Trao Duyên

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tác phẩm “Đoạn Trường Tân Thanh” – hay còn gọi là “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những tác phẩm kinh điển  trong lịch sử văn học Việt Nam. Gồm 3254 câu thơ được viết theo thể lục bát, tác giả đã tạo nên một kiệt tác văn học có tầm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống con người Việt nam. “Truyện Kiều” đã phản ánh hiện thực bất công trong xã hội phong kiến; cho người đọc thấy được cảnh sống khốn cùng của nhân dân dưới sự vùi dập của các thế lực bạo tàn, đặc biệt là với người phụ nữ và ca ngợi những vẻ đẹp của con người. Và, qua đoạn trích “Trao Duyên” của tác phẩm, ta hiểu thấu được bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và đồng thời nhân cách cao đẹp của nhân vật Thúy Kiều.

Đoạn trích “Trao Duyên” nằm ở vị trí từ câu 723 đến câu 756 trong “Truyện Kiều”. Đây là đoạn thơ mở đầu cho quãng đời khổ đau và lưu lạc của Thúy Kiều. Trong cơn gia biến, một mình nàng Kiều phải đứng ra thu xếp mọi việc. Sau khi cân đo đóng đếm giữa chữ hiểu và tình, Kiều đành ngậm ngùi bán mình chuộc cha. Mặc dù phận mình thế nào cũng đành, nhưng nàng vẫn không đành lòng bội nghĩa với chàng Kim – người mà nàng yêu tha thiết. Suy nghĩ, dằn vặt một hồi lâu, Kiều đành nhờ em gái mình là Thúy Vân thay nàng nối duyên với chàng Kim để trả nghĩa này.

18 câu thơ mở đầu đoạn trích là lời trao duyên, trao kỉ vật tình yêu của Kiều dành cho Thúy Vân.

“Cậy em, em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Trước khi nói lời trao duyên cho em, Thúy Kiều đã mở đầu bằng những từ ngữ vô cùng kính cẩn khiến cho lời nhờ cậy ấy cũng thêm phần trang trọng. Để biểu hiện cho sự nhờ vả, Nguyễn Du đã dùng từ “cậy” hàm chưa niềm tin, sự trông mong vào sự giúp đỡ của người khác. Bên cạnh đó, từ “chịu” lại mang sắc thái nài ép, người được nhờ chẳng thể chối từ nhưng cũng vô cùng thiệt thòi. Qua đó, ta hiểu được rằng, việc mà Kiều định nhờ Thúy Vân là một việc vô cùng quan trọng mà Vân chẳng thể nào thoái thác, song việc ấy cũng đem lại những thiệt thòi cho nàng. Hai câu thơ mang sắc thái của sự khẩn cầu thiết tha. Thúy Kiều là chị, nhưng nàng lại nói với em mình bằng lời lẽ của người chịu ơn, của một kẻ đang làm phiền lụy người khác. Điều đó đã hé mở rằng, câu chuyện mà Kiều định nói là một chuyện vô cùng hệ trọng.

“Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”

Ở sáu câu thơ sau, Thúy Kiều đã giãi bày câu chuyện của mình. Bằng việc sử dụng những thành ngữ, tác giả không chỉ gợi ra hoàn cảnh éo le mà còn thể hiện sự bối rối, bất lực của Kiều. Chuyện tình của Kim Kiều đương đậm sâu, đẹp đẽ, hai người lại từng thề nguyện kết duyên vợ chồng. Nhưng ngờ đâu sóng gió lại ập đến một cách bất ngờ: “Sự đâu sóng gió bất kì” khiến cho tình cảm tha thiết ấy bị chia lìa. Mối tình Kim Kiều với biết bao nhiêu kỉ niệm đã được dồn nén trong hai câu thơ. Điều đó thể hiện sự tế nhị của nàng Kiềm, bởi nói sao vừa đủ để khiến cho Thúy Vân thấu hiểu nỗi khổ tâm của nàng mà lại không khiến cho em chạnh lòng. Bên cạnh đó, các sử dụng cụm từ “tơ thừa mặc em” khi nhờ Vân nối duyên đã biểu lộ sự phó thác vào em trong hoàn cảnh éo le ấy. Những lời lẽ cậy nhờ của Thúy Kiều đã thể hiện sự thấu hiểu với tình cảnh của Thúy Vân: nối duyên cho chị là một sự thiệt thòi lớn cho nàng. Trao duyên, với người người trao là một sự mất mát lớn nhưng đồng thời người nhận cũng phải chịu nhiều ấm ức. Sự sâu sắc của Thúy Kiều trong câu chuyện cũng chính là sự thấu hiểu của Nguyễn Du ở phương diện tình cảm của con người. Qua lời giãi bày ấy, ta thấy được sự day dứt, áy náy của Thúy Kiều dành cho em mình. Sau cùng, để thuyết phục em nhận lời, Kiều đã đưa ra nhiều lí lẽ “thấu tình đạt lí”.

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chính suối hãy còn thơm lây”

Nàng nói đến tuổi trẻ của Vân như một lời động viên rằng em sẽ hạnh phúc. Bên cạnh đó, nàng đã rất thông minh và khéo léo khi thuyết phục em bằng tình nghĩa chị em máu mủ.Trong thâm tâm, nàng vẫn mong muốn Vân với chàng Kim được hạnh phúc nên dù chết, Kiều vẫn ghi lòng tạc dạ . Tuy nhiên, trong lời của Kiều còn hiện diện một nỗi niềm đau đớn, xót xa cố nén. Bằng cách sử dụng thành ngữ mang sắc thái biểu cảm sâu sắc, lời thuyết phục ấy giống như một lời tâm tình tha thiết của chị đối với em. Lời lẽ của nàng vừa thấu tình đạt lí, vừa mang sắc thái ràng buộc, vừa khẩn cầu lay động cả tình cảm và trách nhiệm khiến cho Vân chẳng thể chối từ. Lời trao duyên đầy sức thuyết phục ấy đã thể hiện một cô Kiều thông minh, sắc sảo lại giàu tình nghĩa, giàu lòng vị tha. Nàng vừa muốn trọn nghĩa với chàng Kim, nhưng lại suy nghĩ đến cảm nhận của em mình dẫu lòng Kiều có đau đớn xót xa. Qua đó, ta thấy được rằng, nhân vật của Nguyễn du đẹp ngay cả trong hoàn cảnh nguy khốn. Sau khi biết em thuận lòng, Kiều bèn trao những kỉ vật tình yêu cho em:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương huyền ngày xưa.”

“Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương huyền” – đó là những kỉ vật thiêng liêng gắn liền với những kỉ niệm tình yêu giữa nàng Kiều và chàng Kim: từ lúc gặp gỡ, lúc thề nguyền, gắn liền với những rung động, đam mê, khát khao nên vợ nên chồng. Thúy Kiều trao em em từng kỉ vật ấy như một sự lần giở lại những kỉ niệm của tình yêu, sống lại trong giây lát một quãng đời đẹp đã qua. Lời của nàng khi trao tín vật cho em như chất chưa, dồn nén biết bao nhiêu tâm trạng đã được miêu tả một cách tinh tế. Câu thơ: “Duyên này thì giữ, vật này của chung” thể hiện sự tiếc nuối, giằng xé trong tâm can của Kiều. Những kỉ vật ấy là biểu tượng của tình yêu tha thiết giữa nàng và chàng Kim, làm sao có thể cho đi dễ dàng như thế được? Trao cho Thúy Vân những vật thiêng liêng ấy, Thúy Kiều gọi đó là “của tin”, là chút tình chút lòng cuối cùng mà nàng trao lại cho Kim Trọng bởi ngày chàng về thì Thúy Kiều đã chẳng còn nữa. Câu thơ gợi ra sự xót xa của Thúy Kiều cho một đoạn tình cảm thiết tha, đẹp đẽ ngày nào. Bên cạnh đó, nhắc đến những kỉ vật kia, nàng lại gắn nó với hai chữ “ngày xưa”. Sự tiếc nuối được gợi ra qua khoảng thời gian tâm lí ấy. Với Kiều, những tình cảm mặn nồng chỉ mới đây thôi đã trôi vào quá khứ mà chẳng thể vãn hồi. Hạnh phúc với nàng giờ đây chỉ là thứ viển vông, xa xỉ. Đắm chìm trong nỗi thương đau, Kiều tự gọi mình là kẻ “mệnh bạc”, thể hiện nỗi niềm thương thân, tủi phận. Điều đó thể hiện rằng, nàng đã ý thức một cách sâu sắc giá trị của tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Qua đó, tác giả Nguyễn Du đã khẳng định, tình yêu chính là giá trị đích thực của nhân sinh. Trao kỉ vật cho em, Kiều đã mang tâm trạng đầy mâu thuẫn: “duyên trao mà tình chẳng thể trao”, muốn thanh thản ra đi nhưng trong lòng nàng lại chẳng thể đành lòng quên đi đoạn tình cảm sâu nặng ấy. Trong lúc trao lời, Kiều như kìm nén sự xúc động để nói những lời thấu tình đạt lí. Song khi trao kỉ vật, thì lí trí lại lui dần, nhường chỗ cho những nỗi xót xa vô hạn. Đằng sau mạch tự sự là diễn biến tâm trạng của nhân vật được diễn tả một cách tinh tế và chân thực, bởi trong tình yêu, cả niềm đam mê và nỗi đau đều có xu hướng vượt ra khỏi sự kiềm tỏa của lí trí con người.

Sau khi đã trao duyên và trao kỉ vật cho Thúy Vân, Kiều còn dặn dò em bằng giọng điệu cảm thương, não nề, tựa như nàng đã là người của một cõi khác nói vọng về.

“ Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy, sợi tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liều, đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt, khuất lời,

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.”

Qua cách sử dụng cụm từ “Mai sau”, tác giả đã cho ta hiểu đoạn thơ là sự hình dung của Kiều về tương lai. Nàng tưởng tượng ra cảnh Thúy Vân và Kim Trọng sống hạnh phúc bên nhau trong tương lai khi nàng đã ra đi. Đằng sau những câu chữ đơn giản và sắc thái giả tưởng của câu thơ, dường như người đọc cảm nhận được những uẩn khúc sâu trong lòng Kiều. Lý trí nàng đã hiểu được, cuộc sống hạnh phúc của em và chàng Kim là điều tất yếu, nhưng tình cảm lại khiến nàng muốn phủ nhận điều ấy. Tương lai của họ là ấm êm như vậy, còn ngày mai của Kiều, nàng chỉ còn có thể trở về bằng linh hồn phất phơ nơi ngọn cỏ lá cây. Và đáng thương hơn cả, linh hồn của nàng vẫn mang nặng nghĩa tình mà chẳng thể siêu thoát. Kiều hình dung ra tương lai của mình là một cái chết thê lương, u ám đang đợi chờ. Dẫu vậy, nàng vẫn thiết tha được trở về để trọn nghĩa trọn tình với người mình yêu. Hình dung ra điều ấy, Kiều mong muốn có được sự thấu hiểu, đồng cảm của Thúy Vân và Kim Trong:

“Dạ đài cách mặt, khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.”

Nguyễn Du đã miêu tả tài tình biểu hiện của một thế giới mà người xưa gọi là “cõi âm”. Câu thơ mang giọng điệu não nề, sử dụng rất nhiều những từ ngữ gợi tả cái chết và oan hồn. Bản thân sự hình dung về tương lai của Kiều cũng thể hiện nỗi niềm thương thân tủi phận của con người với tình cảm tha thiết với tình yêu. Chia tay mối tình đầu khắc cốt ghi tâm mà nàng tưởng chừng như mình đã chết. Nỗi đau mất tình yêu đã đẩy hạnh phúc của nàng vào quá khứ xa xôi và mở ra một tương lai mịt mờ, đen tối cho chính Kiều. Đến lúc này, Kiều như đắm mình vào trong nỗi khổ đau, nặng nề. Nàng dần quên đi sự có mặt của Thúy Vân để sống trong một không gian, thời gian khác.

“Bây giờ trâm gãy gương tan

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sao phận bạc như vôi

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Đoạn thơ mở đầu bằng từ ‘bây giờ”, đánh dấu sự chuyển biến trong tâm trạng của Kiều. Từ việc hình dung về tương lai mịt mù, Kiều đã ý thức và hướng về thực tại bởi hi vọng về sự đồng cảm nơi âm dương cách biệt không khiến cho nàng vơi đi nỗi đau trong hiện thực. Lời thơ đã chuyển từ đối thoại sang độc thoại, Kiều đã hoàn toàn quên đi sự hiện diện của Vân để độc thoại với người tình trong tâm tưởng. Cùng với đó, tác giả đã sử dụng một lọat những từ ngữ mang sắc thái thành ngữ để thể hiện sự ý thức của nhân vật về số phận bạc bẽo, thê lương của mình: “trâm gãy gương tan; nước chảy hoa trôi”. Nỗi đau về tình yêu tan vỡ, gắn liền với nỗi đau thân phận đã biểu hiện sự thức tỉnh của con người cá nhân trong cảnh xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Cùng với đó, những câu thơ cảm thán ẩn chứa nhiều sắc thái đã góp phần diễn tả tâm trạng của Kiều. Khi thì là những lời nuối tiếc, than vãn: “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân” ; khi lại là những lời oán trách gay gắt: “Phận sao phận bạc như vôi.” Những lời lẽ da diết ấy chính là từng cung bậc của nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng. Dường như, chẳng gì có thể kìm nén nổi nỗi thương tâm của nàng. Sau cùng, nỗi đau của Kiều đã lên đến đỉnh điểm ở hai câu thơ cuối. Những từ ngữ cảm thán “Ôi, hỡi” kết hợp cùng nhịp thơ 3/3 khiến câu thơ như bị đứt gãy làm đôi. Lời thơ vừa giống như một tiếng gọi tha thiết, lại vừa giống như một tiếng khóc trong tuyệt vọng của Kiều. Nàng gọi chàng Kim là “Kim lang” – một cách gọi trang trọng nhưng cũng táo bạo thể hiện tình cảm nồng sâu của mình. Còn về phần Kiều, nàng dành cho mình một chữ “phụ”, khiến cho lời tạ từ cũng là lời tạ tội của nàng hướng đến chàng Kim. Chữ “phụ” ấy còn thể hiện mặc cảm sâu sắc đến suốt đời Kiều nhưng cũng đồng thời thể hiện một tình cảm chân thành. Nỗi day dứt vì đoạn duyên phận dang dở ấy chính là nỗi day dứt đeo bám nàng suốt cả cuộc đời. Cùng một lúc, Kiều phải mang trên mình hai nỗi đau: đau cho người và đau cho mình.

Qua đoạn trích “Trao Duyên”, ta thấy được nỗi đau khi tình yêu bị chia cắt và số phận bi kịch của Kiều. Bằng việc sử dụng ngôn từ trong sáng, giàu sức gợi tả kết hợp với cách miêu tả nội tâm nhân vật tinh tế, nỗi đau và vẻ đẹp tâm hồn của nàng Kiều đã được thể hiện đậm nét và tỏa sáng. Nguyễn Du đã thực sự tái sinh một nàng Kiều. Cô Kiều của đại thi hào Nguyễn Du không phải là hình tượng minh họa khô khan của những tư tưởng đạo lí, mà đó là một con người với tất cả sự phong phú, phức tạp của nội tâm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#minhtrang