Truyện cười

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Truyện cười 

Nguyễn Như Cương_*_Phạm Thùy Dương sưu tầm

Phần 1

1_Thi ngũ quả 

2_Trạng Lợn xem bói 

3_Mày để cho nó một chút  

4_Nước mắm hâm  

5_Điếc... cả làng  

6_Phóng sinh  

7_Câu đối có chí khí  

8_Rao làng  

9_Hâm cứt  

10_Quan đấy  

11__Chửi Án Tiêu  

12_Sao chưa mời tôi ăn?  

13_Sợ vợ  

14_Sĩ diện  

15_Đóng oản  

16_Hổ phụ sinh hổ tử  

17_Nhưng nó phải bằng hai mày 

18_Tri kỷ  

19_Tệ  

20_Đắp chăn  

21_Ngưu là con bò tót  

22_Tam đại con gà  

23_Đôi câu đối chọi  

24_Mít nác gì  

25_Sợ sét bà  

26_Đậu phụ mắm tôm  

27_Bánh tao đâu 

28_Nói sao cũng được  

29_Xin chịu  

30_Sân quạ  

31_Cần gì phải trông  

32_Mô đất biết đi  

33_Đánh thế còn nhẹ  

34_Đố nhau  

35_Có bán thuốc lào không hử?  

36_Chuyện ở thôn  

37_Làm theo  

38_Con trăn rồng  

39_Chà bằng gạc nai  

40_Bắt rắn hổ  

41_Gác kèo ong mật  

42_Heo đi cày  

43_Hố to  

44_Gài bẫy bắt chim  

45_Bác Ba Phi câu cá sấu  

46_Rắn hổ mây tát cá  

47_Chiếc tàu rùa  

48_Cá trê Lung Tràm  

49_Tôm U Minh  

50_Cách bắt kỳ đà chết

1__Thi ngũ quả

Là người cưỡi đầu cưỡi cổ thiên hạ, chúa Trịnh tha hồ bày ra những trò du hí để được chơi bời thỏa thích. Một trong những thú chơi đó là trò thi "mâm ngũ quả" hàng năm vào dịp rằm trung thu.

Nhà chúa đặt giải thưởng cho ai có được mâm ngũ quả đẹp nhất, quí nhất, ngon lành nhất và lạ nhất. Các gia đình quyền quí và giàu có trong thành Thăng Long đua nhau sắm những mâm ngũ quả cực kỳ đắt tiền để mong đoạt giải, khoe sang với thiên hạ.

Trạng Quỳnh thấy thiên hạ náo nức dự thi, cũng tuyên bố với mọi người:

- Năm nay tôi sẽ dự thi cho mà coi! Tôi đã trượt kỳ thi Hội, nhưng nhất định thi ngũ quả thì tôi sẽ chiếm giải, cho thiên hạ lác mắt một phen!

Trong khi ai nấy đều kỳ công sắm những thứ trái cây quí nhất trong nước như đào mận Lạng Sơn, hồng Hạc Trì, nhãn lồng Sơn Nam (Hưng Yên), vải thiều Hải Dương, cam Nghệ An... thì Trạng Quỳnh lại mang thi bằng một bức tranh thiếu nữ khỏa thân.

Chúa và bà chính cung cùng xem bức tranh lạ lùng và chất vấn:

- Bức tranh này mà trạng dám bảo là mâm ngũ quả ư?

Trạng Quỳnh gật gù mỉm cười:

- Chúa thượng không nhận ra mâm ngũ quả thật sao? Này nhé: (Chỉ vào đầu thiếu nữ) đây không phải là một trái bưởi đẹp vào bậc nhất hay sao? (Lại chỉ vào đôi mắt) Đây không phải một chùm gồm hai quả nhãn lồng Sơn Nam hay sao? (Lại chỉ vào bộ ngực trần nõn nà) Đây không phải là một cặp đào tơ Lạng Sơn thứ thượng thặng hay sao? (Chỉ vào đôi bàn tay búp măng) Còn đây chẳng phải hai trái phật thủ cực quí hay sao? (Rồi chỉ vào chỗ hấp dẫn nhất mà nhà Chúa nãy giờ cứ nhìn chằm chằm vào đó) Còn đây không phải là một múi mít thơm ngon nhất trần đời hay sao?

Vừa nghe trạng giảng giải, nhà chúa vừa say mắt ngắm đủ "ngũ quả" và ngài cứ nuốt nước miếng ừng ực, lòng ngài rạo rực, y như thể ngài bị 5 thứ quả kỳ diệu kia hớp mất hồn vía. Bà chính cung đứng bên cạnh đưa mắt lườm ngài mấy lần, ngài cũng thây kệ. Đoạn ngài phán:

- Giá mâm ngũ quả của khanh mà là thật thì ta chấm giải nhất cho khanh, không còn phải đắn đo gì nữa!

Quỳnh can ngay:

- Ấy, khải chúa thượng! Sở dĩ mâm ngũ quả này được thần chọn dự thi là vì nó không bao giờ tàn úa lạt phai. Chứ nếu nó là thật thì bất quá chúa thượng chỉ thích nó được 2 ngày là cùng!

Chúa chợt nhớ lại những thứ "ngũ quả" mà ngài đã được nếm và nếm rồi thì chán, ngài liền so chúng với người thiếu nữ mơn mởn xuân xanh trong tranh và quả thật ngài cảm thấy nàng thiếu nữ này có sức hấp dẫn hơn hẳn. Nàng nằm phơi tấm thân nõn nường ở đó, nhưng ngay cả chúa nữa cũng không tài nào chiếm đoạt nổi nàng, mà chỉ có thể chiêm ngưỡng bằng mắt để tưởng tượng và mơ ước mà thôi! Chúa cả cười, vỗ đùi kêu lên:

- Ta chịu khanh nói chí lý! Chí lý!

Ý chúa là ý Trời, năm ấy mâm ngũ quả của Trạng Quỳnh chiếm giải nhất. Bàn dân thiên hạ biết chuyện đều bái phục trí tuệ siêu quần của trạng và lấy làm xấu hổ cho cái đầu óc bã đậu thô thiển của mình.

2__Trạng Lợn xem bói 

Chung Nhi đến kinh, mở một ngôi hàng xem bói. Thế nào lại gặp hai ông bạn đồng hành khi trước vào nhờ xem một quẻ. Ba người gặp nhau vui mừng khôn xiết. Hai người bạn kia liền bảo Chung Nhi gieo cho một quẻ xem phận rồng mây phen này thế nào. Chung Nhi khấn khứa, xem quẻ rồi đoán:

- Trong quẻ này Thánh dạy: "Quần long vô chủ" tất kỳ thi năm nay hoãn.

Thì ra mấy hôm trước, có hai vị quan đến xem bói nói chuyện riêng với nhau để lộ ra. Chung Nhi nghe lỏm được nên mới dám đoán già như thế. Hai người bạn, tuy biết tài Chung Nhi nhưng trong lòng thì chưa tin lắm, còn những người xem bói khác thì hoàn toàn bảo lão thầy bói nói láo. Khi sắp đến kỳ thi, quả nhiên có giấy niêm yết báo hoãn. Ai nấy giật mình, cho Chung Nhi là bậc tiên tri. Từ đó tiếng đồn gần xa, khắp kinh kỳ rủ nhau đến xem bói đông nghìn nghịt...

Một hôm, quan Thượng thư bộ Binh lạc mất con thiên lý mã. Quan tiếc lắm, vì là con ngựa rất quý. Nghe đồn có thầy bói giỏi, quan sai cho gọi Chung Nhi vào dinh. Nằm trong dinh quan Thượng, được cung phụng đầy đủ mọi thứ, nhưng Chung Nhi lo lắm, ăn không ngon, ngủ không yên giấc, trằn trọc suốt đêm, bụng luôn nghĩ đến chuyện mất ngựa. Bất giác Chung Nhi nhớ đến mấy câu trong "Tam tự kinh" học hồi còn nhỏ, liền ngâm to lên cho khuây khỏa: "Mã ngưu dương, thử lục súc, nhân sở tự...".

Chẳng dè tên lính hầu trong dinh đúng là tên trộm ngựa. Khi mới nghe tin quan Thượng mời Chung Nhi vào, hắn đã lo, nên ngày đêm lai vãng gần đó để nghe ngóng. Đêm hôm ấy, hắn chui xuống gầm giường Chung Nhi nằm, xem động tĩnh ra sao, đương hồi hộp đợi chờ, bỗng nghe thấy Chung Nhi đọc vanh vách nào là "mã" với "tự". "Mã" là ngựa, còn "tự" thì đúng là tên hắn. Hắn sợ quá, cho là Chung Nhi đã hô đích danh mình rồi, bèn lóp ngóp bò ra khỏi gầm giường, vừa vái vừa kêu, xin khai hết sự thật, nhưng xin Chung Nhi đừng nói rõ tên với quan Thượng. Chung Nhi được thể, thét bảo:

- Ừ, mày lấy trộm ngựa ngày nào, giờ nào, bây giờ giấu ngựa ở đâu? Muốn sống khai ra ngay, không tao hô lên tất cả đến đây thì khó mà cứu vãn đó!

Tên ăn trộm khai hết đầu đuôi. Hôm sau, Chung Nhi vào hầu quan Thượng, giả cách khấn khứa gieo quẻ, rồi cứ lời tên kẻ trộm khai mà nói ra vanh vách. Quan cho người đến tận nơi, quả thấy ngựa quý, mừng lắm, thưởng cho Chung Nhi rất nhiều vàng bạc. Từ đó, tiếng tăm Chung Nhi càng lừng lẫy, ai ai cũng gọi chàng là Trạng.. bói!!!

3__Mày để cho nó một chút 

Xưa, có một anh học trò nghèo rất thông minh, thuê một căn nhà ở trọ trong phố. Đối diện với nhà anh là nhà một bà cụ chuyên nghề quay tơ, có một cô con gái út rất nết na thùy mị, chăm việc bếp núc.

Bà cụ thường đe bọn thanh niên hàng xóm: - Có già ở đây, bọn bây đừng hòng léng phéng đến con út.

Một ngày kia. Lúc bà cụ đang quay tơ, cô út nấu ăn dưới bếp, anh học trò cầm một cái chén nhỏ xíu sang nhà bà cụ: - Thưa bác, hôm nay cháu nấu ăn quên mua nước mắm, bác cho cháu xin một muỗng.

Thấy anh học trò ăn nói dễ thương nên bà cụ cũng dễ dãi: - Ừ con cứ xuống bếp nói con út đưa cho.

Anh học trò đi xuống bếp, giấu cái chén tỉnh bơ: - Cô út, bác nói cô cho tôi... nắm tay cô một chút.

Cô út sợ quá la toáng lên: - Má ơi! Anh này ảnh kêu...

- Thì mày để cho nó một chút. Có mất cái gì đâu!

Cô Út đành đứng im cho anh nắm tay. 3 bữa sau, anh học trò lại sang: - Thưa bác, cho con xin một củ hành nhỏ.

- Con cứ xuống bếp nói con Út đưa cho.

Anh ta lại xuống bếp: - Cô Út, bác nói cô cho tui hun cô một cái.

Cô Út la lớn: - Má ơi! Anh này ảnh đòi...

- Thì mày cứ để cho nó một chút...

Cô Út đành để cho anh ta hun. Cứ thế khi thì hạt tiêu, trái ớt, khi thì muỗng muối, hạt đường, cô Út cứ đành phải "cho một chút...". Một thời gian sau, anh ta đã được ở... rể nhà bà cụ.

4__Nước mắm hâm 

Một anh nọ có tính sợ vợ vô cùng và ngu hết chỗ nói, bởi thế suốt đời cứ bị ăn hiếp mà không làm sao được. Anh ta biết thế là nhục, mắc cỡ với anh em, song cứ phải cắm cúi phục tùng theo lệnh bà.

Một lần, có bạn ở xa tới thăm, anh ta đến năn nỉ với vợ:

- Bữa nay tui có khách, vậy mẹ mày để tôi làm chồng một hôm, bao giờ có mặt khách đến thì mẹ mày để cho tôi cự nự la lối gì thì la. Chớ không khách khứa bảo vợ ăn hiếp chồng thì nhục cả.

Chị vợ thấy chồng nói thế cũng ưng thuận để đẹp mặt cả đôi và được tiếng với anh em. Anh ta được như ý nên tự tung tự tác quát nạt om sòm, chị vợ không hé răng nửa lời. Bạn bè thấy thế cũng khâm phục. Bữa ăn, mâm cơm được dọn lên một cách ngon lành đầy đủ, tuy thế anh ta vẫn:

- Nào, tô canh này sao mẹ nó nấu mặn quá thế này?!

- Chao ôi! Món xào gì mà lại thế này?!

- Đĩa thịt làm sao mà nấu như vậy?!

Thấy chồng chê bai đủ thứ, chị vợ vẫn vui vẻ lễ phép với chồng. Được nước, anh chồng như chim sổ lồng quên cả phận mình, nên lên mặt quá. Ngó đi ngó lại không còn gì để chê được nữa, khi thấy vợ bưng thêm nước mắm lên, anh ta nhận lấy rồi nói:

- Này mẹ nó, sao chén nước mắm này không hâm lên?

Nghe nói vậy, mọi người bò lăn ra cười. Chị vợ mắc cỡ không nhịn được cái ngốc của chồng mới bước lại túm tóc anh ta tẩn cho một trận.

5__Điếc... cả làng 

Hai ông bà điếc sanh đặng một đứa con gái cũng điếc, rầu mình vô phước, phần mình già cả chẳng nói làm gì, còn con mình tật nguyền điếc lác biết gởi cho ai để gởi thân cho nó nhờ? Mà nghĩ lại mình cũng lớn ruộng nhiều trâu thế cũng có khi có rể.

Vậy, thấy có một đứa con trai lịch sự cách xa vài làng, năng vô ra tới lui trong làng thì kêu nó mà gả, chẳng ngờ nó cũng điếc. Cưới hỏi xong xạ, nó về ở với cha mẹ vợ, cha biểu đứa con gái nói nó ra coi cày bừa đám ruộng ở bên lề đường. Nó nghe liền vác cày ra cày. Có ông quan đi ngang qua đó, mà là quan kinh mới nhậm đứng lại hỏi thăm nó đường đi vô dinh quan phủ. Nó chẳng lành thì chớ, điếc nghe không rõ, tưởng ông quở nó cày sao cày bậy ruộng ông chăng ; nên vọt miệng mắng: "Ruộng tôi tôi cày, sao ông nói ruộng của ông? Ông này ngang quá ghẹ đi cà!".

Ông quan thấy nó dễ ngươi thì biểu quân rượt đánh nó. Nó đâm đầu chạy về nhà, vợ nó đang ngồi nấu cơm trong bếp, nó đạp cho 2 - 3 đạp chúi vào trong bếp: "Ruộng nào, ở đâu mà mày chỉ bậy cho tao cày làm người ta đánh tao cờ bơ cờ bất, cũng là tại mày lếu".

Con vợ kia nói: "Dữ không? Đợi một phút chờ người ta nấu dọn cho mà ăn không được à, làm gì bất nhơn làm vậy?".

Kế thấy mẹ nó đi chợ leng teng bưng rổ về; con gái ra méc, nói sao chồng độc dữ quá đạp nó làm vậy. Bả thấy bộ nó giận quạu quọ thì ngờ nó nói sao mình đi chợ 5 tiền mà... ăn bánh ăn hàng đi hết đó. May đâu ổng đi tát đìa quảy vịt về, bả liền chạy ra nói: "Tôi ăn bánh ăn hàng ở đâu mà con nó nói thêm nói thừa cho tôi!".

Ông nghe không rõ, tưởng bả nói sao mình bắt cá cho ai, thì mới nói: "Nào tôi có bắt cá cho ai đâu, đặng con nào bỏ vịt con nấy đem về mà nói cho ai? Có chứng lão cày một đó. Bà ra hỏi lão mà coi!".

Nắm tay bả dắt ra ngoài đồng lại hỏi lão cày: "Chớ lão thấy tôi bắt cá mà cho ai không?".

Chẳng may lão cày cũng lảng tai, tưởng là nói lão có khuấy chơi lấy quần giấu đi chăng (thấy ông đóng khố thì hiểu làm vậy) cho nên mới nói: "Nào! Tôi sớm mai tới giờ cứ cày hoài tôi có qua chi bển mà biết quần ông để đâu mà giấu? Ông già khéo nghi bậy không!".

6__Phóng sinh 

Một con chim sẻ bị chim ưng truy bắt, sợ hãi bay loạn, chui vào tay áo của một thầy tu. Thầy tu nắn nắn nó qua tay áo, nói:

- A Di Đà Phật, hôm nay đệ tử được xơi thịt đây!

Chim sẻ nhắm nghiền hai mắt nằm im. Thầy tu tưởng nó đã chết, vén tay áo xem, chim sẻ thừa cơ bay mất. Thầy tu liền nói:

- A Di Đà Phật, ta phóng sinh cho mày đó.

o O o

Sư cụ: "Làm người không được sát sinh, nếu kiếp này con giết trâu, kiếp sau con phải hóa thành trâu đền tội, kiếp này giết heo thì kiếp sau là heo, giết ruồi giết gián cũng thế!"

Đồ đệ: "Chà, hiểu rồi. Nếu con muốn kiếp sau làm người nữa, kiếp này con phải... giết người!"

7__Câu đối có chí khí 

Ông huyện đi dọc đường, gặp thằng con nít đi học về, mới kêu mà ra câu hỏi rằng :

- Tự là chữ, cất dằn đầu, chữ tử là con, con nhà ai đó?

Ðứa học trò chí khí đối lại liền:

- Vu là chưng, cất ngang lưng, chữ đinh là đứa, đứa hỏi ta chi?

Ông huyện nghe biết đứa có chí khí, tức lắm mà không làm gì được.

o O o

Ở hạt nọ, có một tên nghị viên họ Lại, xây một cái sinh phần đẹp. Tên này giàu có vì làm nghề lái lợn và rất hống hách. Nhiều người ghét hắn. Một đêm, không rõ ai đã đề đôi câu đối sau ở sinh phần hắn:

- Rực rỡ mé đường Tây, kẻ lại người qua, ca tụng sinh phần quan lớn Lại (quan lái lợn).

- Vang lừng trong thân Bắc, trên kinh dưới rái, một lòng tôn trọng cụ trong dân (rận trong cu).

8__Rao làng 

Ngày trước, dân ngụ cư là kẻ thấp kém nhất trong làng. Cho nên, đến Yên Lược, vừa dựng xong túp lều, Xiển bị bọn lý trưởng bắt ra làm mõ.

Một hôm, lý trưởng thấy một chị hàng bát ngồi ỉa ở cái bãi rậm đầu làng, liền bắt lấy gánh bát rồi sai Xiển đi mời "làng" ra đình chia phần. Xiển vâng vâng dạ dạ, vác mõ đi, cứ sau một hồi mõ "cốc cốc" lại rao:

- Chiềng làng chiềng chạ! lắng tai mà nge mõ rao: Cụ lý bắt được mụ hàng bát ỉa bậy đầu làng, mời "làng" mau ra đình mà chia phần!

Nghe nói chia phần, bao nhiêu chứ sắc, thân hào, vội vã kéo nhau ra đình. Ðến cổng đình, gặp Xiển, ai cũng nhao nhao hỏi:

- Chia phần gì thế mày?

- Con mẹ hàng bát ấy đâu rồi?

- Có nhiều không hả mày?

Xiển lễ phép đáp:

- Bẩm các cụ, con mẹ hàng bát ỉa bậy đầu làng. Dạ, nhiều lắm ạ, một đống to lù lù thế kia, có lẽ một cụ được đến vài ba bát chứ không ít đâu!

Vừa nói, Xiển vừa chỉ về phía hai cái sọt bát đang để ở hè đình.

9__Hâm cứt 

Vì là dân ngụ cư, Xiển thường bị bọn cường hào trong làng chèn ép. Ðể trả thù, nhân một hôm cả bọn đang họp việc làng, chè chén cãi nhau ỏm tỏi, Xiển tìm một cái nồi vỡ, bỏ vào tít cứt người lẫn nước, đem đến chỗ đầu gió vừa đun vừa khuấy. Gió đưa mùi thối bay vào chỗ bọn cường hào đang họp. Chúng không chịu được, chạy ra quát tháo ầm ĩ. Xiển xin lỗi và phân trần:

- Thưa các ông, nhà tôi có một ổ chó con trở chứng, đòi ăn cứt sốt, cho nên phải đun cho chúng một ít.

Lý trưởng trừng mắt hỏi:

- Ai bảo chú làm thế.

Xiển đáp:

- Thưa các ông, người ta thường nói: "Lau nhau như chó đau tranh cứt sốt". Thấy người ta nói như vậy thì tôi cũng làm như vậy thôi.

10__Quan đấy 

Năm nào cũng vậy, cứ gần tết Nguyên đán, viên tri phủ Hoàng Hóa cùng vợ đi chợ tết. Từ phủ ra chợ Bút Sơn rất gần, nhưng vốn tính hách dịch, quan phủ bắt lính cáng ra tận cổng chợ và mang theo hai cái lọng xanh che.

Hồi này, Xiển Bột hãy còn nhỏ, xong thấy cái oai rởm của quan thì ghét lắm. Xiển mang một con chó con đi chợ, nhưng không bán, cứ ôm ở trước bụng, lúc thì chen đi trước quan, lúc thì lùi lại đi sau quan. Thấy Xiển mang chó, ai cũng tưởng Xiển mới mua, liên hỏi:

- Chó bao nhiêu?

Xiển trả lời: - Quan đấy!

Quan phủ biết thằng bé ôm chó chửi xỏ mình, cho lính bắt lại hỏi:

- Ai xui mày ăn nói như thế?

Xiển đáp:

- Bẩm quan, nhà con muốn nuôi mọt con chó con để dọn cứt cho em, nên bố mẹ con bảo con đi mua.

Quan hỏi: - Mày là con cái nhà ai?

Xiển trả lời: - Bẩm con là chắt cụ Trạng Quỳnh ạ!

Quan nghe nói Xiển là chắt cụ Trạng Quỳnh thì có ý gờm, nhưng chưa tin lắm.

- Ðã là chắt cụ Trạng tất phải hay chữ. Thế mày có đi học không?

Xiển đáp: - Bẩm quan, con là học trò giỏi nhất vùng này ạ, quan lớn không đi học nên không biết đó thôi.

Thấy Xiển vẫn tìm cách xỏ mình, quan nổi giận:

- Mày vô lễ! Nhưng đã nhận là học trò giỏi thì phải đối câu này. Hay tao tha tội. Dở tao đánh đòn.

Quan đọc: "Roi thất phân đánh đít mẹ học trò".

Xiển hỏi:

- Xin phép hỏi: "Roi" đối với "lọng" có được không ạ?

Quan đáp: - Ðược.

Xiển lại hỏi:

- Thế "đít" đối với "đầu", "mẹ" đối với "cha" có được không ạ?

Quan lại đáp: - Ðược!

Xiển toan hỏi nữa. Quan Quát: - Không được hỏi nữa. Ðối đi!

Xiển liền đối: "Lọng bát bông che đầu cha quan lớn!"

Không ngờ Xiển lại dám chửi mình một lần nữa, để chữa thẹn, quan lấy giọng bề trên mắng Xiển qua loa một vài câu, rồi quát bảo lính hầu sửa soạn ra về.

11__Chửi Án Tiêu 

Bị chơi nhiều vố đau quá, quan huyện dò mãi mới biết là Xiển, tức quá, nhưng có muốn gây chuyện cũng không được vì ông là người khác huyện. Lão huyện bèn đem chuyện ấy nói lại với Án Tiêu và tỏ ý nhờ quan thầy trả thù hộ.

Lần ấy, Án Tiêu về quê ngoại là làng Yên Lược ăn giỗ. Lão bắt dân làng phải dọn dẹp đường sá sạch sẽ, mang cờ quạt đón rước thật long trọng. Sáng sơm mai, Án Tiêu mới về thì chiều nay đường làng đã được quét sạch như chùi, cây cối hai bên đường phát quang cả.

Gà gáy, Xiển dậy lấy cứt chó đem ra đường cái, cứ cách một quãng bỏ một bãi, bãi nào cũng cắm một quả ớt lớn (Thanh Hoá gọi ớt là hạt tiêu). Sáng ra, khi mọi người kính cẩn đón rước án Tiêu, Xiển vác cờ đi trước, cứ hễ trông thấy bãi cứt có cắm quả hạt tiêu, ông lại chửi: "Tổ cha đứa nào ỉa ra tiêu". Án Tiêu nằm trong cáng nghe tiếng chửi, biết là Xiển chửi mình nhưng không đủ lý do để bắt bẻ, đành gọi bọn lý hương lại, quở trách không chịu đôn đốc dân phu quét dọn đường sá cho sạch và bảo chúng truyền lệnh rằng: "Quan huyện trong người khó ở, mọi người không được to tiếng, ồn ào!"

12__Sao chưa mời tôi ăn? 

Một người bị đau bụng mà không thể đi đại tiện được, bèn đến gặp thầy lang nhờ chữa trị. Anh ta hứa với thầy lang là khi nào được chữa khỏi sẽ mời ông một bữa thịnh soạn. Thầy lang tin lời và bốc thuốc cho anh ta. Sau mấy ngày uống thuốc thì anh này khỏi bệnh và đi đại tiện bình thường được, nhưng tính ki bo nên muốn nuốt lời về bữa cơm, nên khi nào ông thầy lang hỏi thì cứ nói là chưa khỏi.

Ông thầy lang cũng đoán được là anh ta nói dối, bực lắm, bèn quyết định rình bắt quả tang. Một lần thấy anh ta lại đi ra đồng đại tiện, ông thầy lang liền bám theo. Khi anh này vừa đi xong đang kéo quần lên thì ngay lập tức ông thầy lang từ trong bụi cây chạy ra, một tay nắm tay anh ta, một tay chỉ vào đống phân mà quát:

- Anh thật là kẻ tham lam tráo trở. Ðã đi được một đống lù lù thế này, sao còn chưa mời tôi ăn hả?

13__Sợ vợ 

Có anh nọ xưa nay rất là sợ vợ. Vợ nó quát tháo thế nào, anh ta cũng ngậm miệng, không dám cãi một lời. Anh ta đi đánh bạc, mãi xẩm tối mới về. Thổi cơm ăn xong, chị vợ ngồi chờ chồng mỏi mắt. Chị ta tức lắm. Khi anh chồng vừa mới ló mặt vào ngõ, chị ta đã chạy ra túm ngực lôi vào nhà, gầm rít.

Anh ta vừa gỡ tay vợ túm ngực, vừa kêu xin:

- Bỏ tôi ra! Tôi xin bu nó!

Chị vợ được thể càng làm già, túm luôn tóc ấn đầu anh ta xuống. Anh ta liền vung tay gạt ngã chị vợ, tát cho luôn chị vợ mấy cái, rồi trợn mắt, quát:

- Người ta đã sợ thì để cho người ta sợ chứ!

14__Sĩ diện 

Một người nghèo nọ thường hay che đậy giấu giếm cảnh khổ. Lần kia gặp bạn, bạn mời đi ăn cơm. Ông ta ưỡn bụng từ chối: "Tớ vừa xơi thịt chó xong không nuốt nổi cơm đâu. Có điều uống vài cốc rượu thì được."

Vài cốc rượu xuống bụng xong anh ta say quá nên ọc hết đống thịt chó ban nãy ăn ở nhà ra.

Hôm sau, bạn hỏi ông ta: "Anh bảo là ăn thịt chó sao hôm qua lại ói ra cám. Thế nghĩa là sao?"

Người đó ngẫm nghĩ rồi chép miệng: "Có lẽ con chó đó ăn cám mà tớ không biết."

15__Đóng oản 

Một thầy đồ ngồi dạy học ở nhà kia. Trong nhà có người ốm. Chủ nhà chạy mời thầy cúng mãi không được, phải nhờ thầy đồ cúng hộ. Cúng thì phải có hương vàng, oản, chuối. Chọn được ngày lành rồi, đêm đến, chủ nhà hỏi:

- Thưa thầy phải đóng bao nhiêu oản?

Thầy vốn tham ăn, bảo:

- Ra ngoài trời đếm được bao nhiêu sao thì đóng bấy nhiêu oản!

Không ngờ hôm ấy trời đầy mây, chủ nhà ngó một hồi vào thưa: "Trời tối quá, thưa thầy chỉ thấy có một ngôi sao thôi ạ!".

Thầy giật mình, nhưng nhanh trí bảo:

- Ừ thì đóng một oản, nhưng lấy cái mủng mà đóng nhé!

16__Hổ phụ sinh hổ tử 

Hai cha con nhà kia đều nóng nảy ngang ngạnh, không nhường nhịn ai chút nào. Một hôm, nhà có khách, người cha sai con vào thành mua thịt về nhắm rượu. Người con mua miếng thịt ngon đem về, vừa sắp ra khỏi cổng thành, bỗng đụng ngay một người từ ngoài thành vào, hai người không ai chịu nhường đường đi, cùng ưỡn ngực nghênh nhau chắn ngang lối đi.

Ở nhà chờ lâu không thấy, người cha đi tìm con. Đến nơi, thấy tình hình như vậy liền bảo:

- Con hãy cầm thịt về trước làm cơm mời khách xơi, để cha ở đây cùng y đứng nghênh nhau tiếp!

17__Nhưng nó phải bằng hai mày! 

Làng kia có một tên lí trưởng nổi tiếng xử kiện giỏi.

Một hôm nọ, Cải với Ngô đánh nhau, rồi mang nhau đi kiện. Cải sợ kém thế, lót trước cho thầy lí năm đồng. Ngô biện chè lá những mười đồng. Khi xử kiện, thầy lí nói:

- Thằng Cải đánh thằng Ngô đau hơn, phạt một chục roi.

Cải vội xoè năm ngon tay, ngẩng mặt nhìn thầy lí khẽ bẩm:

- Xin xét lại, lẽ phải về con mà!

Thầy lí cũng xoè năm ngón tay trái úp lên năm gón tay mặt, nói:

- Tao biết mày phải... nhưng nó lại phải... bằng hai mày!

18__Tri kỷ 

Một ông quan võ tính thích thơ nôm. Ở bên cạnh nhà, có một anh chỉ khéo tán ăn. Hễ làm được một bài thơ nào, ông quan võ thường gọi anh ta sang đọc cho nghe, anh ta tán tụng khen hay. Thế là lại cho ăn uống. Một hôm, quan cho gọi anh ta sang chơi. Lúc ngồi ăn nói:

- Tôi mới làm được một cái chuồng chim ở sau vườn, nhân nghĩ được một bài tứ tuyệt, đọc bác nghe xem có được không?

- Dạ, xin ngài cứ đọc.

Ông quan võ vừa gật gù vừa ngâm:

Bốn cột chênh vênh đứng giữa trời, 

Ðứa thì bay bổng đứa bay khơi. 

Ngày sau nó đẻ ra con cháu 

Nướng chả băm viên, đánh chén chơi.

Anh kia nức nở khen:

- Hay lắm, xin ngài đọc lại từng câu cho được thưởng thức hết cái hay của bài thơ.

Quan đọc lại:

Bốn cột chênh vênh đứng giữa trời

Anh kia tán:

- Hay! Tôi nghiệm như câu này, có lẽ ngài sẽ làm đến quan tứ trụ triều đình.

Quan lại đọc:

Ðứa thì bay bổng đứa bay khơi

Anh kia tán:

- Ngài còn thăng quan chưa biết đến đâu!

Quan đọc đến câu:

Ngày sau nó đẻ ra con cháu

Anh kia tán:

- Hay tuyệt! Con cháu ngài còn là vô số.

Quan tiếp :

Nướng chả băm viên đánh chén chơi!

Anh kia ngập ngừng rồi lại khen:

- Hay quá! Cảnh ngài về sau tha hồ mà phong lưu, phú quí.

Ông quan võ, mũi nở bằng cái thúng, đắc chí, rung đùi, rót rượu mời anh kia và bảo:

- Thơ tôi được cái tự nhiên. Bây giờ nhân có thi hứng, tôi làm thử một bài tức cảnh nữa, anh nghe xem thế nào nhé!

- Bẩm thế thì hân hạnh quá!

Quan nhìn chung quanh, trông thấy con chó, làm luôn bài thơ rằng:

Chẳng phải voi, chẳng phải trâu, 

Ấy là con chó cắn gâu gâu. 

Khi ngủ với nhau thì phải đứng, 

Cả đời không ăn một miếng trầu.

Anh kia gật gù khen hay. Hai người mời nhau uống trà tàu, rồi anh kia cũng xin họa một bài:

Quanh quanh đằng đít lại đằng đầu, 

Hễ thấy ai vào cắn gâu gâu 

Ăn hết của thơm cùng của thối 

Trăm năm chẳng được chén trà tàu.

19__Tệ 

Có một thầy đồ hay trách vặt. Mộ hôm đang buổi học, có người đến xin phép thầy cho một học trò được nghỉ dở buổi học vì ở nhà có giỗ. Thầy liền cho em học trò ấy về ngay. Suốt ngày hôm ấy ai mời thầy đi đâu thầy cũng không đi. Thầy cầm chắc rằng, hôm nay sẽ được một bữa chén no nê, sao gia đình em học trò ấy lại không mời mình được!

Quái! Chờ đã hết ngày cũng không thấy ai đến mời. Tối đến ngoài trời mưa tầm tã, trong nhà thầy vẫn chong đèn, ngồi ngóng tin mời. Trời càng khuya, gió thổi càng lạnh, đợi mãi không thấy, thầy đồ phải tắt đèn đi ngủ. Tuy vậy, thầy vẫn không dám ngủ. Song đôi mắt của thầy đâu có theo ý muốn của thấy. Nó cứ ríu dần, ríu dần, thầy đồ đã ngủ mơ. Chợt có tiếng động rèm, thầy đồ giật mình thột dậy. Trong bụng tưởng như có cờ phất, thầy liền hỏi:

- Sao đến khuya thế con? Khuya thế?...

Mãi không có tiếng đáp lại. Thầy đồ thắp đèn lên xem, thì chẳng thấy ai cả, chỉ thầy một con chó lông ướt mẹp đang đứng cạnh rèm, cái đuôi ngoắt ngoắt, đôi mắt lấm lét nhìn chủ.

Thầy đồ bực quá, bụng bảo dạ: "Sáng mai phải cho thằng này bài học mới được! Ðồ tệ!".

Sáng hôm sau, lớp học vẫn tiến hành như thường lệ, học trò đến lớp đông đủ. Ðang buổi học nghĩa, em học trò nọ giở sách ra, chỉ vào chữ thứ nhất của hàng đầu, bài thầy mới viết, hỏi thầy:

- Thưa thầy chữ gì đây?

- Chữ "tệ".

Thầy cắt nghĩa luôn: "tệ là tệ". Em học trò không hiểu ý thầy nên vẫn điềm nhiên học: "tệ là tệ", "tệ là tệ". Hỏi sang chữ thứ hai, thầy vẫn bảo đó là "tệ" và cũng cắt nghĩa "tệ là tệ". Chữ thứ ba, thứ tư, thứ năm, thầy cũng bảo như vậy. Sang chữ thứ sáu, vừa nghe thầy nói đó cũng là chữ "tệ" xong, em học sinh ngơ ngác hỏi:

- Thưa thầy, tệ cả hàng phải không ạ?

Với giọng như ngậm roi trong miệng, thầy đáp:

- Phải, nhà mày tệ cả họ chứ không chỉ cả hàng đâu!!!

20__Đắp chăn 

Một anh đi ở cho một lão nhà giàu, lão ta hẹn sau mười năm sẽ trả tiền công cho về mà làm ăn. Ðến kì hạn, lão nhà giàu muốn quịt, bèn đưa ra một cái chăn vừa ngắn vừa hẹp, bảo:

- Anh phải làm sao đắp cái chăn này cho vừa người tôi thì tôi trả tiền công cho, bằng không thì một là anh về, hai là ở thêm mười năm nữa, sau đó tôi trả công cả hai mươi năm cho anh luôn thể.

Nói xong, lão nhà giàu nằm thẳng chẳng ra giữa giường. Người lão rất dài, mà cái chăn thì rất ngắn, nên anh kia cố đắp mãi không xong, đắp được đằng đầu lại hụt mất đằng chân. Chợt nghĩ ra một mẹo, anh ta cầm chăn đắp từ trên đầu lão đắp xuống quá đầu gối, rồi lấy gậy vụt tới tấp vào hai ống chân lão. Lão đau quá co rụt ngay chân lại. Thế là cái chăn đắp lên người lão vừa khéo.

21__Ngưu là con bò tót 

Một thầy đồ dốt, ngồi dạy học ở nhà nọ. Có nhiều chữ thầy không biết, nên phải đi hỏi người ngoài rồi mới về dạy lại.

Một hôm, dạy đến chữ "bôn" nghĩa là chạy, chữ chồng lên nhau, đoán mãi không ra chữ gì, mới hỏi dò người ta:

- Có giống gì khoẻ bằng ba con trâu không nhỉ?

Có người bảo:

- Có giống bò tót.

Thầy về dạy học trò:

- Ngưu là con bò tót.

Một hôm khác, thầy lại đến dạy chữ "đinh", mặt chữ thì biết, mà nghĩa thì lại không hay, nhưng vội quá, không kịp đi hỏi. Thấy chữ viết giống như cái giằng cối xay, thầy bèn dạy liều:

- Ðinh là giằng cối xay.

Nhà chủ thấy thầy dốt quá, đành mời thầy cắp tráp ra cửa và đọc tiễn thầy một bài thơ:

Ngưu là con bò tót 

Ðinh là giằng cối xay 

Thầy dạy hay chữ quá 

Xin thầy về đi cày...

22__Tam đại con gà 

Xưa, có anh học trò học hành dốt nát, nhưng trò đời "Xấu hay làm tốt, dốt hay chơi chữ", đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt.

Có người tưởng anh ta hay chữ thật, mới đón về dạy trẻ. Một hôm, dạy sách Tam thiên tự, sau chữ "tước" là chim sẻ, đến chữ "kê" là gà, thầy thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, học trò lại hỏi gấp, thầy cuống, nói liều: "Dủ dỉ là con dù dì". Thầy cũng khôn, sợ nhỡ sai người nào biết thì xấu hổ, mới bảo học trò đọc khẽ, tuy vậy, trong lòng thầy vẫn thấp thỏm.

Nhân trong nhà có bàn thờ thổ công, thầy mới đến khấn thầm xin ba đài âm dương để xem chữ ấy có phải thật là "dù dì" không. Thổ công cho ba đài được cả ba.

Thấy vậy, thấy lấy làm sắc chí lắm, hôm sau bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to. Trò vâng lời thầy, gân cổ lên gào:

- Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì...

Bố chúng đang cuốc đất ngoài vườn, nghe tiếng học, ngạc nhiên bỏ cuốc chạy vào, giở sách ra xem, hỏi thầy:

- Chết chửa! Chữ "kê" là gà, sao thầy lại dạy ra "dủ dỉ" là con "dù dì"?

Bấy giờ thầy mới nghĩ thầm: "Mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa", nhưng nhanh trí thầy vội nói gỡ:

- Tôi vẫn biết chữ ấy là chữ "kê" mà "kê" nghĩa là "gà" nhưng tôi dạy cháu thế là dạy cho cháu nó biết tận tam đại con gà kia.

Chủ nhà càng không hiểu, hỏi:

- Tam đại con gà là nghĩa ra làm sao?

- Thế này nhé! Dủ dỉ là chị con công, con công là ông con gà.

23__Đôi câu đối chọi 

Thầy đồ thường dạy học trò đã đối thì phải đối cho chọi mới hay. Một hôm, thầy ra một vế đối: "Thần nông giáo dân nghệ ngũ cốc" (Thần nông dạy dân trồng ngũ cốc).

Tất cả học trò đang ngơ ngác chưa biết đối thế nào. Thì anh học trò nọ đã gãi đầu gãi tai:

- Thưa thầy, chữ "thần" con xin đối với chữ "thánh" có chọi không ạ?

Thầy nói:

- Ðược lắm!

Anh ta lại hỏi:

- Chữ "nông", con đối với "sâu", có chọi không ạ?

Thầy nói:

- Ðược lắm!

Anh ta lại hỏi tiếp:

- Chữ "giáo" đối với "gươm", "dân" đối với "vua" có chọi không ạ?

Thầy gật đầu:

- Ðược lắm, được lắm!

Anh ta lẩm nhẩm: "Nghệ" đối với "gừng", "ngũ" đối với "tam", "cốc" đối với "cò". 

Cuối cùng anh ta xin đọc:

- Bây giờ con xin đối ạ! "Thần nông giáo dân nghệ ngũ cốc" con xin đối là: "Thánh sâu gươm vua gừng tam cò".

24__Mít nác gì 

Một bác nọ ra tỉnh chơi. Trưa về, gặp thầy học của con mình, bác ta khẩn khoản mời thầy về nhà, để thết thầy một bữa. Bác ra sai bắt gà làm thịt rồi làm các món nhắm khác.

Bụng thầy đói meo, mà chủ nhà vẫn từ từ chuẩn bị bữa ăn cho thật tươm tất.

Bụng thầy càng cồn cào. Nhìn thấy quả mít trong gầm gường, miệng thầy thèm lắm. Chờ mãi, không thầy chủ nhà bưng mâm lên, thầy nói:

- Thôi bác ạ, phiền phức quá, bác để tôi về.

Chủ nhà sai con:

- Có nác mới (nước chè xanh mới nấu), lấy ấm rót, mời thầy uống con.

Cốt ý của gia chủ là muốn cầm chân thầy lại. Song thầy:

- Mít nác gì, để tôi về thôi bác ạ!

Lúc đó, bác ta mới nhớ là nhà mình có quả mít chín để ở gầm giường, liền sai con:

- À quên, lấy quả mít, bố mời thầy xơi đã con!

25__Sợ sét bà 

Xưa có một thầy đồ ngồi dạy học ở một nhà người đàn bà goá. Bữa nào ăn cơm, bà cũng chỉ cho thầy ăn vừa sét bát thì thôi.

Một hôm, trời mưa sấm sét dữ lắm. Người đàn bà sợ run cầm cập, còn thầy đồ thì thản nhiên như không.

Người đàn bà thấy vậy hỏi:

- Thầy không sợ sét ư?

Thầy đồ đáp:

- Tôi không sợ sét của trời, tôi chỉ sợ sét của bà thôi. Cứ mỗi ngày ba sét ba lượt thì tôi cũng chết đói mất.

26__Đậu phụ mắm tôm 

Hai ông đồ rủ nhau vào hàng đánh chén. Nhìn vào đĩa đậu phụ trên mâm, một ông nói:

- Tôi ra một câu, ông đối được cho thông thì tôi chịu tiền cả, đối không thông thì ông chịu tiền cả.

Ông kia bằng lòng.

- Nướng đậu phụ cho cha ăn. Ðối đi!

Ông kia ngẫm nghĩ một lát, rồi đọc:

- Sắc ích mẫu cho mẹ uống. Ông trả tiền nhé!

Ông ra câu đối hơi hoảng. Nhưng rồi ông ta trấn tĩnh được thong thả nói:

- Ðối sát đấy. Phụ là cha đối với mẫu là mẹ, uống đối với ăn. Có điều thông thì chưa thông.

- Thông thế nào nữa?

- Ðậu phụ không có mắm tôm thì ăn vói gì? Ăn với ích mẫu được ư? Ðối thế này mới thông: Lấy mắm tôm cho mẹ chấm. Ông trả tiền chứ!

27__Bánh tao đâu 

Ông thầy đồ nọ vốn tính tham ăn. Bữa ấy có người mời đi ăn cỗ, thầy mới cho một cậu học trò nhỏ theo hầu.

Ðến nơi, thầy ngồi vào cỗ, bảo học trò đứng bên cạnh. Trông thấy trong mâm cỗ còn nhiều bánh trái, bụng no nhưng thầy lại muốn bỏ túi mấy chiếc. Sợ người chung quang nom thấy thì mất thể diện, thầy mới cầm bánh thản nhiên đưa cho học trò, bảo:

- Này, con cầm lấy!

Vừa đưa, thầy vừa nháy ra hiệu bảo cất mang về cho thầy.

Cậu học trò không hiểu được cái nháy mắt thâm thúy của thầy, tưởng thầy cho thật, liền bóc ngay ra ăn.

Thầy nhìn thấy, giận lắm, nhưng giữa đông đủ mọi người, không dám mắng. Ðến lúc ra về, thầy vẫn còn tiếc mấy cái bánh, muốn kiếm cớ để trả thù học trò. Khi hai thầy trò đang cùng đi ngang nhau, thầy bèn giận dữ mắng học trò:

- Mày là anh em bạn với tao hay sao mà dám đi ngang hàng với tao?

Trò sợ, vội vàng đi nhanh lên trước. Thầy lại gắt:

- Mày là bố tao hay sao mà dám đi trước tao?

Trò tụt lùi lại sau. Thầy lại quát:

- Tao có phải là thằng tù đâu mà mày phải đi sau áp giải.

Trò ngơ ngác quay lại thưa:

- Bẩm bẩm, con đi thế nào thầy cũng mắng, vậy xin thầy bảo cho con nên thế nào cho phải ạ?

Thầy chẳng ngần ngại gì nữa, hầm hầm bảo:

- Thế bánh tao đâu...?

28__Nói sao cũng được 

Ngày trước, có một người rất thích uống rượu, có rượu là uống không biết chán, cho nên sinh ra nghiện nặng. Một lần, anh ta đến kinh thành làm ăn, tình cờ gặp người quen. Oái oăm là người quen này rất keo kiệt.

Sau khi gặp người quen, anh nghiện rượu nêu ý kiến :

- Lâu lắm rồi chúng ta mới gặp nhau, hiện giờ tôi đang thèm chén rượu. Chúng ta về nhà anh chơi, có chén rượu cho tôi giải sầu thì hay quá.

Người quen nói :

- Nhà tôi ở cách đây xa lắm, chẳng nỡ để anh vất vả vậy.

Anh nghiện nói :

- Không sao, xa lắm cũng chỉ hai ba mươi lý chứ mấy.

Người quen nói :

- Nhà tôi chật chội không dám mời anh.

Anh nghiện rượu nói :

- Chẳng hề gì, chỉ cần rộng bằng cánh cửa mở là được.

Người quen nói :

- Tôi không chuẩn bị cốc chén uống rượu, nên không uống được.

Anh nghiện rượu nói ngay :

- Xem anh nói đến mức nào nào, bao năm chúng ta là tri kỷ, không có chén cũng chẳng sao, bê cả lọ tu cũng được.

29__Xin chịu 

Có anh chàng kia, vốn ngốc đại là ngốc, mà lại phải đi làm rể nên trong bụng rất lo. Biết tính con, nên trước khi đi bố mẹ gọi vào dặn dò:

- Ở rể thì khó gì mà ngại. Chỉ cần bố vợ làm gì thì mình làm nấy, cho khỏi mất lòng ông là được.

Anh ta nghe nói vững dạ vội khăn gói đi sang nhà vợ. Hôm ấy cũng ngồi ăn cơm với bố vợ, thấy bố vợ gắp thịt, anh cũng gắp thịt; bố vợ chấm rau cũng chấm rau, bố bợ cầm đũa tay trái anh cũng đổi đũa sang tay trái. Bố vợ vô ý đánh vãi mấy hạt cơm ra chiếu, anh cũng bỏ mấy hạt cơm ra chỗ mình ngồi. Bố vợ đang ăn canh miến thấy thế không nhịn cười được, bật phì cười, nào ngờ bị sặc. Một sợi miếng lòng thòng thò ra ngoài lỗ mũi. Anh ta nhìn bố vợ, ngẩn người ra, rồi đứng dậy chắp tay vái dài:

- Thưa thầy, mấy trò khác thì con còn cố được, chứ trò này thì con xin chịu!

30__Sân quạ 

Ở Phong Lưu, Cạnh Đền có một sân chim, mỗi lần người ta bắt hàng vạn con còng cọc, cò long bong, cò quắm, vạc, diệc mốc... chở ra chợ bán. Sau hậu đất tui thì có "sân quạ", chuyện mới lạ đời!

Số là mùa hạn năm đó, nắng khô hết đìa bàu. ao vũng xứ này. Trâu bò phải đi kiếm nước uống ở những cái giếng giữa đồng xa.

Tui có bầy trâu tất cả là tám con. Nhưng chiều bữa đó, chúng đi ăn về lại lạc mất con đực pháo. Sau đó mấy tháng lăng xăng chạy kiếm đủ chỗ, tui mới gặp nó đứng chổng khu uống nước ở một cái giếng trong đầu ngàn hậu đất.

Gần đi tới, tui thấy con đực pháo rùng mình lúc lắc, mặc dù bốn cái chân nó còn lún sâu dưới thềm đìa. Tới thêm chút nữa, tui thấy con trâu như nghe được tiếng động, nó cựa mình vùng lên. Gần lại nữa, tui thấy nó run run, giật giật. Lấy làm lạ, tui đi gần lại xem. Con trâu làm như hoảng hồn, lúc lắc nhổ bốn cái chân lên, nhưng bốn chân nó ngay đơ không làm sao nhúc nhích được. Con trâu lại cất tiếng kêu "ọa ọa". Rồi nó trân mình đứng dựng tại chỗ, run rẩy. Thấy đít con trâu lủng một lỗ, tui vội quơ nùi rơm nhét nó lại, rồi đưa tay với sợi dây định dẫn nó về. Nhưng con trâu cố giãy giụa, mà vẫn đứng tại chỗ. Cuối cùng tui phải về, kêu bả ra lôi tiếp con trâu về nhà.

Sau đó, tui với bả bàn mài dao xẻ con trâu. Nào ngờ phèo phổi, ruột gan, thịt thà bên trong con trâu đều bị lũ quạ khoét đít chui vô hồi nào mà ăn sạch trọi. Tui với bả bắt ra được ba trăm hai mươi sáu con quạ vừa lớn vừa nhỏ. Hông tin hả? Hỏi bả thử coi!

31__Cần gì phải trông 

Ngày hội, một tên nhà giàu cưỡi ngựa, muốn vào chỗ đám hội, nhưng sợ ngựa đi hoặc ai dắt mất ngựa. Hắn đến chỗ một bé trai khoảng mười hai, mười ba tuổi, bảo bé trông ngựa, rồi sẽ cho tiền. Bé hỏi:

- Ngựa của ông có đá người không?

- Nó dữ lắm đấy, người lạ đến gần là nó đá đấy,

- Thế nó có hay bỏ trốn không?

- Không bao giờ !

- Vậy thì cần gì phải trông nữa!...

32__Mô đất biết đi 

Đang mùa phát đất, mà nước đầy ắp cánh đồng. Cái năm gì thiệt kỳ cục! Nước Sông Đốc màu ngà dâng lên, nước U Minh đen cuộn tràn xuống. Gió nam thổi hù hù. Trên ruộng mà sóng bủa ba đào. Chuột bọ, rắn rít hết chỗ dựa, trôi tấp vào các ngọn cây đeo có đùm. Nước U Minh đỏ thẫm như nước trà, chảy ngập tới đâu thì cây cỏ èo ọp tới đó. Lợi dụng lúc này phát đất là tốt nhất.

Bữa đó tui vác phản ra đồng như thường lệ. Nghĩa là nghe cúm núm kêu chừng hết canh tư thì tui đã có mặt ngoài ruộng. Đồng nước mênh mông ngập tới ba đì lạnh run lên, không tìm được một mô đất mà để viên đá mài phản. Tui lội vòng vo cho tới hừng đông, may thang gặp được một mô đất thật cứng, cao hơn mặt nước độ hai gang tay. Tui rề lại, để viên đá mài lên, ngồi mài phản. Mài "nước lớn", tui lại mài "nước ngót" rồi liếc mép. Xong đâu đó, tui còn mở gói thuốc giồng ra vấn một điếu hút phì phèo. Đến khi trời sáng rõ mặt, tui trực nhìn lên:

- Ủa ! Ở đâu mà vườn tược rậm rạp, trông lạ vậy kìa! Quái lạ ! Tại sao lại ở ngay hè nhà mình?

Rõ ràng, bên tay phải tui là cái chuồng trâu, tay trái chuồng heo, chính giữa có bếp nấu cơm. Bà vợ tui đang lom khom chụm bếp. Thiệt là như chiêm bao, tui không tài nào hiểu được. Cuối cùng tui phải cất tiếng kêu bả để hỏi sự tình. Chẳng ngờ bả chạy ra, ngẩng lên, vụt la oi ói :

- Bớ người ta ơi! Làm ơn cứu chồng tui!

Tui bật cười hỏi :

- Bộ bà điên rồi hả ?

Bả đứng nhìn tui mà mặt mày tái mét, đưa tay ngoắc:

- Ông ơi! Ông phóng xuống đây, chạy lại đây, mau đi!

Tui cười hề hề, thủng thỉnh bịt khăn đầu rìu qua trán, lấy cục đá mài, vác phản lên vai, bước xuống mô đất đi lại bên vợ tui. Bả nắm vai tui xoay ngược lại:

- Ông ngó trở lại coi, kìa !

Tui nhìn lại cái mô đất mình mới vừa bước xuống. Úy trời đất, thánh thần, thổ võ ơi! Con rùa! Con rùa vàng lớn quá trời! Té ra tui ngồi mài phản trên lưng nó hồi hôm tới giờ mà hỏng hay.

33__Đánh thế còn nhẹ 

Có một anh nông dân về nhà ăn cơm trưa, thấy món rau xào hôm nay rất ngon, liền hỏi vợ:

- Rau xào hôm nay sao ngon thế?

Vợ đắc ý khoe:

- Hôm nay có hai người mua chung một miếng mỡ lợn, trên đường đi qua nhà mình đã mượn dao để chia, em đã rửa con dao dính mỡ lợn vào chảo, nên rau mới ngon như thế đấy!

Anh chồng nghe xong, tiện tay tát cho vợ một cái, mắng:

- Tại sao không rửa vào vại nước để mà ăn mấy ngày?

Vợ rất uất ức chạy sang bên cạnh mách tội của chồng với ông chú. Chú nghe xong quát tướng lên:

- Đánh thế hãy còn nhẹ, sao không rửa dao dưới ao, để chúng tao cũng được ăn?

34__Đố nhau 

Mấy anh đố nhau. Anh thứ nhất nói:

- Càng đắp càng bé là gì?

Mọi người nghĩ mãi, rồi đành chịu. Anh này tự trả lời:

- Người ta đào ao, lấy đất đắp vào bờ bên trong. Càng đắp thì cái ao càng bé lại.

Anh thứ hai đố:

- Càng kéo càng ngắn là gì?

Mọi người cũng chịu cả. Anh ta giải thích:

- Là điếu thuốc lá. Cứ kéo một hơi là nó lại ngắn đi một chút.

Anh thứ ba hỏi:

- Thế càng vặn càng vẹo là gì?

Mọi người càng chịu, cho là anh ta chơi chữ. Anh này cười bảo:

- Đâu mà chơi chữ! Chỉ là hai người cùng giặt một cái chăn. Đến lúc vắt nước, mỗi người cầm một đầu chăn bằng hai tay thật chặt, vặn xoắn vào. Được một lúc thì cả hai đều vẹo mình đi, mỗi người về một phía.

Đến lượt anh thứ tư, anh này lửng khửng bảo:

- Càng to càng bé là gì?

Mọi người cười bò ra, phán đoán đủ kiểu. Anh ta chỉ lắc đầu, mãi sau mới nói:

- Con cua nó có hai càng. Một càng to, một càng bé.

35__Có bán thuốc lào không hử? 

Tư Ếch từ ngày biết hai câu thơ:

Trúc xinh trúc đứng hàng rào 

Em xinh em hút thuốc lào... cũng xinh!

cho nên bị lên cơn ghiền sâu mắt đã hai hôm, mà đợi đến phiên chợ làng thì còn những một tuần nữa, nên bèn lân la vào ngõ cô gánh hàng xén:

- Cô mình có bán thuốc lào không hả?

- Không có bác ơi!

Qua hôm sau, chưa bảnh mắt, Tư Ếch lại ra ngõ ấy vừa ngáp lia lịa vừa hỏi:

- Cô mình có bán thuốc lào không?

Cô hàng xén mới mở hàng đang ế, phát cáu:

- Này, này... em bảo cho bác biết nhá, em chưa từng bán thuốc lào, em không có bán thuốc lào, và em sẽ không bao giờ bán cái ngữ thuốc lào! Bác còn dấm dớ hỏi nữa là em búa cho bác mấy búa đấy...!

Qua tờ mờ sáng hôm sau nữa, đang lúi húi dọn hàng ra thì cô hàng xén đã thấy Tư Ếch lò dò đến:

- Này, cô mình có bán búa không hử?

Cô hàng xén chưng hửng:

- Làm gì có búa mà bán!? Rõ chán cái bác này!...

Tư Ếch mừng ra mặt:

- Thế... có bán thuốc lào không hử!?

36__Chuyện ở thôn 

Ông trưởng thôn nhận được thơ tay của ông chủ tịch xã gởi xuống nguyên văn như vầy:

"Sắp tới, đoàn cán bộ huyện về thăm và chọn thôn ta làm điểm. Vì vậy mà các đồng chí nên duy trì thật tốt vấn đề TTVSNCC. Ký tên..."

Cả một đêm dài mày mò dịch những chữ viết tắt, sáng hôm sau, ông trưởng thôn gởi thơ tay lại:

" Xin đồng chí chủ tịch cứ yên tâm, không sợ chó điên cắn đoàn cán bộ bởi mùa mưa rất ít bệnh dại, chẳng cần tiêm vắc - xin... ".

Ông chủ tịch xã ngớ người chẳng hiểu trời trăng gì, mới cho người phóng xe máy vào thôn hỏi. Bấy giờ mới vỡ lẽ, ông chủ tịch thì bảo: "Duy trì tốt vấn đề "Trật tự vệ sinh nơi công cộng", còn ông trưởng thôn lại dịch thành... duy trì tốt vấn đề "tiêm thuốc vắc-xin ngừa cho chó"?! Quả là... khéo dịch!

37__Làm theo 

Bà mẹ dặn con trai mới dạm vợ:

- Sang nhà bên ấy, thấy bố vợ làm gì thì phải làm theo nghe con!

- Vâng! Con nhớ rồi!

Ðến nơi, thấy bố vợ đang ngồi tréo mảy uống trà, anh ta liền đến kéo ghế, ngồi tréo mảy bên cạnh, rót nước uống tự nhiên. Ông bố vợ nổi giận, vừa lúc thấy con chó đến gần, ông ta giơ chân đá nó một cái. Con chó kêu "oẳng" một tiếng rồi chạy đi. Chàng rể vội kêu lên:

- Ðứng lại cho tao đá, rồi hãy chạy!

38__Con trăn rồng 

Mùa nước năm đó, có một đêm trời mưa bão làm đổ ổ quạ ngoài cây tràm một. Lũ cò, diệc bị gió đánh rơi lướt khướt, rã cánh té đầy đường. Ở những lùm cây rậm, loài dơi quạ đeo thành đùm bằng cái thùng thiếc sát vào các nhánh cây. Rừng tràm U Minh đêm đó nổi sóng ì ùm không thua gì sóng biển. Vợ chồng con cái tui ngủ trên túp chòi có sàn gác, bị giông đẩy đưa tựa như ngồi xuồng nan trên biển.

Độ nửa đêm, tui nghe bên dưới sàn gác có tiếng động ở gần những bụi chung quanh. Chuyện đó thì cũng chẳng có gì là lạ. Thường những đêm mưa giông như vậy, lũ thú rừng bị ướt ổ, lạnh, đâm ra quạu, cắn lộn nhau kêu ầm ầm.

Đến sáng thiệt mặt, dượng Tư nó từ đàng nhà mang một cái giỏ trên vai đi lượm cờ rót, dài dài lại nhà tui. Tui thì còn ngồi co ro trên sàn gác, chưa chịu dậy. Đang ngồi bập bập điếu thuốc, tui bỗng nghe dượng Tư nó la bài hãi bên dưới :

- Trời đất quỉ thần ơi! Cái con gì dị hộm kỳ đời, anh Ba ơi!

Tui lật đật với cây mác thông, tuột xuống thang gác, chạy tới xem. Là tay thợ rừng đã từng sành sỏi, nhìn con vật đó tui cũng phải bí lù, không thể hiểu nổi là giống vật gì. Cái mình là mình con trăn, nhưng trăn sao đầu lại có sừng? Cái đầu là đầu con rồng, nhưng tại sao rồng gì lại không chân mà nghe tiếng kêu "bét bét"?

Con vật bắt đầu bò đi. Mình nó láng ngời, sụông óng, đầu nó có sừng chà chôm, cổ nghểnh lên, miệng cứ kêu "bét bét". Tui đặt tên đại cho nó là con trăn rồng. Nhưng dượng Tư nó không chịu, dượng bảo là con trăn gấm vừa nuốt một con nai, đầu nai còn ló ra ngoài nên nhìn thấy nó lạ lùng như vậy.

Con trăn rồng ấy cứ bò tới, nghểnh cổ, quơ sừng, kêu bét bét.

39__Chà bằng gạc nai 

Tui có nuôi một con trăn gấm, cũng không còn nhớ là được mấy năm. Nó lớn quá cỡ, lớn đến nỗi mình kiếm đồ ăn cho nó không xuể. Mỗi tháng tui cứ thả cho nó ra rừng tự kiếm ăn một lần. Có lần vài ngày, có lần cả tuần lễ nó mới về. Nó ăn nào là chồn đèn, chuột cống, cúm núm, trích cồ...

Có một lần, cũng như thường lệ, bầy trẻ cho nó ra rừng kiếm ăn. Nó đi hai bữa, rồi ba bữa cũng chưa thấy về. Rốt lại mười bữa rồi cũng mất tiêu luôn. Bầy trẻ túa ra đi quần kiếm mà không gặp. Chắc là nó lại về rừng. "Lá rụng về cội" thôi. Loài thú rừng mà... Cả nhà ai cũng tiếc con trăn gấm, nhưng ngày qua ngày rồi cũng quên.

Vào độ nửa tháng Chạp năm đó, nghe tu hú kêu ngoài bụi tre, thấy gió chướng vờn trên lá cây, tui nhớ ra đã gần ngày Tết. Vợ chồng con cái tui vác phản, ôm lưới lội ra cái đìa mé rừng mà chụp cá. Cái đìa mới đào hồi mùa hạn, chưa kịp cắm chà gộng gì cả. Nhưng dù sao cũng có cá đủ ăn Tết. Nhờ cái nó nhẹ dọn cỏ và cũng khỏi nhổ chà.

Cha con tui bỏ lưới trên bờ, dùng phản rong mé cỏ. Một chuyện lạ đời là mỗi nhát chém xuống, phản nào cũng trúng nhằm chà nghe rốp rốp.

Ai lén cắm chà đìa mình vậy kìa ? Tui tự hỏi, rồi cố dọn cỏ cho xong. Mấy cây phản giở lên coi, cây nào cũng mẻ sếu sáo như lưỡi cưa hết thảy.

Đến khi cỏ được kéo cả lên bờ, tui lại thấy dưới đìa đầy chà gộng ló lên mặt nước. Kỳ lạ là toàn chà cùi, không có nhánh nhóc gì hết. Chà bắt đầu xạo xự mạnh lên như có ai lặn ở phía dưới, rồi cầm mà rung. Chừng đó cha con tui mới bật ngửa. Té ra con trăn của nhà mình lâu nay nó ra rừng ăn phải bầy nai chà, nên chà gạt nai đâm lủng lưng, trổ lên phía trên. Có lẽ vì đau quá, nên nó còn nằm đấy dưỡng bịnh, chưa chịu về chuồng.

40__Bắt rắn hổ 

Hồi ấy, chúng tui đầu quân gần Cơi Nam, nơi Bác Ba Phi ở. Thỉnh thoảng bác vô thăm tụi tui và cung cấp nhu yếu phẩm. Có lúc thì mấy cây thuốc gò, mấy lố ngoại cảm tán, không quên mấy cái lưỡi lam cạo râu. Một lần tụi tui ước:

- Mùa nắng này phải chi được một vài con rắn hổ nấu cháo đậu xanh ăn cho mát!

Nghe vậy Bác Ba quay sang:

- Cái gì? Tụi bây thèm rắn hổ hả? Tưởng chuyện gì chứ ba cái thứ đó, làm gì cho hết. Hồi hổm tao bắt được, rộng cả chục lu mái dầm chứa nước mưa.

- Làm sao mà bắt được nhiều vậy bác Ba?

- Dễ ẹt! Tao bắt con cóc, móc lưỡi câu rồi đem nhấp nhấp trước hang. Nghe hơi con cóc là rắn hổ bò ra liền. Thứ rắn hổ đó nghe "mê" có thổi lỗ tai, hổng nhả đó nghe.

Thấy con óc, nó nhảy chồm chồm, nó táp cái bốp mắc lưỡi câu, thế là bắt ngon ơ! Thứ đi chìa, đào hang đó nghe, có tì vết ăn hổng khoái!

Nghe tụi tui đòi học nghề bắn rắn của bác, bác Ba quay sang nói:

- Coi vậy mà bắt kiểu đó đâu có đủ nhậu, tao còn cách này bắt hết trơn rắn hổ mà khỏe re vậy đó!

- Trời! Tài quá ha! Ồ mà cách nào bác Ba?

Bác Ba lột cái khăn trên đầu xuống quấn choàng hầu, rồi thong thả vấn một điếu thuốc gò tổ bố ý chừng để tụi này tập trung suy nghĩ, rồi mới thong thả kể:

- Có gì khó đâu. Hôm trước, trời lụt, rắn hổ kéo nhau lên cái gò cao. Trời ơi! Nó nằm lên nhau chồng đống như nhọng trong khạp vậy. Mấy con chuột bò lên là nạp mạng sạch bách cho chúng. Thấy đã quá trời! Tao về, liền đốn tre, trúc làm cái lọp thiệt bự, bằng bốn cái lọp bình thường. Tao bắt mấy con chuột, con cóc bỏ ở sau đuôi lọp, làm mồi nhử, rồi chống xuồng ra gò đặt day miệng ngay ở chổ bầy rắn ở. Tao chống xuồng lui ra bờ, ngồi đợi. Nghe hơi mồi, nó ngóc đầu lên, khừ khừng hổng thua cọp gừ. Vậy mà hổng con nào nhào vô ráo. Tại sao tụi bây biết không?

- Sao vậy bác Ba? Sao vậy?

- À! Tại tao chưa mở nắp lọp!

Tụi tui cười cái rần! Lọp có nắp sao bác Ba? Ờ lọp đâu có nắp, tao quên! À, mà nó biết mình gài bẫy, nên nó hổng vô. Chờ hoài hổng thấy chắc ăn, tao tính bỏ về thì thời may có con rắn nhỏ chắc là đói lắm, bạo dạn bò vô. Thấy con kia vô được không mắc bẫy như hồi trước, nên mấy con sau tiếp tục bò vô đầy lọp. Chờ cho con cuối cùng rúc vô lọp, tao mới dở lọp bỏ xuống xuồng, chống về. Chắc mẩm kỳ này chở ra chợ Cà Mau bán, mua thuốc gò hút xệ môi, ai ngờ một con rắn chừng năm kí lô vậy đó, nó tống sút đít lọp bò ra nhào tới, phóng vô mình tao táp cái bốp, dính ngay cái quần. Hết hồn, hết vía, tao chống sào phóng lên bờ. Ai dè dây lưng tuột, con rắn tiêu luôn cái quần của tao.

Tụi tui ôm nhau bò ra mà cười, cười đến chảy nước mắt, một lát có đứa cắc cớ hỏi:

- Rồi làm sao về nhà bác Ba?

- Tao theo kinh kéo xuồng về... lạnh muốn teo!

Hèn gì bữa nay bác đem vô cho tụi con có nữa khúc thuốc gò.

41__Gác kèo ong mật 

Mùa hạn năm đó, tui quảy gùi, vác mác lội từng ăn ong. Đi từ suốt sáng cho tới trưa mà vẫn chưa cạo được ổ nào, còn đóng kèo gát toàn là loại mới ốp lưỡi mèo, mật mới tráng ống. Buồn tình, tui mới lột gùi để mác với dao tre một bên, lấy tấm vải nhựa ra, trải dựa gốc tràm, nằm ngủ một giấc. Tui nằm tréo nguẩy, chân này gác xiên lên chân kia. Lúc nghe nắng nóng nóng bên mang tai, tui mới giật mình thức dậy.

Cũng còn nằm nguyên tư thế cũ, tui móc gói thuốc ra vấn hút. Đang lúc nhả khói, phun mây phì phèo, tui bỗng nghe ở đâu đây có tiếng bầy ong mật vỗ cánh rì rào. Tui ngó dáo dác, định ngồi dậy đi tìm. Nhưng chực nhìn xuống cái chân đang tréo nguẩy của mình thì... trời đất! Ổ ong đang đóng dưới bụng ống chân tui. Thấy mình ngủ nằm tréo nguẩy, nó tưởng đâu cái kèo mà áp lại đóng.

"Mầy đem nạp mạng, sẵn đây tao cạo luôn". Nghĩ vậy nên tui hút mạnh mấy hơi thuốc phà khói vào tổ ong. Bị khói thuốc Gò Vấp cay mắt, bầy ong bỏ ổ, bay tán loạn. Tui với lấy cây dao tre để bên cạnh xắn lấy tàn ong bỏ đi, tấm tàn lớn bằng cái sàn vậy. Còn lại khúc mức, tui xeo thêm mấy nhát dao tre nữa, nó rớt xuống tấm vải nhựa cái đụi, một khối mật vàng óng bằng trái dừa khô nằm trưu trứu trên tấm vải nhựa.

42__Heo đi cày 

Nhà tui không nuôi bò, chỉ có một bầy heo với một bầy trâu. Đứng trong nhà dòm ra thì chuồng trâu ở phía tay trái, chuồng heo ở phía tay mặt. Ở xứ này, mùa mưa là muỗi kêu như sáo thổi, trâu hay heo gì cũng phải giăng mùng cho nó ngủ.

Đầu canh năm, bà nhà kêu tui thức dậy, mở chuồng lùa trâu ra ruộng cày. Tui chỉ để ý một điều là lúc ngủ phải quay đầu vô vách để khi giật mình đứng lên, đi ngay ra mở chuồng trâu phía tay trái, rồi lùa đi.

Giống trâu ở nhà tui là giống trâu "phồn" rất to con và mạnh: vai ngang, bụng eo thắt, mông to... Hôm đó, hừng đông, tui lùa hai con trâu "phồn" ra ruộng, gách ách cày. Nhưng không hiểu sao hai con trâu hôm ấy chúng lại cày hăng quá, bước đi ào ào nhanh vô cùng. Khoảnh đất một mẫu tây, cặp trâu đã cày khoảng được gần một nửa thì mặt trời ló mọc. Cặp trâu bắt đầu đi chậm lại, tui cứ cầm cày, mặt ngó xuống đường cày, miệng la: "Ví! Thá!...", tay thì quất roi tới tới. Nhưng lạ đời, chẳng những hai con trâu không chịu nghe "ví, thá" gì mà miệng cứ thở hồng hộc, bước đi lệch bệch...

Cày thêm một lúc nữa, hai con nằm ì ra. Tui nổi giận đánh mỗi con một roi thật mạnh. Nó la một tiếc "éc". Đến chừng nhìn kỹ lại tui mới bật ngửa ra... Hồi khuya, vì vợ tui sửa lại cái chõng ngủ ngược đầu, trước khi đi ngủ tui quên để ý. Đến chừng nghe bả kêu, ba sờ ba sết bật dậy, tui cứ đi ngay ra mà mở chuồng phía tay trái như hằng bữa. Ai ngờ mở lộn nhằm chuồng heo.

43__Hố to 

Có một người, suốt ngày lang thang tìm cách lừa dối người khác để kiếm ăn. Một hôm, anh ta lang thang đi qua một nhà đang có đám tang, anh ta mừng thầm: có chỗ kiếm ăn rồi!

Anh ta vào nhà đang có đám tang, chẳng chào hỏi ai, chẳng nói chẳng rằng, quỳ bên quan tài rồi khóc. Mọi người không biết anh ta là ai, quan hệ thế nào với người chết. Anh ta vừa khóc vừa nói:

- Mọi người không biết chứ, tôi và ông đây là bạn thân lắm đấy. Mới có mấy tháng không gặp lại, vậy mà ông đã ra đi mãi mãi rồi, thật là bất hạnh. May sao, tình cờ tôi có chút việc đi qua đây mới biết tin này, chẳng kịp mua vàng hương, lễ phẩm đến cúng lễ. Lòng thành thương ông, tôi khóc bày tỏ tình bằng hữu với nhau.

Người nhà nghe anh ta nói, cảm động lắm, giữ anh ta lại ăn cơm uống rượu no say.

Trên đường về nhà, anh ta gặp người bạn nghèo. Người bạn nghèo thấy anh ta no say như vậy, hỏi:

- Người anh em ơi, hôm nay ăn uống ở đâu mà no say vậy?

Anh ta kể lại từ đầu đến cuối câu chuyện vừa qua cho anh bạn nghèo nghe. Anh bạn nghèo nảy ra ý cũng làm theo như vậy. Hôm sau, anh ta tìm một nhà có đám ma, làm như anh bạn hôm qua kể, khóc than thảm thiết. Người nhà tang chủ hỏi anh ta về quan hệ với người chết. Anh vừa khóc vừa kể:

- Người nằm đó là người thân thiết nhất của đời tôi. Hai chúng tôi đã từng ăn cùng mâm, ngủ cùng nhà, như hình với bóng.

Anh ta chưa nói hết lời thì bị người nhà tang chủ đánh cho một trận nên thân. Sau hỏi ra mới biết, người chết là con dâu của gia đình này.

44__Gài bẫy bắt chim 

Cánh đồng Kinh ngang này vào mùa nước ngọt, các thứ chim lớn như gà dãy, giang sen, chàng bè, lông ô, khoang cổ, diệc mốc từ trong rừng U Minh lũ lượt kéo ra kiếm ăn. Chúng quần đảo mát trời, giậm nhẹp những đồng lúa sạch trọi. Tất cả các loại chim đó chỉ có giang sen với khoang cổ là thịt ăn có lý, còn phần lớn ăn xảm xì như trứng rồng. Nói thì nói vậy chứ dù ngon hay dở mình cũng phải gài bắt cho ráo đợt để đem ra chợ bán, kẻo chúng phá lúa chịu không thấu.

Cái đám thằng Cường, thằng Thọ gài bẫy đạp, bẫy cò ke, bẫy mổ chỉ bắt trầm kha mỗi ngày vài chục con, có thấm bổ gì. Tui nghĩ ra một cách gài khác tụi nó. Bữa đó tui bỏ một ấm trúm xuống xuồng chống vô rừng đặt lươn. Đem về, tui lựa rặc thứ lươn da vàng, đầu nhọn, loại này mạnh lắm. Tui lấy chỉ ni-long thật chắc cắt ra một sợi dài chừng hai tầm đất, một cầu khúc cây ngáng ngang, một đầu tui cột ngay vào chỗ rún con lươn. Làm xong, tui ôm ra bẫy ruộng thả hai con lươn thành một cặp gần nhau.

Sáng ngày hôm sau, tôi bò ra ruộng rình xem. Ban đầu có một con gà dãy đi lọm khọm tới bên con lươn vừa trông thấy rồi đứng khựng lại, ngóng cổ, liếc mắt nhìn. Thấy con lươn bò nhọi nhọi, nó nhảy vọt tới mổ vào đầu. Con lươn bị đau quá vọt luôn vô bụng con chim rồi tuột ra sau đít. Tới con giang sen cũng vậy. Nó nhảy tới mổ vào đầu con lươn, con lươn vọt mạnh vô bụng, dùi luôn ra sau. Rồi lại đến con chàng bè cũng y vậy...

Một con lươn mồi của tui vọt đến chết xỏ lụi ít nhất cũng một chục con chim. Như vậy là cứ hai xâu làm một, tôi cầm mỗi tay một cây ngáng, la cho chim bay lên, mang tui theo. Tui bay bỗng mặt đất mà lái từng cặp xâu chim thả ra ví vô, về nhà giao cho bả trói đem ra chợ Sông Đốc bán. Vậy mới đã!

45__Bác Ba Phi câu cá sấu 

- Xứ mình có nhiều sấu không bác Ba Phi?

- Ôi! Sấu ở đây no lên bờ nằm nhiều như củi lụt.

- Vậy làm thế nào bắt nó?

Bác Ba Phi cười rồi nói:

- Câu bắt nó thôi. Hôm ấy, tui đi làm một cái đõi đi bắt con sấu, hai vợ chồng chèo thuyền đi. Gặp con sấu lớn ở sông Quảng Phú. Hai sợi đõi nổi lên khúc eo sông. Tui kéo sợi đõi trước mũi thuyền. Thế là con sấu chạy, kéo luôn cả thuyền. Con sấu kéo thuyền thạy 15km từ Quảng Phú đến vàm Cái Đôi. Lúc đó mới bắt được nó đấy!

- Ồ! Ồ! Vậy làm sao qua được cái đập hả bác Ba?

- Ờ thì... nó qua đập, kéo ghe qua luôn mà!

46__Rắn hổ mây tát cá 

Hồi xửa hồi xưa, khi mới tới đất này khai phá, rắn trong rừng U Minh con nào con nấy lớn lắm. Mới đầu, người ta kể, tui còn chưa tin. Nhưng rồi có một bữa tui cùng bả vô rừng, tính kiếm cái đìa nào lớn, nước cạn, tát bắt ít cá về ăn.

Tui với bả tát tới ven rừng, nghe như có tiếng ai đang tát nước từ xa vọng lại. Chả là trong rừng có một cái đìa bề ngang chừng năm thước, bề dài chừng hơn bốn mươi thước, tui đã nhắm chừng từ bữa hổm. Tiếc thiệt, bây giờ mới tới ven rừng đã có người tát rồi. - "Ai đó mà lẹ vậy!". Tui nói bả vậy. Nhưng rồi cả hai vẫn lẹ làng đi tới. Đứng ở mé bờ đìa bên này, núp sau một thân cây tràm bự chảng, tui thấy một con rắn hổ mây ở mé đìa bên kia. Cái đuôi nó ngoéo một đầu, cái đầu nó ngoéo một bên, thân hình nó dẹp lại đu đưa. Thì ra nó đang tát nước cạn để bắt cá ăn. Tui bấm tay bả một cái đau điếng, ra hiệu đứng yên để coi con rắn hổ mây nó làm chi. Gần xế bóng mặt trời, cái đìa đã cạn, những con cá rô, cá trê đen thùi quẫy đành đạch trên bùn. Bả thích quá, kêu trời một tiếng. Thấy động, con rắn vội bỏ chạy vô rừng. Tui chỉ việc bảo bả về kêu bà con ấp xóm ra bắt mang về. Hỏng tin, mọi người hỏi bả thử coi!

47__Chiếc tàu rùa 

Mùa khô năm đó, túng tiền xài, tui mới nghĩ ra một cách bắt rùa để chở ra chợ Sông Đốc bán. Ra dượng tư nó, tôi mượn một chiếc ghe cà vom chở chừng năm trăm giạ lúa, chống vô Lung Tràm đậu cặp mé phía dưới gió, cặm sào banh hai đầu cho thật chắc. Tui còn kéo tấm đòn dày bắc thẳng lên bờ. Làm xong, tui đi vòng phía trên gió, nổi lửa đốt một hàng dài... Mùa khô ở đây, cỏ ủ lên tới lưng quần dễ làm mồi cho lửa lắm.

Lửa bắt đầu bốc ngọn, tui lội trở về chổ đậu ghe ngồi chờ. Độ chừng hút tàn điếu thuốc, tôi đã thấy rùa bắt đầu bò xuống lai rai. Lửa phía trên gió bắt đầu vào sậy, cháy, nổ rốp rốp. Rùa bò xuống mỗi lúc một nhiều. Chúng xếp hàng một, nối đuôi nhau bò tới. Con nào cũng nghểnh cổ lên cao, mắt ngó chừng dáo dác. Một lúc, gió thổi mạnh lên, lửa cháy nà nà xuống, tốp sau hoảng hồn kéo chạy đùng đống, không còn trật tự gì nữa. Rùa vàng, rùa nắp, rùa quạ, rùa hôi, rùa dém... dồn tới từng bầy kéo xuống ghe. Giống rùa là chúa sợ lửa, chúng chạy bằng ba chân, còn một chân trước đưa lên che mặt. Con nào cũng chảy nước mắt, nước mũi choàm ngoàm.

Thấy chúng tràn xuống quá sá, tui ngồi gần đầu cây đòn dày, coi con nào lớn thì cho đi, con nào nhỏ thì cứ bạt tay một cái là lọt xuống sông. Một hồi, rùa xuống đầy ghe. Tui nhổ sào, rút đòn dày, dông luôn ra chợ. Nhưng khổ nỗi số rùa nhỏ bị rớt xuống nước cứ bấu theo be ghe kết thành bè, một tay chúng vịn vào be ghe, còn ba chân cứ đạp nước, theo trớn ghe đi tới. Chiếc ghe bị rùa đẩy chạy tới ào ào. Tui thấy vậy, cười khà, ngồi phía sau kềm lái, mở gói thuốc ra hút phì phèo.

Ra gần tới chợ Sông Đốc, tui bỗng nghe mấy người đàn bà bên kia sông la chói lói:

- Xuồng chở lúa, khẳm lắm. Tàu làm ơn tốp máy lại chút nghen!

Thật hết phương khả đảo, chỉ còn ngồi lắc đầu chịu chết. Tui khoát tay:

- Mấy bà con cảm phiền ép xuồng sát vào bờ giùm chút đi! Tui tốp máy không được. Chiếc tàu rùa...

48__Cá trê Lung Tràm 

Tui dẫn bày chó săn vô Lung Tràm định lùng thịt, cũng dạo mùa nước rọt này đây. Dưới kinh, cá quẫy ùn ụt, trên rừng chim chóc bay rần rần. Mình muốn kiếm bậy một con nai để làm đám kị cho bà già vợ, chớ loại cá, chim đó thường quá. Vùng Lung Tràm thưở đó còn thầy choại, dớn với cây tràm, đất trấp phập phếu, bởi vậy người ta mới kêu nó là Lung Tràm.

Đã quyết đi vào khu vực có nai, nhưng đến mặt trời lên cao mấy cây sào, tui vẫn chưa hạ được một chú nào. Bị nhiều bạn săn quần tới lui hoài, nên "bể" hay "đổ" nhanh như gió. Mỗi khi nghe chó vừa đánh hơi sủa lên, tức thì nghe một tiếng "bét" là chỉ còn đứng mà ngó theo.

Đến lúc mặt trời gần đứng bóng, người cùng chó đã mệt mỏi, tui mới rề lại một gốc cây tràm nghỉ mát. Chân bước từ từ, mắt cứ ngó dáo dác theo mấy con ong mật đang ăm bông trên đọt tràm, bất thần tui đạp lên mình một con nai chà đang nằm ngủ. Tui giật mình té ngửa, con nai cũng hoảng hồn nhảy dựng. Nó phóng một cái, đụng nhằm gốc cây to dội lại, té lên mình tui. Sẵn cây mác trên mình, tui vớ chân sau con nai. Khứa một nhát vào nhượng. Còn lại ba chân, con nai cố bươn chạy. Bầy chó thấy vậy, đuổi theo. Bị rượt ngột quá, con nai chạy giạt vào bìa rừng, phóng xuống Lung Tràm. Bầy chó chia làm hai, ven theo hai mé lung. Con nai lội qua bên này thì lũ chó bên này tấn công, hễ lội qua bên kia thì lũ chó bên kia ví ép. Nó lúng túng, lội qua lội lại mãi... Tui giục chó, vây chặt và ép lần cho con nai lội về hướng nhà mình. Ra tới ngã ba lung, thấy thằng em tui đằng kia chống xuồng lại. Tui kêu tiếp. Thằng em tui nhấn sào chống vọt tới bên con nai. Bây giờ con nai còn cố lội lờ đờ, cái đầu trên mặt nước. Thằng em tui với nắm lấy cái chà gạt con nai, lôi mạnh lên xuồng. Nhưng trời ơi! Con nai chỉ có cái chùm ruột lòng thòng dính ở phía dưới. Té ra nãy giờ nó bị cá trê dưới Lung Tràm bu theo rỉa sạch trọn thịt thà, xương xóc. Bầy cá cứ vây lấy con nai mà rỉa thịt làm cho con nai cứ trồi lui trồi tới, vậy mà tui cứ tưởng con nai còn lội. Thằng em tui kéo luôn lên xuồng cùng với xác còn lại của con nai cả tạ cá trê. Con nào con nấy bằng cườm tay người lớn.

49__Tôm U Minh 

Cái năm đó trời nắng hạn đến lung, bàu đều khô sạch trọi, không còn một miếng nước thấm tay. Hạn đến chó nằm ở hàng ba nhìn trời lè lưỡi, gà ấp trên ổ hót cổ thở hết ra hơi, trâu thèm nước đổ bọt mồm. Nhà tui chỉ có mấy cái đìa cá giống với một cái búng đập thông ra kinh Ngang là còn nước chút đỉnh.

Một bữa nọ, nhà có khách, túng thức ăn quá tui mới sai con Út nhà tui mò quanh rìa búng đập kiếm ít con cá. Con nhỏ nghe lời lấy khăn choàng tắm trùm đầu, xăn quần lội xuống, bắt nào cá bổi phệt, cá lóc kềnh, cá trê nộng, cá sặc bản, cá rô mề quăng lên bờ. Thấy cá nhiều quá tui biểu thôi, nhưng con nhỏ còn ham, mò rán thêm chút nữa. Nó bảo mò rán ra búng đập, bắt mớ tôm càng cho tui với khách nhậu lai rai. Con nhỏ vừa khom xuống ngay miệng ống gộng mặt đập, tui bỗng thấy từ dưới nước vụt dậy lên một cái rầm. Trời đất ơi! Tôm! Con nhỏ nghiêng mặt né tránh.

Nào là tôm càng, tôm thẻ, tôm đất, tôm lóng phóng lên ghim ngập gai vô chiếc khăn trùm đầu của nó, đuôi chỏng ra ngoài búng lách chách. Cái đầu của con Út có chà, có chôm chẳng khác nó đang đội mớ san hô vậy. Mẹ nó bưng rổ ra gỡ hết chỗ tôm đóng trên chiếc khăn đội đầu cân được hai ký tám.

50__Cách bắt kỳ đà chết 

Giống kỳ đà ở rừng U Minh coi chạy như gà con vậy chớ không dễ gì bắt nó đâu. Một là chúng nhảy xuống sông lặn một hơi tới chiều chẳng chịu nổi lên, hai là có động, chúng chạy một cái rẹt, lẹ đến nỗi có một lần, con trước mặt dừng lại, con sau ngon trớn lao tới, đuôi con trước đâm vô họng con sau một cái trổ ra lỗ đít.

Tui nghĩ ra một cách. Rủ dượng Tư nó vác ván ngựa ra chận trong rừng xa xa, ngoài mé ruộng thì kéo bảy tám con trâu chết bỏ đó làm mồi nhử chúng. Bọn chúng xuất rừng, từng bầy, bò lọm thọm ra, đến bên những xác trâu chết, chúng chia nhau từng tốp mà ăn quýnh quáng. Tụi tui dẫn bầy chó săn phục kích sẵn ở mấy lùm sậy gần đó, chờ cho chúng ăn thật no nê rồi mới nhảy ra. Dượng Tư nó nạt: "Kỳ đà!". Bầy chó ùa tới. Bọn kỳ đà trực nhìn thấy, liền hè nhau mang cái bụng ột ệt đâm đầu chạy ngay vô rừng. Chúng chạy đến đâu mửa vãi thịt trâu ra đến đó. Tụi tui cứ ở sau đuôi mà rà tới. Chúng chạy hàng ngay như sợi chỉ giăng, đuôi con nào cũng ngay băng lại sau như cây chĩa. Lúc rượt sâu vô mé rừng, tui nghe con chạy trước đâm đầu vô tấm ván ngựa mình đã chắn sẵn một cái bụp. Tức thì nghe một tiếng "rô... ột" kéo dài phía sau. Từng hàng dọc kỳ đà thúc sát nhau như một khúc cây nằm dài; vì đuôi con này đâm vô họng con kia thấu hết ra đít. Một "khúc cây" kỳ đà như vậy đến mấy chục con. Chừng đó mình mặc sức mà về nhà đánh trâu ra cột kỳ đà về.

Truyện cười 

Nguyễn Như Cương_*_Phạm Thùy Dương 

sưu tầm

Phần 2

51_Nai trầm thủy  

52_Con chó săn dũng cảm  

53_Thu hoạch lưỡi nai  

54_Cọp xay lúa  

55_Căn bệnh da cổ của tui  

56_Bắt cá kèo  

57_Ven rừng U Minh thuở trước  

58_Bắt heo rừng  

59_Trứng rồng ăn xảm xịt mà hôi mùi tro  

60_Xin đất làm nhà  

61_Rùa U Minh  

62_Yết thị  

63_Chống ra, chống vô  

64_Chiêm bao gì mà cười  

65_Làm ma mẹ  

66_Vả quan huyện  

67_Con xin xuống ạ  

68_Khịt khịt, thèm thịt với xôi  

69_Tài nói láo  

70_Cầm tinh con chó  

71_Tính tuổi  

72_Sợ vợ  

73_Xiển trả lời vua  

74_Tứ chứng nan y  

75_Nhất bên trọng, nhất bên khinh  

76_Ghen bóng ghen gió  

77_Làm theo bố vợ  

78_Tri huyện Lê Kim Thằng  

79_Ðổi bò gầy lấy bò béo  

80_Sát sinh tội nặng lắm!  

81_Sao đã vội chết 

82_Áp dụng theo lời thầy  

83_Ðánh trống cấm  

84_Cách bắt kỳ đà sống  

85_Diêm Vương thèm ăn thịt  

86_Chim chuột ở U Minh  

87_Chưa ngán ai  

88_Quan lớn mua vàng  

89_Bức thư lạ  

90_Anh hai vợ  

91_Có nhẽ đâu thế  

92_Quan sắp đánh bố  

93_Thạch Học sĩ  

94_Xiển vào dinh tổng đốc xin tiền  

95_Tên nhà giàu bị chơi khăm  

96_Tú Suất giành mền ông huyện  

97_Rắm của con đấy ạ  

98_Thơ vịnh con chó  

99_Tin ma quỷ  

100_Truyện Bác Ba Phi

51__Nai trầm thủy 

Năm nọ, tui đi rừng, gặp cái bàu lớn. Giữa trưa đang lúc nóng nực nên tui hăm hở lội ngay xuống tắm. Tui cởi áo ra, ngáng lên nhánh chà kề bên mé bàu. Vừa khoác nước kỳ cọ, tui vừa khoan khoái nghĩ: "Chà, không ai sướng bằng ta lúc này. Giữa rừng, ngồi tắm mát một mình mà còn có chổ máng áo khô sạch nữa. Đã thiệt...". Tui thò tay xuống lần mở mối lưng, cởi ra thêm chiếc quần đùi. Tui vừa vói tay sang nắm lấy nhánh chà, định máng tiếp cái quần thì bất ngờ... cái nhánh chà "giật mình" vụt đứng dậy phóng chạy...

- Ơ... ơ. Nai trầm thủy. Trời. Nai trầm thủy!

Tui sợ mất cái áo , quýnh quáng tức tốc đuổi theo con nai :

- Nai ơi... tao tưởng mày là nhánh chà, mày trả lại tao cái áo. Trả... lại tao!

Nghe có tiếng người chạy đuổi theo kêu la vang rừng phía sau nên con nai càng sải bốn chân phóng hết tốc độ. Mệt quá, không còn cách nào khác, tui buộc lòng phải đứng lại, vừa thở hổn hển vừa chắp tay lên miệng làm loa, la lớn:

- Nai ơi... nai! Tao nói thiệt, đừng chạy nữa!

Mày không có áo "bận" thì tao tặng cho mày cái áo đó. Còn gói thuốc trong túi áo mày nhớ trả lại giùm. Tao ghiền... tội nghiệp tao, nai ơi, nai ơi!...

52__Con chó săn dũng cảm 

Trời mới rạng đông, nghe con heo nái trong chuồng hộc hộc, tui biết là con heo rừng nọc chiếc vô nhảy đực heo nái mình nữa rồi. Tui chộp cây mác thong, kêu con chó Nô nhảy ra. Con chó Nô là loại chó nòi, giỏi vô cùng, nhưng lúc này nó đang có chửa gần đẻ nên cũng hơi ột ệt.

Lúc tui chạy tới thì con heo nọc chiếc cũng vừa bỏ chuồng đi ra rồi. Nó to cỡ con bò, màu lông vàng hực, da lăn dầu chai, có u có nần. Vừa đi, nó vừa nghếch cái mõm như cây đàn bầu lên táp bốp bốp, nghe chẳng khác mình cầm cái mủng dừa úp lại. Hai cục bọt trắng xóa đóng hai bên mép miệng, gần chỗ cặp nanh trắng ơn, cong vút.

Thấy tui với con Nô đuổi theo sát, nó quay lại, mái đít ngồi nhìn. Mũi nó khịt khịt như gà lôi kêu. Biết là gặp tay địch thủ đáng gờm, tui đứng chân chữ đinh, cầm phân hai cây mác, nhử nhử. Con nọc chiếc tưởng tôi đâm thiệt nên hất mõm qua bên. Tui lẹ làng thu lại, đâm một nhát chí tử vào nách nó. Coi như con nít chơi, con nọc chiếc liền hất trở lại một cái trông nhẹ hều làm cán mác của tui gãy làm hai. Tui chới với suýt cắm đầu, tay chỉ còn cầm khúc cán mác, đứng xơ rơ. Thấy chủ sắp lâm nguy, con Nô nhảy vô, nhưng vừa nhập vào liền bị con nọc chiếc đánh cho một cái văng bắn ra, va vào một gốc cây tràm đánh ẳng một tiếng, quỳ xuống đẻ ra một bầy con. Tám con chó mới đẻ liền nhào tới cắn bốn cái giò heo. Con Nô tuy bị thương, nhưng lại nhảy vô chính diện. Chẳng ngờ nó lại bị con nọc chiếc đánh bồi thêm một cái nữa, làm cho sọ đầu bể làm tư. Nó nằm giãy tê tê. Thấy vậy, tui nhảy lại bứt nắm cỏ thuốc dây, dóc kiền cái đầu nó lại. Con chó ngồi dậy nghỉ một lúc cho đỡ mệt, rồi lại xáp trận nữa.

Lần này thì con nọc chiếc có mà chạy đường trời. Tám con chó con cắn bốn cái giò căng ra, con Nô táp dính cái đuôi kéo nhủng nhẳng, còn tui thì xách khúc cán mác còn lại nhắm ngay đầu nó bổ xuống. Quần nhau một hồi, con nọc chiếc mệt lả, há họng thở dốc. Nhanh như chớp, tui thọc cho nó một cán mác vô họng thấu tuốt ra sau đít. Lũ chó con còn sung sức nên sủa gâu gâu. Con Nô, tuy cái đầu mới bể được ràng lại, chưa ăn khớp hoàn toàn nhưng cũng cất tiếng sủa trợ chiến cho lũ con "cạch, cạch... cạch cạch..."

53__Thu hoạch lưỡi nai 

Năm ấy, mấy chục công lúa tui đang cấy cặp mé rừng, tới mùa không còn thu hoạch được một hột để nhổ râu. Lúc lúa đứng cái, lũ nai kéo về cả bầy, ăn tới tới. Cất chòi giữ ngày giữ đêm, giật banh mất chục cái thùng thiếc mà chúng vẫn trơ trơ không sợ. Đánh bẫy, giặng giò bắt được một, thì chúng kéo lại hai. Nai chà tràn vô xóm rượt chém bò cổ, nhảy đực bò cái, đẻ ra con nào cũng có nhánh nhóc.

Ai cũng bảo là chắc phải để xứ này cho nai ở. Tui nhất định không chịu thua, cố tìm hết cách để trị lũ nai này. Đêm đêm tui đi rình xem cách chúng ăn lúa. Nó ăn cũng như trâu bò ăn vậy thôi. Nghĩa là lưỡi cũng le ra, nghoéo gọn bụi lúa rồi giựt mạnh lên.

Tui về nhà, ngồi suy nghĩ, nhủ thầm: "Như vậy là chết cha chúng mày rồi!". Xách mác ra vườn, tui đốn những cây tre lồ ô mang vô. Tui lần lượt bập nhẹ nhẹ lưỡi mác vào cật cây tre rồi lẩy ra lấy một miếng cật tre dài cỡ chiếc đũa bếp, hai bề cạnh bén như nước. Làm tới chiều, tui đem ra ruộng, mỗi bụi lúa tui cắm vào giữa một miếng tre cho thật chắc. Làm xong về nhà, tui biểu mấy đứa nhỏ cứ việc ngủ cho thẳng giấc đi, đừng lo canh tuần gì nữa.

Sáng bữa sau, tui chống chiếc xuống be ra ruộng. Tui xăn quần lội xuống, tay nắm be xuồng dắt tới, vừa đi vừa mò theo từng gốc lúc mà lượm lưỡi nai. Thứ tre lồ ô chẻ mỏng, cật bén như nước. Vô phúc cho con nai nào nhè ngoéo cái lưỡi vô đó mà giật lên thì thế nào cũng phải đứt lưỡi ra.

Mùa đó, ngoài cái chuyện bán thịt lưỡi nai tươi cho bà con lối xóm nhậu chơi, tui còn phơi khô chở lên Sài Gòn bán cho cửa hàng mua để xuất sang Hồng Kông, Singgapo được một tấn hai lưỡi nai khô. Không tin thì hỏi bả thử coi

54__Cọp xay lúa 

Xứ rừng này hồi mới khai mở, đêm nào cọp cũng vô xóm rình mồi, nó kêu "à uôm" nghe như tiếng con ễnh ương gặp mưa vậy.

Có bà Tám ở xóm trên, đêm ngủ ngoài bụi ráng, vì bữa chiều đó bà uống rượu đám giỗ xóm dưới, say quá không về tới nhà. Sáng ra, bà bị liếm cái đầu trọc lóc như trái bưởi.

Hai đứa con thằng Tư Mít, cha mẹ đi làm, bỏ chúng nó trên sàn gác, gặp cọp vô nhà chơi hoài. Chúng nó vắt cơm cháy, thảy xuống cho cọp ăn. Ăn quen, lần đó thằng Tư Mít núp trên gác, đốt đỏ cái ống ngoáy trầu của bà rồi thảy xuống, cọp hả họng ra hứng liền. Lần đó bị phỏng miệng, nó chạy, la vang rừng suốt mấy bữa.

Có một đêm, tui cũng đang ngủ trên sàn gác, khoảng gà gáy hiệp ba, bỗng nghe con heo khoảng một tạ ngoài chuồng kêu ét ét. Biết là "ông ba mươi" đến viếng rồi. Tui liền xách cây mác thong, phóng xuống, đuổi theo. Rượt đến sáng mới giựt lại được xác con heo. Tui vác về để con heo đó, lum khum nhóm lửa nấu nước, tui bỗng nghe tiếng rột rẹt trong lùm ráng. Liếc mắt qua, tui thấy rõ ràng là "anh ta". Vì hụt mất miếng mồi nên con cọp ức, trở lại rình mò. Đó là một con cọp cái bụng đang có chửa. Tui thấy nó ngồi nhìn xác con heo mà thèm đến nhễu nước miếng.

Không ăn được thịt con heo, con cọp đâm ra thù tui.

Trưa bữa sau, hai vợ chồng tui khiêng cối ra xay lúa. Cái giằng xay tui làm bằng cây trâm suồi, thịt gỗ thật dẻo. Đang xay lúa ồ ồ, tui lại cũng nghe sau bụi ráng có tiếng động rột rẹt. Giống cái con cọp này thù vặt quá! Tui nói trong bụng : "Bữa nay bắt mày xay lúa một trận cho biết tay!". Tui kêu bả xúc sẵn cho tui hai chục giạ lúa để gần bên cối xay đó. Vừa xay, tui vừa liếc chừng vô bụi ráng, giả bộ không hay biết gì. Chờ lúc con cọp nhảy ra phủ đầu, tui hụp xuống, trịch ngang. Hai bàn tay cọp bấu tám móng cứng ngắt vào cán giằng xay. Sẵn trớn cái cối đang quay, con cọp kéo lui hết vòng thì bị cái cối quay theo quán tính quay tới, mà hễ cái cối quay tới hết vòng thì con cọp bị ghị lui. Cứ như vậy mà theo đà cối quay đẩy tới đẩy lui hoài... Tui đứng một bên, cứ xúc lúa châm vô liên tục.

Đến lúc con cọp xay hết hai chục giạ lúa, tui kêu bả xúc thêm nữa. Thấy con cọp có chửa nên động lòng thương, bả kêu thôi tha cho nó. Tui nắm tay cối xay ghìm mạnh lại cho dừng trớn, con cọp hụt đà, vuột tám móng ra khỏi cán giằng xay chúi đầu về phía trước. Nó lồm cồm ngồi dậy, mệt thở hết muốn ra hơi, bỏ đi vô rừng một hơi. Không tin hỏi bả đi thì biết!

55__Căn bệnh da cổ của tui 

Coi vậy chớ da cổ tui không phải là lang beng hay trổ đồi mồi gì đâu nghe!

Số là hồi đó, đất U Minh này còn cao, về mùa mưa, nước rừng đổ ra cuồn cuộn, màu đỏ thẫm như nước trà. Các kinh rạch nhỏ uốn éo tuôn nước ra sông Ông Đốc. Sông Ông Đốc đổ ra biển.

Thưở ấy, hai bên bờ sông Ông Đốc là rừng dừa nước ken nhau chạy một mạch tới gần mé biển, rồi như giật mình dừng lại chới với... Con sông có chỗ rộng tới ba trăm mét. Đã nói con sông nước chảy mạnh như một con rắn nằm đập đuôi, nên ban đêm nhìn vào đầu cọc cừ nào cũng thấy chất lân tinh ánh lên tưng bừng sáng lòa. Con nước ròng xuống, những hàng cột đáy bị gió rung lên kêu o... o... Xuồng đi đường có dịp thả xuôi nước, qua ngang những ruộng đáy nghe đánh vèo một cái mà phát chóng mặt.

Lần đó, tui cùng dượng Tư nó chèo chiếc ghe cà dom đi chợ Cà Mau mua ít xi mang về xài. Lỡ con nước, tụi tui phải về nước ròng đêm. Tui ở phía sau kềm lái, thả theo chiều nước xuôi băng băng. Đêm tối đen như mực, tui cứ nghểnh cổ nhìn theo làn sáng sáng trên trời mà lái theo đó.

Ghe đang lao tới vun vút, tui bỗng nghe dượng Tư nó ngồi trước la: "Coi chừng gạt!" . Tức thì tai tui nghe cái "vèo", thân thể nhẹ bỗng, ghe lủi tuốt lên mé bờ. Dượng Tư nó la bài hãi, tui tức quá, trả lời:

- Tui không còn thấy đường nữa, sợi dây kẽm chằng cột đáy gạt văng cái đầu tui mất rồi.

Tui nghe tiếng nói mình phát ra chỗ cần cổ chớ không phải chỗ cửa miệng. Nghe vậy, dượng Tư nó lật đật chạy lại mò cái đầu tháp lại cho tui, rồi ổng lấy hồ xi măng trét trét quanh cổ. Vì đêm hôm lụp chụp, với nữa không có cái bay nên ổng tô xi măng không láng được, đến bây giờ da cổ tui sần sượng vậy đó. Ai không tin làm thử coi thì biết.

56__Bắt cá kèo 

- Hồi xưa bác cũng đi bắt cá kèo nữa hả, bác Ba?

Bác Ba đang cùng với mấy đứa cháu lối xóm ngồi chuyện trò từ trưa đến giờ dưới gốc bụi tre tàu trước nhà. Gió chướng thổi xạc xào cành lá. Ngồi thấy bác Ba có vẻ mỏi mệt, không muốn kể chuyện thêm nữa, thằng Truyền cắc cớ, kiếm chuyện hỏi thêm.

- Ừ! Cá kèo tao bắt dữ lắm. Có hôm lấy ghe mà chở - Bác Ba trả lời.

- Thiệt vậy hả bác? Ủa mà hồi đó bác bắt cá kèo ở đâu vậy?

Thằng Truyền lại hỏi, vẻ mặt coi bộ nghi ngờ, khó hiểu. Mấy đứa trẻ khác thì mở trừng mắt nhìn theo mấy ngón tay đang múa may như phù phép của bác.

- Nè, coi tao bắt đây! Bác Ba đứng dậy trỏ một ngón tay xuống đất. Tụi con nên nhớ vùng biển Đá Bạc của mình hồi đó vô cho tới tận con kinh Lung Tràm này. Cá kèo lội đặc như bánh canh trong nồi. Nhưng ngày xưa mà, đâu có phương tiện gì nhiều để bắt cá kèo như bây giờ. Chủ yếu là bắt bằng tay thôi. Cũng không phải ai cũng bắt bắng tay giỏi như tao. Tụi con coi đây.

Bác Ba xòe hai bàn tay giơ lên.

- Đơn giản như vầy chứ mỗi lần tao thò tay xuống sông rồi giở tay lên là bắt được mười con, mỗi kẽ tay một con, nằm im không vẫy gì được. Cá kèo coi nó trơn lùi vậy chớ không con nào chạy tuột ra khỏi được tay tao đâu.

Mấy đứa nhỏ ngồi nghe chợt thấm ý, bật cười, cái đầu tụi nó gục gặc. Chỉ riêng thằng Truyền không nói, cũng không cười. Nó ngồi yên, chỉ đưa hai bàn tay ra trước mặt, cái miệng nó lép nhép nói gì như đếm thầm. Vụt một cái nó đứng dậy bước tới, nắm tay áo bác Ba Phi lại, hỏi:

- Bác mới vừa nói mỗi kẽ tay bác bắt một con. Hai bàn tay có tám kẽ tất cả, vậy làm sao bác bắt được mười con một lần?

Thằng nhỏ bất ngờ hỏi "trẹo cẳng ngỗng", bác Ba đớ người một lúc rồi đưa tay vỗ vỗ xuống đầu nó như thể nựng nịu. Bác xuống giọng:

- Đúng thế. Thằng Truyền hỏi đúng. Thông thường làm gì bắt được một lúc mười con cá kèo như vậy. Nhưng vì tay tao bắt cá "dính" quá, nên có số cá kèo nịnh lội tới lội lui, chực sẵn bên ngoài, chờ tao thò bàn tay xuống mỗi lần như vậy, là chúng nó nhào vô hai con một lượt để "dính ké". Nhờ vậy mà mỗi lần tao giơ tay lên thì được đến mười con!

57__Ven rừng U Minh thuở trước 

Người ta nói ở Cạnh Đề: "Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh", chớ vùng này, những năm đầu mới khai rừng thì người ta hay hát đưa em như vầy: " Ở đâu bằng xứ Lung Tràm, chim kêu như hát bội, cá lội vàng như mắm nêm".

Mỗi buổi sáng, giấc hừng đông, lúc đài Hà Nội báo thức thì lũ giang sen, chàng bè, gà dãy, lông ô, khoan cổ, chàng bè... ra tập "thể dục" rần rần. Con nhỏ đứng trước, con lớn đứng sau chẳng khác nào cuộc duyệt quân, thiên binh vạn mã. Loại trích cồ tuy nhỏ con nhưng làm "thầu hồ" nháy nháy cặp mắt màu ve chai, niểng cái đầu có mồng đỏ chót, là "tò le tét le". Vợ chồng nhà quạ nghe vậy, từ trong cũng vội vã bay ra "dạ" rân. Đám vạc ăn đêm về ngủ nướng ở những bụi rậm, giật mình thức giấc, "nhảy mũi" hạt hạt. Trong vườn "đội nhạc công" chìa vôi thổi gió véo von. Dòng họ nhà chim bắt muỗi cũng gõ đầu hòa tấu "toang toang". Đấy chú cưỡng bông đậu chót vót trên cành cao lé mắt "thổi kèn Tây"; chị em tu hú thấy hừng đông, chạnh lòng nhớ quê cất tiếng kêu não nuột. Ngoài mé ruộng nhà, anh chàng nghịch dầm mưa long óc mấy ngày cứ gù lưng "nhảy mũi khìn khịt". Tội nghiệp cho bác mỏ nhác, ăn chi mà đau bụng rên "tằng yết, tằng yết" sáng đêm. Trời vừa tảng sáng, cậu rắn hổ đất đã thổi bể phù phù cho anh chim trảo chẹt "rèn" những cây phản gỗ nghe choảng choảng...

Ở ven rừng U Minh thưở ấy, vào những buổi sáng thật vui vẽ rộn rã làm sao! Ai đi làm đồng trước đó cũng phải nán lại ít nhất ít phút để nghe bản "nhạc rừng hòa tấu".

Lũ chim chóc ngày đó dạn khì, chúng sống lẫn lộn với bầy gia súc. Chàng bè rề rề theo đổ trống vịt xiêm, vịt đẻ... khi trứng nở ra con nào con nấy cái mỏ nhọn thon như mũi kéo. Vịt ta đi đạp mái giang sen, làm con cái giang sen chân lùn tịt, con nào cũng có giọng kêu "cạp cạp". Lạ đời nhất là loại cúm núm, chúng sống chung lộn với gà nhà, lâu ngày cúm núm ngoài đồng, con trống nào cũng có hai cái cựa nhọn lểu. Còn gà trống trong nhà thì đêm đêm cất tiếng gáy vang : "Ò ó o... cúm ! Ò ó o... cúm!".

58__Bắt heo rừng 

Hồi đó, ở cặp theo mé rừng U Minh này có làm ruộng nương, rẫy bái gì được đâu! Heo rừng ngày đêm kéo từng bầy ra phá phách chịu không nổi. Những con heo nọc chiếc lớn như con bò, đi ra tới xóm, rượt nhảy đực heo nái nuôi trong nhà. Heo đẻ ra con nào mình mẩy cũng sọc dưa, mỏ nhọn thon thon.

Năm đó, tui có trồng mười công khoai lang với khoai môn. Khoai trúng thôi là trúng. Khoai lang lá mướt rượt như thoa mỡ, đọt bò vượt vượt. Còn khoai môn, tụi con nít ngắt mấy lá lớn thả lật ngửa dưới kinh làm xuồng bơi qua bơi lại. Vậy mà chỉ trong vòng một đêm thôi, tui mắc công chuyện phải đi sông Ông Đốc, mười công khoai bị heo ăn sạch bách. Ra thăm rẫy, tui thấy mà buồn ghê. Heo lớn, heo nhỏ gì cũng ủi lút nửa con xuống đất để ăn củ khoai. Tức bụng quá, tui chạy tuốt về nhà lấy cây mác vót ra. Cây mác của tui bén như nước. Tui đi nhẹ nhẹ, cứa cho mỗi con một mác vào lưng. Cứa xong, tôi vỗ tay nạt lớn : "Heo! Ơi là trời!". Bầy heo giật mình nhảy dựng lên, định tốc chạy. Nhưng đâu có dễ ! Giống heo rừng xương sống ngay đơ lưng như cây đòn gánh, hễ con nào phóng mạnh một cái là sụm ngay.

Tui kêu bả chống xuồng ra, chở về xẻ thịt, đem đi bán. Mùa đó tui bán thịt heo rừng lấy tiền lại lời gấp mười công khoai bị chúng ăn.

59__Trứng rồng ăn xảm xịt mà hôi mùi tro 

Số là hồi nẳm, trời hạn, hạn gì đến lung bàu, đìa ao... cả xứ này khô hết trọi. Tới tháng tư, tháng năm rồi mà mây trời cứ vần vũ hoài, không chịu mưa.

Nhà tui thì có cụ bị sẵn sàng hàng trăn mái nước mưa để xài. Súc vật trong nhà tui đều cho uống bằng nước mưa hết thảy. Thường ngày, tui múc ba thau nước để dưới bóng mát chỗ bụi tre xiêm trước cửa cho gà vịt uống.

Bữa đó tui thấy có mấy con rồng bay qua ngó dáo dác để tìm nước làm mưa. Có một con bay sau chót, vóc dáng coi bề sề, liếc mấy thau nước, coi mòi thèm lắm, nó le lưỡi ra liếm mép. Tui định bụng bắt một con rồng mần thịt ăn chơi. Tui lấy ba sợi dây niệt trâu nối lại; một đầu cột vô bụi tre xiêm, một đầu khoanh cái vòng tròn để trên miệng thau nước. Tui thay ba thau nước mưa thật trong.

Bầy rồng đảo lại vòng sau, cái con rồng bề sề thèm nước đó liền hạ xuống, thọc mỏ vô thau nước uống liền. Tui để cái vòng dầy tròn đúng vô cổ nó, rồi cầm mác chạy ra nạt: "Rồng!". Con rồng hoảng hồn bay lên. Nhưng bay sao được ! Nó càng giãy thì sợi dây niệt trâu càng siết cổ nó lại. Nó lăn lộn, đập đuôi ầm ầm, lôi bụi tre nghiêng ngả.

Con rồng cái đang có chửa. Lúc đó, tui thấy sợi dây giãn ra kêu rắc rắc. Sợ đứt, tui liền nhào lại, nắm đuôi con rồng thọc mác vào bụng nó. Tui quyết lòng hạ nó, để lấy thịt nhậu một lần cho biết mà. Bị đau quá cỡ, nên con rồng nhào một cái thật mạnh, lọt ra bốn cái trứng và đứt luôn sợi dây. Nó lôi tui bay tuốt lên mây, chóng mặt quá, tui buông tay rớt xuống đất, chai chân luống sâu tới háng.

Đến chừng nhổ hai chên lên được, tui lết lại chỗ bụi tre, lượm bốn trứng rồng đem vô. Trứng nào trứng nấy lớn bằng trái dừa khô vậy. Chiều bữa đó, tui luộc bốn trứng rồng chín, rồi mới chạy kêu lối xóm mời bà con để mỗi người ăn một miếng cho biết. Trứng rồng ăn có ra gì đâu, nó xảm xịt mà hôi mùi tro thấy mồ. Không tin hỏi bả thì biết!

60__Xin đất làm nhà 

Nghe nói vùng Yên Lược, thuộc huyện Thọ Xuân, gần rừng núi, có nhiều đất hoang, Xiển di cư lên đấy ở.

Theo lệ làng, Xiển phải biện trầu rượu xin làng cho trú ngụ, rồi lại phải biện trầu rượu một lần nữa xin làng một mảnh đất lấy chỗ dựng túp lều tạm thời làm nơi ăn ở. Lý trưởng đánh trống họp làng, nhưng thực ra "làng" chỉ là bọn chức sắc, cường hào mà thôi. Thấy họ hay hạch sách, kênh kiệu, Xiển ghét lắm. Lần thứ hai mang trầu rượu ra đình, Xiển gãi đầu gãi tai thưa:

- Dạ, trình các cụ, con mới đến đây, ơn nhờ các cụ cho ở để hầu hạ các cụ, nhưng chưa có nhà cửa gì cả, muốn xin miếng đất đầu làng chó ỉa xin các cụ xét cho.

Lý trưởng thấy rượu thì tít mắt, liền nói:

- Tưởng gì chứ miếng đất đầu làng chó ỉa ấy thì được, nào xin mời các cụ ta chén đi thôi!

61__Rùa U Minh 

Đứng sau hè thấy khói lên trong hậu đất, tui lẩm bẩm như vậy rồi bỏ vô nhà. Mới bưng chén trà lên hớp một ngụm, thì thằng Sáu hào hển chạy qua kêu:

- Bác Ba ơi, ai đốt cháy Lung Tràm, rùa bò qua hậu đất bác lểnh nghểnh. Hai bác cháu mình ra dí bắt ít con, chiều rang muối nhậu lai rai chơi!

Nghe nói nhậu rùa rang muối, tui chép nước miếng, lật đật với cái bao bố tời rồi dông theo thằng Sáu liền. Rồi bác cháu tui vừa ra khỏi mé vườn thì thấy từ phía Lung Tràm rùa bò qua thật nhanh. Chúng còn ở xa ngoài kia, nhưng dường như thấy tụi tui nên nghểnh cổ nhìn. Đi tới chút nữa, bỗng bầy rùa ấy chụm đầu ngay vào phía tụi tui khẹt lửa. Liền đó, mấy trái đạn ĐK.57 nổ ầm ầm trên đầu. Hai bác cháu tui phóng xuống mương, bườn chạy một bữa muốn phờ râu. Biết sao không ? Xe lội nước chớ rùa gì!

Sau đó không lâu, cũng thấy lửa cháy ven lung như vậy. Cũng thằng Sáu hào hển qua, kêu:

- Bác Ba ơi ! Xe lội nước đốt sậy, càn qua tới hậu đất bác rồi kìa. Chạy trốn mau đi !

Hai bác cháu tui chạy một mạch qua tới Lung Bùn, chém vè cho tới chiều. Về chưa tới nhà thì thằng Ba Lùn chặn lại rủ vô nhà nhậu thịt rùa rang muối. Nó bảo là hồi trưa nó đốt giang sậy ven Lung Tràm, bắt được vài chục conr ùa. Nghe nói mà tui tiếc hùi hụi. Hồi trưa thấy bầy rùa bò đó mà tưởng đâu xe lội nước, bỏ chạy trốn. Thiệt tức!

Lại một lần nữa cũng thấy cháy giang sậy, cũng thằng Sáu chạy qua kêu :

- Bác Ba ơi ! Lần này đón bắt rùa thiệt đó.

Hai bác háu tui cảnh giác, đứng núp trong bờ chuối nhìn ra. Tụi tui thấy từ xa những chấm đen đang động đậy, nhích dần về phía mình. Thằng Sáu dợm chạy ra bắt. Tui nắm tay nó kéo lại :

- Chết mẹ ! Xe lội nước !

Xe lội nước thiệt. Chúng căng thành hàng ngang chạy qua. Hai bác cháu tui chạy một mạch qua Lung Bùn, chém vè vô đám nga. Hai người chia ra hai chỗ. Trốn trong con lung này đầy sình lầy, xe lội nước khó mà càn vô được.

Tui nằm co to trong một lùm nga, nghe tiếng xe chạy rù rù êm tai làm cơn buồn ngủ kéo ghị sụp mí mắt xuống. Trong mơ mơ màng màng, tui nghe xa xa có tiếng lửa cháy, sậy nổ rốp rốp, gần gần có tiếng rùa bò qua sột soạt. Trước mắt tui chập chờn hình ảnh những con rùa vừa bò ngang vừa ngóng cổ lên như nòng súng ĐK trên mui xe lội nước. Lại tốp rùa phía sau bò tới nữa, tới nữa... Rùa nhả lửa, khát đạn ầm ầm, rùa rùa... Có một con bò đến bên chân tui, thở phì phò, phì phò... Tui cứ nằm im, nói thầm trong bụng: Kệ cha mày, đừng gạt tao chạy ra bắt rồi gặp xe lội nước nữa. Nhưng con rùa đó thật là kì cục, cứ nhắm chân tui mà bò lên, thở phì phò nóng nổi. Hơi thở của nó hôi mùi xăng tanh rình. Người ta nói không thèm bắt rồi mà cứ ủi vào chân mãi. Tui nổi xung, tống cho nó một đạp thật mạnh. Con rùa văng lên khỏi đọt nga, rớt trái ra giữa lung bùn một cái rùm, nước văng trắng dã. Tui giựt mình tỉnh dậy vì bàn chân đau điếng. Đang ngồi xoa bóp bỗng nghe ai bò xột xoạt lại gần. Thằng Sáu! Nó đến sát bên tai, thì thào:

- Chết rồi bác Ba ơi ! Tính sau bây giờ ? Có một chiếc xe lội nước đang bò ngay vô chỗ này, bỗng nhiên nó lại văng bắn, lộn nhào ra giữa lung. Nó còn nằm ngửa bơi bơi hai sợi dây xích ngược lên trời như hai con cuốn chiếu lật ngược vậy đó

62__Yết thị 

Ngoài đường không có đèn. Tối đến, quan Phủ Doãn đi vấp phải người ta, lấy làm giận lắm. Sáng mai, quan ra yết thị:

"Ai đi đêm phải cầm đèn".

Ðêm hôm ấy, quan đi, lại vấp phải một người. Quan quở:

- Ngươi không đọc yết thị à?

Người kia đáp :

- Bẩm có đọc.

- Thế sao ngươi không cầm đèn?

- Bẩm có, tôi có đèn.

- Thế sao trong đèn không cắm nến?

- Bẩm, trong yết thị chỉ thấy nói cầm đèn, chớ không thấy nói cắm nến.

Quan Phủ Doãn về, sáng hôm sau lại ra yết thị :

"Ai đi đêm phải cầm đèn, trong đèn phải cắm nến".

Ðêm hôm ấy, quan đi, lại vấp phải một người.

Quan lại quở :

- Ði đêm sao không có đèn, có nến?

Người kia đáp :

- Bẩm, tôi có đủ đèn, có nến ?

- Thế sao người không thắp nến ?

- Bẩm vì trong yết thị không thấy nói thắp nến.

Quan Phủ Doãn về, sáng hôm sau lại ra yết thị :

"Ai đi đêm phải cầm đèn, trong đèn phải cắm nến, nến phải thắp'.

Nhưng một hôm, nửa đêm, quan đi, lại vấp phải một người có đèn, có nến, nhưng nến đã thắp hết rồi. Quan lại quở.

Người kia nói :

- Bẩm, trong yết thị không thấy nói hết cây nến này, phải tiếp cây nến khác ạ!

63__Chống ra, chống vô 

Có anh chồng kia rất ham ăn. Một hôm, hai vợ chồng đậu ghe ở gần bìa rừng, luộc một con gà cùng ăn. Ăn được vài miếng, nghe chị vợ xởi lởi:

- Con gà béo quá, hén mình!

Chồng vừa nhồm nhoàm nhai vừa quay sang mắng vợ:

- Đang đậu gần rừng mà nói "béo, béo", bộ hổng sợ cọp nó ra sao? Chống ghe ra!

Chị vợ lui cui lấy sào làm theo lời chồng. Còn anh chồng vẫn nghiến ngấu ăn, hết miếng này đến miếng khác.

Vừa ngồi xuống mâm, chị vợ nói:

- Tôi nói vậy có gì đâu mà mình nổi thầu lậu lên vậy?

Anh chồng quay sang nạt:

- Đang đậu giữa dòng mà nói "nổi thầu lậu", bộ muốn dông gió cho chìm ghe phải không? Chống vô!

Chị vợ không dám cãi, lại lúi húi chống ghe vô. Gặp nước chảy mạnh, toát mồ hôi chị mới đưa được ghe vào bờ. Đến lúc chị quay vào mâm thì chỉ còn lại mấy cái xương gà. Anh chồng nói với vợ:

- Phải cẩn thận vậy mới chắc ăn!

64__Chiêm bao gì mà cười 

Có anh sợ vợ, một hôm ngủ trưa, chiêm bao, bỗng cười khúc khích. Vợ thấy thế đập dậy, hỏi:

- Chiêm bao gì mà cười?

- À! Mơ lấy được vợ lẽ.

Vợ nổi cơn ghen, túm lấy áo chồng làm ầm ĩ. Anh chồng hoảng quá, vội phân trần:

- Chuyện chiêm bao chứ có phải chuyện thực đâu mà làm thế.

- Muốn chiêm bao gì thì chiêm bao, chứ chiêm bao như thế thì không được.

- Thế thì từ nay không dám chiêm bao như thế nữa.

Vợ lại bảo:

- Ngộ sau cớ chiêm bao như thế mà không cười thì ai biết đâu.

Chồng làm ra vẻ hối hận:

- Vậy từ rày tôi không ngủ ngày nữa vậy.

65__Làm ma mẹ 

Bọn chức sắc, hương lý trong làng lúc nào cũng nghĩ đến rượu thịt. Thấy bà mẹ Xiển vừa mới mất, chúng bắt phải làm ma, mời "làng" đến ăn uống.

Nhà Xiển nghèo lắn, đến khoai sắn còn không có ăn thì lấy gì làm ma, nhưng không làm chúng sẽ đuổi đi khỏi làng. Nghĩ được một mẹo, Xiển bèn đi nói khéo với những tên chóp bu:

- Chả nói các cụ cũng thừa biết, nhà túng quá, xin các cụ rộng lượng để được chôn cất ngày hôm nay cho mồ yên mả đẹp; còn việc ma chay, xin các cụ cho khất đến tuần mồng một sắp tới, vì còn phải vay mượn bà con xa gần, không gì cũng phải kiếm con lợn dăm chục cân, mươi đấu gạo xôi...

Thấy nhà Xiển nghèo túng thật, các "cụ" đành cho khất vậy.

Tuần mồng một tới, Xiển mua chịu được một con lợn thật to, thật béo, nhà chủ giao hẹn ba hôm sau phải trả đủ tiền. Xiển làm thịt ngay, rồi cất thịt vào trong buồng. Xiển nhờ người mời "làng" đúng chiều hôm ấy tới uống rượu. Khi "làng" đã tề tựu đông đủ, Xiển mới đem ít mỡ bỏ vào xanh với mười củ hành, rán lên. Mùi mỡ bay ra thơm phức khiến "làng" đang ngồi la liệt trong cái rạp dựng ở ngoài sân, cứ nuốt nước miếng ừng ực. Xiển bưng xanh mỡ cất đi, rồi lừa lúc không ai để ý, châm một mồi lửa lên mái bếp.

"Làng" đang chờ cỗ bưng ra, sốt cả ruột, bỗng nghe tiếng hô hoán nhìn ra thì thấy cái bếp đang bốc cháy. "Làng" hoảng quá, xôn xao ùn ra khỏi rạp. hầu hết những người đi đám đều quần trắng áo dài chỉnh tề, không dám xông vào chữa cháy. Bà con xóm giềng kẻ xách thùng, người vác câu liêm, chạy đến, thì cái bếp đã thành một đống lửa. Xiển mặt mũi, quần áo như ma lem, kêu khóc thảm thiết:

- Ối trời đất ôi là trời đất! Ối cha mẹ ơi là cha mẹ ôi! Ối làng nước ôi là làng nước ôi! Cháy mất hết cả bếp nước, cả cỗ bàn rồi, còn lấy gì mà làm ma làm chay nữa... i hi hi!

"Làng" tưởng cỗ bàn cháy thật, còn xơ múi gì nữa, không ai bảo ai, kẻ trước người sau, ra về cả.

Gà gáy đêm ấy, Xiển gánh thịt lợn đi chợ xa bán. Chiều hôm sau, Xiển mang tiền về trang trải xong nợ, còn thừa một ít, mua ngay mấy cây tre làm lại cái bếp.

66__Vả quan huyện 

Có một viên quan huyện hay nịnh hót quan trên để chóng được thăng quan tiến chức. Một trong những viên quan hắn thường bợ đợ là án sát Nguyễn Văn Tiêu, tục gọi là án Tiêu.

Ðể nịnh quan thầy, hắn ra lệnh cho dân hàng huyện không ai được nói đến tiếng "tiêu", ví dụ như hạt tiêu thì hải nói là hạt ớt... Hễ ai thấy người nào trái lệnh thì được phép vả vào mồm ba cái thật đau, rồi đem trình quan trị tội. Lệnh ban ra khiến Xiển đã ghét quan huyện lại càng ghét thêm. Ông mang một ít quần áo rách mướp xin vào bái quan. Quan hỏi có việc gì, Xiển thưa là nhà nghèo quá, gia tài chỉ còn một ít quần áo rách, nhờ quan cầm hộ cho lấy ít tiền về làm vốn sinh nhai. Tức thì quan nổi trận lôi đình thét mắng đùng đùng, vì xưa nay có ai dám cả gan đem quần áo rách đên bán cho quan bao giờ? Ðợi quan nguôi giận, Xiển mới nói:

- Dạ thưa ngài, xin ngài thương kẻ học trò nghèo túng này, không gì cũng mang danh là người quân tử...

- Quân tử gì mày! Ðồ quân tử cùng quân tử cố!

Xiển trần tình:

- Dạ, Khổng Minh túng Khổng Minh cầm ạ!

Nghe câu nói khó hiểu, quan chau mày suy nghĩ một lúc mới biết lời mắng của mình: "Quân tử cùng quân tử cố" với lời trần tình của Xiển: "Khổng Minh túng Khổng Minh cầm" (1) đã làm thành đôi câu đối hay tuyệt. Quan phục tài Xiển, thưởng cho một quan tiền, nhưng lại chọn cho cái thứ tiền chôn giấu dưới đất lâu ngày bị han rỉ hết cả. Xiển đỡ lấy quan tiền, cầm một đồng dằn mạnh xuống đất, tiếng kêu nghe cành cạch, rồi nói:

- Bẩm quan, tiền này không "ớt" được ạ!

Quan vô tình mắng:

- Mày điên à! Tiền này mà không tiêu được ư?

Chỉ chờ có thế, Xiển liền vả cho quan ba cái tát vào mồm như trời giáng. Quan hô lính bắt trói. Xiển ngăn lại nói:

- Chắc ngài vẫn chưa quên cái lệnh kiêng tên húy quan án ngài mới ban ra. Tôi làm vậy cũng chỉ là thi hành cái lệnh ấy của ngài mà thôi!

Quan sợ bọn lính biết chuyện thì mình thêm xấu hổ, liền đuổi Xiển ra.

67__Con xin xuống ạ 

Một anh trộm vào nhà một đôi vợ chồng trẻ, nấp trên chạn nhà, rình cơ hội. Trong đêm tối nghe có tiếng lục cục và tiếng chị vợ thì thầm: "Nó đâu rồi?"

- Ðây, đây! - Tiếng anh chồng.

- Nằm trên à? - Tiếng chị vợ.

Trộm ta lo quá, chắc vợ chồng nhà nó biết mình nằm trên chạn này rồi. Ðang nghĩ cách tháo, thì bỗng chị vợ thú quá kêu lên:

- Có sướng không? Có sướng không?

Trộm ta hoảng quá, van lạy rối rít:

- Lạy bà, lạy cả hai ông bà tha cho, con xin xuống ngay bây giờ đây ạ!

68__Khịt khịt, thèm thịt với xôi 

Tại một làng nọ, theo thường lệ, vào các ngày rằm, mồng một mỗi tháng, ông từ biện một cái lễ gồm nải chuối, be rượu đến thắp hương ở đền rồi bưng về.

Lần ấy, lúc ông trở ra đền thấy nải chuối chỉ còn vỏ, rượu không còn một giọt. Cho là thần đã hiện về. Nhất là khi ông thấy có một đống vải đổ trùm cái gì đó trên giường thờ và trong đó có tiếng phát ra : "Khịt, khịt, thèm thịt với xôi!".

Lập tức ông "Dạ, dạ!" rồi chạy ngay về bàn với cụ Lý. Nhưng cụ Lý vì đi lại với gái, bị vợ bắt được, chửi toáng lên, nên đi đâu vắng đã ba hôm nay. Bèn đến bàn với ông phó Lý, rồi về nhà làm xôi gà ra đền thắp hương cúng vái tử tế. Xong rồi ông đóng cửa đền lại để đó.

Cuối cùng lúc trở ra, thì cỗ xôi con gà cũng đã biến mất. Ðang lo thần quở lễ bạc, ông từ bỗng thấy cái đống trùm vải đỏ trên giường cựa quậy rồi nghe: "Soẹt! Soẹt" một tràng dài. Thắp đèn lên, ông thấy một người trùm một bức vải màu đỏ chạy thẳng một mạch ra khỏi đền, mùi thối nồng nặc. Hoá ra không phải thần mà là cụ Lý nhịn đói đã ba hôm, nay được bữa chén no nê nhưng không may bị đau bụng đi té re, ngài phải vùng chạy.

69__Tài nói láo 

Có một anh giàu rất sành về khoa nói láo, những câu chuyện anh ta bịa ra thần tình, khéo léo đến nỗi nhiều người đã biết tính anh ta rồi, mà vẫn mắc lừa.

Nhờ cái tài ấy, anh ta nổi tiếng khắp vùng. Tiếng đồn đến tai quan. Một hôm, quan đòi anh ta đến nha môn, chỉ vào chồng tiền và một cây roi song to tướng để trên bàn:

- Ta nghe đồn anh nói láo tài lắm, lâu nay thiên hạ bị anh lừa nhiều rồi.

Bây giờ anh hãy bịa ra một chuyện gì lừa được ta thì ta thưởng cho ba mươi quan tiền. Trái lại, anh không lừa nổi ta, thì sẵn chiếc roi song kia, ta cho anh ba chục roi.

Anh nói láo nghe xong, gãi đầu gãi tai, bẩm:

- Lạy quan lớn, đèn trời soi xét. Quả bấy lâu nay con mắc tiếng oan, con có nói láo bao giờ đâu ạ! Nguyên con có ông tằng tổ đời xưa đi Sứ bên Tàu, đem về được một bộ sách nói toàn chuyện lạ, con xem thấy hay hay, đem kể lại, nhưng chẳng ai tin, cứ bảo rằng con nói láo...

Câu trả lời gợi tính tò mò của quan. Quan liền bảo:

- Thế à? Vậy anh có thể cho ta mượn xem được không?

- Trăm lạy quan lớn... Ngài xá cho, vì... con làm gì có sách ấy! Con nói láo đấy ạ!

70__Cầm tinh con chó 

Có một người được mời đi ăn cỗ. Chủ nhà vừa mới nói câu "xin mời" xong, anh ta liền uống luôn mồm gắp luôn tay, ăn không biết chừng. Người ngồi cùng mâm hỏi:

- Anh cầm tinh con gì nhỉ?

Anh ta trả lời:

- Tôi tuổi Tuất cầm tinh con chó.

Người ngồi cùng mâm nói:

- May quá, anh tuổi chó chứ nếu là tuổi Hổ thì có lẽ ăn thịt cả tôi mất

71__Tính tuổi 

Một cặp vơ chồng nọ mới sinh được đứa con gái. Tập quán địa phương là dạm vợ gả chồng từ lúc còn bé, nên bà mối đến nhà dạm hỏi. Bà mối nói:

- Ðược đấy, đứa con trai kia năm nay mới 2 tuổi.

Bố con bé tức giận, chỉ tay vào mặt bà mối mà mắng:

- Cái đồ mối dỏm kia, mụ tính xem, con gái tôi năm nay mới 1 tuổi, thằng bé kia 2 tuổi. Giả sử con gái tôi 10 tuổi thì thằng ấy 20 tuổi, chênh lệch như vậy thì gả thế nào được.

Mẹ con bé ngồi bên cạnh, quay sang nói với chồng:

- Sai rồi, anh tính sai bét rồi. Anh nhẩm lại xem: Con gái chúng ta năm nay 1 tuổi, thằng bé ấy 2 tuổi. Sang năm, con gái chúng ta 2 tuổi, vừa bằng thằng bé kia, sao lại không gả

72__Sợ vợ 

Có một ông quan rất sợ vợ. Có người mách ông ta một kế như sau:

- Một hôm nào đó, ông uống nhiều rượu vào cho say, khi say rượu là không biết sợ ai cả. Nhân cơ hội đó, ông đánh cho bà ấy một trận nên thân, lần sau bà ấy mới biết sợ ông.

Vị quan nọ quả nhiên làm theo kế đó, uống rượu vào, ngà ngà say nên đánh vợ một trận khá đau. Vợ ông ta có sợ ông ta thật. Nhưng sau khi tỉnh rượu vợ ông ta hỏi:

- Hàng ngày ông hiền lành vậy, mà sao hôm nay ông độc ác thế?

Vị quan nọ nói:

- Lúc đó tôi say rượu chẳng nhớ gì cả.

Nghe chồng nói là say rượu đánh vợ, vợ ông ta chẳng nói chẳng rằng liền tát ông ta hai cái ù tai. Vị quan vội nói ngay :

- Không phải tại tôi mà là người ta bảo tôi làm thế đấy.

Vợ quan liền nói:

- Ừ, kẻ bày mưu đáng ghét thật. Còn ông, làm quan mà tai mỏng như vậy thì cũng đáng đánh lắm rồi.

73__Xiển trả lời vua 

Ðồn rằng có một lần vua ngự tuần ra Thanh Hóa. Nghe nói con cháu Trạng Quỳnh vẫn còn, vua bèn cho đòi đến. Xiển vâng lệnh tới hầu. Vua hỏi:

- Trước khi Trạng chết có trối trăng lại điều chi không?

Xiển đáp: - Dạ có ạ!

Vua bảo: - Thế nhà ngươi hãy thuật lại lời Trạng trối trăng cho ta nghe.

- Dạ tâu Hoàng thượng, cố tôi trước khi từ trần chỉ trối lại có một câu thôi ạ!

- Một câu cũng được, cứ nói ta nghe.

- Dạ, nhưng tôi không dám nói ạ!

- Tại sao!

- Dạ, nói ra sợ Hoàng thượng không được vui lòng.

- Ðược cứ nói, dù câu nói ấy thế nào ta vẫn không bắt tội.

Xiển năm bảy lần từ chối, vua năm bảy lần gặng hỏi, sau cùng Xiển mới thưa:

- Dạ, tâu Hoàng thượng, ông tôi kể lại rằng: "Trước khi cố tôi nhắm mắt, con cháu xúm xít quanh giường hỏi cố tôi có dặn con cháu điều chi không. Nhưng cố tôi không trả lời. Con cháu không yên tâm, cứ gặng hỏi mãi, cố tôi chỉ quát lên một câu: "Hỏi cái mả cha bay hay sao mà hỏi mãi thế?", rồi tắt thở.

74__Tứ chứng nan y 

Xiển làm thuốc. cho nên vua thường vời vào kinh chữa bệnh. Một hôm, vua đang nô đùa cùng bầy cung phi, thì thấy Xiển bước vào. Vua ngạc nhin hỏi có việc gì. Xiển đáp:

- Hạ thần nghe nói Hoàng thượng mắc phải bốn bệnh hiểm nghèo mà sách gọi là "tứ chứng nan y", nên vội vàng vào thăm Hoàng thượng.

Vua khó chịu nói:

- Thiên hạ ác miệng nói càn như vậy, chứ lâu nay Trẫm vẫn khỏe mạnh, có việc gì đâu! À thế "tứ chứng nan y" là những bệnh gì?

Xiển tâu: - Dạ "tứ chứng nan y" họ nói đó là què, mù, câm điếc.

Vua nổi giận:

- Ðộc ác đến mức ấy là cùng! Trẫm mà biết kẻ nào bịa chuyện phao đồn ra đầu tiên thì Trẫm sẽ cắt lưỡi chứ không tha!

Xiển nói:

- Hạ thần nghe thiên hạ đồn như vậy. Bây giờ mới biết là sai. Nhưng nghĩ cho kỹ, thì lại thấy là có nguyên do cả đấy ạ!

Vua hỏi: - Nguyên do như thế nào?

Xiển giả bộ rụt rè: - Xin Hoàng thượng tha tội kẻ hạ thần mới dám nói.

Vùa bằng lòng. Xiển nói:

- Thiên hạ thấy Hoàng thượng suốt năm chỉ quanh quẩn trong cung điện nên họ lầm tưởng là ngài què. Nước sắp mất mà Hoàng thượng vẫn ung dung vui thú, nên họ lầm tưởng là ngài mù. Trước cảnh núi sông bị quân giặc dày xéo mà Hoàng thượng cứ ngồi im, nên họ tưởng là ngài câm. Khắp nơi người ta đều kêu Hoàng thượng là kẻ hèn yếu, khiếp nhược nhưng ngài vẫn làm ngơ ký hòa ước hàng giặc, nên họn lầm tưởng là ngài điếc.

Vua biết Xiển chửi mình, tức uất người nhưng không đủ lý lẽ để bắt tội được.

75__Nhất bên trọng, nhất bên khinh 

Một anh thợ mộc hay chữ vào làm cho nhà một ông quan hưu trí. Ông quan thấy anh ta lanh lợi, nói năng hoạt bát, mới hỏi:

- Trước kia anh có học hành được chữ gì không?

Anh ta trả lời: - Bẩm có ạ!

Ông quan liền chỉ con ngựa bạch quí của mình đang đứng ăn ở góc sân, bảo:

- Anh thử làm bài thơ vịnh con ngựa xem, hay thì ta sẽ thưởng.

Anh thợ mộc ứng khẩu đọc:

Bạch mã mao như tuyết 

Tứ túc cương như thiết 

Tướng công kỵ bạch mã 

Bạch mã tẩu như phi

(Ngựa trắng lông như tuyết 

Bốn chân cứng như sắt 

Tướng công cưỡi ngựa trắng 

Ngựa trắng chạy như bay)

Quan gật gù khen hay, rồi thưởng cho một thúng thóc, một quan tiền.

Anh thợ ra về, gánh bên thúng thóc, bên đồ lề, thấy bên nặng bên nhẹ, liền nói chữ: "Nhất bên trọng, nhất bên khinh". Quan nghe nói liền cho thêm một thúng thóc nữa để gánh cho cân.

Anh ta về nhà kể lại câu chuyện cho mọi người nghe. Có anh hàng xóm, dốt đặc cán mai, nhưng thấy được lắm tiền, lắm thóc như thế, nổi tính tham, liền bảo anh thợ mộc dạy cho bài thơ và câu nói chữ nọ. Học thuộc rồi, anh ta cũng sắp một đôi quang gánh và một ít dụng cụ vào dinh quan xin việc.

Quan cũng hỏi như lần trước và anh này hí hửng đáp mình là học trò. Quan nhìn ra sân, thất bà cụ quét sân bèn bảo anh ta làm thơ vịnh bà cụ. Anh này đã hơi lúng túng, vì chỉ thuộc mỗi bài thơ vịnh con ngựa, bây giờ biết vịnh bà cụ thế nào? Nhưng đã trót thì phải trét cũng ứng khẩu đọc:

Bà cụ mao như tuyết...

Quan gật đầu: - Ừ, được đấy!

Nghe quan khen, anh ta vững bụng đọc tiếp:

Tứ túc cương như thiết

Quan cau mày: - Ý hơi ép, nhưng cũng tạm được, ngâm tiếp đi!

Mừng quá, anh này đọc một mạch:

Tướng công kỵ bà cụ, 

Bà cụ tẩu như phi.

Quan nghe xong giận quá, quát người nhà nọc ra đánh cho ba mươi roi vào mông. Ðứng dậy anh ta vừa xoa vừa nói: "Nhất bên trọng, nhất bên khinh". Quan nghe nói liền bảo đánh thêm ba mươi roi nữa vào lưng cho cân.

76__Ghen bóng ghen gió 

Một anh học trò có tính hay ghen muốn thử lòng vợ. Tối đến anh ta ngôi núp một xó, đợi vợ di qua thì chạy ra ôm chầm lấy. Vợ giật mình kêu lên. Anh ta mừng lắm, nói:

- Rõ thật phúc nhà mình. Ðược người vợ trinh tiết.

Một hôm, xem sử đến chỗ Tần Cối giết Nhạc Phi anh ta giận lắm, tay đang cầm cái chén, quăng xuống đất vỡ tan. Vợ thấy thế, nói:

- Cả nhà có mười cái chén, đập mất chín rồi, còn cái này lại đập nốt, lấy gì mà uống nước?

Anh ta nghe nói, trợn mắt quát to lên:

- À à! Mình bênh thằng Tần Cối à! Hay là mình đã thông dâm với nó?

77__Làm theo bố vợ 

Có anh chàng kia, tính rất khù khờ. Biết thế nên trước khi anh ta đi làm rể, mẹ anh ta đã đinh ninh dặn dò:

- Thấy bố vợ làm gì thì con phải làm theo, chớ đừng hếch mắt lên mà nhìn, người ta cười cho, nghe không?

Nhớ lời mẹ dặn, một hôm bố vợ đang cuốc đất, anh ta chạy lại đỡ lấy cuốc nói:

- Thầy để con làm cho.

Ông bố vợ vui vẻ trao cuốc cho, rồi đi trồng chuối. Thấy thế, anh ta lại chạy theo và bảo để đó anh làm cho.

Lần này ông bố vợ không nói gì cả, bỏ đi đốn tre. Anh ta lại chạy theo giật lấy dao. Bực mình vì anh con rể giành mất việc mà chẳng làm xong việc gì, ông ta bỏ về nhà. Dọc đường cái khăn bịt đầu vướng phải cành tre, ông ta cũng không buồn nhặt, cứ thế đi. Anh con rể không có khăn cũng vội cởi ngay áo treo lên cành tre, rồi tất tả chạy theo bố vợ về.

Về đến nhà, ông ta hầm hầm chạy vào buồng vợ sinh sự với vợ:

- Ðồ ngu! Chọn thế nào mà lại vớ phải một thằng rể điên. Sáng nay chẳng làm được việc gì với nó cả!

Hai vợ chồng cãi nhau, rồi ông ta đạp cho vợ một đạp.

Anh rể vừa hộc tốc chạy về, thấy thế cũng co cẳng đạp cho mẹ vợ thêm một đạp nữa ngã lăn kềnh.

78__Tri huyện Lê Kim Thằng 

Một hôm, nhân có lệnh của bọn chức dịnh bắt tất cả trẻ già trai gái làng hoàng Bột phải ăn mặc chỉnh tề để đi đón quan huyện Lê Kim Thằng về làng hiểu dụ, Xiển nghĩ ra ngay một kế. Xiển lẻn vào buồng ông nội lấy trộm chiếc áo thụng đỏ mặc vào, rồi đi thẳng ra đình, giả vờ chạy đi chạy lại lăng xăng ngay trước mặt quan huyện. Quan lấy làm lạ, cho lính gọi lại hỏi. Xiển xưng tên họ và nói là học trò. Huyện Thằng liền mượn ngay việc ăn mặc ngộ nghĩnh của Xiển ứng khẩu đọc một câu, bắt phải đối:

- Áo đỏ quét cứt trâu.

Xiển đối ngay:

- Lọng xanh che đít ngựa.

Huyện Thằng không ngờ bị một vố, tái mặt, dọa:

- Thằng này láo! Ðã thế, phải đối thêm câu này nữa, không đối được, tao sẽ cho ăn đòn.

Thấy tóc Xiển đỏ hoe vì đãi nắng lâu ngày, Huyện Thằng liền ra câu đối:

- Học trò là học trò con, tóc đỏ như son là con học trò.

Xiển không cần nghĩ ngợi lâu, đối tức khắc:

- Tri huyện là tri huyện Thằng, ăn nói lăng nhăng là thằng tri huyện!

Huyện Thằng tức ứa máu, nhưng vì Xiển đối rất chỉnh, không bẻ vào đâu được, đành câm miệng.

79__Ðổi bò gầy lấy bò béo 

Làng Yên Lược có một cái văn chỉ lộ thiên thờ Khổng Tử. Trâu bò trong làng thả ăn cỏ ở gần đấy kéo vào phóng uế cả ra bệ thờ. Bọn lý trưởng, cường hào thấy không tiện, bèn họp làng, giao cho Xiển phải trông nom, rào giậu lại, và đặt ra lệ hễ bò nhà ai vào, làng sẽ bắt làm thịt chia phần.

Lệ làng đặt ra, các nhà có bò đều dặn con hoặc người ở hết sức giữ gìn. Xiển có một con bò ốm, gầy như cái mo khô, cứ thả cho ăn ở gần đấy. Một hôm, Xiển để bò vào trong khu văn chỉ, cố ý cho dân làng biết.

Ðang thèm thịt bò, bọn lý trưởng, cường hào lập tức cho người bắt làm thịt. Xiển nói:

- Lệ làng đặt ra, tôi không dám kêu ca gì, chỉ xin làng nhớ cho từ nay trở đi bất cứ bò nhà ai, hễ vào văn chỉ là bắt làm thịt tuốt.

Sau đó ít lâu, Xiển mua mấy cỗ bài tam cúc, chia cho bọn trẻ chăn bò rủ chúng tìm đám đất khô ráo, phẳng phiu ngồi đánh. Bọn trẻ thích quá, xúm nhau, chúi mũi vào ván bài, chẳng để ý gì đến bò mẹ nữa. Xiển lừa cho tất cả đàn bò lại gần khu văn chỉ, rồi mở cổng ra. Thấy cỏ bên trong xanh tốt, một con vào, hai con vào, ba con vào, thế là những con khác cũng chen nhau vào theo. Xiển đóng cổng lại rồi chạy về gọi dân làng ra bắt bò. Bắt được hơn một trăm con, phần nhiều là của bọn lý hương cường hào giàu có trong làng. Chúng bàn nhau:

- Lần này, nhiều người đều phạm phải lệ làng, không lẽ ta đem làm thịt tất cả, vậy thì xin xí xóa.

Xiển nhất định không nghe, lấy cớ rằng lần trước làng đã ăn thịt bò của mình rồi, nay làng tự ý bỏ lệ, Xiển sẽ kiện quan. Sợ Xiển làm to chuyện, chúng bàn nhau đền cho Xiển một con bò, rồi bổ cho các nhà có bò bị bắt chia nhau chịu tiền. Xiển nhất định không nghe, nói:

- Chỉ có hai cách: một là đem làm thịt tuốt, hai là đem chia đều cho dân làng, mỗi nhà một con.

Bọn lý hương cường hào bàn với nhau mãi, cuối cùng phải bằng lòng theo cách thứ hai, vì chia như vậy thì chúng còn được mỗi nhà một con, chứ đem làm thịt thì mất cả. Thế là, không những Xiển đã đánh đổi được bò béo, mà những nhà trong làng cũng được mỗi nhà một con.

80__Sát sinh tội nặng lắm! 

Một người đánh cá đem cá vào chợ bán. Có nhà sư trông thấy, bảo:

- Ngày nào ngươi cũng sát sinh, tội nặng lắm! Ðể nhà chùa làm lễ sám hối cho, có bằng lòng không?

Người đánh cá hỏi: - Sám hối thì phải thế nào?

Sư bảo: - Bán rẻ cá cho nhà chùa để nhà chùa phóng sinh, thả xuống ao.

Người đánh cá nói:

- Vâng! Nhưng xin nhà chùa cho mỗi con năm tiền, chứ kém không được.

Sư nói:

- Nam mô phật! Sao đắt thế! Xưa nay nhà chùa vẫn mua cá rán ở hàng cơm cũng chỉ có ba tiền một con, nữa là cá chưa rán.

81__Sao đã vội chết 

Một ông thầy lang xưa nay vẫn khoe chữa bệnh giỏi, ngày nọ có một ông lão đột ngột lại hỏi:

- Lão nghe thầy chữa bệnh thần lắm, thầy đã chữa khỏi được mấy đám rồi?

Ông lang quả quyết đáp:

- Bao nhiêu đám mà nghe lời tôi là chữa khỏi hết.

Ông lão cau mặt nói:

- Thầy quên rồi à? Thầy bảo thằng cháu nhà tôi uống thuốc của thầy một năm thì khỏi, sao nó mới uống được ba tháng đã chết?

Ông lang xua tay nói:

- Rõ ràng tại cậu nhà không chịu nghe lời tôi. Tôi bảo uống thuốc một năm, sao mới uống ba tháng đã vội chết? Cứ uống thuốc đủ năm, xem có khỏi không nào?

82__Áp dụng theo lời thầy 

Ông thầy thuốc nam chữa cho một con bệnh, tới thang thứ tư bèn ngưng, năn nỉ cách mấy cũng không chịu hốt thuốc tiếp, cho rằng bệnh nhân đã cãi lời thầy lén ăn quít.

Học trò hỏi thầy:

- Sao thầy biết người ta ăn quít?

- Tao thấy vỏ quít bỏ đầy dưới gầm giường nên mới dám cả quyết! Ðó cũng là kinh nghiệm khi đi chữa bệnh, các con phải nhớ lấy!

Tháng sau, một học trò của thầy đi chữa bệnh ở làng bên nằng nặc cho rằng con bệnh đã lén ăn thịt gà nên từ chối không chữa tiếp. Người ta phân trần cách gì cũng không nghe, cuối cùng chủ nhà tức quá đập cho một trận rồi đuổi về.

Thầy bèn hỏi học trò:

- Tại sao mầy dám chắc nó đã lén ăn thịt gà?

- Con áp dụng lời thầy, khi trở lại thăm bệnh cho nó, con thấy để ở gần bên giường bệnh một cây... chổi lông gà còn mới!!!

83__Ðánh trống cấm 

Sau một thời gian làm mõ, Xiển lại phải làm đầy tớ hầu điếu tráp cho lão chánh tổng. Một lần, lão chánh tổng đi chơi xa, Xiển theo hầu.

Khi đến làng nọ thấy có một cái trống mặt to bằng cái nong, hai thầy trò lấy làm lạ quá, vào xem. Có tới mười người khách qua đường cũng đang bàn tán về cái trống đó, trên tang trống có đè mấy chữ: "trống cấm", nên chả ai dám lại gần. Bỗng Xiển lớn tiếng:

- Có ai dám đố tôi đánh cái trống cấm này không nào?

Một người cười:

- Ðến cố tổ nhà anh sống lại cũng không dám đụng đến nữa là anh.

Xiển một hai cam đoan là đánh được, không sợ gì cả. Trong số đó có một người buôn bán giàu có, trong túi sẵn tiền, cho là Xiển khoác lác, ngứa tai lắm, bảo:

- Anh đánh được đủ ba hồi chín tiếng tôi sẽ cho anh năm chục quan tiền!

Xiển nói:

- Năm chục chả bõ, ít ra cũng phải một trăm.

Người kia bằng lòng, bảo:

- Ðược, anh không làm được đúng như lời nói, thì phải ở cơm không cho tôi mười năm.

Hai bên làm giấy giao kè, có một người đứng tên làm chứng.

Xiển bắc thang, vác dùi trèo lên, dang thẳng cánh nện đủ ba hồi chín tiếng. Trống kêu, vang cả tai, nhức cả óc. Vài ba người nhút nhát, sợ liên lụy, vội tháo lui. Chiếu theo giao kèo, Xiển bắt người kia phải giao đủ số tiền.

Nghe trống đánh bất thình lình, dân làng kinh ngạc, lũ lượt kéo nhau ra đông như hội. Lý trưởng, tay cầm hèo, len qua đám đông, khệnh khạng bước vào đền quát tháo ầm ĩ. Xiển ra trước mặt lý trưởng vái chào rồi gãi đầu gãi tai nói:

- Dạ trình ông, tôi là khách qua đường, thấy cảnh làng ta trù phú, thấy đền ta linh thiêng, nên có năm chục quan tiền trước để hầu thánh sau hầu làng. Nhưng vì không biết làm thế nào gặp ông cùng tất cả dân làng được, buộc lòng phải đánh vài hồi trống, xin các ông đánh chữ đại xá cho.

Thấy có món tiền lớn, lý trưởng cùng hội đồng chức sắc thích quá, bàn nhau hãy trích ngày ra mười quan làm bữa chén đãi ông khách hảo tâm.

84__Cách bắt kỳ đà sống 

Nên biết là giống kỳ đà thích ở trong bọng cây. Hễ động động là chúng chun trốn, có trời mà kéo ra. Bốn chân nó giương móng thật sắc, bấu cứng vào bọng cây, nắm đuôi kéo ra chỉ có nước là đứt ngang thôi. Cách duy nhất là muốn bắt được kỳ đà chun trong bọng cây thì phải dần khúc đuôi cho nhừ ra, rồi lấy gừng thật cay đắp vô, chừng đó nó tự nhiên rũ riệt gân cốt, tuột ra thôi.

Vùng này có rất nhiều loại cây lớn mà bọng ruột như cây cuôi, tràm, trâm ... kỳ đà về bao nhiêu cũng đủ chỗ để chun trốn. Mấy vạn săn Sông Đốc, Đường Ranh thảy đều thúc thủ vô mưu. Riêng tui, đâu có chịu thua một cách dễ dàng. Thấy kỳ đà về mỗi lúc một nhiều, tui đến tận chỗ nghiên cứu mấy ngày nghĩ ra cách bắt chúng.

Đã nắm được chỗ yếu của nó rồi, tui về làm bẫy cò ke, gài bắt sống độ vài chục con, loại kỳ đà đực, thứ chạy giỏi nhất. Mỗi con tui buộc vô chót đuôi một củ gừng già, rồi cứ thả cho nó về nhập bầy. Chờ lúc chúng kéo nhau ra đi ăn, tui mới dắt chó tràn đến rượt chí tử. Lũ kỳ đà chạy về chỗ trú, chun hết vô bọng cây. Một bọng cây lớn chúng chun vô đến mấy chục con. Mỗi cây còn có một con ló đuôi ra, vì nó chạy sau chót. Tui sai bầy trẻ bắt ong vò vẽ ra cho chích vào khúc đuôi của con sau chót ló ra ngoài đó. Con kỳ đà bị ong chích đuôi đau quá nên nghiến răng chịu đựng. Nó nghiến nhằm chót đuôi con trên. Con bị bạn nhai đuôi đau quá nên cũng nghiến răng chịu, lại nghiến vào chót đuôi con trên nữa. Cứ như vậy, chúng bắt từ dưới nhai đuôi nhau vần công dài lên. Lên tới con trên hết, con kỳ đà đực mà tui buộc một cục gừng đó. Nó bị bạn nhai vào cục gừng. Rồi con nhai cục gừng bị cay quá nên chảy nước miếng ra. Con kế dưới nhấm phải nước miếng cay cũng bắt đầu chảy nước miếng dài xuống như vậy. Nước miếng có chất gừng cay chảy dài xuống, tự thấm vào đuôi chúng và chúng tự rủ riệt gân cốt mà tuột ra khỏi bọng cây. Chừng đó mình mặc sức bẻ móng, rút gân, trói ké chúng, chở đem đi chợ bán.

85__Diêm Vương thèm ăn thịt 

Trên dương thế, có một con lợn bị đem ra giết thịt. Hồn nó về kêu với Diêm Vương. Diêm Vương hỏi:

- Nỗi oan nhà ngươi như thế nào? Hãy nói rõ đầu đuôi nghe!

- Dạ! Họ bắt tôi làm thịt!

- Được rồi, hãy khai rõ ràng. Họ làm thịt như thế nào?

- Dạ, trước hết, họ trói tôi lại, đè ra chọc tiết. Xong họ đổ nước sôi lên mình tôi, cạo lông.

- Rồi sao nữa?

- Cạo sạch rồi, họ mổ ra, thịt tôi họ xé thành từng mảnh, chặt nhỏ bỏ vào rổ. Thế rồi... họ bắc chảo đổ mỡ vào, phi hành cho thơm, thêm mắm thêm muối xào lên...

- Thôi! Thôi... đừng nói nữa mà tao thèm!

86__Chim chuột ở U Minh 

Năm đó, tui làm đám mạ ở gần mé rừng. Nói là "làm đám mạ", vậy chớ có làm gì đâu. Ở xứ này mà, tháng hạn châm một mũi lửa là mặt đất bị cháy sạch, chờ tới sa mưa, đội lúa giống ra, coi chổ nào ưng ý là gieo.

Giống lúa tôi đã ngâm lên đủ ba càng một mộng đàng hoàng, từ trong nhà đội ra. Bữa đó trời trong, im gió. Nhưng không biết sao tui nghe dường như có mây che mù mịt trên đầu. Có cả tiếng gió rì rầm đâu xa xa trên đầu. Có cả tiếng gió rì rầm đâu xa xa nữa, ra đến nền đám mạ, tui để thúng lúa giống trên đầu xuống thì... Trời ơi! Chim dòng dọc với chim lá rụng nằm đầy nhóc thúng giạ. Chúng đã ăn sạch sẽ cái thúng lúa giống của tui, không còn một hột để nhổ râu. Nghe động, chúng bay lên cái rần chỉ còn lại cái thúng không.

Tức quá, tui về nhà ngâm thêm một giạ lúa giống nữa. Vài ngày sau, tui cũng đội lúa ra gieo y nền cũ. Lần này biết khôn, tui không để thua mấy con chim này nữa. Một tay tui vịn thúng, một tay cầm nhánh chà quơ quơ phía trên đầu. Vậy mà tới đám mạ, thúng lúa giống cũng bị chim ăn hết phân nữa.

Bây giờ mới bắt đầu gieo hột. Tui cặp thúng lúa vào nách, đi thụt lùi, vãi ào ào. Vãi hết thúng lúa giống, đến chừng coi lại thì không có một hột nào rơi được tới đất. Chuột! Chuột đứng xếp hàng. Con nào cũng vậy, một tay chắp sau đít, một tay đưa ra hứng lúa. Chúng vừa ăn vừa vuốt râu. Có mấy con chuột già không hứng được lúa để ăn, ngồi ngoài rìa đám mạ mặt mày buồn thiu.

87__Chưa ngán ai 

Tại một làng nọ có một vị sư rất là đức độ. Ông luôn giúp đỡ mọi người, ai cũng rất cảm mến. Ông tu tại một ngôi chùa tuy không lớn như Thiếu Lâm Tự bên Trung Quốc nhưng nói chung là khá lớn và nổi tiếng. Ngôi chùa có sân, có vườn cây ăn trái. Một ngày kia có một thằng nhỏ trong làng lén vào chùa hái trộm xoài bị nhà sư bắt được, không cho hái nữa.

Thằng nhỏ tức lắm mới về mách ba nó, nói rằng sư đã chửi nó, đánh nó. Nghe vậy, ông bố nổi giận chạy lên chùa kiếm sư.

- Thưa Sư, lâu nay con rất kính trọng Sư và xem Sư như là cha mẹ. Thế sao Sư lại chửi con tui vậy?

Nhà sư rất từ tốn, lui lại 3 bước và nói:

- Adiđà Phật, bần tăng chưa chửi ai bao giờ.

Ông bố đang trong cơn nóng giận, nói tiếp:

- Sư chửi nó thì thôi chứ, sao Sư lại đánh nó, nó là con nít mà.

Vị sư cũng rất hiền hòa, từ tốn lui lại 3 bước, chắp tay trước ngực, Sư nói:

- Mô Phật, bần tăng chưa đánh ai bao giờ.

Ông bố tức qua, quát vào mặt sư:

- Sao Sư chối hoài thế, Sư dám đánh con tui, sao Sư không dám nhận. Có ngon thì đánh tui luôn nè.

Vị sư vẫn lui lại 3 bước và nói:

- Thiện tai, thiện tai. Bần tăng chưa ngán ai bao giờ!

88__Quan lớn mua vàng 

Theo lệ ngày xưa, ai làm quan thì mua món gì chỉ phải trả nửa giá tiền, trừ mua vàng phải trả đủ.

Một ông quan nọ vừa đến nhậm chức, bảo hiệu bán vàng đem hai lạng đến bán cho ngài. Chủ hiệu vàng nghe tiếng quan dữ như cọp, mới bẩm:

- Vàng mỗi lạng thực giá sáu chục đồng, song quan lớn thì trả một nửa cũng được.

Quan cầm hai lạng vàng xem, rồi ung dung bỏ một lạng vào túi. Chủ hiệu tưởng quan chỉ mua có một lạng, còn lạng kia trả lại, nên khi quan vào nhà trong, anh ta vẫn đứng đấy đợi trả tiền. Hồi lâu quan ra, thấy vậy mới hỏi:

- Mua bán xong rồi còn đứng đấy làm gì?

Chủ hiệu vàng đáp :

- Con chờ quan lớn trả tiền cho.

Quan bảo:

- Tiền trả rồi, còn đòi gì nữa?

Chủ hiệu vàng đáp:

- Hai lạng, quan trả lại một lạng, lấy một lạng.

Quan nổi giận:

- Nhà người lạ thật! Nhà ngươi bảo ta trả một nửa cũng được. Ta mua hai lạng, nhưng chỉ lấy một, trả lại một chẳng phải là đã trả một nửa là gì!

89__Bức thư lạ 

Có anh lính đi xa, nhân có bạn ghế thăm, nhờ bạn đem về cho vợ ở nhà trăm quan tiền và một bức thư.

Giữa đường, anh bạn tò mò giở thư ra xem, không thấy biên số tiền gửi bao nhiêu cả, chỉ thấy vẽ bốn con chó, một hình bát quái, hai con dê và một cái chũm choẹ, nên nảy ra cái ý ăn bớt. Về đến nơi, anh ta chỉ giao cho vợ bạn bức thư và bốn chục quan thôi.

Người vợ xem thư biết thiếu tiền, lên quan nhờ phân xử. Quan hỏi :

- Chồng mày gửi người ta bốn mươi quan tiền, người ta mang về đưa tận tay cho, còn kiện nỗi gì?

Người vợ đáp :

- Bẩm quan lớn, anh ta ăn bớt ạ! Chồng con gửi cho những một trăm quan kia ạ! 

- Sao mày biết?

- Bẩm quan lớn, thư chồng con viết rành rành ra đấy xin quan xem thư, sẽ rõ!

Quan giở bức thư quái gở kia ra xem, không hiểu gì cả liền hỏi:

- Thế là thế nào? Bức thư không có chữ nghĩa gì cả, sao mày lại biết chồng mày gửi một trăm quan?

- Bẩm quan lớn, chồng con biến rõ ràng ra đấy. Bốn con chó là tứ cẩu, cẩu là cửu, tứ cửu tam thập lục, là ba mươi sáu. Bát quái có tám cạnh, bát bát vị chi lục thập tứ, là sáu mươi tư. Sáu mươi tư với ba mươi sáu chả là một trăm quan đó sao?

Quan cho phải, bắt anh kia trả số tiền. Nhưng ngài còn hỏi chị kia:

- Thế còn hai con dê và cái chũm choẹ là ý thế nào?

Chị ta sượng sùng không nói. Quan hỏi mãi mới thưa:

- Ðấy là nhà con vẽ đùa.

- Ðùa thế là có ý gì, phải nói ra.

- Bẩm quan lớn, hai con dê và cái chũm chọe là nhà con muốn hẹn con rằng, đến Tết Trùng dương (ngày 9 tháng 9) thì nhà con sẽ về thăm nhà... đấy ạ!

90__Anh hai vợ 

Một anh chàng hai vợ, tối đến phải ngủ chung với vợ lớn ở nhà trong, còn vợ bé thì nằm nhà ngoài.

Một đêm, trời đã về khuya, cô vợ bé hát:

Ðêm khuya, gió lặng sóng yên, 

Lái kia có muốn, ghé thuyền sang chơi.

Anh chồng muốn ra với vợ bé nhưng bị vợ cả ôm giữ, mới đáp rằng:

Muốn sang bên ấy cho vui, 

Mắc đồn lính gác khó xuôi được đò.

Nghe thấy vậy, chị vợ cả liền hát:

Sông kia ai cấm mà lo, 

Muốn xuôi thì nộp thuế đò rồi xuôi.

Cô vợ bé đáp:

Chẳng buôn chẳng bán thì thôi, 

Qua đồn hết vốn, còn xuôi nỗi gì.

Chẳng hiểu sau đó anh chồng có "xuôi" được không?

91__Có nhẽ đâu thế 

Hai anh bạn chơi với nhau rất thân, nhưng hay bắt bẻ nhau. Khi anh nọ nói câu gì, thì anh kia bảo "Có nhẽ đâu thế!".

Một hôm, hai anh bàn với nhau rằng:

- Từ rày hai chúng ta phải chừa cái thói ấy đi. Ðứa nào còn nói "Có nhẽ đâu thế", thì phải chịu phạt hai quan tiền và hai đấu gạo.

Hôm sau, anh kia gặp anh nọ, liền bảo:

- Ðêm qua, nhà tôi mất trộm...

Anh nọ hỏi:

- Mất những gì?

Anh kia trả lời:

- Mất cái giếng đằng sau vườn.

Anh nọ gân cổ lên, nói :

- Có nhẽ đâu thế !

Anh kia thích chí:

- Ðấy nhé ! Lại nói rồi đấy nhé ! Mai tôi sang nhà lấy tiền lấy gạo đấy !

Anh nọ tức lắm, về nhà thuật chuyện cho vợ nghe. Vợ bảo:

- Không lo, mai cứ giả chết, lấy giấy phủ lên mặt, anh ấy sang đã có tôi đối đáp cho.

Hôm sau, anh kia sang, vừa bước vào cửa đã nghe tiếng khóc. Vào giữa nhà thì thấy bạn mình nằm sóng sượt trên giường, chị vợ rũ rượi ngồi cạnh, giọt ngắn giọt dài.

Anh kia liền hỏi dồn:

- Anh làm sao thế ? Anh làm sao thế ?

Vợ anh nọ vừa khóc vừa nói:

- Nhà tôi chết rồi anh ơi ! Hôm qua không biết đi đâu về, vừa bước vào đến sân thì bị con vịt đá một cái chết tươi.

Anh kia buột miệng bảo:

- Có nhẽ đâu thế !

Anh nọ nhổm phắt dậy:

- Ðấy nhé ! Lại nói rồi đấy nhé ! Còn đòi lấy tiền lấy gạo nữa hay thôi?

92__Quan sắp đánh bố 

Một anh lính lệ tính cương trực, thấy quan huyện làm nhiều điều trái mắt, thường hay chế nhạo. Quan vẫn định bụng trị. Một hôm, có người đến vu cho anh ta ăn tiền ở ngoài chợ. Quan mừng thầm có có dịp báo thù, liền cho đi bắt về.

Anh lính lệ về, dắt cả thằng con đi theo. Quan vừa trông thấy, đập bàn, thét:

- Ðánh! Ðánh! Ðánh cho nó chừa cái tật ăn hối lộ đi!

Anh lính lệ ngoảnh lại thủng thỉnh bảo con:

- Con đứng lui ra. Quan sắp đánh bố đấy!

93__Thạch Học sĩ 

Tiến sĩ Thạch Mạn Khanh là người điềm tĩnh, hay pha trò. Một lần, ông ta cưỡi ngựa đi chơi. Người hầu dắt ngựa, không cẩn thận, nên làm cho Thạch Mạn Khanh bị ngã từ trên lưng ngựa xuống đất.

Quan viên tùy tùng vội chạy lại đỡ Thạch Mạn Khanh dậy phủi bụi đất, rồi đỡ ông ta lên ngựa. Thạch Mạn Khanh cười mà nói với mọi người.

- May mà tôi là Thạch Học sĩ (thạch là đá) chứ nếu là Ngõa học sĩ (ngõa là ngói) thì đã tan xác rồi nhỉ.

94__Xiển vào dinh tổng đốc xin tiền 

Gặp lúc hỏng thi, Xiển và mấy anh em bạn đồng môn ngồi buồn mới giở trò bù khú với nhau. Anh em biết Xiển có tài ứng đối, thách Xiển vào xin tiền quan tổng đốc.

Bấy giờ tổng đốc Thanh Hóa khét tiếng là một người hiếu sát. Xiển bắt anh em giao kèo: nếu xin được tiền thì anh em cứ tính một đền thành ba, nghĩa là anh em sẽ phải trả cho Xiển một số tiền gấp ba số tiền Xiển xin được của quan. Bằng không dám xin, hoặc xin không được thì Xiển phải thết anh em một bữa no say. Tưởng đùa vui, nào ngờ Xiển vào tận dinh quan. Ai nấy chắc phen này Xiển sẽ làm ma không đầu.

Một buổi sáng nọ, quan vừa mở mắt ra công đường đã thấy Xiển quỳ ở ngoài sân. Quan quắc mắt hỏi:

- Thằng kia! Mày tới đây có việc gì?

Xiển thưa:

- Bẩm cụ lớn, con muốn nhờ tay cụ lớn hóa kiếp cho con.

Quan quát: - Thằng này muốn chết à?

Xiển trịnh trọng nói:

- Bẩm chính thế à. Con nghe nói lưỡi gươm cụ lớn sắc lắm, nên muốn xin cụ lớn một nhát để hồn về chín xuối cho được mát mẻ.

Quan gắt:

- Thật là đồ điên, cuồng, ngu, ngộ. Vì sao mày lại muốn chết?

Xiển đáp:

- Bẩm cụ lớn, con là học trò thi hỏng, nhà lại nghèo, nghiệp đèn sách chẳng ra sao, nghĩ tủi thân hổ phận chả muốn sống nữa.

Quan thấy Xiển dáng người học trò nho nhã, lại đối đáp đâu ra đấy một cách bình tĩnh liền bảo:

- Nếu học trò học giỏ mà hỏng thi thì cũng còn đáng thương. Nếu dốt mà hỏng lại đòi chết thì chết cũng đánh đời. Vậy hãy ứng khẩu một bài thơ lấy đề là "điên cuồng ngu ngộ" ta xem.

Xiển vâng lời, ứng khẩu đọc một hơi, mối câu có một trong bốn chữ của đầu đề:

Cao Tổ điên hào kiệt 

Võ Ðế ngộ thần tiên. 

Tặng Ðiểm cuồng thiên địa 

Nhan Tử ngu thánh hiền

Nghe nói xong, quan biết Xiển có ý xỏ ngọt mình, song thấy Xiển là kẻ xuất khẩu thành chương, kính điển lau làu, văn thơ hàm súc, tỏ ra là người học thức rộng, lại có khí phách, liền thưởng cho ba chục quan tiền và bảo lui về.

Thế là từ đó, ngoài cái tên Xiển Bột còn có một cái tên nữa là Xiển Ngộ.

95__Tên nhà giàu bị chơi khăm 

Tại vùng nọ có tên nhà giàu lúc nào cũng vênh vang tự đắc cho là trong thiên hạ không ai lắm của, thông minh bằng mình. Một hôm nhà nó có giỗ, những khách được mời lại phỉnh phờ thêm làm hắn càng kiêu hãnh. Ðể chứng thực điều đó trước mọi người đang ăn uống, hắn cho đầy tớ đi gọi một người nghèo nhất trong làng đến bảo:

- Nhà ngươi hãy kể cho ta nghe một chuyện gì mà ta cho là nói khoác, ta sẽ cho nhà ngươi nửa gia sản và gả con gái cho, Bằng không, nhà ngươi phải đi ở không công cho ta suốt đời.

Anh nhà nghèo đứng nghĩ một lúc rồi xin kể : "Có một cái nhà tranh bị cháy, chỉ cháy rui mà không cháy tranh". Mọi người cho đó là chuyện nói khoác, nhưng tên nhà giàu bảo :"Khoác lác gì, cố Bợ thường làm được chuyện ấy".

Anh xin kể chuyện thứ hai :"Chắc ông đây cũng như bà con đều biết vợ tôi chết cách đây đã hai năm. Năm qua, hai con tôi cũng chết. Hôm vừa rồi vợ tôi sống lại về thăm tôi và bảo tôi, nếu thong thả thì đi thăm hai con. Tôi đi ngay, Vợ tôi liền chắp cho tôi đôi cánh và bảo tôi bay đi. Tôi bay lên trời. Ðiều kì lạ là tôi thấy hai con tôi đều mạnh khoẻ và giàu sang...".

Nghe đến đây, tên nhà giàu chen lời vào, hỏi:

- Thế anh có gặp cha ta không ? Chắc cha ta cũng sống nhàn hạ lắm nhỉ ?

Anh nhà nghèo vẫn thủng thẳng kể tiếp: "Vợ tôi bảo tôi hãy ở đây vài ngày với vợ con. Vừa lúc đó ông thân sinh của ông chạy ra. Ông thân sinh của ông thong thả lắm, chỉ làm công việc giặt giũ quần áo cho vợ con tôi thôi".

Tên nhà giàu nghe đến đây giận tím mặt:

- Ðồ lếu láo, thằng nói khoác !

Nhưng quát xong hắn biết là dại mồm, song biết nói sao, đành phải chia đôi gia tài và gả con gái cho anh nhà nghèo.

96__Tú Suất giành mền ông huyện 

Cũng là Tú Suất, bữa kia, đi lỡ đường trọ nhà quán. Ông huyện đâu cũng vô 

ngủ.

Nghề con nhà học trò làm quen với nhau mau lắm. Trò chuyện trà lá với nhau. Ai dè anh ta định tâm sẵn, lừa khi ông huyện đi ra ngoài mà làm dấu nơi góc mền, hòng xỏ ông huyện chơi.

Nằm kề nhau, khuya lại giả đò ngủ mê, giựt mền ông huyện mà đắp. Ông huyện tưởng cơn mê ngủ cũng để cho đắp. Sáng ông huyện dậy sớm ra đi kêu Tú Suất dậy. Anh ta đáp: "Quan huyện ngài có gấp ngài đi trước đi, tôi thong thả vậy" rồi nhắm mắt ngủ lại. Ông huyện nói: "Không thì trả cái mền cho trẻ nó bỏ vô xiểng cho rồi đặng có đi sớm chứ" Tú Suất nổi xung lên: "Ủa, ngài làm quan mà ngài nói cái mới lạ cho chớ, nầy! Mền của tôi đang đắp sờ sờ, ngài nói ngài đòi, thật ngài làm bỉ mặt tôi quá. Mền tôi có dấu của tôi đây rõ ràng...". Cãi không lại miệng, ông huyện nhịn thua bỏ đi.

97__Rắm của con đấy ạ 

Một bà huyện đến chơi nhà chị em, cùng đi có anh đầy tớ theo hầu. Ðương ngồi trò chuyện đông đủ, bà huyện bỗng vãi rắm ra. Anh đầy tớ đứng hầu sau lưng, vội bưng miệng cười. Lúc bấy giờ bà lớn tẽn lắm, nhưng cũng không dám nói gì.

Về đến dinh, bà mới gọi anh đày tớ vào buồng mắng một thôi một hồi:

- Ðồ ngu! Ðồ ăn hại! Không ra thể thống gì cả! Như người ta thì mày nhận là của mày, có được không? Ðằng này mày lại nhe răng ra mà cười như con khỉ! Bà lại đánh tuốt xác ra bây giờ!

Anh đầy tớ sợ mất vía, vội lui ra, rồi chạy một mạch đến nhà kia, thanh minh với mọi người:

- Bẩm các bà! Cái rắm bà con đánh lúc nãy là của con đấy ạ!

98__Thơ vịnh con chó 

Có một anh học trò nhỡ độ đường, vào huyện ăn xin, nói là học trò nghèo. Quan huyện vốn trước cũng là trò nghèo, thương hại, bảo:

- Có phải học trò thì ta ra thơ " Con chó" cho mà làm, làm được sẽ có thưởng.

Anh học trò nghĩ một hồi lâu đọc:

Thoạt thấy chúa về ngoe nguẩy theo 

Thương ôi! Con chó ngỡ con mèo.

Quan huyện nghe xong, phán:

- Học trò thật! Thơ không hay lắm, nhưng được cái đúng vần.

Liền thưởng cho một quan tiền và một thúng gạo. Anh kia lạy tạ ra về. Giữa đường gặp một anh học trò khác, anh này hỏi:

- Tiền gạo đâu ra thế?

Anh kia kể đầu đuôi câu chuyện. Anh này liền vào huyện, cũng nói là học trò nghèo, nhỡ độ đường vào huyện. Quan huyện cũng lại ra thơ như lúc nãy. Anh ta mừng quýnh, tưởng chuyến này ăn chắc, liền đọc:

Thoạt thấy chúa về ngoe nguẩy thời 

Thương ôi! Con chó ngỡ ông trời.

Quan huyện nghi anh ám chỉ mình, tái mặt, sai lính đánh mấy chục roi, rồi đuổi ra

99__Tin ma quỷ 

Ông chủ nhà hỏi đứa ở:

- Mày có tin ma quỷ không?

- Thưa không.

- Tại sao tuần rồi mày xin phép về chôn ông già vợ mày mà sáng nay ổng lại đến tìm mày?

100__Truyện Bác Ba Phi 

Săn heo

Có một lần, bầy heo rừng mười một con nối đuôi nhau đi hàng một, bác Ba Phi muốn bắt cả một bầy mười một con. Bác leo lên cây tràm, bầy heo đi tới, bác chặt từng con một giữa sống lưng, lần lượt từ con đi đầu đến con thứ mười một, chỉ chặt đứt xương, chưa chặt đứt da. Đến con thứ mười một đứng lại, bác mới chặt tiếp. Cả bầy dồn cục, con nọ xô con kia, miếng da lưng đứt nốt. Thế là bác hốt cả bầy heo.

Cọp xay lúa

Bác Ba Phi trai tài, bác Ba Phi gái cũng giỏi. Một đêm cọp mò về làng bắt heo và chó. Bác Ba Phi gái đem thóc đổ ra cối để xay. Bác trai gọi bác gái vào nhà có việc. Mấy con chó lẩn quẩn đứng chung quanh cối. Có một con cọp không rõ đứng rình từ bao giờ, thấy bác gái vừa đi khỏi, liền nhảy vô nhà bắt chó. Hai cái chân trước của cọp vồ trúng ngay giàng xay. Cọp gỡ mãi không ra, cứ kéo lui, kéo tới, kéo hoài. Cối gạo vừa đổ một loáng đã xay hết. Bác Ba Phi gái lại mang thúng thóc khác đổ vào cối cho cọp xay. Cọp cứ phải xay hoài. Bác gái bắt nó xay hết 25 giạ lúa mới thả cho nó ra.

Cây tràm và con nai

Có một lần, bác Ba Phi trèo lên một cây tràm lấy mật ong. Bác rủi trật tay té bảy ngày mới tới đất. Cây cao quá xá! Khi rơi bác đói bụng quá, cứ ngày phải nấu cơm ăn hai bữa rồi lại té tiếp.

Một bữa khác, trời nắng, bác xuống một cái bàu tắm, giặt áo phơi ngay trên gạc con nai mà không hay. Bác ngủ một giấc, khi dậy thì thấy một ổ ong đóng ở dưới bắp chân. Ăn hết ổ ong mật đến nửa thùng bác mới lấy áo mặc ra về. Con nai lúc đó mới vùng chạy và áo của bác phơi trên gạc nai cũng vừa khô.

Truyện cười 

Nguyễn Như Cương_*_Phạm Thùy Dương 

sưu tầm

Phần 3

101_Sọ đầu cá trê  

102_Cá nuôi  

103_Cái tĩn Nam Vang lẽ bạn  

104_Cây mận biết đi  

105_Ếch đờn vọng cổ  

106_Ôm cổ rắn  

107_Viết chữ thờ  

108_Con thanh tịnh  

109_Cứ đến vả vào mồm tôi  

110_Câm điếc  

111_Thừa giấy vẽ voi  

112_Tiền múa Chúa cười  

113_-Ông nọ bà kia  

114_Trả nợ anh lái đò  

115_Dê đực chửa  

116_Đất nứt con bọ hung  

117_Chết là rất sướng  

118_Bán kẹo  

119_Sợ vỡ mật  

120_Râu quặp  

121Chỉ tiêu chữ lẻ  

122_Mua kính  

123_Văn hay  

124_Hỏi đường lên trời  

125_Người không sợ súng đạn  

126_Đọc ngược  

127_Chàng rể bé  

128_Anh chồng tham ăn  

129_Ăn vụng gặp nhau  

130_Có hiếu  

131_Thương vợ con quá  

132_Trả lời vắn tắt  

133_Trứng ngót  

134_Thừa một con thì có  

135_Chàng ngốc nói chữ  

136_Gánh bưởi qua sông  

137_May quá  

138_Quả trầu không  

139_Heo đi cày 2  

140_Đừng có nói dối  

141_Nhân đức  

142_Con vịt hai chân  

143_Thối quá, thối thật  

144_Chết một ngàn năm  

145_Nói khoác gặp nhau  

146_Xin tiền tiên  

147_Mẹo bắt hổ  

148_Tài bắn giỏi  

149_Con rắn vuông  

150_Chuyện lạ phương xa

101__Sọ đầu cá trê 

Ông Tư đưa tay vuốt chòm râu bạc đang bung trắng trước ngực. Ông say sưa kể tiếp chuyện cái "sọ đầu cá trê" của bác Ba Phi cho con cháu nghe.

- Nè... tụi con ngồi yên, đừng chồm tới nữa, để ông kể nữa cho nghe. Nhà bác Ba hồi đó có nuôi bầy heo nái... Ờ... ờ... chuyện này mấy con nghe chưa? Số là hôm nọ tới ngày bán đàn heo rồi, mà bầy heo đi đâu chẳng thấy hẻo lánh về. Bà con lối xóm tới bắt heo con, đứng chờ đông nghẹt, chật cả nhà. Sốt ruột quá, bác Ba lội đi lùng kiếm khắp vườn chẳng thấy.

Chắc là bị cọp ăn hết rồi! Bác Ba thất vọng than thở, vừa lê từng bước nặng nhọc trở về nhà.

Vừa tới sàn trước, bác giật mình thấy vật gì cứ làm nhúc nhích, nhúc nhích cái sọ đầu con cá trê trông hình như cái sọ đầu muốn "bò" đi mà "bò" không được. Trời đất, lại ma quỷ ám ảnh nữa rồi, hay là...

Bà con đứng chờ bắt heo trong nhà nghe tiếng bác Ba kêu la, liền chạy ra. Một tốp đứng cầm cây, dao mác vây quanh chực sẵn, số bà con còn lại thì ráp nhau cùng bác khiêng lật ngược sọ đầu cá trê lên. Hổng ngờ bầy heo con từ trong vù chạy ra. Con heo nái mẹ vú lòng thòng cũng chạy vụt ra theo.

Mọi người mới bật ngửa, cười ồ. Thì ra lúc nãy, heo nái mẹ dẫn đàn heo đến sàn lăng ủi tìm cái ăn, nhưng nó ủi phá thế nào, làm sọ đầu cá trê của bác Ba lật úp lại nhốt gọn lỏn bầy heo, cả mẹ lẫn con vào bên trong.

Kể tới đây, ông Tư đưa tay lên nắn nắn sửa lại cái búi tóc sau ót. Ông cười hề hề:

- Cái sọ đầu cá trê của bác Ba thời đó bự cỡ vậy lận đó, các con!

102__Cá nuôi 

- Nè nè. Anh em đừng chài cá bổi. Cái bổi ăn không được đâu! Anh em bộ đội thì tui thương lắm, mới nói cho mà biết vậy đó. Cá bổi tui nuôi trong vuông đất này là loại đặc biệt, chớ không phải loại thường nuôi để bán đâu. Chú em mầy cất chài đi. Cá bổi phệt của qua coi lớn bằng cái quạt mo vậy, chớ thịt ăn chát ngấm thôi. Vô nhà biểu mấy đứa nhỏ lấy vài cần câu cá rô với một cần câu cá lóc ra đây. Đứa bắt cào cào, đứa bắt nhái nhót mà câu, mà nhắp một hồi ăn chết mệt không hết. Mấy con cá bổi phệt lỡ chài lên được đó, thả xuống đìa lại đi. Thứ cá rô mề của qua, hai đứa câu một lát có mà khiêng, chớ quân ngũ nào ăn cho hết. Con nào con nấy bằng bàn tay xòe, da đen trạy, trứng óc nóc, đuôi đỏ chót, mỡ cứng như mỡ rùa vậy. Còn nói chi đến thứ cá lóc kềnh của qua nuôi. Con nào mà không mọc hai sợi râu dài cỡ lóng tay sắp lên. Chú em mày thử nhắp lên vài con cá lóc thì biết. Tụi nhỏ xóm này thường lấy vảy cá lóc của qua làm đồng xu để đánh đáo đó. Vì cá của qua có cho ăn mồi đàng hoàng mà. Loại nào cho mồi nấy. Chú em mày trông thấy đó! Vườn qua trồng rặc có ba thứ cây: xoài, cau với dừa. Suốt năm cây sai oằn cứ để cho trái rụng xuống cho cá ăn. Cá bổi thì ăn cau tầm vun nên thịt nó chát ngấm. Cá rô thì ăn xoài, bởi vậy cá rô nấu canh chua không cần bỏ me, dầm me gì đâu. Nè! Ráng nhắp ít con cá lóc mang về tối nấu cháo ăn tẩm bổ nghe. Cả vườn dừa của qua vậy đó, dừa khô cứ rụng xuống mương, rụng bao nhiêu thì cá lóc táp ăn hết trọi. Bởi vậy thịt cá lóc nấu cháo thì khỏi phải vắt nước cốt dừa mà ăn cũng béo ngậy.

103__Cái tĩn Nam Vang lẽ bạn 

Mấy chú hỏi tại sao nhà tui có cái tĩn Nam Vang lớn mà tốt vậy à? Cái tĩn màu da lươn bóng ngời, đựng trên một giạ gạo đó. Hồi xưa, nhà tui có chẵn cặp chớ đâu phải cu ki một cái này. Cặp tĩn của ông bà để lại mấy đời. Từ miệt Sa Đéc, vợ chồng tui xuống chỉ có một cặp tĩn đó với chiếc giỏ mây, đến đây sanh cơ lập nghiệp. Gia sản lưu truyền mà, nhưng đã bị mất đi một cái. Mỗi lần nhớ tới, tui thấy tiếc hùi hụi trong bụng.

Đó là một buổi chiều, tui xác cặp tĩn ra lung , định múc nước về xài. Ra đến, thấy cá rô phóng như cơm sôi, tui mới nghĩ cách kiếm vài con cá để chiều ăn. Tui bẻ một nhánh trắm con làm cần câu, bứt sợi dây bẫy cò của ai đó làm nhợ, rút cây lông nhím trên đầu tóc xuống uốn cong làm lưỡi câu, bắt một mớ cào cào làm mồi. Cá rô vùng đất U Minh này hồi mới khai mở thì khỏi phải nói, con nào con nấy cân nặng tay, màu da đen trạy, có râu. Vừa bỏ mồi xuống là thấy "chàng y" đớp liền. Nhợ câu bị lôi xiên xiên về phía trên gió. Mình nhóng nhóng thử ngọn cần câu, nghe bên dưới trì trì thì giật lên một cái. Một chú rô mề đỏ đuôi, có hai sợi râu dài thượt, giãy lõm bõm. Cứ vậy mà lôi lên. Cái miệng tĩn vòng cỡ hai gang tay, nhưng phải cầm con cá rô ấn mạnh thì cái đầu nó mới chụp được vào trong. Tui vừa câu vừa "ấn" một hơi độ nửa tiếng đồng hồ thì đầy nhóc một tĩn cá. Còn lại một tĩn múc nước, tìm một khúc cây làm đòn, gánh về. Đến chừng bắt cá ra làm thịt, bà vợ tui cằn nhằn vì lấy cá ra khó quá. Thử hỏi, cá rô mà cầm hai tay ấn mạnh cái đầu nó mới phụp vô miệng tĩn thì tới chừng bắt ra làm sao lôi ngược nó ra được? Bị vợ cằn nhằn một hồi tui nổi khùng, xách cây đập cái tĩn một phát cho xong. Thế là bây giờ chỉ còn có một cái.

104__Cây mận biết đi 

Thu hoạch mùa màng xong rồi cứ ngửa ra nằm gác giò giàn bếp, nghỉ ngơi riết rồi cũng đâm ra chán. Tui móc đất vò bậy vài chục viên đạn bắn ná thun chơi, rồi thả rề rề ra hậu đất. Mọi khi ở con bờ này vào những buổi trưa trích cồ về đậu nghỉ mát nơi ngọn cây đen kịt. Vậy mà bữa nay im lìm, vắng hoe. Đi vòng vòng một hồi, tui thấy buồn, bắn bậy ba con chim sâu một hồi hết sạch mấy chục viên đạn. Nghe khát nước, tui rề lại cây mận chổ góc bờ để bẻ vài trái ăn chơi. Đến nơi, thấy cây mận sai trái, chùm nào chùm nấy oằn xuống như buồng dừa nước. Cái thứ mận rài này coi trái bóng lưỡng vậy chớ bên trong hột lớn.

Tui leo lên cây mận, nằm ngửa chỗ cháng ba, bẻ từng trái nhấm nháp. Tàng cây mát như che dù, lại có gió thổi hiu hiu, tôi nghe lòng thơ thới làm sao. Cộng thêm mấy con chim chìa vôi "kéo đờn vu-long" đâm hứng chí, tui nói lối rao ra giọng nam xuất một hồi rồi vô mùi sáu câu vọng cổ. Đôi mắt lim dim mơ màng, tui đưa giọng ca trầm bỗng theo làn gió rì rào qua đọt cây. Các loại chim nghe tui ca, bu quanh, nhảy nhót, hót theo ríu rít. Đến chỗ xuống mùi, tui búng song loan cái tróc, bỗng nghe tiếng động rột rẹt. Mở mắt ra, tui vụt thấy một con nai chà cũng đang đứng gần bên thưởng thức giọng ca của tui. Thấy con nai chờn vờn sắp chạy, tui vội vã bẻ một trái mận bóc lấy hột, nạp vô ná thun bắn vào mặt nó một phát. Hột mận xuyên lủng vào mắt con nai. Nó đau quá, la lên "bét bét" rồi chạy tuốt vào rừng.

Câu chuyện con nai đó lâu ngày tui đã quên mất. Đến ba năm sau, nào ngờ một bữa tui đi gặt lúa ở miếng đất cặp mé rừng thì được tái diễn lại. Số là vào lúc nắng trưa gay gắt, tui máng vòng hái lên cùi chỏ tay đi lại bờ để tìm một bóng cây đụt mát. Hai mắt đã tá hỏa nên tui tấp đại vào một tàng cây gần nhất mà ngồi dựa lưng. Hết cơn mệt, tui nhìn kỹ lại, cây ấy là một cây mận. Ôi nó đang sa oằn những trái! Buồn ngủ lại gặp chiếu manh, tui với tay bẻ vài trái mận ăn thử. Mận này cũng khá ngọt, nhưng sao lại có mùi hơi tanh tanh.

Tui với bẻ một trái nữa. Nào ngờ cây mận vụt nhích đi chỗ khác và kêu lên một tiếng "bét". Tui giật mình, đứng dậy. Ối trời ơi! Cây mận vụt tốc chạy ào ào vào phía rừng!

Lấy làm lạ tui đuổi theo xem thử. Chẳng ngờ tui càng rượt theo, cây mận càng chạy nhanh hơn, để lại đằng sau những tiếng kêu "bét bét".

105__Ếch đờn vọng cổ 

Tui có bầy vịt, hễ bum búp lông cánh là lần lượt bị mất sạch trơn. Tức quá, rình mò mấy bữa tui mới biết là bị ếch ăn. Chỗ đuôi đìa, dưới gốc bụi tre có một hang ếch lớn quá cỡ.

"Ăn thịt vịt tao thì mày phải đền mạng" - Nghĩ vậy, tui mới lấy sợi dây thép quai thùng dầu uốn thành một lưỡi câu, lấy sáu sợi dây chì bệnh lại làm nhợ, một đầu buộc con vịt xiêm vừa ra ràng, một đầu buộc vào bụi tre.

Mặt trời lên độ một con sào. Tôi ngồi rình, thấy một con ếch bà từ trong góc tre lù lù lội ra. Con ếch thấy con vịt, men lại ngửi ngửi rồi lắc đầu, bỏ đi. Biết nó chê con vịt này còn hôi lông nên chưa chịu ăn. Bữa sau, tui đổi một con vịt mái đang đẻ, mập sà đít. Hừng sáng là tui cũng đến chổ hôm qua ngồi rình.

Cũng đến lúc mặt trời lên độ một con sào, con ếch bà đó lại cũng vạch bèo lội ra. Trông thấy con vịt ta mập ú, nó ngó dáo dác, mặt mày hớn hở, gật gật đầu mấy cái. Con ếch khỏa bèo, hớp nước súc miệng sào sạo, phun ra cái phèo rồi chồm tới bên con vịt. Nó nhướng mắt, táp bụp rồi nhai rau ráu, nuốt một cái ực. Như vướng phải lưỡi câu, nó nhợn trở ra. Thấy tình thế không xong, tui vụt đứng dậy la "ếch" một tiếng. Con ếch giật mình nhào ngang, bị lưỡi câu xóc hàm hạ, nó giãy đùng đùng sáu sợi nhợ cây thẳng băng. Nó lúc la lúc lắc cái đầu, sáu sợi dây chì rẽ quạt ra. Hai tay nó quày lia lịa. Sáu sợi dây bật ra những tiếng kêu bỗng trầm "tằng tăng, tủng tẳng" khác nhau. Tui ngồi nghe. Sao có chổ vô sang, ra hò mùi quá! Một hồi phát ngứa miệng, tui ứng thanh theo, ca bậy vài câu vọng cổ chơi...

106__Ôm cổ rắn 

Mùa hạn năm đó, tui đi ăn ong mật sâu trong rừng U Minh. Đến trưa, ngồi dựa lưng vào gốc cây tràm nghỉ mát, tui móc gói thuốc ra ngồi hút. Thấy đằng kia, cách chừng ba công bề đứng, có một cây móp hay cây gì đó chết khô, cành lá rụng rơi đâu hết, chỉ còn lại thân cây trơ trọi. Cây khô này cao hơn các cây xung quanh. Gốc ngọn nó nứt nẻ, thẳng băng, da đen hơi mốc, trên có cái cháng hai. Một điều kỳ lạ là mỗi khi có con chim nào đậu lên cháng hai đó liền bị mất hút, không thấy bay ra.

Tui cũng không để ý, cứ quảy gùi, xách mác đi ăn. Đến xế qua, mật ong đã đầy gùi, tui định về, bỗng nghe có tiếng lửa cháy ào ào từ phía trên gió. Rừng U Minh này bị lửa cháy vào mùa hạn thì ngọn lửa bốc cao ngất trời, táp tới ầm ầm, như một trận bão. Đi rừng mà gặp lửa cháy thì phải mau mau đào đất trấp, chui xuống dưới hoặc trèo lên những cây thật cao, chờ lửa cháy ào qua chớ không phương nào chạy kịp. Lúc đó tui đào đất trấp chui không kịp, phải chạy tìm cây cao mà leo. Tui chạy đến, quăng bỏ gùi mật ong, bỏ cây mác còn lại và tìm được một cây. Tui ôm cây, trèo lên tuột xuống. Cái cây gì mà trơn chuồi, thót lên ba phóng thì bị tuột trở xuống hết hai. Nhưng lửa cháy đã tới gần, tui phải cố trèo. Trèo lên vừa tới chỗ cháng hai thì lửa cũng vừa cháy tới, nhưng chổ cháng hai cái cây sao có nhiều mảnh dầm lười xười tách ra đâm tay tôi đau quá. Mặc dù mỏi run tay nhưng ngó xuống thấy lửa đã cháy tới phía dưới, tui lấy làm khoái chí.

Lửa cháy qua rồi, tui định tụt xuống, nhưng sao nghe cái cây động đậy. Rồi ngay chổ cháng hai lại mọc ra nhánh chà cây quơ qua quơ lại, cào cào vào đầu tui. Tui thụt xuống chút nữa. Cái cây kia cứ ngoéo xuống quét vào đầu tui, vào cổ tui. Nó còn trây vào mình tui một thứ gì nhớt nhợt như nước miếng. Trời đất! Chổ cháng hai lại có hai cái mu lồi ra láng bóng và rực sáng như đèn xe hơi. Trời! Khi không hai cây khép lại, mở ra nghe bầm bập... Hồn vía lên mây, tay chân rũ liệt, tui ngã người ra, sút tay rớt luôn xuống đất. Hai lỗ tai nghe vo vo, mắt nhắm híp lại, phú mặc số mạng cho trời đất.

Khi rớt xuống tới đất, tui thấy mình nằm y chổ ngồi hút thuốc hôm qua. "Cái cây" đằng kia bắt đầu bò đi, le lưỡi, thổi hơi phèo phèo.

107__Viết chữ thờ 

Vùng Lệ Thủy người ta gọi học trò là thầy khóa. Hồi còn là "thầy khóa", nhà bố vợ lập cái bàn thờ nhỏ ở nơi bếp, ông bảo Phủ Tuấn:

- Khóa Tuấn học hành xưa nay, bây chừ viết cho tui mấy chữ để thờ.

Khóa Tuấn liền lấy giấy bút viết hai chữ lớn : "TUẤN CAO". Ông bố vợ không biết chữ, kính cẩn treo lên bàn thờ. Một hôm, có người khách trông thấy hỏi :

- Chữ thờ trong bếp răng lại "Tuấn Cao". Anh Tuấn đã chết đâu mà bác lập bàn thờ.

Bố vợ sửng sốt, gọi khóa Tuấn đến trách:

- Tưởng mi học hành khá, tui nhờ viết chữ thờ, ai ngờ mi lại viết tên mi để thờ !

Khóa Tuấn thưa :

- Bẩm thầy! Ai nói rứa là họ chưa thông đấy thôi. Con viết đúng ý thầy đó ạ "Tuấn cao" nghĩa là "Táo quân". Ở bếp thờ táo quân răng gọi là dốt được !

108__Con thanh tịnh 

Ông quan nọ muốn ăn thịt ếch, sai lính đi bắt, nhưng lại không muốn dùng tiếng "ếch" nghe không sang, bảo là đi bắt con thanh tịnh, ý nói trong sạch, không ăn bẩn.

Lính nghĩ nát óc mà không hiểu "con thanh tịnh" là con gì, gặp ai cũng hỏi. Hỏi nhà sư, nhà sư nói:

- Ở trên đời này, chỉ có nhà tu hành là thanh tịnh thôi!

Lính mừng quá bắt sư trói lại, lôi về để dưới nhà giam, vội vàng lên công đường thưa:

- Bẩm con đã bắt được con thanh tịnh về đây rồi ạ.

Quan truyền: - Thế thì chặt đâu lột da cho ta!

Sư nghe, sợ mất vía, lạy lục:

- Nhờ anh lên bẩm quan, hôm qua tôi có ăn mấy miếng thịt cầy, chẳng được thanh tịnh nữa, xin quan xét cho!

109__Cứ đến vả vào mồm tôi 

Có người đi hỏi thầy bói: "Ông xem tôi sẽ sống được bao lâu?"

Thầy bói tính toán một hồi lâu: "Ông thọ lắm, phải sống đến 94 tuổi!"

Người nọ lại vặn: "Có thật sống đến 94 tuổi không?"

Thầy bói trừng mắt: "Tôi xưa nay chưa từng nói láo. Nếu ông không sống đến 94 tuổi mà chết trước thời hạn đó thì lúc chết cứ đến đây mà vả vào mồm tôi"

110__Câm điếc 

Nổi tiếng là người thông thái, hiểu rộng, biết nhiều, nhưng Quỳnh ngán chuyện cử nghiệp. Mỗi lần triều đình mở khoa thi, nhiều người giục chàng lều chõng ứng thí, chàng đều gạt phăng nói sang chuyện khác.

Lần ấy, vì nể ý thầy học, lời khuyên của bạn bè dân làng, Quỳnh đành đi thi cho phải phép. Năm đó, nhà chúa mừng sinh được con trai, các quan trường bèn nảy ra ý nịnh hót chúa, bàn nhau ra đề thì nói về điềm lành của đất nước. Đoán được ý ấy, Quỳnh nghĩ ra cách làm một bài văn phải hàm được hai nghĩa: bề ngoài, đọc lên nghe như lời ca ngợi công đức của Chúa và sự an vui của mọi người, nhưng ẩn ý của nó lại là một sự phủ định. Trong bài văn ấy có hai câu khái quát hiện trạng đất nước như sau:

"Quan tắc cổ, dân tắc cổ, đái hàm quan Nghiêu Thuấn chi dân" (Nghĩa là: Quan cũng theo phép xưa, dân cũng theo phép xưa, đội ơn quan, dân được sống đời Nghiêu Thuấn) và đối lại:

"Thượng ung tai, hạ ung tai, ỷ đầu lai Đường Ngu chi đức" (nghĩa là: Trên cũng vui thay, dưới cũng vui thay, dựa vào đám đầu lại có đức độ thời Đường Ngu)

Mới nghe đọc lần đầu, chúa Trịnh đã khen: Hay quá! Xứng đáng cho giải nhất! Quan chủ khảo liền đứng lên tâu với Chúa:

- Khải chúa! Trong hai câu ấy, thần thấy có cái ẩn ý không thuận.

- Quan thật đa nghi quá. Ca tụng công đức của chúa như vậy mà còn gì không thuận?

- Khải chúa, cứ theo cái nghĩa chữ Hán thì hai câu ấy đúng là hay thật, nhưng Quỳnh là loại thâm nho, từng đã dùng chữ nghĩa chơi khâm nhiều người, và chắc hắn không bao giờ bằng lòng thứ văn chương một nghĩa. Theo sự hiểu biết cạn hẹp của thần, thì hai câu ấy xướng theo nghĩa đồng âm trực tiếp nghe ra ngại lắm, không dám đọc lên để chúa thưởng lãm.

- Ta cho phép, quan cứ nói.

- Khải chúa, nếu vậy thì thần xin thưa. Hai câu ấy có dụng ý phỉ báng, táo tợn. Nếu đọc theo kiểu nôm thì rõ là câu chửi tục.

- Chửi tục không sao, nhà ngươi cứ trình bày ta nghe thử!

- Vậy thần xin mạo muội thưa: "Quan tắc cổ, dân tắc cổ" có nghĩa là "trên cũng câm, dưới cũng câm," thưa tắc cổ là câm không dám nói đấy ạ! Còn "đái hàm quan Ngiêu Thuấn chi dân" tức là "đái vào hàm bọn quan dám bảo rằng dân chúng đang sống dưới thời Nghiêu Thuấn".

- Nếu quả vậy thì Quỳnh láo thật!

- Khải chúa, chưa hết đâu. Câu sau này còn hàm ý báng bổ tệ hại hơn. "Thượng ung tai, hạ ung tai" có nghĩa là "đứa trên thối tai, đứa dưới cũng thối tai", là cả trên dưới, ai ai cũng là một lũ điếc đấy ạ. Vì điếc hết nên không biết rằng "ỷ đâu lai Đường ngu chi sĩ" nghĩa là "ỉa vào đầu lũ nha dám bảo rằng kẻ sĩ đang mở mặt giữa đời Đường Ngu".

Quỳnh lần ấy bị đánh hỏng nhưng lại có cơ hội đả kích vào thói xu nịnh của đám quan trường và "chọc" nhà chúa một trận nên thân, còn mình thì vẫn giữ tròn khí tiết.

111__Thừa giấy vẽ voi 

Trong lần thi hội, Cống Quỳnh không có ý định ứng thí, nhưng vì nể lời chúa Trịnh ép đi thi để lấyTrạng Nguyên, nên Quỳnh nhận lời.

Lúc vào trường thi, Quỳnh làm bài rất nhanh, xong sớm trước nhiều thí sinh khác. Lẽ ra Quỳnh đem nộp quyển, nhưng vì chẳng biết chuyện đỗ đạt, nên táy máy giở bài ra xem lại. Thấy có một đoạn giấy trắng bên dưới, Quỳnh liền chấm bút vẽ ngay một bầy voi, rồi tiện tay đề luôn bên cạnh mấy câu thơ ngẫu hứng:

Văn chương phú lục đã xong rồi, 

Thừa giấy làm chi, chẳng vẽ voi, 

Tớ có một điều xin bảo thật 

Đứa nào cười tớ, nó ăn bòi.

Quỳnh làm như vậy là cố ý chọc tức quan chủ khảo, họ sẽ điên tiết lên khi đọc những dòng này và sẽ đánh hỏng Quỳnh với tội "phạm trường quy." Thật ra, Quỳnh đâu cần sự thăng quan tiến chức.

Lúc ấy, có viên giám thị đi theo dõi. Liếc thấy bài thơ tứ tuyệt ngạo mạn của Quỳnh, bèn chạy đi báo với quan giám khảo. Quan sơ khảo và quan phúc giám khảo rón rén đến dòm thử, thì quả đúng như vậy. Quỳnh biết các hành động của ban giám khảo, nhưng cứ tảng lờ coi như không. Đợi đến lúc các quan trường xúm lại đông đảo, Quỳnh mới đưa bút viết tiếp hai câu thơ nữa vịnh bức tranh voi vừa vẽ:

Voi mẹ, voi con, voi lúc nhúc 

Chú sơ, chú phúc, rúc mà coi.

Đám quan viên lúc này cảm thấy sượng sùng nên bấm nhau rút lẹ. Đứng lâu ở đó e không khéo lại bị Quỳnh chơi khăm, mất mặt nữa.

112__Tiền múa Chúa cười 

Nhà Quỳnh nghèo lắm. Một lần ghé qua đền thờ bà Chúa Liễu, thấy nơi khám có nhiều tiền do khách thập phương cúng đặt ở trên mâm, Quỳnh nảy ra ý muốn vay. Cậu vừa gieo tiền xin âm dương vừa khấn:

- Độ rày, em túng quẫn, chị lại để tiền không. Xin chị cho em vay, làm ăn khá em chẳng quên ơn chị. Nếu cho vay một phần tư, xin khiến hai đồng đều sấp; nếu cho vay một phần ba, xin cho hai đồng đều ngửa, còn cho vay một nửa, xin sấp ngửa bằng nhau.

Theo kiểu cách ấy, thì đằng nào Quỳnh cũng vay được cả, mà ý bà Chúa Liễu vốn không thích tính Quỳnh, chẳng muốn cho vay, bèn làm cho cả hai đồng tiền quay tít không ngừng.

Thấy vậy, Quỳnh reo lên:

- A, tiền múa, Chúa cười! Chị thương em nghèo nên cho em vay cả. Xin đa tạ chị!

Nói đoạn, Quỳnh trút hết tiền vào bao, buộc lại rồi ra về. Mắc mưu Quỳnh, bà Chúa phen này coi như mất trắng.

113__Ông nọ bà kia 

Trong làng Quỳnh ở, các chức sắc thấy Quỳnh được chúa gọi vào hầu luôn thì khâm phục lắm, chẳng ai bảo ai mà kẻ nào người nấy đều đến nhờ cậy Quỳnh giúp đỡ, mong được hưởng chút ấm nhà chúa.

Một hôm Quỳnh ở kinh đô về, cho gọi các chức sắc đến, bảo có muốn làm ông nọ bà kia thì tối đến nhà Quỳnh đánh chén, rồi ngày mai Quỳnh đưa lên kinh đô sớm.

Các chức dịch bao phen mong đợi, nay thấy Trạng hẹn đưa vào kinh đều chắc mẩm phen này hẳn phải lên chức ông nọ bà kia. Vì thế, ông nào ông nấy vênh vang về nhà quát vợ sắp sếp áo quan để tối đến nhà Trạng uống rượu, ngủ đấy, mai trẩy kinh sớm. Các bà vất vả một buổi sắm sanh cho chồng, nhưng cũng mở cờ trong lòng vì sắp được thành ông nọ bà kia.

Tối đến Trạng đãi các vị chức dịch một bữa rượu túy lúy càn khôn. Ông nào, ông nấy say đứ đừ, lăn chiêng ra ngủ.

Lúc ấy đã quá nửa đêm, Trạng mới sai đem võng tới, võng ông nọ về nhà bà kia và bảo rằng ông bị trúng cảm, phải xoa dầu, đánh gió ngay kẻo nguy hiểm đến tính mạng.

Các bà hoảng hốt, đang đêm vùng dậy, đèn đóm nhập nhoạng ra sức mai cà tóc gáy, cứu chữa các ông gần đến sáng mới tỉnh. Trời tảng sáng, nhìn rõ mặt người thì hóa ra không phải chồng mình. Các bà ngớ người ra, thẹn quá hóa giận:

- Phải gió các nhà ông này, ở đâu lại đến đây nằm vạ!

Ông kia tỉnh dậy, không biết đầu đuôi xui ngược ra sao, thấy mình nằm ở nhà người khác, đâm hoảng, thẹn thùng và lủi ra về. Đến nhà, lại chứng kiến cảnh vợ mình cũng đang mắc cỡ trong cảnh "ông nọ bà kia" hệt như thế.

Bấy giờ các ông mới biết là bị Trạng lỡm, ức quá vặc nhau:

- Nào, được làm ông nọ bà kia đã sướng chưa!

114__Trả nợ anh lái đò 

Quỳnh thường đi đò ngang, khất chịu tiền, lâu quá món nợ tích lại cũng khá nhiều, không trả được. Lúc anh lái đò đến đòi, Quỳnh bảo:

- Ừ, đợi đấy, vài hôm nữa, sẽ trả đầy đủ.

Ở giữa sông có một cồn cát, bỗng xuất hiện một cái nhà nhỏ, lợp lá gồi. Người ta đồn rằng đó là cái lầu yết thơ của Trạng. Thế là mọi người tò mò rủ nhau đi xem. Muốn ra nơi cồn nát, chỉ có con đường đò ngang, mới đầu chỉ lưa thưa ít người. Ra đến nơi họ thấy có một cái biển đề mấy chữ bằng vôi trắng "Cha đứa nào kể với đứa nào".

Tất nhiên khi về, gặp người khác hỏi thì ai cũng trả lời độc một câu:"Ra mà xem!"

Cũng có người tếu tán thêm: "Hay lắm, ra mà xem."

Thế là thiên hạ lũ lượt kéo nhau ra xem "lầu yết thơ của Trạng", lúc đầu là người trong làng, rồi các làng lân cận, lan ra đến cả tổng. Còn anh lái đò chèo mệt nghĩ, nhưng hả hê với số tiền lớn thu được của khách, cho đến khi người ta biết là bị Quỳnh cho "quả lừa" thì mới vơi khách.

Anh lái đò vãn việc, chợt nhớ món nợ của Quỳnh, mới đến hỏi.

Quỳnh mắng:

- Ai nợ nhà anh? Anh nợ ta thì có. Nhờ mẹo của ta mà anh vớ bở; ta chưa hỏi phần của ta đấy. Thôi ta cứ gửi lại đó mà trừ dần cho tiền đò sau này.

Anh lái đò chợt hiểu, cười sung sướng, rồi cám ơn Quỳnh rối rít

115__Dê đực chửa 

Tiếng tăm về cầu bé thần đồng ở vùng Thanh Hóa bay đến kinh đô. Nhà vua muốn biết hư thật như thế nào, bèn ban lệnh: Cả phủ Thanh Hóa, mỗi làng phải đem nộp một con dê đực đang chửa. Sau hai tháng, nếu làng nào không nộp sẽ bị trị tội. Dân chúng phủ Thanh Hóa hốt hoảng sợ hãi. Cả làng Quỳnh ở, ai cũng nhớn nhác lo âu. Tìm đâu ra dê đực chửa? Biết chuyện đó, Quỳnh nói với bố:

- Về việc ấy xin Thầy đừng lo. Thầy cứ bảo dân làng chuẩn bị cho con một trăm quan tiền và gạo ăn đường, con sẽ kiếm được dê đực chửa cho làng.

Nghe con nói, ông bố không tin, nhưng cũng thưa lại với dân làng. Không có cách nào khác mọi người đành làm theo lời yêu cầu của Quỳnh. Sáng hôm sau, hai cha con Quỳnh lên đường. Họ đến kinh đô đúng lúc nhà vua có việc đi qua cửa Đông. Quỳnh nép xuống cống sát vệ đường chờ. Khi xa giá nhà vua đến gần, Quỳnh khóc rống lên. Vua sai lính lôi đứa bé đang khóc lên hỏi nguyên do. Quỳnh vờ như không biết đãy là vua, càng gào to, kể lể:

- Mẹ tôi chết đã mấy năm nay, tôi nói mãi mà bố tôi vẫn không chịu đẻ em bé cho tôi bế...

Vua cho là đùa bé bị bệnh dại ngây, cười và nói:

- Mày thật là đần độn, đàn ông mà đẻ sao được!

Bãy giờ Quỳnh nín bặt, đứng chắp hai tay nói rất trang nghiêm:

- Thưa ông, vậy mà nhà vua bắt dân làng tôi phải nộp dê đực chửa.

Nghe nói, nhà vua giật mình, biết ngay đây là đứa bé ở Thanh Hóa mà bấy lâu nay mình vẫn nghe đồn.

116__Đất nứt con bọ hung 

Từ bé Quỳnh đã nổi tiếng học giỏi và đối đáp nhanh. Trong làng có ông Tú Cát rất hợm hĩnh mình, đi đâu cũng khoe mình hay chữ. Quỳnh rất ghét những loại người như vậy. Một hôm Quỳnh đang đứng xem đàn lợn ăn cám trong chuồng, Tú Cát đi qua trông thấy, liền gọi Quỳnh lại và bảo:

- Ta nghe đồn mày thông minh và có tài đối đáp. Bây giờ ta ra cho mày một câu đối, nếu không đối được, ta sẽ đánh đòn. Nói rồi, Tú Cát lên giọng, gật gù ngâm nga:

- Lợn cấn ăn cám tốn.

Tú Cát nghĩ rằng câu này rất khó đối, ví "cấn" và "tốn" là hai quẻ trong kinh Dịch nào ngờ. Quỳnh đối lại ngay:

- Chó khôn chớ cắn càn.

Quẻ này cũng có "khôn" và "càn" là tên hai quẻ trong kinh Dịch, đồng thời lại có ý xỏ Tú Cát là chó. Không ngờ bị chơi đau như vậy, Tú Cát tức lắm, hằm hằm bảo:

- Được! Ta ra thêm vế nữa, phải đối lại ngay - rồi đọc - Ttrời sinh ông Tú Cát.

Quỳnh đáp luôn:

- Đất nứt con bọ hung.

Tú Cát tức đến sặc tiết nhưng không làm gì được, vì Quỳnh đối rất chỉnh, đành lùi thủi bỏ đi.

117__Chết là rất sướng 

Có một ông lão bệnh nặng sắp chết nhưng ông rất sợ. Một người bạn tới thăm, ông liền than thở:

- Tôi chắc chết mất. Không biết chết có sướng không?

- Dĩ nhiên là sướng rồi.

- Sao ông biết?

- Nếu sau khi chết mà không sướng, người ta chết sẽ đều trốn về cả chứ. Đàng này chẳng thấy một người chết nào về cả, đủ biết chết là sướng rồi!

118__Bán kẹo 

Hai vợ chồng nhà nọ muốn ghẹo nhau giữa ban ngày, nhưng sợ đày tớ biết. Hôm ấy, ở làng dưới có đám ma, anh chồng nghĩ mẹo cho đầy tớ đi buôn kẹo đến đó bán kiếm thêm ít tiền, tiện thể cho nó đi khuất mắt.

Người đầy tớ nghĩ bụng: "Quái! Sao bỗng dưng hôm nay lại bảo mình đi bán kẹo? Hẳn ở nhà có sự gì đây". Thế là anh ta trở về lẻn ra đằng sau nhà, rình xem.

Vợ chồng nhà chủ đưa nhau vào buồng, chồng hỏi đùa vợ:

- Về sau tôi chết, thì mình khóc là gì nào?

- Tôi khóc mình là: "Anh ơi! Chứ là gì nữa?"

Vợ lại hỏi đùa chồng:

- Về sau tôi chết, thì khóc là gì?

- Tôi khóc là: "Em ơi chứ là gì nữa?"

Người đày tớ nghe thấy thế, liền rao lên:

- Ai mua kẹo ra mua!

Anh chồng vội chạy ra quát:

- Sao không xuống dưới mà bán!

- Thưa ở đây có những hai đám ma còn không bán được đồng nào, nữa là đằng 

kia chỉ có một đám.

119__Sợ vỡ mật 

Hai người cùng sợ vợ, lâu ngày thành bệnh, một người khạc ra đờm đỏ, một người khạc ra đờm xanh. Họ rủ nhau đi tìm thầy chạy chữa. Thầy bảo:

- Ðờm đỏ, may còn hi vọng, chứ đờm xanh thì chịu, không sao chữa được nữa. Nên về mà lo hậu sự đi thôi.

Cả hai cùng hỏi thầy:

- Sao đờm xanh, đờm đỏ lại khác nhau như thế?

Thầy nói:

- Ðờm đỏ tự phổi ra, họa còn có phương cứu chữa, chứ đờm xanh là mật vỡ 

mất rồi, còn chữa thế nào cho lành được.

120__Râu quặp 

Có một anh chàng rất sợ vợ. Quanh năm anh ta không dám nói vợ nửa lời. Ngày nào anh ta cũng phải làm theo lời sai khiến chỉ bảo của vợ. Ðã thế mà thôi đâu, nhiều lúc anh còn bị vợ đay nghiến, nhiếc móc thậm tệ.

Tớc tối vô cùng, một hôm anh ra chợ tỉnh bói xem tại sao mình phải sợ vợ. Thầy bói không cần gieo quẻ, liền nói:

- Nhìn tướng mạo anh thì sợ vợ là phải, vì có chòm râu mọc quặp vào trong.

Nghe thầy bói nói như vậy, hôm sau vợ đi vắng, ngổi ở nhà một mình, anh ta lấy gương soi rồi cầm râu vuốt ra và nói:

- Ngồi buồn thong thả, vuốt râu cho thẳng ra kẻo mà sợ vợ.

Nào ngờ, vừa lúc đó, chị vợ đi làm về. Nghe được câu nói đó của chồng, chị gắt giọng:

- Ông ở nhà, nói cái gì lảm nhảm một mình như vậy?

Anh ta giật mình lo sợ, liền vuốt râu vào mà nói:

- Y cựu hoàn y cựu! Y cựu hoàn y cựu!

121__Chỉ tiêu chữ lẻ 

Có ông thầy đồ dốt, nhưng lại muốn học trò đến đông học nên hay xổ chữ. Ai đến chơi ngồi chuyện là ông ta tìm cách hỏi cho được vài câu chữ nho, tuôn ra hàng tràng những "chi hồ giả dã", ra vẻ ta đây học thông, lắm chữ.

Bà vợ ở trong nhà, nghe mãi, sốt ruột, một hôm, ngồi ăn cơm khẽ bảo chồng:

- Ông ạ! Ông có một dúm chữ thì để làm lưng làm vốn, chứ gặp ai ông cũng vung vãi ra như thế, còn gì nữa mà làm ăn.

Ông ta mắng vợ:

- Bà biết gì mà nói! chữ của thánh hiền có phải như tiền bạc đâu, cứ tiêu là hết. Với lại đó là mấy chữ lẻ, còn vốn của tôi thì tôi xếp trong bụng này kia mà. Tôi chỉ tiêu những chữ lẻ đấy chứ!

122__Mua kính 

Anh nọ dốt đặc cán mai, thấy các ông già bà cả mang kính xem sách, bắt chước ra chợ hỏi mua một đôi. Vào hiệu, bảo chủ hiệu đem ra cho anh ta chọn.

Anh ta đeo kính vào, lấy cuốn lịch đem theo ra xem, xem xong lại bảo chủ hiệu cho chọn đôi khác. Chủ hiệu chiều ý, chọn cho anh ta năm sáu đôi, nhưng đôi nào anh ta cũng không ưng ý. Chủ hiệu bèn chọn một đôi tốt nhất trong hiệu đưa ra. Anh ta đeo vào, lại lấy cuốn lịch ra xem, vẫn lắc đầu chê xấu. Chủ hiệu lấy làm lạ, liếc thấy anh ta cầm cuốn lịch ngược mà xem, sinh nghi, liền hỏi:

- Sao đôi nào cũng chê xấu cả?

Anh ta đáp:

- Xấu thì bảo xấu chứ sao! Kính tốt thì tôi đã xem chữ được rồi!

Chủ hiệu nói:

- Hay là ông không biết chữ?

Anh ta đáp:

- Biết chữ thì đã không cần mua kính.

123__Văn hay 

Một thầy đồ đang ngồi cặm cụi viết bài. Bà vợ đến bên cạnh nói:

- Ông lấy giấy khổ to mà viết có hơn không?

Thầy đồ lấy làm đắc chí, cho là vợ khen tài văn chương của mình, văn tứ dồi dào giấy khổ nhỏ không đủ chép, nhưng cũng hỏi lại:

- Bà nói vậy là thế nào?

Bà vợ thong thả nói:

- Ông chả biết tính toán gì cả, giấy khổ to bỏ đi còn gói hàng, chứ giấy khổ nhỏ thì dùng làm gì được.

124__Hỏi đường lên trời 

Một thầy đồ ngồi dạy học ở nhà bà nọ. Bà ta chỉ có một trai và một gái, đêm đến, phải nhường cho thầy và con trai ngủ trên nhà, còn bà và cô gái thì ngủ dưới bếp.

Thầy đồ bụng muốn tòm tem, một hôm, nhân lúc cả nhà đã đi ngủ, thầy lò dò xuống bếp. Bất đồ, bà chủ tỉnh giấc hỏi:

- Ai đó?

- Tôi.

- Tôi là ai?

- Thầy đồ đây mà!

- Ðêm hôm thầy xuống bếp làm gì?

- Tôi... xuống lấy vài cái rế để đựng sách.

Cách mấy hôm sau, thầy lại mò mẫm, trèo lên mái nhà bếp. Ðang dỡ tranh để 

tụt xuống, bỗng lại nghe tiếng bà chủ hỏi:

- Ai trên kia?

- Tôi đây mà!

- Tôi là ai?

- Thầy đồ đây mà!

- Thầy đồ leo lên trên ấy làm gì thế?

- Tôi hỏi thế này khí không phải... Có phải đường này là đường lên trời không?...

125__Người không sợ súng đạn 

Tại xóm A có cặp vợ chồng mới cưới. Thời gian trôi qua người vợ mang thai sinh được một trai. Đưa vợ từ nhà hộ sinh về, anh chồng bị vợ mắng một hơi, không hiểu tại sao vợ mình lại nổi giận đến thế.

Vợ anh giải thích:

- Anh nghĩ coi mỗi lần sinh đẻ tôi phải cực khổ như thế này. Tôi thề từ nay đến già tôi mà... với anh nữa thì súng đạn sẽ bắn tôi!

Sáu tháng sau, anh chồng vẫn không dám đụng đến vợ vì sợ vợ mình phải chết do súng đạn. Bỗng một đêm trong lúc ngủ say, anh chồng giật mình vì có người chui vào mùng mình. Anh nạt lớn:

- Ai đó?

Cô vợ trả lời:

- Em!

- Em là ai?

- Em là người không sợ súng đạn.

126__Đọc ngược 

Có cụ đồ nhà quê ra phố Vinh chơi, đi đường xa đến ngã tư, cụ mắc quá, đến chỗ bức tường tìm nơi tiểu tiện, thấy trên tường có hàng chữ "Cấm không được đái đây", cụ toan thôi. Nhưng thấy còn một dòng dưới: L'interdit à pisser, cụ lẩm bẩm: chắc chỉ cấm người Tây..., nói rồi, cụ vén quần. Bất ngờ tên cu-lít tới. Hắn chộp ngay ngực cụ:

- Mù hay sao không đọc được tiếng Việt à?

- Có chứ! - Cụ đồ bình thản đáp, rồi cụ giơ tay chỉ từng chữ từ phải qua trái mà đọc to:

- Đây đái được không cấm!

Tên cu-lít tức anh ách nhưng nghĩ cũng có lý bèn "mẹc, cô-soong" một hồi rồi ngoảnh mặt cho cụ đi... tè.

127__Chàng rể bé 

Có một anh mới tí tuổi đã đi làm rể. Lần nào đến nhà bố vợ, cha cũng phải đi cùng. Một hôm nhà bố vợ có giỗ, cho người mời cả hai cha con. Trên đường đi, cha dặn:

- Hôm nay đến ăn cỗ, mày đừng liếm đĩa nhé! Liếm đĩa, bên nhà vợ người ta cười cho đấy.

Sở dĩ cha phải dặn như thế là vì con còn dại, ở nhà mỗi khi ăn cơm thường hay liếm đĩa.

Mâm cỗ nhà bố vợ hôm ấy có bốn người: hai cha con, bố vợ và ông khách. Ăn 

cơm uống rượu xong, mọi người đứng dậy thì chàng rể chạy lại bên cha, nắm lấy tay và nói:

- Hôm nay con không liếm đĩa nhé. Có đĩa cá rán ngon lắm, cha liếm đi kìa!

128__Anh chồng tham ăn 

Có một anh chồng đã gần già rồi mà còn tham ăn. Thường ngày, vợ đi vắng, đến bữa nấu cơm, hay bỏ thêm gạo để ăn cho no. Thật ra thì cơm bữa cũng thừa. Chị vợ lấy làm lạ, sao gạo thì ít cơm lại nhiều.

Một hôm, chị đi cuốc cỏ. Gần trưa, chị về nấp ở sau nhà. Lúc anh chồng nấu cơm gần sôi liền vào buồng, hai tay bốc hai nắm gạo, rồi đem ra bếp để bỏ thêm vào nồi. Vì hai tay mắc gạo nên không biết làm thế nào để mở vung, loanh quanh một hồi, anh chàng há miệng ngậm vung. Lửa trong bếp đang đỏ rực. Lửa liếm rát 

mặt và liếm luôn cả bộ râu.

Ngẫm lại thấy thẹn, anh chàng lên giường, đắp chiếu, nằm rên hừ hừ. Chị vợ hỏi, anh ta bảo bị mệt. Chị giả đem trầu cau đi bói. Một lát trở về, chị thuật lại lời thầy bói: "Thượng tấn hạ tấu, hai tay bốc gấu, miệng ngậm lấy vung, lửa cháy tứ tung, cháy râu quai hết".

Anh chồng biết ý, mặt đỏ rừ. Từ đó mỗi khi nấu cơm, anh ta không bốc thêm gạo bỏ vào nồi nữa.

129__Ăn vụng gặp nhau 

Cả hai vợ chồng nhà kia đều có tính hay ăn vụng. Một hôm, người vợ đi làm đồng về thấy trong bếp có nồi xôi đậu vừa chín tới. Ðang đói, chị ta bốc một nắm, đứng nép sau cánh cửa ăn vụng chồng.

Chưa ăn hết nửa nắm thì chồng về. Vừa bước vào cửa, ngửi thấy mùi xôi thơm phức, anh chồng cũng muốn ăn lắm, nhưng sợ vợ biết. Trông trước trông sau chỉ có xó cửa là kín nhất, anh ta nắm một nắm to định mang vào đó ăn. Vừa kéo cánh cửa ra, thì bắt gặp vợ cũng đang đứng đó ăn xôi. Anh ta hoảng hốt kêu lên:

- Ơ kìa, u mày đấy à!

Trông thấy tay vợ còn cầm nắm xôi, anh ta nhanh trí nói tiếp:

- Tôi tưởng u mày ăn hết rồi, lấy thêm cho nắm nữa đây này

130__Có hiếu 

Hai vợ chồng nhà nọ rủ nhau đi bắt cá. Anh chồng bắt được con cá quả khá to , đưa vợ cầm về trước, bảo làm thịt, thái khúc, kho tương để ăn một bữa cho hả hê.

Ðến bữa ăn, sực nghĩ đến cha mẹ, chồng nói:

- Không đem thức ăn cho ông bà à?

- Tôi đã gắp một miếng to rồi - Vợ đáp.

- Miếng to là miếng nào? Cái thủ kia à?

- Anh yên trí, tôi đã gỡ hết thịt hai bên má rồi.

131__Thương vợ con quá 

Làng nọ có một anh tham ăn tục uống. Hễ ngồi ăn cơm, ăn cỗ với ai thì thế nào anh ta cũng gắp miếng to, miếng ngon.

Một lần nhà nọ có giỗ, mời anh ta sang ăn cỗ. Biết tính anh ta, khi làm món mọc, nhà này nhét vào một cái mọc ba bốn quả ớt muỗi. Khách khứa đến đông đủ, khi bưng cỗ ra, anh ta được mời ngồi mâm có cái mọc to. Vừa cầm đũa, anh ta đã gắp ngay cái mọc ấy rồi bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Nào ngờ nhai phải mấy quả ớt cay quá, nước mắt nước mũi tuôn ra. Chủ nhà hỏi:

- Sao lại thế?

- Tôi được ăn ở đây mâm cao cỗ đầy, nhưng vợ con ở nhà chưa có cái gì bỏ vào bụng, nghĩ thương quá tôi khóc, nên nước mắt nước mũi trào ra đấy

132__Trả lời vắn tắt 

Có anh chàng vốn tính tham ăn, hễ ngồi vào mâm là chú mục vào những món ngon, cắm đầu gắp, lo sao ăn cho đầy bụng. Vì thế, anh ta rất ngại nói chuyện trong bữa cơm.

Một lần đi ăn cỗ ở nhà nọ, ngồi vào mâm là anh ta gắp lia lịa. Có một ông khách lạ thấy anh ta ăn uống lỗ mãng như thế, mới tìm cớ nói chuyện để hãm bớt anh ta lại. Ông ta hỏi:

- Chẳng hay ông người ở đâu ta?

Anh ta đáp:

- Ðây!

Rồi cắm cổ gắp.

- Thế ông được mấy cô, mấy cậu rồi?

- Mỗi!

Lại cúi xuống gắp lia lịa.

Ông kia vẫn chưa chịu thua, hỏi tiếp:

- Các cụ thân sinh chắc là còn cả chứ?

Anh ta vẫn không ngẩng đầu lên đáp:

- Tiệt!...

133__Trứng ngót 

Có một cô gái mới về nhà chồng, mẹ chồng bảo luộc rau. Lúc bỏ rau sống vào nồi, rau đầy nồi. Nước sôi, rau chín, rau chỉ còn một nạm. Vớt ra thấy ít, cô ta ngồi khóc. Mẹ chồng hỏi, cô ta kể đầu đuôi, mẹ chồng cười nói:

- Nó ngót đi đấy con ạ!

Ít hôm sau, nhà có khách, mẹ chồng bảo đem mười quả trứng ra luộc. Cô ta ăn bớt đi hai quả. Thấy trứng không đủ mười quả, mẹ chồng hỏi, cô ta nói:

- Nó ngót đi đấy mẹ ạ!

134__Thừa một con thì có 

Một anh ngốc ra chợ mua được một đàn bò sáu con, ngồi lên lưng con đầu đàn rồi dắt cả đàn về. Giữa đường, Ngốc ta lại nhìn đàn bò đằng sau, đếm: Một, hai, ba; Một, hai, ba, bốn... năm. Ðếm đi đếm lại năm, bảy lượt, Ngốc ta vẫn thấy có năm con. Cuống lên Ngốc ta vật đầu vật tai, nhưng không biết làm thế nào cả.

Về đến nhà, thấy vợ đứng chờ ở cổng. Ngốc ta ngồi trên lưng bò mếu máo nói:

- Chết mất thôi! Tôi đánh mất một con bò rồi!

Vợ hỏi:

- Mua mấy con để mất một con?

Ngốc ta chỉ đàn bò năm con theo sau:

- Sáu con, bây giờ chỉ còn năm.

Chị vợ vừa cười, vừa nói:

- Thừa một con thì có!

135__Chàng ngốc nói chữ 

Một chàng ngốc nọ là chồng chưa cưới của cô gái thứ hai trong gia đình có ba chị em nọ. Một hôm chàng đến nhà, cô em út ra chào và nói:

- Tọa sàng yến phu lang. (Mời chàng ngồi bàn tiệc)

Nghe câu nói văn hoa Hán tự đó, chàng chẳng hiểu gì, ở lâu sợ mất thể diện nên ngốc ta luống cuống chào về.

Lần sau trong một đêm trăng, ngốc lại đến thăm người yêu, nhưng lần này không dám đi ngả trước, lại lẻn ngả sau. Bất ngờ gặp lúc ba chị em đang tắm ngoài giếng. Nghe tiếng ba chị em cười khúc khích, chàng lén nhìn thấy cô út chỉ vào mình mà khoe rằng:

- Bạch bạch như phấn trang. (Trắng như thoa phấn)

Cô thứ hai lặp lại động tác của cô út mà nói:

- Úc úc như hình quy. (Hình tựa mu rùa)

Cô chị cười:

- Hắc như côn lôn. (Ðen như quả núi)

Nghe được câu nói trên, ngốc lẩm nhẩm đọc đi đọc lại cho thuộc, bụng nghĩ rằng đó là những câu ẩn ý cao siêu cần phải ghi nhớ. Rồi chàng hớn hở ra về.

Lần thứ ba, ngốc ta hăm hở đến nhà người yêu. Cô út ra chào mời:

- Tọa sàng yến phu lang.

Ngốc chỉ ngay vào cô út mà rằng:

- Bạch bạch như phấn trang.

Cô út toát mồ hôi, không hiểu sao hôm nay chàng ta lại ăn nói "văn hoa" đến như vậy. Cô ngượng ngùng rút lui để người yêu của ngốc ra tiếp. Thấy chàng, cô thứ hai mở lời âu yếm hỏi:

- Phu quân như hà ti?

Ngốc làm bộ sành sỏi trả lời:

- Hà ti chi mà hà ti. Úc úc như hình quy.

Nghe vậy, cô ta thẹn đỏ mặt, nguây nguẩy bước vào. Cô chị thấy tình thế có vẻ căng thẳng, muốn giảng hoà, chạy ra cản ngăn ngốc:

- Thôi, dượng bất mật ngôn. (Dượng nói không ngọt ngào)

Ngốc lại chỉ vào chị tỉnh bơ nói:

- Mật ngôn chi mà mật ngôn. Hắc hắc như côn lôn.

Người chị đứng sững như trời trồng, rồi ù chạy một mạch chẳng dám quay đầu lại.

136__Gánh bưởi qua sông 

Có một anh đã luống tuổi chẳng biết làm gì để kiếm miếng ăn. Cha mẹ mất sớm, anh ta phải sống nhờ vào hai bàn tay vợ. Thấy anh ta lêu lổng, vợ bảo đi buôn.

Quảy quang gánh lên vai, ra đến chợ, thấy bưởi nhiều, anh mua một gánh, định  

mai đem chợ khác bán. Lúc gánh về nhà gặp trời mưa, con suối đầu làng nước dâng lên to. Không biết làm thế nào, anh gánh cả gánh bưởi lội qua. Bao nhiêu bưởi nổi lềnh bềnh trên mặt nước, trôi hết, chỉ sót lại vài quả.

Về đến nhà, vợ hỏi: "Hôm nay mua được gì?"

Anh thật thà thuật lại chuyện mua bưởi cho vợ nghe. Chị vợ cười nói: "Ai lại làm như thế, con suối hẹp có một gang, sao anh không đứng bên này vứt sang bên kia thì được việc rồi".

Anh chồng nhớ lời. Ít hôm sau, đi chợ, anh mua một gánh trứng vịt. Lúc về trời cũng mưa và nước suối cũng dâng to. Anh lấy từng quả trứng ném sang bên kia suối. Lội sang bờ bên này để nhặt thì trứng đã vỡ hết.

137__May quá 

Có một anh chàng mới mất một con lừa, vội vã đi tìm, tìm mãi chẳng thấy đâu. Bỗng anh khoái chí kêu ầm lên:

- Trời ơi sao may thế là may!

Bà con hàng xóm thấy vậy, ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao anh lại vui thế?

- Ồ, sao lại không vui? Các bác thấy không, lúc mất con lừa may cho tôi là tôi không ngồi trên lưng nó, nếu không thì tôi vừa mất lừa vừa mất cả mình luôn.

138__Quả trầu không 

Có bốn anh thợ cưa xẻ gỗ cho một ông nhà giàu dưới vườn cây vào tiết tháng năm. Mít vừa độ chín, mùi hương thơm toả khắp khiến bốn anh thợ cưa thèm rỏ dãi. Chủ nhà lại là một lão hà tiện và keo kiệt, trưa nào cũng ra rình và đếm lại những quả mít đã chín. Bốn anh thợ cưa vừa thèm vừa ghét lão chủ, tìm cách lấy mít ăn cho bõ thèm.

Một anh giựt hai quả nơi cây mít có bụi trầu không leo quanh và bảo cả bọn cùng ăn rồi sẽ có cách xử trí.

Trưa, lão chủ ra đếm mít, thấy mất hai quả bèn nổi giận, định đến bắt đền bốn anh thợ cưa. Lão vừa đến thì anh chàng đã hái mít nói ngay:

- Ðó, nhờ ông ra phân xử cho xem ai đúng, ai sai.

- Ðúng sai thế nào không biết chứ các anh phải trả tiền hai quả mít ở cây kia cho tôi.

- Chính hai quả ấy đó ạ. Tôi thì bảo là quả mít, còn bọn kia thì lại nhất định là quả trầu không. Chúng cãi với tôi đã ngót mười hôm nay. Ðến lúc hạ xuống ăn thì rõ rằng là quả mít, đúng như tôi nói. Ấy thế mà chúng nó vẫn gân cổ lên cãi. Chúng bảo rằng quả trầu không cũng thơm và ngọt như quả mít. Bây giờ, may nhờ có ông ra, nhờ ông nói cho một lời.

- Một lời làm sao?

- Dạ, là quả mít hay quả trầu không ạ.

Ông chủ keo kiệt lặng thinh đi vào.

139__Heo đi cày 2 

... Thời đó làm gì có máy cày, máy xới, nếu có đi chăng nữa thì xứ "An Nam" mình cũng hổng được mấy cái, đâu ai có đủ tiền để mua.

Vợ chồng tôi làm ruộng chủ yếu bằng cày trâu. Vì vậy, nhà tôi bao giờ cũng cất hai cái chuồng kề cận nhau, một để nhốt trâu, một nuôi heo.

Mùa cày năm đó, mưa sớm thành thử tôi phải đánh trâu ra đồng cày từ sáng cho đến chạng vạng tối tôi mới nghỉ, nếu không sợ trễ không kịp thời vụ. Còn bừa, trục đất cho bà con lối xóm nữa chớ? Nên hễ cày xong hết buổi, chiều tối là tôi giao trâu cho bả chăm sóc, lùa trâu về chuồng, cho ăn; tôi thì cơm nước tắm rửa xong nằm lăn ra ngủ. Mệt mà, ngủ để lấy sức khuya thức sớm đánh trâu cày tiếp.

Cứ vậy, bỗng một hôm mới quá đầu canh ba bả một hai giục tôi thức dậy lùa trâu đi cày. Bực mình, nhưng tôi không thèm cự cãi lại bả chi cho thêm chuyện rắc rối... Tôi bước xuống đất vừa mắt nhắm mắt mở lần ra sau vườn mở cửa chuồng trâu bắt trâu gác ách, cày. Mới đầu cày thì chúng còn kéo lẹ làng, có vẻ hăng hái lắm, không ngờ sau đó chậm lại rồi chựng luôn không chịu kéo tiếp. Tôi lấy làm lạ, nghĩ bụng: "Chà, mình mới khen nó tức thời đây mà?". Rồi giận bụng, tôi giơ cây roi lên quất, miệng la lớn: "Ví, thá...".

Cứ nghĩ là bị roi quất vô đít đau đôi trâu sẽ bước tới, kéo cày đi mau hơn, nào ngờ nó sụm cái đít xuống, hai chân sau khuỵu xuống, nằm ì luôn ra đó. Cả hai con đều hổn hển thở không chịu đứng dậy kéo cày tiếp, thử hỏi hổng nổi nóng sao được. Tôi liền giơ roi lên quất mạnh vô hông con bên này một cái, nó chợt la "ét". Tôi quất tiếp một roi nữa vào mông con bên kia, nó cũng "ét ét" mà không sao đứng dậy nổi. Nghe tiếng kêu hơi "kỳ" tôi dừng tay lại, vừa bước tới trước coi kỹ, thì ra, hồi hôm vì sật sừ say ngủ, phần ba chớp ba nháng tôi đã mở lộn cửa chuồng heo, bắt ách nhằm mấy con heo. Lùa heo đi cày...

Thiệt thấu trời... Hổng tin, bà con thử hỏi vợ tui coi!

140__Đừng có nói dối 

Một thầy đồ hay ngủ ngày, nhưng lại bắt học trò phải thức, nếu ngủ là thầy đánh. Học trò tức quá, mới hỏi:

- Con học chữ và phải học cả tính nết của thầy. Thầy hay ngủ ngày, sao thầy không cho con ngủ ngày?

Thầy trả lời liều:

- Ta đâu có ngủ ngày, đấy là ta nằm chiêm bao để nói chuyện với ông Chu Công và Khổng Tử đấy chứ!

Một buổi kia, thầy ngủ, trò cũng ngủ theo. Thầy thức dậy trước, liền lay trò dậy, mắng:

- Sao mày dám bỏ học mà nằm ngủ?

Trò thưa:

- Thưa thầy, con có ngủ đâu! Con nằm chiêm bao để ra mắt ông Chu Công và ông Khổng Tử đấy chứ ạ!

Thầy tức giận nói:

- Mày phải ra mắt ông Chu Công và ông Khổng Tử, vậy thì hai ông ấy nói gì với mày?

Trò trả lời:

- Hai ông ấy bảo sao lâu nay không thấy thầy mày đến thăm. Con trình rằng mới hôm qua thầy có đến thăm ông. Hai ông thấy nói vậy có vẻ giận lắm bảo con rằng: "Mày về bảo cái thằng thầy mày đừng có nói dối".

141__Nhân đức 

Có người hay nói nịnh. Một hôm, đến thăm quan huyện, vừa vào dinh, đã khen rối rít:

- Quan lớn nhân đức thật. Thú dữ cũng phải lánh đi nơi khác. Hôm qua, vừa bước chân vào địa hạt ta tận mắt tôi thấy cọp kéo nhau từng bầy đi sang huyện bên cạnh.

Quan nghe, cũng chối tai, nhưng vẫn cười gượng. Một lúc, dân tới báo đêm qua cọp bắt mất ba mạng người, xin quan đưa lính về bắn trừ đi, kẻo nó ăn hết thiên hạ.

Quan huyện quay lại hỏi khách:

- Sao ngài bảo trông thấy cọp bỏ đi cả rồi !

Người kia bí quá, nói liều:

- Chắc quan huyện bên cạnh cũng nhân đức chẳng kém gì quan lớn, nên nó không có chỗ trú chân, đành phải quay trở lại huyện nhà.

142__Con vịt hai chân 

Có anh lính hay nịnh quan, hễ trông thấy cái gì khác thường một tí là vơ lấy tán luôn.

Một hôm, quan đang ngồi ở công đường, anh ta đứng hầu bên cạnh, trông thấy con vịt đứng ngủ, co một chân lên. Anh ta liền bẩm:

- Bẩm quan lớn, con vịt...

Không ngờ con vịt thức dậy, buông nốt chân kia xuống.

Quan quay lại hỏi:

- Con vịt làm sao ?

Anh ta luống cuống không biết nói sao, đáp liều :

- Bẩm, con vịt... hai chân ạ !

Quan nghe câu nói vớ vẩn mới mắng :

- Vịt chẳng hai chân thì mấy chân ?

143__Thối quá, thối thật 

Hai anh đại nịnh ngồi hầu chuyện cụ lớn. Bất thần, cụ đánh một cái trung tiện. Một anh giả vờ lắng nghe, rồi nói:

- Y hi ! Quản huyền chi âm (Ôi ! Nghe như tiếng đàn, tiếng sáo).

Một anh hếch mũi lên ngửi, rồi nói:

- Phảng phất ngọc lan chi vị (Thoang thoảng như mùi hoa ngọc lan).

Cụ lớn có ý buồn, bảo:

- Ta nghe nói trung tiện là uế khí, nó ra ngoài mùi nó thối mới phải, chứ nó thơm thì ta e rồi không thọ được bao lâu nữa.

Một anh nghe nói vậy, vội đưa tay lên như bắt hơi, hít đi hít lại, rồi bẩm:

- Bẩm, bây giờ đã có mùi thối ạ.

Anh kia cũng vờ vịt khịt luôn hai ba cái, nói tiếp:

- Bẩm bây giờ thì thối thật, thối quá ! Thối kinh khủng !

144__Chết một ngàn năm 

Một anh có tính hay nịnh kẻ quyền quý. Một hôm đến nhà ông quan nọ nói nịnh:

- Hôm qua con nằm chiêm bao thấy ngài sống một ngàn năm, mừng quá, sang báo tin ngài rõ.

Ông quan nghe xong có vẻ buồn, nói:

- Sách nói chiêm bao thấy sống là chết, thấy chết là sống, vì người ta thức là thuộc "dương" mà ngủ thì thuộc "âm", âm dương trái nhau, anh chiêm bao như thế thì tôi khó lòng toàn vẹn được.

Anh kia nghe, sợ quá, vội nói chữa:

- Bẩm vâng, đúng như thế đấy ạ ! Con nói lộn, chứ thực là chiêm bao thấy 

ngài chết một ngàn năm cơ ạ !

145__Nói khoác gặp nhau 

Có một anh đi làm ăn xa, lâu ngày về làng, bà con đến thăm, hỏi anh ta đi xa thế hẳn biết nhiều chuyện lạ. Xin kể cho nghe. Anh nọ được dịp nói khoác:

- Tôi được thấy có nhiều cái lạ lắm, nhưng lạ nhất là có một chiếc thuyền, dài không lấy gì mà đo cho xiết, có người thuở hai mươi tuổi đứng ở đằng mũi bắt đầu đi ra đằng lái, đi đến giữa cột buồm thì đã già, râu tóc bạc phơ, cứ thế đi, đến chết vẫn chưa tới lái.

Trong làng cũng có một anh nói khoác nổi tiếng, nghe vậy liền kể ngay một câu chuyện:

- Như thế đã lấy gì làm lạ ! Tôi đi rừng thấy có một cây cao ghê gớm. Có một con chim đậu trên cành cây ấy, đánh rơi một hạt đa. Hạt đa rơi xuống lưng chừng gặp mưa, gặp bụi rồi nảy mầm, đâm rễ thành cây đa. Cây đa lớn lên, sinh hoa, kết quả, hạt đa ở cây đa đó lại rơi vãi ra, đâm chồi, nẩy lộc thành nhiều cây đa con, đa con cũng như cây đa mẹ lớn lên, sinh hoa kết quả, lại nẩy ra hàng đàn cây đa cháu. Cứ thế mãi cho đến khi rơi tới đất thì đã bảy đời tất cả.

Anh đi xa về nghe thế gân cổ lên cãi:

- Làm gì có cây cao thế ! Chả ai tin được.

Anh kia cười ranh mãnh:

- Ấy không có cây cao như thế thì lấy đâu ra gỗ mà đóng chiếc thuyền của anh?

146__Xin tiền tiên 

Hai anh chàng hay nói láo. Một hôm, cùng đi tắm với nhau, anh nọ muốn loè anh kia, nên mang theo năm tiền của mình rồi lặn xuống nước, lúc ngoi lên chìa năm tiền ra, nói:

- Tao lặn xuống gặp hai ông tiên đang đánh cờ. Tao vào xem thì hai ông ấy cho tao năm tiền bảo đi chỗ khác. Tao mừng quá bơi lên đây.

Anh kia biết anh này nói láo, định xỏ lại. Anh ta giả bộ tin là thật, hỏi:

- Thế à ! Thế thì để tao lặn xuống xem, may ra xin được mấy tiền nữa thì hay.

Nói rồi liền lặn xuống. Một lát bơi lên:

- Tao gặp hai ông tiên đánh cờ. Tao mon men đến định xin tiền , thì hai ông ấy mắng, bảo: "Thằng trước xuống đây, đã cho năm tiền bảo về chia nhau. Vậy còn xuống quấy rầy gì nữa ?".

Biết là bị xỏ, nhưng anh nọ cũng đành phải chia cho anh kia hai tiền rưỡi.

147__Mẹo bắt hổ 

Anh chàng nọ tính hay nói khoác. Một hôm, một con chim ri bị thương bay qua nhà, rơi xuống. Anh ta bắt lấy, cắm mũi tên của mình vào rồi ném sang nhà cô gái bên cạnh. Cô này rất thích săn bắn. Nhặt được mũi tên, có con chim, cô ta rất phục anh chàng nọ bắn giỏi, rồi đem lòng yêu mến anh ta.Sau đó hai người thanh vợ chồng.

Năm ấy, có một con hổ dữ thường về làng bắt bò, trâu, dê, có khi bắt cả người nữa. Làng liền cử anh chàng nọ đi săn cho bằng được. Anh ta rất lo, nhưng không biết làm thế nào, đành phải đi, muốn ra sao thì ra.

Vào đến rừng, anh ta tìm một cái hang thật kín trốn ở đây, sợ đến nỗi không dám ra ngoài ỉa đái nữa, phải bậy bạ ngay trong hang.

Vợ ở nhà chờ không thấy chồng về, sợ có chuyện gì xảy ra, liền vác cung nỏ vào rừng. Gặp hổ chị ta bắn một phát, tên trúng chỗ phạm hổ chết ngay. Rồi chị ta đi tìm chồng khắp mọi nơi. Cuối cùng thấy chồng trốn ở trong hang, xung quanh cứt đái bẩn thỉu. Chị ta kể chuyện bắn hổ, rồi hỏi chồng vì sao lại ở đây và phóng uế bừa bãi như thế. Anh chồng tỏ ý không bằng lòng, nói:

- Thôi mình làm hại tôi rồi. Hai ba ngày nay tôi chỉ chờ nó vào ăn cứt rồi bắt sống đem về nộp làng. Bây giờ mình bắn chết rồi, uổng công tôi quá

148__Tài bắn giỏi 

Tại vùng nọ có một anh, hễ ngồi đâu là khoe tài bắn giỏi, đi săn giỏi của mình. Một lần ngồi uống chè chát bên nhà hàng xóm, anh khoe với bà con một bận đi săn hổ hết sức li kì như sau:

- Tối hôm ấy, tôi có vào rừng săn hổ. Rình mãi, lần mò mãi, đến bên bờ suối thì thấy bên kia bờ cát trắng có một con hổ đang nằm ngủ dưới ánh trăng. Bà con có biết tôi làm gì không?

- Lấy súng ngắm hổ chứ gì? - Có người nói.

Anh ta cười:

- Bắn làm gì cho phí đạn. Nó đang nằm ngủ kia mà. Tôi liền nhẹ nhàng lội qua suối, đi quành ra phía sau nó, rồi nhảy tới đạp một chân lên bụng nó và ngay lập tức lấy dao cắt phăng cái đuôi nó nhanh như cắt.

Một người khác ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao anh không cắt cái đầu hổ cho nó oai ?

Với giọng không sôi nổi nhiệt tình như trước nữa, anh ta đáp:

- Cái đầu hổ ấy à ? Thằng cha nào đã cắt mất từ lúc nào rồi.

149__Con rắn vuông 

Anh chàng nọ tính khoác lác đã quen. Bữa kia đi chơi về bảo vợ:

- Này mình ạ! Hôm nay tôi đi vào rừng trông thấy một con rắn, chao ôi, to đến là to, dài đến là dài. Bề ngang thì chắc chắn là bốn mươi thước rồi, còn bề dài thì dễ đến hơn trăm thước.

Vợ không tin, nhưng cũng định trêu chồng một mẻ:

- Tôi nghe người ta nói có rắn dài đã nhiều. Nhưng làm gì có giống rắn dài như anh nói thế. Tôi nhất định không tin.

Chồng làm như thật:

- Thật quả có rắn như thế. Dài hơn một trăm thước thì chẳng đến, nhưng tám mươi thì nhất định.

Vợ bĩu môi:

- Cũng chẳng đến!

Chồng cương quyết:

- Tôi chắc chắn là nó dài sáu mươi thước chứ không ngoa.

Vợ vẫn khăng khăng:

- Vẫn không dài đến nước ấy đâu!

Chồng rút lui một lần nữa:

- Lần này tôi nói thật nhé. Con rắn dài đến bốn mươi thước, không kém một phân.

Vợ bò lăn ra cười:

- Con rắn anh thấy, bề ngang đã chắc chắn là bốn mươi thước, bề dài cũng lại đến bốn mươi thước không kém một phân thì chẳng hoá ra là con rắn vuông à?

150__Chuyện lạ phương xa 

Trên một chiếu rượu, bốn cụ đã ngà ngà say liền đem chuyện lạ phương xa tán với nhau.

Cụ thứ nhất bắt đầu:

- Một bận đi tôi sông Bồ Ðề, thấy một con trâu to lù lù như quả núi, đứng bên này sông vươn cổ sang bên kia sông ăn hết ba mẫu lúa.

Cụ thứ hai tủm tỉm tiếp lời:

- Thế thì đã lấy gì làm lạ. Tôi từng thấy một cây mây to và dài bằng dãy núi Trường Sơn.

Cụ thứ nhất nói kháy:

- Chắc hẳn thân cây phải to bằng cái đình làng, cụ nhỉ?

Cụ thứ hai thản nhiên đáp:

- Hẳn chứ lị ! Không thì thừng chão nào xỏ được vừa mũi con trâu của cụ kể?

Cụ thứ ba vội ngắt lời:

- Thế mà các cụ đã cho là lạ à? Tôi còn thấy một cái cây, chao ôi ! Nó cao đâu mà cao thế ! Tưởng chọc thủng trời, đi vòng quang gốc cây một vòng phải mất nửa tháng.

Hai cụ kia cãi:

- Vô lí, vô lí !

Cụ thứ ba gắt:

- Chứ không thì lấy cọc đâu mà mà buộc được dây xỏ mũi con trâu của hai cụ !

Cụ thứ tư nói giọng lè nhè:

- Các cụ đều có lí cả, cãi nhau làm gì... Tuy thế mà cũng chưa lạ lắm. Tôi còn thấy một cái trống to vô cùng, đánh một tiếng vang chuyển một phương trời...

Ba cụ kia nhao nhao hỏi :

- Trống ấy to bằng ngần nào mà kêu thế ?

- Ấy, các cụ cứ lượng ra mà đoán khắc biết, lột da con trâu đứng bên sông Bồ Ðề làm mặt trống, lấy cây gỗ cao chọc thủng trời làm tang trống, còn cây mây to dài suốt dãy Trường Sơn làm đai trống.

Biết cụ này xỏ, ba cụ kia hỏi vặn lại:

- Thế này khí không phải, chứ trống ấy của cụ thì treo vào đâu mà đánh nhỉ?

Cụ thứ tư đang luống cuống chưa tìm ra câu trả lời, may sao có người đứng hầu rượu ngay sau lưng vội đỡ lời:

- Bẩm, xin các cụ cho phép con nói.

Các cụ quay lại nhìn người ở, rồi gật gù nói:

- Ðược, cứ nói.

Người ở gãi tai, thưa :

- Bẩm cái trống ấy treo cái cầu mà hai bố con đã đi qua. Bẩm, đứng trên cầu mà nhìn xuống, con trâu vươn cổ qua sông Bồ Ðề chỉ bằng con rận, cây mây dài suốt dãy Trường Sơn bằng một sợi tóc còn cái cây cao chọc trời thì không bằng cây nấm... Chao ôi ! Bố con mải nhìn chóng mặt quá lộn cổ xuống sông, Con khóc sướt mướt, về để tang ba năm, khi đoạn tang đi qua vẫn thấy bố con lơ lửng giữa trời chứ chưa rơi xuống nước.

Truyện cười 

Nguyễn Như Cương_*_Phạm Thùy Dương 

sưu tầm

Phần 4

151_Thế có ghê không  

152_Nói láo như bò  

153_Đắp chăn  

154_Thích xu nịnh  

155_Ba anh đầy tớ  

156_Uống thuốc độc không chết  

157_Nói có đầu có đuôi  

158_Tôi ngu sao được  

159_Đâu dám làm khổ lây đến ông  

160_Thêm cho ba quan nữa  

161_Không ăn thì tao cho ông Lý ăn  

162_Băm lăm hạn nặng 

163_Cá rô nghệ  

164_-Vật quý  

165_Khôn ra 

166_Thần bia trả nghĩa  

167_Hai kiểu áo  

168_Trả ơn con lợn  

169_Trung thần nghĩa sĩ cả  

170_Phê đơn xin li dị  

171_Đánh quân ngũ sách  

172_Phép lạ của nàng dâu  

173_Quan rẻ thối  

174_Canh bí đao  

175_Chiếm hết chỗ  

176_Thi nói khoác  

177_Khách quen  

178_Vô tội  

179_Không đáng  

180_Tím hết cả mình mẩy  

181_Bố vợ và chàng rể  

182_Ổ khóa và chìa khóa 

183_Hậu quả  

184_Phức tạp  

185_Vì sao vội vã  

186_Sao biết?  

187_Bi kịch  

188_Vận đen  

189_Không thể giải thích  

190_Trùng hợp  

191_Hiểu tính sếp  

192_Biết tỏng  

193_Hậu quả  

194_Ngọc hoàng cũng chửi thề  

195_Ồn quá  

196_Hẹn lần sau  

197_Phận... chồng  

198_Tưởng bở  

199_Hoàng tử thông minh  

200_Đôi mắt

151__Thế có ghê không 

Hai anh nói khoác gặp nhau. Một anh nói:

- Ðời tớ gặp rất nhiều chuyện nguy hiểm. Một lần tớ vào rừng gặp một con hổ dữ, tay không đánh nhau với nó hàng nửa ngày. Nhưng rồi cuối cùng tớ bị con hổ xé ra từng mảnh nhỏ. Thế có ghê không?

Anh kia nói:

- Chưa ghê bằng tớ. Một lần tớ gặp con trăn. Nó đớp được hai chân tớ nuốt gần hết, tớ giang thẳng hai cánh tay ra ngáng lại. Nhưng đến phút cuối cùng, vừa đau vừa mỏi, tớ đành buông xuôi hai tay cho nó nuốt tụt vào bụng, rồi gọi người làng ra cứu.

152__Nói láo như bò 

Anh chủ nhà kia hay nói láo, có thằng đày tớ lanh nói đỡ cho ảnh hoài. Bữa kia ảnh nói với người ta rằng : "Tôi bị trận dông lớn quá chừng, đến đỗi cái giếng nó bay cho tới hàng xóm!". Họ nói không có lẽ.

Thằng đày tớ cắt nghĩa rằng : "Sự đó là thiệt, bởi cái giếng của chủ tôi có rào chặn một hàng sơ li, hôm đó trận dông nó trốc hàng sơ li qua bên này, nên coi như hình cái giếng bay qua bển".

Bữa kia anh ta uống rượu say, khoe tài với anh em bạn rằng : "Tôi vào trai gái với con vợ thằng khác ấy, rủi nó về, cỏn sợ đem giấu tôi trong thùng ngang; thẳng dở ra, thì thùng không, tôi đã độn về mất".

Thằng đày tớ nói rằng :"Sự đó là thiệt, hôm đó tôi có đi theo, thấy thím kia biểu chủ tôi ngồi, lấy thùng úp lại, tôi ngồi ngoài, gần bên lỗ chó, tôi kêu nhỏ, chủ tôi nghe, mang thùng lại dựa vách, chum lỗ chó mà ra. Thằng khác cầm đèn lại dở ra thì thấy thùng trống".

Anh ta ỷ có đày tớ nói đỡ cho, ăn quen cứ nói láo hoài.

Bữa kia người ta đập được một con chuột cống, lớn bằng con heo con, ai nấy làm lạ xúm lại coi, anh ta lại nói rằng: "Chuột bây lớn mà mấy người lấy làm lạ, bữa hôm tôi đập được con chuột lớn bằng con bò".

Họ nói :"Cái đó mới là láo to đa!"

Anh ta biểu hỏi thằng đày tớ coi.

Thẳng nói rằng : "Láo bực nào tôi còn đỡ đặng, trừ ra có cái láo như bò, tôi đỡ không nổi".

153__Đắp chăn 

Một anh đi ở cho một lão nhà giàu, lão ta hẹn sau mười năm sẽ trả tiền công cho về mà làm ăn. Ðến kì hạn, lão nhà giàu muốn quịt, bèn đưa ra một cái chăn vừa ngắn vừa hẹp, bảo:

- Anh phải làm sao đắp cái chăn này cho vừa người tôi thì tôi trả tiền công cho, bằng không thì một là anh về, hai là ở thêm mười năm nữa, sau đó tôi trả công cả hai mươi năm cho anh luôn thể.

Nói xong, lão nhà giàu nằm thẳng chẳng ra giữa giường. Người lão rất dài, mà cái chăn thì rất ngắn, nên anh kia cố đắp mãi không xong, đắp được đằng đầu lại hụt mất đằng chân.

Chợt nghĩ ra một mẹo, anh ta cầm chăn đắp từ trên đầu lão đắp xuống quá đầu gối, rồi lấy gậy vụt tới tấp vào hai ống chân lão. Lão đau quá co rụt ngay chân lại. Thế là cái chăn đắp lên người lão vừa khéo

154__Thích xu nịnh 

Một người giàu có nói với một người nghèo:

- Tao giàu có nghìn vàng, sao mày không xu nịnh tao?

Người kia nói:

- Ông có nghìn vàng, việc gì đến tôi mà tôi phải xu nịnh ông?

Người giàu bảo:

- Tao chia cho mày một nửa, mày xu nịnh tao nhé?

Người kia nói:

- Thế thì tôi cũng giàu bằng ông rồi, việc gì tôi phải xu nịnh?

Người giàu lại nói:

- Tao cho mày cả, hẳn mày phải xu nịnh tao chứ?

Người kia bảo:

- Lúc đó thì ông phải xu nịnh tôi mới phải!

155__Ba anh đầy tớ 

Một lão nhà giàu có ba anh đầy tớ, nhưng mỗi anh một tính, anh thì rất cẩn thận, anh thì rất lo xa, còn một anh thì rất lễ phép. Lão lấy làm đắc ý lắm.

Một hôm, cậu con cả lão ngã xuống ao, anh cẩn thận trông thấy chạy về thưa với chủ:

- Thưa ông, cậu cả nhà ngã xuống ao, xin ông cho phép con đi vớt cậu lên ạ!

Vớt lên được, thì cậu cả đã chết nghẻo rồi. Lão liền vác gậy đuổi, anh cẩn thận chạy biến. Lão sai anh lo xa đi mua áo quan về liệm. Ðược một lúc, anh này mang về hai cái. Thấy thế ông chủ trừng mắt:

- Tại sao lại mua những hai cái, thằng kia?

Anh này trả lời:

- Ấy, con mua phòng xa, nhỡ cậu hai có chết đuối thì có cái dùng ngay.

Lão lại vác gậy đuổi đi.

Chỉ còn anh lễ phép vẫn được lòng chủ. Một hôm anh ta cùng một người nữa cáng chủ nhà đi chơi. Ðến chỗ lội bùn ngập đến lưng ống chân mà anh ta vẫn vui vẻ không một lời phàn nàn. Thấy thế ông chủ khen:

- Anh khá lắm, biết chịu khó. Cứ cố đi rồi đến tết ta sẽ may cho bộ cánh.

Vừa nói đến đấy thì anh đầy tớ đặt cáng xuống giữa đống bùn khoanh tay lễ phép nói:

- Con xin đa tạ ông!

156__Uống thuốc độc không chết 

Có một anh nhà giàu nghiện rượu, sợ đầy tớ uống vụng, nên cố chọn nuôi một người lù khù. Anh ta có việc phải đi vắng, bảo người ở phải trông nhà:

- Mày ở nhà, phải trông coi lấy cái chân giò treo đó, với con gà sống thiến trong chuồng, kẻo chó mèo nó tha đi, nghe.

Rồi anh ta chỉ vào hai be rượu doạ:

- Còn hai be này là thuốc độc để bẫy chuột. Uống chết đấy!

Anh ta đi rồi, người đầy tớ bắt con gà sống thiến để làm thịt, luộc chân giò lên ăn, lại lấy cả hai be rượu uống hết, say mềm cả người. Khi anh ta về thấy người đầy tớ nằm sấp dưới đất, hơi men nồng nặc, liền đánh thức dậy hỏi gà, đùi heo và hai be kia đâu. Người đầy tớ khóc mà thưa rằng:

- Con vâng lời ông ở nhà coi nhà, rủi có con mèo và con chó chạy lại, con mèo thì tha cái chân giò, con chó thì cắp con gà sống thiến chạy mất. Con sợ ông mắng nên lấy hai ve thuốc độc uống cho chết, không ngờ vẫn chưa chết!

157__Nói có đầu có đuôi 

Lão nhà giàu nọ có anh đầy tớ tính rất bộp chộp, thấy gì nói ấy, gặp đâu nói đó, chẳng có đầu có đuôi gì cả. Lão mới gọi anh ta bảo:

- Mày ăn nói chẳng có đầu có đuôi gì cả, người ta cười cả tao lẫn mày. Từ rày nói cái gì thì phải nói cho có đầu có đuôi nghe không?

Anh đầy tớ vâng vâng dạ dạ.

Một hôm lão mặc quần áo sắp sửa đi chơi, đang ngồi hút thuốc thì thấy anh đầy tớ đứng chắp tay trịnh trọng nói:

- Thưa ông, con tằm nó nhả tơ, người ta đem tơ đi bán cho người Tầu, người Tầu đem dệt thành the rồi bán sang ta. Ông đi mua the về may thành áo. Hôm nay ông mặc áo, ông hút thuốc. Tàn thuốc nó rơi vào áo ông, và áo ông đang cháy...

Lão giật mình nhìn xuống thì áo đã cháy to bằng bàn tay rồi.

158__Tôi ngu sao được 

Nhà giàu nọ nuôi một đứa ở, nó bắt chú bé làm việc suốt ngày, không cho chơi nhởi một phút nào. Còn chú bé thì tinh nghịch và cũng khá thông minh. Một hôm lão ta đi chợ về. Bụng đói mà cơm chưa nấu. Chắc là chú bé mải chơi. Vừa lúc chú đi chăn bò về, lão lôi chú ra đập. Cứ một roi lão ta lại nói "Chừa đi nhá". Chú bé đau quá van:

- Ðau quá trời ơi! Ðau quá trời ơi!

- Mày đau chứ tao không thấy đau - Lão ta đáp lại.

Chú bé nhớ lấy câu đó. Một hôm khác lão ta đi thăm đồng về. Trời nắng chang chang, mồ hôi nhễ nhại , lão khát khô cổ. Chưa vào đến nhà lão đã sai chú bé:

- Múc cho tao bát nước, nhanh lên!

Chú bé chạy vội vào nhà, múc nước ra. Vì khát quá lão cầm lấy gáo uống luôn. Nhưng lập tức lão nhổ toẹt ra giữa nhà rồi quát lớn:

- Nước nóng như thế này mà mày đưa tao uống hả?

- Thưa ông con thò cán gáo vào ấm nước đang sôi mà chả thấy nóng! - Chú bé nhanh nhảu đáp.

- Ðồ ngu! Ðồ ngu! - Lão ta quát lớn.

Chú bé thấy lão mắc kế mình liền nói:

- Thưa ông tôi chẳng ngu đâu! Ông đánh tôi ông bảo ông không thấy đau. Như vậy tôi cũng bằng ông đấy chứ!

159__Đâu dám làm khổ lây đến ông 

Một lão nhà giàu, vừa buôn bán, vừa cho vay, bóp nặn từng xu, nhưng lại cứ làm ra vẻ không thích giàu sang.

Một hôm, lão ngồi than thở với bạn:

- Nhiều của cũng chẳng làm gì! Của càng nhiều càng khổ thân mà thôi.

Người bạn mới bảo:

- Tôi chỉ thấy thiên hạ mong có của, có ít thì mong được nhiều, có nhiều lại mong nhiều hơn, chứ chứ thấy ai phàn nàn như ông bao giờ. Hay nếu ông thấy khổ quá thì chia bớt cho tôi.

Lão nhà giàu vội từ chối:

- Ấy chết! Tôi đâu dám thế! Tôi có của đã lấy làm khổ rồi, đâu dám làm khổ lây đến ông!...

160__Thêm cho ba quan nữa 

Một anh nhà nghèo xơ xác, mắc nợ một mụ trọc phú ba quan. Ðến hạn mà chưa 

có trả, anh lấy làm lo vì chủ nợ không những đáo để mà có hai con gái cũng chua ngoa rất mực.

Nhà anh có cái chõng rách. anh phải lên một chiếc chiếu. Lần đầu mụ sai con gái thứ hai đi đòi. Từ ngoài cổng bước vào, cô này đã léo nhéo:

- Mẹ tôi bảo nếu anh không trả, mẹ tôi đốt nhà đi đó.

Anh giả bộ rên rỉ tiếp khách và không bỏ lỡ cơ hội khi thấy đương sự bị chổng kềnh ở cái bẩy (chõng rách). Sau đó, câm như hến, cô ta ra về tay không.

Cho là con gái bé không làm lên việc, lần thứ hai mụ cho con gái lớn đi đòi, và sự việc diễn ra như lần trước.

Lần thứ ba đến lượt mụ, cũng vậy, nhưng thấy anh rụt rè, mụ nói:

- Mau lên, mau lên, cho thêm ba quan nữa!

Thế là sáng hôm sau, người ta thấy anh chàng sang nhà mụ nhà giàu đòi nợ.

161__Không ăn thì tao cho ông Lý ăn 

Một nhà nghèo ở cạnh nhà giầu. Anh nhà giàu cứ cậy thế lực lấn dần sang đất vườn nhà của anh nhà nghèo. Anh nhà nghèo bực lắm. Anh ta đến nhờ Lý trưởng nói cho một tiếng rồi sẽ trả ơn. Lý trưởng đến nói với nhà giàu:

- Giàu vì ruộng chứ đâu phải vì giàu vì một tí đất, lấn sang vườn nhà nó làm gì.

Từ đó nhà giàu thôi không lấn nữa.

Anh nhà nghèo đang nuôi con chó choai, hứa lớn lên sẽ thịt giả ơn Lý trưởng. Tháng sau nữa, Lý trưởng lại đến, khen con chó mập rồi nói:

- Thịt được rồi đấy.

Chủ nhà nói:

- Thưa ông, chó già gà non. Chờ nó già thêm tí nữa ăn thịt mới ngon.

Cách một tháng nữa, Lý trưởng lại đến giữa lúc đứa bé con chủ nhà bậy ra. Anh chủ nhà hô "ông chó" đến để dọn đi. Nhưng con chó chỉ dòm rồi ngoắt đuôi chứ không ăn. Anh liền mắng chó:

- Mi có ăn đi không? Không ăn thì ông cho ông Lý ăn đó!

162__Băm lăm hạn nặng 

Có một gã lý trưởng nhà giàu, ỷ thế Tây đồn hà hiếp nhân dân, nên ai cũng oán ghét. Có một lần không rõ vì lý do gì mà hắn bị Tây đánh cho què chân phải đi 

khập khiễng.

Hắn gặp một ông, ông này hỏi:

- Thầy lý sao coi bộ không được bình thường.

Hắn đáp qua quýt:

- Trước có bị phong.

- Thưa, thầy lý năm nay xuân thu bao nhiêu ạ?

- Băm lăm.

- Dạ, thế thì hạn nặng.

Lý trưởng sừng sộ:

- Anh nhằm vào sách vở nào mà dám nói thế?

Ông nọ thản nhiên đáp:

- Dạ, dân chúng tôi không biết sách vở nhưng căn cứ vào lời chim nói chuyện nên tin như vậy.

Lý trưởng nghe lạ liền đấu dịu hỏi:

- Chim nói ra sao?

- Dạ, xin kể thầy nghe. Có con ác là bám vào đít trâu để kiếm ăn. Ác là thấy con vẹt trong háng trâu, rúc vào mổ, bị chân trâu kẹp ra không được. May lúc đó có con cà cưỡng bày cho "Thò chân ra cọ", "Thò chân ra cọ", ác là liền lấy chân cào làm trâu non ngứa rẩy chân mới chui ra được, chim chích choè tới ỏi ác là:

- "Bác năm nay xuân thu mấy ạ".

Ác là trả lời:

- "Băm lăm, hạn nặng; băm lăm, hạn nặng".

Lý trưởng biết ông nọ chưởi mình liền bỏ đi chứ không có cớ làm gì được.

163__Cá rô nghệ 

Trời đại hạn đã lâu. Bà con nông dân ra sức tát nước vào những đám ruộng lúa đang thì con gái. Có một lão nhà giàu không muốn bỏ sức lao động ra, đêm đêm rình mò để tháo trộm xung quanh vào đám ruộng mình. Người ta nói, lão nạt:

- Ta đâu thèm tháo nước ruộng của các ngươi. Đấy là mấy hôm trước có mấy con cá rô nghệ vẫy đuôi, nước ở ruộng các ngươi bắn sang ruộng ta đấy chứ. Có trời đất ta thề với các ngươi là chính mắt ta trông thấy như thế.

Bà con có ruộng xung quanh nhà lão tức lắm. Họ chờ dịp. Trời vẫn nắng hạn. Một đêm tối trời, lão lại tháo trộm nước. Lúi húi từ ruộng nọ qua ruộng kia, lão tưởng như không có ai ngoài ruộng giữa đêm khuya khoắt này. Nhưng lúc lão ngẩng mặt lên thì một bác nông dân đang sừng sững đứng đó, tay cầm cái nơm, mắt chăm chăm nhìn vào mặt. Lão sợ quá, nhào đầu vào ruộng lúa, lấy tay vọc nước "lách tách" giả tiếng cá rô quẫy. Bác nông dân giơ nơm ra, úp mạnh vào đầu lão :

- Bắt được con các rô nghệ đây rồi.

164__Vật quý 

Anh kia là học trò chữ nghĩa văn vật mà nghèo phải đi vay tạm của ông nhà giàu kia hết ít chục quan tiền, tới kì hẹn không có trả, nên bị bắt tới ở xó nhà lão nhà giàu.

Bữa ấy có ông nhà giàu khác quen tới thăm ông chủ nhà giàu ấy. Ngồi nói chuyện nói: "Ðây anh nhà giàu có tiếng, mà anh có vật chi quý không biết, chớ tôi, tôi có một vật thật quý".

- Vật gì vậy, anh nói tôi nghe thử?

- Tôi có một con gà nó thường gáy: "Giàu có kho! Giàu có kho!"

Ông kia nghe vậy thì nói: "Giàu hú! Giàu hú!"

Chú học trò bị bắt nợ nghe gai lỗ tai, chạy vô xen rằng: "Thưa với hai ông tôi nghèo thì nghèo, tôi cũng có một cái cối đạp quý lắm".

- Quý làm sao mà kêu là quý, nói nghe thử?

- Quý là hễ khi giã gạo, nhứt là khi giã lia thì nó kêu ngộ lắm.

- Nó kêu làm sao?

- Nó kêu: "Láo xược! Láo xược! Láo xược".

165__Khôn ra 

Một lão nhà giàu đi dạo chợ quê xem có món hàng nào hời sẽ mua tích trữ. Thấy một chú bé cứ nhai mãi mấy hột táo, bèn hỏi:

- Này nhóc, mày nhai mãi mấy hột táo ấy để làm gì?

- Thưa ông, để cho khôn người ra.

- Thế à? Bán cho tao vài hột được không?

- Thưa ông, mười đồng hai hột.

- Ðược, tiền đây.

Lão ta đưa luôn mười đồng và cầm hai hột táo bỏ ngay vào miệng nhai lấy nhai để. Nhai mãi, một lúc sau lão ta hỏi chú bé:

- Này nhóc! Tao nhai từ nãy đến giờ chả thấy khôn ra tí nào. Trong khi đó với mười đồng, tao có thể mua hàng rổ táo của những người khác.

- Ðấy! Ðấy! Ông khôn ra rồi đấy! - Chú bé đắc chí kêu lên

166__Thần bia trả nghĩa 

Có một ông lãnh binh, lúc nào trên lưng cũng đeo súng kè kè, nhưng lại bắn rất tồi. Có cái bia sau nhà, đứng cách mấy sải tay mà tập mãi vẫn chưa được phát nào tin. Chẳng may cho quan, bắn chưa thạo thì đã có lệnh gọi ra đánh giặc.

Vừa ra trận buổi đầu đã thua, bỏ mặc quân lính đấy chạy tháo thân. Nhưng giặc đuổi riết cố bắt cho được. Quan sắp đến đường cùng, bỗng có một vị thần ở đâu hiện ra, cõng quan chạy vào rừng. Vào đến giữa rừng, quan biết mình đã chạy thoát, mới hoàn hồn hỏi vị thần kia:

- Xin cho biết người ở đâu? Chẳng hay vì sao mà có lòng tốt cứu tôi như vậy?

Vị thần trả lời:

- Ta là thần bia ở trong vườn nhà ông. Trong bấy nhiêu năm ở nhà ông, nhờ ông có lòng nhân đức nên mới sống được đến ngày nay. Cảm cái ơn ấy, hôm nay ông lâm nạn, tôi cứu ông để trả nghĩa vậy!

167__Hai kiểu áo 

Một ông quan lớn đến hiệu thợ may may một cái áo thật sang để tiếp khách. Biết quan xưa nay nổi tiếng luồn cúi quan trên, hách dịch với dân, người thợ may hỏi:

- Xin quan lớn cho biết ngài may chiếc áo này để tiếp ai ạ?

Quan chạm lòng tự ái, cau mày lại:

- Nhà ngươi muốn biết như thế để làm gì?

Người thợ may liền đáp:

- Thưa ngài, con hỏi để may cho vừa. Nếu ngài mặc hầu quan trên thì vạt 

đằng trước phải may ngắn đi dăm tấc, còn nếu ngài mặc để tiếp dân đen, thì 

vạt đằng sau phải may ngắn lại.

Quan ngẫm nghĩ một hồi, gật gù cho là chí lý, truyền:

- Thế thì nhà ngươi may cho ta cả hai kiểu.

168__Trả ơn con lợn 

Có hai anh kết nghĩa đèn sách. Một anh gặp may thi đỗ, ra làm quan, liền trở mặt. Bạn đến thăm nhiều lần, lần nào cũng cho lính ra bảo, khi thì ngài giấc, ngài ngơi, khi thì ngài bận việc công không tiếp. Năm bảy phen như thế, anh này giận lắm.

Một hôm, anh ta mua một con lợn, quay vàng, để lên mâm bưng tới. Lính lê vào bẩm, một lát trở ra, niềm nở mời vào.

Vào đến nơi, quan chào hỏi vồn vã rồi sai lính lệ mang trầu ra mời. Anh ta cầm lấy miếng trầu, đút vào miệng con lợn, vái nó mấy vái mà rằng.

- Tao giả ơn mày! Nhờ mày tao mới lại lọt vào đến cửa quan để nhìn lại mặt bạn cũ!

169__Trung thần nghĩa sĩ cả 

Nhà vua vi hành, gặp một ông lão đang cày ngoài đồng. Nhà vua dừng lại hỏi thăm về ruộng nương, lúa má, rồi lân la hỏi đến chính sự, tư cách quan trong địa hạt thế nào.

Ông lão nói:

- Ối chà! Các quan ở đây đều là những bậc trung thần nghĩa sĩ cả.

Nhà vua hỏi:

- Làm sao mà lão biết?

Ông lão đáp:

- Tôi xem hát xưa nay, thấy những vai nịnh như Ðổng Trác, Tào Tháo đều mặt trắng mà các quan ở đây tôi chưa thấy ông nào mặt trắng như thế bao giờ! Ông nào mặt mũi cũng hồng hào béo tốt cả!

170__Phê đơn xin li dị 

Hai vợ chồng nhà nọ xích mích với nhau đã lâu. Thấy khó lòng chung sống, chị vợ vác đơn lên quan huyện xin li dị để lấy chồng khác. Xem đơn, quan thấy việc xin li dị của chị vợ này không chính đáng, hơn nữa thấy chị ta cũng chẳng có lễ lạt gì, nên quan liền phê một câu vào đơn bằng chữ Hán "Phố hồi cải giá bất đắc phu cựu", nghĩa là "Cho về lấy chồng không được, cứ chồng cũ".

Chị ta không hiểu gì, vội mang đơn về nhờ thầy đồ trong xóm giảng hộ. Xem qua lời phê, thầy đồ biết ý quan huyện, song muốn nhân dịp này vạch cái dốt mà sính chữ của quan cho thiên hạ thấy. Ông bảo chị kia:

- Thế là chị toại nguyện rồi đấy nhé. Lời quan phê, rành rành ra đây này.

"Phó hồi cải giá" nghĩa là cho về lấy chồng khác", còn "bất đắc phu cựu" nghĩa là "không được trở về với chồng cũ".

Ðược lời như cởi tấm lòng, chị kia lấy chồng ngay. Tự nhiên mất vợ, người chồng cũ phát đơn lên tỉnh kiện về việc quan huyện vô cớ phê chuẩn cho vợ mình đi lấy chồng khác. Bị quan trên quở trách là không nắm vững luật lệ, là ngu xuẩn, quan huyện tắc họng không dám cãi nửa lời. Ra khỏi tỉnh đường, quan huyện chửi đổng:

- Cha cái lão thầy đồ nào đã bày cho nó cách ngắt câu!

Từ đó quan cạch đến già không dám phê đơn bằng chữ Hán nữa.

171__Đánh quân ngũ sách 

Lính huyện đi tuần đêm, bắt được đám đánh tổ tôm. Sáng hôm sau đem lên công đường để tâng công.

Quan chưa biết việc gì, cứ bảo nọc ra đánh. Lính cầm roi, hỏi:

- Bẩm quan đánh bao nhiêu ạ?

Quan đang dở ngủ dở thức mơ màng đến quân bài đánh cho cụ thượng ù lúc gà gáy, bảo:

- Ðánh quân ngũ sách!

172__Phép lạ của nàng dâu 

Thấy con dâu mới cưới về được vài tháng đã xanh xao vàng vọt, bố mẹ chồng để ý theo dõi mới biết nàng dâu vì giữ lễ phép với mình, phải nhịn đánh rắm nên mới như thế.

- Thì con cứ việc đánh đi tội gì mà nhịn cho nó khổ!

Bố chồng bảo thế, nhưng cô dâu cho biết cái rắm của cô đánh đâu phải bình thường, mọi đồ đạc phải khuân ra hết và mọi người phải lánh xa không thì hư hại. Ông bèn bảo mọi người làm theo y lời. Và cuối cùng một tràng rắm phát ra như tiếng sấm, căn nhà nghe tiếng răng rắc như có một trận gió mạnh lướt qua. Một hồi lâu mới mở cửa, người ta còn thấy cái hũ treo ở xà nhà vì quên khuấy, mà vẫn còn lúc lắc dữ dội. Từ đó bố chồng nhìn nàng dâu bằng con mắt khác trước, nếu không muốn nói là... kính nể.

Một hôm trên đường đi chợ ông thấy có toán lính chừng vài trăm người đang ra sức đẩy một chiếc thuyền rồng bị mắc cạn trên bãi lầy. Nhưng bao lần tiếng "Hò khoan" cất lên, thuyền vẫn không nhúc nhích. Sốt ruột, ông buột miệng: "Hò khoa hò uậy, không bằng rắm dậy dâu tôi!"

Bị bắt về tội ngạo mạn ông đành cho biết "cái lạ" của nàng dâu. Lập tức, họ bảo ông đưa về để mời cô ra giúp kẻo chậm trễ việc quan. Thế rồi trước mũi thuyền rộng, chị con dâu chổng mông làm một tràng rắm. Chiếc thuyền lao vùn vụt xuống nước. Quan lính nhìn nhau lác mắt.

173__Quan rẻ thối 

Có một ông quan huyện thấy cần phải đi hành hạt để xem dân tình trong huyện đối với mình ra sao. Chọn ngày lành tháng tốt quan lên đường.

Ðể cho oai, quan bắt dân phi phải khiêng mình bằng một chiếc võng đòn con thật đẹp. Lại thêm một chiếc lọng xanh do một cậu lính vác cho ra vẻ.

Ngày ấy là phiên chợ huyện. Quan muốn dạo chợ. Sắp đến đầu chợ, quan nghe 

trong một nhà bên phố, tiếng chồng bảo vợ:

- Bà mày hôm nay không mua thịt chớ thịt rẻ lắm. Một quan phải hai người gánh. Quan thịt rẻ thối như thế không biết đường mà mua.

Nói xong anh ta còn đay lại: "Quan rẻ thối".

Quan huyện biết lão này chửi xỏ mình, tức quá nhưng không biết trị làm sao được. Thấy lính hầu và dân phu có vẻ đắc ý cười tủm, quan tức quát chạy thẳng, không dạo chợ nữa.

174__Canh bí đao 

Một nhà nọ mời gia sư về dạy con học, ăn uống hàng ngày cho gia sư thật là đơn giản, mỗi bữa chỉ có một bát canh bí đao. Gia sư hỏi chủ nhà:

- Ông thích canh bí đao lắm à ?

- Vâng, đúng vậy, Bí đao ăn rất ngon, lại có tác dụng làm sáng mắt. Ăn bí đao rất có lợi cho mắt.

Một hôm chủ nhà vào phòng học, thấy gia sư đứng dựa cửa sổ nhìn ra xa xăm, cố ý làm như không biết chủ nhà vào. Chủ nhà bước đến phía sau gia sư mà chào, gia sư mới quay lại nói:

- Tôi đang xem trong thành phố diễn kịch, không biết ông vào, mong ông thông cảm.

Chủ nhân ngạc nhiên:

- Trong thành phố diễn kịch mà ông ở đây nhìn thấy được à, nhìn như thế nào vậy?

Gia sư nói:

- Từ ngày ăn canh bí đao của nhà ông đến nay, mắt tôi càng ngày sáng ra.

175__Chiếm hết chỗ 

Một người ăn mày hom hem, rách rưới, đến cửa con nhà giàu xin ăn. Người nhà giàu không cho, lại còn mắng:

- Bước ngay! Rõ trông như người dưới địa ngục mới lên ấy!

Người ăn mày nghe nói, vội trả lời:

- Phải, tôi ở dưới địa ngục lên đây!

Người giàu nói:

- Đã xuống địa ngục, sao không ở hẳn dưới ấy còn lên đây làm gì cho bẩn mắt?

- Không ở được nên mới phải lên. Ở dưới ấy các nhà giàu chiếm hết chỗ rồi.

176__Thi nói khoác 

Một hôm được nghỉ, bốn quan họp nhau đánh chén, nhân lúc cao hứng liền mở một cuộc thi nói khoác. Quan thứ nhất nói:

- Tôi còn nhớ, ngày tôi trọng nhậm ở huyện nọ, tôi được trông thấy một con trâu to lắm, nó liếm một cái hết cả sào mạ!

Quan thứ hai nói:

- Thế đã lấy gì làm lạ. Tôi còn trông thấy một sợi dây thừng to gấp mười cái cột đình làng này!

Quan thứ nhất biết ông kia nói lỡm mình, bèn chịu thua và giục quan thứ ba lên tiếng:

Quan thứ ba nói:

- Tôi đã từng thấy một cây cầu dài lắm, đứng đầu này không thể trông thấy đầu kia. Chỉ biết rằng có hai bố con nhà nọ, kẻ ở bên này, người ở bên kia mà chẳng bao giờ gặp nhau được. Lúc ông bố chết, người con nghe tin, vội vã sang đưa đám ma, nhưng khi qua cầu sang đến nơi thì đã đoạn tang được ba năm rồi!

Đến lượt quan thứ tư:

- Thế kể cũng đã ghê đấy. Nhưng tôi lại còn trông thấy một cái cây cao khủng khiếp lắm! Cứ biết rằng trứng chim ở ngọn cây rơi xuống mới đến nửa chừng, chim đã nở đủ lông đủ cánh và đã bay đi rồi.

Quan thứ ba hiểu ý, muốn nói cây dùng để làm cái cầu mình nói, đành chịu thua.

Bốn ông quan đắc ý, vỗ đùi cười ha hả.

Bỗng có tiếng thét thật to làm các quan giật bắn người:

- Đồ nói láo cả! Lính đâu? Trói cả chúng nó lại cho ta!

Các quan sợ run cầm cập, ngơ ngác nhìn trước nhìn sau xem ai thì té ra là anh lính hầu. Lúc ấy, quan mới lớn giọng:

- Thằng kia, mày định trói ai thế?

- Bẩm quan, con thấy các quan thi nhau nói khoác thì con cũng nói khoác chơi đấy ạ!

177__Khách quen 

Muốn gây một bất ngờ nho nhỏ, một cô vợ quyết định đưa chồng tới một câu lạc bộ thoát y vũ nhân ngày sinh nhật của anh chồng. Khi họ tới câu lạc bộ, người gác cổng nói:

- Chào Dave! Anh khỏe không?

Cô vợ ngạc nhiên lắm và hỏi xem anh chồng đã bao giờ tới câu lạc bộ này chưa.

- Ồ không! - Dave nói. - Anh ta ở trong đội bowling của anh mà.

Khi hai vợ chồng ngồi yên vị, một cô hầu bàn tới và hỏi Dave xem anh có thích đồ uống như thường lệ không và mang tới một chai Budweiser. Cô vợ càng cảm thấy không thoải mái và vặn:

- Làm sao cô ta biết là anh uống Budweiser?

- Cô ấy trong Liên đoàn Bowling cho phụ nữ, em yêu ạ. Bọn anh cùng chơi trên một làn với họ.

Một vũ nữ thoát y tới bàn họ, vòng tay choàng qua cổ Dave tình tứ:

- Chào Davey. Muốn một màn nhảy ở bàn như thường lệ không?

Vợ của Dave điên tiết, vớ ngay ví và chạy khỏi câu lạc bộ. Dave chạy theo và thấy cô vợ đang chuẩn bị lên xe taxi. Trước khi cô đóng sầm cửa, anh kịp nhảy vào ngồi cạnh vợ. Anh ta cố gắng một cách tuyệt vọng để giải thích làm sao cô vũ nữ thoát y nhận nhầm mình với người nào đó, nhưng cô vợ chẳng thèm nghe một câu. Cô ta la hét ầm ĩ, gọi anh ta bằng đủ những lời bậy bạ nhất. Người lái xe taxi quay đầu lại, lắc đầu tỏ vẻ thông cảm:

- Dave à! Có vẻ như tối nay anh vớ phải một ả cave xỉn đến phát điên rồi!

178__Vô tội 

Ba anh chàng đứng trước cổng thiên đường. Thánh Peter hỏi từng người và cho họ biết còn một chỗ trống cho một người. Thánh Peter hỏi xem họ đã chết như thế nào.

- Một hôm tôi về nhà và thấy vợ tôi trên giường, khoả thân. Tôi nhìn khắp nhà và quyết định kiểm tra ban công. Tôi thấy có mấy ngón tay ở đó và thế là tôi lấy cái búa đập vào ngón tay hắn khiến hắn rơi xuống, rồi tôi lấy cái tủ lạnh ném vào hắn nữa. Nhưng rồi tôi cảm thấy tội lỗi vì đã giết người nên tôi đã tự tử.

- Tôi đang sơn ở tầng thứ 37 thì trượt chân và rơi xuống. Tôi nắm được vào ban công, thì bỗng có ai đó đập mạnh vào ngón tay tôi bằng búa nên tôi rơi xuống, sau đó lại còn cả cái tủ lạnh rơi vào tôi nữa.

- Tôi đang trốn một cách vô tội trong cái tủ lạnh.

179__Không đáng 

Một anh chàng đang đi trên phố thì có người lạ chặn đường, mời mua "thần dược" của nam giới Viagra. Anh ta hỏi giá và người lạ mặt cho biết, mỗi viên có giá 300 nghìn đồng.

Anh chàng lắc đầu:

- Ồ, không đáng đâu!

- Vậy thì 150 nghìn nhé!

- Không, không đáng đâu!

- 100 nghìn vậy!

- Không đáng đâu!

- Giá chót này, 50 nghìn!

- Vẫn không đáng!

Người lạ cáu:

- Nghe này, loại thuốc này có giá 10 đô-la một viên. Tôi cần tiền mới bán rẻ như cho. Thế quái nào mà ông lại bảo là nó không đáng giá ấy?

- Thuốc thì đáng giá lắm, còn vợ tôi thì không.

180__Tím hết cả mình mẩy 

Ông chủ nọ gọi về cho vợ biết là phải làm việc trễ tối nay. Gọi xong, ông mời cô thư ký xinh đẹp đi ăn và ông ta gặp may được cô ta rủ về phòng mình!

Hai tiếng sau, ông vào phòng tắm sửa soạn lại để trở về nhà. Bỗng ông ta hoảng hồn vì thấy trên cổ mình có một vết cắn bầm do cô thư ký để lại. Ông hoang mang vì không biết phải nói sao nếu bị vợ hỏi.

Ông mở cửa vào nhà và con chó bec-giê nhảy chồm lên mừng chủ. Ông lanh trí vội vàng ôm lấy con chó làm bộ vật lộn với nó rồi la toáng lên và chạy vào phòng. Ông ta một tay lấy ôm cổ ra vẻ đau đớn nói với vợ:

- Em xem nè! Con chó quỷ cắn bầm cổ anh này!

Vợ ông ta vội phanh áo mình ra phân bua liền:

- Anh coi đó! Nó cũng cắn tím bầm mình mẩy em này!!!

181__Bố vợ và chàng rể 

- Thế là con gái tôi đã đồng ý làm vợ anh. Anh định ngày nào sẽ cưới?

- Cháu đã dành quyền quyết định đó cho vị hôn thê.

- Anh định làm lễ cưới ở nhà thờ hay ở nhà?

- Điều đó mẹ cô dâu sẽ quyết định.

- Thế anh và vợ định sống bằng cái gì?

- Vấn đề này thì cháu hoàn toàn giao phó cho hai bác!

o O o

- Quan hệ giữa cậu và ông bố vợ ra sao?

- Rất tốt! Chúng tôi hợp nhau, trừ một lần duy nhất, tôi không hiểu ý ông ấy.

- Lần nào vậy?

- Lúc tôi xin cưới, ông ấy can ngăn và nói vì rất thương tôi, thế mà tôi đã không tin ông ta.

182__Ổ khóa và chìa khóa 

Một bà vợ luôn tự coi mình là nhân vật quan trọng trong gia đình:

- ... Nếu thiếu sự quán xuyến của em thì gia đình sẽ tan nát, của cải sẽ đội nón ra đi.

Nghe vợ nói, ông chồng không hề phản đối mà còn hăng hái thêm vào:

- Em nói đúng, người vợ trong gia đình cũng giống như cái ổ khoá của một căn phòng. Đồ đạc trong phòng muốn an toàn phải nhờ có ổ khoá tốt.

- Anh nói chí phải!

- Còn vai trò của người chồng chỉ như cái chìa khoá mà tôi, làm sao so được với cái ổ khoá.

- Anh nói đúng lắm! Chưa bao giờ em thấy anh đánh giá vai trò của vợ chồng mình chính xác như hôm nay. Hoá ra anh cũng không ngớ ngẩn như em và mọi người vẫn tưởng.

- Để anh nói hết đã! Cái ổ khoá tốt là ổ khoá chỉ có một chìa mở được!

- Đúng quá đi rồi! Nếu chìa nào cũng mở được thì ổ khoá là loại vứt đi.

Ông chồng lại thủng thẳng:

- Còn chìa khoá tốt là chìa khoá mở được nhiều ổ khoá.

- Đúng.... à, không phải thế, không phải thế.

Bà vợ suy nghĩ một lúc mới biết ông chồng gài bẫy mình, liền xấn xổ:

- Thế cái chìa của anh mở được bao nhiêu ổ khoá rồi? Nói đi, nói đi! Tôi sẽ bẻ cong cái chìa khóa láo lếu này cho nó khỏi mở ổ khóa nào hết!

- !!!

183__Hậu quả 

Một anh chàng rời công sở về nhà vào chiều thứ sáu. Nhưng hôm đó lại là ngày lĩnh lương, trong túi sẵn tiền nên anh ta gọi vài người bạn đi nhậu rồi tiếp tục đi chơi cho đến hết kỳ nghỉ cuối tuần mới về nhà.

Khi anh ta trở về nhà vào đêm chủ nhật, người vợ mặt mũi hằm hằm đang đứng đợi ở cửa, sa sả mắng nhiếc suốt hơn 2 giờ. Cuối cùng, cô vợ cũng thôi lải nhải và hỏi chồng:

- Anh có thích không nhìn thấy tôi trong vài ba ngày không?

- Có chứ! - Ông chồng vẫn còn hơi men đáp.

Ngày thứ hai qua đi, anh ta không thấy mặt vợ đâu. Ngày thứ ba và thứ tư cũng thế. Nhưng tới hôm thứ năm, chỗ sưng xẹp bớt đi, đủ để cho anh ta nhìn thấy đôi chút hình bóng của người vợ qua khoé mắt...

184__Phức tạp 

Hai chú bé một da đen, một da trắng vừa sinh ra đã chết, linh hồn cả hai bay lên thiên đàng, gặp thánh Pie.

Thánh nhìn chú da trắng rồi mỉm cười thật dễ thương: "Con mới sinh ra đã chết, ta sẽ cho con một đôi cánh, con sẽ làm thiên sứ."

Quay sang chú da đen, thánh mỉm cười còn dễ thương hơn: "Ta cũng cho con một đôi cánh."

Chú da đen mừng rơn, "Con cũng làm thiên sứ?"

"Không con sẽ làm con muỗi."

o O o

Maria là một cô gái hết sức ngoan đạo. Cô lấy chồng và có 17 đứa con. Rồi chồng cô ta chết. Hai tuần sau cô ta cưới, và có 22 đứa con với người chồng tiếp theo. Sau đó chồng cô ta chết. Một thời gian sau, cô ta chết.

Tại lễ tang cha xứ nhìn lên trời và nói, "Ít nhất cuối cùng chúng cũng ở bên nhau."

Một anh chàng đứng ở hàng trước nói, "Xin lỗi cha, nhưng có phải ý cha là cô ta và người chồng trước, hay là cô ta và người chồng sau?"

Cha xứ đáp, "ý ta là hai cái chân của cô ấy."

185__Vì sao vội vã 

Một người đàn ông bước vào quán bia, gọi 25 chai bia và uống sạch trong vòng 10 phút. Thấy lạ, chù quán hỏi:

- Này, tại sao anh vội vã thế?

- Ồ, anh cũng thế thôi, nếu anh có cái mà tôi đang có!

- Anh có gì nào?

- 1 đô-la.

186__Sao biết? 

Ông Peter canh nhà xác, một hôm thấy xác của một người đàn ông mang tên Zeydeuraymanson rất đặc biệt. Đó là "của quý" của ông ta dài gần 30m, thế là ông Peter lén tiện đi, dấu đem về nhà khoe vợ vì thấy quá kỳ lạ.

Bà vợ vừa nhìn thấy thứ chồng mình đem về liền hét lên thảng thốt:

- Ôi trời ơi, ông Zeydeuraymanson chết rồi ư?

187__Bi kịch 

Tóc vàng hoe đi làm trễ, mắt đỏ hoe...

- Cô có sao không? - Sếp hỏi...

- Mẹ tôi mới mất... tôi đau khổ quá...

- Vậy cô về nghỉ đi.

- Không sao, tôi sẽ ổn mà...

Lát sau, sếp đi ngang lại vẫn thấy nàng khóc lớn hơn.

- Có chuyện gì nữa à?

- Em gái tôi mới gọi, mẹ nó cũng mất... sao mà bi kịch thế này?

188__Vận đen 

Hai người đàn ông nói chuyện với nhau:

- Hồi này cậu thế nào?

- Đen đủi lắm! Hôm nọ, tớ cho một cô gái đi nhờ xe, sau đó cô ta lại còn kiện tớ, buộc tớ tội quấy rối tình dục. Tòa án bắt tớ phải nộp tiền phạt. Nhưng khi trông thấy cô ta, tòa lại còn phạt thêm tớ về tội lái xe trong tình trạng không tỉnh táo...

189__Không thể giải thích 

Buổi sáng, người nông dân nọ đã ra ngồi quán rượu và nốc tì tì, chẳng mấy chốc đã say khướt. Lát sau, người láng giềng của ông ta đi qua, thấy vậy bèn hỏi: "Ê! Sao ông bạn lại ngồi đây say sưa như vậy giữa một buổi sáng đẹp trời thế này hả?".

Người nông dân đáp:

- Có những thứ mà ta không thể giải thích nổi.

- Chuyện gì đã xảy ra mà có vẻ khủng khiếp thế? - Người láng giềng hỏi.

Người nông dân cố gắng làm cho ông bạn hiểu:

- Ông biết không, hôm nay, tôi đi vắt sữa bò. Khi thùng sữa gần đầy thì nó co chân trái lên và đá đổ...

- Điều đó đâu đến nỗi quá tệ? Có gì nghiêm trọng đâu?

- Có những thứ mà ta không thể giải thích nổi. - Người nông dân nói.

- Thế đã xảy ra chuyện gì? - Ông láng giềng hỏi tiếp.

Ngần ngừ, người nông dân tiếp:

- Tôi tóm lấy chân trái của nó và dùng dây buộc vào một cây cột bên trái. Sau đó, tôi ngồi xuống tiếp tục vắt sữa. Khi sắp xong thì con quỷ ấy lại co chân phải lên đá một phát nữa làm thùng sữa đổ lênh láng.

- Lại thế nữa à?

- Phải! Có những thứ mà ta không thể giải thích nổi. Lần này, tôi trói nốt chân phải nó vào cái cột bên phải rồi lại ngồi xuống vắt sữa. Khi thùng sữa gần đầy thì con bò ngu ngốc ấy lại ngoắc đuôi một cái làm đổ thùng.

- Ối chà! Hẳn là ông bực mình lắm nhỉ. Nhưng không thể vì chuyện vớ vẩn đó mà ngồi đây ảo não như vậy.

- Chưa hết đâu. - Người nông dân tiếp - Lúc đó, tôi không còn sợi dây nào, thế là tôi bèn cởi thắt lưng ra và buộc đuôi con bò lên nóc chuồng. Thế rồi, khi cái quần của tôi tụt xuống thì vợ tôi bước vào. Có những thứ mà ta không thể giải thích nổi.

190__Trùng hợp 

Ở quán rượu, một người đàn ông đang ngồi nhâm nhi ly rượu Martini tại quầy bar thì một cô gái xinh đẹp bước vào và ngồi bên cạnh. Ông ta quay sang bắt chuyện:

- Tôi đang ăn mừng cho một ngày đặc biệt.

Người phụ nữ đáp:

- Thật là trùng hợp. Tôi cũng đang ăn mừng. Vậy ông mừng vì dịp gì vậy?

- Tôi nuôi gà cảnh. Trước đây con gà mái của tôi không đẻ, nhưng hôm nay nó nhảy ổ rồi và cho ra một quả trứng rất xinh.

- Thật trùng hợp! Nhiều năm nay vợ chồng tôi không có con, nhưng bác sĩ vừa báo rằng tôi đang mang thai. Thật là mừng! Thế sao con gà của ông đẻ được vậy?

- Ồ, tôi đã đổi con gà trống khác!

- Thật là trùng hợp!...

191__Hiểu tính sếp 

Nhân viên tới gặp sếp, gãi đầu gãi tai:

- Thưa sếp, ngày mai nhà em tổng vệ sinh. Em được vợ giao nhiệm vụ dọn dẹp toàn bộ nhà cửa, bếp núc, giặt rèm cửa, lau chùi cửa chính, cửa sổ, dọn vườn...

- Nhưng ngày mai công ty cũng có rất nhiều việc, tôi không thể cho anh nghỉ việc được!

- Cảm ơn sếp. Em biết sếp lúc nào cũng có quyết định sáng suốt!

192__Biết tỏng 

Chồng nói với vợ:

- Em ơi, Ti vi có tháng khuyến mãi đại hạ giá, mình mua cái màn hình phẳng xem cho có nét.

- Tui biết tỏng rồi, tháng có cuộc thi hoa hậu, anh muốn xem thi áo tắm hai mảnh cho có nét chứ gì?

- Cô thì sao, bày đặt phí tiền mua ba cái tạp chí điện ảnh chất đầy nhà...

- Tui mua để nâng cao kiến thức chứ bộ!

- Tui biết tỏng rồi, cô mê mấy thằng kép Hàn in hình bự chảng đầy trong đó chứ gì?

193__Hậu quả 

- Con đã gần 40 rồi đấy, lấy vợ đi kẻo sau này ăn cơm xong, muốn xỉa răng cũng không có người lấy tăm cho đâu!

40 năm sau, chàng trai ngày ấy, nay đã thành ông già 80 tuổi, nằm ôm đầu bông nhét chặt hai hai lỗ tai. Xung quanh, lũ cháu mở nhạc ầm ĩ, nhảy nhót nô đùa đá bóng ở phòng ngoài. Ông thầm than thở:

- Ôi! Chỉ vì một cái tăm mà thân ta khốn khổ thế này đây!

194__Ngọc hoàng cũng chửi thề 

Một nhà sư và một cao bồi chơi golf với nhau, mỗi lần đánh trượt, tay cao bồi lại chửi thề. Ông sư tức lắm, mấy lần nhắc nhở mà hắn vẫn quen miệng, cuối cùng ông quở hắn:

- Anh mà còn chửi thề nữa là Ngọc hoàng sẽ giáng sét vào anh đấy!

Ở gậy sau, tay cao bồi chưa dứt tiếng chửi thì một tiếng sét vang lên... Ông sư lăn ra chết. Trên trời vọng xuống tiếng lẩm bẩm:

- #*&^%@, lại đánh trượt rồi!

o O o

Thèm...

Một cô gái đến khám bác sĩ, trăn trở:

- Thưa ông, cứ sau mỗi tháng thì tôi lại có cảm giác thèm đàn ông kinh khủng.

- Đó là điều bình thường thôi. Nhưng thời gian "thèm" đó kéo dài bao lâu?

- Khoảng... 4 tuần.

194__Ồn quá 

Tò te tí... tò te tí...

- A lô, tôi là T. đây!

- Anh à, em đây mà. Chiều anh đừng có về muộn nhé!

- Ừ được rồi, còn gì nữa không em?

- Em đi làm về còn phải ghé qua chợ, anh rửa bát, vo gạo giúp em nhé!

- Em nói to lên, anh chẳng nghe thấy gì cả.

- Rửa bát, vo gạo.

- Chịu, không nghe thấy gì cả... (tắt máy).

196__Hẹn lần sau 

Hai người bạn gặp nhau, một anh vui vẻ:

- A, chào cậu, đã lâu rồi mới gặp, nghe nói cậu mới lập gia đình phải không?

- Đúng vậy, vợ tớ là hàng xóm của cậu đấy!

- Thế sao không cho anh em biết gì cả?

- Thật sự xin lỗi nhé, tớ bận quá, lần sau sẽ cho cậu biết ngay.

197__Phận... chồng 

Buổi tối, bà vợ là "sư tử Hà Đông" nấu nướng xong liền bảo cậu con trai gọi điện cho bố về ăn cơm ngay.

Thằng con gọi điện một hồi rồi chạy ra bảo mẹ:

- Mẹ ơi, con gọi ba lần liền mà lần nào cũng có một cô trả lời.

Bà vợ điên quá, đợi đến lúc chồng đi làm về liền nhảy ra đấm đá túi bụi. Ông chồng bị bất ngờ không hiểu vì sao chỉ kịp nằm lăn ra kêu cứu. Bà vợ lúc này mặt vẫn đang hầm hầm liền bảo thằng con:

- Mày nói đi, cái con kia nó trả lời máy của bố mày thế nào?

- Dạ, cô ấy bảo "số máy quý khách vừa gọi hiện không liên lạc được".

198__Tưởng bở 

- Em yêu, nếu anh cưới em thì bố mẹ sẽ mua xe hơi đời mới cho anh chứ?

- Vâng.

- Bố em sẽ mua nhà cho chúng mình chứ?

- Vâng.

- Và bố em sẽ cho anh làm phó giám đốc công ty của ông ấy chứ?

- Vâng.

- Em yêu, em đồng ý lấy anh chứ?

- Không!

199__Hoàng tử thông minh 

Một anh chàng gọi điện đến nhà bạn gái, vì có hẹn trước nên bên kia vừa nhấc máy là anh chàng hỏi ngay:

- Alô! Con ếch nhỏ của anh à? Hoàng tử thông minh của em đây.

- Không! Tôi là ông chủ đầm lầy.

- Ấy chết! Cháu xin lỗi bác! Bác có khỏe không ạ?

- Khỏe để đánh nhau với ai?

- Dạ... cho cháu hỏi Ngọc có nhà không ạ?

- Nó không có nhà thì là dân vô gia cư à?

- Dạ, dạ... ý cháu là Ngọc có ở nhà không ạ?

- Nếu không thì sao?

- Thế... Ngọc đi đâu ạ?

- Đến cơ quan rồi.

- Bác cho cháu số điện thoại của Ngọc được không ạ?

- Nó có nhiều số lắm.

- Bác cho cháu xin một số thôi ạ!

- 8...

- ... 8 rồi... mấy nữa ạ?

- Thì cậu bảo chỉ cần một số thôi mà?

- Dạ... là một số điện thoại kia ạ!

- Được, vậy thì... 8765432. Chỉ có điều thứ tự sắp xếp thế nào thì "hoàng tử thông minh" tự nghĩ ra nhé!

- Dạ... dạ... dạ... cháu... chào... bác... ạ!

200__Đôi mắt 

Tính tình của chàng trai mộc mạc ít nói thật xứng đôi với cô gái có tính cách hướng nội. Trước khi thành vợ thành chồng, anh chị cùng làm việc với nhau nhiều năm. Hai bên tuy có ý nhưng không có dũng khí để thổ lộ. Sau đó, nhờ bố trí của đồng nghiệp, họ bắt đầu hò hẹn nhau. Cô gái bẽn lẽn:

- Tại sao mỗi lần bốn mắt chúng ta nhìn nhau, em luôn cảm thấy mắt anh có cái gì đặc biệt.

Chàng trai kinh ngạc:

- Ái chà, sao em biết anh bị bệnh mắt hột? Nhưng cứ yên tâm, bác sĩ nói sắp khỏi hẳn rồi.

Truyện cười 

Nguyễn Như Cương_*_Phạm Thùy Dương 

sưu tầm

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#vinh