Trạng Quỳnh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Truyện trạng Quỳnh 

Đầu to bằng cái bồ

     Chuyện kể rằng lúc Quỳnh còn nhỏ, mới bảy tám tuổi, Quỳnh đã tỏ ra thông minh 

đỉnh ngộ nhưng cũng là một đứa trẻ chúa nghịch. Hồi ấy bọn trẻ thường chơi trò xước 

xách, lấy tàu chuối làm cờ, lá sen làm lọng. Trong trò chơi, Quỳnh bao giờ cũng lấn lướt. 

      Một đêm mùa thu, trăng tháng tám sáng vằng vặc, đang chơi với đám trẻ ở sân nhà, 

Quỳnh bảo: 

      - Chúng bay làm kiệu cho tao ngồi, rồi tao đưa đi xem một người mà cái đầu to bằng 

cái bồ! 

      Lũ trẻ tưởng thật, liền tranh nhau làm kiệu rước Quỳnh đi vòng vòng quanh sân, mệt 

thở muốn đứt hơi. Xong, chúng nhất định bắt Quỳnh phải giữ lời hứa. Lúc ấy trăng đã 

mờ, Quỳnh bảo: 

      - Tụi bây đứng đợi cả ở đây, tôi đi đốt lửa soi cho mà xem! 

      Bọn trẻ nhỏ hơi sợ, không dám  ở lại, chỉ những  đứa lớn hơn, bạo dạn  đứng chờ. 

Quỳnh lấy lửa thắp đèn xong đâu đấy, rồi thò đầu che ngọn đèn, bảo: 

      - Kìa, trông trên vách kìa. Ông to đầu đã ra đấy! 

      Anh nào cũng nhìn nhớn nhơ nhớn nhác, thấy bóng đầu Quỳnh ở vách to bằng cái bồ

thật. Lũ trẻ biết Quỳnh xỏ, quay ra bắt Quỳnh làm kiệu đền, Quỳnh chạy vào buồng đóng 

cửa lại, kêu ầm lên. Ông bố tưởng là trẻ đánh, cầm roi chạy ra, lũ trẻ chạy tán loạn.  

  

Đất nứt con bọ hung

   

  

      Từ thuở bé, ngoài tính nghịch ngợm, hiếu động, Quỳnh còn tỏ ra thông minh xuất 

chúng khi học rất giỏi và đối đáp hay, nhất là khi ứng khẩu. 

     Trong làng cậu bé Quỳnh có một người hay chữ nhưng tính tình kiêu ngạo, đi đâu 

cũng khoe khoang, tên gọi là ông Tú Cát. Tất nhiên, từ nhỏ Quỳnh đã ghét những người 

có bản tính như vậy. Một hôm, Quỳnh đang đứng xem đàn lợn ăn cám thì Tú Cát đi qua. Đã được nghe người ta đồn đãi về thần đồng này, Tú Cát không ưa gì Quỳnh, ông ta ra vẻ

kẻ cả gọi Quỳnh đến bảo: 

      - Ta nghe thiên hạ đồn mày là đứa thông minh, ứng đáp rất giỏi. Bây giờ ta ra cho 

mày một vế đối, nếu mà không đối được thì sẽ biết tay. Nhất định ta sẽ đánh đòn cho 

chừa các tật láo, nghe chưa! 

     Nói xong, không đợi Quỳnh thưa lại, Tú Cát liền gật gù đọc: 

      - "Lợn cấn ăn cám tốn." 

     Đây là một câu đối rất hắc búa bởi "Cấn" và "Cám" vừa chỉ lợn và thức ăn của lợn, lại 

vừa là hai quẻ trong kinh Dịch, người có học nhiều còn thấy khó. Thế nhưng, không nao 

núng, Quỳnh đọc lại ngay: 

      - "Chó khônss chớ cắn càn." 

     Quả là một vế đối vừa chỉnh vừa có ý xỏ xiên. "Khôn" và "Càn" cũng là hai quẻ trong 

kinh Dịch, Quỳnh lại còn ngầm ý chưởi Tú Cát là đừng có mà rắc rối. Bị thằng nhỏ hơn 

mình chơi lại một đòn đau, Tú Cát tức lắm, hầm hầm bảo: 

      - Được để coi mầy còn thông minh đến cỡ nào. Tao còn một vế nữa, phải đối ngay thì 

tao phục! 

     Nói xong Tú Cát đọc ngay: 

      - "Trời sinh ông Tú Cát!" 

     Vế vừa ra mang tính cách ngạo nghễ, phách lối. Nào ngờ, Quỳnh chỉ ngay xuống đất, 

dưới lớp phân heo đùn lên những ụ nhỏ mà đáp: 

      - "Đất nứt con bọ hung!" 

     Đến nước này thì dù tức đến hộc máu mồm, Tú Cát cũng đành cút thẳng. 

  

   

Dê đực chửa 

     Tiếng tăm về một thần đồng nhanh chóng được truyền tụng khắp nơi, ngày càng lan 

rộng và đến tận kinh đô. Nhà vua muốn biết hư thực ra sao, nhưng là người chuộng nhân 

tài, sau khi suy nghĩ, vua bèn ban lệnh: Cả phủ Thanh Hóa, mỗi làng phải đem nộp một 

con dê đực đang chửa. Sau hai tháng, nếu làng nào không có sẽ bị trị tội. Cái lệnh chéo 

ngoe ấy tất nhiên làm dân chúng phủ Thanh Hóa shốt hoảng sợ hãi. Cả làng Quỳnh ở, ai 

cũng nhớn nhác lo âu. Tìm đâu ra dê đực chửa? Mà từ xưa đến giờ đã nghe ai nói cái 

chuyện lạ lùng ấy đâu! Thế nhưng, khi biết chuyện đó, Quỳnh nói với bố:       - Chuyện gì chớ chuyện này xin bố đừng lo. Bố cứ bảo dân làng chuẩn bị cho con một 

trăm quan tiền và gạo ăn đường, con sẽ kiếm được dê đực chửa cho làng. Nghe Quỳnh 

nói vậy, ông bố không tin, nhưng cũng thưa lại vơi dân làng. Người tin kẻ nghi nhưng 

không còn có cách nào khác, mọi người đành làm theo yêu cầu của Quỳnh. Sáng hôm 

sau, hai cha con Quỳnh lên đường. Họ đến kinh đô khi nhà vua có việc đi qua cửa Đông. 

Quỳnh nép xuống cống sát vệ đường chờ. Khi xa giá nhà vua đến gần, Quỳnh khóc rống 

lên. Nghe tiếng khóc có vẻ lạ, vua sai lính lôi  đứa trẻ đang khóc lên hỏi nguyên do. 

Quỳnh vờ như không biết đấy là vua, càng gào to, kể lể: 

      - Mẹ tôi đã chết mấy năm nay, tôi nói mãi mà bố tôi không chịu đẻ em bé cho tôi bế... 

      Vua nghe nói câu ấy, bật cười bảo rằng: 

      - Ôi chao quả là một thằng bé đần độn. Ba mày là đàn ông mà đẻ làm sao được? 

      Chỉ đợi cho vua nói vậy, Quỳnh liền nín ngay, rồi đứng chắp hai tay lại, nói thật trang 

nghiêm: 

      - Thưa ông, vậy mà nhà vua bắt dân làng tôi phải nộp dê đực chửa! 

      Nghe nói vậy, nhà vua giật mình, biết ngay đây là đứa bé thần đồng mà bấy lâu mình 

vẫn nghe đồn.    

   

Miệng kẻ sang

Bấy giờ Quỳnh đã hơi lớn, đang độ thiếu niên. Trên đường từ phủ về khát quá, Quỳnh 

vào một quán nước bên đường. Trong quán có một viên quan, dáng oai vệ, đang ngồi 

nhai trầu bỏm bẻm. Cạnh đó, có một lính vệ đứng hầu. Quan nhai xong, hách dịch vứt 

miếng bã trầu ra đất. 

      Quỳnh đang ngồi uống nước, thấy ngứa mắt liền bước lại cuối nhặt lên, ngắm nghía 

như muốn tìm kiếm cái gì, rồi đút vào túi. 

      Quan thấy lạ, hỏi: 

      - Mày là ai? Làm gì vậy? 

      Quỳnh làm bộ khúm núm đáp:       - Bẩm, con là học trò nghèo, lâu nay thường nghe người ta nói "Miệng nhà quan có 

gang có thép" muốn nhặt lên đem về coi thử có đúng thế không? 

      Biết mình bị xỏ, lại không biết tên học trò xấc xược này là Quỳnh, quan liền bảo: 

      - Đã xưng là học trò thì người phải đối ngay câu tục ngữ mà người vừa nói đó đi, hay 

thì ta thưởng, dở sẽ đánh đòn. Mà nhớ là tục ngữ phải đối bằng tục ngữ, nghe chưa! 

      Quỳnh giả bộ rụt rè, thưa thưa bẩm bẩm: 

      - Con sợ mang tiếng xấc xược... Không dám đối. 

      Tưởng anh chàng học trò đang bí, quan bảo: 

      - Ta cho người cứ nói, còn đối không được thì nằm xuống để ta đánh đòn. 

      - Nếu thế thì con xin đối ạ. 

      - Được. Đối ngay đi, ta nghe thử! 

      Quỳnh thong thả đọc vế đối: 

      - "Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm." 

      Nghe xong, mặt quan xám lại như tro bếp. Câu đối lại đúng là câu tục ngữ, không thể

bắt bẻ vào đâu được. 

      Biết ngồi lâu không tiện, quan giục lính hầu ra đi, quên bẵng lời hứa thưởng tiền cho 

anh học trò nghèo. 

      Chẳng bao lâu, chuyện  ấy lan ra khắp vùng, tên quan kia thì xấu hổ vì làm miệng 

cười cho thiên hạ còn tiếng tăm của Quỳnh thì nổi như cồn. 

   

Phơi sách, phơi bụng 

     Quỳnh có một lão trọc phú. Lão này đã dốt lại thích học làm sang, thỉnh thoảng mò 

đến nhà Trạng, đòi mượn sách. Tất nhiên lão có mượn được sách về thì cũng biết gì đâu 

đọc. Quỳnh bực lắm, một bận, thấy lão lấp ló đầu cổng, Quỳnh vội vác ngay chiếc chõng 

tre ra sân, cởi áo nằm phơi bụng. Lão trọc phú bước vào, thấy lạ, hỏi: 

      - Thầy làm gì thế?       Quỳnh đáp: 

      - À! Có gì đâu! Hôm nay được cái nắng tôi đem phơi sách cho khỏi khô mốc 

      - Sách ở đâu? 

      Quỳnh chỉ vào bụng: 

      - Sách chứa đầy trong này! 

      Biết mình bị đuổi khéo, trọc phú lủi thủi ra về. 

      Bận khác, lão cho người mời Quỳnh đến nhà. Để rửa mối nhục cũ, lão bắt chước, 

đánh trần, nằm giữa sân đợi khách... 

      Quỳnh vừa bước vào, lão cất giọng con vẹt, bắt chước... 

      - Hôm nay được cái nắng tôi nằm phơi sách cho khỏi mốc 

      Bất ngờ Quỳnh cười toáng, lấy tay vỗ bình bịch vào cái bụng phệ mà nói; 

      - Ruột nhà ông toàn chứa những của ngon chưa tiêu hết phải đem phơi, chứ làm cóc 

gì có sách mà phơi! 

      Lão trố mắt kinh ngạc: 

      - Sao thầy biết? 

      Quỳnh lại cười toáng lên, lấy tay lắc lắc cái bụng béo ụ ị của lão: 

      - Ông nghe rõ chứ? Bụng ông nó đang kêu "Ong óc" đây này! Tiếng cơm, tiếng gà, 

tiếng cá, lợn... Chứ có phải tiếng chữ, tiếng sách đâu. Thôi ngồi dậy, mặc áo vào nhà đi. 

      Lão trọc phú lủi thủi làm theo lời Quỳnh, và ngồi tiếp khách một cách miễn cưỡng.  

  

   

Chúa Liễu mắc lỡm

  

Lúc Quỳnh còn là học trò nhà nghèo, phải ra đền Sòng xin cấy rẽ. Đền Sòng quê ông là 

nơi thờ Bà Chúa Liễu nổi tiếng rất linh thiên, không ai là không kinh sợ. Chúa Liễu có 

nhiều ruộng và bà cũng cho cấy rẽ để lấy lợi. Lần  ấy, Quỳnh vào đền khấn mượn đất 

xong thì khấn quẻ âm dương hỏi Chúa là bà lấy gốc hay lấy ngọn trong vụ thu hoạch tới. 

Lần đầu Chúa bảo lấy ngọn, thế là vụ ấy Quỳnh trồng khoai lang. Đến khi khoai đã có củ, đào khoai xong, Quỳnh đem hết củ về nhà còn bao nhiêu dây khoai Quỳnh đem để đền bà 

chúa. 

      Lần thứ hai, xin âm dương, Chúa đòi lấy gốc để ngọn cho Quỳnh. Mùa ấy Quỳnh liền 

trồng lúa. Đến mùa gặt, Quỳnh cắt hết bông và đem gốc rạ trả cho Bà Chúa! 

      Chúa Liễu hai lần bị Quỳnh lừa, tức giận lắm xong đã trót hứa rồi, không biết làm thế

nào được. Lần thứ ba, Quỳnh đến xin thì Chúa bảo lấy cả gốc lẫn ngọn, còn khúc giữa 

cho Quỳnh, Quỳnh giả vờ kêu ca: 

     - Chị lấy thế em còn gì được nữa ! 

     Khấn đi khấn lại mãi, Chúa nhất định không nghe, Quỳnh về trồng ngô, đến kỳ bẻ ngô 

bao nhiêu bắp Quỳnh giữ lại, còn ngọn với gốc Quỳnh đem nộp cho Chúa.  

     Chúa mắc mưu Quỳnh ba lần, đòi lại ruộng, song trong ba vụ ấy, Quỳnh đã kiếm cũng 

được cái vốn kha khá rồi. 

  

   

Trả ơn bà chúa Liễu 

Gặp khoa thi, Quỳnh ra ứng thí. Đường đi qua đền Sòng, Quỳnh vào yết Chúa Liễu, xin 

Chúa phù hộ cho, đỗ thì xin trả lễ. Quỳnh ra thi, quả nhiên đỗ thật. Vinh quy về, Quỳnh 

mua một con bò mẹ, một con bò con đem đến lễ. Quỳnh quỳ xuống lạy, rồi dắt con bò mẹ

đến buộc vào tay ngài mà khấn rằng: 

      - Chúa có lòng thương phù hộ cho Quỳnh được đỗ, nay gọi là có một con bò để trả lễ. 

Xin Chúa nhận cho. Chúa là chị, xin lễ con lớn, còn con nhỏ, em xin đem về khao dân 

      Nói rồi, dắt bò con về. Con bò mẹ thấy dắt mất con đi, lồng lên chạy theo, làm ngai 

Chúa đổ lổng chổng, lộng gãy cả. Quỳnh cười nói: 

      - Chị thương em nghèo, trả không lấy, thì em xin đem về vậy. 

      Nói rồi dắt cả hai mẹ con bò về. 

  

   Đầu to tạ chúa Liếu ba bò

 Chuyện Quỳnh lừa bà Chúa Liễu chỉ cúng bò bằng lời khấn suông, lại còn làm đổ gãy cả

tai ngai, làm Chúa giận lắm, nên Chúa bắt vợ Quỳnh ốm lăn ốm lóc. Theo yêu cầu của 

vợ, Quỳnh đành phải đến đền khấn, để Chúa Liễu giải hạn cho. Quỳnh đến, khấn: 

      - Em lỡ đùa với chị, em có lỗi, thì chị quở em, sao chị lại phạt vợ con em bắt phải ốm, 

mà họ có tội tình gì? Em xin chị tha cho vợ con em, và xin lần này sẽ tạ chị ba bò, em sẽ

để ở ngoài sân, chứ không dám vào đền, chị yên tâm, khỏi phải lo gãy đổ. 

      Chúa Liễu nghe Quỳnh nói lễ những ba bò thì mừng lắm. Lại hứa cúng ở ngoài sân, 

như thế, thì Quỳnh cũng tỏ ra biết điều. 

      Khi vợ con hết ốm, Quỳnh lững thững đến đền với đôi tay không, rồi đứng trước bàn 

thờ Chúa Liễu, chắp tay khấn: 

      - Chị đã phù hộ cho vợ con em tai qua nạn khỏi, biết ơn chị, nay giữ đúng lời hứa, em 

xin tạ chị đủ "Ba bò" ở ngay tại sân đền. 

      Nói xong, Quỳnh từ từ lui ra, rồi quỳ xuống, bò đúng ba vòng trước sân. Bò xong, 

Quỳnh phủi tay, đứng dậy, ngoảnh mặt vào phía bàn thờ Chúa Liễu cười: 

      - Thế là chị sướng nhá! Em tạ chị lần này những "Ba bò" đấy! 

      Xong, Quỳnh ung dung bước ra về, để lại nỗi tức giận tràn hông cho Chúa Liễu      

   

Quỳnh cúng Thần Hoàng 

Lần khác, vợ Quỳnh ốm, thuốc thang chữa mãi không khỏi, xem bói, thì ra không phải 

tại Chúa Liễu mà do  động Thành Hoàng bản thổ. Quỳnh ra  đình khấn vái, xin Thành 

Hoàng cho khỏi, sẽ sửa gà lễ tạ. Khấn xong, về đến nhà thì vợ đã khỏi rồi. Bà vợ giục 

làm gà lễ tạ, Quỳnh bảo: 

      - Được, nhà không có gà ta có cái khác để lễ tạ rồi. Rồi Quỳnh vào ổ gà, thủ hai quả

trứng, đem luộc. Người nhà tưởng luộc để đánh gió. Một lúc, Quỳnh khăn áo chững chạc, 

cầm cái đĩa và hai quả trứng đi. Người nhà lấy làm lạ, đi theo xem, thì thấy Quỳnh vào 

đình để đĩa trứng lên hương án rồi đứng đọc bài văn tế nôm rằng: 

      Chú là kẻ cả trong làng,  Ta là người sang trong nước,  

Đôi bên chức tước chả kém gì nhau. 

Vì trẻ nó đau, phải ra khấn vái. 

Phiên chợ thì trái, không mua được gì. 

Nhà có con ri nó vừa nhảy ổ,  

Bắt ra mà mổ, nghĩ cũng thương tình,  

Chú có anh linh, xơi hai trứng vậy. 

      Khấn xong, chẳng lễ, chẳng vái gì trở ra về nói với vợ là yên tâm dưỡng cho thật lành 

bệnh bởi Thần hoàng đã nhận lễ mà bằng lòng rồi.  

   

Bà banh hết cả linh thiên

    Hồi ấy, gần xứ Quỳnh ở, có một pho tượng đá rất kỳ lạ, trần truồng đứng giữa đồng, 

miệng tủm tỉm cười, tay trỏ xuống chỗ kín, gọi là tượng bà Banh. 

      Pho tượng kỳ cục vậy nhưng linh lắm, ai đi qua trông thấy, nhếch mép cười thì không 

xếch mồm cũng méo miệng. Đồn rằng đó là chỗ người Tàu giấu của, thiêng lắm. Quỳnh 

nghe đồn, đi xem. Đến nơi thấy tượng trần truồng mà chân lại đi giày, cổ đeo hạt. Quỳnh 

không cười không nói, cầm bút đề ngay vào ngực tượng một bài thơ nôm rằng: 

      Khen ai đẽo đá tạc nên thầy! 

Khéo đứng ru mà đứng mãi đây?  

Trên cổ đếm đeo dăm chuỗi hạt. 

Dưới chân đứng chéo một đôi giày,  

Ấy đã phất cờ trêu ghẹo tiểu,  

Hay là bốc gạo thử thanh thầy?  

Có ngứa gần đây nhiều gốc dứa,  

Phô phang chi ở đám quân này. 

      Quỳnh đề thơ xong, bỏ đi. Tượng đá bỗng toát mồ hôi ra từ đó mất thiêng. 

   

Phật say  Làng Thụy Chương xưa là một làng nổi tiếng về nấu rượu. Rượu ở đây thơm ngon đặc 

biệt. 

      Mé trước làng ở ven hồ Tây có một ngôi chùa nhỏ. Thời Lê Trung Hưng, chùa đổ nát 

chỉ còn trơ một pho tượng tay chống gậy, xiêu vẹo, nghiêng ngả. 

      Một hôm Quỳnh vào làng mua rượu, thấy pho tượng như vậy, mới làm mấy câu thơ

đùa: 

      Ông đứng chi mà đứng mãi đây?  

Dập dềnh như tỉnh lại như say,  

Vãi nào đã chuốc cho ông rượu?  

Còn có cho vay một nậm đầy? 

      Tương truyền từ đó, dân làng ai cũng gọi tượng là "Phật say". 

  

   

Dòm nhà quan Bảng 

  

Tương truyền rằng Quỳnh sinh cùng thời với nữ sĩ nổi tiếng, người đã dịch Chinh Phụ

Ngâm của Đặng Trần Côn ra thơ Nôm là Đoàn Thị Điểm. 

      Ngày ấy, Quỳnh đã thành niên, nhà quan Bảng sinh ra thị Điểm, dạy học trò đông 

lắm. Quỳnh ngày ngày giả vờ đến xem bình văn, để ngấp nghé cô Điểm. Học trò biết ý, 

vào thưa với quan Bảng, ngài liền cho bắt vào hỏi: 

      - Anh kia, anh muốn gì mà cứ thậm thò thậm thụt vào ra nơi đây? 

      Quỳnh thưa: 

      - Tôi là học trò, thấy trường quan lớn bình văn, tôi đến nghe trộm. 

      Quan Bảng nói: 

      - Ta biết rồi, anh đừng giả danh học trò mà bắt chước tuồng chim chuột. Có phải học 

trò thì ta ra cho một câu đối, không đối được thì đánh đòn! 

      Quỳnh vâng. 

      Quan Bảng ra một câu: 

      - "Thằng quỷ ôm cái dấu đứng cửa khôi nguyên." 

      Quỳnh ứng khẩu đối ngay:       - "Con mộc dựa cây bàng dòm nhà Bảng nhãn." 

      Quan Bảng ngạc nhiên vô cùng. Câu đối phải nói vào loại "Hóc" thế mà Quỳnh đọc 

ngay không cần nghĩ ngợi gì chứng tỏ phải là người thông minh xuất chúng. Ông có bụng 

yêu, bèn giữ Quỳnh lại nuôi cho ăn học. Từ ngày đó, như rồng gặp mây, Quỳnh học tấn 

tới lắm, kỳ nào văn cũng được đọc mẫu. Từ ngày trường quan Bảng có Quỳnh, bao nhiêu 

học trò danh sĩ đều phải nhận Quỳnh là tài giỏi hơn cả. 

      Quan Bảng thấy Quỳnh học giỏi, có ý muốn gả cô Điểm cho, mà cô Điểm nghe cũng 

thuận. 

      Quỳnh biết rằng cô Điểm chắc vào tay mình rồi, thỏa được ước nguyền, song tính 

tinh nghịch, cứ đùa cợt luôn. Cô Điểm đứng đắn, thùy mị lại không ưa kiểu chớt nhả, 

Quỳnh lại càng ghẹo dai. Chính vì vậy mới có những cuộc đối đáp lý thú về sau này... 

   

Đối Đáp Với Đoàn Thị Điểm 

  

     Thuở còn đi học, Quỳnh càng ngày càng mê cô con gái thầy học là Đoàn Thị Điểm là 

người vừa xinh đẹp, đoan trang lại giỏi văn thơ. 

      Nhưng trêu chọc với nàng không dễ bởi ngoài tính tình đoan trang, Thị Điểm còn rất 

giỏi văn thơ nhất là ứng đối. Có lần Quỳnh từ phố Mía về, Thị Điểm thấy Quỳnh đang 

ngồi, liền ra ngay một vế đối có ý trêu:  

     "Lên phố Mía gặp cô hàng mật, cầm tay kẹo lại hỏi thăm  đường." (kẹo tiếng  địa 

phương còn có nghĩa là kéo lại). 

      Gặp câu đối ra toàn mía, mật kẹo, đường, Quỳnh nghĩ mãi không ra vế đối, bí quá, 

đành phải đánh bài chuồn. 

      Một hôm, thấy cô Điểm vào buồng tắm, nhà vắng, Quỳnh nghịch ngợm gõ cửa đòi 

vào. Cô Điểm vốn hay chữ, tức cảnh, ra ngay một vế đối, bảo Quỳnh đối được thì cho 

vào. Câu đối như sau: 

      - "Da trắng vỗ bì bạch!". (Bì bạch, chữ hán cũng có nghĩa là da trắng). 

      Quỳnh nghĩ nát óc cũng không tìm ra câu để đối, đành lủi thủi bỏ đi nhưng nghĩ bụng 

sẽ tìm dịp lỡm lại Thị Điểm.       Một lần khác, Quỳnh ngồi đối diện với Thị Điểm qua cửa sổ Thị Điểm lại đọc một 

câu: 

      "Hai người ngồi song song hai cửa sổ." (Song là hai, song cũng có nghĩa là song cửa). 

Lại một lần nữa, gặp câu quá hóc búa, Quỳnh bí quá đành lảng ra chỗ khác. 

      Một hôm tối trời, thừa lúc Thị Điểm ra ngoài, Quỳnh lẻn vào giường Thị Điểm nằm 

trước. Thị Điểm không biết, vào buồng sờ soạng, vô tình quờ ngay tay vào... Thị Điểm 

biết ngay là Quỳnh nghịch ngợm, liền ra cho một vế đối, bảo không đối được sẽ mách 

thầy học về tội sàm sỡ. 

      Vế đối ra như sau: 

      "Trướng nội vô phong phàm tự lập."  

      (Trong phòng không có gió mà cột buồm lài dựng lên) 

      Lần này Quỳnh đối được ngay: 

      "Hưng trung bất vũ thủy trường lưu" 

      (Trong bụng không có mưa mà nước vẫn chảy dài). 

      Lần đó Quỳnh thoát tội. 

      Nhân ngày xuân, thầy sai Thị Điểm đem lễ lên chùa. Quỳnh được thầy cho theo cùng. 

Trên đường, Thị Điểm chỉ cây xương rồng bảo Quỳnh: 

      - Cây xương rồng, trồng đất rắn, long vẫn hoàn long (Long là lỏng lẻo, chữ Hán long 

nghĩa là rồng, mà chữ rồng đã dùng ở trên). 

      Về ý, Thị Điểm nói bóng, Quỳnh ngang ngạnh, có dạy dỗ thế nào cũng không chuyển 

được. 

      Chữ đối đã khó, ý lại sâu xa. Thế mà Quỳnh đối lại được rất chỉnh, lại tỏ được cái ý 

nhất quyết giữ cái tính ấy và còn thách thức Thị Điểm nữa. Quỳnh đối mhư sau: 

      - Quả dưa chuột, tuột thẳng gang, thử chơi thì thử (Thử chữ hán nghĩa là chuột, mà 

chữ chuột cũng đã dùng trên). 

      Cũng qua lần đối đáp này, hai người thấy tư tưởng không hợp nhau nên từ đấy thôi 

xướng họa.  

   

Tất cả đều câm điếc    

      Sinh thời, lúc còn thanh niên, nổi tiếng là người thông thái, hiểu rộng, biết nhiều, 

nhưng Quỳnh không ưa gì chuyện cử nghiệp bởi chính ông là người luôn châm chọc cái 

cảnh phải luồn cúi của các "Bậc công hầu". Vì vậy, mỗi lần triều đình mở khoa thi, nhiều 

người giục chàng lều chõng ứng thí, chàng đều gạt phăng, tìm cách nói lãng sang chuyện 

khác. Lần ấy vì nể thầy học, lời khuyên của bạn bè, và lòng kỳ vọng của dân làng, Quỳnh 

đành đi thi cho phải phép. Năm đó, nhà chúa mừng sinh nhật con trai, các quan trường 

bèn nảy ra ý định nịnh hót chúa, bàn nhau ra đề thi nói về điềm lành của đất nước. Đoán 

được ý ấy, Quỳnh nghĩ ra cách làm một bài văn phải hàm được hai nghĩa: Bề ngoài, đọc 

lên nghe như lời ca công đức của chúa và sự an vui của mọi người, nhưng nghĩa ẩn của 

nó lại là một sự phủ định. Trong bài văn ấy có hai câu khái quát hiện trạng đất nước như

sau: 

      "Quan tắc cổ, dân tắc cổ, đái hàm quan Nghiêu Thuấn chi dân".  

     (Nghĩa là: Quan cũng theo phép xưa, dân cũng theo phép xưa, đội ơn quan, dân được 

sống đời Nghiêu Thuấn) và đối lại: 

      "Thượng ung tai, hạ ung tai, ỷ đầu lai Đường ngu chi đức". 

      (Nghĩa là: Trên cũng vui vậy thay, dưới cũng vui vậy thay, dựa vào đám đầu lại có 

đức độ thời Đường Ngu). 

      Mới nghe đọc lên lần đầu chúa Trịnh đã khen: Hay quá, người làm hai câu này thật 

xứng đáng cho giải nhất! 

      Quan chủ khảo đứng bên cạnh cũng đã từng nghe danh tiếng của Quỳnh, liền tâu với 

chúa: 

      - Khải chúa? Trong hai câu ấy, thần thấy có ẩn cái ý không thuận. 

      - Quan thật đa nghi quá. Ca tụng công đức của chúa như vậy có gì mà không thuận? 

      - Khải chúa, cứ theo cái nghĩa chữ Hán thì hai câu ấy đúng là hay thật, nhưng Quỳnh 

là loại thâm nho, từng đã dùng chữ nghĩa chơi khâm nhiều người và chắc hắn không bao 

giờ bằng lòng thứ văn chương một nghĩa. Theo sự hiểu biết cạn hẹp của thần, thì hai câu 

ấy xướng theo nghĩa đồng âm trực tiếp nghe ra ngại lắm, không dám đọc lên để chúa 

thưởng lãm. 

      - Ta cho phép quan cứ nói. 

      - Khải chúa, nếu vậy thần xin nói, hai câu ấy có dụng ý phỉ báng, táo tợn. Nếu đọc 

theo kiểu nôm, thì rõ ràng là câu chưởi tục. 

      - Chưởi tục cũng không sao, mà người cứ trình bày ta nghe thử!       - Vậy thần mạo muội thưa:  

     "Quan tắc cổ, dân tắc cổ"  

     Nghĩa là "Trên cũng câm, dưới cũng câm" (thưa tắc cổ là câm không dám nói đấy ạ!). 

Còn " đái hàm quan Nghiêu Thuấn chi dân" tức là "đái vào hàm bọn quan lại dám bảo 

rằng dân chúng đang sống dưới thời Nghiêu Thuấn". 

     - Nếu quả vậy thì Quỳnh láo thật!  

     - Khải chúa, chưa hết đâu. Câu sau này còn hàm ý báng bổ tệ hại hơn. "Thượng ung 

tai, hạ ung tai", nghĩa là "Đứa trên thối tai, đứa dưới cũng thối tai". 

      (Ung tai tức thối tai, là cả trên dưới đều là một lũ điếc đấy ạ). Vì điếc hết nên không 

biết rằng "ỷ đầu lai Đường ngu chi đức" nghĩa là hắn bảo " ỉa vào đầu lũ nha lại dám bảo 

rằng kẻ sĩ đang mở mặt giữa đời Đường Ngu". 

      - Lão quát! Thật láo quá! Vậy thì nên xử lý như thế nào? 

      - Khải chúa! Đối với Quỳnh phải hết sức thận trọng. Không thể bắt bẻ hắn ta, vì trên 

giấy trắng mực đen không thể luận tội được. Chí có một cách bí mật đánh hỏng y. Thần 

là chủ khảo, nên điều ấy không khó, xin chúa hãy yên lòng. 

      - Mà đánh hỏng Quỳnh có nghĩa là làm theo đúng ý của Quỳnh đâu có cần đỗ đạt. 

Quỳnh đi thi là để đáp lại tấm thịnh tình của mọi người thân, lại có cơ hội đả kích vào 

thói xu nịnh của đám quan trường và "Chọc" nhà chúa một trận nên thân, còn mình thì 

vẫn giữ tròn khí tiết. 

   

Thừa giấy vẽ voi 

  

     Trong lần thi hội Cống, Quỳnh không có ý  định  để lấy Trạng Nguyên, nên Quỳnh 

nhận lời. 

      Lúc vào trường thi, Quỳnh làm bài rất nhanh, xong sớm trước nhiều thí sinh khác. Lẽ

ra Quỳnh đem nộp quyển, nhưng vì chẳng thiết chuyện đỗ đạt, nên tái mái dở bài ra xem 

lại. Thấy còn một đoạn giấy trắng bên dưới, Quỳnh liền chấm bút vẽ một bầy voi, rồi tiện 

tay đề luôn bên cạnh mấy câu thơ ngẫu hứng: 

     Văn chương phú túc đã xong rồi 

Thừa giấy làm chi chẳng vẽ voi?  

Tớ có một điều xin bảo thật  

Đứa nào cười tớ, nó ăn boi.       Quỳnh làm như vậy là cố ý chọc tức các quan chủ khảo, họ sẽ điên tiết lên khi đọc 

những dòng này và sẽ đánh hỏng Quỳnh với tội "Phạm trường quy". Thực ra Quỳnh đâu 

cần sự thăng quan tiến chức. 

      Lúc  ấy, có viên quan giám thị theo dõi, liếc thấy bài thơ tứ tuyệt ngạo mạn của 

Quỳnh, liền chạy đi báo với ban giám khảo. Quan sơ khảo và quan phúc khảo rón rén đến 

dòm thử thì quả đúng như vậy. Quỳnh biết các hành động của ban giám khảo, nhưng cứ

tảng lờ coi như không. Đợi đến lúc các quan trường xúm lại đông đảo, Quỳnh mới đưa 

bút viết tiếp hai câu thơ nữa vịnh bức tranh voi vừa vẽ: 

      Voi mẹ, voi con, voi lúc nhúc 

Chú sơ, chú phúc, rúc mà coi. 

      Đám quan viên lúc này cảm thấy sượng sùng nên bấm nhau rút lẹ, đứng lâu ở đó e 

không khéo lại bị Quỳnh chơi khăm, mất mặt nữa. 

      

   

  

Ngọc Người 

     Chúa Trịnh có một viên ngọc quí, suốt ngày nâng niu, giữ gìn rất cẩn thận. Nhân một 

buổi dạ tiệc, chúa đem ngọc ra khoe. Các quan nhiều kẻ có thói hay nịnh bợ, đua nhau tán 

tụng. Kẻ thì nói: "Ngọc của chúa quý hơn ngọc của rắn, mang vào người, có thể nghe 

được tiếng chim kêu, tiếng sâu, kiến!". Kẻ khác lại nói: "Ngọc của chúa quý hơn ngọc rết, 

giữ ngọc rết trong người dao chém không đứt, tên bắn không trúng, xông pha trận mạc 

như đi vào chỗ không người!". Kẻ khác lại ngọt ngào: "Ngọc của chúa quý hơn ngọc ba 

tiêu, lấy trong cây chuối, ba nghìn năm mới có một lần, giữ được ngọc này thì thoát tục, 

tới được cõi bồng lai, lại có thể phân biệt được đâu là yêu quái, đâu là người trần tục!". 

Nhiều kẻ thi nhau tán tụng, nào đó là ngọc kỵ thuỷ, ngọc kỵ hỏa v.v... 

      Thấy Quỳnh vẫn đứng yên không nói năng gì, chúa bèn hỏi. Quỳnh chắp tay cung 

kính thưa: 

      - Bẩm chúa, trong cõi trời đất này, không có gì quý bằng người. Ngọc rắn, ngọc rết có 

quí, những sau dám sánh bằng ngọc người? Ngọc người thì chỉ nằm trong óc người. 

Nhưng chỉ kẻ nào ngu ngốc mới có ngọc, còn khôn ngoan, thông minh thì không thể có 

được! 

      Chúa hỏi: 

      - Vì sao người ngu ngốc mới có ngọc?       Quỳnh đáp: - Chúa chả nghe người ta bảo người khôn thì anh hoa phát tiết ra ngoài 

đó ư? Còn kẻ ngu ngốc vì bao nhiêu cái khôn không xuất ra được nên hun đúc trong óc 

rồi lâu ngày dẫn thành ngọc! 

      Chúa nghe vậy thì tin, thích lắm bảo rằng: 

      - Ngươi nói nghe có lý. Vậy thì ngươi mau tìm cho ta một viên ngọc người vậy! 

Quỳnh lại tâu: 

      - Kẻ hạ thần tuy là người trần mắt tục nhưng vẫn thấy hào quang đang tỏa rạng quanh 

mình chúa. 

      Đám bá quan văn võ ưa xu nịnh nghe thế được dịp dập đầu thanh hô vang: 

      - Muôn tâu, hào quang tỏa rạng quanh mình chúa thượng. Hào quang tỏa rạng quanh 

mình chúa thượng! Chúng thần nhìn rõ lắm! 

      Nghe lời nịnh ấy, chúa vô cùng thích chí, mặt mày rạng rỡ. Quỳnh tiếp ngay: 

      - Tâu chúa thượng, đó chính là hào quang của viên ngọc. Nếu chúa muốn thấy nó, xin 

chúa hãy truyền cho ngự y tìm cách mổ óc ra sẽ được ngọc ngay! Chúa chợt hiểu ra mình 

bị chơi xỏ, tức uất người ngưng chỉ đành câm lặng trong khi bọn quan nịnh thì chả hiểu 

sao chúa vừa vui vẻ đã quay sang bực bội.  

  

   

Đơn xin chôn trâu 

    

Một cô gái ở thôn Hoằng Trì có con trâu chết đã ba ngày, trâu trương lên thối um mà bọn 

chức dịch trong làng vẫn cứ làm khó dễ, chưa cho chôn. Cô đợi mãi không được, bèn 

mang đơn lên trình quan huyện.  

Trên đường đi, đến một chỗ lầy lội, cô gặp một anh chàng ra dáng học trò. Anh kia hỏi 

thăm biết chuyện, mượn cô lá đơn xem lỡ tay đánh rơi xuống bùn. Cô gái bắt đền. Anh 

học trò liền đem giấy bút ra, thảo ngay tờ đơn khác cho cô. Đơn rằng:  

   

Ta là gái goá kẻ trị  

Nếu trâu không chết việc chi lụy đời?  

Lội đồng váy hếch đơn rơi, 

Ta phải cậy người mần lại đơn nị

Quan tri ơi hỡi quan tri!  

Xác trâu chết để ba ngày thối hoăng  

Xét đơn phải xử công bằng  Không thì bút... cho thằng mần đơn.  

Anh kia viết xong, cô gái thật thà cầm đơn vào trình quan. Xem xét chữ nghĩa và lời lẽ, 

viên tri huyện nghi hoặc, hỏi cô gái ai là người cô đã nhờ viết đơn. Cô gái kể rõ mọi 

chuyện chuyện  đã xẩy ra trên  đường. Tri huyện lặng người, biết ngay kẻ đó là Trạng 

Quỳnh chứ không ai khác. Tuy tức vì bị chửi xỏ, quan cũng đành chấp thuận cho cô gái 

kia được về chôn trâu mà không phải nộp phạt.  

  

Mẹo trẩy kinh 

     Mùa đông năm ấy, Quỳnh có việc đi gặp người bà con đang sinh sống ở Thăng Long. 

Đường về kinh thì xa, cuốc bộ phải mất cả tuần, mà Quỳnh vẻn vẹn có một quan tiền giắt 

lưng. Mới ngày thứ ba túi đã hết nhẵn tiền, chiều xuống, trời âm u, lại điểm mưa lâm 

thâm, gió bấc. Đến đầu làng kia, bụng đói cồn cào, vừa may gặp một đứa bé mục đồng 

dắt trâu về xóm, Quỳnh mừng rỡ hỏi thăm lối vào nhà ấp trưởng. 

      Ấp trưởng làng này vừa giàu sụ, vừa nổi tiếng quỷ quyệt. Qua vài lời chuyện trò với 

người lỡ độ đường, hắn đoán thầm khách không phải là hạng tầm thường, bèn vồn vã mời 

nghỉ lại và sai giai nhân làm mâm cơm thịnh soạn  để thết  đãi. Nhưng mấy ngày liền, 

khách cứ đi đi lại lại, rồi đến bữa nằm dài đợi cơm rượu hỏi đến chức danh công vụ thì cứ

ậm  ậm ờ ờ. Chủ nhà sốt ruột, sinh nghi. Như thường lệ, tối hôm  ấy  ăn xong một lúc, 

Quỳnh cáo lui về phòng riêng giáp với phòng ngủ của chủ nhân. Được một chập, Quỳnh 

tắt đèn lên giường nằm. Biết ở phòng bên có người vẫn thức rình mò mọi hành vi của 

mình, lát sau Quỳnh vờ thức dậy rón rén thắp đèn, sau đó cẩn thận lần dưới vạt áo, lấy ra 

một bọc nho nhỏ bên trong có ba gói vuông, bản bằng nhau. Khách cầm bút long chấm 

chấm, mút mút đầu ngòi, hí hoái viết vào từng gói như để đánh dấu cho khỏi nhầm lẫn 

(thực ra chẳng viết gì cả), miệng lẩm nhẩm đọc, cố ý cho kẻ đang rình bên kia khe vách 

vừa đủ lắng nghe: Độc dược của nhà chúa... Độc dược của bà chính cung... Độc dược của 

thái tử. Làm như vậy, đoạn Quỳnh đem gói chung thành một bọc như cũ, giắt vào lưng 

áo. Xong rồi tắt đèn, lên giường nằm trở lại. Khi phòng bên này bắt đầu tiếng ngáy đều 

đều, thì phòng bên vọng sang tiếng động khe khẽ. Tên ấp trưởng bí mật mở chốt cửa ra 

ngoài, lẻn đến chuồng ngựa... Hộc tốc lao đi trong đêm. 

      Sáng hôm sau, mới hửng sáng, quan quân từ đâu  ập tới nhà  ấp trưởng đông nghịt, 

gươm giáo tua tủa vây kín mọi phía. Quỳnh mở mắt, chưa kịp búi tóc đã bị trói nghiền 

lại, quẵng lên một chiếc xe có bốn ngựa kéo, trẩy về kinh. 

      Trước phủ chúa, Quỳnh bị điệu ra xét xử với nhân chứng và vật chứng rành rành. 

Chúa đích thân tự tay mở tang vật. Té ra chẳng có gì ghê gớm! Chiếc bọc được gói kỹ

lưỡng trong mấy lần mo cau, phủ ngoài bằng một vuông vải điều là chiếc bọc chứa ở bên 

trong mấy gói cơm khô nhỏ, Chúa lấy mũi hài đá té nắm cơm về phía Quỳnh, hất hàm tỏ

vẻ khinh miệt:       - Ta tưởng thế nào... Tài giỏi như Trạng mà cũng ăn cả cái vứt đi này à? 

      - Khải chúa.  

     - Quỳnh đáp lại không chút ngần ngừ, nhà chúa thừa thãi mới gọi đó là của vứt đi. 

Còn thần dân bên dưới đâu dám phung phí một hạt, họ gọi cơm gạo là ngọc thực. 

      Nói rồi, Quỳnh trân trọng nhặt lấy mấy hạt cơm khô bỏ vào mồm nhai rào rạo. Chúa 

biết mình lở lời, đỏ bừng mặt, lại thêm một phen mắc lỡm, tức lộn ruột. Không có cớ gì 

buộc tội Quỳnh, chúa truyền nọc tên ấp trưởng ra, bắt lính đánh ba chục trượng vì tội nói 

láo và báo sai. 

      Trước cảnh tượng ấy, Trạng chỉ biết mỉm cười. Mặc dầu đã được tha bổng, trước khi 

bái biệt bề trên, Quỳnh vẫn không quên giễu chúa bằng những câu khéo: 

      - Xin chúa rộng lượng tha thứ cho  ấp trưởng. Và cho thần được cảm ơn hắn cùng 

quan quân triều đình.  

  

   

Trả Nợ Anh Lái Đò 

  

Quỳnh đi đò ngang thường chịu tiền, lâu quá hoá nhiều, không trả được. 

      Lúc anh lái đò đến đòi, Quỳnh bảo: 

      - Ừ đợi đấy, mai ta trả. 

      Rồi mua tre nứa, lá ngồi làm một cái nhà bè ở giữa sông, trong đề một câu: 

      "Đ.... Mẹ thằng nào bảo thằng nào!" 

     - Và phao ầm lên rằng đó là lần yết thơ của Trạng. 

      Thấy nói thơ Trạng, thiên hạ nô nức kéo nhau đi xem. Đi đò ra đến nơi, thấy độc một 

câu như thế, chán quá lại đi đò về. Người khác gặp hỏi thì cáu, chỉ trả lời: 

      - Ra mà xem! 

      Thế là thiên hạ càng thấy lạ, càng xô nhau ra xem. 

     

Ông nọ bà kia 

    Quỳnh có mấy người tấp tểnh công danh nay cậy mai cục nhờ Quỳnh gây dựng cho, 

may ra được tí phẩm hàm để khoe với làng nước. Một hôm, Quỳmh ở kinh đô về, sai 

người mời mấy anh ấy lại bảo: 

      - Giờ có dịp may, nào các anh có muốn làm ông nọ bà kia thì nói ngay. 

      Thấy Quỳnh ngỏ lời thế, anh nào cũng như mở cờ trong bụng, tranh nhau nhận trước. 

      Quỳnh bảo: 

      - Được các anh về nhà thu xếp khăn gói, rồi lại đây uống rượu mừng với ta, mai theo 

ta ra kinh đô sớm. 

      Anh nào anh nấy lật đật về nhà, vênh váo, đắc chí lắm, có anh về đến cổng, thấy vợ

đang làm lụng lam lũ liền bảo vợ: 

      - Ít nữa làm nên ông nọ bà kia, không được lam lũ thế mà người ta chê cười cho. 

      Vợ hỏi: 

      - Bao giờ làm quan mà khoe váng lên thế? 

      - Nay mai thôi, sắp sửa khăn gói để mai đi sớm! 

      Nói xong, lại nhà Quỳnh đánh chén. Anh nào anh nấy uống say tít rồi mỗi anh nằm 

một xó. Đến khuya, Quỳnh sai người đem võng, võng anh nọ về nhà anh kia, anh kia về

nhà anh nọ, nói dối rằng: Say rượu ngộ cảm phải bôi dầu xoa thuốc ngay không thì oan 

gia! 

      Các "Bà lớn"  đang mơ màng trong giấc mộng, thấy người gõ cửa mà nói những 

chuyện giật mình như thế, mắt nhắm mắt mở, tưởng là chồng, ôm xốc ngay vào nhà, 

không kịp châm đèn đom đóm, rồi nào bôi vôi, nào xoa dầu, miệng lẩm bẩm: "Rượu đâu 

mà rượu khốn, rượu khổ thế! Ngày mai lên đường mà bây giờ còn sai như thế này! Nhờ

phúc ấm có làm được ông nọ bà kia thì cũng lại phiền tôi thôi!" 

      Xoa bóp cho đến sáng, nhìn thì hóa ra anh láng giềng, các bà ngẩn người mà các anh 

đàn ông kia lại càng thẹn, vội cuối gằm mặt xuống cút thẳng. Về đến nhà, thấy vợ mình 

cũng đang đỏ mặt tía tai lại nói ngay: 

      - Ai ngờ nó xỏ thế. Tưởng ông nọ bà kia là thế nào. Thôi từ nay kệch đến già!    

  

Lõm Quan Thị

     Có một ông quan thị đại nịnh thần, được chúa Trịnh yêu lắm. Ôss;ng ta thường đến 

chơi nhà Quỳnh, thấy sách thì cũng mượn xem, mà ít khi trả. Quỳnh ghét cay ghét đắng, 

định chơi xỏ một trận cho chừa. Quỳnh bèn lấy giấy trắng đóng thành quyển sách để sẵn. 

Một hôm. Thấy bóng quan thị đằng xa, Quỳnh giả vờ cầm sách xem, đợi khi ông ta đến 

nơi thì giấu đi. Quan thị thấy Quỳnh giấu, ngỡ là sách lạ, đòi xem, Quỳnh bảo: 

      - Sách nhảm có gì mà xem. 

      Quan thị năn nỉ mãi cũng không được, về tâu với chúa. Chúa đòi Quỳnh sang hỏi, 

Quỳnh đoán chắc là đòi về chuyện quyển sách, mới lấy bút viết mấy câu vào sách bỏ vào 

tráp khoá lại, rồi sang hầu. Quả nhiên như thế. Quỳnh tâu: 

      - Không có sách gì lạ, chắc thị thần tâu man với Chúa đó. 

      Chúa thấy Quỳnh chối, lại càng tin là Quỳnh có sách lạ, bắt phải đem trình. Quỳnh sai 

người về đem tráp sang, mở ra, chỉ thấy có một quyển sách mỏng, Quỳnh rụt rè không 

dám đưa. Chúa bảo: 

      - Cứ đưa ra. Chúa mở ra xem chỉ thấy có mấy câu: 

      - "Chúa vị thị thần viết: Vi cốt tứ dịch, vi cốt tứ dịch. Thị thần quy nhị tấu viết: Thần 

phùng chỉ phát, thần phùng chỉ phát". 

      Chúa ngẫm nghĩ đi lại không biết nghĩa ra làm sao, bảo Quỳnh cắt nghĩa thì Quỳnh 

rụt rè tâu: 

      - Sách ấy là sách nhảm nhí của tiểu thần chỉ xem khi buồn, sợ cắt nghĩa ra, rác tai 

chúa! 

      Chúa nhất định không nghe, bắt Quỳnh cắt nghĩa cho được. 

      Quỳnh vâng lệnh tâu với chúa, câu ấy nghĩa là: " chúa hỏi thị thần rằng:  

     Làm xương cho sáo, làm xương cho sáo, thì thần quỳ mà tâu rằng: Tôi may ngón tóc, 

tôi may ngón tóc" 

      Quỳnh cắt nghĩa, nhưng chúa cũng chưa hiểu ra lại hỏi: 

      - Đã đành nghĩa đen là thế, nhưng mà ý tứ thế nào?       Quỳnh tủm tỉm không dám nói. Chúa và quan thị đứng hầu bên càng gặng hỏi. 

      Quỳnh mới tâu: 

      - Xin chúa đọc đảo ngược lại thì ra nghĩa, nhưng mà tục lắm. Bấy giờ chúa với quan 

thị mới biết Quỳnh lõm, bảo Quỳnh mang sách về. 

      Quỳnh ra, quan thị chạy theo trách Quỳnh nhạo cả chúa, thực là vô phụ, vô quân. 

Quỳnh đáp lại: 

      - Ngài nói tôi vô phụ, vô quân thì bọn thập trường thị đời Hậu Hán là gì? Tôi đã giấu 

mà ngài cứ nịnh để đòi ra cho được thì lỗi tại ai? 

      Quan thị tịt mất. 

  

   

Đá Gà Với Quan Thị

   Bọn quan thị, nơi phủ chúa "Gà" thật không có mà lại cứ hay đá gà. Chúng bỏ ra nhiều 

tiền, lùng cho được những con gà hay đem về nuôi rồi đem ra đá độ với nhau. Nghe nói 

Quỳnh chọi gà với sứ Tàu thắng, họ liền mang gà đến nhà Quỳnh, đá thử một vài cựa 

chơi. Quỳnh vốn ghét bọn quan thị, từ chối nói là không có gà, nhưng họ nhiễu mãi, phải 

ừ và hẹn đến mai đi bắt gà về chọi. Bên láng giềng có một con gà trống thiến, Quỳnh liền 

qua mượn mang về. 

      Sáng sớm, mở mắt dậy, đã thấy quan thị đem gà lại rồi. Quỳnh sai bắt gà trống thiến 

đem ra chọi. Tất nhiên, vừa so cựa được một vài nước, thì gà quan thị đá cho gà trống 

thiến một cựa lăn cổ ra chết ngay còn gà bọn hoạn quan thì vỗ cánh phành phạch lấy uy, 

gáy vang cả sân nhà. Bọn chúng khoái chí vỗ tay reo: 

      - Thế mà đồn rằng gà của Trạng hay, chọi được gà Tàu, giờ mới biết đồn láo cả! 

      Quỳnh chẳng cãi lại, chỉ ôm gà trống thiến mà rằng: 

      - Các ngài nói phải, trước con gà này đá hay lắm, nhưng từ khi tôi thiến nó đi, thì nó 

đốn đời ra thế! 

      Rồi ôm gà mà than thở: "Khốn nạn thân mầy, gà ôi! Tao đã bảo phận mày không dái 

thì chịu trước đi cho thoát đời, lại còn ngứa nghề là gì cho đến nỗi thế này! Thôi mày chết 

cũng đáng đời, còn ai thường nữa, gà ôi!". 

      Các quan thị nghe thế, xấu hổ, ôm gà cút thẳng. 

            

Ăn Trộm Mèo 

     Nhà vua có nuôi một con mèo tam thể quý lắm, xích bằng xích vàng và cho ăn toàn 

những đồ cao lương mỹ vị. 

      Quỳnh vào chầu, trông thấy, liền tìm cách bắt trộm về, cất xích vàng đi buộc bằng 

xích sắt, nhốt lại. Đến bữa đợi cho con mèo thật đói, Quỳnh để hai cái đĩa, một đĩa cơm 

trộn thịt cá và một đĩa cơm trộn rau. Mèo nhà vua quen ăn miếng ngon chạy đến chỗ thịt 

cá chực ăn. Quỳnh cầm sẵn roi, hễ ăn thì đánh. Mèo đói quá, phải ăn đĩa cơm rau. Dạy 

như vậy được một thời gian, mèo quen dần, không bao giờ dám gì ngoài rau nữa mới thả

ra. Vua mất mèo, tiếc quá, cho người đi tìm, thấy nhà Quỳnh có một con mèo tam thể

giống như hệt, nghi lắm, bắt Quỳnh mang mèo vào chầu. Vua xem mèo, hỏi: 

      - Sao nó giống mèo của Trẫm thế? Hay khanh thấy mèo của Trẫm đẹp bắt về, nói cho 

thật! 

      - Tâu bệ hạ, bệ hạ nghi cho hạ thần bắt trộm, thật là oan, xin bệ hạ đem ra thử thì biết. 

      - Thử thế nào? Nói cho Trẫm nghe. 

      - Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ phú quý thì mèo ăn thịt ăn cá, còn hạ thần nghèo túng thì mèo 

ăn cơm trộn với đầu tôm, rau luộc. Bây giờ để hai bát cơm ấy, xem nó ăn bát nào thì biết 

ngay. 

      Vua sai làm thử. Con mèo chạy thẳng đến bát cơm rau, ăn sạch. Quỳnh nói: 

      - Xin bệ hạ lượng cho, người ta phú qúy thì cao lương mỹ vị, bần tiện thì cơm hẩm 

rau dưa. Mèo cũng vậy, phải theo chủ. 

      Rồi lạy tạ, đem mèo về. 

   

Món Ngon Nhà Trạng 

     Có thời gian, chúa Trịnh bỗng mắc một căn bệnh không chữa khỏi, đó là căn bệnh ăn 

không ngon. Tất nhiên chúa quanh năm sơn hào hải vị, món ngon vật lạ trong thiên hạ

đều ê hề thứa mứa, vậy mà chúa vẫn không cảm thấy ngon miệng được. Một hôm, trạng 

Quỳnh vào hầu, chúa than thở;       - Độ rày miệng ta đắng lạ. Dù là của ngon vật lạ cũng thấy dửng dưng. Trạng có biết 

món nào ngon không thì nói cho ta hay? 

      Trạng nghe nói liền cười mỉm mà tâu ngay: 

      - Tâu chúa, xin hỏi chúa đã từng dùng món mầm đá chưa? 

      - Mầm đá? Chà, món đó thì chưa cả nghe đến. Chắc là vị ngon lắm? 

      - Muôn tâu, quả là có vậy. Thần vẫn dùng khi chán ăn. Ngon lắm ạ! 

      Chúa nghe vậy hớn hở: 

      - Vậy mà ta không biết sớm. Khanh về lo chuẩn bị đi. Ngay chiều nay ta sẽ thử món 

ăn này cho biết! 

      Mới xế chiều chúa ngự đến nhà Quỳnh thật. Lúc ấy Quỳnh mới sai người lập tức đi 

lấy mầm đá về ninh cho chúa dùng. Nồi được nấu ngay trước mặt chúa. Quỳnh bảo đốt 

lửa thật to cho nước sôi lên sùng sục và ngồi hầu chuyện chúa hết giờ này sang giờ khác. 

Gần tối, nồi hầm đá vẫn sôi chưa cạn, chúa chỉ uống nước trà suông, sót ruột mới hỏi: 

      - Mầm đá hầm đã lâu chắc là sắp chín? 

      Quỳnh thưa ngay: 

      - Muôn tâu, xin chúa đợi thêm lát nữa, chưa được ạ! 

      Chúa chờ nhưng đã đói lắm rồi, chốc chốc lại hỏi thăm. Trạng tâu: 

      - Món này chưa hầm chín thì lâu tiêu lắm. Xin chúa gắng chờ thêm! 

      Gần đến khuya, khi chúa đã chờ đợi đến đói rát ruột, Quỳnh mới thưa rằng: 

      - Thần e mầm đá vẫn chưa chín tới. Vậy xin chúa dùng tạm vài món dã vị của nhà 

thần, khi mầm đá chín, thần sẽ dâng lên ngay! 

      Nói xong sai người nhà bưng lên một mâm cơm trắng nóng với một lọ tương lớn, thật 

thơm. Chúa đang đói, ăn một hơi mấy chén thật ngon miệng. Trông thấy cái lọ, Quỳnh có 

viết hai chữ "Đại Phong" dán trên nắp, chúa thắc mắc. 

      - Đại Phong là món ngon gì mà ta chưa từng dùng? 

      - Muôn tâu, đó chỉ là món ăn thường ngày của một người dân thôi ạ! 

      - Nhưng đó là món gì?       - Bẩm là... Món tương ạ! 

      - À, tương, nhưng sao khanh lại đề là "Đại Phong"? 

      - Bẩm "đại" là lớn, "Phong" là gió, tức là gió lớn. Gió lớn thì đổ chùa, đổ chùa thì 

tượng lo, mà tượng lo tức là... Lọ tương ạ! 

      Chúa nghe Quỳnh giảng vòng vo vay cười vui vẻ rồi nói: 

      - Tương thì ta có ăn nhưng.... Lâu rồi. Mà vì lâu nên quên cả vị, không ngờ ăn lại thấy 

ngon miệng quá! Quỳnh tâu:  

     - Chúa nói quả không sai. Nhưng chúa ngon miệng là do chúa đã đói bụng. Khi lúc 

nào cũng no thì của dù ngon mấy cũng chán ăn ạ! 

      Chúa Trịnh hiểu ra, cười bảo: 

      - Vậy ta hiểu món mầm đá của khanh rồi. Chờ cho đói thì ăn ngon chớ đá thì hầm bao 

giờ cho chín được. 

  

Bà Chúa Mắc Lõm 

  

    Một bà Chúa nhan sắc mặn mà nhưng tính kiêu ngạo, hễ đi ra chơi phố phường thấy ai 

trái ý là sai lính bắt liền. Một lần, Quỳnh lững thững đi chơi, gặp kiệu Chúa. Gần đấy có 

cái ao bèo, Quỳnh vội vàng chạy xuống cầu ao đá nước chơi. 

      Chúa biết Quỳnh, thấy chơi lẩn thẩn như thế mới hỏi: 

      - Ông làm gì đó? 

      Quỳnh ngẩn lên thưa: 

      - Tôi ở nhà buồn quá, ra "đá bèo" chơi! 

      Bà Chúa đỏ mặt tía tai, tức lắm nhưng chẳng dám nói gì. 

Chửi......Vua      Một hôm, Quỳnh cho người ra bảo các hàng thịt là ngày mai Trạng đặt tiệc đãi các 

quan, cần mỗi hàng bán cho mấy cân, nhưng phải thái sẵn cho đỡ mắc công người nhà. 

Các hàng thịt mừng rỡ, sáng sớm đã thái thịt để đấy chờ người nhà Trạng đến lấy. Ai ngờ

đợi mãi đến trưa mà cũng chẳng thấy ai, họ bèn tới nhà Trạng thì nhà vắng tanh, chẳng có 

khách khứa gì cả. Hỏi trạng thì Trạng bảo không biết: "Chắc là có đứa nào muốn lõm bà 

con đấy. Cứ gọi thằng nào bảo thái mà chửi": 

      Bọn hàng thịt tức mình về cứ gọi thằng bảo thái mà chửi: 

      - Tiên sư thằng "Bảo thái"! Tiên sư thằng "Bảo thái". 

      Bảo Thái là niên hiệu nhà vua. Thành thử vua bị dân hàng thịt chửi một bữa inh cả

phố. Đương nhiên ai cũng biết cái chuyện xỏ xiên này chỉ có Trạng Quỳnh mới nghĩ ra 

được nhưng cũng đành làm thinh vì biết lấy bằng cớ gì mà bắt tội Quỳnh? 

Trạng Chữa Bệnh 

  

   Chúa Trịnh có cô con gái út rất được cưng chiều chẳng may bị bệnh sởi. Nàng quận 

chúa bị sốt li bì, nằm liệt giường cả bảy ngày, tất cả các quan ngự y giỏi đều được mời 

đến mà bệnh vẫn không lui. Thế cùng, chúa nghĩ đến Trạng Quỳnh và gọi ông tới thăm 

bệnh cho quận chúa và bảo: 

      - Bệnh của con ta có vẻ nặng lắm. Khanh mà hết lòng chữa khỏi được thì nhất định ta 

sẽ trọng thưởng. 

      Trạng vào thăm, qua kinh nghiệm, biết ngay quận chúa bị bệnh sởi. Bệnh này thì còn 

phải sốt cao năm ba ngày nữa, đến khi sởi mọc hết mới giảm sốt. Nhưng vốn không ưa gì 

nhà chúa và bọn nịnh quan bất tài, trạng tâu ngay: 

      - Bệnh quận chúa rất nặng, chúa phải làm lễ dâng sao thì mới khỏi. Thần xin làm sở

tế, nhưng tên các sao thì nhiều và lạ, vì vậy xin chúa cho phép thần chọn người học rộng, 

kiến thức uyên bác trong các quan để đọc sở tế. 

      Chúa Trịnh chuẩn tấu, xuống chiếu cho các quan chờ nghe trạng gọi ai, thì người đó 

phải tuân lệnh và đọc sở tế. 

      Các quan tất nhiên là rất lo lắng bởi sợ không đủ sức để mà đọc sớ Trạng viết. Bọn họ

liền cho người nhà đi dò la nhưng chỉ thấy Trạng đang sai người nối giấy cuốn lại thành 

cuộn to như cái bồ để chuẩn bị viết sớ. Quan nào quan nấy được tin báo vừa to vừa dài 

khủng khiếp như vậy đều hoảng sợ, chỉ lo Trạng gọi đến mình mà đọc không xong hẳn là 

phen này mất hết chức tước, đặc quyền, đặc lợi. Vì vậy, các ông quan bất tài ấy thay nhau 

mang đủ thứ lễ vật đến nhà Trạng mà lo lót đồng thời viện cớ đau lưng, mỏi gối, nhức 

mắt, khàn giọng v.v... Khẩn khoản xin Trạng miễn cho mình đọc sớ!       Trạng điềm nhiên nhận lễ vật, điểm lại tất cả quan triều đều tới nhà mình lo lót, bèn 

vào tâu: 

      - Thần xem phen này trong các quan không một ai có đủ kiến văn để mà đọc sớ. Vậy 

thì thần xin đích thân vì chúa mà đọc sớ tế lần này. 

      Chúa nghe vậy rất cảm động, an ủi: 

      - Cứu bệnh như cứu hỏa, khanh hãy ráng sức vì ta mà làm thật tốt, ắt là ta sẽ đền ơn! 

      Đêm hôm lẽ dâng sao, Trạng sai lính tháo cuộn giấy to bằng cái bồ ra. Giấy vừa mở

ra, Trạng nhìn vào và đọc ngay: 

      Trên trời có muôn vì sao. 

      Đọc xong Trạng đứng yên chờ. Giấy tháo ra mãi ra mãi, cho đến cuối cuộn mới thấy 

có thêm mấy dòng chữ, Trạng liền đọc tiếp: 

      Có phải vị nào, xin vào ăn xôi. Ăn xong, sao lại lên trời. Độ cho quận chúa phục hồi 

sức xuân Cẩn cáo! 

      Các quan cực kỳ kinh ngạc vì bài sớ kì dị của Quỳnh. Thế nhưng cúng xong được 

một ngày thì sởi mọc hết, quận chúa hạ sốt ngay. Rồi sởi bay, quận chúa khỏi bệnh. 

      Chúa Trịnh mừng lắm, cho là Trạng có tài cảm hoá  được quỷ thần, trọng thưởng 

Trạng rất nhiều. Riêng Trạng vừa được thưởng, vừa được "Hối lộ", về nhà đóng cửa cứ

cười tủm tỉm một mình. 

  

Hút Chết Vì Quả Đào 

     Quỳnh rất cậy tài, đùa cả, không từ ai. Một hôm, túc trực trong cung, có người đem 

dâng vua một mâm đào, gọi là "đào trường thọ". Quỳnh thủng thỉnh lại gần, lấy một quả, 

ngồi ăn, giữa đông đủ mặt vua quan, mà làm như không thấy ai cả. Vua quở, giao xuống 

cho các quan nghị tội. Các quan chiếu theo luật "Mạn quân" tâu nghị trảm. Quỳnh quỳ

xuống tâu rằng: 

      - Đình thần nghị tội hạ thần như vậy, thật là đúng luật, không oan, song xin Hoàng 

thượng rộng dung cho hạ thần được nói vài lời rồi chết cho thỏa ! 

      Vua phán: 

      - Ừ, muốn nói gì cho nói!       - Muôn tâu bệ hạ, hạ thần có bụng tham sinh, sợ số chết non thấy quả gọi là quả

"Trường thọ" thèm quá, tưởng ăn vào được sống lâu như Bành Tổ, để được thờ nhà vua 

cho tận trung. Không ngờ nuốt chưa khỏi mồm mà chết đã đến cổ! Hạ thần trộm nghĩ nên 

đặt tên quả ấy là quả "đoản thọ" thì phải hơn, và xin nhà vua trị tội đứa dâng đào để trừ

kẻ xu nịnh. 

      Vua nghe Quỳnh tâu phải, bật cười tha tội cho. 

   

  

Cây nhà lá vườn  

  

  

     Quỳnh nhiều lần dùng trí thông minh, tài đối đáp để trêu chọc chúa Trịnh, nên trước 

chúa quý trọng bao nhiêu thì sau lại ghét bấy nhiêu. Chúa càng ghét, Quỳnh càng trêu 

tợn. 

      Một lần, chúa sai lính tới kéo đổ nhà Quỳnh. Thấy lính đến Quỳnh bảo: 

      - Chúa sai các anh đến kéo đổ nhà ta, các anh cứ làm, nhưng không được reo, cười, ai 

mà reo cười ta cắt lưỡi. 

      Ở đời, hễ kéo nặng thì phải reo hò, không dô ta, hò khoan sao mà kéo nổi? Bọn lính  

đành chịu thua về trình báo lại. Lần khác chúa sai bọn lính đến ỉa vào vườn nhà Quỳnh, 

Quỳnh thản nhiên cầm dao ra bảo: 

      - Chúa sai các anh đến ỉa thì cứ ỉa nhưng ta cấm đái. Thằng nào đái thì dao đây, ta 

cắt.... Ngay! 

      Ỉa ai không đái bao giờ?  

     Bọn lính lại phải về tâu lại. Chúa truyền cho chúng mang gáo dừa theo và đái vào đó. 

Quỳnh đành chịu thua nhưng vẫn nghĩ cách chơi lại chúa. Một tháng sau, Quỳnh ra chợ, 

thấy người ta bán cải tốt, liền mua thật nhiều về, mang lên biếu chúa. Chúa thấy cải ngon, 

sai đầu bếp nấu canh, và quên chuyện cũ liền hỏi Quỳnh cải đâu mà ngon vậy. Quỳnh 

thưa ngay: 

      - Dạ, đó là cải nhà trồng. Trước nó không tốt lắm nhưng từ khi chúa sai lính "Bón 

phân" vườn nhà thần, nên nó tốt tươi như vật. Cây nhà lá vườn thôi, thần mới dám dâng 

cho chúa xơi! 

Mừng chúa thắng trận      Chúa Trịnh sau khi tuần du một vùng biên ải miền tây, trở về kinh sư huênh hoang 

khoe rằng "Quân nó" vừa thua to, và bị quân nhà chúa nửa đêm bất thần phá lũy đánh tốc 

vào... Phụ họa với nhà chúa, bọn quan nội và lũ nịnh thần đua nhau dâng biểu chúc tụng. 

Nhân cơ hội này, Quỳnh cũng làm một bài thơ gửi mừng chúa. Thơ rằng: 

      Nửa đêm giờ tí trống canh ba 

      Thoắt tiến lên thành phá lũy ra 

      Một tướng thẳng vào trong cửa hiểm 

      Hai quân đứng núp chực bên hà 

      Quân ta đổ lộn cùng quân nó 

      Nước nó giao hoà với nước ta 

      Đánh đoạn rút về lau khí giới 

      Tìm nơi vũ khố để can qua. 

      Nghe nói mới đọc qua lần đầu, chúa đắc ý. Nhưng xem kỹ lại, ngẫm nghĩ, nhà chúa 

bỗng nhăn mặt nói với thị thần: "Trạng lại dùng "Cái ấy" để lõm ta rồi, thế mà tụi bây 

không đánh hơi thấy à? ". 

  

Lễ tế sao 

  

    Chúa Trịnh lâm bệnh ngày một nặng. Lúc đầu cớm nắng, cớm gió, dần dần nửa tỉnh, 

nửa mê, tâm thần hoảng loạn. Chứng bệnh nhà chúa thật tai ác. Mỗi ngày lên cơn năm 

bảy bận. Mỗi bận lại bắt bọn quan lại đem một người đàn bà đẹp vào cung cấm, lột trần 

truồng trước mặt chúa, để chúa cào cấu, cắn xé... Có như thế con bệnh mới chóng lui. 

Nhiều thiếu nữ đã chết oan uổng, hoặc chịu mang thương tích suốt  đời, Quỳnh biết 

chuyện này, hết sức phẫn nộ. Quỳnh tự nhủ không để tình cảnh ấy kéo dài, bèn lập mẹo 

trị bệnh chúa... 

      Có tin bắn đến tai bà chính cung: Chỉ có Trạng Quỳnh mới chữa khỏi căn bệnh hiểm 

nghèo kia của chúa. 

      Bà chính cung tức tốc cho vời Trạng đến:       - Tính mệnh của chúa như ngàn cân treo sợi tóc. Ta dùng đủ tay ngự y danh tiếng, đã 

lễ cầu các vị tiên liệt ở nhà thái miếu và các đấng thần. Phật tối linh khắp miếu xa, miếu 

gần mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Bây giờ chỉ còn trong cậy vào Trạng. 

      Quỳnh vào thăm bệnh chúa, lúc trở ra, làm bộ lo lắng tâu với chính cung: 

      - Tâu lệnh bà, đúng như lời người dạy, sự sống của đức ngài chỉ còn le lói trong muôn 

một. Tiếc là lệnh bà cho gọi thần hơi muộn. Nhưng còn nước còn tát, thần xin dốc sức vì 

chúa một phen. Thần chẳng cần tiền bạc, danh vọng gì, chỉ thỉnh cầu lệnh bà chuẩn y cho 

mấy điều. 

      Quỳnh ra hiệu để chính cung đuổi hết quan thị và bọn hầu cận đi khỏi, mới nói tiếp: 

      - Biết sắp vào chầu Đức bà và thăm nhà chúa, đêm qua thần đã tắm gội sạch sẽ, vào 

cầu mộng ở đền Trấn Vũ. 

      Chính cung vội hỏi: 

      - Đức thánh ngài dạy sao? 

      - Thần cầu mộng lúc giờ tí đến giờ sửu ứng mộng ngay. Đức thánh truyền cho thần 

biết, muốn cứu nhà chúa, trước hết phải làm hai việc. Đức bà phải tha hết những con gái 

nhà lành và tất cả những người đàn bà khác đang bị giam giữ ở các nơi trong phủ chúa để

đợi đưa tiếp vào cung tiến. Đức bà phải lập một đàn sao giữa trời đất để thần làm lễ tế

sao. Trong bảy ngày đêm liền, thánh truyền phải dùng dây lụa buộc chặt nhà chúa vào 

sập rồng. Ngoài chính cung lệnh bà và kẻ hạ thần với hai tên hầu cận, tịnh không một ai 

được đến gần đức ngài. 

      Bà chính cung ngẫm nghĩ một lát rồi chấp thuận. Ngay hôm sau, mọi việc bắt đầu. 

Quỳnh đứng ra làm lễ tế sao. Đêm đến, trên dàn cao, bà chính cung và các hàng quan văn 

võ đại thần mặc lễ phục, hai tay dâng hương, quỳ mọp gối chung quanh chủ tế. Quỳnh 

tay cầm nghi trượng, tay "Bắt quyết", mồm luôn đọc bài văn tế sao: 

      - Ô hô Ngàn sao! Sao Loan, sao Mệ! Sao Dập, sao Dung! Sao Ú, sao Ngang! Sao 

Bao, Sao Hạn, Sao Tai! Mau cút lên trời! Chúa tôi khỏi bệnh! Ô hô cút mau!... 

      Sau mỗi lần đọc, Quỳnh lại bắt mọi người đồng loạt nhắc lại. 

      Thật kỳ lạ, chỉ tế sao trong vài đêm, bệnh chúa lui trông thấy. Đến ngày thứ năm, 

chúa van vỉ kêu rên như một phạm nhân xin giảm tội: "Ta hết cơn rồi. Các người mau cởi 

trói cho ta!" Quỳnh nghiêm giọng, đe nạt: 

      - Tuỳ chúa đấy thôi! Nếu chúa nóng lòng, không chịu phép đủ kỳ hạn, sau này thánh 

quở phạt, đừng trách cứ vào Trạng. Nhà chúa đành nghe theo. Sau bảy ngày đêm, chúa gần khỏi, người tỉnh táo, ăn ngon miệng. Chính cung cả mừng, mở tiệc khoản đãi Trạng. 

Trong thành, ngoài cõi đồn dậy lên:  

     "Trạng Quỳnh có thuật tế sao vô cùng mầu nhiệm!" Các quan chiêm tinh  đọc bao 

nhiêu sách chưa hề thấy có những vì sao lạ như vậy, lục tục kéo nhau đến khẩn khoản xin 

cầu Trạng truyền cho bí quyết, Trạng nói:  

     - Tôi không phải thầy cúng, cũng không phải thầy lang. Chẳng qua nhà Chúa từ lâu đã 

mắc chứng ham mê tửu sắc, ăn, uống, thức, ngủ vô điều độ. Các ngự y đến xem mạch lại 

đua nhau bốc thuốc bổ thận, bổ dương, càng đẩy con bệnh đến chỗ cường dục, loạn tâm, 

loạn trí. Tôi bày mẹo cầu mộng là cố mượn uy thần thánh bắt nhà chúa nằm bất động, 

kiêng khem mọi thứ, cho thể trạng trong người bình thường lại. Còn bài văn tế kia cũng 

chẳng có gì bí truyền cả. Cứ đọc ngược, khắc rõ nghĩa. Tôi xin tế lại các ngài nghe. 

      - Ô hô! Ngàn sao! Sao Loan, sao Mê là sao Mê, sao Loạn, sao Dập, sao Dung là sao 

Dục, sao Dâm, sao Ú, sao Ngang là sao Ác sao Ngu... Các chiêm tinh nghe Trạng kể như

vậy đều cười bò cười lăn. 

      - Các ngài thừa hiểu một khi các thứ sao xấu, sao độc kia không còn ám ảnh nhà chúa 

nữa, đã "Cút lên trời" thì nhà chúa hết bệnh chứ còn gì nữa. Họ phục Trạng vừa giàu trí 

thông minh, vừa giàu lòng nhân ái, xứng danh là "Ngôi sao sáng xứ Thanh".  

  

Vay Tiền Chúa Liễu 

  

     Lại một lần Quỳnh vào yết đền, thấy Chúa Liễu có nhiều tiền, lại đang lúc túng quá, 

liền nghĩ cách vay tiền, Quỳnh khấn: 

      - Em độ này túng lắm, mà chị lại đang có tiền để không, xin cho em vay để em mua 

bán, kiếm ít lời sẽ trả lại. Nói rồi, khấn đài âm dương: "Sấp thì chia tư, chị cho em vay 

một phần, ngửa thì chia ba, chị cho một phần, chị mà thuận cho một nửa thì xin nhất âm 

nhất dương" 

      Thấy đằng nào Quỳnh cũng vay được, mà ý Chúa Liễu thì không muốn cho vay, vì 

biết được là cho Quỳnh vay, cũng như lần cấy rẽ ruộng, Chúa Liễu nhất định sẽ thiệt, liền 

cứ làm cho hai đồng tiền quay tít, chẳng xấp mà cũng chẳng ngửa. 

      Quỳnh thấy thế liền vỗ tay reo: 

      - Tiền múa Chúa cười, thế là chị bằng lòng cho em vay cả rồi! Nói xong, lấy hết cả

tiền, bỏ vô bao mà về.     

  

Làm thơ xin ăn 

  

Tại một làng thuộc tỉnh nọ có tên địa chủ giầu có nứt vách, lại nổi tiếng gian ác và hay hà 

hiếp dân lành. Hắn có cô con gái tuy đẹp nhưng cũng nổi tiếng không kém cha về cái thói 

chua ngoa đanh đá. Cô gái này thường thay cha ra đồ nam đốc thúc kẻ làm thuê.  

Một hôm, cô ta đang đứng trên bờ ruộng, tay chống nạnh, đầu có nón quai thao, quan sát 

các nông dân làm thuê gặt lúa thì có một chàng thiếu niên dáng vẻ nho sinh đi ngang qua. 

Nho sinh thấy cảnh đó liền dừng lại hỏi thăm một bác nông dân về cô gái kia. Bác nông 

dân bảo cô ta là con gái của chủ ruộng, ngày nào cũng ra đứng đây để mà đôn đốc việc 

đồng áng, nói là thế nhưng thật ra ai làm lụng chậm chạp một tí là cô ta ngoác miệng ra 

chửi chẳng tiếc lời. Có lắm người tuy đói nhưng ráng chịu chứ không làm thuê cho cô ta 

để khỏi bị nhục.  

Nghe kể xong, chàng thiếu niên liền tiến đến gần bờ ruộng nơi cô kia đang đứng. Thiếu 

niên bảo cô nàng mình là học trò lỡ độ đường, nhịn đói đã hai ba bữa nay, xin cô gia ân 

bố thí cho ít lúa thổi cơm.  

Thấy chàng trai khôi ngô khoẻ mạnh lại đi xin ăn, cô gái nguýt dài và bảo:  

- Này, cô bảo cho biết, của đâu mà lấy không của người ta hả, nếu đúng học trò thì ứng 

khẩu xuất thi cho cô nghe lọt lỗ tai đã, bằng không thì cứ thẳng đường mà xéo!  

Chàng thiếu niên kia nhận lời ngay và xin cô gái ra chủ đề cho mình làm thơ. Cô kia bảo:  

- Ãã ăn xin còn vẽ chuyện, cứ làm thơ xin ăn là hợp nhất chứ còn đề điếc gì nữa!  

Chàng trai suy nghĩ trong thoáng chốc rồi đọc to:  

Tuyên Quang, Hoằng Hoá cũng thờ vua.  

Nắng cực cho nên phải mất mùa  

Lại đứng đầu bờ xin xỏ chị.  

Chị lỡ lòng nào chị chẳng cho.  

Nghe xong bốn câu thơ ấy, cô gái đỏ gần cả mặt, ngượng quá không còn biết nói năng gì 

nữa cả, vội vội vàng vàng lấy lúa đưa cho chàng trai kia. Chàng kia chẳng thèm cám ơn, 

đi thẳng một mạch trong tiếng cười khúc khích của các người làm ruộng thuê.  

Về sau, người ta biết ra chàng trai ấy chính là Trạng Quỳnh. Còn phần cô gái thì sao? Cô 

ta mất hẳn cái thói đanh đá chanh chua, mà cũng từ hôm ấy, không thấy cô ra đồng đứng 

chống nạnh như trước nữa.     

Đá bèo 

  

Một bà Chúa có nhan sắc mà tính kiêu ngạo, đi ra chơi phố phường thấy ai trái ý là sai 

lính bắt  đánh liền. Quỳnh lững thững  đi chơi, gặp kiệu Chúa. Gần  đấy có cái ao bèo. 

Quỳnh vội vàng chạy xuống cầu ao đứng đá nước chơi. Chúa biết Quỳnh, thấy chơi lẩn 

thẩn như thế mới hỏi:  

- Ông làm gì đó?  

Quỳnh ngẩng lên thưa:  

- Tôi ở nhà buồn quá, ra ao đá bèo chơi!  

Chúa đỏ mặt tía tai, bỏ đi.  

  

Trạng chết chúa cũng băng hà 

     Từ bận ấy, chúa có bụng ghét Quỳnh. Được mười hôm, chúa đòi Quỳnh vào thị yến, 

định đánh thuốc độc cho chết, Quỳnh biết chúa căm về mấy chuyện trước, lần này đòi 

vào thị yến, chắc là có chuyện. Lúc đi dặn vợ con rằng: 

      - Hôm nay ta vào hầu yến Chúa, lành ít, dữ nhiều. Ta có mệnh hệ nào, thì không được 

phát tang ngay, cứ phải để ta vào võng, cắt hai đứa quạt hầu, rồi gọi nhà trò về hát, đợi 

bao giờ phủ chúa phát tang thì ở ngoài hãy phát tang. 

      Dặn xong, lên võng đi. 

      Quỳnh vào đến cung, đã thấy chúa ngồi đấy rồi. Chúa bảo: 

      - Lâu nay không thấy mặt, lòng ta khát khao lắm. Vừa rồi, có người tiến hải vị, ta nhớ

đến ngươi, đòi vào ăn yến, người không được từ. 

      Quỳnh biết chúa thù về cây cải hôm nọ, không ăn không được. Vừa nếm một miếng 

thì chúa hỏi: 

      - Bao giờ Quỳnh chết?       Quỳnh thưa: 

      - Bao giờ chúa băng hà thì Quỳnh cũng chết? 

      Ăn xong, Quỳnh thấy trong người khang khác, cáo xin về. Vừa về đến nhà thì tắt hơi. 

Vợ con cứ theo lời Quỳnh dặn mà làm. Chúa sai người dò xem Quỳnh có việc gì không, 

thấy Quỳnh đương nằm võng nghe nhà trò hát, mà người nhà thì đi lại vui vẻ như thường, 

về tâu với chúa. Chúa liền đòi đầu bếp lên hỏi xem đánh thuốc thế nào mà Quỳnh không 

việc gì. 

      Chúa ăn thử, được một chốc thì chúa lăn ra chết. 

      Nhà Quỳnh nghe thấy trong dinh chúa phát tang thì ở nhà cũng phát tang. Chúa và 

Trạng đưa ma một ngày. Thế mới biết Quỳnh chết đến cổ còn lừa được chúa mới nghe. 

Người đời sau có thơ rằng: 

      "Trạng chết chúa cũng băng hà 

      Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn".  

   

     

  

   

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro