tràng giang

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

 BÀI LÀM

Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào “Thơ Mới”. Ông nổi tiếng với các tác phẩm như: Lửa Thiêng, Vũ trụ ca, Kinh cầu tự…Bạn đọc biết đến ông nhiều nhất qua bài thơ Tràng giang rút từ tập Lửa thiêng là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Huy Cận.

Huy Cận tâm sự rằng, bài thơ Tràng Giang là do con sông Hồng gợi tứ, lúc đầu bài thơ có tên là Chiều bên sông nhưng sau đó nhà thơ đổi tên là Tràng Giang. Nhan đề bài thơ Tràng gianggợi lên không khí cổ kính bởi hai từ Hán Việt gợi hình ảnh một dòng sông dài rộng mênh mông. Không chỉ vậy, âm “ang” gợi âm hưởng mênh mang như tiếng sóng vỗ vào lòng ta biết bao nỗi niềm. Và nỗi niềm ấy còn lắng đọng hơn, da diết hơn bởi câu đề từ mang cảm xúc chủ đạo cho toàn bài “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.

Bài thơ mở đầu bằng một Tràng Giang mênh mang sông nước:

                           “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp,

                             Con thuyền xuôi mái nước song song,

                             Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

                             Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Tràng giang hiện lên với nhiều hình ảnh đẹp trong cổ thi: dòng sông, con thuyền, gợn sóng,… Nhưng cảnh đẹp mà lại thấm đượm một nỗi buồn da diết bâng khuâng.  Hai chữ “điệp điệp”  gợi hình ảnh những con sóng từng gợn nhẹ nhấp nhô hòa mình vào Tràng giang rồi biến mất trong dòng chảy mênh mông. Sóng của dòng sông, của thiên nhiên trong phút ấy cũng hóa thành con sóng lòng của thi nhân với từng nỗi buồn cứ thế trùng điệp ở trong lòng. Nguyễn Du từng viết “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Có lẽ vì lòng người buồn mà tâm cảnh cũng  nhuốm  lên ngoại cảnh. Nhìn đâu thi nhân cũng chỉ thấy cảnh vật rời rạc chia ly, u sầu cứ thế mà hiện lên trong từng câu chữ. Xưa nay, thuyền – nước vốn là hai sự vật không thể tách rời thế mà nay chúng lại hững hờ như không ăn nhập vào nhau “Con thuyền cũng không buồn lái, để mặc xuôi theo dòng nước lặng lờ. Ngay cả dòng nước trong bản thân con sông cũng không thiết đến nhau, cứ âm thầm mà chảy “song song”, vờ không quen biết nhau trong đời”. (Hồ Minh Tú trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn, Bình Định).

Rồi bất ngờ thay, trên dòng chảy mênh mông ấy, thi nhân bắt gặp cành củi khô đơn độc “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét rằng “Lần đầu tiên trong lịch sử thi ca, một cành củi khô trôi vào thơ Huy Cận như nỗi cô đơn của một kiếp người trong xã hội cũ”. “Cành củi” thôi đã gợi lên sự nhỏ bé, đơn độc lại còn “củi khô” nữa thì lại càng bé nhỏ tội nghiệp hơn. Phải chăng hình ảnh cành củi khô trôi nổi phù du trên sóng nước Tràng giang chính là hình ảnh ẩn dụ để biểu tượng cho kiếp người như thi nhân đang nổi trôi, bơ vơ, vô định giữa dòng chảy của cuộc đời, giữa cuồng phong của một đất nước mất chủ quyền ?

 Vẫn tiếp nối cái u sầu, buồn bã của khổ một, khổ thơ tiếp theo như đẩy đưa con người lên đến đỉnh sầu:

   “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

            Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

           Nắng xuống, trời lên sâu chót vót.

       Sông dài, trời rộng bến cô liêu.”

Huy Cận tâm sự rằng ông học được ý từ hai câu thơ của Chinh phụ ngâm: “Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo/ Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”. Và thần thơ cổ điển ấy đã nhuốm vào Tràng giang mang cái buồn thương hiu hắt. Trên dòng Tràng giang mênh mông, mọc lên “lơ thơ cồn nhỏ”.Từ láy “lơ thơ” diễn tả sự rời rạc, thưa thớt của những cồn đất nhỏ nhoi mọc lên giữa dòng sông gợi cảm giác hoang vắng, cô tịch, tiêu điều, xơ xác. Hai chữ “đìu hiu” như càng khắc sâu thêm nỗi buồn hiu hắt làm câu thơ chùng xuống như một tiếng thở dài man mác. 

Trong tiếng gió buổi chiều là âm thanh của cuộc sống con người nhưng  nghe mơ hồ quá “ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Đâu là ở đâu ? Không xác định. Đó là thứ âm thanh mơ hồ của một phiên chợ đã vãn theo làn gió lan xa mãi. Nó chỉ thoáng qua trong gió rồi tắt lịm giữa bóng chiều đang xuống càng làm cho cảnh chiều hư vô, càng gợi thêm sự vắng vẻ, quạnh hiu. Nhà thơ như đang bị vây giữa không gian ba chiều rộng lớn “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/ Sông dài trời rộng bến cô liêu”. Vũ trụ được đẩy lên cao bởi khi nắng chiều xuống, bầu trời như được nâng lên hẳn làm nên độ cao “sâu chót vót”. Chữ “sâu” rất ấn tượng. Nếu dùng từ “cao” thì chỉ tả được độ cao vật lý của bầu trời còn chữ “sâu” vừa tả được độ cao vừa gợi được cảm giác của con người trước chiều cao ấy. Đó chính là sự rợn ngợp của hồn người trước cái vô cùng của vũ trụ. Vì thế đọc câu thơ lên ta có cảm giác hồn mình như đang mênh mang cùng thiên địa. Con người trong phút ấy trở nên nhỏ bé cô đơn hơn bao giờ hết. Nhà thơ gọi quãng mình đứng là “bến cô liêu” hay chính tâm hồn thi nhân đang lẻ loi và hoang vắng. Có lẽ Huy Cận và Xuân Diệu đã đồng điệu khi gọi hồn mình là “bến cô liêu” hay Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề” (Xuân Diệu) 

          Nhưng chưa dừng lại ở đó, cái tôi cô đơn của thi nhân còn đi sâu hơn nữa vào ngọn nguồn của nỗi buồn thương:

                                    “ Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

                                       Mênh mông không một chuyến đò ngang.

                                       Không cầu gợi chút niềm thân mật,

                                       Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh cánh bèo trong “bèo dạt về đâu”  mang  thân phận con người: lạc loài, trôi nổi. Đó chính là hình ảnh của số phận con người “hàng nối hàng” không biết đi về đâu trong xã hội cũ khi chưa có cách mạng về. Cảm giác cô đơn khiến nhà thơ muốn tìm đến một sự gần gũi, một sự kết nối. Phóng tầm mắt ra sông rộng thấy Mênh mông không một chuyến đò ngang”;“Không cầu gợi chút niềm thân mật” để rồi  thấm thía một sự đơn độc trọn vẹn. Hai từ“không” hai lần phủ định “không đò”, “không cầu” trong hai câu thơ như hai cái lắc đầu buồn bã. Chỉ có con người đơn độc giữa không gian vô tình, vô cảm. Nhìn đâu cũng chỉ thấy“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.

 Khổ thơ cuối cùng khép lại mang niềm tâm sự sâu kín của thi nhân về tình yêu quê hương đất nước:

                                      Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

                                      Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

                                      Lòng quê dợn dợn vời con nước,

                                      Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

    Một không gian quen thuộc, đúng là hình ảnh trong một bức tranh cổ : một rặng núi xa, những đám mây bạc từ mặt đất chầm chậm dâng cao. Có thể nói cảnh vật hiện lên ở khổ cuối là cảnh vật cô đọng nhất nhưng cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa nhất. Tầng tầng lớp lớp những áng mây chồng chất lên nhau như chất chứa cả nỗi niềm ẩn khuất của nhà thơ. Động từ “đùn” diễn tả trạng thái hoạt động tràn đầy sức sống, ánh sáng chiếu vào lấp lánh như màu bạc. Cả bài thơ chỉ có mỗi dòng này le lói sự sống tươi mới, rực rỡ” (Hồ Minh Tú trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn, Bình Định). Cảnh thật hùng vĩ tráng lệ nhưng đối lập với cái hùng vĩ ấy là hình ảnh cánh chim nhỏ bé đơn côi đang “nghiêng cánh nhỏ”. Bóng chiều buông xuống đè nặng lên cánh chim bé nhỏ, lạc lõng giữa bầu trời rộng thênh thang. Cánh chim như chở nặng nỗi niềm thi nhân hay chính là hình bóng thi nhân đang lạc lõng, bơ vơ giữa vòng xoáy cuộc đời?

Không nhìn vào không gian nữa, nhà thơ nhìn vào chính tâm hồn mình. Thi sĩ gọi tâm hồn mình là “lòng quê”.  “Lòng quê dợn dợn vời con nước”, "dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê" đang “dợn” lên trong tâm hồn thi nhân làm cho hồn người nôn nao không yên. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương của chính mình nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của các nhà Thơ Mới lúc bây giờ.

Câu thơ cuối cùng khép lại “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Nhà thơ đã mượn ý thơ  Thôi Hiệu để nói lên nỗi lòng của mình. Cách đó mười thế kỷ Thôi Hiệu nhìn khói sóng trên sông mà lòng nhớ quê hương da diết khôn nguôi:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)

Huy Cận không nhìn thấy "khói" nhưng vẫn nhớ nhà da diết. Đó chính là tâm trạng và lòng yêu quê hương sâu kín của nhà thơ. Từ đó bài thơ  mở ra một tình yêu lớn lao hơn mỗi miền quê, mỗi cảnh vật. Tình  yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước. Phải chăng đó chính là sự đồng điệu của hai tâm hồn thi sĩ  cách nhau mười thế kỷ?

Tràng giang mang đậm phong vị cổ điển và hiện đại qua việc vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ bảy chữ với cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu trúc đăng đối; bút pháp tả cảnh ngụ tình, gợi hơn là tả …nhiều từ Hán Việt cổ kính còn tình cảm thi nhân mang màu sắc hiện đại.

“Tràng giang” là một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ “Lửa thiêng”. Nó là ngọn lửa thiêng liêng, ngọn lửa vĩnh cửu toả sáng một hồn thơ đẹp. Thi sĩ đã chọn thể thơ thất ngôn với bốn khổ thơ, như một bức hoạ tứ bình tuyệt tác.  Như Xuân Diệu đã từng nói“Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu Giang sơn Tổ quốc” . Đọc“Tràng giang” ta thêm yêu, thêm nhớ đất trời sông núi quê hương Việt Nam.

bài 2

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều. Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. 

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng, Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng 

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà 

(Văn học 11, Tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2005, tr.143) 

Tràng Giang của Huy Cận là bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. 

Anh/chị hãy phân tích bài thơ Tràng Giang để làm sáng tỏ nhận xét trên. 

Bài làm 

Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc. 

Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài 

Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp 

.... 

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. 

Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng. 

Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại. 

Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc. 

Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế: 

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, 

Con thuyền xuôi mái nước song song. 

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả 

Củi một cành khô lạc mấy dòng. 

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm 

ời đề tự “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, là cảm hứng chủ đạo của Huy Cận trong bài thơ “Tràng giang” đã khắc chạm vào thời gian và hồn người hơn nửa thế kỷ qua. “Tràng giang” là bài thơ kiệt tác trong tập thơ “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Theo tác giả cho biết, vào một buỏi chiều thu năm 1939, khi còn là sinh viên trường Đại học Canh nông, Huy Cận đứng ở bờ nam bến Chèm, ngắm sông Hồng mênh mông lòng dào dạt xúc động mà viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận về tràng giang và một nỗi buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ lặng ngắm cảnh: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. 

Khổ thơ đầu nói về “sóng gợn”, con thuyền và cành củi khô trôi trên dòng sông: 

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp 

Con thuyền xuôi mái nước song song”. 

Tràng giang – sông dài và lớn, như Hoàng Hà, Trường Giang… ở đây là dòng sông Hồng Hà thân yêu, dòng sông “đỏ nặng phù sa”. Sóng gợn lăn tăn, lớp lớp “buồn điệp điệp”, như vỗ vào, thấm sâu vào lòng người bao ám ảnh. Con thuyền nhỏ bé, trôi xuôi dòng, buông mái chèo “nước song song”. Cặp từ láy: “điệp điệp”, “song song” gợi tả một nơi buồn thấm thía, xa vắng và mơ hồ. hình ảnh cành củi khô vừa mang ý nghĩa hiện thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. “Củi một cành khô” nhỏ bé tầm thường, từ rừng xa xôi trôi về đã được đem vào thơ, tạo nên “cái ý vị mới mẻ” của “Thơ mới”. Nó biểu tượng cho một kiếp ngời phù du, bé nhỏ trôi nổi trên dòng đời vô định. Buồn thương thế, biết đi đâu, về đâu? 

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả 

Củi một cành kho lạc mấy dong” 

Phép đối được sử dụng sáng tạo, chỉ đối ý, đối hình mà vần thơ vãn cân xứng, hài hoà. Con thuyền và cành củi khô đang cùng trôi nổi trên dòng tràng gian. Huy Cận nói đến nhiều “vạn cổ sầu”, “buồn thiên thu”, ở đây ông lại viết “sầu trăm ngả”. Cả cõi dương và cõi âm? “Sầu trăm ngả” như tỏa rộng và phủ lên những kiếp người đau thương. Các số từ trong 3 vần thơ “sầu trăm ngả”, “củi một cành khô”, “lạc mấy dòng” đã làm thấu cái ám ảnh về kiếp người nhỏ bé, hữu hạn, còn sự đau khổ, sầu thương thi to lớn, vô hạn. 

Nỗi buồn vô hạn ấy lại được miêu tả qua một không gian bao la. Cái bé nhỏ tương phản với cái mênh mông, vô cùng. Cồn thì nhỏ bé thưa thớt, buồn bã: “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”. Vần lưng “nhỏ - nhỏ”, kết hợp với láy âm “lơ thơ” và “đìu hiu”, âm hưởng câu thơ như trĩu lòng người về mộtnỗi buồn hiu hắt cô quạnh. Nghệ thuật sử dụng từ láy tài ba, gợi lên màu sắc cổ kính, dẫn hồn người đọc về với cổ thi: “Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo – Bên Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”(Chinh phụ ngâm). “Lơ thơ tơ liễu buông mành…”(“Truyện Kiều”). 

Chợ chiều vốn đã buồn xao xác, vãn chợ chiều thì cái buồn xao xác xa vắng lại được nhân lên nhiều lần. Thế mà giờ đây cái âm thanh xao xác “vãn chợ chiều” từ một làng xa cũng không còn nữa. Từ “đâu” biểu lộ cái ngơ ngác của thi nhân với một nỗi buồn lẻ loi cô quạnh chứa chất trong lòng: 

“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” 

Bầu trời và lòng sông là không gian hai chiều. Trời cao thăm thẳm in xuống lòng sông. Người ta thường nói “cao chót vót”, “sâu thăm thẳm” nhưng Huy Cận lại viết “sâu chót vót” để làm nổi bật hai tiểu đối: “nắng xuống” và “trời lên” kia, cái bao la, mênh mông đều rợn ngợp. Dòng sông thì “dài”, bầu trời thì “rộng”, và bến đò thì “cô liêu” xa vắng: 

“Nắng xuống trời lên sâu chót vót 

Song dài, trời rộng, bến cô liêu” 

“Tràng giang” là thi phẩm đại diện sáng chói, lung linh nhất của “lửa thiêng”. Nói đến “Tràng giang” là nói đến “Lửa thiêng”. Nói đến “Lửa thiêng” là nói đến nỗi buồn mênh mang, bao trùm không gian và thời gian, dường như ngâm chứa chất “cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế!”(Xuân Diệu). 

Câu hát “bèo dạt mây trôi” trong dân ca Quan Họ từng gợi lên trong hồn ta nhiều cảm xúc mơ hồ. Khổ thứ ba, huy Cận lấy cánh bèo trôi dạt trên dòng tràng giang làm biểu tượng cho sự hợp tan chia lìa trên dòng đời cua rnhững kiếp người truân chuyên lưu lạc: 

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng; 

Mênh mông không một chuyến đò ngang 

Không cầu gợi chút niềm thân mật, 

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. 

Giữa cái bao la trời đất, sông nước hầu như không có một bóng dáng con người. Câu thơ phủ định bằng điệp từ “không” liên tiếp “không một chuyến đò ngang”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”, chỉ có màu “vàng” của bãi tiếp nối với màu “xanh” của bờ vô tận. Cái buồn bà cô đơn của tâm trạng được diễn tả trong một không gian “mênh mông” và “lặng lẽ”. 

Khổ thơ cuối nói về khoảnh khắc hoàng hôn. Hoàng hôn trong thơ cổ gắn liền với tình quê, cố hương: 

“.. Dừng chân đứng lại trời non nước 

Một mảnh tình riêng ta với ta” 

(“Qua Đèo Ngang”) 

Thôi Hiệu, nhà thơ lỗi lạc đời Đường, đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn khói sóng phủ mờ trên sông Hán Dương buổi hoàng hôn mà lòng thổn thức: 

“Quê hương khuất bóng hoàng hôn 

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” 

(Tản Đà dịch) 

Huy Cận lựa chọn một số thi liệu đầy chất thơ để diễn tả một tình quê: một cánh chim chiều, lớp lớp núi mây bạc. Không có khói sóng mà vẫn thương nhớ quê nhà da diết: 

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc 

Chìm nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa, 

Lòng quê dợn dợn vời non nước, 

Không khói hoàng hon cũng nhớ nhà”. 

Câu thơ nên hoạ, đầy hình tượng và dạt dào cảm xúc. Hồn Đường như thấm vào câu chữ. Ai đã từng xa quê, trong khoảnh khác hoàng hôn mới thấy hết cái hay (đẹp mà buồn) trong những bài thơ nói về tình quê. Lòng quê: “Song sa vò võ phương trời – Nay hoàng hôn đãlại maii hôn hoàng”(Truyện Kiều)… “kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ - Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn” (“Chiều hôm nhớ nhà”) - Từ cảm nhận ấy, ta như bâng khuâng nhập hồn mình vào “Tràng giang”, lặng lẽ trầm ngâm nhìn theo “vời con nước” mà “nhớ nhà”, nhớ quê hương. Huy Cận không cần có khói sóng mà lòng quê vẫn “dờn dợn”, vẫn “nhớ nhà”. Rõ ràng tình quê trong Huy Cận không cần có khói sóng mà lòng quê vẫn “dờn dợn”, vẫn “nhớ nhà”, nhớ trong Huy Cận cháy bỏng và da diết vô cùng. Nói rằng thơ đích thực nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn nơi đáy sâu tâm hồn người để vươn tới cái cao cả. Đọc “Tràng giang” ta cảm nhận sâu thêm chân lý nghệ thuật ấy. 

“Tràng giang” là một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ “Lửa thiêng”. Nó là ngọn lửa thiêng liêng, ngọn lửa vĩnh cửu toả sáng một hồn thơ đẹp. Thi sĩ đã chọn thể thơ thất ngôn với bốn khổ thơ, như một bức hoạ tứ bình tuyệt tác. Một nỗi buồn thấm thía được diễn tả lớp lớp tầng tầng qua những vân thơ mỹ lệ, hàm súc. “Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu Giang sơn Tổ quốc” như Xuân Diệu đã nói. Có “Tràng giang” 

Bài 2

.Tràng giang là bài thơ được sông Hồng gợi tứ. Trước cách mạng tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm, vẽ để ngắm cảnh Hồ Tây và sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ cũng không chỉ do sông Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương. Chúng tôi lúc đó có một nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên. Tràng giang là một bài thơ tình và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn. Nhìn dòng sông lớn gợn những lớp sóng tôi cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra như những lớp sóng :

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả ;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Thuyền và nước vốn là hai khái niệm gần gũi nhưng rồi không phải bao giờ cũng gắn bó. Thuyền gợi lên một cái gì nổi lên như kiếp người trong cuộc đời cũ. Nhất là ở đây nỗi buồn chia li, xa cách đang đón đợi. Tôi chọn lọc trong nhiều khả năng biểu hiện hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng” không phải là một thân gỗ xuôi dòng, một đám bèo xanh trôi nổi mà là một cành củi khô bập bềnh trôi dạt trên sông.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót ;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Khung cảnh của buổi chiều trên sông nước, làng xóm đôi bờ vắng lặng. Trong câu đầu của khổ thơ tôi có đọc được chữ đìu hiu của Chinh phụ ngâm :

Non kì quạnh quẽ trăng treo,

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.

Cảnh vật vắng vẻ. Đâu đây vẳng lại đôi tiếng lao xao của buổi chợ chiều. Thật không gì vui bằng lúc chợ đông và buồn bằng khi chợ chiều tan tác, không có tiếng người thì cảnh vật hoang vắng và xa lạ. Đôi chút âm thanh của cuộc sống con người không làm bớt đi sự vắng lặng nhưng vẫn tạo được ít nhiều vẻ của cuộc sống. Thiên nhiên tạo vật trong buổi chiều tà trên sông nước cùng lạ lùng. Từng vạt nắng từ trên cao rọi xuống tạo nên những khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tôi dùng chữ sâu chứ không dùng chữ cao. Nếu là cao chót vót thì quá bình thường. Không gian được mở ra hai chiều, chiều cao và bề rộng tạo nên một không gian vũ trụ rộng lớn và cũng là những nỗi buồn vô tận. Câu thơ đề từ của bài Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài cũng được láy lại trong ý thơ “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Trong không gian buồn, xa vắng đó ai cũng muốn tìm đến những dấu vết gần gũi của sự sống của cuộc đời :

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng ;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Những dấu hiệu gần gũi nhất của cuộc sống đều không có. Không một chiếc cầu nhỏ, một chuyến đò ngang để cuộc sống đi về trong thân tình gần gũi. Cả bốn câu thơ đều buồn, mỗi câu mang một nỗi buồn riêng. Cảnh vật có đổi thay nhưng cũng một dáng vẻ, tất cả đều trôi nổi, mông lung, vô định. Không có những dấu vết của con người. Nhắc đến từng hình ảnh lại thấy tha thiết nhớ cuộc sống của con người. Thiên nhiên tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kì vĩ lạ lùng.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vờn con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Câu thơ đầu có học được chữ đùn trong bài dịch thơ Đỗ Phủ.

Lưng trời sóng gợn, lòng sông thẳm,

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao, ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp. Cánh chim bay liệng tuy gợn lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng nhỏ bé, mông lung quá. Và nỗi buồn đến đây càng thêm da diết trong thương nhớ. Nó không chỉ đóng khung trong cảnh sông nước ở trước mắt mà mở ra đến những chân trời của miền quê xa. Hai chữ dợn dợn của tôi thường bị đọc in thành dờn dợn, như thế chẳng có ý nghĩa gì. Trong bài thơ Tràng giang có nhiều điệp ngữ như điệp điệp, song song, dợn dợn. Mỗi từ điệp như thế đều có ý nghĩa riêng về nội dung cũng như nghệ thuật. Bài thơ kết thúc bằng nỗi nhớ quê hương da diết. Tôi nói khác ý thơ của Thôi Hiệu :

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

Vì lúc đó tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời nhà Đường.

Tôi thường nói vui rằng cảnh trên sông nước có khói sóng làm cho Thôi Hiệu buồn, nhớ quê ; còn tôi thì không có khói sóng cũng da diết nhớ quê hương. Bài Tràng giang đã kết hợp được thơ ca truyền thống, những nét cổ điển của thơ Đường, với những nét hiện đại. Những hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, “củi một cành khô”, “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” mang tính chân thực của đời thường, không ước lệ. Và cũng có những hình ảnh mang vẻ đẹp tượng trưng. Tình yêu quê hương trong bài Tràng giang gợi lên và mở ra một tình yêu lớn lao hơn mỗi miền quê, mỗi cảnh vật. Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước.

(Huy Cận, Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, 1994)

*****

2. Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài

Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp

....

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "anh" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.

Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.

Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng "tràng giang" dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.

Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.

Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.

Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.

Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:

"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".

Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.

Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cần gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không...không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.

Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: "Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.

Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.

Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.

Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.

Người đã gọi dậy cái buồn của Á Đông, người đã khơi lại cái mạch sầu mấy ngàn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này” (Hoài Thành, Thi nhân Việt Nam). Người đó, không ai khác ngoài Huy Cận. Nhà thơ đã nhìn thấy “tràng giang” của cuộc đời và tắm mình trong “tràng giang” của nỗi buồn – thiên cổ:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nướclại sầu trăm ngả,

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Nỗi buồn từ lâu đã trở thành một phạm trù quen thuộc của thi ca. Đối với các nhà thơ lãng mạng của phong trào Thơ mới thì nỗi buồn càng trở nên sâu sắc. Họ nhìn thấy xuân mà buồn “vội vã”, tả cảnh trăng mà buồn “đau đớn”, thấy nắng, gió, mây, trời… đều nhuốm một nỗi buồn bâng khuâng, khó tả. Và, Huy Cận là người buồn nhất. Ông bước vào hội “Tao đàn” bằng ngọn lửa thiêng mà mỗi ánh sáng và hơi thở của nó lan toả một nỗi buồn càng luác càng sầu não. Tràng giang thật đúng như tên gọi của nó, là một nỗi buồn vô hạn, vô định và vô chừng.

Một bài thơ hữu hạn của câu chữ mà chứa đựng được cái vô hạn của lòng người. Có gì rộng lớn và mênh mông cho bằng Tràng giang? Có gì phù hợp để diễn tả nỗi niềm tràng giang hơn là cảnh “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Bài thơ bắt đầu là “sóng” và kết thúc là “khói”. Chỉ có “sóng” mới “gợn” mới được tất cả những cung bậc của lòng người qua thời gian. Chỉ có “khói” mới diễn tả hết nỗi sầu bâng khuâng vạn kiếp: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Đọc hai câu thơ:

Nắng xuống, trời nên, sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Mới thấy hết đời người cô đơn và bé nhỏ làm sao! Trời sâu làm người ta vô vọng. Sông dài khiến lòng người quạnh hiu… khung cảnh của Tràng giang, nhìn quanh bốn phía đều thấy: “Mênh mông không một chuyến đò ngang” hay “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Con người vốn đã cô đơn mà hình như cảnh vật lại càng đơn côi, lạnh lẽo!

Ngoài ra, Tràng giang còn diễn tả một nỗi buồn vô định. Vô định vì nhìn đâu cũng toàn thấy nỗi buồn. Buồn trên từng con sóng, con thuyền. Buồn ngấm vào từng cành củi khô. Buồn lan ra cồn cỏ, bến sông. Thấy bèo trôi cũng buồn. Mà nhìn thấy cánh chim nghiêng cũng buồn vời vợi… Vạn vật như những linh hồn đơn côi, bé nhỏ, trôI lạc giữa dòng tràng giang, mang trên mình một nỗi buồn riêng, một tâm sự riêng. Và thiên chức của thi sĩ là “đi lượm lặt những chút buồn rơi rắc để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não”. Góp những nỗi buồn để tạo ra nỗi buồn, nỗi buồn lớn lại tan ra thành muôn và con sóng nhỏ. Cứ thế nỗi buồn tràn lan và vô định…

Tràng giang hội tụ những sắc màu cổ điển, đồng thời cũng khơi đậy cảm quan mới của con người đầu thế kỉ. Đó là một cảm quan về một nỗi buồn vô chừng. Đâu cần đợi có khói mà nhà thơ mới chạnh nỗi nhớ quê nhà? Ở đây, Huy Cận trải lòng mình bằng hai câu thơ tuyệt bút:

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Không có khói nhưng người vẫn có tình. Không có cầu không có chuyến đò ngang nhưng vẫn có lòng người tưởng nhớ, vẫn có nguyên vẹn những nỗi buồn: buồn biệt li hay buồn xa cách quê hương… Nói như Hoài Thanh, đó là nỗi buồn bâng quơ, khó hiểu, nỗi buồn của người hiện đại.

Công chúng nhớ đến Huy Cận bởi Tràng giang đã trở thành khúc ca buồn muôn thuở…./. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro