trungftu2 van 11

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Âm mưu và tình yêu

    I. Tác giả

    Sile (1759-1805) là kịch tác gia vĩ đại, “viên công tố của toàn nhân loại đã kêu gọi loài người cùng hướng về trời sao”. Cùng với Gớt, Sile là một trong hai ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Đức thế kỷ 18.

    Tác phẩm kịch gồm có: Những tên cướp (1780), Âm mưu và tình yêu (1784), Người thiếu nữ ở Orlêăng (1801), Vinhem Ten (1804),… Sile đã xây dựng thành công những vở kịch có xung đột dữ dội, những nhân vật, tính cách điển hình thể hiện mãnh liệt khát vọng tự do và tinh thần bất khuất chống cường quyền bạo lực.

    II. Tóm tắt vở kịch “Âm mưu và tình yêu”

    Vở kịch có 5 hồi bằng văn xuôi.

    Luizơ là con gái nhạc công Mile yêu thiếu tá Fecđinăng là con trai Tể tướng Fôn Vante. Phu nhân Minfo là tình nhân của Công tước nay đã bị Công tước chán bỏ. Tể tướng bắt ép thiếu tá phải kết duyên cùng phu nhân Minfo để lấy lòng Công tước. Fecđinăng gặp Minfo nói cho phu nhân biết là chàng đã có người yêu là nang Luizơ, cô vô cùng xấu hổ. Tể tướng làm nhục Luizơ, gọi nàng là con đĩ, mạt sát ông bà Minle. Tể tướng và thiếu tá đấu khẩu dữ dội. Thiếu tá kiếm tuốt trần, đâm bị thương một số nhân viên pháp đình.

    Đổng lí Vuôm hiến kế bắt giam ông bà Mile. Muốn cứu bố mẹ, Luizơ phải viết một bức thư tình gửi cho Thị vệ trưởng Fôn Canbơ do chúng đọc. Chúng đưa bức thư tình ấy cho Fecđinăng. Fecđinăng thách Thị vệ trưởng đấu súng làm cho hắn vô cùng sợ hãi. Đau khổ… Fecđinăng pha thuốc độc bắt người yêu cùng mình uống. Uống xong thuốc độc, Luizơ mới nói ra sự thật đau lòng! Cùng lúc ấy, Tể tướng phải nộp mình cho nhân viên pháp đình.

    III. Hồi hai: Ngang trái

    1. Xung đột diễn ra dữ dội tại nhà nhạc công Mile

    Luizơ bị Tể tướng sỉ nhục đã ngất đi. Fecđinăng đỡ lấy người yêu rồi kêu lên hoảng hốt: “Cứu nàng với, nàng sợ hãi ngất đi rồi!”. Trong lúc đó, nhạc công Mile nắm lấy gậy, căm giận nhìn Tể tướng, bà Mile vô cùng sợ hãi, quỳ sụp xuống chân Tể tướng. Tể tướng ra lệnh bắt giam Luizơ: “Bắt lấy nó, dù nó ngất hay tỉnh. Khi nào vòng sắt gông vào cổ nó rồi, người ta sẽ dùng đá ném cho nó tỉnh lại”. Bà Mile cất tiếng kêu van, trái lại, ông nhạc công Mile thì giận dữ khinh bỉ gọi Tể tướng và các nhân viên pháp đình là “lũ vô lại”.

    2. Cuộc đấu khẩu dữ dội giữa hai cha con - Thiếu tá và Tể tướng.

    - Tể tướng ra lệnh cho các nhân viên pháp đình bắt Luizơ. Thiếu tá bảo vệ người yêu, tuốt kiếm. Nhân viên pháp đình sợ hãi lùi ra, lại xông vào. Thiếu tá đâm bị thương vài tên.

    Thiếu tá cầu xin Tể tướng “đừng dồn ép con thêm nữa”. Lại cầu xin: “… đừng dồn ép con đến chỗ cùng đường cha ơi!”. Tể tướng mắng nhiếc bọn nhân viêc pháp đình là “quân tôi đòi hèn mạt”, tự tay túm lấy Luizơ, giao cho một tên nhân viên pháp đình, đồng thời thách thức Thiếu tá: “Tao muốn xem liệu chính ta có phải nếm lưỡi kiếm này không?”.

    - Vấn đề đạo lý được đặt ra: liệu con có dám đâm cha để bảo vệ người yêu hay không? Xung đột kịch diễn biến đến cao trào.

    - Thiếu tá mạt sát Tể tướng:… “Thượng đế đã lầm, đã lẫn chọn tên đao phủ đê hèn lên làm Tể tướng mạt hạng”. Không chỉ là con lên án cha mà đó là tiếng nói nhân danh công lý và nhân dân lên án bạo quyền, lên án một xã hội - phong kiến cát cứ - đã lỗi thời.

    - Fecđinăng dọa: “Nếu nàng lên giá nhục hình, nhưng là cùng với Thiếu tá con trai Tể tướng…” - Một sự ngập ngừng đầy tính kịch. Và Tể tướng châm biếm: “Tức thì cuộc trừng bày sẽ càng thú vị!”. Kiên quyết ra lệnh bắt Luizơ: “Lôi nó đi!”.

    - Lại van xin! Tất cả vì tình yêu mà Fecđinăng vẫn chưa tìm được, chưa lựa chọn được cách ứng xử. Một mặt chàng quyết dùng thanh kiếm sĩ quan (danh dự và quyền lực) mà “che phủ cho người thiếu nữ này”; mặt khác lại van xin một chút tình cha con nào đó còn sót lại trong lòng Tể tướng: - “Cha vẫn cương quyết ư?” - Xung đột càng trở nên dữ dội, khi Tể tướng vừa châm biếm vừa ra lện: “Lên giá nhục hình mà mang kiếm bên mình thì chẳng hợp chút nào… Lôi nó lôi nó đi, đi, chúng mày rõ ý tao rồi đấy!”.

    3. Có thể xem đây là “bước đột biến” của Hồi hai này!

    Lưỡi kiếm lại xuất hiện, tiếng nói của Fecđinăng càng quyết liệt hơn. Giằng lấy Luizơ từ tay nhân viên pháp đình, ôm lấy Luizơ, chĩa lưỡi kiếm vào nàng và nói: “Thà tôi đâm lưỡi kiếm này qua xác vợ tôi còn hơn nhìn nàng bị cha sỉ nhục!” - Từ người yêu, Luizơ đã trở thành vợ, Thiếu tá khẳng định quyết tâm bảo vệ người yêu của mình. Tể tướng vẫn thách thức. Xung đột kịch càng trở nên quyết liệt: “Đâm đi, nếu mũi kiếm của mày còn đủ nhọn!”. Đó là sự thách thức của cường quyền! Tể tướng muốn ép con trai mình kết duyên cùng phu nhân Minfo. Trở lực lớn nhất là tình yêu của Luizơ. Phải bắt nàng để triệt phá, để thực hiện “âm mưu” và để tấn công bề trên, đó là Công tước! Cái ác đi kèm cái hèn hạ, sự đê tiện và sỉ nhục, đó là nhân cách của Tể tướng, và buồn thay, đó còn là một người cha - một người cha đã bán mình cho quỷ dữ.

    4. “Bước mở nút” - xung đột được đẩy lên đến đỉnh điểm rồi chùng lại, mâu thuẫn được giải quyết. Cử chỉ Fecđinăng buông Luizơ, ngước mắt nhìn trời ghê gớm. Thiếu tá độc thoại. Chàng cầu đến Chúa. Sức chịu đựng của một con người đã vượt quá giới hạn và chỉ một cách “dùng đến thủ đoạn của loài ma quỷ!”. Sẵn sàng trả giá, và thách thức: “Được các người cứ đưa nàng lên giá nhục hình đi!”. Như một cú đánh trời giáng khi Fecđinăng thét vào tai Tể tướng: “Ta sẽ đi kể cho tất cả cung điện này nghe một câu chuyện nhan đề là: Người ta đã leo lên ghế Tể tướng bằng cách nào!”. Như bị sét đánh, Tể tướng sụp đỏ. Như loài ma quỷ sợ ánh sáng. Hắn đã kinh hoàng kêu lên: “Thế là thế nào, Fecđinăng! Hắn ra lệnh: buông con bé ra!” rồi chạy theo Thiếu tá.

    IV. Kết luận

    Nhạc công Mile xuất thân bình dân và Fecđinăng xuất thân quyền quý đã dũng cảm và ngoan cường chống bạo quyền vì khát vọng tự do và hạnh phúc. Hồi hai đầy kịch tính. Có lúc ta xúc động về lưỡi kiếm của Fecđinăng sẽ vang lên, hoặc là đâm chết người yêu và tự sát, hoặc là đâm vào Tể tướng. Và thật thú vị, bạo quyền đã bị đánh gục chỉ bằnh một câu nói mạnh như sấm sét. Tình yêu làm nên sức mạnh phi thường.

    Xung đột dữ dội. Chỉ một hồi kịch ngắn, ta vần tìm ra năm bước như một vở kịch: giao đãi, phát triển, cao trào, đột biến và mở nút. Và đó là nét đặc sắc của kịch Sile và kịch cổ điển Đức trong thế kỷ 18.

Đám tang lão Gôriô

                                    Banzăc

    I. Tác giả

    Banzăc (1799 - 1850) là nhà tiểu thuyết Pháp nổi tiếng, “một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực”. Ông đã sáng tạo ra bộ “Tấn trò đời” đồ sộ, bất hủ gồm 87 tác phẩm với trên 2000 nhân vật. Miếng da lừa (1871), Ơgiêni Grăng đê (1833), Lão Gôriô (1834), Ảo mộng tiêu tan (1837 - 1843),… là những kiệt tác của Banzăc.

    Bằng ngòi bút chân thực, cụ thể lịch sử, Banzắc đã xây dựng hàng loạt tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình. Qua bộ Tấn trò đời, tác giả đã phê phán xã hội tư sản, vì nó như một tấn hài kịch, trong đó đồng tiền tác oai tác quái, gây ra biết bao bi kịch đau lòng.

    II. Phân tích đoạn văn “Đám tang lão Gôriô”

    1. Lão Gôriô xưa kia nhờ buôn bán lúa mì mà giàu có. Nhưng hai “ái nữ” của lão đã bòn rút đến đồng vàng cuối cùng. Cuối đời lão sống cô đơn, nghèo khổ trong cái quán trọ tồi tàn của mụ Vôke. Lão chết năm 69 tuổi. Không một người thân thích. Người ta đã tháo đinh quan tài, đặt lên ngực lão “cái hình ảnh” của hai  cô con gái yêu thương của lão khi chúng nó “còn bé bỏng, đồng trinh và trong trắng…” - Một chi tiết hiện thực vô cùng chua chát nói lên sự vô tình, bạc bẽo của hai đứa con gái lấy chồng giàu sang.

    2. Chỉ có Raxtinhăc và Crixtôphơ (hai người cùng ở chung nơi quán trọ) cùng với hai gã đô tuỳ đưa lão đến ngôi nhà thờ Thánh - Êchiên-đuy-Mông. Xác chết của kẻ nghèo khó được đặt trước một giáo đường nhỏ, thấptối. Tang lễ sơ sài, qua quýt mất 20 phút với cái giá 70 quan do hai vị linh mục, chú bé hát lễ và người bõ nhà thờ. Tang lễ qua quýt thế thôi, rẻ rúng thế thôi, bởi lễ “trong một thời kỳ mà tôn giáo không lấy gì làm giàu lắm để cầu kinh làm phúc”. Như vậy là, Thánh đường, linh mục, tang lễ… đều được cân, đo, đong, đếm bằng tiền.

Bốn người có mặt trong tang lễ cũng vì tiền mà đến. Crixtôphơ vì nghĩa vụ” mà anh ta đến đưa đám, vì lão Gôriô chết “đã làm cho anh ta kiếm được mấy món tiền đãi công kha khá”.

    3. Không có người đưa đám, lại đã năm giờ rưỡi rồi, xác chết lão Gôriô được chở nhanh đến nghĩa địa, lúc ấy có hai chiếc xe có treo huy hiệu nhưng không có người ngồi, một của bá tước Đơ Rextô, và một của nam tước Đơ Nuyxinghen theo sau chiếc xe tang đến nghĩa địa! Dù là con gái, nhưng nay đã trở thành mệnh phụ rồi, không thể đi đám ma một kẻ nghèo khó, hèn mọn! Một nét vẽ sâu sắc lên án tình đời bạc bẽo!

    4. Cảnh hạ huyện vội vội vàng vàng. Bài kinh ngắn cầu cho kẻ xấu số do chàng sinh viên trả tiền (như một sự bố thí). Người nhà hai cô con gái và đám người nhà đạo biến ngay! Hai dã đào huyệt mới hất được vài xẻng đất xuống che lấp chiếc áo quan thì ngẩng đầu lên đòi tiền đãi công! “Ơ gien móc túi thấy không còn đồng nào, chàng buộc phải vay Crixtôphơ 20 xu”. Cái món nợ này lại ghi vào số nợ của người xấu số ngày một thêm chồng chất! Ai sẽ trả cho lão Gôriô?

    Cảnh nghĩa địa là “ngày tàn, một buổi hoàng hôn ẩm ướt” trên bầu trời có những đám mây. Trong cái khung cảnh buồn bã ấy, Raxtinhăc “não lòng ghê gớm”… “giọt nước mắt tràn ra…”. Đây là giọt nước mắt duy nhất trong đám tang lão Gôriô.

    III. Kết luận

    Một đám tang của kẻ già nua, cô đơn và nghèo hèn. Số tiền làm lễ ở nhà thờ, tiền đọc kinh cầu nguyện lúc hạ huyệt, tiền đãi công phu đào huyệt, và tiền thuê đòn đám ma - bấy nhiêu khoản tiền, ai bố thí cho lão Gôriô? Cha cố và con chiên, cha và con,… tất cả đều vì tiền. Bằng những chi tiết chân thực, cụ thể, Banzăc đã là hiện lên một đám tang của kẻ nghèo hèn trong cái xã hội kim tiền, tình đời đen bạc. Chúng ta hãy đọc lên vần thơ này để ai điếu lão Gôriô bất hạnh:

“… Ai chết đó? Trục xoay và bánh đẩy,

Xe tang đi về tận thế giới nào?

Chiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao,

Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó…”

(“Nhạc sầu” - Huy Cận)

Đây mùa thu tới

                              Xuân Diệu

    I. Tác giả

    Xuân Diệu (1916-1985), họ Ngô, quê nội ở Hà Tĩnh, quê ngoại ở Bình Định. Là “nhà thơ mới nhất” trong “Thơ mới”. Xuất hiện trên thi đàn Việt Nam với những tập thơ lừng danh như “Thơ thơ” (1938), “Gửi hương cho gió”. Ông để lại trên 50 tác phẩm. Xuân Diệu viết thơ tình nhiều nhất, hay nhất; viết phê bình thơ độc đáo, đặc sắc nhất.

    Năm 1938, Thế Lữ đã trang trọng nói về thi sĩ Xuân Diệu như sau:

    “… Một tâm hồn mở rộng, một tấm lòng chào đón. một con người ân ái đa tình…”. Và “Ham yêu, biết yêu, Xuân Diệu muốn tận hưởng tình yêu, vì ông thấy chỉ tình yêu mới gồm được bao nhiêu ý nghĩa”. (Lời tựa tập Thơ thơ – 1938).

    II. Xuất xứ, chủ đề

    - “Đây mùa thu tới” rút trong tập “Thơ thơ” xuất bản năm 1938 - tập thơ đầu của Xuân Diệu.

    - Bài thơ nói lên tâm trạng buồn man mác, bâng khuâng khi mùa thu đẹp đang tới.

    III. Phân tích

    1. Mùa thu tới với rặng liễu:

    - Trong thơ cổ: “liễu yếu đào tơ” gợi tả vẻ đẹp thanh tao của giai nhân. Xuân Diệu nhân hóa liễu, một dáng liễu tang tóc buồn “đứng chịu tang”, “lệ ngàn hàng”, liễu “đìu hiu” - Liễu mang nỗi buồn cô đơn của nàng cô phụ.

    Thi sĩ khẽ reo lên đón chào mùa thu sang. Điệp ngữ vồn vã: “Đây mùa thu tới/ mùa thu tới”. Đất trời như tắm trong một màu “mơ phai”, đó đây trong cành cây xanh đã điểm, đã “dệt” một hai chiếc lá vàng. Tất cả gợi lên một thoáng thu mênh mang buổi đầu thu, thấm một nỗi buồn man mác. Chữ “dệt” rất thơ, rất mới.

    2. Mùa thu tới với vườn hoa.

    - Hoa đã bắt đầu rụng. Một tín hiệu báo thu sang. Không phải là tiếng nhạn kêu sương. Một cách dùng số từ rất mới: “Hơn một loại hoa đã rụng cành”.

    - Mầu vàng là mầu điển hình của mùa thu quê ta. Nắng vàng nhạt. Trăng vàng nhạt. Gió vàng… và lá vàng. Mầu vàng cũng là hồn thu:

    “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”

                                        (Truyện Kiều)

    “Sắc đâu nhuốm ố quan hà,

    Cỏ vàng, cây đỏ, bóng tà tà dương”

    (“Cảm thu, tiễn thu” - Tản Đà)

    “Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông”

                                         (Bích Khê)

    Với Xuân Diệu thì sắc thu đang tiệm tiến: “Trong vườn sắc đỏ rũa mầu xanh”. Từng chấm đỏ cứ lần dần, loang ra trên mầu xanh của lá. Một cách nhìn, một cách tả rất tinh tế và mới. “Sắc đỏ” tương phản với “màu xanh” cũng là một nét thu, buổi đầu thu. Cây đã bắt đầu rụng lá. Gió thu se lạnh nhè nhẹ thổi. Sử dụng phụ âm “r” và “m” để đặc tả cái khô gầy, run rẩy của cành hoa:

            “Những luồng run rẩy rung rinh lá,

            Đôi nhành khô gầy xương mỏng manh

    Chất cảm giác, chất xúc giác biểu hiện rất thoáng và nhẹ qua 2 câu thơ tuyệt bút này.

    3. Mùa thu tới trên bến đò.

    Không có cảnh lỡ bước sang ngang. Cũng không có cảnh “Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt” (Tỳ bà hành). Chỉ “đã nghe” và chỉ có “đã vắng”… Một không gian lạnh, rét mướt và vắng lặng. Cô đơn buồn bao trùm cảnh vật, trăng mờ ẩn hiện. Non xa thấp thoáng sau màn sương mờ nhạt nhòa. Các dấu chấm lửng liên tiếp xuất hiện như mùa thu đang nhẹ trôi trong không gian và thời gian. Những nét vẽ làm hiện lên cái hồn thu xứ sở:

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…

Non xa khởi sự nhạt sương mờ…

Đã nghe rét mướt luồn trong gió…

    Chữ “luồn” độc đáo, thần tình đã cụ thể “gió”, chỉ cảm nhận được chứ không hình dung được.

    4. Mùa thu tới với thiếu nữ.

    Thơ cổ hay nói mùa thu về với cô phụ lạnh lùng đơn chiếc. Với Xuân Diệu, thu tới “trăng tự ngẩn ngơ” trên trời xanh, và thiếu nữ thì đăn chiêu, tư lự, bâng khuâng “buồn không nói…” đang “Tựa cửa chờ mong…”. Thu đã tới rồi, mà thiếu nữ vẫn tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”… Cùng với áng mây, cánh chim…, hình bóng thiếu nữ “tựa cửa nhìn xa…” gợi tả một nỗi buồn cô đơn, chia li vô cùng thấm thía. Cách dùng số từ trong câu thơ này cũng rất mới: “Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói”.

    IV. Kết luận

    Mùa thu muôn đời trong thơ. Thu trong Đường thi. Thu trong Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập. Thu trong thơ Nguyễn Khuyến, với Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh. Tất cả đều đẹp và buồn.

    Mùa thu trong thơ Xuân Diệu vẫn đẹp và buồn. Buồn lên nhiều lần từ dáng liễu, trăng thu đến thiếu nữ. Xa vắng, cô đơn, mênh mông buồn. Có lẽ cảnh sắctrong “Đây mùa thu tới” là cảnh sắc thu Hà Nội? Cách dùng từ, cách diễn đạt cảnh thu, tình thu của Xuân Diệu rất mới. Cảm xúc và hình tượng trong “Đây mùa thu tới” đầm đà sắc điệu cảm giác và xúc giác. “Đây mùa thu tới” là một bài thơ thu sáng giá của Thơ mới 1932-1941.

Đây thôn Vĩ Giạ

                            Hàn Mặc Tử

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền?

Gió theo lối gió, mây đường mây,

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Mơ khách đường xa, khách đường xa.

Áo em trắng quá nhìn không ra,

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

    I. Tác giả

    Hàn Mặc Tử (1912-1940) là bút danh của Nguyễn Trọng Trí. Các bút danh khác: Phong Trần, Lệ Thanh. Thuộc nhóm thơ Bình Định. Một cuộc đời hết sức lãng mạn và đầy bi kịch. Một nhà thơ tài năng, cảm hứng sáng tạo thi ca dào dạt với những tập thơ: Gái quê, Thơ điên, Thượng Thanh Khí Cẩm Châu Duyên, và 2 kịch thơ: Duyên kì ngộ, Quần tiên hội.

Phong cách nghệ thuật của Hàn Mặc Tử rất khác lạ: bên cạnh những vần thơ điên loạn lại xuất hiện những vần thơ hồn nhiên, trong trẻo lạ thường như “Mùa xuân chín”, “Đây thôn Vĩ Giạ”.

    II. Xuất xứ, chủ đề

    1. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Giạ” rút trong tập thơ Điên.

    2. Bài thơ nói về cảnh đẹp Vĩ Giạ với một tình yêu thiên nhiên thiết tha, một hoài niệm bâng khuâng vương vấn.

    III. Phân tích

    1. Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

    Vĩ Giạ một làng cổ đẹp nổi tiếng bên bờ Hương giang, ngoại ô cố đô Huế. Phong cảnh êm đềm thơ mộng. Với Hàn Mặc Tử chắc là có nhiều kỷ niệm đẹp? Câu mở bài như một lời chào mời, như một tiếng nhẹ nhàng trách móc: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Cảnh Vĩ Giạ được nói đến là hàng cau với nắng mới lên, một bình minh rạng ngời. Là màu xanh của cây trái của “vườn ai”, ngỡ ngàng bâng khuâng, rồi thốt lên “mướt quá xanh như ngọc”. Sắc xanh mượt mà, láng bóng ngời lên. Một so sánh rất đắt gợi tả sức xuân, sắc xuân của “vườn ai”? Câu thứ 4 có bóng người xuất hiện thấp thoáng sau hàng trúc: “gương mặt chữ điền”. Nét vẽ “lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình gợi tả vẻ kín đáo, duyên dáng của người con gái thôn Vĩ. Và cho biết “vườn ai”, ấy là vừn xuân thiếu nữ. Cau, nắng, màu xanh như ngọc của vườn ai, lá trúc và gương mặt chữ điền - 5 nét vẽ, nét nào cũng tinh tế, tao nhã, gợi nhiều thương mến bâng khuâng.

    2. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó…

    Một miền quê thoáng đãng, thơ mộng. Có gió, mây, cỏ hoa, có dòng nước. Cảnh đẹp đầy thi vị, cổ điển. Gió mây đôi ngả phân li. Dòng nước buồn thiu, buồn xa vắng mơ hồ. Hoa bắp nhè nhẹ “lay” cũng gợi buồn.

            “Gió theo lối gió, mây đường mây,

            Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

    Khổ một nói đến “nắng mới lên”, nắng bình minh. Khổ 2, nói đến “bến sông trăng”, bến đò trong hoài niệm. Vầng trăng của thương nhớ đợi chờ. “Thuyền ai” có lẽ là con thuyền thiếu nữ? Vần thơ trăng đẹp nhất trong thơ Hàn Mặc Tử. Có bến sông trăng, có con thuyền trăng. Thật thơ mộng, tình tứ:

            “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

            Có chở trăng về kịp tối nay?”

    Câu thơ của Hàn Mặc Tử về bến sông trăngthuyền ai gợi nhớ đến vần ca dao thuyền nhớ bến… bến đợi thuyền. Và vì thế nó gợi lên một mối tình thương nhớ, đợi chờ man mác, mơ hồ, bâng khuâng.

    3. Ai biết tình ai có đậm đà?

    Một chữ “mơ” đầy tình tứ trong câu thơ có nhạc điệu chơi vơi: “Mơ khách đường xa, khách đường xa”. Du khách hay thôn nữ Vĩ Giạ? Chắc lại là giai nhân mà thi nhân từng mơ ước: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Vừa thực vừa mông. Con người của thực tại hay con người trong hoài niệm? Sương khói của bến sông trăng hay miệt vườn Vĩ Giạ đã làm mờ nhân ảnh của giai nhân? Trong cảnh có tình. Trong tình có màn sương khói, một thứ tình yêu kín đáo, e dè, thiết tha:

            “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

            Ai biết tình ai có đậm đà?”

    Toàn bài thơ có 4 từ “ai” đại từ phiếm chỉ cùng xuất hiện trong các câu hỏi tu từ, không chỉ góp phần tạo nên âm điệu lâng lâng, ngỡ ngàng mà còn dẫn hồn người đọc nhớ về một miền dân ca Huế man mác sâu lắng, bồi hồi, thiết tha:

            “Núi Truối ai đắp mà cao,

Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?

Nong tằm ao cá nương dâu

Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò…”

    IV. Kết luận

    “Đây thôn Vĩ Giạ” ngỡ là một bài thơ tả cảnh, nhưng đích thực là một bài thơ tình - tình trong mộng tưởng. Cảnh rất đẹp, rất hữu tình, âm điệu thiết tha, tình tứ. Tình cũng rất đẹp nhưng chỉ là mộng ảo. Bến sông trăng còn đó, nhưng con thuyền tình có kịp chở trăng về tối nay? Xa với, mênh mông. Áo trắng giai nhân, màu trắng trong trinh nữ ấy đã trở thành hoài niệm trong miền thương nhớ của thi sĩ đa tình mà nhiều bất hạnh. “Đây thôn Vĩ Giạ” là bài thơ để ta nhớ và ta thương.

Đời thừa

              Nam Cao

    I. Tác giả

    Nam Cao (1915 - 1951) là bút danh của Trần Hữu Tri. Quê ở Đại Hoàng, Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Trước 1945, dạy học, viết văn, 1943 gia nhập Hội Văn Hóa Cứu quốc. Tham gia cướp chính quyền ở địa phương, 1946 làm phóng viên mặt trận miền Nam Trung Bộ. Sau đó lên Việt Bắc làm công tác Văn nghệ, 1951 hy sinh tại vùng địch hậu Liên khu III.

    Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạnh. Tác phẩm gồm có trên 60 truyện ngắn và 1 tiểu thuyết Sống mòn, Chí Phèo, Lão Hạc, Mua nhà, Đời thừa… là những truyện ngắn đặc sắc của Nam Cao. Sau Cách mạng Nam Cao viết chưa được nhiều vì ông hy sinh quá sớm: truyện ngắn Đôi mắt, Nhật ký ở rừng, Chuyện Biên giới.

    Nam Cao có tài kể chuyện, ngôn ngữ uyển chuyển, gần với lời ăn tiếng nói của quần chúng. Giỏi phân tích tâm lý nhân vật. Nhiều trang văn của ông thấm đượm ý vị triết lý trữ tình. Đề tài nông dân nghèo và người trí thức tiểu tư sản được Nam Cao viết rất hay và cảm động.

    II. Xuất xứ, chủ đề

    1. Truyện ngắn “Đời thừa” đăng trên tuần báo “Tiểu thuyết thứ bảy” số 490 ra ngày 4/12/1943.

    2. Tác giả cảm thông và xót xa đối với tấn bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng của người trí thức nghèo có tài năng, có tâm huyết, giàu lòng nhân đạo trong xã hội thực dân phong kiến. Đồng thời lên án gay gắt cái xã hội ngột ngạt bóp chết mọi mơ ước, tước đi cuộc sống chân chính của con người, đã đầu độc tâm hồn con người và mối quan hệ vốn đẹp đẽ giữa người và người.

    III. Tóm tắt truyện

    Hộ là một nhà văn trẻ có tài, viết thận trọng, ôm ấp một lý tưởng một hoài bão xây dựng nên một sự nghiệp văn chương. Nhưng từ khi mở rộng đôi cánh tay, đón lấy Từ - một cô gái lỡ làng, bị tình nhân phụ - Hộ nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ, Hộ mới hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền, những bận rộn tẹp nhẹp ngốn phần lớn thì giờ của hắn. Hộ phải cho in nhiều cuốn văn viết vội. Hắn đỏ mặt xấu hổ khi đọc văn mình, tự mắng mình là một thằng khốn nạn. Có lúc anh tự nhủ mình phí đi vài năm để kiếm tiền. Một bầy con thơ nhiều đẹn, nhiều sài, quấy rức, Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn trở nên cau có, gắt gỏng. Có lúc, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn lắc đầu tự bảo: “… Ta đã hỏng đứt rồi!”. Hắn rũ buồn.

    Vốn thương vợ con thế nhưng rồi Hộ tìm đến rượu, thay đổi dần tâm tính. Hắn say rượu, ngủ say như chết. Có lần hắn đòi đuổi mấy mẹ con Từ ra khỏi nhà, đòi vật một nhát cho chết cả! Nhưng sáng hôm sau tỉnh rượu hắn bẽn lẽn kêu mình đã quá chén, xin lỗi Từ, hôn hít các con như một người cha tốt. Hắn hứa chừa rượu… nhưng rồi lại uống, lại say, lại làm những trò vừa buồn cười vừa đáng sợ như lần trước.

    Hộ rất yêu vợ con. Khi Từ ốm đau, Hộ lo xanh mặt, thức suốt đêm săn sóc thuốc thang cho vợ. Đi xa vài ngày, lúc về nhà hắn hôn hít các con, cảm động đến ứa nước mắt. Hắn độc sách say mê, đọc và nghiền ngẫm, hắn thổ lộ “dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng đọc và hiểu được một câu văn hay. Có lần, trước khi đi lấy tiền nhuận bút, hắn hứa mua bánh và thịt quay về cho con. Nhưng hắn gặp Trung và Mão, bạn văn, bao nhiêu tiền đem tiêu sạch. Say mèm mới trở về nhà. Lần này hắn đánh Từ, đuổi vợ con ra khỏi nhà lúc đang đêm. Gần sáng, tỉnh rượu, hắn nhớn nhác đi tìm Từ. Thấy Từ xanh xao ôm con thơ đang thiếp đi trên võng. Hắn thương cảm, ngắm nghía mặt Từ lâu lắm, rồi khẽ thở dài, lắc đầu ái ngại, dịu dàng nắm lấy tay Từ, rồi khóc nức nở. Từ tỉnh giấc, choàng tay ôm lấy cổ chồng. Nước mắt Từ giàn giụa. Nức nở Từ nói: “… Chính vì em mà anh khổ!”… Giật mình, con thơ khóc. Từ vừa dỗ con, vừa cất tiếng ru qua làn nước mắt:

            “Ai làm cho khói lên giời,

            Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;

            Ai làm cho Nam, Bắc phân kì,

            Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương”

                                                            Thơ Tản Đà

    IV. Phân tích

    1. Nhân vật Từ

    - Ngoại hình: chắc là thời con gái, Từ cũng có một ít nhan sắc? Nam Cao rất ít tả ngoại hình. Phần cuối truyện, chỉ có một vài nét vẽ, tác giả tả Từ một người đàn bà “bạc mệnh”: Da mặt xanh nhợt, môi nhợt nhạt, mi mắt hơi tim tím, mắt có quầng, má hơi hóp lại,… Cái bàn tay lủng củng rặt những xương. Cổ tay mỏng mảnh. Làm da mỏng, xanh trong, xanh lọc… Đó là hình ảnh một thiếu phụ, nhiều lo lắng, thiếu thốn về mặt vật chất. Vẻ đẹp thời con gái đã tàn phai.

    - Lỡ làng vì bị tình phụ. Cảnh Từ ôm con sau ngày đẻ, nhịn đói, mẹ già bị mù, “cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả”.

    - Từ là hội tụ bao đức tính tốt đẹp của người vợ yêu chồng, người mẹ thương con. Dịu dàng, chịu thương chịu khó, giàu đức hy sinh. Từ hiểu rằng Hộ khổ là vì Từ. Từ chén nước đến cử chỉ lời nói, chị đã dành cho Hộ bao tình thương yêu. Bị Hộ say rượu hắt hủi, đánh đuổi, nhưng Từ vẫn yêu chồng, không thể ôm con bỏ đi được, vì ngoài tình yêu, Hộ còn là ân nhân của chị. “Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó dối với người nuôi”.

    - Phần cuối truyện, Từ ôm lấy cổ chồng nói: “… Không!... Anh chỉ là một người khổ sở… Chính vì em mà anh khổ…”. Nàng ru con qua dòng nước mắt… cho thấy Từ là một người bạc mệnh, nhưng bản tính rất dịu dàng, giàu đức hy sinh.

    - Nam Cao với trái tim nhân đạo đã miêu tả sâu sắc tâm hồn nhân hậu của Từ, cảm thông với nỗi đau của Từ, của bao người phụ nữ “bạc mệnh” và đau khổ trong xã hội cũ. Tiếng ru con của Từ là tiếng thương, là nỗi đau buồn về cuộc đời bi kịch của người phụ nữ: sống trong tình yêu mà ít có hạnh phúc!

    2. Nhân vật Hộ

    a. Hộ là một con người giàu tình thương

    - Hộ đã hành động một cách cao đẹp “nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ”. Lúc mẹ Từ qua đời, Hộ đã đứng ra làm ma, rất chu đáo. Hộ nhận Từ làm vợ, nhận làm bố cho đứa con thơ… Như một nghĩa cử cao đẹp, Hộ đã cứu vớt mẹ con Từ. Biết bao nhiêu là ân nghĩa. Hộ sống vì tình thương vì sự bao dung chở che, như anh quan niệm “Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”.

    - Hộ là một người chồng thật sự yêu thương vợ con. Anh tính chuyện “phí đi một vài năm để kiếm tiền” lo cho Từ một cái vốn làm ăn. Những lúc Từ ốm, “Hộ lo xanh mặt và thức suốt đêm”. Chỉ xa các con vài ngày, lúc gặp lại chúng, Hộ cảm động đến ứa nước mắt, “hôn hít chúng vồ vập”. Có lúc từ mồng mười đến cuối tháng, Hộ không dám bước chân ra khỏi nhà để bớt chi tiêu, hắn thương vợ con có bữa phải nhịn cơm ăn cháo. Sắp nhận được tiền nhuận bút, hộ thương đàn con thơ cả tháng “đói khát khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó một bữa ăn ra hồn”.

    - Hộ là một nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Với Hộ thì trang văn là cuộc đời, thấm tình đời “phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn”. Đó là một quan niệm rất tiến bộ, quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh”. Nhà văn phải vì con người, vì hạnh phúc của con người. Qua đó, ta thấy, là con người xã hội, là nhà văn, là người chồng người cha, trong con người và tâm hồn Hộ đều tỏa sáng một tình nhân ái bao la. Anh đã sống và hành động, vun đắp cho hạnh phúc của con người.

    b. Hộ là một nhà văn trải qua một bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng

    - Hộ có tài, lúc đầu, anh viết rất thận trọng. Mang một hoài bão lớn, “hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”. Từ khi phải lo kiếm tiền nuôi vợ con, Hộ “cho in nhiều cuốn văn viết vội”, anh xấu hổ khi đọc lại văn mình, tự xỉ vả mình “là một thằng khốn nạn”, “là một kẻ bất lương!”. Trước kia tin tưởng bao nhiêu thì nay đau đớn thất vọng bấy nhiêu! Hắn “rũ buồn”, lắc đầu tự bảo: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi!”

    - Văn chương đối với Hộ như là một cái nghiệp. Nợ áo cơm ghì sát đất, nhưng anh vẫn mê văn. Hộ nói, đọc được một câu văn hay mà hiểu được thì “dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng”. “Hộ điên người lên vì phải xoay tiền” nhưng hắn bảo “khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi”.

    - Mất dần cuộc đời hồn nhiên trong sáng, có lúc “chan chứa nước mắt, mặt hầm hầm”. Hắn đọc sách mà trông cũng dữ tợn: “đôi lông mày rậm… châu đầu lại với nhau… cái mặt hốc hác…”.

    - Hộ đã tìm đến rượu để giải sầu, càng ngày hắn càng lún sâu vào bi kịch, say rượu và đối xử vũ phu với vợ con. Vốn rất yêu vợ con nhưng có hôm say rượu hắn gườm gườm đôi mắt, đòi “vật một nhát cho chết cả”. Tỉnh rượu lại bẽn lẽn xin lỗi Từ, hứa chừa rượu, được một thời gian ngắn, lại say, lại đánh vợ, “làm những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước”. Trở thành bê tha “hắn đã ngủ một nửa ngày từ khi còn ở dọc đường”, về đến nhà thì đổ xuống giường “như một khúc gỗ… ngủ sau như chết!”. Có điều lạ, Hộ rất “tỉnh” khi anh bàn luận văn chương, rất biết điều và ân hận thực sự lúc tỉnh rượu. Hắn nhìn Từ xanh xao mà thương hại, nắm lấy tay Từ mà khóc “Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc… Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở…”. Rồi hắn tự lên án mình “chỉ là… một thằng… khốn nạn!”

    - Và câu hát ra còn thấm lệ của Từ như tô đậm thêm bi kịch của Hộ, của hai vợ chồng. Nỗi đau ấy được cực tả qua câu hát “cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương”. Tiếng khóc của Hộ, tiếng khóc của Từ mang ý nghĩa tố cáo cái xã hội tàn ác đã cướp đi mọi mơ ước, đã đày đọa cuộc sống của mỗi gia đình, đã đầu đọc tâm hồn con người và làm méo mó mối quan hệ vốn tốt đẹp giữa người và người.

    - Cũng qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã thể hiện ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nghĩ và đằm thắm yêu thương. Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật qua dòng độc thoại, qua tiếng khóc của Hộ và Từ làm cho người đọc vô cùng thấm thía về bi kịch của một trí thức nghèo, của một nhà văn nghèo trong xã hội cũ.

    V. Kết luận

    Truyện “Đời thừa”, là một thành công tiêu biểu của Nam Cao viết về đề tài người trí thức nghèo trước Cách mạng. Truyện đã hàm chứa một tình nhân đạp và có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Truyện “Đời thừa” nói lên một quan niệm văn chương rất tiến bộ của Nam Cao: Văn chương phải vì con người, làm cho người gần người hơn. Hộ như một nhân vật tự truyện, được xây dựng rất chân thực và sắc sảo, cho thấy cái tài của Nam Cao trong kể chuyện và khắc họa tính cách nhân vật. Từ Hộ trong “Đời thừa” đến “Độ” trong “Đôi mắt” cũng là một nhịp đời của Nam Cao đến với Cách mạng và kháng chiến.

Bài “28”

            Tago

1. Đôi mắt băn khoăn của em buồn

Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh.

Như trăng kia muốn vào sâu biển cả.

Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em,

Anh không giấu em một điều gì.

Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh.

2. Nếu đời anh chỉ là viên ngọc,

anh sẽ đập nó ra làm trăm mảnh

và xâu thành một chuỗi

quàng vào cổ em.

Nếu đời anh chỉ là một đóa hoa

tròn trịa, dịu dàng và bé bỏng,

anh sẽ hái nó ra đặt lên mái tóc em.

3. Nhưng em ơi, đời anh là một trái tim

Nào ai biết chiều sâu và bến bờ của nó,

Em là nữ hoàng của vương quốc đó

Ấy thế mà em có biết gì biên giới của nó đâu.

4. Nếu trái tim anh là một phút giây lạc thú

Nó sẽ nở ra thành một nụ cười nhẹ nhõm

Và em thấu suốt rất nhanh.

Nếu trái tim anh chỉ là khổ đau

Nó sẽ tan ra thành lệ trong

Và lặng im phản chiếu nỗi niềm u ẩn.

5. Nhưng em ơi, trái tim anh lại là tình yêu,

Nỗi vui sướng khổ đau của nó là vô biên.

Những đòi hỏi và sự giàu sang của nó là trường cửu

Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy

Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu.

                                                Đào Xuân Quý dịch

    I. Tác giả

    Tago (1861 - 1941) là đại thi hào của Ấn Độ. Năm 1913, Tago được tặng giải Nobel về văn chương với tập Thơ Dâng. Ông là “nhà nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại”, một nghệ sĩ toàn tài để lại một sự nghiệp văn nghệ đồ sộ.

    - 52 tập thơ, tiêu biểu là các tập thơ: Thơ Dâng (1913), Người làm vườn (1914), Mùa hái quả (1915), Trăng non (1915), Tặng phẩm của người yêu (1918), v.v…

    - 42 vở kịch: Sự trả thù của tự nhiên (1883), Vua và Hoàng hậu (1889),…

    - 12 bộ tiểu thuyết: Gôra, Đắm thuyền,…

    - Trên 3000 bức họa còn được lưu giữ trong các bảo tảng mỹ thuật, hàng trăm ca khúc và ngót 100 truyện ngắn.

    II. Phân tích bài thơ số 28

    Sau tập Thơ Dâng được giải thưởng Nobel, năm 1914, Tago xuất bản tập thơ “Người làm vườn - tập thơ tình, gồm 85 bài thơ, chỉ đánh số, không có nhan đề. Bài thơ sơ 28 này rút trong tập “Người làm vườn”, được truyền tụng và ngợi ca là “một trong những bài thơ tình hay nhất trên thế giới”.

    Toàn bài thơ vẫn là lời tỏ tình của người con trai, của “anh”. Còn người con gái chỉ “lắng nghe lời nói như ru” và qua “đôi mắt”, qua cái nhìn “băn khoăn… buồn” - được nói đến mà thôi.

    1. Sáu câu thơ đầu cho thấy một mối tình đầu rất đẹp và thơ mộng. Cô gái duyên dáng, ngỡ ngàng và “băn khoăn”. Vẻ đẹp dịu hiền được thể hiện qua đôi mắt và cái nhìn chan chứa yêu thương: “muốn nhìn vào tâm tưởng của anh”. Rụt rè và thăm dò.

    Tình yêu đến, “Thần Ái tình đã gõ cửa trái tim” nhưng em vào đã hay, đã biết gì nhiều về anh. Em là ánh trăng, anh là mặt biển (trong xanh) - Hai hình ảnh so sánh này diễn tả rất hay một tình yêu trong sáng chân thành, dào dạt và sự khao khát yêu thương. Cô gái có đôi mắt huyền mới có cái nhìn lung linh của ánh trăng kia. Và chàng trai có tình yêu nồng nàn, chân thành, trong sáng thì ánh trăng kia mới có thể soi vào tận đáy biển cả. Hình ảnh ánh trăng và biển cả đã thể hiện tài tình men say ái tình: niềm khao khát hạnh phúc và sự hòa hợp tâm hồn lứa đôi trong “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Lời tỏ tình nồng nàn yêu thương, đàng hoàng và tin cậy. Tình yêu đâu chỉ là “tìm kiếm” mà còn là “phát hiện” những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn, trong tính cách người tình của em. Như một lời nhắc khẽ mà rung động:

“…Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh.

Như trăng kia muốn vào sâu biển cả.

Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em,

Anh không giấu em một điều gì.

Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh.”

    2. Bảy dòng thơ tiếp theo là lời tỏ tình rất đẹp. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ về “ngọc”, về “hoa” và giả định: “nếu… anh sẽ…” để biểu lộ một tình yêu nồng cháy, mãnh liệt và dâng hiến. Có gì quý hơn ngọc, giá trị bằng ngọc? Nếu đời anh là viên ngọc thì anh sẽ đập vỡ làm trăm mảnh, xâu thàn chuỗi quàng vào cổ em yêu. Có gì đẹp và thơm bằng hoa? Nếu đời anh chỉ là bông hoa nhỏ bé, tròn xinh, thơm tho, anh sẽ ngắt nó ra cài lên mái tóc em. Các động từ: “đập ra”, “xâu thành”, “quàng vào”, “ngắt ra”, “cài lên” - diễn tả một “tấm lòng”, một cử chỉ trân trọng và dâng hiến trong tình yêu. Tago viết bài thơ này cách chúng ta ngày nay ngót một thế kỷ mà hình ảnh thơ vẫn mới mẻ, thú vị vô cùng:

“Nếu đời anh chỉ là viên ngọc,

anh sẽ đập nó ra làm trăm mảnh

và xâu thành một chuỗi

quàng vào cổ em.

Nếu đời anh chỉ là một đóa hoa

tròn trịa, dịu dàng và bé bỏng,

anh sẽ hái nó ra đặt lên mái tóc em.”

    Lời thơ dịch khá sát và hay. Có điều trong nguyên tác chữ “cài” (cài lên mái tóc em), dịch giả đã chuyển thành “đặt lên mái tóc em”, là cho lời thơ thô, làm giảm đi phong cách tao nhã, phong tình của chàng trai!

    3. Đoạn thơ thứ ba, chàng trai khẳng định tình yêu của mình qua hình ảnh so sánh: “Trái tim”. Ba tiếng “Nhưng em ơi!” vang lên thiết tha, đắm say. Lời tỏ tình được nâng lên một tầm cao mới, một chiều sâu thăm thẳm. Tình yêu ấy sâu sắc và mênh mông. Em là thần tượng, là nữ hoàng đang ngự trị vương quốc tình yêu - đời anh. Là một lời nhắc khẽ em yêu! Nhẹ nhàng và tế nhị. Gần mà xa, xa mà gần biết trân trọng và phát hiện mọi phẩm chất cao quý tiềm ẩn trong tâm tình người yêu. Lời tỏ tình sang trọng quá, chứng tỏ chàng trai có một trái tim rất nhân văn! Cả đời anh, tâm hồn anh, tình yêu của anh đã thuộc về em:

Nhưng em ơi, đời anh là một trái tim

Nào ai biết chiều sâu và bến bờ của nó,

Em là nữ hoàng của vương quốc đó

Ấy thế mà em có biết gì biên giới của nó đâu!”

    Đầu bài thơ, thi sĩ đã dùng hình ảnh “biển cả”, đến khổ thơ này, ông lại tạo ra những khái niệm bổ sung: “bến bờ”, “vương quốc”, “biên giới” - tạo ra một hệ thống ngôn ngữ diễn tả một không gian nghệ thuật để nói lên niềm tự hào của người con trai có một tình yêu trong sáng mênh mông.

    4. Tình yêu không thể tầm thường và đơn giản. Đâu chỉ là “một phút giây lạc thú” để làm “nở ra thành một nụ cười nhẹ nhõm”, tầm thường, thoảng qua! Tình yêu cũng không phải là sự hèn hạ, van xin, cầu mong một sự “ban ơn”, một sự yếu mềm. Giọt lệ trong, nỗi thương đau, nỗi sầu u ẩn mà người con trai mang lại trong mỗi cuộc tình chỉ là sự hèn hạ mà thôi. Mà đâu chỉ là lĩnh vực tình yêu, mọi sự quỳ lạy, van xin trong ứng xử đều hèn hạ, đáng khinh. Đoạn thơ này mang tính chất “phản đề”, nhiều người viết sách lâu nay đã hiểu không đúng. Chàng trai muốn tâm tình với người yêu là trái tim anh không phải như thế này đâu:

    “Nếu trái tim anh chỉ là phút giây sướng vui, nó sẽ nở nụ cười dịu hiền và em sẽ thấu hiểu nó nhanh - Nếu trái tim anh chỉ là nỗi thương đau, nó sẽ tan ra thành lệ trong phản ánh nỗi sầu thầm kín”.

    5. Hai đoạn thơ thứ 4 và thứ 5 tương phản đối lập. Từ phủ định đi đến khẳng định. Không nên như thế này mà phải như thế này. Người con trai đã mang đến cho người con gái một tình yêu tuyệt đẹp. Anh tự hào thổ lộ:

“Nhưng em ơi, trái tim anh lại là tình yêu,

Nỗi vui sướng khổ đau của nó là vô biên.

Những đòi hỏi và sự giàu sang của nó là trường cửu

Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy

Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu!”

    Trong nguyên tắc: “những gì tình yêu cầu mong” được người dịch thơ viết thành: “những đòi hỏi” dễ làm nhiều độc giả hiểu không đẹp ý thơ. Chàng trai tự hào về trái tim của mình “lại là tình yêu”, tình yêu đích thực, đâu phải thứ “trái tim chỉ là giây phút lạc thú”. Tình yêu của em đã và đang mang đến cho anh bao cảm xúc kỳ diệu, lúc thì vui sướng, lúc thì khổ đau… Tình yêu đâu chỉ toàn vị ngọt? Vui sướng và khổ đau mà tình yêu mang đến là mênh mông, là vô biên. Những cầu mong và sự giàu có mà tình yêu, mà trái tim của chàng trai là bất tận, là trường cửu. Chàng trai cầu mong ở người tình một tình yêu đằm thắm, chân thành và thủy chung. Cầu mong con thuyền tình của anh và em sẽ cập bến bờ hạnh phúc giữa mùa trăng? Nhẹ nhàng thổ lộ và trách móc: gần đấy sao mà xa xôi. Hình như em vẫn chưa hiểu tình yêu của anh đã dành cho em. Phải biết phát hiện sự cầu monggiàu sang trong tình yêu, Năm dòng cuối là một “tuyên ngôn” đẹp của tình yêu. Thơ tình của Tago mang thêm màu sắc triết lý.

    Có biết chiếm lĩnh trái tim người yêu mới thật sự được sống trong một tình yêu đẹp, trọn vẹn.

    Bài thơ tình số “28” của Tago rất đẹp và sáng tạo trong hình tượng: “đôi mắt buồn, băn khoăn” - “ánh trăng soi vào biển cả” - "viên ngọc và chuỗi ngọc”, “đóa hoa thơm và vòng hoa” - trái tim yêu thương mênh mông… Ý tưởng phong phú và sâu sắc: cái ngần ngại, băn khoăn của thiếu nữ trong mối tình đầu; sự chân thành, say đắm, nồng nàn, khát khao trong tình yêu của chàng trai. Không thể tầm thường, đơn giản trong tình yêu. Bài thơ tình còn là một sự đúc kết, chiêm nghiệm: Yêu là tìm kiếm, là phát hiệnchiếm lĩnh. Tình yêu là sung sướng và khổ đau, là thiếu thốn và giàu sang, gần mà xa, xa mà gần. Phải biết phát hiện để chiếm lĩnh tình yêu, có thế mới thật sự đi tới mái ấm hạnh phúc trong tình yêu đôi lứa.

    Cũng như “Biển” của Xuân Diệu, “Sóng” của Xuân Quỳnh, “Tôi yêu em” của Puskin,… bài thơ này của Tago không thể thiếu trong hành trang - tâm hồn “tuổi áo trắng” mộng mơ./.

Bài ca ngất ngưởng

                               Nguyễn Công Trứ

1. Vũ trụ nội mạc phi phận sự

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

Khi thủ khoa, khi thám tán, khi Tổng đốc Đông

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.

2. Lúc bình Tây cờ đại tướng,

Có khi về Phủ Doãn Thừa Thiên

Đô môn giải tố chi niên

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

3. Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng

4. Được mất dương dương người tài thượng,

Khen chê phơi phơi ngọn đông phong

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,

Không phật, không tiên, không vướng tục.

5. Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

Nghĩa vụ tôi cho vẹn đạo sơ chung

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

    I. Tác giả:

    Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) Hiệu là Hi Văn quê ở Uy Viễn, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. học giỏi, giàu chí khí, tài hoa, đỗ thủ khoa. Văn võ toàn tài, nhiều thăng trầm trên đường công danh, hoan lộ. Giàu lòng yêu nước thương dân. Lấn biển, khai hoang, di dân lập ra 2 huyện Tiền Hải và Kim Sơn. Năm 80 tuổi vẫn xin vua cần quân ra trận đánh Pháp (1858).

    Thơ văn để lại: Trên 50 bài thơ, trên 60 bài hát nói và một bài phú nôm nổi tiếng “Hàn nho phong vị phú”, một số câu đối nôm rất thâm thúy. Đi thi tự vinh, Nợ tang bồng, Nợ công danh, Chí nam nhi, Trên vì nước, dưới vì nhà, Bài ca ngất ngưởng… là những bài thơ rất nổi tiếng của Nguyễn Công Trứ.

    II. Xuất xứ, chủ đề:

    “Bài ca ngất ngưởng” viết sau năm 1848 – là năm Nguyễn Công Trứ về trí sĩ ở Hà Tĩnh quê nhà.

    - Như một lời tự thuật cuộc đời, qua đó Nguyễn Công Trứ tự hào về tài năng và công danh bày tỏ một quan niệm sống tài tử, phóng khoáng… ngoài vòng kiềm tỏa.

    III. Bố cục bài hát nói:

    - Khổ đầu (4 câu): Có tài danh nên ngất ngưởng.

    - Khổ giữa (4 câu): Có danh vọng, về trí sĩ càng ngất ngưởng.

    - Hai khổ dôi (8 câu tiếp): Một cuộc sống tài tử, phóng túng ngất ngưởng.

    - Khổ xếp (3 câu cuối): Một danh thần nên ngất ngưởng.

    IV. Nội dung:

    * Ngất ngưởng: Không vững ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (từ điển tiếng Việt). Ở bài thơ này, nên hiểu là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người.

    1. Khổ đầu, câu 1, 2 đối lập giữa phận sự mang tầm vóc cũ trụ lớn lao với cảnh ngộ đã vào lồng” rất chật hẹp tù túng. Thế mà ông Hi Văn đây - tự xưng rất đỗi kiêu hãnh tự hào - vẫn thi thố được tài năng, học giỏi, thi hương đỗ giải nguyên (thủ khoa) làm quan võ là tham tán, làm quan văn là Tổng đốc Đông. Là một con người có tài thao lược nên ta (ông Hi Văn) đã nên tay ngất ngưởng, một con người khác đời, khác thiên hạ, và bất chấp mọi người. Câu 3, 4 với cách ngắt nhịp (3 – 3 – 4 – 3 – 3 – 2) đã tạo nên một giọng nói điệu hào hứng:

            “Khi thủ khoa/ khi tham tán/ khi tổng đốc Đông/

            Gồm thao lược/ đã nên tay/ ngất ngưởng”

    2. Khổ giữa: Tác giả khẳng định mình là một con người có tài hình bang tế thế, lúc loạn thì giúp nước “bình Tây cờ đại tướng”, lúc bình thì giúp vua làm “phủ doãn Thừa Thiên”. Đó là việc đã qua, còn nay ta đã về trí sĩ, nên ta sống ngất ngưởng bất chấp mọi người:

            “Đô môn giải tố chi niên

            Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”

    Nay đã trả áo mũ cho triều đình, ta về quê không cưỡi ngựa mà là cưỡi bò vàng; con bò vàng của ta cũng đeo đạc ngựa, đó là một sự ngất ngưởng, rất khác người.

    3. Khổ dôi (hai khổ 3, 4) nói lên một cách sống ngất ngưởng. Xưa là một danh tướng (tay kiếm cung) thế mà nay rất từ bi hiền lành, bình dị. Đi vãn cảnh chùa chiền, đi thăm cảnh đẹp (Rú Nài): “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”, ông đã mang theo “một đôi dì” (một hai nàng hầu). Và do đó “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”. Bụt cười hay thiên hạ cười, hay ông Hi Văn tự cười mình? Chuyện “được, mất” là lẽ đời như tích “thất mã tái ông” mà thôi, chẳng bận tâm làm gì! Chuyện “khen, chê” của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai như ngọn gió đông (xuân) thổi phơi phới qua.

Không quan tâm đến chuyện được, mất, bỏ ngoài tai mọi lời khen, chê thị phi, ông đã sống những tháng ngày thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà vẫn trong sạch, thanh cao. Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hòa thanh (bằng trắc) lối nhấn, lối diễn tả trùng điệp đã tạo nên câu thơ giàu tính nhạc, biểu lộ một phong thái ung dung, yêu đời, ham sống, chẳng vướng chút bụi trần:

            “Khi ca/ khi tửu/ khi cắc/ khi tùng

            Không Phật/ không tiên/ không vướng tục

    4. Khổ xếp, Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thủy chung trong đạo “vua tôi” chẳng kém gì những Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật – những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Rồi ông đĩnh đạc tự xếp vị thế của minh trong lịch sử:

            “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

            Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung

            Trong triều ai ngất ngưởng như ông”

    Hai so sánh xa gần, ngoại, nội, Bắc sử và trong triều (Nguyễn) tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng “ông” vang lên đĩnh đạc hào hùng.

    Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, phải có thực tài, phải có thực danh phải “vẹn đạo vua tôi” thì mới trở thành “tay ngất ngưởng”, “ông ngất ngưởng” được và cách sống ngất ngưởng của ông thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, “không vướng tục” cũng không thoát li.

    V. Nghệ thuật độc đáo:

    1. Cái nhan đề, thi đề rất độc đáo. Cách bộc lộ bản ngã của ông Hi Văn cũng rất độc đáo.

    2. Chất thơ, chất nhạc hài hòa, phối hợp tài tình. Các câu 3, 4, 15, 16 là tuyệt cú.

    3. Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà… là những nhà thơ cự phách để lại một số bài hát nói tuyệt tác. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ hào hùng, chất tài tử hòa nhịp với chí anh hùng, đó là cốt cách, là bản sắc những bài thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ.

Chữ người tử tù

                             Nguyễn Tuân

    I. Tác giả

    Nguyễn Tuân (1910-1987) người Hà Nội. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: tài hoa, tài tử, uyên bác, độc đáo. Tác phẩm của Nguyễn Tuân là những tờ hoa, trang văn đích thực thể hiện tấm lòng gắn bó thiết tha với những giá trị văn hóa cổ truyền, với nếp sống thanh cao, đầy nghệ thuật của ông cha… Nguyễn Tuân sở trường về tuỳ bút.

Tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời (1940), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972),…

    II. Xuất xứ, chủ đề

    - “Vang bóng một thời” có 12 truyện xuất bản năm 1940. “Chữ người tử tù” rút trong “Vang bóng một thời”.

    - Tác giả ca ngợi Huấn Cao - một nhà nho chân chính - giàu khí phách chọc trời khuấy nước, có tài viết chữ, qua đó khẳng định một quan niệm sống: phải biết yêu quý cái đẹp, đồng thời phải biết coi trọng thiên lương.

    III. Phân tích

    1. Truyện “Vang bóng một thời” chưa đầy 2500 chữ nhưng hàm chứa một dung lượng lớn. Chỉ có ba nhân vật và ba cảnh: Quản ngục và viên thơ lại đọc công văn và nói về tử tù Huấn Cao; Huấn Cao bị giải đến và sự biệt đãi của ngục quan đối với tử tù; cảnh Huấn Cao cho chữ trong nhà ngục. Cảnh nào cũng hội tụ cả ba nhân vật này.

    2. Thơ lại: kẻ giúp việc giấy tờ cho ngục quan. Một con người sắc sảo và có tâm điền tốt. Mới đọc công văn và nghe ngục quan nói về Huấn Cao, y đã biểu lộ lòng khâm phục: “thế ra y văn võ đều có tài cả, chà chà!”. Sau đó lại bày tỏ lòng thương tiếc: “… phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy thương tiếc”. Sau nhiều lần thăm dò, thử thách, ngục quan đánh giá viên thơ lại: “Có lẽ lão bát này cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết yêu mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình”, Suốt nửa tháng, tử tù ở trong buồng tối vẫn được viên thư lại gầy gò “dâng rượu và đồ nhắm”. Y đã trở thành kẻ tâm phúc của ngục quan. Sau khi nghe tâm sự của ngục quan “muốn xin chữ tử tù”, viên thư lại sốt sắng nói: “Dạ bẩm, ngài cứ yên tâm, đã có tôi” rồi y chạy ngay xuống trại giam đấm cửa thùm thùm gặp Huấn Cao. Nhờ y mà ngục quan xin được chữ tử tù. Trong cảnh cho chữ, viên thơ lại run run bưng chậu mực. Đúng y là một người biết yêu mến khí phách, biết tiếc biết trọng người có tài. Nhân vật thơ lại chỉ là một nét vẽ phụ nhưng rất thần tình, góp phần làm rõ chủ đề.

    3. Ngục quan

    - Chọn nhầm nghề. Giữa bọn người tàn nhẫn, lừa lọc thì ngục quan lại có “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay” chẳng khác nào “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bàn đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.

    - Lần đầu gặp Huấn Cao trong cảnh nhận tù, ngục quan có “lòng kiêng nể”, lại còn có “biệt nhỡn” đối riêng với Huấn Cao. Suốt nửa tháng trời, ngục quan bí mật sai viên thơ lại dâng rượu và đồ nhắm cho tử tù - Huấn Cao và các đồng chí của ông.

    - Lần thứ hai, y gặp mặt Huấn Cao, nhẹ nhàng và khiêm tốn bày tỏ “muốn châm chước ít nhiều” đối với tử tù, nhưng đã bị ông Huấn miệt thị nặng lời, gần như xua đuổi, nhưng ngục quan vẫn ôn tồn, nhã nhặn “xin lĩnh ý” rồi lui ra.

    - Ngục quan là một nhà nho “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền” suốt đời chỉ ao ước một điều là “có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Ngục quan đang sống trong bi kịch: y tâm phục Huấn Cao là một người chọc trời khuấy nước nhưng lại tự ti “cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Viên quản ngục khổ tâm nhất là “có một ông Huấn Cao trong tay mình, không biết làm thế nào mà xin được chữ”. Là quản ngục nhưng lại không can đảm giáp mặt tử tù vì y cảm thấy Huấn Cao “cách xa y nhiều quá?”. Tử tù thì ung dung, trái lại, ngục quan lại lo “mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà chưa xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời”. Bi kịch ấy cho thấy tính cách quản ngục là một con người biết phục khí tiết, biết quý trọng người tài và rất yêu cái đẹp. Y yêu chữ Huấn Cao, chứng tỏ y có một sở thích cao quý. Vì thế khi nghe viên thơ lại nói lên ước nguyện của ngục quan, Huấn Cao cảm động nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Như vậy, trong vị thế xã hội, ngục quan và tử tù là đối địch, còn trên lĩnh vực nghệ thuật, họ là tri âm. Huấn Cao đã tri ngộ một kẻ biệt nhỡn liên tài là ngục quan.

    - Trong cảnh cho chữ có một hình ảnh kỳ diệu: “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba đầu người đang chăm chú trên một tấm lục bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Ánh sáng bó đuốc ấy chính là ánh sáng của thiên lương mà tử tù đang chiếu lên và lay tỉnh ngục quan. Chi tiết ngục quan “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu cô chữ đặt trên phiến lục óng”, chi tiết ngục quan vái tử tù một vái, nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào nói: “kẻ mê muội này xin bái lĩnh” là những chi tiết thú vị. Lúc sở thích nghệ thuật đã mãn nguyện cũng là lúc ánh sáng thiên lương soi tỏ, chiếu rọi tâm hồn. Một cái vái lạy đầy nhân cách, hiếm có.

    III. Phân tích

    1. Truyện “Vang bóng một thời” chưa đầy 2500 chữ nhưng hàm chứa một dung lượng lớn. Chỉ có ba nhân vật và ba cảnh: Quản ngục và viên thơ lại đọc công văn và nói về tử tù Huấn Cao; Huấn Cao bị giải đến và sự biệt đãi của ngục quan đối với tử tù; cảnh Huấn Cao cho chữ trong nhà ngục. Cảnh nào cũng hội tụ cả ba nhân vật này.

    2. Thơ lại: kẻ giúp việc giấy tờ cho ngục quan. Một con người sắc sảo và có tâm điền tốt. Mới đọc công văn và nghe ngục quan nói về Huấn Cao, y đã biểu lộ lòng khâm phục: “thế ra y văn võ đều có tài cả, chà chà!”. Sau đó lại bày tỏ lòng thương tiếc: “… phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy thương tiếc”. Sau nhiều lần thăm dò, thử thách, ngục quan đánh giá viên thơ lại: “Có lẽ lão bát này cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết yêu mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình”, Suốt nửa tháng, tử tù ở trong buồng tối vẫn được viên thư lại gầy gò “dâng rượu và đồ nhắm”. Y đã trở thành kẻ tâm phúc của ngục quan. Sau khi nghe tâm sự của ngục quan “muốn xin chữ tử tù”, viên thư lại sốt sắng nói: “Dạ bẩm, ngài cứ yên tâm, đã có tôi” rồi y chạy ngay xuống trại giam đấm cửa thùm thùm gặp Huấn Cao. Nhờ y mà ngục quan xin được chữ tử tù. Trong cảnh cho chữ, viên thơ lại run run bưng chậu mực. Đúng y là một người biết yêu mến khí phách, biết tiếc biết trọng người có tài. Nhân vật thơ lại chỉ là một nét vẽ phụ nhưng rất thần tình, góp phần làm rõ chủ đề.

    3. Ngục quan

    - Chọn nhầm nghề. Giữa bọn người tàn nhẫn, lừa lọc thì ngục quan lại có “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay” chẳng khác nào “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bàn đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.

    - Lần đầu gặp Huấn Cao trong cảnh nhận tù, ngục quan có “lòng kiêng nể”, lại còn có “biệt nhỡn” đối riêng với Huấn Cao. Suốt nửa tháng trời, ngục quan bí mật sai viên thơ lại dâng rượu và đồ nhắm cho tử tù - Huấn Cao và các đồng chí của ông.

    - Lần thứ hai, y gặp mặt Huấn Cao, nhẹ nhàng và khiêm tốn bày tỏ “muốn châm chước ít nhiều” đối với tử tù, nhưng đã bị ông Huấn miệt thị nặng lời, gần như xua đuổi, nhưng ngục quan vẫn ôn tồn, nhã nhặn “xin lĩnh ý” rồi lui ra.

    - Ngục quan là một nhà nho “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền” suốt đời chỉ ao ước một điều là “có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Ngục quan đang sống trong bi kịch: y tâm phục Huấn Cao là một người chọc trời khuấy nước nhưng lại tự ti “cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Viên quản ngục khổ tâm nhất là “có một ông Huấn Cao trong tay mình, không biết làm thế nào mà xin được chữ”. Là quản ngục nhưng lại không can đảm giáp mặt tử tù vì y cảm thấy Huấn Cao “cách xa y nhiều quá?”. Tử tù thì ung dung, trái lại, ngục quan lại lo “mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà chưa xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời”. Bi kịch ấy cho thấy tính cách quản ngục là một con người biết phục khí tiết, biết quý trọng người tài và rất yêu cái đẹp. Y yêu chữ Huấn Cao, chứng tỏ y có một sở thích cao quý. Vì thế khi nghe viên thơ lại nói lên ước nguyện của ngục quan, Huấn Cao cảm động nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Như vậy, trong vị thế xã hội, ngục quan và tử tù là đối địch, còn trên lĩnh vực nghệ thuật, họ là tri âm. Huấn Cao đã tri ngộ một kẻ biệt nhỡn liên tài là ngục quan.

    - Trong cảnh cho chữ có một hình ảnh kỳ diệu: “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba đầu người đang chăm chú trên một tấm lục bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Ánh sáng bó đuốc ấy chính là ánh sáng của thiên lương mà tử tù đang chiếu lên và lay tỉnh ngục quan. Chi tiết ngục quan “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu cô chữ đặt trên phiến lục óng”, chi tiết ngục quan vái tử tù một vái, nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào nói: “kẻ mê muội này xin bái lĩnh” là những chi tiết thú vị. Lúc sở thích nghệ thuật đã mãn nguyện cũng là lúc ánh sáng thiên lương soi tỏ, chiếu rọi tâm hồn. Một cái vái lạy đầy nhân cách, hiếm có.

    - Có thể, sau khi Huấn Cao bị giải vào Kinh thụ hình thì cũng là lúc ngục quan trả áo mũ, “tìm về nhà quê mà ở” để giữ lấy thiên lương cho lành vững và thực hiện cái sở thích chơi chữ bấy nay? Nguyễn Tuân đã xây dựng ngục quan bằng nhiều nét vẽ có thần. Ngoại hình thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”. Một con người ưa sống bằng nội tâm; cái đêm hôm trước đón nhận tử tù, ông sống trong trạng thái thanh thản, gương mặt ông ta “là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Trong một xã hội phong kiến suy tàn, chốn quan trường đầy rẫy kẻ bất lương vô đạo, nhân vật ngục quan đúng là một con người vang bóng. Nhân vật này đã thể hiện sâu sắc chủ đề tác phẩm.

    4. Huấn Cao: là nhân vật bi tráng, cao đẹp mang màu sắc lãng mạn.

    a - Lúc đầu được giới thiệu gián tiếp qua một tiếng đồn: “cái người mà vùng tỉnh ta vẫn khen…”, “nhiều người nhấc nhỏm đến cái danh đó luôn…”, “một tên tù có tiếng là…”, và “thầy có nghe người ta đồn…” - Đó là một con người không phải tầm thường!

    - Ngục quan và viên thơ lại mới “kiến kì thanh” mà đã tâm phục Huấn Cao, họ trầm trồ: “Người đứng đầu…”, “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp…”, một tử tù lừng lẫy tiếng tăm “văn võ đều có tài cả”…

    - Lấy xa để nói gần, lấy bóng làm lộ hình, sử dụng lối tả gián tiếp… đó là bút pháp Nguyễn Tuân vận dụng sáng tạo để giới thiệu nhân vật, tạo ra sự cuốn hút nghệ thuật kì diệu.

    b - Là một nhà nho kiệt hiệt dám chọc trời khuấy nước. Chí lớn không thành mà vẫn hiên ngang. Chết chém cũng chẳng sợ. Một tinh thần gang thép “vô úy” bất khuất. Một cái “rỗ gông” trước của ngục. Một câu miệt thị ngục quan: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều: Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta”. Không phải ai cũng có cái gan dám thách thức cường quyền bạo lực thế đâu?

    c - Coi khinh vàng ngọc. Không vì vàng ngọc, vì quyền uy mà “ép mình viết bao giờ?”. Chữ thì quý thật? Nhất sinh ông mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường tặng ba người bạn thân. Không chỉ đẹp ở nét chữ, mà mỗi chữ, mỗi bức thư họa của Huấn Cao là một bức châm, thể hiện một lý tưởng tung hoành, một hoài bão, một đạo lý cao đẹp. Chữ của Huấn Cao cho thấy cái tài, cái tầm nhìn của kẻ sĩ chân chính mà ta ngưỡng mộ và kính phục.

    d - Với Huấn Cao thì thiên lương là ngọn lửa, là “ánh sáng đỏ rực” như ngọn đuốc kia. Nếu ngục quan tâm phục con người nghĩa khí, tài hoa thì Huấn Cao lại nể trọng con người biệt nhỡn liên tài. Suốt đời ông chỉ “cúi đầu vái lạy hoa mai” thế mà khi nghe viên thơ lại nói lên tâm sự của chủ mình muốn “xin chữ”, Huấn Cao đã ân hận nói: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Cảnh “cho chữ” được miêu tả bằng bút pháp lãng mạn gợi lên một không khí thiêng liêng bi tráng. Phóng giam ẩm ướt bẩn thỉu, hôi hám. Lửa đuốc sáng rực. Tấm lụa trắng. Chậu mực thơm lắm. Ba cái đầu cúi xuống tấm lụa trắng. Huấn Cao hiện ra với vẻ uy nghi, hào hùng. Cổ đeo gông, chân vướng xiềng, Huấn Cao vung bút viết. “Những nét chữ vuông vắn rõ ràng” hiện lên rực rỡ trên phiến lụa óng. Tư thế đĩnh đạc ung dung. Mai kia ông đã bước lên đoạn đầu đài, nhưng đêm nay ông vẫn ung dung. Một cử chỉ “đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy”. Một lời khuyên: “Ta khuyên thầy quản nên thay chỗ ở đi… thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Với Huấn Cao thì thiên lương là cái gốc của đạo lý, có giữ được thiên lương mới biết quý trọng tài năng và cái đẹp ở đời.

    Ở con người Huấn Cao, từ cử chỉ, hành động đến ngông ngữ, từ nét chữ đến phong thái - đều toát ra một vẻ đẹp vừa phi thường, vừa bình dị, vừa anh hùng, vừa nghệ sĩ, bên cạnh cái hùng có cái bi, tính vốn khoảnh mà lại trân trọng kẻ biệt nhỡn liên tài, coi thường vàng bạc quyền uy mà lại đề cao tình bằng hữu, đến chết vẫn nghĩa khí và giữ trọn thiên lương. Nguyễn Tuân đã dàn cảnh, tả người và kể chuyện, sử dụng những ẩn dụ so sánh, những tình tiết đan chéo, ràng buộc vào nhau, tạo nên một không gian nghệ thuật cổ kính, bi tráng nâng nhân vật Huấn Cao lên một tầm vóc lịch sử. Văn học lãng mạn thời tiền chiến chỉ có một Huấn Cao đẹp hào hùng như vậy.

    IV. Kết luận

    Đọc “Chữ người tử tù” ta càng thấm thía điều mà Vũ Ngọc Phan đã nói: “… văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời độc thoại và đối thoại, khắc họa tính cách nhân vật… hầu như không có một chi tiết nào thừa. Ba nhân vật cùng đồng thời xuất hiện. Cảnh cho chữ là cao trào, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Tất cả đều hướng về cái tài, cái đẹp, cái thiên lương. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính và bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội.

    Hai câu văn: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, và: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” - đẹp như những bức châm trong các thư họa nghìn xưa lưu lại trong các viện bảo tàng mĩ thuật. Cũng là bài học làm người sáng giá!

 Chí Phèo

              Nam Cao

    I. Xuất xứ, chủ đề:

    Lúc đầu, Nam Cao đặt tên truyện là Cái lò gạch cũ. Nhà xuất bản Đời mời năm 1941, đổi thành Đôi lứa xứng đôi. Năm 1946 trong tập Luống cày do Hộ Văn hóa cứu quốc xuất bản, tác giả đổi tên truyện thành Chí Phèo.

    Truyện Chí Phèo nói lên số phận bi thảm của người nông dân nghèo, lương thiện bị xã hội thực dân phong kiến xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi không có lối thoát.

    II. Tóm tắt truyện

    Ở làng Vũ Đại. Một sáng tinh sương, anh thả ống lươn nhặt được đứa bé mới đẻ xám ngắt đùm trong cái váy đụp vứt ở lò gạch cũ. Anh ta rước lấy đem về cho người đàn bà góa mù, bà này bán lại cho bác phó cối. Khi bác phó cối chết, hắn bơ vơ, mãi năm 18 tuổi hắn làm canh điền cho Bá Kiến. Vợ ba Bá Kiến bắt Chí xoa bụng đấm lưng gì đó. Bỗng một hôm Chí Phèo bị người ta giải huyện… Đi tù bảy, tám năm sau hắn trở lại làng, mặt mày trông khác hẳn, gớm chết! Về hôm trước thì chiều hôm hắn xách vỏ chai đến thẳng nhà Bá Kiến gây sự. Xô xát với Lý Cường, hắn đập vỏ chai, rạch mặt kêu trời ăn vạ. Sau cái vụ Năm Thọ, Binh chức, cụ Bá róc đời xử nhũn với Chí Phèo. Cụ mời hắn vào nhà, giết gà đãi rượu, lúc hắn ra về còn đãi một đống bạc uống thuốc.

    Bốn hôm sau, Chí Phèo đốt quán bà bán rượu… Hắn mang theo một con dao nhọn đến xin Cụ Bá đi ở tù. Chỉ một câu nói khích, cụ đã sai được Chí Phèo đến nhà đội Tảo đòi 50 đồng bạc nợ cho cụ. Chẳng phải giao tranh đổ máu, hắn đã đòi được nợ đem về. Cụ bá cho hắn 5 đồng và bán cho hắn 5 sào vườn ngoài bãi sông mới cắm thuế của một người làng. Năm đó Chí 27 hay 28 tuổi, hắn bỗng thành có nhà. Hắn trở thành anh đầy tớ chân tay mới của Bá Kiến, chuyên đâm thuê chém mướn, rạch mặt ăn vạ. Hắn đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say mãi, say vô tận. Hắn chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi con mẹ chết tiệt nào đẻ ra hắn cho hắn khổ. Năm đó hắn ngoài 40, cái mặt như mặt một con vật lạ. Cả làng Vũ Đại đều sợ hắn một khi hắn đi qua trước mặt.

    Tình cờ một đêm trăng, Chí Phèo lần vô nhà Tự Lãng, tên hoạn lợn kiêm nghề thầy cúng, hai đứa uống hết cả 3 chai rượu. Ngứa ngáy quá, Chí lảo đảo đi về lều. Hắn gặp Thị Nở đang há hốc mồm ngủ dưới trăng, hắn ôm chầm lấy chị mà làm tình. Gần sáng Chí bị cảm, hắn được thị Nở người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn cho ăn cháo hành. Cũng là lần đầu tiên hắn được ăn cháo hành lại do bàn tay một người đàn bà cho. Hắn bâng khuâng nhớ lại một thời trai trẻ, hắn muốn cùng thị làm thành một cặp rất xứng đôi. Chí Phèo thèm lương thiện. Và hắn say thị lắm. Nhưng đến hôm thứ 6, thị nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã. Thị Nở bị bà cô xỉa xói vào mặt. Thị ton ton chạy sang lều trút tất cả giận dữ lên mặt nhân ngãi. Chí Phèo ngẩn mặt ra, chạy theo Thị Nở, hắn đã bị nhân tình giúi cho một cái ngã lăn khoèo xuống đất. Hắn toan đập đầu ăn vạ nhưng hắn chưa thật say. Và hắn uống, uống thêm chai nữa, càng uống càng tỉnh. Hắn đi đến nhà Bá Kiến với con dao ở thắt lưng để đòi lương thiện. Chém chết Bá Kiến, hắn đâm cổ tự sát. Cả làng Vũ đại xôn xao kéo đến xem 2 con quỷ giết nhau. Bà cô chì chiết Thị Nở. Thị nhìn nhanh xuống bụng mình, và thoáng chợt thấy một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua…

    III. Phân tích

    1. Làng Vũ Đại là hình ảnh cái xã hội thực dân phong kiến thối nát, cái ác ngự trị.

    - Là nơi “quần ngư tranh thực” với các phe nghịch, đu lại với nhau để bóc lột con em. ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau: cánh Bá Kiến, cánh ông đội Tảo, cánh ông Tư Đạm, cánh ông Bát Tùng… Đội Tảo ngang ngược, là cựu binh “cũng có thể đâm chém được, chưa bao giờ chịu hàng trước cuộc giao tranh”. Còn Bá Kiến vô cùng xảo quyệt, biết “mềm nắn rắn buông”, biết ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn! Hãy đập bàn, đập ghế đòi cho được 5 đồng nhưng rồi thì lại vứt trả lại năm hào “vì thương anh túng quá!”. Cụ không cần than thở: trị không lợi thì cụ dùng! Cụ biết thu dụng những thằng bạt mạng để cắm thuế, cắm ruộng, đốt nhà, đâm chém… gây ra bao cảnh đổ máu, làm tan nát bao cơ nghiệp dân lành.

    - Là nơi đầy rẫy bọn đầu bò đâm thuê chém mướn. Năm Thọ đi thì Binh chức lần về. Binh Chức chết thì lại nở ra một Chí Phèo - cùng với Bá Kiến là 2 con quỷ dữ làng Vũ Đại. Chí Phèo chết lại có một Chí Phèo con nhất định sẽ ra đời!

- Một thị Nở “dòng giống của một nhà có mả hủi…”, một bà cô thị suốt đời cô đơn, một Tự Lãng làm nghề hoạn lợn kiêm thầy     cúng, vợ chết, con gái chửa hoang bỏ nhà trốn đi… Bao nhiêu thảm kịch, bi kịch?

Nam Cao đã tố cáo cái hiện thực xấu xa, tàn ác của xã hội thực dân phong kiến. Những cảnh đời dữ dội, những con người đáng sợ, nguồn gốc của tội ác và đau thương đã và đang xô đẩy bao người lương thiện vào con đường đau khổ, tội lỗi.

    2. Nhân vật Chí Phèo:

    - Đau khổ từ khi còn nằm trong bụng mẹ: hoang thai. Đẻ ra thì bị mẹ hắn vứt ra lò gạch cũ. Một vật cho không. Một món hàng từ tay người đàn bà goá mù qua tay ông phó cối. Bơ vơ, làm thuê, bị vợ ba Bá Kiến lợi dụng, bị bỏ tù oan uông 7, 8 năm trời.

    - Không người thân thích. Không một mái ấm nương thân. Một nông dân lương thiện bị nhà tù thực dân biến thành một tên đầu bò. Bá Kiến đã biến Chí thành kẻ đâm thuê chém mướn. Đến nhà Bá Kiến lần đầu sau 8 năm đi tù về, Chí bỗng nhiên “có họ” với Lý Cường! Cụ Bá sai Chí đi đòi nợ đội Tảo, đòi được nợ, Chí Phèo kiêu hãnh nghĩ: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Khi đã ngoài 40 tuổi, cái mặt Chí Phèo như mặt một con vật lạ” vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio”, vằn dọc vằn ngang biết bao nhiêu là sẹo! Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại… Hắn ăn và ngủ trong lúc say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận,… Hắn đã bị cướp mất cả hình người lẫn linh hồn. Hắn đã thành quỷ dữ.

    - “Cuộc tình” của Chí với Thị Nở, bát cháo hành và sự săn sóc của thị đã đánh thức bản tính người bị tước đoạt, bị che lấp hơn mười năm nay, làm cho Chí “thèm lương thiện”, “muốn làm hòa” với mọi người! Hắn sống lại mơ ước bình dị thời trai trẻ. Hắn biết đón nghe mọi âm thanh đời thường. Hắn muốn cùng thị Nở làm thành một cặp rất xứng đôi. Bà cô thị Nở và thị đã chối từ quyền làm người của Chí. Cái dùi của thị Nở làm ngã lăn khoèo Chí Phèo, đã đẩy Chí Phèo chìm vào đáy bi kịch, Chí càng uống càng tỉnh. Chỉ còn một con đường một cách đâm chết Bá Kiến và tự sát vì “ai cho tao lương thiện!... Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”.

Sau tiếng kêu và những nhát dao của Chí Phèo, cánh cửa trần gian đã đóng chặt, cửa ngục âm ti mở toang đẩy hai con quỷ dữ làng Vũ Đại vào hỏa ngục! Cái chết của Chí Phèo là cái chết đáng thương!

    Nam Cao miêu tả bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo hết sức tinh tế và sâu sắc như là một quá trình tự vận động của tính cách. Từ lương thiện bị biến thành lưu manh, từ kẻ đâm thuê chém mướn bỗng thèm lương thiện, bị cự tuyệt quyền làm người thì trả thù kẻ làm hại đời mình rồi tự sát.

    Nam Cao vừa vạch trần cái xã hội thối nát, độc ác, ông như vừa cất tiếng kêu thương: Hãy chặn đứng tội ác! Hãy xoá bỏ cái xã hội thực dân phong kiến! Hãy cứu lấy dân nghèo lương thiện! Nhân vật Chí Phèo là một nhân vật điển hình về người nông dân bị lưu manh hóa.

    III. Kết luận

    Truyện “Chí Phèo” là một truyện ngắn độc đáo, thấm nhuần tinh thần nhân đạo sâu sắc. Khắc họa tính cách nhân vật, phân tích chiều sâu tâm lý và bi kịch nhân vật, cách kể chuyện hấp dẫn, lôi cuốn là những thành công đặc sắc của Nam Cao. Truyện “Chí Phèo” là một trong những truyện ngắn hay nhất viết về đề tài nông dân trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

Hạnh phúc của một tang gia

                                                Vũ Trọng Phụng

    I. Tác giả

    Vũ Trọng Phụng (1912-1939) quê nội ở Hưng Yên. Ông sống và viết văn tại Hà Nội. Sở trường về phóng sự, được các báo chí thời bấy giờ gọi là “Ông vua phóng sự đất Bắc”.

    Tác phẩm:

    - Phóng sự: Cạm bẫy người (1933), Cơm thầy cơm cô (1936), Lục xì (1937), v.v…

    - Tiểu thuyết: Giông tố (1936), Số đỏ (1936), Vỡ đê (1936), Trúng số độc đắc (1938), v.v…

    - Kịch: Không một tiếng vang (1931).

    Vũ Trọng Phụng có tài châm biếm đả kích cái xã hội thực dân phong kiến tư sản hết sức bất công, tàn bạo, thối nát… Ông đã sáng tạo ra những nhân vật điển hình bất hủ như Xuân Tóc Đỏ để chế giễu cái xã hội mà ông gọi là “khốn nạn”, “chó đẻ”.

    II. Xuất xứ

    “Hạnh phúc của một tang gia”, trích toàn bộ chương 15 tiểu thuyết “Số đỏ”, một kiệt tác của Vũ Trọng Phụng, xuất bản năm 1936.

    III. Tóm tắt “Hạnh phúc của một tang gia”

    Sau 3 ngày ngắc ngoải, cụ cố Tổ hơn 80 tuổi chết thật. Cụ cố Hồng, vợ chồng Văn Minh, ông phán-mọc-sừng, cậu tú Tân, cô Tuyết… cả bọn con cháu vô cùng sung sướng. Người chết được quan trên khám qua loa đã được khâm liệm, gần một ngày rồi mà chưa phát phục. Sau khi cụ bà đi thu xếp việc cưới chạy tang cho Tuyết không đi đến đâu, Văn Minh hứa là sẽ tìm cách cho Tuyết lấy chồng một cách danh giá thì cụ cố Hồng mới cho phát phục. Bầy con cháu tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma. Bảy giờ sáng hôm sau thì cất đám. Có 2 tên cảnh sát Min Đơ, Min Toa được thuê giữ trật tự. Tuyết mặc bộ đồ NGÂY THƠ đi mời trầu. Đám ma theo cả lối Ta, Tàu, Tây. Có kiệu bát cống, có lợn quay đi lọng, có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa. Có lốc bốc xoảng, bu dích và vòng hoa. Khi đám ma đi được 4 phố khi vợ chồng Typn, bà Phó Đoan và mấy người nữa đang lào xào phê bình thái độ của Xuân thì bỗng có 6 chiếc xe, trên có sư chùa Bà Banh, xe nào cũng che 2 lọng xuất hiện. Hai vòng hoa đồ sộ, một của báo Gõ Mõ, một của Xuân len vào hàng đầu. Cậu tú Tân vội bấm máy. Cụ bà chạy lên, sung sướng vì ông Đốc Xuân đã không giận mà lại giúp đáp phúng viếng đến thế, và đám ma như kể đã là danh giá nhất tất cả. Bọn quan khách thì cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau,… Lúc hạ huyệt, cậu tú Tân bắt bẻ từng người một để chụp ảnh. Ông pháp mọc sừng, khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!” bí mật dúi vào tay Xuân cái giấy bạc năm đồng gấp tư… Nó nắm tay cho khỏi có người nom thấy…

    IV. Phân tích

    1. Giá trị châm biếm và đả kích cái xã hội thực dân phong kiến tư sản xấu xa, đồi bại và thối nát.

    - Trong gia đình, ông chết, cha chết - một cái chết làm cho nhiều người sung sướng lắm. Cụ cố Hồng “nhắm nghiền mắt lại mơ màng”… vì cụ chắc thiên hạ “ai cũng phải khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế!”. Ông phán mọc sừng sung sướng vì ông ta không ngờ rằng “đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế” nên đã được cụ cố Hồng - bố vợ - hứa sẽ chia thêm cho con gái và con rể thêm vài nghìn đồng… Văn Minh chồng rất hạnh phúc vì từ nay cái chúc thư chia gia tài “sẽ đi vào thời kỳ thực hành”. Cậu tú Tân được dịp dùng đến mấy cái máy ảnh. Bà Văn Minh sung sướng vì cái mốt về những bộ đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen… sẽ đem đến cho những ai có tang “được hưởng chút hạnh phúc ở đời”. Ông Typn chờ mong các báo chí phê bình “những chế tạo của mình” trong cuộc cải cách y phục của Âu hóa… Tuyết thì diện bộ đồ NGÂY THƠ để cho thiên hạ biết rằng “mình chưa đánh mất cả chữ trinh”, v.v…

    - Ở ngoài xã hội, hai viên cảnh sát MIN ĐƠ, MIN TOA., giữa lúc không có ai đáng phạt mà phạt, đương buồn như nhà buôn vỡ nợ thì được có đám thuê nên “sung sướng cực điểm”. Các quan khách đến đưa mà, bạn của Tuyết, Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan, những giai thanh gái lịch được dịp “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau…”. Banh thân của cụ cố Hồng đến đưa đám ma với cái ngực “đầy những huy chương…”, với bộ râu “hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen, hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn”… đến để khoe tài, khoe đức, khoe của… Sư cụ Tăng Phú thì sung sướng vênh váo, ngồi trên một chiếc xe vì đã “đánh đổ đượng Hội Phật giáo, và như thế là cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ Mõ vậy”. Còn Xuân tóc Đỏ đến đưa đám với sự cố ý đến chậm, bằng 2 vòng hoa đồ sộ, 6 chiếc xe có cắm lọng,… hắn đã làm cho Tuyết “liếc mắt đưa tình cho nó để tỏ ý cám ơn”, làm cho cụ bà sung sướng thốt lên: “Ông Đốc Xuân đã không giận mà lại giúp đáp phúng viếng đến thế, và đám ma như kể đã là danh giá nhất tất cả”. Và Xuân sao không sung sướng, chỉ một câu nói: “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng!” mà được ông phán-mọc-sừng trả công đến một tờ giấy bạc 5 đồng gấp tư “dúi vào tay”…

    Đúng là “hạnh phúc của một tang gia”, mặc dù lúc hạ huyệt có cụ cố Hồng mếu, ông phán-mọc-sừng khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!”.

    2. Nghệ thuật trào phúng bậc thầy:

    - Một đám ma được kể và tả như một đám rước xách với nhiều vai hề già có, trả có, đàn ông, đàn bà… của tầng lớp tư sản “Âu hóa” rởm. Tác giả biểu lộ sự khinh bỉ, châm biếm sâu cay.

    - Các thủ pháp nghệ thuật trào phúng vận dụng sắc sảo tài tình:

    + Phóng đại: cụ cố Hồng sung sướng quá vì chuyện bố chết mà hút liền một chặp 60 điếu thuốc phiện, gắt 1872 lần câu: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”.

    + Đặc tả những bộ râu của các ông bạn của cụ cố Hồng rất hài hước!

    + Phục bút: Xuân đến đưa đám muộn, lúc đầu làm cho Tuyết đau khổ “có thể muốn tự tử được”, lúc hắn đến, Tuyết liếc mắt đưa tình cho hắn để tỏ ý cảm ơn. Và cụ bà thì thốt lên sung sướng “đám ma kể đã là danh giá nhất tất cả!”.

    + Những vai hề: cậu tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng bắt bẻ từng người “hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng…” để chụp ảnh. Ông phán-mọc-sừng khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!” nhưng lại bí mật giúi vào tay Xuân tờ giấy bạc 5 đồng gấp tư… - Rất sòng phẳng trong việc mua bán “danh lợi”!

    + Sử dụng tương phản làm nổi bật cái hài, cái rởm, cái đồi bại, thối nát vô luân hãnh diện. Ví dụ, sư cụ Tăng Phú, v.v…

    Tóm lại, chỉ qua một chương ngắn mà ta thấy được nghệ thuật trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng. “Số đỏ” quả là một kiệt tác trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Hai đứa trẻ

                    Thạch Lam

    I. Tác giả

    Thạch Lam (1910-1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh (sau đổi là Nguyễn Tường Lân). Nhà văn, nổi tiếng về truyện ngắn. Viết xúc động về người nghèo, những em bé nhà nghèo. Văn nhẹ nhàng, tinh tế với tấm lòng xót thương, nhân hậu. Chất thơ man mác trong văn xuôi.

    Tác phẩm - Các tập truyện ngắn: Gió đầu mùa (1977), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942), Tập tuỳ bút Hà Nội 36 phố phường

    II. Xuất xứ, chủ đề

    1. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” rút trong tập “Nắng trong vườn” (1938)

    2. Tác phẩm nói lên lòng xót thương đối với những kỷ niệm và ước mơ bình dị, cảm động của những em bé nơi phố huyện nghèo ngày xưa.

    III. Phân tích

    1. Phố huyện nghèo và những người nghèo

    - Phố huyện là một thị trấn nhỏ và nghèo. Xung quanh là cánh đồng và xóm làng. Gần bờ sông. Có đường sắt chạy qua, có một ga tàu. Chiều hè tiếng ếch nhái râm ran. Đên xuống, phố vắng, tối im lìm. Rất ít đèn.

    - Chợ chiều vãn. Chỉ có vài đứa bé lang thang đi lại nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre… bóng chập chờn.

    - Chị Tí mò cua bắt tép, tối đến dọn hàng nước dưới gốc bàng; dọn hàng từ chập tối cho đến đêm “chả kiếm được bao nhiêu?”. Thằng cu bé con chị Tí - xách điếu đóm và khiêng 2 cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra trông thật tội nghiệp.

    - Bà cụ Thi hơi điên, cười khanh khách, ngửa cổ ra đàng sau, uống một hơi cạn sạch cút rượu, lảo đảo lần vào bóng tối.

    - Vợ chồng bác xẩm “tiếng đàn bầu bần bật”, thằng con bò ra đất…

    - Bác phở Siêu gánh hành đi trong đêm, tiếng đòn gánh kĩu kịt, bóng bác mênh mang,… Phở của bác là món quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được.

    - Phố tối, đường ra sông tối, cái ngõ vào làng lại sẫm đen hơn. Một vài ngọn đèn leo lét… Ngọn đèn con của chị Tí, bếp lửa của bác Siêu chiếu sáng một vùng đất cát, ngọn đèn của Liên từng hột sáng lọt qua phên nứa…

    Tóm lại, phố nghèo, yên tĩnh và đầy bóng tối. Con người phố huyện âm thầm, lạnh lẽo. “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ? Cách viết nhẹ nhàng, đầy xót thương, thấm một nỗi buồn thấm thía. Đó là tình cảm nhân đạo của Thạch Lam.

    2. Chị em Liên:

    - Gia cảnh sa sút nghèo. Cha mất việc. Cả nhà bỏ Hà Nội về quê. Mẹ làng hàng sáo. Chị em Liên được mẹ cho trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, phên nứa dán giấy nhật trình.

    - An ngây thơ. Liên cảm thấy cô đã lớn, đảm đang, kiêu hãnh vì cái dây xà tích bạc ở thắt lưng “vì nó tỏ ra chỉ là người con gái lớn và đảm đang”.

    - Gian hàng tối âm thầm, đầy muỗi. Đêm nào hai chị em Liên và An cũng ngồi dưới gốc bàng, trên cái chõng tre để đợi chuyến tàu đêm. Để bán hàng theo lời mẹ dặn. Còn là một niềm vui nhỏ nhoi.

    - An trước lúc ngủ còn dặn chị đánh thức khi tàu đến. Đợi tàu là đợi ánh sáng. Con tàu từ Hà Nội về mang theo. Con tàu gợi nhớ kỷ niệm tuổi thơ: ngày bố còn đi làm, mẹ nhiều tiền được hưởng những thức quà ngon lạ, được đi chơi bờ hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ.

    - Đợi tàu là đợi những mơ tưởng. Với Liên, trong ký ức và hiện tại “Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Thế giới ấy khác hẳn đối với cuộc đời của Liên, của dân nghèo phố huyện, khắc hẳn vầng sáng ngọn đèn chị Tí và ánh lửa của bác Siêu.

    - Giấc ngủ của Liên, lúc đầu mờ dần đi “giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết…” về sau “mặt chị nặng dần”, chìm dần vào “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh,… tĩnh mịch và đầy bóng tối”.

    Tóm lại, ngòi bút của Thạch Lam tả ít mà gợi nhiều, nhỏ nhẹ, làm xúc động người đọc trước những số phận, những cảnh đời vui ít buồn nhiều, âm thầm, lặng lẽ và đầy bóng tối. Có mơ ước nhỏ nhoi, bình dị trước một cái gì vừa thuộc về quá vãng, vừa hướng tới tương lai.

    III. Kết luận

    Truyện “Hai đứa trẻ” vừa hiện thực vừa mang màu sắc lãng mạn. Cảnh đợi tàu thật xúc động. Một ngồi bút tinh tế tạo ra những trang văn xuôi nhẹ nhàng đầy chất thơ. Một trái tim đầy tình người. Văn Thạch Lam cho ta nhiều nhã thú, đúng như nhà văn Nguyễn Tuân đã nói.

Kiêu binh nổi loạn

    A. Tác phẩm và tác giả

    1. Hoàng Lê Nhất Thống Chí là tác phẩm ký sự lịch sử bằng chữ Hán, gồm có 17 hồi (7 hồi chính biên và 10 hồi tục biên). Nó còn mang một cái tên khác: An Nam Nhất Thống Chí. Tác phẩm ghi lại những biến cố lịch sử từ ngày Trịnh Sâm lên ngôi chúa (1768) đến năm 1802, Gia Long lên ngôi vua. Hoàng Lê Nhất Thống chí được kết cấu theo lối tiểu thuyết lịch sử chương hồi cổ điển của Trung Quốc (Tam Quốc Chí…) Đằng sau các sự kiện lịch sử bi tráng khốc liệt là những số phận thảm khốc được làm vua thua làm giặc đầy máu và nước mắt.

    2. Tác giả: Ngô Thời Chí, Ngô Thời Du (1772 – 1840) (?) thuộc dòng họ Ngô Thời ở Tả Thanh Oai, Hà Tây là tập thể tác giả viết Hoàng Lê Nhất Thống Chí.

    3. Tóm tắt: Trịnh Sâm lên ngôi chúa, Đặng Thi Huệ được sủng ái trở thành nguyên phi bỏ con đường lập con thứ. Hoàng Đình Bảo (Quận Huy) về phe Đặng Thị Huệ. Trịnh Tông dựa thế kiêu binh tiêu diệt phe đối địch, phế truất Trịnh Cán nhảy lên ngôi chúa. Đàng ngoài vô cùng rối ren. Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà lật đổ họ Trịnh để “phù Lê”. Lê Hiển Tông chết, Lê Chiêu Thống lên nối ngôi. Khi Nguyễn Huệ kéo quân về Phú Xuân thì Trịnh Bồng giành lại được ngôi chúa. Vua Lê dựa vào thế lực Nguyễn Hữu Chỉnh đốt sạch cơ nghiệp chúa Trịnh. Nguyễn Hữu Chỉnh lộng quyền đã bị Ngưyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm kéo quân ra Thăng Long giết chết. Vũ Văn Nhậm lại lộng quyền, Nguyện Huệ ra Bắc Hà lần thứ hai giết Vũ Văn Nhậm. Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu cầu cứu nhà Thanh. Nguyễn Huệ để Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhậm, … ở lại giữ Bắc Hà còn mình lại kéo quân về Phú Xuân. Tôn Sĩ Nghi kéo 29 vạn quân sang xâm lược nước ta. Nguyễn Huệ lên ngôi vua lấy hiệu là Quang Trung rồi kéo quân ra Bắc đánh tan giặc Thanh (1789). Lê Chiêu Thống cùng bọn bù nhìn chạy theo đám tàn quân nhà Thanh. Nguyễn Huệ lập ra triều Tây Sơn nhưng ông chết đột ngột. Nội bộ Tây sơn lục đục, suy yếu dần. Năm 1802 Gia Long tiêu diệt Tây Sơn lập ra nhà Nguyễn…

    4. Chủ đề:

    Hoàng Lê Nhất Thống Chí nêu bật quá trình suy vong và sự sụp đổ không cưỡng nổi của chính quyền phong kiến Lê Trịnh, đồng thời ca ngợi uy vũ và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta trước họa xâm lăng.

    B. Kiêu binh nổi loạn:

    1. Các khâu diễn biến cuộc nổi loạn của kiêu binh

    - Cài thế và cởi trói: Trịnh Tông bị giam giữ, đêm ngày lo không giữ được tính mạng. Mẹ Tông nhờ chị đến lạy trình quận Huy, tay chân của Đặng Thị Huệ, xin “rủ lòng thương”. Việc giam giữ được nơi lỏng…

    - Chuẩn bị khởi loạn: Trịnh Tông qua Dự Vũ tên đầu bếp - nắm tình hình, mật bàn với Gia Thọ. Mời bọn biện lại đánh chén. Tông lên án “mụ đàn bà ác nghiệt họ Đặng làm mê hoặc Tiên Chúa”. Tố cáo quận Huy “mưu cướp nước của mình”, hứa việc lớn thành sẽ “sạch son khoán sắt” – mãi mãi. Kiêu binh họp ở chùa Khán Sơn, Bằng Vũ được cử đánh trống, chủ mưu khởi sự. Trịnh Tông lôi kéo quận Viêm, Thánh Mẫu, lung lạc quận Hoàn… Quận Huy bác lời “đề nghị” của Thánh Mẫu, dù “có đánh chết cũng không nghe”. Trần Hữu Cầu dán hịch “Ba quân phò chính” cả kinh kỳ xôn xao. Quận Huy nửa ngờ, chủ quan, không phòng bị gì cả.

    - Bùng nổ: Sáng 24 tháng 10 năm Nhâm Dần (1732) Bằng Vũ vào phủ chúa đánh 3 hồi 9 tiếng trống. Kiêu binh nổi loại bắt đầu. Bằng Vũ bị bắt trói, quận Huy cầm bảo kiếm, cưỡi voi ra trận. Kiêu binh ùa vào phủ chúa. Voi co vòi. Quản tượng bị chém.

    Quận Huy phóng lao. Rồi bắn cung, cung bị đứt; bắn súng, súng bị tịt. Quân lính dùng câu liêm móc cổ kéo hắn xuống, đấm đá chết rồi lấy gan ăn sống. Em quận Huy cũng bị giết chết. Phe Trịnh Tông làm chủ phủ chúa.

    2. Lễ đăng quang:

    Kiêu binh giết chết quận Huy, cuộc đảo chính cung đình đã kết thúc, Trịnh Tông giành lại được ngôi chúa. Nhân vật lịch sử trở thành nhân vật tiểu thuyết được miêu tả bằng một vài nét biếm họa thần tình. Trịnh Tông lên ngôi chúa được đặt ngồi lên một cái mâm để 8 tên lính vừa khiêng vừa đội như “dỡn quả cầu” (đá tung hứng một đồ chơi), hoặc “rước pho tượng Phật” (con bù nhìn). Và phủ chúa “Đông như họp chợ” (nơi mua bán). Bọn kiêu binh gào lên: “Xin ngồi cao thêm nữa để thiên hạ đều được thật mặt rồng, cho thỏa lòng vui của mọi người!” - Thật là hài hước, bát nháo!

    - Phe đại bại rất thảm hại. Thị Huệ khiếp sợ vô cùng, thay áo quần, trốn sau quan tài Trịnh Sâm (xem như chết). Chúa nhỏ đói bụng “khóc nheo nhéo” nhưng khi bị dọa “đánh chết” thì không dám khóc nữa. Bọn gia thần của Chúa Nhỏ “đều chạy trốn hết cả”. Điều đó cho thấy: “được làm vua, thua làm giặc!”.

    3. Ý nghĩa

    “Kiêu binh nổi loạn” chỉ là một sự kiện điển hình trong nhiều sự kiện lịch sử thời Lê - Trịnh đã cho thấy sự tranh giành quyền lực diễn ra vô cùng khốc liệt mâu thuẫn giữa các phe phái trong phủ chúa chỉ có thể giải quyết bằng gươm giáo và máu. Sự sụp đổ của chế độ phong kiến Đàng Ngoài là một điều tất yếu lịch sử không thể nào cứu vãn được. Một xã hội, một triều đại trong cảnh hoàng hôn, lộn xộn, nhố nhăng, bát nháo, như câu ca:

            “Trời làm một trận lăng nhăng,

            Ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông”

    4. Nghệ thuật:

    - Trần thuật diễn biến thời cuộc một cách chân thực, lịch sử.

    - Miêu tả một số nhân vật lịch sử tạo thành nhân vật tiểu thuyết như quận Huy, Đặng Thị Huệ, Trịnh Cán, Trịnh Tông – đó là những con rối lịch sử.

    - Các sự kiện, các tình tiết đầy kịch tính, mang độ “căng” của lịch sử, khi các phe phái thanh toán lẫn nhau.

    - Hoàng Lê Nhất Thống Chí là cuốn tiểu thuyết lịch sử chương hồi độc đáo nhất trong nền văn học trung đại Việt Nam.

Tác phẩm văn học

    I. Định nghĩa

    - Tác phẩm văn học là sáng tác cụ thể, văn bản ngôn ngữ hoàn chỉnh, vừa có ý nghĩa vừa có tính thẩm mỹ.

    - Một bài ca dao hai câu, một bài thơ tứ tuyệt, một truyện ngụ ngôn nửa trang, một truyện ngắn mi-ni, bộ Tam quốc chí,… đều là tác phẩm văn học.

    II. Thế giới hình tượng của tác phẩm văn học

    1. Khái niệm:

    Thế giới hình tượng là hệ thống các hình tượng được dệt nên bởi các chi tiết, tình tiết, quan hệ,… cho phép ta hình dung được sự hiểu biết và cảm nhận của tác giả đối với thế giới và con người.

    - Chú ý: Cần phân biệt các khái niệm: hình ảnh, ngôn ngữ hình tượng, thế giới hình tượng.

    2. Ví dụ:

    Trong ca dao, thuyềnbến; trong thơ Xuân Diệu, bài Biển thì sóngbờ, trong bài Thuyền và biển, Sóng của Xuân Quỳnh thì thuyền, biển - là cặp hình tượng nói về tình yêu lứa đôi.

    III. Các lớp nội dung của tác phẩm văn học

    Đề tài, chủ đề, cảm hứng, nội dung triết lý, sắc điệu thẩm mỹ - là năm lớp nội dung của tác phẩm văn học.

    1. Đề tài:

    - Đề tài là hiện tượng đời sống được thể hiện qua miêu tả.

    - Ví dụ: “Lão Hạc”, “Chí Phèo”, “Tắt đèn”,… viết về đề tài nông dân.

    2. Chủ đề:

    - Chủ đề là vấn đề chính, vấn đề chủ yếu mà tác phẩm muốn nêu lên qua một hiện tượng đời sống.

    - Ví dụ: Chủ đề truyện “Đời thừa” là bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội thực dân phong kiến.

    3. Cảm hứng:

    - Cảm hứng “là nội dung tình cảm của tác phẩm”

    - Ví dụ, bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” của Bà Huyện Thanh Quan, cảm hứng chủ đạo là nỗi buồn cô đơn, lạnh lẽo và nỗi buồn nhớ nhà của người lữ khách.

    4. Nội dung triết lý:

    - Quan niệm về thế giới, quan niệm về con người là nội dung triết lý của tác phẩm văn học.

    - Ví dụ, nội dung triết lý của truyện ngắn “Đời thừa” là gì?

    + Là khoái cảm của văn chương “dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng”

    + Là nghề văn tuy nghèo mà sang trọng: “Tuy khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi (Hộ), chưa chắc tôi đã đổi”.

    + Là quan niệm về kẻ manh: “Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”.

    5. Sắc điệu thẩm mỹ của tác phẩm là vẻ đẹp chủ yếu tương ứng với cảm hứng và chủ đề tác phẩm.

    - Ta thường nói: “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” là một cách đánh giá sắc điệu thẩm mỹ của tác phẩm văn học.

    - Nói về sắc điệu thẩm mỹ trong “Nhật ký trong tù”, Hoàng Trung Thông viết:

            “Văn thơ của Bác vần thơ thép

            Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”.

Tôi yêu em

                   Puskin

Tôi yêu em: đến nay chừng có thể

Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai.

Nhưng không để em bận lòng thêm nữa,

Hay hồn em phải gợn sóng u hoài.

Tôi yêu em âm thầm không hy vọng

Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen;

Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,

Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.

                                    1823, Thúy Toàn dịch

    I. Tác giả

    Puskin (1799 - 1837) là nhà thơ Nga thiên tài. Xuất thân gia đình quý tộc. Mê thơ và làm thơ hay từ thuở học sinh. Khát vọng tự do thấm đượm trong thơ Puskin. Tình bạn, tình yêu là cảm hứng trong nhiều bài thơ của Puskin.

Tác phẩm gồm có: Trường ca Người tù Capca. Những người Xưgan, Epghêni Ônêghin. Chết trong bi kịch đau thương lúc 38 tuổi. Gorki là “Khởi đầu của mọi khởi đầu”.

    II. Bình bài thơ “Tôi yêu em”

    “Tôi yêu em” là bài thơ tình hay nhất, đậm đà ý vị nhất của Puskin, sáng tác năm 1829. Bài thơ đã được phổ nhạc thành ca khúc, được đánh giá là tác phẩm “hoàn hảo” nâng tầm vóc Puskin lên đài vinh quang thi ca Nga. Chỉ có tám dòng thơ mà ba tiếng “Tôi yêu em” nhưng một điệp khúc “dịu ngọt” tha thiết vang lên ba lần:

            “Tôi yêu em: đến nay chừng có thể

Tôi yêu em âm thầm không hy vọng

Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm…”

    Mối tình ấy “chưa hoàn toàn lui tắt trong lòng tôi” nghĩa là vẫn âm ỉ cháy, vẫn nồng nàn, vẫn thiết tha. Không tầm thường, cũng không ích kỷ. Cao thượng, vị tha mà không thấp hèn. Sang trọng và có văn hóa, yêu nồng nàn tha thiết nhưng không bao giờ muốn đem đến sự bận lòng, nỗi u buồn cho người yêu:

            “Nhưng không để em bận lòng thêm nữa

            Hay hồn em phải gợn bóng u hoài”

    “Bể còn có lúc vơi lúc đầy” - đã có người nói như vậy. Tình yêu cũng chứa đầy nghịch lý: gần đấy mà xa vời, xa vời mà gần đấy. Có lúc lúng túng, rụt rè khó nói nên lời. Cũng có lúc ghen tuông, giận hờn. Bên bờ của hạnh phúc đâu dễ chiếc thuyền tình nào cũng cập bến xuôi mái êm chèo? Bởi vậy mới có tâm trạng:

“Tôi yêu em âm thầm không hy vọng

Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen”

    Dòng thơ thứ bẩy nói lên cung bực của tình yêu: chân thành và đằm thắm. Chân thành trong tình yêu là sự hướng tới bạn đời trăm năm. Không vụ lợi. Không dối lừa. Có chân thành thì mới có đằm thắm. Câu thứ tám dịch nghĩa: “Cầu trời cho em được một người khác yêu”, đó chỉ là một cách nói “làm duyên” mà thôi. Chỉ có tôi là yêu em đằm thắm chân thành. Tình yêu ấy là niềm tự hào của tôi, một tình yêu xứng đáng. Chẳng có người con trai nào có thể mang đến cho em một tình yêu như tôi đã yêu em. Tế nhị, khiêm nhường mà tự hào, kiêu hãnh:

“Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,

Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.”

    Bài thơ, “Tôi yêu em” là sự thổ lộ tâm tình của người con trai khi đối diện người yêu. Phẩm chất tình yêu cho thấy một nhân cách sang trọng. Rất đa tình mà cũng rất đàng hoàng, tự tin.

Tống biệt hành

                           Thâm Tâm

    I. Tác giả

    Thâm Tâm (1917-1950) là bút danh của Nguyễn Tuấn Trình, quê tại Hải Dương. Sống và viết văn tại Hà Nội. Giá trị nhất của Thâm Tâm là thơ. Tên tuổi Thâm Tâm gắn liền với bài thơ “Tống biệt hành”. Có nhà phê bình thơ đã xếp “Tống biệt hành” là một trong mười bài thơ hay nhất của “Thơ mới” Việt Nam (1932-1941). Giọng thơ cứng cáp, phảng phất hơi thơ cổ, tuy “vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại” (Hoài Thanh). Kháng chiến bùng nổ, Thâm Tâm làm công tác văn nghệ trong quân đội, ốm chết năm 1950 “Mưa đường số 5” là bài thơ hay nhất của ông viết trong kháng chiến.

    II. Xuất xứ, chủ đề

    - Thâm Tâm viết “Tống biệt hành” vào năm 1940.

    - Bài thơ thể hiện lòng mến yêu, sự ngưỡng mộ và trân trọng đối với người lên đường đi xa vì nghĩa lớn.

    III. Phân tích

    1. Nhan đề bài thơ : “Tống biệt hành” là bài hành đưa tiễn người đi xa.

    2. Cảnh đưa tiễn diễn ra vào một buổi chiều, không hề có bến đò, dòng sông, không diễn ra trong khoảnh khắc hoàng hôn mà vẫn buồn. Câu 2 và câu 4 là câu hỏi tu từ, người đưa tiễn tự hỏi. Nhiều băn khoăn ngạc nhiên. Lấy ngoại cảnh (sóng, hoàng hôn) để diễn tả tâm cảnh xao xuyến, những rung động buồn, lo… đang dâng lên trong lòng. Có câu thơ toàn thanh bằng gợi tả nỗi niềm mênh mang. Các từ ngữ hô ứng cũng tạo nên âm điệu buồn thương khó tả: “đưa người… không đưa… sao có; không thẳm không vàng vọt… sao đầy…”. Hay ở cách nói biểu cảm tinh tế, hay ở giọng điệu, hay ở cấu trúc song hành câu thơ:

            “Đưa người ta không đưa qua sông,

            Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

            Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,

            Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?”

    3. Hình ảnh ly khách:

    - Ôm chí lớn với quyết tâm lên đường. Ly khách: khách ra đi, người ra đi. Cách gọi trang trọng, cảm phục. Điệp lại 2 lần “ly khách” cảm thán kết hợp với câu hỏi tu từ, nhịp thơ 2-2-3 vang lên âm điệu trầm hùng của một hành khúc, một tráng ca:

            “Ly khách/ ly khách!/ con đường nhỏ/

            Chí lớn chưa về bàn tay không?

            Thì không bao giờ nói trở lại

            Ba năm mẹ già cũng đừng mong

    Các từ phủ định: chưa về, không bao giờ, đừng mong thể hiện một ý chí sắt đá, một quyết tâm không gì lay chuyển nổi.

    - Về phương diện tình cảm, ly khách là một đứa con, một đứa em, một người anh. Có mẹ già, có hai chị như sen mùa hạ (đẹp) “khuyên nốt em trai dòng lệ sót”. Có em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc - Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay”. Rất nhân tình, rất người nên ly khách vẫn mang một nỗi buồn riêng khó giấu kín:

            “Ta biết người buồn chiều hôm trước,…”

            “Ta biết người buồn sáng hôm nay…”

    So sánh “Một chị, hai chị cũng như sen” đã là hay. Hình ảnh em nhỏ, “ngây thơ đôi mắt biếc - gói tròng thương tiếc chiếc khăn tay” kết hợp với 3 vần thơ (vần lưng): “biếc-tiếc-chiếc” lại càng hay, gợi tả nhiều vương vấn trong lòng kẻ ở lại và người ra đi.

    - Bốn câu cuối có nhiều cách hiểu khác nhau. Cách diễn tả trùng điệp. Giây phút ly khách lên đường đã diễn ra. Vượt lên trên thói nữ nhi thường tình. Ly khách đã ra đi vì một nghĩa lớn, một chí lớn. Đặt nghĩa lớn lên trên mọi tình cảm gia đình. Vần thơ đầy ấn tượng, dư ba:

            “Người đi? Ừ nhỉ người đi thực!

            Mẹ thà coi như chiếc lá bay

            Chị thà coi như là hạt bụi

            Em thà coi như hơi rượu say”

    Giây phút giã biệt tuy buồn, điều đó càng làm nổi bật lý tưởng và quyết tâm lên đường (Một giã gia đình, một dửng dưng” của ly khách.

    IV. Kết luận

    Sử dụng tài tình một điển cố đã ca ngợi ly khách ôm chí lớn lên đường. Năm 1940 ở nước ta, hình ảnh ly khách trong bài thơ đầy ngưỡng mộ. Đẹp như một tráng sĩ với thanh gươm nghìn cân lên đường. “Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ gân guốc rắn rỏi” - “Tống biệt hành” như một hành khúc giục giã lên đường. Mọi cuộc lên đường vì nghĩa lớn xưa và nay đều đẹp và đượng ngưỡng mộ.

Thể loại tác phẩm văn học

    I. Thể loại văn học và sự phân loại tác phẩm văn học

    1. Khái niệm về thể loại văn học:

    - Thể loại văn học là phương thức tái hiện đời sống và thể thức cấu tạo văn bản.

    - Ví dụ, cùng viết về đề tài người mẹ trong chiến tranh, Tố Hữu viết về người mẹ ở hậu phương qua tâm hồn người lính bằng thơ lục bát trữ tình (Bầm ơi). Con Nguyễn Thi lại viết về một người mẹ, người vợ cụ thể - chị Út Tịch - đang cùng chồng và đồng bào quê hương cầm súng đánh giặc - bằng thể ký: “Người mẹ cầm súng”.

    2. Sự phân loại tác phẩm văn học:

    - Phân loại tác phẩm văn học, chủ yếu theo ba tiêu chí sau:

    + Phương thức tái hiện đời sống, cấu tạo tác phẩm.

    + Loại đề tài, chủ đề.

    + Thể văn.

    - Thể loại tác phẩm văn học gồm có:

    + Tự sự.

    + Trữ tình.

    + Kịch.

    II. Thể loại - thể văn

    1. Tự sự (kể và tả…), gồm có:

    - Truyện đời xưa: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện nôm (thơ).

    - Truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài (tiểu thuyết)

    - Phóng sự, ký sự, bút ký,…

    2. Trữ tình: (tả tâm trạng, cô đúc, giọng điệu, vần điệu,…)

    - Ca dao trữ tình, thơ trữ tình, thơ trào phúng.

    - Các khúc ngâm, tuỳ bút, trường ca hiện đại.

    - Phú, văn tế, thơ ca trù.

    3. Kịch

    - Sân khấu dân tộc: chèo, tuồng, cải lương.

    - Sân khấu hiện đại: kịch thơ, hài kịch, bi kịch, kịch câm.

    Tóm lại, lúc đọc để thưởng thức, lúc phân tích tác phẩm văn học, cần phải có định hướng. Đề tài, chủ đề, cảm hứng, nội dung triết lý, sắc điệu phẩm mỹ, văn bản, ngôn từ, thế giới hình tượng và thể loại tác phẩm văn học - là những căn cứ để hiểu và cảm, để giảng và bình tác phẩm văn học.

    Lý luận văn học vốn khó nhưng thú vị. Nó là cái chìa khóa vàng để học và đọc tác phẩm văn học.

Người làm vườn “67”

                                    Tagor

Dù buổi chiều đang đến dần từng bước

và báo cho mọi lời ca tiếng hát

hãy đừng đi;

Dù bạn người đã về chỗ nghỉ ngơi,

và người đã mệt mỏi:

Dù nỗi sợ len vào trong bóng tối

và khuôn mặt của bầu trời đã bị phủ che;

Nhưng Chim ơi, Chim

hãy lắng nghe ta

xin đừng xếp cánh.

Không phải bóng tối âm u của lá rừng đâu,

Chính là biển đang phồng lên

như một con rắn đen tăm tối.

Không phải là cuộc khiêu vũ của hoa nhài đang nở,

mà chính là bọt nước ngời lên.

Ôi, đâu rồi bờ biển xanh rực nắng,

và đâu rồi, tổ ấm của ngươi?

Chim ơi, Chim

hãy lắng nghe ta

xin đừng xếp cánh

Đêm lẻ loi nằm xuống dọc đường ngươi,

Và bình minh ngủ phía sau những đồi cây râm bóng.

Những ngôi sao nín thở đếm từng giờ

Vầng trăng mỏi đang bơi trong đêm thẳm

Chim ơi, Chim

hãy lắng nghe ta

xin đừng xếp cánh.

Đối với ngươi, không có hy vọng, không có gì sợ hãi

Không lời nói, không có tiếng thầm thì, tiếng khóc.

Không cửa nhà, không có giường để nghỉ ngơi.

Chỉ có đôi cánh của ngươi

Và bầu trời mờ mịt

 Chim ơi, Chim

hãy lắng nghe ta

xin đừng xếp cánh.

Thuyền giấy

                        Tagor

Ngày lại ngày, tôi thả những chiếc thuyền giấy của tôi.

Từng chiếc một bơi trên dòng nước chảy,

Tôi viết tên tôi và tên làng tôi ở trên thuyền

bằng những chữ lớn màu đen

Tôi hi vọng rằng một người nào đó

trên một miền đất lạ

sẽ thấy chiếc thuyền này

và biết tôi là ai.

Trên những chiếc thuyền nhỏ của tôi,

Tôi chất đầy những hoa Siêu-li hái được ở trong vườn.

Và tôi hi vọng rằng trong đêm tối

những đoá hoa của bình minh này sẽ được mang vào

đất liền yên ổn.

Tôi buông những chiếc thuyền bằng giấy của tôi

rồi nhìn lên trời

và thấy những đám mây nhỏ

đang dong những chiếc buồm trắng phồng to.

Tôi không rõ người bạn nào của tôi ở trên trời

đã thả chúng xuống để chạy đua với những chiếc thuyền của tôi!

Khi đêm xuống.

Tôi úp mặt vào cánh tay

và mơ thấy thuyền của tôi

đang trôi, trôi mãi

dưới những vầng sao khuya

Những nàng tiên-giấc-ngủ đang đi trên những chiếc thuyền đó,

Và hàng hóa trong thuyền là những cái rổ

đựng đầy những giấc mơ

                        Đào Xuân Quý dịch

    Lời bình

    Sau mấy năm liền đau khổ trong tang tóc: đứa con gái thứ hai (1904) và đứa con trai đầu (1907) chết, Tagor đã viết tập thơ “Trăng non”, coi đó là niềm an ủi và một dịp để tìm lại hình ảnh những đứa con yêu quý đã qua đời. Lúc đầu lấy tên là “Trẻ non” xuất bản năm 1915.

    Bài thơ “Thuyền giấy” cũng như “Mây và Sóng”, “Những đóa hoa nhài đầu tiên”,… là những bài thơ rất hay rút trong tập “Trăng non” này. Tác giả nhắc lại trò chơi thả thuyền giấy để nói về kỉ niệm tuổi thơ và tâm hồn tuổi thơ: ngây thơ và hồn nhiên, trong sáng và bay bổng tuyệt với. “Tôi” là nhân vật trữ tình, có thể là nhà thơ thời bé nhỏ, cũng có thể là những đứa con yêu quý của Tagor, đứa còn và đứa đã qua đời trong ốm đau bệnh tật.

    Thả thuyền giấy, trò chơi hấp dẫn ấy đã diễn ra “ngày lại ngày”, chơi mãi mà không chán; thú vị biết bao khi ngắm nhìn và thả hồn mình trôi theo “Từng chiếc một bơi trên dòng nước chảy”, xa dần… xa dần… Những chiếc thuyền giấy như một mảnh linh hồn tuổi thơ, được đánh số, được “ghi tên tôi và tên làng tôi, bằng chữ lớn màu đen”. Con thuyền sẽ mang tên tôi tên làng tôi đi đến những bến bờ xa lạ. Đó là những cuộc phiêu lưu, những cuộc viễn du của tuổi thơ trong tưởng tượng vô cùng kì diệu:

“Tôi hi vọng rằng một người nào đó

trên một miền đất lạ

sẽ thấy chiếc thuyền này

và biết tôi là ai.”

    Có tự hào về tên tuổi mình, về xóm làng quê hương mình mới có ước ao và hy vọng tốt đẹp ấy. Chiếc thuyền giấy đã trở thành sứ giả của tuổi thơ trong việc tìm bạn và kết bạn ở mọi phía chân trời, ở cửa sông, ở những bến bờ xa lạ. Con thuyền giấy vì thế đã được “chấy đầy những hoa Siêu-li hái được ở trong vườn”. Hoa Siêu-li là một loài hoa cánh nhỏ, nhiều màu sắc rực rỡ, rất đẹp, nở vào lúc bình minh, được trẻ em Ấn Độ rất thích. Hoa Siêu-li là hương sắc quê nhà, là quà tặng tuổi thơ gửi cho bè bạn chưa hề gặp mặt, chưa hề biết tên và quen thân. Một món quà nhờ thuyền giấy mang theo chứa đựng bao mơ ước và tình cảm thánh thiện, hồn nhiên, trong sáng:

“Và tôi hi vọng rằng trong đêm tối

những đoá hoa của bình minh này sẽ được mang vào

đất liền yên ổn.”

    Nói rằng, mơ ước rừng, hoa Siêu-li - quà tặng- “sẽ được mang vào đất liền yên ổn” là đến được những bàn tay bè bạn gần xa. Nói rằng tình bè bạn tuổi thơ lúc nào cũng gắn liền với niềm hạnh phúc là vậy.

    Không có tưởng tượng thì không có thơ hay. Tagor đã sống lại tuổi thơ, đã nhớ lại hình ảnh tuổi thơ của những đứa con bé bỏng yêu thương đã mất để sáng tạo nên những vần thơ đầy mộng tưởng. Thế giới tâm hồn tuổi thơ vô cùng huyền diệu. Nếu trong “Mây và Sóng” em bé định cùng Mây bay lên chín tâng không “chơi với vầng trăng bạc”, muốn cùng Sóng ca hát từ sáng sớm đến chiều tà, “ngao du khắp nơi này nơi nọ” thì ở đây, “tôi” đã thấy có bạn nhỏ nào ở trên trời thả xuống con thuyền “chiếc buồm trắng phồng to”… “chạy đua với những chiếc thuyền của tôi”:

“Tôi buông những chiếc thuyền bằng giấy của tôi

rồi nhìn lên trời

và thấy những đám mây nhỏ

đang dong những chiếc buồm trắng phồng to.

Tôi không rõ người bạn nào của tôi ở trên trời

đã thả chúng xuống để chạy đua với những chiếc thuyền của tôi!”

    Cũng là cảnh nước chảy, thuyền trôi, mây trắng bay in xuống dòng sông. Nói “mây nhởn nhơ bay”, nói “bạch vân thiên tải không du du”,… đã hay. Tagor qua tâm hồn tuổi thơ lại so sánh đám mây nhỏ trên trời là “những chiếc buồm trắng phồng to” do một bạn nhỏ nào thả xuống để chạy đua với thuyền giấy. Một hình ảnh đẹp, một ý thơ rất ngộ nghĩnh, nhiều thú vị.

    Trong giấc mơ, em bé vẫn thấy những chiếc thuyền giấy của mình “đang trôi, trôi mãi/ dưới những vầng sao khuya”. Con thuyền giấy đầy ắp “những cái rổ đựng đầy giấc mơ”. Và trên con thuyền giấy ấy chỉ có những vị hành khách xa lạ đáng yêu - những Nàng Tiên-Giấc-Ngủ. Vần thơ của Tagor với cảnh hứng vũ trụ và cảm hững lãng mạn đã cất cánh bay lên. Như nhà thơ đã có lần bày tỏ: “Cổ tích mãi mãi là cội nguồn hứng khởi và ước mơ tuổi thơ”:

“Những nàng tiên-giấc-ngủ đang đi trên những chiếc thuyền đó,

Và hàng hóa trong thuyền là những cái rổ

đựng đầy những giấc mơ”

    “Thuyền giấy” là bài thơ tuyệt bút. Đề tài bình dị mà hồn thơ đằm thắm, sâu xa. Vòm trời cao, áng mây trắng, vầng trăng bạc, ánh sao khuya, chùm hoa Siêu-li thân thuộc, dòng sông, con thuyền, cánh buồm, bến bờ xa, tên mình, tên làng mình, Nàng tiên và bạn nhỏ - được Tagor nói đến, nhắc đến với bao trìu mến, yêu thương, được diễn đạt bằng những hình ảnh tươi xinh, non tơ, hấp dẫn.

    Tuổi thơ qua “Thuyền giấy” rất hồn nhiên, nhiều mơ ước, khao khát đi tới mọi miền đất lạ với tình bạn và lòng yêu thương. Tưởng tượng phong phú, kì diệu là yếu tố tạo nên chất thơ, sắc điệu thẩm mĩ của bài thơ “Thuyền giấy”. Tagor đã lấy “trái tim trẻ thơ”, “tấm lòng trẻ thơ” để sáng tạo ra “Trăng non”, “Thuyền giấy”,… Đúng như người xưa đã viết:

    “Kìa trái tim trẻ thơ là trái tim chân thực vậy. Nếu để mất trái tim trẻ thơ, tức là để mất trái tim chân thức, và mất luôn cả người chân thực… Những áng văn chương hay nhất trong thiên hạ, chưa bao giờ lại không nảy sinh ra từ trái tim trẻ thơ cả”.

    (Lý Chất (1527-1602) nhà văn trứ danh đời Minh).

    Quả vậy, tấm lòng Tagor, ngọn bút của Tagor nảy sinh từ trái tim trẻ thơ. Ông đã sống trong vinh quang và chết trong bất tử!

Tóm tắt

    Một đêm thu gần về sáng, trăng lặn rồi. Lão Hoa Thuyên ngồi dậy, đánh diêm thắp đèn. Một cơn ho nổi lên. Bà Hoa sờ soạng dưới gối lấy ta một gói bạc đồng đưa chồng. Lão tắt đèn con, cầm đèn lồng ra đi. Lại một cơn ho nữa. Trời lạnh, tối om, hết sức vắng. Chỉ gặp vài con chó. Lão Hoa Thuyên cảm thấy sảng khoái, như bỗng dưng mình trẻ lại, và ai cho thép thần thông cải từ hoàn sinh. Lão Hoa Thuyên đi những bước thật dài. Trời sáng dần. Phía trước là ngã ba, Lão Hoa Thuyên tìm một cửa hiện, đứng dưới mái hiên, tựa lưng vào cửa. Lão giật mình khi có người hỏi. Lão đưa tay lên ngực sờ gói bạc. Bọn lính đi đi lại lại, xô nhào tới như nước thủy triều. Đám người lại xô đẩy nhau ào ào… Một người mặc áo đen, mắt sắc như hai lưỡi dao chọc thủng vào lão làm lão co rúm lại,… Hắn đưa cho lão một chiếc bánh bao nhuốm máu đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt. Hắn giật lấy gói bạc, nắn nắn rồi quay đi… Lão Hoa Thuyên sẽ mang cái bánh ấy về nhà, đem sinh mệnh lại cho con lão, và lão sẽ sung sướng biết bao!

    Lão Hoa Thuyên về đến nhà thấy quán hàng đã bày biện sạch sẽ. Thằng Thuyên đang ngồi ăn cơm. Bà Hoa từ bếp chạy ra, môi run run hỏi chồng: “Có được không?” Vào bếp, hai vợ chồng bàn bạc một hồi, bà Hoa đi ra một lát, đem về một lá sen già, bọc bánh lại nướng. Một mùi thơm quái lạ tràn ngập cả quán trà. Cậu Năm Gù đi vào quán rồi nói: “Thơm ghê nhỉ!... Rang cơm đấy à?”. Thằng Thuyên cầm lấy vật đem thui, bẻ đôi ra ăn. Hai vợ chồng bà Hoa đứng bên con. Ăn hết chiếc bánh thằng Thuyên lại ho, nằm xuống ngủ, bà Hoa lấy chiếc mền kép vá chằng chịt đắp cho con.

    Quán trà đã đông khách. Cậu Năm Gù người râu hoa râm, bác cả Khang… Bác cất tiếng nói oang oang: “Đã ăn chưa? Đỡ rồi chứ?... Cam đoan thế nào cũng khỏi. Ăn còn nóng hôi hổi thế kia mà! Bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì ăn mà chẳng khỏi!”. Đám khách hỏi nhau về tên người bị chết chém, là người họ Hạ, con bà Tứ. Cái thằng nhãi con ấy không muốn sống. Bác cả Khang cao hứng nói, “tớ chẳng nước mẹ gì”, cái áo nó cởi ra thì lão Nghĩa đề lao lấy mất. May nhất là ông Thuyên nhà này, thứ đến là cụ Ba đem thằng cháu ra thứ, được thưởng 25 đồng bạc trắng, chẳng mất cho ai một đồng kẽm! Cái thằng nhãi con ấy nằm trong tù rồi còn dám rủ lão đề lao làm giặc. Hắn dám vuốt râu cọp nên bị lão ta đánh cho hai bạt tai. Cái thằng khốn nạn! Thật đáng thương hại! Hắn điên thật rồi!

    Tiết thanh minh năm ấy, bà Hoa đi ra nghĩa địa. Một con đường nhỏ, bên trái là mộ những người chết chém hoặc chết tù, bên phải là mộ những người nghèo. Bà Hoa bày ra trước nấm mộ mới đắp một bát cơm, bốn đĩa thức ăn khóc một hồi, đốt xong vàng giấy, ngồi bệt xuống đất ngẩn ngơ… Gió hiu hiu thổi vào mớ tóc bà Hoa mới cắt ngắn, so với năm ngoái chắc là bạc nhiều lắm rồi! Lại một người đàn bà khác, tóc bạc già nửa, áo quần rách rưới, cứ đi ba bước lại dừng lại. Chợt thấy bà Hoa, xấu hổ nhưng rồi chũng đành liều đi tới trước nấm mộ bên trái con đường mòn. Cũng bày ra một bát cơm, bốn đĩa thức ăn, khóc một hồi, rồi đốt vàng… Bà ta bỗng run lên loạng choạng, mắt trợn trừng ngơ ngác. Bà Hoa vội chạy sang khẽ nói: “Bà ơi! Thôi mà, thương xót làm chi nữa! Ta về đi thôi!” Bà kia gật đầu rồi chỉ tay về một vòng hoa, hoa trắng hoa hồng xen lẫn nhau, nằm khoanh trên nấm mộ khum khum. Bước lại gần mộ con, bà kia nói: “Hoa không có gốc, không phải dưới đất mọc lên! Ai đã đến đây?... Thế này là thế nào?”

    Bà ta khóc to: “Du ơi! Oan con lắm Du ơi!... Trời còn có mắt, chúng nó giết con thì rồi trời báo hại chúng nó thôi! Du ơi! Hồn con… ứng vào con quạ kia đến đậu vào nấm mộ con cho mẹ xem, con ơi!”

    Người đến thăm viếng mộ càng đông. Hai người đàn bà uể oải thu dọn bát đĩa ra về. Một tiếng “Coa… ạ” rất to, hai bà giật mình quay lại, thì thấy con quạ xòe đôi cánh, bay thẳng về phía chân trời.

Xuất xứ

    Truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn đăng lần đầu tiên trên tạp chí Tân Thanh niên. Nhân vật Hạ Du trong truyện, ám chỉ nữ thi sĩ Thu Cận (Du Cận đều cùng nghĩa là Ngọc). Chỗ Thu Cận bị hành hình gần nhà bia Cổ Hiên Đình Khấu, tại nội thành Thiệu Hưng, quê hương Lỗ Tấn. Cuối phần I truyện “Thuốc”, tác giả nhắc tại tên cái nhà bia ấy, nhưng đã cắt đi một chữ: “Cổ… Đình Khấu”.

    Lịch sử hiện đại Trung Quốc được mở đầu bằng phong trào Ngũ Tứ, nổ ra vào ngày 4/5/1919 mang tính chất phản đế và phản phong triệt để. Truyện “Thuốc” ra đời vào thang 5/1919, giữa cơn xoáy lịch sử của phong trào Ngũ Tứ, nên nó mang một hàm nghĩa sâu sắc.

Chủ đề

    Truyện “Thuốc” thể hiện tình trạng u mê, tê liệt của quần chúngbi kịch của người cách mạng tiên phong trong xã hội Trung Quốc đầu thế kỷ 20.

Phân tích truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn

    Văn hào Lỗ Tấn (1881 - 1936) được ngợi ca là vị chủ tướng trên mặt trận văn hóa - tư tưởng, đạt được thành tựu lớn nhất trong nền văn học hiện đại Trung Quốc. Ông đã sống và viết với một tâm thế chiến đấu ngoan cường, bất khuất, coi khinh mọi kẻ thù của nhân dân. Hai vần thơ nổi tiếng của ông được truyền tụng như một châm ngôn sáng ngời:

            “Quắc mắt coi khinh nghìn lực sĩ,

            Cúi đầu làm ngựa chú nhi đồng”.

    Nhà văn Fađêép (Nga) từng ca ngợi: “Lỗ Tấn là một danh thủ truyện ngắn thế giới… Ông đã cống hiến cho nhân loại những hình thức dân tộc không thể bắt chước được…”.

    “Thuốc” là một truyện ngắn đa nghĩa như nhiều truyện ngắn khác của Lỗ Tấn. Ông sáng tác truyện “Thuốc” vào ngày 25/4/1919, đúng một năm sau “Nhật ký người điên” ra đời. Nó được đăng trên báo “Tân Thanh niên” số thang 5/1919 giữa cơn bão táp phong trào Ngũ Tứ (4/5/1919) do học sinh, sinh viên Bắc Kinh phát động, mở đầu cuộc vận động “cứu vong” - cứu đất nước Trung Hoa khỏi diệt vong.

    Lỗ Tấn kể chuyện vợ chồng lão Hoa Thuyên mua bánh bao tẩm máu tử tù để làm thuốc chữa bệnh lao cho con, chuyện Hạ Du làm cách mạng mà bị chêt chém… qua đó tác giả thể hiện tình trạng u mê, tê liệt của quần chúng và bi kịch của người cách mạng tiên phong trong xã hội Trung Quốc những năm đầu của thế kỷ 20.

    Lỗ Tấn chia truyện làm bốn phần: 1) Lão Hoa Thuyên đi mua thuốc - bánh bao tẩm máu tử tù - đem về chữa bệnh lao cho con; 2) Vợ chồng lão Hoa nướng “thuốc” và thằng Thuyên - con trai ăn “thuốc”; 3) Bọn khách trong quán trà và bác Cả Khang (đao phủ) nói về “thuốc” và bàn về tử tù; 4) Bà Hoa và bà Tứ (mẹ tử tù) cùng đi thăm mộ con và gặp nhau trong nghĩa địa nhân ngày thanh minh.

    1. Lão Hoa Thuyên đi mua “Thuốc” cho con vào một đêm mùa thu gần sáng, trăng lặn rồi. Mùa thu cũng là mùa ở Trung Quốc dưới thời Mãn Thanh, người ta đem chém tử tù. Trời tối và lạnh, vắng vẻ. Tiếng ho của người bệnh lao (thằng con trai) nổi lên. Bà Hoa sờ soạng dưới gối lấy một gói bạc đồng đưa cho chồng. Lão Hoa Thuyên cầm đèn lồng đi ra, thằng con lại nổi một cơn ho. Lão Thuyên khẽ nói với con, biết bao thương yêu: “Thuyên à! Con cứ nằm đấy!...”

    Trời tối và vắng, lạnh, nhưng lão Hoa Thuyên “cảm thấy sảng khoái, như bỗng dưng mình trẻ lại, và ai cho thép thần thông cải từ hoàn sinh”. Đã mấy đời độc đinh, thằng Thuyên bị ho lao, một mối lo buồn đè nặng đã bấy nay, vì thế đêm nay, lão cầm đèn đi mua thuốc cho con, lão chứa chan hy vọng mới cảm thấy “sảng khoái” và như “trẻ lại”.

    Cảnh pháp trường qua cái “trố mắt nhìn” của lão Thuyên. Có biết bao nhiêu người “kỳ dị hết sức”, cứ hai ba người “đi đi lại lại như những bóng ma!” Bọn lính với sắc phục có “miếng vải tròn màu trắng” ở vạt áo trước, vạt áo sau, có “đường viền đỏ thẫm” trên chiếc áo dấu. Cảnh pháp trường, lúc thì “tiếng chân bước ào ào”, bọn người “xô nhào tới như nước thủy triều”, lúc thì cả đám “xô đẩy nhau ào ào”. Hình như họ tranh nhau “lấy thuốc” để đem bán?

    Người bán thuốc cho lão Thuyên mặc “áo quần đen ngòm” “mắt sắc như hai lưỡi dao” chọc thẳng vào lão, làm lão “co rúm” lại. Thuốc là “một chiếc bánh bao nhuốm máu, đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt”. Sau khi “tiền trao cháo múc”, người bán thuộc giật lấy gói bạc, “nắn nắn” rồi quay đi, miệng càu nhàu. Lão Thuyên “run run - ngại không cầm chiếc bánh”, nhưng sau đó, tất cả tinh thần lão để hết vào cái bánh bao tẩm máu ấy, “lão sẽ mang cái gói này về nhà, đem sinh mệnh lại cho con lão, và lão sẽ sung sướng biết bao!”

    Cảnh vợ chồng lão Hoa Thuyên gặp nhau “bàn bạc một hồi”, cảnh lấy lá sen già gói bánh bao tẩm máu tử tù để nướng, cảnh ngọn lửa đỏ sẫm bốc lên “một mùi thơm quái lạ” tràn ngập cả quán trà rồi cậu Năm Gù đi vào quán trà hỏi: “Thơm ghê nhỉ?... Rang cơm đấy à?”, cảnh thằng Thuyên ăn “thuốc” hai bố mẹ đứng hai bên, và bà Hoa nói khẽ, an ủi con: “Ăn đi con, sẽ khỏi ngay” - tất cả đều phản ánh tình trạng mê muội của quần chúng. Họ tin tưởng một cách chắc chắn và thiêng liêng rằng, bánh bao tẩm máu tử tù ăn vào sẽ chữa khỏi bệnh lao. Với một cách viết dung dị, trầm lắng, sâu xa, hàng loạt chi tiết đưa ra đều xoay quanh chuyện mua, bán thuốc, chuyện ăn thuốc và niềm tin “thuốc thành” sẽ chữa khỏi bệnh lao, tác giả đã làm nổi bật chủ đề thứ nhất của truyện là phê phán tư tưởng mê tín, tập quán chữa bênh phản khoa học.

    Buổi sáng mùa thu năm ấy, sau khi thằng Thuyên ăn “Thuốc” nằm ngủ, bà Hoa “nhẹ nhàng lấy chiếc mền kép vá chằng chịt đắp cho con” thì quán trà một lúc một đông khách. Có cậu Năm Gù, có một người “râu hoa râm”. Có lão “mặt thịt ngang phè… mặc chiếc áo vải màu huyền, không ghi khuy, dải thắt lưng cũng màu huyền quần ở ngoài, xộc xệch…”. Sắc phục ấy là dấu hiệu của những đao phủ trên pháp trường. Đó là bác Cả Khang, kẻ đã bán “thuốc” cho lão Hoa Thuyên. Bác Cả Khang sau khi tán tụng thức thuốc đặc biệt “bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì mà chẳng khỏi” đã nói về tử tù là “con nhà bà Tứ chứ còn ai? Thằng quỷ sứ!” Tử tù đã mang lại cái lợi, món hời cho bao người! May nhất là lão Thuyên đã mua được “thuốc”, ăn vào “cam đoan thế nào cũng khỏi”, thứ đến là cụ Ba đưa cháu ra đầu thú, vừa “tránh cho cả nhà mất đầu”, vừa “được thưởng 25 lạng bạc trắng xoá, một mình bỏ túi tất chẳng mất cho ai một đồng kẽm!” Lão Nghĩa đề lao “mắt đỏ như mắt cá chép” thì được cái áo của tử tù cởi ra trước lúc lên đoạn đầu đài. Còn và Cả Khang, ngoài mấy đồng bạc bán thuốc cho lão Thuyên “chẳng nước mẹ gì!”

    Người ta thường nói: “Máu người không phải nước lã!” Ở đây, máu của Hạ Du, một người cách mạng tiên phong chỉ có giá trị đem lại một ít quyền lợi vật chất cho một số người! Chua xót và cay đắng hơn nữa, dưới mắt họ thì Hạ Du chỉ là “thẳng quỷ sứ!, “thằng nhãi ranh con”, “thằng nhãi con”, “thằng khốn nạn”! Với bác Cả Khang thì Hạ Du là “đáng thương hại”, với lão râu hoa râm thì “hắn điên thật rồi!”, với cậu Năm Gù thì Hạ Du đúng là một kẻ “điên thật rồi!”

    Hạ Du là người cách mạng có lý tưởng chống phong kiến (triều đình Mãn Thanh), như một tín đồ tử vì đạo, anh ta đã chiến đấu vì lý tưởng “Thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta”. Đó là khẩu hiệu của những nhà cách mạng Trung Quốc năm 1907 hô hào quần chúng nổi dậy chống Mãn Thanh. Các nhà nghiên cứu văn học cho biết: “Thuốc” nói chuyện trước cách mạng Tân Hợi (1911) Hạ Du nằm trong ngục, trước lúc ra pháp trường còn dám cả gan “vuốt râu cọp” tuyên truyền cách mạng cho lão Nghĩa “mắt cá chép” - dám rủ lão đề lao làm giắc nên đã bị lão ta “đánh cho hai bạt tai”. Những người như Hạ Du, Thu Cận… là những nhà cách mạng tiên phong, dũng cảm xả thân vì đại nghĩa, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Giữa đông đảo quần chúng u mê, họ chiến đấu một cách đơn độc. Chẳng ai hiểu họ, ủng hộ họ. Ngay bà mẹ Hạ Du cũng chỉ biết kêu than: “Oan con lắm Du ơi!” và nguyền rủa: “Trời còn có mắt, chúng nó giết con thì rồi trời báo hại chúng nó thôi! Du ơi!...”. Ông chứ thì táng tận lương tâm tố cáo cháu là giặc để được thưởng 25 lạng bạc trắng, lão Cả Khang thì lấy máu tử tù Hạ Du tẩm bánh bao để bán “Thuốc”, lão Hoa Thuyên và bao người khác đã lấy máu Hạ Du để chữa bệnh… Quần chúng u mê tăm tối, bị tê liệt… Người cách mạng thì xa rời quần chúng, chiến đấu một cách đơn độc. “Thuốc” đã phê phán tình trạng ấy, thể hiện sâu sắc bi kịch của người cách mạng tiên phong. Đó chính là chủ đề thứ hai của truyện ngắn này. Ngầm một ý nhà văn muốn nêu ra: Trước thực trạng cay đắng ấy phải tìm một “vị thuốc” công hiệu nào để chữa trị, và chỉ khi nào tìm ra được vị thuốc ấy mới thay đổi được “quốc dân tình”, mới cứu được nước Trung Hoa. Phong trào Ngũ Tứ tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1921. Và lịch sử đã xác nhận, chỉ có Đảng Cộng sản Trung Quốc mới tìn ra được “vị thuốc” để phục hưng đất nước.

    2. Phần cuối của truyện nói về những gì đã diễn ra trên nghĩa địa vào tiết thanh minh. Một con đường nhỏ cong queo tạo nên cái ranh giới tự nhiên giữa nghĩa địa. Phía tay trái con đường là mộ những người chết chém hoặc chết tù, phía bên phải là mộ những người nghèo. Cả hai nơi môn dày khít “như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ”. Trời lạnh lắm hai bà già đều ra thăm mộ. Bà Hoa bày ra trước nấm mộ mới đắp (mộ thằng Thuyên) một bát cơm, bốn đĩa thức ăn, ngồi khóc một hồi, đốt xong thếp vàng giấy rồi ngồi bệt xuống đất, ngẩn ngơ. Gió hiu hiu thổi vào mớ tóc cắt ngắn đã bạc nhiều lắm… Nỗi thương con, nỗi buồn cô đơn của bà Hoa được diễn tả qua tiếng khóc, qua dáng “ngồi bệt” và cái “ngẩn ngơ” ấy. Không có bông lau mà chỉ có mớ tóc bạc rung lên theo làn gió hiu hiu thổi mà đầy ám ảnh, thê lương.

     Một bà già nữa, tóc bạc, áo quần rách rưới cũng mang bát cơm, bốn đĩa thức ăn… cứ đi ba bước lại dừng lại, ngập ngừng không dám bước, sắc mặt xanh xao bỗng đỏ lên vì xấu hổ… Đốt vàng lên… bỗng chân tay “run lên” lùi lại “loạng choạng” mắt “trợn trừng trừng ngơ ngác”.

    Bà Hoa bước sang bên kia con đường mòn - nơi mộ tử tù - khẽ nói với bà kia, an ủi: “Bà ơi thôi mà, thương xót làm chi nữa! Ta về đi thôi!” Cử chỉ ấy, câu nói ấy trước hết là sự đồng cảm xót thương, là sự san sẻ của hai bà mẹ già bất hạnh, một người có đứa con ho lao ăn “thuốc” bánh bao tẩm máu tử tù mà chết, một bà mẹ có đứa con “đi làm giặc” mà bị chém đầu! Tiết thanh minh này, hai bà mẹ già đã bước qua con đường mòn ngăn cách giữa hai thế giới mộ - mộ người nghèo và mộ tử tù - họ đến với nhau trong nỗi đau đớn tột cùng của lòng mẹ mất con. Phải chăng điều ấy báo hiệu một đổi thay gì mới giữa mùa xuân này? Nỗi đau của bà Tứ (mẹ Hạ Du) đã có người đồng cảm. Sự thức tỉnh đã hé lộ như những mầm non bằng nửa hạt gạo trên cây dương liễu?

    Vòng hoa - hoa trắng hoa hồng - xen lẫn nhau, nằm khoanh trên nấm mộ khum khum, với bà mẹ Hạ Du là “Cái gì thế này?”, tại sao “Hoa không có gốc, không phải dưới đất mọc lên? Ai đã đến đây?”… Vòng hoa đã làm cho nỗi đau của bà Tứ không thể nào kể xiết, cất tiếng khóc thê thảm: “Du ơi! Oan con lắm Du ơi! Chắc con không quên được và con đau lòng lắm, phải không con? Con hiển hiện lên cho mẹ biết con ơi!”… Rõ ràng vòng hoa trên nấm mộ Hạ Du như muốn khẳng định một chân lý lịch sử và cách mạng: Trong trạng thái mê muội, tê liệt của quần chúng thuở ấy, vẫn có người nhớ đến, tiếc thương ngưỡng mộ và quyết tâm noi gương người cách mạng tiên phong đã ngã xuống vì đại nghĩa. Vòng hoa thể hiện cho xu thế cách mạng, cho niềm lạc quan đối với tiền đồ cách mạng. Vòng hoa trong truyện “Thuốc” là một dự cảm về con đường bão táp, một tia lửa hôm nay sẽ báo hiệu một đám cháy ngày mai!

    Câu hỏi của bà Tứ: “Cái gì thế này?”, “thế này là thế nào?” đã tạo ra một ám ảnh khôn nguôi, khiến người đọc “không trả lời không yên” (Nguyễn Tuân). Và tiếng quạ kêu cất lên sau tiếng khóc, sau lời nguyền của bà Hoa, bà Tứ làm cho âm điệu chủ đạo của thiên truyện “Thuốc” này thêm não nũng ai oán! Phải tìm được “vị thuốc” để giảm bớt nỗi đau cho quần chúng, cho đồng loại. Muốn “cứu vong” đất nước phải đồng thời chữa bệnh cho “quốc dân tình” là như vậy!

    Truyện “Thuốc” chỉ có vài nhân vật. Câu chuyện thương tâm dồn tụ lại ở hai người mẹ già, hai đứa con xấu số. Không gian hẹp: một quán trà, một pháp trường, một bãi tha ma. Cảnh chém người một đêm thu tàn canh. Nghĩa địa “mộ dày khít, lớp này, lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ”. Tiếng mẹ khóc con thê thiết. Tiếng quạ kêu não nùng. Không gian nghệ thuật ấy tiêu biểu cho một nước Trung Hoa trì trệ, bế tắc đầu thế kỷ 20.

    Thời gian nghệ thuật trong truyện “Thuốc” vận động từ mùa thu đến mùa xuân, từ lúc tử tù bị chém, thằng Thuyên ho lao rồi chết đến tiết thanh minh, trên ngôi mộ Hạ Du có vòng hoa, một thằng Thuyên và những nấm mộ khác “lác đác vài nụ hoa bé tý, trăng trắng, xanh xanh”, trên cành dương liễu đã đâm ra “những mầm non bằng nửa hạt gạo”. Đó là mầm xanh của mùa xuân hy vọng, hứa hẹn một ngày mai ấm áp hơn, như lời thơ Quách Mạt Nhược, người cùng thời và đồng hành với Lỗ Tấn:

            “Dẫu vầng dương còn ở phương xa,

            Trong nước biển đã nghe vang chuông sớm…”

                                                (Kiếp tái sinh của nữ thần)

    Trong bài “Vì sao tôi viết tiểu thuyết” Lỗ Tấn nói: “Mỗi khi chọn đề tài, tôi đều chọn những người bất hạnh trong xã hội bệnh tật, với mục đích lôi hết bệnh tật của họ ra, làm cho mọi người chú ý mà tìm cách chạy chữa…”. Có lẽ vì thế mà áng văn này đã trở thành một “vị thuốc” rất công hiệu để chạy chữa tình trạng u mê tăm tối và tê liệt tinh thần của quần chúng, phê phán sự xa rời quần chúng của những nhà cách mạng. Cuộc đời tuy còn nhiều nước mắt, nhiều bi kịch “vầng dương còn ở phương xa” nhưng “Thuốc” gợi lên nhiều hy vọng. Hình ảnh vòng hoa hai bà mẹ cùng đi thăm mộ con đã đến với nhau qua tiếng khóc và sự an ủi, điều đó khẳng định giá trị nhân đạo của truyện ngắn này.

Tôi yêu em

                   Puskin

Tôi yêu em: đến nay chừng có thể

Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai.

Nhưng không để em bận lòng thêm nữa,

Hay hồn em phải gợn sóng u hoài.

Tôi yêu em âm thầm không hy vọng

Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen;

Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,

Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.

                                    1823, Thúy Toàn dịch

Xuất xứ, chủ đề

    Lúc đầu, Nam Cao đặt tên truyện là Cái lò gạch cũ. Nhà xuất bản Đời mời năm 1941, đổi thành Đôi lứa xứng đôi. Năm 1946 trong tập Luống cày do Hộ Văn hóa cứu quốc xuất bản, tác giả đổi tên truyện thành Chí Phèo.

    Truyện Chí Phèo nói lên số phận bi thảm của người nông dân nghèo, lương thiện bị xã hội thực dân phong kiến xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi không có lối thoát.

Tóm tắt truyện

    Ở làng Vũ Đại. Một sáng tinh sương, anh thả ống lươn nhặt được đứa bé mới đẻ xám ngắt đùm trong cái váy đụp vứt ở lò gạch cũ. Anh ta rước lấy đem về cho người đàn bà góa mù, bà này bán lại cho bác phó cối. Khi bác phó cối chết, hắn bơ vơ, mãi năm 18 tuổi hắn làm canh điền cho Bá Kiến. Vợ ba Bá Kiến bắt Chí xoa bụng đấm lưng gì đó. Bỗng một hôm Chí Phèo bị người ta giải huyện… Đi tù bảy, tám năm sau hắn trở lại làng, mặt mày trông khác hẳn, gớm chết! Về hôm trước thì chiều hôm hắn xách vỏ chai đến thẳng nhà Bá Kiến gây sự. Xô xát với Lý Cường, hắn đập vỏ chai, rạch mặt kêu trời ăn vạ. Sau cái vụ Năm Thọ, Binh chức, cụ Bá róc đời xử nhũn với Chí Phèo. Cụ mời hắn vào nhà, giết gà đãi rượu, lúc hắn ra về còn đãi một đống bạc uống thuốc.

    Bốn hôm sau, Chí Phèo đốt quán bà bán rượu… Hắn mang theo một con dao nhọn đến xin Cụ Bá đi ở tù. Chỉ một câu nói khích, cụ đã sai được Chí Phèo đến nhà đội Tảo đòi 50 đồng bạc nợ cho cụ. Chẳng phải giao tranh đổ máu, hắn đã đòi được nợ đem về. Cụ bá cho hắn 5 đồng và bán cho hắn 5 sào vườn ngoài bãi sông mới cắm thuế của một người làng. Năm đó Chí 27 hay 28 tuổi, hắn bỗng thành có nhà. Hắn trở thành anh đầy tớ chân tay mới của Bá Kiến, chuyên đâm thuê chém mướn, rạch mặt ăn vạ. Hắn đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say mãi, say vô tận. Hắn chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi con mẹ chết tiệt nào đẻ ra hắn cho hắn khổ. Năm đó hắn ngoài 40, cái mặt như mặt một con vật lạ. Cả làng Vũ Đại đều sợ hắn một khi hắn đi qua trước mặt.

    Tình cờ một đêm trăng, Chí Phèo lần vô nhà Tự Lãng, tên hoạn lợn kiêm nghề thầy cúng, hai đứa uống hết cả 3 chai rượu. Ngứa ngáy quá, Chí lảo đảo đi về lều. Hắn gặp Thị Nở đang há hốc mồm ngủ dưới trăng, hắn ôm chầm lấy chị mà làm tình. Gần sáng Chí bị cảm, hắn được thị Nở người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn cho ăn cháo hành. Cũng là lần đầu tiên hắn được ăn cháo hành lại do bàn tay một người đàn bà cho. Hắn bâng khuâng nhớ lại một thời trai trẻ, hắn muốn cùng thị làm thành một cặp rất xứng đôi. Chí Phèo thèm lương thiện. Và hắn say thị lắm. Nhưng đến hôm thứ 6, thị nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã. Thị Nở bị bà cô xỉa xói vào mặt. Thị ton ton chạy sang lều trút tất cả giận dữ lên mặt nhân ngãi. Chí Phèo ngẩn mặt ra, chạy theo Thị Nở, hắn đã bị nhân tình giúi cho một cái ngã lăn khoèo xuống đất. Hắn toan đập đầu ăn vạ nhưng hắn chưa thật say. Và hắn uống, uống thêm chai nữa, càng uống càng tỉnh. Hắn đi đến nhà Bá Kiến với con dao ở thắt lưng để đòi lương thiện. Chém chết Bá Kiến, hắn đâm cổ tự sát. Cả làng Vũ đại xôn xao kéo đến xem 2 con quỷ giết nhau. Bà cô chì chiết Thị Nở. Thị nhìn nhanh xuống bụng mình, và thoáng chợt thấy một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua…

Phân tích

    1. Làng Vũ Đại là hình ảnh cái xã hội thực dân phong kiến thối nát, cái ác ngự trị.

    - Là nơi “quần ngư tranh thực” với các phe nghịch, đu lại với nhau để bóc lột con em. ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau: cánh Bá Kiến, cánh ông đội Tảo, cánh ông Tư Đạm, cánh ông Bát Tùng… Đội Tảo ngang ngược, là cựu binh “cũng có thể đâm chém được, chưa bao giờ chịu hàng trước cuộc giao tranh”. Còn Bá Kiến vô cùng xảo quyệt, biết “mềm nắn rắn buông”, biết ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn! Hãy đập bàn, đập ghế đòi cho được 5 đồng nhưng rồi thì lại vứt trả lại năm hào “vì thương anh túng quá!”. Cụ không cần than thở: trị không lợi thì cụ dùng! Cụ biết thu dụng những thằng bạt mạng để cắm thuế, cắm ruộng, đốt nhà, đâm chém… gây ra bao cảnh đổ máu, làm tan nát bao cơ nghiệp dân lành.

    - Là nơi đầy rẫy bọn đầu bò đâm thuê chém mướn. Năm Thọ đi thì Binh chức lần về. Binh Chức chết thì lại nở ra một Chí Phèo - cùng với Bá Kiến là 2 con quỷ dữ làng Vũ Đại. Chí Phèo chết lại có một Chí Phèo con nhất định sẽ ra đời!

- Một thị Nở “dòng giống của một nhà có mả hủi…”, một bà cô thị suốt đời cô đơn, một Tự Lãng làm nghề hoạn lợn kiêm thầy     cúng, vợ chết, con gái chửa hoang bỏ nhà trốn đi… Bao nhiêu thảm kịch, bi kịch?

Nam Cao đã tố cáo cái hiện thực xấu xa, tàn ác của xã hội thực dân phong kiến. Những cảnh đời dữ dội, những con người đáng sợ, nguồn gốc của tội ác và đau thương đã và đang xô đẩy bao người lương thiện vào con đường đau khổ, tội lỗi.

    2. Nhân vật Chí Phèo:

    - Đau khổ từ khi còn nằm trong bụng mẹ: hoang thai. Đẻ ra thì bị mẹ hắn vứt ra lò gạch cũ. Một vật cho không. Một món hàng từ tay người đàn bà goá mù qua tay ông phó cối. Bơ vơ, làm thuê, bị vợ ba Bá Kiến lợi dụng, bị bỏ tù oan uông 7, 8 năm trời.

    - Không người thân thích. Không một mái ấm nương thân. Một nông dân lương thiện bị nhà tù thực dân biến thành một tên đầu bò. Bá Kiến đã biến Chí thành kẻ đâm thuê chém mướn. Đến nhà Bá Kiến lần đầu sau 8 năm đi tù về, Chí bỗng nhiên “có họ” với Lý Cường! Cụ Bá sai Chí đi đòi nợ đội Tảo, đòi được nợ, Chí Phèo kiêu hãnh nghĩ: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Khi đã ngoài 40 tuổi, cái mặt Chí Phèo như mặt một con vật lạ” vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio”, vằn dọc vằn ngang biết bao nhiêu là sẹo! Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại… Hắn ăn và ngủ trong lúc say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận,… Hắn đã bị cướp mất cả hình người lẫn linh hồn. Hắn đã thành quỷ dữ.

    - “Cuộc tình” của Chí với Thị Nở, bát cháo hành và sự săn sóc của thị đã đánh thức bản tính người bị tước đoạt, bị che lấp hơn mười năm nay, làm cho Chí “thèm lương thiện”, “muốn làm hòa” với mọi người! Hắn sống lại mơ ước bình dị thời trai trẻ. Hắn biết đón nghe mọi âm thanh đời thường. Hắn muốn cùng thị Nở làm thành một cặp rất xứng đôi. Bà cô thị Nở và thị đã chối từ quyền làm người của Chí. Cái dùi của thị Nở làm ngã lăn khoèo Chí Phèo, đã đẩy Chí Phèo chìm vào đáy bi kịch, Chí càng uống càng tỉnh. Chỉ còn một con đường một cách đâm chết Bá Kiến và tự sát vì “ai cho tao lương thiện!... Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”.

Sau tiếng kêu và những nhát dao của Chí Phèo, cánh cửa trần gian đã đóng chặt, cửa ngục âm ti mở toang đẩy hai con quỷ dữ làng Vũ Đại vào hỏa ngục! Cái chết của Chí Phèo là cái chết đáng thương!

    Nam Cao miêu tả bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo hết sức tinh tế và sâu sắc như là một quá trình tự vận động của tính cách. Từ lương thiện bị biến thành lưu manh, từ kẻ đâm thuê chém mướn bỗng thèm lương thiện, bị cự tuyệt quyền làm người thì trả thù kẻ làm hại đời mình rồi tự sát.

    Nam Cao vừa vạch trần cái xã hội thối nát, độc ác, ông như vừa cất tiếng kêu thương: Hãy chặn đứng tội ác! Hãy xoá bỏ cái xã hội thực dân phong kiến! Hãy cứu lấy dân nghèo lương thiện! Nhân vật Chí Phèo là một nhân vật điển hình về người nông dân bị lưu manh hóa.

Kết luận

    Truyện “Chí Phèo” là một truyện ngắn độc đáo, thấm nhuần tinh thần nhân đạo sâu sắc. Khắc họa tính cách nhân vật, phân tích chiều sâu tâm lý và bi kịch nhân vật, cách kể chuyện hấp dẫn, lôi cuốn là những thành công đặc sắc của Nam Cao. Truyện “Chí Phèo” là một trong những truyện ngắn hay nhất viết về đề tài nông dân trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

Day mua thu toi

Tác giả

    Xuân Diệu (1916-1985), họ Ngô, quê nội ở Hà Tĩnh, quê ngoại ở Bình Định. Là “nhà thơ mới nhất” trong “Thơ mới”. Xuất hiện trên thi đàn Việt Nam với những tập thơ lừng danh như “Thơ thơ” (1938), “Gửi hương cho gió”. Ông để lại trên 50 tác phẩm. Xuân Diệu viết thơ tình nhiều nhất, hay nhất; viết phê bình thơ độc đáo, đặc sắc nhất.

    Năm 1938, Thế Lữ đã trang trọng nói về thi sĩ Xuân Diệu như sau:

    “… Một tâm hồn mở rộng, một tấm lòng chào đón. một con người ân ái đa tình…”. Và “Ham yêu, biết yêu, Xuân Diệu muốn tận hưởng tình yêu, vì ông thấy chỉ tình yêu mới gồm được bao nhiêu ý nghĩa”. (Lời tựa tập Thơ thơ – 1938).

Xuất xứ, chủ đề

    - “Đây mùa thu tới” rút trong tập “Thơ thơ” xuất bản năm 1938 - tập thơ đầu của Xuân Diệu.

    - Bài thơ nói lên tâm trạng buồn man mác, bâng khuâng khi mùa thu đẹp đang tới.

Phân tích

    1. Mùa thu tới với rặng liễu:

    - Trong thơ cổ: “liễu yếu đào tơ” gợi tả vẻ đẹp thanh tao của giai nhân. Xuân Diệu nhân hóa liễu, một dáng liễu tang tóc buồn “đứng chịu tang”, “lệ ngàn hàng”, liễu “đìu hiu” - Liễu mang nỗi buồn cô đơn của nàng cô phụ.

    Thi sĩ khẽ reo lên đón chào mùa thu sang. Điệp ngữ vồn vã: “Đây mùa thu tới/ mùa thu tới”. Đất trời như tắm trong một màu “mơ phai”, đó đây trong cành cây xanh đã điểm, đã “dệt” một hai chiếc lá vàng. Tất cả gợi lên một thoáng thu mênh mang buổi đầu thu, thấm một nỗi buồn man mác. Chữ “dệt” rất thơ, rất mới.

    2. Mùa thu tới với vườn hoa.

    - Hoa đã bắt đầu rụng. Một tín hiệu báo thu sang. Không phải là tiếng nhạn kêu sương. Một cách dùng số từ rất mới: “Hơn một loại hoa đã rụng cành”.

    - Mầu vàng là mầu điển hình của mùa thu quê ta. Nắng vàng nhạt. Trăng vàng nhạt. Gió vàng… và lá vàng. Mầu vàng cũng là hồn thu:

    “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”

                                        (Truyện Kiều)

    “Sắc đâu nhuốm ố quan hà,

    Cỏ vàng, cây đỏ, bóng tà tà dương”

    (“Cảm thu, tiễn thu” - Tản Đà)

    “Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông”

                                         (Bích Khê)

    Với Xuân Diệu thì sắc thu đang tiệm tiến: “Trong vườn sắc đỏ rũa mầu xanh”. Từng chấm đỏ cứ lần dần, loang ra trên mầu xanh của lá. Một cách nhìn, một cách tả rất tinh tế và mới. “Sắc đỏ” tương phản với “màu xanh” cũng là một nét thu, buổi đầu thu. Cây đã bắt đầu rụng lá. Gió thu se lạnh nhè nhẹ thổi. Sử dụng phụ âm “r” và “m” để đặc tả cái khô gầy, run rẩy của cành hoa:

            “Những luồng run rẩy rung rinh lá,

            Đôi nhành khô gầy xương mỏng manh

    Chất cảm giác, chất xúc giác biểu hiện rất thoáng và nhẹ qua 2 câu thơ tuyệt bút này.

    3. Mùa thu tới trên bến đò.

    Không có cảnh lỡ bước sang ngang. Cũng không có cảnh “Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt” (Tỳ bà hành). Chỉ “đã nghe” và chỉ có “đã vắng”… Một không gian lạnh, rét mướt và vắng lặng. Cô đơn buồn bao trùm cảnh vật, trăng mờ ẩn hiện. Non xa thấp thoáng sau màn sương mờ nhạt nhòa. Các dấu chấm lửng liên tiếp xuất hiện như mùa thu đang nhẹ trôi trong không gian và thời gian. Những nét vẽ làm hiện lên cái hồn thu xứ sở:

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…

Non xa khởi sự nhạt sương mờ…

Đã nghe rét mướt luồn trong gió…

    Chữ “luồn” độc đáo, thần tình đã cụ thể “gió”, chỉ cảm nhận được chứ không hình dung được.

    4. Mùa thu tới với thiếu nữ.

    Thơ cổ hay nói mùa thu về với cô phụ lạnh lùng đơn chiếc. Với Xuân Diệu, thu tới “trăng tự ngẩn ngơ” trên trời xanh, và thiếu nữ thì đăn chiêu, tư lự, bâng khuâng “buồn không nói…” đang “Tựa cửa chờ mong…”. Thu đã tới rồi, mà thiếu nữ vẫn tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”… Cùng với áng mây, cánh chim…, hình bóng thiếu nữ “tựa cửa nhìn xa…” gợi tả một nỗi buồn cô đơn, chia li vô cùng thấm thía. Cách dùng số từ trong câu thơ này cũng rất mới: “Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói”.

Kết luận

    Mùa thu muôn đời trong thơ. Thu trong Đường thi. Thu trong Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập. Thu trong thơ Nguyễn Khuyến, với Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh. Tất cả đều đẹp và buồn.

    Mùa thu trong thơ Xuân Diệu vẫn đẹp và buồn. Buồn lên nhiều lần từ dáng liễu, trăng thu đến thiếu nữ. Xa vắng, cô đơn, mênh mông buồn. Có lẽ cảnh sắctrong “Đây mùa thu tới” là cảnh sắc thu Hà Nội? Cách dùng từ, cách diễn đạt cảnh thu, tình thu của Xuân Diệu rất mới. Cảm xúc và hình tượng trong “Đây mùa thu tới” đầm đà sắc điệu cảm giác và xúc giác. “Đây mùa thu tới” là một bài thơ thu sáng giá của Thơ mới 1932-1941.

Trang giang

Tác giả

    Huy Cận (tên là Cù Huy Cận), quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Cũng là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong “Thơ mới” tiền chiến với tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Thơ của Huy Cận hàm xúc cổ điển và có màu sắc suy tưởng, triết lí. Trước Cách mạng, thơ Huy Cận thấm một nỗi buồn mênh mông. Sau năm 1945, cảm hứng thơ Huy Cận ấm áp, tươi vui. Tiêu biểu là các tập thơ: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963),… Hạt lại gieo (1984)…

Xuất xứ, chủ đề

    1. “Tràng giang” rút trong tập thơ “Lửa thiêng”.

    2. Bài thơ thể hiện một nỗi buồn cô đơn, một nỗi buồn nhớ nhà, nhớ quê hương trong cảnh hoàng hôn trước tràng giang.

Phân tích

    1. Cảm hứng chủ đạo được thi nhân nói rõ ở câu đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Một thiên nhiên bao la mênh mông, một dòng sông dài, không rõ đâu là nguồn, đâu là cửa sông. Một nỗi niềm “bâng khuâng”, một tấm lòng tha thiết “nhớ” khi đứng trước vũ trụ, nhìn “trời rộng” và ngắm “sông dài”.

    2. Bài thơ có 4 khổ, mỗi khổ như một bài thất ngôn tứ tuyệt hoàn chỉnh. Cảnh và tình giao hòa. Cảnh đẹp mà buồn man mác.

    - Khổ một, sóng gợn buồn, từng lớp từng lớp như lan tỏa “điệp điệp”, lòng người. Con thuyền và vệt nước song song: “thuyền về nước lại” gợi lên một nỗi buồn chia phôi “sâu trăm ngả”. Một cành củi khô trôi nổi trên tràng giang tượng trung cho sự chết chóc, chia lìa. Vần thơ đầy ám ảnh.

    - Khổ 2, gợi tả một không gian mênh mông, vắng lặng. Cồn nhỏ thì “lơ thơ”. Gió nhẹ và buồn đìu hiu: “Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu. Khác nào câu thơ Chinh phụ ngâm: “Non kỳ quạnh quẽ trăng treo - Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”? Các từ láy: lơ thơ, đìu hiu; vần lưng: “nhỏ - gió” gợi cả cái hắt hiu, buồn thê thiết. Không một âm thanh một tiếng động, một tiếng vọng nào từ làng xa. Bầu trời thăm thẳm như soi xuống đáy tràng giang, không gian 2 chiều: sâu chót vót”. Con người càng nhỏ bé, cô đơn trước một không gian: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Câu thơ 7 từ với 3 nét vẽ. Thật hàm súc cổ điển.

    - Khổ 3, lại nói về tràng giang. Không cầu. Cũng không đò. Sông đã dài lại thêm mênh mông. Cảnh đôi bờ rất đẹp nhưng vẫn thấm sâu một nỗi buồn xa vắng: “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Trung tâm của bức tranh là “bèo dạt”. Chẳng có mây trôi, chỉ có “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”. Một nét vẽ tượng trưng thứ hai đem đến liên tưởng những kiếp người lưu lạc, trên dòng đời. Đúng là sầu nhân thế, vạn cổ sầu như một số nhà thơ lãng mạn, thường nói:

            … “Có phải sầu vạn cổ

            Chất trong hồn chiều nay?”…

    (“Chiều” - Hồ ZDếnh). Hai tiếng “về đâu” gợi tả một nỗi buồn mơ hồ, ngơ ngác. Chỉ biết hỏi mình, chẳng biết hỏi ai. Cô đơn và buồn đến thế là cùng!

    - Khổ 4, nói về hoàng hôn:

            “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

            Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa,

            Lòng quê dợn dợn vời non nước,

            Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

    Một cái nhìn xa vời đến mọi phía chân trời. Cánh chim như chở nặng bóng chiều đang “nghiêng cánh nhỏ”. Mây lớp lớp đùn lên như những “núi bạc”. Cảnh tượng tráng lệ. Cánh chim nhỏ nhoi tương phản với bầu trời bao la, với lớp lớp núi mây bạc nhằm đặc tả nỗi buồn cô đơn. Chữ “đùn” gợi nhớ một tứ thơ Đường: “Tái thượng phong vân tiếp địa âm” (Thu hứng) - Nguyễn Công Trứ dịch: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”.

    Hoàng hôn phủ mờ tràng giang. Con nước làm xúc động lòng quê. Thôi Hiệu 13 thế kỷ trước, đứng trên lầu Hoàng Hạc, nhìn sông Hán Dương, lòng thổn thức: “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Với Huy Cận, chiều nay trên tràng giang, nỗi buồn nhớ quê nhà nhiều lần nhân lên thấm thía: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Nỗi nhớ quê, nhớ nhà mênh mang như gửi về mọi phía chân trời và đang trôi theo tràng giang.

Kết luận

    “Tràng giang” là bài thơ tuyệt bút tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận thời tiền chiến. Các chi tiết nghệ thuật được chọn lọc tinh tế. Ngôn ngữ hàm súc cổ điển. Cảnh đẹp mà buồn. Cành củi khô, bèo dạt… đầy ám ảnh, mở ra một trường liên tưởng đầy màu sắc suy tưởng. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của khách ly hương tạo nên chất thơ, hồn thơ đẹp, để “Tràng giang” thấm sâu vào lòng người, trở thành “một bài thơ ca hát non sông, đất nước” như Xuân Diệu nhận xét.

Tác giả

    Hàn Mặc Tử (1912-1940) là bút danh của Nguyễn Trọng Trí. Các bút danh khác: Phong Trần, Lệ Thanh. Thuộc nhóm thơ Bình Định. Một cuộc đời hết sức lãng mạn và đầy bi kịch. Một nhà thơ tài năng, cảm hứng sáng tạo thi ca dào dạt với những tập thơ: Gái quê, Thơ điên, Thượng Thanh Khí Cẩm Châu Duyên, và 2 kịch thơ: Duyên kì ngộ, Quần tiên hội.

Phong cách nghệ thuật của Hàn Mặc Tử rất khác lạ: bên cạnh những vần thơ điên loạn lại xuất hiện những vần thơ hồn nhiên, trong trẻo lạ thường như “Mùa xuân chín”, “Đây thôn Vĩ Giạ”.

Xuất xứ, chủ đề

    1. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Giạ” rút trong tập thơ Điên.

    2. Bài thơ nói về cảnh đẹp Vĩ Giạ với một tình yêu thiên nhiên thiết tha, một hoài niệm bâng khuâng vương vấn.

Phân tích

    1. Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

    Vĩ Giạ một làng cổ đẹp nổi tiếng bên bờ Hương giang, ngoại ô cố đô Huế. Phong cảnh êm đềm thơ mộng. Với Hàn Mặc Tử chắc là có nhiều kỷ niệm đẹp? Câu mở bài như một lời chào mời, như một tiếng nhẹ nhàng trách móc: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Cảnh Vĩ Giạ được nói đến là hàng cau với nắng mới lên, một bình minh rạng ngời. Là màu xanh của cây trái của “vườn ai”, ngỡ ngàng bâng khuâng, rồi thốt lên “mướt quá xanh như ngọc”. Sắc xanh mượt mà, láng bóng ngời lên. Một so sánh rất đắt gợi tả sức xuân, sắc xuân của “vườn ai”? Câu thứ 4 có bóng người xuất hiện thấp thoáng sau hàng trúc: “gương mặt chữ điền”. Nét vẽ “lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình gợi tả vẻ kín đáo, duyên dáng của người con gái thôn Vĩ. Và cho biết “vườn ai”, ấy là vừn xuân thiếu nữ. Cau, nắng, màu xanh như ngọc của vườn ai, lá trúc và gương mặt chữ điền - 5 nét vẽ, nét nào cũng tinh tế, tao nhã, gợi nhiều thương mến bâng khuâng.

    2. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó…

    Một miền quê thoáng đãng, thơ mộng. Có gió, mây, cỏ hoa, có dòng nước. Cảnh đẹp đầy thi vị, cổ điển. Gió mây đôi ngả phân li. Dòng nước buồn thiu, buồn xa vắng mơ hồ. Hoa bắp nhè nhẹ “lay” cũng gợi buồn.

            “Gió theo lối gió, mây đường mây,

            Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

    Khổ một nói đến “nắng mới lên”, nắng bình minh. Khổ 2, nói đến “bến sông trăng”, bến đò trong hoài niệm. Vầng trăng của thương nhớ đợi chờ. “Thuyền ai” có lẽ là con thuyền thiếu nữ? Vần thơ trăng đẹp nhất trong thơ Hàn Mặc Tử. Có bến sông trăng, có con thuyền trăng. Thật thơ mộng, tình tứ:

            “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

            Có chở trăng về kịp tối nay?”

    Câu thơ của Hàn Mặc Tử về bến sông trăngthuyền ai gợi nhớ đến vần ca dao thuyền nhớ bến… bến đợi thuyền. Và vì thế nó gợi lên một mối tình thương nhớ, đợi chờ man mác, mơ hồ, bâng khuâng.

    3. Ai biết tình ai có đậm đà?

    Một chữ “mơ” đầy tình tứ trong câu thơ có nhạc điệu chơi vơi: “Mơ khách đường xa, khách đường xa”. Du khách hay thôn nữ Vĩ Giạ? Chắc lại là giai nhân mà thi nhân từng mơ ước: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Vừa thực vừa mông. Con người của thực tại hay con người trong hoài niệm? Sương khói của bến sông trăng hay miệt vườn Vĩ Giạ đã làm mờ nhân ảnh của giai nhân? Trong cảnh có tình. Trong tình có màn sương khói, một thứ tình yêu kín đáo, e dè, thiết tha:

            “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

            Ai biết tình ai có đậm đà?”

    Toàn bài thơ có 4 từ “ai” đại từ phiếm chỉ cùng xuất hiện trong các câu hỏi tu từ, không chỉ góp phần tạo nên âm điệu lâng lâng, ngỡ ngàng mà còn dẫn hồn người đọc nhớ về một miền dân ca Huế man mác sâu lắng, bồi hồi, thiết tha:

            “Núi Truối ai đắp mà cao,

Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?

Nong tằm ao cá nương dâu

Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò…”

Kết luận

    “Đây thôn Vĩ Giạ” ngỡ là một bài thơ tả cảnh, nhưng đích thực là một bài thơ tình - tình trong mộng tưởng. Cảnh rất đẹp, rất hữu tình, âm điệu thiết tha, tình tứ. Tình cũng rất đẹp nhưng chỉ là mộng ảo. Bến sông trăng còn đó, nhưng con thuyền tình có kịp chở trăng về tối nay? Xa với, mênh mông. Áo trắng giai nhân, màu trắng trong trinh nữ ấy đã trở thành hoài niệm trong miền thương nhớ của thi sĩ đa tình mà nhiều bất hạnh. “Đây thôn Vĩ Giạ” là bài thơ để ta nhớ và ta thương.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#trung