói, "Nhân vật võ lâm làm hại gia đình nhà mụ đến nỗi năm đời phải chịu góa phụ, mụ muốn báo thù đó là chuyện chính đáng không ai bảo sai. Nhưng oan có đầu, nợ có chủ, muốn biết ai là thủ phạm cần phải dò xét điều tra cho cặn kẽ, khi nào có chứng cớ hẳn hoi thì tha hồ đem hung thủ ra mà mổ xẻ, băm vằm gì tùy ý, có đâu lại coi toàn thể võ lâm là kẻ thù, báo phục lạm sát vô can như thế được?"

Ông ngừng một lát, lại tiếp, "Và Trung Nguyên Tứ Quân Tử là những người thích sống cuộc đời đạm bạc không chuộng hư danh, không bị lôi cuốn vào những cuộc tranh chấp của giang hồ, không can thiệp vào những chuyện thị phi của võ lâm, trừ việc mỗi năm bốn người họp mặt nhau một lần, còn bình thường lúc nào cũng ẩn cư một chỗ, nổi tiếng thanh bạch, vậy mà mụ lấy họ ra để khai đao trước là thế nào?"

Mụ già đột nhiên cười sằng sặc, "Chính vì bốn người đó khét tiếng là người hiền, trong giang hồ ai cũng biết Trung Nguyên Tứ Quân Tử không ham danh lợi, không thích xen vào những việc ân oán của võ lâm nên ta mới tìm họ trước. Các người thử nghĩ xem, Tứ Quân Tử là những nhân vật lừng lẫy võ lâm, nhất thời bị người giết chết hoặc mất tích, thì cái tin ấy có làm chấn động giang hồ không? Cứ theo lão thân dự đoán, những kẻ đến thăm nhà Nam Cung thế gia, bọn ngươi chỉ là tiên phuông, còn từ nay trở đi không biết có bao nhiêu nhân vật sẽ tìm đến đây nữa. Lão thân chỉ việc ung dung pha sẵn thuốc độc ngồi chờ đãi khách, như thế có giản dị hơn không?"

Huyền Nguyệt đạo trưởng cười nhạt, "Hừ! Mưu kế thâm độc thật, tàn khốc thật!"

Mụ già thản nhiên cười nói, "Những kẻ tìm đến nhà Nam Cung không phải ai lão thân cũng cần đến cái tài của họ đâu. Người nào trúng tuyển lão thân mới điểm bốn bí huyệt của họ rồi thâu làm môn hạ, người nào không trúng tuyển thì cho họ uống một thứ thuốc độc cực mạnh rồi vứt ra chỗ núi hoang cho sâu kiến nó đục khoét. Kế hoạch của lão thân là phải dùng đến một trăm nhân vật võ lâm..."

Diệp Sương Y vội ngắt ngang, "Nếu gia phụ còn sống thì bốn cái thi thể kia ở đâu ra?"

Mụ già đắc ý nói, "Các ngươi sắp sửa mất hết trí nhớ, quên hết dĩ vãng, không biết tương lai, ta có nói rõ cho các ngươi biết cũng không sao. Bốn thi thể ấy là do ta tự chọn từ trước, nhưng người này không may có cái vóc diện mạo hao hao giống Tứ Quân Tử, ta cho họ uống thuốc độc rồi sai người đem lên đặt ở Bách Trượng Phong."

Diệp Sương Y bĩu môi nói, "Tôi không tin trên đời này lại có người giống nhau như thế, giống đến nỗi con cũng không nhận ra cha, học trò cũng không nhận ra thầy nữa. Một người còn khó, huống hồ chi có những bốn người! Ai mà nghe được!"

Nam Cung phu nhân cười nói, "Con bé này cũng tinh tế thật. Việc ấy tuy khó nhưng đối với lão thân lại chẳng khó khăn tí nào, chỉ cần hình dạng khuôn mặt hao hao giống là được, còn mắt, mũi, miệng thì lão thân có thể dùng thủ thuật làm cho giống như tạc khuôn."

Diệp Sương Y ngạc nhiên hỏi, "Bà còn biết cả thuật sửa dung nhan cơ à?"

Nam Cung phu nhân cười nói, "Nào chỉ biết thuật sửa dung nhan mà thôi, ta còn biết móc mắt, nối tay, chân, thay diện mạo nữa. Những việc này đối với ta chẳng khác gì trò chơi."

Huyền Nguyệt đạo trưởng hỏi, "Chắc mụ đã đọc nhiều sách thuốc lắm phải không?"

Mụ đắc ý nói, "Nào chỉ đọc nhiều sách thuốc, mà còn bói toán, dịch lý, không cái gì mà lão thân không biết. Chỉ nói việc báo thù cho con cháu Nam Cung thế gia, lão thân đã mất hơn ba năm tìm mưu tính kế."

Ngôn Phượng Cương chợt lẩm bẩm một mình, "Hai đường sống, chết, đường nào cũng ghê gớm tàn khốc cả."

Nam Cung phu nhân chợt quày tay ra phía sau nắm lấy tay phải của Diệp Sương Y hỏi, "Ngươi có muốn xem gia gia ngươi không?"

Diệp Sương Y gật đầu nói, "Bà bà cứ yên tâm, tôi không trốn đi đâu đâu mà sợ."

Mụ già lạnh lùng nói, "Ngươi đã biết hết mọi sự bí mật của Nam Cung thế gia, đã đủ để không thể tha cho mi được nữa."

Diệp Sương Y nói, "Trước khi trông thấy gia phụ, dẫu bà có tha tôi cũng không đi."

Mụ già thuận tay điểm huyệt cho Diệp Sương Y rồi mới buông tay nàng ra, vừa đứng lên vừa nói, "Gia gia mi khỏe mạnh lắm!"

Vừa nói vừa thủng thỉnh bước đến trước mặt Huyền Nguyệt đạo trưởng.

Huyền Nguyệt đạo trưởng đã định bụng liều chết, nhưng huyệt đạo đã bị điểm không sao vùng vẫy chống cự được. Mắt trông thấy Nam Cung phu nhân bước đến trước mặt bất giác thở dài nói, "Mụ dùng âm mưu thâm độc ám toán, bần đạo chết cũng không phục mụ."

Nam Cung phu nhân nói, "Ngươi không nên than thở vì sở học không có chỗ phát huy. Từ nay về sau, ngươi còn sống ngày nào là chỉ lấy sự giết người làm khoái lạc."

Nói dứt lời, mụ đưa tay điểm vào huyệt đạo của Huyền Nguyệt đạo trưởng.

Chỉ nghe tiếng gậy của mụ luôn luôn chống xuống đất kêu "cộc, cộc", thân hình di động không ngừng, ngón tay thoăn thoắt duỗi ra co vào, chỉ trong khoảnh khắc, mụ đã điểm hết bốn huyệt đạo của ngần ấy người, chỉ trừ có Thượng Tam Đường.

Thượng Tam Đường đưa mắt nhìn quần hào nằm la liệt dưới đất, trong lòng đau đớn vô cùng, khẻ thở dài nói, "Mụ đem chúng tôi ra chém mỗi người một nhát cho rồi. Phương pháp điểm huyệt của mụ tàn khốc quá."

Mụ già mỉm cười nói, "Ngươi tuy là bạn của nhà Nam Cung, nhưng trước tình cảnh này không thể tha thứ cho ngươi được."

Mụ cười ha hả một hồi rồi nói, "Các con từ nay hãy yên nghỉ nhé. Ta sẽ đem tính mạng của hàng ngàn, hàng vạn cao thủ võ lâm bồi thường cho cái chết của các con."

Thượng Tam Đường nghe mụ than thở ai oán một hồi liền nghĩ thầm, "Mụ già này tuy thủ đoạn tàn khốc, nhưng cư nghĩ cái tình cảnh của mụ luôn luôn mất con, mất cháu thì không trách mụ được."

Còn đang suy nghĩ, chợt Nam Cung phu nhân cúi đầu xuống nói, "Thượng Tam Đường! Ngươi giao du với đứa cháu tam đại nhà ta rất thân, vậy nể mặt cháu ta, ta sẽ đặc biệt thi ân cho ngươi, nhưng ngươi phải theo ta hai điều kiện."

Thượng Tam Đường hỏi, "Điều kiện gì?"

Nam Cung phu nhân đáp, "Điều thứ nhất là ngươi phải để cho ta sửa lại diện mạo và cạo hết tóc đi..."

Thượng Tam Đường sửng sốt, "Cái gì? Lão phu đã gần bảy mươi tuổi đầu rồi, tự dưng đem cạo trụi cả râu tóc đi còn ra thể thống gì?"

Nam Cung phu nhân cười nhạt nói, "Không những ta phải cạo cả râu tóc ngươi đi mà ta còn muốn thay cả bộ mặt của ngươi nữa cơ! Làm cho trên đời này không còn ai nhận ra ngươi là Thượng Tam Đường nữa."

Thượng Tam Đường lắc đầu lia lịa nói, "Thật là tức cười quái gở! Lão phu sống ngần tuổi này rồi mà chưa từng nghe thấy câu chuyện kinh hồn như vậy."

Nam Cung phu nhân lạnh lùng nói, "Chuyện kinh hồn ta còn chưa nói tới..."

Ngừng một lát rồi lại tiếp, "Còn một điều kiện nữa là ngươi hãy giúp cho Nam Cung thế gia gây thành một cuộc tàn sát gió tanh mưa máu trên khắp giang hồ..."

Thượng Tam Đường lắc đầu lia lịa nói, "Võ lâm cao thủ trên giang hồ nhiều không xiết kể, Thượng Tam Đường được bao nhiêu hơi sức mà đòi dấy động binh đao gây thành bạo kiếp?"

Nam Cung phu nhân cười lạt nói, "Không cần ngươi phải dùng đến binh đao hay đánh nhau với ai hết, chỉ cần ngươi kể cho ta nghe lai lịch của từng người là đủ. Ngươi giao du rất rộng, qua lại với tất cả chín đại môn phái lại nổi tiếng là người hiền, nếu ngươi lấy tình bằng hữu giao du với nhà ta thì lại càng danh giá hơn nữa."

Thượng Tam Đường nói, "Lão phu quả có quen biết với nhiều bạn bè võ lâm đồng đạo thật, nhưng không phải người nào lão phu cũng biết rõ tường tận về họ đâu."

Nam Cung phu nhân nói, "Ngươi cứ nói hết những điều ngươi biết về họ là được rồi, nếu ngươi bằng lòng hai điều kiện đó, ta sẽ không điểm bốn bí huyệt của ngươi để ngươi còn giữ được trí nhớ."

Thượng Tam Đường ngẫm nghĩ giây lâu rồi gật đầu, "Thôi được rồi, lão phu thuận theo hai điều kiện của phu nhân."

Nam Cung phu nhân lập tức vẫy tay bảo hai nữ tỳ, "Chúng bay thử đếm xem có đủ số người không?"

Hai nữ tỳ vâng lệnh đếm xong báo cáo, "Mười người sống, bốn người đã chết!"

Nam Cung phu nhân nói, "Tốt lắm! Chúng bay khiêng họ lên cổ xe kia chở về đi."

Hai nữ tỳ vâng "dạ" một tiếng thật lớn rồi lập tức khiêng bọn Huyền Nguyệt đạo trưởng, cả bọn mười người chất hết lên xe rồi ra roi cho ngựa chạy đi.

Bãi tha ma hoang vắng, ngôi từ đường lại khôi phục cái cảnh tịch mịch ngày thường của nó.

Tiếng xe ngựa lộc cộc mỗi lúc một xa dần.

Lúc này, trên không mây xám đã dần tan hết, một vầng thái dương xé mây hiện ra, nắng vàng trải khắp mặt đất.

Hồi thứ bảy

Trận kiếm thất tinh

Quang âm thấm thoắt, thoáng đã nửa năm, trong giới vũ lâm đều xôn xao sôi nổi vì cái tin Trung Nguyên Tứ quân tử và bọn Huyền Nguyệt thốt nhiên mất tích.

Một hôm vừa đúng ngọ, ngoài cửa Tam nguyên quan núi Vũ Đương có một chiếc kiệu nhỏ, bốn mặt che rèm lụa xanh do hai người đàn ông thân thể lực lưỡng khiêng tới. Theo sau cỗ kiệu có bốn tên nữ tỳ mặc áo chẽn màu quan lục, mỗi người trên cánh tay trái đều đeo một món võ khí trông giống như lưỡi liềm, và cái túi nhỏ, trên thêu một bông hoa hồng.

Bốn tỳ nữ tuổi đều trac trên dưới đôi mươi, diện mạo xinh đẹp, dáng điệu lanh lẹn. Họ theo sát hai tên phu kiệu đi nhanh như bay, không hề tỏ vẻ khó nhọc chút nào.

Cỗ kiệu xanh đi thẳng tới cửa chính Tam nguyên quan mới dừng lại.

Hai cánh cửa quan sơn đen vẫn đóng im ỉm.

Từ trong bức rèm xe, đưa ra một giọng nói hơi nằng nặng, "Xuân Lan, Thu Hương, hai con vào gõ cửa đi."

Lập tức hai thiếu nữ áo xanh "dạ" to một tiếng, rồi xăm xăm bước lên, phóng một chưởng vào chiếc vòng đồng trên cánh cửa.

Hai cánh cửa sơn đen "két" một tiếng rồi bật tung ra, một đạo nhân trạc tuổi trung niên, lưng đeo trường kiếm thủng thỉnh bước ra, ngước mắt nhìn cỗ kiệu che rèm xanh, rồi lại nhìn Xuân Lan, Thu Hương, chắp tay nói, "Hai vị nữ thí chủ đến đây có việc gì?"

Thiếu nữ đứng bên phải sợ hãi lùi lại phía sau hai bước nói nhỏ, "Chị Xuân Lan, chị nói cho ông ta biết đi!"

Thiếu nữ đứng bên trái mỉm cười nói, "Sao cái tính cả thẹn của chị mãi không sửa được như vậy? Sau này chị đi lấy chồng, có lẽ cũng phải nhờ tôi đi nói hộ chắc?"

Nói rồi quay lại vái đạo nhân một vái, thưa rằng, "Chúng tôi không quản xa xôi nghìn dặm tới đây là cốt được bái kiến quý chưởng môn."

Đạo nhân ngẩn người giây lâu, mới nói, "Tệ chưởng môn mấy năm gần đây đã đóng cửa tạ khách, không tiếp một ai chỉ sợ phí công các vị đi lại vất vả."

Xuân Lan cau mày vừa định nói lại, thì vị đạo nhân như chợt nghĩ ra điều gì, vội hỏi, "Các vị ở đâu đến đây?"

Vừa nói vừa đưa mắt ngắm nghía cỗ kiệu. Xuân Lan nói, "Chắc đạo trưởng cũng ít khi ra khỏi Vũ Đương sơn phải không?"

Đạo nhân thản nhiên gật đầu, "Cô nương nói đúng. Bần đạo nhập miếu từ năm lên bẩy. Mấy chục năm nay chưa từng bước ra khỏi đại môn một bước."

Xuân Lan thò tay vào chiếc túi thêu, lấy ra một tấm giản thiếp màu đại hồng, đưa cho đạo nhân rồi nói, "Không cần phải nhìn nhìn ngó ngó nữa, đạo trưởng cứ cầm tấm thiếp này đệ trình quý Chưởng môn, nói có Đường lão thái thái, vị chưởng môn nhân thứ chín Đường gia đất Tứ Xuyên, thân hành đến thăm Người. Còn tiếp hay không, không can dự gì đến đạo trưởng."

Đạo nhân cúi nhìn tấm thiếp, thấy ngoài bì đề mấy chữ sau, "Thư gửi Huyền Chân đạo trưởng. Chưởng môn phái Vũ Đương tự mở đọc. Tứ Xuyên Đường bái."

Đạo nhân xem xong, trầm ngâm một lúc, rồi đưa trả Xuân Lan, lắc đầu nói, "Không được, chưởng môn tôi đương kỳ tọa quan, không thể tiếp kiến được bất kỳ vị khách nào."

Chợt nghe một tiếng cười nhạt từ trong kiệu đưa ra, tiếp theo là tiếng nói, "Lão thân đưa thiếp cầu kiến, đã là tận lễ giang hồ rồi, vậy mà ngươi còn kiếm cách nọ cách kia từ chối, rõ ràng là cố ý cự tuyệt! Nếu cứ lấy địa vị, danh tiếng mà bàn, thì lão thân đâu có kém gì chưởng môn phái Vũ Đương các ngươi..."

Vừa nói tới đấy, thì vị đạo nhân kia dáng chừng sốt ruột, cao giọng ngắt lời, "Bần đạo từ bé đến giờ, không từng nói dối ai một câu. Lão tiền bối trách thế, chẳng hóa khinh thường bần đạo lắm sao?"

Trong cỗ kiệu rèm xanh lại đưa ra một tiếng cười nhạt, nói, "Xuân Lan vứt bái thiếp xuống!"

Xuân Lan dạ một tiếng, lại cầm tờ thiếp đưa cho đạo nhân miệng thì nói, "Đỡ lấy!"

Đạo nhân này từ nhỏ chưa từng nói chuyện với đàn bà con gái bao giờ, nên rất lúng túng không biết xử trí thế nào, khi thấy Xuân Lan đưa cánh thiếp ra, lại vội vàng giơ tay đỡ lấy.

Người ngồi trong kiệu lại cười nhạt, nói, "Ta không muốn phí lời với một tên giữ cửa, ngươi cứ đưa thiếp này cho Chưởng môn ngươi, hắn tiếp hay không, không can gì đến ngươi cả. Một giờ sau lão thân sẽ trở lại, lúc ấy dù các ngươi không tiếp ta cũng cứ vào. Ta bảo trước cho mà biết."

Nói chưa dứt lời, hai tên đại hán đã đặt đòn kiệu lên vai quay lại lối cũ, đi nhanh như bay, thoáng chốc đã mất hút.

Đạo nhân ngẩn người đứng trông theo, mãi tới khi không thấy bóng chiếc kiệu nữa, mới đóng cửa đi vào.

Ước chừng thổi chín nồi cơm, hai cánh cửa lớn lại được mở rộng, rồi bẩy tám người đàn ông, tuổi cỡ trung niên, mặc áo đạo bào kéo nhau đi ra.

Vị đạo nhân đi đầu, tuổi cao hơn hết, bộ râu dài rủ xuống tận ngực, phấp phới bay tung, đôi mắt sáng quắc, nhác trông đã biết là người có nội công vào bực thượng thừa.

Hình như ông là người đứng đầu trong bọn, vừa ra tới cửa bèn lập tức chỉ huy cho mấy người kia, chia ra làm hai đội, dàn thành thế trận trên một bãi cỏ, ngay trước cửa Tam Nguyên quan.

Tam Nguyên Quan là nội viện của Vũ Đương, cách tòa đạo quan phía trước hai ngọn núi nữa. Ngày thường khách đến lễ, không ai bước chân tới khu này. Xung quanh rừng rậm vây kín bốn bề, chính là một nơi mà phái Vũ Đương vẫn dùng để chứa quyền kinh, kiếm phả, và cũng là nơi cư trú của các vị cao cấp trưởng lão trong phái.

Chu vi khu này rộng chừng ba dặm, biệt lập thành một khu cấm địa, bất luận hạng người nào, nếu chưa được người trong phái Vũ Đương cho phép, cũng không được bước vào bên trong. Mười năm nay, chưa ai dám phá cái lệ này.

Bọn đạo sĩ vừa ở trong đại viện đi ra, tất cả có tám người, bẩy người bầy thành một trận tuyến, chắn ngang trước cửa Tam Nguyên quan. Vị đạo nhân lớn tuổi nhất đứng riêng một mình, cách mặt trận chừng hơn một trượng, chắp tay ra sau lưng, ngẩng đầu nhìn mấy đám mây trắng đang bay lơ lửng trên không, thần sắc cực kỳ nghiêm chỉnh.

Hai cánh cửa gỗ sơn đen lại từ từ khép chặt.

Từng cơn gió rừng thổi qua lá thông, phát ra những tiếng u u, làm cho cảnh vật thâm sơn, càng tăng thêm phần tịch mịch.

Phút chốc, từ bên sườn núi phía trái chợt nổi lên một tiếng hú trong trẻo, rồi một bóng người nhanh như mũi tên lao tới chỉ trong nháy mắt đã tới trước cửa Tam Nguyên quan, đưa mắt nhìn trận thế, rồi đứng dừng lại.

Đạo nhân râu dài chờ cho người kia đứng yên đâu đấy, mới từ từ dời làn nhỡn tuyến chiếu thẳng người lạ mặt, lông mày hơi cau lại, hình như muốn nói gì lại thôi.

Người đàn ông mới tới, thân thể gầy gò da vàng như sáp, giữa hai lông mày lờ mờ nổi lên một luồng hắc khí, nếu không nhờ có đôi mắt đưa đi đưa lại, thì ai mới nhác trông cũng tưởng là một người chết, vừa ở trong áo quan chui ra.

Đạo nhân chú ý nhìn người lạ mặt một lúc, rồi thốt nhiên với tay ra sau vai rút thanh trường kiếm vung lên không một vòng, lạnh lùng nói, "Ngươi có biết xung quanh Tam Nguyên quan trong vòng ba dặm đã vạch thành cấm khu rồi không? Bất cứ người nào nếu chưa được người trong Vũ Đương cho phép, đều không được tự tiện bước vào!"

Gã đàn ông ngoác miệng ra cười một hồi, giọng cười lạnh như thép nói, "Ta cũng đã nghe có người nói như vậy!" Rồi gã lại cười thêm một hồi nữa.

Đạo nhân chợt trừng mắt quát, "Im mồm! Cười cái gì thế?"

Ông dừng lại một lúc, rồi lại hỏi, "Ngươi là thế nào với nhà họ Đường đất Tứ Xuyên?"

Gã đàn ông đáp, "Món ám khí tẩm độc của Đường gia đất Tứ Xuyên tuy lợi hại thật, nhưng chưa đủ làm cho tại hạ khiếp phục."

Đạo nhân sửng sốt hỏi, "Vậy thì ngươi là ai?"

Gã đàn ông lạnh lùng đáp, "Đạo trưởng chắc không đi lại trong giang hồ, nên không biết tại hạ..." Ngừng một lát, gã lại tiếp, "Nghe khẩu khí của đạo trưởng, thì hình như ngài đã được giới vũ lâm tặng cho một ngoại hiệu là "kiếm si thiết tạp" phải không?"

Đạo trưởng đáp, "Phải, bần đạo chính là Huyền Tinh, ngoại hiệu "Kiếm si Thiết tạp". Ngươi đã nghe danh bần đạo, thì nên rút lui ngay đi là hơn."

Gã đàn ông nhếch miệng cười, "Oai danh của đạo trưởng tuy vang dội khắp bốn phương nhưng cũng chưa đủ làm cho tại hạ phải hoảng vía mà bỏ chạy đâu!"

Huyền Tinh cười nhạt, "Hừ, ngươi là ai mà dám làm oai làm phách quá vậy?"

Gã đàn ông giơ ba ngón tay lên rồi hỏi, "Đạo trưởng có nhận ra thế này là nghĩa gì không?"

Huyền Tinh ở trong phái Vũ Đương địa vị rất cao, chỉ phải cái tính lạnh lùng cô độc, lại hơi ngốc nghếch, hàng ngày ngoài việc luyện kiếm ra không hỏi gì đến việc khác nữa. Từ khi Huyền Chân đạo trưởng kế vị chưởng môn, đối với vị sư đệ này, vẫn hết sức quan tâm. Vũ công của Huyền Tinh tuy cao siêu trác tuyệt đáng liệt vào hàng cao thủ nhưng khốn nỗi ông ta không có tâm cơ, không phân biệt nỗi thị phi hắc bạch, nếu cho ra chốn giang hồ tất không sao tránh được nguy hiểm nên mới đem trách nhiệm phòng thủ Tam Nguyên quan giao cho ông ta cai quản.

Từ hồi tiếp nhận trách nhiệm phòng thủ Tam Nguyên, trong vòng mười năm trời, không biết ông ta đã đánh bại được bao nhiêu tay cao thủ vũ lâm dám thiện tiện xông vào cấm địa, vì thế mới có cái ngoại hiệu là "Kiếm si Thiết tạp".

Gã đàn ông thấy mình đã giơ ba ngón tay lên, mà Huyền Tinh chỉ đứng ngây ra nhìn chẳng bảo sao cả, thì cau mày nói, "Không biết vị đạo trưởng kiến thức hẹp hòi, hay vì tiếng tăm của tại hạ quá nhỏ mọn, không đủ để đạo trưởng nhận ra? Thôi để tại hạ tự giới thiệu lấy vậy, ba ngón tay này là đại biểu cho cái hỗn hiệu "Tam thủ Sưu hồn" của tại hạ."

Huyền Tinh lẩm bẩm như nói một mình, "Tam thủ Sưu hồn. Hừ, tên gì mà kỳ cục vậy?"

Gã đàn ông đắc ý nói tiếp, "Huynh đệ chính là "Tam thủ Sưu hồn" Bao Phương."

Huyền Tinh vẫn thản nhiên, lắc đầu, "Bần đạo chưa nghe thấy quý danh bao giờ thật! Các hạ đến đây có việc gì?"

Bao Phương giận tái mặt, nhưng vẫn lạnh lùng đáp, "Tại hạ có chút việc cần, muốn vào bái yết Huyền Chân đạo trưởng."

Huyền Tinh ngắt lời, "Chưởng môn sư huynh tôi đang thời kỳ bế quan, không tiếp khách lạ. Ngươi có việc gì cần, xin để ba tháng nữa sẽ trở lại."

Bao Phương nổi giận nói, "Bao mỗ này địa vị thế nào, mà để một tên gác cửa như ngươi đùa rỡn được! Ngươi tưởng ta sợ hay sao? Ngươi có chịu vào thông báo hay không thì bảo!"

Huyền Tinh vẫn lắc đầu, "Chưởng môn tôi đã có lệnh, bất cứ ai nếu muốn vào trong Tam Nguyên quan thì phải thắng nổi thanh kiếm trong tay bần đạo, thông qua được trận Thất tinh này bần đạo sẽ cho người vào thông báo với chưởng môn sư huynh."

Bao Phương chẳng nói chẳng rằng, tay phải đưa lên chặn ngang ngực, tay trái cầm kiếm, rảo bước tiến lên vài bước.

Huyền Tinh đưa thanh trường kiếm vạch theo thế "Hoạch định âm dương" kiếm quang sáng loáng, đánh chéo một nhát.

Bao Phương trong bụng không muốn đánh nhau, nhưng mũi kiếm của Huyền Tinh đã bức đến tận nơi thế không sao lùi được nữa bèn giơ tay trái lên phóng ra một chưởng, cực kỳ lanh lẹ, chặn ngang thế kiếm, tay phải dùng chiêu "Quỷ thủ chiêu hồn" khóa lấy cổ tay cầm kiếm của Huyền Tinh.

Hắn vừa ra tay đã dùng ngay ngón tuyệt nghệ thành danh tức là một chiêu trong "Sưu hồn tam thức" quả nhiên đánh bật được Huyền Tinh phải lùi lại phía sau ba bước.

Bẩy vị đạo trưởng kia thấy Huyền Tinh động thủ với người khách lạ, bèn lập tức phát động trận kiếm, di chuyển lại gần, người như những bánh xe từ từ lăn đi, kiếm quang lấp lánh, sáng chói một vùng.

Bao Phương hình như có một nỗi khổ tâm gì, không nói ra được, nên tuy đã chiếm được ưu thế mà vẫn không muốn hạ độc thủ, thừa thế tấn công. Đáng lý tiến lên, gã lại vội nhẩy lùi về phía sau ba thước, vòng tay toan nói, thì chợt nghe có nhiều tiếng chân bước vội vàng, từ phía bên sườn núi đưa tới.

Gã vội quay lại nhìn, thấy bốn tên nữ tỳ phò một cỗ kiệu nhỏ, đi nhanh như bay, đến thẳng trước mặt Huyền Tinh vẫn không dừng bước.

Huyền Tinh cau mày quát, "Đứng lại cả! Chẳng lẽ các ngươi khinh thanh trường kiếm của bần đạo không đủ sắc hay sao?"

Miệng tuy nói cứng, nhưng chân tự nhiên cũng cứ lùi dần về phía sau mấy bước.

Hồi thứ tám

Đường lão thái thái

Huyền Tinh đạo trưởng mấy chục năm nay chưa từng dời khỏi Tam Nguyên Quan một bước, rất ít khi được trông thấy đàn bà con gái. Lúc này thốt nhiên thấy bốn tỳ nữ xinh đẹp như tiên phò xung quanh kiệu. Chỉ sợ lỡ mũi kiếm vô tình lại chạm vào những làn da mơn mởn trắng nõn như tuyết kia chăng nên đôi chân không sao tự chủ được cứ lùi dần ra tránh lối.

Cỗ kiệu vượt qua trước cửa Tam nguyên mới dừng lại, bức rèm lụa xanh vén lên, rồi một người đàn bà y phục cao quý, tuổi trạc năm mươi, thủng thỉnh bước ra, bốn tên nữ tỳ đứng xếp hàng hai bên, dáng điệu cực kỳ cung kính.

Người đàn bà đảo mắt liếc qua kiếm trận và Huyền Tinh đạo trưởng một lượt, rồi lại nhìn Bao Phương, mỉm cười lạnh lùng nói, "Thần châu nhị quỷ xưa nay đi đâu cũng có đôi, sao bữa nay lại lẻ loi một mình thế này?"

Bao Phương tính tình tuy cuồng ngạo lạnh lùng nhưng đối với vị chưởng môn nhà họ Đường đất Tứ Xuyên đã nổi danh lừng lẫy về môn ám khí tẩm độc này cũng không dám quá phần hống hách, bèn chỉ sẽ đằng hắng một tiếng rồi nói, "Từ bữa chia tay ở Xuyên Trung, thấm thoát đã mười năm, hôm nay may mắn lại được gặp phu nhân."

Quý phụ gật đầu mỉm cười, "Thần châu nhị quỷ mấy năm nay danh tiếng lừng lẫy khắp Trung Nguyên, không ngờ đối với lão thân vẫn còn giữ được lễ mạo như hồi trước."

Bà ta cười khanh khách một hồi, rồi lại hỏi, "Tiêu lão nhị đâu?"

Bao Phương đôi mắt sáng rực như điện, liếc nhìn Huyền Tinh một cái rồi nói, "Không dấu gì phu nhân, Tiêu đệ tôi bị người ta ám toán nội thương nặng lắm, hiện đang nằm nghỉ trong một tòa sơn cốc kín đáo, cách đây chừng mười dặm. Tại hạ nghe nói phái Vũ Đương có thứ thuốc "Cửu chuyển Tiểu hoàn đan" công hiệu rất mạnh, nên đến cầu Huyền Chân chưởng môn cho vài viên, không ngờ gặp lão mũi trâu này. Chẳng biết lý lẽ gì cả, nhất định không cho tại hạ vào Tam quan, lại còn bức bách phải động thủ. Hừ, nếu tính nết tôi còn như hồi trước, thì đã xẩy ra chuyện đánh nhau rồi..."

Đường phu nhân cười khanh khách ngắt lời, "Tình hình hôm nay, bắt buộc Thần Châu nhị quỷ nín nhịn là phải, nhưng Tiểu hoàn đan của phái Vũ Đương có phải bạ ai cũng tặng được đâu?"

Bao Phương nói, "Nếu tại hạ được gặp Huyền Chân đạo trưởng, thì chỉ cần nói một lời, chắc chắn ông ta sẽ vui lòng đưa tặng."

Đường phu nhân nhìn trầm ngâm một lát rồi nói, "Ngươi cũng không cần gặp Huyền Chân đạo trưởng làm gì." Bà đưa mắt nhìn Huyền Tinh, rồi lại tiếp, "Bọn họ bố trí thế nầy, chỉ chuyên để đối phó với lão thân..."

Bao Phương vội nói, "Không được, huynh đệ tôi bị thương nặng lắm, chỉ còn thoi thóp thở, nếu hôm nay không xin được linh đan, thì e khó lòng mà sống được đến sáng mai."

Đường phu nhân cười nhẹ nói, "Ta đã bảo ngươi không cần gặp Huyền Chân đạo trưởng để xin thuốc, thì tất nhiên ta sẽ có cách khác chứ!"

Rồi bà thò tay vào trong kiệu lấy một cái bình nhỏ bằng ngọc, dốc ra hai viên linh đan đưa cho Bao Phương, rồi nói, "Cửu chuyển tiểu hoàn đan của phái Vũ Đương chỉ trị được thương thế, chớ hai viên linh đan này của ta còn có thể cải tử hoàn sinh được, ngươi đem về cho lệnh đệ uống."

Bao Phương đỡ lấy linh đan, thưa rằng, "Thần châu nhị quỷ xưa nay chưa hề vô công mà hưởng lộc của ai. Nay được phu nhân tặng thuốc, tất nhiên phải có cái gì báo đáp. Tôi xin đem vật định thủ tặng Huyền Chân đạo trưởng để chuyển tặng phu nhân."

Đường phu nhân nói, "Trước khi mặt trời lặn, chúng ta sẽ gặp nhau ở dưới cây cổ tùng nghìn năm chân núi Thất tinh, cách đây ngoài mười dặm, nói chuyện sau. Bây giờ ngươi nên về ngay cho lệnh đệ uống thuốc kẻo trễ. Lấy nước suối hòa vào một viên thuốc đổ cho người bệnh, sau đó chừng hai giờ nếu chưa thấy đỡ, thì lại cho uống thêm viên nữa."

Bao Phương cúi mình nói, "Xin đa tạ phu nhân."

Nói xong lập tức quay mình chạy đi nhanh như tên bắn, khinh công của gã thật là trác tuyệt, chỉ hai ba lần nhô lên hụp xuống, là đã mất hút.

Lúc nầy Đường phu nhân mới quay lại điềm nhiên nhìn Huyền Tinh đạo trưởng cười nói, "Đạo trưởng dàn trận kiếm ở trước cửa Tam Nguyên Quan là cốt để nghênh tiếp lão thân đó chăng?"

Thần thái và ngôn ngữ của Đường phu nhân có một cái oai riêng, khiến người trông thấy phải sinh kính nể.

Huyền Tinh cung kính đáp, "Bái thiếp của phu nhân đã đệ trình tệ Chưởng môn rồi."

Phu nhân nói, "Thế thì tốt lắm! Quý Chưởng môn bảo sao?"

Huyền Tinh nói, "Tệ Chưởng môn đang thời kỳ tọa quan, mỗi ngày chỉ vào buổi chiều mới tỉnh một lần. Bái thiếp của phu nhân tuy đã chuyển đệ, nhưng chỉ sợ tệ Chưởng môn vẫn chưa xem tới. Vậy tốt hơn hết là phu nhân hãy tạm về, sáng mai hãy tới, xem Chưởng môn tôi có thể miễn cưỡng ra tiếp được không"

Đường phu nhân ngửng mặt lên trời, cười khanh khách nói, "Lão thân mấy chục năm nay chưa từng dời khỏi Xuyên Trung một bước, lần này phải vượt hàng ngàn dặm tới đây, khi nào lại chịu đi không về rồi."

Bà ngừng lại, đăm đăm nhìn trận kiếm, mà rằng, "Đạo trưởng bày trận kiếm này, có phải cốt ý định ngăn không cho lão thân nhập quan chăng?"

Huyền Tinh đáp, "Tam Nguyên quan chu vi ba dặm đã hoạch định làm cấm khu. Người nào tự liệu bước vào, sẽ nhất luật ..."

Đường phu nhân lạnh lùng hỏi, "Nhất luật làm sao?"

Huyền Tinh trả lời, "Nhất luật đuổi ra, cự lại thì giết."

Đường phu nhân cười nhạt, "Hừ, khẩu khí huênh hoang thật!"

Nói rồi thò tay vào kiệu lấy ra một cây gậy, đầu chạm hình rồng bằng bạc sáng loáng chống mạnh xuống đất, thụt sâu vào đá tới hơn một tấc, lạnh lùng nói, "Nếu lão thân vượt qua được trận kiếm này thì sao?"

Huyền Tinh ngẩn người ra một lát rồi nói, "Mấy chục năm nay chưa từng xẩy ra trường hợp ấy. Phu nhân tuy là chưởng môn một phái địa vị tôn quý, nhưng chỉ sợ một mình cũng khó lòng vượt qua được trận kiếm."

Đường phu nhân quát to, "Nếu ta không vượt được kiếm trận, thì ta sẽ lập tức trở về Xuyên Trung, nhà họ Đường từ nay về sau không còn bao giờ xuất hiện trên chốn giang hồ, còn nếu ta phá được trận ..."

Huyền Tinh vội ngắt lời, "Bần đạo sẽ lập tức rung chuông báo động, để Chưởng môn sư huynh phá lệ ra tiếp phu nhân."

Đường phu nhân đáp, "Cách đánh cuộc đó, lão thân tuy bị thiệt, nhưng ngươi cũng chỉ có một chút quyền ấy thôi. Được rồi, ta cứ nhất định thế."

Huyền Tinh vung thanh kiếm lên nói, "Hãy thong thả, trước khi vượt trận kiếm, phải thắng nổi thanh kiếm trong tay bần đạo đã."

Đường phu nhân cười khanh khách, "Cũng được, ngươi tiến chiêu đi!"

Huyền Tinh cười nhạt, cầm thanh kiếm trên tay đưa chéo lên một nhát.

Đường phu nhân cầm ngang cây gậy đầu rồng, thủng thỉnh bước lên, khi gần tới gần tới trước mặt Huyền Tinh, đột nhiên dằn giọng quát, "Cẩn thận nhé!"

"Vút" một tiếng, cây gậy đã quét ngang ra, Huyền Tinh vung thanh trường kiếm, vạch thành một đạo cầu vồng, chém vào cổ tay phải của Đường phu nhân.

Đường phu nhân cười nhạt nói, "Giỏi! Đường kiếm hay lắm!"

Cây gậy trong tay vung lên một vòng, biến thành một trượng ảnh.

Thanh trường kiếm của Huyền Tinh thế đánh ra rất nhanh mà thế thu về lại càng nhanh hơn nữa. Cổ tay rung lên thanh trường kiếm thu về lại phóng ra, mũi kiếm khoa lên, hóa thành ba bông kiếm hoa, đánh thẳng vào ba đại huyệt trước ngực Đường phu nhân.

Cậy gậy bạc của Đường phu nhân đang động chuyển sang tĩnh, gạt mũi kiếm đi.

Huyền Tinh thu kiếm về, lùi nhanh về phía sau ba bước, nhưng rồi lại lập tức lại xông lên, trong lúc vừa lui vừa tiến đó kiếm thế đã thi triển, chỉ thấy hàn quang lấp lánh, kiếm khí đầy trời, từng bông kiếm hoa sáng chói mắt, xung quanh sáu bẩy thước bóng kiếm loang loáng, y như một lớp sóng bạc đang ào ào dồn tới.

Nhưng cây gậy đầu rồng của Đường phu nhân, lúc này lại chuyển về thế thủ, mỗi chiêu mỗi thức đều từ từ đưa ra, không chiêu nào không đắc thể, phong bế môn hộ kín đáo cẩn mật, mặc dầu thế kiếm của Huyền Tinh lanh lẹ đến đâu, cũng không sao nhích lên được nửa bước.

Chỉ trong nháy mắt hai bên đã đấu được hơn hai mươi hiệp.

Chợt nghe Đường phu nhân lạnh lùng nói, "Kiếm pháp Vũ Đương ra chỉ có thể! Cẩn thận coi lão thân phản công đây này!"

Trong khi nói thì chiếc gậy bạc trong tay đã biến đổi chiêu số, đang thong thả trở nên nhanh nhẹn, đang thế thủ trở thành thế công.

Chỉ thấy chiếc gậy xoay tròn, kèm theo những tiếng vù vù như gió bão, co, duỗi, thu, phóng, đánh dọc, quật ngang, uy thế cực kỳ mãnh liệt, chớp mắt đã phản khách vi chủ, trong vòng hơn một trượng, tiếng vù vù của cậy gậy làm cho váng óc, điếc tai.

Huyền Tinh vừa thi triển xong một chiêu kiếm pháp, đã bị đối phương chiếm mất ưu thế, phản công tới tấp như vũ bão dồn ép cho đến nỗi không còn đủ sức trả đòn nữa.

Đây là một cuộc giao đấu kịch liệt rất ít thấy trong làng võ, kiếm quang, trượng ảnh lấp loáng vù vù như một cơn gió lốc.

Đường phu nhân hình như có một nguồn nội lực vô cùng vô tận, công thế của cây gậy đầu rồng trong tay bà ta mỗi lúc một mạnh, mỗi lúc một nhanh hơn.

Thốt nhiên nổi lên một tiếng "choang" rất lớn làm rung chuyển cả mặt đất, rời kiếm quang, bóng gậy đều cùng dừng lại cả một lúc.

Thì ra Huyền Tinh đạo trưởng bị màn trượng ảnh của Đường phu nhân dồn ép, đến nỗi không sao phản công được nữa, bất giác máu nóng sôi lên, ngầm vận nội lực, vung kiếm lên đỡ thẳng một đòn.

Kiếm và gậy vừa chạm vào nhau, cả hai bên đều cảm thấy cổ tay tê dại, và đồng thời cùng lùi lại phía sau một bước.

Trên nét mặt nghiêm nghị của Đường phu nhân chợt ánh lên một luồng sát khí, lạnh lùng nói, "Lão thân không có ý muốn kết thù oán với phái Vũ Đương, chỉ cốt tỏ cho ngươi biết điều mà đi. Không ngờ ngươi vẫn ương ngạnh, liều chết ngăn trở. Đã vậy đừng trách lão thân độc ác, hãy tiếp một gậy nữa coi."

Nói xong từ từ giơ gậy lên chiếu thẳng đỉnh đầu Huyền Tinh đánh xuống.

Huyền Tinh đạo trưởng tính nết thật thà, lại không chịu nổi những lời nói khích, nên nghe Đường phu nhân chế giễu cũng cho là thật, bèn ngầm vận nội công, vung kiếm lên gạt mạnh gậy ra.

Đường phu nhân cười nhạt, "Hừ, muốn chết!"

Thân gậy và lưỡi kiếm chạm vào nhau lần thứ hai, lại bật lên một tiếng "choang" dữ dội.

Huyền Tinh đạo trưởng thân thể run lên, không sao tự chủ được, lại bước lùi lại phía sau hai bước.

Bảo kiếm là một vật nhẹ, sắc bén, biến hóa càng nhanh, càng dễ thắng. Cây trường kiếm trong tay Huyền Tinh, dùng để đón đỡ với cây gậy bạc đứng về phương diện vũ khí mà bàn thì phải chịu thiệt trước.

Đường phu nhân đã thắng một đòn không để Huyền Tinh kịp thở, ngón đòn thứ hai lại liên tiếp giáng xuống.

Huyền Tinh tính nết ngay thẳng chất phác, thấy đối phương ra đòn như thế trong bụng không phục, thanh trường kiếm đưa lên, lại dùng một chiêu "Lực bình Nam thiên" đón thẳng đầu gậy đánh tới.

Lần này Đường phu nhân vận đủ mười thành sức mạnh, bà ta biết rằng kiếm pháp Vũ Đương đã nổi danh lừng lẫy trong giang hồ, Huyền Tinh tuy hơi ngớ ngẩn, không thích hợp với công phu luyện kiếm khó lòng đi sâu vào chỗ áo diệu, thấy hiểu hết được phép cơ biến linh hoạt trong kiếm pháp, song thủ pháp của ông ta lại rất vững vàng, thế kiếm trầm mạnh đã thâm nhập được bí quyết của chữ "ẩn" trong vũ công, nếu không dùng lời nói khích, để hắn đem cái sở đoản ra chống cái sở trường của mình, thì dù đấu đến một hiệp nữa, cũng chưa chắc đã phân thắng bại.

Kiếm gậy đụng nhau lần thứ ba, hình thế biến đổi khác hẳn, thanh kiếm trong tay Huyền Tinh vừa chạm vào thân gậy, lập tức ông ta cảm thấy như bị một áp lực nặng bằng cả tòa núi Thái đè xuống đầu, bèn vội hành khí vận công, dốc hết toàn lực nắm vững thanh kiếm, mới ghìm được sức mạnh không cho giáng xuống. Thế là một thanh kiếm và một cây gậy cầm cự với nhau ở trên không.

Mặt trận Thất tinh vẫn luân chuyển không ngừng, lúc này thốt nhiên đều dừng cả lại, bẩy cặp mắt đều đổ dồn vào đôi kiếm gậy vẫn giữ miếng nhau, nhất định không ai chịu buông trước.

Huyền Tinh đạo trưởng mặt đỏ bừng bừng, mồ hôi giỏ giọt, ướt đẫm cả vạt áo. Còn Đường phu nhân thì sắc mặt vẫn bình tĩnh như thường, không tỏ vẻ gì là mệt mỏi.

Xem như vậy đủ thấy rằng về phương diện nội lực, Huyền Tinh đạo trưởng chưa phải là đối thủ của Đường phu nhân.

Giữa lúc hai bên đang ra sức giữ miếng, Đường phu nhân chợt quát to, "Buông tay ra!"

Tức thì cây gậy bạc rung lên, Huyền Tinh chợt thấy cổ tay phải tê dại, rồi thanh trường kiếm dời khỏi tay rơi tuột xuống đất.

Đường phu nhân vừa thu gậy về, vừa nói, "Chiêu thuật biến hóa thanh trường kiếm của đạo trưởng, thực ra không kém gì lão thân, nhưng chỉ vì sơ ý bị lão thân nói khích, dùng cái sở đoản của mình chống với cái sở trường của người khác, trên phương diện binh khí đã chịu thiệt thòi rồi! Nếu đạo trưởng không phục thì lại nhặt kiếm lên đánh lại."

Đường phu nhân nói mấy câu ấy, nghe thì tưởng là an ủi Huyền Tinh đạo trưởng, kỳ thực thì chỉ là cốt nhắc khéo cho ông ta đừng quên lời hứa.

Huyền Tinh bản tính thực thà, lại xuất thân trong môn hộ chính phái, coi lời hứa giá đáng nghìn vàng, tuy trong lòng không phục, nhưng cũng không mặt nào nhặt kiếm lên đấu lại, bèn chỉ nghiêm sắc mặt nói, "Mời phu nhân phá trận kiếm."

Nói xong lánh sang một bên, lùi ra hai bước, nhường lối.

Đường phu nhân gật đầu nói, "Các nhân vật trong chính phái, quả nhiên người nào tâm địa cũng lỗi lạc quang minh, độ lượng rộng rãi."

Rồi chống mạnh cây gậy xuống đất, rảo bước xông vào giữa trận.

Trận kiếm Thất tinh lại bắt đầu chuyển động, bẩy thanh trường kiếm lấp lánh dưới bóng mặt trời, trông rất đẹp mắt.

Ánh nắng chiếu lên khuôn mặt đầy đặn của Đường phu nhân, trông rõ từng nét nghiêm trang trịnh trọng, hình như trong bụng bà ta cũng thấp thỏm lo âu.

Nên biết rằng Thất tinh kiếm trận của phái Vũ Đương đã từng khét tiếng giang hồ, bẩy thanh kiếm tiếp tay nhau biến hóa muôn hình nghìn vẻ, vì thế nên không biết có bao nhiêu cao thủ vũ lâm đã bị hủy hoại thanh danh dưới trận kiếm này.

Chỉ nghe tiếng đầu gậy gõ trên mặt đất không ngừng, Đường phu nhân đã tới sát kiếm trận.

Bà thong thả giơ cao cây gậy lên, nghiêm trang nói, "Lão thân nghe tiếng Thất tinh trận của Vũ Đương từ lâu, hôm nay mới được trông thấy, thật là may mắn."

Vừa nói vừa cầm ngang cây gậy, "vút" một tiếng thân gậy đã quét ngang thẳng một nhát.

Chỉ thấy thanh trường kiếm của vị đạo nhân đứng đầu thốt nhiên chuyển động, lanh lẹn vô cùng gạt cây gậy ra, đồng thời hai cây trường kiếm khác cũng điểm chéo một nhát vào thân gậy.

Đường phu nhân hạ thấp cây gậy xuống, tránh thoát được ba mũi kiếm của đối phương, rồi thốt nhiên bước sấn lên, tiến vào giữa trận.

Ba thế kiếm vừa đánh ra cũng chìm theo đà gậy lại cùng đồng thời thu về, thế trận đang tĩnh, đột nhiên biến ra động, một mũi kiếm đón đầu đối phương xỉa tới, còn hai mũi kia cũng chia ra hai bên tả hữu tấn công, kiếm quang lấp lánh sáng chói cả mắt.

Mới một chiêu nhập trận, Đường phu nhân đã nhận thấy kiếm trận cực kỳ lợi hại, nếu không tìm cách phá thế kiếm liên hoàn biến hóa linh diệu của đối phương đi, thì dù vũ công cao đến đâu, cũng khó lòng cầm cự lâu được.

Nguyên do trận Thất tinh này, cách biến hóa của mỗi thế công đều có một chủ hai khách, một kiếm đánh thẳng, hai kiếm đánh chéo, ba kiếm đánh ra do ba góc cạnh khác nhau, làm cho người ta tự cảm thấy ứng tiếp không xuể.

Đường phu nhân rất giầu kinh nghiệm giang hồ, nên sau khi giao thủ một hai chiêu đầu, bà đã thấy rõ kiếm trận lợi hại, nếu chờ cho mặt trận phát động toàn thể, kiếm thế liên tiếp thi triển không ngừng, thì dù muốn tìm cơ hội chế địch trước cũng không phải là dễ.

Trong khi lâm trận, cần nhất phải chặn lấy tiên cơ của địch trước, cậy gậy bạc trong tay phu nhân múa tít lên, liên tiếp phóng ra ba chiêu, biến thành một màn quái ảnh vậy chặt lấy thế kiếm, thân hình thốt nhiên lùi về phía sau ba bước thoát ra khỏi trận kiếm.

Bọn đạo sĩ vừa huy động trận kiếm, thốt nhiên mất biến mục tiêu công kích, trận pháp tự nhiên rối loạn.

Đường phu nhân đã lùi ra khỏi trận, nhưng chỉ trong nháy mắt lại đột nhiên tiến lên tấn công, lại thế nhanh như luồng chớp, cây gậy trong tay dùng chiêu "Lực tảo ngũ nhạc" ào ào đánh ra, tay phải ngầm vận nội công dồn sức mạnh vào lòng bàn tay giữ thế chưa phát.

Chỉ nghe tiếng kim khí va vào nhau xoang xoảng, ba thanh trường kiếm đón đầu nghênh chiến đều bị cây gậy bạc quét sạch.

Trận kiếm đã rối loạn của quần đạo, còn chưa hoàn toàn khôi phục được nguyên trạng, lại bị một gậy cực kỳ mãnh liệt của Đường phu nhân gạt phăng thế kiếm ngăn địch hàng tiền phong, trận kiếm lập tức bị vỡ một khoảng lớn, ba người phía sau tiến lên, lại bị ba người của mình chặn lại, trong khoảnh khắc, những thanh trường kiếm không sao phóng ra được bị dồn lại một chỗ, thế là chưởng pháp rối loạn tơi bời.

Đường phu nhân thừa thế xấn vào, kình lực đã tụ sẵn trong bàn tay phải, lúc ấy mới đột ngột phóng ra.

Chưởng này không những ra ngoài ý liệu của mọi người, mà còn nhanh hơn chớp nhoáng, đánh thẳng vào cánh tay phải của một đạo nhân đứng gần đấy.

Chỉ nghe "xoảng" một tiếng, thanh kiếm trong tay đạo nhân đã rơi xuống đất, thân hình đứng không vững, lảo đảo suýt ngã.

Trận kiếm thốt nhiên dừng lại, không biến hóa được nữa.

Đường phu nhân đã đánh trúng một chưởng, lại vung gậy lên tấn công như bão táp, kèm theo những tiếng gió vù vù rít lên thành tiếng.

Quần đạo ứng biến không kịp, tránh rạt ra hai bên, thế là bị Đường phu nhân thông qua được trận kiếm.

Huyền Tinh thấy đối phương lọt qua trận kiếm Thất tinh một cách dễ dàng như vậy, bất giác thở dài than rằng, "Mười năm nay không biết có bao nhiêu cao thủ vũ lâm tự tiện xông vào cấm địa mà bản phái đã hoạch định, nhưng người thắng được thanh kiếm trong tay bần đạo, vượt qua được trận kiếm Thất tinh, chỉ mới có phu nhân là một. Uy danh của Đường gia Tứ Xuyên quả là danh bất hư truyền."

Đường phu nhân mỉm cười nói, "Đạo trưởng quá khen..."

Vừa nói tới đấy, thốt nhiên nụ cười tắt hẳn, sắc mặt lại trở nên nghiêm nghị nói, "Lão thân sở dĩ vượt hàng ngàn dặm tới đây, thực ra vì có một chút việc rất cần gặp quý Chưởng môn, đạo trưởng đã có lới hứa trước, vậy xin đưa lão thân vào nội viện ngay cho."

Huyền Tinh gật đầu nói, "Bần đạo đã hứa, tất phải giữ lời. Nhưng xin phu nhân cho kiệu phu và thị nữ đứng chờ ở ngoài Tam Nguyên quan. Bần đạo chỉ đưa một mình phu nhân vào viện thôi."

Đường phu nhân gật đầu nói, "Nếu đã là luật lệ của quý phái, thì lão thân cũng không muốn cố cưỡng."

Huyền Tinh ngoảnh lại nói với bẩy vị đạo nhân nét mặt đều có vẻ sượng sùng, buông thõng hai tay đứng phía sau, rằng, "Các ngươi ở đây trông cửa quan cẩn thận, để ta đưa khách vào nội viện."

Đoạn lại chắp tay ngang ngực, nói với Đường phu nhân, "Xin mời phu nhân." Rồi rảo bước đi vào trong quan.

Đường phu nhân thủng thỉnh theo sau, vừa đi vừa đưa mắt ngắm hình thế xung quanh, nhận thấy tòa Tam Nguyên quan đã có tiếng trong giang hồ này, qui mô tuy không lấy gì làm rộng rãi lắm, nhưng vì xây dựng bên triền núi, dưới những vòm cây cổ thụ cao lớn sum xuê, cách kiến trúc cực kỳ tinh xảo, thành một cảnh sắc đặc biệt tân kỳ.

Qua một lớp sân rộng trồng toàn hoa, rồi đến một tầng cửa thứ hai. Nơi đây có bốn vị đạo trưởng đeo trường kiếm, sóng vai đứng chắn lối đi.

Bốn người vừa trông thấy Huyền Tinh đạo trưởng đều chắp tay ngang ngực, cúi mình thi lễ.

Huyền Tinh vẫy tay nói, "Các ngươi mau đánh chuông truyền báo với Chưởng môn nhân có quý khách muốn yết kiến."

Bốn vị đạo nhân tuy hơi sửng sốt nhưng không dám hỏi căn vặn. Một người đứng bên trái chắp tay vái một vái, rồi tiến vào trong từng cửa thứ hai.

Chỉ trong khoảnh khắc, ba tiếng chuông lanh lảnh ngân vang, dư âm chưa dứt đã lại nghe phía xa xa có một hồi chuông khác hồi ứng.

Huyền Tinh nói với Đường phu nhân, "Xin phu nhân chờ cho một lát, bần đạo đã sai người dùng tiếng chuông cấp báo riêng của bản phái truyền đi, để báo với tệ Chưởng môn. Thế nào cũng có người ra đón phu nhân bây giờ."

Đường phu nhân mỉm cười cám ơn. Giữa lúc ấy chợt có một tên đồng tử mặc áo đạo trang hấp tấp chạy ra, nhìn Đường phu nhân một lượt, rồi chắp tay nói với Huyền Tinh, "Sư thúc rung chuông báo cảnh, chẳng hay có việc gì cần cấp không?"

Huyền Tinh nói, "Vị nữ đàn việt đây là Chưởng môn Đường gia đất Tứ Xuyên, có việc cần muốn gặp Chưởng môn nhân. Ngươi đưa phu nhân vào."

Tên đạo đồng tỏ vẻ ngần ngại nói, "Sư thúc, Chưởng môn sư tôn ..."

Huyền Tinh cau mày gắt, "Im mồm, tao bảo mày đưa vào thì mày cứ đưa. Chưởng môn nhân quở trách, đã có ta chịu, không việc gì đến mày."

Tên đạo đồng cúi rạp xuống, thưa, "Đệ tử kính tuân pháp dụ."

Rồi quay sang phía Đường phu nhân, nói, "Xin mời nữ đàn việt..."

Nói xong xăm xăm đi lên phía trước dẫn lối. Đường phu nhân theo sau.

Tên đạo đồng đi nhanh vùn vụt, thoáng chốc chợt dừng lại nói, "Xin đàn việt chờ đây một lát, để tôi vào báo trước."

Đường phu nhân gật đầu, dừng lại trước một tòa đại viện, xung quanh trồng toàn trúc.

Chỉ trong thoáng chốc, tên đạo đồng đã bước ra, đưa khách vào qua một cái cửa đan bằng phên.

Tên đạo đồng chỉ vào một gian nhà lợp ngói, có những chậu cảnh rất đẹp bày la liệt trước cửa, rồi nói, "Gia sư đang chờ trong Ngọa vân xá, xin nữ đàn việt cứ vào một mình."

Đường phu nhân thủng thỉnh bước lên, chỉ thấy trong nhà khói trắng mù mịt, ngoài cửa lại che bức mành trúc, nên không trông rõ cảnh vật trong nhà.

Đường phu nhân đột nhiên cảm thấy ngần ngại, không biết trong luồng khói trắng kia còn có cái gì nguy hiểm hơn trận Thất tinh nữa chăng?

Chợt nghe trong nhà có một giọng nói rắn rỏi đưa ra, "Mời nữ đàn việt vào chơi."

Đường phu nhân cầm cây gậy rẽ bức mành trúc bước vào, chỉ thấy trên chiếc vân sàng bằng gỗ thông, một vị đạo trưởng xếp bằng tròn, mình mặc áo bào xanh, râu dài tới ngực, mặt như trăng rằm, đôi mắt nhắm nghiền, rõ ra vẻ tiên phong đạo cốt, khiến ai trông thấy cũng phải sinh lòng kính nể.

Đường phu nhân cúi mình thi lễ nói, "Chưởng môn Đường gia đất Tứ Xuyên tham kiến đạo trưởng."

Đạo nhân mỉm cười, mở choàng mắt ra, hai luồng nhỡn tuyến sáng như điện chiếu thẳng vào mặt Đường phu nhân, cười nói, "Nữ thí chủ danh tiếng lẫy lừng vũ lâm, bần đạo ngưỡng mộ đã lâu bữa nay được tiếp kiến, thật là vạn hạnh."

Đường phu nhân nói, "Lão thân bỗng dưng đến quấy nhiễu buổi thanh tu của đạo trưởng, thật là có lỗi, mong đạo trưởng lượng thứ cho."

Huyền Chân đạo trưởng với tay trái kéo cánh cửa sổ phía sau vân sàng ra, một ngọn gió nhẹ nhàng lùa vào tịnh xá, tức thì làn khói trắng theo gió bay ra, thoáng chốc đã tan đi hết, tay phải đặt trước ngực, cười nói, "Nữ đàn việt không quản xa xôi tới đây, chẳng hay có việc gì chỉ giáo?"

Đường phu nhân nói, "Nếu không có việc gì cần, đâu dám đến đây phiền nhiễu. Nguyên nhân mấy tháng nay trong vũ lâm liên tiếp xẩy ra mấy việc quan trọng, chắc đạo trưởng cũng đã biết rồi!"

Huyền Chân lắc đầu nói, "Bần đạo mấy năm gần đây vướng việc tọa quan, nên những chuyện vũ lâm, rất ít nghe thấy."

Đường phu nhân cau mày, "Những việc quan hệ trọng đại như việc này, mà bọn họ dám giấu đạo trưởng ư?"

Huyền Chân mỉm cười nói, "Nếu đại giá tới sớm một hôm, thì nhất định không gặp bần đạo ..."

Đường phu nhân vội ngắt lời, "Vậy ra hôm nay đạo trưởng mới mãn quan kỳ?"

Huyền Chân chợt thở dài nói, "Một năm nay bần đạo tham thiền tĩnh tọa, do tĩnh sinh sáng suốt, nên hình như giác ngộ thấy rằng cái tai họa giết chóc sắp sửa xảy ra ..."

Vừa nói tới đấy, thốt nhiên ngưng bặt, nhìn ra cửa quát to, "Ai đấy?"

Chỉ nghe một giọng cười sang sảng từ ngoài đưa vào, tiếp theo là tiếng nói, "Tiếp khách sớm ba tháng, chỉ sợ lỡ mất mười năm công hành của đạo trưởng."

Huyền Chân đạo trưởng cười nhẹ một tiếng, nói, "Bần đạo chỉ cần một năm quan kỳ bình yên là đủ toại nguyện rồi."

Người bên ngoài lại cất tiếng cười ha hả, "Hay, hay cho cái đã đủ toại nguyện"

Tiếng cười đi xa dần dần, mãi không nghe thấy nữa. Đường phu nhân mới hỏi Huyền Chân, "Nghe giọng nói của người ấy thì hình như là bạn cố tri của đạo trưởng phải không? Không biết ông ta là chưởng môn phái nào?"

Huyền Chân cười nói, "Người lạ áo vải, học vấn uyên thâm, hắn với bần đạo quen biết nhau đã được hơn một năm, nhưng vẫn không biết tên họ hắn là gì!"

Đường phu nhân tỏ vẻ ngượng nghịu nói, "Lão thân quấy nhiễu quan kỳ, làm lỡ công hành của đạo trưởng, thật không phải quá!"

Huyền Chân nói, "Đó chẳng qua cũng là ý trời, bần đạo đâu dám trách nữ đàn việt? Vừa rồi nữ đàn việt đang bàn đến mấy việc quan trọng xẩy ra cho giới vũ lâm gần đây, chẳng hay là những việc gì, xin nữ đàn việc cho nghe tiếp."

Đường phu nhân nói, "Đạo trưởng có quen Trung Nguyên Tứ quân tử không?"

Huyền Chân đạo trưởng đáp, "Bần đạo mộ danh Tứ quân tử đã lâu, nhưng vì vô duyên vẫn chưa được gặp. Duy có sư đệ của bần đạo là Huyền Nguyệt giao du với họ thân lắm."

Đường phu nhân nói, "Tứ quân tử vẫn tự coi mình cao quý, rất ít giao thiệp với các nhân vật giang hồ. Cứ kể trong giới vũ lâm thì bọn họ ít kẻ thù nhất."

Huyền Chân đạo trưởng gật đầu, "Bần đạo cũng nghe người ta nói thế."

Đường phu nhân ngậm ngùi than rằng, "Lão thân năm xưa không nén nổi lòng ham mê danh vọng, thường cùng các cao thủ giang hồ tranh vương đồ bá, lấy sự giết chóc làm vui. Trong khoảng mười năm trời, tung hoành khắp đại giang nam bắc, gây không biết bao nhiêu tội lỗi, kẻ thù nhan nhản khắp giang hồ, không đâu không có. Nhưng từ hồi gặp Trung Nguyên Tứ quân tử, bị họ cảm hóa, tự nhiên chán ghét cả mọi sự, lui về cố viên, bế quan sám hối thấm thoát lại đã qua mười năm. Nhưng trong vũ lâm chắc không ai biết chuyện lão thân đã từng cùng Tứ quân tử chiến đấu suốt một đêm ... Ôi! Thật không ai ngờ bốn vị đạo cao chức trọng, cam sống cuộc đời đạm bạc như Trung Nguyên Tứ quân tử, mà chỉ trong một đêm đều bị hại cả."

Trên khuôn mặt hiền từ bình thản của Huyền Chân đạo trưởng thoáng hiện lên một nét âm thầm khó tả, ông trầm ngâm một lát, rồi hỏi, "Thật có chuyện thế à?"

Hồi thứ chín

Ba mươi năm bí mật

Đường phu nhân nói, "Việc này đã truyền đi khắp giang hồ, gây thành một tác động rất lớn cho giới vũ lâm, chẳng lẽ đạo trưởng lại không biết tí gì hay sao?"

Huyền Chân lắc đầu, "Trong thời kỳ tọa quan, bần đạo không hỏi gì đến việc ngoài nên chẳng biết chuyện gì cả."

Đường phu nhân nói, "Nếu thế thì việc Huyền Nguyệt đạo trưởng của quý phái bị mất tích, có lẽ đạo trưởng cũng không biết chăng?"

Huyền Chân cau mày nói, "Để bần đạo thử hỏi xem sao."

Nói dứt lời, ông với chiếc dùi gỗ để trên án thư toan gõ chuông gọi, chợt nghe một tràng cười dài bức mành trúc cuốn lên, rồi một chàng thiếu niên thần thái phong lưu, nghi dung tuấn nhã thủng thỉnh bước vào.

Người này ăn mặc tuy giản dị, nhưng cử chỉ thần tình đều có một khí độ thanh khiết cao quý thoát tục. Chàng vào tới trong phòng, đưa mắt nhìn Đường phu nhân một lượt, rồi vòng tay thi lễ hỏi, "Phu nhân có phải là Đường lão thái, chưởng môn nhân Đường gia đất Tứ Xuyên không ạ?"

Đường phu nhân nghiêng mình đáp lễ, cười nói, "Chính tôi đây. Sao tôn giá lại biết?"

Chàng thanh niên cũng cười đáp, "Phu nhân danh tiếng lừng lẫy giang hồ, ai còn không biết."

Huyền Chân đạo trưởng thấy chàng thanh niên vào, vội đứng lên đón, hớn hở nói, "Hơn một năm nay mới được gặp mặt, có phải tướng công định đến tìm bần đạo đánh chơi mấy ván cờ chăng?"

Thanh niên cười nói, "Chính thế, hôm nay nhất định phải sát phạt với đạo trưởng một mẻ mới được."

Đường phu nhân cau mày có vẻ không bằng lòng, nghĩ thầm, "Ta ở trong vũ lâm địa vị đâu đến nỗi hèn kém gì mà lão đạo trưởng thấy ta vào, vẫn nghiễm nhiên không thèm đứng dậy đón. Còn thằng bé con kia là ai, mà được lão trọng vọng như vậy?"

Trong bụng tuy không phục nhưng ngoài miệng vẫn chẳng nói ra. Chàng thanh niên thông minh tuyệt đỉnh, hình như cũng nhận thấy cử chỉ của Huyền Chân đạo trưởng vừa rồi, đã làm phật ý Đường phu nhân bèn ngoảnh lại cười nói, "Lão tiền bối không quản xa xôi tới đây, có lẽ vì muốn tra cứu nguyên nhân nào đã làm cho lệnh lang mất tích phải không?"

Đường phu nhân biến sắc mặt hỏi, "Tại sao tôn giá lại biết?"

Chàng thanh niên mỉm cười nói, "Đường lão thái muốn biết lệnh lang hạ lạc nơi nào, chỉ e trên đời này trừ tại hạ ra, thì không còn người thứ hai nào biết nữa."

Đường phu nhân hấp tấp hỏi, "Khuyển tử hiện nay ở đâu?"

Thanh niên mỉm cười nói, "Nam Cung thế gia."

Đường phu nhân sửng sốt hỏi, "Nam Cung thế gia? Có phải nhà Nam Cung đã được thiên hạ suy tôn là "Vũ lâm đệ nhất gia" không?"

Thanh niên lại cười đáp, "Thì chỉ có nhà Nam Cung ấy, chớ còn nhà nào nữa."

Đường phu nhân tái mặt hỏi, "Có đúng thế thực không?"

Nụ cười trên môi Huyền Chân đạo trưởng lập tức thu lại, rõ ràng là ông cũng bị xúc động vì cái tin đột ngột đó. Chàng thư sinh áo xanh vẫn giữ nguyên nụ cười bí mật, thủng thỉnh nói, "Tuy nhiên dù lão tiền bối có tới nhà Nam Cung bây giờ, thì cũng khó lòng mà trông thấy lệnh lang."

Đường phu nhân hốt hoảng, run run hỏi, "Làm sao?Hay là... hay là khuyển tử đã bị hại rồi?"

Thiếu niên lắc đầu, "Nếu lệnh lang đã thâu được vũ công chân truyền của lão tiền bối thì tính mạng tạm thời có thể vô sự. Còn nếu vũ công tầm thường, không đáng trúng tuyển thì khó đoán định lắm."

Đường phu nhân chống mạnh cây gậy trúc xuống đất, sẵng giọng hỏi, "Tại sao ngươi lại biết rõ ràng như thế?"

Chàng thanh niên đôi mắt lạnh lùng nhìn Đường phu nhân thủng thỉnh nói, "Nếu phu nhân không tin, tại hạ cũng không biết làm sao được nữa..."

Đường phu nhân hình như cũng nhận thấy câu nói của mình có hơi lỗ mãng, bèn ngầm vận khí điều tức cho tâm trí bình tĩnh lại. Luồng nhỡn tuyến của chàng thiếu niên lại từ từ chuyển sang Huyền Chân đạo trưởng, nụ cười lại thoáng hiện trên đôi môi, "Lệnh sư đệ Huyền Nguyệt đạo trưởng..."

Huyền Chân vẫn điềm tĩnh hỏi, "Có thể cũng bị hãm trong nhà Nam Cung thế gia chăng?"

Thiếu niên hỏi lại, "Hình như đạo trưởng đã yên trí về chuyện đó?"

Huyền Chân đạo trưởng nói, "Năm năm trước bần đạo và chưởng môn nhân hai phái Nga Mi, Thanh Thành cùng là thượng khách của Bách Nhẫn thiền sư chùa Thiếu Lâm, nhân lên đỉnh núi Thiếu Thất sơn thưởng nguyệt và đàm luận hình thể giang hồ, bần đạo đã từng bàn đến nhà Nam Cung thế gia sau này tất sẽ là một mối họa lớn cho giang hồ. Bần đạo chủ trương liên lạc với chín đại môn phái, cùng tới nhà Nam Cung đòi ba món bảo vật về. Rồi sau đó lại do các môn phái liên hiệp, phái ba mươi sáu cao thủ canh gác xung quanh nhà Nam Cung trong vòng năm dặm, để giám sát hành động của những người trong gia đình ấy. Chỉ tiếc rằng ý kiến của bần đạo không được ai hưởng ứng."

Thiếu niên cười nói, "Năm năm trước nhà Nam Cung thế gia đã đủ lông đủ cánh, giả tỷ những người dự hội bữa đó có theo ý của đạo trưởng mà thi hành, e rằng cũng vô ích."

Chàng ngừng một lát rồi lại tiếp, "Nhưng dù sao cũng làm cho âm mưu của nhà Nam Cung thế gia sớm bị bại lộ, còn hơn là không."

Huyền Chân đạo trưởng nghiêm sắc mặt nói, "Tiểu sư đệ Huyền Nguyệt tài trí, kiếm thuật đều vào hàng thượng thừa, nếu không chiến thắng nổi địch thì ít nhất cũng có thể bảo toàn được tính mệnh, mà trốn thoát lấy thân chứ?Tại sao lại đến nỗi bị hãm vào nhà Nam Cung thế gia được?"

Nói xong ông lại nhìn chàng thiếu niên bằng cặp mắt ngờ vực. Đường phu nhân từ nãy đến giờ vẫn lẳng lặng ngồi yên, lúc này chợt lên tiếng hỏi chàng thanh niên, "Việc thằng con tôi bị hãm ở nhà Nam Cung, tôn giá mắt có trông thấy tận nơi không? Hay cũng chỉ là nghe người ta nói thế?"

Chàng thiếu niên mỉm cười nói, "Không ngờ chỉ vì một câu nhẹ miệng của tôi mà gây ra bao nhiêu phiền phức! Hai vị cật vấn tôi y như quan tòa hỏi cung phạm nhân. Thôi xin thứ cho tại hạ khỏi phải trả lời."

Đường phu nhân cau mày đã toan phát tác, nhưng sau lại cố nén. Huyền Chân đạo trưởng công phu hàm dưỡng còn thâm sâu hơn, trong bụng tuy muốn biết ngay tin tức Huyền Nguyệt nhưng ngoài mặt vẫn bình tĩnh, chỉ cười nói, "Một năm nay ngồi tọa quan, không được đánh ván cờ nào nên chân tay đã thấy ngứa ngáy rồi đây!"

Thiếu niên cũng cười nói, "Đó mới chính là cái đạo đãi khách chứ!"

Huyền Chân cầm cái dùi gõ vào chiếc chuông đồng để trên bàn hai tiếng. Tiếng chuông còn ngân nga chưa dứt, tên đạo đồng đã bưng bàn cờ đem vào.

Thanh niên nhìn Đường phu nhân cười nói, "Lão thái thái vũ công, ám khí đã từng khét tiếng vũ lâm nhưng còn môn cờ thì thế nào?"

Đường phu nhân vẫn cố nén sốt ruột, thủng thỉnh đáp, "Cũng có biết gọi là."

Chàng thanh niên cười nói, "Hay lắm, hay lắm! Lát nữa thế nào cũng xin lão thái thái chỉ giáo cho vài nước."

Huyền Chân bưng bàn cờ lại giường ngồi, chàng thiếu niên cũng kéo chiếc ghế gỗ sang theo, miệng vẫn cười hỏi, "Đạo trưởng tọa quan một năm nay, chắc cờ đã tiến lắm phải không? Hôm nay chúng ta thử so tài, cũng nên dùng vật gì đặt cuộc cho vui."

Huyền Chân nói, "Học như người bơi thuyền ngược chiều, không tiến thì phải thoái. Bần đạo đã lâu không chơi môn này, có lẽ quên hết rồi cũng nên."

Thanh niên cười nói, "Tại hạ vẫn nhường đạo trưởng ba nước, được không?"

Huyền Chân cũng không khách sáo, đi một hơi liền ba con, miệng thì nói, "Đánh cuộc bằng cái gì bây giờ?"

Chàng thanh niên đăm đăm nhìn ba con cờ trắng của Huyền Chân vừa đi, trầm ngâm một lát rồi nói, "Đánh cuộc không nên lớn quá cũng không nên nhỏ quá. Theo ý tại hạ thì chúng ta nên đem bàn tay trái ra mà đặt cuộc."

Huyền Chân giật mình vội hỏi, "Hả? Cái gì? Đặt cuộc bằng bàn tay trái ư?"

Thanh niên cười nói, "Ăn cơm cầm đũa tay phải, viết chữ cầm bút bằng tay phải, còn bàn tay trái vô dụng chẳng đem đặt cuộc thì để làm gì?"

Nghe cái lối đánh cuộc kỳ khôi như vậy, ngay cả Đường phu nhân là một người lão luyện giang hồ cũng phải lấy làm sửng sốt. Huyền Chân đạo trưởng lắc đầu nói, "Thân thể của cha mẹ đâu dám tự ý hủy hoại? Đánh cuộc như vậy thì bần đạo xin hàng."

Thanh niên vẫn điềm tĩnh nói, "Đó chỉ là tại hạ đề nghị, còn nếu đạo trưởng không ưng thì dùng cái khác."

Huyền Chân nói, "Công tử đề nghị đặt cuộc to quá như vậy, bần đạo còn biết thay bằng cái gì bây giờ?"

Thanh niên cười nói, "Đã vậy để tại hạ nghĩ giúp đạo trưởng có được không?"

Huyền Chân nói, "Xin cứ cho nghe."

Thanh niên nói, "Nếu tại hạ thua, xin tình nguyện chặt bàn tay trái này để dâng đạo trưởng, còn nếu đạo trưởng thua chỉ xin đạo trưởng kể cho nghe một câu chuyện bí mật có liên quan đến nhân vật vũ lâm, mà phải là sự thật trăm phần trăm. Đạo trưởng có bằng lòng không?"

Huyền Chân cười nói, "Bần đạo sáu chục năm nay đã từng được xem bao nhiêu cảnh vật đổi sao dời, đi đã khắp, đông, tây, nam, bắc; những chuyện kỳ văn mật sự..."

Thiếu niên ngắt lời, "Có một điểm tại hạ cần phải nói trước là câu chuyện bí mật ấy càng ít người biết càng hay. Nếu được chuyện nào trừ đạo trưởng ra không còn ai biết nữa, thì lại càng hay lắm."

Huyền Chân cười nói, "Về điểm ấy thì bần đạo có thể hứa chắc chắn được, duy có điều hai bên đặt cuộc khinh trọng quá chênh lệch như vậy làm sao coi được?"

Thanh niên mỉm cười, "Không sao, không sao!"

Nói xong cầm quân cờ đi một nước. Từ lúc ấy hai người đều cắm đầu vào bàn cờ, hình như không còn biết có người thứ ba đang ngồi ở trong phòng nữa.

Đường phu nhân đang nóng lòng sốt ruột về sự an nguy của cậu con trai duy nhất, thấy hai người chỉ mê mãi đánh cờ quên cả tiếp khách thì giận lắm, cao giọng quát to, "Cứu nhân như cứu hỏa, khuyển tử bị hãm thân trong cảnh nguy hiểm không biết sống chết thế nào, hai vị còn bắt lão thân phải chờ đến bao giờ nữa?"

Hai tay đấu cờ vẫn đăm đăm nhìn vào bàn cờ, hình như không nghe thấy gì cả. Đường phu nhân càng giận chợt cầm cây gậy quật xuống đất một cái thật mạnh, tức thì chiếc bàn cờ nảy cao lên khỏi mặt giường.

Chàng thanh niên nhanh tay ấn bàn cờ xuống, quay lại cười nói, "Đường lão thái thấy tại hạ đi sai nước cờ chăng?"

Đường phu nhân giận tái xanh cả mặt, gằn giọng nói, "Lão thân đâu có ung dung ngồi xem đánh cờ được."

Thiếu niên vẫn tươi cười nói, "Nếu vậy thì chắc lão thái thái chỉ băn khoăn về vấn đề an nguy của lệnh lang thôi, phải không?"

Đường phu nhân chợt dịu sắc mặt, thở dài nói, "Mẫu tử tình thâm, lòng nào còn bình tĩnh được? Xin hai vị thứ cho cái cử chỉ thất thố của tôi."

Thiếu niên chỉ tủm tỉm cười, lại quay lại đi một nước cờ nữa. Mỗi lần chàng đi một quân, sắc mặt Huyền Chân lại lộ vẻ bối rối. Hai người từ lúc ấy lại chú hết tinh thần vào bàn cờ. Đường lão thái đằng hắng một tiếng rồi hỏi, "Hai vị có thể dừng lại một lát, cho lão thân hỏi thăm vài câu được không?"

Huyền Chân vừa toan nói thì chàng thanh niên đã nhanh như cắt hạ luôn một con cờ, Huyền Chân lại bị hấp dẫn cúi xuống nghĩ nước. Chàng thanh niên vẻ mặt lúc thì nghiêm trọng, lúc thì bình tĩnh rõ ràng là chàng chỉ dùng một nửa tinh thần chú ý vào việc đánh cờ. Chàng nói với Đường thái thái, "Lão thái có điều gì chỉ bảo xin cứ nói."

Đường phu nhân nhắc lại câu hỏi lúc nãy, "Khuyển tử hiện nay bị hãm ở đâu?"

Thiếu niên đi một nước cờ rồi thủng thỉnh đáp, "Chân núi Độc sơn phủ Nam Dương, trong nhà Nam Cung thế gia rừng Trường Thanh."

Đường phu nhân hỏi, "Các hạ có trông thấy tận nơi không?"

Thanh niên đáp, "Cố nhiên là có trông thấy."

Đường phu nhân đứng lên vòng tay vái Huyền Chân đạo trưởng một vái rồi nói, "Quấy quả đạo trưởng thật là không phải. Lão thân xin cáo từ."

Nói xong quay ra cửa toan đi. Chàng thanh niên chợt cao giọng nói, "Nam Cung thế gia phòng thủ cẩn mật lắm, huống hồ lại còn thêm bốn điều giới quy của Vũ lâm hộ vệ, khó lòng vi phạm được. Lão thái vũ công tuy cao, ám khí tuy độc nhưng muốn đàng hoàng xông thẳng vào tận nơi, e không phải chuyện dễ..."

Chàng lại cúi xuống đi một nước cờ rồi tiếp, "Giả sử lão thái có vào được tới nơi, cũng không thể trông thấy lệnh lang được đâu."

Đường phu nhân đã ra đến cửa, nghe chàng thiếu niên nói thế lại vội vàng quay vào, cung kính nói, "Các hạ có kế gì xin chỉ giáo cho, lão thân cảm kích vô hạn."

Chàng thanh niên nói, "Lão thái thái hãy tạm chờ một lát để tại hạ gỡ lại nước cờ bí này đã, rồi sẽ nói chuyện cũng không muộn."

Thì ra trong khi chàng nói chuyện với Đường phu nhân, vì không chú ý nên bị Huyền Chân đạo trưởng đi luôn hai nước cờ hiểm, chuyển thế thủ ra thế công chiếm mất ưu thế.

Đường phu nhân ruột tuy nóng như lửa đốt nhưng cũng không biết làm thế nào được, đành phải miễn cưỡng ngồi lại. Chàng thanh niên hình như về môn cờ đã đi đến chỗ tuyệt nghệ, nên chỉ chú ý một chút là lại gỡ được cái thế quân bình. Huyền Chân đạo trưởng đã thấy lúng túng, không biết xoay trở ra sao.

Đường phu nhân vừa đằng hắng một tiếng toan hỏi, chàng thanh niên đã nói trước, "Nếu lão thái thái muốn gặp lệnh lang thì trước hết hãy bỏ những cái phô trương thanh thế bề ngoài đi đã, nhà Nam Cung tai mắt nhan nhản khắp thiên hạ chỗ nào cũng có, mà uy danh của Đường gia Tứ Xuyên cũng lừng lẫy giang hồ, nhất cử nhất động của lão thái thái đều không qua khỏi mắt họ. Vậy nên theo ý tại hạ, thì lão thái nên lên kiệu về ngay đi..."

Chàng ngừng một lát lại tiếp, "Khi tới một khu nào hoang vắng, lão thái nên bỏ kiệu thay hình đổi dạng, rồi hãy đi lên phía bắc..."

Đường phu nhân cau mày ngắt lời, "Lão thân danh phận thế nào mà lại làm cái trò lén lút, giấu giếm như một kẻ gian phi, sau này câu chuyện đồn đi khắp nơi thiên hạ còn ai coi ra gì nữa?"

Thiếu niên cười nói, "Lão thái như không tin lời tại hạ thì cũng đành vậy, chớ còn biết sao được nữa?"

Đường phu nhân trầm ngâm một lát, rồi thở dài nói, "Đáng thương thay là lòng người làm cha mẹ! Thôi thì vì con mà lão thân cũng đành phải theo lời các hạ thay hình đổi dạng vậy, chớ còn biết làm thế nào bây giờ?"

Chàng thanh niên cười nhẹ nói, "Nhà Nam Cung thế gia bề ngoài như không phòng bị gì cả, nhưng kỳ thực thì bên trong đều ngầm đặt cơ quan, bố trí rất chu đáo. Thái thái dẫu cải trang cũng chưa chắc che dấu được đủ mọi mặt, nên chỉ sơ ý một chút là trước khi đến Nam Dương, họ đã phái người theo dõi thái thái rồi..."

Chàng chợt đổi giọng, thi triển công phu "Truyền âm nhập mật" nói tiếp, "Có một xóm lẻ dân cư chừng vài chục nóc nhà, ở về phía Tây khu rừng Trường Thanh, cạnh nhà Nam Cung khoảng hơn mười dặm. Từ phía Tây đi tới rẽ sang Đông tới căn nhà thứ hai, trong nhà có một bà già tóc bạc phơ phơ ở có một mình, đó chính là người có thể tìm cách đưa lão thái thái vào nhà Nam Cung thế gia được. Tuy nhiên trước hết thái thái phải làm được hai điều này đã. Một là phải giữ thế nào cho kín đáo đừng để bị ai nghi ngờ theo dõi, hai là phải có một món lễ vật gì kha khá hối lộ cho mụ, mụ mới chịu hết lòng giúp mình."

Đường thái thái cau mày nói, "Ngộ nhỡ mụ không chịu giúp thì sao?"

Thanh niên ngẫm nghĩ một lát rồi nói, "Nếu thế thái thái cứ bảo mụ rằng Thập tam lang kêu tôi đến tìm mụ."

Đường phu nhân ngắt lời hỏi, "Thập tam lang là ai cơ?"

Thanh niên đáp, "Thập tam lang là ai lão thái thái không cần phải biết, nhưng cứ nói tên ấy ra thì thế nào mụ cũng giúp."

Đường phu nhân tuy có cái tài kiêu hùng nhất thế nhưng đang lúc lo lắng vì con, ngoài mặt dẫu cố gượng trấn tĩnh mà kỳ thực thì trong lòng bối rối như tơ vò. Tuy thấy những lời của chàng thanh niên rất nhiều mâu thuẫn, cũng không còn bụng nào đắn đo suy xét kỹ, chỉ hấp tấp quay ra đi luôn.

Huyền Chân đạo trưởng vì thế cờ đang đi đến chỗ gay go nên phải chú hết tinh thần vào đó, đến nỗi Đường phu nhân đi lúc nào cũng không hay. Mãi đến lúc trên bàn cờ chỉ còn một loại quân đen, không thể gỡ được nữa mới buồn bã thở dài một tiếng, nói, "Bần đạo tự nghĩ một năm nay tĩnh tọa, nước cờ tất phải tinh tiến hơn nhiều. Không ngờ vẫn bị thua công tử một bực."

Ngoảnh lại không thấy Đường thái thái đâu, bất giác ngạc nhiên hỏi, "Đường lão thái đi đâu rồi?"

Thanh niên cười nói, "Bà ấy về từ lâu rồi!"

Huyền Chân đạo trưởng than rằng, "Đường lão thái là hùng chúa một phương danh tiếng rất lớn, bần đạo tiếp đãi không được chu đáo, chỉ e bà ta để bụng hiềm thù thì phiền lắm."

Thanh niên cười nói, "Không sao, bà ta đang nóng lòng sốt ruột vì đứa con mất tích, thì giờ đâu để tâm đến chuyện ấy!"

Huyền Chân đạo trưởng đăm đăm nhìn chàng thanh niên, nói, "Công tử đem bàn tay trái đánh cuộc lấy một câu chuyện bí mật vũ lâm, món đặt cuộc lớn quá, cũng may là bần đạo lại thua!"

Chàng thanh niên mỉm cười, "Nếu kẻ thua cuộc là tại hạ thì lúc này xung quanh tịnh xá của đạo trưởng đã bị máu me làm bẩn hết rồi."

Huyền Chân đạo trưởng nói, "Công từ hà tất phải chế diễu, bần đạo đã thua cuộc phải giữ lời hứa."

Ông ngừng một lát, ngửa mặt lên trời suy nghĩ giây lâu, rồi thủng thỉnh nói tiếp, "Đây là câu chuyện mấy chục năm về trước mà lúc nào bần đạo cũng canh cánh trong lòng, nhưng tuyệt nhiên không hề nói qua với ai. Ôi! Một việc bí ẩn của vũ lâm mà trừ bần đạo ra, chắc không còn ai biết nữa."

Chàng thanh niên đôi mắt sáng hẳn lên, cười nói, "Hay lắm, hay lắm! Càng bí mật càng hay! Xin đạo trưởng cứ cho nghe."

Huyền Chân sắc mặt vụt trở nên trang trọng, gật đầu nói, "Việc này rất lớn, quan hệ đến cả hai phái chính tà trong vũ lâm. Bần đạo đã suy nghĩ hàng mấy chục năm trời, mà vẫn chưa dám quả quyết có nên đem công bố cho tất cả các bạn vũ lâm cùng biết không? Vì nếu nói ra thì có thể làm chấn động nhân tâm..."

Thanh niên hỏi, "Chuyện gì mà quan trọng đến thế?"

Huyền Chân đạo trưởng không trả lời, chỉ nhắm mắt ngồi yên. Hình như trong thâm tâm của ông đang bị kích động mãnh liệt. Một lát sau, ước chừng nguội hết chén trà, Huyền Chân đạo trưởng chợt mở bừng mắt nhìn chòng chọc vào mặt chàng thiếu niên rồi nói, "Chúng ta quen biết nhau đã mấy năm nay, mà bần đạo vẫn chưa biết tên họ của các hạ..."

Thanh niên mỉm cười đáp, "Tại hạ tên gọi Nhâm Vô Tâm."

Huyền Chân đạo trưởng lẩm bẩm nhắc lại, "Nhâm Vô Tâm, Nhâm Vô Tâm cái tên nghe lạ quá nhỉ?"

Thanh niên nói, "Đạo trưởng trước khi nhập cửa huyền môn chắc cũng phải có tên họ do cha mẹ đặt cho, nhưng hiện giờ thì mấy ai biết đến? Đủ hiểu rằng người ta đặt tên chỉ dùng để gọi, dù tục hay nhã có hại gì đến mình đâu? Đạo trưởng hà tất phải lấy làm kinh ngạc! Thôi bây giờ xin đạo trưởng kể chuyện đi, tại hạ xin lắng nghe."

Huyền Chân thở dài nói, "Ba chục năm trước, hồi bần đạo chưa tiếp chức chưởng môn, một bữa theo gia sư lên Côn Lôn phó hội. Khách dự hội bữa đó đều là các nhân vật có tên tuổi trong vũ lâm, nhưng chỉ có hai vị chưởng môn là ân sư tôi và Thiên Long đại sư phái Thiếu Lâm, còn các môn phái khác thì hoặc là cho đệ tử cao cấp, hoặc phái các vị trưởng lão vào hàng tôn trưởng đi đại diện. Cuộc thịnh hội hôm ấy vui lắm, chủ khách đều hân hoan mà giải tán. Gia sư và Thiên Long đại sư cùng kết bạn ra về. Một hôm vào giữa buổi trưa, trời bỗng dưng nổi trận mưa rào, bọn chúng tôi cả thảy bốn người đều chạy vào sườn núi để tránh."

Nhâm Vô Tâm chăm chú nghe tới đây, chợt hỏi, "Bốn người là những ai?"

Huyền Chân đáp, "Bần đạo quên chưa nói rõ, trong bọn trừ hai thầy trò tôi ngoài ra còn hai thầy trò Thiên Long đại sư. Người học trò đại sư là Bách Nhẫn tức là chưởng môn phái Thiếu Lâm bây giờ."

Huyền Chân ngừng một lát rồi lại tiếp, "Dưới chân sườn núi, chỗ chúng tôi đứng trú mưa có một tòa động đá bị một cây thông lùn, cành lá rườm rà che khuất phải tiến vào bên trong mới trông thấy cửa động. Tệ phái và phái Thiếu Lâm môn quy rất nghiêm ngặt, Bách Nhẫn và bần đạo tuy trông thấy tòa động đá nhưng không ai dám chủ trương. Mãi một lúc sau gia sư mới nhận ra, bèn một mình thủng thỉnh tiến vào. Không ngờ gia sư vào động một lúc khá lâu mà vẫn không thấy ra, bần đạo tuy sốt ruột nhưng đứng trước mặt Thiên Long đại sư vẫn phải cố làm ra vẻ trấn tĩnh. Lại chờ một lúc lâu nữa, Thiên Long đại sư hình như cũng lấy làm lạ, bèn đứng lên đi vào tìm."

Ngờ đâu Thiên Long đại sư vào động cũng không thấy ra nữa. Bần đạo và Bách Nhẫn đứng ngoài chờ ước chừng thổi chín nồi cơm, vẫn không thấy tăm hơi gì cả. Không thể nhẫn nại được nữa, chúng tôi bèn bàn nhau vào động kiếm. Vào tới trong động chỉ thấy gia sư và Thiên Long đại sư đều nằm phục trên nền đá, đôi mắt nhắm nghiền hình như đều chết cả rồi. Bần đạo hồn vía rụng rời, lập tức bế gia sư ra khỏi thạch động, thi triển thủ pháp "Thôi cung quá huyệt" nắn bóp huyệt đạo cho người.

Nhâm Vô Tâm hỏi, "Còn Thiên Long đại sư và Bách Nhẫn đại sư thì sao?"

Huyền Chân thở dài, "Bọn họ ra sau bần đạo một lúc. Có lẽ Bách Nhẫn cứu chữa cho sư phụ ngay ở trong động, rồi sau mới bế ra ngoài."

Nhâm Vô Tâm lại hỏi, "Rồi sau sao nữa?"

Huyền Chân nói tiếp, "Sau khi tỉnh dậy, gia sư chỉ nói có một câu "Mau đưa ta về núi" rồi lại nhắm nghiền đôi mắt lại. Trước tình cảnh ấy, bần đạo ruột đã rối như tơ vò và ân sư xưa nay tính rất nghiêm khắc, nói thế nào phải làm đúng như vậy, không được hỏi lại. Bần đạo chỉ đành vâng theo lệnh dụ, lập tức cõng gia sư gắng sức đi suốt ngày đêm đến núi Vũ Đương."

Nhâm Vô Tâm lại hỏi, "Lệnh sư không dặn dò gì đạo trưởng nữa ư?"

Huyền Chân nói, "Về đến cửa quan, bần đạo lập tức cho mời mấy vị sư đệ cùng vào phòng ân sư để nghe lệnh sai khiến. Không ngờ chờ lâu tới chừng ăn xong bữa cơm, không thấy ân sư tỉnh dậy mà cũng chưa tắt thở, hơi thở chỉ thoi thóp như sợi tơ, không đứt mà cũng không tan."

Nhâm Vô Tâm chợt chớp mau đôi mắt, nói, "Thật là kỳ quái!"

Huyền Chân lại kể tiếp, "Chờ mãi không thấy sư phụ tỉnh dậy, tôi và mấy sư đệ bèn một mặt thi triển thủ pháp "Thôi cung quá huyệt" xoa bóp các huyệt mạch trên mình người, một mặt hòa một thứ linh đan độc môn của tệ phái cho người uống, chỉ mong người chóng chóng lai tỉnh..."

Nói tới đấy hai mắt chợt nhắm nghiền, nét mặt vừa đau khổ vừa kinh hãi, không nói được nữa. Nhâm Vô Tâm biết trong bụng ông đang xúc động mạnh nên phải nhắm mắt điều tức, cho tâm trí bình tĩnh lại bèn cũng ngồi yên không hỏi gì nữa.

Một lúc sau, Huyền Chân lại mở mắt ra kể tiếp, "Ước chừng qua một giờ nữa, lúc ấy đã vào khoảng giờ tý gia sư thốt nhiên hồi tỉnh, nhảy phắt dậy giơ tay phách không đánh một chưởng vào ngực bần đạo. Môn quy của phái Vũ Đương chúng tôi rất nghiêm ngặt, dù trông thấy sư phụ giơ chưởng đánh ra cũng không dám tránh né, nhưng cái bản năng cầu sống của con người đã thúc đẩy bần đạo xoay người tránh thoát chỗ yếu hại, thành thử chưởng phong chỉ trúng vào nách bên phải, làm bần đạo bị gãy mất hai cái xương sườn. Chỉ thấy ân sư đôi mắt long lên sòng sọc như mắt người điên, tôi sợ quá quát bảo các sư đệ hãy tránh xa ra, không ngờ vì họ chậm chân một chút đã bị gia sư túm được...Hai sư đệ tuy học đã thành tựu nhưng vì không dám chống lại, nên đều bị gia sư bẻ gãy chân tay, đánh mạnh vào yếu huyệt thổ huyết không ngừng. Bần đạo được Huyền Tinh sư đệ cứu đem ra ngoài mới được thoát chết! Đó là cả một đoạn cố sự kinh khủng và thương tâm. Đến bây giờ mỗi lần nghĩ lại, vẫn cảm thấy rùng mình."

Nhâm Vô Tâm hỏi, "Rồi sau ra sao?"

Huyền Chân nói, "Bần đạo đã được cứu ra, Huyền Nguyệt, Huyền Quang sợ ân sư trong lúc điên cuồng đuổi theo, bèn đóng chặt cửa phòng lại."

Nhâm Vô Tâm nói, "Lệnh sư vũ công cao như thế, hai cánh cửa phòng làm sao ngăn nổi được ngài?"

Huyền Chân nói, "Đó mới thật là một chuyện quái đản ly kỳ, những sự biến hóa đều không ai có thể ngờ tới được. Gia sư bị nhốt ở trong phòng đã không phá cửa mà ra, lại đem bao nhiêu hờn giận trút cả lên mình hai vị sư đệ đã bị thương, bọn họ bị gia sư dùng móng tay sắc cấu nát thi thể ra mà chết! Ôi, dẫu người thù oán nhau đến bậc nào, cũng không thể nào giết nhau một cách kinh khủng tàn nhẫn đến thế được, huống chi là tình thấy trò mấy chục năm trời. Tôi và hai sư đệ đứng ngoài trông thấy thế, trong bụng thực đau như dao cắt. Nhưng khốn nỗi hung phạm không những là ân sư có công ơn nuôi dưỡng chúng tôi, lại là vị chưởng môn sư trưởng, nếu ra tay cứu gỡ cho sư đệ thì thế nào cũng gây thành một thảm kịch thầy trò đánh nhau, còn ra thế nào nữa."

Hồi thứ mười

Bàn tay trắng xinh xinh

Nhâm Vô Tâm hỏi, "Thế còn lệnh sư có việc gì không?"

Huyền Chân lắc đầu, "Người cũng quy tiên ngay sau khi đó... Số là gia sư cấu nát thân thể hai sư đệ xong, trong bụng hình như vẫn còn uất ức căm hờn điều gì chưa tiêu đi được, bèn tự cắn lưỡi và đập vỡ óc ra mà chết."

Nhâm Vô Tâm nói, "Việc này trừ đạo trưởng và mấy vị sư đệ ra, thì còn ai biết nữa không?"

Huyền Chân đạo trưởng nói, "Các vị sư đệ của bần đạo chỉ biết gia sư thốt nhiên hóa điên mà thôi, còn nửa mẩu chuyện về trước họ tuyệt nhiên không biết tí gì. Bách Nhẫn đại sư thì tuy biết mẩu chuyện xảy ra lúc đầu, nhưng còn đoạn sau là lúc thầy cấu nát thân trò thì lại không biết. Chỉ duy có bần đạo là được trông thấy tận mắt từ đầu đến cuối."

Bần đạo và ba sư đệ bàn với nhau quyết định giấu kín việc này, tránh cho Vũ Đương khỏi mang tiếng xấu. Một tháng sau, bần đạo đã hoàn toàn bình phục mới tiếp nhận chức chưởng môn, và cũng đã từng xuất lĩnh mấy cao thủ của bản phái đến chỗ động đá năm xưa tra xét, nhưng chỉ thấy thanh sơn như cũ, tùng, thạch nguyên xưa, không thấy một mảy may nào đáng gọi là khả nghi cả. Tòa động đá thì cũng tầm thường như tất cả những tòa động khác, sâu không quá năm trượng. Bần đạo đã định đem câu chuyện xảy ra ở trong động kể cho các sư đệ nghe, nhưng lại sợ lộng xảo thành chuyết gây nên những chuyện ngờ vực lôi thôi, nên đành phải để bụng. Thấm thoát đã mấy chục năm mà bần đạo chưa từng hé răng nói qua với ai, ba vị sư đệ của bần đạo vẫn yên trí là gia sư thốt nhiên bị một chứng bệnh quái gở biến thành người điên, chỉ riêng có bần đạo là mỗi lần nhớ đến chuyện này vẫn cảm thấy ăn năn xấu hổ nghi nghi hoặc hoặc, không biết giải thích ra sao. Câu chuyện bí mật ấy cứ tích chứa trong tâm không khác gì một lưỡi kiếm sắc, ngày đêm xuyên qua trái tim, đau khổ mấy chục năm trời mà không nói ra được.

Nhâm Vô Tâm nghe xong câu chuyện đau khổ đó lại cảm thấy hứng thú, hỏi tiếp, "Còn Thiên Long đại sư, trường hợp chắc cũng giống như lệnh tôn sư?"

Huyền Chân lắc đầu, "Bần đạo cũng không rõ lắm, chỉ biết rằng sau đó chỉ chưa đầy một tháng đã nghe tin Bách Nhẫn đại sư tiếp nhiệm môn hộ Thiếu Lâm."

Ông thở dài một tiếng rồi nói tiếp, "Trong vòng ba chục năm nay bần đạo tuy cũng có gặp Bách Nhẫn đại sư vài lần nhưng thấy hình như ông có ý tránh, không muốn nhắc tới chuyện đó nên bần đạo cũng không muốn hỏi."

Nhâm Vô Tâm thốt nhiên đứng lên nói, "Mong ơn đạo trưởng tin cậy, kể cho nghe câu chuyện bí mật ba chục năm nay vẫn giấu kín ở trong thâm tâm, tại hạ thật cảm kích vô cùng. Bây giờ tại hạ xin cáo biệt, ba tháng nữa lại xin tới Vũ Đương hầu đạo trưởng một ván cờ."

Nói xong chắp tay vái một cái. Huyền Chân đạo trưởng lúc này lại trở nên vui vẻ phóng túng, cười nói, "Những chuyện bí mật tích chứa trong bụng bần đạo không được bao nhiêu. Lần sau chắc không còn gì để nói nữa."

Nhâm Vô Tâm cười ha hả, "Lần sau ta lại đặt cược cái khác."

Dứt lời đẩy cửa bước ra.

Huyền Chân đạo trưởng trông theo tới khi hình ảnh chàng thiến niên khuất hẳn, mới cúi xuống trầm ngâm nghĩ ngợi một lát, chợt cầm chiếc dùi gỗ gõ vào cái chuông đồng. Tức thì ba tiếng chuông lanh lảnh reo lên, vang vang không dứt. Giữa lúc dư âm còn vương vất, một tên đồng tử khuôn mặt thanh tú mở màn bước vào, khoanh tay cúi đầu chờ lệnh. Huyền Chân đạo trưởng sẽ nói, "Mau ra mời hai vị sư thúc Huyền Tinh và Huyền Quang vào đây."

Tên đạo đồng vâng mệnh lui ra, chỉ một lát sau đã đưa hai vị trung niên đạo nhân mặc áo bào đen bước vào Ngọa Vân tinh xá. Hai vị đạo nhân chấp tay khom lưng nói, "Chưởng môn sư huynh có điều gì chỉ bảo?"

Huyền Chân mỉm cười nói, "Một năm nay mới lại được trông thấy hai vị sư đệ."

Huyền Tinh bước lên hai bước, khúm núm thưa rằng, "Tiểu đệ bất tài không cự nổi cường địch, làm kinh nhiễu sự thanh tu của sư huynh, xin tình nguyện chịu tội."

Huyền Chân cười nói, "Người đó là Đường thái thái danh tiếng lừng lẫy một thời, sư đệ ngăn thế nào nổi? Mà cũng không phải vì thế mà mất thể diện của bản phái."

Chợt ông đổi sắc mặt nghiêm trang nói tiếp, "Hai vị sư đệ ngồi xuống đây, ngu huynh có một việc trọng yếu cần phải bàn với hai vị."

Hai người đưa mắt nhìn nhau, đồng thanh nói, "Chưởng môn sư huynh có việc gì sai khiến xin cứ nói, còn những việc quan trọng chúng tiểu đệ đâu dám lạm bàn!"

Huyền Chân đăm đăm nhìn hai người rồi hỏi, "Hai vị sư đệ có biết tại sao ngu huynh lại bế quan một năm không?"

Huyền Quang ngẫm nghĩ một lát rồi nói, "Chắc hẳn sư huynh vì cần luyện môn "Hồi thiên tam chiêu" trong Thái cực tuệ kiếm phải không?"

Huyền Chân nghiêm trang nói, "Sư đệ chỉ mới đoán trúng có một nửa." Ông chợt ngửa mặt lên trời thở dài rồi nói tiếp, "Cái họa loạn giang hồ đã bắt đầu nảy mầm, trong giới vũ lâm mấy chục năm nay gió êm sóng lặng, chỉ là ấp ủ một cuộc phong ba bão táp mãnh liệt hơn, ghê gớm hơn đang sắp sửa bùng lên mà thôi. Ôi!Cái chết của Trung Nguyên Tứ Quân Tử mới là một tiếng chuông báo động, từ nay trở đi những tấn kịch giết chóc sẽ mở rộng dần dần."

Ông than thở một hồi rồi hỏi sang chuyện khác, "Huyền Nguyệt sư đệ khi đi có nói gì với hai vị sư đệ không?"

Huyền Tinh nói, "Huyền Nguyệt sư huynh chỉ nói là có việc cần phải xuống núi một chuyến, chứ không nói là đi có việc gì và bao giờ về."

Huyền Chân trầm ngâm một lát rồi nói, "Rất có thể Huyền Nguyệt sư đệ đã bị hãm thân vào vòng nguy hiểm."

Huyền Tinh, Huyền Quang đồng thời cùng giật mình, hấp tấp hỏi, "Tại sao sư huynh lại nói thế?"

Huyền Chân đôi mắt long lanh chớp luôn mấy cái, nói, "Đó chỉ là một dự cảm của ngu huynh. Chỉ đáng giận cho ngu huynh sơ ý không phòng ngừa trước, để đến lúc mất trộm mới nghĩ đến cách rào dậu. Bây giờ ngu huynh cần phải hạ sơn một chuyến mới được."

Ông đưa mắt nhìn hai sư đệ rồi lại tiếp, "Lần này đi rất có thể sẽ gặp nhiều biến cố, sức một người sợ không sao đương nổi, vậy ngu huynh muốn đem Huyền Quang sư đệ đi theo, còn công việc trong quan phiền Huyền Tinh sư đệ quản lý hết thảy."

Huyền Tinh vội nói, "Tiểu đệ trí thiển tài sơ, sợ không đương nổi trọng trách."

Huyền Chân cười nói, "Điều đó ngu huynh đã liệu tính trước, sư đệ đừng thoái thác."

Rồi quay lại bảo Huyền Quang, "Sư đệ mau mau thu xếp hành lý, chúng ta sẽ lập tức lên đường."

Huyền Quang hình như muốn nói gì lại thôi. Rồi trở về phòng thu xếp các đồ đạc tùy thân đoạn lại quay sang nhà tịnh xá chờ lệnh. Huyền Chân đạo trưởng đứng lên nói, "Thôi ta đi!"

Rồi với tay lên vách tháo thanh trường kiếm, phơi phới rời khỏi nhà Ngọa Vân tinh xá. Huyền Tinh đi tiễn, chấp tay chúc rằng, "Vô Lượng thọ phật! Sư huynh sư đệ đi đường bình an và sớm biết tin tức sư huynh Huyền Nguyệt."

Huyền Chân cười nói, "Sư đệ ở nhà trông coi Tam nguyên quan cho cẩn thận."

Câu cuối cùng vừa dứt thì người đã ra khỏi Tam Nguyên quan hơn một trượng.

Ba hôm sau.

Dưới chân ngọn Thiếu Thất trên Tung Sơn, trước cửa chùa Thiếu Lâm, một ngôi chùa danh tiếng khắp thiên hạ, đã thấy một chàng thanh niên mặc áo xanh, mày thanh môi trắng, dáng điệu nho nhã đột nhiên xuất hiện. Ngôi chùa Thiếu Lâm ngày thường trang nghiêm như thế nhưng mấy tháng gần đây thốt nhiên phòng thủ rất nghiêm ngặt, trong chùa ngoài chùa đều đặt ngầm chông nhọn, chăng dây thép, rào dậu kín đáo đến con ruồi cũng bay không lọt.

Khi chàng thiếu niên tới chùa cón cách khoảng mười dặm thì bọn phòng thủ phát hiện, vội đi đường tắt về chùa báo tin. Vậy nên chàng vừa tới cửa chùa đã thấy ba vị sư tăng mặc áo cà sa, tay cầm thiền trượng đứng xếp hàng ngoài cửa chờ đón. Vị sư đứng giữa tuổi trạc năm mươi, vẻ mặt trang nghiêm đôi mắt sáng quắc, rõ ra một vị cao tăng nội công đã vào bậc thượng thừa. Vừa trông thấy chàng thanh niên ung dung bước tới, ông ta cất cao giọng niệm một câu "A Di đà Phật", tay trái đặt trước ngực nói, "Xin kính chào thí chủ."

Chàng thanh niên mỉm cười chấp tay thi lễ nói, "Đa tạ ba vị đại sư mất công ra đón."

Ba vị sư tăng đều hơi sửng sốt, nhưng chỉ trong nháy mắt lại trấn tĩnh ngay được. Vị sư đứng giữa mỉm cười nói, "Thí chủ tới đây chẳng hay có việc gì chỉ giáo?"

Thiếu niên đưa mắt nhìn ba người rồi thủng thỉnh đáp, "Tại hạ muốn được tham kiến Bách Nhẫn đại sư."

Vị sư đứng giữa bước lên hai bước, hỏi, "Thí chủ cho biết quí tính?"

Thanh niên đáp, "Tại hạ là Nhâm Vô Tâm. Đại sư pháp hiệu..."

Vị sư tăng nói, "Lão nạp là Bách Trần. Cửa từ bi tuy rộng, khách nào đến cũng phải nghênh tiếp chu đáo, chỉ tiếc rằng thí chủ đến chơi hôm nay thật không may."

Thiếu niên hỏi, "Dám hỏi đại sư, thế nào là không may?"

Bách Trần nói, "Chưởng môn sư huynh tôi mấy bữa nay pháp thể không yên, nên không thể tiếp quý khách được."

Nhâm Vô Tâm đôi mắt long lanh cười nhạt hỏi, "Nhưng nếu tại hạ cứ nhất định muốn gặp thì sao?"

Bách Trần cười nói, "Vũ lâm đồng đạo trong thiên hạ những kẻ dám khinh thường chùa Thiếu Lâm, lão nội quả chưa từng thấy người nào..."

Nhâm Vô Tâm nói, "Tại hạ cho rằng đại sư nói cũng hơi quá sự thực!"

Bách Trần biến sắc mặt nói, "Thí chủ nói năng nên cẩn thận một chút, bần tăng xưa nay vốn không thích nói đùa."

Nhâm Vô Tâm cứ thủng thỉnh tiến lên trên môi vẫn giữ nụ cười lạnh lẽo, nhưnh thần tình cử chỉ thì rõ vẻ tiêu sái ung dung, như không có chuyện gì xảy ra cả. Bách Trần đăm đăm nhìn vào mặt Nhâm Vô Tâm, thốt nhiên quát to, "Thí chủ hãy dừng lại, nếu cứ xấn bừa vào thì chớ trách lão nội vô lễ!"

Nhâm Vô Tâm điềm nhiên nói, "Đại sư là một bậc cao tăng đắc đạo, chắc là không ưa những việc múa kiếm hươi đao?"

Bách Trần đáp, "Vì cần phải duy hộ uy danh của Thiếu Lâm, bần tăng không thể không nhờ vào sức mạnh của cây thiền trượng này, chỉ trừ khi thí chủ biết điều lui ngay thì không kể."

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Dù sao tại hạ cũng nhất định phải vào chùa Thiếu Lâm, nhất định phải gặp đại sư Bách Nhẫn nhưng cũng nhất định không động thủ với các vị."

Chàng dừng một giây rồi lại tiếp, "Chẳng lẽ ngoài cách đánh nhau ra thì không còn phương pháp nào khác nữa chăng?"

Cách nói nửa cứng nửa mềm của chàng thanh niên lại làm cho Bách Trần đại sư sinh ra lúng túng, không biết xử trí thế nào, ông trầm ngâm một lát rồi nói, "Nhâm thí chủ có cao kiến gì xin cứ nói thẳng ra, đừng ngại."

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Chi bằng chúng ta đánh cuộc, nếu tại hạ thua xin quay về lập tức, còn đại sư thua thì phải đưa tại hạ vào bái kiến Bách Nhẫn đại sư."

Bách Trần lắc đầu quầy quậy, "Chịu thôi, bần tăng không biết đánh cuộc."

Nhâm Vô Tâm nói, "Đánh cuộc có hàng ngàn vạn lối, có phải cứ nhất loạt phải theo một luật lệ nào đâu? Dẫu đứa trẻ con ba tuổi cũng còn biết đánh nữa là."

Bách Trần ngây người ra một lúc rồi hỏi, "Vậy thì đánh cuộc thế nào, thí chủ hãy nói cho bần tăng nghe thử."

Nhâm Vô Tâm nói, "Đánh cuộc thì do tại hạ quyết định, còn phương pháp thì tùy ý đại sư. Bất kỳ cầm, kỳ, thi, họa, quản huyền ca phú, sai quyền, hành luận, luận văn hành vũ, chỉ cần một bên ra đề một bên đối lại, cái gì mà không đánh cuộc được?"

Bách Trần thấy chàng huênh hoang quá độ bất giác vùng cười lên ha hả, "Nhâm thí chủ khẩu khí ngang tàng như vậy chắc là không gì không tinh, không gì không giỏi phải không?"

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Đại sư cứ ra đề mục, tại hạ xin phụng bồi."

Bách Trần nói, "Nếu bần đạo đem kinh Phật ra thảo luận với thí chủ thì e mang tiếng là cố ý làm khó dễ. Thí chủ đã khinh thường Thiếu Lâm như vậy chắc cũng là một tay tuyệt nghệ kinh nhân, chúng ta đều là người luyện võ chi bằng lấy ngay vũ công ra mà bàn, có lẽ tốt hơn."

Nhâm Vô Tâm nói, "Chỉ cần không phải động thủ để tránh những cuộc đổ máu vô ích, còn thì về bất cứ vấn đề gì, tại hạ cũng xin tòng mệnh."

Bách Trần nói, "Tốt lắm, Nhâm thí chủ thật là một người sảng khoái, bần tăng rất kính phục."

Ông đưa mắt nhìn lên hai cây tùng thân to bằng miệng bát, cách đấy chừng hơn một trượng nói tiếp, "Lão nội muốn trong ba chưởng đánh cái cây bên trái kia gãy làm hai đoạn."

Nói xong ngầm đề chân khí, "vù" một tiếng đã phóng ra một chưởng. Chưởng lực đánh lên cây tùng bất quá chỉ làm cho cành lá hơi rung động, như vừa bị một cơn gió nhẹ thổi qua. Bách Trần quay lại nhìn Nhâm Vô Tâm một cái rồi lại giơ tay phải lên phóng luôn một chưởng nữa.

Chưởng lực lần này lại càng yếu, đến cả những cành lá cũng không hề rung động. Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói, "Đại lực kim cương chưởng của đại sư hỏa hầu sâu lắm!"

Bách Trần hơi sửng sốt lại đưa tay phải lên ngang ngực, từ từ đẩy ra. Chưởng này tuy phóng rất chậm nhưng hình như dùng sức rất mạnh, nên mặt ông ta đã đỏ như gấc chín. Chỉ nghe đánh "sầm" một tiếng, cây thông thân to bằng miệng bát đã gãy thành hai đoạn. Nhâm Vô Tâm đưa mắt nhìn cây tùng gãy, cười nói, "Chưởng lực của đại quả thực hùng hậu, chỉ đáng tiếc là còn phải phóng luôn ba chưởng, nếu chỉ dùng một chưởng mà đánh gãy được cây tùng lớn, mới thật đáng tranh cao thấp với anh hùng trong thiên hạ."

Bách Trần cau mày nói, "Nhâm thí chủ chỉ cần thực hiện như lối đó, bần tăng nhận thua ngay tức khắc."

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Đại sư là một vị cao tăng có đạo đức, một lời nói ra chắc không khi nào thay đổi."

Bách Trần đưa mắt ngắm nghía chàng thanh niên rồi nghĩ thầm, "Người này tuổi bất quá chỉ mới độ hai mươi cho dù mới sinh ra đã học võ ngay, lại được danh sư chỉ điểm cũng chỉ được hai mươi năm hỏa hầu là cùng, chẳng lẽ về phương diện nội lực lại có thể hơn ta được hay sao mà sợ!" Nghĩ vậy bèn thúc dục, "Nhâm thí chủ cứ việc ra tay đi. Nếu thí chủ đánh gẫy được cây tùng kia, thì dù bị quở phạt lão nạp cũng xin đưa thí chủ vào bái kiến sư huynh Chưởng môn."

Nhâm Vô Tâm hình như chỉ chờ có câu ấy, bèn thốt nhiên xoay mình giơ tay phóng ra một chưởng, "sầm" một tiếng cây tùng bên phải đã đổ gục xuống. Bách Trần như người vừa bị giáng một cái tát nảy lửa, cứ đứng ngây người ra, hết nhìn cây tùng lại nhìn Nhâm Vô Tâm bàng hoàng như người mê ngủ. Nhâm Vô Tâm ngẩng đầu trông trời cười nói, "Đại sư tại hạ đã hẹn với một người trước buổi chiều nay."

Bách Trần thở dài nói, "Thí chủ tạm chờ một lát, lão nạp xin lập tức cho người vào thông báo." Nói xong liền giơ tay vẫy một tăng nhân lại gần nói nhỏ mấy câu, vị tăng nhân vâng lời quay đi. Bách Trần chấp tay ngang ngực nói với Nhâm Vô Tâm, "Xin mời thí chủ."

Nhâm Vô Tâm cũng không khách sáo, lập tức rảo bước đi lên trước. Vừa đến cửa chùa thấy bên trong là một rừng hoa rất rộng, có bốn tăng nhân mặc áo đen chia nhau đứng xếp hàng hai bên, thấy Bách Trần đại sư vào đều chấp tay cúi mình thi lễ. Bách Trần ở trong Thiếu Lâm địa vị rất tôn quý, bốn vị tăng nhân vẫn cúi rạp đầu, đợi hai người đi khỏi một quãng xa mới dám đứng thẳng lên.

Đang đi lại thấy hai vị tiểu sa di ở trong chùa đi ra, chấp tay nói với Bách Trần, "Đệ tử phụng mệnh ra đón khách."

Bách Trần liền ngoảnh lại nói với Nhâm Vô Tâm, "Đây là tiểu sa di hầu cận tệ phương trượng, xin mời thiếu chủ đi theo họ, lão nạp xin cáo lui."

Nói xong chấp tay vái chào rồi lui ra. Nhâm Vô Tâm theo hai tên tiểu sa di đi vào bên trong. Xuyên qua rừng hoa thì tới một tòa thiền viện, kiến trúc rất tinh tế. Một dãy hồng tường vây quanh khu viện lạc, hai cánh cửa gỗ thông trắng nửa khép nửa mở.

Một chú tiểu đẩy mạnh cánh cửa gỗ rồi ngoảnh lại nói với khách, "Xin thí chủ chờ đây một lát!"

Nói xong xăm xăm tiến vào thiền viện. Còn một chú tiểu nữa vẫn đứng bên cạnh Nhâm Vô Tâm, hình như có ý giám sát hành động của chàng. Chú tiểu này tuổi tuy còn nhỏ nhưng sắc mặt lạnh như tiền, đôi mày đầy sát khí, trông không có vẻ gì là từ thiện. Nhâm Vô Tâm trong bụng cũng hơi lấy làm lạ.

Chỉ trong khoảnh khắc chú tiểu vừa vào lại trở ra, nói, "Mời thí chủ vào, gia sư đang đợi trên thiền thất."

Nhâm Vô Tâm gật đầu, theo hai chú tiểu đi qua một con đường nhỏ lát bằng đá trắng, vòng qua một dãy chậu hoa leo ba bậc thềm đá, là tới cửa một tòa thiền phòng u tĩnh, trang nghiêm.

Trong nhà có một vị lão tăng lông mày dài đến mang tai sắc mặt hồng hào tươi tốt, ngồi xếp chân bằng tròn trên bồ đoàn. Nhâm Vô Tâm sẽ đằng hắng một tiếng, thủng thỉnh bước vào, miệng thì nói, "Xin kính chào lão thiền sư."

Vị hòa thượng đang lim dim đôi mắt, chợt mở choàng ra nhìn Nhâm Vô Tâm một lượt, chắp tay nói, "Mời thí chủ ngồi."

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Vô cớ quấy nhiễu, mong lão thiền sư rộng lượng tha thứ."

Vị hòa thượng nói, "Lão nạp là Bách Nhẫn, xin thí chủ cho biết quí tính và có việc gì chỉ giáo."

Nhâm Vô Tâm nghiêm trang nói, "Tại hạ là Nhâm Vô Tâm đến đây là vì việc Thiên Long đại sư."

Nói đến đấy chợt ngừng bặt, Bách Nhẫn giật mình tỏ vẻ khích động, vội đứng lên cúi mình nói, "Mời thí chủ ngồi."

Nhâm Vô Tâm vâng lời ngồi lên một chiếc ghế dựa bằng gỗ thông. Bách Nhẫn nói, "Thiên Long thiền sư tức là tiên sư của lão nạp. Ngài viên tịch đã lâu, Nhâm thí chủ đột nhiên nhắc tới tên Ngài là có ý gì vậy?"

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Đáng thương một vị cao tăng nhất thế mà bị chết một cách quá ư bi thảm."

Bách Nhẫn ngẩn người, đăm đăm nhìn chàng thanh niên một lúc, bất giác bật cười hỏi, "Thí chủ năm nay bao nhiêu tuổi?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Đa tạ lão sư hỏi đến, tại hạ đâu dám đương."

Lời lẽ tuy lễ phép uyển chuyển nhưng người hỏi một đằng, người đáp một nẻo, chẳng ăn nhập vào đâu. Bách Nhẫn lại mỉm cười nói, "Gia sư qui hóa đã mấy chục năm nay, có lẽ hồi đó Nhâm thí chủ chưa ra đời?"

Đang nói sắc mặt chợt sầm lại hỏi, "Nhâm thí chủ đột ngột tới đây nhắc tới tên gia sư, có lẽ vâng lệnh vị cao nhân nào chỉ xử chăng?"

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Đại sư chớ nóng nảy, tại hạ vượt hàng ngàn dặm tới đây, đi đường vất vả, đại sư không cho được một chén nước, như thế đâu phải là đạo đãi khách."

Bách Nhẫn cất cao giọng gọi, "Pha trà lên đây."

Vừa nghe một tiếng "dạ" từ phía xa xa, đã thấy chú tiểu bưng một cái khay bằng gỗ thông, trên đặt một chén trà nước ánh lên một màu xanh biếc. Nhâm Vô Tâm đỡ lấy chén trà, chú tiểu lại cúi mình lui ra. Bách Nhẫn đại sư ngồi xuống nhắm mắt lại. Trong thiền xá im lặng như tờ, chủ khách đều không ai lên tiếng. Ước chừng nguội chén trà, Bách Nhẫn chợt mở mắt ra nói, "Trong thiền phòng chỉ mình lão nạp và Nhâm thí chủ, có việc gì xin thí chủ cứ cho biết đừng ngại."

Nhâm Vô Tâm đôi mắt long lanh mỉm cười nói, "Tại hạ là người ngoài cuộc, không dám hỏi nhiều những chuyện riêng tư trong quí tự, chỉ cần đại sư cho mượn một vật, nếu được đại sư nhận lời tại hạ xin lập tức đi ngay."

Bách Nhẫn ngần ngừ hỏi, "Thí chủ muốn mượn vật gì?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Cây thiền trượng của Thiên Long thiền sư dùng hồi trước."

Bách Nhẫn sầm nét mặt nói, "Di vật của vong sư, đâu dám đem cho mượn một cách dễ dàng như vậy?"

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Cho mượn hay không là quyền ở đại sư."

Bách Nhẫn phất tay áo đứng lên, thủng thỉnh bước đến trước mặt Nhâm Vô Tâm, mặt đầy sát khí, rõ ràng là ông đã không dằn được lửa giận. Nhâm Vô Tâm sắc mặt vẫn thản nhiên, nhỡn quang càng lóng lánh, chàng cũng từ từ đứng lên. Bách Nhẫn tiến sát tới trước mặt chàng thanh niên, lạnh lùng hỏi, "Ai bảo ngươi tới đây, phải nói cho thực, nếu nửa lời ấp úng thì đừng hòng ra khỏi đây một bước."

Nhâm Vô Tâm vẫn bình tĩnh nói, "Đã đến không sợ, đã sợ không đến, nếu tại hạ sợ hãi thì không dám một mình dấn thân vào đây."

Bách Nhẫn phất ống tay áo, "Nhâm thí chủ chắc đã nghe nói đến chỉ lực kim cương của phái Thiếu Lâm rồi chứ?"

Nhâm Vô Tâm đôi mắt long lanh như điện, đăm đăm nhìn hai ngón tay của Bách Nhẫn, chỉ thấy mỗi ngón to lên gấp hai sắc đỏ như máu, nhác trông đã biết đó là một công lực có thể xuyên đá chặt vàng, giết người như bỡn, chàng cũng ngầm đề chân khí để phòng bị, nhưng ngoài mặt vẫn giữ vẻ bình tĩnh mỉm cười nói, "Đại sư tướng mạo trung hậu, quả không phải là hung phạm phản sư thí trưởng."

Câu nói đường đột đó quả có một uy lực rất mạnh, làm cho Bách Nhẫn đại sư phải giật mình sửng sốt. Chàng thanh niên không đợi Bách Nhẫn thiền sư kịp mở miệng, đã nói chặn trước, "Có điều cái chết của Thiên Long thiền sư vẫn ghi trong lòng đại sư một niềm hối hận rất sâu mà không thể nói ra với ai được, vì thế nên lúc nãy thình lình nghe người nhắc đến, đại sư không khỏi giật mình có đúng thế không?"

Bách Nhẫn thấy Nhâm Vô Tâm nói đúng tâm sự, tự nhiên lại cảm thấy dễ chịu, bèn buông tay xuống thở dài nói, "Những sự chất chứa trong bụng bần tăng, thí chủ do đâu mà biết?"

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Việc này giản dị lắm, nói ra chỉ sợ đại sư cũng phải bật cười."

Bách Nhẫn đối với chàng thanh niên tự nhiên cũng thấy có cảm tình, sắc mặt chợt dịu hẳn lại, chắp tay nói, "Chúng ta mới gặp nhau lần đầu, Nhâm thí chủ đã nhìn thấy nỗi uất muộn chất chứa trong tâm lão nạp mấy chục năm nay, thật khiến cho lão nạp phải bái phục."

Nhâm Vô Tâm nói, "Việc ấy có gì khó, người ta có câu "Người trong cuộc thì quáng, người ngoài cuộc thì sáng". Nếu đại sư muốn nghe ý kiến của kẻ ngu này thì tại hạ nguyện xin phụng cáo."

Bách Nhẫn nói, "Lão nạp nguyện được nghe cao luận."

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Có gì đâu, số là khi tại hạ vừa nhắc tới lệnh sư tôn chợt thấy đại sư biến hẳn sắc mặt, đủ thấy rằng trong thâm tâm đại sư đối với sư trưởng, vẫn có cái gì áy náy xấu hổ không yên."

Bách Nhẫn hỏi, "Vậy tại sao thí chủ lại hỏi mượn cây thiền trượng của tiên sư làm gì?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Việc ấy lại càng giản dị hơn nữa, vì đại sư thử nghĩ, những vật mà lệnh tôn sư thường đem theo bên mình ngoài cây thiền trượng ra, tại hạ còn có biết vật gì nữa đâu?"

Bách Nhẫn nói, "Á thì ra thế, sự việc tuy giản dị nhưng cái lối xét đoán tài tình của Nhâm thí chủ đã đủ làm cho người ta kính phục. Nhưng lão nạp còn một điểm nghi ngờ, mong Nhâm thí chủ giải thích giùm cho, thí chủ đã biết lão nạp không phải hung thủ giết thầy, thì sao lại đoán là lão nạp đối với cái chết của ân sư, trong bụng rất lấy làm hổ thẹn?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Đại sư nghe tới lệnh tôn sư lập tức nổi giận, không sao át đi được, nội một điều đó đủ chứng minh rằng đại sư tâm tính trung hậu; những sự vui, mừng, hờn, giận không cần che đậy giấu diếm, hạng người như vậy có thể làm được những việc đại nghịch luân thường được không? Tuy nhiên nếu đại sư không có lòng hối thẹn thì việc gì nghe thấy người ta nhắc đến, mà lại xúc động mãnh liệt như vậy? Cứ đó mà suy, đại sư tuy không giết thầy nhưng có lẽ trong bụng vẫn hối thẹn rằng vì mình bất lực, mà đến nỗi thầy phải chết oan. Những mối mâu thuẫn cứ luôn luôn xung đột nhau, làm cho đại sư không ngày nào mà không phải nghĩ đến, mà lại sợ không muốn nhắc đến nữa."

Bách Nhẫn bất giác thở dài một tiếng nói rằng, "Lão nạp xưa nay làm việc gì cũng quang minh chính đại, ngẩng lên không hổ thẹn với trời, cúi xuống không hổ với người vậy mà đối với cái chết của ân sư, trong lòng thực ăn năn khôn tả. Không biết làm sao cho quên được?"

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Nếu đại sư biết hành động của mình không có gì đáng hối hận thì tự nhiên trong lòng sẽ thanh thản lâng lâng."

Bách Nhẫn ngạc nhiên hỏi, "Thí chủ nói thế là ý thế nào?"

Chàng thanh niên đáp, "Có phải đại sư chỉ ân hận một điều là vì chưa cho lệnh tôn sư uống thuốc cứu thương, chưa cứu chữa được tận tình hết sức phải không?"

Bách Nhẫn giật mình cau mày hỏi, "Tại sao thí chủ lại biết?"

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Kính mừng đại sư, may mà đại sư chưa dùng linh dược chữa cho lệnh tôn sư..."

Bách Nhẫn thở dài ngắt lời, "Chỉ vì điều ấy mà lão nạp vẫn ăn năn tự trách mấy chục năm nay, còn có gì mà đáng mừng?"

Nhâm Vô Tâm nghiêm sắc mặt nói, "Lệnh tôn sư vũ công cao cường nhất thế, nếu không bị một chưởng chí mạng thì không khi nào lại hôn mê ngay như vậy được! Nếu lúc ấy cho uống thuốc, bị chất thuốc kích thích nạn nhân không những không khỏi mà còn có thể trở nên nguy hiểm hơn."

Bách Nhẫn càng nghe càng kinh ngạc, vội hỏi, "Câu chuyện bí mật hơn ba chục năm trừ lão nạp và Huyền Chân đạo trưởng Chưởng môn phái Vũ Đương ra, thì không còn người thứ ba nào biết nữa. Có lẽ thí chủ đã được đạo trưởng Huyền Chân kể cho biết rồi chăng?"

Nhâm Vô Tâm gật đầu nói, "Cũng là do một sự tình cờ, nên tại hạ được Huyền Chân đạo trưởng vui lòng cho nghe câu chuyện lạ lùng ấy."

Bách Nhẫn trầm ngâm một lát rồi nói, "Ân sư viên tịch tới nay vừa đúng ba mươi hai năm. Ngay hôm xảy ra tai nạn, Ngài mê man liền năm ngày năm đêm rồi tắt thở. Trong năm hôm đó, lão nạp và mấy sư đệ thay phiên nhau túc trực bên giường bệnh không hề dời đi một bước, nhưng tuyệt nhiên không thấy gia sư tỉnh lại một phút nào. Lão nạp và các sư đệ vì không biết căn bệnh Ngài ra sao nên không dám tự tiện cho uống những thuốc trị thương có tính chất kích thích mạnh, chỉ dùng thủ pháp cứu chữa thôi. Vì thế nên sau khi người tịch, lão nạp ân hận vô cùng, cứ nghĩ rằng có lẽ nếu dùng linh dược cứu chữa thì không đến nỗi."

Ngừng một lát, ông lại thở dài nói tiếp, "Lão nạp tiếp chưởng môn hộ Thiếu Lâm được ít lâu, thì cũng nghe tin Huyền Chân nhận chức chưởng môn phái Vũ Đương, xem thế đủ rõ vong sư và vị tiên sư của Huyền Chân đạo trưởng cùng qui tiên trong thời gian đó. Không biết Huyền Chân đạo trưởng dùng phương pháp gì cứu chữa cho sư phụ?"

Nhâm Vô Tâm mỉm cười, "Huyền Chân đạo trưởng thì lại ân hận rằng đã dùng linh đan cứu chữa cho sư trưởng. Nhờ sức linh đan mà sư trưởng tỉnh lại được một ngày, nhưng cũng chính vì cái ngày đó mà đạo trưởng phải ân hận suốt đời, có lẽ còn khổ hơn đại sư nhiều. Vì thế nên tại hạ mới mừng đại sư."

Bách Nhẫn kinh ngạc vô cùng vội hỏi, "Thế là thế nào? Xin thí chủ nói rõ cho biết."

Nhâm Vô Tâm lắc đầu, "Việc riêng của phái Vũ Đương tại hạ nói ra không tiện. Đại sư muốn biết xin cứ hỏi thẳng Huyền Chân đạo trưởng. Tại hạ chỉ có thể nói mấy câu đó, để giải bớt những nỗi ân hận ray rứt trong thâm tâm của đại sư mấy chục năm nay mà thôi. Bây giờ tại hạ xin hỏi đại sư một điều, mong đại sư vui lòng chỉ giáo cho."

Bách Nhẫn nói, "Nhâm thí chủ cứ hỏi, lão nạp biết được điều gì quyết không dám giấu."

Nhâm Vô Tâm nói, "Đại sư có nghi ngờ gì về cái chết của lệnh tôn sư không?"

Bách Nhẫn đăm đăm nhìn chàng thanh niên một lúc, rồi chậm rãi trả lời, "Một cái chết vô cùng đột ngột như vậy, ai mà không nghi ngờ?Nhưng sau khi an táng ân sư xong, lão nạp cũng có trở lại động đá dò xét, không thấy gì khả nghi cả. Và trên mình gia sư cũng không có thương tích gì, lại nữa khi còn sinh tiền, gia sư chỉ chuyên tâm tích đức tu thiện không gây thù oán với ai, nên không có manh mối gì để điều tra, đành chỉ coi như là một tai nạn."

Nhâm Vô Tâm nói, "Theo lời Huyền Chân đạo trưởng nói thì hôm xảy ra việc đó, đại sư vào động đá trước, vậy đại sư thử nhớ lại xem trong động có vật gì khả nghi không?"

Bách Nhẫn lắc đầu, "Lão nạp vừa vào tới động trông thấy ân sư ôm gậy nằm sóng soài dưới đất, hồn vía rụng rời, còn bụng nào mà để ý xem xét những vật xung quanh nữa."

Nhâm Vô Tâm nói, "Đại sư hãy thử nhớ kỹ lại xem nào!"

Bách Nhẫn lấy tay vỗ trán, nghĩ một lúc rồi reo lên, "A phải! Lão nạp nhớ hình như lúc ấy có trông thoáng thấy một cánh tay thon thon trắng nõn như ngọc, nhưng chỉ nháy mắt đã biến mất."

Nhâm Vô Tâm cặp mắt sáng hẳn lên, vội hỏi, "Đại sư có chắc chắn như thế không?"

Bách Nhẫn lắc đầu, "Đứng trước hoàn cảnh đó, tôi vừa đau đớn vừa sợ hãi, làm sao còn nhận định được chắc chắn hay không."

Nói đến đấy ông chợt nhắm nghiền mắt lại, một lúc mới từ từ mở mắt ra nói tiếp, "Đến bây giờ nhớ lại, tôi vẫn còn tưởng tượng như có thể hình dung được cánh tay ma quái ấy. Nhưng trước sau tôi vẫn cho đó là một ảo giác, không phải cảnh thực."

Nói xong ông ngẩng đầu trông lên trần nhà, đôi mắt mơ màng như đang thả hồn về dĩ vãng. Nhâm Vô Tâm cũng không hỏi gì nữa, không khí trong thiền phòng như lắng chìm hẳn xuống, một con ruồi bay qua cũng nghe tiếng động. Một lúc lâu Bách Nhẫn đại sư chợt nhìn Nhâm Vô Tâm cao mày hỏi, "Nhâm thí chủ không quản xa xôi nghìn dặm, trèo đèo vượt suối tới đây chỉ cốt giúp lão nạp tiêu trừ một mối ăn năn tự trách, ám ảnh lão nạp mấy chục năm nay mà thôi sao?"

Nhâm Vô Tâm lắc đầu, "Đó chỉ là việc phụ, tại hạ sở dĩ đến đây mục đích muốn mách đại sư một phương pháp điều tra vụ nghi án của Tôn sư."

Bách Nhẫn thốt nhiên ngồi thẳng dậy, cặp mắt trợn tròn, trừng trừng nhìn Vô Tâm hấp tấp hỏi, "Nghi án? Sao lại nghi án? Có lẽ thí chủ cho là gia sư bị ám sát hay sao? Thí chủ lấy gì làm bằng chứng?"

Vô Tâm mỉm cười thủng thỉnh đáp, "Trong thiên hạ không việc gì mà không khởi đầu từ một nguyên nhân. Hai vị chưởng môn danh tiếng lừng lẫy khắp trong làng võ, đồng thời cùng bị nạn một lúc trong tòa động đá, cùng mang một chứng bệnh như nhau, nếu bảo là bị độc trùng cắn thì ít nhất cũng phải có thương tích hoặc máu độc dồn tụ trong mình, nếu bảo là chướng khí thì sao hai vị đồ đệ vào sau lại không bị? Rõ ràng là phải có bàn tay vô hình nào hạ sát! Cánh tay ngà ngọc mà đại sư trông thấy đó vị tất đã phải là ảo ảnh."

Bách Nhẫn ngẫm nghĩ một lúc rồi lắc đầu, "Việc này thật hết sức bí mật! Vì gia sư xưa nay không thù oán với ai, lại nữa chẳng lẽ cả hai vị chưởng môn cùng chung một kẻ thù?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Cái chết của hai vị chưởng môn ba chục năm về trước với cái chết của bốn vị Tứ quân tử vừa rồi cũng không khác nhau xa mấy. Trung Nguyên Tứ quân tử cũng không có kẻ thù, lúc chết khám trong mình cũng không có vết tích gì."

Bách Nhẫn sửng sốt nói, "Nhâm thí chủ nói rất có lý. Vậy biết làm thế nào bây giờ? Gia sư tạ thế đã hơn ba chục năm nay, còn tra xét vào đâu được nữa?"

Vô Tâm gật gù nói, "Vì thế hôm nay tại hạ không quảng đường đột tới đây cốt để cung cấp cho đại sư một vài manh mối."

Bách Nhẫn đại sư vội hỏi, "Xin thí chủ cho nghe cao luận."

Nhâm Vô Tâm nghiêm sắc mặt nói, "Mấy chục năm gần đây, người bị tao ngộ nhiều cảnh huống thê thảm hơn nhất trong giới vũ lâm không ai bằng nhà Nam Cung thế gia. Từ đời Nam Cung Minh đánh bại anh hùng thiên hạ, chiếm được mỹ hiệu "vũ lâm đệ nhất gia" từ đó về sau, con cháu mấy đời nhà ấy đều bị người ám toán mà sau khi chết thân thể cũng mất tích luôn."

Bách Nhẫn gật đầu, "Những chuyện ấy lão nạp được nghe nói đến."

Vô Tâm lại tiếp, "Vì thế nên bao nhiêu nỗi căm thù uất ức, những người trong gia đình Nam Cung thế gia đều trút cả lên đầu các nhân vật vũ lâm. Họ nghi ngờ thù oán tất cả mọi người, từ bấy đến nay các vụ nghi án trong vũ lâm đều luôn luôn tiếp diễn, người thì bị ám sát kẻ thì bị mất tích. Nếu tình trạng này cứ kéo dài mãi thì kết quả còn thảm khốc đến đâu ta cứ tưởng tượng cũng đủ rõ."

Bách Nhẫn ngắt lời, "Có lẽ Nhâm thí chủ cho rằng cái chết của gia sư với việc trả thù của nhà Nam Cung thế gia có liên can với nhau hay sao?"

Vô Tâm nói, "Hiện giờ chưa có chứng cứ xác thực, chưa thể nói quyết được. Nhưng nếu đại sư có lòng từ bi cứu khổ, thiết tưởng cũng nên tới Nam Dương một chuyến. Dù không điều tra được nguyên ủy vụ án của lệnh sư, thì ít nhất cũng vì vũ lâm thuyết pháp giải trừ những cuộc trả thù mù quáng khốc hại do nhà Nam Cung gây nên, công đức thật là vô lượng."

Thấy Bách Nhẫn có vẻ nửa tin nửa ngờ, Vô Tâm lại nói, "Đại sư đức cao vọng trọng danh tiếng lẫy lừng, nếu một khi đã chịu đứng ra trừ hại cho vũ lâm, thì hào kiệt bốn phương ai không nhiệt liệt hưởng ứng? Đạo Phật lấy sự cứu dân làm trọng, xin đại sư chớ ngần ngại."

Bách Nhẫn lẳng lặng giây lâu rồi nói, "Những vụ án ám toán, mất tích gần đây trong giang hồ cũng thấy đồn đại sôi nổi, nhưng thí chủ do đâu mà biết chủ mưu những vụ đó là nhà Nam Cung thế gia? Việc này can hệ rất lớn, không thể vô duyên vô cớ mà lập nhân chỉ tội được."

Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói, "Nếu muốn có chứng cớ xác thực cũng không khó gì , nhưng tại hạ nói ra chắc không ai tin, vì thế nên muốn yêu cầu đại sư hạ sơn, một khi đại sư đã trông thấy tận mắt mới tuyên bố ra ngoài, chắc hẳn không còn ai dám nghi ngờ nữa."

Bách Nhẫn vừa toan nói, Vô Tâm lại vội xua tay, "Đại sư hãy để tại hạ nói nốt. Nhà Nam Cung thế gia tai mắt khắp thiên hạ, nếu đại sư muốn đi Nam Dương cần phải bí mật thay hình đổi dạng, đừng để họ nhận ra mới được."

Bách Nhẫn gật đầu nói, "Thí chủ nói cũng có lý. Việc này hãy để thong thả, lão nạp còn phải thu xếp mọi việc trong chùa cho ổn thỏa rồi mới tính đến chuyện đó được."

Vô Tâm đứng lên chấp tay thưa rằng, "Lẽ ra tại hạ còn muốn hầu chuyện đại sư thêm lát nữa, tiếc vì tại hạ còn vướng chút chuyện khẩn yếu, cần phải làm gấp nên không thể nấn ná được nữa. Vậy xin cho cáo từ."

Nói xong cúi chào, rồi chỉ sẽ nhún mình một cái thân hình đã bay ra khỏi thiền thất. Bách Nhẫn đứng ngẩn người nhìn theo cho tới khi bóng chàng thanh niên khuất hẳn.

Hồi thứ mười một

Ba vị hòa thượng Thiếu Lâm

Mấy trăm năm nay, phái Thiếu Lâm tuy luôn luôn bị lôi cuốn vào những cuộc thị phi ân oán của vũ lâm nhưng đều ở vào trường hợp vạn bất đắc dĩ, không xuất đầu lộ diện không được. Đến như việc một vị chưởng môn phải cải trang dịch phục ra chốn giang hồ dò thám những chuyện bí mật, để tiêu tai giải ách thì thật chưa từng nghe thấy bao giờ. Và áo cà sa của nhà Phật đâu có cho phép được tự tiện thay đổi.

Tất cả những sự rắc rối khó khăn đó cứ lẩn quẩn trong óc vị cao nhân Phật môn làm cho ông hết sức lúng túng, không biết giải quyết cách nào. Giữa lúc ấy chợt nghe có tiếng niệm Phật, Bách Nhẫn đại sư trông ra thấy một vị trung niên hòa thượng mặc áo tăng bào xanh, cung kính cúi đầu đứng chực ngoài cửa viện, ông bèn hỏi, "Có phải Bách Tường sư đệ đó không?"

Vị hoà thượng từ từ ngẩng đầu lên nói, "Tiểu đệ vào đây đã lâu nhưng không dám kinh động sư huynh."

Bách Nhẫn cười nói, "Sư đệ vào đây vừa hay, ta cũng có một việc cần, muốn bàn với sư đệ."

Vị hòa thượng vâng lời bước vào, cung kính hỏi, "Chẳng hay sư huynh định chỉ giáo việc gì?"

Bách Nhẫn nói, "Các vị sư trưởng chùa Thiếu Lâm ta đã có vị nào cải trang du hiệp giang hồ bao giờ chưa?"

Kể trong hàng tăng lữ thì Bách Tường đứng vào hàng chữ "Bách" cùng với Bách Đại hai người tuổi còn rất trẻ, nhưng vũ công tài trí thì đã vượt hẳn quần tăng vì thế nên được mọi người ca tụng, tôn là "Thiếu Lâm long hổ song tăng". Uy danh ở trong giang hồ còn lừng lẫy hơn cả Bách Nhẫn. Khi nghe Bách Nhẫn hỏi thế, ông trầm ngâm một lát rồi thưa rằng, "Các sư trưởng đời trước tuy chưa từng có ai cải trang du hành giang hồ, nhưng môn quy của chùa ta cũng chưa hề nói rõ rằng phải ngăn cấm chuyện đó."

Trong khi Bách Tường nói thì Bách Nhẫn vẫn chắp tay ra sau lưng, đi đi lại lại quanh thiền phòng, khi nghe ông nói dứt lời chợt dừng chân lại, dường như đã có một quyết định gì quan trọng, bèn đưa mắt nhìn Bách Tường rồi nói, "Sư đệ lập tức thông tin cho Bách Đại, cả hai cùng theo ngu huynh xuống núi."

Bách Tường ngẩn người hỏi, "Còn các công việc trong chùa thì sao?"

Bách Nhẫn nói, "Tất cả đều giao cho Bách Trần, để hắn được toàn quyền xử lý."

Bách Tường nói, "Theo lệ khi nào chưởng môn rời khỏi chùa, môn hạ đệ tử đều phải sắp hàng đi tiễn, sư huynh cứ sửa soạn sẵn, tiểu đệ xin ra ngoài truyền dụ."

Bách Nhẫn xua tay, "Không cần. Sư đệ chỉ việc gọi Bách Trần đến để bàn giao công việc là đủ. Hành tung của chúng ta cần phải giữ bí mật, đừng để cho bọn đệ tử biết."

Bách Tường vâng lệnh lui ra. Trong bụng tuy lấy làm kỳ quái nhưng vì Bách Nhẫn mấy chục năm nay không hề hỏi đến công việc trong chùa và những chuyện của vũ lâm, suốt ngày chỉ tĩnh tọa trong thiền thất, nên Bách Tường dẫu thông minh nhưng cũng không đoán ra nguyên ủy.

Chừng một lúc không lâu, Bách Tường đã đưa Bách Đại, Bách Trần vào thiền phòng. Bách Nhẫn nói với Bách Trần, "Ta muốn cùng Bách Đại, Bách Tường xuống núi ít lâu, công việc trong chùa hãy tạm giao cho sư đệ quản lý."

Bách Trần giật mình kinh sợ nói, "Sư huynh là một vị chưởng môn danh phận tôn quý, nếu có việc gì sao không phái người đi mà phải thân lao đại giá?"

Bách Nhẫn nói, "Việc này ngu huynh không thân hành đi thì không xong."

Nói tới đấy lại với tay ra sau giường lấy cây thiền trượng đưa cho Bách Trần, "Cây thiền trượng này là di vật của sư phụ, ngày thường ta vẫn để bên mình không dời một phút, lúc này ta phải đi xa, vậy trao lại cho sư đệ, sư đệ phải giữ gìn cẩn thận chớ để thất lạc."

Bách Trần quì xuống đỡ lấy thiền trượng nói, "Chưởng môn sư huynh cứ yên tâm, tiểu đệ nguyện tận tâm tận lực, trượng còn người còn trượng mất người mất, không dám tơ hào sơ hốt."

Bách Nhẫn quay lại hỏi Bách Đại, Bách Tường, "Hai sư đệ thu xếp hành lý xong chưa?"

Bách Tường khom lưng nói, "Tiểu đệ đã thu xếp xong, kính mời sư huynh khởi hành."

Bách Nhẫn đứng lên lại dặn Bách Trần, "Những việc tiểu huynh dặn dò, sư đệ không được tiết lộ cho ai biết."

Bách Trần cúi đầu tuân lệnh, lúc ngẩng trông lên thì bọn Bách Nhẫn đã đi ra khỏi cánh cửa nách sau chùa. Vì muốn tránh tai mắt bọn tăng lữ đệ tử, ba người không dám đi ra cửa chính đều lần theo con đường vòng sau chùa, đi thẳng một mạch tới ba chục dặm mới dừng chân lại. Bách Đại hỏi, "Bây giờ chúng ta định đi đâu?"

Bách Nhẫn đáp, "Đến nhà Nam Cung thế gia."

Bách Tường ngạc nhiên hỏi, "Nam Cung thế gia nào? Hay là nhà Nam Cung được vũ lâm tôn là "Vũ lâm đệ nhất gia" phải không?"

Bách Nhẫn đáp, "Đúng đấy, hành tung của chúng ta không những chỉ giấu các đệ tử trong chùa, mà còn phải giữ bí mật không để cho một ai biết mới được."

Ngừng một lát ông lại tiếp, "Tốt hơn hết là chúng ta nên cải trang cho kín đáo."

Bách Tường nói, "Việc đó tiểu đệ đã chuẩn bị sẵn."

Nói xong mở khăn gói lấy ra ba bộ áo ngắn quần dài bằng vải thô cười nói, "Bây giờ ta bỏ tăng bào ra, mặc bộ quần áo này vào, lấy đất cát bôi lên mặt thì còn ai biết là hòa thượng chùa Thiếu Lâm nữa."

Bách Đại hòa thượng cười nói, "Hòa thượng cải trang có lẽ mới có bọn mình là người đầu tiên mở ra lệ đó."

Bách Tường đưa một bộ cho Bách Đại, hai người cải trang xong định đưa một bộ cho Bách Nhẫn, chợt rụt tay lại nói, "Bọn tiểu đệ cải trang đã đành rồi, nhưng còn chưởng môn sư huynh địa vị tôn quý, nếu nay mai câu chuyện cải trang đồn ra ngoài, không khỏi ảnh hưởng lớn đến uy vọng của phái Thiếu Lâm."

Bách Nhẫn cau mày nói, "Sư đệ nói cũng có lý, nhưng nếu ta cứ ăn mặc thế này mà đi, thì hai vị sư đệ cải trang cũng vô ích."

Bách Đại nói, "Bách Tường sư đệ là người đa mưu, thử nghĩ xem có cách gì không?"

Bách Tường đáp, "Hay là thế này, ta kiếm một cái cáng bằng tre để chưởng môn sư huynh ngồi lên, rồi dùng một mảnh vải đen che kín, tôi và sư huynh giả làm phu khiêng cáng. Như vậy chưởng môn sư huynh đỡ cải trang mà không bị ai nghi ngờ gì hết."

Bách Đại cười nói, "Ừ kế đó hay đấy. Chúng ta vào rừng chặt tre đi."

Rừng tre ở cách đấy một quãng khá xa, hai người vào rừng chặt lấy mấy cây làm thành cái cáng, để Bách Nhẫn ngồi lên rồi khiêng đi. Dọc đường chỉ thấy xe ngựa rộn rịp, đông như mắc cửi, khách phần đông đều là nhân vật vũ lâm, kẻ đeo đao người cài kiếm quần áo gọn gàng. Bách Tường lấy làm lạ nghĩ thầm, "Chưởng môn sư huynh thốt nhiên muốn đến nhà Nam Cung thế gia, tất nhiên phải có duyên cớ. Có lẽ những người này cũng chung một mục tiêu như bọn mình chăng?"

Giữa lúc đó chợt tai nghe tiếng vó ngựa dồn dập chạy sát tới phía sau lưng và một tiếng quát to, "Tránh ra, mau!"

Tiếng quát chưa dứt thì con ngựa đã vụt tới gần, kèm theo một luồng gió cuốn làm cho quần áo hai người tung bay phần phật. Bách Tường tắc lưỡi khen thầm, "Con thiến lý mã tốt quá! Chạy khỏe thật"

Chợt lại nghe tiếng quát, "Tránh ra cho người ta đi!"

"Vút" một tiếng ngọn roi dài đã vụt thẳng lên đầu Bách Đại. Thì ra Bách Tường mãi ngắm con ngựa đẹp quên không để ý, cứ nghênh ngang đi ở giữa đường thành ra Bách Đại cũng bị lôi kéo theo.

Nên biết Bách Đại là một trong mấy tay cao thủ nhất chùa Thiếu Lâm tai mắt nhanh nhẹn vô cùng, chỉ thoáng nghe tiếng roi đã vội hạ thấp người xuống, cái cáng đặt trên vai bị dốc về một bên, thành thử đầu ngọn roi ngựa lướt qua đầu Bách Nhẫn đại sư ngồi trên cáng.

Một chàng thanh niên anh tuấn, tuổi trạc ngoài đôi mươi mình mặc võ trang, ngoài choàng một chiếc áo khoác đỏ, ruổi ngựa như bay nháy mắt đã vượt qua ba người. Bách Đại đưa mắt nhìn theo, lẩm bẩm nói một mình, "Anh chàng trẻ tuổi này lỗ mãng thiệt! Cũng may ngọn roi quất vào đầu lão nạp, chớ quất vào đầu người khác thì vỡ sọ người ta ra rồi còn gì?"

Bách Đại tính tình điềm đạm khoáng đạt, nên chỉ nói thế rồi bỏ qua. Nhưng Bách Tường không thể dễ dàng tha thứ cho một hành động vô ý thức như vậy, liền rút một hạt bồ đề trong chuỗi tràng hạt ra, giơ tay ném thẳng vào chân sau con ngựa.

Con ngựa bị trúng thương đau quá, hí rầm lên rồi khuỵu hai chân trước xuống. Chàng thanh niên kỵ thuật rất tinh vi, hấy ngựa thốt nhiên bị ngã, chàng vẫn điềm tĩnh như thường chỉ sẽ cầm sợi dây cương kéo cho nó đứng dậy. Nhưng Bách Tường ra tay quá mạnh nên chân sau con ngựa bị thương rất nặng, đến nỗi đứng không vững lại ngã chúi về phía sau.

Lúc này chàng thanh niên mới nhảy xuống ngựa, trừng mắt nhìn bọn Bách Tường lạnh lùng hỏi, "Ai ném ngựa của ta bị thương thế này?"

Bách Tường lờ như không nghe tiếng vẫn điềm nhiên đi thẳng, gã thanh niên thấy hai người quần áo lam lũ, mặt mũi nhem nhuốc bộ dạng ngây ngô, liền nghĩ bụng, "Có lẽ không phải hai tên này?"

Tuy chàng không nghi cho bọn Bách Tường nhưng vì tính cuồng ngạo đã quen, bèn cầm ngọn roi vút mạnh quát, "Đứng lại!"

Bách Tường giả bộ giật mình, ngoái đầu lại hỏi, "Cái gì cơ?"

Thanh niên đáp, "Các ngươi phải đứng đây, chờ ta tìm thấy hung thủ ném ngựa bị thương đã rồi mới được đi."

Trông chàng thanh niên cốt cách rõ ra vẻ tiêu sái phong lưu đường đường nghi biểu, nhưng cách cử chỉ nói năng thì quá ngông cuồng kiêu ngạo. Bách Tường cười nhạt vừa toan mắng cho gã mấy câu, chợt nghe Bách Nhẫn đại sư sẽ đặng hắng một tiếng thi triển thuật "Thiên lý truyền âm" nói, "Lúc này phải hết sức tránh, không được gây chuyện với người ta!"

Bách Tường không dám trái lệnh, đành chỉ lui về một bên, khoanh tay đứng im. Chàng thanh niên ngước mắt nhìn quanh bốn phía rồi nói một mình, "Quái lạ trong vòng mấy chục trượng quanh đây, không thấy bóng người nào cả, chẳng lẽ một người trong bọn ngươi ám toán ngựa của ta hay sao?"

Gã ngừng một lát rồi lại lẩm bẩm, "Chỉ đáng tiếc là các ngươi lại không có vẻ gì khả nghi cả!"

Bách Đại, Bách Tường đều đưa mắt nhìn ra phía chân trời, hình như không nghe thấy chàng ta nói gì cả. Chàng thiếu niên nhìn quanh một lúc không thấy hình bóng nào khả nghi, chợt rảo bước đi về phía Bách Đại thiền sư, vỗ vai lạnh lùng hỏi, "Người ngồi trên cáng kia là ai thế?"

Bách Đại cố ý làm ra vẻ kinh sợ nói, "Đó là ông chủ tiểu nhân."

Chàng thiếu niên chạm tay vào mình Bách Đại, rờ đến đâu cũng chỉ thấy ông ta co quắp người lại, biết là đối phương không có vũ công bèn cười nói, "Ông chủ ngươi có bệnh chăng?"

Bách Đại trong bụng tuy giận nhưng miệng vẫn ngọt ngào đáp, "Công tử đoán không sai, ông chủ tiểu nhân không may nhiễm bệnh nên phải lấy vải trùm kín cho đỡ gió."

Chàng thanh niên quay lại thấy chân ngựa đã gãy hẳn, xem chừng không thể đi được nữa, bèn thở dài một tiếng rồi bỏ ngựa đấy đi thẳng. Bách Đại nhìn theo thấy chàng đi đã xa bèn lập tức rảo bước đi nhanh, tới một khu rừng rậm gần đấy mới hạ cáng xuống. Bách Nhẫn đại sư mở mảnh vải đen ra, ngồi lên nói, "Trên đường Nam Dương, các nhân vật vũ lâm đi lại tấp nập thế này, có lẽ vị thí chủ họ Nhâm không nói dối mình?"

Bách Đại chỉ một quả núi đứng trơ trọi một mình ở phía Tây Bắc nói, "Quả núi kia chính là Độc sơn, nhà Nam Cung thế gia ở dưới chân núi ấy. Dãy nhà phía chính Bắc kia tức là Huyền Diệu quan đã nổi tiếng khắp miền Dự Tây đó. Bây giờ chúng ta không muốn lộ hình tích thì phải lên tới Độc sơn rồi tìm một chỗ kín đáo mà ẩn mình, hoặc là tạm trú ở Huyền Diệu quan."

Bách Tường vội nói đón, "Vị quan chủ ở Huyền Diệu quan thân với tiểu đệ lắm, trước kia ông ta cũng là người trong làng võ nhưng mười năm nay ông đã không dính vào những chuyện giang hồ. Bây giờ chúng ta đến đó may ra cũng không đến nỗi bị cự tuyệt."

Bách Nhẫn nói, "Chúng ta càng giữ được hàng tung bí mật bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu. Quan chủ Huyền Diệu quan tiếng tăm lừng lẫy, ta ở đấy rất dễ bị lộ. Chi bằng hãy vào Độc sơn rồi tìm chỗ nào kín đáo mà nấp, là tiện hơn hết."

Bách Đại, Bách Tường cùng nói, "Sư huynh nói phải lắm. Chúng ta đi thôi!"

Bách Nhẫn lại ngồi lên cáng, kéo mảnh vải trùm kín người rồi nói, "Bây giờ còn sớm và khu rừng này rất kín đáo, ngu huynh ở đây chờ một lúc, hai sư đệ hãy ra ngoài dò thám vài việc đã, chờ mặt trời lặn hãy đi cũng không muộn."

Hai người đồng thanh nói, "Tiểu đệ xin chờ lệnh."

Bách Nhẫn nói, "Sư đệ Bách Tường thử vào Huyền Diệu quan hỏi thăm xem có phải Tam Tuyệt đạo trưởng vẫn chủ trì ở đó không? Rồi về báo ta biết."

Bách Tường khom lưng lĩnh mệnh, lập tức đi ngay. Bách Đại hỏi, "Chắc sư huynh muốn tiểu đệ tới Nam Cung thế gia thăm dò tình hình trước phải không?"

Bách Nhẫn nói, "Dọc đường chúng ta gặp toàn những nhân vật vũ lâm nên ta ngờ rất có thể lúc này họ đã kéo đến nhà Nam Cung thế gia làm náo loạn lên rồi."

Bách Đại nói, "Nếu vậy để tiểu đệ xin đi tra xét rồi sẽ về báo với sư huynh."

Bách Nhẫn gật đầu, dặn thêm, "Cần nhất là đừng có động thủ với ai hết, dò thám được tin gì phải lập tức trở về ngay."

Bách Đại dạ một tiếng rồi hấp tấp đi luôn. Khu rừng này rất nhỏ, chu vi chỉ chừng hơn một mẩu. Bách Nhẫn chờ hai vị sư đệ đi khỏi lại đứng lên, chắp hai tay ra sau lưng, đi đi lại lại xem chừng có vẻ bồn chồn nóng nảy. Ước chừng nửa ngày, khi mặt trời đã gần xuống núi mới thấy Bách Tường trở về, Bách Nhẫn cau mày hỏi, "Sao đi lâu thế?"

Bách Tường nói, "Tiểu đệ quanh quẩn ở trước cửa quan suốt cả buổi trưa, hỏi thăm vị quan chủ ở đây có phải Tam Tuyệt đạo trưởng không nhưng ai cũng lắc đầu trả lời không biết! Mãi sau tiểu đệ phải đến tận nơi, hỏi thăm một vị đạo sĩ mới hay Tam Tuyệt đạo huynh vẫn còn chủ trì ở đấy thật."

Bách Nhẫn vui vẻ nói, "Vậy thì tốt lắm, khi nào cần ta sẽ nhờ ông giúp cho một tay."

Bách Tường nói, "Nhưng theo lời đạo sĩ nói thì đã bốn năm năm nay ông ta không hề bước ra ngoài, dẫu người trong quan cũng không ai trông thấy mặt."

Bách Nhẫn ngạc nhiên hỏi, "Sao lại lạ thế?"

Bách Tường nói, "Điều ấy chính tiểu đệ cũng không rõ, đã định vào hẳn trong quan tra xét tình hình xem hư thực thế nào, nhưng lại sợ lộ tung tích làm hỏng mưu kế của sư huynh, nên không dám tự tiện đành phải quay về."

Trong khi hai người đang nói chuyện thì Bách Đại cũng vừa về đến nơi. Trông ông ta có vẻ hết sức mệt mỏi, hơi thở hổn hển mặt mũi bơ phờ. Bách Nhẫn cả sợ hỏi, "Sao thế? Sư đệ đã đánh nhau với ai rồi phải không?"

Bách Đại vừa thở vừa lắc đầu, "Không có."

Bách Tường hỏi, "Sao trông sư huynh có vẻ mệt mỏi thế?"

Bách Đại nói, "Tuy chưa đánh nhau với ai nhưng bị người ta đuổi suốt từ chiều đến giờ."

Bách Nhẫn hỏi, "Ai đuổi?"

Bách Đại nói, "Tiểu đệ cũng không biết là ai nhưng chắc đến tám phần mười là người nhà Nam Cung thế gia. Hình như hắn cố ý muốn đánh nhau nên cứ gia công đuổi mãi."

Bách Tường hỏi, "Rồi sau sư huynh làm sao chạy thoát được?"

Bách Đại nói, "Tôi bị hắn đuổi gấp quá bèn nghĩ ra một kế, trốn vào Độc sơn dựa vào thế núi hiểm hóc và cây cối rậm rạp, mới đánh lạc hướng được hắn rồi chạy thẳng một mạch về đây."

Bách Nhẫn nói, "Trời đã gần tối, chúng ta đem lương khô ra ăn rồi còn nghỉ ngơi một lúc cho lại sức. Rất có thể đêm nay chúng ta phải vào thám hiểm trong nhà Nam Cung thế gia."

Bách Đại ngần ngừ một lát rồi rụt rè hỏi, "Sư huynh lần này thân hành dời Phật giá tới đây chẳng hay là vì cớ gì? Sư huynh có thể cho chúng tiểu đệ biết được không?"

Bách Nhẫn đưa mắt nhìn quanh một lượt, không thấy ai khác mới thở dài nói, "Tiểu huynh sở dĩ tới đây thực không có mưu đồ gì cả mà chỉ là muốn tra cứu một việc, việc đó có quan hệ đến kiếp vận của toàn thể vũ lâm sau này."

Ông đưa mắt nhìn bóng tà dương đang sắp ngậm non đoài nói tiếp, "Nhưng cho mãi tới lúc này, ta vẫn chưa tìm được một minh chứng nào cụ thể có thể nói rõ ra được."

Bách Tường nghiêm trang nói, "Việc Tam Tuyệt đạo trưởng lâu lắm không lộ mặt ra ngoài, tiểu đệ cũng dự cảm thấy là một điều bất tường, các vị chưởng môn các phái vũ lâm thân bút ký vào ước pháp làm cho nhà Nam Cung thế gia trở nên thần bí khó hiểu. Người trong giang hồ tuyệt không ai biết gì về họ cả."

Bách Nhẫn đại sư nói, "Dụng ý của chúng ta tới đây hôm nay chính là ở chỗ đó. Mấy chục năm nay, những cảnh tao ngộ của nhà Nam Cung cũng có thể kể là sự đau buồn thê thảm nhất trên giang hồ. Con cháu mấy đời nhà ấy đều bị giết, thi hài cũng không tìm thấy. Vậy mà chưa từng nói nhà Nam Cung có một hành động gì gọi là phục cừu."

Ông đang nói chợt nghe có tiếng chân từ ngoài cửa rừng đi vào, liền vội im bặt. Ba người đều quay ra nhìn chỉ thấy một người thân thể gầy gò thấp bé, mình mặc áo xám thủng thỉnh bước vào rừng. Khi trông thấy bọn Bách Nhẫn liền đứng dừng lại. Bách Đại bước ra sẵng giọng hỏi, "Bằng hữu đừng chạy, đã chạm trán nhau ở đây sao không ghé lại nói chuyện một lát cho vui?"

Ông ta đã cải trang mặc quần áo tục gia, nên nói năng cũng tập giọng phóng túng theo lối giang hồ mã thượng. Người mặc áo xám tỏ vẻ do dự một chút, rồi dõng dạc bước lên, đôi mắt loang loáng như ánh điện từ từ đảo qua mặt ba người một lượt, rồi nói, "Các vị muốn nói chuyện gì?"

Bách Nhẫn đại sư tuy tiếng tăm lừng lẫy nhưng rất ít khi ra chốn giang hồ vì thế không mấy người biết mặt, còn Bách Đại, Bách Tường thì vì đã cải trang nên mặc dầu người áo xám đã nhìn đi nhìn lại ba người một lúc thật lâu, rút cuộc vẫn không nhìn rõ chân tướng.

Bách Tường mỉm cười nói, "Trông tướng mạo và y phục của các hạ thì hình như các hạ chính là Thần châu nhị quỷ đã khét tiếng giang hồ thì phải? Không biết tại hạ đoán có đúng không?"

Người áo xám hơi giật mình nhưng sắc mặt vẫn giữ vẻ điềm tĩnh nói, "Tại hạ chính là Bao Phương, xin thứ lỗi cho tại hạ vì đôi mắt không tinh không nhận rõ được lai lịch của các vị."

Bách Tường cười nhẹ nói, "Gặp gỡ nhau hơn là sẵn quen nhau, Bao huynh cứ tùy tiện muốn gọi chúng tôi bằng gì cũng được."

Bao Phương cười nhạt, "Thần châu nhị quỷ xưa nay không thích giao thiệp với những nhân vật không quen biết. Xin thứ cho huynh đệ cái tội không thể bồi tiếp được."

Nói xong quay mình một cái thân hình đã ở ngoài một trượng, Bách Đại đứng phắt dậy quát, "Đứng lại!"

Tiếng quát chưa dứt, người đã nhảy tới sau lưng Bao Phương, Bao Phương kinh sợ nghĩ thầm, "Thân pháp khá thực!"

Ngoài miệng vẫn lạnh lùng hỏi, "Thế nào?"

Bách Đại chắp tay cười nói, "Bọn tại hạ muốn lưu Bao huynh lai. thì ngoài việc báo tên họ, còn có cách gì khác nữa không?"

Bao Phương nói, "Huynh đài khẩu khí phóng khoáng như vậy, tất phải có tuyệt nghệ kinh nhân?"

Bách Đại cười nói, "Các hạ quá khen! Câu hỏi của tại hạ vừa rồi sao các hạ không trả lời?"

Bao Phương sầm nét mặt nói, "Vậy là các hạ cố tình muốn gây chuyện?"

Vừa nói vừa từ từ giơ tay phải lên. Lúc này ánh nắng chiều hôm chiếu qua khe lá vào trong rừng, trông rõ bàn tay hắn đen sì như mực.

Bách Đại mỉm cười nói, "Chẳng trách giang hồ đồn ầm lên rằng Thần châu nhị quỷ một người luyện Thiết sa chưởng, một người luyện chu sa chưởng. Bàn tay Bao huynh đen thế kia chắc là Thiết sa chưởng phải không?"

Bao Phương vừa sợ vừa buồn nghĩ bụng, "Mình lăn lộn giang hồ suốt nửa đời người chẳng qua cũng chỉ uổng công, đối phương không chỉ biết rõ tên tuổi mình lại còn biết cả võ công của Thần châu nhị quỷ chuyên về môn gì, còn lai lịch của đối phương thì mình lại mù tịt."

Hắn mãi nghĩ ngợi nên quên cả phóng chưởng, Bách Đại lại chắp tay cười nói, "Xin mời Bao huynh!"

Hai tay vẫn không buồn lấy thế, đủ rõ ông ta không coi đối phương vào đâu. Bao Phương giận lắm chợt quát lên một tiếng rồi phóng ra một chưởng. Bách Đại nhanh nhẹn né sang một bên tránh thoát, miệng vẫn cười nói, "Tại hạ xin nhường huynh đài ba chiêu."

Bao Phương nổi giận nói, "Ai cần ngươi nhường!"

Tay lại giơ lên phóng luôn ra hai chưởng nữa. Bách Đại tránh xong hai chưởng đó mới vung tay lên thi triển mười hai ngón "Cầm Long thủ" của Thiếu Lâm phản công lại làm cho Bao Phương chân tay luống cuống, sơ ý bị Bách Đại khóa lấy uyển mạch ở cườm tay trái.

Bao Phương ngẩn người nhìn Bách Đại nói, "Bao mỗ sinh nhai nửa đời người trong giang hồ, tuy gặp đã nhiều cao thủ nhưng chưa bao giờ mới có trong vòng mười chiêu đã bị bại như hôm nay."

Bách Đại cười nói, "Cám ơn Bao huynh đã cố ý nhường nhịn. Tại hạ chỉ muốn yêu cầu Bao huynh hứa cho một câu, tại hạ sẽ xin thả Bao huynh ra ngay."

Bao Phương nói, "Thần châu nhị quỷ vốn vẫn tự phụ khôn ngoan, bất đồ hôm nay lại bị người cho vào xiếc! Các hạ muốn gì cứ nói đi."

Bách Đại nói, "Tại hạ chỉ yêu cầu Bao huynh đừng nói cho ai biết là gặp bọn tôi ở đây, thế là đủ."

Bao Phương trầm ngâm một lát rồi nói, "Huynh đệ xin hứa."

Bách Đại cười nói, "Người trong giang hồ rất trọng lời hứa, một lời nói ra nặng hơn thiết thạch. Mời Bao huynh đi."

Nói xong lập tức buông tay ra, Bao Phương gườm gườm nhìn Bách Đại giây lát rồi mới hấp tấp quay đi. Bách Đại cũng trở về chỗ. Bách Tường nói, "Thần châu nhị quỷ xưa nay đi đâu cũng có đôi, không hiểu tại sao lần này hắn lại sang Nam Dương một mình? Tất nhiên phải có sự lạ?"

Bách Nhẫn ngẩng đầu trông trời rồi nói, "Khu rừng này ở gần đường cái, người đi kẻ lại đông đúc từ bây giờ đến đêm không chắc đã hết người tới. Chúng ta phải tìm một chỗ khuất vừa nghỉ ngơi di dưỡng tinh thần, lại vừa tránh được tai mắt thiên hạ."

Bách Đại chỉ tay lên một ngọn cây um tùm nhất chỗ đó, cười nói, "Muốn tìm chỗ kín đáo không gì bằng trèo lên ngọn cây kia, nhưng sư huynh là một vị tôn trưởng chẳng lẽ..."

Bách Nhẫn cũng cười nói, "Người ta cũng cần phải thông quyền đạt biến, trèo cây thì có gì là mất thể diện?"

Nói xong lập tức vén áo nhảy lên cây trước. Bách Đại, Bách Tường giấu cáng tre vào bụi rậm, rồi cũng phi thân nhảy theo. Khi ba người đã ngồi yên đâu đấy chợt nghe phía dưới có tiếng đằng hắng, tiếp theo là tiếng nói của Bao Phương, "Đường lão tiền bối, trong rừng này ẩn thân không tiện, ta nên tìm nơi khác kín đáo hơn một chút."

Giọng hắn nói tuy to nhưng tiếng trả lời lại nhỏ quá, không sao nghe rõ. Một lát sau hình như Bao Phương không ngăn nổi người kia, nên lại nghe có tiếng chân đi vào rừng. Bách Đại rẽ lá cúi xuống xem, chỉ thấy Bao Phương và một bà già mặc quần áo vải đang sóng vai đi vào.

Bà già bao tóc bằng một chiếc khăn đen, mặt mũi dính đầy bụi cát, tay chống gậy trúc bước đi lọm khọm, nhưng không che giấu được đôi mắt sáng quắc như có thần quang. Bao Phương đưa mắt nhìn quanh không thấy bọn Bách Đại đâu mới đứng dừng lại, đằng hắng một tiếng. Bà cụ già nói, "Khu rừng này yên tĩnh nhỉ?"

Bao Phương đáp, "Ở đây gần đường cái, chỉ sợ có người đi lại."

Bà già ngẩng nhìn lên ngọn cây nói, "Chúng ta nấp lên cây kia, nếu có người vào rừng cũng không thể trông thấy được."

Nói dứt lời liền chống gậy trúc xuống đất, dùng thế "Tiềm long thăng thiên" người thẳng như cán bút từ từ bốc cao lên tới hai trượng, khi cây gậy trúc vừa chạm vào thân cây, người đã tà tà rơi xuống một đám lá um tùm rậm rạp.

Bách Đại đại sư trông thấy cũng bất giác tấm tắc khen thầm, "Khinh công giỏi tuyệt, không biết bà ta là ai mà có được thân thủ như vậy?"

Bao Phương cũng nhảy lên theo ẩn mình trong một đám lá rộng. Trời đã dần dần tối, chim chóc về tổ đánh nhau chí chóe trên các ngọn cây. Rồi thì mặt trời lặn, mặt trăng lên sao đêm lấp lánh, lúc này đã vào khoảng canh hai. Chợt nghe một giọng đàn bà cất lên, "Khuya rồi đó, chúng ta nên đi đi thôi!"

Kế đó có hai bóng đen từ trên cây cao nhảy xuống, hấp tấp đi luôn. Hai người vừa đi khỏi một lúc Bách Nhẫn, Bách Đại, Bách Tường cũng lập tức nhảy xuống theo. Bách Đại thò tay vào mình lấy ra một vuông lụa đen đưa cho Bách Nhẫn nói, "Sư huynh hãy tạm dùng chiếc khăn này che mặt cho kín đáo."

Hồi thứ mười hai

Phơi thây băng thất

Bách Nhẫn đại sư mỉm cười nói, "Sư đệ chu đáo lắm!"

Rồi cầm chiếc khăn che lên mặt, chỉ để lộ có hai con mắt.

Ba cái bóng nhẹ nhàng thoăn thoắt, len qua khu rừng rậm đi thẳng vào nhà Nam Cung thế gia.

Đêm ấy ánh trăng lờ mờ, sao khuya thưa thớt, rất thuận lợi cho khách dạ hành. Ba người đều có khinh công thượng thừa nên chỉ một lát sau đã tới khu rừng Trường Thanh, Bách Đại thốt nhiên dừng bước nói, "Xuyên qua khu rừng rộng này là tới nhà Nam Cung thế gia, trong rừng chỉ sợ họ gài chông, sư huynh và sư đệ phải cẩn thận mới được."

Bách Nhẫn gật đầu. Ba người cùng đi chậm lại. Vừa đi được hơn một trượng, chợt Bách Đại cầm tay Bách Nhẫn kéo vào một gốc cây bạch dương lớn gần đấy. Bách Tường khôn ngoan cũng núp vào sau một cây khác.

"Soạt" một tiếng, một bóng người từ ngoài tiến vào dừng chân cách chỗ ba người nấp ước chừng ba thước.

Bách Đại ghé mắt trông ra chỉ thấy người ấy thân thể nhỏ bé, lưng đeo trường kiếm, mặt che một vuông khăn xanh, chỉ để chừa ra ngoài có hai con mắt. Hình như tất cả những người đến nhà Nam Cung thế gia đều không muốn lộ bộ mặt thực cho người khác trông thấy.

Cái bóng bé nhỏ đó dừng chân nghe ngóng một lúc, rồi len lén đi lẫn vào những bóng tối của cành lá, tiến vào trong rừng, thoáng chốc đã mất hút.

Bách Đại thi triển công phu "Thiên lý truyền âm" nói với Bách Nhẫn, "Người ấy đi không nghe một tiếng động nhỏ, đủ hiểu là một tay khinh công tuyệt giỏi, không chừng đêm nay các nhân vật vũ lâm đến viếng nhà Nam Cung thế gia không ít."

Bách Tường đại sư cũng khẽ nói, "Hôm nay trên con đường Nam Dương, nhan nhản những người đeo đao giắt kiếm, nhà Nam Cung chắc cũng đã chuẩn bị, nếu tiểu đệ đoán không lầm thì rất có thể họ đã chăng một mẻ lưới, lẳng lặng chờ chúng ta chui đầu vào."

Bách Nhẫn trầm ngâm một lát rồi nói, "Sư đệ nói cũng có lý, chúng ta phải đề phòng cẩn thận mới được."

Bách Đại nói, "Trừ trường hợp vạn bất đắc dĩ, sư huynh quyết không nên động thủ."

Nói xong liền xăm xăm đi lên trước.

Nhưng thật là một sự ra ngoài ý liệu của mọi người, ba vị đại sư đã tiến vào sâu tới giữa rừng mà không hề gặp một sự gì ngăn trở. Tuy nhiên sự vắng lặng của khu rừng này, lại làm cho mọi người có cảm giác âm trầm khủng khiếp.

Ra tới cửa rừng, chợt một luồng hương thơm của các loài danh hoa dị thảo thoang thoảng đưa lại. Khu đệ trạch rộng lớn của nhà Nam Cung thế gia đứng sừng sững trong bóng tối. Cánh cửa sơn đen và mảnh vải trắng che lấp tấm biển đề năm chữ , "Nam Cung đệ nhất gia" làm cho những đình đài lầu các bên trong biến thành một cõi chết, không trông thấy một bóng đèn, hoặc nghe thấy một tiếng động, trong đêm tối âm thầm, phảng phất như có một khí vị chết chóc lạnh lẽo.

Bạch Đại chỉ vào khu nhà nói, "Đây là nhà Nam Cung thế gia."

Bách Nhẫn nói, "Chúng ta cứ tiến vào xem."

Bách Đại đi lên trước dẫn đường. Hai cánh cổng lớn hình như đã có người mở sẵn, hé ra một khoảng vừa đủ một người chui vào lọt.

Bách Đại giơ tay ra hiệu cho Bách Tường, rồi lập tức nhảy vào.

Trong sân đầy những chậu hoa, nhưng trong bóng tối chỉ thấy từng đám đen sì. Bách Đại thốt nhiên vận đề chân khí, nhún mình nhảy cao tới hai trượng rơi xuống nóc nhà. Bách Nhẫn, Bách Tường cũng lập tức nhảy theo.

Trong ba người thì Bách Đại tai mắt linh mẫn hơn cả, nên sau khi lên tới nóc nhà, vội quay lại ra hiệu cho hai người sau nằm nép cả xuống.

Quả nhiên nháy mắt đã thấy hai cái bóng nhanh như chim cắt bay vụt tới.

Người đi trước chính là bà già mặc áo vải vừa gặp buổi chiều, còn người đi sau là Bao Phương.

Bà già đứng lại nói sẽ, "Nhà Nam Cung thế gia trang viện rộng lớn thế này, lại không canh phòng gì cả thì lạ thật!"

Bao Phương nói, "Người trong giang hồ thường đồn rằng nhà Nam Cung thế gia có bao nhiêu đàn ông đều chết sạch, chỉ còn lại mấy người quả phụ yếu đuối, nhờ dư vinh của "Vũ lâm đệ nhất gia" che chở, người trong giang hồ kể cả hai phái Hắc Bạch xưa nay không ai dám xâm phạm, nên không cần phải canh phòng giới bị."

Bà già "hừ" một tiếng rồi nói, "Theo ý lão thân thì không phải thế đâu..."

Nói chưa dứt lời đã tung mình nhảy lên cao tới hai trượng.

Bách Đại thì thầm nói sẽ, "Nghe khẩu khí người này tất là một nhân vật có tiếng tăm lớn trong giang hồ, vũ công không kém gì bọn ta. Hai vị hãy đi sau tiểu đệ, thử theo dấu họ xem sao."

Trong khi đang nói thì bà già áo vải đã đi khỏi chừng bốn năm trượng. Ba người vội vàng đứng lên chạy theo.

Bà già thân pháp tuy nhanh nhưng thỉnh thoảng còn đứng lại nghe ngóng, hoặc nhận xét đường lối. Bao Phương cũng đi theo sát gót, bộ dạng có vẻ kính cẩn, phục tòng.

Bách Đại lúc nào cũng đi cách bọn họ chừng hai trượng nhờ có bóng tối che chở, nên không đến nỗi bại lộ, chỉ thấy bà già lúc đi nhanh, lúc đi chậm, có lúc lại ngừng lại giơ ngón tay tính toán một hồi rồi mới rảo bước đi lên.

Bách Đại tuy không hiểu bà ta làm thế để làm gì, nhưng cứ trông bộ dạng cẩn thận của bà thì không phải bà ta cố ý làm ra vẻ bí mật để lòe ai.

Lầu các nguy nga, trang viện rộng rãi, nhưng tất cả vẫn im lìm như cõi chết, mấy người vượt tường leo nóc vào tới nội trạch, vẫn không thấy ai ngăn trở. Tưởng chừng như bao nhiêu người trong nhà này đều đã chết hết cả.

Vượt qua nóc nhà đại sảnh tới một khu vườn hoa rất rộng, nhờ ánh sao chiếu xuống còn lờ mờ trông thấy núi non bộ, ao sen và đình đài, thủy các san sát từng dãy.

Khu vườn bát ngát mênh mông, diện tích có tới trên mười mẫu. Bách Đại nằm nép dưới gờ nóc đại sảnh, vận đủ mục lục nhìn ra, thấy bà già và Bao Phương đang đi về phía một hòn giả sơn.

Bách Đại đưa mắt trông theo phía sau lưng hai người, thấy họ đã đi khuất vào đám hoa lá um tùm ở chân hòn núi giả, bèn vội vàng tung mình nhảy xuống đuổi theo, không kịp che đậy hình tích nữa.

Chỉ thấy bà già và Bao Phương đang đứng thì thào với nhau ở dưới một tòa tiểu đình hình như bàn tính việc gì. Chợt nghe bà già nói, "Cứ nên tin là có, còn hơn ngỡ là không. Ngươi thử bước đủ mười lăm bước về phía chính bắc xem sao. Nhưng phải nhằm đúng góc tòa mao đình này không được bước chệch ra ngoài nửa bước."

Bao Phương vâng lời, ưỡn ngực, ngẩng đầu, đi về phía chính bắc mười lăm bước, rồi ngồi xổm xuống đất, bới bới trong đống cỏ, hình như định tìm kiếm vật gì.

Bách Đại nấp sau một gốc hoa, trong bụng rất lấy làm kỳ, nghĩ thầm, "Hai người này không biết định giở trò ma quỷ gì đây?"

Chợt lại thấy Bao Phương đứng phắt lên nhảy vào trong đình nói sẽ, "Đúng đúng, trong bụi cỏ quả có chiếc vòng bằng sắt thật, tôi đã theo lời dặn của lão thái, cầm chiếc vòng xoay về phía trái ba vòng."

Bà già lẩm bẩm nói một mình, "Xem thế đủ hiểu mụ không đánh lừa ta."

Nói xong lại ra khỏi đình, đi về phía đông hai mươi nhăm bước, rồi cũng bắt chước lối Bao Phương vừa rồi, ngồi xổm xuống đất, bới tìm trong đống cỏ.

Bách Đại càng xem, càng lấy làm nghi hoặc, bèn cũng tiến dần về phía trước, định xem cho rõ.

Chợt thấy từ trong bóng tối phía sau giả sơn, có một người đàn ông thân thể cao lớn thủng thỉnh bước ra, trong bóng tối lờ mờ trông gã lừng lửng như một tòa tháp sắt.

Bách Đại cau mày nghĩ thầm, "Quái lạ, sao lại có người cao lớn thế này?" Bất giác ông ta lại thấy lo cho bà cụ già.

Không ngờ sự thực lại ra ngoài ý liệu của Bách Đại, khi người cao lớn chỉ còn cách bọn bà già khoảng chừng bốn năm thước, thốt nhiên đứng dừng lại, không tiến nữa.

Mà bà già hình như không hề hay biết gì cả, chỉ vội vàng đứng lên chạy về tiểu đình, nhận định phương hướng một lúc, rồi lại nhằm hướng chính nam bước đi. Đi ước chừng ba chục bước, lại ngồi xổm xuống mò mẫm trong đống cỏ. Kế đó lại trở về đình, đi sang phía chính tây bốn mươi nhăm bước, cách thức cũng đúng như mấy lần trước.

Bách Đại hình như đã hơi nghĩ ra, liền tự nhủ, "Bà già này cử động kỳ cục như vậy, tất nhiên phải có nguyên do. Có khi bà ta đã phát hiện được cái gì rồi chăng?" Vừa nghĩ, ông vừa nhẩm tính lại số bước chân và phương hướng để cố ghi kỹ lấy.

Lúc này, Bách Nhẫn Bách Tường cũng đã lẻn tới phía sau. Bách Nhẫn thì thầm hỏi, "Sư đệ có thấy gì lạ không?"

Bách Đại sẽ đáp, "Lão phụ nhân hình như đã được vị cao nhân nào chỉ điểm, nên có vẻ am hiểu đường lối bí mật trong nhà Nam Cung thế gia lắm. Nhưng lúc này chưa thấy gì lạ, các vị hãy cố nén chờ một lúc."

Chợt nghe Bách Tường tấm tắc khen, "Thân pháp đẹp quá!"

Bách Đại hỏi, "Thân pháp ai?"

Bách Tường nói, "Trên hòn giả sơn vừa có một bóng người bay lên, thân pháp cực kỳ nhanh chóng, hiếm có."

Trong khi nói thì cái bóng đã bay vụt xuống bên cạnh hồ sen dưới chân núi, Bách Đại quay lại dặn dò Bách Nhẫn, "Ngộ lỡ gặp người nhà Nam Cung, hoặc các bạn đồng đạo hiểu lầm đánh lộn, sư huynh cũng đừng can thiệp, tránh để đối phương xúc phạm, và tốt hơn hết là nên tìm lối thoát thân ngay, cứ trông về phía đông bắc mà chạy."

Lúc này trong một góc giả sơn lại thấy xuất hiện thêm ba cái bóng cao lớn nữa, cộng với cái bóng trước là bốn, từ từ tiến lên, vây kín tòa đình viện lại.

Bốn người này thân hình đều cao tới trượng hai, trong lúc đi đường lúc la lúc lắc, dưới ánh sáng lờ mờ của ban đêm, trông phảng phất như bốn pho tượng kim cương ở trong những tòa cổ miếu mới phục sinh vậy.

Thấy bốn người cao lớn đã đứng trấn bốn góc tiểu đình vây lão bà và Bao Phương lại, Bách Đại liền nghĩ thầm, "Bốn người cao lớn kia tuy trông có vẻ ngây ngốc, nhưng chắc hẳn phải có sức khỏe phi thường. Động thủ với họ nên lựa chỗ rộng rãi, dùng trí cầu thắng, họa may còn được, chứ để chạm vào mình thì khó đối phó lắm."

Chợt nghe lão bà cất tiếng lạnh lùng nói, "Đông phương giáp ất mộc."

Gã đại hán đứng ở phía đông tức thì thò tay vào túi lấy ra một vật, hai tay cung kính đưa ra.

Bách Đại mục lực rất tinh, nhưng đêm đã tối mò, lại đứng cách xa quá, nên không sao trông rõ trong tay gã đại hán cầm vật gì.

Lại nghe tiếng lão bà nói, "Nam phương bính đinh hỏa."

Gã đại hán đứng góc nam cũng thò tay vào mình lấy ra một vật đưa cho lão bà. Lão bà lại nói tiếp, "Tây phương canh tân kim, Bắc phương nhâm quý thủy."

Hai người kia cũng thò tay vào bọc lấy vật đưa ra.

Sự tình biến hóa thật là kì dị, không những làm cho bọn Bách Nhẫn cảm thấy hứng thú, vả lại gây cho ba người một dự cảm mãnh liệt, trong khu rừng rộng lớn này còn ẩn dấu bao nhiêu chuyện bí mật kinh khủng.

Bốn người cao lớn xếp hàng chữ nhất đi về phía giả sơn, bà già và Bao Phương cũng đi lẫn vào sau lưng họ. Bách Đại thì thầm nói với Bách Nhẫn, "Hai vị chú ý vào người mai phục ở trên bờ ao sen nhưng phải kín đáo, đừng để lộ hình tích. Tiểu đệ xin đi trước dẫn đường."

Nói xong, khom lưng bò men dưới những gốc hoa, theo dõi bọn kia bốn người lớn, bà già và Bao Phương đi đến chỗ bóng tối dưới chân núi giả, thốt nhiên biến mất, không thấy đâu nữa. Lúc này Bách Đại đã bò tới bên bờ ao, nếu muốn đuổi theo bọn đó, thì thế nào cũng phải chạy ra khỏi chỗ cây cối um tùm, hình tích tất không tránh khỏi bại lộ.

Bách Đại đành nằm yên không dám cựa quậy, trong bụng vẫn ghi nhớ chỗ bà già và bọn người cao lớn biến mất ban nãy. Quả nhiên người nấp trên bờ ao dáng chừng chờ lâu sốt ruột, bèn đứng lên đi về phía núi giả.

Bách Đại nhìn theo thấy hai người mặc áo bào rộng, mặt bịt khăn vải, bộ pháp cực kì nhanh nhẹn, bước chân không hề nghe có tiếng động.

Bách Đại quay về phía sau ra hiệu cho Bách Nhẫn, Bách Tưởng rồi cũng đứng lên chạy theo. Hai người mặc áo dài lúc này đã lẩn vào trong bóng tối dưới chân hòn núi giả biến mất.

Bách Đại vội rảo bước tiến lên, chỉ thấy sau núi có nhiều cây hoa bao bọc một con đường giáp cốc, ăn thông vào phía trong. Cây hoa ở cửa cốc, nhiều cành lá bị gãy nát, chắc hẳn vì mấy người đi qua vừa rồi dẫm phải. Bách Đại nhìn qua hình thế một lát, rồi cũng đi vào. Đi qua chỗ giáp khẩu, địa thế thốt nhiên thấp hẳn xuống.

Bách Đại không muốn mạo hiểm, vội đứng dừng lại, chỉ thấy hai bên cây cối rậm rạp, cành lá rườm rà kết lại như một cái giàn, ngẩng đầu trông lên không thấy một ngôi sao, con đường phía trước mặt bằng đá thì cứ thấp dần mãi xuống, hình như đi thông ruột vào hòn núi giả thì phải.

Giữa lúc ấy, bọn Bách Nhẫn cũng vừa vào tới nơi, Bách Tường thì thào hỏi, "Có chắc bọn bà già đi qua con đường này không?"

Bách Đại gật đầu, "Có lẽ đúng."

Nói xong nhún mình xuống, men theo con đường đá đi vào. Đi chừng hơn mười bước nữa thì tới dưới hòn giả sơn, chỉ thấy trên vách núi bóng nhẵn có một cánh cửa đá, cao chừng bảy tám thước. Bách Đại nghĩ thầm, "Bốn người cao lớn lúc đi qua đây tất phải cúi rạp người xuống, mà người đứng trong này muốn giết họ, thì dễ như trở bàn tay."

Tòa giả sơn này bất quá chỉ rộng chừng hai mẫu, Bách Đại ước nhẩm biết mình đã đi tới giữa lòng núi, nhưng tuyệt không hề nghe thấy một tiếng gì cả, hình như mấy bọn người ban nãy không ai đi vào con đường này. Ông nghi hoặc tự nghĩ, "Hay là bà lão vừa rồi chính là người trong Nam Cung thế gia cố ý dụ mình vào đây, rồi lại tháo lui ra một lối bí mật khác. Nếu bây giờ họ buông cánh cửa đá kia xuống, thì chắc chắn minh sẽ bị chôn sống ở đây mãi!"

Chợt lại nghe tiếng Bách Tường giục, "Sư huynh, sao còn chưa đi đi? Đứng đây làm gì?"

Trong thạch đạo tuy đen thui như mực, nhưng Bách Đại rất tinh mắt, vẫn lờ mờ trông thấy cảnh vật xung quanh. Lúc quay lại nhìn thấy Bách Nhẫn, Bách Tường còn đứng cách sau mình chừng năm sáu thước, bèn vội chạy tới bên cạnh nói nhỏ, "Hai vị hãy lui ra khỏi thạch đạo, canh chừng ngoài cửa, đừng vào vội."

Bách Nhãn ngạc nhiên hỏi, "Sao lại thế?"

Bách Đại đáp, "Nếu bà già này là người của Nam Cung thế gia cải dạng để dụ mình, thì chẳng hóa ra mình bị trúng kế chui đầu vào cạm bẫy của họ hay sao?"

Bách Nhẫn gật đầu, "Sư đệ nói cũng có lý, vậy Bách Tường sư đệ hãy ra canh ở ngoài cửa, giữ lối rút lui để tiểu huynh cùng Bách Đại sư đệ vào trong kia dò thám xem hư thực thế nào đã."

Bách Tường nói, "Tiểu đệ xin tuân mệnh." Nói xong lập tức lui ra.

Bách Đại nói, "Sư huynh và tiểu đệ phải đi cách xa nhau chừng ba thước, phòng xa lỡ bị cường địch trong bóng tối ám toán thì ta còn có thể chiếu ứng lẫn nhau được."

Bách Nhẫn gật đầu đồng ý. Bách Đại lại thò tay vào mình lấy ra một lưỡi chủy, bỏ sẵn trong tay áo, đoạn men theo bức vách tiến lên.

Vừa đi được vài bước, chợt nghe có tiếng chân nặng chình chịch từ trong đưa ra. Bách Đại vội nghiêng mình nép vào vách đá, ngầm vận công lực, nắm chặt lưỡi chủy thủ, nín thở đứng chờ.

Tiếng chân đang đi, thốt nhiên ngừng lại, Bách Đại chú ý trông thấy cách đấy bảy tám thước có một bóng người cực kỳ cao lớn, thấp thoáng như ẩn như hiện, Bách Đại dùng công phu "Truyền âm nhập mật" nói với Bách Nhẫn, "Sư huynh cứ đứng nguyên chỗ đó, để tiểu đệ vào trước xem sao."

Nói xong tay trái đặt lên trước ngực để phòng thân, tay phải nắm chắc mũi chủy thủ len lén đi vào, khi tới gần chỗ có tiếng động chỉ thấy cái bóng đen ngồi dựa vào vách đá, không động không cựa.

Bách Đại tiến lên hai bước, tới bên cạnh bóng đen, tay phải chĩa mũi chủy thủ ra, tay trái nắm lấy cổ tay phải của đối phương. Chỉ thấy cổ tay hắn lớn bằng cái bát, lông lá xồm xoàm, ngón tay lạnh như đá. Thì ra hắn đã chết rồi.

Bách Đại giật mình kinh sợ, tự nghĩ, "Người này chính là một trong bốn người cao lớn vừa rồi, không biết tại sao lại chết nhanh thế này?"

Giữa lúc ấy, chợt thấy có ánh lửa thấp thoáng từ phía bên trái chiếu ra.

Thực ra hết con đường thạch đạo, lại còn hai con đường rẽ sang hai bên, ánh lửa vừa rồi là do ở con đường bên trái. Bách Đại vội rảo bước tiến nhanh, bất ngờ lại đạp phải xác một người cao lớn nữa nằm chết ở đầu con đường rẽ.

Bách Đại nhìn sang bên trái, thấy bà già áo vải và Bao Phương đứng cách đó chừng năm trượng. Bao Phương trong tay còn cầm cây hỏa tập giơ cao lên soi.

Nhờ ánh lửa chập chờn, Bách Đại tinh mắt đã kịp nhận ra hai đại hán cao lớn nữa, nằm sóng soài ở giữa con đường dung đạo, mà hai người mặc áo dài thì núp vào sau hai cái xác đó.

Trước mặt bà cụ và Bao Phương là một khung cửa sắt. Bà già lấy tay xô mạnh, cánh cửa rít lên một tiếng se sẽ rồi từ từ mở ra.

Tức thì một luồng âm phong lạnh lẽo từ trong cánh cửa lùa ra, làm cho cây hỏa tập trong tay Bao Phương chập chờn một lúc rồi tắt phụt. Thế là trong thạch đạo lại tối om như mực, luồng không khí khủng bố lan tràn khắp nơi.

Bách Đại nép vào bức vách tiến lên hai trượng nữa, rồi ngồi thụp xuống. Hai người mặc áo dài cũng thừa dịp bước theo, tới phía sau bà già chừng ba bốn thước thì cùng đứng cả lại.

Chợt nghe tiếng Bao Phương nói, "Đường lão thái, chỗ này nguy hiểm lắm, chúng ta khéo không có lại bị mắc mưu địch..."

Bách Đại nghĩ thầm, "À thì ra bà này là Đường lão thái, một nhà chuyên môn dùng ám khí tẩm thuốc độc, danh tiếng vang lừng trong vũ lâm, hèn gì mà đánh chết một lúc bốn gã đại hán, không có một tiếng động ra ngoài. Có lẽ bốn người ấy đều bị trúng ám khí tẩm độc cả. Thế mới biết ám khí Đường môn quả nhiên danh bất hư truyền!"

Bách Đại còn đang suy nghĩ, chợt nghe bà già trầm giọng nói, "Ngươi sợ rồi à?"

Bao Phương đằng hắng một tiếng sẽ nói, "Bao mỗ lăn lộn trong chốn giang hồ, trải qua bao sóng gió nguy nan, có coi cái chết vào đâu? Chỉ vì tại hạ thấy chỗ này ở trong ruột quả núi giả, quyết không phải là chỗ người ở, nếu chẳng may trúng phải quỷ kế, thì chỉ chết oan vô ích."

Miệng thì nói, tay lại đánh lửa châm lên. Đường lão thái cầm cây gậy trúc đặt ngang trước ngực,xăm xăm bước vào trong cửa. Bách Đại để ý nhìn thấy cây hỏa tập trong tay Bao Phương đang run lẩy bẩy, hình như gã đã thấy bên trong khuôn cửa sắt có cái gì đáng sợ lắm thì phải.

Hai người mặc áo dài thấy vào rồi, cũng giơ tay ra hiệu cho nhau, cùng bước theo sau. Người đi sau chót chính là Bách Đại.

Đó là một tòa mật thất rất rộng, bốn bức vách đá đen sì, dưới đất có từng dãy quan tài xếp thành hàng ngay ngắn. Giữa nhà là một cái ao con đầy nước, những cơn gió lạnh lẽo âm u từ dưới ao bốc lên, tản đi khắp gian nhà.

Bờ ao còn dựng một cái bài lâu, trên có ba chữ đại tự, "MÊ HỒN LAO" bằng mực đỏ. Ngoài ra trong nhà không trần thiết gì cả.

Bao Phương hình như không chịu nổi cái cảnh khủng bố đó, bèn ho mạnh một tiếng rồi nói, "Lão tiền bối, trong này chỉ toàn người chết cả, có gì mà tra với xét?"

Đường lão thái chợt quay lại, lạnh lùng nói, "Ta vào đây tìm con ta."

Bao Phương giật mình vội hỏi, "Sao cơ? Lệnh lang ở trong này à?"

Đường lão thái nói, "Đúng thế, nó ở trong những cỗ quan tài này, nhưng không biết là cỗ nào?"

Bao Phương hít một hơi dài, nói, "Nếu thế thì lệnh lang đã chết rồi ư?"

Đường lão thái nói, "Không phải, nó vẫn còn sống như thường..." Ngừng một lát, bà lại tiếp, "Chẳng qua đó cũng chỉ là lời đồn, nhưng mong rằng người ấy không nói dối ta!"

Bao Phương nghi hoặc hỏi, "Lệnh lang còn sống thì sao lại nằm trong quan tài ở một nơi băng thất lạnh lẽo như thế này?"

Đường lão thái nói, "Ngươi không tin ư?"

Bao Phương lắc đầu, "Tôi từ nhỏ đến giờ, đi khắp đông tây nam bắc, mắt đã được trông thấy bao nhiêu sự kì quái lạ đời, nhưng thật quả chưa hề thấy có ai lại đem người sống bỏ vào áo quan đặt nằm trong nhà đá bao giờ. Điều đó tại hạ quyết không dám tin."

Đường lão thái nói, "Để ta nói cho ngươi nghe một chuyện đáng sợ hơn nữa, trong những cỗ quan tài nằm đây không những chỉ có con trai lão thân, mà còn có cả mấy nhân vật tiếng tăm lừng lẫy trong giang hồ nữa kia."

Bao Phương thò tay lấy cây hỏa tập khác châm nối vào cây trước rồi nói, "Không biết những nhân vật đó là ai, lão thái có thể cho tại hạ biết được không?"

Đường lão thái nói, "Chưởng môn phái Ngôn gia môn là Ngôn Phượng Cương, ngươi biết chứ?"

Bao Phương nói, "Tại hạ cũng có nghe danh."

Đường lão thái nói, "Ngoài ra còn có Thượng Tam Đường, Huyền Nguyệt đạo trưởng, những người ấy có phải là các nhân vật có tên tuổi trong vũ lâm cả không?"

Bao Phương gật đầu. Đường lão thái lại nói tiếp, "Ấy vậy mà bây giờ họ nằm cả ở trong những chiếc áo quan này. Ngươi có dám tin không?"

Hồi thứ mười ba

Mẹ con tình nặng

Bao Phương sửng sốt đến nỗi đánh rơi cây hỏa tập xuống đất, giọng run run hỏi, "Nếu những câu lão thái nói toàn là sự thật, thì quả là một chuyện kinh khủng có thể làm chấn động vũ lâm..."

Đường lão thái nói, "Chưa hết, lại còn cả Trung Nguyên tứ quân tử nữa."

Bao Phương cúi nhặt cây hỏa tập giơ cao lên, vẻ mặt tỏ ra kinh khủng đến cực điểm. Gã đưa mắt nhìn mấy cỗ quan tài rồi lắc đầu, "Vô lý, vô lý! Sao lại có chuyện vô lý đến thế được? Để tại hạ thử mở một cỗ ra xem có đúng thế không?"

Nói xong lập tức bước lên, lấy tay mở nắp một cỗ áo quan ngay đầu dãy.

Quả nhiên cỗ áo quan chưa đóng đinh, nên Bao Phương vừa chạm tay vào đã mở ngay ra được.

Đường lão thái ngoài miệng tuy quả quyết, kỳ thật trong bụng cũng bán tín bán nghi, một người còn sống cho vào quan tài đặt nằm trong động đá hơi lạnh thấu xương thế này, dù không chết cóng cũng phải chết ngạt. Chuyện ấy làm sao có thể tin được? Vì thế, vừa thấy Bao Phương mở nắp quan tài, bà vội thò đầu vào nhòm.

Ánh lửa chập chờn chiếu thẳng vào mặt người nằm trong áo quan, chỉ thấy da mặt hắn trắng bệch, giống như nước da người ốm đã lâu ngày, hơi thở cực kỳ yếu đuối.

Bao Phương hạ thấp cây hỏa tập xuống, nhìn kỹ một lúc rồi sẽ nói, "Lão tiền bối, người này vẫn còn sống thật!"

Đường lão thái cau mày nói, "Nam Cung thế gia tìm đủ thiên phương bách kế, bắt sống bao nhiêu cao thủ vũ lâm bỏ vào quan tài, đặt nằm trong hầm đá thế này, tất phải có nguyên cớ."

Bao Phương vỗ đùi nói, "Phải rồi, tất nhiên họ phải dự định một âm mưu gì ghê gớm. Trong này có tới bảy tám chục cỗ quan tài, nếu mỗi chiếc đều có một người thì không phải chỉ mất công trình một hai năm có thể làm nổi..."

Giữa lúc ấy chợt nghe một tiếng thở dài từ trong đám quan tài đưa ra.

Đứng trong hầm đá âm u lạnh lẽo, xung quanh la liệt quan tài, đã làm cho người ta có sẵn cái cảm giác khủng bố, lại nghe thấy một tiếng thở dài não ruột đó, ai mà không rợn tóc gáy?

Bao Phương đằng hắng một tiếng cho thêm can đảm, rồi hốt nhiên vận khí đan điền giơ cao tay phải chuẩn bị ứng phó.

Đột nhiên hắn cảm thấy mấy ngón tay trái đau nhói, vội buông cây hỏa tập rớt xuống đất. Thì hắn vì quá chú ý tới cái tiếng thở dài ma quái vừa rồi, đến nỗi cây hỏa tập cháy sát tới tận tay mà cũng không biết.

Cây hỏa tập đã tắt, trong thạch thất tức thì lại tối đen như mực.

Cũng trong khoảnh khắc đó, thốt nhiên người nằm trong áo quan đứng dậy. Bao Phương vừa ngẩng đầu lên chạm ngay vào khuôn mặt lạnh giá như tiền của người ấy. Hắn có cái cảm giác như luồng hơi lạnh đó truyền từ mặt thấu suốt tới tim gan, bất giác xương sống lạnh toát, toàn thân run lên nhảy lùi về phía sau mấy bước.

Đường thái thái cũng giật mình sửng sốt, đứng ngây người ra một lúc, rồi mới lên tiếng, "Nếu ngươi còn nói được thì hãy trả lời lão thân mấy câu, còn cố tình làm trò yêu quái để lòe nạt người ta thì chớ trách lão thân tàn ác."

Người kia chẳng nói chẳng rằng, chỉ nhấc cao chân phải bước ra khỏi áo quan.

Lúc này trong thạch thất đã tối thui như mực, Đường lão thái dẫu nhờ có mục lực hơn người, cũng khó lòng có thể trông thấy rõ cảnh vật cách đó chừng năm sáu thước. Vậy mà người kia đi đứng vẫn ung dung, động tác cực kỳ mau lẹ, hắn bước qua chỗ Đường lão thái, rồi đi về phía bờ ao.

Bao Phương vội vàng châm một cây hỏa tập khác, giơ cao lên soi. Chỉ thấy người kia mặc bộ quần áo đen, ra tới bên ao băng, khum hai bàn tay vốc nước uống ừng ực. Uống tới bảy tám vốc mới dừng tay, ngoảnh mặt lại.

Bao Phương chú ý nhìn kỹ, thấy nước da trắng nhợt của người ấy lúc này đã có đôi chút huyết sắc, hình như những ngụm nước băng đó đã nuôi sống cơ thể của hắn.

Đường lão thái chống mạnh cây gậy trúc xuống đất, hỏi, "Ngươi có nghe rõ tiếng ta nói không?"

Người kia ngơ ngác một lúc rồi gật đầu. Đường lão thái mừng lắm nói, "Thế thì tốt lắm, nếu ngươi thành thật trả lời cho lão thân mấy câu hỏi, lão thân sẽ cứu ngươi ra khỏi tòa thạch thất này."

Người kia cau mày lại, hình như cố tìm hiểu ý nghĩa câu nói của Đường lão thái. Chừng nửa giờ sau, hắn mới nhớ ra, bèn giơ tay chỉ vào miệng, rồi đưa hai tay lên xua lấy xua để.

Bao Phương nói, "Lão tiến bối, người này hình như bị câm."

Đường lão thái nói, "Có khi hắn bị người trong Nam Cung thế gia cắt mất lưỡi rồi, nên không thể nói được."

Bao Phương lại nhìn người kia một lúc rồi bảo, "Ngươi thử há miệng ta xem nào."

Người kia còn chưa hiểu ý Bao Phương muốn nói gì, chợt nghe phía ngoài có tiếng đá lăn xào xạt. Kế đó lại nghe có tiếng nằng nặng từ trong xó tối đưa ra, "Ngoài kia có người sắp tới, hãy bỏ ngay người ấy vào áo quan, rồi nấp vào một chỗ. Nếu là người Nam Cung thế gia vào, ta có thể thừa cơ xem họ định âm mưu gì."

Đường lão thái nhướng mày hỏi, "Vị cao nhân nào đó?Sao không chịu lộ diện ra đây cho lão thân tiếp kiến?"

Cái tiếng nằng nặng lại cất lên, "Lúc này mà thái thái còn chưa chịu dẹp bớt tính hiếu thắng đi... thì giờ gấp lắm rồi, không thể nói chuyện được nữa. Mau bỏ người kia vào áo quan đi."

Đường thái thái nghe đối phương nói cũng có lý, bèn bước lên điểm vào huyệt đạo của người áo đen, sẽ bảo Bao Phương, "Tắt lửa đi rồi bế hắn vào áo quan, đậy lại như cũ, chúng ta trốn mau!"

Bao Phương làm đúng như lời Đường thái thái rồi ngồi thụp xuống, nấp vào phía sau quan tài. Đường thái thái chưa chịu đi ngay, còn lượn quanh ao băng một lượt, đoạn cũng nấp vào sau một cỗ quan tài khác.

Quả nhiên một lát sau đã nghe có tiếng giày đi tới rồi một con nữ tỳ đầu tết hai trái đào, tay giơ cao đèn lồng bước vào trước, theo sau là một người đàn bà mặc áo trắng dài, tuổi trạc ngoài ba mươi.

Dưới ánh đèn sáng, dung mạo thiếu phụ hiện ra lồ lộ, mắt phượng mày ngài, lưng thon má phấn, cách phục sức cũng rất nhã đạm tinh khiết.

Đường lão thái nghĩ thầm, "Trông người đàn bà này tướng mạo thật đoan trang cao quý, đâu phải là kẻ hung ác tàn bạo? Nếu mắt mình không được trông thấy cảnh tượng khủng khiếp ở trong "Mê hồn lao" này, thì dù ai nói mình cũng không tin là thật" Bà nghĩ đến đấy liền thò tay vào mình lấy ra một nắm trâm độc dự định ném ra.

Đường lão thái tự nghĩ, "Bốn tên đại hán chết vì trâm độc của mình, còn nằm ngổn ngang trên con đường, cửa động bí mật cũng đã bị mở ra, không lý gì mà họ không trông thấy."

Nhưng sự tình xảy ra lại ngoài ý liệu của bà, người đàn bà áo trắng hình như không khám phá ra sự gì lạ, nên sắc mặt vẫn điềm tĩnh, đưa mắt nhìn quanh bốn phía rồi bảo con thị nữ, "Treo đèn lên!"

Con thị nữ vâng lời, treo đèn lên bài lâu, rồi theo người đàn bà lui ra cửa, cúi đầu đứng yên. Hình như còn chờ đợi ai nữa.

Đường lão thấy thái độ của người đàn bà không tỏ vẻ gì khác lạ, nên nghĩ thầm, "Người đàn bà này tính tình thâm trầm thật, những sự biến đổi đột ngột xảy ra trong mật thất như thế, mà vẫn ung dung bình tĩnh như thường. Người trong Nam Cung thế gia đáng sợ thật."

Chợt lại nghe phía ngoài có tiếng giày đi vào, rồi cũng có hai con tiểu tỳ xách đèn lồng dẫn đường cho hai người đàn bà mặc áo trắng nữa.

Hai người đàn bà tới sau nhan sắc cũng cực kỳ xinh đẹp và tuổi còn trẻ hơn người trước một chút.

Hai người trông thấy người đàn bà đi trước, đều cúi đầu thi lễ. Người này gật đầu rồi khẽ hé cặp môi son, thì thào nói nhỏ với hai người đi sau mấy câu.

Hai người đi sau cũng quay lại bảo nữ tỳ treo đèn lên.

Chỉ trong phút chốc, ba chiếc đèn lồng đã được treo cao lên ngang nóc tòa bài lâu, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp cả gian thạch thất. Ba người đàn bà và ba con thị nữ vẫn đứng cả ngoài cửa, có vẻ như đang chờ đợi cái gì.

Lại một lúc nữa, lại nghe có tiếng gậy chống xuống đất lộc cộc, xen lẫn với tiếng giày lẹp xẹp tiến vào. Ba người đàn bà áo trắng vừa rồi lập tức đứng thẳng lên, tránh ra hai bên cúi đầu khoanh tay, điệu bộ cực kỳ cung kính. Đủ hiểu người sắp tới đây tất là người có địa vị rất cao trong nhà Nam Cung.

Bước chân đi mỗi lúc một gần, rồi một bà già da mồi tóc bạc, mình mặc áo trắng ngắn, tay chống gậy trúc thủng thỉnh bước vào. Đường lão thái đứng sau quan tài nhìn ra đã trông thấy rõ ràng, liền nghĩ thầm, "Thì ra chỉ là một bọn đàn bà tác yêu tác quái. Nếu ta không thân hành tới đây, thì làm sao mà biết được?"

Bà già vào tới giữa gian thạch thất, đảo mắt trông quanh một lượt, rồi thốt nhiên cất tiếng cười ha hả nói, "Vị cao nhân nào xâm nhập vào cấm khu của nhà Nam Cung thế gia thật là lớn mật! Chỉ riêng một điểm đó cũng đủ cho lão thân bội phục vô cùng..." Nói tới đó chợt ngừng lại một lúc rồi tiếp, "Người nào xâm nhập vào đây, quyết không phải là hạng vô danh tiểu tốt? Sao không đường hoàng ra đây cho lão thân gặp mặt, mà lại trốn trốn nấp nấp như vậy, còn ra thể thống gì nữa?"

Đường lão thái vốn giàu kinh nghiệm giang hồ, nghe giọng lưỡi bà ta đủ thấy đối phương chưa trông thấy mình, và vừa rồi lại nghe tiếng người cảnh cáo, rõ ràng là trong này còn có người khác nữa, vậy thì việc gì mình lại xuất đầu lộ diện vội? Nghĩ vậy nên cứ nằm yên nghe động tĩnh.

Bà già hỏi ba bốn lượt, không thấy ai trả lời, chợt biến sắc mặt, mắt trợn tròn xoe cười nhạt nói, "Trong thạch thất này chu vi không quá vài trượng, dầu một cây kim rơi, lão thân cũng tìm ra được, huống hồ là người, ta đã nói tử tế mà không nghe thì đừng có trách..."

Nói đến đấy, mụ lại đưa mắt nhìn ba người đàn bà mặc áo trắng rồi nói, "Phượng Trân, Tú Linh ra trấn giữ cửa đá, hễ thấy ai chạy ra thì cứ việc giết chết, đừng nể nang gì cả. Còn Tố Ngọc thì đi từ mé bên trái sang mé bên phải, tìm kỹ một lượt xem địch nhân núp nơi đâu."

Tiếng nói vừa dứt, người đã dời khỏi chỗ đứng chừng ba thước rồi bắt đầu đi từ mé bên phải sang bên trái.

Người đàn bà vào thạch thất trước tiên thì đi từ mé bên trái sang mé bên phải.

Đường lão thái nắm chắc mấy mũi trâm độc, ngầm vận công lực xúc tích chờ địch, tự nghĩ, "Mụ già này cặp mắt sáng như điện, có lẽ mụ chính là nhân vật chủ não trong số bốn người này. Ta làm thế nào hạ được mụ, còn mấy người kia đối phó cũng dễ. Chỉ cốt lưu một người sống là đủ.

Vừa nghĩ tới đấy, mụ già đã đi tới phía trước, chỉ còn cách mình chừng bốn năm thước tức là chỉ còn cách mình độ hai, ba cỗ quan tài nữa. Đường lão thái vừa định phóng độc trâm ra, chợt thấy mụ già đứng dừng lại, lắng tai nghe ngóng.

Đường lão thái lấy làm lạ cũng lắng tai nghe, quả thấy có tiếng thở rất yếu từ cỗ quan tài mé bên phải đưa ra.

Cái tiếng thở đó chỉ nhỏ như tiếng cây kim rơi xuống đất, nếu không hết sức chú ý thì không sao nghe thấy được, Đường lão thái kinh sợ nghĩ thầm, "Mụ già tai mắt linh mẫn như vậy, đủ thấy là người có nội công thượng thừa. Có lẽ đêm nay mình được gặp một tay kình địch ghê gớm nhất từ xưa đến nay."

Mụ già giơ cây gậy trúc gõ vào áo quan hai tiếng rồi sẽ gọi, "Tố Ngọc, lại đây mau lên."

Người đàn bà dạ một tiếng rồi thoăn thoắt bước tới, khom lưng thưa, "Bà bà dạy gì ạ?"

Bà già nói, "Người nầy đã cựa mình được sao không thả hắn ra?"

Người thiếu phụ nói, "Nhưng hắn vào đây chưa được đầy tháng!"

Bà già lắc đầu, "Ta đã dặn các ngươi rằng công lực của mỗi người cao thấp có khác, ba bảy hai mươi mốt ngày trở đi thế nào cũng có sự biến hóa không giống nhau. Mau thử mở nắp áo quan ra xem nào."

Thiếu phụ vâng lời, lập tức giơ hai bàn tay trắng nõn ra, nhấc nắp quan tài lên. Bà già thò cây gậy trúc vào áo quan điểm mấy cái, rồi thốt nhiên nhảy tránh về một bên.

Chỉ nghe một tiếng thở thật dài, rồi một người nhanh như chim cắt từ trong áo quan nhảy vụt ra, xa tới bảy tám thước mới rơi xuống đất.

Đường thái thái ngước mắt trông lên, thấy người ấy tuổi trạc hai mươi nhăm hoặc hai mươi sáu, mặc quần áo đen, mặt to tai lớn, miện rộng mắt tròn, dưới ánh đèn còn trông rõ nước da trắng nhợt, không có một tý huyết sắc nào.

Mụ già đôi mắt long lanh sáng quắc, nhìn trừng trừng vào mặt gã áo đen, tay trái từ từ giơ lên, miệng se sẽ hát một bài.

Tiếng hát nằng nặng yếu đuối, như tiếng người nói mê, khiến người nghe cũng cảm thấy buồn ngủ.

Người áo đen đôi mắt đang trợn tròn, bị cái tiếng kỳ quái ấy thôi miên, từ từ nhắm lại rồi ngồi thụp xuống đất.

Đường thái thái kinh sợ nghĩ thầm, "Quái lạ, trên đời sao lại có môn vũ công quái gở như vậy? Thật quả ta chưa từng được mắt thấy tai nghe bao giờ!"

Mụ già mỉm cười đắc ý nói, "Thế là "Thất thập nhị sát" chỉ còn thiếu có ba tên."

Thiếu phụ cong ngón tay lẩm nhẩm đếm rồi kính cẩn thưa, "Khải bẩm bà bà, trừ người này ra thì còn thiếu những bốn tên. Vì hôm nọ Phượng Trinh điểm nhằm kinh mạch của một người làm cho hắn phát điên, không thể khống chế nổi nên phải loại bỏ."

Mụ già nói, "Ừ nhỉ! Thế mà ta quên khuấy đi mất!"

Thiếu phụ thấy lão bà không có ý giận, lại nói thêm, "Bẩm bà bà, Tứ Đại kim cương bỗng nhiên mất tích, không thấy đâu nữa, chắc là đã có vị cao nhân nào đã lẻn vào "Mê hồn lao"? Việc này rất khả nghi, Tứ đại kim cương sức khỏe như hổ, dày da lắm thịt, dẫu có gặp những tay nội gia cao thủ cũng không đến nỗi bị giết một cách êm ả như vậy..."

Mụ già vừa nghe tới đấy, thốt nhiên cất tiếng cười khanh khách. Tiếng cười của mụ nghe the thé như xói vào màng tai, mãi mãi không ngớt.

Trong khi cười trên khuôn mặt đầy những nếp nhăn của mụ, chợt bốc lên một luồng hắc khí dày đặc. Tiếng cười vừa dứt, bầu không khí trong hầm đá tuy đã lấy lại được vẻ trầm lặng âm u như cũ, nhưng nét mặt mụ già lại biến thành một người khác hẳn.

Mặt mụ bạnh ra, lớn gấp hai lúc thường, bao nhiêu nếp nhăn đều dãn thẳng ra, luồng hắc khí vẫn lởn quởn bao quanh khuôn mặt mụ, trông giống như một con ác quỷ nhất là cặp mắt đỏ rực như hai bó đuốc, nhìn vào đâu tưởng như có thể đốt cháy được chỗ đó.

Mụ đưa mắt nhìn khắp một lượt từ trái qua phải, từ sau tới trước rồi cất giọng the thé nói, "Đường lão thái, trong tòa thạch thất lên trời không lối, xuống đất không đường này, mụ còn định trốn đi đâu? Mụ ở trong vũ lâm cũng đáng kể là một nhân vật chủ não, vậy mà trốn trốn lẩn lẩn như vậy, còn ra thể thống gì nữa?"

Mấy câu nói đó chẳng khác gì mũi dao đâm thẳng vào tim Đường lão thái, tuy biết là gặp phải tay kình địch nhưng không thể không làm mặt cứng, đứng phắt dậy tay cầm sẵn một nắm châm đuôi rết, thủng thỉnh bước vào nhà giữa.

Thiếu phụ áo trắng mắt đăm đăm nhìn Đường lão thái, chân bước lùi dần về bên cạnh, không biết vì nàng đã trông thấy nắm ám khí trong tay Đường lão thái mà muốn tránh, hay vì nàng muốn nhường lối cho Nam Cung phu nhân dễ xoay trở.

Đường lão thái tuy đã từng nhiều phen vào sinh ra tử, nhưng thật chưa bao giờ phải đụng độ với một nhân vật nào đáng sợ như mụ già này, bà chợt cảm thấy lạnh toát xương sống, bèn đứng dừng lại còn cách Nam Cung phu nhân khoảng chừng bốn năm thước. Mụ già cười hềnh hệch nói, "Quả nhiên là ngươi! Ta đoán không sai."

Hai người cùng chống gậy trúc, tuổi tác tuy chênh lệch nhưng cũng đều vào hạng cao niên, lúc này cả hai cùng đưa mắt ngắm nghía lẫn nhau. Mụ già lại cười nói, "Ngươi to gan thật! Dám lẻn vào "Mê hồn lao" của ta mà không sợ chết à?"

Đường lão thái lạnh lùng đáp, "Đại giang nam bắc, bốn bể năm hồ, chỗ nào ta chẳng dám đi?"

Mụ già nheo mắt nhìn Đường lão thái, ánh mắt lại càng quắc lên dữ dội, gật gù nói, "Bao nhiêu năm nay, lần này là lần đầu tiên có người dám tự tiện bước chân vào "Mê hồn lao" của Nam Cung thế gia, hừ!"

Đường lão thái cười nhạt, "Đầm rồng hang hổ, núi kiếm rừng đao, lão thân còn không sợ sá gì một khu "Mê hồn lao" tầm thường này..."

Bà ngừng một lát rồi lại tiếp, "Lão thân có một việc đáng ngờ, muốn thỉnh giáo Nam Cung phu nhân."

Nam Cung phu nhân chợt đổi giọng ôn tồn nói, "Mấy chục năm nay các cao thủ vũ lâm vào đây có tới hàng trăm người, nhưng vì hồi trước dược liệu chưa đủ nên phân nửa đều bị chết oan. Tuy nhiên mười năm gần đây, việc này không còn xảy ra nữa. Chắc lão thái quan tâm đến số phận lệnh lang nên tôi xin nói trước."

Đường lão thái vội hỏi, "Con tôi ở đây thật ư?"

Nam Cung phu nhân điềm nhiên nói, "Xin cứ yên tâm. Trước khi ngươi về âm phủ, thế nào lão thân cũng cho ngươi được gặp lệnh lang một lần sau cùng."

Nói đến đấy, chợt lại đổi sang giọng hung hăng, tàn ác, "Từ xưa đến nay các cao thủ vào trong "Mê hồn lao" này rất đông, nhưng toàn là do lão thân uổng phí bao nhiêu tâm cơ mới mời được họ, trong số những người đó lão thân tự tin rằng có nhiều người vũ công không kém gì ngươi. Cho tới lúc này, người mà lão thân không mời dám tự tiện bước chân vào "Mê hồn lao" mới có ngươi là một."

Đường lão thái lạnh lùng nói, "Thật là vinh hạnh cho lão thân quá!"

Nam Cung phu nhân nói, "Ngươi đã phát hiện được sự bí mật hàng mấy chục năm của nhà Nam Cung thế gia, và đã được nghe chính miệng lão thân tố cáo nguyên nhân thất tung của những vị cao thủ vũ lâm, tất nhiên phải hiểu rằng cơ hội của ngươi sống mà ra khỏi đây mong manh hết sức!"

Mụ nói tới đấy thốt nhiên lại buông tiếng cười sằng sặc, đám hắc khí trên mặt mụ càng lúc càng dày, giọng nói càng lạnh lẽo, "Lão thân đã lập tâm bắt đủ Thất thập nhị sát hiện giờ còn thiếu bốn chỗ. Cứ kể vũ công của ngươi nếu cho sung vào số đó, thì rất có thể thành một trong tứ đại lãnh đội. Lúc ấy, ngươi không những không phải nhờ lệnh lang nữa, mà còn diệt được hết thất tình lục dục vĩnh viễn không biết sầu khổ là gì. Ngươi thử tưởng tượng một thế giới như thế sẽ thuần phác đến mức nào? Trong đó con người chỉ biết có hai việc là ăn và giết người, ngoài ra không phải lo lắng gì nữa, sung sướng biết bao nhiêu..."

Mụ mới nói đến đấy, Đường lão thái đã giận dữ hét lên, "Câm họng đi!"

Nam Cung phu nhân vẫn lạnh như tiền nói, "Rượu mời không uống lại muốn uống rượu phạt..."

Đường lão thái chống mạnh cây gậy trúc xuống đất, ngắt lời Nam Cung phu nhân, "Lão thân hỏi một câu. Tại sao ngươi biết lão thân đến đây?"

Nam Cung phu nhân cười hềnh hệch, "Chỉ có ám khí độc môn của Đường gia Tứ Xuyên mới có thể giết chết được bốn vị đại kim cương canh cửa của ta một cách êm ái như vậy được chứ? Có gì mà không hiểu?"

Đường lão thái "hừ" một tiếng rồi nói, "À thì ra thế! Lão thân lại tưởng là ngươi có thuật tiên tri..."

Nam Cung phu nhân nhìn mấy mũi ám khí trong tay Đường lão thái, hỏi, "Ngươi cầm sẵn ám khí thế kia là định ám toán ta đó chăng?"

Đường lão thái thủng thỉnh đáp, "Dù ta có báo cho ngươi biết trước, ngươi cũng khó lòng tránh nỗi những mũi thần trâm này."

Nam Cung phu nhân lạnh lùng nói, "Ám khí tẩm độc của Đường gia quả có chỗ độc đáo, song đối với lão thân e rằng vô dụng."

Thấy Đường lão thái bĩu môi tỏ ý không tin, mụ lại nói, "Không tin ngươi cứ thử xem. Nhưng ngươi phải hứa với ta một điều là nếu ám khí của ngươi không hại được lão thân thì ngươi phải chấp thuận lời yêu cầu của lão thân sung vào đội Thất thập nhị thần sát."

Đường lão thái nghĩ thầm, "Những mũi trâm độc trong người ta có tới bốn năm chục chiếc, hai bên đứng cách nhau gần thế này, không có lý gì lại ném không trúng?"

Hai người đều đầy lòng tự tin, bốn mắt nhìn nhau cùng chiếu ra những tia nhìn chế giễu cười cợt.

Đường lão thái lại gõ cây gậy xuống đất nói, "Nếu lão thân lỡ tay ném trúng ngươi thì tất ngươi không còn đủ thì giờ trối trăn được nữa. Lúc ấy lão thân dù có muốn gặp mặt khuyển tử, chỉ sợ các con dâu, cháu dâu ngươi cũng không dám tự tiện tác chủ. Vậy lão thân yêu cầu phu nhân trước khi thử ném ám khí, hãy cho lão thân trông thấy mặt khuyển tử đã."

Nam Cung phu nhân cười nhạt, "Nếu ngươi hứa với ta là sẽ vui lòng gia nhập "Thất thập nhị sát" ta sẽ tha lệnh lang ra ngay lập tức."

Đường thái thái hỏi, "Nếu chẳng may ngươi bị thương vì ám khí của ta thì sao?"

Nam Cung phu nhân nói, "Đó chẳng qua là lão thân học nghệ không tinh, chết là đáng, còn oán ai nữa?"

Đường lão thái nói, "Được rồi, chúng ta cứ quyết định theo đúng như lời vừa nói!"

Nam Cung phu nhân vẫy tay nói với Tố Ngọc, "Ngươi tìm Đường Thông cho hắn uống một chén Tỉnh tửu thang trước đã, đoạn giải huyệt đạo cho hắn, rồi đưa hắn ra đây để mẹ con hắn nói chuyện vài câu."

Thường Tố Ngọc vâng lời tìm một cỗ áo quan, mở nắp kéo Đường Thông ra.

Đường thái thái để ý nhìn kỹ, thấy cỗ quan tài xếp hàng thứ chín, đếm từ bên trái sang phải bèn ghi nhớ lấy.

Dưới ánh đèn rực rỡ đã trông thấy người ở trong áo quan bước ra, hai mắt nhắm nghiền da mặt trắng bệch, đúng là ái tử Đường Thông. Đường thái thái bất giác động lòng, toàn thân run run, nhưng chỉ trong khoảnh khắc lại trấn tĩnh ngay được.

Thường Tố Ngọc đặt Đường Thông nằm dưới đất, xoa nắn bảy tám huyệt đạo xong, thốt nhiên giơ chân đá vào sườn bên phải hắn một cái. Thân thể Đường Thông tức thì bị hất tung lên rồi rơi xuống trước mặt Đường thái thái.

Đường thái thái tay nhanh mắt sáng, trong khi Đường Thông chưa rơi xuống tới nơi, bà đã giơ cao cây gậy trúc lên ngáng lại khiến Đường Thông vừa rơi xuống đất, đã đứng thẳng lên được.

Đường Thông lúc vừa được kéo ở trong áo quan ra, thân thể cứng đờ như người chết, không động cựa gì được, nhưng lúc này sinh mệnh đã hồi phục chỉ còn có thần trí là chưa được hoàn toàn minh mẫn, nên khi trông thấy Đường thái thái nét mặt vẫn ngây ngô, không nhận ra được.

Mẫu tử tình thâm, Đường thái thái thấy cậu con yêu như vậy không khỏi đau xót trong lòng, bèn thở dài một tiếng nói, "Thông nhi, con thử nhìn kỹ xem có còn nhận được mẹ không?"

Nam Cung phu nhân cười nhạt nói, "Hắn chưa uống Tỉnh tửu thang nên ở đời này, hắn không còn nhận biết ai cả."

Đường lão thái đôi mắt quắc lên như tóe ra lửa, hầm hầm nói, "Ngươi đã hứa với ta như thế nào sao không giữ lời?"

Nam Cung phu nhân lạnh lùng đáp, "Làm gì mà nóng nảy thế, lão thân đã nói quyết không khi nào lại sai lời. Tố Ngọc mau đem Tỉnh tửu thang ra đây!"

Tố Ngọc vâng lời thò tay vào bọc lấy ra một chiếc lọ con bằng thúy ngọc, cầm sẵn trong tay. Nam Cung phu nhân chợt như vừa nhớ ra sự gì lại hỏi Đường thái thái, "Ngươi vào đây có một mình hay còn ai nữa? Sao không mời ra đây hội kiến một thể?"

Đường lão thái trầm ngâm một lát rồi nói, "Bất luận có ai vào đây nữa hay không, bao nhiêu trách nhiệm lão thân xin gánh chịu hết."

Bà vì trọng danh dự không muốn nói dối lại cũng không muốn tố cáo người khác, nên mới trả lời như vậy. Nam Cung phu nhân cười ha hả nói, "Vậy thì càng tốt. Mong rằng những người vào đây với ngươi toàn là những nhân vật có tiếng tăm trong vũ lâm cả, sau này cũng đỡ cho lão thân phải tốn công."

Ý mụ muốn nói rằng phàm những nhân vật có tên tuổi trong vũ lâm đều là kẻ thù của nhà Nam Cung thế gia cả.

Đường lão thái vì muốn cho con sớm tỉnh lại nên cố nén giận, mặc cho mụ muốn nói gì thì nói. Nam Cung phu nhân đưa mắt ra hiệu cho Tố Ngọc đưa thuốc cho Đường Thông uống, Tố Ngọc vâng lời cầm lọ thuốc bước tới bên Đường Thông. Đường lão thái cặp mắt nhanh như điện luôn luôn theo dõi từng cử chỉ của nàng.

Chỉ thấy Tố Ngọc nắm lấy chỗ yếu hại trên bả vai Đường Thông rồi dốc hết lọ thuốc vào miệng chàng. Đường Thông từ từ nhắm mắt lại, hình như bị ngất đi, trong khi ấy tay Tố Ngọc vẫn nắm chặt lấy vai chàng. Đường lão thái chợt quát to, "Ngươi còn chưa buông tay ra là có ý gì vậy?"

Tố Ngọc cau mày nói, "Lão thái phải tự trọng một chút, nếu tôi nổi nóng lên đánh một chưởng vào tâm mạch lệnh lang thì sao?"

Đường lão thái tuy tức giận cũng đành phải đứng yên, không dám phát tác.

Sắc mặt Đường Thông lúc này đã thấy nổi lên một tia huyết sắc, rồi dần dần đỏ như gấc chín. Chàng thở một hơi dài rồi mở bừng mắt ra. Đường thái thái vội gọi, "Thông nhi, con thử xem ai đây!" Vừa nói vừa tháo chiếc khăn phủ đầu ra.

Đường Thông ngơ ngác nhìn một lúc rồi thốt nhiên buột miệng reo lên, "Mẫu thân đại nhân!"

Lúc này Thường Tố Ngọc mới buông tay ra, lui về phía sau. Đường Thông ngầm vận chân khí hoạt động huyết mạch rồi xông về phía Đường lão thái. Lão thái giơ tay đón con vào lòng, vuốt tóc chàng nói, "Hài tử, đừng sợ có mẹ ở đây, không ai dám làm gì con đâu!"

Đường Thông hình như muốn nói rất nhiều, nhưng không biết nói gì trước, chỉ gọi được một câu "Mẫu thân!" rồi lại im bặt. Đường lão thái nói, "Con kể từ đầu cho mẹ nghe, tại sao con lại vào đây?"

Nam Cung phu nhân nói xen vào, "Muốn nói gì thì nói năm ba câu thôi, sắp hết giờ rồi!"

Đường lão thái ngoảnh lại, thấy luồng hắc khí phủ trên mặt Nam Cung phu nhân càng lúc càng nhiều đến nỗi lúc này đã che lấp tất cả thân thể của mụ, liền nghĩ thầm, "Đám hắc khí này hình như do từ người mụ bốc ra, nhất định là một loại nội công kỳ dị, mỗi phút kéo dài là luồng hắc khí dày thêm, chi bằng ta hạ thủ ngay đi là hơn!" Nghĩ vậy, bà liền sẽ bảo Đường Thông, "Con đi theo sát lưng ta, để ta đả phát mụ này xong đã rồi sẽ nói chuyện sau."

Dặn xong, ngầm vận chân khí quát to một tiếng, "Hãy tiếp lão thân một gậy!"

Đoạn cầm cây gậy giơ lên điểm về phía Nam Cung phu nhân. Nam Cung phu nhân sẽ lắc đôi vai nhẹ nhàng tránh ra ba thước, lạnh lùng nói, "Ngươi khó lòng chống nổi ta mười hiệp đâu? Sao không sử dụng ám khí thành danh của nhà họ Đường ra?"

Hồi thứ mười bốn

Mưa gió hầm băng

Nam Cung phu nhân vừa nói vừa đưa gậy lên đỡ.

Hai cây gậy trúc vừa đập vào nhau đánh "chát" một tiếng. Đường lão thái chợt thấy cổ tay tê dại, cây gậy suýt nữa cũng bị văng đi, bất giác kinh sợ nghĩ thầm, "Người này nội lực mạnh lắm, bình sinh ta mới gặp là một..."

Còn đang nghĩ ngợi, Nam Cung phu nhân đã múa cây gậy lên phản công, phóng ra một chiêu "Thái Sơn áp đỉnh". Chiêu này tuy chỉ là một chiêu tầm thường, nhưng do tay Nam Cung phu nhân thi triển thì uy thế lại khác hẳn, cây gậy vung lên biến thành ba bốn cái bóng kỳ ảo vô cùng.

Đường phu nhân đã từng gặp nhiều đại địch kinh nghiệm dồi dào, tự biết là nếu tránh gậy này tất bị mụ chiếm mất tiên cơ mà mình thì rơi vào cái thế bị động, nên đành phải liều lĩnh giơ gậy lên đỡ.

Hai cây gậy chạm vào nhau lần thứ hai, Đường lão thái cố giữ cây gậy của đối phương không cho đánh xuống. Hai bên ghìm nhau một lúc, Đường phu nhân đuối sức nên cây gậy cứ từ từ chìm xuống.

Lúc này Đường Thông thần trí đã tỉnh hẳn thấy tình hình như vậy, trong bụng cũng lo lắng bồn chồn nhưng tự lượng sức mình không cứu gỡ được, đành chỉ đứng ngoài băn khoăn hồi hộp.

Đường lão thái biết không thể cầm cự được lâu hơn nữa, bèn vận sức mạnh ra cổ tay, hạ nhanh đầu gậy xuống, thi triển bí quyết chữ "Hoạt" tránh khỏi cây gậy của đối phương, lùi về phía sau hai bước,

Nam Cung phu nhân lạnh lùng nói, "Thanh danh của Đường lão thái đất Tứ Xuyên quả nhiên không phải là lời đồn láo."

Nói xong vung cây gậy trúc lên, đánh bên phải lẫn bên trái, chỉ trong khoảnh khắc đã tấn công luôn được năm gậy.

Đường thái thái luôn luôn lùi về phía sau, vừa đỡ vừa tránh mới thoát được năm gậy của đối phương. Nam Cung phu nhân đang tấn công, thốt nhiên thu gậy về lạnh lùng nói, "Nếu ngươi không sử dụng ám khí thì vĩnh viễn không bao giờ còn có dịp dùng tới nó nữa."

Đường thái thái lúc này nhuệ khí đã nhụt, biết câu nói của mụ không phải quá đáng bèn nghiêm trang nói, "Trông đây này!" Miệng vừa nói tay phải đã giơ lên, tức thì một nắm trâm bạc nhỏ như những sợi lông trâu tung ra một khoảng rộng chừng hai thước vuông, nhắm thẳng phía trước bắn ra.

Người đứng cách đấy trong vòng năm thước dù có khinh công tuyệt thế, cũng khó lòng tránh thoát. Đường lão thái đắc ý nghĩ thầm, "Mặc dầu ngươi thần công cái thế, cũng đừng hòng tránh được những mũi trâm độc của ta."

Không ngờ sự việc xảy ra lại khác hẳn ý liệu của bà ta, những mũi trâm bạc đó quá nửa đều trúng vào mình Nam Cung phu nhân nhưng mụ vẫn đứng yên không cựa quậy.

Ám khí Đường môn có tới mấy chục loại, loại nào cũng tối độc vô cùng, nhất là loại trâm đuôi rết lại càng mạnh lắm. Trừ trường hợp bất đắc dĩ còn thì Đường thái thái ít khi dám dùng tới. Vậy mà bữa nay Nam Cung phu nhân hứng chịu tới mấy chục mũi vẫn thản nhiên như không, quả là một sự lạ.

Chợt lại nghe Nam Cung phu nhân cười khanh khách nói, "Bây giờ lão thân mới cho ngươi mở mắt ra!"

Nói xong liền rùng mình một cái, bao nhiêu mũi ngân trâm cắm vào mình ban nãy đều rơi lả tả xuống đất. Đường thái thái run sợ nghĩ thầm, "Ám khí của ta sức mạnh vô cùng, dẫu người có khí công cũng không chống cự nổi với những mũi trâm nhỏ li ti như thế, không hiểu tại sao mụ lại không bị thương tổn gì cả?"

Nam Cung phu nhân mỉm cười một cách ôn tồn nói, "Lão thân vì nghĩ tới danh phận của ngươi nên không muốn làm cái lối cưỡng bách, cốt để cho ngươi phải khâm phục tự ý đầu hàng. Bây giờ chắc ngươi đã hiểu, đừng nói ngươi ngay cả các cao thủ vũ lâm đương thời cũng không ai kháng cự nổi lão thân..."

Nói đến đấy mụ lại quay lại bảo thiếu phụ đứng bên, "Tố Ngọc, mau đem thuốc "Tẩy tâm" ra đây!"

Đường lão thái vội khua tay, "Ấy thong thả đã..."

Nam Cung phu nhân trừng mắt quát, "Thế nào?Ngươi lại hối rồi à? Ta vì nghĩ chỗ cùng đàn bà nên không bắt ngươi phải chịu cái khổ phong kinh bế mạch..."

Đường lão thái nói, "Ám khí Đường môn tất cả có mấy chục loại, ta mới dùng có một thứ, sao đã kể là thua?"

Nam Cung phu nhân cười nhạt, "Lão thân không có thì giờ đợi ngươi thí nghiệm cả mấy chục loại ám khí được. Nếu ngươi có ý phản bội lời hứa thì bắt buộc lão thân phải dùng sức mạnh."

Đường lão thái tự biết nếu hai bên động thủ thì mình khó lòng chiếm được phần thắng. Chỉ còn tìm cách gì cứu được ái tử ra thoát chỗ nguy hiểm này, thì dù thân mình có chết cũng không ngại.

Bà trầm ngâm một lát chưa biết tính kế gì thì Nam Cung phu nhân chừng như đã sốt ruột, cười nhạt nói, "Ngươi chẳng gì cũng là địa vị chưởng môn một phái, lão thân đã hết sức kính nể không ngờ ngươi vẫn chấp mê bất tỉnh. Đã vậy xin chớ trách ta thất lễ."

Nói xong mụ giơ gậy trỏ vào ngực Đường lão thái, miệng thì bảo Thường Tố Ngọc, "Tố Ngọc ra bắt Đường Thông lại."

Đường lão thái bước ngang ra hai bước, tránh khỏi đầu gậy trúc của Nam Cung phu nhân, cây gậy trong tay cũng nhanh như cắt điểm vào mặt Tố Ngọc.

Tố Ngọc cười nhạt phất tay một cái, tức thì một tấm khăn lụa trắng từ trong ống tay áo bay ra quấn lấy đầu gậy của Đường lão thái.

Đường lão thái không ngờ Thường Tố Ngọc xuất thủ nhanh như vậy nên chưa kịp trở tay, đã bị chiếc khăn lụa của nàng quấn lấy đầu gậy.

Tố Ngọc tay phải kéo mạnh đầu gậy sang một bên rồi thuận đà bước lên hai bước, giơ tay trái nắm lấy Đường Thông.

Đường thái thái muốn quay sang cứu nhưng đã bị cây gậy của Nam Cung phu nhân ngáng lại.

Tình thế bắt buộc bà phải tự cứu mình trước đã, tay phải dùng chiêu "Thôi sơn điền hải", vận dụng nội lực phóng một chưởng vào đầu gậy.

Đường lão thái đã dốc hết chân lực vào một chưởng sức mạnh đó tới ngàn cân, đầu gậy của Nam Cung phu nhân quả bị gạt ra tới hơn một thước. Đường lão thái thừa thế thò tay vào túi ám khí bốc một nắm tung ra, lập tức biến thành những mũi trâm vàng óng ánh nhắm Nam Cung phu nhân và Thường Tố Ngọc bay tới.

Nam Cung phu nhân luyện được kỳ công nên không sợ bất cứ loại ám khí nào, nhưng Thường Tố Ngọc thì không có được cái công lực ấy nên phải nhảy lui về sau mấy thước, rồi phóng ra một luồng chưởng phong gạt những mũi trâm vàng rơi xuống đất.

Thừa dịp đó, Đường lão thái đã thu cây gậy về, nhắm đúng ba chỗ yếu huyệt của Nam Cung phu nhân phóng luôn ba chiêu tuyệt học. Nam Cung phu nhân múa gậy lên đỡ. Công lực của mụ đã cực kỳ thâm hậu, chưởng thế lại kì bí vô cùng, nên chỉ năm hiệp Đường thái thái đã bị vây kín vào trong màn trượng ảnh.

Lúc này Tố Ngọc và Đường Thông cũng đã bắt đầu giao chiến, vào lúc bình thường công lực của Đường Thông cũng chưa chống nổi Tố Ngọc, huống chi hiện thời sức khỏe của chàng chưa hoàn toàn hồi phục, nên vừa đỡ được vài chiêu hơi thở đã thấy hổn hển.

Chỉ trong nháy mắt Tố Ngọc đã điểm trúng vào huyệt Kiên tỉnh của Đường Thông khiến chàng chỉ kịp kêu một tiếng rồi lại ngã xuống đất. Một con nữ tỳ áo xanh vội chạy đến kéo chàng đi.

Đường thái thái thấy con bị bắt lại, trong bụng lo sợ vô cùng nhưng khổ nổi cây gậy của Nam Cung phu nhân cực kỳ lợi hại, biến thành từng từng lớp lớp trượng ảnh vây kín lấy thân hình, không sao thoát ra được.

Trong một phút phân tâm, cây gậy xoay trở hơi chậm, Đường lão thái liền bị Nam Cung phu nhân thừa chỗ sơ hở đánh luôn một chưởng.

Đường lão thái hốt nhiên giơ tay trái lên đón lấy chưởng thế của đối phương. Nam Cung phu nhân cười nhạt một tiếng rồi ngầm đề chân khí, gia thêm hai thành kình lực vào lòng bàn tay.

Nhưng khi chưởng thế hai bên vừa tiếp xúc, Nam Cung phu nhân tự nhiên thu thế, lùi về sau mấy bước.

Mục lực của mụ quả rất tinh tường nên khi hai chưởng sắp tiếp giáp, mụ đã kịp trông thấy trong tay Đường lão thái có một chấm nhỏ sắc lạnh, lóng lánh bèn vội vàng thu chưởng rút lui.

Thì ra Đường lão thái đã nhận rõ tình thế hôm nay thật khó lòng mà sống ra khỏi gian thạch thất này được, đành phải tìm cơ hội làm bị thương một vài người để gỡ gạc đôi chút, nên mới ngầm lấy ra hai chiếc ngân trâm tuyệt độc cầm sẵn bên tay trái chỉ chờ dịp hạ thủ.

Bất đồ Nam Cung phu nhân đôi mắt tinh như cú vọ, đã trông thấy rõ ràng vội thu chưởng về, cầm ngang cây gậy quật lại.

Đường lão thái thấy âm mưu đã lộ, bèn nghĩ thầm, "Công lực của mình không thể đối địch với mụ này được, nếu cứ mải giao đấu thì không những nắm chắc phần thua, mà sinh mệnh của con mình cũng bị nguy hiểm nữa. Chi bằng ta cứ phá những cỗ áo quan này ra, trong đó biết đâu còn những người sống, may ra họ có thể giúp mình một tay được."

Vừa nghĩ tới đấy, chợt thấy từ trong góc thạch thất có một tiếng hú nổi lên. Đường thái thái vội ráng sức gạt cây gậy của Nam Cung phu nhân ra rồi nhảy vào phía sau dãy quan tài. Đồng thời bốn ngọn sa đăng treo trên nóc bài lâu cũng bỗng dưng tắt phụt.

Người trong nhà Nam Cung thế gia tuy toàn là đàn bà con gái, nhưng người nào cũng có cái đức trấn tỉnh dị thường. Bốn ngọn đèn thốt nhiên tắt ngấm, đủ hiểu người tắt đèn đó vũ công không phải tầm thường và cũng không phải có một người có thể làm nổi. Vậy mà họ vẫn điềm tĩnh như không, người nào đứng yên chỗ đó, không hề nhốn nháo.

Trong gian thạch thất lúc này lại yên lặng như tờ, không hề nghe có tiếng động. Đường lão thái sẽ nhích dần về phía Bao Phương thi triển thuật Truyền âm nhập mật nói, "Người nấp trong xó tối đã ra tay rồi đó, nhưng không biết là ai?"

Bao Phương lấy tay xua xua, lặng im không nói. Bầu không khí im lặng kéo dài ra tới chừng nguội chén trà, trong thạch thất thốt nhiên lóe lên một tia lửa.

Đường lão thái trông ra thấy Nam Cung phu nhân và Thường Tố Ngọc đã lùi tới phía cửa, rõ ràng là họ đã có ý muốn dời khỏi thạch thất.

Quả nhiên tai nghe tiếng Nam Cung phu nhân lạnh lùng cất lên, "Các vị đã không muốn ra mặt, lão thân cũng không cố ép. Gian thạch thất này tường dày vách cứng, trừ khi các vị có bảo đao bảo kiếm, chém sắt như bùn không kể còn thì muốn ra khỏi nơi đây chỉ là một ảo tưởng. Những người nằm trong áo quan đây đều là những nhân vật có danh vọng trong giang hồ, bọn họ đã bị lão thân dùng phương pháp độc bộ vũ lâm điểm vào bốn kỳ huyệt trên mình họ nên đã quên hết cả thân thế lai lịch, dẫu đến cha con anh em cũng không nhận ra nữa, chỉ trừ có thứ Tỉnh tửu thang của nhà Nam Cung thế gia mới có thể làm cho họ tỉnh lại trong chốc lát, còn thì chẳng có thuốc nào cứu được. Những người này toàn bộ do lão thân phí tổn bao nhiêu tâm huyết mới mời tới được, trong số đó rất có thể có cả sư huynh sư đệ, học trò hoặc con cháu các ngươi..."

Nói tới đấy, mụ lại cất lên một tràng cười the thé rồi tiếp, "Nhưng hiện thời họ đã trở nên thuộc hạ của nhà Nam Cung thế gia. Chỉ trừ khi các người không muốn họ trở thành thuộc hạ của ta thì nhân dịp này nên giết hết đi, đó cũng là một cách các ngươi báo thù..."

Trong khi mụ nói, Đường lão thái vẫn để ý quan sát nhưng tuyệt không thấy động tĩnh gì cả. Nam Cung phu nhân cặp mắt long lanh như điện, nhìn khắp gian phòng vẫn không trông thấy người nào, bèn phẩy tay một cái nói, "Lão thân nói thế là hết, xin cáo lui," vừa nói vừa rảo bước đi ra.

Ánh lửa chỉ lóe lên một chút rồi tắt, những người trong nhà Nam Cung quả nhiên đều tháo lui ra cửa. Cánh cửa đá cũng từ từ khép lại.

Trong thạch thất lại tối đen như mực, rồi một bóng người từ trong đám quan tài nhảy vọt ra cửa. Đường lão thái tuy không trông rõ người vừa nhảy ra thân hình diện mạo thế nào, nhưng cũng lờ mờ nhận thấy bóng dáng.

Bóng người đó dán tai vào cánh cửa nghe ngóng một hồi rồi nói, "Đi xa rồi!"

Trong đám quan tài lại nhảy thêm ra hai cái bóng nữa, cùng rảo bước tiến về phía cửa đá. Đường lão thái cũng bước ra chấp tay nói, "Vừa rồi nhờ các vị ra tay tương trợ. Lão thân xin đa tạ."

Trong chỗ thiên nguy vạn hiểm, Đường lão thái vẫn giữ được uy phong như lúc bình thường, thật không hổ danh là chưởng môn một phái.

Ba người vừa rồi đều bịt đầu bằng mảnh lụa đen, hai người mặc áo vải ngắn còn một người mặc tăng bào xám. Người mặc tăng bào chấp tay nói, "Nữ đàn việt danh tiếng lẫy lừng, lão nạp nghe tiếng đã lâu."

Đường lão thái thở dài nói, "Nói ra lại thêm xấu hổ, nếu không nhờ su phụ ra tay cứu giúp, thì lão thân cũng không tránh khỏi độc thủ..."

Bà ngừng một lát lại nói, "Sư phụ pháp hiệu là gì, có thể cho tôi biết được không?"

Vị hòa thượng trầm ngâm một lát rồi khẽ đáp, "Lão nạp là Bách Nhẫn."

Đường lão thái giật mình nói, "Té ra là chưởng môn đại sư phái Thiếu Lâm, xin Người tha lỗi cho lão thân vô ý không biết."

Bách Nhẫn tháo chiếc khăn đen xuống nói, "Nữ đàn việt khách sáo quá."

Đường lão thái đưa mắt nhìn hai người áo ngắn, băn khoăn tự hỏi, "Không hiểu tại sao chưởng môn chùa Thiếu Lâm lại đi với hai người tục gia này?"

Kế lại nghe phía sau quan tài có tiếng cười nói, "Lâu lắm không gặp đại sư."

Bách Nhẫn chấp tay cúi mình nói, "Có phải Huyền Chân đạo huynh đó không?"

Câu hỏi vừa dứt đã thấy một đại hán ăn mặc đạo trang, ống tay áo rộng vung vẫy bước ra nói, "Chính là bần đạo đây. Không ngờ đại sư cũng thân hành tới nhà Nam Cung thế gia này."

Bách Nhẫn cười nói, "Chính bần tăng cũng không ngờ lại gặp đạo huynh ở đây?"

Huyền Chân đạo trưởng đặt một tay lên trước ngực, nói với Đường lão thái, "Nhâm Vô Tâm chỉ đường cho lão thái rồi lại nói khích bần đạo, nên bần đạo không thể không bớt chút thì giờ cất công tới đây được."

Bách Nhẫn đưa mắt nhìn dãy quan tài nói, "Không biết những nhân vật nào nằm trong áo quan này, ta thử mở ra xem sao!"

Huyền Chân nói, "Trong thạch thất tối như bưng lấy mắt thế này, dù có mở quan tài cũng khó lòng nhận diện được."

Lúc này Bao Phương mới lên tiếng, "Tôi có lửa đây!"

Nói xong thò tay vào bọc lấy ra một cây hỏa tập, lại lấy mảnh lụa trắng gấp lại thành cái chảo che gió rồi châm lên. Trong tòa thạch thất lại chan hòa ánh sáng. Huyền Chân đạo trưởng nhìn Bao Phương rồi nói, "Chúng ta đốt lửa thế nào người trong Nam Cung thế gia cũng biết!"

Bách Nhẫn than rằng, "Tình hình này cũng khó lòng tránh khỏi một trường ác đấu."

Huyền Chân nói, "Vừa rồi bần đạo đã để ý thấy vũ công của Nam Cung phu nhân cao tới một trình độ mà không ai có thể ngờ tới được, ngay cả mấy thiếu phụ áo trắng hình như cũng đều có tuyệt kỹ kinh nhân, nếu chúng ta ra mặt chống đối, bần đạo e rằng bọn mình cũng khó lòng thủ thắng..."

Vừa nói tới đấy, chợt nghe Bao Phương "hừ" một tiếng, rồi giơ tay hương về phía trước phóng ra một chưởng.

Mọi người vội quay lại, chỉ thấy người áo đen ban nãy thốt nhiên đứng bật lên. Bao Phương phóng một chưởng tuy trúng vào mình gã nhưng gã vẫn thản nhiên như không biết gì cả.

Thì ra trong khi bọn Nam Cung phu nhân đi ra, thuận tay kéo luôn cả Đường Thông đi còn gã áo đen ở trong áo quan nhảy ra vừa rồi thì bỏ sót lại. Lúc này gã mới chợt tỉnh liền đứng phắt dậy. Bao Phương dạn dày kinh nghiệm giang hồ nên thấy Nam Cung phu nhân bỏ quên gã áo đen lại, đã đoán chắc là mụ có dụng ý gì nên từ nãy đến giờ vẫn để ý giám sát. Lúc này quả thấy gã đứng lên liền phóng chưởng ra đánh chặn.

Gã áo đen mắt vẫn nhìn trừng trừng vào đám đông người rồi thủng thỉnh bước tới. Dưới ánh đèn sáng, chỉ trông thấy da mặt gã trắng bệch, đôi mắt trợn tròn râu tóc bù xù, hình dạng trông thật gớm ghiếc. Huyền Chân đạo trưởng vì đứng gần gã nhất nên mục tiêu của gã cũng nhằm đúng vào ông mà tiến tới.

Huyền Chân đạo trưởng thốt nhiên bước ngang ra hai bước, rút thanh kiếm đeo bên sườn vạch thành một đạo cầu vòng, giận dữ thét lên, "Nếu ngươi không đứng lại thì chớ trách bần đạo tàn ác."

Người kia hình như cũng hơi hiểu ý câu nói của Huyền Chân, bèn đứng dừng lại.

Huyền Chân tiến lên một bước, nắm lấy cổ tay người áo đen. Người áo đen động tác cực kỳ chậm chạp, tay phải co về phía sau, hình như muốn tránh năm đầu ngón tay của Huyền Chân đạo trưởng.

Nhưng Huyền Chân động tác cũng nhanh như cắt, chỉ trong nháy mắt ông đã nắm được cườm tay của gã áo đen. Lạ một điều là nước da của gã lạnh toát như da người chết, làm cho ông phải sửng sốt rùng mình.

Lúc này gã áo đen cũng không còn chậm chạp lờ đờ nữa, tay trái gã giơ lên đánh một chưởng vào giữa ngực Huyền Chân.

Huyền Chân vũ công rất cao cường lại chiếm được ưu thế từ trước nhưng vì còn muốn thử xem công lực của đối phương như thế nào, nên không muốn làm hắn bị thương vội, chân trái sẽ nhích chéo ra một chút rồi thốt nhiên xoay mình tránh thoát một chưởng, đồng thời buông cườm tay của gã áo đen ra lùi nhanh về phía sau ba bốn bước.

Gã áo đen từ lúc bị Huyền Chân đạo trưởng nắm lấy cổ tay, động tác chợt trở nên linh hoạt, tinh thần lại càng phấn chấn, hắn vung hai tay lên xông vào đối thủ. Huyền Chân không đỡ đòn chỉ nhẹ nhàng né tránh, rồi thuận đà phóng luôn một chưởng vào sau lưng gã áo đen, gã quay cánh tay lại khóa lấy chưởng thế của đối phương.

Huyền Chân lại gia thêm một thành công lực vào chưởng lực. Hai chưởng vừa tiếp xúc, ông liền cau mày nghĩ thầm, "Công lực người này cũng không phải tầm thường, mình không nên khinh địch." Nghĩ vậy ông liền phất ống tay áo đạo bào lên, nhảy tránh sang một bên.

Người áo đen chợt kêu hai tiếng cực kỳ quái gở, hai cánh tay co về, co lưng lại phóng ra luôn ba mươi hai chiêu Thông Tý thần quyền, hình dạng trông giống như con khỉ.

Huyền Chân đã định bụng tra xét lai lịch của đối phương, nên chỉ nhảy qua nhảy lại né tránh, không chịu trả đòn. Bọn Bách Nhẫn đại sư đứng bên theo dõi cuộc chiến đấu đã nhận ra công phu quyền chưởng của gã áo đen rất cao siêu, gã càng đánh càng mau càng mạnh, chớp mắt đã tấn công được bốn chục chiêu.

Huyền Chân đạo trưởng vừa tránh thế công của đối phương vừa cười nói, "Ngón Thông Tý thần quyền của người này đã tới tám thành hỏa hầu, nếu không bị nhà Nam Cung thế gia dùng dược liệu khắc chế thì quyền thế biến hóa chắc còn mạnh hơn thế nữa. Có lẽ hắn là môn hạ của Trường Bạch Hầu Tiên ngoài quan ngoại cũng nên?"

Nói xong ông lập tức vận chưởng phản kích, gạt người áo đen lùi lại hai bước. Giữa lúc ấy chợt nghe phía ngoài có mấy tiếng két két, rồi cách cửa đá lại bật tung ra. Nam Cung phu nhân tay chống gậy trúc đứng trấn ngay giữa cửa. Hai bên là hai thiếu phụ mặc áo trắng.

Huyền Chân tay trái vung lên, tay phải dùng một chiêu "Họa Long điểm tinh", ngón tay trỏ và ngón tay giữa giơ lên điểm vào huyệt "Kiên tĩnh" ở vai bên trái gã áo đen. Động tác của ông ta nhanh như chớp nhoáng, người áo đen tránh thoát chưởng thế nhưng lại không tránh thoát được chỉ lực, thành ra bị đối phương điểm trúng vào vai, ngã lăn xuống đất.

Nam Cung phu nhân đối với sự sống chết của người áo đen hình như không quan tâm gì cả, chỉ cười nhạt nói, "Thủ pháp giỏi!"

Đường lão thái thò tay vào mình lấy năm mũi "Truy hồn bạch cốt đinh" cầm sẵn ở tay, đợi dịp phóng ra. Huyền Chân đạo trưởng điểm gã áo đen ngã xong mới ung dung quay lại nói, "Xin phu nhân đừng cười!"

Nam Cung phu nhân đưa mắt nhìn khắp mọi người một lượt rồi nói, "Các vị đây đủ cả tăng, đạo, đàn ông, đàn bà chắc hẳn không phải là những kẻ vô danh trong làng võ. Đã có gan vào đây sao không dám lộ bộ mặt thực cho mọi người trông thấy, chẳng lẽ còn sợ mấy người đàn bà này hay sao?"

Huyền Chân đạo trưởng do dự một chút rồi giơ tay kéo mảnh vải che mặt xuống nói, "Bần đạo là Huyền Chân phái Vũ Đương."

Nam Cung phu nhân nói, "À thì ra Chưởng môn nhân phái Vũ đương, lão thân xin chịu lỗi thất kính."

Huyền Chân cười, "Phu nhân nặng lời quá!"

Nam Cung phu nhân lại quay nhìn Bách Nhẫn đại sư hỏi, "Các hạ chắc là Chưởng môn phái Thiếu Lâm?"

Bách Nhẫn cũng bỏ mảnh vải xuống nói, "A di đà Phật, bần đạo chính là Bách Nhẫn."

Nam Cung phu nhân mới đầu còn hơi sửng sốt kế lại cười ha hả, "Hay lắm, hai vị chưởng môn tôn sư trứ danh của hai đại môn phái cùng chiếu cố tới Nam Cung thế gia, thật là hân hạnh, hân hạnh!"

Mụ lại nhìn trừng trừng vào mặt Bách Đại, Bách Tường hỏi, "Còn hai vị này chắc đều là những nhân vật có lai lịch lớn cả, phải không?"

Bách Đại tháo chiếc khăn bịt mặt xuống cười nói, "Dẫu tôi có lộ diện ra chắc phu nhân cũng không biết là ai."

Nam Cung phu nhân nhìn kỹ quả nhiên không nhận ra thật, nhưng mụ vốn tính thâm trầm chỉ lạnh lùng cười nói, "Ngươi đã cùng đi với hai vị Chưởng môn Thiếu Lâm, Vũ Đương thì tất địa vị và danh phận ở trong vũ lâm cũng không kém bao nhiêu."

Bách Nhẫn muốn lảng sang chuyện khác bèn chấp tay ngang ngược nói, "Nữ đàn việt, tại hạ có mấy câu muốn thỉnh giáo..."

Nam Cung phu nhân ngắt lời, "Đại sư muốn hỏi những người ở trong áo quan đặt ở "Mê hồn lao" này là ai, phải không?"

Bách Nhẫn nói, "Trước khi hỏi việc đó, bần tăng hãy xin thỉnh giáo nữ đàn việt một câu khác đã."

Nam Cung phu nhân nói, "Xin đại sư cứ hỏi."

Bách Nhẫn nói, "Trung Nguyên tứ quân tử có phải đã chết về tay phu nhân không?"

Nam Cung phu nhân lạnh lùng đáp, "Trung Nguyên tứ quân tử ấy à? Họ đều nằm cả ở trong những cỗ quan tài đó."

Huyền Chân đạo trưởng hỏi, "Bần đạo có một vị sư đệ tên gọi Huyền Nguyệt, không biết hiện giờ ở đâu?"

Nam Cưng phu nhân lạnh lùng cười, "Thì cũng ở cả trong những "Mê hồn sàng" kia chứ còn đâu nữa!"

Bách Nhẫn nghiêm sắc mặt nói, "Những người ấy không biết có thù oán gì với nhà Nam Cung thế gia mà bị phu nhân giam giữ trong căn nhà đá này?"

Nam Cung phu nhân cười nhạt, "Hừ, con cháu mấy đời nhà Nam Cung chúng tôi đều bị sát hại, sao các vị chỉ làm ngơ không hỏi gì đến?"

Bách Nhẫn nói, "Theo chỗ tôi biết thì Trung Nguyên tứ quân tử xưa nay không hay giao thiệp với các nhân vật vũ lâm, quyết không khi nào lại tham dự vào những cuộc tàn sát đó."

Hồi thứ mười lăm

Còi quỷ giục thây ma

Nam Cung phu nhân chợt ngửa cổ lên trời cười khanh khách, "Lão thân không có thì giờ đấu khẩu với đại sư..."

Mụ ngừng một lát rồi lại tiếp, "Các vị đã có tài lọt vào "Mê hồn sàng" của nhà Nam Cung, đã biết hết những bí ẩn lão thân rất lấy làm khâm phục, nhưng ở đây vào thì dễ ra thì khó, hôm nay các vị đừng hòng ra khỏi đây."

Đoạn quay lại bảo thiếu phụ đứng bên trái, "Tố Ngọc đóng cửa lại."

Thường Tố Ngọc vâng lời, giơ tay phất lên vách một cái, cách cửa đá tức thì tự động đóng sập lại.

Huyền Chân mỉm cười nói, "Phu nhân đừng sợ, chúng tôi đã dám vào đây tất nhiên không coi cái chết ra gì cả. Nhưng trước khi động thủ tôi muốn nhìn mặt sư đệ một chút, không biết phu nhân có vui lòng không?"

Nam Cung phu nhân lạnh lùng hỏi lại, "Nếu lão thân không bằng lòng thì sao?"

Huyền Chân nghiêm sắc mặt nói, "Thì bần đạo cũng không cố ép."

Nam Cung phu nhân bỏ cây gậy trúc, ngồi xếp bằng tròn dưới đất thò tay vào mình lấy ra một chiếc sáo bằng đồng dài chừng bảy tám tấc, thủng thỉnh nói, "Vũ Đương, Thiếu Lâm đều là hai chủ phái đại vũ học trong giang hồ thời nay, võ công tất có chỗ độc đáo. Nhưng lão thân tin rằng, hai vị còn chưa trông thấy những môn bí mật không truyền ra ngoài của nhà Nam Cung, vậy hôm nay xin mời hai vị thưởng thức cho rộng tầm con mắt."

Huyền Quang (người cùng đi với Huyền Chân) thì thào nói sẽ, "Mụ yêu tinh này khắp mình quỷ khí, không biết mụ còn định giở trò gì nữa? Việc cứu sư huynh Huyền Nguyệt là việc cần thiết ta nên làm ngay, đừng để mụ cố ý kéo dài thời gian mà trúng phải gian kế."

Đường lão thái nghe Huyền Quang nói vậy cũng cho là phải, bèn quát hỏi, "Mụ đem con ta giấu đi đâu rồi?"

Nam Cung phu nhân lạnh lùng nói, "Im đi đừng làm ồn lên nữa, lệnh lang vẫn còn sống như thường, không chết đâu mà sợ!"

Huyền Chân nhìn Bách Nhẫn nói, "Nam Cung phu nhân thâm trầm tàn nhẫn, trăm kế nghìn mưu, ta phải cẩn thận đừng để mắc mưu mụ. Theo ý bần đạo thì ta nên ra tay trước thì hơn."

Bách Nhẫn gật đầu, "Đạo huynh nói cũng có lý!"

Huyền Chân vừa rút thanh kiếm định ra tay thì Huyền Quang đã quát lên một tiếng, múa kiếm xông lên.

Thường Tố Ngọc sắc mặt lạnh như tiền, chẳng nói chẳng rằng bước ra ngăn lại. Huyền Quang vẫy kiếm nói, "Xin rút vũ khí ra."

Tố Ngọc thò tay vào mình lấy ra một mảnh lụa đỏ rũ tung ra, biến thành cái giải dài chừng tám chín thước. Tuy đó chỉ là một giải lụa nhưng ở tay Thường Tố Ngọc sử dụng thì chẳng khác một cây roi sắt, quật thẳng ra phía trước kèm theo những tiếng "vút vút" ghê hồn.

Huyền Quang thấy thế cũng không dám khinh địch, vội cầm thanh kiếm dùng chiêu "Thôi song vọng nguyệt" chém chéo đi một nhát. Mảnh lụa đỏ là một vật rất mềm vừa bị thanh kiếm chạm phải, tức thì uốn cong lại, mắt chỉ thấy thoáng một ánh đỏ, mảnh lụa đã quấn vào mũi kiếm.

Huyền Quang kinh sợ vội rùn người xuống tránh, tay phải gia thêm sức mạnh định cắt đứt giải lụa. Bất đồ Thường Tố Ngọc lại mượn thế bước sấn lên, phóng chân đá vào ngực đồng thời năm ngón tay cũng đưa ra nắm lấy vai địch thủ.

Mũi kiếm của Huyền Quang bị giải lụa đỏ quấn chặt còn chưa kịp thu về, mắt đã trông thấy chân tay đối phương đồng thời đánh ra đành chỉ vận khí đan điền, cúi rạp xuống đất lùi lại phía sau.

Mặc dù ông ứng biến thần tốc đã tránh thoát một đòn, nhưng cây bảo kiếm trong tay cũng suýt bị văng đi mất. Đứng trước mặt vị Chưởng môn Thiếu Lâm và Đường lão thái, Huyền Quang mới giao đấu một chiêu đã bị đối phương ép buộc phải thoái bộ, trong bụng cũng tức bực vô cùng nhưng ông nhờ có nội công tinh thâm nên ngoài mặt vẫn hết sức trấn tĩnh, chỉ ngầm vận khí điều tức một lúc rồi lại cầm kiếm xông lên. Bách Đại, Bách Tường đứng ngoài xem đã thấy rõ cái cảnh Huyền Quang bị thua về tay thiếu phụ, trong bụng cũng phải đề cao cảnh giác không dám coi thường.

Bách Đại chợt dùng thuật "Truyền âm nhập mật" hỏi Bách Tường, "Chưởng môn sư huynh vừa dặn sư đệ đứng coi ở phía ngoài con đường dung đạo, sao sư đệ cũng theo vào đây? Cuộc giao chiến hôm nay dù bọn mình có thắng được mụ yêu tinh kia cũng khó lòng ra khỏi được gian thạch thất này?"

Bách Tường cũng dùng thuật "Truyền âm nhập mật" đáp, "Ngoài ấy đã có một cao nhân khác canh giữ, nội tình thế nào tôi đã báo cáo với chưởng môn sư huynh rồi, sư huynh không cần phải lo."

Bách Đại hỏi, "Cao nhân khác là ai?"

Bách Tường nói, "Một người không quen biết."

Bách Đại nói, "Vậy mà sư đệ cũng dám tin cẩn phó thác cho người ta?"

Bách Tường đáp, "Hắn khuyên tôi nên vào đây tiếp tay với các vị sư huynh vì sợ trong này không đủ thực lực."

Hai người còn đang nói chuyện chợt nghe có nhiều tiếng kỳ lạ the thé nổi lên, chói cả màng tai. Mọi người vội ngoảnh lại xem thấy Nam Cung phu nhân đưa chiếc sáo ngắn lên miệng thổi, tiếng sáo nghe giống tiếng sói tru ma gào, thoáng chốc đã đi khắp tòa thạch thất.

Lúc này Huyền Quang đã bước đến gần Thường Tố Ngọc, hai bên chỉ còn cách nhau vào khoảng ba bước. Tố Ngọc đã đẩy lui được Huyền Quang lẽ ra nên thừa thắng đuổi theo nhưng nàng vẫn cứ đứng nguyên chỗ cũ, khi thấy Huyền Quang lại cầm kiếm xông tới lần thứ hai, nàng cũng chỉ lẳng lặng đứng trông dường như đã yên trí là mình thế nào cũng thắng, không cần phải phòng bị gì cả.

Huyền Quang cầm thanh kiếm vung lên thành hai đóa kiếm hoa, lạnh lùng nói, "Vũ công của phu nhân bần đạo rất lấy làm bội phục, muốn xin lãnh giáo thêm vài chiêu nữa."

Tố Ngọc cười nhạt đáp, "Chỉ sợ ngươi không phải là địch thủ của ta!"

Huyền Quang biến sắc mặt nói, "Được rồi, xin hãy thử xem!"

Nói xong cầm thanh kiếm chém chéo đi một nhát. Tố Ngọc sẽ uốn lưng ong, luôn luôn tránh né nhưng không chịu trả đòn. Huyền Quang ngạc nhiên nghĩ thầm, "Người này chỉ né tránh không chịu trả đòn là có ý gì vậy?" Còn đang nghĩ ngợi chợt nghe bên tai nổ đánh "ầm" một tiếng. Lúc ngoảnh lại chỉ thấy một chiếc nắp áo quan bật tung lên, rồi một người nằm trong áo quan đã đứng phắt dậy.

Kế đó những tiếng "ầm ầm" lại nổi lên liên tiếp, mười mấy chiếc nắp áo quan thi nhau bay lên và trong mỗi cỗ áo quan đó, đều có một người mặc quần áo đen đứng dậy. Tiếng sáo đồng mỗi lúc một thêm the thé, lanh lảnh đinh tai váng óc, mười mấy người áo đen cùng nhảy ra khỏi quan tài, thật là một sự biến chuyển vô cùng kinh khủng, những tiếng âm nhạc chói tai kia có một sức mạnh thần kỳ đủ khống chế nổi những cái thây người sống bị ướp lạnh trong gian thạch thất.

Mặc dù Bách Nhẫn đại sư là một bực đạo hạnh thâm sâu nhưng đứng trước hoàn cảnh quái gỡ này, cũng thấy quả tim đập thình thịch bèn vội chắp tay ngang ngực, lẩm nhẩm đọc kinh. Bách Tường, Bách Đại cũng cầm sẵn binh khí trong tay chuẩn bị ứng phó. Huyền Chân sẽ quát, "Huyền Quang sư đệ, lùi lại mau!"

Miệng thì quát, tay cũng thò ra sau lưng rút thanh bảo kiếm, Huyền Quang vội lùi về đứng sau lưng Huyền Chân đạo trưởng. Đường lão thái cũng cầm sẵn một nắm ám khí, chỉ chờ bọn người áo đen có cử động gì khác thường là ném ra. Tiếng sáo vẫn liên tiếp không ngừng, những chiếc quan tài vẫn lần lượt bật nắp, những người nằm trong áo quan cũng vẫn lục tục nhảy ra.

Không bao lâu những cỗ quan tài trong thạch thất quá nửa đều đã được mở tung, bốn năm chục người mặc áo đen đứng khắp vòng ngoài vây mấy người vào giữa. Huyền Chân đạo trưởng rất mực tinh tế, tuy trong lúc kinh hoàng ông vẫn để ý nhận xét hoàn cảnh xung quanh, chỉ thấy trong dãy quan tài vẫn còn rất nhiều cỗ nắp đã hé ra rồi lại đậy xuống, hình như người nằm bên trong không đủ sức mở hẳn nắp áo quan ra. Thốt nhiên tiếng sáo ngừng bặt, trong gian thạch thất lại im lặng như tờ.

Chợt nghe Huyền Quang kêu to, "Có phải Huyền Nguyệt sư huynh đấy không?"

Huyền Chân vội quay lại nhìn, quả thấy Huyền Nguyệt mặc quần áo đen đứng lẩn trong đám đông người. Huyền Quang hình như bị xúc động mạnh không sao nén nổi, thình lình quát lên một tiếng rồi xăm xăm bước tới bên Huyền Nguyệt. Huyền Chân vội nắm cánh tay Huyền Quang lôi lại sẽ nói, "Tinh thần của hắn đã bị Nam Cung phu nhân khống chế rồi, hắn đâu còn nhớ ngươi là sư đệ của hắn?"

Nam Cung phu nhân cười khanh khách nói, "Đúng thế! Tâm thần của bọn này đã bị ta khống chế, đừng nói các ngươi chỉ là sư huynh sư đệ, dù cho cha mẹ vợ con họ, họ cũng không nhận ra nữa đâu."

Giọng nói của mụ tuy từ tốn dịu dàng, nhưng ý nghĩa câu nói thì thực khiến cho người nghe phải rợn tóc gáy. Bách Nhẫn đại sư lẩm nhẩm niệm Phật hiệu rồi nói, "Thật là một hạo kiếp kỳ quái bi thảm, trong vũ lâm chưa từng thấy bao giờ."

Nam Cung phu nhân chống cây gậy trúc xuống đất, thủng thỉnh bước lên vài bước nói, "Trong số những người này không những có Huyền Nguyệt đạo trưởng của phái Vũ Đương lại còn có cả Trung Nguyên tứ quân tử và Chưởng môn Ngôn gia đất thần châu là Ngôn Phượng Cương nữa."

Bách Nhẫn để ý nhận kỹ từng người, quả thấy Trung Nguyên tứ quân tử đứng lẩn trong bọn ấy thực nhưng lúc này người nào đôi mắt cũng lờ đờ, mặt mũi ngơ ngác như mất cả hồn vía. Nam Cung phu nhân thấy bọn quần hào đã bị thất đảm về cảnh tượng biến ảo ly kỳ trước mắt, mới cười bằng một giọng quái gở nói, "Các vị đều là những bậc danh tiếng lẫy lừng trong vũ lâm đã lâu, mà đối với sự biến ảo này không nghĩ ra đầu mối thì cũng lạ thật. Lão thân xưa nay làm việc gì cũng quang minh chính đại, các vị lát nữa tất khó lòng tránh khỏi bị lâm vào cảnh như họ, vậy nhân dịp trong lúc đầu óc các vị còn sáng suốt, có thấy chỗ nào không hiểu thì cứ hỏi đi."

Huyền Chân đạo trưởng đảo mắt trông khắp xung quanh thấy bọn áo đen đều đứng yên chăm chăm, hình như còn chờ Nam Cung phu nhân thổi sáo ra lệnh rồi mới hành động, bèn sẽ ho nhẹ một tiếng nói, "Bần đạo tuy không dám tự phụ là tinh thông y lý nhưng được đọc sách thuốc đã nhiều, còn nhớ hình như có một loại dược vật có tính chất làm cho người ta mất hết trí nhớ, tuy không nhận được mặt cha mẹ vợ con, nhưng về vũ công thì lại không quên..."

Nam Cung phu nhân cười nhạt ngắt lời, "Những người đã lọt vào "Mê hồn sàng" của lão thân tuy quên hết những việc đã qua nhưng vũ công thì trái lại, chẳng những không quên mà mỗi ngày lại càng tinh tiến hơn lên nữa. Không biết đạo trưởng có tin như thế không?"

Huyền Chân gật đầu, "Bần đạo biết phu nhân không nói khoác, những người này quả nhiên giữ được vũ công nguyên vẹn chỉ cần huyết mạch ở chân tay họ hoạt động được, thì vũ công dù có tổn thất cũng không quá hai thành. Do đó bần đạo có thể đoán chắc rằng tâm thần của những người này không phải do dược vật khống chế, dù có dùng thuốc thật nữa thì thuốc cũng không phải là vật liệu chủ yếu, hoặc giả phu nhân cố ý vịn vào cớ thuốc thang để lừa dối người đời đó thôi."

Nam Cung phu nhân cười khanh khách, giọng cười lạnh như băng, nói, "Đúng vậy, thuốc chỉ có thể làm cho người ta mất hết chứ không thể làm cho vũ công của người ta tăng tiến lên được. Nhưng lão thân không dám nói khoác, những câu lão thân nói đây không câu nào xa quá sự thật; ấy là con người ta mỗi người đều có một sự bí mật mà hiện thời những người biết sự bí mật đó, trên đời này chỉ có lão thân và mấy đứa con dâu cháu dâu góa bụa của lão thân đây thôi."

Huyền Chân trầm ngâm một lát rồi nói, "Bần đạo cũng tin rằng những lời phu nhân nói hoàn toàn không sai sự thực."

Nói đến đấy, ông lại đưa đôi mắt sáng quắc như điện nhìn bọn người xung quanh rồi tiếp, "Nhưng lúc này bọn người vây quanh đây hình như hỏa hầu còn chưa tới, nếu phu nhân định cậy vào lực lượng của họ để đối phó với bần đạo và vị Phương trượng Thiếu Lâm đây e rằng khó được như nguyện. Và ám khí của Đường gia đất Tứ Xuyên đâu phải tầm thường, trong khi động thủ tránh sao khỏi lưu huyết?"

Nam Cung phu nhân lại cười nhạt, "Những người này tuy trông cặp mắt họ lờ đờ như không có thần nhưng khi họ bắt đầu vận động, khí huyết sẽ lưu thông, vũ công lại phục hồi ngay tức khắc."

Mụ trông qua một lượt rồi lại tiếp, "Và trong bọn này phần nhiều là đệ tử các môn phái lớn và những người có tên tuổi ở Trung Nguyên, cùng với các vị cũng là chỗ bạn bè quen biết dù trong lúc hỗn chiến bất luận bên nào bị thương vong cũng không thiệt hại gì đến nhà Nam Cung thế gia cả."

Đường lão thái lắc đầu thở dài, "Mụ thật đáng kể là một người âm hiểm đệ nhất trên đời, sinh bình lão thân mới gặp là một."

Nam Cung phu nhân chợt nghiêm sắc mặt nói, "Lão thân vì nể mặt các vị đều là chưởng môn một phái, danh tiếng lẫy lừng nên mới phá lệ ưu đãi, giải thích cho các vị thấy rõ những việc mà các vị không thể tưởng tượng nổi. Nhà Nam Cung tôi mang một trách nhiệm nặng nề, nhẫn nhục ẩn cư ở ngoài khu rừng Trường thanh này mấy chục năm trời, đối với sự mấy đời con cháu bị tàn sát không hỏi han gì đến, nhưng một khi đã phát động việc báo thù thì tất phải có chuẩn bị từ trước, quyết không khi nào lại còn sai sót để kẻ thù thừa cơ quật lại. Không phải lão thân nói khoác, chỉ riêng bọn cao thủ vũ lâm trong "Mê hồn lao" này đã đủ kháng cự nổi chín đại môn phái của các ngươi rồi!"

Bách Nhẫn đại sư nói, "A Di đà phật, lão nạp còn muốn thỉnh giáo phu nhân một câu."

Nam Cung phu nhân nói, "Đại sư muốn hỏi gì xin hãy hỏi mau lên, lão thân đã đến giờ luyện công không thể tiếp chuyện suông với các vị lâu hơn nữa."

Bách Nhẫn nói, "Mấy chục năm gần đây trong vũ lâm thường đồn đại là có nhiều nhân vật tên tuổi bỗng dưng bị mất tích, có lẽ đều do tay Nam Cung phu nhân bắt cóc họ phải chăng?"

Nam Cung phu nhân thản nhiên đáp, "Đúng, phần nhiều bọn ấy đều mắc vào vòng lưới của nhà Nam Cung thế gia cả."

Bách Nhẫn thở dài nói, "Lão nạp cũng đã nghĩ đến điều ấy. Ôi! Không ngờ những nghi án mấy chục năm nay bây giờ mới sáng tỏ."

Nam Cung phu nhân nói, "Tỏ rõ ra thì đối với các vị cũng chỉ có hại chớ không có lợi. Bao nhiêu năm nay chưa từng có người nào biết rõ những điều bí mật của Nam Cung thế gia mà lại còn tỉnh táo ra khỏi nhà Nam Cung được cả."

Giọng mụ lại chợt trở nên tàn ác, hung hăng, "Bây giờ chỉ còn hai con đường dành cho các vị, một là chết, hai là biến thành tay sai cho Nam Cung thế gia như mấy người áo đen kia. Muốn lựa đường nào xin tùy ý các vị."

Huyền Chân đạo trưởng ngầm xét đại thể, biết không sao tránh khỏi một trận ác đấu bèn cười nhạt nói, "Đáng tiếc là cả hai con đường ấy, bọn bần đạo đều không ai thích cả."

Nam Cung phu nhân cũng cười nhạt nói, "Vậy thì xin tùy các vị muốn làm thế nào ra khỏi đây thì làm. Lão thân còn mắc việc, bốn tiếng đồng hồ nữa sẽ xin trở lại."

Nói xong mụ chống gậy thủng thỉnh quay ra cửa. Bách Đại thốt nhiên quát to, "Đứng lại!"

Nam Cung phu nhân lờ như không nghe tiếng, hai thiếu phụ áo trắng cũng theo mụ ra khỏi cửa đá. Bách Đại lại quát, "Ta bảo mụ đứng lại, mụ có nghe tiếng không?"

Vừa nói vừa xoay mình rảo bước đuổi theo. Bọn người áo đen đứng vây xung quanh, lúc ấy thốt nhiên cũng xông ra chắn ngang đường. Bách Đại thét lên, "Tránh ra!"

Vừa quát vừa giơ tay lên, phóng một chưởng "phi bạt tràn chung" vào người đứng trước mặt. Chưởng lực của ông ta rất hùng hồn lại dồn hết sức mạnh phóng ra uy thế không phải tầm thường, tiếng chưởng phong vù vù như gió bão. Người áo đen lập tức giơ tay phải lên bắt lấy. Vì huyết mạch của hắn chưa hoạt động, vũ công chưa phục hồi, làm sao có thể tiếp nổi một chưởng ấy của Bách Đại? Nên chỉ nghe đánh "bùng" một tiếng như đánh vào miếng da rách, người áo đen lảo đảo bước lùi lại ba bước rồi ngã phịch xuống đất.

Thấy Bách Đại đánh một chưởng đã làm cho đối phương bị thương, hai người áo đen đứng hai bên đều giơ chưởng đánh ra, Bách Đại phấn khởi thần uy vung hai cánh đón bắt lấy chưởng thế của hai người. Ba người sáu chưởng lại đấu hết một chiêu. Hai người áo đen đều bị đẩy lùi về phía sau mấy bước.

Khi ngẩng đầu lên thì Nam Cung phu nhân và hai thiếu phụ đã ra khỏi cửa đá, hình như sự sống chết của những người trong thạch thất này đều không liên can gì đến mụ, nên mụ không thèm ngoảnh cổ lại. Thường Tố Ngọc đi sau cùng chân vừa bước ra khỏi khuôn cửa, chợt lại quay lại lấy trong mình ra một vật, ném vào thạch thất. Chỉ thấy ngọn lửa lóe lên mấy lượt rồi nổ đánh ầm một tiếng, tức thì một luồng khói xanh nghi ngút bay tản ra bốn phía. Bọn người áo đen nghe thấy tiếng nổ thốt nhiên từ từ chuyển động, giơ tay nhấc chân, động tác càng lúc càng nhanh càng mạnh.

Huyền Chân đạo trưởng cau mày nói, "Hỏng, ngần này người nếu để cho huyết mạch họ được hoạt động, vũ công hồi phục thì chúng ta đối phó với họ cũng mệt chớ chẳng phải chơi!"

Bách Nhẫn đại sư hiền từ nói, "Chẳng lẽ chúng ta quyết liều sống chết đánh nhau với họ hay sao?"

Huyền Chân nói, "Theo ý tiểu đệ thì những người này tuy tâm thần đã bị Nam Cung thế gia khống chế nhưng hỏa hầu hình như chưa thành, mà Nam Cung phu nhân cũng chưa vận dụng họ được đúng như ý muốn, nếu chúng ta không ra tay thì có khi họ cũng không làm gì ta đâu!"

Bách Nhẫn đại sư nói, "Vậy chẳng lẽ chúng ta cứ ngồi đây nhìn họ hay sao?"

Huyền Chân nói, "Thì ta đành ngồi chờ Nam Cung phu nhân tới rồi hợp sức mà đánh, may ra có cơ thoát thân được. Còn đánh nhau với bọn người loạn trí này thì dù thắng hay bại cũng không có nghĩa lý gì cả. Theo ý tiểu đệ thì lúc này ta nên chia ngồi ra bốn góc bày thành một trận hình tròn, phòng xa lỡ họ nổi khùng xông vào tấn công trước, ta sẽ chia nhau ra cự địch cùng ứng chiến lẫn nhau, như vậy có lẽ tiện hơn."

Bách Nhẫn đại sư gật đầu khen phải. Kế đó mỗi người đều chọn lấy một phương vị, bày thành một phương trận dưới sự chỉ huy của Huyền Chân đạo trưởng. Khi mặt trận đã dàn xong, Huyền Chân đạo trưởng lại nói, "Chúng ta đang bị hãm vào một hoàn cảnh hết sức nguy hiểm, vậy cần phải trấn tĩnh tinh thần chuẩn bị đối phó với tình thế, không nên rối loạn."

Ngừng một lát, ông lại tiếp, "Bần đạo rất lấy làm lạ không hiểu tại sao trong số những người này phần đông đều là cao thủ thượng hạng trong giang hồ, tất không chỉ có một thứ thuốc "Mê thần" có thể làm cho họ mất hết bản tính, chịu nghe mệnh lệnh của Nam Cung phu nhân sai khiến được. Bần đạo dám chắc đây chỉ là một sự huyền bí ở trong vũ học đó thôi."

Bách Nhẫn mỉm cười nói, "Lão nạp cũng có cảm tưởng như vậy, đạo huynh cứ thử ra tay thí nghiệm xem sao, nếu có thể dùng được lão nạp việc gì, lão nạp xin cố sức."

Huyền Chân nói, "Vừa rồi bần đạo trông thấy tình hình trong khi Đường lão thái và Nam Cung phu nhân giao đấu, đã cảm thấy vũ học của nhà Nam Cung hình như có chỗ cực đoan riêng, ngoài sự quỉ bí độc lạt ra còn có một sức mạnh kỳ lạ đặc biệt, tựa hồ dựa vào chỗ ảo bí ấy mà thành, trừ thủ pháp ra thì sự tiến tu của nội công cũng đã tới một sức mạnh cực kỳ nhanh chóng."

Đường lão thái nói, "Đạo trưởng nói đúng đấy, trong lúc lão thân động thủ với Nam Cung phu nhân thấy toàn thân mụ bốc lên một luồng hắc khí giống như đám mây, làm cho ám khí của lão thân ném vào đều vô công hiệu."

Huyền Chân gật đầu nói, "Xin các vị đều tự đề phòng cẩn thận, bần đạo tuy nghĩ vậy nhưng không dám quả quyết hoặc giả lại còn gây ra những sự phiền phức nữa."

Huyền Quang rút thanh trường kiếm ra đặt trước ngực, Đường lão thái cũng lấy sẵn ám khí ra cầm ở tay. Tất cả mọi người đều cầm binh khí chuẩn bị sẵn sàng. Huyền Chân đạo trưởng nhắm hai mắt lại, tay chấp trước ngực sắc mặt nghiêm chỉnh rồi từ trong miệng đưa ra một thứ tiếng tựa như hát như kêu, trước còn nho nhỏ sau cất cao dần, lúc này mới nghe rõ như tiếng tụng kinh.

Bọn người áo đen hình như hơi động đậy, Huyền Chân đạo trưởng thủng thỉnh bước lại gần họ. Thân thể ông ta thẳng đờ, thần sắc ngây ngô bước đi khó khăn, hình như có một lực lượng gì thần bí kéo thân thể ông ta lại không cho tiến lên. Tiếng tụng kinh của Huyền Chân mỗi lúc một to, những tiếng hồi âm vang vang đáp lại truyền đi khắp gian nhà.

Huyền Nguyệt đạo trưởng hình như không chống nổi cái sức kêu gọi của tiếng đọc kinh đó bèn từ từ tiến lại phía Huyền Chân. Huyền Quang sợ lúc này thần trí Huyền Nguyệt chưa tỉnh trong lúc bất thần, đột nhiên xuất thủ có hại cho Huyền Chân chăng, bèn vội kêu lên, "Nhị sư huynh..."

Nói chưa dứt câu, Huyền Chân chợt mở bừng đôi mắt, ngừng tiếng niệm kinh sẽ quát, "Huyền Nguyệt sư đệ có còn nhận được ngu huynh không?"

Huyền Nguyệt mở to đôi mắt, nhấp nháy mấy cái tựa như muốn nói lại thôi... Huyền Chân nắm lấy cổ tay trái Huyền Nguyệt nói tiếp, "Anh em đồng môn ở với nhau mấy chục năm nay, sư đệ không nhận ra tiểu huynh thực ư?"

Chợt nghe Huyền Nguyệt quát to một tiếng rồi giơ tay phải đánh vào ngực Huyền Chân đạo trưởng. Huyền Chân đã phòng bị trước liền gia thêm sức mạnh vào bàn tay phải khóa chặt lấy mạch môn của Huyền Nguyệt lại ngầm vận nội công, ưỡn ngực hứng lấy chưởng phong. Huyền Nguyệt tay trái đã bị đối phương nắm chặt nên dùng sức cũng yếu đi nhiều, một chưởng đánh ra khí thế trông tưởng hùng mạnh lắm nhưng kỳ thực thì chẳng có gì, chỉ nghe "bình" một tiếng, Huyền Chân vẫn đứng yên không hề nhúc nhích.

Huyền Quang đứng ngoài sợ quá, hét lên, "Nhị sư huynh điên hay sao thế?"

Rồi múa thanh trường kiếm xông tới. Tức thì bọn người áo đen đều nhích bước tiến lên, hàng trăm cặp mắt cùng đổ dồn vào phương trận, nhấp nhổm chỉ chực ra tay. Huyền Chân vội quát bảo Huyền Quang, "Mau cất kiếm về, đừng làm cho họ xông ra nữa."

Vừa nói vừa buông tay Huyền Nguyệt ra. Trong thạch thất lúc này lại yên lặng như tờ, không có lấy một tiếng động. Huyền Nguyệt thủng thỉnh lùi về phía sau hai bước, bọn người áo đen cũng đứng im không đụng cựa gì nữa. Huyền Chân nghĩ thầm "Nguy hiểm thật, suýt nữa thì gây nên một trận quần ẩu!"

Ông giơ ống tay áo lau mồ hôi trán rồi nói với Bách Nhẫn, "Đại sư có nhận được đầu mối gì không?"

Bách Nhẫn lắc đầu, Huyền Chân lại nói, "Bần đạo đã hơi nhận thấy một chút bí ẩn. Nếu chúng ta ngồi im thì bọn cũng không xuất thủ công kích..."

Ông đang nói lại chợt thấy cánh cửa đá từ từ mở ra. Mọi người vội ngẩng đầu lên trông chỉ thấy một người mặc áo vàng, mặt che một mảnh khăn sa đen, đứng trấn ở giữa cửa. Huyền Chân sẽ nói, "Người này ăn mặc kỳ dị, hình như không phải người nhà Nam Cung thế gia?"

Chợt nghe một giọng nằng nặng nhưng rõ ràng từ trong mảnh sa đen đưa ra, "Nơi này không nên ở lâu, thừa lúc Nam Cung phu nhân đang bận hành công các vị nên mau mau rời khỏi tòa thạch thất đi. Nếu chờ tới lúc mụ hành công xong có muốn đi cũng không phải chuyện dễ."

Bách Nhẫn đại sư hỏi, "Các hạ là ai?"

Người lạ nói, "Thì giờ lúc này quý hơn vàng bạc không phải là lúc tra hỏi tên tuổi và tôi cũng chưa muốn cho các vị biết rõ bộ mặt thực vội, các vị cứ yên trí là tôi không có bụng hại các vị là được rồi. Ngoài cửa có cắm chông ngầm mai phục, tôi đã vì các vị nhổ bỏ sạch sẽ, các vị nên đi ngay đi!"

Huyền Chân nói, "Nếu các hạ thực tâm cứu chúng tôi thì trước hết hãy tìm cách gì ngăn bọn người áo đen này lại mới được!"

Người áo vàng ngẫm nghĩ một lát rồi nói, "Được rồi, các vị hãy rút binh khí ra, khi ra khỏi thạch thất đừng nên dùng dằng ở hòn giả sơn, cứ đi thẳng vào phủ đệ Nam Cung rồi trông về phía Nam đi chừng hai chục dặm tới bờ sông Bạch hà, ở đó tôi đã dành sẵn chiếc thuyền chờ các vị."

Huyền Chân lại hỏi, "Tôn giá có thể cùng đi với chúng tôi được không?"

Người áo vàng nói, "Khi lên thuyền sẽ có người đón tiếp các vị. Chúng ta còn nhiều cơ hội gặp gỡ không đi đâu mà vội."

Ngừng một lát lại nói tiếp, "Để tôi dẫn bọn áo đen này ra chỗ khác, trong khi đó các vị phải tìm cách chạy thật nhanh ra cửa thạch thất mới kịp."

Nói xong thò tay vào mình lấy ra một chiếc đồng la gõ "chung chung" rầm lên. Bọn người áo đen nghe tiếng đồng la gõ tức thì nhảy xông cả về phía người lạ mặt. Người lạ mặt nhảy tới bên một cỗ áo quan co chân đá một cái, áo quan lập tức bật lên bay vào đám người áo đen miệng thì quát lớn, "Mời các vị đi mau, đừng bận tâm tới tại hạ. Tại hạ đã có cách thoát thân!"

Huyền Chân sẽ nói với Bách Nhẫn, "Lúc này chúng ta chưa thể cứu được những người bị bắt, hãy nên ra khỏi chỗ nguy hiểm này đã rồi sẽ tính kế sau."

Bách Nhẫn quay đầu nhìn lại thấy bọn người áo đen đã ra tay, kẻ quyền người cước đều nhằm cả vào người lạ mặt mà tấn công, trong bụng lại thấy bất nhẫn nghĩ thầm, "Người này vũ công dù cao đến đâu cũng khó lòng đương nổi với bọn người mất trí kia được. Người ta đã mạo hiểm đến đây cứu mình, chẳng lẽ mình lại bỏ mặc cho người ta chết hay sao?"

Ông vừa toan gọi Bách Đại, Bách Tường bảo xông vào cứu thì lại nghe tiếng người áo vàng quát to, "Các vị không đi đi, còn đợi gì nữa?"

Huyền Quang, Đường lão thái và Bao Phương lúc này đều đã chạy ra ngoài cửa đá. Bách Nhẫn tự nhủ, "Có lẽ là hắn đã tự tin là có thể thoát hiểm được nên cứ thôi thúc mình đi! Thôi ta cũng không nên dùng dằng mà lỡ hết việc lớn." Nghĩ vậy liền đứng lên phất ống tay áo một cái, thân hình đã ra tới cửa động.

Bách Đại nói, "Mời các vị cứ đi trước, tiểu đệ xin đoạn hậu."

Vừa nói xong đã thấy một người mặc áo đen xông tới, ông lập tức ngầm vận nội công giơ tay phóng luôn một chưởng, chỉ nghe người áo đen kêu "hự" một tiếng rồi cả thân hình té ngửa, rơi tõm xuống băng trì. Nhưng một chưởng đó cũng lôi cuốn được bọn người áo đen kéo ồ cả lại. Người lạ mặt thấy thế vội giơ đồng la lên gõ luôn một hồi dồn dập, bọn người áo đen đang đuổi theo Bách Đại lại bị tiếng đồng la hấp dẫn, đều quay trở lại.

Huyền Chân đạo trưởng chống kiếm đi trước, Bách Đại cầm lưỡi chủy thủ đi sau đoạn hậu men theo đường dung đạo rảo bước tiến lên. Chỉ trong khoảnh khắc cả bọn đã ra khỏi sơn động. Lúc này chân trời đã hơi có ánh sáng, thì ra đã qua canh năm. Bách Nhẫn lắng tai còn nghe văng vẳng mấy tiếng đồng la, bất giác thở dài nói, "Chúng ta tuy đã thoát hiểm nhưng người cứu chúng ta vẫn còn bị hãm ở trong thạch thất!"

Huyền Chân đạo trưởng nói, "Đại sư cứ yên tâm, theo bần đạo dự đoán thì người ấy không những thoát hiểm mà rất có thể còn xuống thuyền trước mình cũng chưa biết chừng! Chúng ta phải đi mau lên, chần chừ mãi lỡ bị địch đuổi kịp thì phiền lắm!"

Rồi ông rảo bước đi lên trước, cả bọn cũng hấp tấp chạy theo. Lạ một điều là cả nhà Nam Cung không một ai hay biết gì cả, quần hào an an ổn ổn ra khỏi khu rừng Trường thanh, nhắm hướng nam thẳng tiến. Trong bọn toàn là những tay đệ nhất cao thủ, khinh công tuyệt đỉnh đi nhanh như bay, chỉ trong chốc lát đã được hai chục dặm. Lúc này phương Đông đã hiện lên một đám mây trắng, cảnh vật đã trông thấy rõ ràng bên bờ sông nằm ngang trước mặt, quả nhiên đã buộc sẵn một chiếc thuyền gỗ, cánh buồm đã trương lên hình như chỉ chờ nhổ neo.

Một gã đại hán tuổi trạc ba mươi đứng trên mũi thuyền đang nghênh Đông ngó Tây, trên bộ mặt hắn mồ hôi nhỏ giọt đủ biết là hắn đang nóng lòng sốt ruột chờ đợi ai, vừa trông thấy quần hào đi tới hắn đã giơ tay vẫy lấy vẫy để. Huyền Chân đặt một tay lên ngực vừa toan cất tiếng, gã đại hán đã lập tức nhổ neo nói chặn trước, "Xin mời các vị xuống thuyền mau lên. Có chuyện gì xin để lát nữa sẽ nói."

Hồi thứ mười sáu

Giao phong trên mặt nước

Đường lão thái nhún chân nhảy lên thuyền trước, quần hào lục tục nhảy theo. Bách Nhẫn đại sư đi sau cùng, vừa mới đặt một chân lên sàn thuyền con thuyền đã từ từ rời bến, thuận buồm xuôi gió đi nhanh như bay, chỉ trong chốc lát đã đi được tới bốn năm dặm. Trong thời gian đó, gã đại hán chỉ mải miết cầm sào đẩy thuyền, chẳng nói chẳng rằng. Mãi đến khi thuyền ra tới giữa dòng, trời đã sáng rõ nửa vầng hồng nhật đã nổi lên khỏi mặt đất, gã đại hán mới gác cây sào lên mui, lấy tay áo lau mồ hôi rồi nói, "Trong thuyền đã có đủ cơm nước, các vị có thấy đói xin cứ việc lấy dùng tự nhiên."

Vì thấy đại hán cử động hấp tấp có vẻ đáng ngờ nên cả bọn đều lẳng lặng đứng ngoài mũi thuyền theo dõi hành động của hắn, không ai chịu chui vào khoang. Bách Nhẫn đại sư niệm Phật một câu rồi hỏi, "Thí chủ cốt tới đây để đón chúng tôi đấy ư?"

Gã đại hán lúc này sắc mặt đã trở nên bình tĩnh, mỉm cười nói, "Tại hạ chờ các vị có tới một trống canh rồi!"

Bách Nhẫn đại sư hỏi, "Thí chủ có thể cho biết quý danh được không?"

Đại hán cười nói, "Tại hạ chỉ là một tên tiểu tốt trong vũ lâm, tên tuổi không có ở trong sổ sách, dù nói ra các vị cũng không biết thà không nói thì hơn."

Huyền Chân nói, "Tôn giá đã không muốn cho biết tên tuổi, chúng tôi cũng không dám hỏi gặng. Bần đạo chỉ thắc mắc một điều là tại sao tôn giá lại biết bọn bần đạo định xuống thuyền?"

Đại hán nói, "Tại hạ phụng mệnh đến đón các vị."

Huyền Chân lại hỏi, "Mệnh ai?"

Đại hán trầm ngâm một lát rồi nói, "Nhâm tướng công."

Bách Nhẫn sửng sốt hỏi, "Nhâm tướng công nào? Hay là Nhâm Vô Tâm?"

Huyền Chân nói, "Quả nhiên là hắn, bần đạo đoán quả không sai!"

Đại hán gật đầu nói, "Nhâm tướng công dặn tôi mời các vị tạm nghỉ trên chiếc thuyền nhỏ này một ngày một đêm, bắt đầu kể từ sáng hôm nay cho tới mai hãy lên bờ."

Đường lão thái ngạc nhiên hỏi, "Tại sao thế?"

Đại hán nói, "Tại hạ chỉ biết theo lời dặn của Nhâm tướng công mà thưa lại với các vị như thế, còn lý do bởi đâu thực quả tại hạ cũng không rõ."

Gã ngừng một lát lại tiếp, "Trong thuyền đã sắp sẵn rượu thịt cơm chay, xin các vị cứ lấy dùng tự nhiên. Thời gian một ngày một đêm cũng không lâu lắm, rất có thể lúc đó Nhâm tướng công sẽ tới thăm các vị."

Chợt nghe Huyền Chân đạo trưởng nói, "Bọn họ đang đuổi theo kia kìa!"

Quần hào đều ngẩng đầu trông lên, quả thấy hai thiếu phụ mặc áo trắng, cưỡi ngựa trắng đang đi theo dọc bờ sông đuổi tới. Phía sau hai người còn có tám kị sĩ mặc áo đen cưỡi tám con ngựa cao lớn lực lưỡng, lưng đeo vũ khí đi kèm. Khi hai bên còn cách nhau chừng bốn năm trượng, hai thiếu phụ dường như không muốn quần hào trông thấy rõ mặt nên đều quay đầu nhìn đi phía khác.

Huyền Quang nhớ lại cuộc giao đấu đêm qua, mình bị bại về tay thiếu phụ trong bụng vẫn còn căm giận bèn nói, "Họ đã đuổi theo thì chúng tôi vẫn ghé thuyền lên bờ nghênh chiến xem thắng bại về ai. Nếu ta bắt sống được hai thiếu phụ kia thì có thể đánh đổi lấy Huyền Nguyệt sư huynh được."

Huyền Chân vừa toan ngăn cản thì đại hán đã đón lời, "Không được, Nhâm tướng công đã dặn đi dặn lại không được để vị nào lên bờ trước thời hạn một ngày một đêm cả."

Huyền Quang hỏi, "Sao lại thế?Chẳng lẽ chúng ta còn lo lạc đường nữa hay sao?"

Đại hán mỉm cười nói, "Xin các vị vào cả trong khoang để mạc tại hạ ứng phó với mấy người này."

Huyền Chân trầm ngâm một lát rồi chui vào khoang trước. Mọi người thấy Huyền Chân vào cũng lần lượt chui vào theo. Đường lão thái nhìn Huyền Chân nói, "Đạo trưởng, chúng ta có thể cứ ngồi yên trong khoang thuyền này à? Lệnh sư đệ nói cũng có lý, nếu ta bắt sống được hai thiếu phụ kia thì có hy vọng đánh đổi được Huyền Nguyệt đạo trưởng và khuyển tử về, có phải hay biết bao nhiêu không?"

Huyền Chân lắc đầu, "Lão thái đừng nóng, những sự bí ẩn của nhà Nam Cung đã bị phát giác, cố nhiên ta không thể tha thứ cho bọn họ được, nhưng tình thế lúc này lại khác, vị tráng sĩ kia đã hết sức khuyên ta không nên vào bờ, tất phải có duyên cớ gì đặc biệt ta không nên cố cưỡng."

Đường lão thái tuy không nói ra nhưng trong bụng cũng không phục. Mọi người lại quay nhìn lên bờ, thấy thiếu phụ đi đầu đã quay mặt lại, giơ tay vẫy đò. Gã đại hán tảng lờ như không trông thấy, cứ cắm cổ chèo đò. Thiếu phụ đứng trên bờ nói to, "Ngươi không chịu ghé vào bờ, đợi lát nữa ta đuổi kịp thì đừng hòng sống sót!"

Con thuyền còn cách bờ ít nhất cũng tám chín trượng nhưng tiếng nói nghe rất rõ, tưởng như người nói đang ở cạnh mình. Dòng sông đang chảy xiết, con thuyền nhỏ thuận dòng trôi đi vèo vèo, dần dần không trông thấy hai thiếu phụ và bọn người cưỡi ngựa đâu nữa. Đại hán chợt buông mái chèo, bước vào trong thuyền nói, "Mời các vị xơi chút gì cho đỡ đói."

Huyền Chân mỉm cười nói, "Chúng tôi vẫn còn no cả, đa tạ tráng sĩ quan tâm."

Đường lão thái chợt cất tiếng hỏi, "Tôn giá có phải họ Cao không?"

Đại hán hơi biến sắc mặt nói, "Đường thái thái vẫn còn nhớ việc mười lăm năm về trước cơ à?"

Đường lão thái gật đầu thủng thỉnh nói, "Đó là một trong những cuộc ác chiến mà sinh bình lão thân được gặp, lẽ nào lại quên được?"

Đại hán hình như cảm khái về những chuyện đã qua, thở dài nói, "Nhưng lần ấy tại hạ vẫn bị thua về tay lão thái."

Đường lão thái mỉm cười, "Vì ngươi còn mãi để ý việc khác đến nỗi lỡ tay. Nhưng dù bị thua vẫn còn vẻ vang."

Đại hán vùng cười ha hả, "Thua mà vẫn vẻ vang, hà hà..."

Gã lại chợt sầm nét mặt, thở dài nói, "Chuyện cũ đã thành dĩ vãng, Cao Giao bây giờ không giống Cao Giao năm xưa nữa... Một con thuyền với chiếc cần câu ngày tháng tiêu dao trên dòng nước bạc, không ganh đua với người, không cạnh tranh với đời đó là sở nguyện duy nhất của tại hạ..."

Thái độ gã chợt trở nên nghiêm trang kính cẩn, chấp hai tay đặt trước ngực nói, "Đó toàn là nhờ ơn Nhâm tướng công ban tứ, khiến Cao mỗ này mới thay hình đổi lốt, tu tỉnh nên người..."

Trong đám quần hào phần đông tuy không biết Nhâm Vô Tâm là ai, nhưng với Cao Giao thì đã rõ lắm. Người này năm xưa nguyên là một đại đạo, tiếng tăm lừng lẫy khắp dải Trường giang, chẳng những vì võ nghệ cao cường lại còn vì tài bơi lặn nữa. Không ngờ một tay kiêu hùng như thế mà thốt nhiên thay đổi tâm tính, chịu sống một cuộc đời ẩn dật sinh nhai bằng nghề chài lưới, quả là một chuyện động trời.

Huyền Chân tỏ vẻ ngậm ngùi, "Bần đạo ngưỡng mộ đại danh đã lâu..."

Cao Giao giơ tay xua lấy xua để nói, "Những chuyện đã qua không nên nhắc đến nữa, xin đạo trưởng bỏ qua đi cho."

Bách Nhẫn khen rằng, "Bể khổ không bờ, hồi đầu là bến, vứt bỏ đồ đao lập tức thành Phật. Lão nạp xin mừng Cao thí chủ."

Cao Giao rót một chén rượu bưng lên nói, "Tại hạ xin kính mời các vị một chén."

Bách Nhẫn nói, "Lão nạp xưa nay chưa từng uống một giọt rượu, xin để dùng trà thay vào."

Cao Giao đặt chén rượu xuống rồi rót chén nước trà mời Bách Nhẫn, kế đó lại cầm hồ rượu rót mời mỗi người một chén, tự mình cũng uống chén rượu rót ra trước nhất.

Huyền Chân lại hỏi, "Không biết Cao tráng sĩ định đưa chúng tôi đi đâu bây giờ?"

Cao Giao cười nói, "Nhâm tướng công muốn chư vị lưu lại dưới thuyền một ngày một đêm tất là có dụng ý. Rồi sau đó lại chờ xem ông ta định đoạt thế nào, ta sẽ chiếu theo đó mà làm."

Bao Phương tỏ vẻ sốt ruột nói, "Ngần này người nhét vào một con thuyền nhỏ bề dài không quá một trượng, bề ngang không đầy một thước chờ suốt một ngày một đêm thì đến chết ngạt mất."

Cao Giao mỉm cười nói, "Bao huynh đừng lấy thế làm ủy khuất, huynh đệ đã thân chèo thuyền cho Bao huynh, hẳn Bao huynh phải hài lòng chứ?"

Thời gian thấm thoát không mấy lúc đã hết một ngày dài, nhưng trong lòng quần hào thì coi dằng dặc như cả một năm trường, may nhờ có Huyền Chân và Bách Nhẫn đều bình tĩnh thản nhiên nên mọi người tuy sốt ruột cũng không dám kêu ca. Lại qua một đêm không trăng sao thưa mây nhạt, bốn bề tịch mịch đìu hiu.

Cao Giao ném chiếc neo xuống sông rồi nói, "Đêm nay thuyền không ghé bờ, chúng ta thả neo ở giữa sông một đêm. Cũng may con sông này nước nông cho nên khỏi lo gió to sóng lớn làm cho các vị mất ngủ."

Hắn nói xong lại lấy một chiếc áo tơi bằng vải sơn đen khoác lên mình, thủng thỉnh bước ra ngoài khoang, ngồi xổm ở đầu thuyền dựa vào cột buồm, nhắm mắt tĩnh tọa. Lúc này cánh buồm đã cuộn lại, một lá thuyền con rập rình giữa làn sóng bạc. Quần hào trong thuyền tuy đều là những kẻ hào tráng trong giới vũ lâm, nhưng chưa ai từng trải qua cái cảnh ngồi suốt đêm trong một chiếc thuyền con để chờ sáng, nên lúc này trong lòng mỗi người đều nảy ra một cảm giác là lạ.

Thốt nhiên có một tiếng thở dài từ đâu đưa lại, xé tan cảnh tịch mịch đêm trường. Cao Giao đang nằm dựa cột buồm, vùng đứng phắt dậy vớ vội lấy con sào. Khi ngẩng đầu trông lên chỉ thấy một lá thuyền con đang rẽ sóng vùn vụt tiến lại. Huyền Chân đạo trưởng rút thanh trường kiếm, rón rén bước ra ngoài mũi thuyền. Con thuyền nhỏ đã dần dần hiện ra trước mắt, chỉ thấy cửa khoang thuyền khép chặt, một người mặc áo đen ngồi ở mũi thuyền cầm mái chèo bơi. Người ấy ngồi xoay lưng về phía trước nên mặc dầu Huyền Chân đạo trưởng và Cao Giao mục lực tinh tường đến đâu, cũng không sao nhận rõ được diện mạo.

Chỉ trong chớp mắt hai con thuyền chỉ còn cách nhau vào khoảng hơn một trượng, Cao Giao đằng hắng một tiếng rồi nói, "Nếu bằng hữu không quay lái đi thì hai chiếc thuyền va vào nhau bây giờ!"

Chiếc thuyền nhỏ quả nhiên ngừng lại, gã áo đen buông chèo đứng lên rồi thả neo xuống. Huyền Chân ghé lại gần Cao Giao thì thào nói nhỏ, "Cao tráng sĩ, chiếc thuyền này có vẻ khả nghi lắm."

Cao Giao đáp, "Chúng ta hãy tạm tránh họ là hơn."

Nói xong giơ tay nhổ neo. Chợt thấy người áo đen chèo thuyền ban nãy nhún mình nhảy sang chỗ Cao Giao đứng, Cao Giao vội vung hai cánh tay múa cây sào tre gạt lại.

Nhưng khi cây sào tới sát tên áo đen thì thốt nhiên lại bị hạ thấp xuống. Huyền Chân sửng sốt nghĩ thầm, "Chẳng lẽ người này cũng tư thông với nhà Nam Cung hay sao? Những người trong thuyền tuy đều là tay vũ nghệ cao cường nhưng không người nào biết bơi lội, nếu quả bị sa vào tay giặc thì biết làm thế nào ứng phó được?"

Còn đang suy nghĩ, gã áo đen đã nhảy xuống sạp thuyền. Hai chân gã rất nặng làm cho mũi thuyền bị chìm hẳn xuống, tia nước bắn tung lên ướt cả áo của Huyền Chân đạo trưởng. Cao Giao vội buông cây sào, thò tay xuống sạp thuyền lấy ra một lưỡi đơn đao, tuốt bỏ ra vỏ ngoài. Huyền Chân trong bụng đã hơi nghi ngờ bèn đề tụ công lực toàn thân, thủ thế chờ sẵn phòng khi Cao Giao có giở trò phản trắc thì lập tức hạ thủ ngay.

Cao Giao cầm đơn đao đứng chắn trước mặt gã áo đen, quát, "Đứng lại!"

Tay phải cầm đao khoa lên múa thành một đường đao quang lấp lánh. Người áo đen theo lời dừng lại, từ từ đưa tay lên tháo chiếc khăn trùm mặt xuống. Huyền Chân vừa nhìn rõ mặt gã bất giác sửng sốt rụng rời, thanh kiếm trong tay suýt nữa thì văng xuống đất. Thì ra người áo đen đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là Huyền Nguyệt đạo trưởng. Nhưng nét mặt ông ta vẫn ngây ngô như người mất hồn, cánh tay chậm chạp thò ra phía sau rút thanh trường kiếm.

Cao Giao nhìn kỹ đối phương một lát, thái độ hốt hoảng vừa rồi chợt trở nên bình tĩnh. Rõ ràng là ngày trước hắn đã bị khổ nhiều lần vì bọn người áo đen, nay thấy người đứng trước mặt mình hoàn toàn xa lạ nên đảm khí lại tăng lên gấp bội.

Huyền Chân sẽ niệm một câu, "Vô lượng thọ Phật" rồi thủng thỉnh bước lại gần nói với Cao Giao, "Cao tráng sĩ để ý trong con thuyền nhỏ kia hộ, còn người này đã có bần đạo đối phó."

Tiếng nói vừa dứt thốt nhiên thấy bên thuyền nhỏ lóe lên mấy ánh lửa, phút chốc trong thuyền đã sáng tỏ như ban ngày. Cánh cửa thuyền đã mở tung ra, Nam Cung phu nhân ngồi nghiêm chỉnh trên bồ đoàn, chấp tay nhắm mắt, cây gậy trúc thì đặt ngang phía trước mặt. Bên cạnh mụ còn có một con tiểu tỳ mặc áo xanh, tay cầm một thanh bảo kiếm sáng loáng như nước, mũi kiếm kề vào cổ một gã thiếu niên bị dây thừng trói chặt, đặt nằm trong khoang thuyền.

Gã thiếu niên chỉ mặc sơ sài một tấm áo lót mình, đùi và cánh tay đều để hở, miệng há hốc,mắt trợn tròn, người đó chính là con trai yêu của Đường lão thái, tên gọi Đường Thông. Lúc này bọn Bách Nhẫn đại sư đều đã tỉnh giấc, chui cả ra ngoài khoang.

Đường lão thái trông thấy con tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc, bất giác quả tim đập thình thình, nhưng bà vốn dĩ là một tay đã từng mòn gót giang hồ, vào sinh ra tử nên tuy trong bụng sợ hãi bồn chồn, mà ngoài mặt vẫn cố giữ vẻ trấn tĩnh, chỉ lẳng lặng đứng yên không nói gì cả. Huyền Nguyệt đạo trưởng lúc này đã rút kiếm ra đâm vào ngực Huyền Chân.

Huyền Chân cầm kiếm đưa chéo lên dùng chiêu "Dã hỏa thiên thiên" giữ lấy thế kiếm tay trái điểm thật nhanh vào huyệt Khúc trì của Huyền Nguyệt. Ông ta định trước hết hãy chế hãm huyệt đạo của Huyền Nguyệt, bắt sống lấy rồi sẽ tìm cách khôi phục thần trí cho hắn sau. Không ngờ Huyền Nguyệt chợt xoay nghiêng đi, đưa chéo lưỡi kiếm chém vào cánh tay trái Huyền Chân. Thế kiếm đi nhanh quá sức tưởng tượng khác hẳn với lối đánh chậm chạp vừa rồi. Cũng may Huyền Chân đã hiểu rõ cách biến hóa thế kiếm của Huyền Nguyệt, nên dù lúc lâm nguy vẫn không bối rối chỉ hạ thấp cánh tay trái xuống,phi chân đá vào cổ tay cầm kiếm của đối phương. Huyền Nguyệt cũng phóng ra một chưởng vào chỗ yếu hại dưới bụng Huyền Chân.

Hai người giao đấu được vài chiêu, chân vẫn đứng yên một chỗ, nhưng cách biến hóa của thế chưởng thế kiếm đều đã đi đến chỗ trí mạng cả. Rốt cuộc Huyền Chân bị bức bách phải lùi chéo ra một bước. Huyền Nguyệt bước sấn lên,múa tít thanh kiếm hóa thành một vùng sáng lạnh như thép. Huyền Chân thấy những thế kiếm của Huyền Nguyệt đánh ra đều là những chiêu số cực kỳ lanh lẹ trong kiếm pháp Vũ Đương, nếu để hắn chiếm được lợi thế thì thật tối ư nguy hiểm. Thế là hai vị sư huynh đệ đồng môn, kiếm thuật cùng một phương pháp đã mở ra một trường ác chiến kịch liệt, lở đất long trời.

Vì con thuyền quá chật, nên mọi người đứng xung quanh đều bị luồng kiếm phong làm tung bay cả tà áo. Chợt nghe một tràng cười khanh khách từ chiếc thuyền con vọng lại, Nam Cung phu nhân thốt nhiên mở mắt đứng lên, bước ra mũi thuyền. Chỉ thấy mấy sợi tóc bạc của mụ theo chiều gió bay phơi phới, tấm lưng còng không dựa vào cây gậy trúc trông càng rõ vẻ già nua, lọm khọm đáng thương.

Mụ làm như không trông thấy những người đứng trên con thuyền phía trước, đôi mắt chỉ đăm đăm nhìn những đợt sóng nhấp nhô cuồn cuộn, ra vẻ suy nghĩ mơ màng. Con nữ tỳ mặc áo xanh cầm mũi kiếm vạch lên cánh tay trái Đường Thông một đường, làm cho máu tươi tuôn ra như suối. Đường lão thái đứng bên này nhưng mắt vẫn luôn luôn theo dõi từng cử chỉ của con nữ tỳ. Thấy tình hình như vậy bèn ho nhẹ một tiếng, quay lại nói với Bách Nhẫn, "Đại sư,lão thân nhịn không nổi nữa rồi!"

Nói dứt lời,bà chống mạnh đầu gậy xuống sạp thuyền,rồi dùng thế "Tiềm long thăng thiên" bay lên tới hơn hai trượng,trong khi thân hình còn đang lơ lửng trên không chợt lại xoay mình biến thành thế "Bát bộ đăng không" hướng về chiếc thuyền con nhảy tới. Bách Nhẫn thở dài quay lại bảo Bách Đại, "Sư đệ sang đỡ Đường lão thái một tay!"

Bách Đại vâng lệnh,lập tức dậm mạnh hai chân,thân hình đã như mũi tên lao thẳng sang thuyền quân địch. Đường lão thái chân chưa chấm tới sạp thuyền, Nam Cung phu nhân thốt nhiên đã quay mình lại,múa cây gậy trúc biến thành một màn trượng ảnh phủ kín sạp thuyền, khiến cho Đường lão thái không sao tìm được một kẽ hở để đặt chân. May nhờ có nội công tinh thuần nên bà chỉ ngầm đề chân khí giữ vững thân hình,rồi hạ thấp cây gậy quét ngang một vạch. Hai cây gậy vừa chạm vào nhau bật lên một tiếng chát chúa chối tai, Đường lão thái dựa vào đà gậy, thân hình lùi lại vượt lên cao tới tám chín thước.

Trong khi đó Bách Đại cũng vừa nhảy tới, Nam Cung phu nhân vội xoay cây gậy trúc lia ngang cản lại. Bách Đại trong tay chỉ có một mũi chủy dài không đầy một thước, muốn gạt trượng thế của đối phương thật khó khăn hết sức. Nhưng vũ công của một vị cao tăng chùa Thiếu Lâm đâu phải tầm thường? Ông chỉ sẽ vận chân khí nhảy vượt lên năm sáu thước tránh khỏi trượng thế rồi vung quyền đánh lại. Môn "Kim cương thần quyền" của Bách Đại uy mãnh vô cùng,nên vừa ra tay quyền phong đã rít lên thành tiếng.

Nam Cung phu nhân không ngờ thế quyền của đối phương hùng mạnh đến thế,vội giơ tay trái lên phóng ra một chưởng đón lấy. Hai luồng tiếm lực vừa lăng không va vào nhau, Bách Đại dựa vào sức phản kích của đối phương,thân hình lại vọt lên thêm mấy thước nữa. Ông từ từ hít mạnh một hơi rồi lại tống thêm một chiêu "Kim cương thần quyền", người cũng nhảy theo quyền rơi xuống sạp thuyền. Nam Cung phu nhân vội nhảy sang bên tránh được một quyền, rồi thu gậy về thôi không cản nữa.

Đường lão thái xuống thuyền trước, đưa cây gậy ra quét ngang một lượt,rồi xông vào trong khoang. Bách Đại đại sư thì nhảy tới trước mặt Nam Cung phu nhân. Nam Cung phu nhân đột ngột đứng thẳng người lên, đôi mắt sáng quắc múa cây gậy trúc dùng chiêu "Trào phiếm Nam Hải" đẩy lui Đường lão thái, tay trái duỗi thẳng ngón tay cứng như ngọn kích điểm vào Bách Đại đại sư.

Bách Đại cũng vung lưỡi chủy dùng chiêu "Kim cương thu tý" chém ngang vào cổ tay trái Nam Cung phu nhân,còn tay trái của mình thì dùng chiêu "Phi bạt kích chung" đánh tới. Nam Cung phu nhân trong một lúc chưa thu được gậy về, từ cách vận công đón lấy một quyền của Bách Đại chỉ còn cách bước ngang mà tránh. Một con thuyền nhỏ sạp rộng được bao nhiêu? Nam Cung phu nhân lúc này đã đứng mấp mé ở mé thuyền, nếu còn lùi nữa thì thế tất phải rơi xuống nước.

Nhưng bà già tóc bạc ấy lại có một vũ công đủ làm kinh thế hãi tục, hai chân mụ đứng như đóng đinh xuống đất, thân như chiếc bánh xe xoay một vòng đã ra tới phía sau Đường lão thái. Đường lão thái đang đau xót vì con nên đã quyết liều chết, liền co tay về dùng chiêu "Thái Sơn áp đỉnh" dốc hết toàn lực phóng ra. Chiêu này tuy chỉ là một chiêu thuật tầm thường nhưng vì Đường lão thái đã dùng toàn lực mà đánh,nên sức mạnh cực kỳ ghê gớm,cây gậy trúc múa lên kèm theo những tiếng "vút vút" kinh hồn.

Nam Cung phu nhân cười nhạt một tiếng rồi thốt nhiên cúi rạp người xuống nhanh như cắt,luồn qua cây gậy của Đường lão thái nhảy vào trong khoang. Chiêu này thật vô cùng nguy hiểm, trừ những người có khinh công tuyệt thế, còn dám chắc không ai dại gì mà thí nghiệm

Bách Đại đại sư giận dữ thét lên, "Bữa nay bần tăng quyết cùng phu nhân phân chia cao thấp, nếu chẳng may bần tăng bị thua vào tay phu nhân thì phái Thiếu Lâm sẽ tình nguyện rời khỏi Nam Dương, vĩnh viễn không can thiệp gì đến việc làm của nhà Nam Cung thế gia nữa!"

Lúc này trên mặt Nam Cung phu nhân lại nổi lên một lớp hắc khí, nên không ai trông rõ sắc mặt mụ mừng hay giận, mụ tảng lờ làm như không nghe tiếng Bách Đại nói...

Bách Đại thấy mụ không trả lời, trong lòng càng giận lại quát to hơn, "Chúng ta không muốn lấy thế đông người hiếp kẻ cô thế, nhưng nếu mụ cứ giả câm giả điếc thì đừng trách bần tăng không theo đúng lễ số trong võ lâm."

Ông ta ăn mặc theo lối người làm ruộng mà miệng cứ một điều bần tăng, hai điều bần tăng làm cho người nghe cũng phải bật cười.

Nam Cung phu nhân cười nhạt nói, "Chín đại môn phái và tất cả những người có danh tiếng địa vị trong vũ lâm, lão thân nhất định không buông tha ai cả. Phái Thiếu Lâm không muốn tìm Nam Cung thế gia nhưng Nam Cung thế gia thì tất phải tìm phái Thiếu Lâm."

Bách Đại cười nhạt, "Thật là khẩu khí điên cuồng rồ dại! Nào có giỏi thì ra đây, bần tăng xin lãnh giáo."

Nói vừa dứt lời,lập tức vung quyền lên "sầm" một tiếng, cánh cửa khoang thuyền đã vỡ ra một miếng, con thuyền chòng chành mãi không đứng vững được. Đường lão thái tay trái nắm lấy bốn mũi tên "xà đầu bạch vũ" tay phải cầm gậy trúc hộ vệ thân thể, xông vào trong khoang. Chợt nghe tiếng con nữ tỳ quát to, "Lui ra!"

Mũi kiếm trong tay con bé vừa nhích lên, đầu vai Đường Thông lại thủng thêm miếng nữa,máu tươi bắn vọt lên. Đường lão thái kêu lên một tiếng rồi vội vàng lùi lại. Nam Cung phu nhân nhấp nháy đôi mắt, nhãn quang xanh biếc như mắt mèo, nói, "Đường lão thái đau xót tính mạng của đứa con yêu lắm hả?"

Đường lão thái lẳng lặng cúi đầu. Mụ lại cười gằn hỏi tiếp, "Hay là ngươi không xót?"

Bách Đại thấy đám hắc khí trên mình mụ mỗi lúc một dày, biết là mụ đang ngầm vận một môn kỳ công ngoại môn, liền cũng đề tụ chân khí sửa soạn dốc hết toàn lực tấn công. Đường lão thái buồn bã thở dài một tiếng, từ từ hạ cánh tay cầm tên xuống nói, "Mụ muốn gì cứ nói đi. Mụ yêu cầu điều gì nếu ta có thể làm được, thì quyết không từ chối."

Nam Cung phu nhân cười khanh khách, "Điều thứ nhất là ngươi phải quay ra phía sau đấu với tên hòa thượng kia một trận."

Đường lão thái ngẩn người ra một lát rồi hỏi, "Còn gì nữa?"

Nam Cung phu nhân lạnh lùng đáp, "Điều kiện thứ hai còn dễ hơn! Trong nhà Nam Cung ta đã có đủ nhân tài, duy chỉ còn thiếu một tay cao thủ về môn ám khí như ngươi mà thôi."

Đường lão thái giận dữ thét lên, "Lão thân thà chịu đau khổ vì mất con, nhưng quyết không khi nào để mụ uy hiếp như vậy!"

Tiếng thét vừa dứt, tay trái đã giơ lên, bốn mũi tên đầu rắn đã bay thẳng vào tên nữ tỳ áo xanh. Thủ pháp phóng ám khí của Đường lão thái đã là đệ nhất thiên hạ, hai bên đứng lại cách nhau quá gần, mục tiêu lại còn dễ trúng. Bốn mũi phi tiêu hai mũi trước hai mũi sau lần lượt bay ra nhanh như luồng chớp. Nam Cung phu nhân thốt nhiên giơ tay phẩy một cái, bốn ngọn nến lớn trong thuyền đồng thời tắt phụt, cả khoang thuyền lại chìm trong bóng tối.

Lại nghe có tiếng huỵch huỵch như có tiếng người ngã xuống,nhưng trong lúc hốt hoảng không nhận rõ người ngã xuống là ai, là con tỳ nữ hay Đường Thông?

Đường lão thái bất giác sợ run lên, tình mẹ con sâu nặng khiến cho bà cũng không dám tin ở thủ pháp ném ám khí của mình, bèn lập tức nghiến răng xông vào trong khoang. Chợt thấy một luồng gió lạnh tạt vào mặt, sức gió tuy không lấy gì làm mạnh nhưng khí lạnh buốt như kim châm. Đường lão thái giơ tay phóng ra một chưởng, người thì nhảy về phía Đường Thông gọi to, "Hài tử, mẹ đến cứu con đây!"

Rồi đưa tay ra sờ soạng. Lúc này chợt lại nghe tiếng cười nhạt của Nam Cung phu nhân, thì ra mụ đã lẻn về phía cuối thuyền từ lúc nào. Đường lão thái quơ tay không nắm được gì bèn lại lấy ra ba mũi "Đoạn hồn châm" ném về phía có tiếng cười. Tiếng cười thốt nhiên im bặt, không khí lại im lặng như tờ. Đường lão thái lấy trong mình ra một cây hỏa tập, đánh đá châm lên.

Ánh lửa đã soi rõ một chiếc ghế trong khoang bị gãy đổ nằm nghiêng một bên, còn Nam Cung phu nhân và con nữ tỳ đã biến đi đâu mất. Trong khoang thuyền lúc này, chỉ còn lại một mình Đường Thông. Đường lão thái vội ngồi thụp xuống lấy tay sờ ngực con trai, thấy hơi thở vẫn điều hòa trong bụng mới hơi yên.

Lúc quay đầu lại đã thấy Bách Đại tới gần, bước chân nặng chình chịch. Đường lão thái sẽ nói, "Đại sư có trông thấy Nam Cung phu nhân đâu không?"

Bách Đại lắc đầu, "Chính bần tăng cũng đang định hỏi lão thái câu ấy!"

Đường lão thái nói, "Tôi xông vào trong khoang,mụ đã trốn ra sau thuyền rồi. Không biết ba mũi độc trâm của tôi có trúng vào ai không?"

Câu nói như có ý ngầm cho là Nam Cung phu nhân đã trúng phải ám khí của mình. Bách Đại nghiêm trang nói, "Nam Cung phu nhân giảo hoạt thật!"

Nói xong nhắm mắt đứng chấp tay đứng im. Đường lão thái ngạc nhiên nghĩ bụng, "Lão hòa thượng này làm trò gì vậy?"

Bà tuy nhận thấy thái độ Bách Đại có vẻ khác thường,nhưng trong phút chốc không sao nghĩ ra được duyên cớ. Ước chừng nguội một chén trà Bách Đại mới buông tay ra, thần sắc lại bình tĩnh như thường nói, "Thôi ta hãy tạm tha cho mụ lần này, nhưng sớm muộn gì bần tăng cũng phải thử sức với mụ một trận."

Đường lão thái nghe Bách Đại nói vậy, mới chợt nghĩ ra thì ra vừa rồi Bách Đại định ngưng tụ công lực chuẩn bị đối phó với Nam Cung phu nhân, bất đồ mụ đã chuồn mất. Đường lão thái bế Đường Thông ra mũi thuyền, đặt nằm xuống sạp rồi bắt đầu xoa nắn các đường huyệt đạo cho chàng.

Nhưng thủ pháp điểm huyệt của Nam Cung thế gia khác hẳn thủ pháp của các phái vũ lâm. Đường lão thái xoa nắn các huyệt đạo một lúc khá lâu mà Đường Thông vẫn còn mê man bất tỉnh. Lúc ngẩng đầu trông sang thuyền cũ, thấy kiếm quang đã tắt, cuộc ác chiến cũng đã ngừng, hình như Huyền Nguyệt đã bị Huyền Chân đạo trưởng chế phục. Đường lão thái ẵm Đường Thông,vận đề chân khí lăng không nhảy về thuyền cũ. Bách Nhẫn đại sư bước ra đón, chấp tay nói, "Kính mừng lão thái đã cứu được lệnh lang!"

Đường lão thái thở dài nói, "Nói ra lại càng xấu hổ, lão thân không làm cách nào giải huyệt cho tiện nhi được."

Hồi thứ mười bảy

Dạ chiến trong rừng hoang

Bách Nhẫn nói, "Thủ pháp vũ công của nhà Nam Cung khác hẳn lối thường, tuy nhiên bần tăng tin rằng nếu góp sức tất cả ngần này người, tất thế nào cũng giải được huyệt cho lệnh lang."

Bách Đại cũng nhảy sang thuyền nói, "Bần tăng đã tìm khắp trong thuyền vẫn không rõ Nam Cung phu nhân và con nữ tỳ trốn đi lối nào. Rất có thể họ lặn xuống sông hay đều bị trúng ám khí của Đường lão thái."

Đường thái thái cúi xuống nhìn Đường Thông đang nằm trong lòng nói, "Nếu vậy thì huyệt đạo của khuyển tử cũng chưa cần phải giải vội."

Huyền Chân nói, "Điều ấy lại khác, sư đệ bần đạo bị điểm huyệt là do thủ pháp của bản môn, cố nhiên bần đạo chỉ điểm vào những huyệt nào không có hại cho thân thể, còn lệnh lang lại do thủ pháp điểm huyệt của nhà Nam Cung thế gia chế phục, nếu chúng ta không tìm cách giải huyệt ngay sợ để lâu có hại. Sau khi lệnh lang đã tỉnh, nếu thái thái không yên tâm,lại tự điểm huyệt lấy cũng không muộn."

Đường lão thái nói, "Đạo trưởng thật là cao kiến, nhưng khốn nỗi lão thân đã tìm cách giải huyệt cho khuyển tử rồi mà vô hiệu."

Bách Nhẫn bước lại gần nói, "Để lão nạp thử coi cách giải huyệt của phái Thiếu Lâm có giải được không?"

Ông nhìn khắp thân thể Đường Thông một lát, rồi giơ tay phải lên vỗ nhanh vào mấy yếu huyệt của chàng. Vũ công phái Thiếu Lâm tuy đã được thiên hạ suy tôn là vũ học chính tông,vậy mà cũng chịu không giải nổi huyệt đạo cho Đường Thông. Ông xoa nắn một hồi lâu chàng vẫn nằm yên không hề nhúc nhích.

Huyền Chân cúi xuống nhìn kỹ một lúc rồi nói, "Chỉ sợ lệnh lang không phải bị điểm huyệt..."

Đường thái thái giật mình nói, "Đạo trưởng có nhận thấy chỗ nào khác thường không?"

Huyền Chân nói, "Bần đạo không dám chắc lắm, nhưng xin lấy nội lực thí nghiệm xem có phải hai người này bị thủ pháp đoạn mạch làm bị thương không?"

Nói xong liền vận đề chân khí, giơ tay ấn lên bối tâm của Đường Thông. Một lát sau chợt thấy sắc mặt Đường Thông hiện lên mấy tia máu đỏ, toàn thân hơi run run,rõ ràng là khí huyết của chàng đã bị Huyền Chân dùng nội lực thúc đẩy, nhưng đôi mắt chàng thì vẫn lờ đờ như cũ không thấy linh động chút nào.

Huyền Chân rút tay về, lắc đầu nói, "Lạ thật!"

Đường lão thái nói, "Lão thân không tin rằng thủ pháp điểm huyệt của nhà Nam Cung thế gia, thiên hạ lại không có ai giải nổi."

Giữa lúc ấy lại nghe có một tiếng mái chèo khua động trên mặt nước,mà lần này hình như có cả một đoàn thuyền rẽ sông tiến lại. Cao Giao một tay nhổ neo, một tay với con sào định đẩy thuyền lánh đi. Bách Nhẫn vội giơ tay ngăn lại nói, "Nam Cung phu nhân thân hành tới đây cũng chỉ đến thế là cùng, việc gì phải sợ?"

Trong khi đang nói thì quả có một đoàn thuyền vùn vụt tiến đến,chia nhau ra bao vây lấy chiếc thuyền của quần hào vào giữa. Bách Đại giằng lấy cây sào tre trong tay Cao Giao rồi nói, "Tráng sĩ cho bần tăng mượn chiếc sào một lúc nhé!"

Cao Giao cúi đầu nói, "Nhâm tướng công đã dặn đi dặn lại là các vị không nên động thủ với người trong Nam Cung thế gia..."

Đường lão thái chợt nói xen vào, "Không động thủ chẳng lẽ chúng ta cứ đành ngồi đây mà đợi chết hay sao?"

Vừa nói dứt lời liền giơ tay lên,tức thì hai mũi "Kim tiền tiêu" nhằm con thuyền phía chính đông bay tới. Màn đêm lờ mờ chợt lóe lên một tia sáng lạnh, "keng" một tiếng hai mũi phi tiêu đã rơi lõm bõm xuống nước. Chợt lại thấy một cái bóng trắng thấp thoáng từ trong khoang thuyền nhỏ nhảy vụt sang thuyền lớn. Bách Đại quát to một tiếng,cầm ngang cây sào gạt mạnh.

Tức thì một tiếng quát trong trẻo từ trên không đưa xuống, một ánh sáng lạnh lóe lên,cây sào tre đã gãy làm hai khúc, kế đó một vị nữ lang mặc áo trắng đã đáp xuống sàn thuyền, quần áo bay phần phật.

Đường lão thái không đợi nữ lang đứng yên, lập tức cầm cây gậy dùng chiêu "Hoành tảo ngũ nhạc" quét ngang ra. Nữ lang áo trắng cầm thanh bảo kiếm ánh sáng loang loáng như nước vung lên chém vào cây gậy, miệng thì quát, "Dừng cả lại! Ta phụng mệnh tới đây, có việc cần nói với các ngươi."

Hai bên đứng cách nhau rất gần, Đường lão thái đã trông rõ thanh kiếm trong tay thiếu phụ là một bảo vật chém sắt như chém bùn, bèn vội thu ngay gậy về. Huyền Chân nói nhỏ, "Lão thái hãy tạm ngừng tay, chờ ả nói xong ta sẽ động thủ cũng không muộn."

Đường lão thái nghe lời lùi về phía sau hai bước, nhưng lại thò tay vào mình lấy ra ba mũi "Thất bộ đoạn hồn trâm" cầm sẵn để phòng bị. Thiếu phụ đôi mắt long lanh nhìn khắp quần hào một lượt rồi thủng thỉnh nói, "Nam Cung thế gia không muốn xung đột với hai phái Thiếu Lâm và Vũ Đương ngay lúc này, vì thế mới đưa trả Huyền Nguyệt đạo trưởng. Xin hai phái các vị hãy thoái lui ra khỏi trường thị phi này cho."

Bách Đại cười nhạt, "Vừa rồi Nam Cung phu nhân đã đại giá thân lâm,bây giờ lại sai phu nhân tới đây..."

Thiếu phụ lạnh lùng ngắt lời, "Bà bà tôi hóa thân muôn hình ngàn thức, đâu có phải dễ dàng để cho người ta trông thấy chân thân?"

Bách Đại sửng sốt nghĩ thầm, "Nếu quả mụ già ban nãy chỉ là Nam Cung phu nhân hóa thân, thì vũ công của mụ thực đã tới bực kinh nhân."

Huyền Chân đạo trưởng chấp tay nói, "Nữ đàn việt có thể cho chúng tôi biết quí danh được không?"

Nét mặt thiếu phụ vẫn lạnh như tiền đáp, "Tôi là Trần Phượng Trinh, cháu dâu đời thứ tư của nhà Nam Cung thế gia."

Huyền Chân lại chấp tay cười nói, "Bần đạo thất kính,thất kính!"

Trần Phượng Trinh nói, "Đạo trưởng hà tất phải khách sáo. Các vị có muốn thoái lui hay không, xin cho biết ngay để tôi còn về phúc mệnh."

Người trong Nam Cung thế gia hình như trời sinh ra đều có sẵn một thái độ lạnh như băng sương, dẫu trong lúc nói những câu lễ độ khách sáo, mà đầu mày cuối mắt vẫn đượm vẻ lạnh lẽo xa xôi.

Huyền Chân đạo trưởng mỉm cười, "Thịnh ý của Nam Cung phu nhân tại hạ rất lấy làm cảm kích. Nhưng nếu phu nhân không muốn cho hai phái Thiếu Lâm, Vũ Đương nhúng tay vào việc này thì dễ lắm, Nam Cung phu nhân chỉ cần chấp thuận cho bần đạo một điều thỉnh cầu là đủ."

Trần Phượng Trinh hỏi, "Điều gì xin đạo trưởng cứ cho biết."

Huyền Chân nghiêm sắc mặt đáp, "Chỉ cần Nam Cung phu nhân phá hủy "Mê hồn lao" tha những kẻ vô tội ra, thì Thiếu Lâm và Vũ Đương xin lập tức rút lui ngay..."

Trần Phượng Trinh cười lạt ngắt lời, "Trước khi nói,xin đạo trưởng hãy suy nghĩ cho chín, tòa "Mê hồn lao" là do nhà Nam Cung thế gia chúng tôi đã kiệt tận tâm huyết mấy đời mới gây dựng nên được, lẽ nào bỗng dưng lại phá hủy một cách dễ dàng như vậy?"

Bách Nhẫn nói, "Nữ đàn việt đã không muốn phá hủy "Mê hồn lao" phóng thích những người vô tội, thì riêng phái Thiếu Lâm chúng tôi cũng không khoanh tay làm ngơ được!"

Trần Phượng Trinh nói, "Bà bà tôi chẳng qua chỉ nghĩ hai phái Thiếu Lâm và Vũ Đương xưa nay chưa từng làm điều gì thất đức,nên mới lấy lòng tốt khuyên can. Các vị đã chấp mê không tỉnh thì đừng trách chúng tôi là tàn nhẫn!"

Nói xong lại đảo luồng nhỡn tuyến sắc như nước, nhìn khắp mọi người một lượt rồi nói tiếp, "Hai vị đã khăng khăng dấn mình vào xoáy nước thì cũng đành vậy. Bây giờ tôi còn phải về thưa lại cho bà bà tôi rõ."

Nói xong quay ra, thủng thỉnh bước đi. Đường lão thái gõ mạnh cây gậy trúc xuống sạp thuyền quát to, "Đứng lại, hãy tiếp lão thân mấy mũi "Đoạn hồn trâm" đã, rồi hãy đi cũng không muộn!"

Nói dứt lời tay trái vung lên, lập tức ba đường ngân tuyến vùn vụt bay thẳng vào mặt Phượng Trinh. Phượng Trinh cười nhạt, vung thanh trường kiếm lên phóng ra một luồng kiếm hoa, ánh sáng loang loáng bao phủ khắp thân hình, ba luồng ngân tuyến của Đường lão thái chẳng khác gì hòn sỏi ném xuống bể, không thấy tăm hơi đâu nữa.

Đường lão thái thấy ném không trúng,lại thò tay vào mình lấy chiếc bao tay bằng da hươu đeo vào, rồi bốc một nắm độc sa, miệng thì quát lớn, "Các vị hãy tránh cả vào trong khoang mau!"

Rồi cách tay vung lên, lập tức một luồng khói đen xông lên rồi tản ra bốn phía,bao trùm một khoảng chu vi tới hơn một trượng. Phượng Trinh cũng quát to một tiếng, thanh kiếm trong tay múa tít lên biến thành một màn kiếm bạc. Kiếm phong xoay tròn như bánh xe, ù ù như gió bão, đánh tạt màn độc sa của Đường lão thái ra bốn phía, một phần còn bay ngược lại khoang thuyền tới chỗ quần hào đứng.

Giữa màn độc sa mù mịt như sương mù, một luồng sáng trắng bay vụt lên không rồi rơi xuống chiếc thuyền nhỏ. Huyền Chân đạo trưởng vội phất ống tay áo bào lên, phóng ra một luồng kình phong cực kỳ mãnh liệt. Đám độc sa bị sức phản kích của luồng kiếm phong bay tạt vào khoang thuyền vừa rồi, bị luồng kích phong của Huyền Chân đạo trưởng đánh bạt cả ra sông.

Đường lão thái đứng ngây người, trông theo con thuyền của Phượng Trinh, lẩm bẩm nói, "Không ngờ trong nhà Nam Cung thế gia, người nào cũng luyện môn vũ công đó."

Xa xa còn nghe tiếng Trần Phượng Trinh nói vọng lại, "Phàm những kẻ thù địch của nhà Nam Cung thế gia, bất cứ lúc nào cũng đối diện với cái chết!"

Con thuyền mỗi lúc một xa dần, thoáng chốc đã mất biến vào trong đêm tối. Huyền Chân bước ra mũi thuyền, thấy mấy chiếc thuyền con vây quanh đấy vẫn đứng yên không đi theo thuyền của Trần Phượng Trinh, trong bụng rất lấy làm kỳ quái bèn bước ra ven thuyền chú ý trông sang.

Nhãn lực của Huyền Chân rất tinh nên vừa thoáng trông ông đã nhận ra sự lạ, số là trong các khoang thuyền tối om đó đều có một đốm lửa nhỏ bằng ngôi sao, luôn luôn di chuyển nhấp nháy không ngừng. Chỉ trong nháy mắt, ông chợt nghĩ ra vội quát to, "Chạy mau,chạy mau! Chúng ta bị trúng mưu của họ rồi!"

Cao Giao hình như đối với nhà Nam Cung thế gia đã có một ấn tượng sợ hãi từ lâu, nên vừa nghe tiếng Huyền Chân đạo trưởng kêu, liền lập tức bơi thuyền chạy trốn. Thuyền vừa đi khỏi chừng vài chục trượng đã nghe thấy mấy tiếng nổ long trời. Mấy chiếc thuyền nhỏ vừa rồi đã tự động nổ tung lên rồi bốc cháy ngùn ngụt, ánh lửa sáng rực một vùng.

Những chiếc thuyền nhỏ đó vỡ tung ra thành từng mảnh lửa nhỏ trôi khắp trên mặt sông, biến thành một cảnh tượng kì dị, không biết ở trong những con thuyền đó chứa chất gì mà khi thuyền vỡ ra rồi, thế lửa vẫn còn bốc cháy dữ dội, mặt sông lúc này trông chẳng khác gì biển lửa. Bách Nhẫn đại sư thở dài nói, "May quá, nếu không nhờ được đạo huynh tinh ý, thấy rõ được âm mưu thâm độc của nhà Nam Cung thì lúc này chúng ta đã chết cháy ở trong biển lửa kia rồi."

Huyền Chân mỉm cười nói, "Đó toàn là nhờ hồng phúc của cả mọi người, chứ bần đạo có tài gì?"

Ông ngừng một lát lại tiếp, "Bao nhiêu sự bí mật của nhà Nam Cung đã bị bại lộ, tất chúng không chịu để chúng ta an nhiên thoát hiểm, kế này không xong họ sẽ lại bày kế khác, chúng ta cần phải cẩn thận, đừng coi thường..."

Huyền Quang đạo trưởng hốt nhiên nói xen vào, "Cứ xem phương pháp họ phóng hỏa đốt thuyền thế này đủ hiểu trong nhà Nam Cung có nhiều người giỏi nghề bơi lặn, chi bằng chúng ta bỏ thuyền lên bộ, có lẽ còn yên trí hơn."

Đường lão thái nói, "Lão thân cũng nghĩ vậy, cứ ngồi đây mà nơm nớp đề phòng thì thà rằng lên bờ đánh nhau một trận, thua được cho dứt khoát còn dễ chịu hơn."

Huyền Chân chợt quay ra mũi thuyền hỏi Cao Giao, "Nhâm tướng công dặn ngươi thế nào?"

Cao Giao đáp, "Nhâm tướng công dặn tại hạ khi nào các vị xuống thuyền, thì phải lập tức nhổ neo đi ngay và cứ đi men trong sông, cố tránh đừng để gặp mặt người nhà Nam Cung thế gia và cũng không được để các vị lên bờ. Không ngờ họ lại tìm đến đây chóng thế, bây giờ thì không những chúng ta đã được gặp mặt người nhà Nam Cung thế gia, mà lại còn phải động thủ với họ nữa..."

Hắn ngửa mặt lên trời, thở dài một tiếng rồi nói, "Bây giờ không biết tại hạ phải nói với Nhâm tướng công thế nào đây?"

Huyền Chân đạo trưởng nói, "Việc này đâu phải lỗi tại tráng sĩ?"

Nói xong lại đưa mắt nhìn Bách Nhẫn và Đường lão thái rồi tiếp, "Tình thế lúc này đã biến đổi, người nhà Nam Cung thế gia đã biết bọn mình ở đây, hỏng mưu này tất họ lại bày mưu khác, vả lại trong bọn ta không ai biết bơi ở dưới thuyền thật tối ư nguy hiểm. Vậy theo ý bần đạo thì Cao tráng sĩ hãy tạm ghé thuyền vào bờ cho chúng tôi lên."

Cao Giao đằng hắng một tiếng rồi nói, "Việc này thật khó cho tại hạ quá, chư vị nói rất có lý, tình thế lúc này dù ở dưới thuyền hay lên bộ cũng không hơn gì nhau. Nhưng chưa được lệnh Nhâm tướng công mà đã đưa các vị vào bờ, trong bụng tôi quả rất lấy làm thắc mắc."

Huyền Chân đạo trưởng thở dài nói, "Nhâm tướng công lúc này sống chết mất còn cũng chưa biết rõ, chúng ta hà tất phải chờ đợi."

Cao Giao ngẩn người ra một lát dường như muốn nói gì lại thôi, nhưng vẫn theo lời mọi người cho thuyền vào bờ. Quần hào lần lượt bỏ thuyền lên bờ,ai cũng cảm thấy tinh thần phấn chấn. Đường lão thái cõng đường Thông còn Huyền Quang thì cõng Huyền Nguyệt. Bách Tường, Bách Đại đi trước mở đường, Huyền Chân cầm kiếm đi sau đoạn hậu. Đi ước chừng được hai ba trượng, Huyền Chân đột nhiên quay lại gọi, "Cao tráng sĩ!"

Cao Giao hỏi, "Đạo trưởng còn định dặn gì ạ?"

Huyền Chân nói, "Tráng sĩ ở trong thuyền chỉ sợ nhà Nam Cung bắt gặp, quyết không chịu buông tha. Bần đạo muốn mời tráng sĩ cùng đi luôn thể, dọc đường có sự gì ta chiếu cố lẫn nhau, có lẽ tốt hơn."

Cao Giao cười nói, "Người trong nhà Nam Cung thế gia tuy ai cũng có tuyệt kỹ, nhưng nếu Cao mỗ không ra khỏi chỗ sông nước thì họ cũng chẳng làm gì nổi!" Nói xong vươn mình nhảy ùm xuống sông, mặt nước bắn tóe lên như phun hoa, thoáng chốc đã biến mất không trông thấy đâu nữa.

Mọi người tần ngần một lúc rồi lại kéo nhau đi. Trong khi mọi người đang mải miết bước nhanh, chợt nghe Bách Đại quát to một tiếng, "Ai đó?"

Bách Đại nội lực tinh thâm nên dù trong đêm tối,vẫn có thể trông rõ cảnh vật xung quanh trong khoảng vài ba trượng. Đường lão thái trong bụng đang lo lắng vì tính mệnh con trai nên rất dễ cáu giận. Vừa nghe tiếng Bách Đại quát hỏi, bà đã vội thò tay vào mình lấy hai mũi trâm độc, chỉ rình cơ hội ném ra. Quần hào đều chú ý nhìn, quả thấy dưới gốc cây đại thụ cách đấy chừng hơn hai trượng, có một bóng đen đang nằm phủ phục.

Thốt nhiên trong chỗ bóng đen lóe lên một tia lửa sáng rồi một chiếc phong đăng màu hồng từ từ cất lên cao. Cảnh vật xung quanh ngọn đèn đều trông rõ mồn một. Người cầm đèn là một gã mặc quần áo đen, đầu trùm khăn đen chỉ để chừa có hai con mắt, cả bàn tay của gã cũng đeo bao đen, cánh tay trái giơ cao lên khiến cho ánh đèn chiếu ra xa hơn.

Bách Đại dậm mạnh gót chân xuống đất, nhảy vụt về phía gốc cây. Huyền Chân đạo trưởng cũng phất ống tay áo bào nhảy theo. Người áo đen vẫn đứng yên không động, nhưng đôi mắt thì vẫn đưa đi đưa lại không ngừng. Bách Đại đứng cách gã chừng ba bốn thước, ngầm vận công lực đề phòng, rồi cất tiếng hỏi, "Ngươi là ai? Sao hỏi không nói? Nếu còn cố ý giả câm giả điếc thì chớ trách bần tăng xuất thủ vô tình!"

Gã áo đen trả lời bằng một giọng hết sức lạnh lùng, "Tại hạ vâng lệnh Nam Cung phu nhân chờ các vị ở đây đã lâu!"

Đường lão thái cười nhạt, "Vậy thì xin các hạ hãy nếm thử ám khí của Đường môn xem mùi vị thế nào đã!" Nói vừa dứt lời thì hai mũi trâm độc đã bay vụt về phía gã áo đen. Gã áo đen vừa trông thấy hai vệt sáng trắng bay vèo tới liền lập tức xoay mình trốn vào phía sau gốc cây, hai mũi trâm độc đều ghim cả lên thân cây.

Bách Đại nói, "Người này vũ công cũng không đến nỗi kém." Vừa nói vừa rảo bước tiến lên phóng ra một chưởng.

Gã áo đen lại xoay mình đi tránh thoát chưởng thế rồi lạnh lùng nói, "Các ngươi đã bị hãm vào vòng vây rồi!" Gã ngừng một chút rồi lại tiếp, "Đứng trước hoàn cảnh này, các ngươi chỉ còn có hai con đường có thể tùy ý lựa chọn, một là vứt bỏ khí giới giơ tay chịu trói, hai là chết."

Bách Đại nổi giận, giơ tay phóng thêm một chưởng nữa. Lúc này ông đã tiến tới gần gã áo đen, hai bên chỉ còn cách nhau độ hơn một thước, chỉ phong đã có thể điểm khắp những huyệt yếu hại của đối phương.

Nhưng người áo đen nhờ được gốc cây lớn che chở, Bách Đại vừa phóng chưởng tới, hắn đã lẩn vào sau cây mà tránh. Bách Đại đánh luôn mấy chưởng mà không chưởng nào trúng vào gã áo đen. Chợt nghe gã kêu lên một tiếng quái gở, cổ tay vừa lật lại, chiếc hồng đăng đã bay cao tới mấy trượng rồi tắt phụt. Giữa lúc đó chợt nghe có tiếng chân nhiều người từ ba bề bốn bên rầm rập chạy tới. Huyền Chân vội kêu lớn, "Chúng ta mắc kế dụ địch rồi,chạy mau!"

Mọi người vừa hiểu ra thì đã quá chậm, tất cả có tới mấy chục tên áo đen đã từ bốn phía kéo lại, vây quần hào vào giữa. Cách phục sức của những người này đều giống nhau như hệt, mỗi người trong tay đều cầm một thứ vũ khí ánh sáng lấp lánh. Huyền Chân thấy tình hình như thế, biết là đêm nay không thể tránh khỏi được một trận ác chiến, bèn ghé tai Huyền Quang dặn nhỏ, "Mau đặt Huyền Nguyệt sư đệ xuống rồi chuẩn bị tác chiến."

Kế lại nói với Bách Nhẫn, "Bọn người áo đen này rất có thể là Thất thập nhị sát mà Nam Cung phu nhân nói đó. Nếu bần đạo đoán không lầm thì tinh thần của bọn này đã bị Nam Cung phu nhân khống chế, họ không biết thế nào là phải trái, thiện ác. Nếu đối với bọn người gần như điên cuồng đó mà chúng ta còn nghĩ đến nhân đạo hay từ bi, thì không khác gì tự đào hố chôn mình vậy."

Trong khi nói bọn người áo đen đã có mấy tên tiến sát lại gần, vòng vây càng ngày càng thu hẹp lại. Huyền Quang vội bỏ Huyền Nguyệt xuống rồi rút kiếm ra, ngoảnh mặt về phía tây mà đứng. Đường lão thái không muốn đặt con xuống đất, chỉ lấy dây lưng quấn chặt chàng vào mình.

Chợt nghe Huyền Chân cất cao giọng nói, "Ta phải trừ khử ngay tên áo đen núp sau thân cây kia đi, kẻo cuộc chiến đêm nay rất có thể bị hại về tay gã."

Ông cố ý nói to để Bách Đại nghe tiếng, lưu ý là mình sắp tới giúp. Bách Nhẫn niệm Phật một câu rồi nói, "Xin đạo huynh cứ thi lệnh."

Huyền Chân rút kiếm ra chém chéo đi một nhát. Tên áo đen lúc này chính đang bị Bách Đại đánh cho một quyền phải núp vào thân cây. Lưỡi kiếm của Huyền Chân vừa vặn đưa ra chặn lối rút lui của hắn. Hai vị cao thủ một kiếm một chưởng kẹp gã áo đen vào giữa, bắt buộc gã phải ra tay, tay trái vung lên đón lấy quyền của Bách Đại, tay phải dùng chiêu "Thủ huy tỳ bà" chống lại lưỡi kiếm của Huyền Chân.

Huyền Chân lấy làm lạ nghĩ thầm, "Người này nói năng rõ ràng quyết không phải là người loạn óc, sao lại hồ đồ đến nỗi giơ tay không ra đỡ kiếm?"

Còn đang nghĩ ngợi đã thấy chưởng thế của người áo đen đánh vào thanh kiếm. Huyền Chân gia thêm sức mạnh, định trước hết hãy chặt đứt bốn ngón tay của gã đi đã, bất đồ sự thật lại ra ngoài ý liệu, chỉ nghe một tiếng "cách" thanh kiếm đã bị gã áo đen gạt ra tới nửa thước. Lúc này thế quyền của Bách Đại và thế chưởng của gã cũng vừa gặp nhau, chỉ nghe "bùng" một tiếng, nội lực của gã áo đen không địch nổi Bách Đại nên bị đẩy lùi về một bước.

Huyền Chân thấy lưỡi kiếm của mình bị gạt ra, chợt hoảng nhiên tỉnh ngộ vội kêu lên, "Các vị lưu ý, những chiếc bao tay đen trên tay người này làm bằng một thứ dây thép rất nhỏ, có thể tránh được đao kiếm."

Vừa nói vừa múa tít thanh kiếm lên, liên tiếp phóng ra ba chiêu chặn ngang hai đường rút lui của gã áo đen. Bách Đại đã dùng quyền gạt gã lùi lại chợt thấy trên mu bàn tay, cổ tay và ngón tay đều hơi ngưa ngứa, bất giác giật mình vội đá ngược chân lên đề phòng giữ môn hộ, rồi chú ý nhìn kỹ mu bàn tay quả thấy hơi rơm rớm máu. Bách Tường thấy thế vội hỏi, "Sư huynh bị thương rồi ư?"

Nói xong rảo bước tiến lên thế cho Bách Đại. Bách Đại gượng nói, "Sư đệ phải cẩn thận, không nên tiếp chưởng với hắn vì bao tay của hắn có trâm độc."

Đường lão thái nhìn trừng trừng vào một người mặc áo đen đang tiến về phía mình, chợt lại thấy hắn dừng lại, giơ vũ khí lên nhưng không tiến công ngay, dường như còn chờ đợi cái gì,miệng thì nói, "Thuốc giải độc trong thiên hạ không thứ nào hay hơn thuốc của họ Đường tôi, đại sư hãy tạm uống một viên thuốc cho chất độc khỏi tản ra, đợi qua trận này tôi sẽ trị độc cho đại sư. Rồi cầm viên thuốc đưa cho Bách Đại. Bách Đại tiếp lấy bỏ vào miệng chiêu đi."

Huyền Chân đạo trưởng biết gặp cường địch không dám nhân nhượng nữa, lập tức biến đổi kiếm thế ánh kiếm loang loáng, chỉ nhằm những chỗ yếu hại của đối phương mà đánh tới. Người áo đen tuy nhờ có bao tay tránh được đao kiếm nhưng Huyền Chân kiếm thuật kỳ ảo, biến chiêu lanh lẹ làm cho gã áo đen chân tay luống cuống, ứng tiếp không xuể chưa đầy mười chiêu đã bị loạn cả chưởng pháp.

Bách Tường thấy Huyền Chân đã chiếm được ưu thế tuyệt đối, bèn không cần phải ra tay nữa chỉ lùi ra một bước đứng xem. Người áo đen đang đánh chợt hét lên một tiếng, một tay gạt ngang thanh kiếm của đối phương rồi bất thình lình nhún mình nhảy lên ngọn cây. Huyền Chân cười nhạt nói, "Bần đạo nhất định đêm nay phải khai sát giới mới được."

Nói vừa dứt lời lấp tức phất ống tay áo, tức thì một luồng sánh lạnh nhằm lưng người áo đen phóng tới. Chỉ nghe đánh "huỵch" một tiếng gã áo đen đã nhảy lên ngọn cây, chợt lại ngã nhào xuống. Huyền Chân co tay trái về, tức thì luồng sáng lạnh vừa rồi lại chui vào tay áo.

Bách Tường nhanh mắt đã trông rõ luồng sáng lạnh đó chỉ là một lưỡi nhọn rất quý, sắc bén vô cùng bèn nghĩ thầm, "Người ta đồn kiếm thuật của Huyền Chân đạo trưởng ảo diệu tuyệt luân, không ngờ thủ pháp ném ám khí của ông ta cũng tinh xảo đến thế!" Thi thể người áo đen đã rơi xuống đất, ngực hắn bị một vết thương máu tuôn ra xối xả.

Giữa lúc ấy chợt nghe từ phía xa xa có tiếng quát tháo truyền tới, "Các ngươi đã bị bao vây, ta chỉ cần ra lệnh một tiếng là các cao thủ sẽ nổ lực xông ra tấn công. Những người này đều là các nhân vật có tiếng tăm trong vũ lâm không phải như những loại vũ sư tầm thường, vũ công các ngươi dù cao đến đâu cũng khó lòng chống cự nổi!"

Giọng nói the thé, lanh lảnh không cần phải đoán cũng biết là Nam Cung phu nhân. Bách Đại cũng cất cao giọng trả lời, "Nam Cung phu nhân đấy à? Ngươi có dám nhận lời thách chiến với bần tăng không?"

Ông ta uống viên thuốc giải độc của Đường lão thái quả nhiên đã thấy trong mình hơi dễ chịu, vì trong bụng vẫn căm giận Nam Cung phu nhân nên cũng quên không nhớ là vết thương của mình chưa được khỏi hẳn. Chợt lại nghe tiếng Nam Cung phu nhân cười lanh lảnh nói, "Lão thân sớm muộn cũng phải so tài cao thấp với cao thủ trong thiên hạ, nhưng lúc này thời cơ chưa đến nên không có nhã hứng thù tiếp các vị."

Nói vừa dứt lời mụ lại hú lên một hồi, tiếng hú lanh lảnh gay gắt, nghe như tiếng quỷ ma gào thét. Bọn người áo đen nghe tiếng hú lập tức múa binh khí xông lên. Huyền Chân đạo trưởng vội bảo mọi người, "Các vị ra tay mau lên, thừa lúc khí huyết họ chưa hoạt động mạnh, ta phải hạ ngay mấy tên trước để làm nhụt nhuệ khí chúng đi đã."

Vừa nói vừa vung thanh kiếm xông lên trước, kiếm quang đi đến đâu máu tươi phun đến đấy. Chỉ trong chớp mắt ông đã hạ luôn được hai tên đứng hàng đầu. Đường lão thái cầm ngang cây gậy lia trúng vào sườn một tên đứng trước mặt, đồng thời tay trái phóng ra bốn mũi trâm độc. Thế là một tên trúng gậy, bốn tên trúng ám khí đều ngã ra một lượt. Hai người vừa ra tay đã hạ được bảy tên áo đen, làm cho quần hào đều phấn khởi tinh thần, cho rằng quân địch tuy đông nhưng thực lực cũng không đáng kể.

Hồi thứ mười tám

Tay trắng lại xuất hiện

Không ngờ cuộc thế lúc này thốt nhiên lại biến chuyển, đoàn người áo đen đã ào ạt xông lên.

Động tác lúc đầu của họ tuy cực kỳ chậm chạp, nhưng chỉ một lát sau đã trở nên linh hoạt dị thường, bốn mặt đổ dồn lại ào ào như thác lũ, vây kín Huyền Chân và Đường lão thái vào giữa. Bách Nhẫn thấy thế vội bảo Bách Tường và Bách Đại, "Hai sư đệ phải nỗ lực xông vào phá vòng vây ra."

Nói xong ông bước xấn lên, giơ tay phóng ra một quyền. Bách Đại cũng vung lưỡi chuỷ lên đâm trúng ngực một gã áo đen, rồi thừa lúc gã chưa ngã, đã nhảy xấn theo giật lấy lưỡi "Nhạn lĩnh đao" đưa cho Bách Nhẫn.

Bách Nhẫn vừa tiếp lấy vũ khí, thì một lưỡi khai sơn đao ở đâu lại vừa chém tới, bèn vội giơ đao đón lấy.

Hai đao vừa chạm vào nhau, chỉ nghe một tiếng "xoảng", ngọn đao của đối phương tuy đã bị gạt đi, nhưng Bách Nhẫn cũng cảm thấy cổ tay tê dại, bất giác kinh sợ nghĩ thầm, "Người này nội lực thâm hậu, ta chớ nên coi thường."

Gã áo đen biến chiêu cực kỳ lanh lẹ, hắn không đợi Bách Nhẫn kịp trả đòn, ngọn đao khai sơn chợt đổi thế đánh ra thế chém, dùng chiêu "Hoành tảo ngũ nhạc" lia ngang một nhát.

Bách Nhẫn đại sư ngầm vận nội lực, giơ đao gạt lại, lại nghe "xoảng" một tiếng, hai người cùng bật lùi trở lại một bước.

Gã áo đen vác đao xông lên, vào thẳng đòn giữa, điểm sang đối phương.

Qua một vài thế đao, Bách Nhẫn biết đã gặp tay kình địch, liền bước chéo ra một bước, dùng chiêu "Kim cương thư tý" phản công lại.

Gã áo đen chém hụt, lập tức lại đổi chiêu. Hai lưỡi đao cùng vung lên, vù vù như gió bão, quấn chặt không dời.

Bách Đại đấu với một người cầm trường kiếm, tay trái cầm đao, tay phải đồng thời nhằm giữa ngực đối phương đánh ra một quyền.

Bình sinh Bách Đại rất ít khi gặp địch thủ, bữa nay ông đã dốc toàn lực vào chưởng đó, yên trí là đối phương dù không bị trọng thương, tối thiểu cũng phải bật lùi về phía sau, nên quyền vừa phóng ra, chân cũng bước xấn lên, giơ năm ngón tay định cướp lấy thanh kiếm của địch thủ.

Không ngờ sự việc xảy ra lại khác hẳn ý liệu, gã áo đen lập tức xoay mình tránh khỏi ngọn quyền, thi triển thế kiếm, chiêu lạ giở ra, hàn quang loang loáng như tuyết cuốn mưa bay, nhằm cánh tay Bách Đại chém ngang một cái.

Bách Đại giật mình vội lùi lại ba bước xoay người đi một vòng, nhảy tránh sang bên cạnh, rồi phóng một chưởng gạt thế kiếm của đối phương ra, đoạn lại thi triển chiêu thuật "tay không đoạt kiếm" liên tiếp đánh luôn ra ba chiêu kỳ học, nhưng đều bị đối phương tránh thoát.

Về phía Huyền Chân và Đường lão thái lúc này cũng đang gặp cường địch, và cũng phải thi triển những chiêu tuyệt học, gắng sức chống đối.

Cũng may là bọn người áo đen đó tâm thần đã bị khống chế, nên ứng biến vẫn không được linh hoạt như bọn Huyền Chân. Hai bên lực lượng tuy chênh lệch nhiều, mà phe quần hào vẫn chưa đến nỗi bị kém thế.

Trong lúc hai bên đang đánh nhau kịch liệt, chợt nghe từ phía xa xa có tiếng đàn vọng lại, âm điệu dồn dập, hối hả, tưởng như có hàng thiên quân vạn mã đang rầm rầm rộ rộ kéo đến.

Bọn người áo đen nghe thấy tiếng đàn, chân tay chợt trở nên lờ đờ, chậm chạp.

Bách Đại thừa thế, lập tức thoi luôn một quyền vào giữa ngực người áo đen, làm cho gã này bật tung người lên tới bảy, tám thước.

Huyền Chân cũng thi triển luôn hai chiêu tuyệt học, đánh trúng gã hai áo đen.

Bách Nhẫn, Bách Tường mỗi người cũng giết được một. Đường thái thái phóng ám khí hạ được hai tên. Bao Phương cũng nhân dịp nước đục thả câu, đánh bị thương một gã.

Chỉ trong khoảnh khắc, bọn người áo đen đã vừa chết, vừa bị thương quá nửa.

Chợt lại nghe có tiếng hú lanh lảnh đưa lại, những người còn sống sót thốt nhiên thu vũ khí về, cắm đầu chạy miết.

Huyền Chân đưa mắt nhìn theo những bóng người lố nhố, chìm dần vào trong đêm tối, thở dài nói, "Thế lực của Nam Cung thế gia quả không nên coi thường, chỉ riêng bọn người bị mụ thu phục này cũng đủ làm loạn võ lâm rồi."

Nói đến đấy ông tra kiếm vào bao rồi lại tiếp, "Vừa rồi, trong lúc đang đánh nhau, nghe văng vẳng hình như có tiếng đàn từ đâu đưa lại. Bọn người áo đen chân tay tự nhiên trở nên chậm chạp. Người gảy đàn tựa hồ có ý giúp chúng ta, và hắn lại cũng biết rõ mọi việc bí ẩn trong nhà Nam Cung thế gia nữa, nếu ta muốn diệt trừ bọn họ, thế tất phải đi kiếm người ấy trước."

Bách Nhẫn đại sư gật đầu, "Đạo huynh thật cao kiến. Nhưng biết tìm hắn ở đâu?"

Huyền Chân nói, "Tiếng đàn hình như ở phía chính bắc, cách đây cũng không xa lắm. Chúng ta thử đi tìm xem."

Bách Nhẫn nói, "Người ấy giúp chúng ta, nhưng lại hình như không muốn lộ diện, dẫu ta có đi tìm cũng vô ích. Theo ý lão nạp, chúng ta hãy tìm một chỗ nghỉ ngơi, rồi sẽ bàn cách đối phó với nhà Nam Cung thế gia."

Quần hào sau một đêm bôn ba vào sinh ra tử, ai cũng cảm thấy mệt phờ, nên khi nghe Bách Nhẫn đề nghị đều nhiệt liệt tán thành.

Thế là cả bọn lại kéo nhau đi. Trời vừa tờ mờ sáng đã tới thị trấn, liền tìm vào một nhà khách sạn nghỉ chân.

Điếm tiểu nhị thấy một bọn vừa tăng vừa đạo, đàn ông đàn bà, lại có cả mấy người ốm bị cõng trên lưng rầm rộ kéo vào, tuy trong bụng lấy làm kỳ quái, nhưng cũng chạy ra niềm nở tiếp đón, đưa vào khách phòng phía sau.

Một khách sạn ở trong thị trấn nhỏ, khách khứa chỉ toàn là người buôn bán, thuyền thợ phu phen, chủ quán thấy bọn khách lạ, đã đặc biệt ưu đãi, dành cho cả một căn nhà ba gian rộng rãi.

Lúc này trời đã sáng hẳn. Đường lão thái vừa vào tới phòng, liền tháo dây lưng đặt Đường Thông xuống, rồi không nghĩ gì đến sự nghỉ ngơi, lập tức ngầm vận công lực xoa nắn các yếu huyệt trên khắp thân thể chàng.

Thủ pháp điểm huyệt đặc biệt của Nam Cung thế gia, Đường lão thái đã dư biết sức mình không thể giải nổi, những mẫu tử tình thâm, khiến bà chợt nảy ra một ý tưởng kỳ lạ, là cứ thử xoa nắn khắp các yếu huyệt trên thân thể Đường Thông xem hoạ may có tìm được bí quyết gì giải được huyệt không.

Qua một giờ thí nghiệm, Đường lão thái đã xoa nắn hết bảy mươi hai đường huyệt đạo của Đường Thông, mà chàng vẫn mê man bất tỉnh.

Đường lão thái sắc mặt lo lắng bồn chồn, mồ hôi toát ra như tắm.

Quần hào ngồi nhập định dưỡng thần một lúc, đã lần lượt tỉnh dậy, thấy tình hình như vậy, ai cũng thở dài buồn bã. Bách Đại chợt nói, "Trong võ công của phái Thiếu Lâm chúng tôi, có một thủ pháp chỉ dựa vào nội công thâm hậu, thúc đẩy chân khí để giải huyệt mạch bị thương, nhưng không biết đối với thủ pháp điểm huyệt kỳ quái của nhà Nam Cung thế gia có công hiệu gì không? Nếu nữ đàn việt có lòng tin, thì để bần tăng thử thí nghiệm xem sao."

Đường lão thái nói, "Nếu đại sư cứu được tiện nhi, thì ơn ấy lão thân xin minh tâm khắc cốt."

Bách Đại nói, "Nữ đàn việt nói nặng lời quá. Bần tăng đâu dám đảm đương?"

Nói xong bước tới ngồi xuống bên cạnh Đường Thông.

Lúc này bao nhiêu cặp mắt quần hào đều đổ dồn vào Bách Đại đại sư, trên mặt mọi người đều lộ vẻ thiết tha mong đợi.

Bách Đại ho nhẹ một tiếng, rồi giơ tay phải ấn lên bối tâm của Đường Thông. Đường lão thái lau ráo mồ hôi, ngồi cách ra một bên chú ý nhìn thấy sắc mặt Bách Đại dần dần ửng đỏ, bàn tay đặt trên lưng Đường Thông, cũng hơi run run.

Một vệt ánh nắng xuyên qua song cửa sổ, chiếu vào trong nhà, soi rõ những hạt mồ hôi lấm tấm trên trán và sống mũi Bách Đại.

Giữa lúc ấy chợt nghe văng vẳng từ phía xa xa có tiếng người gọi tên Bách Đại.

Bách Đại giật mình, những nét hồng hào trên mặt thốt nhiên biến mất, ông quay lại hỏi Bách Tường, "Sư đệ, hình như có ai gọi tôi, phải không?"

Bách Tường ngẩn người, vội lắng tai nghe, quả nhiên có tiếng gọi pháp hiệu của Bách Đại, giọng nhỏ như tơ bay, lúc dứt lúc nối, liên tiếp không ngừng, bèn đứng bật dậy nói, "Để tôi ra coi xem."

Lúc này ánh nắng đã lan tràn khắp nơi, ngoài đường kẻ đi người lại tấp nập, cái cảm giác âm thầm khủng bố của Nam Cung thế gia gieo vào đầu óc mọi người, cũng theo bóng mặt trời dần dần nhạt bớt. Hình như những sự khủng bố cần phải dựa vào bóng đêm mới có hiệu lực.

Bách Tường len lén đi ra khỏi phòng, quần hào cũng không ai để ý, riêng có Huyền Chân đạo trưởng là hơi cảm thấy kỳ quái, ông đưa mắt trông theo Bách Tuờng, đã toan gọi lại, nhưng chợt nghĩ, "Bách Tường võ công cao siêu, và đang lúc ban ngày ban mặt, không lẽ nhà Nam Cung thế gia dám giở trò gì?" Nên lại để mặc ông ta đi, không nói gì nữa.

Bách Đại lại ngưng tụ công lực, gia sức giải huyệt cho Đường Thông.

Ước chừng nguội một chén trà, Đường Thông đôi mắt chợt nhấp nháy luôn mấy cái, rồi thở ra một hơi dài.

Đường lão thái mừng lắm, vội gọi, "Hài tử! Hài tử!"

Chợt nghe đánh "bịch" một tiếng, cắt đứt câu gọi của Đường lão thái.

Quần hào vội ngoảnh trông ra cửa, thấy Bách Tường đã nằm sóng sượt dưới đất, một chân còn gác lên ngưỡng cửa.

Rõ ràng là ông ta đã cố hết sức lê về đến cửa, rồi vừa tới đấy thì không sao gượng được nữa, đành phải ngã quỵ.

Biến cố xảy ra thực vô cùng đột ngột, làm cho mọi người đều đứng chết sững.

Bách Nhẫn đại sư lặng đi một lúc, mới sực tỉnh, vội chạy ra ôm xốc lấy Bách Tường dậy hỏi, "Sư đệ bị ám toán phải không? Bị thương ở đâu?"

Chợt thấy hai tay lạnh buốt như chạm vào khối đá, Bách Tường hình như đã chết rồi.

Huyền Chân chạy đến lấy tay đập mạnh vào hậu bối Bách Tường chỉ thấy thân hình ông ta run lên, từ từ hé mắt, thều thào nói, "Một bàn tay trắng... trắng đẹp... đẹp... trên bàn tay..."

Ông ta đã dùng hết hơi sức, cố nói cho rõ, nhưng sức đã yếu quá, chỉ lắp bắp được vài câu, rồi ho nhẹ một tiếng, nhắm mắt trút ra hơi thở cuối cùng.

Bách Nhẫn đặt Bách Tường xuống, chắp tay ngang ngực, nhắm mắt lẩm bẩm tụng kinh.

Huyền Chân đạo trưởng sắc mặt trầm trọng, sẽ nói, "Một cánh tay trắng... trắng đẹp... trên bàn tay... Thế là cái gì?"

Bách Đại run run hỏi, "Bách Tường sư đệ chết rồi ư?"

Được lão thái đáp, "Chết rồi!"

Bách Đại thở dài một tiếng, bàn tay đặt trên lưng Đường Thông thốt nhiên đưa lên phía trước, tăng thêm nội lực, nguyên nguyên bất tuyệt dồn vào bối tâm của chàng.

Chợt nghe Đường Thông thở dài một tiếng, duỗi hai tay ra kêu, "Rét chết tôi rồi!"

Đường lão thái mừng quá, nước mắt tuôn ra như suối, sẽ nói với Bách Đại, "Tuyệt nghệ Thiếu Lâm, quả nhiên bất phàm, cái ơn cứu con, lão thân xin ghi vào phế phủ."

Bách Đại từ từ co tay về, nói, "Không cần phải thế."

Nói dứt lời, lập tức đứng lên rảo bước chạy đến bên Bách Tường. Chỉ thấy sắc mặt ông ta trắng bệch, ngón tay co quắp lại, hình như gân cốt trong người đang bắt đầu co rút.

Bách Đại cúi xuống xem xét thật kỹ khắp thân thể Bách Tường, rồi lẩm bẩm nói sẽ, "Bách Tường sư đệ bị một môn nội công kỳ độc làm bị thương."

Nói xong ông ngồi thừ người ra, mặt mày cau có, vừng trán nhăn lại rõ ràng là ông đang cố gắng kiềm chế sự đau đớn.

Bách Nhẫn tụng kinh xong, từ từ mở mắt, hai giọt lệ cũng theo khoé mắt rỏ xuống gò má, lấy tay sẽ vuốt đầu Bách Tường nói, "Sư đệ theo ngã Phật về Tây, tiểu huynh chúc sư đệ thuận buồm xuôi gió."

Bách Đại vùng khóc oà lên, vừa khóc vừa nói, "Sư đệ chết thay cho ta!"

Bách Nhẫn nói, "Sư đệ đừng nên tự trách, sống chết có mệnh, sức người không thể làm gì được."

Bách Đại ôm lấy thây Bách Tường, nức nở gọi, "Nếu sư đệ không chạy ra xem ai gọi tôi thì việc gì đến nỗi bị ám toán?"

Bách Nhẫn lại nói, "Việc đã xảy ra rồi, còn làm sao được nữa? Ta nên lo lắng việc chôn cất cho người chết là hơn. Lão nạp chỉ lạ một điều là võ công của Bách Tường sư đệ ở trong chùa Thiếu Lâm chỉ kém sư đệ một bực, không hiểu tại sao lại bị giết một cách dễ dàng như vậy!"

Huyền Chân thở dài nói, "Chỉ đáng tiếc là lệnh sư đệ chết chóng quá, không kịp nói hết những sự bí mật..."

Bách Nhẫn vội hỏi, "Đạo huynh nghe thấy tiện sư đệ nói những gì?"

Thì ra lúc Bách Nhẫn trông thấy Bách Tường ngã xuống, tâm thần bị xúc động mạnh quá, đến nỗi mê man không nghe thấy mấy câu sau cùng của Bách Tường. Lúc này nghe Huyền Chân nói mới chợt nhớ ra.

Huyền Chân đáp, "Lệnh sư đệ chỉ nói, một cánh tay trắng, một cánh tay rất đẹp..."

Bách Nhẫn rùng mình, tưởng như vừa bị ai thoi một quyền vào đầu, toàn thân run lẩy bẩy nói, "Cái gì? Một cánh tay trắng à?"

Huyền Chân cũng kinh ngạc vì thái độ của Bách Nhẫn, sửng sốt một lát, rồi đáp, "Đúng vậy! Lệnh sư đệ nói có trông thấy một cánh tay trắng tuyệt đẹp..."

Bách Nhẫn tuy đã cố trấn tĩnh, nhưng câu chuyện mấy chục năm qua, đột nhiên lại lởn vởn hiện ra trước mắt. Ông tưởng tượng như đang đứng trong một toà sơn động, mắt trông thấy một bàn tay thon nhỏ nõn nà đang đưa qua đưa lại trong xó tối, miệng lẩm bẩm nói một mình, "Một cánh tay trắng, đúng rồi! Đó là một cánh tay trắng tuyệt đẹp!"

Huyền Chân đạo trưởng sẽ đằng hắng một tiếng, rồi nói, "Bần đạo không hiểu tại sao một cánh tay đẹp lại có thể làm cho lệnh sư đệ bị tử thương được?"

Bách Nhẫn đại sư thần trí như đang chìm đắm vào dĩ vãng, nên không nghe thấy câu hỏi của Huyền Chân. Ông vẫn nhớ mãi cánh tay xinh đẹp cách đây mấy chục năm, đã xuất hiện một lần làm cho Thiên Long đại sư bỗng dưng bị chết một cách cực kỳ bí mật, tới bây giờ lại đến lượt Bách Tường cũng bị chết về cánh tay ma quái đó. Thế là nghĩa gì?

Thấy mặt ông ngơ ngác như mất hồn, Huyền Chân đạo trưởng lại càng ngờ vực liền dằn mạnh tiếng gọi, "Đại sư!"

Bách Nhẫn giật mình, bàng hoàng như người vừa tỉnh cơn mê mộng, thở dài một tiếng rồi hỏi, "Đạo huynh bảo gì?"

Huyền Chân không đáp, chỉ đứng lên thủng thỉnh bước ra cửa. Bách Đại cũng rảo bước chạy theo nói, "Đạo trưởng, chúng ta thử ra ngoài này tra xét xem có thấy gì lạ không?"

Đường thái thái vỗ vào lưng Đường Thông dặn, "Con nằm đây nghỉ một chút nhé!"

Đường Thông ngước đôi mắt lạnh lùng nhìn mẹ, đối với cử chỉ âu yếm của Đường lão thái, hình như không một mảy may xúc động.

Đường lão thái cũng vừa kịp nhận thấy trong con mắt của ái tử chỉ chứa đầy những sự thù hằn và lạnh lẽo, như đứng trước kẻ tử thù, bất giác cũng rùng mình, không dám nhìn mặt hắn nữa.

Cái chết của Bách Tường đại sư làm cho mọi người đều cảm thấy những sự khủng bố chết chóc lại đè nặng trĩu tâm hồn. Huyền Quang đạo trưởng thấy Đường Thông đã tỉnh, bèn cũng giơ tay giải hai đường huyệt đạo trên thân thể Huyền Nguyệt, rồi vừa lay vừa gọi, "Sư huynh!"

Huyền Nguyệt ngồi nhỏm lên, đảo mắt nhìn khắp gian nhà, rồi lại nhìn chằm chằm vào mặt Huyền Quang một lúc lâu, chợt như nghĩ ra, vội hỏi, "Ngươi có phải là Huyền Quang sư đệ không?"

Huyền Quang thấy Huyền Nguyệt đã nhận ra mình, mừng quá vội nói, "Sư huynh, chính tiểu đệ đây..."

Ông mừng đến nỗi nghẹn lời không nói được nữa. Một lát sau mới cố nén cảm xúc, nói tiếp, "Chưởng môn sư huynh cũng cùng đến đây..."

Huyền Nguyệt lạnh lùng hỏi, "Đi đâu rồi?"

Huyền Quang chỉ ra cửa nói, "Sư huynh vừa chạy ra ngoài kia!"

Huyền Nguyệt chẳng nói chẳng rằng, thốt nhiên đứng bật dậy chạy ra cửa. Huyền Quang cũng vội đứng lên chạy theo, gọi với, "Sư huynh, sư huynh đi đâu đấy?"

Huyền Nguyệt chẳng nói chẳng rằng, cứ cắm đầu chạy miết.

Đường lão thái vừa trông thấy ánh mắt của Đường Thông nhìn mình bằng một vẻ căm thù hằn học, nên đã linh cảm thấy nhà Nam Cung thế gia bỗng dưng chịu thả Huyền Nguyệt và Đường Thông về tất nhiên phải có dụng ý, mà dụng ý đó chắc chắn không phải là lợi cho mình.

Bà đằng hắng một tiếng, rồi nhanh như cắt, cầm cây gậy trúc chắn đường Huyền Nguyệt, nói, "Đạo trưởng, thân thể chưa được khoẻ hẳn, hãy tạm ở nhà tĩnh dưỡng đợi lệnh sư huynh về, rồi muốn đi đâu hãy đi."

Huyền Nguyệt trừng mắt nhìn Đường thái thái, sắc diện luôn luôn thay đổi, một lát không biết nghĩ thế nào, lại quay trở vào.

Lúc này Bách Nhẫn đã lấy lại được bình tĩnh, liền ôm thi thể Bách Tường đặt vào góc nhà, sẽ hỏi Đường thái thái, "Lệnh lang đã tỉnh chưa?"

Đường lão thái cười gượng đáp, "Khuyển tử tuy đã tỉnh, nhưng lão thân nhận thấy còn nhiều điểm đáng ngờ lắm."

Bách Nhẫn vừa toan hỏi, thì Huyền Chân đã trở về thấy Huyền Nguyệt đã dời ra chỗ khác, liền hỏi Huyền Quang, "Huyền Nguyệt sư đệ đã tỉnh rồi ư?"

Huyền Quang đáp, "Tiểu đệ vừa giải huyệt cho nhị sư huynh."

Huyền Chân sắc mặt nghiêm chỉnh, thủng thỉnh bước tới bên Huyền Nguyệt, quát lên một tiếng, "Huyền Nguyệt sư đệ!"

Miệng thì gọi, tay đã giơ lên đánh vào huyệt "thiên linh" của Huyền Nguyệt. Huyền Nguyệt vừa kịp ngước mắt nhìn lên, thân hình đã chao đi vài dòng, rồi ngã ngửa ra phía sau. Huyền Quang giơ tay toan đỡ, thì Huyền Chân vội quát, "Đừng chạm vào hắn!"

Huyền Quang vội rụt tay về, cúi đầu lẳng lặng. Đường lão thái nói, "Đạo trưởng tiện tay xin cũng điểm vào huyệt thiên linh của khuyển tử giùm lão thân luôn thể."

Huyền Chân mỉm cười nói, "Hoàn cảnh của chúng ta lúc này chính là đang đối diện với cái chết, bất cứ lúc nào, thần chết cũng kề liền bên cạnh, không đề phòng cẩn thận không được."

Còn đang nói chuyện, chợt lại nghe văng vẳng có tiếng gọi pháp hiệu của Huyền Chân. Quần hào đều sửng sốt bàng hoàng, chưa biết đối phó ra sao, thì Bách Nhẫn đã đứng phắt dậy chạy ra.

Huyền Chân vội rảo bước tiến lên, ngăn lại nói, "Đại sư không nên nóng nảy, hãy thong thả để tìm một kế sách vạn toàn đã."

Bách Nhẫn nói, "Lão nạp phải ra tìm Bách Đại, tính hắn nóng gấp, nghe thấy tiếng gọi thế nào cũng đi tìm. Tôi không thể để mặc hắn chết được."

Huyền Chân nói, "Bách Đại đại sư vừa rồi có nói là còn ra chợ mua một cỗ áo quan, chắc cũng sắp về. Đã vậy để bần đạo cùng đi với đại sư."

Vừa đi được mấy bước, lại không nghe thấy cái tiếng ma quái ấy nữa, mà Bách Đại cũng đang rảo bước chạy về.

Bách Nhẫn thở ra một hơi dài, như người vừa trút được gánh nặng, hỏi, "Sư đệ có nghe thấy tiếng gì lạ không?"

Bách Đại lắc đầu, lắng tai nghe ngóng một lúc rồi nói, "Có tiếng gì lạ đâu?"

Huyền Chân bước ra cửa khách sạn, ngẩng trông lên trời, chỉ thấy da trời trong vắt, trăng sáng vằng vặc, ngoài đường kẻ đi người lại như mắc cửi, tuyệt không thấy gì lạ cả, bất giác cau mày lẩm bẩm, "Quái nhỉ! Không lẽ trên đời này có ma thật chăng?"

Bách Đại vội hỏi, "Đạo trưởng, có phải vừa rồi lại nghe có tiếng gọi phải không?"

Thấy Bách Đại nói to quá, Huyền Chân đạo trưởng sợ những người trong khách sạn chú ý, vội nói, "Chúng ta hãy vào cả trong nhà, rồi sẽ nói chuyện."

Rồi giắt tay Bách Nhẫn đi vào, Bách Đại theo sau, hậm hực nói, "Chắc cái tiếng đó lại kêu pháp hiệu của bần tăng phải không?"

Huyền Chân cười nói, "Lần này thì "hắn" tìm bần đạo."

Bách Đại nói, "Đạo trưởng có gan dám đi không? Nếu đạo trưởng đi bần tăng cũng xin liều mạng đi theo."

Huyền Chân nói, "Chỉ đáng tiếc là từ nãy đến giờ không nghe thấy tiếng gọi nữa. Nhưng đại sư không lo, bần đạo dám chắc là "nó" còn theo đuổi nữa, chứ chưa chịu thôi đâu. Lát nữa ta lên đường, "nó" sẽ lần lượt gọi đủ tên từng người cho mà coi."

Bách Đại nghiến răng, cười nhạt, "Vô luận thế nào tôi cũng phải bắt cho kỳ được tên sát nhân vô sỉ đó, để báo thù cho sư đệ."

Lúc này bầu không khí trong phòng đã trở nên nghẹt thở, trong lòng một người đều nặng trĩu một mối lo sợ thấp thỏm. Duy có Bách Đại vì quá đau đớn về cái chết của sư đệ nên sự căm hờn đã lấn cả sợ hãi.

Huyền Chân chắp tay nói với Bách Nhẫn, "Đại sư, chúng ta không nên nấn ná ở đây lâu nữa!"

Bách Nhẫn đại sự gật đầu nói, "Bây giờ lão nạp phải về Trung Sơn, nên các vị có nhã hứng muốn du ngoạn Trung Sơn thì lão nạp xin hoan nghênh hết sức."

Huyền Chân nói, "Tình thế lúc này chúng ta chỉ nên tụ chớ không nên tán, bần đạo xin vui lòng theo đại sư cùng đi."

Đường lão thái cũng nói, "Lão thân cũng xin đồng ý."

Mọi người đang trò chuyện, xảy nghe có tiếng giày lẹp xẹp đi tới, rồi một chàng thiếu niên tuổi trạc mười sáu, mười bảy, mặc quần áo đen, lưng đeo trường kiếm sừng sững hiện ra trước cửa.

Chàng thiếu niên đảo mắt nhìn quanh phòng một lượt, rồi hỏi, "Trong các vị đây, vị nào là Huyền Chân đạo trưởng?"

Huyền Chân đạo trưởng nhìn chàng thiếu niên một lát, rồi đáp, "Bần đạo là Huyền Chân, xin thí chủ cho biết quý tính?"

Chàng thiếu niên không trả lời câu hỏi của Huyền Chân, lại nói, "Tại hạ vâng lệnh Nhâm tiên sinh, mời các vị đến chơi nói chuyện."

Huyền Chân giật mình vội hỏi, "Nhâm tướng công hiện nay ở đâu?"

Thiếu niên nói, "Cũng gần đây thôi, nhưng chỗ đó, tại hạ khó nói tên lắm."

Huyền Chân đưa mắt nhìn Bách Nhẫn nói, "Ta thử đi xem sao."

Đường lão thái hỏi, "Nhâm tướng công có phải là chàng thanh niên mặc áo xanh mà lão thân đã gặp ở Tam Nguyên Quan dạo nọ không?"

Huyền Chân đáp, "Chính phải đó!"

Chàng thiếu niên tỏ vẻ sốt ruột, giục, "Nhâm tiên sinh dặn tôi mời các vị lại ngay cho, càng sớm càng tốt."

Huyền Chân đạo trưởng đứng lên trước nhất. Mọi người cũng đều lục đục đứng lên. Bách Đại bế thi thể Bách Tường, Đường lão thái khoá mạch môn của Đường Thông rồi vác lên vai. Huyền Quang cõng Huyền Nguyệt, tất cả đều theo chàng thiếu niên đi ra cửa quán.

Lúc này Bách Đại đã gọi được một chiếc xe ngựa, đặt thi thể Bách Tường và hai người mất trí lên. Bách Đại đi sau áp tải.

Huyền Chân vốn tính cẩn thận, nên trong lúc đi đường, mắt vẫn luôn luôn theo dõi từng cử chỉ của chàng thiếu niên.

Đi ước chừng sáu, bảy dặm thì tới một khoảng vườn rau, rộng chừng hai mẫu. Giữa vườn, dưới gốc cây bạch đào thân to tay ôm, có một nếp nhà tranh đã lâu đời, xung quanh trồng đủ các thứ rau, giữa chỉ chừa một khoảng đất hẹp, vừa vặn cho một người đi. Lúc này có một gã đại hán mặc áo rách đi chân đất, đang đạp thuỷ xa tưới rau.

Bách Nhẫn khẽ bảo Bách Đại, "Sư đệ cũng cùng vào một thể."

Bách Đại nói, "Còn thi thể Bách Tường sư đệ để đây ai trông?"

Bách Nhẫn nói, "Trên đời này chưa từng có ai ăn trộm xác chết bao giờ. Cứ để đấy cũng không sao."

Bách Đại vâng lời đi vào. Đường thái thái toan ẵm Đường Thông đi theo, Huyền Chân nói, "Ta hãy vào gặp Nhâm tướng công đã, rồi ra đón bọn họ vào sau cũng không muộn."

Đường thái thái hiểu ý Huyền Chân, bèn thôi không nói gì nữa, chỉ ngầm vận điều chân khí, phòng xa ngộ lỡ người trong ngôi nhà tranh kia không phải là Nhâm Vô Tâm, thì sẽ lập tức động thủ.

Trong khi trò chuyện, đã đi gần tới nếp nhà tranh. Gã đại hán đạp thuỷ xa thấy quần hào đi vào, vẫn cúi đầu mải miết làm việc, hình như không biết là có khách.

Hồi thứ mười chín

Đã có chủ trì

Chàng thiếu niên đang đi, chợt quay lại nói, "Xin các vị hãy đứng ngoài này chờ một lát."

Nói xong đẩy hai cánh cửa gỗ khép kín, bước vào trong nhà, một lát sau lại trở ra, chắp tay nói, "Xin mời các vị vào."

Quần hào lũ lượt kéo vào, chỉ thấy trong nhà có một chiếc bàn vuông bằng gỗ mộc, trên bày la liệt rượu thịt, hơi rượu bốc thơm lừng.

Huyền Chân đưa mắt nhìn khắp xung quanh, không thấy Nhâm Vô Tâm đâu cả, trong bụng đang nghi nghi hoặc hoặc, chợt lại thấy phía sau bức rèm cỏ trong góc nhà bước ra một chàng thanh niên mặc áo lam.

Người này mi thanh mục tú, mặt phấn môi son, cử chỉ tiêu sái, chính là Nhâm Vô Tâm, người mà quần hào đang mong được gặp.

Cánh tay trái của chàng quấn một giải sa trắng buộc treo lên cổ, hình như bị thương nặng.

Huyền Chân giật mình hỏi, "Cánh tay của các hạ..."

Nhâm Vô Tâm mỉm cười ngắt lời, "Chỉ bị thương xoàng, không sao. Xin mời các vị ngồi."

Quần hào lần lượt ngồi xuống. Nhâm Vô Tâm nâng chén rượu cười nói, "Trước hết hãy xin mời các vị cạn chén đã."

Nói xong ngửa cổ uống luôn một hơi. Bách Nhẫn nói, "A di đà Phật! Bần tăng kiêng rượu, xin đa tạ thịnh ý của Nhâm tướng công."

Nhâm Vô Tâm nói, "Xin mời các vị tự nhiên đi cho, tại hạ không biết khách sáo."

Quần hào lúc này trong bụng ai cũng nặng như chì, còn tưởng gì đến ăn uống, lại thấy Nhâm Vô Tâm chuyện trò vui vẻ ăn uống ngon lành, Huyền Chân đạo trưởng sốt ruột, không sao chờ được, liền chắp tay hỏi, "Nhâm tướng công triệu chúng tôi tới đây, chắc phải có sự gì quan trọng muốn chỉ giáo?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Đúng vậy! Tại hạ quả có việc trọng yếu muốn bàn với các vị."

Bách Nhẫn đại sư hỏi, "Có phải vì chuyện nhà Nam Cung thế gia không?"

Nhâm Vô Tâm mỉm cười, "Đúng vậy! Chính là chuyện Nam Cung thế gia!"

Ngừng một lát, chàng chợt nghiêm sắc mặt nói tiếp, "Tình thế lúc này, tuy ta đi chậm một bước, song cũng chưa đến nỗi hoàn toàn tuyệt vọng."

Huyền Chân hỏi, "Người dụ bọn áo đen tập kích ở trong hầm đá nhà Nam Cung thế gia có phải là các hạ không?"

Nhâm Vô Tâm mỉm cười, "Không phải tại hạ, nhưng cũng có liên quan với tại hạ."

Huyền Chân ngừng một lát lại hỏi, "Người gảy đàn trên bờ sông Bạch Hà để dụ bọn áo đen thoái lui, phải chăng cũng là các hạ?"

Nhâm Vô Tâm gật đầu, "Đạo trưởng đoán đúng lắm. Người đó chính là tại hạ."

Huyền Chân hỏi, "Các hạ hình như biết rõ mọi việc trong nhà Nam Cung thế gia lắm thì phải?"

Nhâm Vô Tâm chỉ tủm tỉm cười, kế lại đưa mắt nhìn khắp mọi người rồi nói, "Tại hạ mời các vị tới đây là vì có hai việc quan trọng muốn cùng các vị bàn tính. Tình hình trong nhà Nam Cung thế gia các vị đã được trông thấy tận mắt, nhưng lúc này họ chưa chuẩn bị phát động, một là vì Nam Cung phu nhân, người chủ mưu vụ này công hành chưa viên mãn, có mấy món tuyệt kỹ vẫn chưa luyện xong. Hai là vì những người bị Nam Cung phu nhân dùng dược vật khống chế trong "Mê hồn lao", hoả hầu chưa đủ. Cứ theo những tin tức mà tại hạ thâu lượm được thì họ còn phải mất một thời gian khoảng chừng nửa năm nữa, việc chuẩn bị mới hoàn thành. Chừng đó trong võ lâm sẽ có một cuộc tàn sát cực kỳ thảm khốc, mà hai môn phái lớn Thiếu Lâm và Vũ Đương sẽ là mục tiêu thứ nhất trong dự mưu của họ."

Huyền Chân đạo trưởng thở dài nói, "Việc này quan hệ tới vận mệnh của toàn thể giới võ lâm. Mặc dù mục tiêu thứ nhất của Nam Cung thế gia không phải là hai phái Thiếu Lâm và Vũ Đương, mà bần đạo đã biết cũng không thể khoanh tay ngồi yên được. Nhâm tướng công áo vải hành hiệp giang hồ, bần đạo vẫn lấy làm khâm phục. Nếu tướng công đứng ra chủ trì việc này, thì phái Vũ Đương kể từ bần đạo trở xuống đều tuân theo mệnh lệnh của tướng công."

Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói, "Đạo trưởng quá nặng lời, ba năm nay tại hạ không một giờ một khắc nà không chú ý tới mọi hành động của nhà Nam Cung. Dẫu có mấy người bạn đồng tâm đã dốc hết tâm lực giúp đỡ tại hạ nhưng rút cục cũng chỉ vì thế cô lực bạc, không thể phòng phạm chu đáo được. Mà Nam Cung phu nhân lại là một người thâm hiểm giảo hoạt, tâm cơ cực giỏi, y đạo võ công đều đã tới trình độ hỏa hầu, trong ngoài đề phòng lại nghiêm mật từng ly từng tý, nên tại hạ tuy đã dò biết việc mấy năm gần đây trong võ lâm có rất nhiều nhân vật cao thủ bỗng dưng mất tích, đều có liên can đến nhà Nam Cung thế gia, nhưng thật không biết là những người ấy vẫn còn sống và đã bị Nam Cung thế gia thu dụng."

Bách Nhẫn đại sư nói, "A di đà Phật! Nam Cung phu nhân hình như không gì là không giỏi, có thể võ công tài trí của bà ta còn hơn cả Nam Cung Minh ngày trước."

Nhâm Vô Tâm nói, "Có thế thật. Nam Cung phu nhân quả là một kỳ tài hiếm có trong võ lâm. Y đạo, võ công thế gian vô địch. Chẳng những thế mà thôi, bà ta còn tinh nghề bói toán, độn giáp, bụng chứa đầy thuật lạ mưu cao, một thân gồm đủ cả văn, võ, lang, độc..."

Đường thái thái thở dài nói, "Cứ nghĩ đến cái không khí âm trầm, khủng bố trong "Mê hồn lao" lúc nãy, lão thân vẫn thấy rùng mình, rợn tóc gáy."

Bách Đại tỏ vẻ sốt ruột, nói, "Bây giờ ta phải tìm phương pháp gì đối phó với nhà Nam Cung thế gia. Chỉ ngồi bàn suông mãi thì có ích gì?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Đại sư nói đúng, thì giờ chúng ta không còn mấy. Nếu đợi Nam Cung phu nhân chuẩn bị xong xuôi, thì chúng ta không còn cơ hội áp chế được họ nữa. Xin các vị trù tính ngay cho."

Huyền Chân trầm ngâm một lúc, rồi thở dài nói, "Nhâm tướng công đã có bụng cứu thế, lại biết rõ những sự bí mật của nhà Nam Cung thế gia từ lâu, sao lại để dùng dằng tới mãi bây giờ? Phải chi ba năm trước, tướng công tuyên bố ngay cho thiên hạ biết rõ âm mưu gian hiểm của mụ thì chẳng những ta đã kịp thời ngăn chặn được bao nhiêu sự đáng tiếc xảy ra cho võ lâm, mà tình hình cũng không đến nỗi nghiêm trọng như ngày nay!"

Nhâm Vô Tâm gượng cười nói, "Đạo trưởng trách như vậy rất phải, chẳng qua cũng là lỗi bởi tại hạ vô tài, không phát giác được âm mưu của họ từ trước. Những sự bí ẩn trong "Mê hồn lao" tại hạ cũng chỉ mới biết được chừng một tháng nay. Hồi ấy đạo trưởng đang thời kỳ bế quan, tại hạ đã hai lần bồi hồi ở trước Tam Nguyên Quan, mà không dám vào quấy nhiễu, đành phải nấn ná chờ đến ngày đạo trưởng công hành viên mãn. Ngay lúc đó nếu tại hạ nói thẳng ra, e rằng đạo trưởng không tin, nên phải kiếm cách dụ các vị tới đây, để các vị có dịp chứng kiến tận mắt những âm mưu ghê gớm của Nam Cung phu nhân."

Đường lão thái chợt nhớ ra một việc, vội nói, "Nhâm tướng công, con tôi bị hãm trong Mê hồn lao, tuy lão thân đã cứu ra được, nhưng nó bị trúng thuốc độc của Nam Cung phu nhân, đến nỗi mất hết trí nhớ, tướng công đã biết dùng tiếng đàn dẫn dụ được bọn người áo đen, thì chắc cũng biết cách khôi phục thần trí cho khuyển tử?"

Nhâm Vô Tâm do dự một lát, rồi nói, "Điều ấy cũng khó đoán định được lắm. Nhưng lão thái cứ đưa lệnh lang vào đây, tại hạ thử cố gắng xem sao."

Đường thái thái vội đứng lên chạy ra cửa. Huyền Chân cũng sẽ bảo Huyền Quang, "Ra bế sư huynh ngươi vào đây!"

Huyền Quang vâng lời, tất tả đi ngay. Bách Đại bồn chồn hỏi Bách Nhẫn, "Tiểu đệ cũng muốn nhờ Nhâm tướng công xem mạch cho Bách Tường một thể có được không?"

Bách Nhẫn mỉm cười buồn bã, "Ừ! Thì cứ thử xem."

Bách Đại lập tức đứng lên chạy vụt ra xe. Một lát sau cả ba người lại bế người ốm, người chết vào trong ngôi nhà tranh.

Nhâm Vô Tâm nhìn ba người một lúc rồi nói, "Các vị hãy giải huyệt đạo cho họ, rồi đặt họ nằm xuống đất."

Đường lão thái và Huyền Quang y lời giải huyệt, đặt nạn nhân xuống đất, rồi lui ra một bên.

Nhâm Vô Tâm thò tay vào mình lấy ra một chiếc sáo bằng ngọc đưa lên miệng thổi.

Tức thì một luồng thanh âm từ trong ống sáo từ từ cất lên.

Taytrái của chàng bị quấn băng đeo lên cổ, vận dụng tuy khó khăn, nhưng không ảnh hưởng gì tới tiếng sáo.

Âm thanh trước còn thấp, sau mỗi lúc một cao dần, cao dần, liên miên bất tuyệt.

Huyền Nguyệt mở mắt ra trước, nhỡn quang từ từ đưa khắp gian nhà một lượt, rồi thốt nhiên đứng phắt lên, ngơ ngác nhìn quanh, đối với bọn người trước mặt, hình như không nhận biết ai cả.

Đường Thông cũng vươn hai cánh tay đứng dậy.

Tiếng sáo lúc này đã biến đổi, âm điệu mỗi lúc một nhanh, khi thì ào ào như thác cuốn, lúc lại rầm rập như ngựa phi cực kỳ hỗn loạn.

Quần hào trong bụng cũng cảm thấy rung động, chân tay ngứa ngáy, nhấp nhổm chỉ muốn đánh nhau, tưởng như kẻ thù đang đứng ở trước mặt. Ai nấy đều vội vàng, vội đề chân khí điều hoà hơi thở, cho tâm trí đỡ bị kích thích.

Chừng nghe Đường Thông quát lên một tiếng, vung quyền đánh Huyền Nguyệt. Huyền Nguyệt phản ứng cực kỳ chậm chạp, bị Đường Thông đánh trúng một quyền, lập tức bật lùi sang bên cạnh mấy bước.

Nhưng một quyền của Đường Thông đã lôi cuốn được Huyền Nguyệt giơ chưởng lên đánh lại, đây là chiêu "Thần long xuất vân".

Hai người lập tức xông vào ác đấu, quyền qua cước lại, không ai chịu nhường ai.

Huyền Nguyệt công lực thâm hậu, nên chỉ qua mười chiêu là Đường Thông đã lộ vẻ luống cuống, đành chỉ xoay quanh đỡ đòn, không còn đủ sức đánh lại nữa. Đường thái thái thấy thế sợ quá vội kêu, "Nhâm tướng công, khuyển tử và Huyền Nguyệt đạo trưởng thần trí đều không được sáng suốt, nếu cứ để đánh nhau mãi rất có thể nguy tới tính mệnh. Tướng công nên cho họ nghỉ đi."

Nhâm Vô Tâm lờ như không nghe tiếng, vẫn gia công thổi sáo như cũ.

Huyền Chân đạo trưởng thấy Huyền Nguyệt ra đòn mỗi lúc một nặng, Đường Thông đã luôn luôn bị dụ vào thế hiểm, trong bụng cũng lo lỡ Huyền Nguyệt quá tay đánh chết Đường Thông thì chẳng khỏi gây thù với Đường lão thái, bèn đứng lên gọi to, "Nhâm tướng công thôi đi, đừng để họ đánh nhau nữa!"

Tiếng địch của Nhâm Vô Tâm lúc này chợt lại chuyển sang điệu khác, đang từ cấp tốc, sát phạt, đổi ra hoà hoãn, âm trầm, làm cho hai địch thủ đang đánh nhau say sưa hăng hái, bỗng nhiên khí thế trở nên chậm chạp, lờ đờ.

Quyền cước của hai người hình như cũng chuyển hướng theo điệu sáo, cứ từ từ chậm dần, rồi ngừng cả lại.

Nhâm Vô Tâm cất sáo đi, rồi lắc đầu, thở dài nói, "Hỏng, hai người này trúng độc quá nặng, tâm thần họ đã bị Nam Cung phu nhân khống chế mất rồi."

Đường lão thái vội hỏi, "Không còn phương pháp gì chữa được nữa sao?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Phương pháp không phải là không có, nhưng cần phải mất một thời gian khá dài."

Huyền Chân đạo trưởng hỏi, "Chừng độ bao lâu?"

Nhâm Vô Tâm đáp, "Khoảng chừng nửa năm, tối thiểu cũng phải ba tháng."

Bách Đại chợt hỏi xen, "Sư đệ của bần tăng, chẳng hay còn cứu được không?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Để tại hạ xem thương thế ra sao đã."

Nói xong đứng dậy tới bên Bách Tường, áp tai vào ngực nghe ngóng một hồi, rồi lắc đầu nói, "Bách Tường đại sư tắt thở đã lâu, dù có thuốc tiên cũng không sao cứu được nữa."

Mọi người nghe xong đều lặng lẽ cúi đầu. Bách Nhẫn trầm ngâm một lúc rồi nói, "Lão nạp còn một việc, muốn phiền Nhâm thí chủ điều tra hộ."

Nhâm Vô Tâm nói, "Đại sư cứ cho biết."

Bách Nhẫn nói, "Vị sư đệ của lão nạp đây, ở trong chùa Thiếu Lâm cũng đáng kể là một trong những tay cao thủ, vô luận tay võ công cao cường đến đâu, cũng không thể chỉ một chưởng đã có thể giết nổi hắn. Vậy mà lần này hắn bị chết một cách rất dễ dàng, trong mình lại không có thương tích. Lão nạp thật không hiểu ra sao cả!"

Nhâm Vô Tâm nói, "Bách Tường đại sư ra khỏi khách sạn chừng bao lâu?"

Bách Nhẫn đáp, "Chỉ chừng nguội chén nước trà."

Kế đó ông lại thuật hết tình hình trong lúc Bách Tường bị nạn cho Nhâm Vô Tâm nghe.

Nhâm Vô Tâm nghe xong, trầm ngâm một lát rồi nói, "Những sự kỳ quái trong vụ này nói ra chỉ khiến cho người ta loạn óc. Tại hạ xưa nay vốn không tin là trên đời này có ma quỷ, nhưng những sự kỳ quái trong nhà Nam Cung thế gia quả còn đáng sợ hơn ma quỷ. Ba năm nay tại hạ đã tận tâm tận lực mà vẫn không sao điều tra ra manh mối."

Chàng ngửa mặt lên trời thở dài, rồi lại tiếp, "Nhưng tại hạ đã xác định được một điều là những người bị cho vào áo quan, giấu trong hầm lạnh của nhà Nam Cung thế gia, không phải chỉ bị dược vật khống chế tinh thần mà thôi đâu. Cái cơ quan huyền bí ở trong đó, thật khiến cho người ta nghĩ nát óc cũng không sao tìm ra giải đáp."

Huyền Chân nói, "Bần đạo tuy đã được trông thấy tận mắt cảnh tượng quái dị khủng khiếp trong "Mê hồn lao", nhưng nếu ai bảo trên thế giới này có linh hồn, bần đạo cũng nhất quyết không tin."

Bách Nhẫn nói, "Tuy nhiên những việc kỳ quái trong nhà Nam Cung thế gia vẫn làm cho đầu óc lão nạp lúc nào cũng lẩn quẩn một mối nghi hoặc không sao giải thích được."

Nhâm Vô Tâm chợt nghiêm sắc mặt lại, nói, "Quái do tâm sinh ra, các vị không nên để cho Nam Cung phu nhân chăng một màn lưới thần bí mà lôi cuốn mình vào tà đạo..."

Chàng ngừng một giây, rồi lại thở dài nói tiếp, "Và nếu các vị bị mê hoặc bởi cái không khí thần bí của nhà Nam Cung thế gia, thì tức là các vị đã bị trúng kế của Nam Cung phu nhân rồi đó!Chí bị họ đoạt,khí bị họ áp chế, chỉ sợ sau này các bạn đồng đạo võ lâm đều bị mê hoặc bởi cái không khí thần bí đó, mà lần lượt rơi cả vào kiếp nạn. Do thế tại hạ xin yêu cầu các vị không nên đem những cái đã trông thấy ở trong "Mê hồn lao" truyền bá ra ngoài, cố hết sức tránh những lời tuyên truyền xuyên tạc khiến cho Nam Cung phu nhân có cơ hội lợi dụng được."

Đường lão thái nói, "Nhâm tướng công nói dẫu phải, nhưng khốn nỗi những điều quái dị mắt thấy tai nghe vừa rồi chẳng khác gì cái bóng ma ám ảnh bên mình, không sao xua đuổi được."

Nhâm Vô Tâm gật đầu nói, "Sở dĩ tại hạ dụ các vị tới nhà Nam Cung thế gia, mục đích cũng là để các vị được trông thấy tận mắt cái kiếp nạn mà trăm năm nay, trong lịch sử võ lâm chưa từng thấy qua. Nhân dịp cùng các vị tính kế đối phó với kẻ cường địch, và cũng để giải bớt những mối mê hoặc đang nhen nhúm trong lòng mỗi vị."

Ngừng một lát, chàng lại tiếp, "Những người bị bắt vào nhà Nam Cung thế gia, mới đầu đều phải uống một thứ thuốc độc, điều đó quả có thật. Vì thế tại hạ mới phải mời mấy vị võ lâm tinh thông y học nghiên cứu xem thứ thuốc Nam Cung phu nhân dùng cho các nạn nhân uống có những chất gì, để liệu chế thuốc giải..."

Bách Nhẫn đại sư nói, "Nhâm thí chủ hiệp cốt nhân tâm, vì võ lâm thiên hạ trù mưu tính kế, hao tổn tâm huyết thật khiến cho chúng tôi phải xấu hổ đến chết."

Nhâm Vô Tâm nói, "Đại sư không nên quá khiêm tốn, sau này tại hạ chắc còn phải nhờ đại sư nhiều việc."

Bách Nhẫn nói, "Nhâm thí chủ muốn sai khiến việc gì, lão nạp xin hết sức."

Nhâm Vô Tâm nhìn Huyền Chân và Đường lão thái, rồi hỏi, "Hai vị định đi đâu bây giờ?"

Huyền Chân nói, "Bần đạo định về Vũ Đương, kén lấy mấy tên đệ tử võ công hơi cao một chút cho luyện tập trận kiếm, đề phòng sau này phải đối phó với Nam Cung thế gia."

Đường lão thái nói, "Tôi phải về Tứ Xuyên chữa bệnh cho khuyển tử xong đã, rồi sẽ liệu sau."

Nhâm Vô Tâm nói, "Bệnh của lệnh lang trước hết phải tìm thuốc giải độc, rồi để cho tĩnh dưỡng ít lâu, thần trí sẽ dần dần hồi phục. Nếu thái thái có lòng tin, xin cứ giao lệnh lang cho tại hạ. Tại hạ nguyện xin hết sức chạy chữa. Vả tâm thần lệnh lang đã bị Nam Cung phu nhân khống chế, để ở bên mình cũng nguy lắm."

Đường thái thái ngẩn người, chưa biết nói sao. Nhâm Vô Tâm đã quay sang nói với Huyền Chân, "Huyền Nguyệt đạo trưởng cũng cùng một căn bệnh đó. Nếu đạo trưởng vui lòng, xin cứ để tại hạ đưa tới một chỗ bí ẩn, an toàn, tìm cách điều trị."

Chàng nói xong liền đứng lên, nhìn khắp mọi người, rồi thủng thỉnh tiếp, "Tại hạ còn một điều cần phải thưa với các vị, là từ nay trở đi, dù có thấy tin tức gì lạ, xin các vị cũng đừng sốt ruột, nhất là hễ thấy kẻ nào khả nghi, thì tuyệt đối không nên để họ tới gần. Bây giờ tại hạ có chút việc phải đi, xin các vị bảo trọng."

Nói dứt lời, liền bước lại phía Đường Thông và Huyền Nguyệt, giắt tay hai người đi vào nội thất.

Quần hào yên trí là chàng đưa hai bệnh nhân vào phòng rồi lại trở ra, bất đồ chờ mãi không thấy, đều lấy làm quái lạ. Bách Đại sốt ruột gọi to, "Nhâm tướng công! Nhâm tướng công!"

Vừa gọi vừa rảo bước đi vào, chỉ thấy cửa sổ trong phòng mở toang, còn Nhâm Vô Tâm thì đã biến đâu mất hút. Bất giác đứng ngẩn người ra.

Bách Nhẫn chờ lâu không thấy Bách Đại trở ra, sợ lỡ xảy ra sự gì chăng, bèn cùng vội chạy theo vào, chỉ thấy Bách Đại một mình đứng tựa cửa sổ, trông ra ngoài vườn, vẻ mặt ngơ ngác, liền hỏi, "Bách Đại sư đệ, Nhâm tướng công đâu?"

Bách Đại quay đầu lại đáp, "Không biết hắn đi đâu mất rồi. Con người thật là kỳ quái!"

Bách Nhẫn nói, "Người này khác nào như con thần long, thấy đầu chẳng thấy đuôi. Đã là kỳ nhân, thì hành động cũng ly kỳ, lạ gì mà lạ?"

Lúc này quần hào cũng đã lục tục kéo vào, trông qua cửa sổ chỉ thấy lúa xanh mơn mởn, đồng ruộng mênh mông, chẳng thấy hình ảnh Nhâm Vô Tâm đâu nữa.

Huyền Chân đạo trưởng nói, "Chúng ta cũng nên đi đi thôi!"

Bách Nhẫn đại sư hỏi, "Đạo trưởng định về Vũ Đương ử?"

Huyền Nguyệt nói, "Bây giờ bần đạo hãy trở về Tam Nguyên Quan, hai tháng nữa sẽ xin xuất lĩnh đệ tử môn hạ tới chùa Thiếu Lâm tương hội với đại sư, cùng tính mưu cự địch."

Nói xong nhún mình nhảy qua cửa sổ mà đi. Huyền Quang cũng theo luôn.

Bách Nhẫn nhìn theo bóng hai người đã khuất, mới quay lại hỏi Đường lão thái, "Thái thái định đi đâu?"

Đường lão thái đáp, "Lão thân định về Tứ Xuyên trước đã, rồi tiện thể triệu tập các bạn võ lâm đồng đạo trong Xuyên, cùng hợp lực tiểu trừ Nam Cung thế gia."

Bách Nhẫn nói, "Sau hai tháng nữa bần tăng sẽ chờ đón đại giá ở đỉnh núi Thiếu Thất."

Đường lão thái nói, "Lão thân xin cố gắng đúng hẹn."

Bao Phương chợt cất tiếng nói xen, "Huynh đệ tại hạ đang nằm dưỡng thương ở Xuyên, tại hạ xin theo Thái thái về thăm một thể."

Đường lão thái gật đầu, rồi cả hai cùng nhảy qua cửa sổ mà đi.

Bách Nhẫn khép hai cánh cửa lại, rồi bảo Bách Đại, "Chúng ta cũng đi thôi!"

Nói xong quay mình bước ra khỏi nội thất. Nhưng khi vừa bước tới cửa phòng, chợt giật mình đứng sững lại.

Thì ra ông đã trông thấy một thiếu nữ mặc áo trắng ngồi trên chiếc ghế gỗ, quay lưng vào nhà trong.

Bách Nhẫn trầm giọng hỏi, "Ai đó?"

Người con gái hình như không nghe thấy câu hỏi, vẫn lẳng lặng ngồi yên. Bách Đại nghiêng mình lách qua Bách Nhẫn, bước lên trước, ngầm tụ công lực, quát hỏi, "Ngươi điếc hay sao thế?"

Thiếu nữ thủng thỉnh đáp, "Tôi nghe thấy rồi!"

Bách Đại ngầm vận "kim cương quyền lực" giơ tay phải lên nói, "Bần đạo chỉ cần đánh sẽ một quyền là cô nương bị thương ngay tức khắc."

Thiếu nữ thản nhiên, lạnh lùng đáp, "Chúng ta không thù không oán, tại sao ngươi muốn đánh ta?"

Bách Đại ngẩn người ra, từ từ buông tay xuống nói, "Nữ thí chủ nói đúng. Nhưng sao bần tăng hỏi lại không trả lời?"

Thiếu nữ hỏi lại, "Hai vị sư phụ có phải ở chùa Thiếu Lâm cả không?"

Bách Nhẫn đáp, "Cô nương đoán đúng. Bần tăng là Bách..."

Vừa nói tới đấy, chợt lại nghĩ đến cái chết của Bách Tường, bèn vội dừng lại, thi triển công phu "truyền âm nhập mật", nói với Bách Đại, "Sư đệ để ý giám sát cẩn thận, để tiểu huynh vòng ra trước mặt thị xem sao."

Bách Đại gật đầu, bước lên một bước, quyền kim cương đề tụ đủ mười thành công lực, chỉ chờ dịp phóng ra.

Bách Nhẫn vòng ra trước mặt thiếu nữ, đứng cách nàng chừng bốn, năm thước.

Người con gái hình như không muốn cho Bách Nhẫn trông thấy mặt, liền cúi gầm đầu xuống nên chỉ trông rõ một nửa mặt về phía bên ngoài.

Bách Nhẫn cau mày, chắp tay nói, "Nữ thí chủ nếu không phải là người trong Nam Cung thế gia thì tại sao lại không dám đường hoàng nhìn thẳng vào mặt người khác?"

Người con gái từ từ đứng lên, bước ra cửa, vừa đi vừa nói, "Nếu hai vị không muốn cho tôi ở đây, thì tôi xin cáo lui."

Bách Nhẫn xoay mình đứng chắn phía trước nói, "Nữ thí chủ đừng đi vội."

Thiếu nữ đứng lại hỏi, "Để làm gì?"

Bách Nhẫn nghiêm nét mặt nói, "Nếu cô nương không cho bần tăng biết rõ quý danh, và mục đích đến đây có việc gì, thì đừng mong ra khỏi ngôi nhà này."

Bách Đại nóng ruột, không nhịn nổi, liền bước ngang ra một bước, nắm lấy cổ tay trái thiếu nữ. Thiếu nữ vội rút tay về, tránh thoát.

Bách Đại bắt hụt, lại đưa tay trái lên, chặn ngang ngực hộ thân, tay phải phóng ra một chưởng.

Thiếu nữ thân pháp nhanh nhẹn, chỉ sẽ uốn lưng ong xoay đi nửa vòng là lại tránh thoát hai thế của đối phương.

Bách Đại giơ tay trái đánh ra, tay phải thi triển thủ pháp "Thập nhị cầm long" là một môn tuyệt kỹ của Thiếu Lâm, nắm lấy yếu huyệt uyển mạch của thiếu nữ, chỉ trong thoáng chốc tay trái phóng luôn năm chiêu, tay phải ba lần biến thức.

Thiếu nữ áo trắng bị tả chưởng hữu chỉ của Bách Đại tấn công tới tấp, bắt buộc nàng phải phản kích để giải vây. Nàng lật cổ tay ngọc lên, mấy ngón tay thon nhỏ luôn luôn điểm ra, ngăn giữ mạch huyệt, không cho thế công của Bách Đại tới gần.

Thủ pháp đánh bằng mấy ngón tay đó, đã làm cho Bách Đại choáng người. Ông cảm thấy những chỗ bị ngón tay của đối phương điểm vào, toàn là những yếu huyệt cần phải tránh cả, làm cho thủ pháp Cầm long của ông tưởng như không sao có thể thi triển được.

Nhưng Bách Đại ứng biến rất nhanh, nên chỉ qua vài đòn chiến diện, ông đã kịp nhận thấy thủ pháp của thiếu nữ tuy quỷ dị khôn lường, có thể hoá giải được những công thế kỳ ảo của mình, nhưng hình như cũng chỉ có một chiêu cứ đổi đi đổi lại mà dùng mãi.

Bách Đại nhờ nội lực thâm hậu, giơ tay trái phóng ra một chưởng cực kỳ lanh lẹ, ù ù như gió bão, cốt làm phân tán tâm thần thiếu nữ, tay phải ngừng lại để tìm cách phá giải chiêu thức của nàng.

Ông là người thông minh, kiến thức uyên bác, chỉ trong nháy mắt đã ước liệu được thời gian biến hóa của mấy ngón tay đối phương, bèn thét lên một tiếng, tay phải đưa ngang, đánh ra một chiêu "Thiên ngoại lai vân."

Chiêu này dùng tới tám thành công lực, một luồng kinh khí mãnh liệt vô cùng, đánh thẳng vào thiếu nữ.

Thiếu nữ bị một chiêu đó, không sao gắng gượng nữa, phải bật lùi lại phía sau ba thước.

Bách Đại lập tức nhảy theo, bồi luôn cho nàng một quyền vào giữa ngực.

Thiếu nữ luôn luôn nghiêng mình né tránh, làm cho quyền của Bách Đại bị trượt ra ngoài.

Chỉ nghe "bình" một tiếng, nhà cửa rung chuyển, cát bụi mù mịt, vách tường bằng đất bị thủng ra một mảng lớn rộng chừng hai thước.

Thiếu nữ nhún mình nhảy ra tới hơn một trượng, định theo chỗ vách thủng chuồn ra ngoài.

Những Bách Đại đã chuẩn bị từ trước, khi nào chịu để nàng bỏ chạy một cách dễ dàng như vậy, bèn phất ống tay áo tăng bào, rồi nhanh như một mũi tên xông lên trước, tay phải thi triển chiêu "kim xách phộc long" một trong "Thập nhị cầm long thủ", nắm lấy cổ tay của thiếu nữ.

Quả nhiên thiếu nữ vẫn dùng thủ pháp vừa rồi, cong mấy ngón tay phải điểm vào huyệt "khúc trì" ở sườn Bách Đại.

Bách Đại đã biết trước là khi nào tới gần huyệt "khúc trì" năm ngón tay cong cong đó sẽ bất thình lình duỗi thẳng ra, khiến cho đối phương không tính được mức độ cự ly mà né tránh. Vừa rồi suýt nữa Bách Đại đã bị thua vì ngọn đòn đó, và đồng thời cũng đã tìm được phương pháp giải trừ, bèn cười nhạt một tiếng, cánh tay trái hơi hạ thấp xuống, dụ cho thiếu nữ duỗi thẳng ngón tay ra, rồi thốt nhiên biến đổi thủ pháp, tay trái phóng một quyền, quét qua mặt thiếu nữ, khiến cho tâm thần nàng bị phân tán, tay phải đổi thành chiêu "Túng long Bắc hải", bất thình lình lật ngược cổ tay, khoá lấy cổ tay phải của thiếu nữ.

Ông đã tính đúng được thời gian và tầm cự ly của thiếu nữ nên mới thành công được một cách dễ dàng.

Hồi thứ hai mươi

Tố nữ báo động

Thiếu nữ kêu lên một tiếng kinh hoảng, thì ra uyển mạch ở cổ tay phải của nàng đã bị Bách Đại nắm trúng.

Chỉ lực của Bách Đại rắn như sắt, thiếu nữ cảm thấy cổ tay như sắp gẫy, đau quá, không sao chịu nổi, bất giác buột miệng kêu rú lên.

Bách Nhẫn đại sư tâm địa hiền từ, thấy thế không nỡ, bèn nói, "A di đà Phật! Sư đệ không nên độc tay, chúng ta thà tha lầm một trăm người, còn hơn là giết oan một người!"

Bách Đại nói, "Người con gái này hành động rất đáng ngờ, lại còn cố làm ra vẻ thần bí, đúng là người nhà Nam Cung thế gia không sai."

Vừa nói vừa bóp mạnh tay thêm chút nữa. Thiếu nữ thấy cổ tay đau như tiện, quên cả giữ gìn, ngẩng đầu kêu to, "Buông ta ra!"

Bách Nhẫn chú ý, nhìn thấy nàng môi son má phấn, mày xanh như lá liễu, mắt trong như nước hồ thu, rõ ràng là một giai nhân tuyệt thế.

Lúc này mồ hôi trên trán nàng đã thánh thót rỏ xuống đôi gò má.

Bách Đại vì quá uất hận bởi cái chết của sư đệ nên không gì làm ông xúc động được nữa. Thấy thiếu nữ nhăn nhó vì đau, ông chỉ lạnh lùng nói, "Nếu ngươi sợ đau, thì phải thành thật trả lời bần tăng mấy câu hỏi đây."

Thiếu nữ vừa thở hổn hển vừa nói, "Nếu ta không cố ý hiện thân, thì đời nào ngươi bắt được ta..."

Ngừng một lát, nàng lại tiếp, "Trong vòng một trăm trượng xung quanh khu vườn này, đều có người trong Nam Cung thế gia mai phục, ta chỉ cần thả tín hiệu cầu cứu, là bọn họ lập tức kéo đến."

Bách Đại nói, "Tốt lắm, càng nhiều càng hay, bần tăng sẽ được giết một mẻ sướng tay để báo thù cho sư đệ."

Thiếu nữ đưa mắt nhìn thi thể Bách Tường nằm trong góc nhà, thở dài hỏi, "Vị sư phụ này chết đã bao lâu rồi?"

Bách Nhẫn đáp, "Chưa đầy mười hai tiếng đồng hồ."

Thiếu nữ nói, "Trừ phi các ngươi tình nguyện cho vị sư phụ ấy xung vào chân "Thất thập nhị sát" trong nhà Nam Cung thế gia thì trên đời này không còn ai có thể cứu được ông ta nữa."

Bách Đại nổi giận nói, "Đệ tử môn hạ Thiếu Lâm, khi nào lại chịu đem thân đi làm nanh vuốt cho ai?"

Bách Nhẫn đại sư đăm đăm nhìn vào mặt thiếu nữ, dường như cố nhận xét xem nàng ở địa vị thế nào trong nhà Nam Cung thế gia. Ông còn mang máng nhớ mặt mấy người quả phụ trong nhà Nam Cung thế gia, nhưng không thấy một người nào giống mặt người con gái này, liền cau mày hỏi, "Nữ thí chủ hình như không phải là một trong mấy vị quả phụ nhà Nam Cung thế gia, có phải không?"

Thiếu nữ thủng thỉnh đáp, "Nếu tôi là người nhà Nam Cung thế gia thì lúc này hai vị sư phụ chắc đã táng mạng."

Bách Nhẫn quay lại bảo Bách Đại, "Sư đệ buông tay ra, chúng ta không nên bắt nạt một người con gái cô thế."

Bách Đại tuy trong bụng không muốn, nhưng không dám trái ý sư huynh, đành phải buông tay ra, lạnh lùng nói, "Nếu ngươi định trốn, thì đừng trách bần tăng tàn ác!"

Thiếu nữ kéo tay áo lau mồ hôi, đôi mắt long lanh hết nhìn Bách Nhẫn lại nhìn Bách Đại, hình như muốn tìm trên hai khuôn mặt đó một cái gì, nên mấy câu cảnh cáo của Bách Đại tựa hồ cũng không nghe thấy.

Bách Nhẫn thấy nàng nói năng rõ ràng, sắc diện cử chỉ cũng như người thường, không giống bọn nô bộc bị dược vật khống chế, trong bụng tự nhủ, "Những sự thần bí trong nhà Nam Cung thế gia thường ghi một ấn tượng sợ hãi khủng bổ vào lòng người ta, khó có thể quên được. Vậy mà người con gái này vẫn giữ gìn được thần thái tự nhiên, kể cũng lạ thật! Xem chừng nàng ở trong nhà Nam Cung thế gia địa vị cũng không đến nỗi thấp kém. Ta thử hỏi dò nội tình trong nhà Nam Cung thế gia xem, hoạ may có biết được chút nào không?"

Ông nghĩ vậy, bèn ôn tồn nói, "Nữ thí chủ tuy không phải là nhân vật cốt cán trong nhà Nam Cung thế gia, nhưng địa vị chắc cũng không kém quan trọng?"

Thiếu nữ lúc này chỉ mải nhìn quanh ngó quất, hình như không nghe thấy câu hỏi của Bách Nhẫn đại sư.

Bách Đại thấy thái độ của nàng như vậy, càng thêm tức bực, sẽ gắt, "Nếu không vì lòng nhân từ của chưởng môn sư huynh tôi, thì bần tăng đã cho ngươi nếm thủ pháp phản cân trầm mạch của phái Thiếu Lâm rồi!"

Thiếu nữ vẫn điềm nhiên, thò đầu nhìn vào phòng trong lẩm bẩm nói một mình, "Kỳ quái thật!"

Bách Nhẫn xua tay ngăn Bách Đại không cho bạo động, rồi hỏi, "Kỳ quái gì cơ?"

Thiếu nữ quay lại hỏi, "Hai vị đến đây bao lâu rồi?"

Bách Nhẫn không trả lời, chỉ hỏi, "Nữ thí chủ định tìm ai?"

Thiếu nữ gật đầu, "Tôi tìm một người họ Nhâm."

Bách Nhẫn hỏi, "Có phải Nhâm Vô Tâm không?"

- Tôi không biết tên, chỉ biết ông ta họ Nhâm thôi!

Bách Nhẫn nói, "Cô nương không biết tên thì cứ tả hình dáng cũng được."

Thiếu nữ lắc đầu, "Tôi không biết, tôi không gặp ông ta bao giờ. Tôi chỉ vâng lệnh người sai khiến thôi."

Nàng vừa nói, sắc mặt vừa lộ vẻ bối rối, bồn chồn. Bách Nhẫn đại sư lại hỏi, "Nữ thí chủ vâng lệnh ai?"

Thiếu nữ không đáp, chỉ thở dài, lẩm bẩm, "Sắp đến giờ rồi, tôi không thể chờ được nữa!"

Bách Nhẫn đại sư nói, "Lão nạp là chưởng môn phương trượng chùa Thiếu Lâm, quen thân với Nhâm tướng công lắm. Nếu cô nương có lòng tin, thì muốn nói gì với Nhâm tướng công, xin cứ nhắn, lão nạp sẽ nói lại cho Nhâm tướng công hay cũng được."

Thiếu nữ nói, "Tôi đâu dám tin sư phụ."

Bách Nhẫn cười nói, "Cô nương đã không biết mặt Nhâm tướng công thì dù có gặp ông ta cũng làm sao mà biết được?"

Thiếu nữ nói, "Điều ấy không cần sư phụ phải lo hộ. Tôi đã có cách liên lạc với ông ta."

Bách Nhẫn trầm ngâm một lát, rồi nói, "Thế mới thật khó. Lão nạp dẫu có tín vật chứng thực là phương trượng Thiếu Lâm đây, nhưng chắc nữ thí chủ cũng không biết được?"

Thiếu nữ nói, "Sư phụ cứ cho tôi xem."

Bách Nhẫn thò tay vào mình lấy ra một pho tượng màu hoàng kim đặt lên lòng bàn tay, nói, "Nữ thí chủ có nghe nói về pho tượng Ngã Phật này bao giờ không?"

Thiếu nữ chú ý nhìn pho tượng một lúc, chợt sụp quỳ xuống đất lạy, nói rằng, "Vãn bối tuy chưa được trông thấy bao giờ, nhưng đã từng nghe người ta nói pho Kim Phật sắc lệnh này, chỉ có chưởng môn chùa Thiếu Lâm mới được giắt trong mình thôi."

Bách Nhẫn cất pho tượng đi, rồi sẽ hỏi, "Nữ thí chủ nghe ai nói về Kim Phật sắc lệnh?"

Thiếu nữ đáp, "Gia phụ!"

Bách Nhẫn vội hỏi, "Lệnh tôn là ai?"

Thiếu nữ đáp, "Gia phụ tên gọi Diệp Trường Thanh."

Bách Nhẫn sửng sốt hỏi, "Phải chăng là Diệp đại hiệp, một trong Trung Nguyên Tứ Quân Tử?"

Thiếu nữ ứa nước mắt nói, "Chính thị. Vãn bối tên gọi là Diệp Sương Y."

Bách Nhẫn sắc mặt cũng rầu rầu, thở dài nói, "Lão nạp và Trung Nguyên Tứ Quân Tử tuy rất ít khi gặp gỡ, song cũng là phương ngoại tri giao. Xin mời cô nương đứng lên cho."

Diệp Sương Y vừa đứng lên, Bách Nhẫn lại nói, "Võ công của Trung Nguyên Tứ Quân Tử biệt lập một phái, không kém gì Thiếu Lâm, chỉ tiếc là đều đã biến thành người thiên cổ."

Diệp Sương Y nói, "Gia phụ và ba vị sư thúc bá vẫn còn sống cả."

Bách Nhẫn tuy đã nghe Nam Cung phu nhân nói Trung Nguyên Tứ Quân Tử vẫn còn sống, và hiện đã biến thành bộ hạ của mụ, nhưng trong bụng vẫn không tin. Lúc này lại nghe Diệp Sương Y nói như vậy, vội hỏi, "Câu ấy có thực không?"

Diệp Sương Y nói, "Gia phụ và ba vị sư thúc bá đều bị Nam Cung phu nhân cho uống Mê thần dược, rồi giam ở trong "Mê hồn lao"..."

Bách Nhẫn thở dài nói, "Hôm nọ bần tăng và mấy vị nữa có vào thám hiểm trong "Mê hồn lao", đã được nghe Nam Cung phu nhân nói vậy nhưng tuyệt không dám ngờ là sự thật."

Ngừng lại một lát, ông lại hỏi, "Cô nương không bị mụ cho uống Mê hồn dược, thì sao lại cam tâm để cho mụ sai khiến?"

Diệp Sương Y nói, "Vãn bối vì tình thế bắt buộc, bất đắc dĩ phải nương thân trong nhà Nam Cung thế gia. Cốt lưu cái thân này lại, để mai sau còn có lúc phải dùng đến."

Bách Đại chợt hỏi xen, "Những người trong Nam Cung thế gia, ai cũng phải uống mê thần dược, sao chỉ riêng một mình cô nương được miễn?"

Diệp Sương Y nói, "Vãn bối may nhờ được đệ Tứ phu nhân trong Nam Cung thế gia che chở nên mới giữ được thần trí tỉnh táo..."

Bách Nhẫn đại sư nói, "Nhâm tướng công đã đi khỏi đây, cô nương có cần bảo việc gì xin cứ nói, bần tăng sẽ xin chuyển đạt hộ."

Diệp Sương Y ngẫm nghĩ một lát rồi nói, "Đại sư đã là một vị chưởng môn, lại là bạn tri giao với gia nghiêm, vãn bối thực không dám giấu giếm điều gì. Nhưng trước khi tới đây, Tứ phu nhân đã căn dặn là việc này chỉ được nói riêng với Nhâm tướng công thôi. Nên vãn bối không dám trái lệnh. Duy có điều này, vãn bối có thể tiết lộ với đại sư được, mấy môn thần công của Nam Cung phu nhân đã sắp viên mãn, ba tháng trước đây mụ đã tiên liệu là giang hồ sắp có biến, nên phải luyện tập gấp đêm ngày, kỳ hạn sớm hơn dự định nhiều. Có thể chỉ nội trong vòng một tháng nữa mà thôi. Do thế cuộc hẹn của Tứ phu nhân và Nhâm tướng công đành phải bỏ dở..."

Bách Nhẫn ngắt lời, "Cuộc hẹn gì vậy?"

Diệp Sương Y nói, "Điều đó vãn bối không rõ, chỉ thấy Tứ phu nhân nói: Bàn tay ma của Nam Cung phu nhân luyện, hỏa hầu đã thành, Nhâm tướng công cần phải lưu tâm cẩn thận, người ấy võ công cao lắm..."

Bách Nhẫn cau mày, "Bàn tay ma?"

Diệp Sương Y nói, "Đó là lời Tứ phu nhân dặn, thực ra vãn bối cũng không hiểu rõ lắm."

Bách Nhẫn đại sư chợt lại nhớ đến cái chết của Thiên Long thiền sư và Bách Tường, bất giác gật gù lẩm bẩm, "Bàn tay ma, có lẽ chính là cái bàn tay tuyệt đẹp đó!"

Diệp Sương Y nói, "Nếu đại sư gặp Nhâm tướng công, xin nói dùm hộ vãn bối mấy câu như vậy. Bây giờ vãn bối xin cáo từ."

Nói xong chắp tay thi lễ, đoạn hớt hải ra cửa đi mất!

Bách Nhẫn nhìn theo bóng dáng thiếu nữ, chợt thở dài nói, "Tội nghiệp cô bé!"

Nói xong cúi xuống ôm xốc thi thể Bách Tường lên, rảo bước đi ra cửa. Vừa đi vừa nói, "Chúng ta hãy mau mau ra khỏi nơi đây, rồi sẽ tính kế."

Hai người ra khỏi khu vườn, chỉ thấy gió thu lạnh lẽo, lá rơi xào xạc, phong cảnh hoang vắng y như một bãi tha ma. Hai người trong bụng đều nặng trĩu những nỗi ưu tư, lo lắng nên chỉ cắm đầu đi, không ai buồn lên tiếng.

Bách Nhẫn nghĩ đi nghĩ lại, không biết làm cách gì thông tin cho Nhâm Vô Tâm ngay, để chàng liệu cách ứng phó. Thời gian chỉ còn có ba mươi ngày nữa, mà chàng thì như chim trời cá nước, biết phương hướng nào mà tìm?

Ông chợt nghĩ đến người đàn ông đạp thủy xa ban nãy, bèn vội quay đầu nhìn lại khu vườn, nhưng chỉ thấy chiếc thuỷ xa vẫn theo chiều gió từ từ chuyển động, mà người đạp xe thì đã đi đâu mất biến.

Chiếc xe ngựa lúc này vẫn đậu ở bên đường, còn người phu xe thì đang ngồi ngủ gật ở phía trước xe, trông rõ ra vẻ ung dung nhàn hạ.

Bách Đại ngoảnh lại nói với Bách Nhẫn, "Mời sư huynh ngồi vào bên trong, để tiểu đệ ở ngoài còn coi động tĩnh."

Bách Nhẫn bế thi thể Bách Tường vào trong xe. Bách Đại đánh thức gã phu xe dậy, rồi ra roi cho ngựa chạy.

Bách Đại cùng gã phu xe ngồi phía trước, đảo mắt nhìn khắp xung quanh, những người qua đường, không một người nào lọt qua luồng nhỡn tuyến của ông ta.

Thốt nhiên nghe từ phía xa xa văng vẳng có tiếng đàn sáo đưa lại. Lắng tai nghe kỹ một lúc thì ra là tiếng kèn đám ma.

Gã phu xe chợt co một dây cương lại, cho ngựa rẽ sang con đường ngang, miệng lẩm bẩm nói một mình, "Thà đi vòng mất một thỏi đường, còn hơn là gặp đám ma."

Bách Đại cau mày toan nói, nhưng chợt lại nghĩ, "Những người khách bộ hành còn hay kiêng nhảm, huống hồ người phu xe quanh năm giong ruổi đường trường, nên họ cẩn thận cũng phải. Vả họ đã tự ý, mua đường thì mặc họ, hơi đâu mà can thiệp."

Con đường rẽ này hình như bỏ hoang đã lâu, quanh năm không có vết chân người qua lại, hai bên cỏ tốt như rừng, bò kín cả lối đi. Bách Đại chợt có cái cảm giác rợn rợn, cặp mắt luôn luôn nhìn chòng chọc vào những bụi cỏ rậm, đề phòng lỡ có quân mai phục.

Đi một lúc lâu, chợt thấy phía trước mặt có một pho tượng Như Lai cao ước tới năm thước đặt ở bên đường, dưới ánh nắng chiều thu, kim quang lại càng chói lọi rực rỡ.

Hai bên tượng Phật có ba cỗ quan tài còn mới tinh, đặt ngang đường cái, chắn hết lối đi. Hai vị tăng nhân thân thể gầy gò khô đét, đầu trọc lông lốc, mặc áo cà sa vàng, tay chắp ngang ngực, đứng trước quan tài, sắc mặt âm trầm cặp mắt đờ đẫn.

Bách Đại giật mình, vội bảo người phu xe dừng lại. Người phu xe quát to, "Hai vị tránh ra cho chúng tôi đi nhờ một chút!"

Hai nhà sư vẫn cúi đầu chắp tay đứng yên, hình như không nghe thấy tiếng người phu xe nói.

Bách Nhẫn đại sư biết là có chuyện, liền nhảy xuống xe. Bách Đại sẵng giọng nói, "Các vị tự nhiên vô cớ ra chắn đường, chắc hẳn là muốn sinh sự với anh em ta chăng?"

Nhà sư đứng bên trái lạnh lùng đáp, "Người xuất gia trông thấy kim thân của Ngã Phật, sao không quỳ lạy?"

Bách Nhẫn rảo bước tiến lên, miệng nói, "Sư đệ xuống đi!"

Rồi bước tới tượng Phật, nói, "Bần tăng sơ ý, xin hai vị đại sư chớ trách."

Nói xong chắp tay cung kính lễ một lễ, nhưng hai tay đã ngầm tụ công lực, đề phòng.

Bách Đại cũng theo sư huynh quỳ xuống lễ Phật. Nhà sư miệng nở một nụ cười âm hiểm, thủng thỉnh nói, "Phật pháp vô biên, phổ độ chúng sinh. Hai vị lễ được một lễ, sau khi chết đi sẽ được tiêu diêu cực lạc."

Bách Đại đứng phắt dậy nói, "Người trong đạo Phật phải lấy phương tiện làm đầu, phiền hai vị đại sư nhường lối cho chúng tôi."

Nhà sư đứng bên phải cười nhạt, "Nể mặt Ngã Phật, bần tăng đặc biệt quyên cho ba vị mấy vật cần dùng."

Bách Đại hỏi, "Vật gì mà cần dùng?"

Nhà sư chỉ tay vào ba cỗ áo quan tài nói, "Ba cỗ áo quan này đều là thứ gỗ thượng hảo hạng. Các vị có thể chứng đại đạo, trút bỏ thể xác trước mặt Ngã Phật, linh hồn theo Phật về Tây, há chẳng phải là một điều khoái lạc của kiếp con người hay sao."

Bách Đại lạnh lùng "hừ" một tiếng, nói, "Cũng là đệ tử Tam bảo cả, bần tăng không muốn thương tổn lòng từ bi của Ngã Phật, xin hai vị tránh lối cho."

Nhà sư đứng phía trái cười sằng sặc, nói, "Hai vị đã không chịu, thì để chúng tôi ra tay siêu độ cho vậy."

Bách Đại quắc mắt hỏi, "Các vị có phải là người của Nam Cung thế gia không?"

Hai nhà sư không trả lời, Bách Đại quay lại nói với Bách Nhẫn, "Xin sư huynh ra lệnh."

Bách Nhẫn nghiêm trang nói, "Thôi chúng ta đi đường khác vậy, cùng là người trong cửa Phật, lẽ nào lại tàn sát lẫn nhau?"

Bách Đại thở dài một tiếng, lòng đầy uất ức, nhưng không biết nói sao. Ông vừa quay lưng đi, chợt nghe mấy tiếng nổ long trời, rồi ba chiếc nắp áo quan thi nhau bay lên.

Bách Đại tuy đã quay đi, nhưng vẫn để ý giám sát hành động của hai nhà sư, vừa nghe tiếng nổ, lập tức quay mình lại đánh ra một quyền.

Một luồng quyền phong cực kỳ mãnh liệt rít lên như xé bầu không khí, nhắm thẳng vào nhà sư bên trái đánh tới.

Ông đã tính đúng vị trí, độ cách cực kỳ chuẩn xác, nên quyền phong không hề chệch ra ngoài nửa bước.

Nhà sư vội giơ bàn tay khẳng khiu ra đón đỡ. Hai luồng tiềm lực vừa va vào nhau, tức thì gây thành một cơn gió lốc, cuốn cát bụi bay mù mịt.

Nhà sư áo vàng võ công tuy cao, xuất chiêu cũng cực kỳ quái di, nhưng rút cục vẫn không chịu nổi ngọn quyền ác liệt của Bách Đại, cái thân hình gầy gò bị đánh bật lên khỏi mặt đất. Chợt thấy hai chân lão co lại, quay lộn người đi, rồi lại rơi trở về chỗ cũ. Sắc mặt lão vẫn âm trầm, tay phải đã thò vào tay áo.

Bách Đại thân thể cũng hơi run run, tự nghĩ, "Tên này thân pháp võ công cực kỳ quái dị, xem chừng không phải võ nghệ Trung Quốc, có lẽ hắn là một vị Lạt Ma ở Tây Tạng cũng nên?"

Trong khi nghĩ ngợi, nhỡn tuyến của ông đã chiếu vào ba cỗ quan tài.

Lúc này nắp quan tài đã mở, bên trong có ba người sừng sững đứng bên.

Người bên trái thân thể gầy gò, cánh tay trái bị cụt tới tận nách, tay phải cầm một thanh trường kiếm đã tuốt vỏ, ánh sáng lóng lánh như bạc. Thần tính âm âm, mặt mũi hung ác, đôi mắt sáng quắc như điện.

Người đứng bên phải thân hình ngũ đoản, bụng to bè bè, tóc dài tới hơn một thước, để rối bù lên như tổ quạ, quần áo thì rách rưới bẩn thỉu, hình như đã bao nhiêu năm chưa được nhúng vào nước.

Vậy mà trong tay nhân vật khó coi ấy lại cầm một chiếc thúy địch màu bích lục dài chừng ba thước, trong suốt từ trên xuống dưới không có một tỳ vết nào, nhác trông cũng biết là một vật có giá trị.

Còn người đứng giữa lại là một vị tăng nhân mặc áo vàng đi chân đất. Gã này tầm vóc nhỏ bé gầy gò, chỉ bằng một đứa trẻ con, nhưng tấm áo cà sa thì lại quá rộng, gió thổi làm tà áo bay tung lên, che kín cả thân thể. Trông tưởng như một tấm áo phơi trước gió, không biết là bên trong có người.

Ba người này thân hình đã cổ quái, thần tình lại càng âm hiểm đáng sợ. Bách Nhẫn đưa mắt nhìn qua đã nhận ra lai lịch hai người đứng bên, còn người đứng giữa thì không biết là ai cả.

Ông chợt biến sắc mặt, bước lên vài bước, nói với người đứng bên trái, "Thí chủ có phải là Mộ Dung Phi đại hiệp mà người ta thường gọi là "Nam Hải đệ nhất kỳ kiếm" đó chăng?"

Người một tay chẳng nói chẳng rằng, cây trường kiếm trong tay thốt nhiên vung lên, biến thành những điểm sao bạc, kiếm phong rít lên vù vù.

Bách Nhẫn mỉm cười nói, "Thí chủ đã sử dụng chiêu tuyệt học "Nhất kiếm thiên ảnh" trong Nam Hải kiếm pháp, xuất thần nhập hóa như vậy, chắc là lão nạp đoán không sai."

Người cụt tay thấy Bách Nhẫn nhận định chính xác như vậy, sắc mặt cũng hơi biến đổi. Gã ăn mày vừa béo vừa lùn bất giác ngửa cổ lên trời cười sằng sặc nói, "Chưởng môn phái Thiếu Lâm có khác, kiến văn rộng rãi thật! Mỗ xin bái phục!"

Bách Nhẫn cười nói, "Thí chủ quá khen! Trông cách phục sức và cây sáo trong tay thí chủ, bần tăng lại chợt nhớ đến một người. Nếu bần tăng đoán không sai, thì trong Cái Bang có một vị đại kỳ nhân gọi là "Xà Thần" Khang Tổ, người ấy không những thích chơi thú vật, lại giỏi nghề dạy rắn, có lẽ chính là thí chủ?"

Bách Đại đứng lên lạnh lùng đỡ lời, "Môn hạ Cái Bang người nào cũng là bực anh hiệp kỳ sĩ, thấy nghĩa dám làm, khi nào lại chịu đầu thân làm tôi tớ cho nhà Nam Cung thế gia? Chắc sư huynh đoán lầm rồi!"

Lão béo lùn lại ngửa cổ lên trời cười sằng sặc một hồi, rồi thốt nhiên đặt ống sáo lên môi, thổi.

Tiếng sáo vừa sắc vừa nhọn, khiến cho người nghe có cảm tưởng mỗi tiếng là một mũi dao nhọn cứa vào quả tim.

Hồi thứ hai mươi mốt

Thực giả khó phân

Giữa lúc đó trong pho tượng Phật Như Lai thốt nhiên cũng nổi lên một thứ tiếng the thé lanh lảnh như xói vào tai, nghe còn khó chịu hơn tiếng sáo của lão ăn mày.

Tiếp theo đó lại thấy ước chừng có tới mấy chục con rắn từ trong bệ toà sen nối đuôi nhau bò ra, màu sắc sặc sỡ, trông giống như một chiếc cầu vồng từ từ bò thẳng về phía Bách Nhẫn, Bách Đại.

Mấy chục con rắn tuy có lớn có nhỏ, màu sắc khác nhau, nhưng tất cả hình như đều có linh tính, biết theo tiếng sáo điều khiển, dàn thành trận rắn ở trước mặt hai vị đại sư chùa Thiếu Lâm, lưỡi đỏ thè dài, hơi tanh nồng nặc. Con nào trông cũng có vẻ hung độc dị thường.

Bách Nhẫn và Bách Đại đều biến sắc mặt, lập tức ngầm vận chân khí, quán chú lên hai cánh tay, phòng bị.

Lão hoà thượng đứng giữa lúc này chợt toét miệng cười một cách độc ác, nói, "Ngươi không nhận ra ta là ai ư?"

Miệng lão cười rộng ngoác ra tới tận mang tai, làm cho bộ mặt lại càng thêm quái gở.

Bách Nhẫn vẫn điềm đạm nói, "Đại sư phụ hình như rất ít khi vào Trung Nguyên, nên lão nạp không nhớ ra được."

Lão sư áo vàng cười ha hả, "Ngươi đã không biết ta để ta dạy cho ngươi biết!"

Lão vừa nói vừa nhún chân nhảy lên không, rồi xoay mình một cái, tức thì trong tấm tăng bào tưởng chừng như có hàng trăm ngàn cánh tay tung ra không biết bao nhiêu là ám khí.

Chỉ trong phút chốc đã thấy trên không tua tủa những mũi ám khí, đen có, trắng có, nhanh có, chậm có, lấp lánh sáng ngời, rít lên như gió, vù vù bay về phía Bách Nhẫn, Bách Đại.

Bách Đại vội quát to, "Sư huynh lui ra, để đấy cho tiểu đệ..."

Nói xong vung hai tay lên phóng ra hai luồng cương phong thế như bạt sơn đảo hải, gạt những mũi ám khí bay vụt trở lại.

Không ngờ trong số có mấy mũi ám khí vẫn vun vút bay thẳng, vạch thành mấy đường sáng trắng, lao về phía Bách Nhẫn.

Bách Nhẫn đại sư sắc mặt vẫn điềm tĩnh nói, "Coi thân pháp của đại sư thì hình như người ở Tây Tạng sang?"

Ông nói rất thong thả, mỗi khi nói một tiếng, là tay đã bắt được một mũi ám khí, chừng khi nói dứt câu, thì lòng bàn tay ông đã có cả một nắm ám khí, như người cầm một nắm lá khô vậy.

Nhà sư cười nhạt nói, "Thủ pháp khá lắm!"

Xà Thần Khang Tổ cười sằng sặc nói, "Ngươi tinh mắt thật đấy, vị đại sư này quả mới ở Tây Tạng đến."

Bách Nhẫn đại sư ngắt lời, "Nếu đại sư phụ ở Tây Tạng, thì tất là "Thiên Thủ Như Lai" Phổ Pháp đại sư đã nổi tiếng đệ nhất cao thủ môn ám khí trong Hoàng giáo, phải không?"

Rồi ông lại đưa mắt nhìn hai nhà sư xuất hiện lúc đầu, hỏi tiếp, "Còn hai vị này chắc là tả hữu hộ pháp của Thiên Thủ Như Lai, "Xấu vi đà" Hướng Minh đại sư và "Lãnh diện thiên vương" Phi Minh đại sư phải không? Ôi! Lão nạp bây giờ già cả, mắt mũi kèm nhèm, nếu không thì vừa rồi đã nhận ra hai vị."

Khang Tổ lại cười hì hì, đầu gật lia lịa, "Đúng, đúng! Ngươi đoán đúng cả!"

Bách Nhẫn thở dài nói, "Các vị đều là những nhân vật tiếng tăm lừng lẫy, hùng cứ một phương, sao bỗng dưng lại đầu thân làm môn hạ cho nhà Nam Cung thế gia, điều ấy thật khiến cho lão nạp phải ngạc nhiên."

Khang Tổ chỉ cười sằng sặc, rồi thốt nhiên chúm miệng huýt một tiếng sáo, mấy chục con rắn đang khoanh mình dàn trận, chợt ngóc đầu nhảy vọt lên không, rồi xông cả về phía Bách Nhẫn, Bách Đại.

Bách Nhẫn đại sư vẫn biết tiếng Khang Tổ là người tâm địa hiểm độc từ lâu, nên trong lúc nói chuyện vẫn phải để ý coi chừng khi thấy đàn rắn bắt đầu phát động, ông đã quát lên một tiếng, thân hình nhảy vọt lên không, thuận tay rút ra một món võ khí dài chừng ba thước sáu tấc, lưỡi sáng loáng như nước, đứng trên không chém vào đàn rắn.

Môn binh khí ngoại môn này là một vật phòng thân của Bách Nhẫn, hồi ông chưa tiếp nhận chức chưởng môn. Đã từ lâu ông vẫn bỏ xó không dùng đến, tới nay vì phải xông pha vào những chỗ sóng gió nguy hiểm, mới lại phải đem theo để hộ thân.

Món đồ này ông dùng từ nhỏ đã quá quen tay, nên lúc này đem thi triển qua đã tạo nên một uy lực kinh hồn. Chỉ thấy kim quang lấp lánh, gió lộng vù vù, nháy mắt đã có ba bốn con rắn độc bị chém đứt đôi, máu tanh phun ra như tưới, nhưng những khúc rắn vẫn còn nhảy lên nhảy xuống không ngừng.

Bách Đại gầm lên một tiếng như sư tử gầm, hai chân đứng vững theo thế "kim cương thung", hai tay vung lên phóng ra những luồng cương phong cực kỳ cường liệt, đánh bật đàn rắn tung ra bốn phía, con thì va vào quan tài, con thì va vào pho tượng, đều nằm thẳng đờ không cựa quậy được nữa. Có nhiều con rơi cả vào đầu, vào cổ bọn Mộ Dung Phi và lão Lạt Ma Tây Tạng.

Phổ Pháp đại sư rũ áo đứng lên, tránh khỏi đàn rắn, lại phất ống tay áo, phóng ra bảy mũi nhọn, nhằm bốn đại huyệt trên ngực Bách Đại ném tới.

Bách Đại mặt lạnh như tiền, vừa phóng chưởng gạt xong độc xà ám khí, chợt lại thấy một luồng kiếm quang chói loà trước mắt. Mộ Dung Phi không biết đã tới sát bên mình từ bao giờ, thanh trường kiếm trong tay hắn đang múa lên trước mắt Bách Đại.

Bách Đại ngửa mặt uốn lưng, co chân lên đá vào cổ tay cầm kiếm của gã. Mộ Dung Phi không tránh, chỉ chúc mũi kiếm xuống điểm vào đầu gối Bách Đại. Thân hình hắn không động, cánh tay cũng không cong lên, mà kiếm chiêu đã biến thức một cách cực kỳ nhanh chóng. Và những chỗ hắn xỉa mũi kiếm vào, bắt buộc Bách Đại không cứu không được.

Bách Đại quay mình nhảy lên, dùng thế công chống thế công, vung cả hai chưởng lên đánh vào ngực Mộ Dung Phi.

Mộ Dung Phi cầm nghiêng lưỡi kiếm, chém chéo vào hai bên sườn Bách Đại.

Chiêu thức của hai người đều cực kỳ mãnh liệt, lấy công làm thủ, không để cho đối phương kịp thở.

Thân hình của hai người lúc thì hợp vào một chỗ, lúc lại tách rời ra, chỉ trong chốc lát, chỉ thấy quyền phong kiếm ảnh đưa qua đưa lại, vùng vẫy tung hoành, nhưng quyền phong mỗi lúc một mạnh, mà kiếm ảnh thì mỗi lúc một suy, rút cuộc thì Nam Hải đệ nhất kiếm không địch nổi Thiếu Lâm đệ nhất quyền.

Thốt nhiên nghe có tiếng quát khẽ, rồi lại có tới mấy chục mũi ám khí bay ngang qua luồng kiếm quang, đánh thẳng vào Bách Đại.

Thì ra Phổ Pháp đại sư tuy chưa động thủ, chỉ đứng ngoài lược trận, nhưng vẫn lăm le chỉ rình Bách Nhẫn, Bách Đại sơ hở một chút là truy ngay ám khí vào, khiến cho đối phương không sao đề phòng cho xiết được.

Bách Đại vừa phải tránh ám khí bất cứ lúc nào cũng có thể bay tới, vừa phải để ý đề phòng những con rắn độc dưới chân, lại phải đối phó với những đường kiếm kỳ bí thần tốc của Mộ Dung Phi, phân tâm ra ba phía, thành thử chỉ qua mười chiêu, ông đã dần dần đứng vào liệt thế.

Về phía Bách Nhẫn, tình thế lại càng nguy ngập. Hai chân ông vừa chấm xuống đất, thì Khang Tổ đã vung ống sáo xông lại.

Ống sáo của hắn có thể đâm, chém, xỉa đánh, lúc thì làm bút Phán quan, lúc lại chợt đổi làm "điểm huyệt quyết", có lúc lại còn xen lẫn cả kiếm chiêu, thân hình lão tuy phục phịch, nhưng chiêu thức thì thật là nhanh nhẹn, khéo léo.

Bách Nhẫn vẫn đứng yên không động, ánh kim quang bao trùm khắp thân thể. Đứng bên ngoài trông qua màn kim quang óng ánh đó, chỉ thấy ông sắc diện trang trọng, thái độ vững vàng, mặc dầu đối phương thi triển chiêu thức thiên biến vạn hoá, ông cũng ung dung hoá giải được hết.

"Xấu vi đà" Hướng Minh và "Lãnh diện thiên vương" Phi Minh đưa mắt nhìn nhau, rồi chia hai bên tả hữu đánh dồn lại. Mỗi người giơ lên mười ngón tay, ngón nào cũng đeo bao đồng sáng loáng, trông như móng chim ưng. Tiếng là tay không, nhưng kỳ thực thì mỗi ngón tay đều là một món binh khí.

Bách Nhẫn đại sư một người địch ba, qua hai chục chiêu đầu, thần khí ông vẫn giữ được trầm ẩn, vững vàng như một trái núi.

Khang Tổ thình lình chúm môi huýt một tiếng sáo, đàn rắn đang bò ngổn ngang loạn xạ lại kéo đàn xông tới. Mỗi khi Khang Tổ phóng chiêu vào ngực Bách Nhẫn, là lập tức một con rắn cũng đồng thời nhảy bổ tới sau lưng ông, và khi hắn đánh vào phía sau địch, thì lại có một con rắn khác tấn công ở phía trước.

Chỉ trong nháy mắt, ống thuý địch nhẹ nhàng tung lên, đàn rắn thi nhau lượn múa, cả một khoảng trước mặt đã biến thành một tấm màn thuý lục, xen lẫn những đốm đỏ lấm chấm, đó là lưỡi rắn. Người và rắn phối hợp ăn khớp như im, ngoài ra lại còn những ngón tay bao đồng của Hướng Minh và Phi Minh tấn công tới tấp, thành thử Bách Nhẫn tuy một mình chống ba, mà chẳng khác gì phải chống với mấy chục cao thủ.

Trời càng dần dần tối, tình thế càng trở nên nguy ngập. Tên phu xe từ nãy vẫn ngồi dựa trên thành xe xem đánh nhau, lúc này thốt nhiên cao hứng, cất tiếng hát véo von. Hát rằng, "Đoạn hồn cỏ tối như rừng, Hai chàng họ Bách tống chung nơi này. Đường về Cực lạc vui thay, Có bầu có bạn đêm ngày tựa nhau!"

Bách Đại nghe tiếng hát, thốt nhiên nổi giận đùng đùng, quát, "À! Thì ra mày cũng là người nhà Nam Cung thế gia, phải không?"

Tên phu xe cười sằng sặc đáp, "Bây giờ ngươi mới biết ư?"

Bách Đại quát to, "Quân nô tài này dám lừa ta à?"

Nói dứt lời lập tức quay mình nhảy về phía tên phu xe.

Mộ Dung Phi vung thanh kiếm lên ngăn lại nói, "Đi đâu?"

Rồi chém luôn ra bảy kiếm. Tên phu xe cười ha hả, tỏ vẻ đắc ý nói, "Ngày này sang năm là giỗ anh em ngươi, các ngươi có chạy lên trời cũng không hòng trốn thoát!"

Bách Đại đại sư cười nhạt nói, "Lão tăng chết thì các ngươi cũng hết sống!"

Trong khi nói, chiêu thức chợt biến đổi, uy thế mãnh liệt vô cùng, nhiều khi đối phương tấn công, ông cũng không tránh nhưng khi trả đòn thì ra toàn những ngón chí mạng cả.

Bách Nhẫn đại sư ngoài mặt tuy vẫn giữ vẻ trầm tĩnh,kỳ thật trong bụng lo lắng vô cùng, tự nghĩ, "Nếu ta chết ở đây thì lấy ai báo tin cho Nhâm Vô Tâm? Võ lâm sắp xảy ra biến cố lớn, mà ta không tìm cách gì thoát ra được, thật là lỡ hết công việc!"

Trong khi mải suy nghĩ, chiêu thức hơi rối loạn, chợt nghe "soạt" một tiếng, ống tay áo bào đã bị Phi Minh xé rách mất một miếng.

Ông kinh sợ, thốt nhiên hú lên một tiếng thật dài, cây "Kim tiên ngân sảng" trong tay chiêu thức chợt trở nên lanh lẹ, thân hình từ nãy vẫn đứng yên, lúc này cũng vượt lên phía trước. Ông tuy không có bụng muốn giết ai, nhưng lúc này bắt buộc không thể nhân nhượng được nữa, ánh kim quang vừa loé lên, một con rắn độc đã bị chém đứt đôi, máu bắn vọt lên, ướt cả vạt áo tăng bào.

Nhưng con rắn trước vừa chết, thì con rắn sau lại xông lên, tấn công tới tấp. Ngoài ra lại còn ám khí của Thiên Thủ Như Lai, cây địch của Xà Thần, và những ngón tay bao đồng quái dị của Hướng Minh, Phi Minh...

Bách Đại đại sư thở dài nghĩ thầm, "Không lẽ hôm nay ta..." Vừa nghĩ tới đấy, chợt nghe có tiếng vó ngựa đang phi nước kiệu chạy đến.

Tiếng ngựa hý vang trời, tiếng vó ngựa dồn dập, lại thế cực kỳ tấn tốc, chỉ trong nháy mắt đã tới phía trước.

Bách Nhẫn chợt cảm thấy tinh thần phấn khởi, liếc mắt trông ra chỉ thấy một con ngựa trắng, người ngồi trên lưng ngựa mặc áo xanh, đi bít tất trắng, phong nghi tiêu sái, cánh tay trái bị thương, cầm lỏng cương ngựa, tay phải cầm chiếc roi bằng tơ dài tới ba thước, cao tiếng quát rằng, "Ai dám vô lễ với Bách Nhẫn đại sư thế?"

Vừa quát vừa ruổi ngựa xông vào trận tuyến.

Bách Nhẫn mừng lắm reo lên, "Nhâm tướng công đã tới!"

Lập tức vung vũ khí lên tấn công luôn bảy chiêu, dồn đàn rắn của Khang Tổ lùi ra được mấy bước.

Chàng kỵ sĩ trên lưng ngựa chính là Nhâm Vô Tâm, cười nói, "Những quân nô tài này to gan thật, còn chưa bước đi à?"

Thốt nhiên chàng vung ngọn roi lên cuốn một cái, thanh kiếm trong tay Mộ Dung Phi tức thì bật tung lên.

Mộ Dung Phi tái mặt, lăng không nhảy lùi lại sáu bảy thước, rồi đứng ngẩn người ra.

Khang Tổ quát hỏi, "Bằng hữu có phải là Nhâm Vô Tâm mà gần đầy đã khét tiếng trong giang hồ đó chăng?"

Nhâm Vô Tâm mỉm cười đáp, "Không dám!"

Vừa nói vừa vung ngọn roi điểm vào giữa ngực Khang Tổ.

Khang Tổ vội nhảy lùi lại chừng bốn năm bước, nói to, "Nhâm Vô Tâm! Có giỏi hãy nếm thử mùi vị trận rắn của ta xem sao!"

Nói xong lão cầm ống địch đưa lên miệng thổi, đàn rắn quả nhiên bỏ Bách Nhẫn, xông về phía Nhâm Vô Tâm.

Nhâm Vô Tâm cười một thôi dài, nói, "Dẫu là thần long cũng không doạ nổi Nhâm mỗ, huống hồ là mấy con rắn nhép này!"

Miệng thì cười cười nói nói, tay lại giơ lên, chỉ thấy một nắm bụi vàng theo tay bay ra, tức thì mùi hùng hoàng sặc sụa theo gió tản ra ba bốn phía.

Đám bụi vàng vừa bay ra, thì đàn rắn độc đang nhảy lên xông vào đối phương, đều rơi lả tả xuống đất, cặp mắt lờ đờ lưỡi đỏ uốn lại, thái độ hung hãn biến đâu mất hết, nằm sóng soài cả ở trên mặt đất, không nhúc nhích được nữa.

Khang Tổ sắc mặt tái nhợt. Nhâm Vô Tâm cười nói, "Các ngươi còn trò gì nữa, cứ giở nốt ra!"

Thiên Thủ Như Lai lạnh lùng nói, "Cẩn thận nhé!"

Rồi xoay mình một cái, tức thì tấm áo rộng thùng thình lại tung bay phơi phới.

Trong ống tay áo của lão, thốt nhiên có tới mười đốm hàn tinh chia ra bốn ngả vun vút bay lại.

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Tại hạ vẫn cẩn thận đây!"

Nói xong phất ống tay áo phóng ra một luồng tụ phong, bề ngoài trông thì không lấy gì mãnh liệt, nhưng mấy mũi ám khí sáng loáng kia vừa bay tới, đã bị luồng kình phong gạt bắn xuống đất.

Thiên Thủ Như Lai nét mặt vốn dĩ đã thâm trầm, lúc này cũng không khỏi biến sắc. Thốt nhiên lão ngoảnh lại hẩy tay nói với đồng bạn, "Tha cho chúng nó một lần. Ta đi thôi!"

Vừa nói vừa xăm xăm đi lên trước, cả bọn đều lục tục chạy theo sau.

Nhâm Vô Tâm vẫy vẫy ngọn roi, cười ha hả, "Các ngươi đi đấy à? Ta không tiễn đâu!"

Tiếng cười chưa dứt, bọn Thiên Thủ Như Lai đã mất hút vào trong bóng tối, trước mặt ba người chỉ còn sót lại pho tượng Phật và ba cỗ quan tài.

Bách Đại hậm hực nói, "Tha cho bọn này một cách giản dị như vậy, bần tăng thực không sao hả giận được!"

Nhâm Vô Tâm mỉm cười nhảy xuống ngựa nói, "Bọn này chẳng qua chỉ là tụi bù nhìn, môn hạ của Nam Cung thế gia, đại sư giết chúng làm gì cho bẩn tay!"

Tên phu xe vừa rồi hình như sợ quá, ngồi chết dí trên xe, mãi lúc này mới chợt tỉnh dậy, vội kéo dây cương, định ruổi ngựa chạy trốn.

Không ngờ xe chưa kịp chạy, Bách Đại đã quát lên một tiếng, nhảy vụt lại nắm lấy cương ngựa, con ngựa không chạy được, chỉ ngửa cổ lên hý một thôi dài.

Tên phu xe cuống lên, vội thét, "Tránh ra!"

Rồi vung ngọn roi quật vào đầu Bách Đại. Bách Đại càng giận, quát, "Nghiệt chướng, mày còn dám hỗn à?"

Tayphải nắm lấy ngọn roi giật mạnh, tên phu xe lập tức ngã lăn xuống đất. Bách Đại túm ngay lấy vạt áo của gã.

Tên phu xe sắc mặt tái mét, nhìn Nhâm Vô Tâm bằng đôi mắt van lơn, run run nói, "Nhâm tướng công cứu tôi với!"

Nhâm Vô Tâm mặt lạnh như tiền, thủng thỉnh bước tới. Bách Đại nói, "Tên này đánh lừa chúng tôi tới đây, lại còn dám mở miệng chế giễu, thật không thể nào khoan thứ được!"

Tên phu xe mắt vẫn đăm đăm nhìn Nhâm Vô Tâm, lắp bắp, "Nhâm tướng công cứu tôi với!"

Nhâm Vô Tâm cười gằn hỏi, "Tại sao ta phải cứu ngươi?"

Tên phu xe mặt càng tái, giọng càng run nói, "Nhâm tướng công... tướng công..."

Hắn mới nói được ngần ấy câu, Nhâm Vô Tâm thốt nhiên giơ tay đánh vào thiên linh cái, miệng thì nói, "Ta chỉ cứu những bực anh hùng hán tử, chớ không cứu những quân vô sỉ thất phu như mi!"

Bách Đại sửng sốt, buông rời tay ra, tên phu xe mềm nhũn người đi ngã phục xuống đất.

Bách Nhẫn đại sư nhắm mắt lại thở dài nói, "Nếu hôm nay không nhờ có Nhâm tướng công kịp thời tới cứu, thì anh em lão nạp chắc đã lâm nguy rồi!"

Nhâm Vô Tâm trên môi nở một nụ cười cực kỳ tiêu sái, nói, "Tại hạ vẫn yên trí là đại sư đã về Tung Sơn rồi, không ngờ lại đi tới đây."

Bách Nhẫn đại sư thở dài nói, "Nếu lão nạp không phải đi tìm Nhâm tướng công thì bây giờ cũng về gần tới Tung Sơn rồi."

Nhâm Vô Tâm ngạc nhiên hỏi, "Tìm tại hạ? Chẳng hay có việc gì vậy?"

Bách Nhẫn đại sư nói, "Có người nhờ lão nạp chuyển cáo tới Nhâm tướng công một việc hết sức quan trọng."

Nhâm Vô Tâm đôi mắt long lanh, hỏi dồn, "Ai? Người nào? Việc gì?"

Bách Nhẫn đại sư trầm ngâm một lúc, rồi đem những câu nói của Diệp Sương Y thuật lại cho chàng nghe. Nhâm Vô Tâm nghe đến đâu, sắc mặt tái đến đấy. Khi Bách Nhẫn kể xong, chàng đưa ống tay áo lên lau mồ hôi trán, miệng vẫn mỉm cười nói, "Tại hạ như cánh bèo mặt nước, nay đây mai đó, không ở chỗ nào nhất định. Nếu không may mắn được gặp các vị ở đây thì thật lỡ hết việc lớn!"

Bách Nhẫn thở dài nói, "Mấy câu Diệp cô nương dặn dò, lão nạp tuy nhớ kỹ, nhưng dù sao cũng chỉ như con yểng học nói, kỳ thực thì bên trong tất còn nhiều uẩn khúc, mà Diệp cô nương chưa dám thổ lộ hết chân tình. Nhâm tướng công nếu muốn biết tường tận hơn thì phải thân điều tra lấy mới được."

Nhâm Vô Tâm gật đầu, "Việc này quả nhiên còn nhiều chi tiết phiền toái, tại hạ cần phải hỏi lại cho rõ ràng. Thời giờ cấp bách, tại hạ không dám nấn ná ở đây lâu. Xin cáo từ trước."

Nói xong cúi mình thi lễ, rồi nhảy lên ngựa, ra roi đi thẳng. Bách Nhẫn trông theo đám cát bụi phía sau lưng chàng kỵ mã, ngậm ngùi nói, "Thật là một con rồng trong loài người, trời sinh tài lạ!"

Bách Đại sắc mặt trầm lại, nói, "Không hiểu tại sao hôm nay tiểu đệ nhận thấy hắn có vẻ kỳ quái khác thường!"

Bách Nhẫn cau mày hỏi, "Kỳ quái vì cái gì?"

Bách Đại trầm ngâm một lúc rồi nói, "Thực ra tiểu đệ cũng không biết kỳ quái vì cái gì, chỉ cảm thấy thần sắc của hắn bữa nay hơi có vẻ dị dạng, nhưng lại không nói ra được những chỗ dị dạng ấy."

Bách Nhẫn bật cười nói, "Đột ngột nghe thấy một biến cố quan trọng như vậy, ai mà không biến đổi thần thái? Nhâm tướng công tuy là một bực kỳ tài, nhưng rốt cuộc lại cũng chỉ là một con người, không phải là thần thánh, làm sao tránh khỏi xúc động. Sư đệ đừng nên đa nghi quá thế!"

Bách Đại không nói gì nữa, nhảy lên xe, cầm lấy dây cương, rồi nói, "Mời sư huynh lên xe, chúng ta phải đi mau, không nên nấn ná chỗ này, lỡ bọn kia đổi ý quay trở lại thì phiền lắm."

Xe ngựa vừa đi được mấy bước, chợt lại nghe có tiếng vó ngựa lộp cộp từ phía sau đưa tới.

Bách Nhẫn ngẩng đầu trông lên, lại thấy một con ngựa trắng phóng như bay đến, nhưng trên yên ngựa hình như còn đặt một bao hành lý rất lớn.

Con ngựa vừa đi tới trước mặt, Bách Nhẫn, Bách Đại cùng giật mình sửng sốt, sắc mặt tái mét. Vì cái gói lớn nằm trên lưng ngựa, lúc này đã hiện rõ ra là một cái xác người mặc áo xanh, mà con bạch mã chân cao bờm dài, sức vóc lực lưỡng thì rõ ràng là con ngựa của Nhâm Vô Tâm cưỡi vừa rồi, không còn sai được nữa.

Bách Đại kêu lên một tiếng rồi nhảy xuống xe, túm lấy cương con ngựa trắng.

Bách Nhẫn cũng tung mình nhảy tới bên xác chết, nâng đầu lên nhìn kỹ, thốt nhiên kêu rú lên một tiếng, sắc mặt tái mét.

Một vị chưởng môn phái Thiếu Lâm mà đã phải kinh hoảng như vậy, quả là sự không vừa. Bách Đại vội hỏi, "Sư huynh, ai thế?"

Bách Nhẫn đứng đờ người ra, không sao trả lời được. Bách Đại hấp tấp nhảy tới bên cạnh, nhìn kỹ xác chết, rồi cũng tái mặt, lắp bắp, "Trời! Nhâm... Nhâm tướng công..."

Thì ra cái xác nằm trên yên ngựa ấy, chính là Nhâm Vô Tâm.

Một vị kỳ nam tử, thân mang tuyệt kỹ lại đang ghé vai gánh một trọng trách cực kỳ nặng nhọc là sự sinh tử tồn vong của toàn thể giới võ lâm, thốt nhiên bị chết một cách dễ dàng nhanh chóng như vậy, làm cho Bách Nhẫn, Bách Đại là hai vị cao tăng, tính tình vốn dĩ vẫn rất mực trầm tĩnh, lúc này cũng đều có cảm tưởng như bị một tiếng sét đánh ngang đầu, chỉ đứng chết lặng người đi, như hai pho tượng đá.

Một lúc khá lâu, Bách Nhẫn đại sư mới hơi định thần, bèn cất tiếng thở dài, đau đớn nói, "Nhâm tướng công không chết... vĩnh viễn không chết..."

Bách Đại chợt như bừng tỉnh, vội kêu to, "Đuổi mau! Thử xem kẻ nào hạ độc thủ!"

Nói chưa dứt lời, chợt nghe có tiếng cười ha hả từ dưới bụng ngựa đưa lên, kèm theo tiếng nói, "Không cần phải đuổi! Chính tôi hạ độc thủ đấy!"

Bách Nhẫn, Bách Đại đều giật mình, bước lùi lại ba bước, quát to, "Ai đấy?"

Hai người chợt thấy mắt hoa lên, một người đang từ dưới bụng ngựa nhảy ra, rồi lại rơi lên lưng ngựa.

Bách Đại vừa sợ vừa giận, lập tức quát lên một tiếng, giơ tay phóng ra một luồng cương phong ào ào bay về phía người lạ.

Người kia bị luồng cương phong đánh bật lên không, thân hình nghiêng ngả, rõ ràng là đã bị trọng thương.

Bách Đại phấn khởi tinh thần, quát, "Nghiệt chướng! Thì ra mày..."

Không ngờ tiếng quát chưa dứt, chợt thấy mắt hoa lên. Bóng người vừa rồi đã chễm chệ ngồi trên lưng ngựa. Thân pháp của gã thật kỳ quái hết sức, mà cũng nhanh nhẹn hết sức.

Bách Nhẫn, Bách Đại đều kinh sợ tái mặt. Lập tức cùng xông lại, mỗi người liên tiếp tấn công luôn ba chiêu. Gã lạ mặt lại theo luồng chưởng phong bay vụt lên như quả bóng, miệng gã còn cười nói, "Hai vị không nhận ra tiểu đệ hay sao? Mà cứ đánh mãi thế?"

Hai vị đại sư nghe nói cũng giật mình sửng sốt lùi lại mấy bước.

Chỉ thấy gã giơ tay lột chiếc phong mạo che sụp xuống tận mắt ra, miệng tủm tỉm cười, đứng sừng sững trong đêm tối, cặp mắt long lanh, với nụ cười trào phúng kia, không phải Nhâm Vô Tâm thì còn ai vào đấy?

Bách Nhẫn, Bách Đại bàng hoàng tưởng như mình đang mơ ngủ, hết nhìn thây ma nằm trên yên ngựa, lại nhìn người đàn ông đứng trước mặt, mồ hôi nhỏ giọt, thảng thốt không biết nói sao.

Một lát sau, Bách Nhẫn đại sư mới lấy tay áo lau mồ hôi, run run nói, "May quá! Thật là nguy hiểm, tối ư nguy hiểm!"

Bách Đại cau mày nói, "Chả lẽ tên này giả mạo hay sao?"

Nhâm Vô Tâm mỉm cười, nâng đầu xác chết lên, lấy tay sẽ cạo lên mặt hắn, quả có một lớp phấn trắng lả tả rơi ra.

Bách Nhẫn thở dài nói, "Lấy giả làm chân, suýt nữa thì lão nạp đã gây thành một lỗi lầm cực lớn. Nếu Nhâm tướng công không ra tay kịp thì không những hỏng hết việc lớn, mà tính mạng của Tứ phu nhân với Diệp cô nương cũng đều chết về tay lão nạp."

Nói đến đấy, ông lại rùng mình, nhắm mắt lại không dám nói tiếp nữa. Nhâm Vô Tâm nói, "Đại sư tâm địa từ bi, lấy lòng thành đãi người, cố nhiên không thể đoán ra được những âm mưu xảo trá quỷ quyệt của Nam Cung thế gia..."

Chàng lại đưa mắt nhìn xác chết, mỉm cười tiếp, "Tên này không những diện mạo hao hao giống tại hạ, mà giọng nói, dáng đi cũng đã được Nam Cung thế gia huấn luyện cho giống hệt như đúc. Đừng nói hai vị đại sư không thể nhận ra được, ngay đến tại hạ trông thấy cũng không khỏi ngạc nhiên."

Bách Đại giận dữ hỏi, "Họ làm thế để làm trò gì vậy?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Họ muốn thám thính tin tức của phái ta, nên không tiếc sự hao phí tài sức, chúng ta nếu không chú ý đề phòng cẩn thận thì dễ mắc mưu gian của họ lắm."

Bách Đại vừa rồi chỉ cảm thấy chàng Nhâm Vô Tâm giả có nhiều hình tích khả nghi, mà không sao nhận định được khả nghi ở chỗ nào. Lúc này mới chợt nghĩ ra, vội nói, "Chẳng trách khi hắn vừa tới, bọn kia tuyệt không ai kháng cự, lập tức thoái lui ngay. Vả lại lão Thiên Thủ Như Lai phóng ám khí ra, hình như chỉ tới gần hắn là tự động rơi cả xuống đất. Thì ra bọn họ đã bày mưu với nhau từ trước!"

Ông lại đưa mắt nhìn thi thể tên phu xe, nói tiếp, "Bần tăng tuy rất căm giận tên phu xe này, nhưng thật quả cũng không định giết hắn. Có lẽ tên kia vì sợ cơ mưu bại lộ, nên phải hạ độc thủ... Có thế mà mãi đến bây giờ bần tăng mới nghĩ ra!"

Ba người cùng ngậm ngùi, than thở giây lâu. Bách Nhẫn chợt hỏi, "Tứ phu nhân nhà Nam Cung thế gia có hẹn với tướng công điều gì phải không?"

Nhâm Vô Tâm nghiêm trang nói, "Vị Tứ phu nhân ấy tên gọi Trần Phượng Trinh. Đó là một người thông minh tài cán, thâm hiểu đạo lý. Chúng ta muốn phá Nam Cung thế gia, tất phải cần nàng giúp đỡ. Nàng hẹn gặp tại hạ tất cố sự gì quan trọng."

Bách Nhẫn nói, "Tứ phu nhân đã sai Diệp cô nương tới gian nhà tranh tìm tướng công nhưng không gặp. Cô ta có nhờ tôi chuyển cáo với tướng công rằng..."

Rồi ông lại đem lời Diệp Sương Y thuật cho chàng nghe.

Nhâm Vô Tâm nghe xong cũng biến sắc mặt, đứng ngẩn người một lúc, rồi thốt nhiên ngửa mặt lên trời, than, "Trời chẳng giúp ta! Trời chẳng giúp ta!"

Bách Nhẫn, Bách Đại thấy thái độ của chàng như vậy, trong bụng cũng đều cảm thấy buồn bực lo lắng. Một lát, Bách Nhẫn sực nhớ ra một việc lại ngẩng lên nói, "À quên! Suýt nữa thì lão nạp quên khuấy đi mất. Tứ phu nhân còn dặn rằng "bàn tay ma" mà Nam Cung thế gia dự bị để gây sóng gió giang hồ, thì lúc này khí hạn đã thành, Nhâm tướng công cần phải đặc biệt lưu ý..."

Nhâm Vô Tâm giật mình, sắc mặt hoảng hốt, hấp tấp hỏi, "Có thật không? Ai nói thế?"

Chàng tuy thừa biết câu ấy là của Tứ phu nhân dặn nhưng vì trong lúc tâm thần bị xúc động mạnh, mới buột miệng hỏi một câu ngớ ngẩn như vậy.

Bách Nhẫn nói, "Đó cũng là lời của Tứ phu nhân dặn. Lão nạp nghi rằng bàn tay tuyệt đẹp đã giết sư đệ Bách Tường có lẽ chính là "bàn tay ma" ấy?"

Nhâm Vô Tâm lẳng lẳng một lát, chợt ngẩng lên cười nói, "Binh tới đã có tướng đương, nước tràn đã có đất chắn. Họ có bàn tay ma thì chúng ta đã có gươm sắc. Việc gì mà lo!"

Hồi thứ hai mươi hai

Động chế thuốc bí mật

Chàng nói đến đây, chợt lại cất tiếng cười khanh khách, tiếng cười cực kỳ khinh tùng sảng lãng, chẳng khác nào tiếng cười của những kẻ hoàn toàn vô tự lự, chưa từng nếm mùi đau khổ bao giờ.

Cười xong chàng lại nói, "Lúc này chúng ta không nên lãng phí thời gian, tại hạ phải đi ngay cho được việc."

Bách Nhẫn đại sư nói, "Bần tăng đã đi lâu ngày cũng cần phải về chùa để xếp đặt mọi việc. Nhâm tướng công nếu có việc gì dùng đến xin cứ cho triệu, bần tăng sẽ đến ngay."

Nhâm Vô Tâm vội xua tay nói, "Theo ý tại hạ, hai vị đại sư không nên về chùa vội vì Nam Cung Thế Gia âm hiểm tàn ác, chúng ta phải tập trung lực lượng thì mới có thể đối đầu với chúng được. Nếu ta phân tán ra thì rất dễ cho chúng tỉa dần lắm."

Bách Đại đại sư hỏi, "Vậy tướng công bảo chúng tôi đi đâu bây giờ?"

Nhâm Vô Tâm chỉ về phía ĐôngNamnói, "Đi thẳng đây chừng một trăm bước sẽ trông thấy một tấm bia bằng đá, bên cạnh bia là con đường mòn. Hai vị cứ đi theo con đường ấy tự nhiên sẽ có người ra đón..."

Bách Đại đại sư lại hỏi, "Người ra đón sẽ đưa chúng tôi đi đâu?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Khi đến đó các vị sẽ biết, bây giờ tại hạ cần phải cáo lỗi hai vị trước."

Nói xong vòng tay thi lễ rồi lập tức rảo bước đi nhanh như bay. Bách Nhẫn đại sư và Bách Đại đại sư đưa mắt nhìn nhau rồi lẳng lặng dắt ngựa đi.

Đi ước chừng một trăm bước quả nhiên thấy có cái bia đá và một con đường chỉ rộng vừa một chiếc xe ngựa. Bách Đại đại sư dắt ngựa đi vào thấy hai bên đường cỏ mọc um tùm, càng đi vào sâu càng gập ghềnh khúc khuỷu.

Lúc này mặt trăng đã lên cao, ánh trăng lờ mờ chiếu xuống con đường gập ghềnh nên vẫn trông rõ lối đi.

Nhưng xe ngựa chỉ đi thêm được một đoạn đường nữa thì bị cỏ mọc che cả lối đi, không sao nhận được đường lối, chân ngựa bập bẫy bước cao bước thấp làm cho xe ngựa nghiêng bên này ngã bên kia, vô cùng vất vả.

Bách Đại đại sư chau mày nói với Bách Sư đại sư, "Tới đây là hết đường rồi, còn đi nữa hay thôi?"

Bách Nhẫn đại sư ngần ngừ một lát rồi nói, "Bỏ xe đi bộ vậy."

Bách Đại đại sư lập tức nhảy lên xe bế thi thể của Bách Tường xuống rồi cứ thẳng phía trước mặt mà đi. Hai người thân thủ cực kỳ nhanh nhẹn, vững vàng nên không coi con đường khó đi này vào đâu cả.

Hai người tuy không ai nói ra, nhưng trong bụng đều băn khoăn nghĩ ngợi, ngờ vực tự nghĩ, "Không lẽ anh chàng Nhâm Vô Tâm này cũng lại là Nhâm Vô Tâm giả cố ý dẫn dụ mình vào đây chăng?"

Càng đi lên phía trước, cỏ lại càng cao quá đầu người, hình như nơi đây không có vết chân người dẫm lên bao giờ. Bách Đại đại sư đang đi chợt dừng lại hỏi Bách Nhẫn đại sư, "Sư huynh! Ta còn đi nữa hay thôi?"

Bách Nhẫn đại sư chưa kịp trả lời thì bỗng có ánh sáng chiếu thẳng vào mặt hai người, Bách Đại đại sư quát hỏi, "Ai soi lửa đấy?"

Chỉ nghe một giọng nói cứng cỏi đưa ra, "Người tới đó có phải là Bách Nhẫn đại sư và Bách Đại đại sư của phái Thiếu Lâm đó không?"

Bách Đại đại sư tiến lên vài bước rồi hỏi, "Chính phải chúng tôi đây. Tôn giá là ai?"

Ánh lửa đột nhiên tắt ngấm, rồi từ trong bụi cỏ lao ra một bóng người.

Người đó đến gần Bách Đại đại sư, khom lưng thi lễ nói, "Vừa rồi tại hạ có điều không phải, xin lão thiền sư thứ cho."

Giọng nói có vẻ thành thật cung kính. Bách Nhẫn đại sư chú ý nhìn, thấy người đó tuổi cỡ trung niên, thân hình khôi vỹ, bèn cũng chắp tay đáp lễ nói, "Lão nạp không dám, chính bọn lão nạp mới là lỗ mãng."

Người đàn ông đưa mắt nhìn quanh bốn phía rồi nói, "Nhâm tướng công sai người đưa thư, dặn tại hạ ra đây đón hai vị. Vì việc này cần phải giữ bí mật, nên vừa trông thấy hai vị tại hạ không dám đường đột nhận ngay. Xin mời hai vị đi lên cho."

Nói xong quay mình đi trước dẫn lối, Bách Nhẫn đại sư và Bách Đại đại sư liền đi theo sau.

Đi được một đoạn, chợt nghe trong bụi cỏ phía trước nổi lên mấy tiếng sáo nho nhỏ, gã trung niên cũng huýt sáo lên đáp lại.

Kế đó lại thấy hai người đàn ông lưng đeo dao đứng trong ruộng cỏ, bốn mắt long lanh đang theo dõi lối đi của mình.

Người đàn ông dẫn đường đưa hai vị đại sư xuyên qua ruộng cỏ, lúc thì quẹo sang phải, lúc thì ngoặt sang trái, trong khi đó lại còn phải tránh những chỗ có chông ngầm. Đi tới ước chừng khoảng chín nồi cơm, gã mới lên tiếng, "Sắp đến rồi!"

Bách Nhẫn đại sư và Bách Đại đại sư cùng ngẩng đầu lên coi thì thấy ruộng cỏ đã thưa dần, trước mắt hiện ra một khoảng đất trống. Ngoài khoảng đất trống đó còn lờ mờ trông thấy một con đường giáp cốc. Bách Đại đại sư lẩm bẩm nói một mình, "Chỗ này kín đáo thật."

Thì ra con đường giáp cốc này trên thì hẹp dưới thì rộng, hình thế thật là đặc biệt, có lẽ là do tay người tạo nên, đứng ngoài khó lòng mà nhận ra được.

Một lát sau, người đàn ông đưa hai đại sư vào một thạch động rộng rãi mênh mông, đi qua hết cửa này tới cửa kia, từng từng lớp lớp, khuất khúc quanh co.

Trong động ánh lửa sáng rực, người đi kẻ lại rộn rịp, trông ai cũng có vẻ bận rộn tới tấp. Hai vị đại sư còn đang nghi nghi hoặc hoặc, người đàn ông đã đưa họ vào một gian thạch thất, nói, "Hai vị đại sư hãy ở nơi đây nghỉ ngơi một lúc, khi nào Nhâm tướng công về tại hạ sẽ vào báo ngay."

Nói xong vái chào lui ra. Bách Nhẫn đại sư nói với Bách Đại đại sư, "Sư đệ hãy đặt thi thể Bách Tường lên giường, còn chúng ta ngồi nghỉ nơi ghế này cũng được."

Bách Đại đại sư y lời, đặt thi thể Bách Tường xuống rồi nói, "Pháp thể Bách Tường sư đệ để đã lâu ngày sắp hư đến nơi, sư huynh bảo phải làm sao?"

Bách Nhẫn đại sư thở dài nói, "Cố chờ thêm hai ngày nữa, nếu vẫn không có cách gì thì đành phải hỏa táng."

Một lát sau, lại thấy một tên thanh y đồng tử bưng cơm lên. Hai người đang buồn rầu lo lắng nên cũng không để ý đến chuyện ăn uống.

Giữa lúc ấy, chợt nghe phía ngoài có tiếng người ho nhẹ, rồi tiếp theo là một giọng nói ông già vọng vào, "Có phải Bách Đại đại sư đang ở trong ấy không? Tiểu đệ là Cù Thức Biểu muốn vào bái kiến sư huynh!"

Bách Đại đại sư vừa nghe ba tiếng "Cù Thức Biểu" vừa sợ vừa mừng, vội đứng phắt dậy chạy ra gọi to, "Bách Đại đây, mời Cù huynh vào ngồi chơi trong này."

Cửa ngoài lập tức tiến vào một ông già râu tóc bạc như cước, mặt đỏ như quả táo chín, mặc áo bào rộng buông lỏng dây đai, thần tình cực kỳ tiêu sái.

Bách Đại đại sư chắp tay thi lễ nói, "Lâu lắm không gặp Cù huynh, thấy cố nhân vẫn được mạnh khỏe thật là đáng mừng, đáng mừng."

Rồi quay lại nói với Bách Nhẫn đại sư, "Sư huynh, vị này Trung Phù Cù Thức Biểu, một danh tú của võ lâm và cũng là một thần y hiện đại."

Bách Nhẫn đại sư đứng lên chắp tay thi lễ nói, "Hân hạnh!"

Cù Thức Biểu chợt nhìn thấy thi thể Bách Tường vội hỏi, "Bách Đại sư huynh, vị này là..."

Bách Đại đại sư ngậm ngùi đáp, "Đó là sư huynh của tại hạ tên gọi Bách Tường, bị chết vì bàn tay ma của Nam Cung Thế Gia, bọn chúng tôi đang lo không biết làm cách nào để đưa về Tung Sơn an táng đây."

Cù Thức Biểu thở dài nói, "Việc này tôi cũng được Nhâm tướng công nói qua. Ôi! Lúc này ma kiếp đang thịnh hành, không biết rồi đây còn không biết bao nhiêu chính nhân quân tử rơi vào kiếp nạn đây?"

Ông ngừng một giây rồi lại nói tiếp, "Mời hai vị dùng cơm đi đã, còn việc giữ gìn pháp thể Bách Tường đại sư, huynh đệ xin bảo đảm."

Hai người nghe nói đều mừng rỡ, vội đứng lên chắp tay cám ơn. Bách Đại đại sư nói, "Cù huynh ơn rộng tới cả người chết, anh em bần tăng cảm kích vô cùng. Nhưng nếu có tiện thì xin Cù huynh liệu lý ngay cho."

Cù Thức Biểu ngẫm nghĩ một lát rồi nói, "Vậy thì Bách Đại sư huynh hãy bế pháp thể y theo tại hạ sang đây."

Bách Đại đại sư vâng lời, bế pháp thể Bách Tường đi theo Cù Thức Biểu ra khỏi phòng, Bách Nhẫn đại sư cũng đi theo.

Quanh co một lúc, tới một gian thạch thất khác. Cù Thức Biểu dặn dò hai người đứng chờ rồi hấp tấp đi vào phía trong.

Cả gian phòng chỉ có một chiếc giường đá, Bách Đại đại sư đặt thi thể Bách Tường xuống đó, rồi đưa mắt nhìn quanh phòng một lượt nói, "Căn phòng này kín lắm, dùng làm nơi ướp xác thì thật là thích hợp."

Một lát sau, Cù Thức Biểu đã ôm vào một đống dược liệu, theo sau còn có một tên tiểu đồng ôm vào một chiếc thùng gỗ.

Cù Thức Biểu đặt dược liệu xuống rồi nói, "Khi đã đóng cửa phòng lại, nếu không có việc gì cần thì không nên mở ra."

Bách Nhẫn đại sư và Bách Đại đại sư biết là chỉ một lúc nữa là phải ra khỏi phòng, khó lòng còn được trông thấy di dung của Bách Tường nên hai người còn lộ vẻ tần ngần quyến luyến không muốn rời xa.

Cù Thức Biểu đánh lửa đốt bó thuốc ở dưới đất cho cháy bùng lên rồi nói, "Bây giờ thì mời hai vị ra ngoài."

Bách Đại đại sư và Bách Nhẫn đại sư cùng nhìn thi hài một lượt nữa rồi rón rén đi ra.

Cù Thức Biểu đóng cánh cửa mật thất vào, lại còn khóa thêm một lần khóa nữa, sau đó lấy trong thùng gỗ ra một vật màu trăng trắng nhét vào kẻ hở trên khuôn cửa, vừa làm vừa nói, "Đống dược liệu sẽ cháy hết, thuốc sẽ ngấm vào thân thể, nếu không mở cửa ra thì năm ba chục năm nữa thi thể của Bách Tường đại sư vẫn giữ được nguyên vẹn."

Chợt nghe có tiếng người nói chen vào, "Cù đại hiệp thủ đoạn giỏi lắm, sau này khi tại hạ trăm tuổi cũng xin nhờ đại hiệp đốt cho một mớ."

Ba người cùng giật mình quay lại đã thấy Nhâm Vô Tâm tay phải ôm tay trái rảo bước chạy vào, trên vạt áo xanh của chàng vẫn còn dính đầy những vệt máu chưa khô.

Ba người thảng thốt chưa kịp hỏi, chàng đã mỉm cười nói, "Các vị đừng lo. Bây giờ để tại hạ đưa các vị ra giới thiệu với mấy bằng hữu rồi chúng ta sẽ bàn cách tiêu tai giải họa."

Bách Nhẫn đại sư cất tiếng nói, "Các vị ấy hiện giờ ở đâu?"

Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói, "Xin mời ba vị ra đây."

Nói xong chàng quay lưng đi trước, ba người theo sau. Khi tới trước một cánh cửa đá đã khép chặt, ngoài cửa có bốn tên đồng tử đeo kiếm chia ra đứng hai bên, vừa thấy Nhâm Vô Tâm đến gần liền cúi mình thi lễ, một tên lấy tay đẩy cánh cửa ra.

Bách Nhẫn đại sư và Bách Đại đại sư cùng nhìn vào trong, thấy đó một gian thạch thất rộng mênh mong, bốn vách một nửa toàn là sách quí, một nửa toàn những chai thuốc, lọ thuốc xanh đỏ đủ màu, góc tường chất đầy dược liệu, giữa nhà kê một cái bàn gỗ dài đến hơn một trượng, xung quanh bàn có tới hơn mười người ngồi.

Bọn Bách Nhẫn theo Nhâm Vô Tâm vào phòng mới trông rõ bọn người ấy phần nhiều là những vị lão nhân râu dài tóc bạc, trong số các cụ già, quá nửa là đã có vẻ lọm khọm yếu đuối, nhác trông cũng biết họ không phải là những người trong võ lâm.

Các vị này thì có người đang xem sách, có người thì đang chế thuốc, người thì đang nhắm mắt tĩnh tọa, hình như không ai lưu ý đến bọn khách mới bước vào phòng.

Nhâm Vô Tâm ra hiệu cho bốn tên đồng tử lui ra khép cửa lại, rồi bước đến gần bàn cao giọng nói, "Các vị lão tiền bối vất vả quá."

Các vị lão nhân lúc này mới ngừng tay, từ từ ngẩng lên nói, "Nhâm tướng công đã về!"

Nhâm Vô Tâm chắp tay vái một cái rồi nói, "Các vị lão tiền bối vì thiên hạ sinh linh không tiếc công sức, bận rộn tối ngày. Tại hạ xin kính tạ một lễ."

Cù Thức Biểu tỏ vẻ như người đứng đầu bọn đó, vội chắp tay thi lễ nói, "Nhâm tướng công nhân tâm hiệp cốt, lấy việc thiên hạ làm việc mình, ngày đêm cúc cung tận tụy như vậy, dẫu chúng tôi có đem chút sức mọn gánh đỡ một vai thì có chi đâu là đáng kể."

Nhâm Vô Tâm nói với Bách Nhẫn đại sư và Bách Đại đại sư, "Hai vị đại sư, các vị lão tiền bối đây phần nhiều không hiểu võ công, lại sinh trưởng trong những nhà đại gia phú quí an nhàn sung sướng đã quen, chỉ vì nghe lời tại hạ thỉnh cầu cam tâm từ bỏ cuộc sống phong lưu xa cách vợ con, về nơi hang cùng ngõ hẹp này vùi đầu nghiên cứu tìm thuốc giải độc để cứu thế độ dân, đằng đẵng hai, ba năm nay chưa từng về thăm nhà. Tấm lòng từ bi ấy thật hiếm có."

Nói xong, lại chỉ hai vị đại sư giới thiệu với mọi người, "Đây là chưởng môn phương trượng chùa Thiếu Lâm pháp hiệu Bách Nhẫn đại sư, còn vị này sư đệ của người, pháp hiệu Bách Đại."

Mấy ông già vừa nghe xong đều đứng lên chắp tay thi lễ nói, "Chúng tôi vẫn thường nghe đại danh của các cao tăng phái Thiếu Lâm, hôm nay được gặp thật là vạn hạnh."

Bách Nhẫn đại sư, Bách Đại đại sư cũng chắp tay đáp lễ, nói khiêm nhường mấy câu rồi cùng ngồi xuống bàn. Nhâm Vô Tâm gọi người pha trà thơm đãi khách.

Cù Thức Biểu chợt hỏi Nhâm Vô Tâm, "Nhâm tướng công đã tìm thấy hai vị thuốc ấy chưa?"

Nhâm Vô Tâm đáp, "Tại hạ đã phái người sang những miền hoang vu phương Tây Bắc và các vùng núi Vân Quy mà tìm kiếm, ít nhất cũng phải vài ba tháng nữa mới có tin tức."

Một ông già đầu hói, râu dài quá ngực, nói giọng GiangNamđứng lên nói, "Linh dược khó cầu, không phải chỉ trong một thời gian mà có thể kiếm được. Lão hủ đã nghiên cứu được mấy loại thuốc có thể thay thế được cho dược vật nhưng chưa hiểu công hiệu thế nào."

Cù Thức Biểu nói, "Nếu vậy, ta hãy thử đem mấy tên bắt được trong nhà Nam Cung Thế Gia ra đây thí nghiệm thử xem sao."

Bách Đại đại sư ngạc nhiên hỏi, "Các vị cũng bắt được người của Nam Cung Thế Gia giam ở đây sao?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Tại hạ vì cố muốn chế giải dược nên phải bắt mấy người bị Nam Cung Thế Gia cho uống thuốc độc đem về làm vật thí nghiệm. Mấy người đó bị giam ở đây đã hai năm rồi."

Cù Thức Biểu rảo bước ra cửa, giơ tay phất một cái, cánh cửa đá tức thì theo tay mở ra.

Bốn tên đồng tử thấy Cù Thức Biểu bước ra vội kính cẩn thưa, "Lão tiền bối có điều chi dạy bảo."

Cù Thức Biểu nói, "Các ngươi dẫn mấy người trong Nam Cung Thế Gia đến đây."

Bốn đồng tử vâng lời lập tức quay đi.

Chỉ một lát sau đã dẫn hai người đi vào trong thạch thất.

Hai người này tầm vóc đều cao lớn, da mặt trắng xanh, tựa như người ốm lâu ngày mới dậy. Cù Thức Biểu nói với mọi người, "Xin các vị đại phu hãy đứng cả vào khu an toàn cho."

Tức thì tất cả các đại phu đều đứng cả vào trong góc tòa thạch thất. Bốn tên đồng tử thì lập tức chia ra đứng vây bốn phía, hai tên thì rút trường kiếm cầm sẵn nơi tay, còn hai tên thì giải huyệt cho hai đại hán.

Hai đại hán đồng thời cùng thở ra một hơi dài, rồi đưa mắt nhìn khắp mọi người trong phòng một lượt.

Ông già đầu hói lấy trong hộc bàn ra ba chiếc bình ngọc, mở nắp dốc mỗi bình ra hai viên thuốc màu sắc khác nhau đưa cho Cù Thức Biểu.

Nhâm Vô Tâm vội nói, "Cù huynh đừng cho họ uống thuốc vội, để tại hạ hỏi họ mấy câu đã."

Đoạn quay sang hỏi một gã đại hán, "Hai vị huynh đài quý tánh là chi?"

Hai đại hán đăm đăm nhìn Nhâm Vô Tâm một lút, rồi gã đứng bên trái đột nhiên trả lời, "Vũ Kỳ!"

Nhâm Vô Tâm gật đầu mỉm cười, lại quay sang hỏi gã bên phải, "Huynh đài có nhớ tên họ chăng?"

Người này ngơ ngác nhìn ngược nhìn xuôi, chẳng nói gì cả.

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Các vị cứ thong thả nhớ kỹ lại xem các vị là người ở đâu? Bị Nam Cung Thế Gia bắt từ hồi nào? Sau đó tại hạ sẽ kiếm thuốc chữa cho hai vị."

Hai gã đại hán hình như nghe hiểu câu nói của Nhâm Vô Tâm nên đều cúi đầu gầm mặt ra vẻ suy nghĩ.

Hồi thứ hai mươi ba

Nhân thuật hiệp tâm

Trong khi mọi người đều chú ý chờ nghe câu trả lời thì thốt nhiên hai gã đại hán thét lên một tiếng thật lớn, rồi cùng đứng bật dậy.

Bốn tên đồng tử vẫn luôn luôn đứng vây hai người vào giữa. Bách Đại thấy bốn tên ấy lớn nhất cũng chỉ vào khoảng mười bốn mười lăm tuổi, liền nghĩ thầm, "Bốn chú bé con này dù cho mới đẻ ra đã tập võ ngay, cũng bất quá mới được mười năm hoả hầu, vậy mà xem chừng như cả bốn người hình như đều là nhân vật chủ não trong toà thạch thất này, khi nà Nhâm Vô Tâm đi vắng, công việc ở đây tất do bọn họ chủ trì?"

Lại nhìn hai gã đại hán, lúc này đã thấy mặt họ dần dần ửng đỏ, hai mắt long sòng sọc, giang tay mắm miệng, hình như chỉ chực đánh nhau. Bốn tên đồng tử thái độ vẫn nhàn nhã ung dung, nhưng tám con mắt vẫn luôn luôn canh chừng hai gã đại hán.

Nhâm Vô Tâm chợt nói nhỏ, "Tụi ngươi đứng dẹp ra một bên."

Nói song tiến tới gần hai người, cười hỏi, "Hai vị huynh đài..."

Nó chưa dứt câu, gã đại hán đứng bên trái đã giận dữ quát to một tiếng, rồi giơ tay nắm lấy cánh tay phải của chàng. Nhâm Vô Tâm cứ để mặc cho hắn nắm, vẫn ôn tồn hỏi tiếp, "Vũ huynh có còn nhớ Nam Cung phu nhân không?"

Gã đại hán tự xưng Vũ Kỳ vừa nghe bốn chữ "Nam Cung phu nhân" chợt giật bắn người như bị sét đánh, bàn tay nắm Nhâm Vô Tâm lại càng xiết chặt hơn nữa.

Nhâm Vô Tâm đã ngầm vận công lực cực âm chí những hoá giải kình lực trên năm ngón tay của Vũ Kỳ một cách cực kỳ khéo léo. Chàng biết trong lúc này thần trí gã đại hán đang nửa mê nửa tỉnh, nếu làm cho hắn sợ hãi quá, rất có thể hắn sẽ nổi khùng mà hành động liều lĩnh. Chàng vẫn cố lấy giọng ôn hoà, hỏi lại, "Vũ huynh có còn nhớ Nam Cung phu nhân không?"

Gã đại hán ngơ ngác nhìn khắp mọi người một lượt, rồi chợt lộ vẻ kinh ngạc hỏi, "Ủa, phu nhân đến đấy à? Sao huynh đệ không nghe thấy tiếng nhạc?"

Nhâm Vô Tâm nghĩ thầm, "Có lẽ người này đã hơi tỉnh cũng nên? Nhưng sao sắc mặt hắn vẫn ngơ ngác thế này?"

Kế lại thấy Cù Thức Biểu luôn luôn đưa mắt cho mình, ra ý bảo điểm huyệt hai người lại, chàng bèn bất chợt xoay cổ tay đi, rồi rút ra khỏi bàn tay Vũ Kỳ, đồng thời hai cánh tay chia ra hai bên, điểm vào huyệt "Tinh xúc" của hai người, một cách cực kỳ mau lẹ, dễ dàng như bỡn.

Bách Đại đại sư buột miệng khen, "Thủ pháp đẹp quá!"

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Đại sư quá khen!"

Cù Thức Biểu lúc này mới lấy một viên thuốc đen trong số sáu viên thuốc của ông già hói đầu đưa ban nãy bỏ vào miệng Vũ Kỳ, lại chọn lấy một viên trắng bỏ vào miệng gã đại hán ngồi bên phải.

Lúc này trong phòng đều im phăng phắc, bao nhiêu cặp mắt đều đổ dồn vào mặt gã đại hán, chờ xem biến chuyển.

Cù Thức Biểu chợt nói nhỏ, "Nhâm tướng công thử giải huyệt cho họ coi."

Nhâm Vô Tâm gật đầu, vung hai tay lên, cách không đánh vào sườn mỗi người một cái.

Chỉ thấy thân hình hai người run lên, và đồng thời thở ra một hơi dài, bốn làn nhỡn tuyến quắc lên một cách hung dữ, nhìn trừng trừng vào mặt Nhâm Vô Tâm.

Thốt nhiên Vũ Kỳ kêu rú lên một tiếng, rồi cúp gập người xuống, hai tay ôm chặt lấy bụng.

Cù Thức Biểu vội thét lên, "Nhâm tướng công mau..."

Tiếng nói vừa dứt, tay đã vung lên, một ngón tay đã điểm vào giữa ngực Vũ Kỳ.

Nhâm Vô Tâm vận chỉ lực nhanh như gió, tuy chàng ra tay sau, nhưng lại tới trước, nháy mắt đã điểm trúng ba đại huyệt trên tâm mạch Vũ Kỳ.

Vũ Kỳ thân thể mềm nhũn, ngã gục xuống đất, một tên đồng tử bước lên một bước, luồn tay vào lưng hắn đỡ hắn dậy.

Cù Thức Biểu thở ra một hơi dài, lắc đầu nói, "Nguy hiểm thật! Nếu không nhờ Nhâm tướng công thủ pháp nhanh chóng thì còn gì là tính mạng anh chàng họ Vũ nữa?"

Nhâm Vô Tâm vừa toan hỏi nguyên cớ vì sao lại có chuyện lạ thế, thì chợt nhận thấy gã đại hán đứng bên phải, sắc mặt vừa hơi hồng hào, đã lại tái xanh, và cặp mắt đang long lên như hung thần, đã lại trở nên lờ đờ dại dột, bất giác cũng hơi lo, vội hỏi, "Cù huynh, người này có việc gì không?"

Cù Thức Biểu chú ý nhìn gã đại hán một lúc, rồi lắc đầu, "Tính mạng thì không sao, nhưng chỉ dùng một viên thuốc trắng vừa rồi, không đủ công hiệu."

Bách Nhẫn đại sư chợt hỏi, "Cù đại hiệp, Vũ Kỳ có lẽ bị trúng độc hoặc giả viên thuốc đen có tính chất trái ngược với loại thuốc của Nam Cung thế gia chăng?"

Cù Thức Biểu cười nói, "Lão thiền sư nói không sai, thứ thuốc này chúng tôi chỉ dùng thử, để coi cho biết căn nguyên loại độc dược của nhà Nam Cung thế gia, xem sức phản ứng thế nào mà thôi."

Nói xong lại bước tới bên giá thuốc với một cái bình bằng ngọc gắn kín, mở lấy một viên thuốc bóp nát ra, ấn vào miệng Vũ Kỳ, rồi nói, "Viên thuốc đen vừa rồi tất trong có một chất tương phản với loại thuốc độc của Nam Cung thế gia. Cũng may tôi đã đề phòng điểm đó, nên mỗi thứ thuốc đều phải chế sẵn thuốc giải."

Nhâm Vô Tâm thấy gã đại hán kia, đôi mi mắt cũng đã dần dần sụp xuống, bèn nói, "Cù huynh cũng nên cho tên này uống một viên giải dược, khôi phục lại sức khoẻ cho hắn luôn thể."

Cù Thức Biểu nói, "Không hề gì. Viên thuốc trắng cứ để nó ngấm vào mình hắn cũng không sao."

Ông lựa một viên thuốc màu đỏ cầm lên nói, "Ba loại thuốc viên đỏ, đen, trắng bao gồm hàng trăm chất thuốc giải độc. Cách bào chế hoàn toàn không giống nhau. Duy có thứ thuốc đỏ này là uống vào chỉ có lợi chớ không có hại."

Nói xong, lại bóp nát viên thuốc nhét vào kẽ răng cho gã đại hán, rồi bước lùi ra mấy bước nói, "Viên thuốc này mà không công hiệu nữa thì đành chịu."

Ước chừng thổi chín nồi cơm, lại thấy sắc mặt gã đại hán dần dần ửng đỏ, cặp mắt từ từ mở to, ngơ ngác nhìn khắp căn phòng, nhãn quang mỗi lúc một thêm linh động, thần thái càng tỏ vẻ kinh ngạc, lạ lùng.

Những người trong phòng, ai cũng cảm thấy tinh thần phấn khởi, cho là điềm tốt.

Nhâm Vô Tâm chợt lẩm bẩm nói một mình, "Tôi đã sai người đi gấp ngày đêm sang nước Thiên Trúc, mời một vị cao tăng tinh thông thuật "Da du" tới đây giúp sức các vị. Chỉ vị đường đất xa xôi cách trở, nên mãi tới bây giờ vẫn chưa thấy hồi âm. Nếu hai vị thuốc hồng, bạch này mà có công hiệu, thì đỡ được bao nhiêu công lao."

Cù Thức Biểu đăm đăm nhìn những nét biến ảo trên nét mặt gã đại hán, hình như không nghe thấy câu nói của Nhâm Vô Tâm.

Ông nhận sự uỷ thác của Nhâm Vô Tâm, mời khắp các vị danh y toàn quốc, vùi đầu trong toà thạch thất này đã ngót ba năm trời, mà vẫn chưa nghiên cứu được phương pháp giải độc dược của Nam Cung thế gia, trong bụng không khỏi lấy làm xấu hổ. Lúc này thấy hai thứ thuốc hồng, bạch hợp dụng, hình như đã có công hiệu, trong bụng vừa sợ vừa mừng, không biết lấy gì hình dung được. Nên tâm trí ông hoàn toàn bị những nét biến chuyển trên khuôn mặt gã đại hán thu hút mất cả.

Gã đại hán đôi mắt luôn luôn đưa đẩy, tỏ vẻ kinh ngạc hết sức. Một lúc lâu sau, gã chợt thở dài một tiếng rồi hỏi, "Đây là đâu? Các người là ai? Sao tôi lại ở đây?"

Nhâm Vô Tâm mỉm cười đáp, "Tại hạ là Nhâm Vô Tâm, còn vị này là Cù Thức Biểu, một bậc thần y đương thời."

Gã đại hán gật gù, kế lại đảo mắt nhìn Bách Nhẫn, Bách Đại hỏi, "Còn hai vị đại sư phụ này là ai?"

Bách Nhẫn đại sư chắp tay nói, "Lão nạp là Bách Nhẫn, còn tệ sư đệ đây là Bách Đại."

Gã đại hán ngẩn người một lát, rồi thốt kêu lên, "A, phải rồi! Hai vị ở chùa Thiếu Lâm phải không?"

Bách Nhẫn mỉm cười nói, "Vâng, chính phải."

Gã đại hán cau mày, lẩm bẩm, "Bách Đại... Bách Đại..."

Thốt nhiên gã kêu to, "Phải rồi, tôi nhớ ra rồi, đại sư tức là Bách Đại đại sư, mà người ta thường gọi là "Tế thế sinh phật" phải không?"

Nói xong đứng phắt dậy, chắp tay vái một vái sát xuống tận đất.

Bách Đại vội nhảy tránh ra một bên, chắp tay vái trả, nói, "Bần tăng không dám, xin thí chủ miễn lễ!"

Gã đại hán từ từ đứng lên nói, "Đại sư đã cứu mạng cho một người anh em của tại hạ, chẳng lẽ đã quên rồi ư?"

Bách Đại nhìn kỹ gã đại hán một lúc, rồi cau mày nói, "Trong bước giang hồ, hoặc giả có khi ngẫu nhiên giúp đỡ người ta là sự thường, làm sao nhớ được?"

Gã đại hán lại nói, "Nếu vậy chắc đại sư cũng không nhớ mặt tại hạ?"

Bách Đại cười, "Thí chủ thứ lỗi, bần tăng trí nhớ kém lắm!"

Đại hán nói, "Tại hạ họ Trương, tên gọi Quang Ân, còn gia huynh là Trương Quang Nghĩa."

Thấy Bách Đại vẫn lắc đầu, gã lại nói, "Đại sư đã được các bạn giang hồ đồng đạo kêu là "Tế thế sinh phật", luôn luôn cứu khốn phò nguy, nên không nhớ tới anh em tại hạ là phải. Gia huynh còn có một hỗn hiệu gọi là "Thiết thủ Côn Lôn", tên ấy may ra đại sư còn nhớ?"

Bách Đại quả nhiên lúc này mới chợt nhớ ra. Mấy năm trước nhân đi hành cước, có cứu được hai anh em nhà nọ, trong đó có một người chưởng lực khá mạnh, một lúc đánh chết được luôn bảy tên cường địch. Rút cục lại vì quân địch quá đông, vả lại toàn là cao thủ, nên bị khốn vào giữa, không sao phá được vòng vây. Đánh mãi đến lúc mất cả hơi sức, chỉ còn chờ chết. May sao lại gặp Bách Đại đi ngang qua, nổi lòng công phẫn, bèn ra tay dẹp tan tụi cường khấu, cứu được hai người thoát cơn nguy nan. Nhớ lại chuyện đó, ông bèn gật đầu nói, "À phải, lão nạp nhớ ra rồi. Hiền côn trọng đều là những người có tiếng trong làng võ, vậy mà không hiểu tại sao lại cam tâm đầu thân vào nhà Nam Cung thế gia?"

Trương Quang Ân thốt nhiên tái mặt, ngồi phịch xuống ghế.

Bách Đại đại sư hốt hoảng gọi, "Trương thí chủ..."

Trương Quang Ân không trả lời, chỉ từ từ nhắm mắt lại, sắc mặt đầy vẻ đau đớn.

Nhâm Vô Tâm thở dài nói, "Công đã gần thành lại bị thất bại, thuốc giải độc của chúng ta xem chừng khó lòng mà cứu được những người này!"

Trong phòng lúc này đều im phăng phắc, mười mấy cặp mắt đều đổ dồn cả vào Trương Quang Ân.

Thoáng chốc chợt nghe thấy một tiếng thở dài, phá tan bầu không khí trầm tịch, rồi có tới bốn năm tiếng thở dài khác phụ hoạ theo. Niềm lo lắng như đang đè trĩu trong lòng mỗi người. Tình hình thực khẩn trương đến cực điểm.

Giữa lúc ấy chợt nghe một tiếng thét lớn, rồi Trương Quang Ân đột nhiên đứng phắt dậy, thò tay túm lấy ông già đứng bên cạnh.

Cuộc biến chuyển quá ư đột ngột, nên tuy đã có mấy tay cao thủ là Nhâm Vô Tâm và Bách Đại đứng đấy mà cũng không ứng cứu kịp.

Bốn tên đồng tử lập tức rút kiếm ra khỏi vỏ. Bách Đại bước đến trước mặt Trương Quang Ân, nói một cách rất ôn tồn, "Trương thí chủ, xin nể mặt bần tăn, buông tay ra..."

Câu nói chưa dứt, Trương Quang Ân đã gầm lên một tiếng, đẩy ông già nằm cong queo dưới đất, rồi vung tay lên đánh vào giữa ngựa Bách Đại.

Bách Đại cũng vội vận quyền kim cương chống đỡ. Hai luồng quyền phong vừa chạm vào nhau, tức thì thân hình Trương Quang Ân bị đánh bật lùi lại mấy bước.

Tức thì hai tên đồng tử đưa hai thanh kiếm lên, chỉ thấy hào quang lấp lánh. Trương Quang Ân đã rú lên một tiếng ngã gục trên vũng máu.

Thốt nhiên lại nghe tiếng Nhâm Vô Tâm kêu to, "Cù huynh tránh mau!"

Miệng thì nói, tay đã phóng ra một chưởng, nhằm thẳng về phía trước đánh tới.

Chỉ nghe "bùng" một tiếng, rồi một người đã theo tiếng động ngã lăn xuống đất. Cù Thức Biểu ngẩng đầu nhìn theo, thấy Vũ Kỳ đã nằm sóng soài trên mặt đất, tai mũi đều ứa máu mà chết.

Thì ra trong lúc Trương Quang Ân túm lấy ông già đứng bên thì Vũ Kỳ cũng lẳng lặng đứng dậy, giơ tay định túm lấy gáy Cù Thức Biểu. May nhờ Nhâm Vô Tâm nhanh mắt, nhanh tay cứu ứng kịp, nếu không thì lúc này chắc đã bồi thêm một mạng nữa.

Cù Thức Biểu càng nghĩ lại càng rùng mình, vội chắp tay cảm tạ Nhâm Vô Tâm, rồi sai người vực ông già lên đem vào phòng trong chạy chữa, và đem hai cái xác chết ra ngoài.

Biến cố xảy ra chỉ trong chớp mắt, khiến mấy vị lão nhân đều run cầm cập, không nói nên lời. Nhâm Vô Tâm luôn luôn kiếm lời an ủi mọi người, rồi mời tất cả về phòng yên nghỉ.

Xong đâu đấy, chàng lại đưa Bách Nhẫn, Bách Đại về phòng riêng của mình, sai mấy tên tiểu đồng dọn một mâm cơm khác, bưng lên.

Ba người cùng ngồi vào bàn ăn uống. Bách Nhẫn thấy trong mâm chỉ toàn món ăn chay, không thấy có rượu, bèn cười nói, "Nhâm thí chủ hà tất phải giữ lễ, xin cứ để lão nạp ăn chay, tướng công nên uống mấy chén rượu cho lại sức."

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Tại hạ rất ít khi uống rượu, rượu tuy làm cho người ta tráng chí, nhưng cũng nhiều khi làm cho người ta say sưa đến nỗi hỏng cả công việc. Tại hạ chỉ lúc nào nhàn rỗi lắm mới uống. Xin hai vị đại sư đừng để tâm."

Giữa lúc chuyện trò vui vẻ, Nhâm Vô Tâm thốt nhiên biến sắc, hai tay vịn lấy mép bàn đứng phắt lên, lắng tai nghe ngóng. Bách Đại ngạc nhiên hỏi, "Nhâm tướng công nghe thấy gì lạ thế?"

Nhâm Vô Tâm hạ giọng nói nhỏ, "Tại hạ chợt có cảm giác là lạ. Hình như có gian tế lẻn vào động."

Hồi thứ hai mươi bốn

Nữ ma nhát hồn vía

Bách Nhẫn, Bách Đại nghe nói cùng giật mình, chú ý lắng nghe, nhưng bên ngoài trừ tiếng gió thổi ù ù, tiếng lá rơi xào xạc, thì không thấy gì lạ cả.

Nhâm Vô Tâm thấy hai người nét mặt cùng ngơ ngác, có ý như không tinh thính giác của mình, liền mỉm cười nói, "Khu vực này phòng bị rất nghiêm mật, dẫu có bị địch nhân phát hiện, cũng không dễ lọt vào được. Nhưng mà..."

Tên đồng tử đứng hầu sau lưng Nhâm Vô Tâm chợt nói, "Để đệ tử ra coi xem sao."

Nói dứt lời liền rảo bước đi ra, nháy mắt đã mất biến.

Bách Nhẫn đại sư đưa mắt trông theo, tấm tắc khen, "Mấy chú bé thủ hạ của tướng công trông thật đáng yêu."

Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói, "Hai vị đại sư không phải người ngoài, tại hạ dẫu có khoe khoang một chút, chắc hai vị cũng nguyên lượng. Bốn tên đồng tử này tại hạ đã phải phí bao nhiêu tâm huyết mới huấn luyện được. Các nhân vật võ lâm tầm thường không dễ làm gì được chúng. Nhà Nam Cung thế gia đã có cơ tâm từ lâu, lại cậy vào vũ công quỷ bí, độc dược kinh nhân, ám toán các bậc anh hùng hào kiệt, bao nhiêu cao thủ đều đã lần lượt sa vào cạm bẫy. Vậy nên tại hạ không thể không dự bị, đào luyện lấy một số nhân tài, để có người đỡ chân đỡ tay."

Ngừng một lát, chàng lại tiếp, "Nếu không phải vì tình thế bức bách, tại hạ một mình không thể kiêm cố được tất cả mọi việc, thì quyết cũng không dám kinh động tới quý phái và phái Vũ Đương."

Bách Nhẫn nghiêm nghị nói, "Nhâm tướng công đã xả kỷ vong linh, vì võ lâm tiêu tai giải ách, bọn lão nạp kính bội vô cùng..."

Vừa nói tới đấy, Nhâm Vô Tâm chợt lấy tay xua xua, rồi đứng phắt dậy, rảo bước chạy ra cửa.

Bách Đại cũng vùng đứng lên chạy theo. Nhâm Vô Tâm vừa ra đến ngoài cửa, lại lộn trở vào, tháo thanh cổ kiếm đeo trên vách xuống, cầm lăm lăm trong tay, rồi nhảy ra đi thẳng.

Bách Nhẫn kinh sợ nghĩ thầm, "Có lẽ chính Nam Cung phu nhân thân hành đến đây chăng? Sao trông Nhâm tướng công có vẻ quan trọng lắm vậy?" Nghĩ thế, ông cũng vội đứng lên hấp tấp đi ra khỏi phòng.

Vừa đi được một quãng, đã thấy tên tiểu đồng ban nãy đứng dựa vào vách đá, cứng đờ như cái xác không hồn.

Nhâm Vô Tâm cúi xuống bắt mạch cho tên đồng tử, xong lại hối hả chạy đi, chẳng rằng chẳng nói. Bách Đại cầm chủy theo sát sau lưng.

Bách Nhẫn đại sư đi sau cùng, khi qua chỗ tên đồng tử, ông lấy tay sờ lên ngực, thấy quả tim đã ngừng đập, thì ra đứa bé đã chết từ lúc nào.

Bách Nhẫn kinh sợ nghĩ thầm, "Chú bé này vừa ra khỏi thạch thất vài ba trượng, đã bị người đánh chết, mà sao không ai nghe thấy tiếng động?"

Còn đang nghĩ ngợi đã thấy Nhâm Vô Tâm và Bách Đại chạy trở lại, sẽ nói với Bách Nhẫn, "Còn là may, nếu trong số các vị tiền bối ai có việc gì, thì tại hạ thật ôm hận suốt đời."

Bách Nhẫn đại sư nói, "Chú tiểu đồng này chết rồi!"

Nhâm Vô Tâm gượng cười, cúi xuống bế tiểu đồng lên, thủng thỉnh đi lên phía trước. Vừa đi được mấy bước, chợt lại đặt thi thể xuống đất, rồi lập tức băng mình chạy đi như bay. Bách Nhẫn, Bách Đại cũng vội vã chạy theo.

Nhâm Vô Tâm thân hình nhanh như luồng chớp, chỉ nháy mắt đã chạy xa tới trăm trượng. Vừa đưa mắt nhìn lên, đã trông thấy bốn tên canh cửa đứng dựa bờ tường, cứng đờ như thây chết, và cũng lúc ấy lại thấy một cái bóng đen bé nhỏ, thoáng hiện ra, rồi lại biến đi mất.

Căn động này ở trong ruột núi, ít khi trông thấy bóng mặt trời, ngày cũng như đêm đều nhờ những ngọn đèn chế theo kiểu đặc biệt soi sáng. Cái bóng nhỏ bé đó vừa thoáng hiện lên, đã lại biến ngay, nếu không phải là người có cặp mắt rất tinh thì không sao nhận ra được.

Nhâm Vô Tâm giận lắm, dốc hết toàn lực, vùn vụt chạy theo, miệng thì quát lớn, "Ai đó, đứng lại!"

Đuổi được một quãng, lại trông thấy cái bóng đó chạy vào phía trái động, nhanh như điện, sức mắt khó lòng nhận ra được.

Nhâm Vô Tâm giận dữ như điên, lại thét lên, "Ngươi không đứng lại, đừng trách là ta ác."

Vừa quát dứt lời, chợt nghe phía trước cũng có những tiếng ồn ào đưa lại. Thì ra là bốn gã đại hán mặc áo xanh, tay cầm dao đang đi tuần thám, nghe tiếng Nhâm Vô Tâm quát, đều reo hò xông lại, nhưng cả bốn người đều không trông thấy gì cả.

Nhâm Vô Tâm nhỡn lực tinh tường, tuy còn đứng đằng xa, đã trông thấy cái bóng chạy tới gần bọn đó, bèn quát rầm lên, "Chú ý..."

Nói chưa dứt lời, cái bóng bé nhỏ đã xông tới trước mặt bốn gã đại hán, chỉ thấy bốn người đang đứng một chỗ, chợt bị gạt ra làm hai, rồi cùng ngã ra hai bên vệ đường, bốn con dao đều rơi loảng xoảng xuống mặt đá.

Nhâm Vô Tâm giật mình kinh hãi, không biết đối phương dùng thủ pháp gì mà chỉ trong nháy mắt đã đánh ngã được bốn võ sì, vũ nghệ đều vào bực cao cường như vậy?

Nỗi uất hận căm hờn kèm lẫn với tính hiếu thắng sẵn có, làm cho chàng không kịp đắn đo, lập tức nhảy vọt tới phía sau cái bóng. Hai bên chỉ còn cách nhau khoảng chừng mười trượng.

Nhờ ánh đèn sáng tỏ, chàng đã nhận rõ đối phương. Đó là một người tầm vóc nhỏ nhắn, mềm mại, đầu bịt khăn xanh, mình khoác áo choàng đen, chân đi giày đế mỏng cũng màu đen, trong lúc di chuyển, hình dáng chập chờn như một bóng ma. Đêm hôm đi đường gặp hắn, người yếu bóng vía tất không khỏi rùng mình, rợn tóc gáy.

Nhâm Vô Tâm lập tức tung mình nhảy tới sát sau lưng cái bóng, thanh bảo kiếm vung lên, nhằm đúng bối tâm địch thủ xỉa tới, miệng thì quát, "Ai? Quay mặt lại!"

Chàng đã dốc toàn lực vào mũi kiếm đó, cái bóng nhỏ bé kia hình như cũng biết đối thủ lợi hại, hắn chẳng những không tiến lên lại còn lui về, rồi bất thình lình xoay mình trở lại. Thốt nhiên từ trong cái bóng đen đó, một cánh tay trắng muốt như ngọc vung lên, kèm theo một luồng gió nhẹ xông thẳng vào lòng Nhâm Vô Tâm.

Nhâm Vô Tâm chợt cảm thấy bàn tay phát run, suýt nữa thì đánh rơi cả thanh bảo kiếm. Chàng giật mình kinh sợ, vội cầm kiếm đưa ngược lên, rồi một ngón tay trái cũng đồng thời điểm vào địch thủ.

Một thế kiếm và một luồng chỉ phong đó, Nhâm Vô Tâm đã dùng hết tài nghệ vũ học của chàng, hai chiêu cùng phóng ra một lúc, bên trong còn ẩn giấu những biến hoá vô cùng, mặc dầu là tay cao thủ đến đâu cũng khó lòng tránh thoát.

Ai ngờ, cái bóng bé nhỏ kia chỉ sẽ uốn lưng một cái, thân hình đã nhẹ nhàng lướt qua Nhâm Vô Tâm, trong lúc đó chàng chỉ trông thoáng thấy một cánh tay trắng muốt khoe lên trước mặt, còn ngoài ra không thấy gì nữa.

Vừa thẹn vừa giận, Nhâm Vô Tâm quát to một tiếng, múa thanh kiếm lên, xoay mình đánh tới, kiếm phong ù ù như gió bão, kiếm quang lấp lánh như luồng chớp.

Người áo đen ứng biến cực kỳ thần tốc, chỉ thấy hắn hơi né người một chút, thân hình đã bay vèo đi mấy thước, rồi chạy thẳng về phía trước, nháy mắt đã chạy xa tới hai ba trượng.

Bách Đại quát to, "Thí chủ hãy đứng lại nói chuyện đã!"

Rồi vung tay đánh ra một quyền. Người nhỏ bé vừa thoát luồng kiếm phong của Nhâm Vô Tâm, lại gặp quyền phong của Bách Đại đón đầu đánh tới.

Trong lúc luống cuống, hắn lại né tránh sang bên cạnh, ép sát lưng vào tường vượt lên.

Bách Đại không đợi hắn vượt qua, lập tức cong cánh tay phải như vòng cung, bất chợt tống ra một quyền nữa.

Quyền phong phóng ra, vừa gặp lúc người áo đen chạy tới, bắt buộc hắn phải dừng lại.

Mấy người có mặt tại đây đều là cao thủ trong làng võ, nên đã kịp lợi dụng thời gian trong nháy mắt đó, cùng xông lại tấn công một lúc.

Bách Đại vừa co tay phải về, tay trái đã tống luôn một quyền vào giữa mặt gã áo đen. Bách Nhẫn xông lên nắm lấy vai gã. Nhâm Vô Tâm thì áp năm ngón tay trái vào mấy đại huyệt ở lưng đối phương, tay phải vung cây bảo kiếm lên phòng giữ phía bên cạnh.

Ba mặt dồn lại, quyền chưởng, chỉ phong dàn thành một vòng lưới. Mọi người đều cho rằng dù đối phương có mọc cánh cũng không hòng bay ra thoát.

Nào ngờ người áo đen chỉ sẽ xoay mình một vòng, tức thì quyền chưởng, chỉ phong của ba người rõ ràng đã đánh trúng vào mình gã, mà hình như đều đánh vào chỗ không. Ai nấy đều có cái cảm tưởng như người gã chỉ có hình mà không có chất vậy.

Bách Nhẫn, Bách Đại đều hoảng hốt kinh sợ, vừa toan biến chiêu, đã nghe tiếng Nhâm Vô Tâm quát to, "Hai vị đại sư lui mau!"

Giọng chàng run run, rõ ra đã trông thấy sự gì kinh hoàng tới cực độ, bất giác hai người cùng dừng tay lại, nhảy lùi cả về phía sau.

Nhâm Vô Tâm cầm thanh bảo kiếm chắn ngang trước ngực, rồi cũng lùi về đứng chặn trước mặt Bách Nhẫn, Bách Đại.

Người áo đen thốt nhiên dừng lại, trong tấm áo choàng đen từ từ thò ra một cánh tay đẹp như ngà ngọc. Nhâm Vô Tâm lại kêu to, "Hai vị tránh mau!"

Rồi vung thanh trường kiếm lên, tức thì một nguồi nội lực từ thanh trường kiếm tuôn ra, liên miên bất tuyệt theo vùng chuyển động của thế kiếm, biến thành một bức tường vô hình, ngăn phía trước chỗ mình đứng cách một khoảng chừng bốn năm thước.

Bách Đại thấy thế bất giác cũng tấm tắc khen thầm, "Người này công lực còn hơn ta nhiều lắm!"

Kế lại nghe chàng dùng thuật "truyền âm nhập mật" nói với hai người, "Hai vị đại sư hãy tránh xa ra, tại hạ chỉ có thể cầm cự được một thời gian, chớ chắc không thể cầm cự lâu hơn được đâu!"

Nhưng cánh tay ngà ngọc đã hấp dẫn mục quang của hai vị đại sư, nên Nhâm Vô Tâm nói mấy câu vừa rồi, không ai nghe thấy cả.

Chỉ vì cánh tay ấy đẹp quá, đẹp đến nỗi dù cho họp tất cả những nhà điêu khắc trứ danh trên cõi đời này lại cũng không sao có thể tạc nên được một cánh tay nào đẹp hơn thế nữa.

Đó là một cánh tay tròn trặn, thon nhỏ, màu da trắng nõn, lại hơi có ánh hồng hồng, bàn tay dài mà nhỏ, những ngón tay mềm mại, mũm mĩm như búp măng non, cực kì diễm lệ.

Chợt trông thấy cánh tay nõn nà ấy giơ lên cao, nhè nhẹ đưa qua đưa lại. Bách Đại không sao chống cự nổi sức quyến rũ của bàn tay ma ấy, bèn lập tức bước lên mấy bước.

Thốt nhiên, một luồng kiếm phong lạnh buốt phà vào mặt, tưởng như lạnh thấu cả ruột gan.

Bách Nhẫn, Bạch Đại lúc này mới bừng tỉnh, vội quay đầu lại, thấy Nhâm Vô Tâm mồ hôi đẫm trán, và bên tai còn nghe văng vẳng tiếng nói của chàng, "Hai vị đại sư mau nhắm mắt lại."

Hai người chợt nhớ tới hoàn cảnh của mình, vội theo lời chàng nhắm mắt lại. Nhâm Vô Tâm lại nói, "Hai vị đại sư hãy trở lại phòng riêng của tại hạ, chờ đó một lát, tại hạ sẽ về ngay."

Bách Đại liền hỏi, "Nhâm thí chủ không cần chúng tôi giúp một tay sao?"

Nhâm Vô Tâm lắc đầu, "Tại hạ tự khắc sẽ có cách đối phó. Hai vị đại sư hà tất phải quan tâm."

Hai người vừa đi được mấy chục bước, đã nghe Nhâm Vô Tâm quát to một tiếng, lại cùng ngoảnh cổ lại, chỉ thấy một luồng kiếm khí sáng ngời, đang vây lấy cánh tay ngà ngọc.

Nhâm Vô Tâm thấy hai người tỏ vẻ chần chừ, lại lên giọng thôi thúc, Bách Nhẫn đành phải kéo Bách Đại chạy về tĩnh thất.

Ngồi một lúc ước chừng nguội chén trà, chợt nghe ngoài cửa có tiếng giầy bước nhẹ.

Bách Đại vội đứng lên, ngầm tụ công lực, nắm chắc lưỡi chuỷ, thủ thế đợi địch.

Cánh cửa đá két một tiếng rồi hé mở ra. Nhâm Vô Tâm lủi thủi bước vào, sắc mặt đầy vẻ bơ phờ mỏi mệt. Bách Nhẫn đại sư đứng lên đón, nói, "A di đà phật! Nhâm thí chủ có cần lão nạp giúp gì không?"

Nhâm Vô Tâm lắc đầu, "Đa tạ đại sư, không sao cả. Mời đại sư ngồi!"

Chàng chống kiếm bước vào, ngồi xuống ghế, nhắm mắt điều tức. Bách Nhẫn và Bách Đại trông qua đã biết chàng bị thương khá nặng, nên không dám kinh động, cứ để mặc chàng vận khí điều dưỡng.

Ước chừng thổi chín nồi cơm, nước da tái nhợt của chàng mới dần dần tươi tỉnh, chàng thở dài một tiếng, rồi mở bừng mắt ra.

Bách Đại khen, "Nhâm thí chủ nội công tinh thâm thật, chỉ mới chốc lát đã vận khí quy nguyên được, thực đáng khâm phục!"

- Tại hạ không bị thương, chỉ vì vận lực quá sức, nên bị tiêu hao nội lực nhiều. Tình hình chúng ta hôm nay thật quá ư nguy hiểm.

Bách Nhẫn đại sư hỏi, "Người ấy phải chăng là nhân vật trong Nam Cung thế gia? Võ công của hắn hình như còn trên cả Nam Cung phu nhân, không biết hắn thuộc hạng người nào?"

Nhâm Vô Tâm ngồi thừ ra, trầm ngâm một lát rồi nói, "Hai vị đại sư còn nhớ năm chục năm về trước, giang hồ thường truyền tụng câu chuyện về Nhiếp Hồn Nữ Ma không?"

Bạch Đại nói, "Bần tăng tuy cũng có nghe thấy câu chuyện đó, nhưng không thấy rõ nguyên uỷ. Vả lại, Nhiếp Hồn Nữ Ma mỗi khi xuất hiện, thường chỉ thoáng chốc lại biến mất, dẫu có ra tay với rất nhiều cao thủ võ lâm thì những người bị hại không còn ai sống sót, nên tới bây giờ, vẫn chưa ai thuật lại rõ ràng tường tận. Nhưng Nhiếp Hồn Nữ Ma có liên quan gì đến người có bàn tay trắng vừa rồi không?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Nào phải chỉ có liên can mà thôi! Nếu tại hạ đoán không nhầm thì Nhiếp Hồn Nữ Ma, với bàn tay trắng quái gở ban nãy chỉ là một!"

Bách Đại ngồi ngây ra một lúc, rồi lắc đầu cười, "Điều ấy khó tin lắm, vì theo ý bần tăng, thì Nhiếp Hồn Nữ Ma đã biệt tích mấy mươi năm nay rồi. Nếu mụ còn sống tới bây giờ, quyết không khi nào chịu im hơi lặng tiếng một thời gian dài đến thế? Vả lại, đời nào mụ chịu cam tâm làm thân tôi mọi cho Nam Cung phu nhân?"

Nhâm Vô Tâm gật đầu, "Đại sư nói rất có lý nhưng tại hạ cũng không phải là đoán mò, việc này quan hệ rất lớn đến vận mệnh võ lâm, nên tại hạ chưa dám quyết đoán, còn phải đợi điều tra cho chính xác đã."

Chàng ngừng một lát, rồi lại thở dài nói tiếp, "Chẳng dám giấu gì hai vị đại sư, vừa rồi trong khi giao đấu với nữ yêu, tại hạ đã bị thương rất nặng, không biết có còn sống được không?"

Bách Nhẫn, Bách Đại cùng giật mình sửng sốt, vội hỏi, "Tướng công bị thương à? Bị thương ở đâu? Để bần tăng mời Cù đại phu vào xem mạch cho. Sao chưa chi đã vội buông những câu thất vọng như vậy?"

Nhâm Vô Tâm lắc đầu cười gượng, "Tại hạ bị trúng một chưởng của con yêu phụ. Bàn tay mụ có luyện kỳ độc, dẫu thuốc tiên cũng không chữa được. Nhân lúc độc chưa phát tác, tại hạ định đem một việc tối ư quan trọng uỷ thác cho hai vị đại sư. Không biết hai vị có vui lòng nhận lời chăng?"

Bách Nhẫn thở dài nói, "Nhâm tướng công muốn uỷ thác việc gì thì xin cứ cho biết, nếu hai huynh đệ bần tăng có thể làm được, quyết không dám từ nan."

Nhâm Vô Tâm ngẫm nghĩ một lát rồi nói, "Trên đời này trừ "Tử Cốc Nhị Kỳ" ra thì không ai có đủ tài trí có thể đương đầu với Nam Cung thế gia được. Nhưng hai vị lão nhân gia vì bị trọng thương nên biến thành tàn phế từ lâu, đã bao nhiêu năm nay không hề bước chân ra khỏi Tử Cốc. Vì thế, tại hạ muốn phiền hai vị một việc ..."

Nói tới đây, chàng lại thò tay vào mình lấy ra một chiếc túi gấm nhỏ, rồi tiếp, "Trong này đã có ghi rõ tên và hình thế khu vực Tử Cốc. Sau khi tại hạ chết rồi, phiền hai vị tuyển lấy một người thân tín, nhanh nhẹn, đem cái túi này lên Tử Cốc, giao cho hai vị lão nhân gia ..."

Bách Nhẫn chưa kịp nói gì thì Bách Đại đã đỡ lời, "Nhâm tướng công đừng ngại, nếu chẳng may trời không thương kẻ anh hùng, bắt tướng công phải nửa chừng đoản mạng, thì việc đó bần tăng sẽ xin đảm nhiệm. Nhưng thiết tưởng, tướng công cũng đừng nên thất vọng vội, Cù đại phu và các vị danh y đây tất sẽ hết lòng cứu chữa cho tướng công. Bần tăng tin rằng bất cứ bệnh nào cũng phải có phương pháp chữa chạy."

Nhâm Vô Tâm lấy trong mình ra một chai thuốc viên, dốc lấy bốn viên màu xanh biếc, bỏ vào miệng nuốt đi rồi nói, "Thuốc tuy đã có sẵn, nhưng tại hạ nghe nói người nào bị Nam Cung thế gia hạ độc thủ thì phải nhờ chính người hạ độc chữa cho mới được. Lúc đầu, tại hạ bị "bàn tay ma" đánh một chưởng thì không thấy trong mình có gì thay đổi, nên yên trí là mình không bị trúng độc. Lúc này mới biết là lầm, vậy nên đành phải đem các việc mai sau phó thác cho hai vị. Hai vị đại sư tài trí có thừa, lại đều nhiệt thành với việc tiêu trừ tai kiếp cho toàn võ lâm, dám chắc sẽ không sợ gian lao, nguy hiểm ..."

Vừa nói tới đây, chợt nghe bên ngoài có tiếng giầy lẹp xẹp đi vào.

Bách Đại vội đứng phắt dậy, rút lưỡi chuỷ cầm tay, quát hỏi, "Ai?"

Vừa quát vừa nhảy phắt ra, đứng chắn ngang trước cửa, chỉ nghe thấy tiếng một thiếu nữ thỏ thẻ đáp, "Là tiện nữ!"

Tiếng nói trong trẻo ngọt ngào, rõ ràng là tiếng một thiếu nữ ngây thơ hiền hậu. Nhưng ở tai Bách Nhẫn, Bách Đại nghe ra thì không khác gì sét đánh bên tai.

Bách Đại run run hỏi, "Cô nương ... cô nương là ai?"

Tức thì một làn hương thoang thoảng đưa vào, rồi trước cửa hiện ra một hắc y thiếu phụ.

Hồi thứ hai mươi lăm

Mẹ chồng nàng dâu

Bách Đại vội vung lưỡi chuỷ lên, dùng chiêu Trảo Phiếm Nam Hải, nhằm giữa ngực thiếu phụ chém mạnh một phát.

Thì ra lúc này, Bách Đại đã trông rõ thiếu phụ này chính là một trong số những người quả phụ của nhà Nam Cung.

Thiếu phụ khẽ uốn lưng ong, nhẹ nhàng tránh thoát, rồi nói to, "Đừng đánh! Tiện thiếp muốn gặp Nhâm tướng công!"

Nhâm Vô Tâm nghe tiếng, vội nói, "Đại sư mau dừng tay lại!"

Bách Đại vội đứng né qua một bên, trong tay vẫn cầm lăm lăm lưỡi chuỷ, ngầm vận công lực phòng bị.

Nhâm Vô Tâm nhìn thiếu phụ, rồi chắp tay nói, "Xin mời Tứ phu nhân vào trong này."

Hắc Y thiếu phụ thủng thỉnh bước vào thạch thất, đôi mắt đăm đăm nhìn Nhâm Vô Tâm, chợt cau mày hỏi, "Tướng công bị thương à?"

Nhâm Vô Tâm gật đầu, "Tại hạ bị cô ta đánh trúng một chưởng!"

Thiếu phụ nói, "Tiện thiếp biết tướng công đã động thủ với ả."

Nhâm Vô Tâm vội hỏi, "Tại sao phu nhân biết?"

Thiếu phụ đáp, "Tiện thiếp thấy áo cô ả bị trường kiếm đâm thủng hai nhát, nên đoán chắc do tướng công gây ra. Quả nhiên là đúng như vậy!"

Nàng chợt đảo mắt nhìn khắp Bạch Nhẫn, Bạch Đại, rồi nín lặng, không nói gì nữa.

Nhâm Vô Tâm cười một cách buồn bã, nói, "Tứ phu nhân có điều gì thì xin cứ nói ngay cho, tại hạ bị thương nặng lắm, chắc không sống được bao lâu nữa! Nhị vị hoà thượng đây đều là người tâm phúc của tại hạ, xin phu nhân chớ ngại!"

Thiếu phụ tiếp lời, "Cũng may hôm nay gặp phiên trông coi trang viện của tiện thiếp, cũng đáng kể là một điều may trong sự không may!"

Bách Nhẫn đại sư vội hỏi, "Phu nhân nói thế thì chắc vết thương của Nhâm thí chủ còn có cơ hội được chữa khỏi chăng?"

Thiếu phụ gật đầu, "Nếu không cứu được thì tiện thiếp đã chẳng cất công tới đây. Nhưng phiên gác của tiện thiếp chỉ còn có hai canh giờ nữa thôi, thì giờ lúc này đúng là tấc đất tấc vàng, không thể giải thích cặn kẽ cho các vị nghe được. Chúng ta phải lập tức đi ngay!"

Bách Đại hỏi, "Đi đâu?"

Thiếu phụ đáp, "Đi tới chốn chữa thương cho Nhâm tướng công!"

Nhâm Vô Tâm gượng cười đáp, "Tứ phu nhân giúp đỡ tại hạ nhiều quá, tại hạ cảm kích vô cùng ..."

Thiếu phụ tỏ vẻ sốt ruột, vội nói, "Tướng công không tin tiện thiếp hay sao?"

Nhâm Vô Tâm do dự một chút rồi bảo, "Tại hạ đâu dám nghi ngờ, nhưng phu nhân có thể cho tại hạ biết trước, cách trị liệu cho thương thế của tại hạ như thế nào được không?"

Tứ phu nhân vội đáp, "Gỡ chuông phải nhờ chính người buộc chuông, chứ trong nhà Nam Cung thế gia chưa từng có thuốc giải cứu ..."

Mới nghe tới đây, Bách Nhẫn, Bách Đại đã giật mình sửng sốt, "Sao, sao ....Phu nhân bảo chúng tôi phải đến gặp con yêu phụ ..."

Nói tới đây, tự biết lỡ lời, hai người thốt nhiên nín bặt. Tứ phu nhân Trần Phượng Trinh vẫn bình tĩnh nói tiếp, "Đúng vậy! Cần phải gặp người ấy mới có thể chữa trị cho Nhâm tướng công. Thôi, xin mời các vị đi ngay cho, nếu chậm thì e không kịp."

Nói xong, lập tức quay mình, hấp tấp đi trước. Nhâm Vô Tâm nói nhỏ, "Hai vị đại sư nếu có hứng thì xin cùng đi, bằng không cứ để tại hạ đi một mình cũng được."

Bách Đại nói, "Đi chứ! Chúng tôi không thể an tâm để tướng công dấn thân vào hang cọp."

Xa xa còn nghe tiếng Trần Phượng Trinh vọng lại, "Nếu hai vị không yên tâm, xin mời cùng đi cả cũng được."

Thế là cả ba người cùng kéo nhau ra cửa, đuổi theo Trần Phượng Trinh. Ra tới cổng ngoài, bốn người cùng trổ thuật khinh công đi nhanh như gió. Đi ước chừng bảy, tám dặm tới bên dưới một sườn núi, đã thấy có ba gian nhà tranh, đứng dựa lưng vào vách đá.

Trần Phượng Trinh đến trước cửa thì dừng lại, lấy tay gõ vào vách đá ba tiếng, tức thì cánh cửa từ từ mở rộng, rồi một thiếu nữ tóc rủ ngang vai từ trong nhà bước ra. Chính là Diệp Sương Y!

Trần Phượng Trinh bước qua một bên, rồi nói, "Xin mời các vị vào trong nhà!"

Bách Đại nghiêng mình đi vào trước. Phượng Trinh ngửa mặt trông trời rồi nói, "Chúng ta chỉ còn một canh giờ nữa thôi."

Sau khi cả bọn đã vào tới trong nhà. Diệp Sương Y châm lửa vào cây bạch trúc trên bàn, tức thì ánh nến chiếu sáng khắp cả ba gian nhà cỏ.

Trần Phượng Trinh nói nhỏ với Nhâm Vô Tâm, "Tiện thiếp tuy đã biết rất nhiều bí ẩn trong nhà Nam Cung thế gia, nhưng không phải hoàn toàn cái gì cũng biết, việc chữa thương cho tướng công hôm nay không dám chắc có kết quả mỹ mãn hay không, chỉ toàn trông mong vào sự may rủi của tướng công mà thôi."

Từ lúc bước chân vào gian nhà, Bách Nhẫn đại sư đã đưa mắt quan sát bốn phía, thấy trong nhà ngoài chiếc giường, chiếc bàn và mấy chiếc ghế bằng tre ra thì không còn vật gì khác nữa. Trước giường có che một bức màn gió bằng vải đen, trên giường hình như có một người đang nằm ngủ thì phải.

Nhâm Vô Tâm nghe Phượng Trinh nói xong, chỉ cười đáp, "Điều đó tại hạ đâu dám trách phu nhân!"

Trần Phượng Trinh không nói gì, thủng thỉnh đi tới phía giường.

Bách Đại dùng thuật truyền âm nhập mật nói với Bách Nhẫn, "Nếu có sự gì xảy ra, sư huynh nên lo bảo hộ Nhâm thí chủ chạy thẳng ra ngoài, để tiểu đệ đối phó với mấy người này."

Bách Nhẫn gật đầu, đứng lùi ra phía cửa. Trần Phượng Trinh vén bức màn vải đen lên, quả thấy một người con gái vận đồ đen nằm ở trên giường. Bách Đại chú ý nhìn, thấy Trần Phượng Trinh thân thể hơi run run, hình như trong lòng nàng cũng đương hồi hộp sợ hãi, không dám quả quyết tự tin.

Căn nhà tranh hoang vắng, ngọn nến chập chờn, bên ngoài trời đêm tối mịt mù, bốn bề im lặng, ngần ấy cảnh tượng đủ gieo vào lòng người ta một cảm giác hãi hùng, ghê rợn. Bách Nhẫn, Bách Đại tuy đều là những bậc cao tăng, công phu tu dưỡng khác hẳn những kẻ bình thường, mà đứng trước hoàn cảnh này cũng không khỏi hồi hộp, lo lắng.

Trần Phượng Trinh đưa hai bàn tay trắng xoa nắn khắp thân thể người con gái nằm trên giường một lúc, rồi thốt nhiên lùi thật nhanh về phía sau ba bước.

Động tác của nàng thật nhanh nhẹn lão luyện, Bách Đại tuy đã lưu ý cẩn thận mà vẫn không sao nhớ được là nàng điểm vào những huyệt nào trên người Hắc Y thiếu nữ. Kế đó, nghe thấy một tiếng thở dài, rồi người ngồi trên giường chợt ngồi nhổm dậy.

Đó là một thiếu nữ diện mạo thanh tú, đôi mắt hơi tròn, mũi thẳng, miệng tươi, lông mày lá liễu, chỉ phải cái nước da trắng nhợt, mặt cắt không còn một giọt máu.

Hắc Y thiếu nữ giơ tay sửa lại mái tóc mây xanh mướt, rồi lấy một chiếc bao tay đen lồng vào tay phải. Phượng Trinh mỉm cười một cách buồn bã nói, "Đây là "Độc Nhân" do bà tổ sư tiện thiếp hao phí ba mươi năm tâm huyết mới bồi dưỡng nên được. Khi nào nàng đeo bao tay vào thì không những bên trong đã ngầm chứa một chất kịch độc cử thế vô song, mà võ công cũng không ai địch nổi."

Trong khi nói thì Hắc Y thiếu nữ đã bước xuống giường, thủng thỉnh đi lên. Nàng không những nhan sắc đã mỹ lệ tuyệt vời, mà dáng dấp lại cực kỳ yểu điệu, nhưng toàn thân hình như bị bao trùm bởi một luồng hơi lạnh như băng sương, khiến không ai dám đến gần.

Bách Đại thấy thiếu nữ tiến về phía mình, bất giác cũng giật mình, lùi về phía sau mấy bước. Phượng Trinh vội chắp tay đặt lên trước ngực, miệng lẩm nhẩm đọc như người cầu kinh, Bách Nhẫn cố lắng tai nghe, nhưng vẫn không nghe rõ nàng đọc ra tiếng gì.

Thiếu nữ đang đi, thốt nhiên dừng lại, rồi ngước mắt nhìn chằm chằm vào mặt Phượng Trinh, đoạn từ từ tiến về phía nàng.

Bốn mắt nhìn nhau một lúc, Phượng Trinh khẽ đưa tay điểm vào gáy thiếu nữ hai cái.

Bách Đại vẫn đưa mắt theo dõi từng cử chỉ của Phượng Trinh, xem nàng điều khiển thiếu nữ áo đen bằng cách nào.

Đấy chính là then chốt những bí ẩn kỳ dị của nhà Nam Cung thế gia, ai hiểu được đầu mối của cái then chốt ấy, tức là đã có thể mở được tấm màn bí mật, cứu được bao nhiêu cao thủ đã mắc vào cạm bẫy của nhà Nam Cung.

Nhưng Trần Phượng Trinh ra tay tuy chậm nhưng lúc điểm ngón tay vào mục tiêu thì nhanh không thể tưởng. Chưa đầy một cái chớp mắt, Bách Đại chỉ còn lờ mờ đoán phỏng đại khái, không sao nhận định được huyệt đạo chính xác.

Thiếu nữ bị Phượng Trinh điểm vào sau gáy, thốt nhiên đôi má ửng hồng, cặp mắt to cũng đã linh hoạt hơn nhiều, trên môi thoáng hiện một nụ cười, từ từ ngồi xuống ghế.

Phượng Trinh vẫy Vô Tâm lại gần, khẽ nói, "Tướng công ngồi đây, cứ nhìn thẳng vào mắt nàng, để tiện thiếp bảo nàng chữa bệnh."

Nhâm Vô Tâm lúc này đã mất hết cái khí cao ngạo, lập tức ngoan ngoãn ngồi xuống, đối diện với thiếu nữ áo đen.

Phượng Trinh khẽ đằng hắng một tiếng, rồi hỏi thiếu nữ, "Lan Cô! Lan Cô có biết vị tướng công này là ai không?"

Hắc Y thiếu nữ đang nhắm mắt, nghe Phượng Trinh hỏi vậy liền mở mắt ra, đăm đăm nhìn vào mặt Vô Tâm một lát, rồi cười một cách dễ dãi đáp, "À, hình như tiểu nữ đã gặp ở đâu đó một lần ..."

Phượng Trinh liền dùng thuật "truyền âm nhập mật" nói với Vô Tâm, "Nhâm tướng công! Lúc này thần trí của nàng đã tạm phục hồi trong chốc lát, nhưng trong lòng nàng vẫn còn ghi nhớ rất nhiều những chuyện hận thù, chém giết. Tướng công phải lựa những lời thân mật, ngọt ngào để nói với nàng, cốt làm cho nàng đối với tướng công có đôi chút cảm tình, rồi tiện thiếp mới bảo nàng trị thương cho mới được."

Nhâm Vô Tâm cau mày nghĩ thầm, "Biết nói chuyện gì bây giờ?"

Chàng ngước nhìn lên, vừa đúng lúc bắt gặp nụ cười tươi như hoa của nàng, liền thừa cơ nói, "Võ công của cô nương cao tuyệt! Tại hạ bái phục vô cùng."

Lan Cô nghe chàng khen, sắc mặt hớn hở, hình như đắc ý lắm, liền giơ bàn tay đeo bao lên, cười nói, "Cao nhân thiên hạ, chưa ai chịu nổi ta một chưởng... (nàng ngừng một lát, lại tiếp ). Chúng ta động thủ thử xem!"

Câu nói của nàng có vẻ ngây ngô, không khác gì một đứa trẻ con chưa hiểu việc đời.

Nhâm Vô Tâm còn đang băn khoăn, chưa biết nói gì thì Trần Phượng Trinh đã thừa cơ đón lời, "Vị tướng công đây đã động thủ với Lan Cô và bị nội thương. Bây giờ nhờ Lan Cô chữa hộ."

Không khí trong phòng lúc này đã hoàn toàn yên lặng, bao nhiêu cặp mắt đều đổ dồn vào Lan Cô. Chỉ thấy nàng thong thả tháo chiếc bao tay, để lộ bàn tay đẹp như ngà ngọc, năm đầu ngón tay thon thon trắng nõn vừa đưa lên, tức thì một làn u hương phảng phất, tỏ khắp gian nhà.

Không ai có thể tưởng tượng nổi, một bàn tay diễm lệ tuyệt trần như vậy, lại nhuộm toàn mùi máu tanh nồng.

Lúc này Trần Phượng Trinh thân thể chợt run lẩy bẩy, mồ hôi toát ra đầm đìa trên vầng trán ngọc, thì ra chính nàng cũng không dám tự tin là nàng có đủ uy lực khống chế nổi chiếc bàn tay mỹ lệ ấy không.

Nhâm Vô Tâm sắc mặt cũng xám ngoét như tàn tro, đôi mắt đăm đăm không dời bàn tay ngọc.

Bách Nhẫn, Bách Đại nhích lên hai bước, ngầm đề tụ công lực toàn thân, phòng bị sẵn sàng, chỉ chờ tình thế bất chợt biến đổi thì lập tức tấn công.

Chợt nghe Lan Cô hỏi, "Ngươi bị thương nặng lắm ư?"

Nhâm Vô Tâm gật đầu, "Chất độc đã ngấm vào phủ tạng."

Lan Cô liền bảo, "Để ta xem chất độc có còn cứu được không đã."

Nhâm Vô Tâm đáp, "Tại hạ bị thương ở sau lưng, sợ không tiện coi chăng?"

Phượng Trinh nhìn ra ngoài trời, vội nói, "Việc trị thương là cần thiết, tướng công không nên câu nệ."

Nhâm Vô Tâm cởi bỏ áo ngoài, Phượng Trinh vội vàng xé chiếc áo lót mình của chàng ra,tức thì trong thấy dấu bàn tay đỏ lửng in trên lưng chàng, chỉ còn cách huyệt Mệnh Môn chừng hơn một tấc.

Bách Nhẫn đại sư rùng mình, nghĩ thầm, "Nguy hiểm quá! Vết bàn tay này chỉ cần nhích về bên trái một tấc nữa, thì lúc này chắc chàng đã bỏ mạng trong sơn động rồi."

Lan Cô đặt bàn tay ngọc lên vết thương của Vô Tâm, rồi từ từ nhắm mắt lại.

Ước chừng nguội chén trà, bàn tay ngọc của Lan Cô thốt nhiên hiện lên một màu hồng hồng, trước còn hơi mờ nhạt, sau mỗi lúc một thắm dần. Chỉ trong nháy mắt, bàn tay trắng như tuyết đã biến thành màu đỏ sẫm.

Khi nhìn tới Nhâm Vô Tâm, thấy chàng hình như đang cố gắng chịu những nỗi cực kì đau đớn, mồ hôi nhỏ xuống từng giọt.

Bách Đại nắm chặt bàn tay, đăm đăm nhìn Lan Cô, chỉ chực chờ sẵn sàng ra tay.

Lại ước chừng nguội một chén trà nữa, những giọt mồ hôi trên trán Vô Tâm mới thấy ráo dần, nét mặt chàng dần dần đã trở nên bình tĩnh.

Phượng Trinh thì cứ đi đi lại lại, bồn chồn như con kiến bò trên miệng chén nước nóng. Sắc mặt lộ vẻ bối rối.

Thốt nhiên nghe phía ngoài như có một viên đá ném cạch một tiếng vào song cửa sổ. Trần Phượng Trinh tái mặt, vội giơ tay phẩy tắt ngọn nến. Tức thì ba gian nhà tranh đều tối thui như mực.

Chợt nghe tiếng Phượng Trinh thì thào nói nhỏ, "Người tới đây có thể là bà bà tôi, cũng có thể là con dâu tôi, nhưng dù là ai đi nữa mà họ biết tôi phản bội Nam Cung thế gia, ngầm giúp đỡ các vị, tất cũng mách đến tai tổ bà tôi, đằng nào tôi cũng không tránh khỏi cái chết. Vậy chỉ còn một kế duy nhất là ta phải giết người này đi để diệt khẩu, nếu không thì cả ngần người này tính mệnh đều nguy mất ..."

Ngừng một lát, nàng nói tiếp, "Tôi nghe nói võ công Thiếu Lâm đã được công nhận là lãnh tụ của Võ Lâm, bảy mươi hai môn tuyệt kỹ quán tuyệt thiên hạ. Lát nữa, hai vị thấy tôi ra tay thì xin hợp lực tấn công, thủ pháp càng độc, càng nhanh càng tốt. Làm thế nào để chỉ trong năm, ba hiệp là hạ ngay được đối thủ ..."

Bách Nhẫn cũng hạ giọng nói nhỏ, "Nhưng ..."

Phượng Trinh vội ngắt lời, "Hoàn cảnh của chúng ta lúc này đã mấp mé gần cái chết, tôi không còn thì giờ để nghe các vị góp ý kiến được nữa. Tôi biết các vị hoà thượng Thiếu Lâm xưa nay vẫn giữ quy cũ, động thủ cần phải chính đại đàng hoàng, chỉ một chọi một, dựa vào võ công cao thấp, quyết định hơn thua. Nhưng đây không phải là một cuộc tỷ võ, vấn đề là đối phương sống, mình chết, đối phương chết, mình sống, thế thôi!"

Vừa nói tới đây, chợt nghe tiếng cát đá ném rào rào lướt qua mái nhà.

Phượng Trinh thì thào nói tiếp, "Đến rồi! Hai vị chuẩn bị sẵn sàng đi, hễ thấy tôi ra tay thì hai vị đánh từ hai phía vào. Người ấy dù võ công cao mà trong lúc bất ngờ, bị ba mặt dồn lại, tất cũng khó lòng tránh thoát."

Bách Nhẫn, Bách Đại chưa kịp trả lời, đã thấy tiếng giầy lẹp xẹp đi tới phía cửa. Tiếng giầy đã tới cửa, thốt nhiên lại dừng lại, người đứng ngoài hình như muốn vào nhưng còn có ý do dự.

Bách Nhẫn chú ý trông ra, chỉ thấy người ấy thân thể nhỏ nhắn, đứng sừng sững ngay giữa cửa ra vào, không nói không rằng, mà cũng không lui không tiến.

Bách Nhẫn, Bách Đại ngầm tụ công lực, chờ Trần Phượng Trinh ra tay trước.

Một trận gió thoáng qua, làm tung bay tà áo của người đứng ngoài cửa, người đó giơ tay sửa lại mấy sợi tóc bay loà xoà trước trán, rồi cất giọng trầm trầm hỏi, "Tứ bà má có trong ấy không ạ?"

Trong nhà có tiếng Phượng Trinh đáp lại, "Linh nhi đó à!"

Người con gái thỏ thẻ đáp, "Dạ! Sao bà má không thắp đèn lên?"

Phượng Trinh đáp, "Thắp đèn lại sợ cường địch chú ý."

Chợt nghe người con gái cười nhẹ một tiếng rồi nói, "Nhi tức có mấy việc không hiểu, vẫn muốn hỏi Tứ bà má đã lâu, nhưng chưa có dịp, ít khi được một đêm thong thả như đêm nay."

Phượng Trinh không đáp, chỉ hỏi lại, "Con đến đây thay phiên cho ta đấy ư?"

Thiếu nữ đáp, "Lão tổ bà hình như đã có ý nghi ngờ bà má!"

Phượng Trinh lạnh lùng đáp, "Bà tổ nghi ngờ ta vì cái gì?"

Thiếu nữ đáp, "Bà tổ nghi ngờ bà má tư thông với cường địch, tiết lộ những bí mật quan trọng của Nam Cung thế gia."

Phượng Trinh lại lạnh lùng hỏi, "Con phụng mệnh bà tổ đến đây giết ta chăng?"

Người con gái trầm ngâm một lúc rồi nói, "Lão tổ bà có ý định thế thật, nhưng nhi tức tuyệt không có ý ấy..."

Nàng ngừng một lát, rồi lại tiếp, "Nhi tức có một việc nghi ngờ, muốn hỏi bà má."

Phượng Trinh đáp, "Con muốn hỏi gì thì cứ hỏi đi."

Thiếu nữ chợt rảo bước vào phòng, vừa đi vừa nói, "Bà má cứ yên tâm, trước khi trời sáng, lão tổ bà quyết không phái người đến đây đâu."

Phượng Trinh sẵng tiếng nói to, "Lão tổ bà đoán không sai. Bà ấy đã sai ngươi đến đây thì ngươi cũng đừng hòng toàn mạng mà về."

Người con gái cười một cách nhẹ nhàng, "Lão tổ bà đã dạy nhi tức phương pháp giết bà má. Bà má dù võ công cao đến đâu, cũng không thể chống cự nổi!"

Phượng Trinh "hừ" một tiếng, rồi nói, "Ta đã mai phục rất nhiều cao thủ trong gian nhà lá này. Chỉ cần ta ra lệnh một câu thì ngươi sẽ bị nát thây ra từng mảnh."

Thiếu nữ khẽ đằng hắng một tiếng, rồi nói, "Lão tổ bà đã đoán trước rằng nhi tức tới đây sẽ gặp nguy hiểm, vậy mà quả nhiên đúng thật. Nhưng nhi tức quyết không khi nào nỡ hại bà má, nếu bà má vui lòng hợp tác với nhi tức. Nhi tức sẽ tìm cách che đậy, khiến tổ bà không những không nghi ngờ bà má mà trái lại còn tín nhiệm hơn trước nữa là khác."

Phượng Trinh sửng sốt hỏi, "Thế nào? Ngươi cũng định ..."

Nàng định hỏi, "Ngươi cũng định bội phản Nam Cung thế gia ư?" nhưng lại ngại miệng nên không muốn nói tiếp.

Thiếu nữ thở dài nói, "Nhi tức ngờ rằng chúng ta đều bị trúng kịch độc cả, bất cứ lúc nào lão tổ bà muốn chúng ta chết cũng dễ như trở bàn tay."

Nàng cười một cách cay đắng, rồi tiếp, "Nhi tức chỉ không biết rằng chất độc trong người chúng ta cho đến khi nào sẽ phát tác mà thôi."

Trần Phượng Trinh chợt thở dài nói, "Vậy trước khi ngươi tới đây, lão tổ bà đã dặn cho ngươi biết cách làm cho chất độc trong người ta phát tác, phải không?"

Thiếu nữ đáp, "Đúng thế! Do đó, nhi tức có thể hạ sát bà má ngay trong nháy mắt, khiến bà má trở tay không kịp."

Trần Phượng Trinh biết rằng nàng không nói dối, chỉ thở dài một tiếng, lẳng lặng không nói gì nữa.

Bách Nhẫn, Bách Đại núp trong xó tối, lắng nghe, đã biết rõ địa vị hai người, tuy là mẹ chồng nàng dâu nhưng cả hai đều dùng những lời lẽ sắc bén để đối chọi nhau, chẳng ai chịu ai, đã thế còn lăm le định giết nhau nữa, thật là kỳ dị!

Kế lại nghe thiếu nữ nói tiếp, "Khi nhi tức lại đây, lão bà tổ đã phái mười hai cao thủ theo đi. Mấy người đó còn đang chờ ở ngoài kia, nhi tức chỉ cần huýt một tiếng sáo là họ sẽ chạy ngay đến."

Phượng Trinh thở dài nói, "Lão tổ bà hôm nay sai ngươi giết ta. Biết đâu sau này cũng sẽ sai người khác giết ngươi."

Thiếu nữ thủng thỉnh đáp, "Bởi thể, nhi tức mới suy đi nghĩ lại, không muốn giết bà má nữa. Kỳ thực chúng ta tuy là con cháu của bà ta nhưng cùng với những cao thủ do bà ta bắt được thì hoàn cảnh cũng chẳng hơn gì nhau, cũng cùng bị thuốc độc khống chế, không biết chết sống lúc nào."

Phượng Trinh thở dài, "Ngươi biết lo xa nghĩ sâu như thế, thật ta cũng không ngờ!"

Thiếu nữ lại hạ giọng nói tiếp, "Nhi tức vẫn ngờ rằng không biết con trai bà má đã chết thật rồi không?"

Phượng Trinh sửng sốt hỏi, "Sao tự nhiên ngươi lại hỏi vậy? Ta thực chưa bao giờ nghĩ đến điều ấy."

Thiếu nữ thở dài, "Nhi tức cũng chỉ đoán phỏng đó thôi. Nhưng nếu bọn họ quả nhiên chết thật, thì chắc cũng do lão tổ bà chủ mưu ..."

Bách Nhẫn, Bách Đại nghe tới đây, bất giác choáng cả người, họ không ngờ trên đời lại có câu chuyện quái gở đến thế? Tuy hai người đã nghe thấy hẳn hoi, mà vẫn không dám tin ở tai mình.

Phượng Trinh chợt đằng hắng một tiếng, ngắt lời thiếu nữ, rồi nói to, "Xin mời hai vị đại sư ra ngoài này!"

Bách Nhẫn, Bách Đại lúc này mới trông rõ khuôn mặt người thiếu nữ, chỉ thấy nàng dung nhan kiều lệ, mắt phượng mày ngài, môi son má phấn. Bộ dạ hành y bó sát lấy người, càng làm lộ tấm lưng thon nhỏ.

Cùng là một vị tuyệt thế giai nhân, nhưng lúc này với vừa rồi đã gây cho người ta hai ấn tượng khác nhau một trời, một vực.

Mỹ nhân khẽ ngước cặp mắt long lanh, trong như nước hồ thu nhìn hết Bách Đại lại nhìn Bách Nhẫn, đoạn hé cặp môi son thỏ thẻ hỏi, "Nếu tôi đoán không lầm thì hai vị đại sư đều là cao tăng ở chùa Thiếu Lâm phải không ạ?"

Bách Nhẫn chắp tay nói, "Bần tăng là Bách Nhẫn. Còn sư đệ đây là Bách Đại!"

Thiếu nữ cũng nghiêng mình nói, "Tiện nữ là Điền Tú Linh!"

Nói xong, nàng quay nhìn Nhâm Vô Tâm, hỏi, "Người này đang được trị thương ư?"

Phượng Trinh gật đầu rồi nói, "Ngươi có biết cách khống chế Lan Cô không?"

Điền Tú Linh đáp, "Nhi tức đã được lão tổ bà truyền lại."

Trần Phượng Trinh nói, "Nếu vậy ngươi trông hộ dùm ta việc này, ta phải về ngay, kẻo lão tổ bà lại thêm nghi ngờ."

Nói xong, đứng lên vái chào Bách Nhẫn, Bách Đại, rồi vút một cái, đã băng mình ra cửa đi mất.

Bách Đại nghĩ thầm, "Người này kỳ thật! Nói đi là đi, không hề dặn dò gì cả. Mình phải làm thế nào bây giờ?".

Ông bèn ngẩng đầu lên, hỏi Điền Tú Linh, "Nữ thí chủ có quen Nhâm tướng công không?"

Điền Tú Linh chú ý nhìn Nhâm Vô Tâm một lúc, rồi gật đầu đáp, "Tôi có biết!"

Đoạn nàng ta lại gần, đưa hai bàn tay ngọc vuốt ve Lan Cô một lúc. Chỉ thấy Lan Cô từ từ ngả người ra phía sau, hai mắt cũng dần dần nhắm lại, tựa như người ngủ say.

Tú Linh bế Lan Cô đặt lên giường, lấy mảnh vải đen trùm lên, rồi quay lại nói với Bách Nhẫn, Bách Đại, "Hai vị có thể tới thăm quí hữu được rồi."

Dứt lời cũng bỏ ra cửa đi luôn.

Hai người liền bước đến gần Nhâm Vô Tâm, thấy chàng nhắm mắt ngồi im, da dẻ hồng hào, thần thái bình tĩnh, hình như đang vận khí điều tức.

Bách Nhẫn đại sư bảo Bách Đại, "Ta đừng làm rộn Nhâm tướng công vội. Hãy thử chờ một chút xem sao."

Bách Đại vội bảo, "Nhâm thí chủ ngồi lâu lắm rồi mà vẫn chưa tỉnh, rõ ràng là vết thương chưa khỏi, chân khí đình trệ chưa lưu thông được. Không biết ta có nên giúp một tay không?"

Vừa nói xong lại thấy Điền Tú Linh bước vào, nàng nói, "Nhâm thiếu hiệp bị trọng thương bởi tay Lan Cô thì trừ Lan Cô ra trên đời không ai có thể trị được. Các vị đừng chạm vào!"

Bách Đại nói, "Nhâm tướng công là người có đại chí, hiệp cốt nhân tâm, xin nữ thí chủ tận tâm cứu giúp cho."

Điền Tú Linh nhìn kỹ Nhâm Vô Tâm rồi đáp, "Nếu Lan Cô không cứu được thì tôi cũng đành chịu thua. Hai vị đại sư hãy nán chờ một lúc nữa xam sao."

Nói xong liền ngồi xuống ghế. Bách Nhẫn liền chắp tay nói, "Nữ thí chủ, lão nạp có mấy việc nghi ngờ, muốn thỉnh giáo nữ thí chủ."

Điền Tú Linh đáp, "Xin đại sư cứ hỏi!"

Bách Nhẫn liền hỏi, "Nam Cung thế gia kể từ hồi Nam Cung lão tiền bối đánh bại cao thủ thiên hạ, đoạt được Tam Bảo, vẫn được thiên hạ võ lâm sùng bái, danh tiếng lẫy lừng, địa vị tôn quí, có thể nói là từ xưa đến nay chưa có một nhân vật nào sánh kịp. Vậy mà lệnh tổ bà không chịu ngồi yên thụ hưởng danh vọng, lại cố tình làm mưa làm gió, quấy rối võ lâm như thế là cớ làm sao?"

Điền Tú Linh cười nhẹ một tiếng, hình như muốn nói lại thôi.

Bách Nhẫn đại sư ngừng một chút, rồi nói tiếp, "Người trong giang hồ có kẻ xấu người tốt, hoặc giả có kẻ tham lam dòm ngó Tam Bảo, hoặc có kẻ ghen ghét vì cái hưng thịnh nhà Nam Cung mà mưu toan vượt quy cũ võ lâm. Nhưng nếu quả có thế thì sao Nam Cung thế gia không cầu chín đại môn phái ra tay tương trợ?"

Tú Linh nhướng mày đáp, "Điều ấy tôi đã rõ. Đại sư có nói với tôi cũng chẳng ích gì."

Bách Nhẫn nghiêm trang nói, "Lão nạp cũng biết nữ thí chủ không thể tác chủ được, nhưng cũng xin chuyển cáo với lệnh tổ bà rằng, "Đại kiếp chưa tạo thành, nếu biết kịp thời tỉnh ngộ, thì vẫn còn cách cứu vãn được." Lão nạp xin lấy danh phận là chưởng môn Thiếu Lâm Tự đứng ra hoà giải và điều tra hung thủ sát hại mấy vị nam chủ nhân nhà Nam Cung thế gia."

Tú Linh trầm ngâm một lúc, rồi thở dài, "Đại sư nói tuy phải nhưng tiếc rằng đã muộn quá rồi!"

Bách Đại đại sư nói theo, "Lệnh tổ bà có dụng tâm riêng, nên đã dự mưu từ lâu, cố tạo nên một trường sát kiếp trong võ lâm. Tình thế lúc này đã như mũi tên đặt trước dây cung, e khó lòng khuyên được bà ta hồi tâm chuyển ý."

Tú Linh chỉ gật đầu, lẳng lặng không đáp. Bách Nhẫn đại sư lại nói, "Người ta có câu "Sơ bất gián thân", bần tăng là người xuất gia, lại càng không nên dùng lời nói khéo để cầu lợi. Nhưng việc này có quan hệ rất lớn đến sự an nguy của võ lâm đồng đạo trong thiên hạ, không phải là chuyện thường nên bần tăng không thể không vì thương sinh linh của thiên hạ mà thỉnh cầu phu nhân nên vì đại nghĩa diệt thân."

Tú Linh lạnh lùng ngắt lời, "Cho dù các vị có liên hợp các cao thủ võ lâm trong thiên hạ lại, tôi tin rằng cũng không thể nào thắng nổi Nam Cung thế gia."

Bách Đại nói, "Vì thế chúng tôi mới phải thỉnh cầu nữ thí chủ vì võ lâm thiên hạ mà trù tính cho một diệu sách."

Tú Linh trầm ngâm một lát, rồi đáp, "Đây là một việc bí ẩn cực kỳ trọng đại bắt nguồn từ mấy trăm năm trước đây, mãi đến bây giờ lão tổ bà tôi mới phát hiện ra, thế thôi!"

Bách Nhẫn, Bách Đại đều chú hết tinh thần, lắng tai nghe nàng nói, trên nét mặt của hai người đều lộ vẻ thiết tha kỳ vọng.

Hồi thứ hai mươi sáu

Sự bí mật trọng đại

Điền Tú Linh đưa mắt nhìn hai người rồi nói, "Những kẻ võ công tầm thường, một khi vào làm môn hạ cho Nam Cung thế gia, thì công lực có thể tăng lên gấp bội và sẽ suốt đời cúc cung tận tuỵ phục vụ cho Nam Cung thế gia, không bao giờ thay đổi. Đầu óc của họ chỉ biết có hai việc, một là, luyện vũ công; hai là, vâng mệnh đi giết người. Còn ngoài ra không biết gì khác nữa."

Bách Đại thừa dịp hỏi dồn, "Từ xưa đến nay, những loại thuốc làm cho người ta mê lú, mất bản tính không phải là ít, nhưng chưa hề nghe đến có loại thuốc nào lại làm cho người ta phải tận trung, tận nghĩa với mình như thuốc của lệnh tổ bà đã cho những tay hào kiệt uống. Bần tăng tính rằng, lệnh tổ bà còn dùng thủ pháp độc môn kỳ bí nào khác nữa, có đúng chăng?"

Tú Linh cau mày, cúi đầu không nói gì nữa.

Bách Đại lại trầm giọng nói, "Đó tuy chỉ là lời ức đoán nhưng bần tăng dám chắc là không sai sự thật là bao nhiêu."

Tú Linh chợt ngẩng đầu, đáp, "Đại sư đoán quả không sai!"

Bách Đại đôi mắt long lanh, hỏi, "Lệnh tổ bà dùng phương pháp gì? Phu nhân có thể cho bần tăng biết được không?"

Tú Linh thở dài, "Lão tổ bà tôi học rộng nhớ nhiều, tri thức phong phú, khắp gầm trời này có lẽ không có được người thứ hai. Chính tôi cũng không hiểu là thủ pháp ấy do tổ bà tôi tự sáng chế ra, hay là theo một võ lâm bí kíp nào thất truyền đã lâu đời, cũng không rõ nữa."

Bách Đại tuy không nói ra, nhưng trong lòng vẫn nghi hoặc, không biết nàng nói thực hay nói dối.

Bách Nhẫn từ nãy giờ vẫn ngồi yên, lúc này mới lên tiếng, "Điều làm cho lão nạp băn khoăn nhất là nhà Nam Cung thế gia vốn dĩ đã là lãnh tụ võ lâm. Vì cớ gì lệnh tổ bà lại muốn làm cỏ hết thẩy bọn võ lâm đồng đạo như vậy."

Tú Linh buồn bã, khẽ đáp, "Con không kể lỗi cha, vợ không nói xấu chồng, tổ bà tôi dù sao cũng là bậc trên, nên có nhiều điều, tôi nói ra không tiện."

Nàng ngừng một lát, rồi thở dài nói tiếp, "Chẳng giấu gì hai vị, tổ bà tôi thần trí hình như cũng không được sáng suốt lắm, tựa hồ đối với ai bà cũng thù, cũng ghét, có khi còn thù ghét cả chính bản thân mình ..."

Bách Nhẫn, Bách Đại bất giác cùng rùng mình. Ba người đều im lặng một lúc. Bách Nhẫn đại sư mới thở dài, nói, "Hận thù ...hận thù, ôi!..."

Tú Linh từ từ cúi đầu xuống, nói, "Bà không hề tin cậy một ai. Ngay đến bọn chúng tôi là con cháu dâu chí thân cũng vậy. Trong nhà chỉ có vị phu nhân đời thứ hai là còn gần gũi với bà hơn cả, vậy mà chính ngay vị phu nhân ấy trong mình vẫn bị chất độc phục sẵn như chúng tôi, bất cứ lúc nào tổ bà chỉ cần vẫy tay một cái là chúng tôi sẽ chết ngay tức khắc, không còn cách gì cứu chữa được nữa."

Nói tới đây, hình như nàng bị xúc động mạnh, nên giọng nói hơi run run, đôi má ửng hồng.

Giây phút yên lặng trôi qua, Tú Linh chợt quay lại nhìn Lan Cô nằm trên giường, run run nói, "Hai vị đại sư có biết người nằm trên giường kia là ai không?"

Bách Nhẫn, Bách Đại cùng kinh ngạc, lắc đầu. Bốn con mắt cùng đăm đăm nhìn Điền Tú Linh, ra ý hỏi. Tú Linh mỉm cười buồn bã nói, "Ở đây, chúng tôi đều gọi nàng là Lan Cô. Nhưng "Lan Cô" chỉ là một cái tên mà mãi sau này tổ bà tôi mới đặt cho nàng, thực ra thì nàng còn có tên họ khác."

Bách Đại vội hỏi, "Phu nhân có thể cho chúng tôi biết tên thật của nàng ta được không?"

Tú Linh thủng thỉnh đáp, "Tên họ của nàng, có lẽ trong giới võ lâm không một ai không biết. Hai vị đại sư chắc thế nào cũng đã từng nghe thấy."

Bách Đại vội hỏi, "Ai?"

Điền Tú Linh đôi mắt sáng lên, nói một cách rất thong thả, "Đại sư có biết cách đây đã lâu lắm, trong võ lâm có một vị nữ ma đầu rất thích mặc áo đỏ, tên gọi là ..."

Bách Nhẫn vội giật mình, ngắt lời, "Phu nhân nói thế, có lẽ vị này trước kia đã từng chỉ một phẩy tay đã hạ sát thất kiệt, và trong khi chuyện trò cười nói đã độc sát luôn mười bảy cao thủ võ lâm đương thời, vị này là ..."

Hình như cả Bách Nhẫn đại sư lẫn Điền Tú Linh đều không muốn nhắc đến tên "người ấy" nên chỉ nói đến đấy thì cùng ngừng lại.

Không khí trong phòng lúc này thật nặng nề, khó thở. Một lúc khá lâu, Bách Nhẫn mới thở dài, nói tiếp, "Lệnh tổ bà thật là bực kỳ tài, một vị nữ ma đầu như vậy, mà cũng thu phục nổi."

Tú Linh thủng thỉnh nói, "Tổ bà tôi sau khi tìm được bà ta, liền dùng đủ các thứ thuốc, các loại thủ pháp, làm cho bà tai quên hết mọi sự, chỉ biết luyện võ, chỉ biết liều chết phụng sự lão tổ bà ..."

Nàng lại đưa mắt nhìn Lan Cô, nói tiếp, "Bà ta không những quên cả tên tuổi lai lịch, thậm chí còn quên cả tình dục, thời gian, sở dĩ bà ta trẻ mãi như thế là vì óc bà ta không nghĩ đến chuyện thời gian và sự sống chết."

Nàng thở dài một tiếng, rồi nói tiếp, "Cũng bởi cớ ấy, nên bà ta đối với sự sống chết của kẻ khác cũng không bao giờ để ý."

Nàng giải thích bằng một giọng cực kỳ êm ái, ngọt ngào, khiến cho một việc xấu xa, hung ác đó chẳng những đã được bao trùm bằng một màu sắc diễm lệ, thần bí mà còn làm cho nó bao gồm một triết lý cao siêu riêng biệt nữa.

Bách Nhẫn, Bách Đại ngẩn mặt nhìn nhau, cùng ngồi ngây người ra, không biết nói gì nữa.

Tú Linh lại nói, "Nếu nàng khôi phục được trí nhớ, nhớ lại tất cả những sự sống chết, biệt ly, cùng bao nhiêu tình cảm đau thương, khổ não, vui buồn, thì chắc sẽ không dám khinh thường sự sống chết của con người đến thế."

Bách Nhẫn thở dài nói, "Thiện tai, thiện tai! Nữ thí chủ quả là người có tâm huyết. Thủ đoạn của Lan Cô độc ác như vậy, người đời ai chẳng cho là vì Nam Cung phu nhân dùng dược vật để kích thích cái thiên tính hung độc của bà ta lên, mà có ngờ đâu bản tính con người ai cũng lương thiện, mà Nam Cung phu nhân chỉ dùng dược vật làm cho người ta mê lú cái bản tính ấy thôi."

Tú Linh cười một cách buồn bã, "Đại sư nói chí phải! Chỉ tiếc rằng dù có Đức Quan Âm Bồ Tát hiện lên thuyết pháp cũng không thể làm cho bà ta khôi phục lại bản tính được nữa."

Bách Đại nghiêm trang nói, "Phu nhân nói thế, chẳng khỏi quá bi quan ..."

Ông nói chưa dứt lời, chợt nghe bên cạnh có tiếng cười, nói chen vào, "Phải! Quả là bi quan thái quá!"

Thì ra không biết Nhâm Vô Tâm đã tỉnh lại từ bao giờ, chỉ vì hai người đang mãi say sưa nghe câu chuyện kể của Điền Tú Linh nên không ai để ý.

Bách Nhẫn giật mình ngoảnh lại, mừng rỡ, "Nhâm tướng công đã khỏi rồi đấy ư?"

Nhâm Vô Tâm cười, vươn vai đứng lên nói, "Tuy chưa thật khỏi, nhưng cũng gần khỏi."

Rồi chàng chắp tay vái Điền Tú Linh, mỉm cười nói, "Tại hạ khỏi bệnh toàn là nhờ ơn của phu nhân ban cho. Tại hạ xin đa tạ!"

Điền Tú Linh cũng mỉm cười, đứng lên đáp lễ, "Tướng công có lẽ số còn trường thọ, nên trời mới mượn tay bà má tiện thiếp cứu giúp, chứ tiện thiếp có công gì đâu, mà dám nhận tạ."

Nhâm Vô Tâm đảo mắt nhìn quanh nhà, rồi hỏi, "Chẳng hay Tứ phu nhân đi đâu rồi?"

Điền Tú Linh chỉ đáp vắn tắt, "Bà má tôi vừa hết phiên trực, nên đã cùng Diệp Sương Y về nhà trong rồi."

Nhâm Vô Tâm lại nói với Bách Nhẫn, Bách Đại, "Bây giờ chúng ta nên rút lui cho mau, ở lại sợ lộ tông tích, lại gây thêm phiền phức cho các vị phu nhân."

Bách Nhẫn gật đầu nói, "Phải đó! Ta không nên nấn ná ở đây lâu."

Điền Tú Linh thở dài, "Ba vị đi, tiện thiếp cũng không dám giữ, chỉ mong sau này có phen gặp gỡ, xin các vị cứ coi như chưa gặp thiếp bao giờ, thì may cho thiếp lắm!"

Ba người không biết nói sao, chỉ biết vòng tay thi lễ rồi lần lượt lui ra. Khi đã ra tới cửa ngoài, Nhâm Vô Tâm chợt đứng sững lại, ngập ngừng nói với Tú Linh, "Cứ theo những lời giang hồ đồn đại thì thiếu chủ nhân của nhà Nam Cung thế gia đã bị hại từ lâu, nhưng kỳ thực ..."

Điền Tú Linh sắc mặt chợt hốt hoảng, nụ cười trên môi vụt tắt biến, run run hỏi, "Kỳ thực ... kỳ thực làm sao? Xin tướng công nói cho tiện thiếp nghe."

Nhâm Vô Tâm do dự một lát, rồi quả quyết đáp, "Theo như tại hạ biết thì thiếu chủ nhân đời thứ năm của Nam Cung thế gia tuy gặp nguy nan, nhưng vẫn chưa đến nỗi phải bỏ mạng."

Điền Tú Linh vừa nghe đến đây, trống ngực chợt đập thình thịch, sắc mặt tái mét, hỏi dồn, "Thực ... thực thế à?"

Bách Nhẫn, Bách Đại đã đi được vài bước, cũng giật mình đứng sững lại, lắng tai nghe.

Nhâm Vô Tâm nghiêm sắc mặt, "Tại hạ tuy không dám xác định, nhưng mười phần cũng chắc được ba, bốn, nếu không thì đâu dám nói liều?"

Tú Linh vừa sợ, vừa mừng, vội hỏi, "Nhâm tướng công có biết hiện giờ chàng đang ở đâu không?"

Giọng nàng hơi run run, tỏ ra đã xúc động mãnh liệt. Nhâm Vô Tâm thủng thỉnh đáp, "Đó là một việc tối ư bí mật, trên đời này hoạ chăng chỉ có hai vị lão nhân biết rõ sự thực, còn tại hạ chẳng qua cũng chỉ biết có thế thôi."

Tú Linh vội hỏi, "Hai vị lão nhân đó là ai?"

Nhâm Vô Tâm nói dằn từng tiếng một, "Tử Cốc Nhị Kỳ! Phu nhân có nghe thấy cái danh ấy bao giờ chưa?"

Tú Linh ngẩn người, lẩm bẩm, "Tử Cốc Nhị Kỳ .... Tử Cốc Nhị Kỳ ..."

Nàng vừa lẩm nhẩm, vừa đưa mắt hết nhìn Bách Nhẫn lại nhìn Bách Đại. Hai vị đại sư cũng lắc đầu, cười một cách gượng gạo.

Nhâm Vô Tâm nói, "Tại hạ cũng chắc là phu nhân không biết. Hai vị lão nhân đó có thể nói là vũ công thiên hạ vô địch, kiến văn thì uyên bác vô cùng."

Bách Đại liền nói, "Hai vị ấy chắc trước kia cũng có một đoạn lịch sử huy hoàng, rực rỡ, nhưng bây giờ vì đã mai danh ẩn tích lâu ngày nên không còn ai nhớ đến nữa! Vì thế nên chính bần tăng cũng không biết."

Nhâm Vô Tâm gật đầu, "Đại sư đoán chắc không sai! Điều ấy tại hạ cũng không rõ lắm!"

Tú Linh lại hỏi, "Tử cốc ở đâu? Tướng công có thể cho tiện thiếp biết được không?"

Nhâm Vô Tâm lắc đầu, "Xin thứ lỗi, tại hạ không thể nói được!"

Tú Linh ứa nước mắt, nói, "Nhâm tướng công nếu thương tôi là kẻ cơ khổ linh đinh thì xin làm phước trỏ đường cho tôi. Ơn ấy tôi quyết chẳng bao giờ dám quên."

Nhâm Vô Tâm ngẫm nghĩ một lát rồi nói, "Nếu phu nhân muốn đi thì tại hạ có thể đưa phu nhân lên Tử Cốc được!"

Tú Linh vui mừng, nói, "Thực ư?"

Nhâm Vô Tâm quả quyết nói, "Tại hạ khi nào dám nói dối phu nhân!"

Tú Linh hớn hở, "Nếu vậy tiện thiếp xin đa tạ tướng công, và xin được đi theo tướng công ngay bây giờ ..."

Đang nói chợt nàng ngừng bặt, cúi đầu buồn bã, tiếp, "À, mà tiện thiếp còn vướng mấy việc chưa thu xếp xong. Vì vậy, chưa thể đi ngay được. Làm thế nào bây giờ?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Nếu phu nhân chưa thu xếp xong, tại hạ có thể dời lại được. Lúc nào phu nhân xong việc thì chúng ta sẽ cùng đi."

Tú Linh lại tươi cười nói, "Vậy thì hay lắm! Xin tướng công biên cho một địa chỉ, trong vòng năm ngày, tiện thiếp xin đến bái kiến."

Nhâm Vô Tâm nói, "Cách đây mười dặm có một toà tiểu miếu, ba hôm nữa tại hạ sẽ đến đó chờ phu nhân."

Tú Linh đáp, "Tiện thiếp xin y hẹn!"

Nhâm Vô Tâm gửi lời cảm tạ đến Trần Phượng Trinh, rồi chắp tay cáo biệt, đoạn cùng Bách Nhẫn, Bách Đại sánh vai đi ra. Điền Tú Linh còn đứng trông theo, mãi tới khi bóng ba người đã khuất hẳn, mới ngậm ngùi quay gót trở vào.

Bọn Nhâm Vô Tâm ra khỏi căn nhà lá, liền trổ thuật khinh công chạy thẳng một mạch hơn mười dặm, tới một sườn núi, hình thế cực kỳ cheo leo hiểm trở.

Lúc này, vừng đông đã rạng, gió mát hiu hiu, quang cảnh xung quanh thật âm u tĩnh mịch.

Nhâm Vô Tâm chợt dừng chân lại, thở ra một hơi dài nói, "Chỗ này kín đáo yên tĩnh, ta hãy nghỉ chân một lát. Tại hạ còn có mấy việc quan trọng, cần phó thác hai vị đại sư."

Bách Nhẫn liền nói, "Xin tướng công cứ nói!"

Nhâm Vô Tâm nói, "Sự dụng tâm của Nam Cung phu nhân đã sáng tỏ như ban ngày, nếu ta không kịp thời chặn lại thì một cuộc tàn sát thảm khốc trong giới võ lâm tất không sao tránh khỏi. Nhưng nếu muốn ngăn chặn hành động điên cuồng của Nam Cung phu nhân mà chỉ bằng vào sức mấy người chúng ta, liệu có thể được không?"

Bách Nhẫn lắc đầu nói, "Cố nhiên là không được. Nhâm tướng công có cao kiến gì xin cứ cho biết."

Nhâm Vô Tâm nói, "Bởi những lẽ đó nên tại hạ định vào Tử Cốc một lần nữa."

Bách Nhẫn đại sư liền hỏi, "Tử Cốc Nhị Kỳ tất nhiên có mối giao tình sâu đậm với Nhâm tướng công, có phải không?"

Nhâm Vô Tâm đáp, "Hai vị ấy đối với tại hạ đều có cái ơn truyền nghệ, chỉ đáng tiếc là cả hai đều không thể rời khỏi Tử Cốc được. Nhưng tại hạ thiết tưởng, trên đời này trừ hai vị ấy ra thì không còn nhân vật nào có thể đối đầu với Nam Cung phu nhân được nữa."

Bách Đại nói, "Khi nào gặp hai vị đó, tướng công nên hỏi cách đối phó với Lan Cô như thế nào? Theo ý bần tăng thì trong nhà Nam Cung thế gia thì chỉ có Lan Cô là đáng sợ hơn cả."

Nhâm Vô Tâm đáp, "Điều đó đại sư khỏi cần căn dặn thì tại hạ cũng nhớ. Việc tại hạ định uỷ thác với hai vị đại sư, là sau khi tại hạ đi khỏi thì nhờ hai vị chủ trì đại cuộc cho."

Bách Nhẫn nói, "Chỉ sợ chúng tôi tài thô học thiển, không gánh vác nổi trách nhiệm chăng?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Vô luận người nào cũng không dám khoe là có thể chống cự nổi với Nam Cung thế gia. Hai vị đại sư không cần phải lo, tình thế này, ta chỉ biết xuất tận lực tận trí, còn thành bại thế nào là do trời định."

Bách Nhẫn nói, "Đã vậy xin tướng công cứ sai bảo. Lão nạp quyết không dám từ nan."

Nhâm Vô Tâm nói, "Việc này cũng là vạn bất đắc dĩ, hai vị có thể thay tục trang mấy hôm để đánh lạc hướng điều tra của Nam Cung thế gia được không?"

Bách Nhẫn còn đang do dự, chưa kịp trả lời thì Bách Đại đã nói đỡ, "Đại sư huynh bần tăng là chưởng môn Thiếu Lâm Tự nên có trách nhiệm quản lý môn hộ, thống xuất mấy ngàn đệ tử, nên nhất cử nhất động đều có ảnh hưởng đến tai mắt võ lâm, vì thế khi hành sự phải hết sức tránh những gì có thể vượt qua quy cũ của bản phái. Nhâm tướng công nếu muốn sư huynh bần tăng cải trang, thì thực quả là một điều khó khăn."

Nhâm Vô Tâm mỉm cười, ngượng nghịu, "Tại hạ ..."

Bách Đại vội xua tay, ngắt lời, "Nếu việc này vào thế bất đắc dĩ, không thể làm thế nào khác được thì một mình bần tăng xin đảm nhận hết. Một mình bần tăng tuy không thể làm vừa ý Nhâm tướng công, nhưng bần tăng nguyện xin cố gắng."

Nhâm Vô Tâm kính cẩn đáp, "Đại sư chịu tòng quyền như vậy. Tại hạ chỉ biết thay mặt võ lâm đồng đạo kính tạ một lễ."

Bách Đại nói, "Bần tăng không dám. Nhâm tướng công có cần gì thì xin cứ nói thẳng."

Nhâm Vô Tâm trầm ngâm một lát, rồi nói, "Hiện nay, võ lâm trong thiên hạ chia thành hai tập đoàn. Một tập đoàn phải lấy Nam Cung thế gia làm trung tâm, do Nam Cung phu nhân thống lãnh. Còn một tập đoàn là do những cao thủ võ lâm không sợ cường quyền, không muốn cam tâm làm thân tôi mọi như chúng ta đây, kết hợp lại mà thành. Hai khối tập đoàn đó bờ cõi đã phân minh, ranh giới đã quyết định, trông bề ngoài thì tưởng là hai bên đều ở thế quân bình, không ai kém ai, nhưng thực ra thì thực lực của chúng ta so với Nam Cung thế gia còn cách nhau một trời một vực. Tình huống đó, lúc này còn chưa rõ lắm, chỉ vì hai bên chưa thực sự đụng độ với nhau một trận lớn nào cả. Vậy nên kế hoạch của chúng ta lúc này là phải gấp rút chuẩn bị mọi mặt, mới kịp thời đối phó với tình thế."

Bách Nhẫn, Bách Đại đều gật đầu, công nhận là phải, nhưng không ai ngắt lời. Nhâm Vô Tâm lại tiếp, "Công lực của Nam Cung phu nhân không nói làm gì, chỉ riêng bảy mươi hai tên Địa Sát, thuộc hạ của mụ, võ công cũng đã đủ kinh hồn. Trong số đó, có kẻ bị Nam Cung phu nhân cho uống thuốc độc, làm mê lú mất bản tính, có kẻ vì khiếp sợ uy thế của Nam Cung thế gia mà phải theo, lại cũng có kẻ bị viễn ảnh tương lại dụ hoặc, mà cam tâm tình nguyện làm tôi tớ cho mụ.Tỷ dụ như phe Cái Bang có Xà Thần Khang Tổ, phe Hoàng Giáo có Thiên Thủ Như Lai Phổ Phan,phái Nam Hải Kiếm Pháp có Mộ Dung Phi... Bọn này đồng tâm nhất trí vì Nam Cung phu nhân tranh đoạt thiên hạ. Họ tin tưởng rằng, một mai thành công, bọn họ sẽ trở nên khai quốc công thần của nhà Nam Cung thế gia. Vậy nên bọn họ không hề tiếc công sức, tiếc tính mạng, mà dốc lực chống đối với bọn ta."

Trong khi nói, ba người đã đi tới một toà thạch động. Lúc này, trời đã gần trưa, nhưng vì là giữa mùa đông, nên trời vẫn còn lạnh như cắt thịt.

Ngẩng đầu trông lên chỉ thấy mây đen u ám, che khuất cả ánh dương. Tiết trời có vẻ như sắp có trận mưa tuyết, mà thường thường trước khi tuyết xuống, thiên khí vẫn rất dễ làm cho người ta cảm thấy bâng khuâng, buồn bã. Sắc mặt của Nhâm Vô Tâm chính hợp với sắc trời đó.

Chàng thở dài nói tiếp, "Tuy nhiên, đáng sợ nhất là hạng người bị Nam Cung phu nhân dùng dược vật khống chế, bọn ấy đều công lực cao cường, thậm chí cả Trung Nguyên Tứ Quân Tử, Ngôn Phượng Cương, Lỗ Bình, địa vị toàn là tôn chủ một phái, lúc này họ đã quên hết dĩ vãng, trong bụng chỉ còn biết liều mạng chống lại bọn ta, mà mình thì không thể không lý đến thân thể địa vị với cái thanh danh hiệp nghĩa trước kia của họ được. Vì thế, trong lúc động thủ lại càng thêm khó cho mình ..."

Bách Nhẫn nghe đến đây, chợt buột miệng ngắt lời, "Tướng công kiến giải thật là thấu đáo từ chân tơ, kẽ tóc. Vậy mà từ trước đến giờ, bần tăng chưa từng nghĩ đến điều đó."

Nhâm Vô Tâm lại tiếp, "Giả sử thực lực của chúng ta có thể tương đương với họ đi chăng nữa, thì tình thế đó cũng đã bất lợi cho ta rồi, huống hồ bên ta những người có thể đương đầu với Thất Thập Nhị Sát, hoạ chăng chỉ có hai vị đại sư và năm, bảy vị bên phái Võ Đang mà thôi. Vậy thì đến lúc hai bên đương đầu, ta làm sao có thể thắng được họ?"

Bách Nhẫn, Bách Đại nghe bấy nhiêu lời, đều có cảm tưởng như đang bị tảng đá nặng ngàn cân từ từ đè lên trái tim, tức hơi không thở được nữa.

Tiền đồ thật là mịt mù u ám, không trông thấy một tia ánh sáng nào, có thể bám víu được. Hai vị cao tăng tuy đã đặt sự sống chết ra ngoài cuộc đời, mà lúc này cũng không khỏi vì kiếp nạn của cõi hồng trần mà lo âu thấp thỏm.

Im lặng một lúc, Nhâm Vô Tâm lại thủng thỉnh, "Trước cục diện gian khổ này, bên ta chỉ có một hy vọng thủ thắng, ấy là phải tìm cách gì để khôi phục lại thần trí cho bọn võ lâm cao thủ kia. Do đó, tại hạ mới nghĩ đủ thiên phương bách kế, mời mấy chục vị danh y đương thời tụ hợp lại một chỗ, nghiêm cứu, tìm tòi phương cách giải độc, lại mời mấy chục võ lâm cao thủ về môn điểm huyệt, nghiêm cứu xem Nam Cung phu nhân đã dùng thủ pháp gì, và điểm vào những huyệt bí mật nào trên mình nạn nhân."

Lúc này quả nhiên trời đã có tuyết bay phơi phới như mưa bụi. Nhâm Vô Tâm lấy tay phủi những hoa tuyết bám trên vai áo, rồi nói tiếp, "Nhưng công tác đó, không những tổn phí bao nhiêu nhân lực vật lực, hơn nữa, lại không biết còn hao phí bao nhiêu thời gian nữa? Và cứ nghe những tin tức do Diệp cô nương đem lại mới đây, thì Nam Cung phu nhân đã luyện thành công mấy môn tuyệt kỹ thần công. Những phương pháp nghiên cứu của ta, dù có cơ hội thành tụ, nhưng thời gian không cho phép, cũng chẳng làm thế nào được ...Vì thế nên theo ý của tại hạ, chúng ta hãy tìm đủ mọi cách quấy rối Nam Cung phu nhân, làm cho mụ không thể tập trung, chú ý vào thời giờ luyện công được nữa. Ta cứ kéo dài ngày thành công của mụ được thêm ngày nào hay ngày nấy. Có thế may ra ta mới có đủ thời giờ sửa soạn và xếp đặt công việc."

Bách Đại gật đầu, "Ý kiến hay lắm! Ta cứ theo thế mà thi hành."

Nhâm Vô Tâm thở dài nói, "Trước kia, tại hạ những tưởng Nam Cung phu nhân không hề hay biết về những dự mưu của tại hạ, dù đâu mụ đã thấu triệt hết mọi việc. Có điều, mụ đã biết rõ lực lượng của mình không có gì, nên mụ không thèm để ý. Trừ phi bây giờ, thực lực của chúng ta thốt nhiên tăng cường, đủ để uy hiếp mụ, mới bắt buộc được mụ phải chú ý phòng ngừa."

Chàng đưa mắt nhìn khắp bốn phía, rồi lại tiếp, "Nhưng bọn ta hiện thời chỉ gồm mấy người, mà đại đa số lại đã mai danh ẩn tích, trong các núi sâu rừng thẳm, còn biết đâu mà tìm? Do thế tại hạ mới phải nghĩ tới cách tòng quyền là mời hai vị đại sư và các vị đạo trưởng Võ Đang cải trang, luôn luôn thay đổi y phục, hình dạng, khiêu khích bọn Thất Thập Nhị Sát, cốt làm cho Nam Cung phu nhân nghĩ rằng các vị cao thủ võ lâm lánh đời đã lâu, bây giờ lại xuất hiện và hợp lực với bọn ta. Những biến hoá đột ngột đó, tất làm cho mụ phải kinh hoàng, không biết rõ thực lực của ta ra sao, nên sẽ phải hao phí tâm huyết dò xét điều tra, cuộc luyện công vì thế sẽ phải kéo dài thêm nhiều ngày nữa."

Chàng nói một hơi thao thao bất tuyệt. Bách Nhẫn, Bách Đại nghe xong, trong bụng cũng phải phục thầm.

Nhâm Vô Tâm thở ra một hơi dài, đoạn lại tươi cười nói tiếp, "Tại hạ đã nói hết chân tình và mọi việc cần phải uỷ thác cho các vị. Bây giờ tại hạ phải gặp Huyền Chân đạo trưởng, rồi mới lên Tử Cốc điều tra thêm về những việc bí ẩn của nhà Nam Cung thế gia."

Bách Nhân cung kính nói, "Sau khi tướng công nhập cốc, Bách Đại sư đệ sẽ thay tướng công gánh lấy cái trách nhiệm nặng nhọc ấy, xin tướng công cứ an tâm."

Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói, "Tại hạ đã cho người đi đón Huyền Chân đạo trưởng từ hôm qua, chắc bây giờ cũng đã tới nơi rồi, chúng ta về thôi, kẻo đạo trưởng đợi."

Hồi thứ hai mươi bảy

Bày mưu định kế

Ba người cùng đứng lên, sửa lại xiêm áo, rồi dắt tay nhau trở về thạch động.

Lúc này Huyền Chân đạo trưởng đã tới, được Cù Thức Biểu đưa vào một gian thạch động, ngồi xem sách, chờ chủ nhân về.

Mọi người gặp nhau đều vui mừng thăm hỏi và cùng cảm khái, thở than. Giây lâu, Nhâm Vô Tâm mới đem kế hoạch vừa rồi thuật lại cho Huyền Chân đạo trưởng nghe.

Huyền Chân đạo trưởng nghĩ một hồi, rồi thủng thỉnh nói, "Bao nhiêu đời chưởng môn phái Võ Đương, tuy chưa từng nghe nói ai có thuật dịch dung cải trang bao giờ, nhưng việc này quan hệ rất lớn đến vận mệnh toàn thể võ lâm, bần đạo đành phải tòng quyền. Lần này, bần đạo sẽ sai đệ tử Huyền Quang đi suốt ngày đêm về Vũ Đương triệu tập những tay cao thủ, còn bần đạo cũng xin dốc toàn lực hiệu lạo. Nhâm tướng công muốn phân phó việc gì, bần đạo cũng xin gắng sức."

Nhâm Vô Tâm mừng lắm, không biết phải nói thế nào để tỏ lòng biết ơn.

Bách Nhẫn trầm ngâm một lát, chợt ngẩng lên nói, "Nếu Huyền Chân đạo huynh đã tòng quyền thì tại sao bần tăng còn khư khư giữ theo quy cũ, chẳng hoá ra không thông quyền đạt biến lắm sao? Việc này nếu vong linh các vị tổ tiên bản phái có biết, chắc cũng sẵn lòng tha thứ cho bần tăng."

Nói đến đây, Bách Nhẫn lại quay lại hỏi Bách Đại, "Sư đệ nghĩ thế có phải không?"

Bách Đại mở to đôi mắt, dường như muốn nói gì, nhưng không biết nghĩ sao, lại chỉ thở dài một tiếng, rồi cúi đầu ngồi yên.

Nhâm Vô Tâm vừa phấn khởi, vừa cảm động, vội đứng lên hướng vào Bách Nhẫn đại sư và Huyền Chân đạo trưởng vái dài một vái, nói, "Hai vị chưởng môn chịu hy sinh vì đại nghĩa như vậy, thật khiến cho tại hạ cảm kích vô cùng!"

Hai vị chưởng môn cũng vội đứng lên đáp lễ. Huyền Chân đạo trưởng nói, "Nhâm tướng công đã vì võ lâm đồng đạo xả thân, xem thường sống chết. Bọn bần tăng chẳng qua cũng chỉ cống hiến đôi chút tài hèn, xá gì mà đáng kể."

* * *

Nhâm Vô Tâm còn được hai ngày nhàn hạ, bèn ở lại thạch động, để các vị danh ý chẩn mạch và bốc thuốc trị thương.

Sáng ngày thứ ba, chàng mới cáo từ mọi người, rồi tới ngôi miếu nhỏ, chờ đón Điền Tú Linh.

Vì trong đám danh y có mấy cao thủ chuyên môn về thuật dịch dung, nên bọn Bách Nhẫn, Bách Đại, Huyền Chân đều phải ở lại mấy ngày, để chờ cải hoàn diện mạo, rồi mới chia nhau đi thi hành nhiệm vụ.

Nhâm Vô Tâm ra khỏi động, xuyên qua cánh đồng cỏ đã bị tuyết phủ trắng xoá. Lúc này, mưa tuyết đã tạnh nhưng bầu trời vẫn còn mù mịt, trước mắt chỉ còn một màu trắng xoá như giải bạc.

Chàng lướt qua cánh đồng, mà chân không hề chạm lên mặt tuyết. Đi được mấy dặm, đã thấy dưới chân sườn núi, ẩn trong một khu rừng rậm, cây cối đều bị tuyết phủ, lộ ra một toà miếu nhỏ.

Chàng đã đem theo rượu và lương khô, ngồi trong cổ miếu vừa ăn vừa đợi. Lúc này, bốn bề vắng lặng vì đang tiết nghiêm đông, nên cả đến những tiếng chim chóc, côn trùng cũng biến mất. Nhâm Vô Tâm đã quen sống tĩnh mịch nên cũng không lấy thế làm khó chịu.

Nhưng chàng chờ mãi đến đêm hôm thứ ba, cũng không thấy tăm tích Điền Tú Linh đâu cả. Tính chàng tuy trầm tĩnh nhưng lúc này cũng không khỏi nóng nẩy, bồn chồn, đoán là có lẽ đã có cớ sự gì xảy ra cho nàng chăng?

Chờ tới canh khuya, tuyết tan, mây tạnh, nền trời đã hiện lên mấy điểm hàn tinh. Nhâm Vô Tâm bước ra cửa miếu, đưa mắt nhìn khắp bốn phía, chỉ thấy ánh sao soi xuống mặt đất, óng ánh như rắc thuỷ tinh.

Chàng đứng ngắm vơ vẩn một lúc, đã toan quay vào, chợt thoáng trông thấy về mé phải có một bóng đen, đang chuyển động rất nhanh trên bãi cỏ trắng như bạc.

Chàng tưởng là Điền Tú Linh đã đến, bèn quay lưng lại, chú ý đứng chờ. Dưới ánh sao khuya, chỉ thấy cái bóng đi nhanh như cỡi gió, nháy mắt đã lờ mờ nhận ra hình dáng, quả đúng là nữ tử.

Nhâm Vô Tâm ngạc nhiên nghĩ thầm, "Không ngờ Điền cô nương lại có môn khinh công tuyệt đỉnh như vậy?"

Nhưng chàng vừa nghĩ tới đó, chợt lại giật mình, vì chàng vừa trông rõ người con gái đó không phải là Điền Tú Linh mà lại chính là Lan Cô, một người "độc" thần bí của nhà Nam Cung.

Nàng mặc một chiếc áo bào đen dài chấm gót, tóc để xoã hai bên vai. Tóc và tà áo nàng tung bay phấp phới trong luồng gió lạnh, nhưng thân hình nàng vẫn không hề có một động tác gì hết, vai vẫn thẳng, lưng vẫn ngay, chân vẫn không nhấc, thật đúng như một bóng ma đang cỡi gió mà bay đến.

Bộ mặt trắng xanh của nàng ẩn trong mớ tóc đen, làm cho màu da trở nên xanh bóng, trông lại càng dễ sợ, nhưng tất cả những vẻ ma quái rùng rợn ấy, vẫn không che hết những nét mỹ lệ trên khuôn mặt thần bí của nàng.

Nhâm Vô Tâm mục lực rất tinh nên từ đằng xa, chàng đã trông rõ trên khuôn mặt đẹp của Lan Cô vẫn có một thần sắc ngây ngô, ngơ ngác, miệng đang lẩm nhẩm, không biết đang nói câu gì.

Nhâm Vô Tâm vội nhảy về phía sau một cây cổ thụ, đứng nấp chờ. Chỉ trong nháy mắt đã thấy Lan Cô đi vượt qua, hai bàn tay nàng thu vào trong tay áo, đôi mắt ngây ngô vẫn nhìn thẳng về phía trước, hình như không hề trông thấy cảnh vật xung quanh.

Miệng nàng vẫn lẩm bẩm nói. Nhâm Vô Tâm đã cố lắng tai, nhưng cũng chỉ nghe loáng thoáng, câu được câu mất, "Gọi họ ra, rồi lập tức giết chết... bất cứ ai, bất cứ việc gì đều không ngăn nổi ta... Gọi họ ra rồi giết chết ngay... bất cứ ai... bất cứ việc gì..."

Nàng cứ nói đi nói lại chỉ hai câu ấy thôi. Lúc này cảnh vật xung quanh vắng vẻ yên tĩnh nên dù nàng đã đi xa mà tiếng nói vẫn còn nghe rõ.

Nhâm Vô Tâm rùng mình kinh sợ, tự nghĩ, "Chắc mụ lại được lệnh đi giết ai đây? "Họ" là ai? Ai là nạn nhân của mụ đêm nay?"

Chàng định chạy theo để xem Lan Cô đi đâu nhưng chỉ trong giây phút do dự, Lan Cô đã chạy biến đi tận đâu, trên mặt tuyết cũng không thấy dấu chân để lại.

Nhâm Vô Tâm đứng thừ người ra một lúc, trong bụng băn khoăn, không biết lát nữa đây, người nào sẽ phải bỏ mạng vì đôi bàn tay ngà ngọc nõn nà kia.

Chàng thở dài, lủi thủi quay về ngôi miếu nhỏ, nhưng vừa đi được vài bước, chợt lại nghe tiếng tà áo bây phần phật ở phía sau.

Nhâm Vô Tâm hốt hoảng quay lại, đã thấy Lan Cô vùn vụt chạy về, đôi mắt vẫn ngơ ngác, miệng vẫn lẩm bẩm, và hai bàn tay vẫn giấu vào bên trong ống tay áo.

Nhâm Vô Tâm kinh sợ, nghĩ thầm, "Mụ đi giết ai mà nhanh đến thế? Từ nãy đến giờ có lẽ chưa thổi chín nồi cơm". Chàng vừa nhảy tránh vào sau một bụi cây, thì Lan Cô cũng vừa lướt qua bên cạnh, thân hình lẹ như một luồng chớp.

Giữa lúc ấy chợt nghe có tiếng sói tru, rồi một con sói xám không biết từ đâu đã nhảy qua một tảng đá lớn, xông tới trước mặt Lan Cô. Lan Cô vẫn lẩm bẩm, "Bất kì ai, bất kì việc gì... cũng không ngăn cản nổi ta..."

Rồi cũng không rõ nàng làm cách nào, mà bàn tay phải vừa nhẹ nhàng đưa lên, con vật đã bị hất tung lên cao, chỉ kịp kêu oẳng oẳng mấy tiếng, thân hình bắn ra tới hai trượng, rồi như một cái bị gạo, rơi phịch xuống đất. Tức thì một khoảng tuyết trắng đã thấm đẫm những máu sói.

Lan Cô vẫn điềm nhiên đi thẳng, hình như nàng không hề có chút mảy may cảm giác. Tà áo đen vẫn phơi phới tung bay, chỉ thoáng chốc đã chìm dần vào đêm tối.

Nhâm Vô Tâm bước tới bên con sói, cúi xuống xem xét một lúc, rồi lắc đầu lẩm bẩm, "Võ công cao thật! Thủ pháp giỏi thật!"

Nhâm Vô Tâm tuy võ công cũng đã vào bậc siêu đẳng mà cũng không nghĩ ra phương pháp chống trả với ngọn đòn quái ác vừa rồi. Giữa lúc chàng đang nghĩ ngợi, chợt lại nghe tiếng tà áo Lan Cô bay phần phật, chàng vội ngẩng nhìn lên thì bóng nàng chỉ còn cách chỗ chàng đứng hơn mười trượng.

Lan Cô cứ đi đi lại lại như thế, ước tới bốn, năm lần. Nhưng đến lần cuối cùng thì nàng không đi thẳng nữa, mà lại đi vòng xung quanh ngôi miếu.

Nhâm Vô Tâm lấy làm lạ, không hiểu mụ làm thế là có dụng ý gì?

Chợt lại nghe từ phía xa xa có tiếng sáo văng vẳng truyền lại. Tiếng sáo rất nhỏ, nhỏ đến nỗi nếu cảnh vật xung quanh lúc này không cực kỳ yên tĩnh và Nhâm Vô Tâm không đang chú ý lắng nghe thì dù thính tai đến đâu cũng không thể nghe thấy được.

Tiếng sáo nổi lên không bao lâu, thì lại thấy một cái bóng trắng vùn vụt, chạy đến ngôi cổ miếu. Mà cái bóng ấy di chuyển cũng rất nhanh, tà áo bay phấp phới, chỉ mấy lần nhô lên hụp xuống, là đã tới gần toà miếu. Người đó chính là Điền Tú Linh, đệ ngũ đại phu nhân của nhà Nam Cung thế gia.

Khuôn mặt thanh tú của nàng lúc này đã tái nhợt, hình như nàng đang lo lắng hoảng hốt vì một sự việc, vừa đi vừa trông sau ngó trước, tựa hồ như sợ bị ai theo đuổi.

Nhâm Vô Tâm vội nhảy ra, khẽ gọi, "Điền cô nương, Nhâm Vô Tâm đây!"

Điền Tú Linh ngực vẫn còn phập phồng thở mạnh, trên môi đã cố gắng nở một nụ cười gượng gạo, nói, "Tiện thiếp đến chậm quá! Làm phiền Nhâm tướng công phải chờ lâu."

Nhâm Vô Tâm khẽ hỏi, "Hay đã có sự gì xảy ra chăng?"

Điền Tú Linh buồn bã gật đầu, "Tiện thiếp đã sợ không thể theo tướng công lên Tử Cốc được."

Nhâm Vô Tâm vội hỏi, "Sao thế?"

Tú Linh nói, "Tổ bà tôi đã bắt đầu nghi ngờ tôi, nếu thấy tôi đi ra ngoài lâu quá, thì thế nào tổ bà tôi cũng nêu sự bí mật của tôi ra. Chừng đó thì không những tôi không giữ toàn được mạng mà cả bà má tôi cũng nguy hiểm nữa."

Trong khi Tú Linh đang nói, thì từ phía xa xa, chợt lại nổi lên mấy tiếng sáo, nhưng chỉ thoáng chốc lại im bặt.

Nhâm Vô Tâm thì thào, "Điền cô nương có biết Lan Cô..."

Chàng nói chưa dứt lời, chợt nghe có tiếng ai gọi, "Ngũ phu nhân.... Ngũ phu nhân..."

Tiếng gọi vừa buồn thảm, vừa giận dữ, như khóc như gào, nghe lạnh cả tóc gáy.

Nhâm Vô Tâm trong óc vừa thoáng nhớ tới câu Lan Cô lẩm bẩm vừa rồi, "Gọi chúng nó ra, lập tức giết ngay..."

Chàng sợ toát mồ hôi, vội giơ tay xua xua, thì thào, "Im! Đừng thưa!"

Lúc mới đầu, nghe tiếng gọi, Tú Linh đã suýt buột miệng thưa lên, may Nhâm Vô Tâm đã kịp thời chặn lại. Lúc này, nàng mới chợt nhớ tới hoàn cảnh của mình. Tức thì, sắc mặt tái nhợt, cắt không ra một giọt máu.

Tiếng gọi lúc xa lúc gần, lúc đứt lúc nối, đêm hôm thanh vắng, đứng giữa cánh đồng hoang, nghe chẳng khác gì tiếng hú.

Gọi mãi "ngũ phu nhân" không thấy thưa, chợt người đó lại đổi giọng, "Nhâm Vô Tâm... Nhâm Vô Tâm..."

Nhâm Vô Tâm chỉ cảm thấy ruột gan đảo lộn, hồn vía cơ hồ cũng theo tiếng gọi ai oán, thê lương đó mà phơi phới bay đi. Chàng đành nghiến chặt hai hàm răng lại, cho khỏi bặt lên tiếng thưa, nhưng quả tim vẫn đập thình thịch, không sao tự chủ được.

Chàng sợ không sao kìm hãm được nổi, liền vận khí hành công, dùng tâm pháp thượng thừa nội công, trấn tỉnh tâm thần, chàng lại sợ Điền Tú Linh nội lực tu dưỡng chưa đủ, lỡ buột miệng thưa lên chăng, bèn lấy tay bịt chặt miệng nàng lại.

Trong bóng tối mờ mờ, tuy không rõ sắc diện của Tú Linh, nhưng tay chàng đặt lên miệng nàng thấy da nóng hôi hổi, hơi thở cũng mỗi lúc một nhanh, mà cái tiếng gọi cũng mỗi lúc một gần.

Nhâm Vô Tâm thốt nhiên vận đề chân khí, kéo Tú Linh vào một góc tối trong xó miếu. Lúc này đã thấy Lan Cô phơi phới theo chiều gió bay lại, miệng vẫn luôn luôn kêu gọi tên hai người.

Nhâm Vô Tâm đứng trong bóng tối, nín thở nhìn ra, thấy sắc mặt nàng không có vẻ hờn giận, cũng không có vẻ bi thương, nhưng nếu lúc đó có người nào vô phúc thưa lên một tiếng, thì chắc chết ngay với nàng, không còn hồ nghi gì nữa.

Từ bấy giờ cho đến sáng, Lan Cô cứ chập chờn bay qua bay lại xung quanh ngôi miếu, miệng vẫn luôn luôn kêu gọi không ngừng.

Đôi mất thất thần của nàng lúc nào cũng đăm đăm nhìn thẳng về phía trước, tưởng chừng như nếu có người đừng bên cạnh chắc nàng cũng không hay.

Sao đã dần dần tắt, tiết trời mỗi lúc một giá buốt thêm. Trong màn sương mai nhờ nhờ như màu sữa loãng, đột nhiên lại nổi lên một tiếng sáo.

Lan Cô chợt quay mình, phơi phới bay về hướng phát ra tiếng sáo, miệng vẫn không ngừng kêu gọi. Mãi tới lúc cái bóng đen của nàng hoàn toàn mất hút, Nhâm Vô Tâm mới thở ra một hơi dài, buông tay xuống, chỉ thấy mồ hôi đã đầm đìa đầy trán, còn Điền Tú Linh thì ngã khuỵu ngay xuống đất.

Nhâm Vô Tâm vừa bị nội thương mới khỏi, lại phải dùng nội công chiến đấu một thời gian khá lâu, đến nỗi tâm thần mỏi mệt rã rời. Chàng lẳng lặng điều tức giây lâu, rồi mới thở dài nói, "Nguy hiểm quá!"

Điền Tú Linh buồn rầu nói, "Không ngờ Tổ bà tôi lại sai khiến được Lan Cô học đại pháp ma thu hồn. Xem chừng mấy môn thần công kỳ bí của Tổ bà tôi cũng đã thành công cả rồi."

Nàng lại thở dài một tiếng ai oán, "Nếu Tổ bà tôi đã sai khiến Lan Cô đi giết tôi tức là đã biết tôi bội phản... nhưng không hiểu tại sao bà lại biết?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Cái tài của Nam Cung phu nhân thực không ai lường nổi. Chắc bà ta dùng một thuật gần giống như bí pháp "Nhiếp Tâm Thuật" để khống chế tâm thần của Lan Cô, rồi lại dùng tiếng sáo để chỉ huy nàng."

Tú Linh gật đầu, "Theo chỗ tôi biết thì Tổ bà tôi dùng thủ pháp thần bí điểm vào một huyệt đạo trên mình Lan Cô. Huyệt đạo này từ quả tim ăn thông lên tận óc, làm cho người bị điểm mê man đi. Nhưng trong khi mê, thế nào cũng có lúc bất thần tỉnh lại giây lát. Tổ bà tôi lợi dụng giây lát đó để truyền bảo mệnh lệnh, rồi lập tức buông tay ra, thế là từ đấy trong óc người bị điểm chỉ còn nhớ mỗi một việc, và sẽ cố sức làm cho bằng được việc ấy, trời cũng không thể cản nổi."

Nhâm Vô Tâm nói, "Tại hạ sợ việc này không chỉ giản dị như thế. Tất nhiên còn có phương pháp khác nữa, mà cái phương pháp ấy mới chính là then chốt của vụ bí mật này. Nếu tại hạ dò ra được cái then chốt ấy thì thế nào tại hạ cũng lấy lại được trí nhớ cho Lan Cô."

Tú Linh mỉm cười buồn bã, "Lan Cô là vũ khí lợi hại nhất của Tổ bà tôi, cái then chốt bí mật ấy cố nhiên bà phải giữ gìn cho cẩn thận, đời nào lại để lộ cho người ngoài biết được?"

Nhâm Vô Tâm thong thả đứng lên, "Bây giờ tại hạ phải lên Tử Cốc, còn cô nương định tính thế nào?"

Tú Linh thở dài nói, "Tiện thiếp bây giờ trở thành một kẻ không cửa không nhà, bơ vơ cô độc. Tổ bà thiếp đã biết thiếp bội phản, chắc không khi nào chịu buông tha..."

Nàng vừa nói vừa ứa nước mắt, Nhâm Vô Tâm trong bụng cũng băn khoăn, nhưng không biết nói câu gì để an ủi nàng, đành cứ đứng thừ người ra. Một lát sau, Điền Tú Linh lại ai oán nói tiếp, "Vả lại, tiện thiếp đã bị tổ bà ngầm cho uống thuốc độc, không biết độc phát lúc nào? Vì những lẽ đó mà tiện thiếp thật không nỡ làm luỵ Nhâm tướng công, theo tướng công đi bây giờ, chẳng qua chỉ làm lỡ việc lớn..."

Nhâm Vô Tâm nghiêm sắc mặt, "Sao cô nương lại nói vậy? Đừng nói cô nương vì bọn chúng tôi mà bị lệnh tổ bà nghi kỵ, dù cho cô nương với chúng tôi không quen thuộc gì thì chúng tôi cũng không thể khoanh tay ngồi yên, đưa mắt nhìn cô nương vì việc nhà của Nam Cung thế gia mà bị dày vò, ức hiếp như thế được!"

Điền Tú Linh đôi mắt đang âu sầu, ai oán chợt sáng hẳn lên. Nàng sống trong gia đình Nam Cung, mắt lúc nào cũng chỉ trông thấy những kẻ thâm trầm, giảo quyệt, tai chỉ nghe những chuyện lừa lọc đảo điên, dẫu thân thiết như tỉ muội, mẫu tử cũng không bao giờ nói với nhau được một lời chân thật, dốc tự đáy lòng.

Nàng thật không sao ngờ được là trên đời lại còn có những người không nghĩ đến lợi hại, không tính đến việc thành bại, nếu là việc tín nghĩa thì dù phải nhảy vào chỗ nước lửa cũng không từ. Nên nàng cứ đứng ngẩn người ra, đăm đăm nhìn Nhâm Vô Tâm một lúc, rồi mới thở dài nói, "Nhâm tướng công còn vui lòng đưa tiện thiếp lên Tử Cốc nữa hay sao?"

Nhâm Vô Tâm quả quyết gật đầu, "Cố nhiên!"

Tú Linh chớp mau đôi mắt, thỏ thẻ, "Nhưng hoàn cảnh của tiện thiếp lúc này, e rằng không giúp được công tử việc gì cả."

Nhâm Vô Tâm mỉm cười, "Quân tử nhất ngôn! Điền cô nương không cần thắc mắc gì cả. Nào, chúng ta đi thôi!"

Tú Linh trái tim như bị kích thích mạnh, một lát sau mới bình tĩnh lại được, bèn vội đứng lên sửa lại khăn áo chỉnh tề. Hai người đi trên quãng đường đầy tuyết một lúc, thân hình đều nhanh như một làn gió, nháy mắt đã tới con đường nhập cốc bí mật. Chỉ thấy hai cái bóng từ phía bên cạnh đang chạy như bay tới.

Trong hai người, có một người tầm vóc cao lớn, mình mặc áo tú tài màu lam, sắc mặt như người ốm.

Còn một người thì da dẻ hồng hào, tinh thần mạnh mẽ, mình mặc áo gấm, tuổi trạc cỡ trung niên, nhác trông ra vẻ một vị phú thương đang hồi làm ăn phát đạt.

Hai người một giàu, một nghèo, một người học trò, một người lái buôn, trông thật không tương xứng một chút nào. Duy thân pháp thì đều cực kỳ thần tốc, chỉ vài lần nhô lên hụp xuống là đã bay tới trước mặt Nhâm Vô Tâm.

Điền Tú Linh lúc này giống như một con chim phải cung, vừa trông thấy hai bóng người, quả tim tưởng như đã ngừng đập, bèn dừng lại, hỏi nhỏ, "Hai người này có vẻ bất chính, Nhâm tướng công phải cẩn thận mới được."

Nói chưa dứt lời, hai người đó đã bước đến bên cạnh. Người áo lam nhìn Nhâm Vô Tâm cười gọi, "Nhâm tướng công!"

Nhâm Vô Tâm sắc mặt vẫn điềm tĩnh như thường, chỉ giơ tay xua xua, ra ý bảo người kia đừng nói. Điền Tú Linh thấy thế rất đỗi kinh ngạc, không hiểu sao Nhâm Vô Tâm lại quen hai người hành tung quỉ bí như vậy. Nàng còn đang nghi nghi hoặc hoặc, đã thấy người áo gấm nhìn nàng mỉm cười chào, "Điền cô nương!"

Tú Linh giật mình kinh hãi, nhủ thầm, "Sao bọn này lại biết lai lịch của mình? Hay Tổ bà đã phái họ đến theo dõi mình chăng?" Nàng vừa nghĩ vừa bước lùi lại một bước rồi giơ tay phóng ra một chưởng.

Võ công Nam Cung thế gia quả nhiên cực kỳ quái dị, chưởng thế đánh ra, nội lực âm nhu, chưởng ảnh huyền ảo, không biết là sau chiêu đó còn ẩn tàn bao nhiêu chiêu thế lợi hại nữa.

Không ngờ người áo gấm chỉ cười ha hả, "Điền cô nương có lẽ không nhận ra lão nạp hay sao?"

Vừa nói vừa xoay người đi nửa vòng, giơ tay áo bào khẽ phẩy một cái, tức thì tránh thoát một chưởng của Điền Tú Linh.

Tú Linh còn đang ngẩn người, Nhâm Vô Tâm đã cười nói, "Cái thuật dịch dung của mấy vị thần y kể cũng thánh thật! Cả đến Điền cô nương cũng không nhận ra đại sư, thì dám chắc trên đời này không còn ai có thể nhận ra được nữa!"

Tú Linh ngơ ngác, chẳng hiểu đầu đuôi ra làm sao. Kế lại đưa mắt nhìn kỹ người khách lạ, lúc này mới thấy mặt mũi ông ta quả hao hao giống Bách Đại đại sư thật.

Nàng bất giác thở ra một hơi dài, nhưng trong bụng vẫn nửa tin nửa ngờ, rụt rè hỏi, "Phải... phải Bách Đại đại sư không?"

Người áo gấm chắp tay, mỉm cười nói, "Chính thị là bần tăng!"

Ông quên mất là mình đã cải trang, vẫn thủ lễ theo kiểu của nhà chùa.

Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói, "Đại sư chớ quên là từ lần sau gặp ai chỉ vái chào thôi, đừng chắp tay niệm phật thế nữa."

Bách Đại bật cười nói, "Vậy tại sao tướng công vẫn gọi bần tăng là "đại sư"?"

Lúc này, Điền Tú Linh mới tươi cười nói, "Xin đại sư thứ cho tiện thiếp cái tội lỗ mãng vừa rồi."

Nói đến đây, nàng chợt ngừng lại, đưa mắt nhìn người mặc áo lam. Bách Đại vội cười, nói, "Vị này là Huyền Chân đạo trưởng, chưởng môn phái Võ Đương."

Tú Linh "à" một tiếng, rồi lại lùi mấy bước, nghiêng mình nói, "Vãn bối được nghe danh đạo trưởng đã lâu."

Huyền Chân cũng cúi đầu đáp lễ, Nhâm Vô Tâm hỏi, "Bách Nhẫn đại sư và lệnh đệ Huyền Quang đạo trưởng có lẽ vẫn còn ở trong thạch động?"

Huyền Chân cười nói, "Tệ sư đệ đã theo Bách Nhẫn đại sư đi trước rồi. Bách Nhẫn đại sư cải trang thành một vị quan lớn mặc thường phục đi du ngoạn sơn thuỷ. Tinh thần khí độ giống y như hệt. Tệ sư đệ thì giả làm một thuộc hạ theo hầu, trông cũng xứng lắm."

Mọi người đều cười, Bách Đại nói, "Bây giờ chúng tôi xin đi trước."

Nhâm Vô Tâm gật đầu nói, "Việc này nguy hiểm rất lớn, xin hai vị giữ gìn cẩn thận cho."

Bách Đại cười nói, "Bần tăng... ấy quên, tại hạ biết lắm!"

Đôi bên chắp tay vái chào rồi cùng quay đi.

Điền Tú Linh thở dài nói, "Không ngờ mấy vị cao nhân, danh tiếng lẫy lừng thiên hạ, còn là tôn chủ một phái mà cũng chịu ủy khuất, thây đổi hình dạng như ai."

Nhâm Vô Tâm cũng chép miệng nói, "Đó chính là những bậc xuất gia từ bi đạo đức, tạo phú cho chúng sinh, tuy phải thay hình đổi dạng, nhưng ngẩng lên không thẹn với trời, cúi xuống không hổ với người. Nhâm mỗ này thật khâm phục họ sát đất..."

Nói xong chàng đưa Tú Linh vào căn động bí mật. Tú Linh thấy mấy ông già đầu tóc bạc phơ mà vẫn cứ cắm đầu cắm cổ mải miết làm việc, trong lòng cũng không khỏi bồi hồi cảm động.

Vào thạch thất, Cù Thức Biểu ra đón, hạ thấp giọng, "Nhâm công tử quên rồi ư?"

Nhâm Vô Tâm sửng sốt, "Quên gì cơ?"

Cù Thức Biểu đáp, "Chỗ này đã bị Nam Cung thế gia phát hiện, vì thế nên vị nữ ma đầu ấy mới biết mà tìm đến. Bây giờ công tử phải tính cách gì đi chứ."

Nhâm Vô Tâm nghĩ một lúc rồi nói, "Tại hạ vẫn định tìm một chỗ bí mật an toàn khác, để mời các vị tiền bối tới đó nhưng sau nghĩ lại việc này cần phải suy xét cho chính chắn đã."

Cù Thức Biểu có vẻ giận, "Còn phải suy xét việc gì nữa?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Tại hạ nghĩ chỉ còn cách ở lại đây là tốt nhất!"

Cù Thức Biểu sửng sốt, "Thế nào? Tướng công nói thế là nghĩa làm sao?"

Nhâm Vô Tâm thủng thỉnh đáp, "Vì người nhà Nam Cung thế gia chắc sẽ đoán rằng chỗ bí mật của ta đã bị họ phát giác, tất thế nào ta cũng phải dời đi chỗ khác. Bây giờ có lẽ họ đã mai phục cả bốn bề, để chờ xem động tĩnh của ta ra sao. Nếu ta dời đi lúc này là trúng với dự liệu của họ."

Cù Biểu Thức gật đầu, "Rất có thể!"

Nhâm Vô Tâm nói tiếp, "Hai bên đấu trận, cần nhất là đừng để hành động của mình lọt vào ức đoán của địch thủ, họ đoán mình đi thì mình không đi. Nam Cung phu nhân dù thông minh đến đâu cũng không ngờ rằng mình táo gan ở lại."

Chàng ngừng một lát, rồi tiếp tục, "Để lát nữa, tại hạ sẽ dàn một nghi trận, khiến cho họ tưởng chúng ta đã đi cả rồi, luôn thể ta còn dụ họ vào một lối khác nữa."

Cù Thức Biểu trầm ngâm một lát rồi nói, "Kế ấy dẫu hay, nhưng quá mạo hiểm, ngộ nhỡ..."

Nhâm Vô Tâm ngắt lời, "Kế ấy nếu dùng để đối phó với những người ngay thẳng thì quả thật là quá ư mạo hiểm, nhưng đối với những người khôn ngoan, xảo quyệt trong Nam Cung thế gia thì lại đắc dụng vô cùng, bọn họ đoán là chúng ta đã dọn đi, dù có muốn kiểm soát, cũng chỉ đứng phía ngoài xem xét qua loa cho xong chuyện, chớ quyết không chịu vào tận nơi để tìm tòi kỹ lưỡng, vì họ đã yên trí là họ liệu việc không thể sai được. Phương pháp đó tuy có hơi mạo hiểm thực, nhưng còn an toàn hơn là dọn đi nơi khác."

Cù Thức Biểu ngẫm nghĩ một lát, chợt gật gù khen, "Có lý lắm!"

Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói, "Muốn đánh lừa những hạng người cực kỳ gian hoạt thì nên dùng những biện pháp cực kỳ thiển cận. Cái đạo lý ấy mới nghe cứ tưởng là không phải, nhưng kỳ thực thì chính xác vô cùng."

Cù Thức Biểu tươi cười nói, "Quả đúng như vậy!"

Tú Linh đứng một bên cũng bật cười góp ý, "Có lẽ Gia Cát Khổng Minh ngày xưa cũng dùng cách ấy để đối phó với lão gian hùng Tư Mã Ý. Nếu đổi địa vị Tư Mã Ý là Trương Dực Đức, biết rõ là toà thành bỏ trống cứ vẫn tiến vào, thì Gia Cát Lượng không thể dùng cái kế ấy được."

Nhâm Vô Tâm cười, "Không ngờ Điền cô nương cũng thuộc làu những sự tích đã được truyền tụng trong nhân gian như vậy."

Điền Tú Linh thở dài, "Lúc nào rảnh rỗi, tiện thiếp cũng xem truyện cho tiêu khiển, chứ còn biết làm gì hơn..."

Nhâm Vô Tâm biết những câu đó đã gợi cho nàng nhớ đến hoàn cảnh tịch mịch cô đơn mà cảm khái, bèn quay sang nói với Cù Thức Biểu nhờ dịch dung cho nàng.

Hồi thứ hai mươi tám

Rủ nhau làm bậy

Cù Thức Biểu nhìn Điền Tú Linh một lát rồi hỏi, "Không biết tướng công định cải trang cho cô nương đây thành hạng người nào?"

Vô Tâm cười nói, "Tuỳ ý tiên sinh."

Tú Linh cười, "Lão tiền bối cứ dịch dung cho tiện thiếp thành một nam tử vì tiện thiếp còn phải đi cùng đường với Nhâm tướng công."

Cù Thức Biểu ngẫm nghĩ một lát rồi nói, "Nữ cải nam trang, tuy bề ngoài có giống nhưng cử chỉ nói năng vẫn không giấu được ai. Nhưng thôi được, để ta thử cố xem. Mời cô nương theo lão phu sang bên này. Nhâm tướng công hãy đứng đây đợi một lát."

Điền Tú Linh vâng lời, theo ông ta ra khỏi thạch ốc.

Một lát sau lại thấy ông già khác, tay xách chiếc khăn gói bằng vải lam, bước vào. Nhâm Vô Tâm ngẩng trông lên, thấy ông già ấy chính là Thi Thuý Phong, một vị danh y quê Hà Sóc, liền đứng lên đón, lão cười nói, "Nhâm tướng công hãy thay bộ y phục này vào đi. Lão phu sẽ xin vì tướng công mà sửa đổi nét mặt cho khác đi một chút..."

Trong khăn gói, có một bộ y phục học trò bằng vải màu lam nhạt, giầy tất đủ cả. Nhâm Vô Tâm vội cởi áo cũ thay vào áo mới, rồi ngồi xuống ghế đá cho Thi Thúy Phong hoá trang.

Thi Thuý Phong lấy trong mình ra một chiếc hộp sắt, đặt lên bàn, cười nói, "Xin tướng công hãy tạm nhắm mắt lại, để lão phu bắt đầu."

Vô Tâm theo lời nhắm mắt lại, chỉ thấy hai tay Thi Thuý Phong nhè nhẹ đưa đi đưa lại trên mặt mình, dần dần chàng cảm thấy da mặt nhờn nhờn ươn ướt, nhưng chỉ một lát là khô ráo dễ chịu ngay. Kế lại nghe Thi Thuý Phong cười nói, "Xong rồi!"

Vô Tâm cũng cười hỏi, "Xong rồi kia à? Nhanh thế?"

Rồi chàng mở mắt ra, đỡ lấy tấm gương trên tay Thi Thúy Phong, đưa lên mặt soi, chỉ thấy trong gương hiện ra khuôn mặt già nua gầy guộc, râu mọc lún phún đầy cầm, rõ ra một chàng tú tài kiết xác, thân già trước tuổi, còn đâu là chàng hiệp sĩ Nhâm Vô Tâm hoà hoa phong nhã mọi khi nữa.

Nhâm Vô Tâm thán phục vô cùng, vừa cười vừa nói, "Tiên sinh diệu thuật vô song, đáng phục, đáng phục!"

Thi Thuý Phong mỉm cười hỏi, "Nhâm tướng công có biết tại sao lão phu lại hoá trang cho tướng công một hình dạng xấu xí, tiều tuỵ như vậy không?"

Nhâm Vô Tâm ngẩn người ra một lúc, rồi lắc đầu cười gượng, Thi Thuý Phong liền giải thích, "Trong giang hồ hiện thời không thiếu gì gái dâm đãng lẳng lơ, tướng công cải trang như thế này sẽ tránh được bao nhiêu là điều phiền phức."

Nhâm Vô Tâm bật cười, "Lão tiền bối quả thực là dày dạn kinh nghiệm giang hồ, nhưng tại hạ..."

Chàng vừa nói đến đây đã nghe tiếng Cù Thức Biểu cười ha hả, từ ngoài cửa nói vào, "Nhâm tướng công không biết những câu chuyện phong lưu giai thoại của Thi lão tiên sinh lúc thiếu thời à? Nếu không thế thì làm sao có những kinh nghiệm hay ho ấy?"

Mọi người đều cất tiếng cười vang. Trong khi đó Cù Thức Biểu đã dắt một chú tiểu đồng đội mũ nhỏ, mặc áo xanh bước vào. Chú tiểu đồng này mày rậm, mắt to, sắc mặt đầy vẻ ngây thơ thành thật, tuổi chỉ vào cỡ mười ba, mười bốn. Dầu người tinh mắt đến đâu cũng không thể nhận ra đó chính là Điền Tú Linh, đệ ngũ phu nhân của nhà Nam Cung thế gia nữa.

Điền Tú Linh đảo mắt nhìn quanh phòng một lượt, rồi cất giọng thỏ thẻ, "Kỷ nhi xin đợi lệnh Nhâm tướng công sai bảo."

Cù Thức Biểu cười nói, "Nhâm tướng công xem thử Điền cô nương cải trang có giống không?"

Nhâm Vô Tâm vỗ tay cười sằng sặc bảo, "Khéo quá! Tuyệt quá! Dù Nam Cung phu nhân có trông thấy, chắc cũng không thể nhận ra được."

Đoạn chàng chắp tay vái nàng một vái, nói, "Thế này thì thật là uỷ khuất cho Điền cô nương quá!"

Tú Linh mỉm cười nói, "Huyền Quang đạo trưởng địa vị tôn quí như vậy mà còn hoá trang làm người hầu cho Bách Nhẫn đại sư, huống hồ tiện thiếp có xá kể gì? Xin tướng công đừng bận tâm đến điều ấy."

Nhâm Vô Tâm thở dài, "Bọn ta tuy sức không thắng nổi Nam Cung phu nhân, nhưng chí khí thì còn vượt mụ xa. Hay dở gì thì ta cũng phải liều mạng với mụ một chuyến, dù không thắng được mụ, ít nhất cũng làm cho mụ thất điên bát đảo mới nghe."

Rồi chàng lại nói với hai vị danh y, "Bây giờ xin hai vị xếp cho một số y phục cũ và vài món đồ nghề dùng để chế thuốc, cần nhất là ít dược liệu quí giá và mấy cái đơn thuốc bỏ đi, cho vào cái hộp bằng sắt, nhưng phải là cái hộp đẹp, chế tạo tinh xảo, để người ta vừa trông thấy là biết ngay bên trong đựng vật gì quí giá."

Thi Thuý Phong ngạc nhiên, không hiểu chàng cần dùng mấy vật ấy làm gì.

Cù Thức Biểu cười hỏi, "Có phải Nhâm tướng công định dùng những vật đó để đánh lạc hướng đối phương chăng?"

Nhâm Vô Tâm đáp, "Vâng, đúng thế!"

Cù Thúc Biểu liền đáp, "Những vật đó thì đã có sẵn, để lão phu đi lấy cho tướng công."

Nói xong hấp tấp kéo tay Thi Thuý Phong đi ra khỏi phòng.

Chỉ trong chốc lát, hai người đã đem đủ những đồ cần dùng đến.

Thi Thuý Phong cười nói, "Chiếc hộp này là gia bảo của Thạch tiên sinh ở Kinh Đô. Chỉ nội chiếc hộp không cũng đã quí giá lắm rồi, huống hồ bên trong lại còn bao nhiêu là thuốc quí nữa."

Nhâm Vô Tâm nghiêng người cảm tạ, lại dặn Điền Tú Linh chờ đợi trong giây lát, rồi cầm hộp và các thứ ra khỏi cửa...

Chỉ trong phút chốc, chàng đã ra khỏi động bí mật, xem xét khắp bốn phía trong khoảng chu vi chừng vài chục trượng. Khi biết chắc là không có ai theo dõi, chàng mới đi mạnh chân ra con đường chính, giẫm đạp bừa lên cây cỏ, làm thành nhiều vết chân, để ai trông thấy cũng tưởng là vừa có một bọn người đông đúc vừa ra khỏi động.

Sau đó chàng lại đem sống áo và các đồ dùng làm thuốc vứt rải rác ở các bụi cây ở hai bên vệ đường.

Những dấu chân trên mặt đất chỉ có đi mà không có về, vì lúc trở về chàng đều trổ thuật khinh công, chân không chấm xuống đất. Với các vật dụng vung vãi lung tung, đủ chứng tỏ là những người trong động đều đã đi chỗ khác và trong lúc vội vàng đã đánh rơi rất nhiều đồ vật.

Chàng dàn nghi trận ra xa tới hơn một dặm, lại cẩn thận kiểm soát một lượt, rồi mới yên trí ra về.

Sau đó, chàng còn đem những cỏ khô, dây mây và những tảng đá trước kia vẫn dùng để lấp lối vào động, dẹp hết ra cả hai bên, trong động đã không có người thì hà tất cần gì phải che đậy.

Làm xong bấy nhiêu việc, chỉ hết chừng ba bốn giờ, lúc này mặt trời đã lặn, sao hôm đã lác đác một vài ngôi, sắc trời có vẻ u ám.

Trong động, Cù Thức Biểu, Thi Thuý Phong cùng Điền Tú Linh chờ lâu sốt ruột, đã sai người dọn cơm, vừa ăn vừa đợi. Trong khi ăn, Điền Tú Linh vẫn mặt ủ mày chau, biếng cười biếng nói. Một lát, nàng chợt ngẩng lên hỏi hai vị danh y, "Hai vị tiền bối có biết trên đời này có một loại độc dược mà người uống vào vẫn vô sự, nhưng khi nào người hạ độc muốn cho nó phát ra thì nó sẽ phát ra không?"

Thi Thúy Phong ngẫm nghĩ một lát rồi nói, "Lão phu đã phí mất ba chục năm tâm huyết, nghiêm cứu các loại độc dược trên đời này, mãi tới bây giờ vẫn chưa thấy có loại độc dược lạ nào như vậy."

Cù Thức Biểu nói tiếp, "Theo lời Điền cô nương nói thì có lẽ loại độc dược ấy chính là một loại trùng độc ở Miêu Cương?"

Tú Linh vội hỏi, "Người bị trúng trùng độc, người khác có thể xem mà biết được không?"

Cù Thức Biểu nói, "Lão phu tuy không có thuốc chữa chứng đó, nhưng có thể xem biết được."

Tú Linh ngập ngừng, "Vậy nhờ tiền bối xem dùm coi có phải vãn bối đã bị trúng loại trùng độc ấy không?"

Cù Thức Biểu nhìn nàng một lát, rồi lắc đầu, "Cô nương thần khí sung túc, mắt trong và sáng thế kia, quyết không phải là người bị trúng trùng độc. Cô nương thấy trong người thế nào mà lại cho rằng mình bị trúng trùng độc?"

Tú Linh thở dài, "Đó chính là một sự bí mật giữa cụ, bà, con, cháu dâu nhà Nam Cung chúng tôi. Vì tổ bà tôi không hề tín nhiệm một ai, bà lại sợ chúng tôi bội phản, nên đã bắt chúng tôi uống thuốc độc trước."

Hai vị danh y đưa mắt nhìn nhau, lẳng lặng.

Một lát sau, Cù Thức Biểu mới nói, "Xin cô nương đưa tay để lão phu coi thử mạch xem sao."

Tú Linh vội đưa tay ra, Cù Thức Biểu dùng hai ngón tay để bắt mạch cho nàng, thái độ cực kỳ thận trọng. Một lúc lâu ông mới buông tay, ngẩng lên nói với Thi Thúy Phong, "Mời Thi huynh xem thử."

Thi Thúy Phong bước lại gần, rồi cũng đặt tay lên mạch nàng.

Xem xong ông lại hỏi Cù Thức Biểu, "Cù huynh thấy thế nào?"

Cù Thức Biểu lắc đầu, "Tiểu đệ không thấy triệu chứng gì là Điền cô nương đã bị trúng độc."

Thi Thuý Phong cũng nói, "Mạch của cô nương rất bình thường, không có gì khác lạ, cả hai chúng tôi cùng đồng ý như nhau, dám chắc người khác xem cũng thế thôi."

Tú Linh ấp úng, "Thế hay là... có khi tiện nữ chưa bị trúng độc?"

Thi Thuý Phong bèn nói, "Điều ấy cũng không thể quyết đoán được, có khi Nam Cung phu nhân đã chế ra được một thứ thuốc độc riêng, người uống phải sau một khoảng thời gian chừng độ hai ba năm mới phát ra, cũng chưa biết chừng."

Tú Linh buồn bã, "Tiện thiếp dẫu chết cũng chẳng tiếc gì, nhưng thực không muốn chết trước khi mọi sự việc chưa được làm sáng tỏ."

Vừa nói tới đây, Nhâm Vô Tâm vừa bước vào, trên vạt áo của chàng dính đầy bùn đất và cỏ may.

Cù Thức Biểu cười nói, "Nhâm tướng công đi đâu về mà trông cỏ vẻ vất vả vậy? Hãy ngồi xuống đây uống vài chén rượu cho ấm bụng đã."

Nhâm Vô Tâm ngồi vào bàn, ăn uống một chút, rồi nhìn Điền Tú Linh cười nói, "Kỳ nhi, chúng ta phải đi ngay bây giờ."

Tú Linh ngây người ra một lúc, mới chợt nhớ là chàng gọi mình, bèn bật cười đáp, "Xin tuỳ lệnh tướng công!"

Nhâm Vô Tâm lại nói với Cù Thức Biểu và Thi Thúy Phong, "Tại hạ đã bố trí bên ngoài xong xuôi rồi. Nhưng các vị cũng nên cẩn thận bỏ bớt một gian thạch thất bên ngoài, đừng dùng gì tới, cửa ngõ lấp hết đi. Sau khi tại hạ đi rồi, cũng nên đốt một ít cây khô ở trước động cho có dấu vết tàn phá, thế là không còn lo gì nữa."

Nhâm Vô Tâm nói xong, chắp tay cáo từ. Mấy tên tiểu đồng hầu cận chàng đã sửa soạn sẵn hai gói hành lý cầm ra trao cho Nhâm Vô Tâm và Điền Tú Linh mỗi người một gói.

Lúc này, các vị lão nhân và mấy người trong động đều tề tựu đông đủ, cùng đưa tiễn hai người ra tới cổng ngoài, rồi mới từ biệt.

Ra khỏi cửa động, Tú Linh quay đầu lại, quả thấy quang cảnh nơi đây giống hệt như một nơi vừa có đám đông người đi qua.

Hai người đi lẩn vào trong bóng đêm, chợt thấy phía trước mặt loé lên một tia lửa, bèn vội vàng nhảy tránh về một bên. Nhâm Vô Tâm thấy bên đường có một cây tùng bách, lá rườm rà, bèn đưa tay ra hiệu cho Tú Linh, rồi cả hai cùng nhảy lên cây, ngồi nấp vào trong đám lá rậm.

Vừa ngồi yên một lát, lại thấy ánh lửa loé lên lần nữa, trước mắt đã hiện ra hai người đàn ông, một người câm cây hoả tập, còn một người cầm lưỡi chuỷ đang đi như bay trên mặt tuyết, thỉnh thoảng dừng lại như muốn tìm kiếm vật gì.

Tuy ánh lửa chập chờn, lúc mờ lúc tỏ nhưng nhờ được bầu trời đầy sao phản ánh lên mặt tuyết, nên trong vòng ba thước còn có thể nhận diện được sự vật. Nhâm Vô Tâm và Điền Tú Linh ngồi trên cây trông xuống, đã thấy rõ hai người đàn ông cùng mặc y phục dạ hành, một người chân tay thô lớn, bàn tay rất dài, trông có vẻ như một cao thủ về môn ngoại công. Còn một người thì tầm vóc thấp bé, thân pháp nhanh nhẹn nhẹ nhàng, trên mặt hai người đều che một miếng vải đen.

Nhâm Vô Tâm nhìn kỹ một lát, rồi dùng công phu "truyền âm nhập mật" hỏi Điền Tú Linh, "Cô nương đã luyện công phu "truyền âm nhập mật" chưa?"

Tú Linh lắc đầu. Chàng lại nói, "Nếu vậy, tại hạ hỏi điều gì thì cô nương cũng chỉ cần gật hay lắc đầu cũng đủ."

Tú Linh gật đầu. Chàng hỏi, "Người cao lớn kia hình như thuộc về Bắc Phái, tên là Ác Thiên Vương Lý Bá..."

Tú Linh không đợi chàng nói hết, đã vội gật lấy gật để. Vô Tâm lại nói, "Còn người thấp bé kia không biết có phải là Hoàng Phủ Thiếu Hồng, người đời thường gọi Tứ Bát Thuý Hoa Điệp,một caothủ nổi danh khắp lục tỉnh phía Bắc phải không?"

Tú Linh lại gật đầu, sắc mặt lộ vẻ kinh dị, nghĩ thầm, "Nhâm Vô Tâm quả là bậc kỳ tài. Chàng đối với hảo sĩ trong thiên hạ, sao mà biết rành mạch đến thế?"

Lại nghe Nhâm Vô Tâm hỏi, "Hai người này đều là nhân vật trong Thất Thập Nhị Địa Sát của Nam Cung thế gia chăng?"

Tú Linh lại gật đầu. Lúc này, Lý Bá hình như phát hiện được cái gì, bèn cầm hoả tập giơ cao lên, gọi khẽ, "Hoàng Phủ huynh lại đây xem thử cái này là cái gì?"

Hoàng Phủ Thiếu Hồng nhảy tới bên cạnh hắn. Lý Bá cúi xuống, nhặt trong bụi mây khô ra một chiếc hộp sắt, trên nắp hộp chạm mấy viên ngọc quí, dưới ánh sao trong lóng lánh như kim cương.

Hắn đưa cho Hoàng Phủ Thiếu Hồng xem, rồi nói bằng một giọng hơi có vẻ xúc động, "Cái hộp trông có vẻ quí giá, không biết bên trong đựng gì?"

Hoàng Phủ Thiếu Hồng cau mày, không đáp, chợt cầm lưỡi chuỷ sáng loáng như nước, vung lên chém một nhát vào chiếc khoá đồng, rồi mở nắp hộp ra. Hai người cùng ngồi xuống bới bới tìm tìm trong hộp một lát, Lý Bá chợt thở dài nói, "Mấy lão già này chạy trốn như đoàn chuột, đến nỗi có cái hộp quý cũng đánh rơi."

Hoàng Phủ Thiếu Hồng nói, "Những vật này là cần câu cơm của họ, không hiểu sao họ lại vứt đi?"

Lý Bá lắc đầu cười, "Huynh đệ nói thế không đúng! Chắc hẳn bọn họ sợ có người theo đuổi, trong lúc vội vàng, chỉ mãi chạy cho nhanh, đâu còn thời giờ kiểm soát đồ vật, nên mới bỏ mất chiếc hộp quí giá thế này, chứ đâu phải họ vứt đi."

Nhâm Vô Tâm và Điền Tú Linh chỉ đưa mắt nhìn nhau cười. Giữa lúc ấy chợt thấy một bóng đen vừa cao vừa gầy từ xa chạy đến. Cái bóng này cũng bịt mặt bằng một chiếc khăn đen, chỉ để lộ hai con mắt sáng quắt như điện. Hắn đi đã gần tới sau lưng Lý Bá và Hoàng Phủ Thiếu Hồng, mà hai người này vẫn không biết gì cả. Đủ hiểu khinh công của hắn cao đến bực nào.

Gã tiến sát đến sau lưng Hoàng Phủ Thiếu Hồng, đôi mắt đăm đăm nhìn chiếc hộp trong tay Lý Bá, lẳng lặng không nói gì. Lý Bá và Hoàng Phủ Thiếu Hồng vẫn không biết có người đứng sau lưng, đầu óc hình như để cả vào chiếc hộp sắt. Một lát, Lý Bá chợt cười khẽ nói, "Những dược liệu và mấy cái đơn thuốc này chắc toàn là vật quí. Chi bằng chúng ta đem thẳng về, đừng để người khác tranh mất công."

Hoàng Phủ Thiếu Hồng hỏi, "Đem thẳng về đâu?"

Lý Bá cười nói, "Đưa thẳng về cho Nam Cung phu nhân, chứ còn đem về đâu nữa? Nếu được lão phu nhân cao hứng, chưa biết chừng..."

Hoàng Phủ Thiếu Hồng liền ngắt lời, "Nhưng hành động của chúng ta hôm nay thuộc về Điạ Xương cai quản, mình không nói qua lão ta một tiếng thì sao được?"

Lý Bá thở dài, "Hoàng Phủ huynh, chúng ta đều là những nhân vật có tiếng tăm hiển hách trong giang hồ, từ ngày vào làm môn hạ của Nam Cung thế gia, không những phải chịu sự cai quản của người khác mà địa vị còn dưới cả anh đầu lĩnh hạng bét. Ngay cả Nam Cung phu nhân, mặt mũi thế nào, mình cũng chưa được biết, vậy thì hà tất gì phải trung thành như vậy!"

Hoàng Phủ Thiếu Hồng đáp, "Lão phu nhân bận trăm công nghìn việc, thì giờ đâu mà tiếp chúng ta."

Lý Bá cười nhạt, "Thế sao lão Địa Xương Tiêu Nhị thì muốn vào hầu lão phu nhân lúc nào cũng được?"

Hoàng Phủ Thiếu Hồng đáp, "Người ta là đầu lĩnh, mình bì thế nào được."

Lý Bá lạnh lùng nói, "Ấy đó, chính vì lẽ ấy, tiểu đệ mới bàn với đại huynh về việc đem thẳng chiếc hộp này đến chỗ của lão phu nhân, để phu nhân biết huynh đệ mình là người mẫn cán, rồi ta sẽ thừa dịp bắt cẳng lão quỉ ốm kia đi, có phải là nhất cử lưỡng tiện không? Nếu bây giờ ta đem cái hộp này nộp qua tay lão, lão nhận là công lão thì huynh đệ ta còn xơ múi gì nữa."

Nhâm Vô Tâm nghe đến đây liền quay lại nhìn về người áo đen đứng phía sau Hoàng Phủ Thiếu Hồng, thấy mắt hắn ánh lên một tia sáng dữ dội, liền nghĩ bụng, "Tên này có lẽ là một trong sáu tên đầu lĩnh Thất Thập Nhị Địa Sát đây chăng? Nếu đúng thì phen này tên Lý Bá sẽ phải chết với hắn?"

Kế lại nghe Hoàng Phủ Thiếu Hồng bảo, "Lý huynh nếu quả định làm thế thì tiểu đệ quyết không làm theo."

Lý Bá biến sắc nói, "Sao vậy?"

Hoàng Phủ Thiếu Hồng cười nhạt, "Tiểu đệ nghĩ tình huynh đệ đã chơi với nhau bao nhiêu ngày, nên không khi nào lại tố cáo chuyện này với ai. Lý huynh muốn vào yết kiến Nam Cung phu nhân thì xin cứ tuỳ tiện."

Lý Bá ngẩn người ra một lát, rồi chợt giậm chân xuống đất, giận dữ nói, "À, thì ra ta không có mắt..."

Vừa nói đến đây, chợt nghe phía sau có một giọng nói lạnh như thép vang lên, "Đúng đó! Quả là nhà ngươi không có mắt thật!"

Cái tiếng nói đó, thật chẳng khác gì mũi dao nhọn đâm suốt trái tim Lý Bá. Lý Bá rùng mình, quay phắt đầu lại, mục quang chạm phải luồng nhãn tuyến đầy sát khí của hắc y nhân, tức thì chiếc hộp sắt rơi xuống đất, đánh "bộp" một tiếng.

Hoàng Phủ Thiếu Hồng cũng giật mình quay lại, thốt lên một tiếng kinh hoàng, nhưng đôi mắt hắn không thấy lộ vẻ gì là khủng khiếp. Có lẽ hắn đã biết người áo đen đến đó từ lâu nhưng vì muốn bảo toàn tính mạng và địa vị nên cam tâm bán rẻ bằng hữu.

Gã áo đen trừng mắt nhìn Lý Bá một lúc, rồi thốt nhiên cúi xuống nhặt chiếc hộp, mở ra xem qua một lượt rồi đặt xuống trước mặt Lý Bá.

Lý Bá ấp úng, "Cái... cái này..."

Gã áo đen hừ một tiếng, lạnh lùng cười, "Lý huynh đã muốn đem cái hộp này nộp tận tay lão phu nhân thì cứ tự tiện đem ngay đi."

Lý Bá lùi lại một bước, lắp bắp bào chữa, "Vừa rồi... vừa rồi... tại hạ chỉ là nói đùa... nói đùa..."

Gã áo đen dịu giọng nói, "Giữa chúng ta, chức vị tuy có kẻ trên người dưới, nhưng đều trung thành với Nam Cung thế gia, tình nghĩa như huynh đệ, ai đưa đi cũng chẳng thế."

Hắn cười khanh khách mấy tiếng, rồi lại nói tiếp, "Vả lại, chúng ta còn phải ở đây để tra xét, nếu Lý huynh chịu mang cái hộp này về trước, để phu nhân khỏi trông đợi thì càng hay lắm."

Lý Bá chớp chớp đôi mắt, ấp úng, "Nhưng... nhưng..."

Người áo đen cười ha hả, "Lý huynh đừng từ chối nữa. Tại hạ chỉ hơi áy náy một chút, chứ tuyệt nhiên không có gì khác, Lý huynh đừng ngại."

Lý Bá vẫn đứng yên, không dám động đậy, mắt hết nhìn gã áo đen lại nhìn Hoàng Phủ Thiếu Hồng.

Hoàng Phủ Thiếu Hồng chỉ đưa mắt nhìn ra phía xa, chẳng nói năng gì.

Lý Bá không biết nghĩ sao, chợt ngẩng đầu lên nói bằng giọng quả quyết, "Đầu lĩnh đã sai bảo, thuộc hạ xin vâng lệnh nhưng chẳng hay đầu lĩnh còn sai bảo gì nữa không?"

Gã áo đen lắc đầu, "Không còn việc gì khác nữa."

Lý Bá hỏi, "Lúc trở về, thuộc hạ có còn phải đến đây nữa không?"

Người áo đen lắc đầu, Lý Bá cúi xuống lấy chiếc hộp, rồi thủng thỉnh quay đi. Người áo đen luôn miệng cười khẩy, chờ cho Lý Bá quay đi liền giơ hữu thủ phóng một chưởng vào sau lưng hắn.

Một chưởng ấy bề ngoài trông nhẹ như không, vậy mà cả thân hình cao lớn lực lưỡng của Lý Bá không sao chịu nổi, hắn chỉ kịp "hự" một tiếng, rồi ngã ngay xuống đất, chiếc hộp văng đi một nơi, máu đỏ loang ra khắp mặt tuyết.

Gã áo đen cười sằng sặc, "Lý Bá ơi Lý Bá! Ngươi đừng trách ai, chỉ nên trách mình chọn bằng hữu không tin, nếu Hoàng Phủ Thiếu Hồng bảo ngươi trước, thì ngươi đâu đến nỗi phải bỏ mạng tại đây."

Hoàng Phủ Thiếu Hồng từ nãy đến giờ vẫn đóng vai khách bàng quan, lúc này mới giật mình kinh hãi nói, "Sao... sao đầu lĩnh lại nói vậy?"

Thiếu Hồng cúi đầu, không biết nói gì nữa.

Gã áo đen lại lạnh lùng nói tiếp, "Ta vừa tới đây, ngươi đã biết ngay, còn vờ làm bộ không trông thấy. Phen này ta giết Lý Bá, chắc ngươi khoái lắm nhỉ?"

Thiếu Hồng lẳng lặng một lát, chợt ngẩng lên cười nói, "Đại Kha xét quả không sai, thuộc hạ đã biết Lý Bá có lòng muốn phản Đại Kha từ lâu, nên mới để mặc cho hắn tự nói ra, để Đại Kha liệu bề mà đối phó."

Người áo đen lạnh lùng nói, "À thì ra thế? Chứ không phải người thù ghét gì Lý Bá?"

Thiếu Hồng cúi đầu nói, "Thuộc hạ đối với Đại Kha lúc nào cũng một lòng một dạ, xin Đại Kha đừng ngờ."

Gã áo đen cười ha hả rồi nói, "Tên Lý Bá chết ở đây là do Nhâm Vô Tâm sát hại, phải thế không?"

Thiếu Hồng vội đáp, "Phải phải, chính mắt thuộc hạ trông thấy."

Nhâm Vô Tâm ngồi trên cây, bất giác rủa thầm một tiếng, chợt nghe gã áo đen cười ha hả nói, "Thì ra chính mắt ngươi trông thấy. Nhưng tại sao Nhâm Vô Tâm lại sát hại Lý Bá?"

Thiếu Hồng chớp mau đôi mắt, rồi nói luôn một hơi, "Nhâm Vô Tâm bảo hộ mấy lão già đi trốn, mấy lão già đi rồi, Nhâm Vô Tâm ở lại đoạn hậu, vừa gặp Lý Bá nấp trong bụi cây nhìn ra, hắn liền phóng chưởng đánh chết."

Người áo đen nói, "Nếu thế thì hoá ra Lý Bá vì trung thành mà chết? Như thế công lao to lắm!"

Thiếu Hồng mỉm cười, "Người đã chết rồi, dù có công lớn cũng chẳng làm gì. Cái hộp kia là do Đại Kha phải hết sức chiến đầu với quần ma mới giành được."

Người áo đen cười ha hả, "Đúng đúng! Cái hộp ấy là do ta giành được. Nhưng nếu lão phu nhân lại hỏi ta vì sao giành được chiếc hộp mà lại không biết bọn chúng chạy đi đâu, thì biết nói sao?"

Thiếu Hồng ngẫm nghĩ một lát, rồi nói, "Bọn họ đi đâu thì trừ Nhâm Vô Tâm ra, đến mấy lão già mà hắn đưa đi cũng còn không biết, huống hồ người ngoài? Vả lại, Nhâm Vô Tâm võ công cao quá, ai mà bắt được hắn?"

Nhâm Vô Tâm cười thầm, tự nghĩ, "Quá khen!"

Hồi thứ hai mươi chín

Gã áo đen lại cười ha hả nói, "Đúng đúng! Nhâm Vô Tâm võ công cao lắm, thật là quỉ khốc thần sầu, nhưng mà... lão phu nhân dặn ta chỉ giữ việc theo dõi xem bọn chúng di cư đi đâu, tại sao ta lại ra mặt cướp bảo vật của họ?"

Thiếu Hồng nhăn nhở cười lớn, "Vì hành tung của bọn ta đã bị Lý Bá làm bại lộ rồi mà. Nhâm Vô Tâm là hạng người nào, há chịu để chúng ta theo dõi? Trước tình thế đó, Đại Kha chỉ còn cách liều mạng mạo hiểm đoạt lấy chiếc hộp bí mật trong tay hắn."

Gã áo đen vỗ tay cười hơ hớ, "Đúng, đúng! Diệu, diệu! Câu chuyện bịa ấy thực là hợp tình hợp lý, không còn khe hở chỗ nào! Lát nữa ngươi cứ thế mà nói, nghe không? hi hi..."

Chợt nghe từ xa xa có tiếng cười, nói góp, "Chuyện gì mà hợp lý thế? Và nói cho ai nghe..."

Tiếp theo tiếng nói là một bóng người vừa thấp vừa béo, chân tay ngắn ngủn bay vèo đến.

Người này cũng vận y phục đen, mặt bịt vuông lụa đen như ba người trước, chỉ để lộ hai con mắt ti hí nhìn ra.

Khi tới trước mặt hai người, gã béo lùn vẫn cười, nói tiếp, "Tiểu đệ nghe đồn Hoàng Phủ huynh có cái lưỡi Tô Tần từ lâu, huynh mới bịa ra chuyện gì hay thế? Huynh có thể kể cho tiểu đệ nghe được không?"

Thiếu Hồng gượng cười nói, "Nào có chuyện gì đâu?"

Gã béo lùn lại cười nói, "Đêm đông lạnh lẽo không có rượu uống thì ta nói chuyện vui cũng đủ quên rét, sao Hoàng Phủ huynh lại không chịu..."

Người áo đen gầy lạnh lùng ngắt lời, "Hãy nói việc chính đã, rồi sẽ nói chuyện chơi sau, ngươi đi tra xét chung quanh đây có thấy gì lạ không?"

Gã béo lùn nói, "Bọn lão già trong động này đã trốn hết rồi, thuộc hạ vào trong đó chỉ thấy cây cối ngã nghiêng, mà còn thấy cả vết cháy nữa."

Gã áo đen cao gầy hỏi, "Ngươi có vào tận trong động tra xét không?"

Gã béo lùn đáp, "Thuộc hạ đã vào tận nơi tra xét tường tận rồi. Bọn họ trước khi đi đã thiêu huỷ mấy căn động, và còn nhận thấy dấu chân rất nhiều người đi thẳng tới con đường này."

Nhâm Vô Tâm ngẫm nghĩ cười thầm, "Người ta thường bảo người lùn hay làm biếng, quả thực không sai. Hắn vừa làm biếng vừa nói dối, thành ra lại có lợi cho mình."

Người áo đen gật đầu. Gã lùn lại quay qua hỏi Thiếu Hồng, "Hoàng Phủ huynh..."

Hoàng Phủ Thiếu Hồng cười ngắt lời, "Huynh đài muốn nghe chuyện gì? Chuyện của tiểu đệ kia kia..."

Gã lùn miệng thì hỏi, "Đâu?", mắt thì nhìn theo tay hắn trỏ.

Thiều Hồng đáp, "Ở kia!", tay thốt nhiên hạ thấp xuống, điểm ngay vào huyệt Hoa Cái của gã lùn.

Huyệt này ở dưới cuống họng, bốn tấc sáu phân, chính là Hoa Cái của ngũ tạng, một trong sáu tử huyệt của con người, nếu bị điểm trúng, thì huyết sẽ đọng lại ở trái tim, nhất định phải chết.

Gã lùn chợt quay phắt lại, đôi mắt trợn ngược, tưởng như lòi cả con ngươi ra ngoài, vừa định quát hỏi, nhưng tiếng quát chưa thốt ra khỏi cuống họng thì thân hình đã ngã xuống.

Gã áo đen lạnh lùng cười nói, "Tên này cũng bị Nhâm Vô Tâm giết chết ư?"

Thiếu Hồng lắc đầu cười nói, "Không phải! Hắn bị một cao thủ cùng đi với Nhâm Vô Tâm sát hại. Nếu không vì có nhiều cao thủ đi hộ tống mấy lão già thì Đại Kha đã có thể tóm được cả bọn rồi, đâu phải chỉ có cướp được cái hộp."

Gã áo đen vỗ vai hắn, cười khì khì, "Hiền đệ quả không hổ là hiền đệ của ngu huynh! Trong số bảy mươi hai vị hào kiệt của nhà Nam Cung thế gia, có lẽ chỉ mỗi mình hiền đệ là xứng đáng làm tri kỷ của ngu huynh mà thôi."

Thiếu Hồng đôi mắt long lanh, nhưng lại vội cúi đầu xuống, cười nói, "Tiểu đệ khi nào dám nhận là tri kỉ của Đại Kha, chẳng qua chỉ một lòng trung thành với Đại Kha mà thôi!"

Người áo đen trầm ngâm một lát rồi nói, "Bẩy mươi hai vị hào kiệt chúng ta lẽ ra phải có sáu vị đầu lĩnh, nhưng hiện thời mới có hai, nếu hiền đệ không chê, thì để ngu huynh tiến cử với lão phu nhân."

Thiếu Hồng nói to, "Đại Kha có ý tài bồi, tiểu đệ không bao giờ dám quên ơn!"

Gã áo đen cười ha hả một hồi rồi nói, "Chúng ta đừng chơi nhàn nhã như thế này, lát nữa về nói với bọn họ rằng chúng ta vừa huyết chiến một trận với Nhâm Vô Tâm cũng thật khó tin."

Thiếu Hồng ngẫm nghĩ một lát, rồi ngẩng lên nói, "Điều đó cũng dễ!"

Nói xong nhảy lên, bất thình lình phóng một chưởng vào vai người áo đen. Thân hình hắn nhanh như một con cắt, tiếng nói chưa dứt, tay phải hắn đã đập vào vai người áo đen. Không ngờ người áo đen thân pháp còn nhanh hơn, cái thân hình gầy guộc của hắn lập tức theo đà chưởng phong bay vèo đi.

Hắn nổi giận sừng sộ hỏi, "Làm cái gì thế?"

Vừa nói đến đây, như chợt nghĩ ra, hắn lại cười xoà nói tiếp, "Ừ, thế mà hay, chúng ta giả vờ đánh nhau một trận, cho nó có vẻ thực hơn."

Rồi hắn quay mình xông tới, thân hình chập chờn bay qua bay lại, thoắt cái đã được bảy chiêu. Hai người chiến đấu tới mấy chục chiêu, rồi mới phủi tay cười xòa. Đoạn mỗi người cúi xuống, ôm xốc một cái xác lên, trổ thuật khinh công, chạy biến vào trong đêm tối.

Trên cành cây, Tú Linh đã được chứng kiến từ đầu đến cuối tấn bi hài kịch hiếm có ấy, chờ cho hai người đi đã xa, nàng mới thở ra một hơi dài, nói, "Tiện thiếp những tưởng bọn Thất Thập Nhị Sát đều thề chết trung thành với Tổ bà, ai ngờ... hừ! Cơ trí thâm trầm, thủ đoạn ghê gớm như Tổ bà mà cũng không làm cho bọn thủ hạ trung thành hoàn toàn được, thì đủ biết muốn làm một vị minh chủ võ lâm đâu phải dễ."

Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói, "Từ xưa đến nay, những người làm nên nghiệp bá, có thể chia làm ba loại, một là, bụng dạ quảng đại, lấy đức làm người phục, khiến cho những kẻ thủ hạ đều được hưởng ơn mưa móc, hạng này thì hiếm lắm. Hai là, cố làm ra vẻ nhân nghĩa, dùng quyền thuật mà thu phục nhân tâm, khiến cho người ta phải hết lòng tận trung với mình, đó cũng đáng gọi là nhân kiệt. Hán Cao Tổ khi xưa dùng Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín cũng theo lối ấy."

Chàng ngừng giây lát rồi nói tiếp, "Còn những kẻ chỉ lấy uy thế lấn hiếp người ta, dùng sức mạnh ép người ta, hoặc dùng thủ đoạn tàn độc khiến cho người ta sợ hãi, khiếp đảm mà phải theo, thì đó là hạ sách. Cách này lúc đầu có thể bắt buộc người ta theo mình được, nhưng rồi chỉ trong một thời gian, thế nào cũng bị chúng phản lại. Ta cứ xem Kiệt, Trụ, Tần thì đủ rõ."

Tú Linh than rằng, "Vậy thì thủ đoạn ấy thành công cũng chóng mà hại cũng nhanh."

Nhâm Vô Tâm gật đầu nói, "Đúng vậy! Lệnh tổ bà muốn nhanh chóng hoàn thành nghiệp bá nên mới dùng thủ pháp ấy. Có lẽ cùng là sự bất đắc dĩ. Nhưng có biết đâu rằng con đê đắp vội, tất phải dễ vỡ, mà một khi đã vỡ thì không còn cách gì hàn gắn được nữa."

Tú Linh ngồi ngẩn người ra một lát, không biết nói gì. Nàng tuy đã bội phản nhà Nam Cung nhưng không dễ gì trong phút chốc đã cắt đứt được thân tình. Lúc này, quả nàng cũng đang lo cho sự thành bại của nhà Nam Cung.

Nhâm Vô Tâm lẳng lặng hồi lâu, rồi lại nói, "Người áo đen vừa rồi võ công cao lắm, lai lịch tất không phải tầm thường..."

Tú Linh ngắt lời, "Tiện thiếp cũng không rõ. Tuy nhiên, theo ý tiện thiếp thì người ấy tuy võ công cao, lai lịch quỉ bí nhưng tâm địa không đến nỗi nham hiểm, xảo quyệt như tên Hoàng Phủ Thiếu Hồng. Tên ấy mới thật đáng sợ!"

Vô Tâm mỉm cười, "Cô nương cho rằng người áo đen tâm cơ không bằng Hoàng Phủ Thiếu Hồng sao? Nếu vậy thì cô nương lầm to."

Tú Linh tươi cười nói, "Lần này thì nhất định tướng công đoán sai. Tên Hoàng Phủ Thiếu Hồng nói đến nỗi gã áo đen khâm phục sát đất, tướng công không thấy ư?"

Vô Tâm cười nói, "Bề ngoài nhìn vào thì tưởng thế, nhưng kỳ thực thì gã áo đen làm gì mà không thấu suốt ruột gan tên Hoàng Phủ Thiếu Hồng? Có điều hắn muốn lợi dụng tên kia, nên mới giả vờ làm bộ ngu xuẩn, để tên kia khỏi đề phòng..."

Chàng ngừng một lát, nói tiếp, "Tuy nhiên, hắn cũng không muốn để Hoàng Phủ Thiếu Hồng coi thường hắn, vì nếu để gã coi thường thì chưa chắc gã đã chịu phục tòng mệnh lệnh. Do thế, hắn mới dùng võ công để trấn áp Hoàng Phủ Thiếu Hồng, cô nương thử nghĩ xem một người âm trầm giảo hoạt như hắn, làm sao có thể thua Hoàng Phủ Thiếu Hồng được?"

Tú Linh gật đầu, chịu là chàng nói đúng. Lúc này, trời đã gần sáng, bức màn đêm đã từ từ hé ra một góc. Chờ cho trời sáng, hai người mới nhảy xuống, nhắm phía mặt trời mọc tiếng lên. Vừa đi được một quãng, chợt nghe tiếng vó ngựa rầm rập từ đằng xa chạy đến. Tú Linh sợ hãi nói, "Lại có người tới, chúng ta phải tìm chỗ nấp ngay mới được."

Vô Tâm cười nói, "Bây giờ hai chúng ta đang đóng vai hai thầy trò đạp tuyết tìm mai, việc gì phải trốn?"

Tú Linh ngần ngừ, "Không biết mình cải trang có giống không?"

Vô Tâm cười đáp, "Cù Thức Biểu tinh tế, cẩn thận lắm, trong bao phục này chắc có đủ các đồ cần dùng."

Tú Linh cởi bao phục ra, quả thấy bên trong có đủ sách vở, giấy bút. Vô Tâm bèn cầm lấy một quyển thơ thì một đàn thiện mã đã rầm rầm kéo đến.

Vó ngựa như sắt, dẫm nát cả những tảng tuyết đóng thành băng, phía sau đàn ngựa, tuyết bắn lên phơi phới như phun hoa. Những người ngồi trên mình ngựa, kỹ thuật đều rất tinh vi, nên mặc dù ngựa phi nước kiệu mà họ vẫn ngồi vững như bàn thạch.

Nhâm Vô Tâm tay cầm cuốn sách, vừa đi vừa ngâm, mắt vẫn không buồn nhìn lên. Chợt nghe một tiếng quát hỏi, rồi một gã đại hán mặc áo gấm ngồi trên lưng con ngựa trắng, tay phải cầm chiếc roi vung lên, tay trái gò dây cương lại, tức thì con ngựa nhảy chồm hai chân trước lên như người đứng, miệng hí vang trời.

Nhâm Vô Tâm có ý làm ra vẻ sợ hãi, lùi lại mấy bước, trừng mắt nhìn người cưỡi ngựa.

Người cưỡi ngựa nhảy vụt xuống đất, bước tới trước mặt Vô Tâm, hỏi, "Huynh đệ tại hạ đi lạc đường, không nhận rõ phương hướng, không biết Nam Cung thế gia ở đâu, mong các hạ làm ơn chỉ dùm."

Nhâm Vô Tâm làm bộ ngơ ngác, hỏi lại, "Nam Cung thế gia à? Nam Cung thế gia là cái gì cơ?"

Gã đại hán sầm mặt gắt, "Bằng hữu cố tình giả đò ngớ ngẩn, định che mắt ai?"

Hắn nói tiếng Quan Đông, lại nhân lúc nóng giận nên nói líu tíu chẳng biết đằng nào mà nghe. Nhâm Vô Tâm ngẫm nghĩ cười thầm, nhưng ngoài mặt vẫn giả bộ ngây ngô đáp, "Tiểu sinh chỉ biết có họ Nguyên, họ Bạch, họ Lý với Lý Bạch, Đỗ Phủ mà thôi. Còn Nam Cung thế gia là ai, quả tiểu sinh không hiểu."

Gã đại hán cười nhạt, "Nam Cung thế gia ở ngay gần đây, trời xuống tuyết lớn, mà vừa mới bảnh mắt, ngươi đã len lén tới đây ngao du, lại còn leo lẻo chối không biết Nam Cung thế gia là cái gì! Ha ha..., bằng hữu đóng kịch tài lắm!"

Hắn lùi lại phía sau, cầm cây roi vung lên, hô to, "Các huynh đệ, mau vây tên này lại!"

Vô Tâm nói bằng giọng run run, "Tiểu sinh đến đây chỉ định đạp tuyết tầm mai, tuyệt không có một hành vi nào mờ ám, các vị hảo hán lầm rồi."

Chàng nói chưa dứt câu thì sáu con ngựa đã xong lại, vây kín hai người vào giữa.

Gã mặc áo gấm vừa rồi, cười nhạt nói, "Trời rét thế này mà còn có nhã hứng đạp tuyết tầm mai, thì trừ khi là người điên hử?"

Nhâm Vô Tâm thở dài nói, "Văn võ hai đường, tính tình khác biệt, thói quen của văn nhân, không phải các vị hảo sĩ võ lâm có thể hiểu được. Tin hay không, thì xin tuỳ ở các vị."

Người áo gấm lại quát, "Không tin!"

Nhâm Vô Tâm nói, "Các vị không tin, tiểu sinh cũng đành, chứ nào biết làm sao! Hảo sĩ võ lâm giong ngựa giang hồ, lấy sự báo ân trả oán chém giết làm vui, nhưng văn nhân chúng tôi lại lấy câu thơ chén rượu, đạp tuyết tầm mai làm thú. Hảo hán có tin không?"

Người áo gấm lại quát, "Không tin!"

Vô Tâm thở dài nói, "Chúng tôi là những kẻ văn nhân, sức không trói nổi con gà, gặp các vị võ hiệp hảo hán, dẫu có lý cũng không biết nói thế nào cho rõ được."

Tú Linh đứng bên cũng thở dài, nói góp, "Thật đúng là có lý cũng chẳng biết nói thế nào cho rõ!"

Gã áo gấm cười nhạt, "Ta chỉ cần ngươi nói cho ta biết rõ lai lịch."

Nhâm Vô Tâm giật mình nhưng ngoài miệng vẫn giữ giọng ngây ngô, hỏi, "Lai lịch gì? Tiểu sinh chỉ là một kẻ..."

Người áo gấm lại cười, ngắt lời, "Chỉ là một kẻ thư sinh, phải không? Hà hà, ngươi đừng cho ta là một thằng ngốc, kỳ thực ngươi mới chính là thằng đại ngốc."

Nhâm Vô Tâm hỏi, "Thế là thế nào? Tiểu sinh quả thực không hiểu."

Gã áo gấm cười ha hả, "Kẻ văn nhân đạp tuyết tầm mai, mà lại biết cả thuật khinh công đạp tuyết không ngấn ư?"

Nhâm Vô Tâm giật mình, nhưng vẫn cố giữ vẻ trấn tỉnh, "Hảo hán nói thế là thế nào? Tiểu sinh vẫn chưa hiểu."

Tú Linh cũng nói góp, "Công tử tôi có biết khinh công khinh kiết gì đâu? Hảo hán đừng lầm..."

Người áo gấm cười sằng sặc, "Công tử ngươi đến đây đạp tuyết tầm mai, sao trên đôi giầy đó vẫn sạch trơn, không dính dấu tuyết?"

Nhâm Vô Tâm đơ cổ, không biết cãi thế nào, bất giác nhìn xuống đôi giầy, quả thấy giầy vẫn sạch trơn như mới, còn đang lúng túng, đã thấy bảy đại hán từ trên lưng ngựa nhảy cả xuống, tay phải cầm cây roi, luôn luôn vung vẩy, mười bốn con mắt sắc như dao dồn cả lên mặt chàng.

Gã áo gấm lại cười nói, "Ba mươi hai lộ hảo hán ở Quan Đông cũng chẳng thiếu gì kẻ gian ngoa giảo quyệt, nhưng chưa từng có kẻ nào dám giở trò trước mặt huynh đệ ta. Bằng hữu nên nói thật đi thì hơn."

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Ngươi muốn tại hạ nói thật cái gì?"

Gã áo gấm nghiêm nét mặt nói, "Ngươi có phải là môn hạ của Nam Cung thế gia không?"

Nhâm Vô Tâm lắc đầu, "Không phải!"

Gã đại hán sừng sộ, "Ngươi vẫn còn chối, phải không? Ta lại hỏi ngươi lần nữa, nếu không phải thì tại sao ngươi lại loanh quanh dối trá như vậy?"

Vô Tâm cười khanh khách, "Nam Cung thế gia tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm mấy chục năm nay, chủ nhân nhà ấy, năm đời đều vì công đạo võ lâm phấn đấu mà thác, thật không hổ cái tiếng "Võ lâm đệ nhất gia"! Nếu tại hạ là môn hạ nhà Nam Cung thì việc gì phải chối?"

Người áo gấm hừ một tiếng rồi nói, "Đã vậy, tại sao vừa rồi ta hỏi thăm nhà Nam Cung thế gia, ngươi lại giả vờ làm như chưa từng nghe thấy tên ấy bao giờ, là nghĩa gì?"

Vô Tâm chưa kịp trả lời thì gã lại tiếp, "Ta không cần biết ngươi có phải là người nhà Nam Cung thế gia hay không, nhưng đã nói dối như vậy thì cũng không phải là hạng người tử tế."

Nói xong, hắn lại vung roi, quát, "Các huynh đệ mau bắt tên này lại, để ta tra hỏi cho rõ ràng!"

Sáu người kia cùng dạ ran một tiếng, rồi cầm roi xông vào, Nhâm Vô Tâm cau mày hỏi, "Các vị muốn động thủ thật ư?"

Gã áo gấm cười sằng sặc nói, "Các ngươi không nghe thấy người ta thường có câu rằng, "Quan Đông có bảy ngọn Phá Lục Tiên, dưới đánh ma quỉ, trên đánh tiên" à? Địa vị của bảy huynh đệ ta như thế nào, mà nói đến động thủ lại còn phải hỏi giả hay thật?"

Tú Linh không đợi Nhâm Vô Tâm lên tiếng, lập tức quát, "Mặc kệ Phá Lục Tiên với Phá Lưỡng Tiên của các ngươi! Các ngươi muốn động thủ thì cứ động thủ đi!"

Nhâm Vô Tâm thầm nghĩ, "Điền cô nương vẫn còn cái thói thiên kim tiểu thơ, việc gì cũng không chịu nhường nhịn. Trận đánh nhau hôm nay thật là oan uổng!"

Trong khi ấy, ba ngọn roi của đối phương đã vung tới. Thì ra bảy cây roi này đều tết bằng tóc, buộc bằng dây vàng, có thể vừa dùng làm roi ngựa, vừa dùng làm binh khí. Nếu lại đem nội lực dồn lên ngọn roi, thì đứng đằng xa có thể điểm lên các đại huyệt khắp trên mình địch thủ. Cán roi có mũi nhọn, nếu đánh xáp lá cà thì quay cán lại làm thành mũi chuỷ, thật là một món binh khí ngoại môn gồm cả nhuyễn ngạnh, đánh xa đánh gần cũng đều thuận tiện.

Nhâm Vô Tâm luôn luôn né tránh trong chưởng ảnh, ngọn roi, chàng không muốn đánh lại mà cũng không muốn nói rõ cho họ khỏi ngộ nhận. Giữa lúc ấy, chợt lại nghe tiếng vó ngựa rầm rập chạy đến, thoáng chốc đã tới gần.

Vô Tâm liếc mắt trông thấy một đoàn năm kỵ sĩ, đi đầu là một con la nhỏ lông xanh, xương xẩu gồ ghề, đuôi trụi, tai ngắn, trông chẳng thuận mắt chút nào nhưng cước lực của nó có lẽ còn nhanh hơn cả tuấn mã. Theo sau là bốn con vừa lừa vừa ngựa, ngựa thì ngựa tồi còn lừa thì cũng lừa ốm, trong bề ngoài, không ai có thể biết rằng sức chúng chạy nhanh không kém gì ngựa thiên lý.

Người cưỡi la, đầu trọc, lông mày ngắn, thân hình gầy ốm, khuôn mặt xám ngoét, mũi lớn, miệng rộng ngoắc lên tới gần mang tai. Lão mặc bộ áo mà da đồng, rách mướp, lưng còn thắt chiếc dây lụa màu lam, trông tựa như một ông sư kiết xác, ngày ngày cầm bát đi khất thực. Người nào la ấy, trông thật tương xứng một cách khôi hài.

Hàng thứ nhì là một con lừa hoa, trên lưng đã không có yên cương, lại còn đặt ngang lù lù hai túi vải to kếch. Một ông già tóc bạc, thân thể khô đét, quần áo lam lũ, ngồi chễm chệ trên hai cái túi, chân bỏ thõng chạm xuống tận đất, đứng phía sau trông giống như trẻ con cưỡi chó, mà đứng mé bên thì lại trông giống như con la có sáu chân.

Hàng thứ ba là hai con lừa lông đen nhánh như đồng lum, hình dạng màu lông, cao thấp giống nhau như hệt. Người ngồi trên lưng lừa đều bụng lớn, mặt tròn, da dẻ hồng hào, tuy đầu tóc đã bạc phơ mà thái độ chẳng khác gì trẻ con, vừa đi vừa cười đùa nhí nhảnh. Hai người đã giống nhau như hai giọt nước, lại cưỡi hai con lừa giống nhau sánh vai cùng đi, khiến cho ai trông thấy cũng tưởng là mình hoa mắt, trông một người hoá ra hai.

Con ngựa đi hàng thứ tư, hình thù càng cổ quái, đó là một giống ngựa chân thấp, còn thấp hơn cả con la, người ngồi trên lưng ngựa là một ông già râu quai nón, người cao như cây phướn, mắt tròn, mày rậm, râu cứng như rễ tre, áo thì vừa chật vừa ngắn, tay áo không dài quá khuỷu tay, ống quần không che kín đầu gối, hai cánh tay gân nổi lên như gân chảo. Trông lão ta tuổi đã gần bảy mươi, mà sức lực còn khoẻ mạnh hơn trai tráng.

Bọn Quan Đông Thất Tiên cũng nhận ra hình dạng kỳ quái của bọn người mới tới, nhưng tay vẫn không ngừng liên thủ tấn công Vô Tâm và Tú Linh.

Lão già cưỡi la đi đầu thấy hai bên đánh nhau, bèn ngoái đầu trông lại, người cưỡi lừa đi hàng thứ nhì, sắc mặt tỉnh bơ như không trông thấy. Còn lão già béo lùn đi hàng thứ ba lại quay đầu cười nói với người bên cạnh, "Bùi lão nhị trông kìa, ở đây người ta dùng cả roi ngựa đánh người, mà đánh lại không trúng, mới tức cười chứ! hì, hì..."

Lão già bên cạnh cũng cười khanh khách, "Đánh trúng hay không trúng, không thành vấn đề, có điều bảy người đánh hai trông chướng mắt quá, phải không Bùi lão đại?"

Bùi lão đại cười ha hả, "Chẳng cần chúng mình phải lắm lời, coi chừng có người đã nhịn không nổi nữa rồi kia kìa!"

Câu nói chưa dứt, ông già cưỡi ngựa đi hàng thứ tư đã vỗ tay vào vế ngựa đánh "bộp" một tiếng, con ngựa tức thì vượt qua bốn người, xông vào bọn Quan Đông Thất Tiên.

Hồi thứ ba mươi

Cái bang ngũ lão

Ông ta vừa phóng ngựa xông vào đám đánh nhau, vừa hét vang như sấm, "Dừng cả lại! Bảy người đánh hai mà không biết xấu à?"

Gã áo gấm trong bọn Quan Đông Thất tiên nổi giận nói, "Ai khiến ngươi chõ mõm vào việc người ta?"

Gã vừa mắng vừa vung tít ngọn roi lên như mưa bụi, điểm vào ba đại huyệt bên sườn ông già. Ông già không thèm nhìn chỉ đưa tay bắt lấy ngọn roi, cười ha hả quát, "Nằm xuống!"

Vừa quát vừa cầm ngọn roi giật mạnh. Gã áo gấm tay vẫn nắm vững đốc roi, thân hình không hề nhúc nhích. Ông già nóng tiết hét, "À giỏi!"

Chỉ trong nháy mắt đã thấy ba ngọn roi khác đồng thời đánh tới, ông già ngã người về phía sau, hai chân kẹp chặt lấy sườn ngựa, con ngựa gầy hí lên một tiếng đứng thẳng lên như người, thành thử nửa mình bên trên của ông già gần chấm tới mặt đất.

Chỉ nghe tiếng roi vun vút quật ngang trước mặt và hai bên đầu ông già. Ông xoay nghiêng bàn tay quét trúng chân hai gã đại hán, tay trái vẫn nắm chắc ngọn roi của người áo gấm, gắng sức giật mạnh.

Người áo gấm thân hình hơi ngã về phía sau, chân vẫn đứng vững, gân cánh tay nổi lên lớn như chiếc đũa, những đốt ngón tay trên bàn tay nắm cán roi đã biến ra màu trắng xanh. Chợt nghe một tiếng "phựt" cây roi dài bằng tóc bện lẫn với sợi chỉ vàng đã đứt rời ra làm ba đoạn.

Gã đại hán áo gấm không đứng vững được nữa, thân hình lập tức ngã ngửa ra phía sau. Ông già vẫn ngồi nghiêng trên mình con ngựa đứng, lúc này thốt nhiên bị mất thăng bằng, thân hình cũng bị nghiêng đi rồi cả người lẫn ngựa đều đổ nhào sang bên cạnh. Ông ta chống khuỷu tay xuống đất, thân hình bật thẳng lên không, lộn ngược người lại, bay về phía sau tới hơn một trượng.

Con ngựa lúc sắp ngã, kinh sợ hí rầm lên. Nhâm Vô Tâm bay vụt tới đỡ lấy hai chân trước con ngựa, đặt nó đứng xuống đất. Con ngựa hình như sợ quá, lại hí lên một hồi toan nhảy ra ngoài, Nhâm Vô Tâm sẽ đưa tay vỗ nhẹ lên mình nó vài cái, tức thì con ngựa đứng yên, không cựa quậy nữa. Ông già cưỡi la buột miệng nói, "Thế mới thật là chân công phu!"

Ông già tóc bạc cưỡi lừa hoa sắc mặt lạnh như tiền, lúc này cũng hơi biến sắc mặt, lẩm bẩm, "Đúng thế!"

Bọn Quan Đông Thất tiên đứng xúm lại, vây xung quanh người bị thương ở chân. Gã đại hán áo gấm tay vẫn cầm lăm lăm đoạn roi đứt, trừng mắt nhìn ông già râu quai nón, ông già cũng quắc mắt nhìn lại. Hai người cùng thân hình cao lớn uy mãnh, mặt mũi thần tình cũng nhiều chỗ hơi giống nhau. Nhưng người áo gấm thì sắc mặt hầm hầm đầy vẻ giận dữ, còn ông già râu quai nón miệng chỉ hơi tủm tỉm nói, "Hảo tiểu tử, gân sức quả nhiên cứng cáp, xem chừng công phu ngoại môn của ngươi cũng được tới tám thành hỏa hầu chứ không ít!"

Gã áo gấm quát, "Ngươi hãy thử lại lần nữa xem?"

Ông già vuốt râu cười khì khì, "Lão ngần này tuổi đầu, ai lại đi đánh nhau với trẻ con!"

Người áo gấm trợn mắt, sửng cồ, "Vừa rồi không đánh nhau là gì?"

Ông già cười, "Vừa rồi lão chỉ ngứa mắt vì trông thấy tụi ngươi cậy đông người xúm vào bắt nạt kẻ cô thế, nên mới trừng phạt một chút chứ nếu các ngươi cứ một chọi một thì đã chẳng có chuyện."

Người áo gấm còn chưa biết nói gì, lão nhân đã tiếp, "Lão phu sinh bình vẫn có tính cứu khốn phò nguy, bênh thiện diệt ác. Hai phe các ngươi đánh nhau vì cớ gì, mau kể cho lão nghe, nếu xét ra ngươi phải có lẽ lão sẽ giúp ngươi một tay cũng nên."

Người áo gấm nổi giận nói, "Ai khiến cái thứ ngươi giúp? Việc riêng của anh em ta, xưa nay vốn không thích cho người ngoài nhúng vào! Ngươi biết điều thì tránh ra cho được việc!"

Ông già cười ha hả, "Ngươi không thích người ngoài nhúng tay vào chuyện riêng của tụi ngươi, nhưng lão cứ thích nhúng tay vào. Ngươi làm gì lão?"

Người áo gấm giận lắm, chẳng nói chẳng rằng thốt nhiên nhảy lên, thoi một quyền vào giữa mặt ông già, tay phải cầm đốc roi có lưỡi chủy dùng chiêu thức "Huyền điểu lạc sa", "Khổng tước dịch vũ", "Phượng hoàng triển xí" liên tiếp ba chiêu, chia ra đánh vào đầu vai và sáu huyệt lớn trên sườn ông già, cách biến chiêu nhanh như điện chớp.

Hắn đã dốc hết toàn lực vào mấy chiêu đó, đứng ngoài chỉ trông thấy trong luồng gió mạnh vù vù, kèm theo những đốm sao lấp loáng, bao trùm thân hình ông già vào giữa.

Ông già mặt lạnh như tiền, thân hình vững như trái núi, chờ cho những đốm ngân tinh tới gần hai chân thốt nhiên trôi vèo đi tới sáu bảy thước, hai tay buông thõng xuống, khuỷu tay đặt sát vào eo lưng, cổ tay đặt sát vào bắp vế ngón tay cong lên. Trông bề ngoài thì tưởng là ông ta không có ý trả đòn, kỳ thực thì bàn tay đã vào thế tính hạ độc thủ.

Thân hình ông ta vừa chuyển động thì hai ông già mặt mũi hồng hào đã biến sắc mặt bảo nhau, "Chết rồi, lão Ngũ đã nổi nóng muốn giết người!"

Nói xong hai thân hình đã phơi phới từ trên lưng lừa, lăng không bay xuống. Người bên trái thân hình lẹ như mũi tên bắn, lao tới sau lưng ông già râu quai nón, cười hềnh hệch nói, "Lão Ngũ đừng nóng, ngươi thử cười đi xem nào!"

Vừa nói vừa lấy hai ngón tay cù vào hai bên nách ông già, ông già quả nhiên bật cười ha hả, thân hình co quắp lại. Thì ra ông già này tính nóng như lửa, trời không sợ đất không kiêng, bình sinh chỉ có sợ mỗi một thứ là nhột!

Ông lùn đứng bên phải thân pháp cũng cực kỳ nhanh nhẹn, người nhẹ như một nắm bông gòn bay xuống giữa chỗ ông già và người áo gấm, phất ống tay áo ngăn không cho người áo gấm xông lên. Người áo gấm chỉ thấy một nguồn sức mạnh nhu hòa, từ trong ống tay áo của ông già lùn phóng ra đẩy mình lùi lại mấy bước. Chợt lại nghe ông ta cười ha hả nói, "Lão Ngũ, người ta tên họ là gì ngươi còn chưa biết, sao đã định giết chết người ta? Thật là chuyện tức cười!"

Người áo gấm nổi giận nói, "Ai thua ai được chưa rõ ràng, làm sao đã biết là lão giết được ta?"

Lão lùn cười hi hí nói, "Thôi đừng làm ồn lên nữa!"

Ông già râu quai nón lúc này cũng đã hết nhột nín cười, trỏ tay vào mặt gã áo gấm quát to, "Nếu không có hai người này, thì ngươi đã chết mất ngáp rồi con ơi!"

Hai người lại xông vào định đánh nữa. Ông già lùn đứng giữa dang hai tay ra cản hai người lại, cười nói với ông già râu quai nón, "Ngươi muốn dính vào chuyện người khác hay muốn đánh nhau thì mặc kệ ngươi, nhưng trước hết ngươi phải hỏi cho rõ ràng xem hai bên, bên nào thiện bên nào ác đã, rồi hãy ra tay mới được chứ?"

Ông già nổi giận hét vang như sấm, "Ta không muốn đánh nhau nhưng tên kia thật là vô lễ khả ố, hắn đối với lão còn hoành hành bá đạo như vậy, đủ hiểu hắn đối với người khác thế nào, việc gì còn phải hỏi!"

Lão lại trỏ Nhâm Vô Tâm nói tiếp, "Ngươi coi người ta nho nhã lịch sự thế kia, đâu có phải là người ác?Các ngươi đừng can ta, thế nào ta cũng phải can thiệp vào chuyện này kỳ được mới nghe."

Ông già lùn cười nói, "Mặt ác bụng chưa chắc đã ác, mặt hiền bụng chưa chắc đã hiền, đừng có tưởng bở!"

Ông già trừng mắt hỏi, "Ai bảo thế?"

Ông già lùn cười ha hả nói, "Trên đời này không còn ai ngang ngạnh bá đạo cho bằng ngươi, vậy ngươi cũng tự nhận là kẻ ác chăng?"

Ông già râu quai nón đứng ngẩn người ra, không biết trả lời thế nào. Ông già đầu trọc từ nãy vẫn ngồi yên trên mình la, lúc này mới quay lại mỉm cười nói với ông già tóc bạc, "Tính lão Ngũ chỉ có Bài lão Tam trị nổi, nếu không có vị khắc tinh ấy ở đây thì bọn mình cũng đến thúc thủ, không làm gì được hắn."

Nét mặt lạnh lùng của ông già tóc bạc lúc này mới hơi thoáng nở một nụ cười. Ông già cưỡi la lại nói, "Hai phe kia hình như cũng là những nhân vật có lai lịch, hiền đệ thử ra hỏi lại xem sao!"

Ông già tóc bạc vâng lời nhảy xuống đất, thủng thỉnh bước lại gần chỗ ba ông già đồng bọn rồi ngoảnh về phía Quan Đông Thất tiên, chắp tay nói, "Các vị có thể cho lão hủ biết đại danh được không?"

Gã áo gấm tỏ vẻ ngần ngừ, chưa kịp trả lời ông già tóc bạc đã mỉm cười nói tiếp, "Việc này anh em tôi đã nhúng tay vào, quyết không chịu nửa chừng bỏ dở nên lão phu mới mạo muội thỉnh giáo quí danh, lai lịch các vị. Các vị đã là bậc giang hồ hào kiệt, thiết tưởng cũng thông cảm những nỗi khổ tâm cho chúng tôi...!"

Ông nói năng đã uyển chuyển từ tốn, thái độ lại nghiêm trang cung kính, vô hình trung đã biểu lộ một uy lực đủ bắt buộc người khác phải tuân theo. Nhâm Vô Tâm đứng ngoài cũng bất giác tấm tắc khen thầm, "Lời nói thật lịch sự, thủ đoạn thật cao minh! Người như vậy mà còn phải nghe theo mệnh lệnh của kẻ khác, thì đủ biết ông già đầu trọc kia hành động còn cao hơn bậc nữa."

Người áo gấm nghe ông già nói xong cũng chấp tay thi lễ, mỉm cười nói, "Anh em tôi không phải là hạng người vô lễ, chỉ vì bình sinh không quen chịu khuất phục ai!"

Kế lại vỗ vào ngực nói, "Tại hạ là Kim Thừa Tín. Bọn bảy anh em tôi tức là "Quan Đông Thất điều phá lục tiên". Các hạ cứ đem bảy chữ ấy hỏi thăm trong đám giang hồ, sẽ biết chúng tôi là hạng người nào."

Ông già tóc bạc quay lại bảo ông già râu quai nón, "Danh tiếng hào hiệp của anh em họ Kim quả đã vang dậy xa gần, Ngũ đệ có lẽ lầm chăng?"

Đoạn ông ta lại bước tới gần Nhâm Vô Tâm chắp tay cười hỏi, "Xin các hạ cho biết đại danh."

Vô Tâm cười nói, "Tại hạ chỉ là một tên vô danh tiểu tốt trong giang hồ, tên tuổi tưởng không cần phải nói."

Ông già sầm nét mặt lại nói, "Các hạ tuy anh hoa không lộ ra ngoài nhưng vừa rồi một tay chống lại "Quan Đông Thất tiên", thân thủ đó che sao nổi mắt lão phu?"

Vô Tâm mỉm cười nói, "Các hạ lầm rồi!"

Ông già quắc mắt nói, "Không dám nói tên tuổi tất phải có gian ý! Lão phu nhất định phải yêu cầu các hạ giải thích cho minh bạch."

Vô Tâm chưa kịp trả lời, Tú Linh đứng sau lưng chàng thốt nhiên bước ra, cười nhạt nói, "Chống được "Quan Đông Thất tiên" cứ gì phải có thân thủ ghê gớm, có thân thủ ghê gớm cứ gì phải có danh tiếng lừng lẫy giang hồ, có danh tiếng lừng lẫy trong giang hồ, cũng cứ gì nhất định phải khai tên tuổi trước mặt các hạ! Còn phải giải thích gì nữa?"

Ông già nhướng cao lông mày, ánh mắt càng lạnh như thép, miệng vẫn mỉm cười nói, "Chú tiểu quản gia này miệng lưỡi sắc bén nhỉ?"

Tú Linh thản nhiên nói, "Đạo lý rành rành ra đấy, dù đứa trẻ lên ba cũng biết nói, và dù người đầu óc ngu tối đến đâu cũng phải nghe ra, cứ gì phải có miệng lưỡi sắc bén mới nói được!"

Nàng nói một thôi một hồi rồi cũng không thèm nhìn ai, chỉ quay lại nói với Vô Tâm, "Tướng công, ta đi đi thôi, nói chuyện với những người không cần giảng đạo lý, chỉ mất thì giờ và càng thêm tức mình!"

Vừa nói dứt lời, bọn "Quan Đông Thất tiên" đã đổ xô ra chắn ngang giữa lối, không cho nàng đi. Tú Linh nổi giận hỏi, "Các ngươi giữ ta làm gì? Còn muốn đánh nhau nữa chăng?"

Kim Thừa Tín cười nhạt, lạnh lùng đáp, "Đã hẳn!"

Tú Linh nhướng mày nói, "Muốn đánh nhau thì cứ việc ra tay đi! Tại hạ sẵn lòng lĩnh giáo!"

Ông già đầu bạc nói với Kim Thừa Tín, "Lần này các hạ khỏi cần phải ra tay, đã có anh em chúng tôi!"

Kim Thừa Tín lắc đầu nói, "Anh em tôi tới đây đã liều một chết, nếu không làm xong việc này, chúng tôi cũng không tính đến chuyện trở về Quan Đông nữa."

Hắn đã yên trí Nhâm Vô Tâm là người trong Nam Cung thế gia, lại thấy năm vị lão nhân hành tung quỉ bí, chỉ sợ có liên quan gì với Nam Cung thế gia nên không muốn nói rõ. Ông già râu quai nón sốt ruột, hét vang như sấm, "Việc gì mà ghê gớm thế?Tại sao các vị không dám nói thật? Hay là..."

Ông già đầu bạc xua tay ngăn không cho lão nói, chỉ bảo Kim Thừa Tín, "Chưa biết chừng anh em các hạ tới đây lại cùng chung một mục đích với chúng tôi cũng nên."

Kim Thừa Tín hỏi, "Các hạ thử nói trước xem có đúng không nào?"

Ông già đưa mắt nhìn quanh một lượt rồi thò tay vào mình lấy ra một cục than, viết lên lòng bàn tay hai chữ đoạn lại đưa cục than cho Kim Thừa Tín nói, "Các hạ đem mục đích của mình viết lên bàn tay, để chúng ta thử so xem."

Kim Thừa Tín cầm lấy cục than, ngần ngừ đưa mắt nhìn bọn anh em một lượt, như muốn thăm dò ý kiến. Sáu người kia tuy không ai nói gì nhưng đều gật đầu tỏ vẻ đồng ý.

Kim Thừa Tín cũng viết vào lòng bàn tay hai chữ, rồi bước tới trước mặt ông già đầu bạc nói, "Tôi viết xong rồi!"

Ông già cười nói, "Bây giờ chúng ta cùng mở tay ra xem."

Nói chưa dứt lời, hai nắm tay đều đồng thời xòe cả ra. Chỉ thấy một bàn tay trắng, một bàn tay đen, một bàn tay thô và một bàn tay thanh tú, mỗi bàn tay đều có hai chữ "Nam Cung". Ông già râu quai nón xem xong hai bàn tay, thốt nhiên biến sắc mặt quắc mắt nhìn Nhâm Vô Tâm.

Kim Thừa Tín cũng tái mặt nói, "Năm vị đến đây cũng là vì việc Nam Cung thế gia ư?"

Ông già tóc trắng gật đầu, trỏ Nhâm Vô Tâm hỏi, "Người kia có phải là..."

Kim Thừa Tín lớn tiếng đáp, "Hắn là môn hạ Nam Cung thế gia."

Ông già râu quai nón mắt trợn tròn xoe, râu dựng đứng lên như lông nhím, thét vang như sấm, "Tiểu tử giỏi thật! Vậy mà ta cứ ngỡ ngươi là người tử tế, dè đâu mi lại là môn hạ của Nam Cung thế gia?"

Nói chưa dứt lời, mười đầu ngón tay đã khum lại rồi cả cái thân hình cao lớn kèm theo một luồng kình phong, đón đầu Nhâm Vô Tâm xông tới. Nhâm Vô Tâm né mình tránh thoát hai thế, chợt nghe bên cạnh có tiếng nói, "Chà, thân pháp nhanh quá!"

Thì ra hai anh em ông già lùn đã từ hai phía đánh dồn tới. Lúc này trên miệng hai người đã tắt nụ cười, động tác nhanh như chớp đánh vào hai vai Nhâm Vô Tâm, bộ vị xuất thủ thật là kỳ lạ lanh lẹ. Giữa lúc đó, ông già râu quai nón xoay mạnh thân hình, nhấc cao một bàn chân quét ngang vào hai đầu gối Nhâm Vô Tâm.

Nhâm Vô Tâm cười nói, "À thì ra "Cái Bang Ngũ lão" cũng cậy đông lấn kẻ cô thế, chẳng khác gì những quân vô sỉ."

Chàng vừa cười vừa rụt vai lại, nhảy vụt lên không, hai chân hơi co về, đứng dưới trông lên giống như một con hạc đang nghiêng cánh bay lượn trên mây. Ông già râu quai nón gầm lên một tiếng, vừa toan nhảy theo chợt thấy ông già đầu bạc quát, "Khoan đã!"

Rồi nhảy đến trước mặt ông già râu quai nón, ngay lúc đó Nhâm Vô Tâm cũng vừa phơi phới rơi xuống đất, nhìn ông già đầu trọc vòng tay cười nói, "Các hạ thật là người mát tính, bên kia ồn ào như thế mà các hạ vẫn ngồi yên được!"

Ông già ngoác cái mồm cá ngão ra, cười ha hả nói, "Lão phu quả càng ngày càng lười thật!"

Vô Tâm lại hỏi, "Việc này chẳng lẽ các hạ không lý gì đến sao?"

Lão lại cười ha hả, "Bọn anh em lão còn mạnh hơn lão nhiều, việc gì phải cần lão nhúng vào. Lão Nhị hãy lại nói chuyện với vị công tử này đi, hỏi hắn tại sao hắn mới tí tuổi đầu đã biết rõ lai lịch của anh em ta? Và cũng hỏi xem hắn có phải là môn hạ Nam Cung thế gia thật không?"

Kim Thừa Tín nói to, "Việc gì còn phải hỏi? Tôi đã biết rõ hành tung của hắn rồi, hắn không còn chối vào đâu được nữa..."

Ông già tóc bạc xua tay ngắt lời, "Các hạ đừng vội võ đoán. Đại kha tôi không hay nói, mà đã nói thì tất không sai."

Nhâm Vô Tâm lại cười nói với ông già đầu trọc, "Các vị tiền bối trong giang hồ thường nói rằng, "Cái Bang Ngũ lão" duy có lão Đại là "không phong không mang". Nhưng bữa nay tại hạ xem ra thì bốn chữ "không phong không mang" phải đổi là "Không lộ phong mang" mới đúng!"

Chàng không biết rằng câu nói của chàng vẫn chưa được đúng hẳn, vì lão trọc đầu cũng không phải là không lộ phong mang, lão chỉ đem cái phong mang của lão cho bọn đàn em mượn, thế thôi.

Ông già đầu trọc miệng như hơi mỉm cười nói, "Thế mới lại kỳ nữa! Người còn ít tuổi như vậy mà sao lại biết lắm chuyện của những người già trong giang hồ thế? Nào lại đây! Lão Nhị tiếp chuyện hắn đi."

Ông ta cứ giục đi giục lại lão Nhị ra tiếp Nhâm Vô Tâm nghe thì hình như không có nghĩa lý gì, kỳ thực trong mấy câu ấy ông ta đã nêu lên cái vấn đề cốt yếu của câu chuyện.

Không ngờ Nhâm Vô Tâm hình như chỉ thích nói chuyện riêng với ông ta, nên không đợi ông già đầu bạc hỏi vẫn điềm nhiên nói với lão Đại, "Tại hạ không những am hiểu nhiều chuyện của các bậc tiền bối, mà cả những chuyện của vũ lâm đương thời tại hạ cũng rõ như nhìn vào bàn tay vậy."

Chàng nhìn khắp mọi người một lượt, rồi lại tiếp, "Ngay như chư vị tới đây có mục đích gì, các hạ không cần nói ra tại hạ cũng biết."

Ông già đầu trọc cười hỏi, "Các hạ cứ nói ta nghe thử, coi có đúng không?"

Nhâm Vô Tâm thủng thỉnh nói, "Mười chín năm về trước, thiếu chủ nhân đời thứ tư nhà Nam Cung thế gia bị giết chết. Vũ lâm thiên hạ họp đại hội ở Động Đình, Lãnh Diện Bạch Mi Truy phong tẩu Âu Dương Đình Âu Dương nhị hiệp trong ngũ lão, đang đêm sấn vào Động Đình cùng đại hiệp đương thời Động Đình là "Cửu sĩ ông" Ông Bình đấu luôn ba chưởng, gây nên cuộc huyết chiến trên Quân Sơn giữa hai bang "Động Đình" và "Cái Bang". Tam hiệp trong ngũ lão có hai anh em Bùi thị song phi kiếm và Triệu ngũ hiệp một mình cử nổi cái đỉnh ngàn cân, quần hào ở bang Động Đình tức giận, bèn thiết kế đốt Quân Sơn thiêu bọn Cái Bang ở Quân Sơn tuyệt bắc. May sao các hạ ở ngoài biên tái xa xôi ngàn dặm nghe biết tin ấy, bèn đi suốt ngày đêm trở về, dọc đường đổi ngựa tới mười lăm lần..."

Chàng thở một hơi rồi lại tiếp, "Khi các hạ về đến nơi thì hai bên đã đi đến chỗ lưỡng bại câu thương. Các hạ chỉ dùng hai ba câu là giải quyết xong cục diện nguy cấp đó, bắt "Động Đình đại hiệp" phải thân hành đem quần hào Động Đình tiễn bọn anh hùng Cái Bang ra quan ải. Nhưng Cái Bang Ngũ lão sau khi về bang, cũng lập tức qui ẩn rút lui ra khỏi giang hồ."

Chàng nói thao thao bất tuyệt một hồi, câu chuyện vũ lâm cách đây đã mười chín năm trời, mà chàng thuật lại rõ ràng trơn tru như chính mình là người trong cuộc. Cái Bang ngũ lão nghe xong sắc mặt đều lộ vẻ xúc động, mơ màng như đang thả hồn về dĩ vãng.

Chờ chàng nói xong, ông già đầu trọc mới lắc đầu cười, "Chuyện này có lẽ chính lão phu cũng không còn nhớ được rõ lắm."

Vô Tâm lại chắp tay cười nói, "Cái Bang Ngũ lão quả là những người biết giữ tín nghĩa, sau khi qui ẩn tuyệt không hỏi gì đến chuyện giang hồ, phen này bỗng dưng lại xuất hiện ở đây tất nhiên phải vì một vấn đề gì quan trọng có liên can đến sự sống chết, mất còn của Cái Bang."

Lão già đầu trọc mỉm cười hỏi, "Việc ấy là việc gì?"

Nhâm Vô Tâm nhấn mạnh từng tiếng, "Xà Thần Khang Tổ!"

Ông già trọc đầu chợt nghiêm sắc mặt hỏi, "Các hạ còn biết những gì nữa?"

Vô Tâm thủng thỉnh đáp, "Mười chín năm trước, Xà Thần Khang Tổ vì hành vi không đứng đắn nên bị sư đệ tiếp chưởng môn hộ Cái Bang. Vì việc đó mà lúc nào hắn cũng canh cánh bên lòng, mãi tới mười chín năm sau hắn mới báo thù."

Cái Bang ngũ lão thôi không cười cợt nữa, Quan Đông Thất tiên nghe câu chuyện bí mật của vũ lâm xong, sắc mặt cũng đều lộ vẻ xúc động. Vô Tâm lại nói tiếp, "Hồi năm ngoái Bang chủ Cái Bang thốt nhiên kêu là bị bệnh nặng, triệu hết mười lăm đại đệ tử về Tổng đàn, từ đấy trong giang hồ không còn ai trông thấy vị Bang chủ ấy đâu nữa. Người ta cho rằng ông ta còn đau chưa khỏi, kỳ thực..."

Chàng nói tới đấy chợt ngừng lại, đưa mắt nhìn Cái Bang Ngũ lão, thấy sắc mặt người nào cũng lộ vẻ trầm trọng, tập trung hết tinh thần nghe chàng nói. Kim Thừa Tín sốt ruột hỏi, "Kỳ thực làm sao?"

Vô Tâm thở dài đáp, "Kỳ thực ông ta chết đã lâu rồi!"

Quan Đông Thất tiên đều rùng mình, buột miệng kêu lên một tiếng. Bang chủ cái Bang từ trần đó là một tin cực kỳ trọng đại, vậy mà trong giang hồ tuyệt không một ai biết, làm gì mà bọn họ không khỏi kinh ngạc? Ông già râu quai nón thốt nhiên sầm mặt quát to, "Đó là việc bí mật của bản bang, ngươi làm sao mà biết?"

Vô Tâm nói, "Trước khi tổng đàn Cái Bang chưa ra lệnh triệu hồi mười lăm đại đệ tử, Lăng bang chủ đã chết về tay Xà Thần Khang Tổ. Vì thế Tổng đàn mới phái người đi gấp ngày đêm triệu mười lăm đại đệ tử về để lo việc hậu sự. Sau khi đã bàn luận kỹ càng, mới quyết định bắt hung thủ là Khang Tổ về Tổng đàn để thi hành môn quy. Nhưng trước khi chưa bắt được hung thủ, cũng giấu không tuyên bố cái tin Lăng bang chủ từ trần cho thiên hạ biết vội."

Chàng ngừng một lát rồi lại tiếp, "Nhưng từ đó không ai biết tung tích Khang Tổ đâu nữa, đệ tử cái Bang tuy đã rải tai mắt khắp thiên hạ mà trong một thời gian vẫn không sao tìm thấy hắn. Mười lăm đệ tử đều phải bó tay không còn cách gì hơn nữa, đang đêm đành phải tìm lên động Thanh âm nham Hàn giản trên "Thiên mục tuyệt đỉnh" báo cáo với Cái Bang Ngũ lão và năn nỉ Ngũ lão hạ sơn. Vì thế nên giang hồ lúc này mới lại được thấy hiệp tung Cái Bang ngũ lão."

Ông già râu quai nón mắt trợn tròn xoe, kêu rầm lên, "Quái thật! Quái thật! Ngươi đứng đâu mà trông thấy?"

Ông già tóc bạc chính là Lãnh Diện Bạch mi Truy Phong Tẩu Âu Dương Đình sắc mặt trầm trọng, sẵng giọng nói, "Ngũ đệ đừng ngắt lời, cứ để hắn nói nốt."

Vô Tâm nói tiếp, "Khốn nỗi Cái Bang Ngũ lão vũ công tuy cao nhưng lại không có tài tiên tri, tuy chịu hạ sơn về Tổng đàn Cái Bang nhưng chưa điều tra được tin tức của Khang Tổ. Lúc này nếu không nhờ có Bạch Đại tiên sinh và Âu Dương nhị hiệp đứng trong ngầm giữ trọng trách điều khiển, thì mấy ngàn đệ tử Cái Bang chắc đã hóa thành cục thế rồng không đầu, mà Tổng đàn cái Bang trước sau vẫn không dám tuyên bố về cái chết của Bang chủ, vì sợ làm chấn động giang hồ lại còn sợ làm cho lòng quân ly tán..."

Ông già râu quai nón kinh sợ nghĩ thầm, "Không hiểu sao hắn còn biết cả tới ruột gan của đại kha ta nữa?"

Vô Tâm vẫn tiếp tục kể, "Mãi tới trước đây hơn một tháng, Tổng đàn Cái Bang mới đột nhiên nhận được một tin kinh hồn, đó là tin Xà Thần Khang Tổ đã đầu thân vào Nam Cung thế gia, làm một chân trong "Thất thập nhị địa sát". Cái Bang Ngũ lão kinh sợ một mặt đưa thư sang Động Đình giải thích cái cớ phải phá lời thề lại xuất hiện giang hồ, một mặt thu xếp hành lý lập tức lên đường truy nã hung thủ. Đó là nguyên nhân xui khiến các vị tới đây bữa nay, tại hạ mạo muội trình bày không biết có đúng sự thực không?"

Hai ông già béo lùn chính là anh em Đinh thị đưa mắt nhìn ông già đầu trọc là Bạch Đại tiên sinh. Bạch Đại tiên sinh lại đưa mắt nhìn Âu Dương Đình.

Âu Dương Đình cau mày nói, "Tại sao nhà ngươi lại biết rõ ràng như vậy?"

Vô Tâm cười nói, "Tại hạ không những chỉ biết việc ấy mà còn biết rằng "Phá vân thất tiên" sở dĩ đến đây hôm nay vì cớ Đường Thông, một người bạn thế giao của các vị bị Nam Cung thế gia hãm hại mà Đường lão thái đã đem tin tức truyền tới Quan Đông. Nếu không thì sao tự nhiên các vị lại bỏ cả ba trăm mẫu đất chăn nuôi mục súc, lần mò vào Quan Nội làm gì?"

Quan Đông thất tiên lại càng kinh ngạc, Kim Thừa Tín vội hỏi, "Việc đó tại sao các hạ biết?"

Vô Tâm thủng thỉnh đáp, "Các vị đừng hỏi tại sao tại hạ lại biết vội, các vị chỉ cần trả lời là tại hạ nói thế có đúng không?"

Âu Dương Đình cau mày hỏi, "Đúng thì làm sao? Mà không đúng thì làm sao?"

Vô Tâm cười nói, "Nếu như các vị nhận thấy là tại hạ nói đúng, thì xin các vị nghe tại hạ khuyên một câu."

Âu Dương Đình hỏi, "Câu gì, các hạ cứ thử nói cho chúng ta nghe thử."

Ông nói bằng một giọng dè dặt, ôn tồn không ra nhận lời mà cũng không ra không. Vô Tâm nghĩ thầm, "Ông già này lợi hại thật!" bất giác chàng cũng phải đắn đo một lúc rồi mới chậm rãi lên tiếng, "Tại hạ chỉ khuyên các vị không nên khinh cử vọng động, và nhất là đừng có cứ thế này vào thẳng nhà Nam Cung thế gia sinh sự."

Hồi thứ ba mươi mốt

Cao thủ giao đấu

Mọi người đều lẳng lặng chờ nghe Âu Dương Đình trả lời vì "Phá Vân Thất Tiên" đã nhận thấy "Lãnh diện bạch mi Truy phong tẩu" là người cơ trí thông minh, chủ ý của ông ta tất không đến nỗi lầm lẫn. Âu Dương Đình trầm ngâm một lát rồi thủng thỉnh nói, "Các hạ nói thế tất không phải là không có nguyên cớ, nhưng các hạ có thể giải thích rõ ràng hơn được không?"

Vô Tâm nói, "Tiềm lực của Nam Cung thế gia lớn lắm, rất có thể cách xa với ý liệu của các vị nhiều. Nếu các vị không đắn đo cẩn thận mà cứ làm bừa đi, tôi e rằng đả thảo kinh xà không những vô ích mà còn ảnh hưởng tới đại cuộc nữa."

Âu Dương Đình đôi mắt chợt sáng hẳn lên, hỏi, "Đại cuộc gì?"

Vô Tâm dằn mạnh từng tiếng, "Chủ trì chính nghĩa vũ lâm, giải cứu đồng đạo bị hại, phá âm mưu của Nam Cung thế gia, báo thù cho những anh hùng hào kiệt bị chết oan, như thế không phải là đại cuộc ư?"

 Dương Đình lại hỏi, "Thế nào mới không phải là khinh cử vọng động?"

Vô Tâm nói luôn, "Các vị cần phải kín đáo đợi thời cơ, khi nào thấy có người nông nổi muốn vọng động thì ta phải hết sức ngăn cản."

Âu Dương Đình hỏi, "Bao giờ tới thời cơ?"

Vô Tâm nói, "Khi nào thời cơ đến, tại hạ sẽ lập tức thông báo tới các vị."

Âu Dương Đình ngẫm nghĩ giây lâu rồi mới ngẩng lên nói với Bạch Đại tiên sinh, "Việc này xin tùy đại kha quyết định."

Bạch Đại tiên sinh cũng cau lông mày trầm ngâm một lát rồi nói, "Vị tướng công này nói cũng có lý..."

Ông vừa nói đến đấy, chợt nghe ông già râu quai nón kêu to, "Mặc dù hắn nói có lý hay vô lý, anh em ta không thể hoàn toàn tin lời một người hành tung quỉ bí, lai lịch mờ ám mà quyết định đại sự được!"

Kim Thừa Tín cũng nói, "Câu nói của lão tiền bối cũng trúng tâm lý tại hạ. Bảy anh em tôi hoàn toàn đồng ý với tiền bối."

Âu Dương Đình trên môi thoáng nở một nụ cười, rõ ràng là ông ta cũng tán thành ý kiến ấy. Bạch Đại tiên sinh nhướng cao lông mày, nói với Vô Tâm, "Các hạ đã nghe rõ chưa? Dù các hạ có tài biện luận đến đâu, cũng khó lòng làm cho chúng tôi tâm phục."

Vô Tâm mỉm cười nói, "Nếu thế tất các vị muốn bắt tại hạ phải nói ra mấy chuyện kinh hồn?"

Bạch Đại tiên sinh nói, "Hãy chờ xem câu chuyện của các hạ kinh hồn đến bực nào đã!"

Vô Tâm ngửa mặt lên trời cười ha hả nói, "Cái Bang ngũ lão xưa nay ngang dọc giang hồ, những chuyện kinh hồn tất nhiên trông thấy cũng nhiều. Tại hạ dẫu có nói đến rách lưỡi, cũng vị tất đã làm cho các vị hồi tâm chuyển ý. Nhưng nếu các vị cứ nhất quyết muốn đi, thì tối thiểu vũ công cũng phải thắng tại hạ, mới đủ tư cách..."

Chàng đưa mắt nhìn khắp mọi người một lượt, rồi lại tiếp, "Vì nếu không thế chẳng khác xua dê vào miệng cọp, chỉ có đi mà không có về..."

Ông già râu quai nón nổi giận đùng đùng quát, "Được rồi, để lão phu thử đấu với ngươi mấy hiệp, xem vũ công của ngươi cao đến bậc nào mà dám huênh hoang khoác lác!"

Vô Tâm lạnh lùng nói, "Các hạ đừng trách tại hạ ăn nói lỗ mãng, chớ vũ công của các hạ dẫu đấu với tên thư đồng của tại hạ đây, cũng còn kém một bực."

Ông già râu quai nón tức là Triệu Liệt Bân tóc râu dựng ngược, hét vang như sấm, "Hừ, mẹ kiếp! Lão phu chỉ cần dùng ba chiêu là đủ bắt nó ngã sang Đông, nó quyết không dám trái lệnh ngã sang Tây cho mà coi!"

Nhâm Vô Tâm biết cục diện hôm nay nếu không lấy vũ công trấn áp bọn họ, thì khó lòng mà bắt buộc họ phải theo ý mình, nên mới cố khiêu khích làm cho lão Triệu phải giận sôi sùng sục.

Lúc này chàng lại cười nhạt nói, "Đừng nói ba chiêu, cứ đấu đủ ba trăm chiêu, nếu các hạ thắng được hắn, tại hạ xin cúi đầu nhận tội."

Triệu Liệt Bân giận lắm, day tay mắm miệng, nhấp nhỏm chỉ định xông ra. Vô Tâm xua tay nói, "Khoan đã!"

Rồi chàng đưa mắt nhìn khắp mọi người hỏi, "Vị nào có nhã hứng, muốn đấu với tại hạ?"

Bạch Đại tiên sinh thủng thỉnh đứng lên nói, "Nhị đệ, lần này ta phải tự ra tay mới được."

Âu Dương Đình khom lưng đáp, "Đại kha nên cẩn thận!"

Bạch Đại tiên sinh xốc lại cổ áo, ngưng thần tĩnh khí bước tới trước mặt Nhâm Vô Tâm. Triệu Liệt Bân kêu to, "Để tiểu đệ giáo huấn tên này, rồi đại kha sẽ động thủ!"

Vừa nói lão vừa nhảy vọt tới trước mặt Tú Linh, xuất chiêu cực kỳ lăng lệ, quả nhiên thế như bạt núi băng ngàn. Tú Linh vẫn đứng yên, chờ cho đối phương đánh tới mới nhẹ nhàng xoay mình tránh thoát, miệng vẫn mỉm cười hỏi, "Ngươi có muốn ta nhường trước ba chiêu không?"

Vừa nói dứt lời, chợt nghe Nhâm Vô Tâm dùng thuật "Truyền âm nhập mật" nói vào tai, "Người này có thần lực, nội ngoại công phu đã đạt tới bực lô hỏa thuần thanh, cô nương chớ coi thường, ta chỉ nên dùng thân pháp linh xảo mà trốn tránh, cốt làm tiêu hao chân lực của hắn, chọc cho hắn tức giận điên cuồng, nếu qua được ba trăm chiêu thì tức là mình thắng."

Tú Linh nhìn chàng bằng cặp mắt long lanh, miệng cười tủm tỉm, tỏ ý là mình đã hiểu lời chàng nói. Chỉ trong nháy mắt Triệu Liệt Bân đã tấn công được hai chục chiêu, khí thế hung mãnh như mưa gầm gió thét, mới trông thì tưởng là không có lề lối gì cả, kỳ thực thì mỗi chiêu mỗi thức đều tinh diệu tuyệt vời bao gồm cả thô hào và tế nhị.

Tú Linh nhớ lời Vô Tâm dặn quả nhiên chỉ dùng thân pháp nhẹ nhàng, chập chờn lẩn tránh trong màn chưởng ảnh của đối phương. Thỉnh thoảng cũng có đánh ra một chiêu nhưng chỉ đánh đến nửa chừng lại thu về, bộ vị xuất chiêu của nàng rất kỳ lạ, ít thấy ở trong vũ lâm.

Chiêu thức của Triệu Liệt Bân khác nào như nước sông Trường Giang cuồn cuộn chảy xuống không ngừng. Nhưng Điền Tú Linh thân hình khéo léo, chẳng khác gì con cá "lư" bơi ngược dòng sông, dẫu dồn hết nước sông cũng không ngăn cản nổi.

Bọn Cái Bang đứng ngoài xem, sắc mặt đều lộ vẻ âm trầm, bốn mặt chỉ nghe thấy tiếng quyền phong vù vù, áo quần phấp phới, lừa kêu dậy đất, ngựa hí vang trời, không khí đấu trường mười phần nghiêm trọng.

Bạch Đại tiên sinh đang lắng hết tinh thần theo dõi trận đấu, chợt nghe Âu Dương Đình dùng thuật "Truyền âm nhập mật" nói, "Không ngờ một tên thư đồng oắt tì mà công phu đã cao thâm tới bực ấy? Anh chàng công tử kia xem chừng cũng không phải tay vừa. Lát nữa đại kha đấu với hắn cũng nên lưu ý."

Bạch Đại tiên sinh gật đầu. Bùi lão tam chợt nói, "Tên thư đồng chiêu thức quả có mới lạ quỉ bí nhưng có vẻ hơi yếu, giống như con gái. Nếu vị công tử kia lát nữa cũng dùng những chiêu thức đó, đại kha chỉ nên dùng những chiêu hùng hồn trầm ổn mà đối địch, lấy chậm chế nhanh, lấy cương khắc nhu tất phải thắng."

Bạch Đại tiên sinh cũng gật đầu nhưng không nói gì cả.

Trong lúc ấy Điền Tú Linh với lão Triệu càng đấu càng mãnh liệt, trải qua một thời gian gắng sức mà chiêu thức của Triệu Liệt Bân vẫn không hề giảm sút, lực lượng chân khí tiềm tàng trong nội thể của ông ta giống như nước nguồn, nguyên nguyên bất tuyệt, dùng không cạn, lấy không hết.

Tú Linh nghĩ thầm, "Ông già này nội lực thật kinh hồn, coi chừng ông ta có thể đấu một ngày một đêm nữa cũng được. Nội lực của ta không đủ, làm sao mà chống cự lại được? Chi bằng ta dùng chiêu thức quỉ bí, cố thắng lấy một chiêu xem sao?"

Nàng nghĩ tới đấy bất giác quên phứt cả lời dặn của Nhâm Vô Tâm. Giữa lúc đó lại thấy Triệu Liệt Bân cong năm ngón tay lên như cái thùng, dùng chiêu "Xích thủ bát long" chĩa ra túm lấy vai bên trái và sườn bên phải của Tú Linh.

Chiêu thức của ông ta vốn dĩ vẫn uy mãnh cương liệt, lần này lại thấy đối phương từ lúc đánh đến giờ chưa tùng hồi thủ lần nào, lại càng không cần gìn giữ, bèn vươn hai tay đánh ra hai nơi, thành thử trước ngực bỏ trống.

Tú Linh không hề do dự lập tức xoay mình lại đánh ra một chưởng, xuyên qua chi phong của Triệu Liệt Bân, tay trái cong lại đánh vào uyển mạch của lão. Triệu Liệt Bân quát to một tiếng, hai bàn tay cùng khép lại giữ không môn, bắt tay địch, biến chiêu nhanh như điện chớp.

Tú Linh mừng thầm nghĩ bụng, "Chính ta chỉ cần có thế". Nàng vừa nghĩ xong, lập tức cũng biến chiêu, tới khi chiêu của Triệu Liệt Bân dùng đã hết đà, nàng mới thốt nhiên hạ tay phải xuống vạch chéo một nhát theo hình nửa vầng trăng, điểm thật nhanh vào đại huyệt "Khúc trì" ở hai khuỷu tay của Triệu Liệt Bân, tay trái vung lên nghiêng bàn tay chặn đường tháo lui của đối thủ.

Một chiêu ấy gồm cả công lẫn thủ, bề ngoài trông tuy không có gì là đặc biệt, kỳ thực thì kỳ quỉ vô cùng, dù chưởng chiêu của Triệu Liệt Bân biến hóa thế nào cũng khó lòng tránh thoát được chiêu "Thiên la địa võng" ấy.

Chỉ thấy Triệu Liệt Bân buông thõng hai tay xuống, ép sát vào thắt lưng và hai bên đùi. Tú Linh thấy đối phương tuy tránh được chiêu ấy, nhưng toàn thân từ trên xuống dưới sơ hở rất nhiều, trong bụng càng mừng nghĩ thầm, "Biến chiêu cái kiểu ấy, chỉ tổ mua lấy cái chết". Hai tay lập tức đưa lên định hạ sát thủ.

Không ngờ trong khoảng thời gian nháy mắt đó, Triệu Liệt Bân thốt nhiên đứng thẳng người như cây gỗ, ngã về phía sau hai chân thừa thế đá liên tiếp luôn bảy cái. Đại phàm công phu "Thiết bản kiều" toàn nhờ ở sự vững chắc, hai chân phải như đóng đinh xuống đất, thân hình mới không bị đổ. Không ngờ trong trường hợp ấy, Triệu Liệt Bân vẫn còn có thể giơ chân đá địch thủ được.

Tú Linh đã cầm chắc phần thắng nên sơ ý không đề phòng, lúc này trong bụng kinh sợ, chân tay luống cuống, đành phải nhảy lùi lại mấy bước. Không dè Triệu Liệt Bân trong khi đá liên hoàn luôn bảy đá, thân hình đã từ từ đứng dậy, đá tới cái thứ năm thì hai cánh tay đặt sát hai bên đùi lúc nãy, thốt nhiên vung lên phối hợp với công thế của đôi chân, chia ra đánh vào đầu bên trái và sườn bên phải của Tú Linh.

Chỉ trong thoáng chốc, một chiêu ông ta đã biến đổi tới bốn thức, đánh vào năm nơi trên, giữa, dưới, bên trái, bên phải của địch thủ. Tú Linh sợ quá liệu khó lòng tránh thoát, trong bụng chợt nảy ý ác, định thi triển một chiêu cực kỳ lang độc quyết cùng đối phương đồng quy ư tận. Nhưng vì nàng dùng sức còn kém đối phương xa, nên phần thua đã nắm chắc.

Giữa lúc Nhâm Vô Tâm vừa biến sắc mặt định xông vào, thì Bạch Đại tiên sinh đã nhanh như một mũi tên lao vụt tới, miệng thì quát, "Dừng lại!"

Hai tay đã dang ra ngăn giữa Triệu Liệt Bân và Điền Tú Linh. Tú Linh thừa dịp bước lùi lại phía sau, Triệu Liệt Bân cũng bị Bạch Đại tiên sinh đẩy ra khỏi vòng chiến. Ta nên biết ông ta đã giao du với Triệu Liệt Bân mấy chục năm trời, cùng tập vũ công một nhà, nên chiêu thức gia số của Triệu Liệt Bân thế nào, ông đã biết rõ lắm nên vừa ra tay giải ngay được nguy cơ, nếu là người khác dù vũ công có cao hơn ông ta, cũng không thể chỉ trong nháy mắt đã gỡ ngay được chiêu thức của hai người đang quyết liều một sống một chết.

Triệu Liệt Bân quát to một tiếng, lảo đảo lùi lại mấy bước mới đứng vững thân hình, miệng còn nghiến ngẫm, "Đại kha kỳ quá, tiểu đệ rõ ràng đã thắng đến nơi rồi, sao đại kha lại xuất thủ bang trợ địch nhân?"

Bạch Đại tiên sinh mỉm cười nói, "Trong vòng ba trăm chiêu, nếu tiểu đệ không thắng nổi người ta thì kể như là thua rồi!"

Triệu Liệt Bân ngẩn người hỏi, "Không lẽ đã quá ba trăm chiêu rồi cơ à?"

Bạch Đại tiên sinh thủng thỉnh đáp, "Khi hiền đệ đá tới cái thứ tư thì đã được ba trăm linh một chiêu rồi."

Vô Tâm bất giác khâm phục vô cùng, tự nghĩ, "Bạch Đại tiên sinh quả là một bậc nhân kiệt, xử sự không những đã chính trực vô tư mà nhỡn quang cũng minh mẫn hiếm có, đáng kính đáng phục!"

Triệu Liệt Bân chớp chớp đôi mắt cười một cách gượng gạo, "Ba trăm chiêu, trời sao mà chóng quá vậy? Tiểu đệ cứ yên trí là mới có mấy chục chiêu thôi chứ!"

Bạch Đại tiên sinh cười nói, "Tại hiền đệ chuyên chú vào chiêu thức đối địch quá nên mới quên hết mọi sự. Nhưng đối phương mới một tí tuổi đầu đã làm cho hiền đệ phải chú hết tinh thần chống chọi, vẫn không thắng nổi, nội một điểm đó cũng đủ thấy hiền đệ thua rồi, dẫu có hạ độc thủ để cần lấy thắng cũng chẳng vẻ vang gì!"

Triệu Liệt Bân đỏ mặt tía tai cúi đầu lẳng lặng, xem chừng trong bụng ông ta lấy làm khó chịu lắm. Tú Linh lại cảm thấy bất nhẫn, thỏ thẻ nói, "Thực ra thì vũ công của Triệu đại hiệp còn cao hơn tôi nhiều lắm, tôi đâu có..."

Vô Tâm cười ha hả ngắt lời, "Ngươi biết thế thì tốt lắm, nếu lúc đầu ngươi dám trả đòn ngay thì chỉ trong vòng ba chục chiêu đã thua rồi!"

Triệu Liệt Bân ngẩng lên trông chàng bằng một đôi mắt chứa chan cảm kích, chợt vùng cười ha hả, "Rõ ràng là lão phu thua rồi, công tử hà tất còn phải thếp vàng vào mặt lão nữa! Từ nhỏ đến giờ lão đánh nhau có cả trăm ngàn trận, thua có được có, việc gì phải bận tâm?"

Vô Tâm cũng thầm phục ông ta là người sảng khoái, chợt lại nghe Bạch Đại tiên sinh mỉm cười nói, "Quí quản gia đã cao minh như vậy, công tử vũ công tất phải kinh người? Xin cho lão phu thỉnh giáo mấy chiêu tuyệt kỹ."

Vô Tâm cũng mỉm cười bước lên mấy bước, Bạch Đại tiên sinh nói, "Lão phu hơn tuổi, xin nhường công tử xuất thủ trước!"

Vô Tâm nói, "Nếu vậy tại hạ xin thất lễ!"

Rồi chàng bước ngang ra ba bước, đặt tay trước ngực ngưng thần đợi địch. Hai người đối diện nhìn nhau một lúc, chưa ai chịu ra tay trước. Lúc này mọi người đều đã đứng lùi ra xa hơn một trượng, quây thành vòng tròn, nín thở chờ hai cao thủ lâm trận. Không khí thật trầm trọng, trong ngoài im phăng phắc, thậm chí nghe rõ cả hơi thở của từng người.

Chợt nghe "vút" một tiếng, thì ra Bạch Đại tiên sinh thân hình đã bay xa bảy bước, ngón tay trái nhè nhẹ búng một luồng chỉ phong vun vút xé luồng không khí bay ra.

Chiêu "Đàn chỉ thần thông" nguyên là một chiêu dùng để dụ địch, tuy không hại được đối phương nhưng có thể nhử cho đối phương hốt hoảng đón đỡ, mình sẽ thừa thế phản kích. Đó chính là cái lối người đi săn ném đá cho chim sợ bay ra khỏi rừng, để dễ giương cung bắn. Bạch Đại tiên sinh quả xứng đáng là tuyệt đại cao thủ, kinh nghiệm giang hồ thật lão luyện.

Không ngờ Vô Tâm tuổi tuy còn nhỏ nhưng tâm cơ trầm ổn, lúc lâm địch vẫn ung dung đối phó, không hề hấp tấp luống cuống, khi thấy chỉ phong đưa tới chàng vẫn đứng yên không tránh, mục quang vẫn chiếu thẳng vào Bạch Đại tiên sinh.

Chỉ nghe vèo một tiếng chỉ phong đã tan biến vào không khí, hai người lại đối diện nhìn nhau. Giây lâu, cả hai mới dần dần nhúc nhích bước đi, họ đều cố tình di chuyển thân hình làm mê hoặc nhỡn quang của đối phương, rồi mới dùng định lực trầm ổn của mình, bức đối phương phải phân tán tinh thần, chờ đối phương phân tán tinh thần sau đó mới dùng chiêu thức lăng lệ ào ạt tấn công , làm cho đối phương trở tay không kịp vì thế hai người cùng co hai cánh tay lại, lấy bàn tay hộ trụ thân thể, con mắt không dám rời nhau khoảnh khắc.

Giữa bầu không khí căng thẳng đến tột độ đó, không ai để ý đến mấy cái bóng đỏ vừa hiện ra trên nền tuyết trắng ở cách đấy một quãng xa xa. Thời gian qua một lúc khá lâu, tâm thần mỗi người càng lúc càng trở nên trầm trọng. Cũng trong khi ấy, những cái bóng đỏ đã tiến lại gần chỉ còn cách chừng vài trượng. Thì ra đó là bốn vị Lạt ma áo đỏ.

Bốn vị cao tăng đưa cặp mắt sắc như dao nhìn khắp mọi người một lượt, nét mặt đều lộ vẻ kinh ngạc, đứng dừng cả lại xem. Chợt nghe Nhâm Vô Tâm quát sẽ một tiếng, thân hình vụt nhảy lên không.

Mọi người đều ngẩng đầu nhìn theo chỉ thấy tà áo chàng tung bay phấp phới, đứng dưới trông lên không nhận rõ bộ vị chưởng thế của chàng ở đâu nữa. Bạch Đại tiên sinh cũng hơi biến sắc mặt, thân hình bay vèo đi như một đám mây, cuốn ra khỏi vị trí. Vô Tâm nhảy lên cao tới ba trượng, chợt lộn người lại hai tay dang ra, nhằm đầu Bạch Đại tiên sinh nhảy xuống.

Thân hình của chàng cực kỳ mềm mại nhẹ nhàng, không khác gì một con rồng đang uốn khúc nhào lộn trên không, quả thật vô cùng đẹp mắt. Bọn Cái Bang tứ lão đều đưa mắt nhìn nhau vừa kính phục, vừa lo lắng.

Bọn Quan Đông thất tiên trố mắt ra nhìn, xương sống lạnh toát. Điền Tú Linh quả tim cũng đập thình thình, vì lần này là lần thứ nhất mới được trông thấy Nhâm Vô Tâm thi triển thân pháp kinh hồn như vậy. Ngay cả bốn vị Lạt ma hồng y đứng ngoài xem cũng cảm thấy kinh dị, không ngờ vũ lâm quan nội lại có những cao thủ tuyệt vời như thế.

Chỉ trong nháy mắt đã thấy Vô Tâm lăng không đưa hai chưởng ra, mới trông thì tưởng là "Thất cầm thần chưởng" của Bắc Thiên sơn, nhưng nhìn kỹ thì chiêu thức còn cao hơn chưởng pháp Thiên sơn nhiều. Bạch Đại tiên sinh càng đánh càng nhanh, thốt nhiên vung mạnh hai tay, thân hình đã nhẩy lên khỏi mặt đất.

Tình hình lúc đó viết ra thì tỉ mỉ dài dòng, kỳ thực sự việc xảy ra chỉ trong chớp mắt. Trong lúc hai người một lên một xuống gặp nhau giữa lưng chừng trong một thời gian chớp nhoáng, người ta chỉ nghe thấy tiếng chưởng liên tiếp đánh ra vù vù.

Người không tinh ý tưởng là chỉ có một chưởng, thực ra trong cái chớp nhoáng đó, hai người đã trao đổi với nhau tới mấy chưởng. Mọi người ngẩng đầu trông theo thẩy đều giật mình biến sắc, nhưng ngay lúc đó hai bóng người đã dời ra hai ngả.

Nhâm Vô Tâm áo quần phấp phới lộn đi một vòng, rồi nhẹ nhàng rơi xuống đứng vào chỗ cũ. Bạch Đại tiên sinh thì bay ra tới hơn một trượng rồi mới rơi xuống, sắc mặt tươi tỉnh vừa rồi phút chốc đã biến thành u uất, ngực cũng phập phồng thở mạnh. Bọn người đứng xem toàn là hạng cao thủ, nên đã nhận ra Bạch Đại tiên sinh chân lực đã bị thương nhẹ đang phải vận khí điều tức.

Nhâm Vô Tâm cũng không thừa thế truy kích, đủ hiểu là chàng vẫn có ý nhường. Âu Dương Đình mắt sáng như điện đã thấy rõ tình hình, trong bụng ông ta tuy cũng cảm kích Vô Tâm là người có độ lượng, nhưng vì thanh danh Cái Bang ngũ lão mấy chục năm trời nên không muốn cho Bạch Đại tiên sinh nhận thua ngay, chỉ lẳng lặng đứng im.

Bạch Đại tiên sinh vừa điều tức xong, chợt lại xông vào tay trái dùng quyền, tay phải dùng chưởng đánh thẳng vào ngực và bụng Vô Tâm. Ông ta không nỡ phụ lòng mong mỏi của Âu Dương Đình, trong bụng tuy biết là vừa rồi mình đã bị thua nên lòng tranh thắng cũng bị sự xấu hổ làm nhụt bớt, vì vậy trong khi ra tay cũng không dè dặt quá như trước nữa.

Không ngờ trong bụng đã không lưu ý đến sự được thua, thì chiêu thức cũng trở nên linh lợi nhẹ nhàng, chỉ trong nháy mắt ông ta đã tấn công được bảy chiêu. Vô Tâm đã nắm chắc phần thắng, nhưng lúc này cũng không dám sơ hốt, trước hết lấy thế cho vững ung dung đón đỡ, chiêu thức thật là kín đáo không còn sơ hở nào.

Âu Dương Đình thấy chàng thủ thế nghiêm mật như vậy, bất giác cũng phải khen thầm. Thoắt chàng đã hồi thủ được ba chiêu, từ thủ biến ra công chiêu thức biến hóa, chỉ hay ở chỗ tự nhiên, không một vẻ gì là gượng ép. Đấu hết mười chiêu, Bạch Đại tiên sinh và Âu Dương Đình đều nhận ra rằng vũ công chiêu thức của chàng khác hẳn tên thư đồng lúc nãy.

Càng làm cho người ta kinh sợ hơn nữa là chiêu thức của chàng tuy đã tới tuyệt đỉnh của bốn chữ "lăng lệ, tấn tốc", nhưng mỗi khi phóng chưởng hình như chàng vẫn chưa dùng hết sức, không ai hiểu trong mình chàng thiếu niên còn ẩn tàng bao nhiêu tiềm lực?

Đàn ngựa đứng trên mặt tuyết vì bị rét cóng, kêu không thành tiếng lúc này cũng bị kinh hoảng bởi hai đấu thủ thân hình bay qua lộn lại, chưởng phong chưởng ảnh vù vù nhấp nhoáng, bèn nhẩy loạn cả lên, chân gõ xuống đất cồm cộp, làm cho tuyết dưới đất bắn lên như mưa.

Trong lúc đàn ngựa lừa nhốn nháo kinh hoàng như thế, thì bọn người đứng xem trái lại, người nào cũng đứng ngây như pho tượng đá, bao nhiêu tinh thần đều đổ dồn cả vào chiến trường. Bên ngoài xảy ra sự gì họ cũng không biết, thậm chí đến bốn vị Lạt ma áo đỏ chỉ đứng cách họ có hơn một trượng, mà cũng không một người nào chú ý.

Vô Tâm và Bạch Đại tiên sinh chiêu thức đều cực kỳ thần tốc, chỉ trong khoảnh khắc đã đấu được mấy trăm chiêu. Tấm áo dài màu da đồng của Bạch Đại tiên sinh lúc này đã ướt đẫm mồ hôi dính sát vào lưng. Nhâm Vô Tâm thì sắc mặt vẫn giữ vẻ ung dung bình tĩnh. Tú Linh trông theo thân hình tiêu sái của chàng, bất giác trên môi cũng nở nụ cười tán thưởng.

Bọn "Phá Vân Thất Tiên" sắc mặt đều lộ vẻ kinh ngạc, họ đã từng nghe thanh danh "Cái Bang ngũ lão" từ lâu, mà ai có ngờ đâu một cao thủ danh tiếng lừng lẫy giang hồ như Bạch Đại tiên sinh mà lại bị thua bởi một kẻ thiếu niên vô danh tiểu tốt như Nhâm Vô Tâm.

Tú Linh ngẩng đầu nhìn bọn Cái Bang tứ lão còn lại, thấy sắc mặt bốn người đều tỏ vẻ nóng lòng sốt ruột, bất giác than thầm, "Mấy vị tiền bối trong Cái Bang ngũ lão thật đáng kính đáng phục, nếu phải là người khác thì khi thấy đại kha sắp bị thua đến nơi, tất phải xông vào đánh hôi để gỡ thể diện, nhưng đằng này họ chỉ đứng ngoài bực tức ngấm ngầm thôi, đủ hiểu họ là hạng người thế nào?"

Hồi thứ ba mươi hai

Biện luận thắng bại

Chợt thấy Triệu Liệt Bân mở banh vạt áo trước ngực ra, kêu rầm lên, "Đại kha!"

Tiếng thét vang như sấm làm cho mọi người đều giật mình, đàn ngựa cũng hoảng hốt đứng dừng cả lại ngơ ngác. Triệu Liệt Bân nghiến răng xé nát vạt áo ra từng mảnh, hình như ông ta cốt làm thế cho hả giận, miệng thì rít lên, "Đại kha.... rõ ràng đại kha sắp thua rồi, còn cố gắng gượng chống đỡ làm gì nữa?"

Âu Dương Đình và anh em Bùi thị đều cúi gầm mặt xuống, không ai dám nhìn vào mặt ông ta. Giữa lúc ấy, Nhâm Vô Tâm chợt tà tà bay lên, áo quần phơi phới rồi như một cánh chim hồng, đậu xuống cách đấy chừng ba trượng.

Bạch Đại tiên sinh dùng một chiêu "Vân long thám chảo" vừa đánh tới nửa chừng lại lập tức thu chưởng thế lại, năm ngón tay cong cong với lên trên không, thân hình đứng thẳng như cây gỗ, ý chừng ông ta muốn với lấy cái thanh danh chế thắng bất bại mà ông ta vừa để tuột tay rơi mất.

Một phút lặng lẽ trôi qua.

Bạch Đại tiên sinh vẫn đứng đờ người ra như chết đứng, không hề động cựa. Triệu Liệt Bân thốt nhiên khóc oà lên, rồi tung mình nhảy vụt tới chân Bạch Đại tiên sinh. Anh em Bùi thị và Âu Dương Đình bất tri bất giác cũng tiến cả tới bên Bạch Đại tiên sinh.

Bùi Tam vỗ vào vai Triệu Liệt Bân ôn tồn nói, "Ngũ đệ, thắng bại là việc thường của con nhà tướng, câu ấy chính miệng ngũ đệ vẫn thường nói, đã quên rồi ư?"

Triệu Liệt Bân nổi giận, kêu rống lên như cái còi, "Ta thua đến hàng nghìn lần cũng không sao, nhưng đại kha thì không thể thua được! Không thể thua được!"

Bùi Tam cười nói, "Sao Ngũ đệ ngốc thế, đại kha cũng là người, thiên hạ chỉ có Tiên Phật mới không bao giờ thua, chớ còn người thường thì chưa từng có ai lại vĩnh viễn không thua bao giờ."

Ngoài mặt tuy ông ta vẫn cố giữ vẻ tươi cười, ôn tồn khuyên giải Triệu Liệt Bân nhưng hai khóe mắt ông ta cũng thấy long lanh ngấn lệ. Nhân vì Bạch Đại tiên sinh tượng trưng cho quang vinh Cái Bang, ngẫu tượng cho hết thảy đệ tử Cái Bang, mà bao nhiêu cái tượng trưng cho quang vinh, ngẫu tượng cho tôn phái ở cõi đời này đều không thể thua được, vĩnh viễn không thể thua được!

Giữa lúc bầu không khí bi ai thống khổ đang bao trùm lên đầu bọn Cái Bang ngũ lão, thì Nhâm Vô Tâm chợt cất tiếng cười khanh khách. Triệu Liệt Bân cơn giận càng bốc lên ngùn ngụt, quát lớn, "Ngươi thắng thì cứ việc thắng, còn cười nỗi gì?"

Nhâm Vô Tâm cao giọng nói, "Tại hạ chỉ cười các hạ, chớ có cười gì đâu!"

Triệu Liệt Bân trợn mắt quát, "Triệu mỗ thà bị ngươi đâm cho một đao, còn hơn là bị ngươi cười!"

Vô Tâm mỉm cười nói, "Bạch Đại tiên sinh bị thua bao giờ, mà các vị cứ nhất định buộc ông ấy phải nhận thua, còn gì tức cười hơn nữa?"

Triệu Liệt Bân ngẩn người một lúc, rồi lại giận dữ nói, "Ai khiến ngươi giả nhân giả nghĩa..."

Vô Tâm nghiêm sắc mặt nói, "Tại hạ bình sinh chưa từng nói dối bao giờ, sao các hạ lại bảo là tại hạ giả nhân giả nghĩa? Nếu quả tại hạ thắng được "Cái Bang ngũ lão" thì đó chính là một điều vẻ vang danh giá cho tại hạ, chớ có nhục nhã gì đâu mà phải chối?"

Triệu Liệt Bân không biết nói sao, lại quay ra nhìn Bạch Đại tiên sinh. Lúc này bốn vị Hồng y lạt ma thừa lúc chiến trường đang lộn xộn kẻ khóc người cười, đã lén bước đến tận nơi mà vẫn không ai hay biết.

Nghe Nhâm Vô Tâm nói vậy, không những Triệu Liệt Bân đã ngơ ngác quay lại nhìn Bạch Đại tiên sinh, mà tất cả bao nhiêu cặp mắt của mọi người cũng đều đổ dồn về phía ông ta. Bạch Đại tiên sinh bỏ hai tay xuống, cười một cách gượng gạo nói, "Chính thế, ta đã thua đâu!"

Điền Tú Linh cau mày trong bụng không phục, "Phá vân thất tiên" cũng ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau. Bạch Đại tiên sinh thủng thỉnh nói, "Nhưng ta sở dĩ chưa thua là vì vị công tử ấy nới tay đó thôi, chỉ trong vòng mười lăm chiêu nữa ta sẽ hết hy vọng, và năm mươi chiêu nữa ta sẽ không còn sức trả đòn. Đứng trong tình trạng ấy, ai mà không nhận thấy thế? Công tử nói như vậy, càng làm cho anh em tôi khó xử."

Vô Tâm mỉm cười nói, "Dẫu trông bề ngoài thì như thế nhưng thực tế lại khác, hiền huynh đệ chỉ biết có một mà không biết đến hai."

Bạch Đại tiên sinh nói, "Thực tế khác ở chỗ nào, tại hạ thật không hiểu."

Vô Tâm nhìn khắp mọi người một lượt, rồi thủng thỉnh đáp, "Hiền huynh đệ tất cũng biết rằng, trước khi tại hạ động thủ đã hiểu rõ hết vũ công và chiêu thức biến hoá của Bạch Đại tiên sinh, mà tiên sinh thì chưa hề biết một tí gì về vũ công, chiêu thức của tại hạ. Trong khi hai bên giao đấu nếu mình biết rõ vũ công của đối phương, thì ấy là đã chiếm được tiên cơ chế địch rồi, cố nhiên như vậy thì phần thắng tất phải nhiều hơn phần bại. Tại hạ chỉ được lợi một điểm đó, nhưng như thế sao gọi là thắng được?"

"Phá vân thất tiên" lúc này mới hiểu ra bất giác cùng đưa mắt nhìn nhau cười mỉm. Nhưng Bạch Đại tiên sinh lại lắc đầu thở dài, "Đức độ của công tử thật đáng cho lão hủ phải cảm kích. Nhưng thà rằng công tử bịa ra một lý do gì khác để an ủi tại hạ, hoặc giả tại hạ còn có thể mượn cớ đó tự an ủi lừa dối mình cho xong, đằng này công tử lại nêu lên cái lý do ấy, làm cho tại hạ tự dối mình cũng không thể được nữa!"

Vô Tâm cau mày nói, "Câu nói của tại hạ toàn là sự thực, sao tiền bối còn ngờ?"

Bạch Đại tiên sinh cười một cách gượng gạo, "Mấy chiêu thức vừa rồi là do mấy năm gần đây lão phu mới tự sáng chế, chưa dám đem ra giang hồ thi triển, dẫu đến đệ tử bản bang cũng chưa trông thấy, công tử làm sao mà biết được?"

Vô Tâm cười nói, "Môn chưởng pháp vũ công của tiền bối sáng chế ra, không lẽ trên đời này không còn ai biết nữa hay sao?"

Bạch Đại tiên sinh đáp, "Trừ năm anh em lão hủ, ngoài ra quyết không còn ai biết nữa."

Vô Tâm thủng thỉnh nói, "Năm xưa tiền bối du hiệp giang hồ thường để tâm ghi nhận những chỗ tinh vi tột bực trong các chiêu thức của các môn phái vũ lâm đương thời, sau khi quy ẩn mới đem những điều đã ghi nhận được hợp cả lại làm một, cái gì hay thì giữ lại cái gì dở thì bỏ đi, rồi nhân đó mà sáng chế ra môn chưởng pháp vừa rồi..."

Chàng vừa nói tới đó, Triệu Liệt Bân đã trợn mắt kêu lên, "Quái thật, những việc đó chính lão phu còn chưa biết rõ ràng, làm sao ngươi lại nói được rành mạch đến thế?"

Nhâm Vô Tâm không trả lời, vẫn tiếp tục nói tiếp, "Nhưng trong khi sáng chế môn chưởng pháp đó, ngẫu nhiên đôi khi gặp những chỗ khó khăn không giải quyết được, tất nhiên tiền bối cũng có thỉnh giáo một vị bằng hữu nào chớ chẳng không?"

Bạch Đại tiên sinh chợt biến sắc mặt kinh ngạc nói, "Quả có chuyện ấy thật, nhưng sao..."

Vô Tâm cười nói, "Tiền bối có thỉnh giáo ai thì người đó tất phải biết rõ môn chưởng pháp của tiền bối chứ!"

Bạch Đại tiên sinh sắc mặt chợt đổi ra vẻ kính cẩn, nghiêm trang nói, "Nhưng vị tiền bối mà lão hủ thỉnh giáo ấy, tuy học vấn uyên bác kinh nhân nhưng trong giang hồ tuyệt không một ai biết chỗ ở của Ngài, công tử dù có nói là đã từng được nghe Ngài nói về môn chưởng pháp đó, lão hủ cũng nhất định không tin!"

Ngừng một lát, ông lại tiếp, "Trừ phi công tử nói ra được tên tuổi vị lão nhân ấy, lão hủ mới hết nghi ngờ."

Vô Tâm mỉm cười, nói dằn từng tiếng, "Tử Cốc nhị kỳ!"

Cái Bang ngũ lão và Điền Tú Linh nghe xong đều giật mình kinh sợ, còn anh em Kim Thừa Tín thì chỉ ngơ ngác nhìn nhau, không biết Tử Cốc nhị kỳ là ai? Ai là Tử Cốc nhị kỳ?

Bạch Đại tiên sinh đôi mắt sáng hẳn lên, hấp tấp hỏi, "À công tử có phải là..."

Thốt nhiên ông lại lắc đầu quầy quậy, "À mà không phải, không phải!"

Vô Tâm cười hỏi, "Cái gì không phải?"

Bạch Đại tiên sinh nói, "Lão hủ đã được nghe lão nhân gia nói về "hắn" nhưng ngài tả hình dạng "hắn" không giống công tử tí nào!"

Vô Tâm mỉm cười nói, "Tiên sinh lịch lãm giang hồ như vậy, há lại không nghe nói đến thuật dịch dung bao giờ sao?"

Bạch Đại tiên sinh cả mừng, cười nói, "Thế thì phải rồi, phải rồi! Nhưng sao vừa rồi công tử không nói rõ tên họ lai lịch ra lại cứ nhất định bắt lão phu phải bêu xấu!"

Vô Tâm cười nói, "Nếu vừa rồi tại hạ nói rõ tiện danh thì chưa chắc các hạ đã chịu tin."

Bạch Đại tiên sinh cười ha hả, khom mình vái một vái rồi nói, "Lão hủ ở ngoài biên ải xa xôi ngàn dặm, không ngờ hôm nay may mắn lại được gặp công tử, chuyến đi này thật không đến nỗi uổng phí!"

Mọi người đứng ngoài nghe hai người nói chuyện đều ngẩn ngơ chẳng hiểu nghĩa lý gì cả. Triệu Liệt Bân sốt ruột không sao nhịn nổi, buột miệng hỏi, "Đại kha vừa nói vị tiền bối Tử cốc, nói "hắn" là ai thế?"

Bạch Đại tiên sinh cười ha hả, "Hắn là một vị kỳ đại cao nhân, và vị cao nhân ấy lúc này hiện đang đứng trước mặt chúng ta đây."

Triệu Liệt Bân đưa mắt nhìn Nhâm Vô Tâm lẳng lặng không nói gì, nhưng sắc mặt vẫn lộ vẻ nghi hoặc. Vô Tâm cũng chắp tay vái trả Bạch Đại tiên sinh, mỉm cười nói, "Tiên sinh quá khen, tại hạ đâu dám nhận."

Kim Thừa Tín buột miệng kêu lên, "Các vị nói chuyện từ nãy đến giờ, anh em tôi chẳng hiểu gì cả! Rút cuộc thì vị này là ai?"

Bạch Đại nói, "Hiền huynh đệ cũng là những bậc hiệp nghĩa quân tử, lão hủ nói rõ cũng không sao. Để lão hủ xin giới thiệu vị này là..."

Nhâm Vô Tâm vội ngắt lời, "Lão tiên sinh cứ để tại hạ tự giới thiệu lấy, tiện danh là Nhâm Vô Tâm."

Cái Bang tứ lão và Phá vân thất tiên đều đứng ngẩn người ra. Một lát sau chợt nghe Kim Thừa Tín cười ha hả nói, "Nhâm Vô Tâm...Nhâm Vô Tâm...không ngờ hôm nay anh em tôi lại gặp Nhâm Vô Tâm!"

Bạch Đại tiên sinh ngạc nhiên hỏi, "Các vị cũng biết tiếng Nhâm công tử hay sao?"

Nhâm Vô Tâm không chờ Kim Thừa Tín trả lời, vội nói, "Tại ha vừa xuất đạo chưa được bao lâu đã có người biết tới tiện danh, thật là một điều vinh hạnh lớn lao cho tại hạ."

Kim Thừa Tín cười nói, "Công tử xuất đạo tuy chưa lâu, nhưng lão ô bách tuế không bằng phượng hoàng sơ sinh, điều ấy cũng không lấy gì làm lạ."

Nhâm Vô Tâm lại chắp tay vái một vái rồi nói, "Đa tạ các vị quá khen. bây giờ tại hạ chỉ xin thỉnh cầu các vị một điều, là việc đối phó với nhà Nam Cung thế gia xin các vị hãy cố gắng ẩn nhẫn ít lâu, đợi lúc nào thời cơ chín mùi, lúc ấy nghĩa kỳ của các vị chỉ đến đâu, gian đảng sẽ tan đến đấy, như vậy mới gọi là "Nhất cử thành công"."

Kim Thừa Tín nói, "Công tử nói dẫu phải nhưng anh em chúng tôi đã cất công lặn lội tới đây, bây giờ lại bảo chờ lại, vậy thì trong thời gian đó chúng tôi biết làm cái gì? Và ở đâu?"

Nhâm Vô Tâm lấy trong mình ra một thanh giản thiếp, đưa cho Kim Thừa Tín nói, "Quí vị tìm người có tên trong đây đưa cho hắn thanh giản thiếp này, hắn sẽ thu xếp tất cả mọi việc cho quý vị."

Kim Thừa Tín đỡ lấy thanh giản thiếp, rồi nói, "Còn công tử định đi đâu bây giờ?"

Vô Tâm nói, "Tại hạ phải lên Tử Cốc bái kiến Nhị Kỳ."

Vừa nói tới đấy chợt nghe xa xa có tiếng âm nhạc réo rắt. Mọi người đều lắng tai nghe. Tiếng nhạc thật là kỳ lạ, nghe không ra tiếng đàn, tiếng sáo mà cũng không ra tiếng trống, tiếng thanh la, trong những khúc điệu bi ai hùng tráng lại còn xen lẫn cái ý vị thần bí và trang nghiêm, khiến cho người nghe đều cảm thấy máu nóng sôi lên không sao nén lại được.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hiep#kiem