TRUYỆN-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồ Tây - một cái hồ tự nhiên lớn nhất đất kinh kỳ Hà Nội, vốn lắm huyền thoại cổ, thật hư như làn sương mỏng trắng đục lúc ẩn lúc hiện ở mặt nước. Ngày trước, hồ Tây còn rộng và hoang sơ hơn bây giờ nhiều. Sóng nước hồ Tây đêm ngày ì oạp vỗ vào bờ đất, nhiều chỗ bị lở sạt. Lau lách, năn lác mọc um tùm, rau muống dại kết thành bè thành mảng xanh sẫm, nở hoa tím trắng. Mòng két, vịt trời, le le làm tổ kêu rộn rã cả trời chiều và tiếng cuốc kêu trưa hè nghe khắc khoải đến xót lòng.

Chim Sâm cầm bay về đậu trên cành cây, ngọn tre, mặt hồ. Giống chim bay lượn, nhưng lại mò mẫm được dưới thì Sâm cầm là một trong các loài đẹp nhất. Lông đầu và Sâm cầm màu đen, thỉnh thoảng có con đầu cổ đen nhưng nhức, lông lưng và bụng lại màu xám. Hai chân màu lục ánh chì, có bốn ngón. Quý nhất là chim Sâm cầm lông đầu đỏ. Cả đàn hàng ngàn con lông đầu đen mới có một con lông đầu đỏ. Ngày xưa, tiến vua không phải năm nào cũng có Sâm cầm lông đầu đỏ. Quý người nên Sâm cầm bơi lội nhởn nhơ quanh thuyền nghiêng ngó nhìn họ đánh dậm, mò ốc hoặc vùng vẫy ngay trước mũi thuyền đánh cá, có con táo tợn còn nhảy lên thuyền mổ trộm cá tôm. Dân thuyền chài đánh cá chỉ lấy tay xua đuổi uầy… uầy cho nó bay đi, nhưng một lúc lại có con khác trèo lên vênh mỏ nhìn. Người hiền lành như chim và chim cũng lành hiền như người.

Hắn còn nhớ, khi người ta bắt đầu đóng cọc đổ đất xuống hồ cạp đất, cơi nới nhà cửa thì hồ động. Động hồ diễn ra cùng lúc với động phố, động làng. Hà Nội bước vào thời mở cửa - thời của kinh tế thị trường, khi nhà nhà nhoai ra mặt đường thì cũng là lúc người ta bổ ra mặt hồ. Chu vi hồ càng co lại, mặt hồ hẹp đi thì nhà cao tầng của tư nhân mọc lên càng nhiều cùng với đủ loại kiến trúc hình khối, vòm, cong… Lác đác có các khối nhà cao hàng chục tầng đội tầng xanh nhô lên. Lối ngõ vào nhà hắn ra hồ, nhà cao tầng chen nhau đội mây khiến cái ngõ thành ống cống, ngửa mặt mãi chẳng thấy trời xanh đâu. Và nhiều nhà mở cửa hàng đặc sản: chuyên ốc nhồi, ba ba, cá quả… Khách hàng khắp nơi lũ lượt kéo đến, ngõ phố ồn ào, náo động từ sáng sớm đến lúc nửa đêm.

Mùa đông năm ấy, Sâm cầm về nhiều. Chúng vẫn vùng vẫy bơi lặn kiếm thức ăn và nô đùa với người dân trên mặt hồ như mùa di trú năm trước. Nhưng chúng không hề biết có một tai họa đang rình rập bên cạnh. Người mang tai họa đến đầu tiên cho đàn Sâm cầm là lão chủ quán tai chuột bên cạnh nhà hắn. Phải nói là lão ta đã nghĩ ra một việc mà từ trước đến nay chưa ai làm là chiêu khách bằng món đặc sản sâm cầm. Khách hàng ùn ùn kéo tới, ai cũng khen ăn sâm cầm ngon. Mà ngon thật. Thịt sâm cầm mềm, màu đỏ tươi, có thể quay, rán nhưng kẹp vào cặp chả nướng than hoa là thơm phức, ngon và bổ hơn cả…

Hàng ngày, cha hắn chăm đọc sách nhiều hơn. Hình như ông muốn chạy trốn cái ồn ào, náo nhiệt của cuộc sống hiện đại vào các trang sách cổ. Ông đem thư tịch cổ ra đọc lại đoạn người xưa nói về chim Sâm cầm.

… Thời xưa, ở một làng nhỏ bên xứ Cao Ly tự nhiên sinh ra một thứ bệnh lạ kỳ dân làng chết hàng loạt, không thứ thuốc nào chữa được. Có một lão thợ săn bệnh sắp chết mới nhớ ra có lần đi săn ở dãy núi Trường Bạch Sơn, nhìn thấy loài chim lạ đang bới gốc một loại cây thân cỏ mảnh mai rồi mổ ăn hết rễ. Ông đến gần, chúng vỗ cánh loạn xạ, bay vút đi mất. Ông đến gần, chúng vỗ cánh loạn xạ, bay vút đi mất. Ông bảo cô con gái duy nhất đi lấy loại cây ấy về với hy vọng ăn vào may ra khỏi. Nghe lời cha, cô gái leo lên núi Trường Bạch Sơn, nơi cha cô đã thấy loài chim lạ. Cô bắt gặp nhiều dấu chân chim, nhiều hố con con hơi sâu và nhiều cây bị ăn mất rễ đã héo quắt. Cô đào bới các cây ở bên cạnh và nhặt được một gùi đầy củ màu trắng ngà, mập mạp, có nhiều củ giống hình người. Cô mang về rửa, cắt lát cho cha ăn. Cha cô khỏi bệnh và khỏe mạnh như trước. Cô đem số củ còn lại chia cho tất cả mọi người trong làng. Họ ăn và tất cả cũng đều khỏi bệnh. Sau người ta mới biết giống thuốc quý ấy là củ nhân sâm. Loài chim lạ, mình chắc, khỏe vì chuyên ăn nhân sâm. Người ta gọi là chim Sâm cầm…

Cha hắn phàn nàn về sự đánh bắt chim vô tội vạ. Người ta bắt chúng bằng súng săn, súng cao su, lưới chụp… Cha hắn bảo: “Cha nhìn thấy cảnh đánh bắt Sâm cầm, cha đau lòng lắm”. Hắn chả thấy đau lòng và hắn đang tham gia vào đội quân săn bắt loại chim quý ấy. Hắn là một tay súng thiện xạ.

Hắn nhớ, hôm ấy chủ nhật không phải đến công sở, hắn chở thuyền đưa vợ đi chơi ở mặt hồ. Sáng, sương tan sớm. Nắng hửng hơn mọi ngày, hắn biểu diễn tài nghệ bắn sâm cầm. Vợ hắn ghìm chèo cho thuyền đứng im. Hắn giương súng săn ngắm: “Anh sẽ bắn vào đầu con vừa bay lên". Hắn vừa nói, vừa rê súng. Đoàng! Một chút khói xanh bay ra ở chỗ nạp đạn. Con chim sâm cầm rơi chõm xuống nước, nổi lập lờ. Hắn giành lấy tay chèo bơi thuyền tới. Con chim trúng đầu, máu loang hòa với nước thành một đám hồng hồng. Vợ hắn nôn thốc nôn tháo mật xanh mật vàng, mặt tái xanh. Hắn không biết lúc đó vợ hắn có thai hơn một tháng. Vợ cáu kỉnh và giận dỗi đòi về. Hắn phải thuận theo. Cuộc đi săn lẫn đi chơi hôm đó kết thúc ở nửa chừng. Hai vợ chồng neo thuyền về nhà, cha hắn đang hốt hoảng đi tìm thằng Công. Cha hắn thường gọi thằng Công là thằng Cò. Thằng Cò bị thọt chân từ bé. Bọn trẻ con cứ gọi là Cò thọt. Đã bảy tuổi rồi mà thằng Cò thọt vẫn không nói được. Bước đi thập thễnh. Nhiều lúc nhìn con tật nguyền, hắn buồn rơi nước mắt. Cha hắn thương thằng Cò vô cùng, có cái gì ăn được cũng đắp điếm dặp diệm cho nó. Thằng Cò vẫn hay làm cho cả nhà nhiều phen khiếp sợ vì nó cứ hay thập thễnh lỉnh đi chơi xa. Hai vợ chồng hắn chạy men theo ven bờ tìm, bắt gặp đứa con tật nguyền đang cùng mấy thằng bé đuôỉ theo còn cò lửa ở đám năn lác tốt lút đầu. Vợ hắn nhìn thương con đến quắt lòng.

Nhà hàng lão tai chuột càng đông khách, lão càng phải mua nhiều chim sâm cầm. Kinh tế khá lên, mức sống của người dân cũng lên theo, thêm nhiều người giàu. Người giàu thường hay sợ chết. Người giàu tuổi còn trẻ chết thì tiếc lắm, chết để vợ đẹp cho ai, tiền bạc của nả cho ai và chơi bời chưa được là bao. Người giàu càng nhiều tuổi chết lại càng tiếc hơn, tiếc vì thời gian hưởng thụ ngắn quá. Khi xã hội công nghiệp đã in dấu ấn lên đời sống dân Hà Nội thì số người giàu này càng giàu hơn; họ như một lớp người mới - một loại người mới vậy. Cho nên bồi bổ và kéo dài tuổi thọ là mục tiêu hàng đầu của các ông chủ mới phất. Sau khi hưởng thụ đủ cao lương mĩ vị, thuốc quý trên đời, họ lại tìm đến Sâm cầm. Chim Sâm cầm quý nhất ở đôi chân, đôi chân máu lục ánh chì. Chân Sâm cầm cắt rời ra rửa sạch, sấy khô rồi ngâm rượu đủ một trăm ngày hoặc càng lâu hơn càng tốt. Rượu ngâm tắc kè, bìm bịp cũng thua xa. Chính vì thế khách đến nhà hàng lão tai chuột không chỉ ẩm thực thịt sâm cầm mà còn uống rượu ngâm chân Sâm cầm, thậm chí có người còn đặt mua hàng chục đôi chân Sâm cầm mang về nhà tự ngâm rượu lấy. Ăn uống kiểu này chả mấy mà chim Sâm cầm tiệt nọc. Người săn bắt Sâm cầm cùng nhiều mà người ăn cũng lắm, càng ngày Sâm cầm hồ Tây càng thưa dần. Sâm cầm càng hiếm lại càng đắt và dĩ nhiên săn bắt cũng khó hơn.

Những cuộc săn bắn Sâm cầm đối với hắn không còn là thư giãn, là thú vui nữa mà là kiếm tiền. Một con Sâm cầm lúc khan hiếm bằng bốn, năm con lúc sẵn. Hắn lao vào cuộc săn bắn bất tận chỉ mong nhiều chim quý bán cho lão chủ quán tai chuột.

Cho đến một buổi chiều đông. Hắn lại xách súng săn đi lên thuyền. Vợ đi làm, cha hắn đi họp tổ hưu. Không có ai coi thằng Cò thọt, hắn đành phải đưa con đi theo. Chiều đông trầm buồn. Không có ánh mặt trời, sương vẫn giăng mù ở giữa mặt hồ. Tiếng người đánh dậm, mò ốc khao khao trong gió. Hắn để con ngồi ở lòng thuyền và chèo. Các loại chim nước vắng quá! Thỉnh thoảng mới có một vài con le le, vịt trời chỏng ngóc đít mò tép. Thằng Cò lần đầu được ngồi thuyền với bố thích quá, chốc chốc lại đứng nhỏm dậy thập thễnh, loay hoay trong lòng thuyền. Nó chỉ tay vào đám vịt trời thích chí kêu: khẹc… khẹc. Con thuyền nhỏ chòng chành, chòng chành. Hắn vỗ đầu con: "Ngồi xuống. Ngồi xuống con". Chèo thêm một đoạn nữa, hắn nhìn thấy mấy con Sâm cầm đang ngụp lặn. Mừng quá! Cứ tưởng chúng bay đi hết. Hắn lại càng mừng khi thấy một con chim Sâm cầm đầu đỏ. Hắn chèo thật nhẹ nhàng đến gần. Bắn con đầu đỏ trước và chỉ bắn bị thương bán cho lão Đồng mới được giá cao. Thấy động, đàn Sâm cầm vụt lên, hắn rê súng theo. Đoàng … Đoàng… Con đầu đỏ trúng đạn rơi xuống nước. Hắn chèo thuyền đến vớt, nhưng đến gần thò tay xuống bắt thì con đầu đỏ lại bơi xa, Hắn đã bắn gãy cánh nó, nhưng đôi chân còn nguyên. Cuộc rượt đuổi giữa hắn và con chim đầu đỏ rất ngoạn mục. Hắn quyết tâm bắt sống đến cùng. Con đầu đỏ vốn thường ăn nhân sâm nên rất khỏe, chỉ một chút xíu máu đã cầm. Nếu như con đầu đỏ không vướng cái cánh bị gãy sã thì đừng hòng đuổi theo. Hắn chèo nhanh gấp gáp dùng thuyền quần nhau với chim quý nên cũng thấm mệt. Thằng Cò có vẻ rất thích, không nói được, nó khéc… khéc kêu. Cuộc rượt đuổi vẫn tiếp tục. Thuyền đến gần, hắn thò tay chộp thì con đầu đỏ lại lặn xuống hoặc bơi xa. Cáu tiết hắn nhảy xuồm xuống nước vồ. Con đầu đỏ bơi loằng ngoằng trên mặt nước. Hắn chồm người vồ, con đầu đỏ ngụp xuống, nhìn rõ chân nó đang đạp nước, nhưng nó ngụp không được lâu lại ngoi lên vì một cánh tay gẫy. Cứ thế, hắn bơi đuổi theo ra gần giữa mặt hồ. Sương bay mù mịt. Cả người và con chim quý chìm trong sương.

Cuối cùng hắn cũng tóm được con sâm cầm đầu đỏ. Hắn ngoái lại nhìn thuyền, con hắn đang ở đó. Sương mù đã dày đặc. Hắn mất phương hướng hoàn toàn. Hắn không còn biết chiếc thuyền ở chỗ nào. Bị sương mù bao vây, đầu óc hắn mụ mẫm và tối tăm lại. Mặc, hắn ước lượng chỗ thuyền đỗ lúc nãy, hắn bơi đến. Càng bơi hắn càng mù mịt. Hắn bị lạc vào trận đồ bát quái sương giăng…

Gần tối, hắn dạt được vào bờ thì người mê man bất tỉnh luôn. Người ta thấy một tay hắn đã nắm chặt đôi chân con chim Sâm cầm đầu đỏ. Hai mắt con chim quý ứa máu tươi.

Sáng hôm sau, khi hắn tỉnh dậy, người ta cũng nhận ra cái thuyền của hắn dạt vào bờ. Thuyền đầy nước, bị mất bai chèo, không thấy thằng Cò, cũng chẳng thấy khẩu súng săn đâu…

Mùa đông năm sau. Mùa đông năm sau nữa. Chim Sâm cầm không về. Vịt trời, le le, mòng két bay đi đâu đó hết. Quán lão tai chuột đóng cửa im ỉm. Mặt hồ vắng, chỉ thấy gió hoang đuổi nhau trên mặt nước. Vợ hắn lặng câm như đi ra đi vào như cái bóng. Cứ chiều chiều, người ta lại thấy hắn đứng lặng nhìn ra mặt hồ…

*

* *

Cái mùa đông chết tiệt ấy qua rồi. Lại mùa đông mới nữa đến.

Buổi chiều ráng đỏ ối. Nhìn xuống hồ, ốc nhiều lắm, có đám chà rào chi chít ốc bám. Rong, tảo nổi lên lờ đờ. Tép tôm búng nước. Mặt hồ Tây lặng phắc. Dân ven hồ nghiệm ra cứ trước lúc trời trở rét hồ lặng phắc và các sinh vật phù du nổi lên là chim Sâm cầm về.

Một tuần sau, thì chim Sâm cầm bay về di trú đông. Đầu tiên là những chấm đen xám trên bầu trời trắng đục. Các chấm đen xám to dần, to dần và bay láo nháo trên mặt hồ. Chúng chưa chịu đáp xuống mặt nước. Vợ hắn đi đón con trai ở nhà trẻ về, đứng ngẩn ngơ nhìn đàn Sâm cầm bay nhẩn nha, chao cánh. Bỗng một con vụt xuống mặt hồ, nước hồ chao sóng, nó lắc lắc cái đầu vẩy nước và ngoe nguẩy đuôi bơi. Hình như nó biểu hiện sự sung sướng và báo hiệu sự an toàn cho cả đàn. Thế là tới tấp đáp xuống mặt hồ. Chúng vùng vẫy, ngụp lặn sùng sục. Một lúc thì chúng tản ra, thưa dần.

Dân ven hồ Tây bảo nhau: Đã lâu lắm rồi, mùa đông năm nay chim Sâm cầm lại về./.

Chuyến đi săn cuối cùng

Tác giả: Sương Nguyệt Minh

,

Anh cầm nỏ săn men bờ đầm Vạc ra sông Cái. Từ ngã ba sông xuống cửa biển thuyền xuôi khoảng hai giờ đồng hồ, còn ngược lên nương ngô nhà anh dưới chân đồi Con Rùa chỉ đun sôi siêu nước là đến. Đi tắt theo suối Yên Ca là về xóm Núi, vượt qua thung Dâu vào sâu nữa gặp bản của người Mường. Ngày trước, rừng còn nhiều thú, thỉnh thoảng ban đêm lợn rừng đi kiếm ăn lạc đường chạy qua cả quốc lộ Một. Từ ngày bạt núi mở rộng dốc Sây, công trường nổ mìn xay đá, thú rừng lánh sang mạn tây nam dãy Tam Điệp hết, riêng khỉ lông xám vẫn còn nhiều. Có lẽ khỉ tiến hoá thành người, khỉ gần người hoặc giống người nên khỉ không sợ người? 

Núi rừng Tam Điệp dạo này không mưa. Đầm Vạc, sông Cái đang mùa nước cạn, mực nước thấp nhưng vẫn giữ được vẻ mênh mang vốn có từ ngàn xưa. Hai bên mép nước bờ sông, và mép nước các gò nổi trong đầm, bần chua mọc lưa thưa, bám rễ vào đất nâu sậm; thỉnh thoảng một đám cỏ ngạn mọc xen vào, xanh um.

Ngày anh còn bé, cha thường chèo thuyền thúng đưa anh đi săn vịt trời, mòng két ở đầm Vạc. Cứ vào độ tháng chín ta, cỏ ngạn bắt đầu lụi, hết đêm sang ngày sóng vỗ vào gốc cỏ ngạn, lúc nước rút củ ngạn chòi hẳn ra. Khi gió heo may tràn đến, vịt trời, mòng két di trú về đầm Vạc, sông Cái trốn đông, rúc đầu vào bờ, vào gò nổi trong đầm ăn củ ngạn. Mùa heo may cũng là mùa săn mòng két, vịt trời. Dân xóm Núi bắn vịt trời bằng súng săn hai nòng, thường nhằm vào đầu, bắn chết ngay mới hòng bắt được. Bắn gẫy cánh gẫy chân, nó bơi vào bãi lầy thụt ngụp hết mình chỉ để thò mỏ chìa hai lỗ mũi thở, trốn hàng giờ không chịu ngoi lên. Cha thường bắn vịt trời bằng nỏ săn, rủi ro trúng cánh hay đùi, mũi tên vẫn mắc lại. Vịt trời mang luôn cả mũi tên bơi, lặn trốn bị vướng rong rêu, cành cây nên không bao giờ thoát cả. Bắn vịt trời phải bắn con cái. Con cái chết, con đực chẳng chịu bỏ đi, bao giờ cũng bay vòng trở lại, lảng vảng, lúc ngụp lặn, lúc bơi, quanh quẩn bên bạn tình. Bắn trúng con đực thì con cái bay mất tích luôn, không còn cơ hội săn tiếp.

Cái giống vịt trời rất lạ. Thời gian ấp trứng hầu như do vịt đực ấp, vịt con nở, vịt đực lại dẫn đi kiếm ăn để cho vịt cái rảnh rang, nhàn hạ tự kiếm mồi nuôi thân vỗ béo, thay lông rồi tiếp tục đẻ trứng. Cha anh bảo: “Cha nghiệm ra: Vịt đực là cái giống chung tình. Ví như: Con vịt cái không may chết thì vịt đực vẫn ấp trứng tận đến lúc nở, nuôi con đủ lông đủ cánh mới thôi. Chẳng may vịt đực chết thì vịt cái bỏ tổ trứng ấy ngay, đi tìm con vịt đực khác. Anh nói: “Cha biểu gì con chẳng hiểu gì sất”. Cha anh thở dài: “Con còn nhỏ, đường đời chưa biết hết. Lớn lên nữa sẽ hiểu”...

Càng gần nương ngô, càng nhiều mùi hương lạ. Mùi hoi hoi, nồng nồng của giống cái đang mùa động dục lẫn mùi ngai ngái, ngon ngót của ngô non đọng sữa. Càng gần nương ngô, càng nhiều tiếng rào rạo, tiếng khẹc... khẹc của họ hàng hang hốc nhà khỉ. Anh chưa kịp giơ nỏ săn, hàng chục con khỉ đã rẽ cây chạy rào rào ôm bắp non chuồn lên rừng. Một con khỉ to lông mốc xám ra khỏi nương ngô cuối cùng. Anh đoán, nó cố tình thu hút sự chú ý của anh để kéo dài thời gian cho họ hàng nhà khỉ thoát thân. Anh xót của. Nương ngô xanh đang độ bắp đọng sữa, có bắp trổ sớm, râu bắt đầu heo héo cũng bị vặt toác bẹ, đạp gẫy rạp cây, bắp non bị găm nham nhở rơi lỏng chỏng. Anh điên tiết, cầm nỏ săn rượt theo... 

2.

Nỏ săn của cha để lại, hai chỗ tay cầm mồ hôi ra bắt màu nâu bóng từ ngày trước. Đã lâu không dùng đến nhưng cánh nỏ vẫn khoẻ và chắc. Cánh nỏ là gốc tre đực già chẻ đôi, vót nhẵn thuôn dần về hai đầu, dài nửa sải tay. Thân nỏ, cha làm bằng gỗ sến, còn lẫy nỏ là một mảnh sừng trâu. Mũi tên, cha cũng làm từ tre đực già, chọn đoạn thẳng, dóng dài; một đầu tên vót nhọn, một đầu gắn mảnh cật tre mỏng làm cánh lái.

Nhiều buổi hừng đông, chim chào mào đội mũ dải đen loách choách trên cây ổi trước nhà, cha gọi anh dậy tập bắn. Bài học đầu tiên: bắn những con gì, giống gì. Bài học thứ hai: lên dây nỏ. Lên dây nỏ phải thót bụng tì chuôi nỏ vào, gồng người từ từ căng bụng đẩy nỏ ra, đồng thời hai tay kéo dây mắc vào khấc hãm. Mũi tên đặt xuống rãnh nỏ ngay ngắn. Bài học thứ ba: gương nỏ, tỳ tay và ngắm vào điểm bắn. Cha làm mẫu. Phựt! Mũi tên lao đi. Con sẻ đậu ở cành dâu da rơi xuống đất...

  Cha mẹ hầu như chưa bao giờ nặng tiếng với nhau. Duy nhất có một đêm, anh chợt thức giấc bởi tiếng gầm của cha: “Tôi sẽ chôn chặt trong lòng chuyện ấy. Nhưng tôi thề: trước khi chết tôi sẽ kể cho con trai tôi rõ...” Mẹ sụp xuống chân cha, van nài: “Đừng! Em xin mình! Mình đã tha thứ cho em ngay từ cái đêm đầu tiên em bước vào cái nhà này rồi mà. Sao mình còn nhắc lại?” “Nhưng mà tôi không làm sao quên được”. “Em xin mình. Mình đừng bắt con phải nghe...” Đêm đó mẹ ầm thầm, sụt sùi; còn cha ngồi lặng câm đến tận sáng. Khi đó anh còn bé lắm, anh chưa cắt nghĩa được chuyện gì đã xảy ra!  

Tường nhà anh treo nhiều loại móng, vuốt, sừng, da thú... cha bắn từ hồi chưa cấm rừng. Mỗi lưu vật là một cuộc đời con thú; ngoài cha ra, chỉ có một người biết chúng đều là giống cái. Cha rất quý cái nỏ săn. Vậy mà đã có lần cha định bẻ cánh nỏ gãy làm hai. 

3.

Đã nửa giờ đồng hồ, anh cầm nỏ săn đuổi theo con khỉ lông mốc xám. Rất lạ! Khi anh gương nỏ lên, ngắm; vừa bóp lẫy, con khỉ lông mốc đã rơi xuống; có thể nó rơi trước khi mũi tên lao ra một, hai giây gì đó và nằm bẹp dưới đất như chết. Anh khoác nỏ lên vai, đến nhặt chiến lợi phẩm thì bỗng nhiên nó nhoắt dậy, vụt tót lên cành cây cao. Cứ thế, nó như người nhử mồi, anh đuổi theo bắt bóng. Con khỉ đã thành tinh của rừng xanh thật rồi, nó nhanh nhẹn, tàng hình như ma. Mệt phờ râu cáo, anh nằm vật xuống gốc cây mã tiền bên bờ suối Yên Ca. Mồ hôi túa ra, hai gối mỏi và bàn chân sất xước rớm máu bởi gai cào. Khỉ thật! Đúng là khỉ thật! Nó cứ nhoàng nhoàng, ẩn hiện trước mắt. Và bây giờ, nó đang ngồi trên cành cây cao kia, dạng roác háng gãi sồn sột.

Hoá ra là con khỉ đực. Nó trêu ngươi anh? Nó đùa giỡn anh? Không! Anh nhầm. Chẳng lẽ con khỉ đực tinh ranh đã biết nhử anh đuổi theo để con khỉ cái lông đen và con nó tẩu thoát. Khá khen cho nghĩa phu thê, cho tình phụ tử, và lòng chung thuỷ của giống đực. Con khỉ cái có biết trời đã ban cho nó người chồng vĩ đại bậc nhất núi rừng Tam Điệp không?

Nghỉ đã! Anh toài người xuống vốc nước lên mặt. Nước suối ở chân núi Lò Vôi trong lành tinh khiết làm anh tỉnh táo hẳn ra và anh lại nằm ngửa trên cỏ xanh ngắm nhìn những tia nắng đang chiếu xiên qua kẽ hở vòm lá. Con khỉ lông mốc xám vẫn ngồi trên cành cây cao kia, nó không còn gãi háng nữa, nhìn anh. Anh nhìn lại. Con khỉ lông mốc xám, đít đỏ hon hỏn, trán nhăn nheo và hói, nó như một lão già gương mặt mang đầy dấu vết đày ải khắc nghiệt của thời gian. 

4.

Lúc sắp chết, cha anh như ngọn đèn dầu lạc lụi dần, lụi dần. Cha gọi anh đến bên giường. Mặt cha hốc hác, hai mắt trũng sâu kéo lông mày xuống khỏi trán, mái tóc muối tiêu và má tóp lại..., chẳng tìm  đâu sức sống trên gương mặt của cha. Ai cũng phải già cỗi, bệnh tật rồi chết, nhưng thời gian, mưa nắng và sóng gió cuộc đời tàn phá gương mặt cha đến thế này thì anh không tưởng tượng nổi. Hai giọt nước đục rịn ra hai khoé mắt, cha thều thào: “Cha đã định không nói. Cha sẽ mang theo xuống mồ. Nhưng con còn trẻ, con ngu ngơ mà cuộc đời đầy trắc ẩn, không lường hết được... Đến lúc chết, cha vẫn thương cái thân cha, thương con, thương những thằng đàn ông, con ạ.  Con có nghe cha nói không? Có à. Con ơi. Con có biết cha đi săn cứ nhằm bắn giống cái không?”. “Đừng! Em xin mình...” Mẹ ở đâu đó lao vào, mẹ gục đầu vào lòng cha và cha không nói được nữa. “Đừng! Em xin mình! Đừng bắt con phải nghe...” Vẫn cái điệp khúc năm xưa mẹ van vỉ cha. “Mình đã thương em, mình đã im lặng cả cuộc đời. Em xin mình thương cho chót.” Cha vẫn câm lặng. Không gian trong cái nhà kín cửa che gió cũng dồn nén dặc quánh lại. Anh bàng hoàng quá. Anh lờ mờ hiểu ra cái điều cay đắng chịu đựng bao năm nay của cha. Bỗng mẹ ngồi dậy thở dài và mẹ quấn mái tóc sổ tung, xoã sượi lại: “Thôi! Tôi không xin mình nữa. Cả đời tôi, tôi lam lũ vì cái nhà này, tôi cúc cung chịu tội từ cái đêm đầu tiên tôi làm vợ mình, nhưng mình vẫn để bụng dai dẳng quá. Tôi cắn rơm cắn cỏ xin mình. Mình chẳng thương, tôi đành chịu.” Mẹ anh giơ tay áo quệt nước mắt và bước ra ngoài. “ Bu! - Anh nhìn thẳng vào mắt mẹ - Cha đang cần bu lúc này”. Anh nói và giữ tay mẹ lại. Bước chân mẹ ngần ngừ, do dự, mắt ầng ậng nước. May sao lúc đó cha anh bảo: “Mình ngồi lại. Tôi xử với mình tệ quá...  Tệ quá!”.

  Mẹ anh khóc và mắt anh cũng rơm rơm nước.

Cha anh mấp máy cặp môi khô: “Mình nằm xuống với tôi một lát đi”. Anh đỡ cha lui vào phía sát tường cho mẹ nằm bên cha. Cha nhấc tay phẩy như bảo anh đi ra ngoài. Mẹ nức nở, tức tưởi vì sự kìm nén được giải toả, mẹ khóc như chưa bao giờ được khóc. Cha bảo:“Mình! Mình đừng khóc nữa.” Mẹ vẫn khóc to. Cha vuốt vuốt mái tóc có nhiều sợi bạc của mẹ, một cử chỉ của người đang yêu, mới yêu: “Tôi thương mình! Mình có nghe tôi nói không? Bây giờ tôi mới yêu mình. Tôi yêu mình thực lòng mà”. Cha anh nói rành rẽ, tỉnh táo quá. Như ngọn đèn dầu cố cháy bùng lên trước khi lụi tắt, cha đang dồn hết tinh lực còn lại để nói những lời yêu thương với mẹ, lời nói yêu thương muộn mằn của người sắp chết.

 Mẹ mừng rỡ, hỏi:“Mình tha tội cho em  thật chứ?”. Cha gật đầu, bảo: “Mình đưa cho tôi cái nỏ săn.” Mẹ lo lắng kêu: “ớ các con ơi! Thầy chúng mày làm sao thế này.” “Không làm sao đâu. Mình chiều tôi đi, mình đưa cái nỏ săn cho tôi mà”. Cha anh van nài.

 Anh từ ngoài thềm bước vào, đến bên tường lấy nỏ săn thay mẹ đưa cho cha. Cha cầm ngược nỏ săn: “Tôi bẻ gãy nỏ... mì...ình nhá”. Mẹ nấc lên: “Mại ơi! Thày mày sắp đi rồi!” Chưa bao giờ anh bình tĩnh như thế, anh nhìn kỹ thân hình cha. Cha co chân phải. Cha ngấc đầu, tì cánh nỏ vào đầu gối. Cha cố mắm môi, gồng sức bẻ. Cha kiệt sức, nằm vật xuống chõng tre. “Tôi không đủ sức rồi... mình ạ!”

Dường như bầu trời đã sụp xuống chân anh, bỗng chốc lại kéo vút lên xanh thẳm tầng từng không. Anh ra ngoài đầu thềm hè ngồi. Hoàng hôn đỏ ối nhuộm hồng một góc dãy núi Tam Điệp. Cha đã không bẻ nổi cái nỏ, cái nỏ săn cùng bao đau đớn, buồn vui đi theo suốt cuộc đời cha. Chưa bao giờ anh mong các chị và em gái về quây quần tụ họp như lúc đó. 

5.

Loạt soạt. Lạo xạo. Rồi lại loạt soạt. Tiếng rẽ lá và bước chân trên cành khô làm anh giật thót mình. Tiếng động đánh thức cơn mộng mị đang chìm trong ký ức đưa anh trở lại với rừng. Lại một con thú nữa. Mùi hoi hoi của giống khỉ phảng phất. Có thể là một con cái đang mùa động dục. Anh gương nỏ và đặt ngón trỏ vào lẫy. Nhưng anh giật mình, anh chớp chớp rồi mở to mắt. Anh hoảng hồn và anh trấn tĩnh. Không thể tin được: một bờ vai đàn bà.  

- Sim! Cô Sim. - Anh buột miệng gọi to.

- ơ kìa. Anh Mại.

 Sim chui khỏi lùm cây và bước ra chỗ trống. Dây quai sọt níu trễ một bên vai, mồ hôi nhễ nhại trên trán. Thì ra là Sim đi lấy lá thuốc cho chồng. Chồng Sim tên là Lùng ốm từ nhiều năm nay, gần đây thỉnh thoảng lại co giật. Lúc túng bấn, ốm đau quá, Lùng chịu không được quát mắng cả Sim. Có người độc miệng bảo Sim mang bệnh tật đến cho Lùng, nên thằng chồng ốm đau quặt quẹo từ ngày lấy vợ. Biết vậy nhưng anh vẫn hỏi:

- Cô Sim sống hạnh phúc chứ! Lùng có khoẻ không?

Dường như Sim không để ý. Cô thật thà nói:

- Nhờ trời, anh Lùng lúc nào yêu thương. Nhà em vẫn khoẻ.

Anh biết Sim nói dối. Say rượu, Lùng vừa thượng cẳng chân hạ cẳng tay làm vợ thâm tím mặt mày vừa mắng chửi, nhiếc móc vợ. Sim được cái nhẫn nhục, chịu đựng. Biết vậy mà anh vẫn không buông tha:

- Vẫn khoẻ sao Sim phải đi lấy thuốc? Hay tìm sâm quý bồi bổ cho chồng!

- Em đi lấy củ bình vôi. Cái giống bình vôi mọc trên núi đá vôi này hiếm quá.

- Trên núi Lò Vôi ấy, ngày trước tôi và Lùng hay leo núi bắt sáo, thấy đầy.

Sim búi lại búi tóc đang sắp sổ tung. Cổ gáy lộ ra trắng quá. Sim vẫn đẹp. Cuộc sống vất vả ở vùng bán sơn địa này không làm dáng vẻ cô hao gầy. Gái một con trông mòn con mắt, Sim vẫn đẹp, đằm thắm và quyến rũ. Đôi vú đang lúc cương sữa, nhô cao, sữa rịn ra thấm ướt hai đám áo tròn như lòng bàn tay trước ngực. Sim vẫn khoác cái sọt đứng tựa vào gốc cây sồi già, gương mặt buồn quá. Một thoáng ân hận vì vừa lỡ lời móc máy, anh dịu giọng bảo:

- Thôi cô Sim về đi, kẻo người ta nhìn thấy.

- Anh vẫn cố ý tránh mặt em. Anh sợ mang tiếng à?

- Là tôi nói Sim về đi chẳng chồng em mong, con em chắc đang đói sữa đấy. Trẻ con đói sữa là nó quấy.

- Cái số em nó khổ thế. Giá ngày trước anh Mại đừng ra phố.

- Tại Sim không chờ tôi.

 Sim nghẹn ngào, nước mắt ứa ra... 

6.

Đêm tân hôn.

 Lùng và Sim sùng sục trong buồng. Cái buồng ở xóm Núi nhà quê bao giờ cũng thiêu thiếu sáng. Lùng và Sim nhào vào nhau sung sướng, đam mê, hạnh phúc... Đến khi tỉnh ra, Lùng lột vội tờ giấy bản trải giữa chõng tre đã bị chà sát, dày vò nhàu nhĩ nhưng vẫn một màu trắng ngà. Một đám ươn ướt bằng lòng bàn tay không màu sắc loang ở giữa tờ giấy.

- Thế này là thế nào?- Lùng gào lên.

Sim sợ hãi, ôm chăn nep nép ở góc giường.

- Khốn nạn! Thế này là thế nào?

- Em không bi... ết!

- Hay là cô với...  thằng Mại?

- Khô...ông!

 Sim cũng gào lên rồi gục mặt vào gối cưới tức tưởi, nấc... Lùng đau đớn bước ra ngoài thềm hè ngồi. Đêm về sáng, núi rừng Tam Điệp tối đen mông lung, hoang dã càng làm cho Lùng đau đớn hơn.

Một lần, hai lần rồi nhiều lần Sim quỳ sưng đầu gối thề sống thề chết chưa một lần ăn nằm với thằng đàn ông nào... Lùng vẫn im lìm, lạnh tanh. Càng im lặng nỗi đau càng dồn nén chồng chất, Lùng thành kẻ vũ phu... Sim không thanh minh được, không san sẻ được cùng ai. Cái trinh trắng, quý giá của người con gái phải tự người đàn ông biết; giá như cái bánh bột lọc thì bóc ra cho chồng xem trước rồi mới cho chồng ăn...

Chuyện ấy qua lâu rồi, Sim ngậm đắng nuốt cay và gồng mình gánh chịu, đến khi không chịu được, Sim  tìm đến anh, kể lể...  

7.

Nếu ở hoàn cảnh như Lùng, anh sẽ xử xự với Sim như thế nào? Im lặng, chịu đựng? Hay phá tan cái gia đình vừa gây dựng nên? Anh không lấy mất sự trong trắng của Sim nên chẳng có tội với Lùng. Anh yêu Sim, ngồi bên nhau chỉ dám cầm tay, hôm nào nồng nàn quá không kìm nén được cũng chỉ vục mặt vào ngực Sim để hít no nê mùi da thịt con gái thôi. Anh đi học xa xóm Núi ra phố và muốn Sim cùng ra phố. Mẹ Sim già lão, một mẹ một con, bà không chịu cảnh chia xa. Sim nghe lời mẹ, phụ tình anh lấy chồng làng. Cũng may anh chưa làm gì nên tội. Anh không làm hại đời Sim nên mỗi khi biết Lùng đánh Sim, hành hạ Sim, anh cũng không quá khổ sở và ân hận mà chỉ thương.

- Không sống được với nhau thì bỏ.

- Còn con cái, còn nhiều cái ràng buộc lắm, anh Mại ạ.

Sim im lặng. Cả hai người im lặng. Bao tình cảm vui buồn, thù hận, yêu thương, bỗng ùa về lẫn lộn.

- Anh Mại có biết, nhà trai ở Hà Nội về nhà chú Hào ăn hỏi cái Thêm không?

- Em gái tôi còn nói: họ để ô tô ngoài đường cái, thuê xe ngựa về xóm Núi cơ.

- Thế nên anh Mại mới vác súng đi săn để tránh mặt?

Sim đã nói trúng ý nghĩ của anh, nhưng anh vẫn gồng lên:

- Nương ngô nhà tôi khỉ phá quá. Cô đừng nói làm tôi khổ thêm nữa. Tôi bạc tóc cũng vì người ta bạc tình.

- ... 

8

Mãn tang cha, mẹ giục anh lấy vợ. Mẹ đôn đáo ở làng trên xóm dưới tìm cho anh một cô gái chân quê. Một cô thợ cắt cỏ chưa đi khỏi làng bao giờ thì càng tốt. Anh cười bảo: “Sao cứ phải là quê mùa. Thời con gái, bu đã từng đi buôn vải cơ mà”. Dường như, anh đã chạm vào nỗi buồn của mẹ. “Vậy nên bu mới khổ cả đời. Đàn ông đàn ang các anh chỉ nghĩ đến cái thân mình mà chẳng thương thân người ta.” “Thế là bu trách thày con.” “Là bu nói thế. Thôi cứ để bu lo cho kẻo lại khổ truyền kiếp.” Nhưng mẹ vẫn không tìm được vợ cho anh.

Cho đến một buổi sáng đầu mùa hạ, sau chuyến xe ngựa từ làng ra, anh gặp “Chíp hôi” bên ngã ba đường chờ xe lên thành phố. Hôm ấy, nắng sớm, cỏ bên đường còn ngậm sương long lanh, vịt trời nháo nhác kiếm ăn trên đầm Vạc. Người làng Sơn Hạ đang quẩy quang gánh vào thung Dâu cắt cỏ tranh về lợp nhà. “Chíp hôi” cắp cặp, chân đi dép lê, tóc túm đuôi gà cháy nắng đỏ hoe, đôi mắt to đen, ngơ ngác. “Chíp hôi”gầy nhẳng, kẽ móng tay đen đúa đọng bùn đồng cỏ rửa chưa hết. “Chíp hôi” có một cái gì đó chất phác đến ngây thộn lại  trắng trong, thuần khiết bên ông bố quê mùa, xách tay nải gạo thật thà như đếm. Cha “Chíp hôi” hồ hởi:

- May quá! Tôi nghe nói anh làm ăn ở ngoài đó, nhưng mà ngại không dám đến cậy nhờ. Cũng là người làng ta cả, hay là anh cho em nó theo ra Hà Nội với. Chứ ngoài đó lạ nước lạ cái, tôi đi cũng chả biết xoay sở thế nào.

Thì ra chú Hào đưa “Chíp hôi” ra Hà Nội tìm chỗ luyện thi vào đại học. Chuyện đó đối với anh chẳng khó khăn gì, được giúp người làng ở nơi xa xôi nhiều khi còn được tiếng, anh bảo:

- Chú Hào và em gái cứ yên tâm. Cháu cũng tiện đường mà. Em gái không ngại thì gần chỗ cháu làm cũng có một lò luyện thi.

Chú Hào mừng rỡ:

- Thật nhá! Thật nhá! Anh cho cái Thêm đi theo nhá. ối giời ơi! Quý hoá quá! 

Người nhà quê thật thà, tin người nhưng nghèo, thường khi được giúp đỡ thì hàm ơn và mừng lắm, nhiều khi cái sự mừng lại thái quá. Anh khẽ liếc thấy đôi má “Chíp hôi” đỏ bừng lên, e thẹn. Cùng làng Sơn Hạ, nhà anh ở sát chân núi, bên đầm Vạc; chú Hào ở bên kia đồng Cỏ lối đi chợ Bút, xuống mạn biển. Lớn lên anh đi suốt, thỉnh thoảng mới về nhà, nên tầm tuổi như “Chíp hôi” anh không biết.

  Căn hộ mười hai mét vuông tít tận tầng năm thuê đã nhiều năm, anh nhường cho “Chíp hôi” ở học ôn. Tiếng cười, tiếng nói, bàn tay của người con gái mới lớn làm căn hộ vốn quá đỗi cũ kỹ, tẻ nhạt, buồn thảm, bừa bộn trở nên mới mẻ, ấm cúng, vui và gọn gàng. Hai bữa trưa, tối anh leo cầu thang, đi chợ nấu cơm chờ “Chíp hôi” đi học về cùng ăn. Đêm, anh về phòng làm việc ở cơ quan ngủ. Cái điệp khúc ấy lặp đi lặp lại đúng một năm trời.

“Chíp hôi” vào đại học, cả nhà cô mừng quá. Chú Hào đến chơi, hàn huyên một lúc rồi chân tình nói với mẹ anh: “Con gái đi ra khỏi nhà lúc nào tôi lo lúc ấy. Các cụ ngày xưa bảo: Trâu ta ăn cỏ đồng ta, thằng Mại nhà bác mà ưng ý thì tôi giao phắt cái Thêm cho nó luôn.” Mẹ anh rầu rầu bảo: “Được thế thì quý hoá quá. Thằng Mại nhà này đường vợ con lận đận, quá lứa rồi. Liệu cô Thêm nhà chú có thương không.” Chú Hào gạt phắt:“Không thương mà được với tôi à. Ăn quả nhớ người trồng cây. Con Thêm nhà tôi được ăn trắng mặc trơn, nhởn nhơ ăn học sung sướng như thế là do anh Mại giúp. Cứ như ngày xưa thì bố mẹ đặt đâu con ngồi đấy.” Mẹ anh nói chuyện mà cứ thở dài hăn hắt...

9.

Bạn bè anh, người khen “Chíp hôi” thật thà, hồn nhiên. Họ còn bảo anh tốt số, ăn về đường hậu lộc. Người nói: “Ôi dào ơi! Thiếu gì loại người ăn cháo đái bát. Đủ lông đủ cánh là nó vù. Không khéo cốc mò cò xơi. Anh chàng Mại chả dại gái một lần nữa cho mà xem.” Thôi thì đủ lời ra tiếng vào, bàn luận mối tình quá chênh lệch tuổi tác của anh và “Chíp hôi”. Thây kệ đời, thiếu gì người hiểu hoàn cảnh mình thương mình thật lòng nhưng cũng đầy ra loại đố kỵ chả muốn người khác hơn. Giá như “Chíp hôi” tuổi nhiều thêm chút nữa, giá như “Chíp hôi” sắc đẹp chỉ mức trung bình, thậm chí xâu xấu một tẹo, có khi người ta thương mình mà vun quén chứ ai nỡ đàm tiếu, phá ngang.  Thoát khỏi đồng Cỏ, đầm Vạc, không phải ăn ngô, ăn sắn lát, rau dong, “Chíp hôi” lớn ngồng. Nước da trắng hồng, mặt rạng rỡ, tươi tắn, má hơi bầu; mỗi khi nói, lúm đồng tiền lõm xuống nhấp nhánh, đôi mắt to đen mơ màng làm bọn con  trai cùng lớp ngẩn ngơ. “Chíp hôi” ra ở ký túc xá, nhưng chẳng tối thứ bẩy, chủ nhật nào vắng thiếu cô trong căn nhà anh thuê. Dáng người ấy, đôi mắt ấy, tình cảm ấy, “Chíp hôi”  thổi sinh khí làm sống lại tâm hồn cằn cỗi vì đau đớn của anh. Anh lâng lâng sống trong niềm sung sướng, đam mê mới... 

10.

Rừng mở toang ra trước mặt một khoảng trống đầy nắng. Anh nhìn thấy mây bay và vòm trời cao xanh. Khỉ cái và con nó đang ngồi trên hòn đá mồ côi sưởi nắng. Nó đang điềm nhiên tận hưởng niềm yên ổn do vị hôn phu mang lại khi đánh lạc hướng đi săn của anh. Anh vạch lá rón rén đến gần, nó vẫn không hay biết gì. Anh gương nỏ săn nhằm vào lưng khỉ cái và ngón tay trỏ từ từ...  xiết lẫy. Có cái gì đó nhoáng qua điểm ngắm. Nhưng mũi tên đã lao vút đi rồi. Một tiếng kêu đau đớn ré lên. Không phải tiếng kêu của giống cái. Thì ra con khỉ đực vừa nhảy xuống, hứng trọn mũi tên, chịu thay khỉ cái. Có thể là cú nhảy tình cờ của khỉ đực lông mốc xám, cũng có thể là lòng hy sinh cao thượng của giống đực? 

Không còn bóng dáng khỉ cái. Con khỉ đực bị mũi xuyên vào bả vai, máu ra, đọng thành một vũng nhỏ trên mặt đá. Đau quá, nó rên khe khẽ và đưa đôi mắt đờ dại như van lơn, như cầu xin anh đừng đuổi theo giết bạn tình và đứa con nhỏ bé, dại khờ của nó. Một bắp ngô rơi ra lăn vào vũng máu. Nó biết lấy dây rừng buộc vòng quanh bụng và đi bẻ ngô non giắt vào. Sự cúc cung tận tụy của giống đực vừa cao cả vừa ngu xuẩn. Xót xa quá! Tàn nhẫn quá! Anh hối hận. Anh thấy mình u tối và có tội. “Kẻ tốt như mày sẽ còn khổ, còn đau đớn nhiều vì sự dối lừa.” Anh lẩm bẩm . “Ta sẽ phóng sinh mày, ta tìm cho mày một nơi yên ấm, mày hãy cách xa cái giống cái bạc tình kia.”

Anh đi tìm lá thuốc dấu để dịt vết thương cho nó. Lòng vòng một lúc anh mới tìm được lá cây Ngọc Hoàn, dân xóm Núi gọi là Tu lình. Lá thuốc dấu này đắp vào vết thương là cầm máu ngay, không bị sưng, chỉ ít ngày sau liền miệng. Lúc đó, anh mới nhớ đã bỏ quên cái ná săn, không mang theo bên mình. Anh quay lại chỗ hòn đá mồ côi ở khoảng rừng trống. Một cảnh tượng đập vào mắt anh: Con khỉ cái đang cào cào chân trước vào vũng máu có bắp ngô non nằm lăn lóc. Nó tru lên những tiếng thổn thức. Không thấy con khỉ đực đâu, chả lẽ nó đã lết đi chỗ khác.

Con khỉ cái cau mày và cầm nỏ săn lên ngoạm mồm vào dây nhai nhai. Bộ răng hô chuyên gặm thức ăn nuôi thân, nuôi con chịu bất lực bởi dây nỏ làm bằng ruột mèo trắng được sao tẩm, vê săn kỹ rồi cất lên gác bếp hong khô, rất dẻo và dai. Nó phát khùng, ném  nỏ săn xuống đất. Cùng lúc đó có tiếng khẹc... khẹc. Khỉ cái liền bỏ hòn đá mồ côi chạy về phía tiếng kêu ở gốc cây sồi. Anh cũng đến lấy cái nỏ săn tội nghiệp của mình.

Anh kinh ngạc không tin ở mắt mình: Khỉ cái nhe răng cắn chặt rút mũi tên ra và nhai lá thuốc đắp vào bả vai khỉ đực. Có tiếng rên khe khẽ như là đau đớn thật, như là nũng nịu hờn dỗi. Khỉ cái vin cành cây loà xoà ở bên bứt lá chụm lại như hình cái phễu; một tay cầm phễu lá, một tay nặn vú đang cương sữa. Sữa chảy vào phễu lá, rồi chảy xuống mồm khỉ đực. Một lát, con khỉ con ở đâu đó chạy đến, nó trố mắt nhìn nỗi đau của người cha và sán đến mẹ rúc đầu vào ngoạm núm vú. Khỉ mẹ gạt con ra. Khỉ con bú không đúng lúc, nó làm rối bận mẹ. Có thể nó rất đói, không được bú sữa mẹ vì phải chạy trốn cuộc săn đuổi của anh. Khỉ con lại rúc đầu vào bú, khỉ mẹ lại gạt ra. Mỗi lần gạt con không cho bú, khỉ mẹ lại nhăn trán, cau mày kêu khẹc... khẹc... như thể dằn lòng một cách đau đớn lắm... Cứ như vậy, đến lúc khỉ mẹ không chịu được, cáu tiết gạt mạnh làm khỉ con lăn lóc mấy vòng.

Gớm thật! Lúc này, sự sống còn của chồng và tình phu thê cần thiết hơn tình mẫu tử? Anh thoáng nghĩ nhanh và cầm nỏ săn nhăm nhăm bước đến. Thấy động, khỉ cái hốt hoảng. Anh đứng lù lù trước mặt nó và chĩa cái nỏ săn đã căng dây. Con khỉ cái chẳng mảy may sợ sệt, đứng hẳn lên che chắn cho khỉ đực bị thương và tay phải quơ vội khỉ con quặt về phía sau. Mắt anh và mắt khỉ cái đều rực lửa, ánh mắt phóng ra chạm vào nhau. Anh chĩa thẳng nỏ săn và ngón trỏ đặt vào lẫy nỏ. Kỳ lạ thay, khỉ cái không chạy, mở to mắt hết cỡ, ưỡn ngực che chở cho chồng con...

Tự nhiên trời đất chao đảo trên đầu, dưới chân anh. Anh cảm thấy mọi sự bon chen toan tính, bạc tình, mưu lợi của con người đều vô nghĩa hết. Bỗng dưng anh học được một bài học vô giá ở núi rừng Tam Điệp. Anh ngao ngán định vứt nỏ săn ở lại với rừng, nhưng nghĩ ngợi một lát, anh lại thôi.

11.

 Năm học cuối cùng qua mau, anh và các bạn xúm vào lo cho “Chíp hôi” đi làm ở Hà Nội rồi vội vã đi công tác xa. Ba tháng sau, anh về không còn nhận ra người mình yêu thương nữa. “Chíp hôi”của anh đi giầy khủng bố, mặc áo te tua hở ngực lộ cả chân vú. “Chíp hôi” đánh son môi màu nâu Hàn Quốc, tóc nhuộm hoe hoe vàng... “Chíp hôi” ngồi trên xe máy Bones 125 sau lưng một chàng trai cùng cơ quan ăn mặc rất ngầu. Anh đau xót nhìn cái xe Cúp bãi rác, tiếc tiền không dám gửi ở tầng một, mỗi lần cất phải cài số vừa rồ ga vừa đẩy lên tầng năm. Sau này anh mới biết chàng trai ấy con một ông vụ trưởng.

 Một vài lần gặp gỡ nữa, dăm ba câu hờ hững, vu vơ, nhạt phèo, “Chíp hôi” càng ngày càng xa anh rồi xa hẳn. Chú Hào biết, chú lồng lên Hà Nội và cha con cãi nhau. Chú Hào có lý của chú,“Chíp hôi” có lý của “Chíp hôi”. Vua thua đứa liều, có phải thời  cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy đâu. Chú Hào đến gặp anh, mặt chú nhăn nhó, khổ sở, ngượng ngùng, nói lời xin lỗi. Chú bảo: Thôi con rể chẳng được thì chú nhận anh làm con trai. Anh biết chú Hào thật lòng, không đãi bôi, nhưng con rể chẳng xong, làm con trai phỏng có ích gì, thân phận này làm chưa nổi đổi lại làm thân phận khác chắc gì đã hay, ê chề lắm. Anh đau đớn nuốt nỗi buồn vào lòng.  

12.

 Hoàng hôn đã buông trên dãy núi Tam Điệp. Nỏ săn khoác một bên vai, tay nải có củ bình vôi lấy ở núi Lò Vôi khoác một bên vai, anh uể oải bước. Về đến đầu xóm Núi, mẹ anh đã chờ ở gốc cây dẻ, bảo:

- Người ta dòm thấy anh với con Sim ở suối Yên Ca, người ta về kể cho chồng nó nghe. Chuyện đã qua rồi, còn hẹn hò nhau ở rừng làm chi. Bu lùa dê đi qua nhà Lùng, thấy con Sim khóc lóc quá. Nhà Lùng tính hay ghen, ốm đau quặt quẹo thế mà phũ, chắc lại đánh vợ. Anh làm sao thì làm...

 Tự nhiên máu trào lên mặt anh:

- Lại còn thế nữa. Tiên sư cái thằng Lùng. Bu cứ để con liệu.

- Anh đừng có liều đấy.

- Bu không phải lo.

Anh cầm luôn nỏ săn chạy lối tắt đến nhà Lùng. 

Tiếng trẻ con cười, nói bi bô. Tiếng người ốm thở ậm ạch. Anh nhìn qua khe cửa. Tất cả diễn ra không như mẹ anh nói. Không cãi cọ, đánh chửi nhau. Người ta bảo vợ chồng nhà này như phường chèo, vừa vỡ mâm vỡ bát xong lại anh anh, ả ả. Anh không thể tin ở mắt mình: Ngọn nến cháy chập chờn toả sáng, người Lùng nhỏ thó, quắt queo, không còn cái dáng vâm váp của gấu rừng ngày xưa nữa. Sim đang vạch áo ấn núm vú vào miệng Lùng. Tay phải đỡ đầu, tay trái Sim nặn sữa. Người ốm bú tóp tép rất khó nhọc. Và ở bên là thằng bé níu áo mẹ, cười trơ lợi.

Anh không còn biết nói thế nào nữa. Đặt củ bình vôi ở thềm hè, anh lặng lẽ bước ra. Hoàng hôn vẫn đang ửng hồng. Anh leo cầu khỉ qua suối Yên Ca về nhà. Mải leo, mải nghĩ, anh vô tình để rơi tuột cái nỏ săn xuống suối. Anh thẫn thờ đứng giữa cầu nhìn trời, nhìn đất, nhìn núi rừng Tam Điệp, nhìn dòng suối Yên Ca đục đục trong, trong đục... khi hoàng hôn đang lụi dần.

 Mùa động rừng năm 2002.

Người đàn ông làng Yên Hạ

Tác giả: Sương Nguyệt Minh

, Tận trong sâu thẳm nỗi lòng của một người ngang tàng, bị xa lánh, vẫn cháy bỏng ước muốn lương thiện, được sống giữa tình thân ái của cộng đồng và muốn con cháu sống có ích cho xã hội. Hãy độ lượng bao dung với những ai lầm lỗi muốn trở về với cuộc sống bình thường. Đó là lời nhắn gửi của tác giả truyện ngắn "Người đàn ông làng Yên Hạ".

Hạ cầm côn về làng sau mười năm biệt tích.

Việc đầu tiên là Hạ đến nhà chị gái. Hắn muốn tính sổ với anh rể về những trận đòn ngày trước. Tiếc thật! Anh rể đã chết sắp đoạn tang. Hạ cáu tiết mang côn ra mộ phạt trụi cỏ. Người đàn bà góa khóc lóc van xin vẫn không ngăn nổi hắn.

Đêm khuya. Trăng hạ tuần treo lơ lửng trên dãy đồi Bạch Bát. Làng Yên Hạ im lặng chìm trong giấc ngủ sau một ngày lam lũ. Trong túp lều nát, người đàn bà góa vẫn rầu rĩ kể lể cho hắn nghe nỗi đoạn trường của chị. Hắn thở dài thườn thượt, có lúc bồn chồn, nóng ruột. Thì ra mười năm qua không riêng mình hắn lang thang, đói rách. Chị hắn ở nhà cũng sống khổ. Hắn thương chị, căm lắm bọn sâu mọt làng Yên Hạ.

Hắn nhớ lại. Tuổi thơ vô khối những đòn roi. Cha mẹ mất sớm, hắn ở với chị gái cùng bố khác mẹ. Không may cho chị đã mấy kỳ sinh nở nhưng con cái đều chết yểu. Anh rể hắn chán, uống rượu say chửi nhà chị thất đức. Không thể chịu đựng mãi, hắn muốn bỏ nhà ra đi. Đi đâu? Hắn chưa biết, nhưng trước hết phải có tiền.

Đêm mùa đông gió rét tái tê. Hạ đóng khố lội qua ao mò vào chuồng lợn nhà cu Dục. Hắn đổ tro vào bao bố chụp vào đầu con lợn. Không kịp éc, chú ỉ choai choai đã chui gọn vào bao. Ngay trong đêm, Hạ vác con lợn đã chết ngạt đến bán rẻ cho mụ Trương Phòng, một người chuyên bán lòng lợn tiết canh ở chợ huyện.

Dắt bảy xu bạc bán lợn chết vào cạp khố, hắn vội vàng như ma đuổi sau lưng. Mưa phùn gió bấc tạt vào mặt rát dạt. Mặc, hắn bỏ làng ra đi. Tảng sáng, hắn đụng phải đường tàu. Hắn cứ dọc đường ray đi mà không biết vào nam hay ra bắc. Đến ga Ghềnh, gặp tàu hắn nhảy đại lên. Hắn là người đâu tiên ở làng Yên Hạ đi xe lửa. Năm ấy hắn mười ba tuổi.

Những hình ảnh chắp nối cứ liên tục hiện về. Dạo đó, Hạ sống tha hương, cuộc đời trôi nổi, vô định. Hắn lang thang, phiêu bạt, lúc ở trên tàu, lúc ở ga. Có thời gian hắn rong ruổi xuống Hải Phòng, sang tận Trung Quốc. Kiếm được thì ăn, không kiếm được, hắn chịu. Hắn làm đủ nghề, từ bốc vác thuê ở bến tàu, quét hố tiêu, rửa bát cho hiệu phở đến móc túi. Khi hắn học võ Tàu để gác cửa cho một hiệu cao lâu thì hắn thấy trộm cắp vặt không xứng mặt một thằng đàn ông. Từ đắng cay, ngọt bùi đến khổ đau sung sướng, hắn nếm cả. Cuộc đời cũng dạy cho hắn biết như thế nào là ân oán, nghĩa tình. Hắn có võ, có vàng, có gái... đủ cả. Duy chỉ có một thứ hắn luôn thiếu, đó là tình thương.

Trời sáng bạch. Hạ đã qua một đêm thức trắng. Chị hắn bưng lên một đĩa khoai luộc. Không bóc vỏ, hắn chén một lèo hết sạch. Tiện tay, hắn với chai rượu trên bàn tu ừng ực rồi cầm côn đến nhà Hội Dục. Chị hắn sợ níu lại. Hắn quắc mắt: "Không phải việc đàn bà". Chị hắn run cầm cập, chắp tay cầu trời khấn phật phù hộ cho đứa em ngỗ ngược mới về làng không gặp chuyện dữ.

Nhà Hội Dục đang giỗ bố. Sân nhà cỗ bày la liệt. Khách khứa đang nhồm nhoàm bỗng ngừng nhai. Có người sợ đánh rơi đũa Hạ. múa côn vun vút trước những con mắt sợ hãi lẫn thán phục của mọi người. Hội Dục ngưng tiếp ông Chánh tổng từ trong nhà bước ra. Với những thằng khác, chắc Hội Dục đã hô trương tuần gô cổ lại. Nhưng với Hạ, ông xử nhũn. Ông biết đây là loại người chẳng vừa. Hắn đã đi biệt xứ mười năm. Phàm những thằng như thế ra đi mười thằng chết tám, chín, còn lại một hai trở về đều là những thằng kinh cả. Ông đang cần những thằng như thế. Vả lại nhà ông đang có việc lớn, ầm ĩ lên xấu mặt nhà mình trước. Thôi thì ông cứ lui một bước. Ông tự tay rót chén rượu nếp đầy tràn mời Hạ. Thấy mình được vị nể trước khách khứa hàng tổng, hắn sung sướng xếp bằng ngồi uống rượu cùng đám tuần đinh.

Hội Dục quả là tay không vừa. Những năm làm nghề thu thuế chợ, ông hiểu lắm cái cảnh đời nhốn nháo. Cái chợ là bộ mặt của làng, của tổng. Xấu tốt, gian manh, đần độn, thằng móc túi, kẻ đi buôn, người sắm đồ giỗ bố cứ ra chợ mà tìm. ở đời cũng thế, cũng có thằng thế này, thế nọ. Phải cho chúng trị nhau rồi ông trị lại chúng. Thằng tha hương như Hạ ông cần lắm. Vài hôm sau Hội Dục bàn với Lý Nguyễn cho Hạ làm Chánh trương. Mặc dù chẳng ưa gì Hội Dục, lại càng không ưa Hạ, nhưng chả dại gì dây vào thằng đã từng biệt xứ. Lý Nguyễn đành phải thuận. Từ bấy giờ dân làng gọi hắn là Trương Hạ.

Công việc mới làm Hạ say mê. Hắn hình như quên chuyện trả thù và quyết định ở lại làng. Từ ngày hắn làm chánh trương, đêm hôm làng Yên Hạ im ắng hẳn. Đi tuần nơi đâu, Trương Hạ dẹp yên đấy. Có đêm hắn lôi về nhà Lý Nguyễn bảy, tám tên đánh bạc mà không tên nào dám ho hoe. Những nhà chuyên nấu rượu lậu cũng không qua mặt hắn. Còn mấy thằng chuyên khoét ngạch chui tường ăn trộm thì dạt đi làng khác làm ăn. Hắn thường xuyên được ăn của đút lót.

Không nhà cửa, cũng không thèm ở nhờ túp lều rách của thằng anh rể đã chết. Trương Hạ nhảy ra chiếm cứ một khoảnh đất hoang cạnh bến đò ngang. Trương Hạ cũng sắm một "chiếc đò nan". Những lúc không làm phận sự thằng tuần, có người ới hắn cũng cầm chèo xuống bến.

Quả thật, đưa khách sang sông cũng là một thú vui mới của Trương Hạ.

Làng Yên Hạ có ông Nhất Cẩn giàu có nhất vùng. Không có chức sắc nhưng nhà ông giàu nứt đố đổ vách nên Chánh Tổng cũng vị nể. Ông thường xuyên để Trương Hạ lui tới uống rượu phần vì quý hắn tính khí hơn người, phần vì đánh tiếng để bọn lưu manh cạch mặt đừng quấy nhiễu. Trương Hạ biết, hắn thấy mình cao giá lắm.

Nhất Cẩn có một người vợ bé nhan sắc. Ông rất yêu chiều. Tuổi sáu mươi, dù bồi bổ bao nhiêu ông cũng không làm thỏa mãn cả đàn vợ. Nỗi khao khát của người vợ bé bốn mươi tuổi như bốc lửa. Thị đã tìm được nơi trao gửi và Trương Hạ đã làm được cái việc của thằng đàn ông thay Nhất Cẩn. Cuộc tình của gã trai tơ với người đàn bà sắp đến tuổi hồi xuân tưởng chừng không bao giờ dứt. Họ lén lút quấn quýt bên nhau, lúc ở bến đò, lúc trong vườn nhãn. Cuộc tình cứ kéo dài mãi trong vụng trộm. Hắn muốn cưới người đàn bà ấy làm vợ.

Những việc làm của Trương Hạ không qua mắt Hội Dục. Ông bảo hắn:

- Mày đã đi khắp nơi, ăn mẻ bát thiên hạ còn dốt. Việc ấy dễ như trò trẻ con sao mày không nghĩ ra.

Quả thật, Trương Hạ thạo mọi việc đời, nhưng tính khí thẳng băng. Những lắt léo, âm mưu, mánh khóe chiếm đoạt, hại người, hắn không có. Nghe Hội Dục bày cho, Trương Hạ mừng lắm. Ngay trong đêm, một mình một cuốc, một mai. Trương Hạ đi đào mộ cha kẻ giàu có nhất vùng. Mộ cha Nhất Cẩn đặt trên gò Lý Ngư. Đất rắn chai tay, nhưng lòng ham, mê làm điều tai quái và tiếng gọi của ái tình đã tiếp thêm cho hắn sức mạnh. Gà gáy canh ba, Trương Hạ đưa hài cốt của cha Nhất Cẩn về giấu ở sau rừng. Sáng, Hội Dục sai người bắn tin. Chẳng mấy chốc tin Nhất Cẩn mất mộ cha đã loang khắp chợ huyện. Biết tin, nhà Nhất Cẩn hoảng loạn, hoang mang. Là người theo Nho giáo, ông ngấm nỗi khổ nhục của kẻ mất mộ cha. Phen này mạt kiếp. Ông sai người dò la tung tích, nhưng cả tháng trời vẫn biệt vô âm tín. Lòng ông tan nát. Đúng lúc ấy, Trương Hạ xuất hiện. Hắn trách ông cậy nhờ người đi tìm, không bảo hắn một tiếng. Nhất Cẩn mừng vui hết nỗi. U sầu, đau đớn quá, ông quên mất kẻ phải cậy nhờ chính là Trương Hạ. Hôm ấy, ở nhà Nhất Cẩn rượu ngon chảy như suối.

Nhất Cẩn trúng kế Hội Dục. Trương Hạ thực hiện kế sách khá thành công. Hắn nghi binh, giả bộ như sắp tìm được đến nơi, khiến Nhất Cẩn đêm ngày sống trong hy vọng. Trương Hạ biết thế càng kéo dài thời gian tìm kiếm. Cứ

mỗi lần hắn đi tìm, Nhất Cẩn lại sai người mang rá xúc bạc cho hắn mang theo. Nhưng tiền bạc ấy chui vào túi Hội Dục quá nửa.

Một thời gian, Hội Dục sợ Nhất Cẩn u sầu quá quỵ mất, hỏng việc liền bảo Trương Hạ tung đòn cuối. Trương Hạ đến, mặt mũi phờ phạc, Nhất Cẩn chạnh lòng tưởng hắn vừa qua chặng đường gian nan vất vả. Hắn bảo Nhất Cẩn rằng đã tìm được hài cốt của cha ông. Nhất Cẩn vui mừng hết nỗi. Quả không nhầm khi ông "chọn mặt gửi vàng". Chờ cho niềm vui sướng của Nhất Cẩn vơi đi, hắn lễ phép thưa:

- Con không đòi hỏi gì. Con chỉ xin ông một điều.

- Ta coi mày như con cháu trong nhà. Cần cái gì cứ nói. Ta không tiếc.

- Thưa ông. Con trót dại phải lòng người vợ bé của ông. Chúng con trót ăn nằm với nhau và thị đã có bầu. Con xin cưới thị làm vợ.

Như tiếng sét đánh ngang tai, Nhất Cẩn không tin những điều vừa nghe. Mặt ông đang hồng hào tươi tắn bỗng tái xám. Một bên mất vợ, một bên mất mộ cha buộc ông phải chọn một. Người ta bảo "thứ nhất là bằng mất mộ cha, thứ nhì buôn vã, thứ ba đi bè". Như vậy là mất vợ không bằng mộ cha.

Từ lâu, làng Yên Hạ có lệ con trai lấy vợ phải nộp một ngàn viên gạch sành lát đường làng. Trương Hạ nghĩ đã là lệ làng phép vua cũng thua, huống hồ cái thân hắn một thời tha hương. Hắn sẽ lát đường làng, lát để cả làng Yên Hạ nhớ hắn. Tên tuổi hắn dân làng phải mang theo xuống mồ. Con đường từ nhà Nhất Cẩn vắt qua cánh đồng về bến đò ngang mới lát được non nửa. Phần còn lại, hắn thưa với các cụ bô lão trong làng xin lát nốt. Tính ra hết hàng chục vạn gạch và cả chục tấn vôi. Mấy tháng trời, các lò gạch, lò vôi ở bãi bồi sông Bút nghi ngút khói. Cả chục người đóng gạch, nung vôi, vào lò ra lò tấp nập. Dân làng Yên Hạ có thêm công ăn việc làm trong mùa giáp hạt. Nhiều người lắc đầu lè lưỡi, không biết những năm tháng biệt xứ, hắn kiếm đâu ra nhiều tiền vàng thế. Nhất Cẩn thì chửi thầm trong bụng: Mẹ nó! Bảy dành bạc và phúc đức nhà ông ra lát đường. Dân làng ai có ghét Trương Hạ thì ghét chứ bằng ấy con người làm thuê chắc chắn sẽ hàm ơn hắn. Có kẻ còn hoắng lên mong hắn cưới vợ hai, vợ ba, vợ tư nữa.

Sáu tháng sau, mụ vợ hơn hắn gần hai mươi tuổi đẻ con trai. Đúng là "nòi nào giống ấy" không thể lẫn. Nó giống Hạ như đúc. Trương Hạ đặt tên con là Du. Hắn bảo: "Thằng này đến nữa cũng sống tha hương".

Không biết Trương Hạ có bao nhiêu tiền, vàng, nhưng người ta đồn hắn có nhiều lắm. Chỉ thấy hắn sống thừa ăn nhờ đình đám và những lần bắt bớ trong làng. Rất lạ, hắn không xây nhà to như ông Hội Dục, không tậu ruộng, tậu trâu như ông Nhất Cẩn. Hắn và vợ con chỉ ở trong căn nhà tre lá giữa vườn cây.

Trương Hạ sống hào phóng. Hắn chén ở nhà lý trưởng hay nhà chánh hội một bữa, hôm sau làm cỗ đáp lại luôn. Cỗ nhà hắn bao giờ cũng to hơn cỗ trước. Hắn còn có thú đi tuần ngoài đồng. Ngoài đồng bao giờ cũng mát mẻ thoáng đãng. Tầm mắt hắn nhìn xa tít tắp. Đi tuần trong làng bó buộc lắm. Hắn chán cảnh trong làng nước đọng đầy ao tù, cứt trâu nổi lều bều. Đường làng bé tí tẹo, ngoằn ngoèo vào các hẻm sâu hun hút.

Một lần, hắn gặp cô Mại, con gái ông thủ quỹ mặc váy cắm đầu vào bờ móc cua. Trương Hạ ôm mặt cô Mại ép sát vào gối, người cong như con tôm, mông đít chổng ngược lên trời. Mười sáu tuổi, yếu ớt, cô Mại không chống đỡ nổi tay trương tuần lực lưỡng, giỏi võ. Cô Mại rã rời, mềm oặt rũ xuống bờ ruộng. Bên hông cô hom giỏ bật ra. Cua đực cua cái bò lổm ngổm. Trương Hạ múa côn vun vút, phạt trụi một đám lúa. Hắn dọa: "Mại làm ầm ĩ tôi giết. Ngày mai tôi đến nhà hỏi Mại làm vợ".

Ông thủ quỹ tức nghẹn cổ, chửi Trương Hạ "vuốt mặt không nể mũi". Sau ông nghĩ kiện cáo càng thêm khổ con gái mình. Hắn cũng có của nả, lại mượn người đến xin cưới tử tế. Ông đành cho hắn cưới con gái mình.

Cuộc đời Trương Hạ cứ thế trôi đi. Đến một lần đánh chén ở nhà Hội Dục, hắn say mèm nhưng vẫn cố về nhà. Bóng hắn ngất ngưởng, xiêu vẹo đến túp lều của mụ Lài bên gốc đa làng thì quỵ. Mụ Lài sợ lắm. Mụ tưởng hắn chết. Loay hoay mãi, mụ vần được hắn vào trong túp lều. Trương Hạ thở hồng hộc, lăn lộn trên mặt đất. Mụ Lài chạy vội ra ngoài vặt một nắm búp dong riềng. Mụ nhai búp dong ngồm ngoàm rồi nhả cả nước lẫn bã vào cái tô mẻ. Mụ thò tay vắt bã, cạy miệng Trương Hạ đổ nước vào. Hắn tợp từng ngụm, nước lá giong riềng tứa ra hai mép. Chưa kịp uống hết, hắn đã nôn thốc nôn tháo. Lổn nhổn thức ăn chưa tiêu và nước, rượu ra đầy cái chiếu manh hắn đang nằm.

Nửa đêm, Trương Hạ tỉnh dậy. Hắn thấy mụ Lài vét cám trong vại vỡ bỏ vào chã đất đặt lên mấy thanh củi đang cháy dở sao vàng. Mùi rượu, mùi thịt cá tanh tưởi, chua nồng. Miệng hắn đắng ngắt, khô rát. Hắn cựa mình, mệt quá không dậy được. Im ắng quá. Thỉnh thoảng có tiếng thạch sùng kêu trên vách. Trương Hạ thấy buồn, một nỗi buồn mênh mông không cắt nghĩa được.

Mụ Lài đánh gió cho Trương Hạ. Hắn nằm im như trẻ nhỏ. Trương Hạ thấy dễ chịu. Hắn ước ao: giá mẹ hắn còn sống. Mẹ hắn cũng đánh gió dã rượu cho hắn. Hắn thèm có bàn tay săn sóc của người mẹ. Khổ thân hắn. Hắn lớn lên đã không thấy bố mẹ. Đi biệt xứ về, hắn làm chánh trương, người ta gọi hắn là Trương Hạ, nhiều người tưởng hắn họ Trương. Hắn thấy xót xa. Mọi người đều có mẹ, chỉ hắn là không. Hai mụ vợ một già, một trẻ thật lòng thương hắn nhưng hắn vẫn thấy thiếu, thiếu một cái gì đó mà hắn không cảm nhận được. Giờ thì hắn hiểu, cái thiếu đó là tình mẫu tử.

Mụ Lài vần Trương Hạ úp sấp trên manh chiếu. Mụ mím môi cầm nắm cám nóng gói bằng mảnh vải đụp cọ mạnh trên tấm lưng trần của hắn. Mùi cám rang cháy thơm thơm bay khắp túp lều. Hắn nhắm nghiền mắt sống trong ý muốn được nuông chiều, chăm sóc dưới bàn tay người mẹ. Hắn thấy biết ơn bà già ăn mày cô đơn gần bảy mươi tuổi đã cứu hắn sống lại. Thân phận mụ nhỏ nhoi, thấp hèn nhất làng Yên Hạ. Mụ đã nhiều lần được hắn bố thí và bị hắn xua đuổi. Cũng là một kiếp người! Hắn lang thang, ngỗ ngược. Mụ lần hồi ăn xin. Hắn cảm thấy thương hắn, thương bà già này. Trương Hạ không khóc mà nước mắt rơi lã chã. Vì đâu? Vì đâu nên nỗi thân này? Hình như lần đầu tiên trong đời, hắn rơi những giọt lệ nóng.

- Mẹ... Hắn nắm lấy tay mụ Lài, giọng run run.

Sáng hôm sau, hắn đến nhà Lý Nguyễn trả lại chức chánh trương. Hắn lại sai hai mụ vợ đến đón bà già về nuôi như mẹ đẻ. Mụ Lài bỗng nhiên hết kiếp ăn mày. Mụ sống thêm bảy, tám năm nữa mới chết và trở thành người thọ nhất làng Yên Hạ.

Từ ngày ấy, Trương Hạ ít giao lưu, đêm ngày sống với bến đò, sông nước, vườn cây. Chỉ khi nào nghe tiếng gọi: "Đò ơi", Trương Hạ mới vác chèo xuống bến. Tuy vậy, tên tuổi Trương Hạ vẫn không mất đi, vẫn vang lên tận hang cùng ngõ hẻm làng Yên Hạ. Trẻ con khóc, đem tên Trương Hạ ra dọa, chúng im bặt. Trẻ chăn trâu vặt trộm quả, đem tên Trương Hạ ra nát, chúng run lập cập. Chuyện lớn, chuyện nhỏ trong làng xảy ra, họ đều ví như việc làm trước đây của Trương Hạ. Còn sống nhưng Trương Hạ nghiễm nhiên bước vào huyền thoại của làng Yên Hạ. Trẻ chăn trâu gọi bằng ông với tấm lòng ngưỡng vọng đầy khâm phục.

Cuối năm đó, đội cải cách về làng. Hội Dục và mấy người địa chủ khác bị bắn ở gốc cây đa làng. Trương Hạ cũng bị lôi khỏi vườn cây. Người ta luận tội Trương Hạ.

Trương Hạ chỉ có tám sào thổ, không thể quy nổi thành phần địa chủ. Lúc làm trương tuần, ông cũng đánh người, nhưng chỉ đánh bọn chơi bạc và ăn trộm. Cũng may không đứa nào chết, chúng chỉ lê lệt hoặc hộc máu mồm máu mũi. Chừng ấy, chưa thể khép tội ông là cường hào gian ác, có nợ máu với nhân dân. Mặc dù rất nhiều lần vì ông mà dân làng làm ăn khó bề yên ổn.

Cùng lúc đó, Du bị địa phương sức giấy lên trường tỉnh đòi về. Ông buồn bực vì nỗi thất học của con trai, nỗi lòng thêm nhức nhối. Cả đời ông thất học, tha phương, bỏ xứ. Lúc tìm về quê nhà làm lắm điều tai ách. Ông muốn sống nhân từ, dồn sức vào chăm chút cho con để trả nỗi đau đời. Không ngờ số phận vẫn chưa buông tha ông. Trương Hạ ngẫm lại sự đời và cảm thấy thời mình đã hết.

Chuyện đấu tố đang hăng thì có lệnh sửa sai từ trung ương về. Ai cũng sợ Trương Hạ ra tay trả thù. Nhưng ông bảo "Vì thời thế, thế thời phải thế". Người đúng nhiều, nhưng cũng có kẻ "té nước theo mưa", "giậu đổ bìm leo"; thói đời xưa nay vẫn thế. Có người lương tâm không đến nỗi nào, nhưng vì học hành kém quá hoặc sợ hãi nghe người ta xui bậy làm càn. Không thèm chấp! Với lại, ít nhiều mình cũng có tì vết, cứ trắng như tờ giấy, ai thèm động đến lông chân.

Sau cải cách ruộng đất, rất ít người trong làng đi lại với Trương Hạ. Họ ngại đã đấu tố ông. Năm sau người vợ già ông mất. Ông buồn, nỗi lòng thêm trống trải. Du được tham gia sinh hoạt thanh niên và dạy bình dân học vụ... Trương Hạ thấy thế không vui cũng chẳng buồn. Ông cũng không cấm đoán con trai tham gia công tác xã hội. Phong trào hợp tác xã về làng Yên Hạ. Ông chẳng thiết tha, mặn mà, nhưng cũng bảo vợ đem đò góp vào hợp tác xã ngành nghề. Hàng tháng thu tiền đò được vài chục đồng công điểm gọi là. Trương Hạ sống thu mình ở vườn cây. Suốt ngày ông cặm cụi ghi chép bằng số vốn chữ nho học mót ngày trước. Đêm ngày nghe tiếng sóng sông Bồ vỗ ì oạp ông sướng hơn nghe tiếng kẻng giục đi làm đồng của hợp tác xã.

Như một định mệnh sắp đặt sẵn, những ngày sinh hoạt thanh niên, cô Lự bí thư chi đoàn đã phải lòng Du. Hai người thương nhau được một năm, chuyện loang ra. Mẹ Lự gọi con gái lại chì chiết:

- Lão Trương Hạ năm thê bảy thiếp. Thằng Du "con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh", tránh xa nhà ấy ra.

Ông Tam bảo con gái:

- Mày con nhà bần cố. Thằng Du con nhà thành phần, không hợp nhau. Phải cắt ngay kẻo hối không kịp.

Lự khóc. Cô giận mẹ, giận Trương Hạ, giận cả làng Yên Hạ.

Những chuyện gièm pha, nói xấu xung quanh mối tình của con cũng đến tai Trương Hạ. Chuyện thù oán mới dai dẳng làm sao. Mấy lần ông định mang côn đi hỏi tội những kẻ nói xấu ông, nhưng lại thôi. Ông chép miệng: "Thời thế đổi thay rồi". Song ông lại bảo Du:

- Chúng nó là cành cây, ngọn cỏ. Cái làng Yên Hạ này chỉ bằng nắm tay tao. Cốt là chúng mày phải lòng nhau và nhất quyết thành vợ chồng. Sợ đếch gì thằng nào, con nào.

Quả thật, Trương Hạ không sợ. Cùng lắm là chết, nhưng cái chết ông cũng không ngán. Ông nghĩ dân làng Yên Hạ không ai có máu mặt để xứng với ông. Nhưng đến chuyện tình của con thì ông bất lực. Du chán đời, bỏ nhà đi mất tăm. Trương Hạ than phiền:

- Thằng này giống máu bố, khổ một đời con ơi!

Lâu lâu, người ta đồn gặp Du ở bãi đào vàng tận miền tây xứ Nghệ. Du bị bụng báng nước độc rồi chết. Người lại nói Du đi công nhân lâm trường, cả cơ quan chuyển vào thanh niên xung phong phục vụ ở tuyến trong Quảng Bình. Những lời đồn thổi thật hư lẫn lộn không biết đâu mà lần Trương Hạ không tin. Ông bảo: Thằng ấy chết không thể dễ thế được. Nó vào lính mới đáng mặt thằng đàn ông thời loạn.

Bụng cô Lự to dần. Cô than thân trách phận bao nhiêu lại căm Du bấy nhiêu. Du đã chạy làng, cô nghĩ thế. Với cô, Du là người đàn ông bội bạc. Du bỏ cô bụng mang dạ chửa trong nỗi khổ của người con gái hoang thai. Mẹ cô bảo:

- Đã sướng chưa con ơi. Tao biết ngay cái mặt bố con nhà nó.

Nhục quá, uất ức vì đứa con gái chửa hoang, ông Tam trói Lự vào cột nhà gọt đầu bôi vôi. Trương Hạ biết tin cầm côn đến:

- Chưa cưới hỏi, nhưng tôi coi nó như là con dâu. Ông không được phép làm liều.

- Vì bố con mày mà nhà tao khổ nhục. Ông Tam giận lắm cầm dao bầu xông đến. Trương Hạ tránh được đánh văng dao. Trương Hạ bế luôn ông Tam đặt lên giường thờ rồi bảo Lự:

- Coi như ông ấy đã chết. Con chắp tay lạy bố con đi.

Ông Tam mất mặt với dân làng vì Trương Hạ làm nhục, lại xấu hổ vì đứa con gái không chồng mà chửa. Nghĩ ngợi nhiều, ông sinh ra ốm liệt giường. Sau vụ ấy nhiều người khen Trương Hạ, cũng nhiều kẻ chê ông, thậm chí còn chửi vụng ông quen thói côn đồ. Thực lòng Trương Hạ không muốn thế. Ông biết Lự và con trai ông phải lòng nhau thật. Giọt máu trong bụng Lự là của Du để lại. Có thể Lự sẽ đẻ con trai mang dòng họ nhà ông. Phải giữ lấy, phải bảo vệ. Đó là ý nghĩ đầu tiên khi biết Lự có chửa với con trai mình.

Lự bị gia đình hắt hủi, làng xóm chê cười, người yêu đi mất tích. Cô hoang mang không còn nơi bấu víu. Lự nghĩ đến chuyện ra đi.

Nắng chiều loang loáng ở mặt sông. ánh sáng yếu dần. Mây màu xám ảm đạm. Gió nồm không thổi nữa. Trương Hạ hò vợ quay mũi đò sang bờ bên kia. Ông chạy trước, vợ chạy sau đuổi theo bóng Lự đang cắm cúi trên bờ đê cao.

- Con đi đâu trong lúc bụng mang dạ chửa? Hãy ở lại ta lo.

- Thưa cha! Lự dừng lại. Tự nhiên cô gọi ông bằng cha.

- Con không thể...

- Gia đình ta không ai ghét bỏ con - Giọng Trương Hạ tha thiết.

- Nhưng con nhục. Con không thể sống với làng.

- Ta biết gia đình con vẫn cố chấp với cuộc đời ta. Chả lẽ quá khứ của ta lại là nguyên nhân rẽ ràng duyên phận các con.

- Con không biết... Nhưng con phải ra đi. Con khổ lắm!

Lự gục đầu vào vai bà Mại nức nở. Hai người đàn bà ôm nhau, bóng đổ dài xuống mặt sông.

Biết không thể giữ Lự ở lại, ông bảo vợ và Lự thôi đừng khóc. Ông lấy trong người ra một lá vàng Kim Thành cho Lự. Cô nghẹn ngào, giắt lá vàng vào trong người rồi chụp nón lên đầu. Trương Hạ đứng cạnh người vợ nước mắt lưng tròng. Ông nhìn Lự bước thấp, bước cao đi khỏi làng Yên Hạ. Lòng ông đau như cắt. Xa xa hoàng hôn đang lụi dần trên dãy đồi Bạch Bát.

Ba mươi năm sau. Bến đò ngang đã bắc cầu mới. Có một chàng đại úy mang phù hiệu không quân dừng lại ở đầu cầu. Anh hỏi thăm về làng Yên Hạ. Người ta bảo: cháu Trương Hạ trở về.

MUốI CủA RỪNG

Tác giả: Nguyễn Huy Thiệp

, Sau Tết Nguyên đán một tháng là thời gian thích nhất ở rừng. Cây cối đều nhú lộc non. Rừng xanh ngắt và ẩm ướt. Thiên nhiên vừa trang trọng, vừa tình cảm. Điều ấy một phần là do mưa xuân.

Khoảng thời gian này mà đi trong rừng, chân dẫm lên lớp lá ải mục, hít thở không khí trong lọc, thỉnh thoảng lại được thót mình bởi một giọt nước trên cây rỏ xuống vai trần thì thật tuyệt thú. Tất cả những trò nhố!lhá ng đê tiện vấp phải hàng ngày hoàn toàn có thể rũ sạch bởi một cú nhảy của con sóc nhỏ trên cành dâu da.

Chính dịp đó ông Diểu đi săn.

ý nghĩ đi săn nảy sinh khi thằng con học ở nước ngoài gửi về biếu ông khẩu súng hai nòng. Khẩu súng tuyệt vời, nhẹ bỗng, hệt như một thứ đồ chơi, thật nằm mơ cũng không tháy được. ở tuổi sáu mươi, với khẩu súng mới, đi săn trong rừng vào một ngày xuân kể cũng đáng sống.

Ông Diểu nai nịt, mặc quần áo ấm, đội mũ lông và dận đôi giày cao cổ. Để cho cẩn thận, ông còn mang theo cả nắm xôi nếp. Ông đi men theo suối cạn, cứ thế ngược lên mó nước dầu nguồn. Cách mó nước một dặm là vương quốc của hang động đá vôi.

Ông Diểu rẽ sang lối mòn ngoằn ngoèo đi miết. Chim xanh đầy trên rặng gắm hai bên lối mòn nhưng ông không bắn. Với khẩu súng này mà bắn chim xanh thì thật phí đạn. Chim xa nh ông chén chán rồi. Ngon thì ngon nhưng có vị tanh. Nhà ông thiếu gì chim. Chim bồ câu nhà ông có đầy. Đến chỗ ngoặt, ông Diểu giật mình bởi một tiếng soạt trong lùm dẻ gai. Một chùm dây màu sặc sỡ tung trước mắt ông. Ông nín thở: một đôi gà rừng ton tón lao về phía trước, đầu chúi xuống, kêu quang quác. Ông Diểu rê nòng súng theo. "Bắn sẽ trượt thôi! " Ông nghĩ bụng và ngồi bất động ở trong tư thế như vậy rất lâu. Ông muốn chờ rừng yên tĩnh lại. Đôi gà rừng sẽ nghĩ là chưa gặp người. Như thế tốt cho chúng nó. Cũng tốt cho ông.

Dãy núi đá cao ngất hùng vĩ. Ông Diểu ngắm nhìn dể lượng sức mình. Nã được một chú khỉ hoặc chú sơn dương thì thật đâ đời. Sơn dương thì khó, ông Diểu biết thế. Giống này bắn được chỉ nhờ ở ngẫu nhiên thôi. Ông Diểu không tin vận may sẽ đến.

Cân nhắc kỹ, ông tính đi men chân núi đá vôi sang rừng dâu da săn khỉ. Chắc ăn hơn mà đỡ tốn sức. Đây là Hoa Quả Sơn, Thủy Liêm Động của thung lũng này.

ở rừng dâu da, khỉ có hàng bầy. Việc bắn được một chú khỉ với ông không khó. Ông Diểu dừng lại mô đất có cây dây leo. Không biết thứ cây này là thứ cây gì, lá bạc phếch giống như lá nhót, những bông hoa vàng như hoa tai rủ xuống tận đất. Ông ngồi đấy lặng lẽ quan sát. Cần xem bọn khỉ có ở đây không? Loài thú này khôn tựa người, khi kiếm ăn bao giờ cũng có canh gác. Con gác rất thính. Không thấy nó, đừng có hòng cuộc săn thắng lợi, đừng có hòng bắn được con át chủ bài. Con át chủ bài cũng là khỉ thôi. Nhưng đây là con khỉ của ông, là con ấy chứ không con khác. Vì vậy ông phải chờ, phải có cách thì mới bắn được.

Ông Diểu ngồi im dễ đến nửa giờ. Mưa xuân mỏng và mịn. Thời tiết ấm. Dễ đến rất lâu ông Diểu mới lại có dịp ngồi yên thế này, không nghĩ gì không buồn không vui, không lo lắng, cũng không tính toán. Sự tĩnh lặng bìnb thản của rừng xuyên suất qua ông. ào một cái, từ trong rừng dâu da bỗng như có tiếng quẫy động của một con vật khổng lồ. Ông Diểu biết là con đầu đàn đã đến. Con khỉ này cũng gớm lắm đây. Nó xuất hiện với một nghi lễ vương chủ. Tự tỉn đến thô bạo. Ông Diểu mỉm cười và chăm chú nhìn.

Sau tiếng dộng vài phút thì con đầu dàn đến thật. Nó văng mình rất nhanh đến nỗi gần như không có phút nghỉ ở mỗi chặng dừng. Ông Diểu thán phục vì sự nhanh nhẹn dẻo dai của nó. T hoắt một cái, nó biến mất. Một nỗi xót xa khiến ông nhói lòng: số phận của bậc đế vương không trùng với số phận ông. Niềm vui nhen lên từ khi ở nhà ra đi trong ông vơi di một nửa. Khi con khỉ đần đàn biến mất thì ào ra một đàn khỉ dến hai chục con từ rất nhiều hướng. Con vắt vẻo trên cao, con đánh đu ngang cành. Có con lại nhảy xuống đất. Ông Diểu thấy ba con khỉ cứ quấn lấy nhau: con khỉ dực, con khỉ cái và đứa con nó. ý nghĩ con khỉ đực sẽ là con mồi bám lấy ông Diểu tức thì. Cái thằng bố ô trọc ấy! Đồ phong tình phóng đãng! Vị gia trưởng cộc cằn! Nhà lập pháp bẩn thỉu! Tên bạo chúa khốn nạn! ông Diểu thấy nóng bừng người. Ông bỏ mũ và áo bông ra dặt dưới lùm cây. Ông để cả nắm cơm xuống đất. Ông từ từ dịch chuyển sang chỗ đất trũng thấp hơn. Ông nhìn kỹ và thấy con khỉ canh gác là con khỉ cái. Thế là thuận lợi rồi. Bởi giống cái bao giờ cũng dễ phân tâm. Đấy, thấy chưa? Đang canh gác mà đi bắt rận ở người thì còn gì nữa? Với giống cái thì thân thể mình là quan trọng nhất. Điều ấy thật giản dị và đẹp. Nhưng điều ấy lại đầy xót xa...

Ông Diểu tính toán rồi luồn theo hướng ngược gió với con khỉ cái canh gác. Phải tiếp cận đàn khỉ đến hai chục mét thì mới bắn được. Ông bò nhanh và rất khéo léo. Xác định được con mồi rồi là ông chắc chắn thành công. Thiên nhiên đã. dành cho ông chứ không ai khác chính con khỉ ấy. Thậm chí ông biết dù ông có đi mạnh chân một chút, gây nên một sự bất cẩn nhố nhăng nào đó cũng chẳng hề gì Điều ấy tưởng như phi lý mà thật bình thường. Tuy nghĩ vậy nhưng mà ông Diểu vẫn cứ tiếp cận đàn khỉ một cách thận trọng. Ông biết thiên nhiên đầy rẫy bất ngờ. Thận trọng chẳng bao giờ thừa. Ông Diểu tỳ súng vào một chạc cây. Cái bộ ba trong gia đình khỉ không hề biết rằng tai họa đến gần. Con khỉ bố vắt vẻo trên cây bứt quả ném xuống dưới đất cho hai mẹ con. Trước khi ném, bao. giờ nó cũng chọn quả ngon chén trước. Hành động ấy thật là đê tiện. Ông Diểu bóp cò. Tiếng súng dữ dội đến nỗi đàn khỉ lặng đi dễ đến một phút. Con khỉ đực buông tay ngã nhào xuống đất nặng nề. Sự hỗn loạn của cả đàn khỉ khiến cho ông Diểu sợ hãi run lên. Ông vừa làm điều ác. Chân tay ông rủn ra, giống cảm giác như người vừa mới làm xong việc nặng. Đàn khỉ thoắt biến vào rừng. Con khỉ mẹ và con khỉ con cũng chạy theo đàn. Được một đoạn, con khỉ mẹ bỗng quay trở lại. Con khỉ đực bị đạn vào vai, nó gượng dậy, nhưng lại vật xuống.

Con khỉ cái tiến đến gần con khỉ đực một cách thận trọng, nó nhìn ngó xung quanh. Sự im lặng này thật đáng ngờ. Nhưng rồi con khỉ đực cất tiếng gọi nó, tiếng gọi buồn thảm đau đớn. Nó dừng lại lắng nghe với vẻ khiếp sợ hoảng loạn.

- Chạy đi!

Ông Diểu rên lên khe khẽ. Nhưng con khỉ cái tuồng như muốn liều thí mạng, nó đến gần nâng con khỉ đực nhỏm lên.

Ông Diểu tức giận giương súng. Hành động hy sinh thân mình của con khỉ cái làm ông căm ghét.

Đồ gian dối, mày chứng minh tấm lòng cao thượng hệt như một bà trưởng giả! Sự tan rã đạo đức bắt đầu từ những tấn kịch thế này, lừa ông sao được? Khi ông Diểu chuẩn bị bóp cò thì con khỉ cái quay lại nhìn ông. Đôi mắt nó sợ hãi kinh hoàng. Nó vứt phịch con khỉ đực xuống đất rồi chạy biến đi ông Diểu thở phào rồi khẽ bật cười. Ông nhô hẳn người ra khỏi chỗ nấp.

- Sai lầm rồi!

Ông Diểu rủa thầm vì ông vừa bước ra thì con khỉ cái quay lại tức thì. "Nó biết mình là người thì thôi hỏng việc! " Y như rằng, con khỉ cái vừa lén nhìn ông vừa lao đến chỗ con khỉ đực. Nó ghì lấy con khỉ đực vào lòng rất nhanh và khéo. Cả hai lăn tròn trên đất. Bây giờ thì con khỉ cái chắc chắn sẽ điên cuồng như một mụ ngốc. Nó sẽ cuồng nhiệt hy sinh bởi lòng cao thượng của nó sẽ được thiên nhiên tính điểm. Ông đã lộ mặt là tên ám sát! Dù chết nó vẫn nhe răng để cười. Bất luận thế nào ông cũng sẽ đau đớn, sẽ thao thức, thậm chí ông sẽ chết sớm hai năm nếu ông bắn nó lúc này. Tất cả chỉ vì ra khỏi chỗ nấp sớm mất hai phút.

- Thôi Diểu ơi... - ông buồn bã nghĩ, - với đôi chân thấp khớp thế này thì làm sao mày chạy nhanh bằng lòng tận tụy, thủy chung của khỉ? Như trêu ngươi, hai con khỉ vừa chạy vừa dìu lấy nhau, con khỉ cái thỉnh thoảng lại huơ huơ đôi chân vòng kiềng trông vừa tức cười lại vừa đểu cáng. Ông Diểu bực mình lấy đà ném mạnh khẩu súng văng về phía trước. Ông mong muốn con vật hoảng sợ buông mồi.

Từ mô đá, bỗng nhiên con khỉ con xuất hiện. Nó túm lấy dây súng của ông kéo lê trên đất. Ba con khỉ vừa bò vừa chạy cuống cuồng. ôn g Diểu ngớ ra một lát rồi phá lên cười: tình thế của ông thật là lố bịch!

Nhặt đất đá ném theo lũ khỉ, ông Diểu vừa đuổi vừa la. Lũ khỉ hết sức kinh hoàng, hai con chạy về phía núi, còn con khỉ nhỏ chạy về phía vực. “Mất súng thì hỏng". Ông Diểu nghĩ thế và đuổi theo con khỉ nhỏ. Khoảng cách rút ngắn đến mức nếu không vì mắc nền đá lởm chởm, ông lao nhoài ra là tóm ngay được khẩu súng.

Việc ông Diểu dồn con khỉ nhỏ đến bờ miệng vực đưa đến hậu quả khôn lường. Giữ chặt dây súng, nó lăn xuống miệng vực không chút chần chừ. Vì ít kinh nghiệm, nó không tìm ra giải pháp nào khác trong trường hợp ấy.

Ông Diểu tái mặt, mồ hôi toát ra như tắm. Ông đứng trên miệng vực nhìn xuống rùng mình. Từ dưới sâu hun hút vang lên tiếng rú thê thảm của con khỉ nhỏ. Trong ký ức của ông chưa hề có tiếng rú nào tương tự thế này. Ông Diểu lùi lại kinh hoàng. Từ dưới miệng vực, sương mù dâng lên cuồn cuộn, trông vừa kinh dị, vừa đầy tử khí. Sương mù len vào từng chân bụi cây và xóa rất nhanh cảnh vật. Ông Diểu chạy lùi trở lại. Phải lâu lắm, có lẽ từ thời thơ ấu, ông Diểu mới lại có lần chạy như ma đuổi thế này.

Đến chân núi đá, ông Diểu kiệt sức. Ông ngồi phệt xuống nhìn về phía vực. Bây giờ sương mù đã trùm kín nó. Ông sực nhớ ra đây là khu vực đáng sợ nhất trong thung lũng, khu vực mà cánh thợ săn đặt tên cho là Hõm Chết. ở hõm sâu này, gần như đều đặn, năm nào cũng có người bị sương mù giăng bẫy làm cho toi mạng. “Hay là ma? - ông Diểu nghĩ. - Cô hồn của những bà cô ông mãnh thường biến thành hình kìlỉ trăng?" Con khỉ này màu trắng. Nó đoạt súng của ông bất thường đến nỗi ông cũng ngờ vực là sao sự thực có thể giản đơn như vậy? - "Ta có mê không? - ông Diểu nhìn quanh. - Tất cả như trong mộng mị?" - ông đứng dậy nhìn lên vách núi bàng hoàng. Phía núi đá ngược chiều Hõm Chết, bầu trời quang đãng không hề vướng gơn sương mù, tất cả cảnh vật lộ rõ từng đường nét.

Có tiếng kêu thảng thốt. Ông Diểu trông lên thì bỗng thấy con khỉ đực bị thương nằm vắt ở trên mỏm đá. Không thấy con khỉ cái. Ông mừng quá tìm hướng leo lên. Núi đá dốc và trơn. Leo lên nguy hiểm và vất vả lắm. Ông Diểu lượng sức: "Nhưng dù thế nào thì ta cũng phải tóm được chú mày"! Ông Diểu bình tĩnh bám vào các khe đá nứt leo lên. Được khoảng chục mét, ông Diểu thấy nóng bừng người. Lựa chỗ đứng thuận tiện, ông cởi bỏ giày và quần áo ngoài để lên một chạc cây duối. Trên mình mỗi chiếc quần lót, ông thấy thoải mái. Ông leo thoăn thoắt và càng không ngờ sức mình có thể nhanh nhẹn dẻo dai đến thế. Con khỉ đực bị thương nằm trên ngọn đá phẳng lì và khá chông chênh. Dưới phiến đá, một khe nứt rộng đến gang tay tách nó ra khỏi vách núi. Ông Diểu rùng mình, cảm tưởng như bất cứ lúc nào tảng đá cũng có thể lăvl nhào khỏi vị trí ấy làm ông kinh hãi. Thiên nhiên oái oăm lại muốn thử thách thêm lòng dũng cảm của ông sao đó. Ông Diểu lấy hai cùi tay làm tựa để co người lên. Con khỉ tuyệt đẹp, lông mịn và vàng. Nó nằm sấp mình, hai tay cào trên phiến đá như muốn tìm cách nhích lên. Máu đỏ bết bên vai nó. Ông Diểu đặt tay lên mình con khỉ và thấy nó nóng hầm hập. "Dễ đến hơn yến... " ông Diểu luồn tay xuống dưới ngực con khỉ nâng lên ước lượng.

Từ trong ngực nó phát ra tiếng "hừm" nho nhỏ nghe rất đáng sợ, tựa như thần Chết bực mình cáu kỉnh vì sự can thiệp của ông với nó. Ông Diêu rút phắt tay lại. Con khỉ run bắn, nó đưa đôi mắt đờ dại nhìn ông cầu khẩn. Ông Diểu bỗng thấy thương hại. Viên đạn phá vỡ bả vai của nó, làm trồi ra hẳn đoạn xương dài đến bốn phân. Mối khi đoạn xương va chạm, con khỉ quằn quại trông rất đau lòng.

- "Để thế không ổn! " - ông Diểu vơ lấy một nắm cỏ Lào vò nát~ ông cho vào miệng nhai kỹ. Ông đắp nắm lá vào miệng vết thương con khỉ. Nắm lá sẽ có tác dụng cầm máu cho nó. Con khỉ co rúm người lại và nghiêng đôi mắt ươn ướt nhìn ông. Ông Diểu tránh nhìn vào đôi mắt nó. Một lát, con khỉ rúc hẳn vào hai lòng tay ông Diểu. Miệng nó phát ra âm thanh lắp bàp nghe như tiếng của trẻ con. Ông biết nó đang van xin và tìm một sự giúp rập. Ông rất khó chịu. "Thà mày chống cự thì tốt cho tao, - ông Diểu nhìn vào cái đầu ngoan ngoãn của con khỉ nhỏ cau mày. - Mình đâm già rồi... Nó biết người già thì dễ mủi lòng. Bây giờ tao biết lấy gì băng bó cho mày hở khỉ?" Ông Diểu suy nghĩ. Ông đành cởi chiếc quần lót đang mặc. Ông dùng chiếc quần lót ấy để băng vết thương cho nó. Vết thương cầm máu, con khỉ không còn rên nữa.

Cứ thế trần truồng, ông Diểu vừa bế vừa đỡ con khỉ tìm đường tụt xuống chân núi. Thoắt nhiên, đất đá từ lưng chừng núi sụt xuống rào rào như có sức mạnh nào đấy xô đẩy.

Núi lở!

Ông Diểu thót mình và bám thật chặt vào tảng đá kinh hãi. Đoạn đường mà ông leo lên lúc nãy loáng cái chỉ còn một vết chém thẳng phẳng lì. Ông Diểu không còn thấy cây duối để quần và giày đâu nữa. Đi xuống đường ấy bây giờ thật nguy hiểm. Đành phải vòng ra sau núi. Xa hơn nhưng lại an toàn.

Ông Diểu lần mò đến hơn hai tiếng đồng hồ mới xuống được đến chân núi. Thật chưa bao giờ ông lại vất vả và mệt đến thế. Người ông đầy vết xây xát. Con khỉ sống không ra sống, chết không ra chết. Kéo nó trên đất thì quá đau lòng, mà bế ẵm nó trên tay thì không đủ sức. Đến chỗ lùm cây leo nấp chờ ban sáng, ông Diểu dừng lại để tìm mũ áo và nắm xôi nếp. ở đáy đùn lên một đống mối to gần bằng cây rạ. Đống mối nhớp nháp một thứ đất mới đỏ au, trên đấy đầy những cánh mối ướt rụi. Khốn nạn, dây vào tổ mối thì những đồ vật của ông thành cám! Thở dài thất vọng, ông Diểu quay lại bế con khỉ lên.

"Chẳng lẽ lại cứ nồng nỗng thế này về nhà thì thật khả ố - ông Diểu bực mình. - Mình sẽ thành một trò cười cho thiên hạ mất... " ông cứ vừa đi vừa nghĩ và đâm loanh quanh một lúc mới nhận ra con đường. "Thì đã sao nào - ông bỗng bật cười. - Hỏi ai bắn được con khỉ thế này? Phải yến rưỡi thịt... Lông vàng như nhuộm... Bắn được con vật như thế này thì dẫu mảnh giáp không còn cũng đáng! Có tiếng động khẽ đằng sau. Ông Diểu giật mình quay lại và nhận ra con khỉ cái. Thấy ông, nó thoắt biến vào bụi rậm. Hóa ra con khỉ cái theo ông từ khi ông ở trên núi mà ông không biết. Ông thấy là lạ. Đi được một quãng, ông Diểu quay lại thì vẫn thấy nó lẽo đẽo đằng sau. Thật khốn nạn quá! ông Diểu đặt con khỉ đực xuống đất rồi nhặt đất đá đuổi con khỉ cái. Nó kêu the thé rồi chạy biến đi. Chỉ được một lúc, ông Diểu ngó lại thì vẫn thấy nó lẵn g nhẵng bám theo. Cái bộ ba ấy cứ thế lầm lũi xuyên rừng. Con khỉ cái cũng thật kiên trì. Ông Diêu bỗng thấy bị xúc phạm ghê gớm. Tựa như ông bị theo dõi, bị đòi ăn vạ.

Bây giờ, cả con khỉ đực cũng đã nhận ra tín hiệu vẫy gọi của đồng loại nó. Nó cứ giãy giụa, nó làm cho ông khổ vô cùng. Ông Diểu mệt lả, ông không còn sức giữ con khỉ nữa. Hai tay con khỉ cào trên ngực ông tóe máu. Cuối cùng, không thể chịu nổi, ông đành tức giận ném nó xuống đất. Con khỉ đực nằm dài trên vạt cỏ ướt. Ông Diểu buồn bã ngồi nhìn. Cách đó không xa, con khỉ cái cũng thập thò sau một gốe cây theo dõi.

Ông Diểu thấy buồn tê tái đến tận đáy lòng. Ông nhìn cả hai con khỉ và thấy cay cay sống mũi. Hóa ra ở đời, trách nhiệm đè lên lưng mỗi sinh vật quả thật nặng nề. "Thôi tao phóng sinh cho mày! " - Ông Diểu ngồi yên một lát rồi bỗng đứng dậy nhổ bãi nước bọt xuống dưới chân mình. Lưỡng lự giáy phút rồi ông vội vã bỏ đi. Hình như chỉ chờ có thế, con khỉ cái vọt ngay ra khỏi chỗ nấp, chạy vội đến chỗ con khỉ đực nằm.

Ông Diểu rẽ sang một lối đi khác. Ông muốn tránh sẽ gặp người. Lối này đầy những bụi gai ngáng đường nhưng hoa tử huyền nhiều không kể xiết. Ông Diểu dừng lại sững sờ. Loài hoa tử huyền cứ ba chục năm mới nở một lần. Người nào gặp hoa tử huyền sẽ gặp may màn. Hoa này mà u trắng, vị mặn, bé bằng đầu tăm, người ta vẫn gọi hoa này là muối của rừng. Khi rừng kết muối, đấy là điềm báo đất nước thanh bình, mùa màng phong túc.

Ra khỏi thung lũng, ông Diểu đi xuống cánh đồng. Mưa xuân dịu dàng nhưng rất mau hạt. Ông cứ trần truồng như thế, cô đơn như thế mà đi. Chỉ một lát sau, bóng ông nhòa vào màn mưa.

Chỉ ít ngày nữa sang tiếf Lập hạ. Trời sẽ ấm dần

Trúng Số

Tác giả: Phan Thanh Nhã

,

Nhà thuê. Nằm sâu trong một con hẻm nhỏ nghèo nàn và bẩn thỉu với đủ loại thành phần xã hội. Ngày hai buổi rác rến từ khắp nơi đổ về ngập ngụa cả một con rạch đen ngòm vốn đã bị ô nhiễm từ lâu. Không khí lúc nào cũng nặng nề vì mùi hôi và nhữgn khuôn mặt chẳng lấy gì làm vui vẻ, cởi mở của những cư dân ở nơi đây.

Nó và nhỏ bạn thuê một căn phòng khoảng chừng mười thước vuông có lối đi riêng và tự nấu nướng. Khá tự do nhưng cũng không kém phần phức tạp vì ồn ào và nhiều người qua lại. Nó thì không quen với sự ồn ào, nhất là trong những lúc học tập. Mấy lần, nó đòi chuyển nhà đi nhưng nhỏ bạn nó khuyên mãi. Túi tiền của tụi nó không đủ để tìm một chỗ như ý muốn giữa đất Sài Gòn này. Nó không giống như ở Ðà Lạt, tất cả đều phải chung chạ, không có cái gì là của riêng mình. Ðành vậy, nó phải tập cho quen chứ sao?!

Cạnh nhà nó ở là một “ổ đề”. Tuần nào xem tivi nó cũng thấy người ta kêu gào dẹp bỏ cái tệ nạn này đi nhưng cái ổ cạnh nhà nó vẫn ngang nlhiên tồn tại. Ngày ngày, từ sáng tới chiều lúc nào cũng có người ra người vào, tấp nập nhất là lúc xế trưa mọi người ùn ùn képo tới ghi đề và lúc chiều tối, mọi người xúm xít bên chiếc bàn ghi kết quả trúng để dò đề và lãnh tiền trúng nếu có. Không khí những lúc ấy như sôi lên vì giành giật, chen lấn... Căn phòng nó ở sát bên cạnh, tràn ngập những tiếng xuýt xoa tiếc rẻ xen lẫn những câu chửi thề tục tĩu. Những cảnh ấy vẫn cứ tiếp diễn mỗi ngày, nó và nhỏ bạn dù không cố ý nhưng vẫn thuộc như nằm lòng những con số những con vật, những sự kiện gắn liền với nhau như là định mệnh (!) và chứng kiến biết bao nhiêu là chuyện nực cười...

Bà Ba bán cà phê dạo một hôm nào đó trước khhi biên đề bỗng thiết lộ cho mọi người một câu chuyện: “Mấy người biết không, hôm qua nằm mơ tui thấy con phốc đó!” Ðám đông xung quanh lao xao: “Con phốc nào? Mà làm sao...?”. “Thì con chó phốc Nhật Bản của tui đó (!). Nó chết ba năm nay rồi nhưng hôm qua nó về, giống như là báo mộng cho tui vậy!... Tui nhớ rõ ràng nó liếm tay tui ba cái...”. Ðó là lý do tại sao bà quyết định đánh con số 351, một con số đem lại cho bà ta nhiều hy vọng?

Còn ông Bính chạy xe ôm thì đánh số 239 và 279. Ông cho biết hôm qua ông vừa nằm mơ thấy người anh của ông ở bên Mỹ về cho ông ta một nắm tiền. Ông giải thích một cách rất... logic: “Người cho tiền tức là thần tài vì chỉ có thần tai mới đem lại cho ta tài lộc. Thần tài có hai số 39 và 79, ông anh của tui thứ hai cho nên tui đem ghép vào...”

Thú vị hơn, bà Sung bán bánh tét, bánh bò thì lại đánh con số 432. Bà giơ cái chân bó băng trắng toát có loang vài vết máu như một bằng chứng hùng hồn: “Ðây nè, sáng nay mới đẩy cái xe ra đường thì bị hai thằng cô hồn đâm xe một cú chí mạng, đau thấy cả mấy chục ông trời. Tụi nó đưa về nhà thương làm thuốc hết cả trăm ngàn đồng! Con số này là c’ai số xe cuả hai thằng quỷ đó! Bữa nay coi như là hết bán hết buôn gì được. Ðánh đậm một cú coi có gỡ gạc được gì hay không?”

Ngày nào cũng vậy, cái lỗ tai của nó cũng nhét đầy những thông tin về đề đóm, thông tin nào cũng xuất phát từ những giấc mơ, những sự kiện đại loại như quẹt xe, chó cắn hay “con nhỏ mặc cái áo có số... nó là người tui thấy đầu tiên kể từ khi bước ra khỏi nhà”... Nhưng xem ra thông tin nào cũng sốt dẻo cả. Mới nghe thì cảm thấy có vẻ buồn cười, nghe mãi rồi thấy nhàm nhưng không thể nào quen được. Mà làm sao quen với những cái điều hết sức vô lý ấy được?

Nó cảm thấy vô cùng bực mình vì cái sự ồn ào ấy không ngày nào láang dịu xuống được. Những khi muốn tập trung vào bài học nó phải như căng người hế sức ra để mà chịu đựng. Nó bỗng trở nên khó tánh: cau có và bực bội. Nhiều lúc trong đầu nó manh nha cái ý định điểm chỉ cho công an đến hốt sạch cái ổ đề ấy đi nhưng trong lòng nó lại thấy sợ bị trả thù, hơn nữa lương tâm nó cắn rứt vì nhgĩ làm như thế là phá hỏng chuyện làm ăn của người ta. Nhưng nó lại thấy bực mình, thấy ghét... Nó tự nhủ với mình nghèo khổ đến đâu nó cùng không cầu may vào chuyện đề đóm này!

Rồi một hôm, nó bỗng nằm mơ. Cái bếp dầu của nó không dưng mà bốc lửa ngùn ngụt. Nó hoảng sợ, kêu váng lên, vừa kêu vừa chạy đi xách nước để dập tắt đám cháy... Nhỏ bạn cũng phụ nó một tay nhưng chẳng ăn nhằm gì. Lửa cháy mỗi lúc một lớn, cháy bén cả vào đôi dép mà nó đang mang. Nó sợ quá, kêu thét lên và bừng tỉnh. Sáng dậy, nó kể lại cho nhỏ bạn và chị chủ nhà nghe. Nhỏ bạn nó chỉ cười không nói gì nhưng chị chủ nhà thì khuyên nó nên đi... đánh đề. Ðánh số 27 và 67. Chị bảo nằm mơ thấy lửa cháy là hên, là linh lắm (!) hoặc là sắp sửa trúng số hoặc là có một giấc mơ nào đó của mình sắp trở thành sự thật. Nó nghĩ thật là nhảm nhí nên cười cười cho qua chuyện.

Chiều hôm đó, kết quả co 27 ở đầu. Mọi lần thì nó chẳng quan tâm nhưng lần này nó cảm thấy có một cảm giác như là hụt hẫng, tiếc rẻ. Rồi nó tự an ủi mình: Chắc chỉ là tình cờ thôi.

Rồi nó cũng nhanh chóng quên chuyện đó. Sắp thi, nó lao đầu vào học, học như điên nhưng kết quả cuối cùng không làm nó vừa lòng, cả nhỏ bạn của nó cũng vậy. Vấn đề gian lận trong thi cử thì ở cấp nào cũng luông là vấn đề nhức nhối nhưng lên Ðại Học nó mới thấy được cái bản chất hiện tượng đó là như thế nào... Rõ ràng, nó không đơn thuần chỉ là vấn đề quay cóp, người ta mua bán, trao đổi với nhau một cách sòng phẳng và trắng trợn... Nó cảm thấy bất mãn và buồn.

Những ngày cuối tháng, tiền, gạo cũng “cạn kiệt” dần. Cả hai đứa đều lỡ mất suất học bổng nên chẳng còn hy vọng gì. Ðã đến lúc cả hai đứa phải ăn cơm với nước mắm kho và sắp tới sẽ không còn cơm để mà ăn nếu như gia đình không gửi tiền xuống kịp. Chiều hai đứa cúp học Anh văn ở nhà ngủ, mà có phải bảo nằm là ngủ được đâu. Chỉ thấy chán hơn.

Nó lại nằm mơ, vẫn giấc mơ cũ nhưng cái bếp không còn dầu mà cháy rõ ràng là một chuyện không bình thường... Nó ước mơ nhiều, nhiều lắm. Nó ước mau sớm kết thúc bốn năm Ðại học để ra đi làm kiếm tiền phụ giúp gia đình, ước mơ có thật nhiều tiền để giải phẩu cho em nó suốt mười ba năm năy đã phải sống trong cảnh tật nguyền... Xa xôi lắm, liệu những mơ ước ấy của nó có trở thành hiện thực?... Bây giờ nó đang thiếu thốn, đang cần một số tiền nhỏ để xoay xở cho qua ngày. Ðầu óc nó rối tung lên vì thực hiện biết bao nhiêu là phép tính. Nó nghĩ, hay là mình thử một phen? Nó chỉ sẽ đánh một con số 67, đầu đuôi chỉ mất ngàn rưỡi nhưng nếu trúng thì nó sẽ được đến bảy chục ngàn, còn không trúng thì thôi vậy. Một lần rồi sẽ không bao giờ nữa.

Và nó trúng thật. Con số 67 chễm chệ ở lô độc đắc. Nó cảm thấy bất ngờ thật sự nhưng không thấy vui. Một chút hổ thẹn vì cái lời hứa của mình và ý định điểm chỉ cho công an bỗng dưng lại hiện về trong đầu nó. Nếu như ngay lúc này công an ập đến trong khi nó đang chờ nhận tiền, không biết nó sẽ phản ứng như thế nào? Nó thấy lo. Thà không được trúng còn thấy thanh thản hơn vì nó biết chắc trong cuộc sống của nó khó khăn về tiền bạc không phải một lần duy nhất.

Thằng Tư Chuột

Tác giả: Đinh Lâm Thanh

, Tư sinh vào năm con chuột nên cha mẹ đặt tên Tý. Thân mình ốm và đen, chân đi khập khiễng, lưng hơi khòm, mặt dài và nhọn, mấy chiếc răng cửa vểu ra ngoài với hai chòm râu bên mép trông giống như con chuột biết đi hai chân. Đã vậy, không biết kiếp trước có liên hệ gì với loài động vật nầy hay không mà Tư lại chọn nghề buôn chuột đồng…để suốt đời bị mang tên ‘thằng Chuột’ ! Nhưng Chuột sung sướng chấp nhận danh gọi nầy, cứ mỗi lần nghe ai nhắc nghề nghiệp, Tư thường tự hào về đặc sản chuột đồng do nó thu mua từ tỉnh đem về bỏ mối cho các quán nhậu ở Sàigòn.

Sinh ra và lớn lên tại xóm lao động trong khu vực Cầu Muối, Tư Chuột theo học chữ vài ba năm vừa đủ làm bài tính cộng, trừ đơn giản và đọc lõm bõm được trang báo lá cải thì bỏ trường đi bụi đời. Cha làm nghề đạp xe xích-lô, mẹ đứng giao hàng sỉ rau cải trong chợ. Ông Bảy muốn Tư lớn lên chạy xe xích-lô máy nhưng mẹ nó thì ngược lại, bà khuyên Chuột cố gắng trở thành người xếp chợ thu tiền chỗ, công việc nhẹ nhàng mà có thể kiếm thêm lợi nhuận do bạn hàng hối lộ. Từ lúc bỏ học, Tư Chuột theo nhóm anh chị của khu vực Cầu Muối, nhờ có ít chữ trong đầu, biết qua vài bài tính nên được đàn anh phân công tác nhàn rỗi hơn những người khác. Công việc nhẹ nhàng như tính toán, xếp đặt công việc hằng ngày cho thuộc hạ trong nhóm theo lệnh của đại ca. Nhưng xui cho Chuột, một ngày kia gặp cảnh ‘trâu cột ghét trâu ăn’, Tư bị đuổi khỏi chức vụ ‘ngồi mát ăn bát vàng’, trở thành phu khuân vác sau khi lãnh một trận đòn hội chợ. Bị oan ức nhưng không thể giải thích khi Tư Chuột bị tố cáo ăn xén một số tiền của băng đảng. Nghe lời của một đàn em, đại ca bắt quả tang đúng số tiền thất thoát do ai đó đã nhét vào túi quần Tư. Chuột bỏ băng đảng về tỉnh sống với ông bà ngoại và đổi nghề bằng cách thu mua chuột đồng đem lên Sàigòn bỏ mối. Sau đó trở lại thủ đô, Tư chọn nghề nầy làm kế sinh nhai. Một công việc nhàn hạ và kiếm được khá tiền. Chỉ cần mỗi sáng chịu khó thức dậy sớm, Tư theo xe đò xuống tỉnh nhận hàng, chiều lại quay trở lại bỏ mối. Ông bà ngoại thu mua chuột và đóng sẵn vào hai thùng lớn bằng giây kẽm, mỗi thùng có lúc lên đến năm bảy chục con, Tư chỉ việc đưa lên Chợ Lớn cân ký giao cho các quán nhậu là xong việc trong ngày.

Bản tính hiền lành, chăm chỉ làm việc nhưng có thói quen, cứ đến chiều tối Tư Chuột thường ngồi đầu đường góc hẻm nhậu rượu trắng pha cồn cho đến khuya với đám bạn cùng xóm. Làm nghề thu mua chuột đồng từ dưới quê nhưng Tư chưa bao giờ thưởng thức loại đặc sản nầy. Múi me, trái cóc đến miếng cá khô đều có thể làm mồi cho vài ba chum đế. Đến lúc men rượu lộ ra mặt, tai ù, hoa mắt và đầu không còn kiểm soát được miệng lưỡi thì Chuột biết dừng lại kịp thời và lẳng lặng về ngủ để sáng hôm sau tiếp tục xuống Long An, Mỹ Tho nhận hàng về như thường lệ. Nghề buôn chuột đồng nghe không được êm tai nhưng đã đem lại một nguồn lợi đáng kể. Đến vụ mùa, chuột đồng ăn lúa, con nào cũng mập ú, lông vàng óng ả, cân nặng ít ra cũng gần nửa ký. Mỗi chuyến giao hàng sau khi trừ các khoảng phí tổn Tư cũng kiếm được bạc ngàn. Cuộc đời Tư thật sự lên hương là nhờ chuột, nhưng sau đó, phong trào nuôi mèo của nông dân và chiến dịch rải thuốc diệt chuột đã gây trở ngại trầm trọng đến nghề nghiệp của Tư !

Trong thời gian giao hàng cho các quán nhậu ở Chợ Lớn, Tư phải lòng Mão, một nữ nhân viên hãng bia 33, nhưng không phải nhà máy sản xuất bia mà là một xưởng nhỏ súc vỏ chai do một ông ba Tàu làm chủ. Ở đây chủ thu mua vỏ chai 33 từ các nhà hàng quán nhậu về rửa, súc và giao lại cho nhà máy theo hợp đồng. Một xưởng nhỏ nhưng nhân công cũng trên hai chục người. Hằng ngày Mão phải súc khoảng năm bảy trăm chai, sắp vào két gỗ và chất lên xe tải. Công việc có vẻ nặng nhưng cũng thoải mái, làm nhiều ăn nhiều làm ít ăn ít tính theo số lượng chai chất lên xe giao hàng.

Lúc đầu Mão không chú ý đến lời tỏ tình của Tư. Dưới mắt Mão, vóc dáng của người đàn ông đã lùn lại xấu mà còn làm nghề ‘lái chuột’ thì khó lòng chiếm được cảm tình cô nàng chứ đừng nói đến chuyện hôn nhân. Nhưng Tư vẫn áp dụng chiến thuật cố đấm ăn xôi của những anh chàng lì, bám hoài, nói riết để hy vọng có ngày Mão sẽ ngã lòng. Đúng vậy, chờ mãi vẫn không có ai ngoài Tư Chuột đến tỏ tình cầu hôn, sợ phải ở góa nên Mão đã áp dụng câu châm ngôn ‘Chồng xấu dễ dạy’, miễn cưỡng chấp thuận để ông bà Bảy đem cau trầu đến…

Mão mập, lớn người, so ra cao hơn Chuột gần một gang tay. Nhưng Tư thích mẫu người nầy và thường nói với bạn bè rằng nó khoái đàn bà cao lớn, có da có thịt, khi ôm thấy ‘phê’ hơn ôm con khô mắm… Nghe Chuột xin cưới vợ thì gia đình mừng, ông Bảy hy vọng nhờ tay một người đàn bà, may ra đủ bản lảnh để kềm con ông khỏi hư thân mất nết. Nhưng bà Bảy vừa nghe đến Mão thì đã nhảy đựng lên :

- Mầy gầy như con tép đứng ngang cổ người ta mà đi cưới một con trâu, không sợ nó đè bẹp ruột ra à ?

Tư cười hề hề :

- Có sao đâu má, trời lạnh ngủ ấm chứ sao !

- Mầy nói hay lắm, lấy gì nuôi nổi tấm thân bồ trượng con vợ mầy ?

- Má không biết, đàn bà con gái dù cao lớn mập mạp đến đâu cũng ăn như mèo !

Sực nhớ ra điều quan trọng, bà Bảy chợt hỏi :

- Thế, nó tuổi con gì ?

- Dạ chưa hỏi, nhưng tên Mão !

- Vậy thì chết mẹ mầy rồi ! Tên Mão là tuổi con mèo…mà mầy là chuột thì sống với nhau đâu được. Nó không ăn thịt thì cũng hành hạ mầy không còn manh giáp.

- Má đừng lầm, không ai ăn hiếp được thằng Chuột nầy được đâu !

Bà Bảy chúm chím cười :

- Ngon lắm ! Không ai ăn hiếp được mầy, nhưng lớn con mập mạp như vậy, ngày đêm nó ‘dần’ mầy cũng toe tua. Coi chừng sớm đi theo ông bà đó con.

- Để má xem rồi ai ‘dần’ ai ! Chưa đụng độ thì đâu biết tay nào gục trước !

Nói thì hay nhưng sau khi cưới xong về chung sống với Mão tại Chợ Lớn thì Chuột thật sự te tua. Ngoài công việc thu mua và giao hàng hằng ngày, về đến nhà Tư phải làm hết công việc như một người nội trợ giỏi. Từ giặt áo quần, đi chợ, nấu ăn rồi dọn sẵn lên bàn chờ Mão về. Tối đến Chuột còn bị Mão ‘dần’ đi ‘dần’ lại nhiều lần mới cho phép nằm yên ngủ. Nhưng Tư cảm thấy hạnh phúc đối với cuộc đời của một người đàn ông Trời bắt xấu mà kiếm được vợ đẹp lại đa tình nữa, dù có làm trâu ngựa kiếp nầy cũng cam lòng. Kết quả cuộc tình mặn nồng là một năm sau Mão cho ra đời đứa con trai đầu lòng. Gánh nặng lại bắt đầu đổ thêm xuồng đầu Tư trong lúc công việc làm ăn càng lúc sa sút.

Cũng vì nông dân nuôi mèo và kế hoạch rải thuốc, chuột biến mất khá nhiều. Số lượng thu mua của từng vụ lúa xuống thê thảm, ông ngoại Tư gửi con cháu đến các quận của tỉnh cũng không đủ nhu cầu cung cấp cho các nhà hàng quán nhậu. Vợ đi làm suốt ngày, những lúc rỗi rảnh Chuột thường đến các quán café bình dân tán dốc với bạn bè. Trong dịp nầy Tư gặp một người đứng tuổi thường

bám theo làm quen, đồng thời ngỏ lời giúp đở Chuột tìm một việc làm vững chắc hơn đi bỏ mối chuột đồng. Ông ta cho biết, vì thấy tội nghiệp hoàn cảnh của Tư Chuột nên động lòng trắc ẩn muốn giúp đở chứ không có mưu đồ cũng không ăn chận tiền đầu như những mối lái khác. Thật sự Tư muốn đổi nghề từ lâu, nhưng tiền của không có, chữ nghĩa chẳng ra gì, nếu xin việc mới thì cũng không gì hơn ngoài chuyện làm phu khuân vác ở chợ hay bến tàu.

Tư than thở :

- Cám ơn anh, nhưng tôi đâu đủ sức để lao động chân tay, như làm lục lộ cầu đường hay phu khuân vác ?

- Lầm rồi, tôi sẽ lo cho chú em những công việc ngon lành, đàng hoàng đâu phải làm những chuyện vớ vẩn như chú em nghĩ.

Tư Chuột hớn hở :

- Thế anh kiếm việc gì cho em ?

- Mà phải theo anh học tập một thời gian cho thành thạo trước khi ra nghề.

- Bao lâu vậy thưa anh ?

- Chừng hơn một tuần thôi. Trong thời gian đi học, chú em sẽ được cấp dưỡng tiền bạc để ở nhà cho gia đình. Công việc thì đã có sẵn, tôi giới thiệu giúp, nhận hay không là việc của chú em.

Tư Chuột chụp lấy cơ hội :

- Dạ, anh đã thương, chuyện ngàn năm một thuở làm sao em dám từ chối.

- Được chú em thu xếp với vợ con, chuẩn bị theo tôi một tuần.

- Dạ bao giờ lên đường ?

- Không lâu đâu.

Tối đến cơm nước xong, Tư bàn với vợ :

- Em à, lúc nầy bẫy chuột thật khó khăn vì nông dân phát động chương trình nuôi mèo và sở nông nghiệp đang cho phun thuốc chung quanh bờ ruộng. Hơn nữa, nhiều người cũng nhảy ra làm ăn theo đường nầy. Hàng đã khó thu mua mà giá sỉ bị cạnh tranh. Thật khó đeo đuổi việc bỏ mối chuột đồng. Anh định bàn với em là sẽ đổi nghề.

Mão hỏi nhanh :

- Nghề gì ?

- Anh phải theo học một nghề nào đó, không lý phải trở lại khuân vác tại chợ hay đi đào đường đặt cống. Nghề nào cũng khó khăn với anh, làm thế nào vác nổi vài ba chục ký lô hay suốt ngày tám tiếng dầm mưa giải nắng giữa đường !

- Vậy định học gì ? Lâu mau và lương bổng thế nào sau khi học xong ?

- Yên chí, anh được một người tốt bụng đở đầu, sắp xếp tất cả mọi chuyện cho gia đình.

Người đở đầu trao cho Chuột mười ngàn đồng xem như ứng tiền lộ phí để Tư lo cho gia đình trước khi theo ông ta. Đêm lên đường gồm có thêm mấy người nữa, nhưng sau khi tập trung ở Củ Chi, Chuột bị tách riêng và bắt đầu run khi được hai người trang bị súng hộ tống đi kèm theo. Tư lo sợ hỏi ân nhân :

- Thưa anh, đi…học sao lại vào rừng và…?

Người đàn ông cười, an ủi :

- Khóa học tổ chức đặc biệt trong rừng, chỉ một tuần sẽ xong và chú em sẽ trở về Sàigòn nhận việc.

- Sao lại học trong rừng ?

- Vấn đề an toàn !

Bây giời thì Tư Chuột hiểu mục đích của người đở đầu nhưng đã lỡ ngồi trên lưng cọp, đi giữa hai người trang bị súng, la lên không ai tiếp cứu, chạy thế nào cũng không thoát, chỉ còn nước giả vờ để tìm kế thoát thân. Nhưng khi vào đến mấy cái chòi nhỏ dưới lùm cây thì Chuột nhận ra đây chính là trường học chính trị của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mà Tư đã nghe qua một vài người bạn đã bị bắt vào đây. Nếu tỏ ra chống đối hay tìm cách bỏ trốn là tự tìm cái chết, chi bằng, nhắm mắt cho xong chương trình khóa học mà họ dành cho những thanh niên thiếu nữ đã nghe lời đường mật của các bộ nằm vùng, bị ép buộc vì một lý do nào đó hoặc bị Mặt Trận Giải Phóng bắt cóc đưa vào đây. Các bài học lý thuyết đều nên cao tinh thần yêu nước, bổn phận và trách nhiệm của thanh thiếu niên, phải đứng lên đánh đuổi đế quốc Mỹ và lật đổ chế độ Ngụy Quân-Ngụy Quyền để đem lại tự do hạnh phúc cho Miền Nam. Qua đến thực hành thì học cách chuyển vận và rải truyền đơn, bắn súng, liệng lựu đạn, gài mìn, đặt chất nổ…Trước khi được ra về, học viên phải thề trung thành với Mặt Trận Giải Phóng. Tổ chức trưng các bằng cớ như hình chụp, số tiền nhận trước để gài tất cả học viên trở thành kẻ có tội với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời để buộc thành phần trẻ nầy phải lệ thuộc và chịu sự chỉ huy của mạng lưới Việt Cộng nằm vùng.

Tư Chuột đặt câu hỏi với cán bộ giảng viên :

- Sau khi học xong, việc làm ăn sinh sống của chúng tôi, các anh bố trí như thế nào ?

Một người đội nón cối, mang súng lục trả lời thế giảng viên :

- Các anh sẽ được phân chia công tác, thời gian và nơi chốn sẽ do cán bộ giao liên truyền lệnh. Mỗi công tác sẽ được thưởng một số tiền.

Chuột vẫn thắc mắc :

- Thưa ông, người dẫn dắc tôi vào đây có hứa sẽ tìm công ăn việc làm đàng hoàng cho tôi, bây giờ xin ông cho biết.

Ông ta nghiêm nét mặt :

- Thì bây giờ Mặt Trận Giải Phóng cho các anh đi làm ‘cách mạng’ !

Thế là cuộc đời của Tư xem như xong, vô tình bị lọt vào bẫy, đưa tay nhận tiền của Mặt Trận và đã vào mật khu học tập chính trị để trở thành những tên khủng bố ! Chuột ân hận, đành ngậm đắng nuốt cay, không dám hé môi với cha mẹ cũng như vợ con, chỉ biết làm thêm kiếm tiền đưa về gia đình để khỏa lấp nguồn gốc công việc mới. Nhưng đâu yên với mấy người nằm vùng, vài ba hôm xuất hiện một nhân vật đến nhắc nhở bổn phận, nhiệm vụ và ứng trước một ít tiền cho công tác sắp đến.

Sứ mạng giao cho Tư thi hành được chính ân nhân ngày trước ra lệnh trực tiếp : Ném một khối chất TNT đã gài ngòi nổ vào giữa chợ Cầu Muối đúng 10 giờ sáng ngày 25 tháng 4 năm 1975. Nghe xong, Tư choáng váng mặt mày nhưng lệnh đã ban ra không thể không chấp hành. Như vậy, chính Chuột sẽ ra tay giết mẹ mình và hai bà dì ruột đang bán hàng chạy trong khu vực nầy. Nhưng nếu không thi hành, chắc chắn sẽ bị thủ tiêu vì đó là lệnh của cách mạng ! Suy nghĩ một đêm và Chuột nhất quyết không thể làm một việc độc ác vô nhân đạo, ném chất nổ vào chỗ đông người để giết hại biết bao mạng sống. Tuy nhiên trong cơn cấp bách, Chuột tỏ vẻ thuần phục nhận gói chất TNT, ngòi nổ và hai chục ngàn đồng bạc. Nhận để tránh cấp trên nghi ngờ, nhưng liền sau đó, Tư ghé tiệm thuốc tây mua một chai thuốc xổ. Đến sáng 25.4.1975, Tư uống một hơi hết chai thuốc. Hàng xóm phải chở Chuột vào bệnh viện cấp cứu và công tác đặc chất nổ xem như bị hoãn lại vì lý do kỹ thuật.

Nhưng sáng 30.4.1975, vừa nghe ông Dương Văn Minh ra lệnh cho toàn thể quân nhân các cấp phải buông súng đầu hàng vô điều kiện để ông trao chính quyền lại cho địch thì Tư là nười đầu tiên chụp lấy cơ hội kiếm công, tiên phong hô hào đồng bào ra đường đón tiếp đoàn quân Cách Mạng vào tiếp thu thành phố. Chuột giành lá cờ Xanh-Đỏ Sao Vàng và miếng vải đỏ trên tay của một người trong xóm, chạy ra đường Thống Nhất, phất cờ hoan hô đoàn quân chiến thắng. Cánh tay phải cột băng đỏ, tay trái cầm cờ, miệng hô các khẩu hiệu : ‘Hoan hô Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam’. Đoàn quân Cách mạng muôn năm. Đảng Cộng sản muôn năm, Hồ Chủ tịch vĩ đại muôn năm …Chiều trở về xóm lao động, Tư kêu gọi thanh niên thiếu nữ ra làm ‘cách mạng’, đứng lên tố cáo các thành phần chế độ cũ, thành phần địa chủ bóc lột và những tên ác ôn hút máu đồng bào. Chỉ trong vòng nửa ngày, Tư Chuột trở thành lãnh tụ lũ con nít còn mặc quần giây thun, đám bà già trầu và bọn đầu trâu mặt ngựa Cầu Muối. Đoàn quân cách mạng do Tư cầm đầu trang bị soong chảo, thùng thiếc, gậy gộc, tay đeo băng đỏ cầm cờ giải phóng, hùng hổ diễn hành trên các đường chính của Thủ đô.

Chuột được người ân nhân cũ thăm hỏi và khuyến khích tụ tập tất cả du đảng để giữ gìn an ninh cho thành phố, thi hành chỉ thị cấp trên, lùng bắt các quân cán chính ác ôn chế độ cũ đồng thời xúi giục dân lao động đứng lên tố giác những thành phần theo danh sách Cách mạng đưa xuống. Chuột tự cho rằng thời cơ đã đến với nó, một người đã được huấn luyện để trở thành anh hùng cứu nước, là người của Cách mạng, giờ đây là một nhân vật quan trọng của chế độ mới. Qua sáng hôm sau, mấy thằng du đảng khu Cầu Muối tự động tìm đến gặp Chuột gập đầu tuân phục. Tư sai một thằng đàn em kiếm chiếc nón cối, đôi dép râu và cái bị bằng vải kaki rồi ra lệnh tập họp những băng đảng từ các vùng Sàigòn-Chợ Lớn-Gia Định về họp bên hông tòa án trên đường Nguyễn Huệ. Trước mặt gần hai trăm đầu trâu mặt ngựa, Chuột vỗ ngực :

- Tao theo Cách mạng nằm vùng từ lâu và trong thời gian qua đã thi hành chỉ thị cấp trên, tiếp tay với Mặt Trận, với Đảng để hoàn thành nhiệm vụ cao cả là giải phóng Miền Nam nầy. Tao đã ra lệnh cho đàn em phá hoại, gây tổn thất cho Ngụy Quân Ngụy Quyền ngay tại thủ đô cũng như các vùng ngoại ô. Giờ đây tao là ‘Cách Mạng’, tao ra lệnh cho bọn bây đến đây để nhận chỉ thị.

Đám cô hồn các đẳng ngổ ngáo ngày trước, giờ đây trước mặt lãnh tụ mới đứa nào mặt mày cũng xanh như tàu lá. Một tên cúi đầu lễ phép :

- Kính thưa.. đại ca

Chuột nạt lớn tiếng :

- Tao không phải đại ca của tụi bây ! Tao là Cách Mạng, tao có bổn phận thi hành lệnh của chính quyền giữ gìn an ninh, truy lùng những tên phản động và hô hào dân lao động đứng lên tố cáo..

Một tên trùm ngày trước kính cẩn :

- Dạ thưa..tố cáo ai ạ ?

- Để tao đi họp với chính quyền rồi sẽ đưa cho bọn bây danh sách. Tao sẽ phân công cho bọn bây địa bàn hoạt động để khỏi dẫm chân lên nhau.

- Dạ, xin ‘Cách mạng’ phân chia rõ ràng địa bàn hoạt động không thì tranh nhau trước sau gì cũng đổ máu..

Tư vung tay lên :

- Đứa nào lộn xộn tao bắn bỏ tức khắc.

Cả đám đứng yên không dám có phản ứng. Chế độ cũ chưa giết một thằng du đảng nào nhưng ‘cách mạng’ đâu có tha, mạng người lương thiện còn rẻ hơn một con vật huống gì những tên du đảng như bọn chúng. Trước khi ra về, Tư Chuột ban hành lệnh thứ nhất :

- Tất cả hãy nghe ! Đây là lệnh của tao : Tất cả các cơ sở, công ty xí nghiệp, thương mại lớn nhỏ, công hay tư của chế độ cũ đều được cách mạng ta quản lý. Bây giờ anh em ta đang làm chủ. Bọn bây, tùy theo địa bàn hoạt động, đến các nơi nầy tiếp tay với cách mạng để trị an, quản lý và thanh lọc ngay thành phần ác ôn, đuổi chúng ra khỏi tổ chức, phối hợp với các cán bộ cách mạng cơ sở và chờ lệnh của tao !

Tối về đến nhà, vào phòng dựng Mão dậy, Chuột hớn hở :

- Ta đã làm chủ đất nước rồi !

Thấy vợ đang rầu vì công việc trong xưởng làm, Tư ngồi xuống mép giường :

- Lo gì nữa, công nhân sẽ làm chủ tất cả các nhà máy, cơ sơ sản xuất, thương mại…Chúng ta đã dành được từ tay của bọn bóc lột. Phải hồ hởi phấn khởi lên em !

Mão buồn rầu :

- Làm chủ đâu chưa thấy, chiều nay em có đến xưởng, một thằng làm vệ sinh hốt rác trong xưởng đứng lên kết tột chủ là tư sản mại bản, bóc lột sức lao động rồi đuổi ông ta ra đường, đồng thời tự bầu thành ban quản trị xưởng do chính thằng chó chết đó làm chủ tịch.

- Còn em thì sao ?

- Bọn chúng cũng tập trung em và các người thợ khác vào một phòng, xỉ vả một hồi rồi đưổi về đợi lệnh.

- Đ.m. bọn tép riu ! Để anh trị cho chúng nó một bài học.

Mão hứ một tiếng :

- Anh cũng chạy theo ăn có với bọn du đảng, có gì hơn chúng nó đâu ?

Chuột vỗ ngực :

- Anh là một nhà cách mạng đầy mình ! Bây giờ anh mới cho em hay, anh là người của cách mạng từ lâu nay. Bây giờ anh được cách mạng giao công tác lãnh đạo các ‘đoàn thể’ tại Sàigòn-Chợ Lớn để trị quốc an dân !

Mão nghi ngờ :

- Anh làm gì được mấy thằng trong xưởng của em ?

Chuột hăng tiết :

- Anh sẽ thẳng tay trừng trị bất cứ thằng nào dám xem thường em. Em là vợ của một nhà cách mạng mà !

Nhưng rồi Tư Chuột chẳng làm được gì. Chỉ một thời gian ngắn, Cộng sản thành lập vội vã ủy ban quân quản Sàigòn-Chợ Lớn và công an nhân dân được đưa khẩn cấp từ Hà Nội vào. Bọn ba mươi, nhất là thành phần du đảng, cướp bóc, tù tội chẳng những bị hất cẳng mà còn bị xếp vào loại phá rối trị an. Tư Chuột cũng không thoát khỏi trường hợp nầy. Bất mãn, Tư liệng ngay băng vải đỏ vào sọt rác và theo mấy tay bị thất sủng nhậu đế trắng từ góc đường nầy đến hẻm khác…Tư Chuột lúc nào cũng say, lảm nhảm suốt ngày…Đ.m. đồ khốn nạn, bịp bợm, láo khoét. Cách mạng tráo trở dụ ông dọn mâm để rồi cả giòng họ chúng bây kéo nhau vào hưởng !

Mão được trở lại làm việc, ban giám đốc bây giờ là bọn nằm vùng trước đây hoạt động bí mật trong phạm vi SàiGòn-ChợLớn. Công nhân giờ đây mang danh làm chủ nhưng phải đạt chỉ tiêu sản xuất hằng ngày, cấp chỉ huy đến trể về sớm, ăn nhậu và chỉ có một động tác duy nhất là ngồi chấm công ghi sổ. Việc làm của người thợ được chủ nhân lên gấp đôi mà tiền lương thì hạ xuống, đi ngược với tuyên truyền của một chế độ ưu việt ‘làm nhiều hưởng nhiều làm ít hưởng ít’!!!. Dù đang mang thai nhưng Mão phải đi làm để được nhà nước cấp phiếu hàng tuần mua bobo, bột mì và gạo mốc. Đến lúc bụng lớn, sắp đến ngày sanh đứa thứ hai, Mão làm đơn xin nghỉ đẻ nhưng không được nhà nước chấp thuận vì chưa đến thời kỳ ấn định theo luật của Xã Hội Chủ Nghĩa. Khi được cấp trên cho phép thì đúng lúc phải dùng xe cấp cứu chở ngay sản phụ vào xưởng đẻ. Mão bị băng huyết trầm trọng sau khi đưa được bào thai đã chết ra ngoài.

Mão phải bán chiếc nhẫn cưới và cầm luôn chiếc xe gắn máy của Tư để đủ tiền chi từ anh gác cổng, trà nước cho các người làm vệ sinh, nhân viên cung cấp mền chiếu, bông gòn, xà phòng, thau kéo, chỉ cột….đến các ông bà y tá và bác sĩ để được vào nhà thương đẻ con ! Sau khi đưa được bào thai ra, xưởng đẻ cho biết muốn cứu sống người mẹ thì phải chi tiền mua máu. Tư tình nguyện lấy máu mình truyền cho vợ nhưng bị nhân viên nơi đây, sau khi nhìn Chuột từ đầu xuống chân, từ chối thẳng thừng với nhiều lý do…vì loại máu không hạp nhau, vì máu có vi trùng bệnh…và buộc Tư phải đóng tiền trước tức khắc để được cứu chữa. Đang điên đầu chưa biết tính toán thế nào thì bọn cho vay của xưởng đẻ đề nghị giúp Tư đủ số tiền để cứu người vợ đang hấp hối với 10 phân lời mỗi ngày. Chuột chỉ làm nổi ba bài tính cộng-trừ-nhân, đâu đủ khả năng để hình dung tiền lời sinh ra sẽ cộng thêm vào tiền nợ từng ngày. Hơn nữa đang bận tâm lo mạng sống của Mão trong cơn hấp hối, Chuột gật đầu chấp nhận tất cả điều kiện của bọn ma giáo được xưởng đẻ che dù đở đầu để ăn chia. Nợ chồng chất mỗi ngày một lên cao, bọn côn đồ hăm dọa thanh toán, Tư phải kiếm một giải pháp để vừa trả nợ vừa tiếp tục nuôi vợ tại xưởng đẻ vì chưa thể đưa Mão về nhà trong tình trạng còn quá yếu. Chỉ còn một con đường để giúp Tư kiếm đưọc tiền : Bán máu cho nhà nước.

Mua máu của nhà nước thì giá cao tới mây xanh mà khi đem bán thì nhà nước lại trả rẻ như bèo. Mỗi ngày Tư phải đến để người ra rút ra một túi nylon 250 phân khối, nhưng làm thế nào cũng không đủ để trả cho số tiền lời đang chồng chất và những chi phí chính thức cũng như phụ trội và quà cáp cho nhân viên xưởng đẻ. Không được ăn uống đầy đủ, tẩm bổ không đúng mức, Chuột đã ngất xỉu tại chỗ sau khi bán tới nửa lít máu của mình. Khi tĩnh lại về nhà thì hay tin Mão đã từ trần. Xưởng đẻ yêu cầu Tư chuẩn bị tiền để thanh toán những khoảng còn thiếu mới được phép đem xác chết vợ về mai táng…

Chôn cất vợ xong và gởi đứa con đầu tại quê nhà, chuột trở lên Sàigòn bán đồ đạc và căn nhà của Mão để trả hết số trả nợ còn lại. Tư đau lòng nhìn lại tổ ấm một lần cuối trước khi ra đi, bỗng Chuột chợt thấy trên vách, hình của cha già lãnh tụ đang âu yếm mỉm cười nhìn mình. Chuột tiến đến gở xuống, phân trần :

- Xin tha lỗi, bấy lâu nay tôi vô tình không chú ý nên dán hình bác trên vách ván một cách thô sơ. Tôi thật đui mù và ngu muội nên đã phạm thượng đến bác. Bây giờ quá hối hận, đồng thời cũng đã sáng mắt, tôi sẽ đích thân ‘lộng kiếng’ hình bác và để vào một nơi thật xứng đáng với thành quả vĩ đại của việc Giải Phóng Miền Nam và Thống Nhất Đất Nước do bác lãnh đạo !

Bỏ hình bác xuống….giật nước xong, Tư ra bến xe đò mua vé về quê nội ở Thốt Nốt. Khi qua phà sông Hậu, bất thần nó nhảy xuống sông. Dù ít học và lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt, nhưng Chuột đã sớm sáng mắt trước cảnh thiên đường của Xã hội Chủ Nghĩa và Tư muốn mượn cái chết để chuộc những sai lầm của một đứa con bất hiếu với cha mẹ, của một người chồng, người cha thiếu trách nhiệm với vợ con.

Một vài khách trông thấy, hô lên :

- Có người nhảy sông tự tử !

Nhưng tất cả đều bình thản nhìn xuống và phà vẫn tiếp tục qua sông…

Miếng thịt

Tác giả: Đinh Lâm Thanh

Chương 1

Chương 1 ,

Mỗi lần vợ làm thịt heo, bà thường dùng con dao nhọn lẹ làng lóc hết toàn bộ mỡ cũng như da, tôi thấy miếng thịt chỉ còn lại một tí nạc nhưng không dám phản đối, chỉ nhẹ nhàng nhắc chừng rằng, lóc hết mỡ và da thì ăn chẳng còn mùi vị gì của miếng thịt. Bà nhìn tôi lắc đầu cằn nhằn, trong người đủ thứ bệnh mà lúc nào cũng đòi mỡ, thích mặn lại còn hảo ngọt nữa. Ăn ba cai thứ nầy vào cho nhiều rồi đổ bệnh nằm đó, ai lo?

Cứ đem mấy chứng bất trị như mỡ trong máu, huyết áp cao và tiểu đường của tôi ra hăm là bà thắng ngay. Tôi im lặng không còn lý gì để bảo vệ ý kiến của mình. Nhưng khi bà đi vắng một vài bữa, tôi ghé qua khu 13 Paris xách về một ký ba rọi, để nguyên da và mỡ, rửa sơ sài và luộc chín bằng một tí muối, xắt ra từng miếng nhỏ bằng nửa ngón tay cái rồi bày ra bàn, trịnh trọng ngậm từng miếng một vào miệng, nhai từ từ, không bia không rượu, cốt để nhớ lại mùi vị miếng thịt heo trong tù cải tạo của Cọng sản cách đây đúng ba chục năm. Nhưng đã nhiều lần tôi không thể tìm được hương vị cũ của ngày trước.

Thịt heo Tây bên nầy đã dở, khi làm bếp lại lóc hết các phần phụ thuộc, dù kho nấu cách nào cũng không tìm mùi vị như heo tại quê nhà. Thật vậy, ở bên nầy nuôi heo kỹ nghệ, tắm rửa hằng ngày, chích ngừa từ lúc mở mắt chào đời rồi phải khám nghiệm gắt gao trước khi đưa lên bàn mổ. Heo được nuôi ăn đúng tiêu chuẩn đầy đủ chất bổ nhưng miếng thịt vẫn không ngon bằng heo tại các vùng quê Việt Nam. Ở quê nhà, heo không cần chích ngừa khám nghiệm, đa số mổ lậu chẳng cần đóng dấu thú y. Thịt chỉ cần luộc với nước sông nước hồ gì cũng thơm một cách ngon lành. Mỗi lần về quê tôi cứ dặn người nhà mua cho được thịt heo nuôi theo lối cổ điển, nghĩa là nuôi chuồng, nước tiểu phân rác lúc nào cũng ngập lên tới bụng nhưng khi ăn miếng thịt luộc bao giờ cũng thơm ngon quyến rũ…

Đôi lúc bà con tại Việt Nam ngạc nhiên nhìn tôi ngậm thật lâu miếng thịt trong miệng, vừa nạc vừa xương vừa bầy nhầy mỡ, rồi trịnh trọng nhai từ từ như để thưởng thức món cao lương mỹ vị tưỏng như suốt đời chưa bao giờ biết tới. Người anh họ hỏi nguyên nhân, tôi chỉ trả lời vắn tắt rằng, thịt heo ta ngon hơn thịt của Tây rất nhiều. Nhưng là tây ta gì đi nữa, heo nuôi theo lối cổ điển hay kỹ nghệ tân tiến thì vẫn thua miếng thịt mỡ trong trại tù cải tạo, đã trên ba mươi năm tôi vẫn nhớ rõ ràng, vừa béo vừa thơm và ngon một cách lạ lùng không sách vở nào diễn tả nổi.

***

Trong khoảng gần ba tháng tập trung tại Trảng Lớn, mỗi ngày tù được phát  hai nắm cơm gạo mốc trộn bobo ăn với muối bọt. Dù chưa lao động đúng mức nhưng người nào mắt cũng lờ đờ, tay chân bủn rủn, bụng thóp lại, người xuống cân trầm trọng. Lúc khăn gói lên đường trình diện đi học tôi cân bảy chục ký, bây giờ không biết còn lại chính xác bao nhiêu nhưng bộ mặt hốc hác, hai gó má nhô lên như chiếc sọ người, tay chân nhô gân xanh và bộ sườn hiện ra rõ từng chiếc xương, rất tốt cho việc dạy môn cơ thể học cho các em học sinh. Các chất dinh dưỡng cần thiết cần thiết đã rủ nhau ra đi không thương tiếc cho tấm thân tù tội của tôi. Nhớ lại những bữa ăn thịnh soạn thừa mứa ngày trước, bây giờ chỉ có nắm bobo với muối ngày nầy qua ngày khác, tôi cứ tiếc rẻ hoài. Đầu óc tôi lúc nào cũng nghĩ đến cục đường, miếng cá hay tí thịt… tự nhiên nước miếng cứ liên tục chảy ra đầy miệng. Nhiều lúc thấy xấu hổ, không ngờ mình đã thèm ăn đến độ phải nuốt nước bọt liên hồi.

Lúc dời xuống Long Khánh, tiểu đoàn tù gồm có 4 khối, trên một ngàn người chen chúc nhau trong tám dãy nhà tôn của tiểu đoàn 18 quân y cũ. Toàn bộ khu trại chỉ có một cái giếng cạn, sâu chừng trên mười thước, mỗi lần kéo lên được vài chục lít nước phèn đỏ như máu trộn lẫn với rác rến, lá cây và xác chuột chết, nhưng tù không được dùng theo lệnh quản giáo, chỉ được phép để nấu cơm và nước uống.

Cũng nhờ vùng Long Khánh đang ở vào mùa mưa, lâu lâu trời ban cho một trận để tù cải tạo có cơ hội tắm và hứng nước uống. Mỗi lần mưa rào trút xuống, tất cả đều nhào ra sân, thân mình trần truồng như nhộng, râu tóc bù xù, mặt ngửa lên trời há miệng hứng nước vừa uống vừa súc miệng. Đánh răng và tắm rất tân tiến theo kiểu bộ đội, một tay đút ngón trỏ vào chà hai hàm răng thế bàn chải, một tay tranh thủ kỳ cọ liên tục từ trước ngực ra sau lưng rồi từ trên xuống dưới vì cơn mưa thường ngừng bất chợt. Cả ngàn con người tồng ngồng chen lấn trên khoảng trống bằng sáu sân đánh bóng chuyền, như một bầy vượn, hò hét vui mừng nhảy múa khi gặp nước sau một thời gian dài chịu đựng hôi hám ngứa ngáy và nóng bức.

Doanh trại nằm trong khu vực gần như không có cây cối, Khối tù tôi khoảng chừng hai trăm chen chúc nhau trong hai dãy nhà nằm sát một hàng rào bằng cây dâm bụt. Phía bên tay trái một khu đất trống, sau lưng, một kho đạn thật lớn của một đơn vị trực nào đó thuộc sư đoàn 18 bộ binh để lại. Đứng trong cửa sổ phòng giam có thể nhìn thấy nhiều loại đạn súng cối, M72, các thùng đạn đại liên và lựu đạn còn vất bừa bải chung quanh ụ đất gồm nhiều cành cây khô và cỏ chết. Hai ngày sau khi chúng tôi đến, một vệ binh có nhiệm vụ gác, túc trực ngày đêm phía sau căn nhà tù để canh chừng chúng tôi nhảy rào đồng thời bảo vệ an toàn cho kho đạn. Không biết mấy chú ngố nầy đêm làm gì mà ngày tôi thấy chúng thường dựa gốc cây mít ngủ, hết ngủ lại ôm điếu thuốc lào kéo liên tục. Tôi cứ phập phồng lo sợ tai nạn thế nào cũng xảy ra vì bọn ngu nầy, mỗi lần kéo xong hơi thuốc chúng vứt bừa bãi đóm xuống chân trong lúc chung quanh kho đạn một số cành cây gẫy nằm ngổn ngang với lá khô lẫn lộn với đám cỏ chết, chạy dài từ sau lưng phòng giam chúng tôi đến tận ụ đất.

Với gần một ngàn tù cải tạo của bốn khối, mặc dù không được ăn uống gì nhiều nhưng vấn đề vệ sinh bắt buộc phải tuân theo thói quen tự nhiên, sắp hàng đi cầu mỗi sáng. Một dãy nhà cầu công cọng được lệnh dựng lên cho trại. Kiến trúc rập theo khuôn mẫu hiện đại tiên tiến của miền Bắc: Không mái, không vách che hai bên cũng như sau và trước! Gồm hai chục hố sâu chừng 100 cm, dài 60 cm và rộng 50 cm nằm kế cận, cách nhau chừng 40 cm. Ở trên bắc ngang hai thanh cây nhỏ, phía sau mỗi hố được khoét rộng thêm, vừa đủ cho một người có thể chui xuống hốt phân hằng ngày. Mỗi buổi sáng sắp hàng làm phận sự, dù đang trong cảnh tù tội nhưng tất cả không thể nhịn cười khi nhìn cảnh vượn thành phố đi đại tiện tập thể. Bốn chục người làm nhiệm vụ một lượt trên hai chục miệng hố, thân mình trần truồng như giộng, lông, râu tóc bồm xồm. Anh ngồi xuôi anh ngồi ngược như một bầy chim đói đã nhổ sạch hết lông, đậu thành hàng dài trên sợi giây điện. Một người vừa bước ra có anh khác vào thề chỗ liền. Mấy ngày đầu ai cũng ngắt một vài lá dâm bụt để kết thúc mỗi chuyến đi cho đúng phép vệ sinh, do đó hàng rào dâm bụt sau ba ngày trơ trụi chẳng còn một ngọn lá nào. Hết lá, không còn phương tiện nào khác, hầu hết đi cầu xong tất cả vui vẻ đứng dậy rất tự nhiên chẳng cần thắc mắc gì. Nhưng cũng có một vài anh cẩn thận, lúc nào cũng thủ sẵn trong sợi giây thung quần xà lỏn một cây que như chiếc đũa, mục đích để làm phận sự thay giấy đi cầu và sau mỗi lần đại tiện xong xuôi, lại cẩn thận nhét kỹ vào chỗ cũ để xử dụng tiếp cho những lần sau.

Khu ổ chuột

Tác giả: Hà Thủy Nguyên

,

Những ngôi nhà dột nát… Những thân hình dặt dẹo… Những bóng đèn tù mù… Những con đường quanh co không lối thoát…

Một góc Hà Nội ở trong tôi. Đối lập hòan tòan với những tòa nhà cao tầng sang trọng, lạnh lẽo. Đối lập hòan tòan với những con phố dài thẳng tắp cây xanh, thoang thoảng mùi hương ngọc lan… Và càng đối lập với cái khoảnh khắc chuông nhà thờ Đức Bà điểm từng tiếng gọi mặt trời đi ngủ…

Những người đã sống trong nhung lụa, cứ mải mê chạy theo giấc mơ, chạy theo tự do, chạy theo nỗi buồn muôn thuở… Có khi nào họ mảy may nghĩ tới những người chỉ dám khát khao một miếng cơm, một liều thuốc phiện hay chỉ đơn giản mong muốn một điều: Sáng mai tỉnh dậy thấy mình còn sống…

Từng đám người dặt dẹo bước đi chẳng hiểu về đâu… Từng bong đen lén lút nhìn trước nhìn sau… Một người phụ nữ mặt đen nhẻm, nhếch nhác, khuôn mặt chẳng rõ vui hay buồn vừa bán được gói “hàng”… Mấy cô ca-ve cười nói ồn ào, văng tục không ngừng phóng xe máy qua thật nhanh vì sợ mọi người chú ý… Chao ôi! Số kiếp gì thế này!

Người ta thường hay ném cho nơi chốn này một cái nhìn khinh bỉ. Người ta vẫn hay bảo sống lương thiện là khó, còn sống bẩn thỉu thì dễ thôi… Nhưng có mấy ai biết, cái thứ gọi là “lương thiện” ta đang chiếm giữ ấy, thực chất là ta đã cướp được của nhiều người khác. Con người sinh ra vốn đã sẵn mang tử nghiệp. Một con tinh trùng gặp một cái trứng thì tức là nó đã chiếm sự sống của hàng vạn con tinh trùng, hàng vạn trứng khác… Ta đã chiếm cơ hội làm việc, chiếm vị trí tồn tại tốt đẹp, chiếm sự thương yêu… ta đã chiếm giữ sự “lương thiện”. Ta mới là kẻ ác, ta mới đáng khinh bỉ, ta mới thấy sống không lương thiện thật khó.

Trên đời này ai chẳng muốn được sung sướng, ai chẳng muốn hạnh phúc, đòan tụ, ai chẳng muốn thành công, ai chẳng muốn lương thiện. Vậy mà trên đời này chẳng mấy người có được những điều mong muốn ấy. Vậy là có Phật, có Chúa, có Thánh Ala. Vị nào cũng hướng con người tới sự giải thoát trong linh hồn. Vậy thì ai sẽ là người hứng chịu tất cả những buồn chán, đau đớn, thất bại và bẩn thỉu. Ai cũng cầu giải thoát, ai sẽ là người chấp nhận mắc kẹt giữa vũng lầy tăm tối.

Bóng đêm dần tan đi trong bạch khí của ban mai. Mặt trời đỏ dần sáng lên. Mây đen không hiểu bay đi đâu. Ban đêm đã nhường cho ban ngày. Bóng tối đã nhường cho ánh sáng. Nhưng tội ác không nhường chỗ cho lương thiện. Cái chết không nhường chỗ cho sự sống. Đau khổ không nhường chỗ cho hạnh phúc. Từng ấy con người vẫn đi – về khu ổ chuột mà không biết đến đêm hay ngày, với họ, họ chỉ thấy bao trùm trước mặt là bong tối triền miên và vô tận.

Ông Năm Chuột

Tác giả: Phan Khôi

, Hồi tôi còn 14 tuổi, 15 tuổi, thì đã nghe người làng nói nhiều về cái tên Năm Chuột. Về gốc gác của hắn, chỉ thấy nói là người làng Kỳ Lam, cái làng ở phía Bắc làng tôi, cách một con sông, về sau có cái ga xe hỏa gọi là ga Kỳ Lam, còn mọi sự khác không biết rõ. Hình như hắn cũng không có nhà cửa, cha mẹ, vợ con gì ở làng. Hắn làm thợ bạc, quanh năm đi làm nghề ở các nơi, nhất là các nơi đô hộ, như Huế, Ðà Nẵng, Hội An.

Họ nói Năm Chuột là thợ bạc khéo nhất đời, ở Huế có nhiều thợ bạc danh tiếng cũng phải chịu thua. Nhưng lại nói hắn tổ làm đồ vàng giả, mỗi khi được gọi đến nhà làm đồ nữ trang cho người ta, nhà chủ dù ngồi cạnh một bên, hắn cũng cứ tráo bạc, tráo đồng vào, lấy vàng ra, không làm sao biết được. Bởi vậy cả vùng quê chúng tôi, những nhà giàu có, vốn biết Năm Chuột là thợ khéo, nhưng không ai dám thuê hắn làm việc gì về cái nghề của hắn cả. Nhiều người còn nói Năm Chuột đúc súng, đúc bạc giả được. Mỗi khi nói điều ấy, họ làm ra vẻ bí mật, hình như họ có ý ngờ cho Năm Chuột định làm một việc gì lớn, “làm giặc” chẳng hạn.

Nhưng không biết thế nào, người ta lại cho Năm Chuột là kẻ nói láo nói phét, vào cái hạng “mười voi không được bát nước sáo” tức là mắng người ấy đã lại nói láo nói phét rồi,có khi chỉ dùng độc một chữ: Chuột quá tức là láo quá.

Lúc bấy giờ tôi đang đi học ở những nơi cách xa làng, mỗi khi về làng, lại thỉnh thoảng nghe người ta nói chuyện về Năm Chuột như thế, như thế, tôi cũng chỉ nghe làm tai mà thôi, không để ý mấy. Mà hẳn thế, cậu cả con quan phủ, học giỏi có tiếng, đang lo sôi kinh nấu sử để khoa tới đây đỗ thủ-khoa, không thì cũng cử-nhân năm tên trở lên, việc gì mà phải để ý đến chuyện một anh thợ bạc.

Năm hai mươi tuổi, tôi thi đỗ tú tài--- quái lạ, sao lại đỗ tú tài? --- về nhà, cách mấy hôm thì tôi đi về làng Xuân Ðài thăm bà ngoại tôi và cậu tôi. Ở ăn một bữa cơm trưa, đến xế chiều, tôi cáo về thì vừa có một người đến. Người trạc dưới bốn mươi tuổi, mặt trẹt, nước da xanh xám, mắt sáng, miệng rộng, hai môi trề ra, hàm và cằm như nguyên không có râu, không phải cạo, người thấp song cũng không thấp lắm, đầu trọc, quấn cái khăn vải đen, áo cộc cúc giữa, quấn đến đầu gối, chân mang dép da sống.

Người ấy lúc vào đến cửa, hai tay cắp cái nón lá ngang ngực cúi chào cậu tôi, khi bỏ cái nón lá ra, mới thấy trong tay còn cầm một cái nữa mà sau này tôi mới biết đó là cái dọc tẩu. Nó là cái ống tròn mà dài, thấy thoáng như có khảm xà cừ và bịt bạc, bịt vàng gì đó. Cậu tôi như chào như không phải chào:

- Anh Năm phải không?

- Dạ, lâu lắm, có thể quan lớn quên tôi.

Tôi nguyên đã cáo về rồi, cho nên dù có gặp một người khách mới vào hơi lạ như thế cũng cứ việc ra về. Không ngờ khi tôi ra khỏi cổng, lên đường về mới một chặng, nghe có người chạy theo đằng sau gọi tôi đứng lại, thì ra là người thấy lúc nãy. Anh ta tự giới thiệu:

- Tôi là Năm Chuột đây.

Rồi đột ngột hỏi tôi:

- Nghe nói cậu đậu Tú Tài mà cậu khóc, có phải không? Giả sử cậu được đậu thủ-khoa thì cậu làm nên cái trò trống gì?

Một gáo nước lạnh xối vào xương sống! Tôi bẽn lẽn ấp úng, cười hì hì không trả lời được. Bởi vì cái lẽ anh ta nói đó tôi cũng có nghĩ tới, nhưng không đi thi thì thôi, đã đi thi thì lại muốn đậu to. Thế rồi Năm Chuột đi cùng đường với tôi, vừa đi vừa nói chuyện.

Anh ta có đưa cái dọc tẩu lên, nói với tôi:

- Ông cậu của cậu thật là keo quá, cái dọc-tẩu thế này mà cầm trả có 5 đồng bạc.

- Hoặc giả cậu tôi không có nhiều tiền chăng?

Tôi nói cho có nói, chứ không có ý gì cả. Nhưng anh ta cãi phăng:

- Quan lớn hồi xưa (chỉ ông ngoại tôi) làm đến Tổng đốc Hà Nội vừa chi, mà không có tiền lợp nổi cái nhà của ông bà để lại đã tróc ngói ; còn ông phủ (chỉ cậu tôi) mới làm Tri-phủ có 3 năm về “chung dưỡng”, mua được những mươi mẫu ruộng, tôi biết là hạng đất tốt nhất, thế sao nói là không có nhiều tiền?

Tôi thấy cái điều anh ta nói đó hình như đúng, tôi làm thinh. Bỗng dưng anh ta cất tiếng cười một cách rất xỏ lá, rồi nói tiếp:

- Ai có đời, cha chết vì đánh Tây mà con trở đi làm quan với Tây!

Nghe câu này tôi cảm động quá. Tôi không dám chống lại ý anh ta, chỉ nói như vớt vát một ít:

- Thấy bà ngoại tôi kể chuyện, lúc ông ngoại tôi mất rồi thì cảnh nhà sa sút quá đỗi, nếu cậu tôi không làm như thế thì đến lụn bại mất.

Anh ta bĩu môi, cái môi đã trề rồi, còn bĩu nữa, rất khó coi:

- Ra chỉ có làm quan mới cứu vãn được nghiệp nhà. Thế thì bao nhiêu người không làm quan, họ đều đi ăn mày hết.

Tôi lại làm thinh. Ngừng một lúc, anh ta nói tiếp:

- Hèn chi mà quan lớn chết ở Hà Nội năm Ngọ, năm Dậu thất thủ kinh đô, Nghĩa-hội nổi lên đánh Tây, năm Hợi, Tây kéo lên đóng đồn ở chùa Phi Phú, thì ông cậu của cậu đã làm bang tá trong cái đồn ấy. Ðể làm gì? Cậu có biết không? Ðể đàn áp Nghĩa-hội.

Những chuyện ấy, thầy mẹ tôi có kể cho tôi nghe hồi còn nhỏ, tôi biết cả, nhưng tảng lờ nói:

- Tháng tám năm Hợi, mẹ tôi mới đẻ tôi ra, tôi làm gì biết được những chuyện ấy?

Anh ta lại cười, nhưng không xỏ lá, nhìn vào mặt tôi:

- Thấy người ta nói cậu thông minh, nói chuyện với cậu, tôi cũng thấy cậu thông minh thật.

Thình lình anh ta nhảy mũi dặp hai ba cái, lấy khăn lau nước mũi cả nước mắt nữa, rồi nói thêm:

- Như tôi, (anh ta lấy tay phải ấn vào ngực) ghiền thuốc phiện cho đáng, chứ ông cậu của cậu mà cũng hút thì hết thảy những người nghiện chúng tôi đều phải lấy làm lạ.

- Sao vậy?

- Quan lớn hồi xưa có cùng mấy ông em lập một bản “gia ước”, trong đó có một điều cấm con cháu hút thuốc phiện, nếu phạm thì trừng trị bằng những cách nào đó. Thế mà dám phạm. Ðủ biết con người của ông cậu của cậu là vậy đó: cái gì cũng làm nghịch lại với cha.

Cái “gia ước” mà anh ta nói đây, tôi không hề biết, vì không hề nghe ai nói tới.

Nhưng tôi nghĩ, nếu đúng như thế, thìanh ta nói cũng có lý. Tôi lại làm thinh.

Ðây đã đến chỗ con đường rẽ vào nhà tôi, tôi đứng lại, nói mấy lời từ biệt.Năm Chuột nắm lấy tay tôi và nói:

- Tôi nói nãy giờ có làm mếch lòng cậu không? Ở đời có thiếu gì chuyện nói, hà tất tôi gặp cậu lần đầu phải nói để làm mếch lòng cậu, nhưng tình cờ gặp câu chuyện đáng nói thì cứ nói.

Rồi anh ta tỏ ý mong gặp tôi lần khác.

Tôi vừa đi về nhà vừa nghĩ, “À, ra Năm Chuột là con người như thế đấy”.

Là một anh thợ bạc, sao lại nói được những điều như thế, tôi lấy làm lạ.

Tối hôm ấy, tôi đem cả câu chuyện Năm Chuột nói với tôi kể lại cho thầy tôi nghe. Thầy tôi bảo:

- Cái thằng láo đến thế là cùng!

- Nhưng những điều hắn nói, con thấy như cũng có cái đúng.

Tôi rón rén thưa lại.

- Ðúng kia à? Mặc dầu đúng chăng nữa, cái hạng thằng Năm Chuột mà lại được nói thế à ?

Thấy thầy tôi nói hơi xẵng , tôi làm thinh. Một chặp tôi mới dịu giọng hỏi:

- Cái “gia ước” ông ngoại lập ra mà Năm Chuột nói đó, thầy có biết không?

- Tao không biết. Thấy nói sự cấm hút ấy ở nhà Ðông bàn (nhà quan thượng Phạm Phú Thứ) thì có, còn nhà Xuân Tài, tao không nghe.

Ðến lúc tắt đèn, đi ngủ rồi, thầy tôi còn nói một mình:

- Cái thằng láo quá!

Ðó về sau hơn 10 năm, tôi không gặp lại Năm Chuột lần nào. Chừng vào khoảng 1920, một lần tôi ở Hà Nội về nhà, thấy người ta nói Năm Chuột bây giờ lập gia đình ở ngụ tại làng tôi, tôi bỗng có cảm giác như là một vật gì mình đã bỏ quên đi mà bây giờ thấy lại.

Làng tôi có một chỗ gọi là Cồn Mũi Gươm, có một vạt đất gọi là đất Chó ỉa, theo lời thì Năm Chuột đã xin làm cái túp tranh trên vạt đất ấy, và cưới vợ là con gái quá lứa của một nhà có môn bài bán rượu và thuốc phiện cũng ở làng tôi. Hắn vẫn làm thợ bạc.

Một hôm tôi đến thăm, thấy trong nhà chỉ có một căn ván nhỏ, trên đặt cái bàn đèn, một cái buồng che phên tre, ngoài ra là cái lò bễ bạc để ngay chỗ cửa ra vào. Bấy giờ gần đến Tết, trời hơi lạnh, hắn ở trần, ngồi cạnh cái lò bễ đang hơ cả người trên lửa. Hắn xin lỗi tôi và nói:

- Người ta tắm bằng nước, nhưng tôi quanh năm tắm bằng lửa. Hơ thế này cho đổ mồ hôi ra, kỳ sạch ghét, thì cũng chẳng khác tắm bằng nước.

Hắn mời tôi ngồi trên ván, tôi không ngồi, ngồi trên cái đòn kê đặt ở đất gần lò bễ, chỗ sắm cho bạn hàng ngồi xem hắn làm việc.

Anh ta không tắm nữa, mặc áo vào, cho than thêm vào lò bễ, bắt ấm nước lên, rồi gọi vợ súc cái bình tích trà hãm đi, cho trà khác vào, pha nước mời tôi uống và sưởi lửa, cũng nói chuyện. Lần này anh ta gọi tôi bằng ông, nói rằng:

- Mười năm về trước tôi mong lại gặp ông mà không được gặp, lần này gặp, tôi không có chuyện nói.

- Ông mà thiếu gì chuyện, như chuyện nói với tôi năm nọ khi đi đường từ Xuân Ðài đến Bảo An.

Anh ta đưa tay lên khoát khoát, nói thật nhanh:

- Thôi thôi, đã lâu nay tôi không còn nói những chuyện như thế nữa. Nói không có người nghe mà còn có hại. Giá tôi còn cứ nói cái lối đó thì không thể nào lấy vợ và lập gia cư ở làng ông được.

Tôi nói:

- Ðã thế thì đến phiên tôi. Trước kia ông không sợ mếch lòng tôi, thì bây giờ tôi cũng không sợ mếch lòng ông mà hỏi ông một vài điều.

Anh ta cười một cách thẳng thắn.

- Ðược lắm, những nhà giàu làng tôi họ đều nói ông hay ăn cắp vàng nên họ không dám thuê ông làm cái gì hết, bây giờ ông vác lò bễ đến đây làm gì?

Anh ta lại cười, nói dằn từng tiếng:

- Sở dĩ tôi ở đây là vì có thể chữa đồng hồ, xe đạp, bút máy, khóa tây, nội những việc đó đủ cho tôi làm hàng ngày rồi, còn sự làm đồ vàng bạc thì chỉ thỉnh thoảng mới có.

- Nhưng tôi muốn biết ông quả có ăn cắp vàng không? Và ăn cắp như thế nào?

Anh ta lại cười một cách xỏ lá:

- Thứ ăn cắp mà kể gì? Có những kẻ ăn cướp thì không ai nói đến. Tôi có ăn cắp vàng thật đấy, nhưng cũng tùy chỗ tùy người, ở làng Bảo An đây thì tôi không thèm.

Rồi anh ta thuật lại chuyện ăn cắp vàng cho tôi nghe:

- Năm Thành-Thái thập nhị, ông Nguyễn Hữu Thẳng làm Tổng đốc tỉnh ta, cô hầu ông ấy gọi là cô Hóa Mộc, tuy cô hầu mà oai quyền như bà lớn. Một hôm, tôi được trát đòi đến, lính bẩm báo rồi dắt vào nhà trong. Cô ta muốn tôi ở lại đây làm cho cô một đôi vòng chạm y như đôi cô có sẵn, và hỏi tôi có thể làm được không. Tôi nói “được”, và xin cho xem đôi vòng chạm sẵn có của cô. Cô ta mở tủ lấy ra, toan trao cho tôi. Tôi có 1 vuông lụa trắng tinh khiết bỏ sẵn trong túi, bèn lấy lót trên bàn tay, rồi mới nhận lấy đôi vòng tự tay cô đặt lên vuông lụa. Tôi đem ra chỗ sáng, cô đi theo. Tôi nhắc nhắc xem thử đôi vòng nặng bao nhiêu, và cầm tuổi vàng cho thật đúng, ngắm xem những nét chạm cho thật đâu ra đó, còn vặn chỗ cái cổ ra coi thử có chữ hay dấu hiệu gì không. Xong rồi, tôi trả đôi vòng lại và nói: “Bẫm bà lớn, đôi vòng này khéo lắm, chỗ cổ vặn ra vặn vô của nó có khắc cái chữ, bà lớn có để ý không?”. Cô ta nói: “Tôi biết, nó là chữ “ngọc”.Tôi nói: “Con có thể làm đúng y như thế, nhưng hôm nay con có việc riêng, không ở lại được, mười ngày nữa con xin đến làm hầu bà lớn, không dám sai hẹn”. Cô ta đồng ý.

Nói đến đây, anh ta nổi ngáp một ngoi đôi ba cái, rồi xin lỗi tôi cho lên ván đốt đèn hút mấy điếu, và mời tôi nằm đối diện nghe nói tiếp.

- Tôi về nhà, cầy cục làm mất sáu bảy ngày mới xong một đôi vòng cốt giả mạ vàng. Ðáng lẽ làm bằng đồng thì được lợi nhiều hơn nhưng vì có chạm phải làm bằng bạc. Thành khi rồi, xem tuổi vàng nét chạm cho đến cái chữ ở trong đều y hệt như đôi vòng của cô Hóa Mộc, đem mà đánh tráo, có thánh cũng không biết...

Tôi ngắt:

- Ðành rằng ông làm 1 cái rất giống, còn như đồng cân của đôi vòng, tức là sức nặng của nó, ông biết là bao nhiêu mà làm cho đúng được?

- Ấy thế mới là tài. Anh ta cười híp mắt mà không ra tiếng. Chính ăn người là ở chỗ đó. Bất kỳ thử kim khí gì, tôi nhắc nhắc trên tay khắc đồng cân của nó đúng không sai. Chẳng tin, ông tháo cái dây chuyền đồng hồ đưa đây xem.

Tôi tháo ngay cái dây chuyền để trước mặt anh ta. Kéo xong điếu thuốc anh ta đằng hắng một cái, ngồi dậy, cầm dây chuyền trên nhắc nhắc một cái rồi đứng dậy đi lấy cái cân tiểu-ly đưa cho tôi, nói quả quyết:

- Ông biết mặt cân chứ? Cân xem. Cái dây chuyền này nếu nó là vàng thì nó nặng hơn, nhưng nó là đồng mạ vàng cho nên nó chỉ có ba chỉ tám.

Tôi cân, quả thật, ba chỉ tám hơi yếu một chút, song đem vao chỗ ba chỉ thì hơi vát. Tôi kêu lên:

- Thế thì tài thật. Xin chịu.

Anh ta lại nói:

- Còn một chỗ bí quyết nữa. Ông biết, vàng nặng hơn các thứ kim khí khác, nghĩa là vàng, bạc, đồng, chì cùng một thể tích thì lượng của vàng phải nhiều hơn. Vậy thì mình muốn cho đồng cân của đôi vòng giả bằng đôi vòng thật, mà cái vóc của nó cũng chỉ bằng đôi vòng thật, không to hơn, thế mới là khó. Nhưng cái đó co thực hành mới cắt nghĩa được, nói bằng miệng sợ ông cũng không hiểu.

Nghỉ một lát anh ta kể tiếp đến cuộc đánh tráo:

- Ðúng 10 ngày tôi lại đến. Hai bên thỏa thuận với nhau về điều kiện làm việc rồi, cô ta mở tủ lấy đôi vòng và vàng diệp ra đặt trên sạp, rồi gọi tôi đến đứng bên cạnh xem cô cân. Cân đôi vòng nặng một lạng hai -- tôi chắc dạ lắm, vì đôi vòng giả của tôi cũng đúng một lạng hai -- cho nhích một chút, định giao cả cho tôi. Tôi chưạ nhận, xin cho xem đôi vòng đã. Cô ta đứng dậy cầm bó vàng diệp cả chỗ một lạng hai cất vào tủ. Trong lúc đó tôi lấy đôi vòng giả ra đặt trên bàn tay trái, đậy vuông lụa trắng lên trên. Khi cô ta quay ra đưa đôi vòng cho tôi, tôi chìa bàn tay có vuông lụa trắng ra nhận lấy cũng như lần trước. Tôi đi ra chỗ sáng ngồi xuống làm bộ xem lại đôi vòng, cô ta cũng đi theo. Xem xong tôi đứng lên. Cô ta sấp lưng đi về chỗ sập. Tôi đi sau, lật cả vòng và vuông lụa từ bàn tay trái qua bàn tay phải, thành ra đôi vòng giả nằm trên, cứ thế mà trả lại cho cô ta, và tôi gấp nhanh vuông lụa có đôi vòng thật ở trong mà bỏ vào túi. Cô ta hỏi: “Chứ chú thợ không giữ lấy để làm mẫu à?”. Tôi nói:”Bẫm bà lớn, con xem hai lần như thế đủ rồi, xin bảo đảm làm thật đúng”. Cô ta khen: “Hèn chi mà nổi tiếng là thợ khéo. Tôi nhờ ông Phủ Ðiện viết trát đòi chú là vì có bà Phủ mách miệng”. Bấy giờ chừng mười giờ sáng, tôi xin đi ra mua thuốc phiện rồi trở lại nhận vàng diệp bắt đầu làm. Ra đến chợ Vĩnh Ðiện, tôi đem đôi vòng chạm vàng mười chính hiệu của “bà lớn” gửi cho một người anh em “đồng đạo”. Tôi không quên câu tục ngữ: “Có gian phải có ngoan”.

- Ông ăn cắp chỉ có thế, hay là lúc trở lại làm còn ăn cắp nữa? Tôi hỏi.

- Không, tôi dại gì mà ăn cắp nữa. Trong những ngày làm, cô ta ngồi giữ một bên, không phải vì thế mà tôi không ăn cắp được, có điều tôi đã định bụng không ăn cắp. Khi làm xong, tôi hỏi muốn khắc chữ gì. Cô ta ngẫm nghĩ rồi bảo: “ Tôi là người Hóa Mộc, khắc chữ “mộc”cho tôi. Tôi khôn ở chỗ đó. Bởi vì hai đôi vòng giống nhau như hệt, có khắc chữ khác nhau đễ làm dấu thì mai sau đôi giả có xì ra, hắn mới không có thể ngờ được là đôi do tay tôi làm. Cho đến bây giờ tôi cũng còn ân hận là, như thế, sẽ làm cho ông bạn đồng nghiệp nào của tôi đã làm cho hắn đôi vòng thật đó hóa ra là người bất lương thiện, nhưng ông tính, đã giết người ai còn gớm chảy máu.

- Ông làm cái việc như thế có nhiều lần không?

- Kể ra cũng không ít. Nhưng tôi đều ăn cắp ở bọn ăn cướp như Tổng Ðốc, Bố Chánh, án Sát, Phủ, Huyện, chính cái bà Phủ nói lúc nãy đã mất với tôi mấy lạng vàng mà không biết, đi “mách miệng” cho người khác. Những việc như thế tôi cũng chẳng dấu, cứ hay đem nói với người ta cũng như nói với ông đây, cho nên mang tiếng, chứ thuở nay đã có ai bắt được tôi ăn cắp đâu.

Hỏi đến sự đúc súng, làm bạc giả, anh ta bảo:

- Ta có nấu sắt được đâu mà đúc súng? Nhưng chữa súng thì có. Hồi tôi ở Ðà Nẵng, các thứ súng liệt máy của Tây thường đem thuê tôi sửa. Bạc giả thì tôi có làm, nhưng tính ra không có lợi gì mấy, về sau tôi không làm nữa.

Năm Chuột còn nói cho tôi nghe về tính chất của các thứ loài kim và phép hợp kim, như đồng và kẽm, mỗi thứ bao nhiêu, hợp nhau thành ra thứ gì, đồng và thiếc bao nhiêu, hợp nhau thì thành ra thứ gì, nghe ra thông thạo như người có học chuyên môn. Tôi lấy làm lạ bèn hỏi:

- Ông có học với thầy nào mà biết được những điều ấy là những điều mà các thợ bạc khác hầu như không biết?

Anh ta vùng ngồi dậy, cười, ra điều đắc ý, vỗ vào đùi tôi:

- Xưa nay mới có một người hỏi tôi câu ấy, là ông! Tôi chẳng học với thầy nào hết, tôi chỉ đọc có 1 cuốn sách là cuốn Kim Thạch chí-biệt.

Tôi sửng sốt, nghĩ bụng: té ra anh này còn biết chữ nữa kìa. Cái tên sách ấy tôi chưa hề nghe, cũng không dám ngờ là anh ta bịa đặt. Một hôm khác tôi hỏi thầy tôi có biết cuốn Kim-thạch chí biệt không, thầy tôi cũng chịu không biết, và hỏi tôi nghe ở đâu, tôi kiếm đường nói trớ, chứ không dám nói nghe ở Năm Chuột. Cho mãi đến gần nay, đọc Lỗ Tấn toàn tập, tôi mới thấy trong đó có nhắc đến tên cuốn sách ấy. Tôi nghĩ mà lấy làm thẹn, sao mình đã không biết mà lúc bấy giờ không hỏi ngay anh ta, chỉ vì nghĩ mình là người học thức viết báo viết biếc, mà tỏ cái dốt trước mặt một anh thợ bạc thì ê quá.

Ðó về sau mấy năm, mỗi năm tôi ở Hà Nội hoặc Saigon về thăm nhà, đều có đến với anh ta. Anh ta còn in trong đầu tôi mấy câu chuyện lý thú và bất ngờ nữa.

Năm Chuột từng nói với tôi rằng từ rày anh ta không nói những chuyện như đã phê bình cậu tôi một cách không nể nang, nhưng rồi lại chứng nào tật ấy, vẫn không cải nết.

Một lần, phê bình nhân vật làng tôi, anh ta chê ông Tú nọ dốt, ông Bá kia keo kiệt, cuối cùng anh ta nói: “tôi chỉ phục có hai người, một là ông Biện Chín, một là ông Tám Thứ”.

Ông Tám Thứ, người Minh Hương, ở ngụ làng tôi, nghèo chuyên nghề làm thuốc, ít hay giao du với ai, tôi không biết ông ta cho lắm. Còn ông Biện Chín, tên thật là Phan Ðịnh, chú ruột tôi, cha của Phan Thanh, Phan Bôi. Chú tôi là dân tráng, nghèo, cố gắng lắm mới cho con đi học được, nhưng đúng là người “cần kiệm liêm chính” lại khẳng khái nữa, chính tôi, tôi cũng phục chú tôi mà sợ thầy tôi.

Tôi không tham gia ý kiến gì, chứ ngấm ngầm chịu anh ta là biết người, phê bình đúng. Nhưng, trước mặt tôi mà nói như thế, tôi ngờ anh ta có ngụ một thâm ý, là anh ta không phục thầy tôi. Thầy tôi đã đỗ đại khoa, làm quan, bỏ quan về ở làng, cầm cân nẩy mực cho cả làng, cả tổng, không có mang tai mang tiếng gì, nếu anh ta không lấy làm đáng phục, chắc anh ta thấy về khía cạnh nào đó. Từ đó tôi đâm ra áy náy, hoặc giả cha mình cũng có khuyết điểm gì như cậu mình, làm cho người ngoài phi nghị mà mình không biết chăng. Tôi có đem hỏi chú tôi và thuật lại lời Năm Chuột khen phục chú, thì chú tôi trách tôi sao lại đi nghe chuyện của Năm Chuột. Thì ra chú tôi cũng có thành kiến đối với Năm Chuột như thầy tôi, như những người làng.

Lần khác, bỗng dưng anh ta hỏi tôi:

- Quan lớn nhà ta (chỉ thầy tôi) sao lại không làm quan nữa? Ông có nhớ lúc ngài bỏ quan mà về là bao nhiêu tuổi không?

Tôi lấy làm lạ sao hắn lại hỏi mình điều ấy. Song cũng cứ theo mình biết mà trả lời:

- Thầy tôi tuổi Tuất, cái năm cáo bệnh mà về là năm Kỷ Hợi, mới có ba mươi tám tuổi. Sở dĩ không làm quan nữa, có lẽ là tại không chịu làm với Tây.

Cho đến lúc tôi ngoài 20 tuổi, thầy tôi vẫn coi tôi như trẻ con, những việc như thế chưa hề đem nói với tôi. Có điều một đôi khi tôi nghe thoảng qua dư luận bên ngoài, nhất là lúc ở Hải Phòng gặp Lê Bá Cử, ông ấy có kể cho tôi nghe khi ông làm phán-sự toà án Nha Trang, thầy tôi làm tri phủ, có lần cãi nhau kịch liệt với viên công sứ, chính ông đứng làm thông ngôn, thì tóm tắt mà trả lời như vậy. Nhưng Năm Chuột hỏi vặn tôi một câu rất oái ăm:

- Ở làng này còn có 2 ông nữa đều làm đến tri huyện, đều bỏ quan mà về trước tuổi hưu trí, vậy thì ông cũng cho rằng 2 ông ấy cũng không chịu làm quan với Tây hay sao?

“Thằng cha khó chịu thật” tôi nghĩ bụng. Không biết đối đáp thế nào với hắn, tôi phải nói một câu mà tự mình cũng thấy là non nớt quá:

- Việc hai ông ấy thì tôi không biết.

Anh ta vẫn cười cái lối xỏ lá rất khả ố. Ngớt cơn cười mới bình tĩnh nói:

- Tôi cũng có nghe và biết về chánh tích và nhân phẩm của quan lớn nhà ta, nhưng tôi lại có một sở kiến khác, nói ra, ông đừng tưởng tôi cố ý làm đôi vòng thật nhanh thành ra đôi vòng giả thì tôi mới nói.

- Thì ông cứ nói đi.

- Làng Bảo An, người ta nói, không có đất phát quan lớn, mà kinh nghiệm xưa nay rành rành như thế. Từ trước bao nhiêu ông làm đến tứ phẩm trở lên đều bị cách tuột hết. Cho nên Ðồng Khánh, Thành Thái đến giờ, ông nào cũng làm đến phủ huyện rồi kiếm cách từ chức mà về. Nếu nói không chịu làm quan với Tây thì không làm từ đầu, chứ không có lẽ lúc mới ra làm, không biết rằng mình sẽ làm với Tây. Hai ông huyện kia cầy cục mãi đến ngoài bốn năm mươi tuổi mới về, còn quan lớn nhà ta về sớm là vì mới 38 tuổi đã làm Tri-phủ.

Tôi làm như không để ý gật gật nhìn anh ta, kỳ thực tôi cho là cái sở kiến của anh ta đó, không biết chừng, là độc đáo. Làng tôi, tây giáp làng Ðông-Mỹ, đông giáp làng Xuân-Ðài, hai làng này đều có Tổng Ðốc, mà làng tôi, thi đỗ thì đông, đại khoa cũng có, nhưng không có quan to. Thuở Tự Ðức ông Nguyễn Duy Tự, làm đến phủ đoãn Thừa Thiên, ông nội tôi làm đến án-sát Khánh Hòa, cũng đều bị cách.

Tôi không tin phong thủy, nhưng đó là sự thực. Hoặc giả các ông quan làng tôi, trong đó có thầy tôi, thấy thế mà sợ, làm đến phủ huyện lo rút lui cũng nên. Huống chi cái luận chứng của Năm Chuột rõ ràng mà đanh thép lắm, tôi bấy lâu trau dồi cái đức tính ngay thực của người viết báo, tôi không thể cãi chày cãi cối được.

Tôi thấy chắc chắn lắm, vì tôi biết chịu chuyện cho nên anh ta thích nói chuyện với tôi, còn anh ta, hay nói cái lối móc ruột móc gan người ta như thế,cho nên họ mắng anh ta là nói láo nói phét.

Có một sự rất lạ. Một lần tôi đến chơi, vẫn ngồi trên đòn kê xem anh ta làm việc, liếc thấy trong cái thùng đựng đồ nghề có quyển sách, tôi thò tay lấy xem, thì là một cuốn Thương-Sơn thi tập không có bìa, đã xé mất nhiều trang. Tôi hỏi:

- Ông cũng có sách này à? Nó là một bộ đến 10 cuốn, sao ở đây chỉ còn 1 cuốn?

- Tôi có mà tôi xé để quấn thuốc lá hết, chỉ còn 1 cuốn, bởi vì in bằng giấy quyến, quấn thuốc tốt lắm.

- Ông có xem qua chứ?

- Thơ của ông Hoàng mình xem thế nào được? Tôi chỉ xem được có mỗi một bài Mại Trúc Diêu.

Tôi phát lạnh người. Tôi có đọc thơ Thương-Sơn rồi, tôi cũng không thích, nhưng cái bài Mại trúc diêu là bài thế nào, tôi có biết đâu? Chỉ vì dấu dốt, tôi lại cứ làm thinh, không hỏi anh ta.

Về nhà, tối hôm ấy, tôi lật bộ thơ Thương-Sơn ra tìm, tìm được bài Mại trúc diêu. Về sau, tôi dịch ra đăng báo Phụ Nữ TânVăn, sau nữa, đem in trong Chương Dân thi-thoại. Lục ra đây để bạn đọc thưởngthức cái mức thưởng thức văn học của anh thợ bạc:

Bài hát bán tre

Ngày đốn hai cây trúc

Bán đi để dằn bụng

Trong cửa tre đầy kho

Ngoài cửa tiền chẳng cho

Không nói thì cũng khổ

Nói thì roi dài sẽ quật chú

Rày về sau đừng đốn tre nữa

Ðói nằm trong tre chết cũng đủ!

Từ khi biết Năm Chuột có biết chữ Hán nhiều, xem sách xem thơ được rồi, tôi có lúc đem văn học nói với anh ta, anh ta chỉ nghe và hỏi chứ không tỏ ý kiến. Tôi có ý trách. Anh ta giải thích thế này: “Người ta, cái gì biết ít thì chỉ nên nghe chứ không nên nói, tôi nói chuyện văn chương chữ nghĩa với ông, cũng như ông không dạy nghề làm thợ bạc cho tôi”.

Anh ta làm thợ bạc, nhưng cũng kiêm luôn thợ rèn nữa mà là thợ rèn rất khéo. Những dụng cụ của anh ta như cái kìm, cái búa, cái kéo, anh ta đều đi đến lò bễ rèn, ngồi mà tự đánh lấy. Cái đó thì ở làng tôi có nhiều người biết, cái kìm của anh ta đánh, ai cũng chịu là không kém của Tây.

Năm 1944, tôi ở Hà Nội, về nhà được mấy hôm thì thầy tôi mất. Làm đám xong, tôi ở luôn trong nhà ba bốn tháng không ra khỏi cổng. Buồn quá, một hôm tôi đi tìm anh ta. Ðến nơi, cái túp tranh không có nữa. Hỏi thì người ta nói Năm Chuột dọn đi đâu đã lâu rồi. Từ đó tôi mất Năm Chuột của tôi.

Một lần, trước mặt ông Tú già, anh Giáp trong làng gọi Năm Chuột bằng ông, ông Tú già đập bàn quở: “Mầy gọi thằng Năm Chuột bằng ông, thì gọi tao bằng gì?” Tôi nghe mà tức mình, cho nên bài này, tôi nêu đầu đề là Ông Năm Chuột”.

Xóm nghèo ăn tết chó

Tác giả: Ngọc Giao

, Tiếng mụ Một hò buồn rã rượi... Không là con sông Hương, mà là cái ngõ xóm Khâm Thiên. Cho nên tiếng mụ Huế hò lạc lõng, không ai nghe cả, chỉ một mình mụ nghẹ Mụ Một nghe tiếng mụ và tiếng muỗi kêu loạn trong ánh sáng ngọn đèn dầu lạc. Nước ở chiếc áo vá phơi trên sợi dây bắt ngang gian nhà hẹp rỏ từng giọt xuống mặt mụ, mụ vẫn nằm không nhúc nhích. Khói thuốc phiện đang cho mụ saỵ Say rượu thì còn dễ quên sầu hận; chứ thuốc phiện càng say, buồn khổ càng ngấm mạnh vào xương vào máụ

Mụ Một say thuốc phiện lần đầụ Xưa kia, lênh đênh ở con sông Hương, đàn vài khúc mà nghe chơi, gặp tri kỷ ép nài khói thuốc, mụ cũng nể mà "tui vô phép" rồi nghiêng mình hút chơi một điếụ

- Một điếu thì có hề gì ạ.

Mụ nói với người tri kỷ vậy, hai khóe mắt lim dim nhìn lên mui bồng đong đưa trên con sông khuyạ

Đêm nay, đôi khóe mắt ấy nhìn lên chiếc áo vá nước rỏ ròng ròng xuống mặt. Mụ thấy cái gì cũng mờ mờ. Mụ thấy cái áo trên kia biến ra cái áo lụa màu mạ non mà ngày xưa mụ ưa mặc nhất. Đã biết bao nhiêu con cá đớp cái bóng ấy in dưới nước dòng sông trong. Đã có biết bao nhiêu chiếc én liệng như đưa thoi ở đầu bồng để dệt, để vương lên cái bóng đẹp ấy những đường tơ tình thắc mắc.

Duyên nợ ba sinh,

Nghìn dặm lênh đênh... ai nhớ mình...

- Dào ôi, cực quả!

Mụ Một thở phì phì, hai tay đập rời rã xuống giường. Xưa mụ chỉ hút một điếu mà chơị Cái gì cũng chỉ để mà chơi! Thế mà bây chừ mụ Một hút nhiều, giản dị như mụ ăn trầu, như mụ uống rượu, như mụ đánh bài, nếu mấy chị cô đầu ngoài phố rủ rê, nếu gặp ông hai út, ấy là một ông thày đờn người Bắc, nhưng mà đã có một thời nổi trôi ở Huế để làm đồ đệ hai bậc danh cầm Đội Trác và Ngũ Đạị

Gặp ông hai út thì nhất định mụ Một phải say rượu trong khói thuốc. Gái già gặp người tri kỷ già, "đôi chúng mình như hai con đò nát thày ơi, hãy uống với nhau dăm chén, hút với nhau mươi điếu rồi đờn vài khúc mà nghe chơi, ca vài câu mà nghe chơi cho nó vơi sầu, vợi khổ!"

ông hai út lên dây cây tì bà. Mụ Một sóng nhịp bằng hai bàn tay yếu, ca theo tiếng đờn.

- ôi dào ôi, cực càng thêm cực! Thày út ạ...

Mụ Một cúi đầu mà khóc.

Người bạn già không biết nói làm sao, bàn tay thõng xuống. Mụ Một ngượng ngùng lau nước mắt, rồi mụ mỉm cười, với cái tiêm dúng vào ngao thuốc phiện.

Điếu thuốc xèo xèọ Mụ Một nghĩ thầm rằng khi mụ mếu ắt cái mặt già nhăn nheo của mụ cũng móp mép như điếu thuốc đang nở trên đầu bấc lửa ấy, chứ chỉ

Nghĩ vậy thì mụ thẹn. Mụ hò đôi câu, rồi bỏ lửng cho giọng trầm xuống tan đi như tiếng đàn của thày hai út bỏ lửng ở cung hồ.

Thày hai út ra về, kiếu rằng xin ra về cho mụ ngủ.

Dầu sao mụ cũng đứng lên theo tiễn ông bạn già. Nhưng mụ không dám bước ra ngưỡng cửa, mụ chỉ chắp tay lễ phép vái ông hai cái, rồi vịn tay vào tường, thò đầu ra tý nữa nhìn xem nhà hai bên dãy ngõ có ai nhìn người đàn ông ở cửa mụ ra không.

"Phải e dè với cả tấm lòng ngay thẳng của mình, cực quả! Mà mình có chi giăng gió với người ta đâụ Chém cha cái miệng rông dài!.."

Mụ nói vậy rồi quay ngay vàọ Mụ lao đao rơi xuống chiếụ Mụ nằm nhìn lên cái áo vá, lắng từng giọt nước lạnh rỏ xuống vầng trán nóng tê tệ..

Mụ hò. Lại hò mà nghe một mình chơị Không ai thèm nghe thì thôi! Mụ chỉ có một mình mình nơi đất khách quê người nàỵ

*

* *

Có con, có cháu, mà rồi chơ vơ một mình trong cái ngõ hẻm Khâm Thiên, người đàn bà Huế không than thở với ai, không trách Giời, trách Phật, buồn khổ quá, mụ chỉ ca đôi tiếng, có tiền thì ra quán uống chơi vài cút rượu, xong rồi mụ lầm lì trở về nhà - ấy là một cái xó bụi bậm và đầy mạng nhện người ta không chứa ô tô nữa, mụ nằm lăn ra, mụ hò vài ba câu như ngày xuân xanh ở kinh kỳ.

Con mụ Một là một anh chàng thư ký, có vợ, có đứa con giai bảy tuổị

Vợ anh chàng là một chị gái giăng hoa gặp nhau ở đâu, lấy nhau ở chỗ nào, có con rồi thôi thì cũng chả cần nhớ làm chi nữạ Miễn là cứ yêu nhaụ Yêu nhau quá đến nỗi quên rằng trên đời còn có một mẹ già đang đau và đang ghen âm thầm cái "tình mẹ con" của mụ đã bị ả gái giăng hoa, người nàng dâu của mụ, chiếm đoạt mất rồị Người con giai yêu quý có nhìn đến mụ nữa đâụ Huống chi, người nàng dâu, một hôm, lại ton hót với chồng rằng:

- Tôi thấy người ta đồn dạo này bà ấy nghiện rượu, nghiện thuốc phiện, đêm nào cũng ca hát với một lão thày đờn.

Người con giai tê tái, rình xem một đêm khuyạ Quả nhiên, gã nhìn thấy vậỵ Gã lướt qua mặt mụ, cố ý bật que diêm châm thuốc lá cho mẹ rõ mặt mình, gã cười nhạt rồi gã lao mình ra đị Gã xin đổi ngay vào một tỉnh miền Trung Kỳ, đem cả vợ con theọ

Mụ Một khóc sậm sụt liền ba tháng. Nhớ con năm phần, nhớ cháu cả mười phần. Cái thằng bé kháu khỉnh, mập như con ông Bụt.

Thỉnh thoảng, trước kia, thằng bé được bố dắt đến ngõ thăm bà, thì nó quấn lấy cổ bà, bà cũng ôm chầm lấy cháu mà hôn:

- Cháu bà đấy à? Cháu có nhớ bà không? Chứ bà nhớ thương đến đứt ruột, đứt gan, cháu ạ...

Mụ khóc trên tay cháu, rỏ nước mắt xuống bàn tay cháụ Thằng bé không chùi vào áo, nó đưa bàn tay lên môi:

- Bà ơi, nước mắt sao mặn thế, a bà?

Mụ nheo mắt nhìn cháu, cắn vào má cháu:

- Nước mắt và máu đều mặn cả. Thế cháu đã nếm nước mắt của ba cháu chưả

Thằng bé ngây ngô:

- Chưạ Ba cháu chả bao giờ khóc như bà

Mụ ngùi ngùi:

- Hôm nào cháu thử bảo ba cháu khóc, rồi cháu nếm xem nước mắt ba có mặn giống nước mắt bà không, cháu ạ.

Người con giai nghe mẹ nói, cúi gục đầu nhìn xuống đất. Lần thăm ấy, gã biếu mụ nhiều tiền hơn mọi lần:

- ... Để mẹ đong cái gạo trắng mà ăn. Gạo hẩm thế này, nuốt làm sao được.

Rồi gã cầm tay mụ, ngập ngừng:

- Thôi thì trăm giận nghìn hờn mẹ bỏ đi chọ Mẹ về ở với chúng con. Mẹ lẩn quất thế này, con xấu hổ với người ta, mà cháu thì nó nhớ...

Mụ thở dài:

- Con ơi, mẹ còn muốn nhìn mặt nó làm chi nữạ Nó lăng loàn, nó có coi mẹ ra gì đâụ Con cứ để mẹ ở đây, ngày nào mẹ chết thì con làm ma cho mẹ. Sau ba năm rồi, con có thương mẹ thì nhớ đem nắm xương khô của mẹ về Huế mà táng ở bên mồ ông ngoại, bà ngoại con dưới chân núi đó...

Mụ nghẹn lời, khóc như mưa như gió. Mụ khóc một lúc lâu, vừa ngẩng lên thì nàng dâu mụ đã đứng ngoài đầu ngõ rít răng gọi thằng cháu mụ:

- Đi về thằng kiạ Bố mày muốn ở đấy với người ta thì cứ ở. Tao không cần.

Người con giai đành lẳng lặng chạy theo đứa bé ra khôi ngõ. Tiếng nàng dâu mụ còn rít róng mãi ngoài đường.

Bữa ấy, mụ Một lại ra quán uống đủ ba cút rượụ Mụ lao đao về ngõ; mới bước chân vào cửa đã thấy ông hai út ngồi đợi đấy rồị Như mọi lần ông mang cả khay đèn đến, ông đang sửa bấc, mụ bèn reo lên:

- May quá, thày út à. Tui đang buồn, tui đang saỵ Thày ôi, lại gặp cố nhân, thế thì lại đờn vài khúc mà nghe chơi, ca vài câu mà nghe chơi, chớ không gặp thày thì chừ tui đã treo cổ tui lên xà nhà cho rồi kiếp...

Thày út chỉ "dạ", lặng đi một lúc mới ngậm ngùi:

- Chết chi cho uổng bà bạn ôi! Đời còn vui lắm bà, nếu cứ được vui mãi như thế nàỵ

Cả hai người hút xong chừng mươi điếu thuốc, thày út lên dây đờn, dạọ Mụ Một hắng giọng, ngồi lên, đôi mắt ướt mờ, nhìn vào ngọn lửa đèn đăm đăm.

Tết đến rồị Kẻ giầu sắm tết. Cái dân xóm nghèo của mụ Một cũng bắt đầu bàn về tết và lo tết.

Nắng hoe hoe ấm chảy trên dòng nước cống ngang cửa mụ. Những con muỗi ngày, ở dòng nước cống, bay rỡn nắng, trắng lên như đám bụị

Mụ Một ngồi sưởi nắng, ôm con chó vào trong lòng.

Con chó vàng của mụ, từ đầu chưa ai biết, vì mụ đã dắt đi cầm cho một mụ chủ cô đầụ Con chó hay bậy, hay cắn khách, đã một lần dám chui vào gậm giường Hồng Kông rình tha áo quần của một ông tham biện nhân tình mụ chủ cô đầu, mụ chủ đánh nó một trận đau rồi đuổi về với mụ Một.

Hôm ấy mụ Một ngồi thụp xuống, giang cả hai cánh tay gầy ra đón nó, như những khi đón thằng cháu quý được bố dắt đến thăm mình. Mụ cũng đã khóc trên đầu nó, mụ đã ra ngoài ô mua một mớ xương bò về làm tiệc đãi nó, để tỏ chút tình chút nghĩa với nhaụ

Ngày còn đứa cháu ở bên mụ, đứa cháu vẫn là bạn thân của nó. Chúng chơi, chúng nghịch cùng nhau suốt ngàỵ

Ngày mụ ra đi, con chó cũng theo đị Mụ lại bầu bạn với nó, để nhìn thấy nó mà được nhớ đến thằng cháu yêụ

Thế mà túng bấn quá, mụ đã phải đem cầm cho mụ chủ cô đầụ

Bây giờ nó lại trở về, mụ xoa vuốt nó, ngồi lầm lì với nó, hò cho nó nghe trong những ngày mưa dầm gió bấc mà cố nhân của mụ, thày hai út, đi đâu xa vắng.

- Bà Một ơi, con vàng độ này béo quá. Giá được nó mà bó giò hay hầm rựa mận chén tết thì thú quá!

Bác Năm-răng-bạc đã cười nói oang oang như thế đó. Mụ Một cũng cười:

- ừ, tui bán cho anh. Thế đã có tiền chưả

Bác Năm-răng-bạc vỗ vào cái túi áo xanh đầy dầu máy, cái túi không có tiếng xu hào, nhưng bác lại càng cười to hơn rồi đi thẳng.

- Bà Một ơi, con vàng độ này có vẻ khặc khừ lắm nhé. Để cho chúng tôi, sẵn riềng mẻ ở nhà rồị Chưa có gì chén tết đây, bà ạ.

- ừ, tui bán cho bác. Thế đã có tiền chưả

Họ đã có tiền. Nghĩa là họ đã loan báo cho cả xóm biết rằng tết này sẽ thưởng xuân bằng con vàng mụ Một. "Con vàng béo lắm, chả cần gì kiêng kị, nghèo thì bất chấp thiên địa sự, bà con ạ!" Họ góp tiền, kéo đến nhà mụ Một.

Họ cười vang nhà, đặt tiền xuống chiếụ Rồi họ kéo con vàng rạ Con vàng sợ sệt nằm run nép ở gậm giường. Người ta cứ khua nó rạ

Nó cũng gầm gừ kháng cự, nhưng bác Năm-răng-bạc đã đánh trúng một búa vào lưng, nó gục ngay xuống bên chân mụ Một.

Nhìn hai mắt con vàng ướt sũng ngước lên nhìn lại mình, trong khi người ta đã buộc dây thừng kéo nó đi xềnh xệch, mụ Một đứt ruột, ôm lấy mặt.

Mụ nghĩ đến cái ngày nàng dâu mụ giằng đứa bé cháu yêu khỏi tay mụ, kéo tuồn tuột đị Đôi mắt đen nhánh của nó cũng ướt đầm đìa như đôi mắt con vàng, như đôi mắt mụ.

- Dào ôi, tôi nhớ con tui, tui thương cháu tui! Tui biết tìm nơi mô chừ!

*

* *

Chiều ba mươi Tết. Gió lạnh. Gió từ đâu reo trên mái ngóị Mụ Một bứt rứt như điên, mụ đi vào đầu ngõ, lại trở ra cuối ngõ, mụ không chào ai, cũng chẳng nhìn ai cả. Đầu gục xuống, lưng mụ còng xuống, trông thảm hại, thực là thảm hại!

Con vàng của mụ cũng đang lồng lộn đòi dứt sợi dây thừng ở trong sân nhà bác Năm-răng-bạc, vì cái nhà cô đầu bên kia đã đốt một bánh pháo cúng tổ chiều ba mươi làm cho nó sợ.

Những bánh pháo khác tiếp ran lên. Con vàng cuống cuồng. Sợi dây bợt dần. Sau cùng đứt hẳn. Con vàng cong đuôi chạỵ Nó chạy ra bờ ao, luồn qua các bụị Một đứa trẻ, con bác Năm-răng-bạc thét lên. Dân xóm, ấy là những người nghèo có phần vào con chó, lúc bấy giờ vừa kịp đi làm về, nghe trẻ thét, đều hò nhau vác gậy đuổi con vàng. Một cuộc náo loạn ghê gớm. Không ai thấy bóng con vật xó nàọ Cái xóm nghèo nhớn nhác vì mỗi nhà mất một nồi giả cầy chó thưởng xuân. Họ cãi cọ nhau, trách mắng nhau, rằng sao bác Ba Kim có cũi mà không nhốt, rằng sao chị cả Ca-bánh- cuốn có xích sắt lại không chịu bỏ ra: "ừ xích sắt thì nó chạy đằng giời! Xích sắt còn phải kể..., người còn chịu nữa là giống chó!"

ông cả Cao nói thế, rồi bảo nhau kéo cả ra nhà mụ Một. Một người giả vờ tìm guốc để cúi nhòm gậm giường mụ, biết đâu con chó khôn nó chẳng về với chủ.

- Các bác ôi, con vàng nó trốn thì tui xin nộp lại tiền các bác. Tui cũng định đi vay thêm để lấy cái vé xe lửa về miền trong đi tìm con tui, cháu tui, chúng nó bạc với tui nhưng mà tui nhớ chúng nó, tui không còn chịu được cảnh chơ vơ này nữạ Bây giờ tui xin trả lại... Vâng, tui xin trả lại các ngườị..,

Mụ cúi xuống cho người ta khỏi thấy rằng mụ khóc, mụ mở hòm lấy món tiền giải ra giường.

Nhưng mọi người không ai thò tay ra lấy lại tiền. Họ nín lặng nhìn mụ mà ái ngạị

Một lúc lâu như thế, bác Năm-răng-bạc mới lên tiếng rằng:

- Cảnh đến thế này thì chúng tôi còn lòng nào lấy lại số tiền mọn nữạ Chúng tôi xin biếu bà, tôi lại xin tất cả các ông các bà đây mỗi người thêm một tí đưa bà để bà về quê hương, may ra bà tìm thấy mặt con, mặt cháụ

Ai cũng khen bác Năm nói phảị Họ vui vẻ vét túi giúp thêm tiền mụ Một, vui vẻ ai về nhà nấỵ

Chiều hôm mồng một, mụ Một đi chào biệt hết cả mọi người trong xóm. Mỗi nhà mừng tuổi mụ một chén rượu đầỵ Mụ không từ chốị Uống vừa vặn say thì mụ lao đao ra phố gọi một cái xe kéo ra ga, đi chuyến tốc hành.

*

* *

Đoàn tầu lao trong bóng tốị Mụ Một co ro rét và say, gục đầu vào cánh cửa toạ

Mụ se lòng nghĩ đến con vàng của mụ bây chừ nơi mổ Con vàng lang thang, mụ cũng lang thang một mình.

Cô gái làng Sơn Hạ,

Nxb. Tân Dân, 1942.

Người gác đêm

Tác giả: Ngọc Giao

, Chiều hôm nay lá rụng như mưa, vàng cả giời, vàng cả đất. Lá chết của ngày hè nắng đang độ nhạt rụng nhiều đi để cho những cánh lá trong xanh như ngọc thạch trồi ra làm tươi dịu những ngày đầu thu đang tớị

Lá rụng như mưa... Gió giời mênh mang thổi, làm tắt bao nhiêu nguồn sống, tàn nhẫn mà vô tình. Trong hơi gió rào rào, lắng nghe, ai có thấy những tiếng rên nho nhỏ của cành lá này, lá khác khi rời khỏi cành cây khổ Ai đâu thì không biết, ở vườn Bách thảo này có lão Nămđdiên.

Lão Nămđdiên nghếch mãi mặt lên nhìn lá rụng, và lão "nghe tiếng rên của lá".

Thực như vậy đó, lão già cô độc thương lá cả bốn mùạ Chiều nào lá rụng nhiều, chiều ấy lão không thiết nói năng gì cả, môi lão mím chặt lại, hai tay lão chắp sau lưng, lão bước củ rủ như con cò ốm.

Đừng vội cười lão già đâu phải nhà thi sĩ! Cũng đừng bảo ở cái thân già khô như củi ấy sao lại có thể chứa đựng một tâm hồn phiền phức ấỵ Không, ở cái nhân loại này ai mà không khổ, tâm hồn nào mà chẳng quằn quại trong nguồn sống hàng ngày, nhiều hay ít mà thôị

Lão Năm - điên chịu cái khổ âm thầm từ mấy chục năm giờị Trong những chiều lá rụng, lão thấy hiện ra một đứa trẻ thơ thẩn nhặt lá dưới những gốc cây: ấy là con lão, đứa con gái có trái đào phơ phất trên đầu ngày xưa vẫn ra sân đình lượm lá về đun. Hai cha con heo hút sống ở một căn lều tận góc làng, tưởng chừng được bỏ quên đi, thế mà người ta vẫn nhớ đến lão một năm một lần. Cái ngày được người ta nhớ đến, lão chỉ muốn đào lỗ mà chui xuống, ở luôn dưới đó không bao giờ lên nữa, nhưng người ta cứ lôi lão lên để bảo cho lão biết rằng nghèo thì nghèo cũng cần phải lĩnh cái sưu cho được tiếng là người dân lương thiện, chứ lẩn lút như vậy thì có khác gì con vật.

Lão Năm xấu hổ vì bị người ta nhiếc là con vật nên một sớm lão đã đeo khăn gói bỏ làng ra đị Hai cha con trẩy bộ suốt đến bến đò Tân Đệ, xuống tầu lấy vé lên Hà Nội, thiếu mất chút ít, nhưng van lạy mãi người ta, người ta chửi dăm ba câu rồi người ta cũng cho ngồi một chỗ.

Lạc vào Hà Nội, lão hỏi thăm đến xưởng cai xe, xin lĩnh chiếc xe mà kéọ Nhưng lão không có thẻ, người cai văng tục vào mặt lão mấy câu, và lại nhiếc lão là con vật, là thằng mọi nhà quê biết Hà Nội là cái gì mà hòng kéo xe cho người Hà Nội, Hà Nội không có "36 phố phường" như lão tưởng, Hà Nội có đủ ba ngàn phố - "Lão già, lão mà không học thuộc bản đồ thành phố thì người ta ở trên lưng lão, người ta đạp sặc tiết lão ra" - gã cai xe bảo vậỵ

Thế là đủ lắm rồi! Từng nấy lời đủ cho lão bắt đầu run cả người lên. Lão đói ba ngàỵ Ba ngày đói lão còn cố chịu, chứ đứa con gái nhỏ, thực là não ruột, nó rũ ra ở vỉa hè như cái giẻ rách. Cái giẻ rách cố nhiên là bẩn mắt, cho nên đã có một người hắt nó đị

Hai cha con lão lại lang thang. Khát lắm, có thể ra máy nước, vì nước là của bể, của sông, của giờị Đói thì đành cố mà chịu vậy, cha con lão già! Đừng có liều mạng mó vào mẹt khoai, thúng ngô của người đàn bà lương thiện kia đang gánh nghênh ngang trong phố. Đừng có liều mạng ăn một vài bát phở của người đàn ông lương thiện kia đang đỗ gánh dưới cột đèn. Cha con lão già không chạy được đâu, vì Hà Nội đủ ba ngàn phố đấy, nhưng mà chỉ bé bằng cái mạng nhện ở góc nhà.

May mà gặp được Phúc tinh: có một bà Phán thấy cha con lão đi qua, ngứa miệng gọi đến, rồi bằng lòng nuôi con lão làm con ở.

Con ốm đói mới vào hầu hạ được ba ngày thì đã bị ba trận đòn. Nhưng đủ ba lần nó rình lẻn được ra đầu phố dúi cho lão già nắm cơm cháy và vạch áo cho lão già xem những vết roị Hai cha con thương nhau đứt ruột mà không khóc, vì khóc như mưa như gió ở ngay giữa cái thành phố mà lão đã bắt đầu sợ hãi này thì lão quyết là không dám.

Lão già bỏ con vùng chạy đi, lão tìm một gốc cây rất tối ở một phố rất vắng để khóc, lão khóc cho hết cả nước mắt chứa ngập trong tâm hồn. Từ chiều đó, lão không trở lại nhìn con lão nữạ Lão mất hút trong Hà Nộị Lão xin được chân phu quét đường thành phố. Sau cùng, lão xin được chân gác trong vườn Bách thảo nàỵ Đã một lần lão đến nhà bà Phán hỏi con gái lãọ Bà Phán bảo nó trốn từ lâụ Thế là hai bố con bỏ lạc nhaụ Lão đi trong phố, gục đầu xuống ngực mà khóc, mắt lão đỏ ngầu lên nhìn khắp cả mọi ngườị Lão không cần giấu rằng lão khóc.

Không ai làm gì lão, lão có quyền cứ khóc. Lão nghĩ như thế cho đến lúc về tới vườn Bách thảo, lão trèo ngay lên ngọn trái núi đất để tự do gục xuống, lả người đị

Ngày ấy đến bây giờ đã được bốn năm. Bốn năm trong cái vườn mênh mông, bao nhiên lá đã trồi ra, bao nhiêu lá đã rụng đi, lá rụng tới tấp và rên lên thảm thiết như buổi chiều thu mới này khiến lão giợn mình hơn cả mọi buổi chiềụ

Cái vườn sẵn mênh mông sao mà chiều nay càng mênh mông đến thế. Sương đã bắt đầu vương trên các chòm cây và trên các lá sen tàn ở dưới hồ. Gió heo may chưa đến mà lão đã thấy lạnh trong tâm hồn và như mọi mùa rét mướt, đã sớm thấy nao nao dậy cái tâm sự não nùng của ông già Tô Vũ.

Lão dừng chân lại ngoài tấm rào thép, mấy con hươu sao chạy đến rúc đầu vào bàn tay lãọ Như những con vật lành hiền của vị lão thần xưa bị đầy ở đất Phiên, bày hươu này hễ thấy bóng lão tới là chạy cả ra, vẻ mừng rỡ như đàn trẻ nhỏ đợi quà.

Những con hươu lông vàng điểm trắng ngây thơ mà nhanh nhẹn, đáng yêu biết là baọ Chúng nằm ngả nghiêng trên cỏ xanh chơi với nắng, chúng đứng dưới bóng cây nghếch mắt lên nhìn đàn chim sẻ nhảy trên cành. Giời mưa, chúng tụ họp cả trong chuồng, cái chuồng xinh xinh như cái nhà hóng mát, trong đó chất đầy cỏ tươị Bầy hươu ngoan ngoãn sống trên mảnh đất trên có giời, có cả gió giăng, chúng không hề lồng lộn lên làm xô lệch bờ rào, làm đứt một lỗ mắt thép căng mỏng mảnh. Chúng yên ổn lắm, cũng như những con ác thú mà người ta khiếp sợ ở rừng và xem thường chúng ở đâỵ Những con ác thú! Được mang danh thế, chứ chúng có hại ai đâụ Chúng làm mèo cho trẻ con đùa, làm chó cho người lớn suỵt, và làm bạn thân với lão Nămđdiên. Lão Năm yêu chúng bằng tất cả tình yêu dành dụm tiềm tàng trong lòng lãọ Hàng ngày, hai buổi, lão đợi xe thịt người ta kéo đến, lão cầm từng miếng thịt trìu mến đưa qua song sắt cho con hổ ở chuồng này con báo ở chuồng kìạ Xong rồi lão sang chuồng gấụ Những con gấu đi như người, đùa như trẻ, giơ hai chân trước lên đón những miếng dưa đỏ ngon lành ở tay lão chuyền qua song sắt.

Chúng ăn rồi chúng vục đầu vào bể nước mà uống và chạy loạn cả lên. Lão đứng nhìn đàn vật, mắt nheo lại trong một cái cười khô héọ

Lòng lão vui cười như lòng một người mẹ yêu con giữa một bữa cơm gia đình.

ấy là những người bạn thân của lão, ấy là những đứa con yêu của lãọ Than ôi, lão già cô độc! Con lão lạc đâu rồi, lão biết thương ai; quê hương lìa bỏ đã lâu rồi, lão còn biết có ai ở cái mặt đất mênh mông này mà yêu nữạ

Thế mà những người bạn đó, những đứa con đó, từ mấy tháng nay đã bỏ lão mà đị Lão không biết chúng đi đâu, nhưng lão tin rằng không phải chúng về rừng.

Người ta đã dồn chúng lên những cái xe bịt sắt chắc chắn ghê gớm lắm. Người ta bảo lão giúp một tay, lừa cho cái con hổ già nhất, đó là con hổ què, vào xẹ Lão trèo lên nóc chuồng kéo cái cửa sắt lên, trong khi ấy thì người ta thò chiếc gây qua song dồn cho nó chạỵ Con hổ không nhìn thấy lão ở trên nóc, nhưng ở trên nóc lão cúi nhìn thấy nó. Nó tập tễnh chạy quanh rồi sau cũng đến phải chui vào trong xẹ Lòng lão Năm quặn lại, hai bàn tay gày yếu bỏ rơi cái cửa chuồng xuống kêu vang lên khiến lão giật bắn mình. Thế là xong việc. Chỉ còn một dẫy chuồng không. Những con vật gầm gừ trong mấy cái xe bịt kín, lão có thấy chúng nữa đâu để mà nhìn chúng thêm một lần. Người ta đẩy đoàn xe đi, đoàn xe đi lẳng lặng như một bọn lữ hành ở xứ Phi châu, trong một cánh rừng hoang rậm.

Lão nhìn theo đoàn xe, lòng chua xót, và mắt lim dim chớp...

Những cái chuồng không kia đã phá bỏ cả rồị Bây giờ chỉ là miếng đất, cỏ đã mọc xanh và những cây mới trồng đã lên caọ

Bóng tối cùng với hơi sương xuống mịt mù, Lão Năm đứng ở đây từ lâu lắm. Mắt lão mờ đi và hoang mang như thấy trong khoảng tối kia, trên nền cỏ xanh kia, thấp thoáng những cái bóng vàng vàng của con hổ, con báo đi đi lại lại, những cái bóng đen đen của bầy gấu chạy hai chân, dựng thẳng cả mình lên như ngườị

Lão lại co ro bước. Con bồ nông ở dưới gò vẫn xù lông đứng yên một chỗ. Khốn nạn, nó lại ốm hay sao! Ban chiều lão bơi thuyền ra đổ cho cả mớ cá tươi mà nó cũng không ăn nhanh nhẹn như mọi ngàỵ

Gió vẫn lên mạnh thêm trong giời tối và lá vẫn rụng nhiềụ Lá rụng bao nhiêu, lão càng nhớ con gái lão ngày xưa còn mang cái trái đào phơ phất lom khom nhặt lá trên sân đình làng. Lão nhớ con và nhớ bao nhiêu đứa trẻ nhà người những ngày chủ nhật vẫn vào đây đánh đu, nghịch cát. Chúng có những người mẹ lành hiền ngồi trên ghế cúi đầu đan những chiếc tất, những chiếc áo xinh xinh cho chúng. Chúng có những người vú vui tươi lúc nào cũng chạy kèm để nâng đỡ dỗ dành khi chúng ngã. Hỡi ôi, những đứa trẻ con nhà người! Nhưng mà lão yêu chúng lắm, có khi lão đùa với chúng, ngồi yên cho chúng ném cát vào đầu, cho chúng vuốt râu, cho chúng xúm vào bịt mắt lão rồi chúng trốn đi một chỗ đố lão tìm.

Tốt đẹp thay! Những đứa trẻ còn nguyên tính thiện, chưa biết làm hại ai, cũng chưa bị ai làm hại chúng. Chúng là những vị thần trong sạch, nhởn nhơ chơi ở cái vườn trần cát bụi nàỵ Chúng gọi lão là điên, vì thấy mắt lão lúc nào cũng đỏ ngầu ngầu, và mỗi lần thấy lão cười thì chúng kéo nhau chạy hết.

Bây giờ, chủ nhật nào lão cũng mong chờ lũ trẻ vào vườn, nhưng mà không thấy nữạ Lão biết rằng chúng đã cùng những người mẹ lành hiền kia đi chạy loạn, đến các nơi nghỉ mát, hay về các vùng quê yên tĩnh.

Lão thở dài, chua xót thấy mình mất đi biết bao nhiêu những cái thân yêu thầm kín của một tấm lòng già đơn độc.

Một mình trong cái vườn tối mênh mông, tiếng guốc của lão quèn quẹt trên đường đá, và bóng lão, dưới ánh đèn lờ mờ đục mới bật lên, trộn lẫn với những bóng cây chập chờn. Mỏi mệt, lão bước vào trong nhà kèn, thổi bụi trên chiếc ghế gỗ dài, nằm xuống. Mưa rào đổ mau, mưa rào trong cái vườn tối này, não nuột biết bao nhiêụ Lão thao thức nghe tiếng cú rúc ngoài cây, tiếng vượn ở trong chuồng ai oán rú lên từng hồi như khóc. Lão Năm, bao nhiêu lần ngồi dậy, lấy điếu cầy rít một hơi dàị

Nxb. Tân Dân, 1942.

Chuyện nhỏ xóm nghèo

Tác giả: Y Ban

,

Như trong vai người kể chuyện cổ tích chân phương, chẳng bình xét hay xen vào những cảm xúc của mình, tác giả để tự câu chuyện lay động lòng người. Y Ban lâu nay khá nổi tiếng với những truyện ngắn "kinh dị" nhưng sáng tác này của chị lại đẹp giản dị.

Nơi tôi ở là một xóm lao động nghèo, vốn nhiều phức tạp vì cái nghèo mà ra, nhưng cũng đầy tình thân từ cái nghèo mà đến. Án ngữ đầu xóm là một quán nước nhỏ của ông lão Tốt, sống một mình với một con chó, nên cả xóm gọi ông là lão Hạc (nhân vật trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao). Quán ông rất tồi tàn nhưng có đủ thứ cho người nghèo cần dùng. Bên cạnh nhà tôi có gia đình bà giáo với một cô gái nhỏ tật nguyền. Cô gái nhỏ đó rất xinh xắn nhưng luôn phải gắn mình với xe đẩy. Cô không đến trường nhưng mẹ đã dạy cô đọc và làm tính. Cô rất thích đọc sách. Khi cô 14 tuổi thì tất cả sách của mẹ cô đã đọc hết. Cô trở nên buồn rầu lắm. Một người học trò cũ của mẹ, biếu cô một con chó. Thế là cuối cùng cả xóm tôi nhà nào cũng có chó cả. Kể cũng lạ, nhà giàu để trông của, thích nuôi chó đã đành. Chứ nhà nghèo có gì để trông đâu kia chứ. Bảo nuôi chó để bán ư? Lại càng không, đố thấy nhà nào trong xóm tôi bán chó. Thỉnh thoảng có bọn lái chó đi qua xóm rao mua, thì mấy bà te tái đuổi: "Xéo đi, lại làm cho lũ chó khiếp mất mật đây - Rồi quay sang an ủi chú chó nhà mình - Chẳng bán mày đâu".

Cô gái nhỏ kia rất yêu quý con chó, cô đặt tên cho nó là Chuột bởi nó có bộ lông y như lông chuột cống. Chuột đã lớn lên trong sự yêu thương của cô gái và nó cũng tỏ ra rất yêu quý cô chủ của mình. Suốt ngày nó quanh quẩn bên chân cô làm bầu bạn. Cho đến khi Chuột thành thanh niên. Nó không hay ở nhà nữa. Nó chạy lùng sục khắp xóm. Đến tối nó tụ tập cùng đám chó trong xóm trước quán ông Tốt. Thật là cây giống bóng, của giống người. Buổi tối, đám đàn ông, thanh niên đều ra quán ông Tốt uống chén trà, bàn đề đóm. Người ăn đề thì vui như tết, kẻ không ăn thì cay cú. Họ ngồi đến khoảng 8 giờ thì giải tán cả. Hầu như quá 8 giờ tối quán ông Tốt đã vắng teo, nhưng ông cứ mở cửa cả đêm. Ông ngồi dựa vào phên gà gật mà không đi ngủ. Quanh năm suốt tháng chả thấy quán ông Tốt đóng cửa bao giờ.

Cô gái nhỏ buồn lắm nhưng cô không thể chạy theo Chuột để lôi nó về nhà, còn suốt ngày xích nó thì cô lại thương. Cho đến cái ngày Chuột đi cả đêm không về nhà. Đó là thời kỳ bọn câu trộm chó đang hoành hành. Bà giáo đi tìm nó quanh xóm không thấy. Quá trưa hôm sau ông Tốt dẫn con Chuột về nhà cho cô gái nhỏ. Ông dặn: "Cô nhớ xích nó nhé, kẻo bị câu trộm mất đấy".

Cô gái nhỏ cảm ơn ông Tốt, ôm lấy Chuột vỗ về kể lể. Chuột đứng im, lim dim mắt lắng nghe rồi thoắt cái nó lại biến mất. Bà giáo đuổi theo lùa nó về xích mấy ngày. Ban ngày nó nằm lim dim mắt như ngủ. Đến tối nó lồng lên dữ lắm, nó giật xích xủng xoảng. Dạo ấy, chó ở xóm tôi đã bị câu trộm gần hết. Nhà nào còn thì cố giữ cho chắc hoặc bán vội để kiếm chút tiền rẻ. Đến tối thứ năm thì con Chuột đứt xích chạy mất. Lần này thì cô gái nhỏ đã khóc hết nước mắt vì tin chắc rằng bọn câu trộm đã bắt được Chuột rồi. Nhưng đến trưa hôm sau lại ông Tốt dẫn Chuột về giả, kèm với lời đề nghị:

- Thôi cô bán cho tôi đi. Cô cứ thả nó thế này thì đằng nào cũng mất thôi.

- Nó dứt xích chạy mất đấy ông ạ.

- Thế à, thôi cô với bà giáo bán cho tôi. Nhà tôi có con chó cái, con đực này nó cứ theo nên chẳng chịu ở nhà cô đâu. Tôi trả cô năm chục nghìn đồng đấy. Cô không bán cho tôi thì mất mất, phí đi. Tôi quý con chó nhà cô lắm. Cho nó làm bạn với con cái nhà tôi.

Cô gái nhỏ dứt khoát không đồng ý bán. Ông Tốt ra về. Đến chiều con Chuột lại tru lên. Bà Giáo buồn rầu bảo cô gái nhỏ:

- Thôi, hay là bán cho ông Tốt đi con ạ. Thì đằng nào bọn câu trộm nó cũng bắt mất thôi. Con có biết cả xóm gọi ông Tốt là lão Hạc không? Rồi lão cũng sẽ yêu thương con Chuột như con đã yêu thương nó mà.

Bà giáo kể cho con gái nghe cảnh cái lưỡi câu mắc vào họng con chó như thế nào. Con chó sẽ bị kéo lê trên đường, rồi bị đút vào thòng lọng. Rồi bị treo lên một cái xà, rồi chọc tiết...

Cô gái nhỏ đã đồng ý bán Chuột.

Bán Chuột rồi cô buồn lắm. Thế là suốt ngày cô chẳng còn ai làm bầu bạn cùng. Những ngày Chuột dứt xích chạy đi chơi, cô vẫn ngóng Chuột quay trở lại. Nay Chuột đã đi ở hẳn nhà người rồi. Chẳng biết Chuột còn nhớ đến cô mà về thăm không? Ông Tốt chắc không gọi là Chuột đâu mà gọi là cậu Vàng hay là cậu Xám...

Cô gái nhỏ đẩy chiếc xe lăn ra cổng. Một người lái chó đạp xe qua. Trong lồng chó, cô đã nhìn thấy Chuột đang rên ư ử, đôi mắt dại lạc. Chuột nhìn thấy cô bỗng kêu lên mừng rỡ quẫy đuôi rối rít. Cô gái nhỏ gọi người lái chó lại hỏi. Người lái chó kể: "Tôi mua con chó này của ông lão bán nước ngoài đầu ngõ. Ông ấy nuôi được nhiều chó lắm thỉnh thoảng lại bán cho tôi một con. Chỉ có con chó cái hỏi bán bao lần mà lão không bán".

- Bác mua bao nhiêu con này?

- 150 nghìn đồng.

- Bác để lại cho cháu nhé!

- Cũng được. 200 nghìn đồng!

- Nhưng cháu chỉ có 50 nghìn đồng thôi ạ.

- Thế thì thôi nhé, tôi đi đây.

- Bác chờ mẹ cháu về đã.

- Tôi không có thời gian.

Người lái chó đạp xe vù đi để lại cô gái nhỏ khóc cay đắng khốn khổ một mình.

Buổi chiều bà giáo đi làm về, cô gái nhỏ kể lại câu chuyện cho bà nghe. Cô đòi bà đưa cô sang nhà ông Tốt để chất vấn việc ông ta lừa đảo cô. Cô bảo với bà giáo:

- Con không tin ai nữa, không tin cả mẹ lẫn lão Hạc. Giờ con mới nghĩ ra rằng, cuối cùng thì lão Hạc vẫn bán cậu Vàng cho người ta giết thịt đó thôi.

- Mẹ xin lỗi con, sự thật là như vậy đó, bởi vì lão Hạc nghèo lắm. Lão chẳng có gì mà ăn cả thì lấy đâu thức ăn cho Vàng. Dẫu sao con chó cũng chỉ là con chó mà thôi con ạ. Ông Tốt cũng không lừa con đâu, ông ta có lý do riêng của mình. Ông ấy sống cô quạnh một mình đến thế,lẽ nào lại đi lừa một cô gái như con.

- Nhưng con biết tin ai bây giờ hả mẹ?

- Con tin ở năm chục nghìn kia kìa. Nếu bọn câu trộm bắt mất con Chuột thì con sẽ chẳng được đồng nào để mà mua sách.

- Nhưng ông ấy được những một trăm nghìn mà ông ấy không phải nuôi nó cũng như ông ấy không yêu quý nó chút nào.

- Thì một trăm nghìn đồng ấy là sự yêu thương của con. Nếu như con bán cho lái chó, con sẽ được thêm ngần ấy, nhưng vì con yêu thương nó, con không nỡ bán. Ông Tốt ấy đã bán sự yêu thương lấy một trăm nghìn đồng đó, con hiểu không. Lòng yêu thương của con mà con không bán ấy, con có thể dành để nuôi hàng trăm hàng nghìn con chó và các con súc vật khác. Để con có niềm tin và yêu thương mọi người. Và, để con sẽ không bao giờ bị cô quạnh cả.

Từ đấy xóm tôi không nhà nào nuôi chó nữa, chỉ còn duy nhất một con chó cái nhà ông Tốt.

Một ngày, ông Tốt già yếu lắm rồi, ông chống gậy dẫn con chó cái đến nhà bà giáo. Cô gái nhỏ đã quên chuyện cũ, đón tiếp ông nồng hậu. Ông run run vuốt ve con chó cái và bảo nó:

- Tao già lắm rồi, sắp chết rồi. Mày còn sống thêm được vài năm nữa. Mày sang ở với cô. Mày hãy yêu thương cô như đã yêu thương tao nhé! - Rồi ông quay sang bà giáo - Bà giáo ơi, tôi nhờ bà một việc cuối đời. Tôi ở nơi xa phiêu dạt đến đây. Tôi nhớ ngày xưa tôi cũng có vợ có con nhưng xa vời lắm rồi. Ngày xưa ấy tôi cũng đi câu trộm chó. Tôi đánh vật với cuộc đời bằng đủ ngón nghề. Cho đến cái ngày dạt về xóm nhỏ này. Quán tôi mở suốt ngày suốt đêm để chờ có người cùng trò chuyện với mình đó thôi. Đến cái ngày thấy mình sắp chết, tôi lần lại hầu bao. Tôi sợ hãi cái cảnh chết không khói hương, kèn trống. Nhà tôi nuôi chó cái, chó đực cứ tụ tập trước cửa. Tôi bèn kể cho mọi người nghe về bọn câu trộm chó. Thế là tôi mua rẻ được năm con. Nay tôi dành dụm được triệu bạc. Tôi nhờ bà giáo thuê hộ tôi mấy người khóc mướn, bà giáo nhé!

- Cô ơi, tôi xin lỗi cô về con Chuột. Nhưng tôi làm thế cũng lương thiện phải không cô? Cô tha thứ cho tôi nhé!

Vài tuần sau ông Tốt chết. Cả xóm tôi bàn nhau bán cái quán của ông được một số tiền, làm đám cho ông linh đình. Bà giáo thuê một dàn năm bà khóc mướn. Khóc hết một ngày một đêm. Cô gái nhỏ, con bà giáo, đã ngồi bên quan tài ông Tốt một ngày. Lúc nào những người khóc mướn ngừng khóc thì nước mắt cô lại lặng lẽ rơi xuống. Chắc nơi chín suối ông Tốt cũng hả lòng.

Cái Tý

Tác giả: Y Ban

,

Chương 1

Cái Tý cõng em đứng như tượng nhìn vào mảnh vườn nhỏ, trước một căn nhà nằm ở chân đồi. Một ngôi nhà thật lạ vì nó cách biệt với xóm nghèo rất xa, mà lại trồng cả hoa nữa chứ. Nó rụt rè đẩy chiếc cổng bằng cây trúc xanh bước vào sân, muốn nhìn thật kỹ những bông hoa ấy. Hoa - nào đâu có lạ với nó, hoa mướp, hoa cà, hoa bí, nó thuộc làu làu. Nhưng đây là thứ hoa khác nó chưa nhìn thấy bao giờ. Nó muốn biết thứ hoa đó có kết trái được không và quả của nó như thế nào. Nó thả em xuống đất, một thằng bé con chỉ có một mảnh áo không che kín được cái bụng ỏng. Thằng bé đánh xệp xuống đất rồi lê đến bờ rào vịn vào đó đứng lên. Cái Tý rón rén bước vào vườn, nó ngồi xuống bên cạnh khóm hoa. Nó thành thạo đỡ lấy bông hoa ngắm nghía, rồi lấy ngón tay khẽ vạch những cánh hoa che mất phần nhụy. Nó nhìn kỹ vào nhụy hoa. Quả thật đó là một thứ hoa lạ vì nhụy rất bé. Điều đó không hứa hẹn sẽ cho thứ quả nào cả. Để kiểm chứng, nó tìm kiếm xung quanh bụi hoa một bông hoa đã tàn xem có đậu quả không? Chẳng có một quả nào cả. Nó thở dài, hoa thì đẹp quá nhưng rõ là đồ vô tích sự. "Đồ vô tích sự". Đó là những thứ không thể bỏ vào mồm được, bố nó dạy nó thế. Nó đến bên thằng bé xốc lên lưng.

Cái Tý đâu hay rằng, tất cả những cử chỉ của nó đã không lọt qua được đôi mắt của một người đàn ông đang nhìn nó qua khe liếp. Khi nó sắp sửa cõng em đi ra cổng thì người đàn ông nói:

- Này, cháu ơi. Cháu có thích hoa thì hãy hái lấy một bó. Chú cho cháu đấy.

Nó quay lại lắc đầu.

- Vì sao thế? Chú biết cháu thích nó mà?

- Cháu cũng thích vì thấy nó đẹp nhưng nó là đồ vô tích sự.

Con bé đã làm cho người đàn ông cực kỳ tò mò. Người đàn ông nhìn nó, một con bé khoảng 12, 13 tuổi, với nước da nâu và hai hàng lông mày đẹp như hai nét vẽ. Nhưng thân hình nó thì quá nhỏ bé. Sự tò mò đã khiến người đàn ông mời:

- Cháu vào nhà chú chơi một lát được không?

- Cũng được, nhưng đến chiều cháu phải chăn trâu rồi.

Bước vào căn nhà lạ, cái Tý lại một phen ngạc nhiên nữa. Trong nhà có một tủ sách to hơn cái giường. Như cái cách đã làm ở vườn hoa, nó thả em xuống đất. Người đàn ông nhắc:

- Cháu để em lên giường đi.

- Em cháu nó bẩn lắm, làm bẩn giường của chú mất.

Nó đến bên tủ sách, ngắm nghía và thử ước tính xem có bao nhiêu quyển. Có đến hàng trăm. Nó thử đưa tay sờ lên một quyển rồi lại rụt tay vào:

- Cháu cũng thích sách à?

- Không, đồ vô tích sự!

Nó quấy quả đi ra chỗ em đang ngồi, xốc thằng bé lên lưng, đi ra khỏi nhà.

- Này, - người đàn ông gọi với theo. - Cho cháu cái kẹo này.

Mắt nó sáng lên, nó quay vào nhà đặt em xuống đất, đỡ lấy mấy cái kẹo người đàn ông đưa chọ Nó cho em một cái, lấy cho mình ăn một cái, còn lại vặn vào cặp quần, là nơi cất giấu rất lý tưởng, bởi chưa bao giờ nó mặc áo có túi. Ngậm chiếc kẹo vào mồm nó ngửng mặt lên cười với người đàn ông. Một bên má nó có một núm đồng tiền trông duyên tệ, và hình như má nó có chút mầu hồng.

- Cháu bao nhiêu tuổi?

- Mười.

- Mới lên mười thôi a?

- Thế là nhớn rồi đấy!

- Cháu có đi học không?

- Không, đã bảo nhớn rồi mà.

- Chú muốn hỏi cháu điều này, vì sao cháu bảo hoa và sách là đồ vô tích sự?

- Vì bố cháu bảo. Phàm thứ gì không ăn được là đồ vô tích sự hết. Thôi cháu về đây, nhưng thỉnh thoảng cháu lại ra chơi với chú nhé.

- Đồng ý. Và cháu hãy biết rằng cái tủ sách kia không vô tích sự đâu nhé. Trong đó lúc nào cũng có kẹo đấy.

Con bé nhoẻn miệng cười.

Sau buổi làm quen đó, cái Tý dường như đã có thêm một người bạn mới. Cứ đến phiên nó trông em là mắt trước, mắt sau nó đã đến ngôi nhà đó. Nó lặng lẽ đi chứ không rủ dăm ba đứa bạn cũng trông em như nó cùng lang thang đi chơi hoặc ngồi đánh chắt. Nay, nó phải giấu kín ngôi nhà đó. Vì trong ngôi nhà đó luôn có thức ăn chờ đợi và ít thôi nên không thể chia sẻ cùng chúng bạn.

Cái Tý là một con bé ngoan ngoãn và biết điều như mẹ nó vậy, không bao giờ ăn không của ai cái gì. Mỗi lần đến căn nhà đó, nó cùng em ăn xong cái bánh quy gai, hoặc một mẩu bánh mì, cũng là lúc nó nhìn ra việc cần phải làm. Nó quét dọn nhà cửa, khua mạng nhện. Nó phủi bụi trên giá sách. Nó cuốc đất vun cho mấy luống hoa. Nó rửa những cái bát rếch. Người đàn ông ngăn lại, không muốn nó làm thế. Nhưng nó cười duyên tệ: - Chuyện vặt của đàn bà, chú để ý làm gì.

- Sao lại đàn bà?

- Thì cháu đã chẳng phải là một đứa con gái rồi sẽ thành đàn bà ư?

Rồi một hôm nó nghĩ ra:

- Tại sao chú chỉ sống có một mình mà không có mẹ, bố, anh em, vợ con nhỉ?

- Ừ, vì chú chỉ thích sống một mình thôi.

- Tại sao lại có thể thích theo ý mình được nhỉ, chẳng lẽ không có ai bắt buộc chú phải làm điều đó ư? ông, bà, bố, mẹ, họ hàng và hàng xóm nữa. Ở làng cháu không có ai phải sống một mình cả. Đến như bà Gái thọt chân mà cũng ở với con đàn cháu đống nữa là.

Bỗng nó im lặng nhìn đăm đăm vào mặt người đàn ông:

- Có một người đàn ông sống một mình như chú, ở rìa làng không có ai đến chơi cả. Nhưng mà người đó chết rồi. Bà cháu kể rằng, ông ấy bị hủi. Vậy chú có phải...

- Thế bà cháu kể người hủi đó bị như thế nào?

- Ông ấy bị sần sùi hết mặt, tay chân bị cụt cả.

- Vậy cháu hãy nhìn chú xem, mặt có bị sần sùi không?

- Không, nhưng xanh rờn.

- Thế, tay chân chú có bị cụt không?

- Lành lặn cả nhưng vô tích sự.

- Sao thế?

- Chân cò tay vượn làm nên trò trống gì mà chẳng vô tích sự.

- Ai nói với cháu thế.

- Ông cháu bảo.

- Vậy chú không phải là người hủi nhé.

- Nhưng vì sao chú lại ở một mình?

- Vì bố mẹ chú chết hết cả rồi. Anh em đi làm mỗi người một nơi. Còn vợ, thì chẳng ai lấy chú cả.

- Thế thì khi nào lớn cháu sẽ là vợ chú để nấu cơm quét nhà cho chú.

Chương 2

Con bé vừa nói, vừa nhìn xuống đất nên nó không nhìn thấy vẻ mặt của người đàn ông lúc ấy, nó bừng lên như buổi sáng mùa xuân. ánh hồng lướt qua gò má xanh rờn từng trải. Trong đầu người đàn ông đang nhẩm tính khoảng cách giữa mình và con bé. Người đàn ông 40 tuổi còn con bé 10 tuổi, khoảng cách là 30 năm.

- Chú biết không, chú cũng nên lấy vợ để chia ruộng chứ không lấy cái gì mà ăn. Nhưng không biết chú có được tiêu chuẩn xã cho ruộng không nhỉ? chắc là không rồi, vì chú ở nơi khác đến. Thế thì để cháu vậy. Cháu mà lấy chồng cũng được chia ruộng riêng. Nhưng mà lâu quá, những 8 năm nữa mới đủ tuổi. Thôi thì, khi nào cháu 13 vậy, cháu sẽ làm vợ chú. Ở quê cháu ối chị mới 15 đã bảo 18 để đi lấy chồng.

Cái Tý vừa nói, vừa nghĩ trầm ngâm như một bà cụ già. Bởi cái sự toan tính đó nên nó không nhìn thấy những giọt nước mắt lăn tròn trên má người đàn ông.

Từ khi cái Tý đưa ra lời tuyên bố sẽ làm vợ người đàn ông thì nó như có trách nhiệm hơn với căn nhà đó. Hầu như ngày nào nó cũng có mặt để thu dọn quét tước và thỉnh thoảng còn nấu cơm hộ. Một hôm nó bàn:

- Chú ạ, hoa cũng đẹp thật đấy nhưng vô tích sự, hay ta dẹp bớt lại để trồng lấy luống rau.

Bàn là để bàn vậy thôi chứ nó đã quyết rồi. Nó chỉ để lại ba khóm hoa hồng, còn nó phá tất. Nó cuốc đất thành hai luống xinh xắn. Hôm sau, nó mang đến đủ loại rau thơm: tía tô, kinh giới, mùi tàu, xương sông, lá lốt... trồng cho kín hai luống.

Thấm thoắt thời gian thoi đưa, từ ngày cái Tý biết người đàn ông nọ đã một năm trôi qua. Nó và người đàn ông đó rất thân thiết với nhau. Họ như đã quen nhau cả thế kỷ. Và, ở người đàn ông thì như đã đủ cả một đại gia đình sống bên mình. Thế nhưng cái Tý chưa một lần hỏi xem người đàn ông đó là ai và từ đâu đến. Nó nghe phong phanh đâu như nhà người đàn ông đó ở trên phố kia nhưng chán sống ở đó nên về quê nó ở. Đôi lúc nó cũng muốn hỏi cho đến điều nhưng nó lại sợ như bố mẹ Ở nhà hễ cứ hỏi nhau chuyện gì lại y như cãi nhau.

Sáng hôm ấy nó đến sớm hơn mọi bận. Đứa em ngủ ngặt nghẽo trên lưng. Người đàn ông rủ nó:

- Cháu đi ra bưu điện với chú được không?

- Để cháu đặt em vào giường đã nhé. Nhưng phải đi nhanh lên kẻo em cháu dậy, nó hết nước mắt.

Người đàn ông dắt xe đạp ra, buộc thêm một chiếc khăn mặt bông vào poóc ba ga để nó ngồi cho êm. Bưu điện cách nhà chừng 2 cây số, ở ngoài thị trấn. Ra đến thị trấn nó quên khuấy mọi thứ. Lần đầu tiên nó mới biết thế nào là phố xá, dẫu rằng đó chỉ là một thị trấn nhỏ miền sơn cước. Nó mê đắm nhìn vào các cửa hiệu, mà ở đó, nó thấy cái gì cũng đẹp lộng lẫy kỳ lạ. Người đàn ông đến bưu điện, bảo nó ở ngoài trông xe. Lát sau người đàn ông đi ra mặt đầy phấn khởi:

- Hôm nay khá lắm, chú sẽ đãi cháu một chầu kem.

Có đến trong mơ nó cũng chưa bao giờ được ăn kem ngon như thế. Nó cũng đã từng được ăn kem nhưng chỉ là kem hai trăm, lạo xạo toàn đá và hơi ngòn ngọt. Nó ăn hết hai cái, còn ngỏ ý muốn ăn cái thứ bạ Nó cầm cái kem thứ ba đầy lưỡng lự, rồi bỗng nhớ đến em ở nhà. Nhân lúc người đàn ông vào trong quầy trả tiền, nó lẻn ra luống khoai bên cạnh đường hái một chiếc lá, gói chiếc kem vào, rồi giấu trong vạt áo. Trước khi về người đàn ông còn mua cho nó một chiếc áo hoa mầu đỏ. Nó sung sướng đến mụ cả người. Dọc đường về nó líu lo nói chuyện mà chẳng chuyện nào ra chuyện nào. Gần về đến nhà nó đã nghe tiếng em gào khóc. Nó nhảy phắt khỏi xe chạy như phi vào nhà:

- Nín đi, chị có cái này cho em đây.

Thằng bé nhìn thấy chị có chiếc áo hoa mới tròn xoe đôi mắt nhìn, nín khóc. Cái Tý giở lá khoai, chiếc kem to là thế nay chỉ còn bé tý bằng ngón tay nhưng nước chảy ra vẫn còn lạnh. Nó múc nước bón cho em mà không hiểu vì sao kem lại chảy thành nước.

Có chiếc áo mới nó mừng vô tả cõng em chạy tung tẩy về nhà. Vừa về đến đầu xóm bọn thằng Ba đã đứng túm tụm như chờ nó về. Bọn chúng hò hét ầm ĩ:

- Cái Tý đi chơi với người yêu về, được người yêu mua cho chiếc áo mới.

- Người yêu cái Tý là người hủi.

Bố cái Tý nhìn thấy con có chiếc áo mới thì cả mừng. Thay vì gọi người đàn ông đó là đồ vô tích sự như mọi khi thì lại bảo:

- Cái ngữ ấy làm gì mà cũng nhiều tiền gớm nhảy. Cái áo này cũng phải nửa tạ thóc chứ chẳng ít.

Mẹ cái Tý thì nhìn nó suy tính vắn dài nhưng rồi thấy thân hình nó vẫn còm cõi thế bèn chép miệng thở dài:

- Sắp mười hai tuổi rồi mà bé tý như đứa lên tám vậy thôi. Nhưng mà mày cũng ít sang nhà người ta chơi thôi kẻo làng xóm họ bàn tán.

Cái Tý được người đàn ông mua cho chiếc áo đẹp như là một sự kiện ở cái xóm nhà nó. Người ta tha hồ mà tưởng tượng, mà thêu dệt. Chỉ có điều căn nhà đó không chỉ còn là của riêng nó nữa. Nhiều bé gái như nó cũng cõng em đến. Ối chị 16, 17 cũng lân la đến ngôi nhà đó nhưng chưa dám vào, họ tụ nhau thành đám dăm ba người đi ngang ngõ cười ré lên.

Với cái Tý, sau niềm vui có chiếc áo mới thì dường như nó đang chán ghét chiếc áo đó. Làng trong, xóm ngoài ai nhìn thấy nó cũng hỏi thăm: "Người yêu mày dạo này thế nào?". Sao mà nó căm thù cái thứ gọi là người yêu đến vậy. Nó đầy vẻ thô bỉ, giễu cợt. Đành rằng nó hứa sẽ làm vợ người đàn ông đó nhưng làm vợ chứ có phải là người yêu đâu. Hãy xem bộ mặt khả ố của thằng Ba khi nó réo lên:

- Người yêu cái Tý mua cho nó chiếc áo mới để nó thành cô tân thời kìa:

Cô tân thời đánh rơi mất vú

Chàng công tử hỏi vú cô đâu

Vú cô để ở đầu cầu

Con chó nó tưởng quả bầu nó tha

- Cô tân thời ơi, vú cô đâu.

Cái Tý ngượng lắm. Có đến cả tháng sau nó không đến nhà người đàn ông đó. Rồi câu chuyện cũng nhạt dần như chiếc áo hoa dần dần cũ đi. Nó lại nhắc mình bổn phận phải đến ngôi nhà ấy. Người đàn ông mừng lắm.

- Cháu biến đi đâu thế, chú cứ lo cháu ốm nhưng có mấy đứa bạn cháu qua đây bảo cháu không sao nên chú mới đỡ lo.

- Những đứa nào qua đây thế? - Cái Tý bỗng cảm thấy một nỗi hờn ghen dâng đầy.

- à, cái Mùi, cái Bông ấy mà.

- Lũ con gái xí xớn.

Nó lặng lẽ bắt tay vào dọn dẹp. Dường như vắng bàn tay nó căn nhà trở nên lộn xộn và bẩn thỉu. Người đàn ông ngồi lặng lẽ nhìn theo nó. Dọn dẹp xong nó ra giếng rửa chân tay đã thấy người đàn ông chờ nó ở đó.

Chương 3

- Tóc cháu rối bù trông thật xấu xí. Để chú cắt cho gọn nhé.

Nó đồng ý ngay, đỡ phải để bố xén bằng liềm đau ê cả đầu. Cắt xong người đàn ông lấy xà phòng thơm gội đầu cho nó. Có cái đầu gọn ghẽ trông mặt nó thật xinh.

- Cháu xinh lắm, ước gì chú có một đứa con như cháu nhỉ.

- Sao lại là con hả chú? Chỉ còn gần hai năm nữa cháu sẽ là vợ chúa mà, chú quên rồi sao.

- Làm sao có thể quên được! - Người đàn ông phá lên cười.

Cái Tý nói thế nhưng nó đã biết thế nào là bổn phận của người làm vợ đâu. Mà từ trong tim nó, nó thấy người đàn ông đó thật gần gũi như cha mẹ nó vậy. Nó muốn được ôm ấp vào lòng như mẹ nó vẫn ngày ngày ôm ấp em bé của nó. Có lẽ lúc nó biết nhớ, nó luôn chỉ được đứng bên cạnh để nhìn mẹ Ôm ấp hết đứa em nọ đến đứa em kia nối đuôi nhau ra đời. Nó nghĩ rằng, hai năm nữa, khi nó làm vợ người đàn ông nó sẽ được ôm ấp vào lòng như mẹ, một cử chỉ mà chưa khi nào bố nó làm, nó bỗng muốn nhào vào lòng người đàn ông mà gọi bố ơi. Nhưng sao kia, người đàn ông đó cười mà mắt lại ngấn nước. Và, ánh mắt nhìn nó mới yêu mến làm sao. Nó đến bên cạnh người đàn ông, khẽ đụng vào vai. Người đàn ông ôm choàng nó, thổn thức: "Con ta". Tim nó ngân vọng: "Cha ơi".

Buổi tối ở quê cái Tý tối đen như mực, vì thế người già và trẻ em không có việc gì đều đi ngủ từ tối. Đến năm cái Tý 12 tuổi không đi ngủ sớm nữa. Chúng tụ tập ở nhà một đứa bạn cùng tuổi ngồi nói lại những chuyện chúng nghe lỏm của người lớn.

- Này, u tao bảo lão Khả đi bán tinh lợn rồi lão bán luôn cả giống người nữa đấy.

- Lạ nhỉ, sao nhà lão lại có giống người nhỉ? Lão ươm giống ở đâu?

- Thật đấy, u tao cũng bảo thế mà. U tao còn kể, cái chị Sửu ở ngoài làng vớ phải anh chồng thui, lấy nhau mười năm chưa có con. Lão Khả mang lợn đến cho nhà chị ta lấy đực, mà chị ta lại vớ được một thằng cu bụ bẫm mới hay chứ.

Những chuyện đó cái Tý nghe lạ tai lắm, nó kể lại cho người đàn ông nghe và mong chờ một sự giải thích cặn kẽ. Nhưng người đàn ông chỉ ngồi im rồi bảo nó:

- Chuyện vớ vẩn lắm cháu đừng bận tâm, có chuyện gì hay hơn cháu kể cho vui đi.

- Chuyện gì hay ư? Cháu cũng không biết có hay không nhưng mà cháu thấy lạ lắm. Vì nhà cháu nuôi một con mèo đực lâu lắm rồi. Bố cháu bảo nó sắp sửa hóa cáo. Thế mà hôm qua nó cõng ở đâu một đám mèo con, để lũ con ở đống gio cạnh bếp. Rồi nó cho lũ con bú. Nhưng mèo đực làm gì có sữa nên lũ con bị đói kêu loạn cả nhà. Bố cháu biết đem hốt cả đống mèo vứt ra bụi tre, bảo:

- Rõ là điềm gở ai đời mèo đực nuôi con bao giờ không ấy.

- Ừ thật là chuyện lạ đời.

Cái Tý đến tuổi 13, nó không còn được rong chơi nhởn nhơ như trước nữa. Nó phải theo mẹ ra đồng, ra bãi. Lúc rỗi việc đồng áng phải lo rau cám cho lợn. Bây giờ chỉ thỉnh thoảng nó mới ra ngôi nhà đó. Thực chất không phải nó bận bịu đến mức không có thời gian để đi chơi. Chỉ là vì càng ngày nó càng đi ngủ muộn hơn. Nó được nhập bọn với lũ bạn lớn hơn. Chúng thì thì thào thào nhỏ to bí bí, mật mật gây nên sự tò mò không thể chịu được. Chúng sắp xếp những câu chuyện cái Tý lờ mờ biết rằng, ngôi nhà nhỏ của nó không phải là yên ả và sẵn mọi điều đã được giải thích cả. Màn đêm phủ xuống sẽ mang đến những điều bí mật. Chiếc cầu nhỏ bắc qua con mương dẫn vào làng nó là nơi thật hấp dẫn. Những đứa bé như cái Tý đang chờ cái ngày lần đầu tiên được ra ngồi ở chiếc cầu đó. Chúng ngồi trên thanh cầu, một bên con trai, một bên con gái. Chúng trao đổi với nhau dăm ba câu chuyện vu vơ trong vòng hai giờ đồng hồ rồi kéo nhau về. Những đêm tối không nhìn thấy mặt nhau, bọn con trai sẽ hòa vào đám con gái. Rồi, vài ba đứa con gái bỗng nhảy lên vì bị bóp vú. Nhưng bọn con gái ở đây không có thói kêu. Sau cái đau như nghẹt thở là cảm giác lạ lẫm dâng lên. Đó là khúc dạo đầu để mở tiếp những điều bí mật khác: một ánh mắt con trai đưa tìm, một cái véo rất đau vào đùi, một cuộc trốn tìm sau đống rạ, một cuộc săn tìm trong gia phả xem hai họ có thù oán nhau không. Rồi sau đó là những điều mà cả làng ai cũng biết lễ ăn hỏi, đám cưới, chia ruộng, sinh con đẻ cái. Trong cơ thể cái Tý cũng đang có một sự thay đổi lạ kỳ. Nó bỗng ăn rất khỏe. Trước nó có thể nhịn ăn một bát để dành cho em, nay nó không thể nhịn được. Vừa ăn xong nó đã thấy đói ngay. Và nó rất hay xấu hổ. Nó vẫn thích kẹo và bánh quy nhưng lại thấy ngượng ngùng mỗi khi muốn đến ngôi nhà đó. Tuy nhiên bao giờ bổn phận cũng thắng sự xấu hổ. Nhất là khi nó có những quả trứng của một thị gà mái mắn đẻ, đẻ lang thang bên đống rơm, để mang đến nấu cho người đàn ông bát cháo. Nó thật ái ngại khi về rồi người đàn ông chỉ nằm có một mình, trơ trụi, không có ai ở bên hỏi han, giúp đỡ. Nó lại bàn:

- Chú này, mẹ cháu bảo cháu không thể lớn được. Vậy mà sắp đến tuổi 13 rồi còn gì. Thôi chú lấy vợ đi. Chú phải sống một mình thế này khổ lắm.

- Chú biết lấy ai bây giờ.

- Cháu biết có mấy chị hay đi qua nhà chú lắm. Chú thích chị nào thì chú đi ra cầu ở đầu làng vào đêm nào thật tối, để các chị không nhìn thấy mặt chú. Chú xông vào ôm thật chặt. Dù chẳng nhìn thấy mặt chú đâu nhưng nếu chị ấy mà thích chú thì chị ấy cũng biết ngay là chú. Chị ấy sẽ tìm cách đánh tín hiệu để chú nhận thấy. Sau đó thì... , nhưng mà ở nhà chú không có đống rơm nhỉ. Ở đống rơm dễ nói chuyện lắm. à nhưng mà thôi, chỉ cần chú đi ra ngoài thị trấn mua cho chị ấy một chiếc áo hoa thật đẹp là được. Rồi chú mua trầu cau về ăn hỏi. Đám cưới vui lắm, rồi chị ấy về ở với chú.

- Nhưng mà, cháu đã hứa sẽ làm vợ chú rồi cơ mà.

Chương 4

- Nhưng mà, cháu không lớn được. Thôi thế này, hay là cháu sẽ làm con nuôi chú vậy. Nhà cháu có sáu chị em. Bớt cháu đi, sẽ bớt đi một miệng ăn. Rồi thỉnh thoảng cháu chạy về làm giúp bố mẹ cháu cũng được. Nhưng mà nếu không phải là vợ chồng thì chẳng được chia ruộng đâu, rồi lấy gì mà ăn.

- Ừ, chú cũng nghĩ như cháu. Cháu làm con nuôi chú cũng được nhưng mà chú thích cháu làm vợ chú hơn. Chú sẽ chờ cháu cho đến cả ngàn năm sau, bé con thân yêu của chú ạ. Còn bây giờ chú không thể chờ đợi hơn được nữa rồi. Cháu hãy đặt tay lên tim chú để xem này, nó đập rất yếu ớt. Chú nhờ cháu việc này. Cháu hãy cầm mảnh giấy này ra bưu điện gửi đi cho chú. Tiền còn thừa cháu cầm lấy để ăn kem. Cháu ăn ba cái kem như lần trước nhé.

Đến tận trưa cái Tý mới trở về. Nó hổn hển nhào vào trong nhà với một bọc lá khoai lang thu lu trong vạt áo. Mặt nó rạng rỡ:

- Cháu mang kem về cho chú đây. Lần trước cháu chỉ bọc trong một chiếc lá khoai nên gió thổi vào kem chảy gần hết, giờ cháu bọc kín lắm.

Nó thật sự thất vọng khi hai chiếc kem đã bị chảy gần hết, nhưng nước vẫn còn lạnh. Nó lấy thìa bón cho người đàn ông. Người đàn ông nuốt từng thìa thật khó khăn, từ khóe mắt chảy ra những giọt nước to tròn.

- Chú đau ở đâu phải không?

- Đau lắm, đau ở đây này. Người đàn ông chỉ vào ngực mình. - Đau vì kiếp này chú không có cháu làm vợ.

Cái Tý không hiểu được những lời to lớn ấy, "kiếp này" là thế nào? Nếu người đàn ông cứ muốn nó làm vợ thì có thể chờ thêm mấy năm nữa. Ở ngực nó đã mọc hai cái mụn nho nhỏ. Mẹ nó bảo, hai cái mụn đó sẽ thành hai cái tý to để nuôi con và để... Ôi, nói ra thì ngượng chết. Thôi thì, khi nào nó sẽ nói cho người đàn ông đó biết vậy, để khỏi thất vọng.

Ngày hôm sau cái Tý phải ra đồng với mẹ đến tận trưa. Đến chiều nó mới đến căn nhà đó. ¥ kìa, có một chiếc ô-tô chắn trước ngõ. Nó rảo bước nhanh hơn. Trong nhà có ba người khách lạ. Họ đang thu dọn sách vở thành những bó gọn gàng. Người đàn ông vẫn nằm trên giường, có vẻ rất mệt mỏi vẫy nó lại gần:

- Chú phải đi đây. Họ đưa chú về thành phố. Chú để ngôi nhà này cho cháu. Khi nào chú khỏe, chú sẽ quay về với cháu. Chắc khi ấy cháu sẽ lớn rồi. à này, bây giờ chú đi rồi, lấy ai ăn rau nữa. Cháu nên trồng hết hoa hồng ra vườn cho nó đẹp. Dễ trồng lắm, cháu chỉ cần cắt một nhánh nhỏ đâm xuống đất, chịu khó tưới nó sẽ lên.

Cái Tý đứng nhìn trân trân, không kịp nói gì thì người đàn ông tiếp:

- Cháu cầm lấy cái này, của hồi môn chú tặng cháu đấy.

Cái Tý ôm lấy cái bọc vải đỏ khá nặng. Nó thật chẳng thể nào hiểu được câu chuyện. Có lẽ lại thêm một điều bí mật ở làng nó nữa chăng!

Nó chờ cho đến khi những người lạ khiêng người đàn ông ra xe. Giờ thì nó biết người đàn ông đó yếu đến mức không thể tự đi một mình. Một người khóa căn hộ lại, rồi bỏ chìa khóa vào túi. Người đàn ông nhắc người lạ đưa chìa khóa cho cái Tý. Họ ngồi cả vào xe rồi nhưng xe vẫn chưa chuyển bánh. Hình như họ cãi nhau thì phải. Lát sau họ mở hết các cửa xe, bảo cái Tý đưa cho họ bọc vải đỏ.

- Cháu có biết đây là cái gì không, bản thảo của chú ấy đấy. Các chú sẽ mang đi xuất bản, khi nào có sách các chú sẽ gửi về cho cháu một cuốn. Cháu biết đọc chứ?

Cái Tý gật đầu.

Người đàn ông ngồi im lặng trong xe nhắm nghiền đôi mắt, tay vẫy vẫy nó lại gần. Cái Tý chui vào trong xe ngồi xuống bên cạnh người đàn ông. Người đàn ông ôm nó vào lòng hôn lên tóc nó, rồi thì thầm:

- Thiên thần của tôi. Ước gì cho tôi còn sống được. Cháu hãy nhớ vun cho những khóm hồng ấy nhé. Mầu đỏ ấy là máu của chú đấy.

Cái Tý ngơ ngác nhìn người đàn ông, nó chẳng hiểu gì những lời to tát ấy. Nó đã chui ra khỏi xe. Xe nổ máy vút đi.

Cái Tý bỗng cảm thấy nỗi buồn trống vắng. Nó thẫn thờ vào ra. Rồi nó ra vườn đến bên khóm hồng, ngồi xuống vuốt ve một cây, chiếc gai nhọn đâm vào tay nó đau điếng. Nó òa khóc. Thực ra nó khóc bởi nỗi đau trong tim chứ không phải vì đau ở taỵ Có lần băm rau lợn nó băm phải tay đứt một miếng to tướng mà nó có khóc đâu.

Một năm sau cái Tý vẫn còn nhớ đến người đàn ông đó nhưng căn nhà thì hoang vắng dần. Bọn trẻ con kháo nhau căn nhà đó có ma, đêm đêm hiện về tưới cho những khóm hồng. Quả thật những bông hồng cứ nở mơn mởn. Sau một năm cái Tý bỗng lớn phổng phao. Nó mon men ra cầu vào những buổi tối. Mẹ nó đã khai tăng tuổi cho nó. Thực chất nó mới 14 mà mẹ nó đã khai 16 tuổi.

Đến năm 16 tuổi thực cái Tý đã có người làng bên dạm hỏi. Bây giờ thì nó chẳng còn chờ đợi người đàn ông đó nữa. Những khóm hồng đã chết từ lâu, cỏ mọc tốt um cả vườn. Đến năm 17 tuổi cái Tý lấy chồng. Chồng cái Tý hơn nó 2 tuổi. Hai vợ chồng nó được chia 3 sào ruộng. Cái Tý tần tảo sớm khuya trên những sào ruộng khoán. Lấy chồng năm trước năm sau cái Tý sinh được một đứa con gái, đặt tên là Hoa. Cái Tý muốn đặt tên con gái là Hoa Hồng nhưng chồng nó không thích. Con bé có cái tên là Hoa nhưng mọi người vẫn gọi nó là cái Tý cho dễ. Còn cái Tý thì không ai gọi nó là cái Tý nữa. Đi lấy chồng người ta gọi nó theo tên của chồng: - Chị Chiến. Cái tên Thơm Thảo chỉ được dùng trong giấy tờ mà thôi.

Một hôm có bác bưu tá về làng hò cái tên Thơm Thảo từ đầu làng. Chị Chiến đang ngồi cho con bú, không mảy may nhớ đến cái tên đó. Bà mẹ già te tái chạy đến:

- Ơ hay mẹ cái Tý, người ta đang gọi mày đi lĩnh cái gì kia kìa.

- Con à mẹ.

- Chứ chẳng phải tên mày là Thơm Thảo mẹ đặt cho ư?

- Mẹ bế hộ con cái Tý.

Người ta đưa cho chị Chiến một gói vuông mầu đỏ. Mẹ Chiến mở ra thì đó là một quyển sách dày. Ở trang thứ hai có một dòng chữ nắn nót: Tặng cái Tý - nguồn cảm hứng vô tận để cho tôi viết nên tác phẩm này.

Chị Chiến ngơ ngác, cái Tý bé bỏng vậy mà ai đã biết đến nó. Nhưng mà thôi, người ta đã tặng nó rồi thì cất đi cho nó vậy. Chị Chiến bọc kín lại cất lên bàn thờ.

Nửa đêm, chị Chiến bỗng thức tỉnh và chợt nghĩ. Thì ra người đàn ông đó vẫn còn sống và nhớ đến chị. Chưa chết thì sao không về tìm chị nhỉ. Một quyển sách thì nào có ý nghĩa gì đâu. Nhưng mà thôi, dẫu sao chồng chị Chiến cũng là người tốt. Anh hiền lành, chất phác, thương yêu vợ con lắm. Chị Ôm chặt con vào lòng thổn thức một hồi rồi ngủ thiếp đi.

Có đến trong mơ chị Chiến cũng không thể biết được rằng một quyển sách đã làm nên một đời người thế nào. Quyển sách đó đã làm nên cả một danh tiếng, sự nghiệp, tiền bạc và vợ đẹp con khôn cho người đàn ông đó. Trong ngần ấy năm người đàn ông đã say sưa tận hưởng những thành công mà mình đã gặt hái được. Sự tận hưởng đó là chính đáng lắm, thực có gì sai trái đâu. Nhưng sự đời suy thịnh, thịnh suy, hạnh phúc rồi bất hạnh, nó chỉ cách nhau gang tấc mà thôi. Khi hạnh phúc người ta hướng về miền đất hứa, khi bất hạnh người ta nhớ về bến đò xưa.

Người đàn ông ấy đã ước mơ được trở về căn nhà lá với những khóm hồng trong vườn và có một cô vợ bé xíu như thiên thần.

Thôi có lẽ ước mơ đó sẽ làm nên một quyển sách khác cho người đàn ông đó.

Nhưng với chị Chiến, trước khi thiếp đi đã ước ao - giá mà đổi quyển sách 30 nghìn đồng này lấy một chiếc áo hoa cho cái Tý như ngày xưa ấy có phải hay hơn không.

Người hành khất và con chó

Tác giả: Vĩnh Khanh

,

      Lão Chột trở mình thức giấc, trên trán còn ướt đẫm mồ hôi. Trong giấc chiêm bao vừa rồi lão thấy lại hình ảnh người vợ hiền năm xưa đang ẵm đứa con từ xa giơ tay vẫy vẫy. Lão thấy rõ ràng vợ con ngay trước mặt mà sao chạy hoài không tới và cuối cùng hình ảnh vợ con lão nhạt nhoà dần. Lão vừa chạy vừa cất tiếng gọi tên vợ con thảm thiết nhưng hình như bà ta không nghe và tiếp tục mờ nhạt dần cho đến khi biến mất, cũng vừa đúng lúc lão giật mình thức dậy. Không biết đây là lần thứ mấy trong giấc chiêm bao lão mơ thấy vợ con. Nằm thêm một lúc không thể nào ngủ lại được, lão chống tay ngồi dậy nhìn bâng quơ ra ngoài đường, đầu óc cố nhớ lại hình ảnh thân yêu của vợ con trong giấc mơ khi nãy, con mắt còn lại của lão hình như còn đọng một giọt nước mắt. Giơ tay dụi mắt lão ngửa người dựa lưng vào bờ tường cửa hàng bách hoá, nơi lão chọn làm chỗ ngủ mỗi đêm. Hình ảnh vợ con thỉnh thoảng cứ hay về quấy phá trong giấc ngủ và chỉ có điều này mới có thể làm sống lại tình cảm trong con người khô cằn của lão.

*****

Sau những giấc mơ như vậy, hình ảnh trong quá khứ lại quay về khuấy động tâm tư và làm đau lại vết thương lòng đã liền da từ lâu của người ăn mày khốn khổ này. Lão Chột trước đây cũng là một người lành lặn và có vợ con như mọi người khác. Thời VNCH, lão đi lính địa phương quân cấp bậc binh nhất, đóng ở một quận lỵ thuộc tỉnh Chương Thiện. Ngoại trừ những bữa phải trực đêm, còn lại thì ngày ngày tới giờ xách súng đi gác ở trước quận. Nhiệm vụ mở cổng cho xe chạy ra chạy vô, gặp ông nào đeo lon sĩ quan thì giơ tay chào kính cho đúng điệu nhà binh, thế thôi. Hết giờ thì đổi gác đi về. Nói chung chỉ là một thứ lính làm kiễng. Tại đây lão quen và lập gia đình với một cô gái bán rau cải ở chợ. Cuộc sống của hai vợ chồng thật bình dị nhưng rất hạnh phúc, nhất là sau khi đứa con trai kháu khỉnh của họ chào đời. Tuy nhiên sống ở thời chiến tranh, mọi chuyện không ai có thể biết trước được. Con trai vừa mới ra đời không bao lâu thì một đêm cả nhà đang say ngủ, đạn pháo kích rót vào ngay khu vợ chồng lão đang ở. Kết quả tất cả người thân của lão: Cha mẹ già, vợ và đứa bé sơ sinh chết ngay tại chỗ. Còn riêng lão bị phỏng nặng và nhiều thương tật khác trên cơ thể. Người ta đưa lão vào bệnh viện cấp cứu sau một đêm bị kẹt dưới căn nhà đổ nát. Các bác sĩ đã tận tình cứu chữa và cứu sống được mạng lão, nhưng thân người bị co rút nhiều chỗ vì phỏng. Mắt trái bị mù và chân phải tuy được lắp vào một thanh sắt nhưng cũng bị khập khiểng suốt đời. Lão đã như một người điên loạn sau tai nạn thảm khốc và sự mất mát lớn lao này. Suốt ngày cứ kêu gào nguyền rủa đất trời và chưởi bới cả những người đã cứu mình rằng tại sao cứu sống lão làm gì, không để lão chết theo gia đình vợ con… Ai nhìn thấy cảnh đó cũng thương tâm.

Sau khi rời bệnh viện với thân thể tàn tật, sức khoẻ yếu đuối. Không còn ai là thân nhân. Số tiền chính phủ trợ cấp tuy cũng đủ cho lão có thể làm vốn sinh sống bằng cách mua bán tạp hóa nhỏ. Nhưng về lại chốn cũ, nhìn đâu cũng thấy hình ảnh cha mẹ, vợ con đã chết thảm thiết, càng khiến lão đau lòng thêm nên sinh tật uống rượu say sưa suốt ngày… Dần dần tiền bạc hết sạch, lão bán luôn nền nhà, rời bỏ quận lỵ hiền hoà, bỏ lại sau lưng những hình ảnh hạnh phúc gia đình xa xưa... Hành trang mang theo bên mình đơn giản chỉ là nỗi đau thương chất ngất .

Lý do dẫn dắt lão vào con đường ăn xin kế tiếp đó, không khó đoán cho lắm. Tiền bạc tiêu xài hết, thân thể lại tật nguyền không ai muốn thuê mướn… Lão lang thang khắp nơi. Người ta thường thấy lão la cà xin ăn ở các chợ búa, rồi trôi dạt đến bắc Cần Thơ, bắc Mỹ Thuận… cuối cùng lưu lạc lên tận Saigon. Không ai biết tên lão là gì. Nói cho cùng thì đâu ai để ý tới tên tuổi một người ăn xin? Chỉ có mấy đứa con nít thấy lão tật nguyền thỉnh thoảng trêu chọc gọi là "Lão Chột". Riết rồi danh xưng này nghiễm nhiên trở thành như một cái tên thực thụ của lão. Nhiều khi đi xin cả ngày không ai cho gì cả. Bụng đói meo, lão phải đến những quán ăn chờ người ta ăn xong, vào chộp vội những tô bát trên bàn vét chút thức ăn thừa mứa cho đỡ đói, bị chủ quán thẳng tay xua đuổi, đánh đập. Mỗi khi nhớ tới những lúc khốn khó đó, nước mắt tự nhiên ứa ra trên con mắt còn lại của lão.

Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 xảy ra ảnh hưởng đến toàn miền Nam nhưng hình như không ảnh hưởng đến lão Chột nhiều cho lắm. Đã là một người đi ăn xin thì dù ở chế độ nào cũng có gì khác biệt nhiều đâu?? Lúc thiên hạ ở khắp nơi bồng bế nhau chạy nạn súng đạn, lão cũng vẫn dửng dưng không lo lắng gì cả. Lão chỉ theo đoàn dân tị nạn mục đích để xin ăn thôi… rồi cũng được cho vào khu tạm trú do chính quyền VNCH dựng lên. Thật tình nói, mấy ngày giặc giả này đâm ra lão lại được no đủ hơn những ngày thường. Ngoài thực phẩm được phát, lão còn được cả quần áo và những đồ dùng khác nữa. Cho nên mặc ai lo âu gì thì lo, lão cứ tỉnh bơ.

Cuộc đổi đời xảy ra. Cộng Sản lên nắm chính quyền. Đối với lão cũng chẳng có gì thay đổi. Ngày ngày lão cũng vẫn phải đi ăn xin. Chế độ mới cũng chẳng giúp được gì cho những người như lão hết. Đối với bọn ăn xin như lão, mấy chữ Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc… gì gì đi nữa thì cũng chỉ là những danh từ rỗng tuếch và hoàn toàn vô nghĩa. Cuộc sống của lão dù ở chế độ nào thì cũng thế. Thời VNCH lão cũng đi ăn xin. Bây giờ Cộng Sản lên nắm chính quyền thì lão cũng đi ăn xin chứ có khác gì đâu? Chế độ nào cũng hô hào cho dữ, la cho to…nhưng những chuyện đó dành cho ai khác chứ không phải cho bọn khốn khổ ăn mày như lão. Bởi vậy mỗi ngày lão đi dưới cờ xí rộn ràng và những biểu ngữ thật kêu nhưng lòng lão thật dửng dưng. Đối với lão tất cả những thứ đó đều là vô nghĩa!

Tuy nhiên đi ăn xin cũng đâu phải là yên. Bọn hành khất như lão cứ bị đuổi lên đuổi xuống hoài. Nhiều biểu ngữ hô hào cho chiến dịch "Quyết tâm làm sạch đường phố" treo khắp nơi và bọn công an được lệnh thẳng tay xua đuổi những người được coi như đang làm dơ bẩn đường phố: Trong đó có những người bán hàng rong bị xem là lấn chiếm lòng lề đường, những kẻ tật nguyền ăn xin như lão thì bị xem như là thành phần cặn bã, ăn bám xã hội… chỉ làm xấu bộ mặt thành phố chứ chẳng ích lợi gì!. Như vậy hóa ra bọn ăn mày như lão đồng nghĩa với một thứ rác rưới nào đó không hơn không kém.

Có lúc bị xua đuổi quá, bụng thì đói meo. Lão đã không còn dằn được lên tiếng chưởi lại bọn công an, không sợ gì cả:

- "Tổ mẹ tụi bây. Tao đi ăn mày lòng thương hại của bá tánh chứ có mắc mớ gì tới mả mẹ tụi bây mà tụi bây xua đuổi. Cấm không cho tao đi ăn xin thì phải cho tao ăn cái gì chứ . Tụi bây chỉ biết đuổi tao đi khơi khơi thì lấy gì tao ăn. Sao không bắn một phát vô đầu cho tao chết mẹ luôn cho rồi. Tổ mẹ tụi bây. "

Bọn công an thấy lão già ăn mày liều mạng quá nên cũng giả vờ không nghe thấy. Chỉ hù dọa cho lão bỏ đi. Những cảnh như thế diễn đi diễn lại hoài. Hễ bị công an đuổi đầu này, lão lại trốn chạy đi đầu khác xin ăn tiếp. Cứ thế lão và những người hành khất khác sống lây lất hết ngày này qua ngày khác với một kiếp sống cơ cực đáng thương.

******

Trời bỗng đổ mưa. Một vài hạt mưa lất phất theo gió lùa vào tận nơi lão chọn nằm ngủ như trêu chọc người hành khất khốn khổ. Phía ngoài đường vẫn vắng teo. Lão Chột ngoác miệng ra ngáp rồi ngó mông mênh ra bên ngoài. Giờ này chắc cũng gần sáng rồi chứ không ít. Ngồi lâu cảm thấy mỏi mệt, lão lại nằm xuống lắng nghe tiếng mưa tí tách êm tai, cố ngủ thêm một chút. Bỗng đâu đó có tiếng kêu của một con chó con. Ban đầu lão không để ý, nhưng càng lúc tiếng kêu của con chó càng thảm thiết quá.

- "Chó nhà ai mà đi lạc vào giờ này vậy??"

Lão Chột vừa lẩm bẩm vừa ngồi dậy nhìn dáo dác hai bên vỉa hè. Không thấy gì cả! Qua ánh đèn đường, hai dãy phố hoàn toàn vắng vẻ. Lão đứng dậy, lấy cái nón rách trong túi vải đội lên đầu và bước dọc theo vỉa hè nơi có tiếng kêu của con vật vọng tới. Lão chậm rải đi tìm cẩn thận từng chỗ, thì phát hiện một con chó con đứng nép vào góc tường dưới mái hiên của một cửa hàng. Con vật ướt mem đang run rẩy kêu rên những tiếng bi thảm. Lão Chột vội ẵm con vật về, lau khô lông và quấn vào người nó một miếng giẻ rách. Sau đó lấy trong túi vải ra một mẩu bánh mì nhỏ mà lão để dành lúc tối, nhai từng miếng nát nhừ hết rồi đút cho con vật. Tội nghiệp! Có lẽ nó đói lắm nên ăn ngon lành. Lão thì thầm nói với con chó:

- "Con đi đâu mà bị lạc cho khổ vầy hả?".

Con vật ăn xong liếm liếm vào tay lão ra chiều thân thiết và biết ơn lão đã săn sóc cho nó.

Tự nhiên một cảm giác ấm áp vô hình dâng lên trong lòng người hành khất già.Từ bấy lâu nay lão chỉ thui thủi một mình. Ai nấy đều tránh né lão như tránh né một người bị bệnh truyền nhiểm. Một vài đứa trẻ và thậm chí đôi khi có cả người lớn thường hay trêu chọc hoặc ném đá vào lão. Do thế mỗi ngày ngoài việc phải lên tiếng xin xỏ lòng thương hại của những người qua đường, còn lại thì gần như lão không nói chuyện với ai, kể cả những người hành khất khác. Những đêm khuya trăn trở không ngủ được, đôi lúc lão cảm thấy cô đơn vô cùng. Thà là có người nào đó ghét bỏ, thù hận lão… ít ra như vậy người đó vẫn còn "nhớ", còn "nghĩ" tới lão để mà ghét bỏ, thù hận. Đàng này mọi người ai nấy đều "thờ ơ" với lão. Sự hiện hữu hay không hiện hữu của lão trên cõi đời này không ai thèm quan tâm. Chao ôi! Cái cảm giác cô đơn đó mới đáng sợ làm sao!!

Bỗng dưng bây giờ khi ẵm con chó nhỏ vào lòng và nhìn nó liếm bàn tay của mình ra chiều thân thiết, lão thấy an ủi và xúc động lắm. Lâu lắm rồi lão không có được cảm giác thân thiết này. Trong một thoáng, con vật nhỏ bé trong lòng lão không còn là một con vật nữa. Mà đó là một "con người", một sinh vật huyền dịu ơn trên vừa ban xuống để an ủi lão. Con mắt còn lại của lão nhấp nháy, rơi xuống một giọt nước mắt hồi nào không hay. Lão nhìn con vật bằng ánh mắt tràn đầy yêu thương, trong đó đang lóe lên một tia lửa đủ sưởi ấm tâm hồn từ lâu đã giá lạnh của lão.

- "Con ngoan, từ nay Ba sẽ săn sóc cho con. Cha con mình có gì ăn nấy nghe con."

Lão vuốt ve trên đầu con chó một cách trìu mến và thì thầm nói với con vật như đang nói với đứa con bạc phước đã sớm qua đời của lão. Con vật như cảm nhận được sự thương yêu đùm bọc và cảm thấy an toàn trong lòng của người hành khất già, nên sau khi ăn no nó tựa cái đầu nhỏ xíu lên bàn tay của lão và ngủ ngon lành. Nhìn con chó ngủ say sưa, lòng lão thấy ấm áp hẳn lên:

- "Ngủ ngoan đi con. Từ nay sẽ không ai ăn hiếp được con đâu. Ba sẽ nuôi con đàng hoàng nghe."

Đặt nhẹ con vật lên tấm giẻ rách, lão Chột ngồi yên lặng ngắm nhìn nó ngủ. Từ lâu lắm rồi lão chưa hề thấy lòng mình vui như vậy. Cơn mưa chấm dứt hồi nào không biết. Bên ngoài trời đang sáng dần và trong lòng lão Chột cũng đang hé lên ánh bình minh.

*******

Lão Chột về tới khu phố quen thuộc nơi lão chọn làm chỗ ngủ qua đêm thì trời đã khuya lắm rồi. Hai bên đường, những quán tiệm hầu như đã đóng cửa hết. Lẽo đẽo theo sau là con chó Vàng trung thành. Nhìn dáng đi xiêu vẹo của người hành khất và điệu bộ của con chó, người ta cũng có thể đoán được cả hai chủ tớ đều mệt mỏi lắm. Mấy lúc gần đây lão Chột đã tìm được một chỗ trú ẩn mới khá hơn ở những vỉa hè trước đây. Đó là một công trường xây cất lớn đang bị tạm đình chỉ vì nghe đâu có sự tranh chấp gì đó giữa chủ công trường và chính phủ. Đối với Lão Chột thì có cần gì biết đến những chuyện tranh chấp đó. Miễn kiếm được chỗ an toàn tạm trú qua đêm là tốt lắm rồi. Để vào được chỗ này mà không bị ai phát giác lão phải về thật tối, vạch một lổ hổng ở hàng rào chui vào, lão chọn một góc khuất và kín đáo nhất của một toà nhà đang xây cất dở dang làm chỗ ngủ mỗi đêm để tránh mưa gió. Chỗ ở này quả thật lý tưởng cho những người vô gia cư như lão. Lại có cả vòi nước đặt sẵn nên lão và con chó có thể lén tắm rửa mà không ai biết. Thật là tiện lợi.

Lão Chột cảm thấy khoan khoái khi ngồi xuống dựa lưng vào vách tường toà nhà. Con chó đến nằm sát bên chủ ngước đầu lên chờ đợi. Lão lấy trong túi vải ra một ổ bánh mì thịt đã mua trên đường về. Đây là buổi ăn tối của người hành khất già và con vật. Lão Chột vừa chậm rãi ăn, vừa thỉnh thoảng bẻ một miếng đưa cho con chó. Ánh sáng hiu hắt từ đèn đường bên ngoài hắt vào, soi bóng lão Chột và con chó lên trên nền tường với những cử động trông giống hệt như một đoạn phim hoạt họa! Một người và một vật lặng lẽ ăn. Thỉnh thoảng có tiếng lão Chột nói chuyện với con chó như nói chuyện với một người thật: "Xuỵt! xuỵt! Từ từ con… Nè ăn đi…Giỏi! Giỏi! Mai có nhiều Ba cho con nhiều hơn nghe… Ngon không con… Thôi! Hết rồi, mai ăn tiếp. Bây giờ chuẩn bị đi ngủ nghe..."

Lão với lấy cái bình nhựa đựng nước trong góc, đổ một ít vào cái bát cho con chó, rồi ngửa cổ uống mấy ngụm.

- "Thôi! No đủ rồi. Bây giờ ngủ đi. Ba cũng mệt quá rồi!"

Lão xoa xoa đầu con chó rồi ngả người nằm lên miếng carton lớn được xé ra từ một thùng giấy. Sau một ngày lang thang ngoài đường. Lão Chột cảm thấy khoan khoái vô cùng khi nằm dài trên miếng carton. Con chó nằm bên cạnh liếm liếm vào mặt chủ trong khi lão vỗ vỗ nhẹ vào mình nó. Được một lúc cả hai rơi và giấc ngủ.

Mới đó mà đã hơn một năm rồi. Con chó nhỏ ngày nào bây giờ đã to lớn với bộ lông vàng mượt mà rất đẹp. Cũng vì màu lông của con chó mà lão Chột đặt tên con vật là "Vàng". Kể từ hôm bắt gặp nó đi lạc, lạnh cóng trong mưa. Mỗi ngày lão Chột dẫn nó theo ăn xin. Những lúc xin được tiền hoặc thức ăn đầy đủ thì “hai cha con” ăn no. Còn hôm nào đi xin không được nhiều lão vẫn để cho con vật ăn trước, còn dư lại thì lão mới ăn, không thì lão chịu nhịn đói, uống nước lạnh cho qua bữa đó, chứ không để cho con vật bị đói. Lúc chưa tìm được chỗ mới này, dù ở trong điều kiện khó khăn, ngay cả lão ít khi có dịp được tắm rửa, nhưng thỉnh thoảng lão dẫn con chó đi quanh khu chợ Saigon, tìm đến những nơi có vòi nước xin mấy thau nước tắm cho con chó.

Từ lúc có con Vàng, cuộc sống của lão Chột hoàn toàn khác hẳn. Lão không còn cảm thấy cô đơn và ít khi tỏ ra cáu kỉnh, bực dọc như trước đây nữa. Những lúc không đi xin, lão vừa chơi đùa với con chó vừa tập cho nó nghe theo những mệnh lệnh làm nhiều trò để tiêu khiển. Con vật rất thông minh nên chẳng bao lâu nó đã biết nghe theo lời chủ làm được nhiều trò ngoạn mục. Ban đầu lão chỉ nghĩ tập con chó Vàng như là một thú tiêu khiển lúc rảnh rỗi. Nhưng không ngờ với sự thông minh của con chó và những màn nhào lộn, làm đủ trò của nó đã giúp cho việc ăn xin của lão dễ dàng hơn nhiều. Trên đường phố bây giờ lão không còn phải lê la đi khắp nơi ngửa tay van xin tiền khách qua đường nữa, mà chỉ cần kiếm một chỗ đông người qua lại ngồi xuống đó điều khiển con chó. Với những màn biểu diễn của con vật khôn ngoan, người đi đường thích thú đứng lại xem rất nhiều. Sau khi diễn trò, con chó theo lệnh chủ đứng lên bằng hai chân sau, hai chân trước bê một cái thau nhỏ đi vòng vòng. Người đứng xem vỗ tay tán thưởng và bỏ tiền vào cái thau khi con chó đến gần. Con Vàng thậm chí còn biết sủa lên hai tiếng nhỏ như cám ơn khi người ta bỏ tiền thưởng vào thau nhựa càng làm cho mọi người thích thú thêm. Nhất là những du khách ngoại quốc. Nhờ thế cuộc sống của hai cha con lão Chột trở nên thoải mái hơn nhiều so với lúc trước. Giờ đây mỗi ngày lão Chột đã có thể mua được thức ăn đầy đủ cho lão và con chó. Không còn phải chịu cảnh đói khổ như trước nữa. Đối với lão Chột, con Vàng giống như một món quà quí báu do ơn trên ban xuống, vừa an ủi tinh thần vừa giúp cho cuộc sống vật chất của lão dễ thở hơn. Trước đây, lão đã từng ước mơ chỉ cần làm sao ngày hai buổi có chút thực phẩm ăn để không phải chịu đói nữa và có một người nào đó nói chuyện an ủi lão những khi cô đơn. Nếu được như vậy là đủ rồi. Sự xuất hiện của con chó đã biến ước mơ của lão thành sự thật. Đúng là Trời Phật đã thương xót nên cuối cùng đã ban cho lão con vật trung thành quí báu này.

Tuy vậy việc ăn xin không phải lúc nào cũng thuận lợi mãi như ước mơ nhỏ bé của người hành khất già khốn khổ. Càng ngày chiến dịch làm đẹp thành phố của nhà nước càng tỏ ra gắt gao hơn trước, nhất là từ khi có những dịch vụ khai thác về nguồn lợi du lịch. Hình ảnh những người ăn xin rách rưới như lão Chột là hình ảnh xấu của chính quyền đối với người ngoại quốc và làm mất đi vẻ mỹ quan của thành phố. Chính quyền cương quyết tống khứ hết những hình ảnh xấu này ra khỏi đường phố có người ngoại quốc thường hay lui tới. Công an được lệnh xua đuổi thẳng tay việc buôn bán hàng rong lấn chiếm lòng lề đường và tống khứ hết đám hành khất dơ bẩn ra khỏi thành phố. Nhưng khổ thay chính quyền chỉ biết xua đuổi mà không có kế hoạch giúp cho họ tự sinh sống được, cho nên chuyện đâu rồi cũng hoàn lại đấy. Công an cứ bắt, cứ xua đuổi. Người bán hàng rong, người ăn xin vẫn trở về lại những đường phố cũ để kiếm sống.

Ngay cả ban đêm, công an có những chiến dịch đột xuất lùng soát các đường phố, bắt hết người vô gia cư ngủ ở vỉa hè chở đi ra khỏi thành phố. Được một thời gian, không có cách gì khác để sinh sống, những người hành khất vô gia cư bị đuổi bắt … lần hồi rồi cũng tìm cách trở về thành phố Saigon nơi họ còn có thể đi xin kiếm miếng ăn qua ngày được.

Mới tuần trước nửa đêm đang ngủ, nhờ con chó đánh hơi báo động nên lão Chột thoát được một cuộc ruồng bố của công an. Lão và con Vàng phải trốn chui nhủi ở mấy ngõ hẻm khác nhau, đợi đến khi trời sáng mới dám đi ra. Lão không lo gì cho bản thân mà chỉ lo cho con chó. Hôm trước mấy tay công an đã hăm dọa nếu bắt được lão và con chó ngủ lang thang ở vỉa hè thì sẽ bắt nhốt lão, còn con chó thì sẽ bị đưa đi sở thú y, nơi con chó chắc chắn sẽ bị giết chết.

******

- "Nhảy! Nhảy! Nhảy đi Vàng"

- "Lăn! Lăn! Cho Ba coi. Vàng! Con giỏi quá! Lăn! Lăn đi con!"

- "Đứng lên! Đứng lên! Vàng. Giỏi. Giỏi!" …

Lão Chột ra lệnh và con chó làm theo những mệnh lệnh đó một cách khéo léo. Khi thì nó lăn tròn qua phải, rồi qua trái. Khi thì nó nhảy lên. Những người đi đường đứng xem vỗ tay tán thưởng. Một vài du khách ngoại quốc chụp hình và quay phim con chó. Lão Chột hứng chí ra lệnh thêm cho con vật làm trò. Khi diễn xong hết mọi trò, lão ra lệnh:

- " Đứng lên! Đứng lên đi Vàng . Giỏi! Giỏi! "

- " Đi chào bà con đi con. Đi chào bà con đi. Giỏi! Giỏi! "

Con chó nghe lệnh, đứng thẳng người bằng hai chân sau, hai chân trước bê một cái thau nhựa nhỏ đi vòng vòng. Khán giả vỗ tay khen ngợi con vật thông minh và bỏ tiền vào thau nhựa. Con chó sủa lên hai tiếng:"Gâu! Gâu!" nhỏ như cám ơn càng làm cho khán giả đang xem thích thú. Nhiều đứa con nít reo lên:

- "Con chó này khôn quá!"

Trong khi người đi đường còn đang xem con chó làm trò và một vài du khách ngoại quốc tiếp tục chụp hình thì hai tên công an bỗng từ đâu rẽ đám đông tiến vào. Một tên chỉ vào mặt lão Chột mắng:

- "Tại sao nói hoài mà mày cũng còn đến đây ăn xin vậy! Mày muốn tao bắt không?"

Lão Chột cũng không vừa, sừng sộ lại:

- "Tui đi xin chứ có phạm luật lệ gì mà đòi bắt? Ỷ làm công an rồi muốn bắt ai thì bắt hả? Thằng này hỏng có ngán đâu."

Tên Công an còn lại chỉ vào mặt lão hầm hừ:

- "Mày còn muốn nói ngang phải không? Muốn thì tao bắt liền cho coi."

Hắn quay qua chỉ con chó, nói tiếp:

- "Còn con chó này, sao mày không xiềng nó lại? Tao kêu xe bắt chó tới bắt liền bây giờ? Mày thả lỏng nó như vậy, rủi nó cắn người ta sao mậy?

Gã công an quát vào mặt lão Chột:

- "Dẹp chỗ này đi liền! Tao nói lần này là lần chót đó nghe. Tụi tao còn bắt gặp mày ở khu này là đứng có trách là tao không nói trước đó."

Lão Chột bực tức lắm khi thấy đám đông giải tán dần trước sự xuất hiện của hai tên Công an. Ai mà không bực khi nồi cơm của mình đang ăn bị người khác tới đá đổ. Lão cự lại hai tên công an:

- "Tụi mày có giỏi thì bắn vô đầu tao một viên chết mẹ cho rồi. Tao đói khổ đi ăn xin chứ có làm gì mà tụi bây cứ xua đuổi hoài…"

Con Vàng nhìn hai tên công an, nhe răng lên tiếng gầm gừ trong cổ họng. Chỉ cần hai tên công an đụng tới lão Chột hoặc lão ra dấu hiệu là nó nhào vào "độp" hai tên này liền. Sợ con chó làm ẩu sinh chuyện lớn, nên cuối cùng lão Chột phải lên tiếng la nó và nhặt vội cái thau nhựa nhỏ rồi ra lệnh con chó đi theo mình.

Hai tên công an còn nói vói theo:

- "Khôn hồn thì đừng ăn xin ở đây nữa nghe mậy. Lần tới không có chuyện để cho tụi bây đi dễ dàng vậy đâu. Cái đồ gì đâu lì lợm không chịu được."

Những chuyện bị đuổi như thế này xảy ra gần như mỗi ngày. Có hôm đang ăn xin thì có xe chở đầy công an bố ráp và bắt những người buôn bán hàng rong, hành khất trên lòng lề đường gây nên một cảnh náo nhiệt cả một đoạn đường. Cũng may những lần như vậy nhờ náo động ở phía trên và mấy chị em gánh hàng rong chạy trốn công an thông báo lẫn nhau, nên hai thấy trò lão nhanh chân trốn thoát được hết.

Cả tuần vừa qua chiến dịch đuổi bắt những người buôn bán hàng rong và hành khất trên khắp đường phố quanh trung tâm Saigon lại càng xiết chặt hơn nhiều. Công an đi tuần liên tục, nên lão Chột không kiếm ăn được như trước. Khổ nỗi những con đường chính này là nơi lão Chột dễ xin được tiền vì nhiều người qua lại và nhất là có nhiều du khách ngoại quốc. Ba ngày nay hai cha con lão đói đến nỗi phải lục tìm trong những đống rác chút ít thực phẩm thừa mứa người ta đã vứt bỏ. Trước đây người hành khất khốn khổ này đã từng làm như vậy nhiều lần rồi. Lão chẳng màng lắm đến bản thân lão. Nhưng bây giờ ngoài lão ra còn có con Vàng nữa. Nhìn con vật thương yêu của mình đói, lão đau lòng lắm nhưng không biết phải làm sao. Lão đã thử đi xin ở những con đường khác nhưng cả ngày chẳng kiếm chác gì khá cả!! Chỉ có ở khu Nguyễn Huệ, Lê Lợi hoặc chung quanh chợ Saigon là nơi dễ xin ăn nhất thì lại bị cấm đoán, xua đuổi! Thiệt là bực bội!

Sáng hôm nay thức dậy. Lão vuốt ve con vật và thầm thì với nó:

- "Con ráng nghe Vàng. Hôm nay cha con mình ráng kiếm tiền rồi Ba sẽ mua cho con ăn no nghe. Ba biết con đói mấy bữa nay rồi. Ba cũng vậy. Thôi ráng nghe con."

Con vật ngoắc đuôi, liếm liếm lên tay chủ và kêu lên những tiếng khe khẽ như cảm thông với người chủ nghèo nàn của mình. Lão Chột nhủ thầm:

- "Hôm nay bằng mọi giá mình phải ra Saigon kiếm tiền. Bữa nay phải mua cái gì cho con Vàng ăn no. Không thể để nó đói hoài như vầy được."

Con mắt còn lại của lão sáng lên biểu lộ sự cương quyết. Lão vỗ nhẹ vào đầu con vật:

- "Bữa nay con ráng diễn trò cho hay nghe con. Kiếm vừa đủ tiền là Ba sẽ mua đồ ăn cho con ăn liền. Thôi bây giờ cha con mình đi nghe."

Con vật kêu lên "ư ử" khe khẽ và vẫy đuôi như dấu hiệu đã sẵn sàng.

*****

Lão Chột khập khiểng đang đi sau con Vàng nhận tiền cho của khách bộ hành sau một màn biểu diễn của con vật thì nghe tiếng còi tu huýt vang lên và tiếng chân người rượt đuổi nhau chạy thình thịch ở hai đầu đường.

- Công an bố ráp. Chạy đi ! Chạy đi. Có xe tới xúc nữa kìa.

Mấy người gánh hàng rong vừa gánh hàng chạy vừa la lên báo động cho những người khác. Lão Chột cũng hoảng hồn lên tiếng gọi con Vàng chạy theo mình. Lần bố ráp này, công an đã sắp đặt từ nhiều đoạn khác nhau trên đường Lê Lợi cùng một lúc lùa vào chính giữa nên những người mua gánh bán bưng ở vỉa hè và những người hành khất trên con đường này đa số đều bị kẹt hết. Một số hành khất và người bán hàng rong đã bị công an bắt được vứt lên xe cùng những thúng gánh ngổn ngang. Nhiều món bánh trái của người bán bị xô đẩy rơi vãi đầy đường. Tiếng la hét, chưởi rủa ầm ỉ… náo động cả một khoảng đường Lê Lợi, khiến người dân đi đường và du khách ngoại quốc cũng phải sợ hãi tránh né đi hết. Lão Chột lúng túng không biết chạy ngả nào vì hai đầu đường đều bị chặn hết. Có hai tên công an đang chạy tới phía lão, tay chỉ trỏ la hét. Lão Chột lính quính gọi con chó rồi chạy băng ngang qua bên kia đường. Con chó phóng ngay theo sau.

- Rầm! kkéttt.

- Ối! Chết tôi rồi.

- Oẳng … Oẳng…Oẳng.

Tiếng kêu đau đớn của lão Chột và con chó hòa theo tiếng la gọi thất thanh của nhiều người đi đường cùng một lúc:

- Chết rồi! Xe đụng ông già ăn mày và con chó rồi.

Sự việc xảy ra nhanh quá. Ngay sau khi một chiếc xe vận tải đụng lão Chột và con chó văng ra. Mấy chiếc xe gắn máy chạy gần đó tránh không kịp nên cũng cán lên mình lão hành khất và con vật đáng thương. Một vài người dừng xe chạy lại. Có người la lên:

- "Ai có điện thoại gọi dùm xe cứu thương đi."

Miệng lão Chột ứa đầy máu. Lão nằm yên, không nhúc nhích gì được:

- "Vàng! Vàng! Con tôi đâu rồi"

Một người cúi sát xuống hỏi:

- "Ông nói gì? Tôi không nghe rõ."

Lão nắm tay người đi đường, giọng thều thào ngắt quãng:

- "Con tôi… đâu rồi? Làm ơn.. đưa dùm… con Vàng đến… với tôi"

- "Con ông là ai. Tên gì? Nó ở đâu?"

- "Nó là… con Vàng. Con… chó… của tôi" - Miệng lão tiếp tục ứa máu trong khi nói –

Con chó bị thương nặng nằm dãy dụa cách đó khoảng chừng hai, ba bước nhưng lão Chột không thể xoay người được để nhìn nó. Lão nằm yên bất động, con mắt còn lại mở trừng trừng như cố tìm kiếm đâu đó hình ảnh con vật thân yêu. Lão nghe tiếng con vật kêu la "Oẳng… Oẳng… " gần đó mà lòng đau như cắt. Tiếng kêu của con vật càng lúc càng yếu dần làm lão càng bấn loạn thêm lên. Tuy không nhúc nhích được và miệng trào đầy máu, nhưng lão Chột không cảm thấy đau đớn. Đầu óc lão chỉ quan tâm tới con chó. Với một giọng khàn đục, lần đầu tiên người hành khất già cất tiếng van xin người đi đường một điều không phải là tiền bạc hoặc thức ăn:

- "Xin ông bà... làm ơn làm phước… cho tôi gặp con tôi... Tôi biết… nó ở gần đây... Làm ơn… bế nó... lại dùm… tôi. Xin ông bà…"

Lão vừa van xin, vừa mếu máo khóc. Máu từ trong khoé miệng vẫn trào ra không ngớt.

Có tiếng một người nào đó la lên:

- "Có ai gọi xe cứu thương chưa? Trời ơi! Ông già bị thương nặng quá!".

- "Rồi! Tôi đã gọi rồi. Xe cấp cứu đang trên đường tới ngay bây giờ."

Mấy gã công an bên kia đường lúc này cũng đã chạy tới giải tán đám đông. Một gã là công an khu vực ở đây và thường hay xua đuổi đám bán hàng rong, hành khất… cúi xuống nhìn lão Chột. Trong ánh mắt gã công an lúc đó toát ra một tia thương xót khác hẳn mọi ngày: Ánh mắt của một con người đang nhìn đồng loại của mình đang dãy chết! Gã ân hận lắm khi nhìn thấy người hành khất đang nằm bất động trong vũng máu. Lão Chột rên rỉ khi nhìn thấy gã công an cúi xuống trước mặt mình:

- "Xin đừng… đuổi tôi! Để tôi… gặp con tôi. Xin làm ơn… đừng đuổi cha con tôi nữa." Lão lại khóc. Giọt nước mắt trào ra pha lẫn chút máu làm con mắt còn lại nhạt nhòa.

Gã công an cúi xuống nói với lão Chột, giọng pha chút nghẹn ngào đầy thành tâm:

- "Ông nằm yên đi. Xe cứu thương sắp đến. Tôi xin lỗi. Ông chạy làm chi cho khổ vậy. Tôi chỉ đuổi ông đi thôi, cứ từ từ đi cũng đâu có sao. Chạy làm chi vậy. Chẳng qua tôi chỉ làm bổn phận thôi... Xin ông tha lỗi cho tôi."

Không để ý gì tới lời của gã công an, lão Chột cứ tiếp tục thều thào, van xin:

- "Con Vàng… của tôi đâu. Cho tôi… gặp con chó… của tôi. Xin ông làm ơn…"

Con chó đang nằm hấp hối gần đó, miệng trào máu, lưỡi thè dài ra. Nó không còn kêu la " Oẳng Oẳng" được nữa mà chỉ nằm yên đó, thỉnh thoảng toàn thân co giật lên như bị điện giật. Đầu nó hướng về lão Chột đang nằm. Nó nhìn thấy chủ, muốn lết tới mà không làm được. Gã công an cúi xuống bế con chó lên, đặt vào cánh tay người hành khất khốn khổ. Con chó cố gắng rướn người lên liếm liếm vào mặt chủ của mình. Trên thân thể ỉu xìu của con vật sắp chết, người ta thấy cái đuôi nó ve vẩy nhẹ như mừng rỡ đã đến được bên chủ. Tuy không cử động được, nhưng lão biết là gã công an đã giúp đặt con chó vào lòng mình. Lão nhìn gã công an với ánh mắt biết ơn. Mấy ngón tay vuốt nhẹ trên lưng con vật:

- "Vàng… Con ngoan... Con yêu quí… của ba. Con có… sao không?"

Con chó rên ư ử trong cổ họng như cố trả lời chủ, tiếng rên yếu dần… yếu dần… và cuối cùng đầu nó ngả qua một bên. Nó đã chết! Lão Chột vẫn tiếp tục thì thầm những câu gì không rõ. Con mắt còn lại mở trừng trừng nhìn lên khoảng không trên cao như cố níu kéo một bóng hình xa xôi nào đó. Bỗng lão thấy dáng vợ lão đang ôm đứa con trai từ trên không giơ tay vẫy vẫy. Hình ảnh giống như trong những giấc mơ lão thường thấy. Lão cố gọi tên vợ con mà sao không gọi được. Cổ họng bị nghẹn cứng như có vật gì bít lại. Rồi lão thấy hình ảnh của vợ con cứ khi ẩn khi hiện qua những vật gì đang phe phẩy trên cao. Nước mắt lão lại trào ra pha lẫn máu trong con mắt còn lại khiến mọi vật trở thành đỏ dần, đỏ dần… trước khi tất cả thình lình phủ xuống một màu đen sẩm…

Trên cao những lá cờ đỏ vẫn vô tư phe phẩy trong gió mát buổi sáng, xen lẫn mấy tấm biểu ngữ với những giòng chữ thật đẹp, kêu gọi mọi người thi đua thực hiện Chiến Dịch Xóa Đói Giảm Nghèo!

Người lính ở lại sau trận chiến.

Tác giả: Vĩnh Khanh

,

    Màn đêm từ từ phủ xuống ngọn đồi 1062 nơi trước đây cây cối um tùm, nay trông như một ngọn đồi trọc. Ngoài một vài thân cây bị gãy ngang vì bom đạn đứng chơ vơ, còn lại thì hầu như tất cả đều trở thành bình địa. Rải rác một vài dây khói sót lại trong những giao thông hào đã sụp đổ vì đạn pháo kích và chen lẫn giữa mùi tanh tưởi của máu tươi, người ta còn ngửi được mùi khét lẹt của thịt người bị cháy gây nên một cảm giác buồn nôn không tránh được cho những ai chưa quen với mùi vị chiến tranh này. Thỉnh thoảng có tiếng kêu khàn đục của một vài con cú đi ăn đêm cất lên như muốn làm tăng thêm vẻ ảm đạm thê lương của một bãi chiến trường khốc liệt vừa xảy ra nơi đây.

                                     *****

Hắn tỉnh dậy, đầu choáng váng và nhức như búa bổ. Trong một thoáng hắn chưa nhận thức mình đang ở đâu và chuyện gì đã xảy ra? Khắp thân người bụi đất phủ đầy, cả trong miệng cũng dính đầy cát. Vừa dùng lưỡi lừa đất cát phun ra khỏi miệng, hắn vừa tìm cách cựa quậy để ngoi ra khỏi mảng đất đang đè nặng trên mình nhưng toàn thân ê ẩm, tay chân cứng đơ không nhúc nhích được chút nào cả. Chung quanh tối đen, hắn không thấy gì ngoài cảm giác đang nằm trong đống đất cát ngổn ngang. "Hay là mình đã chết rồi?" Ý nghĩ đó làm hắn lạnh mình. Cố nhúc nhích thân người thì cảm thấy đau đớn vô cùng. "Như vậy là mình chưa chết. Còn biết đau là còn sống." Hắn nằm im cố gắng nhớ lại chuyện gì đã xảy ra. Phải rồi! Hắn nhớ lại rồi. Lúc chiều, sau nhiều đợt tấn công bị đẩy lui, bộ đội CS Bắc Việt đã thí quân với chiến thuật biển người xông lên tràn ngập các phòng tuyến nơi đơn vị hắn được lệnh trấn thủ. Mặc cho hàng loạt bộ đội đi đầu lớp lớp ngã xuống dưới làn mưa đạn phòng thủ, quân địch vẫn xua quân ào ạt tiến lên như điên cuồng. Đại đội hắn đã cố thủ và chống cự kịch liệt với quân địch, nhưng quân CS tràn lên như nước vở bờ, đâu đâu cũng có tiếng hò hét xung phong của địch quân. Phòng tuyến đã bị địch phá thủng không thể nào chống đỡ nỗi nữa. Cuối cùng Đại Đội Trưởng của hắn quyết định gọi pháo binh bắn T.O.T ngay lên đầu để cùng chết với địch quân. Không bao lâu sau, hàng loạt tiếng nổ đinh tai điếc óc phủ chụp xuống… cảm giác cuối cùng hắn còn nhận thức được là cả thân người bị nhấc bổng lên cao… sau đó không còn biết gì nữa.

Sau một lúc nằm im, hai mắt quen dần với bóng tối, hắn có thể nhìn thấy lờ mờ chung quanh nhưng cũng không nhận biết được mình đang nằm ở đâu?

- "Phải tìm cách ra khỏi nơi này rồi mới tính được"

Hắn tự nhủ và ráng cựa quậy hai chân nhưng một cảm giác đau khủng khiếp nổi lên khi hắn vừa định kéo đôi chân. Vẫn không nhúc nhích gì được. Hình như hai chân đã bị gãy! Hắn than thầm: "Mẹ kiếp! Lần này bị nặng thiệt rồi!". Thử co duổi mấy đầu ngón tay thì cảm giác động đậy của mấy ngón tay dưới lớp đất cát cho hắn biết hai bàn tay còn cử động được. Hình như sau khi bị hất tung lên, hắn rơi vào một giao thông hào đã bị sụp đổ nào đó, vì chung quanh tối đen như mực mặc dù hắn vẫn nhìn thấy trên vòm trời cao đầy sao lấp lánh. Với một cố gắng hết sức, hắn rút được hai bàn tay ra khỏi lớp đất cát. Giơ tay lên vuốt bụi đất phủ trên mặt, hắn cảm thấy ướt ướt ở mặt. Không cần đợi lâu mới biết được đó là máu. Phải rồi! hai cánh tay hắn đầy máu pha lẩn bụi đất làm thành một chất nhảo lợn cợn bết vào mặt gây cho hắn một cảm giác khó chịu. Hắn cố la to lên kêu cứu, nhưng âm thanh bị nghẹn lại phát ra những tiếng khàn đục vô nghĩa. Khát nước! Bây giờ hắn mới cảm nhận được cổ họng của mình đắng nghét và khô khốc. Cơn khát thật kinh khủng. Hắn ráng cử động hai bàn tay mò mẩm tìm bi đông nước thường đeo chung với dây ba chạc ở bên hông nhưng chỉ còn có cái vỏ bằng vải bọc bên ngoài, bi đông nước đã rơi đâu mất! Cơn khát cháy cổ họng và ý chí cầu sống thôi thúc hắn bằng mọi cách phải ra khỏi giao thông hào bị lấp này đi tìm nước uống và tìm người cứu. Nằm đây hoài thì chỉ có nước chờ chết. Với ý nghĩ đó, hắn bắt đầu dùng hai tay cào bới, hất đất cát tìm chổ trống bò ra.

Tuy nhiên với thân người bị đang bị thương nặng lại bị phủ đầy đất cát như vậy, không phải là một điều dễ để có thể thoát ra được khỏi giao thông hào bị sụp đổ này. Bỗng tay hắn chạm vào một vật mà không cần phải mò mẩm lâu mới biết: Đó là một xác người. Không thể nhận dạng được nhưng hắn biết đó là xác của đồng đội vì tay hắn chạm vào cái nón sắt của anh ta còn đang đội trên đầu. Hắn phát giác ra thêm một xác chết nữa cũng ngay kế bên. Không có thì giờ suy nghĩ nhiều, hắn tiếp tục tìm trên thi thể xác chết của đồng đội và cuối cùng tìm được vật hắn muốn tìm: Bình bi đông nước. Những ngụm nước lúc này quả thật đúng như nước phép cam lồ giúp hắn tỉnh táo và khoẻ lại rất nhiều.

Sau một lúc bươi móc đất cát, mặc dù đau thấu xương nhưng hắn đã có thể nhích người lên tựa lưng vào vách giao thông hào nghỉ mệt. Không biết mấy giờ rồi. Ngửa mặt nhìn lên bầu trời đầy sao chứng tỏ một đêm thật đẹp nếu như hắn đang ở một nơi nào khác, không phải nằm bị thương chết dí ở nơi khốn kiếp này. Đêm lạnh dần khi sương xuống càng lúc càng nhiều. Những ánh sao trời lấp lánh khi nảy qua màn sương đêm bây giờ đã bị nhoè nhoẹt đi. Hắn nằm im, mùi hơi đất ẩm thấp xông lên quyện với mùi cháy khét của da thịt người chết làm cho hắn muốn nôn mửa. Bỗng dưng hắn thấy thèm một hơi thuốc. Phải rồi! Nếu có được một hơi thuốc vào lúc này thì hay biết mấy. Những hơi thuốc lúc này chắc chắn làm ấm lòng và vơi bớt nỗi cô đơn nhiều lắm. Nhiều phiên gác đêm, mặc dù chỉ ôm súng lẽ loi một mình với rừng núi trăng sao. Hắn vẫn không cảm thấy cô đơn và thê luơng như lần này. Ít ra những lúc đó các chiến hữu của hắn vẫn ở gần đâu đó và sẵn sàng tiếp ứng với hắn khi đụng chuyện. Nhưng lần này, giữa cảnh đổ nát của một bãi chiến trường đã tàn cuộc không còn ai bên cạnh, chung quanh chỉ là những xác chết bất động, cảm giác lẻ loi lần này mới ghê gớm làm sao!

Hắn chợt nhớ về đứa em trai ở nhà giờ này. Chắc nó đang ngủ say. Nghĩ tới đứa em này, hắn không khỏi cảm thấy đau lòng. Cha mẹ chết hết, chỉ còn hai anh em đùm bọc với nhau. Hắn đã cố gắng hết sức để giúp đở em có thể tiếp tục học đến nơi đến chốn. Mỗi tháng với tiền lương lính ít ỏi, hắn chỉ dám tiêu xài những gì thật cần thiết, còn lại thì gởi hết về giúp em ăn học. Nay bị thương như vầy. Không biết ở nhà em hắn sẽ ra sao? Hai tháng trước, hắn viết thơ báo cho em biết rằng Đại Đội Trưởng đã hứa sau khi đơn vị trở về hậu cứ kỳ này, hắn sẽ được đi phép. Đứa em rất mừng rỡ với tin này, viết thư trả lời bày tỏ lòng nôn nóng mong chờ ngày hắn về. Lâu quá rồi hai anh em đã không có dịp gặp nhau còn gì nữa! Chiến cuộc lan tràn càng lúc càng trở nên khốc liệt, nên những phép tắc cũng bị hạn chế hết! Nghĩ tới đứa em và nghĩ tới hoàn cảnh bị thương hiện tại với lời hứa sắp được về phép… hắn không khỏi thở dài!

Đang nghĩ ngợi lang mang, bỗng có tiếng chim cú đi ăn đêm kêu lên ở gần đâu đó lôi hắn trở về với thực tế. Hắn tự nhủ phải tìm mọi cách ra khỏi giao thông hào này chứ không thể nằm hoài ở đây được. Ý nghĩ nằm chết ở đây không một ai hay biết khiến hắn hoảng sợ. Hắn tiếp tục dùng tay trườn người ngoi lên. Hai chân không thể điều khiển được nên mọi cử động của hắn giờ này hoàn toàn nhờ vào hai cánh tay. Lần mò theo bờ vách của giao thông hào, hắn bám chặt vào những hốc đá cố sức kéo người lên. Mặc cho bên hông và trước bụng thỉnh thoảng đau nhói lên như có ai dùng dao nhọn đâm vào, hắn tiếp tục trườn người lên từng tấc một… Cuối cùng với những nổ lực phi thường hắn cũng vượt ra khỏi giao thông hào đổ nát đó lên được mặt đất. Mệt đuối và đau đớn khắp toàn thân khiến hắn cơ hồ xuýt ngất đi. Có lẽ vết thương bị động mạnh nên máu ra nhiều quá khiến hắn lại khát nước nữa. Biết rằng bị thương mà uống nhiều nước quá không tốt, nhưng hắn không thể cưỡng lại được với cơn khát như đang xé cổ họng. Hắn ngửa cổ uống liền mấy ngụm nước rồi gắng gượng chống tay ngồi dậy tựa lưng vào một bờ đất cao, hai chân lại bị động đến nỗi hắn phải bật lên tiếng la đau đớn. Ngồi một lúc cho cơn đau dịu lại, hắn lấy tay sờ soạng thăm dò những vết thương trên người. Hắn cảm thấy tay ướt át khi đụng vào vết thương trước bụng. Bên hông phải cũng bị thương, máu tươm ra ướt hết một khoảng áo. Cố lê hai chân lên nhưng không nhúc nhích điều khiển gì được, chắc là đã bị gãy. Cũng may trên đầu còn cái nón sắt che chở nên không bị thương.

Một vài tiếng súng vang đến từ phía bên kia ngọn đồi khiến hắn giật mình ngó lên nhìn dáo dác. Chắc chỉ là súng của lính gác bắn vào những điểm nghi ngờ nào đó trong bóng đêm vì sau đó không có gì xảy ra thêm. Mọi vật im ắng trở lại. Không lâu sau đó, một chiếc dù trái sáng lóe trên nền trời toả đều xuống một ánh sánh vàng dịu. Qua ánh sáng hoả châu, khung cảnh chung quanh quả thật thê lương vô cùng. Không biết cảnh thật sự ở địa ngục như thế nào? Nhưng đối với hắn khung cảnh ở đây mới đúng là một địa ngục. Rõ ràng những gì hắn thấy trước mắt không phải là nơi dành cho sự sống. Cảnh hoàng tàn đổ nát chen lẫn những xác người nằm khắp nơi trên mặt đất, cộng với mùi tanh tưởi của máu và mùi thịt người cháy khét chung quanh, thật đúng là một cảnh địa ngục nơi trần gian. Vậy mà hắn phải chịu trận ở đây với những vết thương nặng nề trên người!!

Lợi dụng ánh sáng hỏa châu, hắn cố gắng ngồi dậy xem xét lại những vết thương trên mình. Hắn lết lại gần một xác chết gần nhất. Không nhận diện rõ được mặt nhưng hắn cũng có thể biết được đó là xác một người lính Dù qua trang bị của người chết. Vừa lần mò tìm khắp trên mình người chết, hắn vừa van vái thầm:

- "Anh đã đền nợ nước rồi thì xin hãy yên nghĩ. Cầu xin linh hồn anh sớm siêu thoát và có linh thiêng thì xin giúp tôi về được đơn vị. Anh bây giờ không còn cần những vật trên người nữa, nhưng có thể giúp cho tôi trong lúc này. Xin tha thứ cho tôi.".

Hắn tìm được băng cá nhân của người chết, cộng thêm phần băng cá nhân của mình, hắn lần mò băng bó lại vết thương. Hắn cũng tìm được mấy nhánh cây nhỏ và với một cố gắng phi thường, hắn tháo dây giày mấy người lính chết nằm gần đó, rồi dùng dây giày bó hai chân mình với những nhánh cây nhỏ này. Làm xong việc băng bó này hắn mệt muốn ngất, toàn thân dã dượi, hắn chỉ biết ngả người tựa vào một bờ đất nằm yên một lúc thật lâu nghỉ mệt. Chung quanh vẫn im ắng đến rợn người, chỉ có tiếng côn trùng rỉ rả một điệu nhạc buồn đơn điệu làm khung cảnh càng có vẻ thê lương hơn. Có lẽ máu ra nhiều quá nên cơn khát lại đến hành hạ nữa. Lần này cẩn thận hắn chỉ dám hớp một ngụm nhỏ và ngậm trong miệng để nước thấm từ từ vào cổ họng cho đỡ khát chứ không dám uống nhiều như trước. Hắn lại lục tìm trong túi của mấy xác lính bên cạnh. Thật may, có thuốc lá và cả một bật lửa.

Nằm tựa lưng vào bờ đất nhìn lên bầu trời, rít những hơi thuốc lá đầu tiên. Cảm giác khoan khoái, dễ chịu giúp hắn phần nào quên đi hoàn cảnh khó khăn hiện tại. Vừa hút thuốc vừa suy nghĩ tìm cách bò ngược lên đỉnh đồi về với đơn vị. Bỗng có tiếng rên rỉ đau đớn phát ra ở gần đâu đó làm hắn giật mình. Trong đêm khuya tiếng rên rỉ đứt quảng nghe như tiếng ma quỉ từ dưới mộ sâu vọng lên:

- Ai bị thương kêu rên vậy? Có thể lên tiếng cho tôi biết anh đang ở đâu không?

Hắn vừa hỏi vừa cố gắng nhìn chung quanh ngay đúng lúc ánh hỏa châu phụt tắt, bóng tối thình lình bao phủ trở lại như có ai đó vừa trùm một bao bố lên đầu, khiến hắn không nhìn thấy gì nữa cả.

Tiếng rên rỉ im bặt một lúc rồi lại tiếp tục cất lên, lần này ngoài tiếng rên rỉ hắn còn nghe tiếng động như có vật gì đập đập dưới đất, cách nơi hắn ngồi không xa. Chắc người bị thương cố gắng gây tiếng động đế báo cho hắn biết vị trí của anh ta. Đang cố gắng định vị trí người bị thương đang nằm, bỗng một tiếng nổ "bụp" và một chiếc dù trái sáng khác xuất hiện lơ lửng trên nền trời. Không bỏ lỡ cơ hội, hắn quan sát thật kỷ hướng có tiếng đập tay dưới đất vừa rồi. Lần này hắn nhìn thấy phía ngay trước mặt, một bàn tay thò ra từ trong đống đổ nát, đang cố đập đập vào đất. Tiếng rên rỉ cũng phát ra từ chỗ đó.

Tưởng chỉ có một mình hắn sống sót giữa bãi chiến trường này, ai dè còn có người khác còn sống nữa. Cảm giác bớt lẻ loi và "đồng bệnh tương lân" thôi thúc hắn phải tìm cách giúp người bị nạn.

- Tôi thấy anh rồi. Nằm yên đó đi. Tôi sẽ tới.

Bằng những nổ lực hết sức, hắn lết thân mình từng chút một đến hướng người bị thương. Vừa lết hắn vừa cố nói cho người kia yên lòng:

- Cứ nằm yên nghe. Tôi sắp tới rồi.

Hắn nhích thân người từng chút một, thỉnh thoảng xuýt xoa đau khi vết thương bị động trong khi di chuyển. Người bên kia có lẽ nghe tiếng hắn, nên thôi không còn đập tay ra dấu trên mặt đất nữa, nhưng tiếng rên rỉ vẫn phát ra chứng tỏ anh ta đang đau đớn lắm. Khoảng cách từ chổ hắn đến người bị thương không xa, nhưng cũng phải mất một lúc lâu và nhiều lần dừng lại nghỉ mệt hắn mới lết được tới bên người đang nằm rên rỉ. Qua ánh sánh hoả châu, hắn có thể nhìn thấy một thân người bị vùi trong đống đất, chỉ chừa phần đầu và hai cánh tay thò ra ngoài. Có vẻ như anh ta bị thương rất nặng. Hắn lên tiếng:

- Cứ nằm im đó, tôi đến rồi. Để tôi tìm cách lôi anh ra. Nếu anh nghe tôi nói thì đập tay lên đất cho tôi biết.

Một cánh tay giơ lên đập đập xuống mặt đất như trả lời hắn.

- Tốt. Như vậy tôi sẽ cố gắng lôi anh ra đây.

Nhìn chung quanh, hắn tìm thấy một ba lô nằm lăn lóc gần đó. Nhích người kéo cái ba lô lại gần, hắn mừng rỡ khi tìm thấy cái xẻng cá nhân của lính thường dùng để đào giao thông hào hoặc hầm trú ẩn… Một cách khó khăn, hắn bắt đầu dùng xẻng bươi móc đất cát để lôi người bị thương ra. Hắn bất kể đau đớn mặc dù hai chân và bên hông đau nhói ở mỗi cử động quá sức, đầu óc chỉ đơn giản nghĩ bằng mọi cách phải cứu người bị kẹt trong mớ đất cát hổn độn này càng nhanh càng tốt, nếu chậm thì người đó sẽ chết. Ánh hoả châu lúc nãy đã tắt từ lúc nào khiến công việc đào bới càng thêm khó khăn, nhất là phải tránh đừng chạm mũi xẻng vào người nằm phía dưới. Sau khi bươi móc đất cát ra được khá nhiều, hắn nắm tay người bị thương và nói:

- Tôi sẽ lôi anh lên đây. Anh cố gắng trườn theo lên nghe .

Cả hai hì hục cả buổi, người thì ráng lôi kéo, kẻ thì cố nương theo đà kéo trườn lên… cuối cùng hắn cũng lôi được người bị thương lên phía trên. Đến đây thì hắn cảm thấy đầu óc choáng váng mệt muốn ngất, phải ngả ngửa ra đất nằm thở, nhưng trong bụng cảm thấy hài lòng vì đã lôi được người bị thương ra khỏi mớ đất cát hổn độn đó.

Đầu óc vừa tỉnh táo lại một chút, hắn chợt nhận ra kể từ khi kéo người bị nạn ra khỏi chỗ bị chôn vùi, hắn không nghe tiếng rên nữa. Không biết người đó còn sống hay không.

- Này anh! Có nghe tôi nói không? Lên tiếng cho tôi biết đi.

Không có tiếng trả lời, cũng không có tiếng đập tay trên mặt đất. Có lẽ người đó đã chết hoặc bị ngất xỉu đi rồi? Hắn cố gắng xoay người lại, trời tối quá hắn phải đưa tay sờ soạng cố tìm hiểu xem người vừa được hắn lôi lên còn sống hay đã chết. Thêm một chiếc dù chiếu sáng nữa vừa được bắn lên, giúp hắn nhìn rõ được người bị thương bên cạnh. Bỗng như có một luồng điện chạy dọc theo xương sống làm hắn rợn cả người. Qua bộ quân phục của người bị thương nặng hắn vừa giúp kéo ra khỏi đống đất cát, hắn nhận ra đó là một bộ đội CS Bắc Việt. Lúc nãy đầu óc tập trung vào việc cứu người và chỉ nắm hai cánh tay của người đó khi lôi lên nên hắn không để ý đó là đồng đội hay kẻ thù? Với sự phát hiện này, phản ứng tự nhiên của một người lính khi đối diện với kẻ thù khiến hắn tự động giơ cái xẻng lên cao định bổ một nhát xuống gương mặt của tên bộ đội. Qua ánh sáng vàng vọt của hoả châu, người lính CS Bắc Việt nằm yên trên mặt đất không nhúch nhích, cũng không có một sự kháng cự nào cả… Hình như tên bộ đội đã chết rồi. Hắn hạ cái xẻng xuống, ngồi tựa lưng vào bờ đất, tay bụm lên vết thương bên hông vì cử động khi nảy khiến vết thương đau nhói lên một cách khủng khiếp.

Nhìn tên bộ đội nằm bất động rồi nhìn lên cánh dù trái sáng đong đưa trên cao, hắn tự hỏi không biết mấy giờ rồi? Khái niệm thời gian đối với hắn đã lệch lạc hết ở nơi chết tiệc này. Tuy đầu óc hoang mang mệt mỏi, nhưng hắn không cho phép mình nghỉ ngơi lâu. Bằng mọi cách phải bò lên đỉnh đồi nơi đơn vị của hắn đóng giữ mấy ngày nay, lòng thầm hy vọng đơn vị vẫn còn đó. Khi hắn bắt đầu trườn người đi thì tên bộ đội lại cất tiếng rên rỉ. Giữa bãi chiến trường hoang vắng, tiếng rên đứt quảng trở thành một âm thanh nghe thật kỳ quái:

- "Té ra mày còn sống hả?"

Hắn lẩm bẩm một mình và chụp vội cái xẻng, quay qua định bổ một nhát giết chết tên bộ đội.

- "X…i…n…đ…ừ…ừ..g..g…"

Dưới ánh sáng hỏa châu, tên bộ đội nằm bất động trên mặt đất, gương mặt đang ngước lên nhìn hắn với một dáng vẽ trông thật thê thảm. Tuy không nhìn rõ được gương mặt của tên thương binh CS, nhưng cũng đủ để hắn nhận ra người nằm bên dưới còn rất trẻ. Hắn cảm nhận được gương mặt trẻ đó đang toát ra một sự sợ hãi vô cùng. Cánh tay đang giơ cái xẻng lên cao định giáng xuống, một lần nữa ngừng lại. Hắn hạ cái xẻng xuống một cách bất lực rồi ngồi qua một bên, hai tay bụm lên vết thương trong một phản xạ tự nhiên khi cơn đau nhói lại nổi lên theo từng hơi thở dồn dập. Vừa thở hổn hển một cách mệt nhọc, hắn vừa chán chường nhìn qua tên lính bộ đội bên cạnh:

- "Mình đang làm gì vậy? Tại sao không đập cho nó một nhát cho rồi. Chính vì tụi nó mà mình mới bị thương nặng nằm đây và các đồng đội bị chết nằm kia…. Tại sao mình lại không giết nó…"

- "Mình quả thật lẩm cẩm. Ở trên chiến trường hai phe đối nghịch với nhau, nếu đối diện với kẻ thù, mình không giết nó, thì nó sẽ giết mình. Thế thôi! Nếu đổi lại mình không còn hơi sức chiến đầu, chỉ nằm đó như nó bây giờ. Còn nó còn sức cầm súng, dao… thì nó giết mình không?.... Vậy thì còn gì phải suy nghĩ nữa. Chỉ một nhát là xong…."

Cuối cùng hắn lại thở dài:

- "Nhưng mà giết nó làm gì nữa chứ. Nó cũng sắp chết rồi. Dẫu sao nó cũng chỉ là một thằng lính như mình thôi. Đã là lính thì lệnh ra thế nào phải làm thế đó. Chưa chắc nó đã muốn bỏ nhà bỏ quê vào tận trong Nam này để rồi bỏ xác tại đây?? Có trách là trách chủ nghĩa CS, những tên đầu sỏ ở miền Bắc đã khởi động chiến tranh và muốn lấn chiếm lãnh thổ của miền Nam….."

Tất cả những suy nghĩ phức tạp đó cứ diễn đi diễn lại trong đầu óc của hắn. Đã mấy lần hắn cầm xẻng lên định bổ xuống đầu tên bộ đội, nhưng không lần nào hắn có thể làm chuyện đó được. Gương mặt còn rất trẻ của tên bộ đội trông thật tội nghiệp, khiến hắn không khỏi liên tưởng tới đứa em trai của hắn ở nhà…

Những lúc trước đây khi lâm trận, súng đạn ầm ầm hắn cứ thế bấm cò, cứ thế lao tới. Đầu óc không nghĩ ngợi gì nhiều ngoài việc phải thanh toán mục tiêu, phải diệt cho bằng được kẻ địch ở phía trước mặt. Nhưng bây giờ lại khác hẳn. Lúc này đối diện với hắn là một người bị thương gần chết, một người hoàn toàn không còn sức kháng cự. Lương tâm không cho phép hắn ra tay hạ sát một người đang nằm chờ chết như vậy được, cho dù người đó là kẻ thù của hắn đi nữa. Vả lại, đơn vị Dù của hắn khi chiến đấu thì chiến đấu hết mình, không chùn bước trước bất cứ kẻ thù nào và sẵn sàng xông vào bất cứ trận địa nào khi được lệnh trên giao phó. Tuy nhiên khi kẻ thù đã không còn sức chiến đấu và sa cơ thất thế. Những người lính Mủ Đỏ sẵn sàng giúp đở họ. Trước đây đã bao lần đơn vị hắn bắt được tù binh VC và lần nào cũng đối xử đúng chính sách đối với tù binh: cho ăn uống, săn sóc thuốc men đàng hoàng…. Lần này cho dù hoàn cảnh của hắn chẳng khá gì hơn tên bộ đội nằm kia, nhưng hắn vẫn không thể nào xuống tay được…

Hắn ngồi tựa lưng vào bờ đất, mắt dán chặt vào thân xác người bộ đội nằm dưới đất, trong tay thủ cái xẻng trong một vị thế phòng ngừa xem tên bộ đội có bất thần nhào lên tấn công hắn không? Trong khi đó vết thương trên bụng, bên hông và hai chân càng lúc càng đau nhói lên khủng khiếp.

- "Đ.M. vết thương lại chảy máu nữa rồi. Kiểu này chắc mình bỏ mạng ở đây quá."

Hắn mệt nhoài, mắt hoa lên và cảm thấy trước bụng lại ướt nhầy nhụa. Cuộn băng cá nhân hắn quấn ngang vết thương khi nảy không đủ sức cầm máu sau những cử động liên tục làm vết thương bị động mạnh! Hắn mệt và đuối sức dần... Cái xẻng trên tay hình như trở thành quá nặng đến nỗi hắn không còn đủ sức cầm trên tay nữa. Dưới ánh hoả châu, cảnh vật toàn bãi chiến trường có một vẻ gì giống như hình ảnh trong mấy phim kinh dị mà hắn có lần đã xem qua. Sự sống hình như không tồn tại ở nơi đây. Nếu có chăng chỉ là sự thoi thóp của những sinh vật đang chờ chết, trong đó có hắn và tên bộ đội đang nằm kia.

Mắt hắn càng lúc càng nặng trỉu, người đuối sức dần và cứ muốn gục xuống. Hắn thở dài, biết mình không đủ sức tìm về đơn vị được nữa. Nhìn tên bộ đội nằm yên bất động, thỉnh thoảng phát ra những tiếng rên "Grrrừừ, grrừừ" đứt quảng như tiếng gọi chiêu hồn của một loài ma quái từ cỏi âm ty nào vọng tới, hắn không khỏi chán nản, thương cảm lây cho chính bản thân mình. Đầu óc cứ lùng bùng, mơ hồ với những ý nghĩ không đâu ra đâu: Nếu đừng có chiến tranh, giờ này chắc hắn đang ở nhà săn sóc, hổ trợ cho đứa em trai ăn học thành tài và tên bộ đội này chắc cũng đang chung sống vui vẻ với những người thân của nó. Bỗng dưng hắn phải xa đứa em thân yêu duy nhất, cầm súng lao vào lửa đạn và bây giờ lại nằm đây với những vết thương chí tử trên người! Còn tên bộ đội kia, nó còn trẻ như vậy, chắc cũng còn cha mẹ, anh chị em khác. Lẽ ra giờ này nó đang ở chung yên vui với gia đình, vậy mà từ miền Bắc xa xôi lại phải đi vào tận miền Nam, để cuối cùng nằm chờ chết ở một nơi không ai hay biết gì cả! Như vậy thì giữa hắn và tên bộ đội kia có khác nhau gì đâu? Trong một thoáng, hắn bỗng thù ghét chiến tranh, thù ghét những cảnh chém giết, súng đạn… Hắn nguyền rủa bực dọc, cảm thấy thương cho bản thân mình và tên bộ đội đang nằm kia. Rốt cuộc cả hai người cũng chỉ là nạn nhân của chiến tranh mà thôi. Tuổi trẻ của hắn và tên bộ đội này, cũng như của biết bao thanh niên trai trẻ khác ở hai miền Nam Bắc đã bị vứt vào lò lửa hận thù và tất cả đã bị thiêu rụi hết trong một cuộc chiến tranh tương tàn, nồi da xáo thịt ngu xuẩn nhất!

                                        *****

Lại có tiếng rên rỉ từ tên bộ đội CS lôi hắn ra khỏi những ý nghĩ mông lung, trở về với thực tế. Hắn nhủ thầm chắc nó khát nước lắm.

- Mày muốn uống nước không?

Tuy hỏi nhưng hắn cũng tự động mở nắp bi đông nước và cẩn thận đặt vào miệng tên bộ đội:

- Nước đây. Uống từ từ từng chút cho đỡ khát thôi. Mày đang bị thương không nên uống nhiều nước.

Tên bộ đội uống xong nằm im có vẻ đỡ hơn trước. Tiếng rên rỉ cũng bớt dần.

- Này, mày có muốn hút thuốc không? Nếu muốn, thì đập tay xuống đất cho tao biết.

Câu hỏi của hắn vở trong bóng đêm và loảng tan trong cái im ắng rợn người. Qua mấy giây, hắn nghe tiếng vổ nhẹ trên mặt đất.

- À, thì ra mày cũng muốn hút thuốc. Được rồi. Đợi đấy.

Hắn nhích người sát qua tên bộ đội, không quên đặt cái xẻng vào vị trí dễ dàng chộp ngay nếu cần… đề phòng tên bộ đội bất thần nhào lên tấn công, mặc dù tên này đang nằm dài ra đó, không đủ sức nhấc cánh tay lên, nói gì đến chuyện có thể tấn công ai?

"Cẩn tắc vố áy náy".Hắn tặc lưỡi nhủ thầm rồi bật chiếc quẹt máy mồi điếu thuốc, xong kê sát chiếc quẹt máy gần mặt tên bộ đội để nhìn cho rõ. Qua ánh lửa nhỏ, đầu và mặt của tên lính CS Bắc Việt bê bết những máu và đất cát. Chỉ có đôi mắt đang nhìn hắn đầy vẻ biết ơn khi hắn từ từ gắn điếu thuốc vào môi cho anh ta.

- Hút đi. Đang bị thương thì rít từ từ không thôi bị sặc đó.

Tên bộ đội rít một hơi thuốc, thở khói ra có vẻ khoan khoái lắm. Qua ánh lửa chập chờn của chiếc quẹt máy. Hắn hài lòng nhìn tên bộ đội hút thuốc và cũng tự mồi cho mình một điếu.

- Mày thấy ngon không? Lúc này cũng may là còn có ít hơi thuốc ấm lòng. Nếu không chắc chán chết...

Hắn nói với tên bộ đội bị thương một cách trống không và bỗng dưng nhận ra trong câu nói và những hành động nãy giờ của mình đối với tên này không có một chút hận thù gì cả. Hắn tự chưởi thầm và tỏ vẻ bực bội với chính mình về điều này khi chợt nhớ lại vị trí đối nghịch của hai bên và cảm thấy có lỗi với các đồng đội đang nằm chết phơi xác rải rác chung quanh. Nhưng nghĩ tới người bộ đội nằm kế bên cũng sắp chết đến nơi, hắn tự an ủi "Nó bị thương nặng như vậy. Mình không giết thì nó cũng chết chắc thôi."

Ánh hỏa châu đã tắt từ lâu. Cảnh vật chỉ còn thấy lờ mờ nhờ những vì sao trên cao nhoè nhoẹt dần qua màn sương đêm rơi xuống càng lúc càng nhiều. Hai người thương binh ở hai phe đối nghịch giờ đây tựa bên nhau, im lặng hút thuốc giữa một bãi chiến trường đầy mùi tử khí chết chóc bao trùm khắp nơi. Hình ảnh trông vừa quái dị vừa có một nét nào đó thương tâm không tả được.

                                              *****

Trời chắc đã khuya lắm, sương xuống ướt hết chiếc áo trận khiến hắn phải cố thu người lại trong một tư thế co cụm cho đỡ lạnh. Vết thương lại bị động làm hắn không khỏi buột miệng xuýt xoa. Nhìn lên bầu trời đầy sao hắn nghĩ về đứa em của mình. Không biết giờ này nó đang làm gì? Hắn thở dài khi nghĩ tới lời hứa về phép lần này coi bộ khó thực hiện được rồi! Chưa bao giờ hắn cảm thấy bi quan và cô đơn đến như vậy! Hắn ước mong có được một người nào đó để có thể cùng trò chuyện, an ủi trong lúc này. Hình ảnh đứa em cứ lẩn quẩn hoài trong đầu khiến hắn vừa phiền muộn vừa bực bội trong lòng. Chợt nhận ra nảy giờ không nghe tiếng tên bộ đội rên nữa, chắc nó cũng đang lạnh lắm. Hắn đột nhiên sợ hãi một điều vô cớ:

- Nè! Mày còn sống không đó? Sao không nghe mày rên nữa vậy. Đừng có chết nghe. Lên tiếng cho tao nghe đi.

Không có tiếng rên, hoặc đập tay trả lời. Tên bộ đội vẫn nằm im không nhúch nhích. Hắn nắm vai người thương binh CS lắc mạnh:

- Nè! Mày lên tiếng đi. Có nghe tao nói không? Đừng có chết nghe…

Hắn lắng tay nghe. Qua một lúc lâu, vẫn im lặng... Rồi thình lình như từ cỏi âm ty ma quái nào đó trở về, tiếng rên rỉ lại phát ra rất yếu ớt. Có vẻ như tên bộ đội vừa tỉnh giấc dậy sau một lúc bị ngất đi. Hắn yên tâm khi cảm nhận được thân hình của người nằm kế bên run rẩy qua chiếc áo vì lạnh. Giơ tay kéo chiếc ba lô mà hắn đã tìm thấy chiếc xẻng hồi nảy đến gần, hắn hài lòng khi tìm được một chiếc mền cá nhân quân đội trong đó. Sau khi cẩn thận sửa lại thế ngồi tựa sát hơn vào tên bộ đội, rồi bằng tất cả sức lực còn lại hắn ráng phủ chiếc mền cá nhân trùm lên cả hai người.

- "Mẹ kiếp! Chắc lúc trước mình mắc nợ thằng này."

Hắn lẩm bẩm một mình như tự bào chữa cho hành động của mình. Làm được điều này thì đầu óc choáng váng, hắn có cảm giác như đang say rượu, hai mí mắt cứ xụp xuống như có vật gì nặng kéo xuống... Hắn chỉ kịp kéo một góc mền phủ kín lên vai thì không còn tự chủ được nữa. Đầu hắn gục xuống vai tên bộ đội trong một trạng thái hoàn toàn vô thức. Mọi cảm giác bỗng trở nên hụt hẩng, nhẹ tênh… và thình lình vụt xuống thật nhanh như thể hắn vừa từ trên cao bước hụt chân ngã nhào vào một trũng tối đen sâu thẳm nào đó.

Trên cao chiếc dù hoả châu cũng vừa rơi rụng những tàn đóm cuối cùng trước khi tắt lịm hẳn, trả lại bóng tối âm u bao trùm lên xác những người lính của cả hai bên nằm la liệt trên một khoảng đồi. Những người lính này sẽ không bao giờ còn hận thù nữa.

LÃO NĂM ĐẠO TỲ

Tác giả: Vĩnh Khanh

,

Hiếm khi người ta thấy lão tỉnh táo hoàn toàn. Gần như lúc nào người lão cũng phảng phất mùi rượu. Bất cứ ai nhìn thấy bộ dạng khập khiễng chân thấp chân cao từ xa của lão, cũng biết ngay là tướng đi của một người đang trong trạng thái là đà say. Hình như rượu là một cái gì gắn liền với đời sống lão. Thiếu nó không được. Mới sáng sớm, đã thấy lão xuất hiện ở quán hủ tiếu mì con Dùng đầu ngõ để làm một cái "xây chừng" rượu đế. Có người ái ngại nói với lão:

- Ông uống kiểu nầy hoài có ngày chết đó.

Lão chỉ ngước mắt nhìn xéo lên người vừa nói câu đó:

- Không uống còn chết lẹ hơn nữa, nhờ uống như vầy mà còn sống tới giờ này đây.

Nói xong lão nốc một hơi cạn sạch ly "xây chừng", rồi khập khiễng bước ra khỏi quán, trông có vẻ phấn chấn hơn trước. Mà quả thật, khi chưa có rượu người lão thấy uể oải, điệu bộ giống như con bệnh mới vừa hồi phục. Ấy thế mà sau khi đổ hết cái chất cay xè đó vào cổ họng, trông lão có phần linh hoạt hẳn lên. Lão uống rượu không khề khà năm điều mười chuyện bên dĩa đồ mồi thơm phức như những dân nhậu khác, mà chỉ ực gọn một cái là xong, khỏi tốn mồi miếc gì hết! Giống như người nghiện á phiện, hể tới cử là phải có thuốc hút hoặc chích vào cơ thể! Hay nói một cách khác cho có vẻ khá hơn: Rượu đối với lão giống như một phương thuốc thần diệu giúp ngăn chận sự hành hạ đau đớn mỗi khi bệnh nhân sắp lên cơn.

Từ khi còn rất nhỏ, ký ức tôi đã in đậm hình ảnh của lão trong đó rồi. Cả vùng Nguyễn Huỳnh Đức, cổng xe lửa số 6 Trương Minh Giảng vô tuốt trong khu lò heo, xóm Kiến Thiết Ngói Đỏ… ăn luồn từ đường Thiệu Trị ra thấu tới trường học Quốc Anh ngoài Công Lý… gần như ai cũng biết lão. Không rỏ lão sống ở đây từ hồi nào, vợ con thân nhân là ai… ngay cả tên thật của lão cũng không ai biết! Có mấy ông bà già kỳ cựu ở vùng này nhớ mang máng lão thứ Năm, nên người ta ai cũng quen gọi là lão Năm, kèm theo cái biệt danh rất ư là nghề nghiệp: "Năm Đạo Tỳ". Bởi vì những chuyện dính dáng tới mai táng, tẩn liệm người chết, hốt cốt, đào huyệt mả… ngay cả xây mồ, dựng bia… lão đều làm tuốt luốt.

Lão Năm Đạo Tỳ ở có một mình trong một căn nhà lụp xụp ngay mé ngoài nghĩa địa Phong Thần. Bất cứ ai có việc liên quan tới người chết nhờ tới lão là xong hết. Bề ngoài lão có vẻ say xỉn tối ngày như vậy, nhưng khi làm việc, lão làm rất nhiệt tình. Hể lão đã nhận lời làm cho ai việc gì rồi thì người đó cứ yên tâm. Mọi việc được giao phó đều hoàn thành suông sẻ đúng hẹn, dù trước đó không lâu người ta còn thấy lão lè nhè, hơi thở sặc mùi rượu. Nhưng đừng thấy bề ngoài và tướng đi khật khưỡng của lão mà lầm. Lão rất khoẻ và dai sức. Một mình lão đào một huyệt mả nhanh không thua gì một thanh niên đang thời sung sức và lão có thể làm một hơi không nghỉ cho đến khi xong xuôi rồi mới khật khưỡng ra trước quán hủ tiếu mì con Dùng làm một cái "xây chừng" nước trắng lấy lại sức.

Không ai thấy lão nấu nướng bao giờ! Thức ăn thì đa số là đồ cúng người chết đặt trước các ngôi mộ. Thân nhân cúng xong đi về thì lão hưởng trọn. Cũng chẳng có ai phàn nàn về việc đó cả, vì hầu như mọi người đều cho đó là một việc tất nhiên. Cúng kiến ngoài nghĩa địa xong rồi thì là của lão Năm Đạo Tỳ chứ đâu có ai mang trở về nhà bao giờ. Quanh năm hầu như lúc nào cũng có người thuê lão trộn hồ, xây mộ bia, đắp mộ, hốt cốt… nói chung ít nhiều gì cũng có việc lai rai để lão sống và có tiền uống rượu hoài. Vào những dịp Thanh Minh, hoặc cận Tết là lúc lão huy hoàng. Bánh trái, gà, vịt, heo quay… dư thừa đối với một mình lão vào những dịp này. Nhưng kể ra lão cũng rất tốt bụng. Những khi dư giả như vậy, chiều chiều người ta thường thấy lão mang thức ăn ra chia xẻ bớt cho những người ăn xin tụ tập trước ngôi chùa gần đó.

Tôi vẫn còn nhớ có một lần tôi và mấy đứa bạn trong xóm xem lão tẩn liệm một người chết được đưa từ nhà xác về nhà chôn cất. Chân tay người chết cứng đơ ở một tư thế khuỳnh ra, cong cong trông rất quái dị… Trước đó có mấy tay nhà quàn do chủ nhà mời đến nhưng không ai làm cách nào đặt người chết vào quan tài nằm ngay ngắn được… Có ai đó nhắc tới lão Năm Đạo Tỳ. Thế là người ta túa ra khắp nơi tìm thỉnh lão về. Đến nơi, dù trong người còn bốc mùi rượu, nhưng lão vẫn lè nhè hỏi gia chủ đưa thêm rượu cho lão uống tiếp mấy ngụm. Sau đó lão đứng cúi đầu trước người chết, điệu bộ chợt trở nên nghiêm trang một cách khác thường rồi thành khẩn khấn vái lầm rầm gì đó… Kế tiếp lão phun rượu phèo phèo lên tay chân người chết, xong xuôi nhảy lên bộ ván người chết đang nằm, xoa nắn một hồi rồi duỗi được tay chân người chết ngay ngắn như một người đang nằm chấp tay trên ngực ngủ. Lạ một điều là trước đó, mấy tay nhà quàn kia cũng khấn vái, cũng phun rượu ì xèo mà làm không được. Việc tẩn liệm cho người chết sau đó không còn trở ngại nữa.

Một lần khác, có một người đàn bà buồn tình chuyện gì không biết, đâm đầu vào xe lửa đang chạy ngang qua khu cổng xe lửa số 6, khúc đường Nguyễn Huỳnh Đức tự tử. Ôi thôi! Máu thịt tung toé khắp nơi. Ai trông thấy cảnh đó cũng hãi hùng! Dân chúng và người đi đường đứng coi đông nghẹt. Bọn nhóc chúng tôi cũng dễ gì bỏ qua dịp này. Ngay sau khi có người loan truyền tin ra, chúng tôi đứa này chạy kiếm đứa kia rủ nhau kéo đến chỗ xảy ra tai nạn, len lỏi vào tận nơi coi cho bằng được. Người đứng coi thì đông nhưng không thấy ai dám thu nhặt đống máu thịt bầy nhầy vương vãi đó.

Dân chúng bàn tán lung tung, gần như ai nấy cũng đều nhắc đến lão Năm Đạo Tỳ và đồng ý chỉ có một mình lão là có thể cáng đáng chuyện này mà thôi. Người ta chạy đi kiếm lão khắp nơi nhưng không thấy lão đâu cả. Kiếm ở những nơi quen thuộc mà lão thường hay lui tới cũng đều không gặp. Cảnh sát phong tỏa nguyên khu Nguyễn Huỳnh Đức và đã báo cho nhà xác bệnh viện thành phố nhưng mãi vẫn không thấy ai tới. Cảnh sát cũng có cho tìm những tay nhà quàn khác tới, nhưng mấy tay đó sau khi nghe chuyện đều thối thoát né tránh hết. Trời đã chiều lắm rồi, trong khi mọi người còn đang bối rối, thì lão Năm Đạo Tỳ bỗng từ đâu khật khưỡng đi tới.

Mọi người reo lên khi thấy dáng lão xuất hiện từ xa và mừng rỡ chạy tới săn đón lão như thể đang đón mời một nhân vật quan trọng nào đó không thể thiếu được. Thế rồi, mặc cho bà con chung quanh chỉ trỏ bàn tán xí xô xí xào, lão vẫn ung dung như không có chuyện gì xảy ra, lên tiếng kêu ai đó chạy đi mua cho lão một lít rượu đế và dặn dò những người khác đi kiếm ngay cho lão một vài thứ lão cần, sau đó lão cứ việc ngồi đốt thuốc hút chờ người ta mang những vật cần thiết tới.

Trước khi bắt tay vào việc, gương mặt lão bỗng đổi sang nghiêm trang, thành khẩn vô cùng. Nét khật-khà khật-khưỡng cố hữu của lão chợt biến mất. Lão đốt mấy nén hương, chấp tay khấn vái 4 phương 8 hướng một cách thật trịnh trọng, sau đó phun rượu vào hai cánh tay ướt nhẹp, rồi phun rượu vào một thùng gỗ dài có lót sẵn giấy tiền vàng bạc và giấy súc mà người ta đã mang đến cho lão… Sau đó lão bắt đầu nhặt nhạnh các mảnh thịt xương vương vãi chung quanh hiện trường, cứ hể nhặt một mảnh xương thịt nào lên, lão lại ngắm nghía, cẩn thận chùi đất cát dính trên đó trước rồi mới đặt nhẹ nhàng vào thùng gỗ, như có ý muốn lắp đặt lại đúng vị trí phần xương thịt đó cho phù hợp với những bộ phận trong cơ thể. Lão làm chuyện này một cách tỉ mỉ, thành thạo như một đồ tể chuyên nghiệp đang sắp xếp bày biện lại các bộ phận của con vật sau khi đã rã thịt nó ra vậy.

Kể từ khi chứng kiến hai cảnh đó, mặc dù là một bọn chuyên môn phá phách, nghịch ngợm như quỉ sứ, chúng tôi đứa nào đứa nấy cảm thấy sợ lão Năm Đạo Tỳ lắm. Không đứa nào dám đến gần lão. Ngay cả bẵng đi mấy năm sau, khi chúng tôi được mười mấy tuổi, bọn tôi cũng vẫn còn e dè lão… cho dù thỉnh thoảng có a dua theo mấy tay lớn hơn chọc ghẹo khi thấy lão say, nhưng gặp lúc chỉ có một mình tôi nhìn thấy lão từ đàng xa, không khi nào tôi dám lại gần. Hình như trong người lão toát ra một cái gì đó, gây cho tôi một cảm giác bất an rờn rợn không diễn tả được.

*****

***** *****

*****

Đám trẻ chúng tôi hồi đó chiều chiều hay vào khu nghĩa địa Phong Thần chơi. Một mặt vì khu này gần nhà chúng tôi ở và có một khoảng đất trống phía trước đủ rộng để chúng tôi chạy nhảy chơi đùa thoải mái, mặt khác chơi đùa ở đây không động chạm đến ai nên không bị đuổi hoặc bị la rầy, trừ một người: Đó là lão Năm Đạo Tỳ. Thỉnh thoảng trong khi chúng tôi chạy nhảy la hét ồn ào quá, lão từ trong căn nhà lụp xụp bước ra hoặc đi đâu về thấy, lão quơ tay xua đuổi, giọng lè nhè khàn đặc:

- Tụi bay đi chổ khác chơi hết đi. Cứ la ó ầm ỉ hoài. Đến mấy người chết rồi cũng nằm không yên với tụi bây nữa.

Những lần như vậy, chúng tôi lại ù té chạy. Chỉ có lão mới có thể khiến chúng tôi đang chơi phải dẹp bỏ đi chổ khác ngay mà thôi. Tuy không nói ra nhưng cả bọn, đứa nào đứa nấy cũng ngán lão Năm Đạo Tỳ này, dù ông ta không có làm gì chúng tôi cả.

Khu nghĩa địa Phong Thần này là giang sơn của người đã chết, ngoài ra còn là giang sơn của lão Năm Đạo Tỳ và của cả bọn trẻ chúng tôi nữa. Ngay góc ngả ba Trương Minh Giảng, Nguyễn Huỳnh Đức rẽ vào đường Thiệu Trị, đi tới một chút về phía tay trái là thấy khu nghĩa địa, nơi chúng tôi đến chơi thả diều, chạy nhảy hầu như mỗi chiều. Đây là một nghĩa địa nhỏ cũ kỷ có từ lâu đời rồi. Bên trong có một cái tháp được xây bằng xi măng gọi là tháp Phong Thần. Cái tên nghĩa địa Phong Thần cũng từ đó mà ra. Cái tháp này theo tháng năm đã bị bể tróc, gãy sụp nhiều nơi... trông không còn hình thù nguyên vẹn của một cái tháp nữa.

Tương truyền vào thời vua Tự Đức, có một vị quan lại địa phương rất thanh liêm, được dân chúng thương yêu, kính nể vô cùng… sau khi ông quan này chết, đã được chôn cất tại đây và được vua Tự Đức tuyên dương công trạng phong làm thần, cho lập tháp để dân chúng địa phương lể bái thờ phượng. Truyền thuyết đó không biết có đúng hay không? Nhưng kể từ khi có sự hiểu biết đến nay thì ấn tượng của tôi về tháp phong thần này, chỉ là một nơi hoang tàn đổ nát, u ám, chẳng thấy có một ai đến tưởng nhớ cúng kiến, hương khói thờ phượng… như lời của mấy ông già bà cả kể về vị quan thanh liêm xa xưa nào đó… Ngoại trừ vào những dịp Thanh Minh, Tết nhất… người ta đi dẩy mả, thăm mộ thân nhân còn dư nhang, theo phong tục ai nấy đều cắm nhang khắp chung quanh, kể cả các ngôi mộ vô thừa nhận và nhờ thế dưới chân tháp phong thần này mới thấy được chút hương khói ăn theo.

Ở phía bên dưới tháp có một cái hố khá sâu. Nghe mấy người lớn tuổi kể lại rằng: Trước đây nơi này là nơi dùng để thiêu xác người chết, nhưng sau đó không biết vì lý do gì, việc thiêu xác không còn nữa. Đổi lại, người ta đào một cái hố dưới chân tháp và dùng làm nơi vứt bỏ những mảnh gổ vụn nát của ván hòm còn sót lại sau khi có người hốt cốt thân nhân xong. Nghe đồn ở dưới hố có cả xương người và một con rắn thật to, mà có người cho là "rắn thần", nằm canh giữ bên dưới. Chính những điều này kích thích lòng hiếu kỳ của bọn trẻ chúng tôi. Thỉnh thoảng sau khi chạy nhảy, chơi đùa chán chê, chúng tôi vào ngồi dưới bệ xi măng của tháp phong thần nghỉ mệt, gió thổi lộng vào dưới chân tháp đổ nát nghe mát rượi. Cũng có đôi lúc chúng tôi theo đám đông đi xem lão Năm Đạo Tỳ hốt cốt người chết, hoặc xem lão đào huyệt… Nói chung tuổi trẻ chúng tôi lúc bấy giờ đối với khu nghĩa địa Phong Thần này là một nơi cho chúng tôi đến chơi đùa thoả thích. Dù đôi khi cũng thấy hơi sợ sợ mỗi khi có ai đề cập tới chuyện ma quỉ, nhưng sau đó chính những điều này lại khơi dậy lòng tò mò của tuổi trẻ nhiều hơn về thế giới vô hình của người chết và vì thế chúng tôi lại càng muốn tìm hiểu xem sao.

Tôi không nhớ ai là người đã đề xướng và chỉ cho chúng tôi biết cách cầu cơ. Lại còn nói là muốn cơ giáng lên nhanh thì ra nghĩa địa cầu vào lúc đêm khuya, sẽ linh hiển hơn lúc cầu cơ ở nhà. Dù sợ hải nhưng cuối cùng bọn tôi cũng bàn với nhau và nhất định thực hiện điều đó cho bằng được. Thế là đợi đến đêm khuya, cả đám rủ nhau vào dưới tháp Phong Thần cầu cơ. Quả nhiên cơ giáng về nhanh hơn khi chúng tôi cầu cơ ở nhà thật! Tôi còn nhớ cái cảm giác rờn rợn khi cơ giáng về di động mảnh ván hòm mài thành hình quả tim hoặc những lúc cả bọn thay phiên nhau đọc bài kệ bắt đầu bằng câu:

"Hồn nay ở chốn non bồng,

Qua đây hồn cũng vui lòng ghé chơi

…………………………………....."

Chúng tôi tiếp tục đọc hoài cho đến khi do ngẩu nhiên hay sao đó, bỗng cảm thấy gió mát lạnh giữa đêm khuya phát ra những tiếng rít nghe quái lạ… rồi thình lình cơ giáng về… gây cho chúng tôi cảm giác vừa sợ, vừa kích thích. Đôi khi chỉ mới bắt đầu đọc là cơ giáng về liền. Riết rồi chúng tôi hết cái cảm giác sợ hải của những lần đầu và trò chơi cầu cơ từ từ không còn làm chúng tôi thích thú nữa.

Cho đến một đêm, trong lúc cơ đang lên, thằng Phước bạn tôi bỗng nhiên la lên một tiếng rồi buông ngón tay khỏi con cơ ù té chạy, mấy đứa còn lại không biết chuyện gì xảy ra, cũng hoảng hồn la lớn lên rồi bương chạy theo thằng Phước, bỏ luôn bàn cầu cơ và cây đèn bão mà thằng Trí lén lấy của ba nó đem theo. Trong bụng chúng tôi nghĩ thằng Phước chắc thấy ma nên sợ quá la lớn và bỏ chạy như vậy, nhưng sau khi đuổi kịp nó ra tới miếng đất trống trước nghĩa địa thì nó vừa cười vừa cho biết là nó chỉ muốn hù cho tụi tôi sợ chơi thôi chứ không có gì hết. Mấy đứa chúng tôi "giũa" thằng Phước quá trời, sau đó bắt nó phải đi vào lấy lại cây đèn bão cho thằng Trí đem về trả cho ba nó… lần này không đứa nào còn can đảm đi trở vào lấy lại cây đèn và bộ đồ nghề cầu cơ cả.

Trong lúc chúng tôi còn đang cãi nhau thì bỗng lão Năm Đạo Tỳ từ đâu xuất hiện, trên tay cầm cây đèn bão của thằng Trí và bàn cầu cơ. Sự xuất hiện thình lình của lão làm chúng tôi sợ điếng hồn vì tưởng là ma. Ngay cả sau khi nhận ra lão, chúng tôi cũng vẫn chưa hết sợ. Thoạt tiên chúng tôi thấy có một ngọn đèn di động từ phía trong nghĩa địa đi ra, sau đó xuất hiện dáng đi khật khưỡng của lão Năm. Đang cãi cọ, cả bọn điếng người lại như bị á khẩu. Sự xuất hiện của lão Năm Đạo Tỳ vào lúc này quả y như một bóng ma, làm sao mà không sợ cho được! Chúng tôi đã dợm bỏ chạy, nhưng lão cất tiếng gọi lại và la mắng chúng tôi:

- Tụi bây chạy bỏ lại đèn đuốc và cái này phải không? Nửa đêm không ở nhà ngủ, ra đây la lối om xòm không cho ai ngủ nghê gì hết. Tao nói tụi bây nhiều lần rồi, kiếm chổ khác chơi, cứ nhè chổ này mà ra phá hoài, đúng là tụi bây còn phá hơn quỉ sứ nữa. Người chết rồi nằm cũng không yên với tụi bây. Bữa nào tao phải tới mắng vốn ba má tụi bây đập cho một trận mới được. Con cái nhà ai mà phá quá…

Lẽ ra chúng tôi đã bỏ chạy hết rồi, nhưng thấy thằng Trí còn dùng dằng không dám chạy vì sợ bỏ mất ngọn đèn bão nó lấy trộm của ba nó, nên cả bọn đành ở lại với nó, mặc dù chúng tôi thấy lão Năm Đạo Tỳ vào lúc này thì sợ dữ lắm. Thằng Thành lên tiếng năn nỉ, giọng nó dẽo đeo:

- Ông Năm ơi, tụi cháu còn nhỏ ham vui, có làm phiền ông Năm thì ông Năm bỏ lỗi cho đi nha. Chứ hồi nào tới giờ, ông Năm thấy tụi cháu cũng đâu có làm mích lòng ai trong khu này đâu.

- Tụi bây phá như quỉ vậy, ban ngày la lối om xòm còn châm chước đi, ngay cả ban đêm tụi bây cũng cãi nhau rùm trời không cho ai ngủ nghê gì hết, ai mà chịu được tụi bây chứ?

Sau khi la mắng tụi tôi một hồi, hình như lão cũng nguôi ngoai dần. Thằng Trí xin lại ngọn đèn bão lão còn cầm trên tay. Ánh sánh vàng vọt yếu ớt của cột đèn đường xa xa, cộng với ánh sáng lung linh của ngọn đèn bão soi bóng lão Năm và bọn chúng tôi thành những nền đen lay động trên mặt đất, giữa đêm khuya trông thật quái dị. Cuối cùng lão cũng trả lại cho chúng tôi ngọn đèn bão và bộ bàn cầu cơ, sau khi không quên răn đe chúng tôi thêm một lần nữa. Sau đó, vẫn dáng đi khập khiễng quen thuộc, lão chầm chậm trở về hướng căn nhà lụp xụp bên ngoài nghĩa địa. Trên đường về nhà chúng tôi còn cự nự thằng Phước không ngừng.

Hai hôm sau trong khi đang chơi đá cầu trước bãi đất trống, lão Năm Đạo Tỳ từ trong nhà bước ra giơ tay ngoắc chúng tôi lại gần. Chúng tôi ngỡ lão sắp sửa la mắng như những lần trước, nên định bỏ đi chổ khác. Nhưng lão vẫn ngoắc tay ra dấu bảo chúng tôi tới với một vẻ thân thiện hơn mọi hôm. Cuối cùng chúng tôi bảo nhau tới gần xem lão ta nói gì. Thằng Trí lên tiếng thăm dò:

- Có gì không ông Năm?

- Mấy đứa bây làm gì mà nửa đêm còn đi vào nghĩa địa? Bộ không sợ ma sao? –Lão nhắc lại chuyện đêm hôm trước.

-Tụi cháu cầu cơ thôi chớ đâu có làm gì đâu.

-Tụi bây gan quá há? Có đứa nào thấy ma chưa?

Cả bọn lắc đầu.

Lão ngúc ngoắc cái đầu, nhấp nháy mắt rồi hỏi chúng tôi bằng một giọng lè nhè, pha một chút hóm hỉnh hiếm khi thấy:

-Vậy tụi bây có muốn thấy ma không?

Cả đám chúng tôi nhìn nhau một lúc chưa đứa nào dám lên tiếng. Cuối cùng thấy không đứa nào trả lời, tôi rụt rè hỏi:

-Làm sao mà thấy ma được, ông Năm?

Lão nheo nheo đôi mắt nhìn tôi một cách bí mật:

-Mà tụi bây có sợ không cái đã? Nếu không sợ thì tao chỉ cho cách thấy ma. Nhưng mà tao nói trước… khi thấy rồi là không được la đó nghe chưa?

Nhìn cả bọn chúng tôi còn đang ngơ ngác, lão cười cười nói thêm:

-Tụi bây phá quá, đến mấy người chết ở đây cũng chịu hết nổi với tụi bây luôn.

Chúng tôi nhìn nhau, cảm thấy dạn dỉ hơn với lão Năm Đạo Tỳ, vì đây là lần đầu tiên lão nói chuyện với chúng tôi nhiều và thân thiện như vậy. Lại còn cười nữa chứ! Thằng Phước hỏi tới:

- Có ma thiệt không dzậy ông Năm? Cháu nghe nhiều người kể, cũng tin lắm, nhưng chưa bao giờ thấy ma cả. Mấy lần cầu cơ lên. Cháu biết là có ma thiệt. Tụi cháu tuy cũng sợ, nhưng má cháu thường nói: Mình không có làm gì động chạm tới "người ta" thì "người ta" phá mình làm chi! Cháu nghĩ cũng đúng. Tụi cháu chỉ chơi đùa, chứ đâu dám chọc ghẹo ai.

- Vậy chứ tại sao tụi bây không rủ nhau đi chơi chổ nào khác mà cứ nhè chổ này chạy nhảy la hét um sùm vậy, làm sao mấy người chết nằm yên cho được?

- Tụi cháu chơi đùa vậy thôi chứ đâu có phá mồ mả gì của "họ" đâu?

Tôi bỗng hỏi trớ:

- Vậy chớ ông Năm có thấy ma lần nào chưa?

Lão Năm nhìn tôi cười cười:

- Tao sống nhờ ma, mà không thấy ma sao được mậy?

Thằng Thành nôn nóng hỏi tiếp liền:

- Vậy ma có làm gì ông không? Ông không sợ sao?

- Tao đâu có làm gì mà phải sợ. Tụi bây phá người ta hoài thì liệu hồn đó, tụi bây "chưa thấy quan tài chưa đổ lệ" mà.

Rồi ông hỏi lại câu hỏi lúc nảy:

- Tụi bây muốn thấy ma không? Tao chỉ cho một cách là thấy liền chứ gì.

Cả đám chúng tôi nhìn nhau thăm dò, tôi rụt rè hỏi:

- Ông có thể chỉ cho tất cả tụi cháu thấy cùng một lúc được không?

- Được chứ, tụi bây muốn thấy phải không? Khi thấy rồi là không được la lớn nghe chưa? Cũng không được nói cho ba má tụi bây biết để họ mắng vốn tao là không được đó nghen.

Cả đám tụi tôi nhao nhao lên:

- Không có đâu ông Năm, tụi cháu không nói cho ai biết đâu. Bây giờ ông chỉ cho tụi cháu đi

Lão Năm Đạo Tỳ nheo mắt, im lặng nhìn chúng tôi một lúc lâu, như để thu hút hết sự chú ý của chúng tôi trước khi lão bật mí:

- Tụi bây đứa nào muốn thấy ma thì lấy vôi ăn trầu thoa lên hết mấy đầu ngón tay ngón chân, đợi nửa đêm ra ngồi canh ngoài nghĩa địa này thì sẽ thấy ma liền.

Chúng tôi ngạc nhiên ra mặt. Như vậy thì đâu có gì là khó. Thằng Phước hỏi lại cho chắc chắn:

- Thoa vôi ăn trầu lên tất cả mười đầu ngón tay, mười đầu ngón chân luôn hả ông Năm?

- Ừ! Ngón nào cũng thoa lên hết.

Nói xong không nói thêm tiếng nào, lão khật khưỡng đi ra hướng Nguyễn Huỳnh Đức, chắc là lại đi mua rượu uống.

Còn lại 6 thằng: Thành, Trí, Phước, Sơn, Bảo và tôi. Chúng tôi không còn tha thiết chơi đùa gì nữa. Lời lão Năm Đạo Tỳ nói làm chúng tôi nửa hoang mang, nửa khơi dậy lòng tò mò. Trước đây, chúng tôi đã mấy lần giữa đêm khuya vào nghĩa địa cầu cơ, tuy đứa nào cũng sợ… cả bọn cũng nghĩ là mình có thể sẽ gặp ma, nhưng cuối cùng cũng chẳng thấy con ma nào hết, ngoài việc cơ giáng lên và cơ chạy, nên từ từ chúng tôi cũng bớt thấy sợ. Nhưng lần này, lời nói có vẻ chắc chắn của lão Năm là chúng tôi sẽ thấy ma, nếu làm đúng theo như lão đã chỉ dẫn ... Điều này làm cả bọn có cảm giác sợ thiệt sự, chứ không như mấy lúc trước. Sau một hồi bàn tán, chúng tôi quyết định làm thử theo lời lão Năm đã nói. Vả lại chúng tôi nghĩ đi cả bọn thì cũng không có gì phải sợ, cùng lắm là bỏ chạy thôi.

Thế là cả bọn 6 đứa đi về, nôn nóng chờ tới giờ đã hẹn sẵn. Chúng tôi kiếm vôi ăn trầu không khó khăn chút nào cả. Bà Ngoại của thằng Trí ăn trầu cho nên nó lấy dễ dàng. Khuya đêm đó, cả bọn hẹn nhau ở trước nhà tôi trên đường Trương Minh Giảng. Gần 12 giờ khuya, nhưng lai rai cũng còn một vài quán xá mở cửa, trên đường vẫn còn xe cộ qua lại… Chúng tôi cùng nhau đi băng qua đường Nguyễn Huỳnh Đức, rẽ vào ngỏ Thiệu Trị, rồi đi tới ngọn đèn đường gần khu nghĩa địa. Chúng tôi dừng ở đây, chia vôi ăn trầu ra thoa lên khắp mấy đầu ngón tay ngón chân. Xong xuôi cả bọn hồi hộp bước vào khu nghĩa địa, mới chợt nhớ là lần này không đứa nào mang theo đèn đóm gì hết, ngay cả khi bàn bạc hồi chiều cũng không đứa nào nhớ ra vấn đề này.

Nghĩa địa này chỉ là một nghĩa địa nhỏ của đa số dân nghèo vì thế các mồ mả ở đây cũng không được xây cất khang trang gì cho lắm. Phần nhiều là các ngôi mộ được đắp bằng đất, lâu ngày bị mưa nắng làm sạt lở. Phải đợi vào những dịp Thanh Minh hoặc ngày giổ của người chết, thân nhân hoặc tự mình làm, hoặc mướn lão Năm Đạo Tỳ đắp thêm đất lên cao ráo trở lại. Một số mả xưa xây bằng đá vôi, chỉ một số ít được xây bằng xi măng đàng hoàng. Bọn 6 đứa chúng tôi ban đầu định vào dưới chân tháp Phong Thần núp chờ nhưng lại thấy sợ, rủi có gì xảy ra thì từ đó chạy ra bên ngoài xa quá. Cuối cùng chúng tôi quyết định rủ nhau đi đến một ngôi mộ xây bằng xi măng khá lớn nằm bên tay phải, cách lối vào nghĩa địa độ 15, 20 thước gì đó. Chúng tôi ngồi chùm nhum trước mộ bia hồi hộp chờ đợi. Đêm hôm đó không có trăng, nhưng sao đầy trời nên chúng tôi vẫn thấy lờ mờ cảnh vật bên trong nghĩa địa. Từ những bụi cỏ chung quanh các ngôi mộ, đom đóm bay chập chờn khiến cho cảnh vật thêm phần kỳ bí và làm cho chúng tôi càng hồi hộp thêm… Chổ chúng tôi núp nhìn ra đường Thiệu Trị không xa lắm nhưng tôi có cảm tưởng như nó quá xa đối với chúng tôi lúc bấy giờ. Mấy lần trước đêm khuya vào nơi này, tôi chưa từng có cảm giác bất an như lần này. Tôi nhìn xéo qua phía căn nhà lụp xụp của lão Năm Đạo Tỳ chỉ thấy tối thui, có lẽ ông ta đã ngủ rồi. Chúng tôi ngồi đợi như thế một hồi, đứa nào đứa nấy thấy sao quá lâu, thằng Sơn thì thào vào tai tôi, giọng run run:

- Mày có thấy gì không? Sao lâu quá vậy, chắc là không có gì đâu. Thôi bỏ về cho rồi.

Trong bụng tôi sự thật muốn đi về lắm, nhưng cũng làm bộ cứng:

- Ráng chờ chút nữa đi. Công trình chuẩn bị ra tới đây, không lẽ về lẹ vậy sao.

Ngồi thêm được chừng khoảng 5,10 phút nữa, bỗng nghe có tiếng con nít cười khúc khích rất rõ ràng ở phía trước làm tất cả chúng tôi giật mình. Gai ốc mọc cùng người. Tôi cảm thấy ớn lạnh chạy dọc theo xương sống. Theo một phản ứng tự nhiên, đứa nào đứa nấy bỗng tự động rụt người lại nép sát xuống. Đợi một chút không nghe thấy gì nữa, chúng tôi rón rén nhìn quanh quất xem tiếng con nít cười từ đâu tới. Nhưng không thấy gì cả, ngoài mấy con đom đóm chập chờn chung quanh trên mấy bụi cỏ. Thình lình tiếng cười khúc khích lại cất lên, lần này hình như ở một hướng khác. Thằng Phước bỗng níu lấy cánh tay tôi giật giật. Tôi quay về phía sau ngôi mộ nơi chúng tôi đang núp. Qua ánh sáng lờ mờ tôi thấy dáng một đứa bé đang đi lững thững, thỉnh thoảng lại cúi xuống nhặt một vật gì đó dưới đất ném đi, rồi lại cười khúc khích… hình như nó thích thú với trò chơi này lắm vậy.

Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là ma rồi!! Con nít giờ này đi đâu một mình trong này? Vả lại hồi nảy tới giờ đâu có thấy gì đâu! Chúng tôi còn đang nín thở nhìn thằng bé, hình như nó mãi nghịch ngợm với món đồ chơi gì đó ở dưới đất không để ý tới chung quanh. Tuy nhìn thấy cảnh vật lờ mờ qua đóm sáng của các tinh tú trên trời nhưng tôi không thể đoán chắc đứa bé khoảng mấy tuổi. Tôi cũng không nhìn rõ gương mặt, nhưng với chiều cao và tiếng cười khúc khích đầy tính trẻ con, có lẽ đứa bé chừng 5, 6 tuổi. Tôi chợt nhớ người ta hay nói ma đi hổng mặt đất, nên cố nhìn dưới chân đứa bé xem có đúng vậy không? Nhưng tôi không thể thấy được phía dưới chân đứa bé vì bị các ngôi mộ và bụi cỏ trước mặt che khuất tầm mắt.

Cả bọn vẫn còn bàng hoàng chưa bình tĩnh lại được, thì thằng Phước bỗng níu chặt cánh tay tôi. Nó là thằng nổi tiếng gan dạ nhất trong bọn, vậy mà giờ này tôi cảm nhận được cánh tay nó run lên không ngớt. Nó chỉ về phía trước mặt thằng bé. Không biết từ hồi nào đã xuất hiện một dáng người đàn bà đang đứng. Trông dáng thì quả đúng là đàn bà rồi, có điều tôi không thể thấy mặt được. Người đàn bà đứng ở phía trước đứa con nít đang giơ tay vẩy vẩy nó. Đứa bé vừa cười khúc khích vừa đi tới phía người đàn bà rồi thình lình ném mạnh vật gì vào bà ta, sau đó quay ngược trở lại vừa chạy vừa cười khúc khích như trước. Tôi nép sát vào người thằng Trí, hình như muốn tựa hết vào nó để được an toàn hơn. Đứa bé bỗng dưng biến đâu mất tiêu sau chòm mả không nhìn thấy nữa. Tôi len lén nhìn lại phía người đàn bà đang đứng khi nảy, thì cũng không thấy bà ta đâu. Chúng tôi sợ đến ríu cả người, phát giác cả bọn đang ôm choàng vào lẩn nhau hồi nào không hay. Không đứa nào dám hó hé một tiếng. Một lúc lâu sau, không thấy gì lạ xảy ra nữa, từ từ hoàn hồn lại, chúng tôi bấm tay nhau ra hiệu đi về.

Ngay khi chúng tôi vừa đứng lên, quay mình lại định bước ra con đường đất trước ngôi mộ xi măng đang núp nảy giờ, bỗng thấy hình dáng một người đang đứng lù lù ngay sau lưng chúng tôi hồi nào không biết. Dù đêm tối, tôi vẫn thấy đó là dáng một người đàn ông đội khăn đống, mặc áo thụng dài kiểu của mấy người già mặc vào những dịp quan trọng hoặc lễ lạc, đang đứng nhìn chúng tôi với một dáng vẻ hết sức kỳ quái. Thằng Phước là thằng đứng gần như sát vào ông ta, còn tôi và mấy đứa còn lại thì cũng đang chùm nhum ngay đó, nên tất cả đều thấy rất rõ ràng.

Trong một trạng thái bất thình lình như vậy, tất cả đều khựng lại khoảng mấy giây chưa kịp có phản ứng gì. Bỗng người đó giơ tay lên mặt thằng Phước, nói lắp bắp mấy tiếng nghe rất yếu ớt, trong đêm yên vắng giọng nói nghe thật quái lạ:

- Đi đi… đi đi.

Thằng Phước hét lên một tiếng thất thanh. Nó lùi ngược lại xô nhào chúng tôi ra và bương chạy bọc lại phía sau bất kể gì nữa. Diễn tả thì lâu, nhưng sự việc lúc đó xảy ra rất là nhanh. Mấy đứa còn lại đang sợ đến cứng người, chưa kịp có phản ứng gì, bỗng nghe thằng Phước la thất thanh như vậy rồi ngay sau đó nó quay lùi lại xô chúng tôi để thoát chạy, làm chúng tôi té ngã bổ nhào lên ngôi mộ đắp bằng đất nằm ngay cạnh đó. Cả bọn không còn chút hồn vía nào nữa, mạnh đứa nào đứa nấy choàng dậy bương lên mả mồ, gai góc, vấp té lên té xuống… vừa la vừa chạy trối chết ra hướng ngoài đường Thiệu Trị. Thằng Trí đang chạy ngay trước tôi, bỗng dưng đứng khựng lại làm tôi mất đà va ngay vào nó, hai đứa té chúi nhủi về phía trước. Tôi lồm cồm ngồi dậy thì thằng Trí níu vai tôi lại, lấy tay chỉ về phía trước mặt. Giọng nó như muốn khóc, lắp bắp những gì nghe không rõ còn người thì run lẩy bẩy, nó cứ níu lấy vai tôi cứng ngắc không chịu buông. Tôi ngước nhìn lên, thì thấy phía trước chúng tôi, đứa bé lúc nảy đang đứng lẩn trong chòm mả bên tay trái, tay phe phẩy vật gì bay bay giống như một miếng vải dài…

Trong đời tôi, kể cả mãi tới bây giờ, đã trãi qua nhiều biến cố nguy hiểm, nhưng có thể nói lần này là lần tôi sợ nhất trong đời. Tôi cố gắng lôi thằng Trí dậy, rồi chạy đại trên một dãy mộ đắp bằng đất, qua con đường đất nhỏ phía bên kia để tránh chạy ngang đứa bé, rồi cứ thế nhắm hướng đèn sáng ngoài đường Thiệu Trị mà chạy thục mạng, bên tai vẫn còn nghe tiếng cười khúc khích của trẻ nít. Thằng Trí do một động lực nào đó cũng bương chạy ngay theo tôi. Mấy đứa khác Sơn, Bảo, Thành không biết chạy đi hướng nào. Riêng thằng Phước lúc đó đã chắc đã chạy ra bên ngoài xa lắm rồi, tuy nhiên chúng tôi vẫn còn nghe tiếng la hãi hùng của nó vẳng lại. Chúng tôi cứ thế cắm đầu cắm cổ chạy, khi ngang qua trước nhà lão Năm Đạo Tỳ, tôi thấy hình như đèn trong nhà vừa được thắp lên…

Khi ra tới đường Trương Minh Giảng, xe cộ vẫn còn lai rai và vẫn còn người ta đi lại trên đường, lúc bấy giờ tôi mới hoàng hồn được đôi chút, nhìn quanh thì thấy Thành, Sơn, Bảo đã chạy ra trước đây rồi, Trí cũng vừa tới ngay sau tôi. Chúng tôi ngó dáo dát kiếm thằng Phước nhưng không thấy nó đâu nữa. Kiểm điểm lại quần áo thì mới phát giác chúng tôi bị gai góc móc rách toạc mấy chổ. Riêng hai đầu gối tôi bị trầy trụa, rướm máu rát rạt. Chúng tôi chia tay nhau đi về nhà. Đêm đó tôi thức sáng đêm không tài nào ngủ được, đầu óc cứ bị ám ảnh hoài chuyện vừa qua ở nghĩa địa, hể nhắm mắt lại là thấy dáng của đứa bé ma đang cười khúc khích và dáng con ma mặc áo dài thụng, khăn đống đang đứng nhìn tôi với dáng vẻ kỳ quái!

Qua hôm sau chúng tôi nghe tin thằng Phước bị bệnh nằm liệt giường, chúng tôi có tới thăm nó, nhưng không đứa nào dám kể cho gia đình nó nghe chuyện gì đã xảy ra đêm hôm trước. Tôi còn nhớ lần đó thằng Phước bệnh thật lâu mới hồi phục được. Riêng tôi cũng bị ám ảnh chuyện này một thời gian dài. Từ đó chúng tôi không dám bén mảng tới khu nghĩa địa Phong Thần chơi đùa nữa. Thỉnh thoảng nhìn thấy lão Năm Đạo Tỳ khật khưỡng từ xa đi tới, nhưng lần nào chúng tôi cũng tự động tránh ra chỗ khác không dám chạm mặt lão.

*****

***** *****

*****

Trải qua những năm tháng tuổi thơ, nhiều điều bây giờ tôi không còn nhớ rõ được nữa. Nhưng khu đất trống nghĩa địa Phong Thần này và lão Năm Đạo Tỳ vẫn còn để lại trong ký ức tôi nhiều ấn tượng rất đậm nét, nhất là chuyện gặp ma do lão Năm Đạo Tỳ chỉ cách. Chúng tôi lớn dần theo thời gian, vì điều kiện học hành hoặc hoàn cảnh gia đình nên tản mác khắp nơi. Bọn 6 thằng chúng tôi ngày xưa nay chỉ còn lại 4, thỉnh thoảng gặp lại hoặc nói chuyện trên điện thoại, đôi lúc chúng tôi có nhắc qua chuyện cũ, đứa nào đứa nấy cũng sôi nổi kể lại vanh vách như chuyện vừa mới xảy ra hôm qua, đủ biết ấn tượng đó ăn sâu vào tâm trí mỗi đứa chúng tôi như thế nào!!

Sau 1975 khu nghĩa địa Phong Thần đã bị san bằng, thay vào đó là một ngôi chợ nhỏ, ngôi chợ ở phía trong khu Kiến Thiết cũng đã được dời ra và nhập chung vào khu chợ mới này luôn.

Còn lão Năm Đạo Tỳ??

Trong một dịp ghé lại quán hủ tiếu mì con Dùng, tôi có hỏi thăm thì không ai rỏ lão đã chết hay bỏ đi đâu mất kể từ khi khu nghĩa địa không còn nữa. Lần cuối cùng có người gặp, thì lão đã già lắm rồi, trí nhớ đã bị lú lẫn, cứ lảm nhảm một mình những gì không ai rõ, chân đi vẫn khập khiễng nhưng yếu ớt lắm và đặc biệt người lão vẫn còn phảng phất mùi rượu.

Về chuyện gặp ma mà tôi vừa kể?? Đôi lúc có người hỏi:

- Có ma thiệt không?

Tôi liên tưởng ngay tới dáng lão Năm Đạo Tỳ đang ngúc ngoắc cái đầu, nheo nheo mắt nhìn chúng tôi ngày trước. Sau đó tôi hỏi lại người đã hỏi câu đó, giống y như trước đây lão Năm đã hỏi chúng tôi:

- Có muốn thấy ma không? Tôi chỉ cho một cách là thấy ma liền chứ gì! Nhưng mà tôi nói trước, khi thấy rồi thì đừng có la đó nghe chưa.

Nếu thấy người đó khích động lên:

- Thiệt không? Làm sao thấy được ma?

Tôi sẽ trả lời y như lão Năm Đạo Tỳ đã chỉ cho chúng tôi ngày xưa:

- Lấy vôi ăn trầu thoa lên hết mấy đầu ngón tay, ngón chân rồi canh nửa đêm ra nghĩa địa ngồi chờ thì sẽ thấy ma ngay…

…Và nếu như người đó còn nghi ngờ hỏi tiếp... Tôi sẽ nghẹo nghẹo cổ, nheo nheo mắt, vừa cười vừa bí mật trả lời:

- Cứ thử đi rồi biết liền chớ gì!

Thân Phận Người Lính Gãy Súng

Tác giả: Vĩnh Khanh

,

        Đoàn xe Motolova chở đám tù cải tạo bắt đầu đi vào khu rừng tre rậm rạp thì chạy chậm lại. Con đường đất lồi lõm đầy những ổ gà. Chốc chốc những người ngồi sau và đồ vật bị xóc nhảy tung lên khi xe vấp phải một ổ gà lớn... Hùng vén tấm bạt che hai bên thân xe nhìn ra bên ngoài. Ánh đèn của cả đoàn xe quét ngang dọc tạo thành những vệt sáng nhấp nháy phía trước đủ để anh thấy khá rõ. Đoàn xe đi được một khoảng nữa thì ngừng lại nhưng máy xe vẫn để nổ. Đám tù cải tạo được cho phép xuống xe từng hai người một thay phiên nhau đi tiểu. Nhờ đèn xe Hùng có thể thấy rõ hai bên đường san sát những bụi tre gai, phía trên cao những tàn tre đan vào nhau dày đặc thành hình một cái vòm lớn, đoàn xe đi lầm lủi trong cái vòm này có vẻ như đi vào một khu âm u, tử địa không lối ra. Âm thanh của những nhánh tre đu đưa trên cao theo gió tạo ra một nhạc điệu buồn như tâm trạng lo lắng, hoang mang của những người tù trên đường đến nơi lưu đày mới chưa biết là đâu?

Buổi chiều hôm nay, từ Đồng Pan tất cả tù cải tạo ở trại nhốn nháo lên hết với những lệnh lạc hò hét từ các cán bộ quản giáo hối thúc mang hết đồ đạc ra ngoài sân tập họp khẩn cấp. Những tên sĩ quan bộ đội lạ mặt cầm sổ sách lăng xăng đi tới đi lui đếm đầu người điểm danh. Kinh nghiệm của lần chuyển trại trước từ Trảng Lớn, đám tù đứng trong hàng xầm xì: "Chuyển trại rồi. Chuyển đi chổ khác nữa rồi."

Hùng quay qua nói nhỏ với mấy người bạn thân:

- "Tụi mình nhớ đứng sát bên nhau nghe chưa? Nếu có lập thành tổ, thì cũng ráng chen chung vô một tổ. Lạng quạng là tụi nó tách rời ra mỗi thằng đi một nơi đó."

Sau một hồi điểm danh tới điểm danh lui, tất cả đám tù tập họp trên sân bị chia ra làm hai nhóm. Nhóm của Hùng khoảng gần 200 người bị lùa lên những chiếc xe Motolova phủ vải bạt hai bên hông và sau đó di chuyển ngay. Còn nhóm kia cũng khoảng gần 200 không biết sẽ bị đưa đi đâu? Một điều an ủi là nhóm bạn bè thân của Hùng là Cương, Tân, Cường, Khoẻ, Hoàng và Thu không bị tách rời và cùng đi chung trong một nhóm.  Nhìn gương mặt lo âu, căng thẳng của những người bạn đồng cảnh ngộ, Hùng thở dài. Không cần nhìn vào gương, anh cũng đoán biết bộ mặt của mình lúc này ra sao rồi! Từ sau ngày miền Nam bị bức tử một cách tức tưởi. Những sĩ quan cấp úy chế độ cũ đã bị chính quyền CS lừa dối với chính sách gọi là "khoan hồng nhân đạo" và việc tập trung đi "học tập 10 ngày". Thế rồi như những sĩ quan khác, Hùng và các bạn đã trình diện với hy vọng sau 10 ngày sẽ được trở về đoàn tụ với gia đình, làm lại cuộc sống mới. Nhưng hởi ơi! Kể từ ngày đó tất cả đã bị giam giữ triền miên. Ở Trảng Lớn khoảng một năm rưỡi, sau đó bị chuyển trại đưa lên Đồng Pan lao động cũng hết 7,8 tháng nữa, và bây giờ lại sắp bị đưa đến một nơi nào khác chưa biết được!

Xe ra tới địa phận Tây Ninh, trong khi đoàn xe chậm lại ở ngả ba rẽ ra đường quốc lộ thì  thật là bất ngờ, bánh kẹo thuốc lá… được dân chúng từ hai bên đường quăng lên xe cho đám tù như mưa. Mặc cho mấy tên bộ đội vệ binh hò hét xua đuổi, những người dân mua gánh bán bưng, những bà mẹ, những đứa em… vẫn chạy theo đoàn xe ném lên đó những món quà tình nghĩa như tỏ chút lòng của người dân còn có thể làm được, đưa tiễn những đứa con của đất nước đang trên đường ra nơi đày ải. Đám tù cải tạo thật xúc động với những món quà bất ngờ đầy tình người này. Như vậy cũng đủ an ủi cho người lính đã một thời đổ xương máu ra bảo vệ đất nước, bảo vệ đồng bào. Hùng nhìn xuống đường qua kẽ hở của tấm bạt che bên hông xe. Dân chúng hai bên đường vẫn còn chạy theo cố gắng quăng cho hết mấy món bánh trái cuối cùng còn trong thúng rổ… Một vài người đàn bà kéo vạt áo chậm nước mắt, tay còn vẩy vẩy khi đoàn xe đã chạy khuất từ xa. Hùng xúc động lẩm bẩm: "Cám cơn Mẹ, cám ơn chị. Cám ơn các em… chúng tôi không làm tròn trách nhiệm bảo vệ các người được, thật là có lỗi với các người."

Bên ngoài trời bắt đầu sụp tối. Những người tù ngồi chen chút chật ních phía sau lòng xe, hoang mang nhìn qua những kẽ hở, cố định phương hướng xem mình đang bị đưa về đâu, nhưng cuối cùng cũng chỉ có thể đoán già đoán non xe đang chạy về hướng Bình Dương mà thôi. Đoàn xe tiếp tục lầm lủi đi trong đêm tối, tránh né sự tò mò chú ý của dân chúng. Sau một lúc hoang mang nhốn nháo, sự yên tỉnh trở lại trong lòng xe. Đám tù mệt mỏi, thích nghi dần với vị thế chật hẹp, bắt đầu ngủ gà ngủ gật theo nhịp lắc lư và tiếng máy xe nổ đều đều, mặc cho số phần đưa đẩy tới đâu thì tới.

******

******************

******

Sau một lúc dừng lại nghỉ ngơi trong khu rừng tre, đoàn xe lại tiếp tục chạy. Trời bắt đầu mờ mờ sáng thì đến ngả ba đường 10. Từ đây rẽ vào không bao lâu thì tới một nơi gọi là Trại 3148. Trại còn rất thô sơ chưa được xây cất gì nhiều, chung quanh chỉ lèo tèo vài ba căn nhà dùng làm bộ chỉ huy doanh trại với mái lợp bằng vỏ tre lồ ô. Đám tù bị hò hét hối thúc xuống xe tập họp. Mấy tên vệ binh cầm súng đứng chung quanh giữ trật tự với khí thế đằng đằng, trong khi mấy tay cán bộ quản giáo lăng xăng đi tới đi lui đếm đầu người phân ra từng tổ. Hùng đứng trong hàng, ngao ngán nhìn khung cảnh chung quanh:

- "Tao thấy chỗ này coi bộ hắc ám hơn ở hai trại trước rồi, tụi bây thấy sao?"

Không ai trả lời câu hỏi của Hùng, nhưng cả bọn ai nấy đều có cảm giác như vậy. Khung cảnh hoang vắng thô sơ nơi đây hứa hẹn với đám tù cải tạo mới tới sẽ đổ nhiều công sức, mồ hôi trong những ngày sắp tới! Sau khi sắp xếp xong Hùng và các bạn Tân, Thu, Khoẻ, Cương, Hoàng, Cường lần này bị phân tán ra ở những tổ khác nhau. Cũng may mấy anh em cũng chỉ ở rải rác trong một cùng một khu vực gần đó thôi.

Trại 3148 này là tên của một Tiểu Đoàn bộ đội trú đóng ở đây. Nhưng mọi người đều quen gọi là trại Bù Gia Phúc lấy theo địa danh ở nơi này. Dọc theo con đường 10, cứ cách khoảng 2, 3 cây số lại có một trại tương tự như: Trại 3146, trại 3149, trại 3150… Trại Bù Gia Mập nơi có sóc Bom Bo nổi tiếng của dân tộc thiểu số, cũng ở cách đó không xa. Những trại này nằm trong khu vực của hai huyện Bù Đăng, Bù Đốp thuộc tỉnh Phước Long. Mỗi trại ở đây đều có cấp số Tiểu Đoàn. Trước đây chỉ chuyên về mặt quân sự trấn giữ biên phòng, nhưng nay kiêm thêm nhiệm vụ quản lý các sĩ quan chế độ cũ từ cấp Đại Úy trở xuống. Cho tới thời điểm này, bộ đội thuộc Ủy Ban Quân Quản vẫn còn cai quản đám sĩ quan tù cải tạo. Mới đầu họ còn có vẻ dễ chịu, nhưng vì tình hình ngày càng lộn xộn, con số tù cải tạo trốn ngày một nhiều, nên sự quản lý của bộ đội đối với các sĩ quan tù cải tạo bị siết lại gắt gao hơn trước nhiều. Mỗi lần đi ra ngoài làm việc lúc nào cũng có hai vệ binh súng ống kè kè canh chừng hoặc khi đi đốn cây, gánh tranh, chặt tre cũng có vệ binh đi theo hướng dẫn. Tuy nhiên, cứ hể sơ sểnh ra là lai rai cũng có người trốn hoài.

Quả đúng như đám tù mới tới dự đoán, những ngày tháng đầu ở trại Bù Gia Phúc họ đã chịu sự quản lý rất nghiêm ngặt. Hể làm không xong công việc được giao trong ngày là bị kiểm điểm, hoặc bị nhiều hình thức kỷ luật khác ngay. Chổ ở chưa có gì cả nên việc xây dựng nhà ở, doanh trại được đặt ra gấp rút vì mùa mưa sắp đến. Ngay sau ngày đến trại, đám tù cải tạo phải làm việc cật lực từ sáng sớm đến tối mịt để khai phá, xây cất thêm doanh trại, khu nhà ở… bếp núc… Mấy đám cán bộ quản giáo suốt ngày cứ hò hét đốc thúc: "Nếu không cố gắng cất nhà kịp, mùa mưa đến các anh sẽ phải ngủ ngoài mưa". Điều này thấy rõ không phải là điều hù dọa suông. Bởi vì từ khi mới tới trại đến nay, đám tù cải tạo đã phải ngủ võng rồi! Chưa làm xong nhà thì phải chịu tiếp tục ngủ võng ngoài gió mưa là cái chắc. Do đó không cần đợi cán bộ quản giáo hò hét đốc thúc, với tình hình này mấy người tù cải tạo cũng phải tự mình làm gấp rút để có chổ che nắng mưa. Từ từ chung quanh trại Bù Gia Phúc nơi Hùng ở, rừng tre và cây cối dần dần được phát quang hết để khai thác đất trống cất nhà ở, doanh trại… và trồng trọt hoa màu. Cứ thế dưới bàn tay của đám tù khốn khổ, rừng càng lúc càng bị lấn thụt lùi sâu về phía sau.

Trại Bù Gia Phúc này là một trong nhiều doanh trại san sát nhau giữa những vùng rừng núi bạt ngàn của hai tỉnh Bình Long, Phước Long. Rừng núi ở đây đa số là những khu rừng tre lồ ồ khổng lồ xen kẽ với rừng già trùng trùng điệp điệp kéo dài cho tới giáp ranh biên giới Campuchia. Trước đây những khu rừng này là mật khu của Việt Cộng. Thỉnh thoảng đi lao động, Hùng và các bạn vẫn còn thấy dấu vết của những hố bom B52 để lại. Tuy nhiên bom đạn trước đây hình như đã không làm suy suyển gì được những cánh rừng già bát ngát ở đây. Phải đợi đến khi tù cải tạo chuyển về thì rừng mới chịu lép vế, nhượng bộ và bị đẩy lùi vào một phần! Số lượng khai thác gỗ, tre và cỏ tranh mang về xây cất doanh trại, nhà ở cho tất cả các trại ngày một nhiều. Vì thế cây cối đúng kích thước, những trảng tranh lớn và những đám tre đúng tiêu chuẩn… ở những nơi gần bị đám tù cải tạo của tất cả các trại từ từ khai thác hết. Càng lúc Hùng và các bạn phải đi thật xa mới có thể tìm được tre, cỏ tranh hoặc cây đúng kích thước tiêu chuẩn được giao. Đi từ sáng sớm, nhưng mang được những thân cây lớn, những bó tranh khổng lồ hoặc những cành tre dài ngoằn về tới doanh trại thì trời đã bắt đầu sụp tối rồi! Đã vậy Nguyễn Văn Thu, người bạn tù cùng khóa Thủ Đức trước đây với Hùng, là một người nhỏ con yếu đuối, không vác nổi những cây lớn được giao phó. Hai đứa lại ở cùng tổ thường được phân công đi lao động chung, Hùng không giúp cho anh ta thì ai giúp bây giờ. Cứ mỗi lần nhận công việc đốn cây, Hùng luôn luôn vác ở phần gốc, để cho bạn mình vác khúc ngọn nhẹ hơn. Suốt thời gian ở đây, Hùng lúc nào cũng dành làm phần nặng nhọc hơn để bạn vẫn hoàn thành công tác mà không bị rắc rối với đám cán bộ quản giáo. Mãi tới bây giờ Nguyễn Văn Thu vẫn nhớ ơn và nhắc hoài về người bạn Diệp Phi Hùng tốt bụng này.

Công việc phân phối trong ngày nặng nề, cực nhọc hơn ở hai trại trước, tuy nhiên khẩu phần ăn được phân phối không thấm đâu vào đâu. Chưa bao giờ người tù cải tạo hiểu ý nghĩa chữ "đói" một cách sâu sắc và thấm thía như khoảng thời gian ở những trại tù cải tạo như thế! Anh em nào có gia đình thăm nuôi, tiếp tế hàng tháng còn đỡ. Những ai kém may mắn không có ai thăm viếng, tuy được bạn bè san sẻ giúp đỡ, nhưng chắc chắn cũng không bao giờ đủ no được.

Người tù cải tạo bị cấm hoặc hạn chế tối đa những liên lạc với người dân bên ngoài và cả những người bạn tù ở khác trại. Nhiều lần đám tù cải tạo của Hùng ra ngoài lao động gần khu dân chúng cũng chỉ được phép ghé mua vội ít bánh trái, đồ dùng lặt vặt ở những quán ven đường rồi đi ngay chứ không nói được gì nhiều. Hoặc đôi khi đi vào rừng đốn cây, gặp những anh em đồng cảnh ngộ ở các trại khác lao động gần đó, canh lúc vệ binh lơ đểnh hai bên lén trao đổi vội vàng với nhau những câu thăm hỏi tin tức những người mình quen biết xem có ở cùng trại bên kia hay không? Rồi thôi! Ai nấy đều phải quay lại tiếp tục công việc nặng nhọc của mình để còn lo về kịp trong ngày…  

Sự tiếp xúc với cuộc sống bên ngoài của người tù cải tạo một cách chính thức hầu như chỉ qua những chuyến thăm nuôi hàng tháng mà thôi. Những cái siết tay, nụ cười méo mó, vòng tay trẻ thơ của đứa con thiếu cha… nụ hôn vội vàng trên môi người vợ hiền hay ánh mắt thương cảm của người yêu... cùng món quà chứa đầy tình thương của Mẹ già… một vài tin buồn, năm ba tin vui trao đổi nhau… tất cả gói ghém hết trong những lần thăm nuôi gặp mặt đó. Đối với người tù cải tạo, đây là khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời của họ vào lúc bấy giờ. Đôi khi có một số tin tức do người thân bên ngoài mang vào đã trở thành những đề tài để anh em bàn tán sôi nổi, hoặc những suy đoán, bàn luận thời cuộc căn cứ vào những tin đồn mơ hồ không biết xuất phát từ đâu, tuy nhiên nhờ đó ít nhiều cũng đã giúp hun đúc niềm tin của đám tù cải tạo và làm tinh thần mọi người phấn chấn hơn lên.

Cứ thế người tù cải tạo vẫn lầm lủi sống, lầm lủi chịu đựng với một hy vọng mong manh không lấy gì làm chắc lắm… Và cứ thế ngày tháng âm thầm trôi… Người tù cải tạo mệt mỏi, hy vọng lụi tàn dần theo những lần nhìn cây rừng thay lá!

******

******************

******

Với điều kiện thiếu thốn đủ mọi thứ từ dinh dưỡng đến thuốc men. Bệnh tật không thể nào tránh khỏi. Nhất là bệnh sốt rét rừng, căn bệnh đáng sợ nhất ở vùng rừng núi Phước Long này! Những ai bị vướng vào căn bệnh này, thì cầm như chết chắc. Vừa đến trại không bao lâu, đã có một vài người bị dính ngay sốt rét và chết ngay trong trại. Khiến cho những người còn lại không khỏi rúng động. Một đôi lần, Hùng cũng bị bệnh nhưng chỉ là cảm mạo nên lướt qua được hết. Tuy nhiên nghĩ tới đến cơn bệnh sốt rét rừng hiểm nghèo này, anh cũng nơm nớp lo sợ không biết ngày mai rồi sẽ ra sao?

Chứng bệnh Hùng lo sợ cuối cùng đã may mắn không xảy ra cho anh, nhưng lại rơi ngay vào một trong những người bạn thân trong nhóm của anh. Đó là Cương. Thiếu Úy Mai Xuân Cương. Tiểu Đoàn16/TQLC. Xuất thân khoá 4/71 SVSQTB Thủ Đức. Người chiến sĩ đã trãi qua biết bao trận đánh lớn nhỏ kể cả lần nhận nhiệm vụ tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Xông pha biết bao trận đánh dữ dội như vậy mà anh cũng không hề hấn gì. Nay trong lúc buông tay súng, cam phận làm tên tù cải tạo, số phần lại không tha cho anh! Giữa núi rừng Phước Long, chứng sốt rét rừng đã quật ngã người sĩ quan kiêu hùng ngày nào dễ dàng! Sau hơn một tuần nằm liệt ở trại với tiêu chuẩn được phát để chống lại cơn bệnh nguy hiểm này là 1 viên ký ninh mỗi ngày không thấm thía vào đâu cả! Bệnh tình càng lúc càng trầm trọng hơn! Mai Xuân Cương tuy thấp người nhưng rất to con, thế mà chỉ qua một tuần lễ, người anh gần như chỉ còn phân nửa so với lúc trước, cộng thêm làn da vàng vọt và một thể chất bạc nhược không tả được. Anh em trong trại quyên góp nhau lại những viên thuốc ký ninh hiếm hoi của gia đình gởi vào để mong cứu sống anh, nhưng cũng không được nhiều. Nguyễn Minh Hoàng đã đưa cho bạn hết tất cả mấy viên thuốc chống sốt rét để dành phòng ngừa cho riêng mình, hy vọng cứu được mạng sống bạn, nhưng cũng chỉ giúp Mai Văn Cương cầm cự chống đỡ thêm được mấy ngày! Bệnh tình của Mai Xuân Cương suy nhược đến nổi anh không còn đứng vững nữa. Hể đứng lên bước mấy bước là té xuống liền. Cuối cùng ban quản giáo trại chấp thuận cho anh lên bệnh xá điều trị. Tiếng là nằm bệnh xá cho có vẻ, nhưng thực ra thuốc men cũng chẳng có gì nhiều nên anh cũng không hồi phục được. Thấy tình thế không xong, trưởng trại mới cho phép Mai Xuân Cương viết thơ nhắn gấp về gia đình mang thuốc lên cấp cứu.  

Mấy ngày anh nằm trên bệnh xá, Hùng có tìm cách lén lên thăm được 2 lần. Nhìn thân hình của bạn, Hùng không khỏi mủi lòng. Thân thể tráng kiện của Mai Xuân Cương ngày nào giờ đây chỉ là một xác thân gầy yếu, mệt mỏi nằm một chổ chờ chết với chút hy vọng mong manh là thuốc từ nhà sẽ gởi đến kịp. Không còn biết phải nói gì để an ủi bạn trong lúc này. Hùng chỉ còn biết nắm chặt tay bạn như muốn truyền hết sức mạnh của mình vào thân thể gầy gò để mong bạn có đủ nghị lực vượt qua cơn bệnh quái ác này. Những lúc tỉnh táo nhìn thấy Hùng gần bên, Mai Xuân Cương cứ luôn miệng nhắn nhủ: "Tao muốn về nhà. Đừng để tao ở đây. Tao muốn về với gia đình Mày nhắn dùm gia đình tao mang tao về nghe?" Nghe bạn trong cơn hấp hối lập đi lập lại nhiều lần như vậy, Hùng chỉ biết ứa nước mắt gật đầu, hứa cho bạn yên lòng.

Thời gian Mai Xuân Cương nằm bệnh xá, mưa lớn liên tục suốt ngày. Nước lũ từ rừng đổ về ngập lênh láng. Lần chót Hùng tìm cách lên bệnh xá thăm anh cũng là ngày nước lụt bắt đầu dâng lên khắp các con đường từ thị trấn đi vào. Từ trong trại nhìn ra ngoài bìa rừng xa xa đã có thể thấy nước ngập loang loáng trên mặt những trảng tranh rộng lớn. Tù nhân không thể đi công tác xa bên ngoài như thường lệ, đa số chỉ làm những việc lặt vặt trong trại. Nhân cơ hội này, Hùng lén lên bệnh xá thăm Mai Xuân Cương. Lần này nhìn bạn, Hùng biết là đã quá trể rồi! Trước mặt Hùng giờ chỉ là một thân xác còn thoi thóp với chút hơi thở yếu ớt. Sự chết đã hiện ra trên gương mặt vàng vọt, méo mó và hai con mắt của nguời tù khốn khổ đã lạc hết thần khí!! Mai Xuân Cương nằm đó chờ cái chết đến với mình từ từ. Trong một khoảng im lặng thật lâu, Hùng đứng nhìn bạn với cái cảm giác đau đớn và bất lực vì không biết làm gì giúp được bạn trong lúc này.

Mai Xuân Cương trở mình, giương cặp mắt lạc thần lên nhìn Hùng một hồi mới nhận ra được bạn. Giọng của anh yếu ớt đến độ Hùng phải nghiêng đầu, cúi sát tai vào miệng bạn mới có thể nghe được tiếng thì thào đứt quảng. Bệnh sốt rét rừng này quả đáng sợ thật. Trong vòng một thời gian ngắn, chứng bệnh quái ác này đã làm thay đổi bề ngoài của con người đến độ nếu không gặp người bệnh trong vòng một tuần lễ chắc khó lòng nhận ra được! Ngay cả những cử động của người bệnh cũng rất khó khăn. Với tất cả sinh lực còn sót trong thân thể bạc nhược của mình, Mai Xuân Cương cố gắng thều thào:

- "Tao…  không xong rồi… Hùng ơi!... Mày cho tao… gởi lời thăm… mấy anh em. Ráng giữ gìn… sức khoẻ. Đừng giống…  như tao…"

Mai Xuân Cương giật giật tay Hùng nói thêm:

- "Mày nhớ… nhắn gia đình…  mang tao về…. Bao lâu cũng được…  nhưng ráng… mang tao về nghe."

Hùng chỉ biết nhìn bạn gật đầu, ứa nước mắt.

Người nhà của Mai Xuân Cương cũng đã nhận được tin nhắn, cấp tốc mang thuốc lên. Nhưng đúng là trời trêu lòng người. Những nẻo đường từ Phước Long đi vào trại đều bị lụt lội khắp cả. Khi từ Saigon lên, Mẹ và em của Mai Xuân Cương không cách gì vào trại được đành phải tìm nơi tá túc qua đêm ở bên ngoài thị trấn, qua hôm sau chờ nước rút bớt mới mướn người đưa đi. Đến nơi hai mẹ con cũng chỉ được phép gởi thuốc vào chứ không cho gặp mặt người thân, mặc cho Mẹ và em của Cương khóc lóc van xin mấy cũng không được. Sau một hồi năn nỉ khóc lóc không kết quả, hai mẹ con tuyệt vọng đành gởi ít quà và thuốc vào cho Mai Xuân Cương rồi lủi thủi ra về. Nhưng hởi ơi! Người Mẹ và người em tội nghiệp đó có biết đâu anh đã qua đời ngày hôm trước rồi! 

Mai Xuân Cương mất ngay đêm sau khi Hùng lên thăm anh lần cuối. Nghe người ở bệnh xá kể lại, nửa đêm khát nước anh ráng đứng dậy đi lấy nước uống thì bị vấp té không gượng dậy nổi nữa và nằm đó chết luôn. Anh ra đi chắc còn tức tưởi lắm. Trong khi Mẹ và em đang ở bên ngoài thị trấn đêm hôm đó, nôn nóng chờ nước rút để kịp mang thuốc vào cứu, thì anh đã không thể chờ được nữa! Anh ra đi mà Mẹ và em cuối cùng vào được đến nơi cũng không thể nhìn thấy mặt anh lần cuối! Thân xác anh nằm đó trong khi hai người thân ở ngay ngoài cổng trại vẫn tưởng anh còn sống và cả hai vẫn nuôi hy vọng thuốc mang lên kịp sẽ cứu được mạng anh!!

Một buổi sáng khoảng giữa năm 1978, một ngày như mọi ngày ở trại tập trung cải tạo. Khi những bạn tù khác nhận dụng cụ và công việc được giao, chuẩn bị phân tán khắp nơi đi ra ngoài lao động, thì có một số người giơ tay tình nguyện nhận một công tác bất thường: Mai táng người chết!  Những người tình nguyện được chia làm hai toán:

Toán thứ nhất trong đó có Đại Úy Hải Quân Phạm Thanh Tân và một số người nữa, được giao cho công việc đào huyệt.

Toán thứ hai lo việc tẩn liệm và khiêng người chết gồm 6 người: Th/Úy Diệp Phi Hùng (TQLC), Th/Úy Trần Văn Khoẻ (TQLC), Th/Úy Nguyễn Minh Hoàng (Nhảy Dù), Th/Úy Ngô Văn Cường (Nhảy Dù), Th/Úy Hoàng Lập Thành (TQLC) và một Tr/Úy Hải Quân tên Hoàng (Khóa 20 HQ, không nhớ họ)

Những thớ đất trên ngọn đồi nơi Mai Xuân Cương sẽ yên nghỉ còn ẩm nước và khá mềm nhờ vào mấy trận mưa lớn vừa qua, đã giúp cho toán đào huyệt mộ hoàn thành nhiệm vụ không khó khăn lắm. Buổi sáng sớm rừng núi Phước Long vẫn còn sót lại cảm giác lành lạnh của hơi sương đêm rồi. Gió mang đến những tiếng lao xao đều đều từ cánh rừng xa xa nghe như một điệu nhạc trầm buồn tiễn đưa người tù vắn số. Đám bạn chống xẻng nhìn huyệt mộ có vẻ an ủi lắm. Không nói ra nhưng chắc ai nấy đều nghĩ thầm: "Ít ra đây là những gì tụi tao còn có thể làm được cho mày lần cuối đó Mai Xuân Cương ơi!"

Xác Mai Xuân Cương được bó trong một cái áo mưa quân đội cũ, bên trong liệm chung với mấy món vật dụng cá nhân ít ỏi của anh. Hùng và đám bạn còn cẩn thận viết tên Mai Xuân Cương trên một mảnh giấy, bỏ vào cái lọ thủy tinh đậy nút thật kỹ liệm chung với xác anh ta, để sau này dù có bị mối đục khoét hết đồ vật, vẫn còn có thể nhận dạng được. Trước khi đặt anh nằm vào trong bọc áo mưa, Hùng không quên đeo sợi dây có cây thánh giá vào cổ bạn. Đây là món quà Mẹ anh gởi vào theo thuốc chống sốt rét vừa rồi. Đó cũng là điều an ủi cho Mai Xuân Cương, còn mang được món quà của người Mẹ thân yêu theo bên mình trước khi đi vào lòng đất.

Xác anh được khiêng từ bệnh xá ra, đặt xuống lòng huyệt mộ một cách nhẹ nhàng bởi những người bạn tù thân thiết. Trước khi lấp đất, không ai bảo ai tất cả đám tù hiện diện cùng đứng cúi đầu trang nghiêm thầm cầu nguyện trước cặp mắt của tên bộ đội vệ binh và cán bộ quản giáo đứng nhìn lom lom gần đó. Cặp mắt của họ hôm nay hình như cũng biểu lộ chút dễ chịu hơn mọi ngày. Dầu gì thì người cũng đã nằm xuống rồi! Đâu ai nỡ khó khăn với người chết làm chi.

Hùng nhìn quanh, gần nơi huyệt mộ của bạn mình đã có từ hồi nào 11 ngôi mộ của những người tù cải tạo khác không may nằm xuống trước đó. Tất cả các ngôi mộ đều không có một tấm bia nào khắc ghi tên tuổi, ngày tháng để lại sau này cả! Trong khi xúc đất phủ lên xác bạn, Hùng không ngớt suy nghĩ. Không biết phải làm sao để có thể ghi dấu lại ngôi mộ của bạn sau này? Làm cách nào để nhiều năm sau còn hy vọng kiếm lại được? Trước đó Hùng có nghe mấy tay quản giáo nói chuyện với nhau, trong tương lai người ta sẽ khai phá những khu rừng chung quanh ngọn đồi này để trồng cao su. Với sự thay đổi như vậy, việc nhận dạng lại dấu vết nhiều năm sau này sẽ càng khó khăn hơn. Đám bạn tù bàn với nhau tìm một cành cây dài với hình thù đặc biệt dễ nhớ và cố gắng chôn cây đó càng sâu càng tốt trước ngôi mộ. Sau đó tất cả đồng ý lấy cây cổ thụ thật lớn nổi bật ở bìa rừng làm chuẩn và từ đó nhắm hướng đếm bước đến nơi chôn vùi bạn. Đám bạn còn cẩn thận đếm bước hai ba lần để chắc chắn có được con số chính xác nhất định. Sau đó họ cố gắng ghi nhớ địa thế ngọn đồi cùng vị trí của các ngôi mộ khác để phân biệt với nơi bạn nằm. Đâu đó xong xuôi trước khi từ giả trở về trại, tất cả đứng bùi ngùi van vái thầm: "Mai Xuân Cương ơi! Số mày không may ra đi sớm, tụi tao cũng chỉ biết cầu xin vong hồn mày hãy yên nghỉ. Như vậy cũng yên ổn phần mày rồi. Còn số phần tụi tao chưa biết mai đây sẽ ra sao? Nếu mày có linh thiêng hãy về phù hộ cho tụi tao chống chọi được tất cả các khó khăn, bệnh tật. Phù hộ cho tụi tao luôn khoẻ mạnh và sớm được thả về với gia đình. Tụi tao hứa sẽ báo tin và chỉ dẫn chỗ nằm của mày để gia đình mang mày về. Thôi mày hãy an nghỉ, tụi tao đi đây!"

Hôm đó trời đã ngừng không mưa nữa, nhưng mây vẫn còn u ám lắm. Cả bầu trời hình như chỉ có mỗi một màu xám, nên mặc dù chưa trưa khung cảnh chung quanh trông có vẻ như đã xế chiều lâu lắm rồi vậy! Xuống tới dưới chân đồi Hùng ngoái nhìn lên chỗ bạn nằm. Cành cây lớn cả bọn cắm trước mộ bạn làm dấu, nhìn từ xa hình dáng nó trông  giống y như một cây súng gãy cắm ngược xuống đất. Hùng thở dài. Phải rồi! Trông nó thật là giống một cây súng đã gãy, đang đứng chơ vơ một mình giữa nền trời u ám.

******

******************

******

Cái chết của Mai Xuân Cương đã để lại trong lòng những người bạn tù nhiều thương cảm và suy nghĩ về số phận mong manh của kiếp tù đày. Không lâu sau đó, một số tù cải tạo tìm cách trốn trại. Trong số mấy người ít ỏi thoát được từ trại 3148 Bù Gia Phúc có Th/Úy Trần Văn Khoẻ, người bạn thân cùng đơn vị với Mai Xuân Cương và Diệp Phi Hùng. Tin trốn trại loan ra dấy lên làn sóng xôn xao trong đám tù còn lại, đồng thời càng làm cho ban quản giáo siết chặt kỷ luật gắt gao hơn. Nhưng có khó khăn gì nữa thì cũng thế thôi. Người tù cải tạo không phải hàng ngày vẫn đối diện với khó khăn từ sáng sớm đến tối mịt đó sao? Chỉ tiêu lao động đưa ra nhiều hơn ư? Đàng nào thì người tù cải tạo cũng quen với sự chịu đựng rồi. Ráng thêm chút nữa, rồi cũng xong thôi.

Tuy thế tận trong đáy lòng, Hùng cảm thấy nỗi buồn chất chứa thêm lên. Trong một thời gian ngắn, hai người bạn thân thiết nhất đã xa rời: Một ra đi vĩnh viễn, một chưa biết số phận thế nào sau khi trốn trại. Những ray rức dằn vặt, lòng buồn nhớ thương bạn, nỗi cảm khái cho chính thân phận của mình và gia đình bên ngoài… khiến Hùng suy tư nhiều và trở chứng mất ngủ hồi nào không hay. Nhiều khi đốn cây, róc vỏ xong chờ vác về. Hùng và các bạn ngồi nghỉ mệt. Nhìn thân cây đã bị đốn ngã nằm trên mặt đất chờ khiêng về, Hùng không khỏi cảm khái nhớ tới một bài thơ được người tù nào đó làm ra và được một người khác phổ nhạc. Tác giả nhìn thân cây bị đốn ngã, ví von với thân phận của mình và làm ra bài thơ sau đây mà các người tù cải tạo lúc bấy giờ gần như ai cũng thuộc lòng:

Thân Phận .

Rừng hoang… Xào Xạc…

Một thân cây đốn ngã.

Như đời mình.

Buông thả tương lai.

Này đây là tóc là tai.

Cành khô nằm đó.

Ai mang anh về?

Thân anh khốn nổi ê chề

Tháng năm vẫn đợi. Lời thề còn chăng?

Lòng anh khốn nỗi giá băng

Anh ray rức mãi vết hằn khổ đau.

Thôi em. Vơi bớt ưu sầu.

Bước đi bước nữa, tan mau nửa đời.

Rừng hoang chôn chặt một thời.

Tương lai đâu có lời nào cho em.

Mắt sâu hun hút đêm trường,

Anh ca khúc hát nhớ thương vô vàn

Rừng hoang kết lá úa tàn

Thân cây đốn ngã. Anh thương phận mình.

                             (Không rõ tên tác giả)

Lời thơ bình dị mà cảm động quá. Đã nói lên được tâm trạng chung của tất cả anh em tù cải tạo. Mặc dù Hùng chưa có gia đình, nhưng anh cũng có người yêu nên hiểu rõ những suy tư khắc khoải của những bạn tù khác có vợ con, gia đình ở nhà. Người tù cải tạo giờ đây có khác gì một thân cây đã bị đốn ngã. Nhưng cây bị đốn ngã còn có người đưa về, còn người tù cải tạo nếu chẳng may nằm xuống giữa rừng già này, thì ai sẽ đưa anh về? Vợ và người yêu ở nhà, có còn bền chặc lời thề ngày xưa hay chăng? Thôi thì em ơi. Hãy vơi đi bớt ưu sầu. Cứ bước đi bước nữa đi em. Bước đi bước nữa cho nửa đời còn lại của em tan mau. Em không cần phải chờ đợi anh đâu… Sao mà thấm thía và chua xót quá! Lần đâu tiên Hùng và các bạn được nghe một bạn tù ôm đàn hát bài này. Ai cũng ứa nước mắt. Đúng rồi! Thận phận của người tù cải tạo bây giờ đâu còn gì để hứa hẹn mai sau cho người mình yêu thương nữa!!... Từ đó nhiều lần trong đêm khuya, nơi trại tù im vắng giữa núi rừng Phước Long, mỗi khi buồn không ngủ được, anh thường nhớ tới bài hát này và hay khe khẽ hát một mình: "… Mắt sâu hun hút đêm trường. Anh ca khúc hát nhớ thương vô vàn. Rừng hoang kết lá úa tàn. Thân cây đốn ngã. Anh thương phận mình!"

Giọng hát nghe đã buồn! Lời nhạc nghe sao còn não lòng hơn!

******

******************

******

Ở trại 3148 Bù Gia Phúc đến cuối năm 1978 thì tất cả lại bị chuyển trại một lần nữa. Lần này nhóm bạn thân của Hùng bị phân tán ra, đi đến những trại tù cải tạo khác nhau. Hai năm sau, khoảng cuối năm 1980, Diệp Phi Hùng, Nguyễn Minh Hoàng, Phạm Thanh Tân, Nguyễn Văn Thu và Ngô Văn Cường lần lượt được thả về hết. Sau những ngày vui mừng đoàn tụ với gia đình. Nhớ đến lời hứa với Mai Xuân Cương trước đây. Hùng rủ Cường đến nhà Mai Xuân Cương thăm viếng, đồng thời kể chi tiết về cái chết và lời trối trăn trước giờ lâm chung của anh. Gia đình Mai Xuân Cương đã biết tin về cái chết của con mình lâu rồi, nhưng những chi tiết thì chưa biết được rõ ràng. Nay nghe Hùng kể lại, cả nhà anh khóc như mưa. Ba của Mai Xuân Cương nói qua giòng nước mắt:

- "Các cháu đã là bạn của thằng Cương thì cũng như con cháu của Bác thôi. Nay em nó không may vắn số mà xác thân còn lưu lạc giữa núi rừng như vậy, quả thật Bác đau lòng quá. Bác xin các cháu vì tình bạn ngày xưa với nó mà chỉ dẫn cho Bác chỗ để Bác đưa cháu nó về với gia đình, ngày nào nó chưa về được thì Bác không thể ăn ngon ngủ yên được. Bác muốn tận tay mình mang hài cốt của con về. Bác chỉ cần các cháu hướng dẫn cho Bác đến chổ của nó nằm là Bác đã mang ơn lắm rồi. Đêm nằm Bác cứ thấy nó mà chảy nước mắt hoài." - Ông nói xong lại khóc nức nở..

Hùng và Cường nhìn thấy cảnh đó cũng cảm động vô cùng. Cả hai hứa sẽ hướng dẫn Ba của bạn đi tìm mộ và mang hài cốt anh về. Thời điểm đó tính từ ngày chôn cất Mai Xuân Cương thì mới chỉ khoảng gần 2 năm mà thôi. Nhiều người bà con của Cương bàn với gia đình anh là thời gian 2 năm còn quá sớm, phải đợi đến khoảng ít nhất từ 3 đến 5 năm sau, xác thịt tiêu hủy hết thì hốt cốt mới tốt hơn. Nghe ai cũng nói như vậy nên gia đình Mai Xuân Cương đồng ý nán lại đúng 5 năm mới thực hiện chuyện đó.

Nhưng xưa nay người tính là một chuyện, còn trời tính lại là một chuyện khác! Trong khoảng thời gian chờ đợi đó Ba Mẹ của Mai Xuân Cương phần vì nhớ thương con, phần vì lớn tuổi nên đau yếu hoài. Đến khi đúng 5 năm kể từ ngày anh chết thì cơn bệnh của Ba anh bị trở  nặng không đi được, cuối cùng đành phải hoãn việc này lại.

Bẵng đi mấy năm sau, bệnh tình của người cha cũng cứ như vậy hoài, không thuyên giảm chút nào. Khổ nỗi ông cứ nằng nặc yêu cầu ráng đợi ông hết bệnh sẽ đích thân đi lo cho con mình mới thoả lòng! Trong khi đó Hùng và các bạn bè thân thuộc lo chuyện trốn đi vượt biên nhiều lần vẫn không thành, ngoài ra còn lo chuyện sinh kế gia đình nên đầu óc đâu còn để ý gì tới những chuyện khác nữa. Mãi đến khi bệnh tình Ba của Mai Xuân Cương trở nặng, ông biết là không xong, hết hy vọng tự tay mang con về như tâm nguyện được nên cho người mời Hùng và Cường đến. Ông nắm tay hai người vừa khóc vừa nói:

- "Tâm nguyện của Bác chưa hoàn thành được, chắc là Bác chết không nhắm mắt được hai cháu ơi."

Nói xong ông lại ngậm ngùi khóc. Hùng và Cường nhìn ông rất thương cảm nhưng không biết phải nói làm sao. Cuối cùng ông nói với hai người bạn của con mình:

- "Bác biết là yêu cầu này hơi quá đáng, nhưng ngoài hai cháu ra, Bác bây giờ không biết phải cầu xin ai nữa cả."

- "Thưa Bác. Xin Bác đừng nói vậy. Bác có điều gì yêu cầu, nếu trong khả năng làm được, hai cháu sẽ cố gắng làm cho Bác."

- "Xin hai cháu hãy thương cho thằng Cương của Bác mà thay Bác mang nó về với gia đình dùm Bác. Bác tâm nguyện sẽ tự tay lo cho nó, nhưng với tình hình sức khoẻ như thế này, chắc là Bác không qua khỏi để làm chuyện đó rồi. Thôi thì xin hai cháu hãy cố gắng giúp cho em Cương lần nữa, coi như hai cháu làm phước cho gia đình Bác vậy. Bác thật không dám quên ơn sâu này."

Hai người bạn không cầm được nước mắt, cả hai nắm tay người cha tội nghiệp và hứa với ông:

- "Bác cứ yên tâm. Hai đứa cháu sẽ ráng làm hết sức để đưa anh ấy về với gia đình. Cháu chỉ sợ sau nhiều năm, nhiều chuyện thay đổi, không biết tụi cháu có tìm được đúng chổ anh ấy nằm xuống hay không, nhưng hai cháu sẽ cố gắng." 

Ba của Mai Xuân Cương qua đời sau đó không lâu. Khi đưa đám của ông, nhìn người Mẹ bệnh tật và những đứa em còn lại của bạn. Hùng và Cường bảo nhau nhất quyết thực hiện lời hứa mang hài cốt Mai Xuân Cương về nằm kề bên Ba anh ấy cho bằng được.

Cuối năm 1990, mười hai năm sau khi Mai Xuân Cương mất. Sau khi sắp xếp mọi việc đâu đó xong xuôi, Diệp Phi Hùng và Ngô Văn Cường cùng một em rễ và một em ruột của Cương chở nhau trên hai chiếc Honda đi ngay lên Phước Long. Mục đích chuyến đi lần này chỉ là dò đường tìm lại ngọn đồi năm xưa và cố gắng tìm vị trí ngôi mộ bạn trước. Nếu tìm được thì chuyện hốt cốt không thành vấn đề nữa. Điều lo sợ nhất của hai người là trãi qua bao năm tháng, vật đổi sao dời chỉ sợ ngôi mộ thất lạc không thể tìm thấy được nữa thì đúng là phụ đi tâm huyết của nhiều người. Riêng Hùng, nếu không làm tròn được ước nguyện của bạn và người cha trước khi chết thì anh thật sự đau lòng lắm.   

Đến Phước Long, thì trời đã chiều lắm rồi. Trời lại mưa quá lớn. Những con đường đất dẫn vào rừng đều ngập nước hết cả. Lượng mưa ở vùng rừng núi Phước Long này hình như quá nhiều, lúc nào cũng có thể mưa được. Đã vậy nạn khai thác rừng lấy gỗ một cách bừa bãi, vô tổ chức mấy năm sau này đã khiến cây rừng không còn giữ được nước. Lũ từ các nơi đổ về mỗi khi có cơn mưa lớn gây lụt lội khắp nơi. Bốn người không còn cách nào khác hơn là vào nhà dân ở thị trấn tìm chỗ trọ qua đêm, đợi hôm sau hỏi thăm đường vào trại cũ. Tất cả bây giờ đã đổi thay hoàn toàn. Những cánh rừng ngày xưa thụt sâu ở hai bên đường và những trảng tranh lớn còn nhớ trong ký ức của Hùng, bây giờ không còn nữa. Thay vào đó là những cánh rừng cao su bát ngát. Hùng và Cường không còn nhận ra đâu là đâu. Hỏi thăm dân chúng về những trại tù cải tạo Bù Gia Phúc, Bù Gia Mập, Trại 3148, trại 3146… thì nhiều người không biết. Cuối cùng hai người đến bến xe đò hỏi thăm những tài xế và lơ xe, hy vọng ngày xưa những thân nhân đi thăm nuôi tù đã sử dụng phương tiện xe đò, như thế chắc phải có người biết chỉ dẫn dùm. Quả nhiên lần này gặp được mấy tài xế và lơ xe kỳ cựu ở đó biết đường đi vào những trại cải tạo cũ.

Sau khi ghi nhớ cẩn thận những lời chỉ dẫn, hai chiếc Honda lại lên đường theo những con đường đất lầy lội do trận mưa lớn hôm qua còn để lại, cộng với những ổ gà lởm chởm càng làm cho khó đi thêm. Mấy khu rừng Hùng nhớ mang máng trước đây nay đã bị khai phá thụt sâu vào bên trong nhường chổ cho hàng dãy đồn điền cao su chạy dài đến mút mắt. Thỉnh thoảng gặp một vài chiếc xe bò, Hùng dừng lại hỏi thăm. Sau nhiều lần lạc lên lạc xuống và hỏi thăm đường như thế… cuối cùng bốn người cũng đến được ngả ba đường 10 và nơi quẹo vào trại 3148, Bù Gia Phúc cũ. Đứng trước doanh trại, Diệp Phi Hùng và Ngô Văn Cường nhìn nhau cảm khái vô cùng. Không ngờ có ngày hai người lại trở về chốn này. Giờ đây doanh trại này không còn là nơi chứa tù cải tạo nữa, mà đã trở thành một doanh trại thuần túy do bộ đội biên phòng trú đóng.

Hỏi thăm dân chúng ở những ngôi nhà bên phía ngoài xem có ai biết ngọn đồi nơi chôn những người tù cải tạo bị chết ngày xưa thì không ai biết cả. Tuy nhiên có người chỉ dùm đường cho bốn người của Hùng đi vào rừng tìm một người đàn ông đang cất nhà chòi làm rẫy trong đó, người này chắc chắn biết tin tức bọn Hùng muốn tìm.

Lần theo sự chỉ dẫn, bốn người lại lên xe Honda men theo con đường mòn dân chúng thường đi làm rẫy, cuối cùng cũng tìm gặp được người muốn gặp. Đó là một người đàn ông trạc độ 55-60 tuổi, là bộ đội từ Bắc vào, trước đây đã từng là cán bộ quản giáo trong trại Bù Gia Phúc. Sau nhiều năm phục vụ, ông này lên đến cấp bậc Đại Úy và đã giải ngũ mấy năm gần đây. Ông ta lập gia đình với một người địa phương và lập nghiệp luôn ở nơi này, ngày ngày cùng gia đình làm rẫy sinh sống. Khi biết được ý định của bốn người. Ông cựu Đại Úy bộ đội này sốt sắng nhận lời chỉ đường giúp đến nơi chôn cất tù cải tạo trước đây. Thật không còn gì mừng rỡ hơn đối với bọn Hùng lúc này. Lúc đó ngay trong rẫy, không có hàng quán Hùng định trở ra ngoài khu dân cư mua nhang đèn, nhưng ông cựu Đại Úy bộ đội này kiếm được một bó nhang cho bọn Hùng luôn. Trong khi đi đường, ông ta cho biết thỉnh thoảng khi làm rẫy gần ngọn đồi, ông có ra thăm và thắp nhang trên những phần mộ vô chủ đó. Ông nói rằng người đã nằm xuống rồi thì không còn hận thù gì nữa. Cả bốn người của Hùng đều rất cảm động với lời nói chân tình xuất phát từ một sĩ quan bộ đội mà ngày xưa có lúc đã là kẻ đối nghịch với họ. Phải rồi! Người đã nằm xuống rồi, hãy để họ yên nghỉ. Không nên nói hận thù với người đã chết nữa!

Khi lên đến ngọn đồi ngày xưa nơi hai người đã tự tay chôn cất bạn, Hùng và Cường ngơ ngác không thể nào nhận ra đây là đâu! Tất cả đã hoàn toàn thay đổi và khác hẳn với những gì còn sót trong ký ức của hai người. Kể cả những cánh rừng xa xa trước đây bây giờ cũng trồng toàn cao su! Không có dấu tích gì về những ngôi mộ ngày xưa. Mười hai năm qua rồi còn gì nữa!! Cũng may nhờ có người đàn ông dẫn đến ngay chỗ trước đây chôn những người chết trong trại. Tuy mặt đất trông có vẻ như bằng phẳng, nhưng khi đến nơi nhìn kỹ cây cỏ mọc ở bên trên những ngôi mộ, thì thấy nơi đó vẫn hơi nhô cao lên một chút nếu so với các nơi bằng phẳng khác. Điều này mang lại cho Hùng và Cường một tia hy vọng. Nhưng trước đây khi chôn bạn, chung quanh có 11 ngôi mộ thì bây giờ đã có thêm nhiều người nằm xuống ở đây nữa rồi! Việc tìm đúng ngôi mộ của bạn không phải là một chuyện dễ. Hùng đứng quan sát kỹ chung quanh cố nhận dạng một điểm quen thuộc nào đó có thể gợi nhớ cho mình. Đầu óc của anh thật là mơ hồ, không một điểm nào có thể làm cho anh nhớ lại được hết! Cành cây có hình thù giống cây súng gãy mà trước đây cả đám cố gắng chôn sâu trước mộ bạn đã biến mất không để lại một dấu tích nào! Còn cây cổ thụ ngày xưa ở ven rừng dùng làm chuẩn, nay cũng bị đốn đâu mất tiêu! Hỏi ý kiến của Cường thì cũng thế, anh ta cũng không nhớ được điều gì rõ ràng cả!!

Hai người hỏi thăm ông cựu Đại Úy bộ đội về sự thay đổi khi người ta khai phá rừng để trồng cao su, thì được biết con đường đất ven khu rừng ngày trước cũng vẫn còn đó và vẫn được sử dụng cho đến ngày nay không thay đổi. Hùng hỏi ông ta về cây cổ thụ ngày xưa ở ven rừng thì ông cựu Đại Úy bộ đội này nhớ ra ngay. Lúc đó cả vùng chỉ có cây cổ thụ đó là lớn nhất nên hầu như ai ở khu này cũng đều biết nó cả. Ông ta chỉ hướng nơi có cây cổ thụ trước đây. Hùng mừng quá cùng với Cường đi ngay về phía bìa rừng cao su tìm kiếm dấu vết; thì quả nhiên dù cây cổ thụ đó đã bị đốn đi, nhưng vì gốc của nó quá lớn, người ta không thể nào bứng đi hết gốc rễ của nó được. Trên mặt đất vẫn còn nhô lên dấu tích một vài phần rễ khổng lồ còn sót lại như một xác nhận cho sự hiện diện của cây cổ thụ trước đây. Cả bọn mừng quá, thầm cám ơn Phật Trời và cầu nguyện vong hồn của Mai Xuân Cương và Ba anh hộ độ cho bốn người tìm được đúng nơi anh nằm. Sau đó từ điểm chuẩn vừa tìm được, hai người nhắm ngược về hướng những ngôi mộ đếm đều bước. Cả hai muốn chắc ăn nên đếm từng bước như vậy 2, 3 lần và đều đến cùng một nơi. Cả bọn xúm lại lấy một cành cây dài đóng xuống thật sâu dò thử, thì sau khi qua khỏi lớp đất cứng, cành cây sụp xuống dễ dàng có vẻ như trúng ngay vào một lỗ hổng. Mọi người biết nơi đây đúng là một ngôi mộ rồi. Tuy nhiên có đúng là mộ của bạn hay không thì chỉ còn biết cầu nguyện thôi. Sau đó để y nguyên cành cây dài cắm trong mộ làm dấu. Bốn người cám ơn và từ giả người cựu bộ đội tốt bụng đi về để lo bước kế tiếp làm thủ tục xin giấy phép hốt cốt Mai Xuân Cương.

Mấy ngày sau, khi có được giấy tờ hợp lệ đầy đủ. Bọn Hùng trở lại chổ cũ trình giấy tờ xin phép hốt cốt thân nhân với trưởng trại của đơn vị bộ đội đang trú đóng. Họ hỏi bọn Hùng về những di vật khi tẩn liệm Mai Xuân Cương, làm sao có thể nhận dạng chắc chắn đó là hài cốt của anh ta sau khi quật mồ lên… Hùng khai rõ những gì mình còn nhớ được khi tẩn liệm cho bạn với trưởng trại. Sau đó họ chấp thuận cho phép mấy người của Hùng được quật mồ. Một số bộ đội được cử đi theo giám sát.

Hùng hồi hộp van vái không ngừng khi mộ huyệt được đào lên:"Mai Xuân Cương ơi Mai Xuân Cương! Hôm nay tụi tao lên mang mày về với gia đình đây. Mày có linh thiêng thì giúp tụi tao đào đúng chổ. Mày sắp được về nằm gần Ba mày rồi. Ráng linh thiêng hướng dẫn cho tụi tao đào đúng chổ nghe." Hùng cứ lẩm bẩm khấn vái như vậy liên tục. Đến khi những nhát xẻng đầu tiên xúc hết đất lòi ra một khoảng nylon lớn mầu olive sậm của chiếc áo mưa quân đội, thì Diệp Phi Hùng và Ngô Văn Cường thấy hy vọng lắm. Cái áo mưa còn y nguyên. Sau khi khiêng lên trên, mở áo mưa ra thì không còn nghi ngờ gì nữa. Bộ đồ bà ba đen khi tẩn liệm cho Cương tuy mục nát vài chỗ nhưng hình thù vẫn còn. Cây thánh giá của Mẹ Cương mà Hùng đeo vào cho bạn khi tẩn liệm cũng kiếm ra được,  cộng thêm lúc còn sống Cương có một vết thẹo khá lớn trên trán, bây giờ xương sọ của anh vẫn còn một vết mờ nhạt ngay vị trí vết sẹo đó. Ngoài ra cái lọ thủy tinh chứa mãnh giấy để tên anh còn đó đã xác nhận rõ ràng.

                                                            ******

                                                ******************

                                                            ******

Hài cốt của Mai Xuân Cương sau mười hai năm, cuối cùng được đưa về nhà đúng như ước muốn của anh trước giờ lâm chung. Sau đó được hỏa thiêu và mang vào nằm cạnh Ba anh trong ngôi nhà thờ họ Đạo của gia đình. Sự ra đi tức tưởi của anh là một điều đau đớn cho riêng anh và gia đình cũng như bạn bè thân thuộc. Tuy thế vẫn có cái kết cuộc may mắn là anh có được những người bạn tốt như Diệp Phi Hùng, Trần Văn Khoẻ, Nguyễn Minh Hoàng, Ngô Văn Cường, Phạm Thanh Tân, Hoàng Lập Thành… đã lo lắng cho anh vào những giây phút cuối. Đặc biệt là Diệp Phi Hùng và Ngô Văn Cường đã hết lòng hoàn thành ước muốn của anh. Cũng như may mắn có được một gia đình thương yêu, quyết tâm mang anh về cho dù sau bao năm tháng. Vấn đề sức khoẻ của Ba anh có làm trì hoãn chuyện này, nhưng quyết tâm đó vẫn được nung đúc và cuối cùng vẫn thực hiện được. Anh lại còn có cái may mắn xui khiến các bạn anh gặp được một cựu Đại úy bộ đội tốt bụng, biết chỗ hướng dẫn đến đúng nơi anh nằm, từ đó mới có thể đưa anh về nhà được.

Nhưng khắp chiều dài đất nước, chúng ta còn biết bao Mai Xuân Cương khác đã âm thầm ngã xuống. Thân xác còn chôn vùi đâu đó nơi rừng sâu núi thẳm mãi cho đến giờ này vẫn không được biết và không ai đoái hoài tới. Đất nước thân yêu của chúng ta đã trãi qua bao thăng trầm của lịch sử, nhưng phải nói chưa có giai đoạn lịch sử nào lại bi thương bằng giai đoạn vừa qua! Thân phận của hàng trăm ngàn người tù cải tạo và gia đình của họ sau cuộc chiến sao mà đau đớn quá!! Công lý nào, quyền lực nào mai sau sẽ có thể đòi lại công bằng cho họ được đây?? 

Tôi đã xúc động vô cùng khi nghe người bạn cùng khóa và cũng là người trong cuộc, anh Diệp Phi Hùng, kể lại câu chuyện thương tâm trên. Cái thân phận của người lính gãy súng như Mai Xuân Cương và biết bao sĩ quan VNCH khác trong những trại tù cải tạo rải rác khắp mọi miền đất nước sao mà bi thảm quá! Bài viết này được viết qua cảm xúc đó để kính dâng lên các anh, những người đã bỏ mình âm thầm trong những trại tù cải tạo xa xôi, như chút tâm tình riêng của một cựu quân nhân VNCH tưởng nhớ đến những chiến hữu của mình đã âm thầm ngã xuống tức tưởi ở một nơi nào đó. Các anh đã ngã xuống không phải trong một trận đánh kiêu hùng, mà ngã xuống chỉ vì ốm đau, bệnh tật… kết quả của sự đày ải và lòng hận thù hèn mọn.

Với ý nghĩ đó, cá nhân tôi xin được vinh danh và chào kính các anh.

 Lão Chộp

Tác giả: Trần Đăng Khoa

,

I

         Lão Chộp lại có khách. Chuyện ấy thì chẳng lạ. Nhà lão ngày nào chẳng rậm rịch khách khứa. Căn nhà nằm ngay bên con đường chính của làng. Con đường nối ba xóm, dẫn ra đến cổng đồng. Nhà lão lại có bể nước mưa trong vắt, một nửa chôn chìm xuống dưới lòng đất, nên bốn mùa nước mát lạnh, uống đến đâu, biết đến đó. Đang mệt và buồn ngủ, tợp một ngụm là tỉnh queo như sáo tắm. Bởi thế, người ra đồng đáo qua, kẻ về nhà tạt lại, làm chớp nghỉ chân, rồi tiện thể đánh đẫy một gáo dừa, gọi là hưởng tí lộc giời. Nếu không cũng sà vào cái chõng tre kê ở hiên nhà, bắn vài điếu thuốc lào. Cái điếu nhà lão là điếu cổ, loại điếu bát, nghe nói có từ đời vua Càn Long ở bên Tầu kia. Thuốc nào nhồi vào đó, hút cũng ngon, cũng ngọt lịm như rót mật vào cổ. Rồi thì say. Say đứ đừ. Say từ ruột say ra, đã hơn cả thuốc phiện, cứ gọi là đê mê từ chân tóc xuống tới tận kẽ ngón chân. Đời người, mỗi ngày được một choác như thế, có khác gì lên Tiên, lên Phật. Mà Tiên Phật cũng phải gọi bằng cụ. Bởi vậy, nhà lão luôn rục rịch kẻ ra, người vào. Toàn những tiên phật cả đấy. Nhưng ông khách đến nhà lão Chộp lần này lạ lắm. Không phải người làng. Cũng không phải người ở huyện, ở tỉnh, ở Hà Nội, trung ương, mà xa lắm, xa lắm lắm, nghe nói mãi bên kia Thái Bình Dương. Nghĩa là bên kia trái đất cơ đấy. Đó là ngài Peter Peterson, Đại sứ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Quái, lão có quen ông ấy đâu nhỉ? Cả đời lão, đến cái tết con cọp này đã bước vào cái tuổi sáu tám, nhưng lão chưa bao giờ đi ra khỏi làng. Làm sao lão có được ông bạn vàng xa xôi thế, bệ vệ sang trọng đến như thế? 

II

Thực tình, nói có giời biết đấy, và cũng xin thề trước quỷ thần hai vai, lão Chộp không hề quen ngài đại sứ thượng nghị sĩ Peter Peterson. Lão vốn là thợ cày làng An Đoài. Nghề thợ cày là nghề gia truyền từ đời ông bà ông vải để lại. Nhà lão nghèo, lại neo đơn. Lão thuộc hạng độc đinh. Ông cụ thân sinh ra lão gặp phải cái cung số vất vả về đường con cái. Mà đâu chỉ riêng ông cụ. Ai ở cái làng này cũng vất vả đường con cái. Đẻ thì có đẻ. Nhưng khó nuôi. Có nhà đến chín, mười đứa con mà rồi chẳng còn một mống. Đứa leo cây, sa xuống đất: chết! Đứa rắn cắn: chết! Đứa trượt chân, rơi tõm xuống ao bèo: chết! Rồi đứa bị lên sởi: chết! Đứa đi chăn trâu, bị cảm nắng, thoạt tiên, đầu chỉ thấy váng vất. Thế rồi cũng lại lăn đùng ra chết. Chết cứ như đùa. Cụ thân sinh ra lão Chộp có đến 5 người con, ba trai, hai gái, trông cứ đều thau tháu, đẹp như tranh vẽ. Chúng chỉ bị đậu mùa nhì nhằng. Vậy mà rồi ai ngờ, chúng cũng lại cướp công cha mẹ, chúng theo nhau đi hết. "Hú ba hồn chín vía cái Gái ở đâu thì về...". "Hú ba hồn bảy vía thằng Buồi khoăm ở đâu thì về với chị, với em nhớ... ớ... ớ...". "Hú ba hồn chín vía...". Đêm nào, làng cũng cồn lên những tiếng hú hồn như thế. Tiếng hú eo éo rờn rợn vờn trên những tán cau, bụi chuối đen ngòm, vọng từ cổng đồng vào những ngõ xóm tối sẫm, hun hút mưa phùn gió bấc và rông rốc tiếng chó sủa, rồi lại từ ngõ xóm vòng ra ngoài cổng đồng. Những người đàn bà lớn tiếng, cả hơi đều được xung vào đội quân hú hồn. Thi thoảng cũng có đứa tỉnh lại. Ấy là hồn chưa đi xa, chưa bị lú đường, còn nghe được tiếng hú gọi mà lần về nhập vào xác. Còn nhiều đứa hồn đã lìa, mà không kịp gọi ngay là coi như đi đứt. Chúng đã bị giời bắt. Bà đồng Hỷ khoát tay quả quyết như vậy. Bà cụ ở mãi huyện bên, cách làng một thôi đường, một con sông, lại bị mù từ nhỏ, chỉ quanh quẩn trong cái điện thờ âm u hương khói mà cái gì cũng biết. Cứ như lời bà đồng thì trăm tội đều do ông giời cả. Tại Ngài tất. Ngài đỏng đảnh lắm, tham lam lắm, chỉ muốn có nhiều kẻ hầu, người hạ. Cứ đứa nào có tên đèm đẹp là Ngài bắt ngay. Thế là từ đó, đẻ con, người ta cứ thằng cu cái đĩ mà gọi. Có ông lão làm nghề đánh giậm, đẻ đến năm cô con gái. Lũ trẻ lau nhau trứng gà, trứng vịt, ăn cơm rau muống, tắm nước ao tù, mà thấc lên đẹp như tiên. Da trắng nõn trứng gà bóc. Môi chúm chím, ướt đỏ, trông đến mát cả mắt. Con gái thị thành cũng chẳng bén gót chân. Nhưng đến khi gọi tên thì nghe sởn cả da gà: Ếch, Ộp, Suốt, Suồn, Suột. Ấy vậy mà cũng đâu có thoát khỏi nạn giời. Cô Ếch đội nón ra đi sau một tuần bị chó dại cắn. Khổ! Không khéo cũng chỉ tại con bé có tên là Ếch. Thế thì đích thị là Ngài rồi. Chính ngài chứ đâu phải chó dại. Biết đâu, Ngài giở tính, lại thèm cái món đồng quê. Thế là khổ con rồi, con ơi! Bà đồng Hỷ bảo thế. Bà đồng đã phán là cấm có sai bao giờ!

 Bởi vậy, khi lão Chộp ra đời, ông cụ thân sinh lão gọi luôn là thằng Vồ. Cả làng từ lớn đến bé cũng gọi lão là thằng Vồ. Rồi cậu Vồ, anh Vồ. Sau này lớn lên, lão tự đổi tên là Chộp. Chộp với Vồ thì cũng thế cả. Ấy là cái tên để doạ... ông giời. Chẳng biết ông giời có sợ lão không, nhưng quả thật, Ngài cứ im thin thít. Bởi thế mà từ khi đẻ ra cho đến mãi sau này, lão chẳng ốm đau, sài đẹn gì, mà cứ lớn thôi thổi. Mười tuổi đã cao lưng cột nhà. Mười bảy tuổi, lão đã trị được con trâu hung dữ nhất của làng An Đoài. Ông giời lão cũng chẳng sợ. Cho đến cả Thiên lôi, Tầm sét có xuống, lão cũng chẳng coi ra cái thá gì! 

III

Thế thì lão sợ quái gì mấy con giời rổm, ấy là cái lũ quạ Mỹ. Khi chiến tranh leo thang bằng không quân của chúng vừa bung ra miền Bắc, lão đã sung ngay vào trung đội dân quân Quyết thắng của làng An Đoài. Với cây súng trường dài bằng nửa cái đòn gánh, trưa nào, lão Chộp cũng leo lên đỉnh cây gạo cạnh ao chùa, ngồi thu lu trên chạc ba, như một con chim cắt đang rình mồi. Lão đang rình máy bay Mỹ đấy. Rình mãi rồi chúng cũng mò đến. Chúng hét ầm ầm như sấm, như sét, nghe tưởng đứt màng nhĩ, hùng hổ cứ như ông Thiên lôi. Nhưng nhìn tướng mạo thì rõ ra quân ăn trộm. Chúng bay sấp ngửa, bay nhớn nhác như quạ vào chuồng lợn. Rồi tên lửa, rồi cao xạ, trung liên, rồi 12 ly 7 nổ rền khắp cả bốn phía. Lúc bấy giờ mới biết quân ta đông thật. Chỗ nào cũng dày đặc trận địa phòng không. Đạn nổ rền như ngô rang. Lão cũng đòm theo vài phát súng trường cổ lỗ. Thực tình thì lão chỉ bắn doạ. Lão nện bừa lên thinh không chứ nào có kịp nhằm gì. Thế mà con giời cũng khiếp vía, chạy đến vãi khói đít.

 Thế rồi, nhập nhoạng tối ngày 10 - 9 - 1966, lúc bấy giờ mới cơm nước xong, lão Chộp chưa kịp leo lên ngọn cây gạo thì bầy quạ Mỹ chẳng biết đi ăn sương ở đâu về, rồi bị đòn, bay đến khu vực làng An Đoài thì cháy bùng lên như một ngọn đuốc lớn. Lão Chộp sướng quá. Lão hét đến khàn cả giọng. Rồi cả làng cùng la hét, reo hò ầm ĩ. Rồi họ khua trống, gõ nia, gõ mẹt, gõ chậu thau, nồi đồng. Rồi lan sang cả mấy làng bên. Rồi thì khắp bốn phương giời, mười phương đất, chỗ nào cũng đụp đụp đẹt đẹt. Ngọn đuốc ma bấy giờ đã bành ra thành đống lửa lớn chùng chiềng đổ xuống mạn Ái Quốc. Phen này thì thằng lái ra tóp! Lửa phừng phực như thế, có là ông giời cũng chẳng thoát nổi. Toi rồi, con ơi! Cú này thì đời con thành chả rồi. Một miếng chả nướng cứ gọi là thơm phưng phức nhá! 

IV

Vậy mà hai tên giặc lái trong chiếc máy bay bị bắn cháy đêm ấy vẫn không bị chết, cũng không bị thui thành miếng chả thơm phưng phức như lão Chộp tưởng tượng. Vào khoảng tám giờ tối hôm đó, ông Nguyễn Đình Bệch, công nhân lái phà ở làng Đào Xá đi làm về, tình cờ nhặt được chiếc mũ phi công rơi trên cánh đồng làng An Lâm. Thế có nghĩa là tên giặc lái đã thoát khỏi đám cháy, đã nhảy dù rồi. Có thể hắn rơi ngay ở trên cánh đồng làng An Đoài, hoặc ở mấy khu vực quanh quanh đây thôi. Bí thư đảng ủy Nguyễn Đình Hiện và xã đội trưởng Nguyễn Danh Cân đều có chung một nhận định như vậy. Trung đội dân quân Quyết thắng đã được triệu tập tức tốc ngay trong đêm. Bằng mọi giá phải lùng bắt tên giặc lái đang lẩn lút đâu đó, không để cho hắn gọi đồng bọn đến giải thoát. Trung đội dân quân được bổ sung thêm một số thanh niên phụ nữ trong làng. Người có súng thì mang súng. Người không có súng thì mang đòn gánh, đòn càn, liềm hái, hoặc gậy gộc. Đạo quân truy tìm giặc lái chia làm ba mũi. Một mũi tiến về phía An Lâm. Một mũi tràn về mạn Quốc Tuấn. Lão Chộp dẫn đầu mũi vây quét ở khu vực An Đoài, Đào Xá. Lùng sục suốt đêm, chẳng thấy gì. Thằng lái chết rồi. Chắc chắn là hắn chết rồi. Cái mũ của hắn có thể vẫn còn sống, nhưng chính hắn thì đã bị cháy thành than cùng với chiếc máy bay. Lão Chộp nghĩ vậy. Rồi lão thung thăng dẫn quân về. Lúc bấy giờ đã khuya. Sương xuống mù mịt. Cả cánh đồng Mả Giai chờn vờn trong làn sương khói lãng đãng. Mảnh trăng thượng tuần xanh tái đang lặn xuống chân trời xa, hắt quầng sáng hấp hối lên đỉnh ngọn quéo đen sẫm. Cây quéo này, một thời nghe nói có ma. Khối bà đi chợ sớm qua đây, rồi cứ gồng gánh đi quanh gốc quéo cho đến sáng bệch mới thoát ra khỏi. Ma làm đấy. Bà đồng Hỷ bảo phải đóng vào gốc quéo ba cái đinh thuyền to bự cùng bao nhiêu bùa bà cho yểm mới trị được đấy. Bây giờ thì không còn ma nữa. Nhưng lão Chộp vẫn thấy rờn rợn. Linh tính báo cho lão biết có một điều gì đó không bình thường. Hay là vẫn còn ma? Mà đúng còn ma thật. Ma hiện lù lù ngay trước mắt kia, ở ngay trên đỉnh ngọn quéo kia. Lão Chộp dụi mắt nhìn. Một chiếc dù bùng biêng xanh xanh đỏ đỏ trong ánh trăng thoi thóp. Lão Chộp khoát tay ra hiệu cho cả nhóm tản ra xung quanh, tiếp tục lùng sục. Rồi lão trườn dọc bờ ruộng, men theo con mương đào. Có tiếng cá tũng toẵng đớp sương. Rồi tiếng thở phì phò bên kia mương nước. Thôi, đúng con giời rồi. Lão Chộp nhảy phóc qua mương. Rồi lão lăn một vòng xuống vệ cỏ, lăn luôn vào cái đống to xù đang nằm thở hổn hển. Lúc bấy giờ, lão Chộp mới bàng hoàng nhận ra mình chỉ có hai bàn tay không. Khẩu súng rơi đâu mất. Có lẽ nó đã văng xuống bờ mương bên kia. Tên gịăc lái nghển cổ nhìn lão. Lão Chộp ngỡ sẽ có một tiếng súng lục vang lên. Nhưng chắc chắn lão không thể chết được. Nếu có bị trúng đạn thì cũng phải trói hắn xong, lão mới chịu chết. Nhưng không. Không có tiếng súng nào cả. Tên giặc bàng hoàng nhìn lão. Rồi bất ngờ, hắn chúi đầu xuống bờ ruộng. Hình như hắn muốn chui xuống đất. Nhưng hắn không phải con lươn, con chạch. Làm sao mà chui được cơ chứ! Lão Chộp nhảy phóc lên người hắn, chẹn chặt cổ. Rồi phía sau, ông Sinh, ông Măng, ông Lơ cũng vừa ập đến. Người đè chân, người giữ tay. Thế là tên giặc lái bị tóm gọn... 

V

Rồi sự kiện đó qua đi. Cũng như bao chiến tích oanh liệt thời chống Mỹ rồi cũng qua đi. Lão Chộp không còn nhớ nữa. Những ông lực điền cùng bắt giặc với lão cũng không còn nhớ nữa. Họ bận bao công việc đồng áng, mùa màng. Chẳng ai còn nhắc lại chuyện cũ. Thế nhưng, viên phi công Mỹ bị bắt đêm ấy, ngài Peter Perterson thì lại không quên. Vừa đến Hà Nội được ít ngày, ngài đã trở về An Bình, thăm lại mảnh đất xưa mà cứ theo lời ngài thì đó là mảnh đất ngài có nhiều kỷ niệm sâu sắc.

 Lần này, ngài đi giữa ban ngày. Cùng đi với ngài còn có bí thư tỉnh ủy Phạm Văn Thọ cùng nhiều cán bộ cao cấp Bộ Ngoại giao. Lão Chộp cũng ra đón ngài. Lão đi cùng đám thợ cày, thợ cấy làng An Đoài. Cuộc đón tiếp diễn ra trọng thể theo đúng nghi thức đón khách quốc tế.

- Ông còn nhớ tôi không? Ông có mong tôi trở lại không?

Đại sứ Peter Perterson bắt tay lão Chộp và hỏi lão như vậy. Câu hỏi ấy làm cho lão rất đỗi kinh ngạc.

- Làm sao tôi lại nhớ và mong ông được. Ông không phải người làng tôi, cũng không phải họ hàng. Ngay cả bây giờ gặp ông giữa ban ngày ban mặt mà tôi cững còn chẳng thể nhận ra được nữa kia. Lúc ấy, ông khác lắm...

- Tôi khác ư? Khác thế nào? - Đại sứ đâm tò mò.

- Thì lúc ấy, ông là cái anh đầu trọc. Tôi muốn túm tóc ông cũng không túm được. Còn bây giờ thì ông thế này...

 Đại sứ Mỹ cười vang. Lão Chộp cũng cười. Câu chuyện xưa đã trở thành cổ tích. Còn hiện tại lão Chộp đang thũng thẵng cùng Peter Perterson đi thăm cánh đồng Mả Giai, thăm gian nhà kho chứa thóc giống nơi ngài từng bị nhốt. Tất cả giờ đổi khác. Cây quéo xưa đã chết. Đường ra đồng rộng thênh thang, có thể chạy hai hàng xe tải. Nhiều nhà xây đã mọc lên, có dáng dấp những biệt thự vườn. Rồi quán cháo lòng, quán cơm bụi, quán karaoke. Làng An Đoài đã váng vất đâu đó chút mùi vị thị thành. Đến chính lão Chộp cũng không còn nhận ra được dấu tích đìu hiu của cái làng quê xưa cũ. Nhưng Ngài Peter Perterson thì vẫn nhận ra. Ngài nhớ rất rõ từng bờ rào, từng mô đất trên con đường làng ngoằn ngoèo những vệt trâu đái và ngai ngái mùi cúc tần, mùi rơm rạ. Lão Chộp rất kinh ngạc trước trí nhớ kỳ lạ của viên phi công Mỹ ngày nào.

- Chỗ này dạo ấy không phải như thế này đâu. Nó có rãnh nước nhỏ...

- Phải rồi! Lão Chộp xác nhận. - Nó là rãnh đất ải. Ông tập tễnh bước trên những rãnh đất ấy...

- Tôi nhớ là tôi rất đau chân. Đau lắm. Lúc ấy, tôi ngỡ mình không phải bước trên mặt đất, mà đang giẫm lên những bàn chông. Vâng, đúng là những mũi chông nhọn hoắt...

Lão Chộp cười hô hố:

- Không phải chông đâu. Đất làng tôi đấy. Tôi vẫn giẫm trên những vạt đất ấy ra đồng mỗi ngày. Chỉ có điều là ông đi chưa quen thôi. Lúc ấy, tôi đã lột giày ông, vì cứ tưởng điện đài ông giấu trong giày. Nếu biết ông cộc tếch, chỉ có mỗi bộ đồ lề của lão phó cối, thì tôi đã chả bắt ông phải làm như vậy...

- Dạo ấy, tôi ngồi ở chỗ này, đúng không? - Đại sứ Mỹ chỉ cái bục gạch đã tróc vữa nham nhở ở góc sân kho hợp tác xã.

- Đúng đấy...

- Lúc ấy, có một người rót cho tôi bát nước. Bát nước rất lạ. Thoạt đầu chỉ thấy đắng ngắt. Đắng đến nỗi, tôi tưởng là thuốc độc. Nhưng sau lại thấy thơm, thấy ngọt. Một vị ngọt cũng rất lạ.

- Nước vối đấy. Còn người rót nước cho ngài là ông Lơ...

- Ông ấy có ở đây không?

- Ông cụ mất rồi. Mất cách đây mới vài năm thôi...

- Thật đáng tiếc. Cầu Chúa ban phước lành cho ông ấy. - Giọng Peter Perterson trầm xuống. - Quả thật là khi uống bát nước của ông ấy đưa cho, tôi biết là mình sống. Nhất định sẽ sống. Thế còn đống lửa? Tại sao lúc ấy họ đốt lửa to thế?

Lão Chộp cười:

- Họ đốt để nhìn rõ mặt ông đấy. Mặc dù lúc ấy, đốt lửa rất nguy hiểm. Vì lửa có thể là mục tiêu bắn phá của các ông...

Đại sứ Mỹ vẫn chưa hết ngạc nhiên:

- Thế còn những người xung quanh, họ la hét, họ cứ nhảy choi choi trước mặt tôi. Họ muốn làm gì tôi thế?

- À, đấy là những người có chồng, có con bị bom các ông giết hại đấy. Rất may là chúng tôi kịp nhét ông vào kho lúa, khoá lại, chứ nếu không thì không chắc chúng tôi đã bảo vệ được ông thoát khỏi những cơn thịnh nộ của họ...

Đại sứ Mỹ cười buồn, rồi quay sang lão Chộp:

- Cũng may là tất cả mọi việc đã qua rồi. Tôi rất mừng là cả hai chúng ta đều còn sống. Lần trước, tôi đến An Bình bằng nhảy dù. Bây giờ thì tôi đến An Bình bằng ô-tô. Tôi muốn chúng ta hãy khép lại quá khứ, cùng nhìn về tương lai. Tôi sẽ làm hết mình cho tương lai ấy. Ông bạn tôi, ngài Tali có nhờ tôi chuyển lời hỏi thăm ông, hỏi thăm bà con An Bình...

- Thế ông Tali là ông nào? - Tôi tò mò hỏi lão Chộp.

- Là cái ông phi công nhảy dù cùng với ông Buson. Cái máy bay cháy đêm ấy có những hai phi công cơ, bác ạ. Chúng tôi chỉ bắt được mỗi ông Buson thôi.

- Ông Peter Perterson, cụ ạ. - Tôi vội đính chính.

- Ở đây chúng tôi vẫn gọi là ông Buson. Vừa rồi ông ấy về đây, chúng tôi cũng gọi là Buson. Ông ấy cũng chẳng cãi gì. Thế thì đúng ông ấy là Buson rồi còn gì, có bác nhớ nhầm tên ông ấy thì có. - Lão Chộp cười hề hề. - Vừa rồi, nghe ông Buson nói, tôi mới biết ông Tali là bạn ông ấy. Hai ông cùng nhảy dù. Ông Buson đau chân, vì va phải cái gì đó trên máy bay ấy. Ông Tali khoẻ hơn, ông ấy rủ ông Buson chạy trốn, nhưng ông Buson không chạy vì chân đau...

- Thế ông Tali có chạy được không?

- Chạy được chừng hơn hai cây số, sang phía bên kia cánh đồng Tè. Tưởng ông ấy trốn ở đâu, hoá ra chui vào bãi tha ma. Ông ấy đào ở ria đống mả một khoảng hõm đúng bằng một cái ghế ngồi. Ông ấy ngồi ở đó, lấy lúa che bốn xung quanh. Mà khen thay, là ông ấy xoá dấu vết rất giỏi, người ông ấy to xù như thế mà đi qua lúa chẳng để lại tý dấu vết nào. Đến khi mấy bà đi làm cỏ lúa túm được ông ấy thì ông ấy lại giả vờ chết. Đầu ông ấy ngoẹo xuống, mắt nhắm nghiền, nhưng mồm lại thở phò phò...

 Lão Chộp cười khậc khậc:

 - Ông Tali bây giờ, nghe nói cũng làm to lắm, đâu như ông ấy là giám đốc hãng hàng không máy bay du lịch Mỹ. Khi ông ấy bị bắt thì cũng rất buồn cười. Y hệt ông Buson. Đầu cũng trọc lông lốc. Khám người chỉ thấy lỉnh kỉnh dăm cối. Các bố này cũng biết đề phòng có thể bị bắt, nên mang theo dăm cối, để đóng giả ông phó cối, dễ trà trộn. Nhưng mặt mũi ấy, chân tay ấy làm phó cối sao nổi.

- Chắc đó là thứ gỗ thay cho củi, dùng để nướng thức ăn gì đó chăng?

- Không! Dăm cối rõ ràng, bác ạ, chẳng lẽ tôi mà lại nhầm được?

Lão Chộp lại cười, vẻ khoái chí! Rồi lão đẩy cái điếu bát sang phía tôi:

- Bác hút thuốc đi. Thuốc lào Vĩnh Bảo đấy. Vừa rồi, ông Buson về đây, tôi cũng đãi ông ấy một chầu thuốc lào...

- Ông ấy hút được thuốc lào, hả cụ?

- Hút tốt. Ông ấy vê thuốc gọn lắm. Chắc hồi nằm khoèo ở trại giam Hà Nội, ông ấy có hút thuốc lào. Về cái khoản bắn thuốc này thì ông ấy chẳng chịu thua cánh thợ cày chúng tôi đâu...

Lão Chộp dừng lại. Lão nhìn tôi đăm đăm, vẻ như thăm dò, rồi lão dè dặt hỏi:

- Này, tôi hỏi khí không phải. Có phải bác là cái anh Hạt gạo làng ta không?

Tôi ngạc nhiên nhìn lão:

- Vâng! Có chuyện gì thế cụ?

- Ồ, thế thì hay quá! Tôi định khăn gói quả mướp tìm gặp bác lâu rồi kia. May quá! Đúng là giời phù hộ, bác ạ!

Nói rồi, lão Chộp lậng cậng bước vào buồng. Có tiếng lảnh cảnh va đập của chai lọ. Rồi lúc sau, lão lôi ra một cái xắc-cốt quen thuộc mà ta vẫn thường thấy ở các cán bộ xã thời kháng chiến chống Mỹ.

- Tôi có mấy cái này, làm đã lâu rồi, hồi còn là thanh niên trong trung đội dân quân...

Tưởng gì, hoá ra lại là thơ. Lão viết trong những cuốn sổ ghi công điểm hợp tác xã. Nhìn chỗ nào cũng dày đặc những chữ. Tôi lần giở từng trang. Bài thơ nọ nối bài thơ kia, trông rậm rịt như những vạt rau muống. Biết đâu trong số này chẳng có một đôi bài làm nên tên tuổi lão ở đời sau. Cứ xem lão nâng niu chúng, đủ biết đối với lão, đây mới chính là báu vật.

Tôi nhìn lão kinh ngạc. Hoá ra lão không muốn làm anh hùng, mà chỉ ôm mộng thành thi sĩ. Chuyện ta biết về lão vẫn chỉ là cái chuyện bắt phi công Mỹ. Chuyện ấy đối với lão lại là chuyện vặt. "Bác đừng viết làm gì, kẻo dân làng tôi họ lại bảo cái lão này già rồi còn thích khoe, mà toàn khoe những chuyện cũ rích. Tôi có cả bài thơ viết về ông Buson đấy! Hay là thế này. Đêm nay, bác nghỉ lại đây đi. Ta làm ấm trà đặc..."

- Vâng! Thế nào cũng có buổi tôi trở lại nghe thơ cụ. Còn bây giờ thì tôi phải đi rồi...

- Thế bác có về Hà Nội không, hay còn làm việc ở Hải Dương?..

- Tôi về Hà Nội ngay chiều nay, cụ ạ.

Lão Chộp mừng rỡ:

- Thế thì bác cho tôi gửi cho ông Buson cái này nhé.

- Cụ gửi gì thế?

- À, tôi muốn gửi biếu ông ấy chục trứng gà mới đẻ với nải chuối tiêu, gọi là chút quà quê. Lần trước, ông ấy về, cập rập quá, tôi lại quên khuấy đi mất.

- Ấy chết, cái đó thì tôi không chắc chuyển được, cụ ạ. Ông ấy bây giờ làm đại sứ Mỹ, chuyển quà không dễ...

- Thế thì bác cứ nhắn là tôi có nhời hỏi thăm. Tôi chúc ông ấy mạnh khoẻ. Và nếu ông ấy rỗi rãi, mời ông ấy về An Bình chơi với chúng tôi. Tôi sẽ đọc thơ tôi viết về ông ấy cho ông ấy nghe. Tất nhiên, nếu có về An Bình, ông ấy cứ đi bằng ô-tô như hôm vừa rồi, chứ đừng nhảy dù.

- Thế nếu ông ấy cứ nhảy dù thì cụ tính sao? - Tôi hỏi trêu lão Chộp.

- Thì... thì tôi lại phải... "chộp" ông ấy thôi. Mà điều đó thú thực với bác là tôi rất không muốn. - Lão Chộp cười. - Ấy cũng là nói cho vui thế thôi, chứ tôi với ông ấy đều già cả rồi. Ai lại còn đi làm cái trò trẻ con ấy nữa.

Lão Dộp

Tác giả: Đỗ Xuân Thu

,

Lão Dộp năm nay đã ngoài năm mươi tuổi. Người lão dong dỏng cao, nếu không nói là hơi gầy. Dáng đi của lão luôn lao về phía trước. Cứ bước thấp, bước cao, thập thà thập thõm lão đi. Mẹ tôi bảo những người có dáng đi như thế là vất vả lắm. Tôi chẳng biết có đúng không nhưng năm sáu mươi tuổi rồi mà lão Dộp lúc nào cũng tất tất tưởi tưởi vác cuốc ra đồng thì cũng vất thật.

Da lão Dộp đỏ au như đồng hun. Đầu lão lúc nào cũng đội cái mũ lá rách. Thời buổi người ta đội mũ phớt, mũ le vít, hay chí ít cũng mũ cối, thế mà lão vẫn đội cái của nợ thịnh hành từ đời nảo đời nào, kể cũng kỳ. Lão Dộp ít nói. Trước đám đông, đặc biệt là nhà đám thì lão Dộp chỉ ngồi nghe và hút thuốc lào vặt. Hoạ hoằn lắm mới thấy lão chêm vào đôi câu, nhất là câu "chả thế lại không ư" như khẳng định lão cũng biết lắm lắm.

          Lão Dộp khá đông con, những bảy người con cả thảy. Khi nói đến chuyện này trong lúc nhàn rỗi, mấy tay tre trẻ cùng xóm cứ chê lão Dộp là không thức thời đẻ nhiều đâm ra đến già vẫn còn khổ. Khi cán bộ dân số đến tuyên truyền  về sinh đẻ có kế hoạch, lão chỉ ngồi nghe gật gù. "Chả thế lại không ư". Đẻ nhiều là khổ, ý lão nói thế.  Về nhà lão quán triệt cho mấy anh con trai chớ có nơi gương bố về việc này. Được cái các con của lão ai cũng ngoan và chịu khó. Mấy anh con trai đều đi bộ đội cả. Mấy chị con gái hễ cứ nhinh nhỉnh lên một chút là có người dòm ngó. Phải nói rằng những người con gái của lão Dộp xinh thật. Cơm toàn trộn sắn với khoai thế mà lớn lên người nào người ấy trông cứ như tranh vẽ. Chẳng cô nào quá tuổi hai mươi mới lấy chồng. Lão Dộp bây giờ đã có gần chục cháu nội ngoại, lên chức ông từ mươi năm nay rồi. Ấy vậy mà lão vẫn lam làm lắm.

          Ở với người con cả, đáng ra chỉ có việc ở nhà trông cháu nhưng lão Dộp chẳng lúc nào yên. Hôm thì đi lợp nhà cho bà Bơi cuối xóm, hôm thì đào móng cho tay Sơn mới ra ở riêng. Hễ ai có công to việc lớn gì là lão đến. Chẳng mời lão cũng đến. Lão đến tự nguyện, vô tư. Làm bao giờ xong việc thì lão về. Nhiều người thấy việc lão có mặt như là một lẽ đương nhiên. Thế nên, không nhà nào có việc mà không bảo lão một câu. Không có lão Dộp thì đám ấy không vui. Tuy lão đến chẳng nói gì, chỉ hùng hục vào làm nhưng ai cũng quý lão. Lão là đối tượng cho họ tán chuyện. Còn lão Dộp chỉ ậm ừ cười trừ "chả thế lại không ư". Ấy thế mà vui đáo để. Con lão nhiều lúc cằn nhằn với lão: "Ông cứ đi thế người ta cười cho. Ai không biết lại tưởng ông thèm ăn thèm uống mà đến thì thật tội. Bận sau ai nhờ ông đừng có đi nữa. Vác cái thân già làm quần quật cho người ta để đổi lấy miếng ăn thì đừng có đi". Lão Dộp nghe vậy ức lắm. Lão bảo: "Người ta có việc mình đến giúp là phải đạo. Đến cho có người nọ người kia. Cả đời người ta mới có việc hệ trọng, làng xóm với nhau thì phải giúp nhau chứ. Chả thế lại không ư". Được cái lão không nghiện rượu. Chỉ vài hớp là mặt lão đỏ gay. Cho nên chẳng ai bảo lão là bê tha được. Chỉ có vài kẻ dỗi hơi gọi lão là lão hâm. Thì cứ "việc nhà thì nhác việc chú bác thì siêng" như thế thì ai chả bảo lão hâm. Nhất là vợ lão.

          Mọi người làng tôi phong cho lão là "thần nước". Cánh đồng Cây Ké rộng bảy tám chục mẫu ấy rất dễ bị hạn. Nguồn nước tưới cho nó là một cái đập và một con suối giáp ranh giữa 2 xã. Từ đầu nguồn về đến cuối nguồn dài gần 2 cây số. Do cự ly quá xa như vậy, nguồn nước lại ít, mương máng không hoàn chỉnh cho nên nước về được đến cuối nguồn rất khó khăn. Vào vụ làm mạ hoặc vụ cấy thì nước quý hơn vàng. Các nhà tranh nhau về nước. Người có ruộng ở đầu nguồn thì úng ngập thối hết cả mạ và lúa mới cấy. Người ở cuối nguồn thì bắt mãi nước chẳng về để mà gieo mạ. Ngày nào cũng có người cãi nhau ở ngoài đồng. Từ khi khoán hộ sự việc này lại xảy ra thường xuyên. Lão Dộp nghe mà rầu rĩ cả ruột. Ngày trước còn HTX đâu có đến nỗi thế. Lão là đội trưởng đội 202 của xã. Một thời đội 202 của lão đã đào đắp bao nhiêu mét khối đất đá làm đường, làm mương. Thế mà mới chỉ có vài năm khoán hộ, mương, đường họ đã đẽo phá gần hết. Ai cũng muốn cái lợi về mình. Bờ đẽo đằng bờ, đường đẽo đằng đường để đến bây giờ ra đồng phải đi trên những cái bờ bé như cây cau. Không cẩn thận lựa chân mà bước thì lội xuống bùn như bỡn. Mương thì san san lấp lấp, cấy xuống cả lòng mương, nhiều đoạn tắc tịt. Như thế bảo nước về cuối nguồn sao được? Mãi sau mọi người phải bàn với nhau cử người ra "trông nước", tức là làm cái nhiệm vụ điều hành nước. Lão Dộp xung phong nhận ngay cái chức đó. Thế là con lão rồi vợ lão bảo lão là lão hâm. Chả hâm lại không ư khi nhận cái chân điều hành nước đó để cho người được nước người không được nước lại chả cứ réo tên lão mà chửi? Già rồi còn dại. Thanh niên trai tráng bao người không ai nhận thế mà lão lại nhận. Công xá nào có khá gì cho cam. Lão Dộp nghe thấy hết. Mặc. Lão phải đưa nước về cho cây lúa. Nhìn những cây lúa khô cằn quắt queo vì thiếu nước lão cảm thấy xót ruột. Nghe người ta chửi nhau vì nước mà lòng lão tái tê. "Chả thế lại không ư". Vừa mới hôm qua còn chén chú chén anh ở một đám xứ nào đấy thế mà hôm nay vì mấy giọt nước đã lại cãi nhau. Thật chẳng ra làm sao cả.

          Từ ngày giữ cái chân "quản nước" lão Dộp lại càng hay ra đồng. Cứ cái cuốc trong tay lão khơi khơi đoạn mương nọ, đắp đắp khúc bờ kia chẳng lúc nào nghỉ. Lão thiết kế lại tuyến mương. Mấy bố con lão xoay lưng ra nạo vét, be đắp để con mương chính trở lại như cái ngày còn hợp tác xã. Mấy nhà cố tình cấy cây lúa xuống mương lão nhổ vứt tiệt lên bờ. Cái đồ chỉ tham bát bỏ mâm, đúng là... Lão xây dựng bản quy định lấy nước thông qua cả thôn. Hôm họp thôn ai nghe thấy cũng chí phải. Khi nước về ưu tiên cho các hộ cuối nguồn lấy trước. Như thế các hộ có ruộng ở đầu nguồn sẽ được nước thấm qua, khi đến lượt chỉ cần tháo qua là đủ. Ấy vậy mà vẫn có mấy hộ đầu nguồn sốt ruột, nóng tĩ lên, cứ sểnh lão Dộp ra là vác cuốc cuốc ngay mấy trổ cho nước vào ruộng nhà mình. Lão Dộp bực lắm. Lão lọ mọ suốt đêm trông chừng cho dòng nước chảy xuôi theo kế hoạch. Lão nhắc người nọ, nhắn người kia "hôm nay đến nhà ông, nhà bà lấy nước đấy, liệu ra mà cày bừa". Có nhà lười đến nỗi nước chảy qua ruộng cũng chẳng cho người ra mà bắt nước về. Lão lại xắn quần lên khơi khơi rạch rạch cho nước chảy vào. Nhiều nhà bận quá chỉ cần nhắn một câu cho lão là lão lăm xăm lấy cho bằng được nước vào cho ruộng nhà họ, họ chỉ còn có việc sẵn cày bừa. Thế nên hình bóng lão Dộp đội cái mũ lá rách, vai vác cuốc trên đồng, nghe tiếng lão rít thuốc lào kêu rong róc ở ruộng thì mọi người yên tâm lắm. Chưa đến ngày nhà mình lấy nước thì cứ yên trí làm việc khác. Đến thời vụ khắc có nước. Có lão Dộp rồi không phải lo gì nữa cả.

Từ ngày lão Dộp giữ cái chân "quản nước" này ai cũng quý lão. Lão còn tham mưu cho trưởng thôn đắp thêm một cái đập ở đầu khoảnh 9 chặn con suối lại để bổ sung nguồn nước đưa về giữa đồng. Lão lại huy động con cái mang bao nhiêu là cọc tre, phên néo hì hục ra đắp đập. Nước suối to, lòng suối rộng, có bận vừa đắp được hôm trước sáng sau ra đập đã bị nước phá trôi. Lão không nản chí. Lão cởi trần ra xoay mình vác đất đắp đập be bờ. Lão chở đất từ nơi xa đến, kè đá để chặn suối. Lão vác hàng trăm cây tre của nhà mình ra để đóng cọc đắp đập. Cuối cùng lão cũng đắp được cái đập to tướng chặn ngang dòng suối giữa đồng. Nhờ có thêm cái đập này mà chỉ cần 4 đến 5 ngày là cả cái đồng Cây Ké này đủ nước. Bây giờ chuyện nước nôi cho cày cấy chẳng có gì phải bàn cãi cả. Vào vụ cấy hái thì cả cánh đồng nhộn nhịp người trâu cày bừa. Không khí ồn ã vui lắm. Cấm nghe thấy tiếng ai cãi cọ hoặc chửi nhau vì nước cả. Những tiếng hát tiếng hò vang lên rộn rã cả cánh đồng. Mấy bà có chồng là liệt sỹ cứ thấy lão Dộp đâu là nheo nhéo gọi: "Bác Dộp ơi cho em thêm tí nước", "Hôm nào tranh thủ bác cày đêm cho em với nhé". Lão Dộp nghe vui cả cái lỗ tai. "Chả thế lại không ư". Chỉ có vợ lão là ngấm ngoảy.

Công việc đang ngon nghẻ như thế thì có người xía vô. Họ thấy lão Dộp chỉ có vác cuốc thong dong ra đồng mà mỗi vụ lĩnh những hai tạ thóc. Thời buổi người nhiều việc ít, có việc như lão Dộp thật quý. Nhà nông biết kiếm đâu ra được mỗi vụ hàng mấy tạ thóc như thế. Thế là có kẻ kèn cựa với cái chân "quản nước" của lão Dộp. Họ đòi "đấu thầu" cái chức này. Khổ thế cơ chứ. Lúc còn lanh tanh bành thì chẳng ai nhận. Đến khi công việc vào nề nếp rồi thì tranh nhau giữ cái chức đó. Ông trưởng thôn lại nghiêng về phía mấy người này. Thì thỉnh thoảng mấy tay ấy chả bia bọt với "sếp" ở ngoài quán gợi ý về vấn đề này là gì. "Cứ cho bọn em vừa làm bảo vệ vừa trông nước luôn thể. Ông Dộp già rồi cho ông ấy nghỉ". Trưởng thôn nghe cũng xuôi tai. Thế rồi sau một buổi liên hoan của tổ bảo vệ, chè chén xong họ cho gọi lão Dộp đến. Ông trưởng thôn tuyên bố lão Dộp nghỉ chân "quản nước" bàn giao lại chức đó cho tổ bảo vệ vì lý do tuổi tác. Lão Dộp nghe mà ù tai. Lão bực lắm không thèm nói một lời nào. Đêm ấy về lão nằm vắt tay lên trán trằn trọc không sao ngủ được. Lão tiếc công mình thì ít mà lão lo cho "sự nghiệp giữ nước" của thôn thì nhiều. "Chả thế lại không ư". Thế là lão Dộp nghỉ trông nước thật. Họp thôn thông qua ai cũng cho như thế là phải. "Thôi ông ấy già rồi nghỉ cũng được. Phải "đào tạo" lớp trẻ chứ". Tiếc thì tiếc thật đấy nhưng thôi, cứ cho lão nghỉ. Lão nghỉ cho khoẻ rồi còn bao đám xứ người ta còn nhờ lão kia mà. Vợ lão thấy thế cũng phải. Tuy vậy bà cũng tiêng tiếc vì mất một nguồn thu cho gia đình. Con lão thì hậm hực: "Bố tôi già không làm được thì còn chúng tôi chứ. Cứ "sẵn nong sẵn né" thế ai chả làm được". Lão phải an ủi động viên các con. "Chả thế lại không ư, thiếu gì việc làm mà phải ôm mãi lấy cái chân ấy. Người ta lại cho là tham quyền cố vị". Quyền với vị quái gì cái chân trông nước. Chẳng qua là bọn chúng tưởng ngon ăn mới lao vào đấy chứ. Thằng con cả của ông vẫn ấm ức.

Lão Dộp nghỉ trông nước nên nhàn hẳn. Nhiều hôm lão cứ ngơ ngẩn vào ra. Có bận không chịu được nữa lão lại vác cuốc ra thăm đồng mặc dù thời gian ấy lúa đang thì con gaí xanh tốt. Lão rẻo qua một lượt từ khoảnh 1 cho đến khoảnh 10, từ đập đầu nguồn đến đập khoảnh 9. Thi thoảng lão lại dừng lại đắp lại cái trổ cho ruộng nhà nào lấy nước bỏ quên. Ai đời lúa đang thì con gái mà để ruộng nẻ tuếch nẻ toác ra thế kia chứ. Lão vừa cuốc cuốc dẵm dẵm vừa cằn nhằn một mình. Cây lúa thời kỳ này là cần nước lắm. Thiếu nước nó đẻ thế nào được. Mai kia dảnh thưa, năng xuất thấp lại kêu. Chả thế lại không ư. Lão cứ lúi húi làm một mình như vậy. Khi về, lão gọi hết nhà nọ, người kia ra mà bắt nước vào ruộng. Đúng là hâm, chẳng phải việc của mình cứ lo bò trắng răng. Mấy tay bảo vệ thấy thế chép miệng.

Từ ngày "ăn" được cái hợp đồng bảo vệ kiêm trông nước mấy tay bảo vệ vui ra mặt. Thì có phải làm gì đâu cũng cứ đến vụ lại thêm được 2 tạ thóc chia nhau chả tốt à? Họ đi trông đồng, trông nước mà toàn phóng xe đạp nhong nhong trên đường với lại ngồi quán. Có hôm phởn chí lên họ còn phi xe máy xuống tận phố huyện hát caraôkê nữa chứ. Thế thì bảo sao nước về đến ruộng người ta được? Quần là áo lượt cứ như sếp không bằng. Thế rồi đến vụ cày cấy, cái sự tranh nhau về nước lại diễn ra. Lại cãi nhau. Lại chửi nhau. Có người còn cuốc bung cả bờ của nhau lên để lấy nước. Gọi đến tổ nước thì chẳng thấy ma nào cả. Lúc này ai cũng nghĩ đến lão Dộp. Người ta thức đêm thức hôm để canh dẫn nước về ruộng nhà mình. Có người vừa mở trổ xong quay về nhà uống nước cái ra đã bị người khác chặn mất. Thế là vào vụ cả làng phải thức đêm ngoài ruộng để tranh nhau nước cấy. Lúc đó họ mới thấy lão Dộp khổ và có trách nhiệm biết chừng nào. Và cuối cùng họ quyết định đề nghị ông trưởng thôn gọi ông Dộp lại làm nhiệm vụ cũ. Hôm họp thôn, theo phương thức bầu cử (bỏ phiếu kín cơ đấy), ông Dộp trúng cử chức "quản nước" với 98% số phiếu ủng hộ. Mấy tay tổ bảo vệ cứ trơ mắt ếch ra trước lão Dộp. Chả thế lại không ư. Lão Dộp quản nước cho làng là đúng nhất. Lão lại hăng hái đêm hôm mò mẫm với "sự nghiệp giữ nước" của thôn.

Đùng cái, lão Dộp bị hạn. Người ta đưa lão vào bệnh viện cấp cứu. Mẹ tôi nghe được tin này bà ngẩn ngơ chép miệng: "Thật tội cho ông ấy. Lành hiền như thế mà cũng bị bọn côn đồ nó đánh". Chả là hôm lão đang làm giúp cho nhà Sơn Ny ở gần chợ thì có tiếng nhốn nháo từ trong chợ phát ra. Một tên kẻ cắp bị phát hiện đang bị mọi người xô ra đuổi bắt. Tay hắn cầm con dao sáng loáng. Hắn lao ra cánh đồng. Mấy người đuổi theo nhưng không ai dám tiếp cận hắn. Lão Dộp nghe tiếng vác ngay cái gậy to tướng lao theo. Đến giữa cánh đồng thì lão đuổi kịp tên kẻ cắp. Lão lao cây gậy vào nó. Nó bị vướng cẳng ngã chỏng vó. Lão lao đến vật lộn với nó. Nó giơ dao chém vào vai phải của lão. Lão Dộp đá văng con dao ra ruộng và hai người quần nhau giữa ruộng. Lão quên cả đau. Tên trộm cố vằng khỏi tay lão để chạy. Vừa lúc mọi người lao đến tóm gọn hắn. Lúc này mọi người mới thấy người lão bê bết máu. Phía cánh tay phải máu chảy ra đầm đìa. Lão Dộp xỉu đi vì vết chém khá sâu và bị mất máu nhiều. Mọi người vội vã đưa lão đi bệnh viện.

Mẹ tôi bảo tôi vào viện thăm lão Dộp. Lão nằm viện đã mấy ngày rồi. Hôm tôi đến lão Dộp đã tỉnh. Có bao nhiêu người đến thăm lão. Lão mở mắt nhìn tôi và hỏi tình hình nước nôi trong đồng Cây Ké thế nào. Tôi mỉm cười nói với ông rằng: "Nước ông bắt về từ hôm ấy vẫn chảy tốt lắm. Không ai tranh nhau cả. Vụ này tha hồ nước cày cấy. Ông cứ yên trí nghỉ ngơi chữa bệnh". "Chả thế lại không ư". Lão nở nụ cười nhìn tôi ý nhị. Đúng là lão "Dộp hâm". Nằm trên giường bệnh rồi mà vẫn nghĩ đến việc của người khác. Tôi vui vui nghĩ vậy và ngắm nhìn lão "Dộp hâm" trong tư thế nằm ngủ y như lão ngả mình trên bờ cỏ sau một tua lấy nước về ruộng. Trông lão đáng yêu quá. Hình như lão đang mỉm cười trong mơ.

Lão say

Có rượu Trung Sơn cho lũ tớ

Tỉnh ra hỏi đã thái bình chưa?

NGUYỄN KHUYẾN

Lũ trẻ đã chán, không chạy theo lão Thân nữa. Bây giờ chỉ còn một mình lão khệnh khạng đi. Bước chân lão xiêu vẹo. Chiếc gậy – đúng hơn, một thanh tre dài – như run rẩy dưới sức nặng từ bàn tay lão đè lên. Đôi mắt lão như bốc lửa, nóng rực. Lão không nhìn thấy ai được rõ ràng. Lão chỉ mơ hồ thấy dáng thím Hai ngồi bên gánh mì, dáng thằng Út chạy qua chạy lại, dáng chú Ba đang hì hục đẩy xe nước mía ra đường… Nhưng thật rõ, lão nhận ra thật rõ những tia nắng sớm đậu trên các ngọn cây. Gần nửa chai rượu đế làm cho lão bần thần cả người, lão cảm thấy bất cần tất cả - từ tiếng phàn nàn của nhà kế bên đến những câu nhạo báng, trêu chọc của lũ trẻ ranh mãnh. Thế mà, lão vẫn thấy tha thiết mến yêu những tia nắng vàng buổi sáng vô cùng. Có lẽ chỉ có buổi sáng mới làm cho lão nhẹ nhàng , vui vẻ và thấy yên ổn hơn lúc nào hết.

Lão khề khà dừng chân bên gánh mì của thím Hai:

- Bán đắt không thím?

Thím Hai không ngừng tay, cũng không nhìn lão, đáp:

- Dạ gần hết rồi bác.

Thằng Út ngồi kế bên giúp mẹ chợt la lên:

- Ông ơi, ông say rồi! Mặt ông đỏ quá!

Lão Thân cười, gật gù:

- Ừ, say thật . Không sao… Buổi sáng uống rượu, khỏi ăn gì mất công…

Rồi tỉnh bơ, lão chống gậy đi nữa. Nắng bây giờ chiếu vào đôi mắt nhập nhèm, làm lão bớt say. Lão ngâm ư ử trong miệng; chẳng ai nghe gì nhưng cũng đoán được là lão đang ngâm hai câu thơ “ruột” của lão, hai câu thơ mà khi có rượu vào lão mới chịu ngâm.

Ra đến đầu ngõ, lão Thân lại tìm vào quán cà phê ngồi. Không ai để ý đến lão. Những người trong xóm này đã quen tính lão rồi. Lão vào, nhưng chỉ ngồi đó, chẳng bao giờ gọi ăn gọi uống. Gặp ai cùng lứa tuổi, lão vu vơ bàn chuyện. Gặp người nhỏ hơn, lão chỉ nói vài câu có lệ. Lão chỉ thích vào quán cà phê này để họa may có ai mang theo tờ báo, hay bà chủ quán vặn “ra-dô”, cho lão nghe ngóng tin tức. Lão chăm chú khi nghe những tin chiến sự ở nơi này nơi nọ, lão dò tin ở làng lão, tỉnh lão. Còn chuyện chính trị, lão cố hiểu mà không hiểu nổi, rắc rối quá. Lão chỉ tha thiết theo dõi những con số… bao nhiêu người chết, bao nhiêu người bị thương, làng nào cháy‎, tỉnh nào bị tấn công…; nhắn tin cha mẹ, tìm con, tìm em, tìm bác… Lão mong mỏi có một hôm nào đó nghe được có ai ngoài làng lão nhắn tin vào, hay sung sướng nhất, là nghe tin đứa con trai của lão, nó bây giờ cũng đã mười bảy, mười tám tuổi rồi.

Nhiều lúc ngồi lão cố tưởng tượng nét mặt của con lão nhưng không ra. Đứa con duy nhất lão cho ở lại xứ với bác của nó, vì nó dễ thương, hiền hậu, mà lão lại không có tiền nuôi. Lão và vợ lão vào Sài Gòn buôn bán. Làm ăn thua lỗ, lão lại ốm đau mãi, vợ lão xoay qua làm nghề nuôi trẻ. Căn nhà của lão, hẹp và dơ bẩn, chứa trên năm đứa con nít, lúc nào cũng la khóc, đánh đập nhau. Tính tình của vợ lão càng ngày càng hung tợn, bà đánh lũ trẻ không nương tay. Là con của những người dân lao động, chúng bị bỏ lăn lóc và chịu đòn của vợ lão luôn luôn.

Vợ lão lìa đời. Căn nhà trả lại cho chủ cũ sửa sang vì lão không có nghề nghiệp, tiền bạc gì cả. Lão trở thành một kẻ vô gia cư. Đầu tiên lão ngủ ở trước các hiên nhà. Nhưng sau này, thím Hai thương xót, dành cho lão gian buồng hẹp sau bếp để lão trú ngụ. Ban ngày lão đi lang thang trong xóm. Ai cho đồng nào thì lão uống rượu hết đồng nấy. Buổi tối lão về nhà thím Hai, ngủ một giấc. Cứ vất vưởng như thế, lão bị mọi người cho là thừa thãi và chẳng để ý đến. Chỉ có thím Hai là thương xót lão, và thằng Út con của thím là thân thiết với lão. Nó hay đi mua rượu cho lão uống, và hay ngồi bên lão, bắt lão kể chuyện. Lão chẳng biết kể chi hết, mà lão chỉ nói cho nó nghe niềm mơ ước tha thiết nhất của lão: yên lành mau mau để lão về nhà tìm con lão.

- Ông ơi!

Lão Thân nhìn ra cửa. Thằng Út đứng ở đó, dáng nhỏ bé dễ thương. Nó chạy vào quán, đưa cho lão đồng bạc năm:

- Má cháu gửi ông uống cà phê.

- Thím Hai đã bán xong chưa?

- Dạ rồi ông. Má cháu bảo ông uống cà phê hay ăn gì đi kẻo đói.

Lão Thân cảm động, xoa đầu thằng Út:

- Thôi, ông không đói.

- Vậy để cháu đi mua cho ông gói xôi.

- Ông không ăn đâu!

Thằng Út mở to mắt nhìn lão. Nó cố đoán xem lão thích ăn cái gì. Rồi nó “à “ lên:

- Ông ơi! Ông còn rượu ở nhà không?

- Ông mới uống hết hồi nãy.

- Vậy cháu đi mua thêm cho ông.

Lão Thân đúng ‎ý, cười to:

- Ừ, giỏi đa, “thằng chó con”!

Thằng Út chạy đi, một lát sau nó mang đến một ly rượu. Lão Thân đứng dậy, đi ra với nó.

- Đi về nhà uống thích hơn.

Thằng Út ngoan ngoãn đi lẽo đẽo sau lưng lão, tay cầm ly rượu. Hai ông cháu rẽ vào đường hẽm nhỏ xíu. Nhà thằng Út hẹp và tối như ban đêm. Căn buồng đàng sau dành cho lão Thân lại còn tối hơn. Bước vào chỉ nghe tiếng muỗi vo ve và thấy lờ mờ chiếc giường xiêu vẹo. Lão Thân đến ngồi trên chiếc giường đó. Thằng Út leo lên ngồi bên cạnh. Lão Thân tu một hơi cạn ly rượu. Đầu óc lão lại lâng lâng. Mắt lão nóng bức. Thằng Út nói:

- Ông ngâm thơ đi, ông!

Lão Thân “khà” một cái khoái chí, hứng dâng lên và tuôn ra theo câu thơ:

- “Có rượu Trung Sơn…ư… cho lũ tớ….

Tỉnh… ư… ra hỏi đã …ư… thái bình… à… chưa…”

Thằng Út kêu lên:

- Sao ông cứ ngâm hai câu đó hoài vậy ông?

- Ừ! Tại ông thích thế.

- Ông không thích câu khác hở ông?

Lão Thân đưa tay vuốt chòm râu bạc, cười nhẹ:

- Những câu khác không hay bằng hai câu này.

Thằng Út vỗ tay:

- À, cháu biết rồi!

- Cái gì?

- Câu thơ nào có “rượu” là ông thích phải không?

Lão Thân tát yêu thằng Út một cái:

- Thằng ranh con! Nói tầm bậy nà. Hay là tự nó hay chứ đợi gì có rượu!

- Thế rượu Trung Sơn là rượu gì hở ông? Có quán nào là quán Trung Sơn không ông?

- Tầm bậy nữa, cháu còn nhỏ chẳng biết rượu Trung Sơn đâu.

- Thế ông có uống rồi hở? Rượu Trung Sơn ngon lắm hở ông?

Lão Thân co cả hai chân lên giường, ngồi như một ông đồ xưa. Thằng Út lại xích gần theo. Lão Thân giải thích:

- Rượu Trung Sơn là “thiên nhật tửu”, nấu ở đất Trung Sơn bên Tàu lận mà. Rượu đó uống vô thì say luôn một ngàn ngày, quên hết mọi chuyện, khi hết say rồi thì thấy mọi chuyện đều thay đổi.

- À… , nghĩa là… thí dụ như đang có đánh nhau, uống rượu vào say một ngàn ngày, khi tỉnh dậy… thấy hết đánh nhau hở ông?

- Giỏi đa! Thằng… nói đúng quá!

- Rượu hay thật, vậy nó có ngon hơn rượu đế hạng nhất không ông?

Lão Thân ngơ ngẩn:

- Tầm bậy nà! Ông… đâu có biết.

- Ủa! –Tới lượt thằng Út ngơ ngác – Vậy… sao ông rành thế?

Lão Thân bật cười:

- Có đâu mà uống! Ông cũng chưa thấy, chưa biết rượu đó nữa. Coi trong sách họ giảng sao thì mình hiểu vậy chứ!

- Ngộ há ông! Vậy ông có thích rượu đó không?

- Rượu Trung Sơn ấy à? Thích lắm chứ! Ông ước có ai mang cho ông một ít rượu đó để ông uống thử coi…

Đôi mắt lão mơ màng, lão nói nhỏ lại:

- Say đến ngàn ngày, tỉnh ra... hỏi đã thái bình chưa… Sướng há, “thằng chó con”!

- Dạ, sướng thiệt đó ông!

Thằng Út hay phụ họa vào với lão cho vui, chứ nó ít hiểu chuyện gì. Nó chỉ thấy lão Thân là một người có nhiều chuyện giấu trong lòng, mà nó là đứa được nghe những chuyện đó nhiều hơn mọi người. Nó chỉ thấy lão Thân không phải là một lão già say ngu ngơ như ai cũng tưởng. Nó hiểu lão Thân không “tầm thường” đâu. Bằng cớ là lão thuộc thơ, ngâm thơ, và cả giảng nghĩa thơ nữa. Nó mới học tới lớp bốn, chưa hiểu nhiều chuyện xa xôi. Nó chỉ mới biết say mê những đứa bằng tuổi nó được “truyền hình” – nó đi coi “ké” mà! – miệng chúng nói làu làu “Dạ thưa cô em xin dự thi với đề tài câu hỏi thường thức lớp bốn”.

Đối với nó, thuộc câu hỏi thường thức lớp bốn đã là một điều khó khăn rồi. Nó học rất kém, mặc dầu nó chẳng lười biếng gì cho lắm. Vậy mà lão Thân lại thuộc thơ như nằm lòng. Lão đã già mà nhớ dai vậy, thì chắc không phải là “tầm thường”. Lão biết cả chuyện rượu Trung Sơn bên Tàu, vậy là lão tài lắm. Nó thấy thương lão như thương ông ruột của nó. Bao nhiêu tình thương mất mát nhiều ở nó. Nó chỉ còn bà mẹ. Tự nhiên nó ao ước giá có rượu Trung Sơn, nó sẽ xin tiền má nó đi mua ngay cho lão uống. Lão uống rồi, say ngàn ngày… Khi lão tỉnh ra, nó sẽ hỏi lão trong khi say đó lão thấy gì, lão nghe gì… Chắc phải lạ lùng và thú vị lắm.

Bỗng nhiên Thằng Út nghe một tiếng thở dài. Nó ngẩng nhìn lão Thân. Căn buồng tối mờ mờ, nhưng nó cũng nhận ra đôi mắt của lão sáng long lanh. Lão quay người, ôm nó vào trong đôi cánh tay.

- Út à!

- Dạ?

- Cháu đi học, đi ra ngoài đường, ngoài chợ, có nghe “họ” nói cái gì không?

- Nói chuyện gì hở ông?

- Thì… họ có nói bao giờ hết đánh nhau không?

- Cháu đâu có nghe gì!

Như nhận ra sự lẩm cẩm của mình, lão Thân lại cúi đầu thở dài. Lão sống ở đây, trong khu xóm nhỏ bé, như một người mù. Lão chẳng biết những chuyện gì đang xảy ra, ngoài những tin tức nghe lỏm được. Chỉ có một điều lão biết rõ ràng nhất: đó là chiến tranh vẫn còn. Lão chờ đợi, lão trông mong ngày bình yên. Lão nghĩ đến quê lão, làng lão, con lão… luôn luôn trong đầu. Chẳng ai bàn chuyện gì với lão. Thư từ chưa đến tay lão một lần. Cuộc sống của lão cô độc, nhạt nhẽo quá! Đến nỗi bây giờ lão đâm ra vớ vẩn hỏi cả thằng bé con như thằng Út. Mà nó có biết gì hơn lão đâu! Nó hồn nhiên, hồn nhiên ngay đến những lúc chạy loạn, trốn hỏa tiễn… Nó chỉ thích nghe kể chuyện – bất cứ chuyện gì, thích đi coi “ké” truyền hình để rồi ước mơ được đi dự thi với đề tài câu hỏi thường thức lớp bốn, và nó chỉ thích đi mua rượu cho lão uống – cái thói quen thật dễ thương của thằng bé. Giá mà thằng con của lão đang ở bên lão như thằng Út nhỉ! Lão thấy nhớ con của lão quá chừng!

Có tiếng thím Hai gọi trước cửa. Thằng Út rời lão, chạy ra ngoài. Lão Thân cũng cảm thấy mi mắt nặng trĩu, có lẽ vì uống rượu khá nhiều. Lão ngả người nằm xuống giường. Ở nhà ngoài vang lên tiếng dọn dẹp bàn ghế, tiếng cất gánh , tiếng dựng chổi… Và một chốc sau, lão nghe tiếng vo gạo sột soạt của thằng Út ở sau hè.

***

Lão mới nhắm mắt được một chút, chợt nghe tiếng thằng Út reo to trước nhà:

- Ông ơi! Ông ơi! Có thơ của ông!

Lão ngồi bật dậy. Cái gì? Thơ của lão! Ai gửi cho lão? Thằng Út chạy vào buồng. Nó giơ tay lên: một phong thư. Lão vẫn trố mắt nhìn. Thằng Út kêu lên:

- Ông phát thơ đến bỏ thơ ở nhà cũ của ông. Thằng con bà chủ nhà đưa lại cho cháu.

Lão vẫn ngạc nhiên:

- Mà của ai đó?

Thằng Út đọc ở góc trái đầu phong bì:

- Người gởi: Trần Văn Tiên, Quảng Trị.

Lão Thân bỗng run lập cập. Giọng lão xúc động:

- Thằng Tiên… thằng Tiên hả?

- Ai vậy ông?

- Thằng Tiên… Cháu không nhớ sao? Thằng con của ông…

Thằng Út cũng la lên, vui lây. Lão Thân giật cái thư, tay run run cầm đưa ngang lên tầm mắt nhập nhèm. Hàng chữ mờ mờ trước mắt lão. Lão nhớ rằng mình đã làm mất cặp kính từ hồi nào. Lão chẳng thấy chữ gì rõ ràng. Lão chỉ thấy những hàng chữ mực xanh thân yêu của thằng con lão. Ngắm đã, lão đưa cái thư cho thằng Út:

- Đâu cháu đọc giùm ông, coi nó viết cái gì đó.

Rồi trong khi thằng Út xé phong bì, lão cứ lẩm bẩm:

- Chao ơi! Thằng Tiên… thằng con của tôi….

- “Kính thưa ba má,

“Con xin ba má tha tội cho con, vì mấy năm nay con không viết thư thăm ba má. Con thật có lỗi với ba má biết bao nhiêu. Nhưng để con sẽ nói lý‎ do sau. Điều trước hết con muốn biết là ba má ở trong Sài Gòn có bình an và mạnh khỏe không. Ba giờ còn đi làm không? Còn má nhận nuôi con nít có khá không?...”

Lão Thân ngắt lời:

- Tội nghiệp thằng con tôi! Nó vẫn không hay biết gì. Nó đâu có biết má nó chết, ba nó ăn nhờ ở tạm như vầy. Khổ chưa! Mấy năm rồi chứ!... Đâu, đọc tiếp coi Út!

- “Kính thưa ba má, về phần con cũng rắc rối lắm! Sở dĩ mấy lâu nay con không có tin gì cho ba má là bởi vì ngoài xứ mình đánh nhau liên miên. Nhà của bác cháy rụi cả. Bác đem các anh các chị và con di tản vào Quảng Nam, rồi Quảng Ngãi. Ở đâu cũng không yên. Con phải lo lắng việc nhà cửa với bác, phần phải chạy nay đây mai đó nên con không liên lạc được gì với ba má. Nhiều lúc con cầm viết lên sắp viết thì phải buông xuống mà chạy tránh đạn. Khổ lắm ba má ạ.”

- Tội nghiệp con tôi chưa!

- “Chạy mãi mà cũng không yên, bác lại quyết định về lại làng. Ngày về chẳng còn thấy gì hết ba má ơi! Làng ta thành bình địa cả rồi! Bác với tụi con lo dựng lại nhà cửa. Xong rồi con lại phải tìm việc đi làm giúp bác. Không lúc nào con rảnh rang. Con thương bác lắm nên con gắng làm thật nhiều để đỡ cho bác gánh nặng. Nhiều khi con quên bẵng ba má ở trong đó. Con thật có lỗi vô cùng. Xin ba má đừng trách con, vì sống ở ngoài này mãi rồi con người mất đi sự bình thường. Có người sau trận chiến trở nên ngớ ngẩn, không khóc không cười gì được, cứ lặng lẽ như một cái bóng cả ngày. Con của ba má không đến nỗi như vậy, nhưng cũng đã hơi đãng trí rồi. Con vẫn mạnh khỏe và dẻo dai lắm, vì con làm việc tay chân nhiều nên ít ốm đau, con tin để ba má mừng….”

- Ai mà trách thằng con có hiếu như vậy được phải không Út? – Lão Thân nói trong khi mắt vẫn nhìn lá thư chăm chú.

- Dạ, anh ấy viết thư hay ghê há ông!

- Tao thương nó quá!!!... Đọc tiếp đi con!

- “Chết! Con thật đãng trí vô cùng. Có một cái tin thật vui, thật quan trọng mà con quên không nói, giờ mới nhớ ra. Thưa ba má, tin vui lắm! Con tình nguyện vào quân đội, họ chấp thuận rồi. Con sắp vào Sài Gòn để trình diện và học tập. Và, vui lắm ba má ơi, con vô thăm ba má…”

- Hả? Cái gì?... Nó vô đây?

- Dạ, anh ấy vô thăm ông – Thằng Út hân hoan.

Lão Thân mừng ríu cả lưỡi. Thằng con lão sắp vào thăm lão? Trời ơi! Vui quá! Bất ngờ quá!

- Rồi làm sao nữa, Út?

- “Con sợ đường sá trong Sài Gòn lắm! Có khó tìm nhà không hở ba má? Mà chẳng sao, con là con trai mà, con sắp đi lính rồi, con sợ làm chi? Con sẽ hỏi người ta chỉ đường vậy. Con tưởng tượng khi gặp lại ba má, mừng biết bao nhiêu! Ngày xa ba má, con còn bé chút xíu. Bây giờ con khá lớn, ba má lại đã già. Con thương ba má ghê! Chắc chắn ngày mồng một tháng hai con sẽ đến Sài Gòn. Ba má nhớ chờ con ba má nhé! Thôi vài hàng vắn tắt thăm ba má, con mong ngày vô Sài Gòn lắm! Lúc gặp ba má, con sẽ kể chuyện ngoài này cho ba má nghe thiệt nhiều. Để con sẽ ghé chỗ nào bán rượu ngon mua cho ba một chai và mua cho má ít gói mè xửng. Ngoài này tan tành hết nhưng con nhất định tìm vài thứ quà xứ mình đem vô ba má. Cầu xin ba má mạnh giỏi luôn con mừng. Con của ba má. Tiên”.

- Hết rồi hả con?

- Dạ hết rồi ông.

Lão Thân cầm lấy lá thư, bàn tay vuốt ve trên trang giấy như đang vuốt ve đứa con yêu của lão. Chao ôi! Lão mừng quá! Đứa con cưng đáng thương của lão sắp vào đây. Lão sắp được gặp mặt nó. Lão chưa hết xúc động đã nghe thằng Út la lên:

- Í, ông ơi! Hôm nay ngày mồng một tháng hai ông ơi!

Trời ơi! Lão nghe tim lão đập thật nhanh, thật mạnh… Sự việc bất ngờ quá! Lão lặng người. Mồng một tháng hai! Ngày con lão vào đây với lão. Ngày hôm nay ư??? Lão nhìn quanh căn buồng. Lão nhìn thằng Út. Lão nhìn bàn tay lão, nhìn lá thư của con lão… Lão không biết nói gì. Thằng Út nhìn lão, đợi chờ… Chưa bao giờ, kể từ sau khi vợ bác chết tới nay, lão xúc động mạnh mẽ như vậy. Gặp lại con trai lão! Gặp ngay hôm nay! Lá thư thương mến của con lão! Gương mặt của nó, hình hài của nó… Hôm nay lão sẽ thấy lại nó sao? Trời còn thương lão ư???

Lão bần thần gọi:

- Út ơi!

- Dạ, chi ông?

Lão trở nên ngớ ngẩn như say rượu:

- Làm sao? Làm sao hả Út?

Thằng Út buồn cười quá! Nó lắc đầu:

- Làm cái gì hở ông?

Hai ông cháu ngó nhau. Rồi bỗng cả hai cùng rộ lên cười. Lão Thân siết vai thằng Út, cười khoái trá. Tiếng cười của lão nghe hân hoan hơn bao giờ hết, nghe ròn rã vang dội cả căn nhà.

Và thằng Út đã nghĩ ra phải làm gì. Nó bảo:

- Cháu biết rồi ông ơi! Làm gì ông biết không?

- Cái gì? Mày nói cho ông nghe coi.

- Mua món nhậu về đãi anh Tiên.

Lão Thân vỗ tay “đét” một cái, thích thú:

- Ừ, giỏi đa! Mua món nhậu! Mua cái gì?

- Cháu mua đậu phọng chà, đậu phọng da cá, khô mực, khô cá…

- Cả rượu nữa chứ!

- Dạ. Ủa, mà anh ấy có uống rượu không ông?

- Chẳng biết nữa, nhưng đã có ông uống mà!

Lão Thân giở tấm chiếu lên: một gói giấy nhỏ bên dưới. Lão cẩn thận mở ra. Thằng Út thấy những đồng bạc lẻ trong đó: tiền của lão để dành khi có ai cho. Lão tẩn mẩn đếm từng đồng, rồi trao cả cho thằng Út:

- Đây, cháu giữ lấy, chút nữa ra mua dùm ông nghen!

- Đi bây giờ nghen ông! Kẻo anh ấy vô bất ngờ đó.

- Ừ đi bây giờ đi.

Thằng Út nhanh nhẹn chạy ra. Nó còn cố ngoái lại:

- Mua cá khô, mực khô, đậu phọng há ông!

- Ừ, nhớ cả rượu nhé!

Thằng Út ráng nói đùa thêm:

- Rượu Trung Sơn hở ông?

- Ấy đừng! Ông chả thích rượu ấy nữa.

Bóng thằng Út khuất dần. Lão Thân quay vào, nói một mình:

- Uống rượu Trung Sơn, say ngàn ngày, làm sao gặp con, hở???

***

Lũ trẻ vây quanh người phát điện tín, lúc ấy đang càu nhàu:

- Sao lại không có tên này? Thế nghĩa là sao?

Thằng Út rẽ đám đông, lại gần người ấy. Một đứa trẻ bảo nó:

- Mày về kêu ông già Thân ra nhận điện tín. Của ổng kìa!

- Cái gì? Điện tín hở?

Thằng Út nói với người nhân viên bưu điện:

- Ông chờ chút nhé ông.

Rồi nó chạy vào nhà, gọi lão Thân. Lão đang ngồi trong buồng, trước “tiệc rượu” của lão. Đó là cái ghế đẩu thấp mượn của thím Hai, trên có bày một đĩa đậu phọng, một đĩa khô mực và một chai rượu. Lão đã ngồi như thế từ nãy, sau khi cùng thằng Út dọn dẹp bớt những vật thừa thãi và bày “tiệc” chờ con của lão. Nghe nói có điện tín, lão vội vã đi ra với thằng Út. Lão đến trước căn nhà của vợ chồng lão trước kia. Lão hỏi người phát điện tín:

- Của tôi hả ông?

- Ông là Trần văn Thân phải không?

- Phải.

- Ông ký tên để nhận điện tín.

Lão Thân hí hoáy ký tên. Người nhân viên bưu điện, sau khi trao bức điện tín cho lão rồi, leo lên xe đạp, càu nhàu:

- Tụi trẻ nít ấm ớ, thiệt ghét!

Lão Thân cầm bức điện tín trên tay, thắc mắc:

- Của ai vậy kìa?.. Đâu Út mày đọc coi thử.

Thằng Út lật ngang, lật dọc bức điện tín, tìm tên nguời gửi. Trước giờ có khi nào nó đọc loại này đâu! Có, có chứ! Có độc một lần thôi, cái bức điện tín duy nhất trong thời ấu thơ của nó, mang đau thương đến cho nó, cho mẹ nó. Mà lần đó nó cũng chưa đọc kịp, mẹ nó đã giật lấy đọc trước, đọc vội vã, để rồi mẹ nó vật người, chết lịm. Bức điện tín báo tin ba nó tử trận!... Nó vẫn chưa bao giờ cầm lại bức điện tín quái ác đó để đọc xem những chữ trong ấy ghê gớm đến đâu, mà hiện giờ vẫn còn nằm trong lư hương trên bàn thờ ba nó. Và nó cũng chưa bao giờ nhận, hay đọc một bức điện tín nào khác nữa. Nó vẫn có cái ám ảnh là tất cả mọi bức điện tín đều ghê sợ. Thế nên, cầm bức điện tín gửi cho lão Thân trên tay, nó lại nghĩ đến điều ám ảnh đó. Tự nhiên nó nghe người nó ghê ghê…

Rốt cuộc, nó đã tìm thấy dòng chữ nó muốn tìm. Nó đọc:

- Trần Tùy, số…đường… Quảng Trị.

- Là bác thằng Tiên! – Lão Thân kêu lên.

Thằng Út lật vào trong. Những chữ đánh máy có dấu kỳ lạ khó coi, khó hiểu. Nó mò mẫm một lát mới đọc được từng chữ:

- “Thằng… Tiên… trúng… đạn… chết. Tôi… đã… chôn”

Gai ốc bỗng nổi lên khắp người thằng Út. Nó nghe lão Thân hỏi nó, giọng kinh hoàng:

- Cái gì??? Mày đọc… cái gì vậy Út?.. Mày…

Thằng Út quay lại. Nó toan nói, thì lão Thân đã lầm lũi đi thật nhanh vào ngõ hẻm tối. Nó tựa lưng vào một thân cây, bàn tay cầm bức điện tín như sắp buông rơi. Nó không dám đi theo lão Thân. Nó nghe đầu tê tê, và mũi cay lạ lùng.

“Cái gì???”, câu nói của lão Thân như vang, như đập trong màng tai nó. Con của lão Thân đã chết? Con lão bị trúng đạn chết, đã chôn! Thật thế ư? Và… thật nhanh, thật rõ ràng, mâm “tiệc” của lão Thân hiện ra trong đầu nó. Khô mực, đậu phọng, chính nó đi mua mà! Chai rượu cũng chính nó chọn mà! Khô mực có thơm không? Đậu phọng có dòn không? Rượu có ngon không? Mà anh ấy chết rồi!!!

Từ buổi trưa, hai ông cháu lui cui dọn từng cọng rác, quét từng mạng nhện, sắp xếp để căn buồng gọn ghẽ lại. Chính nó đã chống cánh cửa sổ lên cho căn buồng khỏi tối tăm như trước. Lão Thân vừa dọn giường, vừa ngâm thơ vui. Tin mừng đến bất ngờ quá, khiến lão không biết làm gì. Lão hỏi thằng Út quáng cả lên: “Bàn đâu? dọn làm sao? Cháu đi đón ngoài ngõ nhé! Ông ngồi chờ, khi nó vô ông “hù” nó nhé! Chắc nó tìm tới nhà cũ của ông há! Nó sẽ ngạc nhiên lắm há! Rồi ông nói rằng má nó chết làm sao, chắc nó sẽ khóc nhỉ! Tối cháu vô trong này nói chuyện với ông, với nó nghen! Mai cháu bắt anh cháu dẫn nó đi xi-nê nghen!”

Út đã “cúp cua” một buổi để phụ giúp lão, má nó cũng không rầy. Má nó cũng vui lắm, hứa mai sẽ đãi anh ấy một bữa mì. Suốt buổi chiều lão Thân cứ đi vào, đi ra, nóng cả ruột. “Chẳng biết nó đi bằng gì nhỉ? Tới đây mấy giờ? Nó tìm nhà có được không? Khéo nó lại lạc đường! Út mày đi ra chỗ nhà cũ của ông đứng chờ coi có ai tới hỏi thì đúng là nó!” Và thằng Út đã đi ra, nó đã gặp người phát điện tín…

Tia nắng chót còn cố vương trên cành cây, đậu một chút xuống mái tóc bụi bặm của thằng Út. Bức điện tín màu xanh thúc thủ giữa mấy ngón tay hờ hững của thằng bé, thật vô duyên. Cùng trong một ngày, một lá thư và một bức điện tín mang hai tin vui- buồn đến cho lão Thân. Thằng Út muốn quăng nó đi, nhưng mấy ngón tay của nó vẫn giữ lại. Nó thấy nghẹn ngào ở cổ làm sao!

Nó thất thểu đi về nhà. Ngõ hẻm tối sầm. Nhà của nó cũng tối sầm. Chung quanh nó lạnh lẽo kỳ lạ. Nó nhìn những sợi khói mỏng trên bát nhang giữa bàn thờ của ba nó đang vươn lên. Gương mặt ba nó buồn buồn. Khắp cả nhà đều buồn buồn. Nó muốn đá hất cái ghế, cái chổi cho cái không khí ghê ghê này tan đi. Nhưng nó sợ, nó sợ làm rộn lão Thân. Tự nhiên nó e dè sợ sệt như ngày đầu tiên đi học. Ngày đó nó sợ thầy giáo. Bây giờ nó sợ gặp lão Thân, nó lại chẳng dám bước vào buồng. Không nghe một tiếng động nào, nó nhè nhẹ dón chân vào.

Trên chiếc giường cũ nát, trước “tiệc rượu”, lão Thân ngồi gục đầu như một pho tượng đồng đen. Mặt lão giấu sau đôi bàn tay khô đét. Không một tiếng khóc. Không một lời nói. “Tiệc rượu” vẫn nguyên vẹn và trang nghiêm đợi chờ. Thằng Út đứng tần ngần một phút, và nó lại quay lưng rón rén đi ra. Nhưng tiếng lão Thân gọi giật nó lại:

- Út ơi!

- Dạ, chi ông?

- Lại đây, con!

Thằng Út tiến lại phía lão. Lão nhoài người ôm siết thằng bé trong tay. Mắt lão ngó đăm đăm vào khoảng không. Tiếng nói như thoát ra khỏi cổ họng một cách khó khăn:

- Chút cháu đem mấy thứ kia ra ngoài, để chai rượu lại cho ông thôi.

- Dạ!

- Ông uống, rồi ông lại ngâm thơ cho mày nghe…

Sau khi nốc hết chai rượu, lão Thân nằm vật ra giường, thở dài. Thằng Út hết chịu đựng nổi, nước mắt nó tuôn ra. Nó khóc dùm cho lão. Căn buồng tối om, lão không hề biết nó khóc. Khề khà, lão lại ngân nga câu thơ buồn:

- “Có rượu… ư… Trung Sơn… cho lũ… tớ… ư…

Tỉnh… ra…ư… hỏi đã… thái bình… ư… chưa?”

Giọng lão kéo dài ra, chua xót. Thằng Út thấy thương lão vô cùng…

Lão Ăn Mày

Tác giả: Chiêu Hoàng

,

Lão ăn mày nghe chừng rất mệt mỏị Tóc bệt lại vì mồ hôi và bụi đường. Lão đứng tần ngần trước một căn nhà 2 tầng khang trang, sạch sẽ với cổng sắt cao gần đến nóc nhà. Nắng đã tắt trên những góc phố, ánh đèn đường le lói, thê lương, ảo não đâu đâỵ Thê lương như tâm hồn lão khi nghĩ về đến căn nhà ọp ẹp được vá víu bằng những tấm carton cuối một con hẻm nhỏ hôi thối, mà trong đó, lúc nhúc gồm gia đình thằng con trai lớn cùng với người vợ và 5 đứa con nhỏ. Chúng nó cũng khổ lắm, lão nghĩ, thằng con thì đi đạp xích lô cả ngày, con vợ đi bán hàng rong. Trẻ con, từ lớn nhất 12 tuổi đến 6 tuổi đều túa ra ngoài đường, xin được gì thì xin, bằng không thì cũng thất thểu đầu đường, xó chợ, hoặc có khi đói quá, làm càn trở thành dân ăn cắp vặt là chuyện thường...

Cảm thấy mình đã già yếu không giúp gì được con cháu mấy đỗi, nhưng lão cũng hăng hái tham gia "đi làm" (ăn mày) may ra, nếu không giúp được gì cho gia đình con lão, nhưng ít nhất cũng có được cái ăn, đỡ đi một gánh nặng...

Lão đói lắm. Từ sáng giờ chưa có được một hạt cơm trong bụng. Xin ăn ở chợ cả ngày cũng chỉ được vài đồng khiêm tốn từ lòng hảo tâm của những kẻ giầu có, dư tiền bạc, nhưng cũng chẳng thấm vào đâu... Thất thểu, chân thấp, chân cao, lão trở về nhà, lòng ngao ngán không biết tối nay có gì để ăn không....

Và hôm nào cũng vậy, lão đều đi ngang qua ngôi nhà nàỵ Nó giống như một chiếc răng vàng trong hàm răng đen cờm cỡi, mốc thếch.... Cũng vậy, ngôi nhà 2 tầng này được xây lên ngay đầu một con ngõ tối tăm của dân nghèọ... Đây là ngôi nhà của một gã công an Bắc Việt vào Nam sau 75, nghe đâu, trước giải phóng, gã đi là một anh bộ đội chân chất, chỉ biết rừng rú và súng đạn. Sau khi đã giải phóng được đất nước, nhờ có công bỏ hết thời thanh xuân của mình để giải phóng đất nước, gã có được một chân làm công an xã trong cái xóm nghèo nàỵ... Lần lần, gã biết được thế nào là "quyền lực", nhất là quyền lực đối với những người dân quê quá sức nghèo khổ của khu xóm tạm nhạp nàỵ.... Nghe chừng gã cũng biết tận lực được những quyền hạn của mình, nên ngày càng làm ăn khấm khá....

Lão ăn mày thường gặp gã luôn, cái mặt bì bì và rất phách lối, nhưng gã lại có đứa con gái cũng khá xinh, ngược lại với cha, cô rất vui tính, cởi mở và biết thông cảm. Nhưng dẫu có vui tính và cởi mở thế nào, người trong xóm cũng vẫn e dè chẳng ai dám đến gần trò chuyện với cộ...

Lão ăn mày chần chừ..., đứng xớ rớ. Bụng muốn gõ cửa, hy vọng gặp cô con gái xin ít cơm thừạ Ngẫm nghĩ mông lung, đôi lần định dợm bước bỏ đi, sau lại thấy tiêng tiếc, biết đâu lại gặp được cô con gái tốt bụng kiạ.... Cuối cùng, lão cũng quyết định bấm chuông.....

Tiếng chuông ré lên làm lão giật bắn mình, sợ hãi, chỉ muốn quay lưng bỏ chạy thì lão nghe thấy tiếng lẹt xẹt của đôi dép kéo lê trên nền đá hoạ Một cụ già, có lẽ ngoài 70, trông có vẻ đễnh đãng và phúc hậụ Đôi mắt kèm nhèm nhìn, ngó ra cổng. Cụ mặc một chiếc áo cánh trắng và một chiếc quần satin đen. Cụ ngừng lại trước chếc cổng sắt. Hai khuôn mặt già nua, chỉ cách nhau mỗi cái cổng, nhưng lại là 2 cuộc đời, 2 thế giới khác xa nhaụ..

Giọng bà cụ đặc sệt Bắc Kỳ:

- Bà cần hỏi ai thế???

Lão ăn mày lúng túng, rồi thấp giọng van lơn:

- Lạy cụ. Con đói lắm. Xin cụ chút cơm thừa ăn hôm naỵ..!!!

Bà cụ nhìn lão ăn mày một chập. Hình như vẫn chưa hiểu đối tượng muốn gi, rồi lần trong túi áo chiếc chìu khoá, lách cách mở cổng, đễnh đãng hỏi:

- Hử??? Bà nói gì cở??

Lão ăn mày kiên nhẫn:

- Xin cụ cho con ít cơm thừạ..

Cánh cửa mở rộng... Cụ bà nhìn thấy một bà lão te tuạ Khuôn mặt thiểu nãọ Người hơi run run vì đóị Quần áo lem luốc, dính đầy vệt dơ và đất cát. Khuôn mặt bà cụ bỗng vui hẳn lên, Cụ cho rằng, Chúa vừa gửi đến cụ một người bạn đâỵ Cả ngày cứ ở trong nhà một mình, cụ buồn lắm. Con cái thì có việc riêng của chúng nó, chẳng đứa nào có thì giờ rảnh chơi với cụ. Đột nhiên, hôm nay có một bà lão ở đâu tự nhiên đến gõ cửa, cụ mừng khôn siết..... Nắm ngay lấy tay lão ăn mày kéo sềnh sệch vào nhà:

- Vào đây đã.... Muốn ăn gì

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro