truyện không đọc lúc nửa đêm

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

truyen khong doc luc nua dem

18 Tầng Tháp

San rũ người trên sofa. Cuộc khám nghiệm tử thi của cô rốt cuộc chẳng đem lại kết quả gì. Phía cơ quan điều tra vẫn chưa khám phá được bí ẩn cái chết của cô gái trẻ.

Nạn nhân bằng tuổi San. Cô gái có gương mặt thánh thiện, vóc hình cân đối, nõn nà. Khi cơ thể cô phơi bày trước mặt San, người nữ pháp y rùng mình cảm thấy như mình sắp mổ cho một nữ thần! Một cô gái mỹ miều và (có lẽ) ngoan hiền dường ấy lại có thể qua đời một cách bất thường!

San tưởng chừng con dao mổ trên tay mình cũng khóc. Có tiếng đẩy cửa, nhưng San đuối lả đến nỗi không thể cất người lên. Đứa con trai nhỏ của anh cô nhè nhẹ đi vào. Thằng bé thường hay sang nhà cô út chơi. San để mặc nó muốn làm gì thì làm. Dường như tâm tưởng con người là một dòng sông, sẵn sàng xô dạt vào bờ hiện tại những mảnh trôi của ký ức, một cách tình cờ, vào bất cứ lúc nào.

Sáng nay, khi bước xuống giường trong cơn ngái ngủ, rất phi lý, một hình ảnh của hơn hai mươi năm về trước hiện về trong trí nhớ San. Đó là một xác chết trương sình bên dưới và bên trên bị phỏng rộp, có lẽ là do nắng. San nhìn thấy xác chết ấy khi mới năm tuổi đầu, lúc đang dạo chơi trên dòng sông quê nhà. Lúc ấy là xế trưa. San khóc nức nở về kể với gia đình. Chiều hôm đó, khi người lớn đã an táng cho kẻ bạc phận xa lạ, cô bé con thắp nhang dọc dòng sông. "Chú ơi!", cô bé thảng thốt gọi, nước mắt chảy vào cái miệng trẻ thơ mếu xệch. Năm tuổi đầu, San đã thấm thía câu hát buồn của Trịnh Công Sơn: "Người ôm lấy muôn loài/nằm trong tiếng bi ai". Hơn hai mươi năm trôi qua, khói nhang trên dòng sông hôm ấy và cái chết đau đớn của người đàn ông xa lạ vẫn còn làm thổn thức lòng San.

Ký ức ám ảnh cả bữa điểm tâm. Khi cắm nĩa vào tròng đỏ hột gà ốp la, San có cảm giác mình đang chọc thẳng nĩa vào đồng tử mắt. Buốt run. Sau đó là những nỗ lực không kết quả tại phòng khám nghiệm. San cảm thấy mình quá mệt mỏi nên nhắn tin cho Hợp, bạn gái thân nhất của cô. Hai đứa vào Thư Giãn quán, chơi trò jenga của Hàn Quốc. Khi Hợp xếp những thanh gỗ jenga thành 18 tầng tháp để trò chơi bắt đầu, San vẫn rùng mình liên tưởng mỗi thanh gỗ đồ chơi nhỏ nhắn là những chiếc hộc đựng tử thi trong nhà xác. 18 tầng jenga đầy những xác người! 18 tầng tháp như một điều bí mật chưa bao giờ được khám phá, như bao nỗi niềm chưa một lần phơi tỏ, như tiếng bi ai hóa thạch, như mưu toan tăm tối, như tuyệt vọng rã rời... trong xã hội hiện đại. Luật là như thế này: những người chơi tìm cách lấy những thanh gỗ ra và đặt lên cao, sao cho thật cẩn trọng để tòa tháp không sụp đổ. Nhưng San nhận ra rằng, chính khi tòa tháp sụp xuống, tất cả người chơi mới bật cười giòn giã.

Hằng ngày, San gặp những xác chết còn rất trẻ, những đôi mắt ngây thơ mở to như tiếc nuối cuộc đời. Cô luôn nhắc nhở mình rằng hãy quý từng giây cuộc sống, hãy nói tất cả những gì mình cần nói, làm tất cả những gì mình cần làm. Bởi những tử thi nằm dưới dao mổ của cô có lẽ đang khát khao được sống lại một giây để nói với kẻ thù: "Thật đáng buồn là tôi chết đi mà giận hờn giữa bạn và tôi còn chưa kịp giải tỏa", để nói với người yêu: "Từ nay, khi đi trên phố, khi băng qua đường, hãy cho em được nắm lấy tay anh. Phố rộng, người đông, quá yếu mềm, em cứ e mình lạc mất. Em đã thèm khát điều đó từ lâu lắm rồi mà chưa một lần bày tỏ"... Dù vô cùng yêu thương và kính nể Trịnh Công Sơn, cô vẫn muốn cuộc đời hãy hát ca những lời hân hoan nhất, muốn tin muôn loài không hề nằm trong tiếng bi ai! Những buồn đau chỉ là lữ khách, dừng lại bên lòng đôi chút rồi đi. Cuộc đời là một chuỗi yêu thương và tha thứ.

- Cô ơi, nhìn nè!

San gượng ngồi dậy khi đứa cháu gọi. Cô rú lên kinh hoàng. Trời ơi! Con cá vàng trong bể kiếng! Thằng bé mới bảy tuổi đầu đang cắt vụn con cá vàng vừa bơi trong nước như cắt một tờ giấy thủ công! Chân cô khuỵu xuống, thằng bé òa khóc vì tiếng thét kỳ dị của San. Cô đi đến bên nó, ôm cháu vào lòng, nước mắt ròng ròng chảy trong im lặng rồi buông nó ra. "Con về đi!". Đứa trẻ lấm lét, thút thít đi ra cửa. Còn lại một mình, cô nhặt xác con cá vàng, bỏ vào giỏ rác mà như thấy vừa rứt đi một phần cơ thể của mình.

Xã hội hiện đại này giết chết những đứa trẻ mất thôi! Cô vặn Cát-sét thật to, cố trấn tĩnh lại. Những tin tức làm ù tai cô. Giá vàng và giá xăng dầu tăng không cách gì kềm giữ, những thương lượng hòa bình về cuộc chiến ở Trung Đông tiếp tục bất thành... Cô hình dung lại giấc mơ của mình mấy ngày trước đây. Cô thấy mình và trăm ngàn người khác ngồi trên một chiếc máy bay khổng lồ. Khi cất cánh, chiếc máy bay đồ sộ ấy chỉ là một chấm đen nhỏ xíu giữa vũ trụ ngút ngát đến rợn người. Lúc máy bay băng qua một vùng trời, bỗng một đôi tay vĩ đại buông thõng giữa không gian. Đôi tay buông thõng ấy như một bất lực kiệt cùng trong vũ trụ. Tỉnh dậy sau giấc mơ, San cảm thấy riết róng thương mình, thương bạn bè, thương những nỗ lực nhiều khi như dã tràng xe cát.

Điện thoại rung báo rằng cô có tin nhắn. Là Giang. Giang hỏi cô khỏe không, công việc thế nào và đã hết buồn chưa. Hết buồn chưa? Sao Giang lại hỏi cô câu đó? Giang thừa biết điều Giang gieo vào lòng cô đâu chỉ giản đơn là một nỗi buồn... Cô ba lần tỏ tình cùng Giang và ba lần anh từ chối.

Đi qua tuổi thơ nghiệt ngã của mình, San trở thành một cô gái quá nghiêm trang, khép kín. Lầm lũi và quyết liệt như một dòng suối chảy xuyên bao vách đá cheo leo, San một mình trườn qua những khó khăn trong đời sống, trở thành một nữ pháp y trẻ tuổi có chút tiếng tăm. Những tưởng cuộc đời San rồi sẽ mãi là một khung cửa khép, nhưng tất cả đã đổi thay từ cuộc gặp gỡ tình cờ. Giang là một tình cờ rắc rối của San. Ngày đầu gặp San, chàng phóng viên trẻ trông rất mong manh, cả San lẫn Giang đều biết hai người bằng tuổi nhau, thế mà Giang vẫn cúi đầu: "Em chào chị!" một cách rất ư là lễ phép. Làm việc cùng nhau, San thêm quý thêm thương tinh thần trách nhiệm và cầu tiến ở Giang. Mà chàng phóng viên lại hay buồn.

Có những buổi chiều, Giang đến tìm San chẳng để làm gì cả. Hai đứa ngồi im lặng bên nhau. Sốt ruột San hỏi: "Có chuyện gì không em?". Giang lắc đầu bảo không. San nói: "Vậy để chị đi làm". Giang "dạ" rồi đứng lên "Chào chị". E-mail Giang gởi bao giờ cũng làm San xúc động: "Chị San đã quen với công việc chưa?", "Chị San đừng làm việc quá sức", "Em sống ở đây cực quá, mà về quê lại không biết làm gì. Nếu không có chị, chắc là em không thể sống được ở đất Sài Gòn này!"... Giang đâu biết rằng đôi khi San vừa khóc vừa trả lời e-mail cho Giang, an ủi Giang bởi xót xa cho người bạn trai cùng tuổi, một người tài chưa gặp vận. Đọc những truyện ngắn, tản văn viết về mẹ của chàng nhà báo trẻ, cô pháp y nức nở. Bỗng dưng khát khao được chia sẻ những vất vả của anh, được kể anh nghe bao vấp váp của mình và nhận lấy những lời cảm thông, khuyến khích. Thèm được cùng anh đền ơn người mẹ đã suốt đời lặng lẽ hy sinh.

Một lần cà phê, Giang đột ngột nói bằng giọng rất nghiêm trang và cũng rất... đàn anh: "Chị như thần công lý cho những người chết, hãy luôn nhớ là phải thật công tâm, minh bạch". Rồi hai đứa cùng kể cho nhau những chuyện vui. Giang bật cười thật lớn. Ai chưa từng nhìn thấy Giang buồn sẽ không thể hiểu hết sự bất ngờ thú vị của San khi nhìn nụ cười quá đỗi hồn nhiên của chàng trai này. Giang còn đưa tay xoay xoay chiếc túi đeo chéo trước ngực trong khi kể chuyện bằng một giọng hào hứng, say sưa và môi cười tươi tắn. Giang luôn dành cho San những bất ngờ. Anh tặng cô một bài hát qua điện thoại không vào một ngày đặc biệt nào cả. Ngày lễ ở cơ quan San, Giang ghé qua chúc mừng, rồi về, chẳng nói gì. Đến khi về nhà, San hết sức bất ngờ nhìn giỏ hoa Giang gửi. Có lần, nhân một ngày lễ khá đặc biệt, mới hơn 6 giờ sáng, Giang gửi tin nhắn chúc mừng San. San làm việc suốt, đến cuối giờ chiều mới trở về bàn. Điện thoại báo có hai cuộc gọi nhỡ từ Giang và một tấm thiệp của anh trên bàn cô. Phải đến lúc đó, San mới hiểu được lời khuyên: "Cho tốt nhất là cho hai lần". Chính xác là từ giây phút nào San chẳng biết, nhưng cô cảm thấy bình yên, tin cậy khi ở cạnh Giang. Từ rất lâu rồi, chưa từng có ai cho San sự quan tâm như thế. Cô nhận ra Giang có một tâm hồn mẫn cảm, sáng trong và khiêm tốn hiếm có.

Ba lần từ chối, Giang đều lúng túng. Giang đi uống rượu dù không biết uống rượu trước khi nói lời từ chối thứ nhất. Giang vò nát ống hút trong bữa hai đứa uống nước với nhau, sau lần từ chối thứ hai. Sau lần từ chối thứ ba, Giang gọi điện cho San hai lần, hai lần cùng im lặng dù San đã "a lô" rất nhiều. Đến lần thứ ba, Giang mới trò chuyện cùng San. Gần đây, Giang không còn gọi San là "chị". Hình như có một điều gì đó giữa hai đứa, có thể chưa phải là tình yêu nhưng không giản đơn là tình bạn.

Điện thoại nằm im lìm trong tay San. Biết trả lời thế nào đây? Để tìm nguyên nhân cho những cái chết bí ẩn, San cần lách sâu con dao mổ. Nhưng con dao nào giúp San tìm bí mật của tình yêu. Giang ơi! Đến cả sỏi đá cũng nôn nao đội vòng hoa mừng hôn lễ của chúng ta, cớ sao anh lại bao lần "xòe tay phủ mặt"...

Cát-sét đang đưa tin về một cuộc đảo chính trên thế giới và các lời đe dọa từ những kẻ khủng bố. Giá thế giới là chiếc áo, San sẽ giũ mạnh một lần, không còn mưu toan, tuyệt vọng, hận thù và tâm tình không thể sẻ chia. Tử thi trong nhà xác, trong nghĩa trang sẽ khiêu vũ và hát cho những người còn sống rằng hãy gấp gáp yêu thương và chần chờ thù hận để một mai, những lóng xương, những tro than của chính mình trong lòng đất lạnh, trong những hũ sành không còn phải sụt sùi tiếc nuối. Bao vách ngăn khô cứng giữa lòng người sẽ vỡ tan.

Như 18 tầng tháp jenga sụp đổ!

Thủy Táng

Chiếc nắp hầm được mở toang, ánh sáng cùng gió biển mát rượi lùa vào chiếc hầm ghe đánh cá, xua đuổi bầu không khí ngột ngạt làm số người nằm xếp lớp như cá mòi dưới khoang ghe cảm thấy dễ chịu.

Một cái đầu thò xuống cất tiếng:

- Tới hải phận quốc tế rồi nghe bà con!

Những tiếng reo vui, thở phào nhẹ nhõm đồng loạt phát ra từ bẩy chục cái miệng, phá tan bầu không khí nặng nề bao trùm trong hầm từ tối hôm qua. Mọi người như vừa được hồi sinh sau lời báo tin ấy. Những nụ cười tươi chợt nở trên môi từng khuôn mặt mệt mỏi phờ phạc vì say sóng. Có người làm dấu thánh giá, có người niệm phật. Niềm hy vọng trên từng ánh mắt. Một chặng khởi đầu của một cuộc hành trình định mệnh đã vượt qua một cách dễ dàng.

Đám thuyền nhân, đa số tỉnh táo. Họ đang ngồi nói chuyện với nhau về tương lai. Bà Lời, chủ tiệm cầm đồ ở chợ Vườn Chuối, len đến ngồi cạnh bà Thiện tâm sự:

- Chị biết không, nếu muốn mần ăn lớn thì nghe người ta nói phải qua bên Mỹ mới được. Nếu trời phù hộ tui qua đó bình an, tui sẽ ăn chay ba tháng rồi mở tiệm cầm đồ lấy lời chừng năm phân thôi.

Bà Thiện chưa kịp góp lời thì bà Lời đã nói tiếp:

- Chị biết không, ở bển nghe đâu người ta cho vay lời tới mười mấy, hai chục phân lận. Mình cho vay lấy ít thôi còn để lại phước cho con cháu. Phải không chị?

Bà Thiện gật đầu, thật ra lòng bà vẫn còn nơm nớp lo lắng khi chiếc ghe còn lênh đênh nơi biển cả. Nhưng khi nghe bà Lời phác họa một tương lai, bà cũng cảm thấy nguôi ngoai nỗi lo. Bà chạnh nghĩ đến mười mấy cây vàng đã gởi cho ông em rể hiện còn kẹt lại quê nhà giữ giùm mà đâm ra tiếc. Nếu biết trước là ra khỏi nước một cách quá dễ dàng như thế này thì cần chi phải lo xa chuyện bị bắt sẽ phải nhờ ông em đút lót vàng cho công an để chuộc tự do cho gia đình bà.

Bên kia, ông Thiện cũng đang quay sang nói chuyện với một người đàn ông đứng tuổi, dáng dấp bệ vệ, gương mặt có vẻ trí thức. Hai người nói chuyện có vẻ say sưa lắm. Người đàn ông khoa tay, rồi nói với một giọng quyết liệt:

- Ra ngoại quốc, mình phải làm một cái gì cho đất nước. Đúng vậy, phải làm một cái gì để cứu sáu mươi triệu đồng bào đang lầm than đói khổ từng ngày. Nhất định mình phải làm một cái gì, phải thực hiện một cái gì, phải ráo riết xây dựng một cái gì. Anh biết không, ước vọng của tôi sau khi thoát ra khỏi tầm tay của Việt Cộng, tôi phải tổ chức một cái gì ra trò, để đập vào mặt chúng nó.

Ông Thiện cất tiếng hỏi:

- Nói như vậy, chắc anh cũng đã có một kế hoạch để hoạt động khi ra ngoại quốc phải không?

Người đàn ông giơ ngón tay, chỉ vào đầu mình:

- Tôi có cả trăm kế hoạch chứa trong này, nhưng sẽ tùy cơ ứng biến. Tôi sẽ đi chu du khắp thế giới để vận động một cuộc tranh đấu cho lý tưởng tự do. Đúng thế, phải biểu dương một cái gì...

Ông ta ngưng lại một lúc như để lời phát biểu của mình ngấm vào tâm can người nghe, rồi hỏi ông Thiện:

- Còn anh dự tính gì khi ra ngoại quốc không?

- Tôi muốn tiếp tục làm nghề sinh nhai cũ của tôi, đó là nghề thầu khoán.

Người đàn ông trợn mắt, lắc đầu:

- Không được đâu, ra ngoại quốc muốn hành nghề gì cũng phải có bằng cấp đấy anh ơi! Rất tiếc anh không phải là quân nhân hay công chức quan trọng của chính quyền cũ nên không thuộc thành phần ưu tiên nâng đỡ của Mỹ.

- Vậy anh thuộc thành phần nào?

Người đàn ông tạo một nụ cười có vẻ bí mật:

- Nói nhỏ anh nghe, tôi là nhân viên tình báo CIA của Mỹ đấy! Mai mốt nếu anh cần làm một cái gì, tôi sẽ sẵn lòng giúp đỡ.

Bà vợ ông ta nằm mệt lả bên cạnh, trở mình ngồi dậy càu nhàu:

- Làm cái gì! Hở ra là làm cái gì, cái gì! Muốn làm cái gì thì bây giờ ông đi lấy giùm tôi miếng nước uống coi.

Người đàn ông liếc bà vợ, rồi vội vã đứng dậy, đi xin nước cho bà. Ở cuối khoang, một đám con gái đang nói chuyện về thời trang và son phấn ở ngoại quốc. Các bà thì đang tụm lại về đề tài gia chánh và vòng vàng, chuỗi hột. Không khí trong chiếc khoang chật hẹp trở nên vui như ngày hội. Họ chuyện trò thân mật. Niềm tin và hy vọng hiện lên trên nét mặt mọi người.

Đêm hôm đó, mọi người đang ngủ ngon, chợt thức giấc vì chiếc ghe lắc quá mạnh. Tiếng sóng đập vào lườn nghe ình ình như tiếng trống. Nữ, cô gái con ông Thiện ngồi bật dậy, quay sang phía mẹ, nói:

- Hình như có bão má à!

Bà Thiện cũng lật đật ngồi nhỏm lên:

- Làm gì có chuyện đó con.

Như để trả lời bà Thiện, một cơn gió mạnh hất tung chiếc nắp hầm qua một bên rồi mưa tạt xuống khoang nghe xối xả. Mọi người nghe nhốn nháo. Tiếng sét nổ xé trời làm lũ trẻ con khóc ré lên. Hai đứa em của Nữ cũng ôm chặt lấy bà Thiện mếu máo làm ông Thiện cũng mất bình tĩnh. Ông qua sang bên ông bạn CIA hỏi:

- Tại sao có bão mùa này vậy anh?

Ông CIA lắc đầu, tay bám chặt lấy mấy thanh gỗ bên sườn ghe cho khỏi bị té:

- Tôi đâu có rành về cái vụ đi biển. Có thể là một cơn bão bất ngờ.

Bà vợ ông ta ôm chặt lấy thân chồng:

- Mình phải làm sao bây giờ hả ông?

Người đàn ông lắc đầu:

- Tôi cũng như bà, ngồi chịu chết trong ghe chứ biết làm cái gì bây giờ!

Chỗ gia đình Nữ ngồi ngay dưới nắp hầm nên lãnh trọn số nước mưa tạt vào. Gió mạnh rít lên từng hồi. Nữ vội nhoi đầu lên khỏi miệng hầm, đưa tay cố kéo chiếc nắp đậy lại, nhưng sức gió mạnh quá, đè chiếc nắp hầm dính sát sàn ghe. Chớp loé lên sáng rực cả bầu trời tối đen như mực. Mưa ướt sũng cả đầu tóc, mình mẩy nàng. Những hạt nước cứ thi nhau tạt vào mặt nàng đau rát. Bà Thiện thấy con gái đang lúng túng, vội quát chồng:

- Trời ơi! Ông không đứng lên phụ nó một tay mà còn ngồi ngó chi không biết nữa!

Ông Thiện chợt lấy lại tinh thần.Ông đứng lên toan đến bên Nữ để phụ nàng thì ghe lắc mạnh làm ông mất thăng bằng tè nhào xuống, đau điếng. Ông CIA bên cạnh ông Thiện cũng muốn đứng dậy để phụ cô gái, nhưng bà vợ vẫn nắm cứng lấy chân ông chồng nên không xoay sở được. Nữ cố bặm môi, cố sức dở chiếc nắp hầm, may lúc ấy, Vũ, người con trai của ông Tư tài công, cũng đã lòn xuống từ phòng lái, tới phụ nàng đậy chiếc nắp hầm rồi cài then lại. Vũ nói lớn:

- Bão lớn quá!

Nữ lo ngại hỏi:

- Liệu ghe mình chịu nổi không hả anh?

- Không biết nữa. Nhưng chắc là không sao đâu.

Chiếc ghe lại lắc lư mạnh, nghiêng bên này, ngả bên kia kêu răng rắc làm đám hành khách thi nhau ói mửa. Thỉnh thoảng nó bị nhấc lên cao rồi lại rơi nhanh xuống khiến mọi người thót bụng. Mưa bão gào thét điên cuồng. Sấm sét nổ như xé trời. Từng khối nước biển thi nhau phóng lên không trung, rơi quật xuống chiếc ghe bé nhỏ.

Đoàn người vượt biển trong khoang bị nhồi nhừ tử, đè cả lên nhau. Nhiều người bị lả đi vì bị ói quá nhiều. Tiếng mưa bão ngoài trời pha lẫn tiếng khóc của trẻ con, tiếng la hét của người yếu bóng vía, tiếng cầu kinh, niệm Phật, tiếng khóc, tiếng quát tháo của mấy người đàn ông trấn an vợ, náo loạn cả lên. Tất cả trong khoang ghe trở nên hỗn độn, kinh hoàng.

Trên phòng lái, trời tối đen như mực, những ánh chớp nổ vang trời như muốn xé tan màn đêm. Từng đợt sóng cao dâng lên rồi đổ xuống chiếc ghe với một sức mạnh kinh hồn, làm như muốn đập tan nó ra thành từng mảnh vụn. Ông Tư tài công cột chặt thân người vào chiếc bục gỗ ngồi. Ông cố ghìm vững tay lái cho ghe lướt dọc theo triền sóng. Những cơn sóng cả và lôc đã làm chiếc ghe quay mòng mòng, ngụm lặn như muốn chìm. Vợ ông Tư tài công lo lắng cho chồng nên mò lên phòng lái. Bà ôm chặt lấy cây cột chống. Ông Tư tài công quát tháo, đuổi vợ xuống khoang, nhưng bà Tư vẫn đứng ì tại chỗ. Đã mấy lần bà suýt bị sóng cuốn đi. Dù không làm được gì trong phòng lái, nhưng bà cần có mặt bên chồng để chia xẻ nỗi nguy hiểm và yểm trợ tinh thần người lèo lái con thuyền.

Một tiếng sấm nổ vang trời, tiếp theo là một cột nước khổng lồ dâng lên cao ập xuống phòng lái, nhổ phăng đi chiếc cột chỗ bà Tư tài công đang nắm. Người đàn bà kêu thất thanh, rồi ngã nhào, bị khối nước kéo tượt ra khỏi phòng lái. Những ngón tay của người đàn bà cố bấu mạnh xuống sàn ghe để níu lại nhưng cũng không cưỡng lại nổi sức nước cuốn. Ông Tư vội buông tay lái, nhào ra chụp lấy cánh tay vợ, thân người bà Tư đã bị tụt xuống dưới bên hông ghe, đong đưa. Chiếc ghe không người lái quay tròn, nghiêng ngả như muốn lật úp trong tiếng gầm thét của phong ba.

Ông Tư một tay nắm lấy tay vợ, một tay níu lấy cái bệ cửa, cố ghì lại, nhưng một ngọn sóng khác kế tiếp quật lên sàn ghe, kéo người đàn bà tuột khỏi tay chồng. Ông Tư hét thất thanh:

- Trời ơi! Vợ tôi!

Nhưng tiếng sóng bão đã át đi tiếng thét thảm não của ông Tư tài công. Vũ chạy lên phòng lái. Kịp thấy cha mình sắp lọt xuống biển, chàng vội nằm rạp xuống, gắng sức kéo ông vào phòng lái. Ông Tư gào lên:

- Vũ, má mày bị nước cuốn đi rồi!

Vũ nghe nói hoảng hồn, nằm rạp xuống sàn, cố trườn tới lườn ghe nhìn xuống nước để tìm mẹ, nhưng dưới ánh chớp, bóng bà Tư mất dạng trong sóng biển. Tim Vũ se thắt lại. Chàng gào to:

- Má ơi! Má ơi!

Chiếc ghe bị sóng đẩy nghiêng hẳn về một bên như muốn lật khiến Vũ phải vội vàng bò lại phòng lái, điều khiển cho chiếc ghe nương theo sóng. Ông Tư tài công khuỵu xuống, ôm chặt lấy thành cửa ghe, lặng người đi. Ông chỉ muốn buông tay ra để chìm theo vợ.

Mưa bão vẫn gào thét điên cuồng. Sấm sét nổ như muốn phá tan bầu trời đen kịt. Từng khối nước biển dâng cao vẫn tiếp tục thi nhau quật mạnh xuống chiếc ghe bé nhỏ, dưới khoang ghe, bà Quốc ôm chặt lấy chồng. Cái bào thai sáu tháng trong bụng hành hạ bà dữ dội. Bà cảm thấy bụng đau nhói lên như có ai cầm dao nhọn đâm vào. Bà quằn quại đau đớn, thét lên. Ông Quốc quýnh quáng quay sang ông bác sĩ quân y Tường nằm bên cạnh toan cầu cứu, nhưng ông bác sĩ duy nhất trong ghe cũng đang ôm bụng gập người xuống, mửa tháo ra.

Tình cảnh trong ghe thật là bi đát, hỗn loạn. Chợt chiếc ghe bị hất tung lên cao rồi rơi mạnh xuống như trời giáng. Lườn ghe lại kêu rắc rắc, rồi phía hông bên trái bị một kẽ nứt, nước rỉ vào khiến mọi người hốt hoảng,ré lên:

- Ghe nứt rồi! Nước tràn vô bà con ơi!

Đám người mất tinh thần vội dồn sang một bên để tránh chỗ nước rỉ. Tiếng kêu khóc lại vang lên dữ dội. Một thanh niên bò tới chân thang hét vọng lên phòng lái báo động. Vũ phải giao tay lái cho ông Tư tài công, chạy xuống, tay cầm một bịch dầu trét ghe. Vũ hét to:

- Đừng có dồn hết sang một bên, coi chừng ghe lật đó!

Mặc chàng nói, chẳng ai thèm để ý. Vũ tới bên lườn ghe, móc dầu trét vào kẽ nứt. Mấy người đàn ông nữa tới nữa trét phụ với Vũ. Kẽ nứt ngưng rỉ nước. Đám người bấy giờ mới chia đều ra hai bên. Người nào cũng ráng bấu lấy những thanh gỗ nơi lườn ghe để khỏi bị xô vào nhau.

Trên phòng lái, ông Tư cố nén đau thương đang cố gắng điều khiển chiếc ghe lướt trên triền sóng. Từng đợt sóng cả nhô cao rồi đổ xuống đập mạnh vào lườn ghe nghe ầm ầm làm thân ghe chuyển mình kêu răng rắc. Vũ cố gắng bò trên sàn ghe ra chỗ để thăm chừng những chiếc can nhựa hai mươi lít, chứa nước ngọt, nhưng xui xẻo, sợi giây thừng cột chúng lại với nhau bị đứt từ lúc nào, những can nước mất hết, chỉ còn xót lại ba can, nằm chênh vênh trên sàn ghe đang chờ sức sóng hất chúng xuống biển.

Vũ hốt hoảng chụp lấy ba can nhựa đựng nước ngọt kéo vào trong, rồi chuyển chúng xuống miệng hầm cho đám thanh niên ở dưới khoang chất vào một góc. Dù sao thì trên biển cả, nước ngọt là mạng sống của con người. Nước mưa tạt xuống khoang làm những người bị ướt la ré lên, dồn tránh qua một bên, Vũ đậy nắp hầm lại. Một khối nước khổng lồ quật xuống thân Vũ khiến lồng ngực chàng tức như búa bổ. Vũ níu lấy đám lưới trên sàn ghe bò dần về phòng lái. Chàng thấy ông Tư tài công một tay đang ôm mặt, một tay lái ghe. Vũ hốt hoảng hỏi:

- Ba bị sao thế?

- Đầu tao bị đập trúng cái tay lái, hơi ê ẩm, nhưng không sao cả.

- Liệu cơn bão này có kéo dài không hả ba?

- Không biết nữa

Trong ánh chớp, Vũ thoáng thấy trán ông Tư tài công rỉ máu. Chàng vội nói:

- Ba xuống dưới kiếm cái gì mà băng đầu đi, để con cầm lái cho.

Cơn bão vẫn nhồi chiếc ghe đáng thương cho đến khi mọi người đều nằm rạp vì say sóng, và họ thiếp đi trong mệt mỏi, rã rời...

Cơn thịnh nộ của đại dương dịu dần cho đến tờ mờ sáng thì dứt hẳn. Bầu trời quang đãng. Trong ánh sáng của hừng đông, mặt biển lại phẳng lặng, hiền hòa như chẳng có chuyện gì đã xảy ra trong đêm qua.

Nắng ban mai rực rỡ, chan hòa trên vùng nước màu xanh thẫm. Nữ lần lên trên sàn ghe để cho thoáng khí. Tiếng máy ghe đã im bặt từ lúc nào, chỉ còn tiếng sóng rì rào. Ông Tư tài công, ông Thiện và mấy người đàn ông nữa đang lui cui nơi phía sau đuôi ghe. Một người đàn ông hỏi:

- Bánh lái bị trục trặc có sửa được không hả chú Tư?

- Chưa biết rõ, còn coi cái đã.

Mấy gương mặt chăm chú nhìn xuống vùng nước xanh. Nơi bánh lái, một cái đầu chợt trồi lên khỏi mặt nước. Mọi người nhận ra là Vũ. Ông Thiện nóng ruột hỏi:

- Bị sao vậy?

Vũ đạp cho người nổi lên, rồi đưa tay vuốt nước trên mặt:

- Bánh lái gãy mất tiêu rồi!

Câu trả lời như tiếng sét đánh ngang đầu mọi người. Ông Tư tài công hỏi vọng xuống:

- Mày có coi kỹ chưa?

Vũ bơi sát lại hông ghe rồi leo lên:

- Coi kỹ rồi, vô phương!

Nữ cảm thấy tim mình se thắt lại. Một người đàn ông lên tiếng hỏi với giọng lo sợ:

- Còn cách nào cứu vãn không ông Tư?

Ông Tư tài công lặng yên không nói. Nhìn nét mặt nghiêm trọng của ông tài công, người ta đoán được câu trả lời. Ông CIA nói lớn:

- Bây giờ chúng ta phải làm một cái gì đi chứ?

Ông Thiện quay qua hỏi ông ta:

- Vậy chứ ông muốn làm cái gì bây giờ?

Ông CIA giơ tay phác họa vào không khí:

- Chẳng hạn như làm một cái bánh lái khác!

- Lấy gỗ, sắt, cưa, bào đục đâu mà làm?

Ông CIA nhún vai:

- Cái đó là lỗi của các ông tổ chức không dự phòng trường họp này có thể xảy ra để mà đem theo một cái bánh lái sơ cua.

Ông Tư khoát tay:

- Bây giờ không phải là lúc chúng ta tranh luận nữa. Trận bão vừa qua đã làm gãy cái bánh lái, sóng biển còn cuốn hết cả nước uống và mấy thùng đồ ăn của chúng ta rồi. Chỉ còn ba can đựng nước duy nhất may mắn sót lại đang để dưới khoang. Tất cả chúng ta sẽ phải sống cầm hơi bằng ba can nước đó cho tới khi được tầu buôn cứu. Tôi đề nghị tất cả ưu tiên cho con nít và đàn bà.

Mọi người nghe nói đều lo sợ. Cảnh biển thật đẹp, vậy mà lòng họ đang héo hon, u ám như bầu trời có giông bão. Nữ hỏi Vũ:

- Tôi cảm thấy lo quá. Anh có nghĩ là tình trạng ghe mình trở nên nguy ngập không?

Vũ thở dài:

- Người ta có thể nhịn đói vài ngày không sao, nhưng thiếu nước chừng vài giờ thôi thì mọi người trên ghe đều xỉu cả.

Câu trả lời tuyệt vọng của Vũ khiến nữ thật buồn. Nàng đưa mắt nhìn đại dương bao la, không bờ bến. Màu xanh thẫm của biển sao lạnh lẽo quá. Hình bóng tử thần như lảng vảng quang đây. Không ngờ chuyến đi tìm một sinh lộ cho đoàn người lại là con đường chết.

Sóng vỗ nhè nhẹ vào lườn ghe trong tiếng gió biển vi vu, âm thanh buồn thảm. Nữ quay sang hỏi Vũ:

- Tại sao mình không đốt khói lên để làm hiệu kêu cứ những chiếc tầu đi qua đây?

Vũ trầm ngâm một chút rồi trả lời:

- Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng chỉ sợ lỡ mấy thằng hải tặc Thái Lan nó kéo tới đây thì mình lại chết sớm nữa. Cứ thủng thẳng rồi tính.

Nữ im lặng ngao ngán. Lại thêm một mối lo sợ nữa mà nàng quên, không nghĩ tới. Trên chiếc ghe này, phần lớn là đàn bà, con gái, chắc chắn họ sẽ là mồi ngon cho bọn hải tặc vô lương tâm.

Ông Tư tài công bỏ ra mũi ghe đứng im lặng, nhìn xuống mặt nước, nét mặt buồn rười rượi. Cũng khung trời xanh, cũng nắng đẹp, cũng sóng biển hiền hòa này, ngày hôm qua ông và vợ con còn ngồi trong phòng lái bàn chuyện tương lai. Vợ ông mơ ước nếu gia đình ông được đến bất cứ một quốc gia nào thì ông nên tiếp tục làm nghề đánh cá như ngày xưa. Bà sẽ cố gắng cuốc xới một mảnh vườn nho nhỏ đằng sau nhà để trồng thêm những loại hoa mầu và nuôi vài con gà để lũ con và ông có thức ăn tươi. Bây giờ, người đàn bà hiền lành, chất phác đó đã nằm yên dưới lòng biển lạnh. Ông Tư tài công nấc lên, hai giọt lệ lăn dài trên đôi má nhăn nheo.

Vũ đến bên ông lên tiếng an ủi:

- Thôi ba cũng đừng buồn nữa. Trong hoàn cảnh khốn khổ này ai đi trước thì người đó yên phận. Những kẻ còn lại như chúng mình, nếu không có tầu vớt thì cũng chết dần mòn vì đói khát mà thôi.

Ông Tư vẫn lặng im, đôi mắt rưng rưng nhìn biển khơi. Vũ thở dài. Chợt có tiếng la khóc dưới khoang rồi tiếng người ồn áo vọng lên làm Vũ hốt hoảng. Chàng nói với ông Tư:

- Để con xuống dưới xem chuyện gì vậy.

Nói xong Vũ tuột xuống mấy nấc thang. Chàng thấy một đám người bu quanh lấy bà Quốc. Người đàn bà mặt xám ngắt, nằm nghẻo đầu sang một bên. Ông Quốc nắm tay vợ khóc sướt mướt. Hai đứa nhỏ cũng gào thét bên mẹ. Bên cạnh, bác sĩ Tường buông cổ tay bắt mạch cho bà Quốc rồi lắc đầu:

- Tim bà ấy ngừng đập rồi!

Ông Quốc mếu máo, nhìn bác sĩ Tường với ánh mắt van lơn:

- Bác sĩ làm ơn làm phước ráng cứu vợ tôi.

Bác sĩ Tường thở dài:

- Trong hoàn cảnh không có dụng cụ, không thuốc men, một chứng bệnh bình thường tôi cũng đành bó tay, huống chi bà ấy đang có thai, bị sóng biển hành đuối sức.

Một bà lên tiếng hỏi:

- Bác sĩ coi kỹ lại đi. Có thể bà ta chỉ ngất xỉu một lúc thôi?

Bác sĩ Tường im lặng. Trong hoàn cảnh này ông cũng chẳng biết phải trả lời làm sao. Một linh mục mặc áo dòng đen, vẹt mọi người ra hai bên rồi chen vào ngồi bên xác người đàn bà xem xét. Đó là cha Tự. Ông Quốc nắm bàn tay lạnh giá của vợ, nhìn cha Tự sụt sùi nói:

- Xin cha làm phép xác cho nhà con!

Cha Tự quỳ gối làm dấu thánh giá rồi cất giọng đọc mấy câu kinh. Những người đi đạo cũng lên tiếng đọc kinh theo cha. Mọi người trong khoang đều cúi đầu mặc niệm.

Buổi chiều hôm ấy, khi những tia nắng cuối cùng của mặt trời còn le lói phía chân trời Tây. Mọi người lên trên sàn ghe dự đám thủy táng bà Quốc. Thi thể người đàn bà được đặt nằm ngay ngắn trên sàn, không quan tài, không vải liệm. Chiếc ghe tắt máy, bềnh bồng trôi. Giọng cầu kinh trầm buồn của mọi người vang lên. Xong bài kinh, cha Tự ngước mắt lên trời, cất giọng buồn thảm:

- Lạy Chúa! Xin Chúa hãy đón nhận linh hồn của bà Quốc và đứa hài nhi chưa chào đời , và yên nghỉ nơi nước trời. Người chết đã yên phận, nhưng còn đám thuyền nhân khốn khổ chúng con đây, đang tiếp tục một cuộc hành trình không bờ bến, đầy gian khổ. Xin Chúa hãy đưa chúng con thoát khỏi hiểm nguy mà bình yên đến được bến bờ tự do. A men!

Lời cầu nguyện trầm buồn của cha Tự khiến nhiều người rơi nước mắt. Cái xác bà Quốc được mấy người đàn ông khiêng lên, đi tới sườn ghe. Ông Quốc và hai đứa con khóc oà lên. Một tiếng "ùm" khô khan. Thân thể người đàn bà bất hạnh nổi dật dờ một lúc như gởi lời vĩnh biệt, rồi chìm sâu dưới làn nước xanh biếc. Nét mặt buồn thảm hiện trên gương mặt của mọi người. Bác sĩ Tường nói vài lời an ủi ông Quốc. Mấy người đàn bà dỗ dành hai đứa trẻ cho chúng nín khóc. Sau đó mọi người lại lục đục kéo nhau xuống khoang ghe với tâm trạng buồn nản.

Hai ngày nữa trôi qua trong lo âu thấp thỏm. Đám thuyền nhân trên ghe bắt đầu nếm mùi cực khổ. Ba can nước trên ghe đã được hạn chế sử dụng đến mức tối đa, chỉ được dùng để nấu cháo vì họ không thể ăn gạo sống được, và ưu tiên cho những đứa bé. Người lớn phải cố chịu đựng và chỉ được thấm môi khi quá khát. Người ta cầu mong có được một trận bão như hôm nào để có nước uống, nhưng quái ác thay trời cứ nóng như thiêu như đốt. Ban ngày mặt trời chói chang hừng hực lửa. Ban đêm những cơn gió hầm hập mang luồng không khí nực nội thổi luồn xuống khoang khiến da thịt mọi người như bị sấy khô đi. Ai nấy đều mang một giấc mơ ước được gặp chiếc tầu buôn nào đó đi ngang vùng biển này, cứu vớt họ.

Bốn ngày nữa lại nặng nề trôi qua. Mưa vẫn không đổ xuống, và ca nước cuối cùng cũng vừa hết, khoang ghe bao trùm bầu không khí nặng nề khó thở. Người ta nằm bẹp trong khoang ghe mệt mỏi, những cặp mắt lo sợ nhìn nhau. Dường như bóng dáng Tử Thần đang lảng vảng quanh đây.

Hưng Sâm, ông thương gia vùng chợ lớn, lả người gối đầu lên chiếc túi da đựng hai trăm cây vàng, và một túi nữ trang, tài sản của vợ chồng ông mang theo trong chuyến vượt biển này. Ông nuốt nước bọt. Chiếc lưỡi khô queo, đắng ngắt của ông không còn một chút nước. Trí óc ông lúc mê, lúc tỉnh. Ông đang tưởng tượng những ly nước đá lạnh trong vắt mà hằng ngày ông vẫn hắt đổ đi sau khi uống thừa. Bây giờ nếu có được, ông sẵn lòng đổi hai trăm cây vàng này để lấy một ly nước lạnh đó cho gia đình ông. Đời thật trớ trêu. Trong cuộc sống thường nhật, ông đâu có ngờ có ngày ông lại lâm vào tình trạng đói khát trong lúc ông đang nắm trong tay bao nhiêu tiền bạc như hôm nay đâu. Hối hận chợt dâng lên trong lòng ông, nếu biết như thế này thì ông không dàm bước chân xuống ghe để mạo hiểm.

Màn đêm lại buông xuống. Đại dương lại bao trùm một màn đen ghê rợn. Những đứa trẻ con bắt đầu khóc đòi uống nước. Một đứa bé chừng một tuổi khóc ré lên trong lòng mẹ vì nó khát. Người đàn bà cố nhét vú của mình vào miệng con, nhưng vú chị không còn sữa. Đứa bé nhả vú mẹ ra, khóc lặng người đi. Người đàn bà ràn rụa nước mắt vỗ về con. Tiếng khóc của đứa bé yếu dần, chìm trong những tiếng khóc của những đứa trẻ lớn hơn. Đám cha mẹ của chúng ôm lấy con nghẹn ngào. Rồi những đứa trẻ lại lả người đi.

Đêm dài lại nặng nề trôi qua. Chiếc ghe lâm nạn bồng bềnh trôi. Dưới khoang ghe, cơn đói khát đã bắt đầu hành hạ mọi người. Không còn ai đủ sức ngồi dậy vì mệt lả. Một thanh niên leo lên miệng hầm, lảo đảo đi tới lườn ghe. Vũ ngồi trên sàn ghe, thấy thế vội chạy ra la lớn:

- Anh kia làm gì vậy?

Thanh niên quay lại, mặt thất thần:

- Tôi khát nước quá, muốn lấy nước biển uống.

Vũ trợn mắt:

- Bộ anh điên hả? Nước biển mặn chát, làm sao mà uống?

- Tôi phải uống chứ không còn chịu nổi nữa rồi.

Gã thanh niên nói xong lao mình xuống nước. Vũ nhào tới toan giữ tay anh ta nhưng không còn kịp nữa. Gã thanh niên chới với trong nước. Vũ vội vàng chạy đến đống lưới lấy một sợi dây thừng, quay lại hông ghe để tiếp cứu, nhưng thân hình gã thanh niên biến mất trên mặt biển.

Vũ buồn bã đưa mắt nhìn xuống những đợt sóng biển nhấp nhô đập vào mạn ghe. Mắt anh rưng rưng khi nhớ đến mẹ mình. Chợt vũ đưa mắt nhìn ra khơi. Xa thật xa, có bóng dáng của hai chiếc ống khói tầu nhô lên khỏi mặt nước, với đám khói đang bay lên cao. Vũ mừng rỡ, chạy vào trong phòng lái lấy cái ống nhòm của lính, nhìn về phía hai chấm đen đang nhả những sợi khói mỏng. Ông Tư tài công đang nằm trên chiếc phản gỗ nơi phòng lái, vội ngồi nhỏm dậy hỏi dồn:

- Có chuyện gì đấy Vũ?

Vũ quan sát thật kỹ, rồi nói:

- Có một chiềc tầu buôn mang cờ Pháp, nhưng nó ở quá xa.

Ông Tư tài công mừng rỡ nói:

- Vậy mình cầu cứu nó đi.

Vũ trả chiếc ống nhòm cho ông Tư tài công rồi nói nhanh:

- Để con đốt lửa làm hiệu.

Vũ cởi phăng chiếc áo thun đang mặc tới chỗ phuy dầu chạy máy được hàn dính trên sàn ghe, mở nắp nhúng chiếc áo thung vào. Một người thanh niên vừa dưới khoang chui lên, cũng cởi chiếc áo mình ra đưa cho Vũ. Hai chiếc áo được bỏ trong chiếc thau nhôm méo mó, đốt lên, nhưng ngọn lửa quá yếu, và bị gió thổi bạt nên khói không bốc nổi lên cao. Gã thanh niên chạy lại nắp hầm khom người nói vọng xuống:

- Mình gặp tàu lớn rồi bà con ơi. Tôi cần thêm một ít quần áo để đốt lửa cầu cứu họ tới vớt mình.

Đám người nằm trong khoang nghe có tầu vớt như được uống thuốc hồi sinh. Họ ngồi nhổm cả dậy. Đám đàn ông vội cởi hết những cái áo đang mặc đưa cho gã thanh niên. Vài người còn sức lực vội leo lên khỏi miệng hầm để xem. Ngọn lửa nhờ có thêm quần áo bùng cháy cao hơn. Khói bay lên trời cuồn cuộn. Vũ hỏi ông Tư tài công:

- Nó tới gần mình chút nào chưa?

Ông Tư tài công nhìn xong, đưa ống nhòm cho Vũ lắc đầu buồn bã:

- Nó quẹo mũi chạy hướng khác rồi.

Vũ dán mắt vào chiếc ống nhòm. Tim chàng bỗng nhói lên khi thấy hai chiếc ống khói tầu mỗi lúc một nhỏ dần rồi khuất dưới mặt biển. Chàng thở dài nói với cha:

- Nếu mình nhìn thấy họ thì chắc chắn họ cũng phải nhìn thấy mình đốt khói chớ. Như vậy có thể là họ bỏ rơi mình rồi. Đám đàn ông trên sàn ghe đang cố tẩm thêm dầu vào những chiếc áo đốt tiếp tục với hy vọng được các tầu khác cứu. Ngọn lửa cháy với ngọn khói đen lại bị gió thổi tạt nằm rạp xuống. Thêm một vài chiếc đầu nữa với gương mặt phờ phạc ló lên khỏi miệng hầm:

- Tầu vớt đâu? Tầu vớt đâu?

Đám người đốt lửa không buồn trả lời. Niềm thất vọng hiện rõ trong ánh mắt họ khi bóng dáng chiếc tầu đã biến mất nơi chân trời xa. Ông Tư tài công, Vũ và đám đàn ông, mặt buồn xo nhìn ngọn lửa bập bùng trên sàn ghe, tàn dần niềm hy vọng mong manh của họ vừa bừng lên đã lịm tắt đi. Đám đàn ông đứng ngó mông lung ngoài mặt biển một lúc, rồi lại chui xuống khoang với nỗi thất vọng. Chợt Vũ nghe có tiếng người la hoảng bên dưới khoang vọng lên:

- Trời ơi! sao miệng đứa bé toàn máu không vậy nè?

Vũ tụt xuống khoang. Một đám người bu quanh chị đàn bà có đứa con một tuổi, đứa bé nhỏ nhất trong ghe. Chị ta đang cho con bú. Thằng bé mút lấy mút để vú mẹ. Một dòng máu đỏ tràn qua mép đứa bé. Người đàn bà dựa thành khoang ghe, ôm con, đôi mắt nhắm nghiền, khuôn mặt lợt lạt. Bà Thiện vội lay mạnh chị đàn bà:

- Nè chị! Tỉnh dậy mà coi con chị nó sao rồi.

Chị đàn bà không mở mắt. Bà Thiện vội vàng kéo đứa bé ra khỏi lòng mẹ. Mũi và miệng đứa bé ngoe ngoe máu. Mọi người trợn to mắt kinh hãi khi thấy đầu vú người đàn bà có một vết cắn sâu vào thịt. Một cô gái sợ hãi quá la lên:

- Trời ơi! Bà cắn vú cho con uống máu mình nè trời!

Bác sĩ Tường vạch đám đông, chen tới, đặt người đàn bà ngay ngắn, rồi làm động tác hô hấp để cứu tỉnh người đàn bà. Máu ở đầu vú chị ta vẫn ứa ra. Người đàn bà khẽ mở đôi tròng mắt lạc thần nhìn những khuôn mặt lờ mờ đang vây quanh chị. Bác Sĩ Tường cúi mặt hỏi chị:

- Tại sao chị làm chuyện dại dột vậy?

Chị đàn bà thều thào:

- Con...tôi nó khát....Tôi...muốn nó còn sống...Để gặp tầu vớt.

Chị đàn bà nói xong nhắm nghiền đôi mắt lại. Bàn tay chị lạnh giá từ từ. Dòng máu đỏ trên núm vú chị đã ngưng chảy. Bác sĩ Tường bắt mạch cho nạn nhân rồi lắc đầu thở dài:

- Tim chị ấy ngừng đập rồi!

Có tiếng khóc đâu đây của vài cô gái. Cha Tự cũng có mặt. Cha vội quỳ xuống, làm dấu thánh giá đọc kinh cầu nguyện cho người qua đời. Bà Thiện bế đứa nhỏ, ngơ ngác hỏi chồng:

- Sinh mạng những người trên ghe này đành phó thác cho Trời. Bây giờ mẹ đứa bé đã chết thì trong ghe chúng mình đành phải trông coi nó, chứ biết tính sao bây giờ

Thằng bé con thấy người lạ bu quanh mình, nó khóc òa lên rồi bò tới bên xác mẹ. Bà Thiện phải kéo đứa bé ra, lau gương mặt dính ngoe ngoét máu của nó.

Vài người đàn ông khiêng xác người mẹ xấu số ra hông ghe. Thêm một thây người nữa được trả về lòng biển. Đám thủy táng chỉ có Vũ, cha Tự, Bác sĩ Tường, ông Quốc và vài người đàn ông còn sức tham dự. Tất cả những người còn lại không đủ sức leo lên miệng hầm nữa. Hết nước, không thể nấu cơm, những nắm gạo sống được phân phát cho mọi người nhấm nháp cầm hơi, nhưng người ta cũng nuốt không nổi khi miệng ai nấy đều khô queo vì không còn nước.

Chiều xuống thật mau. Không gian chuyển sang một mầu tối ám. Mặt trời đỏ ối như máu, tròn to như cái mâm, chìm một nửa xuống lòng biển xám. Những giải ánh sáng vàng cam, tím sẫm và xanh biếc còn bịn rịn, le lói ở cuối trời như muốn gởi lời chào từ biệt đám người bất hạnh. Chiếc ghe vẫn bập bềnh nhấp nhô như chiếc lá khô trôi giữa dòng sông. Biển sao lặng lẽ quá. Từng đợt sóng con vỗ nhẹ vào lườn gỗ róc rách.

Trời nóng như một cái lò lửa. Những cơn gió oi ả vẫn lùa xuống khoang, hâm nóng mọi người. Ai nấy đều vã mồ hôi và khát xé cả họng. Vài đứa bé con đã ngất xỉu đi trên tay mẹ chúng. Lại thêm những tiếng khóc thảm thiết của mấy người đàn bà.

Màn đêm buông xuống bao phủ mặt biển bao la. Vài đứa trẻ con co giật thân người, chờ chết bên những cái thân rũ liệt của cha mẹ chúng. Đứa bé mất mẹ lại khóc thét lên vì đói khát, Bà Thiện cố nhai miếng gạo sống để mớm cho thằng bé, nhưng miệng bà cũng chẳng còn tí nước bọt nào. Đêm hôm đó đứa bé lả đi, nằm bất động bên cạnh thân xác rã rời của bà Thiện. Mọi người đã quá đuối sức. Chẳng ai trong ghe còn sức lực và tỉnh táo để quan tâm tới đứa bé còn sống hay đã chết. Lác đác trong khoang ghe, những người già không còn sức chịu đựng cũng đang nằm bẹp trên sàn thoi thóp. Nếu không có những lồng ngực còn nhấp nhô thở nhẹ thì người ta tưởng như trong ghe toàn là xác chết, và chiếc ghe trở thành một quan tài nổi đang bồng bềnh trên biển.

Trên sàn ghe, ông Tư tài công đã kiệt sức, nằm lả người trên chiếc phản trong phòng lái. Vũ cố gượng ngồi trên đám lưới canh chừng mặt biển. Dù sao, còn là thanh niên, Vũ vẫn còn sức chịu đựng hơn là mọi người trên ghe. Chàng đưa đôi mắt mệt mỏi nhìn lên bầu trời đen thẫm với hàng triệu vì tinh tú. Ánh sao sáng lấp lánh khi mờ khi tỏ. Chàng không hiểu ngôi sao bản mệnh của chàng và những người khốn khổ trên ghe này nằm ở góc trời nào. Chúng còn sáng hay lu mờ sắp tắt. Đầu óc Vũ như nặng trĩu bởi cơn buồn ngủ dữ dội đang kéo tới. Mắt chàng mờ dần đi và cứ phải chớp liên hồi mới có thể nhìn được cảnh vật. Vũ biết rằng bộ óc chàng thiếu nước. Có chịu đựng giỏi lắm cho tới bình minh ló rạng là chàng sẽ gục chết ở đây.

Vũ đưa lưỡi liếm bờ môi khô, nứt nẻ của chàng. Lưỡi chàng cũng không đủ ướt để làm mềm bờ môi. Cơn gió nóng hầm hập của biển thổi qua khiến Vũ cảm thấy như muốn ngộp thở. Tiếng lao xao của sóng biển đêm như tiếng thì thào than khóc của hàng vạn oan hồn thuyền nhân cũng chỉ vì muốn xa lánh Cộng Sản để tìm một sinh lộ cho gia đình, cho đàn con nhỏ của họ sống trong no ấm và có tương lai mà họ đã ra đi tìm tự do để rồi phải chết chìm vì bão tố hay chết lần mòn giữa biển khơi vì cạn hết lương thực nước uống như chiếc ghe này. Vũ không hiểu thế giới bên kia như thế nào? Thế giới bên kia có những đau khổ, bất hạnh, chiến tranh, chết chóc, và hận thù như thế giới của những người đang sống này hay không? Tự nhiên Vũ cảm thấy tinh thần mình than thản lạ thường, một sự bình tĩnh để đón nhận giờ phút cuối cuộc đời. Thôi, nếu không tìm thấy được một mảnh đất tự do để có một hạnh phúc nhỏ nhoi, thì chết nơi lòng biển, Chúa, Phật cũng sẽ dẫn dắt linh hồn đám thuyền nhân bất hạnh này tới vùng đất thiên đàng của các ngài, thế cũng được an ủi lắm rồi.

Chiếc ghe bất hạnh vẫn nổi bồng bềnh trong màn đêm dầy đặc. Gió rít từng hồi. Mặt đại dương đen sẫm như tương lai của biết bao thuyền nhân trong những chuyến hải hành khốn khổ, đi tìm tự do trong lòng biển đêm đầy giông tố, hãi hùng.

Đâu phải chỉ có một mình ở nhà

"Cứu tôi với"-cô gái hét lên. Muốn biết chuyện tiếp theo thế nào xin đón đoc tập sau sẽ rõ. Gấp lại quyển sách ma , Thúy cảm thấy hơi rùng mình. Thúy là một cô gái có cá tính mạnh mẽ , nó luôn dũng cảm trong mọi trường hợp và nó luôn khảng định với chính mình là nó không bao giờ sợ ma.

Hôm nay, Thúy phải ở nhà một mình, bố mẹ Thúy đến bà ngoại , Thúy không đi được vì còn bận việc học. Ở nhà một mình, nghe đã rợn người nhưng Thúy không sợ, nó dũng cảm chấp nhận ở nhà một mình. Dù sao cũng chỉ ở nhà một mình trong một ngày mà thôi.

Chuông đồng hồ kêu, nó ngáp ruồi. đến giờ phải đi ngủ, nó cài cửa nhà lại sau đó nó bước đến cửa sổ để cài then cửa. Bỗng nó cảm thấy hình như có một thứ gì đó đang đứng ở đằng sau , quay người lại nó chẳng thấy gì cả. Quay lại với việc cài then cửa, Thúy nhìn thấy trên khung cửa kính viết ba chữ " ngươi phải chết " bằng máu tươi. Nó dụi mắt nhìn lại thì chẳng thấy gí cả. Đinh ninh chỉ là ảo giác , nó yên tâm quay lại ghế ngồi. Đèn điện vụt tắt , một thứ ánh sáng màu đó loé lên từ ngoài vườn. Khoảng 10 giây sau, có điện, đèn sáng, ánh sàng màu đỏ đó biến mất. Thúy cảm thấy hơi sợ người nó bắt đầu run."Tính tong" tiếng chuông cửa reo lên , nó giật bắn người. Ra đến cửa nó lưỡng lự xem có lên mở cửa hay không , nhìn qua chiếc ống nhỏ trên cửa thấy người quen nó vui mừng mở cửa, dì nó đến. Nhìn thấy dì Hương nó cảm thấy mình được an toàn hơn. Thấy hơi lạ vì sao dì nó lại đến vào giờ này, nó vặn hỏi thì dì nó bảo là mẹ nó nhờ dì nó đến trông nó.

Yên tâm là cảm giac bây giờ cửa nó. Hai dì cháu ngồi nói chuyện vui vẻ với nhau. 9h30 phút đồng hồ lại điểm chuông, nhìn thấy mồm gì nó chảy máu, nó lấy tay lau vết máu ý cho dì nhưng lau mãi không sạch. Thúy kinh ngạc hỏi dì Hương, dì nó lấy tay lau vết máu trên mồm thì lại rất sạch máu không hề chảy ra nữa. Hai dì cháu lại tiếp tục với câu chuyện đang nói dở.

Tiếng chuông điên thoai reo, Thúy ra nghe điện thoại, mẹ gọi về báo tin buồn là dì Hương bị ốm nặng đã qua đời hai tiếng trước. Bỏ máy xuống nó đứng lặng im như chôn chân tại chỗ nó nhìn sang cái người mà bảo là dì Hương của nó. Một lúc sau nó di chuyển từng bước chân để đi đến cửa ra vào. Khi đã đứng cạnh cửa , nó cẩm lấy cái nắm cửa định mở cửa ra. Đứng cố mở cửa làm gì cô cháu gái của ta cháu sẽ không thoát ra khỏi đây được đâu - cái người bí hiểm đó nói

-Sao dì lại nói vậy?

-Hai tiếng trước ta là dì Hương yêu quý của cháu nhưng bây giờ ta là một con ma cần máu người để sống. Nói xong dì nó tiến lại gần nó nhe cái răng sắc nhọn của mình ra, dì nó chuẩn bị hút máu của nó.

-Đừng- nó hét lên đầy tuyệt vọng. Dì nó ngặm vào cổ nó. Nhưng nó không cảm thấy và máu cũng không chảy ra. Chắc hẳn dì nó vẫn còn có tình thương máu mủ ruột thịt. Dì nó đã tha cho nó vì dù sao nó vẫn là đứa cháu trước kia dì nó đã hết mực thương yêu. Chỉ một cái chớp mắt , hồn ma cửa dì nó tan thành mây khói và để lại trên sàn nhà một vũng máu tươi.

Nó đứng lặng im, cả người nó như đóng băng. Chấn tĩnh lại nó ngấc điện thoại lên bấm số để gọi cho bố nó. "Đoàng"-sét đánh đường dây điện thoại bị đứt. Sợ. Thúy với lấy cái di động nhưng trời ơi nó gặp xui điện thoại hết pin. Nó ngồi ngục mặt xuống, vừa sợ vừa run nó òa khóc."Tính tong" tiếng chuông cửa lại một lần nữa vang lên, Thúy cứ ngồi lặng im nó không dám mở cửa. Rồi từ khe cửa một tờ giấy gấp đôi được đẩy vảo. Tay run run nó cẩm tờ giấy lên chưa kịp đọc thì tờ giấy bùng cháy ngay trên tay nó. Thúy dụt tay lại, mẩu giấy cháy rơi xuống sàn biến thành máu và chảy lênh láng khắp sàn nhà. Hoảng quá nó leo vội lên ghế ngồi. Chậu hoa phong lan của nó bỗng rơi xuống sàn, cây hoa gặp máu bỗng chở lên khô héo. Bây giờ nó rơi vào tình trạng lo sợ không xác định được phương hướng, nó ngôi dờ người ra trên ghế , tim nó đập loạn "phải làm gì bây giờ?"nó tự hởi rồi ngước lên hỏi trời. Một giọt máu trên trần nhà rơi xuống cạnh chỗ nó ngồi. Giật mình nó lùi lại. Chiếc ghế không cân bằng, nó rơi tõm xuống vững máu dưới sàn nhà.

Máu- nó dơ bàn tay lên, cả bàn tay của nó nhuộm đỏ màu máu tươi. Nó đứng phắt dậy lao vào bếp vặn vòi nước rửa tay. Một con rắn màu đỏ chui ra từ vòi nước cuốn vào tay Thúy, nó vung tay con rắn rơi xuống sàn và bò đi mất. Cô đơn Thúy cảm thấy sợ khi ở nhà một mình , nhìn ra cửa sổ nó định phá cửa thoát ra ngoài. Nhưng không thể nào được nữa rồi, ngoài cửa sổ một bóng ma đã xuất hiện. Nó lừ đừ đứng trước cửa sổ , mắt đỏ rực chân tay khẳng khiu đang cố đập cửa, bàn tay ma in năm ngón tay máu lên cửa kính. Thúy cần phải tự vệ Thúy rút con dao trong ổ ra, một xác người treo cổ rơi xuông trước mặt Thúy. Thúy cầm con dao chạy lên gác, lên phòng mình nó mở cửa và đóng sầm một cái. Thúy leo lên giường ngồi lặng im. Các bóng ma đã vây quanh nhà Thúy không còn đường thoát nó ngôi trong trạng thái tuyệt vọng. Căn nhà ngâp tràn máu, ma đã tràn vào nhà. Những con ma ăn thịt đang ring rập ở ngoài cửa phòng còn ở cùa sổ là vô vàn những con quỷ hút máu ngừơi.

Của kính đã nứt máu rò rỉ vào phòng. Rơi vào tình trạng không còn lối thoát. Chỉ còn ít phút nữa Thúy sẽ bị lũ ma ăn thịt. Nó cảm thấy cuộc đời nó thật bất hạnh, thôi đành chấp nhận đi theo dì Hương của nó. Còn bao nhiêu việc mà Thúy chưa làm được, còn chưa biết đươc cô gái trong chuyên sẽ ra sao. Thôi đành chấm dứt cuộc đời tại đây , chết vì bị ăn thịt sẻ đau đớn lắm, bị lôi từng miếng thịt ra,móc mắt, ăn tai, dút lưỡi, óc bị ngặn vỡ, xương bị cắn nát. Chấp nhận cái chết, Thúy lấy con dao đâm vào bụng mình tự tử, dù sao thì chết bằng cách tự tử sẽ đỡ đau đớn hơn. Máu từ bụng chảy ra , mặt Thúy tái mét, nó ngất lịm đi và chết dần.

Thúy tỉnh dậy-mẹ nó lay người. Thì ra đó chỉ là một giấc mơ mà thôi, nó chỉ nằm mơ mà thôi. Nhưng khi tỉnh dậy thì gối nó ướt đẫm nước mắt và dì Hương yêu quý của nó đã thực sự qua đời.

Truyện ma nước

Gia đình tôi thuộc diện đông anh em! Bố mẹ chúng tôi chỉ là những người có tầm vóc của những người VN trung bình, nhưng mấy tên con trai trong nhà tôi đều thuộc diện cao so với người VN ta! Tên thấp nhất trong nhà thì cũng 1 mét 70. Lúc xảy ra chuyện này thì em trai út tôi mới 4 tuổi mà đã cao hơn 1 thước rồi!

Nhà tôi ở một chung cư, gần đó có một cái hồ lớn nhưng không sâu lắm, mùa mưa nước đầy thì ven bờ chỉ sâu khoảng 1 mét 40 thôi. Hồ chỉ cách nhà tôi chưa tới 100 mét! Ngay hông nhà tôi có một con đường đất rộng chạy thẳng ra hồ! Một buổi trưa vào tháng 5, chúng tôi đều đi học, bố tôi đi làm, chỉ có mẹ và hai đứa nhỏ ở nhà! Mẹ tôi đang đút cơm cho em gái tôi thì thấy em trai út tôi ở ngoài bước vào, quần áo nó ướt nhem lẫn với sình! Nó dọc nước ngoài sân và té vào vũng sình! Mẹ tôi doạ:

_ Có đi thay đồ và rửa ráy mau không mẹ cho một trận bây giờ !

Em tôi trở ra phía sau chổ có mấy lu nước loay hoay ở đó! Mẹ tôi bận trông và đút cơm cho con gái nên cũng không để ý gì nữa! Cứ tưởng là nó rửa ráy, thay quần áo rồi trốn lỉnh trong phòng vì sợ mẹ đánh!

Chừng 20 phút sau mẹ tôi nghe có tiếng la ồn ào phía bờ hồ! Bà bế em tôi chạy ra xem thì hỡi ôi! Mấy người đàn ông đang vác em tôi trên vai chạy lên chạy xuống để xốc nước! Mấy bà thấy mẹ tôi ở đó liền kéo bà một mạch về nhà tôi (vì họ nói rằng nếu người chết đuối thấy thân nhân mình thì sẽ không cứu được!) Mấy người đàn ông chỉ biết vác dốc ngược em tôi trên vai chạy để xốc nước mà thôi! Họ không biết cách làm hô hấp nhân tạo là gì cả ! Bụng em tôi xẹp lép hết nước rồi nhưng không ai biết làm gì hơn! Có người kêu là bồng thằng bé đi nhà thương đi! Thế là họ bế em tôi chạy đi kiếm xe chở đi bệnh viện! Nhưng tới nơi thì không còn kịp nữa rồi!

Anh em chúng tôi đi học về thấy người ta bu quanh nhà đông nghịt! Không biết chuyện gì đã xảy ra, tôi chạy xông vào nhà thì thấy mẹ tôi đang nằm vật vả khóc! Có người kéo tôi ra nói là em trai út của tôi bị chết đuối! Mấy anh chị em tôi khóc òa cả lên! Tôi bặm môi để không khóc theo họ và lủi vào phòng khóc một mình trong đó! Tôi rất xấu hổ nếu khóc trước mặt người lạ ! Đến đêm về tôi nằm nghĩ đến em mà khóc thầm một mình trên giường! Thương cho em tôi còn bé mà đà chết non!

Người đàn bàthấy em tôi đầu tiên nói là bà ta thấy chùm tóc đen của nó vật vờ ở mặt nước nên hô hoán cho người đến vớt lên! Người đàn ông vớt em tôi lên nói là nó vẫn đứng thẳng chưa chìm và chỉ cách bờ khoảng 2 thước thôi! Nếu nó cao thêm một vài tấc nữa thì đã không sao rồi! Và nếu có ai biết làm hô hấp thì nó đã không chết đâu !

Xác em tôi được quàng tại phòng khách và hai ngày sau thì đem chôn ở một nghĩa trang Công Giáo! Trước kia, hằng đêm tôi thường giăng ghế bố ngủ tại phòng khách! Lúc này tôi cũng hơi ơn ớn nên chui vào ngủ chung với anh em trong phòng một thời gian! Cả tháng sau tôi mới giám lên đó giăng ghế bố ngủ lại, nhưng vẫn cảm thấy hơi rờn rợn dù biết người chết là em mình!

Nhưng rồi cũng quen đi! Tôi chẳng thấy gì lạ cả! Cuộc sống cứ lần trôi qua! Bố mẹ tôi cũng nguôi ngoai nỗi thương tiếc con mình! Anh em chúng tôi còn là con nít nên còn chóng quên hơn nữa! Ngày đi học, chiều về chơi đá banh hay đánh vũ cầu v.v... Chúng tôi không để ý và cũng chẳng thấy gì lạ Ở nhà chúng tôi hết !

Một hôm tôi cùng mấy thằng bạn ngồi uống nước chanh muối sau một trận đá banh! Bổng một đứa buột miệng hỏi tôi:

_ Mày có thấy gì ở nhà mày không ?

_ Thấy cái gì ?! _ Tôi hỏi ngược lại nó !

_ Thiệt tình mấy người trong nhà mày hổng thấy gì lạ hết sao !?

_ Bình thường không có gì lạ cả !!

_ Vậy mà họ đồn nhà mày có ma đó !

Tôi hơi xanh mặt nhưng cãi bay:

_ Ai nói tầm bậy vậy ! Có ma thì tao phải thấy chứ !

Tôi giám đoan chắc như vậy vì tôi ngủ ngay phòng quàng xác em tôi mà! Mấy thằng bạn tôi nhao nhao lên:

_ Có thiệt đó ! Nhiều người thấy lắm mà !

Rồi tụi nó đua nhau kể là cứ mỗi đêm tối trời, người đi chơi khuya về thường thấy một cục lửa to như trái banh, bay từ bờ hồ về đến ngang hông nhà tôi thì dừng lại lơ lững ở đó một hồi mới biến đi mất ! Rất nhiều người thấy chứ không phải chỉ một hai người đâu! Mấy người ở gần nhà tôi còn nói là đêm họ ra đi tiểu thì thấy một ngọn lửa xanh dờn cháy ở sau nhà bếp chổ cầu tiêu nhà tôi!

Tôi nghe tụi nó kể cũng rợn xương sống nhưng mặt cố làm tỉnh, gân cổ cãi lại:

_ Làm gì có ma cỏ trên đời này! Tao không tin đâu! Bọn họ chỉ hù tui. mày thôi !

Tuy nói thế nhưng về nhà tôi cũng kể cho mẹ tôi nghe các điều nghe được! Mẹ tôi nạt ngang:

_ Hơi đâu con tin các chuyện tầm phào đó!

Tuy không tin lắm vào các chuyện tụi bạn kể, tôi cũng không giám đi chơi khuya nữa! Chỉ 9 giờ tối là đã về đến nhà rồi ! Tôi không giám nói chuyện này cho anh em tôi nghe sợ họ cũng đâm ra hoảng như tôi! Thật tình thì tôi chẳng thấy gì cả! Không biết các điều người ta nói có thật không! Nhưng người trong khu vực đó đều nói rằng có ma về chung quanh nhà tôi! Họ còn nói rằng sở dĩ ma không vô nhà tôi vì nhà có bàn thờ Chúa ở trong !!

Cũng may bố tôi mua được một căn nhà và một mảnh vườn rộng ở gần chổ ông ngoại tôi, nên gia đình tôi dời về chổ ở mới này! Tôi không biết sau đó ma có còn hiện ra hay không vì tôi không có dịp trở lại chốn cũ nữa !

Hồn ma mẹ con Bà Mọi

Hồi mới giải phóng, xóm tôi còn nghèo nàn lắm,cả xóm chừng vài chục nóc nhà, đa phần là nhà tranh lụp xụp, xung quanh nhà bà con hay trồng cây keo,cây dẹp,cây nổ làm hàng rào. Chỉ vài nhà có điện thôi.

Tối đến cả xóm tối thui, ít ai ra đường ngoại trừ có công việc. Ban đêm ra đường đi giữa hai hàng cây keo , cây dẹp um tùm phủ ra hai bên đường, khi có cơn gió nhẹ thoảng qua làm các nhánh cây rung động, dưới ánh sao trời tưởng tượng như những hình thù kỳ dị ma quái ẩn hiện trước mặt làm cho ai yếu bóng vía phải rợn tóc gáy.

Nhà tôi ở cuối con hẻm cụt, dọc con hẻm, mỗi bên chừng chục nóc nhà. Cách nhà tôi hai nhà là nhà bà Ba. Như vậy mỗi lần về nhà tôi là phải đi ngang nhà bà Ba. Bà Ba già rồi, bà sống với hai đứa cháu ngoại còn nhỏ là con Tuất(vì nó sinh năm Canh Tuất-70)và con Tân(vì nó sinh năm Tân Hợi-71). Ba bà cháu sống heo hút với nhau trong cảnh khổ cực, thiếu thốn. Phong cảnh nhà bà thấy âm u, quạnh quẽ lắm, tối ai có việc đi ngang qua cũng có cảm giác rờn rợn, lạnh lạnh sao sao ấy!

Bà khó tính, nên hàng xóm ít quan hệ với bà. Ban ngày bà đi mót lúa, hay mò cua bắt ốc gì đó, tối về bà cháu hủ hỷ với nhau dưới ánh đèn dầu một chút rồi đi ngủ;chứ bà ít tới nhà ai, có chăng chỉ tới nhà tôi chơi một chập lát rồi về mà thôi. Sở dĩ bà thân với nhà tôi hơn vì ba tôi hay giúp bà làm cái này, cái kia. . . Đáp lại cũng chỉ có anh em tôi mới dám đến nhà bà chơi với tụi con Tuất, con Tân mà thôi. Như vậy nhà bà vốn dĩ quạnh quẽ thì lại càng quạnh quẽ hơn.

Mấy hôm nay bà con trong xóm xì xầm bàn tán với nhau là nhà bà Ba-ngoại con Tuất có ma:Cứ khoảng 12 giờ khuya trở đi thì nghe văng vẳng tiếng đàn bà khóc than ai oán, giọng khóc kể giống như người ta hay khóc khi có người thân vừa mới chết vậy, có điều là tiếng khóc nghe có vẽ ma quái lắm-tiếng khóc nghe như lúc gần, lúc như từ hư không xa thẳm vọng lại. Dù người có bạo gan cách mấy cũng không tránh khỏi cái cảm giác lạnh sống lưng khi nghe tiếng khóc.

Từ khi có tin đồn có tiếng khóc than ở nhà bà Ba, tối đến người ta càng ít dám ra đường hơn, cơm nước xong nhà nào nhà nấy đóng cửa ở trong nhà, làm cho khu xóm nghèo vốn vắng vẻ, lại càng thêm vắng vẻ!

Mặc dù người ta biết chắc tiếng khóc ma quái phát ra đầu hè nhà bà Ba nhưng không ai dám đem chuyện ấy kể cho bà nghe vì sợ bà chưởi, bảo là trù ẻo nhà bà. Không biết là ngoại cháu bà có nghe tiếng khóc không?!

Lúc đầu hầu như đêm nào cũng nghe. Về sau thì thưa dần, một tháng chừng vài ba đêm, rồi hai ba tháng một lần, nhất là những đêm mưa dầm gió bất, mưa dãi, gió mây. . .

Có người kể là nhiều lúc người ta còn thấy cục lửa xanh ẻo bằng cái chén bay lờ lờ từ đầu con hẻm đến trước cửa ngỏ nhà bà Ba, cục lửa bay đảo qua đảo lại trước cửa hai ba vòng rồi bây vào nhà. Khi vào nhà cục lửa bay tới trước cửa cái dừng một tí rồi bay xuống cửa nhà bếp, rồi bay tiếp lên đầu hè trên rồi mất biệt. Chừng một lúc hơi lâu thì thấy cục lửa bay lại trở ra ngoài rồi theo đường cũ rồi bay đi. Có một đêm bà Nhơn-nhà đối diện nhà bà Ba ra ngoài đi tiểu, dưới ánh trăng mờ hạ huyền, nhìn qua đầu hè nhà bà Ba, bà thấy dáng một người đàn bà tóc xoã dài đến mông nắm tay thằng nhỏ đứng nhìn ánh trăng nhưng bà không thấy rõ mặt. Có chồng bà cũng thấy nữa.

Người ta nói đó là hồn ma mẹ con bà Mọi vì chết tức tưởi quá nên không siêu thoát được, nhớ nhà dẫn con về thăm nhà, thấy lại cảnh cũ, thương hai đứa con ở lại côi cút, khổ sở, nên khóc than buồn cho số phần ngắn ngủi.

Đó là chuyện lúc nhỏ, tôi nghe lõm được khi những người hàng xóm kể cho Ba-Má tôi nghe. Không biết thực hư thế nào. Lúc đó tôi chỉ nhớ thằng Tèo. Tội nghiệp, nó chết thảm quá, ruột lòi ra cả đùm!Ngoài hàng rào, mấy cây mồng tơi là kỷ niệm của thằng Tèo, nó nhổ ở nhà nó đem tới nhà tôi, hai đứa hì hục trồng cả buổi chiều, nó nói trồng để Má tôi hái nấu canh ăn.

Dậu mồng tơi không nhớ đã qua bao độ úa tàn, bao nhiêu lần rụng hạt, chờ mỗi mùa xuân tới lại mọc lên, nay lại xanh mơn mởn, phủ kín một gốc rào. Nhìn dậu mồng tơi lòng tôi thấy buồn vời vợi.

Ở đời chuyện gì mới lạ thì người ta bàn tán xôn xao một lúc nào đó thôi, rồi cũng quên dần đi. Chuyện vụ án mạng thương tâm của Mẹ con Bà Mọi năm nào cũng làm xôn xao một lúc rồi cũng chìm vào quên lãng. Rồi gần đây lại chuyện mẹ con bà Mọi hiện hồn làm hâm nóng lại chuyện án mạng năm xưa, tới đâu cũng nghe bàn tán về hồn ma bà Mọi, một lúc rồi cũng lại chìm vào quên lãng.

Tôi cũng vậy, chuyện bà Mọi bị giết cũng thoáng trôi nhanh qua đầu óc non nớt của mình. Hàng ngày sau buổi học, tôi vẫn thường chạy qua chơi với con Tân , con Tuất, vì ngày nào bà Ba cũng đi mót chỉ có ai chị em nó ở nhà. Anh em tôi qua nhà nó bày ra đủ trò chơi tuổi thơ.

Rồi ngày tháng cứ dần trôi, một ngày nọ bà Ba sức yếu, mắt kém không thể đi mót được nữa con Tuất lại tiếp tục công việc của bà. Nó còn nhỏ không tranh nổi với người lớn nên mót không được bao nhiêu. Tối về thấy có ít lúa, bà đánh đập chưởi bới nó thật tội nghiệp!Nhiều lúc bà chưởi luôn vong hồn đứa con gái bạc phước của bà sao ngu dại ưng trúng thằng chồng sát nhân để rồi bị hắn giết chết phải bỏ lại hai đứa con cho bà. Bà chưởi thế cũng tội nghiệp cho vong hồn bà Mọi, tội cho hai đứa con côi cút mất mẹ phải sống bữa đói bữa no. Nói cho cùng thì chẳng qua số phần của bà nó ngắn và số hai đứa nhỏ phải chịu khổ cực đói khát, chớ bà Mọi nào có muốn như thế đâu, chắc ở nơi âm cảnh lòng bà cũng quặn thắc đớn đau lắm chớ!Nhiều lúc như thế nghĩ lại thấy thấm thía câu hát mẹ ru:"Ầu ơi. . . , mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ lót lá mà nằm!Tôi nghĩ chắc bà Mọi cũng đau khổ lắm vì không còn sống để chăm sóc hai đứa con còn thơ dại, nên vong hồn bà không thể siêu thoát được để hàng đêm lại về thăm con, thấy con khổ mà bất lực không thể giúp được gì nên tủi thân ngồi khóc than cho số phận!

Hồi mới giải phóng cho đến năm tám mươi mấy, thực phẩm khan hiếm ghê lắm. Mười nhà thì tám chín nhà ăn độn thêm khoai lang, khoai mỳ. Tiếng là nông dân có ruộng nhưng có nhà vẫn đói như thường vì sản phẩm làm lên chỉ đủ đong cho HTX, thậm chí còn thiếu nợ nữa. Tội nghiệp có hộ làm mà không đủ đong cho HTX, đến lúc gặt HTX cho lực lượng du kích đến canh giữ. Khi gặt lên họ chở về kho hết(gọi là bao thu). Nhiều cảnh cay đắng thường xảy ra:những hộ bị bao thu đó chờ lúc du kích không để ý liền vác một bao, hay xúc một mủng bưng chạy, không bị phát hiện thì thôi;còn lỡ bị phát hiện là. . . đùng, đùng, đùng. . . thì phải lật đật bỏ "hàng" lại mà chạy trối chết, mà. . . thoát thân, để. . . rồi còn có cơ hội. . . về nhà nhìn vợ con. . . nhịn đói!Bao công sức mồ hôi nước mắt của mình đổ xuống để làm ra hạt thóc để mà, giờ đây mình lại trở thành tên trộm ăn cắp lại tài sản của mình!

Người nông dân thực thụ còn sống trông cảnh thiếu đói như thế, thì nhà con Tân, con Tuất làm sao tránh khỏi cảnh bà cháu phải nhịn đói thường xuyên?!Bà cháu nó có hôm trong nhà chỉ còn lưng chén gạo không đủ nấu cơm chỉ nấu đủ vài chén cháo húp đỡ. Có bữa được ăn cơm nhưng một phần cơm tới hai phần khoai mỳ, hoặc khoai lang ăn với đọt dẹp chấm nước muối ớt. Tới dịp cắt lúa, má tôi gọi con Tuất theo để sai vặt rồi chiều về cho nó mủng lúa. Hoặc thỉnh thoảng má tôi đem đến vài ký gạo. Cùng là bạn nghèo với nhau của ít lòng nhiều giúp nhau lúc ngặt.

Vì bữa đói , bữa no, lại phải vất vả cả ngày ngoài đồng để nhặt từng bông lúa rụng, nên một ngày kia con Tuất ngã bệnh toàn thân phù thủng-do bị suy dinh dưỡng và cảm nhiễm mưa nắng lâu ngày. Rồi lại không có tiền chữa bệnh nên con Tuất đã. . . phải bỏ lại bà ngoại và đứa em.

Sau khi con Tuất chết chừng một tháng, bà Ba bán nhà cho người hàng xóm đối lưng với nhà bà về ở với con gái đầu-bà này cũng nghèo lắm. Con Tân thì được bà hàng xóm tốt bụng ở xóm trên đem về nuôi để sai chuyện lặt vặt, vì bà này không chồng con nên bà thương nó như con vậy. (Hiện giờ con Tân đang ở Sài Gòn)

Căn nhà bà Ba người ta mua để chứa đồ chớ không để ở. Nên từ khi bà dọn đi thì căn nhà vốn đã u ám nay lại càng lạnh lẽo, u ám hơn, ai đi ngang qua đây đều có cảm giác rờn rợn đằng sau gáy!

*

* *

Rồi người ta bắt đầu xôn xao lại chuyện hồn ma bà Mọi:nào là nghe bà Mọi ngồi khóc ở đầu hè;bà Mọi dắt con về;cục lửa bay vòng vòng. . . thôi thì đủ thứ, đủ kiểu hết!

Hồi đó, nghe đoàn cải lương nào đến hát thì thanh niên, thanh nữ, bà già, con nít hầu như ai cũng thấy trong lòng vui như mở hội, trông mau tới tối để đi coi. Lúc đó có đoàn Sông Bé 3 đến lưu diễn, đêm đó hát tuồng Bạch Viên Tôn Cát, bà con ở xóm tôi đi xem thật đông, tôi cũng đi xem nữa.

Khi về tới đầu hẻm, ai vào nhà nấy còn mình tôi lủi thủi, vì nhà tôi ở cuối con hẻm lận. Tôi còn nhớ đêm đó độ mùng chín, mùng mười, ánh trăng thượng tuần chênh chếch về Tây, ánh sáng mờ ảo soi qua tán cây ổi già của nhà bà Nhơn đối diện nhà bà Ba tạo thành những khoảng sáng tối có hình thù kỳ dị ma quái. Còn chừng độ hơn 10 mét thì tới cửa ngỏ nhà bà Ba, nhìn tới đó thì tôi thấy thấp thoáng một cái bóng mờ trắng trắng, tôi nghĩ là ánh trăng xuyên qua tán ổi chiếu xuống chỗ trụ cửa ngỏ. Tôi vẫn vô tư đi tới, khi tới gần tôi mới biết không phải là ánh trăng mà là. . . một người đàn bà mặc áo trắng, tay dắt đứa nhỏ. Thấy thế tự nhiên tôi cảm thấy như có một luồng hơi lạnh trong ruột từ bụng dưới chạy lên tận cổ, lúc đó tôi điếng hồn định co giò chạy, mà có chạy thì tôi cũng phải chạy ngang qua hai mẹ con bà này mới về nhà được, vì đến quá gần rồi, tiến thoái lưỡng nan, nên đành liều mạng mà thôi!Tôi bắt đầu co chân chạy thì khi ấy tôi cũng vừa thấy người đàn bà và thằng nhỏ quay lại nhìn tôi. Ôi, người đàn bà mặt mày và toàn thân trước đầy máu me;còn thằng nhỏ thì tôi không kịp thấy mặt chỉ thấy hình như nó mặc chiếc quần đùi và chiếc áo màu đỏ hay trắng mà dính máu gì đó không phủ hết mà để lộ một đùm. . . gì đó đỏ lòm trước bụng. Trời, chân tôi như xụm xuống, dường như không thể nào bước nổi nữa, song cũng rán hết sức vì còn chừng 20 mét nữa là tới nhà. Tôi tung cửa ngỏ, cửa cái chạy thẳng vào giường trùm mền kín đầu đuôi. Ba Má tôi thấy lạ mới chạy tới hỏi, phải một lúc lâu tôi mới trả lời được, vừa trả lời, vừa run. (Sở dĩ tôi tung cửa vào được là vì Ba Má tôi không cài chốt để chờ tôi về. )

Kể tới đây, quý vị có thể cho rằng vì tôi ám ảnh chuyện người ta đang đồn về hồn ma mẹ con bà Mọi nên trông gà hoá cuốc. Sao cũng được, nhưng đối với chính tôi cho tới bây giờ tôi vẫn tin rằng tôi đã thấy rõ ràng như vậy. Còn chuyện tôi sợ đến bủn rủn tay chân, tôi nghĩ rằng dù ai có dạn cách mấy cũng không tránh khỏi nỗi sợ hãi này:vì bất ngờ nhìn thấy đâu kịp phản ứng gì, với lại rất gần con ma ấy nữa;thấy con ma bình thường đã mất hồn rồi đằng này còn thấy thêm ruột gan, máu me nữa chớ!Ban ngày mà thấy cảnh đầy máu me ruột gan như thế đã điếng hồn rồi!!!

Tôi tin chắc rằng đó là hồn ma mẹ con bà Mọi, do nhớ hai đứa con của mình nên mới về thăm, thấy ngôi nhà xưa còn đó mà con đâu rồi. Đứng ngoài nhìn cảnh cũ rồi nhớ đến cái chết tức tưởi của mình và đứa con nên hiện hình ảnh của mình và đứa con lúc vừa bị giết, có lẽ để tiếc nuối giây phút cuối cùng mình còn sống trong đêm định mệnh ấy. Vì có thể bà rất muốn được sống lại để được chăm sóc cho hai đứa con côi cút bơ vơ nơi dương thế.

*

* *

Dậu mồng tơi mơn mởn đang bỏ ngọn phủ kín hàng rào trước sân là kỷ vật duy nhất thằng Tèo còn lưu lại cho tôi. Chiều hôm ấy nó nhổ mấy cây mồng tơi qua nhà tôi trồng;nó trồng, tôi múc nước tưới, hai đứa hì hục vui vẻ bên nhau suốt cả buổi chiều. Tôi, Nó nào có biết đâu đó là lần cuối hai đứa bên nhau để rồi đến khuya hôm đó nó xa tôi mãi mãi.

Đêm hôm đó đang ngủ thì Má tôi nghe tiếng kêu:"Bớ làng xóm ơi có ai tới cứu mẹ con tôi. Thằng T nó giết con Mọi chết rồi". Má tôi tỉnh ngủ hẳn, gọi ba tôi dậy:"Ông ơi thằng T nó giết con Mọi rồi". Ba tôi thức dậy nhìn đồng hồ thấy chừng một giờ rưởi. Lúc này hàng xóm náo động cả. Mấy người xung quanh chạy tới đứng ngoài ngỏ chớ không dám vô vì họ sợ ông T chồng bà Mọi còn trong đó chờ họ vô là giết luôn. Ba Má tôi chạy qua , lúc này bà Ba không còn la nổi nữa mà chỉ rên lên từng hồi thôi. Ba Má tôi xô cửa chạy vào, dưới ánh đèn leo lét thì thấy cảnh tượng hãi hùng:Trên giường xốc xếch, bà Mọi máu me lênh láng. Con Tuất, con Tân hai đứa ôm nhau ngồi co rúm run cầm cập ở góc giường gần chân má nó. Bà Ba nằm trên vũng máu dưới nền nhà, vừa rên ư ử vừa lầm bầm nguyền rủa. Chiếc lưởi lê M16 dính đầy máu vứt lăn lóc cạnh đó.

Rồi mấy người hàng xóm chạy vào xem. Ba tôi chạy ra nhà ông Đích ở xóm ngoài, kêu ông đánh xe lam tới chở nạn nhân đi nhà thương.

Khi Ba Má tôi đến bà Mọi nằm yên bất động, mặc dù còn thoi thóp thở, nhưng không nói lời nào. Hình như bây giờ cảm giác được Má tôi đang ngồi bên cạnh nên bà cố gom chút tàn hơi, hả miệng cố lấy một hơi lên thều thào nói với Má tôi:"Nhờ chị trông giùm mấy đứa con em!", rồi bà nấc lên mấy tiếng, thở ra một hơi dài rồi xuôi tay. Còn bà Ba lúc thì yên lặng, lúc thì lẩm nhẩm nguyền rủa thằng con rể.

Xe lam đến mọi người giúp một tay khiêng bà Ba và xác bà mọi lên xe. Má tôi cũng theo xe đến nhà thương. Ở nhà, lúc này, Ba tôi mới trực nhớ tới thằng Tèo, nãy giờ bối rối công chuyện mà quên bẵng nó, hỏi ai cũng không thấy.

Bây giờ mọi người mới rọi đèn nháo nhác kiếm thằng Tèo thì thấy nó ngồi co rúm lại chỗ hốc tủ với bộ đang sợ hãi lắm. Nghe có tiếng người, nó cố ngước lên nhìn mọi người như cầu cứu với đôi mắt lạc thần, rồi lấy hơi ức ức lên hai tiếng, xong thở ra một hơi dài, ngã tựa vào góc tủ ngoẹo đầu về một bên rồi. . . xuôi tay!Ai đó bế thằng Tèo đặt lên giường rồi người ta kiểm tra sao thằng Tèo lại chết, không lẽ ba nó giết luôn nó?Khi vén cái áo thun đỏ ướt đẫm của nó lên, thấy một đùm ruột to bằng cái bát trên bụng nó. Ôi, như vậy thằng Tèo cũng bị ba nó đâm rồi, tội nghiệp thằng nhỏ nó có biết gì, tiếng ai đó nấc nghẹn!Ba tôi rọi đèn xem kỹ thì thấy ruột thằng Tèo không bị đâm lủng, chỉ lủng bụng, mà máu ra cũng không nhiều lắm chỉ ướt chỗ bụng mà thôi. Vây sao thằng Tèo lại chết?Hay là nó sợ quá?Ba tôi cho rằng thằng Tèo bị lòi ruột mà không phát hiện kịp thời để cấp cứu nên ruột nằm lâu bên ngoài bị khô;hễ ruột bị khô là chết. Ai nấy nhìn thằng nhỏ cũng thở dài tiếc nuối mà nói rằng:Phải chi lúc xe lam tới mà phát hiện mất thằng Tèo thì chắc nó sẽ không chết tức tưởi, tội nghiệp như vầy!

Độ 5 giờ sáng, Má tôi về cho biết:Bà Ba bị một vết thương chéo ngang hông dài chừng 25 phân, sâu lối 1 phân đến một phân rưỡi, bị mất máu. Bà Mọi bị 6 nhát đâm khoảng 3-4 phân trong đó có một nhát trúng chỗ hiểm. Bác sỹ còn cho biết bà Mọi đang mang thai. Khi đưa bà Mọi vào nhà xác, Má tôi có thấy qua lớp áo bụng bà Mọi một khối gò lên gò xuống một lúc lâu mới yên. Bệnh viện không cho chở xác nạn nhân về ngay mà phải nhập nhà xác để làm thủ tục xong mới được chở về.

Như vậy vụ án mạng có một người bị thương, 2 người và một thai nhi chết.

Chiều hôm đó những người trong xóm tôi khiêng hai quan tài mẹ con bà Mọi đi chôn. Theo sau hai chiếc quan tài-một lớn, một nhỏ là hai đứa trẻ thơ độ bốn-năm tuổi, đầu đội khăn tang, buồn hiu nắm lấy tay nhau-đó là con Tuất và con Tân đưa tiễn mẹ và anh về nơi an nghỉ. Đám tang đi trong lặng lẽ không một tiếng trống, tiếng chiêng!Hai mẹ con được nằm cạnh nhau , bên cạnh mộ bà mẹ được trồng một cây chuối sứ. Người ta nói khi nào cây chuối trổ bông là lúc người dưới mộ sinh con.

Qua lời bà Ba và Ông T(chồng bà Mọi)trước phiên toà(phiên toà án binh mở ở Nha trang vì ông T là lính. Toà có mời Má tôi với tư cách là nhân chứng)thì diễn biến vụ án mạng như sau:Hôm đó ông T chồng bà Mọi từ đơn vị về nhà. Cơm nước xong , cả nhà nghỉ ngơi một chút rồi đi ngủ. Bà Ba ngủ nhà dưới. Vợ chồng bà Mọi và ba đứa con nằm chung cái giường lớn ở nhà trên. Hình như bà Mọi ghen tương gì đó nên kiếm chuyện gây với ông T. Lời qua tiếng lại sao đó, ông T không kiềm chế được nên mới tát tai bà Mọi một cái. Có thể vừa tức bởi cơn ghen, vừa bị đau bởi cái tát tai nảy lửa, nên bà Mọi ngồi dậy lấy lưỡi lê M16 để sẵn dưới gối(lưỡi lê này bà Mọi để dưới gối lâu rồi, để cho con cái ngủ khỏi giật mình)giá lên đâm ông T. Nhanh tay, ông T chụp được cái lưỡi con dao, hai người dằn co dữ dội, cuối cùng bà Mọi cũng rút lại được con dao, hai bàn tay ông T bị lưỡi dao cắt hai đường. Bà Mọi giành lại được con dao, giá lên đâm tiếp thì ông T chụp được tay bà Mọi, hai người vật nhau rầm rầm trên giường. Ông T giật lại được con dao trở lại đâm bà Mọi. Nằm ở nhà bếp bà Ba nghe vật lộn rầm rầm, tiếng bà Mọi rên la khi bị đâm, bà vội chạy lên xem sao. Thấy ông T đang ngồi trên bụng bà Mọi mà giá dao đâm xuống, bà liều mình chạy đến ôm ông T lại, ông T vung tay hất bà ra, bà té nằm xuống đất. Ông T đâm bà Mọi thêm mấy nhát nữa thì bà Mọi nằm yên bất động. Nghĩ rằng bà Mọi đã chết, ông T vứt con dao lại đó rồi đến cảnh sát đầu thú.

Còn về vết thương ngang hông của bà Ba và vết thương ở bụng của thằng Tèo, ông nói ông không hề đâm con ông và không hề biết con ông bị thương, có thể lúc ông và vợ ông vật lộn để giành con dao, vô tình lưỡi dao đã trúng vào bụng con ông;còn khi ông vung tay hất mẹ vợ ông có thể lưỡi dao đã trúng bà.

Như vậy người ta mới lý giải rằng:Khi thằng Tèo bị thương đau quá nên sợ, nhân lúc ba-má nó đang vật lộn không để ý thì nó ôm bụng nén đau cố lén bò xuống giường rồi trốn ở hốc tủ. Tội nghiệp thằng nhỏ đau lắm mà không dám rên một tiếng vì có lẽ sợ rên ba nó nghe thấy tới đâm tiếp!

*

* *

Từ khi tôi thấy hồn ma mẹ con bà Mọi cho đến càng về sau này, người ta càng thấy bà hiện hồn nhiều hơn. Cách một hai đêm là có người thấy bà hiện hồn về. Không như mấy năm trước hai mẹ con bà chỉ âm thầm khóc lóc rồi ra đi;bây giờ bà hiện hồn về như để chứng tỏ mình hơn:Có nhiều đêm hai mẹ con bà hiện lừng lựng đi chung quanh nhà, làm đồ đạc chuyển động nghe loảng xoảng trong nhà, rồi ra đi. Người ta nói khi bà ra đi thì không thấy rõ bóng dáng của bà mà chỉ thấy một cục trắng lợp trắng lợp xẹt qua một cái, trong đêm tối, một dãi lụa trắng lợp kéo dài từ cửa ngỏ của bà ra đến tận đầu hẻm.

Có anh bạn gặt (người cắt lúa mướn)tên Xuân, khoảng 2 giờ rưỡi-3 giờ sáng anh đi gặt, tới bụi bông giấy đầu hẻm thì bất chợt anh thấy bóng một người đàn bà mặc bộ bà ba trắng, tóc xoã khoanh tay đứng tựa bụi bông. Lúc này hồn vía anh như lên mây lên mưa, lỡ chừng, tiến lui cũng khó, đánh bạo anh cứ đi tới, chân đi, miệng niệm to thần chú"Án Ma Ni Bát Di Hồng"-câu thần chú mà hồi nhỏ anh nghe bà ngoại anh nói nó có công năng trừ các loại ma quỷ, hễ thấy ma mà niệm thần chú này thì ma sẽ sợ mà biến mất. Mặc dù biết thế mà chưa có dịp nào thử xem sự linh ứng của thần chú. Trong lúc này là cơ hội ngàn năm có một để kiểm nghiệm xem, nhưng sao anh cũng thấy sợ quá, anh vừa run cầm cập, vừa ấp a ấp úng niệm chú (Không biết lúc đó có từ nọ xọ từ kia không nữa!T-H). Vừa được một hai câu thì. . . trời ơi, bà ấy đứng chần ngần ngay trước anh cái mặt chầm vầm như cái mâm con, máu me lênh láng. . . Lúc này chữ "Án" của anh thành ra chữ Á!!!!!!!!, rồi cái rật, nằm yên bất động, tay chân lạnh ngắt.

Đêm khuya thanh vắng nghe một tiếng lảnh lót trước nhà, giật mình tỉnh giấc bà chủ nhà cầm đèn chạy ra thì, trời ơi, . . . một cảnh tượng hãi hùng:một cái "xác"nằm yên bất động xung quanh nào là cơm cá nước non lăn lóc, lổn nga, lổn ngổn. Hoảng kinh hồn vía bà la oải oải báo động hàng xóm. Bà con túa ra thì ''ôi, trời ơi thằng Xuân ở xóm dưới bị trúng gió" ai đó la lên như thế. Người ta xúm nhau khiêng thằng"trúng gió"về nhà. Không biết vì sợ quá hay sao mà anh ta bệnh hơn nửa tháng mới hồi phục. Anh ta nghỉ gặt lúa luôn vì không dám đi ban đêm nữa.

Những buổi chiều tối trời mưa lâm râm, người ta có chuyện đi ngang qua thổ mộ Cây Trôm, nơi chôn mẹ con bà Mọi, người ta thấy thấp thoáng nơi mộ mẹ con bà là bóng một người đàn bà ngồi khoanh tay bó gối cúi mặt, và một cục lửa nhỏ bay vòng vòng qua lại gần đó. Người ta nói đó là hồn bà Mọi ngồi buồn;còn cục lửa là đứa con hồn nhiên, vô tư, thơ thẩn dạo chơi quanh mẹ nó.

Càng ngày những câu chuyện rùng rợn về hồn ma bà Mọi càng nhiều. Chuyện đồ đạc kêu loảng xoảng trong nhà bà Ba lúc đêm khuya làm ông chủ mua ngôi nhà này sợ quá phải dở bỏ chỉ còn lại nền nhà cho bồn bồn mọc. Thế mà cũng chẳng chịu yên. Những chuyện này đã ảnh hưởng không ít đến nề nếp sinh hoạt thường ngày của bà con. Thấy tình trạng mỗi lúc càng tệ hơn, những người lớn tuổi bàn tính vận động bà con đóng góp kẻ ít người nhiều để nhờ Thầy làm lễ siêu độ cho bà. Má tôi có đem chuyện này bàn với bà ''má'' nuôi con Tân, bà này đồng ý chịu hoàn toàn kinh phí cho chuyện này.

Buổi cầu siêu diễn ra rất đơn giản trong không khí trang nghiêm và thầy đã đưa vong linh mẹ con bà về chùa để sớm hôm nghe kinh kệ. Từ đó đến nay không còn nghe ai nói bà Mọi hiện hồn nữa.

*********

Trở lại chuyện anh Xuân niệm chú mà ma không chịu biến đi mà còn quay lại nhát anh. Tới đây có thể có một vài trong quý vị thắc mắc về chuyện này.

Theo tôi nghĩ, không phải chú không linh nghiệm đâu, mà lúc đọc chú tâm anh ta lại quá tán loạn(do sợ quá)thì làm sao chú phát huy tác dụng được, lại nữa, anh ta đọc là đọc như vậy thôi chứ chưa thực sự tin hẳn vào oai lực của thần chú;với lại trước giờ anh có trì tụng chú bao giờ đâu thì làm sao có sự cảm thông với chư Phật và Bồ tát?Mà không có cảm làm sao có ứng!Mặt khác anh thấy ma hồn vía anh lên mây lên mưa thì đó là điều kiện thuận lợi để con ma tác oai tác quái;còn giả sử mà khi ấy anh bình tỉnh với tâm niệm chỗ bà-bà đứng, đường tôi-tôi đi thì có thể bóng ma đó biến mất, hoặc đứng yên chứ không hù nhát anh ta đâu. Trường hợp của tôi ở trên cũng vậy, lúc đó tôi mà không" hồn bất phụ thể"chắc mọi chuyện cũng khác rồi. Đây là suy luận chủ quan thô thiển của tôi.

Duy có một điều tới bây giờ tôi còn thắc mắc là "dải lụa trắng". Bà Mọi ra đi với một dải lụa trắng. Mà vào trung tuần năm 2004, thằng Sáu Sụt ngã gục ngay gốc rào nhà bà với một con dao Thái lan đâm lút tới cán, đứt động mạch cảnh, sau đó cũng hiện về đứng trên cây sung với dải lụa trắng phất phơ, mà tôi và mấy người khác thấy tận mắt. Chuyện "dải lụa" thằng Sáu Sụt thì tôi còn lý giải được theo quan điểm chủ quan của mình. Còn chuyện bà Mọi với "dải lụa" thì tôi cứ. . . thắc mắc hoài!Hồn ma có liên quan gì với "dải lụa"?Không phải vô lý khi cầu hồn, các thầy có dùng đến dải lụa?!Khi có dịp tôi sẽ kể hầu quý vị câu chuyện HỒN MA THẰNG SÁU SỤT.

Giá Của Một Lời Nguyền

Một nghìn đô la là cái giá để Lý chấp nhận lấy chồng ngoại quốc. Mụ cò mồi bảo đấy là giá cao bởi Lý đẹp, lại còn trinh. Chứ khối đứa con gái khác chỉ bốn năm trăm. Cá biệt có đứa chỉ vài chục đô tiền trà nước qua loa, một kiểu nôm na gọi là tống khứ đi cho rảnh nợ.

Vùng này đang có phong trào lấy chồng người nước ngoài. Âu cũng là một cách kiếm sống, sống bằng mọi giá giữa thời buổi khốn nạn. Đám cò mồi, dắt mối người bản xứ tha hồ có đất làm ăn. Các ông bố, bà mẹ và các cô gái chấp nhận tất cả. Thôi thì đủ các loại rể. Từ rể già, rể trẻ, đến rể đui què mẻ sứt... hạng nào tiền nấy, miễn sao thanh toán bằng đô la là được rồi. Giá cả tỉ lệ thuận với nhan sắc, trinh tiết của các cô gái và tỉ lệ nghịch với hình thức, tuổi tác của những giống đực ngoại quốc kia. Nhìn chung là rẻ bất ngờ, lại có cả những nạn đầu cơ, tranh giành, phá giá... Lý nằm trong số ít những cô hên nhất. Gã trai mua Lý vừa trẻ tuổi, trắng trẻo lại đẹp giai. Một nghìn đô là cái giá rất hời.

Lý dặn dò cái Lơ - đứa em gái song sinh với mình ở nhà chăm sóc ngoại và trông nom, nhang khói cho hài cốt của má chôn dưới gốc dừa phía sau nhà. "Rồi thể nào chị cũng có đô gửi về. Em và ngoại sẽ không phải khổ nữa." - Lý bảo em như thế. Ba bà cháu ôm nhau, nước mắt tuôn như suối...

Từ ngày Lý ra đi, bà Năm cứ hay giật mình thồn thột. Đêm nào bà cũng gặp phải những cơn ác mộng. Bà mơ thấy vong hồn má nó, đứa con gái oan nghiệt của bà trở về gào thét trên ngọn dừa. Có lần bà còn nhìn thấy vong hồn ấy hiện hình, đầu tóc rũ rượi bước hẳn vào trong nhà. Nó kêu khóc chán rồi bỗng trợn mắt, nghiến răng kèn kẹt. Từ miệng nó, thốt ra một lời nguyền ghê rợn. Kí ức dữ dội tưởng đã đào sâu chôn chặt, nay lại hiện lên rõ mồn một.

- o O o -

Bốn mươi năm về trước. Cô Năm ngày ấy trẻ đẹp có tiếng trong vùng. Bấy giờ vùng này đang là vùng tranh chấp, ban ngày thuộc về phía bên này, ban đêm lại thuộc phía bên kia. Chỗ nào cũng đầy những bóng lính đánh thuê. Số kiếp của những bông hoa đẹp như cô Năm có ai ngờ lại mong manh như một làn khói mỏng. Một gã lính đánh thuê người ngoại quốc từ lúc nào đã phát hiện ra cô và rắp tâm ăn mảnh. Gã đã chán cái cảnh hàng chục thằng lính thay phiên quần thảo một con đàn bà bản xứ đến nhã nhượi. Gã muốn được hưởng một mình. Trong một lần đi lùng sục, gã cố tình chờ cho đồng bọn đi khuất rồi lẻn vào nhà cô Năm. Cô Năm sợ chết khiếp khi cái thân thể quấn đầy súng đạn của tên lính đè nghiến cô xuống bộ ván kê giữa nhà. Sau khi trói hai chân, hai tay cô vào bốn góc của bộ ván bằng dây dù một cách thành thạo, con thú đực ấy hau háu vặt từng mảnh quần áo trên người cô như người ta vặt lông một con gà. Xong xuôi, nó đứng dậy, vừa ngắm nghía thân thể nõn nà của cô một cách man dại, nó vừa cuống quýt cởi bỏ bộ quân phục. Thế rồi cái khối dâm dục đỏ au, ngồn ngộn thịt của con thú ấy đổ ập xuống người cô...

Lý chẳng biết nói chuyện gì với cái anh chồng ngoại quốc đẹp giai của mình. Mà có muốn, cô cũng chẳng nói được vì bất đồng ngôn ngữ. Từ ngày rời khỏi nhà cho đến lúc lên máy bay, thỉnh thoảng hai người chỉ ra hiệu với nhau bằng chân tay, còn mồm thì câm như thóc. Mỗi người rõ ràng đang theo đuổi những ý nghĩ rất riêng. Gã Cơm Thiu này (Lý gọi tên anh chồng như thế. Đúng ra thì gã tên là Kumthusine... gì đó) mặt lạnh như tiền, ánh mắt gã không hề có chút tình cảm yêu đương. Gọi là vợ chồng mà lạ sao suốt mấy hôm ở khách sạn, gã không hề chạm tới người cô. Điều đó làm cho cô cảm thấy áy náy không yên. Cô mơ hồ thấy một tương lai không mấy sáng sủa đang chờ mình phía trước.

Lý non nớt, quê mùa và ngây thơ nào có biết, Cơm Thiu đâu thiết gì cô, Cơm Thiu đang nghĩ tới chuyện khác. Sinh ra trong một gia đình giàu có, ông nội gã là triệu phú. Bố gã chết trong một tai nạn máy bay. Cơm Thiu đang nghĩ tới khối tài sản kếch xù của ông nội mà gã hy vọng sẽ được thừa kế, với điều kiện gã phải làm vừa lòng lão ông triệu phú ấy. Ông nội gã không chỉ có mình gã là đứa cháu duy nhất. Lần này, Cơm Thiu mò sang tận Việt nam lấy vợ, chính là nằm trong kế hoạch của gã nhằm chinh phục cái quyền thừa kế ấy...

Nằm dưới một khối thịt tưởng chừng nặng đến ngàn cân đang rung lên hầm hập của tên lính, cô Năm oằn người, cảm thấy nhục nhã, đau rát và chấn động toàn thân. Cô nhắm nghiền mắt lại, cay đắng nghĩ tới người yêu. Hai Nhứt, người yêu của cô vốn là người thuộc "phía bên kia". Hai người đang có một mối tình thật đẹp. Từ khi xuất hiện lũ lính đánh thuê trên đất này, anh và các đồng đội của anh luôn được coi là thần tượng, là sự chở che, là anh hùng đối với cô, những người phụ nữ yếu đuối và cả dân chúng trong vùng. Anh xuất quỷ nhập thần, từng là nỗi kinh hoàng đối với lũ lính thú vật ấy. Nhưng giờ này anh ở đâu? Anh có biết rằng con thú này sắp cướp đi cái quý nhất cô chỉ dành riêng cho anh? Hai người đã thương nhau, cùng hẹn nhau chờ đợi, cố để dành cái thiêng liêng nhất của người con gái cho đến ngày làm đám cưới... Vậy mà bây giờ...

Đúng lúc đó, Hai Nhứt không ở đâu xa. Anh đang ngồi trên "chòi quan sát" của mình, tít trên một ngọn dừa cao ở đầu thôn. Anh phát hiện lũ lính ngoại quốc kia vào lùng sục trong làng. Cũng như mọi lần, trong làng lại rộ lên những tiếng chó sủa, tiếng gà kêu, cả tiếng súng kéo theo những bước chân của lũ cướp ngày man rợ ấy. Lúc chúng rút ra đến con lộ, Hai Nhứt đếm lại và rất phân vân khi thấy thiếu một tên. Còn một tên nữa ở đâu?

Hai Nhứt biết bọn này vẫn thường hay tách ra để "ăn mảnh". Nhưng hôm nay có điều gì đó khác thường. Tự nhiên, anh cảm thấy bồn chồn không yên, không còn bụng dạ nào để tiếp tục quan sát được nữa. Hai Nhứt quyết định tụt xuống khỏi ngọn dừa, rồi men theo những vườn cây, bờ lạch, anh thận trọng luồn vào trong xóm.

Linh tính dẫn đôi chân của Hai Nhứt tiến về phía nhà người yêu. Anh cảm thấy rõ ràng có chuyện chẳng lành đang diễn ra trong căn nhà ấy. Hai Nhứt vớ vội một cây mác dựng bên ngoài, đạp cửa xông vào và bỗng choáng người khi chứng kiến người yêu đang bị làm nhục. Anh thét lên một tiếng, đồng thời vung cây mác lên. Tên lính đánh thuê kia đang mê mải bỗng giật nảy mình, gã vội vã lăn một vòng theo phản xạ xuống đất rồi đạp mạnh chân, lao đầu phóng người qua vách sau. Hai Nhứt đã kịp lao theo. Lưỡi mác trong tay anh bổ xuống, chém gần đứt lìa một cẳng chân của gã. Quá hốt hoảng, gã lôi tuột cả cái đoạn chân lắt lẻo ấy, dùng một chân còn lại và hai cánh tay hối hả bươi xuống đất, chuồi người lọt ra sau nhà. Hai Nhứt chạy vòng ra phía sau đuổi theo. Anh điên cuồng bổ túi bụi những nhát mác xuống cái khối thịt đỏ lòm đang lăn lông lốc dưới chân, bất kể nó trúng vào chỗ nào. Hai Nhứt cứ chém, nó cứ lăn. Nó lăn đến bờ con lạch và rơi tòm xuống đó. Hai Nhứt nghiến răng ném theo cây mác. Mặt nước đang yên lặng chợt sục lên đỏ ngầu, sủi tăm như đã ghim vĩnh viễn cái đồ ghê tởm ấy xuống đáy con lạch...

Không có hoa, không có tiệc tùng. Không có đám cưới nào diễn ra như Lý đã tưởng tượng trước khi tới cái xứ sở xa lạ kia. Gã Cơm Thiu mang Lý về như mang theo một món đồ.

Lý bắt đầu cảm thấy thất vọng nhưng vẫn âm thầm chịu đựng. Cô chỉ còn biết bấu víu niềm tin vào một phong tục quái gở nào đó nơi xứ người. Nhưng cô có biết đâu rằng những toan tính của gã Cơm Thiu còn quái gở hơn. Mấy tuần đầu làm những công việc của một đứa con ở trong nhà, một buổi chiều Lý gặp cái lão triệu phú ấy. Đó là một lão già gớm ghiếc, tròn ủng như một con heo, một chân lão cụt đến đầu gối, mặt mũi đầy sẹo. Lão già - ông nội của gã Cơm Thiu nhìn Lý hau háu như quỷ đói và nhe răng cười khoái trá. Lý bỗng cảm thấy rùng mình. Bấy giờ, cô mới chợt hiểu tất cả. Thì ra gã Cơm Thiu giả bộ cưới cô về để cho chính lão già. Đến lúc ấy, những kẻ kia cũng chẳng cần úp mở nữa. Lý đã hoàn toàn nằm trong tay họ. Hai con đực xa lạ, một già, một trẻ đã hiểu rõ bụng dạ của nhau. Chúng nhìn nhau cười hô hố. Rồi chúng vừa chỉ trỏ vào Lý, vừa líu lo bàn tán, mặc cả với nhau bằng cái thứ ngôn ngữ mà cô hoàn toàn mù tịt...

Cô Năm lờ mờ nhận thấy sự xuất hiện của người anh hùng. Rốt cuộc anh đã đến. Nhưng hình như vẫn muộn mất rồi. Cái khối thịt nặng nề, tởm lợm kia đã được trút bỏ khỏi người cô. Cô nghe những tiếng thở hồng hộc, tiếng uỳnh uỵch và phầm phập chém xuống của ngọn mác phía sau nhà. Không biết nên sung sướng hay tiếp tục đau khổ, đầu óc cô đã hoàn toàn mê muội. Rồi hình như người anh hùng ấy đã quay trở lại. Cô nghe thấy những tiếng rít ghê rợn giữa hai hàm răng của anh, cảm thấy rõ ràng sự lồng lộn, uất hận của người yêu khi chứng kiến cô bị trói dang chân dang tay, trần truồng nằm trên bộ ván.

Tấm thân cô đã bị làm cho ô uế. Cô hiểu rõ điều đó. Nhưng cô chưa biết rằng sự tiếc nuối, ghen tức và căm hận đang làm cho Hai Nhứt nghẹn thở. Đầu óc anh mụ đi. Anh căm hận cuộc chiến tranh này, căm hận kẻ khốn kiếp kia, căm hận cả cái thân thể thanh tân hừng hực của người yêu mà bấy lâu nay, anh đã cố để dành... Bỗng một cái gì đó lại đổ ập lên người cô. Một lần nữa, cô chết điếng người khi toàn thân lại dội lên một cơn đau rát. Trước mắt cô, màn đêm bỗng bất ngờ chụp xuống giữa ban ngày. Cô ngất đi...

Gã Cơm Thiu đã đạt được mục đích. Dùng Lý làm món quà cho lão ông nội triệu phú, bản di chúc rốt cuộc đã được kí, ghi rõ tên người thừa kế là gã. Lý bị tống vào buồng ngủ của lão già. Làm sao cô có thể chịu đựng nổi điều đó kia chứ. Cô gào thét, cào cấu và chửi rủa loạn xạ. Mặc! Lão già đâu có hiểu những câu chửi rủa của cô. Nhưng Lý còn có sức mạnh, sức mạnh của tuổi trẻ mà một lão già ngoài bẩy mươi lại cụt chân như lão, không thể hễ cứ muốn là được. Loay hoay mãi không làm gì được cô, lão già tức tối rống lên như con heo bị chọc tiết, bọt mép lão sùi ra. Ngay lập tức, đứa cháu nội của lão ra tay. Bấy giờ, cái vỏ lịch sự, sang trọng của gã Cơm Thiu ấy đã hoàn toàn biến mất, gã hiện nguyên hình là một con thú cường bạo. Gã trói Lý vào cột, dùng gậy vụt tới tấp lên người cô. Lý rũ rượi và nghiến răng chịu đau, cô vẫn một mực từ chối. Cô đòi về nhà. Nhưng liệu cô còn có thể làm gì được bây giờ?...

Bà con chòm xóm phát hiện cô Năm bị cưỡng hiếp, vẫn còn bị trói, nằm trần truồng trên bộ ván đã kịp thời cứu và dấu cô đi trước khi bọn lính đánh thuê kia quay lại tìm đồng đội. Hai Nhứt sau khi trút ra hết mọi uất hận, đã bỏ đi biệt tích từ đó. Không ai biết anh ta đi đâu. Có người nói anh chuyển sang hoạt động ở một vùng khác, cũng có người bảo rằng anh đã chết. Riêng cô Năm, chẳng hiểu vì sao từ đó ghê sợ tất cả các loại đàn ông, bất kể ta hay địch. Và một điều còn ghê rợn hơn, không ai lý giải nổi đã xảy ra. Cô có mang. Má cô sau sự việc đau buồn ấy chẳng bao lâu thì mất. Cô còn một người anh bị bắt đi lính quốc gia, song đã chết mất xác tận Tây nguyên. Được bà con trong ấp thông hiểu và đùm bọc, chín tháng sau, cô Năm sinh một bé gái. Chính là má ruột của Lý và Lơ sau này. Cô đặt tên cho nó là Hoa. Nhưng mọi người xung quanh vẫn thường gọi nó bằng một cái tên kép là Hoa Dại...

Lão triệu phú già tức giận, điên cuồng khi chưa khuất phục được Lý. Lão muốn cô phải ngoan ngoãn phục tùng. Vậy thì lão sẽ thi gan với cô, sẽ bỏ đói, sẽ hành hạ xem cô chịu đựng được bao lâu. Có một điều mà gã Cơm Thiu rất hiểu, rằng lão rất sợ nếu phải ra tay cưỡng hiếp Lý. Lão thường kể cho gã cháu nội nghe câu chuyện rùng rợn ngày ấy. Ngày mà lão theo chân đội quân đánh thuê tới một xứ sở vùng nhiệt đới. Lão được tuyên truyền rằng đó chẳng qua chỉ là một cuộc đi săn dài ngày, rằng nơi đó như một chốn hoang vu, vô chủ, tha hồ mà cướp, hiếp... Thực tế, lão và đồng bọn suốt một thời gian dài quả thật đã hành sự y hệt những kẻ đi săn. Trong một lần đi ăn mảnh, chưa kịp thực hiện cái công đoạn cuối cùng của một vụ cưỡng dâm, lão bị chém cụt một chân, lại còn mang theo bao vết chém trên người. May mà về sau, lũ đồng bọn đã tìm thấy và cứu sống lão.

Suốt từ đó, lão khắc sâu sự rùng rợn ấy vào trong lòng. Lão căm tức và muốn trả thù. Lão nuôi ý định sẽ trả thù bằng cách bắt một người con gái còn trinh tiết ở chính cái nơi đó phải phục vụ lão, đền bù cho lão cái chân cụt và những vết chém thù hận kia... Lão chờ cơ hội và lạy giời, cơ hội đã đến. Xứ sở ấy không thể chinh phục được bằng sức mạnh thì sẽ chinh phục được bằng đồng đô la. Đồng đô la sẽ giúp lão có cơ hội thay cho súng đạn với cả những đội quân viễn chinh. Thằng cháu nội láu cá của lão đã nhanh chóng hiểu ý và giúp lão làm được điều đó, Lý trẻ đẹp giờ đây đang nằm trong tay lão...

Cô Năm cay đắng sống và nghiến răng nuôi đứa con gái oan nghiệt. Ngày lũ lính ngoại quốc kia bị quét sạch thì Hoa Dại được gần chục tuổi. Những người thuộc "phía bên kia" đã chiến thắng trở về. Cùng với mọi người xung quanh, cô Năm háo hức như một đứa trẻ, trong lòng tràn ngập nỗi vui sướng, hy vọng vào một cuộc đổi đời. Hai Nhứt vẫn biệt vô âm tín. Như một cái cây bị bầm dập đến hồi xanh tốt trở lại, cô Năm càng có tuổi, lại càng đẹp và hấp dẫn. Cô không ngờ lại lọt vào "tầm ngắm" của một người vốn là đồng đội của Hai Nhứt trước kia. Ông ta say mê cô, thèm cô đến mất ăn mất ngủ, ngày nào ông cũng tìm cách gạ gẫm. Nhưng lòng cô thì đã nguội lạnh với đàn ông từ lâu rồi. Thậm chí cô còn ghê sợ cả cái cơ thể hừng hực vốn làm cho đàn ông phải chết thèm chết nhạt của mình. Càng không được cô Năm đáp ứng, người đàn ông kia càng si mê điên cuồng. Ông ta tìm cách đưa cô vào làm thủ quỹ của cái cơ quan do ông phụ trách, hy vọng sẽ có cơ hội được thoả mãn sự thèm khát của mình.

Có lẽ đấy là quãng thời gian duy nhất trong đời cô Năm nhìn thấy vàng. Hàng đống vàng tịch thu từ trong két sắt của những nhà tư bản, địa chủ trong vùng được khuân về cơ quan, giao cho cô cất giữ. Tất cả bây giờ là thuộc về nhân dân, của nhân dân, trong đó tất nhiên có cả cô. Cô nghe người đàn ông kia bảo thế. Nhưng cô cũng chỉ được nhìn thấy thôi. Cô vĩnh viễn không bao giờ được phép hiểu mấy cái tính từ sở hữu gọi là "thuộc về", gọi là "của" kia, rốt cuộc sẽ có ý nghĩa như thế nào? Và không chỉ có thế, cô Năm còn được nghe rằng cuộc chiến tranh này đã mang lại cho cô và những người dân như cô nhiều thứ khác còn quý hơn cả vàng, ví dụ quyền tự do chẳng hạn... Thế thì còn gì bằng. Thế thì cô cần phải biết ơn chiến tranh, biết ơn những người đã làm nên cuộc chiến này.

Nhưng có một điều cô Năm hoàn toàn không thể ngờ rằng cô vẫn còn sở hữu một thứ vô cùng nguy hiểm cho chính mình. Đó là sắc đẹp và sự hấp dẫn trời cho. Những thứ chết tiệt ấy muôn đời vẫn làm điên đảo lòng người. Nó chưa bao giờ có ý buông tha cô. Nó vẫn rình rập và chờ cơ hội để trút tai họa xuống cuộc đời cô một lần nữa. Sau khi đã dùng đủ mọi cách mua chuộc, ve vãn mà chỉ nhận được sự thờ ơ, lãnh cảm tuyệt đối của cô, người đàn ông kia cảm thấy bị xúc phạm, bị vong ơn. Ông ta bắt đầu thay đổi thái độ và quyết bắt cô phải trả giá cho sự xúc phạm ấy. Một hôm người ta kiểm kê két vàng và bỗng phát hiện tất cả chỉ là vàng giả. Có kẻ đã đánh tráo và ăn cắp kho vàng thật kia của nhân dân. Tất nhiên cô Năm là nghi can số một. Nói phải tội, đối với cô thì ngay cả vàng giả, đời cô cũng chưa bao giờ được biết nó như thế nào, huống hồ là đánh tráo. Nhưng trước những âm mưu và lòng thù hận của con người, cô còn biết giải thích sao đây? Ngay lập tức, cô bị kết tội ăn cắp tài sản của nhân dân, là kẻ thù của nhân dân... Không cần xét xử vì bấy giờ đó là một cái tội tày đình. Cô Năm bị bắt đi cải tạo...

Lý bị trói, bị bỏ đói, chỉ cho uống nước đến ngày thứ ba thì cô rũ ra như một tàu lá héo. Gã Cơm Thiu không còn thấy lai vãng đến nữa. Lão già triệu phú thay đổi chiến thuật. Lão xoay ra săn sóc, mơn trớn cô bằng cái thứ ngôn ngữ thổ tả mà cô chẳng hiểu tý gì. Cô nhớ ngoại, nhớ đến nắm xương lạnh lẽo của má chôn dưới gốc dừa, nhớ đứa em song sinh, nhớ quê hương mà cay đắng và tuyệt vọng. Trong bốn bức tường của tòa lâu đài, giữa một xứ sở giàu có, văn minh nhưng hoàn toàn xa lạ này, cô biết trốn đi đâu? Cô gần như đã bị khuất phục. Trước sự thật bỉ ổi và ghê tởm đang hiện hữu kia, sức lực của cô đã cạn kiệt, không còn khả năng chống lại nữa. Có vẻ như đã đến lúc lão già triệu phú kia sắp đạt được mục đích của mình. Nhưng Lý còn một khả năng kháng cự cuối cùng. Đó là ánh mắt khủng khiếp, rực lên một nỗi thù hận của cô chiếu thẳng vào lão mỗi khi lão định giở trò sàm sỡ. Đó không phải là ánh mắt của một cô gái sắp sửa bị làm nhục. Ánh mắt ấy là của ma quỷ, có một thứ ma quỷ nào đó đã theo cô đến tận nơi đây. Ánh mắt của nó làm cho lão triệu phú hoảng hồn. Lão có thể nhắm mắt lại, hoặc che mặt đi để trốn tránh. Nhưng những vết sẹo chằng chịt trên người lão thì không trốn nổi, chúng đột nhiên lên cơn đau nhức dữ dội. Không những thế, những kí ức rùng rợn ngày trước lại bất chợt hiện về, rõ rệt trước mắt lão như thể tất cả được chiếu ra từ ánh mắt ấy...

Hoa Dại mười tuổi không ba, mất má, may mà có sự đùm bọc của bà con cùng ấp. Nó trong trắng và vô tội như chính sự vô tội của vùng đất này từ hàng nghìn năm nay. Nhưng đứa con gái hoang của một kẻ ăn cắp tài sản nhân dân thì làm gì có chuyện được học hành. Mặc kệ, nó vẫn lớn lên và quả đúng là một bông hoa dại. Gió vẫn thổi, cây vẫn xanh và ngày ngày, mặt trời vẫn rực sáng trên đầu. Càng lớn, Hoa Dại càng phổng phao, dễ thương y hệt má Năm nó trước kia. Chốn hương đồng, gió nội này cứ thản nhiên hun đúc nên những cái đẹp, những cái hấp dẫn điên đảo như thế để rồi chẳng hứa hẹn trước một điều gì. Như một thứ sản phẩm do Trời sinh ra, Hoa Dại cứ thế vô tình lớn lên, vô tình xinh đẹp mà không cần biết những gì đang chờ đợi mình ở phía trước. Năm mười bẩy tuổi, Hoa Dại được cậu con trai ông Ba trên thị trấn để mắt tới. Người viết lại câu chuyện này không biết ông Ba ấy cụ thể là ai. Mà điều đó thực ra cũng không quan trọng, những người như ông đời nào mà chẳng có. Chỉ biết rằng vàng bạc và quyền thế của ông Ba dành cho cậu con trai có thể làm nên mọi chuyện. Không cần phải công phu gì cho lắm, Hoa Dại đã dễ dàng sa vào vòng tay của cậu quý tử ấy. Một hôm, trong một ngôi nhà sang trọng ở ngoại ô thị trấn, lần đầu tiên Hoa Dại biết thế nào là sự lộng lẫy, choáng ngợp thì ra vẫn hiện hữu ở đâu đó trong đời. Nó khác biệt hẳn những tồi tàn, tăm tối của cái vùng quê nơi cô đã lớn lên. Cô bé quê mùa quay quắt trong tiếng nhạc, rượu bia và thuốc kích thích. Cùng với cậu con trai kia, cô cuống cuồng dứt bỏ những mảnh quần áo trên cơ thể mình rồi lao vào gã như một con thiêu thân.

Cứ thế hàng tháng trời, Hoa Dại đã kịp quên hết thân phận, quên cả người má tội nghiệp đang nằm trong trại cải tạo để ngập mình trong những cuộc truy hoan. Nhưng tất cả không chỉ dừng lại ở đó. Sau khi đã nhàm chán thân xác Hoa Dại, cậu quý tử kia bắt đầu rủ rê đám bạn bè cũng con nhà quyền thế như cậu chung nhau "làm thịt" con bé. Thị trấn bấy giờ nức tiếng đám công tử ăn chơi nhất hạng ấy gọi là nhóm G7. Nhóm G7 gồm toàn những chàng trai thời thượng, con nhà danh giá. Họ không thiếu gì tiền, vàng và quyền lực của những ông bố, bà mẹ để thoả mãn cơn khát dục của mình. Có thể những người bình thường không tin hoặc không tưởng tượng nổi. Nhưng đừng có ai nghi ngờ về sự hiện hữu rành rành của họ trong cuộc đời này. Nhất là đừng có nghi ngờ về những sức mạnh ghê hồn của họ. Vàng và thuốc kích thích sẽ khuất phục tất cả. Hoa Dại chỉ là một trong số rất nhiều cô bé khác trong vùng bị cuốn vào cái nhóm ấy. Nhưng rồi cũng chẳng được bao lâu. Những bông hoa dại mới được tuyển đến thì những bông hoa cũ bị bỏ đi. Hoa Dại rốt cuộc cũng đến lúc làm cho cả nhóm nhàm chán. Họ tống cô bé về quê cùng với một cái thai trong bụng, cái thai mà cô sẽ chẳng bao giờ biết là của ai trong cái nhóm G7 trứ danh ấy?

Bị đuổi ra khỏi chốn ăn chơi lộng lẫy, trả về đúng nơi tăm tối cũ, Hoa Dại rốt cuộc sẽ tiếp tục đẻ ra những bông hoa dại khác để kế thừa cái số kiếp của mình rồi tàn tạ...? Rất tiếc cuộc đời lại có vẻ không xuôi theo một chiều như thế, mà luôn có những diễn biến bất ngờ. Hơn một năm sau ngày Hoa Dại bị thải ra khỏi thiên đường của nhóm G7, lúc ấy cô đã sinh một lúc hai bé gái, đó chính là Lý và Lơ sau này. Ở một chốn cao cao nào đó, có vẻ như người ta đã tình cờ lần ra manh mối thân phận của cô. Ông Ba một hôm gọi cậu con trai lại. Ông hỏi thăm về cái con bé Hoa Dại của nó ngày trước. Rằng có một ông Hai nào đó từng yêu thương má ruột của Hoa Dại hồi chiến tranh không phải là đã chết. Chẳng ai hiểu vì lý do gì, ngày đó ông Hai đột ngột từ bỏ vùng này, chuyển sang hoạt động ở một vùng khác. Ông Hai ấy bây giờ có địa vị rất cao. Cao đến mức ông ta có thừa quyền lực để làm tiêu tan cả công danh, bổng lộc của ông Ba cũng như của cả cậu quý tử sau này. Hoa Dại phải chăng là giọt máu ngày xưa của ông Hai? Biết đâu được, mọi điều đều có thể xảy ra. Nếu ông Hai ấy biết Hoa Dại hiện đang có ở trên đời, đã bị nhóm G7 của cậu quý tử làm cho tan nát, biết má nó đang bị oan ức trong trại cải tạo... thì sự nguy hiểm sẽ không thể nào lường được. Địa vị của ông Ba và những người như ông quan trọng gấp nghìn lần số kiếp của những bông hoa dại như nó. Vậy thì, ông Ba và cậu quý tử của ông cần phải nghĩ ra cách gì đó, cần phải làm điều gì đó, đặng giữ an toàn tuyệt đối cho cái danh giá ấy của mình. Thứ gì bèo bọt thì nên để cho nó kết thúc theo kiểu bèo bọt...

Một hôm, cậu quý tử ấy trở về tìm Hoa Dại. Có vẻ cậu ta đã ân hận, đã nghĩ lại và muốn bù đắp một cuộc sống tốt đẹp cho mấy mẹ con cô? Hoa Dại rất tin điều đó, ai cũng sẵn sàng tin điều đó. Gặp lại Hoa Dại sau một thời gian dài vứt bỏ, cậu quý tử không ngờ lại bị choáng ngợp trước sự mặn mà và hấp dẫn mới của cô. Cái đất này thì ra lại cứ hay đùa bỡn, trớ trêu như thế. Hoa Dại chưa đầy hai mươi tuổi, đẻ một lần như người được thay máu, cô nhanh chóng khôi phục nguyên vẹn những nét hấp dẫn mê ly ngày trước. Ông trời đã cho cô cái này, song lại lấy đi của cô tất cả những cái khác. Hoa Dại gặp lại cậu quý tử ấy thì mừng lắm. Đất này không ai biết giận bao giờ, nhất là những bông hoa dại như cô. Lại vàng, tiền, uy quyền và những lời hứa hẹn. Hoa Dại đem hai bé Lý, Lơ gửi hàng xóm rồi ra đi. Cậu quý tử dẫn Hoa Dại đi tít mãi phía cánh đồng. Hai người đi dọc theo một con kinh thẳng tắp, hai bên bờ là những hàng dừa, những bụi cây lặng ngắt, thỉnh thoảng lại thấy buông những tiếng thở dài. Cả một bầu trời quê mênh mông. Đây đó có những ngôi chùa bề thế, toà ngang dãy dọc, mang một lối kiến trúc rất đặc trưng. Thật đúng là những chốn an lành, vĩnh cửu của cõi tâm linh. Đây đó lại thấy những xóm ấp tồi tàn ẩn mình dưới những tán dừa. Ở đó rất hiếm tìm thấy một ngôi nhà xây kiên cố. Những con người từ đời này sang đời khác chỉ biết chui rúc trong những căn nhà lá, tường đắp bằng đất hoặc thưng bằng phên tre. Thật đúng là những nơi bất trắc, tạm bợ của cõi trần tục. Gió thổi từ dưới dòng kinh lên man mác hơi bùn. Mùi con gái mới sinh gây gây, ngầy ngậy toả ra từ mái tóc, từ thân thể của Hoa Dại làm cho gã con trai ngây ngất. Bây giờ cậu mới biết, thì ra ở giữa cái chốn đồng không mông quạnh, lấm lem bùn đất này, sự hấp dẫn của những bông hoa dại mới thực sự tuyệt vời. Nó còn khêu gợi gấp nghìn lần những nơi sang trọng loè loẹt, sặc sụa mùi rượu bia, khói thuốc lá mà cậu và lũ bạn trong nhóm G7 hằng trải qua. Hơn cả những khi phải uống rượu mạnh, rượu sừng tê hoặc thuốc kích thích. cơn thèm khát trong con người cậu quý tử đã dâng đến tột đỉnh. Không kịp suy nghĩ gì nữa, gã hấp tấp quàng tay qua eo lưng Hoa Dại, ôm cứng lấy cô rồi vật cô xuống một đám cỏ cạnh bờ kinh. Hoàng hôn bắt đầu buông xuống rất nhanh...

Lão triệu phú vẫn không có cách gì thoát khỏi sự trừng phạt của ánh mắt Lý mỗi khi lão muốn hành sự. Lão đã mấy phen kinh hồn khiếp đảm nhưng vẫn không từ bỏ cái ý định khốn kiếp của mình. Lão không thể giải thích nổi. Có gì liên quan giữa ánh mắt ấy của Lý với những vết sẹo lão đang mang trên người? Đó phải chăng chỉ là sự ám ảnh, cộng hưởng của ảo giác? Không bao giờ lão chịu tin rằng quá khứ sẽ có lúc trở lại để trừng phạt tội ác của lão. Chẳng lẽ phải khoét đôi mắt của nó đi? Lão cũng dám làm điều đó lắm, lão đang phát điên đây. Dù có phải chết, thì trước khi chết, lão thề sẽ khoét đôi mắt của Lý. Chính cô ban đầu cũng chưa nhận ra điều kì lạ ấy từ đôi mắt của mình. Cô kinh ngạc thấy lão triệu phú đang sắp sửa giở trò bỗng rụt tay lại, ôm mặt rú lên những tiếng rú khủng khiếp, lại còn ngã vật ra lăn lộn, tỏ vẻ đau đớn lắm. Cô soi gương và bỗng giật mình nhận thấy những tia nhìn khác hẳn đang chiếu ra từ đôi mắt của chính mình. Ánh mắt ấy hình như không phải của cô, của một ai đó, lại như ở một cõi khác, không hề có giữa chốn trần gian khốn nạn này. Dù thế nào thì cô cũng không quan tâm. Vấn đề là cô tạm thời được yên ổn, chưa bị con quỷ già kia làm hại. Song cô biết sự yên thân này sẽ chẳng kéo dài. Lão triệu phú đã gọi gã Cơm Thiu đến. Phải tìm mọi cách đối phó với ánh mắt ấy trước khi buộc phải khoét nó đi. Hai ông cháu con đực ấy đang lấm lét bàn bạc, suy tính một điều gì...

Bà Năm (cô Năm ngày trước bây giờ đã trở thành bà Năm) được ra khỏi trại cải tạo, bà trở về thì chỉ còn được thấy hai đứa cháu gái song sinh. Hai đứa sinh ra trong thời gian bà còn nằm trong trại. Chúng được bà con trong ấp nuôi nấng, nay giao lại cho bà. Còn Hoa Dại, má của chúng đã bỏ đi biệt tích theo cậu công tử từ đúng cái ngày ấy, không ai biết cô đi đâu. Bà Năm lại lần hồi nuôi Lý và Lơ bằng cỏ rác, bằng nước mắt và những sình lầy quanh năm nước đọng trong vườn nhà. Mặc kệ những gì đồn đãi, mặc kệ những gì đã và sẽ còn giáng xuống. Hai bé gái cứ lớn lên và chúng quả nhiên lại hứa hẹn sẽ trở thành những bông hoa dại. Gió vẫn thổi, cây vẫn xanh và ngày ngày, mặt trời vẫn rực sáng trên đầu. Một buổi chiều u ám, bà Năm bỗng như người mộng du dắt theo Lý và Lơ, lúc này đã được hơn chục tuổi. Không ai biết ba bà cháu đi đâu. Chỉ biết rằng ba cái bóng ấy lúc khuất lúc hiện chập chờn, nghiêng ngả dọc theo bờ kinh. Ba bà cháu cứ đi, đi tít mãi về phía cuối con kinh. Những bước chân như được dẫn đường bởi ma quỷ. Hai bên tai gió lạnh thổi hầm hào, tràn ngập một thứ mùi rờn rợn, lạnh toát đến gai người. Đâu đó giữa cánh đồng vọng về những tiếng chuông chùa buồn tẻ. Đang có giấc cầu nguyện buổi chiều.

Tới đúng chỗ có ngã ba, nơi con kinh đổi dòng để chảy ra với biển, bà Năm bỗng dừng lại. Đôi mắt đã mờ đục, man dại của bà nhìn trân trối vào một gốc mù u mọc ngay sát bờ kinh, trơ những đoạn rễ loằng ngoằng, khẳng khiu của nó cắm sâu xuống mặt nước. Bất chợt, hai tay Bà Năm chới với, bà khuỵu xuống, vừa nức nở vừa run rẩy thốt lên hai tiếng: "Con ơi!". Ngay lúc đó, một làn gió thổi ào tới. Ngã ba dòng kinh đen ngòm như hoảng hốt vì bị đánh thức bất ngờ. Một con sóng trào lên đập mạnh vào gốc mù u. Bụi nước tung lên cao, trùm kín lấy ba bà cháu. Lẫn trong tiếng sóng và tiếng gió, nghe như có tiếng khóc nỉ non của một linh hồn oan khuất. Lý và Lơ bé bỏng không hiểu chuyện gì xảy ra. Hai đứa hoảng sợ ríu cả chân lại. Chúng vừa ôm chặt lấy nhau, vừa khóc thét lên như bị ai đánh. Tiếng khóc của ba bà cháu làm lặng ngắt một khoảng trời chiều.

Một lát sau, bà Năm dần dần trấn tĩnh lại. Vẫn còn run rẩy nhưng đầy vẻ quả quyết, bà thả chiếc áo khoác ngoài xuống đất rồi bước tới gốc mù u, thận trọng bám vào những đoạn rễ của nó và từ từ lần xuống. Ngâm hẳn người xuống dưới dòng kinh lạnh lẽo, bà đưa hai tay mò sâu vào phía trong gốc mù u, bới trong bộ rễ dày đặc, rối tung của nó như muốn tìm kiếm một vật gì. Hình như bà đã ra khỏi cơn mộng du. Bàn tay của bà đã đụng vào cái vật cần tìm ấy. Bà vội vã nâng nó lên khỏi mặt nước, ôm nó vào lòng. Đó là một khối tròn to, đen sì và ròng ròng bùn nước. Bà Năm một tay giữ chặt nó trước ngực, một tay bíu những rễ cây, lập cập leo lên bờ. Bà lấy chiếc khăn rằn đang quấn trên đầu xuống, trải nó trên mặt đất rồi cẩn thận đặt cái khối tròn tròn ấy lên. Đó là một cái sọ người. Lúc này hoàng hôn đã buông được một lúc, màn đêm sắp sửa bôi nhọ hết bầu trời. Dưới thứ ánh sáng nhờ nhờ ấy, cái sọ ướt đẫm vẫn còn kịp hắt lên óng ánh, từ trong hai hốc mắt sâu hoắm, lấp loáng những ánh lân tinh, những giọt nước tròn to lăn xuống chiếc khăn rằn như những giọt nước mắt. Bà Năm lấy từ trong chiếc áo khoác ban nãy ra một bó nhang và một chiếc hộp quẹt. Hai bàn tay bà run rẩy che gió, loay hoay bật chiếc hộp quẹt. Bà thắp lên mấy nén nhang rồi quay ra bảo Lý và Lơ, lúc này đã thôi khóc, đang ôm nhau nhìn hút vào cái sọ:

- Hai đứa quỳ xuống! Lạy má đi các con...

Hoa Dại ngày trước đó ư? Vâng, chính là Hoa Dại đấy. Hoa Dại xinh đẹp và trẻ trung ngày nào, giờ chỉ còn lại có thế. Cô đã trôi đến đây, đã cố ý níu vào đám rễ cây mù u ấy để nằm lại, chờ đến ngày trở về với má, với hai đứa con gái bé bỏng của mình. Còn việc tại sao bà Năm lại tìm được đến đúng chỗ này thì sau đó không ai giải thích được. Chỉ biết rằng những việc tương tự như thế vẫn thường xảy ra, nhất là đối với trường hợp của những oan hồn...

Đã mấy tháng trời kể từ ngày Lý ra đi, hai bà cháu ở nhà vẫn bằn bặt tin tức. Những cơn ác mộng làm cho bà Năm lo nghĩ, đau yếu luôn luôn. Lại vào đúng cái thời buổi mà những người nghèo hình như không có quyền được có bệnh tật. Một nghìn đô la gả bán Lý chẳng mấy chốc đã tiêu hết vào tiền thuốc men, tiền bác sĩ đang ngày càng đắt đỏ. Hai bà cháu rơi vào một cơn túng quẫn. Có người đã môi giới, dắt Lơ lên thành phố làm người giúp việc cho một gia đình nọ. Bốn trăm ngàn tiền công một tháng cũng có thể gửi về giúp cho ngoại cô sống được qua ngày. Chỉ cầu mong cho ngoại đừng có ốm đau. Lơ là một cô bé ngoan hiền và có chí. Song cô bé đâu có biết rằng mình vẫn gánh phải cái tội của vùng đất quê hương, của mấy đời bà cháu, má con cô. Đó là cái tội xinh đẹp như một bông hoa dại, để cho bất cứ kẻ nào trông thấy cũng phải thèm thuồng.

Lơ làm người giúp việc trong toà biệt thự lộng lẫy của một ông cán bộ đã về hưu ở ngoại ô thành phố. Cô được dạy rằng cứ gọi ông ấy là ông Hai. Lần đầu tiên Lơ biết trên đời còn có những người giàu, những người ăn không biết đến bao giờ cho hết của. Ông Hai trong nhà tuổi ngoài bẩy mươi, con cháu đầy đàn, toàn những người vinh hiển, sang trọng.

Những dịp cuối tuần, đủ các kiểu xe hơi của họ từ những chỗ đâu đâu trong thành phố kéo về đỗ đầy sân biệt thự. Trước khi lên ở đây, ngoại đã nói trước cho Lơ biết, rằng giữa cô với họ luôn luôn phải giữ một khoảng cách, cái khoảng cách trời sinh ra phải thế. Lơ chỉ dám truyện trò với chị Sáu, một chị cũng phụ việc trong nhà ấy trước Lơ vài năm. Chị Sáu quê miền Trung, giọng nói của chị nghe hơi nặng. Chị tốt với Lơ lắm. Chị thường khen Lơ dễ thương. Nhưng lần nào khen xong, Lơ cũng thấy chị thở dài. Lơ có hỏi tại sao thì chị không trả lời, đôi mắt chị bỗng chốc chợt xa xăm, u uẩn như nhớ về quê hương, nhớ cái thời còn con gái của chị. Lơ cũng nhớ đến người chị gái song sinh lấy chồng ngoại quốc của mình. Lơ đã từng đem ra khoe với chị Sáu. Không hiểu Lý có xe hơi không nhỉ? có được sung sướng như những cô chủ, cậu chủ trong nhà này không? Lơ mong tin của Lý nhưng càng mong thì lại càng bặt vô âm tín. Nhiều lúc Lơ tự hỏi chị Lý đâu có phải mũi tên? hay chị là hòn đất? Điều đó thật khủng khiếp. Hòn đất ném xuống dòng sông, sẽ không bao giờ quay trở lại.

Những điều chị Sáu tránh không nói ra, dần dần với linh cảm của một cô gái đang tuổi dậy thì, Lơ cũng bắt đầu nhận thấy. Trong ngôi biệt thự này có một gã con trai lớn hơn Lơ vài tuổi, đó là cậu Pít - cháu nội của ông Hai. Cậu Pít một mình sở hữu mấy chiếc xe, cả xe hơi lẫn xe gắn máy. Chẳng biết từ lúc nào, cậu ta bắt đầu để ý đến Lơ, nhìn Lơ bằng cái nhìn rất lạ. Lơ xấu hổ và ngượng ngùng, cũng có đôi lúc cô cảm thấy hãnh diện.

Nhưng cảm giác đó kéo dài không lâu, thay vào đó là một nỗi sợ hãi mơ hồ. Lơ không thích ánh mắt chòng chọc nhìn vào mình của cậu ta. Những lúc đó, Lơ muốn biến thành con kiến, chui vào một cái lỗ nào đó thật sâu để trốn tránh. Nhưng ông trời không cho Lơ biến thành con kiến, và cũng chẳng có cái lỗ nào để chui. Sự xấu hổ, ngượng ngùng của một cô gái mới lớn chẳng bao giờ làm cho ý nghĩ của bất kì gã đàn ông nào chùn lại. Điều đó chỉ tổ làm rực thêm vẻ hấp dẫn, hút hồn của các cô. Cậu Pít chắc đã từng trải qua không biết bao nhiêu đàn bà, con gái. Nhưng cậu dám đánh cuộc với đám chiến hữu rằng riêng cái khoản hấp dẫn ấy thì không có đứa nào có thể so sánh nổi với Lơ.

Ông Hai chắc là người rất rành về hạnh kiểm của thằng cháu nội. Ông đã nhận ra mối nguy hiểm của Lơ trong ngôi biệt thự này. Ông tỏ ra thương hại và có ý bảo vệ Lơ. Bằng những câu nói, cử chỉ vẫn còn đầy uy quyền của mình, ông cảnh cáo cậu Pít đừng bao giờ mơ tưởng đến Lơ, hãy để cho Lơ được yên ổn. Nhưng mợ Hai - má của cậu Pít thì lại không làm như thế. Mợ Hai sợ Lơ sẽ làm hư hỏng cậu quý tử của mợ. Con đường công danh của cậu Pít đang rộng mở, tương lai của cậu rự rỡ như trời sao lại có thể để cho một đứa ở gái quê mùa như Lơ làm ảnh hưởng. Và số phận của Lơ trong ngôi biệt thự thế là đã được định đoạt. Chị Sáu đã nói cho Lơ biết điều đó. Lơ sẽ bị mợ Hai cho nghỉ việc. Lơ vô nghề nghiệp và ngây thơ, lần đầu tiên bước chân lên thành phố. Lơ sẽ đi đâu? Làm thế nào để sống và kiếm tiền nuôi ngoại giữa cái thành phố xa lạ và đầy cạm bẫy này? Lơ cảm thấy mù mịt và run sợ. Đừng lo em ạ. Thành phố bây giờ nhiều việc làm lắm. Văn minh mà. Chị Sáu sẽ giúp em. Chị sẽ nhờ người xin cho em vào làm ở một quán cà phê. Nhưng em phải cẩn thận, cố giữ mình được đến lúc nào hay lúc ấy. Trước sau gì thì tất cả những cô gái như chị em mình cũng chẳng thoát nổi đâu.

Lơ bị buộc phải rời khỏi tòa biệt thự. Cô được người quen của chị Sáu xin cho vào phục vụ ở một quán cà phê. Một thời gian ngắn sau Lơ bắt đầu dạn dĩ hẳn lên, cô không còn khép nép, sợ sệt như lúc còn ở trong ngôi biệt thự kia nữa. Cái vỏ quê mùa của cô đã dần dần biến mất, Lơ lột xác từ lúc nào không hay. Không cần trang điểm, không chú ý tới cả cách ăn mặc. Nhưng sự rực rỡ, lộng lẫy và những nét tuyệt trần của một cô gái dậy thì như Lơ thì không dấu đi đâu được. Cô có thêm nhiều chị em bạn mới, cũng là những gái quê như cô. Đã có khối chàng trai cưỡi trên những chiếc xe máy đắt tiền bắt đầu chú ý tới sự xuất hiện của một bông hoa dại rực rỡ ấy nơi đoạn phố này. Lơ vui vẻ và yêu đời. Cô cảm thấy thích thú với cái môi trường sôi động và cực kì phồn hoa đang ngày ngày diễn ra xung quanh. Nhưng một nỗi lo khác lại ập đến với cô bé. Bấy giờ bà Năm ở dưới quê đã yếu lắm, không thể tự săn sóc cho mình được. Một lần nữa, có lẽ cô lại phải chia tay với chốn này thôi. Cô phải về quê chăm sóc ngoại. Nhưng bà cháu sẽ sống bằng gì? Lý vẫn không hề có tin tức. Trong lúc đang quẫn trí thì may quá, Lơ đã được mấy chị em bạn cùng làm giúp đỡ. Họ bày cách cho cô, rủ nhau hùn tiền cho cô vay để thuê một căn phòng trọ rồi đón bà ngoại lên ở cùng.

Số phận vốn không muốn báo trước cho ta biết điều gì, song tất cả những diễn biến sau đó thì cứ như đã sắp sẵn, con người sống chỉ biết chui dần vào. Thế là rốt cuộc, bà cháu Lơ cũng đến lúc phải rời bỏ cái vùng quê đầy nghiệt ngã của mình. Bà Năm mắt đã mờ đục, chân tay run lẩy bẩy. Bà có linh cảm rằng lần ra đi này không bao giờ quay trở lại. Bà không tiếc nuối điều gì, chỉ không muốn phải xa phần hài cốt còn lại của Hoa Dại đang nằm dưới gốc dừa, không muốn nắm xương tàn ấy từ nay lạnh lẽo. Từ trong tâm thức sâu thẳm của một người má, có một giọng nói thê lương cất lên bảo với bà rằng Hoa Dại cũng không muốn xa má, Hoa Dại cũng muốn được đi theo. Và thế là trong tay nải của hai bà cháu, có một chiếc khăn bằng vải đen bọc một vật luôn luôn được ràng buộc cẩn thận. Đó chính là phần hài cốt ấy của Hoa Dại.

Cám ơn thành phố thời mở cửa, để một cô gái như Lơ cũng có thể làm được cái việc mang bà ngoại lên đó sinh sống. Cuộc đời bây giờ thiếu gì những người vừa có tiền, lại vừa có tư duy nhặt nhạnh, nhặt của bất cứ ai, nhặt bất cứ cơ hội nào. Họ chia nhỏ những khu đất nằm sâu hút trong hẻm của mình ra, cất lên đó những cái gọi là những căn phòng trọ tạm bợ, sơ sài. Hai trăm ngàn đồng một tháng cho một chỗ chui rúc hai mét nhân bốn mét, vẫn có một vòi nước và chỗ đi tiêu, đi tiểu ngay trong phòng. Bà cháu Lơ thế là tạm có nơi, có chốn trong cái thành phố rộng lớn, đầy ắp phồn hoa này. Như một con chim non đã biết ngày ngày bay đi kiếm mồi tha về tổ, Lơ cảm thấy sung sướng và hạnh phúc khi có ngoại, có hương hồn của má ở bên cạnh. Cô rất vui vì đã chăm sóc, nuôi nấng được ngoại... Lơ làm ở quán cà phê từ chín giờ sáng đến mười giờ đêm. Sáng sáng mua sẵn cho ngoại hai hộp cơm ăn cả ngày. Thế cũng tạm ổn rồi. Cô hy vọng rằng cuộc đời sẽ có ngày khá lên, cầu mong đừng có xảy ra chuyện gì.

Vâng, cuộc đời chắc sẽ có ngày khá lên. Có điều hai bà cháu cứ như hai vận động viên thi nhau chạy ngược về hai thái cực. Lơ càng phổng phao và rực rỡ ra bao nhiêu thì bà Năm càng lụm khụm và teo tóp đi bấy nhiêu. Cứ thế được khoảng vài tuần, vào một buổi sáng sớm, ông bà chủ có nhà cho thuê đột nhiên đến kiểm tra dãy phòng trọ của mình xem cái đám nhếch nhác vong xứ, vong quê này ăn ở ra sao. Họ bắt gặp hai bà cháu đang ăn sáng. - Ở đâu ra cái bà lão này?

- Dạ! đây là ngoại con ở dưới quê mới lên.

- Xì! bày đặt ở dưới quê lên. Sao lúc làm hợp đồng cô không nói trước. Già thế này biết chết lúc nào. Ngộ nhỡ chết ở đây có phải xui xẻo nhà người ta hay không?

- Con xin ông bà. Ngoại con không còn ai chăm sóc...

- Đấy không phải việc của chúng ta. Chúng ta không chấp nhận. Thế thôi. Ngay ngày mai, cô phải đưa ngoại cô về, nếu không chúng ta không cho thuê nữa.

Té ra bà Năm không có quyền được sống ở đây, đơn giản vì bà cũng không có quyền được chết ở đây. Họ đi đã lâu rồi mà hai bà cháu vẫn còn ngẩn ra hoảng sợ. Bà Năm đánh rơi cả miếng cơm đang trệu trạo trong mồm, khuôn mặt răn reo ngấn đầy nước mắt. Đi đâu bây giờ? Chỗ nào rồi người ta cũng sợ người già như thế. Bà Năm thương mình, thương cháu. Giá bà có thể đi đâu để chết, để khỏi trở thành gánh nặng cho Lơ... Chợt Lơ nghĩ ra một cách. Cô ghé tai ngoại nói nhỏ: "Từ mai, mỗi khi đi làm, con sẽ khoá cửa ngoài. Ngoại cứ nằm im trong phòng, đừng gây ra tiếng động nào nhé. Để họ tưởng là con đã đưa ngoại về"...

Cuộc âm mưu vụng trộm của hai bà cháu cứ thế kéo dài được hàng tuần. Có vẻ như vợ chồng người chủ nhà kia không hề biết rằng bên trong cái cánh cửa ngày ngày vẫn khoá im ỉm của căn phòng ấy, có một nhân khẩu bất hợp pháp già nua đang sợ hãi nín cả thở...

Thằng Pít, cháu nội của ông Hai trong ngôi biệt thự ngày ấy bị tuột mất Lơ thì tiếc lắm. Nó cùng đám chiến hữu cũng con ông cháu cha như nó xưa nay chưa từng gặp thất bại bao giờ. Chúng lập ra một nhóm gọi là nhóm "S-T". S-T có nghĩa là sướng tít (hoặc sướng tê). Nghĩa là không thiếu một cái sướng nào, cái nào cũng phải đạt tới tột đỉnh mê ly. Chúng đặt giải thưởng cho kẻ nào nghĩ ra những cách chơi mới lạ, miễn sao đưa được hồn vía lên tới chín tầng mây. Nhóm "S-T" có đủ tuyên ngôn, điều lệ, biểu trưng. Thậm chí có cả "S-T ca". Bài "S-T ca" có tên: "thập sách" (mười kế) của chúng là: "Cứ tọng thuốc lắc / Cứ nắc gái tươi / Cứ đua xe hơi / Cứ chơi bạc bịp / Đuổi kịp ông Bô / Để vồ lấy chức / Thả sức lấy vàng / Mau quàng lấy đất / Cố giật lấy quyền / Rồi tuyên mình thành Bố". Đó là "lời dạy", là đường lối, định hướng tiến tới cái tương lai xán lạn của những kẻ như chúng mà chúng đã "sáng tác" từ hồi còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhóm "S-T" đứa nào cũng sở hữu trong tay ít nhất một vài "bộ" gọi là "đi-em-xi" (D-M-C). Không phải kí hiệu xe hơi hay vũ khí quân dụng đâu nhé. Ba chữ cái ấy có nghĩa là Diễn viên, người Mẫu và Ca sĩ. Gọi là "bộ" vì mỗi "bộ" phải gồm đủ ba cô như thế có "chất lượng", có "kiểm chứng" hẳn hoi. Thằng nào không đủ "bộ", không thèm cho chơi. Thằng Pít đã chán cả mấy cái "bộ" "đi-em-xi" của mình rồi. Nó đang muốn "cải tiến", mở rộng thành "bộ" "đi-em-xi-qui" (thêm gái Quê vào nữa thành chẵn bốn cô). Nhóm S-T thuê "chết" cả tầng thượng một tòa nhà cao nhất nhì thành phố làm chốn ăn chơi. Mỗi lần tụ họp, thằng nào cũng phải gọi "đi-em-xi" của mình tới rồi làm tình tập thể hay tay bo, tay ba gì tuỳ thích. Những cuộc vui giữa lưng chừng giời như thế có khi kéo dài đến mấy ngày, thậm chí hàng tuần.

Một thằng trong nhóm S-T trong một lần đi kiếm "hàng dạt" (gái lang thang), đã tình cờ phát hiện ra Lơ đang bán ở quán cà phê ấy liền báo cho Pít. Thằng Pít mừng rỡ đến phát rồ. Ngay lập tức, nó lập kế hoạch chiếm đoạt Lơ cho bằng được. Bây giờ thì mọi việc đã trở nên quá thẳng thắn, dễ dàng. Thằng Pít không còn phải ngại ai nữa. Nó không cần phải lấm lét giữ ý hay giả vờ làm bộ như khi Lơ còn là đứa ở trong nhà nó. Cái mã bề ngoài, vài lời hứa hẹn và những khoản tiền "bo" của thằng Pít đã nhanh chóng làm Lơ xiêu lòng. Mà Lơ phỏng còn giữ mình được bao lâu nữa kia chứ? Không sa vào tay nó thì cũng sa vào tay người khác mất thôi. Những ngày làm ở quán cà phê này, Lơ cũng đã kịp dày dạn ra đôi chút. Rồi Lơ cũng phải nhắm mắt, phải "liều" thân với cuộc đời này thôi. Lơ vẫn còn nhớ câu nói của chị Sáu: "cố giữ mình được đến lúc nào hay lúc ấy. Trước sau gì thì tất cả những cô gái như chị em mình cũng chẳng thoát nổi đâu". Lơ lẩm bẩm nhắc lại rồi chậc lưỡi. Cái gì phải đến rồi sẽ đến.

Lịch sử dù rộng hay hẹp, ngắn hay dài đều rất thích chơi trò xoáy trôn ốc. Hôm ấy là ngày thằng Pít giới thiệu "bộ" tứ "đi-em-xi-qui" của mình tại thiên đường "lưng chừng giời" của nhóm S-T. Những gì xảy ra cách đó gần hai mươi năm với Hoa Dại cùng nhóm G7 ở cái thị trấn quê mùa kia, thì nay lại xảy ra với Lơ và nhóm S-T cùng những "bộ" "đi-em-xi" lộng lẫy và trần trụi của chúng. Có điều sự hoành tráng và cao cấp, sự hiện đại và ghê hồn thì dẫu đến ba đời ông nội đẻ ra chúng ngày trước, cũng không thể nào ngờ tới được. Quay cuồng trong tiếng nhạc, rượu mạnh và thuốc lắc, cả một đám con trai, các "đi-em-xi" và Lơ lột bỏ hết quần áo, lao vào một cuộc truy hoan vô bờ bến. Những sản phẩm văn minh kia của nhóm ăn chơi đã làm cho Lơ hoàn toàn mất trí, hoàn toàn không điều khiển được mình. Cô không biết thời gian có còn trôi đi nữa không, trôi đến bao giờ? Người ta đã làm gì cô?... Cứ như thế hết ngày lại đêm, hết đêm lại ngày... Cái chốn lưng chừng giời ấy đâu cần biết Trái đất vẫn đang quay. Lơ chưa kịp tỉnh thì đã lại tiếp tục say, tiếp tục bị tống rượu mạnh, thuốc kích thích vào miệng. Có phải nhóm S-T kia đã vô tình? Hay chính là số phận đã cố ý không cho cô một cơ hội nào để nhớ đến bà ngoại, nhớ đến nắm xương tàn của má cô đang trốn trong căn phòng trọ tồi tàn ấy mong cô trở về...

Từ ngày Lơ bị đuổi ra khỏi ngôi biệt thự, ông Hai cảm thấy có một điều gì cứ thỉnh thoảng lại làm ông hoảng hốt. Quả tim đang có vấn đề của ông cùng lúc lại dội lên gây tức ngực, khó thở. Có phải do ông mới sinh ra chứng đa cảm khi nghĩ đến hoàn cảnh của Lơ? Ông không giải thích được. Cả đời ông chẳng bao giờ đa cảm như thế. Chiều hôm ấy có một kẻ bí ẩn đến nhét vào thùng thơ ngoài cổng biệt thự một cái bao thơ. Đó là thơ gửi cho chính ông Hai. Chị Sáu là người mang vào cho ông, song chị không hiểu trong đó viết gì. Ông Hai mở ra và chỉ thấy bức thơ ghi vỏn vẹn một dòng địa chỉ với những: "phố... hẻm... phòng...". Bức thơ kì lạ làm cho ông Hai cảm thấy bứt dứt hoảng hốt, đứng ngồi không yên. Như một cái máy, ông ra khỏi ngôi biệt thự, vẫy một chiếc tắc xi. Ngồi trong xe, cũng như một cái máy, thậm chí như một người mộng du, ông Hai đưa bức thơ ấy cho người lái xe rồi ngồi im như một pho tượng, miệng không thốt ra tiếng nào. Tới đúng số hẻm ấy, chiếc xe dừng lại. Ông Hai xuống xe, chậm rãi bước vào tít phía trong con hẻm. Ông nhìn thấy một dãy phòng trọ bẩn thỉu, nhìn thấy cả cái số phòng đã ghi trong địa chỉ. Nhưng hình như căn phòng đang bị khóa ngoài. Ông từ từ bước lại gần. Còn cách độ ba bước chân thì cái ổ khoá đang móc trên cánh cửa bỗng nhiên rụng xuống. Ông Hai thoáng một chút rùng mình.

Bây giờ thì đúng là ông Hai đang bị mộng du. Ông mở chiếc cánh cửa, bước hẳn vào trong phòng. Căn phòng tối tăm, ẩm mốc và lạnh toát một mùi tử khí. Trên manh chiếu trải dưới đất là một thi thể co quắp vẫn đang trừng mắt, ngửa mặt lên trần nhà, hai tay ôm cứng một bọc vải tròn tròn đen sì, được chằng buộc cẩn thận. Ông Hai quỳ xuống, nhìn vào gương mặt của thi thể và bỗng giật mình há hốc mồm, thốt lên mấy tiếng lào phào: "Bà... Cô Năm... Năm...". Tiếng ông ngưng bặt ngay lúc ấy, cơn đau tim bất ngờ dội lên. Trước khi đổ vật xuống, trong đầu ông Hai còn kịp thoáng hiện lên hình ảnh cái khối dâm dục đỏ au, ngồn ngộn thịt của tên lính đánh thuê người ngoại quốc đang giật lên, giật xuống trên tấm thân người con gái ngày nào, rồi thì những nhát chém, rồi máu, máu và chao ôi là máu...

Cùng lúc ấy, ở cách đó bao nhiêu ngàn cây số, nơi cái xứ sở xa lạ kia, lão già triệu phú rốt cuộc cũng đã tìm ra cách khuất phục cái ánh mắt làm cho lão phải kinh hồn ấy của Lý. Té ra lão áp dụng cái phương pháp tân kì của thằng Cơm Thiu. Lão không ngờ lớp hậu sinh bây giờ lại hiện đại đến như thế. Chúng chẳng cần phải cưỡng bức như thế hệ của lão ngày trước mà vẫn chiếm đoạt được bất kì đứa đàn bà nào. Khoa học tiên tiến của con người, thì ra lại có khả năng đánh thức và khuyếch đại bất kì thứ bản năng nào của chính con người lên cao bao nhiêu tuỳ ý. Lão trộn thuốc kích thích vào thức ăn, nước uống cho Lý và kiên nhẫn chờ đợi. Lão khoái trá chứng kiến cảnh Lý cấu xé, vật vã đòi hỏi khi bị ngấm thuốc. Nhưng ánh mắt của cô thì vẫn còn làm cho lão kinh. Lão tăng dần liều lượng và quả nhiên, những tia thù hận trong ánh mắt ấy cũng dần dẩn giảm theo.

Đến khi lão đã tăng tới liều lượng cao nhất thì nó dường như đã hoàn toàn bị khuất phục. Lý đã tự xé tan bộ quần áo đang mặc trên người. Cô nhắm nghiền mắt lại, hơi thở hổn hển, thân thể không ngớt cuộn lên từng chặp. Chỉ chờ có thế, lão già bật ra một tràng cười đắc thắng rồi đặt chiếc nạng xuống bên cạnh, yên tâm bò lên người Lý. Bỗng lão rú lên một tiếng khủng khiếp. Không phải trong ý nghĩ nữa, mà đúng là sự thật, những nhát chém ngày nào đang tiếp tục bổ xuống người lão. Lần này thì lão chẳng lăn đi đâu được nữa. Toàn bộ những vết sẹo trên người lão, cả ở cái mặt cắt chỗ chân cụt đồng loạt vỡ tung ra, toang máu. Máu của lão phun lên trần nhà, sang hai bên, ào xuống tấm đệm, nhuộm đỏ cả người Lý. Mùi máu hôi tanh sặc sụa của lão làm cho Lý chợt bừng tỉnh. Cô vụt vùng dậy, ghê tởm gạt phăng cái xác đỏ lòm của lão xuống nền nhà...

Xin hãy quay trở lại căn phòng trọ. Ngay tối hôm ấy, người ta phát hiện trong đó có ba thi thể. Đúng ra là chỉ có hai và một bộ hài cốt không còn đầy đủ. Một thi thể chết tươi, bị vỡ tim chính là ông Hai. Thi thể kia là của một bà lão đã lạnh cứng từ trước đó mấy ngày. Tại sao ông Hai lại tìm đúng đến đây để vỡ tim mà chết? Câu hỏi ấy cho đến nay vẫn còn bỏ ngỏ. Người ta cũng tìm ra người lái tắc xi đã đưa ông đến đây. Anh ta cũng nhớ là ông Hai có đưa cho anh ta một bức thơ. Bức thơ vẫn còn nằm dưới sàn xe. Nhưng khi người cán bộ điều tra vừa nó cầm lên tay thì lập tức, bức thơ ấy mủn ra như cám, bay tung vào trong gió, chẳng để lại tý dấu vết gì.

Cái chết bất đắc kì tử của lão triệu phú không hề làm cho gã Cơm Thiu đau buồn. Trái lại, gã vui mừng vì từ nay đã chính thức thừa kế toàn bộ cơ nghiệp của ông nội. Lý không còn thiết gì đến chốn này nữa, cô đã bị suy sụp hoàn toàn. Cô nhớ ngoại, nhớ Lơ, cô chỉ muốn được trở về. Từ cái hôm kinh khủng ấy, lúc nào Lý cũng ngửi thấy mùi máu tanh hôi của lão triệu phú phảng phất đâu đó trong căn nhà, trên chính thân thể cô. Gã Cơm Thiu thì chẳng ngửi thấy mùi gì. Gã chỉ thấy thân thể cô bây giờ mới thực sự thơm lựng mùi gái trinh. Ông nội gã không còn, giờ là lúc gã được toàn quyền sử dụng tấm thân vẫn còn trinh tiết ấy. Song lúc nào gã cũng chỉ coi Lý như một thứ gái mà thôi. Lạ một điều là mặc dù lòng Lý vẫn còn nguyên sự thù hận đối với cái gã đốn mạt này. Nhưng ánh mắt của cô đối với gã thì không hề có tác dụng như đối với ông nội gã trước kia. Thực chất ánh mắt ấy bây giờ chỉ còn là ánh mắt của một con cừu non ngây thơ và sợ hãi. Sau khi đã dày vò chán chê, một hôm, gã Cơm Thiu chở Lý đến bán cho cái nơi ấy, lấy lại đúng số "vốn" một nghìn đô ngày trước. Nơi ấy có hai chữ treo lơ lửng trên cao mà cô không đọc được. Cô giật mình nghe thấp thoáng giọng nói và những gương mặt đờ đẫn của mấy người đàn bà cùng xứ sở. Bao nhiêu người như cô đã bị bán nơi đây? Gã đểu giả ấy bảo cô rằng hãy cố mà học cái thứ tiếng thổ tả ở xứ sở của gã. Bởi cô không còn đường nào quay trở về nữa. Bởi chữ đầu tiên cô cần phải học, chính là hai cái chữ treo trên cao đó. Hai chữ ấy có nghĩa là "Nhà Chứa". Và thân phận của cô, của những người đàn bà cùng xứ sở kia, có ai ngờ từ nay sẽ gắn liền với hai cái từ kinh điển ấy của kiếp mình...

Lơ chập chờn tỉnh dậy và cảm thấy toàn thân mỏi nhừ, đầu nhức như búa bổ. Xung quanh cô ngổn ngang những vỏ thuốc, chai lọ, đồ lót và những thân thể trai, gái lõa lồ đang nằm vắt chồng lên nhau. Chốn "lưng chừng giời" này của nhóm S-T biệt lập hẳn với thế giới của con người. Không biết đây là đâu? bây giờ là lúc nào, bao nhiêu ngày đã trôi qua... Lơ dần dần nhớ lại điều gì và bỗng giật mình, hoảng hốt rú lên một tiếng. Cô cuống cuồng vùng dậy, vơ đại một bộ quần áo vứt cạnh đó rồi hối hả mặc vào người. Tiếng rú của Lơ làm cho cả bọn đang mê mệt cũng bừng tỉnh. Giọng chúng nhao nhao, đứa lè nhè, đứa cười ô ố hệt một lũ quỷ Sa Tăng. Có đứa quờ tay túm lấy Lơ. "Không được! Thả tôi ra. Ngoại tôi đang chết đói trong phòng trọ..." - Lơ hét lên. Cô vừa vùng vẫy vừa oà khóc nức nở. Mặc kệ! Nhóm S-T chưa chứng kiến đứa con gái nào từ chối, chống cự lại chúng bao giờ. Chính sự vùng vẫy, nức nở ấy của cô càng làm cho lũ kia bất ngờ lên cơn khát dục. Thế là thằng Pít và tất cả bọn chúng ào dậy, bu đến giữ chặt lấy Lơ, rồi thì đứa xé áo, đứa kéo quần, đứa vơ mấy viên thuốc lắc nhét vào mồm cô... Rồi tiếng nhạc từ mấy chiếc loa vĩ đại gắn trên nóc nhà sầm sập đổ xuống, át đi tất cả. Lơ nhũn người ra, ý chí của cô lại bắt đầu bị tê liệt. Chốn "lưng chừng giời" của nhóm S-T tiếp tục bước vào một cuộc quay cuồng mới...

Sài gòn, mùa đông - 2005

by reno diep

01679738998

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro