Trang

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CỤM ĐỀ VỀ PHÂN TÍCH NHÂN VẬT

Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân

-------------------

* Đề 1. Phân tích hình ảnh  người vợ nhặt

trong truyện ngắn “Vợ nhặt”

của Kim Lân.

  I. Mở bài :                              

   - Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám.

  - Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Đây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu ( 1945) của nước ta.

 - Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của nhân vật người vợ nhặt : nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt .Điều đó được thể hiện qua việc chị chấp nhận theo không một người đàn ông về làm vợ giữa ngày đói.

II. Thân bài : 

  1/ Trước hết, về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh : không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp… Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách gọi phiếm định giành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như chị.

 - Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn : đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa.

2/ Về tính cách :

    a.Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh : Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng.Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon…

à Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói.Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người.Nói điều này, chắc chắn nhà văn thật sự xót xa và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động.

  b. Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang .

   + Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng ( thị đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn” , ngượng nghịu,“chân nọ bước díu cả vào chân kia”...)àthật tội nghiệp cho cảnh cô dâu mới theo chồng về nhà : một cảnh đưa dâu không xe hoa, chẳng pháo cưới mà chỉ thấy những khuôn mặt hốc hác u tối của những người trong xóm và âm thanh của tiếng quạ, tiếng khóc hờ người chết tang thương…

   + Sau một ngày làm vợ, chị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo.

   + Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.

III. Kết bài :

   -Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng.     - Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình.Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ  bên bờ của cái chết….

Đề 4:   Nêu tình huống truyện trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân , từ đó nhận xét về thái độ của nhà văn với con người  và thực trạng xã hội  đương thời.

---------------------------------

I.Mở bài :

    Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. ây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu ( 1945) của nước ta.Trong tác phẩm , Kim Lân đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo vừa thể hiện được giá trị tư tưởng , lại vừa thể hiện được giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

II.Thân bài :

   1/ Thế nào là tình huống? vai trò của tình huống trong một tác phẩm truyện?  

       - Có thể hiểu, tình huống truyện chính là bối cảnh, hòan cảnh ( không gian, thời gian, địa điểm…tạo nên câu chuyện).

        - Có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn : tình huống hành động; tình huống tâm trạng; tình huống nhận thức.Nếu tình huống hành động chủ yếu nhằm tới hành động có tính bước ngoặt của nhân vật; tình huống tâm trạng chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm xúc của nhân vật; thì tình huống nhận thức chủ yếu cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lý của nhân vật. Tình huống càng độc đáo, mới lạ, càng giúp cho tác phẩm hấp dẫn, ấn tượng, sâu sắc với người đọc.

    - Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được tổ chức xung quanh một “tình huống nhận thức mà hai nhân vật Phùng và Đẩu đã trải qua”.  

2. Tình huống truyện của tác phẩm:

       Trước hết, Tràng là một là một người mồ côi cha, ở với mẹ già tại xóm ngụ cư. Nhà nghèo, hắn làm nghề kéo xe bò thuê .Tràng có một ngoại hình  xấu xí , thô kệch. .Đã thế lại có phần dở người.Lời ăn tiếng nói cũng thô kệch như chính ngoại hình của hắn.Có thể nói, nguy cơ ế vợ đã rõ. Đã vậy , gặp năm đói khủng khiếp, cái chết luôn luôn đeo bám .Trong lúc không một ai ( kể cả Tràng) nghĩ đến chuyện dựng vợ , gả chồng thì đột nhiên Tràng có vợ, mà lại có vợ bằng cách nhặt được.Trong hoàn cảnh ấy, ràng có vợ cũng là phải có thêm một miệng ăn và cũng là đem thêm tai hoạ về cho mình và mẹ , đẩy mau mình và mẹ đến cái chết.  Như vậy , việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn, cười ra nước mắt.Chính điều này đã làm cho nhiều người ngạc nhiên :

    Đó là những người dân trong xóm ngụ cư : họ ngạc nhiên, bàn tán, phán đoán rồi họ cùng nghĩ : “ biết có nuôi nổi nhau qua được cái thì này không?” Còn bà cụ Tứ - mẹ Tràng- lại càng ngạc nhiên . Lúc đầu bà lão không hiểu , rồi bà “ cúi đầu im lặng” với bao tâm sự vui- buồn lẫn lộn “ biết chúng có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Nhất là, ngay chính bản thân Tràng cũng bất ngờ  với chính hạnh phúc của mình. “ nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ  hắn vẫn còn ngờ ngợ” .Thậm chí , sáng hôm sau Tràng cảm thấy “ êm ái như từ giấc mơ đi ra”.      

     Tóm lại, tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vùa bất ngờ  nhưng lại hợp lý, tạo sức hấp dẫn và nhiều suy nghĩ cho người đọc.

2.Thái độ của nhà văn:

  - Với người dân lao động:

   Qua câu chuyện, nhà văn đã dành những tình cảm tốt đẹp  nhất đối với con người nghèo khổ  bằng cả tấm lòng nhân hậu của mình.Ông xót thương cho dân tộc trước thảm hoạ đói chết.Ông cũng ái ngại cho  người con gái bị nạn đói cướp đi gần hết ( gia đình,  nhan sắc, tính cách, tên tuổi …).

  Không những vậy , nhà văn còn rất tinh tế khi phát hiện ra khát vọng hạnh và niềm vui khi nhặt vợ của Tràng;cái duyên thầm của thị qua cái liếc mắt với Tràng…Có thể nói nhà văn rất trân trọng và tự hào về vẻ đẹp nhân tính của con người lao động nghèo trước thảm hoạ đau thương , chết chóc.

   Đồng thời nhà văn còn tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động qua hình ảnh của bà cụ Tứ : một  người mẹ giàu tình thương con, giàu lòng nhân hậu và niềm tin  vào cuộc sống à đây cũng chính là niềm tin của nhà văn vào phẩm chất tốt đẹp của con người.  

- Với thực trạng xã hội đương thời, thông qua tình huống truyện, nhà văn lên án và tố cáo tội ác của Nhật –Pháp đã đẩy nhân dân ta vào thảm hoạ đói nghèo, chết chóc.Chính chúng đã làm cho giá trị con người trở thành rẻ rúng như rơm như rác : vợ mà nhặt được .

III. Kết bài :       Có thể nói: Tình huống truyện trong truyện ngắn “Vợ nhặt” thật độc đáo và có ý nghĩa tư tưởng và giá trị nghệ thuật sâu sắc.Viết về nạn đói, nhưng Kim Lân không dừng lại ở việc miêu tả bức tranh ảm đạm ấy , mà còn hướng người đọc nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của người lao động nghèo : đó là lòng nhân hậu, sự cưu mang và niềm tin vào tương lai của họ.

 

* Đề 2. Phân tích nhân vật Tràng

trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.

1. Mở bài :

    - Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. ây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu ( 1945) của nước ta.-Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của nhân vật Tràng: nghèo đói,bất hạnh nhưng giàu tình người và khát vọng hạnh phúc.Điều đó được thể hiện qua chính câu chuyện nhặt vợ của anh giữa ngày đói.

2. Thân bài :

     a.Thật vậy, xuất hiện trong tác phẩm, Tràng vốn là một gã trai nghèo, sống ở xóm ngụ cư, có mốt mẹ già và làm nghề đẩy xe bò mướn. Đã vậy, Tràng lại có một ngoại hình xấu xí, thô kệch với “ cái đầu trọc nhẵn”;cái lưng to rộng như lưng gấu”; “ hai con mắt gà gà, nhỏ tí” lúc nào cũng đắm vào bóng chiều của hoàng hôn.Thêm vào đó, tính tình của Tràng lại có phần “dở hơi” nhưng tốt bụng, hay vui đùa với trẻ con trong xóm. Có thể nói, Tràng có một cảnh ngộ thật bất hạnh và tội nghiệp.

   b. Vậy mà, con người có thân phận thấp hèn ấy bỗng nhiên lại trở thành một chú rể có thể coi là hạnh phúc : Tràng bỗng dưng có vợ.

   Tràng có vợ bằng cách “nhặt” được chỉ qua hai lần gặp gỡ, vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc giữa ngày đói .Qủa thật, chuyện lấy vợ của Tràng là một lạ mà thú vị - đùa mà thật , thật mà cứ như đùa.

   b1.Lúc đầu, khi người phụ nữ đói nghèo, rách rưới đồng ý theo không Tràng về làm vợ, Tràng không phải không biết “chợn”: “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không , lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi anh ta chặc lưỡi “Chậc,kệ!”.Có vẻ như một quyết định không nghiêm túc như phóng lao phải theo lao vậy.Việc hai người đến với nhau bề ngoài có vẻ ngẫu nhiên nhưng bên trong lại là tất nhiên : Người đàn bà cần Tràng để có một chỗ dựa qua thì đói kém, còn Tràng cũng cần người phụ nữ nghèo ấy để có vợ và để biết đến hạnh phúc.

 b2  .Trên đường đưa vợ về nhà, Tràng thật sự vui và hạnh phúc : “ Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả đói khát đang đe doạ…Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên.Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy…”Có thể nói , trong tác phẩm, có tới hơn hai mươi lần nhà văn nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của Tràng khi đã có vợ bằng các từ ngữ rất gợi tả và gợi cảm : mặt phớn phở, mắt sáng lên lấp lánh, miệng cười tủm tỉm…

  b3. Chỉ sau một đêmnên vợ nên chồng”. Tràng thấy mình đổi khác “ trong người êm ái , lửng lơ như người từ giấc mơ đi ra.Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ như không phải”.Tràng “ bỗng nhiên thấy thương yêu và gắn bó với căn nhà”;Hắn đã có một gia đình.Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.Cái nhà như tổ ấm che mưa che nắng…Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này…”

       Niềm vui của Tràng thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn ước mơ . “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”.So với cái dáng “ngật ngưỡng” của Tràng ở đầu tác phẩm, hành động “xăm xăm” này của Tràng là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng : từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức.Tràng đã thật sự “phục sinh tâm hồn”- đó chính là giá trị lớn lao của hạnh phúc.Có một hiện thực tuy chưa rõ nét  nhưng đã hiện ra ở cuối tác phẩm, trong suy nghĩ của Tràng “ cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp.Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”.Đoàn người đi phá kho thóc của Nhật và lá cờ Việt Minh.Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ về một tương lai hướng về Đảng về cách mạng của tràng và những người như Tràng.

3. Kết bài:

     Tóm lại, Kim Lân miêu tả tâm trạng nhân vật Tràng xoay quanh tình huống nhặt vợ hết sức đặc biệt.Cũng từ đó, hình tượng nhân vật Tràng có vai trò lớn trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm : Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà luôn nghĩ đến sự sống.

Cũng qua Tràng và câu chuyện nhặt vợ của anh, nhà văn  giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhựng người dân lao động nghèo : đó là vẻ đẹp tình người và niềm tin tưởng vào tương lai.

 

* ĐỀ 3.Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ

trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.

I.Mở bài :

      Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. ây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu ( 1945) của nước ta. Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã viết rất hay về tâm trạng của bà cụ Tứ - một người mẹ già, nghèo khổ nhưng giàu tình thương con và giàu lòng nhân hậu.

II. Thân bài :

  1.Khái quát về cuộc đời của bà cụ :

      Trước hết, xuất hiện trong tác phẩm, bà cụ Tứ hiện lên là một người đàn bà nông dân, hồn hậu và có một cuộc đời thật nhiều thương cảm : nhà nghèo, goá bụa, sống gian khổ, thầm lặng.

2.Bối cảnh – tình huống và diễn biến tâm trạng của bà cụ:

  Bà cụ Tứ lần đầu tiên xuất hiện trong thiên truyện là lúc bóng hoàng hôn tê tái phủ xuống xóm Ngụ cư giữa ngày đói. Cùng lúc đó, người con trai đáng thương của bà làm nghề đẩy kéo xe trên huyện, đưa một người đàn bà lạ về nhà.

   a. Khởi đầu , bà ngỡ ngàng - ngỡ ngàng trước việc có một người phụ nữ lạ xuất hiện trong nhà mình. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ được nhà văn diễn tả bằng hàng loạt những câu nghi vấn : “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia? Sao lại chào mình mình bằng u?...”Thái độ ngạc nhiên của người mẹ, phải chăng cũng là nỗi đau của nhà văn trước một sự thật : chính sự cùng quẫn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm vốn có trước hạnh phúc của con .     

  b. Sau khi hiểu ra là con trai đã có vợ, bà lão không nói gì mà chỉ “cúi đầu im lặng”- một sự im lặng chứa đầy nội tâm : đó là niềm xót xa, buồn vui, lo lắng, thương yêu lẫn lộn . Bà mẹ đã tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh.

   - Bằng lòng nhân hậu thật bao dung của người mẹ, bà nghĩ :“Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này không?”.Trong chữ “chúng nó” , người mẹ đã đi từ lòng thương con trai để ngầm chấp nhận người đàn bà lạ làm con dâu của mình.

   - Rồi tình thương  lại chìm vào nỗi lo , tạo thành một trạng thái tâm lý triền miên day dứt : bà nghĩ đến bổn phận chưa tròn , nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ của đời mình, nghĩ đến tương lai của con …để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng – yêu thương trong một câu nói giản dị : “ Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”.

  c. Đặc biệt là sau một ngày con trai có vợ, người mẹ giàu lòng thương con ấy thật sự vui và hạnh phúc trước hạnh phúc của con : bà cùng con dâu dọn dẹp, thu vén căn nhà ; trong bữa cơm ngày đói, bà toàn nói chuyện vui để xua đi thực tại hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho con :“ Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà …”.

 + Thật cảm động, khi Kim Lân để cái ánh sáng kỳ diệu của tình mẫu tử toả ra từ nồi cháo cám : “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”.Chữ ‘ngon” này không phải là xúc cảm về vật chất  ( xúc cảm về vị cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần : ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát của cháo cám thành ngọt ngào . Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chứng minh cho cái chất NGƯỜI của người dân lao động : trong bất kỳ hoàn cảnh nào , tình nghĩa và hy vọng của con người vẫn không thể bị tiêu diệt – con người vẫn muốn sống cho ra sống.Chính chất NGƯỜI đã thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hy vọng.    

  + Tuy nhiên niềm vui của bà cụ Tứ  trong hoàn cảnh ấy vẫn là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với nồi cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”.    

III/ Kết bài :

      Có thể nói, nhân vật bà cụ Tứ là một nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp tình người và lòng nhân ái mà Kim Lân đã gửi gắm trong tác phẩm “ Vợ nhặt”.Thành công của nhà văn là đã thầu hiểu và phân tích được những trạng thái tâm lý khá tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt .Vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ.    =>“Vợ nhặt” là ca về tình người của những người nghèo khổ, đã biết sống cho ra người ngay giữa thời túng đói

----------------------------------------------------------------

2. Phân tích nhân vật Tràng.
         Mở đầu tác phẩm Vợ nhặt là bức tranh ngày đói. Chỉ vài nét vẽ phác thảo, nhà văn đã vẽ nên bức tranh ngày đói thật hãi hùng. Xóm ngụ cư chìm trong bóng đêm chết chóc, tăm tối, ảm đạm. Ở đây thiếu vắng sự sống hoặc sự sống le lói như ngọn đèn trước gió.Hai lần nhà văn so sánh người với ma.Bằng chứng là " Hai bên dãy phố úp súp tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa". Người sống thì " lũ lượt dắt díu, bồng bế nhau lên xanh xám như những bóng ma" hoặc " dưới những gốc đa gốc gạo xù xì bóng những người đói đi lại dật dờ lặng lẽ như những bóng ma". Người chết thì như ngả rạ, không một sáng nào đi làm đồng hoặc đi chợ người ta lại không thấy ba bốn cái thây người nằm còng queo ở bên vệ đường. Mùi tử khí nồng nặc. Tác giả còn tô đậm bức tranh hơn nữa bởi hình ảnh của bầy quạ đen chờ chực để rỉa xác người chết. Cõi âm và cõi dương nhạt nhòa. Tất cả đang đứng bên bờ vực của cái chết.
        Trên cái nền chết chóc ấy, một buổi chiều người ta thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Ai vậy ? Đó là vợ Tràng. Điều không thể tin lại phải tin trong tác phẩm của Kim Lân. Vậy Tràng là ai ? Tràng lấy vợ như thế nào ?
                 
a/ Lai lịch
        - Xuất thân: dân ngụ cư, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già. Dân ngụ cư là những người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, dân ngụ cư không có ruộng đất, chỉ đi làm thuê làm mướn. Đã vậy, họ còn bị phân biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là "nhà" thì luôn "vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại". Hơn nữa, vì là dân ngụ cư, Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.
b/ Ngoại hình:
    - Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Đầu trọc nhẵn, hai con mắt nhỏ tí, gà gà, quai hàm bạnh ra, cái lưng to rộng như lưng gấu, đi thì cứ chúi đầu về phía trước lại hay nói lầm bầm trong miệng, khi cười thì  ngửa mặt lên cười hềnh hệch.
Nhận xét: Tràng là một nông dân nghèo khổ lại xấu xí. Nếu như trong thời bình, Tràng thuộc típ người khó có khả năng lấy vợ. Nhưng điều đó lại xảy ra vào đúng cái nạn đói khủng khiếp. Tràng lấy được vợ hay nói đúng hơn là "nhặt được vợ".
c/ Tình huống nhặt vợ của Tràng (diễn biến tâm lí)
    + Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Tràng cũng thừa biết, người như hắn thì không thể có vợ. Khi đẩy xe bò mệt mỏi anh chỉ hò một câu cho vui " Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì". Tràng chỉ muốn hò để xua đi mỏi mệt trong người. Anh cũng chẳng có ý chòng ghẹo ai cả. Ai ngờ có người đàn bà đói xông xáo đến đẩy xe thật. Nhưng vì đùa vui nên Tràng đã không giữ đúng thỏa thuận của câu hò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi gặp được cái "cười tít mắt của thị" bởi "từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một cách tình tứ như vậy đâu".
      + Hôm sau gặp lại: Khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ có người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn " Điêu, người thế mà điêu". Tràng không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình. Trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách. Thị gầy sọp hẳn đi, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày hốc hác, quần áo rách như tổ đỉa. Thấy người đàn bà đói, rách rưới thảm hại. Tràng động lòng thương. Có ai ngờ được rằng trong con người thô kệch ấy lại có một tấm lòng thương người cao cả. Thế rồi Tràng cho người đàn bà kia ăn, không chỉ ăn mà còn cho ăn rất nhiều " bốn bát bánh đúc". Đó chính là lòng thương một con người đói khát hơn mình chứ Tràng không hề có ý định lợi dụng hoặc chòng ghẹo.
Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào "Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân đồ lên xe rồi về". Nói đùa thế thôi, ai ngờ thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết"mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng". Đó là nỗi sợ hãi có thật nhất lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi " Chậc kệ!" . Chỉ một từ "kệ" thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình.
Bình luận: Tràng và người đàn bà kia như hai cành củi khô nhưng họ đã chụm vào nhau để nhen lên ngọn lửa. Tội nghiệp thay, người này thì cần hạnh phúc còn người kia thì lại cần chỗ dựa. Một người vì tình yêu, người kia vì miếng ăn. Nói tóm lại là họ LIỀU, nhưng cái Liều kia của họ làm người ta bật khóc. Bây giờ thì họ là người dũng cảm, dũng cảm bởi vì họ dám nắm tay nhau để bước qua ranh giới của sự sống và cái chết. Họ làm ta khâm phục và kính trọng, phải chăng hai con người khốn khổ ấy là niềm tin của Kim Lân về một giống nòi sẽ tiếp nối sẽ sinh sôi khi mà cả dân tộc đang đứng trước sự diệt vong của nạn đói ?
      + Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê... Anh còn mua 2 hào dầu để thắp sáng. Đó có vẻ như là sự cố gắng quá mức của Tràng nhưng cũng rất dễ hiểu vì Tr sắp được làm chồng.

     + Trên đường về: (khác với anh Tràng hôm qua buồn bã, cúi mặt lo âu nghĩ ngợi). Hôm nay Tràng có niềm vui lạ, một niềm hạnh phúc tràn ngập khiến mặt Tràng cứ "phớn phở khác thường". Thỉnh thoảng lại còn cười nụ một mình. Lúc thì hắn đi sát người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai nọ vai kia, lại muốn nói đùa một câu, lại cứ thấy ngường ngượng. Kim Lân đã làm người đọc thấy được sự thay đổi về tâm lí của Tràng. Tràng thật sự đã khác với Tràng hôm qua. Trong lòng Tràng tràn ngập niềm vui sướng miên man khiến "Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ dọc sống lưng" . Thế là rõ rồi: Hạnh phúc đang làm anh thay đổi.
     + Khi về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy " ngượng nghịu" rồi cứ thế " đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ". Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt, không dám tin đó là sự thật: "hắn vẫn còn ngờ ngợ như  không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?". Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng.
      + Lúc chờ đợi Mẹ về: Tràng nóng ruột, đi đi lại lại. Chưa bao giờ người ta thấy hắn nôn nóng như thế. Khi mẹ về, hắn mừng rỡ, rối rít như trẻ con vì dù sao Tràng vẫn còn có mẹ - đó là đấng tối cao của Tràng vì chỉ có mẹ mới quyết định được hạnh phúc của hắn. Tràng nóng lòng thưa chuyện với mẹ. Bắt mẹ ngồi lên giường để thưa chuyện. Khi được đồng ý, Tràng thở đánh phào một cái nhẹ cả người. Thế là Tràng đã có gia đình, có vợ, không tốn tiền cưới hỏi, Tràng lấy được vợ thật hiển hách.
     + Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm, biết suy nghĩ chín chắn. Nhà văn đã mang đến cho người đọc hơi thở mới của Tràng vào sau cái đêm tân hôn. Tràng thức dậy, đầu tiên đó là một cảm giác dễ chịu "Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra". Đó là tâm trạng hạnh phúc. Tràng cảm động khi thấy mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa nhất là khi nghe tiếng chổi tre quét từng nhát sàn sạt trên sân.  Một nỗi lòng yêu thương, một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng "Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng".
      +Từ một anh phu xe cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới... ( giá trị nhân đạo, tác giả mở ra con đường sống cho những con người đang đứng bên bờ vực của cái chết đó là chỉ có đi theo cách mạng mới giải phóng được cho họ)
       Kết luận: Qua sự biến đổi tâm trạng thấy được vẻ đẹp tâm hồn tính cách nhân vật đó là tình thương niềm khao khát hạnh phúc, niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai và thấy được tình cảm nhân đạo cuả nhà văn dành cho người lao động nghèo khổ.

---------------------------

Thân bài
Kim Lân rất am hiểu nông thôn và đời sống của nhân dân nên ông có những trang viết sâu sắc, cảm động. Truyện Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí) được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân. Thiên truyện có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hoà bình lập lại, Kim Lân viết lại. Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Tiêu biểu cho những con người đó là nhân vật Tràng .
Tràng được khắc hoạ nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945 . Những người năm đói được miêu tả với “khuôn mặt hốc hác u tối”, “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Cái đói huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo , dở khóc , dở cười giữa Tràng và Thị , một mối duyên bắt nguồn từ bốn bát bánh đúc giữa ngày đói .
Kim Lân đã tạo nên một tình huống độc đáo : Tràng nhặt được vợ để từ đó làm nổi bật khao khát hạnh phúc , tình yêu thương , cưu mang đùm bọc lẫn nhau của những con người đói . Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế : nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài chợ .Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: chủ thể của cái hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ – mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa.

Tình huống truyện trên đã khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật , đặc biệt là Tràng.

Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ, bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc lớn quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình – một niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh nổi.. Chàng thanh niên nghèo khó “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.

Mặc dù người vợ được hắn nhặt về , nhưng Tràng không hề rẻ rúng , khinh miệt thị . Trái lại , Tràng vô cùng trân trọng , coi chuyện lấy thi là một điều nghiêm túc . Khát vọng mái ấm gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về cái đói “ đến thân còn chẳng lo nổi , lại còn đèo bòng” . Tràng chậc lưỡi “ kệ” cái đói , mua cho thị cái thúng con , vài xu dầu và dẫn thị về căn nhà lụp xụp rách nát của mẹ con mình . Tràng hồi hộp chờ câu đồng ý chấp thuận của bà cụ Tứ .

Buổi sáng hôm sau , Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi ra . Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là một điều thật bình dị nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng . Hắn thấy hắn nên người . Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ.

Chi tiết: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà” là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu sắc: “hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng thật sự “phục sinh tâm hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.

Câu kết truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phớichứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không nhìn thấy được. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.

III . Kết bài .
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân , là tác phẩm giàu giá trị hiện thực , nhân đạo ; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ , ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người . Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng , một người lao động nghèo khổ mà ấm áp tình thương , niềm hi vọng , lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

Nguồn: Interne

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro