Trăng lạnh như sương-Phỉ Ngã Tư Tồn

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nguyên tác: Lãnh nguyệt như sương

Tác giả: Phỉ Ngã Tư Tồn

Dịch giả: Đông Y Lâm

*Đây là bản dịch đã chỉnh sửa và bổ sung hoàn thiện, thay đổi rất nhiều và chất lượng hơn hẳn bản cũ.

Bạn nào muốn tải Ebook MỚI và đọc thêm vài ngoại truyện mới cập nhật thì vào địa chỉ: http://dongylam.wordpress.com/ nhé! 

Khuyến nghị không nên down bản ebook cũ vì chất lượng nội dung kém hơn nhiều!

***

Giới thiệu

Mười bốn tuổi năm đó, ta vẫn chỉ là một tiểu cô nương, nhìn cuộc đời như một dải lụa hồng, biết bao nhiêu là mơ mộng!

Sống chết ngàn xa

Cùng người thề nguyện

Chàng nói ta hãy chờ chàng. Ta vẫn một lòng ngây ngốc ôm kỷ vật của chúng ta đợi chờ. Chờ chàng đem kiệu hoa đến rước ta về, chờ đợi ngày hạnh phúc mà chàng nói. Thế nhưng, ta đợi mãi, đợi cả tuổi thanh xuân qua đi, đợi cả cuộc đời héo úa, tại sao chàng không đến?

Thì ra, cây chủy thủ hẹn ước mà chàng trao ta, cũng chính nó đã chặt đứt dải lụa hồng của đời ta.

Trở về trong đêm nguyên tiêu năm ấy

Trở về trong cơn mưa tuyết năm ấy

Trở về trong quán rượu nhỏ năm ấy

Chàng có thấy chăng, có một người con gái ngốc nghếch là ta, vẫn ngồi chờ nơi đó?

Định Thuần, ánh trăng tịch mịch làm sao, lạnh lẽo làm sao, trăng lạnh như sương, thấu tận tâm hồn, tận trái tim ta!

Đôi lời độc giả 

Sống chết ngàn xa

Cùng người thề nguyện

Nắm tay trọn kiếp

Bên nhau đến già

o0o

Bước chân vào chốn hậu cung sâu hút tựa bể, được che đậy bởi những cung điện lầu đài xa hoa mỹ lệ, nàng dường như đã lầm lạc giữa dòng xoáy của tình yêu và nỗi thù hận, đã định trước cả cuộc đời này sẽ chỉ mãi âu sầu phiền muộn.  

Một hồi chuyện xưa này của Phỉ Ngã nơi đất cổ đại, vẫn luôn gắn liền với những tình tiết câu chuyện đẹp đẽ đến lạ thường như vậy, nhân vật vẫn luôn thanh lịch tao nhã là thế, còn có cả một bầu ưu thương đau xót nồng đậm vĩnh viễn không thể tan biến.                                                                                                                                                                                                                              (Thương Nguyệt)  

Ngắn ngủi mười tám vạn chữ, lại đã viết hết cuộc đời một con người khi còn sống.

Tác giả là một cây bút hiện thực, hết thảy những "Nhân sinh nếu như ngày mới gặp, nào để gió thu biến u sầu?" cũng chỉ là cổ tích tươi đẹp. Một lần hiểu lầm, thế nhưng bỏ lỡ đâu chỉ một vài năm trôi qua? Chính là cả đời!  

Đáng thương thay nữ chính, rõ ràng là nàng, lại bởi vì hiểu nhầm, trở thành thế thân cho kẻ khác, nào biết có tình yêu cũng chẳng thể nhận ra. Nàng chỉ đành làm thế thân, thử hỏi nếu như chàng sớm biết ? Không phải người đó, chả nhẽ sẽ không yêu sao?  

Nhất kiến chung tình nào có được cái gì, có thể thắng nổi ngày đêm vành tai tóc mai kề cận bên nhau hay sao?  

Tình yêu sinh ra từ thời gian, năm tháng qua đi, ai cũng có thể thay thế được ai.  

Mười sáu tuổi, may mắn thoát khỏi kiếp nạn tru di tam tộc, hai mươi hai tuổi, trở thành mẫu nghi thiên hạ Hoàng thái hậu. Cuộc đời biến đổi bất ngờ, cứ ngỡ nàng từ địa ngục mà lên tới thiên đường. Thế nhưng, quanh co một vòng, nào có chốn nào gọi là thiên đường?                                                                                                                                                                (Vô danh)  

Bỏ lỡ cuối cùng vẫn là bỏ lỡ, lấy sinh mệnh cả cuộc đời cũng không thể cứu vãn nữa rồi!  

Ngày đầu gặp mặt, nàng thanh thuần như hạt sen, ngây thơ trong trắng. Tươi tắn dịu dàng, ngông cuồng ngạo nghễ.   

Từng đã cho cuộc đời vĩnh viễn là thế, nào biết từ một khoảnh khắc kia, bọn họ rốt cuộc đều đã bước qua nhau. Đường đời trăm mối, cuối cùng vẫn nhận ra nhau, thế nhưng đã muộn mất rồi! Nàng, đã không còn là nàng của năm đó, mà chàng, cũng thế.  

Hóa ra là nàng, nhưng, đã sớm không phải là nàng.                                                                                                                                              (Kỷ niên lưu quang)  

Đoạn chêm

Tiếng truyền chỉ của gã nội quan vang vọng không gian, không lớn, song cổ họng gã the thé, dường như hàm chứa một thanh dao nhọn hoắt, từng chữ từng chữ một đâm toạc màng nhĩ:  

"Nếu là nam đinh đã ngoài mười bốn tuổi thì xử trảm, dưới mười bốn thì bắt đi đày ải ba nghìn dặm; nếu là nữ quyến đã ngoài mười sáu tuổi thì ban cho lụa trắng tự vẫn, dưới mười sáu đem bán làm nô tì cho các quan lại..."  

Trong ngục lúc bấy giờ chỉ còn đượm một sự yên tĩnh chết chóc, trong khoang quỳ đầy những người, giam phía bên trái là nam đinh, bên phải là nữ quyến, đo đi đếm lại cả thảy không giữ được bao nhiêu cái mạng.

Hành lang hẹp âm u, chợt hiu hiu luồng gió bắc ùa về tự phương nào, lạnh đến thấu xương. Trong đám đàn bà con gái rốt cuộc có người không nhịn được bật khóc thành tiếng, thổn thức giọng nữ mỏng manh như băng ngầm đáy nước, chợt vỡ tan trong âm điệu lạnh lùng để rồi lặng lẽ luồn sâu vào hồn người. Ngay phía đối diện, Mộ đại nhân trợn trừng đôi mắt đỏ đục ngầu, ghì lấy song sắt gầm lên:

"Khóc cái gì mà khóc, thân là con gái Mộ gia chả nhẽ còn sợ chết?"  

Như Sương cũng siết chặt cái khung cửa, có lẽ  phải dùng hết sức lực mới kìm chế được dòng nước mắt.

Cuối cùng nàng đã không thể đợi được, hết thảy những điều đẹp đẽ từ trước tới nay đều sập đổ ngay trước mắt. Mười sáu năm sống trong nhung lụa gấm vóc, mười sáu năm được chăm sóc nâng niu như bảo vật, nàng đã từng ngỡ hết thảy sau này đều sẽ như mười sáu năm qua không có gì đổi khác, mà thậm chí còn tốt đẹp hơn nữa. Nhưng, tất cả đều không còn, tất cả đều không còn nữa! Toàn bộ đều ở nơi bàn tay quyền lực của đế vương kia tan thành mây khói!  

Nàng cắn chặt môi dưới, chặt đến nỗi chảy cả máu. Theo dòng máu kia, một câu nói bay ra qua kẽ răng nghiến kèn kẹt:

"Cha, con không sợ chết!"

Nàng không sợ chết, mà chính là sợ sống, nàng sợ hãi phải sống trong sự cô độc. Nàng là con gái nhỏ tuổi nhất của cha, ngoài nàng ra, chỉ e chẳng còn ai sống được nữa. Nàng thật sự rất sợ!

Thế nhưng nàng cần phải sống, nàng phải sống để mà giết hắn, sống để bắt hắn dùng máu trả nợ máu. Cho dù hắn có là cửu ngũ chí tôn, nàng cũng nhất định sẽ vì Mộ gia mà báo thù rửa hận!

 Nhất định!

Chương 1: CÂY NGỌC CÀNH QUỲNH DẤY MÀN SƯƠNG

Chập chờn đến canh bốn, Như Sương choàng tỉnh giấc. Ngoài kia, thi thoảng vang lên từng đợt âm thanh ào ào nhỏ nhặt, nhìn trên khung cửa sổ nhuốm màu trắng, thì ra là tuyết đã rơi.

Da bàn chân Như Sương bị nứt nẻ, vừa ngứa lại vừa đau, nàng không nhịn được gãi nhè nhẹ trong chăn; a hoàn nằm bên nàng cũng chợt tỉnh, trong cơn mơ màng vẫn gọi một tiếng" Tiểu thư" rồi ôm lấy chân nàng ủ trong ngực.

" Để em giúp người sưởi ấm."

Lòng nàng chua chát nhớ lại những ngày xưa, vú nuôi của nàng cũng thường dùng cách như vậy giúp mình ấm chân, mà nay bạch cốt của bà vú đã sớm hóa thành tro đắp nắm đất vàng dưới chân núi Tây Lâm, để lại mỗi Tiểu Hoàn cùng bản thân nương tựa lẫn nhau mà sống.

Ngoài trời, tuyết rơi càng lúc càng nặng hạt, một cơn gió nức nở ùa về vỡ tan nơi cửa giấy, luồn vào bên trong hơi lạnh của phương bắc. 

Đây là trận tuyết lớn đầu năm, nàng thầm thương những nấm mồ dưới núi kia có biết bao lạnh lẽo, cô quạnh, bị tuyết này phủ có khác nào mấy chiếc bánh bao rơi trên đồng vắng?

Nghĩ đến bánh bao, bụng nàng lại bắt đầu kêu réo không thôi, ngày hôm qua chỉ ăn một nắm cơm nguội, chừa lại một nắm cho Tiểu Hoàn. Nàng vẫn còn rất ít tuổi, không chịu nổi cái đói dày vò, ngày hôm nay chưa có gì bỏ bụng, dạ dày lập tức như thiêu như đốt, đã thế còn nghĩ đến bánh bao, bụng khó chịu như ai đang nạo vét. 

Không thể tưởng được một khi đã đói, cái bánh bao cũng khiến bản thân chật vật đến như vậy!

Những tháng ngày tươi đẹp, yên bình trước kia, Như Sương tự hỏi phải chăng chỉ là một giấc mộng?

Năm đó, nếu gặp được tuyết rơi như thế này, mẹ nàng nhất định sẽ sai mấy đứa a hoàn tay chân lanh lợi ở nhà trên gom hết những bông mai rơi rụng trên tuyết vào pha trà. Mà đàn bà con gái trong kinh thành, ai chẳng biết phủ Mộ gia nổi tiếng trà ngon?

Trà là cực phẩm mầm mai tuyết tại non Ngân, theo đoàn thuyền cống nạp  đưa vào Tây Trường kinh.

Ngàn dặm đường thủy, bình thường buồm giương ba cột cũng phải mười ngày nửa tháng mới tới nơi. Đoàn thuyền cống nạp đều nghiêm hạn canh giờ, có gió ắt dùng buồm, gió lặng thì dùng chèo, mỗi ngày đi được hai trăm dặm đường thủy, không quá sáu bảy ngày đã cập bến Tây Trường kinh. Bởi vậy thời điểm được đưa tới kinh đô mầm tuyết núi Ngân độc nhất vô nhị kia vẫn cứ non tươi như lúc ban đầu.

Hộp đựng trà tinh xảo bóng loáng bày ra, nắp hộp chạm trổ hoa văn kỳ công rất mực, điểm xuyết màu xanh lam ngọc bích. Chỉ vừa mở nắp thôi thì một thứ hương thơm tươi mát tựa dòng nước cam lồ sẽ tỏa ngát, luồn lách mọi nơi, thẩm thấu đến từng lỗ chân lông con người. Tại phòng trà, thứ hương thơm tinh tế này phảng phất trong không khí mấy ngày còn chưa tan. . .

Cửa sổ giấy có chỗ đã rách, luồng gió bắc ào tới đập lên tơ giấy khiến nó cũng lạnh run lập cập thành tiếng. Không thể nào ngủ tiếp được, da nứt trên chân lại ngứa ngáy, nàng thở dài tự trách, còn nhớ những ngày đã qua để làm gì nữa, khi mà tương lai ngày mai còn chưa biết làm sao để sống!

Trước đây từng thấy trong sách viết rằng "Sống một ngày cũng bằng một năm", kỳ thực với nàng bây giờ, một năm mà so với một ngày gian nan như vầy có thấm vào đâu, chưa quá ba bốn tháng mà nàng cứ ngỡ đã trải qua được ba, bốn mươi năm. Ngẫu nhiên một sáng rửa mặt trong chậu, soi thấy gương mặt mình cơ hồ cũng không nhận ra được, tâm tình lại càng thê lương. Có lẽ qua cho được ba bốn tháng này bản thân cũng đã đầy đầu tóc bạc.

Mỗi lần tưởng không chịu nổi khó nhọc, nàng thường nghĩ tới cái chết, thấy không bằng chết quách cho rồi, nhưng còn lời căn dặn cuối cùng của mẹ . . .

" Sương nhi . . . con . . .  phải chăm sóc Doãn nhi cho tốt..."

Doãn nhi là em trai nhỏ tuổi nhất của nàng, năm nay tính cả tuổi mụ cũng chỉ đến mười ba, mà theo chiếu dụ thì nam đinh trên mười bốn mới xử trảm, dưới mười bốn chịu đày ải ba nghìn dặm. Mộ Doãn từ tuổi ấu đã tập cung mã, tám tuổi cùng cha xuất chinh, lớn lên nơi quân doanh; tuy còn thiếu niên song tính tình cương nghị, vô luận thế nào cũng không tham sống sợ chết, quyết cùng cha anh đồng sinh cộng tử, thế nhưng cuối cùng nơi nhà lao vẫn bị Mộ đại nhân một bạt tai mắng là "Đồ bất hiếu".

Mà Doãn nhi khi nghe tiếng quát của cha mới bừng tỉnh ngộ, trong nhà con trai dưới mười bốn tuổi chỉ còn mỗi bản thân một người, nếu mình chết đi, chả nhẽ để Mộ gia từ đây tuyệt hậu? Một câu "Bất hiếu" của cha già, tựa như băng tuyết ngày tam cửu(khoảng ngày 17 tháng 1)[1] giáng xuống lưng, cậu trừng to đôi mắt đỏ au, vội vã quỳ xuống bên chân cha, dập đầu "cốp cốp" ba cái, lúc đứng lên chỉ nói bốn chữ:

"Con xin tuân mệnh!"

Thân là kẻ chinh chiến, đã từng suất lĩnh mười vạn đại quân một tay san bằng vùng núi Định Lan một Mộ đại tướng quân, nhìn thấy ấu tử như thế, cuối cùng cũng không ngăn được dòng lệ chảy dài trên khuôn mặt già nua.

Đó là lần đầu tiên Như Sương thấy cha rơi nước mắt... và cũng là lần cuối. Cha khóc, mẹ đương nhiên cũng khóc... mà nàng càng khóc đến quặn lòng...

Lại kể chuyện về sau, đàn bà con gái trong nhà người thì tự tử, người bị đem bán quan, riêng nàng cùng Tiểu Hoàn cũng không thoát đến nơi đây làm kiếp nô tì...

Một giọt nước mắt thật lớn, lặng lẽ trườn xuống trên khuôn mặt nàng, giọt ấy lạnh như băng, cứ chậm rãi chảy ngược vào trong tim nàng từng chút một... Lạnh đến như thế... Sẽ không bao giờ có thể tìm lại được một tia ấm áp... Nàng cuộn tròn tấm thân, mơ mơ màng màng lại đi vào giấc ngủ...

Ngày hôm sau thì tuyết ngừng rơi. Đây là đợt tuyết đầu năm, đình đài lầu gác đều như được đặt trong một bồn thủy tinh trong suốt, lấp lánh lung linh, thế nhưng nàng còn tâm tình nào đi thưởng thức? Ăn qua một chén cháo trắng, lại phải bắt tay vào việc. 

Tiểu Hoàn mặc một bộ quần áo cũ nát, nom lại càng co ro cúm rúm bội phần. 

Thật sự rất lạnh, giày đạp trong tuyết, tuyết lại tan làm cho ướt sũng, hai chân đã lạnh đến mức tê dại đi, bàn tay cầm chổi của Như Sương cũng vì lạnh mà sưng tím sưng tái, nhưng nàng vẫn phải cố quét. 

Tuyết đóng trên đất một màn băng mỏng, Tiểu Hoàn đi trước dùng xẻng gỗ nạo, còn nàng thì quét cật lực; chỉ có thể vùi đầu chịu cực, bởi nếu cuối buổi sáng này mà không quét dọn xong thì cả một nhóm mười hai người các nàng đều sẽ bị bỏ đói.

Nhờ vận hết sức nạo tuyết, trong người đã dần dần ấm lên, tuy nhiên, tay và chân không được che phủ hãy còn cứng đơ vì lạnh. Sau một hồi cố sống cố chết, mắt thấy khả năng có thể xong việc trước giờ Thìn(7-9h sáng), Như Sương thở phào một cái trong lòng.

Nàng là người ốm yếu nhất, lại thêm từ trước đến nay chưa từng trải qua công việc nặng nhọc đến thế nên động tác lề mề, mỗi lần làm liên lụy đến mọi người đều khiến lòng nàng băn khoăn day dứt.

Xa xa chợt nghe có tiếng chân truyền đến, các nàng đang nạo tuyết cùng với Đới tổng quản vừa nghe thấy vội vàng chuẩn bị nghênh đón. Cả nhóm có hơn mười người ai nấy thu dọn chổi xẻng, đoạn kính cẩn quỳ thành một hàng bên chân tường sau lưng Đới tổng quản, co đầu rụt vai.

Cũng không biết đợi đến bao lâu, cuối cùng thì vó ngựa rộn ràng từ xa cũng ngày một gần, tiếng lóc cóc dường đạp thẳng vào trong lòng người.

Như Sương vẫn cúi gằm, chỉ nghe "hự" một tiếng, bỗng một luồng gió mạnh phất ngay trước mặt, rồi vó ngựa đạp tuyết vung vẩy, bắn cả vài giọt lên trán nàng, dù lạnh thấu xương nhưng chẳng dám nhấc tay lên để gạt đi. 

Nàng đang tính gập người xuống hơn một chút, chợt nghe con ngựa hí lên một tràng dài. Vì cúi quá thấp, chỉ có thể liếc thấy bốn cái vó đang chuyển động. 

Con ngựa kia không rõ bị ai ghì cương,  chỉ thấy trên bàn đạp bằng vàng tía kia là một đôi ủng da tuần lộc, bên trong lớp áo lụa vàng pha đỏ, áo khoác lông chồn tía dài rủ đến tận gót chân, vạt áo lông mềm mại màu mật ong ấm áp bay phất phơ trong gió đông lồng lộng, cảm giác êm ái vô ngần tựa như được đụng vào trẻ con.

Đột ngột, một giọng nam trầm thấp vang lên, nhừa nhựa một vẻ lười nhác không kiên nhẫn, bởi vì ở rất gần trên đỉnh đầu khiến toàn thân Như Sương chấn động:

"Ai sai các ngươi đi quét sạch hết tuyết như thế hả?"

Đới tổng quản sợ tới mức cả người run lập cập, chỉ biết liên tục dập đầu kêu:

"Nô tì đáng chết!  Nô tì đáng chết!"

Người kia nghe nói, lập tức nhếch nhếch một bên chân mày, đập đập nhẹ cái roi ngựa vào lòng bàn tay. Cách đó không xa có tiếng bước chân lộn xộn, toàn bộ nhóm người hầu đều đuổi theo, vị thái giám tổng quản Hạ Tiến Hầu cuống cuồng tiến lên ghì chặt cương ngựa, khom người hổn hển:

" Vương. . . Vương gia. . . kính xin ngài rủ lòng thương, đừng lấy đi cái mạng già này. . . "

Duệ Thân Vương tiện tay dùng roi ngựa chỉ vào mặt lão:

"Sau này tuyệt đối không được tự tiện nạo tuyết trong vườn này đi!"

Hạ Tiến Hầu liên tục nói "Vâng", ngay cả thở cũng không dám, mà đám quân hộ vệ cũng chỉ nghiêm chỉnh đứng một bên, cùng với mười nô hoàn tạp dịch đang quỳ dưới đất kia cũng đang nín thở không dám gây ra một tiếng động.

Nhìn xung quanh chỉ toàn những bộ mặt cung kính khép nép, Duệ Thân Vương chán nản quay người, chợt đập vào mắt là con bé Tiểu Hoàn đang quỳ gần đó , trong lòng nảy ý, hỏi:

"Cung của bản vương đâu?"

Năm đó, Thái tổ Hoàng đế nhờ có cung tên mà giành được thiên hạ, thế nên theo tổ huấn của Thiên triều, tôn thất đệ tử thảy đều mang theo cung tên bên mình, để thể hiện rằng lớp con cháu không quên khi xưa dựng nước bao gian khổ, ngay cả ngự giá từ trước đến giờ vẫn luôn kè kè bên cạnh Hoàng đế một gã nội quan chuyên đeo bao tên sau lưng, gọi là "Chưởng Cung". Về sau còn có triều đại đem cung tên bài trí trên cửa điện, cho nên cũng xưng là "triều Trí Cung", mà hoàng thân quốc thích cùng tả hữu đại thần lại càng không rời cung tên nửa bước.

Vừa nghe Duệ Thân Vương hỏi như vậy, Chưởng Cung nội quan vội tiến lên, gỡ xuống từ sau lưng chiếc bao đựng đầy những cái tên dài. Duệ Thân Vương tùy ý lấy một mũi gắn lông điêu trắng, chỉ chỉ Tiểu Hoàn bên cạnh, thờ ơ nói: 

 "Ngươi, đứng lên". 

Tiểu Hoàn thốt nhiên cả kinh, sợ tới mức quên cả quy củ, ngẩng phắt đầu, mở trừng trừng đôi mắt nhìn vị thân vương cao quý kia.

Duệ Thân Vương tựa như buồn cười, chỉ bảo:

" Đứng lên, đứng lên."

Tiểu Hoàn sợ hãi đứng lên, Như Sương hãi hùng nhớ lại cái tin đồn đáng sợ lúc mới bước chân vào phủ, chỉ cảm thấy nổ tung như đất bằng dậy sóng, da đầu giần giật, miệng nàng há hốc mà đầu lưỡi như đã chẳng còn là của nàng, phải vận hết sức mới thét lên được một câu:

"Tiểu Hoàn! Mau chạy đi!"

Tiểu Hoàn sợ tới mức run lẩy bẩy, chợt như bừng tỉnh, sắc mặt tái mét, tiếng Như Sương vẫn the thé khàn đặc, tựa hồ không phải thoát ra từ chính miệng nàng nữa:

"Chạy mau! Chạy mau!"

Đới tổng quản đã choáng váng mất hồn, trợn mắt nhìn Như Sương, một vài gã nội quan tiến lại túm lấy nàng quát:

"Láo thật! Dám hô to gọi nhỏ trước mặt Vương gia à!"

Tiểu Hoàn rốt cuộc bắt đầu phản ứng, co cẳng chạy về phía viên môn(cửa tròn); Duệ Thân Vương ngồi trên lưng ngựa, nét mặt bình thản không chút biến động.

Như Sương vùng vẫy bạt mạng, thêm nhiều nội quan cùng lên tóm lấy nàng toan ghìm lại. Nàng trơ mắt nhìn Tiểu Hoàn giống như một chú thỏ non hoảng loạn chạy đến trước cửa tròn, chỉ còn mười bước nữa thôi, chỉ cần mười bước là Tiểu Hoàn có thể xuyên qua cửa, chỉ cần xuyên qua cửa quẹo góc rẽ, chỉ cần quẹo góc rẽ . . .

Duệ Thân Vương cứ thản nhiên giương cung, him híp đôi mắt, tựa như biết rõ con mồi chạy trời cũng không khỏi nắng.

Như Sương miệng há to mà âm thanh tắc nghẹn, mặc cho nước mắt trên mặt tràn ra như đê vỡ. Chớp mắt, chỉ nghe "vút", tên xé gió lao đi, sau tiếng phập sắc ngọn là mũi tên cắm ngập qua ngực Tiểu Hoàn.

Và dòng máu đỏ thẫm, cứ thế tung tóe bắn từng giọt trên nền tuyết.                                                                                                                     

Tiểu Hoàn lảo đảo hai bước, cuối cùng đổ ập cả người về trước.

Vũng máu tươi đọng lại trên tuyết, tựa như một mảng tranh cuồng thảo thê lương mà ghê rợn, từng chấm nhỏ lách tách giọt đâm vào trong tim con người đau nhức nhối.

Như Sương rơi lệ ướt đẫm khuôn mặt, toàn bộ sức lực của nàng có lẽ chẳng còn bao nhiêu cũng theo một khoảnh khắc kia mà trút đi hết. Bọn nội quan ghì chặt nàng ở trên đất, mặt nàng áp ngay trên vũng tuyết đọng, nước mắt rơi một giọt nóng hổi lại một giọt hòa vào trong tuyết trở nên lạnh như băng. 

Nàng nhớ về một buổi sáng kinh hoàng kia, bản thân bướng bỉnh túm lấy tay của mẹ, có chết cũng không chịu buông, đến nỗi tên cai ngục cầm roi da ra sức quất, roi nóng bừng hằn từng vết trên người nàng, đau muốn nhảy dựng lên. Thế nhưng như thế cũng không khiến cho nàng thả, chỉ càng làm cho nàng điên cuồng mà khóc thét lên:

"Mẹ ơi! Mẹ ơi! "

Ngón tay cố gắng bấm sâu bị người ta nạy lên từng chiếc từng chiếc một, càng nhiều người tiến đến lôi nàng đi, quăng lên tảng đá phủ đầy rêu ẩm dậy mùi tanh, đoạn lấy rơm nhét vào trong miệng nàng. . .

Ở trong ngục, rơm cũ nát chưa từng được thay đổi, đêm vừa xuống đã có một bầy chuột chui ra, thậm chí bò cả trên chân nàng. Như Sương thét chói tai tỉnh lại, chỉ mong lập tức được sà vào vòng tay của mẹ. . . ấm áp, an toàn. . . Nước mắt khiến cho tầm nhìn của nàng trở nên mơ hồ, thế nhưng nỗi đau thấu xương thì vẫn cứ khắc từng nhát vào tim ứa máu. Nàng chưa bao giờ trở nên tuyệt vọng như vậy!

Bọn họ đã đoạt đi hết thảy mọi thứ của nàng, cha, mẹ, anh cả, vú nuôi  . . . đoạt đi hạnh phúc mà nàng đã từng có, cùng biết bao người yêu thương nàng hết mực, ngày nay là Tiểu Hoàn. Đó là Tiểu Hoàn của nàng! Đó là người thân duy nhất còn lại bên cạnh nàng, thế nhưng bây giờ cũng đã chẳng còn trên đời nữa rồi. . .

Nước mắt cuồn cuộn rơi xuống. Nàng cứ ngỡ bản thân từ nay sẽ chẳng bao giờ rơi lệ, nàng cứ ngỡ rốt cuộc đến giờ nàng đã chẳng còn gì để mà mất đi, thế nhưng, thiên ý trêu ngươi, từ trong nhung lụa nàng trở thành hai bàn tay trắng, bọn họ lại cướp đi tiểu a hoàn duy nhất còn sót lại của nàng. 

 Nước mắt trở nên lạnh lẽo, cũng giống như nước tuyết bẩn thỉu còn vương lại trên má, lòng nàng cũng chỉ là băng tuyết. Thân mình run rẩy kịch liệt, trong lồng ngực khí huyết quay cuồng, có một cơn sóng ngầm nào đó đang dâng trào mãnh liệt, ngọn sau dồn ngọn trước xô đập bờ lý trí.

Nàng giống như loài cầm thú bị thương, chỉ biết tuyệt vọng giãy giụa, cho dù chết, nàng cũng quyết không chịu đựng cái chết nhục nhã đến như vậy!

Duệ Thân Vương nhìn thiếu nữ gầy yếu bị nội quan đè lại trong tuyết, bỗng nhiên nổi hứng:

"Buông cô ta ra đi."

Tên nội quan vội vàng buông tay, Như Sương vùng bật dậy ngay tức khắc. Gã ngồi trên lưng ngựa cúi xuống, dùng roi ngựa thô ráp nâng cằm của nàng. Ngay lúc nhìn thấy dung nhan của nàng, gã không khỏi nheo nheo hai tròng mắt, tựa như ánh sáng lung linh phản xạ trên hoa tuyết làm cho gã thấy lóa.

Nàng có một ánh nhìn khiến cho người đối diện cảm thấy chao đảo, tựa như hai lưỡi dao sắc bén sáng loáng hòa trong sự căm thù thấu tủy, đã sắp khoét được hai cái lỗ thủng trên người gã rồi.

Đầu và mặt nàng đều bê bết tuyết vương bẩn thỉu, hai bím tóc đã bung ra rối mù, vài sợi hỗn độn dính trên má, bởi vì căm phẫn tột đỉnh mà gò má đỏ bừng lên. Nhưng, khuôn mặt bị nâng lên ấy, lại mang những nét lượn của những đường cong tuyệt đẹp không giấu diếm.

Nháy mắt, gã chợt như mất hồn.

Hạ Tiến Hầu đứng bên cũng thoáng vẻ kinh hãi.

Duệ Thân Vương rốt cục thu roi ngựa về, thanh âm lại trở về bình thản như gió bắc thanh tĩnh:

"Cô họ Mộ?"

Nàng cắn nát cả môi mình, trong khoang miệng nghe rõ vị ngọt, làn sóng thù hằn vẫn dâng ứ trong lồng ngực. Làm như câm điếc, nàng chẳng hé một lời.

Ánh mắt Duệ Thân Vương càng lúc càng sắc lên, có lẽ nổi giận vì nàng dám phớt lờ. Hạ Tiến Hầu bất an, trừng mắt liếc Đới tổng quản đứng lui cui một bên, Đới tổng quản vội vã thưa:

"Khởi bẩm vương gia, thị đúng là họ Mộ."

Quả nhiên, trong bụng Hạ Tiến Hầu chợt trầm xuống. Duệ Thân Vương không nói gì, chỉ dời ánh nhìn về phía xa xa nơi mặt lá thông tuyết đọng đang dần tan chảy.

Thân vương vốn đã hưởng nhiều bổng lộc nhất, mà vị hoàng tử này lại được Hưng Tông năm xưa vô cùng yêu thương, lúc phân phủ ban cho vô số trang viên cùng ruộng đất. 

Duệ Thân Vương vốn có tài bắn cung, làm thơ, vẽ tranh, lại có thú du xuân, một vương phủ khuôn viên rộng như thế, khắp nơi đều là những kiến trúc kì công. Tỉ mỉ quan sát, sẽ thấy từ vẻ đẹp này  mở ra một vẻ đẹp khác. Phóng tầm mắt nhìn từ xa, hết thảy công trình chìm trong tuyết trắng tựa như được tạc từ thủy tinh, tỏa ra từng vầng hào quang chói ngời.

Hạ Tiến Hầu nhìn gã, trong dạ bỗng rối bời, bởi vì thấu hiểu, cho nên càng thêm trù trừ, nhưng rốt cuộc cũng phải mở miệng:

"Vương gia có điều gì muốn chỉ bảo?"

Có vẻ như lão hỏi là không ổn rồi, bởi Vương gia lừ mắt lão một cái, Hạ Tiến Hầu đành nín thinh, cúi gằm mặt chờ Vương gia phát tác.

Một lúc lâu sau mới nghe Duệ Thân Vương lên tiếng, bảo :

"Coi như cho cô ta được chết toàn thây."

Hạ Tiến Hầu rốt cuộc thở phào, vội nói "Tuân chỉ" rồi phân phó hai bên:

" Kéo ả tới bãi tây đi".

Bãi tây là góc cửa hướng tây, nơi phủ thường dùng để làm chỗ đốt rác, bên mé ngoài có chừng bảy tám cái phòng nhỏ, vốn là để chứa mấy cái xe rác, song Duệ Thân Vương xưa nay đối với bọn hầu nghiêm hành bạo ngược, nên nơi đây chuyên dùng để xử tử mấy đứa hầu gái phạm tội. Nô bộc trong phủ chỉ nghe đến hai chữ "bãi tây" đã rùng mình khiếp đảm.

Hai tên thị vệ theo lệnh tiến đến lôi Như Sương đi, nàng cũng đã thôi không buồn giãy giụa. Khoảng cách từ sau viên môn cho đến góc cửa hướng tây cũng không quá xa, nàng thất tha thất thểu để bọn nội quan cứ thế kéo đi.

Vừa đặt chân đến cửa tây, khung cảnh xơ xác tiêu điều đã khiến cho lòng người chợt thấy xốn xang. Men theo bức tường cao xám xịt nặng nề ra ngoài là đến bãi tây trống trải. Nơi đây dường như chưa từng được người đến quét dọn, bụi bặm nhiều năm bị tuyết phủ lên đã đông lại. 

Hai tên nội quan kéo nàng xuyên qua bãi đất đến thẳng trước sân. Trước mắt, một dãy phòng ngủ đơn sơ lạnh lùng mở toang cửa sổ, bóng tối bên trong như con quái thú há miệng chỉ chực nuốt chửng bất kỳ kẻ nào dám tiến lại gần.

Nội quan bất ngờ xô mạnh từ sau lưng khiến nàng chao đảo ngã vào bên trong.

Nếu sống đã không còn gì để lưu luyến, thì chết còn có gì phải sợ?

Chết! Thậm chí khi nghĩ đến còn khiến cho nàng cảm thấy ấm áp. Ở nơi nào đó bên kia chân trời, mẹ vẫn đang chờ nàng, còn có cả cha, anh cả, vú nuôi. . . Còn có biết bao gia nhân trong nhà . . . Có cô bé Tiểu Hoàn đã cùng nàng đi qua tuổi thơ . . . Nàng có lý do gì phải sợ? Hiện tại đó mới chính là ước muốn mãnh liệt nhất của nàng. Tựa như đứa con tha hương khao khát được trở về, như trẻ nhỏ khao khát tình thương của mẹ, nàng giờ đây chỉ khao khát được chết.

Thế nhưng còn Doãn nhi? Đứa em tội nghiệp mà cha và mẹ lúc lâm chung đã gửi gắm cho nàng. . . Doãn nhi giờ đang bị lưu đày ba ngàn dặm, sống khổ sống sở biết bao nhiêu! Nàng trước từng một lòng muốn được sống, mong kiếp này may mắn còn có thể biết rằng cậu vẫn bình an. Thế nhưng hiện thời cơ phận nghiệt ngã, chỉ biết tự nhủ lòng, cậu đường đường là nam nhi của Mộ gia, nhất định sẽ không làm nhục danh dự của dòng họ!

Nội quan nhanh chóng tròng dây thừng qua cổ, dựng nàng đứng lên một chiếc ghế. Còn chưa đợi cho nàng đứng vững, ghế đã lập tức bị kéo ra.

Nơi cổ chợt căng lên, sức nặng toàn thân cùng một lúc đột ngột dồn vào khiến cho người ta không thể nào thở được. Nàng theo bản năng muốn trốn tránh, tuyệt vọng muốn tìm một chỗ bám víu, tay chân khua lên loạn xạ trong không trung. Hình như nàng đang nghe thấy tiếng gió lùa bên tai xen lẫn âm thanh xa xa mơ hồ của tiếng bước chân lộn xộn. . .

Đó là ngày còn rất nhỏ, nàng cùng với Tiểu Hoàn chơi đánh dưới tán hoa đào, thời điểm chiếc đu lên cao, chỉ cần ngửa mặt là có thể thấy cành hoa rực rỡ vươn ra, tựa như dải nắng chiều xán lạn khó tả. Bao nhiêu là hoa đào rơi xuống, đậu ở trên vạt áo nàng, tựa như troiwf vừa rải một cơn mưa hoa tươi đẹp vô ngần. Tiểu Hoàn cười khanh khách, cố hết sức đẩy nàng đu lên thật cao, cao lên đến tận bầu trời . . .

Âm thanh cuối cùng mà Như Sương nghe thấy, chỉ còn là tiếng bước chân dồn dập từ xa tiến lại cùng với tiếng thở dốc phì phò. Và nội quan gào lên thật to:

"Mau! Mau! Thả cô ta xuống! Vương gia có lệnh, thả cô ta xuống dưới . . ."

Bóng đêm mềm mại dịu dàng làm sao, bao vây lấy nàng, ngọt ngào thuần khiết như khung cảnh trong mơ, nàng sẽ không bao giờ phải chịu rét lạnh nữa . . .

[1] Tam cửu: tính từ Đông chí, cứ chín ngày là một cửu, tam cửu là rơi vào tiết Đại hàn (1 trong 24 tiết trong một năm).

Chương 2: Tan nát thành bùn hóa bụi bay

Sau một đợt tuyết rơi, từ đài xanh, những cánh mai chầm chậm hé mở đôi ba cành; thậm chí đã vòng cách một hành lang rất dài rồi mà thứ hương thoảng thoảng nhẹ nhàng mà thấm hơi lạnh kia vẫn tràn vào khứu giác.

Cô đại nương bưng trên tay một chiếc mâm gỗ sơn nhỏ, ở giữa là chiếc bát vẽ hoa văn đựng đầy nước thuốc đen sánh,  một làn khói nghi ngút tỏa trên miệng bát. Ly nhi thấy bà bưng thuốc lại vội giúp bà vén rèm lên.

Đại nương họ Cô này vốn là con gái của một lương y ở Lỗ Châu, về sau được tuyển vào cung làm cung nữ. Thời điểm năm hai mươi lăm niên hiệu Thái Bình chư hoàng tử được cấp phủ đệ, bà bị điều đến hầu hạ Duệ Thân Vương, bởi vì biết được chút y học nên người ta cắt làm quản lý dược thảo trong kho thuốc. Tính tính bà nhã nhặn hiền hòa lại cẩn thận, ấn lệ đến khoảng hai mươi lăm tuổi sẽ được tự do trở về nhà. Thế nhưng ai ngờ, đến thời hạn trở về năm ấy, Lỗ Châu trải qua một trận đại dịch khủng khiếp đã lấy đi tính mạng của toàn bộ thân quyến trong gia đình bà, khiến bà chỉ còn trơ trọi một mình không nơi nương tựa, đành cầu xin Vương phủ cho mình ở lại. Tính cho đến bây giờ cũng đã hơn hai mươi năm, ngày nay thuộc hàng cao tuổi, cho nên mọi người đều gọi bà một tiếng "Cô đại nương".

Ly nhi một mặt vừa vén rèm , một mặt nói nho nhỏ với bà:

" Ngày hôm nay lại vẫn không chịu ăn cơm, tôi xem bát thuốc này đại nương làm cũng uổng công."

Cô đại nương bước vào trong gian phòng, quả nhiên thấy Như Sương vẫn ngồi kia không nhúc nhích, mí mắt cụp xuống, lặng yên như một bức tượng. Cô đại nương biết thường mỗi lần nàng ngồi như vậy dễ cũng kéo dài cả hai canh giờ, ánh mắt thất thần nhìn vào khoảng không vô định, không một chút sinh khí, hai con người đờ đẫn mờ mịt không tiêu cự, cũng không biết nàng đang nghĩ gì. Cô đại nương đặt chiếc mâm rồi bưng bát thuốc lên, nói:

"Cô nương uống thuốc đi, thuốc này phải uống nhân lúc còn nóng mới không bị đắng."

Như Sương tựa hồ không nghe thấy gì, cũng chẳng buồn ngước mắt nhìn. Qua hai ngày Cô đại nương đã biết tính nàng, cũng không trách móc gì, thở dài, nói:

" Cô nương, trên đời quan trọng nhất là "giữ được rừng xanh chẳng lo không có củi đốt", dù việc có lớn bằng trời, còn sống thì tức còn hy vọng."

Như Sương chẳng động mảy may, ngay cả lông mi cũng chưa từng rung một lần.

Từng cho rằng bản thân hẳn là phải chết không còn nghi ngờ, ai dè một chân đã bước vào quỷ môn quan lại hồi sinh nhân thế. Cần cổ nàng vẫn còn hằn sâu vết bầm tím, đến nay chưa hề mờ đi, làm cho yết hầu của nàng lúc nào cũng có cảm giác bị thiêu đốt trong lửa nóng, như đã bị vỡ mất rồi. Nếu không phải là vết thương lúc nào cũng phát tác đau đớn, nàng hẳn nghĩ bản thân đã thành một con ma treo cổ, ngẫu nhiên vừa tái sinh trở lại dương gian. Nàng vẫn không thể nào hiểu nổi, vì sao cuối cùng hắn lại thay đổi ý định, giữ lại cho nàng một mạng này.

Sau khi tỉnh dậy,  nàng đã thấy ở nơi đây, nghe nói là Hạ công công đưa nàng đến đây dưỡng bệnh. Cái Ấp Hoa Đài xa xôi này vốn từ trước đến nay không có người ở, mấy gian lầu gác đều bị khóa. Nơi nàng ngụ là mái tây hậu viện, nguyên trước là phòng trực của bọn nô dịch, âm u rất mực. Tuy bày biện đồ đạc đơn sơ nhưng dù sao cũng có giường ấm, lò sưởi, so với chỗ ở ban đầu hẳn nhiên là cách một trời một vực.

Nàng vừa chớm lo không biết tương lai mình rồi sẽ thế nào, lại chợt thấy buồn cười, nàng còn có tương lai sao? Đến chết cũng không được chết cho an ổn, không biết bọn họ còn muốn làm gì nàng nữa đây.

Cô đại nương thấy nàng vẫn như con tò te bằng gỗ, chỉ đành đặt thuốc qua một bên, đoạn nhàn nhã đi qua ngồi cạnh nàng ra chiều muốn hàn huyên đôi câu. Ly nhi biết Cô đại nương đã từng ngồi khuyên nhủ nàng cả hơn nửa canh giờ, nhưng mỗi lần Như Sương đều như không hay biết. Mới đầu Ly nhi còn đứng bên hỗ trợ khuyên giải, song sau hai ngày trăm kế đều bất khả thi cũng chán nản từ bỏ. Nó chỉ ngồi bên ngoài khâu vá, để mặc Cô đại nương trong phòng ngồi khuyên. Quả nhiên nửa canh giờ sau đi vào, thấy Cô đại nương đã miệng đắng lưỡi khô mà Như Sương thì vẫn một mực ngồi kia bất động.

Cô đại nương nhìn thấy Ly nhi tiến vào, chỉ bất lực lắc lắc đầu với nó, đưa tay sờ chén thuốc lạnh ngắt, nói:

" Để tôi đi sắc lại thuốc một lần nữa cho cô nương vậy."

Bà ra khỏi Ấp Hoa Đài, trở về phòng thuốc, vừa vặn thấy nội quan do Hạ Tiến Hầu sai tới tìm. Bà vội vã đi gặp Hạ Tiến Hầu, rồi đem tình hình của Như Sương một mực kể lại, thấy Hạ Tiến Hầu có vẻ đăm chiêu bèn nói:

" Hạ công công, mong ngài hãy mau mau đưa ra cái chủ trương, nếu không chỉ e cô nương kia không xong mất."

Hạ Tiến Hầu suy nghĩ, chỉ đáp:

" Bà cứ về trước, chuyện này ta đã có chủ ý cả rồi."

Sau khi Cô đại nương đi rồi, Hạ Tiến Hầu trở lại Khuê Bích đường, chính là thư phòng của Duệ Thân Vương, một ngày mới của vị Vương gia luôn bắt đầu ở tại nơi này. Thấy lão tiến vào, gã sai vặt bước đến thì thầm:

" Vương gia vừa thắng Mạnh tiên sinh ván cờ, đang khoái chí lắm ."

Mạnh tiên sinh trong lời của gã sai vặt là khách quý của Duệ Thân Vương tên gọi Mạnh Hành Chi. Hạ Tiến Hầu nghe gã sai vặt nói thế, chợt thay đổi ý định, tự mình bưng khay trà, tiến vào noãn các ở mé đông nội đường; quả nhiên nội quan đang dọn bàn cờ. Duệ Thân Vương tự tay tiếp trà, thấy là Hạ Tiến Hầu, thuận miệng hỏi:

"Ngươi vừa đi đâu về đấy?"

Hạ Tiến Hầu khom lưng đáp:

"Người ở Ấp Hoa Đài vừa báo rằng Mộ cô nương đã mấy ngày nay một giọt nước cũng chưa uống, chỉ e tình hình không tốt."

Duệ Thân Vương khẽ cau mày, tuồng như bị trà làm phỏng, tiện tay buông chén xuống:

"Cái đồ già ông quả nhiên càng ngày mắt càng sắc nhỉ!"

Hạ Tiến Hầu hoảng hốt quỳ sụp xuống, miệng liên tục kêu "Nô tì đáng chết".

Mạnh Hành Chi thấy một màn như vậy, chỉ khẽ mỉm cười:

" Cái lão khỉ già [1] này, động một tí là cứ đáng chết đáng sống, đến tôi còn phát ngấy, chả trách Vương gia phiền lão như vậy."

Duệ Thân Vương hắc hắc cười ra tiếng, nói:

"Chúng ta làm một ván nữa."

Duệ Thân Vương như thường lệ quân đen đi trước, đầu cuộc thì thực lực cả hai vẫn còn ngang ngửa, thế nhưng chỉ đi được hơn mười nước, trên bàn cờ trắng đen hai bên đã ở thế giằng co quyết liệt.

Duệ Thân Vương tay cầm quân cờ mà trầm ngâm mãi vẫn không đi nước nào. Mạnh Hành Chi nói:

"Vương gia rõ ràng đã có kỳ mưu ở trong ngực, cớ sao còn do dự? Chẳng lẽ vương gia không sợ vuột mất thời cơ, cứ để cho củi kiếm ba năm đốt trong một giờ như thế hay sao?"

Duệ Thân Vương đáp:

"Đã bao nhiêu ngày qua, trong lòng ta đăm chiêu suy nghĩ, tiên sinh hẳn cũng rõ. Chính là một ván này, chưa nhất thiết phải đánh vội. Nếu đả thảo kinh xà (đập cỏ làm rắn sợ), chỉ e sẽ rước họa vào thân."

Mạnh Hành Chi nghe không đổi sắc, nói:

"Vương gia đây quả nhiên mà nói đúng là con người thận trọng. Lão hủ này xằng bậy cũng mạn phép xin Vương gia chớ ngại lấy bụng mình mà đo dạ người."

Giữa căn gác tĩnh lặng không một tiếng động, trong cái vạc lớn đậy kín đặt trên đất đốt hương Long não[2], làn khói xa xăm lãng đãng tản mát vào tận góc sâu trong noãn các. Thời gian trôi qua thật lâu, Duệ Thân Vương bỗng bật cười:

" Tiên sinh nói chí phải" .

Rồi tiện tay phá loạn thế cờ, bảo với Hạ Tiên Hầu:

"Đi thôi."

Hạ Tiến Hầu ngơ ngác hỏi:

"Vương gia muốn đi đâu?"

Duệ Thân Vương chỉ cười lạnh, đưa chân đạp cho lão một phát. Hạ Tến Hầu đau nhe răng trợn mắt, không dám giả bộ hồ đồ nữa, chỉ đành sửa soạn kiệu ấm đưa Vương gia đến Ấp Hoa Đài.

Vừa bước vào trong cửa chính Ấp Hoa đài, hương hoa mai thăm thẳm mà thanh đạm đã bay đến níu kéo bước chân của Duệ Thân Vương, gã nhìn vào bên trong đình nơi những đóa mai nở sớm:

" Ở đây hoa mai đã nở rồi."

Hạ Tiến Hầu vừa mới trúng một cú nơi chân đau điếng, không dám trả lời tầm bậy, chỉ thưa "Vâng". Chợt thấy trên má ướt lạnh, thì ra tuyết lại bắt đầu rơi. Lão không dám lại dài dòng, vội sai người mở ô, giúp Vương gia che gió tuyết.

Chỉ trong chốc lát tuyết đã rơi nặng hạt, dường như là từng cụm bông cứ lả tả từng đợt vô thanh vô tức đáp xuống trên mặt đất.

Ly nhi khi nghe Vương gia đến, đã sớm đứng nơi cửa chờ đón. Hạ Tiến Hầu hai ngày nay thường xuyên đến Ấp Hoa Đài, thành thục dẫn Vương gia đi ra chái sau. Bên ngoài tuyết trắng lóa mắt, Duệ Thân Vương vừa bước vào phòng, chỉ thấy hai mắt tối sầm, mãi một lúc sau mới nhìn rõ đồ đạc bày biện trong phòng.

Hạ Tiến Hầu khẽ thưa:

"Mộ cô nương ở bên trong ạ."

Rồi vội đi lên trước vén mành.

Hướng nam căn phòng này đều là cửa sổ lớn được dán giấy hồ trong suốt. Ánh nắng xuyên thấu trải vào trong, làm cả căn phòng còn bừng sáng hơn cả gian ngoài. Trong phòng im ắng tịch mịch, lửa hồng cháy trong lò ngẫu nhiên kêu "tách" một tiếng, ngay cả âm thanh từng hạt tuyết rơi bên ngoài cũng nghe thấy được. 

Vừa vào đã bắt gặp Như Sương ngồi ở kia, người mỏng như giấy.

Duệ Thân Vương vừa nhìn thấy khuôn mặt trông nghiêng của nàng đã cảm giác như có chút gì quen thuộc, nhưng quá đỗi mơ hồ, tựa như ký ức kia thực ra chưa hẳn đã từng là sự chân thật. Kỳ thực, ngoại hình của nàng cũng không phải quá giống Mộ phi. Vừa mới động ý nghĩ, trong lòng đã thảng thốt kinh hãi, toàn bộ suy tư trong một khắc nhất thời ngưng trệ, có lẽ sẽ chẳng bao giờ còn nhớ lại được nữa.

Hạ Tiến Hầu thấy Như Sương vẫn bất động ngồi kia, đành ho khan một tiếng:

"Mộ cô nương, Vương gia tới thăm cô."

Mí mắt Như Sương vẫn rủ xuống, như thể chưa nghe thấy gì.

Hạ Tiến Hầu không biết làm thế nào, Duệ Thân Vương không chút biểu tình, chậm rãi bước lên phía trước, thanh âm phát ra ung dung bình thản dường không một gợn sóng:

" Mộ cô nương, hôm nay Hình bộ nhận được báo cáo, ấu đệ của cô là Mộ Doãn vì mắc bệnh thương hàn đã chết trên đường đi lưu đày. Ngày nay dòng máu họ Mộ cũng đã đoạn, chỉ còn lại một mình cô sống sót trên đời này mà thôi."

Lời gã nói cứ đâm từng chữ vào tai, như muôn vàn con côn trùng vo ve đập cánh ong ong đến đinh tai nhức óc, dội vào cơn hoảng hốt đến mức nàng không còn nghe rõ . . . Mộ Doãn . . . Một Doãn nhi luôn năng động hoạt bát . . . ngay từ khi còn nhỏ đã lớn lên trong quân doanh, theo chân cha anh rong ruổi khắp biên thùy, sống nơi vùng núi Định Lan hàng năm chịu cảnh đói rét, nàng chưa từng nghe cậu hắt xì đến một cái . Thế nhưng hiện thời. . . hiện thời vì mắc bệnh thương hàn. . . đã chết?

Khóe miệng Duệ Thân Vương khẽ nhếch một nét cười nhạt, cặp lông mày càng như dựng đứng:

"Diệt cỏ phải diệt tận gốc, Mộ Doãn hiển nhiên chết không cần bàn cãi. Áp giải cậu ta là một tay tâm phúc của Dự Thân Vương; mà thất đệ ta tâm tư kín đáo, làm việc chắc chắn, hắn sẽ không bao giờ khiến cho hoàng huynh ta phải lo lắng nửa phần. Mộ cô nương, cô hẳn đã minh bạch rồi chứ?"

Như Sương rốt cuộc ngẩng lên nhìn gã, con ngươi sáng đen trong vắt mà phẳng lặng, ánh nhìn lạnh lẽo thấu tâm can làm cho người đối diện không khỏi rùng mình.

Duệ Thân Vương chẳng nói chẳng rằng rút từ trong tay áo một thanh đoản kiếm ánh tinh quang, ném phía dưới chân Như Sương.

Đoản kiếm dài khoảng một thước hai tấc (khoảng 35 cm), bạch quang sáng loáng óng cả trên mặt người, đập vào mắt khiến người ta đủ ớn lạnh, hiển nhiên là thứ vũ khí sắc bén hơn thường.

Con ngươi đen của Như Sương phản xạ ánh hàn quang, như con rối gỗ chợt điểm thêm ngươi, sự giận dữ nho nhỏ mà hiển hiện lóe lên trong đáy mắt. Nàng hít thở một cách hỗn loạn, đôi đồng tử kịch liệt co rút, nhìn chằm chằm nơi chuôi đoản kiếm nọ.

Hắn là ai? Làm sao mà hắn biết được? Hắn rốt cuộc là người như thế nào?

Hạ Tiến Hầu đến thở cũng không dám, chỉ trơ mắt nhìn Duệ Thân Vương. Khóe miệng của gã lại hàm chứa một chút ý cười mỉa mai nhàn nhạt, dường như đã nhìn thấu một cuộc đấu tranh tinh thần đang diễn ra.

Như Sương chậm chạp vươn tay nắm chặt đoản kiếm, chuôi kiếm lạnh như băng áp chặt vào lòng bàn tay nóng bỏng của nàng, làm nảy sinh ra một cảm xúc khác thường.

Cây đoản kiếm này, vì cớ gì lại ở trong tay hắn?

Nàng nâng mắt lên như muốn nhìn cho kỹ kẻ đối diện, hận thù bao lâu bị đè nén giống như một ngọn lửa bừng bừng bốc lên, bùng nổ! Cha đã chết, mẹ đã chết, anh cả đã chết, vú nuôi đã chết, Tiểu Hoàn đã chết, ngay cả Doãn Nhi giờ cũng đã chết! Nàng còn sống thì có ý nghĩa gì? Cả đời này, nàng đã sớm không thể đợi được, nàng đã sớm nên chết đi.

Giết hắn! Giết hắn! 

Cơn giận dữ cuồng loạn đẩy nàng bật dậy, lao lên nhắm thẳng vào ngực gã mà đâm.

Duệ Thân Vương chỉ hơi né mình, nàng không kịp thu thế, cả ngưới cứ theo quán tính lao về trước. Vốn mấy ngày này nàng đã không ăn uống chút gì, như dầu hết đèn tắt, lập tức ngã quỵ.

Đoản kiếm rơi đánh keng một tiếng trên đất.

Duệ Thân Vương cười lạnh:

"Mộ đại tướng quân sinh thời oai phong lẫm liệt, không ngờ lại sinh được một đứa con gái ngu không ai bằng như nhà ngươi."

Như Sương chỉ cảm thấy đôi tai ù đi, phải qua một hồi lâu, nàng mới thoáng cử động cánh tay. Vừa nãy vì dùng sức quá, phía trên cổ tay ma sát với mặt đất tróc một mảng da lớn, vết thương đau như bị đốt. Thế nhưng sự đau đớn ấy lại làm cho nàng cảm thấy dễ chịu hơn nhiều, bởi, nó nhắc cho nàng nhớ rõ rằng bản thân còn có một mối huyết hải thâm cừu chưa trả. Nàng muốn báo thù, nàng phải báo thù!

Một ý niệm ấy, như máu nóng quay cuồng trong lồng ngực, như sóng trào mãnh liệt xô bờ, ngọn sóng sau lại cao hơn ngọn trước, phong ba bão táp nổi lên khiến nàng không có cách nào khống chế.

Nàng là con gái Mộ gia, nàng mang trong mình dòng máu họ Mộ cứng rắn kiên cường, nàng sẽ không chịu nhu nhược chờ chết, nàng phải báo thù!

Như Sương thở ra từng hơi thở phì phò, cả người co rúm lại. Duệ Thân Vương ra hiệu, Hạ Tiến Hầu vội vàng lấy ra một chiếc lọ bằng bạc, mở nắp dốc một viên thuốc, nhét vào miệng nàng. Nàng không hề phản kháng, cũng không nhổ thuốc ra, để mặc cho nó dần dần tan nơi đầu lưỡi. Trong lòng chấn động cũng dần bình tĩnh trở lại, trong các kinh mạch, máu cũng chậm rãi lưu thông.

Nàng cố gắng ngẩng đầu lên, vì quá suy yếu nên có vẻ nàng muốn nói điều gì mà cất không nên lời. Chỉ có đáy mắt tựa hồ lóe lên trong thoáng chốc.

Nàng hẳn nên dùng máu kẻ thù để tẩy đi máu tươi mà Mộ gia đã đổ xuống, dùng cừu hận làm vũ khí mà trả thù tên hung thủ nàng chưa từng gặp mặt ấy!

Duệ Thân Vương quay lại trước giường ấm thong thả ngồi xuống, gã cách nàng chỉ trong gang tấc, thế nhưng âm thanh vọng lại xa xôi như tự chân trời bay tới:

"Kẻ cô hận nhất, kẻ đã từng chỉ dùng một cái chiếu thư mà đoạt đi vinh hoa trăm đời của Mộ gia, đoạt đi tính mạng của toàn bộ gia quyến của cô, đoạt đi hết thảy những điều tốt đẹp từ tay cô, hắn lại vẫn ngày ngày chễm chệ ngồi trên Kim Loan điện, cô chằng lẽ lại không muốn báo thù ư?"

Khóe miệng nàng khẽ run rẩy, ánh mắt không hề chớp, cứ nhìn chằm chằm vào kẻ đang ngồi trước mắt. Nguyên là ở trong phủ của mình, Duệ Thân Vương chỉ vận trang phục thường ngày, áo gấm thêu chữ phúc như ý, càng tôn lên khuôn mặt dường ngọc tạc, nhìn qua cũng chỉ như một công tử nhà giàu có tầm thường, chỉ có thắt lưng tinh tế dệt bằng gấm vàng đeo một khối ngọc trắng là khiến cho thân phận vương giả quý tộc của gã không lẫn vào đâu được. Theo từng động tác cất tay nhấc chân, ống tay áo thấp thoáng dập dềnh một làn hương Long não, thứ hương ngọt thuần pha trộn vị đắng tinh tế, ngày xưa . . .

Ngày xưa, gian trên trong nhà nàng vẫn thường đốt loại hương thơm mát thượng hạng ấy, ánh mắt nàng lại thêm ảm đạm.

Mà gã, thì lại tủm tỉm ý cười, dường như còn mải quan sát một nhành mai trắng đang lặng lẽ đưa tinh hoa của hương hàn băng tuyết, còn đương ngập ngừng muốn đoán ai đã ngắt được một cảnh xuân sắc về cắm trong chiếc bình này.

Sau cùng nàng mở miệng, giọng nói phát ra khàn khàn đến sợ:

"Ngài muốn như thế nào?"

Duệ Thân Vương dựa lưng trên sạp, thần sắc thản nhiên:

"Mộ cô nương, cái quan trọng là cô muốn sẽ thế nào?"

Mỗi lần hít thở đều thật khó khăn đau đớn tuồng kẻ hấp hối, nàng bấm móng tay thật sâu vào da thịt, từng chữ từng chữ phun ra đều mang theo mối căm thù sâu sắc:

"Giết hắn!"

Duệ Thân Vương cười mà như không cười, rút trong bình một cành hoa mai:

"Mộ cô nương, nên nhớ đó là thiên tử, địa vị tôn quý trên vạn người, cô nếu muốn tạo phản, e rằng nói dễ mà làm khó."

Tâm trí nàng dần dần minh mẫn, trong mắt cũng đã có thần thái, tựa như ánh lửa tàn chưa chịu tắt đột nhiên chày bùng lên khiến người ta sợ hãi:

"Cũng chỉ biết cậy Vương gia chỉ giáo cho."

Duệ Thân Vương như không để ý, nghiền nát những cánh hoa còn vương hơi lạnh. Từng sợi từng sợi tơ hoa tinh khiết rách tả tơi theo tay gã lác đác rơi rụng xuống đệm hồng.

"Nếu như bản vương nói sẽ cho cô cơ hội báo thù rửa hận, không biết có thể nhận lại chút báo đáp?"

Nàng chậm rãi ngẩng đầu, giọng khàn đặc khó nghe như trước:

"Đến lúc đó, thiên hạ hẳn đã nằm trong tay Vương gia, chỉ sợ ngài cũng chẳng thèm đếm xỉa đến chút báo đáp nhỏ nhoi của đứa con gái như ta."

Duệ Thân Vương bật tiếng cười vang, liên tục nói "Được lắm, được lắm" rồi đưa mắt đánh giá nàng từ trên xuống dưới, nói:

"Quả không hổ danh là con gái họ Mộ."

Cổ họng Như Sương như lại đau nhức, nàng không mảy may phát ra một tiếng động, nhưng trên mặt lại hiện lên một nụ cười khó hiểu.

Duệ Thân Vương lại nói:

"Toàn bộ công việc đều sẽ có người thay cô an bài, cô chỉ cần chú tâm tĩnh dưỡng, chờ có ngày nhận tin tốt."

Nàng chỉnh đốn trang phục hành lễ, khó khăn thốt ra mấy lời:

"Như Sương đa tạ ân phúc Vương gia."

Duệ Thân Vương nhẹ cười:

"Như Song? Như đôi như cặp, thật ra là một cái tên hay."

Gã dường như đã nghe lầm, nàng là Như Sương, trăng lạnh như sương! 

Mẹ sinh ra nàng ngày đó, đúng vào đêm mười sáu, cha ôm lấy đứa trẻ sơ sinh xinh đẹp bọc trong tã lót, trông ra ngoài cửa sổ ánh trăng sáng trong tĩnh mịch phủ đầy đất như sương sa, liền lấy tên này đặt cho nàng.

Song cửa sổ ẩn hiện có ánh sáng mờ ảo chiếu vào, nhưng chẳng phải ánh trăng, chỉ là một đợt tuyết lại nổi lên cùng hàn quang lạnh lẽo. Tuyết rơi càng lúc càng lớn, từng hạt đập lên khung cửa sổ. 

Nhìn thấy chiếc lọ màu bạc dẹt khắc hoa văn tinh xảo nằm trên bàn trà, nàng chậm rãi vươn tay cầm lấy. Bên trong lọ đều là những viên thuốc màu xanh biếc, tỏa hương lành lạnh.

Nàng nắm chặt chiếc lọ trong lòng bàn tay, cái chất xót lạnh của kim loại thẩm thấu cả vào trong tay nàng. Nàng nhớ lại giọng cười mỉa mai khi nãy của hắn, nàng sẽ cố gắng nhớ  rõ những lời nghe được hôm nay, nàng phải sống, sống thật tốt để chờ cơ hội tới.

Đã là con gái Mộ gia, đến chết còn chẳng sợ, lẽ nào còn sợ sống? 

 [1]Nguyên văn "lão Hầu nhi", bởi vì Hạ Tiến Hầu tên là Hầu, cũng có nghĩa là con khỉ.

[2]Long não chiết xuất từ cây long não được dùng để ướp hương, rất quý. Hương của nó mát dịu như tinh dầu bạc hà, khi đốt lên không chỉ thơm ngát mà còn rất ít khói, thậm chí kết hợp với vài thứ thuốc bắc còn có thể chữa nhiều chứng đau đầu.

Chương 3: Dãi cửa chờ Hôm về bên mộng

Phảng phất một ngọn gió xuân khe khẽ thoảng qua, hoa đào trong vườn Thượng Uyển dần nở rộ.

Song đê chạy dài mười dặm từ đông sang tây, dòng nước cuộn chảy xiết màu ráng đỏ, hai bên bờ sông Phu hoa đào khoe sắc xen lẫn với hàng liễu rủ vàng nhạt in bóng trên mặt nước khiến cho từng gợn sóng cũng sáng lên diễm lệ. Quả nhiên là một trong bốn mươi sáu cảnh đẹp Thượng Uyển "Song đê tri xuân".

Thượng Uyển xưa vốn là vườn hoa trong tư dinh đại học sĩ tiền triều tên Triệu Mật, diện tích vô cùng rộng lớn, về sau bị phá hủy bởi nạn lửa binh, trở thành một mảnh đất hoang tàn đầy ngói gạch vụn. Tới triều đại Vĩnh Khánh, thiên hạ thái bình nước non giàu mạnh, Cảnh Tông Hoàng đế bèn cho tu sửa nơi đây, dựng lên những đình đài lầu gác, trải qua ba đời vua ngót nghét trên năm chục năm, đến năm đầu triều Thiên Hữu thì xong bốn mươi sáu cảnh, trở thành vường ngự uyển quy mô nhất của hoàng gia.

Thượng Uyển hành cung cách Tây Trường kinh không quá sáu mươi dặm, xa giá một ngày là tới nơi. Kể từ thời Cảnh Tông Hoàng đế, hàng năm các cuộc du xuân cùng săn bắn đều được tổ chức ở đây. Năm nay Hoàng đế cũng theo lệ dẫn các cung phi mỹ nữ cùng quan lại, rầm rầm rộ rộ đại giá rời Tây Trường kinh, dừng chân nghỉ tại Thượng Uyển. Liền mấy ngày lập xuân, yến tiệc liên tiếp được dọn ra, vua và quần thần tận lực vui vẻ, cảnh tượng sôi nổi náo nhiệt không ngừng. . .

Trước mắt Như Sương đang làm việc tại "Ngọc thần liên ba" – một trong bốn mươi sáu cảnh đẹp Thượng Uyển. Đây là một quán viện cực tốt cho nghỉ ngơi vào mùa hè, sau lưng có hồ, rừng tùng vây quanh, vô cùng tĩnh mịch.

Đáng tiếc Hoàng đế xưa nay chỉ thích lạnh mà không ưa nóng, hàng năm đến tháng sáu liền xa giá Đông Hoa kinh nghỉ mát, cho nên khu nghỉ mát nơi Thượng Uyển cảnh đẹp đấy nhưng vô giá trị, chỉ có vài cung nữ do Trực điện phân phó làm đôi việc quét dọn, vẩy nước. Như Sương ở đây đã hơn một tháng, công việc mỗi ngày cũng chỉ có cầm chổi quét bụi bặm, đến chiều đã chẳng còn việc, rất đỗi nhàn hạ.

Ngày hôm đó làm xong nhiệm vụ, các cung nữ tụ tập chơi đùa với nhau, ngắt hoa hái cỏ. Như Sương vốn thường ngày không ưa nói chuyện, nên lặng lẽ ngồi một bên xem các nàng chọi cỏ với nhau.

Lúc này vào độ xuân chín, tiết trời đương thịnh, Thượng Uyển tràn ngập những kỳ hoa dị thảo, người tìm cỏ, kẻ hái hoa, bảy miệng tám lời, ồn ào náo nhiệt. Đến tận lúc Tiểu Dư – tiểu thái giám của Trực điện mang chổi mới đến cũng chẳng ai thèm để ý. Như Sương bèn đứng dậy tiếp nhận thẻ bài, ghi tên vào mặt trên, đoạn theo Tiểu Dư đến chỗ phòng kho. Lúc mở cửa phòng kho, Tiểu Dư nhìn quanh thấy không có ai, bèn hạ thấp giọng nhỏ như muỗi:

"Nghe nói Hoàng thượng muốn ban thưởng mười hai cung nữ cho Đạt Nhĩ hãn vương, mong cô nương sớm lo liệu."

Như Sương gật nhẹ một cái, nhẹ đến nỗi ngay cả viên ngọc trên hoa tai cũng không lay động nửa phần, Tiểu Dư cũng rời đi.

Mấy ngày trôi qua, quả nhiên ban Ti Lễ hạ lệnh, từ trong hậu cung sẽ lựa chọn mười hai cung nữ ban cho Đạt Nhĩ hãn vương – lúc này sắp ra về.

Như Sương nghe thấy tên mình trong danh sách, vốn là trong dự kiến, thái độ thờ ơ chẳng chút bận tâm.

Mười hai cung nữ vừa được tuyển ra liền bị đưa đến một khu riêng biệt, được ban Ti Lễ chỉ dạy các lễ nghi. Đến khoảng hơn nửa tháng sau, thời điểm Đạt Nhĩ hãn vương khởi hành về phiên(vùng quan ngoại [1]) sẽ dẫn các nàng đi cùng.

Đạt Nhĩ hãn vương đã ngoại lục tuần, tuổi già sức yếu, lại là phiên vương khác họ, theo lệ cũ nếu không có chiếu thì không được vào kinh. Vùng quan ngoại cát sỏi mênh mông, cực kỳ nghèo khổ. Các nàng đi chuyến này chỉ sợ cả đời cũng chẳng còn cơ hội trở về, nên dù cho hằng ngày ăn sung mặc sướng, lại có chuyên gia hầu hạ nhưng mười hai cung nữ được tuyển chọn vẫn mang tinh thần ảm đạm thê lương như cũ, quay lưng lén gạt nước mắt.

Đêm hôm nay, Như Sương vừa chợt tỉnh giấc, nghe vọng lại mơ hồ có tiếng nỉ non. Các nàng vốn hai người một phòng, vậy nên nàng biết chắc chính là cô cung nữ giường bên.

Ban đêm yên tĩnh, Như Sương vốn khó ngủ, lúc này đã tỉnh rốt cuộc không ngủ lại được, chỉ đành mở to hai mắt nằm đó, nghe tiếng khóc ai oán, trong lòng thẫn thờ mà chẳng có nửa phần thương cảm.

Còn có thể khóc, thật tốt!

Nàng ngay cả muốn khóc cũng khóc không được, nước mắt đã sớm khô cạn. Ngày Tiểu Hoàn chết đi cũng là lần cuối cùng nàng gào khóc, để cho nước mắt cả cuộc đời này đều chảy kiệt. Nàng từ nay không còn nước mắt để chảy, muốn chảy chỉ có thể là chảy máu!

Đáy lòng giống như tiềm tàng một ngọn lửa âm ỉ, lục phủ ngũ tạng đều đau như bị đốt. Nàng không thể lại nghĩ đến Tiểu Hoàn, nghĩ về quá khứ từ trước mười sáu tuổi, bởi chỉ thoáng nhớ lại nửa phần, máu nóng trong tim sẽ quay cuồng dậy lên mãnh liệt khiến nàng không áp chế nổi.

Lòng bàn tay nàng nóng bỏng, lần bên dưới chiếc gối lấy ra một lọ nhỏ màu bạc, mở nắp bên trong đều là thuốc viên lớn như đậu tằm, một luồng hương khí lành lạnh tản mát, xộc lên mũi làm sinh ra một cảm giác trấn định tức thì. Nuốt xuống một viên, rốt cuộc hơi thở cũng đã bình ổn lại.

Vì lần trước nàng bị ngạt quá lâu, tâm mạch thường suy yếu, Duệ Thân Vương nhờ một thầy thuốc có tiếng bào chế cho loại thuốc viên bí truyền này, từ ngày nàng vào cung, sai người đưa lọ thuốc đến tận tay nàng; lúc phát bệnh chỉ cần ăn một viên là sẽ hồi phục. Nếu một ngày nào đó hen suyễn chữa không được, cứ thế chết đi, không biết là hạnh phúc hay là bất hạnh.

Thuốc dần dần có hiệu lực, khó chịu trong người cùng nhịp tim dồn dập rốt cũng trở lại bình thường.

Nàng nhớ lại ánh mắt tản mạn lười nhác của Duệ Thân Vương, khi con ngươi gã quét qua, nàng có ảo giác tựa hồ không phải đang nhìn mình, mà y đang nhìn một lưỡi dao sắc bén vô song, không một tiếng động xuyên thủng da thịt, đâm vào nơi tâm mạch quan trọng nhất của đối phương. Trong con ngươi ấy luôn lấp lóe một tia sáng, thảng hoặc ánh lên nét ngông cuồng ngạo nghễ, cái miệng khẽ nhếch, ngay cả ý cười tựa có dường không kia cũng toát lên phong thái quý tộc vương giả.

Năm xưa thiếu nữ chỉ giấu mình trong khuê phòng, ngoài cha và các anh, những người khác giới Như Sương quả thực chưa gặp nhiều. Nàng ngẫu nhiên nhớ đến vài vị anh lớn trong gia đình, nhưng bọn họ hằng năm đều theo cha chinh chiến bên ngoài, về nhà dù có dỡ bộ giáp thay bằng quần áo thường ngày, khuôn mặt ngăm đen đậm nét phong sương cùng đôi mắt quắc ánh nhìn như chim ưng vẫn khiến người ta không dám đến gần.

Mà con ngươi tinh anh của Duệ Thân Vương, luôn tản mạn vô thần, tựa như bất kỳ cái gì trên đời cũng không thể khiến gã hứng thú.

Nhưng nàng biết gã muốn gì, nàng biết bên dưới cái vẻ thờ ơ lạnh nhạt cất giấu một dã tâm mãnh liệt hơn cả. Gã là đứa con được yêu chiều nhất của Hưng Tông Hoàng đế, trong người gã vẫn chảy xuôi một dòng máu hoàng gia Ngu tộc tàn bạo khát máu. Gã muốn lợi dụng nàng để đạt được điều gì, mà nàng cũng sẽ lấy được thứ mình muốn, một trận giao dịch này, nàng quyết không chịu thiệt.

Nàng cuộn tròn trên giường không nhúc nhích, từ ngày cửa nát nhà tan, nàng vẫn luôn có một tư thế ngủ như vậy, tựa như một con thú bé nhỏ sợ hãi chốn rừng rậm, không bao giờ dám yên giấc. Nàng cứ lẳng lặng nằm co quắp như vậy, lắng nghe ngoài cửa sổ âm thanh nho nhỏ khẽ đáp trên mặt tàu chuối non vừa xòe lá.

Đó là một ngày mưa, có bấy nhiêu giọt lưa thưa từ ban đêm cứ bay bay mãi cho đến tận buổi bình minh. Lúc mọi người sửa soạn trang điểm, ban Ti Lễ đã cho người đến thúc giục "Đừng lầm canh giờ".

Do tính chất một buổi trọng đãi phiên vương , theo lệ Hoàng hậu phải ra mặt cùng mười hai cung nữ, thăm hỏi cổ vũ vài câu, làm lễ tiễn biệt. Nhưng đương kim Hoàng đế lúc còn là tứ gia Nghị Thân Vương, nguyên phi là Chu thị đã bệnh nặng, Hoàng đế vừa lên ngôi không quá một năm thì Hoàng quý phi được coi như phó hậu lại đẻ non mà chết, bởi vậy trung cung (nơi ở của Hoàng hậu) vẫn bỏ không chờ chủ, đành phải phân phó cho vị nương nương địa vị cao nhất nội cung hiện thời là Hoa phi chủ trì ban thưởng yến tiệc.

Như Sương xốc lại tinh thần, cùng mọi người rửa mặt chải đầu, thay bộ đồ mới, đều là quần áo trẻ trung hợp thời được cục thêu thùa đặc cách may; một chiếc áo đơn màu vàng nhạt cùng váy xanh lá mạ. Mười hai mỹ nữ duyên dáng yêu kiều, tư thái lả lướt, dung mạo xinh đẹp, theo sau thái giám ban Ti Lễ đi đến yến tiệc.

Tiệc rượu diễn ra ở Minh Nguyệt Châu. Đó là một hòn đảo nho nhỏ nổi lên giữa hồ, gác qua mặt hồ là một chiếc cầu đỏ cong cong, lan can cũng đỏ, chẳng khác nào một chiếc cầu vồng nổi giữa sóng nước.

Mọi người đang theo từ trên cầu khúc khuỷu đi xuống, bỗng thình lình vang lên một tràng vỗ tay tán thưởng xa xa. Thái giám vội vàng quát khẽ một tiếng, các nàng đã được dạy dỗ, cũng lập tức cung kính quỳ xuống trên thềm đá.

Như Sương đưa mắt trong khẽ liếc, chỉ thấy dập dềnh trong hồ một chiếc thuyền hoa cực lớn, bốn phía còn có hơn mười thuyền nhỏ tùy tùng vây quanh, trong thuyền mơ hồ vọng ra tiếng sáo trúc du dương. Như Sương nhìn mũi thuyền hình rồng, ô lọng của đám quan lại đang vây quanh khoang đầu, trong mênh mang mưa phùn lờ mờ nhận ra, chính là ngự thuyền, lòng dạ không kìm được cơn điên cuồng, hình như có vật gì đang muốn từ trong ngực bắn ra, máu toàn thân cũng xông hết lên đỉnh đầu. Nàng cố sức cắn chặt môi, khó khăn lắm mới đè lại nỗi kích động từ đáy lòng.

Nguyên địa thế của Thiên triều tây cao mà đông thấp, trong có hơn phân nửa châu quận giáp biển, rất nhiều ao hồ, nên người dân trong nước vẫn thường dùng thuyền đi lại. Loại thuyền này trên được xây thêm tầng, lung linh như lầu các, được gọi là "thuyền lầu", kỹ thuật chế thuyền xuất phát từ chư quốc Lương Văn mà ra.

Ngự thuyền đương nhiên phải rộng rãi sáng sủa, mái đẹp nóc quý, ngà treo trên đấu củng [2], tựa như một tòa lâu đài nhô lên giữa nước, phiêu đãng trong hồ, đàn ca múa hát nương sóng nước vỗ về càng thêm mênh mang trầm bổng. Phóng tầm mắt về hai phía bờ sông hàng liễu biếc rủ cành xen kẽ những cụm anh đào rực rỡ, cách đó không xa là lầu gác ẩn hiện trong làn mưa bụi giăng giăng, cả không gian đẹp hoàn mỹ như một bức đồ quyển (tranh cuốn).

Thật sự là một cảnh núi sông lộng lẫy quý báu!

Duệ Thân Vương khẽ nhấp một ngụm rượu cay nóng, ánh mắt như vô tình hữu ý trôi về phía vị đế vương đang ngự trên tòa. Tòa son chín rồng, mỗi một chiếc vảy rồng vàng đều sống động như thật, Hoàng đế ngồi ngay ngắn bên trên, ra chiều đang lắng nghe Dự Thân Vương cùng Đạt Nhĩ hãn vương đàm tiếu, khóe miệng thảng hoặc khẽ cong lên, nhìn qua tưởng đang cười, nhìn lại đã thấy hình như không phải vậy.

Hoàng đế xưa nay quả thực cười mà không vui, có lẽ bởi thời Hưng Tông còn tại thế cũng không yêu thích đứa con này cho lắm, mà mẫu phi của chàng là Chung thị lại thiên vị đứa con nhỏ là hoàng tử thứ mười một Kính Thân Vương Định Vịnh, cho nên một tuổi thơ sống giữa sự coi nhẹ của song thân đã dưỡng thành một vị Hoàng đế tính tình lạnh nhạt, ơ hờ.

Ngôi vị Hoàng đế này vốn không thuộc về chàng, thời Hưng Tông Hoàng đế còn trị vì, bốn mươi năm ở ngôi ông có mười hai người con trai, mà Duệ Thân Vương Định Trạm là hoàng tử thứ sáu, chính do quý phi Mạo thị sinh ra.

Mạo quý phi xuất thân nghèo khổ, sau lại được Hưng Tông một mực yêu quý, sinh Định Trạm không lâu liền được sắc phong làm Hoàng quý phi. Con dựa hơi mẹ, Định Trạm từ bé đã tỏ ra thông minh vượt trội, Hưng Tông đương nhiên có ý lập hắn ta làm Thái tử, thế nhưng nhóm quan Thừa nội các[3]lại vâng mệnh quy chế từ xưa, chủ trương đưa con trưởng của Hoàng hậu là Định Nghi lên ngôi.

Định Nghi tư chất tầm thường, Hoàng đế từ xưa đã không coi trọng đứa con này, vì thế mà vua tôi giằng co. Các quần thần lấy việc từ chức để uy hiếp, bãi triều một thời gian, Hưng Tông cuối cùng đành phải nhượng bộ, lập Định Nghi làm Thái tử, còn đứa con yêu Định Trạm thì sắc phong cho làm Duệ Thân Vương. Lúc này Duệ Thân Vương mới hơn chín tuổi, nhưng là vị hoàng tử duy nhất của bản triều suốt bốn trăm năm qua được phong vương khi còn là vị thành niên.

Sau khi Hưng Tông băng hà, thái tử Định Nghi vào thế chỗ, lấy hiệu Mục Tông Hoàng đế. Năm được phong Thái tử, Mục Tông mười tám tuổi, Hưng Tông rèn giũa cực kỳ nghiêm khắc, Định Nghi thường trước mặt phụ hoàng ngay cả đi cũng không dám nhầm nửa bước, cả quãng thời gian mười năm trời luôn bị gò ép trong khuôn vàng thước ngọc; thời điểm lên ngôi có khác gì chim sổ lồng, cá về bể, thỏa sức mà ăn chơi trác táng.

Ông ta chỉ răm rắp mù quáng theo đám hoạn quan bày vẽ, hoang dâm vô độ, ngay tại quốc tang đã tức tốc mở cuộc tuyển chọn mỹ nữ, lấp đầy cả nội cung, lại còn tin lời bọn đạo sĩ ăn "thuốc hồi xuân", kết quả đăng cơ mới được bốn tháng, còn chưa kịp đợi đến năm thứ hai thay đổi niên hiệu, vào ngày Bính Tý tháng mười năm Thiên Hữu thứ bốn mươi hai, nửa đêm khuyu khoắt đã từ giã cõi đời vì bạo bệnh nơi chính điện.

Trong vòng một năm mà có đến hai Hoàng đế băng hà, Mục Tông chết, theo như tổ huấn thì "Huynh chết đến đệ", cần phải nhanh chóng đưa một vị hoàng tử của Hưng Tông lên kế vị.

Được xưng là "Nội tướng" trong ban Ti Lễ, thái giám chấp bút Lý Cẩm Đường cấu kết với em trai cùng mẹ của Mục Tông cũng là con trai thứ hai của Hưng Tông: Lễ Thân Vương Định Đường, phong tỏa tin tức Mục Tông băng hà, ngay trong đêm điều lực lượng quân cấm vệ vào thành.

Lễ Thân Vương Định Đường tự cao tự đại vì là con thứ trưởng của Hưng Tông, ý đồ lợi dụng cấm quân mưu soán ngôi đoạt vị. Ai hay tướng chỉ huy quân doanh Sử Mộ Nguyên chỉ là vờ vĩnh đáp ứng, đợi đến lúc lâm trận bất ngờ xoay mũi giáo, chia quân binh làm hai nẻo, một đằng bao vây vương phủ Lễ Thân Vương, giam lỏng Định Đường, một đằng thì ồ ạt vây siết tử cấm thành, chặn đứng cửa cung.

Lý Cẩm Đường dĩ nhiên còn chưa hay tin, vẫn theo sách cũ sai quân rộng cửa chờ đón, có ngờ đâu Sử Mộ Nguyên dẫn mấy vạn hùng binh đồng lòng rước một nhân vật đi vào, chính là Nghị thân vương Định Thuần.

Lý Cẩm Đường bấy giờ biết thất thế, lập tức quỳ mọp xuống hô to Nghị Thân Vương "vạn tuế". Định Thuần chẳng qua cười lạnh một tiếng, tự tay vung kiếm phạt bay đầu tên Cẩm Đường, sau đó dùng vạt áo bào mà lau máu, lệnh cho Mộ Nguyên "Trừ gian nịnh, đuổi loạn thần", Mộ Nguyên khom người lĩnh mệnh.

Ban đêm, quân doanh đóng cửa thành đại hạ sát đồng đảng của Định Đường cùng họ Lý, những trang sử sách đời sau gọi đó là "Bính Tý chi biến" (biến cố ngày Bính Tý).

Ngay sau khi Cẩm Đường mất mạng dưới mũi kiếm Nghị thân vương, vương phủ Lễ Thân Vương bỗng xảy ra hỏa hoạn, ngọn lửa bùng lên khiến cả bầu trời đế đô đêm ấy rực hồng.

Lúc bấy giờ trăm họ trong thành mới hay có biến, bởi quân đội lúc vào thành đã phái một lực lượng quân binh duy trì giới nghiêm về đêm, do chính tay Dự Thân Vương – tâm phúc thường ngày của Nghị Thân Vương – dẫn đầu, tất cả mọi người đều bị cấm lai vãng giữa đường, khiến cho lòng người càng thêm bội phần kinh loạn không biết làm sao cứu hỏa.

Về sau người ta đều kháo nhau, Lễ Thân Vương Định Đường vì âm mưu phản nghịch bại lộ mà uất thẹn phóng hỏa tự thiêu. Hơn ba trăm mạng người trong vương phủ cũng theo một ngọn lửa mà về với cát bụi, không sót dù chỉ một mạng. Bấy nhiêu rường cột chạm trổ dài đến vài dặm trong phủ, bao đình đài gấm vóc, tất thảy đều ở trong ngọn lửa ngút trời mà hóa thành hư ảo.

Liên tục ba ngày, lửa bùng lên cuồn cuộn khói đặc, đó là thời điểm ánh sáng trên thế gian bị những luồng thế lực âm u trùm phủ, mãi đến chập tối ngày thứ tư mới có quân từ kinh đô và vùng lân cận đến dập tắt dần dần. Lúc bấy giờ vương phủ Lễ Thân Vương đã sớm bị đốt chỉ còn một mảnh hoang tàn, từ trong cung đến cửa đình đều chỉ nghe hô một tiếng "giết", không chỉ có bè đảng của Lý Cẩm Đường mà ngay cả tâm phúc của Lễ Thân Vương cũng đều theo chủ về chầu Diêm vương.

Nghị Thân Vương Định Thuần tại triều đình xưng đế, năm thứ hai đổi niên hiệu là Vĩnh Thái, cũng chính là đương kim Hoàng đế.

Chỉ mấy ngày trước "Bính Tý chi biến", Duệ Thân Vương vừa hay lại bị Mục Tông điều đi dụ lăng tế thờ Hưng Tông, đợi đến khi trở về, thì thế cục đã định.

Hoàng đế khiển sứ giả ra tận ngoại ô nghênh đón, Duệ Thân Vương chỉ đành cúi đầu xưng thần. Hoàng đế đối xử với người anh em này cũng cực kỳ khách khí, ban cho thật lớn số lượng tiền tài trang ấp, lại ban thưởng hắn bổng lộc thân vương gấp đôi.

Vốn được Hưng Tông sủng ái quá mức, Duệ Thân Vương thuở nhỏ đã xa hoa vô cùng. Lúc này không ai quản thúc, lại càng ăn chơi đàng điếm, không có chí tiến thủ, mỗi ngày chỉ ở trong vương phủ của mình dùng đủ các của hiếm lạ quái đản để mua vui.

Duệ Thân Vương có tài viết thư pháp rất đẹp, bọn tay chân vì muốn nịnh nọt nên thường đi chiếm đoạt những bức thư pháp gia truyền của các bậc học sĩ. Vừa thích đâm giết đầy tớ, lại hay cường đoạt con gái nhà lành làm thê thiếp. Một thời khiến cho lòng dân căm tức sôi sục, ngay đến quan Ngự sử cũng liên tục dâng lên tấu chương can gián, song đều bị Hoàng đế nhất nhất gạt bỏ. Bây giờ cả triều đình đều biết Hoàng đế đối với người anh em này là mở một mắt nhắm một mắt.

Duệ Thân Vương mỗi lần ngự triều thì đều tỏ ra bớt phóng túng, song khi trở về lại theo thói cũ tìm hoan mua vui, hoang đàng khôn kể.

[1]Quan ngoại: vùng đất phía đông Sơn Hải Quan hoặc vùng đất phía tây Gia Cốc Quan, Trung Quốc.

[2]"đấu củng": một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu.

[3]Nội các 內閣 là tên một bộ quan, gọi tắt là các. Các thần 閣臣 là bầy tôi trong tòa Nội các. Ở nước quân chủ thì giữ chức tham dự các chính sự, ở nước lập hiến thì là cơ quan trung ương hành chính cao nhất.

Chương 4: Đêm vắng gió vờn bên ngón lạnh

Ca kỹ dừng múa, lại chuốc rượu liên tay. Đạt Nhĩ hãn vương bắt đầu cảm thấy hoa mắt, e rằng đã chuếnh choáng say.

Trong chén, rượu "Lê hoa bạch" có màu trắng tựa hoa lê, ban đầu uống vào cảm giác giống mật, tác động của nó chậm mà mạnh đột ngột, không biết tự bao giờ bỗng khiến người ta mê man. Đạt Nhĩ Hãn vương uống quen loại rượu cay nồng chiết xuất từ lúa mì Thanh Khoa[1] của vùng quan ngoại, không ngờ rằng loại chất lỏng ngòn ngọt như mật này cũng say lòng người đến vậy. Lúc bấy giờ nheo nheo đôi con mắt, chỉ thấy vạt áo tơ lụa mỏng manh của cô vũ nữ tựa như một vệt sáng lung linh, làm dậy lên trên mặt hồ những làn nước sóng sánh hoa lệ mỹ miều.

Vườn Thượng Uyển có vô số lầu gác lộng lẫy tinh xảo, điểm xuyết trong đó là non xanh nước biếc, tiếng trúc ti ca thổi cất lên bồng bềnh bay bổng giữa làn mưa xuân rả rích như mê ly, như hút hồn người.

Khung cảnh sông nước như vầy, chẳng trách sẽ khiến người ta uể oải lười nhác.

 Đạt Nhĩ hãn vương thầm nghĩ, Duệ Thân Vương đang ngồi trên ghế cao phía tây kia, thần sắc mệt mỏi chán chường, tựa như đối với vạn vật trên thế gian đều không có nửa điểm hứng thú. Thân là vương gia cao quý của Thiên triều, xuất thân danh giá, lại chẳng có chút hào khí mạnh mẽ của một đấng nam nhi. Con người như thế rốt cũng chỉ là cái loại vô công rồi nghề, không khỏi khiến cho kẻ suốt đời cưỡi trên lưng ngựa như Đạt Nhĩ hãn vương cảm thấy khinh bỉ. Quả thực không đáng so với một Dự Thân Vương tuổi trẻ tài cao, đối nhân xử thế hào hoa phong độ, thật khiến người người nể phục.

Mái ngự thuyền đã gần chạm đến gầm cầu, có một tên nội đang quan quỳ nơi cầu son, theo đó là hơn mười mỹ nữ thảy đều tha thướt một màu vàng nhạt pha lẫn sắc lá mạ xinh tươi, vô cùng bắt mắt. Hoàng đế trông thấy, thuận miệng hỏi viên thái giám trông quản ban Ti Lễ là Triệu Hữu Trí đang đứng phía sau, mới biết thì ra là mười hai cung nữ được tuyển chọn để ban thưởng cho Đạt Nhĩ hãn vương, hôm nay đến Minh Nguyệt Châu để cử hành lễ ban thưởng, trên đường lại gặp được ngự thuyền. Hoàng đế cũng chẳng mấy lưu tâm, ngự thuyền đã chậm rãi lướt qua gầm cầu, hướng vào sâu bên trong hồ Ngọc Thanh. Trên bờ cầu thái giám ban Ti Lễ thấp giọng ra hiệu mọi người đứng dậy.

Như Sương khẽ cắn chặt hàm răng, thành bại cả cuộc đời chính là ở cơ hội duy nhất này mà thôi.

Nếu không muốn chết đi một cách hèn mọt, vậy, nàng phải sống một cuộc đời thật oanh liệt!

Mọi người còn chưa đứng thẳng, nàng đã bật dậy, lướt nhanh đến bên thành cầu, không để cho ai kịp mở miệng kêu, đã lập tức phi thân nhảy xuống hồ. Chỉ nghe "Ùm" một tiếng, nước hồ xanh biếc lạnh lẽo bắn tung tứ phía, tựa như một tấm vải lụa màu xanh cực lớn phất lên, quấn chặt lấy bầu không khí.

Ai nấy đều thét chói tai, xa xa dội về những tràng âm thanh vang vọng.

Ánh sáng mờ ảo trên mặt hồ sao quá xa xôi, nước ộc thẳng vào trong khoang mũi và miệng, cảm giác nghẹt thở một lần nữa lại lan ra khắp cả tứ chi. Luồng sáng trên đỉnh đầu đã dần lẩn khuất, sắc sáng xanh dần được thay bằng màu đen hắc ám, ý thức của nàng cũng bắt đầu trở nên mơ hồ.

Lại trở về cái ngày hôm ấy, dải lụa trắng lạnh như băng sít chặt lấy cổ họng, không thể nào hít thở, ý thức dần rời đi, để rồi sau cuối là tiếng bước chân hỗn loạn.

Nàng nhất định sẽ được đền bù như mong muốn.

Tựa như rất lâu rất lâu sau đó, trước ngực thình lình bị đè nén nặng nề, đau thắt xương tủy. Nàng theo bản năng muốn mở miệng kêu đau, lại bị sặc nước, ho khan kịch liệt, rồi lại sặc ra nhiều nước hơn nữa. Có một người nào đó nhỏ giọng nói:

"Tốt lắm, không sao rồi."

Nàng ho đến nỗi không mở nổi mắt, toàn thân run lên mãnh liệt, nhổ ra một ngụm nước. Có người dùng ống tay áo vụng về lau mặt cho nàng, lúc này nàng mới nhấc nổi hai mí mắt, thì ra bản thân đã nằm trên sàn ngự thuyền, bên cạnh có mấy người toàn thân sũng nước vây quanh, nom trang phục đều là thị vệ. Thị vệ cầm đầu thấy nàng dần dần thanh tỉnh, khe khẽ thở phào. Nháy mắt, mọi người đều khoanh tay khom mình cáo lui.

Một góc áo hoàng bào lộ ra từ phía sau bọn thị vệ, chậm rãi tiến đến gần, cuối cùng đứng cách nàng không quá gang tấc. Ô lọng thật lớn cũng theo sau người nọ đi tới, che đi hết thảy lớp lớp mưa bụi bay không ngớt trên đỉnh đầu. Nàng thấy rõ mũi giày bọc vàng đính ngọc tỉ mỉ, ghép thành những hoa văn vạn thọ, cách nàng gần như vậy, cả nước trên áo nàng cũng đã thấm lên giày của người ấy rồi.

Nàng không đừng được lại một trận ho khan, toàn thân run bắn lên và khó thở, hơi ẩm lạnh như băng dấp dính trên mặt nàng, nước theo áo lụa mỏng manh tí tách rơi xuống. Nàng có lẽ đã kiệt sức mất rồi, chỉ nằm co quắp ở đó phì phò thở dốc.

Chợt có bàn tay vươn đến, hoa văn cửu long dát vàng, cổ tay áo thêu hoa văn kim tuyến xếp dầy, ngón tay tựa như không chút hơi ấm, nâng cằm nàng. Nàng chậm rãi ngẩng đầu, cuối cùng trông thấy một đôi mắt thẳm sâu hun hút, tựa như đã từng quen biết. Có vẻ trong nháy mắt nhìn thấy dung nhan của nàng, con ngươi kia bất chợt lóe lên một tia sáng dị thường, giống như là kinh ngạc, giống như là không tin nổi. Ánh mắt kia dường lưỡi dao bén khoét trong nàng từng cơn đau đớn, tựa hồ nàng còn nghe được cả mạch đập của mình nảy lên một nhịp, đột nhiên như có một dòng nước ngập tràn máu nóng ào ạt tuôn vào trong lồng ngực, là người ấy!

Làm sao có thể là chàng? Làm thế nào lại là chàng? Thế nhưng đúng thực là chàng!

Trong chớp mắt đất trời đều sụt lở, nàng trợn tròn hai tròng mắt, bên tai vẫn như vang vọng tiếng thét chói tại kinh hoàng của mẹ:

"Sương nhi!!"

Huyết hải thâm cừu của cả gia đình, máu chảy nhiều như vậy, bắn tóe lên đầy trời, trong tầm mắt chỉ toàn mênh mông một biển máu đỏ rực, cha, mẹ, anh trưởng, các chị em . . . nhiều người như vậy, nhiều máu như vậy. . . Mộ thị cả nhà hơn trăm mạng người, máu giăng đầy trời, luôn luôn muốn xô lại, muốn bắn lên. . .

Nàng đột nhiên rút phắt cây trâm bạc, vận hết sức mà đâm thẳng hướng hắn.

Dự Thân Vương hét lớn một tiếng "Bảo vệ Hoàng thượng!" , thoắt cái đã vọt tới che chắn trước mặt Hoàng đế. Thị vệ xông đến càng lúc càng nhiều, vô số người tiến lại lôi nàng đi.

Nàng giãy giụa như điên, cây trâm trong tay khua lên loạn xạ, bọn thị vệ chộp lấy đoạt đi, mũi trâm mài cực sắc bén không may đâm nàng bị thương, nhưng nàng chẳng thấy đau. Từng giọt từng giọt lách tách rơi xuống, không biết là nước mưa hay là nước hồ, nàng như con thú cùng đường, chỉ muốn cắn xe hết tất thảy mọi thứ.

"Bốp!"

 Luồng lực mạnh đập vào mặt, có người đã giáng cho nàng một bạt tai, nàng đứng không vững, cả người ngã về phía sau, vô số bàn tay túm nàng lại, rồi có bàn chân còn đá nàng. Nàng thấy mình đã thành một cái bao vải cũ kỹ, còn nghe được cả tiếng sợi dây quấn quanh đứt lìa từng đoạn. Ngay tại thời khắc như điện xẹt ấy, chợt nghe một tiếng hét to:

"Buông nàng ấy ra!!"

Bọn thị vệ như đụng phải than hồng, lập tức đồng loạt buông tay. Trên đầu nàng đã bị ăn một đạp đau điếng, nửa khuôn mặt bên phải nóng rát, con mắt trái phù lên không sao mở nổi, chỉ mờ mờ thấy trên vạt áo bản thân loang lổ đầy những vệt máu, mới hay mu bàn tay đã bị cây trâm rạch sâu một vết dài, máu đang nhỏ xuống từng giọt. Trái tim kia vẫn đập lên cuồng loạn từng hồi.

Giết hắn! Nhưng làm sao mà giết được hắn! Chẳng sợ tan xương nát thịt, nhưng làm sao mà giết được hắn?!

Chàng bất ngờ vươn rộng hai cánh tay về phía nàng, như muốn ôm nàng vào lòng. Dự Thân Vương xông lên trước toan cản lại, chàng lại trở tay đẩy Dự Thân Vương một cái làm lảo đảo, tay kia vẫn cố vươn về phía nàng.

Nàng bắt lấy cánh tay chàng, dùng hết sức cắn một cái thật mạnh. Chàng sững lại trong nháy mắt, rồi lại không chút nề hà ôm chặt nàng vào lòng. Cách lớp quần áo, trong khoang miệng cuối cùng cảm giác được vị ngọt của máu, chàng cũng không nhúc nhích, chỉ đơn giản là ôm nàng thật chặt, mà nàng thì như muốn cắn luôn một miếng thịt của chàng. Hận ý mãnh liệt khiến nàng dùng hết toàn bộ sức lực, rồi lại cào xé lung tung vạt áo trước ngực chàng, càng lúc càng cắn ác liệt.

Dự Thân Vương lại kêu một tiếng "Hoàng thượng", nhưng chàng vẫn không động đậy. Nhìn khuôn mặt cô đơn lãnh đạm kia, Dự Thân Vương muốn nói điều gì rốt cuộc lại thôi, thật lâu sau khoang tay chậm rãi lui lại. Nội quan cùng thị vệ vây quanh phía xa xa, chẳng dám tiến lên nửa bước.

Mưa bụi dày hạt, chậm rãi thấm ướt vạt áo chàng, long bào kim tuyến quý báu, không một tiếng động thẫm lại thành màu tro, quần áo ẩm ướt dính trên người rét run, nhưng trái tim ở trong lồng ngực lại bắt đầu đau âm ỷ.

Chàng thở dài, dùng tay còn lại vỗ nhẹ lên lưng nàng.

Bỗng, một giọt lệ, một giọt thật lớn chậm rãi từ khóe mắt chảy ra, "tách" một tiếng vỡ tan, máu pha loãng cùng nước mưa, cũng giọt giọt rơi xuống. Nàng cuối cùng gục ngã, sức cùng lực kiệt nhả ra khớp hàm, trên ống tay áo hoàng bào nhanh chóng hiện rõ một vệt máu hình vầng trăng khuyết. Chàng lại vòng tay ôm nàng, giọng điệu ôn tồn như đương thủ thỉ:

"Có ta ở đây."

Đầu nàng bị chàng ép chặt vào ngực, nàng nghe được cả tiếng tim chàng đập, cảm nhận được hơi thở vừa quen thuộc vừa xa lạ của chàng pha lẫn hơi mưa thanh thanh và hương Long não ngọt đắng. Nàng đột nhiên thấy trong lòng buông lỏng, cả người buông lỏng trước nay chưa từng có. Vòng tay chàng ấm áp mà vững chắc, tựa như có thể che chắn hết thảy, siết chặt lấy nàng. Cả thân chàng mình đồng da sắt, nhưng trong ánh mắt lại dần dần trở nên mềm mại, giống như một tảng băng thô cứng, chầm chậm tan chảy thành nước tuyết.

Không ngờ lại có một ngày này, tự đáy lòng Dự Thân Vương âm thầm than thở, đúng là oan nghiệt! Trong lòng chàng nảy sinh lo lắng, đi tới chỗ khoang trước có diềm mái uốn, qua khung cửa sổ hé nửa cánh, chỉ thấy Duệ Thân Vương nhoài trên mặt bàn, chén rượu thừa nghiêng đổ, thấm ướt hơn phân nửa ống tay áo, đã say túy lúy rồi.

 ...

Như Sương bệnh một thời gian lâu, có lẽ khoảng bảy tám ngày, mà cũng có khi hơn mười ngày, mỗi ngày đều mê man, sốt cao, ngẫu nhiên tỉnh lại, luôn luôn có biểu cảm kinh sợ.

 Ba bốn ngự y thay phiên nhau bắt mạch, từng bát thuốc to đắng nghét dốc vào rồi, rốt cũng chẳng thấy chút hiệu nghiệm. Về sau Hoàng đế sai người phi ngựa về kinh, cho triệu viên thái y đứng đầu Thái y viện là Tể Xuân Vinh đến, chậm rãi điều dưỡng, tinh thần mới dần hồi phục.

Chờ được lúc nàng có thể xuống giường thì tháng tư đã gõ cửa, cảnh xuân phai nhạt, ngay ngoài cửa sổ đã bắt gặp cây mận lá xanh đua mọc xum xuê. Thù nhi – cung nữ do chủ quản hậu cung là Hoa phi đặc biệt cử đến hầu hạ Như Sương, chậm rãi dìu nàng ngồi xuống trước bậc thềm, lại nói:

"Để em giúp cô nương chải đầu nhé."

Nàng cũng không trả lời, Thù nhi cầm chiếc lược bằng sừng tê, chậm rãi chải mái đầu đen cho nàng.

Bởi vì uống thuốc, tóc mỗi ngày đều rụng không ít, mà lúc này đây lại rụng càng nhiều. Thù Nhi không tỏ vẻ gì, một tay chậm rãi chải, một tay nhẹ nhàng ấn, động tác linh hoạt, đã nhanh nhẹn gom tóc rơi xuống thu vào trong áo, không để cho nàng nhìn thấy.

Thân hình trong gương gầy gò tựa đóa hoa phơi đầu ngọn gió, chỉ cần một cái đụng nhẹ cũng sẽ tan xương nát thịt. Tuy rằng mình hạc xương mai đấy, thế nhưng kỳ lạ một điều lại không hề tiều tụy, làn da ngược lại nhờ nhờ màu xanh như ngọc, trên gương mặt mệt mỏi vẫn ửng hồng, thậm chí đỏ hây hây như trát phấn. Nhìn vào chiếc gương đồng, thấy đôi mắt ướt đen tuyền như nước sơn, theo ngày tháng màu sơn thẫm lại, sáng bóng chẳng vương một hạt bụi. Trong lớp lớp áo gấm quần lụa, nàng giống như một người gỗ không chút sinh khí.

Thù nhi giúp nàng bối lại tóc, chọn từ trong hộp trang sức ra một cây trâm "bộ diêu"[2] ngọc bích, chuỗi ngọc thật dài tỉa tót kỳ công theo đầu ngón tay khẽ đong đưa, so so ở trước tóc mai nàng. Thấy nàng lắc lắc đầu, Thù nhi chỉ đành cất lại.

Như Sương tự mình đứng dậy, vạt váy dài không một tiếng động lướt qua sàn nhà trơn bóng như gương. Một thời gian không đi lại, chân bước có phần hụt hẫng, thế nhưng nàng vẫn đi rất vững vàng.

 Từ rày về sau bước đường gian khổ, nàng dù có phải đi chậm, nhưng phải là những bước chậm mà chắc.

Vầng dương rọi qua khung cửa sổ từng luồng nắng tinh mịn, bên trong mỗi luồng thật nhiều những hạt bụi nhỏ cứ không ngớt xoay vòng. Trên khung cửa chạm trổ hươu sao và hạc trắng, bao quanh đều là tường vân thụy thảo(cây cỏ tượng trưng cho điềm lành) quấn quýt, tỉ mỉ điêu khắc bên cạnh hàng chữ nổi sơn vàng đẹp lộng lẫy: "Lục hòa đồng xuân".

Nàng hơi nhếch khóe miệng, sau cùng lên tiếng:

"Ta không ở chỗ này."

Nhiều ngày qua, lần đầu tiên Thù nhi nghe nàng mở miệng nói chuyện, thanh âm khàn khàn thô rát. Thù nhi lắp bắp kinh hãi, thầm nghĩ một mỹ nhân tố chất thanh khiết là thế, tại sao lại mang giọng nói khó nghe đến vậy; song, trước mặt nàng vẫn cười khanh khách:

" Cô nương đang sống tốt như vầy, sao đột nhiên lại nói không muốn ở chỗ này? Nơi đây diện tích rộng rãi, quan trọng nhất là gần "Phương nội yến an"(phòng nghỉ) của Hoàng thượng, hà tất còn muốn chuyển đi đâu?"

Vẻ mặt nàng không chút biểu cảm, cũng chẳng buồn mở miệng thêm, đến bên cạnh bàn trà có chiếc bình tạo dáng mỹ nhân đang đỡ trên vai sắc lựu hồng, khẽ phất tay.

"Choang" một tiếng, trên mặt đất đã đầy những mảnh sứ vỡ nát.

Nàng hờ hững bước qua, gót chân nhẹ như bay, giày vải sa tanh bị mảnh sứ bén ngọt cắt vào, mỗi bước chân đi đều nở ra một đóa sen đỏ rực.

Thanh âm khẽ khàng phát ra, mảnh sứ bị đạp nghiền thành nhỏ vụn.

Nàng thản nhiên đi về phía trước, sàn nhà đen mà trong như gương chảy tràn những vệt máu càng trở nên thẫm lại, vô thanh vô tức, như bàn tay em bé, chậm rãi bò ra khắp bốn phương tám hướng. Mà nàng dường không hay biết, chỉ đi lại một cách nhẹ nhàng.

 Thù nhi bị dọa đến trắng mặt, lấy tay che miệng, một lúc sau mới phát tiếng kêu to, gọi thêm nhiều cung nữ đến kiên quyết đở nàng quay trở lại giường. Một mặt cho truyền ngự y, một mặt cũng không dám mở mồm khuyên một câu nào nữa.

Chuyện như vầy đương nhiên không có khả năng giấu giếm. Đến cuối ngày thắp nến lên, làn khói nhẹ nhàng lan tỏa khắp thâm cung vắng vẻ; Hoàng đế thường chọn thời điểm này vào thăm nàng, sau khi biết được sự tình thì nổi cơn thịnh nộ.

 Như Sương chẳng nói chẳng rằng, nàng vốn không ưa nói chuyện, lần đó trong phủ Duệ Thân Vương lại bị thắt cổ, tuy rằng cuối cùng được cứu, nhưng dây thanh quản đã bị thương, giọng nói cũng hỏng rồi, thành ra lại càng kiệm lời hơn, chẳng khác nào một kẻ câm điếc.

Trên chân phải quấn gạc, nàng nằm xiêu vẹo trên giường, trước giường có một cây đèn cầy đang cháy, chim phượng hoàng bằng đồng đỏ ánh sắc vàng kim bao bên ngoài chao đèn bằng vải lụa. Ngọn lửa mông lung đỏ sậm, từa tựa một quả tim yếu ớt cứ chốc chốc nảy lên nhè nhẹ.

Ánh đèn mịt mịt chiếu trên mặt nàng, thoáng trông có vẻ hồng hào, song nhan sắc ấy cũng là giả, chỉ như phủ một lớp lụa mỏng, tùy thời có thể biến mất, lộ ra bên dưới là vẻ nhợt nhạt.

Sam y mỏng manh nhuốm sắc anh đào tươi tắn, khoác trên người nàng e vẫn còn rộng. Cổ áo thêu những cánh hoa đỏ nhạt, từng cặp từng cặp khéo léo tinh tế, chắc chỉ cần thổi nhẹ một hơi, sẽ thấy hoa rơi lả tả, lác đác như mưa vương từng hạt trên áo. Mà căn bản dung mạo như hoa kia, đầu mày cuối mắt cũng chỉ còn đọng lại một vẻ lạnh nhạt hững hờ, Hoàng đế có phát tác trận lôi đình như sấm vang chớp giật, nàng cũng chẳng mảy may bận lòng.

Trong lòng nàng lạnh lùng nghĩ, đối xử với nàng tốt nhường này, chẳng lẽ thật sự là vì Lục tỷ?

Đã lâu như vậy đến giờ, nàng cũng chưa có một lần nhớ tới Lục tỷ. Lục tỷ là do Địch phu nhân – một người vợ khác của cha – sinh ra. Trong nhà nhiều chị em như thế, mọi người đều có a hoàn vú em riêng. Dù rằng tuổi tác xấp xỉ nhau, hồi Lục tỷ còn chưa xuất giá, cả hai cũng không hề thân thiết; cẩn thận nghĩ lại, ngay cả khuôn mặt của chị đối với nàng cũng chỉ mơ hồ như một quầng sáng mềm mại.

Thời điểm tin Lục tỷ qua đời được truyền đến trong ngục, sắc mặt cha biến đổi không thôi, song người một câu cũng chẳng nói.

Hoàng đế dạy dỗ xong cung nữ, quay sang trừng mắt nhìn nàng, chẳng nói gì. Nàng hơi cúi thấp khuôn mặt, cả thân hình bỗng nhiên đã lọt thỏm trong lòng chàng.

Tuy rằng hai mươi mấy ngày qua đều gặp nhau hằng ngay, nhưng luôn trên giường bệnh, cũng chưa hề trao đổi một lời. Ngẫu nhiên lúc này tiếp xúc, hơi thở đạm bạc thanh khiết trên người nàng vẫn khiến cho chàng giật thót, theo bản năng muốn rời ra, nhưng lại không đành lòng.

 Cơ thể nàng ấm áp mềm mại, yếu ớt vô lực, tâm Hoàng đế bỗng nhiên mềm nhũn, tựa như một tảng băng cứng gặp ngọn lửa nóng cháy, không chút dấu hiệu nào đã bị tan chảy.

 Cánh tay chậm rãi nâng lên, đặt nơi thắt lưng nàng.

 Biết rõ đây là bùa mê, là độc dược, sợ rằng thịt nát xương tan, cũng không cách nào cưỡng lại được, bất chấp mà nuốt vào.

 Qua một hồi lâu, khẽ thở dài, nói với nàng:

"Nếu không muốn ở đây, sai người chuyển đi nơi khác là được, tội gì phải như thế?"

Giọng điệu thật ôn hòa, mang theo chút buồn bã bất lực.

Như Sương nói:

"Ta muốn chàng ở đây."

Ta muốn chàng ở đây. . .

. . . Có một luồng gió bất ngờ xẹt qua.

Thật lâu trước kia, vào một đêm mưa rơi gió cuốn, chàng cô độc ngồi trên khung cửa lầu Thái Bình.

Không trăng, không sao, bóng đêm ngập tràn như nước, tiếng mưa xối ào ào đập trên mái hiên lầu thành, hơi ẩm lạnh giá qua làn áo thấm vào da thịt.

 Sau lưng là tử cấm thành với những đền đài lặng ngắt nối tiếp, dưới chân là Tây Trường kinh với hàng vạn những ngôi nhà sáng đèn. Sáng tối lẫn lộn, tựa như trăm ngàn viên ngọc minh châu giữa trời, trong mưa gió mông lung nối thành một dải sáng dài.

Trong cung vang lên tiếng chuông điểm canh ba, có một ánh đèn lập lòe dần tiến lại gần, người cầm đèn mặc bộ đồ đen, vô số hạt nước từ trên người chảy xuống. Triệu Hữu Trí toàn thân ướt như chuột lột, như thể vừa mới lao ra từ trong ao nước, lẳng lặng hành lễ với chàng.

"Là một hoàng tử bé nhỏ. . ." Làn hơi mờ ảo bay ra từ trong miệng, nháy mắt liền bị gió cuốn đi, chẳng còn chút hơi ấm. "Lúc sinh ra thì đã không còn thở. . . Hoàng quý phi ra đi thực yên tĩnh, về cuối thần trí không rõ, chỉ luôn miệng kêu tục danh của Hoàng thượng nói rằng "Ta muốn chàng ở đây."

Chàng ghì chặt trên tường thành lạnh như băng, cạnh đá rất cứng hằn sâu vào lòng bàn tay, vô vàn hạt mưa luồn lách chảy từ cổ tay về phía khuỷu.

 Chẳng phải đau đớn, nhưng đã chết lặng trong cơn choáng váng.

 Có những sợi tơ rất nhỏ rất nhỏ cứ chậm rãi trườn lên, quấn quít thành một lớp kén dày bao lấy con tim tê dại. Chỉ là chiếc kén kia ngỡ trùng trùng vấn vít, kỳ thực nháy mắt thôi sẽ nát tan thành bột mịn.

 Gió bấc càn quét thốc tấm áo hoàng bào, thẩm thấu vào trong người chàng thứ hơi lạnh buốt. Áo choàng bay phất phơ trong bóng đêm, toàn thân chàng dãi dầm mưa gió đã lạnh thấu, lạnh dường đã chìm trong tấc sâu hồ nước băng ngày đông buốt giá, rốt cuộc vẫn chẳng thể chờ được đến ngày băng tan. . .

 Nàng chưa từng đòi hỏi nơi chàng bất cứ điều gì, cho đến tận thời khắc cuối cùng của sự sống, nàng mới thốt ra một lời như vậy.

 Mà chàng đã không ở đó.

 Vạn dăm phồn hoa đèn dầu rực rỡ dưới chân, chậm rãi hóa thành ngàn muôn sao sáng, mỗi một vì tinh tú đều vẽ nên trước tầm mắt một đường cung lửa mờ nhạt, sau cùng đều ngưng lại thành một tầng hơi mỏng; để rồi nháy mắt mưa gió lạnh lùng sẽ cuốn băng đi hết thảy.

 Dung nhan trước mắt dần trở lại sắc nét, phảng phất là ánh đèn nhỏ nhoi vượt màn đêm mưa sa gió cuốn tỏa ấm mặt người. Khuôn trăng nhợt nhạt yếu đuối kia sở hữu một đôi ngươi sáng quắc đến kinh người, ánh nhìn như băng tựa tuyết hẳn có khả năng đâm thẳng vào lòng người.

 Quá khứ, đều đã sụp đổ.

Chàng quay mặt đi, đoạn thản nhiên nói:

"Nên nghỉ đi thôi, ngày mai trẫm lại đến thăm nàng."

[1]Lúa mì Thanh Khoa: giống lúa trồng ở vùng Tây Tạng, Thanh Đảo, Trung Quốc

[2]"Bộ diêu": là một loại trang sức của phụ nữ ngày xưa, bởi vì lúc đi thường lúc lắc dao động nên lấy đặc điểm mà đặt tên (bộ-bước, diêu-rung). Loại trang sức này phải dùng rất nhiều vàng bạc ghép thành hoa văn long phượng, dùng châu ngọc tô điểm thêm.

Chương 5: Xuân xa nồng vị ngát trời hương

Trời mưa.

Tháng tư cuối xuân, một vài trận mưa đi qua, sắc xanh thêm đậm mà sắc hồng càng phai, trước mắt thấy cảnh xuân đã dần tàn.

Trong tách trà như băng như ngọc có nắp đậy là trà mới xanh biếc, hương thơm lượn lờ, quả nhiên là loại trà Phong Sơn Ngọc Bích vừa được cống. Rất nóng, Hoa phi nhẹ nhàng thổi, lại đặt xuống, đoạn bâng quơ mở lời:

"E rằng lại thêm một yêu nghiệt nữa rồi."

Hàm phi dáng người nhỏ nhắn xinh xắn, lúc cười thì lộ ra hai lúm đồng tiền bên má, trong giọng nói nhàn nhã không thiếu một phần mỉa mai:

"Chị nói mới thực chí lý, không chừng thật sự là yêu nghiệt, chứ không tại sao rơi xuống hồ rồi còn chưa chịu chết, mà đến lúc vớt lên, Hoàng thượng chỉ mới nhìn thoáng qua mà sắc mặt cũng biến đổi?"

Hoa phi nói:

"Nói cho cùng thì cũng chỉ là một đứa con gái của tội thần, cái loại nô tì ti tiện, có gì mà cứ suốt ngày giận dỗi cơ chứ. Hoàng thượng xem ra cũng chỉ vì Hoàng quý phi, cho nên đối xử mới có phần đặc biệt."

Hàm phi lại nói:

"Em chẳng sợ gì khác, chỉ là vừa rồi Mộ gia xảy ra đại biến, lỡ may ả ta mà có tâm địa tính toan gì, rồi lại làm ra cái việc đại nghịch bất đạo. Hiện tại còn cho ả ở trong "Phương nội yến an", loại người như vậy ở bên cạnh Hoàng thượng, rốt cuộc không khỏi làm người ta sợ hãi. Chi bằng thỉnh Thất gia khuyên nhủ Hoàng thượng, hiện thời cũng chỉ có Thất gia nói Hoàng thượng mới nghe lọt tai."

Dự Thân Vương là con trai thứ bảy của Hưng Tông, là anh em sớm tối thân cận nhất với Hoàng thượng, người trong cung đều gọi chàng một tiếng "Thất gia". Hoa phi lắc đầu nói:

"Khuyên là khuyên thế nào? Hiện tại Hoàng Thượng ngay cả danh phận cũng chưa cho ả, thậm chí còn chưa lâm hạnh ả, Thất gia dù không phải người ngoài cũng không cách nào đi khuyên, nói rằng không nên giữ một cung nhân bên người?"

Hàm phi chợt thốt lên:

"Ả ta vốn là cung nữ ban thưởng cho Đạt Nhĩ hãn vương mà, chi bằng bảo Thất gia khuyên Hoàng thượng cứ theo như cũ ban cho hãn vương là được."

Hoa phi bật cười một tiếng:

"Đã bắt được trong tay, lẽ nào còn để cho đi? Chị khuyên cô em, tốt hơn là an phận thủ thường, cho nó yên cái thân đi."

Hàm phi còn muốn nói, bị Hoa phi dùng thái độ ôn hòa ngăn cản, đành nuốt lại, chỉ nở một nụ cười, nói vài câu bâng quơ rồi cáo về.

Cô ở cách chỗ Hoa phi không xa, cho nên vẫn không dùng kiệu, nội quan dùng ô lớn bằng giấy dầu che, cô vịn vào vai cung nữ, chậm rãi dạt hoa nâng liễu dọn đường mà đi.

 Đến chỗ cầu Song Kính, thấy bên cầu có người, tưởng là mấy đứa cung nữ tránh mưa, cũng không để ý lắm. Lúc đi lại gần, vài cung nữ cuống quýt lạy chào, chỉ có duy nhất một người nhan sắc mỹ miều đang dựa bên thành cầu, ngẩn ngơ ngắm mặt hồ xanh biếc, ngay cả đầu cũng chẳng buồn quay lại.

Nội quan bên cạnh Hàm phi cao giọng quát lên:

"Con nô tì lớn mật, thấy nương nương đến mà còn ngồi ngông nghênh ở đó, chán sống rồi chăng?"

Người nọ bấy giờ mới ngoảnh lại, Hàm phi chấn động trong lòng , chẳng phải là xinh đẹp phi thường, song dung nhan như tuyết, con ngươi lạnh như băng, có một loại ánh mắt khiến cho người ta không dám nhìn gần, song lại không thể dời mắt đi được. Hàm phi thầm nghĩ trong lòng, một đôi con ngươi như vậy, chỉ có thể là Mộ phi đã quá cố. Thù nhi quỳ gối dưới đất đã cười nịnh nọt nói:

"Xin nương nương thứ lỗi, Mộ cô nương vì trong người có bệnh nên không thể hành lễ."

Hàm phi nghe đến ba chữ " Mộ cô nương" thì bất giác cười lạnh. Cô là mẹ đẻ con trưởng của Hoàng thượng, thường ngày trong cung đến Hoa phi còn phải nhường nhịn ba phần, thật không khỏi mỉa mai một tiếng, nói:

"Đã có bệnh mà trời mưa còn muốn đi dạo, ta xem thấy bệnh cũng chả có gì nặng. Ta vào cung bao năm, thế nhưng chưa từng nghe qua bị bệnh là có thể không giữ quy củ, ngay cả tôn ti cao thấp cũng chẳng biết."

Thù nhi cười cười nói:

"Nương nương bớt giận, hôm nay Hoàng thượng đặc chỉ, muốn Mộ cô nương ra ngoài giải sầu, định ra một tí, ai ngờ về lại gặp trời mưa, cũng không phải cố ý đụng chạm nương nương. Mộ cô nương vốn tính như thế, vào cung cũng không bao lâu, ngay cả Hoàng thượng thường ngày cũng không có trách phạt."

Một câu nói cuối cùng như gió thoảng mây bay, thế nhưng qua tai Hàm phi chướng tai vô cùng, không khỏi giận dữ:

"Ngươi luôn miệng lấy Hoàng thượng ra dọa ta. Thấy bản cung, cô ta lại ngồi yên chẳng nhúc nhích, đó là quy củ gì? Một đứa nghiệt chủng của tên loạn thần tặc tử, cho cô ta sống đến hôm nay là ân huệ lắm rồi, lại còn không biết điều, lôi ả xuống đánh chết, cho đi bồi cái đám Mộ gia tiện nghi hơn người đó đi!"

Nghe cô ta sỉ nhục họ Mộ, đáy mắt Như Sương lóe lên ánh lạnh lẽo, khó chịu quay đầu đi, nhìn về phía hồ mười dặm đang tỏa khói sóng. Thanh âm của nàng vốn thô rát lại nói không lớn, chỉ nhấn mạnh rõ ràng rành mạch từng chữ, âm lượng đủ để cả người đứng trên lẫn kẻ quỳ dưới cầu đều nghe rõ rành rành ba chữ lạnh nhạt:

"Cô không dám."

Hàm phi giận tím mặt, Như Sương lại như chẳng thèm để ý, tự mình nhón lấy một cành liễu rủ vắt qua thành cầu, ngắt một nhánh thưởng thức, lại tiện tay vân vê phiến lá nõn thả xuống nước, câu dẫn cá hồng tụ lại.

Hàm phi tức đến run bần bật:

"Ta không dám? Ngươi bảo ta không dám? Chẳng lẽ ta lại trị không nổi một đứa yêu nghiệt nhà ngươi?"

Quay phắt người lệnh cho nội quan:

"Đi lấy gậy! Lôi con tiện tì này xuống, đánh cho mạnh tay vào, đánh cho đến khi ta dạy được nó biết tôn ti trật tự mới thôi!"

Nữ quan đi theo nghe nói muốn đánh người, vội vàng khẽ túm lấy ống tay áo của Hàm phi. Hàm phi thốt ra một câu, Thù nhi lại dập đầu một cái, thái độ vẫn kính cẩn như trước:

"Thỉnh Hàm phi nương nương hãy cân nhắc, Mộ cô nương không giống với những người khác."

Những lời này nói còn chưa dứt đã cảm thấy như đổ thêm dầu vào lửa, trong lòng Hàm phi càng bùng giận, lời nói lại càng ác ý:

"Lấy gậy cho ta! Cả con nô tì này cũng đánh nốt!"

Thù nhi thấy biến động thì nảy ra ý, liên tiếp nháy mắt, ra hiệu cho một cung nữ lặng lẽ chuồn đi báo tin, ai ngờ bị Hàm phi bắt gặp, gọi giật lại:

"Tất cả đều phải thành thật đứng nguyên tại chỗ cho ta, kẻ nào dám bước xuống cầu nửa bước, ta đánh gãy chân lập tức, xem đứa nào còn muốn dài mỏ nhọn mồm!"

Đoạn thét lệnh nội quan lên túm lấy hai người, có một tên lập tức đi lấy gậy hành hình. Như Sương không giãy giụa phản kháng, để mặc người lôi đi, Hàm phi bỗng nhiên nảy ra một ý, kêu lên:

"Chậm đã."

Khóe miệng nhếch một nụ cười lạnh:

"Đánh ngay tại đây đi."

Gậy trong cung đình không giống với ngoài cung, dài không quá một trượng hai(một trượng tính theo thước mộc là 1.7m), đường kính không quá bảy phân(tầm 4 cm), được làm từ gỗ cây táo, phần thịt đặc, một gậy giáng xuống thì xương cốt cũng đứt.

Thù nhi quỳ xin:

"Nương nương xưa nay tâm địa như bồ tát, cầu nương nương nghĩ cho bệnh tình của Mộ cô nương, chỉ cần dạy dỗ nô tì là đủ rồi."

Hàm phi nở nụ cười, nói:

"Con nha đầu trung thành ngươi khá lắm, nhưng cũng chẳng phải lo, hai đứa bay thiếu một đứa cũng không xong."

Cô ta có ý muốn cho Như Sương phải biết sợ hãi mà cầu xin, chỉ chỉ vào Thù nhi:

"Đánh con này trước đi. Đánh thật sự cho ta."

Phạt đánh trong triều đình có hai loại, một cái gọi là "đánh nương tay" thì vẫn còn đường sống, còn cái mà gọi là "đánh thật sự" thì chỉ có đánh cho đến chết thôi.

Nội quan hành hình động tác rất nhanh nhẹn, lập tức ấn dúi Thù nhi ngã xuống, dùng dây đay hạch đào để bịt miệng, lúc giơ lên thì thật cao, lúc nện xuống thì dốc hết toàn bộ sức lực, nghe "bốp" một tiếng nặng nề. Thù nhi đau đến nỗi mồ hôi túa ra đầy đầu, ấm ức khóc ô ô. Như Sương bị áp giải ở một bên, vẫn bình thản như không có chuyện gì.

Chỉ nghe thái giám hô đếm:

"Một gậy. . .hai gậy . . . ba gậy . . ."

 Đếm đến năm gậy, Thù nhi đã ngất lịm vì đau, kêu không ra tiếng nữa.

 Hàm phi nom nét mặt Như Sương không hề dậy sóng, âm thầm cảm thấy kỳ dị, cho là nàng bị dọa đến hồn phi phách tán mất rồi; hất mặt một cái, nội quan liền tiến lại ấn Như Sương xuống, cũng lấy đay hạch đào nhét vào miệng, nàng quay ngoắt sang bên theo phản xạ, mặt tỏ vẻ ghét cay ghét đắng. Hàm phi lúc này mới thấy trong lòng có chút khoái trá, cười nói:

"Thì ra là ngươi cũng biết sợ hả?"

Như Sương không nói một lời, ánh mắt ngạo nghễ khinh khỉnh, trực tiếp nhìn về phía sau lưng cô ta.

 Hàm phi còn chưa biết gì, đang toan nói tiếp, cung nữ bên người đã ào ào quỳ xuống. Hàm phi trong lòng trầm xuống, giật mình quay lại, quả nhiên, nhìn thấy ô lọng thêu rồng vàng quý giá hứng đầy con gió, Hoàng đế khoanh tay mà đứng, Triệu Hữu Trí theo sau, một bức tường loan giá nghi thức xa lệ đứng bảo vệ xung quanh, nối tiếp trong vòng hơn mười bước, lặng yên không một tiếng động. Nhiều người như thế, vậy mà không một chút động tĩnh, chẳng biết đã đứng ở đó tự bao giờ.

Sự việc phát sinh bất ngờ, Hàm phi chỉ đành vội vàng hành lễ:

"Thần thiếp thỉnh Hoàng thượng vạn phúc kim an."

Hoàng đế cười lạnh:

"Vạn phúc? Người của trẫm không phải bị ngươi đánh chết? Xem ra cũng thật vạn phúc!"

Triệu Hữu Trí nháy mắt, lập tức có người bước lên đỡ Như Sương dậy. Hoàng đế thấy tóc mai nàng nhẹ buông xõa, thái độ lạnh lùng, nhìn qua cũng chưa có bị thương, song trông Thù nhi bị đánh cho chết ngất ở đấy, nếu bản thân chậm một bước, chỉ e hậu quả khôn lường. Trong lòng không khỏi thấy rợn, khẽ nhíu mày:

"Còn không có dưỡng bệnh cho tốt, lại ra đây làm gì?"

Như Sương khẽ nhấc khóe miệng, mặt vẫn lãnh đạm như trước:

"Không phải ngài bảo ta ra ngoài đi dạo sao?"

Giọng điệu cực kỳ xấc xược vô lễ, không phải là loại khẩu khí kẻ bề dưới nên có. Hoàng đế đang nổi nóng, lòng càng phẫn nộ, quay mặt nhìn phía Hàm phi, ánh mắt buốt giá như băng.

Hàm phi vừa kinh sợ vừa khó tin, vạn lần không thể tưởng tượng được chỉ vì một cung nữ mà Hoàng thượng lại tức giận đến như vậy. Bởi vì sự hãi, trong lời nói run rẩy chực khóc:

"Hoàng thượng, cung nữ này vô lễ như vậy, thần thiếp chỉ theo quy định trong cung mà dạy dỗ, mong Hoàng thượng hiểu cho. Thần thiếp mặc dù hiểu biết nông cạn, song cũng không có ngoài tổ tông gia pháp mà làm việc."

Con mắt dài của Hoàng đế liếc qua, khuôn mặt anh tuấn thoắt ẩn ý cười:

"Tổ tông gia pháp? Ngươi còn có gan đem tổ tông gia pháp ra uy hiếp trẫm? Cái gì mà tổ tông gia pháp, chẳng lẽ các ngươi bày kế sau lưng trẫm, cũng gọi là tổ tông gia pháp?"

Nụ cười tắt lịm, cơn thịnh nộ đã sắp bùng nổ, giọng nói lạnh lùng nghiêm khắc:

"Lập tức đưa Hàm phi trở về kinh. Trường Ninh cung nếu không vừa ý cô ta, ngày hôm sau lập tức theo nhóm các thái phi ở Vạn Phật đường tu tâm dưỡng tính. Không có ý chỉ của trẫm, không được để cô ta bước qua cửa nửa bước. Ai muốn đến thăm, chỉ cho vào, không cho ra, ở bên mà chăm sóc cô ta cả đời luôn mới tốt."

Vạn Phật đường vốn là nơi các thái phi trong cung ăn chay niệm phật, quạnh quẽ đìu hiu, là chốn đèn nhang đất phật cổ xưa.

Hàm phi không ngờ Hoàng đế tức giận đến vậy, lập tức mặt hoa thất sắc, toàn thân run lẩy bẩy. Triệu Hữu Trí khom mình nhỏ giọng khuyên nhủ:

"Vạn tuế gia, Hàm phi nương nương làm việc quả thực không hay, song thỉnh Hoàng Thượng xem xét đến trưởng hoàng tử. . ."

Hoàng đế cười gằn một tiếng:

"Một người đàn bà ngoan độc âm hiểm nhường kia, còn xứng đáng làm mẹ hay sao, chẳng chốc mà làm hỏng cả hoàng tử của trẫm. Càng đưa y thị vào Vạn Phật Đường sớm, càng giúp cho thị nhanh nhanh sám hối tội lỗi."

Cục tức còn chưa tiêu, lại bồi thêm một câu:

"Cả trưởng hoàng tử cũng không cho đến thăm."

 Hàm phi che mặt khóc òa. Hoàng đế từ xưa đến nay ghét cay ghét đắng đàn bà con gái nỉ non, bèn quay mặt nhìn Như Sương, thấy ánh mắt của nàng mông lung, đang nhìn về phía hồ xa xa nơi khói sóng tỏa mù trên mặt nước, không biết là đang nghĩ cái gì, đối với những lời đối đáp hỗn loạn nãy giờ dường như chẳng để lọt tai; mà nếu có nghe, thì cũng chẳng để trong lòng, thái độ vẫn lạnh lùng xa cách như ngày thường.

Hoàng đế vốn đang nghỉ trưa tại "Phương nội yến an", bị Triệu Hữu Trí đánh thức, vội vội vàng vàng tới đây, giờ lại đang cáu kỉnh, giấc ngủ trưa đương nhiên đi đời, đành khởi giá quay trở lại.

"Phương nội yến an" là một trong bốn mươi sáu cảnh Thượng Uyển, là nơi nghỉ ngơi chính của Hoàng đế tại Thượng Uyển, quy mô cũng giống như ở điện Chính Thanh trong cung.

Chính điện theo lệ thường dùng để triệu kiến những vương công đại thần thân cận, người ta gọi là nơi "Nội triều". Hoàng đế ở trong điện phía sườn đông, điện này treo tấm biển đề hai chữ "Tĩnh hư" do chính Cảnh Tông tự tay thảo, vì thế được gọi là Tĩnh Hư Thất(phòng)- là ngự tẩm(chỗ nghỉ ngơi) nội điện chính thức. Tĩnh Hư Thất dù nói là phòng, song mấy cái điện bình thường khác còn xa mới sánh bằng. Hoàng đế xưa nay thích yên tĩnh, khắp căn phòng đều được trải những tấm thảm dày cả vài tấc.

Lúc này chỉ phất tay một cái, cung nữ trong nháy mắt đều lặng lẽ thối lui sạch.

Dưới cửa sổ có một cái sạp êm, Như Sương lúc này có lẽ đã mệt, thần sắc trông uể oải, nhìn thấy cái giường y như bị hút hồn, chẳng thèm để ý Hoàng đế ở kế bên, cứ như chẳng còn khái niệm về cung quy lễ chế.

Giữa điện đặt một cái vạc dát vàng thật lớn, bên trong đốt hương Tô Hợp[1], làn khói trắng nhờ nhờ nhẹ tựa tơ, từng sợi tản mạn luồn vào nơi sâu thẳm nhất của gian điện. Nơi giường nhỏ bằng gỗ trắc trải gấm thêu hoa hải đường màu đỏ, Như Sương nằm ở đó, viền ống tay áo uốn lượn, lớp lớp áo váy trườn thẳng xuống bên dưới tấm thảm lông cừu đỏ, tựa như khói ráng trời chiều bên chốn cực lạc tây phương huy hoàng rực rỡ.

Thật đúng là cuối xuân uể oải, ngoài cửa sổ mưa rơi tí tách, rèm châu là loại vóc cũng màu ráng chiều mới được cống nạp, từ dưới bậc thềm thấp thoáng hoa lan đượm cùng hương cỏ huyên thơm ngát, chút ánh màu xanh lục chiếu trên khuôn mặt nàng, càng làm cho hai gò má trông như ngọc.

 Hai hàng lông mày của Hoàng đế dần nới lỏng, qua một hồi lâu mới phì cười:

"Lần sau cũng không được vô lễ như vậy nữa đấy."

Như Sương chậm rãi mở mắt, bình tĩnh nhìn chàng chốc lát. Hoàng đế nói:

"Trong cung lắm thị phi, riêng các cung nữ phi tần cũng không phải dễ đối phó. . ."

Như Sương quay mặt đi, làm như không nghe thấy. Hoàng đế dần dần thu lại nụ cười:

 "Con bé Thù nhi có lẽ đã bị đánh cho thành tàn phế rồi, nếu trẫm mà chậm một bước, nàng phải làm sao bây giờ?"

Như Sương nhếch khóe miệng, nói:

"Con bé đó đáng bị như thế."

Hoàng đế mắt sáng như đuốc, chăm chăm nhìn nàng. Như Sương giọng điệu vẫn thờ ơ lạnh nhạt như cũ:

"Nó là người của Hoa phi, hôm nay là do nó ở giữa cố ý khiêu khích."

Hoàng đế ra chiều hơi bất ngờ, không khỏi nói:

"Thì ra là nàng cũng biết rồi . . . vậy, nếu trẫm thật sự đến muộn thì sao?"

Như Sương mệt mỏi không buồn nói nữa, nhưng bị ánh mắt của Hoàng đế nhìn mãi, cực chẳng đã phun ra ba tiếng:

"Sẽ không muộn."

Làm sao mà sẽ muộn cho được?? Triệu Hữu Trí tuy là thái giám chấp bút trong ban Ti Lễ, thực tế cũng là người đứng đầu cả đội cai quản cung điện, đứng đầu tất cả cung nhân nội thần, trong Thượng Uyển cung từng bông hoa từng cái cây, từng ngọn gió thổi lá bay, có cái nào lọt nổi mắt lão. Lão đương nhiên sẽ đánh thức Hoàng thượng đi giải vây cho nàng, huống chi. . .

Lại lười suy nghĩ tiếp, bởi vì Hoàng đế vươn tay đến. Đầu ngón tay chàng thật lạnh, mang theo một luồng hơi thở thoang thoảng hương Long não ngọt đắng tựa có dường không, thấp thoáng thấm vào người. Chàng dùng ngón tay trỏ nhẹ nhàng vuốt hai gò má không có chút máu của nàng, dịu giọng nói:

"Trẫm sẽ không để cho nàng phải chịu tủi thân lần nữa."

Tủi thân? Nàng cười lạnh trong lòng, hận thù xương máu lại chỉ dùng có hai chữ "tủi thân" mà xóa bỏ?

 Thế nhưng thân mình nghiêng nhẹ, đã tựa vào đầu vai của chàng, hô hấp tràn ngập hơi thở của chàng, nàng bỗng có chút ngẩn ngơ.

 Đạt được quá dễ dàng, lại khiến cho người ta có cảm giác không chân thực, tựa như bước hụt nấc thang, trong lòng không hiểu sao chột dạ.

Mạch đập bắt đầu trở nên gấp gáp, nện dồn dập vào thẳng trong tim, ngực như muốn vỡ tung ra, nháy mắt nàng đã thấm ra vài giọt mồ hôi lạnh. Hoàng đế cảm thấy khác thường, bèn hỏi:

"Làm sao vậy?"

Nàng không đè nén được khí huyết quay cuồng, tuồng như chỉ mở miệng thôi lập tức hộc ra một ngụm máu tươi. Nàng phải cố dùng hết sức mới nuốt lại được vị ngọt trong cổ, duy trì vẻ lãnh đạm trên khuôn mặt chỉ nói hai chữ:

"Mệt mỏi."

Hoàng đế đã quen nàng xưa nay tiếc lời, ngón tay mơn trớn bên thái dương lạnh băng ướt đẫm của nàng, giọng điệu ôn hòa:

"Còn ra cả mồ hôi lạnh đây này, đi xuống đi nghỉ đi."

Nàng lui xuống. Nàng vốn ở trong căn phòng sau hành lang Tĩnh Hư Thất, ra khỏi điện đi xuyên qua hành lang dài thì đến. Đi một đoạn mấy chục bước, toàn thân nàng ra đầy mồ hôi, chật vật trở về phòng. Vừa đóng cánh cửa lại, vội vàng lấy ra từ dưới gối lọ thuốc, nuốt xuống một viên, cả người đã mềm nhũn không leo nổi lên giường, chỉ đành ngồi nhoài dưới chân sạp, nửa quỳ nửa bò bên thành giường. Sau một hồi lâu thuốc mới phát huy công hiệu, cuối cùng cũng hít thở được một hơi.

Ngoài cửa sổ mưa đã tạnh, những giọt nước còn đọng lại tí tách rỏ xuống từ mái hiên, xa xa ở trên điện cao treo một quả chuông đồng, bị gió thổi lắc lư rung động, ngẫu nhiên phát ra một tiếng vọng, truyền đi rất xa, lọt vào trong tai, gợi về cảm giác bên chốn chùa cổ tĩnh mịch hoang vu.

Nàng nằm bẹp bên mép giường, trên trán vẫn mả mướt mồ hôi lạnh toát.

 Nàng còn chưa chết được, con đường tương lai xa vạn dặm, nàng ngay cả bước đầu tiên còn chưa đến, tuyệt đối không thể chết được.

 Nàng nhớ tới khuôn mắt trắng bệch như tử thi của Thù nhi, một cô gái như hoa như ngọc, lúc này chỉ e đang nằm dài chờ chết. Đây là kết cục của một bước đi sai lầm. Ở bên nàng còn chưa quá mười ngày nửa tháng, lại đã nóng lòng muốn mượn đao giết người, kết quả là gậy ông đập lưng ông.

Nàng hờ hững nghĩ trong lòng, Hàm phi cho mình là cái đồ yêu nghiệt, Hoa phi cũng vậy, thế nhưng họ căn bản còn chưa hiểu rõ- chỉ cần một ngày còn có Hoàng đế đỡ lưng, bọn họ muốn động đến nàng e chẳng đơn giản đến vậy.

 Hôm nay Hoàng đế còn giáng trọng tội cho mẹ đẻ của hoàng trưởng tử là Hàm phi, bắt tống về giam lỏng trong cũng, có lẽ lại chẳng ít người nữa cùng gán cho nàng cái danh "yêu nghiệt".

 [1]Hương Tô Hợp: chiết xuất từ cây Tô Hợp. Đầu hạ dùng vật cứng đánh vào thân cây hoặc dùng dao khoét sâu vào tận phần thịt để cho nhựa chảy ngấm vào vỏ cây. Đợi đến mùa thu bóc vỏ cây xuống, ép lấy nhựa, phần bã tiếp tục đun sôi rồi ép tiếp. Đem nhựa thơm hòa với cồn, sau đó chưng lọc cồn đi thì thành hương Tô Hợp tinh chế.

Chương 6: Hoa tàn vẫn tỏ nhớ người biệt ly

Yêu nghiệt!

Hoa phi chụp lấy tách trà trên bàn toan ném thẳng xuống đất. Tay đã giơ lên cao, bỗng nhiên chậm rãi hạ xuống, lại nghiễm nhiên như không có việc gì, thần tình ngơ ngẩn, cuối cùng nhấp một ngụm. Buông chén trà xuống, đoạn gọi cung nữ bên người:

"A Tức."

A Tức khom lưng về trước:

"Bẩm nương nương."

"Bảo người chuẩn bị, ta đi đưa tiễn Hàm phi."

Giọng điệu Hoa phi bình thản như nước.

"Dù sao cũng phường chị em bao năm."

A Tức lặng lẽ lui xuống đi bố trí, Hoa phi thay đổi trang phục, nhìn phía ngoài cửa sổ, sắc trời đã chạng vạng ngả tối, hơi nước mịt mờ, vô số lầu gác Thượng Uyển đã chìm trong làn sương mù khói nước tỏa khắp không gian.

Trong cung Hàm phi đã thu thập đâu đó xong xuôi, kỳ thực cũng chả có gì để thu xếp ngoài mấy hòm quần áo. Bởi vì sự việc xảy ra quá nhanh, cả cung điện "Vân dung thủy thái" trĩu một bầu không khí ảm đạm, trên khuôn mặt các cung nữ đều hiện lên vẻ thảm bại. Hoa phi nhìn thấy trên mặt Hàm phi còn đọng nước mắt, cũng không khỏi sinh lòng cảm thương mèo khóc chuột, an ủi cô ta:

"Hoàng thượng chỉ là tức giận nhất thời, cho nên mới bắt em về. Dăm ba bữa Hoàng thượng nguôi giận, xét tình trưởng hoàng tử, sẽ cho em trở lại thôi mà."

Hàm phi vốn đang vô cùng đau khổ buồn bực, thế nhưng thấy Hoa phi đến, lập tức ra vẻ bình thường, thản nhiên đáp lễ:

"Đa tạ những lời an ủi của chị."

Hoa phi ra chiều thật tình thương cảm, nói:

"Em đi nhớ bảo trọng. Từ ngày Hoàng quý phi qua đời, chỉ còn lại ba chị em chúng ta, mà Tình phi thì bệnh như thế, hôm trước trong cung sai người đến thăm, nói vạn phần không tốt, chỉ sợ không qua nổi tháng sáu. Chị vừa nghe đến tin ấy trong lòng mới đau khổ làm sao. Hồi trước lúc chúng mình còn ở trong vương phủ, cả ngày nói nói cười cười, náo nhiệt biết bao nhiêu."

Hàm phi cười lạnh, đáp:

"Chị nói vậy là không đúng rồi. Trong cung này mỗi ngày còn không phải náo nhiệt quá hay sao? Theo em thấy, lúc này mới thật náo nhiệt lắm, mà có người thì đến dòm ngó, có kẻ lại vào góp vui."

Hoa phi làm bộ như không hiểu, cười nói:

"Em nói chuyện càng ngày càng sắc bén, lần này đến Vạn Phật đường học hỏi cùng các thái phi nhất định đạt được thành quả lớn."

Hàm phi tức cành hông, song nghĩ gì, lại nở một nụ cười:

"Em chỉ là một kẻ phàm phu tục tử, không có tuệ căn, e học cũng chẳng xong. Thật ra thấy chị đây mới là người trí tuệ, luôn làm việc minh bạch, chỉ sợ chị sử dụng trí thông minh không đúng, nhiều năm qua khổ tâm tính toán, ngược lại may áo cưới cho người ta."

Hoa phi hé miệng cười cười rồi nói lảng đi:

"Em đi Vạn Phật đường, nếu thiếu ăn thiếu mặc, cứ cho người đến chỗ chị, chị nhất định bố trí cho đầy đủ."

Hàm phi cười đáp:

"Chị yên tâm, đa tạ đã tới thăm em, vậy em cũng sẽ không khách khí."

Hoa phi đứng đầu trong ba cung phi, Hàm phi theo lễ đưa chân tiễn bước ra tận cửa Thùy hoa[1], Hoa phi thật khách sáo nói:

"Không cần, sắp lên đường, nên là chị đưa tiễn em mới đúng."

"Đa tạ chị ngày thường vẫn quan tâm."

Nội quan cung nữ đều đi theo xa xa, chỉ có A Tức đỡ tay Hoa phi. Hàm phi mỉm cười, bỗng nói nhỏ:

"Em sắp đi, cũng không biết ngày nào có phúc được gặp lại chị, thỉnh mong chị càng phải bảo trọng. Có điều yêu nghiệt kia chính là em gái ruột của Hoàng quý phi, chị thấy cô ta, chả nhẽ còn không biết sợ hay sao?"

Trong lòng Hoa phi nhảy dựng, buột miệng nói:

"Bản cung vì sao mà phải sợ cô ta?"

Hàm phi cười nói:

"Chị nói cũng đúng. Chị đây hiện tại là chủ quản hậu cung, sắp tới Hoàng thượng sẽ phong chị làm quý phi, rồi cũng sẽ đạt được địa vị Hoàng hậu như mong muốn, chị còn phải sợ cái gì? Chị cái gì cũng chẳng phải sợ."

Trở lại trong cung mình, Hoa phi mới biết lòng bàn tay ra đầy mồ hôi lạnh. Tâm tình cô ta không yên, cầm một chén trà nhỏ, trầm ngâm không nói. A Tức kêu liền mấy tiếng "nương nương" , cô ta mới nhấc mắt lên:

"A Tức, câu nói kia của Hàm phi, ngươi cũng nghe rồi, ngươi bảo cô ta là có ý gì?"

A Tức thái độ kính cẩn đáp:

"Nương nương, mặc kệ Hàm phi có ý gì, đều chỉ là ăn rông nói dại. Con bé Thù nhi thiếu kiên nhẫn, làm hỏng đại sự của nương nương, lại còn khiến nương nương rơi vào tình thế nguy hiểm. Hàm phi đi rồi, với nương nương vừa có lợi nhưng cũng vừa có hại. Lợi là, Hàm phi nếu không trừ, một ngày sẽ là chướng ngại cho nương nương. Hại là, Hàm phi bản tính nóng nảy hấp tấp, có thể dùng làm con tốt thí mạng; cô ta đi, nương nương không khỏi mất đi một quân cờ hay. Song cái quan trọng trước mắt là nương nương nên xốc lại tinh thần, ứng phó với Mộ cô nương kia."

Hoa phi có vẻ hiểu, lúc này mới nói:

"Không thể trách Thù nhi, chỉ là do chúng ta quá xem nhẹ con yêu nghiệt kia. Hoàng thượng xưa nay đối với chuyện tình cảm nam nữ vốn lạnh nhạt. Lúc Hoàng quý phi còn sống, dù người đối xử rất tốt, song cũng chỉ thường thôi. Thế nhưng yêu nghiệt kia lại có được ngày hôm nay, ta thực không hiểu rõ."

A Tức nói:

"Nương nương, qua một chuyện này, đã biết ả ta là họa lớn vô cùng. Hàm phi là mẹ đẻ của hoàng trưởng tử, vậy mà còn bị Hoàng thượng thẳng tay tuyệt tình, nương nương cần phải sớm tính toán."

Hoa phi thở một hơi thật dài:

"Ta vốn muốn mượn tay Hàm phi trừ ả, không nghĩ tới lại khéo quá hóa vụng. Hàm phi vừa đi, Tình phi lại bệnh nặng quá – mà không bệnh cũng chẳng tích sự gì, trong cung chẳng có một trở ngại nào, chẳng lẽ sẽ để cho ả lật cả trời lên sao?"

A Tức nói:

"Nương nương yên tâm, cơ hội lật ngược tình thế còn chưa tận."

Thanh âm cực nhẹ:

"Hoàng thượng cơ trí anh minh, sẽ không sa vào sắc đẹp. Xem tình cảm giữa Hoàng thượng và Hoàng quý phi như thế, Vạn Tuế gia còn có thể ra tay quyết tuyệt, cô ta chỉ là một con bé mồ côi của tên tội thần, có thể giở được trò gì chăng? Dù Hoàng thượng trước mắt bị yêu nghiệt kia mê hoặc, đó cũng chỉ là nhất thời."

Hoa phi nhìn con bé a hoàn một lát, chậm rãi vuốt cằm.

Vốn khẩu dụ của Hoàng đế là phải tức khắc thi hành, dù trời đã tối muộn, cũng không thể trì hoãn. Kiệu loan của Hàm phi rời Thượng Uyển, được tùy tùng bảo hộ đi tới cửa tây đã là giờ Dậu(5-7h chiều), cửa thành đã đóng. Quân giữ thành không dám tùy ý, chỉ đành truyền nhau bẩm báo lên cấp trên. Lúc báo cáo đến được hành dinh của Dự Thân Vương, thì đã quá canh ba giờ Tuất(tầm 7h45' tối).

Dự Thân Vương là tổng thủ lĩnh cảnh giới cho xa giá, mỗi ngày đều tự mình tuần tra việc canh gác. Lúc này vừa từ đại doanh đóng giữ hành cung Thượng Uyển trở về, nghe nói Hàm phi phụng chiếu đêm khuya hồi kinh, cảm thấy kỳ lạ, hỏi vì sao. Người đến bẩm báo đương nhiên không biết, Dự Thân Vương là con người cẩn tắc kỹ càng, nghĩ ngợi một chút bèn sai ngươi đi gọi trực ban quản lý cung điện đến.

 Nguyên chàng kiêm cả việc thống lãnh nội vụ đại thần, chính là lãnh đạo trực tiếp của ban quản lý cung điện. Nội quan đang trực không dám giấu giếm, đem toàn bộ sự tình từ đầu tới cuối nói cho bằng hết. Dự Thân Vương yên lặng nghe xong, ngay đó cũng không nói gì.

Vốn còn đang là thời gian nghỉ ngơi tại Thượng Uyển, nên cũng không có thiết triều, song Dự Thân Vương cai quản nhiều, cho nên mỗi ngày đều phải vào cung yết kiến.

Ngày hôm đó, theo thường lệ sau khi chuyển thẻ bài xin yết kiến, Dự Thân Vương liền theo tiểu thái giám bước vào cửa chính. Lúc đi qua cầu Lạc Hoa, lối nhỏ bên cạnh trồng toàn cây hòe, hoa hòe chớm nở, từng cụm như mây, hương hoa ngọt như mật. Rồi lại thấy hơn mười tiểu thái giám áo xanh cầm lưỡi hái hình móc câu, còn xách cả giỏ đựng, đang giữ lấy một cây thang để ngắt hoa hòe. Người chỉ huy hái hoa là nội quan trong "Phương nội yến an", tên Ngô Thăng, trông thấy Dự Thân Vương thì vội tươi cười chào đón:

"Thỉnh an Vương gia."

Dự Thân Vương liền hỏi:

"Ở đây đang làm cái gì vậy?"

Ngô Thăng cười cười nói:

"Hoàng thượng bỗng nhiên muốn ăn bánh hoa hòe, nhưng sợ phòng bếp làm không tươi non, cho nên Mộ cô nương sai chúng tôi hái hoa, tự mình chưng bánh."

Dự Thân Vương thấy trong giỏ đầy nhóc hoa hòe trắng như tuyết, hương thơm ngào ngạt, ngọt say lòng người, không khỏi nói:

"Đã hái được bằng này còn chưa đủ hay sao?"

Ngô Thăng đáp:

"Vương gia là không hiểu, từng này hoa hòe cũng chưa có đủ dùng đâu ạ. Chỉ ngắt những bông cực non vừa nở một nửa, hễ có một chút điểm đen điểm vàng đều không được.

 Một đóa hoa phải sạch sẽ, cho vào niêu đất chưng lên, tích lấy từng giọt, dùng vải lụa sống[2] trắng tinh mà lọc thành từng giọt sương hòe, cũng không trộn nửa giọt nước.

Dùng mỗi sương hòe này hòa bột làm mặt bánh, ngài nói xem phải bao nhiêu hoa hòe thì mới đủ? Chỉ sợ cả mấy ngàn cây hòe trong cung này cũng chẳng đủ cho một lần chưng như vậy. Thật khó cho Mộ cô nương, biện pháp khéo như vậy, không biết làm sao mà nghĩ ra được."

Dự Thân Vương thuận miệng nói:

"Phương pháp dạy nấu ăn kiểu này chỉ có trên công trình điều chế nước xa hoa tột đỉnh mới nghĩ ra. Mộ Trung Bình làm quản đốc sông ngòi đã nhiều năm, cô ta thân là cháu gái Mộ Trung Bình, có biết cũng chẳng lạ."

Ngô Thăng cười nói:

"Dự Thân Vương nói phải."

Dự Thân Vương quay về phía tiểu thái giám dẫn đường nói:

"Đi thôi."

Tới ngoài điện "Phương nội yên an", Triệu Hữu Trí đã tự mình tiến lên đón, mỉm cười thi lễ nói:

"Thỉnh an Vương gia. Vừa rồi Vạn tuế gia còn nhắc ngài, nói năm nay trà Tuyết Sơn Ngân Nha(chồi non núi tuyết) vừa cống ngon vô cùng, muốn để Vương gia nếm thử."

Dự Thân Vương vốn đang có việc, thuận miệng ừ một tiếng, lập tức đi về hướng đông. Triệu Hữu Trí lại không có xoay người đi bẩm báo như trước đây, trái lại tiến lên một bước kêu:

"Vương gia."

Dự Thân Vương lúc này mới để ý, hỏi:

"Thế nào? Hoa phi nương nương ở trong sao?"

Hoàng đế thực ra cũng không phải dạng hám sắc tìm hoan, vị trí Hoàng hậu mặc dù bỏ ngỏ, cũng không có sắc phong cho bốn vị cung phi. Hoàng quý phi Mộ thị đã qua đời, còn lại ba người Hoa, Hàm, Tình. Hàm phi hôm qua vừa bị điều đi, Tình phi thì bệnh nặng ở lại trong kinh, còn chưa đến Thượng Uyển, cho nên Dự Thân Vương nghĩ là Hoa phi đang ở trong, cũng có phần ái ngại.

Triệu Hứu Trí cười hì hì đáp:

"Hôm nay vừa mới cống trà Tuyết Sơn Ngân Nha liền, Mộ cô nương bỗng nổi hứng tự mình mở trà, lúc này hẳn đang pha trà cho Vạn Tuế gia. Hoàng Thượng chính đang cao hứng, nói pha trà là một công việc nhã nhặn, không được có người vây quanh, nếu không hỏng mất chung trà, lệnh cho bọn nô tì chúng tôi đều lui ra. Thỉnh Vương gia đến thẳng phòng chờ ngồi, lúc nào Vạn Tuế gia uống xong chén trà nhỏ, nô tì lập tức thay Vương gia bẩm báo lại."

Dự Thân Vương lo lắng, theo lão bước vào phòng. Triệu Hữu Trí tự mình lau ghế dựa, lại tự mình pha trà mang đến rót mời Dự Thân Vương.

Cười nói:

"Vương gia xưa nay vốn là tay thưởng thức trà thượng hạng, nơi này dù cho không có trà gì tốt, cũng không dám qua loa có lệ mời Vương gia. Trà này tuy chẳng nổi danh, song là loại vừa hái độ trước tiết Cốc vũ[3] năm nay, thỉnh Vương gia thưởng thức cái vị non tươi thôi vậy."

Dự Thân Vương vừa mở nắp, chỉ cảm thấy thơm ngát mũi, thứ hương thật thanh nhã, không hề thua kém Tuyết Sơn Ngân Nha. Lòng chàng đang không yên, chỉ thuận tiện khen một câu, liền hỏi:

"Tháng sau là lễ Vạn thọ(lễ mừng sinh nhật Vua), ý của Hoàng thượng là làm ở Thượng Uyển cung hay là hồi kinh?"

 Triệu Hữu Trí tươi cười nói:

"Nô tì không dám phán bừa thánh chỉ, có điều . . ."

Nói tới đây, lại ngừng một lát, do dự tiếp:

"Theo ý kiến ngu muội của nô tì, khả năng Hoàng thượng sẽ ở lại Thượng Uyển qua lễ Vạn thọ."

Dự Thân Vương dùng hai ngón bàn tay trái xoay xoay cái chén, đăm chiêu "À" một tiếng. Triệu Hữu Trí lại cười nói:

"Nô tì cũng có nghe Hoàng thượng ngày ấy nói chuyện với Mộ cô nương, Vạn tuế gia nói rằng, trở về cung thì nhiều quy củ, sẽ không được tự do như hiện giờ nữa."

Dự Thân Vương đang chờ những lời này của lão, ngẩng đầu lên, ánh mắt sáng ngời nhìn lão:

"Con gái của tội thần, theo tổ huấn không được phong làm phi."

Triệu Hữu Trí đáp:

"Vương gia nói phải lắm, nhưng là vào thời hoàng đế Cảnh Tông cũng có trường hợp đặc biệt. Con trai thứ năm của Cảnh Tông là Khang Thân Vương, chính là do con gái của tội thần Phong Dật sinh ra, Cảnh Tông từng có chiếu dụ đặc biệt, vì sinh được hoàng tử mà phong cho nàng làm Phúc phi."

Dự Thân Vương khẽ cau mày. Hoàng đế còn trẻ, Hàm phi sinh được hoàng tử trưởng năm nay còn chưa tới ba tuổi, Tình phi cũng từng sinh một người nhưng chưa qua được kỳ trăng tròn thì đã chết non, còn Hoa phi thì chưa có động tĩnh gì. Hoàng tử trưởng tuổi nhỏ, chưa nhìn ra được tư chất thế nào, đại cục trong tương lai quả thực khó nói.

 Triệu Hữu Trí xem vẻ mặt Dự Thân Vương khó lường, cũng không nhiều lời, nhắc cái ấm trà bạch ngọc như ý qua rót thêm vào chén cho Dự Thân Vương, đoạn bâng quơ nói:

"Việc này cứ cho là đã có tiền lệ, song điều quan trọng nhất chính là, Phúc phi là mẹ đẻ của hoàng tử, cho nên mới được đặc cách. Nô tì thiết nghĩ, chỉ e kẻ khác thì không có được cái phúc đó, có thể sinh cho Hoàng đế một hoàng tử."

Dự Thân Vượng nhìn Triệu Hữu Trí, chỉ thấy lão sụp đôi mi hạ đôi mắt, thái độ vô cùng kính cẩn, trong lòng bỗng gợn lên một ý chán ghét không thành lời, đẩy nhẹ tách trà, nói:

"Tứ ca là một người cực kỳ có tình có nghĩa, phàm là người nào huynh ấy thật tình đối đãi, tất sẽ không dung tha cho bất kỳ chuyện nào xảy ra. Nếu có kẻ dám tính toán sau lưng huynh ấy, chỉ sợ mất đầu thôi là vẫn còn ân huệ lắm."

Triệu Hữu Trí vẫn kính cẩn như trước, đáp:

"Vương gia dạy phải."

Dự Thân Vương yên lặng thở dài. Chàng vĩnh viễn sẽ không thể quên được cái giá rét của một mùa đông ấy, tuyết lớn rơi liên miên mấy ngày, thời tiết lạnh tới mức đầu óc cũng như đóng thành băng, mà bọn nội quan trong kho củi ngay cả lượng than củi đã được phân suất rõ ràng mà vẫn dám ăn bớt. Trong điện chỉ đốt hai chậu than nho nhỏ, cả cái cung Vĩnh Thái to như vậy chẳng khác nào hầm băng. Chàng mặc thật nhiều quần áo, nhưng rốt cuộc vẫn cứ lạnh phà ra hơi trắng.

Mẫu phi bệnh càng ngày càng nặng, đến nỗi không thể rời giường, mà nhóm nội quan cung nữ hầu hạ thì luôn lười nhác né tránh, cuối cùng chỉ còn mình chàng ở bên chăm sóc. Mẫu phi có lúc ngủ mê man, có lúc cũng thanh tỉnh được đôi chút. Bên ngoài cửa sổ tuyết rơi đập vào trên cửa giấy, nghe được cả tiếng vang, mẫu phi thì thào hỏi:

"Là tuyết rơi sao?"

Mẫu phi nói ngôn ngữ của vùng đất Hồi Hột (vùng gần Mông Cổ), ở trong cung này cũng chỉ có cậu bé chưa đầy bảy tuổi là chàng hiểu được. Cậu ôm lấy tay mẫu phi, cũng dùng tiếng Hồi Hột khẽ kêu bà một tiếng :

 "Mẹ".

Khuôn mặt từng sáng ngời như ánh trăng của mẫu phi, nay chỉ còn lại sắc u ám tiều tụy, con ngươi từng tinh anh như minh châu lấp lánh, cũng chỉ còn đượm mãi một vẻ ưu buồn, lẩm bẩm những lời vô nghĩa:

"Nếu chúng ta trở về trên thảo nguyên mênh mông ngày trước , vào thời điểm tuyết rơi, bà ngoại con sẽ sai bọn nô lệ nấu chè sữa đặc Dương Canh[4], hương thơm ấy mỗi lần mẹ nằm mơ vẫn đều nghe thấy".

Trong lòng cậu vô cùng đau khổ, ngoài mặt lại phải cười thật tươi:

"Mẹ muốn ăn, vậy Loan nhi sẽ bảo nhà bếp đi nấu nhé."

Mẫu phi nhẹ nhàng lắc đầu nói:

"Mẹ cũng không phải muốn ăn."

Nhưng cậu vẫn biết, cậu biết vì sao mẹ cậu lại nói như vậy. Ở trong cung trên dưới đều là một bọn chuyên bợ đỡ nịnh hót, nhà bếp ngay cả ba bữa mỗi ngày cũng chỉ làm cho có lệ, ở đâu còn có chuyện đi nấu thêm cho bọn họ chè Dương Canh?

Mẫu phi vươn tay, xoa xoa mặt cậu, lòng bàn tay nóng bỏng chẳng khác nào cái bàn ủi đặt trên mặt cậu. Thanh âm của mẫu phi cũng tựa như bông tuyết, nhẹ tênh không chút sức lực:

"Con trai ngoan, đừng buồn, là tại mẹ làm khổ con, đây đều là số kiếp cả mà."

Trong khoảnh khắc dòng lệ trào ra, cậu không phải buồn, mà là phẫn nộ, một sự phẫn nộ không thể đè nén. Cậu bỗng đứng bật dậy, lớn giọng nói:

"Mẹ, đây không phải là số kiếp, bọn họ không thể đối xử với chúng ta như vậy."

Không để mẫu phi nói thêm nữa, đã xông thẳng ra cửa. Vô số bông tuyết cuộn lên đầy trời, gió bắc gào thét táp vào trên mặt như ngàn vạn lưỡi dao bén cắt qua.

 Cậu bé chạy một mạch như điên, hai bên dãy tường cung điện cao cao chạy dài như những triền núi miên man lặng lẽ, vĩnh viễn không nhìn tới điểm cuối.

 Cậu nghe được cả tiếng nước tuyết tan bị đạp văng tung tóe, nghe được cả trái tim mình đập cuồng loạn, nghe được hơi thở gấp gáp của mình.

 Trong đầu cậu chỉ có duy nhất một ý niệm, cậu muốn đi phòng bếp, muốn đem về cho mẫu phi một bát chè lạc Dương Canh. Cậu là hoàng tử, là con trai của đương kim Hoàng đế, mẫu phi bệnh như vậy, cậu không thể để người ngay cả một bát chè sữa đặc cũng không được ăn.

Cổng Chính Hòa, cổng Kinh Thái, cổng Vĩnh Phúc . . . từng cái từng cái đều bị cậu bỏ lại phía sau. Bỗng nhiên dưới chân trơn trượt, cả thân hình ngã ập xuống đất, đầu gối đau đến thấu xương, sau một lúc lâu vẫn không gượng dậy nổi.

Có tiếng bước chân lộn xộn, chậm rãi tiến lại gần, rồi bỗng nghe một tiếng cười phì.

Cậu ngẩng đầu lên, thấy rõ đang đứng từ trên cao nhìn xuống chính là Nhị hoàng tử Định Đường. Tên đó mặc một bộ áo gấm lông chồn, lớp lông dày mà trơn mềm trên mũ gió che mất đi phân nửa cái mặt tròn tròn của nó.

Định Đường trông thấy cậu nước tuyết bẩn thỉu nhem nhuốc khắp người mà thân hình thì chúc ngược mông cao hơn đầu bèn vỗ tay cười ầm lên:

"Thằng nhóc Hồi Hột, vồ ếch đẹp lắm, một cái chổng vó y như con rùa."

Trong đầu cậu nổ đùng một tiếng, máu nóng đầy đầu ngùn ngụt bốc lên như muốn ồ ạt xông ra. Không kịp nghĩ ngợi gì, cậu cố hết sức nhào lên chụp lấy tay Định Đường giật một cái thật mạnh. Bị bất ngờ không kịp đề phòng, Định Đường rốt cuộc bị kéo nhào từ trên xuống, ngã dập mặt ngay tức thì, bật khóc oa oa.

Bọn nội quan tức tốc xông tới nhưng tách sao nổi hai người.

 Cậu ôm ghì lấy Định Đường, còn Định Đường thì vừa khóc vừa chửi, cả hai quay cuồng trong đám bùn tuyết, cậu ra sức giáng những cú đấm liên tiếp như mưa. Định Đường cũng ra sức giãy giụa, cũng tay đấm chân đá.

 Vốn Định Đường lớn hơn cậu đến vài tuổi, thế nhưng không biết sức mạnh từ đâu ào tới, cậu ngang ngạnh quyết không buông. Định Đường phát hoảng, miệng vừa gào khóc vừa mắng dọa:

"Cái thằng Hồi Hột khốn kiếp kia, có thả tao ra không, tao kêu mẫu hậu giết chết mày! Giết mày!"

Lửa giận hừng hực bốc lên, cõi lòng vốn đã bừng cháy từ lâu nay lửa rực lên cũng chẳng chốc tan thành tro bụi, khí thế ào ạt như dời non lấp biển.

 Cậu để mặc cho ngọn lửa lòng bùng lên đỏ ngầu hai con mắt, cưỡi trên người Định Đường, dùng hai bàn tay mà kẹp lấy cổ tên nhóc kia. Định Đường lập tức không thở nổi.

Bọn nội quan cũng cuống quít chân tay, kéo ra không nổi, chỉ đành gắng sức nạy từng ngón tay của cậu, cậu thà chết cũng không buông.

 Hai mắt Định Dường dần dần trắng dã. Bọn nội quan hoảng quá, tay cũng dùng hết sức, chỉ nghe "rắc" một tiếng, ngón trỏ tay phải của cậu đau đến điếng óc, đau muốn ngất xỉu tại chỗ. Bọn nội quan cuối cùng cũng lôi cậu ra được, vội đỡ Định Đường dậy.

Ngón trỏ buông thõng xuống, cậu chưa từng đau đến như vậy, cơn đau cơ hồ lan đến tận tim.

Bọn nội quan đang sốt ruột lo lắng kiểm tra xem Định Đường có bị thương ở đâu không, còn cậu bé đang ngã trong vũng nước, thì chẳng có lấy một người thèm để mắt đến.

Xương ngón tay trắng hếu bị gãy đâm ra bên ngoài da thịt, máu trườn theo cổ tay nhỏ xuống từng giọt từng giọt trên tuyết, nở ra những đóa hoa đỏ rực.

Cậu không khóc, cậu tuyệt đối không muốn khóc. Chẳng sợ hôm nay bọn chúng có đánh cho gãy tay què chân, cậu cũng không muốn khóc một tiếng.

Mẫu phi đã từng nói, hồi ấy trên vùng thảo nguyên mênh mông, binh sĩ Hồi Hột từ xưa tới nay chỉ có đổ máu chứ không rơi lệ.

Cậu cố gắng ngửa mặt lên, trong vô số bông hoa tuyết từ trên trời cao rơi xuống, mỗi một bông thanh khiết trắng trong đều như một ánh mắt dịu dàng hiền hậu của mẹ. 

[1]Cửa Thùy hoa (cửa núm tua):một kiểu cửa trong kiến trúc nhà thời xưa, trên có mái, bốn góc buông bốn trụ lửng, đỉnh trụ chạm trổ sơn màu.

[2]Lụa sống: lụa dệt từ tơ sống.

[3]Tiết Cốc vũ: một trong 24 tiết trong một năm, vào khoảng 19, 20 hay 21 tháng tư.

[4]Chè Dương Canh: một loại điểm tâm nấu bằng bột đậu đỏ, va-ni, đường cát.

NGÀY ẤY NẾU MÀ TA CHẲNG GẶPThình lình có một luồng mãnh lực bay nhanh về phía cậu, cậu theo phản xạ né mặt đi, tuy nhiên vẫn không thể kịp, Định Đường đã phóng một cú đá thật mạnh vào thẳng mặt cậu. Mũi giày nhọn rất nặng bằng da trâu trúng ngay bên khóe mắt, tức thì máu theo đó mà chảy ra. Nhìn thấy máu cũng không khiến cho Định Đường chịu dừng tay, còn chửi:"Cái thằng con tạp nhà mày dám đòi giết tao hả? Tao hôm nay phải lấy cái mạng chó của mày mới xong."Bọn nội quan tuy mở mồm khuyên dỗ, nhưng chẳng đứa nào ra tay ngăn cản.Cậu che chở tay trái bị thương, cố gắng né tránh những cú phản công của Định Đường. Cậu vốn tuổi nhỏ sức kém, ngón tay bị thương khiến thân hình cũng trở nên chậm chạp. Bọn nội quan làm ra vẻ như khuyên can, song thực tế lại tranh thủ nhắm vào trên hai chân cậu mà đá, cậu nhanh chóng rơi vào thế hạ phong.Những nắm đấm rơi xuống trên đầu trên mặt như mưa trút xối xả, da thịt đau đớn dần dần trở thành tê dại, trong lòng rốt cuộc dâng lên một nỗi tuyệt vọng vô bờ.Cho dù chết, cậu cũng không muốn chết trong nỗi uất nghẹn.Bỗng nhiên có một bàn tay vươn ngang đến, túm lấy cánh tay cậu bé. Cậu ngẩng đầu lên, thì ra là tứ hoàng tử Định Thuần. Huynh ấy không có ngồi kiệu, phía sau cũng chỉ có hai nội quan đi theo.Một thiếu niên mười hai tuổi thân hình gầy yếu, trông qua chỉ như một cậu chàng mới lớn có vẻ thư sinh nhã nhặn, thế nhưng cánh tay lại có sức mạnh như vậy, lập tức đã kéo được cậu đứng lên, sau đó khom người hành nửa lễ với Định Đường:"Kính gặp Nhị ca."Định Đường khẽ nhếch khóe môi, hừ mũi một tiếng, khinh khỉnh hỏi:"Mày làm cái gì vậy?"Vẻ mặt Định Thuần lạnh lùng không biểu hiện một chút gì, nhìn thẳng về phía gã nội quan Cận Truyền An đứng ở sau Định Đường, hỏi:"Ý chỉ của Hoàng thái hậu được Càn Dụ môn lập thiết bài, truyền trên cung quy hai mươi sáu điều, điều thứ mười ba là gì?"Cận Truyền An không hề đề phòng câu hỏi này của cậu, cung quy trên thiết bài từ thuở nhỏ đã thuộc làu làu, buột miệng đáp:"Xúi giục chủ nhân gây bất hòa, đánh sáu mươi gậy, đuổi vào Tích Thiện đường vĩnh viễn không được trọng dụng nữa."Định Thuần gật đầu một cái:"Người đâu, đi lấy gậy, ta thay Nhị ca dạy dỗ bọn nô tì xúi hại chủ nhân này!"Cận Truyền An sợ hãi giật thót, mà Định Đường làm sao chịu để yên như thế. Nó là con trai của Hoàng hậu, trong khi Định Thuần chỉ là con của Hạ phi xuất thân là tỳ nữ của mẹ nó. Định Đường vốn xưa nay vẫn coi khinh Định Thuần, ngạo nghễ nói:"Mày bớt xía vào chuyện người khác đi."Định Thuần khẽ nhếch lông mày:"Nhị ca, Thất đệ là em của chúng ta, không phải là chuyện người ngoài."Định Đường cười hì hì nói:"Tao mới không thèm cái đồ con tạp Hồi Hột này làm em, mẹ hắn là đồ Hồi Hột mọi rợ, mẹ mày là con hầu thay quần áo cho mẹ tao, hai đứa chúng bay mới thật là một đôi anh em trời sinh đó."Định Thuần cắn chặt đôi môi, trong con ngươi lóe lên một tia sáng. Định Đường cười nhạo một tiếng:"Thế nào? Nhìn bộ dạng của mày, chả nhẽ còn dám cản trở tao?"Đột nhiên vung tay, một quyền lập tức hướng về phía Định Loan.Định Thuần đẩy Định Loan ra theo phản xạ, đoạn nhanh tay bắt lại một đấm này của nó. Định Đường giận dữ, bước lên tính đánh tiếp, Định Thuần che cho Định Loan ở phía sau, chớp mắt cả ba người đã lại lăn lộn một đống ở trong tuyết, không có cách gì kéo ra được nữa. Đợi đến lúc Văn Tấn tới cùng bọn nội quan ba chân bốn cẳng chạy lại tách bọn họ ra, thì cả ba sớm đã mặt mũi bầm dập.Nhìn qua biết là đã lớn chuyện rồi, tất nhiên không thể giấu giếm được nữa.Hoàng đế nghe báo lại đương nhiên vô cùng giận dữ, tức khắc cho triệu ba người đến.Rất nhiều năm sau, khi thất hoàng tử Định Loan đã là một Dự Thân Vương, vẫn còn nhớ như in tình cảnh lần đầu tiên bước chân vào điện Thanh Hoa ấy.Điện Thanh Hoa từ trước tới nay là nơi ở của Hoàng quý phi, quy mô cấu tạo gần như tương đương với cung điện Khôn Nguyên bậc nhất của Hoàng hậu.Cung nữ vừa vén tấm mành bằng gấm nặng trịch lên, Định Loan cảm thấy một luồng gió phất qua mặt, mang theo đàn hương thượng hạng nhàn nhạt ấm áp, khắp nơi trong điện chỗ nào cũng ấm tựa mùa xuân.Cung nữ dẫn bọn họ vào trước noãn các, khẽ vén rèm – loại rèm này được kết toàn bằng hạt trân châu, nặng, mỗi hạt to nhỏ đều tròn vành vạnh, ánh ngọc lấp lánh chớp nhoáng, mờ mờ như làn khói ráng bao phủ.Trong noãn các rộng rãi sáng sủa, trang trí dăm ba đóa sơn trà. Thời gian này vốn không có hoa quý, tất cả các loại hoa đều nhập từ trong hầm ủ ở châu Ký Nam, sau đó bảo quản cạnh lò sưởi theo thuyền cống nạp vào kinh.Định Loan nhìn hoa, cũng không biết loài hoa ấy tên gọi là gì, chỉ thấy hồng hồng trắng trắng nở rộ tươi tắn vô ngần.Lồng ủ trong phòng rất ấm, thậm chí còn khiến người ta hơi có cảm giác muốn đổ mồ hôi.Nỗi chua xót lại âm ỉ gợn lên trong lòng, cậu nhớ tới mẫu phi ở trong cung Vĩnh Thái, cả cái cung sánh ngang với một hầm băng. Nghĩ vậy bèn cảm nhận đáy lòng có vật gì chợt vỡ nát, âm thanh dù vi tế, nhưng cậu biết cả cuộc đời này cũng không thể trở về nguyên vẹn được nữa.Một cung nữ mặt mày xinh xắn vừa đi bẩm báo đã quay lại, cung kính thưa:"Cho truyền ba vị hoàng tử."Theo cung nữ dẫn đường, ba người đi qua mười tám tấm bình phong bằng gỗ trắc mạ vàng, ngay cả một kẻ thường hợm hĩnh kiêu căng như Định Đường cũng trở nên rụt rè.Ba người gặp Hoàng đế bèn hành đại lễ, đồng loạt dập đầu:"Thỉnh an phụ hoàng."Bẵng một lúc lâu mà không nghe tiếng đáp lại, Định Loan xưa nay lớn mật, lặng lẽ ngẩng đầu lên, thình lình bắt gặp một đôi con ngươi đen thẫm mà sáng quắc đối diện, lòng không khỏi nao nao.Đầu kia bàn đọc sách có một ánh mắt thấp thoáng nét bướng bỉnh đang cười cười, mang theo đôi chút hiếu kỳ nhìn bọn họ.Trong lòng Định Loan chợt thắt lại.Tuy rằng hàng ngày ít khi gặp mặt, song cậu nhận ra được đôi mắt này, đó chính là hoàng tử thứ sáu Định Trạm lớn hơn cậu một tuổi. Hoàng đế lúc bấy giờ đang tự mình dạy cậu ta mô phỏng thư thiếp, nắm bàn tay nho nhỏ, thảo từng nét chữ, nhàn nhạt nói:"Tập viết như tập bắn cung, phải dốc lòng học hỏi, không chịu chuyên tâm còn ở đó mà ngó lung tung cái gì?"Gương mặt thiếu niên tám tuổi, ở trước mặt người cha nghiêm khắc lại có một vẻ thong dong mà bọn họ chưa từng có, khóe miệng nở nụ cười:"Phụ hoàng, nhi thần là đang nhìn hai vị ca ca cùng thất đệ, không phải ngó lung tung."Hoàng đế buông lỏng tay ra, cười nói:"Chỉ được cái giỏi múa mép."Trong giọng điệu chan chứa một sự yêu chiều mà bọn họ cho tới bây giờ chưa từng nghe qua. Định Loan không khỏi cúi gằm mặt xuống.Lúc này Hoàng đế mới quay sang phía bọn họ, bảo:"Đều đứng lên cả đi."Dừng lại giây lát, lại nói:"Đi qua chào mẫu phi."Hoàng quý phi Mạo thị sinh ra hoàng tử Định Trạm, vào ngày sinh nở vì bị cảm lạnh nên đến giờ còn để lại di chứng hay nhức đầu, trong một năm thì bệnh mất nửa năm, ba vị hoàng tử xưa nay khó được thấy mặt bà, thế là cả ba lại hành lễ thỉnh an một lần nữa.Nhan sắc Mạo quý phi cũng không phải xinh đẹp phi thường gì, nhưng lúc cười lại thắm một vẻ dịu dàng hòa ái khiến người ta an lòng, lời nói cũng ôn hòa rất mực:"Mau mau đứng lên nào."Chợp thấy bên dưới mi mắt Định Loan có thương tích, không kìm được vươn tay đến:"Đau lắm phải không?"Định Loan chợt quay ngoắt mặt đi, tay Mạo quý phi vẫn xấu hổ chừng hững giữa không trung.Hoàng đế vốn sẵn bực mình, thấy cậu như thế, sắc mặt càng thêm sa sầm:"Định Loan, ai dạy cho ngươi vô lễ với mẫu phi như thế hả?"Định Loan giương mặt lên:"Bà ấy không phải mẫu phi của Định Loan, Định Loan chỉ có một người mẹ mà thôi."Hoàng đế tức giận đến tột độ, nhưng ngược lại còn cười nói:"Được, được lắm, hiện tại các ngươi đều có triển vọng cả, học đánh nhau xong giờ lại học chống đối trẫm."Mạo quý phi thấy ông nổi khùng, bèn vịn vào mép bàn đứng lên, nói:"Hoàng thượng bớt giận, cậu bé nhóc nói chuyện không đúng mực, Hoàng thượng không cần phải chấp nó không hiểu biết."Vừa nói, vừa nháy nháy mắt với Định Loan, ai ngờ Định Loan đã không cảm kích, còn lớn tiếng phản bác:"Ta không phải cậu nhóc."Đoạn hung hăng quay qua trợn mắt với Mạo quý phi một cái:"Không cần bà vờ vĩnh giả bộ."Hoàng đế tức đến độ giọng nói cũng đổi:"Đồ nghịch tử!"Nhìn chung quanh, thấy trên bàn sách đầy dụng cụ viết vẽ đều không phải thứ có thể cầm đánh được, trong cơn thịnh nộ cũng chẳng nghĩ nhiều, tiện tay vớ một khối ngọc trắng dùng để đè giấy, nhằm thẳng đầu cậu mà ném.Mọi người trong phòng đều chưa hề thấy ông nổi khùng như thế bao giờ, trong nháy mắt đều kinh hãi mà ngây ra, Mạo quý phi thì sợ tới mức mặt hoa thất sắc. Bà vốn đứng cách chiếc bàn khá xa, mắt thấy mà không kịp ngăn cản, Hoàng đế đã vung tay ném xuống.Định Thuần bất ngờ lao ra, cũng không dám đưa tay ngăn cản, liền nhào đến trên người Định Loan, cú ném của Hoàng đế liền nện thẳng vào trên lưng cậu. Cái đè giấy kia cực nặng, làm toàn thân cậu đau đến co rúm lại.Lúc này Định Trạm đứng trước bàn đọc sách bật tiếng kêu thất thanh:"Phụ hoàng!"Một hồi lâu sau Định Thuần mới thở nổi, lưng đau đến nóng rát, thế nhưng vẫn cứ giữ chặt Định Loan sau người. Định Loan tái mét mặt mày.Hoàng đế vốn đang trong cơn thịnh nộ, lại bắt gặp mấy đứa con đều đang sợ tới mức hóa thành đầu gỗ, ngay cả Định Trạm cũng lo lắng không yên nhìn mình, mà Mạo quý phi thì sớm đã nước mắt lưng tròng quỳ xuống. Bà quỳ như thế, nội quan cung nữ chen chúc trong ngoài noãn các cũng đều đồng loạt quỳ sụp xuống. Dẫu sao đều là cốt nhục thân sinh, Hoàng đế rốt cục mềm lòng, nhưng chỉ thoáng chốc vẻ mặt u ám trở lại."Cút hết ra ngoài cho ta."Định Loan bình tĩnh nhìn cha, giống như cho đến bây giờ chưa từng được nhìn thấy, ánh mắt của một đứa nhỏ bảy tuổi, lại khiến cho Hoàng đế thoáng chột dạ.Định Thuần kéo áo Định Loan, khom mình thưa:"Chúng con xin cáo lui."Rồi lôi Định Loan ra ngoài. Định Đường cũng mặt vàng như đất lui ra.Đó là lần cuối cùng trong cuộc đời chàng gào khóc, ở trên đầu vai gầy gò của Tứ ca. Nhớ đến khuôn mặt giữ tợn kia của phụ hoàng, chàng thực lòng căm hận chính bản thân mình. Hận bản thân tại vì sao sinh ra trên đời này, hận sao mình không chết đi, không bằng chết đi còn hơn là sống như vậy.Sống ở thế gian như kẻ dư thừa, sống mà phải chịu sự khinh thường của cha, chứng kiến sự đau thương của mẹ.Đầu vai gầy của Định Thuần cơ hồ hóa thành bức tường đá, chàng bất kể đúng sai đặt lên đó toàn bộ bất lực cùng tuyệt vọng mâu thuẫn, để cho hết thảy những dòng nước mắt nóng bỏng hòa thành nỗi bi thương tê tái cõi lòng.Định Thuần ở bên trông chàng khóc rất lâu, sau đó ngự y giúp bọn họ kiểm tra vết thương. Ngón tay trỏ của chàng bị gãy xương, mặc dù đã đắp xong thuốc rồi, rốt cuộc vẫn không có tí sức lực nào.Các hoàng tử đều đến năm tuổi thì được học bắn tên, năm ấy chàng vốn đã có khả năng sử dụng một cung nhỏ nặng chừng một tạ, thế mà từ nay về sau lại thành tàn phế. Tay phải của chàng ngay cả bút đều nắm không nổi, lúc cầm đôi đũa không có tí lực nào khiến chàng toát cả mồ hôi lạnh.Chàng không bao giờ còn khóc nữa.Nhìn trên lưng Tứ ca có một vết bầm lõm tụ máu – nếu một ném mà trúng vào trên đầu chàng, chỉ sợ bản thân đã không còn tồn tại trên đời này.Từ đây chàng sẽ không còn cha, hoặc có thể từ trước đến nay chàng vốn chưa từng có một người cha. Một tia hy vọng cuối cùng cũng chỉ là ảo ảnh, bấy giờ như tỉnh giấc mộng, còn lại bên mình cũng chỉ có mỗi Tứ ca, luôn luôn yên lặng vô thanh vô tức nhưng sẽ không bao giờ rời bỏ chàng.Chàng dần dần học cách sử dụng tay trái cầm bút, dùng đũa. Cứ mỗi một sáng sớm sương rơi đầy đất, cho đến mỗi buổi hoàng hôn canh gõ một tiếng vang, dây cung giắt vào trên ngón tay, hằn vào da thịt, hằn vào xương tủy. Nỗi đau đớn hiển hiện này nằm trong sâu thẳm trí nhớ, chậm rãi đóng vẩy, chỉ có mình chàng biết, rằng bên dưới vẫn đầm đìa máu tươi.Chàng luyện bắn tên như điên như cuồng, mỗi ngày cánh tay đều chịu cảm giác như vừa phải đổ cả đống sắt thép ngàn cân, đau nặng đến nỗi đôi đũa cũng không nhấc lên nổi. Nơi ngón tay cái, vĩnh viễn hằn thật sâu một vết dây cung.Không có cách nào dừng lại. Nếu dừng lại dù chỉ một chút, trong đầu luôn thoáng hiện lên cảnh tượng kia, một cảnh tượng làm cho chàng đau đớn kinh hoàng. Chỉ có liên tục bật dây cung, lắp lên một mũi tên, nín thở tập trung nhắm vào một cái đích kia, đầu chàng mới có thể trống rỗng, mới có thể tạm thời bình yên.Chàng khao khát một sự an bình như thế, tựa như một người ở giữa sa mạc mênh mông khao khát một giọt nước. Chàng cứ một tên lại một tên, ngày qua ngày không ngừng theo đuổi, vĩnh viễn không thể dừng lại."Phập!"Một mũi tên đã cắm ở trên tấm bia, xuyên sâu qua vòng tâm, đầu mũi tên sắc nhọn dính nước sơn màu đỏ, dưới ánh mặt trời lóe lên một tia sáng bạc lạnh lẽo.Sau đó lại nổi lên từng đợt tung hô như sấm dậy, bọn nội quan inh ỏi hò hét:"Thất hoàng tử đúng là đỗ đầu trạng nguyên!"Người thiếu niên ngạo nghễ ghìm cương ngựa, trên khuôn mặt đã có vài phần khí chất lạnh nhạt của tứ ca Định Thuần.Võ nghệ của chàng đã được phong là đệ nhất trong đám hậu duệ quý tộc, ngay cả vị hoàng tử thứ sáu là Định Trạm do đích thân Mộ đại tướng quân dạy dỗ cũng không phải là đối thủ của chàng. Tân trạng nguyên khoa võ tỷ thí cưỡi ngựa bắn tên với chàng, cuối cùng cũng cúi đầu bại trận; Hoàng đế cũng tấm tắc khen "con ngựa hoang chạy ngàn dặm của triều ta".Tất cả đều đã quá muộn!Người thiếu niên mười lăm tuổi kia đối với những lời ngợi ca cùng tán tụng ào ào như nước cũng lười chẳng buồn để tâm tới."Cả ngày lẽo đẽo theo Định Thuần, rốt cuộc cũng học một bộ dạng kỳ quái của Định Thuần."Nhị hoàng tử Định Đường ghen ghét nói móc:"Nhìn cái dáng vẻ của hắn kìa, đừng nói là cho tới bây giờ chưa bao giờ cười, có lẽ ngay cả khóc hắn cũng chưa từng khóc lần nào."Chàng quả thực đã không còn khóc.Rất nhiều năm sau, khi mẫu phi cuối cùng phải ra đi trong nỗi cô đơn lạnh lẽo, chàng cũng không hề nhỏ một giọt lệ. Thân thể của mẫu phi vốn đã suy sụp, có thể thoi thóp nhiều năm như vậy cũng đã là một kỳ tích.Lúc đó chàng còn đang dẫn đại quân xuất chinh đóng tại ải bắc Kỳ Đà, sa mạc cuồn cuộn bão cát tựa như đao kiếm cắt trên khuôn mặt lãnh đạm của chàng. Cầm trên tay sắc lệnh khẩn cấp từ sáu trăm dặm, lệnh rằng quyết định truy phong cho mẫu phi vừa qua đời của chàng làm Kính Hiền quý phi.Đó bất quá cũng bởi vì tình trạng chiến tranh đang cấp bách, Nhĩ Cách Khả Hãn của bộ tộc Hồi Thản Hồi Hột là cậu ruột của chàng, triều đình phải động binh hai nơi, không thể không lần cuối làm bộ "lá mặt lá trái" này đối với dân Hồi Hột.Lần cuối cùng ấy, để rồi đúng một năm sau chính chàng lại tự mình dẫn hai mươi vạn kỵ binh giáp sắt quay trở lại chốn thảo nguyên Hồi Thản bao la ngút ngàn, nơi mẫu thân cả đời nhớ thương, nơi mười chín năm qua chàng chưa một lần đặt chân trở về . . .Thương vàng ngựa sắt, đại quân càn quét mãnh liệt như nước đại hồng thủy, thế như chẻ tre, toàn bộ thảo nguyên Hồi Hột, cùng với ba bộ lạc Oát Nhĩ Hàn đều nhận lấy cái kết diệt vong. Từ đây biên cương phía bắc bình định, sẽ không còn phải nhọc lòng băn khoăn một điều gì nữa.Ngày khải hoàn, Hoàng đế lệnh cho đương kim Thái tử tự mình ra tận cổng Thắng Môn chào đón, Thái tử hân hoan vạn phần cầm tay chàng nói:"Thất đệ vất vả rồi."Khiên giáp rung động kêu loảng xoảng, chàng quỳ xuống hành lễ, kính cẩn đáp:"Vốn là nhờ hồng phúc của phụ hoàng, mà không phải là công sức của đệ vậy."Thái tử ban thưởng yến tiệc, khao thưởng ba quân. Trong lời hoan hô như sấm dậy, Thái tử mỉm cười, nói:"Thất đệ thiếu niên anh hùng, bình định đất Hồi Hột, vang danh cho đất nước, phụ hoàng cùng ta đều an tâm được rồi."Chàng chỉ kính cẩn đáp:"Vâng."Bọn họ có phải đều đã quên, trong máu chàng chảy một nửa dòng máu Hồi Hột? Ở trên thảo nguyên bao la ngàn dặm chốn ải bắc Kỳ Đà, chàng được âu yếm gọi là "sơ sơ lạc tắc", theo ý nghĩa của người Hồi Hột tức là "con sói con".Nghe rằng, Nhĩ Cách Khả Hãn sau khi bại trận phải tuốt gươm tự vẫn, từng ngửa mặt mặt lên trời mà than:"Sinh ra một sơ sơ lạc tắc, ai ngờ có ngày nó quay trở về cắn chết mình vậy."Nhị hoàng tử Định Đường cũng âm thầm nói:"Cái đồ con tạp Hồi Hột này, sớm muộn cũng có ngày thành dã sói cắn chết những kẻ dám xem nhẹ hắn."Đó là năm Thiên Hữu thứ bốn mươi ba, Hoàng đế bệnh tật triền miên nằm liệt giường đã hơn nửa năm. Hoàng Thái tử phụng chỉ cai quản đất nước, Duệ Thân Vương lại trực tiếp lãnh công sự nội vụ quốc gia, trong triều dần dần chia làm hai phái, một phái ủng hộ dòng trưởng, một phái ủng hộ Duệ, mặc dù chàng đang ở ngoài biên giới, cũng nghe nói đôi lời ra tiếng vào.Hôm đó, vào ngày Nghị Thân Vương Định Thần mở yến tiệc chào đón chàng trở về, hai người đều uống say túy lúy ngả lưng trên một cái sạp. Nửa đêm chàng khát quá tỉnh dậy, một hơi tu hết một bình trà lạnh ngắt, đã thấy Tứ ca ngồi dưới đèn xem tấu chương. Thấy chàng tỉnh lại, Định Thuần chỉ nhàn nhạt nói:"Sổ sách này đệ đọc rồi sửa chữa, sáng mai tiến triều đi."Chính là tấu chương xin tự thoái bỏ binh quyền, ánh mắt Định Thuần vẫn lạnh lùng như hơn mười năm về trước:"Hiện thời thế cục đại loạn, chúng ta chỉ có thể trước tiên tự bảo vệ lấy mình."Vẻ mặt chàng dưới ánh đèn mờ mờ đã tỉnh như sáo, chỉ nói:"Tứ ca, việc gì đệ cũng đều nghe huynh."Thỏ ranh chết, chó săn đun. Một hoàng tử như chàng rốt cuộc cũng không nằm ngoài số phận của một quân cờ trong đại cục. Hồi Hột đã diệt vong, chàng thân mang võ công cao cường, từ đây trong mắt những kẻ kia chính là cái đinh giắt trong thịt.Quả nhiên, cuối cùng vẫn bị lọt vào trong cái bẫy giăng sẵn của Hoàng Thái tử.Chàng vĩnh viễn sẽ không thể quên cái khoảng thời gian ấy, bị giam giữ trong chốn thiên lao đen tối không hề có sự hiện diện của thiên lý, đói khát, nhục nhã, cộng vào đó là một sự phẫn uất không thể nào ức chế. Đáy lòng tựa như có một ngọn lửa rừng rực, thiêu đốt con người chàng, thiêu đốt tất thảy toàn bộ.Đã nhiều năm như vậy, đã cách nhiều năm như vậy, một lần nữa chàng lại trở về thời thơ ấu. Bất lực đó, nhục nhã đó, rốt cuộc lại một lần nữa chàng mất đi tất cả.Bọn họ dùng phương thức này để làm nhục chàng, dùng phương thức này để hãm hại chàng, vậy mà chàng vẫn chẳng làm được gì. Cứ bật lực bị tống vào ngục như thế, từ mỗi buổi sáng mai, đến mỗi chiều hoàng hôn xế bóng, để mặc nỗi uất hận thỏa thê gặm nhấm từng mảnh tôn nghiêm còn sót lại của chàng.Định Thuần dùng hết cách mới thấy được mặt chàng, cách một hàng song gỗ sần sùi đen nhẻm trong thiên lao, Định Thuần siết chặt lấy tay chàng, mà chàng thì mím chặt đôi môi, không nói một lời."Thất đệ, ta sẽ vì đệ rửa sạch oan khuất."Oan?Thiên hạ đều biết chàng oan như thế nào sao? Chẳng lẽ phụ hoàng không biết là chàng bị oan uổng?Là cha của chàng đó, thế nhưng chỉ với một câu thánh chỉ đã tống chàng vào cái chốn này, chính câu nói đầu tiên của người kia đã gạt bỏ toàn bộ nỗ lực suốt hơn mười năm qua của chàng. Chàng phải dùng đến tận mười năm mới lại một lần nữa cất đầu dậy được, vậy mà người kia chỉ nhẹ nhàng đẩy một cái, liền khiến cho tất cả ngay đó sụp đổ.Chàng đã không còn có cha nữa rồi. Cửu ngũ chí tôn trên ngôi báu kia, cũng chưa từng mang đến cho cuộc đời chàng một chút vui vẻ, chung quy chỉ có tận tâm tận lực vứt bỏ, tận tâm tận lực nhục mạ.Cuối cùng là giam lỏng.Bị nhốt trong vương phủ đằng đẵng bao năm trời, ngày qua ngày, cho đến khi toàn bộ ý chí ngút trời, cứ thế hao mòn đến khi mất hẳn; khiến cho bao khí phách cuồng nhiệt của tuổi trẻ, dần dần bốc hơi thành hai tấn muối khô.Chàng cũng không phải là trở nên già cỗi, chỉ là tâm đã nguội lạnh, từ này về sau trái tim đã như tro tàn. ~0~Thư thiếp: loại thiếp viết các mẫu thư pháp để những nhà Nho thời xưa xem và học viết theo để luyện chữ cho đẹp, chẳng hạn như thiếp Lan Đình là thư thiếp nổi tiếng được coi là chuẩn mực do Vương Hy Chi đời Tấn viết ra.Nguyên văn:"thạch" – 1 tạ của Trung Quốc nặng tầm 60 kg.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro