Triethoc_1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 1: quan điểm của triết học Mác-Lênin về vật chất và ý nghĩa phương pháp luận của nó.

a/ vật chất

* Quan điểm trước Mác về vật chất:

- Thời kì cổ đại:

Các nhà triết học duy vật thời kỳ cổ đại đã xuất phát từ bản thân thế giới để giải thích về nguồn gốc phát sinh và phát triển của thế giới. Tuy nhiên nó mang theo một khuynh hướng đó là đồng nhất vật chất với vật thể cụ thể, nó mang tính trực quan, cảm tính:

+ Phương Đông:

• ở trung hoa thời kỳ cổ đại, các nhà duy vật xem khí là thực thể của thế giới

• ở Ấn Độ thời cổ đại, phái Nyaya-Vaisêsica coi nguyên tử là thực thể của thế giới

• ở Hy Lạp cổ đại, Talét coi thực thể thế giới là nước. Anaximen coi thực thể ấy là khí. Hêraclit coi thực thể ấy là lửa...

 đỉnh cao của tư tưởng duy vật cổ đại về vật chất là thuyết nguyên tử của Đêmôcrít. Ông cho rằng nguyên tử là các phần tử cực nhỏ, cứng, không thể xâm nhập được và không cảm giác được. nguyên tử có thể nhậnbiết được bằng tư duy. Khi giải thích về sự đa dạng của thế giới vật chất, ông cho rằng do số lượng, trật tự, tư thế của nguyên tử khi kết hợp, nguyên tử đồng nhất lượng nhưng chỉ khác nhau về hình thức, tuy nhiên nó chỉ mang tính phỏng đoán giả định và không vượt qua được hạnchế đương thời là đồng nhất vật chất với vật thể cụ thể cố định.

- Thời kỳ Cận đại (thế kỷ 17-18):

Mặc dù có những bước phát triển và xuất hiện những tư tưởng biện chứng trong quan niệm về vật chất song những quan điểm của các nhà triết học duy vật thời kỳ này về cơ bản là khuynh hướng đồng nhất vật chất với nguyên tử hoặc với khối lượng, nó chịu ảnh hưởng mạnh bởi quan niệm của Niutơn. Do đó những quan niệm về vật chất ở thời kỳ này mang nặng tính siêu hình máy móc.

Tiêu biểu là các nhà triết học Xpinôza và Hônbách. Họ cho rằng những cái gì có khôi lượng thì là vật chất.

- Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khoa học tự nhiên phát triển mà chủ yếu là vật lý học đã có hàng loạt các phát minh quan trọng đem lại cho con người những liên kết mới về cấu trúc và tính chất của vật chất, nó làm thay đổi căn bản những quan niệm trước đó về vật chất.

+1895: Rơnghen phát minh ra tia X

+1896: Becơren phát hiện ra hiệntượng phóng xạ.

+1897: Tomơn phát hiện ra điện tử.

+1901: Kanfman phát hiện ra sự thay đổi khối lượng điện tử khi vận tốc của nó tăng.

Nhận xét: các quan điểm trước Mác về vật chất đều có hạn chế do thời đại hiểu biết không đầy đủ, không vững vàng trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng.

 Tóm lại tất cả những thành tựu của khoa học tự nhiên đã phủ nhận tất cả các quan điểm trước đó về vật chất, đồng thời Chủ nghĩa duy tâm đã sử dụng chính những thành tựu đó để biện hộ cho những quan niệm sai lầm của mình, chống lại Chủ nghĩa duy vật nói chung và Chủ nghĩa duy vật biện chứng nói chung. Vật lý học lúc đó đang trải qua bước "khủng hoảng". Họ đưa ra kết luận là vật chất tự tiêu tan, chỉ có các con số và các phép tính toán học mới trở nên thực sự có ý nghĩa. Đây là quan niệm của các nhà vật lý học duy tâm.

- Chính trong hoàn cảnh như vậy, Lênin đã khái quát thành tựu của khoa học tự nhiên và chỉ rõ rằng vật chất không bị tiêu tan, chủ nghĩa duy vật không bị bác bỏ. Cái bị tiêu tan, bị bác bỏ chính là giới hạn hiểu biết trước đây về vật chất, là quan điểm siêu hình-máy móc trong nhận thức khoa học cho rằng giới tự nhiên là có tận cùng về cấu trúc, rằng giới hạn cuối cùng, bất biến của tự nhiên là nguyên tử hoặc khối lượng...

*Quan điểm của Lênin và chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất:

-Lênin đã định nghĩa phạm trù vật chất như sau:

"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".

Khi định nghĩa về pham trù vật chất, Lênin đã sử dụng một phương pháp đặc biệt khác với với đinh nghĩa thông thường, đó là đem đối lập phạm trù vật chất và phạm trù ý thức.

+ Định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản như sau:

• vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.

• vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động nên giác quan của con người.

• cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.

+ Với định nghĩa này, Lênin phân biệt hai vấn để quan trọng:

Trước hết là cần phân biệt vật chất với tư các là phạm trù triết học với quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng các dạng vật chất khác nhau. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học nó chỉ vật chất nói chúng, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi, còn các đối tượng, các dạng vât chất khoa học cụ thể nghiên cứu đếu có giới hạn, nó sinh ra và mất đi để chuyển hóa thành cái khác. Vì vậy không thể đồng nhất vật chất nói chung với các dạng cụ thể của vật chất như các nhà duy vật trong lịch sử đã làm.

Thứ hai là trong nhận thức luận, khi vật chất đối lập với ý thức, cái quan trọng để nhận biết vật chất chính là thuộc tính khách quan. Khách quan theo Lênin là "cái tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của con người". Trong đời sống xã hội, "vật chất là cái tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người". Về mặt nhận thức luận thì quan niệm vật chất không có nghĩa gì khác hơn: "thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh".

* Ý nghĩa của định nghĩa

• Giải quyết triệt để hai mặt trong vấn đề cơ bản của triết học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Khi khẳng đinh vật chất là "thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác", Lênin đã thừa nhận rằng, trong nhận thức luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức. Và khi khẳng định vật chất là cái "được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh", Lênin muốn nhấn mạnh rằng bằng những phương thức nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh...) con người có thể nhận thức được thế giới vật chất.

• Định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, khắc phục hạn chế, sai lầm của CNDV trước Mác về phạm trù vật chất, bác bỏ, phủ nhận quan điểm của CNDT và tôn giáo về vấn đề này.

• Định nghĩa vật chất vủa Lênin còn có ý nghĩa đính hướng đối với khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của vật thể trong thế giới.

• Khi nhận thức được các hiện tượng thuộc đới sống xã hội, định nghĩa vật chất của Lênin đã cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội. từ đó giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân thuộc về sự vận động cua phương thức sản xuất, trên cơ sở ấy, người ta có thể tìm ra các phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.

b/ Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm:

- Vật chất là cái có trước, vật chất quyết định ý thức. Ý thức có sự tác động trở lại của vật chất. Mối quan hệ vật chất, ý thức là mối quan hệ biện chứng không thể tách rời nhau. Ý thức, tinh thần tuy là cái thứ hai, có sau, do vật chất quy định nhưng nó có tính năng động sáng tạo và tác động trở lại hiện thực khách quan, do đó cần phát huy vai trò năng động của ý thức.

- Đảng CSVN đã tiếp thu và vận dụng nguyên lý của CNDVBC thể hiện ở việc chỉ ra quan điểm như sau: "phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trong và hoạt động theo quy luật khách quan". Đây chính là một bài học lớn được rút ra từ thực tiễn Cách mạng nước ta.

Từ năm 1981, 1982 đến đại hội VI (vào cuối năm 1986) là quá trình chuẩn bị tiền đề lý luận và thực tiễn cho đường lối đổi mới. Đó là quá trình đấu tranh, cọ xát quan điểm giữa cũ và mới rất gay go, phức tạp giữa các cơ quan nhà nước, trong cả nội bộ Đảng. Phải thấy rằng ở thời điểm đó, đổi mới là đòi hỏi bức thiết của tự thân trong nước, có ý nghĩa sống còn, đồng thời cũng là xu thế của thời đại.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học và đánh giá cao quá trình dân chủ hóa sinh hoạt chính trị của Đảng và nhân dân ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đhội.

Đại hội đã đánh giá những thành tựu, những khó khăn của đất nước do cuộc khủng hoảng kinh tế-XH tạo ra, những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó, đặc biệt là sai lầm về kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về hành động đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, XH, ko chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, nguyên tắc của Đảng. đó là tư tưởng vừa tả khuynh vừa hữu khuynh. Bốn bài học kinh nghiệm lớn đã được tổng kết:

- Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đ phải luôn quan triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc".

- Hai là, Đ phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo QLKQ.

- Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tốc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.

- Bốn là, chăm lo xd Đ ngang tầm với một Đ cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc CMXHCN.

Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực hiện của Đ, Đại hội đã nêu rõ Đ phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phog cách lãnh đạo và công tác, "đổi mới phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế, từ đổi mới cơ chế quản lý - tức là từ quan hệ sản xuất" (Lời của Đồng chí TRường Chinh)

 Đảng ta đã tiếp thu và vận dụng lý luận M-L vào thực tiễn nước ta, chủ trương thực hiện đổi mới phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta, khắc phục sai lầm khuyết điểm, đổi mới tư duy. Là người nắm vững tư duy lý luận, cố TBT Trường Chinh hiểu rằng chính tư duy lạc hậu của chúng ta đã cản trở phát triển kinh tế, khiến đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Vậy thì muốn phát triển kinh tế ta phải đổi mới tư duy lạc hậu, bảo thủ, đổi mới "nhận thức và cách suy nghĩ"."Hãy cứu lấy giai cấp công nhân", câu nói của cố TBT Trường Chinh trong Hội nghị trung ương VIII (khóa V) đã rất nổi tiếng trong thời gian đó.

Với hơn hai mươi năm đổi mới, đất nước ta đã có nhiều khởi sắc, phát triển hơn về nhiều mặt với các thành tựu lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, an ninh quốc phòng...Điều đó chứng tỏ chủ trương đổi mới của Đ ta là hoàn toàn đúng đắn. Đổi mới bắt đầu từ tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế để YT tác động trở lại VC, mở đường cho kinh tế và mọi mặt đời sống phát triển.

- Vận dụng và liên hệ vào thực tiễn của Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Xuất phát điểm từ hiện thực khách quan của đất nước, nền kinh tế lạc hậu, thấp kém, hết viện trợ từ sau năm 1975, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận định phải tự tìm ra con đường phát triển của riêng mình, muốn thoát khỏi đói nghèo, chúng ta phải tiến hành đổi mới, đổi mới tư duy kinh tế trước sau đó đổi mới tư duy chính trị.

- Trong hai cuộc kháng chiến, không phải chờ đến khi vật chất đầy đủ, Đảng và nhân dân ta đã chủ động tiến hành kháng chiến với lòng dũng cảm và ý chí quyết tâm, tuy thiếu thốn nhưng chúng ta vẫn tận dụng thời cơ, phát huy điểm mạnh, chiến đấu anh dũng và giành chiến thắng vẻ vang.

- Đối với bản thân mỗi sinh viên chúng ta, muốn học tốt trước hết cần phải cần có điều kiện vật chất ( cuộc sống sinh hoạt, sách vở, dụng cụ học tập...). Sau đó cần phải có ý thức muốn học hỏi. Nếu điểu kiện vật chất mà không có, cho dù có ý thức tốt cũng không thể có điều kiện học hành tốt, ngược lại nếu có điều kiện vật chất tốt mà ý thức không tốt thì cũng không thể thành công.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#education