Q2 71-80

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Núi Thái Thương, đỉnh Thái Tử.

Đến canh giờ này, du khách trên núi không thể nán lại nữa, tất cả đều đã bị mời ra ngoài cổng chùa, rời khỏi Hoàng Cực quán. Trong cung Tiên Lạc, tiếng tụng kinh vang từng đợt, hơn một ngàn đạo nhân đang học lớp buổi tối, còn bốn vị quốc sư thì chủ trì việc hành đạo bên chân tượng vàng cao đến năm trượng.

Trong điện Thái Tử, hai bên là đèn cầu phúc xếp thành hàng từ mặt đất đến nóc điện. Tạ Liên giáng xuống từ trên trời, nhẹ nhàng đáp lên bệ thờ, vừa khéo ngồi ngay ngắn trước tượng thần của mình.

Y phất tay, đất bằng bỗng nổi một trận gió, vô số ngọn đèn bắt đầu xoay chầm chậm. Đèn đuốc chập chờn, các đạo nhân rối rít ngẩng đầu lên, tặc lưỡi bảo lạ, tiếng thì thầm vang loáng thoáng. Lẽ ra quốc sư đang nhắm nghiền hai mắt ngồi yên trên ghế, thế rồi đột nhiên mở mắt ra, nói: "Hôm nay dừng ở đây. Về hết đi."

Các đạo nhân đứng dậy lui ra ngoài, ba vị phó quốc sư còn lại tuy không nhìn thấy chân thân của Tạ Liên, nhưng cũng đoán được có thứ gì đó vừa đến, cả ba đồng loạt lui ra, đóng cửa lớn của điện thần. Cửa lớn vừa khép lại, Tạ Liên vội vã mở lời. Y nói: "Quốc sư, ngài có biết chuyện đại hạn ở Vĩnh An không? Phía phụ hoàng dường như chẳng có động tĩnh gì, phải chăng trong triều đã xảy ra chuyện gì? Hay là phụ hoàng không nắm rõ tình hình cụ thể?

Thần quan không thể tự lén lút hiển linh trước mặt người phàm, chỉ có một trường hợp ngoại lệ, đó là trước mặt người tu đạo có địa vị cao như quốc sư hay chưởng giáo (người quản lý một giáo phái). Người có đạo hạnh cao thâm đến cấp bậc như thế chính là người thay mặt cho thần quan dưới phàm trần, vậy nên Tạ Liên có thể trao đổi trực tiếp với quốc sư. Quy tắc "không được quỳ lạy trong điện Thái Tử", chính là Tạ Liên mượn lời quốc sư truyền đạt xuống.

Y cứ ngỡ là có tình huống đặc biệt nào đó khiến quốc vương không có thời gian giải quyết tình hình thiên tai ở Vĩnh An, chỉ bất đắc dĩ mà thôi, hoặc quốc vương không biết chuyện đã nghiêm trọng đến mức chết nhiều người như thế, ngờ đâu quốc sư lại đáp: "Quốc vương bệ hạ vẫn khỏe, không xảy ra chuyện gì lớn, cũng nắm rõ tình hình thiên tai ở Vĩnh An."

Tạ Liên ngẩn ra, hỏi: "Vậy tại sao mỗi lần phụ hoàng đến Hoàng Cực quán, con chẳng bao giờ nghe người cầu phúc cho Vĩnh An? Tại sao ngay cả một câu cũng không nhắc tới?"

Mặc dù y và cha quanh năm bất hòa, nhưng cũng biết quốc vương không phải là một vị vua hồ đồ. Tuy rằng luôn tự phụ mình là thiên tử cao quý, đặt nặng tôn ti, nhưng cũng không đến nỗi thờ ơ với người dân gặp nạn. Quốc sư đáp: "Chuyện này không liên quan đến quốc vương bệ hạ, là ta đề nghị người và hoàng hậu không nhắc tới Vĩnh An trong lúc cầu phúc."

"...."

Tạ Liên hỏi: "Vì sao?"

Quốc sư đáp: "Vì vô dụng thôi."

Tạ Liên kinh ngạc: "Vô dụng là sao?"

Ngừng một chút, đầu óc y mới kịp thông, nói: "Ý ngài là, vì con là Võ Thần nên không thể quản chuyện hạn hán, bởi vậy đề cập với con là vô dụng ư? Nhưng phải chăng ngài đã quên, con không chỉ là Võ Thần, con còn là Thái Tử Tiên Lạc. Dân chúng nước con giờ đang chìm sâu trong nước sôi lửa bỏng, làm sao con có thể ngồi yên phớt lờ?" Suy nghĩ một lát, Tạ Liên nói tiếp: "Việc cấp bách lúc này chính là cứu chữa nạn dân Vĩnh An. Phiền ngài thay con góp ý với phụ hoàng, đừng xây thêm miếu thần điện thần gì nữa, điện Thái Tử khắp cả nước đã nhiều lắm rồi, con cũng không cần nữa. Còn đống tượng vàng kia nữa, có thể nung chảy hết, phát tiền cứu trợ thiên tai. Phía Tây Vĩnh An đại hạn thiếu nước, vậy thì đào một con sông, dẫn nước từ phía ĐSng, tưới tiêu hoa màu, bồi dưỡng đất đai..."

Tạ Liên vừa nói, quốc sư vừa lắc đầu, lẩm bẩm: "Quá sớm. Quá sớm."

Tạ Liên hỏi bằng giọng khó hiểu: "Ngài nói cái gì quá sớm cơ?"

Quốc sư đáp: "Vì đâu ta lại nói con không nên phi thăng quá sớm, bây giờ con đã hiểu chưa? Bởi vì dân chúng nước con vẫn chưa chết hết."

"......" Tạ Liên trợn tròn hai mắt, trầm giọng tức giận nói: "Quốc sư! Ngài... ngài đang nói lời gì thế? Cái gì gọi là... cái gì gọi là dân chúng nước con chưa chết hết?!"

Quốc sư đáp: "Con đã là thần, nhưng con vẫn không quên được thân phận khi làm người phàm của mình, vương vấn không dứt, chưa thể đoạn tuyệt với trần gian. Nhưng nếu con dấn thân vào rồi lại bất lực, cuối cùng chỉ có một mớ rối ren mà thôi."

Tạ Liên ngồi trên bệ thờ, quốc sư đứng bên dưới, rõ ràng là Tạ Liên đang nhìn xuống, nhưng khi quốc sư nói những lời này, dường như lão mới là người ngồi tít trên cao. Tạ Liên hỏi: "Sao con có thể bó tay bất lực được? Chỉ cần chịu làm, sẽ có hồi báo. Cứu được bao nhiêu hay bấy nhiêu, cho dù chỉ cứu được một người trở về cũng còn hơn không hỏi han đến. Nếu ngài không muốn thay con chuyển lời tới phụ hoàng, vậy để con tự đi tìm người."

Tạ Liên đột nhiên đứng dậy, quốc sư túm tay áo của y, quát: "Quay lại đây! Con có biết tại sao thần quan không thể tùy tiện hiển linh trước mặt người phàm không? Quy định được đặt ra hàng trăm ngàn năm qua, tất có đạo lý của nó, đừng làm chuyện ngu xuẩn!"

Tạ Liên quay phắt đầu lại, nói: "Vậy con có thể làm gì đây? Cái này không được, cái kia cũng không nốt, quốc sư, hiện giờ trên lãnh thổ của con, rất nhiều người đã chết! Thần được xưng là thần chẳng phải vì có thể cứu vớt chúng sinh sao? Nếu lúc này mà con cũng không thể xuất hiện, vậy lúc nào mới xuất hiện được đây?! Rốt cuộc ý nghĩa của việc con phi thăng là gì?!"

Quốc sư bắt lấy y, thở dài: "Thái Tử điện hạ ơi Thái Tử điện hạ à, con có biết, ta nhìn thấy gì không?"

Giây lát sau, Tạ Liên bình tĩnh lại, ngồi xuống đáp: "Mời nói."

Quốc sư chăm chú nhìn y, nói: "Ta nhìn thấy tương lai của con, tối đen như mực."

Tạ Liên nhìn thẳng vào quốc sư, nói: "Chắc ngài nhìn lầm rồi. Con chỉ thích mặc đồ trắng."

Quốc sư nói: "Ta sợ con không cứu vớt được dân chúng nước con, ngược lại còn bị họ kéo xuống khỏi thần đàn."

Tạ Liên đáp: "Dân chúng nước con không như thế đâu, họ biết phân biệt rạch ròi phải trái mà. Nếu con không thể cứu vớt họ, bản thân con ngồi trên thần đàn cũng chẳng có ý nghĩa gì."

Một lúc sau, quốc sư than thở: "Tuy việc phụ hoàng con làm không thể nói là đúng, nhưng cũng không thể nói là sai. Con nói muốn phát tiền cứu trợ thiên tai, thật ra không phải phụ hoàng con chưa từng phát, con có thể xem thử hiệu quả thế nào. Con nói muốn đào sông dẫn nước, con hãy tự đi mà xem con sông kia liệu có làm được hay không."

Tạ Liên gật đầu: "Hiểu rồi. Cảm ơn quốc sư."

Sau khi rời khỏi núi Thái Thương, y đi một mạch về phía Tây, tới thành Vĩnh An của nước Tiên Lạc.

Hai mươi năm qua, Tạ Liên chưa bao giờ cảm thấy mặt trời lại nóng cháy và trí mạng đến thế. Bước chân đầu tiên đặt lên mảnh đất này, y lập tức cảm thấy khô nóng khó chịu, dường như mọi vật trong không khí đều bị bóp méo. Mặt trời chói chan giữa trời cao, đất đai nứt nẻ thành từng mảng vỡ vụn, cằn cỗi một cách đáng sợ. Ven đường có một rãnh sâu, hình như trước đây nó là một đường sông, nhưng vì hạn hán mà khô đến thấy cả đáy, lòng sông đen ngòm tỏa ra mùi tanh hôi khác thường. Sau khi đi thật lâu, Tạ Liên vẫn chẳng nhìn thấy bất cứ một mảnh ruộng nương nào. Biết đâu có đấy, nhưng ắt hẳn chẳng còn nhận ra nó từng là ruộng nương nữa rồi.

Tạ Liên vừa đi vừa nhìn bốn phía, làn gió khô nóng thổi mái tóc dài của y bay tán loạn, nhưng y hoàn toàn chẳng có tâm trạng mà chỉnh lại. Bấy giờ, chợt nghe phía sau có một người kêu lên: "Điện hạ!"

Tạ Liên vừa quay đầu lại, chỉ thấy hai bóng người áo đen hối hả chạy tới, chính là Phong Tín và Mộ Tình. Tạ Liên hỏi ngay: "Có tin tức gì không?"

Phong Tín giũ vạt áo trước ngực để quạt gió, đáp: "Có. Trong một hai năm qua, toàn bộ phía Tây đều thiếu nước, năm nay mới bùng phát. Vĩnh An là nơi bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất, sông khô cạn, trời không mưa, đất không thể trồng trọt. Nhà nào có tiền thì đỡ hơn, chỉ cần bỏ tiền là mua được nước và thức ăn ở phương xa. Có điều đại đa số những người có tiền đã sớm dọn nhà sang phía Đông cả rồi. Những người còn sót lại, một là nghèo, hai là chạy không nổi."

Tạ Liên chau mày: "Quốc sư nói không phải phụ hoàng của ta chưa từng làm gì, cũng như đã hạ lệnh cứu trợ thiên tai, tại sao vẫn nghiêm trọng như vậy?"

Mộ Tình lạnh lùng đáp: "Phát mười phần, cứ xuống một tầng lại bị bòn rút một tầng, cuối cùng bòn rút hết sạch chẳng còn lại gì nữa, tất nhiên vẫn sẽ nghiêm trọng như vậy thôi. Theo ta thấy, so với việc tặng không nuôi lũ sâu mọt kia, thà rằng không phân phát nữa."

Nín lặng chốc lát, Tạ Liên nén giận nói: "Ta phải làm cho lũ sâu mọt đó phun ra nguyên vẹn những thứ đã nuốt vào."

Mộ Tình nhắc nhở: "Điện hạ, huynh lại quên nữa rồi, việc này không phải do huynh cai quản. Thần quan không thể nhúng tay vào thị phi thế gian. Băng dày ba thước không phải do cái lạnh trong một ngày tạo nên (một việc xảy ra đều có nguyên nhân ẩn tích lũy trong lâu dài), quốc vương bệ hạ là người chuyên quản chuyện nhân gian, đây là chức trách của ngài ấy, ngài ấy còn chưa quản nổi, bản thân huynh gánh trên mình vô số lời cầu nguyện của các tín đồ, làm sao ứng phó được? Huynh cái này cũng muốn quản, cái kia cũng muốn quản, cuối cùng sẽ rước họa vào thân. Huống hồ, đây cũng chỉ là trị ngọn không trị gốc."

Phong Tín lấy tay che nắng, nói: "Muốn trị tận gốc, vẫn phải có nước mới được. Bằng không thì, điện hạ nhờ quốc sư chuyển lời đến quốc vương bệ hạ, chuyển nước từ phía ĐSng chia đều cho phía Tây?"

Tạ Liên lắc đầu: "Lúc nãy ta đã nói ý định này với quốc sư rồi."

Phong Tín hỏi: "Quốc sư nói thế nào?"

"......" Tạ Liên nghẹn lời một lát mới đáp: "Tóm lại là nói không được. Có điều bây giờ ta phát hiện, đích thực không khả thi cho lắm. Muốn chuyển nước, trước tiên phải đào sông, nhưng đào sông phải huy động sức dân, cũng không biết cần bao nhiêu năm, hơn nữa còn hao người tốn của, không thể tiêu phí được nữa."

Phong Tín gật đầu: "Cũng đúng, nước xa không cứu được lửa gần."

Suy tính chốc lát, Tạ Liên nói: "Tuy nhiên, nếu con đường của người phàm không giải quyết được, biết đâu chừng có thể thử con đường của Thiên giới. Nghe nói mấy năm trước, Vũ Sư thay nhiệm kỳ, có một vị Vũ Sư mới phi thăng, tính tình lầm lì quái gở, để ta xem thử có thể tới cửa thăm hỏi, thỉnh cầu hắn liệu có thể dùng hình thức đổ mưa dẫn nước từ phía ĐSng phía Tây không."

Kể từ sau khi phi thăng, ngoại trừ đi gặp Quân Ngô, Tạ Liên chưa hề chủ động ghé thăm bất cứ thần quan nào, cũng không cố ý lôi kéo quan hệ với bất cứ ai, đối xử bình đẳng với mọi người trong Thông Linh trận. Y muốn đi thăm hỏi vị thần quan nào, quả thật là chuyện vô cùng hiếm thấy. Mộ Tình lại nói: "Không được."

Tạ Liên quay đầu hỏi: "Sao vậy?"

Mộ Tình đáp: "Điện hạ, vừa rồi ta đã điều tra kỹ lưỡng, thực chất hai năm qua, không phải Vĩnh An hay phía Tây thiếu nước, mà là toàn bộ Tiên Lạc đều thiếu nước. Chỉ là phía Đông Tiên Lạc sát biển, gần hồ, dọc sông, nên không biểu hiện quá rõ ràng, vì vậy trước mắt vẫn chưa thành tai họa, nhưng toàn bộ lượng nước và lượng mưa đều ít hơn trước nhiều."

Tạ Liên trợn to mắt, Mộ Tình nói tiếp: "Nếu thật sự đào một con sông, hoặc dùng cách đổ mưa chuyển nước từ phía ĐSng phía Tây, vậy nhìn chung bên Vĩnh An đúng là có thể thuyên giảm đôi chút, nhưng không cứu được triệt để, chỉ có thể xem như cho bọn họ thêm một hơi kéo dài tính mạng thôi. Mà cùng lúc đó, phía Đông Tiên Lạc rất có khả năng sẽ xảy ra hạn hán."

Cõi lòng bắt đầu căng thẳng, Tạ Liên nói: "Nhưng khu vực phồn hoa và đa số dân cư của Tiên Lạc đều tập trung ở phía Đông, gấp hơn ba lần phía Tây, đặc biệt là hoàng thành. Một khi bên này xảy ra hạn hán..."

Phong Tín cũng lập tức phản ứng lại, nói: "Chắc chắn hậu quả còn nghiêm trọng hơn Vĩnh An, người chết cũng sẽ nhiều hơn!"

Mộ Tình gật đầu, nghiêm túc nói: "Do đó bạo loạn nổi lên cũng sẽ lớn hơn nhiều."

Hít sâu một hơi, Tạ Liên lên tiếng: "Vậy nên, đây là nguyên nhân mà quốc sư nói, việc phụ hoàng ta làm chưa chắc là đúng nhưng cũng chưa chắc là sai ư? Chẳng qua phụ hoàng đang lựa chọn mà thôi."

Mộ Tình nói: "Vậy nên, điện hạ à, không ai đến điện của huynh cầu phúc cho Vĩnh An là chuyện tốt. Huynh nên giao cho quốc vương bệ hạ lựa chọn đi."

Tạ Liên không đáp, quay đầu đi.

Dọc đường, y nhìn thấy người nào cũng đen trũi gầy trơ xương, đàn ông hay trẻ nhỏ đều để tay trần, xương sườn trước bộ đều tỏa ra mùi tanh tưởi của kẻ hấp hối, khiến người ta muốn thét lên, trốn chạy khỏi mảnh ngực nhô lên từng hàng, rõ ràng tột độ, phụ nữ da dẻ khô nứt, hai mắt thẫn thờ. Mọi người chẳng ai muốn nhúc nhích, cũng không còn sức để động đậy, tất cả bốc đầy mùi hấp hối tanh tưởi, khiến cho người ta muốn ré lên trốn khỏi vùng đất thoi thóp này, lập tức trở về vương đô phồn hoa ca múa vàng son.

Hồi lâu sau, Tạ Liên mở miệng: "Các ngươi ở lại đây giúp ta trước đi, chuyển được bao nhiêu nước qua đây hay bấy nhiêu. Để ta nghĩ xem."

Phong Tín đáp: "Được. Huynh cứ từ từ suy nghĩ, nghĩ được rồi thì nói cho ta biết nên làm sao là được."

Tạ Liên vỗ vai Phong Tín, xoay người rời đi. Mộ Tình lại ở phía sau hờ hững nói: "Điện hạ, huynh nên suy nghĩ thật kỹ. Chúng ta có thể giúp mười ngày hai mươi ngày, nhưng không thể giúp một năm hai năm, cứu được một trăm người nhưng không cứu được mấy trăm ngàn người. Dù sao huynh cũng là Võ Thần, không phải Thủy Thần, cho dù là Thủy Thần, cũng không thể tạo nước vô cớ. Nếu không giải quyết được tận gốc, cứ như vậy cũng không phải cách hay. Chỉ như muối bỏ biển thôi."

Tên nghe hay quá ><

Nghe vậy, bước chân của Tạ Liên khựng lại, cuối cùng vẫn không ngoái đầu, vẫy vẫy tay rồi tiếp tục đi về phía trước.

Trở về hoàng thành Tiên Lạc, trước tiên Tạ Liên đến hoàng cung.

Y cũng không biết tại sao mình muốn đến, có điều không phải vì muốn gặp cha mẹ. Không riêng gì nguyên nhân thân là thần quan không được tự lén lút hiển linh trước mặt người phàm, quan trọng hơn là, tuổi tác càng cao, rời nhà càng lâu, y càng không biết nên nói chuyện với cha mẹ thế nào, có lẽ tất cả những người làm con trên đời này đều như thế. Chính vì vậy, y ẩn thân đi lung tung một vòng khắp hoàng cung mà mình rõ như lòng bàn tay, nhưng không tìm được quốc vương bệ hạ ở nơi nào khác, cuối cùng đến cung Tê Phượng mới nhìn thấy cha mẹ.

Hai người đã lệnh cho cung nhân lui xuống, đang trò chuyện với nhau. Hoàng hậu ngồi bên tháp, tay nghịch một chiếc mặt nạ vàng, chính là chiếc mà Tạ Liên đeo trong buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời ba năm trước. Gương mặt và ngũ quan của chiếc mặt nạ vàng được dày công điêu khắc dựa theo mặt thật của Tạ Liên, vì vậy Tạ Liên đeo nó rất vừa vặn, không cảm thấy có gì khác thường, nhưng khi thấy nó trong tay người khác lại hơi rờn rợn. Quốc vương ngồi bên cạnh nói: "Đừng nghịch cái đó nữa, mau đặt xuống qua ấn đầu cho ta đi."

Dù rằng trước mặt người khác, quốc vương và hoàng hậu làm chu toàn mọi lễ nghĩa, nhưng từ nhỏ Tạ Liên đã thấy rõ nhất, sau lưng người khác, cha mẹ mình chỉ là một cặp vợ chồng bình thường cũng sẽ cằn nhằn lải nhải thôi. Quả nhiên, hoàng hậu thả mặt nạ xuống, qua ngồi xoa nhẹ hai bên huyệt thái dương giúp quốc vương, rồi bỗng gạt tóc của ông, nói: "Tóc chàng lại bạc rồi."

Tạ Liên tập trung nhìn kỹ, hai bên tóc mai của cha mình đúng là lốm đốm bạc, vô cớ thêm ba phần già cỗi. Y nhủ thầm: "Chẳng phải dạo trước phụ hoàng mới đến Hoàng Cực quán cầu phúc sao? Lúc đó tóc phụ hoàng còn đen mà, sao tự dưng lại bạc?"

Hoàng hậu lấy một chiếc gương đồng định cho quốc vương xem, quốc vương lại nói: "Không xem không xem. Lần sau trước khi lên núi Thái Thương nhuộm chút là đen thôi."

Bấy giờ Tạ Liên mới kịp phản ứng: "Tóc của phụ hoàng không phải mới bạc gần đây! Mà đã bạc từ lâu rồi, chỉ là trước mỗi lần đến gặp mình đều nhuộm đen. Còn mình suốt ngày nghe tín đồ cầu nguyện, bôn ba mệt mỏi, ít bao giờ chủ động về thăm cha mẹ nên mới không phát hiện."

Sau khi nghĩ thông suốt điều này, trong lòng Tạ Liên hổ thẹn vô cùng, thật may là bây giờ cha mẹ không nhìn thấy y ở đây. Hoàng hậu vừa xoa bóp đầu cho quốc vương vừa trách móc: "Ngày nào thiếp cũng bảo chàng nghỉ ngơi sớm đi, chàng không nghe lời của thiếp, còn nói thiếp suốt ngày cằn nhằn chàng. Nhìn xem bây giờ xấu như vầy, hoàng nhi mà thấy thì càng không muốn ngó ngàng tới chàng cho coi."

Quốc vương hầm hừ: "Từ lúc hoàng nhi của nàng trưởng thành đủ lông đủ cánh, vốn dĩ đã không ngó ngàng tới ta." Nói thì nói vậy, ông lại nhịn không được len lén liếc gương đồng bên giường, lầm bầm: "Cũng đâu có xấu lắm, chẳng phải vẫn là gương mặt này sao?"

Tạ Liên không khỏi sửng sốt, thật sự không ngờ rằng sau lưng mình, phụ hoàng còn có một mặt như thế, lại còn "nói xấu" mình với giọng điệu chua chát vậy nữa, khiến y lập tức phì cười. Hoàng hậu cũng nín cười nói: "Rồi rồi rồi, không xấu. Sức khỏe lớn hơn trời, hôm nay nghỉ ngơi sớm đi."

Quốc vương lắc đầu: "Không nghỉ ngơi được. Dạo này có nhiều người Vĩnh An chạy đến hoàng thành. Đến thì đến đi, thế mà cứ phải rêu rao khắp nơi, làm cho lòng người hoang mang, nan giải vô cùng."

Thì ra cha mình bạc tóc là vì đại hạn ở Vĩnh An, trong lòng Tạ Liên khó chịu khôn tả. Hoàng hậu gật đầu đáp: "Thiếp nghe Dung nhi nói, hôm nay nó cũng gặp phải một người Vĩnh An, nghe đâu muốn cướp tiền trong miếu, thật đáng sợ."

Quốc vương trầm ngâm nói: "Đúng thế, đáng sợ. Mấy chục hay mấy trăm người tới thì thôi, nhưng ngộ nhỡ hơn trăm ngàn người bọn họ đổ xô tới, rồi cả bọn chạy tán loạn trong hoàng thành, hậu quả thật khó tưởng tượng nổi."

Do dự một hồi, hoàng hậu nói: "Vậy cũng chưa hẳn. Nếu đàng hoàng an phận, tới thì tới đi."

Quốc vương nói: "Vua của một nước, sao có thể lấy "chưa hẳn" ra mạo hiểm? Hơn nữa bọn họ tuyệt đối không thể tới đây, nuôi thêm vài người không chỉ đơn giản như bày thêm vài đôi đũa, bên trong phức tạp lắm, nàng không rõ đâu, không nói nữa."

Hoàng hậu đáp: "Được, không nói nữa. Những gì mà chàng nói, từ đầu thiếp đã không hiểu rồi, nếu hoàng nhi còn ở đây thì tốt quá, ít nhất cũng có thể san sẻ phần nào cho chàng."

Quốc vương lại hầm hừ: "Nó? Nó thì làm được gì? Không làm ta lo lắng thêm đã đỡ lắm rồi."

Nhắc đến Tạ Liên, quốc vương có vẻ dậy hứng ngay: "Ta không thèm nói đến hoàng nhi của nàng nữa, hơn mười mấy tuổi đầu mà nuôi y như công chúa. Nó có biết cũng vô dụng, chỉ tổ thêm phiền não mà thôi. Nó cứ ngoan ngoãn bay trên trời đi, không biết gì là tốt nhất, làm chuyện của riêng nó, bây giờ nó đâu còn là Thái tử, nhân gian không liên quan đến nó, thích bay thì cứ cho nó bay đủ."

Tạ Liên im lặng nghe cha trách móc mình hăng say, hoàng hậu thì mỉm cười đẩy quốc vương một cái: "Bây giờ chàng biết nói nó là công chúa rồi hả, công chúa còn không phải vì chàng nuông chiều từ nhỏ mà ra sao? Còn muốn trách ngược lại thiếp à?" Nói đoạn, hoàng hậu thở dài: "Thằng nhóc này cái gì cũng tốt, mỗi tội không nhớ nhà thôi. Lúc trước học nghệ ở Hoàng Cực quán đã thế rồi, hở ra là mấy tháng không về nhà. Bây giờ phi thăng còn lợi hại hơn, ba năm cũng không gặp được một lần, chẳng biết bao giờ mới gặp được đây."

Hoàng hậu bắt đầu phàn nàn, quốc vương lại giải vây cho Tạ Liên: "Phụ nữ như nàng thì biết gì. Quốc sư nói quy tắc của Thiên giới là như thế, sao có thể tiếp tục xem nó như người phàm? Nàng gọi hoàng nhi của nàng về khác nào muốn kéo chân sau của nó?" (kéo chân sau = gây cản trở)

Hoàng hậu vội nói: "Thiếp chỉ nói vậy thôi. Thiếp sẽ không nói ra yêu cầu này trước mặt nó." Bà lại lầm bầm: "Nhìn tượng thần cũng được, không khác gì mấy, đâu đâu cũng là tượng thần của nó."1

Nhìn cha mẹ hồi lâu, lồng ngực Tạ Liên dâng từng cơn chua xót, cổ họng như nhét thứ gì đó, nghẹn đến khó chịu tột độ, chỉ cảm thấy không chờ thêm được nữa, nhưng y lại không thể xuất hiện, không phải vì sợ vi phạm thiên quy, mà là xuất hiện rồi cũng không biết nên nói gì cho phải. Đối với chuyện ở Vĩnh An, tạm thời y cũng chưa nghĩ ra được cách giải quyết nào tốt, đột ngột xuất hiện chỉ làm cha mẹ luống cuống mà thôi.

Tạ Liên nhanh chóng rút khỏi hoàng cung, đi ra bên ngoài, hít sâu vài hơi, bấy giờ tâm trạng mới bình phục. Ổn định cảm xúc, vực dậy tinh thần, nghĩ thầm thở dài chi bằng hành động, y tiện tay bắt quyết niệm chú, đổi sang hình hài tiểu đạo sĩ áo trắng, chạy một vòng quanh hoàng thành, đo lường và ghi chép khắp nơi. Chạy đôn chạy đáo, bận rộn cả ngày, cuối cùng y cũng lấy được đáp án xác định.

Mặt nước của tất cả sông hồ trong hoàng thành Tiên Lạc, đích thực đều thấp hơn trước đây. Lúc còn ở Hoàng Cực quán, có vài lần y chuồn xuống núi chơi, từng chèo thuyền du ngoạn trên con sông lớn nhất chạy dài xuyên nước Tiên Lạc - sông Lạc, mặt nước ngày ấy chỉ thấp hơn bờ đê một chút, nhưng bây giờ lại thấp hơn nhiều xích, hơn nữa cư dân trong thành đều bảo đã như vậy từ lâu chứ không phải mới đây. Lúc trước Tạ Liên không để ý, bây giờ để ý mới ngộ ra đủ mọi dấu hiệu nhìn mà phát hoảng. Ban đầu y còn hy vọng thông tin của Mộ Tình nhầm lẫn nên mới tự đến chứng thực, bây giờ không thể không thừa nhận, Mộ Tình vẫn không làm mình thất vọng như cũ.

Sau khi xác nhận sự thật này, Tạ Liên ngẩn người đứng lặng ven bờ sông, như có điều nghiền ngẫm. Thỉnh thoảng có người đi đường lướt ngang qua Tạ Liên, hoặc mỉm cười gật đầu, hoặc tò mò nhìn ngó, còn lại chủ yếu vẫn vui vẻ chuyện ai nấy làm. Chẳng biết đứng bao lâu, mây mù xa nơi chân trời tụ lại, bốn phía tí ta tí tách, thế mà lại đổ mưa lâm râm.

Người đi đường rối rít che đầu nhìn trời, nói: "Xui xẻo ghê! Trời mưa rồi, mau về thôi!"

"Đúng đó, ghét thật!"

Hạt mưa rơi tí tách, nện vào mặt và người Tạ Liên, lúc này y mới kịp phản ứng, lẩm bẩm: "Mưa rồi ư?"

Người trong hoàng thành gặp mưa tránh còn không kịp, chỉ trời mới biết một đầu khác của nước Tiên Lạc có bao nhiêu người khao khát được một trận mưa lớn đã đời như thế. Vài người bung dù chạy ào qua, thấy Tạ Liên vẫn đứng dưới mưa bèn kéo y một cái, thúc giục: "Ơ tiểu đạo trưởng này, sao ngươi còn không chạy? Mưa càng lúc càng lớn kìa!"

Thế là Tạ Liên cũng lóng ngóng chạy theo, cùng chạy đến dưới một hàng hiên dài. Những người kia cất dù, cười ha ha với nhau: "May là hôm nay ra cửa thấy nhiều mây nên mang dù theo, không thì ướt như chuột lột rồi."

"Đã lâu trời không mưa, e rằng trận này tích tụ lâu rồi, sẽ mưa lớn cho xem."

"Ôi trời ngươi nhìn đi, lớn thật rồi kìa! Sắp thành mưa xối xả rồi!"

Hạt mưa rơi xuống đất, tan vỡ văng tung tóe. Chất giọng hết sức thân thuộc của những người này càng khiến Tạ Liên cảm nhận được sâu sắc rằng, đây là nơi mình sinh ra và lớn lên, đây là con dân mà mình quen thuộc.

Trò chuyện một hồi, trận mưa từ từ nhỏ dần, mấy người kia nói: "Nhân lúc bây giờ nhỏ được chút, mau đi thôi!" Dứt lời lũ lượt bung dù rời khỏi mái hiên, còn Tạ Liên vẫn đứng yên tại chỗ. Mấy người kia ngoái đầu nhìn y, bàn bạc vài câu, một người đi tới, đưa một cây dù cũ trong tay cho y, nói bằng giọng khách sáo: "Tiểu đạo trưởng ơi, có phải không về được không? Ta thấy mưa vẫn còn hơn lớn đó, hay là ngươi lấy dù này dùng đi."

Bấy giờ Tạ Liên mới hồi thần, hỏi: "Cảm ơn nhé. Vậy ngài thì sao?"

Mấy người đứng trong mưa phía trước nói lớn: "Chúng ta còn dù đây, chen vô chung được mà, đi thôi đi thôi!"

Nghe đồng bạn thúc giục, người nọ nhét dù vào tay Tạ Liên rồi chạy mất. Cả bọn lạch bạch đạp nước chạy xa, Tạ Liên thì nắm cây dù kia, đứng yên chốc lát. Đột nhiên, y thấy phía trước cách đó không xa có một ngôi miếu nhỏ không quá bắt mắt, bèn bung dù đi về phía đó giữa làn mưa. Đến gần miếu rồi, thấy câu đối trước hai bên cửa miếu lần lượt viết "Thân tại vô gián" "Lòng tại đào nguyên", cuối cùng mới xác định đây là một tòa điện Thái Tử.

Trong ba năm dựng nên tám ngàn đạo quán, tất nhiên không phải tòa đạo quán nào cũng nguy nga tráng lệ khiến người thán phục như tòa trên núi Thái Thương, trong số đó cũng có không ít tòa là nhân sĩ thôn làng dân gian xây cho đủ số để góp vui. Không dựng hòm công đức, không có ông từ, chỉ lập một pho tượng bằng đất sét, bày mấy cái khay, cúng một ít bánh ngọt và trái cây. Người có lòng thỉnh thoảng tới quét dọn một chút là có thể tự chiếm một điện rồi.

Núp trong xó xỉnh không bắt mắt ấy, chính là một điện Thái Tử cũng chẳng bắt mắt là bao. Còn chưa vào trong, Tạ Liên đã trông thấy một pho tượng thần Thái tử gần như có thể nói là ngây ngô đáng yêu: Áo quần lòe loẹt, gò má loang lổ phấn trắng, điệu cười ngớ ngẩn, chẳng khác gì một con búp bê lớn. Nếu không phải lòng đầy tâm sự, chắc chắn Tạ Liên đã cười ra tiếng.

Ba năm qua, tượng Thái tử mà Tạ Liên nhìn thấy không năm ngàn cũng được ba ngàn, trước giờ chưa từng thấy pho tượng Thái tử nào giống mình như đúc, giống nhất có lẽ chỉ tầm bảy phần, còn lại không phải quá xấu thì là quá đẹp. Đa số các thần quan khác đều là tượng thần quá xấu, vừa khéo Tạ Liên thì trái ngược, có cái đẹp đến mức biến dạng, đẹp đến mức bản thân y cũng thấy ngại. Vốn dĩ y cũng không nhìn kỹ pho tượng đất sét này, chỉ lia mắt qua thôi, nào ngờ lại tình cờ bắt gặp một vật gì đó trắng muốt, thế là đường nhìn lại lia trở về.

Tay trái của pho tượng Thái tử làm bằng đất sét thô sơ ấy, cầm một bó hoa trắng như tuyết.

Cánh hoa trắng noãn, dính một ít giọt sương lóng lánh, mềm mại đến lạ, một mùi thơm dịu như có như không thoang thoảng trong không khí, đáng yêu vô ngần. Tư thế chuẩn mực của tượng Thái tử Tiên Lạc là "một tay cầm kiếm, một tay cầm hoa", nhưng hoa mà tay trái cầm, tất nhiên là hoa vàng, hoa đá quý, hoa ngọc thạch được chế tạo bằng kỹ thuật tuyệt đỉnh, đây là lần đầu tiên Tạ Liên nhìn thấy có tượng thần của mình cầm hoa thật, vì vậy không khỏi nhích lại gần hơn.

Nhìn kỹ y mới phát hiện, ban đầu tay trái của pho tượng Thái tử này hẳn là thật sự từng cầm một cành hoa đất sét. Nhưng không biết do thợ khắc tượng không khéo tay nên cành hoa rớt mất, hay bị ai đó đùa dai tháo xuống, bây giờ trong nắm tay trái chỉ còn một lỗ nhỏ. Bó hoa trắng nho nhỏ ấy, vừa khéo cắm trong lỗ nhỏ này. Nếu ai đó hái tới chỉ để lấp đầy lỗ hổng trong tay trái của pho tượng đất sét này, vậy đúng là có lòng.

Vừa nghĩ đến đây, Tạ Liên chợt nghe được tiếng bước chân dồn dập. Y không quay đầu lại, đầu tiên ẩn thân mình, cầm dù nhẹ nhàng phóng lên bệ thờ, lúc này mới xoay người nhìn xuống dưới. Chỉ thấy trong làn mưa tầm tã mịt mù ngoài miếu, một thiếu niên chạy ào vào.

Thiếu niên này chỉ tầm mười hai mười ba tuổi, toàn thân ướt đẫm, trên người là quần áo sờn cũ, trên mặt là băng vải bẩn thỉu. Tay phải khum lại bao lấy nắm tay trái, như thể đang che chở thứ gì đó. Sau khi chạy đến giữa miếu, nó mới từ từ mở hai tay ra.

Một bó hoa nho nhỏ trắng ngần, lẳng lặng nở rộ trong tay nó.

Nhớ tới gì đó, Tạ Liên khẽ "ồ" một tiếng.

Gương mặt quấn hàng lớp băng vải ấy, không khỏi khiến y liên tưởng đến đứa bé mình gặp vào ba năm trước. Nhưng y cũng không dám chắc chắn, nghĩ theo khía cạnh bi quan, sau khi một thân một mình trốn xuống núi Thái Thương, đứa bé đó thật sự có thể sống thêm ba năm sao?

Lúc này, thiếu niên nọ đi tới, nhón đầu ngón chân, lấy bó hoa khỏi tay tượng đất sét, đổi thành bó hoa trong tay mình. Tạ Liên ngồi trên bệ thờ thấy rất rõ ràng, bó hoa mới thay ấy, cánh hoa càng mềm mại, tươi tốt, căng mọng, mùi hương càng thêm thơm ngào ngạt, nhất định là vừa vừa mới hái. Chẳng lẽ ngày nào nó cũng đến ngôi miếu không bắt mắt này, thay một bó hoa tươi mới hái cho tay trái của pho tượng đất sét đó?

Chưa kể sau khi hiến tặng hoa tươi, thiếu niên nọ đứng dưới tượng đất sét Thái tử, khép tay kết ấn, yên lặng cầu phúc, chẳng hề quỳ xuống rồi hẵng nói một cách vô tội vạ như người ngoài, đích thực đã để những lời Tạ Liên nói vào tai.

Ba năm. Biết bao tín đồ từng thăm viếng Tạ Liên, có quan lại quyền quý, có nhân vật kiệt xuất đương thời, có tài lực kinh thế hãi tục, nhưng người thật sự khiến Tạ Liên cảm thấy "có lòng" lại là một đứa nhóc mới mười hai mười ba tuổi, hơn nữa còn là đứa nhóc áo quần tả tơi mà những điện vàng lộng lẫy tráng lệ không đời nào cho vào, bởi vậy chỉ có thể đến miếu thần thôn làng này thăm viếng.

Cảm xúc này quả là khó diễn tả.

Lúc này, ngoài cửa miếu truyền đến tiếng đạp nước bành bạch, một đám con nít bung dù cười đùa ầm ĩ chạy qua. Ban đầu Tạ Liên cho rằng chúng nó chỉ đi ngang qua, nào ngờ đám thiếu niên này chạy qua rồi lại chạy ngược về, như thể phát hiện thứ gì hiếm lạ lắm, vỗ tay nói: "Ái chà chà, thằng xấu xí lại bị đuổi cổ kìa!"

Đám thiếu niên này cũng cỡ tuổi tín đồ nhỏ trong miếu, nhưng ai cũng cao lớn hơn nó, xem ra được cha mẹ nuôi dưỡng rất tốt. Hẳn do sắp đến ngày lễ, đứa nào đứa nấy cũng mặc áo mới xỏ giày mới. Chúng nó đứng trước cửa miếu đạp nước đùa giỡn, nụ cười hồn nhiên hoạt bát, không mang nửa điểm ác ý, dường như không hề cảm thấy "thằng xấu xí" là lời nói bậy, cũng chẳng cảm thấy ngôn từ của mình tổn thương người khác, thật sự chỉ cho rằng gọi như vậy thú vị mà thôi. Thiếu niên nọ siết tay thành đấm, nhưng vì nắm tay quá nhỏ, không hề có sức uy hiếp, đám nhóc ngoài cửa lại la to: "Hôm nay thằng xấu xí lại ngủ trong miếu rồi, coi chừng về nhà mẹ ngươi đánh chết ngươi!"

Tạ Liên nhíu mày. Một con mắt chi chít tơ máu của thiếu niên lộ ra dưới băng vải, nó giơ nắm đấm giận dữ gào lên: "Ta không có nhà!! Ta không có mẹ! Bà ta không phải là mẹ ta! Cút đi! Cút hết đi! Còn la nữa ta đánh chết các ngươi đó!!!"

Đám nhóc kia lại chẳng hề sợ hãi, le lưỡi nói: "Ngươi dám đánh bọn ta, coi chừng bọn ta lại mách cha ngươi, cho ổng dạy dỗ ngươi."

Có đứa nháy mắt ra hiệu, nói: "Đúng đó, ngươi không có mẹ là vì mẹ ngươi không cần ngươi. Ngươi cũng không có nhà, người nhà ngươi cũng ghét bỏ ngươi, nên ngươi chỉ còn nước ở trong cái miếu đổ nát này..."

Nói đến đây, thiếu niên nọ thình lình hét lớn một tiếng, bổ nhào qua.

Đầu nó tuy nhỏ nhưng khí thế tràn trề, tiếng hét hung bạo của nó dọa cho mấy đứa nhóc kia muốn chạy trốn, nhưng cái đứa đang đánh nhau túi bụi với nó lại hô lên: "Sợ cái gì! Bọn mình đông người mà!" Thế là cả đám lại quay trở về, bảy tay tám chân kéo nó đánh nó. Tạ Liên thật sự không nhìn nổi nữa, y phất tay một cái, một luồng năng lượng kỳ lạ bỗng nhiên xuất hiện trong không khí tách hai tốp thiếu niên ra. Ngay sau đó, mặt đất ầm ầm sủi lên một đống bọt nước, hất đám thiếu niên kia ngã lộn nhào.

Dù sao cũng là con nít, tự dưng ngã nhào một cách quỷ dị như thế, còn uống một ngụm nước bẩn lẫn bùn đất, đồ mới trên người cũng ướt nhẹp, trở nên còn te tua bẩn thỉu hơn cả đối tượng mà mình cười nhạo, đám nhóc thoắt cái chuyển từ cười ha ha sang khóc hu hu, bò dậy khỏi mặt đất, khóc bù lu bù loa cầm dù chạy biến.

Tạ Liên lắc đầu. Mình đây đường đường là Võ Thần, diệt trừ tà ma quỷ quái, đảm bảo lên đường bình an, đây là lần đầu tiên can thiệp vào loại tranh chấp trẻ con này, dù rằng vẫn là đuổi cổ bên xấu xa, nhưng chẳng có chút cảm giác thành tựu nào. Quay đầu lại nhìn thiếu niên nọ, Tạ Liên hơi sửng sốt.

Trong lúc hỗn loạn, băng vải trên đầu nó bị kéo xuống phân nửa, để lộ nửa gương mặt toàn là vết bầm tím sưng tấy, hiển nhiên không phải do vừa rồi bị đánh. Tạ Liên còn chưa kịp nhìn kỹ, nó đã lẳng lặng quấn băng lại, ôm đầu gối, ngồi bên chân tượng đất sét.

Tạ Liên đến gian miếu Thái tử này, ý định ban đầu là muốn tìm chỗ nào gần để triệu tập Phong Tín và Mộ Tình, truyền lệnh bàn bạc chuyện quan trọng, nào ngờ lại gặp được bạn nhỏ này, thế rồi kiềm lòng không đặng bắt đầu chú ý, sau khi phát lệnh triệu tập, y ngồi chồm hổm bên cạnh quan sát nó. Ngồi chưa được bao lâu, từ bụng thiếu niên nọ truyền ra tiếng ùng ục. Trong khay cúng có chút trái cây và bánh ngọt, dù trông khô quắt không ngon miệng lắm, nhưng có còn hơn không. Tạ Liên bèn chọn một quả, nhẹ nhàng ném lên người nó.

Bị trái cây đập trúng, thiếu niên bỗng chốc đưa hai tay ôm đầu, cuộn thành một cục, bày ra tư thế phòng ngự, như thể thứ ném lên người mình là một tảng đá, hơn nữa lập tức sẽ có nhiều đá hơn ném tới. Qua một hồi lâu, sau khi dáo dác nhìn xung quanh, phát hiện chỉ là trái cây chứ không có người thứ hai ở đây, nó chần chờ một hồi rồi nhặt trái cây lên, lau vào áo mấy cái, đoạn thả vào khay cúng, rốt cuộc thà chịu đói chứ không ăn đồ cúng trong khay.

Tiếp theo, nó đi tới cửa, nhìn mưa tầm tã ngoài miếu, trông có vẻ muốn ra ngoài tìm thức ăn, nhưng mưa thật sự quá lớn, không muốn dầm mưa nữa nên lại quay trở về, cuộn mình ngủ bên chân tượng đất sét.

Lúc này, Phong Tín và Mộ Tình nghe lệnh chạy tới. Hai người vòng ra từ sau miếu, Phong Tín buồn bực hỏi: "Điện hạ, huynh tìm đâu ra gian miếu Thái Tử nhỏ xíu này vậy? Tại sao phải truyền lệnh ở đây?" Vừa cúi đầu, chợt thấy một người co mình nằm dưới đất, suýt nữa thì đạp trúng, Phong Tín buột miệng thốt ra: "Mẹ nó sao lại có thằng nhóc ở đây nữa?!"

Mộ Tình cũng cúi đầu, nhìn kỹ vài lần rồi vội hỏi: "Điện hạ, đây là đứa bé trốn khỏi núi Thái Thương ba năm trước sao?"

Tạ Liên lắc đầu: "Không dám chắc. Chẳng biết nó tên gì, cũng không biết mặt mũi trông như thế nào."

Ba người đứng quanh một đứa bé hoàn toàn không hay biết gì nói vài câu, thiếu niên nọ trở mình lăn qua lăn lại dưới đất, lau mặt một cái, thế mà lau ra máu ở miệng mũi và khóe môi. Thấy vậy, Tạ Liên càng cho rằng không thể mặc nó tiếp tục nằm như thế, nói: "Để đứa bé này rời khỏi đây trước đi. Sắc trời tối rồi, miếu này không phải nơi tốt để qua đêm."

Phong Tín nói: "Phải chăng nó không có nơi nào để đi? Nếu là như vậy, e rằng chỉ có thể qua đêm ở đây thôi."

Tạ Liên nói: "Nó có nhà, nhưng chắc ở nhà không tốt lắm. Dù vậy, miếu này cũng không phải nơi tốt, trước khi đi hãy tìm cho nó chút đồ ăn, trên người nó còn có vết thương."

Mộ Tình lại nói: "Điện hạ, thứ lỗi cho ta nói thẳng, trước mắt không có thời gian lo mấy chuyện vặt vãnh này. Huynh triệu chúng ta tới đây phải chăng đã có quyết định gì?"

Thần quan Thượng thiên đình, xưa nay chưa từng có vị nào thu hết lời cầu nguyện của tất cả tín đồ. Phải biết tín đồ trên đời hàng ngàn hàng vạn, gặp ai cũng lo chẳng phải sẽ phiền chết hay sao, bởi vậy đôi lúc sẽ mở một mắt nhắm một mắt, vờ như không nghe thấy một số lời cầu nguyện thâm ảo hoặc nhỏ nhặt không đáng kể, nhờ vậy bớt được rất nhiều phiền toái. Nhưng mà, có lẽ do Tạ Liên tuổi còn rất trẻ, tinh lực dồi dào, còn chưa đến lúc tán đồng với kiểu ứng biến linh hoạt này. Suy nghĩ một hồi, y cầm chiếc dù được người qua đường tặng, đi ra ngoài miếu.

Tạ Liên chậm rãi mở dù ra, hạt mưa nện lộp độp xuống mặt dù. Nghe tiếng động này, thiếu niên nằm dưới đất cứ tưởng có người đến gần nên khẽ khàng cựa mình. Nhưng hẳn do nghĩ rằng có người đến cũng không liên quan đến mình, nó lại nằm trở xuống. Tạ Liên đặt chiếc dù đã mở bung ở cửa, thiếu niên nghe tiếng động vẫn vang mãi không dứt, có lẽ cuối cùng cũng thấy kỳ lạ, nó bèn đứng dậy đi ra xem thử, chỉ thấy một chiếc dù đỏ đặt nghiêng dưới đất trong làn mưa, tựa như đóa hoa đỏ thẫm nở rộ một cách trơ trọi. Thiếu niên lập tức ngây ngẩn cả người.

Thấy thiếu niên bước lên ôm dù, Mộ Tình nói: "Điện hạ, đến bước này là được rồi. Làm lộ liễu quá, để nó phát hiện chỉ tổ rước phiền phức."

Ngờ đâu Tạ Liên chưa trả lời, thiếu niên lại nhào trở vào, đứng sau bọn họ gọi lớn: "Thái tử điện hạ!"

Ba người đồng loạt giật cả mình, ngoái đầu lại nhìn, chỉ thấy thiếu niên nọ ôm dù, mắt đỏ ngầu, kích động cực độ, ngửa đầu nói với tượng đất sét: "Thái tử điện hạ! Là huynh sao?!"

Phong Tín không biết trước đó Tạ Liên đã giúp nó đuổi một đám trẻ ranh, còn ném trái cây cho nó, nên ngạc nhiên nói: "Thằng nhóc này cũng nhạy phết, vậy mà lại bị nó phát hiện." Mộ Tình lại như đã đoán được tương lai, đưa mắt nhìn Tạ Liên.

Thiếu niên nọ nói: "Nếu huynh có ở đây, xin huynh trả lời ta một vấn đề!"

Ngồi tít trên thần đàn cao ngất, mỗi ngày Tạ Liên nghe được vô số lần "Xin ngài hiển linh đi". Âm thanh nào nghe nhiều rồi cũng sẽ mất cảm giác. Nhưng mà, mỗi khi nghe được tiếng gọi đó, y vẫn sẽ vô thức ngắm nhìn, vô thức dừng chân. Mộ Tình ở bên cạnh nhắc nhở: "Điện hạ, không cần để ý đâu."

Tạ Liên không đáp.

Hai tay ôm ghì chiếc dù, thiếu niên nọ cắn răng nói: "Ta đau đớn lắm! Ngày nào ta cũng hận không thể chết quách cho xong, ngày nào cũng muốn giết sạch người trên thế giới này rồi tự giết chính mình! Ta sống rất đau đớn!"

Một đứa trẻ mười hai mười ba tuổi hét lên những lời như thế, cảnh tượng này đúng là vừa buồn cười vừa đáng thương. Thế nhưng trong thân thể bé nhỏ của nó như có thứ gì đó bùng nổ, chống đỡ sự căm phẫn và tiếng gào rống của nó.

Phong Tín cau mày hỏi: "Nó bị gì thế? Giết sạch người trên thế giới này, đây là lời mà con nít nói sao?"

Mộ Tình hờ hững đáp: "Tại nó còn nhỏ quá thôi. Lớn thêm chút nữa, nó sẽ nhận ra rằng những gì bây giờ mình nếm trải chẳng thấm vào đâu cả."

Dừng một thoáng, Mộ Tình nhìn Tạ Liên, nói: "Những người đau đớn trên đời này nhiều vô kể. Chẳng hạn như đại hạn ở Vĩnh An, có người Vĩnh An nào đau đớn thua nó đâu. Điện hạ không cần phải để ý. Nên làm gì thì làm thôi."

Tạ Liên nói khẽ: "Chắc là vậy."

Với người khác mà nói, có lẽ sự đau đớn của một người chỉ là chút phiền toái vặt vãnh không đáng nhắc đến mà thôi.

Thiếu niên nọ ngửa đầu nhìn Tạ Liên, con mắt đỏ rực nhưng lại không rơi lệ, một tay ôm dù, một tay chìa ra níu vạt áo của tượng đất sét, chất vấn: "Rốt cuộc vì sao ta còn sống trên đời này? Rốt cuộc con người sống sót có ý nghĩa gì chứ?"

Lặng im hồi lâu, không ai trả lời, dường như đã lường được kết quả này, thiếu niên từ từ cúi thấp đầu.

Ngờ đâu, một giọng nói bất chợt phá vỡ sự yên lặng, vang lên trên đầu nó: "Nếu không biết phải sống tiếp như thế nào, vậy sống tiếp vì ta đi."

Phong Tín và Mộ Tình đứng cạnh Tạ Liên không nghĩ rằng y sẽ thật sự trả lời, hơn nữa còn trả lời kiểu đó, cả hai trợn trừng mắt, nói: "... Điện hạ?!"

Thiếu niên nọ ngẩng phắt đầu lên, nhưng không nhìn thấy bất kỳ ai, chỉ nghe một giọng nói dịu dàng như ẩn như hiện truyền đến từ phía trên tượng đất sét:

"Vấn đề mà đệ hỏi, ta cũng không biết nên trả lời thế nào. Có điều nếu đệ không biết mình sống tiếp có ý nghĩa gì, vậy chi bằng tạm thời xem ta là ý nghĩa đó đi."

Sắc mặt Phong Tín và Mộ Tình như nứt ra, cả hai đồng loạt đưa tay bụm miệng Tạ Liên, hét lớn: "Đừng nói nữa điện hạ! Huynh phạm quy rồi! Phạm quy rồi!"

Trước khi bị bọn họ bụm miệng, Tạ Liên vẫn tranh thủ hô một câu: "Cảm ơn hoa của đệ! Đẹp lắm, ta rất thích!"


Thiếu niên nọ ngây ngẩn cả người.

Phong Tín và Mộ Tình chỉ hận không thể mọc tám tay bảy chân chặn Tạ Liên lại, khó khăn lắm mới kéo được y xuống, y lại hất hai người họ ra, nói: "Biết rồi! Không nói nữa! ta biết mình phạm luật mà, các ngươi vờ như không nghe thấy chẳng phải được rồi sao. Chỉ cần các ngươi không nói, sẽ không ai biết cả. Chỉ một lần này thôi. Không được phép truyền ra ngoài, nghe rõ chưa?"

Nét mặt trông như bị ép nhai tất, Mộ Tình lắc đầu lẩm bẩm: "Sao lại có người như huynh chứ... Hùng hồn nói ra mấy lời như "sống tiếp vì ta", thật đúng là..."

Tạ Liên vốn chẳng cảm thấy có vấn đề gì, nghe Mộ Tình nói vậy lại cảm thấy có vấn đề thật, thoáng cái đỏ bừng cả mặt. Phong Tín lập tức nghiêm mặt nói: "Được rồi! Điện hạ đã bảo không nói nữa, ngươi còn nhắc làm gì?" Nhưng khóe miệng của chính hắn lại giật giật. Tạ Liên không nhìn nổi nữa, biện bạch: "Gì đó gì đó, rõ ràng lời ta nói rất hữu dụng mà. Các ngươi nhìn kìa."

Thiếu niên nọ ngồi đờ đẫn hồi lâu, không nghe được tiếng của Tạ Liên nữa, thế là dùng sức xoa mặt, lấy khay đồ cúng trên bàn xuống, ôm vào trong ngực, bắt đầu ăn trái cây và bánh ngọt khô quắt trong khay, cố gắng nhai nuốt, ăn như một con thú nhỏ vừa đáng thương vừa hung hăng. Tạ Liên khom lưng nhìn nó, đoạn nở nụ cười, nói với hai người kia: "Các ngươi nhìn đi, hữu dụng nha. Hồi nãy nó không ăn, giờ đã ăn rồi này."

Mộ Tình đáp: "Rồi rồi, hữu dụng. Huynh là thần mà."

Phong Tín cũng đáp: "Đúng đúng, hữu dụng. Huynh là thần mà."

"......"

Tạ Liên nghiêm nghị nói: "Đúng vậy, ta là thần. Gọi các ngươi tới, đích thực là vì ta đã có quyết định."

Nói đến đây, bầu không khí vừa thoải mái chưa được bao lâu bỗng chốc lại trở nên nặng nề, Phong Tín hỏi: "Làm thế nào?", còn Mộ Tình lại hỏi: "Vẫn quản à?"

Tạ Liên nói: "Quản chứ. Rất đơn giản. Nước trong Tiên Lạc không đủ, vậy thì đến quốc gia ngoài Tiên Lạc thôi."

Mộ Tình ngập ngừng lên tiếng: "Đến quốc gia khác? Vậy có xa quá không? Chỉ sợ phải mượn pháp bảo của một ít thần quan thủy pháp (thần quan có pháp thuật liên quan đến nước), hơn nữa thần quan trấn giữ quốc gia khác chưa chắc đã đồng ý."

Dĩ nhiên Tạ Liên đã cân nhắc đến điều này, nói: "Ta cứ thử trước xem sao, còn hơn là không làm gì cả. Các ngươi tiếp tục ở lại Vĩnh An trước đã, tăng cường cứu trợ vùng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, ta trở về Thượng thiên đình, có vấn đề gì không?"

Phong Tín đáp: "Không vấn đề gì. Phía sau có ta gánh cho."

Mộ Tình ngẫm nghĩ rồi lại hỏi: "Điện hạ, vậy những lời cầu nguyện của tín đồ trong điện Thái tử bên huynh thì sao?"

Tạ Liên đáp: "Đây cũng là chuyện ta định nói. Trước tiên ngươi cứ lọc ra những việc quan trọng giải quyết thay ta, những việc không quá nguy cấp có thể tạm ém xuống."

Mặc dù không thấy lạc quan lắm, Mộ Tình vẫn nói: "Huynh là Thái tử điện hạ, nghe lời huynh vậy. Nhưng mà, ta kiến nghị không nên ém quá lâu."

Ta Liên vỗ vai hai người, Phong Tín và Mộ Tình hành lễ rồi lui xuống. Trong một tấc vuông của ngôi miếu nhỏ, chỉ còn lại Tạ Liên và đứa bé kia. Tạ Liên đi ra khỏi miếu, ngoảnh đầu nhìn một cái, không nán lại nữa mà lao thẳng lên Tiên kinh.

Ban đầu y định đi thăm hỏi mấy vị thần quan thủy pháp trước, nhưng lạ ở chỗ mấy vị đứng đầu đều trùng hợp không có mặt trong phủ ở Tiên kinh, chỉ còn đúng một vị Vũ Sư không sống ở Tiên kinh. Tạ Liên đang đi vội trên con đường ở Tiên kinh, người đầu tiên đi lướt qua là một nữ văn quan áo đen cầm mấy xấp tài liệu, cô nàng mỉm cười cất giọng: "Thái tử điện hạ, xem như ngài đã về rồi."

Tạ Liên vội hỏi: "Nam Cung, ngươi đến đúng lúc lắm, ngươi có biết phủ đệ của Vũ Sư ở đâu không?"

Cô gái mặc áo đen này tên là Nam Cung Kiệt, là một văn quan cấp thấp của Hạ thiên đình. Sau khi Tạ Liên phi thăng, rất nhiều việc lặt vặt đều do nàng giao nhận và xử lý. Vì nguồn tin của nàng nhanh nhẹn và làm việc thỏa đáng, Tạ Liên rất có thiện cảm với nàng. Nam Cung Kiệt đáp: "Hiện giờ Vũ Sư đại nhân vẫn chưa xây xong phủ đệ, đang tạm trú tại nước Vũ Sư ở phía Nam." Sau khi chỉ cho Tạ Liên chỗ ở của Vũ Sư, nàng lại hỏi: "Ngài tìm vị đại nhân đó làm gì thế?"

Tạ Liên đáp: "Có việc gấp, cảm ơn nhé." Đang định rời đi, y chợt xoay người lại, ho nhẹ một tiếng, ngượng ngùng hỏi: "Nam Cung à, ngươi quen khá thân với các thần quan trên Thượng Thiên Đình, có thể cho ta biết, Vũ Sư đại nhân có... đặc biệt thích cái gì không?"

Thông thường sau khi thần quan mới nhậm chức phi thăng, nếu khôn khéo một chút sẽ đến thăm miếu lớn của tất cả các vị thần quan cùng thiên đình và tặng quà một lượt. Đây chính là nể mặt, mà cũng gần như là quy luật bất thành văn, song vì Tạ Liên phi thăng quá đột ngột, lúc vừa lên không có ai dẫn dắt hay dạy bảo y. Đến tận sau này quốc sư nhắc nhở y, một là đã bỏ lỡ thời cơ tốt nhất, lại tặng nữa thì rất kỳ cục, hai là loại chuyện này khó tránh khiến người ta liên tưởng đến tham quan đi cửa sau ở nhân gian. Với tư cách là Thái tử, Tạ Liên cảm thấy việc này không ổn, cuối cùng y vẫn quyết định thuận theo tự nhiên, chung quy sẽ có cơ hội dùng cách thức chân thành và thỏa đáng để kéo gần quan hệ với các tiên liêu (những người cùng làm tiên).

Ban đầu phong thái đẹp đẽ là thế, bây giờ thái độ lại hoàn toàn trái ngược, chủ động hỏi một vị thần quan thích thứ gì cứ như chuẩn bị hối lộ người ta, khó tránh cảm thấy ngượng ngùng, nhưng nếu không làm vậy cũng chẳng còn cách nào khác. Mấy vị sống ở Tiên kinh chí ít cũng từng nói chuyện trong Thông Linh trận, có điều kiện hay ân tình gì cũng dễ dàng thương lượng được. Nhưng Vũ Sư thì lại chưa hề tiếp xúc bao giờ, lần đầu đến nhà thăm hỏi, Tạ Liên cũng ngại khiến người ta hiểu lầm mình muốn mượn không pháp bảo.

Nam Cung Kiệt lập tức hiểu ra, đáp: "Ngại quá, e rằng không giúp được điện hạ rồi. Vũ Sư đại nhân tính tình khiêm tốn, đừng nói là ta, chỉ sợ cả thiên giới cũng chẳng ai biết sở thích riêng của vị đại nhân ấy. Xin lỗi nha."

Mặt Tạ Liên hơi đỏ: "Không sao, đừng để bụng, cảm ơn."

Nam Cung Kiệt lại nói: "Nhưng nếu ngài có chuyện quan trọng cần tìm gặp, đừng ngại trực tiếp đến nhà thăm hỏi. Theo tính cách của Vũ Sư đại nhân, chưa chắc sẽ không gặp ngài."

Tạ Liên cảm ơn lần nữa rồi đi một mạch về phía Nam theo hướng nàng chỉ, đến nơi Vũ Sư đang ở tạm.

Đó là một thôn trang nho nhỏ, non xanh nước biếc, phong cảnh tươi đẹp, nhưng Tạ Liên hoàn toàn không có lòng dạ nào mà thưởng thức. Băng ngang qua một thửa ruộng, cuối cùng cũng nhìn thấy tấm bia đá có khắc chữ "Vũ". Theo lý mà nói, đi qua bia đá này chính là địa bàn Vũ Sư đang ở tạm, đáng ra những vật sinh hoạt tại đây đều là thuộc hạ của Vũ Sư. Tuy nhiên suốt chặng đường Tạ Liên đi, chỉ thấy khắp nơi đều là ruộng đồng mơn mởn, trong ruộng có trâu kêu ò ò, có guồng nước xoay cuồn cuộn, có nông phu đang cần cù cấy mạ, cạnh ruộng còn có một gian nhà tranh xiêu vẹo, chẳng hề có chút phong thái tiên phong đạo cốt nào, khiến cho Tạ Liên thật sự hoài nghi mình đến nhầm chỗ rồi. Chẳng phải nơi này là một thôn nhỏ làm nông tàn tạ hẻo lánh sao?

Giữa lúc y đang ngờ vực, con trâu đen đang cày bừa bên kia đột nhiên tru vài tiếng ò ò, sau đó đứng thẳng dậy, duỗi hai chân trước tự tháo lưỡi cày cho mình. Thân thể cường tráng từ từ thu nhỏ, mũi trâu dài thòng cũng dần dần thu ngắn lại. Chỉ trong nháy mắt, từ một con trâu đen bóng loáng đã hóa thành một nông phu vai trần.

Nông phu cao to tráng kiện, bắp thịt từng múi rõ ràng, đường nét gương mặt rắn rỏi, mũi đeo một cái khuyên sắt sáng loáng hệt như con trâu kia, miệng còn đang ngậm một cọng cỏ. Mấy nông dân còn lại tận mắt chứng kiến màn biến hình đáng sợ này vẫn tiếp tục làm việc như đã nhìn mãi thành quen. Bấy giờ Tạ Liên mới khẳng định, những vật ở đây đều không phải là người phàm, y bước lên trước, chắp tay hỏi: "Xin hỏi đạo hữu, Vũ Sư đại nhân đang sống tạm ở nơi này sao?"

Nông phu hóa thành từ trâu đen chỉ tay sang bên bờ, đáp: "Ừ. Vũ Sư đại nhân sống trong đó."

"......"

Tạ Liên nhìn đi nhìn lại mấy lần, cuối cùng xác định hướng mà nông phu chỉ cho mình, chỉ có gian nhà tranh nhỏ trông như gió thổi là sụp mưa rơi là dột kia.

Dẫu cho là miếu Thái Tử thôn quê tồi tàn nhất của y, so ra cũng danh giá và sung túc hơn gian nhà nhỏ này, Tạ Liên không khỏi cảm thấy kỳ lạ. Nghe bảo trước khi Vũ Sư đại nhân phi thăng cũng giống như y, là hậu duệ hoàng tộc của nước Vũ Sư, chính vì lẽ đó, y mới không trực tiếp dùng những loại đá quý hiếm có trên đời làm quà tặng Vũ Sư, có lẽ cảm nhận của Vũ Sư về chúng cũng như y thôi, chẳng lấy làm lạ gì. Vì đâu sau khi phi thăng, Vũ Sư lại sa sút đến mức này? Có lẽ, đây cũng là một cách thức tu luyện.

Tạ Liên không giảm bớt chút lễ nghi nào, cảm ơn nông phu kia rồi đến gần gian nhà nhỏ, đứng bên ngoài cất cao giọng gọi: "Vũ Sư đại nhân, Thái tử Tiên Lạc Tạ Liên mạo muội đến thăm, chưa kịp báo trước, mong ngài lượng thứ."

Trong nhà không có tiếng động, nông phu kéo lưỡi cày đi tới, hỏi: "Hả? Ngươi là vị Thái Tử điện hạ mười bảy tuổi đã phi thăng đấy sao?"

Tạ Liên đáp: "Hổ thẹn."

Nông phu nói: "Có gì đâu mà hổ thẹn, sự thật mà. Nhưng Vũ Sư đại nhân không thích gặp người, gần đây còn bị thương, e rằng không thể ra gặp ngươi được."

Nghe vậy, Tạ Liên thấy hơi thất vọng, nhưng vẫn ôm lòng muốn thử: "Có thể nhờ ngài chuyển lời thay ta không? Tại hạ có chuyện quan trọng muốn nhờ. Nếu Vũ Sư đại nhân nghe xong mà thấy có điều bất tiện, ta tuyệt đối không miễn cưỡng."

Nông phu cười ha ha đáp: "Không cần ta phải chuyển lời, chúng ta biết tỏng ngươi đến làm gì mà. Tiên Lạc không có nước, cảm giác không mấy dễ chịu nhỉ?"

Tạ Liên sửng sốt, hỏi: "Ngài biết chuyện Tiên Lạc ư?"

Nông phu đáp: "Dĩ nhiên là biết. Đâu chỉ mấy kẻ sống ở khe núi bần cùng hẻo lánh như chúng ta biết, Tiên Lạc tai họa ập đầu, bây giờ còn ai mà không rõ? Chuyện của ngươi, chính ngươi không thấu được, nhưng người khác nhìn chằm chằm ngươi cả ngày, còn rõ hơn bản thân ngươi nữa, nói không chừng trong lòng còn đang hí hửng đấy, ha ha. Ngươi đến xin Vũ Sư cho mượn pháp bảo để cứu trợ đúng không?"

Bị nông phu vạch trần, lúc này Tạ Liên mới nhận ra, những thần quan trên Thượng thiên đình không phải là trùng hợp vắng mặt, mà đã quá rõ mục đích tìm gặp của y, cố ý đóng cửa không tiếp, hoặc đã tránh đi từ sớm, không muốn vướng vào vụ rắc rối này. Tạ Liên thở dài, nghĩ thầm: "Chẳng lẽ ngay từ đầu, đáng ra phải đến thăm một lượt từng ngôi miếu lớn, về sau gặp lại mới dễ giải quyết?" Nghĩ đến có chút chán nản, y nói khẽ: "Đúng là như thế, nếu Vũ Sư đại nhân không tiện, tại hạ quyết không bám riết."

Nông phu lại hỏi: "Sao ngươi lại không bám riết? Tự ái à? Đây là chuyện lớn sống còn của dân chúng nước ngươi, chẳng phải ngươi nên bám dai như đỉa sao? Muốn ngươi hạ mình xuống một chút đã không chịu nổi hả? Người trẻ tuổi không thể thiếu kiên nhẫn như vậy được. Nói câu này hơi khó nghe, Vũ Sư đại nhân giúp ngươi là vì tình cảm, không giúp ngươi là giữ bổn phận. Cho ngươi mượn là tâm trạng tốt, không cho ngươi mượn thì sau này ngươi cũng không được oán trách."

Tạ Liên biết rõ những lời hắn nói đều có lý, nhưng giờ đã sứt đầu mẻ trán, lại thêm giọng điệu không mấy thân thiện, sự bực bội hơi trào lên, ngẩng đầu nghiêm mặt nói: "Những gì ngươi nói ta đều rõ cả, ta cũng tuyệt đối sẽ không oán trách sau lưng, ngươi cần gì phải suy diễn ta như thế? Ta nói sẽ không bám riết chỉ vì không muốn phí công mà còn làm Vũ Sư đại nhân khó xử. Nếu Vũ Sư đại nhân không thấy khó xử, chỉ cần ta bám riết là mượn được pháp bảo, vậy bảo ta chắp tay dâng lên tám ngàn đạo quán, quỳ xuống dập đầu lạy ngươi một trăm cái cũng có gì khó đâu?"

Nông phu cười ha ha: "Giận rồi hả? Tính khí trẻ con. Bắt lấy này!"

Nông phu vừa ném, Tạ Liên giơ tay đón lấy một chiếc nón trúc màu xanh, chính là cái mà thoạt đầu nông phu đeo trên lưng. Tạ Liên hỏi: "Đây là?"

Nông phu đáp: "Thứ ngươi muốn mượn đấy. Trước khi ngươi tới, Vũ Sư đại nhân đã bảo ta giao cho ngươi. Dùng cho cẩn thận, nếu làm hỏng chúng ta không tha cho ngươi đâu."

Tạ Liên trợn to mắt, hỏi: "Tại sao?"

Nông phu đáp: "Đã nói tại sao rồi mà? Cho ngươi mượn là vì tâm trạng tốt. Thần quan khác không cho ngươi mượn, Vũ Sư đại nhân cứ muốn cho ngươi mượn đấy. Vũ Sư đại nhân muốn làm gì thì làm nấy thôi."

Tạ Liên luôn miệng nói: "Cảm ơn! Cảm ơn!"

Nông phu lại cất lời: "Ngươi cũng đừng vui mừng quá sớm, Thái tử điện hạ à. Tuy Vũ Sư đại nhân phi thăng lâu hơn ngươi, nhưng tín đồ lại không nhiều bằng ngươi, pháp lực cũng kém xa ngươi, hơn nữa còn đang bị thương, ngoại trừ cho ngươi mượn vật này, những việc còn lại ngươi chỉ có thể tự dựa vào mình thôi. Nước xa không cứu được lửa gần, nón Vũ Sư chỉ có thể dời mưa, không thể tạo nước. Nước của Tiên Lạc các ngươi không đủ dùng, chỉ có thể đi mượn quốc gia khác, nhưng chưa chắc quốc gia khác đã bằng lòng, chỉ có nước Vũ Sư quanh năm dồi dào mới có dư. Thế nhưng núi dài nước xa, mỗi lần dùng đều phải tiêu hao một lượng lớn pháp lực của ngươi, pháp lực ngươi có nhiều hơn nữa rồi cũng có lúc cạn kiệt thôi."

Tạ Liên lại hiểu rất rõ, chịu cho một người không có quan hệ gì mượn pháp bảo của mình là chuyện khó khăn nhường nào. Y khom người thật thấp, gọi với về phía nhà tranh: "Vũ Sư đại nhân bằng lòng vươn tay giúp đỡ, tại hạ đã cảm kích muôn phần. Đại ân không lời nào cảm tạ hết, sau này nếu có gì ta giúp được, xin Vũ Sư đại nhân cứ việc sai bảo. Cáo từ!"

Mượn được pháp bảo, Tạ Liên tức khắc tìm một sông hồ ở phía Nam, dùng nón Vũ Sư thu một lượng nước lớn trong hồ, băng qua nghìn dặm, trở lại Vĩnh An ở Tiên Lạc, tìm đến thôn trang hạn hán nghiêm trọng nhất, Lang Nhi Loan, đứng trên mây lật nón lại.

Ngay lập tức, từ trên trời đổ xuống một trận mưa nhỏ tí tách. Tạ Liên nhảy khỏi đám mây, hai chân tiếp đất, các thôn dân đang sống dở chết dở chưa thể nào tin nổi, có người lao ra cửa tắm mưa nhảy nhót reo hò, có người vội vã xách chậu lớn chậu nhỏ rửa mặt rửa chân trong nhà ra hứng mưa.

Thấy thế, Tạ Liên thở phào nhẹ nhõm, bấy giờ mới nở nụ cười. Lúc này, chợt nghe một tiếng gọi từ xa vọng tới: "Thái tử điện hạ!"

Y quay đầu lại, chỉ thấy Mộ Tình nửa mặt u ám, vòng ra từ sau một thân cây. Thấy sắc mặt Mộ Tình không tốt, Tạ Liên biết ngay có chuyện không ổn, bèn hỏi: "Sao thế, xảy ra chuyện gì rồi?"


Mộ Tình nói: "Điện hạ, sao huynh đi một phát nhiều ngày thế?"

Tạ Liên ngẩn ra: "Ta đi lâu lắm sao?"

Đi đi đến đến, lên trời xuống đất, thu nước trong hồ, đạp mây tạo mưa, chẳng phân ngày đêm, sớm đã tiêu tốn rất nhiều thời gian, mà y lại không hề phát giác. Mộ Tình nói: "Nhiều ngày lắm rồi! Lời cầu nguyện của tín đồ bên điện Thái Tử đã chất thành núi."

Lúc này, Tạ Liên phát giác mưa phùn yếu dần, bèn vươn tay ra, nói: "Chẳng phải ta đã dặn dò, bảo các ngươi mau chóng giải quyết những việc quan trọng sao?"

Mộ Tình đáp: "Những gì giải quyết được, tất nhiên chúng ta đã giải quyết hết rồi, nhưng mà... còn rất nhiều lời cầu nguyện mà chúng ta không đủ tư cách vượt cấp làm thay. Bởi vậy trước đó ta mới bảo điện hạ đừng ém quá lâu, mau mau trở về."

Mộ Tình nói hết câu, mưa cũng tạnh. Thời gian kéo dài của cơn mưa này còn ngắn hơn tưởng tượng của Tạ Liên, lòng y không khỏi trĩu nặng. Mây đen giữa trời dần dần tản ra, chầm chậm rơi vào chiếc nón trúc màu xanh, Tạ Liên chìa hai tay bắt lấy, nói: "Nhưng ngươi nhìn tình hình này đi, ta cũng không thể phân thân được."

Mộ Tình nhíu mày: "Điện hạ, huynh mượn được pháp bảo của Vũ Sư rồi sao? Nước này dời đến từ đâu?"

Tạ Liên nói: "Nước Vũ Sư ở phía Nam."

Mộ Tình hỏi: "Xa vậy ư? Một lần dời thế này tốn bao nhiêu pháp lực của huynh? Hơn nữa phạm vi mỗi lần đổ mưa rất nhỏ, lại không kéo dài được bao lâu, cứ hao tốn kiểu này, huynh làm sao ứng phó nổi lời cầu nguyện của tín đồ trong điện Thái Tử?"

Không cần Mộ Tình nói, Tạ Liên cũng tỏ tường. Y là Võ Thần, tín đồ trong điện Thái Tử là căn cơ lập điện và cội nguồn pháp lực của y. Hành động này chẳng khác nào bỏ căn cơ theo đuổi cái khác, hễ mà sơ sẩy, sợ rằng hai bên đều lo không xong, nhưng ngoại trừ làm thế, còn cách nào nữa chứ?

Tạ Liên nói: "Ta biết. Nhưng cứ cái đà này, nếu bên Vĩnh An bùng phát bạo động, sớm muộn gì cũng lan đến điện Thái Tử."

Mộ Tình lại nói: "Đã sắp bùng phát rồi!"

Tạ Liên hoảng hốt: "Gì cơ?"

Sau khi nghe Mộ Tình thông báo, Tạ Liên tức tốc trở về hoàng thành Tiên Lạc. Đi đến đường Thần Võ, vừa khéo gặp phải một nhóm binh sĩ hoàng gia võ trang đầy đủ, đang cầm lợi khí (vũ khí sắc bén) áp giải một đám đàn ông đầu tay đeo gông áo quần rách rưới đi tới. Dân chúng đứng đầy hai bên đường, sắc mặt ai nấy cũng vừa kích động vừa căm phẫn. Phong Tín tay giương cung đen, bày thế trận sẵn sàng đón địch, dường như đang đề phòng dân chúng hai bên bạo động. Tạ Liên quát: "Phong Tín! Những người bị áp giải là ai? Phạm tội gì? Đưa đi đâu?"

Nghe giọng Tạ Liên, Phong Tín bước nhanh tới, nói: "Điện hạ! Những người này đều là người Vĩnh An."

Hàng đàn ông này ai cũng cao gầy, màu da hơi sạm, tầm vài chục người. Phía sau nhóm binh sĩ áp giải bọn họ còn có vài cụ già, cùng với một ít phụ nữ và trẻ em mặt đầy hoảng hốt. Tạ Liên hỏi: "Đằng sau cũng toàn là người Vĩnh An?"

Mộ Tình đáp: "Phải."

Thì ra mấy tháng nay Vĩnh An gặp đại hạn, những người trước đây định cư ở Vĩnh An lục tục chạy nạn sang phía Đông. Một nhóm vài chục người thì chưa thấy rõ, nhưng tính đến hiện tại đã có hơn năm trăm người chạy nạn sang đây. Hơn năm trăm người đó tụ lại một chỗ, đầu người đông nghìn nghịt, vậy thì thấy rất rõ.

Nhóm người Vĩnh An này chưa quen với cuộc sống nơi đây, hai bàn tay trắng, vừa mở miệng là lộ rõ chất giọng vùng khác, đặt chân đến một thành trì xa lạ mà phồn hoa, dĩ nhiên muốn xúm thành một tốp sưởi ấm cho nhau, vì vậy bọn họ tìm khắp hoàng thành Tiên Lạc, cuối cùng tìm được một vùng đất xanh tốt không người sinh sống, thế là vui mừng khôn xiết, dựng nhà lều ở đây làm chỗ nghỉ chân.

Thật không may là, tuy vùng đất xanh tốt này đích thực không người sinh sống, nhưng lại là ánh trăng sáng trong lòng nhân sĩ hoàng thành. Người Tiên Lạc người quen hưởng thụ và thưởng thức, vì cái đẹp nơi đây, rất nhiều người dân hoàng thành rảnh rỗi không có gì làm sẽ đến vùng đất xanh tốt này tản bộ, khiêu vũ, luyện kiếm, ngâm thơ, vẽ tranh, tụ họp. Còn Vĩnh An tọa lạc tại phía Tây Tiên Lạc, đất đai cằn cỗi, vốn đã nghèo nàn, tính tình và phong tục của dân chúng nơi đó cũng khác xa dân chúng phía Đông Tiên Lạc. So với bọn họ, dân chúng hoàng thành thường có thể ý thức sâu sắc hơn rằng mình mới là "người Tiên Lạc" chính thống. Giờ đây, chốn khi xưa thanh nhã lại bị một đám dân chạy nạn chiếm đóng, suốt ngày nấu thuốc, khóc than, giặt quần áo, nhóm lửa, mùi mồ hôi và mùi thức ăn thừa thúi rình bay đầy, khiến cho rất nhiều người dân sống lân cận không tài nào chịu nổi, oán giận không ngớt.

Thật ra mấy cụ già Vĩnh An dẫn đầu thừa biết điều đó chứ, bọn họ cũng muốn dời sang nơi khác, nhưng hoàng thành vốn đã đông dân cư, dời đến đâu cũng chật ních người, không tìm được nơi nào khác có thể xếp chỗ cho nhiều người như thế, huống chi trong hơn năm trăm người này còn có trẻ em và phụ nữ già yếu bị thương bị bệnh, không thích hợp di chuyển nhiều lần, vậy nên buộc phải hành xử thận trọng, mặt dày ở lì không đi. Dân chúng hoàng thành tuy bất mãn là thế, nhưng dù sao cũng là người một nước, nếu đã gặp nạn thì tạm thời ráng nhịn vậy.

Nghe đến đó, hàng binh sĩ áp giải vài chục gã đàn ông Vĩnh An đi tới cổng chợ, quát tháo ra lệnh: "Quỳ xuống!"

Những người Vĩnh An kia tỏ vẻ không phục, nhưng đao kề trên cổ, không quỳ cũng phải quỳ. Thấy bọn họ quỳ xuống nhấp nhô cao thấp không đều, dân chúng hoàng thành đứng vây xem có người thở dài, có người hả giận. Tạ Liên hỏi: "Theo lời ngươi nói, hai bên đều đang nhẫn nhịn, vậy hôm nay là sao đây?"

Phong Tín và Mộ Tình còn chưa trả lời, trong đám dân có một người phụ nữ dập đầu gào khóc*: "Lũ trộm cướp man rợ các ngươi! Trộm gà trộm chó rồi còn đánh tướng công ta ra nông nỗi đó, muốn bò dậy cũng bò không nổi, nếu tướng công ta có mệnh hệ gì, ta liều mạng với các ngươi!"

*Nguyên văn là 哭天抢地: ý bảo miệng kêu trời, đập đầu xuống đất gào khóc tức tưởi.

Vài người bên cạnh vội vàng an ủi nàng, có người còn trách mắng: "Kẻ bỏ nhà rời quê đến địa bàn của người khác mà chẳng biết an phận thủ thường!"

"Đúng đấy, đến nhà người khác mà không khách sáo tí nào, còn trộm đồ nữa!"

Một chàng trai trẻ đeo gông không giữ được bình tĩnh, biện bạch: "Từ đầu đã nói không phải là bọn ta trộm! Kẻ ra tay trước cũng không phải bọn ta! Chưa kể bên bọn ta cũng có người bị thương..." Một cụ già quát bảo ngừng: "Đừng nói nữa!"

Chàng trai trẻ kia tức tối ngậm miệng. Phong Tín nói: "Trong hoàng thành có người mất một con chó, bởi vì trước đây có trẻ em Vĩnh An đói quá trộm vịt của người ta luộc ăn, nên lần này cũng tình nghi là bị người Vĩnh An bắt đi nướng ăn, thế là chạy sang bên bọn họ hỏi, nói không hợp một câu đã choảng nhau."

Tạ Liên chỉ cảm thấy không lý giải nổi: "Chỉ vì một con chó mà làm ầm ĩ như thế, bắt nhiều người như thế sao?"

Phong Tín đáp: "Đúng vậy, chỉ vì một con chó mà ầm ĩ như thế. Hai bên nhịn nhau đã lâu, chuyện nhỏ cũng thành chuyện lớn. Hai bên đều thề thốt nói rằng đối phương ra tay trước, là lỗi của đối phương, choảng nhau túi bụi một trận, không hiểu sao càng đánh càng lớn."

Một binh sĩ dẫn đầu quát: "Tụ tập gây rối, nghiêm trị không tha! Đeo gông thị chúng, không được tái phạm!" Nói xong lùi ra, giây tiếp theo, hàng loạt người bắt đầu ném rau cải và trứng thối vào đám đàn ông Vĩnh An kia. Mấy người lớn tuổi thì khom lưng nói khắp bốn phía: "Xin lỗi, các vị, xin lỗi." "Xin thủ hạ lưu tình, thủ hạ lưu tình."

*Thị chúng: bêu trước đám đông, thường chỉ trừng trị phạm nhân trước công chúng.

Mặc dù Tạ Liên cho rằng đúng là chuyện bé xé ra to, hoang đường tột độ, nhưng đại khái vẫn thông hiểu được, nói: "Vậy rốt cuộc có phải bọn họ trộm không? Tìm được con chó kia chưa?"

Phong Tín lắc đầu: "Chuyện đó ai biết được. Ăn xong chỉ cần đổ vụn xương, còn ai tìm được nữa? Có điều nhìn nét mặt, ta cảm thấy không giống là do bọn họ trộm."

Nhưng mà, hiển nhiên binh sĩ hoàng thành sẽ phán xét nghiêng về phía dân chúng hoàng thành, bất luận có trộm hay không, nếu đã đánh nhau thì chắc chắn là do người Vĩnh An không đúng. Nhất là khi cánh đàn ông hoàng thành rất thích vui đùa, không giỏi đánh nhau như đàn ông Vĩnh An, xem ra lần này bị người vùng khác đánh tơi bời, mất sạch thể diện, oán thù kết sâu. Tạ Liên lắc đầu, lia mắt qua nhìn, chợt phát hiện trong hàng đàn ông Vĩnh An này có một thanh niên cúi đầu đứng giữa trông vô cùng quen mắt, chính là thanh niên Lang Anh chôn con trong khu rừng nhỏ kia.

Tạ Liên lập tức ngẩn ra. Lúc này, gần đó có người oán trách: "Sao ta cảm thấy mấy tháng nay người Vĩnh An trong hoàng thành càng đến càng đông nhỉ, hôm nay còn dám đánh người nữa."

"Chắc không phải bọn họ muốn qua đây hết chứ?"

Một gã đàn ông trông như thương nhân vung hai tay loạn xạ, nói: "Quốc vương bệ hạ sẽ không đồng ý đâu! Mấy hôm trước nhà của ta đã bị người Vĩnh An vào trộm đồ, nếu bọn họ túa qua đây hết, vậy còn được sao?"

Nghe gã nói thế, Lang Anh vẫn một mực cúi đầu mặc cho rau quả ném đầy mặt thình lình ngẩng đầu lên, nói: "Ngươi nhìn thấy à."

Không ngờ người này lại nói chuyện với mình, thương nhân kia thuận miệng đáp: "Cái gì?"

Lang Anh hỏi: "Người Vĩnh An trộm đồ nhà ngươi, là ngươi tận mắt nhìn thấy sao?"

"......" Thương nhân kia nói: "Ta không tận mắt nhìn thấy, nhưng trước giờ luôn yên lành, sau khi các ngươi tới mới tự dưng bị trộm, chẳng lẽ nó không liên quan chút nào đến các ngươi?"

Lang Anh gật đầu: "Thì ra là thế. Ta hiểu rồi. Trước khi chúng ta đến, kẻ trộm đồ đều là các ngươi, sau khi chúng ta đến, kẻ trộm đồ đều là chúng ta..."

Lời còn chưa dứt, một trái hồng chín rữa bay xoáy tới, đập vào khóe miệng của Lang Anh, trông như nôn ra một đóa hoa máu lớn. Thương nhân kia phì cười ra tiếng, ánh mắt Lang Anh hờ hững, ngậm miệng không nói nữa.

Tạ Liên biến đổi những hòn đá sắc nhọn ném về phía các thanh niên Vĩnh An, để bọn họ không đến mức máu chảy đầu rơi. Trận thị chúng này tiến hành mãi đến chập tối, dân chúng vây xem từ từ giải tán, đám binh sĩ thấy đủ rồi, bây giờ mới ngạo mạn mở gông, cảnh cáo sau này không được gây chuyện thị phi nữa, bằng không nhất định không dễ dàng bỏ qua. Mấy người lớn tuổi một mực cúi người gật đầu cười làm lành, cam đoan sẽ không tái phạm, Lang Anh lại tỏ ra bình thản, tùy ý bỏ đi. Thấy hắn đi một mình, Tạ Liên chộp đúng thời cơ, vụt ra từ sau thân cây, chặn đường của hắn.

Tạ Liên bất chợt xuất hiện, đầu tiên ánh mắt của Lang Anh chuyển lạnh, trong phút chốc, dường như muốn ra tay bóp cổ họng của y. Ngay tích tắc sau khi thấy rõ người đến, hắn rút lại cánh tay còn chưa duỗi ra, nói: "Là ngươi."

Hình dạng mà Tạ Liên hóa thành chính là tiểu đạo sĩ kia. Bị cái vồ hụt khi nãy của Lang Anh làm cho thoáng sửng sốt, y nghĩ thầm: "Võ nghệ của người này khá lợi hại." Sau đó nói: "Ta đã tặng viên ngọc đó cho ngươi, sao ngươi không mang nó về Vĩnh An?"

Lang Anh nhìn y, đáp: "Con ta ở đây, ta cũng ở đây."

Ngừng một hồi, hắn lấy viên ngọc san hô ra khỏi dây lưng, nói: "Ngươi muốn lấy lại cái này không? Trả ngươi."

Trên bàn tay Lang Anh đưa viên ngọc qua còn có vết bầm do đeo gông. Im lặng chốc lát, Tạ Liên không nhận, nói: "Về đi. Hôm nay Lang Nhi Loan mưa rồi."

Y chỉ trời, nói: "Ngày mai! Sẽ còn mưa nữa. Ta đảm bảo đấy, nhất định sẽ mưa."

Lang Anh lại lắc đầu, nói: "Bất luận có mưa không cũng không về được nữa."

Nhìn bóng lưng Lang Anh bỏ đi, Tạ Liên ngớ người giây lát, chỉ cảm thấy phiền muộn vô cùng.

Thuở xưa lúc chưa phi thăng, dường như chẳng có muộn phiền chi, y muốn làm gì là sẽ làm được tuốt. Nào ngờ sau khi phi thăng, dường như trong lúc bất chợt, y đã bị phiền muộn vô cùng vô tận bủa vây. Có phiền muộn của người khác, cũng có phiền muộn của chính mình. Muốn làm một chuyện mà lại khó khăn như thế, được này mất nọ, lực bất tòng tâm. Tạ Liên thở dài rồi cũng xoay người rời khỏi, quay về điện Thái Tử, giải quyết lời cầu nguyện tồn đọng suốt nhiều ngày của các tín đồ.

Dẫu vậy, Tạ Liên cũng không phải là người phiền muộn nhất. Quốc vương mới phải.

Nỗi lo của quốc vương Tiên Lạc trở thành sự thật, hơn năm trăm người Vĩnh An kia chỉ là bước đầu mà thôi.

Trong nhiều lần xuôi Nam ngược Bắc, Tạ Liên cầm nón Vũ Sư mượn được, dùng năng lực của một mình mình, làm phép tạo mưa. Mỗi lần tạo mưa phải tốn ít nhất năm sáu ngày và lượng lớn pháp lực, nếu không phải là y, e rằng thật sự không có người nào chịu được kiểu bôn ba chạy đôn chạy đáo như thế. Tất nhiên, ngoại trừ Quân Ngô. Nhưng nơi cai quản của Thần Võ Đại Đế rộng hơn y nhiều, tín đồ và lãnh thổ cần tiêu tốn tinh lực cũng nhiều hơn một nước Tiên Lạc, làm sao Tạ Liên có thể đi xin Quân Ngô hao tâm tổn trí vì việc này? Huống chi một lần chỉ có thể tưới mát một phần đất nhỏ của Vĩnh An, mà còn không kéo dài được bao lâu, tuy có thuyên giảm nhưng không thể trị tận gốc. Vì vậy một tháng sau, người Vĩnh An bắt đầu chính thức kết bè kết đội di cư về phía Đông. Ban đầu là một nhóm vài chục người, bây giờ là vài trăm người, vài nghìn người, nhiều vô số kể, hội tụ thành sông.

Qua thêm một tháng, quốc vương Tiên Lạc ban hành một mệnh lệnh: Xét thấy mấy tháng nay giao tranh không ngừng, ẩu đả liên miên, vì duy trì an ninh trong hoàng thành, bắt đầu từ hôm nay, người Vĩnh An lang bạt trong vương đô Tiên Lạc phải rút hết khỏi hoàng thành. Mỗi người được cho lộ phí nhất định, đến thành trấn khác an cư trú tạm.

Ngay trước mặt dòng người Vĩnh An nườm nượp đi về phía Đông, đóng cổng chính hoàng thành Tiên Lạc.

"Mở cổng!"

"Cho chúng ta vào!"

Các binh sĩ lùi vào trong thành, cổng lớn ngàn cân khép lại. Những người bị đám binh sĩ trục xuất ra ngoài cổng túa về như cơn thủy triều đen kịt, nện ầm lên cổng. Các tướng sĩ trên cổng thành hét lớn: "Rút đi! Rút đi! Ai đã lãnh lộ phí có thể khởi hành rồi, đi về phía Đông, đừng dừng dọc đường!"

Tuy nhiên, những người Vĩnh An này rời bỏ quê hương, chạy nạn suốt một đường, đi đến hoàng thành gần với mình nhất. Cổng chính hoàng thành đóng trước mặt bọn họ, nếu muốn sống thì phải vòng qua hoàng thành, đi đoạn đường dài hơn để đến thành trì càng xa về phía Đông.

Thế nhưng đi cả chặng đường đến đây đã trải qua biết bao gian khó, tử thương vô số, nào còn thừa sức tiếp tục đi về phía trước? Cho dù mỗi người được phát cho một ít lộ phí, nước và lương khô, nhưng liệu chống được mấy ngày trên đường đây?

Ai nấy cũng mặt xám mày tro, có người kéo lê nồi niêu xoong chảo, có người cõng trẻ con, có người khiêng cáng cứu thương, dìu thì dìu, nằm thì nằm, đi không nổi nữa, ngồi thành từng tốp trước tường thành. Đám đàn ông trẻ tuổi còn sức để nổi giận, đập cổng thành hô lớn: "Các ngươi không thể làm vậy được! Các ngươi muốn bọn ta chết sao!"

"Đều là người Tiên Lạc với nhau, các ngươi có cần đuổi cùng giết tận như vậy không!"

Một người đàn ông gào đến khản cổ: "Đuổi bọn ta ra thì thôi đi, ta không vào, nhưng cho vợ con ta ở lại được không?!"

Như kiến càng lay cây, cổng thành chẳng hề nhúc nhích.

Tạ Liên đứng trên lầu cổng thành. Áo trắng bay phần phật, y lướt qua tường chắn mái, nhìn xuống bên dưới. Phía ngoài hoàng thành toàn là đầu người chậm chạp lúc nhúc, chi chít đông nghịt, cực giống bầy kiến mà y từng thấy vào thuở nhỏ chơi trong ngự hoa viên.

Lúc đó xuất phát từ tò mò, y nhìn thêm vài lần, vừa duỗi một ngón tay định chọt lén thì có cung nhân kêu lên ngay: "Điện hạ, thứ này bẩn muốn chết, không được chạm, không được chạm!" Sau đó nhấc váy chạy vội qua đây, đạp vài cái nghiền chết bầy kiến ấy.

Lúc kiến dế còn sống, ngoài chi chít lít nhít thì chẳng có gì đẹp mắt, bị giẫm chết lại biến thành một bãi thua cả bùn cặn, càng chẳng đẹp đẽ gì cho cam.

Còn bên trong hoàng thành, vạn nhà đèn đuốc sáng trưng, ca múa vui vẻ. Một bức tường thành, tách rời hai thế giới khác nhau một trời một vực.

Người Vĩnh An đến sau không được vào thì thôi, vậy mà người ở trong từ trước cũng bị đuổi ra. Tuy nhẫn tâm thật, nhưng Tạ Liên có thể hiểu được, đó là bởi vì mấy tháng nay, dân hoàng thành và dân Vĩnh An xung đột gây sự càng lúc càng nhiều, để cả đám đàn ông như thế trong thành, chỉ sợ lỡ như bọn họ nội ứng ngoại hợp gây nhiễu loạn.

Tuy nhiên, có một điều Tạ Liên cho rằng vẫn thương lượng được, y nghiêm túc nói: "Tại sao phụ nữ và trẻ em cũng phải rút luôn? Trong đó có một số người chẳng còn đi được bao xa nữa."

Phong Tín và Mộ Tình đứng hầu sau lưng y. Mộ Tình đáp: "Muốn rút thì phải rút đi cùng nhau. Không lo ít chỉ lo chia không đều, không thể phân biệt đối xử, bằng không khó tránh kích động kẻ khác. Dựa vào đâu họ ở lại được còn ta thì không?"

Phong Tín nói: "Ngươi nghĩ nhiều quá."

Mộ Tình hờ hững cất giọng: "Sẽ có người nghĩ thế đấy. Hơn nữa nếu vợ và con đều ở lại, đám đàn ông đó sẽ không chịu đi quá xa, sớm muộn cũng sẽ quay trở lại. Giữ người trong thành chẳng khác nào để lại tai họa về sau."

Nhóm người Vĩnh An này không chịu đi, các tướng sĩ phía trong cổng thành cũng không đi được, nói: "Hừ, cứ nhây thế đi!"

Quốc vương bệ hạ đã hạ lệnh, lẽ nào bọn chúng cho rằng ngồi đây ăn vạ sẽ có tác dụng sao? Nhây được một hai ngày thôi, lẽ nào nhây được một hai tháng, một hai năm?

Dân chúng và tướng sĩ trong hoàng thành đều cho là thế. Có người Vĩnh An vì tuyệt vọng mà chấp nhận số phận, quyết định đánh cược một lần, tiếp tục đi về phía Đông, nhưng số lượng đó không nhiều. Phần lớn vẫn mong mỏi ngồi trước cổng thành, ngóng trông hoàng thành mở cổng cho mình vào, chí ít cho mình một chốn dừng chân để thu xếp sơ trước rồi tiếp tục lên đường. Thêm nhiều người Vĩnh An mới tới, nhìn cổng thành đóng chặt cũng thất vọng vô cùng, nhưng thấy nhiều người ngồi canh như thế, bọn họ cũng ôm lòng kỳ vọng và mong đợi gia nhập đại đội.

Thế là ba bốn ngày sau, người tụ tập ở cổng thành càng lúc càng đông, mấy chục ngàn người gần như đã dựng trại đóng quân tại đây, tạo nên một cảnh tượng hoành tráng. Bọn họ miễn cưỡng chèo chống nhờ nước và lương khô mà quốc vương phân phát, nhưng đã sắp đến cực hạn.

Cực hạn này, xảy ra vào ngày thứ năm.

Năm ngày qua, ngày nào Tạ Liên cũng chia một ngày làm ba, một phần dùng cho tín đồ điện Thái Tử, một phần dùng cho thu xếp chuyển nước tạo mưa, một phần dùng cho chăm sóc dân chúng Vĩnh An ngoài thành, tuy có Phong Tín và Mộ Tình phụ giúp, nhưng đôi lúc y cũng cảm thấy không kham nổi gánh nặng, có lòng mà không đủ sức. Ngày hôm đó, vào đúng canh giờ y không canh giữ ở ngoài thành, dưới ánh mặt trời gay gắt, trước cổng thành đột nhiên vang lên một tiếng hét thảm.

Tiếng hét thảm là của một cặp vợ chồng đang bế một đứa bé. Người người đua nhau vây quanh họ, hỏi: "Thằng bé này sao thế?" "Đói hay khát?" Lát sau kinh hãi kêu lên: "Mọi người đem chút nước tới đây đi, sắc mặt thằng bé này không ổn rồi!"

Phụ nhân kia khóc lóc đút nước cho đứa bé ngộp đến nỗi mặt đỏ au, song tất cả nước đều bị nôn ra. Cha nó nói: "Ta không biết xảy ra chuyện gì nữa, nó bị bệnh rồi, đại phu, cần đại phu!" (Phụ nhân = phụ nữ đã có chồng)

Bế con trai xông đến trước cổng thành, hắn đập cổng rầm rầm: "Mở cổng, mở cổng cứu mạng với! Có người sắp chết, con ta sắp chết!"

Dĩ nhiên binh sĩ phía trong không dám mở cổng. Bất luận có phải thật sự có người sắp chết hay không, ngoài cổng tận mấy chục ngàn người, mở cổng rồi đừng mong đóng lại nữa, vì vậy chỉ dám thông báo cho tướng sĩ cấp trên. Khí trời oi bức, các tướng sĩ canh giữ suốt nhiều ngày cũng có hơi cáu kỉnh, nói qua quýt lấy lệ: "Cho hắn nước và thức ăn." Thế là bọn họ dùng một sợi dây thừng, treo chút nước và thức ăn đưa xuống dưới. Cha đứa bé kia nói: "Cảm ơn các ngươi, cảm ơn các vị tướng sĩ đại ca, nhưng chúng ta không cần nước và thức ăn, có thể nào tìm giúp chúng ta một đại phu không?"

Điều này thật sự khiến người ta khó xử, không thể cho hắn vào cổng tìm đại phu, cũng không thể treo một đại phu đưa xuống cho hắn. Có trời mới biết ra đến ngoài cổng, đám dân đói bụng suốt bốn năm ngày đó sẽ làm nên chuyện gì? Vì vậy, mấy vị tướng quân nói: "Bỏ đi, đừng quan tâm, cứ lờ đấy, không chết được đâu. Nếu hỏi nữa thì bảo đã thông báo rồi, đang đi xin chỉ thị của quốc vương bệ hạ."

Liên tục mấy ngày buồn phiền vì chuyện của Vĩnh An, quốc vương đã nhiều lần nổi giận, dĩ nhiên không ai dám đi quấy rầy ngài vì chút chuyện vặt này. Các binh sĩ đáp lại theo lời dặn, cha đứa bé kia mới yên tâm, luôn miệng nói cảm tạ, đội ơn quốc vương, quỳ xuống đất dập đầu. Nhưng hết canh giờ này đến canh giờ khác trôi qua, bóng nắng chói chan ngả từ bên này sang bên kia, đại phu mãi không xuất hiện, đứa bé trong ngực lại càng lúc càng nóng.

Cặp vợ chồng kia bế con mà tay run cầm cập, cha đứa bé đổ mồ hôi lạnh đầy đầu, lẩm bẩm: "Còn có người tới không? Còn mở cổng cho ta không?"

Cuối cùng hắn không nhịn được nữa, lớn tiếng gọi với lên cổng thành: "Các tướng quân, thật xin lỗi, ta muốn hỏi một chút... Đại phu đâu?"

Binh sĩ đáp: "Đã đi xin chỉ thị của quốc vương bệ hạ, ngươi chờ thêm chút đi."

Bên dưới có người không kiềm được: "Hai canh giờ trước đã nói đi rồi, sao đến giờ vẫn chưa trở lại?"

Đám binh sĩ nghe theo chỉ thị của cấp trên, đáp xong không đếm xỉa tới nữa. Những người dưới tường thành vừa tức giận, vừa bất đắc dĩ, vừa đau lòng, bọn họ túm tụm quanh đứa bé, bắt đầu hoài nghi: "Mấy người đó thật sự đã thông báo cho quốc vương bệ hạ sao? Không phải đang gạt chúng ta chứ?"

Cha đứa bé không chờ được nữa, hạ quyết tâm cõng con trai buộc sau lưng mình, dặn dò vợ vài câu. Phụ nhân kia tháo một lá bùa hộ mệnh trên cổ, đeo vào cổ chồng. Người đàn ông nọ chạy nhanh về phía tường thành, thử trèo lên trên.

Mặt bên tường thành được xây theo kiểu cực khó đặt tay, cha đứa bé túm vài cái nhưng không trèo lên được, đám đàn ông còn lại rối rít nói: "Để ta giúp ngươi!" Sau đó chạy qua nâng hắn lên. Mấy chục người xếp chồng lên nhau, đưa hắn lên chỗ cao hơn một trượng. Đến đây, cha đứa bé mới miễn cưỡng nắm lấy sợi dây thừng vừa rồi được dùng để treo nước và thức ăn, tiếp tục trèo lên trên. Mấy chục ngàn người bên dưới hồi hộp theo dõi cha đứa bé, không dám cổ vũ hắn cố lên, sợ bị phát hiện. Nhóm binh sĩ trên lầu cổng thành đã canh giữ vài ngày, đám dân chạy nạn Vĩnh An này cũng không gây nên chuyện lớn gì, khó tránh có chút lơi lỏng, chờ khi cha đứa bé trèo đến gần phân nửa, bọn họ mới bất chợt phát hiện có một người bám trên tường thành, bèn cất giọng quát to: "Làm gì vậy! Không được phép trèo tường! Kẻ nào trèo tường giết không tha! Có nghe rõ không, kẻ nào trèo tường giết không tha!"

Nghe bọn họ uy hiếp, cha đứa bé cũng hô lớn: "Ta không có ác ý! Ta chỉ muốn đưa con đi xem bệnh, sẽ không làm gì hết!" Vừa hô vừa tiếp tục trèo lên trên. Một gã tướng quân vốn đang dùng cơm, vừa hay tin này thì nổi cơn tam bành. Nếu hắn ta trèo lên bình yên vô sự, mở ra tiền lệ đó, thế chẳng phải sau này sẽ có vô số người Vĩnh An noi theo? Nhất định phải cản lại! Thế là gã sải bước dài, đứng bên bờ tường rống xuống dưới: "Ngươi không muốn sống nữa sao! Lập tức xuống ngay, nếu còn không xuống chúng ta không tha cho ngươi đâu!"

Mà người đàn ông nọ đã trèo đến nơi rất cao, qua được hơn phân nửa, cố thêm một chút là lên tới rồi, tất nhiên không chịu dừng lại. Xưa nay trong quân doanh, gã tướng quân kia luôn nói một là không có hai, chẳng ai dám trái lệnh của gã, ai dám trái lệnh thì đơn giản thôi. Gã đi tới bên tường, rút kiếm ra chém một nhát, sợi dây thừng đứt phựt.

Người đàn ông nọ nắm sợi dây thừng bị chém đứt, rơi xuống từ lưng chừng không trung. Giữa tiếng thét chói tai của vô số người, ngã phịch xuống nền đất cứng ngoài cổng thành.

Tạ Liên xuất hiện ngay sau đó.

Người đàn ông nọ ngã đưa lưng xuống đất, mà lưng hắn còn cõng đứa bé. "Đùng" một tiếng, đứa bé bị ép thành một bãi thịt vụn nát bấy, một đóa hoa máu bắn tóe ra mấy trượng. Cổ của cha nó cũng bẻ gãy, hai mắt trợn tròn, một lá bùa hộ mệnh trượt khỏi cần cổ méo lệch, chính giữa viết hai chữ "Tiên Lạc", có hoa văn thêu bằng chỉ vàng, chính là bùa hộ mệnh khai quang lấy từ điện Thái Tử.

Vào khoảnh khắc trước khi trèo lên, người đàn ông nọ và vợ mình từng nắm bùa hộ mệnh, lặng lẽ khẩn cầu Thái tử điện hạ phù hộ, thế nên Tạ Liên mới nghe được tiếng cầu nguyện của bọn họ mà đuổi tới nơi này.

Tiếc rằng suy cho cùng, y nào phải những nhân vật chính anh hùng trong thoại bản* truyền kỳ, lần nào cũng có thể hiện thân vào đúng một khắc trước khi đao chém xuống, hô đao hạ lưu nhân trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc. Phụ nhân kia không đủ can đảm lật xác chồng lại xem con trai biến thành hình dạng gì, nàng bụm mặt gào to một tiếng, không nhìn mà lao thẳng về phía trước, đâm đầu vào tường, "cộp" một tiếng, ngã xuống không nhúc nhích nữa.

*Thoại bản: hình thức tiểu thuyết Bạch thoại phát triển từ thời Tống, chủ yếu kể chuyện lịch sử và đời sống xã hội đương thời, thường được dùng làm cốt truyện cho các nghệ nhân sau này. (theo vndic)

Ngay trước mắt Tạ Liên, dưới bức tường hoàng thành, chỉ trong nháy mắt đã có thêm ba thi thể!

Y còn chưa kịp phản ứng, dân chúng ngoài cổng thành đã không chịu nổi nữa.

Có người bắt đầu mắng: "Chết cả rồi, một nhà ba người chết cả rồi! Nhìn đi, đây là tướng quân tốt phụng sự cho quốc vương bệ hạ của chúng ta đấy! Không cứu chúng ta, ngược lại còn ép chúng ta vào đường chết!"

"Không cho chúng ta vào cũng không đưa người ra, bảo người ta phải làm sao đây? Ba mạng người máu me đầm đìa đang nhìn các ngươi đấy!"

"Bảo rằng người Vĩnh An phải rút hết khỏi hoàng thành, thế tại sao những kẻ giàu có kia không rút chung luôn? Chúng ta không tiền không quyền thì đáng phải chờ chết phải không? Xem như ta đã nhìn rõ rồi!"

"Không nhịn được nữa... thật sự không nhịn được nữa. Thuế cần thu hàng năm thu đâu có ít, lúc cứu trợ thiên tai bay đi đâu hết rồi?"

"Thà đút tiền nuôi lũ sâu mọt đó xây miếu cho con mình chứ không cứu tế nạn dân, chỉ cho chút nước và lương khô rồi đuổi đi, coi chúng ta là gì chứ? Hôn quân, hôn quân!"

Binh sĩ trên lầu cổng thành quát to bảo ngừng, tướng quân kia có tình thế nào mà chưa từng nhìn thấy, vì vậy chẳng để vào mắt. Tuy nhiên, tình hình đã mơ hồ vượt khỏi tầm kiểm soát. Hàng ngàn hàng vạn đôi tay căm phẫn đẩy cổng chính, có người còn dứt khoát dùng đầu hay thân mình mà tông, lần này không còn là kiến càng lay cây nữa.

Cổng thành nhúc nhích, thậm chí cả tòa lầu cổng thành cũng lờ mờ rung chuyển!

Từ khi sinh ra tới nay, Tạ Liên chưa bao giờ chứng kiến tình hình thế này. Nhân dân mà y nhìn thấy luôn thân thiết, hoà đồng, ấm no, đáng mến. Những người mặt mày méo xệch khóc la thảm thiết này, khiến y như lọt vào một thế giới hoàn toàn lạ lẫm, không khỏi sởn hết gai ốc. Ngay cả khi chạm trán yêu ma tà linh khủng bố nhất, y cũng chưa hề có cảm giac như thế. Đúng lúc này, trên lầu cổng thành trruyền đến một tiếng gầm giận dữ.

Tạ Liên quay phắt đầu lại, chỉ thấy một bóng người cao gầy bóp cổ gã tướng quân khi nãy chém đứt dây thừng khiến cho ba người dưới tường thành bỏ mạng, "rắc" một tiếng giòn vang, bẻ gãy cổ của gã.

Đám binh sĩ cũng không biết người này đột ngột xuất hiện thế nào, cả bọn sợ mất mật, gào thét cầm kiếm vây tới: "Kẻ nào đấy?!" "Ngươi lên đây bằng cách nào?!"

Tạ Liên lại nhanh chóng chú ý đến tay đối phương, đôi tay ấy đã máu thịt lẫn lộn. Người này thế mà lại dùng một đôi tay bằng xương bằng thịt, bấu vào tường thành gần như không có kẽ hở trèo lên trên. Mà khi bóng người kia quay lại, quả nhiên là Lang Anh!

Lang Anh bị binh sĩ bao vây chẳng hề suy suyển, lật tường chắn mái ném thi thể của gã tướng quân kia xuống lầu cổng thành, còn mình thì giẫm lên thi thể đó, xem nó như bàn đạp giảm xóc, nhảy xuống.

Một khắc trước khi nhảy xuống, hắn nhìn thẳng về phía Tạ Liên, nhưng không phải nhìn Tạ Liên, mà là xuyên qua Tạ Liên, nhìn hoàng cung tọa lạc tại chính giữa hoàng thành.

Kể từ hôm đó, nước Tiên Lạc chìm sâu vào hỗn loạn.

Dựa vào đám dân tị nạn Vĩnh An lang thang lưu lạc này, muốn đối đầu với quân đội hoàng thành Tiên Lạc, chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, châu chấu đá xe.

Song, những người đã không còn đường lui sẽ có can đảm lấy trứng chọi đá, châu chấu đá xe. Sau một hồi hỗn loạn, cuối cùng mấy chục ngàn người Vĩnh An cũng rời khỏi cổng thành, rút lui cách ra một khoảng, chuyển nơi dựng trại đóng quân.

Bọn họ nhất định không chịu đi. Biết đâu chừng sẽ bỏ mạng dọc đường, lằng nhằng ở đây nói chung cũng phải chết, có gì khác đâu? Nhờ vào nước và lương thực quốc vương phát cho trước đó, cùng với vỏ cây, cỏ dại, rễ cây, sâu rắn chuột kiến hoang dã, và cả oán hận lẫn không cam lòng tích tụ nhiều ngày qua, những người này liều chết chống chọi bằng sức sống kiên cường vượt xa tưởng tượng. Mấy ngày sau, hơn ngàn người vội vã tập hợp lại cầm cuốc, bừa, đá, cành cây, quay trở lại đánh một trận.

Tuy trận này đánh bừa đánh loạn, thua đến thảm thương, hơn một ngàn người mà thương vong quá nửa, nhưng không phải không có thu hoạch gì. Một mình Lang Anh xông vào lầu cổng thành, khiêng được vài bao lương thực và mấy bọc binh khí, mặc dù bị thương nghiêm trọng, nhưng trái lại đã khơi dậy ý chí chiến đấu của đám quần chúng liều mạng.

Lúc này, tính chất của bọn họ đã tiến gần hơn tới hai chữ "giặc cướp". Một lần, hai lần, rồi ba lần, các binh sĩ Tiên Lạc phát hiện, đám "giặc cướp" này tiến bộ rất nhanh.

Đám người tập kích loạn xạ không hề có kinh nghiệm ban đầu dần dần mò ra đường lối, kẻ tới mỗi lần một khó giải quyết hơn, kẻ về được cũng ngày càng nhiều hơn, còn có một làn sóng dân tị nạn mới nghe tin ùn ùn kéo đến gia nhập, mở rộng đội ngũ của bọn họ. Vì chuyện làm sao giải quyết đám "giặc cướp" này, nội bộ nước Tiên Lạc cãi nhau đến long trời lở đất, mà sau khi những cuộc xung đột hoang đường thế này diễn ra năm sáu lượt, Tạ Liên chẳng thể đứng ngoài bàng quan được nữa.

Đã nhiều ngày y không lên Thượng thiên đình báo danh, lần này vừa về Tiên kinh, y lặng thinh chạy thẳng vào điện Thần Võ. Lúc xông vào, Quân Ngô đang ngồi trên vị trí cao nhất, các thần quan đều cúi đầu nghe lệnh, dường như đang bàn bạc việc quan trọng. Nếu như trước đây, Tạ Liên sẽ chọn ngày khác ghé thăm, nhưng hôm nay y không chờ nổi nữa, không quanh co lòng vòng mà mở miệng nói thẳng: "Đế Quân, ta muốn trở về nhân gian."

Các thần quan đều kinh ngạc, sau đó che miệng không thốt câu nào, không muốn để lộ quá nhiều cảm xúc. Quân Ngô nghĩ ngợi giây lát rồi đứng dậy khỏi bảo tọa, ôn tồn nói: "Tiên Lạc, ta cũng biết đại khái đã xảy ra chuyện gì, nhưng ngươi bình tĩnh lại trước đã."

Tạ Liên đáp: "Đế Quân, ta đến đây không phải để hỏi ý kiến, mà là để thông báo. Con dân của ta đang rơi vào cảnh nước sôi lửa bỏng, xin thứ cho ta không thể bình tĩnh được."

Quân Ngô lên tiếng: "Chuyện đời tự có định số. Ngươi phải biết, một khi ngươi xuống, sẽ phạm vào lệnh cấm."

Tạ Liên đáp: "Phạm vào lệnh cấm thì cứ phạm vào lệnh cấm!"

Nghe vậy, các thần quan đều biến sắc. Quả thật xưa giờ chưa từng có vị thần quan nào dám hùng hồn dõng dạc thốt ra mấy câu như thế. Cho dù Quân Ngô có ưu ái vị Thái tử Tiên Lạc tuổi còn trẻ đã phi thăng này đến đâu, y cũng hơi to gan quá rồi.

Kế đó, Tạ Liên khom người cúi đầu, nói: "Xin người mở một con đường, cho ta chút thời gian. Nay đã khai chiến, thương vong là không thể tránh khỏi, nhưng nếu ta có thể dẹp yên cuộc chiến này, giảm số người chết đến mức thấp nhất, khống chế sự việc trong phạm vi nhỏ nhất, sau khi cuộc chiến kết thúc, ta nhất định sẽ tự nguyện trở về xin trị tội, đến lúc đó tùy người xử trí. Bất kể có đè ta dưới núi một trăm năm, một ngàn năm, một vạn năm! Ta tuyệt đối không hối hận!"

Nói đoạn, y giữ nguyên tư thế cúi đầu, lui ra ngoài điện. Quân Ngô gọi: "Tiên Lạc!"

Bước chân Tạ Liên khựng lại. Quân Ngô nhìn y, thở dài: "Ngươi không cứu được tất cả mọi người đâu."

Tạ Liên chậm rãi đứng thẳng lên, nói: "Có cứu được tất cả mọi người không, ta phải thử mới biết được đáp án. Cho dù trời nói ta nhất định phải chết, nhưng nếu thanh kiếm kia không xuyên qua tim ta, ghim chặt ta dưới đất không nhúc nhích nổi, ta vẫn sẽ sống sót, ta sẽ níu một hơi tàn, đấu tranh đến cùng!"

Lần này trở lại nhân gian, khác hẳn những lần trước đây. Tạ Liên cảm thấy có thứ gì đó đã bị ném mất. Có chút nhẹ nhõm, lại có chút nặng nề. Bước đầu tiên, y vội vã trở về hoàng cung trước.

Quốc vương và hoàng hậu ở phía sau ngự thư phòng, nét mặt âu sầu mỏi mệt, nhỏ giọng trò chuyện với nhau. Tạ Liên đi tới ngoài cửa, căng thẳng giây lát rồi bình ổn cảm xúc, vén rèm lên, bước vào trong, cất tiếng gọi: "Phụ hoàng."

Quốc vương và hoàng hậu đồng thời quay đầu lại, cả hai đều sững sờ. Trong khoảnh khắc, vẫn là hoàng hậu đứng dậy trước, mừng rỡ nói: "Hoàng nhi!"

Bà chìa hai tay bước qua đón con, Tạ Liên đỡ lấy bà. Song nụ cười còn chưa kịp tắt, chợt thấy quốc vương sầm mặt hỏi: "Con xuống đây làm gì!"

Nụ cười bên môi Tạ Liên cứng đờ.

Trước đó nghe được cha mẹ ngầm nói chuyện trong hoàng cung, Tạ Liên cảm thấy cha mình vẫn nhớ thương mình chứ không hề có nhiều ý kiến với mình như ông thể hiện mặt ngoài. Cứ ngỡ mình trở về, ít nhiều gì quốc vương cũng sẽ tỏ chút vui mừng, nếu vậy chắc chắn mình cũng sẽ tỏ thái độ mềm mỏng hòa thuận. Nào ngờ quốc vương lại phản ứng như vậy, sắc mặt không hài lòng chút nào, thế là Tạ Liên cũng nổi nóng, nghiêm giọng hỏi: "Sao con lại xuống ư, còn không phải đều vì người sao? Vĩnh An loạn lạc như hôm nay, người tự hỏi lòng xem có phải mình cũng gánh trách nhiệm nhất định không?"

Sắc mặt quốc vương biến đổi, lạnh lùng hỏi: "Trách nhiệm của ta? Đây là lời con nên nói với ta sao?!"

Không ngờ ông giận đến mức không chú ý đến việc tự xưng. Hoàng hậu rơi nước mắt nói: "Đã ra nông nỗi này rồi, hai người còn muốn tranh cãi nữa sao?"

Tạ Liên đáp: "Không phải tranh cãi, mà là nói lý lẽ. Cho dù người là quốc vương, là phụ hoàng của con, nhưng nếu người có trách nhiệm, sao con không được nói chứ? Tại sao không dốc sức cứu trợ thiên tai? Cứ cho là tiền cứu trợ bị ngốn ở từng tầng, vậy tại sao không trừng trị lũ tham quan ô lại đó? Nếu người nghiêm trị mạnh tay, bắt kẻ nào xử kẻ nấy, làm gì còn sâu mọt nào dám tham ô nữa, chẳng lẽ tình hình không tốt hơn hiện tại sao?"

Trán nổi gân xanh, quốc vương đập bàn quát: "Im miệng! Con tưởng quốc khố là cái động không đáy, hổng bao nhiêu lấp bấy nhiêu sao? Lại còn bắt kẻ nào xử kẻ nấy, nếu dễ dàng như thế, nhờ một tiếng ra lệnh của vua là thế như vũ bão hiệu quả tức thời, thì tại sao tham quan trong các triều đại chưa từng bị diệt tận gốc chứ? Con thì hiểu cái gì, trẻ con ngu dốt, còn muốn bàn chuyện trị quốc với ta!"

Tạ Liên nói: "Được, con không hiểu. Vậy cho dù hoàng thành không còn chốn dung thân cho dân tị nạn, rút đi là lẽ tất yếu, nhưng vì sao người không cấp thêm lộ phí cho dân tị nạn? Tại sao không trấn an lòng họ, phái quân đội hộ tống họ về phía Đông?"

Quốc vương trợn tròn mắt, chỉ tay lên trời mắng: "Cút! Cút mau! Cút về trời của con đi! Thấy con là phiền rồi! Không được phép xuất hiện nữa!"

Tạ Liên mang lòng nhiệt huyết giáng trần, vừa gặp cha mẹ lần đầu đã nghe cha bảo muốn mình cút về trời, y không hé răng nói câu nào, khom người với cha rồi lui xuống. Hoàng hậu đuổi theo kéo y lại, gọi: "Hoàng nhi à!"

Tạ Liên dịu giọng nói: "Mẫu hậu, người đừng lo lắng, con chỉ đi quanh vương đô xem xét tình hình hiện tại thôi."

Hoàng hậu lắc đầu giảng giải: "Hoàng nhi, mẹ không hiểu mấy chuyện quốc gia đại sự, nhưng mẹ hiểu phụ hoàng của con. Ông ấy làm quốc vương thế nào, bao nhiêu năm qua, mẹ nhìn thấy mà. Có thể lòng con cảm thấy ông ấy làm không tốt, đôi lúc mẹ cũng thấy vậy, chỉ là mẹ không nói thôi. Nhưng con đừng nói ngay mặt ông ấy như thế, dù sao ông ấy cũng là phụ hoàng của con. Con nói thẳng mặt rằng ông ấy không dốc sức, vậy thì nặng lời quá."

Tạ Liên muốn nói lại thôi. Hoàng hậu tiếp tục nói: "Tuy con là Thái tử, nhưng chưa từng làm quốc vương bao giờ. Trị quốc không giống như con tu đạo. Lúc con mới vào Hoàng Cực quán, quốc sư đã từng nói, tu đạo chỉ quan tâm đến "bản tâm" (tâm của mỗi người), nói vậy đúng chứ?"

Tạ Liên chậm rãi gật đầu, hoàng hậu nắm tay y, nói: "Nhưng còn nhiều việc khác trên đời, chỉ dốc sức thôi cũng vô dụng, con còn phải có năng lực. Chẳng những con cần có năng lực, thuộc hạ dưới trướng con cũng phải có năng lực, năng lực thôi vẫn chưa đủ, còn phải đồng lòng với con nữa."

Tạ Liên im lặng không đáp. Hồi lâu sau, y hỏi: "Có phải quốc khố cạn kiệt lắm rồi không? Con không cần miếu thờ, bảo ông ấy đừng xây cho con nhiều miếu như vậy, dẹp hết đống tượng vàng đó đi."

Hoàng hậu nói bằng giọng bất đắc dĩ: "Thằng nhóc này... xây miếu tất nhiên có tâm ý riêng của phụ hoàng con, muốn cho con những gì tốt đẹp, muốn con trên trời được nở mày nở mặt. Nhưng con có biết, trong tám ngàn đạo quán, rốt cuộc có bao nhiêu tòa thật sự do phụ hoàng con xây không? Chắc con không biết đâu."

Đúng là Tạ Liên không biết thật. Y nghĩ ngợi rồi trả lời: "... Một nửa ư?"

Hoàng hậu đáp: "Nếu phụ hoàng con thật sự dùng tiền trong quốc khố xây bốn ngàn điện Thái Tử, không cần chờ dân Vĩnh An nổi loạn, hoàng thành đã loạn trước rồi. Nếu quốc khố rỗng tuếch, lấy đâu ra tiền xây nhiều như thế? Phụ hoàng con chỉ xây hơn hai mươi tòa thôi, người khác học theo ông ấy, cũng xây theo phong trào, muốn lấy lòng ông ấy, lấy lòng con, cái này cũng đổ lên đầu phụ hoàng con sao?"

Tạ Liên ngập ngừng: "Con..."

Hoàng hậu nói khẽ: "Đúng là phụ hoàng con làm chưa đủ tốt, nhưng ông ấy đã... cố hết sức rồi. Có điều chuyện trên đời này, chỉ cố hết sức thôi là chưa đủ."

Ngưng một lát, bà nói tiếp: "Bây giờ con thấy những người Vĩnh An đó đáng thương nên trách cứ phụ hoàng con. Nhưng tất cả đều là con dân của ông ấy, lẽ nào toàn là chúng ta ức hiếp họ sao? Thật ra..."

Nói được nửa chừng, quốc vương trong ngự thư phòng giận dữ quát lên: "Nàng nói nhảm với nó nhiều như thế làm gì, bảo nó mau biến về trời đi!"

Hoàng hậu quay đầu, thở dài: "Hoàng nhi, con... con đừng xuống nữa. Con nên về đi thôi."

Rời khỏi hoàng cung, Tạ Liên đi men theo một con hẻm nhỏ bên đường Thần Võ, đúng lúc Phong Tín và Mộ Tình chạy tới. Mộ Tình vừa đến đã hỏi bằng giọng không thể tin nổi: "Điện hạ! Huynh tự xin hạ phàm ư? Huynh tới điện Thần Võ nói với Đế Quân rồi sao??"

Tạ Liên đáp: "Ừ."

Mộ Tình hỏi: "Tại sao không nói trước với ta một tiếng?"

Phong Tín thấy khó hiểu: "Ngươi có ý gì. Điện hạ muốn làm gì còn phải khai báo với người khác sao?"

Mộ Tình có chút thất lễ, nói: "Tại sao lại không? Chúng ta là người của huynh ấy mà, bây giờ chúng ta buộc chung một chỗ với huynh ấy, mọi cử chỉ của huynh ấy đều gắn chặt với tình cảnh của chúng ta, ta muốn biết huynh ấy định làm gì thì sai chỗ nào?"

Phong Tín hỏi vặn lại: "Điện hạ làm gì chúng ta đều phải theo cơ mà? Huynh ấy muốn làm gì, lên trời hay xuống đất, huynh ấy có chủ kiến của riêng mình, ngươi đang sợ gì chứ?"

"Ngươi!" Mộ Tình đáp: "Không phải ta sợ! Chỉ là ta..."

Tạ Liên xua tay: "Đủ rồi. Đừng cãi nhau nữa!"

Phong Tín và Mộ Tình tức thì im miệng. Lúc này, một đội ngũ diễu hành ngang qua đường lớn, hàng trăm hàng ngàn bách tính cao giọng hò hét: "Vĩnh An chưa diệt, nước không ngày yên!"

"Ung nhọt quấy loạn đất nước, ức hiếp người quá đáng!"

Người Tiên Lạc chưa từng công kích thứ gì mạnh mẽ đến thế, còn diễu hành sôi nổi rầm rộ, Tạ Liên không khỏi thấy lạ. Phong Tín lại cau mày hỏi: "Sao trong kia lại có cả phụ nữ vậy?"

Quả đúng là thế, trong đội ngũ diễu hành, một thiếu nữ xông lên ngay hàng đầu tiên. Thân hình thiếu nữ nhỏ gầy, da trắng như tuyết, mắt sáng đen láy, gò má ửng hồng, nhưng không phải xấu hổ mà là giận dữ, vô cùng gây chú ý. Lúc này Mộ Tình đã bình ổn cảm xúc, lạnh nhạt hỏi: "Điện hạ không nhận ra nàng sao?"

Tạ Liên đáp: "Không nhận ra."

Phong Tín lại cau mày hỏi: "Hình như hơi quen mắt thì phải?"

Mộ Tình trả lời: "Đó là một trong những ngọn nguồn."

Tạ Liên hỏi: "Ngọn nguồn gì cơ?"

Mộ Tình đáp: "Ngọn nguồn của cái không đội trời chung. Trước đó do người Vĩnh An trong hoàng thành mỗi lúc một đông, có người không chung sống đàng hoàng, lén lút gây sự khắp nơi, trong triều còn đang bàn bạc việc trục xuất, tin đồn đã sớm truyền ra ngoài. Có một người Vĩnh An muốn ở lại, không muốn đi, đâm ra bí quá hóa liều, trong một đêm nọ, gã lẻn vào nhà một người giàu bắt cóc con gái nhà đó đi."

Mộ Tình nói vậy, Tạ Liên nghe sơ vẫn chưa hiểu lắm: "Không muốn đi sao lại bắt cóc con gái một nhà giàu?"

Mộ Tình đưa mắt nhìn y, đáp: "Muốn cưới cô gái đó. Nhưng nếu không cưỡng ép bắt cóc, sẽ chẳng có con gái nhà nào trong hoàng thành chịu gả cho người Vĩnh An."

Tuy Mộ Tình không nói rõ, Tạ Liên cũng đã hiểu rồi.

Y chưa từng nghĩ rằng lại có thể như vậy, hóa ra trên đời này cũng có loại người đó, hóa ra cũng xảy ra loại chuyện đó, đột nhiên trào lên xung động muốn nôn mửa. Phong Tín mắng ngay tại chỗ: "Gớm quá!"

Lúc này, một đám bà cô vội vã chạy lên, khom lưng định kéo thiếu nữ kia xuống, xem ra nàng ta thừa dịp người nhà không chú ý tự mình chạy ra ngoài. Thiếu nữ không nghe, la hét: "Sợ cái gì! Ta có gì phải xấu hổ chứ? Có phải lỗi của ta đâu!"

Phong Tín ngạc nhiên nói: "Tính tình của nha đầu này dữ dội thật."

Mộ Tình kể: "Đúng vậy. Vốn dĩ nhà nàng đâu phải nhà tầm thường, cha nàng là trọng thần trong triều, nhà mẹ là thương gia giàu có trong hoàng thành, không nuốt được vụ thiệt thòi này, càng không thể vì mặt mũi mà lấy chồng. Trước tiên đánh chết người Vĩnh An đó, không lâu sau, những thương gia giàu có và nhân vật tiếng tăm trong toàn thành ký vào một lá thư, liệt kê tội trạng của những người Vĩnh An vào thành từ trước đến nay, khẩn cầu quốc vương bệ hạ nhốt tất cả những người này vào đại lao, nghiêm trị không tha. Lập trường của các đại thần ra sao, chắc không cần phải nói nữa."

Ngừng một lát, Mộ Tình hời hợt nói tiếp: "Nghe nói cha của cô gái này từng muốn đưa nàng vào cung tranh ngôi vị Thái tử phi, ắt hẳn điện hạ phải gặp nàng vài lần từ lâu rồi chứ, sao lại không nhận ra."

Cuối cùng Tạ Liên cũng phát hiện, tất cả mọi việc phức tạp hơn so với mình tưởng tượng nhiều.

Trong và ngoài thành, sớm đã không đội trời chung. Thần dân kích động căm phẫn, chỉ hận không thể tóm gọn một mẻ, đuổi cùng giết tuyệt, nếu sách lược của quốc vương nghiêng về phía người Vĩnh An, vậy khác nào đang tự tát vào mặt người bên mình? Quyết định cuối cùng là phát một khoản lộ phí từ quốc khố cạn kiệt cho bọn họ rút khỏi, tuy nhìn thì có vẻ khó coi, nhưng e rằng vẫn sẽ rước thêm bất mãn từ số đông.

Thứ đáng sợ hơn sự bất mãn của kẻ địch, chính là sự bất mãn của thần dân mà mình đang trị vì. Tuy nói tất cả vốn dĩ đều là thần dân Tiên Lạc, nhưng hiện tại chỉ e chẳng còn mấy ai nhận định như vậy nữa.

Y ngồi tít trên cao, đã lâu không biết chuyện nhân gian, mà cha y vẫn còn ở nhân gian. Là vua của một nước, muốn dùng tiền, muốn dùng người, vị trí đang đứng, áp lực phải gánh, băn khoăn cần có cùng với người lẫn việc phải dàn xếp, sao có thể giống như y được? Cũng như người Vĩnh An từ bên ngoài tới hoàng thành chiếm đất, náo loạn trộm cắp này kia, với một vị Võ Thần trong miếu mà nói, chung quy cũng chỉ là chuyện nhỏ, không đáng nổi giận vì nó, nhịn một chút là qua. Nhưng với dân chúng trong hoàng thành, đó lại là hiện thực, ngày ngày xua mãi không đi, là sự giày vò khó dung thứ, là mối nguy hại có khả năng bùng nổ vào bất cứ lúc nào. Cảm thấy đơn giản hoặc không đáng kể, chẳng qua vì người đứng trong vị trí đó không phải y mà thôi.

Tạ Liên không khỏi nghĩ đến hai bên tóc mai của quốc vương đã bạc hơn nhiều so với lần trước gặp mặt. Lần trước bảo rằng muốn nhuộm, e là sau đó không còn sức đi nhuộm nữa.

Thuở còn bé, y tin chắc rằng cha mình là bậc quân vương vĩ đại nhất trên đời này, càng lớn càng nhận ra không phải là như thế. Tuy cha y là quốc vương, nhưng chưa thể tính là anh minh vô song, đôi lúc còn hơi bảo thủ, thường phạm sai lầm, bỏ đi thân phận hết sức cao quý đó thì chỉ là một người phàm tục thôi.

Càng hiểu rõ lại càng thất vọng, quốc vương phát hiện sự thất vọng của y nên càng lúc càng không thể khoan nhượng cho từng ánh mắt không tán đồng, từng lời không chấp nhận của y, và điều khó mà khoan nhượng nhất, để y nhìn thấy sự thất bại của mình.

Trên đời này, không có người cha nào hy vọng con trai nhìn thấy mặt thất bại của mình. Người cha nào cũng hy vọng rằng, trước mặt con cái, mình mãi mãi luôn là người vĩ đại. Mà Tạ Liên xuất hiện ngay lúc đó như trách mắng cha mình: Cha làm quá tệ! Tệ đến mức con buộc phải xuống đây giúp cha cứu vãn tình hình. Bất luận với tư cách của một quốc vương hay một người cha, nghe được lời này, trong lòng làm sao dễ chịu được?

Rốt cuộc thiếu nữ kia cũng bị mấy tì nữ trong nhà ba chân bốn cẳng lôi trở về, số bách tính còn lại vẫn tiếp tục diễu hành, phất cờ hò hét, chẳng hét gì ngoài một việc: Giết! Khai chiến! Cho đám người Vĩnh An ngoài thành biết mặt!

Hồi lâu sau, Mộ Tình lên tiếng: "Điện hạ, huynh vẫn nên xin lỗi Đế Quân rồi trở về đi thôi. Việc đã đến nước này, thiên thời, địa lợi, nhân hòa, mất hết cả rồi."

Cũng giống như những lời Quân Ngô nói với y trên điện Thần Võ: Chuyện đời tự có định số. Câu nói này, há chẳng phải đang nói cho y biết: Vận mệnh nước Tiên Lạc của ngươi đã tận, mặc kệ nó đi.

Ngay cả hoàng hậu, mẹ của y, ngày nhớ đêm mong, chỉ trông ngóng được gặp y, nhưng đến lúc gặp được rồi lại rưng rưng nước mắt bảo y trở về, đừng quản nữa. Làm sao Tạ Liên lại không biết, cha mẹ không muốn mình phải đối mặt với cửa ải khó khăn này, thà rằng mình đứng ngoài bàng quan, tự lo cho mình là được rồi.

Nhưng mà, sao có thể như vậy được?

"......"

Tạ Liên trầm giọng nói: "Sẽ không đâu!"

Dứt lời, y sải bước ra ngoài.

Phong Tín và Mộ Tình sau lưng y đều giật mình, gọi: "Điện hạ!" Thế rồi tức tốc xông ra, che chở ở hai bên người Tạ Liên.

Nhưng mà, dân chúng trên khắp đường Thần Võ đã trông thấy thiếu niên áo trắng xuất hiện ở phía trước, ngay chính giữa đường. Đội ngũ nháo nhào một phen rồi tập hợp trở lại. Hơn một ngàn người vây thành từng hàng từng lớp quanh Tạ Liên, người đầu tiên hỏi bằng giọng không dám khẳng định: "Ngài là... ngài là Thái tử điện hạ ư?"

Người thứ hai ngập ngừng: "Chẳng phải Thái tử điện hạ đã phi thăng, từ lâu đã không còn là người phàm, sao ngài ấy lại xuất hiện ở đây?"

Người thứ ba cất cao giọng: "Là ngài ấy đấy! Ba năm trước trong buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời, ta đã tận mắt nhìn thấy, đúng là Thái tử điện hạ!"

Càng lúc càng có nhiều người nhận ra Võ Thần mà mình ngày đêm thờ cúng, Tạ Liên từ tốn đáp: "Là ta. Ta đã về rồi."

Thế là, dân chúng phát rồ.

"Thần tiên giáng trần! Đây là thần tiên giáng trần sờ sờ trước mắt nè!"

"Thiên nhân hạ phàm rồi!"

"Chắc chắn vì không đành lòng nhìn chúng ta tiếp tục bị giặc cướp ức hiếp nữa nên điện hạ mới xuống đó!"

Lập tức có người tràn trề hy vọng hỏi: "Thái tử điện hạ, ngài sẽ thống lĩnh chúng ta đánh bại người Vĩnh An sao? Nhất định là vậy phải không? Nhất định là vậy rồi!"

Khựng lại giây lát, Tạ Liên bình tĩnh nói: "Ta trở về là vì bảo vệ nước Tiên Lạc, bảo vệ con dân của ta."

Nghe câu này, Phong Tín và Mộ Tình đứng cạnh Tạ Liên không dám khẳng định rốt cuộc y có ý gì, nhưng chúng dân máu nóng sục sôi lại đơn phương tình nguyện lý giải hàm nghĩa của câu đó. Mà Tạ Liên tự có suy xét của mình, tim đập ngày càng kịch liệt, cắn răng nói: "... Hãy tin tưởng ta!"

Y siết tay thành đấm, nói: "Sự thờ phụng của các ngươi sẽ cho ta năng lượng mạnh hơn. Có phần năng lượng đó, ta sẽ thề chết bảo vệ Tiên Lạc, che chở chúng sinh. Xin các ngươi tin tưởng ta!"

Mọi người chỉ chờ mỗi giờ phút này, thứ họ muốn chính là lời cam đoan đó của Tạ Liên, cả bọn lập tức hoan hô nhiệt liệt, vây từng vòng quanh Thái tử điện hạ mà vái lạy: "Thề chết theo ngài! Đi theo điện hạ!"

"Bảo vệ Tiên Lạc!"

Nghe nói "Thần tiên hạ phàm", dân chúng hoàng thành túa ra từ phố lớn ngõ nhỏ, chỉ vì một lần chứng kiến kỳ tích ngàn năm hiếm có này, thậm chí vệ binh hoàng thành hay tin đuổi tới cũng không dám làm càn mà còn gia nhập hàng ngũ vái lạy. Ba người bị kẹp giữa đường nửa bước cũng khó đi, Phong Tín và Mộ Tình không thể không cố gắng duy trì trật tự, quát: "Đừng chen lấn, đừng chen lấn nữa!"

Tuy nhiên chẳng hiệu quả là bao, ai cũng muốn chen đến vị trí gần Thái tử điện hạ nhất, dùng tay mò mẫm góc áo của vị thần nhân giáng trần này, như thể cả người đều được khai quang vậy. Cuối cùng kinh động đến quốc vương trong hoàng cung, quốc vương phái vài vị tướng quân dẫn binh sĩ võ trang đầy đủ ra ngoài, bấy giờ mới đuổi được đám dân chúng cuồng nhiệt.

Sau khi tất cả mọi người giải tán, Tạ Liên trông thấy một thứ dưới mặt đất lưu đầy dấu chân lộn xộn và bụi bặm mịt mù. Y bước lại gần, cúi người nhặt nó lên.

Đó là một đóa hoa, nhưng đã bị nhiều người giẫm đạp, gần như nghiền thành màu bùn, chỉ thấy được chút màu trắng tinh khôi ban đầu từ vài cánh hoa sót lại.

Mùi thơm dịu thoang thoảng ấy cũng không còn như xưa, chẳng mấy chốc đã nhạt phai.

Sau khi nghĩ thông suốt một số chuyện, lần này Tạ Liên quay về hoàng cung, thái độ dành cho quốc vương cũng ôn tồn hơn nhiều. Vì vậy, sắc mặt mà quốc vương dành cho y cũng hòa hoãn không ít, hai cha con mỗi người lùi một bước, xem như tạm thời đạt được hòa bình, mà quốc sư có vẻ đã sớm lường được Tạ Liên sẽ hạ phàm nên chẳng nói tiếng nào.

Trước đây Tạ Liên cho rằng, cả nước một lòng, chuyện lớn trước mắt, tất cả mọi người đều nghe lời quốc vương là chuyện đương nhiên. Nhưng khi thật sự ngồi xuống tham dự, bản thân y mới lĩnh hội được quốc vương là cương vị phiền não biết nhường nào. Quan lại trong một triều, hóa ra còn chia thành rất nhiều phe phái nhỏ, mỗi phe phái đều có tính toán của riêng mình, về việc rốt cuộc nên định đoạt một chuyện lớn ra sao, bọn họ có thể tranh luận không ngừng nghỉ suốt bảy ngày. Người nào phái nào cũng nói mình vì nước vì dân, nhưng thật ra chưa chắc trong lòng họ nghĩ như thế.

Đối với người Vĩnh An đóng quân ngoài thành và chính thức suy xét việc phân đình kháng lễ*, ý kiến của bọn họ rề rà mãi không thống nhất. Có người chủ trương phái quân tiêu diệt thẳng tay, không đủ cớ thì thêu dệt thêm mấy cái, chụp mũ thêm nhiều tội danh, có người lại không đồng ý.

*Phân đình kháng lễ: là lễ tiết tiếp đãi đời xưa, chủ nhân đứng ở mé đông đình viện, khách nhân đứng ở mé tây, cùng nhau hành lễ. Ý bảo quan hệ ngang vai ngang vế, hai bên ngang hàng.

Loạn lạc Vĩnh An, khởi đầu bởi thiên tai, bùng lên do nhân họa (họa do con người gây nên), một nhà ba người ngã chết ở cổng hoàng thành quả là ngòi nổ không thể nào tệ hơn, nếu không phải gã tướng quân chém đứt dây thừng đã bị Lang Anh tay không bóp gãy cổ, gã trở về cũng sẽ bị phạt nặng. Nói khó nghe một chút, cho dù nội bộ phức tạp thế nào hay có nhiều nguyên nhân ra sao, nhìn từ mặt ngoài, chuyện này rõ là quan ép dân phản. Việc đã đến nước này, náo động ầm ĩ, cố gán tội danh, chỉ càng khơi dậy ác cảm, dẫu thêu dệt cớ gì cũng không giấu được người khác. Nếu phái quân đi diệt sẽ tỏ rõ quốc vương vô đạo, khó xưng đội quân nhân nghĩa. Bịt miệng dân khó hơn ngăn nước dòng sông, một khi để lại tiếng bạo ngược, chẳng những không thể phục dân mà sợ rằng những quốc gia lận cận sẽ thừa dịp giương cờ thay trời hành đạo mà gây sự. Nghĩ theo góc độ khác, đám dân Vĩnh An đó có gì đáng sợ chứ? Bọn chúng núp trong núi rừng hoang dã, không lương thực không binh khí, có thể náo loạn được bao lâu?

Thế nên, cuối cùng chủ trương sau đã giành được thế thượng phong: Nếu người Vĩnh An dám cả gan xâm phạm, tới lần nào giết lần đó; không xâm phạm thì để bọn chúng tự sinh tự diệt, Tiên Lạc chẳng cần tốn một binh một tốt nào, đánh tới đánh lui sẽ tự hao tốn gần hết mà thôi.

Với tư cách là Võ Thần, Tạ Liên hạ phàm, tất nhiên phải phát huy tác dụng trên chiến trường. Vì vậy trong quân không thiếu những người ra sức cổ xuý: Phe nào có Thái tử điện hạ chính là phe chính nghĩa, đội quân nào có Thái tử điện hạ chính là quân đoàn của thần!

Nhất thời, hàng loạt trai tráng khắp toàn quốc hăng hái tòng quân, chỉ trong mấy tháng ngắn ngủi, quân số nước Tiên Lạc đã tăng gấp bội. Động tĩnh lớn như thế, hình như bên Vĩnh An cũng nhận được tin tức. Vốn dĩ bọn họ hành động cũng xem như dồn dập, hết nhóm nhỏ này đến nhóm nhỏ khác, nhưng rồi bất chợt im lìm, như thể có điều kiêng dè, đang ngấm ngầm tích sức, khiến cho tướng sĩ bên Tiên Lạc cũng căng thẳng không thôi, cố hết sức miêu tả cho Tạ Liên biết "cái tên Lang Anh lần nào cũng xông lên trước nhất" đáng sợ nhường nào. Nghe cái tên này, nhớ lại thi thể đứa bé hôm ấy mình nhìn thấy, tâm trạng của Tạ Liên không khỏi có hơi phức tạp.

Hai tháng sau, cuối cùng người Vĩnh An im hơi lặng tiếng một thời gian cũng phát động tấn công lần nữa.

Trận chiến này, Tạ Liên chỉ mang một thanh kiếm nhẹ tênh ra trận, ngay cả mũ giáp cũng không mặc. Chưa đầy nửa canh giờ, chiến đấu đã kết thúc.

Giữa mùi máu tanh che trời rợp đất, các chiến sĩ Vĩnh An còn sót lại vứt hết mũ giáp, vắt giò chạy trốn. Binh sĩ nước Tiên Lạc còn chưa kịp phản ứng, chỉ thấy bốn phía toàn là bóng người nằm la liệt, không một kẻ địch nào còn đứng thẳng nổi, mà Thái tử điện hạ của bọn họ đang từ từ đút kiếm vào vỏ, ngay cả góc áo cũng không bẩn một chút nào.

Hồi lâu sau, bọn họ mới xác nhận được chiến thắng áp đảo của phe mình, thế là đua nhau nhảy cẫng lên, giơ kiếm chỉ trời, mặc sức hú hét.

Đêm hôm đó, các tướng sĩ Tiên Lạc tổ chức một buổi tiệc mừng công trên lầu cổng thành.

Lâu rồi chưa được nở mày nở mặt như thế, đám binh sĩ reo hò nhảy nhót, nâng chén ca ngợi Thái tử điện hạ. Tạ Liên lại từ chối tất cả rượu mời, một mình đến bên góc lầu cổng thành hóng gió đêm cho tỉnh táo.

Rõ ràng y không uống một chén rượu nào, nhưng vẫn có cảm giác ruột thiêu mặt đốt, hai má ửng đỏ, đầu ngón tay còn khẽ khàng run rẩy.

Đây là lần đầu tiên trong đời y giết người. Mới lần đầu tiên, y đã giết hơn một ngàn người.

Dế kiến.

Trong đầu Tạ Liên, hai chữ đó xuất hiện hết lần này đến lần khác. Trước sức mạnh của y, người phàm không chịu nổi một kích, thậm chí chẳng ai đỡ nổi một cái nắm tay nhẹ bẫng của y. Tước đoạt sinh mạng của người khác là chuyện dễ dàng biết mấy, tựa như cung nhân giẫm chết bầy kiến kia, khiến y đánh mất lòng kính nể mỗi khi vung kiếm.

Tạ Liên tựa bên tường chắn mái, hít sâu vài hơi, lắc lắc đầu, vứt đi mớ tạp âm đó, thất thần nhìn chằm chằm từng điểm ánh lửa trong khe núi đằng xa. Không lâu sau, hai tiếng bước chân tới gần.

Chẳng cần ngoái đầu, Tạ Liên cũng biết người đến là ai. Y nói: "Các ngươi không đi uống chút rượu ăn mừng à?"

Mộ Tình hầm hừ: "Có gì ngon mà uống, tình thế có lạc quan đâu."

Nghe vậy, Tạ Liên xoay người hỏi: "Các ngươi cũng nhìn ra rồi sao?"

Quả thật không lạc quan cho lắm. Mặc dù trận này đánh thắng, nhưng trên thực tế, lần tấn công hôm nay mạnh hơn tất cả những lần tấn công trước đây của người Vĩnh An.

Chẳng những nhân số tăng nhiều, mô hình trận địa, binh khí và cách điều động của bọn họ, tất cả đều vượt bậc về chất lượng, thậm chí không ít người còn trang bị mũ giáp. Tuy thô sơ xấu xí, nhưng đã ra dáng quy mô của quân đội chính quy. Khó mà tưởng tượng được rằng, đây thật ra chỉ là một đám dân quê chân đất.

Mộ Tình khoanh tay, cau mày nói: "Hoàn cảnh cực đoan gian khổ đích thực sẽ khiến người ta trưởng thành thần tốc, nhưng dẫu khó khăn gian khổ thế nào cũng sẽ không dưng sản sinh vật tư. Chuyện này không hợp lý."

Phong Tín thì thẳng thắn hơn, nói ngắn gọn: "Chắc chắn bọn họ có viện trợ từ bên ngoài."

Tạ Liên gật đầu. Mộ Tình nói: "Ta không tin những tướng sĩ đó chẳng ai nhìn ra, thế nhưng bọn họ vẫn ăn mừng như thường, đơn giản là vì bên này có huynh, bọn họ cho rằng thắng là cái chắc."

Thật ra Tạ Liên cảm thấy chuyện này không có vấn đề gì, nói: "Trận đầu ta đến đã đánh thắng, bọn họ vui vẻ một chút cũng tốt thôi, coi như khích lệ sĩ khí."

Ngần ngừ một lát, Phong Tín vẫn nói: "Điện hạ, sắc mặt của huynh không được tốt lắm. Huynh, có phải vẫn còn tạo mưa cho bên Vĩnh An không?"

Tạ Liên nói: "Phải."

Không có gì bất ngờ, Mộ Tình tỏ vẻ không tán thành, nói: "Thứ lỗi cho ta nói thẳng, bây giờ tạo mưa cũng vô dụng, đó mới là cái động không đáy thật sự. Điện hạ, cho dù tình hình hạn hán của Vĩnh An thật sự có thể giảm triệt để, chỉ e đám người ngoài thành cũng sẽ không rút lui."

Tạ Liên nói: "Ta biết. Nhưng ta đi tạo mưa không phải vì để đám người đó rút lui, chỉ vì không muốn những người còn ở lại Vĩnh An chết khát thôi. Đây chính là mục đích ban đầu của ta, sẽ không thay đổi vì bất cứ chuyện gì."

Phong Tín vẫn không yên tâm lắm, hỏi: "Huynh chống nổi sao?"

Tạ Liên vỗ vai Phong Tín, nói: "Yên tâm, ta có tám ngàn đạo quán cơ mà, hơn nữa tín đồ cũng đủ nhiều, dĩ nhiên không thành vấn đề. Có điều..."

Y dùng tay còn lại khoác vai Mộ Tình, thở dài: "Hôm nay cũng may có hai ngươi giúp đỡ, cảm ơn các ngươi theo cùng ta."

Hôm nay trên chiến trường, hai người hầu của y còn khổ hơn y nhiều, giết đến nỗi toàn thân vấy máu. Phong Tín nói: "Không cần nói vậy đâu." Mộ Tình thì ậm ờ "ồ" một tiếng.

Tay khẽ dùng sức, Tạ Liên kéo ba người lại gần nhau hơn, thành khẩn nói: "Không chỉ hôm nay mà từ trước tới nay đều phải cảm ơn hai ngươi nhiều. Ta hy vọng rằng, hình ảnh ba người chúng ta người kề vai chiến đấu có thể lưu danh muôn đời."

"......"

"......"

Qua giây lát, Phong Tín cười ha ha. Mộ Tình nói bằng giọng không thể tin nổi: "Ta phát hiện huynh luôn có thể hùng hồn thốt ra những lời rất là... Rõ thật là..." Hắn lắc đầu, nói: "Thôi bỏ đi."

Khó khăn lắm khóe miệng của Tạ Liên mới nhếch lên một chút, nhưng cười chưa được bao lâu, sắc mặt đột nhiên chuyển lạnh, quát: "Ai?!"

"Keng" một tiếng, trường kiếm của Tạ Liên ra khỏi vỏ. Y khều nhẹ một cái, lôi một bóng đen ra khỏi góc tường chắn mái.

Người nọ trốn trong góc đã lâu, nín thở tập trung tinh thần, nãy giờ vẫn chưa bị phát hiện. Lẽ ra Tạ Liên chỉ định dùng mũi kiếm treo đối phương lên hù dọa một phen, ngờ đâu hôm nay trên chiến trường y giết người quá bạo, cánh tay vẫn còn run bần bật, ra tay có phần mất chừng mực, cú lôi này dùng quá nhiều sức nên hất phăng người nọ khỏi tường.

Dưới ánh trăng, giữa không trung, ba người đều thấy rõ đối phương mặc trang phục của binh sĩ phe mình, thân hình trông như một thiếu niên mười lăm mười sáu tuổi. Ngay giây tiếp theo, người nọ rơi xuống, biến mất không còn bóng dáng. Thấy có người sắp ngã xuống dưới lầu cổng thành, Tạ Liên nghĩ thầm tiêu rồi, đoạn tung người nhảy ra.

Mũi chân y bám vào rìa tường chắn mái, thân thể treo ngược, nhanh như chớp chìa tay kéo một cái, đúng lúc túm được một cánh tay của đối phương. Cả người binh sĩ thiếu niên nọ lơ lửng giữa không trung, lắc qua lắc lại mấy cái, đoạn ngẩng đầu nhìn lên. Cái nhìn này, nương theo ánh trăng mờ ảo, Tạ Liên thấy được gương mặt của đối phương, không khỏi mở to hai mắt.

Cú tung người nhảy lên của Tạ Liên quả thật có hơi đáng sợ, nhưng tất nhiên hai người hầu của y biết rõ, điều này chẳng là gì với y. Mộ Tình không nhúc nhích, còn Phong Tín vẫn kéo một phát. Tạ Liên dùng thêm chút sức, nhấc tiểu binh sĩ kia lên, chân hai người đáp xuống lầu cổng thành. Tạ Liên hỏi: "Ngươi là binh sĩ dưới quyền ai, sao lại nấp ở đây?"

Tay và đầu của tiểu binh sĩ quấn đầy băng vải, trên băng vải còn rướm chút vết máu, xem ra thương tích chồng chất. Điều này cũng chẳng có gì lạ, trận đại chiến hôm nay có rất nhiều binh sĩ bị thương cũng băng bó thế này, nhưng nó cứ nấp trong bóng tối không nói tiếng nào, việc này rất đáng ngờ. Mộ Tình lên tiếng: "Chẳng lẽ là mật thám của người Vĩnh An, bắt nó lại thẩm tra đi."

Tạ Liên cũng nghi là thế, nhưng hoàng thành canh phòng nghiêm ngặt, kẻ địch khó mà trà trộn vào được, trừ phi là Lang Anh, mà tiểu binh sĩ này rõ ràng vẫn còn là một thằng nhóc choai choai. Bấy giờ, Phong Tín lại ngạc nhiên nói: "Điện hạ, huynh không nhớ thằng nhóc này à? Ban ngày nó cứ xông lên phía trước huynh, là đứa ở ngay tuyến đầu trận địa."

Tạ Liên ngẩn ra, hỏi: "Vậy sao?"

Ban ngày chém giết, y hoàn toàn không có thời gian chú ý đến bất cứ gì khác, chỉ biết có ai giơ kiếm muốn giết mình, mình sẽ vung kiếm đánh trả, thậm chí còn chẳng chú ý đến Phong Tín và Mộ Tình, hơi đâu mà chú ý đến tiểu binh sĩ khác?

Phong Tín khẳng định: "Đúng vậy. Ta nhớ thằng nhóc này, nó tấn công quyết liệt lắm, cứ như không muốn sống vậy."

Nghe Phong Tín nói thế, Tạ Liên bèn quan sát kỹ binh sĩ thiếu niên nọ. Tự dưng nó lại đứng thẳng lên, ngẩng đầu ưỡn ngực, có vẻ hơi cứng đờ, rồi lại như đang đứng tư thế nghiêm. Mộ Tình hỏi: "Vậy nó cũng không nên lén lút nấp ở đây, ai biết nó tới nhìn trộm hay nghe trộm chứ?"

Tuy ngoài miệng nói vậy, nhưng thật ra Mộ Tình đã buông lòng cảnh giác. Bởi vì trong quân đội Tiên Lạc đang ra sức cổ xúy cái gọi là "Đội quân thần tiên, thiên mệnh sở quy", nhiều người trẻ tuổi vì theo Tạ Liên mà tòng quân, trong đó không thiếu những thiếu niên lớn tầm tuổi này, mà rất nhiều người là kẻ sùng bái trung thành của Tạ Liên, từ nhỏ đã vái lạy tượng thần của y, nghe tiếng thơm của Thái tử điện hạ mà lớn lên, muốn lén lút tiếp cận để được gặp Võ Thần cũng không phải mới lần một lần hai, chẳng hiếm lạ gì.

*Thiên mệnh sở quy: Ý trời đã định.

Tạ Liên nói: "Được rồi, sợ bóng sợ gió thôi", rồi lại dịu giọng nói với binh sĩ thiếu niên nọ: "Ban nãy đã dọa ngươi rồi, xin lỗi nhé."

Thiếu niên không hề tỏ ra sợ hãi, chỉ đứng càng thẳng hơn, khẽ cất giọng: "Điện hạ..."

Nào ngờ lời còn chưa dứt lời, biến cố đã xảy ra. Binh sĩ thiếu niên nói chưa hết câu thì đột ngột nhào về phía Tạ Liên!

Tưởng nó muốn đánh lén, Tạ Liên nhích người tránh ra, giơ tay định dùng bàn tay chém xuống một phát. Với sức của y, phát này chém xuống, chắc chắn thiếu niên nọ sẽ lập tức bỏ mạng. Nào ngờ, y chợt thấy sống lưng lạnh toát, tay giơ ngang chừng thình lình chuyển hướng, trở tay chặn một mũi tên bắn lén phóng tới sau lưng mình.

Hóa ra thiếu niên nọ nhào về phía y là vì trông thấy ánh lóe của mũi tên bay giữa không trung. Ban đầu Tạ Liên đứng đưa lưng về phía tường chắn mái, sau lưng bị tập kích mà không hề sợ hãi, trái lại còn nhảy lên bờ tường, nhìn thẳng xuống dưới. Chỉ thấy trên mảng đất bằng trống trải trước cổng thành, một người đơn độc như ẩn như hiện đứng đằng xa, vì kẻ nọ mặc quần áo sẫm màu, hòa mình vào đêm tối, thế nên rất khó phát hiện. Phong Tín tức tốc chạy đến cạnh Tạ Liên, giương cung bắn một mũi tên. Nhưng kẻ nọ đã sớm tính được khoảng cách, cố ý đứng xa tít, mũi tên bắn ra, khiến cho Tạ Liên nhìn về phía hắn, hắn vẫy vẫy tay, yên lặng quay lưng chuồn mất, rút lui cực nhanh. Lúc mũi tên của Phong Tín bay tới thì đã muộn, nó ghim ngay vị trí cách chân hắn mấy tấc. Phong Tín tức giận đập tường thành, đá bụi rơi lả tả: "Đó là kẻ nào?!"

Còn là kẻ nào được nữa? Tạ Liên nói: "Lang Anh!"

Các binh sĩ Tiên Lạc cũng phát hiện điều bất thường, chạy nhanh hò hét bốn phía, nhưng xuất phát từ cảnh giác, bọn họ không lập tức hạ lệnh mở cổng thành truy kích mà đi khắp nơi xin ý kiến của cấp trên. Lang Anh bắn xong mũi tên rồi vẫy tay chuồn mất, quả thật cứ như đặc biệt tới chào hỏi Tạ Liên, Mộ Tình chau mày hỏi: "Hắn tới làm gì? Ra oai à?"

Phong Tín giận dữ nói: "Hôm nay trên trận mạc Vĩnh An bị đánh cho tan tác, hắn cũng chỉ miễn cưỡng thoát khỏi tay điện hạ thôi, có gì mà ra oai!"

Sờ thấy trên mũi tên bắn lén có buộc thứ gì đó, Tạ Liên tháo xuống đi qua soi bên ánh lửa, là một dải dây vải, có vẻ như được xé từ áo gấm màu xanh, trên vải vẫn còn vết máu ướt đẫm, mở ra xem thử, thế mà lại viết một chữ "Thích" nguệch ngoạc.

Tạ Liên lập tức vo mảnh vải lại, cất giọng hỏi: "Thích Dung đâu? Thích Dung không ở trong hoàng cung sao!"

Phong Tín nói với binh sĩ bên cạnh: "Mau vào thành xác nhận!"

Các binh sĩ hối hả lui xuống. Đây đích thực là một góc của chiếc áo choàng mà Thích Dung thích mặc nhất, Lang Anh lại nổi tiếng xuất quỷ nhập thần, khả năng Thích Dung thật sự bị hắn bắt đi không hề nhỏ, việc này không được chậm trễ, Tạ Liên nói: "Để ta đuổi theo xem sao."

Thấy Phong Tín cũng bước qua, y nói: "Các ngươi giữ chắc cổng thành, đừng đi lung tung, coi chừng là điệu hổ ly sơn."

Phong Tín đeo cung lên, hỏi: "Huynh không dẫn ai theo hết à?"

Nếu bên Vĩnh An không ồ ạt xâm lấn trước, Tạ Liên không hề muốn Tiên Lạc chủ động xuất binh. Nếu Thích Dung rơi vào tay địch, một mình y đưa về được rồi, nhưng nếu dẫn binh theo, ắt sẽ làm to chuyện, người chết tuyệt đối không chỉ một hai người. Hiện tại, Tạ Liên vẫn muốn khống chế sự việc trong phạm vi nhỏ nhất, bèn đáp: "Không. Bọn chúng không làm gì được ta đâu."

Dứt lời, tay ấn nhẹ lên tường, Tạ Liên nhảy khỏi lầu cổng thành, nhẹ nhàng đáp xuống đất, mau chóng đuổi theo hướng Lang Anh rút lui. Chạy một hồi, nghe thấy sau lưng có tiếng bước chân đuổi theo, y ngoảnh đầu lại nhìn, ra là binh sĩ thiếu niên kia. Tạ Liên nói với nó: "Ta không cần người giúp, ngươi trở về đi!"

Thiếu niên lắc đầu, Tạ Liên lại nói: "Về đi!" Dứt lời bước chân tăng tốc, thoáng chốc đã bỏ xa thiếu niên kia, không nhìn thấy nữa.

Chạy năm sáu dặm, tiến vào một ngọn núi. Ngọn núi này không dốc đứng mà giống một dốc núi hơn, cho nên được gọi là dốc Bối Tử. Theo do thám, sau khi người Vĩnh An rút lui, phần lớn quân đội và dân chúng đều đóng ở đây. Cây cối trên dốc Bối Tử rậm rạp um tùm, vào ban đêm, tiếng vang quái lạ vang khắp rừng rậm tối mịt, tựa như có vô số sinh vật đang ẩn náu, nhìn chòng chọc như hổ đói. Tạ Liên đi sâu vào trong núi, nín thở tìm kiếm hồi lâu, chợt thấy có bóng người dài dài treo trên thân cây đằng trước, vừa nhìn kỹ lại, y cất tiếng gọi: "Thích Dung!"

Đó đúng là Thích Dung. Gã bị treo ngược trên cây, trông như đã bị người khác đánh đập một trận, hôn mê bất tỉnh, máu mũi chảy ngược, một bên mắt bầm tím. Tạ Liên rút kiếm khỏi vỏ, vung kiếm chặt dây thừng, đỡ lấy Thích Dung rơi xuống, vỗ vỗ lên mặt gã. Thích Dung từ từ tỉnh tại, vừa thấy y đã kêu lớn: "Thái tử biểu ca!"

Tạ Liên đang cởi trói cho Thích Dung, sau lưng bất chợt lạnh toát, trở tay dùng trường kiếm chặn lại. Vừa ngoảnh đầu, chỉ thấy Lang Anh hai tay nắm một thanh trọng kiếm, chém về phía mình.

Hai người leng keng so vài chiêu, chẳng mấy chốc Tạ Liên đã đánh bay kiếm của Lang Anh, tiếp theo đạp vào cẳng chân của hắn, khiến hắn ngã sóng soài, cuối cùng chỉa mũi kiếm vào yết hầu hắn, kết thúc trận chiến, nói: "Ngươi biết ngươi không phải là đối thủ của ta, đừng đánh nữa."

Hôm nay bọn họ giao tranh trên chiến trường, hễ ai xông về phía Tạ Liên đều bị Tạ Liên giết chết, chỉ có Lang Anh chịu một kiếm của y ngay chính diện mà vẫn sống sót, lê thân thể bị thương trở về. Bất cứ ai cũng nhìn ra được, Lang Anh chính là thủ lĩnh của đám người Vĩnh An, Tạ Liên bảo hắn "đừng đánh nữa", tất nhiên không chỉ có một lớp nghĩa.

Tạ Liên nói tiếp: "Chỉ cần các ngươi không chủ động xâm lấn, ta đảm bảo binh sĩ hoàng thành sẽ không tấn công các ngươi. Lấy nước và lương thực rồi đi đi."

Lang Anh nằm dưới đất, nhìn thẳng vào mắt Tạ Liên, ánh mắt ấy không khỏi khiến lòng người hoảng sợ. Hắn hỏi: "Thái tử điện hạ, ngươi cho rằng việc ngươi làm là đúng sao?"

Sắc mặt Tạ Liên cứng đờ. Thích Dung ở bên cạnh lại mắng chửi: "Nói nhảm! Ngươi biết Thái tử biểu ca là ai không? Huynh ấy là thần tiên trên trời! Huynh ấy không đúng, chẳng lẽ đám cẩu tặc phản quốc các ngươi đúng à?"

Tạ Liên quát: "Thích Dung, im miệng!"1

Câu hỏi của Lang Anh, y không trả lời được. Từ tận đáy lòng, thật ra y cảm thấy việc mình làm có chỗ sai. Tuy nhiên, đây là cách tốt nhất mà y nghĩ ra được. Nếu y không bảo vệ Tiên Lạc chống lại sự xâm lăng, chẳng lẽ cứ mặc cho đám phản dân Vĩnh An tấn công hết lần này đến lần khác, thậm chí đánh giết vào hoàng thành sao?

Một người hai người giơ kiếm xông về phía y, y có thể biết điểm dừng chỉ đánh cho ngất xỉu. Nhưng trên chiến trường đao kiếm vô tình, y không có sức đánh ngất từng người, y chỉ có thể không suy nghĩ nữa rồi vung kiếm thôi. Lang Anh hỏi như vậy, vừa khéo gợi lên âm thanh từ đáy lòng y: Ngươi cho rằng việc ngươi làm là đúng sao?

Thích Dung lại chẳng băn khoăn như Tạ Liên, nói: "Ta nói sai gì chứ? Biểu ca, nếu huynh đã tới rồi, vậy mau giết hết đám cẩu tặc này đi! Mấy chục người bọn chúng đánh một mình ta đó!"

Thường ngày Thích Dung ngang ngược lộng hành trong hoàng thành, tất nhiên có rất nhiều người Vĩnh An căm thù gã, thừa cơ trả thù là chuyện khỏi phải bàn. Đương nhiên, thật ra những người Tiên Lạc thù ghét Thích Dung cũng chẳng ít. Bây giờ Tạ Liên không rảnh để ý tới gã, nói với Lang Anh: "Ngươi muốn cái gì? Muốn mưa, Vĩnh An vẫn sẽ mưa tiếp. Muốn vàng, ta đẩy tượng vàng cho ngươi. Muốn thức ăn, ta... sẽ nghĩ cách. Nhưng đừng khơi mào chiến tranh nữa, cùng nhau tìm lối giải quyết, tìm con đường thứ ba, được không?"

Những lời này đều là lời Tạ Liên không kìm được mà thốt ra, chưa chắc Lang Anh đã hiểu "con đường thứ ba" là gì, nhưng hắn lại đáp không chút do dự: "Ta chẳng muốn gì cả. Ta cũng chẳng cần gì hết. Thứ duy nhất ta muốn, chính là nước Tiên Lạc không còn trên cõi đời này nữa. Ta muốn nó biến mất."

Giọng hắn đều đều, nhưng chẳng hiểu sao lời nói lại khiến người khác không rét mà run. Hồi lâu sau, Tạ Liên trầm giọng đáp: "... Ngươi muốn dẫn người tới đánh, ta không thể khoanh tay đứng nhìn. Các ngươi không có cửa thắng đâu. Cho dù những người Vĩnh An đi theo ngươi sẽ chết, ngươi cũng phải làm thế sao?"

Lang Anh đáp: "Phải."

"......"

Lang Anh đáp thản nhiên đến thế, kiên định đến thế, khớp xương Tạ Liên kêu răng rắc, nhưng chẳng còn lời nào để nói. Lang Anh thốt từng câu từng chữ: "Ta biết ngươi là thần. Không sao cả. Cho dù là thần, cũng đừng mong khiến ta dừng lại."

Tạ Liên biết, Lang Anh nói lời thật. Bởi vì thứ ẩn trong giọng điệu của gã, Tạ Liên không thể nào quen thuộc hơn -- Đó là lòng quyết tâm không bao giờ chùn bước của một người. Khi y nói với Quân Ngô "cho dù trời muốn ta phải chết", lòng quyết tâm trong đó giống hệt lòng quyết tâm của Lang Anh lúc này!

Câu nói ấy của Lang Anh không khác gì đang tuyên bố, hắn sẽ tiếp tục kêu gọi vô số người Vĩnh An người trước ngã xuống, người sau kế bước mà tấn công, vĩnh viễn không ngừng lại. Nếu đã như vậy, bây giờ Tạ Liên nên làm gì đã quá rõ ràng rồi.

Một tay Tạ Liên vẫn đang cầm kiếm, hiện tại đổi thành hai tay. Ngay lúc hai tay y đang run rẩy, định đâm xuống yết hầu của Lang Anh, sau lưng bỗng nhiên truyền đến tiếng "cọt cà cọt kẹt" quái lạ, cùng với tiếng cười lạnh the thé.

Không ngờ phía sau có một người im hơi lặng tiếng xuất hiện, Tạ Liên rất đỗi kinh ngạc, quay đầu lại nhìn thì trợn tròn mắt.

Xuất hiện đúng vào lúc này, khả năng lớn nhất là tướng sĩ phe địch, có lẽ vô số đao kiếm đã nhằm vào y rồi, nhưng thật không ngờ rằng, sau lưng y lại là một kẻ quái đản như thế.

Kẻ nọ mặc đồ tang trắng nhợt, mặt cũng đeo một chiếc mặt nạ nhợt nhạt, nửa bên mặt khóc nửa bên mặt cười, kỳ quặc tột cùng. Gã ngồi trên dây leo giữa hai cây đại thụ, tiếng "cọt cà cọt kẹt" phát ra khi gã đung đưa dây leo qua lại, thoạt nhìn cứ như đang đẩy xích đu. Thấy Tạ Liên quay đầu, gã giơ hai tay lên, vừa thong thả vỗ tay bôm bốp, miệng vừa phát ra từng tiếng cười lạnh. Không hiểu sao Tạ Liên lại thấy rợn tóc gáy, nghiêm giọng hỏi: "Ngươi là thứ gì thế?"

Y dùng từ "thứ gì", bởi vì trực giác nói cho y biết, đây nhất định không phải là con người!

Đúng lúc đó, Tạ Liên chợt phát hiện mũi kiếm trong tay có gì đó không ổn, Thích Dung cũng hét toáng lên. Tạ Liên quay đầu lại nhìn, mặt đất phía trước nứt thành một rãnh dài, Lang Anh vốn đang nằm dưới đất bị khe nứt nuốt vào. Mặt đất nhanh chóng khép lại, Tạ Liên vô thức đâm kiếm xuống tâm đất. Phát hiện mũi kiếm toàn chạm đến bùn đất, không đâm trúng máu thịt, bấy giờ y mới nhận ra, đường kiếm này không giết chết được Lang Anh, cũng không biết nên tiếc hay nên mừng. Lúc này, kẻ mặc áo trắng lại phát ra tiếng cười khùng khục quỷ quái, Tạ Liên giơ tay phóng kiếm về phía gã.

Đường kiếm này bay nhanh như chớp, đâm xuyên qua thân thể gã ta, ghim gã lên cây, song gã chẳng thốt tiếng nào, rũ oặt xuống đất. Tạ Liên xông tới xem xét, nhưng chỉ nhìn thấy một bộ áo trắng mềm rũ dưới đất, người mặc áo đã vô cớ biến mất!

Sự xuất hiện và biến mất của người này đều kỳ dị khôn tả, Tạ Liên hốt hoảng, không dám sơ suất, một tay xốc Thích Dung lên, nói: "Đi."

Thích Dung lại la lên: "Đừng đi! Biểu ca, phóng hỏa đốt núi đi biểu ca! Trên ngọn núi này có rất nhiều người Vĩnh An, lũ điêu dân ăn vạ không chịu đi ở cổng thành đều ẩn nấp trên núi, mau châm lửa thiêu rụi bọn chúng đi!"

Tạ Liên kéo Thích Dung đi được một đoạn, cảm thấy âm khí xung quanh càng lúc càng nặng, tựa như có vô số cặp mắt đang nhìn hai người họ, bèn nói: "Kẻ ban nãy quái đản thế nào, ngươi không thấy sao? Nơi này không nên ở lâu."

Thích Dung hỏi: "Quái đản thì sao? Huynh là thần mà, cần gì phải sợ loại tiểu yêu ma này? Dám đến phá rối thì cứ giết thẳng tay."

Tạ Liên nói: "Về trước đã rồi tính sau."

Thấy Tạ Liên qua loa lấy lệ, không chịu đốt núi, Thích Dung trừng mắt hỏi: "Tại sao chứ? Đám người đó đánh ta ra nông nỗi này, muốn đối nghịch với chúng ta, vừa rồi huynh cũng nghe mà, tên kia bảo muốn diệt Tiên Lạc đó! Muốn diệt nước của chúng ta! Sao huynh lại không giết sạch bọn chúng, giống như hôm nay huynh làm trên chiến trường ấy!"

"..." Tạ Liên nghẹn hơi, giận dữ quát: "Sao đầu ngươi cứ luôn nghĩ đến việc giết sạch giết sạch vậy! Dân thường và binh sĩ làm sao mà giống nhau được?"

Thích Dung hỏi vặn lại: "Có gì không giống chứ? Không phải đều là người sao, giết ai mà chẳng giống nhau?"

Tạ Liên như bị gã chọc trúng nỗi đau, huyết khí trào lên: "Ngươi...!"

Lúc này, y chợt cảm thấy cổ chân bị siết một cái, cúi đầu nhìn thử, ra là một bàn tay phù nề thò ra từ bụi cây rậm rạp bên cạnh, thình lình túm lấy giày của y!

Cùng lúc đó, phía trước "bịch bịch" vài tiếng, bảy tám bóng người từ trên cây rớt xuống như mưa, co quắp dưới đất không bò dậy nổi. Tuy là hình người, nhưng lại trần như nhộng, giống như vô số con sâu thịt to tướng, chậm chạp ngọ nguậy bò về phía này. Thích Dung la thất thanh: "Kẻ nào?!"

Tạ Liên vung kiếm chặt đứt bàn tay đó, trầm giọng nói: "Không phải người, là Bỉ Nô!"

Trước đây Tạ Liên chưa từng nghe nói có ngọn núi nào gần hoàng thành từng xuất hiện thứ này, dù cho có yêu ma quỷ quái gì cũng sẽ nhanh chóng bị đạo nhân của Hoàng Cực quán xử gọn, vì vậy đám Bỉ Nô này chỉ có thể bị ai đó cố ý thả vào đây thôi.

Tạ Liên hoàn toàn không ngờ rằng, trận chiến này lại có cả những vật không phải người tham gia. Hồi tưởng lại các manh mối ban nãy, y càng lúc càng cảm thấy, kẻ nọ và Lang Anh là cùng một giuộc, bắt cóc Thích Dung chỉ là muốn dụ y tới thôi, nhưng lúc này không có thời gian suy nghĩ kỹ càng. Mỗi lần Tạ Liên vung kiếm đều có thể chém ngang bảy tám Bỉ Nô thành hai nửa, nhưng một khi Bỉ Nô xuất hiện đều thành đàn thành lũ, quả nhiên, khắp lùm cây bụi cỏ vang lên tiếng rào rào, lay động càng lúc càng dữ dội, càng lúc càng nhiều hình người màu da mặt mũi nhòe mờ bò tới, xông ào ạt về phía Tạ Liên, hơn nữa cũng chỉ nhắm vào Tạ Liên. Tạ Liên vung một kiếm chém chết mười con thì lập tức có hai mươi con nhào tới. Giữa lúc y đang vung kiếm không ngừng nghỉ, một Bỉ Nô trên cây nhắm chuẩn lưng Tạ Liên, ập xuống từ trên trời.

Ngờ đâu còn chưa kịp đến gần, nó đã bị một tia sáng lạnh lẽo chặt đứt. Thích Dung không đem theo vũ khí, dĩ nhiên không thể là Thích Dung chặt, Tạ Liên quay đầu nhìn, phát hiện người vung kiếm lại chính là binh sĩ thiếu niên kia!

Ở trước cổng thành, nó bị Tạ Liên bỏ xa không thấy bóng dáng, vậy mà vẫn theo được tới đây, tìm thấy bọn họ. Thiếu niên cầm một thanh kiếm mẻ, quét vài đường đã chém được mấy con Bỉ Nô, hữu dụng vô cùng. Thứ này vừa bò vừa tiết ra thể dịch cực kỳ nhớp nháp, Thích Dung hét lên gớm quá, đạp mạnh nhiều cú lên đầu một con Bỉ Nô hơi yếu, phát hiện thứ này không hề đáng sợ, bực bội nói: "Cũng chẳng có gì ghê gớm nhỉ?"

Gã không biết rằng, Bỉ Nô vẫn thường xuất hiện chung với tà vật hung tàn khác. Tạ Liên cắn rách môi, hai ngón tay phải quệt máu tươi, bôi nhanh lên lưỡi kiếm. Sau cùng y nhét kiếm vào tay Thích Dung, lên tiếng: "Hai người các ngươi cầm thanh kiếm này đi trước đi! Sẽ không có thứ gì dám đến gần các ngươi đâu, dọc đường đi nghe thấy cái gì cũng không được quay đầu lại, nhớ kỹ, tuyệt đối không được quay đầu lại!"

Thích Dung nói: "Biểu ca! Ta..."

Tạ Liên ngắt lời: "Thứ lợi hại còn ở phía sau, lát nữa nó tới ta không lo cho các ngươi được đâu. Chi bằng quay về báo tin đi!"

Thích Dung không nói gì nữa, cầm kiếm chạy thục mạng. Bảo kiếm trong tay gã đã được Tạ Liên làm phép khai quang, Bỉ Nô và các tà vật khác đều không dám đến gần, nhờ vậy mà một đường thông thoáng, chẳng mấy chốc đã biến mất. Binh sĩ thiếu niên kia vẫn chưa đi, Thích Dung đã chạy trước rồi, Tạ Liên cũng không có bảo kiếm hộ thân thứ hai để cho nó, đành phải thay kiếm thành tay, đánh giết liên tục, cộng với thiếu niên ra sức phối hợp, sau một nén nhang, cuối cùng tất cả Bỉ Nô cũng bị diệt sạch.

Dưới đất vương vãi dịch nhờn và thi thể, mùi tanh nồng nặc. Sau khi xác nhận không còn sót lại một con Bỉ Nô nào, Tạ Liên ổn định nhịp thở, xoay người nói với thiếu niên: "Ngươi dùng kiếm không tệ."

Thiếu niên nắm chặt thanh kiếm, vốn dĩ còn đang thở hổn hển, thoắt cái lại đứng thẳng dậy, đáp: "Vâng, vâng ạ."

Tạ Liên hỏi: "Có phải ta đang ra lệnh đâu, sao ngươi lại nói vâng với ta? Khi nãy ta ra lệnh cho ngươi trở về, sao ngươi không nói vâng?"

Thiếu niên đáp: "Vâng." Dứt lời mới nhận ra có gì đó kỳ lạ, thế là lại đứng càng thẳng hơn.

Tạ Liên lắc đầu, suy nghĩ một hồi, đột nhiên nhếch miệng nói: "Có điều, ngươi, thích hợp dùng đao hơn."

Thiếu niên nọ sửng sốt, hỏi: "Vì sao?"

Hồi tưởng lại từng chiêu thức vừa rồi nó chém giết Bỉ Nô, Tạ Liên tiện tay múa vài đường, nói: "Ngươi chưa thử dùng đao bao giờ sao? Ngươi dùng kiếm, đường kiếm biến ảo, tuy vừa nhanh vừa hung hãn, nhưng có vẻ hơi bó tay bó chân, không phát huy được trọn vẹn. Nếu chưa từng dùng đao, chi bằng lần sau thử xem, ta nghĩ có lẽ uy lực sẽ mạnh hơn."

Mỗi khi thấy ai đó ra chiêu có chỗ đặc sắc, Tạ Liên lại nhịn không được muốn trao đổi vài câu, không phải lên mặt dạy đời, mà là lòng đầy hứng thú muốn nhiệt tình ngâm cứu và thảo luận với đối phương. Do kinh nghiệm chiến đấu của y quá phong phú, thông thường chẳng cần phải nghĩ, nhìn một cái là biết ngay, nhưng nhất thời không nói được nguyên nhân vì đâu, chỉ cảm thấy chắc chắn là vậy thôi. Đa số những người bên cạnh vì kính nể thân phận của y nên mới chịu lắng nghe, ít có người nào thật lòng nghĩ xem y nói có chí lý hay chăng. Còn thiếu niên nọ lắng nghe hết sức chăm chú, dường như đang suy tư, thỉnh thoảng lại nhìn lưỡi kiếm trong tay. Nói được vài câu, khắp mảnh rừng tối mịt đột nhiên vang lên tiếng xào xạc, như thể có thứ gì đó bò nhanh qua. Tạ Liên sực nhớ hiện giờ mình vẫn nằm trong tình thế hiểm nguy bốn bề, hứng thú này đến không đúng lắm, thế là lập tức nghiêm mặt trở lại: "Không biết trên ngọn núi này còn tà vật nào khác không, nhất định phải xử gọn một lượt."

Thiếu niên gật đầu cái rụp, dùng hai tay dâng thanh kiếm sắt trong tay mình, Tạ Liên lắc đầu nói: "Ngươi tự bảo vệ mình là được. Khi nãy ngươi không đi, bây giờ hết đi được rồi. Ta sẽ cố hết sức bảo vệ ngươi, ngươi cũng phải hết sức cảnh giác."

Lúc này, lại thấy bụi cỏ lay động, có thứ gì đó nhảy vút qua, Tạ Liên phất tay tung một chưởng, đánh trúng nó, vật kia ré lên một tiếng "grào" thảm thiết rồi không nhúc nhích nữa. Ngửi được mùi máu tanh, Tạ Liên không khỏi thấy lạ: Nếu là Bỉ Nô, sau khi bị đánh nát, chúng nó sẽ chảy toàn dịch thể nhớp nháp, độ dính cực cao, chứ không tỏa ra mùi máu tanh thế này, vì vậy y bèn bước tới kiểm tra. Đẩy bụi cỏ ra, quả nhiên bên trong là một con Bỉ Nô đầu to đã bị một chưởng của y đánh cho tan xác, nhưng thứ toả ra mùi máu tanh không phải là nó, mà là thứ nó ngậm trong miệng -- Một mảnh da đầu rách gắn tóc dài!

Bỉ Nô gặm bã thức ăn mà sống, xem ra đã có người sống bị giết hại. Quãng đường nó bò tới đây để lại từng vệt máu nhỏ giọt trên bụi cỏ, Tạ Liên lập tức lần theo vết máu này đi về phía trước, binh sĩ thiếu niên nọ theo sát y. Càng đi về phía trước, vết máu càng dày đặc, mùi máu tanh cũng càng nồng, không lâu sau, chợt nghe tiếng khóc yếu ớt của ai đó.

Tiểu binh sĩ giơ kiếm chắn trước người Tạ Liên, Tạ Liên lại kéo nó ra sau. Vòng qua một mảng bụi cây trổ hoa, một hang núi khá lớn hiện ra trước mắt hai người.

Có lẽ hang núi này vốn là nơi trú tạm của một số người, nhưng bây giờ xác nằm la liệt, hai ba chục con Bỉ Nô bám lấy thi thể dưới đất, gặm cắn thỏa thích, ngoài ra còn năm sáu con đang vây quanh một thiếu nữ. Sắc mặt nàng ta đau đớn, bụng bị mổ ra, nội tạng đổ đầy đất, nhưng người vẫn còn sống. Dường như khi nãy nàng còn đang trang điểm sơ qua, bên tóc mai cài nhiều đóa hoa đỏ thẫm, dòng máu đỏ tươi tôn lên màu hoa đỏ thẫm bên tóc mai của nàng, tàn nhẫn cùng cực.

Mà đám Bỉ Nô kia đang liếm láp nội tạng nóng hôi hổi của nàng, chuẩn bị há miệng ra gặm, chợt nghe có người tới gần, chúng đồng loạt quay đầu lại, bổ nhào về hướng này. Con ngươi chẳng buồn xoay, Tạ Liên tung một chưởng đánh chết cả lũ, sau đó lập tức kiểm tra thi thể. Những thi thể này nữ có nam có, trẻ có già có, ai cũng mặt xám mày tro, thân mặc áo vải đơn sơ, đích xác đều là dân thường Vĩnh An, Tạ Liên không khỏi giật mình.

Y cho rằng yêu ma quỷ quái thình lình xuất hiện trong ngọn núi này đều do kẻ mặc áo trắng quỷ dị kia đưa tới. Kẻ mặc áo trắng cứu Lang Anh, tám phần mười là cùng một giuộc với hắn, nhưng vì sao lũ Bỉ Nô này lại dùng dân thường Vĩnh An làm thức ăn? Vật không phải người sẽ không vô duyên vô cớ kết minh với con người, chẳng lẽ đây là điều kiện trao đổi của Lang Anh? Dùng tính mạng của người đi theo mình làm tiền vốn?!

Cô gái kia vừa đau vừa sợ, miệng khạc máu tươi, nghẹn ngào nói: "Đừng giết ta mà, ta chưa từng làm chuyện gì xấu gì hết, đừng giết ta!"

Tạ Liên kìm lòng không đặng nhớ tới một nhà ba người chết dưới tường thành hôm đó, bọn họ cũng đã làm chuyện xấu gì đâu? Y cúi người, giọng điệu càng hiền hòa hơn: "Đừng sợ. Không sao đâu, ta tới cứu muội đây."

Tiểu binh sĩ kia lại rút kiếm chỉa vào cô gái, nói: "Điện hạ, coi chừng là yêu tinh núi sâu."

Dĩ nhiên Tạ Liên biết có khả năng đó, khả năng cực lớn là đằng khác, nhưng sau khi đắn đo, y vẫn cảm thấy không thể bỏ mặc, cẩn thận là được rồi. Y bắt mạch cho cô gái chốc lát, lật xem chỉ tay và vân tay của nàng, nhanh chóng xác định nàng là người sống, hơn nữa chưa luyện võ bao giờ, trói gà còn không chặt, thế là lập tức bắt đầu cứu chữa, lấy lọ thuốc ra khỏi tay áo, vặn mở nút lọ, một luồng khói màu trắng mờ lan ra, tỏa mùi thơm ngát.

Thuốc này chẳng những có thể làm chậm triệu chứng tạm thời của các loại độc lạ mà còn có tác dụng với vết thương, Tạ Liên không hề tiếc rẻ linh dược, dùng hết cả lọ cho nàng, hỏi: "Đỡ hơn chút nào chưa?"

Tình trạng vết thương của cô gái rất nghiêm trọng, thảm không nỡ nhìn, sau khi hít luồng khói kia, sắc mặt nàng cũng hồng hào phần nào, yếu ớt gật gật đầu. Tạ Liên hỏi tiếp: "Các ngươi là người Vĩnh An ư? Sao lại ra nông nỗi này?"

Cô gái nói trong nước mắt: "... Phải, ta là người Vĩnh An. Ta cũng không biết tại sao nữa, lẽ ra, hức, lẽ ra đang yên lành, tự dưng cha ta lại chết, ca ca ta cũng chết luôn..."

Tạ Liên vỗ nhẹ lên vai nàng, hỏi: "Hung thủ hại chết họ là ai? Hay là thứ gì?"

Cô gái nức nở nói: "Hung thủ hại chết họ chính là... chính là... là ngươi!"

Nói đến câu cuối cùng, sắc mặt nàng bỗng trở nên dữ tợn, hai mắt sáng quắc, giang hai tay ôm chầm Tạ Liên!

Binh sĩ thiếu niên một mực đứng bên cạnh cảnh giác, phản ứng cực nhanh, đâm kiếm vào sống lưng nàng. Cô gái kia vốn đã bị thương nặng, bị thiếu niên đâm trúng, tuyệt đối không còn đường sống, nhưng nàng lại khoái chí cười hô hố, liều chết ôm Tạ Liên không chịu buông, duy trì tư thế đó, tắt thở bỏ mạng. Nàng ôm quá chặt, vất vả lắm binh sĩ thiếu niên mới kéo thi thể của nàng ra được, sau đó cất tiếng gọi: "Điện hạ! Huynh sao rồi?"

Tạ Liên cũng ngỡ rằng thiếu nữ này muốn đánh lén, nhưng nàng không mang lợi khí, ngay cả cắn xé cũng không, chỉ ôm chặt lấy y, dường như chỉ vậy là thỏa mãn, đến chết cũng không buông. Y ngơ ngác nói: "Ta không sao, ta..."

Lời còn chưa dứt, như thể đang chế nhạo y, một cảm giác choáng váng đột nhiên kéo tới.

Tiểu binh sĩ trừng to một con mắt đen láy, gọi: "Điện hạ?!"

Tạ Liên chỉ cảm thấy gan ruột nóng rẫy một cách khó chịu, nói không nên lời, cũng không muốn nói gì, càng không muốn nghe người ta nói. Y lắc lắc đầu, nhấc tay không nói tiếng nào. Bấy giờ, khắp bốn bề lại truyền đến tiếng cười đùa của con gái.

"Hi hi hi hi..."

"Hí hí hí hí..."

Hai người kinh ngạc phát hiện, bốn phía không hề có người thứ ba. Thứ phát ra tiếng cười, thế mà lại là những đóa hoa đỏ thẫm kia!

Tạ Liên tức khắc hiểu ngay mình đã rơi vào cạm bẫy nào --

Ôn nhu hương!

Ôn nhu hương này không phải ôn nhu hương kia. Ôn nhu hương chính là một loại hoa yêu thích sống tụ tập, hút tinh khí và máu tanh của đàn ông mà sống. Mùi hương của bọn chúng không phải thứ tốt gì, Tạ Liên vội nói: "Mau bịt kín mũi miệng của ngươi lại, đừng hít mùi hương của hoa đó!"

Binh sĩ thiếu niên vốn đã quấn đầy băng vải, lọc bớt một tầng, cho nên mới không hít phải mùi hương đó. Nghe vậy, nó siết chặt băng vải, chợt nhận ra Tạ Liên không có gì che chắn, bèn xe phần tay áo sạch nhất trên người mình, dùng sức chà xát rồi phủi sạch sẽ, cuối cùng dùng hai tay đưa cho Tạ Liên. Tạ Liên lại nói: "Không cần đâu. Vô dụng thôi."

Lúc y cứu chữa cô gái kia, mặc dù có phòng bị, nhưng không phòng bị mùi hương, chưa kể nhích vào quá gần, không biết thứ nàng cài bên tóc mai là một đóa "Ôn nhu hương", trước khi chết nàng còn ôm chặt Tạ Liên để đảm bảo không có sai sót nào. Nói cách khác, Tạ Liên sớm đã vô thức hít sâu vài hơi Ôn nhu, lần này xem như "thấm tận tim gan" thật rồi.

Sau khi mùi Ôn nhu nhập vào người, nam giới sẽ huyết khí sục sôi. Trước tiên rệu rã, sau đó nóng nảy. Bây giờ cả người mềm nhũn như bị rút gân, lát nữa qua cơn tê dại sẽ biến thành một thùng thuốc nổ. Nếu bây giờ kẻ mặc áo trắng quỷ dị kia xuất hiện lần nữa, Tạ Liên thật sự không biết mình nắm chắc bao nhiêu phần thắng, vốn dĩ y cũng không rõ đối phương có bao nhiêu bản lĩnh, phản ứng đầu tiên chính là mò mẫm tìm lọ thuốc, nhưng lấy ra mới sực nhớ, vì cứu thiếu nữ kia mà thuốc đã dùng hết, nhưng cuối cùng người cũng không sống sót.

*Tác giả lúc thì viết 温柔香, lúc thì 温柔乡, hai cái đều đọc là "Ôn nhu hương", nhưng 香 (mùi hương) và 乡 (thôn làng) khác nhau, nên sẽ dịch lần lượt thành mùi Ôn nhu và Ôn nhu hương.

Tạ Liên liếc nhìn thi thể bên cạnh, cô gái kia vẫn còn cười tươi rói, như thể mừng rỡ từ tận đáy lòng vì trước khi chết đã làm địch nhân trúng kế, cuối cùng có thể đi gặp người thân. Chỉ trách cảnh tượng đẫm máu làm nhạt sắc diễm lệ nguy hiểm của đóa hoa, mùi máu làm phai mùi hoa dị thường, Tạ Liên cũng chưa bao giờ nghĩ rằng, trên mặt một cô gái chỉ mới mười lăm mười sáu tuổi lại xuất hiện thần sắc oán hận sâu đậm đến thế, cũng như có thể làm nên chuyện quyết tuyệt đến vậy.

Bên kia, lũ hoa yêu phấn khích không thôi, thì thầm:

"Mắc câu rồi."

"Câu được rồi."

"Đúng là vị Thái tử điện hạ kia đó nha."

"Là chàng ấy đó."

"Đẹp trai ghê... ôi rễ của ta, rễ của ta sắp mất kiểm soát bò ra khỏi đất rồi!"

Binh sĩ thiếu niên vung kiếm chém tới, diệt sạch một mảng khóm hoa, nhưng cuống hoa của chúng lại mềm dẻo đến lạ, thanh kiếm mẻ kia chém một lần, chém lần nữa lại cùn mất một chút. Lũ hoa yêu lắc lư kêu toáng lên: "Ơ hay! Tiểu ca ca miệng còn hôi sữa này hung dữ quá nha! Khó khăn lắm người ta mới sắp nở hoa, ngươi định đền cho ta thế nào đây!"2

Binh sĩ thiếu niên giận đến mức mắt bốc lửa: "Muốn chết phải không! Ta sẽ châm lửa thiêu rụi các ngươi!"

Lũ hoa yêu bắt chéo lá xanh trên cuống, kêu la: "Lợi hại quá nha! Bọn ta có chọc gì ngươi đâu, mắc gì ngươi giận ghê thế!"

Tạ Liên cũng nói: "Đừng đốt! Chúng nó là yêu, đốt... sẽ sản sinh khí độc. Cũng không thể nhổ được!" Thiếu niên lập tức ngừng bàn tay định nhổ, Tạ Liên uể oải cất lời: "Trên cuống toàn gai độc đấy..."

Lũ hoa yêu nũng nịu nói: "Ôi chao, Thái tử điện hạ dịu dàng ghê cơ, cảm ơn chàng bảo vệ bọn ta nha. Chờ chút, bọn ta sẽ kết trái ngay đây! Nhất định sẽ yêu thương chàng tận tình, hí hí hí hí..."

"Trai tráng tu luyện đồng tử công* từ nhỏ không nhiều lắm, mặc dù phá thân thì pháp lực sẽ tụt mất một cảnh giới, nhưng mà chỉ đành tủi thân chàng thôi, hi hi hi hi..."

*Đồng tử công: một công pháp huấn luyện của võ thuật Thiếu Lâm, thiếu niên nhi đồng tập luyện là thích hợp nhất, ngoài ra luyện công phu này còn giúp chân khí đan điền dồi dào, gân cốt mềm dẻo như mang thân trẻ nhỏ.

Lũ hoa Ôn nhu hương cọ xát lẫn nhau, phát ra tiếng cười khanh khách, ý dâm từ từ lộ rõ, binh sĩ thiếu niên nghe mà ngơ ngác hồi lâu, nào là "đồng tử", "phá thân", "cảnh giới", có vẻ nửa hiểu nửa không, nhưng vẫn nghe ra được đó không phải lời hữu ích gì. Nó vừa ra sức vung kiếm chém hoa vừa rống giận, muốn át đi tiếng trêu chọc của lũ hoa yêu, không cho Tạ Liên nghe thấy. Tạ Liên lại siết hai tay đến nỗi đốt ngón tay kêu răng rắc.

Thì ra là thế!

Thì ra một loạt những việc xảy ra tối nay, đích thực là chiêu trò bày riêng để đối phó với y.

Chỉ bắt cóc một mình Thích Dung, tức đã chắc mẩm với sự ngạo mạn và suy tính của Võ Thần Tiên Lạc như y, nhất định sẽ chọn cách đơn độc đuổi theo, chuyện lớn hóa nhỏ. Còn thiếu nữ trọng thương thì nhằm mục đích tiêu hết linh dược của y, khiến y hít mùi Ôn nhu rồi chẳng thể hóa giải trong phút chốc. Yêu ma quỷ quái và người sống kết hợp với nhau, chỉ vì chờ y tại bước này.

Đạo mà Tạ Liên tu, đúng là có yêu cầu nhất định phải giữ thân đồng tử. Sau khi đạo nhân dòng này phi thăng, những người đến thăm viếng cũng tin chắc rằng vị thần mà mình vái lạy tất nhiên siêu phàm thoát tục, không nhiễm nhân dục (dục vọng bản năng của loài người). Vì thế nếu không giữ mình, chắc chắn sẽ làm tín đồ suy sụp, pháp lực giảm mạnh. Tuy không nghiêm trọng đến mức từ thần quan rớt thẳng xuống thành người phàm, mai này khổ tu mấy năm vẫn có cơ hội bù trở lại, nhưng vào giờ phút mấu chốt này, làm gì còn thời gian trống cho y đóng cửa khổ tu mấy năm chứ!

Hoàng Cực quán có quy tắc và luật cấm vô cùng nghiêm ngặt, với tư cách là người ưu tú hàng đầu trong quán, Tạ Liên chưa bao giờ phạm quy vượt rào, tự nhận từ lâu mình đã tu thành sắt đá, gió bão có thổi cũng không gợn nổi sóng xô biển lòng, y cũng từng trải nghiệm khá nhiều thử thách thế này, lần nào cũng có thể vượt ải trót lọt. Nhưng tuy lòng tĩnh như mặt nước lặng, suy cho cùng tuổi còn trẻ da mặt mỏng, bây giờ còn có một binh sĩ bé nhỏ đứng bên cạnh nghe lũ hoa yêu tạt những lời dâm ô trắng trợn lên người y, chưa kể mùi hoa quấn quíu, máu nóng sôi sục, rục rịch nôn nóng, Tạ Liên không khỏi cảm thấy hơi xấu hổ, sắc mặt cũng nhuốm màu đỏ ửng, nhưng đáng hận thay vẫn không đứng dậy nổi.

Bây giờ còn miễn cưỡng chống được, nhưng nếu lũ Ôn nhu hương này kết trái thật, vậy xem như gặp rắc rối to. Cách tốt nhất dĩ nhiên là tức tốc trở lại hoàng thành, bảo Phong Tín và Mộ Tình hộ pháp, nhưng hiện giờ thậm chí đứng lên cũng nhũn hết cả chân, Tạ Liên chẳng còn cách nào, đành phải gọi tiểu binh sĩ kia: "Ngươi... qua đây."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hd#ling