truen ma

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trâu Tự Tử

Font Size: Tác Giả: ATOANMT

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Tôi có 1 "Sư-Ðệ" sau 75 nổi danh ở Hóc Môn chuyên trị bịnh tên là Thầy Sáu Nhỏ (tên vậy, chứ hắn rất cao lớn người và có giọng nói rổn rảng dữ tợn lắm) Cha của hắn làm Phó Bí-Thư Huyện Ủy (Mình nhớ không rõ lắm, nhưng có chức vụ khá cao trong Huyện) thấy thằng con làm bùa phép, bị Công An kiểm điểm, nói này nói nọ nên ông ta bực lắm thường rầy la Chú Sáu Nhỏ. Nên Chú Sáu Nhỏ cứ phải đi tri bịnh cho dân mà lén lút hoàị

Một hôm, Sáu Nhỏ lên Thầy tôi, hắn kể: Mẹ của hắn bịnh nặng, vì là Cán Bộ VC nên đã được đưa vào bịnh viện đặc biệt dành cho cán bộ (Bịnh Viện VìĐân cũ) nhưng các Bác Sĩ chịu thua, cho về, bây giờ Mẹ của hắn nằm chờ chết. Sáu Nhỏ tức quá vì hắn làm Thầy, chuyên trị đủ mọi chứng bịnh, nay chính Mẹ mình bịnh thì lại không biết bịnh gì và trị không được, Thầy tôi nói là không sao, cứ về lại Hóc Môn hỏi mấy ông "Lái Bò, Lái Trâu" thì rõ. Sáu Nhỏ về, tìm hỏi thì được biết con "Trâu Cổ" (Trâu Cổ là Trâu trẻ, lớn con, khoẻ mạnh) mà Ba của Sáu Nhỏ mới mua mấy tháng trước, có mấy cái "soáy" đặc biệt , - là con "Trâu-Sát-Chủ". Trong khi Ba của Sáu Nhỏ thì rất thích con trâu này, ông ta thường khen nó quá khôn, và có sức, nên hễ mỗi khi cày, muốn "Thá, Ví" trái phải gì, thì con trâu Cổ này đều kéo con đi cặp với nó quẹo đúng ngaỵ (Nếu Trâu ngu và yếu sức, sẽ kéo đường cày đi tầm bậy và làm mất thời giờ cũng như làm người nông dân rất vất vả) Vì vậy khi Ba của Sáu Nhỏ nghe thằng con "Mê Tín Dị Ðoan" của mình nói là Má của nó bị bịnh vì con Trâu cưng của Ông ta là Trâu Sát Chủ !!!, thì Ông Phó Bí Thư Huyện Uỷ Hóc-Môn không chịu được nữa, bèn...vác hèo đập cho Sáu Nhỏ 1 trận, rượt Sáu Nhỏ chạy mất tiêu!.

Ngày hôm sau, buổi chiều khi con trâu được dẫn đi ăn về, đến trước của nhà, nó bỗng rống lên rất lớn, nghe rất khủng khiếp, đến nỗi mọi người nói là trâu điên và chạy lánh xạ Lúc đó, con Trâu phóng đôi sừng của nó vào hàng rào, rồi tự...bẻ cổ !, té cái bịch xuống đất, nhưng không sao !, và con trâu lại rống lên ầm ỉ nữạ Mọi người đều đứng xa nhìn chứ không ai dám lại gần. Sau cùng con trâu bèn đi đảo quanh hàng rào, tìm chỗ có khe chắc chắn, đút cặp sừng vô, rồi tự bẻ cổ cái rắc 1 cái, lăn ra giãy giãy chết luôn. Tận mắt chứng kiến chuyện con Trâu... tự tử như vậy, Ông Phó Bí Thư chắc cũng sợ và ngạc nhiên, ông ta bèn khẽ hỏi thằng con trai út: "Mày thấy Anh Sáu mày ðâu không? Nó có làm bùa phép gì cho con trâu không vậỷ" -"Dạ con hổng biết, chớ hồi sáng sớm có người đem xe lại rước anh Sáu đi Lái Thiêu trị bịnh rồi, mà trước khi đi, ảnh nói con lấy 1 miếng vôi ăn trầu của Má đưa cho ảnh, ảnh quẹt vôi, vẽ cái gì lên trán con trâu rồi ảnh mới đị" Nghe vậy, Ông Phó Bí Thư bèn kêu lái chiếc xe Jeep, đưa ông ta đến ngay nhà Thầy tôị Khi được hỏi, Thầy tôi trả lời là Thầy tôi không có dạy phép nào giết Trâu, giết người cho Sáu Nhỏ cả. Nếu cần, để Thầy tôi "gọi" Sáu Nhỏ đến để kiểm chứng. Ông Phó Bí Thư nói là thằng con đi Lái Thiêu, biết chỗ nào mà cho người kêu về! Thầy tôi bèn thắp 3 cây nhang, rồi nói: "Ông cứ chờ ở đây đi, khoảng hơn 1 tiếng nữa nó sẽ về tới". Và đúng như vậy... Sáu Nhỏ hết hồn khi thấy chiếc xe jeep của Cha mình đậu trước nhà Sư Phụ mình, hắn riu ríu bước vàọ Khi được hỏI, hắn đáp: "Dạ con nóng lòng muốn cứu mạng của Mẹ con, nên thà con mang tội sát sanh, cho nên con đã tới năn nỉ Sư Thúc dạy cho con phép..."Hoá-Ðộ" con trâu sát chủ đó!" -"Vậy nhà ngươi đi kêu chú Tư qua đây cho Thầy hỏi". "Tứ Sư Thúc" của tôi được mời đến, ông thản nhiên lý luận: (Sư Thúc gọi Tên Phó Bí Thư Huyện là Chú em) " Chú em à, chú hãy về Hóc Môn, hỏi ngay cái người Lái đã bán con Trâu đó cho chú đị Coi chủ trước của nó phải mới chết không? Cũng như liên tiếp 3 năm nay, mỗi năm 1 chủ bị chết... Sát nhứt Miêu, cứu vạn Thử mà, hơn nữa con trâu này đã tới số, nên khi thằng Sáu Nhỏ nó năn nỉ tôi cho phép nó làm cho con trâu chết, tôi có cho gì đâu ngoài chữ bùa vãng-sanh. Như vậy là hoá kiếp cho con trâu chớ có hại nó đâụ Chú em về Hóc Môn hỏi mà không đúng thì trở lên đây tôi đền tiền cho mua con trâu khác."

Kết quả Má của Sáu Nhỏ tự nhiên hết bịnh. Ba của Sáu Nhỏ làm lơ cho con làm Thầy trị bịnh. Bà vợ của Trưởng Công An Huyện và các "Bà Lớn VC" cũng đến để xin Thầy Sáu trị bịnh, cho nên không anh Công An nào dám thắc mắc cái "phòng mạch" của Sáu Nhỏ nữa...

Trâu tự tử !!! Chuyện lạ ghê phải không các bạn?

Kết Thúc (END) Người Trong Gương

Font Size: Tác Giả: Hoàng Ngọc Thư

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Nàng trở mình thức giấc. Tấm chăn bông trượt xuống một bên giường, để lộ cánh tay và một bên ngực nàng lạnh buốt. Nàng với tay kéo mền đắp lại, co ro cố tìm chút hơi ấm. Bên cạnh nàng, đứa con gái nhỏ ngủ ngon lành, đôi má ửng hồng bầu bĩnh trông thật đáng yêu. Nàng choàng tay ôm con, áp mặt vào cái thân thể bé xíu ấm áp và cảm thấy thương con vô hạn. Nàng thường cảm thấy hạnh phúc pha lẫn chút tội lỗi mỗi khi được gần gũi, trìu mến với con vì ít khi nào nàng có được nhiều thì giờ để vui chơi và âu yếm con như vậy. Luôn luôn công việc, học hành, và nhất là lúc này, khi chồng đi công tác xa, một mình nàng cáng đáng mọi việc và chăm sóc con đầy đủ đã chiếm hết thì giờ của nàng.

Nàng cố dỗ giấc ngủ nhưng bao nhiêu ý nghĩ trong đầu tiếp tục xoay tròn. Nàng nhớ đến những việc phải làm ngày mai, gấp có, thư thả có mà ngày thường chồng nàng đảm trách. Nàng nhớ chồng và ước sao thời gian qua mau. Một tháng công tác! Thoạt nghe thấy cũng không gì đáng ngại. Thế nhưng từ hôm anh đi, nàng thật sự cảm thấy bận rộn, mệt mỏi và cô đơn. Cô đơn? Thật ra nàng có phút nào được nghỉ ngơi để mà cô đơn đâu, ngoại trừ lúc lên giường sau một ngày mệt nhoài, hoặc lúc thức giấc nửa đêm như bây giờ nàng mới thật sự nhớ đến chồng, nhớ tha thiết và thèm hơi ấm của anh, thèm vòng tay vững vàng, ấm áp của chồng và những cái hôn thật âu yếm, dịu dàng. Nhất là cảm giác an tâm khi có chồng bên cạnh và biết rằng mọi việc đều được lo lắng đầy đủ. Nàng cảm thấy thật may mắn khi được chồng thương yêu trọn vẹn và dành hết thì giờ cho vợ con. Nàng cảm thấy thật hạnh phúc khi được bảo bọc trong tình thương yêu của chồng.

Mới có ba ngày mà nàng ngỡ như đã lâu lắm từ ngày anh đi. Càng cố dỗ giấc ngủ, nàng càng trằn trọc. Lại muốn đi tiểu, thật là phiền. Thôi, ráng ngủ đi vậy để mai còn đi làm, nàng tự nhủ, nhưng cuối cùng nàng đành phải chịu thua và dậy đi. Lười biếng bật đèn, nàng đi qua hành lang mờ tối, ánh sáng hắt ra từ trong phòng ngủ đủ soi sáng lối đi. Khi đi ngang tấm gương lớn về lại phòng ngủ, nàng lơ mơ có cảm giác mình cao lớn hơn ngày thường. 'Có lẽ là ảo giác của cơn buồn ngủ', nàng nhủ thầm và cuộn tròn trong chăn ấm rồi thiếp đi.

Những ngày tiếp theo trôi qua đều đặn, giống nhau, bận rộn và mỏi mệt. Anh vẫn gọi điện về hàng đêm thăm hai mẹ con và nàng cố kéo dài những giây phút ấy đến mức tối đa để xua đi nỗi cô đơn, nhung nhớ. Cuối tuần ấy, nàng quyết định phải đưa con đi chơi giải khuây và hai mẹ con đi sở thú, vào công viên, đi mua sắm, ăn nhà hàng và cuối cùng, mệt nhoài, nàng dắt con vào thư viện địa phương đọc sách thư giãn, thú vui cả gia đình nàng ưa chuộng. Trời chạng vạng tối, hai mẹ con còn nấn ná đến lúc thư viện đóng cửa mới chịu ra về. Trong lúc giúp con gái mặc áo choàng trước khi ra cửa, nàng chợt có cảm giác có ai đang nhìn mình. Ngước nhìn lên, đối diện tấm gương, nàng thấy một khuôn mặt đàn ông đang cười với mình thật thân thiện, và vô tình, nàng cũng mỉm cười lại. Vội vã quay đi, nàng ngạc nhiên nhìn quanh mình chẳng thấy có ai, có lẽ nào người ấy có thể biến đi nhanh đến vậy. Nàng nhìn dọc hành lang mờ tối và lối ra đàng sau mình, tuyệt nhiên chẳng có ai. Gió lạnh lùa vào lồng lộng từ khung cửa mở rộng ra đường phố. Nếu có ai đi ra có lẽ nàng phải thấy chứ? Cố xua đi cảm giác lạ lùng, nàng kéo tay con về và như mọi lần, con gái nàng ríu rít kể cho mẹ nghe những mẩu chuyện lý thú vừa đọc được chiều nay và nàng quên đi sự kiện thiếu logic vừa qua.

* Có lẽ nàng sẽ chẳng bao giờ nhớ lại buổi chiều hôm ấy nếu như nàng không vô tình gặp lại người đàn ông ấy lần nữa. Chiều hôm ấy trời lạnh buốt, mưa dầm dề cả ngày mà xe nàng hư đã hai ngày và nàng phải chen chúc ở trạm xe bus chờ xe về nhà. Đang rầu rĩ vì lại phải đón con muộn, nàng có cảm giác có ai nhìn mình. Xuyên qua tấm kính chắn mưa, nàng thấy có người mỉm cười với mình, một khuôn mặt quen quen mà nàng không nhận ra ngay là ai. Dưới ánh đèn đường nhập nhoạng trong cơn mưa, nàng cố vắt óc để nghĩ ra tên người ấy trong khi người đàn ông bắt chuyện với nàng một cách thân thiện.

"Thời tiết tệ thật đấy nhỉ," chàng nói.

"Vâng," nàng gật đầu, vẫn chưa nghĩ ra là ai.

Qua tấm kính chắn mưa, nàng thấy chàng nhìn mình với một nụ cười vừa thân thiện vừa như là giễu cợt. 'Có lẽ mình trông ũ rũ buồn cười lắm nhỉ ', nàng tự nhủ. Xe bus trờ tới, nàng vội vã lên xe, chàng lẫn vào đoàn người đi về tuyến khác. Nàng chợt nhớ ra khuôn mặt ấy nàng đã gặp hôm nào ở thư viện gần nhà. 'Có lẽ một người thường lui tới thư viện mà mình hay vô tình gặp', nàng nghĩ. Rồi những tính toán, lo nghĩ khác dồn đến, nàng quên đi người lạ-quen này và lên chương trình đặc biệt để đền bù cho con gái lại phải về trễ tối nay.

Nàng còn gặp lại người đàn ông ấy vài lần nữa, thường là ngắn ngủi vài câu trao đổi, khi thì ở quầy tính tiền ở quán nước tại khu phố gần nhà khi nàng sắp sửa ra về, khi thì ở tiệm cắt tóc và một số nơi khác. Hai người chỉ mỉm cười chào nhau, chưa bao giờ họ hỏi tên nhau nhưng nàng đã bắt đầu cảm thấy mến người đàn ông xa lạ này và cảm thấy vui sau mỗi lần gặp mặt.

* Cho đến một lần nàng vô tình gặp lại người đàn ông ấy trong nhà vệ sinh công cộng ở Hội chợ Xuân. Bối rối và ngượng ngùng, nàng chào anh và nhỏ nhẹ nhắc chàng đã vào nhầm toilet.

"Không, anh chỉ vào để gặp em, anh thấy em từ đàng xa và theo em vào đây." Nàng bàng hoàng, khuôn mặt ửng đỏ, sửng sốt trước lời thú nhận của người đàn ông xa lạ. Nói xong, chàng quay ngoắt đi và biến mất sau cánh cửa. Trong cơn bối rối, nàng không nhận ra rằng không hề có tiếng cửa ra vào mở ra hay đóng lại. Nàng choáng váng hoang mang trước sự xuất hiện và ra đi đột ngột của người đàn ông. Lẫn lộn trong mớ cảm giác kỳ lạ không thể phân tích được, nàng nhận ra có cái gì đó gần như là niềm vui, một sự hài lòng và hãnh diện rằng mình vẫn còn có sức hấp dẫn người khác phái. Nàng đã quên đi cái cảm giác rộn ràng này từ lâu lắm rồi, từ thời còn thiếu nữ và đám thanh niên cùng lứa theo đuổi và tỏ tình một cách đột ngột như vậy. Nàng chột dạ khi nghĩ đến chồng, tuy nhiên nàng tự nhủ nàng đã chẳng làm gì sai và cảm thấy yên tâm hơn. Đưa con gái về nhà, nàng còn miên man suy nghĩ không biết mình phải nên xử sự thế nào nếu gặp mặt người đàn ông ấy lần nữa.

Hai hôm sau, nhân lúc con gái nàng ngủ sớm sau một ngày du ngoạn ngoài trời với lớp, nàng tự thưởng cho mình một tối thư giãn bằng một chầu tắm spa nóng và đọc sách, một thú vui mà hoạ hoằn lắm nàng mới được hưởng từ ngày có con. Trong lúc chờ nước xả vào bồn tắm, nàng cởi đồ đứng ngắm mình trước tấm gương toàn thân.

'Mình gầy quá', nàng tự nhủ, 'gầy như là một con mèo đói'. Nàng tự hứa sau kỳ công tác của chồng, nàng sễ lấy phép vài tuần để thư giãn, tẩm bổ và có thể sẽ xin làm ít giờ lại. Chỉ cần vài đêm mất ngủ, thêm cái căng thẳng của một mớ công việc nàng phải làm từ ngày anh đi, đủ làm cho nàng thêm hốc hác. Nàng tự hứa từ nay phải đi ngủ sớm hơn và bớt lười ăn để trông khá hơn lúc anh về.

Đang miên man với dòng suy nghĩ, nàng chợt giật thót mình khi thấy một khuôn mặt với nụ cười thật tươi bên cạnh mình trong gương. Vội vã chụp lấy chiếc khăn tắm che thân, nàng quay ngoắt lại người đàn ông đang đứng bên cạnh mình. Nàng giận dữ lắp bắp, quên mất điều hiển nhiên vô lý rằng nàng không hề nghe tiếng mở cửa hoặc tiếng chân người đến gần.

"Anh.... Anh làm gì ở đây?" "Anh đang ngắm em như mọi khi." "Mọi khi?" Nàng kinh ngạc, quên đi giận dữ.

"Phải, mọi khi. Dĩ nhiên là em không biết rằng anh vẫn đi theo em hàng ngày, khắp mọi nơi. Em chỉ không nhìn thấy thôi." Nàng kinh ngạc đến tột bực.

"Sao có chuyện ấy được? Làm sao anh vào được đây?" Chàng mỉm cười:

"Có lẽ em không để ý đấy thôi, nhưng em chỉ thấy được anh khi em soi gương." Nàng nhanh chóng điểm lại những lần gặp chàng. Thư viện, quán nước, trạm xe bus, toilet công cộng..., phải, lần nào nàng cũng đứng trước một tấm gương và anh cũng thế. Nhưng vậy có nghĩa là thế nào, phải chăng anh không phải là người thường?

"Đúng vậy," anh mỉm cười, đọc được ý nghĩ của nàng. "Anh chết cách đây gần hai mươi năm và cũng theo em gần chừng ấy năm," anh nói một cách đơn giản.

Nàng vịn tay vào thành bồn tắm, từ từ ngồi xuống bệ đá cạnh bồn. Nước tắm tràn ra xung quanh, nàng vội tắt đi trong khi cố nhận định mẩu tin này. Nàng ngạc nhiên không thấy mình sợ hãi, chỉ kinh ngạc, bối rối và cảm động vì biết rằng anh đã theo mình chừng ấy năm. Nàng nhìn anh, cố tìm ra một nét gì đó không bình thường để tin điều anh nói là sự thật nhưng hoàn toàn không có gì cả.

"Anh không giống như những hồn ma người ta hay miêu tả phải không?" Anh giễu. "Người ta bảo những người chết một cách bình yên thường giữ lại được diện mạo lúc còn sống, có vậy anh mới dám theo em chứ!" Nàng bật cười, thấy dễ chịu với máu khôi hài của anh. Anh đưa mắt nhìn nàng âu yếm.

"Em tắm đi, kẻo nước nguội." Nàng bối rối thẹn thùng. Có cái gì đó gần như là thân mật giữa hai người nhưng sao nàng không cảm thấy khó chịu. Nàng lặng lẽ quay lưng bước vào bồn tắm và từ từ tháo khăn tắm ra. Giấu mình dưới lớp bọt xà phòng, nàng đỏ mặt nghĩ đến chàng đã nhìn thấy nàng tắm bao nhiêu lần, và những lúc khác nữa... Người nàng nóng lên và chàng mỉm cười như thể đọc được ý nghĩ của nàng.

Nàng tò mò muốn biết thêm về con người kỳ lạ này. Có cái gì đó như là một sức hấp dẫn từ chàng làm nàng thấy náo nức.

"Ngồi xuống đi anh," nàng bảo, "và kể cho em nghe về anh, làm sao anh gặp được em?

Chàng chậm rãi ngồi xuống bậc đá cạnh bồn tắm. Nhìn thẳng vào mắt nàng, chàng kể, giọng đều đều, trầm ấm.

"Anh bị bệnh tim mãn tính từ nhỏ. Năm anh mười tám tuổi, anh chết trong lúc ngủ. Trước đó vài tháng, Bố anh cũng mất đi như thế nên Mẹ anh suy sụp hẳn và anh nghĩ bà cụ cần được chăm sóc nên anh thường hay quanh quẩn bên bà. Bố anh ra đi vĩnh viễn, anh chưa bao giờ nhìn thấy Bố anh từ khi ông cụ mất, anh không biết bây giờ ông cụ ở đâu? Có nhiều con đường một người chết đi có thể chọn, nhưng anh chưa bao giờ chọn một con đường nào vì ngay từ phút đầu, anh đã quyết định ở lại bên cạnh Mẹ cho đến ngày bà cụ mất." "Thế có bao giờ bà cụ nhìn thấy anh không?" "Có chứ, chỉ một vài lần năm anh vừa mất, nhưng chỉ thoáng qua thôi và không trò chuyện gì cả. Em biết mấy người già mà, họ mê tín lắm, anh không muốn bà cụ lo lắng là anh không được siêu thoát." "Thế nhưng cụ vẫn thấy anh mà?" "Anh chỉ cho mẹ thấy vài lần, ban đêm lúc nhập nhoạng tối lúc cụ soi gương. Anh chỉ cười và ôm lấy mẹ rồi biến đi, anh muốn để mẹ nghĩ rằng anh chỉ là ảo giác." "Thế bà cụ có sợ không?" "Không, không hề," anh mỉm cười. "Anh là con duy nhất của Mẹ nên bà cụ thương anh lắm. Thường sau khi thấy anh, bà cụ có vẻ vui lên. Nhưng không được lâu, cuối năm đó mẹ anh mất. Anh không bao giờ gặp lại mẹ anh nữa. Anh nghĩ bà cụ đã đến với Bố anh. Người ta có thể chọn nơi nào mình muốn đến trước khi chết." Chàng im lặng một lúc, trầm ngâm nghĩ ngợi. Nàng lặng lẽ theo dõi, ngạc nhiên về những điều nghe được.

"Sau đó, anh gặp em. Anh nhớ hôm ấy anh lang thang trong thư viện thành phố, cố tìm lại cảm giác an bình ngày xưa thời còn đi học. Thường thường mỗi khi cô đơn, anh hay vào đó ngồi hàng giờ trong góc, ngắm nhìn tụi nhỏ trò chuyện, đọc sách và thấy thật thư thái. Thế nhưng hôm ấy anh cảm thấy bồn chồn làm sao. Suốt một ngày rảo quanh thư viện, anh không cảm thấy thanh thản chút nào. Cuối cùng, anh quyết định đi dạo phố và ngay lúc anh sắp rời thư viện thì em đến. Anh còn nhớ em đi với hai cô bạn thân, cười nói ríu rít thật hồn nhiên. Anh bị choáng váng trước dáng vẻ tươi sáng của em và anh theo đuổi em từ đó. Anh nhớ những ngày em học miệt mài hay lang thang chọn sách trong thư viện, lúc nào anh cũng ở sát bên cạnh. Anh như bị hớp hồn, anh say mê em điên cuồng, và dần dần anh theo em khắp mọi nơi. Anh đau khổ cùng cực khi em hẹn hò rồi tan vỡ những mối tình, và rồi em lấy chồng. Bẵng đi một thời gian, anh đi lang thang khắp nơi, tránh xa em nhưng rồi anh không chịu nổi, anh phải tìm về, về quanh quẩn bên em, chỉ cần thấy em là anh đã thấy hạnh phúc. Thế mà đã gần hai mươi năm. Đối với anh, thời gian không có ý nghĩa gì cả nhưng anh lần lượt nhìn thấy những người quen già đi, chết đi. Cả em cũng vậy, anh không thể nói em cũng vẫn như xưa. Anh lo sợ một ngày nào đó anh sẽ mất em vĩnh viễn mà không một lần chia sẻ những điều anh hằng ấp ủ. Đã nhiều lần anh muốn đến với em nhưng anh ngại làm em sợ hãi. Anh cũng lo sợ làm đảo lộn cuộc sống phẳng lặng của em. Mặc dù anh thấy em có những điều không được hài lòng trong cuộc sống, nhìn chung, em có một cuộc sống dễ chịu và em xứng đáng được hưởng. Hôm trước, lần đầu em thấy anh trong thư viện địa phương, thú thật là anh không cố tình để em thấy. Anh chỉ theo em như mọi lần nhưng lúc ấy em trông thật tội nghiệp và buồn cười, lúc nào cũng tất bật, vội vã và anh vô tình quên ẩn mình đi. Lúc ấy anh nghĩ là em sợ nên anh vội lẩn đi, nhưng em không có vẻ sợ hãi nên anh liều lĩnh gặp em lần nữa, và sau đó thế nào thì em đã biết." Chàng dừng lại, mắt nhìn xuống hai bàn tay thon dài đan vào nhau.

Nàng hít một hơi sâu, đè xuống cảm giác nghẹn ngào đang dâng lên ngực. Nước mắt nàng chảy xuống lặng lẽ. Nàng chưa bao giờ cảm thấy xúc động và thương cảm như lúc này. Nàng chưa bao giờ biết đến một tấm tình say đắm và chung thủy như vậy. Ở một nơi nào đó sâu xa trong tiềm thức, nàng có cảm giác có một cái gì đó rạn vỡ, mở ra, nàng như bị nhận chìm trong một dòng lũ của vô số cảm xúc và ý nghĩ quyện vào nhau.

Hai người im lặng thật lâu. Một lúc sau, chàng nhẹ nhàng đứng lên.

"Nước nguội rồi, em đi ngủ đi." Không hề nhìn lại, chàng lặng lẽ quay đi, biến mất sau cánh cửa.

Đêm ấy, nàng không ngủ, hay đúng hơn, chỉ ngủ chập chờn. Những ngày sau đó, nàng sống như trong mơ, làm việc, sinh hoạt một cách máy móc. Nàng thường xuyên thấy chàng, hầu như bất cứ nơi nào có gương nàng đều nhìn thấy chàng, lúc vui, lúc trầm ngâm và đôi mắt luôn ánh lên niềm chờ đợi. Thỉnh thoảng, họ chuyện trò với nhau, máu khôi hài của chàng làm vơi đi nỗi bứt rứt trong nàng mỗi lần gặp gỡ, nhưng mỗi ngày sự thân thiết, gắn bó giữa hai người càng mạnh hơn làm nàng cảm thấy nghẹt thở.

* Một buổi chiều nọ, quá căng thẳng và mệt mỏi, nàng đành dừng làm việc và xuống canteen uống cà phê cho tỉnh táo. Canteen vắng tanh, nàng ủ rũ ngồi uống một mình. Trời lạnh buốt, nàng cầm ly cà phê bằng cả hai tay, cố tìm chút hơi ấm. Có tiếng động nhỏ bên cạnh, ngước mắt lên, nàng thấy chàng ngồi bên cạnh. Cố kiếm một chỗ khuất gió, nàng vô tình ngồi cạnh quầy tính tiền trang trí bằng những mảnh gương đủ màu sắc.

"Em làm sao vậy?" Chàng hỏi, giọng ân cần.

"Em mệt quá," nàng thầm thì, sợ có ai vô tình nghe được tường nàng điên, nói chuyện một mình. "Em mệt quá, công việc dồn dập chồng chất, làm mãi không xong." Nàng không dám thú thật là mình mất ngủ và mối quan hệ giữa hai người làm nàng bị dao động, không thể tập trung làm việc.

Anh nhìn nàng ái ngại.

"Em xin nghỉ vài bữa đi, để lấy lại sức." "Còn có mấy hôm nữa là chồng em về, em đã xin nghỉ phép sau đó nên bây giờ không nghỉ được." 'Vả lại', nàng nghĩ, 'em chắc phát điên nếu ở nhà một mình mấy ngày với anh quanh quẩn bên cạnh luôn luôn. Em cần phải đi làm để bớt nghĩ đến anh'.

Chàng nhìn nàng đăm đăm như đọc thấu suy nghĩ của nàng.

"Anh lo cho em," chàng nói một cách đơn giản và cuối xuống hôn nàng dịu dàng.

Nàng run bắn và rung động sâu xa khi chàng dừng lại. Nàng hoảng hốt nhận ra mình đã yêu chàng, một bóng ma từ quá khứ. Nàng chợt đọc thấy nét mừng rỡ kinh ngạc trong mắt chàng.

"Em cảm thấy được anh ư?" Chàng hỏi gấp gáp qua hơi thở.

"Vâng," nàng ấp úng.

Chàng lảo đảo ngồi xuống ghế, nét mặt chàng khó diễn tả được. Mắt chàng ánh lên dáng dấp một nụ cười pha lẫn điều không thể tin được.

"Thật sao... thật vậy sao?" Chàng nói không ra lời. "Đã bao nhiêu năm anh ở bên em, lén hôn lên tóc em, lên vai em, lên khuôn mặt em bao nhiêu lần, em không bao giờ biết, sao lại có điều kỳ diệu này?" Cũng như chàng, nàng chuyển từ kinh ngạc sang hân hoan, một nỗi vui sướng thật tinh khôi như đứa trẻ vừa khám phá ra kho tàng kỳ diệu. Trong một khoảnh khắc, nàng quên đi tất cả xung quanh -- cuộc sống của nàng, công việc, chồng con, cả cái canteen lạnh lẽo, tối tăm -- chỉ thấy tâm hồn tràn ngập niềm vui sướng, hạnh phúc.

Có tiếng người lao xao kéo qua hành lang. Nàng chợt nhớ ra sắp đến giờ tan việc và con gái đang đợi. Họ vội vã chào nhau.

"Hẹn gặp em," chàng thì thầm, siết chặt bàn tay nhỏ bé của nàng.

Nàng cảm thấy hoàn toàn chàng là một CON NGƯỜI, vững chắc, mạnh mẽ và THẬT, như những người ngoài kia. Nàng chạy lên thang lầu, lòng phơi phới hạnh phúc. Tim nàng ca hát như lần đầu tiên biết yêu.

Đêm hôm ấy, chàng đến thăm nàng trong phòng ngủ, khi nàng đứng chải tóc trước gương lúc sắp sửa lên giường. Trên tấm thảm trước tấm gương lớn, họ yêu nhau cuồng nhiệt, đắm đuối. Như đôi vợ chồng trẻ trong thời kỳ trăng mật, họ quấn quýt mãi nhau và thầm thì trò chuyện đến khi tảng sáng.

Đưa con đi học rồi đi làm, nàng đi lại trong cảm giác lâng lâng bay bổng cho đến khi một cô bạn đồng nghiệp trêu.

"Ê bồ, sao hôm nay trông vui quá vậy, bộ được lên bậc hả?" "Không đâu," một cô bạn khác trêu, "còn có hai ngày nữa là chồng nó đi công tác về, lại được nghỉ bồi dưỡng mấy tuần nữa. Này, hay tối mai mình đi ăn tối để tiễn nó đi nghỉ phép đi mấy bồ ơi!" Nàng ngượng nghịu mỉm cười. Nghe bạn nhắc tới ngày chồng về, nàng chột dạ, không biết rồi đây sẽ ra sao. Chồng nàng vẫn gọi điện thoại hàng đêm thăm hai mẹ con, nàng vẫn kể chuyện chung chung qua loa để anh khỏi lo lắng hay nghi ngờ gì, nhưng nàng có cảm giác anh không được hoàn toàn an tâm khi thỉnh thoảng nàng trả lời ngập ngừng, rời rạc và thường để con gái trò chuyện với Bố. Còn có hai ngày nữa là anh đã về, nàng ray rứt thấy mình bồn chồn khổ sở, nàng cảm thấy tội lỗi khi mong chuyến công tác của anh kéo dài thêm ra, để nàng được tận hưởng hạnh phúc mới tìm được, không, nàng tự bào chữa, để có thì giờ trấn tĩnh lại và thu xếp mọi việc cho ổn thỏa. Nhưng tận sâu trong tâm hồn, nàng biết sẽ không bao giờ nữa nàng có được cuộc sống thanh thản bình an bên chồng con khi người yêu nàng vẫn luôn bên cạnh. Nàng luôn cảm thấy sự có mặt của anh ở khắp mọi nơi, mọi lúc, ngay cả lúc anh không xuất hiện. Sự hiện hữu của anh gần như có thể sờ mó được và đôi lúc nàng cảm thấy ngộp thở trong niềm hạnh phúc lẫn âu lo. Anh nói đúng khi sợ làm đảo lộn cuộc sống phẳng lặng của nàng và đã ẩn mình trong suốt ngần ấy năm. 'Có lẽ mình và anh ấy có nợ gì với nhau từ kiếp trước nên bây giờ phải trả cho nhau', nàng thầm nghĩ và mỉm cười vì thấy mình bắt đầu mê tín giống như mấy bà cụ. 'Nhưng phải có một lý do nào chứ! Một cuộc tình như vậy không thể nào tự xảy ra như vậy được', nàng lẩm bẩm một mình.

Đêm hôm ấy hai người lại đến với nhau và trò chuyện với nhau suốt đêm. Tảng sáng, nàng cố hết sức thản nhiên nói cho anh biết ngày mai chồng nàng về và họ nên thôi không gặp nhau nữa.

Anh nhìn nàng thăm thẳm buồn, giọng anh trầm xuống, gần như nói với chính mình.

"Anh biết rồi cũng sẽ đến lúc này," anh thở dài. "Anh cũng nghĩ thế là tốt nhất cho em. Anh không thể nói rằng anh sẽ tìm được hạnh phúc khác khi xa em nhưng em còn một đời trước mặt, còn con cái..., em xứng đáng hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Có lẽ anh sẽ không đi lang thang nữa, có lẽ đã đến lúc anh chấm dứt cuộc sống lưng chừng này và đi đến chốn cuối cùng." Họ nhìn vào mắt nhau. Trăm lời yêu thương nồng thắm dâng tràn và mỗi người tự hiểu rằng họ đã được yêu thật chân thành, trọn vẹn.

Anh lặng lẽ biến mất, nàng chập chờn trong một giấc ngủ rã rời. Hạnh phúc và khổ đau quyện vào nhau thành một khối nặng trĩu trong tâm hồn. Ngày hôm ấy nàng đi lại như kẻ mộng du. Cái chấn đông của những sự kiện vừa qua làm thần kinh nàng như tê liệt. Nàng thầm cảm ơn mấy cô bạn đồng nghiệp luôn miệng trò chuyện chọc ghẹo nhau giúp nàng bớt căng thẳng, và cũng nhờ họ hiểu lầm là nàng quá nôn nóng mong chồng về nên không thể tập trung vào công việc.

Đêm hôm ấy nàng đi ăn tối với mấy cô bạn đồng nghiệp đến quá nửa đêm mới về đến nhà. Nàng cố kéo dài bữa ăn để tránh nghĩ đến chồng và người tình, nàng sợ phải đối diện với những tấm gương im lìm không có bóng anh. Nàng sợ phải lặng lẽ chống chọi một mình trong đêm với những cảm xúc như đang nhấn chìm mình xuống. Nàng thầm cảm ơn mấy cô bạn quý đã cứu nàng thoát khỏi một đêm cực hình. Nàng thiếp đi trong một giấc ngủ ngột ngạt, nặng nề.

* Hôm sau, chồng nàng về. Anh ngạc nhiên thấy nàng hốc hác, xanh xao.

"Em làm sao vậy, em có bệnh không?" "Không, không..." Nàng bối rối trả lời.

Anh nhìn vào mắt vợ. Đôi mắt quầng thâm trên khuôn mặt gầy gò, hốc hác làm anh xót xa.

"Em lại làm việc nhiều quá phải không? Hay em không ngủ được khi vắng anh hả?" Chàng trêu vợ. Vẻ xanh xao của nàng làm anh lo lắng. "Hay là em có thai?" Nàng giật mình như bị bắt gặp quả tang đang làm việc bất chính, nhưng nàng cười khoả lấp.

"Làm sao em có thai được khi anh đi xa cả tháng rồi." Và cùng một lúc, nàng thầm nghĩ 'Phải chi anh ấy...', nhưng nàng vội gạt ra ngay cái ý nghĩ ngông cuồng kia. Nàng có thể có thai lắm, nếu anh ấy không phải chỉ là một cái bóng, nàng tự nhủ.

Thấy vợ trầm ngâm, anh nghĩ nàng lại muốn có con lần nữa. Anh biết nàng rất muốn có thêm con, mặc dù bác sĩ vẫn khuyên rằng nàng e không đủ sức khỏe để có thêm con nữa. Anh nghĩ sẽ khuyên vợ nghỉ việc một thời gian và nếu nàng thật sự muốn có con, anh sẽ khuyên nàng nghỉ hẳn để đủ sức khỏe. Anh âu yếm nhìn vợ, anh muốn làm bất cứ điều gì có thể được để nàng được hạnh phúc.

"Em muốn có con nữa phải không?" Anh âu yếm hỏi. "Cũng đến lúc em có thêm một đứa nữa rồi, nếu em muốn." Nàng ngạc nhiên nhìn anh như vừa rơi xuống từ cung trăng. Nàng đang suy nghĩ và lo lắng một điều hoàn toàn khác, đó là làm sao có thể gần gũi chồng từ nay khi biết người yêu vẫn luôn ở sát bên cạnh. Nhìn nét mặt khó hiểu của nàng, anh nghĩ chắc nàng còn đang do dự nên anh thôi, không bàn tiếp, để vợ tùy ý lựa chọn. Nhưng dù sao, anh vẫn thấy có điều gì đó không được bình thường.

Bữa tiệc gia đình đón chồng về nàng chuẩn bị thật chu đáo. Nàng ước sao nàng cũng chuẩn bị tinh thần được chu đáo như vậy. Anh vui vẻ kể đủ mọi chuyện và mang quà ra cho hai mẹ con. May mắn cho nàng, đứa con gái mừng rỡ quấn lấy bố, đỡ cho nàng cảm giác ngượng nghịu, và anh cũng không nhận ra rằng nàng không tíu tít mừng rỡ như mọi lần khác anh đi công tác xa về.

Đến gần nửa đêm con gái họ mới chịu đi ngủ. Anh âu yếm ôm vợ và yêu nàng thật thắm thiết. Một tháng xa cách thật quá lâu đối với anh, và có thể còn lâu hơn nữa đối với nàng nếu không có người thứ ba. Quá say đắm bên vợ, anh không nhận ra vẻ ngượng nghịu bối rối của nàng, anh cho rằng đó là điều tự nhiên sau nhiều ngày xa cách. Nàng khổ sở bên chồng, nàng không muốn làm anh buồn hay tránh né anh, nhưng nàng không thể không cảm thấy căng thẳng khi biết rằng người yêu của nàng đang ở đâu đó bên cạnh, nhìn thấy tất cả những âu yếm họ dành cho nhau.

Những ngày sau đó vẫn tiếp diễn như vậy nhưng đối với nàng, nỗi căng thẳng bồn chồn càng tăng lên như một cực hình. Sau kỳ công tác, anh được nghỉ phép ở nhà thêm một tuần. Suốt những ngày ở nhà, anh luôn quấn quít bên vợ và nàng có cảm giác anh cố gắng chiều chuộng nàng hết mực. Anh đối với vợ như những ngày trăng mật, anh làm thức ăn sáng mang đến giường cho nàng mỗi ngày. Đưa đón con đi học xong, anh giành làm hết việc nhà, nấu nướng cho nàng. Anh đưa nàng đi xem phim, đi chơi biển, anh càng âu yếm tình tứ càng làm cho nàng khổ sỏ. Anh cứ nghĩ nàng hốc hác ủ rũ vì quá bận rộn công việc, nay có dịp ở nhà, anh ráng làm mọi việc để nàng được thảnh thơi, khuây khỏa. Thế nhưng anh cảm thấy có điều gì đó bất an trong nàng. Mỗi lần nhìn vào mắt vợ, anh không thấy được nụ cười ấm áp như ngày xưa, có một cái gì đó như là sự chịu đựng hay tránh né mà anh không hiểu được. Anh không nhìn thấy nét thanh thản trong nàng, anh nghĩ nàng qua lo lắng với công việc và cố làm mọi cách để nàng khỏi nghĩ đến những chuyện ở sở. Anh khuyên nàng nên làm ít giờ lại để nghỉ ngơi, nàng bằng lòng ngay và anh thấy yên tâm hơn.

Tuần kế tiếp anh đi làm lại. Nàng cảm thấy thật trống vắng khi phải ở nhà một mình. Vốn quen luôn luôn bận rộn tất bật, nàng thấy một ngày ở nhà sao quá dài. Làm hết việc nhà, nàng mang sách ra đọc. Thường thì mỗi khi đọc sách, nàng quên đi tất cả, có lúc quên cả giờ giấc, ăn uống, thế nhưng lúc này nàng không thể tập trung vào câu chuyện. Đọc mãi vẫn không hiểu được gì nàng đành gác sách lại, mang giá vẽ ra vườn. Vẽ đi vẽ lại hàng chục lần không được một bức nào, nàng bồn chồn cất đi rồi đi dạo phố. Nàng cố không suy nghĩ gì cả, cố để đầu óc trống rỗng nhưng sao mọi việc nàng làm, mọi nơi nàng đi qua đều gợi nhớ đến người đàn ông yêu dấu. Những quán nước nàng đến, khu phố quanh nhà, ngay cả nơi yêu thích nhất của nàng là thư viện nàng cũng không dám đến, vì nó gợi lại những kỷ niệm ngày nàng còn có anh bên cạnh.

Mới chỉ một tháng quen nhau mà sao nhiều kỷ niệm, nàng miên man suy nghĩ. Nghĩ đi nghĩ lại, nàng không biết liệu nếu bắt đầu lại từ đầu, nàng có làm khác đi không hay mọi chuyện vẫn sẽ diễn ra như vậy. Nàng cảm thấy có lỗi với chồng con, nhưng nàng không biết nàng đã làm sai chỗ nào, ngoại trừ để cho tình cảm riêng tư ấy chiếm hết tâm hồn, trí óc, thì giờ của nàng. Nàng đã cảm động sâu sắc với tấm tình của anh ấy và điều đó nàng không thể cưỡng lại được, cũng như đó không phải là điều sai trái. Bản tính con người là muốn được quý trọng và thương yêu. Người đàn ông ấy đã dành cho nàng điều quý báu ấy, lặng lẽ suốt bao nhiêu năm, và nàng, như mọi con người khác, đã đáp lại như luật thiên nhiên. Họ đã đến với nhau thật trong sáng, chân thành và đã chia tay nhau vì lợi ích riêng của nàng và gia đình nàng. Đó là một sự hy sinh lớn cho cả hai, nhưng còn lớn hơn nhiều đối với anh vì ít nhất, về phía nàng, nàng còn gia đình, chồng con, bạn bè... để nâng đỡ và thương yêu, còn anh, anh chẳng còn ai, chẳng còn gì khác. Nàng đã xua anh đi một cách phũ phàng và giờ đây, khi nhìn lại toàn thể những điều đã xảy ra một cách bình tĩnh, nàng cảm thấy mình thật ích kỷ. Tất cả những điều nàng làm là đúng theo cuộc sống bình thường, theo quy luật xã hội, nhưng nó chỉ đem lại lợi ích riêng cho nàng, nó giữ gìn cho nàng những điều nàng đã có và cướp thêm những điều anh đã từng có. Nàng cảm thấy đau khổ hơn khi nhận ra rằng mình đã đón nhận tình yêu của anh một cách dễ dàng nhưng cùng một lúc, đòi hỏi anh phải hy sinh cho nàng khi nàng không cần đến anh nữa. Nói một cách khác, nàng muốn cả hai: một cuộc sống gia đình êm đẹp và một cuộc tình thơ mộng mà cái giá phải trả là nỗi đau khổ giày vò của anh. Nàng bứt rứt bồn chồn, nàng muốn gặp lại anh để phân bua, để giãi bày tâm tư tình cảm của mình, nhưng hơn thế nữa, nàng muốn đền bù cho anh những đau khổ, mất mát mà vì nàng, anh phải chịu.

Nàng tìm kiếm bóng anh ở mọi nơi, nàng nhìn vào bất cứ tấm gương nào thấy được, nhưng chỉ có bóng nàng, ngơ ngác, lạc lõng. Nhiều ngày trôi qua như vậy, nàng càng thêm quay quắt. Có lúc nàng đứng hàng giờ trước gương, thì thầm trò chuyện một mình. Nàng van xin anh hãy tha thứ cho nàng quá ích kỷ, nông nổi, nàng mong mỏi được gặp lại anh nhưng tuyệt nhiên không có lời đáp lại. Nàng oà khóc tức tưởi, chắc anh đã đi xa, đi xa vĩnh viễn và nàng không còn bao giờ được thấy nữa. Đó là sự trừng phạt xứng đáng dành cho nàng và nàng cảm thấy tuyệt vọng. Nỗi đau khổ giày vò làm nàng như kiệt sức. Nàng cố gắng hoà mình vào cuộc sống xung quanh nhưng tất cả đối với nàng như một màn kịch. Mỗi ngày đến rồi đi như trên sân khấu, nàng giữ một vai quan trọng mà nàng cố diễn xuất cho đạt.

Hết kỳ nghỉ, nàng trở lại sở làm việc. Mọi người thân ái hỏi han, bạn bè nàng ngạc nhiên thấy nàng vẫn gầy gò, xanh xao và có phần ũ rũ hơn. Ai cũng nghĩ nàng sẽ khá hơn sau kỳ phép nhưng nàng nói dối đã thức khuya đọc sách, xem phim nhiều và đi chơi luôn luôn nên hơi mệt mỏi. Nàng lao vào làm việc như một cái máy, làm miệt mài để quên đi nỗi nhớ, quên đi bóng hình người yêu dấu, nhưng sao nàng bắt gặp mình vẫn đứng thẫn thờ trước gương chờ đợi, có lúc nàng quên cả thời gian, không biết mình đã đứng trước gương trong phòng vệ sinh hay phòng ngủ bao nhiêu lâu.

Cho đến một ngày nàng kiệt sức thật sự và ngất đi ở sở làm việc. Bạn bè nàng hốt hoảng gọi cho chồng nàng. Anh đến mang vợ về nhà, lo lắng tột bực khi nhận ra nàng gầy rộc, mắt trũng sâu. Vốn đã quen vợ gầy yếu mảnh mai, anh không để ý lắm khi nàng từ từ gầy đi nhiều. Vả lại cuộc sống quá bận rộn, cả ngày hai người đi làm, chỉ có tối về mới gặp nhau, lại vội vã với công việc nhà rồi lên giường. Hơn nữa, dạo này nàng thường làm việc thật muộn, anh thường đi ngủ sớm một mình trong khi nàng còn mải mê làm việc đến thật khuya. Anh đâu biết rằng công việc chỉ là cái cớ và cũng là cái lối thoát duy nhất cho nàng để một lúc giải quyết được ba điều khó khăn cho nàng: tránh né chồng, quên đi người yêu, và trị chứng mất ngủ. Nàng đâu biết rằng có đêm nàng thức đến gần sáng, đến lúc mệt rũ ra lê gót lên giường, nàng chỉ thiếp đi có vài giờ là đã đến lúc thức dậy, nhưng nàng hầu như đã mất hết khái niệm về thời gian, có lúc cả khái niệm về không gian cũng không còn rõ rệt nữa. Đôi khi nàng đi như trong mơ, giật mỉnh không biết là đang ở đâu, đi về đâu cho đến khi định thần lại. Cứ như thế, nàng vật vờ trong suốt thời gian qua cho đến lúc kiệt sức. Chồng nàng đưa nàng đi bác sĩ, hoá ra nàng chỉ thiếu dinh dưỡng và thiếu ngủ. Bác sĩ khuyên nàng ăn ngủ điều độ và uống thêm thuốc bổ. Nghỉ ngơi vài hôm lại sức, nàng lại tiếp tục đi làm.

Từ ngày ấy, nàng hứa với chồng sẽ ráng làm việc ít hơn. Tuy nhiên, nỗi đau khổ của nàng ngày càng gia tăng và nàng thường lén chồng nửa đêm vào phòng làm việc. Thuốc bổ giúp nàng thêm sức lực, nhưng không giúp nàng ngủ yên và nỗi nhớ nhung dày vò nàng hàng đêm. Nàng cố làm việc, thỉnh thoảng ngồi trước gương thì thầm với bóng mình. Nàng không còn hy vọng được gặp lại anh, chỉ là một thói quen nàng có được từ ngày biết anh. Đến một hôm, nàng mệt quá thiếp đi trước gương trong phòng làm việc. Một cánh tay êm ái đặt lên vai nàng, giật mình, nàng định phân bua với chồng rằng nàng chỉ vào phòng làm việc kiếm một ít tài liệu. Ngước mắt nhìn lên, nàng mừng rỡ tột cùng khi thấy người yêu bên cạnh. Anh nhìn nàng âu yếm tha thiết. Nước mắt nàng lăn xuống đôi má gầy gò. Nàng khóc thắm thiết trong nỗi hạnh phúc và khổ đau. Họ ôm nhau không rời. Cuối cùng, anh bảo anh không thể cầm lòng được khi thấy nàng quá khổ sở nên để cho nàng gặp lại. Dù mai sau có thế nào cũng mặc, họ chỉ cần có nhau lúc này. Họ yêu nhau tha thiết nồng nàn, nàng như quên đi cuộc sống quanh mình, quên đi những khổ đau đã qua, quên cả mối nguy cơ có thể bị chồng bắt gặp trong phòng làm việc.

Từ hôm ấy, họ lại gặp nhau hàng đêm trong phòng làm việc. Tình yêu như mang lại cho nàng thêm sức lực, nàng lấy lại vẻ tưoi sáng, rạng rỡ. Ai cũng nghĩ thuốc bổ và giảm giờ làm việc đã giúp nàng phục hồi sức lực. Họ đâu biết mỗi đêm nàng vẫn chỉ ngủ có vài giờ, nhưng hạnh phúc đã làm cho nàng ăn uống ngon lành và tâm hồn phơi phới niềm vui. Nàng như trẻ lại, chồng nàng vui sướng thấy vợ lại ca hát như xưa, đôi má nàng đầy lên một chút và phớt hồng. Cuộc sống như thêm sắc màu cho nàng và mỗi bước chân nàng đi như có thêm đôi cánh. Nàng hay cười đùa vui nhộn, nàng như sống lại thời son trẻ với mối tình đầu đời.

Nhưng hạnh phúc của nàng không kéo dài lâu. Sau một thời gian vui sướng được gặp lại nhau, nàng rơi về thực tại với một tương lai mù mịt. Họ không thể kéo dài cuộc tình khác thường như vậy mãi. Nàng canh cánh lo sợ chồng biết được, nàng sợ làm anh thất vọng và đau khổ. Nàng lại không thể chia tay với người yêu. Hai người đã trở nên thân thiết gắn bó như đã bên nhau suốt đời. Họ hiểu nhau và yêu nhau một cách bền chặt. Họ đến với nhau hơn cả đam mê và gần gũi nhau một cách tuyệt đối. Nàng nhận ra nàng không thể sống thiếu anh và đây là một nỗi lo sợ lớn hơn bất cứ điều gì có thể đến với nàng. Trách nhiệm không cho phép nàng xa rời gia đình nhưng ở một nơi sâu xa trong tâm hồn, nàng biết nàng đã tìm được người tri kỷ. Anh mang lại cho nàng một hạnh phúc trong tâm hồn thật toàn vẹn mà nàng chưa bao giờ từng biết đến. Mất anh, nàng biết nàng sẽ không đứng vững nổi và sẽ không còn thiết đến cuộc đời này.

Mặc dù trò chuyện với nhau rất ít, anh vẫn hiểu được điều này và nhiều lần anh do dự, có lẽ anh không nên tiếp tục gặp nàng để nàng khỏi phải lún sâu hơn trong cuộc tình bế tắc này. Nàng hoảng sợ khi anh có ý định từ giã, lần này sẽ là mãi mãi xa cách. Nàng van xin anh để cho nàng có thì giờ ổn định tinh thần, anh mỉm cười bao dung. Mãi mãi nàng sẽ chẳng bao giờ tìm lại được cuộc sống ngày xưa, anh là kẻ đã cướp đi cuộc sống ấy ở nàng, nay anh không còn cách nào để trao trả, cho dù cả hai đều cố gắng hết mình. Hơn nữa, anh đã đè nén mình quá lâu. Anh sẵn sàng hy sinh để nàng được hạnh phúc, nhưng giờ đây, hạnh phúc của nàng là được sống bên anh, không có lý do nào anh lại từ chối mình và từ chối nàng hạnh phúc ấy. Anh do dự nghĩ đến một điều mà nhiều lần anh đã gạt đi, nhưng mỗi lần thấy nàng khổ sở bế tắc, anh không khỏi nghĩ đến. Cho đến một đêm, sau bao nhiêu yêu thương thắm thiết, nàng lại nức nở khóc, họ lại sắp phải chia tay nhau. Anh do dự bảo nàng.

"Hay là em đi với anh?" "Đi đâu hả anh?" Nàng ngạc nhiên hỏi.

"Đi qua bên kia, nơi có Bố Mẹ anh. Có lần anh thấy một người đàn bà mang con bà ấy đi bởi đứa bé ấy quá khổ sở vì nhớ mẹ." "Làm thế nào em đi được hả anh?" Nàng tò mò. Nàng chưa bao giờ nghĩ đến điều này và cái khả năng nó có thể xảy ra làm nàng thấy thú vị.

"Đơn giản lắm, anh chỉ cầm tay em và em bước vào gương cùng với anh. Anh nhìn thấy người mẹ ấy nắm tay đứa bé và hai mẹ con chỉ bước vào trong gương, thế là đứa bé theo mẹ đi đến nơi bà ấy ở." Hai người nhìn nhau, cùng đọc được ý nghĩ của nhau. Họ nhìn thấy một tương lai đầy hạnh phúc, sẽ mãi mãi được bên nhau không còn phải chia cách. Nhưng cả hai cùng nghĩ đến gia đình nàng. Nàng còn Bố Mẹ, anh em, còn chồng con và con gái nàng sẽ khổ sở lạc loài khi mất mẹ. Nàng nhìn thấy mắt anh tối lại, anh vội vã xin lỗi nàng vì đã có ý nghĩ ngông cuồng ấy. Nàng hiểu, anh không cần phải giải thích. Họ yêu quý và tôn trọng nhau và đặt hạnh phúc của nhau lên trên lợi ích của bản thân. Nàng không trách được anh có ý nghĩ ấy, khi người ta bế tắc, bất cứ con đường nào có thể dẫn đến một lối thoát đều được cân nhắc, nhất là khi cả hai người đều muốn đạt được cùng một mục đích.

Họ chia tay nhau trong một trạng thái kỳ lạ. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm hơn khi biết được có một lối đi khác để thoát khỏi tình trạng hiện tại. Dĩ nhiên nàng sẽ không làm điều đó, nàng thương yêu gia đình nàng vô vàn, nhất là đứa con gái bé bỏng mà nàng hầu như quên đi trong suốt thời gian qua. 'May mà có bố nó về', nàng nghĩ. Anh thay vợ chăm sóc con lúc nàng bị khủng hoảng suy sụp cả thể xác lẫn tinh thần. 'Có lẽ họ sẽ phải chia tay nhau một ngày nào đó', nàng nghĩ. Không phải lúc này, khi nàng vẫn còn đắm đuối cháy bỏng trong cuộc tình đầy trắc trở. Dù sao đi nữa, nàng vẫn có thể chấp nhận hiện tại, rồi sẽ có lúc cơn sốt ban đầu nguôi đi và hai người sẽ chia tay nhau dễ dàng hơn.

Thế nhưng mọi việc không dễ dàng như nàng tưởng. Trước kia, khi chưa biết đến cái khả năng được đến với nhau, nàng chấp nhận cuộc tình bế tắc, và mặc dù khổ đau, cũng đã một phần chuẩn bị tinh thần cho ngày chia tay. Nhưng từ khi anh gợi ý cho nàng, không một ngày nào nàng không nghĩ đến điều ấy, có lúc nàng như vô tình bước lại gần hơn những tấm gương lớn, như có một sức hút vô hình nào kéo nàng vào. Nàng cố xua đi ý nghĩ ấy nhưng mỗi khi chia tay anh, nàng lại càng thêm nung nấu. Nàng muốn đi theo anh khắp mọi nơi, nàng mãi mãi muốn có anh bên cạnh. Anh đọc được ý nghĩ đó của nàng, ánh mắt nàng phơi bày tất cả nỗi niềm và anh khổ sở khi nhìn thấy điều ấy. Họ không bao giờ nhắc lại chuyện ấy, nhưng mỗi lúc gặp nhau, họ đều cùng nghĩ đến và đều cùng gạt đi.

Cuộc tình của họ đã đi đến lúc sâu đậm. Họ ít nói với nhau, chỉ tận hưởng những giây phút ngắn ngủi bên nhau. Không còn giới hạn vào những lần gặp gỡ ban đêm trong phòng làm việc nữa, bất cứ nơi đâu có những tấm gương ở những nơi kín đáo, họ đều gặp nhau. Có lần nàng ở hàng giờ trong phòng vệ sinh ở chỗ làm việc, đến khi ra ngoài, mấy cô bạn lo lắng hỏi nàng có sao không. Nàng mỉm cười trấn an bạn, nàng đâu có ốm đau gì đâu, chỉ có "sốt tình" thôi, nàng nghĩ. Nàng không biết rằng dần dần, nàng đã rơi vào trạng thái ngơ ngẩn như ngày xưa, lúc nào cũng chờ đợi cơ hội để được gặp anh.

* Thế rồi một ngày kia nàng không về nhà ăn tối. Chờ mãi đến nửa đêm, chồng nàng cuống quýt gọi cho sở cảnh sát. Họ bảo ráng chờ tối nay và hứa sẽ đi tìm nàng sáng hôm sau. Hôm sau, cảnh sát đến sở làm việc của nàng để điều tra. Họ thấy xe hơi của nàng vẫn còn nằm trong bãi đậu xe cho nhân viên. Trong phòng vệ sinh nữ, họ tìm thấy túi xách tay và chùm chìa khoá của nàng trước tấm gương lớn.

Kết Thúc (END) Hoàng Ngọc Thư

» Cơn Giông

» Sợ

» Điều Ước, Điều Bí Mật

» Những Bước Chân

» Những Người Đất

» Chiếc Áo

» Tín Hiệu Trong Đêm

» Điều Không Có Thể Có

» Mười Hai Đồng Tiền Vàng

» Thần Chết

» Người Có Phép Lạ

» Ký Ức Về Bốn Lần Hôn

» Người Trong Gương

Những Truyện Ma (Kinh Dị) Khác

» Nhà Xác!

» Người về từ đáy mộ

» Ma Quá Giang

» Mối Tình Âm Dương

» Hồn Ma Của Người Bạn Thân

» Hồn Ma Trong Biệt Thự

» Người đẹp đông phương

» Tiếng Cười Trong Đêm Khuya

» Giết Người Lấy Sọ Luyện \"Thiên Linh Cái\"

» Ma Nhập Vì Cầu Cơ

» Người Bạn Ma

Tiếng Đàn Trong Bức Tranh Tố Nữ

Font Size: Tác Giả: Hoàng Ngọc Liên

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Như tiếng nhạc khuya trong gió nhẹ

Đàn ai bi oán vẳng khe rèm

Vang vang dư hưởng như dòng lệ

Đang chảy âm thầm bên má em.

HNL

LNV - Có lần người viết (NV) tản bộ trong bãi đậu xe của một trung tâm thương mại vùng Hoa Thạnh Đốn - thấy một thanh niên da đen vác "cần xé" quần áo đang băng qua trước mặt. Ngay lúc đó, một bộ đồ trong cần xé rơi xuống mà anh ta không hay biết, vẫn rảo bước băng qua lối dành cho người đi bộ!

NV vội lượm bộ đồ lên và lớn tiếng kêu anh tạ Cũng may con đường thẳng góc với hướng đi không rộng lắm, nên thanh niên quay lạị NV giơ bộ đồ lên, anh ta trở lại nhận, nói lời cảm ơn rồi quay đị VN tự hỏi, sự việc nhỏ mọn vừa xảy ra, phải chăng có bàn tay xếp đặt của Đấng Tối Caỏ Nếu trước đó, NV không quên mang theo chìa khóa P.Ọ Box của một Post Office gần nhà mà phải trở lại nhà để lấy, ắt đã đến Bưu Điện trước khi chàng thanh niên làm rớt bộ quần áọ Sự việc NV có mặt ngay lúc bộ đồ rớt để lượm lên, gọi trả, tuy là một sự việc hầu như không đáng kể, nhưng nó là cả một quá trình (processus) dài dặc. Trước đó, người viết đã trải qua không biết bao nhiêu "công phu" di chuyển, để có thể đến từ nước Việt Nam xa xôi, qua bao tiểu bang, bao thủ tục để được cư trú ngay địa phương nàỵ Rồi ngày hôm đó, vào giờ đó, đã qua bao nhiêu "nhân duyên" mới có dịp gặp chàng thanh niên.... Đây phải chăng là cái "duyên" trong vòng tao ngộ?

Nếu vậy, cái chết oan khiên của một ca nữ trong Phường Hát Đông Đô thành Thăng Long xưa, theo câu chuyện mà người viết từng được nghe kể và ghi lại sau đây, phải chăng cũng do những mối duyên chồng chất tự ngàn xưa góp lạỉ

Dù phải hay không, dù câu chuyện "mua vui" này chẳng có chút nào được xác tín - chuyện kể mà -, người viết cũng xin ghi lại hầu bạn đọc. HNL.

Hôm ấy, Sinh đeo tráp đứng chờ đò ngang ven tả ngạn sông Hồng để qua Khu Văn Miếu gặp cụ Tú Cự Vượng, như Cụ đã căn dặn chàng sau lần gặp trước.

- Thầy Khóa!

Mũi đò vừa lao tới, giọng nói khá quen thuộc của cô lái khiến Sinh hơi lúng túng. Lần nào qua đò, Sinh cũng được cô lái vồn vã chào hỏị Nhưng không phải là những câu chào hỏi xã giao thông thường. Sinh cảm nhận trong lời cô nói với mình, có ẩn ý riêng tư, tuy không có gì rõ rệt.

- Sao chưa có lần nào Cô Khóa đi theo Thầy Khoá?

Vừa ngồi vào mạn đò đã nghe cô lái hỏi, nhưng Sinh không trả lờị Chàng biết là cô lái này chanh chua lắm, thường chòng ghẹo mình, tuy chưa bao giờ thốt lời thiếu lễ độ. Vậy cứ im lặng là... vàng, đâu cần tranh hơn thua với cô. Bà con đi đò hầu như tán thành thái độ của Sinh. Ai nấy đều như lơ đãng không để vào tai những lời cô lái nói với Sinh.

- À! Em biết rồi, hay là thầy Khóa chưa có.. cô Khóa!

Thấy Sinh vẫn im lặng, cô tiếp:

- Thì ra Thầy Khóa đang ngấp nghé ái nữ của Cụ Tú Cự Vượng!

- o O o -

Đò cập bến, sau khi cột giây vào chiếc cọc đóng sẵn, cô lái nhìn Sinh rảo bước lên đê, nói với theo:

- Nhớ cho em gửi lời thăm Lương tiểu thư nhé, Thầy Khóa!

Lương tiểu thư mà cô lái đò vừa nói đây là con gái duy nhất của cụ Tú Cự Vượng. Cô lái đò ranh mãnh này không hiểu sao cũng biết là cụ Tú có ái nữ. Nhưng cô nói Sinh đang ngấp nghe Lương tiểu thư là không đúng. Sinh tuyệt nhiên không có ý nàỵ Sinh chỉ thoáng thấy tiểu thư vài lần trong suốt mấy năm đến hầu thăm cụ Tú. Do vậy mà Sinh mong được gặp cô một lần, nhưng dịp may chưa đến.

Một hôm, sau mấy tiếng đồng hồ đàm đạo, hai thầy trò mải mê câu chuyện, ngay trong bữa cơm thanh đạm, nên quên là đã quá canh Haị Cụ Tú giữ Sinh ở lại qua đêm, vì giờ đó đâu còn đò ngang qua bên kia sông Hồng nũạ

Sáng hôm sau, trước khi lạy biệt cụ để ra về, Sinh được cụ tặng bức tranh Tố Nữ nàỵ

Nguyên là trong lễ Thượng Nguyên tại Đền Ngọc Sơn, Sinh được gặp lại Cụ Tú sau mấy năm cụ về Thái Bình dạy học. Cụ Tú coi Sinh như con, vì Sinh là thứ nam Cụ Tú Hà Đông, bạn đồng khoa của cụ.

Hai bác cháu cùng đọc câu đối trong đền Ngọc Sơn:

- Lâm thủy, đăng sơn, nhất lộ tiệm nhập giai cảnh;

- Tầm nguyên, phỏng cổ, thử trung vô hạn phong quang.(Xuống nước, lên non, một lối vào dần cảnh đẹp,

Tìm nguồn, hỏi cũ, trong đây lắm vẻ phong quang)

Cụ bảo Sinh:

- Thử trung mà đối với nhất lộ, có hơi ép, nhưng ý thì thật haỵ

Đến câu:

- Đạo hữu chủ trương, Đẩu Bắc văn minh chi tượng;

- Nhân đồng chiêm ngưỡng, Giao Nam lễ nhạc chi đô.

(Đạo có chủ trương, nền móng văn minh Đẩu Bắc;

Người đều chiêm ngưỡng, kinh đô lễ nhạc Giao Nam).

Cụ bảo Sinh:

- Lễ nhạc! Tự ngàn xưa, Cha Ông ta từng nói, đại ý: danh không chánh thì ngôn không thuận; ngôn không thuận thì Lễ Nhạc phế bỏ; Lễ Nhạc phế bỏ thì người dân không còn chỗ nương nhờ. Từ khi người Pháp đặt nền bảo hộ trên xứ này, tuy Văn Miều còn, nhưng Lễ Nhạc đâu được như xưa nữa...

rồi cụ tiếp:

- Bữa nay có món ăn thanh đạm của miền quê mới đem ra, cháu ghé bác ăn cơm chiều, luôn tiện bác cho cháu xem bức tranh TỐ NỮ mà Làng Tranh Kinh Bắc mới tặng bác.

Đêm đó, trong lúc trà dư, tửu hậu, hai bác cháu ngồi trên tràng kỷ, Cụ chỉ tay vào bức tranh treo trên tường, bảo Sinh:

- Vốn là 4 bức, nhưng sau lần bị cơn hỏa hoạn, người quen của Bác chỉ còn lại bức này: thiếu nữ đang gảy đàn. Bác cho rằng đây cũng là một loại tranh Lễ Nhạc. Ta cứ mường tượng đang được nghe tiếng đàn réo rắt, véo von, cũng thấy trong lòng thanh thản.

Sáng mai, bác tặng cháu bức tranh nàỵ Khung cảnh của cháu phù hợp với tranh hơn là bên nàỵ Vì nhà cháu gần ven sông, vào những đêm Thu trăng sáng, gió lộng từ mặt sông thổi vào, cháu ngắm tranh với cõi lòng thanh khiết, nếu có duyên, cháu có thể nghe được tiếng vô thanh trong không giới!..

- o O o -

Qủa nhiên, Sinh nghe tiếng đàn từ khe rèm vẳng lạị Đưa mắt nhìn qua bức bình phong, Sinh chợt nhận ra, tiếng đàn không phải từ phía ngoài vang lại, mà hình như ở đâu đây, ngay trong căn phòng nàỵ Thốt nhiên Sinh nhìn lên bức tranh Tố Nữ treo trên tường, lung linh dưới ánh đèn dầụ. Lắng tai nghe, Sinh cảm nhận được tiếng đàn quả được phát ra từ bức tranh này... Sinh định thần lại, cho rằng mình đang trong tình trạng giữa thực và mê!...

Sinh ngồi dậy, đăm đăm nhìn bức tranh chuyển động. Rõ ràng thiếu nữ cầm đàn bằng tay trái, nhẹ bước ra khỏi khung tranh

- Tiện thiếp kính chào tiên sinh!

Sinh đứng lên, nghiêng mình đáp lại lời chào của người đẹp:

- Không dám, xin chào cô nương!

Sinh chỉ tay vào chiếc đôn đối diện bên án thư:

- Xin mời cô nương an toạ.

Thiếu nữ không nề hà, kéo vạt áo ngồi xuống.

Sinh tiếp lời:

- Tiểu sinh được cô nương giáng lâm, không biết có điều chi chỉ giáỏ

Cô gái nhỏ nhẹ:

- Chỉ giáo thì không dám, tiện thiếp ra đây để cáo biệt tiên sinh!

Sinh ngạc mhiêm:

- Cáo biệt? Ở đây có điều gì khiến cô nương không được hài lòng?

- Thưa tiên sinh, thiếp đã mãn nhiệm tại địa phương này...

Thấy Sinh như ngơ ngẩn tiếc nuối, thiếu nữ lại lên tiếng:

- Nếu có duyên, tiện thiếp sẽ được cùng tiên sinh tái kiến.

Sinh chợt nhớ ra điều gì:

- Cô nương vừa nói là mãn nhiệm tại địa phương này, có thể cho tiểu sinh biết là nhiệm vụ gì không?

- Câu chuyện này có liên quan đến tiên sinh...

- Tiểu sinh chưa hiểu ý cô nương. Chẳng hay chuyện liên quan dế tiểu sinh này, là họa hay phúc đâỷ

Người đẹp thẳng thắn:

- Nếu là phúc thì không phải họạ Nếu là họa thì khó tránh. Phúc hay họa còn tùy vào số mạng của tiên sinh. Điều chắc chắn là nếu tiên sinh muốn vì tha nhân, thì đây là cơ hội tốt.

- Xin cô nương chỉ giáo, tiểu sinh cần phải làm gì?

- o O o -

Nguyên là Lương tiểu thư đang bị một oan hồn đòi trả món nợ... tình. Dù cho tiểu thư không phải người cố ý gây ra món nợ nàỵ Hồn oan là ca nữ của một phường hát dạọ

Trong một buổi hát chầu vào dịp lễ Đức Hưng Đạo Đại Vương, Phường Hát Đông Đô có một ca nữ dùng thuốc độc tự tử ngay sau đêm hát. Thiên hạ đồn rằng cô gái bị thất tình, mà tình địch của cô lại chính là Lương tiểu thư, ái nữ của cụ Tú Cự Vượng! Thực ra, Lương tiểu thư không hề hay biết chàng trai đang theo đuổi mình lại là người yêu của cô gái vô danh trong Phường Hát Đông Đô. Dù cho có nhiều mai mối tới lui nhà cụ Tú, nhưng cụ Tú chưa có quyết định về hôn nhân của ái nữ. Về phần Lương tiểu thư thì nhất định là phải vâng lời cha mẹ "đặt đâu con ngồi đấy", còn trong chỗ riêng tư, nàng chưa hề có tình ý gì với chàng trai, mà cũng chưa hề gặp mặt chàng lần nàọ

Rất đáng tiếc, ca nữ dại dột sớm tuyệt vọng nên đã tìm cái chết cho thoát nợ đời vì cho rằng mình không xứng đáng bằng Lương tiểu thư! Cô ta trước khi chết vẫn còn oán hận Lương tiểu thư và nguyện kiếp sau sẽ đòi món nợ tình này! Mộ của cô nằm trong nghĩa trang làng Nhì, có sáu chữ Hán ghi trên tấm bia: Thứ Nữ Đoàn Thị Chi Mộ.

Khoảng một năm, sau khi cô gái bất hạnh nằm xuống, có những đêm Lương tiểu thư nằm mơ thấy lãng đãng một bóng hình thiếu nữ mặc toàn đồ trắng lướt đến bên giường và lên tiếng đòi mạng! Cụ Tú Cự Vượng tuy không tin câu chuyện kể, nhưng thấy con gái ngày càng xanh xao, vàng vọt, đành buộc lòng phải để Cụ Bà lên Đền Ngọc Sơn xin cúng Sao, giải hạn. Cụ Bà còn được đem con gái xuôi vùng đồng bằng để dâng cho Bà Chúa Liễu, trong một đại lễ ở miền giáp ranh hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hoá.

Bữa kia, có người học trò cũ đem bức tranh Tố Nữ (trong bộ tứ bình đã bị cháy ba bức) đến biếu, cụ đem treo ngoài phòng khách là nơi trưng bày nhiều tranh Dân Gian xưa, nay do các nghệ nhân Việt vẽ và in mộc bản.

Rồi tự nhiên Lương tiểu thư bớt dần mộng mị. Người nhà Cụ Tú, có kẻ bàn tán cho là sở dĩ tiểu thư giảm bệnh là do kết quả việc cúng Sao giải hạn; người thì cho là do kết của của việc dâng Cô cho Ba Chúa Liễụ

Chỉ có Lương tiểu thư là cảm nhận được sự phù hộ thiếu nữ trong bức tranh treo trên tường.

Bởi vì sau khi tranh được đem đi, những cơn ác mộng lại hành hạ Lương tiểu thư, khiến gia nhân trong gia đình cụ Tú xôn xaọ Lời bàn tán đến tai Sinh, nên chàng dự định là sẽ xin hầu chuyện cụ Tú để trình bày ý nguyện. xin trả lại bức tranh để Lương tiểu thư được giảm bệnh.

- o O o -

Và bây giờ, người trong tranh vừa ngỏ ý từ biệt Sinh.

- Thì ra cô nương đã biết là sáng mai tiểu sinh sẽ đem bức tranh qua bên cụ Tú Cự Vượng. Tiểu sinh làm như vậy chính là phù hợp với tâm ý của cô nương muốn cho tiểu sinh vì Lương tiểu thư mà...

Thiếu nữ thở dài:

- Cảm ơn tiên sinh có hảo ý. Nhưng tiện thiếp đã nói rằng hết nhiệm vụ ở địa phương này, bao gồm cả khu vực tả và hữu ngạn sông Hồng. Đến giữa giờ Tý, bức tranh sẽ không còn là nơi mà tiện thiếp nương thân nữạ Vì thế, tiên sinh có đem tranh trả lại cụ Tú hay không, cũng không còn tác dụng nào nữạ Hẳn tiên sinh đã hiểu ý tiện thiếp. Do vậy mà chính tiên sinh mới là người "giải oan" cho Lương tiểu thư, chớ không phải tiện thiếp nữa!

Thấy Sinh vẫn còn chưa minh bạch, cô gái chậm rãi:

- Cõi Trên có cơ huyền diệu, tiện thiếp không thể tiết lộ. Chỉ xin khuyên tiên sinh là, nếu cụ Tú có yêu cầu tiên sinh làm điều gì vì ái nữ của cụ, mong tiên sinh sẽ không nề hà.

- Tiểu sinh có liên quan gì đến chuyện riêng tư của Lương tiểu thư, thưa cô nương?

- Có mối giây ràng buộc vô hình. Nói cách khác, tiên sinh từng có món nợ phải trả cho cô gái bất hạnh của Phường Hát Đông Đô. Cô ấy cứ nhè Lương tiểu thư là người không vay để đòi trả. Tiên sinh làm điều gì cho Lương tiểu thư, cũng tức là trả nợ xưa cho ca nữ vậy...

Nói xong, thiếu nữ nghiêng mình cúi đầu chào Sinh. Trái với ý nghĩ của sinh là cô sẽ bước vào bức tranh, thiếu nữ lại bay lướt ra phía ngoàị Từ đó, không bao giờ Sinh còn nghe tiếng đàn phát ra từ bức tranh Tố Nữ nữa!

*

Sau lần Sinh hầu chuyện cụ Tú Cự Vượng, không ai còn thấy Sinh xuất hiện hai bên tả và hữu ngạn sông Hồng!

Một môn sinh của cụ Tú, trong dịp đến thỉnh an , đã trình với cụ, rằng vào buổi Lễ tại đền Kiếp Bạc mới đây, ông ta đã trông thấy một nhà sư có khuôn mặt và dáng dấp giống hệt Sinh, đứng trên Trai Đàn.

Cụ Tú chỉ mỉm cười

Kết Thúc (END)

Trường Sinh Bất Tử

Font Size: Tác Giả: Khuyết Danh

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Tư Âm Nguyễn Ðoài Sĩ, người làng Ðoài Xá, phủ Dạ Trạch tên tục là Nguyễn Lại, con nhà khá giả, được bố mẹ nuông cưng từ nhỏ, rồi cho sang làng bên theo thầy học đạo, vì thế cũng võ vẽ vài ba chữ thánh hiền, bụng thuộc dăm bảy câu thi phú, mà tự biểu là thế. Âu cũng là sính chữ đua đòi gọi hiệu cho sang.

Lớn lên, nhờ vãi tiền khắp trên dưới, vả lại khí chất cũng nhanh nhẹn nên lọt được vào phủ đường làm chân thư lại cỏn con, giúp việc kiện. Năm hai mươi tuổi lấy vợ. Vợ tên là Lý Hòa Liên, người cùng làng, phốp pháp, trắng, xinh xẻo. Trời phú cho thị họ Lý những bộ phận đàn bà có sự hơn người, với lại cũng biết cách chiều chồng, ăn ở mặn mà nên Nguyễn Lại yêu mê mệt. Trừ những lúc lo việc ở phủ đường, thời gian còn lại, chàng quấn quít bên vợ, ân ái say đắm. Ngày tháng qua đi êm ả, no đầy và dễ chịu. Cuộc sống yên vui tưởng như không có đáng lo nữa.

Một ngày nọ, gia đình họ Nguyễn gặp đại tang. Thân sinh chàng trúng cảm, qua đời ở tuổi năm mươi. Làm xong đạo hiếu, chàng vô cùng rẫu rĩ. Buồn vì mất bố là một lẽ. Nhưng chàng còn sợ hãi khi nghĩ rằng một ngày nào đó, đến lượt chàng lại cô lẻ nằm trơ trọi ngoài cánh đồng trống lạnh, mọi phú lộc làm ra, sự sung sướng trời ban đều không được hưởng nữa. Từ đấy chàng đâm ra lo buồn. Ðêm nằm thao thức nghĩ ngợi.

Một tối, người vợ quào chân sang hỏi:

- Chẳng hay chàng có điều gì khó ngủ?

- Ta thấy tạo hóa vô lý quá, hà cớ gì con người cứ phải chết? - chàng rầu rầu hỏi lại.

- Sự ấy có gì lạ. Sinh, lão, bệnh, tử, ai ai cũng phải chịu cái vòng ấy.

Chàng thở dài mà rằng:

- Than ôi, giá mà cứ được sống thế này mãi mãi.

Người vợ cười lớn rồi kéo khuôn mặt thẫn thờ của chàng mà áp vào bộ ngực trần phây phây quá cỡ nóng ran của thị.

- Thiếp nghĩ rằng, đã được sống thế này, có chết cũng thỏa.

Nói rồi, quờ tay tìm vật báu trên người chàng. Nguyễn Lại lịm đi. Nhưng càng hạnh phúc, càng sung sướng, chàng càng sợ chết, càng ham sống.

Tuy ngày ngày đi vợ tiễn, về vợ đón, cơm nóng canh ngọt, ủ ấp hằng đêm, chàng cứ thấy buồn buồn canh cánh một nỗi lo sợ. Ðêm nằm cạnh vợ chàng thường thở dài thườn thượt mà tự hỏi: Tại sao con người không sống mãi để hưởng cho hết lộc trời?

Một hôm, dịp ấy đang là mùa xuân, cây cỏ đâm chồi nẩy lộc khoe sắc, người người hớn hở, rạng rỡ mặt mày, nơi nơi chốn chốn tưng bừng mở hội, chàng vẩn vơ ra phố ngắm cảnh. Chợt, lúc đó có một cụ già râu tóc bạc phơ từ phía trước hớt hải đi tới. Và có lẽ vì vội vã, cụ va phải Nguyễn Lại, đánh rơi cây thiền trượng.

Chàng cúi xuống nhặt lên, lễ phép hỏi:

- Ðang là ngày vui, có việc gì mà cụ phải gấp vậy?

Ông già nói:

- Quí khách không rõ ư? Ta sợ chậm chân. Ðã đến dịp ta phải có mặt để nghe giảng đạo.

Họ Nguyễn bèn hỏi:

- Thưa, xin cụ cho biết cụ người ở đâu tới? Và cụ đi thụ đạo ở nơi nào?

Cụ già nhìn về phía dãy núi xa mờ trước mặt, nói:

- Ta người Thanh Liêm thuộc phủ Ðổng Quốc, hôm nay lên núi Phù Tiên để nghe Ðức Ðồng Chân Nhân Ðại Ðạo truyền thụ phép trường sinh bất tử.

Họ Nguyễn nghe vậy cả mừng, nghĩ rằng phải chăng đã tới lúc trời giúp, liền xoắn xít hỏi:

- Thưa, con hỏi khá đường đột, những người như con muốn thụ đạo trường sinh liệu có được?

Ông già nhìn từ đầu đến chân viên thư lại, rồi nói:

- Ðược! Nhưng quí khách đã nghĩ chín chưa?

Nguyễn Lại đáp ngay:

- Dạ thưa, đó là điều tâm niệm của con bấy lâu nay mà con chưa có dịp - Chàng khẩn khoản - Mong cụ rộng lòng giúp cho, ơn này trời biển, con không dám quên.

Ông già nói:

- Ðạo là việc của trời ban cho mọi người. Ta vân du cùng khắp thiên hạ cũng là đạ thu nạp môn đệ cho Ðức Ðồng Chân Nhân Ðại Ðạo, dám đâu từ chối một ai.

Nguyễn Lại bàn quỳ xuống vái ông già:

- Vạn phúc cho con quá! - Rồi hỏi: Con muốn báo cho vợ con là Thị Liên biết, chẳng hay có tiện?

Ông già nhìn ra xa, nói:

- Còn quyến luyến bụi trần, e rằng khó đắc đạo! Nếu thành tâm, xin đi ngay kẻo chậm.

Nguyễn Lại không chút đắn đo, liền khấp khởi bám gót ông già. Chẳng mấy lúc hai người ra khỏi phố phủ.

Tối ấy Thị Liên không thấy chồng về, chẳng rõ đã xảy ra cơ sự gì, chỉ biết tựa cửa ngóng ra. Ngày một ngày hai vẫn bằn bặt. Thị liền bỏ nhà, cất công dò hỏi. Nhưng tìm kiếm khắp, vẫn chẳng một tung tích của chồng. Thị buồn bã, vật vã khóc lóc, rồi cuối năm ấy, không thể thiếu vắng được đàn ông, bèn đi lấy người khác.

Nói về Nguyễn Lại, sau khi ra khỏi phủ, cảm thấy đôi chân mình nhẹ tênh liền bước gấp theo cụ già như bay. Ðêm hôm đó, hai người đến chân núi Phù Tiên. Ông già dẫn Nguyễn Lại đi men theo con đường mòn. Ðến một cửa hang sau lưng chừng núi thì dừng lại. Họ Nguyễn ngước lên thấy hàng chữ "Ðức Ðồng Ðại Ðạo Tôn miếu" lấp lánh ánh vàng thì mừng lắm. Hai người bước qua cửa, chỉnh đốn lại áo mũ, rồi theo hành lang rộng, đi vào. Phía cuối hành lang, thấy tỏa ra ánh hào quang rực rỡ. Ðến cửa thứ hai, cụ già ra hiệu cho Nguyễn Lại dừng bước. Bốn tiểu đồng nhận ra ông già liền vào trong bẩm báo. Ðức Ðồng truyền cho dẫn hai người vào. Ông già cùng Nguyễn Lại đi sâu vào Tôn miếu. Tới nơi, thấy Ðức Ðồng Chân Nhân Ðại Ðạo đang tọa trên sập vàng. Xung quanh, lung linh ngũ sắc, hương khói thơm lừng. Ông già quỳ xuống, Nguyễn Lại quỳ theo.

Chân Nhân Ðại Ðạo chỉ Nguyễn Lại và hỏi:

- Người này là ai?

Ông già đáp:

- Thưa Ðức Ðồng, đây là họ Nguyễn, phủ Dạ Trạch muốn làm môn đồ theo học pháp trường sinh.

Chân Nhân Ðại Ðạo nói:

- Pháp trường sinh phải dày công tu luyện, người có kiên tâm không?

Viên thư lại vội vàng thưa:

- Con kiên tâm!

- Liệu có quên được chuyện đời?

- Dạ, con quên được, xin Ðức Ðồng cho thụ giáo.

- Ðạo của ta không được vương vấn trần ai, ta thấy ngươi thành tâm, ta chấp nhận.

Nguyễn Lại liền vái tạ.

Từ hôm ấy, họ Nguyễn ăn chay, ngày ngày ngồi cạnh vân sàng của Ðức Ðồng Chân Nhân Ðại Ðạo nghe giảng, tụng kinh... Tháng nọ nối năm kia, chỉ một chu trình: ăn, đọc kinh, buổi chiều đi dạo quanh sườn núi. Thấy công việc lặp đi lặp lại một cách đơn điệu tẻ nhạt, họ Nguyễn đâm ra chán, nhớ nhà, nhớ vợ. Nhưng cũng chỉ là nghĩ trong bụng mà không dám lộ ra. Việc đàn hương đọc kinh vì thế có phần sao nhãng. Ðược thụ pháp trường sinh như mơ ước của chàng, nhưng Nguyễn Lại bắt đầu chán nản. Chàng thấy cuộc sống xưa kia của chàng mới thú vị làm sao! Và vì vậy chàng luôn bị cảnh giường chiếu cùng vợ ám ảnh. Ðêm đêm chàng trở mình, giấc ngủ chập chờn. Rồi chàng nghĩ: thà được sống như trước đây, bên vợ một hôm rồi chết còn hơn "trường sinh" một cách nhàm chán ở chốn này.

Vào một ngày nọ, cũng là tiết xuân, Nguyễn Lại cùng tiểu đồng đi vãn cảnh. Chợt nghe nhiều tiếng cười dưới chân núi vọng lên, liền dừng lại. Dưới đó, hội xuân đang kỳ rộ. Chỗ này kéo co, múa lân. Chỗ nọ đánh vật, quay đu. Náo nức, vui vầy. Nguyễn Lại dừng mắt lâu bên một cây đu. Nơi ấy, một trai một gái, quần nâu váy lĩnh đang quấn lấy nhau mà nhún. Váy người con gái tốc cao, lộ rõ cặp đùi trắng. Nguyễn Lại vội quay mặt, thở dài. Hôm sau, một mình chàng ra chỗ cũ, trông xuống. Ngày trước, mình cũng được sống vui vẻ như họ, chàng chợt nghĩ, và hình ảnh Thị Liên lại hiện ra. Ðêm đó, về đến Tôn miếu chàng bỏ cơm.

Hôm thứ ba, chàng dậy sớm, ăn mặc gọn gàng và xăm xăm lẻn xuống núi. Những tiếng cười trong trẻo của đám con trai con gái và sự trêu đùa của họ khiến chàng vui thú. Chàng lẫn vào đám đông đi hội lúc nào không hay.

Quê nhà cũng đang vào xuân, ta thử về đó một lần xem sao! Nghĩ vậy, chàng liền cất bước.

Quê hương khác xưa nhiều quá! Chàng có rõ đâu rằng một năm trên núi Phù Tiên là mấy chục năm nơi cõi đời - Chàng lạ lẫm như Từ Thức về làng. Chàng dò hỏi mãi, vẫn chẳng một người rõ Thị Liên là ai. Tới một ngôi nhà nọ, gặp bà cụ đã trên bảy mươi tuổi, tóc bạc trắng nhưng lại có những nét quen quen, chàng ngờ ngợ hỏi thăm. Bà lão không trả lời, chăm chú nhìn chàng rồi ngạc nhiên hỏi lại:

- Người là... có phải Thư Âm Nguyễn Ðoài Sĩ... Ngày xưa?

- Thưa, cụ là...

- Tôi là... Lý Hòa Liên.

Nguyễn Lại thất kinh, khuôn mặt méo xệch, liền hét to một tiếng, và chàng choàng tỉnh, trong lòng vô cùng sợ hãi. Thì ra đó là một giấc mơ.

- Có gì khiến chàng run rẩy vậy? - Người vợ bật dậy, ái ngại nhìn chàng và hỏi.

Nguyễn Lại ra khỏi giường, giật khăn thấm mồ hôi đang ướt đầm trán, rồi ngồi xuống, thở, và hổn hển kể lại mọi việc với vợ.

Thị Liên nghe xong cả cười, bèn thốc váy, phủ kín khuôn mặt chàng thư lại...

Kết Thúc (END)

Bóng Ma Trường Áo Tím

Font Size: Tác Giả: Bình Nguyên Lộc

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Thái ngóc đầu lên để vói rút khăn lông trên đầu giường đặng che mặt mà ngủ, vì đèn chong nóng quá.

Rút khăn xong, anh thả rơi đầu xuống thì nghe một cái cộp, rồi lại nghe anh ta la: " Ui cha ! " Ở mấy chiếc giường hai bên, ngườI ta rúc rích cười. Anh đã bị bạn kế giường rắn mắc ăn cắp gối lúc anh ngóc đầu lên. Tên ăn cắp là Ngư. Ngư hô:

- Nè chụp nè ! Rồi liệng gối Thái theo đường vòng cầu. Gối bay ngang mình Thái rồi rơi qua giường bên kia. Nguyên đưa tay sẵn để hứng lấy rồi dồi gối qua cho Thoại bên cạnh , y như người ta chơi bóng rỗ.

Gối chuyền tay mà bay từ giường này đến giường khác , Thái rượt theo mãi mà không kịp. Rốt cuộc anh đành trở về giường, cuốn mền lạI kê đầu mà nằm.

Những người chơi cái trò trẻ con trên đây toàn là ngườI lớn cả, trên dưới bốn mươi tuổi đầu.

Đó là những thầy giáo ở tỉnh , nhân dịp bãi trường về Sàigòn theo học các lớp tu nghiệp tại trường Gia Long.

Tất cả, ngày xưa đều là lưu trú học sinh ở một trường trung học nào đó ở miền Nam.

Cuộc sống chung trong mùa tu nghiệp năm nay bỗng dưng gây lại cái không khí mười mấy năm về trước với những dãy giường sắt ngay hàng thẳng lối , với trống điểm giờ ăn, giờ tắm, giờ nằm, vớI bóng đèn chong màu xanh xanh tỏa ánh sáng trăng nhơn tạo xuống những chiếc mùng rung rinh mà trong đó các cậu thiếu niên mơ những mộng đẹp ngoài đời.

Ôi, cái đời lưu trú năm xưa, xa lắm rồi mà nghe sao như là mới hôm qua này thôi !

Ôi, những cái đầu, tóc còn dưỡng rẽ, ôi những chiếc tủ đầu giường thơm mùi thuốc rệp mà trong đó bao thiếu niên mơ mộng đã xếp kỹ những bức thư xanh, những bức thư tím, những bức thư hồng, cũng như họ đã ủ kín trong lòng non dại của họ niềm yêu bâng quơ tác giả các bức thư kia.

Ôi ,những gói bánh tổ bột gạo, đường hạ Biên hòa mà các cậu thiếu niên gặm mòn trong đêm tối như chuột gặm khoai, ôi những kỷ niệm xa xưa , nay đã đâu rồi !

Ngày đầu vào trường Gia Long, ai nấy lòng cũng quặn thắt đau, nghẹn ngào xúc động mà nhìn những dãy nhà giống hệt những dãy nhà của trường Petrus Ký, trường Sở Cọp, trường Cần Thơ, trường Mỹ Tho mà trong đó đã nghỉ yên quá khứ của họ.

Làm sao không ngậm ngùi được vì đó là nơi mà một khi kia trong đời họ, họ đã hoài thai nhiều mộng vĩ đại, đã mơ những giấc mơ tiên Nhưng rồi sự học tập và cuộc sống tập thể lôi cuốn họ vào một nhịp khắc khổ hơn nên họ tạm dẹp tình cảm lại.

Nhưng họ vẫn cảm nghe họ trẻ lại đi mườI mấy năm, ham nô đùa vớI nhau như lũ lưu trú học sinh ngày trước Các thầy giáo hôm nay cũng rắn mắc y hệt như cái bản sao của họ hồi tiền chiến Khi chiếc gối bay đến giường cuốI dãy thì anh Trung chụp rồI dộng vào cửa buồng một cái rầm nghe như vợ chồng ai đang đánh lộn vớI nhau - Mấy thằng dịch già này , không cho tao ngủ hở bây?

Đó là lời mắng rất hiền của một ông cụ bốn lăm. Mới bốn lăm mà ông ta ra vẻ cụ lắm - Thôi ngủ bây ơi, kẻo cụ giận không gả con cho thì chết đến sáu bảy cửa lận: cửa trước không ai đóng, cửa sau không ai gài, cửa túi rách không ai vá, cửa tủ tiền chạy ra không ai ngăn, cửa miệng không ai tiếp tế lương thực nè ...... Cả bọn cười xòa, và anh Hạc hát giọng tuồng:

- Nhạc gia ơi ! Xin đó mựa đừng vội giận, đây nguyền nuốt hận làm im cho nhạc gia ngủ đó a nhạc gia !

- Thùng ! anh Trinh đánh trống miệng một cái nghe ngọt xớt - Thôi phát nầy ngủ thật đa ! Dung nói - Khoan, để mổ ra câu đối, đứa nào đối được, sáng mổ bao ăn kem. Ráng nghe các cha:

- Ngủ giả mà nói ngủ thật, là giả ngủ - Xuất đối đi, đối đối nan, thỉnh tiên sinh đối vậy - Im !

- Đèn chong sáng quá làm sao ngủ - Trong Petrus Ký đó nghen tụi bây, hồi đó nó không chong đèn bóng xanh như ở đây, vì bóng xanh sáng lắm, học trò lén thức học, bỏ ngủ rồi bịnh cả đám. Biết nó làm sao hôn? Nó chong bằng bóng trắng mà ngoài sơn dầu sơn xanh. Như vậy ánh sáng tốI hù, đứa nào ham học thì bơ.

Có một bận đó nghen, tụi nó đòng đòng lên ba đứa như làm trò xiệc ấy, để lấy dao cạo dầu sơn. Quên nói là trường Petrus Ký khôn lắm , nó rút bóng đèn lên sát tận trên trần để mình phá không được.

Đang cạo sột sột bỗng đâu thầy Su-quây-dăng mở cửa kiếng kêu cái bực mà bứơc ra, vì tụi ngoài này làm ồn như giặc, thầy ta chịu không thấu đời quyết ra chụp vài cậu phạt cho hả giận Đám hát xiệc nghe nguy hoảng hốt, anh kép ở dướI quăng anh kép đứng giữa, anh kép giữa quăng anh kép trên. Anh nầy, tao nhớ tên là anh Gừng. Anh ta té cái rầm , năm bất tỉnh nhơn sự , con dao đâm lủng tai trái anh ta, máu ra linh láng.

Thầy Su vừa bước ra, thấy vậy ngỡ anh ta chết, sợ chịu nhơn mạng, vội thốI trở vô. Vừa lúc ấy thì mùng cháy rần rần vì anh Ký thắp đèn cầy mà học , học mê không hay gì cả, đến chừng nghe cái rầm anh ta giật mình hươi tay đụng đèn ngã vào mùng mà gây hỏa hoạn.

- Rồi sao nữa?

- Rồi áp nhau mà la mã tà chớ sao. Có thằng hô to " Hỏa thiêu Hồng Liên Tự rồi bây ơi ! " Đêm ấy, nhà ngủ tụi tao rầm rầm như đám giựt giàn cúng làm chay.

- Rồi anh Gừng có sao không?

- Sau đó , anh ta hóa thành thi sĩ.

- Lạ không?

- Anh ta làm thơ như vầy:

Cạo đèn bây học, lại quăng tao, Nghĩ giận tụI bây , máu muốn trào Hát xiệc không lương , xương lạI gãy, Thầy Su hoảng sợ, thích biết bao !

Chưa chết mà bây châm lửa đốt, Tao chẳng dân Miên, hỏa táng tao !

Từ rày nhắn vớI quân ham học, Vùi đầu vào sách sẽ ho lao - Toàn vần ao không mà thôi - Phải, đó là anh ta cố ý, vì anh ta nói anh ta đã bị nóc ao mà !

- Thôi bỏ mùng xuống ngủ các cha !

- TụI bây ơi, mùng của mình vén coi có vẻ thất trận lắm ! Tụi áo tím hồi đó tao đi ngoài đường thấy chúng nó vén mùng khéo mà bắt thèm. Chúng nó may mùng trùm phủ ngoài trụ, rồi muốn vén, vo tròn lại từ lai trôn vo lên, như con gái thợ cấy xăn ống quần. Thật là tay con gái có khác.

- Các cô con gái áo tím dễ yêu hồi đó bây giờ đã hóa ra bà già rồi bây ơi, trời hỡi nè, đời ngườI sao mà thấm thoát , cô áo tím của tôi đã năm con bảy cháu rồi nè trời !

- Hu.....hu.....!

- Thùng !

- Các anh ơi, sao mà nằm trên giường nầy, tôi nghe như hương thừa của ai còn phảng phất đâu đây.....

- Giường cũ biết còn hay không?

- Sao lại không. Trường Gia Long là cái trường độc nhứt không bị quân đội Nhật và Pháp sung công thì cái gì cũng còn nguyên vẹn cả, trừ người xưa. Kìa cái cây dé ngựa ngoài sân, ngày xưa, cô áo tím của tôi chiều chiều đã dựa vào đó mà làm thơ.

Cây cối bây giờ đã thành đoàn cổ thụ già, đang chờ người đi mất tự ngàn xưa ... Ngày nào tròn trăng lại nhớ.....

- Có ai xuôi vạn lý , nhắn đôi câu.....

- Thùng !

- Tân cổ nhạc hằm bà lằng, mại dô !

- Quỉ dịch, có để người ta ngủ hay không nè?

Bấy giờ chắc cũng đã khuya rồi, nên phần đông mòn mỏi và lời mắng cuối cùng đã bịt miệng họ được.

Tuy nhiên, những người chưa ngủ vẵn lăn qua trở lại hoài. Nhớ vợ, nhớ con ở tỉnh nhà , hay nhớ một mối chinh phục mớI? Ừ, một dịp đi Sàigòn y như là ngày kép núi hạ san và rất có thể gặp đào giữa truông mây Thầy giáo Lâu ngồi dậy định bước ra cửa sổ dòm sao. Thầy giáo Niệm cận giường còn thao thức , thầy kéo bạn dậy và nói nho nhỏ:

- Chưa ngủ à? Ra đây hứng mát. Trời, tháng bảy mà sao nóng nực quá?

Giáo Niệm là tay làm ồn nhứt trường từ hổm nay, không ai chịu nổi thầy ta cả. Mỗi đêm thầy ta đều rủ các bạn tái diễn cái trò kêu rệp ngày xưa nghe muốn bể con rái.

Thầy gác , tiếng Pháp kêu là Su-quây-dăng , nhưng hồi xưa học sinh lại kêu lầm họ là rê-pê-ti-tơ và kêu tắc là Rệp.

Đêm đêm hễ thầy gác đi rình là họ kêu than có rệp:

- Rệp mắc dịch ! Bò hoài sáng đêm !

Rồi họ đập giường rầm rầm Giáo Niệm nô đùa dữ quá , cười muốn bể cửa kiếng nhưng ai tinh ý thì thấy trong cái quá lố ấy có ẩn hiện một hơi hướng đau thương, như là sầu quá hóa điên, cườI ra nước mắt.

Nhứt là từ lúc các bạn nhắc đến các cô áo tím cho vui thì thấy thầy ta ngậm câm, không tham gia buổi tối vui nữa.

Tiểu tiết ấy không thoát khỏi mắt quan sát của ngườI bạn thân giữa đường của giáo Niệm là giáo Lâu.

Còn một điều lạ lùng nầy nữa là từ Phong Dinh ( Cần Thơ) lên để theo học lớp tu nghiệp Anh văn mà giáo Niệm không thèm học hành gì cả. Theo chỗ dọ biết thì ngày xưa thầy rất khá Ăng lê, mà đã quên hết rồi.

- Thì nay học lại , chớ khó khăn gì đâu.

- Nhưng thầy ta như cóc cần học. Mỗi lần bà giáo người Mỹ gọi đến thầy là thầy cứ trả lời độc một câu mà thầy còn nhớ:

- I can't speak English (1) " Tâm sự gì? " Lâu tự hỏi thầm và ái ngại cho người bạn mới mà thầy rất mến.

Một người từ Bình Dương xuống, một ngườI từ Phong Dinh lên, chơn trời góc biển gặp nhau, lại mến nhau như bạn thâm giao đâu từ thuở ấu thời.

Đôi bạn thót lên ngồi trên đầu tủ com-mốt , rồi Lâu chỉ vòm trời đen lóng lánh sao mà hỏi bạn:

- Giống cái gì?

- Giống sao vàng rải trên hòm sơn đen - Ghê quá ! Sao anh lại nghĩ đến cách so sánh tang tóc như vậy?

- Có lẽ vì liên tưởng.

- Đến cái gì?

Giáo Lâu đặt tay lên vai bạn không nói gì, nhưng cử chỉ ấy hùng biện biết bao ! Đôi bạn thông cảm nhau một niềm thương mến sẵn sàng trao đổi nhau nghe tất cả cái gì ray rứt trong lòng họ.

Giáo Niệm cúi xuống nhìn sân trường tối om, xa xa một vừng ánh đèn vườn làm nổi bật lên cây lá trong một khoảng nhỏ....

- Trong cái im lặng bao phủ cảnh trường nầy, tôi bồi hồi tưởng nhớ năm xưa ....

- Ngỡ gì, ai lại không như thế. À, hồi đó anh học trường nào?

- Petrus Ký - Còn tôi thì học Sở Cọp. Trường của mình nên thơ hơn trường này phảI không anh. Thuở ấy, đêm tôi dòm ra sở thú, lắng nghe tiếng thủ thỉ của dân rừng bị nhốt... - Còn tôi thì đêm đêm dòm ra thành Ngã Bảy lúc đó còn là một cánh đồng ma, để xem đèn ma và nghe mấy chị bột khoai kêu mả tà. Ấy ,quanh trường hoang vắng nên tối nào cũng có cướp cạn.

- Còn ở đây lâu đài, dinh thự nhiều quá, không đẹp gì hết.

- Tôi, tôi lại nghĩ khác. Tôi thấy ở đây rất nên thơ vì có lẽ trường này dính líu đến tôi nhiều.

Giáo Lâu đã thành công nhờ khôn khéo. Thầy ta biết nếu tra hỏi thì chắc bạn không chịu khai. Còn gợi chuyện thì tự nhiên việc nầy đưa đến việc khác, và đầu dây mốI nhợ sẽ được tháo tung ra.

Giáo Niệm đột ngột hỏi:

- Anh có biết là tôi chưa vợ hay không?

- Không , trời ơi, đã bốn mươi hai rồi mà ....

- ...... Mà còn cô độc, ừ. Tôi đi lên đây , mục đích chánh là đi hành hương. Hễ có dịp vào trường Gia Long là tôi vào, không biết để chi, nhưng không thể đừng được.

Trường nầy không phảI cảnh cũ, nhưng có lẽ nó gợi nhớ nên tôi thích. Hễ nhớ là đau, nhưng lạI cứ muốn nhớ, nhớ hoài để nghe như nó còn mới hoài, mới như vừa xảy ra hôm qua đây.

Năm ấy tôi học năm thứ hai. Một hôm Chúa nhựt ra chơi nhà ngườI chịu trách nhiệm về tôi đối với nhà trường, tôi gặp Oanh, trường áo tím, cháu của nhà nầy mà tôi không dè.

Tôi còn nhát gái lắm, nên bẽn lẽn một lúc rồi bỏ đi luôn.

TốI lại về trường tôi mới thấy là tôi ngu quá. Bạn hữu trong trường đứa nào cũng có bạn gái ở ngoài cả chỉ trừ tôi thôi. Nhà quê không biết làm quen với ai, nay gặp dịp tốt lại trốn mất thì có ngốc quá hay không?

Nhưng bây giờ mà có bạo gan tuần sau ra đó để gặp cô ấy chắc cũng sẽ ú ớ , không biết nói gì Cô bé đẹp quá ! Áo tím làm nổi bật nước da trắng nõn của cô và cái e lệ của cô sao làm tôi điếng người đi.

Bí quá, tôi lén bạn hữu kéo anh Lưu ra góc sân và hỏi:

- Anh Chín nè, làm sao anh quen với bạn gái?

Lưu là một học sinh rất đẹp trai. Anh ấy lại biết làm thơ nữa. Anh có một tập thơ nhan đề là " Anh Chín thi tập ", trong đó anh sưu tầm thơ của anh và của nhiều bạn gái của anh. Anh Chín là biệt hiệu cà rỡn mà bạn hữu gán cho anh và anh vui vẻ nhận lấy.

- Cái đó tùy anh, Lưu đáp. VớI mỗI người, phảI mỗi cách. Cô ấy thế nào?

Tôi kể chuyện gặp gỡ cho anh nghe. Anh trề môi mà rằng:

- Anh thật là thằng chúa ngục, anh trốn như vậy nó khinh anh rồI thì còn mong gì.

Tôi khổ sở quá, và luôn hai ba Chúa nhựt không dám ra đó nữa.

Tuần ấy tôi xáng bịnh: sốt rét rừng. Nhà thương cứu cấp ở trường gởi tôi vào nằm điều trị trong Chợ Rẫy.

Thuở ấy công chức và học sinh đi Chợ Rẫy đều nằm chung một trại , gọi là " Nhà giàu I".

Tôi được tiêm thuốc hai hôm là hết sốt. Nhưng lệ nhà thương , sốt rét rừng cho nằm mườI lăm hôm.

Hôm thứ ba tôi ra ngoài sân, lại gốc me ngồi chơi thì lạ quá, trên băng đá dưới gốc me ấy , cô áo tím đang ngồi đan nón.

Tôi hoảng vía toan thối lui để chạy vào trại thì cô ta thấy tôi, mỉm cười chào tôi một cái. Tôi quýnh lên, đỏ cả hai tai rồi ú ớ như thằng câm.

Để cứu tôi, cô hỏi:

- Anh vào nằm đây bao lâu rồi?

- Dạ ơ....hơ .... mười lăm Sợ quá, đến số ngày cũng nói bậy.

- Em thì mớI có ba ngày. Anh bịnh làm sao và nằm phòng số mấy?

Bấy giờ tôi đã hoàn hồn, bước lại gần băng mà đáp:

- Tôi nằm số bảy, trên lầu. Cô bịnh làm sao và nằm ở đâu?

Thì ra cả hai đều sốt rét. Cô ấy nằm số 25 dưới đất. Hỏi phăng tới thì biết cô cũng học năm thứ hai , ban sư phạm, và tên là Oanh.

Oanh nói:

- Mấy tuần nay, em có ra luôn. Cậu em ngạc nhiên lắm mà thấy anh không tới. Cậu em nói anh học giỏI lắm, không lẽ lại bị phạt ở lạI ngày Chúa nhựt.

Không, không bao giờ cậu Oanh và Oanh biết lý do vì sao tôi không ra cả.

Nhà thương Chợ Rẫy lúc ấy là nơi gặp gỡ của lưu trú học sinh các trường trung học ở Sàigòn. Vài mươi hôm hết hạn , rồi lắm khi thân đến suốt đời. Kỷ niệm chung cũng nhiều lắm.

Oanh và tôi, cố nhiên, cũng trở thành đôi bạn. Đêm nào chúng tôi cũng ra hàng rào sắt đón chú giò chó quảy mua vài chiếc để ăn với sữa đặc nhà thương phát cho.

Cái thú ăn giò chó quảy to bằng cườm chân ở cửa Chợ Rẫy, không anh học sinh tiền chiến nào quên được cả.

VớI lại cái thú kéo nhau xuống nhà xác , rồI hù một tiếng, mạnh đứa nào đứa nấy chạy, chạy đến vắt giò lên cổ.

Một bận Oanh chạy như vậy rồi vấp té , nhờ tôi đỡ kịp. Không hiểu sao kể từ phút đó chúng tôi không còn thẳng thắn với nhau được nữa.

Ra nhà thương , tuần nào chúng tôi cũng gặp nhau ở nhà người chịu trách nhiệm.

Ở đó, câu chuyện giữa chúng tôi là câu chuyện học hành, là chương trình đại số, là phản động hóa học, là định lý hình học, chớ không còn là câu chuyện trăng , sao thú vị ở nhà thương.

Vì vậy, tôi cố tìm cách gặp Oanh nơi khác, đổi không khí để tìm lại những ngày thần tiên khác.

Và chúng tôi đã tìm được.

Không nói chắc anh hiểu ngay là chúng tôi yêu nhau. PhảI, nhưng con ngườI của chúng tôi đứng đắn lắm, nên chỉ yêu nhau suông vậy thôi, chớ không có gì tội lỗi hết.

Nhà cũng biết thế, nhưng tin chúng tôi lắm, nên cũng chẳng rầy la gì, mặc dầu nhiều chúa nhựt, chúng tôi rủ nhau đi tuốt, bỏ cơm trưa. Tối lại vào trường mới ăn.

Tôi hẹn với Oanh ra trường sẽ xin làm thầy giáo để cùng nghề với vợ tôi cho tiện lúc đổi đi nơi nầy nơi khác.

Và tôi đã giữ lời hứa. Nhưng vì chưa cướI nhau nên Oanh được bổ đi Sóc Trăng , còn tôi thì Bà Rịa.

Tuy cách trở, mà thơ từ qua lạI luôn. Oanh bị tang bà nội, nên chúng tôi chưa thành hôn với nhau được.

Cứ mỗi ba tháng là tôi xin phép nghỉ, đi xuống thăm Oanh một ngày ! Oanh vẫn yêu tôi như thường, có lẽ yêu hơn trước vì hễ tình yêu chưa toạI thì nó cứ càng ngày càng tăng.

Cả hai chúng tôi đều nóng lòng đợi mãn khó tang bà và cùng dự liệu nhiều việc về tương lai.

Như vậy được một năm. Còn có bốn tháng nữa là hết tang. Tôi nao nức lắm và vừa định xuống thăm bạn lần chót để thỏa thuận nhau về chi tiết đám cưới, thì bỗng được thư Oanh.

Oanh bảo tôi đừng xuống nữa, giọng nhứt quyết lắm và hăm sẽ giận tôi luôn nếu tôi cãi lời Oanh. Oanh lại cho biết rằng đám cưới phảI đình lại không biết đến bao giờ.

Đọc xong thư, tôi đâm nghi. Tại sao nàng lại cấm tôi xuống, và đòi đình hôn lễ? Có phải nàng đã yêu kẻ khác hay không? Tôi ghen tức lên , rồi tôi đau xót không thể tả được.

Vài hôm sau, tôi định cứ đi đạI xuống đó, xem cho biết sự thật. Thà là phảI bật ngửa ra mà thấy mình bị phụ tình, còn hơn là ngồi nhà mà xốn xang, mà nghi hoặc.

Nhưng tôi lại không đi, vì tôi hờn Oanh. Thôi, người ta không thương mình nữa thì thôi, đeo đuổI theo làm gì, Con ngườI bạc nghĩa ấy còn xứng đáng sao được mốI tình chung thủy của mình !

Thế rồi tôi nín đi hai tháng. Tôi ốm xanh xao, và bỏ công việc đến nỗi bị ông Thanh tra hàng tỉnh phê bình cảnh cáo mấy lần.

Không chịu được nữa , tôi gởI thư, gửi liên tiếp mỗI ngày một bức, hăm tự tử, dọa xuống thăm nàng ,đủ thứ việc.

Nàng trả lời cũng liên tiếp và nói nếu tôi xuống là nàng sẽ chết mất.

Rồi đùng một cái, đến tháng tư là tháng xả tang, Oanh gởI cho tôi một bức thư vĩnh biệt. Tôi còn thuộc lòng bức thư ấy.

Anh Niệm ơi !

Em đã chết rồi. Kể từ giờ phút anh được bức thư nầy thì em không còn ở trên đờI nầy nữa. Hay là em còn, mà không bao giờ anh thấy mặt em được cả.

Anh ơi, em ích kỷ lắm, rất muốn làm vợ anh cho dẫu một ngày thôi, để thỏa tình em yêu anh từ bao lâu nay.

Nhưng mà suy cho cùng , nghĩ cho tận, hưởng thụ ấy không ích lợI gì cho em cả, mà hạI cho anh không biết bao nhiêu.

Vậy anh cứ xem là em đã chết rồi. Dầu anh có lục lạo thế nào cũng chẳng tìm được em đâu. Mà tìm làm chi , nếu anh muốn mốI tình đôi ta cứ còn chớm nở mãi mà không tàn rụng bao giờ.

Nghĩ ra thì thái độ của em cũng do ích kỷ xui giục mà có. Tránh ích kỷ kia lạI phạm ích kỷ nầy. Đừng tìm hiểu, không bao giờ anh hiểu được đâu.

Em đã khóc ra không biết bao nhiêu là nước mắt khi quyết định điều trên. Anh có lường được niềm đau xót của em không?

Nhưng em là gái mà em đã can đảm được , thì anh cũng nên theo gương em. Đừng sầu muộn gì hết, cố mà quên đi rồI lập gia thất. Trong đờI chắc không thiếu chi ngườI đáng yêu hơn em, anh đừng có lãng mạn lắm mà thiệt thân.

TrờI ơi ! Tôi đau nhói như ai cắt ruột tôi ! Anh ơi, em chết đây !

Dưới thư không có lời chào nào, cũng không ký tên, dường như Oanh không còn can đảm viết thêm chữ nào nữa hết.

Tôi chết sững nửa tiếng đồng hồ, rồI đánh điện ngay cho ông Hiệu trưởng trường Sóc Trăng , vì đã bỏ bê công việc lại xin phép mãi, e bị quở nếu xin nghỉ nữa.

Điện tín , tôi viết như vầy:

Trân trọng yêu cầu cho biết sức khỏe của Oanh.

Ông ấy đáp:

Oanh thôi việc. Đi không để lại địa chỉ.

Hừ, thế nầy là làm sao? Thoạt tiên, tôi đoán là Oanh đã lỡ dại với ai, có nghén nên sợ xấu và sợ tội ( trong giáo giới ngườI ta nghiêm khắc về hạnh kiểm của giáo viên lắm ) nên trốn đi. Lại ân hận nên viết thư cho tôi thế.

Nhưng xem kỹ lại lờI thư thì không phải vậy.

Hay là? Tôi nhớ có đọc một tiểu thuyết trong đó tác giả kể chuyện một cô kia ho lao, rồi trốn tình nhơn để chết.

Nhưng cũng không phảI. Oanh có học, dư biết bịnh lao không hoàn toàn tuyệt vọng (2) , thì dại gì nàng phảI làm như vậy.

Mà nàng tự tử hay trốn đi đâu? Đó là điều tôi cần biết, nên đánh liều làm mặt lì, tôi xin nghỉ phép nữa.

Oanh ngườI Thủ Thừa. Cha mẹ nàng vẫn ở đó. Tôi vừa vào tớI sân thì bà cụ đã khóc rền nhà.

- Con ơi, vợ con nó đã chết rồi à ! Ơ.....Ơ.. trời ơi là trời , con tôi chết.

Chúng tôi không có làm đám hỏi, nên chưa kêu cha mẹ Oanh là ba má. Thế mà nay bà cụ lạI ăn nói như vậy thì tôi hiểu ngay là Oanh không có tội lỗI gì đối với tôi cả.

Tôi chỉ ngậm câm , khóc không được mà nói cũng chẳng ra lời.

Ông cụ chạy ra xách valy cho tôi và kéo tôi vô nhà. Bà cụ khóc kể một hơi rồi hối trẻ bắt vịt làm thịt đãi tôi. Đàn bà Việt Nam bao giờ cũng vậy. Đau đớn làm sao, họ cũng dẹp lại để lo ăn cho chồng con, cho khách khứa Đàn ông chúng tôi không khóc, nhưng im lặng còn đau thương hơn những kể lể của đàn bà không biết bao nhiêu Ông cụ cứ làm thinh mà săn sóc tôi, coi như con rể cũ mới về và nó đang sầu, cần thương yêu nó để an ủi nó.

Khi bà ra sau chỉ huy bữa nấu ăn, ông cụ mới mở miệng:

- Nó về đây, cất một cái chòi nhỏ trong ruộng, thật xa. Nó căn dặn tôi với mẹ nó hễ .... con đến - ông cụ ngập ngừng trước tiếng "con ", ngại thốt nó ra, nhưng rốt cuộc vẫn dùng tiếng ấy- hễ con đến thì nên giấu biệt chỗ trú ẩn của nó. Ngỡ như vậy là xong , nào dè mấy hôm sau thì nó uống thuốc ngủ để quyên sinh.

Bấy giờ tôi mới khóc được. Đàn ông khóc chắc là trông xấu lắm ! Nhưng tôi bất kể, cứ khóc mùi mẩn như không có ông cụ ở đó.

Khóc cạn lệ tôi mới hỏi xin ông cụ cho biết vì sao em Oanh tôi lại như vậy.

- Con yêu nó quá rồi hoa mắt, hay nhờ nó che giấu khéo thì không rõ. Thật ra nó đã mang bịnh từ một năm rồi, Nó nổi đơn.....

- TrờI ! Tôi kêu thầm - Trong gia đình, bên nội và bên ngoại nó , ba đời liền , không thấy ai có bịnh đó. Xem sách thì thấy nói bịnh cùi có thể lặn trốn hai ba thế hệ lìên rồi mới xuất hiện trở lại.

Tội nghiệp nó quá, căn bịnh bất nhơn lại trồi lên vào thế hệ của nó Hay nó bị truyền nhiễm do người ngoài không biết chừng , vì không nghe nói ông bà hồi trước có ai bị phong đơn.

Nó hoảng sợ hết sức lúc buổi đầu, uống lu bù thứ thuốc mà đơn cứ nổi lên: da sần sần, trái tay dầy ra. Chắc là nó đánh phấn khéo nên con không thấy.

Về sau , nó tuyệt vọng lắm, và có ý muốn quyên sinh. Cái ngày mà nó viết thư dặn con đừng xuống là ngày đơn nổi dữ sau một bữa ăn cua đinh.

Bạn hữu khuyên nó theo thuốc Tây, trị bằng thuốc xanh trộn vời dầu chùm bao. Lối điều trị ấy có hiệu nghiệm thật. Các dề đơn lỳ mặt xuống, nhưng khốn thay, da mặt nó lại xanh lè như đã nhúng chàm ,đánh phấn thế nào cũng chẳng lấp được cả.

Sở giáo huấn cũng chưa nói gì, ông Thanh tra chỉ khuyên sơ sơ nó nên nghĩ dài hạn mà điều trị. Nó còn đang trù tính thì đơn lại nổI trở lên, lần này tao loạn lạ kỳ, bất chấp thuốc men, và nổi cao như phỏng lửa.

Thế là nó xin thôi, viết thư vĩnh biệt con , rồI lùi về đây.

Mấy ngày ở trong chòi cô quạnh, chắc nó khổ sở lắm về viễn ảnh tương lai của nó , nên trong một lúc tuyệt vọng kia , nó hủy mình Trời ơi, bấy giờ tôi mớI hiểu thấu mấy tiếng kêu than của Oanh ở cuối thư, và mới hiểu được tạI sao nàng bảo là nàng ích kỷ.

Oanh muốn cho tôi giữ mãi trong trí hình ảnh tươi đẹp của nàng , y như ngườI quí phi bên Tàu ngày xưa cấm đoán ông vua ấy vào thăm nàng lúc nàng đã tiều tụy sau một trận ốm nặng.

Nhưng không, Oanh có ích kỷ đâu. Nàng chỉ thương tôi thôi, muốn tránh cho tôi nỗi thất vọng vì thể chất của nàng.

Lâu kính nể sự yên lặng của Niệm sau câu chuyện ấy. Trên trời đen sao giống như các điểm vàng trên cỗ săng, cỗ hòm chôn vùi nàng Oanh kiều mị ngày xưa.

- Anh thấy không. Niệm tiếp, làm sao mà tôi quên được mối tình chớm nở ấy. Nó có tàn rụng sau một thờI ăn ở với nhau đâu. Mãi đến giờ phút nầy, tôi nghe vẫn còn yêu Oanh , còn nghe như Oanh còn sống đâu đó. Tuổi tôi cứ chồng chất lên , nhưng tôi có ấn tượng rõ rệt là tôi còn là học sanh mới ra trường với một mớ mộng xuân.

Chúng tôi day lưng dòm vào phòng ngủ thì, qua lướI mùng "tuyn", các cậu học sanh già đang yên giấc, ngáy pho pho.

Ánh đèn chong xanh xanh gợI lên hình ảnh huyền hoặc của một thế giớI ma quái mà trong đó hồn ngườI xưa như đang rung rinh bay qua bay lại, hồn những cô áo tím ngày trước, những cô mà thất tình, bịnh tật, chiến tranh đã cướp đi khỏi thế giới của chúng ta.

Dưới sân đen ngòm , nhiều bóng đen dường như thơ thẩn.

Những bóng ma của dĩ vãng !.

Chú Thích. (1): Tôi không nói được tiếng Anh. (2): Thuở ấy, tuy chưa có thuốc trụ sinh, nhưng bịnh lao nhiều trường hợp cũng trị khỏi được.

Kết Thúc (END) Bình Nguyên Lộc

» Đò Dọc

» Rừng Mắm

» Bóng Ma Trường Áo Tím

Những Truyện Ma (Kinh Dị) Khác

» Nhà Xác!

» Người về từ đáy mộ

» Ma Quá Giang

» Mối Tình Âm Dương

» Hồn Ma Của Người Bạn Thân

» Hồn Ma Trong Biệt Thự

» Người đẹp đông phương

» Tiếng Cười Trong Đêm Khuya

» Giết Người Lấy Sọ Luyện \"Thiên Linh Cái\"

» Ma Nhập Vì Cầu Cơ

» Người Bạn Ma

» Ma Không Đầu

» Bí Ẩn Lời Nguyền

» Con Ma Áo Trắng

» Ngôi Nhà Ma Ở Đà Lạt

» Ma Nhập

» Lá Thư Từ Bên Kia Thế Giới

» Ngôi nhà ma ám ở San Diego....!

» Bóng Ma Trên Gác Thượng

» Quỷ ám

» Ma Trên Đất Mỹ

Đẹp Duyên Cầm Sắc

Font Size: Tác Giả: Khuyết Danh

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Hồi ấy, nghĩa là cách đây đúng 56 năm, mùa Xuân năm giáp Thân (1884) ngày 16 tháng 2, thành Bắc Ninh thất thủ, về tay Pháp. Hai đạo binh, dưới quyền chỉ huy của hai thiếu tướng de Négrier và Brière de L'Isle, một mặt qua sông Hồng Hà, theo dọc sông Ðuống một mặt ở Hải Dương, đi tàu tới Phả Lại rồi đổ bộ, cùng men bờ sông Nguyệt Cầu tiến đánh Bắc Ninh.

trận ấy, quân Pháp chỉ mất độ tám tên binh và độ vài chục khẩu súng. Quân Tàu Cờ Ðen, núng thế, rút cả về Yên Thế, còn trơ quân An Nam thế cô, phải cởi giáp lai hàng. Một vị quan binh đứng đầu cai quản đội binh ta hồi ấy trong thành Bắc Ninh là Lãnh binh Lê Vũ Khúc. Ông là dòng dõi cựu thần nhà Lê, tuy không phải tôn thất, song tổ tiên ông đã làm quan tới chức Công Khanh, ba bốn đời nối tiếp nhau trong hàng tứ trụ. Sau bốn năm thế hệ văn quan, trong họ bỗng đổi nghề nghiên bút sang nghề cung kiếm, tổ phụ Lê Lãnh Binh xuất chân cử võ, làm tới Ngũ Quân Ðô thống, thân sinh ông làm Sơn Nam Ðề Ðốc, đến đời ông khí nhuệ nhụt đi chút ít, ông chỉ làm tới Chánh Lãnh Binh thôị Khi thành Bắc Ninh có cuộc xung đột binh đao, Lê Công đứng trên mặt thành đốc thúc quân sĩ, hợp với quân Cờ Ðen khánh chiến cùng binh Pháp.

Phải một tốp lính phía dưới thành bắn lên, ông bị một phát trúng dưới xương vai, một phát trúng tay phải, rơi mất ba ngón taỵ Biết mình khó lòng chống cự được nữa, Lê Công bèn nhảy vào trong thành, theo đường hầm chạy vào chiến trường, rồi lên ngựa phóng thẳng một mạch về chỗ đất phong ấp của ông, ở cách thành Bắc Ninh hơn một dặm. Gia đình ông ở cả trong ấp đó. Ông vừa phi ngựa tới cửa chưa kịp vào đến sân thì ngã gục xuống, lịm đị Vực vào nhà ông cứ thế thiếp dần, máu chảy ra lênh láng, không trối trăng câu nào cả.

Lê phu nhân hồi đó mới non bốn mươi tuổi; bà sống với hai người con trai đã khôn lớn, một người mười bốn, một người mười haị Cậu cả tên Lê Mạnh Khôi, cậu em là Lê Trọng Việt. Hai anh em được chứng kiến cái chết thảm thương của thân phụ lấy làm đau đớn lắm, tuy còn thơ ấu nhưng cũng đã cảm thấy sự tử biệt sinh ly là một nỗi thương tâm thống thiết nhất trên đờị Hai anh em giúp mẹ tắm rửa cho cha, khâm liệm tử tế và an táng cho người bị chết nạn chiến tranh vì tận tâm báo quốc.

Thành Bắc Ninh bị hạ rồi, khi loạn lạc đã yên, ba mẹ con thu thập đồ đạc, bỏ đất phong ấp ở Bắc Ninh rút về an cư lập nghiệp ở núi Gôi, là quê quán tổ tiên hai anh em Khôi và Việt.

Về đến tổ hương, mẹ dệt cửi vá may để nuôi cho hai con ăn học, theo các trẻ con trong làng. Sang đình thụ giáo của một ông đồ. Hai anh em họ Lê rất nhác, chẳng bao giờ thuộc bài vở sử kinh, chỉ toàn trốn thầy đi với lũ trẻ con du thủ du thực, tìm đến chân đồi chơi đánh trận giả và tập dượt quyền cước. Thầy đồ nhiều phen đánh đòn rất đau, mà hai anh em vần không chừa, cứ ham mê nghề võ hơn nghề văn. Bà từ mầu ngày ngày hết sức khuyên răn, Khôi và Việt thờ mẹ rất hiếu thảo nên lại quỳ xuống xin lỗi mẹ và hẹn sẽ ra công chăm chỉ học, nhưng đến hôm sau, vắng mặt mẫu thân thì chứng nào tật nấy như thường.

Dần dần, bà mẹ biết rằng máu truyền thống chảy trong huyết mạch hai đứa con mình còn sôi nổi hăng hái lắm, nên cũ chỉ bảo ban lấy lệ mà thôi, còn mặc hai anh em Khôi và Việt được tự do luyện tập gân cốt, không ngăn cản nữạ Thành thử đến sáu năm sau, cả hai cùng to lớn khỏe mạnh; rõ ràng một đôi lực sĩ hùng dũng, oai phong. Từ khi góa chồng, Lê mẫu làm lụng chăm chỉ, để dành để dụm, thu xếp tảo tần, khi bỏ ấp ở Bắc ra đi, cứ bao nhiêu của cải thu vén đem cả về Nam Ðịnh; nhờ thế cũng có ít nhiều ruộng nương phong phú, đủ túc dụng một đờị Hai anh em Khôi, Việt, kịp đến tuổi trưởng thành, bà chưa có thì giờ lo bề gia thất cho hai con thì tự nhiên lâm bệnh, rồi lúc khỏi, liệt mất cả hai chân, không làm ăn gì được nữa. Hai anh em phải ở nhà lo liệu công việc giúp đỡ mẹ già. Tuy nói là giúp đỡ, nhưng kỳ thực hai cậu ấm chả được việc gì có lợi, cả bà mẹ ngồi một chỗ mà vẫn phải để tâm coi sóc đến công chuyện hàng ngày. Ruộng nương thì bà ấy cho cấy rẽ, cứ đến vụ là có gia đinh đi thu thóc lúa về, hai cậu ấm chỉ phải trông lũ người nhà, đừng để chúng ăn bớt ăn xén, thế là đủ. Lúc bán lúa cho hàng sáo, thì cũng đã có các vú bõ đếm tiền đong thóc, chả bận gì đến cậu ấm cả và cậu ấm hai.

Những buổi tối không phải coi sóc người nhà, ngoài vụ mùa màng và vụ bán chác, hai anh em lại chia nhau, anh ở nhà với mẹ già ba tháng, em đi ngao du săn bắn nơi xa; rồi em lại trở về nhà ba tháng trong khi anh được tự do đi chơi đây đó. Cậu hai Việt hay vào mạn Ðồng Giao săn bắn, mồi khi cậu đi vắng thì cậu cả có thèm thuồng lắm cũng không dám rời mẹ đi chơi nốt, chỉ quanh quẩn vào chợ Ghềnh lùng hươu nai hay chồn cáo một hai ngày mà thôị Nhưng hễ cậu hai quay gót trở về, lại tha hồ cho cậu ấm Khôi muốn vượt bể băng ngàn được tới đâu mặc sức.

Một buổi sớm, cậu Việt về nhà bỗng thấy vẻ vui mừng tươi tỉnh, song chỉ vui mừng tươi tỉnh được ít hôm đầu. Vui tươi xong, cậu bỗng đâm ra thẫn thờ, vớ vẩn, tựa hồ thần hồn thần trí bị một cái gì ám ảnh; có ngày cậu buồn thỉu buồn thiu chẳng nói một câu nào, bà mẹ có hỏi thì cậu gượng cười chốc lát, nhưng phút sau, lại trầm ngâm mơ tưởng nhớ nhung aị Thấy anh cả đi vắng lâu, cậu lộ ra vẻ sốt ruột lắm, chỉ ngong ngóng ra đứng cửa chầu chực, đợi cậu Khôi về suốt mấy ngày.

Mong ròng rã ba tháng, cũng chả thấy, mãi gần sáu tháng mới gặp cậu ấm anh trở lại, tải về một xe gạc hươu nai và hai ba tấm da báo, một tấm da cọp và một bộ hổ cốt. Anh em chả kịp hàn huyên nữa; cậu hai thấy có anh về thì mừng quýnh vội vàng thu xếp hành lý ra đi ngaỵ Lần này cậu đi chơi có non nửa tháng đã về, đem theo một người con gái mặc tang phục, và một đứa trẻ độ 15 tuổi.

Từ trước tới nay, có nhiều nhà phú hộ và danh giá trong vùng Gôi, thấy hai anh em họ Lê con nhà võ tướng, và rất khôi ngô tuấn tú, có ý muốn gả con cho. Mối lái có đến nhà hai cậu ngỏ lời cho Lê mẫu biết, bà cụ hỏi ý kiến hai con, song cả hai cậu, chẳng cậu nào bằng lòng lập gia đình cả.

Lạy mẹ, anh em chúng con còn ít tuổi có đi đâu mà vội! Mẹ còn trường thọ nữa, vì lão niên đới tật là một số rất tốt. Nếu mẹ cho phép chúng con, thì chúng con sẽ tự chọn lấy người bạn trăm năm chăn gối, như thế sau này chúng con chẳng oán than nỗi gì. Duyên số là một sự tình cờ mà thành, chớ biết thế nào mà chọn lựa.

Lê Mẫu nghe hai con trình bày như vậy, cũng vui lòng chiều ý không có ép uổng nữạ Hai anh em vì trọng võ thuật, cũng chả nghĩ đến sự lấy vợ. Tới khi Việt thình lình đem một người con gái ở đâu về, cả nhà đều kinh ngạc hết sức. Cậu hai đem nàng ấy vào lạy mẹ và lạy anh, rồi đầu đuôi sự thể thế nào, thú thật cả một lượt cho mẹ và anh rõ. Lê mẫu mới hay thiếu nữ đó là nàng Oanh Cơ, quê ở Bàn Thạch tỉnh Thanh Hóa, mồ côi cha mẹ và hiện không còn ai thân thích họ hàng. Bà và cậu ấm cả thấy Oanh Cơ thùy mị dịu dàng lại thướt tha kiều diễm, nên rất vui lòng đẹp ý, nghỉ ngay đến sự cho phép nàng được cùng cậu hai Việt sánh đôị Cậu hai cũng chỉ mong ước có thế thôi, lú nghe mẹ và anh nói trúng tâm can mình, cậu bất giác đỏ mặt tía tai, phần vì thẹn, phần vì mừng, phần vì thương anh thương mẹ đã nghĩ đến hạnh phúc trăm năm của mình, không hề cản trở ý định của mình một chút cỏn con nào cả.

Cậu Việt vội bẩm mẹ là nàng Oanh còn có anh chị nàng bị chết trong khi vào rừng gặp cọp, phải đợi nàng trừ phục đã mới sẽ bàn đến chuyện thành hôn. Từ đó, hai cô cháu Oanh Cơ ở hầu hạ Lê Mẫu như hầu hạ mẹ già, không có lòng muốn đi đâu nữa. Mà cậu ấm hai cũng nhường anh đi xa săn bắn; về phần cậu, cậu chỉ muốn ở nhà thần hôn định tỉnh bên gối huyên đường mà thôi.

Hơn một năm sau, nàng Oanh Cơ mặc áo quần hồng, quấn khăn vành dây, che quạt lượt đỏ, lạy Lê Mẫu hai lạy để trở nên mợ Hai Việt. Lứa uyên ương mới cả ngày chỉ quấn quít lấy nhau, yêu nhau cực điểm, khiến mẹ già trông thấy cũng vui lòng. Trong gia định họ Lê từ đó, càng ngày càng thêm vui, thêm thịnh; Oanh Cơ đã từ lâu, đem về cho Lê Mẫu sự an nhàn thư thái, đem về cho cậu hai sự hạnh phúc êm đềm. Từ ngày có nàng, Lê Mẫu không phải nai lưng cáng đáng công việc trong nhà nữạ Bao nhiêu việc tần tảo thu vén gặt lúa, bán thóc, một tay nàng coi sóc được hoàn hảo, vẹn toàn.

Nàng là người không những có thanh, có sắc, nàng còn khéo léo đủ đường, tề gia nội trợ đảm đang khôn xiết. Nhà họ Lê có nàng thì phòng ốc cửa ngõ ngăn nắp đâu vào đấy; thềm gạch, sân hầu bao giờ cũng sạch sẽ tươm tất; đồ đạc giường chiếu bao giờ cũng ngay ngắn chỉnh tề; cơm bao giờ cũng ngon, canh bao giờ cũng ngọt; trong gia đình bao giờ cũng êm thắm yên vuị Lê Mẫu, nhiều phen ngồi bên ngọn đèn dầu đọc sách xem con dâu dệt cửi, thỉnh thoảng gấp sách ngường đọc trông Oanh Cơ một cách yêu thương âu yếm, bảo nàng rằng:

- Này nhà hai! Mày về làm dâu mẹ, mẹ chả còn có điều gì trách móc được. Mẹ bình sinh không có con gái, nay được con mẹ quý mến biết baọ Nhất là tất cả mọi chuyện trong nhà, con một tay thu xếp gọn gàng yên ổn cả, khiến mẹ được ăn không dưỡng lão, thực mẹ không ân hận oán than gì nữa! Sau này nếu mẹ thác đi, buổi lâm chung anh con chưa có vợ, vợ chồng con chưa có con, nếu hai sự ấy nhất đán nhờ Trời Phật, đều được như lòng mẹ ước, thì mẹ dù nhắm mắt cũng sẽ mãn nguyện đủ trăm bề.

Bà cụ mong như vậy, ai ngờ ước mong của bà có linh hiệu làm saọ Chẳng bao lâu, nàng Oanh thụ thai, khiến bà thiếu chút nữa mừng quá mà chết. Mãn nguyện khai hoa, Oanh cho ra đời một đứa con gái nhỏ giống mẹ như tạc, lại được cái vẻ khảng khái lẫm liệt của chạ Trong gia đình, nhờ có đứa trẻ càng tăng thêm hạnh phúc êm vui; cậu Việt, từ buổi có con, chỉ quấn quít chung quanh mình vợ, hầu hạ con như một ông bõ trung thành tận tụy.

Riêng chỉ có Khôi thì vẫn không quên nghề nguy hiểm, ở nhà không săn bắn tập luyện là thấy bồn chồn khó chịu vô cùng. Chàng thường đi đây đó suốt năm, ở nhà nhiều nhất chỉ được độ vài ba tháng. Mỗi kỳ ở nhà, Khôi lại bắt Việt theo mình ra chân đồi múa võ, sợ em lâu ngày không rèn tập thì gân cốt yếu kém đị Bởi thế, cứ độ nào có Khôi, thì Việt phải tạm xa vợ xa con một ngày hai buổi, cùng anh ra dượt võ ở ngoài đồng. Lâu dần thành một thói quen, hễ cứ anh đi vắng thì thôi, lúc nào anh có ở nhà, Việt lại cùng anh đối thủ. Hai anh em tựa hồ rất có tín ngưỡng trong nghề quyền cước; họ thi nhau trổ tài, không phải để cố ý đánh nhau, cũng không để khoe khoang tài nghệ mình trước mặt công chúng. Công chúng đây là vài ba người nhà quê hiền hậu, chất phác chả hiểu cung kiếm là gì. Lắm khi hai anh em họ Lê rượt nhau chạy bên mình họ, họ cũng thản nhiên điềm tĩnh cày bừa, không buồn để ý đến. Tuy họ không chú ý ngắm nhìn hai cậu ấm luyện võ, mà trong làng, từ trên chí dưới, chẳng ai là người không rõ hai anh em họ Lê là một đôi tráng sĩ hùng dũng, săn bắn rất giỏi, có sức địch nổi muôn người. Tiếng đó đồn đại rất xa, quanh một vùng từ Bình Lục cho đến chợ Ghềnh, Ðồng Giao, rất nhiều tay hào kiệt, rất nhiều đảng lục lâm, đều mộ tiếng cả hai chàng Khôi, Việt.

Hai chàng giỏi võ nghệ gần đến nơi tuyệt đích thế mà không bao giờ dùng sức mạnh của mình để làm một sự gì phạm pháp, hoặc mưu công danh tài lợi trong đờị Hai anh em chỉ an cư ở thôn quê, sinh hoạt bằng vài mươi mẫu ruộng và bằng nghề săn hươu, nai, beo, cọp; họ thờ mẹ chí hiếu, đối với anh em vợ con, thân bằng cố hữu, chí tình, tịnh không có một dục vọng cao kỳ nào cả.

Ai ngờ đâu xử thế đến như vậy mà cả hai đều không tránh khỏi dây oan nghiệt đến chằng vào cổ; một ngày kia, Khôi, Việt cùng bị tình nghi, phải bắt giải lên Tỉnh lỵ, rồi chẳng bao lâu, bị ghép vào tội án tử hình. Thực là vạ gió tai bay, chả ai hiểu vì đâu nên nỗị Có kẻ hiếu sự len lỏi vào gia đình hai cậu ấm, bàn tán rằng chẳng qua chỉ vì Oanh Cơ mà cửa nhà phút chốc tan tành. Họ nói:

Phàm giả những đóa hồng nhan rực rỡ và hoàn hảo quá chỉ toàn là những binh khí giết ngườị Muội Hỉ làm chết vua Kiệt, Ðắc Kỷ làm chết vua Trụ, Tây Thi xui Phù Sai vong quốc diệt thân và Bao Tự khiến U Vương táng mệnh, còn Quí Phi thì làm Minh Hoàng sống cũng như chết, thực quả đàn bà đẹp là cái mầm tai họa cho đời! Ðến vương bá bị những của vưu vật đó còn thiệt thân mất nước nữa huống chi người thường tránh sao khỏi nạn tan cửa nát nhà!

Câu nói ấy, tuy quá độc địa, song cũng có một phần sự thực. Sắc đẹp nàng Oanh Cơ quả là một duyên cớ trọng yếu khiến chồng và anh chồng nàng bị cái nạn đoản đầụ Hai anh em họ Lê bình sinh hay đem nhau ra thí võ ở chân làng Gôi, đều bị đao phủ hành hình tại chỗ đó.

Oan hồn, sau khi lìa khỏi xác trong một trường hợp cực kỳ thảm thiết, vì uất ức nên không tài nào tiêu tán được, nhất là vì hai tráng sĩ, chết rồi, lại không được họ hàng cầu nguyện cho linh hồn nhanh chóng được siêu thoát. Hấp thụ mãi khí thiêng liêng của non sông cây cỏ, hai vong hồn đó lâu dần hóa ra một thứ ma có đủ tư cách hiện hình về được, hiện về chẳng để dọa nạt hay làm hại ai cả, nhưng chỉ để diễn lại một bài quyền xưa kia họ ngày ngày hằng tập luyện ngõ hầu ghi trong cái thế hệ mới mẻ này vết tích một nỗi thương tâm uất ức của thời dĩ vãng, một nỗi đau thương do "oan nghiệt" dệt thành...

Kết Thúc (END

Hãy Theo Em

Font Size: Tác Giả: Hoàng Ngọc Liên

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Đã mấy chục năm kể từ khi Lữ Khúc nằm xuống, tôi vẫn mơ hồ không hiểu, không minh bạch câu chuyện về "một cái chết đã được báo trước" nàỵ Có hay không những chuyện giao cảm giữa hai cõi âm dương? Có hay không những câu chuyện ma mà người đời thường kể cho nhau nghẻ Trong nhiều năm nằm Ấp trên miền Thượng Du Bắc VN, tôi đã có phen lạc trong rừng cả một buổi, đã cầu mong gặp được một hiện tượng bất bình thường. Nhưng chưa bao giờ gặp mạ Vào khoảng năm 1958, khi phụ trách một lớp bổ túc nghiệp vụ, tôi đã thấy cả chục nhân viên nằm chung trên một bộ ván, dưới cái nóng nung người của mái tôn. Khi được hỏi lý do, anh em đáp, vì nằm trên những giường vải cá nhân, cứ đêm đêm lại mơ giao hợp với ma nên phải nằm sát bên nhau cho đỡ bị kiệt sức! Tôi vốn không tin chuyện ma quỷ hiện hình, nên đã thử nằm ngủ một đêm trên giường vảị Nhưng hoàn toàn không có chuyện gì cả!

Thế mà từ khi Lữ Khúc bắt tay tôi và ngỏ lời vĩnh biệt... cho đến khi nghe tin Lữ Khúc nằm xuống, tôi đâm hoang mang! Phải chăng quả có một hồn ma bắt Lữ Khúc đi theo, do một nghiệp căn nào đó?

Trong cuốn nhật ký mà Lữ Khúc còn để lại, có ghi rõ ràng câu chuyện này, tôi xin phỏng thuật lại dưới đây:

- o O o -

Tin Lữ Khúc nằm xuống vì tai nạn xe hơi khiến cả Lán bàng hoàng! Tuần trước, chúng tôi mới nhận được thư anh gửi qua đường bưu điện. Bức thư vỏn vẹn có mấy dòng chữ:

Các bạn thân mến,

Trong tháng này, mình "đi", chưa biết bằng cách nàọ Các bạn ở lại mạnh giỏị Câu chuyện mình đã kể trong lán là hoàn toàn có thật. Mình đã bắt tay vĩnh biệt từng bạn. Chẳng ai tin là mình sắp nằm xuống! Nhưng rồi các bạn sẽ nhận được tin nàỵ

Hãy cầu nguyện cho hương linh mình chóng siêu thoát.

Lữ Khúc.

Lán mà chúng tôi tạm trú trong thời gian ở Phước Long là một căn nhà tranh, cột kèo bằng tre già, lợp lá gồị Hồi đó, chúng tôi đang cùng nhau đi thực tập trong một chương trình Nông Lâm. Cũng may, ai nấy đều đã trải qua cuộc sống hướng đạo sinh, nên dù ở trong rừng và chỉ với 7 ngày lương khô, chúng tôi cũng đã thực hiện được những bài học về mưu sinh, thoát hiểm, nên đã sống vui mấy tháng trên rừng. Có điều từ ngày Lữ Khúc. xin rút tên khỏi khóa học, khăn gói trở lại miền xuôi, lán chúng tôi không còn ồn ào, vui vẻ như trước vì hàng ngày vắng tiếng hát Lữ Khúc. Chiếc mandoline qua hai bàn tay phù thủy của Lữ Khúc luôn phát ra những âm điệu réo rắt, hòa với giọng ca trầm ấm của anh.

Đột nhiên tháng trước đây, Lữ Khúc hoàn toàn đổi khác. Nhiều đêm, anh ra đứng ngoài lán, nhìn lên không hồi lâụ Khi đã quá khuya, chúng tôi phải ra kêu anh vô nghỉ. Hỏi, có tâm sự gì chăng. Anh lắc đầu: "Không có gì!"

Câu chuyện mà Lữ Khúc nói đã kể trong lán là có thật, đầu đuôi như sau:

- o O o -

Hôm ấy trời mưa lớn. Sài Gòn thường có những trận mưa bất ngờ, ào ào trong năm ba phút rồi trời lại nắng ráọ Giữa một trận mưa như thế, Lữ Khúc đang lái chiếc xe trên đường từ Hạnh Thông Tây về Thị Nghè vào khoảng 7 giờ chiềụ Thốt nhiên phản ứng tự nhiên khiến anh đạp thắng dừng xe lại, vì bên lề đường có một bóng đen đang giơ tay vẫỵ Lữ Khúc hạ kiếng xe bên phải xuống, một giọng thiếu nữ cất lên:

- Xin ông vui lòng cho "quá giang" một lát!

Khúc với tay mở cửa xe, chờ cô gái ngồi bên cạnh

- Cô đóng cửa xe giùm. Xin cho biết cô muốn tới đâủ

Cô gái vui vẻ:

- Cảm ơn ông nhiềụ Xin ông cho tới khu nghĩa trang trước đây thôị

Khi xe gần tới nơi, cô gái chỉ tay:

- Nhà má em trong hẻm này, số 77Ạ Khi nào có việc ghé qua, xin mời ông quá bộ vô uống ly trà!

Lữ Khúc dừng xe trước một ngõ hẹp, có hai hàng cây so đũa:

- Cô về!

- Cảm ơn ông!

- Không có gì, cô...

- Em tên Di!

- Cô Di về.

- Chào ông!

Tối hôm đó về đến nhà trong khu cư xá Ngân Hàng bên Thị Nghè, Lữ Khúc mải lo làm một số công việc dịch vụ, hầu như không còn nhớ lại chuyện cô gái tên Di xin quá giang xe nữa! Nhưng sau khi đi nằm, tự nhiên chợt thấy một bóng người xuất hiện ngoài khung cửa sổ. Lữ Khúc mở cửa và nhận ngay ra người vừa tới:

- Cô Di, khuya rồi, có việc gì mà qua đây vậỷ

Di mỉm cười:

- Em không ngủ được, nên đến rủ ông ra ngoài ngắm trăng.

Như có một động lực vô hình thúc đẩy, Lữ Khúc theo Di ra vườn câỵ Di kéo tay Khúc, dìu anh ngồi xuống chiếc ghế dài - do hội Hoàn Cầu Khải Tượng tặng thành phố Sài Gòn -, ngón tay nàng chỉ lên cao:

- Ông xem, trăng đẹp biết chừng nào!

Lữ Khúc thấy trong người lâng lâng như say rượụ Ánh trăng không đủ sáng cho anh nhìn rõ khuôn mặt Di, nhưng đã nhận ra cặp mắt nàng long lanh như có ngấn lệ:

- Hình như cô không được vuỉ

Di gật đầu:

- Em sắp phải đi khỏi khu vực này! E rằng sẽ không còn được gặp ông nữa!

Lữ Khúc ngạc nhiên:

- Vì saỏ

- Em có nhiệm vụ phải kiếm một bạn đồng hành đến một nơi đã được chỉ định, để hoàn thành một sự ủy thác. Nhưng đã mấy năm rồi, không ai chịu làm bạn với em. Hoặc có người thương cảm em, muốn đi theo em, nhưng em lại không đành chấp nhận, bởi ảnh còn có gia đình... Nay thì thời hạn của em chỉ còn bốn mươi chín ngày nữa, mà em hầu như không còn hy vọng tìm được người cùng đị Hậu quả là em phải đi khỏi khu vực này, vì thời gian dành cho em có hạn..

Lữ Khúc tỏ vẻ không hiểu:

- Sao Di lại cần phải có người đi theỏ

Di ngần ngại:

- Tại em đã vì tình thương mà không quyến rũ một người mà em có nhiệm vụ bắt đi theọ Cũng do người ấy chưa đến số phải ra đi..., nên em phải chịu một hình phạt, chưa biết đến bao giờ mới được đầu thaị.!

- Không có người đi theo, Di phải rời bỏ khu vực này, rồi Di sẽ ra saỏ

Di lắc đầu:

- Em cũng không biết ra sao nữạ Nhưng chuyện phúc họa khôn lường, mà đối với em thì may nhiều, rủi ít!

Lữ Khúc khảng khái:

- Tôi sẽ đi với em!

- Anh còn công danh, sự nghiệp..

- Tôi không có gia đình mà công danh, sự nghiệp thì còn xa vời quá. Nếu Di muốn, hãy cho tôi theọ Tôi chấp nhận mọi rủi may, miễn là giúp Di được giải thoát!

Di cúi đầu:

- Để em coi em có duyên với ông không đã...

Có tiếng gà gáy sáng, Di hốt hoảng:

- Em phải về! Nhớ khi nào có dịp, ông ghé thăm em!

- Tôi hứa với Dị

Một buổi chiều sau đó, Lữ Khúc lái xe qua con đường cũ. Anh đậu xe bên lề đường rồi men theo ngõ hẹp vô số nhà mà Di đã chọ Một bà già mở cánh cửa bước ra:

- Xin lỗi, ông Hai muốn kiếm aỉ

Lữ Khúc vui vẻ:

- Dạ! Thưa bà bác, xin cho cháu gặp cô Dị

- Ông Hai theo tôi!

Lữ Khúc lặng lẽ bước theo bà già. Đến trước một ngôi mộ cỏ mọc xanh um. Bà già chỉ tay vô thanh gỗ có viết tên người quá cố:

- Cháu đó!

Khúc thẫn thờ nhìn dòng chữ:

- Hồ Thị Di (1940-1962)

Khi ngoảnh lại, Khúc thấy bà già đang trở lại nhà. Anh chắp tay, cúi đầu trước mộ:

- Di! Thì ra Di là người cõi khác. Nhưng dù sao thì chúng ta cũng có duyên với nhaụ Hiện nay, anh không còn gì ràng buộc.. Tôi tự nguyện sẽ là người bạn đồng hành của Di...

Khúc mơ hồ nghe có tiếng Di vang lên trong ngọn gió mát lạnh từ đâu tới:

- Hãy theo em!

Kết Thúc (END) Hoàng Ngọc Liên

» Hãy Theo Em

» Lá Bùa Sở Nguyện

» Sen Vàng Lãng Đãng

» Con Số Kỳ Lạ

» Tiếng Đàn Trong Bức Tranh Tố Nữ

Những Truyện Ma (Kinh Dị) Khác

» Nhà Xác!

» Người về từ đáy mộ

» Ma Quá Giang

» Mối Tình Âm Dương

» Hồn Ma Của Người Bạn Thân

» Hồn Ma Trong Biệt Thự

» Người đẹp đông phương

» Tiếng Cười Trong Đêm Khuya

» Giết Người Lấy Sọ Luyện \"Thiên Linh Cái\"

» Ma Nhập Vì Cầu Cơ

» Người Bạn Ma

» Ma Không Đầu

» Bí Ẩn Lời Nguyền

» Con Ma Áo Trắng

» Ngôi Nhà Ma Ở Đà Lạt

» Ma Nhập

» Lá Thư Từ Bên Kia Thế Giới

» Ngôi nhà ma ám ở San Diego....!

» Bóng Ma Trên Gác Thượng

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro