truong hoc

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nguyên tắc thiết kế Trường tiểu học

Chương trình giảng dạy cấp tiểu học là một trong chương trình bắt buộc trong hệ thống giáo dục ViệtNam.

 Đây là giai đoạn đầu tiên của con người được học chữ viết một cách chính qui, được học các môn học khác nhau, tiếp xúc với bạn bè, thầy cô... Ở mỗi nước khác nhau thì có những qui định về lứa tuổi học tiểu học khác nhau.     

1, Khái quát chung

       Chương trình giảng dạy cấp tiểu học là một trong chương trình bắt buộc trong hệ thống giáo dục ViệtNam. Đây là giai đoạn đầu tiên của con người được học chữ viết một cách chính qui, được học các môn học khác nhau, tiếp xúc với bạn bè, thầy cô... Ở mỗi nước khác nhau thì có những qui định về lứa tuổi học tiểu học khác nhau. Ở Việt nam: từ 3-6 tuổi là cấp mẫu giáo, 7-11 tuổi là cấp tiểu học, 12-15 tuổi là cấp phổ thông trung học cơ sở, 16-18 là cấp phổ thông trung học. Ở những nước Tây Âu, Anh, Mỹ...chia ra làm 3 cấp: Loại nhỏ 3-8 tuổi(tương đương với Mẫu giáo+tiểu học ở Việt nam), trung bình từ 8-13 tuổi( tương đương với PTCS), loại lớn 13-18 tuổi(tương đương với PTTH).  Trường tiểu học ra đời để đáp ứng nhu cầu trên của xã hội, trường là cơ sở vật chất, là môi trường để tiến hành quá trình giảng dạy do đó trường tiểu học phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về giảng dạy-học tập, yêu cầu về không gian phù hợp với lứa tuổi tiểu học...

     Sự phát triển giáo dục phụ thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia, từ điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của mỗi nước. Nội dung học vấn không phải là bất biến, nó được biến đổi dưới sự ảnh hưởng của sự phát triển khoa học kỹ thuật, sự tăng trưởng kinh tế, văn hóa cũng như lí luận dạy học, phương pháp học.(theo GS.TS.KTS Nguyễn Đức Thiềm) 

    Hệ thống trường tiểu học Việt Nam hiện nay nói chung, chủ yếu được xây dựng sau hòa bình lập lại, với kiểu dạy học thuần tuý lí thuyết không có sự kết hợp giữa học và thực hành, các lớp học được nối với nhau bằng những hành lang dài, trước hành lang là sân trường dành cho mọi hoạt động của trường.

    Hiện nay điều kiện xã hội đã khác, khái niệm trường tiểu học không đơn thuần chỉ là nơi học sinh học văn hóa mà còn là môi trường để các em rèn luyện thể lực, tiếp xúc với bạn bè, phát triển cá tính nên chương trình học dần dần được phát triển, một số môn học năng khiếu và các hoạt động phụ trợ( rèn luyện thể chất, thể thao...) được đưa vào chương trình học với các hoạt động ngoài trời,các bộ phận thực hành xen vào các giờ học giúp cho học sinh nắm bắt nhanh lý thuyết, tăng sự sảng khoái về tinh thần và đào tạo học sinh một cách toàn diện. Do đó một chức năng mới cho trường học là phải có các khối chuyên biệt cho việc đào tạo thẩm mỹ và rèn luyện thể chất cho học sinh.

Chương trình học ngoại ngữ đang được đưa vào giảng dạy chuyên nghiệp ở lứa tuổi tiểu học, trẻ em được khuyến khích sử dụng máy tính để truy câkp internet và tạo cơ sở dữ liệu riêng cho nên trường tiểu học ngày nay phải có những phát triển về tổ chức không gian, kết cấu không gian, thiết bị nghe nhìn, máy tính máy chiếu...cho phù hợp với phương pháp giảng dạy mới.

Mô hình học bán trú 2 buổi/ ngày (do yêu cầu xã hội, bố mẹ đi làm cả ngày nên gửi con cả ngày ở trường) cũng phát triển mạnh, do đó việc đưa thêm các môn học năng khiếu, rèn luyện thể chất, phát triển cá tính... được đưa vào nhiều.

2. Vị trí xây dựng ( theo TCXDVN)

-Nằm ở vị trí trung tâm của khu dân cư, bán kính phục vụ  khoảng 500-800m(không quá 1500m), chọn vị trí cao ráo, sạch sẽ, cảnh quan đẹp, yên tĩnh cho giảng dạy-học tập. Đối với miền núi, bán kính phục vụ có thể đến 2000m.

-Không nằm cạnh những cơ sở thường xuyên có tiếng ồn và chất độc hại như: cơ sở chăn nuôi, chợ, xí nghiệp, nhà máy...Trường hợp bắt buộc phải xây dựng gần thì phải có khu đệm trồng cây với chiều rộng ít nhất 30m.

-Giao thông thuận lợi đáp ứng việc đi lại hàng ngày của học sinh và giáo viên. Tuy nhiên, không nằm trên những đường có mật độ giao thông lớn, đường tàu hỏa...vì an toàn của các học sinh nhỏ.

-Nằm ở vị trí thuận lợi cho việc sử dụng mạng lưới kỹ thuật hạ tầng cơ sở của khu dân cư(đường sá, cấp thoát nước, điện, thông thin...).

-Diện tích đất dành cho các khu vực so với diện tích đất toàn khu vực được tính theo tỉ lệ sau:

Diện tích xây dựng công trình kiến trúc :14-20%, có thể đến 25% cho thành phố.

Diện tích đất cho vườn thí nghiệm, khu thực hành: 16-20%

Diện tích đất làm sân chơi, bãi tập: 40-50%

Diện tích làm đường lại: 15%

- Trong khu đất xây dựng trường phải được bảo vệ bằng hàng rào cao ít nhất 1,2m.

- Diện tích toàn bộ khu đất trường học tính theo bảng dưới:

Đối với trường học xây dựng trong thành phố cho phép giảm diện tích khu đất xuống 10%. Ở nông thôn có thể tăng thêm nhưng không quá 10%.

SỐ LỚP

DIỆN TÍCH KHU ĐẤT(ha)

5

9

12

18

24

27

36

0,5

1,2

1,5

2,0

2,8

3,0

3,7

3. Nội dung công trình và các yêu cầu thiết kế

3.1. Cơ cấu trường tiểu học gồm các khối chính sau

- Khối Học tập: Gồm các phòng học văn hóa

- Khối Thực hành, học môn chuyên biệt(các môn năng khiếu, tiếng anh, vi tính...)

- Khối phục vụ học tập

- Khối Hoạt động ngoài trời: không gian vui chơi, giao lưu cho học sinh.

- Khối Giáo dục thể chất: rèn luyện cơ thể, chơi thể thao...

- Khối Hành chính quản trị: ban giám hiệu, hội đồng giáo viên...

- Khối phục vụ sinh hoạt trong trường: áp dụng khi trường có bán trú.

<!--[if !vml]-->

<!--[endif]-->

3.2 Khối học tập

- Lớp học được bố trí sao cho cửa sổ mở theo hướng BắcNam và cần lắp kính đề phòng gió lạnh mùa Đông Bắc.

- Từ sàn đến mép bậu cửa sổ là 1m-1,2m

- Đảm bảo thông gió cho phòng học

- Toàn bộ diện tích cửa sổ lấy sáng so với diện tích sàn phòng học là 1:5

- Diện tích phòng học tính theo số học sinh: trung bình 1,6-1,8m2/1học sinh. Mỗi lớp khoảng 30-35 học sinh.

- Các phòng học phải thiết kế nơi để  mũ nón, áo mưa, có thể sử dụng các hốc tủ tường phía hành lang.

- Bàn cho học sinh thường dài 1,1-1,2m, rộng 0,5-0,6m, cao 0,58-0,6m

- Tủ đựng đồ dùng cá nhân cho học sinh tính là 0,1m2/học sinh.

- Lối vào phòng học phải bố trí đầu lớp, hạn chế bố trí cuối lớp.

- Sơ đồ bố trí bàn ghế, trang thiết bị phòng học như sau:

!--[if !vml]-->

<!--[endif]-->

1- Bàn học sinh, 2- Bàn giáo viên, 3- Bảng, 4- Máy chiếu

Tên kí hiệu và tên các khoảng cách

Trong phòng học(cm)

Trong phòng học các môn chuyên biệt(cm)

Y-Khoảng cách xa nhất từ chỗ ngồi cuối cùng của học sinh tới bảng

≤ 1000

≤ 1000

K1-Khoảng cách giữa 2 dãy bàn

≥ 50-60

≥ 50-60

K2- Khoảng cách giữa tường ngoài và dãy bàn ngoài

≥ 50

≥ 50

K3- Khoảng cách giữa tường trong và dãy bàn trong

≥ 50

≥ 50

P1- Khoảng cách từ bảng đến dãy bàn đầu

≥ 180

≥ 215

P2- Khoảng cách từ bàn giáo viên đến tường treo bảng

≥ 65

≥ 90

P3- Khoảng cách từ bàn giáo viên đến dãy bàn đầu

≥ 50

≥ 50

P4- Khoảng cách giữa 2 bàn trong cùng một dãy

≥ 50

≥ 50

P5- Khoảng cách bàn cuối đến tường sau

≥ 90

≥ 90

α- Góc nhìn từ bàn đầu ngoài đến mép trong của bảng

≥30º

≥30º

H- Chiều cao treo bảng

70-80cm

70-80cm

theo kientrucCITYCOR

09:43 | Được đăng bởi: TruongDesign2

Trường tiểu học Ponzano ở Ponzano Veneto

Trường tiểu học Ponzano ở Ponzano Veneto, Ý được hoàn thành vào năm 2009 với diện tích 4.100 m2 do công ty C+S Associati tư vấn kiến trúc, công ty Lorenzo Vittori tư vấn bền vững và F&M Ingegneria spa tư vấn kỹ thuật, MEP giám sát thi công, bảo vệ công trình.

Trường tiểu học Ponzano: một 'công trình xã hội'

Bên trong thành phố lộn xộn phá hủy vùng Veneto, trường tiểu học Ponzano là một điểm nhỏ: một phần của công trình (không gian thể dục thể thao) thực tế có thể được tiếp cận bởi tất cả mọi người sau giờ học chính. Theo cách này, ngôi trường trở thành một điểm giao lưu, gặp gỡ cho mọi người của cộng đồng Ponzano.

Các không gian chung đóng vai trò rất quan trọng trong dự án trường học này, và được thể hiện trên ý tưởng mặt bằng (tất cả các không gian được bố trí xung quanh sân trung tâm, nơi tưởng niệm các nhà tu hành, nơi mà trong quá khứ là những điểm giảng dạy, trao đổi tri thức) và trên ý tưởng mặt cắt, nơi tất cả các không gian đối diện với nhau (thông qua việc giữ các đặc điểm chung như các lớp học được thiết kế với kính mờ từ 130 cm trở xuống và bên trên là kính thông thường nhằm cho phép học sinh cho mọi người xem bài vở của mình) thể hiện bằng những bức tường kính và có nhiều màu sắc. Sự phức tạp này giúp liên tưởng đến mô hình của vùng Veneto với các quận công nghiệp, nơi mà mọi người được khuyến khích học hỏi lẫn nhau và trao đổi những kinh nghiệm.

Trường học trở thành một 'công trình xã hội', một không gian cho phép sự trao đổi và so sánh tương quan đa sắc tộc. Nó trở thành một ngưỡng cửa, nơi giữ nhiều ngôn ngữ khác nhau, giữ phong cảnh của kỷ niệm và phong cảnh của hiện đại.

Trong dự án trường học, kỷ niệm được thể hiện bằng sự liên hệ đến việc trồng trọt, màu đỏ 'barchessas' của vùng Veneto. Đặc tính hiện đại được thể hiện bằng sự liên kết với những nhà máy Benetton và đặc điểm văn hóa của họ qua thiết kế đẹp và triết lý mở rộng chế độ dân chủ đa sắc màu đến tất cả mọi nơi trên thế giới.

Theo cách này, kiến trúc của ngôi trường trở thành một phối cảnh về giấc mơ (một câu chuyện mà học sinh sẽ kể) nơi mà những đặc điểm quan trọng là học sinh gần với thầy cô giáo và cộng động bên ngoài xung quanh nhà trường. Điều đặc biệt của dự án này là trong suốt giai đoạn thiết kế, các kiến trúc sư đã viết và minh họa nên một câu chuyện để có thể diễn giải dự án đến học sinh tương lai của ngôi trường.

Trường tiểu học Ponzano được thiết kế với 375 học sinh từ 6 đến 10 tuổi. Ngôi trường có 15 lớp học và các phòng học đặc biệt dành cho nghệ thuật, nhạc, máy vi tính, ngôn ngữ và khoa học, một không gian thể dục thể thao, một căn tin và một thư viện.

Tại các mặt đứng phía đông nam và tây nam, các lớp học được thiết kế nhằm hướng trực tiếp đến những hướng này bởi vì đây là những không gian mà học sinh cần dành thời gian nhiều nhất có thể.

Những nguyên lý bền vững và tiết kiệm năng lượng đã chỉ dẫn công việc thiết kế

Cảm ơn sự định hướng tốt công trình, những lớp cách nhiệt dày, một mái công trình xanh và những công nghệ phức tạp (địa nhiệt, các tấm panel mặt trời, các ống thông gió tự nhiên, hệ thống quản lý công trình tự động) ngôi trường này chỉ tiêu thụ 3.6 KWh/m2/năm, đáp ứng được tiêu chí lớp học loại A+ theo bộ luật xây dựng của Ý với giá thành xây dựng công trình là 980 Euro/m2 bao gồm cả nội thất.

Trường tiểu học Ponzano là một công trình bền vững về năng lượng, xã hội và kiểm soát chi phí.

Năng lượng: Ngôi trường chỉ tiêu thụ 3.6 KWh/m2/năm.

Xã hội: Giai đoạn thiết kế được tham gia với học sinh cũng như thầy cô giáo

Kiểm soát chi phí: Giá thành xây dựng công trình bao gồm cả nội thất là 980 Euro/m2.

KTS Vũ Linh Quang - Công ty Kiến trúc ARDOR Architects (biên dịch từ ArchDaily

Bài viết trong Mục :

Tiểu Học

The development of school buildings is closely allied to the growth and expansion of the education system, and changes in the scope and method of teaching are directly reflected in the type of buildings provided for the purpose. Sự phát triển của nhà trường là đồng minh chặt chẽ với sự tăng trưởng và mở rộng hệ thống giáo dục, và thay đổi trong phạm vi và phương pháp giảng dạy trực tiếp phản ánh trong các loại công trình cung cấp cho mục đích này.

In the early days of the colonisation of New Zealand, education rested almost entirely in the hands of the churches. Trong những ngày đầu của các thuộc địa của New Zealand, giáo dục, nghỉ ngơi gần như hoàn toàn trong tay của các nhà thờ. Finance was raised by the allocation of a proportion of the proceeds of the sale of land to the new immigrants. Tài chính được đưa ra bởi việc phân bổ một tỷ lệ số tiền thu của việc bán đất cho người nhập cư mới. From 1853 the responsibility for primary education and the provision of school buildings was vested in the Provincial Governments, which in general administered education through education boards which they established in their respective provinces. Từ 1853 các trách nhiệm về giáo dục tiểu học và cung cấp các công trình trường học đã được giao cho Chính phủ các nước cấp tỉnh, mà trong giáo dục nói chung thông qua Ban quản lý giáo dục mà họ được thành lập trên địa bàn tỉnh. With the abolition of the Provincial Governments in 1876, the financial responsibility was taken over by the Central Government, but the administration and the design and provision of primary school buildings remained in the hands of the education boards, provided for in the Education Act of 1877. Với việc bãi bỏ các chính phủ tỉnh năm 1876, trách nhiệm tài chính được thực hiện trên của Trung ương, nhưng chính quyền và thiết kế và cung cấp các công trình trường tiểu học vẫn còn trong tay của Ban giáo dục, quy định trong Luật Giáo dục năm 1877 .

Soon after the arrival of the early settlers, schools were established wherever there were sufficient children and a teacher could be found; the accommodation was generally meagre and primitive. Ngay sau khi sự xuất hiện của những người định cư sớm, trường học đã được thành lập bất cứ nơi nào có trẻ em đủ và giáo viên có thể được tìm thấy, những khách sạn nói chung là ít ỏi và nguyên thủy. Classes were held in private houses or halls until such time as school buildings could be built. Các lớp học được tổ chức tại nhà riêng hoặc phòng cho tới khi công trình trường học có thể được xây dựng. These early schools varied considerably in construction from “wattle and daub” to timber or stone buildings, but all were small, overcrowded, and dingy by present-day standards. Những trường này khác biệt đáng kể đầu xây dựng từ "keo và tô" cho các tòa nhà gỗ hoặc đá, nhưng tất cả đều nhỏ, đông đúc, và tồi tàn của các tiêu chuẩn ngày nay. Many schools consisted of one room of up to 20 ft long by 12 or 14 ft wide, and were considered as being adequate for from 30 to upwards of 50 pupils. Nhiều trường học bao gồm một phòng lên đến 20 ft dài ft 14 12 hoặc rộng, và được coi như là đầy đủ cho từ 30 trở lên là 50 học sinh. The children were often taught in relays in order to accommodate as many as possible in the small space available. Các trẻ em thường được dạy trong chuyển tiếp để thích ứng càng nhiều càng tốt trong không gian nhỏ có sẵn. The children sat in rows in the classroom and were taught directly by the teacher, in contrast to the present-day methods by which the emphasis is on the children's learning from the teacher and by practical activity. Các em ngồi ở các hàng trong lớp học và đã được giảng dạy trực tiếp bởi giáo viên, trái ngược với các phương pháp hiện nay mà trọng tâm là ngày của trẻ em học tập của giáo viên và hoạt động thực tế. This change in teaching method is reflected in the type of classroom provided in primary schools today. Sự thay đổi trong phương pháp giảng dạy được thể hiện trong các loại lớp học được cung cấp trong các trường tiểu học ngày hôm nay. Until well into the present century both classrooms and schools tended to be small, although many comparatively large schools existed in the more heavily populated areas. Cho đến trong thế kỷ hiện nay cả hai phòng học và các trường học có xu hướng nhỏ, mặc dù nhiều trường tương đối lớn tồn tại trong các khu vực đông dân cư hơn.

In the 1920s new approaches were made to school planning, notably of the Taranaki and Canterbury open air type, with very much larger windows for more light and ventilation. Trong thập niên 1920 cách tiếp cận mới đã được thực hiện quy hoạch trường học, đặc biệt là của Taranaki và không khí Canterbury loại mở, với rất nhiều cửa sổ lớn cho nhiều ánh sáng và thông gió. The standard size of classroom recommended at this time was, for all but the smallest schools, 624 sq. ft. (26 ft long by 24 ft wide), and this remains the basic minimum room size today. Các kích thước tiêu chuẩn của lớp học được đề nghị vào thời gian này là, cho tất cả, nhưng nhỏ nhất trường học, 624 dặm vuông (26 ft dài 24 ft rộng), và đây vẫn là kích thước phòng cơ bản tối thiểu hiện nay.

During the period immediately following the Second World War, in order to provide buildings more quickly to cope with the increase in the school population and to overcome a shortage of new buildings due to the war years, a standard type of primary school plan, the Dominion Basic Plan, was adopted for the whole country. Trong thời gian ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, để cung cấp cho tòa nhà một cách nhanh chóng để đối phó với sự gia tăng dân số trường học và để khắc phục sự thiếu hụt của các tòa nhà mới do những năm chiến tranh, một loại tiêu chuẩn của kế hoạch trường tiểu học, các Dominion Cơ bản, được thông qua trong cả nước. This plan consisted of a row of classrooms with store-rooms between, and a corridor on the south side with cloak and toilet rooms beyond. Kế hoạch này bao gồm một dãy phòng học với các cửa hàng phòng giữa, và một hành lang ở phía Nam với chiếc áo choàng phòng và nhà vệ sinh ngoài. Rooms for the teaching staff were provided as links between groups of classrooms or at the end of a group. Phòng cho các cán bộ giảng dạy đã được quy định như liên kết giữa các nhóm của lớp học hay ở cuối một nhóm.

In 1954 each education board developed its own standard type of school plan to suit the special needs of its area. Năm 1954, mỗi hội đồng giáo dục phát triển loại của tiêu chuẩn của nó trong kế hoạch học cho phù hợp với nhu cầu đặc biệt của khu vực của mình. All were based on the same premise that, as primary classes remained in their own classrooms for practically the whole day, corridors were redundant. Tất cả đều dựa trên tiền đề tương tự mà, như các lớp học tiểu học ở lại lớp học riêng của họ trong ngày thực tế toàn bộ, hành lang đã được dự phòng. Furthermore, because the new methods encouraged practical activities which required more space for teaching purposes, the areas of classroom, store-room and adjacent corridor were combined to form the present size classroom of 768 sq. ft. (32 ft by 24 ft). Hơn nữa, bởi vì các phương pháp mới khuyến khích các hoạt động thiết thực mà cần nhiều không gian hơn cho các mục đích giảng dạy, các khu vực của lớp học, phòng lưu trữ và hành lang liền kề được kết hợp để tạo thành các lớp học quy mô hiện tại của sq ft 768 (32 ft 24 ft). In 1956 the “white lines policy” was introduced, under which the freedom of responsibility for planning new school buildings within the two “white lines” of minimum standards of accommodation and maximum cost for each pupil to be accommodated was accepted by the education boards. Năm 1956 là "chính sách đường trắng" đã được giới thiệu, theo đó các quyền tự do trách nhiệm về quy hoạch công trình trường học mới trong vòng hai "đường trắng" của các tiêu chuẩn tối thiểu của nhà ở và chi phí tối đa cho mỗi học sinh sẽ được cung cấp chỗ ở đã được chấp nhận do Ban giáo dục. The minimum area to be provided for each class was 760 sq. ft., with a minimum room size of 624 sq. ft.; many classrooms have been built with areas in excess of 800 sq. ft. within the cost laid down. Diện tích tối thiểu để được cung cấp cho mỗi lớp là 760 sq ft, với một kích thước phòng tối thiểu là 624 dặm vuông, nhiều lớp học đã được xây dựng với diện tích vượt quá 800 sq ft trong chi phí đặt ra.

Templestowe Park Primary School – Multipurpose Hall Trường Tiểu học Templestowe Park - đa năng Hall

Location: Templestowe, Victoria, Australia Địa điểm: Templestowe, Victoria, Australia

Photographs © John Gollings Ảnh chụp © John Gollings

Completion: 2005 Hoàn thành: 2005

Principal Architects: Rob McBride, Debbie-Lyn Ryan Project team: Sunny Wilder, Jamie McCutcheon, Adam Pustola, Drew Williamson, Matthew Borg, Brett Searkins Hiệu trưởng kiến ​​trúc sư: Rob McBride, Debbie-Lyn Ryan Nhóm dự án: Sunny Wilder, Jamie McCutcheon, Adam Pustola, Drew Williamson, Matthew Borg, Brett Searkins

Type: Institutional Project, Alterations and Additions Loại: Dự án chế, Sự thay đổi, bổ sung

Brief and Design Giới thiệu tóm tắt và Thiết kế

The Multipurpose Hall required strong visibility from the street to allow it to serve as the public face of the school and provide a clear arrival point for visitors. Các Hall yêu cầu khả năng hiển thị đa năng mạnh mẽ từ các đường phố để cho phép nó để phục vụ như là khuôn mặt của nhà trường và cung cấp một điểm đến rõ ràng cho du khách.

Visitors approach the school alongside the new building where a new colonnaded canopy/giant portico signifies a formal entrance to the school and its grounds. Số lượt truy cập tiếp cận các trường cùng với việc xây dựng mới, nơi một tán cây colonnaded mới / khổng lồ hiên nghĩa một lối vào chính thức về trường và cơ sở của nó. The building form is based upon a parabola, which was selected to most efficiently contain performance and sporting functions. Các hình thức xây dựng dựa theo một parabol, được lựa chọn để có hiệu quả nhất có hiệu suất và chức năng thể thao. As the roof tapers downward, the apparent scale of the building is reduced, and views of the existing building and trees beyond are maintained. Như mái nhà nến xuống, tỷ lệ rõ ràng của tòa nhà bị giảm, và quan điểm của tòa nhà hiện có và cây ngoài được duy trì.

The building is clad in a mixture of black metal sheet cladding, brickwork, semi-translucent sheet, and painted cladding. Tòa nhà được bọc trong một hỗn hợp của lớp vỏ màu đen kim loại tấm, gạch, tấm bán mờ, và được sơn toàn cho. A series of doors behind the stage alleviate overheating by providing cross ventilation. Một loạt các cửa ra vào phía sau sân khấu giảm quá nóng bằng cách cung cấp thông gió chéo. From within the building, a strip window along the east wall affords expansive views of the surrounding area and over the oval. Từ trong tòa nhà, một cửa sổ dải dọc theo bức tường phía đông dành quan điểm mở rộng của khu vực xung quanh và trên các hình bầu dục.

The east façade is painted to refer to the ubiquitous 'Olympic Stripe' exercise books. Các mặt tiền phía đông là sơn để tham khảo sách thực hiện ở mọi nơi 'Olympic sọc. In using this pattern, a powerful visual memory common to many Australian childhoods is recalled and an institutional identity based upon elements of school life is established. Khi sử dụng mô hình này, một mạnh mẽ hình ảnh bộ nhớ phổ biến cho nhiều tuổi thơ Úc là nhớ lại và một bản sắc thể chế dựa trên các yếu tố của đời sống học đường được thành lập.

The local Primary School wanted a hall for a range of activities; assembly, sport, performances and afterhours community uses. Các trường tiểu học địa phương muốn có một hội trường cho một loạt các hoạt động, lắp ráp, thể thao, biểu diễn và afterhours cộng đồng sử dụng. The government allocation was only enough for a large room. Việc phân bổ chính phủ chỉ đủ cho một căn phòng lớn. The school raised funding - now they could afford a decorated shed. Nhà trường đưa ra tài trợ - bây giờ họ có thể đủ khả năng trang trí nhà kho. Templestowe is an outer suburb, where institutional buildings are dispersed and harder to find than ubiquitous shopping centres and 7/11s. Templestowe là ngoại ô, nơi tổ chức các tòa nhà được phân tán và khó tìm thấy hơn so với trung tâm mua sắm phổ biến và 7/11s. The community was barely aware of its presence. Các cộng đồng hầu như không nhận thức được sự hiện diện của nó. The new hall needed to redress this, to give the school an identity and to reconnect with the community and street. Các trường mới cần thiết để khắc phục tình trạng này, để cung cấp cho các trường học một bản sắc và kết nối lại với cộng đồng và đường phố.

The paraboloid form worked well with the intended programmes. Các hình thức paraboloid làm việc tốt với các chương trình dự định. Desirably, it had a grandeur which a box could never achieve. Khêu gợi, nó có một vĩ mà một hộp không bao giờ có thể đạt được. It was scaled just right, fitting the entire school but low enough for a ten year-old to throw a ball and hit the ceiling. Đó là quy mô vừa phải, phù hợp toàn bộ các trường học nhưng đủ thấp cho một mười tuổi để ném một quả bóng và đụng trần.

By spacing the steel portals closer we avoided costly curved and secondary members, but still give the interior a robust elegance. Bởi khoảng cách giữa các cổng thép gần hơn chúng ta tránh được các thành viên tốn kém cong và trung học, nhưng vẫn cho nội thất một sang trọng mạnh mẽ. We didn't fuss over details, one was enough. Chúng tôi không tương tác nhiều hơn các chi tiết, một là đủ. Paint became ornament and articulation. Sơn đã trở thành vật trang trí và cách phát âm.

The shed was located above the front sporting oval and squeezed between existing paths. Các nhà kho nằm trên bầu dục thể thao phía trước và ép giữa con đường hiện có. The paths made incisions upon the building and caused changes of materials to mark arrival. Các đường dẫn làm vết mổ sau khi xây dựng và gây ra những thay đổi của vật liệu để đánh dấu đến Úc.

By careful rotation of the form a covered way sprung from the hall to reconnect it to the school. Bằng cách quay cẩn thận của biểu mẫu một cách bao cong từ hội trường để nối lại để nhà trường. The thin paraboloid form gave it a thin and fantastic elegance - transcending its modest construction to became a portico and dignified colonnade entrance. Các hình thức mỏng paraboloid đã cho nó một vẻ thanh lịch mỏng và tuyệt vời - siêu xây dựng khiêm tốn của mình để trở thành một hàng hiên và lối vào day cột trang nghiêm.

On the other side facing the street we applied the colours of the 'Olympic Stripe' textbook brand. Ở phía bên kia phải đối mặt với các đường phố chúng ta áp dụng các màu sắc của thương hiệu sách giáo khoa của Olympic sọc. It is a quintessentially Australian icon – loud and in your face, the colours recall those of Uluru or a local football team. Nó là một biểu tượng tinh túy của Úc - lớn và trong khuôn mặt của bạn, nhớ lại những màu sắc của bóng đá Uluru hoặc một nhóm địa phương. At 100:1 scale it even resembles a giant order of pilasters. Ở quy mô 100:1 thậm chí nó giống như một lệnh khổng lồ-trụ bổ tường.

The text book contains hopes, imagination and disappointments. Cuốn sách văn bản chứa hy vọng, trí tưởng tượng và thất vọng. It is a shared memory, both the Principal and architects recalled it, the students still use it. Nó là một bộ nhớ chia sẻ, cả gốc và các kiến ​​trúc sư kể lại nó, các sinh viên vẫn còn sử dụng nó. The Principal freely admits that the building's symbolic function is at least as important as the utilitarian. Hiệu trưởng tự do thừa nhận rằng chức năng biểu tượng của tòa nhà là ít nhất cũng quan trọng như các tiện dụng. We agree. Chúng tôi đồng ý. The hall was an agent of change in the way the school and community imagined themselves. Các trường đã được một đại lý của thay đổi trong cách các trường học và cộng đồng tưởng tượng bản thân mình.

Trường tiểu họcGlasgow- gần đây thiết kế

Govan School Trường Govan

photo © Keith Hunter ảnh © Keith Hunter

Govan Primary School : Anderson Bell Christie. Govan Trường tiểu học : Anderson Bell Christie. 29 Nov 2010 Ngày 29 Tháng Mười Một năm 2010

Proposed Glasgow Schools Đề xuất các trường học Glasgow

PR from anderson bell + christie 150207: PR từ chuông anderson + Christie 150207:

Learning from the past...£27 million for three new Glasgow Primary Schools Học hỏi từ quá khứ ... £ 27.000.000 cho ba mới Glasgow Trường Tiểu Học

Anderson Bell Christie - a Glasgow based architectural practice - has beaten off stiff competition to design three new primary schools for Glasgow City Council. Anderson Bell Christie - một kiến ​​trúc dựa trên thực tế Glasgow - đã bị đánh đập ra cạnh tranh gay gắt để thiết kế ba trường tiểu học cho Hội đồng thành phố Glasgow. Their designs take account of the special and different character of each of the three chosen sites and aim to re-establish the school as an important building for the community. thiết kế của họ có tài khoản của các nhân vật đặc biệt và khác nhau của mỗi một trong ba địa điểm được lựa chọn và mục tiêu để thiết lập lại các trường học như là một công trình quan trọng cho cộng đồng.

3 Glasgow Primary Schools 3 trường Tiểu học Glasgow

Learning from the past...looking to the future Học hỏi từ quá khứ ... nhìn tới tương lai

Glasgow based Anderson Bell Christie architects (recently runners up in the Education, Private and Public Housing and Masterplanning categories of the BD Architect of the Year Awards have won the commission to design three new Primary Schools for Glasgow City Council in three very diverse city neighbourhoods: Ruchill an 'new neighbourhood' in the north of the City; Tinto a new school in a primarily suburban, residential area and Govan where significant social change is anticipated as a result of City Council and Partner investment, including the re-location of the BBC Scotland Headquarters. The proposed designs, which were chosen in part by future building users, focus on re-establishing the school as an important building in the community and take into account the special and different characteristics of each of the three chosen sites. Glasgow dựa trên các kiến ​​trúc sư Anderson Bell Christie (gần đây người chạy lên trong Giáo dục, tư nhân và công cộng nhà ở và quy hoạch tổng thể loại kiến ​​trúc sư BD của giải thưởng năm đã được sự ủy ban để thiết kế ba trường tiểu học mới cho Hội đồng thành phố Glasgow trong ba khu vực lân cận thành phố rất đa dạng: Ruchill một "khu phố mới 'ở phía bắc của thành phố; Tinto một trường học mới ở một khu vực dân cư chủ yếu ở vùng ngoại ô, và Govan nơi có ý nghĩa thay đổi xã hội được dự đoán là kết quả của Hội đồng thành phố và đầu tư Đối tác, bao gồm cả các vị trí lại của BBC Scotland Trụ sở chính Các mẫu thiết kế được đề xuất,. mà đã được chọn một phần bởi người sử dụng xây dựng tương lai, tập trung vào việc tái lập các trường học như là một công trình quan trọng trong cộng đồng và có tính đến các đặc điểm đặc biệt và khác nhau của mỗi một trong ba địa điểm được lựa chọn.

“From the start we were keen to design buildings which were appropriate to Glasgow as well as contributing to the regeneration and development of the three diverse communities involved. "Ngay từ đầu chúng tôi đã được quan tâm để thiết kế các tòa nhà đã được phù hợp với Glasgow cũng như góp phần vào sự tái sinh và phát triển của ba cộng đồng đa dạng liên quan. Our sketch designs draw on the civic presence and social importance of some of Glasgow's turn of the century schools – but our designs will be developed in the context of delivering the needs of education and for sustainability in the 21st Century. thiết kế của chúng tôi phác thảo vẽ về sự hiện diện dân sự và tầm quan trọng xã hội của một số biến của Glasgow trong những trường thế kỷ - nhưng thiết kế của chúng tôi sẽ được phát triển trong bối cảnh cung cấp các nhu cầu của giáo dục và tính bền vững trong thế kỷ 21.

Our interest in urban typology and our 'on the ground' regeneration experience has informed our work in some of the more disadvantaged areas in the central belt of Scotland. quan tâm của chúng tôi trong cách phân loại đô thị và của chúng tôi 'trên mặt đất' kinh nghiệm tái sinh đã thông báo công việc của chúng tôi tại một số khu vực chịu nhiều thiệt thòi trong vành đai trung tâm của Scotland. Often the results of poverty and social change have undermined the original, comprehensible urban structure leaving behind an eroded built environment that presents a real design challenge. Thường thì các kết quả của nghèo đói và thay đổi xã hội đã làm suy yếu sự, cấu trúc dễ hiểu gốc đô thị để lại một môi trường xây dựng bị xói mòn mà là một thách thức thiết kế. In this situation, good planning and design can work in tandem with community involvement to bring about positive changes-thus adding real value to communities. Trong trường hợp này, tốt quy hoạch và thiết kế có thể làm việc song song với sự tham gia của cộng đồng để mang về những thay đổi tích cực, do đó tăng thêm giá trị thực sự cho cộng đồng. We believe that if buildings and the environment are understandable then an individual's sense of well being and security really is increased- it's absolutely critical to get it right. Chúng tôi tin rằng nếu các tòa nhà và môi trường là điều dễ hiểu sau đó của một cá nhân cũng ý thức được và an ninh thực sự được tăng lên, nó hoàn toàn quan trọng để có được nó ngay.

We always aim to look outside the narrowest 'architectural' interpretation of our role. Chúng tôi luôn luôn nhằm mục đích để nhìn ra ngoài việc giải thích hẹp 'kiến trúc' về vai trò của chúng tôi. We try to be innovative in our response to every issue and to use our expertise to take a fresh look at proposals from different points of view.; for example we have a strong interest in sustainability in its widest sense, in the policies and programmes which aim to give practical help to those who need it. Chúng tôi cố gắng để được sáng tạo trong phản ứng của chúng tôi để mọi vấn đề và để sử dụng chuyên môn của chúng tôi để có một cái nhìn tươi tại các đề xuất từ ​​quan điểm khác nhau;. Ví dụ chúng ta có một sự quan tâm mạnh mẽ trong phát triển bền vững trong ý nghĩa rộng nhất của nó, trong các chính sách và các chương trình đó Mục đích để cung cấp cho trợ giúp thiết thực cho những người cần nó.

We recognize that architects are uniquely able to shape the 'character' of an area and therefore contribute to its success or failure - we are committed to the design of places which present a feeling of their 'own identity'. Chúng tôi nhận ra rằng kiến ​​trúc sư là duy nhất khả năng hình thành "nhân vật" của một khu vực và do đó góp phần vào sự thành công hay thất bại của nó - chúng tôi cam kết thiết kế các nơi mà hiện nay một cảm giác về "bản sắc riêng của họ. We see the investment in a new primary school in each of these areas as a positive opportunity to consolidate and take forward an existing community into the next generation”. Chúng tôi thấy việc đầu tư tại một trường tiểu học mới trong mỗi lĩnh vực như là một cơ hội tốt để củng cố và đi về phía trước một cộng đồng hiện vào thế hệ kế tiếp ".

BRUCE BREBNER; PARTNER, ANDERSON BELL CHRISTIE BRUCE BREBNER; ĐỐI TÁC, ANDERSON BELL CHRISTIE

Govan Primary - a Primary School with a Civic Presence Govan chính - một trường tiểu học với một sự hiện diện Civic

At present Govan's urban fabric is undergoing substantial renewal and repair, and the 'Govan Road' corridor is the focus of much of this redevelopment. Tại cấu đô thị hiện nay của Govan đang trải qua đổi mới cơ bản và sửa chữa, và 'Govan đường' hành lang là trọng tâm của nhiều tái phát triển này. Glasgow schools built from the mid to late 19th/early 20th century were clearly civic buildings at the heart of the community - our design aims to revive this tradition. Glasgow trường học được xây dựng từ giữa đến cuối thế kỷ 20 19th/early được rõ ràng các tòa nhà dân sự ở trung tâm của cộng đồng - thiết kế của chúng tôi nhằm mục đích làm sống lại truyền thống này.

Ruchill Primary - reinventing the park; a learning journey from the wider scale of the city down to the scale of the new school. Ruchill chính - tái phát minh các công viên, một cuộc hành trình học hỏi từ quy mô rộng lớn hơn của thành phố xuống với quy mô của trường mới.

One of Glasgow's greatest legacies is its public parks. Một trong những di sản lớn nhất của Glasgow là công viên công cộng của nó. As elsewhere the popularity of these has waned over the years; but at present, along with other cities, Glasgow is rediscovering and aiming to revitalize these assets. Như các nơi khác phổ biến của những đã nhạt dần trong những năm qua, nhưng hiện nay, cùng với các thành phố khác, Glasgow là khám phá lại, với mục tiêu hồi sinh những tài sản này. Our design for a school in the park is part of this process and represents a real opportunity to create a stimulating learning environment. thiết kế của chúng tôi cho một trường học ở công viên là một phần của quá trình này và đại diện cho một cơ hội thực sự để tạo ra một môi trường học tập kích thích.

Tinto Primary – Suburban Oasis; a community hub Tinto chính - ngoại ô Oasis; một trung tâm cộng đồng

The area surrounding this site is primarily suburban residential and lacks a clear and strong identity or any built landmarks. Các khu vực xung quanh trang web này chủ yếu là dân cư ở ngoại ô và thiếu một bản sắc rõ ràng và mạnh mẽ hoặc bất kỳ địa danh nổi tiếng được xây dựng. Our design for the new school will act as a 'mini-hub' creating a focus for the community as well as enlivening and enriching the immediate locale. thiết kế của chúng tôi cho các trường mới sẽ hoạt động như một "trung tâm mini 'tạo ra một tập trung cho cộng đồng cũng như enlivening và làm phong phú thêm các miền địa phương ngay lập tức.

3 New / Revised primary school images above from Anderson Bell Christie 110107 3 mới / sửa đổi hình ảnh trường tiểu học trên từ Anderson Bell Christie 110107

Background Bối cảnh

Anderson Bell Christie is an energetic design-driven practice. Anderson Bell Christie là một thực hành thiết kế năng động hướng. We combine commitment and enthusiasm, with professionalism and a pragmatic approach. Chúng tôi kết hợp các cam kết và sự nhiệt tình, với tính chuyên nghiệp và cách tiếp cận thực tế.

Our strengths were recognized by the Architecture Foundation in 1998 when the practice was chosen as one of the UK's 'New Architects' and since, by the BD Architect of the Year shortlists, where we were runners up in four categories. thế mạnh của chúng tôi được công nhận bởi Tổ chức Kiến trúc vào năm 1998 khi thực hành đã được lựa chọn là một trong những Vương quốc Anh của 'New kiến ​​trúc sư "và kể từ đó, do kiến ​​trúc sư BD của danh sách ngắn năm, nơi chúng tôi đã chạy lên trong bốn loại.

The practice's client base is wide and includes public sector organisations, housing associations, charities and community groups, as well as commercial clients and developers. cơ sở khách hàng của thực tế là rộng và bao gồm các tổ chức khu vực công, các hiệp hội nhà ở, tổ chức từ thiện và các nhóm cộng đồng, cũng như các khách hàng thương mại và phát triển. Anderson Bell Christie have worked on residential, health, educational and commercial projects, and more recently are working on masterplanning and urban design projects. Anderson Bell Christie đã làm việc với nhà ở, y tế, dự án giáo dục và thương mại, và gần đây đang làm việc trên các dự án thiết kế quy hoạch tổng thể và thành thị.

Glasgow Primary Schools: Building information from anderson bell + christie 150207 Glasgow trường Tiểu học: Xây dựng thông tin từ chuông anderson + Christie 150207

£27 million investment in new primary schools for Glasgow. 27.000.000 £ đầu tư trong các trường học mới chính cho Glasgow.

Anderson Bell Christie are to design Glasgow's three primary schools at Govan, Ruchill and Tinto, with a total cost of £27 million. Anderson Bell Christie được thiết kế Glasgow của ba trường tiểu học tại Govan, Ruchill và Tinto, với tổng chi phí £ 27 triệu USD. The Council were keen to promote the highest quality design and Anderson Bell Christie were selected from a shortlist that included; jm architects, Building Design Partnership, RMJM (Glasgow), HLM and John Pardey Architects (with Professor Sir Colin Stansfield Smith). Hội đồng được quan tâm để thúc đẩy việc thiết kế chất lượng cao nhất và Anderson Bell Christie đã được lựa chọn từ một danh sách bao gồm; kiến ​​trúc sư JM, Xây dựng thiết kế hệ đối tác, RMJM (Glasgow), HLM và John Pardey Kiến trúc sư (với giáo sư Sir Colin Stansfield Smith).

All of the shortlisted architects were invited to submit their design proposals for scrutiny by future building users as part of the tender process, and Anderson Bell Christie's proposals were selected. Tất cả các kiến ​​trúc sư lọt vào danh sách được mời nộp đề xuất thiết kế của họ cho sự kiểm soát của người sử dụng xây dựng tương lai như là một phần của quá trình đấu thầu, và Anderson Bell Christie's đề xuất đã được lựa chọn.

Anderson Bell Christie - Govan primary school : shortlisted entry Anderson Bell Christie - Govan tiểu học: lọt vào

Anderson Bell Christie - Ruchill primary school : shortlisted entry Anderson Bell Christie - Ruchill tiểu học: lọt vào

Anderson Bell Christie - Tinto primary school : shortlisted entry Anderson Bell Christie - Tinto tiểu học: lọt vào

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro