tri thuc kien thuc 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ủa Lê-ôn-nac-đô Đơ Vanh-xi

Tháng 10.2002, tại Anh, người ta đã chế tạo và thử nghiệm một thiết bị bay độc nhất vô nhị làm bằng gỗ, lông chim và chất bài tiết của con bọ dừa như Leonardo khởi thảo cách đây 500 năm. Đó là nguyên mẫu của chiếc dù hiện đại và tàu lượn hiện đại. Bằng những phát minh của mình, ông đã chứng minh con người có thể bay ở thời đại mà chưa ai dám mơ tưởng tới điều kỳ diệu đó.

Ngay từ năm 1483, Leonardo đã ghi lại bên lề bản vẽ: “Nếu như người ta tìm được một tấm vải gai có chiều rộng và chiều cao 12 ácđơ (đơn vị đo chiều dài Anh bằng 91,44 cm) thì anh ta có thể nhảy xuống từ bất cứ độ cao nào mà không việc gì”.

Năm 1777, một tử tù người Pháp tên là Jean Dumie chấp nhận việc thử nghiệm “cái áo khoác biết bay” do giáo sư Fontagie chế tạo theo những phác họa của Leonardo. Với Jean Dumie, đây là một canh bạc: Nếu thoát chết sau cú nhảy, cơ quan thực thi pháp luật sẽ không có quyền lấy đi mạng sống của anh nữa. Dumie đã thực hiện cú nhảy từ trên mái ngọn tháp canh của nhà tù và đã sống.

Bản sao chính xác của chiếc khinh khí cầu mà Leonardo miêu tả mới đây đã được một người Anh tên là Edrian Nicolas thử nghiệm. Trên một thiết bị nặng 85 kg được chế tạo bằng những vật liệu vốn sẵn có ở thời Trung cổ, anh ta đã bay được gần 2.500 m trên những cánh đồng ở Nam Phi. Chiếc khí cầu này đã lên cao tới 3.000 m, bất chấp dự đoán của các chuyên gia rằng "cái hộp vớ vẩn bằng gỗ và vải gai" này không thể bay được. Người thử nghiệm khẳng định rằng, trong lúc bay, chính Leonardo đã “phù hộ độ trì” cho anh ta theo lời cầu nguyện của mình.

Trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự do Leonardo phát minh, “con rùa gỗ" (mô hình của chiếc ôtô hòm bọc thép) cách đây 500 năm chính là tiền thân của chiếc xe tăng hiện đại. Bên trong “con rùa” có thể chứa được 12 người: 8 người được bố trí bên những lỗ châu mai có nhiệm vụ nã súng vào đối phương, một người ở phía trên để quan sát chiến trường, những người còn lại điều khiển sự chuyển động của “con rùa”.

Khó có thể liệt kê hết những phát minh của Leonardo. Càng ngày thế giới càng thấy rõ rằng con người kỳ cục này đã vượt trước thời đại mình không phải là 500 năm mà nhiều hơn thế. Ngày nay, chúng ta chỉ mới bắt đầu hiểu vài ý tưởng của ông. Ôtô, máy bay, khí cầu chỉ là một số ít ỏi trong những bản thiết kế do ông khởi thảo.

Mới đây, tại kỳ họp lần thứ 40 tại “Chuyên đề về Vinci” diễn ra ở Florence, một kỹ sư cơ khí Mỹ - ông Elling Roshaim - đã tuyên bố: Bức vẽ trứ danh của Leonardo trong tập “Bản thảo Đại Tây Dương", vốn được coi là nguyên mẫu của chiếc xe ô tô hiện đại, kỳ thực “là sự mô tả robot được chương trình hóa”.

Với sự hỗ trợ của các phim dương bản và sự tái hiện số trên máy tính, Roshaim giải thích rằng: Một trong những hình vẽ của tập bản thảo do Leonardo thực hiện năm 1478, ở tuổi 26, chính là thiết bị tự động được chương trình hóa, có khả năng khắc phục một hành trình rõ rệt, dừng lại, quay phải và quay trái theo chương trình được định sẵn cho nó.

Một số nhà nghiên cứu còn nhìn thấy trong những bản vẽ của Leonardo nguyên mẫu của máy tính tương lai, máy chụp ảnh số, vô tuyến truyền hình...

Da Vinci - người đến từ tương lai?

Trong tập “ghi chép” của Leonardo, chúng ta đọc được những lời tiên đoán thiên tài về những thành tựu tương lai của khoa học kỹ thuật:

Về máy điện thoại: “Người ta sẽ nói chuyện với nhau từ những đất nước xa xôi nhất và sẽ trả lời nhau cứ y như đang ở cạnh nhau”.

Về ghi hình và tiếng trên băng: “Người ta sẽ đi lại mà không chuyển động, có thể nói với người vắng mặt, lắng nghe người im lặng”.

Về việc phát hình trên vô tuyến: “Mọi người trong nháy mắt sẽ tản ra khắp nơi trên thế giới mà không di chuyển khỏi vị trí”...

Những dự đoán như vậy về tương lai chiếm hàng trăm trang viết. Và ngày nay, không phải tất cả những dự đoán ấy đều được hiểu rõ. Tất cả những hiện tượng như thần thuật bay lên, khả năng ngoại cảm, thần giao cách cảm... đều được Leonardo miêu tả.

Trong những trang viết của Leonardo, người ta thậm chí còn tìm thấy cả sự miêu tả người cá. Ông là người đề xuất những ý tưởng về tàu thủy, xe đạp, máy bay trực thăng, chiến hạm bọc thép, thấu kính tiếp điểm, kính viễn vọng mà nhờ nó “có thể nhìn thấy được mặt trăng và các vì sao ở mức phóng đại”...

Từ đâu mà Leonardo đã học được tất cả những điều đó? Liệu ông có thể đơn thương độc mã phát minh ra tất cả những điều kỳ diệu ấy không? Do đâu mà ông biết chuyện gì sẽ xảy ra? Những thắc mắc khó giải thích này khiến nhiều người có ý nghĩ rằng, Leonardo đã đến từ tương lai, nơi mà những công nghệ như vậy từ lâu đã trở thành hiện thực]

Pablo Picasso, danh họa người Tây Ban Nha, đứng đầu top 200 nghệ sĩ tạo hình lớn nhất thế giới thế kỷ 20 do tạp chí The Times, Anh, công bố. Cuộc bình chọn thu hút sự tham gia của 1,4 triệu người.

1. Pablo Picasso (1881 - 1973): 21.587 phiếu

Pablo Picasso.

Sinh ra tại Tây Ban Nha nhưng Picasso gắn bó nhiều hơn với nước Pháp. Cùng với Georges Braque, ông được coi là cha đẻ của trường phái Lập thể trong hội họa và điêu khắc. Sau khi qua đời, Pablo Picasso để lại di sản gần 50.000 tác phẩm nghệ thuật thuộc nhiều thể loại như tranh, điêu khắc, đồ gốm, ký phác thảo…

Tác phẩm "Les Demoiselles d'Avignon" (Những cô nàng ở Avignon).

2. Paul Cezanne (1939 - 1906): 21.098 phiếu

Chân dung tự họa của Paul Cezanne.

Thiên tài người Pháp, thuộc trường phái Hậu ấn tượng. Ông được coi là người nối nhịp cầu giữa Hội họa Ấn tượng thế kỷ 19 với Hội họa lập thể thế kỷ 20. Chỉ sống 6 năm trong thế kỷ 20 nhưng sức ảnh hưởng to lớn của Cezanne đã đảm bảo cho tên ông luôn xuất hiện trong danh sách những cây cọ vĩ đại nhất thế kỷ này. Hai danh họa Pablo Picasso và Henri Matisse đều thừa nhận, Cezanne chính là "bậc thầy" của họ trong nghệ thuật hội họa.

Bức "The card Players" (Người chơi bạc) của Cezanne.

3. Gustav Klimt (1862 - 1918): 20.823 phiếu

Họa sĩ Gustav Klimt.

Họa sĩ người Áo, là cây cọ xuất chúng của trường phái Tượng trưng. Ông vẽ nhiều về hình thể người phụ nữ, khai thác vẻ đẹp sexy quyến rũ của họ, bất luận là trong những trang phục kín đáo hay trạng thái khỏa thân nóng bỏng.

Tác phẩm "The Kiss" (Nụ hôn) của Klimt.

4. Claude Monet (1840 - 1926): 20.684 phiếu

Claude Monet.

Là người sáng lập, đại diện xuất sắc của trường phái Ấn tượng Pháp. Chính khái niệm Ấn tượng được cho là có nguồn gốc từ tên bức tranh Ấn tượng, mặt trời mọc của ông. Claude Monet nổi tiếng với tranh phong cảnh. Những tác phẩm của ông mang đến cảm giác nhẹ nhàng, lãng mạn, nên thơ và thư thái.

Bức "Impression, soleil levant" (Ấn tượng, mặt trời mọc).

5. Marcel Duchamp (1887 - 1968): 20.647

Marcel Duchamp.

Họa sĩ người Mỹ gốc Pháp với những tác phẩm gần gũi với trường phái Da da và Siêu thực. Ngoài tài năng hơn người, Duchamp còn được nhớ đến bởi tính cách nghịch ngợm, phá phách với nghệ thuật của ông. Ông coi "Nghệ thuật là trò chơi giữa mọi người và ở mọi thời đại". Ông chính là người đã vẽ ria, thêm râu lên bức tranh Mona Lisa nổi tiếng của Leonardo da Vinci, mở đầu cho làn sóng biến tấu tác phẩm Mona Lisa về sau.

Mona Lisa (trái) của Leonardo da Vinci và bức tranh nhại (phải) của Marcel Duchamp.

6. Henri Matisse (1869 - 1954): 17.096 phiếu

Tự họa của Henri Matisse.

Nghệ sĩ người Pháp, là người tiên phong của trường phái Dã thú. Ông được đánh giá là bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng màu sắc. Matisse và Picasso là hai người bạn ngoài đời, đồng thời là những đối thủ cạnh tranh khốc liệt trong nghệ thuật.

Bức "Woman with a Hat" của Matisse.

7. Jackson Pollock (1912 - 1956): 17.051 phiếu

Jackson Pollock.

Là nghệ sĩ nổi bật của trường phái Biểu hiện trừu tượng. Pollock điển hình cho kiểu nghệ sĩ lắm tài nhiều tật. Trong cuộc sống bình thường, ông là người hung hăng, thích gây sự. Pollock còn mắc chứng nghiện rượu nặng. Ông qua đời ở tuổi 44, trong một tai nạn vì lái xe trong lúc quá chén.

Bức "Moon-Woman Cuts the Circle" (Người đàn bà - mặt trăng cắt vòng tuần hoàn) của Pollock.

8. Andy Warhol (1928 - 1987): 17.047 phiếu

Andy Warhol.

Họa sĩ người Mỹ nổi tiếng với trường phái Nghệ thuật Đại chúng Pop Art. Ông là tác giả những bức chân dung về các nhân vật nổi tiếng như Đệ nhất phu nhân Jacqueline Kennedy, nữ diễn viên điện ảnh Marilyn Monroe, chủ tịch Mao Trạch Đông… Ngoài vẽ tranh, ông còn làm phim, viết sách…

Những bức vẽ Marilyn Monroe của Andy Warhol.

9. Willem De Kooning (1904 - 1997): 17.042 phiếu

Willem De Kooning.

Họa sĩ người Hà Lan, đại diện của trường phái Biểu hiện trừu tượng. Ông là người từng khiến dư luận kinh sợ với những tác phẩm vẽ người phụ nữ xấu xí, ma quái.

Tác phẩm "Woman III" của Willem De Kooning.

10. Piet Mondrian (1872 - 1944): 17.028 phiếu

Tự họa của Piet Mondrian.

Họa sĩ người Hà Lan, nổi tiếng với trường phái Tân tạo hình. Phong cách của ông ảnh hưởng lớn đến cả kiến trúc, đồ họa, thiết kế công nghiệp…

Bố cục với màu đỏ, xanh, vàng của Piet Mondrian.

ST (The Times)

Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn hổ mang ra vào trong hang.

Một hôm, con rắn chồng bò ra khỏi hang một mình. Ông nhìn vào, thấy rắn vợ nằm cuộn ở trong. Vì mới lột nên mình mẩy của nó yếu ớt không cựa quậy được. Một lúc lâu rắn chồng bò trở về, miệng tha một con nhái đút cho vợ ăn.

Ít lâu sau. Dã Tràng lại thấy rắn vợ bò ra khỏi hang một mình. Lần này rắn chồng đến kỳ lột, nằm im thiêm thiếp, lốt da cũ còn bỏ lại bên hang. Hồi lâu, rắn vợ trở về, theo sau một con rắn đực khác khá lớn. Dã Tràng thấy hai con bò đến cửa hang thì dừng lại rồi quấn lấy nhau như bện dây thừng. Một lát sau, con rắn đực một mình bò vào hang. Dã Tràng biết con rắn đực này toan làm gì rồị Ổng cảm thấy ngứa mắt, muốn trừ bỏ con rắn đó đi để cứu con rắn chồng đang lúc suy nhược. Lúc đó bên mình không có cái gì cả, ông bèn rút một mũi tên nhằm con rắn đực mới đến, bắn ngay một phát. Không ngờ mũi tên lại trúng vào đầu con rắn vợ chết tươi, còn con kia hoảng hồn chạy mất. Dã Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái, nhưng trong cái thương có lẫn cả giận, nên ông chán nản bỏ đi về nhà. Từ đó ông không thèm để ý đến hang rắn nữạ Chừng dăm bảy ngày sau, một hôm Dã Tràng nằm võng thuật chuyện vợ chồng con rắn cho vợ nghe và vui miệng, ông kể luôn những việc mình đã thấy và đã làm. Ông kể vừa dứt lời thì bỗng nghe trên máng nhà có tiếng phì phì. Cả hai người hốt hoảng nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu vươn gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe được tiếng rắn nói:

- Ông là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên máng này chỉ chực mổ chết để báo thù cho vợ tôi. Nhưng hồi nãy nghe ông kể chuyện rõ ràng, tôi mới biết là lầm. Xin biếu ông viên ngọc nghe nàỵ. Đeo nó vào mình thì có thể nghe được mọi tiếng muông chim ở thế gian.

Từ kinh ngạc đến sung sướng, Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ đó không bao giờ rời.

Một hôm, Dã Tràng đang hái rau, tự dưng có một bầy quạ đến đậu ở mấy ngọn cau nói chuyện lao xao. Chúng nó bảo Dã Tràng như thế này: "Ở núi Nam có một con dê bị hổ vồ. Hãy lên đó lấy về mà ăn nhưng nhớ để lòng lại cho chúng tôi với". Dã Tràng làm theo lời quạ, quả thấy xác một con dê trên núi Nam. Ông xẻo lấy một ít thịt xâu lại xách về. Đến nhà, ông vội mách cho xóm giềng biết mà đi lấy, không quên dặn họ để bộ ruột dê lại cho bầy quạ. Nhưng ông không ngờ người trong xóm nghe tin ấy, đua nhau đi đông quá, thành ra họ lấy tất cả, chẳng chừa một tí gì.

Lũ quạ không thấy ruột dê, cho là Dã Tràng đánh lừa, bèn đổ xô đến vườn ông réo om sòm. Thấy vậy ông biết là người trong xóm đã làm hại mình, không giữ chữ tín với bầy quạ. Ông phân trần mấy lần nhưng bầy quạ không nghe, cứ đứng đó chửi mãị

Tức mình, ông bèn lấy cung tên ra bắn vào chúng. Chủ ý là để đuổi chúng đi chứ không định giết. Chẳng ngờ bầy quạ thấy vậy cho là ông lấy oán trả ân, liền cắp mũi tên có tên Dã Tràng ở đuôi, tìm dịp báo thù. Lúc bay qua sông, thấy một cái xác chết trôi, đàn quạ bèn đem mũi tên ấy cắm vào yết hầu xác chết. Khi quan sở tại đến làm biên bản, thấy mũi tên, liền đoán Dã Tràng là thủ phạm, sai lính bắt ông, hạ ngục.

Dã Tràng bị bắt bất ngờ, hết sức kêu oan, nhưng mũi tên là một chứng cớ sờ sờ làm cho ông đuối lý, đành chịu chui đầu vào gông. Tuy nhiên, ông vẫn một mực xin quan xét giải ông về kinh để vua phân xử.

Từ đề lao tỉnh, ông bị điệu đi. Dọc đường trời tối, bọn lính dừng lại quán ăn uống và nghỉ ngơi. Dã Tràng cổ bị gông, chân bị xiềng nằm trên đống rơm buồn rầu không ngủ được. Lúc trời gần rạng, ông nghe có một đàn chim sẻ bay ngang đầu nói chuyện với nhau:

- Nhanh lên ! Chuyến này sẽ không lo đói nữa mà cũng chả sợ ai đánh đuổi cả.

Một con khác hỏi:

- Của ai mang đến bỏ vương vãi như thế?

Con nọ trả lời:

- Của Vua nước bên kia. Họ toan kéo sang đánh úp bên nàỵ Ngày hôm qua, quân đội giáo mác kéo đi liên miên không ngớt. Nhưng xe thóc vừa sắp đến biên giới thì bị sụp hầm đổ hết. Họ đang trở về lấy thứ khác cho nên chúng ta tha hồ chén.

Nghe đoạn, chờ lúc bọn lính thúc dục lên đường, Dã Tràng bảo họ:

- Xin các ông bẩm lại với quan rằng việc oan uổng và nhỏ mọn, không nên bận tâm, mà giờ đây chỉ nên lo việc quốc gia trọng đại thôi, và còn cấp bách nữa là khác.

Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông không nói gì thêm, chỉ nài rằng hễ có mặt quan, mình mới tỏ bày rõ ràng.

Khi gặp mấy vị quan đầu tỉnh, Dã Tràng liền cho họ biết rằng Hiến Đế ở phương bắc đã sai tướng cầm quân sang đánh úp nước mình. Hiện họ đang đóng quân đầy ở biên giới, chỉ vì bị sụp hầm, xe lương đổ hết, chưa tấn công được. Bây giờ họ đang vận thêm lương, chờ đầy đủ sẽ vượt cửa ải sang Nam. Bọn quan tỉnh lấy làm lo lắng nhưng cũng cố hỏi ông có dám chắc như vậy không. Dã Tràng chỉ vào đầu mình mà đoan rằng nếu có sai, ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu lời của ông đúng thì xin bề trên thả ra cho. Ngay lúc đó, những tên quân do thám được tung đi tới tấp mọi ngõ để lấy tin. Và nội ngày hôm sau, Dã Tràng được thả vì lời mách của ông quả không sai và vừa vặn đúng lúc để chuẩn bị đối phó với địch.

Được tha, Dã Tràng đi bộ lần về quê nhà. Bóng chiều vừa ngả, ông mới đến vùng Hồng Hoa. Ông tìm vào nhà người bạn rất thân là Trần Anh nghỉ chân.

Gặp lại bạn cũ, vợ chồng Trần Anh vui mừng khôn xiết. Nghe tin ông bị tra tấn giam cùm và suýt mất đầu, hai vợ chồng rất cảm thương bạn. Thấy bữa ăn tối thết bạn không có gì, Trần Anh xuống bếp bảo vợ:

- Bạn ta đến, lại gặp lúc trong nhà chả có gì ăn. Sẵn có cặp ngỗng, con nó đã khôn, ta làm thịt một con, ngày mai đãi bạn lên đường.

Người vợ bằng lòng nhưng dặn chồng sáng sớm bắt ngỗng và cắt tiết vặt lông giúp mình một tay.

Trong khi hai vợ chồng bàn tính thì cặp ngỗng ở ngoài chuồng nghe được câu chuyện. Ngỗng trống bảo ngỗng mái:

- Mình ơi ! Mình hãy ở lại nuôi con, tôi sẽ đứng sẵn cho chủ nó bắt. Ngỗng mái không nghe, xin chết thay cho chồng. Nhưng ngỗng trống nhất quyết hy sinh, nên chạy ra sân từ giã đàn con:

- Con ơi ! Các con ở lại với mẹ nghe. Cha sẽ không bao giờ gặp lại các con nữạ

Song ngỗng mái vẫn lạch bạch chạy theo, đòi chết thay chồng cho bằng được.

Lúc bấy giờ Dã Tràng nằm trên bộ ván đặt kề cửa sổ nên nghe được tiếng ngỗng than thở. Ông bỗng thấy thương con vật vô tội chỉ vì mình mà phải lìa đàn con bé bỏng. Ông toan nói trước với bạn, nhưng thấy bất tiện. Ông đành nghe ngóng ở chỗ chuồng ngỗng chờ lúc bạn ra bắt thì sẽ cản lạị

Suốt đêm hôm đó tuy mệt mà ông không dám ngủ. Quả nhiên, vào khoảng canh tư, Trần Anh thức dậy bước ra chuồng. Ngỗng trống xua ngỗng mái chạy rồi vươn cổ để cho bắt. Trần Anh sắp cắt cổ ngỗng thì Dã Tràng đã lật đật chạy xuống bếp nắm lấy đao. Ông nói:

- Xin bạn thả nó ra. Tính tôi không hay sát sinh. Tình thân của đôi ta lọ phải cỗ bàn mới thân. Nếu bạn giết nó thì tôi lập tức đi khỏi chỗ nàỵ

Thấy bạn có vẻ quả quyết, Trần Anh đành thả ngỗng ra, rồi giục vợ chạy đi mua tép về đãi bạn.

Cơm nước xong, Dã Tràng từ giã bạn lên đường về nhà. Đến ao, ông đã thấy vợ chồng ngỗng cùng với bầy con đứng chực ở đấỵ Ngỗng đực tặng Dã Tràng một viên ngọc và nói:

- Đa tạ ân nhân cứu mạng. Không biết lấy gì báo đền, chúng tôi xin tặng người viên ngọc này, mang nó vào người có thể đi được dưới nước dễ dàng không khác gì trên bộ. Nếu đem ngọc này xuống nước mà khoắng thì sẽ rung động đến tận đáy biển.

Ngỗng lại nói tiếp:

- Còn như con tép là vật đã thế mạng chúng tôi thì từ nay, dòng dõi chúng tôi sẽ xin chừa tép ra không ăn, để tỏ lòng nhớ ơn !

Dã Tràng không ngờ có sự báo đáp quá hậu như thế, sung sướng nhận lấy ngọc rồi về.

Khi đến bờ sông, Dã Tràng muốn thử xem công hiệu của viên ngọc mới, liền cứ để nguyên áo quần đi xuống nước. Thì lạ thay, nước rẽ ra thành một lối cho ông đi thẳng xuống đáy sông. Ông dạo cảnh hồi lâu rồi cầm viên ngọc khoắng vào nước nhiều lần để thử xem thế nàọ

Hôm đó, Long Vương và các triều thần đang hội họp ở thủy phủ bỗng thấy nhà cửa lâu đài và mọi kiến trúc khác bỗng nhiên rung động, cơ hồ muốn đổ. Ai nấy đều nháo nhác không hiểu duyên cớ. Vua lập tức truyền cho bộ hạ đi dò la sự tình.

Bộ hạ Long Vương theo con đường sóng ngầm lọt vào cửa sông thì thấy Dã Tràng đang cầm ngọc khoắng vào nước. Mỗi lần khoắng như thế, họ cảm thấu xiêu người nhức óc. Tuy biết đích là thủ phạm, họ cũng không dám làm gì, chỉ tiến đến dùng lời nói khéo mời ông xuống chơi thủy phủ.

Gặp Long Vương, Dã Tràng cho biết đó là mình chỉ mới làm thử để xem phép có hiệu nghiệm chăng. Long Vương và triều thần nghe nói, ai nấy đều xanh mặt. Nếu hắn làm thật thì thế giới thủy phủ sẽ còn gì nữa ! Vì thế, Long Vương đãi Dã Tràng rất hậụ Ông muốn gì có nấỵ Cho đến lúc ông ra về, Long Vương còn đem vàng bạc tống tiễn rất nhiều để mong nể mặt.

Dã Tràng lên khỏi nước có bộ hạ của Long Vương tiễn chân về tới tận nhà mới trở lạị Bà con xóm giềng thấy ông đã không việc gì mà lại trở nên giàu có thì ai cũng lấy làm mừng cho ông. Từ đó Dã Tràng rất quý hai viên ngọc. Ông may một cái túi đựng chúng và luôn luôn đeo ở cổ.

Một hôm Dã Tràng đi bộ nửa ngày đường đến nhà một người bà con ăn giỗ. Lúc đến nơi Dã Tràng sờ lên cổ giật mình mới nhớ ra vì vội vàng quá nên ông đã bỏ quên mất túi ngọc ở nhà. Ông thấy không thể nào an tâm ngồi ăn được. Mọi người đều lấy làm ngạc nhiên thấy ông vừa chân ướt chân ráo đến nơi đã vội cáo từ về ngay.

Nhưng khi về đến nhà, ông tìm mãi vẫn không thấy túi ngọc đâu cả. Ông rụng rời cả ngườị Đi tìm vợ, vợ cũng không thấy nốt. Nóng ruột, ông lục lọi khắp nơi. Cuối cùng ông bắt được một mảnh giấy do vợ ông viết để lại gài ở chỗ treo áọ Trong đó, vợ ông nói rằng có người của Long Vương lên bảo cho biết hễ ai bắt được túi ngọc đưa xuống dâng Long Vương thì sẽ được phong làm hoàng hậụ Bởi vậy bà ta đã trộm phép ông, đưa túi ngọc xuống thủy phủ rồi, không nên tìm làm gì cho mệt. Đọc xong thư vợ. Dã Tràng ngất đi. Ông không ngờ vợ ông lại có thể như thế được. Ông cũng không ngờ âm mưu của Long Vương thâm độc đến nước ấỵ Nghĩ đến hai thứ bảo vật, ông tức điên ruột. Sau cùng, ông dự tính chở cát lấp biển thành một con đường đi xuống thủy phủ để lấy lại túi ngọc vì ông còn nhớ cả đường lối đến cung điện của Long Vương. Mặc dầu mọi người can ngăn, ông cũng không nghe, bèn dọn nhà ra bờ biển làm công việc đó. Ngày ngày ông xe cát chở đến bờ quyết lấp cho bằng được. Cho tận đến chết, Dã Tràng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Chết rồi ông hóa thành con còng còng hay cũng gọi là con Dã Tràng ngày ngày xe cát để lấp biển. Tục ngữ có câu:

Dã Tràng xe cát biển Đông.

Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì.

Hay là:

Công Dã Tràng hàng ngày xe cát,

Sóng biển dồn tan tác còn chi.

Hay là:

Con còng còng dại lắm không khôn.

Luống công xe cát sóng dồn lại tan.

Người ta nói ngày nay loài ngỗng sở dĩ không bao giờ ăn tép là vì chúng nó nhớ ơn loài tép đã thế mạng cho tổ tiên mình ngày xưa. Họ còn nói loài ngỗng có một cái mào trắng trên đầu là dấu hiệu để tang cho Dã Tràng để nhớ ơn cứu mạng.

Các trò chơi dân gian ngày tết Việt Nam

So với những dịp lễ hội, trò chơi ngày tết có phần đặc biệt hơn. Vào dịp Tết Nguyên Đán ở cả ba miền trước đây, thường phổ biến một số trò chơi trong ngày Tết của người Việt, là những trò chơi dân gian đã được hình thành từ lâu đời ở các làng quê Việt Nam hiện nay dường như đã bị mai một...

Chơi đáo

Là trò chơi rất phổ biến ở khắp các vùng quê xưa. Thú vui đánh đáo không chỉ hấp dẫn trẻ em mà cả đối với người lớn bởi nó thể hiện sự khéo léo của người chơi và lại còn có tâm lý ăn thua kích thích dù chỉ là rất ít. Ngày Tết, trẻ em được người lớn mừng tuổi một ít tiền và cũng được phép tiêu tiền nên dùng nó vào các trò chơi như đánh đáo rất hấp dẫn.

Trò chơi rất đơn giản trên một bãi đất bằng phẳng. Tùy theo quy định của người chơi mà khoét lỗ. Dễ thì khoét lỗ to, khó thì khoét lỗ nhỏ. Ngoài lỗ đáo là vạch quy định để từ đó người chơi đứng ném tiền xu về phía lỗ đáo. Vạch này xa hay gần lỗ đáo cũng do những người chơi tự quy định, càng xa thì càng khó. Đồng xu nào trúng vào lỗ thì người ấy được ăn. Cứ như vậy, lần lượt tới người tiếp theo, đến khi nào không còn xu nữa thì hết ván...

Bịt mắt bắt vịt

Ngày Tết hầu hết các làng Việt xưa đều có các trò vui để dân làng cùng chơi lấy may, lấy phước. Trò bịt mắt bắt vịt là trò chơi khá phổ biến. Người chơi và người xem tập trung tại một bãi đất rộng quây thành một vòng tròn. Ai muốn tham gia bắt vịt thì đăng ký với ban tổ chức. Người ta chọn những con vịt to, khỏe để chúng có thể chạy và bay nhanh. Hai người chơi bị bịt chặt mắt và đưa vào vòng tròn. Người ta thả vào vòng tròn một con vịt. Con vịt sợ hãi kêu và bay, chạy loạn xạ. Người bắt vịt cứ theo tiếng vịt kêu mà chạy theo bắt. Khi con vịt bị bắt thì cuộc chơi kết thúc. Hai người khác lại tiếp tục vào chơi tiếp.

Bắt vịt dưới ao

Vào những năm Tết ấm trời, một số vùng quê tổ chức bắt vịt dưới ao. Người ta chọn một khoảng ao sâu, bờ cao hoặc dùng lưới hay que tre quây xung quanh. Người chơi từ 2 đến 4 người tùy theo diện tích của ao rộng hay hẹp. Người ta thả xuống ao 2 con vịt to khỏe và lần luợt 2 hoặc 4 người đăng ký xuống bắt. Trò chơi này người chơi không bị bịt mắt nhưng đòi hỏi nhanh nhẹn và bơi giỏi.

Bịt mắt bắt dê

Cùng trên một sân cỏ, người chơi quây xung quanh làm vòng tròn. Trò chơi chủ yếu là vui, tùy chỗ cũng có thể treo giải thưởng. Những người chơi đăng ký và chia thành các cặp. Mỗi cặp lần lượt vào sân chơi. Người ta bịt mắt 2 người thật chặt. Một trong 2 người làm dê, người kia bắt. Người làm dê trong quá trình chạy trốn thỉnh thoảng phải gây ra tiếng động để người bắt biết mà đuổi theo...

Chơi đu

Từ trong Tết bên cạnh đình hay một thửa ruộng rộng rãi, khô ráo người ta chuẩn bị các cột đu. Họ chọn cây tre to, dài, để trồng đu. Một cây đu có thể được trồng bởi 4-6 cây tre to. Cần đu cũng là những cây tre dài nhưng thon nhỏ, thường phải là tre đực) để lúc người đu nắm vào cho gọn và chắc tránh xảy ra trượt hay tuột tay lúc đu nhanh, mạnh. Tùy theo sở thích mà người ta đu một hay đu đôi. Khi một người lên cần đu có thể nhờ một người khác đẩy cho mình có đà. Sau đó là tự người đu nhún tùy ý. Đẹp nhất là đu đôi, các đôi trai gái ưng ý lựa chọn nhau lên đu, người nhún người đẩy.Tài năng và lòng dũng cảm của các chàng trai cô gái được phô bày ở đây như dịp tự thể hiện bản thân. Hồ Xuân Hương đã miêu tả trò chơi đu rằng :

"Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới

Đôi hàng chân ngọc duỗi song song”

Leo cầu lấy thưởng

Trò chơi rất đơn giản mà không kém phần thú vị. Người ta lựa chọn một bờ đất cao trên một hố đất rộng, bắc một đoạn tre làm cầu. Đoạn tre ấy một đầu nằm ghếch trên bờ đất, đầu kia buộc vào sợi thừng hay chão, dây buộc vào chiếc cột chôn vững chắc. Làm sao để chiếc cầu đung đưa khó đi. Người ta treo giải thưởng trên cột. Đến lượt ai, người đó leo cầu lấy thưởng. Có người mới leo được vài bước thì đã té xuống ao. Có người ra tới mút đầu cầu lấy được thăng bằng nhưng khi với tay lấy giải thưởng thì loạng choạng lăn tùm xuống ao. Cuộc chơi càng hấp dẫn và kích thích sự hiếu thắng của mọi người.

Đấu vật

Đấu vật là một trò chơi thượng võ, cũng là một môn thể thao rất nổi tiếng vào các dịp Tết dịp Hội. ở Việt Nam ngoài đấu vật ngày Tết còn có nhiều hội vật Làng Sình, Liễu Đôi, Hà Nam, Mai Động... Xưa ở vùng Bắc Ninh, Phú Thọ có những lò vật và những đô vật nổi tiếng cả một vùng. Để khuyến khích tài năng cũng như sự rèn luyện của trai tráng, nhiều làng xã đã treo giải vật rất cao trong 3 ngày tết. Tục xưa người ta trao giải bằng tiền, bằng mâm đồng, nồi đồng hay một số thứ khác. Quy định chung của cuộc đấu là người chiến thắng phải vật cho đối phương thua trắng bụng (ngã ngửa ra đất) hay nhấc bổng được đối phương lên. Trong môn vật này không chỉ đòi hỏi sức khỏe mà sự mưu trí và nhanh nhẹn đóng góp phần đáng kể. Về kỹ thuật cũng có những "miếng" riêng của nó như đệm, bốc, ghì... mà tùy theo từng hoàn cảnh và điều kiện đô vật phải biết lợi dụng triệt để các thời cơ quật ngã hay bê bổng đối phương.

Kéo co

Là một trò chơi thu hút được rất nhiều người cùng tham gia, vừa có tác dụng rèn luyện sức khỏe, lại vừa vui vẻ, thoải mái. Nó đã trở thành trò chơi tập thể, phong tục phổ biến ở nhiều nơi trong nước ta. Cách chơi đơn giản, số người chơi bao nhiêu tùy ý, chia làm 2 phe bằng nhau, làm mốc đánh dấu vạch vôi để bên nào kéo được đối phương sang qua vạch mốc bên kia là bên đó thắng.

Chọi gà

Là một thú chơi tao nhã, vừa có tính tiêu khiển lại vừa khuyến khích việc chăn nuôi của nhà nông xưa. Đó là một thú chơi mà hầu hết ở các ngày Tết, ngày hội đều có. Nhiều làng nổi tiếng vì chơi gà chọi như Đình Bảng (Bắc Ninh),Thổ Hà, Yên Phụ (Yên Phong) hay một số nơi khác ở cả 3 miền Trung, Nam, Bắc đều có. Trò chơi chọi gà đòi hỏi một sự kỳ công lớn của người nuôi từ việc chọn gà giống phải là gà chọi "nhà nòi"! Lựa chọn kỹ gà bố, gà mẹ rồi đến khi trứng nở ra gà con lại được lựa từ dáng vẻ chân, mỏ, mình, đầu... Những chú gà nòi được nuôi rất công phu và đưa chúng tập luyện với các chú gà chọi khác để làm quen dần với những trận chiến đấu. Có những hiệp đấu của những cặp gà kéo dài tới hàng tiếng đồng hồ không phân thắng bại. Hai con gà chọi đỏ gay lừa mổ nhau, đập cánh vào nhau, nhảy lên đá móc vào nách, vào cổ họng, vào ức của đối phương quyết liệt hoặc ghì nhau đè cánh đạp chân như những đấu thủ trên sàn đấu. Những cú mổ hiểm hóc vào mắt, vào cổ đối phương đến chảy máu, những cú đá móc với những chiếc móc sắc nhọn đến toác ngực làm người xem xung quanh thán phục, bàn tán, tranh cãi rất say sưa. Từ đó dẫn đến những cuộc cá cược rất gay gắt của khán giả mà đôi khi diễn ra không được lành mạnh. Các sới gà chọi vào dịp Tết Nguyên Đán thường thu hút đông đảo người xem.

Chơi cờ tướng - cờ người

Đây là thú chơi tao nhã, trí tuệ nhân những lúc trà dư tửu hậu. Các cụ thường gặp nhau bên chén trà và mở bàn cờ tướng ra giải trí. 32 quân cờ chia thành 2 phe ( 16 quân đỏ và 16 quân đen), bày xong là cuộc đấu trí bắt đầu. Cờ người cũng là cờ tướng mà quân cờ là người thật, cũng chơi trên sân bãi, 16 nam áo đỏ, 16 nữ mặc áo đen đeo biển (tên quân cờ) trước ngực, đứng vào vị trí. Hai tướng (Tướng Ông, Tướng Bà) mặc đẹp (như cờ tướng) có 2 cờ đuôi nheo cắm chéo sau lưng, được che lọng. Gặp buổi trời nắng, thì mỗi quân cờ được một người che ô, đứng bên và đi theo mỗi lần quân chuyển. Hai đối thủ ngồi phía sau. Có người chạy cờ, lo việc chuyển quân theo ý định của người chơi.

Mỗi lần đi một nước, đấu thủ (có tiếng trống khẩu) gõ một tiếng. Người chạy cờ tới nghe lệnh và chuyển quân trên bãi. Nguyên tắc đi quân là mã nhật, tượng điền, xe liền, pháo cách. Vào cuộc chơi phải bình tĩnh, thận trọng, chủ động không bị phân tán bởi những người xem mách nước. Đi một nước phải tính trước 2, 3 nước tiếp theo để khỏi bị bất ngờ trước đối thủ của mình. Cờ tướng, cờ bỏi cờ người thường thấy trong các ngày hội, ngày Tết, mừng xuân mới.

Chơi tam cúc

Tam Cúc là tên một trò chơi bài lá dân gian phổ biến ở miền Bắc Việt Nam, có nguồn gốc từ Trung Quốc. Tam Cúc là thú chơi của tầng lớp bình dân và được nhiều tầng lớp chơi vì luật chơi khá đơn giản. Tam Cúc không chỉ được chơi khi giải trí, rỗi rãi mà trong các ngày lễ, Tết, nó cũng là trò chơi không thể thiếu. Người dân đồng bằng Bắc Bộ thường có tập quán chơi Tam Cúc trong lúc đợi nồi bánh chưng chín. Tuy nhiên, đối tượng chủ yếu chơi Tam Cúc vẫn là phụ nữ vì Tam Cúc có số bài ít, còn nam giới thì chơi Tổ Tôm nhiều hơn.

Chơi tổ tôm

Tổ Tôm là một trò chơi bài lá dân gian phổ biến của người dân Việt Nam (có lẽ được du nhập từ Trung Quốc, hiện nay chỉ thấy được chơi ở Việt Nam). Tên gọi của trò chơi được đọc chệch ra từ chữ "Tụ Tam" nghĩa là hội tụ của ba lại hàng Văn, Vạn và Sách. Trong các ngày lễ, Tết, Tổ Tôm thường được nam giới và người già chơi vì nó có một số luật khá khó, nhiều nước biến hoá, thanh niên và phụ nữ thời xưa ít chơi. Tổ Tôm không phổ biến và bình dân bằng trò chơi Tam Cúc. Do Tổ Tôm khá khó nên người xưa có câu ca dao đề cao Tổ Tôm, nó thể hiện trình độ và cái oai phong của bậc quân tử:

Làm trai biết đánh Tổ Tôm

Uống chè mạn hảo xem nôm Thuý Kiều

Cũng có tài liệu nói rằng Tổ Tôm xuất phát từ Nhật Bản do các hình vẽ đều là hình vẽ theo kiểu của Nhật, theo lối tranh mộc bản (mokuhan) đơn giản và tất cả các nhân vật đều mặc kimono thời Edo (trước khi Nhật hoàng Minh Trị lên ngôi và trị vì 1868-1912), trong số này có 18 hình đàn ông (có 8 người bó chân), 4 hình phụ nữ và 4 hình trẻ em. Các hình cá chép, trái đào, thành, thuyền cũng là những hình ảnh rất Nhật.

Các lễ tết cổ truyền Việt Nam

Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới...Nhưng đó mới chỉ là Tết Nguyên đán (Tết Cả). Do ảnh hưởng cùng với sự thể hiện vừa độc đáo, vừa đa dạng của bản sắc dân tộc, mỗi năm người Việt Nam còn có hàng chục lễ tết cổ truyền khác nữa rất tưng bừng và giàu ý nghĩa.

01. Tết Nguyên đán

Là lễ Tết lớn nhất trong năm, Tết Nguyên đán (Tết Cả) vào đúng ngày mồng Một tháng Giêng - ngày đầu tiên của năm mới.

Theo phong tục cổ truyền Việt Nam, Tết Nguyên đán trước hết là Tết của gia đình. Trong 3 ngày Tết, diễn ra 3 cuộc gặp gỡ lớn ngay tại mỗi nhà:

Thứ nhất là cuộc gặp gỡ của những gia thần: Tiên sư hay Nghệ sư - vị tổ đầu tiên dạy nghề gia đình mình đang làm, Thổ công - thần giữ đất nơi mình ở và Táo quân - thần coi việc nấu ăn của mọi người trong nhà (Táo quân lên chầu trời ngày 23 tháng Chạp nhưng đến ngày 30 cũng về để "họp mặt" và chuẩn bị cho năm mới).

Thứ hai là cuộc "gặp gỡ" tổ tiên, ông bà.... - những người đã khuất. Nhân dân quan niệm hương hồn người đã khuất cũng về với con cháu vào dịp Tết.

Thứ ba là cuộc gặp gỡ của những người trong nhà. Như một thói quen linh thiêng và bền vững nhất, mỗi năm Tết đến, dù đang ở đâu, làm gì, trong hoàn cảnh nào..., hầu như ai cũng mong muốn và cố gắng trở về đoàn tụ với gia đình.

Dịp Tết Nguyên đán người ta làm bánh chưng, trồng cây nêu, đi chúc mừng nhau, mở hội, tổ chức các cuộc vui chơi, thi đấu, ăn uống...rất tưng bừng. Trên bàn thờ, ngoài lễ vật, mâm ngũ quả, bánh chưng...còn thường có một cành đào (ở miền Bắc) hoặc mai (ở miền Nam). Tết Nguyên đán thực sự là ngày hội ngộ lớn, ngày nhớ ơn, tạ ơn, chúc mừng, sum họp vui vẻ và thiêng liêng.

02. Tết khai hạ

Theo cách tính của người xưa, ngày mồng Một tháng Giêng ứng vào gà, mồng Hai - chó, mồng Ba - lợn, mồng Bốn - dê, mồng Năm - trâu, mồng Sáu - ngựa, mồng Bảy - người, mồng Tám - lúa. Trong tám ngày đầu năm, cứ ngày nào sáng sủa thì coi như giống thuộc về ngày ấy được tốt cả năm! Vì vậy, đến mồng Bảy, thấy trời tạnh ráo, quang đãng thì người ta tin cả năm mọi người sẽ gặp may mắn, hạnh phúc. Mồng Bảy hạ cây nêu, kết thúc Tết Nguyên đán cũng là lúc bắt đầu Tết Khai hạ - Tết mở đầu ngày vui để đón chào mùa xuân mới.

03. Tết Thượng nguyên

Tết Thượng nguyên (Tết Nguyên tiêu) vào đúng Rằm tháng Giêng - ngày trăng tròn đầu tiên của năm. Tết này phần lớn tổ chức tại chùa chiền vì Rằm tháng Giêng còn là ngày vía của Phật tổ. Thành ngữ: "Lễ Phật quanh năm không bằng Rằm tháng Giêng" xuất phát từ đó. Sau khi đi chùa, mọi người về nhà họp mặt, cúng gia tiên và ăn cỗ.

04. Tết Hàn thực

"Hàn thực" nghĩa là ăn đồ nguội. Tết này vào ngày mồng Ba tháng Ba (âm lịch).

Thời Xuân Thu ở Trung Quốc, Công tử Trùng Nhĩ (về sau là vua Tấn Văn Công) khi gặp cảnh hoạn lạc, đói quá, được Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình nấu dâng cho ăn! Sau 19 năm phiêu bạt, Trùng Nhĩ lại được trở về nắm giữ vương quyền nước Tấn. Vua ban thưởng cho tất cả những người đã cùng mình nếm mật nằm gai, nhưng lại quên mất Tử Thôi (!). Tử Thôi cũng không oán giận gì (vì nghĩ việc giúp đỡ Trùng Nhĩ là nghĩa vụ của kẻ bầy tôi) và đưa mẹ vào sống ở núi Điền.

Lúc vua nhớ ra, cho người tới mời mà không được, liền sai đốt rừng để Tử Thôi phải ra. Nhưng Tử Thôi không chịu và hai mẹ con cùng chết cháy! Hôm ấy đúng ngày mồng Năm tháng Ba. Đau xót, vua sai lập miếu thờ trên núi và đổi tên núi đó là Giới Sơn. Người quanh vùng thương Tử Thôi nên hàng năm, từ ngày mồng Ba đến ngày mồng Năm tháng Ba (3 ngày) thì kiêng đốt lửa mà chỉ ăn đồ nguội đã nấu sẵn.

Từ thời Lý (1010 - 1225), nhân dân ta đã tiếp nhập Tết này nhưng chỉ tổ chức vào một ngày mồng Ba tháng Ba (âm lịch), không kiêng đốt lửa và thường làm bánh trôi, bánh chay thay cho đồ nguội. Mục đích chủ yếu là để cúng gia tiên chứ ít ai rõ chuyện Giới Tử Thôi! Hiện nay, Tết này vẫn còn đậm nét ở miền Bắc - nhất là các tỉnh quanh Hà Nội.

05. Tết thanh minh

"Thanh minh trong tiết tháng Ba

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh"

(Truyện Kiều)

"Thanh minh" nghĩa là (trời) trong sáng. Nhân đó người ta đi thăm mồ mả của những người thân. Tết Thanh minh - thường vào tháng Ba âm lịch - trở thành lễ tảo mộ. Đi thăm mộ, nếu thấy cỏ rậm thì phát quang, đất khuyết lở thì đắp lại cho đầy..., rồi về nhà làm lễ cúng gia tiên.

06. Tết Đoan ngọ

Tết Đoan ngọ (Tết Đoan dương) vào mồng Năm tháng Năm (âm lịch). Đây là giai đoạn chuyển mùa (từ Xuân sang Hạ) nên khí hậu có nhiều thay đổi đột ngột, dễ sinh bệnh thời khí. Ca dao có câu: "Chưa ăn bánh nếp Đoan dương áo bông chẳng dám khinh thường cởi ra".

Khuất Nguyên - nhà thơ nổi tiếng, một vị trung thần nước Sở - do can ngăn vua Hoài Vương không được, đã uất ức ôm đá gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn. Hôm ấy đúng ngày mồng Năm tháng Năm. Thương tiếc người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày đó, dân Trung Quốc xưa làm bánh, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (chủ ý khiến cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông ném bánh xuống cúng Khuất Nguyên.

ỞViệt Nam, ít người biết chuyện Khuất Nguyên mà chỉ coi mồng Năm tháng Năm là "Tết giết sâu bọ" - vì trong giai đoạn chuyển mùa, chuyển tiết, dịch bệnh dễ phát sinh. Mọi người dậy sớm, chỉ ăn hoa quả hoặc chè. Tuy nhiên mỗi nơi có thêm phong tục riêng - ví như ở Phủ Lý (tỉnh Hà Nam), vào ngày này con rể thường tới biếu bố vợ một con ngỗng to.

07.Tết Trung nguyên

Tết Trung nguyên vào Rằm tháng Bảy. Người xưa tin theo sách Phật, coi hôm ấy là ngày vong nhân được xá tội, ngày báo hiếu cha mẹ...nên tại các chùa thường làm chay chẩn tế và cầu kinh Vu lan . Còn tại các nhà thì bày cúng gia tiên, đốt vàng mã

08. Tết Trung thu

Tết Trung thu vào Rằm tháng Tám. Trung thu là Tết của trẻ con nhưng người lớn cũng nhân đây mà họp mặt, uống rượu, uống trà, ngắm trăng...Thường ban ngày người ta làm lễ cúng gia tiên, tối mới bày hoa quả, bánh kẹo, chè cháo để trẻ con vui chơi, phá cỗ, trông trăng, rước đèn...Nhiều nơi còn tổ chức hát trống quân (trai gái hát đối đáp trong tiếng trống đệm nhịp).

09. Tết Trùng cửu

Mồng Chín tháng Chín (âm lịch) là Tết Trùng cửu. Tết này bắt nguồn từ sự tích của đạo Lão. Thời Hán, có người tên gọi là Hoàn Cảnh, đi học phép tiên. Một hôm thầy Phí Tràng Phòng bảo Hoàn Cảnh khuyên mỗi người trong nhà nên may một túi đựng hoa cúc, rồi lên cao mà tạm trú ngụ. Quả nhiên, ngày Chín tháng Chín có lụt to, ngập hết làng mạc. Nhờ làm theo lời thầy, Hoàn Cảnh và gia đình thoát nạn.

Từ xưa, nho sỹ nước ta đã theo lễ này, nhưng lại biến thành cuộc du ngoạn núi non, uống rượu cúc - gọi là thưởng Tết Trùng dương.

10. Tết Trùng thập

Đây là Tết của các thầy thuốc. Theo sách Dược lễ thì đến ngày Mười tháng Mười (âm lịch) cây thuốc mới tụ được khí âm dương, mới kết được sắc tứ thời (Xuân - Hạ - Thu - Đông), trở nên tốt nhất. ở nông thôn Việt Nam, đến ngày đó người ta thường làm bánh dày, nấu chè kho để cúng gia tiên rồi đem biếu những người thân thuộc (chứ không mấy quan tâm đến chuyện cây thuốc, thầy thuốc).

11. Tết Hạ nguyên

Tết Hạ nguyên (Tết Cơm mới) vào Rằm hay mồng Một tháng Mười. ở nông thôn, Tết này được tổ chức rất lớn vì đây là dịp nấu cơm gạo mới của vụ vừa xong - trước để cúng tổ tiên, sau để tự thưởng công cày cấy.

12. Tết Táo quân

Tết Táo quân vào ngày 23 tháng Chạp - người ta coi đây là ngày "vua bếp" lên chầu Trời để tâu lại việc bếp núc, làm ăn, cư xử của gia đình trong năm qua.

Theo truyền thuyết Việt Nam, xưa có hai vợ chồng nghèo khổ quá, phải bỏ nhau, mỗi người một nơi tha phương cầu thực. Sau đó, người vợ may mắn lấy được chồng giàu. Một năm, vào ngày 23 tháng Chạp, đang đốt vàng mã ngoài sân thì thấy một người ăn xin bước vào, nhận ra chính là người chồng cũ nên người vợ động lòng, đem cơm gạo, tiền bạc ra cho. Người chồng mới biết chuyện, nghi ngờ vợ. Người vợ đâm khó xử, uất ức lao vào bếp lửa, tự vẫn. Người chồng cũ đau xót, cũng nhảy vào lửa chết theo. Người chồng mới ân hận, lao vào lửa nốt! Trời thấy cả ba người đều có nghĩa nên phong cho làm "vua bếp".

Thế gian một vợ một chồng

Chẳng như vua bếp hai ông một bà!

(Ca dao)

Vì tích ấy, cứ đến phiên chợ 23 tháng Chạp, mỗi gia đình thường mua 2 mũ ông, 1 mũ bà bằng giấy và 3 con cá chép làm "ngựa" (cá chép hoá rồng) để Táo quân lên chầu Trời. Sau khi cúng trong bếp, mũ được đốt và cá chép được mang ra thả ở ao, hồ, sông...

Mâm ngũ quả ngày Tết Việt Nam

Tết, hầu như không gia đình nào lại thiếu được mâm ngũ quả cũng như thiếu bánh chưng xanh, dưa hành, cành hoa, đôi nến. Nó là sản vật quê hương quen thuộc, có quanh năm hoặc mang tiếng nói của mùa này, vùng khác.

Mâm ngũ quả truyền thống của người Việt thường chỉ gồm 5 loại quả, được xếp kiểu hình tháp lên đĩa to hoặc mâm, đặt trên bàn thờ. Ngày nay, cuộc sống hiện đại cùng sự giao lưu phong tục làm cho mâm ngũ quả ít nhiều biến đổi: số quả có thể nhiều hơn 5, cách xếp tự do hơn, trang trí hoa lá, cắm nến để tạo ánh sáng, kết những dây đèn điện tử nhiều màu xung quanh... Tất cả các loại quả trong dịp Tết đều có thể đem bày: chuối, bưởi, phật thủ, dưa hấu, cam, quýt, dừa, na, trứng gà, hồng xiêm, táo v.v... Mỗi loại quả mang một ý nghĩa riêng: nải chuối, phật thủ như bàn tay che chở; bưởi, dưa hấu căng tròn, mát lành hứa hẹn năm mới đầy ngọt ngào, may mắn; hồng, quýt rực lên màu sắc mạnh mẽ, tượng trưng cho sự thành đạt...

Mâm ngũ quả ở miền Bắc nhìn chung nhỏ hơn mâm ngũ quả ở miền Nam và không thể thiếu 3 loại quả: chuối, bưởi, quýt (hoặc cam).

Mâm ngũ quả có nải chuối tiêu, còn xanh, một mầu óng ả, quả nây đều, cái "đầu ruồi" chưa rụng. Nải chuối như bàn tay ngửa, hứng lấy nắng sương đọng thành quả ngọt. Cam Thanh Hà tròn, da đỏ au, bày ngũ quả đẹp như tranh. Cam Bố Hạ mới là quả quý. Nó còn gọi là cam sành vì da sần sùi, ánh xanh chưa tan hết thì mầu vàng đã hiện, xen vào nhau, hòa vào nhau như một thứ sành già lửa, một gam mầu của họa sĩ tài hoa, có thể mua ở mọi quầy hoa quả, nhưng cũng có thể gặp thứ quả tươi vừa hái, đựng trong những cái lồng tre, lồng nứa còn xanh, đan mắt lục lăng của người Bắc Giang, Bố Hạ về Hà Nội sắm tết, mang theo ít cam làm tiền quà bánh tàu xe. Cam Vinh (Xã Ðoài) tròn quả, vàng tươi, nay có thêm quít tầu tròn vo, vỏ xanh.

Thêm đôi quả trứng gà có hình trái đào tiên, quả hồng xiêm xấu mã nhưng loại trồng ở Xuân Ðỉnh lại ngọt lừ. Cần chút đỏ tươi thì thêm quả cà chua, chùm ớt sừng trâu. Muốn óng ánh, sau những món ăn quá béo, mới nhìn đã ứa nước chân răng thì thêm quả khế mọng nước còn vương một nhánh lá xanh cho ta tưởng tượng đến mầu hoa khế tím...

Ðặc biệt nhất là quả phật thủ, chỉ có trên vùng lạnh giá Cao Bằng, Lạng Sơn, tết xuôi về thưa thoảng, nên có người, tết đến, cứ rong ruổi con "phượng hoàng" khắp băm sáu phố phường để tìm anh xe thồ, bà quang gánh mà rước nó về nhà. Ðó là bàn tay Phật chăng, một ngón tay giơ ra như để hướng dẫn cho mùa xuân lối về, còn những ngón khác nắm lại như cầm giữ hương xuân cho khỏi mờ tan. Một quả phật thủ sẽ làm thơm căn phòng ta, như thơm suốt mùa xuân, như thơm từ tết này sang tết khác đầy kỷ niệm, nó cao sang hơn hẳn quả bưởi, quả bòng và cũng quý hơn loài hoa quả bưởi lai mới xuất hiện, vỏ sần sùi, đẹp nhưng chua gắt.

Bàn thờ là nơi trang trọng nhất trong mỗi gia đình, mỗi căn hộ, là nơi để tâm linh ước nguyện có nơi về Tết, nếu thiếu bàn thờ thì cái hoang tàn xô đến, niềm cô quạnh dâng đầy, và hình như ta không còn là người dân Việt nghìn năm trọng tình, hiếu nghĩa, biết ơn tiên tổ. Bàn thờ có chân đèn, chân nến, đỉnh đồng, đài nước, hộp sắc vua phong, tam sự hay ngũ sự... Và ngày Tết, không thể thiếu hương sắc, hình ảnh của mâm ngũ quả.

Ngày nay, đời sống phong phú hơn, mâm ngũ quả có đến thất, đến thập quả cũng cứ được, vì thêm chùm quất chín tròn như những viên ngọc mầu da cam, thêm vài quả quít dẹt, quả táo, quả lê nước ngoài mới nhập về... Gọi là ngũ cũng chỉ là quy ước, nông thôn nhà nghèo, chỉ gồm nải chuối vườn mình, quả bưởi xin được... tuy lỏng chỏng đơn sơ, cũng không sao. Cái tình cái ý chứa đựng vào mâm ngũ quả mới là quan trọng chứ không phải thứ quả đắt tiền mới là quý báu. Ðó là tấm lòng cháu con hiền thảo nghĩ tới tổ tiên, đó là lòng người nghĩ về xóm làng, quê hương, mùa màng, thời tiết.

Riêng phía nam đất nước, mâm ngũ quả có khác đi chút ít.

Mâm ngũ quả miền Nam thì khó có thể thiếu cặp dưa hấu và 4 loại quả: mãng cầu (na), dừa, đu đủ, xoài, bởi vì cầu - dừa - đủ - xoài theo tiếng người miền Nam có nghĩa là "cầu vừa đủ xài" - mong ước phổ biến nhất của họ trong năm mới ! Một số nhà lại bày thêm trên mâm ngũ quả bình thường một chùm sung và quả đu đủ với ngụ ý cầu mong cuộc sống gia đình sẽ luôn "đầy đủ, sung túc".

Mâm ngũ quả miền nam luôn có những trái xoài, trái dừa và trái đu đủ. Ba thứ trái này đã làm mâm ngũ quả thành chật chội vì quả nào cũng to, vì thế mà hai bên bàn thờ phải đặt hai trái dưa hấu riêng ra. Nó là trái đất tròn, hay bầu trời đêm một vòm cong sao chưa mọc. Trái dưa hấu thật hợp với mùa nắng Nam Bộ, đi chúc Tết toát mồ hôi, uống ly rượu đế, người đầm đìa mệt nhọc. Bổ một trái dưa hấu, được ấp vành môi đang se khô vào cái ruột mát lạnh của chiếc thuyền rồng mầu đỏ đáy xanh ấy cho nước ngọt và mát lạnh tan vào cơ thể, mới thấy nó quý giá như thế nào, có lẽ tương tự như cái rét cắt ruột phía bắc, được nâng chén trà sen, ấm ran lòng bàn tay sưởi vào thành chén sứ, rồi mới đưa lên miệng để tận hưởng...

Tuy mỗi miền có khác, nhưng là đại đồng, tiểu dị, gặp nhau ở hồn quả, hương cây, vị trái, ở ý nguyện, ở nếp sống văn hiến. Mà đã là ý nguyện thì ai có thể áp đặt được bao giờ. Tuy vậy, tuy không ai áp đặt, nhưng tết mà thiếu mâm ngũ quả thì nó trống trếnh, nó tẻ nhạt. Tết có trăm nghìn thứ để ăn và để chơi, có trăm văn hóa, trăm vật chất, trăm niềm vui nữa. Nhưng Tết Việt Nam không phải là gặt hái niềm vui ở ngoài đường hay nơi công cộng. Quan trọng nhất vẫn là Tết gia đình. Mà gia đình, trung tâm cho mọi con người, bất luận gái trai già trẻ, luôn hướng về để hòa đồng tâm tưởng, là bàn thờ, đặt nơi gian giữa hay nơi cao nhất, sạch sẽ, trang trọng nhất.

Bàn thờ ngày thường có thể đơn sơ, hương hoa nguội lạnh. Tết thì không thể. Tết phải khác. Ba ngày Tết, từ chiều ba mươi đến ngày khai hạ, hóa vàng... hương đèn, lửa thiêng phải luôn thơm ngát, tỏa sáng. Và có thế mới là Tết, mới là Tết Việt Nam.

Thật hạnh phúc được châm một nén nhang cắm vào bát hương mà trước mặt ta, ngang tầm mắt kia là mâm ngũ quả với hình, với hương, với mầu, với sự hài hòa, với những gì mà ta từ đấy nhớ về, mà từ đấy hy vọng ước mong..

Mỗi năm, cứ vào dịp Tết Nguyên đán, trên bàn thờ mọi gia đình người Việt đều bày mâm ngũ quả. Với màu sắc rực rỡ, hình dáng độc đáo cùng những ý nghĩa sâu xa, mâm ngũ quả làm cho ngày Tết sinh động hơn, thiêng liêng hơn...

Theo quan niệm của người phương Đông xưa, thế giới được tạo nên từ 5 bản nguyên - gọi là "ngũ hành": kim (kim loại), mộc (gỗ), thuỷ (nước), hoả(lửa), thổ (đất). Tư tưởng cùng hình ảnh "ngũ hành" xâm nhập sâu sắc vào đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của các dân tộc phương Đông với rất nhiều biểu hiện - một trong số đó là tục lệ thờ mâm ngũ quả ngày Tết của người Việt Nam

Mâm ngũ quả làm cho quang cảnh Tết và không gian thờ cúng thêm ấm áp, rực rỡ mà hài hoà với màu xanh mát của dưa hấu, đỏ rực của hồng, nâu mịn của hồng xiêm, vàng tươi của bưởi, cam, dứa... Nó thể hiện sinh động ý nghĩa triết học - tín ngưỡng - thẩm mỹ ngày Tết cùng những ước vọng lạc quan mà mỗi gia đình mang theo khi bước vào năm mới.

ủ nhật, ngày 07 tháng hai năm 2010

Sự tích cây nêu ngày tết của người Việt Nam

Nguyễn Đổng Chi (1)

Ngày ấy, không biết từ bao giờ và cũng không biết bằng cách gì, Quỷ chiếm đoạt tất cả đất nước. Người chỉ ăn nhờ ở đậu và làm rẽ ruộng đất của Quỷ. Quỷ đối với Người ngày càng quá tay. Chúng nó dần dần tăng số phải nộp lên gấp đôi và mỗi năm mỗi nhích lên một ít. Cuối cùng chúng nó bắt Người phải nộp theo một thể lệ đặc biệt do chúng nó nghĩ ra là "ăn ngọn cho gốc". Người không chịu. Chúng nó lấy áp lực bắt Người phải theo. Vì thế năm ấy sau vụ gặt, Người chỉ còn trơ ra những rạ là rạ. Cảnh tượng xương bọc da thê thảm diễn ra khắp mọi nơi. Bên cạnh bọn Quỷ reo cười đắc ý, Người cơ hồ muốn chết tuyệt.

Phật từ phương Tây lại có ý định giúp Người chống lại sự bóc lột tàn nhẫn của Quỷ. Sau mùa đó, Phật bảo Người đừng trồng lúa  mà cào đất thành luống trồng khoai lang. Người cứ y lời làm đúng như Phật dặn. Quỷ không ngờ Người đã bắt đầu có mưu kế mới chống lại mình nên cứ nêu đúng thể lệ như mùa trước: "Ăn ngọn cho gốc".

Mùa thu hoạch ấy, Quỷ rất hậm hực nhìn thấy những gánh khoai núc nỉu chạy về nhà Người đổ thành từng đống lù lù, còn nhà mình chỉ toàn những dây và lá khoai là những thứ không nhá nổi. Nhưng ác nỗi thể lệ đã quy định, chúng nó đành cứng họng không thể chối cãi vào đâu được.

Sang mùa khác, Quỷ thay thể lệ mới là "ăn gốc cho ngọn". Phật bảo người lại chuyển sang trồng lúa. Kết quả Quỷ lại hỏng ăn. Những hạt lúa vàng theo Người về nhà, còn rạ phó mặc cho bọn Quỷ. Quỷ tức lộn ruột nên mùa sau chúng nó tuyên bố  "ăn cả gốc lẫn ngọn". Lần này Quỷ nghĩ: -"Cho chúng mày muốn trồng gì thì trồng, đằng nào cũng không lọt khỏi tay chúng tao". Nhưng Phật đã bàn với Người thay đổi giống mới. Phật trao cho Người giống cây ngô để gieo khắp nơi mọi chỗ.

Năm ấy một lần nữa, Người sung sướng trông thấy công lao của mình không uổng. Trong nhà Người thóc ăn chưa hết thì từng gánh ngô đã tiến về chứa từng cót đầy ăm ắp. Về phần Quỷ lại bị một vố cay chua tức uất hàng mấy ngày liền. Cuối cùng Quỷ nhất định bắt Người phải trả lại tất cả ruộng đất không cho làm rẽ nữa. Trong bụng chúng nó nghĩ: -"Thà không được cái gì cả còn hơn là để cho chúng nó ăn một mình".

Phật bảo Người điều đình với Quỷ cho tậu một miếng đất vừa bằng bóng một chiếc áo cà sa. Nghĩa là Người sẽ trồng một cây tre trên có mắc chiếc áo cà sa, hễ bóng che bao nhiêu diện tích ở mặt đất là đất sở hữu của Người ở đó. Ban đầu Quỷ không thuận, nhưng sau chúng nó suy tính thấy đất tậu thì ít mà giá rất hời bèn nhận lời: - "Ồ! Bằng một chiếc áo cà sa có là bao nhiêu". Chúng nó nghĩ thế. Hai bên làm tờ giao ước: ngoài bóng che là đất của Quỷ, trong bóng che là của Người.

Khi Người trồng xong cây tre, Phật đứng trên ngọn, tung áo cà sa bay tỏa ra thành một miếng vải tròn. Rồi Phật hóa phép làm cho cây tre cao vút mãi lên, đến tận trời. Tự nhiên trời đất trở nên âm u: bóng của áo cà sa dần dần che kín khắp cả mặt đất. Bọn Quỷ không ngờ có sự phi thường như thế; mỗi lần bóng áo lấn dần vào đất chúng, chúng phải dắt nhau lùi mãi, lùi mãi. Cuối cùng Quỷ không có đất nữa phải chạy ra biển Đông. Vì thế người ta mới gọi là Quỷ Đông.

Tiếc vì đất đai hoa màu đều thuộc về tay Người, Quỷ rất hậm hực, cố chiêu tập binh mã vào cướp lại. Lần này Người phải chiến đấu với Quỷ rất gay go vì quân đội của Quỷ có đủ một bầy ác thú như voi ngựa, chó ngao, bạch xà, hắc hổ v.v... rất hung dữ. Phật cầm gậy tầm xích đánh giúp Người làm cho quân của Quỷ không tiến lên được.

Sau mấy trận bất lợi, Quỷ bèn cho quân đi dò xem Phật sợ gì. Phật cho chúng biết là sợ hoa quả, oản chuối và cơm nắm, trứng luộc. Đối lại Phật cũng dò hỏi và biết quân của Quỷ chỉ sợ độc có mấy thứ: máu chó, lá dứa, tỏi và vôi bột.

Lần giáp chiến sau đó, quân của Quỷ đem không biết cơ man nào là hoa quả đến ném Phật. Phật bảo Người nhặt làm lương ăn rồi đem máu chó vẩy khắp mọi nơi. Quân của Quỷ thấy máu chó sợ hoảng hồn bỏ chạy.

Lần thứ hai quân của Quỷ lại đem oản chuối vào ném quân Phật. Phật bảo Người nhặt làm lương ăn rồi giã tỏi phun vào quân địch. Quân của Quỷ không chịu được mùi tỏi nên cũng cắm đầu chạy biệt tích.

Lần thứ ba, quân của Quỷ lại đem cơm nắm, trứng luộc vào ném quân Phật. Người tha hồ ăn và theo lời Phật dùng vôi bột vung vào Quỷ. Người lại lấy lá dứa quất vào chúng. Quỷ chạy không kịp, lại bị Phật bắt đày ra biển Đông. Ngày Quỷ già, Quỷ trẻ, Quỷ đực, Quỷ cái cuốn gói ra đi, bộ dạng của chúng vô cùng thiểu não. Chúng rập đầu sát đất cố xin Phật thương tình cho phép một năm được vài ba ngày vào đất liền thăm phần mộ của tổ tiên cha ông ngày trước. Phật thấy chúng khóc váng cả lên mới thương hại, hứa cho.

Vì thế, hàng năm cứ dến ngày Tết Nguyên đán là ngày Quỷ vào thăm đất liền thì người ta theo tục cũ trồng nêu để cho Quỷ không dám bén mảng vào chỗ người đang ở. Trên nêu có khánh đất mỗi khi gió rung thì có tiếng động phát ra để luôn luôn nhắc bọn quỷ nghe mà tránh. Cũng trên đó có buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để cho Quỷ sợ. Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía đông và rắc vôi bột xuống đất vào những ngày Tết để cấm cửa Quỷ (1).

Có câu tục ngữ:

Cành đa lá dứa treo kiêu (cao),

Vôi bột rắc ngõ chớ trêu mọi nhà,

Quỷ vào thì Quỷ lại ra,

Cánh đa lá dứa thì ta cứa mồm (2).

Ngày xưa người ta còn tin rằng những lúc cần đuổi quỷ như có dịch tễ chẳng hạn, thì treo một nắm lá dứa ở trước ngõ hay vẩy máu chó khắp mọi nơi cho quỷ khỏi quấy. Đàn bà thường buộc tỏi vào giải yếm là cũng có mục đích gần như vậy.

"Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam"

Nguyễn Đổng Chi

NXB KHXH - Hà Nội 1972

--------------------------

 (1) Toàn truyện theo lời kể của người Hà-tĩnh. Đồng bào Mường ở châu Đà-bắc (Hòa-bình) cũng có truyện Sự tích cây nêu tương tự như trên nhưng kể có phần sơ lược.

 (2) Theo lời kể của người Sơn-tây.

Những ý nghĩa sâu sắc

Sự tích cây nêu diễn tả sinh động cuộc đấu tranh quyết liệt của con người chống lại những thế lực đen tối để giành quyền sống, quyền tự do cho mình. Qua đó còn ca gợi trí thông minh và tinh thần yêu lao động, khẳng định chiến thắng tất yếu của cái Thiện đối với cái Ác... Trồng cây nêu đã trở thành một tục lệ Tết phổ biến của các dân tộc Việt Nam: từ Việt, Thái, Mường đến Ba Na, Gia Rai...

Trên ngọn nêu thường treo túm lá dứa lông gà, cành đa, lá thiên tuế, những chiếc khánh và con cá bằng đất nung, cùng một tán trong bằng tre nứa dán giấy đỏ, có nơi còn treo những chiếc, đèn lồng, đèn xếp hoặc vài xấp tiền, vàng mã... Dù với dụng ý khác nhau, nhưng những vật treo đều tượng trưng cho những nội dung hướng về sự bảo vệ con người, tạo lập hạnh phúc cho con người.

Ví như lá dứa để doạ ma quỷ (vì ma quỷ sợ gai!), không cho chúng vào quấy phá nhà. Cái khánh đồng âm với khánh - có nghĩa là phúc: năm mới đem lại hạnh phúc cho gia đình. Cành đa tượng trưng cho điều lành và tuổi thọ. Tiền vàng mã để cầu tài, cầu lộc. Lông gà là biểu tượng chim thần (một sức mạnh thiên nhiên giúp người).v.v..

Đặc biệt, cây nêu còn được coi là cây vũ trụ - nối liền Đất với Trời. Tán tròn bằng giấy đỏ tượng trưng Mặt trời và ngọn nêu là nơi chim thần (sứ giả của mặt trời) đậu. Cuối năm (cuối mùa đông) mới trồng cây nêu để vươn lên đón ánh nắng xuân, sức sống xuân...

Sự thể hiện đa dạng

Mỗi nơi có một cách chọn, trồng, trang trí... riêng cho cây nêu. Người ta thường trồng cây nêu vào ngày 30 tháng chạp: miền Bắc hay trồng lúc buổi trưa, miền Trung buổi chiều và miền Nam khoảng chạng vạng chiều tối.

Theo chương XIX (viết năm 1961) cuốn lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài của Alexandre de Rhodes cho biết thì ở miền Bắc "trồng cây nêu vào cuối năm, trồng bên cạnh nhà, một cột nêu cao hơn nóc nhà, trên ngọn buộc một cái thúng hay một cái hộp nhỏ có đục nhiều lỗ, bên trong đựng thoi vàng giấy, bạc giấy để cha mẹ quá cố vào cuối năm có thể trả nợ khi cần thiết".

Cuốn Những năm ở Nam (viết khoảng thế kỷ XVIII) của Jean Koffler có đoạn miêu tả cây nêu miền Trung và miền Nam thời đó: "Trước cửa phủ chúa và các nhà dân đều dựng cây nêu lớn, trên ngọn buộc một trùm cây lá xanh (cành thiên tuế)... hoặc trên ngọn nêu còn buộc một ít vàng bạc giấy, một số rơm con và một lẵng hoa trong để mấy đồng tiền... Những người theo đạo cơ đốc cũng được cha đạo cho phép trồng nêu, nhưng không được buộc những thứ kể trên".

Còn cuốn Gia Định thành công chí (viết đầu thế kỷ XIX) của Trịnh Hoài Đức lại cho biết ở Nam Bộ "vào ngày trừ tịch nhà nào nhà cũng trồng một cọc tre trước cửa, trên đầu cột buộc một cái giỏ tre trong đựng trầu cau và vôi, bên cạnh treo giấy vàng, giấy bạc, gọi là đựng nêu"...

Có nơi, cây nêu chỉ đơn giản là một cây tre hoặc một nhánh tre, không treo gì cả, có nơi, cây tre đủ ngọn, cao ngất, treo bày nhiêu thứ. Ở xã Chu Phan (Mê Linh - Vĩnh Phúc), trên cây nêu người ta buộc chiếc chổi xể - cầu mong quét sạch mọi điều rủi ro đi!

Ở xã Tứ Xã (Phong Châu - Phú Thọ), trên cây nêu lại treo vỏ ốc - cầu mong sự đông vui, nhiều con cháu, đồng thời người ta còn rắc vôi bột hình cung tên trên sân và làm con chó giấy đặt bên cổng để xua đuổi ma tà. Ở Kẻ Rị, Kẻ Chè thuộc xã Thiệu Trung (Đông Sơn - Thanh Hoá), cây nêu dựng cùng với việc rắc vôi bột hình cung tên (bắn đuổi quỷ) và hình cày bừa trước cửa (cầu mong nghề nông phát đạt).v.v...

Đặc biệt, ở xã biển Xuân Hội (Nghi Xuân - Hà Tĩnh), dân sống trên thuyền cắm cây nêu không phải bằng tre mà bằng... lau, dài chừng 1,6 - 1,7cm, để một lá, treo hai nén vàng mã và 2 hoặc 3 lá vàng mã. Còn dân trên bờ vẫn dùng cây nêu tre, nhưng trên ngọn tre buộc cây lau và bộ đồ vàng mã (gồm 1 lá vàng, 1 nén vàng và 1 áo).

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro