truyen khong doc luc nua dem

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bàn tay lạnh

Đàn bà gì mà lòng bàn tay lạnh buốt - anh bạn cùng phòng tôi xoa xuýt hai bàn tay vào nhau, thốt lên. Không ngẩng đầu, tôi nói cho có chuyện: "Nghe nói: Ai có bàn tay lạnh thì có trái tim nóng".

Anh ta cúi xuống gần tôi :

- Trông tôi có đến nỗi nào không?

Tôi ngước lên nhìn anh như thầm cân đo, rồi nói khá chân thành :

- Rất được! Đẹp trai là đằng khác!

Anh ta nhếch cười, thẳng người lên mãn nguyện, nhưng tôi bỗng lập tức cau mày :

- Thế mà ánh mắt cô ta nhìn tôi cũng lạnh, còn lạnh hơn cả bàn tay. Lẽ nào cô ta không coi tôi là đàn ông?

Vừa gỡ nới nút cà-vạt mầu xám đậm nơi cổ, anh vừa kết luận :

- Tôi ghét những loại đàn bà như thế, mặc cho cô ta đẹp!

Tôi nhướng mắt nhìn anh, ngạc nhiên :

- Can gì tới anh cơ chứ?

- Sao không? Bạn tưởng chỉ có đàn bà mới đo ảnh hưởng của mình trong ánh mắt người khác giới? Đàn ông còn quan tâm tới điều đó hơn nhiều.

- Thôi được! Tôi dàn hòa - nhưng anh đang nói tới ai vậy?

- Kia kìa. - Người đàn bà ngồi quay lưng lại đây, trên chiếc ghế thứ hai của hàng thứ ba.

Tôi vươn cổ nhìn theo tay anh ta. Một đôi vai thon nhỏ được phủ mềm mại một lần áo mầu khói nhạt bằng vải sít lạnh. Những nếp áo rủ trông thật yêu kiều. Thế nhưng dáng ngồi thì quá thẳng, thẳng đáng ngờ, với cái đầu ngẩng cao. Ký ức tôi thảng thốt, bắt chợt một nét quen quen nào đó tự ngày xưa.

Chắc linh cảm thấy ai đó đang nhìn mình chằm chằm từ sau lưng, người đàn bà ấy giật mình quay lại :

Và chỉ chờ có thế, tôi vụt reo lên :

- Trời ơi! Chị Trang!

Mọi người nhìn tôi khó chịu. Nhưng chị đã rời ghế, mỉm cười và đi về phía tôi. Hai chị em nắm tay nhau, cùng bước ra ngoài phòng họp - hội nghị khoa học toàn quốc.

Và tôi cũng đã giật mình vì bàn tay chị thật lạnh. Quen biết chị từ nhiều năm trước đây, sao tôi không nhận ra điều ấy nhỉ?

Trong phòng họp, báo cáo viên đang đọc bài viết mang tên: "Thử bàn về hôn nhân ở các hành tinh ngoài trái đất".

* * * * *

- Chị vẫn chưa lập gia đình ư? - Tôi nhìn bộ ngực cao của chị và hỏi.

"Không phải là chưa, mà là không bao giờ" - Chị đính chính, giọng chắc nịch. Bàn tay với những ngón thon nhợt nhạt đưa lên vuốt ngược mái tóc. Tôi xót xa nhìn những nếp nhăn lờ mờ lượn quanh khóe môi thanh tú một thời quyến rũ của Người Đẹp trường tôi cách đây mười bảy năm. "Chị vẫn chưa quên được chuyện ngày xưa..." - Không dám nhìn vào mắt chị, tôi rụt rè hỏi.

"Nếu quên được, mình đã có thể lấy chồng..." - Chị thở dài. "Hỏng rồi em ạ. Có những loài cây chịu được sương, mưa bão và nắng. Nhưng có những loài cây bị gục từ những giọt sương muối đầu tiên và không bao giờ dậy được nữa. Không hiểu sao chị cứ đinh ninh rằng trái tim mình chỉ là một sợi dây tơ và dây ấy đã bị giằng đứt quá sớm".

Những giọt nước mắt của chị rơi xuống cốc ca-cao đang cầm trên tay. Tôi, một người đàn bà từng có một mặt con và gia đình chẳng chuộc, nên thương cho chị hay thương cho chính tôi đây?

* * * * *

Ngày ấy, con gái lớp tôi có cả thảy bảy đứa, trong đó chị lớn tuổi hơn cả và đẹp hơn cả. ánh mắt bọn con trai dừng nơi chị bao giờ cũng lâu hơn so với cả lũ chúng tôi. Đáp lại những cái nhìn ấy, chị thường dửng dưng quay đi.

Vì thế, khi cả đến người xấu nhất trong đám chúng tôi đã có người yêu, mà chị vẫn chưa chịu nhận lời đi chơi với một người con trai nào, tôi ngập ngừng hỏi chị :

- Chị không thấy người con trai nào đáng yêu sao? Nhiều người đến với chị và giơ "cờ trắng" thất thểu quay về rồi đấy. Chà, giá mà em được như chị... Thôi thì em cũng đành quơ tạm một anh...

Chị cười :

- Không phải chị không muốn yêu đâu. Những tối thứ bảy, thấy từng đôi dập dìu, chị cũng buồn... Nhưng em biết không, đàn ông bay là là trên mặt đất. Còn chị thì bay trên cao. Bao giờ gặp một người con trai bay cùng tầng, thì lúc đó... Em tưởng chị không khao khát được một ai đó buộc mình phải quy hàng một cách ngọt ngào sao?

Ngày ấy, dù đã có người yêu, nhưng tôi không hiểu mấy về những tầng bay của chị. Và có lẽ chị đã kể về những tầng bay ấy không chỉ với tôi. Trong lớp và trong khoa tôi bắt đầu lan truyền những lời xì xầm về tính kiêu ngạo quá đáng của chị. Bọn con trai cảm thấy bị giễu cợt, bị xúc phạm. Chúng đố nhau: "Đứa nào tán đổ được Thùy Trang, đưa đi chơi và hôn được cô ta trước sự chứng kiến bí mật của cả bọn thì sẽ được thưởng một két bia và một tháng không phải đi quét nhà...". Đúng là "nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò".

Từ đó, trong lớp có một "chiến dịch" ngấm ngầm của đám con trai nói chung chống lại chị. Trừ chị ra, cả lũ con gái chúng tôi đều biết và theo dõi một cách hồi hộp và thú vị. Thực lòng, chúng tôi không đành khi thấy chị lẻ loi.

Nhưng đám con trai thử đã đủ cách mà vẫn không xong. Đã thế, càng cay cú. Cả bọn thề là sẽ "phục thù" bằng được. "Người nhà" không xong thì người ngoài vậy - một cậu láu lỉnh nhất lớp tuyên bố. "Nào, các đồng bào kém cỏi của tôi, chúng ta đã đầu hàng thì đừng có tiếc nhé. Tớ sẽ đưa một anh chàng ở ngoài vào. Anh này thì đảm bảo là chắc thắng: đẹp trai này, hào hoa phong nhã này, lại có gương mặt có vẻ cao quý này. Hắn vốn là một "Đông Joăng" đấy! Thế nào? Được chứ?". Cả bọn ngơ ngác: "Thế thì hắn nẫng tay trên của tất cả bọn ta rồi còn gì?". "Không lo, nỡm ạ? Chúng ta phải bắt hắn làm cam kết chứ. Công việc chỉ được dừng đến đó thôi, rồi hắn phải chuồn. Thú thật, tớ không muốn trao cô nàng vào tay một người như thế, vấn đề chỉ là làm cho nàng bớt kiêu đi mà thôi, để ta còn có cơ may... Thôi, nhất trí nhé!". Cả đám vỗ tay tán thưởng.

Thứ bảy tuần sau, trước hành lang phòng con gái chúng tôi xuất hiện "người hùng". Quả thật, trông anh ta rất hấp dẫn: cao lớn, da ngăm ngăm, gương mặt gần như cao quý. Để ý lắm mới thấy cái nhìn hơi cụp xuống. Phải nói rằng đó là một gương mặt gần như toàn bích. Thẩm - tên anh ta - gặp chị Trang với vẻ hơi giễu cợt, nhưng khi vừa nhìn thấy chị, anh ta bỗng thay đổi hẳn thái độ. Với linh cảm của một người con gái đã từng yêu, tôi biết rằng câu chuyện không phải chỉ là chuyện đùa nữa.

Cả lớp tôi lại hồi hộp theo dõi. Cả lớp biết mà riêng Trang không biết gì về lời thách đố. Khi mắt chị rực sáng những tia nhìn đầu tiên của tình yêu, tôi bỗng ân hận là mình cũng ngấm ngầm tham gia vào trò đùa ấy, liền nói xa nói gần với chị :

"Chị Trang ơi! Chị có nghĩ rằng anh Thẩm tốt không? Có chân thành với chị không?"

"Có chứ! Anh ấy rất chân thành và rất yêu chị. Chị cảm thấy bây giờ mới gặp được người cùng tầng bay: anh ấy trong sáng một cách kỳ lạ..."

"Thật ư? Em không tin..."

"Đúng đấy em ạ. Có lẽ số phận đã để dành anh ấy cho chị để đến bây giờ mới gặp. Mẹ chị không hạnh phúc. Chị gái của chị cũng đã không hạnh phúc. Người hàng xóm của chị cũng không hạnh phúc. Vì thế, chị phải hạnh phúc, chị không được phép sai lầm. Gia đình chị không thể thêm một người đàn bà bất hạnh thứ ba. Vì thế em thấy không chị rất thận trọng khi chọn người yêu"...

Và chị tiếp, khuôn mặt rạng ngời: "Chị cảm thấy chị nắm điều đó trong tay, em ạ. Nhà chị không thể thêm người đàn bà bất hạnh..." - Chị nhắc lại và đượm vẻ ưu tư như một bóng mây lướt qua làm tôi tối mắt. Tôi chỉ còn nước thở dài. Người ta nói "Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu" quả thật không ngoa. Mẹ tôi cũng từng nói: "Đàn ông nó không quyết chí lừa thì thôi. Chứ nó đã quyết chí, bền bỉ và tinh vi thì dù người đàn bà nào khôn ngoan đến mấy cũng phải mắc, con ạ".

Tôi chỉ còn cách chạy đến bảo bọn con trai trong lớp: "Lập tức thôi các trò đó đi. Quá đà rồi đấy! Khéo mà lại ân hận không kịp". Nhưng đám con trai xua tôi như xua muỗi: "Mặc kệ chúng tớ? Đừng can thiệp vào những chuyện không phải của mình. Và chúng tớ hứa với cậu là sẽ không để những hậu quả đáng tiếc xảy ra".

Cho đến một buổi tối.

Thẩm đã rủ được chị Trang đi chơi trên con đường rợp bóng cây báng súng gần trường. Tôi nhớ hôm ấy trăng sáng lắm. Đây là cuộc hẹn hò đầu tiên của chị, nên Trang mặc chiếc áo đẹp nhất. Má chị ửng hồng và mắt sáng ngời. Thẩm đến đón Trang. Sao lúc ấy tôi thấy khinh anh ta thế. Tôi chỉ muốn thét vào mặt Thẩm: "Hãy thôi cái trò đùa ngu ngốc của anh đi". Đáng lẽ thế, thì tôi lại chỉ đi qua khẽ nói: "Dừng lại đi! Quá đà rồi đấy!". "Không quá đà đâu! Yên tâm" - Thẩm buông một câu. Hai người ra đi. Và tôi linh cảm thấy cái giờ phút đáng sợ nhất đối với Trang sắp tới. Tôi bỏ cuộc hẹn với người yêu, lẳng lặng đi theo chị, lẩn sau những bóng cây.

Và tôi thấy dưới ánh trăng trong vắt như mật ong, người con trai ấy bỗng dừng bước quay người chắn ngang lối đi của chị. Một tay anh quàng vai, một tay nâng cằm chị, nói một điều gì đó có vẻ rất ngọt ngào, rồi cúi xuống, đặt lên môi chị một cái hôn. Và tôi cũng thấy Trang dịu dàng tựa đầu vào ngực anh.

Giây phút ấy, tôi bỗng quên tất cả. Tôi khấp khởi thầm hy vọng, rằng tất cả sẽ tốt đẹp, rằng Thẩm sẽ mãi mãi yêu Trang, rằng sẽ không có trò đùa ấy trên đời. Chao ôi! Khi người đàn bà tựa mái đầu mịn như nhung vào ngực một người con trai, tại sao những điều xấu, tại sao cái ác lại có thể vẫn cứ xảy ra được nhỉ? Khi mà một sinh vật yếu đuối đến nhường ấy, dễ thương đến nhường ấy, đến tìm nơi ngực anh một chỗ nương tựa, tin tưởng rằng anh là một người tốt nhất trên đời, cả quyết rằng nơi anh có phép lạ, rằng anh có thể biến một cuộc đời bất hạnh thành hạnh phúc, thì tại sao, tại sao tất cả những điều dối trá nỡ xảy ra?

Hai người đứng yên lặng trong vòng tay nhau giây lâu.

Tôi len lén ra về. Tôi gần như yên tâm, cảm thấy rằng Trang sẽ không làm những điều dại dột, ảnh hưởng đến thanh danh con gái.

Khoảng chín giờ, Trang về. Mặt chị vẫn ngời ngời hạnh phúc.

Đúng mười lăm phút sau, Trang nhận được một mảnh giấy liệng vào cửa sổ. Chị cầm lên đọc, sắc mặt đang hồng hào chuyển sang tái mét. Chị thẫn thờ tựa lưng vào tường, như hóa đá.

Tôi biết điều gì đã xảy ra. Tôi bước tới bên chị, cầm mảnh giấy lên đọc. Chữ của một thằng trong đám con trai lớp tôi :

"Xin có lời chào cô em xinh đẹp và quá kiêu kỳ! Anh Thẩm vừa nhận được một két bia vì đã đạt được thành tích trong việc tán tỉnh cô em. Hắn ta đã có vợ rồi. Em ơi! Hắn lừa em đấy? Từ nay thì đừng kiêu với bọn anh nữa nhé!"

Trang không khóc. Sau một đêm không ngủ, sáng hôm sau, Trang dậy sớm, chải đầu và trang điểm kỹ lưỡng. Không ai nhận ra điều gì khác thường nơi chị, chỉ trừ ánh mắt bỗng nhiên trống hoang. Chị đi một ngày, không ai rõ đi đâu. Cả lớp nhốn nháo. Bọn con trai bồn chồn.

Tôi lên phòng nam, định cho chúng một "bài" và bàn cách đi tìm Trang về. Tôi sợ chị tự tử. Thì bỗng nghe trong phòng có tiếng cãi nhau. Tiếng Thẩm gay gắt :

"Các người quá đáng lắm! Tao mặc dù trước đây đã từng yêu đương lăng nhăng thật đấy. Nhưng lần này thì không. Tại sao chúng mày bảo tao đã có vợ rồi?"

"Thế mày quên hợp đồng rồi sao?"

"Thôi thôi, đừng nhắc đến cái trò ngu ngốc ấy nữa. Tao căm ghét chúng mày và căm ghét cả chính tao!..."

Cả phòng im lặng. Thẩm bước ra, suýt nữa anh ta đâm sầm vào tôi.

Tôi cũng lẳng lặng quay về phòng.

Tận chiều hôm sau, Trang mới trở về. Trông chị như già đi mấy tuổi. Chị rửa mặt qua loa rồi đi thẳng lên văn phòng khoa, xin chuyển trường. Nơi chị xin chuyển đến là một ngôi trường hẻo lánh, so với Hà Nội thì thật là một chốn "khỉ ho cò gáy". Sau một hồi trao đi đổi lại, thấy Trang lì quá, ban chủ nhiệm khoa đành đồng ý.

Tối hôm ấy, đám con trai lớp tôi đi thành một hàng dài, đến trước mặt Trang, và nói :

- Trang ơi! Hãy tha lỗi cho trò đùa dại dột của bọn mình!

- Bạn đừng giận, vì tất cả chúng tôi đều mến bạn. Xin bạn đừng chuyển trường!

Trang òa lên khóc. Lúc đó tôi mới thấy chị khóc. "Các người về đi! Điều này không liên quan đến các người". Đôi vai nhỏ nhắn của chị run bần bật trong tiếng nấc.

Sau khi đám con trai về rồi, Thẩm đến. Hôm nay trông anh thảm hại như gà gặp mưa. Lúc này Trang đã hết khóc và trở lại trạng thái hóa đá.

Thẩm nói: "Trang! Em tha lỗi cho anh! Anh không muốn thế.

Lúc đầu anh định chỉ là trò đùa. Nhưng bây giờ anh yêu em thật lòng. Anh xin em chấp nhận tình cảm của anh"...

Trang đứng vụt dậy. Lúc này tôi trông chị kiêu hãnh như nữ thần báo thù, mà Thẩm là một kẻ thảm hại đang quỳ dưới chân. Chị nói rất nhỏ, nhưng đủ cho anh ta nghe rõ :

"Cảm ơn! Các người tưởng rằng có thể đánh giá tình yêu của người con gái ngang một két bia được, thì các người cũng có thể đem danh dự ra mà đổi chác được. Có thể bây giờ anh đang nói thật, nhưng không bao giờ tôi có thể còn tin anh nữa. Anh có biết, anh vừa đập vỡ chiếc bình quý nhất mà người ta chỉ có một lần trong đời không?

Bây giờ, tôi đau khổ. Nhưng tôi cũng xin nói rằng, tôi thương hại cho chính anh, Thẩm ạ! Và đừng bao giờ để cho tôi trông thấy mặt anh".

Rồi chị ngẩng cao đầu, bước ra khỏi phòng, để mặc Thẩm đứng như trời trồng, mặt tái dại.

Hôm sau, chị xách va-li ra đi, mặc dù tôi đã gần như van xin chị ở lại. Chị ngậm ngùi :

"Cảm ơn em. Cưng ạ. Nhưng chị không thể ở lại được nữa. Thuyền đã nhổ neo, và cứ phải đi. Thế là người đàn bà thứ ba của gia đình chị cũng bất hạnh mất rồi. Thêm một người bất hạnh trong nhà thật kinh khủng, phải không em. à, mà chị nói điều này với em làm gì nhỉ".

Chị cúi xuống nhìn sâu vào mắt tôi.

"À cô bé, cô chưa bất hạnh bao giờ. Mắt cô còn trong hơn cả mắt tôi - Con người yêu đêm đầu tiên và thất tình ngay trong đêm đầu tiên. Em không hiểu được điều đó có ý nghĩa đến thế nào đâu.

Thôi chào nhé. Chị sẽ mãi nhớ đến em - cô bé đa cảm".

Và chị ra đi, chui vào lòng chiếc ô-tô buýt. Tôi nức nở nhìn hút hoắt chiếc xe mang chị đi. Trông xa, nó như một con bọ hung đỏ đang dũi đất trên rẻo đường đầy bụi.

* * * * *

Từ ngày ấy đến nay đã mười bảy năm.

Chị đã kịp trở thành một người đàn bà cẩm thạch. Còn tôi, đã kịp khóc nhiều đêm, đã kịp viền đôi mắt trong, ngày xưa chị từng khen, bằng những quầng thâm.

Chị đã kịp làm giá băng đôi bàn tay và ánh mắt. Để cho bao nhiêu người đàn ông nào bực bội vì họ đã trôi qua không để lại gợn xao xuyến trong chị. Cũng đã kịp nhắc đi không cần thêm một người đàn bà bất hạnh. Thêm một người bất hạnh làm gì, em nhỉ!

Hội nghị khoa học đã kết thúc. Phòng họp rộn rịch những tiếng chân. Tôi nhìn những bước chân đàn ông, và nghĩ: nhiều người đàn ông tô điểm cho mình bằng bộ sưu tập ngày một cộm lên những gương mặt đàn bà. Họ coi đó là chiến tích anh hùng để thỏa mãn và ngầm khoe với bè bạn. Chẳng lẽ cuộc sống này trống rỗng đến thế sao?

Những người đàn ông may mắn! Lúc nào rỗi rãi, hãy mở những bộ sưu tập của các ngài ra. Có dám đoán chắc với tôi rằng, trong đời mình đã không từng làm lạnh giá một bàn tay?!

HẾT

Biển cứu rỗi

Anh rùng rẩy toàn thân, thấy đôi chân mình đang veo dần, von veo dần, hóa ra cái đuôi nhọn hoắt của một con ốc mượn hồn và "òa... òa..." anh sẽ lẫn, lẫn trong muôn vàn con ốc, giữa tiếng sóng quét.

Thứ ốc mượn hồn đầy chặt đảo đèn. Mỗi sáng, trong bước chân đưa tang lượt thượt của gió, biển lại quật lên thềm đảo những ruột ốc nát bét - những ruột ốc câm lặng chẳng ai biết chúng từng sống cũng như từng chết.

Cách đây không lâu, anh chỉ mới hạ mình xuống địa vị của một con hạc biển, vì nhận ra rằng đôi đầu gối mốc xì của anh cũng giống đôi đầu gối xù xì mốc mác của chúng, và còn cảm được tầm vóc to lớn của mình trước đám đông đủ loài chim biển tẹp nhẹp kéo tới chí choé, lắm lời tranh nhau chỗ đậu, vào mỗi buổi chiều chạng vạng hay lúc trở trời. Đảo mang một màu trắng xỉn xo - màu phân chim biển vào ban ngày. Còn ban đêm, dưới ánh hải đăng lừ lừ không đổi, loài cua âm thầm bò lên. Ánh mắt tù đọng và lối đi ngang không một tiếng động của loài cua khiến trái tim anh càng tê dại trong tiếng rì rầm não ruột của sóng. Ở đâu anh cũng bị vây trong ánh mắt dò hỏi tù đọng của loài cua.

Một đôi lần như thế, khi vết thương cũ cắn nhức nhối, anh đã từng nổi điên, ngồi thu lu đầu gối quá tai, tay cầm gậy, rình đập nát bét dăm chục con cua mới lóp ngóp ló lên khỏi mặt nước trong một đêm cua động rồ, khiến cho đảo đèn tanh sặc mùi cua chết đến ba tháng ròng.

Anh từng lặng ngắt vì hoảng sợ, khi bất chợt mình truồng như nhộng qua một giấc mơ đêm, và cứ thế lừng lững đi. Anh đánh mất thói quen mặc quần áo do thiếu vắng đồng loại lâu ngày. Thiếu một đồng loại nhìn vào anh, khả dĩ giữ cho anh cảm giác xấu hổ, ranh giới cuối cùng nhằm phân biệt anh với một con cua hay một con bò.

Những khi ấy, anh xòa tay ôm mặt. Dòng nước rỉ qua hàng mi trắng xóa hơi muối biển, qua đám râu ria lồm xồm không cạo, và khi xuống đến môi, chúng đã mang màu đục nhờ nhờ của nước đá vôi.

"Ba năm thôi. Ba năm rồi sẽ có người thay".

Người ta nói, tránh nhìn vào mắt anh khi lần đầu đặt chân lên đảo đèn.

Hồi ấy anh nhếch cười khinh thị. Từ giã đời lính anh trở về với một con mắt giả và thân hình tiểu tụy. Một con búp bê tóc vàng mắt xanh tòn ten đung đưa trên nắp ba lô. Con anh đã qua tuổi chơi búp bê từ lâu. Song búp bê là vật phẩm lộng lẫy nhất mà con người có thể tạo ra, dưới con mắt của những anh lính nhà quê chất phác ở rừng lần đầu tiên đặt chân vào thành phố.

Xuống tàu, anh khấp khởi chạy gần về ngôi nhà lá ba gian náu mình dưới lùm dây leo bên vệ đường, con đường động mạch của chiến tranh - ai cũng từng nói thế. Anh chạy gằn vì mường tượng thấy hai mẹ con - một cao một thấp như nàng Tô Thị sẽ giang tay ra: "Mình đấy ư?"... Và có thể vợ anh sẽ rơi nước mắt vì sung sướng.

Nhưng chẳng ai ra đón anh cả. Trong căn nhà lá tối mờ có đến ba đứa trẻ lít nhít trứng gà trứng vịt với ba khuôn mặt hoàn toàn khác nhau. Vợ anh hốc hác, nửa thân trên gần đổ về phía anh, nhưng chân cứ như bị chôn chặt trong xó nhà, ngó anh trân trân rồi sụn xuống đất, òa lên tức tưởi.

Không! Đó quyết không phải là những giọt nước mắt sung sướng dành cho ngày gặp mặt!

"Búp bê" Một đứa thét lên. Và ba đứa trẻ chạy tới, vồ vào chế phẩm lộng lẫy trên nắp ba lô. Nhưng trước cái quắc mắt dữ dằn của anh, chúng chùn lại, len lét nép vào một xó.

Không phải con anh. Con anh ít nhất là lớn gấp ba thế này. Chúng không mang gương mặt anh.

"Con tao đâu? Đồ đĩ" Anh rít lên thô bạo. Vừa lúc đó có tiếng lịch kịch ở ngoài sân. Anh ngoắt lại: một con bé trạc mười lăm tuổi, dáng đi õng ẹo bước vào: "Có lương khô không chú?", nhoẻn cười. Nụ cười chưa hết hơi sữa nhưng đã mang hơi hướng đổi chác.

Ra thế! Ngôi nhà bên đường chiến tranh! Động mạch của chiến tranh! Sau này, anh chua chát triết lý. Số phận không dành cho anh người đàn bà bạc tóc chờ chồng. Những đứa trẻ khác bố. Những cuộc giao hoan vội vã thoảng mùi chết chóc trước khi đi vào họng tử thần. Thù lao, sang nhất có lẽ là những phong lương khô và vài bộ quần áo Tô châu.

Lúc đó, hai bàn tay anh bỗng thèm máu. Anh muốn bóp chết tất cả - những đứa trẻ lạc loài đói khát, cả người vợ phụ bạc chỉ còn hai con mắt, cả nụ cười hơi sữa đổi chác kia.

Nhưng một nỗi gớm ghét từ đâu đến làm chân tay anh bải hoải. Anh rũ xuống nền nhà, nôn ẹo ra những bụm nước trong vắt, giũ tuột ba lô rồi thất thểu bỏ đi, để lại sau lưng tiếng khóc của người vợ, đứa con duy nhất của anh không biết rằng nó vừa có bố, trong thoáng chốc đã lại không có bố cùng tiếng reo à à giằng nhau con búp bê của lũ trẻ.

Anh tìm đến một chân gác đèn trong sự gớm ghét đàn bà và nhân thể gớm ghét luôn cả đồng loại. Anh nhìn thấy những bàn chân đồng đội đi dép lốp. Một rừng chân qua ngực anh, bị tiện gọn trước họng súng và để lại trên mặt đất những đứa trẻ vô thừa nhận đang giằng nhau mảnh áo búp bê. Anh dự định sẽ ở suốt đời trên đảo đèn - một đảo hiểm trở nhất, cổ lỗ nhất, nơi những phương tiện hiện đại khó bề vươn tới được, để tránh xa đồng loại nhẹ dạ, phản trắc và đầy tội lỗi đã tước đi của anh chút ham hố muốn sống trên đời.

Hả lòng nhất là những ngày đầu. Không phải nhìn mặt một ai. Được biến thành một kẻ vô cảm, mọi giác quan như đông lạnh trong tiếng gào thét của sóng và gió. Và anh yêu sự hù dọa cao cả của biển. Những bận tâm trên đất liền của loài người chỉ là mối lo toan nhỏ nhặt của đàn kiến so với một Trận Đại Hồng Thủy. Anh không nghi ngờ rằng, mình có thể ở đây, thậm chí cả trăm năm.

"Giọng ông khang khác thế nào ấy!". Người lái tàu tiếp tế vừa lùi lại vừa nói, thoáng một chút kinh hãi trong mắt. "Làm sao?" - anh gắt "À... ờ... nghe như tiếng gió hú". Và anh lặng nhìn xuống chân. Hai bàn chân trần. Anh đã mất thói quen đi dép. "Lần sau ra mày mang cho tao một cái gương to vào nhá...". Anh nói thêm một lần nữa, lần này, anh nghe rõ giọng nói lạ hoắc của chính mình.

Chiếc gương được mang ra. Anh thường soi gương không phải để làm dáng, mà cốt để gây ảo giác rằng trên đảo luôn có hai người. Anh nhìn vào gương, nói chuyện một mình để luyện giọng: "Thằng cha kia! Sao mày vẩu thế?". "À trước răng tớ đẹp lắm nhá. Đi lính lâu ngày, răng cũng phải theo chín sáu ba không ấy mà". "Ồ được! Chú mày cũng hóm ra phết. Có nhai cá nướng không?". Anh xé một miếng cá đưa lên mồm, thất kinh vì thấy thằng cha trong gương đang nhai nhồm nhoàm như một con thú. Khi đó anh lại rũ người xuống trong một cơn mệt không tên.

Anh đã phải viện đến đủ trò quái gở, chỉ sau nửa năm sống một mình trên đảo. Mùa hoan lạc của chim khiến anh da diết nhớ vị đàn bà. Và góc ký ức sâu thẳm nhất lâu nay quên lãng bỗng chuồi lên như một con cá mập. Hồi trong rừng, anh đã chụp hụp một nàng. Nếu dừng chân lâu có lẽ rồi anh đã kịp để lại trong lòng cô ta một đứa trẻ vô thừa nhận Anh và coo ta chưa kịp biết tên nhau. "Giữ làm gì em. Ngày mai chắc chết...". Triết lý của lính chiến biến một gã trai mười bảy tuổi trong trắng nhất đời hôm nay thành một gã đàn ông sỡm sờ vào ngày mai, và ngày kia mười phần chắc tám anh ta thành tử sĩ. Trước khi chết, có thể anh ta đã kịp đón nhận hoặc một cái tát, hoặc một vòng tay ôm xiết vội vã. Anh nhớ một đôi trai gái vô danh ôm nhau chết trong loã thể. Miệng cô gái còn cắn chặt một nửa quả vải rừng. Cái hốc sâu hoắm của một viên đạn xuyên qua lưng hai người. Cán bộ đại đội phỉ nhổ hình ảnh ấy bằng những bài chỉnh huấn ứng khẩu. Nhưng anh biết chắc, có rất nhiều người lính thầm ao ước được chết trong tình trạng êm ái đó, miễn là không ai nhìn thấy.

Đến năm thứ hai, trong anh bỗng xuất hiện ý nghĩ phải trói chặt tay lái tàu tiếp tế vào cột đèn để giữ hắn ở lại. Giữ hắn lại, dù chỉ để được nghe hắn chửi.

Anh vui sướng lắm được nghe hắn chửi. Nhưng anh đã kìm được vì sợ chết đói.

Đến hạn ba năm, anh hối thúc đất liền tìm người thay. Nhưng trước đây, anh đã chót khinh thị cái thời hạn ba năm, bây giờ tìm người thay đâu dễ.

Lâu ngày, những trò quái gở qua đi. Anh lầm lì trở về trạng thái vô hồn, hai tay buông xuôi. Để dỗ dành anh, thỉnh thoảng người ta gửi cho anh những chai bia màu xanh. Anh ngửa cổ dốc hết cả chai vào bụng, rồi vứt tọt ra ngoài xa. Những chai bia chưa chìm ngay, nhún nhẩy bập bềnh chốc lát, nhoai ra biển. Điều đó chợt đánh thức vài trang sách anh đọc từ thời còn nhỏ: những thuỷ thủ bị đắm tàu, bị số phận bỏ rơi đã tìm đến sự cứu giúp qua những chiếc chai.

Thế là anh bước vào một trò chơi mới. Anh viết vào những tờ lịch xé hàng ngày, cho vào túi ni lông rồi buộc chặt nhét vào vỏ chai bia, thả ra biển nhằm hướng Tây. "Người đàn bà nào nhặt được mảnh giấcy này xin hãy cứu giúp. Tôi đang sắp chết vì cô đơn. Nhưng ở đây tôi không thiếu cái ăn và tôi thề sẽ yêu quý, dù đó là người xấu xí nhất... Cách tìm tôi...".

Thiên hạ ít ai điên rồ. Biết thế mà anh vẫn mong, mặc dù tự nhủ: đó chỉ là trò chơi thôi. Chỉ là trò chơi thôi mà!". Người anh vẫn run bắn lên mỗi khi con tàu tiếp tế đến. Anh không dám mong một người đẹp. Có thể chị ta thiếu một tay hoặc một chân. Thế cũng tốt lắm rồi.

Một chiều nắng rải trên biển mang màu trẵng gở. Con tàu tiếp tế hiện rõ dần và anh thấy trên boong có đường cong của một cái eo lưng của người đàn bà cùng sự chớp sáng của một chiếc nón trắng. Không dám tin ở mắt mình, anh thở hắt ra quay đi hướng khác, nhổ nước bọt giận dữ để xua đi ảo ảnh. Nhưng tàu đã ghé tới cùng tiếng reo của người lái tàu. Trên boong là một người đàn bà thực. Người đó đang run rẩy cúi mặt, bò trên tấm gỗ mỏng manh nối thân tàu với đảo đèn.

"Kìa! Dắt chị ấy lên chứ. Sao lại cứ như bị ngộ gió thế kia?". Anh sực tỉnh, vội vàng nhảy vút tới, khiến cho chiếc cầu chòng chành suýt nữa thì hắt người đàn bà xuống biển. Chị nằm mọp xuống bám lấy chiếc cầu. Bằng cái lẹ làng của một con sư tử, anh xốc nách chị, đặt lên đảo. Cú va chạm này làm anh rùng mình như điện giật.

Và lúc ấy, người đàn bà ngẩng lên.

Lạy Đức thánh mẫu! Người đã gửi đến cho con cái gì thế này! Khuôn mặt người đàn bà, có đủ hai mắt, mồm và mũi, nhưng là một khuôn mặt đặc trưng nhất của một con điếm. Điều này rõ đến nỗi, một kẻ dù khờ khạo đến đâu cũng sẽ nhận ra ngay lập tức.

Tã tượi mái tóc và hàng mi, trống huếch cái nhìn. Đôi môi thâm xì quẹn một lớp son dày màu máu trâu. Đôi môi này, giá có đặt ở ngã bảy, một gã nhặt rác có lẽ cũng chẳng thèm hôn. Một cô gái điếm đã thiu, bị liệng ra bãi thải, ốm nhách và vô phương sinh sống. À thì ra là thế. Vì thế nên thị mới tìm đến với anh. Điều này nằm ngoài cả những dự tính rủi ro!

Trước cái nhìn như chôn sống của anh, thị cố sửa một nụ cười rúm ró. Hai vai cũng rúm ró co lại. Nhưng nụ cười tắt ngay. Thị thấy nhục, và quờ tay tìm cái nón, che người một cách dớ dẩn, làm như cái mộc để che đạn vậy.

Lập cập, chiếc nón rơi xuống nền đá. Gió lật vài vòng rồi vục nó xuống nước. Chiếc nón cứ thế, chập chờn như người chết đuối đang "giã gạo" hồi lâu trên mặt biển trước khi chìm biệt.

Anh sấn tới, dứ nắm đấm vào mặt người lái tàu: "Mày mang cho tao cái của nợ gì thế này?".

Người lái tàu sợ hãi lùi lại, lắp bắp: "Nào... nào tôi có biết. Chị ta đến tìm, và nói rằng... nhặt được cái chai"...

Anh khoát thõng tay, ngồi phệt xuống mỏm đá. Tàu rời đảo.

Bữa ăn chiều - bữa đầu tiên của hai người ăn cùng nhau, anh chỉ ngồi hút thuốc, hạ mi mắt ngắm cái vẻ ăn chộp choạp, bốc bải, khát thèm của thị và càng khẳng định cái việc mình xa lánh loài người là đúng. Anh tự nguyền rủa mình đã chơi một trò nguy hiểm. Anh tiếp thêm rất nhiều thức ăn cho thị và không thèm giấu cái vẻ ghê tởm. Có lẽ đã lâu lắm rồi thị không được ăn lấy một bữa no. Lòng ghê tởm trong anh che lấp cả tiếng gào của dục vọng. Anh còn nghĩ đến nỗi hãi hùng của bệnh lậu - thứ bệnh khiến cho nhiều kẻ đàn ông chùn chân quay gót trước cửa lầu xanh.

Nhưng đêm rồi xuống. ĐÊm từ bi che chở cho người đàn bà thoát khỏi vẻ bẩn tưởi bị phanh phui không thương tiếc trước ánh ngày. Anh tặc lưỡi vào lúc trăng lên trên biển, đem đến cho thị, cho đảo vào cho anh một ánh ướt át cứu rỗi. Như một con thú hoang, anh lì lợm chiếm đoạt thị không một lời nào, một cử chỉ nào khả dĩ chấp nhận rằng người đàn bà đang ân ái cùng anh không phải là một con bò. Trong đời hành nghề của thị, thị chưa bao giờ cảm thấy đau đớn như thế trước sự hạ nhục của trò chăn gối. Dường như thị đang bị cầm kìm rứt từng khúc ruột.

Mãi tận trưa hôm sau, anh mới tỉnh giấc với cảm giác nằng nặng. Hóa ra đó là chân của "bạn tình" đang gác lên bụng. Anh vội ghê tởm hất ra. Chiếc chân không còn chỗ dựa rơi huỵch xuống đá khiến thị tỉnh giấc. Thị ngơ ngác trở dậy rồi khóc. Tiếng khóc gở như gai.

Đêm ấy anh không ngủ cùng thị. Những ngày sau tình trạng giữa anh và thị bập bỗng. Những cơn gớm ghét cứ dâng lên. Lúc nào đó, át được dục vọng, anh xa lánh thị. Khi dục vọng chiếm ưu thế, anh lại đến, để cả ngày hôm sau lại trở về trạng thái buồn nôn, tự khinh mình. Phải hất mụ ta đi thôi! Anh tự nhủ, mặc dù trong lòng cũng hơi thấy tiêng tiếc. Nhưng một tiếng nói khác còn mạnh hơn bắt anh cả quyết: dù sao anh cũng là một người đàn ông. Và anh không thể xa lánh người đàn bà hư hỏng đã có với anh một mặt con, chỉ để đến với một con điếm đã bị thiên hạ hắt ra ngoài bãi thải.

"Hoặc bây giờ, hoặc không bao giờ nữa!". Bảy ngày sau, có một con tàu đánh cá tình cờ đi qua. Anh rối rít vẫy họ vào, thuê chở người đàn bà vào đất liền. Cuộc mặc cả nhùng nhằng mãi: "Chở đàn bà rủi lắm!..." - Người chủ tàu lắc đầu, mặt nhăn như chuột kẹp. Nhưng rồi cuối cùng cũng xong.

Người đàn bà theo dõi cuộc mặc cả với vẻ của một con cá bị đưa lên thớt. Khi đã ngã ngũ, thị đến bên anh, khóc: "Xin anh đừng đuổi tôi! Tôi không còn gì để sống. Tôi đã xin lại mảnh giấy này từ tay bà nhặt rác. Bà ta đọc và cười sằng sặc: "Giấy của quỷ biển đấy". Còn tôi thì nài xin bà ta cho tôi. Tôi bị bệnh hoại huyết. Cũng chẳng làm phiền anh lâu đâu...

Quả thật, lúc đó hình như lòng anh hơi se lại. Sâu thẳm trong tim có tiếng "Gật đi!". Thế mà ngoài mặt anh vẫn lạnh băng, và anh lắc đầu. Nhiều khi người ta vẫn thế, không vượt qua được chút sĩ diện hoã cuối cùng.

Và thế là người đàn bà biết rằng hết, có nài xin cũng vô ích. Khuôn mặt chị ta chuyển sang tái xám, môi mím chặt lủi thủi bước lên tàu. Chiếc cầu tầu chầm chậm rút. Lúc đó, anh chợt thấy trong mình chút hẫng hụt, toan gọi.

Thế mà rốt cuộc vẫn không gọi.

Tàu lừ lừ rời đảo. Người đàn bà đứng trên đuôi tàu, nhìn anh bằng con mắt căm hờn: "Tao nguyền rủa mày! Tất thảy! Tất thảy lũ đàn ông các người đều độc ác! Độc ác!". Mắt thị lóe lên ánh khinh bỉ và kiêu hãnh bỗng đâu, rồi thị giang cao hai tay như thể sắp bay lên. Và trong một cái rướn mình như kiêu sang, thị buông người xuống biển, chìm êm ru dưới lớp sóng đang lừng lững quặn lên phía đuôi tàu.

Tất cả diễn ra trong một khoảnh khắc khiến anh không kịp hiểu điều gì đã xảy ra. Và thật đáng sợ là một sinh linh vừa hiện diện như thế đã chìm mất tăm dưới mặt biển như chưa hề có trên đời. Đàn cá chuồn vẫn vèo qua vọt lại dưới mặt nước. Và lúc đó vừa bình minh. Chân trời hừng hực ráng màu đỏ máu.

Khi nhận ra, anh hoảng hốt nhảy ào xuống biển cuống cuồng lặn ngụp, quờ quạng lung tung tuyệt vọng. Con tàu lúc đó vừa mới cảm ra sự thiếu vắng người khách bất đắc dĩ mà nó nhận chở, cũng đang vun vút quay lại. Tất cả sự quần đảo của họ đều đã muộn. Rất may là chủ tàu đã kịp ném cho anh chiếc phao. Anh bò được lên bờ, nằm vật ra hổn hển dưới ánh nắng đang dần bẳn gắt.

"Phải lập bàn thờ bà ấy thôi ông ạ. Người chết trôi là thiêng lắm đấy! Ít nhất bà ấy cũng phù hộ cho ông khỏi phát điên. Chứ cứ cung cách này..." Người lái tàu vừa nói vừa quay về hướng ấy, chắp hai tay vái lia lịa.

Ba ngày sau, xác người đàn bà nổi lên dạt vào chân đảo đèn. Lúc đó anh vừa tỉnh giấc, linh tính một điều khác thường. Và anh trông thấy người đàn bà mà anh từng gần gũi xác thịt, cũng từng ghê tởm, đang đung đưa, đung đưa dịu dàng bên chân đảo. Và anh kinh ngạc trước sự cứu rỗi của biển. Khuôn mặt tàn tạ trước đây của người đàn bà ấy bây giờ đã giãn ra, thơ thới và không thể tin được, mang vẻ kiêu hãnh với đường viền mi khép hờ. Tấm thân gầy ốm giờ đây như đầy đặn lên, đung đưa, đung đưa như cử động uyển chuyển của người sống, trên mình vương những mảnh vải xác xơ mà lại mang vẻ siêu phàm. "Ta tha thứ cho các người" - cái miệng hé mở của người đàn bà như nói.

Sau này, anh cứ tự hỏi, đó không biết là thật hay mơ. Tại sao người đàn bà ấy chưa bị phân làm trăm mảnh trong bụng cá? Tại sao cái chết lại trả cho con người vẻ vô tội và thánh thiện dường kia? Anh không trả lời nổi, và đã lập bàn thờ người đàn bà ấy. Người mà cách đây ba ngày thôi, anh đã nhờm tởm như nhờm tởm một con vật. Anh đã phải khóc chị ta - người đàn bà bị cuộc đời dồn vào chân tường không nơi bấu víu với những giọt nước mắt cay đắng tự đáy lòng. Anh là một kẻ câm điếc, vì đã không nhận ra tận cùng nơi hình hài tã tượi kia vẫn còn chút lòng tự tôn của giống người. Trò chơi của anh - một người khốn khổ, đã kéo một người đàn bà đang đi vật vờ bên lề cuộc sống chạy nhanh lên phía trước để hoàn tất số phận thê thảm của mình.

"Tất thảy lũ đàn ông các người đều độc ác! Tất thảy!". Giờ đây anh đau đớn nghĩ lại lời nguyền rủa như làn roi của người đàn bà ấy trước khi chết. Chị ta là ai? Nông nỗi nào khiến chị ta sa cơ lỡ bước? Giờ đây lần đầu tiên trong đời anh mới nghĩ một cách nghiêm túc về người đàn bà. Bên bàn thờ nghi ngút khói nhang làm bằng rêu biển, anh nghĩ về kiếp người, các nẻo đường mờ mịt mà những số phận phải quờ quạng đi cho đến hết. Điểm lại những kiếp người anh biết, thực ra nỗi khổ của đàn ông so với đàn bà chẳng thấm vào đâu. Nếu không có chai bia của anh, chị ta sẽ sống nốt những ngày cuối trên vỉa hè. Và đến khi thở hơi cuối cùng, chị sẽ trở thành Nữ Thần Vỉa Hè chứ không phải trở thành Nữ Thần Trôi Dạt như anh vừa suy tôn.

Anh cũng nhất thiết rằng, Nữ Thần Biển nếu có, cũng không mang một khuôn mặt nào khác, mà mang chính khuôn mặt đau đớn, tuyệt vọng và kiêu hãnh của Nữ Thần Trôi Dạt, bởi vì Nữ Thần Biển cũng là đàn bà. Nếu không biển đã không nhiều sóng đến thế, và nhiều cua đến thế. Và có lẽ vì Nữ Thần Trôi Dạt cũng là đàn bà - Đàn bà bao giờ cũng bênh nhau. Nên từ đây, anh cứ phải nhớ lại người vợ mà bao nhiêu năm nay anh đã cố công xua đuổi trong ký ức. Anh nhớ lại gương mặt hốc hác của chị. Tiếng máy bay gầm rú dọc đường. Tiếng bom nổ thâu đêm. Cả làng trắng đàn ông, chỉ còn lại đâu đó những tay què cụt, trẻ con hỉ mũi chưa sạch, hoặc các ông già lụ khụ. Ra trận và ra trận! Đàn bà vác cày, cầm súng, đi lấp hố bom và bị buộc phải trở thành đàn ông. Trong khi đàn bà được tạo hóa sinh ra để làm chiếc dây leo đẹp quấn yểu điệu quanh cây đại thụ: người đàn ông. Anh thấy lòng se sắt. Mỗi lần khóc, trái tim anh mềm đi một chút.

Hơn năm sau, người ta chở ra đảo đèn một ông già rắn chắc cùng một cậu bé cỡ tuổi mười hai. Cậu bé có đôi mắt nâu sẫm, tóc xoăn.

Đó là hai sinh linh đến thay gác đảo đèn. "Bố mẹ nó chết bom cả. Ra đây dù sao cũng không bị đói. Nếu không bị đói, chúng tôi sẽ ở đây cả đời" - Ông lão giải thích.

Khi anh thu xếp đồ đạc lên tàu, cậu bé loay hoay bên anh, táy máy hỏi: "Bác ơi! Bàn thờ ai mà lạ thế?".

"À, thờ Nữ Thần Trôi Dạt đấy". "Hay quá bác nhỉ! Thế bác về đâu hở bác?". "Ờ, có thể bác sẽ về quê. Địa chỉ thế này nhá...".

* * * * *

Bốn năm sau cậu bé của đảo đã có thể đi coi sóc đèn thay ông.

Một sáng bình minh nhuộm chân trời đỏ máu, cậu chạy vào hớt hải gọi người ông đang ngáy pho pho :

- Ông ơi! Ông! Ông nhìn kìa! Trên boong con tàu đang chạy phía này có cái gì đó cong cong như lưng đàn bà ý. Mà có phải người ấy mặc áo trắng không hả ông?

Người ông vùng dậy giụi mắt. Không thể định được thực hư vì con tàu xa lắm. Người ông lại làu bàu :

- Khéo mà mày nhầm rồi đấy cháu ạ. Bốn năm nay ông đã nhiều lần nhìn thấy eo lưng của Nữ Thần Trôi Dạt, nhất là trong những buổi sáng cứ rờ rỡ thế này. Thế mà rồi ra chẳng có gì đâu cả.

À mà thế là cậu đã lớn rồi đấy - Người ông quay sang ngắm cậu trai như mới trông thấy nó lần đầu.

Cậu con trai không nghe lời ông nói. Cậu đang mải mê nhìn ra xa.

Trong khi ấy, ven đường I, người gác đèn cũ đang tự hỏi, liệu những chai bia ngày xưa có còn lăn lăn trên sóng biển. Đêm hôm trước, anh vừa nằm mộng thấy Nữ Thần Trôi Dạt. Nàng bơi đứng, và trên năm đầu ngón tay nàng đỡ một chai bia màu xanh.

HẾT

Dã nhân

Sau món yến, mặt bàn cẩm thạch được dọn sạch. Chỉ còn cây giá nến bằng vàng mang thân hình hai thiếu nữ trần truồng đang xoắn vặn như bện thừng.

Hai bộ ngực căng đầy ngửa ra sau trong cuồng hoan. Trên môi hai thiếu nữ ngậm hai ngọn nến. Thân nến màu hồng phớt vàng bềnh bệch da người.

Ngọn nến nhẩn nha cháy, phả làn hương khen khét, ngầy ngậy, mời gọi như chăn gối. Thoảng mùi hoang đàng của những bữa tiệc cổ La Mã. Cái thời những vương tôn công tử nằm ngả ngớn trong đại tiệc, để những đường cong của thân thể hoan ca bên trân cam mỹ tửu. Người dự tiệc choàng hờ hững ngang thân một tấm vải mềm và xốp nhiều nếp. Những cái đầu tóc giả uốn sóng rắc phấn rung rinh bên má các quý phu nhân cùng gái làng chơi cao cấp. Đàn bà mắt đắm đuối không ra gật đầu không ra chối bỏ, thỉnh thoảng lại diệu vợi vươn cánh tay trần nuột nà tới giữa bàn tiệc, khẽ nhón lấy một chùm nho hoặc một chùm anh đào chín mọng, nhấn nhá dập hờ ướt khóe môi hé mở. Kẻ đối diện bị thôi miên, chỉ còn biết giương đôi mắt ngây dại theo nhất cử nhất động ra chiều ban ân huệ của người đẹp.

Hôm nay, những người quanh bàn tiệc này cũng nằm. Lân là một trong những kẻ ăn nằm đó. Có một dự án. Bên A và bên B khao nhau một bữa "nhất dạ đế vương". Một bữa tiệc pha tạp phong cách. Bàn ăn kiểu La Mã. Bàn ăn kiểu Pháp lai Đức lai Nga. Ăn thì đặc sệt những món ngự yến kiểu Tàu. Khung cảnh lộng lẫy mà lờ lợ, mang sắc nhờn nhợt đục. Tiền chảy tràn từ túi khổ chủ. Khổ chủ này có hai con đi du học ở Anh quốc, có hai ô tô đời mới, hai con chó ngao bụng thon chân cao như ngựa vằn, hai ngôi biệt thự mỗi ngôi cỡ vài ngàn cây vàng, một vợ một nhân tình. Cái gì cũng hai. Dự án cũng vậy, luôn luôn là hai chiếc song song. Lân là bạn của khổ chủ, vừa là người thẩm định, vừa là con thoi đi lại giữa A và B. Cái gì cũng có một. Nhưng cũng có một vợ một nhân tình, đúng mốt.

Bức tường màu đỏ đối diện phía trước mặt các thực khách bỗng rùng mình, rồi dời sang một bên như có phép lạ. Bất thần phô bày một hang động bê-tông sơn phết giả đá, giả thạch nhũ được chiếu sáng bằng những chùm đèn màu. Lại một chiếc bàn cẩm thạch đỏ. Nhiều giá nến. Một chiếc lồng lớn phủ lụa vàng rủ tua trước mặt một cô gái mặc cẩm y, đội vương miện, giát trang kim lấp lánh.

Chủ nhà hàng phục sức như quan võ trong những bộ phim truyền hình về thời Tần Thủy Hoàng, lịch kịch cung kiếm bước ra cúi chào:

- Tiếp theo đây, xin mời các bậc đế vương thưởng thức món trân cam của Từ Hy thái hậu. Món này không những bồi bổ sự sáng láng cho quý vị, mà còn khiến cho thân thể thêm tráng kiện, xuân tình lai táng. Vĩnh cửu xuân. Mời!

Cô gái mặc áo trang kim đang ngồi xếp bằng trên bàn bỗng thét lên một tiếng sắc tạnh, rút soạt kiếm đứng phắt dậy, xiêm y rụng lả tả, trong nháy mắt trên người cho còn một mảnh vải bé bỏng nửa bàn tay. Trong chớp mắt, tấm lụa vàng che lồng đã bị mũi kiếm hất tung tên trời, đứt làm hai mảnh. Thực khách ồ lên. Trên bàn là chiếc lồng sắt có sáu ngăn. Mỗi ngăn nhốt một con khỉ lông vàng.

Những con khỉ xinh xắn cụt đuôi mặt đỏ, ngón tay thon dài, móng tay màu đen. Đôi mắt to và sâu nằm sát dưới hốc xương cung mày nhìn nài nỉ và van lơn. Đám khỉ run rẩy quan sát đám thực khách. Những ngọn nến nhảy múa không thương xót trong mắt chúng.

Cô gái vẫy tay. Hai gã bồi bàn cầm hai con dao sáng lạnh chạy ra. Con khỉ đầu tiên được bắt ra, trói gô lại, đặt ngồi trên bàn, trước mặt ông "cái gì cũng hai" - khổ chủ bữa tiệc.

- Ngài có vừa lòng món này không ạ? Chỉ cần một cái phẩy tay của ngài, chúng tôi sẽ đổi ngay con khác?

Khổ chủ ngắm con khỉ đang ròng ròng nước mắt, xoay ba bốn lần, soi đủ mọi phía, rồi gật gù :

- Được. Không kém cạnh bữa trước. Nhưng nhớ phải làm gọn gàng, đẹp. Trong khi các thượng đế đang thưởng thức, chớ quên màn múa bụng. Thế mới ra mẻ bữa tiệc của Từ Hy thái hậu các thượng đế của tôi ở đây mới hài lòng.

Khổ chủ vừa dứt tời, cô gái lập tức vươn tay bấm vào một chiếc nút bí mật được cài sẵn đâu đó bên mép trái bàn. Mặt bàn mở ra. Sáu chiếc cột sắt nhỏ vừa đủ để ghim đứng thân mình sáu con khỉ bỗng nhô vụt lên. Hai gã bồi bàn lẹ làng tóm từng con khỉ nhấc lên, kẹp chặt cổ và vai chúng vào cột bằng những chiếc nẹp sắt. Sáu con khỉ không thể cựa quậy, tiếng kêu tắc nghẹn trong họng, đảo tròng mắt khiếp đảm nhìn thanh kiếm sáng loáng trong tay cô gái:

- Đêm nay, quý vị là đế vương, đang ở trong nội điện của Từ Hy thái hậu...

Lưỡi kiếm vung lên. Chỉ còn kịp nhìn thấy một ánh chớp. Một mảng đầu của con khỉ bị phạt ngang. Máu bắn trên mặt bàn. Khổ chủ khoái trá mời các "thượng đế" của mình thưởng thức món óc khỉ của Từ Hy thái hậu trong màn múa bụng.

* * * * *

Mệnh nữ treo đằng ngọn

Mệnh trai treo đằng gốc

Mệnh nữ nặng bởi tóc...

Vừa mới trĩu trên ngực này. Hương nồng nàn trong suối tóc còn nén chặt mi mắt này. Trái tim trong lồng ngực còn nhảy như Niên Đại. Thế mà tỉnh giấc, đã chẳng thấy đâu. Quờ sang, giường trống một khoảng lạnh người.

Không phải vợ. Chẳng phải người tình. Nàng thường đến vào canh gà gáy. Như một vòi rồng mang vô vàn hạt bụi nâu ánh đỏ. Không một điềm báo trước, nàng đến bên giường của anh.

Nở nụ cưới biết lỗi khờ dại. Dịu lại thành một dải lụa màu đồng. Rồi, cũng mềm như lụa, nàng tuồn vào trong chăn, úp mặt gối đầu lên ngực anh. Lân gấp gáp thức giấc. Gấp gáp kiếm tìm đôi môi nàng. Bàn tay gấp gáp dạo trên thân thể nàng. Nhưng đôi môi không thấy. Thân thể không thấy. Bàn tay nóng rực tuột vào chăn đệm. Chỉ thấy đôi môi hình lá và những đường cong lơ lửng trên cao.

"Ta bay lượn". Nàng nói. "Còn anh thì đi bộ". Nàng nói. "Ta giữ mãi cho anh một khúc dạo đầu". Nàng nói. "Kìa bình minh đến. Và em phải đi". Nàng nói. Rồi, thoảng hôn lên môi anh. Rồi, dạo lướt trên thân thể anh, dải lụa màu đồng biến thành chiếc vòi rồng dữ dội cuốn xoáy những hạt mưa màu nâu ánh đỏ vụt ra ngoài cửa sổ theo tia sáng đầu tiên của rạng đông, nàng đi.

Để lại anh, trên giường, tê cứng trong một niềm hoan lạc đau đớn.

Mệnh nữ nặng bởi tóc

Nặng bởi vú hai bầu

Mệnh nam nặng vì đâu, ông bà hỡi?

Văng vẳng tiếng Mo Khuôn. Tại sao lần nào cũng vậy, nàng đến rồi đi trong tiếng Mo Khuôn. Về một mường Trời ngùn ngụt khao khát với những chiếc vòi rồng màu nâu ánh đỏ không thể giam cầm.

Lân vật mình trên gối. Cắn chặt hai hàm răng. Vỏ gối lông vũ bị anh xé nát. Những chiếc lông chim hút nước bọt khô khốc trong miệng. Thoảng vị lờ lợ tanh của bữa tiệc Từ Hy. Ta là ai vậy? Một vợ một người tình một dải lụa màu đồng đỏ? Mùi máu khỉ tanh lợm và hương tóc trĩu nặng trên mi mắt?

* * * * *

Tay Lân quờ phải một vật gì vừa mềm, vừa ấm. Rồi một bàn tay bé xíu với những ngón thon nhỏ, móng nhọn.

Lân mở choàng mắt. Những móng tay nhỏ xíu, không thể thon hơn thế, màu đen.

Lân mở bàn tay. Cũng đầy những nếp gấp, đường mạch máu, những ngôi sao. Đủ cả đường sinh mạng, đường duyên tình và trí đạo. Đường sinh mạng nối liền cực Nam và cực Bắc của bàn tay. Gốc phía Nam mờ. Hẳn rằng nhiều phen lận đận. Trí đạo nối cực Đông và Tây của bàn tay, sống động và rõ nét. Hẳn cũng có túc mẫn tiệp và điên rồ. Chạy ngang ngạnh từ gốc phía Đông, bất thần rẽ ngoặt lên phía Bắc, chi chít những đường ngang lối tắt, ắt hẳn đây là bàn tay của một kẻ đào hoa có nhiều tiếng sét tình ái.

Lân ngắm kỹ bàn tay, bất chợt cười thành tiếng, lật nghiêng sang bên trái.

Con dã nhân giật mình rụt tay lại. Đường sinh mạng, trí đạo đường duyên tình cũng biến sau mu bàn tay lẹ làng. Đôi mắt to tròn, nâu thắm thiết, từng trải mở rộng dưới vòng cung xương mày. Con khỉ vàng này từa tựa một người đàn bà lam lũ, âu yếm và từng trải. Lân nghĩ.

Đó là con khỉ thứ sáu trong bữa tiệc Nhất dạ đế vương, bữa tiệc của Từ Hy, đêm trước. Bộ óc của nó được dành sẵn cho Lân, sau cái trán có đôi mắt âu yếm này. Lân không chịu đựng nổi, đã nôn thốc tháo. Lưỡi kiếm vung lên đã kịp chưng hửng. Lân vét hết tiền túi, quẳng lên bàn, ôm con khỉ vào ngực, bỏ chạy.

Về đến nhà, khi cởi trói cho con khỉ, Lân mới biết rằng đó là một con cái. Anh nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay. Lần đầu tiên trong đời, anh biết rằng bàn tay khỉ cũng có đường sinh mệnh, trí đạo và duyên tình.

Và ngay lúc đó, Lân nghe vẳng tiếng Mo Khuôn. Bản mo hồn của người Thái. Cái giai điệu da diết, hừng hực đớn đau này, anh đã nghe hoài, nghe hủy, trong những đêm mưa bên bếp lửa rừng Tây Bắc. Ông mo thân gầy săn như gỗ lũa, tay cời than, tay vẩy rượu, vừa đung đưa người cho đỡ lạnh vừa hát kể Mo Khuôn cúng mường cầu phúc thọ. Ngày xưa, Lân không vợ nhạt chỉ cưới vì tiền bạc và nòi giống. Không người tình chỉ vấn vương vì xác thịt và những lời chiều nịnh nhạt như nước ốc. Không nhờn nhợt lờ lợ những bữa Nhất dạ đế vương. Lăn từng úp mặt xuống gối, nước mắt đầm đìa hoan lạc khi nghe người kể Mo Khuôn.

* * * * *

Đi đi, dã nhân!

Sáng nay, xuân về. Đủ lạnh để nước mắt ngươi ngừng chảy. Đủ ấm để ngươi vào đến giữa rừng. Đừng đi sang trái, phía ấy có bọn mang thòng lọng và bao tải đi săn trộm chó. Tất nhiên chúng mừng phát điên nếu săn được một con khỉ. Đừng đi sang phải. Phía ấy rực rỡ đèn màu và những nhà hàng Nhất dạ đế vương.

Đi đi, dã nhân. Vì bàn tay ngươi cũng có đủ ba đường sinh mệnh, trí đạo, duyên tình.

Nước mắt lưng tròng, Lân ngồi xệp ở bìa rừng. Thấp thoáng chiếc đuôi cụt của dã nhân đang lao mình vào rừng thẳm. Lân ngẩng mặt lên trời, đợi chiếc vòi rồng xoáy theo những hạt mưa màu nâu ánh đỏ.

HẾT

Dây neo trần gian

Nàng gục xuống những lá cháo, những lá gạo và muối bày la liệt trên mặt đất trong căn buồng tối mờ nghi ngút khói hương. Những muôi cháo lá đa. Cháo đổ vào lá để yên ủi những cô hồn váng vất.

Sao trước đây nàng chưa bao giờ để ý đến những mẹt lá đa đong đầy cháo nhỉ? Đựng vàop bát không xuể, người ta phải đong vào lá để đủ ban phát cho những hồn côi?

Dưới ánh đỏ vàng của nến được uốn vặn qua làn khói hương, lung linh của một người đàn bà áo xanh khăn đỏ đang ê a trong nhịp phách điệu Bỉ :

... Sống đã chịu một đời phiền (a)... não (chứ)... Thác lại nhờ (hờ)... hớp cháo lá đa...

Những câu hát não nùng kéo nước mắt nàng nhỏ xuống. Vị mặn của nước mắt tức khắc làm cháo vữa. Dòng nước cháo chảy tràn qua mép lá rồi thấm đất trong khi nàng chờ cho bà đồng ấy làm xong Lễ Chúng sinh.

Ngân thật dài những câu cuối, rồi người đàn bà quay lại mở chiếc khăn phủ diện. Không nhìn nàng, bà ta hỏi thản nhiên :

- Lần trước tôi dặn những gì, cô vẫn làm theo đấy chứ?

Nàng ấp úng :

- Dạ có... thưa... đây.

Nàng rụt rè đưa ra tấm ảnh của anh. Tấm ảnh màu to cỡ bàn tay mà phải mất bao công phu dụ dỗ và nói dối, nàng mới đưa anh đi chụp rồi lấy trộm được. Bà đồng dặn phải lấy không để cho người ấy biết mới thiêng.

Bà đồng đưa tấm ảnh đến gần ngọn nến, ngắm nghía hồi lâu rồi lắc đầu :

- Đứt hết cả! Lâng châng lắm! Không còn một dây nào...

Nàng giật mình :

- Bà nói gì? Dây nào? Đứt gì? Tôi muốn nhờ bà...

Bà đồng cau mày :

- Im! Đừng lắm lời! Ta bảo rằng những sợi dây để níu anh ta ở lại chốn trần gian đều đã bị đứt. Trông con mắt nhìn mà không thấy này, ta biết.

Nàng rụt rè phản đối :

- Không! Anh ấy còn có cha mẹ vợ, vợ, bạn bè... Nhiều mối liên hệ lắm!

Bà đồng quắc mắt :

- Ta không hỏi cô. Cô tìm đến ta đã là nước cùng. Chứng tỏ cô đã làm đủ cách mà không xong. Có muốn nghe hay thôi?

Nàng len lét im lặng. Bà đồng nói đúng. Nàng đã làm đủ mọi cách. Thuyết phục đi thử máu, co kéo hàng chục buổi anh mới nhận lời. Nhưng đến cổng bệnh viện rồi trốn biệt, tha hồ cho nàng mắng mỏ. Nàng hỏi thăm hết cả hơi mới tìm được một ông thầy kê đơn bắt mạch nổi tiếng, lôi xềnh xệch anh đến. Anh nhăn nhó từ chối rồi nổi khùng. Anh dị ứng với tất cả những gì thuộc về bệnh viện và thuốc thang, cho rằng vô nghĩa hết. "Mười hai người, còn năm vào năm 1976, rồi còn bốn vào năm 1989, đến 1991, còn ba, 1992 còn hai. Và bây giờ đến lượt anh!"

Anh giấu tất cả người thân, chỉ còn thổ lộ bầu tâm sự với người duy nhất là nàng. Lấy vợ nhưng cũng không dám có con, sợ đẻ ra một quái thai không đầu hoặc không tay. Chẳng còn gì có thể làm cho gương mặt sầu thảm dìm trong rượu của anh sáng lên được một chút. Nàng cuống cuồng cầu đến những phép huyền bí. Một cô bạn rỉ tai rằng có bà đồng chuyên xem bói và chữa bệnh qua ảnh giỏi lắm, nàng vội vàng nhao đến, dù bản thân không tin gì mấy. Nàng hy vọng có thể có một liệu pháp tâm lý trong cách chữa bệnh của người đàn bà kỳ quặc này chăng.

Bà đồng khẽ lắc lư người, rồi phán tiếp :

- Vì không còn dây neo, anh ta trôi lơ lửng như con thuyền bị gió đưa đẩy. Cần phải níu anh ta lại. Ta từng chữa cho những người như thế.

Bà đồng lật sấp mặt tấm ảnh và soi qua ngọn nến. Một thứ ánh sáng đục lờ khó nhọc xuyên qua và hắt lên khuôn mặt người đàn bà một màu huyết nhũ huyền bí. Mũi bà như chợt gồ lên và mắt bỗng long lanh như mắt sói :

- Này, nhìn đây! Có một sợi xích đứt màu hồng đang bay dật dờ. Đó là dây neo với vợ. Còn sợi xích màu lam sẫm kia cũng đứt làm mấy đoạn. Đó là dây neo với những người ruột thịt... Bao nhiêu sợi xích đứt bay lõa tõa... Anh ta sống như một bóng ma. Cả nhà kính trọng anh ta, đi nhẹ nói khẽ, nhưng không ai hiểu anh ta cần gì. Mà trông đôi mắt và cái miệng này, biết rằng đây là kẻ yếu đuối... Mau mau níu anh ta lại bằng những dây neo trần gian, nếu không anh ta sẽ lừ lừ trôi về địa phủ.

- Nhưng bằng cách nào? Thưa bà?

Bà đồng quay phắt lại. Trông bà lúc này hệt một mụ điên, cũng giống hệt một á thánh :

- Cách nào à? Chỉ còn một cách. Đó là tóc. Tóc đàn bà. Nói đến đàn bà là nói đến tóc. Nói mãi về tóc đàn bà mà cũng không nhàm. Bởi vì tóc của đàn bà, chỉ tóc của đàn bà thôi nhé, có phép màu.

Bà đồng trả tấm ảnh cho nàng, rồi hạ giọng :

- Nhớ kỹ này: vào ban đêm, hãy nhổ tóc của chính cô. Bện chín sợi một thành từng bím rồi nối chúng lại với nhau, quấn chung quanh tấm ảnh này rồi đặt lên bàn thờ khấn. Xong đâu đó, mang tất cả đến cho anh ta. Anh ta sẽ lưu lại trần gian.

Nàng rợn cả tóc gáy, đứng bật dậy :

- Nhảm nhí! Không đời nào! Tôi không nghe bà! Nhổ tóc của tôi ư? Anh ta là cái gì của tôi mới được chứ? Tôi là gái chưa chồng...

Bà đồng thở dài, chỉ tay ra cửa, vẻ chán nản :

- Thì bước! Ai khiến cô đến đây làm gì mất thì giờ của ta. Xét cho cùng, cô cũng chỉ là một trong rất nhiều con bướm sặc sỡ lượn chơi trên đời này...

Nàng vội vàng níu tay bà :

- Có thật những sợi tóc của tôi sẽ giúp được anh ấy? Căn nguyên nào mà khuyên tôi như vậy? Nghe đâu, bà cũng đã từng mất một người yêu trong chiến tranh?

Mắt bà đồng bỗng long lên sòng sọc. Lúc này trông bà đích thực là một người điên. Một người điên trẻ trung chỉ hơn nàng dăm tuổi. Đôi mắt có hàng mi dài của bà vằn đỏ :

- Ta cấm! Ta cấm nhắc đến điềm gở! Ai cho... Ta đang cúng cô hồn...

Người đàn bà vùng vằng bỏ vào nhà. Nàng còn kịp nhìn thấy bộ ngực lép của bà vồng lên trong nhịp thở dồn trước khi ra về.

* * * * *

Năm 1976. Anh cười đăng đắng :

- Tiểu đội anh mười hai tên. Đánh nhau rụng mất năm, còn bẩy mống. Mống mập nhất là anh...

Áo lính phanh ngực đỏ lên vì nắng. Anh tự cho phép mình cẩu thả một chút, lãng tử một chút đúng dáng người hùng sau chiến tranh trong lần đầu tiên gặp lại nàng.

Hồi đó nàng chưa yêu anh. Mắt nàng vụt sáng không phải vì yêu, mà do lòng mừng rỡ vì một người bạn đã sống sót. Chính nàng đã dự lễ truy điệu của những người bạn cùng lớp. Khi vực mẹ của người bạn thứ ba vào giường nàng bất chợt gục vào ngực người đàn bà đang nằm thiêm thiếp ấy khóc nức nở. Người ta đồn rằng nàng yêu con trai bà - nhân vật chính của lễ truy điệu. Đó là chàng trai học toán giỏi nhất trường và có bộ tóc xoăn dày rậm như tổ cú. Nhưng nàng không hề hé răng nói nửa lời về điều này.

Một năm sau, anh đã kịp nói lại với nàng :

- Bảy mống giờ chỉ còn năm. Một chết trên đường đi buôn hàng hàng Bắc Nam, do đánh nhau với đầu gấu đường trường. Còn một đứa, bỗng dưng ốm mòn dần rồi chết. Nghe nói chết do nhiễm chất độc. Người tóp như nắm xương khô, ăn hết của rồi chết...

Anh rùng mình. Con mắt như bị khoảng trống giữa anh và nàng hớp mất hồn. Những tia sáng chập choạng trôi dạt trong đáy mắt anh như lửa ma trơi.

Nàng se thắt cả lòng dạ khi từ anh phả ra hơi rượu. Bao nhiêu năm quen nhau, nàng chưa bao giờ bắt gặp anh phải vịn vào cánh tay lạnh buốt của ma men.

1989, anh đã lấy vợ từ lâu, nhưng vợ anh không phải là nàng. Khi ấy, nàng chưa yêu anh. Dạo này anh làm nhiều thơ. Những bài thơ như lửa đốt...

Những bài thơ như lời những kẻ đang nằm dưới mồ và kể vọng lên trần thế những cảm giác của cái thế giới bị chôn vùi ấy. Hình như anh chỉ còn hai việc: Làm thơ và chờ chết. Da anh xanh bủng và mặt hơi phù lên vì rượu. Anh cũng nổi tiếng vì những câu thơ thắt ruột ấy. Anh đã kịp làm cho người ta quen với ý nghĩ: Chẳng bao lâu nữa, nhà thơ kỳ dị này sẽ chết. Người đến chiêm ngưỡng anh ngày càng nhiều hơn. Anh đóng cửa, vờ đi vắng hoặc đề nghị ngoài cửa bằng phấn: "Không tiếp khách".

- Anh uống ít rượu thôi! Em van anh! - Nàng cầu khẩn trong một lần anh ghé chơi.

- Tại sao?

- Bởi vì em không muốn thấy anh trở thành một kẻ nát rượu. Thảm lắm!

- Tương lai không xán lạn được đến thế đâu! tôi chết trước khi được trở thành một kẻ nát rượu.

Nàng tát khẽ vào miệng anh :

- Bậy nào! Dũng khí của đàn ông để dưới gót giày rồi sao?

Anh cười nhạt :

- Em cứ việc giễu cợt. Mười hai mống, đến bây giờ chỉ còn ba. Sắp đến lượt tôi rồi!

- Mỗi người mỗi số phận. Những cái chết ấy liên quan gì đến tính mạng của anh cơ chứ?

Nàng cố trấn an, nhưng trong lòng bỗng run rẩy vì một dự cảm. Bất giác nàng đưa tay vuốt tóc anh như xoa đầu một cậu bé. Đó là cái đụng chạm đầu tiên giữa hai người. Nhưng ngay cả sự kiện tày trời đó vẫn không thức tỉnh anh rời khỏi vực thẳm u hoài :

- Sao lại không? Ba đứa chúng tôi ở trong cùng một cánh rừng chiến tranh. Có một buổi sáng, một thằng thức dậy sớm và reo ầm lên: "Sương xuống! Có sương! Chúng mày ơi ra mà xem!". Cả lũ sung sướng chạy ùa ra, bởi vì ở vùng ấy sương rất hiếm. Những giọt sương li ti rơi xuống ướt đẫm. Cả bọn hứng sương như tắm.

Anh chợt nắm lấy cổ áo mình mà kéo, mặt tái nhợt :

- Nhưng rồi, em có biết không? Một thằng trong bọn đi lấy nước. Vừa đi được một quãng, nó bỗng hét lên thất thanh. Bọn anh chạy vội đến, thấy nó há mồm nói không ra tiếng, tay chỉ lên ngọn cây. Tất cả những lá cây quanh đó khô cong. Mới biết mình vừa dầm mình trong màn phun chất hóa học...

Anh rút từ trong ngực ra một nắm những bài viết cắt ra từ các tờ báo đã nhàu nát. Đề bài: "Nghiên cứu về tác hại của chất độc hóa học trong chiến tranh, "Một cái chết thảm khốc vì chất độc", "ảnh hưởng của chất màu da cam đến thai nhi"...

Nàng cố cười, phẩy tay :

- Lại chất độc màu da cam chứ gì? Nhàm quá rồi! Có phải ai cũng bị đâu. Còn tùy sức đề kháng của mỗi người chứ. Anh đừng tự ám thị mình thế!

Anh tóm lấy chỗ báo và nhét trả vào ngực :

- Đừng an ủi tôi làm gì vô ích. Sắp tới tôi sẽ tan biến như một hạt bụi - một trong số mười hai. Hay là em viết chút gì đi. Một chút về mười hai người lính chúng tôi. Nhnữg người đã trở về với hòa bình để rồi lần lượt nằm vào cái huyệt đã đào sẵn cho mình trong chiến tranh từ mười mấy năm về trước?

Nàng bỗng nức lên khóc và ôm choàng lấy mái đầu anh, như cách một người mẹ đang vòng tay che chở cho đứa con trai. Những ngón tay dài mềm mại của nàng viền quanh khuôn mặt xanh xao luôn ướp trong rượu của anh. Nàng ru khuôn mặt ấy trong lòng tay và cảm thấy tim như muốn vỡ vì thương xót. Cho đến khi những giọt nước mắt của anh cũng đã tìm cách tràn ra khỏi bờ mi và chảy dọc theo đường sinh mạng trên lòng bàn tay nàng, nàng vội đặt lên vầng trán mát lạnh dâm dấp mồ hôi của anh một nụ hôn. Anh rùng mình nhìn sững nàng. Mắt nàng chợt ngời lên trong thoáng chốc.

- Đừng tin! Anh đừng tin! Chỉ là chuyện nhảm nhí! Người ta nói đến chất độc ở một hành tinh khác. ở đó không có em và anh...

Nàng cuống cuồng ru anh bằng những lời vô nghĩa thế mong nuôi dài một chút ảo ảnh. Nhưng đáy mắt anh đã trở lại vô hồn. Những lời của nàng rơi tõm xuống một cái hồ lặng lờ không đáy. Anh đang mải mê đuổi theo những ảo cảnh của cõi Thái Hư.

* * * * *

"Mỗi sợi tóc là một sợi phiền não...". Bà ngoại nàng lẩm bẩm nói một mình. Bàn chân có ngón cái chĩa ra ngoài như chân chim xoa xoa xát xát trên những sợi tóc vừa rụng xuống sàn nhà. Phút chốc, những sợi tóc bạc đã xoe tròn thành một búi nhỏ bằng đầu ngón tay út. Bà xuýt xoa giắt chỗ tóc ấy lên vách "để đánh cảm" Bà bảo thế! Thực ra, đó chỉ là một cách bà tự an ủi mình để khỏi tiếc chỗ tóc rụng mà thôi.

Nàng ngồi trên gác xép, chỗ của riêng nàng. ở đó có cái cửa sổ kiểu cổ hình bán nguyệt. Nàng ngắm bà và những ngón chân Giao Chỉ của bà. Nàng lẩm nhẩm "Mỗi sợi tóc là một sợi phiền não"... Tóc bạc rồi mà bà còn tiếc! Nàng xót xa nhìn mớ tóc mình đang sóng sánh tỏa xuống cái cổ ba ngấn và tuôn tràn xuống vai.

"Một kẻ có dăm ba chữ trong đầu mà lại đi nghe lời một con mụ điên ấy ư? Thế thì mình cũng điên rồ nốt!..." Nhưng chẳng lẽ ngồi bó tay nhìn anh một mình chới với rồi mất hút trong cõi chết. Thà làm một việc gì đó thật điên rồ, còn hơn là không làm gì. Hồi còn bé, nàng đã từng chứng kiến cảnh hai vợ chồng nhà nọ. Người vợ đẻ khó rên la trong nhà. Còn ngoài sân, người chồng cứ cuống cuồng hết leo lên lại leo xuống cây cau như một con mèo khổng lồ và vụng về. "Cho vợ nó dễ đẻ" - Mấy bà hàng xóm già vừa móm mém nhai trầu vừa bảo thế. Giữa việc sinh đẻ của người vợ và leo cau của người chồng có liên quan gì đến nhau! Thế mà người ta vẫn làm. Phải chăng, trong những hoàn cảnh cùng quẫn, người ta cần phải tìm một việc làm điên rồ nào đó để tránh rơi vào sự điên rồ thực sự?!

Và nàng bắt đầu tết những bím tóc nhỏ xíu. Chín sợi tóc, Chín trăm chín mươi chín bím tóc! Những con số chín kỳ lạ!

* * * * *

- Anh làm ơn làm phúc tha cho con gái tôi! Anh đã yên bề gia thất. Còn nó, tuổi đã lớn rồi mà chưa một lần... Anh dùng bùa phép gì ếm con tôi đây?

Mẹ nàng vừa khóc vừa kéo anh lên gác. Căn gác xép của nàng. Bà vứt tọt tấm ảnh được quấn trong những bím tóc li ti óng ánh sáng ra trước mắt anh :

Tôi không biết anh làm những trò gì. Chỉ biết rằng vì anh, nó đã trở thành lẩn thẩn rồi. Nó đã tự nhổ gần hết tóc để quấn quanh cái ảnh của anh. Ban đêm, nó thắp hương khấn khứa và lầm rầm gọi tên anh. Anh đã làm hại nó. Tôi căm ghét anh!

Anh sung sướng cầm lấy tấm ảnh của chính mình mà không hiểu bằng cách nào đã rơi vào tay nàng. Những bím tóc lóng lánh nhỏ li ti được nối với nhau kéo dài vô tận. Nàng đã gọi tên anh hằng đêm? Những bím tóc xổ ra cuộn chảy trên tay anh như những sợi dây xích mát rượi. Nàng đã làm gì thế này? Nàng vốn làm một cô gái chỉ quen làm theo lý trí cơ mà? Anh đang mải nghĩ và không để ý đến người mẹ đang gào bên tai anh những lời xỉ vả.

Có tiếng chân hối hả lên thang gác. Rồi nàng ùa vào :

- Trời ơi! Mẹ! Mẹ làm gì thế này!

* * * * *

Khi mẹ nàng và anh phát hiện ra, nàng chưa tết đủ chín trăm chín mươi chín bím tóc để quấn quanh tấm ảnh.

Nhưng anh đã chịu đến bệnh viện để thử máu. Anh muốn đưa cho nàng xem một kết quả rõ ràng. Một cái chết không thể tránh khỏi. Để nàng thôi không dằn vặt về anh nữa. Và bây giờ, dù có chết, anh cũng sẽ chết với một nụ cười mãn nguyện - anh bảo nàng như thế - bởi vì, giờ đây anh biết rằng trên đời này có một người tha thiết níu anh trở lại trần gian đến thế.

Còn nàng, chạy đi chạy lại bệnh viện, làm quen với một ông bác sĩ,lo lót để bất kỳ trường hợp nào, họ cũng sẽ cấp cho anh một mảnh giấy ghi kết quả xét nghiệm âm tính. Nàng muốn anh vui vẻ một chút trong những ngày cuối đời. Kết quả thực sự, chỉ một mình nàng được phép biết mà thôi.

Khi anh từ phòng thử máu bước ra, tay cầm mảnh giấy và khuôn mặt rạng ngời, nàng vờ nói: "Đấy! Em đã bảo mà! Chỉ là bệnh tưởng đấy thôi!". Anh cười, nắm tay nàng định nói một lời gì đó thật đặc biệt, xứng với trường hợp này. Nhưng nàng vờ cười thật tươi và nói rằng, trót để quên chiếc ví trong phòng xét nghiệm rồi chạy vụt trở vào, chỉ lo mình òa khóc.

Vào phòng, nàng chỉ đủ sức mở to mắt nhìn vào miệng người bác sĩ. Ông bác sĩ có chiếc mũi khoằm gỡ kính ra nhìn nàng :

- Thật không thể ngờ được, cô ạ. Trông người như hồn ma thế kia mà kết quả âm tính thực sự.

Tôi không phải làm chứng chỉ giả nữa. Máu của cậu ấy hoàn toàn bình thường, phải cái hơi ít hồng cầu. Chữa đơn giản thôi. Chúc mừng hạnh phúc của vợ chồng cô!

"Vợ chồng gì đâu! Anh ấy không thuộc về tôi!" Mặt giàn giụa nước, nàng chạy ra sân bệnh viện. Trời trưa hoe hiu nắng. Nàng ngửa mặt lên trời. Vầng mặt trời ban trưa nhỏ lại và chuyển màu trắng đang lấp láy nhìn nàng qua một mành lá trúc. Mặt trời hình như có biết nàng.

Theo thói quen, nàng đan những ngón tay vào tóc. Những ngón tay đi vào da đầu quá dễ dàng khiến nàng giật mình kinh hoàng. Nàng cắn chặt đôi môi.

Nhưng có tiếng chân bước. Anh đang đi về phía nàng. Đã lâu lắm rồi, nàng mới lại thấy anh với dáng người cẩu thả hơi pha chút lãng tử như vậy. Nàng quỳ sụp xuống đất như cách người ta ngã, vừa cười vừa khóc :

- Ơn trời! Ơn trời! Vậy là con đã neo được anh ấy vào chốn trần gian này!

HẾT

Đêm bướm ma

Riêng Thuận trông thấy nó. Đó là một con bướm to cỡ bàn tay. Đôi cánh điểm vằn nâu và xanh biếc của nó xõa im lìm trên bậc thềm mé lối đi. Đoàn dự hội nghị bảo tồn văn hóa Tây Nguyên đi qua rầm rập, vậy mà không ai bắt gặp con bướm. Thuận lại gần, ngần ngại chạm tay vào. Cánh bớm khẽ động đậy. Thuận lập tức rụt tay lại. Một luồng ớn lạnh. Từ bé Thuận vẫn vừa sợ vừa thích những con bướm ma. Chúng đẹp một cách rầu rĩ, huyền bí, thách đố. Và thông thường, chẳng bao giờ nàng gặp chúng, trừ phi chúng sắp chết. Như hôm nay chẳng hạn. Con bướm ma này không biết từ đâu đến, nằm xập xệ bên đường dưới gốc cây ngọc lan trong biệt điện. Nơi đây, xưa kia đã in gót sen của các phi tần. Thuận ngước lên những vòm cây cổ thụ xanh thẫm tuyệt đẹp và tự hỏi: Ngày xưa, mỹ nhân nào đã được vua dìu trên cánh tay đưa về động phòng trong biệt điện thênh thang này? Bao năm đã trôi qua. Ông vua cuối cùng giờ đã sống nốt những ngày cuối đời trong một chung cư ở Pháp. Song biệt điện này vẫn phảng phất mùi đế vương. Trong vẻ hoang phế còn có chút gì đó thiêng liêng và thành kính. Lìa bỏ cõi đời trong một chung cư, biết đâu hồn ông đã tìm về lơ lửng đêm nay trong biệt điện và phả vào buổi chiều xám sẫm này mịt nỗi buồn lạnh lẽo bể dâu?

Sợ người qua lại xéo lên con bướm, Thuận cố nén sợ hãi, run run nâng cánh bướm ma đặt vào tờ báo nàng vừa mới mua đang cầm tay, mang về đặt bên cửa sổ. Nàng hé cửa. Cửa sổ được chắn bằng những song sắt uốn hoa lá màu xanh. Có lẽ đêm nay con bướm sẽ hồi lại.

Nàng để con bướm đậu trên bậu cửa, rồi quay ra bàn pha trà. Cảm thấy như có ai nhìn mình chằm chằm từ phía sau, nàng quay phắt lại. Nhưng không thấy gì khác. Trời đã tối. Cây cối ngoài vườn đứng lặng. Cánh ướm vẫn nằm im trên tờ báo. Nàng thở phào quay lại. Rót nước ra cái chén sứ rẻ tiền trông thấy nhan nhản khắp hè phố, thong thả nấm nháp thỏi kẹo mè xửng một người bạn ở Huế vừa cho.

Rồi Thuận buông rèm cửa sổ. Tấm rèm xanh thẫm nặng nề vung ra một làn bụi lưu cữu khiến nàng hắt hơi. Theo thói quen, Thuận trút bỏ quần áo, bước lên giường. Tấm gương lớn ngang dọc những đường rỉ đặt cuối phòng in mồn một thân thể nàng. Bộ ngực trĩu xuống với đầu vú màu nâu nhạt ửng hồng hơi chúc xuống thùy mị dịu ngọt. Đôi vai dìu dịu chảy xuôi tôn cao chiếc cổ có ba nốt ruồi xếp thành chuỗi hạt đỏ luôn luôn chuyển động theo hơi thở. Làn da bụng qua ba lần sinh nở vẫn không gợn vết nhăn. Và xa xa dưới kia giữa hai hàng đùi và một vòng hông nở nang hơi thái quá, bồn cỏ óng ánh màu hạt dẻ vẫn căng đầy vẻ thơ trẻ. Đôi chân duỗi dài những đường lượn cong nhẹ nhàng phủ mơn man một lượt lông tơ ngắn mượt mà làm dịu bớt màu trắng muốt của làn da. Lâu lắm rồi nàng mới có dịp ngắm kỹ thân mình, một thoáng buồn vì nhận ra rằng, theo tuổi tác, bộ ngực đã trĩu xuống hơn xưa kia. Rồi với tay tắt đèn, nàng chui vào chiếc chăn mà cô bồi thề sống thề chết rằng mới giặt. Vậy mà chăn vẫn sặc mùi ẩm mốc. Mặc kệ, nàng định làm một giấc cho đã mấy ngày đi đường vất vả.

Nàng chìm rất nhanh vào giấc ngủ không mộng mị. Cỡ hai tiếng đồng hồ, thốt nhiên nàng tỉnh giấc. Xung quanh vẫn im phắc không tiếng động. Nàng chợt nhận ra hơi thở của mình ngắn và gấp gáp hơn bình thường và chợt mơ hồ lo sợ. Nàng bật đèn lên nhìn con bướm ma. Đôi cánh to lớn lạ thường của nó vẫn trải rộng trên bậu cửa sổ. Con bướm giương to đôi mắt nhìn nàng. Cái nhìn của con bướm bỗng khiến Thuận bối rối. Nàng cúi đầu xuống, nhận ra mình hoàn toàn trần truồng. Nàng hối hả chui thật nhanh vào chiếc váy ngủ lùng thùng màu tím, nhảy đại lên giường, kéo chăn lên ngang cằm, cố nhắm mắt lại nhưng không dám tắt đèn nữa.

Bỗng có tiêng sột soạt mơ hồ, Thuận khẽ hé mắt. Và cái nhìn đầu tiên của nàng vẫn bị hút về bậu cửa sổ. Con bướm không còn ở đó. Nàng bỗng cảm thấy lo sợ liền bật dậy, nhảy chồm tới bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Đêm vẫn sẩm tối, le lói vài ánh sao mờ. Hương hoa ngọc lan nồng nàn choàng lên biệt điện. Biệt điện hào hoa nay đã biến thành khách sạn hạng xoàng đẫm mùi son phấn. Nhưng hương hoa ngọc lan như hơi thở của một người đàn bà sang cả và nồng nhiệt phả dài dọc khắp khu vườn, trả lại cho biệt điện vẻ hào sảng thuở nào.

Làn hương nồng nàn ban đêm ấy quyến rũ nàng mở cửa phòng, bước dần dà theo mấy chục bậc tam cấp xuống vườn. Nàng đi nhanh tới đám cỏ tóc tiên trồng bên dưới cửa sổ tìm con bướm. Nàng muốn xem nó đã bay đi hay đã rơi từ tầng hai xuống với đôi cánh nát. Nhưng đám cỏ với những bông hoa trắng thiêm thiếp sương vẫn đang ngủ yên. Con bướm đã biệt tăm.

Sương và cái lạnh dìu dịu ban đêm ở cao nguyên làm nàng run rẩy vì trên người chỉ có chiếc váy ngủ bằng lụa mỏng. Nàng rùng mình nhìn ra xung quanh. Những gốc cây với tán đen sẫm bắt đầu cựa quậy. Một cơn gió lạnh buốt thổi đến như tiếng than thê thiết. Nàng chợt nghĩ đến phim "Ma cây" của Mỹ, nhớ đến hình ảnh cả rừng cây bỗng rùng rùng săn đuổi nhập vào con người làm biến dạng khuôn mặt, nàng run bắn, tóc gáy dựng ngược. Cố trấn tĩnh mà không được, chân nàng khuỵu xuống, rồi nàng gục xuống bên bậc tam cấp.

Tất cả diễn ra lờ mờ như trong sương. Hình như có ai đó bế nàng vào phòng. Hình như nàng được ẵm trên một cánh tay đàn ông trong nhịp bước đu đưa tình tứ. Hình như người đàn ông đó mặc áo choàng lụa và có những nếp nhàu rên lên êm ái dưới sức nặng của thân mình nàng. Hình như có một bàn tay vuốt dài từ trán xuống ngực, qua đùi và dừng lại ở gót chân tái nhợt của nàng khiến chúng ửng hồng. Hình như đã có ai đó nằm xuống cạnh nàng bên gối. Có một mùi đàn ông mặn, đắng cuồng si pha lẫn mùi ngọc lan nồng nàn đang chảy ùa từ cánh cửa sổ mở rộng vào khiến nàng ngây ngất. Có một đôi mắt đàn ông đang đăm đắm nhìn nàng từ bên trên. Đôi mắt ấy lặng lờ, không nài xin, con ngươi nửa nâu nửa đen ngả xanh. Rồi đôi mắt nâng lên, cao dần, xa dần. Như bị hút theo, nàng từ từ nâng người lên khỏi gối và bừng tỉnh.

Quả thực, trong phòng, cạnh giường nàng đang có một người đàn ông. Anh ta nhìn chằm chằm nàng một cách thèm khát. Đôi mắt cháy rừng rực dưới đôi mày rậm. Anh ta bước lại phía nàng tay vươn dài. Đôi cánh tay ôm thít lấy nàng như trăn quấn. Anh ta hộc lên một tiếng và đẩy nàng ngã xuống giường, chặn tấm thân lực lưỡng đang giật lên một cách kỳ cục xuống người nàng. Đôi môi của anh ta mở rộng trong cơn thèm khát ghé gần ngực nàng. Nàng bị nghẹt thở, không cựa nổi, những tiếng gào rú tắc nghẹn trong cổ họng.

Bỗng cái gì đó rơi rất êm, rất nhẹ trên mặt Thuận. Và hình như gã đàn ông lỏng người ra.

Đó là con bướm ma.

Con bướm ma từ đâu bay tới. Nó xoải đôi cánh to dị thường trên mặt Thuận, che khuất đôi môi và gương mặt nàng. Khi môi của gã đàn ông ham hố đập xuống, mồm hắn lập tức nghẹn phấn bướm.

Gã đàn ông cáu tiết gạt phắt con bướm ra khỏi mặt Thuận. Con bướm rụng xuống giường nhưng lại lập tức phủ ngay lên mặt nàng. Ba bốn lần như vậy, và nó giương đôi mắt nhìn chòng chọc vào gã đàn ông. Đôi cánh vẫy vẫy một cách ma quái. Đôi cánh như đôi tay dẫn dụ hắn xuống địa ngục.

Gã đàn ông nhìn con bướm. Nhìn gương mặt người thiếu phụ bây giờ nâu đen loang lổ như một chiếc mặt nạ dữ dằn đe dọa. Gió đập vào cánh cửa rồi đi qua như một tiếng rên dài ảo não.

Gã cảm thấy ở đây có cái gì quái đản. Dục vọng của gã chùng xuống, người bải hoải. Gã trân trân nhìn con bướm. Ngoài hành lang như có tiếng chân bước. Gã đi giật lùi, mắt không dám rời con bướm kỳ dị cho đến tận lúc gót chân đập vào cửa. Gã co giò phóng vút ra ngoài, lẩn vào vườn cây. Thuận đã hết nghẹ thở. Nàng gào lên một tiếng lớn như tiếng mèo hoang và lật người dậy, mồ hôi toát đầm đìa.

Bên gối, con bướm ma đã chết. Cánh nát vụn. Đôi mắt nó vẫn mở to lặng lẽ.

Nàng nhìn vào trong gương. Giật mình thấy má in hai quầng nâu nhạt. Hai quầng nâu đó hệt đôi cánh bướm.

HẾT

Người sót lại của rừng cười

Một kho quân nhu và bốn cô gái náu mình dưới tán cây rừng Trường Sơn. Bốn cô gái trẻ măng nhưng mái tóc chỉ còn là một dúm xơ xác. Dòng nước khe màu xanh đen thớ lợ đã dần dà vặt trụi tóc của họ.

Hôm đón Thảo - cô gái thứ năm về, bốn người cũ mừng rỡ khi nhìn thấy mái tóc óng mượt dài chấm gót của cô. Họ cưng Thảo như vàng, nhất trí rằng không thể để rừng cướp mất mái tóc ấy của họ. Nhưng rừng mạnh hơn.

Hai tháng sau, bất chấp đủ loại lá thơm mà đồng đội đã mang về cho gội, tóc Thảo chỉ còn là một túm sợi mỏng mảnh xơ xác.

Cả bố cô gái ôm nhau khóc cay đắng, còn Thảo thì cười: "Các chị khóc làm gì. Đằng nào thì em cũng đã có người yêu. Người yêu em chung thủy lắm nhá. Em thế này chứ giá như có bị trọc đầu thì anh ấy vẫn yêu cơ mà".

Và thế là các cô gái nín khóc, tròn xoe mắt nghe Thảo kể về mối tình của cô với chàng sinh viên Văn khoa Hà Nội. Người con trai ấy được khúc xạ qua bao lớp bụi và khói, cuối cùng đến lớp sương mù lung linh huyền ảo của ký ức Thảo, hiện lên như một chàng hoàng tử hòa hiệp thủy chung.

Cả bốn cô gái đều đem lòng si mê chàng trai ấy, nhưng không phải cho họ, mà là cho Thảo. Cái sự si mê người khác ấy không hy vọng cắt nghĩa nổi trong thời bình, dưới những ánh đèn màu huy hoàng, mà chỉ những ai đã từng qua chiến tranh, trải qua nỗi cô đơn đặc quánh, qua cảm giác đang cựa quậy giữa chốn giáp ranh, giữa địa ngục và trần gian mới hiểu nổi.

Họ ở đây đã qua ba mùa mưa rầu rĩ và đang ở giữa mùa khô thứ ba bỏng rát. Kho quân nhu im lìm nép trong vòng tay ma quái của rừng sâu. Thỉnh thoảng mới có một đoàn quân tạt qua lĩnh quân trang quân dụng rồi vội vàng đi. Họ đến mang theo những câu bông đùa suồng sã, dăm ba cái cấu véo của những người đàn ông sống xa thế giới người đàn lâu ngày có xu hướng trở nên hoang dã. Thảng hoặc cũng có những người lặng lẽ chiêm ngưỡng họ như những nữ hoàng, chăng vào lòng những cô gái bé nhỏ chút hy vọng mơ màng vương vấn như tơ nhện rồi thoắt biến cho các co gái càng thấm thía nỗi cô đơn.

Mặt trận đã lùi về gần kho. Năm cô gái sống trong lo âu mà rừng thì cứ lầm lì trải đầy thảm lá rụng. ánh đỏ của thảm lá hắt lên cả bầu trời ánh ỏi, khiến cho đêm của họ cũng mang màu đỏ.

Một buổi trưa có ba người lính đến lĩnh quân trang. Cách kho một quãng, họ bỗng chùn chân vì vẳng tiếng cười man dại. Nghe ngóng một chốc, ba người lính bước tiếp, thoáng nhớ lại câu chuyện hoang đường về bữa tiệc của các mụ phù thuỷ trong rừng. Gần đến chòi canh kho, bỗng "soạt" rồi "huỵch" - hình như có con vượn trắng vừa nhảy từ chòi canh xuống và lẩn vào đám lá. Ba người tản ra, một người chui vào bụi đuổi theo con vượn. Anh ta đang ngơ ngác nhìn ngược nhìn xuôi thì "phốc" - một đôi tay từ đâu đã ghì chặt lấy cổ và sau gáy anh vang lên tiếng cười man dại lúc nãy. Vừa cố sức gỡ ra, vừa ngoái lại, anh kinh hoàng thấy con vượn lúc nãy đang ôm chặt lấy anh. Nhưng anh còn bàng hoàng gấp đôi khi nhận ra rằng "con vượn trắng" ấy lạilà một người con gái hoàn toàn trần truồng tóc xoã, vẻ mặt bơ phờ và đang ngửa cổ ra sau cười khanh khách.

Anh ta líu cả lưỡi, gọi không ra tiếng: "Hiên ơi! Hiên". Một người lính cao cao, trông già dặn hơn, chạyv ội đến. Thấy anh bạn mình đang đứng như trời trồng trong tay một người con gái loã lồ thì vừa sợ vừa buồn cười. Anh đã từng nghe nói đến chứng bệnh mà các cô gái thường mắc phải trong những trường hợp tương tự. Anh bước tới, ra hiểu cho anh bạn đừng cố sức gỡ tay cô gái ra làm gì mà cứ dịu dàng vỗ về an ủi, một chốc, cô ta sẽ dịulại. Rồi anh nhảy ba bậc một lên chòi canh kho.

Trên sàn chòi khấp khểnh, ba cô gái đang vừa cười vừa khóc, tay dứt tóc, và xé quần áo. Còn một cô khác trẻ hơn đang chạy tới chạy lui ôm đầu tuyệt vọng. Cô chưa bị lây, nhưng với cung cách này, chẳng bao lâu, cô ta sẽ cũng không thoát khỏi.

Đã dạn dày với cảnh chết chóc, mà giờ đây, khi đứng trước thân thể loã lồ căng đầy sức sống của những người con gái, Hiên run bắn. Người đàn ông đã ngủ quên trong anh giờ đây vùng vằng giẫy đạp. Trong phút chốc, Hiên muốn buông trôi, muốn quên hết.

Phải một lúc sau, Hiên mới trấn tĩnh được. Anh nhớ lại cách chữa bệnh này. Trước đây, hồi còn là một cậu bé, anh đã nghe kể lào phào bên tai. Hiên khóa chốt an toàn, cầm ngang khẩu súng, đột ngột lao tới đạp mạnh vào cửa chòi, gân cổ quát lớn :

- Mấy con Việt cộng kia! Kho đâu? Chỉ mau, không tao bắn vỡ sọ!

Như có phép lạ, các cô gái đang cười sằng sặc bỗng im bặt, bàng hoàng rồi sực tỉnh, vơ ngay lấy súng, nhảy vội xuống đất chĩa vào Hiễn định bóp cò. May sao, người bạn đứng tronglùm cây vội la lên: "Đừng bắn! Quân mình đó!". Khi ấy các cô gái mới nhìn rõ ngôi sao trên mũ và bộ quân phục anh đang mặc. Họ từ từ bỏ súng xuống, bất chợt nhìn nhau rồi cúi xuống, thấy mình không một mảnh vải hce thân trướcmặt ba người đàn ông xa lạ. Các côkinh hoàng chạy biến vào rừng, chúi vào gốc cây khóc không ra tiếng. Cả Thảo - cô gái duy nhất không mắc bệnh cười, cũng chạy trốn. Cô thấy thương các chị đến quặn ruột. Cô buồn tủi, tiếc cho lòng trinh bạch con gái. Đến tôi, năm chị em mới dám dìu nhau về, nghe ngóng động tĩnh mãi mới lần lên chòi.

Ba người lính đã ra đi. Họ cài lạimảnh giấy xé vội vàng từ một cuốn sổ nhỏ:

"Kính chào các đồng chí! Chúng tôi sẽ lấy quân trang ở kho khác và gọi bác sĩ đến. Các đồng chí thân yêu! Chiến tranh mà. Mong tha lỗi! Vĩnh biệt".

Vài ngày sau, cô y ta đến, cho các cô gái uống thứ thuốc gì đó màu trăng trắng. Không thuốc thì cũng đã khỏi. Nhưng các cô gái trầm lặng hẳn và già thêm hai mươi tuổi.

Cánh rừng này được mang tên "Rừng cười" từ đó. Từ đây, người ta không gọi tên kho ấy theo ký hiệu quy định nữa, mà bảo: "Hôm nay, tôi về kho Rừng Cười lấy quân trang".

Vài tháng sau, kho Rừng Cười nhận được lệnh chuyển. Tiếng súng của những trận đánh nghe đã gần lắm. Chưa kịp đi thì địch đã đưa cả một đại đội đến đánh chiếm chòi và năm côgái nhỏ. Lúc đó, Thảo đang bị sốt mê man - những trận sốt rét nhập môn cho người ở rừng. Bốn chị kia đã dìu Thảo đi giấu ở một hốc cây kín đáo rồi về cầm súng. Chuyện thần thoại của chiến trường không xảy ả ở đây. bốn cô gái không chống chọi nổi đã dành những viên đạn cuối cùng cho mình để tránh ô nhục. Tên tuổi họ, lẽ ra phải được in bằng chữ đậm trên trang nhất của các báo như những anh hùng. Nhưng cũng chẳng có gì lạ. Họ nằm lặng lẽ dưới nấm mồ chung do bàn tay yếu ớt của Thảo cố sức đắp sau cơn sốt: Khi cô từ hốc cây tỉnh lại thì địch đã rút.

Đầu Thảo như muốn nổ tung. Cô không khóc nổi. Nhớ lại đêm trước trận đánh, cả năm chị em cùng linh cảm thấy một điều gì khác thường. Đêm oi ả, tù đọng. Mấy chị em nói chuyện bâng quơ rồi một chị đòi Thảo kể về người yêu. Và như mọi lần, Thảo vừa kể bằng chuyện thực vừa bằng hoang tưởng, vẽ lân chàng "hoàng tử". Ba chị kia mắt sáng ngời lắng nghe như nuốt lấy từng lời. Nhưng Thắm - chị tổ trưởng, trước lúc chui vào màn đã đến vuốt tóc Thảo và bảo: "Thảo ơi! Liệu em có quá yêu người ta không đấy, không hiểu sao, chị bỗng thấy sợ cho em. Em là người duy nhất trong chúng ta đang có hạnh phúc. Mai này, có trở về, dù thế nào, em cũng không được để đàn ông người ta phải thương hại mình nghe!".

Lúc đó Thảo đã thoáng chút hờn giận chị. Thế mà giờ đây, Thắm và ba đồng đội của cô đã chết trong những tư thế rất khác nhau. Một lưỡi lê cay cú đã đâm nát một bên ngực của Thắm. Trước đây mỗi lúc tắm chung dưới khe, Thảo thường thích ngắm trộm ngực chị Thắm và thầm nghĩ: "Ngực thần Vệ nữ cũng có lẽ chỉ đẹp đến thế là cùng" và ước ao phải chi mình có bộ ngực như thế. Giờ đây Thảo chỉ còn mỗi cách vần các đồng đội của mình xuống huyệt, rải lệ bốn thi thể con gái một thảm lá thật dày, rồi lấp đất. Cô trồng lên mộ bốn cây bằng lăng nhỏ, rồi dốc nốt chỗ nước trong bi đông xuống tưới cho cây. Mặt đấtkhô khan kêu "xèo" một tiếng, bốc hơi ngùn ngụt quẩn vào chân Thảo.

SAu này, khi đang nằm điều dưỡng ở quân y viện, Thảo được biết là Hiên - người đã cứu họ trong cơn điên loạn cũng đã chết trong một trận đánh. Nghe rằng cấp trên đã nêu gương hy sinh anh dũng của anh, đang làm giấy định gửi ra Bắc truy tặng danh hiệu anh hùng thì chính trị viên đọc được những dòng này trong cuốn nhật ký nhàu nát nhét dưới túi ba lô:

... "Sẽ không bao giờ mình quên được những người đã nhìn thấy ở rừng Cười. Có lẽ cảnh chết chóc còn dễ chịu hơn! Ôi! Thế la sau chín năm ở chiến trường, tôi đã nhìn thấy ở Rừng Cười cái cười méo mó man dại của chiến tranh.

Việc chiến tranh lôi những người phụ nữ vào cuộc chiến thật là khủng khiếp. Tôi sẵn sàng chết hai lần cho họ khỏi lâm vào cảnh ấy.

Tôi rùng mình khi nghĩ rằng, người yêu tôi, em gái tôi, cũng đang cười sằng sặc như thế, giữa một khu rừng mênh mông nào đó".

Vì những dòng này , người ta kết luận rằng Hiên có tư tưởng dao động, sặc mùi tiểu tư sản (anh vốn là sinh viên). Hành động anh hùng của anh chỉ là ngẫu nhiên, bột phát. Chính trị viên nói: "Anh ta không bị kiểm thảo là may rồi".

Đó là chuyện cũ.

Hai năm sau, Thảo - người sót lại của rừng Cười - đang học năm thứ nhất - Khoa Văn.

Thảo vẫn giữ được những đường nét bẩm sinh. Nhưng đôi mắt cô như mắt của người đang đi trong một giấc mộng dài. Làn da xanh tái vì những cơn sốt rừng. Khuôn mặt chỉ sinh động lên mỗi khi côcười, mà những nụ cười thường hiếm hoi.Cô thường so đôi vai gầy,nép mình trong góc giường tầng để viết nhật ký. Trong những cuộc đối thoại, cô thường lơ đễnh.

Thảo thường qua đêm với hai loại giấc mơ: một loại giấc mơ thời thơ bé, cô thấy may mắn nhất là nhặc được cặp ba lá, khá nữa là nhặt được trứng vịt đẻ rơi. Còn trong giấc mơ tuổi thanh xuân, cô chỉ thấy tóc rụng như trút, rụng đầy khuôn ngực đã bị đâm nát của chị Thắm, và từ trong đám tóc rối ấy lấy ra hai giọt nước mắt trong veo và rắn câng như thuỷ tinh, đập mãi không vỡ. Đến đây, cô hét lên và tỉnh dậy, nắm chặt lấy hai thành giường lạnh buốt.

Trong đêm Thảo nhìn suốt lượt - mười một cô gái đang nằm ngủ. Họ cũng đang trong mơ, nhưng môi cười thanhthản, mặt ửng hồng. Trông họ đáng yêu làm sao. Giấc mơ của họ khác xa với giấc mơ của đồng đội cô hồi còn sống. Thảo thở dài, biết rằng mình thật là quỷnh, thật khó nhập cuộc.

Người yêu - chàng hoàng tử của Thảo - của năm cô gái Rừng Cười - giờ cũng đang học năm cuối, cùng trường. Họ cũng hẹn hò, đưa nhau đi chơi mỗi tối thứ bảy trên con đường trồng ngập phi lao ngập đầy ánh trăng. Thành đã giữ lời thề thốt yêu đương ngày trước.Anh săn sóc Thảo chu đáo, ân cần. Nhưng họ ít có chuyện để nói với nhau. Họ thường im lặng đếm bước, nghe rõ cả tiếng của những con chim ăn đêm về tổ muộn hốt hoảng vẫy đôi cánh nhỏ. Thứ bảy này Thành cũng chờ Thảo ở hành lang để đưa Thảo đi chơi và về đúng chín giờ.

Nhưng mỗi lần gặp nhau, cả hai đều ngượng ngập, như cảm thấy có lỗi, như không còn chuyện gì để nói. Mỗi thứ bảy, Thảo lại vừa mong vừa sợ. Cô không còn thấy lại ánh mắt long lanh vụt sáng mỗi lần Thành gặp cô như ngày xưa.

Thảo thường nhăn mặt mỗi khi nhớ đến lần gặp lại đầu tiên sau mấy năm xa cách. Khi Thảo xuống tàu, vai đeo ba lô, Thành ra đón, anh ngỡ ngàng đến không thốt nổi một lời khi vừa nhìn thấy cô.

Đôi mắt anh lướt qua thân hình gầy gò trong bộ quân phục lạc lõng, qua làn mỗi nhợt nhạt, mái tóc xơ xác của cô rồi mới kêu lên: "Ô! Em". Lúc đó Thảo cảm thấy như vừa có cơn sóng lạnh buốt tràn qua ngực. Thoắt chốc, mắt cô đong đầy nước tủi hờn. THành giật mình chợt tỉnh. Để chuộc lỗi, anh tỏ ra vồn vã hơi quá đáng. Điều đó càng làm Thảo chạnh buồn. Cô nhìn sâu vào đáy mắt Thành:

"Anh không nghĩ rằng em sẽ như thế này, phải không?"

"Anh không quan tâm đến hình thức. Chỉ cần em trở về".

"Không đúng. Em biết mình. Hôm nay, anh thật lòng mừng vì em đã trở về, nhưng ngày mai, anh sẽ thấy rằng yêu một người như em là hy sinh quá lớn". "Đừng nói thế em. Anh đã chờ em ròng rã mấy năm!".

"Đúng thế, nhưng giơ đây em giải thoát cho anh khỏi lòng chung thủy của anh".

"Đừng ác khẩu thế cô bé. Chưa chi chúng ta đã cãi nhau rồi. Lời đầu tiên em nói với anh sau những năm chờ đợi là như thế nào?"

Thành độ lượng và nắm tay Thảo. Lòng cô dịu hẳn. "Có lẽ mình trở nên cứng nhắc và hiếu chiến sau mấy năm ở chiến trường!..."

Thời gian thấm thoát đã nửa năm với những tối thứ bảy đến đều đặn như máy.

Một hôm, Thảo có việc phải tìm đến tận lớp Thành để gặp anh, tranh thủ mấy phút nghỉ giữa giờ. Đang đứng nói chuyện với Thảo ngoài hành lang, Thành bất giác ngừng bặt, mặt tái đi rồi đỏ ửng. Thảo ngạc nhiên quay lại, nhìn thấy từ phía sau lưng mình một cô gái có đôi môi mòng mọng như nũng nịu, với làn da trắng hồng, tươi mắt, trẻ trung đang đi đến. Cô nhìn thành qua vai Thảo bằng ánh mắt say mê ngưỡng mộ hồn nhiên như trẻ thơ. Cô gái ấy học cùng lớp Thành. Cô đi vào lớp rồi, Thành mới sực nhớ ra, nối lại câu chuyện cũ. Nhưng bàn tay rất đẹp đặt lên lan can của anh thoáng run rẩy. Bực mình vì sự yếu đuối của mình, anh nắm tay đấm nhẹ vào thành lan can. Đôi mắt anh ngước nhìn trộm Thảo, vẻ có lỗi.

Thảo chợt hiểu. Cô nhanh chóng kết thúc câu chuyện ra về. Thảo tủi thân và thấy thương Thành. Rõ ràng là hai người kia thầm yêu nhau. Họ đẹp đôi quá và lại ở gần nhau, làm sao không yêu được!

Thảo la vật cản. Thành gắn bó với cô chỉ bằng nghĩa chứ không có tình. "Vậy mà nhiều lần mình bảo anh ấy đi yêu người khác, anh ấy không chịu. Anh ấy không nỡ. Rồi đây, lấy nhau, cuộc sống sẽ hết sức tẻ nhạt...". Thảo chợt nhớ lại lời dặn tưởng như vu vơ của Thắm đêm trước khi chị bị giết.

Sau nghỉ học kỳ, Thảo từ quê lên, bảo Thành rằng cô xin nói chuyện nghiêm túc với anh, rằng hai người không hợp nhau, rằng cô đã có người yêu khác, mong anh đừng nghĩ tới cô nữa. Thành nghe những lời Thảo nói vẻ thờ ơ: anh biết cô nói dối. Nhưng vài tháng sau, thấy cứ mỗi chiều thứ bảy, Thảo lại lên văn phòng khoa nhận về một phong thư dày cộm với dòng chữ nắn nót đề ngoài: "Thương yêu gửi em Mạc thị Thảo".

Thành dần tin là thật. Anh thầm trách người con gái phụ bạc, nhưng đồng thời thấy nhẹ nhõm như vừa cất được gánh nặng.

Một tháng sau anh chính thức ngỏ lời với cô gái cùng lớp và sau hai tháng, họ cưới vào dịp nghỉ hè, để sắp sửa ra trường.

Đêm tân hôn của Thành, Thảo chong ngọn đèn dầu trên giường nhỏ, không dám bật điện, sợ làm mấy cô gái cùng phòng khó ngủ. Từ khi Thảo nhận được những lá thư vào thứ bảy, các cô gái đã lần lần xa lánh cô. Họ coi Thảo như một ổ dịch.

Thảo tẩn mẩn giở những lá thư ra đếm... Có mười sáu lá tất cả. Cả mười sáu lá đều chưa hề bóc... Bốn tháng trôi qua. Đã bốn tháng, cô bị cả khoa chê trách dè bỉu về tội phụ tình. Mà phụ ai chứ! Nỡ phụ bạc một chàng trai đẹp và chung thủy đến thế!... Thảo tần ngần bóc lá thư đầu tiên.

Thảo nghĩ đến Thành. Chắc giờ đây, lòng thành thản và ngập tràn hạnh phúc, anh đang mê đắm trong vòng tay người vợ mới cưới. Ngày ở Rừng Cười cô đã khao khát đến cháy lòng ngày ấy! Cái ngày ấy là một trong những đốm lửa sáng nhất giục giã cô cố nhoài ra khỏi cuộc sống hoang dã chốn rừng sâu.

Cái ngày ấy...! Thảo thấy ngọn đèn dầu nhoè dần, và đung đưa trước mắt cô một quả cà chua chín đỏ lịm hình trái tim chập chờn, chập chờn. Thảo đưa tay bắt, hình như nước cà chua vỡ ra, chạy dọc theo cánh tay và tận ngực. Thứ nước đỏ nhờn nhợt như máu loãng. Không hiểu sao cô thấy buồn buồn ở nách như bị ai cù, cô bật lên tiếng cười. Trong một trạng thái gần như vô thức, Thảo vung tay, mười sáu phong thư dày cộp vung vãi khắp giường.

Đang ngủ, cô gái nằm cạnh Thảo bỗng mơ thấy ma cười khanh khách. Cô choàng tỉnh, tự giật giật tóc, vẫn nghe tiếng cười và nhìn thấy bóng đèn dầu chập chờn trên tường. Cô sợ hãi chồm dậy, thấy Thảo đang vừa cười vừa khóc. Cả mười một cô gái trong phòng tỉnh dậy. Họ cho rằng Thảo bị điên. "Esteris đó mà" một cô ra vẻ thành thạo giải thích. Họ xúm lại đưa Thảo xuống trạm xá cấp cứu. Thảo không đi "tôi không điên". Các cô gái càng sợ. Người giữ chân kẻ giữ tay, lại có các bạn trai giúp sức, họ cõng Thảo xuống trạm xá. Ở đó, người ta ép thảo uống những viên gácđênan màu trắng. Cả ký túc xã huyên náo cả lên, đến lúc Thảo thiu thiu ngủ mới thôi.

Mười một cô gái trở về phòng. Họ định thu dọn vài thứ lặt vặt mang lên trạm xá cho Thảo thì thấy những bì thư nằm vung vãi trên giường. Họ tìm được một phong bì thư đã bóc chỉ thấy vỏn vẻn mấy dòng:

"Từ nay, tôi sẽ viết cho tôi, vào mỗi tối thứ năm, để ngày mai, đạp xe ra bưu điện Ngã Tư Sở bỏ thư và rồi chính tôi lại nhận được nó vào mỗi chiều thứ bảy.

Vô duyên quá! Nhưng không thế, Thành sẽ không yên tâm rời bỏ tôi. Thắm ơi! Em là người sót lại của Rừng Cười, nhưng hạnh phúc chẳng sót lại nơi em!

Thắm và các đồng đội của em! Cứ yên nghỉ ở Rừng Cười! Em không làm cho vong hồn con gái của các chị phải tủi hổ. Em cũng sẽ khiến cho Thành mãi mãi vẫn là chàng hoàng từ hào hiệp của chúng ta".

Các cô gái khoa Văn vốn nhạy cảm, lờ mờ đoán ra sự việc. Họ khóc khi nhớ lại những tháng qua, họ đã xa lánh và dè bỉu chị Thảo đến thế nào. Trời vừa chợt sáng, họ đã chạy lên gác xép - phòng hạnh phúc của Thành ở tầng trên, báo cho Thành biết.

Nghe tiếng gọi cửa, Thành hơi bực mình, càu nhàu ra mở. Các cô gái không nói gì, dắt tay anh đến bên chiếc giường ngổn ngang mười sáu phong thư. Thành đọc lá thư đầu tiên, rồi lập cập bóc tất cả. Hai phần ba số thư chỉ toàn là giấy trắng. Thành choáng váng như người bước hụt.

Thành tức tốc chạy xuống trạm xá, nhưng Thảo đã đi rồi. Cửa phòng bệnh khép hở. Chiếc giường trải ga trắng in vết lõm thân hình bé nhỏ của Thảo nằm đêm qua, khi cô bị ép uống những viên thuốc an thần màu trắng, khi mọi người yên trí cô đã hóa điên, và nhìn cô bằng ánh mắt chế giễu, lúc đó anh đang tận hưởng thú vui của đêm tân hôn với một cô gái khác.

Thành bước ra hành lang, bước xuống đường. Gió bấc từng cơn thổi lạnh. Lá báng súng vàng vung đầy trời tơ tả như đàn bướm bị bão. Anh vừa đi vừa nhìn thấy chao qua chao lại trước mắt mình người con gái đã bị cuộc đời nghiệt ngã tước đi sạch trơn đêm đêm ngồi viết thư tự gửi mình trước ngọn đèn dầu đỏ quạch. Anh chợt nghĩ đến huyền thoại về loài yến huyết ngoài biển khơi đã nhả từng hạt máu để dệt nên chiếc tổ màu hồng quý giá. Rồi khi sức tàn lực kiệt, chim yến bay vút lên không trung, lao mình vào vách đá nhọn hoắt cho ngực vỡ nát.

Đôi chân lang thang dẫn Thành về bến tàu quen thuộc. Ở đây, đã nhiều lần, bằng những đồng học bổng ít ỏi, anh mua tặng Thảo những quả mận chín đỏ đầy nước chua và chát. Thế mà Thảo đã ăn nó một cách nhiệt thành, cố không nhăn mặt, để cho anh yên lòng đến thế.

Thành hỏi bà bán mận đang ngủ gật, tì cái mũi vào lòng bàn tay để ngủ :

- Bà ơi! Bà có thấy cô gái hay mặc bộ quần áo bộ độ cũ đi qua đây không?

Bà bán mận chợt tỉnh. Bà véo véo mũi cho qua cơn buồn ngủ :

- Không, ờ mà có. Cái cô ngày xưa hay qua đây ăn mận cùng anh chứ gì? Cô ấy xuôi tàu rồi!

Thành cũng xuôi tàu, Thành đi tìm Thảo tận quê, tìm khắp nơi, mà không thấy. Anh về sống với người vợ mới cưới, rồi nhận công tác ở ngay Hà Nội. Cuộc sống trôi đều đều. Nhưng trong óc anh vẫn chớp chới đôi cánh bé nhỏ của loài yến huyết.

* * * * *

Năm năm sau, hội trường Tổng Hợp. Những cựu sinh viên từ các miền về đây. Họ tìm về một thời lãng mạn.

Trong bữa tiệc của các cựu sinh viên khoa Ngữ Văn, Thành chọn một góc ngồi cạnh cửa sổ, mặc dù trời đang lạnh.

Biết đâu, sẽ có phép lạ, và Thảo của anh sẽ bất ngờ xuất hiện. Nếu phép lạ đến, cô sẽ hiện ra trước mặt anh với hình dáng ra sao đây? Với một thân hình tàn tạ bơ phờ, mắt mộng du tay cầm cành liễu? Hay bộ quần áo nâu sồng, tay chắp trước ngực: "A di đà Phật"? Hay một bà chủ sang trọng, tay đầy xuyến và nhẫn? Hay một phóng viên đầy tài năng từ Sài Gòn vừa bay ra?

Bữa tiệc ồn ào, huyên náo. Gió qua lại như tiếng chân chạy. Thành vẫn đăm đắm ngóng ra cổng trường. "Rừng Cười ơi! Đã no nê máu và nước mắt, lẽ nào ngươi cướp nốt của ta con chim yến nhỏ nhoi!".

HẾT

Người gánh nước thuê

Chẳng ai biết lai lịch của bà, chỉ biết tên bà là Diễm. Diễm là đẹp, là diễm lệ. Ngoài vẻ đẹp, còn mang vẻ sang. Có ai gọi một củ khoai là diễm lệ đâu. Hẳn bố mẹ xưa đặt tên cho con cũng thầm ao ước sao cho con vừa đẹp lại vừa khỏi lầm than. Nhưng trông bà cả một sự nhạo báng cái mong ước đó.

Dáng người bà Diễm bé loắt choắt, bộ mặt nhăn nheo, gầy sạm chỉ còn hai con mắt. Bà vừa đi vừa lắc lư cái lưng còng. Chiếc đòn gánh không bao giờ rời khỏi đôi vai còm cõi của bà. Nó bám chặt lấy bà như một thứ nghiệp chướng. Chiếc đòn gánh của bà cũng thật đặc biệt. Nó nhẵn bóng. Ngay cả những vết sẹo cũng đã nhẵn bóng và cũng khó đoán tuổi như chủ nhân của nó vậy. Nó đã tồn tại cùng bà không biết tự bao giờ. Nó được đẽo gọt từ một thân tre cong hằn dấu vết của những cơn gió táp và ra đời chỉ để đón đợi đôi vai còm cõi của bà Diễm mà thôi. Nó và chủ nhân của nó hợp thành một chỉnh thể của sự bất hạnh, hợp thành biểu tượng của một thân cây vừa mới ra đời đã bị gió mưa vùi dập. Cuối hai đầu đòn gánh là đôi thùng đầy nước lắc lư theo những bước chân không đều của bà Diễm và để lại những vệt nước rỏ ròng ròng như suối nước mắt cạnh đường đi. Những lúc đôi vai được rảnh rang, đôi môi bà lại lẩm nhẩm những câu không đầu không cuối. Bà đi và nói như người lẩn thẩn, nhưng những cử chỉ của bà vẫn chính xác một cách kỳ lạ. Đến máy nước bao giờ bà cũng đi sát mép đường bên phải và lặng lẽ đợi đến lượt mình, không xin xỏ, không tranh giành.

Những nhà có máu mặt trong khu này thuê bà gánh nước. Họ chẳng ưa gì bà. Họ săm soi xem thùng nước bà gánh về có trong không. Có đáng đồng tiền của họ bỏ ra không. Có người nghi ngờ, bắt bà tháo cả bể nước đầy ra gánh lại, lấy cớ là bà đã lấy nước bẩn vào bể của họ. Cũng có những người trả tiền sòng phẳng, hậu hĩ là khác nhưng họ đưa tiền cho bà rồi vội quay đi như chỉ sợ dềnh dàng bà nhỡ mồm bắt chuyện thì mất cả thì giờ và mất cả thể diện nữa. Con người ta thường hay chối bỏ quá khứ, nếu quá khứ đó là không vẻ vang. Người đời nay coi nó là bệnh "sĩ". Nếu như những năm sáu mươi của thế kỷ này người ta cố chứng minh rằng gốc gác của mình là bần cố nông thì trong những năm tám mươi người ta lại cố khoe rằng nhà mình giàu có ra sao, bịa cả những chuyện đài các rởm không biết ngượng mồm. Thôi thì cũng chẳng trách họ, âu cũng là do cách nhìn người của thời đại mà ra. Những bộ mặt đần độn trát bự son phấn vênh váo, đầy kiêu hãnh giả tạo. Và trong cơn mơ đài các sang giàu của họ, bà Diễm chỉ là một kẻ làm thuê, một người gánh nước cho nhà họ. Một thời, chúng ta đã ghê tởm những từ "con ở", "đầy tớ", "gái điếm"... Nhưng giờ đây, những từ đó đã và đang lặng lẽ trở về nhắc nhở người ta rằng, chúng có mặt trên đời này.

Vậy là bà Diễm hệt như con gà trụi lông giữa đàn công sặc sỡ. Nhưng bà gắn bó với họ, đúng hơn là với bể nước nhà họ, vì chỉ có họ mới đủ sức thuê bà gánh nước. Còn đa số "người nhà nước" trong khu này chẳng ai đủ tiền để mà thuê, dù muốn giúp bà. Cơm ăn chẳng đủ, lấy đâu ra tiền mà thuê gánh nước. Đành phải xếp hàng dài dằng dặc, hoặc thức đến hai ba giờ sáng để lấy mấy thùng nước.

Với đôi thùng gánh nước, cứ thế, bà Diễm đi trong đời như kẻ mộng du và rồi có lẽ với cung cách mộng du ấy bà sẽ lặng lẽ đi xuống mồ, như một hạt bụi tan biến vào không gian chẳng để lại một mảy may dấu vết.

Nhưng có một sự kiện khuấy động mảnh đời âm thầm ấy. Đó là sự xuất hiện của ông Tiếu. Thực ra những người gánh nước thuê không nhiều ở thời nay. Nhưng sự xuất hiện của ông Tiếu gắn liền với việc mở rộng con đường quốc lộ thành đường hai chiều. Ga mới mở. Những khu nhà cao tầng mọc lên như nấm và người đi lại nườm nượp trên con đường ấy. Hàng xa xỉ phẩm, hàng bán đồ ăn đồ nhậu mọc lên nhanh và nhiều vô kể. Và cần thêm người gánh nước thuê.

Từ đó cạnh máy nước, đôi khi bên bà Diễm có một người đàn ông chống đòn gánh đứng chờ thùng nước đầy dần. Hiếm có một khuôn mặt khắc khổ đến thế. Có đến ngàn vạn nếp nhăn trên khuôn mặt đó. Đôi mắt biểu lộ một nỗi đau khổ bất thường như đã đông cứng. Còn cái miệng thì trớ trêu làm sao, luôn mỉm một nụ cười bất biến, như nó được tạo ra trên khuôn mặt ấy từ lúc mới sinh ra và cứ phải giữ vậy cho đến lúc chết. Nụ cười ấy giữa khuôn mặt ấy, thật là một nghịch lý, như là đang khóc với một nỗi đau xé ruột, mà có một kẻ tàn ác nào đó cứ nhất định cù vào nách cho ta phải cười rũ ra mới thôi.

Việc hai con người khốn khổ đó bên nhau, cạnh máy nước làm bọn trẻ trai ngỗ ngược ở đây vô cùng khoái chí. Chúng gọi ông Tiếu là "bồ bà Diễm". Người lớn lúc đầu còn mắng, sau nghe quen cười xòa vì thấy cũng ngồ ngộ, và người ta không gọi ông Tiếu bằng tên nữa, chỉ gọi ông Tiếu là "bồ bà Diễm".

Thực tình hai con người cô đơn đó cũng thật may mắn khi họ bỗng nhiên có mặt bên nhau, với những thùng nước trĩu nặng trên vai. Cũng có những lúc ông Tiếu nhấc hộ bà Diễm hai thùng nước đầy ra rồi đặt một khoảng cách vừa tầm để bà Diễm chỉ cần móc xích vào gánh. Trong chiếc túi áo rách của ông Tiếu luôn có những hạt lạc rang cháy khét. Thỉnh thoảng ông dúi cho bọn trẻ con và cho bà Diễm. Bọn trẻ con không ăn, còn bà Diễm thì nhận lấy và nhẫn nại nhấm nháp những hạt lạc đen nhờ nhờ, đăng đắng, tỏ vẻ cảm kích lắm.

Một lần bà Diễm bị trượt chân ngã trẹo đầu gối, ông Tiếu vội dìu bà về túp lều của bà rồi lo cơm cháo thuốc thang. Thuốc chỉ có nắm lá láng hơ nóng, chườm bóp. Cơm sang lắm cũng chỉ miếng đậu luộc chấm mắm tôm.

Bà Diễm rưng rưng: "Vậy chứ nhà ông ở đâu?" Vẫn với nụ cười muôn thuở, ông Tiếu đáp: "Ở góc chợ Cầu Giấy". "Vậy chứ lúc mưa gió ông làm sao?" "Thì nép dưới hiên của nhà nào đó cho qua".

Bà Diễm khóc ròng: "Thôi, ông về đây mà ở cùng tôi. Tôi và ông cũng sắp xuống lỗ rồi, chắc chẳng ai dị nghị gì đâu. Ông ơi, hai cái cây đã bị đánh bật hết rễ, biết tựa vào nhau để đỡ đần thì sẽ lâu đổ hơn".

Ông Tiếu nhìn xuống đầu ngón chân của mình, không nói gì, nhưng lần đầu tiên nụ cười hóa đá của ông biến mất. Rồi từ đó trong túp lều bên bờ ao, có hai bóng già lọ mọ sớm hôm. Bà Diễm cũng bớt lẩm nhẩm một mình.

Nhưng một hôm ông Tiếu phải trở về góc chợ cũ để tìm mấy cái quần áo rách và cái chăn cũ nát. Gió thu đã se sắt lạnh bên bờ ao. "Làng" của ông Tiếu, đó là góc chợ với đám người rách rưới lam lũ, lang thang không nhà do nhiều hoàn cảnh xui khiến nên. Họ bắc những viên gạch vỡ làm bếp, và lấy những mảnh báo cũ và ni lông rách treo lên làm buồng. Lâu không thấy ông, họ xúm lại hỏi ông đi đâu, ở đâu? Ông ấp úng. Họ càng trêu già, vì biết ông đang ở trong túp lều của bà Diễm. Một thằng lỏi con kiếm đâu ra cây gậy, lấy dây chuối buộc hai viên gạch vào hai đầu vờ làm thùng gánh nước rồi nhăn nhó, còng lưng làm bộ bà Diễm đang gánh nước cạnh ông Tiếu. Cả đám ré lên cười như hóa dại. Những người đi chợ thấy ồn ã cũng đứng lại xem. Được thể, chúng càng làm nhiều trò, diễn cảnh ông Tiếu chân thấp chân cao khoác tay bà Diễm đi chơi công viên. Mọi người tha hồ đắc chí. Chả mấy phen được bữa cười vỡ bụng như hôm nay. Rồi họ sẽ trở thành người kể chuyện có duyên nhất trần đời khi kể lại cho người khác nghe chuyện này. Chỉ có ông Tiếu là đứng lặng phắc không nói được câu nào. Lát sau, vứt lăn lóc bọc quần áo rách, ông lùi lũi trở về túp lều cạnh bờ ao của bà Diễm. Qua dãy nhà gánh nước thuê, vài đứa trẻ lêu lỏng thấy ông đã reo lên :

- A bồ bà Diễm. Đẹp đôi như Chí Phèo và Thị Nở ấy chúng mày ơi.

Về đến lều, ông nằm vật ra giường, không ăn uống. Hôm sau ông lên cơn sốt. Bà Diễm hết lòng săn sóc thuốc thang nhưng vô ích. Lúc sắp trút hơi thở cuối cùng, ông gọi bà đến bên, lần tay vào mụn vá lớn sát ngực lấy ra một tấm ảnh đã ố vàng và một trăm đồng bạc gói kỹ tự bao giờ trong túi ni lông. Trong ảnh là một bé gái tóc tơ xấp xõa, đôi mắt tròn đen mở to ngây thơ. Ông Tiếu thều thào :

- Con tôi đấy bà ạ... Nó bị mất tích trong một trận bom. Người ta bảo nó đã chết cùng với mẹ nó. Nếu thế tại sao chỉ tìm thấy xác mẹ nó thôi. Tôi tin nó vẫn còn sống, có thể nó lưu lạc ở phương nào. Lê con ơi...

Từ đôi mắt mờ đục của ông, hai giọt nước như được gạn từ đáy mắt, như những giọt thủy ngân khó nhọc lăn ra. Ông nức lên, nói đứt quãng :

- Bà ơi, nếu... có... một ngày... nào... đó bà thấy có một người con gái... trạc hai mươi... mà giống con... bé trong ảnh này... bà nhớ gọi lại hỏi gốc gác... xem có phải bố nó là ông Tuyền ở xóm Đoài, xã Hoài Ân... không nhé. Và nếu phải... bà nói rằng bố nó vẫn chờ nó... cho đến chết... bà đưa cho nó một trăm đồng... bạc này...

Rồi ông thở hắt ra. Nụ cười oan nghiệt vĩnh viễn tắt trên đôi môi ông.

Bà Diễm ngồi lặng câm nhìn tấm ảnh và một trăm đồng bạc côi cút. Trăm bạc này, chắc ông đã ki cóp từ lâu lắm, khi nó còn mua được nửa chỉ vàng. Ốm đau đói rét bao phen, cũng không bao giờ dám đụng đến, để cho đến bây giờ, một trăm đồng bạc của ông dành cho con cũng chỉ đủ để mua một mớ rau muống...

Rồi mộ ông Tiếu cỏ xanh phủ dần, đám cỏ đuôi gà bò lan cả ra mặt đất bằng. Thỉnh thoảng bà Diễm thắp vài nén hương cho ông, lần nào bà cũng thầm thì khấn:

- Ông Tiếu ơi, tôi vẫn để ý tìm con cho ông mà đâu thấy. Tôi tìm cả khi chờ thùng nước đầy, cả khi đang gánh nước, ngày này qua ngày khác. Ờ, nếu nó còn sống thì tôi cũng chẳng còn mấy thời giờ nữa để làm việc đó cho ông. Tôi cũng sắp theo ông về với đất rồi đây. Nhưng mãi đến tận lúc này, tôi vẫn tin có thể chốc nữa, có thể tối nay, ngày mai, con bé đến và hỏi, giọng nó trong veo: "Có phải ông Tuyền cha cháu ở đây không?...".

Người ta bảo nhau rằng, dạo này bà Diễm càng dở hơi tệ, bởi vì ngoài cái tật cứ nói lẩm bẩm một mình, trong tay bà không bao giờ rời cái gói nhỏ bọc vải nhựa đã cũ mèm, chẳng khác mụ phù thủy đang giữ chặt bùa phép duy nhất giúp cho bà còn sống trên đời này. Có ai biết rằng cái bùa phép đó là tấm ảnh một bé gái đã ố vàng và một trăm đồng bạc cũ. Đằng sau tấm ảnh, một dòng chữ mới viết xiên xẹo đầy lỗi chính tả: "Đây nà cháu Nê, con ông Tuyền ở xóm Đoài, xã Hoài Ân... một trăm đồng bạc lày nà của cháu!".

HẾT

Nghiệt kiếp

Cứ chạng vạng, khi bóng tối đổ sẫm màu một góc rừng U Minh, những tia nắng rụng góc trời cháy rực. Khi đàn muỗi bắt đầu cất mình lên như đám mây nặng trĩu những giọt sương máu từ đầm lầy. Khi đàn quạ khạc ra tiếng khàn đặc rên rẩm trên những chạc cây bị sét đánh cụt ngọn. Đó là lúc người đi rừng chậm chân bắt đầu nghe từng tràng tiếng hú ghê rợn.

Không rõ cất lên từ đâu. Loạt tiếng hú làm nổi gai lưng này. Chúng rên từng hồi đứt đoạn. Luồn như rắn dưới những tàn lá rậm rịt. Dán mình trườn trên mặt bùn nhão sệt nham hiểm của đầm lầy rồi trôi dạt trong bầu không khí u uẩn bốc lên từ những xác cây mục, đe nẹt ngay cả những kẻ làm nghề sơn tràng táo gan nhất.

Dân quanh vùng chỉ dám kiếm ăn von ven ngoài bìa rừng, ruột cứ cuộn lên nỗi thòm thèm tiếc của. Đời ông đời cha họ truyền lại, ở trong sâu kia, có vô khối chim thú lạ mà chỉ cần bắt được một con cũng đủ để sung sướng cả đời. Chưa kể đến bao nhiêu trầm, kỳ nam đang lặng lẽ tỏa mùi thơm trong những thân cây huyền hoặc. Nhưng có thèm khát đến mấy, dân sơn tràng cũng chỉ dừng lại ở những lời than tiếc nắc nỏm. Đã không ít kẻ bạo gan chẳng chịu nổi sự cám dỗ, liều mạng dấn sâu vào đầm lầy, đặt chân lên lớp bùn mịn và lập tức cái lớp bùn gian manh kia sụt xuống nuốt từ chân đến bụng rồi đầu kẻ xấu số. Tiếng kêu cứu của người sắp chết chỉ còn ằng ặc sủi bọt trong cái đầm lầy không đáy trước khi mất dạng.

Và cứ kéo nhằng nhẵng theo những buổi chiều ngằn ngặt tiếng hú là đoàn người lê thê lết đi không một tiếng động trong sương mờ. Đoàn người không rõ hình hài, được xâu thành chuỗi qua lòng bàn tay bằng một sợi thép gai rỉ bê bết máu khô lẫn máu tươi. Nhìn kỹ, chuỗi người bị xâu đều thiếu gan bàn tay, gan bàn chân. Thiếu tai. Máu đổ ri rỉ chảy dọc lối họ qua. Những bàn tay chìa ra phía trước, rên xiết đòi lại thứ mà họ đã bị cắt, bị chặt, bị xẻo. Cuộc diễu hành rùng rợn kéo cho đến khi mặt trời khuất hẳn sau rừng cây. Thì những tiếng rú ghê rợn cũng dứt. Không gian gần như bình yên,cho đến lúc gà gáy canh tư.

Khi tiếng gà đầu tiên vừa cất lên, cuộc diễu hành lại tiếp tục theo hướng ngược lại. Đoàn người trở về. Họ dong theo đoàn một gã to con, mặt trắng bệch với nụ cười gằn ẩn sau khuôn miệng đỏ bầm lượn cong cong như miệng đàn bà. Hai chân hắn bị xiềng. Tiếng xiềng khua xủng xoẻng như kẻng báo giờ chết. Hai tay hắn đỡ một chiếc mâm khổng lồ đầy ụ thức ăn đã chế biến và được bầy biện rất tinh tế, khiến chúng đẹp rực rỡ như một chiếc lẵng lớn đầy hoa lá. Nhìn kỹ, đó là món nộm tai người và món hầm gan bàn tay, gan bàn chân người, dù chúng đã được cắt tỉa, nhuộm màu với một nghệ thuật sành sỏi. Gã to con chìa cái mâm ra trước mặt đoàn người: "Này là chân, là tay, là tai các người. Nhặt lấy!". Đoàn người xúm lại, chen chúc, vừa rên rẩm vừa rạp xuống, lẩy bẩy lục lọi. Cố tìm ra đâu là tai, đâu là gan bàn chân bàn tay họ đã bị thái nát ra, tẩm ướt mắm muối mỡ đường, nhuộm màu sặc sỡ dưới hình hài những mỹ vị. Sau một hồi tìm kiếm, đoàn người rú lên tuyệt vọng, xô lại túm lấy gã quật xuống đất. Gã chẳng hề hấn gì, nhăn nhở cười với đôi môi bầm đỏ máu thêm nhành rộng trên khuôn mặt trắng bệch.

Một ngày của đặc khu Thủy Yến được bắt đầu và kết thúc như vậy. Tiếng súng đạn của những trận kịch chiến qua đã ba mươi năm, nhưng những cuộc diễu hành thì chưa ngơi lấy một ngày.

* * * * *

Con hổ mang bành dữ dằn gồng mình quấn xoắn lấy cánh tay trần mảnh mai rám nâu của vợ Ba Xà. Cái đuôi chơm chởm vảy sừng của nó chọc lên tận cổ chị muốn đâm thủng da thịt. Con rắn rút sống lưng dồn vảy dựng đứng định bẻ gẫy cánh tay. Cái giống vật mốc xì và nồng nặc mùi hôi đầm lầy này lớn cỡ cổ chân, dài gần sải tay. Cổ bạnh ra phun phì phì. Đôi mắt độc địa chằm chằm nhìn,snh sáng rờn rợnnhòng thôi miên người đàn bà nhỏ thó mồ hôi chảy thành dòng ướt đẫm mặt.

Vợ Ba Xà không ngán. Dù sao thì ông chồng chị cũng đã nổi tiếng là người bắt rắn giỏi nhất vùng. Nhà lại sẵn môn thuốc gia truyền chữa rắn cắn thần diệu sống để dạ chết mang đi. Vợ Ba Xà bặm môi. Ngón tay cái và ngón trỏ thoăn thoắt lừa miếng thít chặt lấy mang, sát cái miệng đang há ra đỏ lòm của con rắn, khiến nó không có cách gì cắn được và phải nhả nọc độc vào một chiếc lọ nhỏ. Rồi tay trái chị nhúng vào một thứ nước ngải có mùi thơm ngai ngái,vuốt hờ trên đầu rắn. Lập tức con hổ mang bành trở nên ngoan ngoãn, nới lỏng vòng quấn. Vợ Ba Xà thảnh thơi cho nó tuồn vào một chiếc lồng sắt ken dày và cài chặt then lại. Chị cất chiếc bình chứa nọc vào một thùng xốp lớn đựng đầy nước đá. Khi chị trút bỏ quần áo xuống sông tắm, lằn lưng con rắn vẫn hằn đỏ cánh tay.

Nước phù sa ưng ửng màu vỏ trứng gà ve vuốt bộ ngực nở vồng vì căng sữa và cặp mông cũng màu vỏ trứng gà rắn chắc của chị. Mặt sông mênh mang lấp lóa nắng. Gió lay lá cây đọng mỡ phù sa long lanh ngọc bích. Nắng soi rõ cái xóm chỉ có bốn căn nhà lẻ loi bên bìa rừng đang đổ bóng nhỏ xíu xuống vệ sông. Tiếng gà gáy trưa loang dài cũng vàng rười rượi. Vợ Ba Xà khỏa nước, mỉm cười. Ba Xà người chắc như cây lim, bắt được nhiều rắn nhất xóm. Thằng Rồng đã đầy tuổi thôi nôi, hay ăn chóng lớn. Ghe của cái ông bụng phệ cứ đến đúng hẹn lấy nọc rắn. Nhà chị có bộn tiền mua dưa mắm.

Bóng cây trứng cá đổ dài trên mặt sông, nghiêng xuống bờ vai lấp lánh nước của vợ Ba Xà một vệt đen mờ. Vợ Ba Xà hối hả vơ vội chiếc áo, chạy tấp vào nhà. Trên bộ ván ngựa, thằng Rồng đang giơ cả bốn chân lên trời khóc. Thằng bé có đôi mắt nâu hình lá trâm bầu của mẹ, đường viền môi rõ nét như cánh cung của cha. Không chỉ vợ chồng Ba Xà, mà cả xóm đều cưng thằng bé hết cỡ. Người mẹ vội ấn vú vào miệng con. Vừa kịp ngẩng đầu lên đã thấy có bóng người đổ tối sầm trước cửa. Chị há miệng kêu không ra tiếng.

Ba Xà không về một mình. Nằm thượt trên lưng anh, trông như đã chết là một người tóc tai râu ria lòng thòng, mặt sưng phù bầm tím, chân dài quết đất. Ba Xà thở hồng hộc, nặng nhọc bước qua bậc cửa, ghé vai đặt cái gã trên lưng xuống bộ ván ngựa duy nhất trong nhà, rối rít gọi vợ :

- Để thằng Rồng đó! Mở khạp lấy cho tui chai thuốc chữa rắn cắn. Cầu may. Thằng này bị rắn lục cắn. Không chắc sống...!

Vợ Ba Xà lập cập giằng đầu vú ra khỏi miệng con, đặt nó nằm chỏng chơ trên bộ ván, cạnh cái gã trông như quỷ xồm đang bất tỉnh kia, hối hả đi lấy thuốc. Trong lòng chị có những cảm giác trái ngược. Vừa muốn giúp người gặp nạn. Vừa lo sợ. Cái thứ thuốc bí truyền này, chỉ có những nhà mà tổ tiên làm nghề bắt rắn nhiều đời, từng bị rắn cắn chết đi sống lại nhiều lần, trong gia tộc đã có người nộp mạng cho thần Rắn mới có được. Lúc sắp chết, người giữ bí truyền mới vẫy đứa con tin cậy nhất đến, thều thào trăng trối vào tai, mà không bao giờ quên dặn một câu rằng thuốc này chỉ truyền chữa cho người nhà. Nếu chữa ra ngoài, thần Rắn sẽ bắt đổi mạng.... Vợ Ba Xà cầm lọ thuốc, ngần ngừ không muốn đưa.

Biết ý vợ, Ba Xà mắng át :

- Chần chờ gì nữa! Mặc người ta chết à? Đưa đây! Lạy thần Rắn tha tội. Ba Xà này không thể thấy người sắp chết mà không cứu.

Ba nhà hàng xóm nghe rộn rạo cũng đổ sang. Người lấy đũa cậy răng đổ thuốc. Nhìn Ba Xà cầm lưỡi lam rạch chỗ vết cắn ghé miệng hút nọc, ông Bẩy Trăn thất kinh:

- Liều mạng vậy, Ba Xà! Coi chừng mầy chết thay nó, nếu mồm hoặc lưỡi mầy bị chảy máu đó nghe....!

Vật lộn toát mồ hôi một hồi. Khi mọi người đã bải hoải cả chân tay, tính đi kiếm bộ ván chôn người xấu số, thì gương mặt tím bầm của kẻ bị nạn bỗng thoáng chút sinh khí. Gã thở dài, từ từ mở mắt ngơ ngác nhìn quanh, rồi kêu lên yếu ớt, nghe không giống tiếng người. Thế mà tiếng kêu đó được phát ra từ một lồng ngực đang rất phổng phao của một gã trai áng chừng chưa qua ba mươi tuổi. Cái miệng rất đẹp, hàm răng chắc khoẻ sáng lòa ló dạng giữa đám râu ria rậm rịt rối bù như dây rừng. Từ đôi mắt đen, sâu, hoang dại nhưng hiền như mắt bò con của gã ứa ra những giọt nước.

Nắng tắt hẳn. Xa xa vọng ngàn ngạt những tiếng hú từ rừng sâu.

* * * * *

Ba năm sau Cái gã đó, giờ đây mang tên Pạng, đã coi Ba Xà như cha và ở hẳn trong nhà anh. Sở dĩ gã mang tên Pạng, vì cách đây ba năm, khi vợ Ba Xà đổ cháo vào mồm hắn, ra hiệu hỏi nhà đâu, hắn giơ ngón trỏ và ngón tay cái lên làm thành hình quả trứng, ý là "không". Khi hỏi tên, gã đập tay bồm bộp vào ngực, kêu "Pạng pạng...". Khi vừa đứng lên đi lại được, gã quỳ sụp xuống trước mặt Ba Xà, lạy như tế sao, gọi anh là "pạ pạ" - nghĩa là bố, gọi vợ Ba Xà là "chị", và thằng Rồng là "em", rồi xin ở lại nhà. Gã theo Ba Xà đi bắt rắn, nay đã thành thạo. Nhưng Ba Xà nể hơn nhiều khi nhìn gã vồ chuột. Chỉ đôi bàn tay không, hễ trông thấy chuột là hắn đổi khác, vươn mình dẻo như một con vượn, lẹ làng khác thường. Những con chuột rừng thân dài, thịt không béo mà rắn chắc, lọt vào nằm gọn trong tay gã như có phép dính. Những khi cầm con chuột giẫy giụa trong tay, đôi mắt bò non của gã bỗng sần lên những tia khoái trá. Từ ngày có gã, nhà Ba Xà lúcc nào cũng sung túc chuột, nhím, vui lên vì thỉnh thoảng hắn đã có thể nói dăm câu và cười. Vợ Ba Xà thì dạy hắn đọc và viết. Khi chiếc tivi chạy bằng máy nổ phát ra chương trình ca nhạc, hắn khẽ nhún nhẩy và ê a hát theo như trẻ con. Hắn cung kính với Ba Xà như cha đẻ. Thường cho thằng Rồng quà là những con chuột nướng to bằng bắp tay. Khi rừng ngập, khan hiếm thức ăn, hắn nhịn phần ăn của mình cho thằng Rồng. Nhưng cả xóm đều thấy lạ là không bao giờ hắn chịu bế thằng bé. Hễ thằng bé đến gần là hắn bối rối lảng đi, mà con mắt vẫn vụng trộm ngoái lại. Nghĩ rằng hắn thèm bế thằng bé mà không dám, có lần vợ Ba Xà đặt thằng Rồng vào tay hắn, hắn lắc đầu quầy quậy và lảng ngay ra xa. Đôi khi, vợ Ba Xà bắt gặp hắn ngồi xổm ở góc vườn, nhìn thằng Rồng đang chạy chơi như nhìn một con chuột lạ.

Hăm hai tháng chạp. Xóm bốn nhà rình rang giã gạo làm bánh đón Tết.

Hai tay xách nặng. Lỉnh kỉnh những bánh trái, gạo thịt, quần áo mới, Ba Xà cột ghe, hăm hở bước lên bờ. Đáp xuống chợ tỉnh từ chiều qua để sắm Tết giờ mới về đến nhà, chưa chi Ba Xà đã nhớ con. Anh nghĩ đến gương mặt tươi rói của vợ, nụ cười toét miệng của thằng Rồng khi trông thấy những thứ trên tay anh. Anh cũng mường tượng thấy khuôn mặt sáng lên của thằng Pạng - gã trai lầm lì nhưng chăm chỉ mà ba năm nay anh đã coi như đứa con nuôi dù tuổi nó kém anh chưa tới một giáp. Anh thương nó không cha mẹ, không biết gia đình ở đâu, khi hỏi đến chỉ biết lấy tay chỉ vào rừng. Quà anh mua cho nó kỳ này là một chiếc quần bò màu tím than.

Vừa dợm chân đặt lên ngõ, Ba Xà rởn người vì nghe thấy tiếng gào rú. Ba Xà quay ngoắt về phía có tiếng rú, thấy một đám đông đang xúm xít dưới gốc cây xoài lớn đầu xóm, ngửa cổ nhìn lên cây, vẻ mặt rất hoảng sợ. Ba Xà buông mấy thứ đồ mới sắm ngả ngớn trên mặt đất, chạy tới. Thì thấy vợ anh, mặt tái dại, miệng há ra nhưng không nói được, như người bị trúng gió cấm khẩu, đang quỳ, chắp hai tay vái cái gì đó ghê gớm lắm trên ngọn cây.

Ba Xà nhìn lên.

Cheo leo cao tít tắp trên cành chĩa lên trời, mềm oặt xuống như sắp gẫy vì sức nặng, là một thằng người cao lớn chân dài, cái miệng với hàm răng trắng ngậm dao bầu lấp lóa nhô ra trong nắng, nhìn từ dưới lên cao đã thấy chói mắt. Thằng người nhìn xuống đám đông vẻ vừa sợ sệt, vừa đe dọa, một tay hắn bám ngọn cây, một tay hắn giấu một vật gì đang động đậy, trông như một con gà trắng. Đôi mắt bò non trợn trừng lừ lừ hắt ra màu xanh như màu rắn lục.

"Thằng Pạn"! Ba Xà hét lên. Nghe tiếng hét, thằng người giật mình. Nhìn rõ đôi chân dài thượt của gã run lẩy bẩy. Gã lấm lét nhìn Ba Xà, co một chân lên. Lúc đó, Ba Xà mới nhìn rõ, thằng Pạng không ở trên cây một mình. Cái bọc động đậy đó, chính là thằng Rồng con anh. Thằng bé khóc không ra tiếng, giẫy giụa trong những ngón tay đen đúa quắp chặt như vuốt diều của thằng Pạng.

Hết hồn hết vía, Ba Xà lấp bấp vỗ vào gốc cây, rối rít gọi :

- Pạng, sao nghịch dại vậy! Đưa em xuống ngay! Chết cả hai bây giờ!

Pạng có vẻ phân vân. Trong tay hắn, thằng Rồng mở con mắt lờ đờ ngó xuống, bật lên một tiếng khóc, rồi tắt lịm. Pạng lom lom ngó xuống, canh chừng, hét lên với đám người :

- Thả tao đi. Nếu không, tao giết thằng Rồng!

Lúc đó, Ba Xà mới nhìn rõ, trên cổ gã đeo lòng thòng một cái tai người mà máu đã khô quánh đen bầm. Một mùi tanh nồng nặc bốc lên trong buổi trưa oi nồng khiến người ta nghĩ đến không khí của những bữa tiệc máu. Cả đám người lặng ngắt nín thở, nhìn thằng bé đung đưa mềm oặt trong móng vuốt thằng Pạng. Ông Bẩy Trăn run rẩy ghé vào Ba Xà:

- Tai bà Hai Rỗ đó. Thằng Pạng cắt khi bà đang ngủ. Nghe bà Hai rú, cả xóm rần rần đổ đến. Thằng Pạng mới cắp thằng Rồng leo lên cây. Nó nhe răng gớm ghiếc, như sắp ăn thịt thằng Rồng. Cả giờ nay rồi. Vợ mày té xỉu mấy lần mới hồi lại. Coi chừng đừng leo lên cây nghe, Ba Xà. Nó bóp chết thằng Rồng tức khắc đó. Dùng lời ngọt mà dỗ. Nó chỉ nể riêng mầy...

Chưa nghe dứt lời can của ông Bẩy Trăn, Ba Xà đã trèo lên cây. Vừa lên ba nấc đã nghe tiếng rít ghê rợn trên đầu. Con dao nhọn dùng để lột da rắn của nhà anh từ tay thằng Rồng sượt qua mang tai, cắm phập xuống đất, ngập tận cán. Từ tai Ba Xà, một dòng máu đỏ ri rỉ chảy dài. Ba Xà buông tay, rơi thịch xuống đất.

Vợ Ba Xà lao đến ôm chặt lấy chồng. Mắt chị lạc đi, con ngươi đảo lên :

- Thằng Pạng. Mày đang tâm giết cả pạ pạ mày sao?

Nghe hai tiếng "pạ pạ", thằng Pạng như sực tỉnh, ngó xuống. Hình như hắn nhận ra Ba Xà. Mắt đã bớt xanh lẹt. Nhưng bàn tay quắp thằng Rồng vẫn huơ lên hăm dọa trên đầu.

Ba Xà nén đau, cất tiếng dỗ dành :

- Con ơi! Con quên rồi sao? Ai đã cõng mày về từ trong rừng, cứu mày, nuôi mày như con? Thằng Rồng là em con đó, Pạng! Mày nỡ làm pạ pạ đau lòng sao? Mau mau xuống đây. Pạ không đánh, không mắng, cũng không cho ai đánh con đâu! Mày không xuống mau, thằng Rồng em mày chết mất.

Nghe những lời đó, cành cây đang đỡ thằng Pạng bỗng rung chuyển. Gã chuyền xuống một cành cây thấp hơn, ngó lom lom vào mặt thằng Rồng đang thoi thóp thở. Răng nhe sáng loá. Cái miệng dẹp phát ra những âm thanh nghe không giống tiếng người :

- Pạ ơi! Tôi đâu có định ăn thằng Rồng. Dù thịt trẻ nít thơm ngon lắm. Ba năm nay, ơn pạ cứu mạng, tôi đã cố nhịn....

Gã bỗng ôm mặt khóc, hú lên qua dòng nước mắt li ti rỏ xuống như những giọt nọc rắn :

- Pạ ơi! Sao bỗng dưng pạ lại bỏ đi. Tôi không thể làm người được nữa! Pạ cứ đi khỏi nhà là tôi thèm những bữa tiệc tai người. Từ nhỏ, tôi đã ăn như vậy. Ông chủ bảo tôi cách đi bắt người như bắt chuột rồi vác về đặc khu. Ông dạy tôi cách làm nộm tai người...

Ba Xà rùng mình, lạnh tận sống lưng. Anh nhớ lại những câu chuyện về đoàn người lũ lượt đi trong tiếng hú khóc trong đặc khu Thủy Yến, trong ánh vàng vọt của những tia nắng rụng, đi đòi lại tai và gan bàn chân bàn tay của mình đã bị xẻo trong những ngày chiến tranh. Mấy chục năm qua rồi cơ mà? Chiều chiều đi bắt rắn về muộn, Ba Xà vẫn nghe tiếng hú, nhưng cứ tự nhủ rằng không biết mình mơ hay tỉnh. Vậy, cái gã đang đung đưa mình trên cây kia, quắp chặt đứa con của anh trong tay, là người hay ma?

Ba Xà cố hết sức trấn tĩnh, lấy giọng ngọt ngào :

- Pạng này! Tỉnh lại đi con. Con không cha không mẹ. Con là con của ta. Ba măm nay con sống ở xóm này. Mọi người thương con mà. Xuống đây, ba đón. Nào! Nghe ba, đưa em con xuống trước rồi ba đỡ con xuống sau. Ta bảo đảm cho con mà!

Nước mắt Ba Xà rơi lã chã. Thằng Pạng dịu nét mặt. Mắt gã trở lại gần như mắt bò con. Gã nghi ngại nhìn mọi người đang đứng quanh Ba Xà, bàn tay quắp chặt thằng Rồng đã nới lỏng. Ba Xà biết ý, nói :

- Bà con về nhà giùm đi. Không việc gì đâu. Để thằng Pạng mang em nó xuống đây! Nào Pạng con. Ngoan lắm!

Anh mặt trời đã úa vàng chiếu qua kẽ lá xoài, hắt lên mặt thằng Rồng những tia vàng vọt. Pạng trừng trừng nhìn thằng Rồng. Rồi nó thẫn thờ lần xuống từng cành cây, thấp xuống tới mức Ba Xà cập rập đưa tay ra định bồng lấy con. Nhưng thằng Pạng lại dừng phắt. Nó riết chặt con mồi trong vòng tay, mắt nhìn trừng trừng, nước miếng chảy ròng ròng qua khóe mép. Họng nó nhẩy nhẩy, lên xuống bật ra những tiếng hực hực thèm khát. Ba Xà níu chặt gốc cây. "Pạ... Pạ..."... Tiếng nức nở của thằng Pạng. Như trong cơn mơ, cái thân thể bé bỏng của thằng Rồng chợt được Pạng buông xuống nằm gọn trong tay Ba Xà. Ba Xà muốn ngẹt thở, hối hả ấp mặt vào ngực thằng con.

Trên cây, thằng Pạng vẫn ngồi lặng. Nó nhìn chị Ba Xà ôm chặt thằng Rồng, bỏ chạy vào nhà, chốt chặt cửa. Nó nhìn thấy lũ người lúc nãy nghe Ba Xà tản vào nhà, bây giờ đang lấp ló chạy trở ra. Còn Ba Xà thì vẫn đứng dưới gốc cây, vẻ bồn chồn, như đợi hắn nhảy xuống. Pạng nhìn đôi tay chằng chịt sẹo của pạ pạ. Đôi tay này là hình ảnh đầu tiên hắn nhìn thấy sau khi tỉnh lại từ lần hút chết do rắn lục cắn. Một lần nữa, những giọt nước mắt li ti lại ứa ra trên đôi mắt hắn. Hắn bất giác mím miệng dợm chân bước xuống. Chỉ một nhành ngang nữa là tới tay pạ pạ.

Đúng lúc đó, tia nắng vàng vọt cuối cùng rớt xuống. Và, nghe rất rõ, một chuỗi tiếng hú ảo não vọng tới từ ruột rừng sâu.

Thằng người đang đứng trên cây bỗng sựng ngược. Hắn vùn vụt leo trở lại ngọn xoài, dỏng tai nghe. Tiếng hú vẫn vọng lại, nghe rõ mồn một. Gương mặt thằng người bỗng nhiên xa vắng. Màu xanh rắn lục trở lại trong cặp mắt bò non.

Hắn nhìn lên trời, nhìn về phía đầm lầy hun hút sâu trong rừng. Rồi nhìn xuống gốc cây, nơi pạ pạ của hắn đang đứng. Bỗng hắn ngửa cổ lên trời, cất lên một tiếng rú. Tiếng rú này nghe giống tiếng người não nuột nối dài muôn ngàn tiếng hú vọng lên từ phía đầm lầy, trước khi hắn nhảy dựng lên lần cuối, rơi xuống gốc xoài, dội óc chết tươi với một dòng máu nhỏ ri rỉ chảy bên mép. Từ đôi mắt bò non mở trừng trừng của hắn, Ba Xà thấy dường như in hình một gương mặt trắng bệch với đôi môi nhành ra trong một nụ cười khó tả.

Tháng 9/2001

HẾT

Vũ điệu địa ngục

Tôi ớn lạnh toàn thân khi nghĩ đến cầu vồng, ớn lạnh khi tưởng thấy những tia nắng vàng khé lao qua màn mưa. Khi đó, ngẩng nhìn thường đã thấy những chiếc cầu vồng bảy màu còng lưng trên trời.

Khi ấy, người đàn bà ở nhà đối diện bên kia đường sẽ chạy ra, mái tóc xổ bạc bời trong gió :

- Đỏ lên trời đó! Con ơi!

Và bà nhảy nhấp nhểnh trên đôi chân yếu như cẳng sậy. Hai cánh tay trắng nhợt dăn deo quào mười ngón lên trời, như hòng túm chặt lấy dải cầu vồng. Bà cố nhảy thật cao, rồi rớt xuống, rớt xuống lại nhảy lên.

Người qua đường dừng lại, hàng xóm đổ ra xem. Người điên xưa nay không hiếm. Nhưng điên chỉ muốn kéo cầu vồng thì quả thực chưa thấy bao giờ.

Khi ấy, tôi, một kẻ hèn, sẽ lủi vào nhà như một con chuột chũi và đổ ra giường.

Ngoài kia, người đàn bà tóc hoa râm vẫn nhảy lên kéo cầu vồng. Sẽ tiếp tục vũ điệu địa ngục ấy cho đến lúc bà kiệt sức, gục xuống như một tàu môn héo.

* * * * *

Giờ đây, tôi phỉ báng sự học. Tôi đau khổ vì đã chót là một kẻ "có học" - như người ta thường nói.

Bởi vì sự học chỉ đưa đến cho người ta những trò xa xỉ và những đau khổ không cần thiết: tâm hồn rắc rối, thói tự ái và lòng ngạo mạn ngốc nghếch. Ai không mang phải cái đó trong mình, người đó sẽ bớt đi được một gánh nặng.

Ngày nàng chết, tôi đã đốt sách. May mà cha tôi kịp ngăn tôi lại. Đốt sách, ấy là tôi muốn chết theo nàng... Nhưng vốn là kẻ hèn, tôi hoãn chết, tôi tự nhủ: "Phải thi tốt nghiệp rồi mới chết!". Thế là tôi đã tự thả tôi xổng ra khỏi cái chết của nàng.

* * * * *

Nàng ra trường trước tôi bốn năm. Tôi nhớ ngày sắp mãn khóa, nàng tỏ ra hoang mang, như linh cảm một tai họa đang sắp ập tới. Mắt nàng nhìn như vô hồn, nhiều khi gặp tôi mà nàng không hề trông thấy tôi. Tôi không hiểu tại sao.

Tôi thường ít dám bắt chuyện cùng nàng, vì nàng đẹp quá lại nghèo. Cái thanh bần ở những người có học khiến họ trở thành bí ẩn, khó gần, xa vời như một dáng kiêu kỳ.

Lần ấy, tôi nhớ, tôi từng đánh bạo đi qua, đánh bạo nói một câu cho có chuyện, chỉ cốt để được đắm chút xíu trong luồng mắt sóng sánh của nàng :

- Thùy Châu sắp ra trường rồi, thích thật!

Một bóng mây sa làm sầm tối mắt nàng. Nàng thốt bâng quơ :

- Thích ư?!

* * * * *

Ngày ngày tôi không trông thấy dáng nghiêng nghiêng mềm mại như lá tóc tiên trên chiếc xe đạp màu xám xỉn nữa.

Như thế, nghĩa là nàng đang ngồi nhà. Nàng nghỉ chờ việc sau khi ra trường. Tôi mường tượng, sau vài tháng nghỉ ngơi, da nàng sẽ càng trắng muốt và mỉm cười vu vơ.

Tôi thường đứng bên này hè phố, trộm trông sang và thêu dệt rất nhiều viễn ảnh. Dù nhút nhát, tôi vẫn nghĩ nàng sinh ra là để cho tôi. Gia đình tôi khá giả, không ưa tôi lấy vợ nghèo. Mặc dù vậy, tôi không nghĩ đến ai ngoài nàng. Và không biết tự lúc nào, tôi cứ đóng đinh trong đầu ý nghĩ: chỉ cần bước một bước về phía nàng, nàng sẽ ở trọn vẹn trong vòng tay tôi.

Vì nàng nghèo mà. Đẹp trai như tôi, con nhà giàu. Yêu nàng, đó đã là một việc làm gần như từ thiện.

Mẹ tôi biết, ánh mắt tôi thường dừng lại trước cửa nhà nàng. Bà làm như vô tình, bảo: "Con gái tốt nghiệp đại học ra bây giờ ế vô khối. Vô công rồi nghề, ối đứa đi làm những việc chẳng sạch sẽ gì! Muốn gì thì cũng phải chờ nó xin được việc đã nghe. Nhàn cư vi bất thiện. Còn bây giờ, thì tôi cấm".

Không phải tôi sợ mẹ tôi đến thế. Nhưng tôi vẫn bước một bước về phía nàng, có lẽ bởi vì tôi còn quá trẻ: tôi mới mười chín tuổi.

* * * * *

Một năm trôi qua, nàng vẫn ở nhà.

Đến năm thứ hai, mẹ nàng đã phải dọn ra vỉa hè một quán nước trông thật đìu hiu. Mẹ nàng không cho nàng ngồi bán mặc dù nàng vẫn chưa xin được việc làm. Mẹ nàng vốn thuộc dòng quý phái bị sa sút. Bà chỉ có một mình nàng và đặt tất cả hy vọng cũng như chút kiêu hãnh còn vương lại của dòng họ vào nàng. Vì thế, bà không cho phép nàng làm những việc mà theo bà, ảnh hưởng đến gia phong. Bà nhận chân chường mặt ra đường ngồi bán. Còn nàng ngồi trong nhà, gấp những chiếc hộp màu vàng. Quán của một bà già buồn bã và lãnh đạm thì bao giờ cũng vắng. Hai mẹ con nàng sống rất chật vật. Có hôm tôi thấy mẹ nàng đang nói gì đó và nhìn nàng giận dữ. Còn nàng thì ôm mặt khóc và cúi xuống đống vỏ hộp đang dán dở un lên nuốt chửng cả dáng người bé nhỏ của nàng.

* * * * *

Đến năm thứ ba, nàng vẫn chưa xin được việc.

Sau một thời gian dài héo hắt, dạo này tôi thấy nàng ăn vận lộng lẫy. Bỗng nhiên ăn diện đẹp mà không có lời giải thích nào khả dĩ. Đáng ngờ lắm, khi người ta là con gái đẹp mà lại chưa có công ăn việc làm. Mỗi khi nàng vụt qua đường như có một ánh sao băng, hàng phố xì xào :

-Sao bỗng nhiên nó lại có nhiều tiền để ăn diện sang trọng thế kia nhỉ? Nhà ấy lâu nay vẫn nghèo xơ...

-á à, con gái thời nay thiếu gì cách, nhất là lại xinh đẹp thế kia... Một đêm của người ta biết đâu lại chả bằng một tháng bán hàng khô của bà!

Nói vậy rồi đám các bà các cô bấm nhau. Có người cười ré lên. Tôi thấy run lên vì giận dữ, như chính mình bị xúc phạm. Nhưng vẫn im lặng và trong lòng hoang mang.

Tôi còn nhớ rõ lắm. Có một linh cảm gì đó nhắc tôi rằng không được trì hoãn. Hôm ấy, tôi đánh bạo hẹn nàng :

- Ngày mai Thùy Châu có rỗi không? Tôi muốn mời Thùy Châu đi chơi, nói câu chuyện.

Có lẽ trông tôi hằn học lắm nên nàng ngần ngại. Nàng nói :

- Tuần sau nhé. Tuần tới tôi mới rỗi.

Tôi lập tức gằn giọng như một người yêu đang cơn ghen :

- Dạo này tôi thấy Thùy Châu khác quá rồi. Nên nghĩ đến chuyện "giữ lấy lề" đi thì hơn...

Tôi tưởng nàng sẽ co rúm lại trước làn roi quất. Được thế thì tôi hả hê lắm. Nhưng thật lạ. Mặt lạnh băng, nàng nhìn nghiêng sang tôi, bỏ đi, để lại một lời nói lãnh đạm :

- Rồi lề cũng chẳng còn đâu mà giữ...

Khi nàng quay nghiêng, tôi chợt lạnh người vì cái cổ của nàng sao như xanh trong.

Tôi sửng sốt nhìn theo nàng, rồi nghĩ lại: ô hay! Tôi đã ngỏ với nàng một lời nào đâu mà có quyền ghen kia chứ!

* * * * *

Một tuần, rồi ba tuần qua đi. Vì hờn giận, tôi chưa sang gặp nàng.

Hôm ấy, mưa rơi, tôi bỗng thấy bên nhà nàng xôn xao. Người ta chạy ra chạy vào hớt hải.

Mẹ nàng bị đi cấp cứu ư? Hay bà đã chết? Có thể lắm chứ. Bà đã già yếu lắm rồi.

Tôi hối hả nhào sang. Đúng rồi. Mẹ nàng bị ngất. Bà nằm lặng phắc trên giường. Mấy bà mấy cô kẻ đang xoa ngực, người rối rít hú gọi hồn bà.

Nhưng ở trong nhà, phía bể nước, còn đông người hơn. Tôi thấy một ông bác sĩ to béo, mặt tái xanh từ trong nhà bước ra, khoát tay vẻ tuyệt vọng. Một luồng điện bỗng đâu như đập mạnh vào tri giác tôi, khiến tôi cảm thấy rợn người.

Tôi thận trọng bước vào phòng tắm kiểu cổ - vật còn lại duy nhất gợi nhớ rằng chủ nhân nó ngày xưa vốn là dòng quý phái. Ở đó đang đông người. Người ta đang chăm chăm nhìn cái gì đó. Và thật lạ, hoàn toàn im lặng, đến cả một tiếng thở mạnh cũng không nghe thấy.

Tôi thận trọng bước vào. Và suốt đời, tôi sẽ phải ngụp lặn trong cảm giác của giờ phút ấy.

Lạy chúa tôi! Trước mắt tôi hiện ra một bồn tắm lớn đỏ rực màu máu loãng.

Trên đó, một thân người con gái mặc áo dài trắng đang yêu kiều gục nghiêng, đổ nửa thân trên vào thành bồn tắm. Cánh tay trái của nàng xắn quá khuỷu, nổi lập lờ trong bồn máu.

Nửa thân áo dài bên trái nàng đỏ thẫm. Nửa thân bên phải vẫn giữ nguyên màu trắng muốt. Tấm lưng thon nghiêng khiến cho thân áo căng không gợn một nếp nhăn.

Và ánh tà hắt nghiêng qua cửa sổ có kính xanh trong thoáng chốc khiến cho bể máu mang màu ngọc thạch. Tôi thấy như lúc đó nàng thoáng rùng mình và trông giống hệt một con sứa trong xanh kiều diễm.

Không kêu được một tiếng. Nhưng tôi hiểu ngay đó là nàng. Nàng đã hẹn gặp tôi như thế sao?

Cắt động mạch ở khuỷu tay và cho máu mình hòa vào nước trong bồn tắm cho đến cạn kiệt. Một lối tự hủy kiểu La Mã cổ.

Khi đó, ngoài trời mưa tạnh. Mặt trời rớt lại phun ra những luồng vàng đỏ chiếu nghiêng. Và qua cánh cửa giờ đây ai đã mở rộng, tôi nhìn thấy

Một cầu vồng ngạo nghễ đổ bảy màu trên trời. Ánh đỏ lục của chiếc cầu vồng hắt xuống bồn tắm như một dải vòi oan nghiệt kéo dòng máu từ trong bồn tắm vụt lên trời.

Khi ấy, mẹ nàng cũng vừa hồi tỉnh, bà chồm dậy, chạy xổ vào chỗ nàng nằm. Cái màu đỏ lục choáng rợp ấy lập tức phủ ngợp người bà. Bà chùn lại.

Sững sờ giây lát, rồi, bằng cú nhảy của một con báo điên, bà mẹ vọt ra sân, mái tóc bạc sổ tung bã bời và mười ngón tay quào lên trời :

-Đỏ lên trời đó. Con ơi!

* * * * *

Lá thư tuyệt mệnh :

"Mẹ yêu của con ơi!

Con ngàn lần rập đầu xin mẹ tha tội. Con đã cướp công mang nặng đẻ đau của mẹ. Tội này, con biết, ngày xưa, người ta cầm roi đánh lên mộ để trừng phạt đồ bất hiếu. Mẹ ơi!

Nhưng không bây giờ thì cũng chỉ vài tháng nữa thôi, con cũng lại cướp công mẹ. Con bị bệnh suy tuỷ, mẹ ạ. Bệnh ấy chết dần chết mòn và tốn kém, còn làm khổ mẹ gấp nhiều lần. Con biết mình là một người đẹp. Con cũng biết rằng mẹ tự hào vì con. Và con không muốn chết mòn mỏi, tiều tụy, đáng thương hại.

Mẹ ơi! Mẹ đã ngờ con. Mẹ ngờ đúng đấy, mẹ ạ.

Ba năm trời con đi xin việc. Sinh "bất phùng thời", con lê chân đi gõ cửa khắp nơi bằng lòng trinh bạch và nắm tay rỗng không. Người ta trả lời: "Hết chỗ! Chính chúng tôi đây cũng chưa biết rằng sẽ ra sao!".

Có người ghé tai con: "Phải có vấn đề đầu tiên". Cô đi tay không như thế, một đời cũng không xin được việc.

Tiền ư? Tiền đâu! Mẹ con mình chỉ rau cháo thôi cũng chật vật lắm rồi. Mẹ thì ốm đau luôn.

Và thế là, cuối cùng, con tìm được một cách: bán máu. Máu đó thuộc về con. Còn cuộc đời này chẳng có gì là của con nữa, ngoài mẹ ra.

Bán máu cũng không đơn giản, mẹ ơi! Nhiều người muốn bán máu lắm. Đó là những kẻ lười biếng khỏe mạnh và những kẻ tuyệt vọng khỏe mạnh. Muốn bán máu suôn sẻ, phải qua đầu nậu máu. Mẹ không biết đâu.

Và con có tiền. Để mua vài bộ quần áo kha khá. Trích lại một ít để bồi dưỡng lại sức, chờ đến lần bán máu sau.

Nhưng mẹ ơi. Tiền bán máu của con vẫn còn quá ít so với hầu bao căng ních của thiên hạ. Con rút máu trong huyết quản mình nên thấy đau hơn so với những người rút ruột của người khác. Không phải ruột mình nên họ không đau. Con thì cứ tiếp tục bán máu mình. Đến kỳ hạn lại bán. Đã đến lúc cơ thể con quen sinh ra máu để bán. Đến kỳ hạn không bán không xong.

Mẹ ơi! Con biết những dòng đã viết và đang viết tiếp đây làm đau lòng mẹ. Nhưng mẹ ơi. Thế hệ của chúng con khác thế hệ e dè của mẹ. Chúng con đi đến tận cùng nên nhiều khi tàn nhẫn. Trước khi chết, con phải cất được lời sám hối, cho lòng thanh thản.

Mẹ ơi! Quà cáp cũng chẳng ăn thua. Người ta nói rằng con là một món hơn mọi quà cáp và nhìn vào ngực con. Con đi, ngày hôm nay khấp khởi hy vọng để rồi ngày mai thất vọng như một quả bóng xẹp. Vận rủi cứ đeo đuổi con mãi.

Nhiều lần người ta mặc cả thẳng với con. Lúc đầu con căm phẫn. Con thét vào mặt một trong những kẻ đó "Đồ vô lại". Hắn ta nhăn ra cười. Khuôn mặt ấy thực ra khá đẹp, sung mãn. Hắn đứng đầu một cơ quan khá giả.

Nhưng sau đó, trong tuyệt vọng con nghĩ lại. Và, mẹ có nhớ cái đêm con về rất muộn và mẹ cằn nhằn mãi không? Con phải len lén đi vào giường để mẹ khỏi nhận ra cái dáng đi hơi oằn người của con gái mẹ: con đau.

Đêm đó con không khóc. Con ngước lên bàn thờ bố và tự hỏi: linh hồn người giờ phiêu diêu nơi đâu mà không phù hộ cho con, như người ta thường nói. Cũng ngước nhìn cánh quạt trần quay tít, nghĩ đến một người thắt cổ. Nhưng một viễn cảnh khác cũng mơn man con đôi chút: vài hôm sau, con sẽ có một công việc cho ra công việc, sẽ mặc áo dài trắng đến công sở như mình chưa hề thất tiết, sẽ đàng hoàng nuôi mẹ, vân vân và vân vân.

Nhưng mấy ngày sau, con quay lại. Hắn tiếp con lạnh băng: "Cơ quan không thể nhận ai. Chính tôi cũng đang bị đe dọa phải về đây". Nhìn nét mặt hắn, con biết không phải thế. Hắn sợ nhận vào cơ quan một khối căm phẫn lúc nào cũng sẵn sàng nổ bùng như một quả bom.

Và đã đến lúc, máu con không dùng được vào việc gì nữa: bán nhiều lần quá con mắc bệnh suy tuỷ. Thế là hết.

Mẹ ơi! Con có dành dụm được một số tiền phòng khi mẹ ốm. Mẹ mở cái hộp trang điểm của con trong va li mẹ nhé. Hộp đó, mẹ đã tặng con trong lần sinh nhật thứ hai mươi ba.

Ngàn lần con xin mẹ tha thứ. Mẹ nhớ chôn con trong chiếc áo dài màu trắng mẹ nhé. Con tin rằng trong chiếc áo đó, dù không còn trinh trắng, con cũng sẽ có được đôi cánh để bay lên Thiên đàng!

Vĩnh biệt mẹ. Vĩnh biệt Hà Nội không phải của con.

Con gái trăm tội của mẹ ôm hôn mẹ".

HẾT

Vườn yêu

Tôi nhón chân trên đôi giày giấy thiếu nữ đi vào Vườn Yêu.

Tôi bận trên người cũng một thứ quần áo bằng giấy không sột soạt, lóng lánh và nhẹ bổng. Né người xa một chút vì sợ anh làm hỏng đôi giày và bộ quần áo tôi. Anh nhìn dáng đi liệng chiệng của tôi và cười hiểu biết. Tôi cũng vui thích cười vang. Thú vị quá, vì mình đã có một bộ quần áo và đôi giày dễ hỏng khiến người khác phải kiêng dè.

Đêm ấy trăng quánh lắm. Đến nỗi vướng víu vì trăng. Dưới những gốc cây to, trăng từng sợi chảy qua vòm lá, kết nhiều đôi trai gái trong vòng tay nhau. Đôi khi tôi nhìn thấy một bộ quần áo bằng giấy giống mình. Càng vững dạ. Mỗi gốc cây đã đơm đầy một đôi. Phần lớn họ đứng ngồi theo những hình khối kỳ cục và im lặng. Tôi không thể hiểu nổi tại sao họ lại có thể im lặng như thế mà không chán khi ngồi bên nhau. "Họ giận nhau đấy à anh?". Anh lại lần nữa mỉm cười ra dáng hiểu biết. Trông anh thật từng trải.

Tôi nhón chân theo anh và chợt lắng được một tiếng thì thào ở đâu vẳng lại. Suýt soát một năm trước đây, mẹ tôi dặn: "Đến tuổi rồi đấy! Đôi khi đi trong vườn, nghe tiếng gọi thì thào chớ có đáp lại. Đáp là trí khôn bị lưỡi đẩy lìa khỏi xác, bay theo tiếng gọi ấy". "Đó là tiếng gọi của những người con trai tự tử vì thất tình. Họ chết đi nhưng cứ khát yêu và luôn bay theo lũ con gái mới lớn!".

Nghe lời mẹ, nhưng tôi không sợ. Tôi thích được thấy một người đã dám chết vì tình, bỗng một hôm nào đó đáp xuống vườn và thì thào: "Anh yêu em!". Đó là những lời tuyệt hay. Có gì đáng sợ nhỉ?

Bà còn dặn: "Lành nhất là làm theo cách này: đánh hai hàm răng kêu lạch cạch vào nhau ba lần, súc miệng rồi nhổ toẹt nước bọt về hướng đông. Ma tà quỷ quái lúc ấy mới chịu không xâm được". Tôi lăn ra cười một hồi lâu. Mở được mắt ra thì bà đã bực bõ bỏ đi từ lúc nào, chỉ còn tiếng lầu bầu vọng lại: "Con gái gì mà cười tít cả mắt thế? Giống dì họ mày quá! Con mắt có đuôi thế rồi khổ thôi...".

Đó là hành trang bà sắm sửa cho, khi tôi bước vào tuổi thiếu nữ.

Vườn nhà tôi đẹp và rộng lắm, dù không rộng bằng Vườn Yêu. Những ngọn núi giả được ôm ấp bằng dòng suối giả đã chứng cho bốn đời trong gia hệ tôi thay nhau cựa quậy, đứng dậy và tàn lụi. Trong gian nhà thờ chính luôn mờ tối, những bài vị và cờ tán võng lọng sơn son thếp vàng luôn hắt ra một thứ ánh sáng uy nghi dọa dẫm. Một hàng các cụ kỵ tôi ngồi ở trên, lẫm liệt trong những bức chân dung. Tôi chưa bao giờ có được can đảm để vào trong đó một mình. Sợ những bức chân dung đó cựa quậy. Và câu đầu tiên các bậc tiền bối ấy nói với tôi, ắt hẳn sẽ là một lời quở trách. Ôi! Tôi là một con bé thích mạo hiểm. Tôi dám liều mạng mặc áo đỏ trong khi người ta chỉ mặc áo đen. Tôi đi giày gót cao trong khi người ta đang đi giày gót thấp. Thế mà sao nhiều đời trồi sụt, bây giờ họ tôi đã nổi tiếng là biết đi đứng vuông vắn và cấm ngặt hậu sinh về sự mạo hiểm.

Mẹ tôi sợ vườn nhà. Còn tôi, cố tình đi dạo một mình trong vườn và băn khoăn: có một linh hồn thì thào hỏi: "Anh yêu em", nếu tôi đáp lại: "Em yêu anh" thì linh hồn đó có được trở lại làm người không nhỉ? Không nghe tiếng thì thào, nhưng tôi thường lẩm nhẩm: "Em yêu anh". Biết đâu vô tình nghe được lời thoảng như gió ấy của tôi, một người trai nào đó cũng sẽ được tái sinh.

Thế hệ mẹ và bà tôi quá khiêm cung. Ngay cả việc thêu dệt những câu chuyện huyền hoặc cũng không dám thiêu đốt đến cùng. Họ đã kịp học được cách tiết kiệm cả mơ ước để ngày ngày chu đáo lặng lẽ quét dọn những gian thờ. Sẽ chẳng bao giờ dám đáp lại những lời yêu vẩn vơ. Thế thì làm sao những ma yêu có thể trở lại làm người được? Trong khi những ma yêu cần lời đáp thoát ra từ ngực chứ không phải từ cuống họng. Có lẽ chính vì thế mà ngày xưa nhiều ma yêu hơn bây giờ chăng?

Lại nói, tôi nhón chân trên đôi giày giấy thiếu nữ đi vào Vườn Yêu, mải lắng tiếng thì thào, còn anh mải đi tìm một gốc cây còn trống. Tôi đang thích yêu. Yêu đương là một việc hay. Mặt khác, tôi cùng dụng tâm thử xem khi người ta hôn nhau, hai chiếc chóp mũi có cộc vào nhau đau điếng hay không.

Mỏi chân trong Vườn Yêu, chúng tôi mới tìm được một gốc cây. Và anh nói: "Ngồi xuống nào bé!". Tôi ngồi xa xa bắt đầu run rẩy vì hồi hộp. Trong khi tôi đang ngượng nghịu vuốt lại bộ quần áo bằng giấy, anh chợt kéo tôi vào lòng, đặt ngồi lên đùi và bắt đầu. Tôi run rẩy trong cái hôn đầu và gần như ngạt thở. Nhắm mắt một lúc lâu mới dám mở mắt nhìn qua vai anh. Trên cao kia là trăng cười cợt và bầu trời tím dịu lớt phớt sao. Một đám mây trắng viền mầu đồng đỏ đang cuộn tròn lại rồi thoắt tãi ra thành hình cánh buồm rách trôi vụt ngang trời. "Sao lại buồm rách nhỉ? Buồm rách có tới bến được không?".

Đang mơ màng theo đám mây mầu đồng đỏ, tôi bỗng giật thót người nhìn xuống. Bàn tay thành thạo của anh đã đặt lên ngực tôi tự lúc nào. Bộ ngực mà khi mới nhú, tôi đã vội che giấu kỹ lưỡng bằng những chiếc áo nịt dày đến mức khó thở và cố khom vai để khỏi lộ. Thế mà bây giờ...! Tôi chưa kịp tưởng tượng ra những hình ảnh như thế trong các cuộc yêu đương!

Tôi ngồi bật dậy. Giận dữ đẩy anh ra và nói: "Không ngờ anh lại khinh rẻ tôi! Mẹ ơi!". Anh ngạc nhiên: "Ồ, sao em lại như thế? Chẳng lẽ em không hiểu gì hết về tình yêu?". "Tôi hiểu. Nhưng không giống anh. Anh đã hạ nhục...". Tôi khóc nức nở. Anh nói: "Yêu là như thế đấy, cô bé ạ. Em thử nhìn ra chung quanh mà xem. Người ta im lặng, bởi vì người ta đang bận bịu cả đấy!".

Qua làn nước mắt, tôi nhìn ra chung quanh. Những đôi đứng ngồi theo các hình thù kỳ dị dần mờ tỏ. Và tôi buồn rầu khi thấy anh nói đúng.

Vườn Yêu là thế chăng?!

Tôi không dám bỏ về. Ngồi thu mình như con nhím sẵn sàng xù lông. Đâu rồi những tiếng thì thào và ước vọng tái sinh cho một linh hồn đã chết vì tình của tôi? Mười phút trước đây nó vẫn còn. Hay vừa nãy nó đã bay theo cánh buồm rách?

Chuyện trò bỗng nhạt như nước ốc. "Anh yêu lần này đã là lần thứ ba rồi. Yêu là như thế đấy. Anh không muốn bị thất tình. ý định là nghiêm túc: anh muốn cưới em làm vợ".

Tôi chưa yêu bao giờ nên không đủ lý lẽ để cãi với anh. Tôi cảm thấy như vừa bị mất cắp. Trong lòng trống rỗng.

Nhưng mắt tôi chợt sáng lên vì có một cô gái mặc bộ quần áo bằng giấy giống tôi đang vội vã bước ngược chiều. "Cô ta hẹn với người yêu. Cầu cho cô ta gặp may mắn!". Lúc đó trăng rạng lên soi tỏ mặt. Và tôi thấy cô ta có một nước da trắng trong mịn như sương.

Tôi quay mình nhìn theo chân cô. Cô bước xuống lòng mương cạn mọc lùn phùn một lớp cỏ, cách chỗ tôi đứng khoảng mươi bước. ở đó có lố nhố đến bốn năm người đàn ông đang đứng ngồi ra vẻ sốt ruột trên tấm vải mưa trải rộng. Tôi trông rõ họ vồ lấy cô và nói: "Muộn quá! Cô em! Để các anh chờ mỏi cả mắt!".

Tôi hốt hoảng níu lấy anh, quên cả giận: "Kìa anh! Cứu cô ấy với! Cô ta bị lừa đấy! Cứu mau". Nhưng anh chỉ cười hiểu biết và đứng yên. Tôi cũng kịp buông tay ra, và không la lối nữa khi thấy cô gái đang thong thả cởi quần áo. Bộ quần áo bằng giấy lấp lánh. Bộ quần áo ấy vừa rời khỏi người cô liền chảy nhũn ra và dúm lại thành một đống ướt sũng.

Trong ánh trăng đặc quánh, thân hình trắng dịu như sương của cô gái từ từ thấp xuống tấm vải mưa.

Tôi khóc và bỏ chạy. Chạy khỏi Vườn Yêu và hộc tốc trở về nương náu trong vườn nhà. Tôi lặng lẽ quèo tay mở cổng. Đó là lần đi khuya đầu tiên trong đời tôi.

Tôi ngồi tựa lưng vào gốc cây duối cổ thụ trong vườn. Đây là gốc cây dại duy nhất không bị đốn. Bởi vì lá của nó quá nhiều vặn vẹo, trông hệt như một thân người gầy guộc đang quằn quại chống lại những cơn đau. Nhưng bên trái, có một cành mọc với lên cao rồi xòe ra. Trên đám lá đó bỗng phủ rực rỡ một vầng dây tơ hồng vàng tha thướt. Tôi không cho người làm vườn đốn cây ấy. Vì tôi nghĩ rằng trong đau đớn, cái cánh tay kia vẫn vươn cao để với lấy vầng mây vàng rực kia. Tôi đã đặt cho cây duối ấy cái tên rất văn chương: "Khát vọng sống". Tôi ngồi dưới gốc cây, duỗi thẳng chân trước khi cẩn thận gỡ đôi giày giấy và để ra một bên.

"Chỉ tại mình không biết cách tiết kiệm mơ ước nên mới ra nông nỗi này" - tôi nghĩ và duyệt lại trong óc cách tiết kiệm mơ ước của gia tộc tôi. Để chắc ăn, không ai thích sinh ra những đứa con ưa mạo hiểm. Tôi là một đứa lạc loài. Tuy nhiên nghe đồn thầm đồn vụng rằng, dù các cụ đã cố hết sức vuông vắn, song đời nào cũng vẫn để lọt một vài đứa đầu nhọn như vậy.

Có tiếng bước chân. Tôi ngước lên. Một người đàn bà da trắng, răng đen nhánh và mắt sáng đang tiến đến. Cặp đùi thon nở nang được quấn chặt trong một lần váy thâm ướt. Dưới ánh trăng, tôi nhìn rõ màu thâm của váy hình như có pha sắc đỏ. Trông chị ta thật quyến rũ, mặc dù đang hết sức nhợt nhạt :

- Con không nhận ra ta sao? Ta là dì Bản của con đây mà! à phải, con không nhận ra ta, bởi vì ta chết trẻ. Ta chết vì băng huyết. Không có chân dung ta trong nhà thờ đằng kia...

Tôi "á" lên một tiếng. Tôi đã được vụng nghe chuyện dì. Đó là người đàn bà đẹp nhất vùng tôi cách đây năm mươi ba năm. Người đàn bà ấy không biết chờ đợi được giá, đã chạy theo một chàng buôn tơ có cái cân tiểu ly đeo tòn ten đầu tay vải. Và chàng ta đã có vợ. Dì chết vì băng huyết, trong một túp lều lá bố thí ngoài đồng. Mắt dì có đuôi.

- Con ạ. Ta đành phận. Nhưng ta muốn làm được một chút gì đó cho các con - Dì mỉm cười và tay giơ ra một ống tiêm to, cỡ kim tiêm lợn. ống tiêm đựng đầy một thứ nước mầu xanh cỏ úa.

- Ta muốn cho các con không biết đến nỗi đau khổ. Và nhất là, không bao giờ phải khổ vì tình. Muốn khỏi khổ, hãy tiêm vào người một liều máu lạnh này. Và sẽ không một kẻ nào làm cho các con đau khổ được.

Tôi nhìn ống tiêm, ngần ngại đo đắn mầu xanh lạnh lẽo đang phát sáng lên trong ống. Nhìn ra chung quanh, thấy bốn chị gái tôi đang đi xa bỗng dưng cũng từ lúc nào, về đây đông đủ cả.

Với một chút khôn lỏi, tôi giục chị Cả :

- Chị tiêm đi. Tiêm trước đi!

Chị Cả tôi buồn bã lắc đầu :

- Chị không còn tuổi để tiêm, em ạ. Chị đã kịp nếm trải đủ điều và đã kịp gặp một hậu duệ của Sở Khanh.

Tôi ngước nhìn chị Hai.

Chị Hai tôi cười. Mặt chị không một vết nhăn nào, mặc dù năm nay chị đã ngoài bốn mươi tuổi. Chân tay chị vẫn quá mảnh mai và ngực lép như ngực một đứa trẻ.

- Chị tiêm rồi! Em ạ. Hơi quá liều. Chị đã đợi chờ một người lính. Chờ mãi rồi người đó trở về. Nhưng anh ấy lấy một người khác. Người đó xin việc cho anh ấy và mua nhà cho ở. Chị đã tiêm một liều khá mạnh ngay sau đó. Hiệu nghiệm lắm em! Bây giờ, chị không ước được làm vợ và làm mẹ nữa. Tôi ngước nhìn chị Ba. Chị Ba tôi hỏi dì Bản :

- Đằng nào con cũng đã có chồng con. Chưa biết từ giờ về sau sẽ ra sao. Nhưng con đã sinh một cháu gái. Dì cho con để dành chỗ thuốc đó phòng về sau cho con gái con, được không?

Chỉ có chị Tư tôi vén tay chìa sẵn. Nhưng dì gạt đi :

- Cháu Tư không cần tiêm. Sự đau khổ không bén được gót nó. Vì khi có mang nó, mẹ của chúng mày đã tiêm một liều. Thuốc đến giờ vẫn còn tác dụng. Và dì nhìn tôi, mời mọc :

- Nào con Năm đâu! Cháu cưng của dì! Ngoan nào! Chìa tay ra đây. Sẽ chấm dứt mọi phiền não. Dì Cơ trước đây không nghe ta nên mới lặp lại cái chết của ta như vậy...

Tôi ngoan ngoãn chìa tay. Tôi cắn môi chịu đựng chút đau nhói khi kim xuyên vào da thịt. Rồi tiếp theo là cảm giác lạnh buốt. Tôi nhắm mắt chờ đợi.

Nhưng dì tôi bỗng kêu ầm lên :

- Cái gì thế? Thuốc tràn ra khỏi ống. Máu con bé không chịu hòa huyết này! Vô phương cứu chữa!

Dì tôi khóc, rút kim ra rồi yểu điệu quay đi: "Ta sẽ tìm chế cho con thuốc uống. Tuy nhiên, thuốc uống thì tác dụng không chắc chắn lắm. Con vẫn còn một chỗ để nhờ cậy. Đó là ta. Nhớ gọi ta khi cần!".

Dì đi khuất. Các chị tôi cũng đi tự lúc nào, bỏ lại mình tôi ngồi trơ dưới gốc cây duối dại.

Tôi đứng dậy, buồn nản đi tìm một chiếc hộp. Hộp sơn son thếp vàng rõ đẹp để đựng đôi giày giấy thiếu nữ. Tôi giấu vào một chỗ trong hốc cây duối. Còn bộ quần áo thiếu nữ cũng bằng giấy của tôi. Nó đã chảy nhũn và dúm lại thành một nắm dưới cái nhìn của một chàng trai khác trong lần yêu thứ hai. Tôi đã kết bằng tơ hồng và thả nó trôi trên sông.

Tay đẩy bè, tôi hát :

.... Ơ bè! .... Ơ bè!...

Sao không dạy ta cách đừng mong đợi mùa thu...

HẾT

the and

phạm phú điệp

01679738998

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro