triết học

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nội dung, ý nghĩa quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập

I. Đặt vấn đề:

Phép biện chứng duy vật có 3 quy luật (thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, lượng đổi, chất đổi, phủ định của phủ định) ® 3

hình thức, cách thức phát triển của sự vật, hiện tượng.

Quy luật thống nhất của các mặt đối lập nói lên nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển, là hạt nhân của phép

biện chứng duy vật và nó có ý nghĩa thực tiễn quan trọng.

II. Nội dung:

1. Khái niệm: Đấu tranh là sự tác động qua lại của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng khách quan.

2. Tính chất của đấu tranh:

* Đấu tranh là hiện tượng khách quan và phổ biến.

- Khách quan: Phép biện chứng duy vật khẳng định mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại đấu tranh bên trong. Mỗi sự

vật, hiện tượng đều là một thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau nhưng lại ràng buộc nhau và tạo

thành đấu tranh.

- Mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến: Đấu tranh tồn tại khách quan trong mọi sự vật và hiện tượng của giới tự nhiên, đời sống xã hội

và tư duy con người thể hiện:

+ Đấu tranh tồn tại phổ biến ở mọi sự vật hiện tượng, tồn tại trong suốt quá trình phát triển của chúng ta.

+ Không có sự vật, hiện tượng nào lại không có đấu tranh và không có một giai đoạn nào trong sự phát triển của mỗi sự vật, hiện

tượng lại không có đấu tranh. Đấu tranh này mất đi mâu thuẫn khác lại hình thành.

* Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.

* Khái niệm mặt đối lập: Là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng... trái ngược nhau trong một chỉnh thể

làm nên sự vật và hiện tượng.

Đấu tranh là chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau: Mâu thuẫn phải có 2 mặt đối lập, họ

không phải bất kỳ mặt đối lập nào cũng tạo thành đấu tranh, chỉ vì mặt đối lập nào nằm trong một chỉnh thể có liên hệ khăng khít với

nhau, tác động qua lại với nhau mới tạo thành đấu tranh.

* Khái niệm thống nhất: Là hai mặt đối lập liên hệ với nhau, ràng buộc nhau và quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn

tại cho mình.

Ví dụ:

- Trong sự vật: Hai mặt đối lập đồng hoá và dị hoá, nếu chỉ là một quá trình thì sự vật sẽ chết.

- Trong xã hội: Giai cấp tư sản và vô sản là hai mặt đối lập thống nhất với nhau, nếu không có giai cấp vô sản tồn tại với tư cách

một giai cấp bán sức lao động thì cũng không có giai cấp tư sản, tồn tại với tư cách mua sức lao động, bóc lột sức lao động để tạo

ra giá trị thặng dư.

- Khái niệm "thống nhất" trong quy luật đấu tranh còn gọi là "đồng nhất", hai khái niệm này đồng nghĩa với nhau song khái niệm

"đồng nhất" còn có một nghĩa khác đó là sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập.

Trong một cuộc đấu tranh sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh giữa chúng, sự thống nhất của hai mặt đối

lập ® hai mặt đối lập không nằm yên bên nhau mà luôn luôn đấu tranh với nhau Þ là một quá trình phức tạp và chia ra làm nhiều giai

đoạn, mỗi giai đoạn lại có đặc điểm riêng khác nhau (ví dụ: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản).

Tóm lại: Bất cứ sự thống nhất của các mặt cụ thể nào cũng đều có tính chất tạm thời, tương đối. Còn sự đấu tranh của các mặt đối

lập có tính chất tuyệt đối, nó phá vỡ sự ổn định dẫn đến sự chuyển hoá về chất của các sự vật hiện tượng.

* Sự chuyển hoá của các mặt đối lập:

Sự vật và hiện tượng trong thế giới là muôn hình, muôn vẻ nên sự chuyển hoá và các mặt đối lập cũng rất khác nhau, vì vậy phải

căn cứ vào từng sự vật mà phân tích sự chuyển hoá của các mặt đối lập, nghĩa là hai mặt đối lập chuyển hoá với nhau hoặc cả hai

chuyển thành chất mới.

3. Các loại đấu tranh: Có 4 loại:

a. Đấu trnah bên trong và bên ngoài:

Đấu tranh bên trong: Là đấu tranh nằm ngay trong bản thân sự vật và hiện tượng.

Đấu tranh bên ngoài: Là đấu tranh giữa các sự vật và hiện tượng với nhau.

b. Đấu tranh cơ bản và đấu tranh không cơ bản.

+ Đấu tranh cơ bản: Là đấu tranh quy định bản chất sự vật, hiện tượng.

+ Đấu tranh không cơ bản: chịu sự chi phối của đấu tranh cơ bản.

c. Đấu tranh chủ yếu và đấu tranh thứ yếu:

+ Đấu tranh chủ yếu: Là đấu tranh nổi bật lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn nhất định của quá trình phát triển của sự vật.

+ Đấu tranh thứ yếu là đấu tranh không đóng vai trò quyết định.

d. Đấu tranh đối kháng và không đối kháng.

Đấu tranh đối kháng: Là đấu tranh giữa những khuynh hướng, những lực lượng xã hội mà lợi ích căn bản trái ngược nhau, không

thể điều hoà được.

Đấu tranh không đối kháng là đấu tranh giữa những khuynh hướng, những lực lượng xã hội mà lợi ích căn bản nhất trí với nhau.

III. ý nghĩa phương pháp luận.

1. Phải thừa nhận tính khách quan về đấu tranh của các sự vật, hiện tượng, đòi hỏi chúng ta phải biết phân tích các mặt đối lập của

đấu tranh, nắm được bản chất của sự vật, khuynh hướng vận động và phát triển của chúng.

2. Phải biết phân tích thật cụ thể một đấu tranh cụ thể và tìm cách giải quyết đấu tranh cụ thể đối với từng đấu tranh - chúng ta phải

tuân theo nguyên tắc sự vật, hiện tượng đối lập nhau thì đấu tranh khác nhau, mỗi quy trình đều có đấu tranh, mỗi đấu tranh lại có đặc

điểm riêng.

3. Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết đấu tranh vì đó là sự đấu tranh của các mặt đối lập, bất kỳ đấu tranh nào, bất kỳ giai đoạn

nào của đấu tranh, đấu tranh chỉ được giải quyết bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập.

Nội dung ý nghĩa, quy luật phủ định của phủ định

I. Khái niệm và đặc điểm của phủ định (xu hướng của sự phát triển)

1. Khái niệm: Một dạng vật chất được sinh ra, tồn tại, rồi mất đi, được thay thế bằng một dạng khác, đó là sự phủ định.

Sự phủ định là một yếu tố nhất thiết hải có của quá trình vận động và phát triển.

Phép biện chứng duy vật không đề cập đến sự phủ định chung mà chỉ nói đến sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát

triển của cái mới ra đời thay thế cái cũ.

2. Đặc điểm của phủ định biện chứng.

* Tính khách quan: Sự phủ định của cái mới ra đời thay thế cái cũ nằm ngay trong bản thân sự vật, nó là kết quả của những đấu

tranh được giải quyết trong bản thân mỗi sự vật ® phương pháp định có tính khách quan là một yếu tố tất yếu của sự phát triển.

* Tính kế thừa: Phủ định biện chứng là kết quả của sự tự thân phát triển trên cơ sở giải quyết vì đấu tranh vốn có của các sự vật,

hiện tượng ® cái mới ra đời không thể là một sự phủ định tuyệt đối, sạch trơn mà là một sự phủ định có kế thừa.

Cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ ® có chọn lọc, giữ lại và cải tạo những mặt còn thích hợp của cái cũ để chuyển sang cái mới gạt

bỏ ở cái cũ, mặt lỗi thời, lạc hậu gây cản trở cho sự phát triển ® nội dung cơ bản của sự phủ định biện chứng.

Phủ định biện chứng không chỉ là nguyên tố khắc phục cái cũ, mà còn gắn liền cái cũ với cái mới, cái khẳng định với cái phủ định.

II. Nội dung của quy luật.

Phủ định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới này lại trở nên cũ và bị cái mới sau phủ định ® khuynh

hướng phát triển tất yếu đi từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường xoáy ốc.

VD: Lấy ví dụ về hạt thóc ® gặp điều kiện thuận lợi ® nảy mầm ® hạt thóc biến đi (hạt thóc bị phủ định) bị thay thế bởi một cây lớn

® lớn lên, ra hoa, thụ phấn ® sinh ra hạt thóc mới ® thân cây chết đi (cây bị phủ định) và cứ như thế.

Þ Đặc điểm quan trọng nhất của quy luật phủ định: Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển bên trong của sự vật quy

định. Mỗi lần phủ định đều là kết quả của sự đấu tranh và chuyển hoá của các mặt đối lập trong bản thân sự vật ® sự vật đấu tranh

giữa khẳng định và phủ định.

+ Phủ định của phủ định xuất hiện với tư cách là cái tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực đã được phát triển từ trước trong cái

khẳng định ban đầu và cả trong cái phủ định lần thứ nhất, tạo ra chất mới cao hơn ® nó có nội dung toàn diện, phong phú hơn.

Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển

mới tiếp theo.

Tóm lại: Quy định phủ định của phủ định, khái quát tính tất yếu tiến lên của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng, sự phát

triển không theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc ® tính chất biện chứng của sự phát triển, tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên

của sự vận động.

Khi nghiên cứu quy luật phủ định chúng ta không nên hiểu tất cả các sự vật, hiện tượng đều qua hai lần phủ định mà là nhiều lần.

III. ý nghĩa phương pháp luận.

Giúp chúng ta hiểu biết một cách đúng đắn về xu hướng của sự phát triển, quá trình phát triển của các sự vật, hiện tượng không

diễn ra một cách thẳng thắn mà quá trình đó quanh co phức tạp (lấy ví dụ từng lĩnh vực đời sống xã hội: về chủ nghĩa tư bản và chủ

nghĩ xã hội).

Giúp chúng ta hiểu biết đầy đủ hơn về cái mới ® ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự vật ® biểu hiện giai đoạn cao về chất

trong sự phát triển ® chúng ta ủng hộ cái mới, đấu tranh cho cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển, chống lại cái cũ đã lỗi thời

kìm hãm sự phát triển.

Nội dung, ý nghĩa quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất lượng

I. Đặt vấn đề:

Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng. Quy luật này nói lên cách thức của sự vận động và phát triển.

II. Nội dung:

1. Khái niệm:

* Chất: Là tính quy định vốn có của các sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, nhưng yếu tố cấu thành sự

vật, nói lên sự vật đó là gì, phân biệt với các sự vật, hiện tượng khác.

- Trong thế giới có vô vàn các sự vật hiện tượng, mỗi sự vật hiện tượng đều có một chất riêng, là mỗi sự vật hiện tượng không

phải chỉ có một chất mà có nhiều chất tuỳ theo những quan hệ cụ thể.

* Lượng: Là tính chất quy định của sự vật và hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển của nó, trình độ phát triển của nó biểu thị

con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng.

- Lượng của sự vật nói lên kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động

nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt.

Có nhiều tính quy định về lượng khác nhau, sự vật và hiện tượng càng phức tạp thì những thông số về lượng càng phức tạp.

Sự phân biệt giữa chất là lượng chỉ có ý nghĩa tương đối. Tuỳ theo từng mối quan hệ mà xác định đâu là chất, đâu là lượng của sự

vật. Có cái trong mối quan hệ này là chất, nhưng trong mối quan hệ khác nó lại là lượng và ngược lại.

2. Mối quan hệ tính chất giữa chất và lượng: Mỗi sự vật có một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời

nhau mà tác động đến nhau một cách biện chứng. Trong sự vật tính quy định về chất không tồn tại nếu không có tính quy định về lượng

và ngược lại.

Khi sự vật đang tồn tại chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định ® mối liên hệ giữa chất và lượng, là giới hạn mà

trong đó sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa biến thành cái khác.

Trong phạm vi một độ nhất định, hai mặt chất và lượng tác động lẫn nhau làm cho sự vật và hiện tượng vận động và biến đổi.

So với chất lượng thay đổi tuổi ® quá trình diễn ra từ từ tăng dần hoặc giảm dần. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì

dẫn đến sự thay đổi vật chất ® quá trình thay đổi dần dần của lượng đã tạo điều kiện cho chất đổi.

Sự thay đổi về chất được gọi là bước nhảy ® bước ngoặt căn bản trong sự biến đổi dần dần về lượng, thời điểm sảy ra bước

nhảy gọi là điểm nút.

Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, nó không

chấm dứt sự vận động nói chung mà chỉ chấm dứt một dạng tồn tại của sự vật ® sự vật mới, lượng mới ® điểm nút ® xảy ra bước

nhảy và cứ như thể làm cho sự vật mới luôn luôn thay thế sự vật cũ.

- Sự biến đối về lượng dần dần dẫn đến sự biến đổi về chất diễn ra một cách phổ biến trong giới tự nhiên, đời sống xã hội, tư duy.

+ Tự nhiên: Bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học của Mendelép đã chỉ rõ tính đa dạng của các chất phụ thuộc vào nguyên tử, khi

cơ PhôFônFăng, giảm thì nguyên tử sẽ trở thành nguyên tố khác.

+ Đời sống xã hội: sự thay thế phương thức sản xuất - sự thay đổi lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.

+ Tư duy: sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng là bước nhảy vọt về chất trong lịch sử triết học.

Quy luật "Lượng - Chất" không chỉ có sự biến đổi về lượng > thay đổi về chất mà còn ngược lại ® khi chất mới ra đời ® một lượng

mới phù hợp với nó để có sự thống nhất giữa chất và lượng.

Tóm lại: Quy luật Lượng - Chất quy luật về sự tác động biện chứng giữa lượng và chất, những thay đổi về lượng chuyển thành

những thay đổi về chất và ngược lại.

III. ý nghĩa phương pháp luận:

+ Khắc phục tư tưởng nôn nóng "tả khuynh" đồng thời phải khắc phục tư tưởng bảo thủ "hữu khuynh". Quy luật lượng chất giúp ta

hiểu rằng lượng đổi ® chất đổi thông qua bước nhảy là hình thức tất yếu của sự vận động và phát triển. Nhưng sự thay đổi về chất chỉ

diễn ra với điều kiện lượng thay đổi đến điểm nút.

Tư tưởng nôn nóng ''tả khuynh'' không chú ý đến quá trình tích luỹ về lượng ® họ nôn nóng, chủ quan, duy ý chỉ cho rằng sự phát

triển chỉ là bước nhảy liên tục mà không cần đến sự tích luỹ dần dần về lượng.

Phải có thái độ khách quan khoa học và có quyết tâm thực hiện các bước nhảy quy luật tự nhiên, đời sống xã hội đều có tính khách

quan. Sự khác nhau là ở chỗ, quy luật tự nhiên thì tự nó diễn ra tự phát, còn quy luật của đời sống xã hội chỉ được giải quyết thông

qua hoạt động có ý thức của con người.

Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần kt?

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn

nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây

là quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.

Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và

phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất.

Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử

đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người,

trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.

Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển

từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực

lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực

lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.

Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức

sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất

với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là "hình thức phát triển" của lực lượng

sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều "tạo địa bàn đầy đủ" cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó

có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản

xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với

sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành "xiềng xích" của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản

xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ

sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế

quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời

thay thế. C.Mác đã viết: "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với

những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát

triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một

cuộc cách mạng xã hội"(1).

Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát

triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động

sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, v.v... và do đó tác động đến sự

phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực

lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển

của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng

sản xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của

lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan

hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp

phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình

lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ

phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó

quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.

(Các) nguồn

Tại Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm

với nội dung cơ bản là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay, đất nước ta đã có

những bước phát triển vượt bậc, thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và luôn đạt mức tăng trưởng cao. Những thành tựu đó

khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới nói chung và chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nói riêng. Tuy nhiên,

bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta cũng cần phải nhận thức rõ những tiêu cực do nền kinh tế nhiều thành phần gây ra, đặc biệt là

nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử. Trong Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, sau khi giai cấp công

nhân giành được chính quyền thì không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được mà phải cải tạo nó dần dần. Đến Tuyên ngôn

của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, sau khi giành được thắng lợi chính trị, giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị

của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô vào đầu

những năm 20 của thế kỷ XX càng khẳng định tính đúng đắn của việc sử dụng và cải tạo dần dần đối với những thành phần kinh tế

của xã hội cũ mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra. Nhận thấy chính sách cộng sản thời chiến không còn thích hợp trong điều kiện đất

nước đã hoà bình, V.I.Lênin đã dũng cảm thừa nhận: "Chúng ta đã thất bại trong cái ý định dùng phương pháp "xung phong", nghĩa là

dùng con đường ngắn nhất, nhanh nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất và phân phối theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa". Từ

đó, V.I.Lênin khẳng định cần phải thay thế chính sách cộng sản thời chiến bằng chính sách kinh tế mới (NEP). Một trong những nội

dung cơ bản của NEP là lý luận về nền kinh tế nhiều thành phần. V.I.Lênin viết: "Không còn nghi ngờ gì nữa, ở một nước trong đó

những người sản xuất tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số dân cư, chỉ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt những

biện pháp quá độ đặc biệt, hoàn toàn không cần thiết ở những nước tư bản phát triển". Một trong các biện pháp quá độ đặc biệt mà

V.I.Lênin nói ở đây chính là việc sử dụng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Điều đó được V.I.Lênin giải thích rõ như sau: "Vậy

thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ

phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có".

Cơ sở của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xét đến cùng, là do quy luật quan hệ sản

xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là ở

các nước tiểu nông, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn nhiều hạn chế và không đồng đều nên tất yếu còn tồn tại nhiều

loại hình sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; hơn nữa, một số thành phần kinh tế của phương thức sản xuất cũ còn có tác dụng tích cực

nhất định đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó cho thấy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã giải thích rất

rõ tại sao phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay là sản phẩm của quá trình Đảng và nhân dân ta nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ

nghĩa Mác - Lênin, thể hiện tư duy mới của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong điều kiện nước ta hiện nay.

Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thuần nhất và thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa

không có tính chất đối kháng, không bao hàm những lợi ích kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở hữu toàn dân và tập

thể, hợp tác tương trợ nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm theo lao động, không còn chế độ bóc lột.

Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa, vì vậy mà có sự thống trị về chính trị và tinh thần.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân do dân và vì dân. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là công cụ để cải tạo xã hội cũ và xây

dựng xã hội chủ nghĩa tiến bộ, khoa học trở thành động lực cho sự phát triển xã hội.

Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc và triệt để, là một giai đoạn lịch sử

chuyển tiếp. Cho nên cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng với đầy đủ những đặc trưng của nó. Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang tính chất

quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có sự

đối kháng về tư tưởng và có sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trên lĩnh vực tư tuởng văn hoá.

Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang tính cách mạng lâu dài, phức tạp mà thực chất là

cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.

Chính vì những lý do đó mà nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến với nền kinh tế lạc hậu sản xuất nhỏ là chủ yếu, quá độ lên

chủ nghĩa xã hội chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước

ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư

nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu

kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất, lại vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân

thống nhất, chúng vừa cạnh tranh nhau, vừa liên kết với nhau, bổ xung với nhau.

Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính

và giáo dục. Trong đó biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước đi

thích hợp theo hướng: kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu

hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư

nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở kinh tế hợp lý. Trong văn kiện Hội

nghị đại biểu Đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII, Đảng ghi rõ "Phải tập chung nguồn vốn đầu tư nhà nước cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng

kinh tế xã hội và một số công trình công nghiệp then chốt đã được chuẩn bị vốn và công nghệ. Nâng cấp và xây dựng mới hệ thống

giao thông, sân bay, bến cảng, thông tin liên lạc, giáo dục và đào tạo, y tế". Đồng thời văn kiện Đảng cũng ghi rõ: "Từ nay tới cuối

thập kỷ, phải quan tâm tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp

gắn với công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu".

Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành

động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng

con người khỏi chế độ bóc lột. Bởi vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, việc giáo dục truyền bá chủ nghĩa

Mác - Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục

của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng.

Xây dựng hệ thống chính trị, xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng cộng sản lãnh đạo đảm bảo cho nhân dân

là người chủ thực sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực của xã hội thuộc về nhân dân thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo phát

huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ động của mọi cá nhân. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội, Đảng ghi rõ: "Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai

cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo". Như vậy, tất cả các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống

chính trị - xã hội không tồn tại như một mục đích tư nhân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lợi thuộc về

nhân dân lao động.

Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết mâu thuẫn giữa chúng. Việc phát triển và

củng cố cơ sở hạ tầng điều chỉnh và củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ.

(Các) nguồn

Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan

hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành phần

kinh tế quốc doanh, tập thể và nhiều thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tính chất đan xen

quá độ về kết cấu của cơ sở kinh tế vừa làm cho nền kinh tế sôi động, phong phú, vừa mang tính chất phức tạp trong quá trình thực

hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một kết cấu kinh tế năng động, phong phú, được phản chiếu lên kiến trúc thượng tầng và đặt

ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải được đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Như vậy kiến trúc

thượng tầng mới có sức mạnh đáp ứng kịp thời đòi hỏi của cơ sở hạ tầng

Tuy nhiên, việc đổi mới cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là việc rất phức tạp. Điều quan trọng trước hết là cần sớm hình thành

và thống nhất những quan điểm sử lý thiết yếu.

Thứ nhất, cần một phương pháp tiếp cận vấn đề một cách cụ thể không làm theo cách "cháy đâu chữa đấy" từ đó tìm ra nguyên nhân

chủ yếu của vấn đề để đưa ra những luận chứng có tính khả thi.

Thứ hai, cần theo dõi chặt chẽ, khai thác sàng lọc và sử lý các loại tín hiệu của nền kinh tế một cách kịp thời trên cơ sở chủ chương

chính sách thích hợp khuyến khích các hoạt động kinh tế lành mạnh. đồng thời phải xây dựng một cơ chế điều hành kinh tế cho phép

thâu lượm đánh giá, sử lý kịp thời mọi tín hiệu kinh tế trong phạm vi cả nước.

Thứ ba, hoàn thiện các thủ tục tài chính, tăng cường kỷ cương pháp luật trong điều hành tài chính quốc gia từ trung ương đến từng

người sản xuất.

Vận dụng quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.?

Hãy lấy 1 ví dụ ở trong thực tiễn đang đặt ra ở nước ta và phân tích nó để thấy rõ nó thể hiện quan hệ biện chứng trên.

Cơ sở hạ tầng & kiến trúc thượng tầng CSCN k° hình thành tự phát trong XH cũ, mà hình thành tự giác sau khi giai cấp vô sản giành

chính quyền & phát triển hoàn thiện Suốt thời kỳ quá độ từ CNTB tiến lên CNCS. Muốn có cơ sở hạ tầng & kiến trúc thượng tầng

CSCN. Trước hết giai cấp vô sản phải dùng bạo lực CM đập tan nhà nước cũ, lập nên nhà nước vô sản. Sau khi giành được chính

quyền, giai cấp vô sản tiến hành quốc hữu hoá, tịch thu, trưng thu nhà máy, xí nghiệp của giai cấp tư sản nhằm tạo ra cơ sở KT ban

đầu của CNXH.

Việc nhà nước chuyên chính vô sản phải ra đời trước để tạo đk & làm công cụ, phương tiện cho quần chúng nd, tiến hành triệt để quá

trình ấy hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan của XH. Đó là sự phát triển khách quan trong quá trình SX vật chất của XH, đòi hỏi

phải có 1 cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tiến bộ hơn thay thế cơ sở hạ tầng & kiến trúc thượng tầng TBCN lỗi thời phản

động. Tuy nhiên, nhà nước chuyên chính vô sản có thật sự vững mạnh hay k° lại hoàn toàn phụ thuộc vào sự phát triển của cơ sở hạ

tầng CSCN. Dưới CNXH hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng & kiến trúc thượng tầng thuần nhất & thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng XHCN k° có

t/c đối kháng, k° bao hàm n~ lợi ích KT đối lập nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở hữu toàn dân & tập thể, hợp tác tương trợ nhau

trong quá trình SX, phân phối s/p theo LĐ, k° còn chế độ bóc lột. Kiến trúc thượng tầng XHCN phản ánh cơ sở hạ tầng của XHCN, vì

vậy mà có sự thống trị về CT & tinh thần. Nhà nước XHCN là nhà nước của dân do dân và vì dân. Pháp luật XHCN là công cụ để cải

tạo XH cũ & XD XH XHCN tiến bộ, KH trở thành động lực cho sự phát triển XH. Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXHi là thời kỳ cải

biến CM sâu sắc & triệt để, là 1 giai đoạn l/s chuyển tiếp. Cho nên cơ sở hạ tầng & kiến trúc thượng tầng với đầy đủ n~ đặc trưng của

nó. Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ vơi 1 kết cấu KT nhiều thành phần đan xen của nhiều loại hình KT XH # nhau. Còn

kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng & có sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản & giai cấp tư sản trên lĩnh vực tư tuởng

VH.

Bởi vậy công cuộc cải cách KT & đổi mới thể chế CT là 1 quá trình mang tính CM lâu dài, phức tạp mà thực chất là cuộc đấu tranh

gay go, quyết liệt giữa 2 con đường TBCN & XHCN. Chính vì những lý do đó mà nước ta từ 1 nước thuộc địa nửa PK với nền KT lạc

hậu SX nhỏ là chủ yếu, quá độ lên CNXH chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình XD CHXH. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ

ở nước ta bao gồm các thành phần KT như: KT nhà nước, KT hợp tác, KT tư bản nhà nước, KT cá thể, KT tư bản tư nhân, cùng các

kiểu quan hệ SX gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong 1 cơ cấu KT quốc dân thống nhất.

Đó là nền KT hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, t/c, lại vừa

thống nhất với nhau trong 1 cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, chúng vừa cạnh tranh nhau, vừa liên kết với nhau, bổ xung với nhau.

Để định hướng XHCN đối với các thành phần KT này, nhà nước phải sử dụng tổng thể các biện pháp KT hành chính & giáo dục.

Trong đó biện pháp KT có vai trò quan trọng nhất nhằm từng bước XH hoá nền sx với hình thức & bước đi thích hợp theo hướng: KT

quốc doanh được củng cố & phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kt tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn n~ người SX nhỏ trong

các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, c.ty cổ phần phát triển mạnh, KT tư nhân và GĐ phát huy được mọi tiềm năng để phát triển

lực lượng SX, XD cơ sở KT hợp lý. Trong văn kiện Hội nghị đại biểu Đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII, Đảng ghi rõ "Phải tập chung

nguồn vốn đầu tư nhà nước cho việc XD cơ sở hạ tầng KT XH & 1 số công trình công nghiệp then chốt đã được chuẩn bị vốn và công

nghệ. Nâng cấp & xây dựng mới hệ thống giao thông, sân bay, bến cảng, thông tin liên lạc, GD & đào tạo, y tế". Đồng thời văn kiện

Đảng cũng ghi rõ: "Từ nay tới cuối thập kỷ, phải quan tâm tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá NN & KT NT, phát triển toàn diện nông,

lâm, ngư nghiệp gắn với CN chế biến nông lâm thuỷ sản, CN SX hàng tiêu dùng & hàng XK". Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta

khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin 7 tư tưởng HCM làm kim chỉ nam cho mọi h/đ của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của

CN Mác - Lênin và tư tưởng HCM là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột. Bởi vậy, trong sự nghiệp XD CNXH

của nd ta, việc GD truyền bá CN Mác - Lênin tư tưởng HCM trở thành tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của XH, là việc làm

thường xuyên, liên tục của cuộc CN XHCN trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng.

XD hệ thống CT XH XHCN mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng CS lãnh đạo đảm bảo cho nd là người chủ thực sự của XH.

Toàn bộ quyền lực của XH thuộc về nd thực hiện dân chủ XHCN đảm bảo phát huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ động của mọi

cá nhân. Trong cương lĩnh XD đn thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ghi rõ: "XD nhà nước XHCN, nhà nước của dân, do dân & vì dân,

liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng CS lđ". Như vậy, tất cả các tổ chức, bộ

máy tạo thành hệ thống CT - XH k° tồn tại như 1 mục đích tư nhân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích & quyền lợi

thuộc về nd LĐ. Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng & kiến trúc thượng tầng là 1 bước giải quyết mâu thuẫn giữa chúng. Việc

phát triển & củng cố cơ sở hạ tầng điều chỉnh & củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là 1 quá trình diễn ra trong suốt thời

kỳ quá độ. Trong quá trình phát triển nền KT nhiều t/p theo định hướng XHCN ở nước ta, cần vận dụng & quán triệt quan hệ biện

chứng giữa cơ sở hạ tầng & kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành phần KT quốc

doanh, tập thể & nhiều thành phần KT quốc doanh, tập thể & nhiều thành phần KT # nhau. T/c đan xen quá độ về kết cấu của cơ sở

KT vừa làm cho nền KT sôi động, phong phú, vừa mang tính chất phức tạp trong quá trình thực hiện định hướng XHCN. Đây là 1 kết

cấu KT năng động, phong phú, được phản chiếu lên kiến trúc thượng tầng & đặt ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng

cũng phải được đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở KT. Như vậy kiến trúc thượng tầng mới có sức mạnh đáp ứng kịp thời đòi hỏi

của cơ sở hạ tầng Tuy nhiên, việc đổi mới cơ sở hạ tầng & kiến trúc thượng tầng là việc rất phức tạp. Điều quan trọng trước hết là ần

sớm hình thành & thống nhất những quan điểm sử lý thiết yếu. Thứ nhất, cần 1 phương pháp tiếp cận vấn đề 1 cách cụ thể không làm

theo cách "cháy đâu chữa đấy" từ đó tìm ra ng.nhân chủ yếu của vấn đề để đưa ra n~ luận chứng có tính khả thi. Thứ 2, cần theo dõi

chặt chẽ, khai thác sàng lọc & sử lý các loại tín hiệu của nền KT 1 cách kịp thời trên cơ sở chủ chương chính sách thích hợp khuyến

khích các hđ KT lành mạnh. đồng thời phải XD 1 cơ chế điều hành KT cho phép thâu lượm đánh giá, sử lý kịp thời mọi tín hiệu KT

trong phạm vi cả nước. Thứ 3, hoàn thiện các thủ tục tài chính, tăng cường kỷ cương pháp luật trong điều hành tài chính quốc gia từ

trung ương đến từng người SX.

Nắm vững phép biện chứng giữa cơ sở hạ tầng & kiến trúc thượng tầng, giữa đổi mới KT và đổi mới CT, vận dụng sáng tạo n~ chủ

chương, đường lối của Đảng là con đường đầy trông gai nhưng tất yếu sẽ dành thắng lợi trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân

giàu nước mạnh, XH công = văn minh.

Tại sao nói cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng?

Bạn có thể tham khảo câu trả lời sau:

Lần đầu tiên trong Lời tựa, Mác đưa ra khái niệm về cơ sở hạ tầng (cơ cấu kinh tế) và kiến trúc thượng tầng một cách tương đối

hoàn chỉnh. Ông cho rằng, mỗi xã hội có một kết cấu kinh tế đặc trưng riêng, tức là cơ sở hiện thực của xã hội, trên đó nảy sinh một

kiến trúc thượng tầng tương ứng: "Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực

trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện

thực đó". Mác đã vạch rõ sự thống nhất của những hiện tượng kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng của đời sống xã hội và chỉ ra rằng,

xét đến cùng, những hiện tượng ấy đều do sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định. Bởi vậy, với khái niệm cơ sở hạ tầng và

kiến trúc thượng tầng, Mác đã cung cấp chìa khoá để nhận thức một cách duy vật mọi hiện tượng xã hội.

Xuất phát từ việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, áp dụng vào nghiên cứu và nhận thức đời sống xã hội, Mác đã chỉ ra được

mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Cơ cấu kinh tế của xã hội của mỗi thời đại nhất định

tạo nên cái cơ sở hiện thực mà xét đến cùng, phải bằng cái cơ sở hiện thực ấy mà giải thích toàn bộ kiến trúc thượng tầng bao gồm

các thể chế pháp luật và chính trị, cũng như quan niệm tôn giáo, triết học và các quan niệm khác của mỗi thời kỳ lịch sử xã hội nhất

định. Mác khẳng định tính chất quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến

trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng". Luận điểm đó của Mác không mảy may gạt bỏ tính độc lập tương đối

của kiến trúc thượng tầng, vai trò tích cực của chính quyền nhà nước, của các hình thái ý thức xã hội như pháp luật, đạo đức, tôn giáo,

triết học,...

Mác cũng lưu ý rằng, không phải cơ sở hạ tầng (cơ cấu kinh tế) thay đổi thì ngay lập tức làm cho toàn bộ kiến trúc thượng tầng "đồ

sộ" phải "đảo lộn". Chính do tính độc lập tương đối nên kiến trúc thượng tầng chỉ "bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng" mà thôi. Ông đã chỉ

ra phương pháp luận: khi xem xét "những cuộc đảo lộn ấy, bao giờ cũng cần phân biệt cuộc đảo lộn vật chất - mà người ta có thể xác

nhận với một sự chính xác của khoa học tự nhiên - trong những điều kiện kinh tế của sản xuất, với những hình thái pháp lý, chính trị, tôn

giáo, nghệ thuật hay triết học, với những hình thái tư tưởng trong đó con người ý thức được cuộc xung đột ấy và đấu tranh để giải

quyết cuộc xung đột ấy". Bởi vì, "nếu ta không thể nhận định về một người căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối với bản thân, thì

ta cũng không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng

những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã

hội".

Phương pháp luận nghiên cứu lịch sử xã hội ấy bắt nguồn từ một những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đó là tính chất

quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội: "Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội,

chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý

thức của họ". Như thế, chỉ khi nào hiểu được những điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi thời đại tương ứng, khi nào tất cả những cái

khác được rút ra từ những điều kiện vật chất ấy thì mới có thể hiểu được tất cả các quan hệ xã hội, các hệ thống tôn giáo, pháp luật

và tất cả các quan điểm lý luận và tư tưởng đã xuất hiện trong lịch sử. Luận điểm đó, theo Ăng-ghen, là một phát minh có tác dụng

cách mạng hoá không chỉ đối với môn kinh tế chính trị mà còn đối với tất cả các môn khoa học lịch sử nữa. Còn luận điểm nói rằng ý

thức của con người phụ thuộc vào tồn tại xã hội của họ, chứ không phải ngược lại, xem ra rất đơn giản, đã giáng một đòn chí mạng

vào mọi thứ chủ nghĩa duy tâm, ngay cả đối với chủ nghĩa duy tâm ẩn dấu nhất và phủ định tất cả mọi quan điểm quen thuộc về lịch sử

trước Mác, làm cho toàn bộ phương thức tư duy chính trị cổ truyền bị sụp đổ. Quan điểm cơ bản đó "vẫn xuyên qua như một sợi chỉ

đỏ" tất cả mọi hành động của con người và khẳng định tất cả mọi hoạt động chính trị đều phát sinh từ những sự thúc đẩy vật chất trực

tiếp chứ không phải từ những câu nói đi kèm theo những hành động ấy. Như vây, phải xuất phát từ tồn tại xã hội để giải thích ý thức

xã hội.

Chuyên đề 10:

Bài học "Lấy dân làm gốc" để xây dựng, chỉnh đốn Đảng

Bài học "Lấy dân làm gốc" để xây dựng, chỉnh đốn Đảng

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ CNXH đã ghi: "Sự nghiệp cách

mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính người dân là người làm nên

thắng lợị lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện

vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân

dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất không lường

được đối với vận mệnh của đất nước".

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay phần mở đầu đã nhấn mạnh: "Đảng Cộng sản

Việt Nam là Đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy

quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây dựng Đảng". Trang Di

chúc bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho Đảng ta và nhân dân ta, Người đặc biệt

nhấn mạnh, tăng cường quan hệ giữa Đảng với nhân dân: "Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức

và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Phải

giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung

thành của nhân dân".

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quan niệm sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch

sử và mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người không chỉ khẳng định dân

là gốc của nước, mà còn tôn vinh nhân dân: ''Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân

dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đòan kết của nhân dân''. Người còn

nói, nhân dân là người xây dựng, là người đổi mới, làm nên sự nghiệp lớn, mọi quyền

hành và lực lượng đều ở nhân dân.

Quán triệt Điều lệ Đảng và thấm nhuần sâu sắc Tư tưởng Hồ Chí Minh về ''Lấy dân làm

gốc'', chúng ta càng thấm thía rằng: Mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, nếu Đảng

xa dân, tách khỏi dân thì Đảng không thể tồn tại được. Không có sự tham gia giám sát của

nhân dân thì cán bộ, đảng viên dễ trở thành "ông quan'', ''bà quan" cách mạng chứ khó trở

lên ''Người lãnh đạo, Người đầy tớ trung thành của nhân dân". Không có sự giám sát chặt

chẽ của quần chúng nhân dân thì tổ chức Đảng khó tránh khỏi tệ quan liêu - một trong

những nguy cơ lớn của Đảng cầm quyền, biến sứ mệnh cầm quyền cao cả của Đảng thành

''Đảng lạm quyền", thậm chí còn dẫn đến thoái hóa, biến chất. Do vậy, sự giám sát cán bộ,

đảng viên và tổ chức đảng của nhân dân trong việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

đang trở nên bức bách và có ý nghĩa sống còn của Đảng ta. Đó là bài học ''Lấy dân làm

gốc" để xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Lịch sử đã từng chứng minh, một chế độ chính trị - xã hội chỉ tồn tại được khi nào có khả năng tập hợp, đoàn kết được quảng đại

quần chúng nhân dân. Trong những giai đoạn cách mạng trước, sở dĩ Đảng ta luôn luôn giữ vững được vai trò lãnh đạo của mình, bởi

nhờ có sự ủng hộ, che chở, bảo vệ của nhân dân. Ngày nay, đứng trước cuộc đấu tranh bài trừ các tệ nạn xã hội, trước hết là làm

trong sạch các tổ chức đảng, bộ máy Nhà nước, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng và sự tha hóa đạo đức, phẩm chất của một bộ

phận cán bộ, đảng viên chỉ có thể thực hiện đạt hiệu quả khi nào các tổ chức đảng, các cấp ủy đảng thực sự

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Nước lấy dân làm gốc; Gốc có vững, cây

mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Người rất tâm đắc với câu nói dân

gian: "Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong".

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện trước hết của dân là gốc là phải tin ở dân, gần gũi

dân, và biết dựa vào dân; Phải có ý thức rõ "dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất

anh hùng". Muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn biến đường lối chủ trương của Đảng thành phong trào quần chúng, thành sức mạnh cách

mạng thì Đảng phải có đường lối đúng đắn; cán bộ đảng viên "phải liên lạc mật thiết với dân chúng, xa rời dân chúng là cô độc. Cô

độc thì nhất định thất bại". Cán bộ đảng viên còn phải học hỏi dân, "nếu không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân", mà "muốn

hiểu biết, học hỏi dân thì ắt phải có nhiệt thành, có quyết tâm".

Theo Hồ Chí Minh phải thực hiện dân chủ với dân để phát huy tinh thần làm chủ của dân

là cốt lõi của vấn đề dân là gốc. Người thường nói: "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là

nhân dân làm chủ". Vậy quyền hạn, nghĩa vụ của người làm chủ phải thế nào? Câu trả lời

của Người là: "Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi".

Và người yêu cầu: người làm chủ trước hết phải làm tròn bổn phận công dân, tức là phải

tuân theo pháp luật Nhà nước; tuân theo kỷ luật lao động; giữ gìn trật tự chung; nộp thuế

đúng kỳ, bảo vệ tài sản công cộng; bảo vệ Tổ Quốc. "Phải chăm lo việc nước như việc

nhà", "phải biết tự mình lo toan gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ"; "làm chủ sao

cho ra làm chủ, không phải làm chủ là muốn ăn bao nhiêu thì ăn, làm bao nhiêu thì làm".

Theo Hồ Chí Minh, thiết thực nhất của việc bồi dưỡng "cái gốc" là phải thường xuyên

chăm lo đời sống cho dân, chăm lo lợi ích chính đáng của dân. Người thường nhắc tới

những câu của người xưa "có thực với vực được đạo", "dân dĩ thực vi thiên". Người nhắc

nhở cán bộ, đảng viên: "Đối với nhân dân không thể lý luận suông". Chính sách của Đảng

và Chính phủ là phải hết sức chăm lo đời sống của dân: "Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ

có lỗi. Nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi.

Nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi".

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm dân là gốc là quan điểm khoa học, toàn diện. Đó

là sự kế thừa những tinh hoa dân tộc, là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa

Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Từ thực tiễn cuộc sống, Hồ Chí Minh

lưu ý: "Bất kỳ nơi nào có quần chúng, thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái,

hạng vừa vừa và hạng kém... Người lãnh đạo phải dùng hạng hăng hái làm trung kiên cho

sự lãnh đạo, do hạng hăng hái đó mà nâng cao hạng vừa vừa và kéo hạng kém lên. Phải

học hỏi dân chúng, nhưng "không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo"; phải

"tìm ra mâu thuẫn trong những ý kiến khác nhau, xem cái nào đúng, cái nào sai" để vận

dụng.

Một sự kiện được nhiều người nhắc tới là tháng 10/1949 khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn quyết liệt, Chủ

tịch Hồ Chí Minh viết bài báo Dân vận. Người diễn đạt rất khái quát: "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân

Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng

chiến kiến quốc là công việc của dân. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều

ở nơi dân. Quan điểm của Người thật rõ ràng: Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì

dân.

Điều mà cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh nung nấu trăn trở là vấn đề thực hiện dân chủ

với dân; làm thế nào để nhân dân "biết dùng quyền dân chủ" và "hưởng quyền dân chủ".

Ngày 6/1/1946, chỉ bốn tháng sau khi khai sinh nền Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ lâm

thời do Người đứng đầu đã tổ chức cuộc tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bình đẳng lần

đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Tháng 11/1946, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 2 đã thông

qua bản Hiến pháp do Người chỉ đạo soạn thảo. Nhà nước dân chủ, pháp quyền từ ý

tưởng của Người đã dần dần trở thành hiện thực trên đất nước Việt Nam. Quan điểm của

Người trong những sự kiện lịch sử này rất mẫu mực, rõ ràng: "Tổng tuyển cử là một dịp

cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc

nước nhà", "Hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công

dân thì đều có quyền đi bầu cử".

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước của dân còn bao hàm việc dân có quyền bãi miễn Chính phủ và nhân viên chính quyền Nhà

nước các cấp, nếu họ có tư tưởng hoặc việc làm có hại đến nhà nước, hại đến dân.

Nhà nước Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập là Nhà nước kiểu mới: Nhà nước

của dân. Sức mạnh và sự trường tồn của nhà nước bắt nguồn từ lực lượng toàn dân đoàn

kết, với tinh thần làm chủ - tự chủ. Bởi thế nhà nước ta còn là nhà nước do dân. Bác viết:

"Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân", "Không có lực

lượng nhân dân thì việc nhỏ mấy, dễ mấy làm cũng không xong"; "Vậy nên Chính phủ

với nhân dân phải đoàn kết thành một khối".

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, [Nhà nước của dân, do dân phải được thể hiện ở các chủ trương, chính sách của nhà nước trong mọi

mặt đời sống xã hội là vì dân. Ngay sau khi nước nhà dành được độc lập, Người nói rõ: "... nếu nước độc lập mà dân không hưởng

hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì".

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân đã và sẽ mãi mãi là người làm nên lịch sử. Thực hiện tốt Di huấn của

Bác về lấy dân làm gốc, chắc chắn bộ máy Nhà nước ta sẽ "chạy" đều, hiệu quả quản lý điều hành chắc chắn có hiệu lực cao. Đó là

việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn./.

Lấy dân làm gốc để xây dựng Đảng vững mạnh

Là một xã thuần nông của huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế, do vậy vấn đề

chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cải tạo, quy hoạch vườn tạp..., để phát triển kinh

tế luôn được lãnh đạo nơi đây trăn trở. Năm 2003, Phú Sơn đã đưa 92,85% diện tích

gieo cấy giống lúa cấp 1 vào đồng ruộng; trồng 34,5 ha sắn kết hợp với 6,5 ha lạc; lập

20,5 ha vườn trồng xoài, nhãn...

Bên cạnh đó, với kế hoạch chuyển diện tích đất nông nghiệp kém hiệu quả sang đào ao thả cá, toàn xã hiện có 15 hồ nuôi với diện

tích 1,2 ha, giúp bà con cải thiện bữa ăn, gia đình có thêm nguồn thu.

Đời sống của nhân dân Phú Sơn đang ngày được cải thiện rõ rệt. Tính đến đầu năm 2004, toàn xã đã không còn hộ đói, hộ nghèo

giảm từ 41% (2002) còn 31,5 %; 80% hộ có nhà kiên cố và bán kiên cố; 95,55% hộ có điện thắp sáng; Công tác giáo dục được quan

tâm và đang từng bước được nâng lên ở cả chất lượng đào tạo và điều kiện trường lớp, trang thiết bị dạy học. Tình hình trật tự trị an

trên địa bàn xã cũng được giữ vững, ổn định...

Từ một xã nghèo, lãnh đạo xã Phú Sơn đã biết khơi dậy và phát huy sức mạnh tinh thần đoàn kết của người dân để cùng xây dựng

quê hương ngày một vững mạnh. Trong những năm qua, chi bộ Đảng Phú Sơn đã rất chú trọng và nỗ lực trong công tác xây dựng

Đảng, coi công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh là động lực quan trọng nhất để phát triển xã nhà trên mọi lĩnh vực.

Chi bộ Phú Sơn một mặt đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để các đảng viên không ngừng

học tập, bồi dưỡng thêm trình độ lý luận chính trị, làm tốt công tác tư tưởng; mặt khác

yêu cầu thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo niềm tin trong lòng dân. Hiện

tại, trong chi bộ có 5 đồng chí đang theo học lớp quản lý nông nghiệp, kế toán (hệ đại

học). Trong công tác phát triển đảng viên, năm qua, có 9 quần chúng ưu tú được xã gởi đi

bồi dưỡng chính trị và trong số đó đã kết nạp được 3 đồng chí vào hàng ngũ của Đảng,

xóa được tình trạng thôn ''trắng''về đảng viên.

''Chúng tôi lấy dân làm gốc để xây dựng Đảng vững mạnh" là khẳng định của đồng chí

Phan Viết Giáo - Bí thư chi bộ xã Phú Sơn. Thực hiện đúng nội dung Quy chế dân chủ tại

cơ sở; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất cả những vấn đề liên quan trực tiếp đến

quyền lợi của người dân đều được chi bộ công khai trước dân, từ mức đóng góp cho

cácnguồn quỹ AN-QP, quỹ đền đáp, góp công của cho các công trình xây dựng cơ

bản...đến việc phân cấp đất đai cho các hộ gia đình... Ngay cả trong quá trình phát triển

đảng viên, chi bộ phải thông qua ý kiến ủng hộ quần chúng ưu tú của đa số nhân dân sở

tại.

Để hiểu được những tâm tư, nguyện vọng của bà con, chi bộ xã Phú Sơn đã thành lập Ban

Dân vận với thành viên là những đảng viên ưu tú. Định kỳ, Ban Dân vận có những buổi

tham gia sinh hoạt trực tiếp với dân, để vừa phổ biến nội dung những chủ trương, chính

sách của Đảng đến bà con, vừa lắng nghe sự phản ánh từ phía nhân dân, kịp thời sửa đổi

những bất cập trong chỉ đạo, chấn chỉnh tư cách những đảng viên chưa gương mẫu...Nhờ

vậy, những chương trình hành động của Phú Sơn trong mọi lĩnh vực đều thống nhất với

tinh thần tự nguyện của bà con rất cao. Trong một tương lai không xa, trên nền tảng đoàn

kết của toàn Đảng, toàn dân, Phú Sơn sẽ thoát khỏi sự nghèo khó, tiến lên lớn mạnh mọi

mặt.

Phát huy truyền thống "Lấy dân làm gốc" trong xây dựng, củng cố nền quốc phòng

toàn dân hiện nay

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, "Lấy dân làm gốc" là truyền

thống văn hoá chính trị của các nhà lãnh đạo, cầm quyền một lòng vì dân, vì nước. Nó

thể hiện nhất quán tư tưởng : dân là nước, còn dân thì còn nước. Đất nước có tạm

thời bị giặc ngoại xâm chiếm đóng, nhưng làng không mất, dân không mất (mất nước,

không mất làng) thì nhân dân sẽ đứng lên đấu tranh, đất nước nhất định sẽ được khôi

phục trong độc lập, tự do.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với quan điểm lấy dân làm gốc

15:49' 11/02/2007 (GMT+7)

Phải học hỏi dân chúng, nhưng "không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo"; phải "tìm ra mâu thuẫn trong những ý kiến

khác nhau, xem cái nào đúng, cái nào sai" để vận dụng.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Nước lấy dân làm gốc; Gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân.

Người rất tâm đắc với câu nói dân gian: "Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong".

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện trước hết của dân là gốc là phải tin ở dân, gần gũi dân, và biết dựa vào dân; Phải có ý thức rõ

"dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng". Muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn biến đường lối chủ trương của Đảng thành

phong trào quần chúng, thành sức mạnh cách mạng thì Đảng phải có đường lối đúng đắn; cán bộ đảng viên "phải liên lạc mật thiết với

dân chúng, xa rời dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại". Cán bộ đảng viên còn phải học hỏi dân, "nếu không học hỏi dân

thì không lãnh đạo được dân", mà "muốn hiểu biết, học hỏi dân thì ắt phải có nhiệt thành, có quyết tâm".

Theo Hồ Chí Minh phải thực hiện dân chủ với dân để phát huy tinh thần làm chủ của dân là cốt lõi của vấn đề dân là gốc. Người

thường nói: "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân làm chủ". Vậy quyền hạn, nghĩa vụ của người làm chủ phải thế nào? Câu trả

lời của Người là: "Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi". Và người yêu cầu: người làm chủ trước

hết phải làm tròn bổn phận công dân, tức là phải tuân theo pháp luật Nhà nước; tuân theo kỷ luật lao động; giữ gìn trật tự chung; nộp

thuế đúng kỳ, bảo vệ tài sản công cộng; bảo vệ Tổ Quốc. "Phải chăm lo việc nước như việc nhà", "phải biết tự mình lo toan gánh vác,

không ỷ lại, không ngồi chờ"; "làm chủ sao cho ra làm chủ, không phải làm chủ là muốn ăn bao nhiêu thì ăn, làm bao nhiêu thì làm".

Theo Hồ Chí Minh, thiết thực nhất của việc bồi dưỡng "cái gốc" là phải thường xuyên chăm lo đời sống cho dân, chăm lo lợi ích chính

đáng của dân. Người thường nhắc tới những câu của người xưa "có thực với vực được đạo", "dân dĩ thực vi thiên". Người nhắc nhở

cán bộ, đảng viên: "Đối với nhân dân không thể lý luận suông". Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm lo đời sống

của dân: "Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi.

Nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi".

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm dân là gốc là quan điểm khoa học, toàn diện. Đó là sự kế thừa những tinh hoa dân tộc, là sự

vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Từ thực tiễn cuộc sống, Hồ Chí Minh lưu

ý: "Bất kỳ nơi nào có quần chúng, thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng vừa vừa và hạng kém... Người lãnh đạo phải

dùng hạng hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo, do hạng hăng hái đó mà nâng cao hạng vừa vừa và kéo hạng kém lên. Phải học

hỏi dân chúng, nhưng "không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo"; phải "tìm ra mâu thuẫn trong những ý kiến khác nhau,

xem cái nào đúng, cái nào sai" để vận dụng.

Một sự kiện được nhiều người nhắc tới là tháng 10/1949 khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn quyết liệt, Chủ

tịch Hồ Chí Minh viết bài báo Dân vận. Người diễn đạt rất khái quát: "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng

chiến kiến quốc là công việc của dân. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều

ở nơi dân. Quan điểm của Người thật rõ ràng: Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Điều mà cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh nung nấu trăn trở là vấn đề thực hiện dân chủ với dân; làm thế nào để nhân dân "biết dùng

quyền dân chủ" và "hưởng quyền dân chủ". Ngày 6/1/1946, chỉ bốn tháng sau khi khai sinh nền Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ lâm thời

do Người đứng đầu đã tổ chức cuộc tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bình đẳng lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Tháng

11/1946, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 2 đã thông qua bản Hiến pháp do Người chỉ đạo soạn thảo. Nhà nước dân chủ, pháp quyền từ

ý tưởng của Người đã dần dần trở thành hiện thực trên đất nước Việt Nam. Quan điểm của Người trong những sự kiện lịch sử này

rất mẫu mực, rõ ràng: "Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công

việc nước nhà", "Hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử".

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước của dân còn bao hàm việc dân có quyền bãi miễn Chính phủ và nhân viên chính quyền Nhà

nước các cấp, nếu họ có tư tưởng hoặc việc làm có hại đến nhà nước, hại đến dân.

Nhà nước Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập là Nhà nước kiểu mới: Nhà nước của dân. Sức mạnh và sự trường tồn của

nhà nước bắt nguồn từ lực lượng toàn dân đoàn kết, với tinh thần làm chủ - tự chủ. Bởi thế nhà nước ta còn là nhà nước do dân. Bác

viết: "Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân", "Không có lực lượng nhân dân thì việc nhỏ mấy, dễ mấy

làm cũng không xong"; "Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối".

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do dân phải được thể hiện ở các chủ trương, chính sách của nhà nước trong mọi mặt

đời sống xã hội là vì dân. Ngay sau khi nước nhà dành được độc lập, Người nói rõ: "... nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh

phúc thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì".

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân đã và sẽ mãi mãi là người làm nên lịch sử. Thực hiện tốt Di huấn của

Bác về lấy dân làm gốc, chắc chắn bộ máy Nhà nước ta sẽ "chạy" đều, hiệu quả quản lý điều hành chắc chắn có hiệu lực cao. Đó là

việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.

Có thể hiểu câu "lấy dân làm gốc" như vầy

Nó là câu "dĩ dân vi bản" nên có thể hiểu là dân là yếu tố cơ bản của một nước, mọi thứ quyền lực, mọi của cải, mọi hoạt động và các

mối quan hệ xã hội đề xuất phải từ người dân. Nó để đối lập với câu "dĩ quân vi bản" lấy vua làm gốc, vua là con trời, có quyền sinh

quyền sát đối với dân và coi dân là cỏ (thảo dân) (một tư tưởng cực đoan). (có thể liên tưởng đến một cái cây vậy, rễ nuôi cái cây, rễ

sinh ra từ gốc, có gốc cây mới có thân cây, để có cành, có hoa, có lá, có quả và tóm lại là có một cái cây hoàn chỉnh).

Ý của câu này còn ở tầng nghĩa nữa đó là phải chú trọng khoan sức dân, bao nhiêu quyền lợi phải cho nhân dân, trong bất cứ hoạt

động nào của chính quyền đều phải lấy lợi ích của nhân dân làm trọng. Chính quyền sinh ra để phục vụ dân.

Nếu cái gì mà hiểu một cách thái quá thì đều dẫn đến cực đoan mà đánh mất đi ý nghĩa của nó. Cần phải hiểu "dân" là gì? Dân, là mỗi

người, là nhóm người, là cộng đồng người, là một dân tộc, là một nhóm dân tộc và toàn bộ dân tộc của một đất nước.... Nếu đặt vào

một hoàn cảnh cụ thể thì dân sẽ được hiểu đúng nhất. "Dân" trong chiến tranh thì được hiểu là toàn bộ dân tộc của một đất nước.

"Dân" trong thời bình thì đó là lợi ích của đa số người dân, của đa số dân tộc. Dân trong khi xây dựng một chính sách thì là người thụ

hưởng hoặc chịu sự tác động của chính sách đó.

Như đã nói ở trên, để tránh cực đoan, thì hiểu câu này không phải dừng lại ở chỗ dân có quyền quyết định hết tất thảy (cũng giống

như tự do, nếu không có sự hạn chế tự do thì không thể có tự do thực sự). Chính vì vậy mà dân cử ra những người ưu tú nhất đại diện

cho mình để quyết những vấn đề mang tính vĩ mô và lâu dài (có tính chiến lược). Quyết định của họ là quyết định của người dân vậy.

Còn về lợi ích cho dân (lớp thứ hai của nghĩa) thì phải phân biệt lợi ích nào là cơ bản, và lâu dài để quyết định, không phải cái lợi nào

cũng dành lấy rồi mất đi cái lợi chiến lược. Dân ta còn có dân người, không phải cái lợi nào cũng dành lấy mà không để ý tới người

khác. Những lúc như vậy thì không thể đem câu "lấy dân làm gốc" ra để thế này thế nọ. Cần phải có cái nhìn đại cục để có thể hiểu

được câu "lấy dân làm gốc"

Còn vận dụng được nó thì rõ ràng là khó vì ngay cả khi hiểu còn chưa thống nhất thì sao thực hiện cho đủ được. Nhưng đại để nó phải

thế này:

- Phát huy dân chủ (cái này cũng không được hiểu một cách cực đoan)

- Xây dựng chính quyền phải xa lạ với khái niệm quan liêu; và gần gũi với khái niệm nhà nước phục vụ nhân dân

- Lấy con người làm mục tiêu và cũng là động lực của sự phát triển (và khi làm bất cứ cái gì cũng phải nghĩ đến tác động của nó đối

với từng người dân)

- Nhận biết được các lợi ích và thứ tự ưu tiên của chúng để bảo đảm lợi ích cao nhất của dân tộc.

Trong truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, cha ông ta đều lấy dân làm gốc. Trần Hưng Đạo đã nói: ''Thời bình phải

khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước". Bác đã từng dạy: "Dân bao giờ cũng là gốc của n­ước.

Vì nước bao giờ cũng là của mọi người dân. Còn cách mạng thì như­ con thuyển mà dân trao cho Đảng làm ng­ười cầm lái. Con

thuyền cách mạng đi tới đích thắng lợi là nhờ sức dân. Chính những ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến của dân là nguồn gốc hình thành

đ­ường lối cách mạng, đ­ường lối đổi mới của Đảng. Cũng chính phong trào cách mạng của dân là yếu tố quan trọng nhất biến

đ­ường lối đó thành hiện thực, tạo ra những thành tựu to lớn". Chính vì vậy mà gần dân, nghe dân vẫn luôn là bài học vô giá và phải

đư­ợc coi là nguyên tắc hoạt động của mỗi cán bộ, đảng viên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quan niệm sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử và mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng

nhân dân. Người không chỉ khẳng định dân là gốc của nước, mà còn tôn vinh nhân dân: ''Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân

dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đòan kết của nhân dân''. Người còn nói, nhân dân là người xây dựng, là người

đổi mới, làm nên sự nghiệp lớn, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nhân dân.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ CNXH đã ghi: "Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Chính người dân là người làm nên thắng lợị lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng

của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn

thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước".

Với ý nghĩa đó chúng ta phải vận dụng đầy dủ nội dung "lấy dân làm gốc" vào thực tiễn cuộc sống: chống quan liêu xa rời nhân dân,

ích kỷ vun vén cá nhân, thơ ơ lãnh cảm với niềm đau nỗi buồn của mọi người, sông xa hoa, trụy lạc bàng cách vơ vét tiền của cua

dân,,,,,

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro