Tran malaya va singapore

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thời gian 8 tháng 12, 1941 - 31 tháng 1, 1942

Địa điểm Mã Lai

Kết quả Nhật Bản chiến thắng và bắt đầu chiếm đóng Mã Lai, liên quân Khối Thịnh vượng chung rút về Singapore

Tham chiến

Quân đoàn III Ấn Độ

Sư đoàn 8 Úc

Trung đoàn Mã Lai

New Zealand

2-VLG-V

Lữ đoàn bộ binh 53

Quân đoàn 25:

Vệ binh Hoàng gia Nhật Bản

Sư đoàn 5

Sư đoàn 18

Sư đoàn không quân 3

Sư đoàn không quân 22

Chỉ huy

Arthur Percival

Tomoyuki Yamashita

Lực lượng

90.000[1]

158 máy bay 60.000 người

400 pháo và súng cối

120 xe tăng

617 máy bay[2]

Tổn thất

5.500 người chết

5.000 người bị thương

40.000 người bị bắt làm tù binh[3]

1.793 người chết

3.378 người bị thương[3]

.

Trận Mã Lai hay Chiến dịch Mã Lai (Tiếng Anh:Battle of Malaya và tiếng Nhật:マレー作戦) là cuộc tấn công thuộc địa Mã Lai của Anh bởi Lục quân Đế quốc Nhật Bản từ ngày 8 tháng 12 năm 1941 đến ngày 31 tháng 1 năm 1942 trong giai đoạn đầu của cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương thuộc Thế chiến thứ hai. Tại Mã Lai, quân Nhật do tướng Yamashita Tomoyuki chỉ huy đã giao chiến với lực lượng Khối Thịnh vượng chung gồm lính Anh, Ấn Độ, Úc và Mã Lai dưới quyền tướng Arthur Percival.Trận đánh mở đầu bằng cuộc đổ bộ của quân Nhật tại Kota Bharu và kết thúc khi lực lượng liên quân rút lui về Singapore. Trong trận này, nhờ sử dụng xe đạp và xe tăng hạng nhẹ, các lực lượng quân Nhật đã chiếm ưu thế hoàn toàn khi tiến quân thần tốc băng qua các khu rừng già, đánh tập hậu theo các cạnh sườn và đổ bộ ở phía sau. Cho đến khi chiếm được Singapore, quân Nhật chịu thương vong 9.824 người nhưng phía Anh lại có hơn 100.000 người bị bắt làm tù binh.[4]

Bối cảnh

Bán đảo Mã Lai chạy dài từ biên giới Nam Thái Lan đến tận cùng Singapore được coi là mục tiêu hàng đầu của Đế quốc Nhật Bản trong cuộc tiến quân xuống khu vực Đông Nam Á.[5] Khu vực này có nguồn cao su tự nhiên lớn nhất thế giới và trữ lượng lớn thiếc. Phía đông bán đảo được bao phủ bởi rừng già và đầm lầy, phía tây lại là các dãy núy lớn.Chiến lược quân sự của người Anh tại vùng Viễn Đông chủ yếu dựa vào căn cứ hải quân Singapore, nằm về phía nam Mã Lai, pháo đài kiên cố bảo vệ các thuộc địa Anh vùng Viễn Đông và con đường đến Úc, Đông Ấn Hà Lan và Ấn Độ Dương.Trong khi đó, theo kế hoạch phối hợp giữa Bộ tổng tham mưu Lục quân với Bổ tổng tham mưu Hải quân Đế quốc Nhật, trong khi lực lượng chủ yếu của hải quân tấn công hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ ở Trân Châu cảng thì các lực lượng hải quân khác cũng tấn công các căn cứ quân sự ở Philippines, Singapore... đồng thời, lục quân sẽ đánh vào các mục tiêu đã định sẵn ở Mã Lai, Thái Lan và Hồng Kông.[6]

Kế hoạch và sự chuẩn bị

Anh

Khác với Hoa Kỳ lơ là cảnh giác để Nhật Bản tấn công Trân Châu cảng bất ngờ, tại Mã Lai từ năm 1939, người Anh đã cho tăng cường quân đội và cũng cố các công trình phòng ngự.[7] Họ đã bỏ ra 60 triệu Bảng Anh để củng cố việc bố phòng Singapore và một hạm đội hùng hậu với hai chiến hạm tối tân HMS Prince of Wales và HMS Repulse có nhiệm vụ tiêu diệt các đoàn tàu đổ bộ của địch quân.[8] Lực lượng chủ yếu của không quân Anh đặt tại Singapore là nơi máy bay và tàu chiến Nhật Bản khó vươn tới khi mở đầu tấn công. Còn lực lượng lục quân Anh lại dồn về phía Bắc, sát biên giới Thái Lan. Tại Kota Bharu tiếp giáp Thái Lan, Anh có 9.000 quân và tại Kedah có 20.000 quân.[7]Đại tá Tsugi của Nhật khi thảo kế hoạch hành quân được báo cho biết quân Anh, Ấn, Úc, New Zealand và Mã Lai tại bán đảo này có khoảng 30.000 người. Nhưng qua các cuộc tiếp quân từ Úc và Ấn đến, quân Anh lên đến gần 90.000, trong đó khoảng 15.000 thuộc các ban ngành không trục tiếp chiến đấu.[1]Tuy nhiên, việc phòng thủ của quân Anh có rất nhiều bất lợi[9] :Các chiến đấu cơ Beewster Buffalo của Anh lỗi thời và chậm chạp, kém xa các chiến đấu cơ Nhật.Những pháo lớn phòng thủ Singapore đều hướng về phía Nam trở ra biển, đề phòng một cuộc đổ bộ của quân Nhật từ phía ấy nhưng không có một ụ súng nào hướng về phía Bắc. Trên toàn bán đảo Mã Lai không hề có bất kì một xe thiết giáp nào để đối đầu với quân Nhật. Người Anh cũng có một kế hoạch đưa quân lên tỉnh Songkhla, miền nam Thái Lan để chặn hướng tiến của quân Nhật nếu họ tiến vào Thái Lan mang tên kế hoạch Matador, nhưng kế hoạch này sau đó đã bị hủy bỏ.

Nhật Bản

Theo nhà sử học Takushiro Hattori, cuộc hành quân đánh chiếm Mã Lai được coi là quan trọng nhất trong toàn bộ chiến dịch tiến xuống phía Nam của Nhật Bản.[5] Việc chiếm đóng miền Nam Đông Dương và Thái Lan là bước đầu để Nhật Bản tạo bàn đạp đánh chiếm Mã Lai.Từ ngày 15 tháng 11, tức là hơn 3 tuần trước khi cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, trung tướng Tomoyuki Yamashita, tư lệnh Quân đoàn 25 có nhiệm vụ đánh chiếm Mã Lai đã tới Sài Gòn nhận chỉ thị trực tiếp của nguyên soái Hisaichi Terauchi, tư lệnh đạo quân phương Nam. Thời tiết bán đảo Mã Lai từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau có gió mạnh, sóng lớn rất khó khăn cho việc đổ bộ nên kế hoạch đánh chiếm phải được nghiên cứu rất kĩ.[7]Ngày 20 tháng 11, phương án tấn công Mã Lai đã được soạn thảo xong. Trong khoảng thời gian này, một hạm đội hơn 20 tàu chiến và tàu đổ bộ đã tập trung trong vịnh Cam Ranh sẵn sàng chở quân về hướng Mã Lai.[10]Theo kế hoạch tác chiến, ngày N-4 (tức trước ngày đổ bộ 4 ngày), đội tàu chở sư đoàn 5 là lực lượng tấn công chủ yếu sẽ xuất phát đi tới Singora và Pattani là hai điểm đổ bộ ở miền Đông Nam Thái Lan tiếp giáp Mã Lai. Sau khi đổ bộ bí mật và an toàn sẽ theo đường bộ đánh xuống phía Nam, vượt biên giới Mã Lai, chiếm sân bay Kota Bharu ở phía Đông và pháo đài Georgetown ở phía Tây Mã Lai. Trung đoàn 56 và lữ đoàn 23 thuộc sư đoàn 18 cũng xuất phát bằng tàu biển vào ngày N-4, đổ bộ lên Kota Bharu trong khi sư đoàn 5 từ phía Bắc đánh xuống, rồi tiếp tục nhanh chóng hành quân xuống phía Nam, chiếm lĩnh Kuan Tan.Sư đoàn cận vệ Hoàng gia đang đóng quân sẵn tại Thái Lan sẽ theo đường bộ, hợp lực với các sư đoàn 5 và 18 đổ bộ lên bờ biển miền Đông Mã Lai cùng đánh xuôi xuống phía Nam, nhằm mục tiêu chủ yếu là Kuala Lumpur. Đợt 1 chiến dịch phải hoàn thành trong 3 ngày. Ngày N+3 chuyển sang đợt hai. Ngày N+8 đổ bộ đánh chiếm Singapore. Ngày N+15 kết thúc chiến dịch.[10]Lực lượng không quân sẽ yểm trợ cho các cuộc đổ bộ ngày N-3 bắt đầu tập trung tại hai sân bay Tân Sơn Nhất và Biên Hòa. Ngày N sẽ xuất phát. Theo dự trù, tổng số máy bay huy động cho chiến dịch đánh chiếm Mã Lai là 799 chiếc, trong đó có 187 chiếc cất cánh từ các tàu sân bay, 612 chiếc cất cánh từ các sân bay trên đất liền.[11] Bản kế hoạch này cũng ghi tên các căn cứ phục vụ cho chiến dịch, bao gồm toàn bộ sân bay và bến cảng trên đảo Hải Nam; các sân bay và bến cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Sài Gòn, Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Sóc Trăng, đảo Phú Quốc, Kampong Chhnang, Xiêm Riệp trên bán đảo Đông Dương; Singora, Pattani, Bandon tại Thái Lan.[12]

Diễn biến

Cuộc đổ bộ của quân Nhật

Sáng ngày 4 tháng 12, đoàn tàu gồm 20 chiếc chở quân Nhật đã rời vịnh Cam Ranh lặng lẽ tiến về phía Nam. Mặc dù đã cố giữ bí mật, nhưng đoàn tàu vẫn không tránh khỏi sự theo dõi của các máy bay trinh sát Mỹ Lockheed Hudson và PBY Catalina. Tuy vậy, họ không hề bị đối phương tấn công. Ngày 7 tháng 12, sau khi đã vào vịnh Thái Lan, đoàn tàu tách làm 3 nhóm để tiến tới 3 mục tiêu khác nhau. Lực lượng chính gồm 14 hạm tàu thẳng tiến về Singora, bên trái nó là nhóm thứ hai gồm 3 chiếc tiến đến Pattani thuộc Thái Lan và nhóm thứ ba cũng gồm 3 chiếc ở bên trái nhóm này hướng tới thành phố Kota Bharu, một thành phố của Mã Lai cách Singora của Thái Lan 200 km.[13] Đêm khuya, các hạm tàu thuộc cả 3 hướng lần lượt đến nơi đã định.Tại Kota Bharu, vào lúc 23 giờ 25 phút, quân Nhật do đại tá Yoshio Nasu chỉ huy đã bắt đầu đổ bộ. Đúng 23 giờ 30 ngày 7 tháng 12 (giờ Mã Lai), tức 1 giờ 30 ngày 8 tháng 12 ở Tokyo, đại bác trên các chiến hạm do chuẩn đô đốc Shintaro Hashimoto chỉ huy bắt đầu pháo kích lên bờ. Đây là những tiếng súng đầu tiên mở màn cho cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương vì cuộc tấn công Trân Châu Cảng chỉ bắt đầu sau đó gần 2 giờ.[6] Mục tiêu của người Nhật là phi trường nằm cách thành phố 2 km.[14]Kota Bharu khu vực nằm sát biên giới Mã Lai-Thái nên quân đồn trú ở đây khá đông và xây dựng nhiều cụm phòng ngự ở ngoài bãi biển và sâu bên trong. Theo kế hoạch hành quân của tướng Yamashita, Kota Bharu là chiến trường nghi binh nhằm gợi sự chú ý của hải quân, không quân Anh về đó. Còn những điểm đổ bộ chính là ở Pattani và nhất là Singora.[15]Lực lượng quân Anh phòng thủ tại bãi biển là quân đoàn III Ấn Độ do trung tướng Lewis Heath chỉ huy. Trận đánh tại bãi biển kéo dài 3 tiếng đồng hồ và cuối cùng quân Nhật đã giành thắng lợi sau khi quân phòng thủ hết đạn và rút lui về phía Nam sau khi cho toàn bộ số máy bay tại sân bay cất cánh.[16] Hơn 4 giờ sáng ngày 8 tháng 12, quân Nhật đã chiếm được sân bay đầu tiên của Anh ở Mã Lai.Trong khi đó, ở Pattani và Singora, cuộc đổ bộ diễn ra đơn giản hơn. Tại Pattani, quân lính và sĩ quan Thái Lan bị mua chuộc không phản ứng gì.[17]Còn ở Singora, sở chỉ huy cảnh sát nhận được tiền, quà của Nhật cũng không chống cự gì.[18] Nhật Bản sau đó đã ép chính quyền Thái Lan phải cho quân đội nước này sử dụng các căn cứ trên đất Thái để tiến hành xâm lược Mã Lai, sau khi chiến đấu với quân đội Thái trong khoảng thời gian 8 giờ vào lúc sáng.4 giờ sáng, 17 máy bay ném bom của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã tiến hành oanh tạc Singapore, làm 133 người chết.[9] Điều này là bằng chứng cho việc các máy bay ném bom Nhật có căn cứ tại Sài Gòn giờ đây đã có tầm hoạt động đến tận Singapore.Chiến dịch thay thế cho chiến dịch Matador, mang tên Chiến dịch Krohcol, đã được tiến hành vào ngày 8 tháng 12, nhưng lính Ấn Độ đã dễ dàng bị sư đoàn 5 lục quân Nhật đổ bộ lên Pattani đánh bại.

Đánh chìm Prince of Wales và Repulse

Nhìn chung chiến dịch tấn công Mã Lai diễn ra đúng với kế hoạch định sẵn trừ một trường hợp đột xuất. Đó là vào sáng ngày 5 tháng 12, khi quân đoàn 25 từ Hải Nam đang xuống Cam Ranh và Vũng Tàu thì bị máy bay trinh sát của Anh phát hiện. Lập tức đô đốc Tom Phillips đã cho điều động Lực lượng Z gồm 1 thiết giáp hạm (HMS Prince of Wales), 1 tuần dương hạm thiết giáp (HMS Repulse) và 4 khu trục hạm từ Singapore tiến lên vùng biển phía Bắc Mã Lai để tiêu diệt các tàu chở quân. Tuy nhiên, lực lượng này đã ra khơi mà không có sự yểm trợ của không quân.[19]Phía Nhật Bản sau khi phát hiện lực lượng này bằng tàu ngầm và máy bay trinh sát đã cho máy bay đi tìm tấn công nhưng vẫn không tìm được và phải quay về sân bay Biên Hòa vì cạn nhiên liệu. Thống chế Terauchi đã ra lệnh cho Tư lệnh không quân Nhật tại Đông Dương "phải cho máy bay bay xa hơn, nếu cạn nhiên liệu sẽ đáp xuống một sân bay nào đó trên đất Mã Lai mà quân đoàn 25 sẽ đánh chiếm bằng được.[20]"7 giờ 10 sáng ngày 10 tháng 12, 88 máy bay Nhật gồm 27 chiếc chở bom và 61 chiếc phóng ngư lôi đậu ở sân bay Tân Sân Nhất được lệnh xuất phát. Đến 11 giờ số máy bay này gặp lực lượng Z. Trong khoảng 2 giờ đồng hồ, với hai đợt tấn công bằng bom và ngư lôi, các máy bay Nhật đã đánh chìm 2 chiến hạm chủ lực HMS Prince of Wales và HMS Repulse. Đô đốc Phillips cũng chết theo tàu của mình. Điều này khiến cho hải quân Anh không còn đủ sức cản phá cuộc đổ bộ của Nhật Bản vào vùng bờ biển Mã Lai nữa.[20]

Các cuộc không chiến

Các phi đoàn Đồng Minh đóng tại Mã Lai được trang bị chủ yếu là các máy bay Brewster Buffalo mắc rất nhiều khuyết điểm : tốc độ và độ linh hoạt kém hơn nhiều các chiến đấu cơ Nhật, trang bị yếu;[21][22] không đầy đủ phụ tùng dự trữ;[22] số lượng nhân viên lo các công việc dưới mặt đất không đủ;[23] các sân bay khó chống lại các cuộc không kích;[21] thiếu một hệ thống mệnh lệnh rõ ràng và nhất quán;[21] mâu thuẫn giữa các phi đoàn và nhân viên Không quân Hoàng gia Anh và Không quân Hoàng gia Úc[23] và hầu hết phi công là những người thiếu kinh nghiệm và không được tập luyện đầy đủ.[21]Càng tồi tệ hơn cho không quân Đồng Minh khi chiến đấu cơ của Nhật A6M Zero vượt trội hơn tất cả máy bay Đồng Minh ở Mã Lai. Vì phải chịu nhiều tổn thất trong tuần đầu tiên của chiến dịch, đã dẫn đến sự hợp nhất của các phi đội và di tản dần sang Đông Ấn Hà Lan của không quân Đồng Minh. Tuy nhiên, một phi công, trung sĩ Malcolm Neville Read thuộc Phi đoàn 453 Không quân Hoàng gia Úc đã hi sinh khi dùng chiếc Brewster Buffalo lao thẳng vào chiếc Ki-43 Oscar thuộc Không đoàn 64 trên bầu trời Kuala Lumpur ngày 22 tháng 12, 1941.[24]Một phi đoàn của Không quân Hoàng gia Hà Lan tại Đông Ấn (ML-KNIL), 2-VLG-V, đã được đưa đến Singapore tham gia vào lực lượng Đồng Minh, trước khi bị triệu hồi về Java ngày 18 tháng 1. Nhiều phi công Hà Lan, trong đó có Jacob van Helsdingen và August Deibel đã tham gia vào nhiệm vụ chống các máy bay Nhật ném bom Singapore từ sân bay Kallang. Họ khẳng định đã bắn rơi 6 máy bay, trong đó đặc biệt là những chiếc Ki-27 Nate. Những đóng góp của phi đoàn này đã làm suy yếu một phần nhỏ lực lượng không quân Nhật.Các máy bay ném bom Đồng Minh hầu hết đều lỗi thời - Bristol Bleheim, máy bay ném nom hạng nhẹ Lockheed Hudson và máy bay phóng ngư lôi Vickers Vildebeest - và hầu hết số máy bay này đã bị phá hủy trên không hay trên mặt đất bởi các chiến đấu cơ Nhật nên không có ảnh hưởng đến diễn biến chiến dịch. Tuy nhiên, Arthur Scarf, chỉ huy một phi đoàn, đã được truy phong Huân chương Victoria vì một cuộc tấn công ngày 9 tháng 12.Ngoài ra, cơ quan tình báo quân sự Nhật đã tuyển mộ được một sĩ quan Anh, đại úy Patrick Heenan, đang làm sĩ quan không quân trong quân đội Ấn Độ.[25] Mặc dù hiệu quả trong công việc tình báo của Heenan vẫn còn gây nhiều tranh cãi, người Nhật đã phá hủy phần lớn số máy bay của Đồng Minh tại bắc Mã Lai chỉ trong vòng 3 ngày. Heenan bị bắt ngày 10 tháng 12 và được đưa đến Singapore. Tuy nhiên, quân đội Nhật đã hoàn toàn giành được quyền làm chủ trên không.

Tiến xuống bán đảo Mã Lai

Thảm họa của các chiến hạm Prince of Wales và Repulse mang lại một hậu quả đau thương khác cho chiến trường Mã Lai. Hải quân Hoàng gia Anh không đủ năng lực đánh chìm các tàu chở quân và vũ khí của Nhật từ Hòn Khoai (Cà Mau) tiến đến. Vì vậy, từ 3 đầu cầu đổ quân ở Pattani, Singora (Nam Thái Lan) và Kota Bharu (Bắc Mã Lai), quân Nhật như vết dầu loang, bắt tay nhau được và trong một tuần, vừa kiểm soát vùng biên giới Thái Lan - Mã Lai vừa tiếp nhận thêm binh lính, vũ khí, xe tăng, cơ giới công binh và xe đạp để chuẩn bị tiến công về phía Nam.[26]Hai sân bay lớn ở Bắc Mã Lai là Kota Bharu và Tanah Mirah rơi vào tay Nhật nên cả miền Bắc Mã Lai vắng bóng máy bay Anh. Người Nhật giành được quyền làm chủ trên không đã liên tục oanh kích các lực lượng bộ binh và dân thường.Tướng Yamashita quyết định tiến về Nam theo hai gọng kìm. Một, theo bờ biển phía Đông nhìn ra vịnh Thái Lan, còn một cánh khác theo bờ biển phía Tây nhìn về biển Andaman thuộc Ấn Độ Dương. Mục tiêu của gọng kìm thứ hai là hai thành phố Jitra và Gurun. Quân Đồng Minh đã bị đánh bại tại Jitra bởi quân Nhật tiến xuống từ miền nam Thái Lan có xe tăng yểm trợ từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 12 năm 1941.Đảo Penang thuộc Mã Lai đã bị người Nhật ném bom suốt từ ngày 8 tháng 12, sau cùng người Anh đã phải từ bỏ kháng cự vào ngày 17 tháng 12. Vũ khí, tàu, hàng tiếp liệu và trạm radar đều bị bỏ lại. Những người Châu Âu được di tản hết khỏi đảo còn dân địa phương thì bị bỏ lại và chỉ còn biết trông chờ vào sự thương xót của lính Nhật. Hành động này đã gây ra một sự bất mãn của người dân địa phương đối với người Anh.Ngày 23 tháng 12, thiếu tướng David Murray-Lyon chỉ huy sư đoàn bộ binh 11 Ấn Độ đã bị cách chức. Đến tuần cuối cùng của tháng 1, toàn bộ miền Bắc Mã Lai đã bị quân Nhật chiếm. Cùng vào thời điểm này, chính phủ Thái Lan trước sự đe dọa của Nhật Bản đã phải ra tuyên bố liên minh với Nhật Bản và tuyên chiến với Anh-Hoa Kỳ. Người Nhật sau đó đã đồng ý cho Thái Lan khôi phục lại quyền làm chủ của họ đối với một số vùng phía bắc Mã Lai.Đối với quân Nhật từng đổ bộ ở Đông Mã Lai, cuộc chiến đấu quyết liệt của quân Anh ngay từ bãi biển Kota Bharu làm cho họ nghĩ rằng, càng tiến sâu về phía Nam chắc chắn sẽ gặp nhiều phản ứng hơn. Nhưng họ lại thấy rằng, không một phòng tuyến nào của quân Anh được thiết lập để ngăn cản họ suốt cuộc hành trình dài 400 km xuôi nam. Không một máy bay nào chặn đánh họ. Lí do dễ hiểu là quân Anh đang cố phòng thủ ở phía Nam Mã Lai và họ không có lấy một chiếc xe tăng để nghênh chiến. Đó là một sai lầm chiến lược của các tướng lãnh cao cấp Anh. Trước khi chiến tranh bùng nổ, họ cho rằng một xứ nhiều núi và rừng như Mã Lai không có môi trường cho chiến xa hoạt động. Giờ thì các đoàn xe tăng hạng nhẹ của Nhật tiến nhanh như vào chỗ không người.[26]Sư đoàn 11 Ấn Độ đã cố gắng trì hoãn bước tiến của quân Nhật trong vài ngày tại Kampar, nơi mà quân Nhật phải chịu nhiều thương vong do địa hình không cho phép họ sử dụng xe tăng và sức mạnh không quân. Sư đoàn 11 Ấn Độ đã phải rút lui khi quân Nhật đổ bộ bằng đường biển ở phía nam Kampar. Quân Anh sau đó đã rút lui về vị trí đã được chuẩn bị sẵn tại sông Slim.Tại sông Slim, 2 lữ đoàn Ấn Độ đã bị tiêu diệt gần hết khi quân Nhật tấn công bất ngờ bằng xe tăng vào ban đêm. Thất bại này đã buộc tướng Percival phải thay thế sư đoàn 11 bằng sư đoàn 8 Úc.Ngày 7 tháng 1, đại tướng Archibald Wavell vừa được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh liên quân Anh-Hà Lan cho toàn vùng Đông Nam Á, từ bộ tư lệnh ở Bandung bay qua Singapore thị sát. Wavell ra lệnh thành lập một phòng tuyến cố thủ các chiến trường đến hơn 100 km về phía nam và tất cả lui về đây.[27] Ngày 11 tháng 1, quân Nhật chiếm được Kuala Lumpur mà không gặp bất kì một sự kháng cự nào. Người Nhật giờ chỉ còn cách Singapore 200 dặm.

Phòng thủ Johore

Đến giữa tháng 1, quân Nhật đã tiến đến bang Johore nằm ở phía Nam Mã Lai. Ngày 14 tháng 1, họ đã lần đầu tiên chạm trán với sư đoàn 8 Úc, do thiếu tướng Gordon Bennett chỉ huy. Trong cuộc đụng độ này, người Nhật lần đầu tiên đã phải rút lui khi vấp phải sức kháng cự mạnh của quân Úc tại Gemas. Trận đánh diễn ra quanh cầu Gemensah đã khiến quân Nhật chịu thương vong 600 người nhưng cây cầu bị phá hủy trong trận đánh đã được sửa lại chỉ sau 6 giờ.[28]Khi quân Nhật cố gắng đánh bọc sườn quân Úc ở phía tây Gemas đã dẫn đến trận đánh đẫm nhất của chiến dịch bắt đầu từ ngày 15 tháng 1 tại bán đảo bờ biển phía Tây gần sông Muar. Bennett đã giao cho lữ đoàn 45 Ấn Độ (một đơn vị mới và chưa được huấn luyện nhiều) phòng thủ bờ sông phía nam nhưng đơn vị này đã quân Nhật đổ bộ từ biển đánh bọc sườn tiêu diệt, tư lệnh lữ đoàn là H. C. Duncan và 3 tư lệnh tiểu đoàn cũng bị giết chết.[28] Hai tiểu đoàn bộ binh Úc, được gửi đến yểm trợ Lữ đoàn 45, cũng bị đánh bọc sườn và cắt đường rút lui, kết quả là một tiểu đoàn trưởng người Úc bị giết chết trong trận giao tranh tại thị trấn Bakri, đông nam Muar. Tại Bakri, những người lính chống tăng Úc đã tiêu diệt được 9 xe tăng Nhật,[28] làm chậm bước tiến quân Nhật đủ để những người còn sống sót của 5 tiểu đoàn rút lui khỏi Muar.[28]Sau đó, những người lính Ấn và Úc còn sống sót đã thành lập Lực lượng Muar do trung tướng Úc Charles Anderson chỉ huy để chống cự với quân Nhật trong suốt 4 ngày,[28] tạo điều kiện cho các đơn vị lính còn lại của Khối Liên hiệp Anh rút khỏi miền bắc Mã Lai và đẩy lùi người Nhật. Khi Lực lượng Muar tiến đến cây cầu tại Parit Sulong, họ phát hiện nó đã nằm trong tay quân Nhật. Sáng ngày 21, họ nỗ lực chiếm lại cây cầu nhưng bị quân Nhật đẩy lùi bằng xe tăng, pháo và máy bay, chịu thương vong 1.700 người. 9 giờ sáng ngày 22, Anderson ra lệnh rút quân và ông cùng những người còn lại của đơn vị đã phân tán về phía đông, vượt qua rừng già và đầm lầy để tới Yong Peng, sở chỉ huy của sư đoàn, để lại 150 người bị thương. Toàn bộ số quân lính bị thương đã bị quân Nhật giết chết trong cuộc thảm sát Parit Sulong, nhưng vẫn có 2 người thoát được. Anderson sau đó đã được tặng thưởng Huân chương Victoria vì thành tích chiến đấu của mình.[28] Trận Muar đã làm cho liên quân chịu thương vong 3.000 người trong đó có 1 lữ đoàn và 3 tiểu đoàn trưởng.[28]Ngày 20 tháng 1, quân Nhật đổ bộ lên Endau, bất chấp cuộc tấn công từ các oanh tạc cơ Vildebeest. Tuyến phòng thủ cuối cùng của liên quân Khối Thịnh vượng chung tại Johore qua Batu Pahat-Kluang-Mersing bị tấn công trên toàn tuyến. Thật không may là tướng Percival đã chống lại việc xây dựng các tuyến phòng thủ cố định tại Johore, như trên bờ biển Bắc Singapore khi phản đối lời đề nghị của Chỉ huy trưởng Lực lượng công binh, chuẩn tướng Ivan Simson với lời phê bình "Phòng thủ sẽ không tốt cho tinh thần chiến đấu".Ngày 27 tháng 1, 1942, Percival nhận được lệnh của đại tướng Archibald Wavell cho rút lui qua eo biển Johore để đến Singapore.

Rút lui về Singapore

Ngày 31 tháng 1, lực lượng cuối cùng liên quân đã rời Mã Lai và công binh đã cho đặt thuốc nổ phá con đê nối liền Johore và Singapore. Một số quân Nhật đã cải trang thành dân thường để xâm nhập vào hòn đảo này bằng xuồng.Vào cuối tháng 1, Patrick Heenan - sĩ quan trong không quân Ấn Độ bị kết tội phản quốc vì làm gián điệp cho Nhật Bản, đã bị đem ra tòa án quân sự xét xử và bị kết án tử hình.[25] Ngày 13 tháng 2, năm ngày sau khi quân Nhật tiến đánh Singapore, cảnh sát quân sự Anh đã đem hành quyết Heenan tại cảng Keppel, phía nam Singapore và xác bị quăng xuống biển.

Kết quả

Trong khoảng thời gian chưa đầy 2 tháng, quân Nhật đã chinh phục thành công toàn bộ bán đảo Mã Lai khiến liên quân Khối Thịnh vượng chung phải lùi về Singapore để cố thủ. Tổn thất của liên quân là 5.500 người chết, 5.000 người bị thương và 40.000 tù binh.[3] Phía Nhật có 1.800 người chết và 3.400 người bị thương.[3] Quân Nhật bắt đầu tấn công Singapore vào ngày 7 tháng 2 và tướng Arthur Percival cuối cùng đã phải đầu hàng vào ngày 15 tháng 2.Trong trận Mã Lai, lực lượng Công binh Hoàng gia Anh đã phá hủy hàng trăm cây cầu trong cuộc rút lui, làm giảm phần nào tốc độ tiến quân của người Nhật. Tuy nhiên quân Nhật đã cho bộ binh đi xe đạp vác xe qua suối và công binh ở phía sau sửa cầu để cơ giới qua sau.[27

Thời gian 31 tháng 1 - 15 tháng 2 1942

Địa điểm Singapore

Kết quả Nhật Bản chiến thắng và tiến hành chiếm đóng Singapore

Tham chiến

Quân đoàn III Ấn Độ

Sư đoàn 8 Úc

Sư đoàn 18 Anh

Trung đoàn Mã Lai

Tập đoàn quân số 25

• Vệ binh Hoàng gia Nhật Bản

• Sư đoàn lục quân số 5 Nhật Bản

• Sư đoàn lục quân số 18 Nhật Bản

• Sư đoàn không quân số 3 Nhật Bản

Hải quân đế quốc Nhật Bản

Chỉ huy

Arthur Percival #

Gordon Bennett

Lewis Heath #

M. Beckwith-Smith #

Tomoyuki Yamashita

Lực lượng

85,000 36,000

Tổn thất

2,000 người chết

5,000 người bị thương

50,000 người bị bắt[1]

1,713 người chết

2,772 người bị thương[2]

.

Trận Singapore hay trận Tân Gia Ba là trận đánh diễn ra trong Thế chiến thứ hai giữa đế quốc Nhật Bản và khối Liên hiệp Anh khi Nhật Bản mở cuộc tấn công nhằm chiếm Singapore lúc này là thuộc địa của Anh.Trận đánh kết thúc với sự thất thủ của Singapore sau khi tướng Anh Arthur Percival đầu hàng quân Nhật do tướng Tomoyuki Yamashita chỉ huy. Khoảng 80,000 lính Ấn Độ, Úc và Anh đã trở thành tù binh sau trận đánh, chưa kể 50,000 tù binh khác bị Nhật bắt trong chiến dịch Malaya. Thủ tướng Anh Winston Churchill đã gọi thất bại tại Singapore là "thảm họa tồi tệ nhất" và "cuộc đầu hàng lớn nhất" trong lịch sử nước Anh.

Vị trí Singapore

Singapore là một hòn đảo nhỏ, có diện tích chỉ hơn 600 km², nằm về phía nam Malaya. Con đường duy nhất nối giữa Singapore và Malaya là một con đường nhân tạo có tên Đường nối Johor-Singapore ở phía Bắc, băng qua eo biển Tebrau. Vị trí cao nhất của Singapore là đồi Bukit Timah với độ cao 166 m.Singapore được người Anh dòm ngó từ năm 1819 và trở thành thuộc địa của Anh từ năm 1867. Đối với Đế quốc Anh, Singapore có một vị trí rất quan trọng vì nó nằm trên con đường biển nối giữa Châu Âu và Trung Quốc và đây trở thành căn cứ chính của Anh tại Đông Nam Á. Chiếm được Singapore, Đế quốc Nhật Bản sẽ làm chủ một hải cảng huyết mạch để có thể mở rộng bành trướng cũng như củng cố các khu vực đã chiếm được. Một nguyên nhân khác khiến Nhật muốn chiếm Singapore là những người Hoa giàu có tại Singapore đã cung cấp tài chính cho Tưởng Giới Thạch trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật sau khi Nhật Bản xâm chiếm Trung Quốc tháng 7/1937. Sự giúp đỡ này đồng nghĩa với sự gia tăng về sức mạnh của Trung Quốc, một điều mà Nhật không hề muốn.

Hoàn cảnh trận đánh

Sự bùng nổ cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương

Tháng 8 1940, Nhật Bản đưa ra kế hoạch "Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á" với ý đồ xây dựng đế quốc Nhật Bản bao gồm Trung Quốc, Triều Tiên, Đông Nam Á và cả Châu Úc. Ngày 23 tháng 9 1940, quân Nhật tiến vào Đông Dương là thuộc địa của Pháp, chuẩn bị cho kế hoạch "Nam tiến" giành lấy nguồn tài nguyên dầu mỏ và các vật tư chiến tranh tại Đông Nam Á. Ngày 27 tháng 9 1940, Nhật Bản kí với Đức Quốc xã và Ý hiệp ước liên minh về chính trị, quân sự và kinh tế theo đó Đức và Ý thừa nhận sự thống trị của Nhật trong việc thiết lập "Trật tự mới" ở Đông Á.Tuy nhiên sự bành trướng của Nhật tại Châu Á càng làm mâu thuẫn giữa Nhật và Anh, Mỹ càng gay gắt. Tháng 7 1941, Mỹ tuyên bố hủy bỏ điều ước thương mại Mỹ-Nhật theo đó Mỹ hạn chế xuất khẩu nguyên liệu, dầu máy bay và sắt phế thải cho Nhật đồng thời phong tỏa tài sản của Nhật tại Mỹ. Tháng 10 1941, Hideki Tojo lên nắm quyền thủ tướng chuẩn bị chiến tranh sau khi nhiều cuộc đàm phán giữa 2 bên bị đổ vỡ.Ngày 7 tháng 12 1941, không tuyên chiến trước, không quân và hải quân Nhật bất ngờ tấn công Trân Châu cảng, căn cứ của Mỹ ở Thái Bình Dương. Ngày 8 tháng 12, Nhật Bản tuyên chiến với Anh-Mỹ. Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ.

Chiến dịch Malaya

Cùng với cuộc tấn công Trân Châu cảng, từ ngày 7 tháng 12 1941, Nhật Bản phát động cuộc tấn công toàn diện vào Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Ngày 8 tháng 12, Nhật Bản xâm chiến Thái Lan và 1 ngày sau làm chủ Bangkok, ép chính Phủ Thái Lan cho Nhật Bản mượn đường tấn công các quốc gia Đông Nam Á khác. Cũng trong ngày 8 tháng 12, tập đoàn quân số 25 Nhật Bản do tướng Tomoyuki Yamashita (Sơn Hạ Phụng Văn) đã thực hiện cuộc đổ bộ đánh chiếm Malaya tại Kota Bharu và một cánh quân khác từ Thái Lan tiến vào phía tây Malaya. Lúc 4:00 sáng, 17 máy bay ném bom của hải quân Nhật xuất phát từ Sài Gòn bắt đầu những cuộc oanh tạc vào Singapore. Tuy nhiên, hệ thống phòng không tại đây có thể giữ cho thành phố khỏi bị tàn phá hoàn toàn cho đến khi đạn dược còn đầy đủ.Tại miền bắc Malaya, tập đoàn quân 25 Nhật Bản gặp sự kháng cự của quân đoàn III Ấn Độ và một số tiểu đoàn Anh. Mặc dù về quân số tập đoàn quân 25 thua sút hơn nhiều quân Đồng Minh tại Malaya và Singapore nhưng bù lại quân Nhật tỏ ra vượt trội về khả năng tiếp tế hàng không, thiết giáp, sự hợp đồng tác chiến, chiến thuật và kinh nghiệm chiến đấu. Ngoài ra, không quân Đế quốc Nhật Bản có số lượng máy bay nhiều hơn, được huấn luyện tốt hơn những phi công phe Đồng minh và trang thiết bị cũng hiện đại hơn những trang thiết bị cùng loại của phe Đồng minh tại Malaya, Borneo và Singapore. Các máy bay tiêm kích siêu hạng của Nhật Bản, đặc biệt là chiếc Mitsubishi A6M Zero, giúp Nhật Bản giành quyền làm chủ hoàn toàn bầu trời. Không chỉ thua sút về không lực, Đồng Minh còn không có xe tăng hay thiết giáp.Trưa ngày 8 tháng 12, đô đốc Anh Thomas Phillip đã dẫn Hạm đội Z từ Singapore gồm thiết giáp hạm HMS Prince of Wales, tuần dương hạm HMS Repulse cùng 4 khu trục hạm đến Malaya để tiêu diệt quân đổ bộ Nhật. Mặc dù hai chiến hạm này được xem là "không thể đánh chìm" nhưng đến ngày 10 tháng 12, 34 máy bay ném bom và 51 máy bay ném ngư lôi của Nhật từ căn cứ tại Sài Gòn đã tấn công và đánh chìm cả 2, đô đốc Phillip cũng tử trận. Chủ lực hạm đội Viễn Đông của Anh bị đánh chìm giúp quân Nhật nắm quyền khống chế, kiểm soát trên biển và cắt đứt đường tiếp viện cho quân Anh trên bộ.Trong khi đó, trong các trận giao tranh trên bộ, quân Nhật đã cô lập, bao vây và bức hàng quân Ấn Độ có nhiệm vụ phòng thủ bờ biển rồi tiếp tục tiến xuống bán đảo Malaya. Quân Nhật tỏ ra áp đảo quân phòng thủ dù gặp sự chênh lệch lớn về lực lượng. Xe đạp và xe tăng hạng nhẹ đã giúp quân Nhật đã vượt qua các khu rừng già một cách hữu hiệu.Mặc dù lực lượng Đồng minh đã được gia cố thêm bằng sư đoàn 8 Úc nhưng quân Nhật vẫn ra sức tấn công tạo áp lực, không cho quân Anh có đủ thì giờ để củng cố lại một vị trí hoặc phòng tuyến mới. Kết quả là người Anh lại tiếp tục chạy dài về miền Nam và cuối cùng họ quyết định rút về cố thủ tại Singapore. Ngày 31 tháng 1, lực lượng Đồng Minh cuối cùng đã rời Malaya và các kĩ sư đã cho đánh sập con đường nối Johore và Singapore. Một số quân Nhật đã cải trang thành dân thường Singapore vượt qua eo biển Johor để xâm nhập vào đảo quốc này. Sau gần 2 tháng giao tranh, trận Malaya đã kết thúc với thắng lợi hoàn toàn của Nhật Bản và giờ đây mục tiêu tiếp theo là Singapore.

Sự chuẩn bị

Anh

Chỉ huy quân Đồng minh tại Singapore, trung tướng Arthur Percival có trong tay 85.000 quân, một lực lượng tương đương hơn 4 sư đoàn. Có khoảng 70.000 lính tuyến đầu gồm 38 tiểu đoàn bộ binh- 17 Ấn Độ, 13 Anh, 6 Úc và 2 Mã Lai - cộng thêm 3 tiểu đoàn súng máy. Sư đoàn 18 Anh dưới quyền thiếu tướng Merton Beckwith-Smith vừa mới đến có lực lượng đầy đủ nhưng thiếu kinh nghiệm và sự huấn luyện cần thiết. Tiểu đoàn địa phương thì rất thiếu kinh nghiệm và thậm chí một số trường hợp còn chưa được huấn luyện.[3] Các lực lượng còn lại đều hao tổn lực lượng sau các trận đánh tại Malaya.Percival điều cho thiếu tướng Gordon Bennett 2 lữ đoàn từ sư đoàn 8 Úc để phòng thủ phía tây Singapore, trong đó có vị trí đổ bộ quan trọng tại tây bắc đảo, nơi được bao bọc bởi các rừng đước và rừng già, xen lẫn các sông và lạch. Tại trung tâm của "Khu vực phía Tây" là sân bay Tengah, sân bay lớn nhất tại Singapore thời điểm đó. Lữ đoàn 22 Úc được bố trí tại khu vực rộng 16 km² ở phía Tây, và lữ đoàn 27 là khu vực rộng 3.650 m phía tây con đường nối. Các vị trí bộ binh được tăng cường thêm bằng tiểu đoàn súng máy Úc. Dưới quyền Bennett còn có lữ đoàn 44 Ấn Độ.Quân đoàn III Ấn Độ do trung tướng Lewis Heath chỉ huy, gồm sư đoàn 11 Ấn (thiếu tướng B. W. Key), sư đoàn 18 Anh và lữ đoàn 15 Ấn bố trí tại khu vực đông bắc. Khu vực này tính luôn cả căn cứ hải quân tại Sembawang. "Khu vực phía Nam", bao gồm vùng dân cư chủ yếu ở phía đông nam, được chỉ huy bởi thiếu tướng Frank Keith Simmons. Lực lượng của ông có khoảng 18 tiểu đoàn, bao gồm lữ đoàn 1 Mã Lai, lữ đoàn 12 Ấn Độ và 1 lữ đoàn tình nguyện địa phương.Những trọng pháo nổi tiếng dọc bờ biển Singapore giữ vai trò quan trọng trong việc phòng thủ. Các khẩu pháo này được trang bị chủ yếu là đạn bọc thép và một ít đạn trái phá. Đạn bọc thép được thiết kế để chống lại các tàu bọc thép và có ít hiệu quả khi chống cá nhân. Một vài phân tích về mặt quân sự cho thấy nếu các khẩu pháo này được trang bị thêm nhiều đạn trái phá thì quân Nhật đổ bộ sẽ chịu nhiều thương vong hơn nhưng dù sao chỉ với các khẩu pháo này không thôi, quân Anh cũng sẽ không ngăn chặn được cuộc đổ bộ của người Nhật.

Nhật Bản

Lực lượng quân Nhật tham gia trận Singapore là tập đoàn quân số 25 gồm 36,000 quân do tướng Tomoyuki Yamashita (Sơn Hạ Phụng Văn) chỉ huy bao gồm hai sư đoàn bộ binh 5 và 18, hai sư đoàn thiện chiến nhất của Quân đội Hoàng Gia Nhật. Sư đoàn thứ ba thuộc Vệ binh Hoàng gia Nhật. Ba sư đoàn này được hai trung đoàn pháo binh và một lữ đoàn chiến xa yểm trợ. Ngoài ra còn có sư đoàn không quân số 3 gồm có 450 phi cơ nằm trên căn cứ đất liền, và 150 phi cơ trên hàng không mẫu hạm. Hai trong ba sư đoàn trưởng của Yamashita cũng là những viên tướng rất nhiều kinh nghiệm, đó là trung tướng Takuro Matsui nổi danh tại chiến trường Trung Hoa, chỉ huy sư đoàn 5, và trung tướng Renya Mutaguchi từng là tham mưu trưởng cho Yamashita, chỉ huy sư đoàn 18. Nhưng chỉ huy sư đoàn vệ binh trung tướng Takuma Nishimura là bạn thân với cấp trên của Yamashita là tướng Hisaichi Terauchi, và cũng là bạn của Hajime Sugiyama, tổng tham mưu trưởng lục quân Đế quốc Nhật. Nishimura quyết định bất hợp tác và gây nhiều khó khăn cho Yamashita.Nhờ những đợt thám sát bằng đường không, báo cáo của lính Nhật xâm nhập được vào thành phố và nhất là sau khi làm chủ được tòa tháp cao bên trong hoàng cung Johore, Tomoyuki Yamashita và các tướng dưới quyền đã quan sát và nắm rõ được toàn bộ các vị trí của quân Đồng minh. Từ ngày 3 tháng 2, pháo binh Nhật bắt đầu tiến hành pháo kích vào Singapore. Cường độ cuộc oanh tạc của không quân Nhật trong 5 ngày tiếp theo càng lúc càng tăng cao và nó đã cắt đứt 1 phần liên lạc giữa binh lính và chỉ huy quân Đồng minh.Tuy nhiên trước trận đánh quân Nhật cũng gặp nhiều khó khăn. Sự thiếu thốn về nguồn tiếp tế và đạn dược khiến cho Yamashita buộc phải đánh nhanh thắng nhanh quân Anh trước khi họ nhận ra nhược điểm trên của ông. Yamashita cũng dự đoán rằng nếu phải đánh lâu dài với quân Anh, ông sẽ bị đánh bại.[4]

Diễn biến

Cuộc đổ bộ của quân Nhật

Việc con đường nối bị phá hủy đã khiến cuộc tấn công của Nhật Bản bị hoãn lại trong 1 tuần. Lúc 8:30 tối ngày 8 tháng 2, các xạ thủ súng máy Úc bắt đầu khai hỏa vào những đoàn tàu chuyên chở đang đưa tốp tấn công đầu tiên gồm 4.000 lính Nhật từ 2 sư đoàn 5 và 18 tiến vào đảo Singapore. Mục tiêu của quân Nhật là bãi biển Sarimbun, nơi có lữ đoàn Úc số 22 do lữ đoàn trưởng Harold Taylor trấn giữ.Những cuộc chiến đấu ác liệt đã diễn ra trong suốt ngày hôm đó. Quân Nhật nhờ có ưu thế về pháo binh, máy bay và tình báo cùng với quân số đổ bộ lên bờ ngày càng nhiều đã dần chiếm ưu thế. Tại phía tây bắc hòn đảo, quân Nhật đã lợi dụng được khoảng hở trong phòng tuyến của Đồng Minh (như các sông ngòi và rạch) để lẻn vào. Đến nửa đêm, 2 lữ đoàn Úc đã mất liên lạc với nhau và lữ đoàn 22 buộc phải rút lui. Lúc 1 giờ sáng, lính Nhật đã đổ bộ lên phía tây bắc đảo thành công và những người lính Úc cuối cùng đã chạy khỏi. Bình minh ngày 9 tháng 2, các lực lượng của lữ đoàn 22 hầu hết đã bỏ chạy hoặc bị bao vây, tiểu đoàn 2/18 Úc đã mất hơn nửa quân số sau cuộc giao tranh này.

Các cuộc không chiến

Về không lực, Đồng minh chỉ có duy nhất 1 phi đội là phi đội 232 không quân Hoàng gia Anh tại sân bay Kallang. Các sân bay khác tại Tengah, Seletar và Sembawang đều nằm trong tầm pháo kích của người Nhật tại Johore Bahru nên sân bay Kallang là đường băng duy nhất còn hoạt động được. Lực lượng không quân này hoạt động tương đối tốt, nhưng đôi khi bị áp đảo về số lượng và chất lượng bởi máy bay Nhật Mitsubishi A6M Zero - phi đội chịu nhiều tổn thất trên cả trên không và mặt đất trong suốt tháng 2. Loại máy bay tốt nhất có thể tin tưởng được là Hawker Hurricane, nhưng chỉ có 10 chiếc còn ở Singapore khi quân Nhật tấn công.Từ ngày 8 tháng 12, Singapore đã phải chịu những đợt không kích của các máy bay ném bom tầm xa Nhật như Mitsubishi G3M ("Nell") và Mitsubishi G4M ("Betty") xuất phát từ các căn cứ ở Đông Dương. Trong tháng 12, 51 máy bay tiêm kích Hurricane Mk II đã được đóng thùng gửi sang Singapore cùng với 24 phi công, tập hợp lại thành 5 phi đội. Tất cả số máy bay và phi công này có mặt vào ngày 3 tháng 1 1942 khi mà các phi đoàn Brewster Buffalo đã hoàn toàn bị lấn áp. Phi đoàn 232 được thành lập và phi đoàn 448 New Zealand được chuyển từ sử dụng Buffalo sang Hurricanes. Phi đoàn 232 bắt đầu hoạt động từ ngày 20 tháng 1 và đã bắn rơi được 3 máy bay Nakajima Ki-43 trong ngày này,[5]bù lại 3 chiếc Hurricanes đã bị hạ trong đó có chiếc máy bay của Thiếu tá Lawrence Landels. Tuy nhiên, giống như những chiếc Buffalo trước đây, những chiếc Hurricane bắt đầu chịu đựng thiệt hại nặng nề khi các trận không chiến ngày càng căng thẳng.Từ 27 đến 30 tháng 1, thêm 48 chiếc Hurricane (MkIIA) nữa đến cùng Không đoàn 226 (gồm bốn phi đội) trên hàng không mẫu hạm HMS Indomitable, từ đó chúng bay đến các sân bay có tên mã là P1 và P2, gần Palembang, Sumatra trong lãnh thổ Đông Ấn Hà Lan. Vì không có được các hệ thống cảnh báo sớm thích hợp, các cuộc không kích của Nhật đã phá hủy 30 chiếc Hurricane trên mặt đất ở Sumatra, đa số bị mất trong một cuộc không kích vào ngày 7 tháng 2.Sáng ngày 8 tháng 2, một số trận không chiến đã diễn ra tại bãi biển Sarimbun và khu vực phía tây. Trong cuộc chạm trán đầu tiên, 10 chiếc Hurricane cuối cùng của phi đoàn 232 đã cất cánh từ sân bay Kallang dđể ngăn chặn một đội hình máy bay Nhật gồm 84 chiếc, bay từ Johore để yểm trợ về đường không cho cuộc đổ bộ. Trong 2 lần xuất kích, các máy bay Hurricane đã bắn rơi 6 máy bay Nhật trong khi chỉ tổn thất 1.[6]Các trận không chiến đã diễn ra trên hòn đảo suốt cả buổi sáng. Đến lục chập tối, các máy bay Hurricane còn sót lại đã rút về Palembang, Sumatra khi được sự đồng ý của Percival vì Kallang không còn có thể sử dụng được làm căn cứ nữa. Giờ đây, Kallang chỉ còn đơn thuần là một bãi đáp máy bay. Kể từ đó, không còn một máy bay Đồng minh nào trên bầu trời Singapore, không quân Nhật đã hoàn toàn làm chủ bầu trời.[7]

Ngày thứ hai

Percival tin rằng những cuộc đổ bộ tiếp theo sẽ diễn ra ở phía đông bắc nên ông đã không cho tăng viện lữ đoàn 22 Úc. Trong ngày 9 tháng 2, cuộc đổ bộ của quân Nhật chuyển về hướng tây nam, tại đây họ chạm trán lữ đoàn 44 Ấn Độ. Các lực lượng Đồng minh buộc phải rút về phía đông. Bennett quyết định thành lập tuyến phòng thủ thứ hai, được gọi là "Phòng tuyến Jurong", bao quanh Bulim, phía đông sân bay Tenga và phía bắc Jurong.Lữ đoàn trưởng lữ đoàn 27 Úc Duncan Maxwell bố trí tại phía bắc, chạm trán lực lượng Vệ binh Hoàng gia Nhật vào lúc 10 giờ đêm ngày 9 tháng 2. Cuộc giao tranh này diễn ra với thương vong lớn của quân Nhật bởi hỏa lực từ súng máy và súng cối quân Úc. Tệ hơn nữa, một lượng dầu tràn vào nước bắt lửa càng làm tăng thêm khó khăn cho quân Nhật. Chỉ một số lượng nhỏ Vệ binh đến được bờ biển và thiết lập một đầu cầu mỏng manh.Những vấn đề về chỉ đạo và quản lý đã làm đổ vỡ tuyến phòng thủ của Đồng minh. Maxwell nhận ra rằng lữ đoàn 22 đang chịu nhiều áp lực nhưng không cách nào liên lạc được với Taylor, đồng thời ông cũng sợ viễn cảnh bị bao vây. Bất chấp thành công lữ đoàn vừa đạt được và lệnh của Bennett, Maxwell ra lệnh rút quân từ Kranji. Hành động này đã khiến quân Đồng minh mất quyền kiểm soát vùng bờ biển sát phía tây con đường nối.

Quân Nhật phá vỡ phòng tuyến

Việc quân Úc rút khỏi Kranji đã tạo điều kiện cho các lực lượng xe thiết giáp của Vệ binh Hoàng gia Nhật đổ bộ lên bờ. Xe tăng với những thiết bị giúp nổi được nhanh chóng vượt qua eo biển tiến xuống phía nam, dọc theo đường Woodlands. Điều này đã giúp tướng Yamashita điều quân đánh vào cạnh sườn lữ đoàn 22 tại phòng tuyến Jurong. Tuy nhiên, lực lượng Vệ binh Hoàng gia Nhật đã bỏ lỡ cơ hội tiến vào trung tâm thành phố một mình.Đêm ngày 10 tháng 2, tướng Archibald Wavell ra lệnh chuyển toàn bộ lực lượng không quân còn lại ở Singapore sang Đông Ấn Hà Lan. Vào thời điểm đó, sân bay Kallang đã bị oanh tạc nên không còn sử dụng được bao lâu nữa. Đêm ngày 10 tháng 2, thủ tướng Anh Winston Churchill đã liên lạc với tướng Wavell kêu gọi toàn bộ lực lượng Anh ở Singapore nên chiến đấu đến cùng bằng bất cứ giá nào vì danh dự của đế quốc và quân đội Anh.[8] Wavell sau đó đã bảo Percival phải chiến đấu cuối cùng và không nên đầu hàng.Ngày 11 tháng 2, nhiên liệu và đạn dược của quân Nhật đã thiếu một cách trầm trọng. Tuy nhiên Yamashita vẫn tiếp tục ra lệnh tấn công và gửi thư dụ hàng đến Percival. Còn với quân Anh, lữ đoàn 22 Úc sau những trận đánh ác liệt của quân Nhật giờ chỉ còn vài trăm người. Trong ngày này, quân Nhật đã chiếm Bukit Timah sau thắng lợi ở trận Bukit Timah, chiếm được hầu hết đạn dược và nhiên liệu của Đồng minh đồng thời kiểm soát được nguồn cung cấp nước chủ yếu của thành phố.Vào ngày 12 tháng 2, phòng tuyến của Đồng minh được ổn định quanh một khu vực nhỏ tại đông nam hòn đảo. Các đơn vị khác, trong đó có lữ đoàn bộ binh Mã Lai số 1 đã tham gia vào trận chiến. 1 trung đội Mã Lai, do trung úy Adnan bin Saidi chỉ huy đã cầm chân quân Nhật trong 2 ngày tại trận Pasir Panjang. Đơn vị này bảo vệ Bukit Chandu, khu vực chứa số lượng đạn dược dự trữ chủ yếu của Đồng minh và đầu hàng vào ngày 14 tháng 2. Adnan bị quân Nhật xử tử sau khi quân lính dưới quyền ông đã bỏ chạy hết.Ngày 13 tháng 2, khi tình hình ngày càng trở nên tồi tệ, nhiều sĩ quan đã khuyên Percival đầu hàng để giảm thiểu thương vong của dân thường nhưng Percival đã từ chối. Cũng trong ngày này, cảnh sát quân sự Anh đã đem hành quyết kẻ phản bội, đại úy Patrick Heenan, sĩ quan liên lạc hàng không trong quân đội Ấn tại cảng Keppel, phía nam Singapore và xác bị quăng xuống biển.[9] Cơ quan tình báo Nhật đã tuyển mộ Heenan trước chiến tranh và ông này đã sử dụng radio để chỉ chỗ cho quân Nhật các sân bay của Đồng minh ở phía Bắc Malaya. Heenan bị bắt ngày 10 tháng 12 và bị đưa ra xử ở tòa án quân sự vào tháng 1.Ngày 14 tháng 2, các lực lượng còn lại của Đồng minh vẫn tiếp tục chiến đấu. Đường tiếp tế nước duy nhất của Tân Gia Ba là một trạm bơm nước chỉ còn cách vị trí của quân Nhật chừng nửa dậm. Nhiều nơi trong thành phố đã không có nước dùng. Thương vong của dân thường đã lên đến gần 1 triệu người và họ tập trung đông đúc tại các khu vực quân Đồng minh còn kiểm soát. Cường độ các cuộc ném bom và pháo kích của quân Nhật vẫn không hề giảm.

Vụ thảm sát quân y viện Alexandra

Lúc 1 giờ chiều ngày 14 tháng 2, lính Nhật tiến vào quân y viện Alexandra.[10]. Một người trung úy cầm lá cờ trắng đến thay mặt nói chuyện đã bị lính Nhật đâm chết[11] Mặc dù không gặp bất kì một sự kháng cự nào nhưng lính Nhật vẫn tấn công và giết hại các nhân viên y tế và một số bệnh nhân, trong đó có cả một hạ sĩ.[12] Ngày hôm sau, khoảng 200 nhân viên và bệnh nhân nam, một số đang bị thương, bị ra lệnh phải đi bộ 400 m để đến một khu công nghiệp. Những ai ngã trên đường đi đều bị lính Nhật dùng lưỡi lê đâm chết. Sau đó, họ bị nhốt trong các căn phòng chật chội, kín khí và bị giam cầm qua đêm mà không được uống nước. Một số người chết trong đêm vì vết thương mà họ mang sẵn. Những người còn sống sót đều bị đâm chết bằng lưỡi lê vào sáng hôm sau.[13] Những ai sống sót sau cuộc thảm sát này chạy về thành phố và miêu tả lại tội ác quân Nhật khiến cho tinh thần nhân dân thành phố càng xuống thấp.

Singapore thất thủ

Ngày mùng 1 Tết Nhâm Ngọ 1942 (ngày 15 tháng 2), Singapore đã bị bao trùm bới khói lửa và không khí chết chóc của chiến tranh thay cho không khí tươi vui thường lệ. Sáng ngày hôm đó, quân Nhật đã chọc thủng phòng tuyến cuối cùng của Đồng minh. Quân Đồng minh đã cạn lương thực và cả đạn dược. Các pháo cao xạ đã hết đạn nên không còn khả năng ngăn chặn bất kì một cuộc không kích nào nữa của Nhật Bản có thể gây thương vong rất lớn cho dân thường.9:30 sáng, Arthur Percival tổ chức một cuộc họp tại pháo đài Canning với những sĩ quan của ông. 2 phương án đã được ông đưa ra : 1 là tổ chức ngay một cuộc phản công hoặc là đầu hàng. Mọi người có mặt đều đồng ý là không thể tổ chức phản công. Cuối cùng, Percival đã chọn đầu hàng quân Nhật.Một phái đoàn đã được lựa chọn để đưa đến bộ chỉ huy Nhật : một sĩ quan tham mưu thâm niên, Bộ trưởng Bộ thuộc địa và một người phiên dịch. Họ ngồi trong một chiếc xe hơi, mang theo quốc kì Anh và 1 lá cờ trắng để đầu hàng. Tuy nhiên sau đó phái đoàn này quay trở lại sau khi tướng Tomoyuki Yamashita đề nghị đích thân Percival và các sĩ quan tham mưu phải đến nhà máy xe hơi Ford để kí kết các điều kiện đầu hàng. Một yêu cầu nữa được đặt ra là quốc kì Nhật phải được treo lên tại tòa nhà cao nhất ở Singapore, tòa nhà Cathay, càng nhanh càng tốt để tăng tác động tâm lí của cuộc đầu hàng. Lúc 2 giờ chiều, tướng Percival xuất hiện, vai mang cờ trắng. Ông được dẫn vào ngồi đối diện với tướng Yamashita.Yamashita hỏi Percival có đồng ý đầu hàng vô điều kiện không. Percival trả lời đồng ý. Yamashita đặt câu hỏi thứ hai: Quân Anh có giữ tù binh Nhật nào không ?. Percival cho biết không có tù binh Nhật. Ðến đó Yamashita đặt văn bản đầu hàng trước mặt Percival. Percival đọc văn kiện xong và yêu cầu ngày hôm sau mới ký. Yamashita không thể chờ đợi lâu hơn nữa, vì e rằng quân Anh có thể nhận ra nhược điểm của mình, nên Yamashita yêu cầu Percival phải ký ngay, nếu không cuộc chiến sẽ tiếp tục ngay tức khắc. Viên thông ngôn Nhật nói không được lưu loát lắm nên dễ khiến Yamashita nổi nóng. Yamashita hét vào mặt tên thông ngôn: "Quân Anh có ký hay không? Trả lời Có hay Không![14]Ðến đây Percival giật mình hoảng sợ, và trả lời đồng ý ký ngay. Văn kiện đầu hàng được kí vào lúc 6:10 chiều ngày hôm đó. Những điều khoản đầu hàng bao gồm:Các lực lượng vũ trang tại Singapore (lục quân, hải quân, không quân) đều phải đầu hàng vô điều kiện)Lệnh ngừng bắn có hiệu lực từ 8:30 tối ngày 15 tháng 2 Mọi người lính phải giữ nguyên vị trí trước khi có lệnh mới Mọi vũ khí, thiết bị quân sự, tàu thuyền, máy bay và tài liệu mật phải được giữ nguyên vẹn Để tránh tình trạng cướp bóc, trong thời gian các lực lượng vũ trang tạm thời rút khỏi Singapore, 1 lực lượng gồm 1000 lính Anh có nhiệm vụ giữ gìn trật tự cho đến khi quân Nhật vào tiếp quản Trước đó vào lúc 4 giờ chiều, Percival đã ra lệnh cho tiêu hủy toàn bộ các thiết bị kỹ thuật, mật mã, tài liệu bí mật và cả pháo hạng nặng. Yamashita đồng ý là sẽ không còn tàu thuyền hay máy bay tại Singapore. Ông cũng có trách nhiệm đảm bảo cho sinh mạng của toàn bộ binh lính Anh và Úc, cũng như dân thường Anh sống tại Singapore.Tướng Gordon Bennett, sau khi giao quyền chỉ huy sư đoàn 8 lại cho một lữ đoàn trưởng, đã cùng với một số sĩ quan tham mưu của mình trưng dụng một chiếc thuyền nhỏ để trở về Úc chứ không chịu đầu hàng quân Nhật.

Kết quả

Sau 70 ngày chiến đấu, Singapore đã rơi vào tay người Nhật. Quyết định đầu hàng của tướng Arthur Percival đã đưa đến cuộc đầu hàng lớn nhất trong lịch sử của quân đội Anh và nó đã làm cho địa vị của nước Anh tại vùng Viễn Đông không còn như xưa. [15][16]. Thương vong của khối Liên hiệp Anh kể từ ngày 8 tháng 12 là khoảng 7,500 người chết và 11,000 người bị thương. Về phía Nhật Bản là khoảng 3,500 người chết và 6,100 người bị thương.[17]Quân Nhật bắt sống được tại Singapore 50.000 tù binh, nâng tổng số tù binh bắt được từ ngày 8 tháng 12 lên con số 120.000.Ách thống trị kéo dài 3 năm 8 tháng của Nhật Bản tại Singapore chính thức bắt đầu. Thành phố được đổi tên thành Syonan-to (Tiếng Nhật: 昭南島 Shōnan-tō, phiên âm là Chiêu Nam đảo). Ngay sau đó, tướng Yamashita hạ lệnh trong 3 ngày thanh toán tất cả các phần tử kháng Nhật trên đảo. Cộng đồng người Hoa tại Singapore bị tàn sát nhiều do chính quyền Nhật Bản nghi ngờ việc họ giúp đỡ Trung Quốc trong chiến tranh Trung-Nhật mà điển hình là cuộc thảm sát Túc Thanh từ ngày 18 tháng 2 cho đến 4 tháng 3 năm 1942. Trong khi đó, các chủng tộc khác tại Singapore như người Mã Lai và người Ấn Độ cũng phải chịu cuộc sống gian khổ dưới ác thống trị của Nhật Bản.Nhiều tù binh Anh và Úc đã bị giam cầm tại nhà tù Changi ở Singapore. Một số đã không bao giờ có thể trở về nhà. Hàng ngàn người khác đi trên những "Chuyến tàu tử thần" đến các khu vực khác tại Châu Á, kể cả Nhật Bản để lao động khổ sai trong nhiều công trình mà kinh hoàng nhất có thể kể đến "Đường tàu tử thần" Siam-Burma hay sân bay Sandakan tại phía bắc Borneo.Người Nhật đã rất thành công trong việc tuyển mộ các tù binh Ấn Độ. Trong khoảng 40.000 tù binh Ấn tại Singapore vào tháng 2 1942, khoảng 30.000 đã gia nhập lực lượng "Quân đội quốc gia Ấn Độ (INA)", lực lượng tham gia chiến đấu với quân Đồng minh tại chiến dịch Burma sau này.[18] Tuy nhiên, một số vẫn chống đối sự tuyển mộ và vẫn bị giam giữ tại Changi. Một số lượng không rõ đã bị đưa đến Nam Thái Bình Dương để lao động khổ sai. Nhiều người đã bị lính Nhật đối xử tàn bạo và phải sống trong điều kiện gian khổ. Đây là cách đối xử chung của Nhật Bản với tù binh trong Thế chiến thứ hai. Khoảng 6.000 người vẫn còn sống sót cho đến khi được các lực lượng Mỹ và Úc giải cứu trong những năm 1943-45.[18]Với chiến thắng tại Singapore và trước đó là Malaya, tướng Tomoyuki Yamashita được đặt biệt danh là "Hùm xám Mã Lai". Sau khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945, ông đã bị tòa án quân sự Mỹ kết án là tội phạm chiến tranh do những tội ác của quân lính dưới quyền ông tại Philippines chứ không đả động đến những hoạt động của ông tại Malaya hoặc Singapore. Ngày 23 tháng 2 năm 1946, Yamashita bị xử treo cổ tại Phillipines.Trong khi đó, bại tướng người Anh Percival bị cầm tù tại nhà tù Changi. Tháng 8 1942, ông được đưa khỏi Singapore, lúc đầu được đưa đến Formosa và sau đó là Mãn Châu, nơi ông được giam giữ với nhiều tù binh quan trọng khác, trong đó có tướng Mỹ Jonathan Wainwright. Khi chiến tranh gần kết thúc, Percival được giải thoát. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, ông cùng với tướng Wainwright đứng đằng sau tướng Mỹ Douglas MacArthur khi ông này kí kết vào văn kiện đầu hàng vô điều kiện của Nhật Bản tại vịnh Tokyo trên chiến hạm USS Missouri.[19] Sau đó, MacArthur đã đưa Percival một trong những cây bút mà ông đã dùng để ký kết.[20]

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro