triet.bowkute

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

.

1. Điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hoá.

1.1. Khái niệm sản xuất hàng hoá:

Sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để bán.

Hay: Sản xuất hàng hoá là kiếu tổ chức sản xuất mà trong đó sản phẩm làm ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người sản xuất ra mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi mua bản.

1.2. Điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hoá.

Sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại dựa trên hai điều kiện:

- Thứ nhất: Có sự phân công lao động xã hội :

• Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá sản xuất, phân chia lao động xã hội thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.

• Phân công lao động xã hội làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu: bởi vì mỗi ngành mỗi người chỉ sản xuất một vài thứ, trong khi đó nhu cầu cuộc sống lại đòi hỏi có nhiều loại khác nhau. Vì vậy họ cần trao đổi với nhau

Như vậy: phân công lao động là tiền đề là cơ sở của sản xuất hàng hoá. Nhưng để SXHH ra đời chỉ có phân công lao động xã hội thôi thì chưa đủ mà cần phải có điều kiện nữa(điều kiện đủ) cần có điều kiện thứ hai:

- Thứ hai: Có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất có nghĩa là những người sản xuất trở thành chủ thể sản xuất, độc lập nhất định sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Vì vậy, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác phải thông qua trao đổi mua bán hàng hoá.

Sự tách biệt này là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định. Vì chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất làm cho tư liệu sản xuất thuộc sở hữu cá nhân, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Vậy người này muốn tiêudùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi mua bản hàng hóa.

Trong điều kiện của nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.

Vậy điều kiện thứ hai cùng có thể hiểu là: Có chế độ tư hữu và sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.

Đó là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hoá. Thiếu một trong hai điều kiện đó thì sản xuất hàng hoá không thể ra đời và cũng không thể tồn tại.

2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá.

a. Đặc trưng của sản xuất hàng hoá

Sản xuất hàng hoá có những đặc trưng sau:

- Thứ nhất: Sản xuất hàng hoá là sản xuất trao đổi, mua bán

- Thứ hai: Lao động của người sản xuất hàng hoá vừa mang tính tư nhân, lại vừa mang tính xã hội

b. Ưu thế của sản xuất hàng hoá

+ Sản xuất hàng hoá ra đời dựa trên sự phân công lao động xã hội, sự chuyên môn hoá sản xuất. Do đó nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở....Đồng thời khi sản xuất hàng hóa phát triển lại tác động trở lại làm cho phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa lao động, sản xuất ngày càng phát triển.....Nó phá vỡ tính tự cung tự cấp, bảo thủ lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm cho năng suất lao động xã hội ngày một tăng lên nhanh chóng, nhu cầu xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn...

+ Trong nền sản xuất hàng hoá thì quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính chất hạn hẹp, khép kín của từng gia đình, cơ sở, địa phương.... mà nó được mở rộng dừa trên nhu cầu và nguồn lực của xã hội , quốc gia, quốc tế. Điều đó lại tạo điều kiện cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ và quá trình sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển.

+ Trong nền sản xuất hàng hoá, sự tác động của những quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hoá như quy luật giá trị, cung cầu, quy luật cạnh tranh..... buộc người sản xuất hàng hoá phải luôn năng động, nhạy bén, biết tính toán, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiều quả kinh tế.... làm cho chi phí sản xuất thấp, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng.

+ Trong nền sản xuất hàng hoá, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ làm cho đời sống vật chất và đời sống tinh thần ngày càng được nâng cao.

Tuy nhiên bên cạnh mặt tích cực sản xuất hàng hóa còn có những mặt tiêu cực: Sự phân hóa giầu nghèo, tiềm ẩn những khả năng khuỷng hoẳng, phái hoại môi trường sinh thái xã hội ....

Câu 2)Hàng hóa và 2 thuộc tính của hàng hóa-khái niêm cua hh

Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thoả mãn được nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.

Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm... hoặc ở dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ và nghệ sĩ...

-Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.

a) Giá trị sử dụng của hàng hóa

Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.

Bất cứ hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng đó (tính có ích đó) làm cho hàng hóa có giá trị sử dụng. Ví dụ, công dụng của gạo là để ăn, vậy giá trị sử dụng của gạo là để ăn...

Cơ sở của giá trị sử dụng của hàng hóa là do những thuộc tính tự nhiên của thực thể hàng hóa đó quyết định nên giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hay kiểu tổ chức sản xuất.

Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học - kỹ thuật và của lực lượng sản xuất nói chung. Chẳng hạn, than đá ngày xưachỉ được dùng làm chất đốt (đun, sưởi ấm), khi khoa học - kỹ thuật phát triển hơn nó còn được dùng làm nguyên liệu cho một số ngành công nghệ hoá chất.

Xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú, chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.

Trong kinh tế hàng hóa,giá trị sử dụng của hàng hóa là vật mang giá trị trao đổi.

b) Giá trị của hàng hóa

Muốn hiểu được giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi trước hết là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.

Thí dụ: 1m vải = 5 kg thóc.

Tức là 1 mét vải có giá trị trao đổi bằng 5 kg thóc.

Hai hàng hóa khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung đó không phải là giá trị sử dụng của chúng, bởi vì, giá trị sử dụng của vải là để mặc, hoàn toàn khác với giá

trị sử dụng của thóc là để ăn. Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Vì vậy, người ta trao đổi hàng hóa cho nhau chẳng qua là trao đổi lao động của mình ẩn giấu trong những hàng hóa ấy.

Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Giá trị trao đổi chẳng qua chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung,là cơ sở của giá trị trao đổi. Đồng thời, giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. Cũng chính vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hóa.

Mối quan hệ

Mặt thống  nhất thể hiện ở chỗ  đã là hanghoá thì phải có đầy đủ hai thuộc tinhsneeus thiếu một trong hai thì vật phẩm ko thể gọi là hanghoas

Mâu thuan giua hai thuoc tinhthe hien o cho 1.voi tu cách la gtsd thi hang ho alai dong nhat ve chat tuc la có su ket tinh cua lao dong hay la lao dong da dc vat chat hoa

2.tuy gia tri sd va gtri cung ton tai trong mot hag hoa nhung qttrinh t.h chun lai tach roi nha,trong linh vuc luu thong gtsdung dct.h nhung viec sau trong linh vuc tieu dung.do do neu gtri cua hang hoa ko dc t..hien thi se dan den khung hoang sx thừa.

3. Lượng giá trị của hàng hóa và các yếu tố ảnh hưởng tới nó

a) Thời gian lao động xã hội cần thiết

Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội, lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa được

đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính bằng thời gian lao động.

Trong sản xuất hàng hóa,hoa phí lao động cá biệt tạo thành giá trị cá biệt của hàng hóa. Thế nhưng lượng giá trị của hàng hóa không phải do mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định, mà nó được đo bởi thời gian lao động xã hội cần thiết.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra một hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.

Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt (mức hao phí lao động cá biệt) của người sản xuất hàng hóa nào cung cấp đại bộ phận hàng hóa đó trên thị trường.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là một đại lượng không cố định, vì trình

độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình, điều kiện trang bị kỹ

thuật trung bình của xã hội ở mỗi nước khác nhau là khác nhau và thay đổi theo

sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi thời gian lao động xã hội cần thiết thay

đổi (cao hay thấp) thì lượng giá trị của hàng hóa cũng sẽ thay đổi.

Những yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa

- Năng suất lao động là sức sản xuất của lao động. Nó được đo bằng lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao

phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.

- Cường độ lao động là đại lượng chỉ mức độ hao phí sức lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động.

Câu 4) Nội dung, yêu cầu, tác dụng của quy luật giá trị ?

a) Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa vì nó quy định bản chất của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản xuất hàng hóa.

Nội dung của quy luật giá trị là:

Sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết.

Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết có như vậy họ mới có thể tồn tại được; còn trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: Hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải thực hiện với giá cả bằng giá trị.

Cơ chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả trong trường hợp giá cả bằng giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá trị. ở đây, giá trị như cái trục của giá cả.

b) Tác dụng của quy luật giá trị

Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động sau:

- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Quy luật giá trị điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp sau:

+ Thứ nhất, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu

tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất

và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng.

+ Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên.

Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể

tiếp tục sản xuất mặt hàng này.

Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất

và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn, và do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.

- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động,hạ giá thành sản phẩm.

Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng hóa nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động

xã hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hóa cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm... nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất.

Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.

- Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo.

Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí

lao động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động

trở thành ông chủ.

Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê.

Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.

Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực.

Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng

xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

7.Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư :

Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá

trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.

Thí dụ, ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian

lao động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10 đơn vị,

thì giá trị thặng dư tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là:

40

m' = 40 x 100 % = 100%

Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa, mọi điều kiện khác vẫn như cũ, thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng lên 60 và m' cũng tăng lên thành:

60

m' = 40 x 100 % = 150 %

Việc kéo dài ngày lao động không thể vượt quá giới hạn sinh lý của công nhân

(vì họ còn phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khoẻ) nên gặp phải sự phản kháng gay gắt của giai cấp công nhân đòi giảm giờ làm.

Vì lợi nhuận, khi độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, nhà tư bản tìm cách tăng cường độ lao động của công nhân. Tăng cường độ lao động về thực

chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao động. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động

và tăng cường độ lao động là để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.

Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời

gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động vẫn như cũ.

Thí dụ, ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động tất yếu, 5 giờ là

lao động thặng dư. Nếu giá trị sức lao động giảm đi 1 giờ thì thời gian lao động

tất yếu xuống còn 4 giờ. Do đó, thời gian lao động thặng dư tăng từ 5 giờ lên 6

giờ và m' tăng từ 100% lên 150%.

Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người công nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.

Câu 8 ) Quy luật giá trị thặng dư

Quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là quy luật giá trị thặng dư.

Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản bởi vì nó quy định bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, chi phối mọi mặt đời sống kinh tế của xã hội tư bản. Không có sản xuất giá trị thặng dư thì không có chủ nghĩa tư bản. Theo C. Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.ở đâu có sản xuất giá trị thặng dư thì ở đó có chủ nghĩa tư bản, ngược lại, ở đâu có chủ nghĩa tư bản thì ở đó có sản xuất giá trị thặng dư. Chính vì vậy, Lênin gọi quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.

Nội dung của quy luật này là sản xuất nhiều và ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư bằng cách tăng cường bóc lột công nhân làm thuê.

Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dư là mục đích, là động lực thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là nhân tố đảm bảo sự tồn tại, thúc đẩy sự vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản; đồng thời nó làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.

Quy luật giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản: mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân

Quy luật giá trị thặng dư đứng đằng sau cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. Với mục đích là thu được ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư, các nhà tư bản cạnh tranh với nhau, tiêu diệt lẫn nhau để có được quy mô giá trị thặng dư lớn hơn, tỉ suất giá trị thặng dư cao hơn.

Để sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản ra sức áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến sản xuất. Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, nền sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt.

Tất cả những yếu tố đó đưa xã hội tư bản đến chỗ phủ định chính mình.

câu 6

Tích luỹ tư bản là việc tăng quy mô tư bản cá biệt bằng tích luỹ của từng nhà tư bản riêng rẽ. Tích luỹ tư bản là yêu cầu của việc mở rộng sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. Mặt khác, do khối lượng giá trị thặng dư tăng lên khiến khả năng thực hiện tích tụ tư bản mạnh hơn.

Tập trung tư bản là sự hợp nhất một số tư bản nhỏ thành một tư bản cá biệt lớn. Đây là sự tập trung tư bản những tư bản đã hình thành, thủ tiêu tính độc lập riêng biệt của chúng, biến nhiều tư bản nhỏ thành một số ít tư bản lớn.

Tích tụ tư bản làm cho tư bản cá biệt tăng lên và tư bản xã hội cũng tăng theo còn tập trung tư bản chỉ làm cho tư bản cá biệt tăng lên nhưng tư bản XH thì không đổi. 

Giống nhau: Đều tăng qui mô tư bản cá biệt

- Khác nhau:

+ Tích tụ tư bản thì qui mô tư bản cá biệt tăng, tư bản xã hội tăng, tích tụ tư bản phản ánh mối quan hệ giữa công nhân và nhà tư bản trong xí nghiệp.

+ Tập trung tư bản thì qui mô tư bản cá biệt tăng, tư bản xã hội không đổi, tích tụ tư bản phản ánh mối quan hệ giữa các nhà tư bản với nhau.

Câu 10) Các đặc điểm cơ bản của CNTB độc quyền

các đặc điểm

-          Sự tập trung sản xuất và sự thống trị của các tổ chức độc quyền

- Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính

- Xuất khẩu tư bản

- Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh độc quyền quốc tế

- Sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc.

-          Nguyên nhân hình thành và bản chất của CNTB độc quyền nhà nước.

1. Nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời do các nguyên nhân sau:

Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến quy mô của nền kinh tế ngày càng lớn, tính chất xã hội hóa của nền kinh tế ngày càng cao đòi hỏi có sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, một kế hoạch hoá tập trung từ một trung tâm. Nhà nước phải dùng các công cụ khác nhau để can thiệp, điều tiết nền kinh tế như các công cụ về tài chính - tiền tệ, kế hoạch hóa, phát triển các xí nghiệp quốc doanh...

Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh vì đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản... Nhà nước tư sản trong khi đảm nhiệm kinh doanh những ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác.

Ba là, sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải giải quyết những mâu thuẫn đó bằng các hình thức khác nhau như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã hội...

Bốn là, cùng với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung độtlợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế của nhà nước.

Ngoài ra, cuộc đấu tranh với chủ nghĩa xã hội hiện thực và tác động của cách mạng khoa học và công nghệ cũng đòi hỏi sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào đời sống kinh tế.

b) Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp giữa sức mạnh của tư bản độc quyền với sức mạnh của nhà nước thành một bộ máy duy nhất.

Xét về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vẫn là chủ nghĩa tư bản, chịu sự chi phối của quy luật giá trị thặng dư, mặc dù nó đã có nhiều thay đổi so với chủ nghĩa tư bản thời kỳ cạnh tranh tự do.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhưng nó vẫn chưa thoát khỏi chủ nghĩa tư bản độc quyền.

Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự can thiệp,sự điều tiết của nhà nước về kinh tế. Mặc dù trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhà nước đã có sự can thiệp, điều tiết kinh tế ở chừng mực nhất định, nhưng hoạt động chi phối vẫn là của bàn tay vô hình hoặc sự can thiệp, điều tiết của nhà nước mang tính gián tiếp. Chẳng hạn, ngay ở giai đoạn nhà nước đã điều tiết gián tiếp vào quan hệ kinh tế bằng thuế má, bằng việc đi xâm lược nước ngoài để mở rộng thị trường cho các tổ chức độc quyền…

Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước không phải một chế độ kinh tế mới so với chủ nghĩa tư bản, lại càng không phải chế độ tư bản mới so với chủ nghĩa tư bản độc quyền. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chỉ là chủ nghĩa tư bản độc quyền có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước về kinh tế, là sự kết hợp sức mạnh của tư bản độc quyền với sức mạnh của nhà nước về kinh tế.

Câu 11) Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin

Dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản:

- Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. C. Mác và Ph. Ăngghen đã nêu: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp"

- Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư. Thuộc tính thứ hai này nói lên một trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa nên C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.

1. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Lênin: “điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thể hiện trên hai nội dung cụ thể sau:

- Lãnh đạo nhân dân lao động tiến hành cách mạng xã hội xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người

- Xây dựng xã hội mới- xã hội chủ nghĩa- cộng sản chủ nghĩa

Hai nội dung trên quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện. Thể hiện sự nghiệp vĩ đại của giai cấp công nhân là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người và nhân loại2.

2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

a. Địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa.

- Là giai cấp gắn với LLSX tiên tiến,là giai cấp lãnh đạo cách mạng có khả năng quyết định việc phá vỡ quan hệ sản xuất TBCN

- Điều kiện làm việc và điều kiện sống của giai cấp công nhân tạo điều kiện họ đoàn kết chặc chẽ nhau

- Có lợi ích cơ bản thống nhất với các giai tầng lao động khác tạo thành liên minh lâu dài

Giai cấp công nhân là con đẻ của nền sản xuất công nghệ hiện đại, được tôi luyện, đoàn kết, có tổ chức, bị bóc lột nặng nề, có lợi ích cơ bản đối kháng với lợi ích của giai cấp tư sản nên họ co tinh thần đấu tranh để chống áp bức bóc lột tư bản.

Qua sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp, giai cấp công nhân được trang bị nhiều kiến thức mới về văn hoá, khoa học, tay nghề nhận thức chính trị…đây cũng là yêu cầu khách quan ngày càng cao của sự phát triển

b. Đặc điểm chính trị xã hội của giai cấp công nhân

- Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.

- Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất

- Giai cấp công nhân có ý thức tổ chức kỹ luật cao nhất

- Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế

3. Vai trò của Đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

a. Tính tất yếu và quy luật hình thành, phát triển chính đảng của giai cấp công nhân.

Khi Đảng cộng sản ra đời, thông qua sự tuyên truyền giác ngộ của Đảng giai cấp công nhân nhận thức được vị trí của mình trong xã hội, hiểu được con đường biện pháp đấu tranh cách mạng, từ đó đứng lên tập hợp nhân dân lao động lật đổ CNTB giải phóng giai cấp mình và giải phóng xã hội

Khi Đảng Cộng sản ra đời thì phong trào đấu tranh công nhân từ tự phát chuyển sang tự giác, từ đấu tranh kinh tế chuyển sang đấu tranh chính trị.

Mác: trong cuộc đấu tranh chống lại quyền lực của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân phải xây dựng một chính đảng tiên phong gắn liền với lợi ích của giai cấp công nhân và của cả dân tộc

- Quy luật ra đời và phát triển của Đảng cộng sản

+ Quy luật chung gồm 2 nhân tố: Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa phong trào công nhân với chủ nghĩa Mác-Lênin

+ Quy luật riêng: ĐCSVN là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước vào những năm cuối thập kỷ 30 của thế kỷ XX.

Khi Đảng cộng sản ra đời, thông qua sự tuyên truyền giác ngộ của Đảng làm cho giai cấp công nhân nhận thức được vị trí của mình trong xã hội hiểu được con đường, biện pháp đấu tranh cách mạng từ đó tập hợp nhân dân lao động thực hiện cách mạng giải phóng giai cấp mình, giải phóng xã hội, tổ chức xây dựng xã hội mới.

b. Mối quan hệ giữa Đảng cộng sản với giai cấp công nhân

- Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội- giai cấp của Đảng cộng sản là nguồn lực bổ sung lực lượng của Đảng. Đảng cộng sản là bộ phận tham mưu của giai cấp công nhân

Thực tiến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nói chung, thực tiến công cuộc xây dựng xã hội mới nói riêng cho thấy, giai cấp công nhân không thể thực hiện được vai trò lịch sử của mình nếu không xây dựng Đảng cộng sản.

- Đảng cộng sản đại biểu cho trí tuệ và lợi ích của giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động và dân tộc.

Câu 14: Mục tiêu, động lực, nội dung của cách mạng XHCN1

-          .Mục tiêu của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa

Mục tiêu cao nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, giải phóng xã hội, đêm lại hạnh phúc cho người lao động. Do đó cùng với việc xoá bỏ chế độ tư hữu, giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân lao động lật đổ chế độ tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa công sản, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.

Mục tiêu đó được chia làm 2 giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất, là giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao

động.

Giai đoạn thứ hai: Mục tiêu là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, phát triển sản xuất

nhằm đưa lại đời sống ấm no cho toàn dân.

2. Động lực của Cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng người lao động và do chính nhân dân lao động tiến hành, nhưng tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội quy định mà vị trí của họ

có khác nhau.

Giai cấp công nhân:

Là động lực chủ yếu và là lực lượng lãnh đạo Cách mạng vì giai cấp này: đại biểu cho phương thức sản xuất mới, có hệ tư tưởng độc lập là chủ nghĩa Mác - Lênin, đại biểu cho lợi ích người lao động. Thực chất cách mạng xã hội chủ nghĩa là tổ chức một xã hội mới của những người lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính Đảng - Đội tiên phong của giai cấp.

Giai cấp nông dân:

Giai cấp nông dân có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân nên trở thành động lực to lớn trong CMXHCN.Sự tham gia của giai cấp nông dân vào tiến trình Cách mạng có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện hóa vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.Xã hội mới được xây dựng phù hợp với lợi ích của nhân dân, họ được cải thiện đời sống vật chất tinh thần. Mặt khác họ được ảnh hưởng tích cực từ tư tưởng và hành động cách mạng của giai cấp công nhân nên họ càng tin và theo cách mạng xã hội chủ nghĩa .

Tầng lớp trí thức:

Tầng lớp này không là lực lượng lãnh đạo cách mạng , nhưng họ đại diện cho trí tuệ của đất nước. Họ có nhiều khả năng tiếp cận thành tựu khoa học hiện đại. Đây là lực lượng không thể thiếu được của cách mạng xã hội chủ nghĩa . Vì: Nếu giành chính quyền từ tay giai cấp tư sản mà các vị trí chủ chốt đều do người có học "điều hành, do vậy thành công hay thất bại của cách mạng phụ thuộc rất lớn vào việc giai cấp công nhân có thu hút được trí thức theo Cách mạng hay không? Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội vai trò của đội ngũ trí thức ngày càng cần thiết nhất là trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ.

3.Nội dung của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng XHCN là quá trình cải biến toàn diện sâu sắc xã hội cũ thành xã hội mới, nó diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng.

+ Trên lĩnh vực chính trị

Giai công nhân tiến hành cách mạng chính trị lật đổ sự thống trị của giai cấp bóc lột, giành chính quyền thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sau khi giành chính quyền phải từng bước xác lập quyền làm chủ của nhân dân lao động ( khắc phục hậu quả do tình trạng vi phạm dân chủ, hạn chế tự do tư tưởng…)

+ Trên lĩnh vực kinh tế

Vì đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa giành chính quyền mới là bắt đầu nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa quyết định cho thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa là phải phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao năng suất cải thiện đời sống nhân dân, qua đó phát huy tính tích cực xã hội, khả năng sáng tạo của lao động để kinh tế XHCN ngày càng phát triển cao

Thay đổi chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN bằng chế độ sở hữu XHCN dưới những hình thức thích hợp, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.

Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nhưng thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu giữ vai trò nền tảng.

+ Trên lĩnh vực văn hoá

Thực hiện cuộc cách mạng trong sinh hoạt văn hoá tinh thần của nhân dân. Xây dựng nền văn hoá mới XHCN.Kế thừa, nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Từng bước xây dựng văn hóa mới theo lập trường của giai cấp công nhân nhằm giải phóng người lao động về mặt tinh thần.

4. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng XHCN

a. Tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân .

- Tất yếu về kinh tế- kỹ thuật

Thứ nhất, Từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH, bắt buộc phải gắn nông nghiệp với công nghiệp và khoa học công nghệ trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất thực hiện CNH,HĐH

Thứ hai, kinh tế phát triển thì phân tầng xã hội ngày càng rõ ràng hơn nếu chỉ liên minh giai cấp thì chưa đủ, sẽ bỏ qua lực lượng rất quang trọng đó là tầng lớp trí thức. Vì vậy, Đảng ta đặt ra vấn đề liên minh để làm nồng cốt cho việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.

Thứ ba, trong quá trình xây dựng CNXH phải chú ý thoả mãn nhu cầu lợi ích của công – nông – trí thức. Do đó, phải thực hiện liên minh công – nông – trí thức khi được kết hợp hài hòa, đúng đắn sẽ trở thành động lực cho quá trình xây dựng CNXH.

- Tất yếu về chính trị -xã hội

Liên minh công nông vừa là nòng cốt vừa là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội

Giai cấp công nhân và đảng của nó tiếp tục lãnh đạo nông dân và toàn thể nhân dân thực hiện đường lối cách mạng nhất quán: chuyển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sang cách mạng XHCN vì lợi ích của nhân dân sang cách mạng XHCN vì lợi ích của nhân dân và dân tộc.

b. Nội dung và nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.

vNội dung

Nội dung chính trị

- Trong thời kỳ cách mạng: liên minh này nhằm mục đích giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động

- Trong quá trình xây dựng CNXH:cùng nhau thực hiện các lợi ích chính trị, các quyền dân chủ quyền công dân và tham gia vào bộ máy chính quyền Nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Đồng thời là nòng cốt thực khối liên minh rộng rãi với các tầng lớp lao động khác

Thực hiện các lợi ích chính trị, các quyền dân chủ, quyền công dân, quyền làm chủ con người của công nhân, nông dân, lựa chọn những đại biểu ưu tú nhất của tổ chức mình bầu vào các cơ quan quyền lực của Nhà nước từ Trung ương tới địa phương; tham gia đóng góp ý kiến với Đảng, Nhà nước để xây dựng chính sách, pháp luật…

Nội dung kinh tế

- Kết hợp đúng các lợi ích kinh tế của công nhân, nông dân tri thức và toàn xã hội ( nhằm hạn chế giải quyết các mâu thuẫn về kinh tế trong xã hội trong xã hội, đảm bảo giữ vững độc lập)

- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phát hiện và giải quyết đúng đắn các tiềm lực kinh tế và nhu cầu kinh tế của công- nông- trí và toàn xã hội

Ví dụ: Nhu cầu kinh tế của nông dân cần đất canh tác, cần công nghệ, máy móc phục vụ sản xuất…

Nhu cầu công nhân: có việc làm, thu nhập ổn định và các nhu cầ khác

Nhu cầu tầng lớp trị thức: làm chủ trí tuệ, được bảo hộ sở hữu trí tuệ, có thu nhập, điều kiện và động lực để sáng tạo trí tuệ…

Nội dung văn hoá xã hội

Nội dung văn hoá nhằm phục vụ mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh

- Phải thường xuyên nâng cao trình độ văn hoá, hiểu biết chính sách pháp luật

- Xoá bỏ các hình thức bóc lột bấc bình đẳng trong xã hội, xoá bỏ dần sự tách biệt giữa thành thị và nông thôn

- Tạo nhiều việc làm tăng thu nhập khuyến khích làm giàu chính đáng

- Thay đổi tâm lý thối quên những người sản xuất nhỏ, tiểu nông manh mún…

Nguyên tắc cơ bản

- Phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhâ

- Phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện

- Kết hợp đúng đắn các lợi ích

Câu 17: Xây dựng nền dân chủ XHCN.

a, Quan niệm về dân chủ

Khi Nhà nước chủ nô đầu tiên xuất hiện ở Hy Lạp "dân chủ" mới chính thức được sử dụng. Dân chủ là quyền lực của dân. Nhưng khái niệm dân chủ: giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia một số người tự do còn nô lệ không được coi là dân.

Dưới chế độ phong kiến: Địa chủ phong kiến nắm quyền lực xã hội thực hiện cưỡng bức phi kinh tế, chiếm đoạt ruộng đất đối với nông dân.

Dân chủ tư sản có bước phát triển mới trong lịch sử nhưng quyền lực thực sự không phải của nhân dân lao động mà thuộc về gia cấp tư sản.

Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 mở ra một thời đại mới: Giành lại quyền lực thực sự của dân-tức là dân chủ thực sự và lập ra nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để thực hiện quyền lực của nhân dân.

Tóm lại, nhân loại có nhu cầu về dân chủ và thực thi quyền lực của dân, nhưng dân là ai? Do bản chất chế độ xã hội quy định.

Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ :

Thứ nhất, chủ nghĩa Mác kế thừa và khẳng định: dân chủ là nhu cầu khách quan của nhân dân lao động, dân chủ là quyền lực của nhân dân.

Thứ hai, khi có giai cấp, Nhà nước xuất hiện dân chủ chủ yếu thực hiện bằng Nhà nước thì không có dân chủ chung chung phi giai cấp mà dân chủ thể hiện bản chất của giai cấp thống trị.

Thứ ba, từ khi có Nhà nước dân chủ, thì dân chủ còn có ý nghĩa là một hình thức Nhà nước thì quyền lực thuộc về nhân dân, còn dân là ai thì do quy định của giai cấp thống trị, lúc này dân chủ gắn liền với một hệ thống chuyên chính của giai cấp thống trị xã hội.

Thứ tư, với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều bị chi phối bởi giai cấp cầm quyền.

b, Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là đảm bảo toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân thực sự là người chủ trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Kết tinh trong đó toàn bộ giá trị dân chủ đã đạt được trong lịch sử và nảy sinh những giá trị dân chủ tiến bộ hơn.

Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện:

Bản chất chính trị:

Dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng sản thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân trở thành người làm chủ xã hội, tham gia rộng rãi vào công việc quản lý của Nhà nước, thực hiện các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người, thỏa mãn ngày càng cao hơn các nhu cầu và lợi ích của nhân dân.

Bản chất kinh tế: (Đây là cơ sở của dân chủ).

Dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Thể hiện thông qua quá trình ổn định và phát triển sản xuất đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Nhân dân tham gia vào quá trình tổ chức phân công lao động xã hội, phân phối sản phẩm xã hội. Kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển qua quá trình tiếp thu mọi thành quả mà nhân loại đã đạt được trước đó, đồng thời lọc bỏ những yếu tố tích cực kìm hãm của các chế độ kinh tế trước đó.

Bản chất tư tưởng văn hóa:

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng cho sự phát triển của xã hội. Phát triển truyền thống giá trị của văn hóa dân tộc kết hợp với tinh hoa văn hóa nhân loại. Xây dựng nền văn hóa theo lập trường của gia cấp công nhân.

Tóm lại: Dân chủ XHCN chủ yếu được thực hiện bằng Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

c. Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

- Thực hiện dân chủ đầy đủ, rộng rãi trở thành một yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng CNXH.

- Việc xây dựng thành công nền dân chủ XHCN đảm bảo cho sự thành công của CNXH. Vì xây dựng nền dân chủ XHCN là quy luật của sự hình thành và tự hoàn thiện của hệ thống chuyên chính vô sản, hệ thống chính trị XHCN. Đây là điều kiện, tiền đề thực hiện quyền lực, quyền làm chủ của nhân dân.

- Xây dựng thành công nền dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH.

18… Bản chất, đặc trưng,chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa

Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Mác Ăngghen đã chỉ rõ nhà nước chẳng qua chỉ là bộ máy của giai cấp này dùng để trấn áp các giai cấp khác. Nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một giai cấp, là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị vè kinh tế nhằm đảm bảo tật tự xã hội. Do đó nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như các nhà nước khác trong lịch sử - nó mang bản chất giai cấp của giai cấp thống trị - giai cấp công nhân. Chuyên chính vô sản là sự lãnh đạo về chính trị của giai cấp công nhân với toàn xã hội. Nhưng sự lãnh đạo của giai cấp công nhân phải thông qua chính đảng của nó. Đảng lãnh đạo xã hội thông qua nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chuyên chính vô sản là loại liên minh đặc biệt giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp khác do vậy nhà nước xã hội chủ nghĩa còn mang tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi.

* Đặc trưng

- Nhà nước XHCN là công cụ cơ bản để thực hiện quyền lực của nhân dân lao động đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.

- Nhà nước XHCN bảo vệ cho lợi ích của tất cả những người lao động tức là tuyệt đại đa số nhân dân trong đó có GCCN.

- Nhà nước XHCN là tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới- xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

- Nhà nước XHCN nằm trong nền dân chủ XHCN.

- Nhà nước XHCN là một kiểu nhà nước đặc biệt, “nhà nước không còn nguyên nghĩa”, là “nữa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước cũng không còn, nhà nước “tự tiêu vong”. Đây cũng là một đặc trưng nổi bật của nhà nước vô sản.

Chức năng của nhà nước chuyên chính vô sản.

Cũng như các nhà nước khác trong lịch sử nhà nước xã hội chủ nghĩa có hai chức năng:

chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội; chức năng đối nội và đối ngoại

Với tư cách là công cụ, phương tiện của giai cấp công nhân nhà nước xã hội chủ nghĩa có chức năng bao lực trấn áp: quản lý xã hội dựa trên pháp luật theo quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản, sử dụng công cụ bạo lực để đập tan sự phản kháng của kẻ thù, quét sạch tàn dư của xã hội cũ. Chức năng tổ chức xây dựng: nhằm cải biến trật tự tư bản chủ nghĩa và hình thành trật tự chủ nghĩa cộng sản, tạo ra trật tự kinh tế, mối quan hệ xã hội mới. (Đây là chức năng chủ yếu). Nó thuộc về chức năng đối nội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thực hiện chức năng đối ngoại là mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước khác theo nguyên tắc tôn trọng, bình đẳng và cùng có lợi.

Nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa gắn liền với chức năng, là sự cụ thể hóa chức năng của nhà nước. Nhà nước có nhiệm vụ quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động đáp ứng yêu cầu của xã hội. Xây dựng các quan hệ xã hội mới, quản lý đời sống xã hội, xây dựng và quản lý văn hóa mới.

Câu 21: Tại sao tôn giáo có tính lịch sử? Nêu những nguyên nhân tồn tại của tôn giáo và các nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong CNXH.

Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo:

Ø Nguyên nhân nhận thức: Trình độ dân trí của nhân dân chưa thật cao; nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học chưa giải thích được. Những sức mạnh tự phát của thiên nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng còn tác động và chi phối đến đời sống con người. Do vậy, tâm lý sợ hãi, trông chờ, nhờ cậy và tin tưởng vào Thần, Thánh, Phật... chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức con người trong xã hội

Ø Nguyên nhân tâm lý: Tín ngưỡng tôn giáo đã ăn sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Nên dù có biến đổi lớn về kinh tế, chính trị, xã hội…thì tín ngưỡng, tôn giáo không thay đổi ngay theo tiến độ của những biến đổi kinh tế, xã hội àm nó phản ánh.

Ø Nguyên nhân chính trị - xã hội: những giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, có nhiều điểm phù hợp với CNXH. Đồng thời tôn giáo có chức năng tự biến đổi và thích nghi với thời kỳ quá độ, niềm tin tôn giáo chân chính không đối lập với chủ nghĩa nhân đạo XHCN. Do đó, NN XHCN tạo điều kiện cho người có đạo tham gia hoạt động thực tiễn, thực hiện hóa lý tưởng nhân đạo của tôn giáo.

Ø Nguyên nhân kinh tế: Trong hoạt động kinh tế, tồn tại nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi tác động mạnh đến con người. Điều đó đã làm cho con người có tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.

Ø Nguyên nhân về văn hóa: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, tình cảm, lối sống…. nên sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như một hiện tượng xã hội khách quan.

Nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo:

- Một là, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo

- Hai là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Mọi công dân theo tôn giáo hay không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.

- Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo hoặc không theo tôn giáo,giữa những người theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.

- Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng tôn giáo. Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo của những phần tử phản động để chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Năm là, phải có quan diểm lịch sử cụ thể trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo

-          Câu 18: Đặc trưng, chức năng, nhiệm vụ của NNXHCN. Đặc trưng NNXHCN:

- Một là, NNXHCN là công cụ cơ bản để thực hiện quyền lực của nhân dân lao động, đặtdưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản.

- Hai là, NNXHCN là công cụ của chuyên chính giai cấp nhưng vì lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân, trấn áp những kẻ chống đối phá hoại sự nghiệp CM XHCN.

- Ba là, NNXHCN coi mặt trận tổ quốc xây dựng là đặc trưng cơ bản của chuyên chính vô sản.

- Bốn là, NNXHCN nằm trong nền dân chủ XHCN, mở rộng dân chủ, đảm bảo cho nhân dân tham gia quản lý NN, quản lý XH.

- Năm là, NNXHCN là kiểu NN đặc biệt, NN không còn nguyên nghĩa là” nửa NN”, NN tự tiêu vong khi cơ sở kinh tế XH cho sự tồn tại của NN không còn nữa.

Chức năng NNXHCN:

- Chức năng bạo lực: tức là NN sử dụng các công cụ như luật pháp và các công cụ bạo lực để đập tan sự phản kháng của kẻ thù chống lại sự nghiệp xây dựng CNXH, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững an ninh XH. Chức năng bạo lực là chức năng truyền thống của NN nhưng đối với NNXHCN,chức năng bạo lực không phải là căn bản và quan trọng nhất.

- Chức năng tổ chức xây dựng: là chức năng cơ bản của NNXHCN, đặc trưng cho bản chất NNXHCN. Chức năng này có nghĩa là NN sử dụng công cụ luật pháp và công cụ kinh tế, tổ chức để tập hợp lực lượng của XH nhằm sang tạo ra XH mới.

Nhiệm vụ NNXHCN:

- Quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế; cải thiện không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; quản lý văn hóa – xã hội, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, thực hiện giáo dục đào tạo con người phát triển toàn diện, chăm sóc sức khỏe nhân dân.

- Ngoài ra NNXHCN còn có chức năng, nhiệm vụ đối ngoại nhằm mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì sự phát triển và tiến bộ xã hội đối với nhân dân các nước trên thế giới.

NNXHCN là” nửa nhà nước”

- Nhà nước là bộ máy quyền lực được giai cấp thống trị sử dụng để trấn áp các giai cấp khác trong xã hội. Nói đến nhà nước là nói đến bản chất giai cấp và bản chất xã hội của nó.

- Tính giai cấp và tính xã hội nghịch biến nhau. Có xu hướng tính giai cấp ngày càng ít đi và tính xã hội ngày càng nhiều thêm.Khi mà hoàn toàn không còn tính giai cấp nữa cũng là lúc NN không còn.

- NN xã hội chủ nghĩa với giai cấp cầm quyền là công nhân, mà quyền lợi của công nhân gắn chặt với quyền lợi của nông dân, công - nông là số đông trong xã hội.NN phục vụ cho công - nông thì cũng như phục vụ cho đại đa số xã hội.Từ đó mà ta dễ thấy tính giai cấp nó ít đi mà tính xã hội của NN này lớn ra.

-

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#bowkute