truyện ma

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bí mật ánh trăng khuya:

- Mẹ kiếp, nằm hoài không ngủ được, hay là dậy kể chuyện ma nghe đi. Tôi có biết chuyện này hay lắm. 

Lời đề nghị được hưởng ứng ngay. Cả toa xe nhao nhao ngồi dậy vây quanh người thanh niên vào giữa. 

Thích thú vì bỗng trở thành nhân vật quan trọng. Anh ta đằng hắng mấy tiếng trước khi lên giọng kể: 

- Xóm tôi, có một khu nghĩa địa nổi tiếng có lắm ma nhiều quỷ. Ai đi ngang qua đó không ít thì nhiều cũng một lần bị chúng nhát cho thất kinh hồn vía. Duy có bác Bảy của tôi là không tín. Một đêm theo lời thách thức của bạn bè, bác xăm xăm tiến vào nghĩa địa, tay cầm theo cây đèn pin nhỏ. 

Đi lòng vòng một hơi chẳng thấy gì, bác của tôi lầm bầm mắng: 

- Đúng là tin vịt. Ma quỷ gì đâu chứ! 

Vừa dứt lời, bác bỗng thấy xa xa trước mặt thấp thoáng bóng đèn vọng đến, tiếng cười nói xôn xao. Tò mò, bác bước nhanh về hướng ấy. Thì ra là một đám cưới. Chà! Ai mà mời khách vào cái giờ khuya khoắt như vầy nhỉ? 

Bác tôi lạ lẫm vô cùng. 

Một người bước ra, tình cờ nhìn thấy bác tôi liền mời chào, vui vẻ. Đang cơn khát, sẵn lời mời, bác tôi không khách sáo bước vào ngay. Vị chủ nhà này mới hiếu khách làm sao. Họ mời bác tôi ăn tới tấp. Xong rồi còn mời bác tôi lên giường ngủ nữa. 

No say, bác tôi vui vẻ lên giường đánh một giấc cho đến sáng. Đến khi tỉnh dậy... chà... người thanh niên chợt dừng, hạ giọng: 

- Mọi người có biết bác tôi nhìn thấy gì không? Trời ơi, bác tôi thấy mình đang nằm trên một ngôi mộ mới chôn. Miệng ngậm đầy đất sét. Lạ quá! Bác tôi chạy loạn ra đường cầu cứu. Bây giờ những người bạn của bác tôi mới tìm thấy bác. Họ bảo suốt một đêm dài đốt đuốc đi tìm bác khắp nghĩa địa nhưng không thấy. Sau chuyện này, bác của tôi bị bệnh chẳng bao lâu thì chết khủng khiếp chưa? 

- Xì! 

Người thanh niên chưa dứt tiếng, một người khác đã trề môi: 

- Chuyện vậy thì có gì mà ly kỳ, ghê gớm. Nghe tôi kể nè. Hồi đó, ngoại của tôi từng bán bánh cho ma đó. 

- Thật sao? 

- Những đôi mắt hiếu kỳ quay lại: 

- Bán bánh cho ma à? Chuyện thế nào? Kể đi. 

- Ừ vầy nè! Người kia lên tiếng kể - Số là hồi đó, ngoại của tôi đi bán rất sớm. Mới ba bốn giờ bà đã quảy một gánh đầy bánh chuối ra chợ bán. Hôm nào trên đường đi, bà cũng bị mấy người chận lại mua. Bà bán, nhưng khi về đếm tiền thì thấy toàn là giấy tiền vàng bạc âm phủ. Bà tức quá mấy ngày sau đi bán, bà đem theo một xô nước. Ai mua là bà lấy tiền ném ngay vào, tiền chìm mới bán, tiền nổi thì trả lại ngay. 

- Sao tiền nổi lại không bán thế? - Một người không hiểu. Một người khác chen vào. 

- Có vậy mà cũng hỏi. Tiền nổi là tiền ma chứ sao. 

- Trời ơi, ghê quá! Người vừa tò mò lè lưỡi. 

- Chưa ghê lắm đâu. Một thanh niên rất đẹp trai, nãy giờ ngồi yên lặng trên ghế nghe mọi người xì xào bàn tán, giờ mới ngẩng đầu lên, cái giọng trầm trầm. 

- Chuyện tôi sắp kể đây còn kinh khiếp hơn gấp trăm lần câu chuyện mọi người vừa nghe nữa. 

- Chuyện gì mà ghê vậy? Một lần nữa đám người háu chuyện quay hết sang người thanh niên lạ. Nhẹ mỉm một nụ cười, anh ta từ tốn kể. Giọng anh ta trầm ấm, thật hay. Câu từ mạch lạc, nhấn nhá như một phát thanh viên kể chuyện trên đài. 

- Chuyện của thằng bạn tôi. Hôm đó, nó cũng đi xe lửa, trên một chuyến tàu đêm thế này. Nhưng... thằng bạn tôi giàu có lại sang trọng. Hắn mua toa nằm hạng nhất. Cả toa mà chỉ có một mình nó mà thôi. 

Ngưng lời kể, người thanh niên đưa mắt nhìn quanh một lượt. Thích thú thấy mọi người mở tròn đôi mắt, nghe như nuốt lấy từng lời mình kể. 

Trên chiếc giường đơn êm ấm, gã ngủ thật ngon. Đến nửa đêm, bỗng nghe bàn tay mình chạm phải một vật gì lành lạnh. Cô tiếp viên đem khăn ướp lạnh đến cho mình lau mặt, thằng bạn của tôi cầm lấy. Ủa? Không phải khăn lạnh mà 

là... một cục nước đá tròn tròn. Lạ quá! Thằng bạn của tôi mở mắt ra rồi hét lên một tiếng rụng rời. Trời ơi, trên tay nó không phải là cục nước đá mà là... một cái đầu lâu... 

Ối trời... Ném mạnh luôn cái đầu lâu xuống đất, thằng bạn tôi ôm ngực rụng rời. Hồi lâu bình tâm lại, hắn oán thầm: "hẳn là trò đùa của một kẻ muốn hại mình. Không thì sao tự nhiên trên giường lại có đầu lâu chứ? Hừ! Đùa gì ác độc kiểu này. Rủi gặp người yếu tim hẳn là đã sợ chết rồi". 

Lầm bầm mắng mấy câu, thằng bạn của tôi lồm cồm bò ra phía cạnh giường ngoài nhìn xuống. Cái đầu rơi mạnh như vậy chắc vở đôi rồi. 

- Ôi! 

Một lần nữa, thằng bạn của tôi té ngửa ra sau vì bất ngờ, không phải cái đầu lâu mà là một cô gái đẹp, đẹp tuyệt trần. 

Sau nụ cười xã giao, cô gái nói với bạn tôi bằng cái giọng trong như sương sớm. Rằng mình vì sa cơ lỡ vận, không tiền mua vé nên mới lén trốn vào trong toa xe của hắn đi nhờ. 

Thường ngày, thằng bạn của tôi cảnh giác rất cao. Nhưng hôm nay, không hiểu sao trước mặt giai nhân gã bỗng trở nên nhẹ dạ một cách bất ngờ. Dễ dàng nhận lời cho cô gái ở lại xong, gã như chợt nhớ ra, cúi xuống gầm giường tìm kiếm. Lạ thật, cái đầu lâu mới đó đã biến mất tiêu rồi! 

Thoáng hoang mang, nhưng thằng bạn của tôi gạt đi ngay. Sẵn có máu "ba mươi lăm", nó quay sang tán tỉnh giai nhân. Đến nửa khuya thì cô gái đồng ý lên giường với hắn. Ôm cô gái vào lòng, gã mới nhận ra thân thể cô ta lạnh như băng, chẳng khác gì cái đầu lâu lúc nãy. Bây giờ thằng bạn của tôi mới nhớ ra, cửa toa tàu bị mình cài chết bên trong,cô gái và cái đầu lâu sao có thể vào được nhỉ? Ôi! Có khi nào... là ma chăng? 

Chợt hiểu ra... đã quá muộn, thằng bạn tôi chưa kịp la đã thấy từ miệng cô gái mọc ra hai chiếc răng nanh nhọn hoắt. Đôi mắt ngầu tia máu, cô ta từ từ cúi xuống cổ bạn tôi toan hút máu. Thời may lúc đó tiếng gõ cửa vang lên. 

Mọi tiếng động đều vắng bặt. Thậm chí cả hơi thở cũng không còn. Chẳng hẹn mà tất cả mọi người đều ngồi sát vào nhau. Chân co cả lên ghế, như thể con ma trong câu chuyện kể của gã thanh niên kia có thể nhảy ra ngoài, dùng chiếc răng nanh cắm xuống cổ mình. Đây mới đúng là câu chuyện ma hãi hùng kinh dị nhất. 

Sợ, nhưng vẫn muốn nghe. Phần cuối câu chuyện thế nào? Người bạn ấy có được tiếng gõ cửa kia cứu thoát? Liệu anh ta có la lên và con ma có sợ người 

soát vé mà biến đi? Hay vẫn tiếp tục hút máu người bạn ấy, xong rồi lại chuyển sang hút máu người soát vé tàu? 

Ôi hồi hộp quá! Mà... gã thanh niên này, như thể trêu ngươi chọc tức cả đám đông, không kể tiếp mà chỉ cười cười nhìn mọi người. 

- Kể tiếp đi... - Cuối cùng, nôn nóng quá, một người lên tiếng giục. Đám đông nhao nhao theo. 

- Phải rồi, kể tiếp đi. Cuối cùng ra sao hả? Họ có chết không? 

- Cuối cùng thì... - Người thanh niên vui vẻ. - Tôi xin lỗi mọi người, tôi không được phép kể tiếp đâu. 

- Sao thế? Đám đông tức giận. 

Người thanh niên mỉm cười: 

- Ừ trong lúc nhất thời, tôi không kịp nghĩ ra. Và... dù có nghĩ ra tôi cũng phải bảo vệ quyền lợi cho tuần báo tin sáng. Mọi người nếu muốn biết được hết câu chuyện, xin hãy đón đọc tiếp tuần báo "Tia sáng" sẽ phát hành vào chủ nhật này. Nó nằm trong câu chuyện ma "Chuyến tàu đêm" của tác giả Kỳ Phương. 

- Chỉ là chuyện ma được hư cấu thôi ư? - Giọng một người thất vọng. 

Một người khác biết chuyện xen vào: 

- Thì ra, anh là Kỳ Phương tác giả kiêm phóng viên nổi tiếng của tuần báo Tia Sáng. Thật là ngưỡng mộ. 

- Tôi thích các phóng sự điều tra cũng như thích đọc tiểu thuyết ma của anh lắm. 

- Xin cảm ơn. Kỳ Phương gật đầu cười khiêm tốn. Tôi không muốn lộ thân phận cũng không phải đem câu chuyện ma ra kể quảng cáo cho tuần báo của mình. Chỉ tại thấy mọi người thích nghe chuyện ma quá, nên mới ngứa miệng kể thôi. Thật ra... câu chuyện "Chuyến tàu đêm" này, tôi chỉ vừa viết được bảy kỳ. Phải còn hơn ba kỳ nữa mới hết. Hiện tại, tôi vẫn chưa nghĩ ra phần kết cuộc nên không kể tiếp được. Mong mọi người thông cảm. 

Ánh mắt chân thành, giọng nói hiền hoà của Kỳ Phương đã chinh phục được lòng người. Như quên mất kết cuộc câu chuyện còn đang hấp dẫn, mọi người 

hiếu kỳ vây kín lấy anh. Một tác giả lừng danh víết tiểu thuyết ma, làm rởn tóc, đứng tim hàng trăm khán giả. 

- Kỳ Phương nè, anh viết nhiều chuyện ma hay vậy, có khi nào gặp ma chưa? Một đứa bé trạc mười ba, mười bốn lên tiếng hỏi. 

Đám đông cũng nhìn chờ nghe câu trả lời kỳ thú. 

- Chưa! Kỳ Phương lắc đầu nói. Dù có một lần, tôi tưởng mình đã được gặp ma rồi. 

- Có phải lần anh về tìm hài cốt bà cô của mình rồi tình cờ tìm ra kho báu trong ngôi nhà mồ ông hội đồng không? - Một người ra vẻ thành thạo. 

Kỳ Phương gật đầu, người ấy lại hỏi: 

- Thế... anh có chinh phục được cô cháu gái ông hội đồng như đã hứa với khán giả không? 

Kỳ Phương nhẹ nhún ai, cười mỉm: 

- Nếu tôi phải thực hiện hết y như lời hứa của mình... chắc hẳn tôi có đến một trăm cô người yêu mất. 

- Anh lãng mạn, đào hoa quá đấy. - Một người như ganh tỵ 

Đứa bé lại chen vào: 

- Kỳ Phương ơi, anh nói cho em biết đi. Thế gian này có ma không hả? 

- Không có đâu bé cưng. Kỳ Phương nhẹ véo má nó. 

- Ma chỉ là một sản phẩm tưởng tượng của những nhà văn bọn anh thôi. 

- Thật sao? - Đứa bé như mừng rỡ. - Vậy mà mẹ của em lại bảo là thế gian này có ma. Bà không cho em về quê nghỉ hè như đã hứa. Bà bảo dưới quê bây giờ có một con ma, nó đang hoành hành ăn thịt người ta đấy. 

- Im đi... Một người đàn bà, có vẻ như là mẹ của đứa bé lên tiếng nạt. Con nít con nôi biết gì. Về chỗ ngồi mau... sắp đến rồi đấy. 

Nói rồi, bà nắm tay con lôi xệch đi, mặc cho nó có ngoái đầu nhìn lại. Dường như... còn nhiều chuyện để kể với Kỳ Phương lắm. 

Người mẹ và đứa bé đi rồi, mọi người cũng giải tán trở về vị trí của mình. Chà! Thời gian trôi nhanh thật, mới nói tào lao mấy chuyện đã sáng rồi. 

Đằng xa ánh dương hồng nhô cao lên khỏi ngọn cây, không đầy mười lăm phút nữa tàu sẽ về đến bến. 

Ngả đầu ra ghế, Kỳ Phương kín đáo che miệng ngáp. Vậy là mất đứt một đêm uổng phí, khô cả miệng, thức trắng cả mắt không thu hoạch được gì. Câu chuyện chuyến tàu đêm vẫn không tìm ra kết cuộc cho thoả đáng. Chuyến đi này... xem ra vô bổ quá! 

Mọi người nếu ai từng đọc thời báo Tin sáng hẳn không lạ với cái tên Kỳ Phương. Từ sau bài phóng sự "Con ma truyền kiếp" tên tuổi của anh đã nổi càng thêm nổi. Nhận thấy đề tài ma đã khiến cho số lượng báo của mình bán chạy gấp đôi, ban biên tập quyết định chuyển hẳn Kỳ Phương từ chuyên mục Phóng sự điều tra sang chuyên mục "Ma". 

Không cần biết truyện hư cấu hay phóng sự thật trăm phần trăm. Họ chỉ cần những bài báo của anh liên quan đến những con vật vô hình, chưa ai gặp nhưng đều rất kinh sợ ấy là được. 

- Này anh... tôi không đồng ý với cách nói của anh đâu. Một thanh niên ngồi cạnh Kỳ Phương, chợt rụt rè lên tiếng sau hơn ba phút ngập ngừng. 

Kỳ Phương quay lại, lạ lùng: 

- Không đồng ý với cách nói của tôi ư? Vì sao thế? 

Đôi mắt mở to nhìn thẳng vào mặt Kỳ Phương, anh ta chậm rãi buông từng tiếng một. 

- Vì thế gian này thật sự có ma tồn tại. Chính mắt tôi đã thấy. 

- Chính mắt anh đã thấy ư? Ôi... - Đôi mắt sáng lên, Kỳ Phương dứt hẳn cơn buồn ngủ. - Lúc nào? Ở đâu thế? 

- À... anh có thể vui lòng cho tôi biết tên không? 

Người thanh niên vẫn giữ thái độ chậm rãi, khoan thai: 

- Tôi tên là Vân Phi, người cùng làng với người mẹ và đứa bé kia. 

- Sao? - Đôi đồng tử trợn tròn, Kỳ Phương vụt nắm lấy tay người đối diện. - Cùng làng với đứa bé à? Không lẽ chuyện con ma hoành hành ăn thịt người là có thật? 

Vân Phi gật đầu. Đôi mắt mờ xa, anh đưa Kỳ Phương ngược dòng xe lửa trở về cái làng quê hút gió của mình.

° ° °

Lắc rắc, lắc rắc... 

Cơn mưa đêm dai dẳng, tưởng chừng không bao giờ dứt. Nép mình sau hàng rào dâm bụt, Vân Phi nghe hai hàm răng của mình va vào nhau lập cập. Lạnh quá! Nhưng anh quyết không bỏ cuộc. Bằng mọi giá, đêm nay Vân Phi phải bắt cho được con vật khốn kiếp kia. 

Ba ngày nữa là đám cưới của anh, mọi việc đã chuẩn bị, sắp đặt đâu vào đó. Vậy mà... đùng một cái, vào giờ chót lại xảy ra sự cố. 

Đó là chuyện bốn mươi chú gà giò, vàng ươm béo mập được nuôi để giành giết thịt đãi quan khách trong ngày hôn lễ bỗng lăn đùng ra chết. 

Không phải ngẫu nhiên, cũng không do dịch bệnh, Vân Phi biết rõ điều này từ ngày đầu tiên. Khi đàn gà của mình bị chết có năm con. Rõ ràng trên cổ chúng có những đấu răng cắm phập vào. 

Ngỡ chồn, chó. Đêm hôm sau Vân Phi cài kín chuồng trại. Đặt thêm bẫy gài, Vân Phi quyết trị cho con vật mất nết kia một trận cho bỏ tật. Đừng dại dột mò vào vật nuôi mà mang hoạ vào thân. 

Nhưng... con vật thật tinh khôn. Ba ngày liên tiếp, dù cho Vân Phi cài đặt tinh tế cách nào... nó vẫn biết đường né tránh. Không chỉ thế, nó còn xơi sạch chuồng gà của anh luôn. Sáng sáng ra, nhìn những con gà bị hút hết máu nằm chết la liệt khắp sân, Vân Phi đau lòng khủng khiếp. 

Vút! 

Một cái gì trăng trắng chợt xẹt ngang đầu làm cắt ngang dòng suy nghĩ của Vân Phi. Nó đấy! Giật mình, anh thầm nghĩ. Con dao nắm chặt trong tay, Vân Phi từ từ vạch tán lá bước vào. 

Ôi! Bàn chân còn lơ lửng trên không, Vân Phi đã chết điếng té nhào. Trời ơi... không phải chồn, không phải chó... mà là một con ma... 

Phải! Một con ma trắng toát từ đầu đến chân, gương mặt gớm ghiếc đầy nanh nhọn. Vừa bước vào đã chụp ngay một con gà đưa lên miệng mình cắn mạnh, hút máu tươi chùn chụt. 

Phải chạy khỏi nơi này lập tức. Bản năng sinh tồn bảo Vân Phi như thế. Nhưng... cơ thể của anh lại không còn nghe lời anh bảo nữa rồi. Nỗi sợ hãi khiếp đảm đã làm chân cẳng anh rụng rời, mềm nhũn không thể đứng lên để chạy. Vân Phi chỉ còn một cách thụt lùi. 

Rắc! 

Một cành cây gãy dưới chân. Điếng hồn, Vân Phi ngồi im, nín lặng, nhưng con ma đã nghe động quay đầu lại. Dưới ánh trăng mờ ảo, Vân Phi nhìn thấy rõ, hai con mắt nó lồi hẳn ra ngoài như hai cái chung to. Miệng đầy máu đỏ. 

- Đừng giết tôi... đừng giết tôi... 

Thấy con ma trừng mắt ngó mình, Vân Phi sợ quá, vội chắp tay sụp quì như thể tế sao. Một lúc, chợt nhớ ra, anh lại lầm rầm đọc câu thần chú từng thuộc nhờ nghe trộm của ông thầy Bảy. "Án ma ni bát nị hồng. Nam mô a di đà Phật". 

Câu thần chú lẫn lời niệm Phật đều không có tác dụng, con ma chẳng lộ chút sợ hãi nào. Từng bước, nó tiến tới gần Vân Phi hơn. 

- Không... - Chống tay xuống đất, Vân Phi thụt lùi về phía bờ sông, trong tích tắc giữa sự sống và cái chết, anh gom hết bình tâm gọi lớn: 

- Cứu tôi... bớ người ta... 

Vân Phi không hét được trọn câu. Bàn tay lông lá của con ma đã bịt miệng anh. Hơi thở phì phò, từ miệng nó toả ra một mùi tanh tưởi. Rồi một bàn tay nâng bổng Vân Phi lên như một con gà. Nó cắm phập chiếc răng vào cổ anh thật mạnh. 

- Á! 

Hét lên một tiếng to, Vân Phi té nhào bất tỉnh. Chuyện gì đã xảy ra với mình sau đó Vân Phi không nhớ nổi. Khi tỉnh lại, anh đã thấy mình đang nằm trong bệnh viện. 

- Ôi Vân Phi... anh đã tỉnh rồi... thật là may quá! 

Giọng một người con gái trong veo, mừng rỡ. Vân Phi quay đầu lại. Phải hơn một phút anh mới nhận ra cô là Trinh Trinh, vợ chưa cưới của mình. 

- Có chuyện gì vậy em, sao anh lại ở đây? Vân Phi ngơ ngác. 

Trinh Trinh trìu mến lau mặt cho anh: 

- Em không biết, sáng này qua nhà anh thì bắt gặp anh té xỉu dưới hàng dâm bụt. Sợ quá, em tri hô lên, mọi người ùa chạy lại mới hay anh đã bị con chó cấu vào cổ một vết sâu. 

- Chó sói ư? - Bây giờ Vân Phi mới nhớ ra. Anh lắc đầu la lớn. Không, không phải chó sói đâu. Mà là ma, một con ma. Chính mắt anh trông thấy rõ ràng. 

- Vâng. - Ngỡ anh tâm trí vẫn còn u mê sau cơn xỉu, Trinh Trinh không cãi. - Để em lấy nướccho anh uống? 

Bác sĩ đang truyền nước biển cho anh đấy à? - Đưa mắt nhìn vào ống kim nơi cổ tay mình, Vân Phi nói. 

Trinh Trinh đút cho anh một muỗng nước. 

- Không phải nước biển đâu. Máu đấy. Bác sĩ bảo anh bị mất máu quá nhiều, chỉ cần đưa đến bệnh viện trễ một tí nữa thôi là mất mạng rồi. 

Ngưng một chút, đút cho anh thêm mấy muỗng nước, Trinh Trinh tặc lưỡi: 

- Hồi hôm anh rình đập con chó sói phải không? Thiệt khổ, em đã bảo anh rồi... thôi kệ nó đi... có mấy con gà, tiếc làm gì... để ra nông nổi... suýt nữa mất mạng rồi... Anh có biết lúc nãy em lo lắng thế nào không? 

- Xin lỗi em. - Vân Phi khẽ cầm tay Trinh Trinh. Anh đã bất cẩn. Nhưng không phải là chó sói,con ma đã tấn công và hút máu anh. Em nên bảo mọi ngươi hãy dè chừng, cẩn thận. Đừng ra đường ban đêm nguy hiểm lắm! 

Cho dù Vân Phi lặp đi lặp lại nhiều lần câu nói ấy hàng trăm, hàng ngàn lần, Trinh Trinh và những người dân làng vẫn cười nói thản nhiên. Họ không tin vào chuyện con ma. Cứ nghĩ rằng anh vì quá sợ nên mới tưởng tượng ra. Thời gian thấm thoát trôi, cho đến tuần trăng tròn cuối tháng tiếp theo. 

Mọi người chỉ ùa ra, vỡ lẽ khi nghe lời kể của Mai Trâm giống hệt những lời kể của Vân Phi. Một con ma, đôi mắt to, cái miệng đầy răng nhọn và vết cắn duy nhất trên cổ. 

Nhưng... cũng thật lạ lùng. Con ma không cắn chết người. Nó chỉ hút một lượng máu vừa đủ làm người ta ngất xỉu. Tại sao như vậy nhỉ? Lòng nhân hậu chăng? Vô lý thật là vô lý quá... mọi người cứ xì xào bàn tán mãi. 

Cho đến tháng thứ ba thì Vân Phi bỗng thấy trong người mình có một sự đổi thay kỳ diệu. Đêm đó, anh đang cùng Trinh Trinh đi dạo dọc bờ sông (đám cưới của hai người vẫn chưa được tiến hành), bỗng nghe lòng xôn xao một cảm giác lạ lùng không giống như đói bụng. 

Tựa như cơn khát cháy khô cổ họng. Anh thấy mình thèm máu tươi kinh khủng. 

- Vân Phi, anh sao vậy? 

Thấy Vân Phi tự nhiên thờ người ra, mắt chăm chăm nhìn vào cái cổ trắng của mình, Trinh Trinh thẹn quá. Cứ ngỡ... anh nổi hứng ham muốn thân xác mình. 

- Anh... - Vân Phi mấp máy môi... Không... anh không muốn điều đó xảy ra một chút nào. Anh không muốn hút máu Trinh Trinh. Nhưng... anh lại không thể làm chủ bản thân. Ghì Trinh Trinh vào lòng mình, anh từ từ đặt môi xuống cổ cô cắn mạnh. 

- Ôi...! - Đang mơ màng trong cảm giác của nụ hôn, Trinh Trinh chợt nhảy nhổm lên đau điếng, vùng đẩy mạnh Vân Phi ra khỏi người mình rồi giận dữ. Vân Phi, anh điên rồi hả? Tự nhiên sao lại cắn, chảy máu em rồi nè. 

Không còn cảm nhận được gì, mùi máu đã làm Vân Phi như điên dại. Nhào người lên chụp lấy Trinh Trinh, vật cô té nhào ra cỏ, Vân Phi ngoạm miệng vào cổ cô uống như điên dại dòng máu đỏ. 

- Ồ không! - Bây giờ mới nhận ra sự khác lạ của người yêu, Trinh Trinh sợ quá la to. Buông ra... bớ người ta... cứu tôi... 

Một đôi nhân tình đang tâm sự trong một lùm cây gần đó, nghe tiếng người kêu cứu bước đến. 

Vân Phi như vẫn không nhận ra sự hiện diện của mọi người, cứ nhào lên cố đè Trinh Trinh nằm ra đất. 

Vân Phi, buông cô Trinh Trinh ra. Người thanh niên bước đến nhẹ nắm tay Vân Phi lại. 

Trinh Trinh hét lớn: 

- Cứu tôi với, anh ấy muốn ăn thịt tôi. 

- Hả??? Bây giờ mới nhận ra miệng Vân Phi đầy máu, người thanh niên sợ quá, vội chụp một cái cây ven đường đánh vào đầu Vân Phi thật mạnh. 

- Trinh Trinh... có chuyện gì? Sao Vân Phi lại cắn cô? - Cô gái xé vội vạt áo băng tạm vết máu trên cổ Trinh Trinh và lo ngại hỏi. Dân làng nghe động kéo ra, vây kín lấy Trinh Trinh và Vân Phi vào giữa. Những cây đuốc trên tay họ sáng rực một góc trời. 

- Tôi cũng không biết nữa. Khi đã hoàn hồn, Trinh Trinh thút thít khóc trong lòng cô bạn gái. - Tự nhiên đang ngồi bên nhau tâm sự, anh Phi bỗng chồm lên, vật tôi xuống, cắn mạnh vào cổ tôi hút máu như thèm khát lắm. Trời ơi, nhìn mặt anh lúc ấy thật là khủng khiếp. Cứ như... đã bị biến thành ma vậy... 

- Ôi! Không hẹn mà đám đông đứng nép sát vào nhau sợ hãi. 

Đúng lúc đó, từ cuối góc làng, tiếng một người đàn bà hét lên thất thanh: 

- Cứu tôi với, con tôi nó muốn giết tôi. 

- Chuyện gì thế? - Đám đông quay đầu lại. Một người đàn bà hớt hải chạy nhanh đến, sau lưng bà là Mai Trâm (cô gái bị ma cắn sau Vân Phi) đang hung hăn đuổi theo. 

- Cứu tôi với, nó muốn hút máu tôi... 

Chạy ùa vào giữa đám đông, bà Tâm sợ hãi trốn sau lưng họ. Phía sau, Mai Trâm vẫn bám theo một bước. Đã có kinh nghiệm với Vân Phi, chàng thanh niên lúc nãy lại dùng cây đánh cho Mai Trâm té xỉu, rồi lắng nghe bà Tâm thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Diễn biến xảy ra hệt như câu chuyện của Vân Phi. 

- Làm sao bây giờ? - Đám dân làng xôn xao bàn tán. Rõ ràng những người bị ma hút máu đều đã bị biến thành ma. Cái đà này... chẳng bao lâu nữa cái làng này sẽ biến thành ma hết mất, theo cấp số nhân. 

Suy nghĩ, suy nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, đám đông đành chịu đưa Vân Phi và Mai Trâm vào bệnh viện. Hy vọng sẽ tìm ra thuốc chữa. 

- Có chuyện này thật sao? - Vị bác sĩ khám cho họ tỏ ý nghi ngờ về câu chuyện kể sặc mùi hoang đường. 

Đến khi xem kết quả khám nghiệm ông mới tặc lưỡi hít hà vì một hiện tượng quá lạ lùng.Cả Vân Phi và Mai Trâm đều bị thiếu hồng cầu một cách trầm trọng. Và... đây là lý do khiến họ thèm máu sống. 

Trong tình trạng của Vân Phi, Mai Trâm bây giờ thật nguy cấp. Hơi thở nhanh, mạch chậm và cách duy nhất để cứu cả hai bây giờ là phải truyền gấp cho mỗi người hai đơn vị máu. 

Giọt cuối cùng của bịch máu truyền hết vào người thì cũng là lúc Vân Phi mở bừng mắt dậy. Đầu óc anh tỉnh táo bình thường, anh như người vừa rơi từ cung trăng xuống. Tất cả sự việc đã diễn ra với mình lúc nãy, anh hoàn toàn không nhớ được nữa. 

Cả Mai Trâm cũng thế, cứ ngơ ngơ ngác ngác như mới vừa tỉnh mộng. Bác sĩ dặn mọi người giấu kín chuyện này nên Vân Phi và Mai Trâm cứ tin rằng mình chỉ bị một cơn bệnh xoàng thôi. 

Thời gian trôi, con ma vẫn tiếp tục hoành hành. Mỗi tháng tìm hút máu một người (từ khi hút máu Vân Phi, nó đã không còn tìm đến hút máu gà vịt nữa. Dường như nó thấy hút máu người thú vị hơn). Cả làng quê bé nhỏ sống trong tâm trạng hoang mang, lo sợ. Tới tối không một ai dám ra ngoài đường. Nhất là những đêm trăng tròn,cửa kín, then cài, đèn đuốc đều tắt hết đi. Cả ngôi làng như bất động, chìm lỉm trong bóng đêm ghê rợn. Nhưng... con ma thật tinh khôn quái quỷ, càng lúc nó càng lộng hành hơn, dám trổ cả mái nhà xuống để hút máu người. Hành tung của nó cũng trở nên kỳ ảo, bí mật hơn. Ngoài kẻ bị hút máu ra, không một ai nhìn thấy được. 

Một lần, để từ chối đi dạo với Vân Phi, Trinh Trinh đã để lộ cho anh biết điều bí mật bác sĩ đã dặn mình và mọi người giấu kín. 

- Có lẽ nào lại như thế! - Vân Phi nghe choáng váng trước tiết lộ của người yêu. 

Chạy tìm khắp hết các thầy bùa, thầy pháp, anh cầu mong họ hãy giúp mình giải trừ ma tính. Không... anh không muốn, không bao giờ muốn trở thành một con ma hút máu người. Thà chết còn hơn... 

Nhưng... ma thuật của con ma thật là siêu huyền bí. Các đạo bùa linh, các phép màu của những bậc thầy cao tay ấn đều tỏ ra vô hiệu. Mỗi tháng trăng tròn, Vân Phi phải vật vã với cơn khát máu của mình. Những lúc như thế, dân làng chỉ biết đập cho anh bất tỉnh rồi đưa vào bệnh viện. Bác sĩ lại phải truyền qua đường tĩnh mạch cho anh hai đơn vị máu. 

Truyền máu xong, Vân Phi trở lại làm một con người bình thường. Nhưng giờ đây, trong mắt mọi người anh không còn là một anh nông dân hiền lành chất phác, được trên yêu, dưới mến nữa. Họ xa lánh, sợ hãi không dám đến gần. Thậm chí những người ở cạnh nhà anh cũng vì sợ mà dọn đi nơi khác. 

Và điều làm cho Vân Phi phải đau lòng, khổ sở nhất vẫn là lời từ hôn của Trinh Trinh. Vì dù có rất yêu anh cô cũng không đủ can đảm làm vợ một con người có nữa phần ma như anh được. 

Đau khổ, buồn chán một thời gian, Vân Phi quyết định rời bỏ làng quê đi xứ khác. Anh không thể sống mãi trong mặc cảm bị xa lánh và ghê sợ.... 

Vân Phi kể xong câu chuyện, cũng đúng vào lúc con tàu cập bến. Mọi người xôn xao, ùn ùn kéo nhau ra cửa. Tiếng gọi con, tiếng chửi bới cằn nhằn vang 

động cả một góc trời. Vậy mà... trong góc con tàu, Kỳ Phương và Vân Phi vẫn cứ ngồi yên bất động. Mỗi người đuổi theo một suy nghĩ của riêng mình. 

Vân Phi nghĩ đến những tháng ngày sắp đến của mình. Trên bước đường lưu lạc tha phương, liệu anh có tìm được một quý nhân giúp mình cởi bỏ những phần ma trong bản thân. Có quên được Trinh Trinh, cô vợ sắp cưới đẹp nết, đẹp người? 

Trong lúc đó, Kỳ Phương lại thấy lòng đầy ắp nỗi nghi ngờ. Anh không tin ma quỷ... nhưng câu chuyện của Vân Phi vừa kể thì sao? Không thể không tin vào tính chân thật của câu chuyện được. Rõ ràng trên cổ Vân Phi còn hằn sâu vất thẹo. Lẽ nào... thế gian này... có tồn tại một sinh vật vô hình mà mọi người quen gọi là ma? Xưa nay... có ai trông thấy nó bao giờ đâu? 

- Tàu cập bến lâu rồi. Thôi chào anh, tôi đi nhé. 

Vân Phi chợt đứng lên, tay đập mạnh vào vai Kỳ Phương từ giã. 

- Khoan đã. Kỳ Phương giật mình ngẩng đầu lên. 

Trong lúc nhất thời không tìm ra được câu gì, anh chỉ nhớ đến mối bận tâm duy nhất của mình. Anh có thể cho tôi xin địa chỉ làng quê của anh không? 

- Để làm gì? - Vân Phi ngơ ngác. - Anh định đến đấy à? 

Không trả lời, Kỳ Phương nhẹ gật đầu. Vân Phi xua tay sợ hãi: 

- Đừng... anh đừng đến đó làm gì. Mọi người đang kéo nhau bỏ làng mà đi đấy. Nguy hiểm lắm. 

- Không sao đâu. - Kỳ Phương mỉm cười. Nghề của tôi mà. 

- Vậy... - Ngập ngừng một chút, Vân Phi cầm lấy cây bút trên tay Kỳ Phương ghi vội vào quyển sổ của anh mấy chữ. - Anh đến đó nhớ cẩn thận. Có gặp Trinh Trinh xin nhắn lại giùm. Dù đi đâu... tôi cũng nhớ và yêu cô ấy lắm. 

- Tôi sẽ nhắn. - Kỳ Phương hứa hẹn. 

Vân Phi không chờ nghe anh nói dứt câu đã xách vali phóng vội qua khung cửa. Một chiếc honda ôm trờ tới. Chẳng cần nói giá và nói địa chỉ, anh nhảy lên bảo nó chở đi ngay. 

Sự việc diễn ra nhanh quá, Kỳ Phương chẳng kịp có phản ứng gì. Nhìn theo bóng Vân Phi khuất vào con đường trước mặt, Kỳ Phương giật mình chợt nhớ. Anh đã quên không hỏi địa chỉ nơi Vân Phi sẽ đến. 

Một chút ngậm ngùi rồi cũng trôi qua. Cúi nhìn dòng địa chỉ Vân Phi ghi trên quyển sổ tay, Kỳ Phương quyết định ngược vào nhà ga mua vé quay trở lại. Bài phóng sự của anh là ở vùng quê có ma kia, chẳng phải nơi này. 

Chắc hẳn sẽ ly kỳ và hấp dẫn lắm đây... linh tính đã bảo với Kỳ Phương như vậy...

° ° °

Chiều nay bác sĩ Tùng về sớm hơn ca trực một tiếng đồng hồ. Không phải vì lười biếng mà ông chỉ muốn dưỡng sức cho ngày mai có nhiều việc phải làm thôi. 

Tám tháng rồi, kể từ ngày con ma xuất hiện. Cứ đến ngày rằm là ông và tập thể y bác sĩ ở bệnh viện phải điên đầu, rối óc. Lớp cứu chữa nạn nhân mới, lớp lo truyền máu cho bệnh nhân cũ. 

Cấp cứu bệnh nhân, truyền máu chỉ là những thao tác quen thuộc, không lấy gì làm khó khăn. Cái làm cho ông, cho các bác sĩ ở đây rối trí là số lượng máu dự trữ không đủ truyền cho số bệnh nhân ngày cứ tăng lên. 

Mỗi ngày trăng tròn, con ma chỉ hút máu một người, nhưng... những người bị nó hút máu không chết. Tất cả đều mang chung một chứng bệnh là bị... cơn khát máu. 

Mỗi lúc như vậy... nếu không kịp truyền vào người họ một số lượng máu cần thiết là họ lập tức trở nên hung hăn, tìm người hút máu ngay. Họ rất nguy hiểm và cũng là người truyền bệnh lớn. Bởi... những bệnh nhân bị họ hút máu, cũng trở nên gần giống như vậy. 

- Nguy hiểm quá... phải giết họ chết để cắt đứt nguồn lây lan. Một lần trong cuộc họp, viên cảnh sát trưởng đã đưa ra yêu cầu nhưng ông bị bác bỏ đi ngay. 

- Không thể giết họ được. Dù hung hãn, dù đi hút máu người, họ vẫn không phải là ma. Cách duy nhất chấm dứt tình trạng này là phải tiêu diệt con ma và tìm ra phương pháp cứu chữa cho những bệnh nhân này. 

Không có vi rút, vi trùng hay một loại vi khuẩn lạ nào được phát hiện ra trong máu những người nhiễm bệnh. Kết quả xét nghiệm cho thấy máu của họ 

vẫn bình thường. Điều này đã làm cho mọi người thêm hoang mang tin tưởng đúng là ma ám thật rồi. 

Bác sĩ Thanh Tùng không tin vào ma quỷ. Nhưng chuyện này là thế nào? Ông không giải thích được... Cùng với mọi người, ông đã tìm đủ cách diệt trừ cái sinh vật được tạm gọi là ma. Song... con ma thật tinh khôn. Nó không bao giờ lọt bẫy, cũng chẳng để lại chút dấu vết nào. Cả bùa linh, cả súng đạn đều không chạm được vào người nó. Cuối cùng... chỉ còn một cách để giải quyết thôi. Theo lời ông, vào ngày rằm, mọi người phải trốn hết vào trong nhà. Cài kín then cửa để con ma không vào được. Hừ!... nếu đêm nay... nếu vẫn còn người bị con ma hút máu thì...có lẽ ông phải khuyên mọi người mau nhanh chân sơ tán khỏi nơi này. 

- Ba mới về. 

Giọng người con gái trong trẻo chợt cắt ngang dòng suy nghĩ của ông Tùng. Giật mình ngẩng dậy ông mới hay mình đang đứng trước cửa nhà. Như thường lệ, Nguyệt Cầm, cô con gái cưng duy nhất của ông đang đón cha ở cửa với nụ cười xinh như hàm tiếu. 

- Ờ... 

Bao giờ cũng vậy, mỗi lúc gặp con là ông nghe tinh thần phấn chấn hẳn lên. Những cơn mệt mỏi, những nỗi bực mình toan tính trong đầu đều biến cả. Môi ông nở nụ cười hiền hậu. 

- Ba đã về rồi đây, con yêu à. 

- Hôm nay ba về sớm! Nhưng có vẻ mệt mỏi hơn thường bữa. Ôm lấy tay cha, Nguyệt Cầm mừng ríu rít. Của đáng tội, cô năm nay đã mười chín tuổi rồi, nhưng lúc nào cũng nhõng nhẽo, đeo bám cha như con nít vậy. 

- Bệnh viện nhiều việc phải làm lắm phải không ba? 

- Không sao đâu, con cưng! - Ngồi xuống chiếc xích đu trước hòn non bộ, ông nheo mắt nhìn con. Trong bộ đồ lụa trắng, mái róc buông dài óng mượt trên lưng, Nguyệt Cầm đẹp tuyệt vời. Hệt như mẹ nó! Ông thầm nhủ rồi chợt nhận ra, con gái của mình nay lớn quá. Phổng phao, xinh đẹp, đầy sức sống. Chà! Đến lúc... ông phải lo chọn cho nó một tấm chồng xứng đáng rồi đây. 

Ba uống nước đi rồi tắm rửa, ăn cơm. Con đã reo sẵn một bộ pijama cho ba trong phòng tắm đấy. - Trao ly nước cho ông, Nguyệt Cầm nói dịu dàng. 

Rồi thấy cha cứ ngồi im chăm chú nhìn mình, cô lạ lẫm: 

- Ba... làm gì mà nhìn con ghê vậy? 

- Con đẹp quá! - Chớp mắt, ông tự hào... - Ba thầm nghĩ, anh chàng nào diễm phúc được làm chủ đoá tử đinh hương đẹp nhất đời này... 

- Á! Đôi má ửng đỏ lên, Nguyệt Cầm đấm mạnh tay xuống người cha nũng nịu. Không cho ba nói bậy, nghĩ bậy đâu... con còn nhỏ xíu mà... 

- Không nhỏ, không nhỏ nữa đâu. - Nghiêng mình né những cú đấm yêu của con, ông cười vui. - Quả thật con của ba đã lớn, lớn thật rồi. 

Nguyệt Cầm giậm mạnh chân hờn dỗi: 

- Ư... nếu ba còn nói nữa, con sẽ giận ba luôn đó. 

- Ồ không... không, đừng giận... - Nhìn mặt con xụ xuống, ngỡ nó giận thật, ông Tùng quýnh lên. - Ba không nói, không nói nữa mà. Vào tắm rồi ăn cơm phải không nào? 

- Dạ phải! - Nguyệt Cầm tươi ngay nét mặt. - Vào tắm lẹ đi ba, nước nguội hết cả rồi. Để con vào thay cho ba thau nước mới. 

- Không sao... ba tắm nước nguội cũng được mà! Ông đưa tay ngăn lại, nhưng không kịp, Nguyệt Cầm đã co chân chạy đi rồi. 

Sau một ngày mệt nhọc, được ngâm mình trong nước ấm thật thoải mái vô cùng. Bao mệt mỏi ưu phiền tan biến, ông thầm cảm ơn trời đã ban cho mình một đứa con hiếu thảo. 

Vợ mất khi hãy còn là một trung niên chưa đến tuổi bốn mươi, nhưng ông không đi bước nữa. Mặc cho bao người mai mối, bao cô gái đẹp thầm yêu, trộm nhớ. Cuộc đời của ông đã dành trọn cho con và sự nghiệp. 

Ông không phải là người xứ này, dù ông đến đây định cư hơn mười tám năm rồi. Mọi người ở đây đều yêu thương, quý trọng đức tính của ông. Nhưng... họ không thể nào hiểu được hoàn cảnh của ông, cũng như quê quán của ông nơi nào, tại sao lại đến đây cư ngụ. Họ chỉ thầm thắc mắc với nhau thôi. Rằng... một bác sĩ giỏi tay nghề như ông sao không tiến thân ở thành phố, ở những nơi dân cư đông đúc, đầy đủ tiện nghi, lại đến đây, đến cái làng quê nhỏ bé và lạc hậu này cư ngụ. 

Dẫu sao thắc mắc vẫn là thắc mắc. Mười tám năm rồi, mọi người như đã quen dần cách sinh hoạt khác người của cha con ông. Như một con ốc nhỏ,cha con ông sống trầm tư cách biệt mọi người. Ngoài những lúc ở bệnh viện ra, trở về nhà, ông hầu như chẳng tiếp xúc giao thiệp cùng ai cả. 

Cô con gái Nguyệt Cầm thì khỏi nói. Xinh như một đoá hồng nhung... Các gã trai làng đừng mơ mà để mắt. Cả cái nhìn chiêm ngưỡng dung nhan kiều 

diễm của cô cũng không có được. Cả ngày giam mình trong ngôi biệt thự, cô chỉ xuất hiện bên cửa rào một ngày đúng hai lần. Đó là lúc tiễn cha đi làm và lúc mở cửa đón ông về mà thôi. Khiến cho bao kẻ si tình, ngưỡng mộ đâm ra chán nản, không còn dám hy vọng nữa. 

Tất cả những lời bàn tán của mọi người, ông Tùng đều biết. Cũng như biết rõ cách sinh hoạt kỳ lạ của mình đã làm cho mọi người ở đây khó chịu. Nhưng... thà vậy. 

Ông không thể thay đổi nếp sống một khi đã trở thành thói quen rồi. 

Ông vẫn biết, một tài năng hiếm hoi như mình bị chôn vùi mãi ở cái vùng quê này là một sự phí phạm. Một thiệt thòi lớn cho mình và con gái. Lẽ ra... cha con ông không phải sống thiếu thốn thế này. 

Thật tội nghiệp Nguyệt Cầm, mười tám năm sống bên cha chẳng khác gì bị cầm tù. Ngoài căn biệt thự lớn này ra, nó chẳng biết thế gian còn bao điều thú vị. 

Nhiều lúc nhìn con nói những câu ngớ ngẩn, lòng ông đau nhói. Thương con quá. Cuộc đời nó đâu đáng bị thế này. Trong khó khăn nhưng ông vẫn có thể cho nó một cuộc sống khá hơn nhiều. Nó phải được đến trường, phải trở thành cô sinh viên đại học tương lai xán lạn. Vậy mà... nó chỉ là một cô gái quê ngốc nghếch chỉ học hết quyển đánh vần. Tại sao... tại sao ông không thể thả nó ra ngoài bầu trời rộng bao la làm con chim tự do mặc tình ca hát, tự làm chủ cuộc đời mình. Liệu... ông có còn sống mãi để bảo bọc cuộc đời con. Nó mỏng manh như hoa hồng, dễ vỡ như trứng mỏng, làm sao có thể đối phó với cuộc đời đầy sóng gió thăng trầm. 

Bao nhiêu lần rồi... ông muốn trở về với con người thật của mình. Rồi cũng bao nhiêu lần ông lắc đầu sợ hãi. 

Không... với những gì đã xảy ra trong quá khứ,ông không có quyền tồn tại. Giáo sư tiến sĩ Trịnh Thanh Tùng đã biến mất khỏi cuộc đời. Không phải bây giờ mà là từ hơn mười tám năm về trước. 

- Ba ơi, tắm xong chưa? Cơm canh nguội hết cả rồi. 

Tiếng Nguyệt Cầm vọng lên ngoài cửa, ông giật mình thoát cơn suy tưởng, khoác bộ pijama xanh biển vào người, ông bước ra vui vẻ. 

- Ừ, ba xong rồi đây, con cưng ạ. 

- Mời ba dùng cơm. - Nguyệt Cầm kéo nhẹ chiếc ghế ra khỏi bàn. Hôm nay có món thịt bò bít-tết với khoai tây chiên, món ba thích ăn nhất đó. 

- Ồ, vậy sao? - Mắt ông sáng bừng lên thích thú. - Thật ngon quá! À... mà khoan đã, vừa ngồi xuống bưng chén cơm lên, ông như chợt nhớ vội đặt xuống bàn rồi đứng bật nhanh trở dậy. 

- Ba sao thế - Nguyệt Cầm nghiêng đầu lạ lẫm. - Có chuyện gì cứ bảo con làm. 

- Không được... Chuyện này ba phải tự tay làm mới cảm thấy an tâm. Vừa nói, ông vừa bước đến bên các cửa sổ cài then thật chặt. 

Nguyệt Cầm mỉm cười: 

- Chỉ có đóng cửa thôi mà ba làm con sợ hết hồn. 

- Nhưng... tại sao hôm nay ba lại đóng cửa sớm như vậy hả? 

- Ờ...có gì đâu. - Không muốn đầu óc ngây thơ của con phải sợ hãi chuyện ngoài đời đang xảy ra,ông lắc đầu khoả lấp. - Chẳng qua là ba nhớ lúc nào làm việc lúc đó thôi. Nào...con gái cưng, mau đến xới cho ba một chén cơm. 

- Con biết rồi... - Nguyệt Cầm bước trở về bàn, vừa xới cơm vừa ranh mãnh nói. - Có phải ba sợ con ma đêm nay sẽ vào nhà của mình không? 

- Hả? Ngụm cơm như nghẹn lại nửa chừng, ông nhìn con lo lắng. - Con nghe đâu mấy chuyện nhảm nhí như vậy hả? 

- Chẳng phải nhảm nhí đâu. Nguyệt Cầm ôm cổ cha cười nhí nhảnh. Là sự thật đó, chính chị Lan đã kể cho con nghe đó. 

- Chị Lan nào? - Đôi mày chợt nhíu, ông giận dữ. - Con dám cãi lời ba giao du với dân làng phải không? 

- Con không dám cãi lời ba... nhưng... Hai bàn tay xoắn vào nhau, mắt Nguyệt Cầm hoe đỏ. - Suốt ngày bị nhốt trong nhà, con buồn quá. Mà chị Lan có phải là ai xa lạ..., chị ở cạnh nhà mình đây nè. Chị vui tính lắm, kể cho con nghe đủ thứ chuyện. Nhất là chuyện con ma hút máu... Ba à!... có phải đêm nay trăng tròn ma lại xuất hiện không? 

Biết chẳng thể giấu con, ông đành nhẹ gật đầu: 

- Phải... nhưng con đừng sợ, nhà mình chắc chắn thế này, con ma chẳng thể vào được đâu. 

- Con không sợ đâu. Nguyệt Cầm nhẹ lắc đầu. - Con chỉ tò mò, muốn biết hình dạng con ma ấy thế nào thôi. Ba à... nó ra sao hả ba? 

- Nó ra sao thì mặc nó... - Chợt cảm thấy bất an, ông nạt con. - Con muốn biết làm gì, nguy hiểm lắm. 

- Ba à! - Nguyệt Cầm lại thỏ thẻ. - Con nghe chị Lan bảo mọi người đang muốn giết chết con ma đó phải không ba? 

Ông chưa kịp trả lời, cô đã nói luôn: 

- Nghe nó ác, giết nhiều người vậy, sao con muốn phụ một tay để giết con ma ấy quá. 

Mồ hôi chợt rịn ra khắp thái dương, ông buông chén cơm lắp bắp: 

- Thôi... thôi con đừng nói vậy. Mau vào phòng ngủ sớm cho ba nhờ... Từ nay cấm con nhắc đến chuyện con ma nữa đó. 

- Ba... - Nguyệt Cầm tỏ vẻ không đồng ý. - Trời còn sớm mà... con muốn... 

- Không muốn gì cả... - Nắm tay kéo con về phòng ngủ, ông ấn mạnh nó vào trong rồi cài kín cửa. - Ngủ đi... có động tĩnh gì cũng không được mở đâu. 

- Ba... - Nguyệt Cầm dộng tay vào cửa ầm ầm. - Thả con ra... con muốn đi giết con ma...con đã hẹn chị Lan rồi... 

Toàn là những lời nói khủng khiếp, ông chẳng muốn nghe một chút nào. Đứa con gái ngây thơ này, sao hôm nay lại tỏ ra liều lĩnh thế? Chắc cô gái tên Lan nào đó đã nhồi nhét nhiều thứ vào đầu óc nó lắm rồi. Ngày mai... ông phải bịt lối cửa rào, để nó không còn nói chuyện được nữa. 

Nghĩ rồi tạm an tâm, ông bước vào phòng tìm cây đèn pin kiểm tra cửa nẻo. Trời đã tối từ lúc nào và không bao lâu nữa, con ma sẽ xuất hiện trên đường. Mọi người đều vào nhà hết thảy. Thử xem đêm nay nó còn hút máu được ai nữa chứ? 

Bước ngang phòng con gái, lòng ông lại nao nao. Dường như lúc nãy ông kéo con hơi mạnh. Chắc nó... giận ông nhiều lắm. Nhưng... biết làm sao... Dám đòi đi giết ma... Nguyệt Cầm đúng là ngây thơ quá. Nghĩ đến cảnh cái cổ trắng ngần của con bị hàm răng nanh của con ma cắn phập vào, ông sợ quá, hai chân run rẩy đứng không vững nữa. 

- Nguyệt Cầm, Nguyệt Cầm... - Ông nhẹ gõ tay vào cánh cửa, thầm nghĩ để chắc ăn, để tuyệt đối an toàn, ông quyết định đêm nay sẽ ở lại phòng của con. 

- Mở cửa, ba có chuyện muốn nói với con đây... ngoan nào, đừng giận nữa. 

Một phút, hai phút, rồi ba phút trôi qua, mặc cho ông hết lời năn nỉ, bên trong cánh cửa vẫn im lìm. 

Nguyệt Cầm đã ngủ rồi ư? Không đâu... mồ hôi bắt đầu rịn ra khắp thân thể ông. Nguyệt Cầm không ngủ nhanh thế, càng không giận ông dài như vậy. Nhất định đã có chuyện gì rồi. 

Quýnh quáng, ông chạy đi tìm cây búa, cố hết sức bình sinh với tấm lòng cực mạnh của người cha lo lắng cho con, chưa tới năm phút, ông đã đập tan ổ khoá. 

- Nguyệt Cầm. - Cây búa rơi đúng chân ông làm giập một ngón nhưng không đủ khiến ông đau điếng. Mà hai mắt ông mở tròn, chết dại đi khi nhìn phòng con trống rỗng. Cánh cửa sổ mở toang hoang. Trời ơi... sao ông không nghĩ đến điều này nhỉ? Nguyệt Cầm đã dám trốn ông leo cửa sổ ra ngoài.

° ° °

Thường khi lên dốc, trèo đèo, đi chơi hàng trăm cây số không sao cả. Vậy mà, đùng một cái, vào thời điểm quan trọng nhất lại bộc phát ra hàng tỉ bệnh. Hết bể bánh đến hư suppap. Hỏi có điên được không trời? 

Co chân đá mạnh vào chiếc môtô 250 phân khối của mình, Kỳ Phương lầm bầm mắng. Suốt chặng đường dài từ Sài Gòn xuống đây, không quá hai trăm kilômét, chiếc xe khốn kiếp này đã hại anh bầm giập điêu đứng non bốn lần rồi. Tức nhất vẫn là chuyện hết xăng đúng vào lúc đoạn đường rừng vắng vẻ, cheo leo không ai bán xăng. Báo hại anh đẩy bộ hàng mấy cây số liền. Mệt bở hơi tai, chân lại phồng dộp cả lên đau chết người. 

Vậy là cuối cùng mình cũng đến được rồi. Kỳ Phương đưa tay lau mồ hôi trán thở phào mừng rỡ. May mà...trước khi đi, anh có đem theo vỏ ruột xơ cua, không thì... lỡ mất cơ hội được chứng kiến cảnh con ma hút máu người rồi. 

Chà! Không biết hôm nay nó xuất hiện hướng nào để còn phục kích chứng kiến cho tường tận. Chụp được một pô hình càng hay. Nếu đúng là ma thật, anh sẽ là người có được tấm ảnh độc nhất vô nhị. Ban biên tập sẽ tròn mắt ra nhìn anh thán phục. Tiếng tăm của anh càng nổi như cồn. 

Vui vì lời khen ngợi sắp có, Kỳ Phương cúi xuống xem lại chiếc máy ảnh treo lủng lẳng bên hông. Tuy nó cũ lắm rồi, nhưng Kỳ Phương không bao giờ có ý định thay nó. Vào hiểm ra nguy, bao phen anh và chiếc máy ảnh cận kề gắn bó. Lắm lúc tưởng nguy tính mạng, anh vẫn không định lìa xa người bạn thân nhất đời này, với độ chính xác cao, nó từng cho anh nhiều pô không thể nào ngờ được. 

- Lần này cũng thế nhé máy ảnh thân yêu! - Kỳ Phương nhẹ vỗ vào chiếc máy ảnh thầm thì. Rồi đẩy chiếc xe đi dọc trên con đường nhỏ, ánh trăng trên đầu lung linh sáng tỏ, soi rõ bóng Kỳ Phương chập chờn trên bóng lá. Đêm dần trở về khuya. Cả ngôi làng im lìm trong giấc ngủ. 

Á!!! 

Một tiếng hét thất thanh chợt vang dài trong đêm vắng. Kỳ Phương giật mình nghiêng đầu định hướng. Nó dường như được phát ra từ một lùm cây gần đó. 

- Con ma! Ý nghĩ vụt loé lên trong đầu. Không kịp suy nghĩ, anh phóng như bay đến nơi vừa vang lên tiếng thét. Chiếc mô tô ngã nhào xuống ruộng tạo nên một tiếng động kinh hồn. Những ngôi nhà cửa vẫn im lìm đóng kín chẳng ai dám phản ứng. 

- Ôi! 

Nếu không tận mắt nhìn, Kỳ Phương chẳng tin đâu. Rõ ràng trên thảm cỏ, một người, một ma đang quay tròn lăn lộn. Người bị hại là một người trung niên, tuổỉ đã cao, nhưng xem ra vẫn còn khoẻ lắm. Nên... giằng co nãy giờ khá lâu rồi mà con ma vẫn chưa thể cắm phập chiếc răng nanh của mình vào. 

- Lẽ ra... phải lo việc cứu người trước, nhưng phản xạ của một phóng viên đã khiến Kỳ Phương làm điều ngược lại. Không vội bước ra chỗ nấp, anh tìm một góc tốt, đưa máy ảnh ra chộp lẹ. 

Ánh đèn flash loé sáng rực đã thu hút sự chú ý của con ma. Nó buông thõng tay, quay đầu tìm kiếm. Thừa cơ hội, người bị nạn vùng thoát ra, bỏ chạy. Con ma không đuổi theo, nó dường như phát hiện ra sự ốm yếu của Kỳ Phương, tấn công anh dễ dàng hơn. 

Con ma lừng lững tiến lên từng bước một, ánh trăng sáng tỏ đủ cho Kỳ Phương nhìn thấy mặt nó rõ ràng hơn. Không giống mặt người, cũng không giống như lời của Vân Phi. Con ma có gương mặt của một con vật quen thuộc. Nhưng con gì... trong lúc nhất thời quýnh quáng Kỳ Phương không kịp nhớ. 

Con ma tiến đến gần Kỳ Phương lắm rồi, Kỳ Phương đảo mắt nhìn quanh suy tính. Không thể đấu vật tay đôi được. Kỳ Phương tự biết sức mình. Người 

trung niên to con vạm vỡ lúc nãy đấu với nó còn chật vật, huống chi anh... Từ nhỏ đã không quen làm nặng, phải chạy thôi... Nghĩ đến đó, như bừng tỉnh, Kỳ Phương co chân chạy nhanh về phía chiếc môtô. Hy vọng con ma sẽ không đuổi kịp tốc độ của chiếc xe... chuyên dùng để đua này. 

Ôi trời! Nhìn chiếc môtô té ngã nhào nằm chỏng gọng dưới thửa ruộng đầy nước, Kỳ Phương than thầm trong bụng. Phóng ngược trở lên đường, anh chạy vòng quanh một lùm tre. Con ma chỉ biết chạy thẳng thôi. Kỳ Phương nhớ có lần một người đã nói với mình như vậy. 

Nhưng... Kỳ Phương đã tính lầm. Không chỉ việc chạy vòng tròn, mà cả việc dùng môtô để thoát khỏi sự săn đuổi của con ma cũng là khó. Bởi nó không chỉ dễ dàng chạy vòng tròn mà còn chạy với tốc độ lớn hơn tốc độ của chiếc môtô nhiều lần nữa. 

Sau khi chơi trò rượt đuổi với Kỳ Phương một lúc lâu. Con ma như thấm mệt, dừng chân không đuổi nữa. Kỳ Phương cũng dừng chân hồng hộc thở. Mồ hôi chảy đầm đìa khắp thái dương. Lần đầu tiên trong cuộc đời, anh biết thế nào là sợ hãi. 

Đứng yên một phút, con ma bất thần bay vọt lên cao và sà xuống người Kỳ Phương nhanh như tên bắn. Hai bàn tay đầy móng nhọn và lông lá của nó thít lấy Kỳ Phương siết chặt. 

- Trời ơi!... - Kỳ Phương té ngửa ra sau chới với, không hiểu sao tay anh lại quơ trúng nhằm chiếc máy ảnh bên hông, đưa chiếc máy ảnh lên ngang mặt con ma, không cần ngắm, chụp ngay một pô hình. Mong để lại cho đời một cái gì đó trước khi chết. 

Nhưng... thật bất ngờ... ánh đèn đã làm con ma sợ hãi. Hàm răng nhọn chưa kịp cắm xuống cổ Kỳ Phương đã rút về. Thừa thắng, Kỳ Phương giơ chiếc máy ảnh lên nhá đèn liên tục. Quả nhiên, con ma sợ hết hồn. Thụt lùi và sau mấy bước, nó phóng mình lên cây cao mất dạng. Cùng lúc, người trung niên kia quay trở lại cùng bốn thanh niên lực lưỡng. Thì ra... nãy giờ ông đi tìm người cứu viện. Thấy Kỳ Phương còn đứng ngẩn người ra nhìn bóng con ma, ông chạy đến bên anh mừng rỡ. 

- Cậu thanh niên trẻ cậu có sao không? 

- Dạ... không sao. Buông cho chiếc máy ảnh rơi lủng lẳng bên hông, Kỳ Phương quay đầu lại nhìn mọi người vui vẻ. Con ma đã bị ánh đèn flash của tôi xua đi rồi. 

- May mắn. Thật là may mắn quá! Đưa tay ôm ngực, ông và mọi người cùng thở phào ra. Rồi nắm lấy tay Kỳ Phương ông nói với vẻ biết ơn. - Cậu thanh 

niên, vô tình cậu đã cứu tôi thoát đấy. Nếu lúc nãy không có cậu... có lẽ ta đã bị con ma hút máu rồi. 

- Bác sĩ... ông đi đâu giữa đêm khuya như vậy? - Một thanh niên tò mò hỏi. Ông đã bảo chúng tôi vào nhà đóng cửa rồi mà. 

- Tôi đi tìm con gái tôi. - Nói rồi như chợt nhớ, ông ngước đầu lên sợ hãi. Trời ơi, Nguyệt Cầm, con gái của tôi, không khéo bây giờ nó đã bị con ma hút máu rồi... 

- Mau... phụ tôi đi tìm nó. 

- Vâng. - Thái độ quýnh quáng của ông đã làm mọi người hốt hoảng theo. Quên mất sự sợ hãi của mình với con ma, bốn thanh niên hăng hái chia nhau mỗi người một hướng. Đứng nhìn theo họ một lúc lâu, Kỳ Phương quay sang ông: 

- Bác sĩ, tôi sẽ đi cùng ông. 

- Cám ơn cậu. - Cúi nhặt một cành cây to, ông Tùng lật đật bước đi trước dẫn đường. Kỳ Phương lẳng lặng theo sau. Linh tính một phóng viên lành nghề như báo cho anh biết mình đã điều tra đúng hướng.

° ° °

-Tôi phải vào bệnh viện đây, cậu cứ tự nhiên như ở nhà vậy... - Đẩy đĩa điểm tâm sang bên, bác sĩ Tùng thân mật bảo Kỳ Phương. - Chiều về, chúng ta sẽ cùng bàn luận vấn đề này. Chà! Lâu lắm tôi mới gặp được một người thông thái như cậu đấy. Nguyệt Cầm, ra đóng cửa cho ba, ở nhà nhớ tiếp đãi anh chu đáo. 

- Dạ... - Một tiếng dạ nhỏ, thanh thanh rồi Nguyệt Cầm bước ra sau bức rèm hồng. 

Thì ra... có người nãy giờ đã trộm nhìn mình và ông Tùng ăn sáng. Đưa tay lên che miệng. Kỳ Phương bỗng lo lo, thèn thẹn. Mình đã quá háu ăn trước mặt Nguyệt Cầm. 

Từng quen nhìn các cô gái mạnh dạn, tự tin ở thành phố, Kỳ Phương rất ngạc nhiên và thích thú trước vẻ rụt rè, nhút nhát của Nguyệt Cầm. Cô đúng là khuôn 

mẫu của lá ngọc cành vàng, một người con gái kín cổng cao tường, ngây thơ, toàn bích như một viên ngọc không tì vết. 

Chưa bao giờ Kỳ Phương được nhìn thấy một vẻ đẹp tinh khiết như vậy. Làn da trắng ngần, khuôn mặt trái xoan thanh tú. Đôi mắt liễu, chiếc mũi cao và đôi môi mộng đỏ, Nguyệt Cầm đẹp như tranh vẽ các nàng công chúa Trung Hoa thời cổ. Cô đẹp như Tây Thi vậy, Kỳ Phương thầm so sánh dù chưa từng gặp Tây Thi bao giờ cả. 

Chẳng phải phường háo sắc, nhưng không hiểu sao từ sáng đến giờ Kỳ Phương cứ nhìn mãi vào Nguyệt Cầm. Cô đúng là có một nét đẹp thu hút quá, khiến người ta khó có thể cầm lòng. Ồ không, đừng nghĩ bậy. Cái không thể cầm lòng ở đây là cầm lòng sáng tác. Cô đúng là một nguồn cảm hứng mênh mông cho các thi nhân nghệ khách. Kỳ Phương chỉ muốn chụp ngay nàng một pô hình... Nhưng không dám. 

- Mời anh dùng nước. 

Đặt ly trà nóng xuống bàn, trước mặt Kỳ Phương, Nguyệt Cầm vội nhanh chân lui bước. Mái tóc dài óng mượt trên lưng càng khiến Kỳ Phương bồi hồi nhớ chuyện đêm qua. Anh và ông Tùng đã tìm được cô trong tình huống buồn cười đến thế nào. 

Giữa lúc mọi người cuống cuồng lo lắng chia nhau đi tìm từng bụi cây, bụi rậm thì Nguyệt Cầm cùng cô bạn gái ôm nhau ngủ ngon lành trong một cái chòi canh lúa giữa đồng. 

Nghe tiếng chân người rộn rịp, cả hai mới giật mình mở choàng mắt dậy. Cây gậy trên tay đập tứ tung. Đập cả vào đầu anh giờ hãy còn người một cục đây này. 

Thì ra... cả hai đi rình bắt con ma rồi ngủ quên đi. May mà... con ma chưa tìm tới. Không thì... nghĩ đến cái cổ cao trắng ngần của cô bị đôi hàm răng nanh của con ma cắm phập vào Kỳ Phương nghe xót lòng không chịu nổi. 

- Thôi, lạy trời, lạy trời... Ai nấy thở phào ra mừng rỡ, ông bác sĩ Tùng vội đưa con gái về nhà, không quên mời luôn Kỳ Phương về tạm nghỉ khi biết anh là khách quá đường lỡ bước. Trên đường về, họ không tìm thấy một nạn nhân nào, ngoại trừ một con chó bị hút hết máu chết tươi. Con ma không tìm được người buộc lòng đã phải hút máu chó. 

Về nhà... dùng mấy chung trà, đàm đạo vài câu, biết Kỳ Phương chính là phóng viên Minh Trí, người từng khám phá ra vụ con ma truyền kiếp và bác sĩ Tùng mừng rỡ như bắt được vàng. Suốt đêm không ngủ, ông cứ mải miết nói chuyện với anh như thể trong đời chưa từng được nói bao giờ. 

Kiến thức của ông thật uyên thâm, hiểu biết cũng hơn người. Qua trò chuyện, Kỳ Phương nhanh chóng nhận ra điều đó cũng như cảm nhận được từ ông những điều thật bất thường. 

Căn biệt thự của ông là điều bất thường thứ nhất. Đứng lên khỏi ghế, Kỳ Phương rảo bước quanh nó. Tuy cũ kỹ, xây cất từ lâu lắm, nhưng Kỳ Phương vẫn nhận ra vẻ kiên cố đáng ngờ. Linh cảm nghề nghiệp như báo cho anh biết, bên trong cái màu xám xịt, u ám, căn biệt thự ẩn chứa nhiều điều bí mật, cũng như bên trong cái vẻ nhân hoà, bác ái của vị bác sĩ kia. 

Giọng nói ông vui về, cử chỉ hoạt bát, bình thường, nhưng thỉnh thoảng Kỳ Phương vãn nhận ra từ mắt ông vẻ tối sầm lại như sợ hãi hay hoang mang một điều gì đó. 

- Thôi, cậu ra một mình đi, tớ không đám đâu... kỳ lắm. 

- Không sao đâu, ra đại đi... có gì đâu mà sợ... anh ta cũng là người như tụi mình mà. 

Tiếng con gái từ xa văng vẳng cắt ngang dòng suy nghĩ của Kỳ Phương. Ngẩng đầu lên, môi anh thoáng nở nụ cười, khi nhìn thấy trước thềm tam cấp của căn biệt thự, hai cô gái đang kéo đẩy nhau. 

Hai cô gái, một là Nguyệt Cầm mà anh đã biết, và... một cô nữa cũng không lạ với anh, đó là Lan, cô gái đã ngủ cùng với Nguyệt Cầm khi cả hai đi rình bắt con ma. 

Nghĩ cũng nực cười, hai cô gái này đúng là gan trời có một không hai. Giữa lúc bao nhiêu thanh niên trai làng rúc trong nhà trốn ma thì cả hai lại dám ra giữa chòi ruộng hoang rình đập con ma... Lòng dũng cảm ấy đến Kỳ Phương còn phải chịu thua luôn. Nhất là Nguyệt Cầm, với một người con trai trẻ đẹp như anh không dám gặp, lại dám gặp con ma. Đúng là kỳ lạ thật. 

Đang giằng qua, kéo lại, chợt bắt gặp tia nhìn từ Kỳ Phương, Nguyệt Cầm xấu hổ quá vội vàng giấu gương mặt đỏ bừng vào đôi bàn tay búp măng thon đẹp... 

- Anh ta nghe hết rồi kìa. Tất cả cũng tại cậu thôi. - Nguyệt Cầm thốt lên. 

- Nghe thì nghe, có sao đâu. - Trái với vẻ xấu hổ của Nguyệt Cầm, Thu Lan thản nhiên đưa mắt ngó Kỳ Phương. Rồi còn đưa tay lên vẫy. - Anh nhà báo ơi... làm gì đi lang thang một mình buồn vậy. Lại đây nói chuyện đi. 

Mỉm cười, Kỳ Phương chậm rãi bước về phía hai cô gái. Tay vung vẫy cành dạ lý anh nheo đôi mắt ngắm hài cô gái tương phản nhau trước mặt mình. 

Thật thú vị, thật khéo sắp đặt làm sao, Nguyệt Cầm, Thu Lan đúng là một sự tương phản hoàn toàn đồng diện. Nếu như Nguyệt Cầm là hiện thân của vẻ đẹp mỹ miều, toàn bích của một tiểu thơ khuê các thì Thu Lan là đại diện cho sức sống trẻ trung của một cô gái nông dân lao động cần cù. Gương mặt tròn, đôi mắt sáng dưới cặp chân mày rậm. Chiếc mũi gãy hỉnh lên, đôi môi dày không có vẻ gì đặc sắc ấy lại được tạo hoá sắp xếp một cách hài hoà khiến cô trở nên thu hút và có duyên một cách lạ lùng. Làn da màu đồng, thân hình tay chân thô kệch do phải lao động nhiều trên đồng ruộng, khiến cô trông xấu hơn Nguyệt Cầm đôi chút, nhưng bù lại cô có một sức khoẻ dồi dào, nụ cười cùng phong thái tự tin đầy sức sống rất dễ thu hút người đối diện. 

- Anh nhà báo, anh mau giải thích đi. Nguyệt Cầm nó cứ cãi. Có phải chuyện "Chuyến tàu đêm" này do anh viết ra không? - Chìa một tờ báo trước mặt Kỳ Phương, Thu Lan hỏi với vẻ nắm chắc trong tay phần thắng. 

- À, phải rồi! - Đưa tay cầm tờ báo, Kỳ Phương nhận ra tờ thời báo Tin sáng của mình. - Là do tôi sáng tác đó. Hai cô thấy thế nào? Có được không? 

- Hay lắm. - Thu Lan khen ngay trong khi Nguyệt Cầm mở to đôi mắt nhìn anh đầy ngưỡng mộ. 

- Anh nhà báo biết không? - Kéo tay Nguyệt Cầm ngồi phệt luôn xuống cỏ, Thu Lan vui vẻ. - Hôm đó em đi mua thuốc bắc cho ba trên chợ, ông thầy gói bằng tờ báo này đó. 

- Vậy sao? - Kỳ Phương cảm thấy bất ngờ. Anh cứ ngỡ, họ vì mến mộ mà cất giữ tờ báo. Thì ra... là quê một cục! Cứ tưởng lúc nào người ta cũng mến mộ mình. 

- Dạ... - Như không để ý đến vẻ mặt thèn thẹn của Kỳ Phương, Thu Lan kể tiếp. - Thường khi, em không thích đọc báo đâu. Bỏ thuốc vào niêu xong là cho luôn mảnh giấy vào nhóm lửa. Nhưng hôm đó... buồn buổn, em cầm đọc thử. Thấy chuyện "Chuyến tàu đêm" hay quá em đem qua cho Nguyệt Cầm đọc. Sao câu chuyện trùng hợp với chuyện ma ở đây thế! Anh nhà báo à?Câu chuyện thế nào? Kể cho tụi em nghe đi... đọc mất đầu mất đuôi thế này... chẳng hiểu gì hết... 

- Đừng gọi tôi là anh nhà báo. - Kỳ Phương mỉm cười ngồi xuống cạnh hai cô gái. Hãy gọi tôi là anh Phương cho thân mật.

- Anh Phương. - Thu Lan gọi ngay không khách sáo. 

Nguyệt Cầm bẽn lẽng giấu tia nhìn vào sau mái tóc buông xoà. Đẹp như tranh tố nữ. - Anh kể đi, câu chuyện ra sao hả? Con ma cuối cùng có bị giết không? 

- Được rồi. - Kỳ Phương gật đầu hào hứng. Đừng nôn nóng... từ từ tôi sẽ kể. 

- Vâng! - Thu Lan thu gọn người lại ngay. Ngoan như một con thỏ, cả hai ôm lấy đôi má tròn bầu bĩnh, cô nghe như nuốt lấy từng lời. Đôi mắt của Nguyệt Cầm chơm chớp, không nói ra nhưng Kỳ Phương biết cô quan tâm đến câu chuyện của anh. Và... bỗng nhiên, điều đó làm anh miệt mài kể hay hơn... 

- Vậy đó... - Đúng vào lúc câu chuyện trở nên ly kỳ, hấp dẫn nhất, Kỳ Phương lại không thể nào kể tiếp. Nhìn hai đôi mắt mở to háo hức, anh muốn hư cấu kể luôn phần kết. Nhưng... không được. Cả phần kết cuộc này thật ra là khó quá. Giết con ma bằng cách nào đây? Anh tìm mãi không ra tình tiết hợp lý để dẫn dắt câu chuyện. 

- Anh chưa nghĩ được ư? - Thu Lan thở dài tiu nghỉu. Đôi mắt Nguyệt Cầm cụp nhanh đầy thất vọng. 

Kỳ Phương chuyển đề tài: 

- À... hay là ta chụp hình đi, cảnh ở đây đẹp quá. 

- Chụp hình ư? Ô tuyệt quá. Thu Lan nhảy cẫng lên mừng rỡ, nắm tay Nguyệt Cầm kéo đến bên một góc cau kíểng, cô hí hửng như một đứa trẻ. - Kỳ Phương chụp cho tụi em một pô đi. 

- Được rồi. Kỳ Phương đưa ống kính lên. Nào, cười... ánh đèn loé lên rồi mà Kỳ Phương vẫn còn đứng yên trong bàng hoàng bất động. Nụ cười của Nguyệt Cầm... Sao mà đẹp, sao mà nên thơ quá! Nó làm cho nửa hồn anh xao động rụng rời. Ước gì cả đời này được nhìn nụ cười hồn nhiên ấy. 

Anh Phương ơi, xong chưa? Sao mà lâu quá vậy? 

Tiếng Thu Lan nheo nhéo. 

Kỳ Phương giật mình, lơ lửng: 

- Ờ xong rồi... 

Vậy mình đến khóm hoa này chụp nữa đi. Thu Lan lại hồn nhiên nắm tay Nguyệt Cầm chạy đi. Kỳ Phương bước theo như chiếc máy, tâm trí nhớ mãi nụ cười của Nguyệt Cầm.Anh Phương ơi, có ai gởi bưu phẩm cho anh nè! 

Từ ngoài cửa, Nguyệt Cầm hí hửng chạy vào, tay cầm theo một gói giấy vuông vuông. 

- Lại của tay Văn ấy. - Đặt nhanh cây bút xuống mặt bản thảo còn trắng tinh, Kỳ Phương vui vẻ trả lời. 

- Sao anh biết? - Nhìn theo tay Kỳ Phương thoăn thoắt mở bao bì, Nguyệt Cầm tò mò. - Anh vẫn chưa mở ra mà. 

- Sao không biết. - Kỳ Phương vẫn đều tay xé giấy. - Anh bây giờ ngoài ban biên tập gởi giấy đòi bản thảo ra, chẳng còn ai gửi thư đâu, thấy chưa. - Lớp giấy gói bên ngoài đã xé hết, Kỳ Phương chìa cho Nguyệt Cầm xem cái bì thư có in địa chỉ toà soạn trên góc trái. - Anh nói có sai đâu nào. Và... không cần đọc anh cũng biết tay Văn ấy viết gì nữa. Ngoài mấy câu cằn nhằn, thúc hối bài viết gã chẳng biết viết cái gì hay hơn đâu. Có mấy lời hỏi thăm sức khoẻ cũng không biết nữa. 

- Sao cái anh Văn gì đó... Nguyệt Cầm nghiêng nghiêng đầu, thắc mắc. - Ghét anh dữ vậy? 

- Ghét ư? Kỳ Phương ngẩng nhanh đầu dậy rồi như chợt nhớ ra bật lên cười lớn. Sao anh lại không nhớ là Nguyệt Cầm ngây thơ lắm. Cô không hiểu hết ý tứ trong câu nói của anh, càng không hiểu tính chất của công việc anh đang làm. Phải tốn công dài dòng lắm anh mới giải thích cho cô biết được rằng Khải Văn không ghét anh, mà ngược lại... cả hai vốn là bạn rất thân với nhau. Ngoài đời, cả hai rất hiểu nhau, thân mật với nhau. Chỉ có trong công việc là luôn gây cãi với nhau thôi. Khải Văn không muốn thua lỗ với anh làm gì. Chẳng qua tính chất công việc đã đòi hỏi anh làm thế thôi. 

- Em hiểu rồi... - Nguyệt Cảm nhẹ gật đầu sau khi Kỳ Phương dông dài giải thích. Thế sao... anh không chịu viết bài báo, để người ta phải nhắc như vậy chứ? 

- Ừ thì... - Kỳ Phương đưa tay gãí tóc. Câu hỏi của Nguyệt Cầm đúng là khó trả lời. Có phải anh lười biếng chẳng muốn viết đâu. Chỉ tại... tay muốn viết mà đầu óc thì hoàn toàn trống rỗng. 

- Thì sao hả anh? - Chẳng hiểu được tâm sự của Kỳ Phương, Nguyệt Cầm ngây thơ hỏi. Có phải tại vì em và Thu Lan hay đến nói chuyện quấy rầy nên anh không viết được? 

- Không phải. - Kỳ Phương vội xua tay. - Anh không viết được là tại mình chưa tập trung đủ tài liệu cần thiết thôi. Mấy ngày nay đi khắp làng, dò hỏi lung tung anh cũng chẳng thu thập được gì hơn. Hệt lời Vân Phi đã kể hôm nào. Mà anh thì... không có thói quen viết phóng sự khi chưa điều tra xong manh mối. 

Những danh từ nghe ra cao siêu đối với Nguyệt Cầm, khiến mặt cô cứ nghệch ra ngơ ngác. Giây lâu như chợt nhớ, cô hỏi tiếp: 

- Thế sao anh không viết tiếp chuyện "Chuyến tàu đêm"? Cuối cùng con ma có chết không? 

- Có chứ! Kỳ Phương gật đầu, Anh có viết tiếp chứ. Nhưng... em xem... kết quả chỉ là thế này thôi. 

Vừa nói anh vừa cầm mấy tờ bản thảo trắng lên chìa ra trước mặt Nguyệt Cầm. - Anh không tìm được tình tiết đặt cho cốt truyện. 

- Vâng... tại những danh từ cao siêu khó hiểu khiến Nguyệt Cầm không biết cách tham gia. Cúi nhìn xuống xấp bưu phẩm trên tay Kỳ Phương, cô chợt kêu lên mừng rỡ: 

- Ồ báo... anh Khải Văn gởi cho anh nhiều báo quá. Anh xem xong nhớ cho em và Thu Lan mượn nhé! 

Chăm chú đọc thư của Khải Văn gửi cho, Kỳ Phương không quan tâm đến chồng báo được gói gọn trong bưu phẩm, bây giờ nghe Nguyệt Cầm kêu lớn anh mới ngạc nhiên nhìn xuống. Là báo ư? Sao Khải Văn lại gởi báo cho anh nhiều thế? Lại toàn là nhật báo "Mặt trời". Anh ta quên đấy là đối thủ cạnh tranh với nhật báo "Tia Chớp" của bọn anh rồi chăng? 

Kỳ Phương không phải thắc mắc lâu. Nhìn vào hàng tít in đậm trên trang một, anh lập tức hiểu ra sự việc: "Ma hút máu người, chuyện không thể tin vào thế kỷ hai mươi". Tay phóng viên Trọng Hải này cũng khéo đặt tựa cho phóng sự của mình. 

Lướt mắt đọc nhanh phóng sự điều tra của phóng viên Trọng Hải, Kỳ Phương thầm trách mình đã quá chủ quan. Tại sao anh không nghĩ... Vân Phi kể được câu chuyện này với mình thì cũng còn nhiều người kể được câu chuyện này ra ngoài chứ? Khải Văn sôi gan lên cũng phải. Với bài phóng sự đầu tiên này, Trọng Khải và nhật báo "Mặt trời" đã lấy mất của anh và báo "Tia chớp" nhiều độc giả trung thành. Dù lượng thông tin trong bài phóng sự không nhiều. 

Nhưng chỉ cần mỗi tình tiết con ma hút máu người cũng đủ làm giật gân thiên hạ. Anh quả thật đã sai lầm khi chờ điều tra xong mọi chuyện mới bắt đầu thiên phóng sự. 

- Kỳ Phương, anh làm gì mà cứ ngẩn người ra vậy? 

Thấy anh cứ thừ người trên ghế, Nguyệt Cầm rụt rè lên tiếng nhắt. - Nghĩ không ra cốt truyện hay là... anh cùng em ra sân nói chuyện đi. Nhỏ Lan nó chờ mình nãy giờ ngoài đó rồi. 

- À... ờ - Giật mình ngẩng đầu lên, Kỳ Phương nhẹ mỉm cười. - Anh không ra cùng em được. Anh cần phải viết gấp một bài gởi cho Khải Văn đây. Em ra ngoài chơi với Thu Lan đi. Bao giờ xong chuyện anh ra ngay. 

- Vâng! - Nguyệt Cầm tiu nghỉu quay lưng bước đi chầm chậm, cô không hiểu sao dạo này mình thích nói chuyện với Kỳ Phương quá. 

- Ủa, đâu mất tiêu rồi? - Nguyệt Cầm bước chân vừa đặt vô ngạch cửa, bất chợy nghe Kỳ Phương la lớn thất thanh, cô vội quay đầu lại. 

- Chuyện gì vậy anh? 

- Mấy tấm hình! - Kỳ Phương lật ngược chiế túi phóng viên xuống bàn. Bao nhiêu vật dụng cá nhân cùng những đồ vật linh tinh xổ ra tung toé. 

- Có hình rồi sao? - Nguyệt Cầm sà lại ngay, mừng rỡ. - Em có đẹp không? Cho em xem với. 

- À... ờ. Để kiếm được rồi anh sẽ cho em xem. 

Kỳ Phương lục tung đám lộn xộn lên. Hình mà anh tìm như thể nó là cây kim vậy. Đẹp lắm... nhưng đâu mất tiêu rồi. Cả mấy tấm hình anh chụp con ma nữa. 

- Hình con ma...? - Đôi mắt Nguyệt Cầm tròn xoe chớp chớp. - Anh chụp cả hình ma nữa à? Chắc là kinh khiếp lắm. 

- Ừ... - Mồ hôi bắt đầu rịn ra khắp chân tóc, Kỳ Phương chui xuống luôn gầm bàn tìm kiếm. Mấy tấm hình này nếu mất... anh cũng kể như tiêu luôn bài phóng sự. Mà... lạ thật... làm sao mất được. Rõ ràng sau khi rửa xong anh cất kỹ vào chiếc túi này mà... 

- Vẫn không có hả anh? - Thò đầu vào gầm bàn, Nguyệt Cầm nhìn anh lo lắng. 

Kỳ Phương ngồi phịch xuống: 

- Không có! 

- Sao kỳ vậy ta?... Nghiêng nghiêng đầu, Nguyệt Cầm không hiểu hết tầm quan trọng của mấy bức hình. Cô chỉ nôn được xem ảnh của mình thôi. - Anh thử kiếm lại đi, xem nó có rơi rớt nơi nào không? 

- Anh đã xem kỹ lắm rồi... - Kỳ Phương lo lắng. - Nó không thể nào mất được, ngoại trừ có người lấy nó đi. 

- Lấy đi ư? - Đôi mày đẹp nhẹ chau, Nguyệt Cầm bỗng reo lên chợt nhớ. - A, phải rồi... đúng rồi... có phải mấy tấm hình anh đựng trong cái bao màu vàng không? 

- Phải! - Tim Kỳ Phương đập dồn, anh hỏi nhanh. - Em có nhìn thấy chúng à? 

- Có có! - Nguyệt Cầm gật đầu nhanh. - Ngày hôm qua, lúc anh đi tắm, ba em vào phòng anh lục lọi, khi trở ra, em thấy ông cầm một cái bao đựng ảnh màu vàng như anh nói. 

- Ba của em ư? - Kỳ Phương cảm thấy bất ngờ. - Tại sao bác sĩ lại làm như vậy? Ông cần mấy tấm ảnh đó để làm gì? 

- Em cũng không biết nữa. - Nguyệt Cầm nhẹ so vai. - Chắc tại ba thấy hình em đẹp quá nên đem về phòng để xem thôi. 

Không đơn giản như Nguyệt Cầm đã nghĩ đâu, Kỳ Phương thầm phán đoán. Nếu chỉ muốn coi, với quan hệ thân mật hiện nay giữa anh và bác sĩ, ông có thể tự nhiên lên tiếng mượn. Đằng này... ông lén lút đi ăn trộm. 

Phải... Kỳ Phương tin là ông đã cố tình trộm nó. Những bức ảnh quí của mình. Nếu Nguyệt Cầm không vô tình phát hiện ra, anh đành chịu mất tư liệu mà không tài nào tìm ra nguyên cớ. 

- Em có thể giúp anh sang phòng của ba tìm lại những bức ảnh không? - Quay nhìn Nguyệt Cầm, Kỳ Phương quyết định thật nhanh. 

- Sao lại không chứ? - Nguyệt Cầm gật đầu chẳng chút đắn đo. 

- Vậy... chúng ta đi ngay đi. - Kỳ Phương đưa mắt ngó đồng hồ. - Chỉ còn hai tiếng nữa là bác sĩ sẽ về đến, cần phải gấp rút tranh thủ thời gian. Nếu không muốn bị ông bắt gặp. 

- Anh theo em... - Nguyệt Cầm xăng xái dẫn đường. - Lòng thật vui khi nghĩ mình đã giúp được Kỳ Phương. 

- Phòng làm việc của ba em đây. - Dừng chân trước một căn phòng, cửa làm bằng gỗ mun đen bóng, Nguyệt Cầm vui vẻ nói. - Anh chờ một chút để em tìm chìa khoá. 

- Em tìm nhanh lên nhé! - Kỳ Phương nôn nóng. 

Nguyệt Cầm hớn hở chạy đi. 

Còn lại một mình, Kỳ Phương đưa mắt nhìn kỹ hơn căn phòng trước mặt. Nó không có gì khác biệt ngoài cánh cửa trông thật dày, thật chắc. Mỗi ngày, đàm đạo với Kỳ Phương xong, dù khuya cách mấy ông cũng ghé vào đây ít nhất một tiếng đồng hồ. 

- Kỳ Phương, em có chìa khoá rồi đây. Anh mở cửa đi! 

Nguyệt Cầm đã trở ra, trên tay là một xâu chìa khoá nhỏ. Kỳ Phương cầm lấy tra vội vào cánh cửa, Nguyệt Cầm tròn mắt nhìn, nói như khoe. - Xâu chìa khoá này ba em cất kỹ lắm. Ngoài em ra không ai biết nữa đâu. Ba còn dặn em không được vào phòng làm việc của ba phá lung tung nữa. 

- Vậy thì... để tránh bị rầy, em đừng tiết lộ chuyện này nhé! - Mở tung được cánh cửa Kỳ Phương dặn khẽ Nguyệt Cầm. 

Cô gật đầu, lòng cảm thấy bâng khuâng: 

- Vâng... nhưng như vậy là nói dối. Ba bảo nói dối là không tốt đâu! 

Mình đã làm đầu óc tinh khiết của Nguyệt Cầm nhuốm một chấm đen, Kỳ Phương thoáng hối hận về lời dặn vừa xong. Nhưng... biết làm sao? Anh không thể để bác sĩ Tùng biết mình đã lục lọi phòng làm việc của ông. 

Anh vào đi! - Cánh cửa đã mở, thấy Kỳ Phương còn đứng đó tần ngần, Nguyệt Cầm lên tiếng giục. - Nhanh kẻo ba em về tới đó. 

- À! - Như bừng tỉnh, Kỳ Phương mới bước vào rồi lại sững người ngơ ngác. Phòng làm việc ư? Thật là không tin nổi, Với tất cả trang thiết bị hiện đại tối tân này, cả một giáo sư tiến sĩ trường đại học còn chưa dám mơ rớ tới. 

Thật là một bất ngờ thú vị. Dù không hiểu biết nhiều về y học, Kỳ Phương cũng nhanh chóng nhận ra những trang thiết bị này dùng để trang bị cho một công trình nghiên cứu có tính chất tầm cỡ. 

Bước đến bên giá sách, Kỳ Phương lại một lần nữa ngỡ ngàng trước sự phong phú và giàu có về kiến thức của bác sĩ Thanh Tùng, ông là một người kỹ tính và rất yêu sách. Những quyển sách của ông tất cả đều được đóng bìa cứng, mạ chữ vàng trông rất đẹp, rất có giá trị. 

- Anh biết không. - Nguyệt Cầm bước đến, cầm một quyển sách lên, nói với vẻ tự hào. Ba của em là tác giả của một trong những quyển sách đẹp này đấy. 

- Thật ư, Kỳ Phương cầm lấy quyển sách trên tay Nguyệt Cầm đọc. - Gen cấu trúc di truyền và những phương pháp biến đổi, tác giả... giáo sư tiến sĩ Hữu Bằng. 

- Ba của em là giáo sư tiến sĩ Hữu Bằng ư? Không, anh không tin nổi. 

- Sao lại không tin nổi? - Nguyệt Cầm nghe tự ái. - Anh đừng có coi thường ba em quá, ông đúng là giáo sư tiến sĩ Hữu Bằng. Anh vẫn không tin hả? Được rồi... để em lấy giấy chứng nhận cho anh xem. 

Nói rồi, Nguyệt Cầm xăm xăm bước đến bên bàn làm việc của ác sĩ, Chỉ cần bấm vài con số là chiếc tủ kín chìm trong tường được mở ra. Kỳ Phương nhìn thấy cái bao đựng hình của mình nằm ngay trên xấp tài liệu của ông. 

- Hình của anh đây. 

Nguyệt Cầm cũng trông thấy. Cô cầm lấy trao cho Kỳ Phương rồi tiếp tục lục tìm trong đống hồ sơ. Giây lâu, cô tìm được một mảnh giấy được ép nhựa to bằng nửa quyển tập. Mừng rỡ, Nguyệt Cầm trao nó cho Kỳ Phương: 

- Anh xem đi, có phải chứng nhận của ba em không hả? Ảnh này ba em chụp lúc trẻ... nhưng cũng giống bây giờ lắm phải không? 

Cầm lấy tấm bằng tiến sĩ, Kỳ Phương chợt nghe lạnh cả người. Bác sĩ Thanh Tùng lại là giáo sư tiến sĩ Hữu Bằng. Vị giáo sư danh tiếng lẫy lừng, từng được giới khoa học đánh giá cao. Các tác phẩm của ông tuy chưa từng đọc nhưng qua dư luận, Kỳ Phương biết được rằng, đó là những tác phẩm có giá trị nghiên cứu. Đáng để cho các sinh viên, các nhà khoa học gối đầu nằm. 

Danh tiếng như thế, tên tuổi như thế... vậy mà...ông cam tâm sống ẩn dật ở một làng quê hẻo lánh, dưới bóng dáng một bác sĩ quê mùa đôn hậu... Tại sao vậy nhỉ? Chắc chắn là có ẩn tình. Liệu... cái ẩn tình của ông có liên quan gì đến con ma hút máu người không? Lòng Kỳ Phương đầy nghi hoặc. 

- Kỳ Phương, anh đã tin rồi chưa hả - Giọng Nguyệt Cầm nôn nóng làm Kỳ Phương gật mình ngẩng nhanh đầu dậy. 

- Tin, anh tin rồi. Ba của em đúng là giáo sư tiến sĩ Hữu Bằng. Nhưng tại sao ông không ở thành phố mà lại về đây ở, em có biết không? 

- Em không biết. - Nguyệt Cầm lắc đầu vô tội vạ. 

- Mà... bộ ở đây không tốt sao anh? 

- À... ờ tốt. Rồi bỗng nghe tiếng đồng hồ gõ nhịp thanh thanh, Kỳ Phương giật mình hốt hoảng. - Nguyệt Cầm khoan nói chuyện đã. Mau phụ anh dọn dẹp mọi thứ như cũ lại đi. Bác sĩ sắp về đến rồi đấy. Đây, em cất luôn cả xấp hình ảnh của anh vào tủ. Anh không muốn bác sĩ biết chúng mình đã lục lạo đồ đạc của ông đâu. 

- Thế... những tấm ảnh này với anh không còn quan trọng nữa à? - Cất tất cả vào ngăn tủ kín, Nguyệt Cầm tò mò. 

- À... ờ không cần nữa. Kỳ Phương nói dối cô. Thật ra... trong lúc Nguyệt Cầm không để ý, anh đã nhanh tay lấy được tấm phim trong bao ảnh. Có lẽ... không cần phải rửa đâu. Anh sẽ gởi thẳng tấm phim này về cho Khải Văn. Tự anh ta sẽ biết cách giải quyết. 

- Xong rồi... chúng ta đi thôi. 

Nguyệt Cầm lại lên tiếng nhắc. Kỳ Phương nhẹ gật đầu cùng lúc chuông cửa vang bên ngoài hiên. Bác sĩ Tùng vừa về đến nơi.

° ° °

-Kỳ Phương, anh làm sao hay vậy? Dạy em đi. Nhìn con cào cào được thắt bằng lá dừa trên tay Kỳ Phương, Nguyệt Cầm kêu to thích thú. 

- Được rồi anh dạy cho. Nhặt một cọng lá lên, Kỳ Phương chậm chạp thực hiện từng động tác trước đôi mắt mở tròn kinh ngạc của Nguyệt Cầm. Gương mặt nghệch ra đầy ngưỡng mộ của cô gái ngây thơ trông đẹp lạ lùng, khiến anh chỉ muốn hôn nhanh lên đôi má hồng một cái. 

- Rồi sao nữa hả anh? - Thấy Kỳ Phương dừng tay thắt lá, Nguyệt Cầm nôn nóng giục. 

Giật mình với cảm giác một tên trộm bị bắt quả tang, Kỳ Phương xấu hổ đan nhanh. Có lần những cảm xúc dâng tràn trong suy nghĩ. 

- Nguyệt Cầm ngây thơ quá! Non nớt chuyện đời lại chưa từng biết chuyện tình yêu là gì. Một gã sở khanh muốn lợi dụng cô không khó. Chỉ cần vờ vịt quan tâm ân cần một chút là có thể khiến cô trao hết trái tim mình cho gã đó. Nguyệt Cầm không biết nghi ngờ, càng không thể tin trên đôi môi đầy rẫy những lọc lừa, gian dối. Lúc nào cũng tin vào cái đẹp, cái dốt nhất của con 

người như một thiên thần toàn bích. Thế gian này không còn người con gái thứ hai xinh đẹp và dịu dàng như cô đâu. 

- Anh Phương ơi, để em làm thử anh xem có đúng không nhé! 

Giọng Nguyệt Cầm thánh thót, Kỳ Phương dứt mình khỏi cơn suy tưởng, thích thú ngắm đôi tay trắng ngần của Nguyệt Cầm vụng về bên cọng lá dừa. Bác sĩ Tùng vẫn chưa phát hiện ra việc anh và Nguyệt Cầm lục lọi phòng làm việc của ông. Mỗi ngày đi làm về, gặp anh ông vẫn vui vẻ chuyện trò. Thậm chí còn gợi ý muốn gả Nguyệt Cầm cho anh nữa. 

Chuyện này... chuyện này... mặt Kỳ Phương đỏ bừng ấp úng. Thật không diễm phúc nào bằng được làm chủ đoá hoa quý không nhiễm chút bụi trần kia. Nhưng... không hiểu sao Kỳ Phương cứ ngập ngừng. Thời gian quá ngắn để tình yêu chưa đến kịp hay... anh cảm thấy một gã phóng viên quá lăn lóc, từng trải như mình không xứng với cô? Kỳ Phương cũng không biết nữa... 

Anh chỉ cảm thấy lời đề nghị của ông bác sĩ quá vội vàng, quá bất ngờ thôi. 

- Anh Phương, anh nhìn em nè. Em làm có đúng không? 

Nguyệt Cầm lại cắt ngang dòng suy nghĩ của anh bằng một động tác rất dễ thương. Kỳ Phương cầm lấy con cào cào của cô rồi bật cười lớn: 

- Trời ơi...! Cái này là sâu chứ cào cào châu chấu gì... 

- Ư... hổng biết đâu! - Thẹn thùng vì bị chê, Nguyệt Cầm quay người hờn dỗi. - Tại anh không, ai biểu anh hổng dạy em làm chi. Ghét anh quá, em giận anh luôn... 

- Thôi... thôi đừng giận, để anh đền cho em một con khác, đẹp hơn. - Kỳ Phương dỗ dành. 

Nguyệt Cầm vẫn không quay lại. 

- Không, em hổng thèm, em ra chơi với con Lan đây. 

- Thì... em cứ đi đi... Thôi không năn nỉ nữa. - Kỳ Phương nghĩ ra một cách thuyết phục khác... Anh sẽ không kể chuyện con ma đó nữa đâu. 

Quả nhiên, Nguyệt Cầm trở lại ngay. Trong tất cả các chuyện, cô quan tâm đến chuyện con ma nhiều nhất. Vì sao... Kỳ Phương không hiểu nổi. 

- Anh kể đi... em không đi nữa đâu. Sao hả... anh đã phát hiện được gì? 

Đưa một ngón tay lên, Kỳ Phương bí mật: 

- Hai hôm nữa, con ma sẽ xuất hiện đấy. 

- Em biết rồi. - Nguyệt Cầm tỉnh bơ. - Anh kể tiếp đi. 

- Nó sẽ đi hút máu người ta. Kỳ Phương tiếp tục giọng rùng rợn của mình. - Em có sợ không? 

- Không! - Nguyệt Cầm nhẹ lắc đầu. 

Kỳ Phương lại hỏi: 

- Thế lần này em có dám cùng Thu Lan đi rình đập con ma nữa không? 

Nguyệt Cầm cười bẽn lẽn: 

- Sao không dám? Thế anh có cùng đi với bọn em không? 

Reng... reng... reng... 

Chuông cửa vang lên, cắt ngang câu trả lời của Kỳ Phương. Ngẩng đầu nhìn lên, nhận ra ông Tùng về đến, anh và Nguyệt Cầm đồng đứng lên mừng rỡ: 

- Bác sĩ... 

- Ba... - Như thường lệ, cánh cửa vừa mở, Nguyệt Cầm đã chồm lên ôm cổ ông thật cứng. 

- Được rồi... 

Không vui vẻ đáp lại tình cảm của con, ông quay sang nhìn Kỳ Phương giận dữ: 

- Nói cho tôi biết, cái này có phải là tác phẩm của cậu không? 

Một tờ báo được ném ra sau câu nói. Không cúi xuống nhặt, cũng chẳng cần xem, Kỳ Phương cũng biết ông muốn nói đến đều gì. Rất bình tĩnh, anh gật đầu thừa nhận. 

- Vâng, là tác phẩm của tôi. 

- Cậu đã vào phòng tôi để lấy lại tấm phim có phải không? - Ông lại hét lên giận dữ. 

Nhìn Nguyệt Cầm một cái, Kỳ Phương gật đầu. 

- Vâng... xin lỗi bác sĩ, tôi buộc phải làm thế. 

- Ôi! - Giọng Nguyệt Cầm chợt vang to hốt hoảng. - Người ta đăng hình con ma lên báo nè. Trời ơi... mặt nó giống con dơi quá! 

- Con đã giúp Kỳ Phương vào phòng của ba lấy tấm ảnh phải không? 

Giật mạnh tờ báo trên tay con, ông giận dữ xé tan đi. 

Lần đầu tiên nhìn thấy ba giận dữ thế này, Nguyệt Cầm sợ quá oà lên khóc. Kỳ Phương nhẹ đưa tay đặt lên vai cô: 

- Không liên quan gì đến Nguyệt Cầm. Tự tôi bảo cô ấy làm như thế. Nhưng tại sao bác sĩ lại muốn huỷ tư liệu của tôi. Ông thừa bết, những tấm ảnh kia với tôi vô cùng quý giá. Để được nó, tôi suýt phải đổi cả mạng của mình... 

- Tôi biết... - Như nhận ra sự nóng giận của mình là vô lý ông hạ giọng đi một chút. Nhưng lẽ ra, trước khi công khai nó lên mặt báo cậu cũng nên... báo với tôi một tiếng. Những tấm ảnh này, không thể đăng lên báo một cách tuỳ tiện như vậy được. 

- Tại sao? Ông có thể nói rõ hơn một chút không? 

Kỳ Phương bắt đầu quan tâm hơn. Sự nóng giận của bác sĩ không bắt nguồn từ việc anh và Nguyệt Cầm vào lục tung phòng làm việc của ông. Nó liên quan đến tấm ảnh con ma được Khải Văn phóng to, in trên trang nhất của tờ nhật báo. Trong cái nóng giận bồn chồn, thái độ của ông như pha lẫn chút sợ hãi, hoang mang. 

- Tại sao những tấm ảnh này lại không thể tuỳ tiện đăng lên mặt báo? - Thấy ông cứ lặng im sững người ra, Kỳ Phương lặp lại câu hỏi. Lần này có vẻ gay gắt hơn. 

- Tại sao ông lại lấy trộm tư liệu của tôi đem huỷ? Có phải ông muốn tôi không có mặt trong ngôi nhà này nữa? 

- Ba... Nguyệt Cầm quay nhìn ông sợ hãi. - Ba đâu có muốn như vậy phải không ba? 

- Phải. Tia mắt dịu đi, ông thở ra một hơi dài. Tôi không hề có ý định đuổi cậu đi. Cũng không thể tiết lộ điều gì cùng cậu. Tôi chỉ có thể nói rằng cái làng quê yên tĩnh này sắp sửa bị những tấm hình của cậu làm huyên náo, ầm ĩ lên đấy. Bọn họ... sớm muộn gì cũng sẽ đến đây thôi. 

- Bọn họ...? - Kỳ Phương nghe tò mò trước cách nói úp mở của ông. - Là ai thế? Họ đến đây để làm gì? 

- Tôi không thể nói gì thêm. Xm lỗi, tôi... tôi nhức đầu quá phải vào nghỉ đây. 

Như cảm thấy mình đã nói những điều không nên nói, ông quay lưng bước vội vào nhà như trốn chạy, 

Nguyệt Cầm vội đuổi theo ông. 

- Ba ơi, vào tắm đi, con đã pha sẵn nước cho ba rồi...

° ° °

Đêm nay con ma sẽ xuất hiện! Nguyệt Cầm không hiểu sao mỗi lần nghĩ đến điều này, lòng cô lại khấp khởi y như được ai cho quà vậy. Cô không thấy sợ chút nào. Dù từ chiều tới giờ, ba với Kỳ Phương và mọi người hết sức căng thẳng vào ra, tới lui bàn tính. Họ quyết đêm nay phải bắt cho kỳ được con ma tinh khôn đó. 

Theo lời ba, đêm nay mọi người sẽ vào hết trong nhà. Cửa sổ, cửa cái, cả mái nhà cũng được gia cố cho chắc chắn. Ba đã bảo, Kỳ Phương và mọi người đào một cái hố sâu ở ngay giữa làng. Bên trên lớp vỉ tre mỏng được rắc đầy lá cây là một hình nhân bằng vải to như người thật. Để đánh lừa chíếc mũi thính của con ma, Kỳ Phương cho cột con gà sống vào bên trong người hình nhân nữa. Con ma háu đói nhảy tới chụp con mồi sẽ rơi ngay xuống hố. 

Chà! Ý kiến thật tuyệt vời. Nguyệt Cầm nghe mê quá, cô muốn tung cửa chạy ra tham gia với mọi người, nhưng lại sợ. Ngoài đó đông người quá, lại toàn đàn ông, con trai... cô không dám. 

- Hình nhân xong rồi à? Ồ! Thật đẹp, hệt như người thật. Ai mà làm đẹp thế? 

Tiếng người ta xôn xao ngoài cửa, Nguyệt Cầm lại nghe lòng dạ cồn cào. Cô tò mò quá. Muốn được nhìn thấy hình nhân ngay lập tức. 

- Dạ... con may đó. Bác thấy con cho nó mặc quần áo của con như vậy có được không? 

Giọng Thu Lan, mắt Nguyệt Cầm sáng bừng lên mừng rỡ, vội hé cửa ra, cô vẫy tay khẽ gọt rối rít: 

- Ê, Thu Lan, vào đây... vào đây... 

Nhưng... thật đáng giận, nhỏ Thu Lan quá ham vui. Nó chỉ đưa tay chào trả cô một cái rồi tiếp tục cùng mọi người bàn luận. Cái giọng oang oang, nó làm như mình là nhân vật chính không bằng. Tức quá, Nguyệt Cầm nhăn mặt với nhỏ Lan, không ngờ bị Kỳ Phương nhìn thấy. 

- Ra đây với mọi người nào. Em làm gì cứ trốn kín trong phòng thế? Đừng sợ hãi, đến khuya con ma mới xuất hiện mà. 

- Sợ? - Nguyệt Cầm hơi tự ái. Cô mà sợ con ma sao? Cô chỉ sợ đám đông mọi người thôi. Nhưng... giờ đây chẳng ai thèm nhận ra điều ấy, ức lòng quá, cô bước hẳn ra phòng khách. Bây giờ nhỏ Lan mới chạy đến bên cô tíu tít: 

- Đẹp không. Hình nhân này do tao tự tay may đấy. 

Vẫn còn giận chuyện lúc nãy, Nguyệt Cầm quay người đi không đáp. Kỳ Phương vô tình nói xen vào: 

- Thu Lan quả thật khéo tay. May hình nhân y như thật. 

- Xì! - Tự nhiên nghe ganh với lời khen của Kỳ Phương, Nguyệt Cầm quay người sang hờn dỗi. 

- Em biết lắm mà, anh bây giờ lúc nào cũng Thu Lan. Cho em ra rìa rồi có phải không? 

- Không có... không có đâu... - Nhìn đôi mắt hoe đỏ, biết cô sắp khóc đến nơi, Kỳ Phương nói vội. - Em làm sao ra rìa được. 

- Vậy... - Cô níu lấy tay Kỳ Phương, vòi vĩnh. Đêm nay anh cho em theo anh rình bắt con ma nhé? 

Câu nói vô tình lọt vào tai bác sĩ Tùng đứng gần đó. Ông lập tức quay người lại, nghiêm nét mặt: 

- Tuyệt đối không. Đêm nay con phải ở trong nhà. 

- Không... con không chịu ở trong nhà đâu. Nguyệt Cầm ngúng nguẩy. -Con phải theo ba và anh Kỳ Phương đi bắt con ma. 

- Đừng như thế. - Kỳ Phương dỗ dành. - Nguy hiểm lắm. Để xong chuyện rồi... anh sẽ kể cho em nghe. 

- Anh cho Thu Lan cùng đi với anh à? - Nguyệt Cầm phụng phịu. 

Kỳ Phương bật cười bẹo má cô. 

- Không... cả Thu Lan cũng phải ở kín trong nhà. Đêm nay gần khu vực con ma xuất hiện chỉ có anh và ba em, và các tráng đinh lực lưỡng thôi. 

- Anh không nói gạt em à? - Nguyệt Cầm vẫn chưa hài lòng lắm. Cô nói trong tức tối. - Xong chuyện phải kể cho em nghe, không được giấu chút nào. 

- Ừ... anh hứa! - Kỳ Phương gật đầu. 

Thu Lan ganh tị xen vào: 

- Nguyệt Cầm dạo này nhõng nhẽo anh Kỳ Phương quá. Đâu còn biết đến nhỏ bạn thân này. 

- Hồi nào đâu! Mày đừng nói bậy. - Thẹn quá, Nguyệt Cầm đấm mạnh tay vào vai Thu Lan khoả lấp. - Ai bảo cậu lúc nãy bỏ mặc tớ trước làm gì? 

- Thôi, đừng nói dông dài nữa. Đến giờ rồi,chúng ta đi thôi Kỳ Phương! - Bác sĩ Tùng lên tiếng giục. 

Kỳ Phương bế con hình nhân đứng dậy: 

- Vâng. 0 Rồi quay sang Nguyệt Cầm, anh vui vẻ. - Thôi, anh đi nhé! Cả Thu Lan cũng mau về nhà cài kín cửa lại đi, con ma sắp xuất hiện rồi đó. 

Hiểu ngay cái đá mắt của anh mang ý nghĩa gì, Thu Lan vội đứng lên không quên từ tạ Nguyệt Cầm: 

- Thôi, tớ về nhé. Bao giờ anh Kỳ Phương kể chuyện nhớ kêu tớ sang nghe với. Đừng ích kỷ nghe một mình đó. 

- Hay là... - Nguyệt Cầm nắm tay Thu Lan. - Cậu ở lại với tớ đi! 

- Không được đâu... - Thu Lan vội lắc đầu nguây nguẩy. - Ba tớ đêm nay không được khoẻ, tớ phải về... Thôi, mọi người đã đi hết rồi, chào cậu. 

Nói xong, Thu Lan nhanh chân theo mọi người ra hết bên ngoài, Nguyệt Cầm buồn bã bước ra mở cửa. 

Nhưng... bác sĩ Tùng đã đưa tay ngăn lại. 

- Con hãy vào phòng của mình, ở ngoài này... ba không an tâm lắm. 

Đã bị bắt ở nhà, nên dù bị nhốt trong phòng hay trong nhà cũng vậy thôi. Nguyệt Cầm không buồn cãi, ngoan ngoãn theo cha trở về phòng, rút kinh nghiệm của lần trước. Ông đích thân khoá cửa sổ, bấm chốt ngoài rồi cẩn thận cầm theo xâu chìa khoá. 

- Lên giường ngủ một giấc đi con. 

Trìu mến bảo con một câu, ông bước ra ngoài, cánh cửa lớn đóng sập sau lưng. Con ma sẽ không vào được, ông cảm thấy an tâm khi nhìn vào cánh cửa chắc chắn được cài hai lần khoá.

° ° °

Bác sĩ, sao ông có vẻ bồn chồn, lo lắng vậy? - Thấy ông Tùng cứ nhấp nhỏm không yên trên ghế, Kỳ Phương quay sang trấn an ông. - Không sao đâu, mọi việc đã chuẩn bị chu tất lắm, con ma nhất định sẽ sập bẫy thổi. 

- Ta không lo lắng chuyện con ma. - Đưa mắt nhìn các tráng đinh một lượt, ông thở hắt ra một hơi dài. - Ta chỉ không an tâm cho Nguyệt Cầm thôi. Bỏ nó ở nhà một mình như vậy liệu có ổn không? 

- Ổn mà... - Kỳ Phương nắm lấy tay ông. - Cửa đã được khoá chắc chắn. Con ma không vào được đâu. 

- Nhưng không hiểu sao lòng ta lại cứ bất an. - Bỗng đứng dậy, ông quyết định nhanh. - Ta muốn về xem một chút rồi trở lại ngay. 

- Bây giờ ư? - Kỳ Phương nhìn đồng hồ rồi lắc đầu lo lắng. - Không được đâu. Chỉ còn không đầy ba phút nữa con ma đã xuất hiện rồi. Bác sĩ ra đường lúc này nguy hiểm lắm. 

- Nhưng ở nơi này ta không an lòng được. - Đưa tay nhặt một con dao to bản trong đống vũ khí lên, ông cương quyết. - Ta phải về với Nguyệt Cầm, không sao đâu. 

- Vậy.... tôi về với ông. - Kỳ Phương cũng đứng lên. 

- Nếu cậu cũng theo tôi thì ai chỉ đạo mọi người ở đây? - Ông xua tay. - Lỡ con ma xuất hiện thì sao? Tôi tự biết lo cho mình mà. 

Kỳ Phương vẫn không an tâm, anh kêu một tráng đinh tới gần: 

- Cậu cùng về với bác sĩ. 

- Tôi ư...? - Người tráng đinh khẽ rùng vai, lo ngại. - Con ma sắp ra rồi đó. 

- Đừng ầm ĩ, đừng làm lớn chuyện. - Ông đặt tay xuống vai Kỳ Phương dứt khoát. - Tôi đi đây. 

- Bác sĩ cẩn thận. - Kỳ Phương dặn với theo rồi như chợt nhớ, anh trao cho ông ngọn đèn flash. - Con ma dường như rất sợ ánh sáng loé này. Bác sĩ cầm theo, lỡ gặp nó còn có thể vùng ra mà chạy. 

- Cảm ơn cậu. - Nhận ngọn đèn, ông Tùng gật đầu chào rơi băng nhanh ra cửa hậu, chạy tắt theo con đường đồng, ông trở về nhà gần hơn. 

Nhìn theo bóng ông chập chờn mất dần trong màn đêm, lòng Kỳ Phương bỗng dấy lên một cảm giác lạ lùng. Nửa nghi ngờ, nửa như thông cảm. Vị bác sĩ này thật khó mà đoán được. Nhiều bí ẩn, nhưng cũng hiền lành, đôn hậu lắm. Anh không biết mình đúng hay sai khi nghe theo lời ông như vậy. Hôm đó... sau một lúc đắn đo, anh quyết định gọi điện về toà soạn, bảo Khải Văn ngừng phát hành số báo còn lại, cũng như lập tức thu hồi số báo đã bán ra. 

- Tại sao? - Giọng Khải Văn đầy kinh ngạc. - Cậu có biết tấm ảnh đó đã ảnh hưởng thế nào không? Số lượng báo bán tăng gấp ba lần so với bình thường đó. Thu về... e thiệt hại nặng nề lắm. 

- Không sao đâu. - Kỳ Phương nói đúng theo ý của ông. - Cậu cứ thu hồi về và huỷ bỏ số báo đó đi... bao nhiêu tổn thất, tôi sẽ đền cho toà soạn. 

- Nhưng tại sao? - Khải Văn vẫn hoang mang. 

- Tại... vì bức ảnh đã không đúng sự thật. - Và... tác giả Trọng Hải đã nhờ một người hoá trang để chụp tấm ảnh kia. Giờ nghĩ lại mới thấy mình liều lĩnh quá. Cậu mau đăng đính chính cáo lỗi giùm mình nhé. 

- Trời...! - Khải Văn kêu lên sợ hãi. - Kỳ Phương, cậu làm tớ bất ngờ quá. Tạo tư liệu giả. Xưa nay... đâu phải phong độ của cậu... giám đốc biết chuyện này... cậu sẽ bị cạo một trận ra trò đấy... 

- Một phút nông nỗi thôi. - Kỳ Phương cười mà nghe bầm tím cả ruột gan. Tự nhiên mang một tội danh động trời như vậy. Oan còn hơn thị Kính. - Tạm biệt cậu. Bao giờ có tin tớ sẽ gửi. 

- Nè... nè... thế bao giờ cậu cho tớ phần kết câu chuyện "Chuyến tàu đêm", độc giả hỏi... 

Không chờ nghe hết câu, Kỳ Phương úp nhanh điện thoại. Quay sang nhìn ông Tùng, anh nghiêm giọng: 

- Tôi đã làm đúng yêu cầu của ông, huỷ số báo đó rồi. Bây giờ ông hãy nói đi... ông biết gì về con ma đó? 

- Vào lúc này, tôi chưa thể nói gì cùng cậu cả... - Rồi thấy mắt Kỳ Phương trợn lên, ông vội vàng giải thích. 

- Đừng hiểu lầm, tôi không có ý gạt hay giấu cậu đâu. Chỉ tại tôi chưa biết rõ. Chỉ mơ hồ nghi ngờ. Bao giờ điều tra xong... tôi nhất định sẽ nói cho cậu biết. 

- Nhưng... - Kỳ Phương hạ bớt giọng của mình. - Lý do khiến một giáo sư tên tuổi như ông về sống ẩn dật nơi này thì có thể cho tôi biết chứ? 

Suy nghĩ một lúc,ông chậm rãi gật đầu: 

- Có rất nhiều lý do. Nhưng cậu có thể hiểu, tôi về ẩn dật nơi này để lẩn tránh một kẻ thù. 

- Lẩn tránh kẻ thù ư? Kỳ Phương cảm thấy bị kích thích trước khám phá bất ngờ. - Tại sao họ lại thù ông? 

- Vì ta đã sai lầm trong một giây nông nỗi. - Giọng ông buồn thảm, nét mặt đầy ăn năn hối hận. - Ta đã làm một việc để mỗi lần nghĩ đến lòng lại bất ổn không yên. 

- Thế chuyện đó là chuyện gì? Kỳ Phương được nước hỏi già. 

- Cậu thanh niên trẻ, ta rất mến cậu. - Nắm bàn tay Kỳ Phương, ông nhẹ lắc đầu. - Nhưng... chuyện này ta không thể kể cho ai nghe được. Cậu chỉ nên biết, đây là nỗi khổ tâm lớn nhất của ta. Vì nó, bao nhiêu năm trời ta phải giấu bặt tuổi tên, sống âm thầm ẩn dật. Vì nó mà Nguyệt Cầm không được hoà nhập cuộc sống tiện nghi, văn minh thành thị mà phải làm một con chim nhỏ bị giam cầm giữa lồng son. 

Giọng của ông đầy thương tâm, Kỳ Phương cảm thấy động lòng anh nhẹ siết tay ông an ủi: 

- Bác sĩ, dừng bi quan, cũng đừng tự quá nghiêm khắc trách bản thân mình như thế. Sai lầm... ai không một lần mắc phải trong đời. Không nên cứ dày vò bản thân như thế. Thờỉ gian cũng đã lâu rồi... thôi hãy cho tất cả trở thành quá khứ. 

- Lỗi lầm của ta không thể quên cũng không thể nào tha thứ được. - Úp mặt vào lòng bàn tay, ông bật khóc trong đau khổ. - Nó sẽ dày vò, ray rứt cho đến ngày ta nhắm mắt. Ta không sợ chết đâu. Ta chỉ tội nghiệp Nguyệt Cầm. Nó ngây thơ, vô tội... 

Không biết dùng từ gì an ủi, Kỳ Phương đành ngồi yên nhìn ông khóc. Trong cái dáng già nua, mái tóc trắng bạc phơ của ông run lên từng chập trong 

cơn nức nở. Anh nghe thương quá, không biết ông đã phạm sai lầm gì trong quá khứ, khủng khiếp đến độ nào... nhưng phút này nhìn ông ta ân hận, khổ đau như vậy, anh cảm thấy tội nghiệp và sẵn sàng tha thứ cho ông tất cả. 

Lạ thật. Đã mười hai giờ mười lăm sao con ma chưa xuất hiện? Hay nó biết mình đặt bẫy nên không thèm tới nữa. Hổng chừng nó hút máu ông bác sĩ rồi cũng nên... 

Những tiếng xì xào chợt dậy lên cắt ngang dòng suy nghĩ của Kỳ Phương. Giật mình đưa mắt ngó đồng hồ, anh bỗng thấy lo lo. Con ma đã không xuất hiện. Hay... đã xuất hiện và giống như những gì người ta đã bàn tán. 

- Bác sĩ... ông có gặp chuyện gì không? - Ôi... giá mà anh có phép thần đuổi theo ông nhỉ? 

Một mình độc hành trên con đường vắng nhưng bác sĩ Thanh Tùng không cảm thấy hoang mang, lo sợ. Dù bất cứ lúc nào, từ một bụi rậm trên đường con ma cũng có thể nhảy xổ ra chụp lấy ông. 

Lúc vật lộn với con ma, ông đã có ý nghi ngờ. Đến khi nhìn kỹ mấy tấm hình Kỳ Phương chụp được ông mới dám tin là mình đúng. Con ma đó quả thật là... Nghĩ đến đây trong lòng ông lại cảm thấy lo lo. Số báo phát hành hôm trước thu lại không nhiều. Nếu có tờ nào lọt vào tay bọn họ... Ôi!... cầu trời... cho tất cả hãy là dĩ vãng. 

Bọn người năm xưa theo năm tháng đã quên mất huyện này... không thì... hậu quả thật khó lường. Kỳ Phương hẳn là đang thắc mắc lắm đây. Xong chuyện con ma... thế nào cậu ta cũng tìm cách đều tra ra manh mối. Tới chừng đó ông phải làm sao? Chậc... tới đâu hay tới đó. Nghĩ đến Nguyệt Cầm trước đã. Cửa vẫn còn cài then chốt thế này... hẳn chưa có điều gì xảy ra đâu. 

Nhẹ nhàng mở cửa lách mình vào, ông lập tức khoá lại ngay. Chầm chậm bước đến phòng khách ông ấm lòng nghĩ đến Nguyệt Cầm. Giờ này... hẳn con ông đã ngủ say rồi. Trong giấc ngủ thiên thần con nào nghĩ đến mối hiểm hoạ lúc nào cũng chập chờn đổ xuống đầu cha con mình. Nguyệt Cầm ơi, nếu một ngày chẳng may sự việc xảy ra, bao nhiêu tội tình, hậu quả cha xin một mình gánh lấy. Con cứ mãi hồn nhiên ngây thơ nhé. 

Cánh cửa phòng Nguyệt Cầm vẫn đóng im lìm. Không có dấu hiệu gì. Mỉm cười, ông thầm trách mình đã quá lo xa. Rồi chợt nhớ,ông lật tay xem đồng hồ. 

Mười hai giờ ba mươi. Con ma hẳn đã sa vào bẫy. Mình phải trở ra với Kỳ Phương và dân làng thôi. Quay lưng dợm bước, ông còn quay trở lạì, ghé mắt nhìn qua lỗ khoá, ông muốn ngắm con thêm lần nữa. 

Cạch! 

Chùm chìa khoá rơi xuống đất. Tay chân bỗng rụng lời, run rẩy, ông sững người chết lặng. Như không tin những gì mình trông thấy, ông đưa tay dụi mắt nhìn qua lỗ khoá thật lâu. 

Đúng thật rồi... không thể nào lầm lẫn được. Trên giường trải tấm drap trắng toát, không phải Nguyệt Cầm đang ngủ mà là một con ma đang lồng lộn. Trong cơn khát máu nó hung hãn xé nát tấm drap giường. Những chiếc gối bị xé tung ra, bông văng tung toé trắng toát. 

Nếu chẳng phải là ông thì không bao giờ tin con ma đó chính là Nguyệt Cầm biến thành đâu. Ngoài bộ đồ lụa trắng cô thường vẫn mặc, con ma chẳng có nét nào của Nguyệt Cầm. 

- Quả báo! Đúng là quả báo thật rồi... Chẳng còn chút sinh lực nào,ông té ngồi luôn xuống trước cửa phòng con và khóc. Tại sao điều ấy lại xảy ra trên chính người của Nguyệt Cầm? Lẽ sống duy nhất của cuộc đời ông? Tàn nhẫn quá! Con gái của ông là con ma hút máu người... làm sao ông có thể chịu đựng được sự trừng phạt khủng khiếp này? Trời ơi! Sao ông không giết con đi... 

Nguyệt Cầm đang lên cơn khát máu. Nếu không tìm thấy máu nó sẽ chết sau một giờ đồng hồ nữa! Không thể cứ ngồi đây than khóc. Phải làm một điều gì đó... 

Sức sống như bừng trở lại, ông vụt đứng lên chạy quanh nhà tìm kiếm. Máu, phải tìm thấy máu ngay lập tức. 

Gâu...gâu... 

Một chú chó nhỏ từ đâu bỗng chạy ra quấn lấy chân ông. Vướng víu, nhìn xuống, ông nhận ra nó là Lucky. 

Con chó Nhật lông xù màu trắng mà mình đã tặng Nguyệt Cầm vào lần sinh nhật thứ mười lăm. Ông dừng lại ngập ngừng. Nguyệt Cầm thương con lucky này lắm. Lần trước, nó bị bệnh bỏ ăn, cô đã khóc suốt ngày. Lo lắng đổ cho nó từng muỗng sữa như thể nó là con mình vậy. 

Khi tỉnh lại... biết mình mất con chó, Nguyệt Cầm sẽ buồn lắm. Nghĩ đến giọt nước mắt của con... ông co chân đá con chó ra xa... Rồi nghĩ đến tính mạng của con đang nguy kịch, ông đành cúi xuống bế con chó lên tay. 

- Lucky... xin lỗi mày nhé! 

Lòng ông se thắt thương con chó nhỏ khi thấy nó vẫn vui mừng lè cái lưỡi hồng ra liếm tay mình. Vuốt ve nó thêm một lần nữa như vĩnh biệt, ông hé cửa ném con chó vào rồi nhắm nghiền đôi mắt lại. Tiếng con chó nhỏ sủa đuối dần... 

- Bác sĩ... bác sĩ ơi, ông có ở nhà không. Chúng tôi đang trở về đây. 

Trước cổng rào bỗng dậy lên tiếng chân người. Tếng đập cửa kêu inh ỏi. Chết! Bọn họ đã trở về. Đưa tay lau nhanh nước mắt, ông quýnh quáng sửa sang y phục, rồi lấy vẻ điềm tĩnh ra mở cửa. 

- Ồ mọi người đã về rồi à? Có bắt được con ma không? - Ông cố lấy giọng tự nhiên, nhưng nghe vẫn khàn đi. 

Kỳ Phương bước lên một bước: 

- Con ma đã không xuất hiện. Ngỡ nó đã tấn công bác sĩ trên đường đi, chúng tôi vội trở về đây. 

- Vậv à! - Nhướng mắt, ông làm ra vẻ ngạc nhiên. - Thật kỳ lạ, trên đường đi... tôi cũng không thấy gì? 

Nguyệt Cầm vẫn ngủ, thưa bác sĩ? - Một người hỏi. 

Tưởng họ nghi ngờ, ông giật mình kinh sợ. Nếu Kỳ Phương đòi vô thăm Nguyệt Cầm lúc này... ông sẽ xử trí ra sao? 

- Bác sĩ? Ông sao thế? Sao mặt mày ông bỗng xanh lè vậy? - Kỳ Phương nắm lấy tay ông rồi kêu lên hốt hoảng. 

- Trời! Tay ông lạnh quá! Chắc bị cảm lạnh rồi. Mọi người mau phụ tôi dìu ông ấy vào phòng. 

- Ồ, không, không! Như bừng tỉnh mộng, ông xua tay vội vã. - Không sao đâu... không phiền đến mọi người phải quan tâm. Thôi, cũng khuya rồi, mọi người hãy về nghỉ đi, sáng còn phải đi làm sớm. 

Mọi người nhìn ông, chừng như nhận thấy sức khoẻ ông đã phục hồi, thì đồng giải tán, Kỳ Phương dặn với theo: 

- Cẩn thận, coi chừng con ma nó quay trở lại đấy! 

Rồi anh quay lưng trở bước vô nhà. Được mấy bước, chợt nhận ra ông Tùng vẫn đứng ngây người bên cửa, không bước theo mình, anh ngạc nhiên quay lại: 

- Bác sĩ, vào nhà thôi. 

- À ờ! Giật mình ông bước vội theo Kỳ Phương như một cái xác không hồn. 

- Bác sĩ? Ông làm sao vậy? Từ lúc trở về nhà cứ như kẻ mất hồn. - Kỳ Phương nhìn ông lạ lẫm. 

- Không có gì... - Ông lắc đầu, lòng canh cánh nỗi lo. 

Kỳ Phương ngồi xuống ghế. 

- Đêm nay con ma không xuất hiện. Bác sĩ, ông nghĩ sao về vấn đề này? 

- Xin lỗi. - Ông không ngồi xuống ghế. - Tôi cảm thấy mệt mỏi quá... không thể bàn luận cùng cậu được. 

Nói rồi, ông bước vội vào phòng, sập nhanh cửa lại. Kỳ Phương nhìn theo ngơ ngác. Bảo mệt mỏi, sao ông không vào phòng ngủ mà lại vào phòng làm việc nhỉ?

° ° °

Mới sáng, vừa mở mắt ra đã nghe tiếng Nguyệt Cầm khóc lớn ngoài sân, Kỳ Phương hốt hoảng ngồi bật dậy ngay. Chẳng kịp đánh răng, rửa mặt, anh chạy vội xuống hoa viên, lạ lẫm nhìn Nguyệt Cầm ôm con chó nhỏ trong lòng khóc nghẹn ngào. 

- Nguyệt Cầm... có chuyện gì? - Con mắt còn bị chói nên Kỳ Phương không nhận ra con Lucky đã chết - Con chó... nó cắn em à? 

- Thà nó cắn em còn hơn - Nguyệt Cầm nói trong tiếng nấc. - Bây giờ nó đã không còn cắn em được nữa rồi. 

- Vì sao thế - Ngồi xuống cạnh bên cô, Kỳ Phương không hiểu gì cả. 

Nguyệt Cầm đưa con chó ra trước mặt anh và khóc: 

- Anh xem đi, con chó của em đã chết rồi! 

- Hả - Kỳ Phương té ngồi xuống cỏ. Đôi mắt mở tròn. 

Bây giờ anh mới nhận ra thân thể con chó cứng đơ. Chứng tỏ... nó đã chết lâu rồi. - Sao lại chết? Mới hồi hôm này... anh hãy còn thấy nó tung tăng chạy theo em mà... 

- Em cũng không biết nữa. - Nguyệt Cầm áp đôi má mình lên lớp lông mịn của con chó nhỏ. - Sáng này, bước ra cửa em đã thấy nó nằm chết dưới khóm hoa rồi. Em liền ẵm nó đến gặp ba để ông ấy cứu nó. Nhưng sau khi khám cho nó xong, ba em bảo không cứu nó được. Lucky đã bị con ma hút hết máu rồi! 

- Hả? - Kỳ Phương kêu lên sửng sốt. Gỡ con chó ra khỏi tay Nguyệt Cầm, anh lật nhanh mớ lông trên cổ nó. 

Quả thật... có hai dấu răng cắm vào sâu hoắm. Thương con chó đẹp, anh lẩm bẩm tự trách mình. - Thật tệ! Lo bao nhiêu việc, cuối cùng lại bỏ quên con chó ngoài sân. 

- Không có bỏ quên nó ngoài sân đâu. - Nguyệt Cầm ngước mắt nhìn anh cãi lại. - Hôm qua, lúc ba và anh đi rồi, nhìn qua ổ khoá, em còn thấy nó trong nhà. Nó còn khều cánh cửa đòi em mở cho nó vào nữa. Nhưng cửa bị khoá rồi, em không cho nó vào được. 

- Nếu vậy thì... sao sáng nay em lại thấy nó chết ngoài sân? Kỳ lạ thật. - Đôi mày Kỳ Phương chau lại. 

- Không có gì là lạ cả. - Giọng bác sĩ chợt vang sau lưng. Kỳ Phương và Nguyệt Cầm đồng giật mình quay lại. 

Ông nói tiếp bằng cái giọng trầm trầm. - Hẳn là nó đã lén chạy ra ngoài lúc ta mở cửa trở về. 

Câu giải thích nghe hợp lý, Kỳ Phương gật đầu lẩm bẩm: 

- Chắc là thế. Tội nghiệp con chó quá. 

- Cũng tại ba đó - Nguyệt Cầm lại oà lên khóc. - Sao ba hổng kêu nó vào nhà chứ để con ma hút máu nó rồi... Hổng biết đâu, con bắt đền ba. 

- Nín đi con. - Ngồi xuống cạnh bên Nguyệt Cầm, ông nhẹ vuốt đầu con âu yếm. Ba sẽ tìm mua cho con một con chó khác, đẹp hơn. 

- Con không muốn con chó khác, con chỉ muốn Lucky, con thương nó lắm. Nép đầu và ngực cha, Nguyệt Cầm nức nở. 

Ông rưng rưng đôi mắt sâu hoắm vì mất ngủ: 

- Ba cũng thương nó lắm. Nhưng biết làm sao. Đừng buồn nữa con à, Lucky không chết oan đâu... nó chết để cứu một mạng người đó con. 

- Phải rồi. - Kỳ Phương gật đầu nói chen vào. - Em cũng đừng buồn nữa, đừng trách ba nữa. Bác sĩ có muốn vậy đâu. Hãy tránh ra, để bác sĩ còn đi làm kẻo trễ quá rồi... 

- Hôm nay tôi không đến bệnh viện. - Nhưng ông đã lắc đầu cắt ngang câu nói của Kỳ Phương. 

Nguyệt Cầm ngẩng đầu lên ngơ ngác: 

- Sao ba không đến bệnh viện? Hôm nay... sẽ có nhiều bệnh nhân lắm. Ba quên những người bị ma hút máu rồi ư? 

- Ba không quên con à! Đôi mắt cụp xuống, ông nén tiếng thở dài. Nhưng ba còn có việc quan trọng phải làm hơn. 

- Việc gì vậy ba? Nguyệt Cầm tò mò. 

Ông nựng khẽ con trước khi đứng dậy. 

- Đừng hỏi. Bây giờ ba vào phòng làm việc đây. Nếu qua giờ cơm mà chưa thấy ba ra, con cũng đừng sợ, đừng làm phiền ba nhé! Ba cần phải tập trung cao độ. 

- Dạ. - Nguyệt Cầm gật đầu ngoan ngoãn. 

Kỳ Phương nghe hiếu kỳ trước thái độ của ông. Anh không hỏi, vì biết chắc ông sẽ chẳng bao giờ trả lời đâu. Tốt nhất là im lặng, âm thầm tự điều tra. 

Nguyệt Cầm lại thút thít khóc bên tai khiến Kỳ Phương quay đầu lại. Anh nhẹ lau cho cô dòng lệ tuôn tràn trên má, rồi cất giọng khẽ khàng: 

- Đừng khóc nữa Nguyệt Cầm. Bây giờ chúng ta cùng đi chôn Lucky. 

- Chôn Lucky à? Không đâu. - Nguyệt Cầm lắc đầu. - Em hổng chịu đâu... Em chỉ muốn ôm nó trong lòng như thế này thôi.

- Không được. - Kỳ Phương dịu dàng. Như vậy sẽ mất vệ sinh lắm. Hãy nghe lời anh đem chôn nó. Em biết không, rồi chúng ta sẽ xây cho nó một ngôi mồ thật đẹp. 

- Xây mồ cho Lucky à? - Đôi mắt đẹp ngước lên. 

Biết Nguyệt Cầm đã xiêu lòng, Kỳ Phương dụ tiếp: 

- Phải rồi, chúng ta sẽ xây cho nó một ngôi mồ thật đẹp. Nào... em chọn đi... ta sẽ chôn nó ở nơi nào hả? 

Nghiêng nghiêng đầu, suy nghĩ một chút, Nguyệt Cầm quyết định: 

- Em sẽ chôn nó ở dưới khóm hoa hồng. 

- Được thôi. - Kỳ Phương vui vẻ. - Đi nào! 

Khải Văn trông thấy cảnh này hắn sẽ nghĩ sao nhỉ? - Loay hoay đào đất, Kỳ Phương mỉm cười thầm nghĩ. Đúng là điên rồ. Bài vở không lo viết, phóng sự chẳng điều tra... ở đây lo làm mồ chôn chó. 

Nhưng... cũng thật lạ lùng. Khi làm việc đó bên cạnh Nguyệt Cầm, anh không hề cảm thấy thừa, thấy vô nghĩa chút nào. Nhìn vẻ mặt đau khổ, đặt con chó vào huyệt, anh cũng thấy nao nao một cảm giác lạ lùng. Nguyệt Cầm nhân hậu quá. Anh ước mình có phép màu để cứu con Lucky sống lại, chắc Nguyệt Cầm mừng vô hạn. 

- Này cô cậu ơi, vui lòng cho hỏi thăm. 

Một người đàn ông đứng tuổi, ăn mặc đàng hoàng, không giống dân địa phương đứng ngoài cổng rào gọi lớn. 

- Vâng, ông muốn hỏi gì? - Phủi tay, Kỳ Phương từ tốn đứng lên. Nguyệt Cầm vẫn ngồi yên, đôi mắt cô mở to, ngơ ngác nhìn người khách lạ. 

- Tôi muốn hỏi thăm nhà bác sĩ Hữu Bằng. 

- Bác sĩ Hữu Bằng ư? 

Kỳ Phương chưa kịp trả lời. Nguyệt Cầm đã bật lên thảng thốt. Sợ cô làm lộ bí mật của cha mình, Kỳ Phương vội chen vào. Giọng anh đầy ngạc nhiên: 

- Bác sĩ Hữu Bằng ư? Cái tên nghe lạ quá! Chưa từng nghe bao giờ. 

- Vậy à! - Giọng ông ta đầy thất vọng. - Nhưng cô gái kia... sao có vẻ hốt hoảng như vậy chứ? Cô ơi, cô biết bác sĩ Hữu Bằng phải không? 

- Không... không... Nguyệt Cầm lắc đầu lia lịa. - Tôi không biết, tôi không biết gì hết. 

- Con chó cưng của cô ấy vừa chết, nên tâm hồn cô ấy chưa ổn định. - Đưa tay ôm lấy vai Nguyệt Cầm, Kỳ Phương trầm tĩnh. - Xin ông đừng làm phiền cô ấy. 

- Được, cám ơn. 

Gật đầu chào, người đàn ông bước đi chậm rãi không quên nhìn vào Nguyệt Cầm một cái. Đôi mắt ông ta sáng rực như ánh điện, xoáy vào tận tâm hồn người đối diện. 

- Ông ấy tìm ba em... để làm gì? - Nép sát vào vòng tay Kỳ Phương, Nguyệt Cầm hoang mang hỏi. 

Nhẹ ôm lấy vai cô, Kỳ Phương lặng yên không đáp. Đó cũng là điều anh muốn biết.

° ° °

Biết rằng ý nghĩ đột nhập vào phòng bác sĩ là mạo phạm, nhưng Kỳ Phương không sao ngăn được cái tính mạo hiểm của mình, nhất là từ khi phát hiện những điều lạ xung quanh ông. Sự việc tấm bằng, xấp ảnh cùng người khách lạ xuất hiện đã thôi thúc bàn chân thám tử hành động. 

Trăng mười sáu trong ngần vằng vặc. Bức tranh quê thu hồn khách lãng du. Bóng đen của lá của cây, của đụn rơm, chái nhà chẳng hiện ra một chút ma quái nào mà ngược lại nó như một bức tranh trầm tư của một đêm miền quê sâu lắng. 

Nép mình sau gối dạ lý hương, Kỳ Phương như nghe thấy rõ mọt hoạt động xung quanh, suy nghĩ của một kẻ trộm khiến anh đôi lần chùn bước. Nguyệt Cầm đã ngủ say. Bác sĩ vẫn chưa ra khỏi phòng làm việc. 

Cạch! 

Cánh cửa bỗng bật mở trước mắt Kỳ Phương. Cuối cùng sự chờ đợi của anh cũng được đáp trả. Nhanh như một con mèo, vốn đã tính trước, Kỳ Phương đột nhập vào phòng ông một cách an toàn. 

Căn phòng chẳng có gì lạ ngoài những vật dụng y tế bình thường mà có lần Kỳ Phương đã thấy. Duy chỉ có tất cả các đèn là được thắp sáng. Muốn tìm ra sự khác lạ với người không chuyên môn chẳng dễ tí nào.. 

Biết thời gian không nhiều, Kỳ Phương đi ngay tới phòng làm việc của ông. Trên bàn là những chai lọ ngổn ngang. Cầm một ống nhỏ, Kỳ Phương nhận ra ngay đây là một ống máu. Bởi nó ghi đầy đủ ký hiệu về nhóm máu,về lượng hồng cầu, huyết tương và cả cấu trúc. Cũng chẳng có gì đặc biệt, đây là một công việc bình thường đối với một bác sĩ tài giỏi như ông. Những điều làm Kỳ 

Phương thắc mắc là tại sao ông không làm việc này ở bệnh viện, ở đó sẽ có nhiều phương tiện hơn ở đây? 

Mắt Kỳ Phương bỗng chạm phải một miếng gương nhỏ, loại gương thường được dùng để lấy vài giọt máu của bệnh viện đem xét nghiệm. Dường như giọt máu đã khô. Mảnh giấy ghi chú nhỏ dán trên miếng gương đã khiến Kỳ Phương tò mò. Tiện tay anh cầm lên, để gần vào chiếc đèn bàn thì bỗng phựt. 

Tất cả đèn đều phựt tắt. 

Ánh điện tắt bất ngờ làm Kỳ Phương chỉ kịp đứng yên cùng lúc giọng bác sĩ Tùng vang lên nơi ngưỡng cửa: 

- Ai cho phép anh vào phòng tôi? 

Đã dự trù tình huống này nhưng mang tâm trạng một kẻ trộm bị bắt quả tang đã làm Kỳ Phương xấu hổ quay mặt lại ấp úng: 

- Dạ... xin lỗi! 

Trong một thứ ánh sáng xanh lờ mờ trông có vẻ ma quái, gương mặt bác sĩ Từng hiện ra giận dữ khác thường: 

- Thật đáng uổng công tôi đã yêu quý cậu! 

- Bác sĩ! - Kỳ Phương cúi đầu. - Tôi chỉ vì quá tò mò. 

- Có phải ông đang nghiên cứu, cố tìm ra cách chữa trị cho các bệnh nhân bị ma hút máu? 

- Tôi không muốn nói nhiều với kẻ đã chẳng tôn trọng mình. - Vẻ mặt như đanh lại, ông cất giọng lạnh lùng. - Cậu ra khỏi phòng tôi ngay lập tức. 

Ông đang giận! Kỳ Phương biết khó có thể giải thích cho ông thông cảm ngay được vào lúc này. Gật đầu, anh chậm rãi bướcdần ra cửa. 

- Và tránh để tình trạng này lặp lại thêm một lần nữa. Từ ngày mai, tôi muốn cậu dọn ra ngoài. 

- Bác sĩ? - Kỳ Phương quay trở lại ngay. - Xin ông đừng giận, tôi hứa đây là lần cuối cùng. 

- Tôi không tin cậu. - Cánh cửa sập lại ngay trước mặt, ông không quên lặp lại lần cuối quyết định của mình. - Đừng để lặp lại lần thứ hai đấy! 

- Bác sĩ... bác sĩ... - Kỳ Phương đập mạnh vào cánh cửa. 

Nhưng vô hiệu, ông không nghe thấy. Mà dù có nghe ông cũng chẳng bao giờ mở cửa đâu.Phùng mang, trợn mắt thổi muốn đứt hơi mà cái bếp chỉ tuôn ra toàn khói, với khói. Tức mình quá, Kỳ Phương ném luôn câu cởi bếp xuống chân rồi thừ người ra thở. 

- Chán chết được. - Trong cuộc đời làm phóng viên của mình, chưa bao giờ Kỳ Phương bị xúi quẩy như lần này. 

Ăn nằm, nằm dề ở cái làng quê đèo heo hút gió hàng tháng trời để vẫn không tìm ra chút manh mối nào. Bị đuổi khỏi nhà như tên ăn trộm chưa hết ê cái mặt, đã nghe đầy tai những lời kêu réo, chửi bới của Khải Văn. Hắn hắn tưởng anh ở đây sung sướng ngon lành như đi du lịch nghỉ mát chắc? 

Hừ. Hắn có biết nỗi khổ của anh đang nếm chịu đoạn trường thế nào không? Cái khách sạn vừa ấm vừa êm mà hắn ngỡ chỉ là chuồng bò cũ nát. Một người dân trong làng thương tình đã cho anh mượn tạm ở để điều tra. 

Thế sao cậu không vào khách sạn, vào nhà trọ mà kêu ca chứ? Thế nào hắn cũng phớt ăng lê bảo thế khi nghe anh than thở. Của đáng tội, có phải anh ngu lắm đâu. Chỉ kẹt nỗi, ở vùng quê này... dân trí quá nghèo nàn, lạc hậu. Cả cái bếp dầu cũng không thấy bán, lấy đâu ra khách sạn, nhà trọ tiện nghi cho anh thuê chứ? Nấu có mỗi nồi cơm, hì hục nãy giờ hơn nửa tiếng đồng hồ vẫn không có cách này làm cho đám củi tươi này chịu cháy. 

Cứ cái mà này chắc anh đành phải... cuốn gói trở về toà soạn quá! 

Nói thì nói vậy, chứ Kỳ Phương biết mình không đời nào làm thế. Anh đâu phải hạng người dễ bỏ cuộc, gặp khó mà chùn bước như chuyện cơm với nước này... anh quyết bắt nó phải sôi lên, chứ quyết không chịu đói. 

Nghĩ rồi... Kỳ Phương cúi xuống bếp lửa tiếp tục phùng mang trợn mắt. 

- Trời, Kỳ Phương, anh làm gì mà bụi khói bay mù trời vậy? - Bóng Nguyệt Cầm xuất hiện sau làn khói. 

Kỳ Phương ngẩng nhanh đầu dậy mừng như bắt được vàng: 

- Nguyệt Cầm... anh đang nấu cơm đây. Em ngồi chơi với anh một chút. 

Tiếng Nguyệt Cầm dạ khẽ. Kỳ Phương cúi xuống bên bếp lửa rồi chợt nhớ mình đã bảo Nguyệt Cầm làm một điều không thể được. Cái chuồng bò trống 

rỗng, ngoài mảnh đệm mới mua trải tạm làm chỗ ngủ, anh chẳng có cái bàn, chiếc ghế nào. 

- Trời ơi, anh chất củi như vậy thì làm sao mà cháy được? - Nhìn thấy điệu bộ của anh, Nguyệt Cầm kêu lên lạ lẫm. 

- Ừ! - Kỳ Phương ngước lên, trên má anh xuất hiện một vết lọ nghẹ dài, Nguyệt Cầm không nhịn được mỉm cười. 

- Củi còn ướt quá, nhóm bao nhiêu giấy cũng không cháy nổi. 

- Không phải củi ướt đâu. - Ngồi xuống bên cạnh anh, Nguyệt Cầm nhẹ rút hết những cây củi chất lên đầy một bếp của anh ra. - Chỉ tại anh chất đầy quá, bếp bếp ngập không cháy được. 

Vậy ư? - Kỳ Phương xum xoe. - Vậy em chất lại giùm anh đi! 

- Cho em xin tờ giấy. - Nguyệt Cầm nói. 

Kỳ Phương đặt luôn tờ giấy cuối cùng trong xấp bản thảo của mình cho cô. Không đầy hai phút, Nguyệt Cầm đã làm bếp lửa cháy bùng, Kỳ Phương kêu lên đầy thán phục: 

- Nguyệt Cầm, em thật tài giỏi quá! 

- Cảm ơn anh. - Cô cúi đầu bẽn lẽn rồi đáp khẽ. - Trên mặt anh có lọ nghe kìa! 

- Vậy sao? - Kỳ Phương vội đưa tay lên quẹt mạnh. Nhưng vì không thấy nên vết lọ bên này, anh quẹt bên kia. Nguyệt Cầm không nhịn được, đưa tay lên lau cho anh, rồi như chợt nhận ra như vậy là gần gũi quá! Cô thẹn thùng rụt nhanh tay mình lại. Cử chỉ thật đáng yêu. 

- Anh xin lỗi... - Cho một cây củi vào bếp lửa hồng đang cháy, Kỳ Phương trầm giọng. - Hôm đó... làm em bị ba rầy oan một trận. 

- Em không giận anh đâu. - Nguyệt Cầm rút đầu e thẹn. - Em chỉ không biết tại sao anh lại làm như vậy. Cả anh, cả ba... ai cũng khó hiểu như nhau. Tại sao phải úp úp, mở mở giấu giếm nhau? 

- Anh không có giấu em! - Kỳ Phương nhặt khỏi tóc Nguyệt Cầm một nhành đây nhỏ. - Anh tìm tư liệu để viết phóng sự. Anh chỉ không hiểu sao ba em lại giận dữ thôi. Công việc nghiên cứu tìm thuốc cứu người đâu là gì bí ẩn. 

- Em cũng không biết luôn. - Mắt Nguyệt Cầm buồn rượi. - Em chỉ biết là mình buồn lắm thôi. Anh đi rồi... căn nhà trở nên hoang phế, lạnh lùng hơn bao 

giờ hết. Ba không đến bệnh viện. Nhưng chẳng phải vì vậy mà em được gần ba hơn trước. Cả ngày lẫn đêm... ba chỉ nhốt mình trong phòng làm việc. Nét mặt lúc nào cũng trầm tư, buồn bã. Kỳ Phương!... Hay là... anh trở về nhà em ở như cũ đi. - Ngập ngừng giây phút, Nguyệt Cầm mở lời thật nhanh, thật nhỏ. Đây chính là cái lý do khiến cô phải leo rào trốn ba đến gặp Kỳ Phương. 

-Anh cũng muốn như vậy lắm nhưng e bác sĩ không đồng ý. - Kỳ Phương nhìn Nguyệt Cầm chăm chú. Tội nghiệp, chắc bây giờ cô buồn nhiều hơn. Anh đi, ba cô chỉ quan tâm đến công việc. Con chó nhỏ cũng đã không còn. Mới có mấy ngày mà trông cô tiều tuỵ thấy rõ. 

- Vậy thôi... em về đây. - Thở ra một cái đầy thất vọng, Nguyệt Cầm chậm rãi đứng lên. Kẻo ba biết lại mắng em nữa đấy. 

- Ừ! 

Kỳ Phương không dám giữ cô ở lại, dù lòng còn lưu luyến. Anh muốn mời cô dùng cơm với mình, nhưng lại e cái hột vịt dầm nước tương lạt lẽo. Anh chỉ dám lấy từ nẹp vách một con cào cào vừa được thắt trao cho cô: 

- Tặng em nè! 

- Cảm ơn anh. - Nguyệt Cầm mừng rỡ đón lấy hí hửng như đứa trẻ. Mấy con anh thất trước đây đó héo hết rốt. À... Kỳ Phương... anh biết không, người đàn ông hôm nọ hỏi thăm đường đã quay trở lại. Ông ta biết ba em là bác sĩ Hữu Bằng. 

- Sao? - Mắt Kỳ Phương hấp háy. - Ông ta đã trở lại, khi nào? Chuyện gì đã xảy ra? 

- Em không biết! - Nguyệt Cầm lắc đầu bàng quang. - Chiều hôm đó, ông ta ghé nhà đòi gặp đích danh ba của em. Lúc gặp ông ta, em thấy ánh mắt ba rất lạ. Hai người vào phòng, đóng kín cửa nói chuyện rất lâu. Rồi ông ta trở ra, mặt hầm hầm, giận dữ. 

- Thế còn ba của em? Ông có thái độ gì sau khi người đó bỏ đi? 

- Ba em không nói gì. - Nguyệt Cầm khẽ nghiêng đầu. - Em chỉ thấy ông thở ra, gác tay lên trán... đăm chiêu như suy nghĩ nhiều lắm thôi. Kỳ Phương à! - Nắm lấy tay Kỳ Phương, Nguyệt Cầm lo lắng. - Anh có biết chuyện gì đang xảy ra với ba của em không? Sao mấy bữa nay, lòng em như có điều gì đó, phập phồng lo sợ. 

- Không có gì đâu. - Kỳ Phương trấn an Nguyệt Cầm. - Em hãy về nhà nghỉ đi. Bao giờ biết được gì, anh sẽ kể cho em nghe. 

- Vâng! 

Gật đầu chào, Nguyệt Cầm ngoan ngoãn bước đi ngay. Bóng cô khuất lâu rồi sau hàng dâm bụt mà Kỳ Phương vẫn còn đứng đó, dáng người bất động. Câu trả lời nằm ở đâu? Sao những gì anh biết rời rạc quá? Mãi đắm chìm trong suy nghĩ, anh không hay bếp lửa Nguyệt Cầm nhóm được đã bị nồi cơm trào tắt ngấm.

° ° °

-Thắt thế nào nhỉ? Cọng lá dừa cầm lên rồi bỏ xuống, Nguyệt Cầm thở ra một hơi dài buồn bã. Tiếng chim sơn ca ríu rít hót trên đầu, cánh vườn thưa nhộn nhịp mà cô nghe sao lạnh vắng. 

Cô nhớ Kỳ Phương. Nhớ cồn cào da diết. Hơn lúc nào hết, cô muốn chạy đến gặp anh. Nhưng... ngại ngùng không dám, ai đời con gái... mà cứ đến tìm con trai như vậy? Người ta sẽ khi dễ đấy. Nhỏ Lan khi nghe cô kể đã lắc đầu không tán thành hành động của cô rồi. 

Làm gì bây giờ. Cô cầm con cào cào đã khô của Kỳ Phương tặng. Giá có thể biến thành anh. Giá có thể chuyện trò cùng nó? 

Những ngày anh có mặt ở ngôi nhà này là những ngày Nguyệt Cầm vui nhất đời mình. Từ nhỏ sống lặng yên, bình dị bên cha, cô đâu biết thế gian này tồn tại một cảm giác tuyệt vời như thế! 

Tình yêu! Môi Nguyệt Cầm thoáng nở nụ cười. Mặc cho nhỏ Lan và mọi người chê trách, Nguyệt Cầm vẫn không cấm trái tim mình nói tiếng yêu anh. Bởi anh đáng thế... cả làng này có chàng trai nào hơn anh được? 

Còn Kỳ Phương! Anh có yêu mình không? Tim Nguyệt Cầm thoáng ngập ngừng, e ngại. Trông thái độ anh gần gũi, thân mật. Nhưng... với nhỏ Lan... anh cũng ân cần, dịu dàng giống như vậy. Hẳn là trong mắt anh, cô hay nhỏ Lan chỉ là những cô gái quê mùa không hơn không kém. Người yêu của anh phải là một cô gái thị thành, xinh đẹp, văn minh và giàu học thức. Nghĩ đến điều này... không hiểu sao, tim Nguyệt Cầm nghe đau nhói. Cô muốn oà lên khóc quá! 

- Nguyệt Cầm! Nguyệt Cầm!... 

Có tiếng Kỳ Phương văng vẳng gọi, hoà lẫn tiếng chim kêu. Nguyệt Cầm mừng rỡ ngẩng nhanh đầu dậy. Nhưng cô chợt thở ra ngay. Chỉ là ảo tưởng thôi. Kỳ Phương sẽ không bao giờ tìm đến cô đâu! 

- Nguyệt Cầm! Nguyệt Cầm!... 

Tiếng kêu nghe rõ quá, không giống ảo giác. Một lần nữa, Nguyệt Cầm ngẩng đầu lên. Nhận ra bàn tay anh đang vẫy mình cuối gờ tường, cô mừng quá, chạy ào ngay tới. 

- Kỳ Phương... ôi... em nằm mơ sao thế này? 

- Không phải nằm mơ đâu. - Tiếng Kỳ Phương vui vẻ. - Anh đến rủ em đi chơi. Em có dám đi không? 

- Dám, em dám. 

Nguyệt Cầm gật đầu ngay không suy nghĩ. Dù một lát nữa trở về bị ba đánh chết, cô cũng không bao giờ từ chối giây phút được ở gần bên anh. 

- Vậy thì em ra đây. - Kỳ Phương hớn hở. - Anh có điều thú vị tặng cho em. 

- Dạ... - Bàn tay đặt lên chốt cửa, Nguyệt Cầm chợt kêu lên thất vọng. - Thôi chết... ba đã khoá cửa lại rồi. 

- Em không có chìa khoá sao - Kỳ Phương lo lắng. - Từ lúc phát hiện ra việc em lén đến nhà anh. Ba của em đã lấy lại tất cả chìa khoá rồi. - Nguyệt Cầm thở ra buồn bã. 

- Vậy... đành bó tay à? - Đôi môi Kỳ Phương mím lại, anh thất vọng nhìn con diều lớn trên tay. Nó được dán bằng những trang bản thảo viết vội của anh đó. Nguyệt Cầm nhất định sẽ bất ngờ, thích thú khi nhìn thấy nó lượn bay lên bầu trời cao rộng. 

- Mình đứng đây nói chuyện đi anh. - Sợ Kỳ Phương giận dỗi bỏ về, Nguyệt Cầm năn nỉ. 

- Đứng đây nói chuyện ư.? - Kỳ Phương bật lên cười lớn. - Thú vị đấy, nhưng Nguyệt Cầm, anh hỏi em điều này, em có dám leo qua cổng ra ngoài với anh không? 

- Leo... Leo rào ư? Nguyệt Cầm rụt vai sợ hãi. - Cao quá anh ạ! 

- Không cao lắm đâu - Kỳ Phương đưa mắt nhìn những thanh sắt ngang trên cửa. - Chỉ cần em can đảm một chút thôi. Em có dám không? 

Ngập ngừng đưa mắt nhìn cánh cửa rồi đưa mắt nhìn lẹ vào nhà, Nguyệt Cầm thầm cân nhắc. Leo tường trốn ra ngoài, thật là kinh khủng. Nhưng... bây giờ... muốn gặp Kỳ Phương... chỉ còn cách duy nhất này thôi... 

Được rồi... cuối cùng... Nguyệt Cầm quyết liều để gặp anh. Hít sâu một hơi, thu hết hùng tâm dũng khí, cô bám tay vào thành cửa đu lên. Cao quá... Mấy lần suýt té rồi cũng qua. Cuối cùng cô lên được mặt thành. Kỳ Phương trông thấy, anh la to, động viên: 

- Ồ, Nguyệt Cầm, em đã làm được rồi... thật tuyệt vời. 

- Em không xuống được... - Bên ngoài mặt thành, cửa trơn tuột không có những thanh sắt ngang để leo xuống. Nguyệt Cầm kêu to sợ hãi. 

- Đừng hốt hoảng. - Nheo một con mắt lại, Kỳ Phương khom lưng xuống trước mặt cô. - Em hãy bước xuống lưng anh mà xuống. 

Nguyệt Cầm kêu to hốt hoảng: 

- Bước xuống lưng anh mà xuống ư? Em không dám đâu, sợ làm đau anh lắm. 

- Không đau đâu. - Kỳ Phường quay đầu lại. - Em cứ xuống đi, nhanh lên, kẻo ba em ra trông thấy bây giờ. 

Nghe nhắc đến ba, Nguyệt Cầm thôi không đùn đẩy nữa. Rụt rè... đặt chân xuống lưng Kỳ Phương, cô nhắm mắt buông mình ào xuống. Đau một chút thôi... Nguyệt Cầm nghĩ thầm như vậy. 

Nhưng...chẳng có cảm giác đau chút nào, chỉ có cảm giác bồng bềnh trong vòng tay nồng ấm. Lạ lùng, Nguyệt Cầm mở to đôi mắt... kinh hoàng nhận ra... Kỳ Phương đã bế bổng mình, gọn như một con mèo. 

Ôi!... Cánh tay của anh thật là rắn chắc, bờ ngực anh thật là vững chãi. Một cái gì như một luồng điện từ anh chạy rần khắp người cô. Đê mê, ngây ngất quá! Nguyệt Cầm chỉ muốn úp gương mặt mình vào vai anh, buông mình vào cái cảm giác lạ lùng cứ tuôn tràn như suối. 

- Em làm được rồi... anh nói có sai đâu. 

Không hiểu được tâm ý của Nguyệt Cầm, Kỳ Phương vui vẻ thả cô xuống đất. 

- Vâng... - Xấu hổ với ý định của mình. Nguyệt Cầm cúi đầu ửng hồng hai má. 

Kỳ Phương nắm lấy tay cô: 

- Đi nào. 

- Đi đâu? Nguyệt Cầm ngây thơ. 

Kỳ Phương nhẹ đặt một ngón tay xuống môi cô: 

- Đến nơi khắc biết thôi. Bây giờ... em cứ nhắm đôi mắt lại và chạy theo anh. 

- Vâng! 

Ngoan ngoãn, Nguyệt Cầm nhắm ngay đôi mắt lai.Cô không cần biết Kỳ Phương sẽ dắt mình đến nơi nào. Cô chỉ cần được ở bên anh, nhìn anh cười, nghe anh nói là đủ lắm rồi. Làn gió trên cao như cũng vui cùng cô, hét phần phật bên tai cô mát rượi, lại chui vào mái tóc của cô làm xổ tung ra bay lượn trong gió. 

- Tới rồi đây! - Kỳ Phương chợt dừng chân đột ngột. - Em mở mắt ra đi. 

Nghe lời anh, Nguyệt Cầm từ từ mở to đôi mắt, bỗng kêu lên một tiếng thích thú: 

- Trời ơi! Đẹp quá! 

Rồi như không kiềm chế nổi lòng mình, cô tung chân chạy đi ngay, miệng cười vui như trẻ con. 

Tựa lưng vào một thân cây lớn bên đường, Kỳ Phương thích thú nhìn Nguyệt Cầm tung tăng bên thảm lúa. Cô đang rất ngạc nhiên, Kỳ Phương mỉm cười nhớ lại cảm giác của mình lần đầu phát hiện ra điều bất ngờ thú vị này. 

Đi nhiều nơi, nhiều chốn, từng tham quan nhiều thắng cảnh, nhưng quả thật lần đầu tiên Kỳ Phương mới nhìn thấy một cánh đồng rộng dường kia, đẹp dường kia. 

Hơn cả kiệt tác của một thi nhân, đồng lúa trước mặt anh thải dài vô tận vàng rực một màu lúa chín. Nó như không có điểm dừng, chỉ có một đường tiếp giáp với chân trời xa khuất tầm nhìn. Không gian trước mắt, chỉ có hai màu vàng và xanh hoà trộn vào nhau. Thỉnh thoảng điểm một vài cánh cò trắng bay lên. Đẹp yên bình, thanh thoát đến lạ. 

- Kỳ Phương ơi... em chưa bao giờ được thấy một cánh đồng lúa to đến như vậy. - Nguyệt Cầm đã trở về, trên tay cô là chùm bông lúa chín. - Cảnh vật ở đây đẹp tuyệt luôn, ôi... gió mới mát làm sao! 

- Chờ anh một chút. Còn điều thú vị nữa đây. - Mỉm cười, Kỳ Phương hất tung con diều vào ngọn gió đồng đưa đến. Ngọn gió bốc lên, trong chớp mắt đã nâng con diều bay cao trên bầu trời xanh thẳm. 

- Ôi, con diều đuôi đã bay được rồi kìa... - Nguyệt Cầm vỗ tay mừng rỡ. Kỳ Phương,.. anh thật là giỏi quá. 

- Nó không phải là con diều đuôi đâu. - Ngồi xuống một cái rễ cây cạnh Nguyệt Cầm, Kỳ Phương vui vẻ bảo. 

- Nó là con diều. 

- Con diều ư? - Vẫn ngước cao đôi mắt lên bầu trời, 

Nguyệt Cầm lặp lai Giời anh. Vậy...con diều đẹp quá. Bay cao ghê... chắc phải tốn nhiều pin lắm. 

Lại một câu ngớ ngẩn, nhưng lần này Kỳ Phương không cười nữa. Quay lại nhìn cô, tự dưng anh nghe sống mũi mình cay xé. Một niềm thương hại dâng trong lòng anh. 

Làm người như Nguyệt Cầm không phải là đáng thương, tội nghiệp lắm sao? Như một con ếch tối ngày nằm dưới đáy giếng sâu, suýt đời cứ ngỡ trời chỉ lớn bằng cái vung trên đỉnh đầu mình. Cô nào biết, bên ngoài cái giếng, cuộc đời còn bao điều tươi đẹp, bao nhiêu việc phải làm. Sinh trưởng ở nơi này mười tám năm rồi, vậy mà... cô không hề biết làng quê mình có một cánh đồng đẹp dường này. Nếu anh không đến đây có lẽ đến hết cuộc đời mình cô bé cũng yên lòng sống mãi trong cái biệt thự, ngắm bầu trời qua song cửa sắt không khác một kẻ tù nhân. Tự nhiên Kỳ Phương bỗng muốn có một ngày, mình đưa được Nguyệt Cầm về thành phố. Cho cô được nhìn những công trình của nền văn minh hiện đại. Để cô được biết thế nào là tiện nghi, là cuộc sống của một người dân thành thị. Anh muốn mời cô ngồi vào chiếc Nissan của mình. Chở cô đi dạo khắp nơi rồi mời cô một lần thưởng thức món kem ngon tuyệt. Hẳn là cô sẽ giật mình trước vị lạnh của kem, và cũng sẽ rất thú vị trước sự thơm ngon của nó. Anh sẽ mời cô đi xem ca nhạc, mời cô đi xem phim. Hẳn cô sẽ chết khiếp, sẽ khóc hết nước mắt trước số phận của những nhân nhân vật, cô không bao giờ tin là chúng được tạo thành từ sự tưởng tượng của những nhà văn giống như anh. 

- Kỳ Phương... anh làm gì mà cứ tủm tỉm cười một mình hoài vậy hả? - Giọng Nguyệt Cầm, chợt vang lên cắt ngang dòng suy nghĩ của Kỳ Phương, anh nhìn chăm chú cô: 

- Anh đang cố tưởng tượng xem, trông chiếc đầm của em sẽ đẹp thế nào. 

- Áo đầm ư? - Nguyệt Cầm cúi nhìn bộ đồ lụa trắng của mình. - Nó như thế nào hả anh? 

- Ừ thì... như vầy nè! - Nhặt một hòn đá, Kỳ Phương vẽ xuống mặt đường một cô gái mặc áo đầm thật đẹp. 

Nguyệt Cầm chăm chú nhìn giây phút rồi chợt hỏi: 

- Sao anh không cho cô gái ấy mặc quần? 

- Hở? - Bị hỏi bất ngờ, Kỳ Phương sững người ra, không biết trả lời sao. - À, ờ... tại trang phục này như thế... người ta không cần phải mặc quần dài. Chỉ cần.... một cái quần nhỏ bên trong. 

- Trời... như vậy là kỳ cục lắm, em hổng chịu mặc đâu. - Đôi má chợt đỏ bừng, Nguyệt Cầm quay mặt đi, xấu hổ. 

- Chẳng có gì phải xấu hổ đâu. - Tay Kỳ Phương se se ngọn cỏ. - Các cô gái thành thị văn mặc như thế đi ngoài phố. Nguyệt Cầm, nếu anh mời em về thành phố chơi, em có thích không? 

- Không! - Nguyệt Cầm đáp không cần suy nghĩ. 

Kỳ Phương chưng hửng: 

- Vì sao? 

- Vì nơi ấy... có bạn gái của anh. - Nguyệt Cầm phụng phịu. - Em không thích. 

- Bạn gái ư? - Kỳ Phương chợt mỉm cười. - Anh không có bạn gái. Mà dù có cũng chẳng sao. Cô ấy sẽ thích em. Em dễ thương lắm mà. 

- Nhưng em không thích chị ta. - Nguyệt Cầm giận dỗi. 

Kỳ Phương cảm thấy ngẩn ngơ. Lẽ nào Thu Lan nói đúng, Nguyệt Cầm đã yêu mình? Nếu quả như vậy thì sao? Kỳ Phương bâng khuâng thầm hỏi. Anh có nên đáp lại tình cảm của Nguyệt Cầm không? Hai tháng trời gần gũi, anh thấy Nguyệt Cầm thật đáng thương biết bao. Rất muốn làm một điều gì đó cho cô, nhưng... tất cả chỉ là tình cảm của một người anh dành cho em gái nhỏ. Nguyệt Cầm ngây thơ, non nớt chuyện đời... liệu cô có chịu nổi cú sốc này? 

- Anh giận vì em bảo không thích bạn gái của anh hả? - Giọng Nguyệt Cầm run rẩy. - Xin lỗi anh, tại em lỡ lời thôi. 

- Không đâu. - Kỳ Phương nhóng mắt cười nhẹ. - Không có. Thôi anh em mình chơi thả diều tiếp tục đi. Em có thích không? Để anh dạy cho em nhé. 

- Dạ... - Nguyệt Cầm vui vẻ cầm lấy con điều. Theo hướng dẫn của Kỳ Phương, không bao lâu cô có thể tự mình điều khiển con diều bay tít lên cao. Vui thích quá, cô bật lên cười khanh khách... 

- Ái... ơi... 

Đang hướng mắt lên trời nhìn theo con diều, Nguyệt Cầm bỗng khuỵ chân té ngã, cuộn chỉ rơi khỏi tay lăn lông lốc trên mặt đất. Kỳ Phương chạy vội đến đỡ cô đứng dậy, bất chợt kêu to hốt hoảng: 

- Nguyệt Cầm em sao vậy? 

- Em... em khó thở quá... - Sắc mặt bỗng đỏ bừng. Nguyệt Cầm đưa tay ôm ngực, hơi thở gấp gáp. 

- Chắc là cảm nắng rồi! 

Kỳ Phương vội vã bế Nguyệt Cầm đến một bóng cây. Sẵn chai dầu trong túi, anh thoa lên thái dương của cô và lo lắng hỏi:

- Em sao rồi? Có đỡ chút nào không? 

Chiếc đầu khẽ lắc, mi mắt khép lại, Nguyệt Cầm như bị mê đi. Hơi thở đuối dần, những đốm đỏ lan dần trên làn da trắng ngần của cô. 

Làm sao bây giờ? Kỳ Phương quýnh quáng. Biết không thể chần chờ, anh cúi xuống bế bổng cô lên cắm đầu chạy. Nguyệt Cầm, em đừng làm sao nhé. Không thì... anh sẽ ân hận lắm đấy. Tự dưng... sao lại trở bệnh như thế này. Trời ơi khổ! 

- Bác sĩ... bác sĩ... 

Hai tay ôm chặt Nguyệt Cầm, Kỳ Phương không thể nào nhấn vào chuông cửa, gấp rút quá, anh dùng chân đá mạnh vào cánh cửa rầm rầm. 

- Có chuyện gì? 

Bác sĩ Tùng ló đầu qua khe cửa với vẻ mặt lạnh lùng, Kỳ Phương lướt ngay vào, quýnh quáng: 

- Nguyệt Cầm... Bác sĩ... mau cứu Nguyệt Cầm. Cô ấy... 

- Trời ơi... sao thế này... - Vừa nhìn thấy sắc mặt Nguyệt Cầm, ông hoảng hốt cắt ngang lời Kỳ Phương. - Mau ẵm nó vào phòng. 

- Vâng... - Kỳ Phương bước như bay vào nhà. Dù vội vã anh vẫn kịp nhìn nhanh thấy ngoài phòng khách, người khách lạ hôm nào hỏi đường mình với 

Nguyệt Cầm đang ngồi trên ghế salon. Đôi mắt cú vọ của gã nhìn như nuốt chửng Nguyệt Cầm. 

- Đặt nó xuống giường mau! 

Nắm lấy tay con, bác sĩ chợt la to hớt hải khi thấy mạch yếu dần. Chụp nhanh ống thở oxy vào mũi con, ông vội vã làm tất cả những động tác cấp cứu dành cho một bệnh nhân. Trong giây phút sắc mặt Nguyệt Cầm dần trở lại hồng hào. Mạch nhảy tốt hơn. Cơn nguy kịch không còn nữa. Kỳ Phương bây giờ mới dám thở mạnh, cất tiếng: 

- Thưa bác sĩ, tôi chỉ rủ Nguyệt Cầm đi dạo, không ngờ... 

- Cậu đừng nói gì cả... - Giọng bác sĩ lạnh lùng. - Lập tức rời khỏi nơi này... 

- Cháu... muốn chờ cho Nguyệt Cầm tỉnh lại... - Kỳ Phương nhìn ông van xin. 

- Tôi không cần... - Đôi mắt ông quắc lên giận dữ, tóm lấy cổ áo Kỳ Phương, lôi xệch anh ta ra cửa, ông quát lớn. - Lũ con trai vô tích sự, tối ngày chỉ biết tán gái với nhậu nhẹt. Lấy tư cách gì theo đuổi Nguyệt Cầm chứ. Cút mau... và đừng bao giờ bén mảng đến nơi này. 

Vung tay đẩy mạnh Kỳ Phương ra ngoài, ông sập nhanh cửa lại. Tất cả diễn biến xảy ra nhanh quá, Kỳ Phương chẳng kịp có phản ứng gì. Anh chỉ thấy thái độ của ông hôm nay thật lạ, thật khác thường. Cả câu mắng của ông, cũng như muốn ám chỉ điều gì. Dường như... ông muốn khẳng định gã khách có đôi mắt cú vọ kia về quan hệ của mình đối với anh. Tại sao ông làm như vậy chứ Kỳ Phương cảm thấy mình đần độn hơn bao giờ hết.

° ° °

Sáng ra, vừa mở mắt đã thấy mọi người tụ tập trước sân nhà của mình xì xào bàn tán, Kỳ Phương vui vẻ lên tiếng hỏi: 

- Mọi người có chuyện gì vui thế? Kể cho tôi nghe với nào! 

Nghe tiếng anh, đám đông quay lại, không phải tin vui như anh tưởng, một người hớt hải lên tiếng bảo: 

- Nguy rồi Kỳ Phương ơi, hồi hôm này con ma lại xuất hiện. 

- Con ma xuất hiện ư? - Kỳ Phương lẩm bẩm. - Hôm nay mùng ba, phải còn đúng mười hai ngày nữa mới đến ngày con ma xuất hiện cơ mà. 

- Không chỉ thế! - Một người khác chen vào. - Con ma còn trở nên hung hãn hơn nhiều so với trước. Nó đã giết người bị mình hút máu. 

- Sao? - Kỳ Phương giật thót người. - Có chết người ư? Thế bác sĩ Tùng biết chuyện này chưa? 

- Chúng tôi đã báo cho bác sĩ biết. Nhưng ông ấy bảo chuyện này không liên quan gì đến mình, nên không muốn giải quyết.

Đám đông nhao nhao nói: 

- Chúng tôi phải tìm đến anh đây! 

- Được rồi, đưa tôi đến nhà người bị nạn mau. 

Xăng xái bước đi, Kỳ Phương quên mất mình chưa kịp đánh răng, rửa mặt. 

- Con ơi là con... trời ơi... con tôi chết oan ức quá! 

Chưa bước vào nhà, Kỳ Phương đã nghe tiếng người mẹ khóc con thảm thiết. Thật tội nghiệp. Cậu bé mới mười ba tuổi. Kỳ Phương nhận ra đứa bé, nó chính là người dạy anh dán con diều hôm trước. 

- Bác ơi, để cháu xem nào. 

Lách đám đông bước vào, Kỳ Phương nắm tay đứa bé, hy vọng tìm ra chút hơi thở mong manh nào. 

- Sao cậu... con tôi còn cứu được không? - Người mẹ ngưng khóc, ngước đôi mắt lên chờ đợi một phép màu. 

Nhưng Kỳ Phương lặng lẽ lắc đầu. Chẳng còn chút hy vọng nào. Toàn thân đứa bé đã cứng đờ, lạnh ngắt. 

Trên cổ áo vết răng cắn ngập vào bầm tím. Người mẹ nghẹn ngào kể lại: 

- Con ma đến lúc nửa đêm. Nó định tấn công tôi nhưng thằng Toàn cản lại, đấu vật tay đôi cùng với nó. Tôi sợ quá hét to lên cầu cứu, nhưng nhà tôi nằm ở sâu quá chẳng ai nghe. 

- Thế sao dì... không chạy đi kêu cứu? - Kỳ Phương thắc mắc. 

Người đàn bà kéo ống quần lau nước mắt: 

- Tôi không thể bỏ đi, để một mình con tôi với con ma được. Tôi phải giúp nó đánh trả con ma. Nhưng... con ma mạnh lắm. Giằng co được một lúc, tôi bị nó xô té đập đầu vào cạnh giường ngất xỉu. Đến khi tỉnh lại trời đã sáng. Con tôi cũng đã chết rồi... trời ơi... tôi phải làm sao... 

- Cậu Phương, cậu Phương...cứu tôi... cứu tôi với... 

Vừa ngồi xuống định nói vài lời an ủi với người mẹ bất hạnh, Kỳ Phương đã vụt đứng lên vì giọng một người kêu lớn thất thanh. 

- Cứu tôi với... Những người bị ma cắn đồng loạt lên cơn khát máu, họ tấn công tôi và sắp đến đây rồi. 

Một người, rồi nhiều người chạy vội vào nhà. Chưa kịp hiểu chuyện gì Kỳ Phương đã thấy sau lưng họ một đoàn nhiều người khác, mắt đỏ ngầu, mặt đằng đằng sát khí đuổi sát một bên. Nhận ra đó là đoàn người lên cơn khát máu. Kỳ Phương lanh trí kêu to: 

- Đóng cửa lại mau. 

Cánh cửa được đóng lại ngay lập tức. Cũng may là nhà này chỉ có một cửa thôi, lại vô cùng chắc chắn. Nếu như... ở cái chuồng bò trống huơ của mình, Kỳ Phương không biết xử trí thế nào. 

Nhưng đoàn người lên cơn khát máu thật tinh khôn. Cánh cửa được cài chặt bên trong vẫn không khiến họ chùn lòng. Họ tìm đủ mọi cách để lọt vào, cố phá cửa, cố trèo lên cả nóc nhà. 

Cứ trốn như thế này thì không phải cách. Sớm muộn gì thì họ cũng phá được nhà. Đám dân làng xôn xao, lo lắng. Tình thế cấp bách quá, bác sĩ lại không có mặt, túng cùng Kỳ Phương quyết định ra lệnh cho đám trai làng: 

- Hãy theo cách cũ, đánh cho họ ngất xỉu rồi hãy tính. 

Vâng lời anh, đám trai làng đem theo gậy gộc, cuốc kẻng, lẻn ra ngoài bằng cửa sau bất ngờ tập kích. 

Đoàn người đang khát máu do lo tấn công không phòng bị, nên đám trai làng dễ dàng đập cho ngất xỉu. 

Chưa đầy mười lăm phút, Kỳ Phương đã nghe họ gọi lớn: 

- Anh Phương ơi, chúng tôi đã giải quyết xong, anh mở cửa ra đi. 

Bước ra ngoài, nhìn đám người nằm ngổn ngang một đống ngoài sân, Kỳ Phương hỏi một trai làng: 

- Anh có biết bọn họ bao nhiêu người không? 

- Một trăm sáu chục người. - Anh trai làng trả lời ngay. - Chúng tôi vừa mới đếm xong. 

- Một trăm sáu chục người? Nhiều đến thế sao? - Kỳ Phương choáng giật mình. Bấy lâu nay, vì bọn họ nằm rải rác khắp làng... tấn công lẻ tẻ, anh ngỡ chỉ độ chừng vài ba chục người thôi. 

- Mình làm gì bây giờ anh Phương? - Một người như là thân nhân của người kia lo lắng hỏi. - Nếu không kịp truyền máu, bọn họ sẽ chết mất. 

- Cái này... - Kỳ Phương nghe rối rắm. Chúng ta nên đến gặp bác sĩ thì hơn. Tôi không tin là ông ta bỏ mặc, thấy chết không cứu đâu. 

- Thử một lần nữa xem... - Đám đông ngần ngừ rồi cũng vâng lời. 

Trước khi kéo nhau đi, Kỳ Phương còn cẩn thận bảo đám trai làng đem hết bọn người ma ám vào nhà, cài chặt cửa, đề phòng bọn họ tỉnh lại tấn công bất ngờ, trở tay không kịp. 

- Anh bạn trẻ, giải quyết gọn lắm, khoa học lắm. Đang cài chốt cửa, Kỳ Phương chợt nghe sau lưng mình giọng người đàn ông vang lên rờn rợn. Quay đầu lại, anh nhận ra người khách lạ hôm nào. 

- Hãy để bọn người ấy đến gặp bác sĩ. Tôi có chút chuyện riêng muốn bàn với cậu đây. - Chẳng để Kỳ Phương kịp lên tiếng hỏi, ông ta nói luôn một hơi dài. 

Vốn không có cảm tình với đôi mắt soi mói và gương mặt có vẻ gian xảo của ông, Kỳ Phương lắc đầu, lạnh lùng: 

- Xin lỗi, ngay lúc này tôi không thể làm theo anh được. 

- Chỉ một phút thôi. - Song thấy Kỳ Phương vẫn quay lưng lại, gã nói nhanh. - Nếu cậu muốn biết chân dung thật của con ma gây nên tai hoạ. 

Miếng mồi câu quá ngon lành, Kỳ Phương không cưỡng nổi được lòng, quay ngoắt lại ngay: 

- Ông biết con ma là ai ư? 

- Phải. - Gã gật đầu. - Lúc này đoàn người đã đi được một đoạn khá xa rồi. Nên gã không cần sợ ai nghe trộm nữa. - Cậu... có thành kiến với tôi, vì ngỡ tôi là kẻ xấu phải không? 

- Tôi... - Kỳ Phương không thể phủ nhận một khi ông ta đã biết rõ ràng. 

- Không sao. - Gã mỉm cười. Một nụ cười đôn hậu nhưng vẫn không làm cho Kỳ Phương có cảm tình. 

Giác quan thứ sáu bảo với anh rằng gã không thể nào là người tốt. 

- Thật ra... cậu đã hiểu lầm. Cả dân làng ở đây cũng thế. Từ lâu các người đã bị gã bác sĩ kia lừa gạt. Sự thật tên của gã là Hữu Bằng. 

Cảm thấy bất bình thay cho bác sĩ, Kỳ Phương lên tiếng cãi: 

- Đôi lúc giấu tên không phái là sự lừa gạt. 

- Đúng là giấu tên không phải là lừa gạt vì nó cũng là chuyện nhỏ. Nhưng... - Đưa tay quẹt mũi một cái, gã cho nổ luôn một trái bom đã bật sẵn ngòi. - Gây đại hoạ cho cả làng mới là chuyện lớn. Con ma mà các người đang tìm kiếm chính là Nguyệt Cầm. Con gái yêu của ông ta. 

- Nguyệt Cầm là con ma ư? - Kỳ Phương bật lên cười lớn. - Ôi... không còn vô lý nào bằng. - Rồi anh giận dữ. 

- Này ông, ông đã làm mất thời gian bằng câu chuyện nhảm nhí của mình rồi đó. 

- Không nhảm nhí, cũng chẳng hoang đường đâu. Gã cất giọng lạnh lùng. Nếu không tin, đêm nay cậu cứ mời Nguyệt Cầm đi dạo một vòng sẽ rõ. 

Lời ông ta khẳng định quá, Kỳ Phương hoang mang: 

- Tại sao ông lại nói chuyện này cho tôi nghe chứ? 

- Vì cậu là phóng viên. - Ông ta mỉm cười nham hiểm... - Tôi muốn cậu công bố chuyện này lên mặt báo. Cậu bé, hãy nên cảm ơn ta. Vì cậu sẽ trở nên nổi tiếng nhờ bài phóng sự tuyệt vời này. Thôi, bấy nhiêu đó đủ rồi, tin hay không, tuỳ cậu. - Vỗ nhẹ lên vai Kỳ Phương một cái, ông ta quay lưng bước đi ngay. Thoắt cái đã biến mất vào lùm cây trước mặt. Bí hiểm, bất ngờ như câu chuyện ông ta vừa kể vậy. 

Nguyệt Cầm là con ma mà anh và mọt người đã tìm kiếm bấy lâu ư? Ông ta đi mất lâu rồi mà Kỳ Phương vẫn còn sững ra bất động. Và... có lẽ... anh sẽ còn đứng mãi như thế không biết cho đến bao giờ, nếu như đừng có ai đó đập vào vai mình một cái. 

- Anh bạn trẻ, mau vào giúp một tay nào? 

Giật mình, ngẩng nhanh đầu dậy, Kỳ Phương chợt kêu lên mừng rỡ: 

- Bác sĩ. 

- Thì là tôi đây, cậu làm gì mà mừng quýnh vậy? 

Vẫn cái gọng càu nhàu quen thuộc vừa lạnh lùng, vừa tình cảm làm sao. Kỳ Phương không nhận ra ngay. Tự nhiên, anh nghe từ lồng ngực mình thở phào ra một hơi dài nhẹ nhõm. Dù ai có nói gì, anh vẫn tin ông là một bác sĩ nhân từ tốt bụng.

° ° °

Không tin, không bao giờ tin Nguyệt Cầm là con ma hung ác, là nỗi ám ảnh dân làng trong nhiều ngày tháng vừa qua, nhưng để khẳng định lập trường vững chắc của mình. Đêm nay Kỳ Phương sẽ lén lút mời cô đi dạo như lời gã kia đã mách. 

Lần này Nguyệt Cầm không phải leo rào, cũng chẳng gặp phải chút khó khăn nào. Bởi cha của cô còn mải lo cứu chữa cho một trăm sáu mươi bệnh nhân đang lên cơn khát máu. 

Đi chơi giữa lúc công việc bộn bề, Kỳ Phương cũng thấy lòng ray rứt lắm. Hơn ai hết, anh biết rõ, bác sĩ phải khó khăn vất vả như thế nào mới có thể cứu chữa được một số lượng bệnh nhân như thế. 

Những con bệnh đã lên cơn đột ngột, cũng như con ma đột nhiên xuất hiện không đúng lệ thường đi làm mọi việc rối tung lên. Đầu tiên là việc phòng thủ. 

Kế đến là số lượng máu dự phòng. Phải đến mười hai ngày nữa thì số lượng máu đăng ký ở trung tâm huyết học mới được điều về. Trong lúc cấp bách này, lấy đâu số lượng máu cần thiết để tiếp đủ cho hơn một trăm sáu mươi con bệnh. 

Đành nhìn họ chìm dần vào cái chết ư? Không kịp đưa họ lên tuyến trên. Đoạn đường xa quá... nhìn những thân nhân của những con bệnh tối sầm đi, lòng Kỳ Phương đau nhói. 

- Có cách giải quyết rồi... 

Giữa bốn bề im lặng, giọng bác sĩ bỗng vang lên mừng rỡ. Ồ!... Mắt Kỳ Phương sáng bừng lên. Không cần ông lặp lại đến hai lần, những người dân làng đồng loạt xắn cao tay áo. Tự nguyện hiến dòng máu đỏ của mình cứu sống đồng loại. 

Cảm động thay, cao quý thay lòng nhân đạo. Cùng bác sĩ cắm kim vào tĩnh mạch những con người vốn còm nhom, gầy yếu vì cuộc sống khó khăn, mắt Kỳ Phương bỗng cay xè. Cùng với họ, anh cũng bằng lòng hiến một phần máu đỏ. 

- Ba à, cho con hiến máu với. 

Nguyệt Cầm cũng xắn cao tay áo. Nhưng... bác sĩ đã lắc đầu: 

- Không được. 

- Sao thế? - Nguyệt Cầm níu áo cha nải nỉ. - Ba đừng thương con quá! Cho con hiến máu cứu người với. Kẻo mọi người lại nghĩ ba vị thân, vị kỷ bây giờ... 

Mặc cho con gái nài nỉ, bác sĩ vẫn cứng lòng. Ông có quyền làm thế, dân làng không trách. Nhưng... Kỳ Phương lại không nghĩ thế. Ông không bao giờ vị thân vị kỷ. Không lấy máu Nguyệt Cầm... hẳn ông có một lý do chính đáng. 

- Kỳ Phương! Anh sao vậy? Nãy giờ ra đây thấy anh trầm ngâm chẳng nói lời nào! 

Giọng Nguyệt Cầm vang lên trong trẻo. Giật mình thoát khỏi cơn suy tưởng, Kỳ Phương quay người lại, dưới ánh trăng đêm, vẻ mặt lo lắng của Nguyệt Cầm hiện ra đẹp hơn bao giờ hết. Gương mặt này mà lại có thể xấu xa kinh khiếp như con ma trong tấm anh hôm nào ư? Thật là một lời phỉ báng, một sự xúc phạm không thể nào tha thứ được. Tự nhiên nghe giận sôi, Kỳ Phương nghiến răng mắng lớn: 

- Đồ vu khống, khốn kiếp... 

- Sao anh mắng em? 

Thấy Kỳ Phương bỗng hét lên, Nguyệt Cầm sợ hãi,co rúm người lại. 

Kỳ Phương ôm lấy vai cô: 

- Đừng sợ, anh không phải mắng em. 

Đôi mắt cô gái hoang mang mở lớn: 

- Thế anh mắng ai? 

- Một thằng khốn kiếp. - Trong cơn tức giận, Kỳ Phương không thể kiềm lại. Hắn dám bảo em chính là con ma hút máu. 

- Em ư? Em là ma ư? - Quá đỗi kinh hoàng, Nguyệt Cầm run rẩy lùi về sau một bước. 

- Thế anh có tin không? 

- Nếu tin anh làm sao dám cùng em đi dạo. - Kỳ Phương bật cười lớn. 

Rồi sẵn trớn, Nguyệt Cầm đùa luôn: 

- Bộ anh không sợ em hút máu của mình sao? 

- Thật không thể tưởng tượng! 

Những lời nói của Kỳ Phương sao mà khủng khiếp. Nguyệt Cầm bỗng nghe cơ thể cồn cào một cảm giác lạ lùng. Danh từ "hút máu" sao như kích động, cơ thể nóng bừng, cổ họng cháy khô khiến Nguyệt Cầm chỉ muốn uống ngay một thứ gì đó. 

- Anh nói chơi bộ làm em giận hả? 

Giây lâu, không nghe Nguyệt Cầm lên tiếng, ngỡ cô giận thật Kỳ Phương quay sang xin lỗi. Nhưng chưa kịp quay đầu lại thì anh đã thấy một bàn tay móng vuốt đầy lông lá níu chặt cổ mình. 

Sợ hãi nhưng bằng một bản năng sinh tồn, Kỳ Phương vùng mạnh người ra rồi sững người chết lặng. Điều vô lý hoang đường nhất đang hiện ra trước mặt anh. Nguyệt Cầm, người con gái ngây thơ xinh đẹp nhất đời, dần lột xác trở thành một con ma kinh khủng nhất. 

Bất ngờ lẫn bàng hoàng khiến máu trong người Kỳ Phương như đông đặc lại. Ngẩng người ra như pho tượng đá, anh quên cả việc vùng chạy thoát thân. Đến khi con ma nhào lên chụp lấy mình, anh mới hoàn hồn chợt tỉnh. Không còn đường để chạy nữa rồi. Trong cơn bối rối, Kỳ Phương chợt nhớ đến lần thoát nạn của mình kỳ trước. Chiếc máy ảnh, con ma rất sợ thứ ánh sáng loé lên bất ngờ. Lần tay xuống lưng tìm chiếc đèn pin Kỳ Phương bất thần rọi thẳng vào mặt con ma. 

Ánh sáng đã làm con ma hoảng sợ mất một giây, đủ để Kỳ Phương chụp nhanh hòn đá dưới chân mình đập mạnh vào đầu nó. Cú đập vừa đủ mạnh làm cho con ma ngất xỉu. 

Thoát nạn, Kỳ Phương nhảy ào qua con mương trước mặt. Được mấy bước, Kỳ Phương bỗng dừng chân quay lại. Anh không thể bỏ mặt con ma, cũng không thể tri hô với mọi người vì đó là Nguyệt Cầm. Dù sao giữa anh và cô cũng có với nhau những điều tốt đẹp. Trước khi làm sáng tỏ chuyện này, anh biết mình phải giữ cho cô bí mật hôm nay. 

Nghĩ xong, anh cúi xuống bế bổng cô lên. Nương theo ánh trăng đêm, băng qua con đường tắt. Kỳ Phương trở về ngôi biệt thự một cách âm thầm.

° ° °

Truyền song bịch máu cuối cùng cho nạn nhân cũng quá nửa đêm. Cái bụng đói nhừ, lại thêm phần máu bị lấy ra làm cho ông xây xẩm mặt mày. Bước đến mâm cơm, ăn vội một chén cầm lòng, không kịp xỉa răng, uống nước, ông lại biến vào phòng làm việc. 

Thời gian không còn nhiều nữa đâu, ông biết mình bây giờ phải tranh thủ từng giây một. Tên Tony Hải đã bắt đầu hành động. Dù hắn không nói, nhưng ông biết. Sự việc hôm nay đã là một lời cảnh báo đối với ông. 

Lấy một mẫu máu đưa vào kính hiển vi, ông bỗng giật nẩy người lên sợ hãi. Mảnh kính rơi khỏi tay xuống đất vở toang. Có mảnh ghim vào trúng chân đau điếng, ông vẫn thừ người bất động. 

Chung cuộc, sắp kết thúc rồi ư? Ngồi thừ xuống ghế, ông nghe mồ hôi tuôn ròng trên thái dương mình. Dù hơn ai hết, ông là người biết rõ cái kết quả này. Nhưng... không ngờ... ông thật không ngờ mọi việc lại diễn ra nhanh đến thế. 

Reng reng reng... 

Tiếng chuông cửa chợt dồn dập. Giương đôi mắt thất thần nhìn vào đám ống nghiệm, ông không buồn đứng dậy. 

Tiếng chuông cửa kiên nhẫn vang lên, vang lên từng hồi thúc giục. Buộc lòng, ông phải đứng lên, chậm rãi bước ra cửa: 

- Bác sĩ, Nguyệt Cầm...cô.... 

Cánh cửa vừa hé mở, Kỳ Phương xộc ngay vào. Phải bế nguyệt Cầm suốt quãng đường dài, anh mệt quá, nói không ra hơi nữa. 

Vừa nhìn thấy Nguyệt Cầm nửa người nửa ma, đầu lông lá, sắc mặt ông tái nhợt đi. Không nói một lời, giằng lấy Nguyệt Cầm khỏi tay Kỳ Phương, ông bế vội cô vào phòng làm việc. 

- Cô ấy đang cùng tôi đi dạo... không hiểu sao... 

Bước theo ông, Kỳ Phương vụng về giải thích. Anh không biết mình đáng khen hai đáng trách thước khám phá khủng khiếp này. 

Không để ý đến Kỳ Phương, nét mặt ông đầy căng thẳng, hơi thở của Nguyệt Cầm đã yếu lắm rồi. Số lượng hồng cầu trong cô thiếu hụt đến mức không đủ vận chuyển ôxy cho cô nữa. 

- Máu! Ông nhìn quanh phòng rồi thở dài tuyệt vọng. Tất cả số máu tìm được đã truyền hết cho bệnh nhân. Chỉ còn một cách duy nhất nũa thôi. Quay sang nhìn Kỳ phương một cái, ông quyết định. 

- Kỳ Phương, cậu lập tức lấy giùm tôi một đơn vị máu. 

- Vâng... - Cầm lấy ống kim, chợt nhớ ông vừa mới cho máu xong, Kỳ Phương dừng tay lại. 

- Không được. Ông vừa lấy một lần, nếu lấy nữa, e nguy đến tính mạng. 

- Nhưng... Nguyệt Cầm không thể chết! Cậu lập tức làm theo lời của tôi đi. - Giọng ông vẫn lạnh lùng ra lệnh. 

- Không. - Kỳ Phương vẫn cương quyết lắc đầu. - Dù không biết chuyện gì nhưng tôi biết bác sĩ không thể chết vào giờ phút quan trọng này. Nếu cần máu để cứu Nguyệt Cầm, ông hãy lấy máu của tôi. 

- Nhưng cậu có khác gì tôi đâu, cũng mới vừa cho máu. - Ông thở dài buồn bã. Lời Kỳ Phương nói đúng. Ông không thể chết, không thể bỏ dở công việc của ông lúc này. Càng không thể lặng yên bó tay nhìn Nguyệt Cầm đi vào cõi chết. 

- Tôi sẽ đi tìm người hiến máu. - Kỳ Phương bỗng nảy ra một ý. 

Ông chậm rãi lắc đầu: 

- Không kịp đâu... nếu không có máu, Nguyệt Cầm sẽ chết trong vòng ba phút nữa. 

Lời từ miệng ông nói ra, Kỳ Phương không có lý do gì để nghi ngờ. Lặng lẽ quay người lại, nhìn Nguyệt Cầm thiêm thiếp giữa cơn mê, lòng anh như thắt lại. Dù bây giờ... đã biết cô chính là con ma mà mình từng quyết tâm tiêu diệt, Kỳ Phương vẫn không đành lòng nhìn cô đi vào cái chết. Bên tai, tiếng ông khóc nấc lên đau khổ: 

- Là tại tôi, tất cả là tại tôi... tạt sao ông trời lại bắt Nguyệt Cầm phải chịu. Nó ngây thơ, vô tội chẳng biết gì... 

- Bác sĩ... những ống máu kia... 

Chợt nhìn thấy những ống nghiệm chứa đầy máu đỏ trên bên làm việc, Kỳ Phương kêu lên mừng rỡ: 

- Ông có thể lấy máu đó truyền tạm cho Nguyệt Cầm không? 

- Hả? - Ông ngẩng ngay đầu dậy, ngập ngừng. Những ống máu này... không phải của Nguyệt Cầm. Ông vừa lấy từ người của những bệnh nhân để phân tích. Nó hãy còn mới lắm chưa kịp đông đặc lại. Liệu... có dùng được không...? 

- Được hay không thì... ông cũng phải thử thôi. May ra... tâm trí như bừng sáng, ông quay bảo Kỳ Phương: 

- Cậu mau bơm hết những ống máu vào kim tiêm cho tôi. 

Ông định truyền máu trực tiếp cho Nguyệt Cầm bằng kim ư? - Kỳ Phương e dè trước cách truyền máu quá mạo hiểm của ông. 

- Không còn thời gian nữa, đành phải liều thôi. - Vừa nói, ông vừa cầm phập ống tiêm vào tay Nguyệt Cầm. 

Một cách chính xác, không dám chậm trễ, Kỳ Phương vội làm theo lời ông, hút hết những ống máu vào kim tiêm và trao nó cho ông. Chưa đầy nửa tiếng, ông và anh đã bơm hết hai mươi ống máu vào người Nguyệt Cầm. Thế nào... có khả quan chút nào không? - Nhìn ông rút kim khỏi tay Nguyệt Cầm, Kỳ Phương hồi hộp hỏi. 

Không trả lời anh, ông nhẹ nhàng cầm tay con lên tìm mạch, thời khắc trôi thật chậm chạp. 

- Sống rồi. Thành công rồi! 

Ba phút trôi qua, giữa lục Kỳ Phương có cảm giác không còn gì để chờ đợi nữa thì... ông bỗng hét to lên mừng rỡ. 

- Sống rồi ư? - Như chưa tin, Kỳ Phương hỏi lại ông. 

- Sống rồi.... - Ông ôm chầm Kỳ Phương vào lòng, bật lên tiếng khóc lớn. Nguyệt Cầm đã sống rồi... Kỳ Phương... chính cậu là ân nhân của nó. Tôi thật không biết nói gì... Cảm ơn cậu... cảm ơn... 

- Đừng nói như thế! - Kỳ Phương nghe mắt cay xè. - Tôi cũng tình cờ nghĩ ra thôi. Ông... bác sĩ... ông nhìn kìa... 

Bỏ ngang câu nói giữa chừng, Kỳ Phương hướng mắt về chiếc giường Nguyệt Cầm đang nằm. Có một sự đổi thay kỳ diệu mà không tận mắt chứng 

kiến, sẽ không thể nào tin nổi. Từ một con ma đầy lông lá, Nguyệt Cầm dần trở lại hình dáng cũ của mình. Đẹp, hồn nhiên như một thiên thần. 

Quay đầu nhìn con một lần nữa ông lại trào nước mắt. Rồi bàn tay thành kính chấp lên giữa ngực, ông nói trong tiếng nấc nghẹn ngào: 

- Cảm ơn trời... 

Có rất nhiều câu hỏi quay tròn trong trí óc Kỳ Phương. Hơn bao giờ hết, anh muốn hỏi ông cho ra lẽ, rằng tại sao lại thế, có thuốc nào chữa được bệnh của Nguyệt Cầm không? Nhưng trước nỗi xúc động của người cha, anh lại thấy mình không thể mở lời. Lịch sự, Kỳ Phương gật đầu chào: 

- Xin phép bác sĩ, tôi về. 

- Cậu về ư? - Ông ngẩng đầu lên, tỏ vẻ ngạc nhiên. - Cậu không muốn nghe tôi kể chuyện này sao? 

- Tôi rất muốn, nhưng... - Kỳ Phương mỉm cười, dối lòng. - Trông ông mệt mỏi quá... nên, hẹn một ngày gần đây vậy! 

- Không... không hẹn được. - Lắc đầu, ông cất giọng trầm buồn. - Cậu hãy ngồi xuống ghế. Tôi sẽ kể. Ngay đêm nay hoặc không bao giờ nữa. 

Vẻ mặt ông đầy nghiêm trọng, Kỳ Phương không dám cãi lời. Ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh giường Nguyệt Cầm, anh lắng tai nghe từng lời ông kể. Câu chuyện bắt đầu từ hai mươi năm về trước, khi ông chưa thay tên đổi họ, khi ông vừa hoàn thành học hàm thạc sĩ hạng ưu. 

Và tuy tuổi đời còn rất trẻ, ông đã làm cho giới khoa học ngạc nhiên với công trình nghiên cứu của mình "Gen di truyền học". Quyển sách của ông được viện hàn lâm chú ý. Họp bàn nhau, họ quyết định tặng ông danh hiệu tiến sĩ. Không chỉ thế... họ còn muốn mời ông về viện hàn lâm cùng cộng sự...Cầm tờ giấy nơi tay, Hữu Bằng hết đứng lại ngồi. Anh không biết dùng từ gì để diễn tả hết tâm trạng vui mừng của mình vào lúc này. Trở thành giáo sư trong viện hàn lâm. Anh... có nằm mơ cũng không bao giờ dám mơ đến một điều tuyệt vời hơn thế. Xuất thân từ một gia đình lao động nghèo, đông anh em, Hữu Bằng là đứa con duy nhất được cha mẹ cho học đến nơi đến chốn. Không phải anh ích kỷ. Nhiều lúc, nhìn cha mẹ vất vả, tần tảo kiếm miếng ăn. Anh chị em cha mình lem luốc tìm kế mưu sinh, Hữu Bằng cũng thấy xót xa, đau lòng lắm. Rất nhiều lần, anh đòi bỏ học ngang để phụ giúp cha mẹ. Nhưng... mọi người, từ cha mẹ đến các anh chị em của anh đều không đồng ý. Họ bảo: 

- Gia đình ta dốt nát, nghèo khổ chịu sự khinh khi, rẻ rúng của người đời bấy lâu nay. Giờ chỉ còn trông mong vào một mình anh. Nếu muốn trả ơn, anh hãy cố gắng học cho thật giỏi, đỗ thật cao, làm rạng rỡ dòng họ. Đổi đời hay không giờ chỉ còn hy vọng vào mỗi mình Hữu Bằng thôi. 

Những lời nói đó đã động viên Hữu Bằng rất nhiều. Trong suốt cuộc đời học sinh của mình, anh luôn luôn là người đứng đầu danh sách dù điều kiện học luôn thiếu thốn, thua sút mọi người. Giành được bằng tiến sĩ. Hữu Bằng đã làm được điều mình hứa cùng cha mẹ và anh chị. 

Hôm qua, Hữu Bằng đã đem mười triệu đồng, số tiền thưởng từ công trình nghiên cứu của mình về cho cha mẹ. Họ không nhận, bảo tất cả là của anh. Nhưng Hữu Bằng chỉ xin nhận lại một triệu đồng tặng vợ. Còn bao nhiêu xin cha mẹ hãy giữ lấy và chia cho các anh chị của mình. 

Thấy Hữu Bàng sống có nghĩa có tình, cha mẹ vui lòng lắm. Họ nhận bốn triệu, còn bao nhiêu chia đều cho các đứa con khác. Thời gian trôi, các anh chị Hữu Bằng bây giờ đã lớn, đều có gia đình riêng. Cuộc sống vất vả, bôn ba như ngày trước. Nhưng... không giống với các gia đình khác. Gia đình của Hữu Bằng là một khối đoàn kết, thương yêu khăng khít, quan tâm lẫn nhau như hãy còn ở chung dưới một mái nhà đầm ấm ngày xưa. 

Những chăm sóc, cưu mang của mọi người dành cho anh khi mình còn đi học, Hữu Bằng ghi nhớ mãi, anh nhất định sẽ đền đáp khi có dịp và anh cũng tin rằng Hương Huyền ủng hộ anh. 

Hương Huyền, là cô vợ mới cưới được một năm của Hữu Bằng. Cô đẹp người, đẹp nết, từng nổi danh là hoa khôi trường đại học Y. Nhưng không phải 

vì thế mà Hữu Bằng đã cưới cô khi tuổi đời còn quá trẻ, trong tay chưa có sự nghiệp. Từ ngày còn ngồi ở trường đại học, Hữu Bằng vẫn tự nhủ lòng mình rằng, chỉ lập gia đình khi thực hiện xong tâm nguyện. 

Tâm nguyện của anh là báo đáp nghĩa sanh thành cho cha mẹ. Đền trả công ơn của anh chị đã lo lắng cho anh ăn học thành tài. Và nhất là anh phải tự tạo cho mình một sự nghiệp vững chắc. 

Vậy mà... chưa rời ghế nhà trường, Hữu Bằng đã vội vàng cưới vợ. Anh không hề có ý định cũng không quen biết Hương Huyền. Tất cả đều là sự sắp đặt của thầy chủ nhiệm. Thương cậu học trò nghèo hiền lành, chăm làm, hiếu học lại hết mực thương mình, ông đã mở lời tự nguyện đứng ra lo cho tất cả. 

Trước sự yêu mến, nhiệt tình của ông, Hữu Bằng không thể từ chối. Đám cưới của anh được tổ chức đơn giản nhưng thật vui dưới sự chứng kiến của toàn thể giáo sư, sinh viên trường đại học Y khoa. Trong những tiếng trầm trồ, ngưỡng mộ, Hữu Bằng biết cũng không ít tiếng thở dài, tiếc rẻ của các chàng trai một thời đeo đuổi Hương Huyền. 

Mình quả may mắn! Mỉm một nụ cười Hữu Bằng hướng mắt ra cửa trông chờ. Hương Huyền đi chợ vẫn chưa về. Cô không biết anh đã hạnh phúc và tự hào thế nào về mình. Cũng như tấm bằng tiến sĩ, Hương Huyền là giấc mơ đẹp nhất cuộc đời anh. 

- Xin lỗi, anh có phải là Hữu Bầng, người vừa đạt danh hiệu tiến sĩ? 

Một giọng nam trầm chợt cắt ngang dòng suy nghĩ của Hữu Bằng. Giật mình ngẩng đầu lên. Nhận ra trước mắt mình là một thanh niên ăn mặc bảnh bao, lịch sự, Hữu Bằng đứng hẳn lên khỏi ghế. 

- Vâng ạ! Chính tôi là Hữu Bàng! 

- May quá! - Người mới đến cười vui vẻ. - Tôi đến gặp anh đây. 

- Vâng! - Hữu Bằng gật đầu hoang mang. - Mời anh ngồi ghế.. 

- Cứ để tôi tự nhiên. - Ngồi xuống chiếc ghế đẩu tạp thường, người thanh niên đưa mắt nhìn quanh căn nhà lá nhỏ của Hữu Bằng. - Nhà của anh đây à? 

- Vâng - Cảm thấy khó chịu trước cái nhìn soi mói của người khách không quen, Hữu Bằng vào thẳng vấn đề: 

- Xin lỗi... anh đến gặp tôi có chuyện gì? 

- Chậm đã! - Nhếch nụ cười khó hiểu, anh ta lấy từ trong túi ra một gói thuốc thượng hạng. Đưa ra trước mặt Hữu Bằng, anh ta mời. - Dùng một điếu đi. 

- Cám ơn! - Hữu Bằng nhẹ đẩy tay - Tôi không biết hút thuốc. 

- Thật đáng tiếc! - Cho gói thuốc vào túi, anh ta bắt đầu giới thiệu. - Tôi là Tony Hải... 

Anh ta là người lai. Bây giờ Hữu Bằng mới để ý đến chiếc mũi cao, đôi mắt xanh và mái tóc hoe hoe không thuần Việt Nam. 

- Giám đốc nghiên cứu sinh học, tôi đến đây để mời anh cùng cộng tác. 

Viện nghiên cứu sinh học! Hữu Bằng có nghe danh. Đây là một viện nghiên cứu của người nước ngoài. Có không ít lời đồn đại về nơi này. Tất cả các nhà khoa học chân chính đều không có cảm tình với nó. Nhưng... vì sao... Hữu Bằng chưa biết rõ. 

- Cảm ơn ông đã có lời mời! - Mỉm cười nhã nhặn, Hữu Bằng tìm lời từ chối. - Cách đây một tiếng tôi đã nhận lời mời vào làm cộng sự trong viện hàn lâm. 

- Cộng sự với viện hàn lâm ư? - Tony Hải bỗng bật cười lớn. - Anh hãy mau rút lại quyết định của mình. Đó là một quyết định sai lầm đấy. 

- Sai lầm ư? - Đôi lông mày Hữu Bằng chau lại. - Vì sao thế? 

- Vì.. đó không phải là nơi mà anh có thể phát huy hết năng lực của mình. - Tony Hải nghiêm nét mặt. 

- Viện hàn lâm chỉ là một nơi cho các lão già cổ lỗ sĩ nghiên cứu những thứ chán phèo vô dụng thôi. 

- Những giáo sư già giàu kinh nghiệm không phải là những người già cổ lỗ sĩ. - Hữu Bằng cảm thấy bất bình trước cách ăn nói của Tony Hải. - Và những công trình nghiên cứu của họ không phải là những thứ chán phèo, vô dụng. Nó thật sự hữu ích cho cuộc sống. 

- Có thể! - Tony Hải không nao núng. - Nó hữu ích cho cuộc sống nhưng không hữu ích cho bản thân anh. Với tiền lương một triệu đồng một tháng thì liệu đến bao giờ anh mới có thể tròn tâm nguyện của mình. 

- Anh nói gì? - Hữu Bằng giật thót người. Trân trối nhìn gã đàn ông ngồi trước mặt, anh không biết gã là ai, sao có thể hiểu được tâm sự của anh như thế. 

- Phải... tâm nguyện của bố anh. - Tony Hải lại mỉm cười một nụ cười thấu hiểu. - Sẽ nhanh chóng được thực hiện nếu như anh chấp nhận lời mời cộng tác với viện nghiên cứu anh học của tôi. Với mức lương khởi đầu mười triệu đồng một tháng... anh có cảm thấy mình cần suy nghĩ lại cái quyết định trước đây cửa mình không? 

- Mười triệu đồng một tháng ư? - Tai Hữu Bằng như ù đi trước sức hấp dẫn của đồng lương vượt quá sức tưởng tượng. 

- Đúng vậy! - Gật đầu, Tony Hải đưa ra một miếng mồi câu nữa. - Và số tiền đó còn tăng đến mức bất ngờ nếu anh có khả năng tốt. Ngoài ra, anh sẽ còn được làm việc trong một môi trường hiện đại và đầy đủ phương tiện. Công trình nghiên cứu gen... đề tài anh yêu thích được chúng tôi quan tâm hàng đầu. Anh đồng ý cộng tác với chúng tôi chứ? 

Những ý nghĩ quay cuồng làm rối tung đầu óc Hữu Bằng. Cơ hội trước mắt quá lớn lao. Liệu anh có nên từ chối viện hàn lâm... niềm mơ ước một đời hay cái viện nghiên cứu sinh học gì đó... với tâm nguyện báo đền cha mẹ. 

- Đừng đắn đo suy nghĩ nữa, chứng bệnh ung thư phổi của ba anh không chờ đợi được lâu đâu. 

- Anh nói gì? - Hữu Bàng ngẩng nhanh đầu dậy. - Ba tôi bị ung thư phổi à? Sao ông không nói gì cho tôi biết? 

- Ông già giấu anh thôi. - Rút từ trong cặp ra một xấp hồ sơ được photo, Tony Hải ném mạnh xuống bàn, trước mặt Hữu Bằng. - Là bác sĩ, anh hẳn biết đọc các xét nghiệm. 

Cầm lấy tờ xét nghiệm, mắt Hữu Bằng vụt tối sầm đi! 

Đúng là kết quả xét nghiệm của ba rồi, ông đã bị ung thư phổi từ lâu lắm. Vậy mà... vẫn âm thầm một mình cam chịu, giấu vợ giấu con. 

- Tôi chỉ nói vậy thôi, còn quyết định vẫn là của anh. Có đúng không? - Tony Hải vụt đứng lên khỏi ghế. - Hãy suy nghĩ kỹ rồi quyết định cũng chưa muộn. Danh thiếp của tôi đây, chào anh. 

Với tâm trạng một kẻ nắm chắc trong tay phần thắng, Tony Hải ngạo nghễ bước đi, bỏ mặc Hữu Bằng với tờ xét nghiệm trên tay. Giữa ơn nghĩa sinh thành và danh tiếng của bản thân mình, anh biết mình chỉ được quyền chọn một.

° ° °

Cuối cùng Hữu Bằng quyết định chọn nhận lời cộng tác với Tony Hải. Anh không thể bỏ mặc cha trong cơn bệnh ngặt nghèo đau đớn thể xác vô cùng. Hai tháng lương ứng trước đủ để vô hoá chất lần đầu hòng ngăn chặn chứng ung thư. 

Thật ra... cũng không có gì quá lắm. Hữu Bằng không cảm thấu quyết định của mình là một sự hy sinh như lời các anh chị truyền tụng. Với anh, viện hàn 

lâm hay viện nghiên cứu sinh học cũng giống nhau thôi. Tất cả đều vì con người mà sáng tạo. 

Thế nhưng... sự đời thường không đơn giản như Hữu Bằng lầm tưởng. Hai tháng làm việc ở viện nghiên cứu, bây giờ anh mới biết Tony Hải là người như thế nào, và mục đích của viện nghiên cứu sinh học nhằm phục vụ cái tên viện nghiên cứu sinh học, thật ra chỉ là một cái tên dùng để che mắt mọi người. Nó cũng không thuộc một quốc gia, một tổ chức nào trên thế giới. Nó là của Tony Hải. Và... nó được thành lập chỉ để phục vụ cho những ý đồ đen tối và vụ lợi riêng bản thân lợi dụng sự sơ hở của nhà chức trách, Tony Hải ngang nhiên thành lập một viện nghiên cứu sinh học. Với tôn chỉ nghiên cứu môi trường, chế tạo các loại phân bón vi sinh, hắn đã ung dung bỏ tiền ra mua chất xám của các nhà khoa học. Khi nào có thiên tài về phát minh sáng chế, hắn lập tức tìm đến dùng tiền và thủ đoạn để dụ dỗ về Hữu Bằng là một thí dụ điển hình. 

Tony Hải đang nghiên cứu về vấn đề gì? Hữu Bằng không biết được. Anh chỉ biết hai háng nay hắn giao cho anh nhiệm vụ phân tích thành phần một loại máu trông rất lạ. Tò mò... nhiều lần Hữu Bằng muốn dò hỏi bạn đồng nghiệp cạnh bên. Nhưng chẳng một ai chịu mở lời nói rõ. 

- Hữu Bằng, anh có điện thoại, giám đốc mời anh lên phòng làm việc gấp. 

Chiếc nút đỏ trên bàn bật cháy, giọng cô thư ký thanh thanh. Hữu Bằng giật mình ngẩng dậy. Lau nhanh tay vào chiếc khăn, anh bước đi vội vã. 

- Hữu Bàng... ngồi đi. - Vừa thấy anh, Tony Hải vội đứng lên, niềm nở. Chưa kịp hiểu chuyện gì, hắn đã lấy ra một phong thư lớn trao cho Hữu Bằng. - Cho anh đây. 

- Tiền ư? - Hữu Bằng hé vội phong bì rồi kêu lên ngơ ngác khi nhận ra đó là tiền. - Rất nhiều, dễ chừng có đến hơn năm mươi triệu. 

- Phải. - Gật đầu, Tony Hải lại tiếp tục lấy ra một phong bì khác. - Và cái này nữa, sẽ là của anh nếu anh chịu nhận lời hợp tác với tôi. 

Đôi mắt mở tròn, Hữu Bằng như không hiểu. Không phải anh đã nhận lời làm việc với hắn rồi sao? 

- Đó chỉ là bước khởi đầu. Tôi cần anh cộng tác ở một công việc cao siêu, vĩ đại hơn nhiều. - Như hiểu nỗi thắc mắc của Hữu Bằng, Tony Hải đứng lên đến ngồi cạnh anh cất giọng dỗ dành. Một tài năng lớn như anh không thể phí phạm với những công việc phân tích đơn giản ấy. Hữu Bằng... có một tổ chức quốc tế muốn nhờ chúng ta chế tạo vũ khí sinh học cho họ. Tôi đã nhận lời là muốn anh cùng hợp tác. 

- Vũ khí sinh học ư? - Hữu Bàng thảng thốt. 

Xưa nay đã từng nghe vũ khí hạt nhân... anh chưa từng nghe đến loại vũ khí lạ lùng này bao giờ. Tony Hải vỗ vai anh thân mật: 

- Phải... một loại vũ khí khủng khiếp không cần đến nguyên tử. Nó không chỉ tiêu hao lực lượng đối phương mà còn làm cho tinh thần của họ bị suy sụp nữa. Hữu Bằng, ý tưởng này rất hay. Nếu thành công, tên tuổi của anh sẽ vang dội lẫy lừng và... dĩ nhiên số tiền anh có được trong vụ này sẽ là không tưởng nổi. 

Những ngón tay nắm chặt xấp tiền, Hữu Bằng nghe bối rối. Trong nhất thời anh không thể nào nghĩ được điều gì. Vũ khí sinh học? Điều đó đúng hay sai? Liệu rồi anh có phải hối hận trước quyết định của mình. 

Còn... từ chối thì cũng có nghĩa là anh không còn gì cả. Căn bệnh của ba càng lúc càng cần nhiều tiền hơn. Là một bác sĩ, nên không cần hỏi ai Hữu Bằng cũng biết sinh mệnh của cha lúc này như ngàn cân treo sợi tóc. 

Ông có thể chết bất cứ lúc nào, vậy mà anh chưa làm một điều gì báo hiếu. Hơn lúc nào hết, Hữu Bằng muốn sửa lại cho ba căn nhà tranh đang mục nát, để ông có thể cùng mẹ sống trong những ngày cuối đời, an nhàn thanh thản. 

Con của anh hai vừa đậu đại học, chồng chị ba cần một số tiền để gia cố thêm chuồng trại chăn nuôi... và bao nhiêu mối thâm tình đang cần anh giúp đỡ. Hương Huyền lại đang mang thai, cô không thể sống thiếu thốn sau khi sinh con cho anh được. 

Với những ý nghĩ bình thường về vật chất và những nhu cầu tình cảm của một con người mang nặng nợ gia đình, trong một phút, Hữu Bằng đã bước qua lý trí, bằng lòng nhận lời Tony Hải trong một tâm trạng vô cùng thụ động. Anh ngây thơ nghĩ rằng loại vũ khi sinh học của mình sẽ giúp loài người bớt cảnh thương vong đổ nát. 

Ý tưởng là của Tony Hải. Hắn muốn anh tạo ra một sinh vật biết hút máu người. Con vật đó không chỉ biết giết người mà còn tạo nên một ấn tượng ma quái nhằm lung lay tinh thần chiến đấu của đối phương. 

Chỉ là một con vật biết hút máu thôi ư? Hữu Bằng nghe mừng rơn trong dạ. Theo anh, một con vật như thế ít nguy hiểm hơn một viên đạn rất nhiều. 

Thế là anh lao mình vào nghiên cứu. Con vật mà anh chọn chính là loài dơi. Bằng cách tạo ra sự thiếu hụt chuỗi alpha trong cấu trúc Hemolobin anh khiến cho loài dơi kia lâm vào tình trạng thiếu hụt hồng cầu nghiêm trọng. Thêm vào biến đổi cấu trúc gien ở não bộ, con vật vốn hiền lành chỉ biết ăn hoa quả trở nên hung hãn khác thường. 

Sự việc được tiến hành thuận lợi. Hữu Bằng đã tính trước,với trọng lượng của mình, một con dơi chỉ hút được nửa đơn vị máu. Đủ làm đối phương khiếp sợ chứ không đủ sức giết chết một con người. Anh không lường trước được một sai lầm. Rằng đã có một loài vi khuẩn xuất hiện trong quá trình nghiên cứu của mình. Chính loài vi khuẩn này đã để lại những hậu quả khủng khiếp về sau. 

Vậy là xong, Hữu Bằng thở phào nhẹ nhõm. Chưa vội thông báo kết quả với Tony Hải, anh muốn khoe thành tựu này với Hương Huyền.Cô hẳn là tự hào nhiều về một anh chồng giỏi giang như thế. Số tiền năm mươi triệu đồng còn lại mà Tony Hải hứa đưa anh nhất định sẽ trích một phần cùng vợ đi du lịch. Tội nghiệp Hương Huyền, mang tiếng là vợ của một tiến sĩ mà chưa được cùng anh đi du lịch bao giờ. Từ lúc mang thai, anh đã mãi lo nghiên cứu chẳng ngó ngàng gì chắc cô buồn và tủi thân nhiều lắm. 

- Hương Huyền ơi! Ra xem anh mang gì về cho em đây! 

Chiếc Toyota dừng lại, vừa bước chân vào nhà, Hữu Bằng đã cất giọng gọi to. Hạnh phúc nhìn thấy vợ ra mở cửa với nụ cười mừng rỡ trên môi. 

- Hữu Bằng, anh về sớm quá. Em vẫn chưa kịp làm cơm. 

Bước từ từ thôi, kẻo té. - Đưa tay ôm lấy Hương Huyền, Hữu Bằng nghe lòng tràn ngập một tình yêu. - Thai nghén mệt mỏi không lo, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chồng. Vừa gặp mặt đã lo cuống cuồng với bữa cơm còn đang làm chưa xong. - Hôm nay em có khoẻ không? 

- Khoẻ lắm! - Tựa đầu vào vai Hữu Bằng, cùng anh bước vào nhà, Hương Huyền rối rít khoe. - Anh biết không, hôm nay con đạp những ba lần đó. 

- Thật sao? - Đặt tay lên chiếc bụng đã nhô cao của vợ, Hữu Bằng mắng yêu con - Con gái, sao mà nghịch quá. Con làm đau mẹ nữa là ba đánh đòn con đó. 

- Em không cho anh đánh đòn con đâu. - Chưa gì Hương Huyền đã binh con, cứ như anh là một người cha hung dữ lắm. 

Hữu Bằng bật cười nhìn vợ đưa tay ôm lấy bụng như bảo vệ con: 

- Ấy chết. - Hương Huyền bỗng chồm nhanh người dậy. - Nồi cơm... để em xuống xem. 

- Cứ bỏ mặc nó đi. - Hữu Bằng kéo tay Hương Huyền lại. - Hôm nay vợ chồng mình đi ăn tiệm. 

- Sao mà anh sang thế? - Ngồi xuống lòng anh, Hương Huyền nhẹ lắc đầu từ chối. - Đừng đi anh à! Ăn tiệm mắc lắm. Hãy để dành lo tương lai cho con. 

- Đấy! Lại như vậy nữa rồi. - Hữu Bằng nhăn nhó. - Em lúc nào cũng dè xẻn, trùm sò như bà cụ vậy. Đừng lo... anh đã có tiền nhiều lắm rồi đây. Nói xong, để chứng minh, Hữu Bằng lấy từ trong túi ra một xấp tiền dày cộm. 

Hương Huyền trông thấy không vui, còn lộ nét hoang mang, lo sợ: 

- Tiền ở đâu nhiều thế? Anh làm điều gì bất chính phải không? Trời ơi, em nói với anh rồi... Nghèo bao nhiêu em cũng chịu được mà... anh phải giữ lấy thanh danh. 

Cao quý thai tấm lòng người vợ lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chồng. Hữu Bằng nghe lòng ngập đầy niềm xúc động. Nhẹ hôn lên mái tóc Hương Huyền, anh trầm giọng: 

- Em đừng lo. Anh không bao giờ làm chuyện phi pháp hay phải mất thanh danh. Đây là số tiền thưởng cho công trình nghiên cứu của anh thôi. 

- Thật à? - Đôi mắt người vợ long lanh sáng. - Anh đã nghiên cứu được công trình gì sao không nói cho em biết với. 

- Anh muốn tặng em một bất ngờ thôi. 

Vui vẻ chồm người lên chiếc lồng, Hữu Bằng nhẹ tháo tấm phủ bên ngoài, Hương Huyền vội kêu lên ngơ ngác: 

- Là một con dơi ư? 

- Phải... là một con dơi. - Hào hứng, Hữu Bằng kể cho Hương Huyền nghe kế hoạch của mình với Tony Hải. 

Những tưởng khi nghe xong, cô sẽ mừng rỡ khen anh tài giỏi rồi tặng cho anh một nụ hôn thưởng công. Nào ngờ... sắc mặt Hương Huyền cứ tái dần đi theo câu chuyện kể. 

Cuối cùng, như quá đỗi bàng hoàng... cô chỉ thốt được một câu: 

- Khủng khiếp, thật là khủng khiếp quá! 

- Không có gì khủng khiếp đâu. - Ôm vai Hương Huyền, Hữu Bằng mong một sự đồng tình. - Anh đã nghĩ kỹ lắm rồi. So với không hậu quả khủng khiếp của vũ khí. Con dơi của anh... chẳng là gì cả. Em xem, nó chỉ có thể doạ được tinh thần đối phương chứ không giết người. 

- Đành rằng thế... nhưng... - Hương Huyền nhẹ ôm lấy chồng. - Là một bác sĩ, một nhà khoa học. Nhiệm vụ của anh là cứu người, là nghiên cứu phát minh ra những thứ có ích cho cuộc sống. Anh không thể vì tiền mà phát minh ra cái 

điều trái tự nhiên như thế. Anh đã nghĩ đến hậu quả của việc mình làm chưa? Một mai, khi những con dơi khát máu, hung hăng này được nhân thành diện rộng. Khi chúng ta không kiểm soát được chúng...chuyện gì sẽ xảy ra? Nỗi kinh hoàng không còn là của riêng phe đối lập, nó sẽ đe doạ đến cuộc sống của những người dân lương thiện. 

- Chuyện không thể đến nỗi ghê rợn như em nghĩ. - Hữu Bằng nhẹ vuốt tóc Hương Huyền. Trong phút chốc, anh đã thấy hối hận vì đã đem câu chuyện rùng rợn này ám ảnh cô. Nhưng để mọi chuyện không xảy ra như em nói, anh sẽ suy nghĩ, nghiên cứu tìm xem có cách nào khiến lũ dơi kia sẽ phải tự huỷ trong một thời gian ngắn. 

- Dù anh có nói gì, em cũng không đồng ý với hành động của anh. - Hương Huyền vẫn lúc đầu. Anh có biết, làm như vậy là huỷ hoại môi trường, là tàn nhẫn lắm! Rồi đây loài dơi sẽ vì anh mà tuyệt chủng trên thế gian này... Không... anh phải huỷ bỏ phát minh này. Hữu Bằng vì đìa con trong bụng, em tha thiết yêu cầu anh dừng công bố nó. 

Huỷ hoại môi trường? Diệt sạch loài dơi trên hành tinh? Điều đó... lẽ nào Hữu Bằng không biết. Một khi anh biến đổi gen làm cho loải dơi phải tự huỷ trong một thời gian ngắn, thì cũng có nghĩa là anh đã rút ngắn thời gian sống của một thế hệ dơi nối tiếp. Gen di truyền học... 

- Điều đó anh có lạ lùng gì? Nhưng... huỷ bỏ phát minh... - Hữu Bằng biết mình không thể nào làm được, vì số tiền Tony Hải trao cho đã tiêu xài gần hết và... chút kiêu ngạo của bản thân nữa. 

Một khi phát minh này được công khai. Tên tuổi của anh nhất định sẽ lẫy lừng vang dội. Mọi người sẽ phải khâm phục xem anh như một vị thánh đã tìm ra cách giải thoát cho loài người, vũ khí sinh học thay cho vũ khí hạt nhân... Điều này thật vĩ đại, phi thường. Sao Hương Huyền lại nhìn sự việc này ở một góc độ tiêu cực quá! 

Với suy nghĩ, niềm tin mình đã lập nhiều công hơn tội, Hữu Bằng kiên quyết không nghe lời vợ, mặc cho cô giận dỗi bỏ vào phòng nằm khóc, bữa cơm chiều hôm đó, đã không diễn ra như Hữu Bằng mong đợi. 

Rồi Hương Huyền sẽ hiểu mình thôi. Hữu Bằng tự an ủi. Nhìn cô nằm quay lưng lại với mình, anh không buồn, không giận chút nào mà lại càng cảm thấy yêu cô nhiều hơn nữa. Bởi một tâm hồn nhân hậu, mềm yếu như Hương Huyền sẽ không bao giờ chấp nhận cho chồng phát minh ra một thứ vũ khí hại người như thế. 

Cuộc sống thôi! Hữu Bằng chỉ muốn nói với cô như vậy. Anh không thể cưỡng lai qui luật của cuộc sống vật chất. Phát minh này tuy độc ác, nhưng nó 

đã giúp anh làm tròn số phận của một con người với gia đình. Ba mẹ của anh giờ đây đã có thể yên nghỉ trong một căn nhà ấm cúng giữa trời mưa bão. Các anh chị em cũng đều tạm ổn về kinh tế với những phương tiện được anh giúp đỡ cho. Hương Huyền... chỉ một lẩn này thôi... anh hứa có em... An tâm với lời tự hứa của mình, Hữu Bằng ngủ quên lúc nào không biết... 

Ầm...xoảng... 

Anh ngủ rất lâu, rất say và chỉ tỉnh lai với một tiếng động vang lên thật lớn từ nhà bếp. Hương Huyền... nghĩ cô vấp té, làm Hữu Bằng sợ điếng hồn. Nhanh như chớp, anh phóng vội ra sau rồi đứng yên bất động. 

Trước mắt anh là một cảnh tượng quá hãi hùng. Hương Huyền đang dùng hết sức bình sinh gỡ con dơi ra khỏi cổ mình nhưng không được. Hai hàm răng của nó đã cắm sâu vào làn cổ trắng ngần, một dòng máu đỏ ngọt lành đang chạy vào bụng nó. 

- Ồ không! - Hữu Bằng kêu lên sợ hãi. Anh chạy vội đến bên Hương Huyền tiếp cứu. Nhưng cũng như cô, anh không làm gì được. Để không tổn hại đến vợ, anh đành phải đứng yên chờ cho con vật hút đến no bụng máu. 

- Khốn kiếp! - Một tay đỡ lấy Hương Huyền, Hữu Bằng dùng cánh tay còn lại đập mạnh con dơi xuống đất, con vật bị đập trúng đầu giãy chết liền nay lập tức. Như chưa hả cơn giận, Hữu Bằng còn dùng chân đá mạnh vào bức tường trước mặt.

- Hương Huyền... - Thanh toán xong con vật, Hữu Bằng quay sang nhìn vợ. Vì quá khiếp đảm, cô đã ngất đi! Nhẹ đặt Hương Huyền nằm trên giường, nhìn cô xanh xao trong cơn mê, cổ bị hằn sâu vết răng dơi, Hữu Bằng ân hận quá. Anh không ngờ nạn nhân đầu tiên của phát minh này lại là người vợ yêu quý của anh. 

- Ui da... - Tiếng Hương Huyền rên khẽ. 

Hữu Bằng mừng rỡ nằm lấy tay cô: 

- Hương Huyền ơi! Em tỉnh rồi sao? 

- Con dơi đâu rồi... - Tâm trí vừa tỉnh lại, Hương Huyền lập tức nhớ đến nhớ đến con vật đã tấn công mình. 

- Anh đã đập nó chết rồi... Nhưng nó làm sao mà tấn công em được. Anh đã nhốt nó rất kỹ. - Hữu Bằng đỡ cô dậy. 

- Tại em bắt nó. - Đưa mắt nhìn xác con dơi bết máu dưới chân tường, Hương Huyền hạ giọng. 

- Bắt nó? - Hữu Bằng lạ lẫm. - Tự nhiên em bắt nó làm gì? 

- Em muốn giết nó đi. - Giọng Hương Huyền như muốn khóc. - Dù em biết làm như vậy anh sẽ không vừa ý. Nhưng em thà bị anh giận chứ không thể để anh phát minh ra loạt sinh vật khủng khiếp này. 

- Em ngây thơ quá! - Nhẹ vuốt tóc Hương Huyền, Hữu Bằng cười trìu mến. Anh không giận em cũng như em không thể huỷ phát minh của anh khi chỉ giết con dơi ấy. Với công trình trong tay, anh vẫn còn có thể tạo ra những con dơi khác kia mà... 

Em đúng là ngây thơ thật áp mặt vào tay chồng, Hương Huyền cười như con nít. - Chẳng những không cản được anh mà còn bị con dơi tấn công ngược lại. Ôi! Nó thật là hung hãn. Em vừa mở cửa lồng là nó đã tấn công ngay. - Nói đến đây sợ quá, Hương Huyền khóc nấc lên. 

Hữu Bằng nhẹ vuốt tóc cô: 

- Thôi đừng sợ nữa. Mọi chuyện đã qua rồi. Ngày mai... anh sẽ cho em uống nhiều sắt và axit pholic để bù lại lượng máu đã mất đi. Bây giờ,em ngủ đi, anh sẽ dỗ cho em ngủ nhé. 

- Nhưng anh phải hứa với em huỷ bỏ phát mình của mình. - Nắm lấy tay Hữu Bằng, Hương Huyền nài nỉ. - Hứa đi anh! 

- Anh không hứa được. - Hữu Bằng lắc đầu. - Em biết để phát minh ra công trình này, anh và Tony Hải đã mất nhiều công sức và tiền bạc. Anh không thể nào huỷ bỏ trong một giây... 

- Rồi anh sẽ phải trả giá cho hành động của mình. - Nước mắt ứa ra, Hương Huyền nói trong bất lực và Hữu Bằng thở hắt ra. Anh không muốn làm cho vợ phải buồn. Nhưng cũng không thể huỷ bỏ tâm huyết của mình cho cô vừa lòng được.

° ° °

Lặng lẽ đến bên bàn thờ đốt một nén nhang cho vợ rồi đến bên con ngồi xuống, Hữu Bằng vẫn không tin những gì xảy ra là sự thật. 

- Không, anh không bao giờ tin là Hương Huyền đã chết đâu. Tất cả chỉ là một giấc mơ, một cơn ác mộng hãi hùng. Ngày mai này, khi tỉnh lại, anh vẫn thấy mình ngồi trên bàn, vui mừng với thư mời cộng tác của viện hàn lâm. 

- Phải, tất cả sẽ được làm lại từ đầu. Sẽ không có sự xuất hiện của Tony Hải. Mà dù có anh cũng nhất định sẽ không nhận lời của hắn. Để đừng bao giờ tồn tại một phát minh gớm ghê đầy tội lỗi, để Hương Huyền của anh mãi là cô vợ trẻ, hiền lành, nhân hậu bên chồng và Nguyệt Cầm, đứa con khờ của anh không phải lìa xa mẹ khi vừa tròn một ngày tuổi. 

- Nhưng... đã muộn rồi. Dù có gào thét, có khóc la ân hận trọn kiếp này anh cũng không thể nào làm gì được nữa. Vĩnh viễn anh đã mất đi người vợ yêu quý nhất của đời mình. Vĩnh viễn không bôi xoá khỏi lương tâm một niềm cắn rứt đau thương... 

Nhớ hôm ấy, giải quyết xong bài toán hóc búa trong phương trình minh hoạ, Hữu Bằng hài lòng đóng khung công thức cuối cùng. Vừa đứng lên định thông báo tin mừng cùng Tony Hải thì điện thoại reo vang: 

- A lô... - Anh trả lời với một tâm trạng đầy hưng phấn. Nhưng... bên kia đầy bây, giọng của má anh hoàn toàn trái ngược. 

- Alô... là má đây. Hữu Bằng! Con về mau, Hương Huyền đã chuyển dạ rồi. 

- Sao? - Hữu Bằng ngạc nhiên quá đỗi. - Đã chuyển bụng rồi à? Hãy còn hơn một tháng nữa kia mà? - Rồi anh lo lắng... - Cô ấy có bị té ngã không? 

- Không! - Giọng bà gấp rút. - Tự nhiên lúc chiều sang ăn cơm với má, vợ con bỗng la đau bụng rồi vỡ ối. Má đưa nó vào bệnh viện xong là gọi điện cho con ngay. Hiện bác sĩ đang thăm khám cho Hương Huyền trong phòng đó. Hữu Bằng ơi... liệu vợ con có chuyện gì không? Sao má lo quá. 

- Không có chuyện gì đâu. - Hữu Bằng bình tĩnh. - Cô ấy sanh non... hiện nay vẫn có nhiều người sanh thiếu tháng như thế mà đứa bé vẫn khoẻ mạnh thông minh. Má đừng lo quá! 

- Ừ thôi. Má vào với nó đây. 

Bà cúp máy lâu rồi mà Hữu Bằng vẫn còn cầm mãi cái ống nghe. Trấn an mẹ nhưng sao lòng anh hồi hộp quá. Tự nhiên sao lại sanh non? Sức khoẻ của Hương Huyền tốt lắm kia mà... 

- Tôi có chuyện gấp phải về sớm đây. - Thông báo với cô thư ký xong, Hữu Bằng chạy như bay ra cửa. Không kịp chờ thang máy, anh phóng luôn xuống bốn tầng lầu bằng cầu thang bộ. Tự mình lái chiếc Toyota, anh chạy thẳng vào bệnh viện. 

- Hữu Bằng. - Đang nhấp nhỏm trước cửa phòng cấp cứu vừa thấy bóng anh, bà Tịnh chạy ra ngay. - Vợ của con có vấn đề rồi. Bác sĩ phải quyết định mổ gấp bỏ mẹ, cứu con... nhưng mẹ chưa có ý kiến. 

- Má nói gì? - Chiếc cặp rơi xuống đất, Hữu Bằng nghe như có tiếng sét nổ trong đầu. - Tại sao lại có chuyện như vậy được. 

- Má không biết. - Bà khóc nức nở. - Gọi điện cho con xong, nghe bác sĩ báo thế, tâm trí má rụng rời, còn không dám ký vào tờ cam đoan cùng cô y tá. 

Nhẹ tay đẩy mẹ sang bên, Hữu Bằng xăm xăm bước vào phòng cấp cứu. Một cô y tá trông thấy anh chạy lại ngay: 

- Xin lỗi, anh có phải là chồng của cô Hương Huyền không ạ? Nếu phải, xin nhanh chóng ký vào giấy cam đoan để chúng tôi tiến hành phẫu thuật. Tình trạng đã nguy cấp lắm rồi. 

- Tôi muốn gặp bác sĩ điều trị. - Hữu Bằng vẫn bước đều. - Tôi muốn biết điều gì đã xảy ra cho vợ tôi? 

- Có chuyện gì ồn ào thế? - Một vị có lẽ là bác sĩ trưởng khoa, nghe tiếng ồn vội bước ra với vẻ khó chịu. Rồi chợt thấy Hữu Bằng, ông ta đổi ngay thái độ. - Ồ! Hữu Bằng,cậu đi đâu mà nét mặt căng thẳng thế? 

- Thái Tuấn! - Nhận ra bạn học cũ, Hữu Bằng mừng rỡ, chụp mạnh lấy vai Thái Tuấn. - Hương Huyền là vợ tôi, cậu nói mau đi! Chuyện gì đã xảy ra? 

- Hương Huyền là vợ cậu ư?... - Gương mặt Thái Tuấn lộ vẻ lo lắng. - Tớ thật cũng không biết giải thích thế nào với cậu về tình trạng của vợ cậu bây giờ. 

- Tại sao? - Hữu Bằng nôn nóng. 

Thái Tuấn thở ra một hơi dài: 

- Vì bệnh của vợ cậu... tớ chưa từng được học. Có một sự phân huỷ máu rất là lạ đang diễn ra với tốc độ nhanh trong người Hương Huyền. 

- Nghĩa là...? Một cái chết dần vì mất máu đang đến với Hương Huyền ư? - Hữu Bằng nhanh chóng hiểu ra sự việc. 

Thái Tuấn lặng lẽ gật đầu. Hữu Bằng lại kêu lên: 

- Thế sao cậu không cho truyền máu? 

- Vô ích! - Thái Tuấn lắc đầu. - Tôi cũng đã nghĩ đến cách này và làm thử. Nhưng... tốc độ tan máu rõ ràng xảy ra nhanh hơn nếu có sự xuất hiện của máu lạ vào người. Qua xét nghiệm... tình trạng tan máu kia có thể lan truyền đến thai nhi. Nên việc làm duy nhất hiện nay là phẫu thuật gấp cứu con bỏ mẹ 

- Không, tôi không tin... tôi không đồng ý. - Như một người bị mất tích, Hữu Bằng hét lớn. - Các người chưa tận dụng hết khả năng. Bằng mọi giá phải cứu Hương Huyền. Tôi cam lòng mất con để còn cô ấy... 

- Hữu Bằng... bình tĩnh lại. - Đặt tay lên vai Hữu Bằng, Thái Tuấn ôn tồn. Tôi hiểu cậu... nhưng... đã bó tay rồi. Tốt nhất... bây giờ cậu hãy trở vào gặp Hương Huyền, nói với cô ấy vài câu trước khi quá muộn. 

Cánh cửa phòng phẫu thuật mở ra, vừa nhìn thấy Hương Huyền nằm xanh xao trên giường bệnh. Hữu Bằng vội lao vào. Nắm lấy tay cô, anh nói dồn dập: 

- Hương Huyền... em đừng sợ... anh sẽ cứu em. 

- Không kịp nữa đâu. - Nhẹ mở đôi mắt u hoài, Hương Huyền mỉm một nụ cười héo hắt. - Anh đừng tốn công vô ích. 

- Em đừng nghĩ quẩn. - Hữu Bằng áp bàn tay lạnh giá của vợ vào mặt mình. - Bệnh của em không có gì nguy hiểm cả. 

- Anh dối em làm gì? - Hương Huyền xót xa. - Đừng quên em cũng từng là bác sĩ như anh. Chứng bệnh của em không thuốc chữa. Bởi nó chính hậu quả của việc anh làm. 

- Em nói sao? - Hữu Bằng nghe sống lưng mình lạnh toát. 

Hương Huyền nhẹ chớp mi nói: 

- Gần đây, thấy trong người không khoẻ, lại luôn chóng mặt, nhức đầu, em đã tự thử máu của mình để rồi phát hiện số lượng hồng cầu giảm đi một cách rõ ràng không nguyên cớ. 

- Thế tại sao em không cho anh biết? 

- Em muốn nói... nhưng dạo này anh quá bận... đi sớm về trễ, loay hoay công việc nên quên đi mất. - Hơi thở bỗng trở nên khó khăn, sợ mình sẽ không kịp nói hết những điều đề nghị, Hương Huyền vội nói nhanh. - Hữu Bằng, em đã phát hiện ra... có một loài vi khuẩn được sinh ra từ nước bọt của con dơi. Loại vi khuẩn đó phá huỷ hồng cầu... có khả năng truyền bệnh rất cao... nguy hiểm lắm... nên... anh không nên công bố phát minh này... 

- Đừng nói nữa... - Nhận thấy mạch đập của cô yếu dần đi, Hữu Bằng lo lắng. - Anh lập tức truyền máu cứu em... 

- Không kịp đâu... - Hương Huyền níu áo Hữu Bằng, khi thấy anh dợn quay lưng. - Đừng chần chờ nữa nếu anh muốn cứu đứa con mình. Hữu Bằng, lần cuối... anh mau hứa với em đi. Anh không được công bố phát minh này... 

- Hứa! Anh hứa với em. - Nước mắt tuôn ràn rụa lên môi, Hữu Bằng gật đầu nhanh như một con bửa củi. 

Hương Huyền tặng cho anh nụ cười cuối cùng của cuộc đời mình. 

- Vậy là em an tâm lắm. 

Rồi cô nghẹo đầu sang bên kia, lịm dần đi. Hốt hoảng, Hữu Bằng bổ nhào ra cửa, gọi to: 

- Bác sĩ... Thái Tuấn... mau cứu vợ tôi! 

Các bác sĩ lập tức chạy nhanh vào phòng mổ, vây lấy Hương Huyền, họ vội vàng làm các thủ tục cấp cứu. Một bàn tay đặt lên vai Hữu Bằng, Thái Tuấn trầm giọng nói: 

- Như vậy nhé! 

Không còn đường chọn lựa, Hữu Bằng đành gật đầu trong nước mắt. Cửa phòng phẫu thuật sập lại ngay trước mắt, ngọn đèn đỏ bật lên, Hữu Bằng cảm nhận được rất rõ ràng. Con dao mổ lên tay Thái Tuấn vừa cắm phập xuống tim mình đau nhói. Hương Huyền đã chết rồi... chết vì sai lầm của chính bản thân anh... 

- Oa...oa... oa... 

Tiếng khóc con trẻ chợt vang cắt ngang dòng suy nghĩ của Hữu Bằng. Cúi xuống nôi bế con lên tay, anh dịu dàng đặt bình sữa pha sẵn vào miệng Nguyệt Cầm. Nhìn con nút một cách khó khăn, anh nghe lòng quặn thắt. 

Tội nghiệp con... cả cuộc đời không bao giờ được biết thế nào là dòng sống ngọt ngào từ bầu sữa mẹ, cũng như sẽ không bao giờ được gọi tiếng mẹ thiêng liêng, trìu mến như mọi người. 

- Tất cả là tại ba! Hữu Bằng tự sỉ vả mình. Ba quá tầm thường, ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến bản thân. Nếu mẹ của con không kịp phát hiện ra rồi dùng cái chết của mình để cảnh tỉnh, ba đã phạm một tội tày trời, đã gây nên một thảm hoạ lớn với cuộc đời rồi. Nguyệt Cầm ơi, con có biết... một mai khi phát minh của ba được tung ra... sẽ không chỉ là một cái chết thương tâm của mẹ con, mà hàng trăm, hàng ngàn người cha, người mẹ vô tội sẽ phải chết oan vì con vi khuẩn bất ngờ này. Mẹ con thật ra không chết oan đâu... Hương Huyền... anh nhất định không làm em thất vọng. 

Nhẹ nhấc bình sữa ra khỏi miệng Nguyệt Cầm, Hữu Bằng âu yếm đặt con xuống nôi, cất giọng ấu ơ cho nó ngủ rồi đứng lên. Đến bên bàn thờ vợ, anh thành khẩn đặt một nén nhang. 

- Từ nay sẽ không còn phát minh cũng như không tồn tại một Hữu Bằng nào trên thế gian này nữa. Hương Huyền em vừa ý không, anh đốt bỏ công thức của mình đây. 

Ngọn lửa loé lên trong phút chốc đã thiêu rụi cái công trình chưa công bố thành tro. Tâm huyết, công sức bao ngày tan biến trong chớp mắt, nhưng Hữu Bằng không cảm thấy buồn, thấy tiếc. Lương tâm phần nào thanh thản với ánh mắt long lanh trong sáng của Hương Huyền trong di ảnh. 

Bước đến bàn viết một bức thư trao trả toàn bộ tài sản cho Tony Hải, Hữu Bằng quyết định từ bỏ thế giới danh vọng của mình. Tìm đến một làng quê yên bình, sống đời gà trống nuôi con, xa vòng danh lợi. Những tưởng sẽ sống yên bình với con thơ. Đem hết sức mạnh cống hiến cho nhân loại như một chút cũng lao chuộc lại lỗi lầm. 

Thế nhưng... cuộc đời không dễ dàng tha thứ cho những lỗi lầm trong dĩ vãng của Hữu Bằng. 

Sau bao năm nằm yên trong cơ thể Nguyệt Cầm, con vi khuẩn năm xưa bừng sống dậy, tiếp tục gieo rắc kinh hoàng... 

...... 

Câu chuyện đã kể hết lâu rồi, vậy mà... Kỳ Phương vẫn ngồi yên bất động. Sao như huyền thoại, hoang đường không tin được. Người đàn ông đang ngồi trước mặt anh đây, trông hiền từ, nhân hậu thế, không ngờ lại là chủ nhân của một phát minh tàn nhẫn, rùng rợn nhất. Ông đã là thủ phạm giết chết vợ mình. giờ lai sắp trở thành đao phủ giết luôn đứa con gái yêu thương duy nhất trong cuộc đời ông. 

Ông đáng giận hay đáng thương Kỳ Phương không thể nhận xét thế nào cho đúng. Cả hai chăng? Ông đáng bị lên án, bị nguyền rủa, nhưng cũng đáng thương, đáng được thông cảm lắm. Thế mới biết có những sai lầm không thể nào sửa chữa. Chỉ một chút cạn suy là ân hận một đời. 

- Kể với cậu, tôi không mong nhận được sự đồng tình hay thương hại. - Giây lâu trong im lặng, ông chợt cất giọng trầm buồn. - Dù không hề cố ý... tôi cũng trở thành kẻ sát nhân gián tiếp giết chết vợ, con mình... và cả một trăm sáu mươi người vô tội khác. 

- Bác sĩ nói sao? - Kỳ Phương giật thốt người sợ hãi. - Không lẽ... Nguyệt cầm và những người kia... 

- Phải... - Không để Kỳ Phương nói hết câu, ông đã gật đầu cướp lời. Một khi những cơn tan máu vượt khỏi tầm kiểm soát, tất cả phải chết... một cái chết oan ức tức tưởi như Hương Huyền ngày xưa vậy. 

- Không có thuốc gì... cách gì cứu được sao? - Kỳ Phương tự biết mình hỏi một câu thừa. Nhưng ý nghĩ Nguyệt Cầm cùng những người vô tội kia phải chết làm anh tối tăm mặt mũi. 

- Tôi đã làm đủ mọi cách. Nhưng... ngả đầu ra sau ghế, ông nói trong tuyệt vọng. - Chẳng thể nào ngăn chặn sự phát triển và huỷ diệt con vi khuẩn ấy. Nó sẽ còn lan rộng... lây truyền nếu chúng ta không cương quyết một lần dứt bỏ đi. 

- Dứt bỏ nó... - Kỳ Phương chợt rùng mình sợ hãi. - Bác sĩ... lẽ nào... ông đành tâm giết họ ư? 

- Tôi thật không thể nhẫn tâm. Nhưng... gục đầu vào lòng bàn tay, ông ngập ngừng giây phút. - Bây giờ ngoài cách này, tôi không còn nghĩ ra cách nào hay hơn được. Nếu không ngăn chặn, dập tắt ngay... e số người phải chết còn tăng mãi. 

- Tàn nhẫn quá! Kỳ Phương cắn nhẹ môi mình. Nghĩ đến một ngày phải đưa Nguyệt Cầm vào cõi chết, tim Kỳ Phương đau nhói., 

- Bác sĩ... - Nắm lấy tay ông, anh van vỉ. - Ông đừng vội thất vọng, bỏ cuộc sớm như vậy. Hãy cố tìm xem, may ra còn có cách cứu vãn tình hình. 

- Không còn cách nào khác hơn đâu. - Nhẹ gõ tay xuống bàn tay Kỳ Phương, ông lặng người đi trong nỗi đau tất nghẹn. - Anh bạn trẻ, anh không cần phải van xin, an ủi ta cứu người đâu. Hơn cả cậu, khi đi đến quyết định này, tôi đã ray rứt, suy nghĩ kỹ. Dù không thương đám người kia, tôi cũng phải nghĩ đến Nguyệt Cầm. Nó là con gái của tôi, đứa con duy nhất cậu biết không? 

Đọc được những nỗi ray rứt trong ánh mắt khổ đau đầy tuyệt vọng của ông, Kỳ Phương thở ra một hơi dài: 

- Rồi ông định... giết họ bằng cách nào? Ông sẽ phải trả lời ra sao trước pháp luật? 

- Tôi sẽ không giết họ cũng không làm gì cả. Tôi chỉ nhốt họ vào một căn phòng thật kín, để họ không hút được máu người. Một khi không còn máu, họ sẽ phải tự chết thôi. 

- Còn Nguyệt Cầm...ông cũng sẽ... dùng cách này ư? - Kỳ Phương nghe lòng thảng thốt. 

- Phải. - Hướng mắt nhìn con, ông trìu mến nói. - Tôi sẽ cho con tôi một liều thuốc an thần, rồi cùng ra đi với nó. 

- Sao? - Kỳ Phương nhảy nhổm. - Bác sĩ... ông sẽ... tự vẫn ư? Không... tôi không đồng ý cho ông làm một việc tiêu cực như thế. 

- Tôi không tiêu cực. - Môi hé nụ cười buồn, ông đặc tay lên vai Kỳ Phương thân mật. - Tôi đã nghĩ kỹ lắm rồi. Với bao nhiêu tội lỗi đã gây ra, tôi thấy mình có chết đi cũng chưa đền đủ đâu. 

- Đúng. - Kỳ Phương nhìn thẳng vào mặt ông nghiêm khắc. - Với một cái chết của mình, ông không đền đủ tội với những người đã chết. Nhưng với sự sống, với tài năng của mình... ông là thiên tài hiếm có... đừng... đừng thêm một lần phạm sai lầm. 

- Thông minh xuất chúng, tài năng tột bực... - Ông bật cười lớn. - Những danh từ đó không còn đúng với một lão già lụm cụm như tôi nữa. Kỳ Phương, kể cho cậu nghe tất cả, tôi không phải chờ nghe cậu cản. Tôi chỉ muốn giúp cậu hoàn thành thiên phóng sự điều tra của mình. Cậu hãy viết tất cả lên mặt báo, rõ ràng, cụ thể từng chi tiết. Nêu đích danh từng tên nhân vật thật. Tôi muốn... tai tiếng của mình trở thành một tấm gương để người đời thông vào cùng suy gẫm và đánh giá. Hy vọng nó sẽ là bài học hữu ích cho những nhà khoa học. Tiền... tuy cần thiết, tuy không thể thiếu trong cuộc sống mỗi người, nhưng đừng bao giờ đánh mất bản thân, bán rẻ lý trí và nhân phẩm của mình. 

Ý ông đã quyết... Kỳ Phương biết mình sẽ không bao gìờ thay đổi được nếu không tìm ra một cách giải quyết triệt để hơn. 

Thế còn Tony Hải...còn cái viện nghiên cứu sinh học giả hiệu của hắn thì sao? - Chợt nhớ đến gã người lai đã mách bảo mình, Kỳ Phương nhất mực quan tâm. - Ông cứ để hắn mặc tình nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật tiếp tục gây tội sao? 

- Hấn sẽ không bao giờ còn có tội nữa. - Ông mỉm cười. - Hôm qua tôi đã viết một tờ tường trình gửi Lên Bộ tố cáo việc làm của hắn. Với tất cả bằng chứng mà tôi đã thu thập được, tôi tin rằng, không bao lâu nữa hắn cùng cái viện khốn kiếp kia sẽ bị trục xuất khỏi Việt Nam. 

- Ông đã hành động đúng. - Kỳ Phương tỏ vẻ thán phục. - Lẽ ra ông phải làm như thế từ lâu rồi. 

- Đó cũng là một sai lầm ông thừa nhận. Vì ích kỷ, vì sợ ảnh hưởng đến tiếng tăm, uy tín của mình tôi đã không dám đứng ra tố cáo, vạch trần âm lưu của hắn. Để từng ấy năm trời phải sống âm thầm, trốn tránh như một loài côn 

trùng. Vì tôi mà Nguyệt Cầm phải sống trong thiếu thốn trăm bề. Làm như vậy, tôi...còn thua loài cầm thú... 

Muốn nói một lời để an ủi sẻ chia cùng ông mà tìm mãi chẳng được từ nào, Kỳ Phương đành đứng lên từ tạ ra về. 

Bây giờ anh có thề đặt bút một lèo viết hết thiên phóng sự, cũng như có thể kết thúc câu chuyện "Chuyến tàu đêm" một cách dễ dàng. Thế nhưng, Kỳ Phương biết mình sẽ chẳng viết một dòng nào. Anh không thích một kết cục tàn nhẫn, đau thương vậy... phải tìm một kết thúc khác, nhân bản hơn, tốt đẹp hơn. Song... anh sẽ tìm thấy ở đâu trên bầu trời cao rộng đẹp đẽ ánh dương hồng kia có phải...?- Thế này là thế nào? Anh mau lập tức trả lời tôi... 

Xấp bản in bị ném mạnh xuống bàn, giám đốc Trần đùng đùng giận dữ. - Tên Kỳ Phương đó, hắn chết gí chỗ nào? Tại sao anh không tìm liên lạc. Anh có biết... báo Tia chớp đã sụt mất một nửa số lượng rồi không? 

Đón nhận cơn thịnh nộ của giám đốc, Khải Văn chỉ biết cúi đầu im lặng. Dù biết rõ mình đã bị giám đốc mắng oan. Số lượng báo bị giảm hoàn toàn do lỗi của Kỳ Phương. Hắn đã không gởi về toà soạn dù chỉ là một dòng tin nhỏ. 

Nhưng... anh lại không thấy phật lòng, cũng không nghe giận thủ trưởng một chút nào. Cơn phẫn nộ của ông là hoàn toàn đúng, vì ngay chính bản thân mình, Khải Văn cũng giận Kỳ Phương kinh khủng. Không nể tình hắn là đồng nghiệp thân thiết, anh đã mắng hắn là tên vô trách nhiệm từ lâu. Thừa biết sự sống còn của tờ báo nằm trong tay mình. Vậy mà cứ mãi nhởn nhơ cùng trời xanh nước biếc.... 

- Tôi gia hạn cho cậu hai ngày nữa phải tìm gặp Kỳ Phương và bắt hắn giao bài ngay. Bằng không thì cả anh, cả hắn... đều biến khỏi mắt tôi đi. - Chờ giây lâu, vẫn không nghe Khải Văn hứa hẹn gì, giám đốc Trần quyết định ra tối hậu thư. 

Điều này... xem ra khá bất công đối với Khải Văn. Anh không nhịn được, bật thành lời: 

- Giám đốc Trần, ông thật là vô lý. Tại sao lại ghép tôi chung với Kỳ Phương chứ? Tôi không... - Câu nói bị cắt ngang bởi cánh cửa được mở ra đột ngột. 

Như trong chuyện hoang đường, Kỳ Phương hiện ra ngay trước mắt mọi người sau một câu niệm chú. Vụt quên mất câu nói còn dang dở của mình, cũng như không còn nhớ đến cơn giận hờn, Khải Văn ào lên ôm chặt lấy Kỳ Phương mừng rỡ:

- Trời ơi, thằng quỷ, sao không chết luôn đi. 

- Kỳ Phương! - Chiếc ghế bật ngửa ra sau vì cái đứng lên vội vã đã không làm giám đốc Trần để ý. Bước lên trước môi ông chìa nụ cười niềm nở, thân mật bắt tay Kỳ Phương như quên tuốt trận lôi đình vừa mới xảy ra đây. 

- Cuối cùng cậu cũng đã về rồi, thật là may. 

- Vâng! - Đứng yên tiếp nhận sự đón chào nồng hậu, Kỳ Phương ngập ngừng giây lát rồi khẽ nói. - Xin lỗi vì tôi đành phải để mọi người tiếp tục thất vọng. Tôi về đây không phải để nộp bài mà là để xin nghỉ phép một tuần. 

- Nghỉ phép ư? - Miệng giám đốc Trần há tròn vo. Khải Văn cứ ngỡ tai mình ù đi. Có nhầm không? Kỳ Phương xin nghỉ phép. Hắn muốn chọc giám đốc nổi 

xung thiên lên chắc? Thời hạn hai ngày hẳn không còn nữa. Ông ta sẽ tống cổ ngay tức khắc gã phóng viên ngạo mạn vô trách nhiệm. Dĩ nhiên... anh sẽ bị một miếng của hắn lây sang. Phen này... không chết cũng bị thương thôi. 

- Nghỉ phép! - Nhưng Khải Văn đã tính lầm. Không có cơn thịnh nộ nào, chỉ có gọng giám đốc chùn xuống như sợ hãi. 

- Để làm gì? Nếu cậu có lý do chính đáng, tôi nhất định sẽ duyệt cho. 

- Thưa giám đốc... xin ông thông cảm ký duyệt cho. Tôi xin nghỉ phép để... đưa Nguyệt Cầm đi chơi ạ? 

- Hả? - Khải Văn nhảy bật lên trong lúc giám đốc Trần lại té ngồi ra ghế. 

- Kỳ Phương, cậu không đùa tôi chứ? 

- Tôi không dám đâu. - Nói rồi, Kỳ Phương quay ra sau gọi khẽ. - Nguyệt Cầm vào đi em. Hãy chào giám đốc của anh và đây nữa, gã Khải Văn đáng ghét mà anh vẫn thường kể cho em nghe đó. 

- Dạ.... 

Bây giờ cả ông Trần lẫn Khải Văn đều tin là Kỳ Phương không giỡn. Rõ ràng sau lưng anh vừa bước ra một cô gái đẹp tuyệt vời, cô ta đang khép nép cúi đầu lễ phép: 

- Cháu chào chú, chào anh ạ! 

- À! Ra thế. Bây giờ Khải Văn mới vỡ lẽ. Anh đã hiểu vì sao những ngày qua Kỳ Phương lười viết bài đến thế. Chỉ vì cô gái xinh đẹp kia làm cho tâm hồn hắn mê mẩn quên hết việc đời thôi. Hừ! Bao nhiêu người trông đợi, vậy mà hắn cứ nhởn nhơ... Bỗng nổi giận đùng đùng, quên cả giám đốc đang ngồi trước mặt mình, Khải Văn bước lên hét lớn: 

- Kỳ Phương, cậu vô trách nhiệm vừa thôi. Nông nỗi này còn xin nghỉ phép đi chơi cùng người yêu nữa. Cậu có biết tình hình cấp bách lắm rồi không? Cả 

thành phố này đang sôi lên trước con ma hút máu người. Đêm qua nó lại tấn công giết đi hai người nữa đấy. 

Sắc mặt Khải Văn khi giận trông hung dữ quá, làm Nguyệt Cầm phải lùi về sau sợ hãi. Kỳ Phương ôm lấy vai cô trầm giọng: 

- Cậu đào đâu ra cái tin con ma đêm qua vừa giết hai người hả? 

- Còn đào đâu nữa? - Khải Văn ném tờ báo "Mặt trời" trước mặt Kỳ Phương. 

- Lại tay phóng viên Trọng Hải. - Kỳ Phương nhặt tờ báo lên xem qua rồi kêu lên giận dữ. - Dám công bố thông tin giả, đánh lừa công chúng. Làm gì có chuyện đêm qua con ma tấn công ai chứ? 

- Hừ! Cậu nói nghe cứng quá. Cứ như đêm qua ở cạnh con ma không bằng vậy? - Khải Văn lại hét lên. 

- Sao lại không? - Hét lên rồi mới nhớ, Kỳ Phương hoảng hồn đưa mắt ngó nguyệt Cầm. Cô như quá khiếp đảm trước cuộc cãi nhau, rút mình vào sau cạnh cửa, đôi mắt nhìn quanh lấm lét. 

- Thế thì cậu nói đi. Con ma đã làm gì đêm qua hả? - Không bỏ qua cơ hội, như con thú đánh hơi thấy mồi ngon, Khải Văn sấn tới hỏi luôn. 

- Tớ không có thời gian tranh cãi... - Sợ bị hắn tra hỏi một hồi sẽ lời ra những điều không đáng nói, Kỳ Phương quay sang phía ông Trần, nãy giờ vẫn ngồi yên như phỗng để nghe hai người tranh cãi. 

- Từ phút này, tôi xin nghỉ phép đúng một tuần, mong ông đồng ý. 

- Nhưng... công việc ở toà soạn bề bộn lắm. - Giám đốc Trần từ chối khéo. Cậu có thể... bàn cùng cô bạn gái thư thả một thời gian. 

- Xin lỗi... Kỳ Phương cắt ngang lời. - Tôi không thể nào thư thả được. Xin ông thông cảm, dù có phải bị đuổi việc tôi cũng phải nghĩ thôi. 

Nói rồi, không chờ đến sự gật đầu đồng ý của ông Kỳ Phương bước đến bên Nguyệt Cầm, cất giọng dịu dàng: 

- Mình đi thôi em. 

Cô gái bẽn lẽn, sợ hãi nằm tay Kỳ Phương bước đi rụt rè, không quên cúi đầu chào ông Trần và Khải Văn. 

Vì vẫn tức giận với Kỳ Phương, Khải Văn gầm gừ với Nguyệt Cầm luôn. Sau đó cố tình nói cho anh nghe rõ: 

- Cô ta đẹp thật, nhưng cũng đâu đáng để đem cả sự nghiệp tên tuổi ra đánh đổi. Đúng là thằng dại gái... dở hơi...

° ° °

-Kỳ Phương ơi, sao mọi người lại tỏ ra giận dữ với anh như vậy? Họ không thích anh đi với em có phải không? 

Xe chạy được một lúc lâu, Nguyệt Cầm vẫn còn ám ảnh những lời Khải Văn lúc nãy, nên nhìn Kỳ Phương dè hỏi. 

- Ồ không, không đâu! - Sợ cô hiểu lầm rồi tủi thân, Kỳ Phương vội giải thích. - Chẳng liên quan gì đến em. Họ giận dữ vì thấy anh ham chơi quá. Có mỗi bài phóng sự viết mãi không xong. 

- Nhưng... anh sắp viết xong rồi, tại sao anh không cho họ biết? 

- Hả? - Kỳ Phương giật nẩy người. - Sao Nguyệt Cầm biết anh sắp viết xong rồi? 

- Em bảo anh sắp viết xong cái gì kia? 

- Em chi đoán vậy thôi. - Mắt Nguyệt Cầm vẫn nhìn chằm chằm ra phía trước rồi bất chợt kêu to. - Ôi, Kỳ Phương... anh nhìn kìa... căn nhà mới cao làm sao! Kia... còn kia nữa... ôi hay quá! Tuyệt quá... Sài Gòn nhiều xe chạy quá! 

- Ừ! Em cứ từ từ khám phá. Còn nhiều điều thú vị lắm đấy - Kỳ Phương thở phào ra. Hú vía! Lúc nãy nghe cô nói, anh cứ ngỡ cô đã biết tất cả rồi. Không đâu, bác sĩ bảo đến bây giờ Nguyệt Cầm vẫn chẳng biết gì. Thật tội nghiệp, Kỳ Phương nghĩ đến phút giây biết con ma mà Nguyệt Cầm luôn căm thù, muốn huỷ diệt kia chính là mình. Liệu cô sẽ ra sao nhỉ? Cú sốc này kinh khiếp quá, cô sẽ phát điên lên mất. Không... anh đã bàn với bác sĩ rồi. Bất luận chuyện gì xảy ra đi nữa cũng phải giấu nhẹm Nguyệt Cầm, để cô còn được sống những ngày cuối đời mình trong hồn nhiên thanh thản. 

- Đưa Nguyệt Cầm ra Sài Gòn ư? - Chưa nghe Kỳ Phương nói hết câu, ông đã lắc đầu ngay. - Không được, phiêu lưu mạo hiểm lắm. Cậu có biết trong giai đoạn cuối của mình, Nguyệt Cầm có thể biến thành ma bất cứ lúc nào, trong cơn 

khát máu, nó không nhận biết được ai đâu. Đi chơi với nó, cậu sẽ gặp nhiều nguy hiểm. 

Kỳ Phương biết và nghĩ đến điều này, nhưng anh không sợ. Dù có phiêu lưu trên sinh mạng của mình, anh cũng phải làm tròn lời hứa với Nguyệt Cầm. Cô phải một lần mở rộng tầm nhìn trước khi nhắm mắt... cũng như có được một kỷ niệm đẹp trong đời... 

Những lý lẽ đầy thuyết phục của Kỳ Phương cuối cùng cũng lay chuyển được ông Bằng. Trước khi đi, để đề phòng một tình huống có thể xảy ra,ông đã trang bị cho Kỳ Phương năm ống tiêm đựng đầy máu, phòng khi Nguyệt Cầm lên cơn đột ngột, với số lượng máu tiếp vào này, anh có thể cầm cự đưa Nguyệt Cầm trở về. 

- Vâng... vậy là... Kỳ Phương đã đưa Nguyệt Cầm về đến Sài Gòn. Nhìn nụ cười rạng rỡ nở bừng trên gương mặt ngây thơ như con nít của cô, Kỳ Phương biết mình đã hành động đúng. Hơn bao giờ hết anh cảm thấy mình có thể chết đi để nụ cười kia tươi mãi. 

- Kỳ Phương ơi, anh đưa em đi đâu vậy? 

Thấy Kỳ Phương đưa mình vào một cái cổng to, có nhiều nhân viên bảo vệ soát vé chận ngay trước cửa ra vào, Nguyệt Cầm sợ hãi nhưng Kỳ Phương trấn an ngay: 

- Đừng lo, đây là nơi đầy thú vị đấy. 

Mặc dù hai viên soát vé chẳng nói gì, Nguyệt Cầm vẫn sợ hãi nép sát vào người Kỳ Phương, trước nhiều cặp mắt mỉm cười thông cảm. Cô gái đẹp này trông quê quá. Chắc mới đi thành thị lần đầu thôi. 

Thường khi, nếu phải đi với một cô gái vụng về, quê mùa như Nguyệt Cầm, chắc Kỳ Phương phải thẹn lắm. Nhưng... lần này lại không, Kỳ Phương chẳng xấu hổ chút nào. Ngược lại, anh còn thấy tự hào, thấy mình thêm vững chắc bên một tâm hồn quá đỗi ngây thơ và bé bỏng. 

- Khu vui chơi giải trí lớn và đẹp nhất Sài Gòn đấy. - Bước hẳn vào trong rồi, Kỳ Phương mới quay sang bảo Nguyệt Cầm. 

Bây giờ mới nhận ra vẻ hoành tráng, xinh đẹp của khu giải trí, Nguyệt Cầm mở to đôi mắt sững sờ. 

- Đẹp quá! Nằm mơ em cũng không ngờ thế gian này tồn tại một nơi xinh đẹp như thế này. Kỳ Phương, anh nhìn kìa... những đứa bé kia làm gì quay tròn trên chiếc máy bay như vậy hả? 

Cô hỏi lớn quá làm khách đi ngang phải ngoái đầu nhìn lại, tội nghiệp cô gái đẹp... cả chiếc đu quay cũng không biết nữa. 

- Đi theo anh. - Kỳ Phương chợt nắm tay Nguyệt Cầm, dẫn cô bước vào một phòng thời trang gần đó, lựa mua một bộ đồ thật đẹp, anh bắt cô thay ngay rồi dẫn cô đi tham quan du lịch. 

Trong bộ đồ moden hợp thời trang và thanh nhã do Kỳ Phương chọn, Nguyệt Cầm đẹp lên một cách bất ngờ. Bây giờ nhìn cô không ai có thể ngờ đấy là một cô gái quê mới lần đầu đi thành phố. Bước chân cô ngập ngừng, khập khiễng với đôi giày mới... đáng yêu hơn kiểu cách các cô gái thật thành làm duyên gấp trăm gấp vạn lần. 

- Em dùng thử cái này đi. 

Mua một cây kem, Kỳ Phương dịu dàng trao cho Nguyệt Cầm. Không nghi ngại gì, cô đưa vào miệng cắn ngay, ăn luôn lớp vỏ bọc bên ngoài. 

- Ôi! Kỳ Phương vội đưa tay ngăn lại, anh từ tốn mở bao và giải thích với cô cách ăn như thế nào cho gọn. 

- Dạ em hiểu... Nguyệt Cầm gật đầu nhưng cứ cầm mãi lên tay. 

Kỳ Phương lại phải lên tiếng nhắc: 

- Sao em không ăn đi? 

- Chờ một chút, kem còn nóng lắm! 

- Nóng ư? - Kỳ Phương tròn mắt. 

Nguyệt Cầm gật đầu: 

- Anh không thấy khói bay nghi ngút à? 

- Trời! - Không còn nhịn được nữa, Kỳ Phương bật cười lớn. - Trời ơi... Nguyệt Cầm, em cứ ăn thử một miếng đi xem có nóng không? 

- Dạ... - Nghe lời anh nhưng vẫn sợ, Nguyệt Cầm cắn một miếng nho nhỏ rồi kêu lên ngơ ngác. - Ô... nó lạnh... ngộ quá ta... - Thích thú cô ăn ngấu nghiến hết cây kem... quên hết chuyện đời. 

Ngồi yên nhìn miệng cô ăn một cách ngon lành, lòng Kỳ Phương bỗng nao nao một cảm giác khác thường, muốn được ghi khắc hình ảnh đó vào tâm khảm. 

- Kỳ Phương, anh làm gì mà nhìn em hoài vậy! - Ăn xong cây kem, ngẩng lên thấy Kỳ Phương chăm chú ngó mình, Nguyệt Cầm thẹn quá kêu lên. 

- À! Chớp mắt chợt tỉnh, Kỳ Phương vui vẻ. Hôm nay em đẹp lắm Nguyệt Cầm. Bây giờ anh em mình đi chơi đu quay nhé? Em có dám không? 

- Dám. - Nguyệt Cầm gật đầu. - Có anh ở cạnh là việc gì em cũng dám làm hết á! 

- Vậy thì đi. - Nắm tay cô, Kỳ Phương bước đến quầy vé. Thường ngày anh rất sợ độ cao, nhưng... hôm nay vì cô, anh phá lệ thử một lần lên cao cho biết. 

Vòng quay đã bắt đầu, Nguyệt Cầm kêu lên sợ hãi bởi cảm giác tròng trành. Giây lâu quen dần, cô bắt đầu kêu to thích thú: 

- Tuyệt quá! Kỳ Phương ơi... chúng mình cao chưa. Anh nhìn xem, những người dưới chân mình bé xíu. Một lát anh chụp cho em pô hình nhé. Em muốn đem về khoe với ba, với nhỏ Lan... Chà! Cả xóm sẽ ganh tỵ cho xem. Trời ơi... sao mà em hạnh phúc dữ vầy nè... 

Hạnh phúc! Mắt Kỳ Phùng bỗng cay xè. Nguyệt Cầm em đúng là tinh khiết, trong lành quá. Với em hạnh phúc có được thật dễ dàng. Em không biết ganh đua cũng không biết đố kỳ cùng ai cả. Cuộc đời em lẽ ra phải được sung sướng lắm. Em có biết là mình không còn sống được bao lâu nữa không? Sao em cứ cười, cứ nói líu lo như chim vậy? Em có biết một hành động ngây thơ của mình là một nhát dao cứa vào lòng anh đau nhói. 

- Hết rồi ư? - Chiếc đu quay dừng lại, Nguyệt Cầm kêu lên vẻ tiếc rẻ. Kỳ Phương lại dắt cô sang một trò chơi khác. Nguyên một buổi sáng cả hai đã chơi hết các trò chơi của khu du lịch. Và... có lẽ họ sẽ còn chơi nữa nếu như bụng của Nguyệt Cầm không đột nhiên sôi sục vì đói. 

- Kỳ Phương ơi... em đói bụng rồi, mình ăn cái gì đó đi anh. 

- À... ừ...! 

Đưa Nguyệt Cầm vào một nhà hàng, Kỳ Phương đãi cô một bữa đặc sản. Nguyệt Cầm thích lắm, cô ăn ngay không khách sáo. Và... một lần nữa...cô làm anh bật cười với những cử chỉ quê mùa chất phác của mình. Vui nhất là lúc cô ăn đùi gà chiên bột. Loay hoay, lớ ngớ thế nào mà cái đùi gà bay vào trúng ngay mặt một vị khách nước ngoài. Báo hại Kỳ Phương phải sang năn nỉ, xin lỗi... 

- Bây giờ mình chơi tàu lượn siêu tốc nhé Kỳ Phương? 

Vừa ăn xong, bụng no căng, Nguyệt Cầm lại đòi chơi nữa. Kỳ Phương nhẹ lắc đầu: 

- Không được... chơi bây giờ sẽ đau bao tử đó. 

- Ư! Nguyệt Cầm hờn dỗi quay mặt đi khiến Kỳ Phương phải chìa ra trước mặt cô hai tấm vé màu hồng. 

- Đừng giận, anh đưa em đến nơi này, tuyệt lắm. 

- Nơi nào thế? - Nguyệt Cầm háo hức. 

Kỳ Phương nói nhỏ: 

- Rạp xem phim. 

- Rạp xem phim! - Đôi mắt tròn mở lớn. - Là trò chơi gì thế? Có vui không? 

Kỳ Phương bí mật: 

- Đến xem rồi biết. 

- Ồ!... 

Nhìn vẻ mặt nghệch ra ngơ ngác của Nguyệt Cầm, Kỳ Phương biết cô không hình dung được cái việc xem phim là thế nào đâu. Cô đang tưởng mình sắp được tham gia một trò chơi thú vị. Hẳn cô còn đang suy nghĩ xem một lát chiếc ghế mình ngồi sẽ bay lên, hay chỉ đứng yên nhún một chỗ như trò chơi nhún lúc nãy kia. 

- Ơ! Màn hình đã được chiếu lên rối. - Nguyệt Cầm quá đỗi ngạc nhiên, kêu lớn. - Kỳ Phương, những con người kia sao lại chui vào được trong tấm vải như vậy hả? 

Kỳ Phương chưa kịp trả lời, từ hàng ghế trên đã vang lên tiếng cười khúc khích của một đôi trai gái. 

- Trời ơi... cô gái kia là người hành tinh này sao mà ngu ngơ, ngây thơ thế! 

Kỳ Phương nói nhỏ xuống tai cô: 

- Họ không phải người thật đâu. Họ chỉ là những hình ảnh được ghi lại, tựa như anh chụp hình em vậy. Khác ở chỗ hiện đại hơn, kỹ thuật hơn... những hình ảnh kia có thể đi đứng nói cười. 

- Vậy, em hiểu rồi... - Nguyệt Cầm gật đầu chăm chú nhìn lên màn ảnh. Câu chuyện phim hay quá, thu hút hết tâm trí của cô. Để cô không hay cạnh bên mình Kỳ Phương vừa thở ra một hơi dài buồn bã. 

Một ngày vui vẻ cuối cùng cũng trôi qua hết. Cũng như cái ngày Nguyệt Cầm vĩnh viễn biến mất trong cuộc đời rồi cũng sẽ đến thôi. Hôm qua ông Bằng đã nói với anh rằng... sự sống sót của Nguyệt Cầm không còn quá một tuần. 

Và... một trăm sáu mươi nạn nhân của cô cũng không tài nào kéo dài hơn một tháng. Sự kiện này nhất định sẽ gây nên chấn động dữ dội trong dư luận... Nhưng...chỉ một thời gian thôi, rồi tất cả cũng sẽ chìm vào quên lãng. Kỳ Phương không hiểu liệu mình có quên được Nguyệt Cầm? Sao phút giây này anh chỉ muốn ôm chặt cô vào lòng. Muốn thét gào... muốn hét lên hỏi ông trời. Sao ông đối xử bất công, tàn nhẫn với Nguyệt Cầm như thế? Trong suốt cuộc đời của mình cô chưa từng tổn hại đến ai, chưa từng làm đau một cành cây ngọn cỏ... 

- Ôi! Tiếng Nguyệt Cầm chợt kêu lên bẽn lẽn. Dứt mình khỏi cơn suy tưởng Kỳ Phương bỗng nghe nao cả dạ. Đồi mắt của Nguyệt Cầm nhìn anh rất lạ. Kỳ Phương ơi... anh nhìn xem trên màn ảnh, người ta làm gì kỳ quá! 

Nhìn lên màn ảnh rồi nhìn trở lại Nguyệt Cầm, Kỳ Phương cười khẽ: 

- Không kỳ đâu, người ta đang biểu lộ tình yêu đấy. 

- Tình yêu là gì? - Nguyệt Cầm tự hỏi rồi ngơ ngác nhìn quanh. Những cặp nhân tình quanh cô, ai cũng giống như trên màn ảnh, cùng hôn nhau say đắm. 

- Kỳ Phương ơi... - Giây lâu,cô bỗng rụt rè gọi khẽ. 

- Em muốn được anh hôn. Có được không? 

Như có luồng điện chạy dọc sống lưng, Kỳ Phương nhìn sâu vào đôi mắt Nguyệt Cầm với một niềm thương mãnh liệt đang trào dâng trong ấy. Không thể cầm lòng, anh từ từ cúi xuống môi hồng đặt nhẹ một nụ hôn. 

Là một phóng viên từng trải, lăn lóc khắp các nẻo đường, Kỳ Phương từng được hôn nhiều cô gái. Nhưng... chưa bao giờ anh có được một cảm xúc trọn vẹn như thế này. Bờ môi Nguyệt Cầm ngây thơ, run rẩy. Cô không kinh nghiệm gì, chỉ biết ngỡ ngàng đón nhận... vậy mà... Kỳ Phương lại thấy lòng hưng phấn, ngất ngây. Vòng tay siết chặt Nguyệt Cầm vào lòng mình, anh cảm thấy nụ hôn càng lục càng tiến sâu hơn... cuồng nhiệt hơn... 

Thật lâu trong cảm giác đê mê, ngây ngất, Kỳ Phương khó dứt môi mình khỏi môi Nguyệt Cầm. Chợt nhận ra bờ má cô ràn rụa châu rơi, anh lo lắng hỏi: 

- Anh làm em đau có phải không? 

- Không! - Vòng tay ôm lấy cổ anh, cô khóc nghẹn ngào. - Em khóc vì quá sung sướng, quá hạnh phúc thôi. Nụ hôn của anh... em sẽ nhớ cho đến chết. 

- Đừng nói bậy! - Kỳ Phương đặt vội ngón tay xuống môi cô. 

Ngả đầu vào ngực anh, Nguyệt Cầm khẽ mỉm cười: 

- Hôn em một lần nữa đi anh. 

Không đáp, Kỳ Phương đặt nhẹ môi mình xuống môi cô. Trong cảm giác lâng lâng bay bổng của tình yêu, anh chợt nghe tim đau nhói, một giọt lệ vừa trào ra khỏi mắt anh, thấm qua môi Nguyệt Cầm mằn mặn...

° ° °

-Không, Nguyệt Cầm... em đừng đi... hãy ở lại với anh một lát. Anh còn có chuyện chưa nói hết với em... 

Bàn tay nắm chặt lấy chiếc băng ca, Kỳ Phương gào lớn khi thấy cô y tá dợn đẩy Nguyệt Cầm vào bên trong phòng cách ly. 

- Đã trễ thời gian qui định hơn năm phút rồi. Xin anh thông cảm. Bác sĩ Bằng đã có lời dặn kỹ... - Đôi mắt buồn của cô y tá nhìn Kỳ Phương đầy thương cảm, như bảo anh rằng. - Mình không hề muốn chia cách anh với Nguyệt Cầm, chẳng qua... vì nhiệm vụ phải làm thôi. 

- Đừng lưu luyến nữa Kỳ Phương... - Đôi mắt nhắm nghiền vì ảnh hưởng của thuốc bỗng mở ra, Nguyệt Cầm nhìn anh đầy lưu luyến, cô cất giọng buồn buồn. Hãy chúc em lên đường may mắn. 

- Chúc em lên đường may mắn...? - Kỳ Phương lặp lại lời nói của Nguyệt Cầm và bước lên nắm chặt lấy tay cô, anh bỗng oà khóc. - Không... anh không cho em đi đâu cả. Em phải nghe anh nói... Anh yêu em... 

Mí mắt chợt khép lại mở ra, Nguyệt Cầm mỉm cười mãn nguyện: 

- Em cũng yêu... 

Cô không nói trọn câu, liều thuốc mê đã đưa cô vào giấc ngủ say. Một giấc ngủ mà cô không bao giờ tỉnh lại. 

Ý nghĩ mình sẽ mất Nguyệt Cầm vĩnh viễn đã làm cho Kỳ Phương không sao chịu nổi. Anh chạy theo chiếc băng ca, anh gọi lớn tên cô... muốn làm tất cả để gọi cô ra khỏi giấc ngủ im lìm. Nhưng... cánh cửa đã lạnh lùng sập lại ngay trước mặt như ranh giới âm dương chia lìa mãi mãi. Anh và Nguyệt Cầm đã thuộc về hai thế giới khác nhau. Đời này, kiếp này... sẽ không bao giờ còn có cơ hội gặp nhau nữa đâu... 

Giữ đúng lời hứa, Kỳ Phương đã dắt Nguyệt Cầm rong chơi khắp Sài Gòn suốt một tuần. Dấu chân của hai người đã in khắp nơi, đã lưu lại không biết bao nhiêu hình ảnh khắp chốn. 

Kỳ Phương thực sự có những giây phút tuyệt vời nhất trên đời mình bên cạnh Nguyệt Cầm. Cùng lúc, anh càng thấy quyến luyến, thấy yêu cô nhiều hơn bao giờ hết. Để đôi khi trong hoang tưởng, anh thầm mơ đến một phép thần kỳ diệu. Đến một viễn cảnh tương lai thật tuyệt vời thơ mộng. Trong một căn nhà nhỏ, anh và Nguyệt Cầm cùng sống hạnh phúc đời vợ chồng. Hai người sẽ có một đứa con xinh như mộng. Quên hết ganh đua chuyện trần gian, chỉ biết hưởng những ấm êm, thảnh thơi bên nhau. 

Đem ý tưởng này kể với Nguyệt Cầm, anh thấy mắt cô long lanh sáng. Ôi... cô còn mong điều gì hơn thế nữa. Thế nhưng...cuộc vui chóng tàn, ngày tháng qua mau. 

Thấm thoát thời hạn một tuần đã hết. Cùng Nguyệt Cầm chuẩn bị hành lý trở về quê, lòng Kỳ Phương nặng trĩu. Đên đó, nằm cạnh bên nhau cả hai đã mong trời đừng bao giờ sáng. 

- Cậu nói sao? Suốt một tuần liền Nguyệt Cầm không lên cơn khát máu nào? Ông Bằng kêu lên thảng thốt khi thấy Kỳ Phương giao trả lại mình năm ống máu còn nguyên... - Thật là kỳ lạ quá... Tôi đã tính sai ở chỗ nào? 

Qua ngày sau, đích thân ông tìm đến nhà Kỳ Phương để báo một tin mừng: 

- Tôi đã nghĩ ra rồi... thật không ngờ... Kỳ Phương, cậu có biết, trong một phút vô tình cậu đã giúp tôi giải bài toán hóc búa mà tôi phải nặng đầu suốt mười tám năm qua. Cuối cùng... tôi đã tìm được cách diệt con vi khuẩn khốn kiếp ấy rồi... 

- Thật ư? - Ôi... Kỳ Phương nghe ông ta nói mà vui mừng khôn xiết. Ôm lấy tay ông, anh quay tròn như đứa trẻ được quà. Phải hơn năm phút sau đợi niềm hưng phấn dịu đi, anh mới có thể bình tâm nghe ông Bằng kể lại rõ ràng, tường tận. 

- Tất cả đều bắt đầu từ một tình cờ ngẫu nhiên thôi. Kỳ Phương, cậu còn nhớ hôm nào trong cơn nguy kịch, tôi là cậu đã dùng những ống máu mang đầy mầm bệnh của những bệnh nhân kia tiêm thẳng vào người Nguyệt Cầm không? Nó không những cứu được Nguyệt Cầm trong cơn nguy kịch mà còn giúp cho cơ thể của nó tạo ra một kháng thể mới... đủ sức cầm cự với sự tấn công của con vi khuẩn. Đó là lý do vì sao suốt một tuần cùng cậu du lịch khắp Sài Gòn mà Nguyệt Cầm không bị một lần lên cơn khát máu. Hôm qua, khi xét nghiệm lại máu của Nguyệt Cầm tôi đã phát hiện ra một điều thú vị. Rằng... nếu ta đem những kháng thể vừa tạo được của Nguyệt Cầm tiêm cho những bệnh nhân, thì 

trong một thời gian ngắn, số kháng thể đó có thể diệt hoàn toàn số vi khuẩn có trong họ. 

- Thật tuyệt vời! - Một lần nữa, Kỳ Phương nhảy cẫng lên mừng rỡ. Nắm lấy tay ông, anh cứ lắc mãi trong sự tự hào. - Ông thật sự là một thiên tài... Cuối cùng.... con ma cũng bị ông tiêu diệt. Tất cả bọn họ sẽ sống. 

- Phải... tất cả bọn họ sẽ sống. - Giữa vui mừng, giọng ông bỗng nghẹn đi, chùng xuống đau đớn. - Chỉ trừ Nguyệt Cầm. 

- Sao cơ...? - Nụ cười trên môi vụt tắt, Kỳ Phương sững người bất động. Ông vừa bảo... cơ thể Nguyệt Cầm tạo loại kháng thể, có sức cầm cự với vi khuẩn khát máu cơ mà. 

- Vì là thế hệ đầu tiên... nên loài vi khuẩn có trong máu Nguyệt Cầm có sức sống mạnh, nên loại kháng thể vừa tạo được trong người Nguyệt Cầm chỉ có thể cầm cự với loài vi khuẩn một thời gian, chứ không đủ sức diệt nó. Loại kháng thể này chỉ có thể tiêu diệt được thế hệ sau của nó thôi. 

Niềm hy vọng vừa bùng lên đã tắt làm ngay, đôi mắt Kỳ Phương cụp xuống: 

- Nói vậy... nghĩa là... chúng ta chỉ có thể cứu được một trăm sáu mươi người kia mà không cứu được Nguyệt Cầm. Bác sĩ... ông hãy nghĩ cách đi... biết đâu... 

- Tôi đã nghĩ kỹ lắm rồi... - Bác sĩ thở ta một hơi dài. 

Đôi mắt ông chợt trở nên xa vắng. Ngập ngừng giây lâu ông cất giọng khàn khàn. - Muốn cứu đám người kia... buộc lòng ta không thể không hy sinh Nguyệt Cầm. 

Đôi mắt mở to, Kỳ Phương như không hiểu nên ông đành nói thẳng ra: 

- Muốn tạo ra kháng thể, bây giờ ngoài cách lấy vi khuẩn của bệnh nhân vào người Nguyệt Cầm chúng ta không còn cách nào khác. 

- Cấy vi khuẩn của những người kia vào người Nguyệt Cầm? - Kỳ Phương kêu to hoảng hốt. - Ý ông muốn bảo là chúng ta sẽ hút hết kháng thể vừa tạo được của Nguyệt Cầm để làm kháng sinh trị bệnh? 

Dòng nước mắt tuôn tràn trên đôi má nhăn nheo, ông gật đầu thổ lộ tâm trạng người cha phải giết đi đứa con yêu quý nhất của mình. 

Nhưng... như vậy là tàn nhẫn lắm. - Kỳ Phương không đành lòng một chút nào. Ông cũng thế, nắm lấy tay Kỳ Phương, ông như cầu cứu: 

- Ta cũng bối rối lắm rồi... không biết phải xử trí sao cả. Kỳ Phương, cậu có hiểu tâm trạng của ta khi phát hiện ra cách trị bệnh này không? Ta mừng nhiều... mà cũng đau lòng nhiều lắm. Dù biết rằng... sự hy sinh của Nguyệt Cầm là xứng đáng... Nhưng nó là con của ta... đứa con duy nhất của ta, cậu hiểu không? 

Làm sao mà Kỳ Phương không hiểu! Nắm lấy tay ông, Kỳ Phương tuôn tràn bao cảm xúc. Phút giây này... anh không thể khuyên ông một lời nào. Bởi lẽ... với anh bây giờ con đường nào cũng quá nhẫn tâm, cũng không nỡ... 

- Suốt đêm qua, và cả sáng này nữa... ta cứ như kẻ đứng giữa ngã ba đường. Không biết phải đi vào đường nào cho đúng, Kỳ Phương cậu là người ngoài sáng suốt hơn... Hãy nói đi, ta phải làm sao? 

- Cháu không biết... - Kỳ Phương lắc đầu, tâm tư bối rối. - Lý trí bảo một đường, con tim làm một nẻo. Dù mang mầm bệnh, Nguyệt Cầm vẫn là một con người, chúng ta không thể nói hy sinh là hy sinh ngay được... 

Đúng vào lúc cả ông lẫn Kỳ Phương hoàn toàn bế tắc trong cách lựa chọn thì... bất chợt sau cánh cửa, Nguyệt Cầm bỗng bước ra. 

- Sẽ dứt khoát hơn nếu anh và ba nghĩ rằng sự hy sinh của Nguyệt Cầm là cách giải quyết duy nhất hiện thời. Một cái chết để một tăm sáu mươi người được sống là một con số quá rõ ràng cụ thể. 

- Nguyệt Cầm... - Cả hai nhìn nhau hoảng sợ. Thì ra cô đến lâu rồi, đã nép mình sau cánh cửa nghe rành rọt mọi chuyện. 

- Nguyệt Cầm!... - Sợ sự thật phũ phàng sẽ làm cô kinh khiếp, Kỳ Phương bước vội đến nắm tay cô. - Em đừng sợ... hãy còn có anh đây. 

Nhưng... trái với tưởng tượng cả hai người, Nguyệt Cầm không tỏ ra sợ hãi chút nào. Nét mặt hồn nhiên, thanh thản như chẳng biết chuyện gì, cô mỉm cười nhìn Kỳ Phương thân thiết: 

- Anh không phải lo lắng cho em. Em không sợ đâu. Thật ra... chuyện này... không phải bây giờ em mới biết. Tâm lý chuẩn bị em đã có từ lâu, không còn ngỡ ngàng, hoảng hốt như lần đầu nhận biết mình là ma nữa. 

- Con biết chuyện này từ lâu rồi ư? - Ôm lấy đầu,ông Bằng rên rỉ. - Khốn khổ thân con quá. 

- Cha! - Nguyệt Cầm hướng mắt nhìn ông trìu mến. - Đừng quá khổ đau như thế. Thật ra... chuyện này chưa lâu lắm. Hôm đó, chập chờn nửa mơ, nửa tỉnh, vô tình con đã nghe được câu chuyện giữa ba với anh Kỳ Phương. 

- Là hôm đó sao? - Kỳ Phương tự trách mình. - Anh đúng là đáng trách quá! Hẳn là em phải đau khổ lắm trong những ngày qua? 

- Đúng là khi biết chuyện em đau khổ lắm. - Nguyệt Cầm cất giọng buồn buồn. - Sợ hãi và hoảng loạn, em chỉ muốn chấm dứt ngay cuộc sống của mình. Trời ơi, con ma hung ác từng giết hại người vô tội. Cơn ác mộng, niềm kinh hoàng của mọi người chính là em... Trong một phút vừa biết chuyện em đã oán hờn cha. Trách giận ông tạo ra oan nghiệt. Nhưng... sau nghĩ lại, em thôi không giận mà càng thấy thương ba hơn bao giờ hết. Em tự trách mình trong bao ngày tháng cứ nhởn nhơ sống vô tư với hạnh phúc nào biết lòng cha canh cánh nỗi ưu phiền. 

- Em ước mình được sẻ chia cùng ba sự đau khổ ấy. Em không trách ba khi ông có quyết định sẽ cho em cùng chết với những bệnh nhân đã không còn thuốc chữa. Em biết đi đến quyết định này, lòng ba phải băn khoăn, trăn trở nhiều lắm. Em không thể để ông đã đau lòng càng đau lòng hơn nên cứ vờ như chẳng hay biết gì. Ba muốn em được vô tư, sung sướng đến phút cuối đời thì em sẽ sống vui, sống hạnh phúc cho ba được vui lòng. Đường đến cái chết càng lúc càng gần, nhưng em không thấy sợ. Nhất là sau khi được anh dắt đi chơi khắp thị thành. Kỳ Phương em thật sự biết ơn anh. Anh đã cho em nhiều kỷ niệm đẹp, những phút giây được sống hết mình. Những ngày ở cạnh anh là những ngày tươi đẹp và có ý nghĩa nhất đời em. Để em không còn phải hối hận một điều gì khi bước chân vào cõi chết. Em thật sự hạnh phúc và mãn nguyện với những gì có được trong đời. Một người cha yêu kính thương em hết mực và một người bạn trai đã yêu thương và quan tâm đến em nhiều như thế. Em tự nhủ, bao giờ gặp mẹ, em nhất định sẽ kể về anh với mẹ. Mẹ chắc là vui lắm. 

Ngừng một lát, không gian chừng như tê liệt không còn một tiếng động. Sau đó điều kỳ diệu đã xảy ra? Đôi mắt Nguyệt Cầm long lanh sáng: 

- Nghe ba kể với anh mà lòng em vui khôn tả. Cuối cùng thì ba cũng tìm được cách cứu người rồi. Vậy là... từ nay lương tâm ba sẽ không còn bị ray rứt nữa. Bóng ma dĩ vãng vĩnh viễn sẽ chôn vùi trong ký ức của ba... Em chỉ ngạc nhiên trước thái độ không dứt khoát của anh và ba thôi. Tại sao hai người lại yếu đuối như vậy chứ? Lúc đầu đã chấp nhận cho em chết cùng đám bệnh nhân kia. Giờ chỉ có mình em chết sao cả hai không cảm thấy vui mừng, lại sầu não ủ dột thế kia? Hai người làm em lo quá, nên đành phải bược ra nói những lời này.... 

Giọng Nguyệt Cầm nhỏ nhưng rạch ròi, cương quyết, chứng tỏ, cô đã đắn đo, suy nghĩ trước khi nói ra. Phi thường, vĩ đại thai! Kỳ Phương thật không ngờ, những lời như thế lại được thốt ra từ một cô gái quê mùa, không học vấn. Sống mũi cay xè, anh thấy mình khóc ngon lành trước mặt cô. 

- Đúng là ban đầu ba chấp nhận cho con chết cùng với mọi người. Nhưng bây giờ... - Nói đến đây, đau khổ quá ông Bằng khóc nấc lên. - Tất cả đều được phép màu cứu sống. Đành lòng nào cha nhìn con đi vào cõi chết. 

- Con biết. - Bước đến bên cha, Nguyệt Cầm nhẹ nắm tay ông. Bằng một nghị lực phi thường, cô thuyết phục ông mà không để rơi giọt nước mắt nào. Làm như thế là bất công cùng ba lắm. Thế gian này chẳng có người cha nào nỡ lấy đi sự sống của con mình. Nhưng con mong ba hãy cạn suy. Sự sống của con bây giờ đã trở nên vô nghĩa. Một thời gian nữa thôi, khi những kháng thể trong con không còn cầm cự nổi con cũng sẽ phải đi vào cõi chết. Đó là một cái chết vô nghĩa đầy oan ức. Thà rằng bây giờ ba cho con đi sớm hơn một chút. Đem cái chết của mình cứu một trăm sáu mươi nạn nhân khốn khổ kia. Không chỉ được nhẹ lòng thanh thản mà con còn được chút tiếng thơm, chút tự hào với cuộc đời rằng mình đã không phải sống một kiếp người vô ích. Ba... con cầu xin ba hãy vì con, vì tất cả mọi người mà mau có một quyết định đúng đắn. Hứa với con là ba sẽ bằng lòng, sẽ bằng lòng đi ba.... 

Cái giọng khẩn thiết, cũng như lý lẽ mang đầy tính thuyết phục của Nguyệt Cầm đã khiến bác sĩ Bằng không thể nào từ chối. Nhìn ông gật đầu nhận lời con, KỳPhương cảm thấy đất trời dưới chân mình đảo lộn. Không anh muốn hét to lên nhưng hoàn toàn bất lực. Anh nghẹn ngào nhìn ông và Nguyệt Cầm xăng xái lo chuẩn bị. 

Để có đủ lượng kháng thể cần thiết, việc đầu tiên là phải lấy máu của một trăm sáu mươi bệnh nhân truyền hết vào cơ thể Nguyệt Cầm. Đợi đến khi lượng kháng thể được hình thành đầy đủ, chính ông Bằng sẽ cho một cây kim vào tĩnh mạch Nguyệt Cầm để rút tất cả số lượng máu trong người cô ra. Sau đó mới tiến hành phân tích, tách những hồng cầu kháng thể vừa hình thành ra khỏi hỗn hợp máu. Biến chúng thành một dung dịch đậm đặc rồi đem tiêm vào cơ thể của những bệnh nhân... 

Và... bây giờ trong căn phòng vô trùng kia, ông Bằng đang tiến hành công đoạn rút máu ra khỏi người của Nguyệt Cầm. Để tránh cho cô không phải đớn đau trước khi lấy máu, ông đã truyền cho Nguyệt Cầm một liều thuốc an thần. Cô sẽ ngủ, một giấc ngủ an lành đến ngàn thu không trở lại. 

Sự sống đang dần rời khỏi Nguyệt Cầm! Không....!!! Kỳ Phương đấm mạnh tay vào của phòng cấp cứu. Hãy mở cửa ra, hãy ngưng ngay tất cả. Trả Nguyệt Cầm lại cho anh, cho cuộc đời tươi đẹp. Trời ơi... sao tất cả vẫn im lìm... chỉ có tiếng thời gian gõ nhịp tí tách. Những giọt máu cuối cùng đang rời khỏi người Nguyệt Cầm. Chiếc băng ca đã chầm chậm đẩy trở ra. Bước sau tử thi Nguyệt Cầm được phủ khắn trắng toát, gương mặt ông Bằng bệch ra, bất động trong một trạng thái đau thương cùng cực. Nhìn theo bóng ông khuất xa dần, tim Kỳ Phương đau nhói từng hồi. Từ nay, cuộc đời đã vĩnh viễn mất đi Nguyệt Cầm.

° ° °

-Ê, thì ra chuyện con ma hút máu là có thật. Cô ta tên Nguyệt Cầm. 

- Ai mà không biết, tôi còn có cả hình cô ta ép vào bóp nữa nè. Xem đi, đẹp tuyệt trần luôn. 

- Ừ! Đẹp thật... không ngờ lại là ma... uổng thật. Đọc báo mà tôi cứ buồn ngẩn ngơ hết mấy ngày. Thương cho cô Nguyệt Cầm kia quá! 

- Tôi thiệt phục tay phóng viên Kỳ Phương ấy. Hắn viết phóng sự hay như thật. Đọc mà cứ tưởng hắn là người trong cuộc vậy. 

Báo "Tia chớp" phen này phát tài to. Báo in ra bao nhiêu bán hết bấy nhiêu. Đắt như tôm tươi vậy. 

Trên toa tàu đầy ắp tiếng cười nói. Mọi người không phát hiện ra, trong góc ghế có một gã thanh niên đang trầm tư, hướng mắt về nơi xa xôi trong trạng thái bất động. Không tham gia câu chuyện với mọi người, nhưng anh lại lắng nghe không sót một lời họ bình luận. 

Không xa lạ, anh là Kỳ Phương, là người đang được mọi người đề cập trong câu chuyện kể. Là người vừa hoàn thành xong thiên phóng sự điều tra ly kỳ,cảm động nhất xưa nay. Anh đang trên đường trở lại Sài Gòn. 

Vậy là một lần nữa, bài phóng sự của anh gây được tiếng vang lớn trong dư luận. Toà soạn hài lòng, độc giả hết lời khen tặng. Nhưng Kỳ Phương không thấy tự hào một chút nào. Bởi để có được một bài phóng sự hay ho tuyệt vời như thế, anh đã phải đánh đổi quá nhiều. Không chỉ có máu và nước mắt. Anh đã phải lìa xa Nguyệt Cầm, người con gái mà anh yêu quí nhất. 

- Xin lỗi, anh có phải là phóng viên Kỳ Phương không? Một giọng nam trầm khẽ cắt ngang dòng suy nghĩ của Kỳ Phương. Ngẩng đầu lên, anh ngờ ngợ nhận ra người đang đứng trước mặt mình. Trông quen lắm, nhưng không nhớ mình đã từng gặp anh ta lúc nào. 

- Tôi là Vân Phi, người lữ khách hôm nào đã gặp anh trên chuyến tàu đêm. Như biết Kỳ Phương không thể nào nhớ ra mình, Vân Phi nhắc lại lần đầu gặp gỡ. 

- Ô... phải rồi... - Bây giờ mới nhớ ra, Kỳ Phương cười niềm nở rồi kéo anh ta ngồi xuống chiếc ghế trống cạnh bên mình. - Ngồi uống đây và cho tôi biết, anh có về gặp bác sĩ Bằng để ông cứu chữa chưa? 

- Tôi đã về, đã gặp ông, cũng đã chữa được cơn bệnh khát máu quái ác nhất đối với mình. - Sau nụ cười mãn nguyện của một người vừa thoát nạn, Vân Phi thở ra một hơi dài. - Không ngờ... con ma đó lại là Nguyệt Cầm. Càng không thể ngờ cô lại có một hành động anh hùng cao cả thế. Tôi thật khâm phục và biết ơn Nguyệt Cầm, cô chính là ân nhân, là người cứu tôi và hơn một trăm người khác khỏi cái chết tàn nhẫn nhất... 

Sóng mũi cay xè, Kỳ Phương chớp nhanh đôi mắt cố ngăn mình đừng khóc. Giá mà anh có thể quay ngược thời gian cho hôm nay là buổi đầu tiên anh gặp Vân Phi, được anh kể cho nghe chuyện ma quái dị ở làng mình. 

Có lẽ anh sẽ không thay đổi được diễn biến của câu chuyện, cũng không ngăn được cái chết của Nguyệt Cầm. Nhưng anh có thể yêu cô sớm hơn, bù đắp cho cô nhiều hơn, để cô có được những tháng ngày dài hơn thật vui vẻ và hạnh phúc.

Mọi việc đã kết thúc, cơn ác mộng thật sự không còn nữa. Cái chết của nguyệt Cầm không oan uổng chút nào... - Vân Phi nói xong câu này cũng là lúc con tàu dừng lại, vội đứng lên, anh vẫy tay tạm biệt Kỳ Phương. 

- Thôi tôi phải đi đây, chúc anh có thêm nhiều phóng sự điều tra hay hơn nữa. 

Anh ta và mọi người đã xuống hết từ lâu, vậy mà Kỳ Phương vẫn còn ngồi mãi trên góc ghế. Mọi việc đã kết thúc,con ma cũng không còn, thời gian trôi qua, tất cả sẽ chìm vào quên lãng. Nhưng... anh không muốn thế. Anh không bao giờ muốn quên đi. Bởi với anh, đó không phải là cơn ác mộng mà là một giấc mơ đẹp nhất đời mình. Yên nghỉ đi Nguyệt Cầm, anh sẽ không quên, không bao giờ quên em trong suốt đời này. Anh sẽ làm cho tên em thành bất tử không chỉ với riêng anh mà với tất cả mọi người đang có mặt trên thế gian. 

Từ nay, ánh tráng đêm không còn là nỗi kinh hoàng ám ảnh trong tâm tưởng của mọi người. Khi cùng nhau thưởng thức chung trà bên ánh trăng thanh bình huyền diệu, chúng tôi sẽ nhắc về em như một huyền thoại, một tấm gương sáng ngời nhân hậu, bao dung. Về sự hy sinh vô cùng thánh thiện. Nguyệt Cầm, em là vầng trăng đẹp nhất đời không bao giờ lặn tắt... 

Chúng tôi thật lòng biết ơn em... Người anh hùng đã hy sinh bản thân mình cho đồng loại. Bên em... không một cái ác nào có thể tồn tại được.

truyện tiếp theo:

Một sự kiện có thật xảy ra vào tháng 10 năm 1993, khi một tòa soạn một tạp chí chuyên khảo về hiện tượng siêu linh huyền bí ma quỷ... nhận được điện thoại cầu cứụ Người gọi điện thoại tự sưng là Lý Triệu Quỵ qua đường dây điện thoại, Quy nói với nhân viên tòa soạn như sau:

-Xin quý vị hãy giúp chúng tôị Chúng tôi có một người bạn gái bị ma quỷ nhập, tinh thần rối loạn... cô ta tên là Đàm Lệ Sa, cô đã bị một câu trù làm hạị .

Người nghe máy là một ký giả tại tòa soạn. Trong khi nghe tiếng kêu cầu cứu của người thanh niên, ký giả còn nghe được tiếng la thét khủng khiếp của một người con gái ở bên kia đầu giâỵ Người ký giả cảm thấy một luồng ớn lạnh chạy dọc xương sống. Từ lâu ở Hồng Kông đã nghe nói tới hiện tượng kinh dị này nhưng chưa có ai thực sự chứng kiến tận mắt hiện tượng quỷ ám. Có thể đây là một dịp may hiếm có giúp tờ báo chuyên về vấn đề siêu linh huyền bí có được những chứng cớ và hình ảnh thực sự đề điều mà từ lâu dân HK nửa tin nửa ngờ.

Ở đầu giây bên kia có tiếng người thanh niên đầy vẻ khẩn trương van nài:

-Yêu cầu quý báo giúp chọ Chúng tôi nghĩ rằng tòa soạn biết được người có khả năng giúp cho cô Lệ San thoát khỏi tình trạng nguy khốn như hiện naỵ Chỉ còn hai ngày nữa thôi nếu không kịp đuổi tà ra khỏi người thì cô sẽ chết một cách thảm thương.

Người ký giả hỏi:

-Cô Sa đã bị tình trạng này bao lâu rồi anh có biết không?

-Cô ấy bị như vậy trong 7 ngày 7 đêm rồi và không ăn uống gì cả.

-Xin anh cho biết cô Sa có những cử chỉ hành động ra sao trong suốt thời gian qua.

-Mặc dù không ăn uống nhưng cô lại có sức mạnh khác thường. Cô vùng vẫy la hét muốn đập phá mọi thứ. Phải 6, 7 người khỏe mạnh mới có thể giữ được cô nằm yên được trên giường.

Sau đó, người ký giả này đã trình bày mọi sự cho mọi người tại tòa soạn. Viên chủ nhiệm đã đề nghị người ký giả và viên tổng thư ký già hãy lái xe đến gấp địa điểm cô gái đang bị quỷ ám.

Khi vừa bước xuống xe, họ đã nghe tiếng la hét đập phá phát ra từ căn nhà lụp xụp có khu vườn rộng đầy cây cối .

Người thanh niên tên Quy bước ra cửa mời họ vào trong. Khi cánh cửa buồng mở ra, mọi người thấy một cô gái đầu tóc bù rối ngồi trên giường. Cô gái trợn trừng đôi mắt nhìn lên và thét to:

- Đi ra! Hãy đi ra khỏi đây ngay!

Mắt cô gái đỏ rực như có tia lửạ Cô cố vùng vẫy nhưng tay chân đều bị trói chặt trên giường.

Người ký giả nhìn cô gái với tâm trạng lo âu sợ sệt nhưng viên tổng thư ký tòa soạn thì có vẻ bình tĩnh. Ông quan sát mặt mày, cử chỉ cô gái rồi chậm rãi nói:

-Trường hợp này giống như trường hợp xảy ra ở quê tôi vào năm 1960. Lúc đó có một cô gái bị quỷ ám, cổ cũng có sức mạnh ghê gớm, tuy bị giây thừng cột chặt nhưng vì giường tre ọp ẹp, yếu ớt nên đã gãy tan trước sức mạnh của cô gái đó.

Một người bạn của Lý Triệu Quy nghe vậy liền nói:

-Cô Đàm Lệ Sa cũng có sức mạnh lạ thường. Một điều mà trước đó, khi cô chưa bị chứng lạ thì cô rất yếu ớt, hay đau yếu khiến bạn bè cô thường gọi cô là "người trói gà không chặt" hay là "cây liễu yếu xìu"!

Lý Triệu Quy kể:

-Cô Sa thường vùng lên để giật cái cà vạt treo trên tủ quyết tâm thắt cổ mình cho đến chết khiến người nhà phải dấu cái cà vạt cũng như những thứ có thể gây chết người hay thương tích.

Viên Tổng Thư Ký tòa soạn hỏi:

-Từ ngày cô gái bị bịnh quái lạ ấy đến nay đã có ai đến cứu giúp cho cô thoát khỏi điều người ta nghi là bị quỷ ám chưa ?

Lý Triệu Quy nói:

-Chúng tôi có đi kiếm một số Đạo sĩ, rồi hội của những vị luyện theo phép Mật tông cầu xin họ giúp đỡ, tìm cách trục xuất quỷ ra khỏi thân xác cô Lệ Sa nhưng sau khi đến quan sát tại chỗ, họ đã lắc đầu bảo là năng lực của ma quỷ quá mạnh rất khó trị!

Nghe đến đây thì hai nhân viên toà soạn tỏ ra thất vọng. Lý triệu Quy tỏ dấu van nài:

-Chúng tôi xin quý vị giúp đỡ chọ Với phương tiện báo chí trong tay, quý vị có thể kêu gọi sự nhiệt tâm ra tay cứu giúp cô gái đang trong tình trạng quỷ nhập vô cùng nguy ngập, chỉ không hơn hai ngày nữa là không còn cách gì cứu chữa . 

Trước khi ra về, nhân viên toà soạn đã phỏng vấn chớp nhoáng người thân của cô gái và chụp hình.

Theo tin tức nhận được từ lời kể lại của những người thân túc trực bên giường cô thì trước khi xảy ra sự kiện bị quỷ ám, cô gái này có quen một người tên là Hoàng Khải Quang. Anh này có cách sống khác thường nhưng lại là điều làm quyến rũ cô gái . Anh ta có xâm trên mình hình ảnh một con chim lạ. Sau một thời gian quen biết nhau, đi chơi chung với nhau, Lệ Sa biết được người bạn trai này nằm trong một nhóm ma thuật. Càng ngày cô gái càng bị quyến dụ gia nhập vào hội và cuối cùng sự tò mò đã hối thúc và dẫn dắt Lệ Sa đi sâu vào con đường tối tăm của ma quỷ mà cô không haỵ Lệ Sa quyết định đi theo Quang để tới một địa điểm bí mật làm nghi thức nhập môn.

Trước khi bị mê sảng, Lệ Sa thường kể cho những người bạn thân nghe hôm cô gia nhập hội Ma Quỷ như sau:

"Đó là một căn hầm mỗi bề rộng khoảng năm thước. Trần hầm thấp không có mùi mốc ẩm vì luôn luôn ngập hương khói và đèn cầy cháy đỏ. Quang dẫn tôi đến trước bàn thờ có để đủ thứ đồ cúng rất lạ lùng dễ sợ. Nào là đầu lâu người và chó, những bình nước, chén nước đen ngòm bốc mùi hôi thối đến lợm giọng. Những thứ đó hòa lẫn với mùi hương trầm, mùi đèn cầy, mùi trong căn hầm làm cho thần kinh tôi như thác loạn. Tôi cảm thấy trong người chao đảo quay cuồng. Trong khi đó, anh Quang cởi áo phơi ra hình xâm con chim lạ trước ánh đèn và lửạ Anh lấy cái bình chứa nước đen ghê rợn đổ vào lòng bàn tay xoa khắp người rồi quỳ trước bàn thờ nhắm nghiền mắt lại rồi như tỉnh lặng trong cái thế giới u ám lạ lùng ma quái đó. Khoảng 8 người khác cũng đang đắm chìm tư tưởng trong cõi giới vô hình nào đó. Một người chạy đến hỏi han tôị Tôi nghe tiếng nói thật xa xăm như đang mơ ngủ:

-Mừng cô gia nhập Hội Siêu Linh.

Một người khác chạy lại nắm tay tôi:

- Để tôi giúp cô em ra mắt thần linh.

Và sau đó tôi được khích lệ uống một loại nước gì đó tôi không rõ và tôi lịm đi từ đó.

Khi tỉnh dậy tôi thấy mình khỏe hẳn ra và nhiều người đứng bao quanh mỉm cười với tôi khi thấy tôi mở mắt."

Từ đó trở đi việc học hành của Lệ Sa không còn đều đặn và thuận lợi nữạ Cô không thích học, chỉ thích mau mau được dịp đến với Hội Siêu Linh ma quỷ. Người bạn trai có xâm mình tên Quang thường đến gọi cửa cô vào lúc nửa đêm để ra ngoài dạo chơi hoặc đi dạo dưới ánh trăng.Đôi khi họ đến những bãi tha ma, những cồn mồ hoang ở ngoại ô để đi dạo trong những giờ khắc mà ma quỷ thường xuất hiện. Họ mong gặp ma quỷ để giao lưu, tiếp xúc, chuyện trò...

Chỉ mấy tháng sau, bạn bè thấy Lệ Sa đổi khác từ tính tình cho đến vóc dáng, sắc mặt. Cô không còn vui đùa, dễ thương, hiền hậu như trước. Nét mặt thường ủ rũ, có khi đăm chiêu, có khi hung dữ. Sắc mặt trắng xanh hay bạc thếch còn thân hình thì cốm hơn trước rất nhiều, có lẽ cô sống phần lớn về đêm và ăn uống lại ít.

Theo bạn bè thuật lại thì Đàm Lệ Sa đã vì theo những người trong Hội Ma Quỷ dẫn dụ rồi bị aỏ giác, bị phù thủy ma thuật đen hãm hại nên trở thành nạn nhân của quỷ.

Hôm Lệ Sa nổi cơn điên là ngày 8 tháng 10. Lệ Sa tới phòng học, mặt mày xanh lét tự nhiên lấy đồ đạc trên bàn liệng tứ tung, đôi mắt cô long lên sòng sọc, cô đưa tay chỉ vào các bạn rồi thét to:

-Chúng mày phải chết! Chúng mày phải chết!

Rồi sau đó cô lại có ý muốn nhảy từ lầu ba xuống đất, may mắn có nhiều người bạn biết ý đã giữ cô lại .

Khi về nhà cơn mê sảng càng lên caọ Bạn bè phải phụ lực nhau cột chặt cô gái vào giường mới mong cô khỏi phá phách. (Cô Lệ Sa là một cô gái mồ côi trọ học, cô không có cha mẹ, chỉ được người chị nuôi và bà chị này cũng ở rất xạ). Từ từ, cứ mỗi lần hoàng hôn, khi nắng chiều đỏ ối nhuộm đầy cây cỏ núi đồi thì Lệ Sa lại chạy ra sân vườn vẽ một vòng tròn trên đất và vào ngồi ngay giữa vòng ấy, hai tay khoanh lại mồm nói toàn những tiếng lạ, kỳ quái . Các bô lão thấy vậy đã sợ sệt bảo rằng, đó là tiếng nói của quỷ.

Có lần Lệ Sa vào ngồi trong vòng tròn vừa vẽ xong và nói:

-Ta phải dùng vòng tròn này để giam hãm ma quỷ vào đây (?)!

Vừa nói, Lệ Sa vừa lấy tay bắt sâu kiến bò trên đất bỏ lên mặt rồi cất tiếng cười the thé rất dễ sợ Điều kỳ lạ là lúc chưa bị quỷ ám, nàng rất sợ sâu bọ

Rồi càng ngày cơn kích động càng tăng, có khi Lệ Sa vùng vẫy thoát được một tay ra khỏi dây nịt hoặc dây chảo cột chặt cô vào thành giường. Bạn bè phải dùng đến cả dây xích sắt có khóa để giữ cô lạị Mỗi khi cô lên cơn hung dữ, cô thường thét lên:

-Ta là con của Satan. Trước đây có ai biết được rằng ta là một con quỷ và con quỷ ấy đã tồn tại mấy triệu năm qua rồi (?) và nay vẫn còn tồn tạỉ .

Thường sau mỗi câu gào thét như thế Lệ Sa lại ôm mặt khóc nức nở.

Lúc Lệ Sa bắt đầu bị quỷ ám, cô đã có sức mạnh lạ thường mà trước đó không hề thấy ở cộ Cô dùng tay nâng một lần hai chiếc ghế nặng liệng rất xa và phá phách mọi thứ trong nhà như người điên. Sáu người bạn đã xúm lại giữ chặt lấy tay chân cô mà cô vẫn vùng ra được.

Hiện nay Lệ Sa đã trải qua 7 ngày bị quỷ ám. Chỉ còn hai ngày nữa là cô lâm nguỵ Thân nhân và bạn bè của Lệ Sa năn nỉ hai nhân viên nhà báo đăng tin tức lên báo để xem ai có khả năng cứu được cô. Bài báo đã gây xôn xao dư luận công chúng ở HK, chỉ trong một thời gian ngắn, số báo in ra đã hết sạch phải in lại lần thứ hai .

Mười hai giờ khuya hôm đó có tiếng một người đàn ông lớn tuổi gọi điện thoại đến cho toà soạn. Rất may la toà soạn đã cử người trực . Tiếng người đàn ông:

-A lô! Tôi có thể giúp chữa trị cho cô gái nhưng tôi không có phương tiện di chuyển.

Người trực trả lời:

- Dạ dạ! Chúng tôi sẵn sàng đem xe lại rước ông bất cứ giờ phút nàọ Xin cho biết địa chỉ.

Ở bên kia đầu giây, người đàn ông này đã chỉ rõ giờ giấc và địa điểm nơi ông sẽ đứng chờ xe chớ không chỉ đúng địa chỉ nơi ông ta ở.

Một giờ khuya hôm đó, toà soạn đã đề cử người ký giả và viên Tổng thư ký già lên chiếc xe Peugot chạy ngay đến địa điểm hẹn. Tại đây họ gặp một người đàn ông dáng dấp khỏe mạnh trùm đầu bằng một cái khăn màu xám, tay xách một cái vali nhỏ. Khi thấy chiếc xe Peugot chạy chậm và tấp vào lề, ông ta đưa tay ra làm hiệu và đi đến bên chiếc xe:

-Có phải các anh là nhân viên toà soạn.

Đạ thưa phải, vậy ông thầy là người đã.

Người đàn ông tỏ ra nôn nóng:

- Đúng vậy, đúng vậy! Chúng ta cần phải nhanh lên, các anh hãy chở tôi đến nhà cô gái ấy ngay .

Chiếc xe lao vút đi trong đêm khuyạ Khi xe ngừng ở cửa nhà cô gái, trong nhà vẳng ra tiếng kêu la dữ dộị Người ký giả nhảy xuống xe và gõ cửa .

Người thanh niên tên Quy ghé mắt nhìn qua cửa kính rồi mới đi mở cửạ Thấy hai người ở toà soạn trở lại, anh mừng quá nói trong hơi thở:

-Trời ơi! Các ông tới đúng lúc, chúng tôi hoảng quá không biết làm gì hơn. Cảnh sát yêu cầu chúng tôi đưa cô Sa vào nhà thương điên nhưng chúng tôi không chịu và họ nói sẽ trở lại .

Người ký giả giới thiệu:

- Đây là ông thầy đã liên lạc với chúng tôi hồi tối ngỏ lời muốn giúp cô Lệ Sa để trục xuất quỷ dữ ra khỏi người cộ Chúng tôi hy vọng sẽ có kết quả tốt.

Người đàn ông được mời vào phòng cô gáị Cánh cửa mở ra, Lệ Sa đang kêu la vùng vẫy, cô ngước mắt nhìn về phía người đàn ông trùm đầu bằng cái khăn màu xám:

-Hãy ra ngay! Cút đi ngay! Nếu không tao sẽ giết mày, làm cho mày cạn khô dòng máu, mày sẽ phải chết như một cành cây khô mục.

Người đàn ông, chúng ta hãy gọi là ông thầy , bình tĩnh tiến đến bên giường Lệ Sa đang vùng vẫỵ Ông thầy rút cái khăn ra khỏi đầụ Hai mắt ông mở lớn nhìn thẳng vào đôi mắt đầy gân máu của cô gái đồng thời đưa tay bắt ấn rồi nạt lớn:

-Quỷ dữ! Mi không làm gì được đâu! Hãy mau mau rời khỏi thân xác cô gái vô tội, nếu không ta sẽ cho mi không còn chút năng lực nào để sống ở bất cứ cõi giới nào .

Ông thầy vừa nói dứt câu thì Lệ Sa bỗng cười lên khanh khách và vùng mạnh tay chân như cố thoát ra khỏi các dây trói buộc để nhảy tới cấu xé ông thầỵ Trong khi đó ông thầy vẫn bình tĩnh cười nhạt, mở nắp vali lấy ra cái bình bằng đồng xưa đưa lên cao và ra sức rảy mạnh. Những làn nước trong bình bằng đồng văng ra rớt vào mặt cô gáị

Trong lúc đó, ông thầy xấn tới và đọc những câu chú liên hồi .

Tựhiên Lệ Sa dịu lại cơn kích động nhưng chỉ mấy phút sau cô gái lại vùng vẫy dữ dội trợn mắt nhìn và thét lên:

-Mày hãy đi khỏi đây ngay! Tao sẽ giết mày! Mày phải chết.

Ông thầy lại rảy nước phép, bắt ấn và đọc chú:

-Mi không thể nào chịu nổi pháp thuật của thần linh quá ba lần. Lần cuối cùng ta cho mi thời gian suy nghĩ lại và sám hốị Đừng để ta phải hạ độc thủ.

Mặc cho cô gái vùng vẫy la hét, ông thầy chỉ cho hai nhân viên toà soạn, người thanh niên tên Quy và hai người bạn cùng có mặt ở đó cách làm sao giữ cho tâm thần kiên định, không bị xáo trộn, sợ hãi trước sự đe dọa của quỷ. Ông thầy lấy ra từ vali 4 cái linh phù, những đồ đeo của Salomon treo ngay cửa phòng và cửa ra vào về phía Nam. Ông thầy nói:

-Những linh phù và những thứ này có công dụng trấn yểm và làm mất hiệu lựcủa câu trù mà pháp thuật đen đã thư vào trong đầu cô gái .

Nói xong, ông lại lấy ra 4 vật lạ khác có buộc dây ngũ sắc và trao cho Quy để đeo vào cổ cô gáị Quy ngần ngừ vì anh lo sợ sẽ bị Qệ Sa phản ứng cắn vào tay anh như mọi lần ( ). Ông thầy biết ý dùng cái khăn trùm đầu trùm lên đầu Lệ Sa rồi mọi người cùng giúp Quy đeo 4 vật gắn linh phù và dây ngũ sắc lên cổ của Lệ Sa .

Mọi việc tuy có khó khăn nhưng không ngờ lại diễn tiến tốt đẹp. Trong khi đó, ông thầy lấy muối bột hòa trong nước thánh ở trong bình rồi rải quanh nhàkhắp 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc và ở chính giữa 4 hướng ấy còn để những nhúm muối sạch. Thế là Lệ Sa tự nhiên giảm vùng vẫy, giảm tiếng kêu, rú, gào thét và sau đó ú ớ trong miệng những câu không nghe rõ rồi cuối cùng cô thiếp đi .

Quy nói:

- Đây là lần đầu tiên Lệ Sa chợp mắt ngủ yên lặng, một điều mà 7 ngày trước đây không thể có được.

Thế rồi ngày 18 tháng 10 Lệ Sa lành hẳn. Tuy nhiên cơ thể cô vô cùng suy yếu, tinh thần suy sụp. Các bác sĩ khám bệnh cho cô đã cho biết là cô bị suy dinh dưỡng trầm trọng, thần kinh lại xáo trộn. Cô đã được chở tới bệnh viện thần kinh. Sau một thời gian dưỡng bệnh cô đã trở nên minh mẫn, vui vẻ và rồi được trở về nhà.

Cô thường nói: "Những gì đã xảy ra cho tôi cách đây một hai năm đối với tôi như một giấc mộng dữ nhưng có điều lạ lùng là tôi không nhớ những gì đã xảy ra lúc trước. Có lẽ lúc đó tôi không phải là tôi nữa ."

Cô Đàm Lệ Sa sau đó đã gởi thơ cám ơn toà báo Siêu Linh. Ngoài ra cô còn tìm gặp ông thầy đã cứu cô thoát khỏi móng vuốt của quỷ sứ. Ông thầy này là người Quảng Đông, đến sống ở HK được 6 năm và lần đầu tiên ông xuất đầu lộ diện để cứu người .

Ông thầy khuyên Lệ Sa cũng như tất cả mọi người không nên dấn thân vào việc luyện bùa ngải, tiếp xúc với những vong linh, ma quỷ. Bởi vì theo ông, Vu Thuật, Ma Thuật thường là con dao hai lưỡi để quay ngược lại tàn hại chính bản thân người đã có liên hệ gần gũi hoặc xử dụng chúng. Thật sự là có những con quỷ vô thường, những con quỷ bị sa đọa vào địa ngục rồi thoát củi xổ lồng, chúng vất vưởng rất lâu trong cõi tối tăm. 

Vì thế chúng khao khát được làm người nhưng đồng thời chúng cũng căm giận, oán than, tham lam và kiêu căng. Chúng luôn luôn chờ dịp là nhập vào thân xác người sống. Những phù thủy, những kẻ ma đạo, hắc đạo thường là những kẻ dẫn đường chỉ lối, làm cầu nối cho ma quỷ tức là Satan bước từ cõi u minh giao tiếp đột nhập vào người sống. Điều nguy hiểm đáng sợ là quỷ thường có những năng lực phát huy lời nguyền. Pháp thuật đen hay có những câu Trù, những người bị Tẩu hỏa nhập ma thường thốt ra những câu trù, lời nguyền rất khủng khiếp.

truyện tiếp theo:

N là một kế toán đang làm tại một phòng ban công ty XYZ.Ban ngày làm,buổi tối thì đi học thêm tiếng Anh tại một trường trung học cơ sở cấp 2 (tiện giấu tên).Sự hoang tàn hơi xù xì cũ kỹ của ngôi trường này toát ra 1 vẻ đáng sợ thêm vào cái bóng tối của ban đêm...Điều này cũng dễ hiểu vì đa phần trường học trước kia thường là bệnh viện,hay mồ mã.Bao buổi học của N tại đây đều bình thường,ít đi lại khu vực trong trường này,vì nó vừa rộng,vừa âm u,nên là con gái N cũng hơi ngại.

Gần 1 tháng học tại đây...Mọi việc diễn ra bình thường cho đến một ngày ,N đang học thì hơi cảm thấy đau ở bụng,cảm thấy mình cần đi "giải quyết".Cái khó là ở chỗ N không rành tolet ở đây vì có đi lần nào đâu,cộng thêm đó là việc ngại hỏi nên N đành tự mò...Loanh hoanh mãi,thì nghe tiếng kêu "chít chít" hay đại loại thế phát ra từ cuối hành lang,rùng rợn,nổi da gà là cái cảm nhận của N lúc bây giờ.Một làn gió lạnh thổi mạnh khiến cô hoảng hồn xoay ra sau giựt mình theo phản xạ tự nhiên...Thì ra là những con dơi bay hoảng loạn dọc theo hành lang trong trường!

Điều này cũng chẳng có gì khó giải thích,trường học này vốn là nơi làm ổ của dơi,nhưng cái im lặng của khoảng lặng hành lang thêm vào đó không một tiếng động nào cất lên khiến N như nín người.Vừa đau,vừa chạy ráng kiếm cho ra...Mãi thì cũng đến.Phía trước kia là tolet,nó nằm khuất dưới chân cầu thang ngay đó là bãi đỗ xe...Bạn cứ hình dụng,vắng đến chẳng một ai ở đó.Đau lắm,nên N mở cửa chạy một mạch vào.Đang lúc N giải quyết thì nghe tiếng vọng tại phòng vệ sinh cạnh bên .Khó giải thích,một giọng nói cất lên như là rên kéo dài,kèm đó là những tiếng cười thúc thích hay đúng hơn là khóc...N sợ điếng hồn,muốn phát khóc,chả biết nên trả lơi van xin,xin tha hay nên im lặng...Thôi thì ráng mà ra lẹ,nhanh nhanh vọt ra khỏi tolet,chạy một mạch lên lớp lại,không dám ngoáy lại nhìn đằng sau,dù ngay lúc đó nghe 1 tiếng ầm thật mạnh ngay cửa!!!

Cuối buổi học,mặt N vẫn còn xanh vì vụ việc đó!!!Đến lúc ra bãi xe do quen thân anh chàng bảo vệ thì kể lại sự tình ban nãy.Anh bảo vệ hoảng hồn mà phán một câu "Em! Đừng đùa với anh nhé,tolet này bị khóa ổ mấy tuần nay vì hư cái bồn cầu và ống nước trong đó bị nghẹt.Không tin thì em theo anh,anh dẫn em xem!".N muốn phát khóc khi nghe anh nói,không một lời nào dám thốt ra trên môi,quên cả chào anh bảo vệ.Trong đầu vẫn chỉ là những âm thanh ban nãy kèm theo 

truyện tiếp theo:

NỐT RUỒI TRÊN XÁC NGƯỜI YÊU

Lần đầu tiên từ cả chục năm rồi, Phước mới có được một kỳ nghỉ trọn vẹn và ở nhà được đúng đêm giao thừa. Kể từ khi ra trường, chuyển về một trung tâm y tế huyện miền xa, cứ tưởng làm bác sĩ nơi đó sẽ được nhàn hơn là những bệnh viện cấp tỉnh, thành phố lớn. Nào ngờ đó là một huyện có mật độ dân cư đông, lại là nơi thường xảy ra nhiều trận dịch, nên người dân đã quen với cảnh ôm con tới bệnh viện dù bất cứ bệnh gì. Nên hai năm ra nghề của Phước đúng là hai năm tích lũy kinh nghiệm vô cùng quý giá. 

Qua năm thứ ba thì Phước đã nổi danh như một bác sĩ tận tụy, có lương tâm và đặc biệt là có tay nghề cao trong lĩnh vực các bệnh truyền nhiễm như sốt xuất huyết, thương hàn, thủy đậu v.v... Và cũng chính vì thế, nên một bệnh viện lớn ở thành phố đã nghe tiếng và bằng mọi cách đã xin Phước về cho bệnh viện của mình. Phước đành phải tuân theo lệnh đìều động, và trước Tết năm ngày, anh đã được phép về nghỉ ở nhà, trước khi nhận công tác ở bệnh viện mới. 

Lan Hương, cô em họ của Phước là người vui nhất khi hay tin anh được chuyển công tác về thành phố. Cô đã ra tận bến xe đón Phước chở anh về nhà, và khi Phước chưa kịp tắm rửa thay quần áo thì Hương đã giục anh lên xe: 

- Anh đi ngay kẻo muộn. Bọn bạn em đang đợi anh ngoài... quán bánh xèo! 

Phước ngạc nhiên: 

- Sao lại có vụ ai đợi ngoài quán bánh xèo? Mà họ là ai? 

Lan Hương làm ra vẻ bí mật: 

- Ai thì lát nữa đây anh sẽ biết! 

Hương vù xe như bay khiến Phước phải nhắc chừng: 

- Chạy xe giống mấy tay ';';yên hùng';'; xa lộ quá cô ơi! 

Lan Hương cườí vui: 

- Chạy như vậy cho quen, để mai mốt tốt nghiệp ra trường còn chạy ';';sô';'; nữa chứ! 

Phước tỏ ra ngờ nghệch: 

- Chạy ';';sô';'; gì? Em đang học y mà, chứ phải ca sĩ, diễn viên đâu mà chạy ';';sô';';? 

Lan Hương lại cười to: 

- Ông anh tội nghiệp của tôi, chỉ mới đi vùng sâu vùng xa mấy năm mà lạc hậu quá chừng rồi! Anh tưởng bác sĩ bây giờ không vắt giò lên cổ để chạy đi làm giàu à? 

Phước hoàn toàn không biết: 

- Bác sĩ có tiếng, mở phòng mạch thì mới hy vọng phát lên được. Nhưng số đó đâu phải nhiều. 

- Không nhiều thì mình làm cho nhiều! 

Lời nói của Lan Hương ẩn ý rắc rối, mà tính của Phước thì thích đơn giản, nên anh không hỏi tiếp. Lát sau, anh được đưa tới một đường phố quen thuộc. Phước hỏi: 

- Có phải Đinh Công Tráng không? 

- Anh chưa quên sao! Đây là phố bánh xèo mà! 

Ở một bàn rộng, đã có sẵn ba người bạn gái chờ trước. Họ vừa thấy Phước tới đã cùng reo lên: 

- Chào ông bác sĩ sắp nhận nhiệm sở! 

Trong số này chỉ có một người vốn là bạn của Lan Hương là Phước có quen mặt, còn hai cô kia thì anh hoàn toàn xa lạ. Do vậy, anh chỉ gật đầu chào chứ không hỏi chuyện. Lan Hương phải làm người dẫn chương trình: 

- Ông anh mình sau khi ở ba năm trong làng xã xa xôi thì hầu như quên hết chuyện đời ở chốn thị thành rồi, các bồ thông cảm. Riêng Ái Mỹ, nếu trong ba mươi giây nữa mà anh mình không nhớ ra và hỏi chuyện bạn thì bạn có quyền phạt thế nào cũng được. 

Ái Mỹ phải mất vài mươi giây mới nói được: 

- Biết người ta có chấp nhận chuyện phạt hay không đó mới là vấn đề. 

Lan Hương vẫn cố chọc Phước: 

- Vậy anh Phước nói đi chứ, chịu phạt hay không nào? 

Lâu lắm rồi Phước mới lại có được cái không khí vui đùa trẻ trung như thế này, nên chất trẻ trong anh cũng bùng lên rất nhanh, anh hòa nhập vào họ một cách dễ dàng, vừa nói vừa đưa mắt nhìn sang Ái Mỹ: 

- Có anh đàn ông nào có thể cưỡng lại được mệnh lệnh của đàn bà đâu? Tôi cũng còn là đàn ông mà! 

Nghe Phước nói vậy, ba cô bạn thích thú cười ầm lên, khiến cả quán quay lại nhìn. Lan Hương làm mặt lì. 

- Kệ họ, mình vui mà! Nhất là bữa nay sinh nhật người ta mà. 

Phước ngạc nhiên: 

- Ủa, sinh nhật em hả, Lan Hương? 

Lại được dịp để cô em nghịch ngợm càu nhàu: 

- Có cô em gái mà sính nhật ngày nào cũng không nhớ nữa! Của em thì phải gần hè kia, còn bữa nay thì... 

Hương nhìn vào Ái Mỹ và chỉ chiếc bánh sinh nhật đang để ở bàn bên cạnh: 

- Chủ nhân của nó là đây. 

Rồi Hương nói thẳng ra: 

- Hôm nay sinh nhật của Ái Mỹ, lại trùng vào ngày anh Phước về nhận nhiệm sở mới, như vậy niềm vui nhân đôi đấy nhé! Mà đã nhân đôi thì cũng có nghĩa là nhân hai người chịu chi bữa tiệc này đó! 

Một cuộc gài độ rõ ràng, nhưng Phước lại thấy thích, anh tự nguyện: 

- Ông anh này xin tuân lệnh! 

Nói xong, anh lại đưa mắt kín đáo nhìn Ái Mỹ, mà nếu các bạn tinh ý sẽ thấy trong cái nhìn đó hàm ý sâu xa hơn là cái liếc nhìn thông thường. 

Ái Mỹ cũng kín đáo nhìn sang, rồi vội quay đi chỗ khác ngay khi thấy mọi người để ý. 

Lúc này thì Phước đã nhận rõ ý đồ của cô em Lan Hương. Cô nàng muốn ráp nốt cho anh và Ái Mỹ, người mà trong những lá thư gửi cho anh, Hương đã có đề cập, có nói bóng gió là nếu anh không kịp tính thì có thể sẽ không có dịp để Hương gọi bạn mình là chị dâu. 

- Ôi chà, mơ mộng gì mà chẳng mời ai cả, ai dám ăn! 

Vô tình mà cả Ái Mỹ và Phước đều thả hồn đâu đâu. Mãi đến khi Lan Hương nhắc thì cả hai mới giật mình, lúng túng: 

- Mời... mời! Nào, hôm nay cho ';';người về từ ngàn trùng';'; mời nhé! 

Ái Mỹ cũng hào hứng: 

- Đâu có được. Lan Hương nói rồi mà, nhân đôi chứ! 

Mọi người được dịp tán thưởng: 

- Vậy là thừa nhận rồi nhé. Hoan hô cặp đôi! Vậy thì bữa nay không chỉ là tiệc sinh nhật mà còn là ngày... 

Cô bạn còn ngập ngừng thì Lan Hương đã bạo miệng: 

- Lễ ra mắt luôn! 

Cả hai, Ái Mỹ và Phước đều ngượng nhưng trong lòng họ có chút gì là lạ, mà chẳng ai trong bàn hiểu. 

Phước cố lắm mới nói được một câu: 

- Cám ơn các bạn! 

Lan Hương vẫn không buông tha: 

- Nhân danh ai mà cám ơn một mình vậy? Phải nói là chúng tôi. 

Ái Mỹ phát vào vai bạn một cái rõ mạnh: 

- Con quỷ cái! 

Lan Hương vừa né sang bên, vừa nheo mắt nói: 

- Nếu không nhờ con quỷ cái này thì chưa chắc quỷ đã gặp ma à nhe. 

Bữa tiệc tuy đơn sơ, nhưng không khí vui vẻ đó kéo dài đến gần mười giờ đêm. Ái Mỹ là người lên tiếng trước: 

- Phải để anh Phước về nghỉ, anh đã đi suốt ngày rồi. 

Mấy ngườt kia cũng có ý như vậy, nhưng hứng chí, Phước quay sang Lan Hương nói: 

- Em đi với mấy bạn về trước, mang cả giỏ đồ của anh về luôn, anh mượn xe em đưa Ái Mỹ đi một vòng. Được chứ, bà mai? 

Lan Hương cũng không ngờ tình hình chuyển biến nhanh đến như vậy. Dĩ nhiên là cô nàng đồng ý liền và còn nói: 

- Em sẽ nói với cô Tư là anh bận đi nhậu với mấy người bạn tới tận nửa đêm mới về. 

Nói xong, họ chủ động đi trước, để cho hai người được tự nhiên. Bấy giờ Phước mới bộc lộ rõ ý của mình: 

- Lúc nãy có tụi nó anh không dám lộ chuyện của mình. Anh cám ơn về lá thư thăm hỏi của em mới đây, nhất là món quà mừng sinh nhật gửi trước. 

Nàng đột nhiên hỏi: 

- Anh không buồn vì món quà đó chứ? 

- Đóa hoa cúc khô ép trong lá thư? Hàm ý nói lời chia tay sớm? 

Nàng không đáp ngay, mà từ sau gáy mình, Phước cảm nhận có một tiếng thở dài. 

- Em sao vậy? 

Có lẽ chưa muốn phải nói những lời không vui, nên Ái Mỹ nói liền: 

- Mình kiếm chỗ nào vắng ngồi nói chuyện đi anh. 

Vào một quán vắng, không để Phước đợi lâu, cô đã nói liền: 

- Cho em xin lỗi anh về món quà đó. 

- Xin Iỗi, nhưng sao em lại gửi nó cho anh? 

- Chỉ vì... 

Cô lấy từ trong túi ra một chiếc hộp nhỏ, chưa mở ra thì Phước đã nói ngay: 

- Nhẫn cưới! 

Giọng của Ái Mỹ trầm hẳn xuống: 

- Gửi cho anh đến bốn lá thư, nhưng sao anh không trả lời? 

Phước quá đỗi ngạc nhiên: 

- Anh chỉ nhận được đúng một lá thư gần đây nhất, kèm món quà đáng ghét này! 

- Không lẽ... 

- Em gửi theo đường bưu điện? 

- Không, ba lá kia em nhờ Lan Hương chuyển. 

Phước đăm chiêu một lúc rồi lẩm bẩm: 

- Chẳng lẽ Lan Hương... 

Ái Mỹ cũng có ý nghĩ đó: 

- Hay là Lan Hương không muốn em báo những điều không hay đến anh? 

- Cũng có thể... Em biết đó, Lan Hương lúc nào cũng muốn chúng ta gắn bó, nên nó giấu hết mọi chuyện về em, nó sợ anh lo lắng. 

Ái Mỹ thở dài: 

- Chẳng thà nó cứ gửi hết nhưng thư từ dó cho anh mà lại hay. Đỡ cho em... 

Phước không cầm hộp nhẫn cưới lên, anh hỏi, giọng lạc hẳn đi: 

- Em đã nhận lời người ta? 

Ái Mỹ quay nhìn ra chỗ khác: 

- Không phải em nhận, mà mẹ em... 

Rồi nàng kể lể: 

- Mẹ dang sống những ngày cuối đời bởi căn bệnh nan y, ý mẹ muốn được nhìn thấy em thành gia thất trước khi bà nhắm mắt. Mà anh thì cứ biền biệt. Em đã giải thích, năn nỉ nhiều lần, nhưng tội mẹ quá, nhiều hôm bà chỉ nằm thiêm thiếp, không ăn uống gì... 

Ái Mỹ khóc, nước mắt chảy dài mà Phước cảm giác như mình đang nuốt thứ nước mặn đắng ấy vào lòng. Cuối cùng anh chép miệng: 

- Anh chỉ xin em một điều... 

Anh không thể nói hết câu. Bởi nước mắt của anh cũng thật sự chảy ra. Anh nhẹ lắc đầu không nói thêm gì, mà cả những gì Ái Mỹ muốn nói anh cũng ngăn lại, không can đảm nghe tiếp. Suốt gần một giờ ngồi trong quán, hai người hầu như im lặng. Hộp nhẫn cưới đặt trên bàn giữa hai người, vô tình trở thành một vật ngăn cách tuy nhỏ bằng nửa nắm tay, nhưng chẳng khác một khoảng cách ngàn trùng... 

- Thôi, chúng ta về. Em cảm thấy mệt... 

Phước nghe theo, anh dẫn xe ra trong tâm trạng nặng nề, tưởng chừng như không thể đưa Ái Mỹ về được. Suốt dọc đường, anh nghe Ái Mỹ khóc trên lưng mình, những giọt nước mắt thấm ướt cả lưng áo... 

Gần 11 giờ đêm họ mới chia tay. Đứng nhìn theo bóng Ái Mỹ khuất dần sau cổng nhà cô, tự dưng Phước có cảm giác như mình vừa mất một thứ mà trong đời này anh sẽ không bao giờ có lại được. Trong một giây bàng hoàng, Phước quên cả thực tại anh quăng chiếc xe bên đường, lao theo tới trước cổng nhà và gào lên một tiếng thật to: 

- Ái Mỹ. 

Nhưng tự dưng tiếng của Phước như lạc vào một nơi nào đó mà âm thanh không hề phát ra, không hề có phản hồi. Phước biết điều đó và lại cố gào to hơn, nhưng hầu như mọi thứ đều không chịu theo lòng anh. Phước tưởng chừng như mình đang bị dìm xuống nước hay nhấc bổng lên không trung... Trong một tích tắc, Phước không còn tự chủ được, anh ngã chúi xuống và nghe văng vẳng có người nào đó gọi... mà chẳng phân biệt được tiếng của ai. 

Đến một lúc, Phước nghe như bên tai mình có một giọng nói rất khẽ, như hơi thở: 

- Bên nhau thì tồn tại, chia ly là đoản mệnh! 

Câu nói đó vừa dứt thì cũng là lúc Phước bàng hoàng tỉnh lại. Anh ngơ ngác nhìn quanh và hốt hoảng, bởi lúc ấy anh thấy chung quanh mình là một khung cảnh hoàn toàn khác lạ, không phải ở trước cổng nhà của Ái Mỹ như vừa rồi! 

- Sao kỳ vậy? 

Phước tự hỏi vừa quay nhìn khắp chung quanh, và anh càng kinh hãi hơn khi nhận ra mình đang đứng trong một bãi đất hoang, toàn cây cỏ, không có một bóng nhà. 

- Kỳ quái.. 

Phước cứ lặp lại câu nói và không thể nào tin vào mắt mình. Cho dến khi anh chợt nhìn xuống chân và đọc được trên một bia đá mấy dòng chữ: Phần mộ Yến Lan. 

Vừa đọc xong mấy chữ này thì một lần nữa, hai mắt của Phước hoa lên và anh hầu như không còn nhận ra chung quanh nữa.

° ° °

Lan Hương vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một cô gái lạ đang dẫn chiếc xe Velo Solex rất giống xe của mình vào cổng. Cô gái lạ e dè lên tiếng hỏi: 

- Có phải nhà của cô Lan Hương? 

Hương bước ra ngay và không nghi ngờ gì nữa, chính chiếc xe kia là của chính cô bởi những đặc điểm riêng không lẫn lộn với xe của ai. Cô hỏi nhanh: 

- Sao cô lại... 

Cô gái lạ giải thích liền, có lẽ để tránh hiểu lầm: 

- Tôi đưa chiếc xe này tới đây, bởi có người chỉ nhà. Cô là Lan Hương? 

Lan Hương gật đầu: 

- Đúng tôi là Lan Hương. Nhưng tại sao... 

- Chiếc xe này tôi dược một người dặn đưa tới đây giao cho cô. 

Chợt nhớ tới Phước, Hương hốt hoảng: 

- Vậy anh Phước đâu? Người chạy chiếc xe này... 

Cô gái lắc đầu: 

- Tôi không biết! Chỉ nghe ngườt nhờ tôi bảo rằng chiếc xe này là của cô, phải đem trả lại cho cô ngay và hãy tới nghĩa địa Tiều Châu đưa ai đó về! 

Nói xong, cô gái quay đi ngay, không đợi hỏi thêm câu nào nữa. Lan Hương lấy xe đuổi theo định hỏi thêm chi tiết, nhưng chẳng còn thấy bóng cô ta đâu. 

- Nghĩa địa Tiều Châu? Không lẽ anh Phước... 

Không kịp suy nghĩ thêm, Hương phóng xe tới đó ngay. Khu nghĩa địa này nằm không xa trung tâm, nên chỉ một lúc sau thì Hương đã chạy thẳng vào trong. Cô không gặp ai, bởi nghĩa địa này hình như lâu nay bị bỏ hoang, chẳng có quán trang. Và không khó để Hương nhìn thấy một người nằm sóng soài trước một ngôi mộ xây còn tương đối mới hơn những mộ chung quanh. 

- Anh Phước! 

Lan Hương bỏ xe cách hơn chục mét, chạy tới chỗ người nằm vừa kêu lên, bởi cô đã nhận ra màu quần áo Phước mặc. Và đúng như vậy, Phước nằm im như chết! 

- Anh Phước! 

Phải gọi đến lần thứ ba thì Phước mới khẽ cử động, chứng tỏ anh còn sống. Lan Hương mừng quá: 

- Lan Hương nè, anh sao vậy? 

Phước bật dậy, anh cũng ngơ ngác: 

- Anh vẫn còn nằm đây sao? 

- Nhưng sao anh vào nghĩa địa làm gì? 

Nhìn thấy chiếc xe đằng kia, Phước ngạc nhiên: 

- Ủa, lúc nãy anh có chạy xe tới đây sao? 

Lan Hương kể lại. Phước càng không hiểu: 

- Sao lại có cô gái nào đưa xe tới nhà em? Anh đâu hề quen cô nào, tại sao cô ta lại... 

Anh chợt nhớ, thảng thốt kêu lên: 

- Không lẽ anh bỏ xe trước cổng nhà Ái Mỹ? 

Anh kể lại cho Lan Hương nghe diễn biến chuyện vừa qua, Hương hỏi lại: 

- Lúc ấy Ái Mỹ có thấy anh bị ngất không? 

- Chắc là không. Tuy nhiên, hình như có ai đó đứng gần bên anh nói điều gì mà bây giờ anh không còn nhớ... 

Bỗng Lan Hương kêu khẽ: 

- Yến Lan? Có phải... 

Lan Hương ghé mắt sát vào mộ bia ghi tên Yến Lan, nhìn kỹ ngày mất và ngày sinh trong đó, rồi hốt hoảng: 

- Đây đúng là mộ của người chị Ái Mỹ rồi. 

Phước cũng chợt nhớ ra điều gì đó: 

- Có phải cô chị cùng cha khác mẹ với Ái Mỹ, đã chết cách đây bốn năm năm, mà hồi đó em có đi đám đó không? 

Lan Hương gật đầu: 

- Đúng là chị ấy! Cái chết của người chị này từng gây ra bao xáo trộn trong nhà Ái Mỹ, đến đỗi cha của Mỹ đã đau buồn mà chết theo mấy năm sau đó. 

- Nhưng sao lại chôn cô ấy trong nghĩa địa hoang vắng này? 

- Em không rõ. Hình như... 

Ngập ngừng một lát Lan Hương kể: 

- Em từng nghe nói giữa mẹ của Ái Mỹ và Yến Lan này không thuận thảo với nhau. Kể cả Ái Mỹ cũng thế. 

Phước có phần hiểu: 

- Mẹ ghẻ con chồng chứ gì! 

- Có lẽ vậy... 

Rồi Lan Hương lại thắc mắc: 

- Mà sao tự dưng anh lại vào đây làm gì? 

Phước nhắc lại: 

- Thì như anh vừa kể cho em nghe, khi ngất thì trước nhà Ái Mỹ, nhưng khi tỉnh lại thì anh đã thấy mình nằm đây rồi. Anh đang thắc mắc thì chẳng hiểu sao người như bị say, lảo đảo và một lần nữa anh lại rơi vào cơn mê sâu. Chẳng hiểu ai đã nói câu ';';gần nhau thì tồn tại, chia ly thì đoản mệnh';';, anh nghe văng vẳng nên không thể phân biệt được giọng của ai. 

Lan Hương cứ nhìn mãi vào mộ bia và thỉnh thoảng lại lầm bẩm: 

- Sao lại là Yến Lan? 

Mãi đến lúc ra về rồi mà Lan Hương vẫn chưa hết nghĩ về cô gái này. Nên khi đưa Phước về nhà xong, cô đã chạy ngay tới nhà Ái Mỹ gọi cửa. Mẹ của Mỹ ra mở cổng, vừa thấy Hương bà đã mừng rỡ: 

- Bác đang tính cho người đi tìm con thì may quá con tới! Ái Mỹ bị bệnh nặng lắm! 

Lan Hương vào thăm thì phải giật mình, bởi chỉ sau một đêm mà trông Ái Mỹ tiều tụy hẳn, da mặt xanh xao một cách kỳ lạ. 

- Sao vậy Mỹ? 

Ái Mỹ không đáp được, chỉ khẽ khẽ lắc đầu rồi nằm im. Hai dòng lệ lăn dài trên má. Bà Châu, mẹ Mỹ kể: 

- Chẳng hiểu sao trong cơn mê sảng đêm qua, nó cứ gọi tên con chị nó. 

Bà nói chưa dứt thì Lan Hương đã nói liền: 

- Yến Lan! 

Bà Châu gật đầu: 

- Nó cứ kêu tên con Yến Lan rồi thỉnh thoảng lại gào lên như sợ con ấy làm gì nó vậy! 

Lan Hương muốn kể lại chuyện của Phước, nhưng nhớ tới việc bà Châu không thích Phước, nên im lặng quay đi. Đợi đến khi bà bước ra ngoài, Hương mới kề tai nói nhỏ với Mỹ: 

- Anh Phước cũng gặp chị Yến Lan! 

Ái Mỹ không phản ứng nhanh nhẹn được, nhưng một tay cô cũng chụp được tay của Hương, siết rất yếu ớt và thều thào: 

- Anh... Phước... 

- Anh ấy khỏe lại rồi. Mỹ nói mình nghe coi, bồ bị sao vậy? Chị Yến Lan đã làm gì bồ? 

Hình như Mỹ không nói được điều cô đang nghĩ, nên đôi lần cô mím chặt môi và cứ để cho nước mắt chảy ra hầu như không dứt. Nhìn cảnh tượng đó, Lan Hương linh tính có điều gì đó không ổn. Cô định về gọi Phước tới, nhưng vừa khi ấy ngoài cửa đã có người lên tiếng hỏi: 

- Mỹ ra sao rồi má? 

Người đó là Toàn, anh chàng đang là ';';người thứ ba';'; đáng ghét chen vào tình cảm giữa Ái My và Phước. Không muốn gặp anh ta nên Lan Hương bước ra ngoài, tránh xuống nhà sau. Đợi lúc anh chàng bước vào phòng của Ái Mỹ rồi, cô mới ra ngoài, dẫn xe đi mà không chào bà Châu. 

Phóng xe trên đường mà đầu óc Hương để đâu đâu. Mãi đến khi chợt bên tai vang lên câu nói của ai đó: 

- Đừng xía vào chuyện của thiên hạ, trong khi chuyện của mình vẫn chưa xong! Tốt hơn là nên quay về nhà, những gì đang đợi sẽ đáng tốn sức hơn nhiều. 

Quay lại nhìn trước sau, không thấy ai là người đang nói câu đó. Lan Hương nói cố cho ai đó nghe: 

- Là người đàng hoàng thì nên đối mặt mà nói chuyện! 

Không nghe trả lời. Hương nghĩ là họ đã nghe được mình, nên tiếp tục nói: 

- Tôi tuy là con gái nhưng không hề sợ chuyện quỷ ma. Nếu thật sự đây là hồn ma bóng quế thì nên gặp trực tiếp tôi sẽ hay hơn! 

Vẫn không có lời đáp, nhưng bất ngờ có một vật gì đó rơi đúng vào ghi đông xe của Lan Hương khiến cô hơi đảo tay lái, buộc lòng phải tấp vào lề. Lúc ấy, cô mới nhận ra vật vừa rơi và máng trên tay lái là... một con mèo con thật đẹp! 

Vốn thích súc vật, đặc biệt là mèo, nên thay vì bực mình, Lan Hương lại chụp lấy con vật, ôm vào lòng vừa xuýt xoa: 

- Ai mà ác quá, ném con mèo, chút nữa nó chết rồi! 

Con mèo hình như cảm thấy được cưng, nên tỏ thái độ thân thiện ngay với Hương bằng cách dụi đầu vào ngực cô, đồng thời phát ra tiếng kêu khe khẽ như biểu thị sự thích thú, vui mừng. Nhìn trước sau một lần nữa, Lan Hương lẩm bẩm: 

- Không thể bỏ con mèo này lại đây được, xe cộ quá nhiều sẽ gây nguy hiểm cho nó ngay! 

Cô một tay ôm con mèo, một tay chạy xe, tuy có bất tiện, nhưng rồi Lan Hương cũng đem được nó về nhà. Mang vào phòng riêng, Hương lấy cái mền còn mới, úm nó lại, chăm sóc như một đứa trẻ: 

- Ngoan đi cưng, chị mày sẽ nhận làm em nuôi, sẽ cho mày chung phòng từ nay nhé! 

Con mèo chừng như hiểu, nó càng tỏ ra trìu mến hơn với Hương, khiến cô nàng càng lúc càng thích thú, nằm vuốt ve nó mãi trên giường. 

Ngủ một giấc dài, cho đến khi đồng hồ treo tường đổ ba tiếng thì Lan Hương mới thức giấc. Việc đầu tiên của cô là đưa tay mò trong bóng tối để tìm con mèo cưng, nhưng chẳng hề thấy đâu. 

Nghĩ nó chạy đi đâu đó, chắc chắn chỉ nội trong phòng thôi, bởi cửa sổ, cửa lớn đều đóng kín trước lúc đi ngủ. Vậy mà sau gần chục phút cố sức tìm, vẫn biệt tăm. Con vật bé xíu đáng yêu kia. Lan Hương mở cửa gọi to ra ngoài: 

- Mẹ ơi, có thấy con mèo nhỏ của con không? 

Bà Bảo Tín, mẹ Lan Hương từ phòng riêng bước ra ngạc nhiên hỏi: 

- Con mèo nào? Nhà mình từ khi con Miu Miu mất trộm đến giờ có nuôi thêm con nào đâu? 

- Có! Con mèo con mới đem về. Mèo nhị thể đẹp lắm. 

- Mèo nhị thể là mèo gì? 

- Con mèo có hai màu đen, trắng. 

Bà Tín lắc đầu: 

- Mẹ ngủ sớm, con về mẹ còn không hay, thì làm sao thấy con nhị thể, tam thể gì! Con chử hỏi con Sáu Lanh coi. 

Sáu Lanh là chị người làm, đã chạy từ ngoài vào mà không cần chủ gọi. Chị ta hớt hải: 

- Có cái này bà chủ ơi! 

Trên tay chị ta ôm một cái hộp giấy được đóng gói cẩn thận. Bà Bảo Tín ngạc nhiên hỏi: 

- Hộp gì của ai vậy? 

- Dạ, không biết của ai, con thấy đặt ngay trước cổng nhà mình, mà ngoài hộp lại đề gửi cho cô Lan Hương, nên con... 

Lan Hương giật mình: 

- Gửi cho tôi? 

Cô bước tới nhìn vào thì rõ ràng người nhận chính là cô, không đề tên người gửi. 

- Cái này để ngoài cửa lâu chưa? 

- Tôi cũng không biết. Nhưng chắc là không lâu, bởỉ nếu lâu thì chắc gì còn, vì họ để khơi khơi ngoài cổng. Chẳng biết cái gì bên trong nữa. 

Đích thân Lan Hương khui thùng ra. 

- Trời ơi, quân ác nhân! 

Nghe con gái kêu thất thanh, cả bà Tín và Sáu Lanh đều bước tới nhìn. Trong thùng có ba con mèo với hai sắc lông đen, trắng đang nằm im như chết! Lan Hương bị kích động dữ dội: 

- Ai? Ai đã giết chúng thế này? Ai mà ác hơn loài cầm thú, trời ơi! 

Trong số ba con mèo chết có con mà Lan Hương đã đem về. Sở dĩ cô nhận ra nó là nhờ sợi dây rubăng đỏ mà cô đã tự tay đeo vào cho nó. Bà Bảo Tín sợ con gái mình vì quá xúc động mà có thể xảy ra chuyện không hay, nên vội đưa tay đóng nắp thùng lại, Nhưng đó cũng là một tai họa, vì tay bà vừa chạm vào thùng thì cả ba con mèo đồng loạt bật dậy phóng ra khỏi thùng. Chúng không chạy đi, mà mỗi con chọn một người đang có mặt, rồi bất thần cắn mạnh vào cổ tay cả ba. 

Bà Bảo Tín thét lên trước một tiếng rồi ngã lăn ra, kêu đau! Sáu Lanh cũng làm y như vậy. Chỉ có Lan Hương, mặc dù cũng đau buốt, tê cứng cánh tay, nhưng cô ráng sức bóp chặt chỗ vết cắn lại, hô to: 

- Đi lấy thuốc sát trùng mau lên! 

Sáu Lanh biết là bảo mình, nhưng do cơn đau nhức quá dữ dội, nên chị ta không thể ngồi dậy được. Lan Hương phải tự tay mình bò vào phòng mình tìm thuốc. Lấy được lọ thuốc sát trùng bôi vào vết thương xong, Lan Hương cố đứng lên bằng cách vịn vào chiếc tủ đứng. Và vô tình, cô nhìn bóng mình trong tấm gương soi, Hương kêu thét lên: 

- Sao thế này? 

Ngay giữa sống mũi của cô, có một nốt ruồi cỡ như con ruồi trâu mọc lên ở đó. Nghĩ mình bị vật gì đó bám phải nên Lan Hương lấy tay gỡ nó ra. Nhưng vật ấy hầu như đã dính chặt vào da thịt, không thể tách ra được! 

Đồng thời toàn thân của Hương bỗng dưng sốt lên rất cao, khiến cô choáng váng, lảo đảo. Tuy nhiên, cô vẫn cố đi trở ra nhà ngoài và phải kêu thét lên: 

- Trời ơi, má. 

Trên mũi của bà Bảo Tín và Sáu Lanh đều có một nốt ruồi giống hệt như của Lan Hương. Lan Hương chỉ kịp chứng kiến tới đó, rồi cô lịm đi. Hai người kia hầu như cũng trong tình trạng đó. Trong phút chót thì cả ba người đều nằm im như ba cái xác chết giữa phòng khách. Ba con mèo như ba cái bóng ma lao vút ra cửa và mất dạng. 

Nhiều biến cố dồn dập khiến cho Phước choáng váng. Muốn đến thăm người yêu mà không dám. Trong lúc đó lại nghe tin về Ái Mỹ làm cho Phước càng thêm lo. Cuối cùng, anh đành thu hết can đảm tới nhà Mỹ. Trái với sự lo lắng của anh, vừa bước vào nhà, anh đã được bà Châu săn đón: 

- Cháu ơi, giúp bác với! 

Phước ngạc nhiên: 

- Thưa bác, chẳng hay có chuyện gì? 

- Con Ái Mỹ... 

Bà nói tới đó thì òa lên khóc. 

- Thưa bác. 

Phước nhìn vào trong, cố ý đợi Ái Mỹ xuất hiện. Nhưng câu nói của bà Châu đã làm cho anh chới với: 

- Con Mỹ đã bỏ nhà đi rồi! 

- Mỹ đi đâu? 

Bà Châu nhìn thẳng vào Phước: 

- Bác đang muốn hỏi cháu. Bác nói thật bác chỉ có mình nó, xưa nay nó luôn nghe lời bác, ngoan ngoãn chưa bao giờ làm trái ý. Vậy mà lần này nó lại cãi, nó chỉ nói một câu rồi bỏ nhà đi liền. Bác nghĩ nó đi với cháu. 

Phước xua tay lia lịa: 

- Dạ, con xin thề với bác, con không hề biết gì chuyện Mỹ bỏ nhà đi! Chính con đang sốt ruột muốn gặp được Mỹ nên mới mạo muội tới đây thăm. 

Bà Châu thất vọng: 

- Vậy mà bác cứ nghi. Bây giờ bác phải làm sao đây? Nếu nó làm chuyện dại dột gì thì chắc là bác không sống nổi. 

Bà lại khóc sướt mướt. Phước tìm cách an ủi và hỏi rõ hơn: 

- Thưa bác, tại sao Mỹ làm chuyện dại dột đó? 

Đúng ra bà Châu không nói với Phước chuyện riêng tư của con, nhưng trong tình thế này, bà quên cả giữ gìn: 

- Chỉ vì bác ép nó lấy thằng Toàn. Mà con cái nó dại dột quá, nếu không chịu thì để bác còn tính lại, chứ đâu phải bác không thương con cái... 

Lâu nay Phước không có thiện cảm với người đàn bà này, nhưng giờ đây nhìn thấy bà đau khổ, anh đâm ra áy náy: 

- Thưa bác, cháu có thể làm được gì, xin bác cứ dạy, cháu nguyện làm hết sức mình. 

Bà Châu cầm tay Phước, giọng thành khẩn: 

- Cháu làm cách nào tìm giùm nó về cho bác. Nói với nó là bác tha thứ hết kể cả việc bác không ép nó nữa. Nó muốn làm theo ý gì bác cũng chịu! 

Phước sốt sắng: 

- Dạ, cháu sẽ làm theo lời bác. Nhưng có điều này, cháu muốn hỏi: bác có một người con tên Yến Lan phảỉ không? Cô ấy và Ái Mỹ có điều gì... 

Tuy Phước không nói hết ý, nhưng bà Châu đã hiểu, bà đáp ngay: 

- Chị em nó không thuận thảo nhau. Nhưng con Yến Lan đã chết từ lâu rồi... 

Phước thấy không cần phải giấu: 

- Vừa rồi cháu đã vào nghĩa địa và gặp ngôi mộ của Yến Lan. Cháu thấy có những điều khác thường nhưng chưa thể lý giải được... 

Bà Châu đăm chiêu một lúc rồi nói: 

- Con Yến Lan đã chết lâu rồi, chẳng hiểu sao mấy bữa nay con Ái Mỹ lại nhắc nó hoài, bác lo quá! 

- Bác có nghĩ giữa họ đang có việc gì đó không bình thường hay không? 

Bà Châu lắc đầu: 

- Bác không biết nữa. Chỉ thấy lo lo thôi... 

Hai người đang nói chuyện ở phòng khách thì chợt có tiếng động khác thường phòng trong. Bà Châu giật mình nói: 

- Ủa có chuyện gì trong phòng con Ái Mỹ? 

Bà chạy vào và ngay sau đó là tiếng la thất thanh: 

- Trời ơi! 

Phước chạy vào theo và anh khựng lại khi nhìn thấy trong phòng có ba con mèo đang nằm trên giường như đang ngủ say! Bà Châu lắp bắp: 

- Nhà đâu có nuôi mèo mà sao chúng nó lại ở đây? 

Đã nghe Lan Hương báo tin vụ ba con mèo này nên giờ đây nhìn thấy nó, Phước lo lắng: 

- Những con mèo nhị thể... Những con mèo đen trắng này phải chăng là... 

Phước không dám nói hết ý, nhưng trong thâm tâm anh đang nghĩ tới điều không hay. Mà điều này nếu nói ra lúc này e sẽ khiến bà Châu lo lắng thêm nên anh im lặng, chỉ đưa mẩt chăm chú nhìn ba con mèo. 

- Cháu... đuổi nó đi giùm bác. 

Phước ngần ngại, nhưng không từ chối được nên phải bước hẳn vào phòng, vỡ mạnh tay và xua: 

- Đi! Đi ra! 

Ba con mèo không động đậy, Phước phải bước tới gần hơn và vỗ tay mạnh hơn. Lần này có tác dụng, bởi một trong ba con mèo nhúc nhích và bất ngờ phóng thẳng lên, gần đụng trần nhà! 

Bà Châu hốt hoảng: 

- Coi chừng! 

Bà vừa kịp lùi lại thì một vật gì đó rơi xuống ngay trước mặt. Phước vừa kịp nhìn thấy, anh kêu lên: 

- Con mèo! 

Vẫn là con mèo trắng đen, nhưng lúc này nó cụt mất cái đầu mà thân mình thì đầy những máu. 

Thấy máu, bà Châu run lẩy bẩy, vừa lảo đảo. Phước phải chạy tới đở bà và dìu lại ngồi xuống chỗ bàn phấn. Nhưng bà Châu đã không còn có thể ngồi được, người bà đổ về một bên khiến Phước hốt hoảng, phải dìu bà ra phòng ngoài. 

Phải gần nửa giờ sau, bà Châu mới hồi tỉnh. Vừa mở mắt ra bà kêu lên: 

- Con Yến Lan! 

Phước ngạc nhiên: 

- Bác nói Yến Lan ở đâu? 

Chỉ vào khoảng không, bà run run giọng: 

- Nó... nó ở chỗ kia! 

Nói xong, bà ôm lấy mặt sợ hãi. Phước ngước nhìn theo hướng tay bà chỉ vừa rổi, và anh điếng hồn khi thấy trên cánh quạt trần có hai con mèo treo lơ lửng. Máu từ miệng chúng đang tuôn chảy, rơi xuống đỏ cả một khoảng sàn nhà! 

- Bác! 

Phước cảm thấy luồng khí lạnh đang chạy theo sống lưng của mình...

° ° °

Phải mất hơn một tuần sau, Phước mới lấy lại cân bằng, anh trình diện nhiệm sở mới. Người ta chuyển anh về một bệnh viện khá nổi tiếng và ngay buổi làm việc đầu tiên, Phước đã gặp một ca bệnh khó. Người trợ lý khoa cho biết: 

- Có một bệnh nhân tuy đã chết lâm sàng rồi, nhưng người vẫn ấm, đồng tử chưa giãn nở, do đó ta chưa thể chuyển xuống nhà xác được, ý anh thế nào? 

Tuy được phân công trưởng khoa, nhưng là người mới, nên Phước dè dặt: 

- Các anh em, nếu cần thì ta cứ để xem lại. Tôi sẽ trực tiếp xem. 

Anh vào phòng cấp cứu, chỉ có một bệnh nhân duy nhất còn lại đó. 

- Nam hay nữ? 

Cô y tá hướng dẫn Phước đến bên giường bệnh nhân vừa bảo: 

- Cô gái còn khá trẻ, người ta chuyển vào đây lúc chiều trong tình trạng hôn mê sâu. Ai cũng ngỡ cô bị chấn thương gì đó, nhưng sau khi xem kỹ thì không thấy thương tích gì, cũng không có dấu hiệu gì là tự tử. Chẳng hiểu sao lại như thế này. Phước vừa nhìn vào người bệnh đã thất thần khi nhận ra đó là Ái Mỹ! 

- Trời ơi! 

Cô y tá ngạc nhiên: 

- Người quen của bác sĩ? 

Phước giục: 

- Chị lấy ống nghe giúp tôi! 

Anh mất bình tĩnh đến đỗi đặt ống nghe trật vuột mấy lượt. Phát hiện có dấu hiệu còn mạch, Phước phấn khích: 

- Còn sống! 

Cô y tá Sương cũng phấn khởi: 

- Còn có thể cứu được phải không bác sĩ? Từ chiều đến giờ tụi em cứ sợ lại phải thêm một lần chuyển người bệnh xuống nhà xác! 

Phước kề sát tai Mỹ gọi khẽ: 

- Anh đây, Phước đây Mỹ! 

Cô nàng vẫn không có phản ứng gì. Phước vẫn gọi: 

- Ái Mỹ! 

Anh cầm bàn tay nàng và lạ sao bàn tay xanh tái kia từ từ nắm chặt lại và giữ tay Phước như không muốn rời ra. 

- Em không sao rồi, Mỹ ơi. 

Phước lúc này là một người thân chứ không phải là anh quên sự có mặt của cô y tá bên cạnh, vội áp mặt mình vào mặt bệnh nhân. 

- Thưa bác sĩ, có cần làm cấp cứu không? 

Phước giật mình, vội bảo: 

- Chị lấy ống thuốc trợ tim, chích cho cô ấy. 

Nhưng cô y tá chưa lấy được ống thuốc thì đã nghe Phước hốt hoảng: 

- Mỹ! Ái Mỹ! 

Ái Mỹ lồng lên dữ dội, xô ngã Phước ra và hai tay bứt tung cả nút áo ngực, để lộ ra ngực trần. Phước lại kêu: 

- Mỹ, em đừng... 

Nhưng tiếng kêu của Phước chưa dứt thì Ái Mỹ đã bất động trở lại, như một xác chết. Mà là xác chết thật sự khi Phước đưa tay đặt lên mũi cô: 

- Ái Mỹ! 

Phước đang chụp lấy vai cô vừa lắc mạnh thì đã phảỉ ngừng lại, sửng sốt khi nhìn lên bộ ngực trần. Từ đầu nhù bên này kéo dài sang đầu nhũ bên kia có ba nốt ruồi đen, tròn, giống như ba hạt đậu nằm rải đều nhau! 

Đây không phải lần đầu Phước nhìn thấy ngực người yêu, nên anh vừa sững sờ vừa sợ hãi. Mãi một lúc anh mới cất tiếng được: 

- Chị gọi thêm... 

Anh định bảo cô ý ta gọi thêm bác sĩ tăng cường, nhưng kịp nghĩ lại, anh ngăn lại: 

- Thôi, không cần! 

Rồi tự tay anh kéo áo nàng lại một cách cẩn thận. Dù không cố ý, nhưng tay Phước cũng chạm vào một trong ba nốt ruồi ấy, và như có luồng điện cực mạnh truyền sang, khiến Phước bị bắn bật ra, ngã hẳn xuống sàn! 

- Ái Mỹ! 

Khi một số bác sĩ khác chạy vào tiếp cứu thì đều nhận xét: 

- Bệnh nhân đã chết hẳn rồi! 

Phước tuy không dám chạm vào thân xác của người yêu, nhưng anh vẫn chưa muốn rời nàng, do vậy anh chưa cho chuyển Ái Mỹ xuống nhà xác. Anh ngồi rất lâu, thỉnh thoảng cứ muốn nhìn lại ba cái nốt ruồi kỳ lạ ấy, nhưng lại cũng không dám...

° ° °

Chính Phước là người nhận xác người yêu về ngay đêm hôm đó mà không để bệnh viện chuyển xuống nhà xác. Bà Châu đau buổn vì mất con bao nhiêu thì Phước đau cũng không kém, ngoài ra anh còn nỗi ray rứt không yên là không cứu được nàng, dù phút cuối anh cận kề bên cạnh. 

Khi tang lễ chấm dứt, đưa quan tài Ái Mỹ ra nghĩa địa, anh quyết liệt chống đối việc thiêu xác. Anh cố thuyết phục bà Châu: 

- Con xin bác đừng thiêu xác Mỹ, con muốn cô ấy được nguyên vẹn. 

Bà Châu phải nghe theo, dù mọi thủ tục thiêu xác đã được chuẩn bị. Phước còn nghị và được chấp thuận: 

- Ở phần vườn nhà con nhiều khoảng trống, con xin bác hãy cho chôn Ái Mỹ ngay trong đó. 

Bà Châu lại nghe theo và còn bảo Phước: 

- Bác muốn con qua bên này lo giúp bác một thời gian. Nhà hiện nay không còn ai. Bác thì có bệnh tim. 

Phước nhận lời ngay. Trước mắt, gần như suốt ngày anh ở ngoài phần mộ. Cứ đốt hết đợt nhang này đền đợt nhang khác hầu như không bao giờ dứt khói hương. Hằng ngày cho mãi đến khi trời tối mịt Phước mới vào nhà. Anh xin phép được ngủ ở phòng của Ái Mỹ và được bà Châu chấp thuận, bà còn bảo: 

- Con coi trước khi chết nó có để lại di bút gì không? 

Phước cố tìm, nhưng không thấy gì. Cả hai đêm liền Phước đều khó ngủ và lại tìm khắp các phòng trong, mong thấy được một cái gì đó chứng tỏ Ái Mỹ chán chường và tuyệt vọng, mà vẫn không có. Qua đêm thứ ba, tức tròn một tuần từ ngày Mỹ chết, Phước quá kiệt sức nên đi ngủ sớm. Ngay khi từ ngoài mộ Ái Mỹ về, chưa kịp thay quần áo Phước đã ngã lưng ngủ ngay. Không biết giấc ngủ kéo dài bao lâu, cho đến khi Phước nghe có một tiếng ho khan của ai đó ngay trong phòng mình, đồng thời anh ngửi được mùi thuốc lá rất lạ. 

- Ai vậy? 

Phước vừa bật dậy thì đã nghe có người lên tiếng, giọng đàn ông: 

- Ngày nào cũng ăn ngủ chập chờn như vậy thì liệu sống được bao lâu nữa? 

Trong phòng lúc ấy không có ánh sáng, nhưng qua giọng nói Phước biết người ấy đang ngồi bàn cạnh cửa sổ. Ông ta lại tiếp: 

- Cậu cứ ở đó không cần phải mở đèn lên, ta sợ ánh sáng. 

Lúc này Phước mới hỏi: 

- Ông là ai? Tôi nhớ lúc đi ngủ đã chốt cửa phòng lại rồi mà! 

Một tiếng cười khẽ cất lên: 

- Cửa chốt lại là để ngăn người trần, chứ người trong thế giới vô hình thì cửa khóa có nghĩa gì với họ! 

Phước hốt hoảng: 

- Ông là... 

- Cậu có sợ cũng chẳng có ý nghĩa gì nữa, bởi ta đã ở đây, cận kề bên cậu rồi. Cậu sợ thì cũng không thể thoát được, nếu ta muốn ra tay... 

Câu nói có tính hăm dọa thật sự không làm cho Phước sợ, tự dưng anh cảm thấy tự tin hơn, nên nói liền ý nghĩ của mình:

- Giờ phút này tôi còn đang muốn được chết, bởi người yêu tôi không còn hiện hữu trên cõi đời này nữa thì sự sống cúng đâu còn nghĩa lý gì với tôi nữa! 

Người đàn ông im lặng một lúc mới lên tiếng trở lại, giọng có hơi khác: 

- Cậu yêu người con gái ấy đến thế sao? Đó là lòng thành hay chỉ là... 

- Tôi không việc gì phải dối lòng. Vã lại ông không là gì để tôi phải bày tỏ... 

- Khá khen cho cậu. Nhưng có một điều tôi thấy tiếc... 

Ông ta ngừng nói một lúc nữa, rồi đột ngột hỏi: 

- Cậu có chắc là đã chôn người yêu của mình? 

- Kìa ông, chuyện ấy là của tôi. Chính tôi đã... 

- Đã chôn nàng ngoài sau vườn nhà này chứ gì? Tôi nghiệp cho một con người si tình nhưng thiếu sáng suốt! Cậu có nghĩ là mình chỉ chôn xác ba con mèo không? 

Câu hỏi khiến cho Phước giật mình: 

- Ông nói sao? Làm gì có chuyện ấy! Chính tôi... 

Có tiếng xô ghế đứng lên của người kia, kèm theo lời nói: 

- Tin hay không thì cậu ra mà xem. Tôi chỉ muốn giúp cậu thôi. 

Im lặng hoàn toàn sau đó. Phước hỏi to: 

- Ông còn đó không? 

Chẳng nghe tiếng trả lời. Phước chạy tới công tắc đèn, bậc lên thì chẳng thấy ai trong phòng mình nữa. Cửa vẫn chốt chặt từ bên trong. 

Nhớ lại câu nói của ông ta, Phước lặp lại một mình: 

- Không có xác của Ái Mỹ... 

Anh tốc cửa chạy ra ngoài. Lúc này Phước mới biết trời vừa sáng. Việc đầu tiên của Phước là chạy ra phần mộ của Ái Mỹ và sau đó tìm mấy vật dụng để đào đất. 

Phước hành động một mình, bởi sợ kinh động đến bà Châu thì sẽ bị phản đối. Đào mộ mới chôn nên cũng không khó để Phước đào tới nắp quan tài chỉ sau mười lăm phút. Không chần chừ, Phước tìm cách nạy nắp quan tài lên. Cũng không khó. Khi nắp quan lộ ra, Phước đã sững sốt kêu lên: 

- Trời ơi! 

Trong quan tài rõ ràng có ba con mèo nhị thể nằm rải đều ra từ đầu đến cuối. Ngoài ra không có xác của Ái Mỹ! Điều này không thể nào xảy ra, bởi khi liệm xác Mỹ thì chính tay Phước đã làm. Vậy thì tại sao? 

Không thể nào lý giải được, nên Phước chỉ còn biết đứng thừ người ra, chưa biết phải làm sao, thì bỗng có một cơn lốc xoáy thổi lên khiến Phước phải lảo đảo lùi ra mấy bước. Đến khi cơn lốc qua rồi, Phước nhìn lại thì trong quan tài không còn xác ba con mèo nữa, mà đất của phần mộ cũng được lấp lại nguyên vẹn như lúc chưa đào! 

Vẫn còn chưa hết bàng hoàng, nên Phước cứ lầm bầm: 

- Không thể nào, không thể là như thế này được! 

Phải hơn một giờ sau anh mới trở vào nhà, gặp bà Châu ngay cửa ra vào, bà reo lên khi thấy Phước: 

- Bác đợi cháu nãy giờ. Có chuyện này... 

Bà hạ thấp giọng như sợ có người nghe: 

- Ba con Ái Mỹ về báo mộng cho bác biết con Ái Mỹ chưa chết sao bữa mình đem chôn nó? 

Phước không thể giấu chuyện vừa rồi, liền thú thật: 

- Cháu cũng được biết chuyện đó nên mới đây cháu đã đào mộ lên. 

Bà Châu hỏi dồn: 

- Vậy có cứu được nó không? 

- Không có xác của Mỹ dưới mộ. 

Câu nói của Phước làm cho bà Châu tròn xoe mắt: 

- Vậy nó ở đâu? Không lẽ chỗ ba nó nói? 

- Bác trai bảo thế nào? 

- Ở chỗ mộ con Yến Lan. 

Phước giật mình: 

- Sao lại ở chỗ ấy? 

Tuy nói vậy, nhưng Phước lại vừa bước ra cửa, bà Châu hỏi: 

- Con đi đâu vậy? 

Không trả lời, Phước gọi xích lô đi thẳng tởi chỗ nghĩa địa vắng hôm trước. Đến trước ngôi mộ Yến Lan, nhìn trước sau không thấy gì khác lạ, Phước vừa định bước trở ra thì chợt nghe văng vẳng trong gió giọng người đàn ông quen quen: 

- Phải tìm thì mới gặp chứ cớ sao chỉ đứng đó mà nhìn! 

Chẳng hiểu có động lực nào thúc đẩy mà Phước lại bước về hướng bên trái. Có lẽ anh theo giọng nói vừa phát ra. Năm phút sau, Phước đã đứng trước một ngôi nhà xiêu vẹo, cửa đóng nhưng không khóa. Nghĩ là có người bên trong nên Phước cất tiếng gọi: 

- Có ai trong nhà cho tôi hỏi thăm... 

Chẳng có ai lên tiếng, nên gọi đến lần thứ hai thì Phước mạnh dạn đẩy cửa vào. Bên trong có ánh sáng từ chiếc đèn dầu hắt ra, chiếc giường tre ọp ẹp có một người nằm. 

- Ái Mỹ! 

Vừa trông thấy người trên giường, Phước đã nhận ra ngay là người yêu. Anh chạy tới thật nhanh và quả đúng là Ái Mỹ đang nằm im. Chạm tay vào nàng, Phước mừng rú: 

- Còn sống. 

Thân thể còn ấm. Chỉ có điều là bất động như xác chết. Là một bác sĩ, Phước hiểu điều đó có nghĩa là nàng còn sống. Anh nắm chặt bàn tay nàng, gọi khẽ: 

- Mỹ, anh đây. Phước đây. 

Nàng vẫn bất động. Chợt giọng nói lúc nãy vang lên: 

- Áp thân cậu vào thân nó, Mỹ sẽ tỉnh lại! 

Như một mệnh lệnh, Phước làm theo mà không chút e dè. Và anh cảm thấy máu trong người mình chuvển động mạnh. Hơi nóng từ thân thể Mỹ từng lúc ấm thêm lên... 

Đến một lúc, Phước bị hất tung ra, suýt văng xuống sàn. Nhưng khi nhìn lại anh mừng quá, reo lên: 

- Mỹ! Em tỉnh lại rồi! 

Ái Mỹ bật dậy rất nhanh và lên tiếng ngay: 

- Tôi đang ở đâu? 

- Anh đây! 

Nhìn thấy Phước, nàng oà lên khóc! Chợt giọng nói lúc nãy thúc giục: 

- Đưa nó rời khỏi đây ngay. 

Không biết Ái Mỹ có thể đi được hay không, Phước bế xốc nàng lên và chạy như bị ma đuổi ra khỏi nơi đó! 

Mãi khi lên taxi rồi, Phước mới để ý mình đang ở một khu ngoại ô vắng vẻ... 

Khi về đến nhà rồi, Phước vẫn chưa tin là sự thật. Anh quay sang định hỏi thì thấy Ái Mỹ đang dựa vào vai mình ngủ thiếp đi. Có lẽ quá mệt chứ không phải ngất. Hơi thở của nàng đều đều... 

Khỏi nói thì cũng biết, khi nhìn thấy cả hai bước xuống xe ngoài cổng, bà Châu đã gần như muốn đứng tim. Mãi đến khi Phước dìu Ái Mỹ vào đến bậc thềm bước vào nhà, bà mới lắp bắp: 

- Có phải... có phải. 

Phước nói ngay để bà an tâm: 

- Ái Mỹ còn sống bác ạ! 

Ái Mỹ ôm chầm lấy mẹ, chỉ có khóc chứ không nói được lời nào! Bà Châu cũng thế. 

Phước bước về phòng định dọn dẹp để ái Mỹ vào được thoải mái. Tuy nhiên vừa khi ấy anh khựng lại, bởi mùi thuốc lá bay phả vào mũi đến khó chịu. Mùi này đã một lần Phước ngửi được, anh vừa định lên tiếng hỏi thì đã nghe giọng nói quen thuộc của người đàn ông: 

- Cậu vừa cứu nó khỏi cái chết cầm chắc mười mươi! Bây giờ còn một việc cuối cùng nữa, cậu làm được thì vĩnh viễn nó là của cậu. Cậu phải trở lại nghĩa địa, đem xác ba con mèo và chôn bên cạnh mộ con Yến Lan. Chỉ có cậu làm được việc đó, và cậu làm thì mới có hiệu quả. Hãy làm ngay đi, xác ba con mèo đã được đem lên khỏi mộ trống cua Ái Mỹ, cậu cứ mạnh dạn mang đi, không việc gì phải ngại. 

Không chờ Ái Mỹ vào phòng, Phước vội ra sau vườn và quả nhiên anh nhìn thấy cái thùng giấy đặt sẵn ở đó. Ba con mèo nằm im trong thùng như đang ngủ say. Đã từng cứng kến điều kỳ lạ từ ba con mèo này, nên Phước cẩn thận nhặt sợi dây gai gần đó cột chặt nắp thùng lại rồi mới nhanh chóng mang đi. Đến nghĩa địa, Phước chưa biết phải làm sao đào đất thì đã nhìn thấy một chiếc xẻng ai đã đặt sẵn ở đó. Anh đào một lỗ rất vừa, chôn cái thùng giấy xuống và lấp đất lại, có nấm nhô lên chẳng khác một ngôi mộ nhỏ. Làm vừa xong thì Phước có cảm giác như đất dưới chân mình rung chuyển nhẹ, và hình như có tiếng khóc từ dưới mộ của Yến Lan vọng lên. Anh hơi hoảng, tuy nhiên nhớ đến lời dặn của người đàn ông, anh bình tĩnh bước nhanh ra khỏi nơi ấy. 

Phước nghe văng vẳng phía sau mình tiếng khóc rất lạ...

° ° °

Việc Ái Mỹ sống lại sau hơn một tuần chết, chính Phước cũng không hiểu tại sao. Anh chỉ ngầm hiểu rằng có điều thần bí gì đó. Đến khì nghe bà Châu kể chuyện bà gặp chồng trong giấc mộng đêm qua thì Phước mới tin là thật sự có chuyện cõi âm trong việc này. Bà Châu bảo: 

- Ông nhà tôi thương con Yến Lan, bởi mẹ nó mất là do ông gây ra, nên kể từ khi ông ấy chết sau khi con Yến Lan tự tử thì chưa lúc nào ông ấy về báo mộng cho bác hay Ái Mỹ. Vậy mà vừa rồi hết về gặp cậu, rồi gặp bác, khi nào ông ấy cũng lo lắng chuyện con Yến Lan định bắt hồn Ái Mỹ! Nhà tôi bảo rằng nếu không có cậu thì ông ấy không ngăn con Yến Lan ra tay.

- Cháu không quan tâm lắm chuyện oan hồn cô Yến Lan, chỉ thắc mắc chẳng hiểu sao Ái Mỹ chết đã hơn một lần mà tim vẫn còn hoạt động, và tại sao ra khỏi mộ được? 

Bà Châu kể tiếp: 

- Ông nhà tôi nói rằng, do không muốn thêm một đứa con của mình chết nữa, nên ông đã kịp thời ra tay cứu Ái Mỹ khi mình vừa hạ huyệt xong. Ái Mỹ chưa kịp chết hẳn, đã được ông cứu và đưa tới ngôi nhà hoang. Yến Lan thì nhất quyết phải đòi cho được mạng của Mỹ, bởi có như thế nó mới trả được mối hận. Nó là một hồn ma thật sự, nó có thể ra tay hại người rửa hận, còn ông nhà tôi chỉ là một vong hồn. Vong hồn khác với hồn ma. Vong không hại người, chỉ hiện về báo điều lành dữ cho người sống mà thôi. Chính ông ấy đã gặp cháu mầy lần đó. 

Phước nhớ lại giọng nói đầy thiện cảm của người đàn ông, anh lặng người một lúc rồi nhẹ giọng nói: 

- Bây giờ cháu đã hiểu. Cháu xin cảm ơn vong hồn của bác trai. 

Anh tỏ ý muốn trở về nhà mình thì bà Châu chân tình nói: 

- Bây giờ bác đã hiểu điều tệ hại của việc ép duyên con. Bác muốn cháu giúp con Ái Mỹ trở lại tình trạng cân bằng. Vậy tốt nhất là cháu nên ở đây thêm một thời gian nữa. Rồi sau đó về thưa chuyện với bà thân, mời bà sang đây nói vài lời, bác sẽ đồng ý cho hai đứa hết hợp với nhau. Ý cháu thế nào? 

Phước chưa kịp đáp thì Ái Mỹ đã từ nhà trong chạy ra ôm lấy mẹ, ríu rít: 

- Con cám ơn mẹ! Anh Phước cũng vậy, anh ấy cũng như con. 

Bà Châu mắng yêu con gái: 

- Sao lại nói thay cậu ấy được, con khỉ này chỉ tài lanh! 

Phước nói nhanh: 

- Đây là điều con mong đợi từ lâu rồi! 

Một tháng sau. Đám cưới của Ái Mỹ và Phước diễn ra trong sự lo lắng của bà Châu và cả Lan Hương nữa. Những người biết chuyện báo thù của hồn ma Yến Lan đều nơm nớp lo sợ điều chẳng lành sẽ xảy ra trong lễ cưới. Nhưng may mắn, lễ cưới đã diễn ra êm thấm. Cả ba, bà Châu, Ái Mỹ và Phước ngầm hiểu là có sự che chở của ông Châu. Họ khấn vái ông ngay trong lễ cưới. Và cũng không quên khấn hương hồn Yến Lan. Ái Mỹ đã nắm chặt tay chồng, nói vọng vào khoảng không: 

- Em cám ơn chị Yến Lan. Tụi em sẽ sống hạnh phúc và mong được chị mãi mãi phù hộ... 

Và họ đã có những ngày hạnh phúc sau đó.

HỒN TRĂNG

Ông thầy thuốc bước ra khỏi phòng bệnh nhân với tâm trạng phấn khởi. Ông xoa tay nói với bà mẹ: 

- Bà cứ yên tâm, cô nhà xem như đã khỏi bệnh hẳn rồi, mà về đây có điều kiện tịnh dưỡng tốt nữa thì chắc chắn chỉ sau vài tuần là trở lại bình thường và có thể... 

Biết ông ta sắp nói gì, nên bà Cẩm Tú đưa tay ngăn lại: 

- Cả nhà này bây giờ chẳng ai nhắc tới điều đó nữa. Vậy lần sau có tới khám thì ông cũng không nên nói: 

Tiễn ông bác sĩ tâm thần ra về rồi, bà Cẩm Tú đem tâm trạng vui lây đó trở vào phòng con gái, tính chúc mừng. Nhưng vừa đẩy cửa bước và bà đã phải sững người lại, bởi ngay trước mặt bà là một người đang treo cổ trên sợi dây thòng lọng. 

- Trời ơi! Bớ... 

Sự xất hiện của bà Tú đã làm cho hai chân của người đó chưa kịp đá văng chiếc ghế thì đã phải dừng lại. 

- Má phá đám con hoài! 

Chẳng nói thêm lời nào, bà Tú nhào lên giường, chụp lấy hai chân con gái ôm chặt vừa van lơn: 

- Đừng làm vậy con! Mẹ đây, con gái... 

Từ từ cởi sợi dây thòng lọng ra khỏi cổ, bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra, cô nàng quay sang trách mẹ: 

- Mẹ không để con thử một chút. 

Bà Cẩm Tú sờ trán con, vừa dìu Thu Hoa xuống, bà lo lắng: 

- Sao thầy thuốc nói con đã khỏe hẳn rồi? 

Thu Hoa vẫn tỉnh queo: 

- Thì con có sao đâu? Con thử coi cảm giác của một người đưa cổ vào dây nó thế nào, mà tại sao mấy người kia người nào cũng thích chui vào đó! 

Bà Tú ngạc nhiên: 

- Mấy người kia là ai? 

- Trong nhà mình đây nè! 

Bà Tú giật mình: 

- Con gặp ai trong nhà này? 

Đưa tay chỉ ra cửa sổ, rồi lại chỉ lên trần nhà: 

- Họ ở mọi nơi, chỗ nào cũng có, mà người nào cũng treo cổ lè lưỡi dài cả tấc luôn! 

- Trời ơi, con tôi... 

Bà Cẩm Tú chưa kịp vui đã phải buồn hơn, bà quay đi giấu đôi dòng lệ vừa tuôn ra, cố không cho con thấy, nhưng Thu Hoa đã phát hiện, cô nàng phá lên cười: 

- Mẹ lại khóc nữa rồi! Vừa rồi con hù mẹ chơi mà chứ có phải làm thật đâu. Mẹ coi kìa, chiếc thòng lọng con làm bằng giấy mà làm sao siết cổ được.. 

Cô và mẹ cùng nhìn lên trần một lượt và cùng kêu thét lên: 

- Trời ơi, sao vậy? 

Sợi dây thòng lọng mà Thu Hoa nói là bằng giấy lúc ấy đang lay động và xoay vòng như được ai đó điều khiển. Chính Hoa cũng quá đỗi ngạc nhiên: 

- Sao vậy mẹ? 

Bà Cẩm Tú run giọng: 

- Con làm gì nó? 

Thu Hoa xua tay lia lịa: 

- Con đâu có làm gì, con chỉ vo tròn mấy tờ giấy lại giả bộ như treo cổ, sao bây giờ nó... nó... 

Việc đó chỉ diễn ra trong vòng mấy mươi giây rồi sau đó thì chẳng còn thấy gì nữa. Bà Cẩm Tú sợ hãi bảo con gái: 

- Hay là con qua ngủ chung với mẹ? 

Thu Hoa ngoan ngoãn nghe theo, điều đó chứng tỏ cô đã thật sự hết bệnh. Khi sang phòng mẹ rồi, Hoa còn nói: 

- Chắc tại con ở bên đó một mình nên bị ám ảnh. Mà chẳng hiểu sao con cứ nhìn thấy những sợi dây thòng lọng đó mãi chứ không phải cái gì khác. 

Bà Tú ngại con sợ thêm nên nói cho qua: 

- Có lẽ con bị một hình ảnh nào đó trước đây tác động. Mà thôi, con đừng bao giờ suy nghĩ lung tung nữa thì sẽ ổn thôi. 

Bà Tú còn cẩn thận gọi chú Mười làm vườn và Cảnh tài xế dặn thật kĩ: 

- Con Thu Hoa trong thời kỳ dưỡng bệnh, không ai được làm gì gây ra tiếng động lớn. Hai người chú ý, hễ nghe gì bất thường chì chạy tới ngay. 

Mười Hưởng đã sống lâu năm trong nhà nên biết ý, ông nói ngay: 

- Tôi ở đây lâu, phân biệt được cả tiếng mèo chạy hay chó rình mồi, không có gì qua được tai tôi đâu! 

Hai mẹ con yên tâm, nên đóng cửa đi ngủ sớm. Tuy nhiên, hình ảnh chiếc thòng lọng quái dị lúc nãy cứ ám ảnh bà Cẩm Tú hoài. Ngoài mặt trấn an con, nhưng trong lòng bà thắc mắc ngày càng lớn. Nó gợi cho bà nhớ tới câu chuyện khi bà mới bước chân về nhà này làm dâu. 

Ngày đó có người nói với bà rằng gia đình họ Vương này có nhiều người chết do thắt cổ nhưng sống lâu trong nhà mà không thấy có gì khác lạ, nên dần dần chuyện ấy đi vào quên lãng. 

- Mẹ chưa ngủ sao? 

Nghe con hỏi, bà Tú vờ như buồn ngủ, đáp: 

- Mẹ sắp ngủ... 

Một lát sau bà đã nghe Thu Hoa ngáy đều. Mười một giờ, đột nhiên bà Tú bật dậy, trong đầu bà vừa lóe lên một việc mà không thể đợi trời sáng. Bà nhẹ nhàng bước xuống giường và tin chắc là Thu Hoa không phát hiện bởi liều thuốc ngủ con bé uống mỗi tối ít nhất cũng giúp nó ngủ đến gần sáng. 

Nơi bà tới là căn phòng ở phía đông. Trước đây nó từng là phòng riêng của vợ chồng bà khi còn ở đây. Sau khi cả nhà chuyển về thành phố, lúc sinh tiền chồng bà đã dùng phòng này làm nơi lưu giữ nhiều thứ có giá trị, trong đó có cả giấy tờ và hình ảnh gia đình. 

Xâu chìa khóa riêng của bà mở được tất cả phòng trong nhà, nhưng từ mấy năm nay, khi lui tới trở lại ngôi nhà này bà Tú chưa bao giờ đặt chân vào đây. Tuy nhiên, do đã ở trong mấy năm liền, nên bà Cẩm Tú không cần bật đèn lên cũng có thể mò trong bóng tối đi mà không đụng vào đồ vật để trong. Khi đến sát tủ quần áo mà bà biết chắc còn lại trong phòng và yên chỗ cũ bởi nó to lớn khó chuyển đổi vị trí. Bà Tú mở đèn pin lên. Cánh cửa tủ vẫn còn nguyên chiếc chìa khóa cắm trong ổ khóa. Nhẹ tay bà kéo cánh cửa tủ ra, bà nghĩ trong đó chứa đầy những vật dụng linh tinh. 

Nhưng hoàn toàn ngoài sức tưởng tượng của bà, trong khoang tủ lớn treo một dọc những bộ quần áo phụ nữ đủ màu sắc. Hình ảnh đó khiến bà Cẩm Tú giật mình, bà bước thẳng tới mở công tắc đèn. Đèn vừa sáng lên thì càng kinh ngạc hơn khi căn phòng thật lộng lẫy, khang trang và sạch bóng như đang có người. 

- Kỳ vậy? 

Bà không thể nào tưởng tượng được, bởi đây là nhà bà, tuy bỏ không ở, nhưng làm sao lại có người vào ở mà bà không biết? 

- Chú Mười... 

Bà vừa cất tiếng định gọi ông làm vườn, cũng là người được giao nhiệm vụ quản gia bấy lâu nay. Tuy nhiên, tiếng gọi chưa thoát ra ngoài thì mắt bà Cẩm Tú đã dừng lại chiếc giường ngủ trải ra trắng tinh. Trên giường có một người đang nằm im, màn màu hồng nhạt buông phủ xuống. 

- Ai? 

Bà Tú hỏi hơi to. Không có tiếng hồi đáp, cũng chẳng thấy người nọ cử động. Bà lại bước tới gần và dừng lại sát mép giường, lên tiếng lần nữa: 

- Ai đây, tôi muốn nói chuyện. 

Không nghe trả lời, bà Tú hơi bực mình nên đưa tay đụng vào góc mùng, không ngờ chỉ vừa chạm nhẹ thì vải mùng đã rệu rã ra và rơi xuống từng mảng. Có thể mùng đã được giăng quá lâu và người nằm trong đó... 

- Trời ơi! 

Bà quay người chạy nhưng do quá vội nên chân vướng vào thành giường, bất ngờ ngã sóng soài, tay chạm vào cái mền người nằm đang đắp, một bên mền tốc ra để lộ nguyên mái tóc dài và một gương mặt mà bà Tú vừa nhác thấy đã hồn phi phách tán. 

Một cái đầu lâu còn tóc! 

Cố bò, lết nhưng hình như chỉ một quãng ngắn thì bà Tú đã ngã người ra và ngất đi. 

- Bà chủ! Bà chủ! 

Mở mắt ra vừa thấy ông Mười làm vườn, bà Cẩm Tú vẫn còn bàng hoàng: 

- Cứu... cứu tôi! 

- Bà không sao rồi. Lúc nãy nghe tiếng động, tôi với chú Cảnh tài xế cùng chạy lên chỉ thấy bà đang nằm trước cửa phòng đằng kia. Sao khuya rồi bà còn đi đâu để xảy ra chuyện vậy? 

- Nó đâu rồi? 

Ông Mười ngạc nhiên: 

- Nó nào? 

Đưa tay chỉ vào căn phòng, bà vẫn còn sợ hãi: 

- Nó... trong phòng... 

Tài xế Cảnh đứng gần đó tới mở cửa phòng ra và nói: 

- Đâu có gì trong này! 

Mặc dù còn choáng váng nhưng bà Cẩm Tú cũng gượng đi về phía đó, bà đưa mắt nhìn vào và vẫn thấy khung cảnh y như hồi nãy, chỉ có cái giường thì trống không, chiếc mùng buông xuống vẫn còn đó nguyên vẹn. 

- Không thể nào... 

Bà lẩm bẩm và đảo mắt khắp nơi như tìm kiếm. Ông Mười bảo: 

- Căn phòng này từ nhiều năm nay tôi không có chìa khóa nên không mở cửa để dọn dẹp. Mà sao bây giờ nó lại mở ra như thế này? 

Bà Tú muốn giấu chuyện vừa rồi, nhưng bà lại lỡ lời: 

- Cái xác trên giường... 

Ông Mười ngạc nhiên: 

- Bà chủ nói xác gì? 

Bà đành phải thuật lại chuyện, nghe xong ông Mười cũng quá đỗi kinh ngạc: 

- Làm sao có chuyện đó được, từ nào đến giờ tôi ở đây giữ nhà, có hề thấy chuyện gì xảy ra đâu? Mà rõ ràng, trên giường đâu có ai. 

Dù đang sợ, nhưng bà Cẩm Tú cũng trở lại bên giường quan sát thật kỹ, không hề có một dấu vết gì chứng tỏ mới vừa có một người nằm, mà lại là một xác chết nữa. 

- Không thể được... 

Bà cứ lặp lại nhiều lần câu nói. Ông Mười bảo: 

- Hay là bà bị ám ảnh chăng? 

Bà Tú nổi giận: 

- Bộ ông cho rằng tôi bịa đặt chắc! 

- Dạ, tôi đâu dám... 

Thấy bà định bỏ về phòng riêng, ông Mười nhắc: 

- Bà khóa cửa phòng này lại. 

Đích thân bà khóa cửa lại rồi dặn tài xế Cảnh: 

- Chuẩn bị xe cho tôi về Sài Gòn. Con Thu Hoa cùng đi nữa. 

Bà trở về phòng mình, cất tiếng gọi con gái: 

- Hoa ơi, dậy chưa con? 

Không nghe Hoa đáp, bà Tú đẩy cửa vào, bà hốt hoảng kêu lên: 

- Nó đâu rồi? 

Lúc ấy chỉ mới hơn một giờ sáng, bên ngài trời tối đen, nên bà Tú càng lo sợ hơn, đi khắp các phòng coi có nó trong đó không Bà bước qua căn phòng mà Thu Hoa mấy hôm nay ở, trong phong cũng trống không. Tìm kiếm một lát, ông Mười và Cảnh đều báo: 

- Dạ, không thấy cô Hoa đâu cả! 

Nghĩ tới cơn bệnh tái phát của con, bà Tú quýnh lên: 

- Không xong rồi, mọi người kiếm khắp vườn xem! 

Một cuộc tìm kiếm quy mô được tung ra, có sự tham gia của những người ở xóm lân cận nữa. Cho đến sáng hôm sau... 

- Vẫn chẳng thấy tăm hơi gì. - Ông Mười bảo - Cửa cổng khóa chặt, tường lại cao, dứt khoát cô ấy không thể leo ra được. 

Mấy người hàng xóm cũng sốt sắng: 

- Để tụi tôi tìm xa hơn một chút xem. Cách đây ba bốn cây số mới ra đường xe ôtô nên có đi ra ngoài đó thì giờ này chưa chắc cô ấy đón được xe. 

Cho đến gần trưa mà cuộc tìm kiếm cũng chưa đem lại kết quả gì. Bà Cẩm Tú bắt đầu nghĩ tới điều tệ hại nhất, nên chỉ còn biết ngồi ôm mặt khóc ròng. Nhìn bà như thế, ông Mười cũng bất nhẫn: 

- Sao tòan những chuện rắc rối không vậy trời! 

Quá kiệt sức bà Tú định trở về phòng nghĩ ngơi thì chợt bà nghe như có ai gọi mình. Bà dừng lại lắng nghe kỹ hơn và xác định tiếng kêu đó phát ra phía đông. Bà theo quán tính đi về hướng đó và cuối cùng, bà dừng lại bên căn phòng vừa xảy ra chuyện. 

- Sao lại đây? 

Tuy tự hỏi với vẻ lưỡng lự, nhưng cuối cùng bà Tú cũng đưa tay mở cửa phòng lần nữa. Tiếng kêu của ai đó chấm dứt. 

Cũng vừa lúc bà Tú kêu lên: 

- Con Thu Hoa! 

Con gái bà đang ngồi bật dậy ngay trên chiếc giường kia khi bà mở cửa. 

- Mẹ! 

Cô gọi trong trạng thái bình thường, nhưng cũng khiến bà Tú sợ hãi: 

- Sao... con lại ở đây? 

Thu Hoa bình thản đáp: 

- Thì con ngủ. 

- Con đang ở phòng mẹ mà, sao bây giờ lại ở đây? 

Nghe mẹ nhắc, Thư Hoa mới nhìn chung quanh rồi ngỡ ngàng: 

- Ủa con cứ tưởng... 

- Ra, ra khỏi đây mau! 

Bà nắm tay Thu Hoa lôi nhanh ra khỏi phòng trước sự ngạc nhiên của cô gái: 

- Sao vậy mẹ? 

Ra ngoài rồi, bà mới hỏi lại: 

- Ai đưa con vào đó? 

- Đâu có ai. Con ngủ trong phòng mẹ, đâu biết gì. 

Nỗi sợ hãi khiến bà Cẩm Tú run hai đầu gối, bước đi một cách khó khăn. Bà giục: 

- Đi nhanh đi con. 

- Đi đâu mẹ? 

- Rời khỏi đây, về Sài Gòn ngay, đi nào! 

Từ khi bị bệnh, không khi nào Thu Hoa cãi lại mẹ, nhưng lúc này cô giằng tay ra khỏi bàn tay bà Tú, nghiêm giọng: 

- Con không thích về, con thích ở đây thôi! 

- Kìa, Thu Hoa... 

Vừa nói xong tức cô nàng lập tức trở lại căn phòng khiến bà Tú kinh hãi: 

- Đừng. Đừng vào đó, không được. 

Nhưng bằng động tác rất nhanh Thu Hoa đã bước vào phòng và đóng sầm cửa lại. Bà Tú đập cửa, kêu to: 

- Thu Hoa! Con phải nghe mẹ, trong đó có... 

Bà nói tới đó thì như bị ai bóp ngang cổ, khiến lời bà không phát ra được nữa Bà lảo đảo và ngã chúi xuống. 

- Bà chủ... 

Tài xế Cảnh từ ngoài hốt hoảng chạy vào, thấy vậy anh ta định đở bà dậy, nhưng bà Tú vừa chỉ tay vào: 

- Mở... mở ra. 

Cảnh chưa biết chuyện gì thì từ bên trong có giọng Thu Hoa: 

- Để tôi nghỉ ngơi đừng ồn ào! 

Cảnh ngỡ bà chủ chưa biết Thu Hoa ở trong đó nên mừng quýnh, lay mạnh bà dậy: 

- Bà chủ, cô Hoa ở trong kia. 

Nhưng đến lượt anh ta im bặt sau đó, bởi hình như anh ta cũng bị cái gì đó làm cho sợ hãi, trợn tròn mắt và chỉ muốn chạy khỏi nơi đó mà chẳng làm sao nhúch nhích được... 

Việc để cho Thu Hoa ở lại là điều bà Cẩm Tú không hề muốn. Tuy nhiên, kể từ khi đóng cửa phòng lại và quyết liệt từ chối không chịu ra của Hoa, bà Tú hiểu rằng bà đã không còn kiểm soát được con gái. Qua hai ngày sau Thu Hoa mới chịu mờ cửa và cô tỏ ra như chẳng có việc gì khi nói với mẹ: 

- Con cảm thấy thỏai mái khi ở trong căn phòng đó, vậy mẹ đừng thắc mầc gì nữa. Cứ đà này chỉ vài tuần là con sẽ trở lại bình thường thôi. 

Nhìn sắc diện của con, lại nghe Hoa nói thế, mặc dù vẫn còn chưa yên tâm, nhưng bà Tú cũng tạm chấp nhận: 

- Thôi thì cũng được. Nhưng mẹ hỏi thật con, lúc trong phòng đó con có thấy điều gì bất thường không? 

Thu Hoa lắc đầu: 

- Con ngủ yên và cảm thấy thoải mái còn hơn là ở phòng mẹ hay phòng riêng của con nữa. 

Rồi cô còn khoe: 

- Con tìm được mấy cái này... 

Cô đưa ra một cái khung ảnh có hình hai người chụp chung, mà vừa thấy nó bà Tú đã thất thần: 

- Ở đâu con có cái này? 

- Con lấy được trong tủ áo. Mặt ba hồi trẻ so với lúc già không khác mấy, chỉ có mẹ... 

Bà Tú rít lên: 

- Không phải! 

Hoa ngơ ngác: 

- Mẹ nói cái gì không phải? 

- Cái hình này! Đó không phải mẹ. 

Bà giằng lấy và tiện tay ném mạnh ra ngoài cửa sổ! Tiếp theo là một tiếng kêu thất thanh và bà ôm lấy mặt, đau đớn. Chiếc khung ảnh vừa bị ném, chẳng hiểu sao lại bay trở lại và nắm trúng vào mặt bà Tú, khiến bà gục xuống, máu me đầm đìa. 

- Kìa mẹ! 

Đoán được phần nào cơn thịnh nộ của mẹ vừa rồi, Thu Hoa cầm tấm ảnh lên, hỏi: 

- Vậy ai trong hình với ba vậy? 

Bà Tú rũ người xuống trông thật thảm hại, Hoa thấy thương mẹ vô cùng: 

- Mẹ nói con nghe đi, có chuyện gì vậy? 

Mãi một lúc sau bà Tú mới nói, giọng đứt quãng: 

- Người đó nào có buông tha ba con ra như ba con đã nói. Họ vẫn là một cặp đôi đó thôi! 

- Nhưng... đây là chuyện cũ rồi mà mẹ, hồi ba còn trẻ. Vả lại bây giờ ba đã chết rồi. 

Bà Cẩm Tú cầm khung ảnh lật ra phía sau và gỡ ảnh ra khỏi khung, chỉ cho Hoa xem: 

- Con đọc dòng chữ sau này sẽ rõ! 

Thu Hoa chú ý tới dòng chữ viết khá nắn nót, nét chữ của cha cô: ';';Mùa Xuân Canh Thân, đánh dấu ngày mặt trăng của chúng ta ra đời! Cám ơn em Thu Hà!';'; 

- Thu Hà là người trong ảnh này? 

Bà Cẩm Tú không đáp thẳng, nhưng câu nói tiếp theo của bà đã như câu trả lời: 

- Đã lấy tôi rồi mà lúc nào cũng Thu Hà, cũng em ơi, em hỡi! Và cũng đi tìm vầng trăng non cho bằng được, trời ơi! 

- Trăng non là gì mẹ? Ai là mặt trăng của ba như lời trong ảnh này? 

- Hãy tìm cha con mà hỏi! 

Vừa nói bà vừa vụt chạy bay ra ngoài. 

- Mẹ! 

Ông già Mười hình như đã chứng kiến từ đầu đối thoại giữa hai mẹ con, ông nhẹ giọng nói: 

- Cô hãy để cho bà tĩnh tâm đã. Chính bức ảnh này đã khiến cho bà bị sốc đó! 

- Nhưng... sao lại sốc? Người trong ảnh là ai ông Mười biết không? 

Ông già nhìn thẳng vào Thu Hoa một lúc, rồi hỏi: 

- Cô có thật sự muốn biết không? 

- Ông Mười biết thì kể cho con nghe đi. Bà ta tên Thu Hà phải không? 

- Phải! Bà ta tên Thu Hà, bởi vậy bà đặt tên cho các con đều bắt đầu cũng bằng chữ Thu. Thu Nguyệt, Thu... 

Ông lại nhìn Thu Hoa và ngừng lại. Linh tính của Hoa hiểu đang có điều gì đó liên quan tới mình, cô hỏi nhanh: 

- Còn Thu gì nữa? 

Ông già Mười trầm ngâm một lúc mới tiếp lời: 

- Trước khi kể tới những tên Thu khác tôi xin kể cho cô nghe chuyện về cái chết của cô Thu Nguyệt, con gái lớn của bà Thu Hà này. 

Ông đằng hắng lấy giọng, mà có lẽ cũng để lấy bình tĩnh. Hôm đó là một đêm trăng sáng vằng vặc, cũng tại một ngôi nhà giống như nhà này, nhưng ở cách đây hơn trăm cây số. Một trong hai đứa bé song sinh đã chết do bị rơi từ trên lầu cao xuống đất. Nó chết, bởi vì nó có tên là Trăng, là Thu Nguyệt. 

Thu Hoa chặn ngang: 

- Là con của bà Thu Hà này? 

- Phải! Cũng may là đứa bé kia còn sống sót. 

- Nhưng sao lại rơi từ trên cao xuống? Bà ấy lỡ tay làm rơi chẳng? 

Giọng ông Mười đầy bi phẫn: 

- Bị ngườí ta ném! 

- Trời ơi! Ai mà dã man vậy chứ? 

- Chỉ vì ghen mà người ta nở nhẫn tâm như vậy, bất kể đó là một đứa trẻ vô tội! Bởi vậy trời cao có mắt, kẻ đã gây họa thì chẳng bao giờ được quyền làm mẹ, mà phải suốt đời mượn con thiên hạ làm con của mình. 

Thu Hoa càng nghe càng không hiểu, cô hỏi thẳng: 

- Ông Mười nói gì vậy? 

Ông già nhẹ lắc đầu rồi bỏ đi. Hoa định chay theo thì đã nghe ông nói vọng lại: 

- Cô tự mà tìm hiểu. Mọi thứ đều có ngay trong phòng ngủ của cô đó. 

Ông đi khuất rồi mà Thu Hoa vẫn còn chưa hết thắc mắc. Chợt nhớ tới mẹ, cô chạy theo hướng bà đã đi lúc nãy. Nhưng vừa ra tới cổng thì đã gặp tài xế Cảnh chạy xe về, anh chặn Hoa lại và nói: 

- Bà bảo cô đừng đi tìm, bà đang ở ngoài kia chờ đi chung xe với một người quen về Sài Gòn luôn. Vài hôm bà sẽ lên. 

Anh ta móc túi đưa cho Hoa gói giấy nhỏ: 

- Bà dặn cô cất kỹ vật này. Nó sẽ cần cho cô lắm. 

Thu Hoa mở ngay gói ra và ngạc nhiên khi đó là chiếc vòng ngọc thạch có chạm hình mặt trăng giữa nền trời mây bay. Không kịp hỏt gì thêm thì tài xế Cảnh đã rồ xe đi. Thu Hoa ngẩn ngơ nhìn theo, sau đó cô lững thững trở vào nhà mà lòng dạ bồn chồn không yên.

° ° °

Thu Hoa về phòng ngồi thừ ra rất lâu, rồi cô theo quán tính lại lục lọi tủ áo. Lần này cô gặp thêm một bức ảnh chân dung khác, trong đó chỉ có ba người: người đàn bà mà mẹ cô gọi là bà Thu Hà và hai đứa trẻ khoảng lên 5, một đứa có khuôn mặt bầu bầu, đôi mắt tròn như hai hạt nhãn, còn đứa kia cũng y như vậy, nhưng tóc lại cột cao, nhờ vậy mà thoạt nhìn có thể phân biệt được là hai đứa khác nhau, chứ thật ra chúng giống nhau như hai giọt nước. 

- Sao đứa có tóc để dài này giống y như mình? 

Lật phía sau bức ảnh, mắt Thu Hoa dán chặt ngay vào dòng chữ: Hai mặt trăng mùa thu của mẹ: Thu Nguyệt, Thu Hoa! 

- Cái gì? Sao lại là... Thu Hoa? 

Trời đất như đang quay cuồng trước mặt Hoa. Cô phải vịn vào thân tủ mới đứng vững được. Nhìn lại bức ảnh lần nữa, và Hoa không còn giữ được bình tỉnh, cô kêu lên: 

- Thu Hà, Thu Nguyệt, Thu Hoa, cả ba đều là Thu! Cả ba... 

Đôi tay Hoa run khiến không cầm được bức ảnh, để nó rơi xuống chân. Vừa cúi xuống nhặt lên thì tay Hoa chạm phải một gói giấy nhỏ bên cạnh hộp đựng ảnh, vừa mở nó ra cô đã sững sờ: lại một chiếc vòng ngọc thạch khác có hình dáng và màu sắc giống y như chiếc vòng mà tài xế Cảnh vừa mới đưa. Nhìn lại nét chạm khắc trên đó thì cũng giống, ngoài ra còn có một khóm hoa cúc rong bức tranh chạm hình trăng, mây và hoa. 

- Hoa mùa thu, Thu Hoa. 

Hai chiếc vòng này nhỏ xíu, dành cho trẻ con đeo. Mà trong bức ảnh kia, trên cổ tay hai đứa bé đều có đeo hai chiếc giống như nhau. 

- Hai chiếc vòng này! 

Thu Hoa chợt hiểu, cô lạnh cả người khi ý nghĩ chạy qua trong đầu: 

- Mình là... con của người đàn bà này? 

Thấy một chiếc hộp thiếc thứ hai trong tủ, Thu Hoa chụp lấy và mở tung nó ra. Trong đó vẫn là bức ảnh giống như vậy, nhưng được phóng lớn ra và bôi lem luốc cả vì những vệt giống như máu lâu ngày biến thành màu nâu sậm. Thu Hoa đọc được mấy chữ: ';';Nó giết con rồi Nguyệt ơi!';'; 

Ngoài ra còn có một cuộn dây gai khá to, thắt hình cái thòng lọng mà vừa trông thấy Thu Hoa đã kêu lên: 

- Chiếc thòng lọng! 

Cô đã từng bị ám ảnh bởi sợi dây thòng lọng mà nên vừa thấy nó Thu Hoa đã lùi lại, sợ hãi! Khiến cho chiếc hộp thiếc trong tay cô lại bị rơơi xuống sàn. Từ trong đó bay ra một mảnh giấy nhỏ mà vừa trông thấy chữ viết là Hoa biết ngay là của cha mình: ';';Trong hai mặt trăng bé bỏng của chúng ta chỉ còn có một, nhưng sao em không ở lại cùng với nó mà lại vội ra đi, Thu Hà ơi!';'; 

- Ba! Ba nói gì con không hiểu? 

Thu Hoa gào lên như đang đứng trước mặt người cha đã quá cố của mình. Cô lặp lại câu hỏi đến ba lần, đến khi khàn cổ họng thì quay ra gọi lớn: 

- Ông Mười ơi! 

- Tôi đây, cô Hoa! 

Ông già Mười đã đứng ngài cửa phòng từ lúc nào rồi. Ông lên tiếng: 

- Tôi định để cô một mình, nhưng biết có những điều cô chưa rõ, nên tôi phải trở lại. Đó, mọi việc đang bày ra trước mắt cô đó, cô tìm hiểu đi... 

Thu Hoa nhào tới chụp lấy ông: 

- Ông nói cho con biết, con và người đàn bà tên Thu Hà kia là thế nào? Bà ấy... 

- Mọi thứ đã nói hết rồi, sao cô còn hỏi. Cô là một trong hai Thu mà bà ấy đã nhắc. 

- Như vậy con là... là con của bà ấy? 

- Cùng với người chị song sinh đã chết là con đẻ của bà ấy và cha là... người từ mà đến giờ cô vẫn gọi là cha! 

Thu Hoa vẫn chưa tin hẳn: 

- Không thể nào! 

- Cô có biết sợi dây thòng lọng đó là gì không? 

Câu hỏi nhắc Hoa điều mà cô muốn biết. Thu Hoa nhìn dưới chân, nhưng Hoa vẫn chưa dám cầm, thì giọng ông Mười lại vang lên: 

- Đó là sợi dây oan nghiệt đã giết chết một mạng người! 

- Bà Thu Hà? 

Ông Mười không đáp, nhưng sự im lặng của ông đã như xác nhận. Thu Hoa nhìn ông, hỏi lại: 

- Sao nghe nói là bà ấy chết vì lý do khác? 

Ông Mười lắc đầu: 

- Trong nhà này có nhiều việc tưởng vậy mà không phải vậy! Giống như cô đâu phải muốn chết, vậy mà cô vẫn đưa đầu vào dây thòng lọng. 

Bị chạm đúng vào điều mà mình đang bị ám ảnh, Thu Hoa có vẻ sợ, nên im lặng. Ông già Mười ngừng một lúc, lại nói tiếp:

- Cô không muốn biết tại sao người sinh ra cô lại chết như vậy sao? 

- Nhưng mà... 

- Kể cả cha cô nữa, tại sao ông cũng chết sau khi chị và mẹ cô chết không lâu. 

Thu Hoa im lặng. Trong cô đang có cuộc xáo trộn lớn. Từ nào đến giờ không khi nào cô có gợn một chút gì không hay về người cô vẫn quen gọi là mẹ: bà Cẩm Tú. Vậy làm sao trong một vài giây cô có thể nghĩ khác về bà. 

- Được rồi, cô cần có thời gian suy nghĩ. Mà cũng nên hiểu kỹ mới được. Chuyện không đơn giản đâu. 

Giọng ông già Mười xa dần, đến khi Hoa nhìn lại thì không còn thấy ông đâu nữa. Cô vẫn còn muốn tìm hiểu thêm, nên lại xốc tung quần áo trong tủ lên. Tuy nhiên, bỗng dưng cánh cửa phòng đóng sầm lại và ngọn đèn duy nhất trong phòng tắt ngấm, bóng tốt bao trùm. Thu Hoa bước tới mở công tắc thì mới biết là cúp điện. Cô lò mò tìm hộp diêm và cây nến, nhưng phải thất vọng, bởi hai vật đó không có ở nơi thường lệ. 

- Ông Mười ơi! 

Hoa gọi đến mấy lượt mà không nghe ông già Mười lên tiếng. Đoán ông đã ra ngoài vườn nên tự Hoa phải đi xuống nhà bếp tìm cách đốt đèn. Khi cô trở lại phòng mình thì chẳng cách nào mở được cửa. Chúng đã bị khóa bên trong. 

- Ủa, mình đâu có khóa? 

Thu Hoa rất ngạc nhiên, bởi khi nãy đi ra cô vẫn để cửa mở. Phải mất hơn mười lăm phút sau mới tìm được ông Mười. Ông cũng phải dùng xà beng mới nạy được cửa ra. Lúc bung cửa, ông bảo: 

- Căn phòng này đã nhiều lần tự đoóng và tự khóa như vậy. Hình như đây là cõi riêng của bà ấy vậy. 

Lúc cửa mở bung ra, Thu Hoa nhìn thấy có một người treo cổ lơ lửng phía trên giường ngủ. 

- Trời ơi. 

Ông già Mười hốt hoảng kêu lên: 

- Bà chủ! 

Thì ra người đang treo cổ kia chính là bà Cẩm Tú! 

- Mẹ. 

Họ chạy tới thì may quá, có lẽ bà Tú mới vừa thực hiện hành vi đó, nên thân thể còn cử động. Ông Mười kịp gỡ dây xuống và làm cấp cứu ngay. Bà Tú mở mắt ra thấy họ mà như nhìn thấy quỷ ma, bà thét lớn: 

- Để tôi tự làm! Hãy để tôi làm. 

Bà quơ tay như tìm vật gì, đến khi chạm phải sợi dây thòng lọng mà ông Mười vừa cởi ra, bà ta lập tức lấy tròng vào cổ mình. Thu Hoa phải giằng lại và nói to: 

- Mẹ làm gì vậy, con đây mà! Con cứu mẹ được rồi! 

Bà Cẩm Tú hình như không màng đến Thu Hoa, bà chồm dậy vừa gào lên: 

- Hãy chờ tôi với. Hãy chờ tôi! 

Bà bật dậy rất nhanh và tung chạy ra ngoài trước sự bất ngờ của Thu Hoa và cả ông già Mười. Đến khi cô có phản ứng kêu lên thì bóng bà ta đã khuất ngoài cửa. Màn trời đêm tối đen như mực... 

Ông Mười chỉ tay lên trần nhà và bảo Thu Hoa: 

- Cô hãy nhìn kỹ xem, có phải sợi dây thòng lọng lúc nãy kia không? 

Hoa không phải quan sát lâu, cô đã nhận ra chính là sợi dây được cất trong hộp thiếc. Lúc nãy nó được gỡ ra, nhưng bâỵ giờ tự nó dựng đứng lên như cây sào và quay nhiều vòng như có người điều khiển. Để rồi sau cùng bay vút xuyên ra ngoài cửa sổ như một cây lao dược ném đi! 

Bỗng dưng Thu Hoa nhìn theo và thét lên một tiếng kinh hoàng: 

- Mẹ! 

Rồi cô ngã nhoài xuống, hai tay chới với đưa về phía trước như bất lực trước nỗi tuyệt vọng và đau khổ. 

- Mẹ ơi! 

Cô cố gào lần nữa rồi lịm đi. 

Đến quá nửa đêm thì trăng mới xuất hiện và xoa đi màn đêm dày đặc. Ông già Mười sau khi nhìn cô chủ ngủ yên thì mới an tâm rời khỏi phòng. Cũng giống như Thu Hoa, kể từ lúc này bỗng dưng ông có cảm giác như đang có điều gì đó... 

Đúng ra lúc nãy ông phải là người đuổi theo bà Cẩm Tú khi bà ta chạy trong đêm tối. Nhưng phần vì quá bất ngờ, phần vì lo cho an nguy của Thu Hoa, nên mãi cho đến bây giờ ông mới có ý định đi ra khu vườn nhiều cây cối, và không cần suy nghĩ, ông cũng tìm tới đúng tàn cây cổ thụ duy nhất, mà nơi đó đã nhiều năm người ta từng tạo ra mấy cái xích đu dành riêng cho hai cô con gái nhà này. 

Chỉ kể từ khi xảy ra tấn tảm kịch năm đó, một trong hai cô gái chết đi, cô còn lại bị đưa đi khỏi nơi này thì ông mới không còn hứng thú ra gốc cây này để chăm sóc cho chiếc xích đu nữa. Đã hơn mười năm rồi còn gì. Chiếc xích đu giờ chắc cũng đã mục nát, đứt dây rồi... 

Tuy cũng ở trong khu vườn rộng chưa quá hai hécta, và nằm dưới sự cai quản của chính ông, đã từ lâu lắm, chỉ riêng khu vực cây cổ thụ này ông già Mười chừa ra, không bước tới. Chính ông cũng chẳng hiểu tại sao vậy. 

- Dữ hôn, đến hôm nay ông Mười mới tới thăm mẹ con mình kìa Nguyệt ơi! 

Đang lầm lũi bước, chợt nghe giọng nói quen quen ấy, ông Mười ngẩng lên và trố mắt kinh ngạc. Trước mắt ông, ngồi vắt vẻo trên chiếc xích đu là hai người một lớn, một bé. 

- Là... là... bà đó sao? 

- Lâu quá rồi nên giọng nói của của tôi ông cũng quên mất rồi! Mà cũng phải, hơn mười năm rồi còn gì. À bây giờ ông quen với giọng người khác hơn. 

- Bà Thu Hà! 

Rồi tiếng reo của đứa bé: 

- Ông Mười! 

- Cô... Thu Nguyệt! 

Chiếc xích đu rung lắc thật mạnh, lao vun vút trong không trung, chứng to hai người ngồi trên đó đang xúc động mạnh. Ông già Mười hoa cả mắt, không nhìn rõ mặt họ. Ông phải nói lớn: 

- Sao bây giờ bà và cô mới về? 

Một tiếng cười ngắn, khô khan: 

- Đêm nào có trăng là chúng tôi về, chỉ có ông là không bao giờ tới đây thôi. Vậy làm sao gặp nhau được! 

- Mà ai cấm ông vậy, sao ông không tới chỗ này? 

Ông già Mười lúng túng, ấp úng: 

- Cũng... cũng chẳng hiểu tại sao nữa... 

Giọng đứa trẻ cất lên thật trong trẻo: 

- Bây giờ không cần ông Mười đưa xích đu nữa, con đã có người đưa rồi! 

Sau câu nói đó, chiếc xích đu lại lao vun vút đi như có người đưa. Khi nhìn kỹ lại, ông Mười vội kêu lên: 

- Kìa. 

Ông thấy ở một cành cây khác có một người bị treo lơ lửng, nhưng vẫn đưa tay ra đẩy chiếc xích đu mỗi lần nó đi qua. Người đó... 

- Bà... bà Cẩm Tú! 

Nhờ ánh trăng chiếu vào nên ông Mười đã nhận ra người bị treo kia chính là bà Cẩm Tú! Bà ta chẳng khác một xác chết treo cổ, chỉ có mỗi lần dang tay ra là biều hiện đó là một con người... 

Quá kích động ông Mười định chạy tới và leo lên cây, nhưng giọng của người trên xích đu lạnh và sắc: 

- Ông thương người là đúng, nhưng ở trường hợp này thì không nên. Chắc ông đâu lạ gì chuyện của bà ta đã gây ra cho mẹ con tôi phải không? Đây là sự trả giá mà. Chúng tôi phải đợi đến hơn mười năm. Quá lâu! 

Con bé Thu Nguyệt cũng tiếp lời: 

- Đáng lý ra con cũng đã lớn như em Thu Hoa bây giờ, nhưng do chưa hiện được thành người, nên cho đến giờ con vẫn là đứa trẻ con năm tuổi! Có phải từ nay, khi con được hiện về mỗi đêm trăng như thế này thì thân xác con sẽ phát triển như một người bình thường không? Con sẽ gặp lại em Thu Hoa phải không mẹ? 

- Phải. 

Rồi bà quay sang bà Cẩm Tú, nói với ông già Mười: 

- Bà ta đã hại chết cả hai mẹ con tôi, đáng lý chúng tôi đã trả được thù rồi, nhưng cũng chỉ vì con Thu Hoa. 

- Chính mạng con bé phải gắn liền với người đàn bà này, cho nên chúng tôi phải đợi đến bây giờ. Bao nhiêu năm nay, Cẩm Tú có chịu đưa con bé trở về đây đâu. 

- Chúng tôi thì bất lực trong việc tác động, giục bà ta dắt cháu trở về. Phải đến vừa rồi đo Thu Hoa bị phụ tình, nó phát điên phát rồ thì chúng tôi mới dẫn dụ nó về đây được. Và có như vậy thì nó mới vào được phòng của chúng tôi, nằm lên giường tôi, và... mẹ con tôi mới gặp lại nhau! Cám ơn ông Mười, chính nhờ ông mà Thu Hoa nó mới hiểu được thân phận mình... 

Nhớ tới Thu Hoa, ông Mười nói: 

- Để tôi về kêu cô ấy ra đây, chắc là cô ấy mừng lắm! 

Ông ta bị ngăn lại: 

- Không nên. Từ nay mẹ con chúng tôi muốn gặp nhau lúc nào cũng được. Nhưng tôi không muốn nó nhìn thấy cảnh người đã nuôi nó bấy lâu nay trong hình ảnh như thế này. Nếu còn thương mẹ con tôi thì xin ông Mười cứ tiếp tục ở lại trong nhà này như từ nào đến giờ, và ông đừng nói gì hết chuyện ngày hôm nay. Cần thì ông có thể kể lại chuyện cái chết của chúng tôi, kể hết chuyện bà Cẫm Tủ vì ghen tuông, ích kỷ, đã hại chết mẹ con chúng tôi cho nó nghe. Như thế đủ rồi. 

Ông Mười định nói mấy lời xin cho bà Cẩm Tú, nhưng nhìn cảnh bà ta chỉ còn là cái xác, và tự nguyện đung đưa như thế, ông chỉ khẽ lắc đầu rồi đứng im. 

Lát sau, chính bà Thu Hà lên tiếng: 

- Ông quay về đi, con Thu Hoa sắp tỉnh lại rồi đó. Hãy kể cho nó nghe và bảo nó cứ yên tâm ở lại đây, ở lại trong vòng tay của mẹ và chị nó... 

Lúc đó, trên nền trời có một áng mây đen lớn đang che khuất ánh trăng, ông Mười không còn nhìn thấy họ nữa, nghĩ là sau khi mậy tan sẽ lại gặp, nên ông đứng đó đợi. Tuy nhiên, khi trăng hiện ra trở lại thì trước mắt ông chỉ con lại chiếc xích đu trống không. Kể cả bà Cẩm Tú cũng không còn.

° ° °

Thu Hoa chăm chú lắng nghe lời kể của ông già Mười, thỉnh thoảng cô chen vào hỏi: 

- Vậy ba con đâu, sao để sự việc xảy ra như vậy? 

Ông Mười thở dài: 

- Bà Cẩm Tú coi bề ngoài hiền lành vậy mà thâm hiểm lắm. Khi dan díu với ông Lộc cha cô, thì lúc đó mẹ cô đang có thai gần ngày sinh. Chính bà đã lấy thuốc gì đó của một ông thầy làm thuốc ngải trong rừng, cho cha cô uống, gây cho ông bệnh liệt giường suốt năm trời, sau đó bệnh tật kéo dài, cho đến lúc hai chị em cô lên năm tuổi. Năm đó, tôi nhớ lúc cha cô đi chữa bệnh ờ Sài Gòn thì ở nhà xảy ra chuyện! Mẹ cô, bà Thu Hà đang bế hai đứa con ngồi chơi trên phòng thì bà Cẩm Tú xất hiện. Xảy ra cuộc đấu khẩu kịch liệt giữa hai người, rồi dẫn đến xô xát. Mẹ cô trên tay đang bế bé Thu Nguyệ bỗng bị bà Cẩm Tú giằng lấy, rồi như một người điên, mụ ta ném mạnh đứa bé ra ngoài như ném một con búp bê! Có lẽ đó là hành động trong lúc điên loạn, nên ngay sau đó chính bà ta đã lao người ra định chụp đứa bé lại và mất đà ngã chúi ra khỏi cửa sổ! Cũng may là khi ấy tôi vừa trờ tới, kịp đở bà ta lại khi bị rơi xuống đất. Tôi thất thần nhìn con bé Thu Nguyệt nằm chết mà người đầy máu me. Mẹ cô gào lên, leo lên cửa sổ định nhảy theo con, thì chợt trong phòng có tiếng khóc. Tiếng khóc thét của cô! Do vậy, tôi thấy bà buôn rơi mình trở vào phòng. Khi tôi chạy lên thì thấy bà Thu Hà đang quằn quại do bị ngã. Cô thì ôm lấy mẹ mà khóc không thôi. 

Ngừng lại một chút, ông Mười kể tiếp: 

- Từng mọi chuyện đến đó là hết, nào ngờ khi tôi lo mai táng cho chị cô thì bà Thu Hà đã treo cổ chết trong phòng này! Khi tôi phát hiện thì không còn kịp nữa! 

Ông lại ngừng kể, khóc như đứa trẻ. Lát sau ông nhìn Thu Hoa, nhẹ giọng nói: 

- Trong lúc mọi người đang rối rắm thì bà Cẩm Tú biến mất cùng với cô. Bà ta ẵm theo cô và từ đó không hề nghe tin tức gì. Cho đến khi cha cô chết vì thua buồn cảnh mất vợ, mất con, thì tôi hay tin bà ta xuất hiện ở Sài Còn, chứ không dám về đây. Tôi cũng hay tin cô lớn lên cùng bà ta và xem bà ấy như mẹ ruột của mình. Vừa rồi khi bà ta đột ngột trở về đây thi tôi lên tiếng phản đối, nhưng bà ta đã lạy lục, năn nỉ tôi để cho bà ta chuộc lại lỗi lầm và cũng để chữa bệnh cho cô, khi nào cô lành bệnh thì bà ta ra đi. 

Kể tới đây, ông Mười đứng lên và bằng giọng chân thành, ông nói: 

- Cô Hoa cứ yên tâm ở lại đây. Mẹ cô và Thu Nguyệt luôn ở cạnh, họ sẽ phù hộ cho cô mãi mãi. Còn tôi, như bao giờ, tôi cũng là người đầy tớ trung thành trong ngôi nhà này. 

Ông đi ra rồi mà Thu Hoa vẫn còn ngẩn ngơ. Tuy nhiên, trong lòng cô lúc ấy lại không có chút gì là lo lắng. Mà trái lại, cô thầm khấn: 

- Nếu linh hiển thì mẹ và chị Nguyệt cho con gặp một lần...

MIẾU HAI CÔ

Ông bác vật Tụng bảo dừng xe lại ở rãnh đất phía mặt trời lặn, vừa đưa tay chỉ cho mấy người đi theo: 

- Đo từ chỗ này vào tận rặng tre bên trong đó, coi có đúng ba trăm công không. Đo đúng thì cắm mốc, có bao nhiêu nhà cửa, mồ mả chôn trên đó cũng đếm cho kỹ rồi báo ngay cho tao. 

Cậu con trai cả tên gọi Hai Thạnh đứng bên cạnh nãy giờ bỗng lên riếng: 

- Mồ mả thì cần gì đếm, bởi bao nhiêu cái cũng kệ họ, mình cứ cho san bằng theo ý mình thôi! Bộ ba muốn đếm mả để bồi thường tiền di dời cho người ta hả? 

Ông bác vật Tụng gật đầu: 

- Mồ mả là thứ linh thiêng, bảo họ dời đi khi bán đất cho mình là chuyện đương nhiên, nhưng xem ra dân đây quá nghèo thì họ lấy tiền đâu mà di dời mồ mả, mình phải hỗ trợ cho họ phần nào. 

Hai Thạnh mạnh miệng: 

- Theo con thì không hỗ trợ. Đất mình mua có hợp đồng, trong đó có ghi rõ phần giải tỏa nhà, di dời mồ mả là của chủ bán. Vả lại theo con thấy thì xóm này đâu phải toàn ghèo. Nghèo sao có ngôi nhà ngói to đùng kia kìa! 

Một người đi theo đoàn vội nói: 

- Nhà đó tuy là nhà ngói, nhưng theo tôi biết thì qua trận dịch tả cách đây gần năm năm, đã giết sạch người trong nhà đó cùng bà con cả xóm, nên ngôi nhà từ ấy bỏ hoang. Xóm này đâu còn mấy người. 

Hai Thạnh reo lên: 

- Như vậy còn tiện hơn nữa! Ta cứ xúc tiến việc san ủi đất thôi. Toàn mồ mả hoang cả, đâu cần bồi thường hay di dời chi cho mất công! 

Ông bác vật Tụng tuy không hài lòng cách tính của con trai, nhưng ông chỉ nhẹ lắc đầu rồi bỏ đi về hướng khác. Hôm nay ông và con ông tới đây đo đạc khu đất vừa rồi, ngoài ra còn vài khu nữa trong kế hoạch mở rộng điền sản và khuếch trương kinh doanh. Ông chỉ tay về phía khu đất bên này, bảo: 

- Phía này là ruộng trống, hay là ta lấy bên này để lập chợ, đở phải giải tỏa hơn. 

Hai Thạnh nói liền: 

- Bên kia tuy vướng nhà cửa, mồ mả nhiều nhưng thuận lợi cho việc lập chợ hơn, lại gần sông. Ba không nhớ là xưa nay chợ của xứ mình đều xây dựng sát bờ sông sao. Nó thuận tiện cho giao thông, cung cấp hàng hóa. Ngoài ra nó còn hợp địa lý nữa. Con đã cho mời một thầy địa lý tài giỏi, vừa từ Hồng Kông sang, về đây giúp mình lập hướng xây chợ. Không chừng lát nữa lão ta cũng tới đây! 

Ông bác vật cũng không bàn thêm, bởi tính ông xưa nay vậy, ít nói và cái tâm khác đứa con trai. Vả lại, công việc mở rộng kinh doanh lần này là ông làm cho con, chuẩn bị cho Hai Thạnh kế nghiệp mình sau khi anh ta học xong bằng Thành chung ở Sài Gòn về. 

Ra một quán nước ven bờ ngồi uống cà phê, đợi đám công nhân đo đạc trở lại, Hai Thạnh nói huyên thuyên: 

- Mai mốt nơi này sẽ mọc lên một ngôi chợ bề thế với nhà lồng chợ rộng, chứa đến vài trăm sạp hàng, hai bên là hai dãy phố lầu thuộc loại sang nhất xứ mình! Ba để con làm cho ba coi, không ăn được chợ Ô Môn con không là con ba! 

Vừa khi đó, có một chiếc xe thổ mộ ngừng lại, Hai Thạnh reo lên: 

- Ông thầy địa lý tới kìa! 

Một ông thầy Tàu mặc bộ đồ lụa nút thắt quen thuộc bước tới xá chào mọi người rồi quay sang Hai Thạnh nói liền bằng tiếng Việt khá rành: 

- Cuộc đất này đẹp lắm, nhất là phía đất bên tay trái. Tuy nhiên âm khí nơi đấy quá nặng nề, e rằng... 

Hai Thạnh lớn tiếng: 

- Tôi biết thế nào thầy cũng nói vậy, biết thế tôi đã có kế hoạch rồi. 

Anh ta chỉ tay về phía cuộc đất: 

- Có một số mồ mả, nhà cửa bỏ hoang trên đất, nhưng không sao, tôi sẽ cho ủi thành bình địa trong một vài ngày! 

Quan sát một lượt bằng mắt lão thầy địa lý gục gật đầu: 

- Nếu thế thì được... 

Vừa khi ấy đám chuyên viên đo đạc trở về. Một người báo cáo công việc: 

- Chúng tôi đo rồi, đúng là ba trăm công. Có hai chục ngôi nhà nát, một nhà ngói bị bỏ hoang, 91 ngôi mộ lớn nhỏ và một ngôi miếu. Lời anh ta vừa dứt thì ông thầy địa lý nói liền: 

- Rắc rối là cái miếu đó! 

Ông bác vật cũng quan tâm: 

- Đụng cái gì thì được, chớ chùa miếu là không xong rồi, phải giữ lại thôi! 

Nhưng Hai Thạnh vẫn lớn tiếng: 

- Nhằm nhò gì mấy cái miếu hoang đó ba! Cùng lắm mình sẽ cúng kiến tử tế trước khi dở nó đi chớ gì! 

Chợt nhớ nãy giờ mình quên giới hiệu ông thầy địa lý với cha, Hai Thạnh nói: 

- Đây là thầy Gia Lợi một chầy địa lý kiêm tướng số hàng đầu ở Hồng Kông. con rước về đây để đặc biệt lo cho cuộc đất mới của mình! 

Ông bác vật chào chào lấy lệ, bởi ông vốn không thích mấy ông thầy tướng số kể cả thầy gọi là địa lý loại này. Thấy cha như vậy nên Hai Thạnh kéo tay ông thầy đi: 

- Thầy đi với tôi vào xem tận mắt cuộc dất. Nhất là xem cái miếu hoang đó. 

Ông bác vật vội nói: 

- Tao không cho đụng tới chùa miếu nghe chưa! Mày có làm gì thì làm, riêng cái miếu đó thì phải để nguyên, cần thì trùng tu thêm. 

Hai Thạnh vừa đi vừa nói với lại: 

- Tôi biết rồi mà! 

Cùng ông thầy Gia Lợi đi sâu vào khu đất, tiến gần sát ngôi nhà ngói bỏ hoang, Hai Thạnh nói: 

- Nhà lớn thế này mà lại bỏ phế, đúng là con người ta chết là hết đâu có đem theo được gì. Bởi vậy tôi nói với ông già, còn sống thì cứ hưởng, để mai mốt như chủ ngôi nhà này... 

Ông thầy xem kỹ ngôi nhà rồi lắc đầu: 

- Người xây ngôi nhà này không coi địa lý. Ai lại xây nhà mà cửa chính lại hướng thẳng về ngôi miếu kia! Chính cái miếu đã ám, khiến chủ nhân nhà này nếu không chết bất đắc kỳ tử thì cũng làm ăn suy sụp, nhà luôn có tai họa. 

Hai Thạnh phục quá, reo lên: 

- Mới nhìn qua mà thầy đã biết hết mọi chuyện! Bây giờ nếu muốn hóa giải ngôi nhà này thì ta cứ dở bỏ ngôi miếu chớ gì? 

Ông thầy lắc đầu: 

- Không phải. Cái phải dở bỏ đi chính là ngôi nhà! Miếu xây thì dễ, nhưng dở bỏ lại khó vô cùng. Ba cậu nói đúng, ngôi miếu này không dỡ bỏ được! 

Hai Thạnh bực bội: 

- Vì một ngôi miếu hoang mà phải phá nguyên căn nhà, vô lý vậy! Thí dụ như nhà mình đang ở mà bị ngôi miếu kế bên chiếu vào, mình không làm cách nào hóa giải nó sao? 

- Có cách nhưng không phải dở bỏ miếu. Miếu là nơi thờ người cõi âm, thánh thần, mình người trần mắt thịt làm sao tự tiện dỡ bỏ được. 

- Vậy cách nào? 

- Cậu tính xây ngôi chợ tại khu đất này? 

- Đúng vậy! Ngôi chợ khang trang kèm hai dãy phố hai bên. 

- Đất này còn rộng, hay là cậu dời địa điểm về phía kia một quãng. 

Hai Thạnh xua ray, lắc đầu: 

- Nhất định không. Tôi nghĩ cái miếu này chẳng qua là miếu nhỏ, do ai đó dị đoan xây nên, rồi lâu nay bỏ hoang chẳng ai thờ cúng thì thật sự nó có còn linh thiêng gì nữa không? Nó chỉ như... 

Ông thầy ngăn Thạnh lại: 

- Cậu ăn nói coi chừng. Cái gì chứ đụng tới cõi âm thì không đơn giản đâu. 

Ông ta ra tận ngôi miếu, rêu phong cỏ mọc phủ gần hết mái miếu, nhìn ngắm một hồi, rồi trở vào nói: 

- Ngôi miếu này lập lên để thờ oan hồn, nhưng lâu nay không ai cúng kiến, tuy nhiên, chẳng hiểu sao âm khí còn nặng nề lắm. Tôi e... 

Hai Thạnh rất cực đoan: 

- Ông nói e này e nọ nãy giờ mấy lần rồi, vậy ông có còn là thầy tướng số nữa không? Thầy sợ mấy hồn ma à? 

Bị chê, lão ta hơi phật ý, nhưng vẫn giữ vẻ điềm nhiên: 

- Chuyện cũng phải từ từ tính. Bây giờ ý cậu muốn gì? 

Thạnh đáp dứt khát: 

- Muốn thầy triệt hạ ngôi miếu đó ngay! 

Ông thầy trầm ngâm một lúc, rồi đột ngột bước đi, không nói tiếng nào. Thạnh phải gọi theo: 

- Thầy! Thầy sao vậy? 

Nhưng ông ta không trả lời, cũng không quay lại, đi một nước ra lộ cái, đón xe thổ mộ đi luôn. 

Hai Thạnh bực dọc, nói trổng: 

- Được rồi, để coi thằng này làm có được không! 

Hai Thạnh bàn với mấy tay bặm trợn trong một quán nhậu ngoại ô: 

- Tụi bay dám làm chuyện đó không? 

Tên Tám Bò ực xong ly rượu, nói to: 

- Nhằm nhò gì ba cái miếu hoang đó! Được rồi, miễn là thầy Hai chi cho tụi này kha khá một chút, nhậu cho đã đời một chút là xong ngay! 

Móc ngay ra hai tờ giấy bạc. Hai Thạnh đặt xuống bàn: 

- Đây chỉ là tiền bôi trơn thôi, làm xong tụi bay sẽ có gấp mười lần nữa! 

Nhìn thấy rõ hai tờ tiền mệnh giá lớn, cả bọn bốn người đều đồng thanh: 

- Hoan hô thầy Hai chơi sộp! Tụi này làm liền tối nay cho thầy coi! 

Thạnh bàn cụ thể: 

- Cái miếu đó nhỏ, nhưng xây bằng gạch, tụi bay phá nhưng không được đập, mà làm cách nào đó kéo cho nó đổ. Có cách nào không? 

- Ờ, thì... 

Tám Bò vỗ đùi: 

- Được rồi, để tôi đem hai con trâu tới, cột dây xích rồi cho nó kéo mạnh thì cái gì mà không đổ! 

- Nghe được đó. Vậy thì uống hết đi rồi chuẩn bi. Tao sẽ ra lộ ngồi trên xe chờ, một giờ sau tụi bay làm xong ra báo cáo kết quả! 

Tám Bò quay sang mấy tên đàn em: 

- ';';Dô';'; hết rồi đi tụi bay! 

Bọn chúng rầm rộ kéo nhau đi, Hai Thạnh cũng bước theo nhưng về hướng khác. Vừa đi hắn vừa làu bàu: 

- Có gì đâu mà ngại với ngùng! Hai Thạnh này đã muốn là làm mà. 

Trong khi đó, khoảng nửa giờ sau thì nhóm của Tám Bò đã có mặt tại hiện trường. Bọn chúng gồm sáu đứa, thêm hai con râu cộ. Sau khi quan sát kỹ, Tám Bò hạ lệnh: 

- Cột dây thừng vào cổ trâu, đầu kia thì choàng qua hết cái miếu nhỏ, hễ tao hô kéo thì thằng Hai Hùm ra roi mạnh cho hai con trâu chạy tới. Cái miếu nhỏ này ta nghĩ giật một cái là sập ngay thôi! 

Mấy tên đàn em làm y theo lời, chúng còn phụ đẩy chiếc cộ trâu tới. Sau tiếng hô ';';kéo';';, chúng đồng loạt hô theo: 

- Kéo. 

Một tiếng rống thật to, bỗng nhiên hai con trâu kêu lên rồi ngã bật ra, khiến chiếc cộ trâu ngã lăn theo, mấy tên đẩy hai bên và tên Hai Hùm ngồi trên cộ đều bị bắn tung lên trời. Đứng ngoài nhìn thấy hết, Tám Bò hốt hoảng: 

- Sao vậy? 

Hắn chạy tới thì trố mắt kinh ngạc khi nhìn thấy cả hai con trâu đều ngẹo đầu sang bên, miệng trào máu: 

- Trời ơi! 

Cả mấy tên kia cũng tình trạng như vậy, đứa nào cũng hộc máu và nằm bất động! Tám Bò hoảng quá, hắn nhìn lại ngôt miếu thì thấy nó vẫn con nguyên như thách thức. Không dám lưu lại đó giây nào, Tám Bò nhanh chóng chạy trở ra lộ cái. Hai Thạnh ngồi trên xe từ xa đã hỏi lớn: 

- Xong chưa? 

Tám Bò mặt xanh dờn, vừa thở dồn dập vừa đưa tay chỉ ra sau: 

- Ngôi... ngôi miếu đó... 

Hắn nói bị đứt quãng, bởi cơn sợ hãi đang làm cho cổ họng hắn nghẹn lại. Hai Thạnh sốt ruột: 

- Sao rồi? 

- Chết, Chết hết rồi! 

Tám Bò chỉ nói được mấy tiếng đó rồi ngồi phịch xuống đất. Khiến cho Thạnh càng hoảng hơn: 

- Chuyện gì đã xảy ra? 

Tám Bò lặp lại, rõ ràng hơn: 

- Tụi nó sáu thằng, đã... chết hết rồi! 

- Sao? 

Không nói gì thêm, Tám Bò chỉ đưa tay về phía bãi đất hoang. Thạnh sốt ruột nên không đợi dẫn đường, anh ta chạy thẳng tới nơi thấy trước mặt hắn là cảnh tượng kinh hoàng mà thoạt nhìn hắn đã hồn phi phách tán đứng như trời trồng một lúc lâu. 

Cũng may là số tay em của Tám Bò không đứa nào chết chỉ có hai con trâu là phải đền tiền để người ta xẻ thịt. Hai Thạnh chỉ dám hỏi nhỏ mấy tên nằm dưỡng thương: 

- Tụi bay bị ai làm gì vậy? 

Cả mấy tên đều nói: 

- Có thấy cái gì dâu. Tụi này vừa hô kéo một cái thì đã bị hất tung lên trời, khi ngã xuống thì ngất đi. 

Thạnh hỏi Tám Bò: 

- Theo mày thì chuyện đó là gì? Có phải... cái miếu hiển linh không? 

Tám Bò vẫn còn sợ hãi: 

- Tôi không biết. Chỉ có điều là vụ này thôi đi, tụi tôi xin rút lui. 

Thạnh rút ra thêm một xấp tiền: 

- Tao trả tụi bay gấp đôi, làm không? 

Tám Bò đưa mắt nhìn mấy tên đàn em, chúng thảy đều lắc đầu. Dĩ nhiên Tám Bò đâu dám: 

- Tụi này chịu thua. Đụng tới chùa miếu thì xin không dám! 

Chúng dù còn yếu mà cũng đứng lên cùng rút lui một lượt. Hai Thạnh bất nhẫn, than trời: 

- Kiểu này thì hư bột hư đường hết! 

Hắn ta định leo lên xe thì đã thấy một chiếc xe lôi ngừng lại, lão thầy địa lý Gia Lợi xuất hiện thật bất ngờ: 

- Biết thế nào cậu cũng ở đây, nên tôi tới thẳng từ bến xe. 

- Mấy hôm nay ông bỏ tôi một mình, sao nay lại đổi ý rồi? 

Ông thầy nghiêm giọng: 

- Tôi trở xuống đây không phải để giúp cậu dở ngôi miếu, mà vì một chuyện khác. Tôi muốn cứu cậu khỏi một vụ còn dữ hơn. 

Ông ta bước hẳn lên ngồi trong xe hơi của Thạnh mà không đợi mời. 

- Cậu vào đây rồi tôi nói chuyện này. Quan trọng lắm. 

Ông ta đưa ra một tờ báo chữ Hoa, vừa nói: 

- Đây là một tờ báo chuyên về chuyện tâm linh, xuất bản ở Hồng Kông mà một người bạn tôi mới gửi qua, nó có liên quan tới câu chuyện về một ngôi miếu. 

Nghe tới chuyện này, Hai Thạnh quan tâm ngay: 

- Sao? Có giống ngôi miếu ở đây không? 

- Giống. 

Câu trả lời của ông ta khiến Thạnh giật mình. Cùng lúc, ông đưa cho Thạnh xem bức ảnh in kèm theo trong bài báo. Vừa nhìn thấy thì Thạnh đã kêu lên liền: 

- Nó đây mà! 

Ngôi miếu nhỏ trong ảnh giống hệt cái miếu hoang mà Thạnh đang quan tâm. Giống từ hình dáng cho tới màu sắc rêu phong và đặc biệt là hàng chữ số 1958 khắc trên cửa miếu nữa. Như vậy thì đúng là ngôi miếu ấy rồi! Không biết chữ Hoa nên Thạnh hỏi: 

- Trong bài này người ta viết cái gì vậy? 

Ông thầy nhìn Thạnh một lúc rồi mới nói: 

- Tôi hỏi thật, cậu có tin chuyện tâm linh ma quỷ hay không? 

Hai Thạnh hơi bị khựng. Anh ta từ nào đến giờ rất bướng bỉnh, không hề tin chuyện gọi là hồn ma bóng quế, tuy nhiên kể từ đêm đám đệ tử của Tám Bò bị cú sốc khi kéo ngôi miếu thì anh ta hơi có phần nao núng. Giờ nghe hỏi, phải mất gần nửa phút anh ta mới đáp: 

- Có, nhưng một phần thôi. 

Lúc này, ông thầy mới giải nghĩa nội dung bài viết: 

- Trong bài này, tác giả kể lại một câu chuyện được nghe từ một người bà con ở Chợ Lớn của xứ này. Người đó kể rằng vào một chuyến đi thăm chùa ở miệt núi Sam, khi đi ngang qua vùng của cậu đây, bà ấy vô tình xuống xe đi tiểu tiện bên bờ ruộng.. Khi về nhà bỗng vào nữa đêm, bà ta thấy có một người phụ nữ mình mẩy dính đầy máu và bùn đất, nói rằng bà ấy bị chôn vùi trong một hố huyệt của ai đó và chết thê thảm, rồi do bị kẹt trong huyệt lạ nên hồn không siêu thoát được, nay xin được cứu giúp bằng cách cúng cho một lễ. Mà phải cúng tại đúng chỗ miếu, ở gần chỗ bà ấy đi tiểu tiện. Người này thức dậy và nhớ lại. đúng là mình có đi tiểu tiện, nhưng không nhớ chỗ. Đêm sau, vẫn người đàn bà kia lại hiện về, chỉ chỗ thật rành mạch và bảo người nọ phải tới ngay bởi chỗ đó sắp có một đại dịch nếu tới không kịp thì đại dịch đó sẽ cướp đi sinh mạng nhiều người, cả vong hồn của bà ta nữa. Mà như vậy thì vĩnh viễn bà ấy sẽ không thể siêu thoát! 

Ông thầy ngừng kể một lúc để thở, bởi ông say sưa kể quên cả mệt. Lát sau ông tiếp: 

- Người nằm mơ nói rằng đáng lẽ bà ta đã đi ngay ngày hôm sau, nhưng do có đứa con bệnh nặng bất ngờ nên phải một tuần sau nữa, bà mới đi tới chỗ được hướng dẫn. Tới nơi thì mới hay cả ngôi làng đó đã bị bỏ hoang sau trận dịch tả tràn qua, giết gần sạch người trong làng! Không dám lưu lại đo lâu, bà chỉ kịp nhìn thấy một ngôi miếu nằm bên cạnh ngôi nhà gần làng, có cả dòng chữ số 1958 như lời hướng dẫn, sẵn dem theo máy ảnh bà ấy chụp ngay ảnh ngôi miếu rồi ra về với sự hối hận vô cùng. 

Hai Thạnh xen vào hỏi: 

- Như vậy ngôi miếu ấy thờ người đàn bà chết dưới huyệt? 

Ông thầy lắc đầu: 

- Theo bài viết này thì không phải vậy. Bởi đêm sau nữa, thì vong hồn của người chết lại hiện về. Lần này bà ta khóc lóc dữ lắm, nói rằng số của mình phải chịu hẩm hiu, chỉ mong được giúp lần nữa, đó là hãy lấy giùm cốt của bà lên khỏi huyệt lạnh, ngôi mộ đó ở cảch miếu một trăm bước chân, bên cạnh một cây me lớn, mộ không có bia, nhưng đào xuống sẽ thấy một bộ hài cốt, trên cổ tay còn đeo cái lắc vàng có khắc chữ Jacqueline Liễu. Rồi đem mai táng một nơi khác. Hỏi tại sao phải làm vậy thì vong hồn người chết nói rằng bà ta bị hai oan hồn trấn giữ cái miếu kia canh ngày đêm, không cho đầu thai! 

Nghe giải thích xong, Thạnh chán nản hỏi: 

- Bài viết này cũng đã nói được điều gì liên quan đến việc làm sao mình triệt hạ được nó? 

Ông thầy lắc đầu: 

- Cậu vẫn chưa chịu hiểu, có lẽ tôi chưa nói đoạn kết của chuyện đó. Đoạn này có nên quan tới một tai họa cho ai đó ở vùng này. 

Rồi ông ra lật ra trang cuối của tờ tạp chí, đọc phần tiếp của bài: 

- Hồn người chết nói rằng nếu bà ta được cứu trước khi trận dịch xảy ra thì bà ta đã kịp báo động cho dòng họ của mình tránh được chuyện trả thù hết kiếp này sang kiếp khác của hai hồn ma trú trong ngôi miếu đó. 

- Trả thù kiếp này sang kiếp nọ là sao? 

Người ta gọi đó là những mối thù truyền kiếp. Các oan hồn thường làm điều này, bởi đối với họ kẻ gieo thù oán phải trả trong nhiều kiếp mới hết! 

Nghe hết câu chuyện, Hai Thạnh lại nhìn lần nữa ảnh ngôi miếu. Hắn ta lẩm bẩm: 

- Chuyện truyền kiếp gì đó lại xảy ra ngay tại làng này chăng? 

Anh ta nói: 

- Ba tôi ở nhà biết chữ Hoa, hay là ông cho tôi mượn tờ báo này đem về cho ông ấy đọc. 

Ông thầy gật đầu: 

- Tặng luôn cho ông thân của cậu cũng được. Riêng cậu, tôi có lời khuyên thế này, hãy bỏ ý định triệt ngôi miếu đi. 

Thạnh mời lão ta về nhà mà không vừa lòng với lời khuyên vừa rồi. Anh gặp ngay ông bác vật, đưa cho ông: 

- Có một bài báo ở Hồng Kông người ta viết về ngôi miếu trong miếng đất mình mới mua. Ba xem thử coi. 

Biết tiếng Hoa rất khá, bởi ông đã từng đi học và làm việc nhiều năm ở Hồng Kông, Thượng Hải vào những năm còn trẻ. Vừa cầm tờ báo lên, ông đá bị cuốn hút vào câu chuyện. Khi đọc đến một đoạn, ông bỗng thảng thốt kêu lên. 

- Cô Út mày đây mà! 

Cả Thạnh và ông thầy địa lý đều ngẩn ngơ. Thạnh hỏi: 

- Ba nói cô nào? 

- Cô Liễu của con! Trời ơi, đã gần bốn chục năm rồi ba đi tìm mà không gặp nó, nay lại gặp ở đây. 

Giọng ông run run và thất thần ngồi phịch xuống ghế trường kỷ. Thạnh ngạc nhiên quá đỗi: 

- Ba nói cô Liễu, mà cô ấy là ai? Sao từ nào đến giờ con không nghe nói bao giờ? 

Chỉ tay vào tờ báo, ông xúc động: 

- Người tên Jacqueline Liễu trong bài này chính là cô út của con, người em gái mà ba bị thất lạc trong chiến tranh. Jacqueline Liễu là chính nó chớ không ai khác, bởi cái tên này do chính ông nội con đặt cho. Bà nội con sinh cô Liễu ra chưa được một tuổi thì một hôm lọt vào giữa trận càn của lính Pháp, bà con bị chúng bắn chết, còn cô út thì mất tích luôn từ đó! Trời ơi... 

Thạnh vẫn cố chứng minh là không phải: 

- Ba chưa gặp mặt, chỉ có cái tên giống thôi thì lấy gì làm chắc đó là người nhà của nình? Lỡ trùng tên thì sao? 

Ông bác vật quả quyết: 

- Tên có thể trùng, nhưng việc khắc tên lên mặt dây chuyền vàng thì không thể có hai người giống nhau. Dây chuyền đó do chính bà nội con nhờ thợ khắc, ba có nhìn thấy và nhớ rất rõ. 

Rồi ông quay sang hỏi lão Gia Lợi: 

- Ông có biết người nằm mơ trong câu chuyện này ở Chợ Lớn mà tại đâu không? 

- Cũng không rõ, nhưng đi tìm thì cũng có thể tìm ra. 

Ông bác vật mừng rỡ: 

- Ông giúp giùm tôi đi, tôi cần tìm lại cô ấy lắm! 

Thạnh nói một câu khiến cho cha mình thất vọng: 

- Bà ta chết mất xác rồi, tìm đâu ra! 

Tuy nhiên lão thầy Gia Lợi lại nói khác: 

- Chẳng phải như trong bài viết nói rằng người nằm mơ sau đó đã về xứ này và tìm ra nơi chôn cất bà kia ư? 

Ông bác vật reo lên như đứa trẻ: 

- Không cần đi tìm đâu xa. Tại sao mình không theo lời chỉ của oan hồn cô út con, ngôi mộ dưới gốc cây me, cách ngôi miếu vài chục bước. Phải rồi, ta tới nơi đó sớm đi. 

Ông gọi thêm gần chục gia nhân, rồi không đợi Thạnh tán thành, ông cùng ông thầy số đi trở lại đó. Họ tìm thấy cây me không khó, tuy nhà cửa ở khu đó đã không còn; nhưng cây me cổ thụ hết trái thì vẫn còn nguyên. Chung quanh gốc cây có bốn ngôi mộ, không ngôi nào có mộ bia. Sau khi bàn, ông bác vật nói với mấy tên gia nhân: 

- Cứ tuần tự đào, ngôi mộ gần gốc cây nhất trước, rồi tới ba ngôi kia, đào cho kỹ! 

Tuy có hơi chùn tay, nhưng vì có mặt chủ ở đó nên người phu vẫn phải ra sức đào. Một lát sau, một người kêu lên: 

- Ngôi mộ này quan tài không có nắp! 

Họ cuốc thêm chục nhát nữa thì lòi nguyên phần trên quan tài ra, trong quan tài không có hài cốt, chỉ còn lại vài vật dụng linh tinh. Người thứ hai nhận xét: 

- Mộ này bị kẻ trộm đào trước đây rồi! 

Bỗng ông thầy lên tiếng: 

- Có thể đúng là ngôi mộ này. Bà nằm mơ trong truyện kể đã tới đây lấy cốt đem đi rồi cũng nên! 

Ông bác vật thất vọng: 

- Ta chậm rồi. 

Bỗng một người đào mộ reo lên: 

- Có sợi dây chuyền kìa! 

Anh ta chụp lấy liền. Vừa lúc ông bác vật quát lớn: 

- Không được lấy! 

Ông nhanh tay giật lại, đưa lên xem và reo lên: 

- Đúng là nó rồi, moi người xem đây, tên của em tôi. 

Trên mặt dây chuyền vàng có khắc hai chữ Jacqueline Liễu con rất rõ nét. Ông thầy bảo: 

- Có lẽ quá vội hoặc không con bình rĩnh khi bốc mộ nên họ để rơi lại sợi dây chuyền. May cho ta! 

Ông bác vật nói để đám gia nô yên tâm: 

- Để rồi tao cho tụi bay số tiền bằng hoặc hơn trị giá sợi dây chuyền này. Còn đây là vật kỷ niệm của em gái tao, không thể để mất được! 

Lúc đó trời đã bảy tám giờ đêm rồi, chung quanh vắng tanh, tối mịt nên không ai thấy họ. Cho đến lúc họ rời khỏi đó cũng lặng im. Chỉ có ở ngôi miếu bất chợt lóe lên một ngọn lửa xanh lè, lúc mờ lúc tỏ. Cũng may bọn người kia không nhìn thấy.

° ° °

Chưa bao giờ ông bác vật có được niềm vui như vậy. Khi ông trở về nhà thì không có Hai Thạnh ở nhà, nên ông thoải mái ngồi xuống bộ trường kỷ, xem ngắm lại thật kỹ sợi dây chuyền vừa lấy được. Ngoài dòng chữ tên ra, ở mặt sau còn có hai hàng chữ nhỏ nữa: Tụng tức Tùng, Đỗ tức Hăngry và Liễu, ba đứa con nhà họ Phạm. 

- Đúng rồi. Tụng là ta, Đỗ là chú ruột con, cũng bỏ nhà đi mất từ mấy chục năm nay không có tin tức gì, còn Liễu là con út, là nó! 

Không còn nghi ngờ gì nữa, người chết mang sợi dây chuyền này là Jacqueline Liễu! 

- Chào người nhà họ Phạm! 

Ông Tụng bật đứng dậy, vừa lúc như bị ma lực đẩy mạnh, khiến ông phải ngồi yên. Giọng nói lại tiếp tục: 

- Đâu có gì phải vội, ông Phạm Bảo Tụng. 

- Cô... cô là ai? Cô là... 

- Ông không thể thấy được tôi, nhưng tôi thì thấy rõ ông và cả thằng con trai sắp về tới của ông nữa! 

Rồi ông Tụng có cảm giác như ai vừa ngồi xuống bên cạnh mình, hơi lạnh kỳ lị từ người này tỏa ra khiến cho chỉ trong nháy mắt toàn thân ông lạnh như băng! 

- C... ô... 

Ông Tụng chỉ phát ra được có bấy nhiêu rồi cảm thấy như nghẹt thở, như đang bị ai đó bóp cổ. 

- Kìa ba... Ba sao vậy? 

Hai Thạnh từ ngoài cửa lao nhanh vào kịp chạm vào người của ông Tụng thì ông đổ xuống, như trái mít rụng. 

- Ba! 

Có một luuồg khí lạnh phả vào mặt của Thạnh, khiến anh ta choáng váng, lảo đảo. 

Khoảng nửa giờ sau... 

Cả hai cha con tỉnh lại cùng lúc. Thạnh có sức khỏe hơn nên hắn lên tiếng trước: 

- Ba bị sao vậy? Nếu con vào không kịp thì ba đã... ngạt thở! 

Ông bác vật Tụng nhớ lại chuyện vừa rồi và hỏi lại Thạnh: 

- Con gặp ai không? 

- Đâu có ai! 

- Có! Họ muốn giết ba, cũng may là nhờ có con. Họ là hai người, mà là hai cô gái. Ba tuy không nhìn rõ mặt nhưng chắc là họ còn trẻ. 

Vừa lúc đó, bỗng Thạnh kêu lên: 

- Tờ báo tiếng Hoa sao vậy nè? 

Tờ báo có bài viết về chuyện Jacqueline Liễu và ngôi miếu hoang, chẳng hiểu ai đã cắt thật gọn mất tấm ảnh ngôi miếu, và dưới cái tên Jacqueline Liễu được gạch bằng mực đỏ nổi bật lên. 

Ông Tụng thảng thốt: 

- Đúng rồi. Hai cô gái đó đang ở trong ngôi miếu! 

Thạnh nghe nhắc tới ngôi miếu thì tỏ ý ngại, nhưng vẫn ương ngạnh: 

- Con vẫn quyết phải triệt hạ cái miếu! Phải làm ngay để mình con kịp xây chợ chớ! 

Ông Tụng thì lộ vẻ sợ hãi: 

- Ba xin con, hãy bỏ ý định đó đi. Rồi ba sẽ mua cho con miếng đất khác rộng hơn, ngon hơn. Ba muốn xây cho cô út con một nhà mồ ở đó. Xong thì trùng tu lại miếu của hai cô gái lạ. Ba biết, mặc dù giữa họ và cô út con có một hận thù gì rất sâu đậm, nhưng ba nghĩ với việc làm của ba thì có hy vọng hòa giải được hận thù giữa họ. 

Thạnh hùng dũng đứng ậy, nói dứt khoát: 

- Con sẽ làm theo ý mình. 

Nhưng anh ta bước chưa được mấy bước thì bỗng người bị nhấc bổng lên trời và cứ thế lơ lửng trên không mà chẳng thấy dây cột hay móc tre. Thạnh la bài hải: 

- Bỏ tôi xuống! Bỏ tôi... 

Có những riếng bốp chát vang lên, như có ai đang đánh mạnh vào hai bên má hắn, khến hắn cứ lắc qua lắc lại và sau một hồi thì máu từ trong mép hắn tuôn ra! 

Ông Tụng hoảng hốt, van xin: 

- Tôi lạy các oan hồn, xin tha mạng cho nó, nó là đứa con ngỗ nghịch, quen thói ngang tàng vậy chớ còn dạy được. Xin để tôi dạy nó và bỏ ngay ý định xằng bậy kia đi! Tôi xin hứa sẽ làm theo tâm nguyện. Tôi có chết cũng làm. 

Thạnh rớt xuống sàn như bị ném, nhưng anh ta vẫn còn lên tiếng được, dù có biểu hiện đau đớn: 

- Tôi xin... xin chừa! Tôi xin.. 

Hắn gục xuống ngất đi. 

Ông Tụng cố gắng đứng lên và lê bước về phòng riêng, nhưng khi ngang qua phòng của Thạnh, ông nhìn vào và giật mình! Trong phòng đang có hai bóng người con gái đứng song hàng, nhưng chỉ có thân mà không có đầu và mặt! 

Tuy nhiên, vẫn có tiếng phát ra từ họ: 

- Tôi là Ánh Hồng! 

- Tôi là Xuân Hằng! 

- Hai chúng tôt là nạn nhân của hai người em của ông từ mấy chục năm trước. Nay tuy họ đều đã đền mạng, nhưng dòng họ Phạm của ông vẫn còn lại hai người mà chúng tôi chờ từ hơn mười lăm năm rồi, nay mới có dịp làm nốt ý nguyện! 

Ông Tụng thay vì sợ bỏ chạy, lại đứng khựng lại, rồi từ từ quỳ xuống, giọng thành khẩn: 

- Tôi tuy không tham gia vào tội ác của các em mình, nhưng dẫu sao thì cũng đáng chết. Tôi xin chịu hình phạt. Chỉ có điều thằng con tôi tuy lỗ mãng, bất kính, nhưng dòng họ Phạm này không còn ai nối dõi, vậy rất mong quý cô nương thương tình, tha mạng cho nó, muốn sai khiến làm gì cũng được! 

Một trong hai cô tặc lưỡi: 

- Thằng này thì khó tha, ông không nghe nó vẫn hung hăng đòi san bằng miếu của tụi tôi đó sao? Hắn ta có dòng máu giống với chú và cô hắn hơn là giống ông, nếu để hắn sống thì liệu gia sản của ông có còn giữ được không? 

Hơn ai hết, ông Tụng hiểu điều đó, nhưng làm sao ông dửng dưng trước sự an nguy của con. Nên ông vẫn cố năn nỉ: 

- Mạng tôi đây các cô muốn lấy lúc nào cũng được, chỉ xin... 

Một giọng the thé cất lên: 

- Không nói nhiều, hãy làm đi! 

Thân thể đang nằm bất động của Thạnh bồng lao vút đi trong tư thế nằm sấp, phúc chốc không còn thấy bóng... 

Buồn vì chuyện mất tích của Hai Thạnh, nhưng ông Tụng vẫn giữ y lời hứa của mình. Ông bắt đầu cho trùng tu lại ngôi miếu hoang. Trước khi tến hành, ông cẩn thận đặt một con heo quay lớn cùng nhiều hoa quả trước miếu, cúng và vái rất thành khẩn: 

- Mạng già của tôi dẫu sau đây có bị bắt đi, nhưng lời đã hứa thì tôi xin giữ. Hôm nay tôi xin phép cúng hai cô và được trùng tu ngôi miếu này. Tôi sẽ giữ nguyên ngôi miếu nhỏ này, chỉ xây trùm bên ngoài một ngôi miếu lớn, khang trang hơn, và cũng xin phép được ghi danh hai cô trên bài vị thờ trong miếu. Nếu đồng ý thì hai cô giáng xuống điều gì đó để tôi biết mà làm theo. 

Ông vừa dứt lời bỗng con heo quay đang đặt trước miếu vụt bay lên, rồt biến đi mất trước sự ngạc nhiên của mọi người! Chỉ còn lại số hoa quả. Chừng như hiểu ý, ông Tụng lại vái: 

- Nếu hai cô không đồng ý cúng đồ mặn thì tôi xin thay bằng hoa quả. 

Ông cho người chạy đi mua thêm nhiều trái cây và cúng vái lại lần nữa. Quả nhiên, lần này nhang cháy cho đến tàn mà không xảy ra chuyện gì. 

Mười ngày sau, một ngôi miếu mới được hình thành. Đứng ngắm nhìn ngôt miếu mới, ông Tụng hài lòng lắm, ông thầm khấn vái: 

- Tâm nguyện của tôi đã hoàn thành, vậy nay không còn gì để luyến tiếc nữa tôi xin với hai cô một điều thôi, cho phép tôi được về nhà, nằm trong phòng riêng và chờ chết. Tôi muốn được chết trong nhà mình. 

Ông vái xong lãng lẽ bước đi. Ông ta về nhà và làm đúng như lời đã nói. Nhưng nằm chờ hoài đến chiều, rồi đêm và mãi cho đến sáng ngày mai vẫn 

không có điều gì xảy ra cả! Vừa muốn ngồi dậy thì chợt ông nghe tiếng ai văng vẳng: 

- Ông là người duy nhất trong dòng họ có thể sống để làm điều tốt đẹp. 

Từ ngày hôm đó, người quanh vùng bỗng nhìn thấv một người lớn tuổi, từ sáng cho đến chiều tối, lặng lẽ cầm chổi quét lá chung quanh ngôi miếu. Ông cũng ngày ngày nhang khói, cúng vái như vai trò của của một ông từ giữ miếu. Người đó chính là ông chú vật Tụng! 

Ai hỏi ông tại sao làm vậy thì ông cười và nói: 

- Còn sống ngày nào thì nên làm điều thiện cần làm. Làm gì sẽ gặp nấy thôi. 

Và càng lạ hơn, ngày hôm sau nữa, chỗ dưới gốc cây me già bỗng hiện ra một mộ huyệt mới xây nhưng để trống không chôn ai trong đó. Nhiều ngườl thắc mắc không hiểu ai xây và xây để chôn ai. Chỉ mình ông Tụng là hiểu. Ông thường đứng trước mộ huyệt và nói thầm: 

- Anh em, con cái tôi làm ác, làm bậy nên chết không có mồ chôn là đúng. Phần mộ này có lẽ họ dành cho tôi khi nằm xuống. Xin cám ơn vong hồn hai cô. 

Ông Tụng sống đến hơn mười năm sau mới chết. Và đúng như lời ông, khi ngưới ta liệm xác ông và quan tài, chưa kịp di quan thì bỗng quan tài biến mất! 

Chiều hôm đó có người phát hiện quan tài ông đã được ai đó đặt vào huyệt mộ.

TÌNH MA DUYÊN TỤC

Đoạn đường từ Rạch Giá về Hà Tiên không xa, chưa đầy một tăm cây số, nhưng đường sá vào năm 1945 còn quá hẹp và xấu, nên đù cố gắng tăng tốc mà chiếc Traction phải mất ba tiếng đồng hồ Hiệp mới tới Kiên Lương. Nhìn đồng hồ tay, Hiệp hơi sốt ruột, đã hơn 6 giờ chiều. Đến chợ Hà Tiên còn ngót ba chục cây số nữa mà trời tối thì liệu có kịp không? 

Không có hẹn với ai ở đó, nhưng Hiệp lại ngại lái xe đường lạ trong đêm tối. Vả lại trời đang chuyển mưa nữa mà. Lúc này Hiệp mới thấy hối hận khi không nghe lời khuyên của bạn bè rằng anh không nên đi, bởi lúc khởi hành đã hơn hai giờ chiều. Hiệp vốn tính bướng bỉnh, lại muốn sáng ngày mai khi tới trình diện nhà cha mẹ vợ tương lai ở gần Mũi Nai thì anh phải tươi tỉnh, chững chạc như hình ảnh một thầy ký tòa án Lê Hữu Hiệp vốn có dưới mắt của Nguyệt và gia đình cô. 

Việc Hiệp bỏ ngang công việc tòa án, đi về Hà Tiên vào những ngày giữa tuần cũng chỉ vì anh lỡ hứa với Nguyệt rằng anh sẽ có mặt tại nhà cô và dự đám giỗ, để nhân dịp có sự có mặt đông đủ thân nhân Nguyệt, sẽ là một dịp tốt nhất cho anh ra mắt bên vợ, những người vốn giàu có và trọng hình thức. Ông già của Nguyệt tuy không phải là quan chức, nhưng là một nghiệp chủ giàu nhất nhì Hà Tiên thời đó, chính ông là người đã âm thầm giúp đỡ cho Hiệp ăn học và khi ra trường với bằng Tú tài toàn phần, ông đã vận động để đưa anh chàng vào ngành tòa án, giữ ngay vai thư ký tòa, một địa vị mà không phải người trẻ mới ra trường nào cũng có được. Và để đền ơn người đã giúp đở mình, Hiệp đã long trọng hứa sẽ làm rể nhà nghiệp chủ Ma Đại Nhơn. 

Tuy gọi là trả ơn, nhưng cũng may cho Hiệp, vì Nguyệt - cô con gái của nghiệp chủ Nhơn lại là một mỹ nhân đúng nghĩa. Cô ta từng được mệnh danh là hoa khôi của vùng Tô Châu - Thạch Động. Khi hai ngưới gặp nhau lần đầu tiên ở Rạch Giá, nơi Minh Nguyệt trọ học, thì cả hai đã ngỡ ngàng nhìn nhau sau vài giây, tự dưng họ đâm ra mến nhau, hợp nhãn nhau liền! 

Bởi vậy, chính Nguyệt đã từng nói với Hiệp rằng duyên của họ đúng là duyên tiền định! Cô nàng hầu như muốn giữ chặt lấy người tình, giục Hiệp 

nhanh chóng tiến hành hôn lễ, bằng cách thúc hối cha mua ngay cho hai người một căn phố lầu ở chợ Rạch Giá, và nội tháng 8 phải làm lễ thành hôn, mặc dù cô còn đang học dở dang lớp chuẩn bị thi bằng Thành chung. Ông Nhơn chiều ý con, nên đã yêu cầu Hiệp phải có mặt nhân ngày giỗ ông ngoại của Nguyệt. Hiệp về Hà Tiên với lý do như vậy. Dù đã đi về thị xã Hà Tiên mấy lần rồi, nhưng khi chạy ngang một ngã ba bên tay trái, nhìn thấy tấm bảng đề mấy chữ "82 km là Hòn Chông", Hiệp hơi ngạc nhiên: 

- Thì ra đường đó đi về Hòn Chông, một địa danh có thắng cảnh Chùa Hang, Hòn Phụ Tử! 

Anh rà xe chậm lại nhìn kỹ con đường, định bụng lượt về thế nào cũng rẽ vào đó xem cho biết Hòn Phụ Tử đẹp như thế nào. Vừa khi ấy chợt trời đổ mưa. Cơn mưa đã được bào trước, nhưng Hiệp không ngờ nó lại tới nhanh và lớn đến như vậy! 

Xe hơi thì có thể đi trong mưa dễ dàng, tuy nhiên chỉ với một người chưa quen lắm với đoạn đường quanh co trên lộ trình đến thị xã, nên Hiệp có nới ngại. Anh nhìn thấy một ngôi nhà gần lộ, giống như cái quán ven đường nên không kịp nghĩ ngợi, đã lái xe thẳng vào khoảng sân hẹp, đậu lại định chờ cho bớt mưa. 

Hơn mười phút qua, ngồi trong xe đóng kín cửa cảm thấy bí, Hiệp quay kiếng xuống nhìn vào quán, vừa lúc mắt anh dừng lại chỗ một cô gái ngồi co ro trong quán. Toàn quán không có ai khác, ngoài cô gái là khách duy nhất. Cô ta đúng là khách, bởi ngay dưới chân cô, Hiệp nhìn thấy một túi xách của một người đi xa. Chỉ hơi ngạc nhiên bởi ở chỗ vắng vẻ này lại có một cô gái ngồi trong một quán ven đường, trong buổi chiều tối như thế này. Hiệp thôi không nhìn nữa, quay kiếng xe lên, định cứ ngồi trong xe như thế cho đến hết cơn mưa. Nhưng mưa càng lúc càng thêm nặng hạt mà không khí trong xe càng thêm bức bối, nên Hiệp quyết định mở cửa xe, chạy vụt vào trong quán với ý nghĩ rằng mình cũng nên trú mưa trong quán cho thoáng mát hơn. 

Có lẽ chủ quán đã thấy Hiệp đậu xe và ngồi trong đó khá lâu, nên khi anh vừa vào đã nghe lời chào hỏi: 

- Quý khách cần uống nóng hay lạnh. Lạnh thì hôm nay có nước đá mới chở từ Rạch Giá về. 

- Dạ, cho tôi một cà phê nóng. 

Hiệp đáp và nhìn lên, anh giật mình, bởi người hỏi anh không phải là chủ quán, mà lại là cô gái anh thấy ngồi co ro nãy giờ!

- Tôi... tôi tưởng... 

Có giọng nói từ phía trong vang lên, lần này hình như đúng là của chủ quán thật: 

- Thầy Hai uống gì gọi nó cũng được, đó là đứa cháu của tôi, nó đang chờ xe, chớ không phải người ngoài. 

Lúc này Hiệp mới chợt giật mình khi nhìn kỹ cô gái! 

- Cô nàng đẹp khác hẳn con gái ở xứ này mà lâu nay anh vẫn thấy. Cô ta lại ra vẻ là một người của thị thành với kiểu ăn mặc tuy giản dị mà đúng cách. Bộ đồ bà ba, quần lĩnh đen, áo màu hoa cà, hợp với làn da trắng muốt, khiến người nhìn phải sững sờ! 

Ly cà phê nóng được bưng ra, mùi thơm lừng chẳng khiến cho Hiệp bị quyến rũ bằng đôi bàn tay nõn nà, đang nhẹ nhàng đặt ly xuống và cất tiếng mời như rót mật vào tai: 

- Dạ, mời... anh! 

Rồi cô nàng quay trở lại chỗ ngồi cũ, vẫn co ro như lúc đầu, mắt nhìn ra ngoài như chẳng để ý tới ai chung quanh. Hiệp uống chưa hết ly cà phê thì trời đột ngột ngừng mưa. Bất ngờ như lúc bắt đầu, cơn mưa lại khiến cho Hiệp vừa ngạc nhiên vừa hài lòng. Anh nhìn đồng hồ đã hơn 7 giờ, anh nhẩm tính: 

- Phải cỡ chín giờ thì mới tớí nơi được. 

Hiệp vừa đứng lên kêu tính tiền thì bà chủ quán xuất hiện, bà hỏi thẳng vị khách trẻ: 

- Cậu có về Hòn Chông không? 

Rồi không đợi anh trả lời, bà ta nói luôn: 

- Con nhỏ cháu đi Sài Gòn về, tới đây thì trễ giờ nên hết xe lam về nhà nó ở nửa đường đi Hòn Chông. Nếu cậu có về qua đó thì làm ơn... 

Bỗng cô nàng lên tiếng: 

- Dì hỏi mất công. Người ta về Hà Tiên mà. Thôi, tạnh mưa rồi để con đi bộ từ từ về nhà cũng được. Sáu bảy cây số thôi mà. 

Hiệp ngước nhìn cô nàng đang đứng dậy, tay xách giỏ chuẩn bị đi, anh vụt nói: 

- Để tôi đưa cô về! 

Bà chủ quán reo lên: 

- Gặp được người tốt bụng như cậu quả là trời thương cháu tôi rồi! 

Hiệp ra mở cửa xe phía trước cho cô gái lên ngồi, anh giải thích: 

- Tôi không rành đường, cô ngồi trước chỉ đường cho. 

- Dạ, cám ơn anh. 

Cô nàng ngồi gần, phả hương thơm rất lạ vào mũi Hiệp, khiến anh thích thú. Mặc dù không ưa phụ nữ xức nước hoa, nhưng hương thơm từ cô gái không phải do nước hoa, nên ngay giây đầu tiên Hiệp đã có thiện cảm và thầm nghĩ, nước hoa đâu có gì mà không ưa! 

- Anh không phải là người xứ Hà Tiên này? 

- Sao cô biết? 

Thấy cách anh dò đường. Người gốc Hà Tiên thì không ai là không biết đường vào Chùa Hang, Hòn Phụ Tử. 

- Thú thật, tôi từ Rạch Giá qua đây. 

- Đi chơi thì không đúng rồi, vì không ai đi tham quan, du ngoạn mà đi một mình. Còn thăm bà con thì chắc cũng không đúng, bởi thăm viếng thì phải có quà cáp. 

- Vậy theo cô thì tôi đi đâu? 

- Đi coi mắt vợ phải không? 

- Câu hỏi khiến Hiệp giật mình, ngơ ngác: 

- Cô... cô lại biết... 

Cô gái phá lên cười, giọng cười giòn tan rồi không nói gì thêm, đưa mắt nhìn ra ngoài. Hiệp biết mình hố nên nói chữa: 

- Tôi... tôi chỉ có ý... 

Cô nàng quay lại, cười nhẹ: 

- Tôi chỉ cười suông thôi chớ có ý gì đâu. Vả lại, chuyện anh đi coi mắt vợ hay đi đâu đó là chuyện riêng của anh có mắc mớ gì đến tôi đâu. 

Xe chạy được mười phút, Hiệp bớt tốc độ và hỏi: 

- Đã sắp tới chưa? 

Cô nàng không cần nhìn đã nói ngay: 

- Dạ chưa, phải hơn cây số nữa. Khi nào thấy ngôi nhà bên trái có giàn hoa giấy chạy hoài theo bờ rào, đó là nhà... em. 

Nàng đổi cách xưng hô một cách đột ngột, khiến Hiệp phải lúng túng: 

- Cô... cô... 

- Em là Mỹ Dung. 

- Còn tôi.. là Hiệp. 

- Thấy nàng dạn dĩ, Hiệp nói đùa. 

- Tên cô giống với tên một co gái trong truyền thuyết của xứ Hà Tiên này quá. Nàng Phù... 

Cô nàng Mỹ Dung cũng đùa: 

- Nàng ta khác chữ lót. Mỹ Dung là nhan sắn đẹp, còn Phù Dung là loài hoa mau tàn. 

- À, tôi không để ý. Mà tôi cũng sơ suất nữa, ai lại ví tên cô với một cô gái trong truyền thuyết đã ra người thiên cổ từ lâu rồi. Người hiện tại mới đáng nói hơn phải không? 

Tưởng mình nịnh một câu như vậy sẽ được hưởng ứng nào ngờ Hiệp lại nhận được câu nói: 

- Chắc gì thực tại hay hơn cái đã mất! Theo em... 

Nàng kịp ngừng lại điều đang muốn nói ra. Hiệp hơi ngạc nhiên: 

- Cô định nói gì? 

Nàng lắc đầu nhanh: 

- Dạ không. Kìa anh cho em xuống đây. 

Quả là có một ngôi nhà ngói xưa nằm khuất sau hàng rào dài vớt nhiều hoa giấy che phủ. Hiệp cho xe ngừng lại và lịch sự bước xuống mở cửa cho nàng. Anh không quên nói nịnh một câu nữa: 

- Nhờ có cô mà tôi biết thêm đường vào Hòn Chông. Lượt về thế nào tôi cũng ghé qua thắng cảnh này, cô sẵn sàng mời tôi ghé nhà chớ? 

Nàng cười rất tươi: 

- Đâu đợi gì ngày mai, nếu bây giờ em mời thì anh có ghé không? 

Hiệp lúng túng: 

- Tôi... tôi còn phải về Hà Tiên. Trời quá tối rồi. 

- Vậy cám ơn anh. Anh đi cẩn thận. 

Hiệp vẫy tay chào rồi leo lên xe ngay. Mở máy như thường lệ, nhưng sao máy xe lại không chịu nổ. Kỳ vậy, mới chạy ngon đây mà... 

Thử đề lại lần nữa, tiếng è è phát ra rồi tắt ngấm. Hiệp coi lại xăng, vẫn còn hơn nửa bình, cũng không phải hết bình điện, vậy tại sao không khởi động được máy. Loay hoay làm một mình đến gần mấy phút, chợt anh nghe từ phía sau lưng mình, giọng lo lắng của cô nàng: 

- Xe anh bị sao vậy? 

Hiệp hơi ngượng: 

- Cũng hẳng hiểu sao. Có lẽ... tại vì... 

Anh muốn tìm một lý do để nói, nhưng vốn không rành về chiếc xe mới mua này lắm, nên cuối cùng anh chỉ biết lắc đầu: 

- Chịu thua. 

Và đúng là Hiệp chịu thua thật, bởi sau gần hai mươi phút thì hục mà vẫn không sao thay đổi được tình hình. Trời lại đổ mưa trở lại. Cô nàng Mỹ Dung đề nghị: 

- Anh phải nghỉ tạm lại nhà em thôi. Rồi sáng mai về bên đó sớm, như thế tiện hơn. 

Hiệp áy náy: 

- Như vậy e không tiện... 

Cô nàng trấn an: 

- Anh không phải lo, ba má em hôm nay đi qua Hòn Me, nên nhà chỉ còn mỗi mình em. Người sợ chính là em, nhưng mà...

Hiệp lại càng ngại hơn: 

- Như thế lại càng không nên. 

Anh còn đang phân vân thì trời mưa thật lớn, Mỹ Dung nói như ra lệnh: 

- Anh cứ để xe đó đi, vào nhà đi! 

Không còn cách nào khác, Hiệp đành phải nghe theo. Khi vào nhà rồi anh chàng mới yên tâm phần nào. Nhà rộng và khang trang, Mỹ Dung lại không có vẻ gì là ngại sự có mặt của khách lạ. Cô giục Hiệp: 

- Dù gì anh cũng phải ngủ ở đây tối nay rồi, vậy lấy dù của em ra ngoài xe lấy đồ đạc vào, tắm rửa rồi em làm cơm cho ăn. Vừa ăn ta vừa nói cnuyện. Em cũng cần một người bạn để hàn huyên trong khi nhà vắng thế này. 

Phải đợi nàng giục lần thứ hai Hiệp mới làm theo. Khi trở vào anh đã thấy một mâm thức ăn nóng nấu sẵn, cô nàng thân mật nói: 

- Trong lúc anh tắm thì em nấu cơm. Nhà con thức ăn tươi và ngon. Có lẽ má em đoán em sẽ về hôm nay! 

Hiệp thấy nàng tự nhiên thì cũng đở phải e ngại. Anh tắm xong thì đã thấy một mâm cơm dọn sẵn. Anh tự hỏi sao cô ta có thể nấu thức ăn nhanh như vậy. Tuy nhicn, Hiệp cũng không còn thời gian suy nghĩ, nàng đã giục cầm đũa: 

- Anh ăn đi, như thế mới không chê cơm nhà nghèo chứ! 

Mỹ Dung vừa ăn vừa tiếp thức ăn cho khách, nàng còn nói huyên thuyên đủ thứ chuyện, khiến cho bữa cơm qua nhanh và Hiếp ăn rất ngon! Ăn vừa xong thì chẳng hiểu sao, anh lại cảm giác như mình buồn ngủ từ thuở nào vậy, mắt nhướn không lên: 

- Tôi... tôi... 

- Dậy! Dậy nhanh đi anh, má em về tới! 

Tiếng giục của cô nàng khiến dù đang say ngủ, Hiệp cũng phải bật dậy ngay. Anh hỏi: 

- Mấy giờ rồi? 

- Chắc là gần sáng. Má em đột ngột về mà không báo trước, may mà vừa rồi có người đưa đồ đạc về trước, nói khỏang vài chục phút nữa má về tới. 

Hiệp nhớ lại những gì xảy ra đêm qua, anh ái ngại: 

- Tối qua bỗng dưng tôi buồn ngủ quá, chắc cô không trách chớ! 

Mỹ Dung càng hối thúc: 

- Anh thay đồ nhanh rồi đi đi. Bữa về ghé lạl em, em sẽ nói với mà anh là bạn học từ Rạch Giá về chơi. Còn bây giờ... 

Hiệp thay đồ xong anh chợt nhớ ra: 

- Ờ còn chiếc xe nữa không biết khởi động nó có được không? 

Anh ra xe, chuẩn bị tinh thần là sẽ đẩy hay nhờ người đi rước thợ tới sữa. Tuy nhiên, vừa đề lần thứ nhất máy xe đã nổ giòn tan, êm ru. Hiệp ngơ ngác: 

- Chiếc xe này điên chắc! 

Lái xe đi được một quàng. Hiệp quay lại nhìn, anh ngỡ mắt mình bị hoa, bởi đi xa lắm. Nhưng chẳng hiểu sao nhìn lại đã không còn thấy ngôi nhà đâu? Chỉ toàn là ruộng và xa xa là rừng... 

Hiệp muốn quay xe lại để xác minh, nhưng thấy mặt trời vừa ló dạng, sợ chạm mặt bà mẹ của Mỹ Dung. Nên anh nhấn ga, xe vọt tới với nguyên nỗi thắc mắc trong lòng. 

Ra tới ngã ba Kiên Lương, cố nhìn nhưng Hiệp cũng không thấy cái quán lá ven đường hôm qua đâu. Anh nghĩ có thể mình lộn chỗ, nhưng rõ ràng hôm qua nó nằm ngay ngã ba này mà? 

Mải lo nhìn tìm, suýt nữa xe của Hiệp chạm phải một xe khác chạy trờ tới. Anh hú vía vội rồ ga thẳng về Hà Tiên. Trời sáng mát mẻ, nên Hiệp chạy rất nhanh, chỉ khoảng nửa giờ sau là anh đã vào thị xã. 

Nhờ ngủ được một giấc đầy, lại mới thay quần áo sạch, nên Hiệp mạnh dạn chạy thẳng tới nhà vợ tương lai. Vừa đậu xe ngay cổng, Hiệp đã thấy một người đàn bà lớn tuổi từ trong bước ra, trên tay bà ta ôm khư khư cái khung ảnh mới. Khi bà ta đi ngang rất gần với mình, Hiệp chợt nhìn vào tấm ảnh lộng trong khung, và thảng thốt kêu lên: 

- Kìa, sao lại như vậy? 

Khuôn mặt người trong ảnh đập vào mắt Hiệp, anh tưởng chừng như mình đang mơ ngủ, phải nhướng đến lần thứ hai anh mới lại kêu lên lần nữa: 

- Mỹ Dung! 

Nghe anh gọi, người phụ nữ kia khựng lại và hỏi: 

- Cậu gọi ai? 

- Mỹ Dung! Phải đây là.. là My Dung? 

Thật bất ngờ, bà ta đáp ngay: 

- Đúng. Nó là Mỹ Dung, con gái tôi! 

Bước ngay xuống xe và không cần giữ ý. Hiệp chụp ngay cái khung ảnh, hỏi lại người phụ nữ: 

- Cô gái trong ảnh này đúng là Mỹ Dung, nhà ở đường ra Hòn Chông? 

Kinh ngạc trước thái độ của Hiệp, bà ta nhíu mày hỏi: 

- Cậu biết con gái tôi? 

Vừa khi ấy, có tiếng oang oang từ trong nhà: 

- Hiệp về tới phải không con? Ra đón anh Hiệp, Nguyệt ơi! 

Họ ùa ra, khiến cho câu chuyện giữa Hiệp vừa người đàn bà kia phải gián đoạn. Bà ta vụt đi thật nhanh, phút chốc đã khuất ở góc đường. 

Thấy Hiệp nói chuyện với bà ta, ông Nhơn hỏi: 

- Con bị bà ý làm gì vậy? 

Hiệp hỏi luôn: 

- Bà ta là ai vậy và cái khung hình trên tay bà ấy? 

Ông Nhơn tặc lưỡi: 

- Oan gia đấy mà! Chị ta gây rối, khùng điên. Bữa nay biết con sẽ về nên ba không đuổi chị ta đi, chớ gặp bữa khác thì... 

Minh Nguyệt kịp bước ra, đã vội lên tiếng: 

- Anh để ý làm gì chuyện tầm phào đó. Ối, xứ này họ thấy nhà em giàu nên hễ có bất cứ chuyện nhỏ chuyện to gì họ cũng kéo tới. Bà này có đứa con bị xe nhà mình gây tai nạn, nên mới... 

Cô ta nói tới đó thì cũng ngừng ngang, Ông Nhơn phá tan không khí mà ông cảm thấy khó chịu đó: 

- Thôi, vào nhà đi con. Để xe đo chút nữa tụi tài xế đem rửa. 

Minh Nguyệt tự nhiên như Tây, cặp tay Hiệp đi sóng đôi với cha mình vừa hỏi huyên thuyên: 

- Bộ đi vào nửa đêm sao giờ này đã về tới đây rồi? 

Biết không thể bịa chuyện hoàn toàn được, nên Hiệp tìm cách nói khéo: 

- Anh về quá trễ, lại quên đường vào nhà, nên phải ghé hotel ở tạm. 

Minh Nguyệt ré lên: 

- Sao một mình mà dám ngủ ở khách sạn! Hay là đã ngủ với... 

Ông Nhơn phải nói đở cho con rể tương lai: 

- Nó làm vậy là đúng đó. Bộ con nghĩ ai ngủ khách sạn cũng đều ngủ với ai đó hay sao! 

Nguyệt nhéo chồng tương lai một cái đau điếng: 

- Được cha vợ bênh, sướng há! 

Hiệp bước theo họ mà đầu óc cứ nghĩ về chuyện bức ảnh lúc nãy. Khi đã vào nhà rồi, nhân lúc Minh Nguyệt ra nhà sau pha trà. Hiệp mới hỏi ông bố vợ: 

- Hồi nãy ba nói người đàn bà ôm khuôn hình đó tới đây phá, mà phá cái gì vậy? 

Hơi ngạc nhiên về sự quan tâm của con rể, nhưng ông Nhơn văn đáp: 

- Số là anh của con Nguyệt, thằng RôBe lỡ vụng trộm với một cô gì mà ba không chấp nhận, ba ngăn không cho chúng nó lấy nhau. Không ngờ một bữa kia nghe tin con nhỏ nhảy sông tự tử! Chuyện này làm sao ba ngăn được, và ba cũng đâu co xúi giục hay nhúng tay vào cái chết của con nhỏ đâu. Vậy mà năm nào cũng vậy, hễ tới ngày giỗ con nhỏ đó thì mụ ta lại cầm tấm hình tới đây làm trận làm thượng. Mà thằng RôBe thì đã đi lấy vợ từ lâu rồi, ở xa lắc xa lơ. 

- Nhưng... có phải nhà cô ấy ở trên đường vào Hòn Chông không? 

Ông Nhơn ngạc nhiên: 

- Sao con biết? 

- Nhưng con nói là có phải cô ấy ở đường đi Hòn Chông không? Mà nhà cô ấy có mấy chị em? Còn có ai cỡ tuổi nàng không? 

Trước một loạt câu hỏi như tra vấn của Hiệp, ông Nhơn phải hỏi lại: 

- Con sao vậy, Hiệp. Chuyện của họ thì mắc mớ gì đến con? 

Hiệp chợt giật mình, anh ấp úng: 

- Dạ con... con... 

Minh Nguyệt đem trà lên, chỉ nghe loáng thoáng nên hỏi lại: 

- Chuyện gì vậy? 

Ông Nhơn hình như cũng không muốn con gái mình bàn sâu thêm câu chuyện giữa ông và Hiệp đang bàn, nên vội nói: 

- Ba hỏi nó chuyện chuẩn bị lễ cưới mà. 

Minh Nguyệt sà xuống bên cạnh Hiệp, chẩu môi ra nũng nịu: 

- Em muốn phải có hai phù dâu, hai phù rể hà! Anh kiếm đâu đủ hai người đi. Còn em kiếm phù dâu. 

Để cho qua chuyện, Hiệp gật đại: 

- Thì có gì khó đâu. Anh sẽ lo. 

Suốt trong bữa cơm trưa hôm ấy, hầu như Hiệp chỉ ậm ừ cho qua, ai nói gì anh cũng gật. Đến nỗi Minh Nguyệt phải cảnh cáo: 

- Anh tơ tưởng đến ai mà đầu óc như kẻ mộng du vậy? Coi chừng em đó nghen! 

Hiệp lại phải xuống nước: 

- Anh muốn cảm mà. Có lẽ tại toi qua không quen chỗ lạ nên mất ngủ. 

Ăn cơm xong, thay vì phải ở lại chơi một ngày nữa như đã hứa, nhưng Hiệp viện lẽ: 

- Sáng sớm mai con phải nộp và báo cáo với cơ quan biện lý về một vụ án lớn, nên tối nay con phải về để nghiên cứu tài Iiệu. Con xin phép ba con về. 

Anh quay sang trấn an Nguyệt: 

- Đầu tuần này, tức ba bữa nữa anh sẽ trở lên và chở em đi may áo cưới. 

Nguyệt cười híp mắt: 

- Em sẽ ra ngoài Rạch Giá bắt anh chở đi Sài Gòn mua đồ, chớ không thèm sắm đồ ở Rạch Giá đâu! 

- Cũng được. Vậy anh về nhé! 

Đưa Hiệp ra tận xe, cô nàng dặn đi dặn lại: 

- Đi mà ghé chỗ này chỗ nọ sẽ hiết tay tôi! Tôi có mật thám đó nghe! 

Hiệp một phần đã quen đường, phần nữa là do quá nôn nóng, nên chỉ vài chục phút sau đã nuốt gọn quãng đường mấy chục cây số. Lần này vào ban ngày sáng rõ, anh quan sát kỹ lại chỗ cái quán bên đường. Đúng là không hề có. Chỉ 

có một mái lá tạm bợ của một người ngồi vá vỏ xe. Khi Hiệp hỏi về cái quán thì người đàn ông trung niên tỏ ra ngạc nhiên: 

- Ở đây Iàm gì có quán xá nào. 

Hiệp biết chắc là không có, bởi vài cây số quanh đó là đồng không mông quạnh, không làm sao có một cái quán mà đã biến mất chỉ trong một đêm. Anh tần ngần một lúc rồi quyết định chạy thẳng vào chỗ ngôi nhà nàng Mỹ Dung. Sự hồi hộp âu lo của Hiệp đã có ngay kết quả sau đó. Chẳng hề có ngôi nào với giàn hoa giấy trước cổng như anh từng thấy! 

Hỏi một vài người qua đường thì có ngườt biết, người không. Ngời biết thì nói: 

- Nguyên cả đoạn đường này trước kia chỉ có duy nhất ngôi nhà của một người làm nghề đi biển. Nhưng vào mùa bão lớn ông ta đi mãi không về, ở nhà vợ con chờ đợi mỏi mòn, rồi lần lượt bỏ đi tìm phương sinh sống. 

Một người con lớn thì đi làm xa lâu ngày cũng không người nào trở lại. Riêng bà mẹ và cô con gái thì đi ở đợ cho một nhà giàu trên thị trấn Hà Tiên, nhưng sau nghc nói có chuyện gì đó mà họ trở về không đủ hai người. 

Nói tới đây, ngưới ấy chỉ khẽ lắc đấu rồi đạp xe tới. Hiệp cố chạy thco năn nỉ lắm thì ông ta mới chỉ tay vào trong cánh đồng và nói: 

- Tôi chỉ biết có vậy. Còn muốn hiểu thêm thì cậu nên đi vào chỗ cánh đồng kia, nó có một nghĩa trang... 

Ông ta nhất quyết không nói gì thêm, đạp xe đạp thật nhanh rồi chỉ thoắt cái đã không còn thấy đâu. 

Hiệp lưỡng lự, bởi chỗ anh đang đậu xe muốn đi vào cánh đồng kia thì chỉ có cách duy nhất: xắn quần lội bộ qua một đoạn ruộng đồng mà anh biết chắc là sình lầy nhiều hơn là đất liền. 

Nhưng cuối cùng Hiệp cũng phải đi. Quả đúng như anh tiên liệu, phải hơn nửa tiếng đồng hồ sau anh mới tới được khu nghĩa địa chỉ có hơn chục nấm mồ, mà người muốn đem xác đi chôn chắc chắn là phải di chuyển bằng ghe xuồng, chớ không thể đi bộ được. 

Và Hiệp đã tìm ra điều không mong tìm, đó là một ngôi mộ mà trên mộ bia có lồng bức ảnh chân dung một người con gái đẹp: 

- Mỹ Dung. 

Bức chân dung ấy giống hệt như khung hình mà người đàn bà kia ôm trong lòng ngày hôm qua! 

- Trời đất ơi, Mỹ Dung sao? 

Hiệp lặng người đi rất lâu. Nhớ lại khỏang khắc ngồi chung xe với cô nàng, rồi một đêm ngủ lại nhà cô nữa. Hiệp bắt rùng mình. Anh đứng giữa khu nghĩa địa hoang vắng đó rất lâu với bao thắc mắc hoang mang ngổn ngang trong lòng. 

Trở ra xe, thay vì chạy đi ngay, Hiệp quyết định đậu lại đó chờ. Nếu hỏi anh chờ gì thì tức thời Hiệp sẽ chẳng trả lời cụ thể được, bởi có thể anh chờ xem may ra có thể gặp Mỹ Dung. Mà cũng có thể anh hy vọng sẽ chạm mặt lần nữa với người đàn bà ôm bức ảnh. 

Cuối cùng, Hiệp đành thất vọng. Bởi gần một buổi chiều chờ đợi như vậy, anh chỉ thêm bối rối và đành phải lủi thủi ra đi. 

Lúc Hiệp chạy xa rồi thì ở quãng đường anh vừa đậu xe có một cô gái đầu đội nón lá che khuất cả mặt xuất hiện, đứng nép vào một thân cây và gục xuống, đôi vai run run. Hình như cô ta khóc! 

Vừa ở tòa án bước ra, Hiệp đã thoáng thấy một người đàn bà hai tay ôm trước bụng vật gì đó, bước đi rất nhanh như đang chạy trốn. Anh thảng thốt gọi ngay: 

- Bà ơi! 

Hiệp chạy bộ qua đường rất nhanh, nhưng cũng không làm sao bắt kịp người kia, bà ta đi nhanh đến nỗi Hiệp cũng phải ngạc nhiên. Anh chỉ có nước gọi to hơn: 

- Bà ơi! 

Lần này Hiệp mừng rỡ bởi ngườt đàn bà đã quay lại nhìn. Hiệp reo lên khẽ: 

- Chính là bà ấy! 

Bà ấy mà Hiệp nói ở dây chính là người ôm khung hình hôm trước, tức là bà mẹ của Mỹ Dung! 

- Bác, chờ con với! 

Hiệp không ngại có nhiều người đang nhìn mình, anh chạy nhanh thêm và cuối cùng bắt kịp người nọ. Anh thấy trên tay bà ta vẫn khư khư giữ bức ảnh như bữa trước: 

- Bác đi đâu ra tận đây? Cháu mời bác vào quán nước kia, cháu cần hỏi điều này một chút. 

Ngần ngừ chớ không từ chối, cuối cùng bà ta theo chân Hiệp bước vào một quán vầng gần đó. Vừa ngồi xuống, bỗng người phụ nữ lên tiếng: 

- Tôi đi tìm cậu đây! 

Hiệp ngạc nhiên: 

- Sao bác biết cháu ở ngoài này mà đi tìm? Mà tại sao... 

Bà ta đặt bức ảnh xuống bàn, hỏi đột ngột: 

- Cậu còn nhớ nó không? 

Hiệp không giấu nổi xúc động, đáp ngay: 

- Cô Mỹ Dung đây mà, sao cháu lại không nhớ! 

Bà ta nhẹ gật đầu: 

- Nó đó. Vậy cậu có sẵn lòng giúp ón không? 

Hiệp hơi bất ngờ, nhưng cũng kịp đáp: 

- Dạ, sao lại không! Nhưng cháu phải làm gì? 

- Báo thù! 

- Báo thù cho ai? - Hiệp trợn tròn đôi mắt, hỏi lại. 

- Cho Mỹ Dung mà cậu quen. - Giọng bà ta đanh lại. 

Không thể nào ngờ được, Hiệp lúng túng thấy rõ: 

- Cháu, cháu làm sao có thể... ý cháu muốn nói, cháu chỉ... 

Không để ý tới thái độ của Hiệp, bà vẫn tiếp tục nói: 

- Người ta đã vùi dập một đời con gái của nó, rồi khi nó có thai, họ lại nhẫn tâm bảo nó phá thai. Nó không chịu phá thì họ bắt ép, cho nó uống thuốc trục thai ra và nó đã chết do hành động đó của họ! Con tôt chết oan ức, tức tưởi như vậy mà họ nào có đoái hoài thương tiếc gì, còn phũ phàng đuổi mẹ nó ra khỏi nhà, nơi hai mẹ con tôi ở đợ kiếm miếng cơm từ lâu... 

Bà nói đến đó rồi quá xúc động, nghẹn lời không còn nói tiếp được nữa. Hiệp hiểu tất cả, anh lặng người đi một lúc rồi hỏi: 

- Có phải tác giả vụ này là tên RôBe không? 

Bà mẹ Mỹ Dung lắc đầu: 

- Không phải. Mà chính là... lão Nhơn. 

Câu tiết lộ khiến cho Hiệp như bị sét đánh ngang tai, anh run giọng hỏi: 

- Có đúng vậy không? 

Bà không đáp, vụt đứng dậy và nói gọn một câu: 

- Mỹ Dung nó kỳ vọng ở cậu nhiều Iắm. Nó bảo, chính nó mới có duyên nợ vớt cậu, vậy cậu làm sao đó thì làm. 

Bà bước đi nhanh, để lại đó khung ảnh. Hiệp định chạy theo thì bà ấy đã nói với lại: 

- Cậu hãy mang khuôn ảnh đó tới giao cho cô vợ chưa cưới của cậu, ắt mọt việc sẽ như ý! 

Bà ta đi khuất bóng rồi mà Hiệp vẫn chưa biết phải làm sao. Cuối cùng phải đành cầm bức ảnh đứng dậy vừa đi vừa tránh để mọi người nhìn... 

Cái khó nhất của Hiệp là làm sao dám đưa ảnh này cho Minh Nguyệt xem, như lời người đàn bà dặn? Mà không làm thì anh lại ngại vô cùng, nhất là sau khi nghe cả ông Nhơn nói về bà già này, như có điều gì đó khúc mắc, đáng thương cho cô gái tên Mỹ Dung... 

Đang đi băng qua đường, chợt có tiếng gọi to: 

- Anh Hiệp! 

Nhìn lại thấy Minh Nguyệt đứng đó, đang vẫy tay gọi. Hiệp điếng hồn. Anh còn lạ gì tính ghen khủng khiếp của cô vợ chưa cưới này! 

- Qua đây. Em đợi nãy giờ. Anh đi đâu vậy, em vào tòa án kiếm, người ta nói anh đi về sớm, hẹn với cô nào phải không? 

Bức ảnh trên tay Hiệp lúc này phải chi nó biến đi đâu được cho anh nhờ! Hiệp run thấy rõ, khiến cho Minh Nguyệt khi tiến lại gần đã vụt hỏi: 

- Anh bị bệnh hay so vậy? Coi mặt màv anh tái xanh, còn tay chân sao run dữ vậy? 

Cô nhìn xuống tay Hiệp, thấy anh cứ ôm khư khư khuôn ảnh, liền định giằng lấy và hỏi: 

- Cái gì vậy? 

Hiệp như kẻ phạm tội bị bắt quả tang, luống cuống suýt làm rơi khuôn hình xuống đất! 

- À ảnh... ảnh của.. của người bà con. 

Minh Nguyệt giằng mạnh và cầm được khuôn ảnh trong tay. Cô vừa trông thấy người trong ảnh thìhá hốc mồm, rồi tay chân như rụng rời, để rơi khung ảnh xuống đường, vỡ toang! 

- Nguyệt! Em sao vậy? 

Minh Nguyệt ngất xỉu ngay sau đó khiến cả Hiệp và nhiều người đi đường hoảng hốt đở cô dậy. Hiệp khó khăn lắm mới vừa cứu người yêu vừa nhặt khung ảnh bể lên. Anh tự trách: 

- Phải chi mình giấu kịp. 

Vừa khi ấy Minh Nguyệt tỉnh lại. Hiệp chờ đợi một cơn bão táp ập tới, nhưng hơi lạ, cô nàng đưa mắt nhìn Hiệp rồi nhẹ mỉm cười: 

- Cám ơn anh đã giúp cho em. 

Trong đời Hiệp có lẽ đây là điều bất ngờ nhất. Vợ sắp cưới của anh mà hiền dịu như vậy chắc mặt trời sắp mọc hướng tây đây! 

- Em... 

Không đợi Hiệp nói hết. Minh Nguyệt đã chủ động ngồi dậy, rồi thật bất ngớ, tự tay cô gom hết các mảnh vở của khuôn ảnh và nhẹ nhàng nói với Hiệp: 

- Mình về nhà anh, em đi đường hơi mệt, trưa nay anh có dẫn em đi ăn tiệm được không? 

Lại chuyện lạ đây! Thay vì xưa nay toàn là những lời ra lệnh và những câu nói bướng bỉnh, sao bây giờ Minh Nguyệt của mình lại thay đổi như vậy? Hiệp không tin vào mắt và tai mình, nên hỏi lại: 

- Em thật sự không sao chớ? 

Nàng lại cười và đáp nhẹ nhàng: 

- Dạ, em không sao. 

Rồi nàng kéo tay Htệp đi, âu yếm như nhiều cặp tình nhân khác mà lâu nay Hiệp thèm muốn. 

- Em... 

Nàng giục anh: 

- Về nhà đi, em nói chuyện này cho nghe! 

Hiệp bước đi mà cảm giác như mình đang nằm mơ. Anh bước vào nhà trọ mà quên cả đáp lại lời chào củ bà chủ nhà. Bà phải lên tiếng lần nữa: 

- Cậu Hiệp bữa nay có vợ sắp cưới đi bên cạnh rồi quên hết mọi người há! 

Lúc ấy, chính Minh Nguyệt phải nói đở cho anh: 

- Xin lỗi dì Hai, tại ảnh đang bị bệnh. Con đưa ảnh về cạo gió. 

Nàng nói xong kéo nhanh Hiệp vào nhà và đóng cửa phòng lại. Bấy giờ Hiệp mới hoàn hồn, anh ngẩn ngơ hỏi: 

- Em... thay đổi tính, tuyệt vời vậy. 

Lần đầu tiên là ngày được ông Nhơn hứa gã tới nay, Hiệp mới bế cô nàng lên quay một vòng, vừa reo lên sung sướng: 

- Tính em như vậy anh khoái quá! 

Minh Nguyệr ghé sát vào tai Hiệp, nói rất khẽ nhưng đủ nghe: 

- Em là Mỹ Dung đây! 

Hiệp buông nàng ta xuống, suýt làm nàng ngã nhào, Minh Nguyệt kêu lên: 

- Anh làm sao vậy? 

Hiệp lắp bắp: 

- Em... em vừa nói... nói... 

- Em là Mỹ Dung đây! 

Xưa nay Minh Nguyệt ít khi đùa nên Hiệp còn chưa tin. Cho đến khi cô nàng lại sà vào lòng Hiệp lần nữa và nói thật rành rọt: 

- Cám ơn anh vừa rồi đã giúp má em mang khuôn hình đưa cho... Minh Nguyệt, và nhờ vậy mà hồn em đã nhập được vào cô ấy. Để từ nay trong xác Minh Nguyệt là hồn của em. Anh có thương em không? 

Hiệp thừ người ra, chưa biết nói thế nào cho phải. Nói không thì anh không nói được, mà nói có ngay tức khắc làm sao anh có thể... 

- Thôi, gần em đi, rồi anh sẽ hiểu. 

Đám cưới giữa Hiệp và Minh Nguyệt vẫn tiến hành y như dự tính. Trước ngày cưới mt hôm, bỗng Minh Nguyệt nói nghiêm túc với cha: 

- Con muốn ba dựng lại ngôi nhà cho bà Hai Lễ ngoài Hồn Chông. 

Ông Nhơn trố mắt nhìn con và hỏi trong sự kinh ngạc: 

- Xây nhà cho má con Mỹ Dung? Bộ con không nhớ chuyện bà ấy luôn phá rối nhà mình. Đã tố giác ba ra quan trên, nếu không nhờ nhà mình có thế lực, chi nhiều tiền nên mới yên ổn tới ngày nay sao? 

- Nhưng con muốn trước khi lấy chồng. Ba không chiều con được sao? - Minh Nguyệt vẫn dịu gịong. 

- Ừ, thì được rồi... 

Đám cưới con gái rượu của nghiệp chủ Nhơn làm rầm rộ chưa từng thấy. Hầu như cả Hà Tiên thời đó chưa có đám gả con nào lại rình rang đến như thế. Do bắt rể, nên nhà trai từ Rạch Giá đưa chú rể lên Hà Tiên rồi khi về thì về mà không có Hiệp cùng đi theo. Ngay đêm cưới, Hiệp đã khiến mọi người ngạc nhiên khi cùng với Minh Nguyệt xuất hiện giữa mọi người và tuyên bố: 

- Sau khi chúng tôi cưới nhau thì sẽ hiến hết tài sản này cho công việc bác ái, từ thiện, cúng chùa. Chúng tôi giử lại một số vốn nhỏ để làm ăn. Và cũng xin cáo biệt mọi người thân quen ở thị xã này, vợ chồng chúng tôi sẽ chuyển về Hòn Chông để ở. 

Ai nấy ngạc nhiên chưa hiết thực hư ra sao thì lúc đó ông Nhơn sắc diện tiều tụy, bước ra nói: 

- Tôi đồng ý cho con và rể làm chuyện đó, từ nay cái tên Đạt Nhơn chỉ xin mọi người đừng nhắc tới nữa. 

Ông nói xong thì biến mất vào nhà trong. Suốt buổi tiệc không ai nhìn thấy ông ở đâu nữa. Sáng hôm sau, mọi người bàng hoàng khi nghe tin ông Nhơn tự lái xe lao xuống biển ở gần ngã ba sông Dương Thành. Những biến cố đến dập đó khiến mọi người sửng sốt, không hiểu tại sao lại co những chuyện lạ lùng ấy xảy ra. Chỉ có Hiệp và Minh Nguyệt là bình tĩnh. Họ tuy đứng ra lo toan mọi việc hậu sự cho ông Nhơn chu đáo, nhưng không hề thấy họ đau buồn thái quá... Mà cũng đúng thôi. Người mang xác thân là Minh Nguyệt kia lại là người bị con ngưới vừa nằm xuống hại tan nát cuộc đời. Làm sao cô nàng có thể nhỏ lệ khóc thương được. 

Ngay khi chôn cất xong cho ông Nhơn, đôi vợ chồng trẻ rời bỏ ngay ngôi nhà và ra đi, chẳng biết là đi đâu. Bởi ngôi nhà mà họ có ý xây lại ở đường đi ra Hòn Chông cũng chỉ là dự tính mà thôi. 

Chẳng còn ai nhìn thấy họ xuất hiện nữa...

MA CHUNG TÌNH

>Họ gồm sáu người tong nhà. Tất cả đều có mặt để tiếp khách. Tâm hơi hồi hợp trước sự đông đủ ấy, anh cười gượng với ông già Sáu, người đánh xe đưa anh từ chợ về đây. Cũng may ông đã lên tiếng phá tan bầu không khí còn chưa tự nhiên: 

- Cậu Tâm đây là người quen thân với bác Tám Dự, bác ấy gửi cậu tới nhà mình để giúp theo dõi việc xây dựng khu nhà nghỉ mà mình dự kiến xây. Cậu ấy là kiến trúc sư. Vậy trong thời gian cậu lưu lại đây, mong là mọi người giúp đỡ cậu ấy. 

Trong số sáu người đang có mặt, có hai cô gái. Vừa nghe ông Sáu nói, một cô đã nhanh nhẩu: 

- Tưởng chú Sáu bắt phải làm gì, chứ còn tiếp khách, hướng dẫn khách, đó là nghề của chị em con mà, cần gì căn dặn! Chỉ sợ ông kiến trúc sư không ưa hai con nhỏ lanh chanh này thôi! 

Tâm vui lây với tính cách của họ, đã làm quen ngay: 

- Chưa xưng danh tính mà đã nhận là người hướng dẫn sao? 

Cô vừa rồi lại nhanh nhẩu: 

- Em là Thu Dung, còn đây là đàn chị Thu Hương. Vừa có nhan sắc vừa thơm tho nữa, chắc là không tệ! 

Không ngờ cô nàng bạo dạng đến thế, nên Tâm cũng bạo miệng: 

- Có hướng dẫn viên như cở này chắc là có nhắm mắt đi lại ở vùng này cũng không sợ lạc đường! Nào, bây giờ hướng dẫn viên nào có thể cho kẻ này tham quan sơ qua hiện ttường, được chứ? 

Cô gái tên Thu Hương im lặng nãy giờ, chợt lên tiếng: 

- Với điều kiện là khách phải cởi bỏ đôi giày tây đi, mang dép cao su thì mới được hướng dẫn! 

Hai vợ chồng chủ nhà từ đầu chỉ ngồi yên, giờ ông chủ mới lên tiếng: 

- Các con không được đùa giỡn quá mức, e làm phiền lòng cậu Tâm đây. 

Rồi ông quay sang Tâm, nói: 

- Cậu đừng chấp tụi nó. Còn trẻ, lại sống bó rọ ở xứ này lâu, nên gặp khách tới là huyên thuyên như thế. 

Bà chủ cũng lên tiếng: 

- Cậu mà giỡn mặt với tụi nó thì e sẽ bị chúng nó bắt phải chạy đua lên đồi, cậu chịu không nổi với chúng đâu! 

Hai cô gái không đợi lâu, đã thật tự nhiên, nắm tay Tâm kéo đi: 

- Mình ra ngoài một vòng đi, ở đây nghe các khứa lão nói e rằng chết mất! 

Trước mặt hai người lớn Tâm cảm thấy ngượng về sự lôi kéo đó, nhưng không thể cưỡng lại được, bởi cả hai cô cùng kéo. Ra tới ngoài rồi Thu Hương mới giải thích: 

- Ông bà tụi em còn nói nhiều hơn tụi em nữa anh mà ở lại đó một chút là... buồn ngủ chết thôi! Họ không rầy la về chuyện tụi em như thế này đâu... 

Tâm nghĩ đây cũng là dịp tốt để quan sát địa hình khu đất, bởi ngày hôm nay anh phải bắt tay và vẽ bản phác thảo rồi. Anh nhắc hai cô gái: 

- Hai cô phải chỉ cho tôi xem chính xác nơi sẽ xây khu nhà nghỉ, để tôi còn biết mà phác thảo cho hoàn chỉnh. 

Cô nàng Thu Dung liếng thoắng hơn, nheo mắt: 

- Biết rồi, thưa ngài kiến trúc sư! Vậy đất dưới chân ngài đây có đạt yêu cầu chưa? 

Tâm đã xem qua phần đất này khi mới tới, anh chỉ tay về phía trái, nơi có mấy ngôi mộ và hỏi: 

- Phía này thì hướng Đông Nam, hướng đẹp, đúng phong thủy, nhưng ngặt ở chỗ... vướng mồ mả, làm sao xây nhà? 

Kéo tay Tâm tới bên hai ngôi mộ nằm riêng lẻ, cách bốn ngôi mộ kia vài mét, Thu Hương lên tiếng: 

- Tụi em muốn khi khu nhà hoàn thành, phòng tụi em phải ở ngay chỗ này cơ! 

Tâm tròn mắt nhìn cô nàng: 

- Cô không thấy đây là mồ mả sao? 

Thu Hương gật đầu: 

- Biết, Nhưng năm rồi em xem bói, xem phong thủy đều nói tụi em hạp với nơi đây nhất. Có phải nơi đây là địa hình đắc địa nhất không? 

Tâm phải công nhận: 

- Nhìn toàn bộ khu dất thì đúng nơi đây là tốt nhất. Nhà xây nơi này, hướng cửa về phía mặr trời mọc thì là số một. Nhưng... 

Thu Dung nói trước cả ý nghĩ của Tâm: 

- Cần thì xây nhà chồng lên mấy ngôi mộ này, có sao đâu. 

Tâm trợn mắt nhìn họ: 

- Hai cô nói có biết phong thủy mà lập luận như vậy được sao? Ai lại xây nhà trên mộ, ngoại trừ không nhìn thấy mộ. 

Thu Hương thản nhiên: 

- Mồ mả cũng là nhà, nhà của người chết. Việc mình xây một ngôi nhà khác cho người sống chồng lên ngôi nhà cũ của người chết đâu có gì là không được. Miễn người trong mộ bằng lòng là được thôi! 

- Kìa cô. 

Nhìn thấy gương mặt thảng thốt của Tâm, hai cô gái phá lên cười: 

- Chưa chi mà ông kiến trúc sư nhà mình đã thất thần rồi. Bọn này nói đùa thôi, chứ nào đã làm gì đâu mà anh sợ dữ vậy. 

Tâm lắc đầu: 

- Chưa thấy ai dám đùa giỡn cả với mồ mả của người chết như hai cô! Mà nè, mả này có phải là thân nhân của hai cô không? 

Thu Dung lại kéo Tâm chạy đi, vừa nói: 

- Lát nữa anh nhìn mộ bia sẽ hiết tụi này có quan hệ gì với những người dưới mộ kia ngay! Bây giờ mình lên ngọn đồi kia chơi một lúc! 

Tâm vốn không quen chạy nhảy, nhất là vùng đất cao như thế này, nên chỉ chạy được vài chục mét là anh thở hồng hộc. Thu Dung phá lên cười: 

- Không khéo vài bữa nữa là mình phải khiêng anh chàng này quá chị Thu Hương ơi. 

Quả đúng như lời, chỉ hơn mươi bước chạy nữa thôi, bỗng dưng Tâm hoa mắt, lảo đảo, rồi quỵ xuống. Do đang nắm chặt tay cô gái, nên khi quỵ xuống, Tâm đã kéo theo cô nàng. Thay vì buông tay Tâm ra thì sẽ không bị ngã theo, đằng này Thu Dung như cố ý không rời chàng, nên khi Tâm ngã xuống, anh chàng đè hẳn lên người cô nàng bé bỏng! Chẳng có một phản ứng gì, mặc dù thế đè của Tâm khiến mặt anh sát vào má nàng. Một cái kéo ghì xuống bất ngờ rồi chẳng còn cách nào khác, môi Tâm chạm sát vào môi cô nàng. Rồi hai đôi môi như nam châm gặp kim loại, chúng gắn chặt vào nhau lúc nào không hay. 

- Kìa, những kẻ xấu xa, làm chuyện ấy trước mặt người ta, lại làm... chỉ riêng mình thôi! 

Thu Hương là người phát ra câu nói đó, và thật nhanh, cô nàng nhào xuống đè lên cả hai, rồi cũng bất thần, cô ta đặt môi mình lên môi của chàng trai vừa giằng ra được khỏi cô em gái! 

Tâm như bị đờ người ra, khi nụ hôn thứ hai vừa xong thì cũng là lúc anh như mất hết cảm giác đề kháng. Anh cố vùng thoát ra, nhưng hòan toàn không thể... 

- Sợ là tụi em chứ anh có gì đâu mà ngại. Tụi này thiếu tình cảm, thiếu được yêu thương, nên xin được thông cảm. Tụi em... 

Tâm ngộp trong hơi thở của cả hai cô gái và đến một lúc anh chẳng còn biết gì nữa.. 

- Kìa, cậu đã tỉnh rồi! 

Tâm mở mắt ra được, nhưng thân thể vẫn còn bất động. Anh nhận ra người đang trước mặt mình, gọi khẽ: 

- Chú Sáu! 

- Ông già Sáu gật đầu: 

- Tôi đây. Cậu tỉnh lại là tôi nhẹ cả người! 

Ông ra dấu cho Tâm đừng cử động, rồi ông múc một muỗng nước từ chiếc cốc, vừa bảo: 

- Cậu há miệng ra uống thứ nước này, lát sau là tỉnh. 

Tâm cố gắng lắm mới làm tneo lời được, nước mà anh uống là một loại thuốc khá đắng, nhưng uống xong thì Tâm có cảm giác dễ chịu ngay. Anh muốn lên tiếng hỏi thì ông già Sáu đã nói trước: 

- Cậu bị ngất đi ở ngoàii mấy ngôi mộ, khi tôi phát hiện ra thì qua buổi cơm trưa rồi. Đem cậu vào nhà thì cậu mê man luôn tới bây giờ! 

- Bao lâu rồi chú? 

- Đã một ngày, một đêm rồi. Bây giờ là ngày hôm sau. 

Tâm nằm thêm một lúc nữa thì cảm giác chân tay nhẹ đi, bắt đầu cử động được. Anh vịn vào mép giường ngồi dậy. Nhìn quanh anh nhận ra mình vẫn con trong ngôi nhà hôm truớc. Nhớ lại mọi chuyện. Tâm hốt hoảng hỏi: 

- Các cô ấy đâu? 

Ông già Sáu nhìn ra ngoài, có vẻ ngập ngừng. Lát sau ông mới nhẹ giọng bảo: 

- Cậu còn may lắm, chứ nếu không... 

Tâm trố mắt nhìn ông: 

- Cháu bị sao ngày hôm qua vậy chú? Tại sao các cô ấy... 

Ông già Sáu đứng lên, đưa tay dìu Tâm: 

- Cậu cố đi ra đây với tôi. 

Ông dẫn Tâm trở ra chỗ mấy ngôi mộ bữa trước, ông chỉ tay vào hai ngôi mộ nằm riêng lẻ: 

- Cậu nhìn xem, trên mộ bia... 

Tâm đưa mắt nhìn và hốt hoảng: 

- Sao... sao lại như thế này? 

Trên ngôi mộ bia ghi danh tính ngườl chết: Bùi thị Thu Hương và Bùi Thị Thu Dung. 

Tâm quay sang định hỏi, thì chẳng con thấy ông già Sáu đâu... 

- Kìa, chú Sáu. 

Anh nhìn khắp chung quanh vẫn chẳng thấy ai. Vừa khi ấy anh thấy dưới chân mình có những dòng chữ viết nguệch ngoạt trên nền đất: Bốn ngôi mộ chung quanh trong đó có mộ của tôi. Bùi Văn Sáu. Tôi là chú ruột của tụi nó... 

Tâm thẩn thờ hồi lâu, rồi như người mất hồn, anh rời ngôi nhà đi xuống chân đồi... 

Vừa xuống tới hết con đường nhiều bậc thang thì Tâm nghe có người gọi vừa đủ nghe. 

- Cậu gì ới! 

Tâm quay lại thì thấy một cụ già mặc nguyên bộ đồ màu nâu, đầu tóc bạc phơ, bới một củ tỏi sau gáy. Ông cụ đưa tay vẫy anh lại: 

- Cậu tới đây! Tôi đợi cậu từ sáng đến giờ. 

Tâm hơi ngỡ ngàng nhưng vẫn bước tới. Ông cụ giọng thân mật: 

- Cậu chưa biết tôi, nhưng tôi thì biết cậu. Có phải cậu vừa ở ngôi nhà trên đồi xuống đây. Cậu là kiến trúc sư? 

- Dạ. 

- Mấy hôm trước thấy cậu đi lên, tôi tính chặn cậu lại mà không kịp, bởi ông già Sáu đó chạy xe nhanh quá, mà hình như ông ấy cố tình vượt qua khỏi tôi, vì ông ta biết thế nào tôi cũng ngăn cậu lại. 

Rồi ông chỉ thẳng vào mặt Tâm, nói: 

- Cậu vừa thoát. Người cứu cậu cũng chính là người đưa cậu về đây! 

- Ông già Sáu? 

- Phải. Ông ấy cũng là một người chết, một hồn ma. Nhưng ông là người duy nhất trong sáu người trên nhà đó gần như không muốn hại ai. Ông ấy cứu cậu là bởi thế... 

Ngừng lại một lúc, ông cụ tiếp: 

- Trong ngôi nhà đó có sáu người. Chủ nhân là một quan lại về hưu. Ông đưa vợ con, một ông bố và một người con trai về đây lập trang trại. Ngôi nhà vừa xây xng thì xảy ra thảm kịch! Chính anh chàng kiến trúc sư có ý định làm rể trong nhà, người được giao trách nhiệm xây cơ ngơi, đã sinh tâm phản trắc vì thấy nhà có khá nhiều của cải, đã ra tay thảm sát cả nhà chỉ trơng một đêm. Anh ta gom hết tiền bạc và ra đi biền biệt từ ấy để lại ngôi nhà vô chủ, chỉ có những hồn ma cai quản. Từ đó anh ấy hận thù những người làm nghề kiến trúc, nên rắp 

tâm dẫn dụ những kiến trú sư về để giết hại. Cậu là nạn nhân thứ năm, nếu hôm qua thằng Sáu Tùng không kịp ra tay. 

- Sao ông Sáu lại cứu cháu? - Tâm thất thần. 

Ông cụ mỉm cười: 

- Cũng do tôi. Tôi cũng chính là một trong sáu người của dòng họ Bùi đó. Tôi là ông nội của hai đứa Thu Dung, Thu Hương. Tôi không đành lòng nhìn chúng nó cứ trả thù những người vô tội, cho nên tôi tự tách mình sống ở chân đồi này, để may ra cứu ai được thì cứu. Tôi thấy cậu nhân đức, hiền lành, lại chưa tới số chết, nên hôm qua mới gọi thằng Sáu Tùng và dặn nó cứu cậu. Nếu không có nó ra kịp thời thì hai đứa kia đã hút hết máu của cậu, cậu sẽ chết tại ngôi mộ của nó. 

Tâm rùng mình, choáng váng. Một hồi lâu mới định thần lại, khi ấy ông cụ đã biến mất. Anh thừ người ra một lúc, rồi Tâm bước đi mà không dám quay lại..

truyện tiếp theo:

Trăng Lạnh Nhà Mồ

Chuyến xe đò rời bến Sài Gòn vào 5 giờ sáng. Vậy mà mãi tới hơn 3 giờ chiều mới tới bên này Bắc Bassac (Bắc Cần Thơ sau này - TG). Tất cả hành khách đều mệt lả người sau hơn mười tiếng đồng hồ ngồi nêm cứng trên xe. Mà người mệt nhất có lẽ là cô gái ngồi cạnh Đức, bởi suốt lộ trình cô nàng ói liên tục và hầu như không ăn uống gì dọc đường, dẫu Đức đã rất lịch sự mua thức ăn mamg lên mời. 

Một bà ngồi băng trước quay lại bảo Đức: 

- Cậu nên xuống mua ly sữa đem lên cho vợ cậu uống, chứ nhịn đói mà lại ói suốt như vậy chịu sao nổi. 

Đức hốt hoảng lên tiếng liền: 

- Dạ, không phải đâu! Tôi... tôi chỉ... 

Anh muốn đính chính về cách ghép đôi như vậy của bà nọ, nhưng anh chưa kịp nói hết lời thì lơ xe đã la lớn, cắt ngang lời anh: 

- Tất cả xuống xe qua phà! Không được ai ở lại! 

Đức chưa kịp đứng dậy thì cô gái lại ói lần nữa. Đã biết ý rồi, lần này Đức dùng ngay chiếc khăn mà lúc nãy anh lấy ra sẵn, hứng nước ói của cô gái và dùng một đầu lau cho cô nàng. Cô gái hầu như không còn tự chủ được, cô ói xong thì cứ dựa đại vào vai Đức mà chịu trận. 

Bà ngồi trước nói với lơ xe: 

- Để cho vợ chồng cậu này ở đây. Cậu ấy phải săn sóc cho vợ, cô ấy ói quá trời xuống sao được! 

Rồi bà vừa rời xe vừa nói: 

- Cậu cứ ngồi đó đi, để tôi mua giùm sữa cho. 

Đức chẳng còn hơi sức đâu mà đính chính, anh móc tiền ra đưa cho bà ta, nhưng bà này xua tay: 

- Tiền bạc gì cậu ơi! 

Rồi bà ta đi thẳng vào một quán nước phía bên trong lề. Lát sau trở ra với một lon sữa đầy còn nóng hổi bảo Đức: 

- Cậu ngồi lại đó cố đút cho cô ấy uống được muỗng nào hay muỗng nấy. Có ít muỗng sữa sẽ đỡ hơn. 

Rồi bà vừa lắc đầu vừa cười vui với Đức: 

- Thấy cậu chăm sóc cho vợ mà phát chán với ông chồng tôi ở nhà, đời nào ông ấy đút cho tôi được muỗng sữa nào dù đã sống với nhau đã hơn hai chục năm rồi! 

- Tôi không phải... 

Nhưng bà ta đã bỏ đi, đâu cần nghe lời trần tình của Đức. Hành khách trên xe đã xuống hết, trên xe chỉ còn lại Đức và cô nàng. Lúc này anh có ý muốn đẩy cô ta ra khỏi vai mình, nhưng vô vọng, bởi nàng ta hầu như chẳng biết gì nữa. Nhìn cảnh đó ai mà không nghĩ như bà hành khách nọ. Trông Đức khác nào một anh chồng trẻ với cô vợ mới ốm đau đang cần sự che chở! 

Lâm vào cảnh dở khóc dở cười này, Đức đành phải chấp nhận và càng lúc anh càng tỏ ra có trách nhiệm thật, chứ không phải là người đóng vai bất đắc dĩ. Thậm chí người tài xế cũng phải lên tiếng: 

- Cậu đóng cửa lại để cô đỡ phải gió và cứ ngồi yên đó để lát nữa tôi cho xe xuống phà. Chà, vợ trẻ mà yếu dữ a! 

Đức muốn đính chính, nhưng nhìn cô nàng hầu như chẳng nghe thấy gì, nên anh cũng lờ luôn. Thấy lon sữa trên tay đã bắt đầu nguội, Đức múc từng muỗng nhỏ rồi nhẹ nhàng đưa vào miệng cô nàng, chỉ hy vọng cô nàng không gạt tay ra làm đổ văng tung tóe, chứ không mong gì đút được muỗng nào. Vậy mà lại có kết quả ngoài mong đợi. Cô nàng chép chép mấy cái rồi ngoan ngoãn nuốt từng hớp nhỏ như một đứa trẻ! 

Đức vốn khéo tay trong việc chăm sóc trẻ con và đã từng được mấy đứa cháu con của anh chị mình thích thú mỗi lần được anh chăm sóc, nên bây giờ anh có làm cho cô nàng hài lòng cũng không phải lạ. Một lúc sau, sau khi uống được hơn chục muỗng sữa thì cô nàng đã có vẻ tỉnh táo nhưng khi vừa mở mắt ra thì lại hốt hoảng kêu lên: 

- Anh... anh... sao anh? 

Đức bước hẳn xuống xe, chợt cô ta kêu lên: 

- Anh đi đâu vậy? 

- Cô hết bệnh rồi thì tôi phải xuống xe, kẻo bị người ta đuổi xuống! 

- Vậy tôi còn bệnh thì sao? 

- Thì... 

Đức chưa kịp trả lời thì lúc ấy người tài xế từ xa đang chạy ngược lại, la lên: 

- Anh lên xe ngồi với chị đi, xe xuống phà ngay đây! 

Đức lại phải miễn cưỡng leo trở lên xe và anh nhận được một nụ cười khó hiểu của cô nàng. Và rõ ràng là nàng ta cố ý lại ngả đầu vào vai Đức như lúc nãy kèm câu nói: 

- Dẫu sao được dựa đầu thế này cũng đỡ chóng mặt hơn, như vậy chắc là sẽ hết ói! 

Rõ ràng là cô ta biết những việc mình gây ra từ sáng đến giờ, vậy mà nói tỉnh như không! Đức hỏi gặng lại: 

- Cô không ói nữa thật chứ? 

- Cũng còn tùy... tùy anh có cho mượn vai nữa không! 

Đức nhổm người dậy, định đẩy cô nàng ra, nhưng cô ta đã nói khẽ vào tai: 

- Ông tài xế nhìn thấy đuổi cả hai xuống bây giờ! 

Đức đưa lon sữa cho cô ta: 

- Cô uống cho hết đi, để chắc ăn không ói nữa. 

Nàng lại cười cười: 

- Nuôi bệnh dở ẹt vậy mà cũng được khen! 

Dù nói vậy nhưng nàng ra vẫn cầm lấy lon sữa và uống một hơi cạn! Bây giờ Đức mới đùa: 

- Giống thuốc tiên quá! 

- Thuốc tiên cũng không bằng tay tiên! Nếu không nhờ bàn tay đút sữa điệu nghệ của anh thì chắc em không thể nuốt trôt giọt nào! 

Nàng ta đổi sang gọi Đức bằng anh xưng em ngọt xớt khiến anh phải dịu giọng: 

- Cô khỏe hẳn rồi phải không? 

Bỗng cô nàng nói nhanh: 

- Chúng ta phải biết tên nhau và xưng hô cho đúng cách, kẻo lát nữa mọi người lên xe biết chúng ta đóng kịch thì họ cười cho! 

- Cười cô chứ đâu phải cười tôi! 

Tuy nói vậy chứ Đức cũng tự giới thiệu: 

- Tôi tên Đức, nhà ở Ô Môn. 

Nàng reo lên: 

- Em cũng ở gần đó, ở Thốt Nốt! Em là Oanh, Kiều Oanh đây. 

Phà cập bến, xe di chuyển lên bờ, thấy hành khách sắp sửa leo trở lên xe, nàng tranh thủ nói nhanh: 

- Hồi nãy họ nói chúng ta là... vợ chồng, anh chưa kịp đính chính phải không? Vậy thì... đừng đính chính nữa, người ta không tin đâu! 

- Nhưng mà... 

Nàng lại cười: 

- Người mắc cỡ, đính chính phải là em kia! Nhưng thôi kệ... chỉ chút nữa là xuống xe rồi mà! 

Nghe nàng ta nói có lý, nên Đức im lặng cho đến lúc hành khách lên xe đầy đủ. Lúc ấy bà khách ngồi băng trên quay lại nhìn Oanh và reo lên: 

- Cô tươi tỉnh lại rồi kìa, may quá! 

Rồi bà ta nói tiếp đủ cho hai người nghe: 

- Có hơi vợ chồng nó kỳ diệu vậy đó! 

Đức ngượng chín người, anh lại định lên tiếng thì Oanh đã kịp nói thay: 

- Dạ, con cám ơn dì. Nhờ có dì nên con mới... 

- Có gì đâu, đi đường xa giúp nhau khi qua khi lại mà. 

Chỉ mười phút sau thì đã tới bến xe. Lúc này cô nàng mới hỏi Đức: 

- Anh về luôn nhà hay có cần ở lại đây sáng mai về sớm? Em có nhà quen, có thể ngụ lại được. 

Đức vội xua tay nói: 

- Không được, tôi phải về ngay, ngày mai... 

Đức định nói ngày mai là lễ hỏi của mình, mọi người đang chờ ở nhà nhưng kịp dừng lại. 

Kiều Oanh cũng nói: 

- Ngày mai em cũng có việc ở nhà, nhưng sáng về sớm có sao đâu! 

Đức định gọi chiếc xe lôi thì cô nàng chỉ tay về phiá bên trái: 

- Về Ô Môn thì phải đi xe đó, chứ xe lôi chạy sao nổi? 

Đức lại chỉ tay về hướng bến đò sông: 

- Ra bến đò đi về, chứ quê ở tận trong xa, xe đâu chạy tới mà đi! 

Nàng tỏ ra giật mình: 

- Anh ở tận đâu lận? 

- Kênh Ô Môn, gần ngọn cùn. 

- Vậy ra... 

Nàng định hỏi gì đó nhưng kịp ngừng lại, cho đến lúc Đức đã leo lên xe lôi rồi, cô mới nói với theo: 

- Em biết chỗ đó! 

Nhưng hình như Đức không nghe...

° ° °

Vợ chồng ông Phán Hòa vẫn chưa thông chuyện bà mai nói. Bà ấm ức nói: 

- Hồi họ hứa với mình thì ngon ngọt lắm, sao bây giờ lại đổi ý, gây khó khăn vậy? 

Ông Phán cũng nói chen vào: 

- Tôi nhớ chính bà ấy nói với tôi lúc lễ coi mắt là bỏ hết mọi nghi lễ rườm rà, chế luôn cho chuyện phải có đôi bông hột xoàn 6 li như đòi hỏi ban đầu, vậy mà nay lại bắt phải có đủ. Gấp gáp quá làm sao xoay cho ra! 

Bà mai Lệ là người luôn linh hoạt trong mọi chuyện: 

- Họ làm khó vì chuyện xảy ra ngay hôm nay, mới hồi trưa này thôi. 

Bà Phán chau mày: 

- Chuyện gì? 

- Bà Cả có người quen bắt gặp cậu Đức cặp kè với gái ở trên xe đò! 

Bà Phán Hòa như giẫm phải lửa: 

- Thánh thần ơi, có chuyện đó sao? Đức, con vào đây xem sao? 

Đang ở ngoài sân sửa sang lại bàn ghế, Đức vội bước vào lễ phép hỏi: 

- Má cho kêu con? 

Ông Phán mau miệng: 

- Bữa nay mày đi với con nào? 

Bà cũng hỏi dồn: 

- Người ta nói con cặp kè với con nào đó trên xe đò, có hông? 

Đức cười xòa: 

- Tưởng chuyện gì. Có một cô... 

Bà Phán gần muốn líu cả lưỡi: 

- Mày...mày... vậy hả Đức? 

Đức vẫn bình tĩnh: 

- Có gì đâu má. Cô ấy là khách đi chung, cô ấy bị ói, mệt lả người, nên con giúp, chứ cặp kè gì đâu! 

Bà mai Lệ nói rành rẽ: 

- Có người thấy rõ ràng cậu với cô gái đó vai kề vai, mà còn tình tứ lắm trên xe đò, họ về mách lại với... 

Bà Phan Hòa nhanh trí: 

- Chắc là nói lại với chị phải không, rồi chị đi học lại cho bên kia họ biết chứ gì? 

Bị bắt đúng thóp, bà ta lúng túng: 

- Thì... thì tôi sợ cậu Đức đây bậy bạ làm hư việc nên có nói chút đỉnh... nhưng nói vậy thôi chứ bên kia người ta cũng đâu có bắt bẻ gì. 

Ông Phán nổi giận: 

- Không bắt bẻ mà thay đổi đòi hỏi. Bữa trước nói không cần đôi bông, nay lại đòi! Mà đòi gấp như vậy thì lấy đâu sáng mai có để đem qua? Có phải là chị hại nhà này không! 

Bà mai cứng họng. Cũng may là Đức đã lên tiếng: 

- Không hề gì, con có sẵn đôi bông tai sắm hồi năm ngoái, tính để dành... 

Ông Phán Hòa nói nhỏ bên tai bà: 

- Hồi đó nó yêu con Lan Ngọc ở Sài Gòn, đáng lẽ hai đứa lấy nhau, kế con nhỏ nghe lời cha mẹ đi lấy mối khác. Tưởng nó đã chán đời đem bán đôi bông rồi, ai ngờ còn... 

Bà Phán bấy giờ mới cười: 

- Dữ hóa lành, nhờ ơn trời đó con! Thôi, đi nghỉ sớm để mai còn đi. Phải đi thật sớm thì tới mười giờ mới tới được bên Thốt Nốt. 

Nghe nhắc Thốt Nốt làm Đức chợt nhớ tới cô gái trên xe đò, cô ta nói nhà cũng ở bên đó... và trong suốt giấc ngủ, hầu như Đức cứ bị ám ảnh mãi hình ảnh cô nàng dựa đầu trên vai mình ngủ ngon lành.

° ° °

Có lẽ ảnh hưởng của chuyến đi mười mấy tiếng đồng hồ nên vừa nằm xuống là Đức ngủ say. Ngoài những hình ảnh về cô gái ám ảnh, Đức hầu như không nhớ gì khác, mãi cho đến lúc anh choàng tỉnh dậy do có tiếng ai đó gọi bên ngoài cửa sổ!

- Lạnh quá... giúp tôi với! 

Ban đầu Đức cứ tưởng là mình chiêm bao, nhưng sau khi nhìn kỹ anh giật mình, bởi bên ngoài kia có một người đang ôm bụng, đứng không vững. Lại là một cô gái! 

- Kìa, cô... 

Đức quên hết mọi cảnh giác, anh bước tới bên cửa sổ và nhìn rõ hơn, đó là một cô gái còn rất trẻ, toàn thân ướt đẫm. 

- Em lạnh... em chết... 

Cô ta vừa nói tới đó thì ngã lăn ra và bất động. Đức hốt hoảng, anh tung cửa chạy ra. Đến nơi, anh cúi xuống nhìn và giật mình kêu khẽ: 

- Quế Anh! 

Quế Anh là người vợ chưa cưới của Đức, người mà ngày mai anh sẽ đưa sính lễ sang để làm lễ hỏi! 

- Tại sao như thế này? 

Đức đưa tay định đỡ cô lên thì bỗng anh như bị điện giật, người bị bắn ra đến hơn một thước! 

Đến khi bò dậy được thì chẳng còn thấy cô nàng đâu? Ở chỗ nàng nằm vừa rồi còn lại một cái khăn quàng cổ mà vừa cầm lên, Đức đã nhận ra ngay đó chính là khăn mà trước đây mấy tháng chính anh đã mua tặng. 

- Quế Anh! 

Đức gọi quá lớn làm cho ba má anh đều giật mình tỉnh giấc. Ông Phán hỏi vọng ra: 

- Gì vậy con? 

Giọng Đức vẫn còn run: 

- Dạ... con... con thấy... 

Anh kịp ngừng lại, không tiện nói ra. Lát sau nói lảng ra chuyện khác: 

- Dạ, con nghe có tiếng động gì lạ ngoài này nên ra. Nhưng không thấy gì... 

Bà phán hỏi thêm: 

- Mà nghe con kêu tên Quế Anh? 

- Dạ, con đâu có... 

Đức chạy nhanh về phía sau khu vườn cam của cha mình, trăng lúc này đang sáng nên có thể nhìn rõ mọi vật. Chẳng hề thấy bóng dáng của nàng đâu! 

- Kỳ lạ! 

Anh tìm kiếm một lúc thì chán nản quay vào. Nghĩ có lẽ mình còn chưa tỉnh, ảo giác cũng nên... 

Nhìn đồng hồ tay thấy mới một giờ sáng, Đức vội lên giường ngủ tiếp. Nhưng chưa kịp chợp mắt thì anh chợt nghe có một tiếng của ai đó ngay trong phòng mình! 

- Ai vậy? Ba hả? 

Anh bật dậy định tìm xem ai thì bỗng cảm giác một bên tay của mình tê rần và lạnh buốt! Một giọng nói sát mang tai: 

- Hãy rời xa nàng ta ngay, nếu không muốn chết! 

Trong bóng tối, nhưng Đức cũng nhìn thấy, thấy đôi mắt của người ấy sáng như hai đốm lửa màu xanh! Và hơi lạnh từ bàn tay anh ta truyền sang Đức càng lúc càng lạnh buốt, khiến anh suýt phải kêu lên đau đớn! Cũng may vừa lúc đó có tiếng của ông Phán Hòa bên ngoài: 

- Ngủ chưa con? 

Người đó buông tay ra. Đức ngã nhào trở lại giường cũng vừa lúc ông Phán đẩy cửa vào. 

- Có chuyện gì phải không con? 

Đức hoàn hồn, đáp: 

- Dạ, có... có người ở trong này... 

Ông Phán đưa cây đèn dầu lớn vào phòng, căn phòng sáng lên vừa hỏi: 

- Ai đâu? 

Đức nhìn khắp nơi, anh vẫn chưa hết run: 

- Một người đàn ông. Anh ta nắm tay con... 

Lúc này bà Phán cũng đã chạy sang. Bà đích thân cúi xuống tìm dưới gầm giường, trong kẹt tủ, không nơi nào là không lục tung lên. Bà ngạc nhiên hỏi: 

- Có thấy gì đâu con? 

Đức nhìn ra cửa sổ, anh cảm giác như còn có hơi thở của ai đó rất gần bên... Anh đột ngột nói lớn: 

- Ai đã dám tới thì có gan ra mặt đi! 

Không có ai trả lời, bà Phán giờ mới hơi run: 

- Bộ có người vào phòng con thật hả? Coi chừng ăn trộm đó... 

Bà đi xem lại đồ đạc, nhưng Đức đã nói: 

- Không phải ăn trộm đâu má. Đây là... người cõi âm hay sao đó, tay chân của họ lạnh ngắt, họ chụp con chỗ này này... 

Anh đưa tay lên xem và hốt hoảng kêu lên: 

- Má coi nè! 

Trên cổ tay của Đức hằn lên những vết bầm tím khác thường. Ông Phán Hòa lo lắng: 

- Con coi có đau đớn gì không? 

Đức sờ thử thì chẳng có cảm giác đau, anh lắc đầu: 

- Không đau. 

Anh thuật lại đầu đuôi chuyện vừa rồi, nhưng không nói ra chuyện mình gặp Quế Anh. Anh chỉ hỏi: 

- Mấy hôm nay bên nhà Quế Anh có ai qua nhà mình không? 

- Họ không ai qua, nhưng bà mai ngày nào không tới lui. Nghe nói con Quế Anh cũng mới từ Cần Thơ về hôm qua. Con nhỏ năm nay thi đậu bằng thành chung, giỏi thật! 

Bà còn nói thêm: 

- Nhà bên đó má không ưa ai, chỉ mình con Quế Anh là được! Mà con nhỏ cũng kỳ, nó nhắn với bà mai là nếu nó không làm dâu được nhà này thì nó... thà chết còn hơn! 

Đức sửng sốt: 

- Cô ấy nhắn lúc nào? 

- Thì mới mấy bữa trước. Má nghe nói gở như thế nên tính bữa nào gặp, má sẽ rầy nó. Hay là tại nó nghi kỵ con điều gì đó? 

Đức lắc đầu: 

- Con có làm gì đâu mà nghi với kỵ. 

- Thì chuyện con với đứa nào trên xe đó! 

- Đó là chuyện mới xảy ra hồi trưa hôm qua. 

Chợt Đức nhớ lại lời nói của con người kỳ dị lúc nãy, anh kêu khẽ: 

- Phải chăng... 

Bà Phán ngạc nhiên: 

- Con nói phải cái gì? 

- Dạ... à mà không có gì! 

Ông Phán nhận xét: 

- Ba coi mòi con nhỏ thương con lắm, tuy có phần kín đáo giữ ý. Như cách đây mấy tuần, nó có gửi về cho con vật này mà ba quên chưa đưa lại cho con. 

Ông trở về phòng lấy ra một cái hộp giấy nhỏ: 

- Ba chưa coi nên không biết cái gì trong này. Con mở ra xem. 

Đức mở ra và hết sức ngạc nhiên khi thấy đó là một chiếc khăn quàng cổ giống y chiếc khăn anh vừa nhặt được ngoài vườn. Bà Phán nói liền: 

- Hôm rồi nó đi Đà Lạt, chắc là mua trên đó rồi gửi tặng con, vậy mà ba con lại không đưa. 

Đức nói làm cho cha mẹ anh đều ngạc nhiên: 

- Đây là chiếc khăn chính con tặng cho cô ấy! Chẳng hiểu sao... 

Anh chạy vào phòng tìm chiếc khăn lượm được lúc nãy, nhưng quá đỗi ngạc nhiên khi không còn thấy trong phòng nữa! 

- Ủa ba lấy khăn này ở đâu vậy? 

- Thì ba giữ từ bữa đó đến giờ. 

- Nhưng... mới hồi nãy... 

Anh đành phải kể lại chuyện gặp Quế Anh lúc nãy cho cha mẹ nghe. Vừa nghe xong, họ đều hốt hoảng: 

- Không xong rồi! 

Họ lặng người đi rất lâu với bao nỗi hoang mang trong lòng...

° ° °

Khi đoàn nhà trai tới thì Quế Anh đã mất tích hơn nửa ngày rồi. Lúc đầu, trong nhà cứ ngỡ cô nàng bỏ đi đâu đó rồi về, nhưng khi có người báo tin thì mọi người mới tá hỏa: 

- Đôi hài cô Quế Anh mang còn nằm trên xuồng, mà chẳng thấy cô ấy đâu. 

Chuyện Quế Anh tuy là người ở vùng sông nước mà chỉ biết bơi lõm bõm là điều ai trong nhà cũng hiểu, bởi vậy bà Cả lo sốt vó: 

- Tụi bay chia nhau đi tìm kiếm nó coi! Trời ơi, tôi đã nói rồi, phải để mắt tới nó trong mấy bữa này mà... 

Bà định nói gì đó nhưng thấy nhiều người quá nên thôi, đợi một lúc khi đã kéo ông chồng ra ngoài rồi, bà mới nói: 

- Hay là ông rầy la gì nó nữa? 

Ông Cả trợn mắt nhìn bà: 

- Có bà ép nó vụ con trai chủ nhà máy xay lúa thì có! Tôi đã nói rồi, hôm nay thì bên cánh Phán Hòa qua tối và lễ hỏi cử hành rồi, còn nói tới lui nỗi gì nữa, bà cứ không nghe... 

Bà lừ mắt nhìn ông: 

- Chưa nhận sính lễ thì đâu có gì phải lo! Vả lại tôi cũng phân tích lợi hại cho nó nghe thôi, chứ có ép uổng gì đâu! 

- Cái giọng điệu chì chiết của bà thì còn hơn là ép uổng. Mà hỏi thật, con trai thằng chệt Tỷ thì có gì hay ho đâu mà bà ham vậy chứ? Bà cũng thừa biết là con Quế Anh nhà mình nó ghét cay ghét đắng loại người đó nên mỗi lần bà 

nhắc tới là nó tìm cách bỏ đi, vậy mà chiều hôm qua bà vẫn còn oang oang cái miệng! Bây giờ bà có khóc thì cũng trễ rồi, xuống hà bá mà tìm nó! 

Ông nói xong bỏ đi thẳng xuống bến rồi mất dạng luôn. Bà Cả vừa lo lắng vừa rối trong lòng. Khi vợ chồng Phán Hòa và Đức bước vào nhà thì bà mai Lệ mới thay mặt giải thích: 

- Chẳng biết cô Quế Anh đi đâu mà từ đầu hôm qua tới giờ chưa về? 

Bà Phán Hòa nói liền: 

- Hay là nó bị như mình thấy? 

Nghe bà nói vậy bà Cả hỏi dồn: 

- Chị thấy nó ở đâu? 

Đức phải đỡ lời cho mẹ: 

- Dạ... tối qua má con chiêm bao thấy Quế Anh, chứ đâu phải... 

Nãy giờ không để ý, giờ nghe Đức lên tiếng, bà Cả quay sang anh: 

- Hôm qua nó một hai nói đi tìm con, đúng vậy không? 

Đức ngơ ngác: 

- Đâu có bác! Nhưng mà... 

Nhớ lại chuyện đêm rồi, Đức kêu lên: 

- Đúng rồi, người của Quế Anh đẫm nước, cô ấy ngã xuống sông rồi! 

Bà Cả càng quýnh hơn: 

- Sao nãy giờ con không nói! 

Hầu như mọi người dự lễ hỏi đều chia nhau đi tìm Quế Anh. Đức ngồi riêng một xuồng nhỏ, anh vừa bơi dọc con sông vừa khấn: 

- Xin cho tôi tìm được cô ấy, rồi muốn chuyện gì tôi cũng chịu! 

Lời anh vừa dứt thì bất chợt ngay phía sau lưng anh có người lên tiếng: 

- Người chung tình như vậy, thảo nào người ta không chết mê chết mệt! 

Quay nhanh lại, Đức sửng sốt kêu lên: 

- Kìa, cô! 

Đang ngồi chung xuồng với Đức lúc ấy là... Kiều Oanh, cô gái bị ói trên xe đò! Cô nàng cười rất tự nhiên và giải thích sự có mặt của mình: 

- Người ta xuống xuồng mà không hay biết gì hết! Đúng là lúc lòng dạ đang nghĩ và lo lắng cho ai đó thì đâu còn chú ý gì nữa chung quanh! 

Đức chống chế: 

- Lúc lui xuồng ra đâu thấy cô? 

- Cái đầu anh bận nghĩ tới cô Quế Anh thì đâu cần gì thấy ai khác! Mà sao mọi người mãi đi tìm ở dọc con sông này, lỡ cô ấy không ở đây thì sao? 

Đức nhìn sững cô nàng: 

- Sao cô biết Quế Anh? 

Cô nàng vẫn giữ nụ cười bí hiểm trên môi: 

- Xứ Thốt Nốt này nhỏ xíu, mà vợ chưa cưới của anh lại đẹp và nổi tiếng khắp vùng, ai mà chẳng biết! Với lại anh quên là tôi cũng là người xứ này sao? 

- Tôi quên... 

Anh chưa kịp hỏi thêm là tại sao cô nàng leo lên xuồng mình, thì Kiều Oanh đã chỉ tay về bên trái và nói: 

- Anh rẽ về phía này đi. 

- Chi vậy? 

Nàng ta nghiêm giọng: 

- Anh có muốn tìm vợ chưa cưới của mình không? 

Đức còn đang ngơ ngác thì cô nàng đã giằng cây dầm, tự bơi vừa nói: 

- Anh cứ ngồi đó rồi sẽ biết. 

Thái độ của cô nàng khiến Đức quá đỗi ngạc nhiên. Hình như Kiều Oanh biết hết chuyện của anh, thậm chí chuyện Quế Anh mất tích? 

- Sao cô biết tôi và Quế Anh...? 

Nàng cười thành tiếng: 

- Nhà em ở đối diện nhà Quế Anh, chỉ cách con sông nhỏ. Hôm qua về tới đây em đã nghe nói chuyện Quế Anh sắp đám hỏi mà chưa biết lấy ai, cho đến khi thấy anh đi ghe có mâm quả tới thì em đã giật mình, không ngờ chú rể lại là anh! Đúng là suýt nữa em đã... 

Nàng nói tới đó thì ngừng ngang, không phải ngại mà chừng như sợ điều gì đó, mặt tự dưng biến sắc! Đức ngạc nhiên: 

- Cô sao vậy? 

Kiều Oanh càng cố bơi nhanh, cuối cùng đến một khúc cua của con sông, mà phía bên tay phải có một cái miếu lớn, cô chỉ lên và nói: 

- Anh mau lên đó thì rõ! 

Đức còn đang lừng khừng thì tự dưng có ai đó xô mạnh một cái khiến anh chúi nhủi suýt ngã. Quay lại tính cự, nhưng thấy cô nàng vẫn ngồi ở lái xuồng, tay đang giữ dầm, không có vẻ gì là vừa mới xô anh. 

- Sao cô xô mạnh vậy? 

Kiều Oanh gắt lên: 

- Không ai xô anh cả. Anh mau lên trên đó đi kẻo không kịp! 

Đức đành phải bước lên chỗ cái miếu. Từ xa nhìn thì nghĩ đây là một miếu hoang, khi lên tới gần mới thấy là nhang khói tỏa hương thơm lừng. Chứng tỏ miếu đang có người thờ cúng. Tuy nhiên khi nhìn kỹ thì ngoài mấy bát hương đang cháy và hai mâm trái cây tươi thì không có ai ở đó. 

Nhìn lên bệ thờ, bỗng Đức kêu lên: 

- Quế Anh! 

Rõ ràng là Quế Anh đang ngồi xếp bằng trên bệ thờ, mắt nhắm nghiền, vẻ mặt đờ đẫn khác thường... 

- Quế Anh! 

Đức kêu một tiếng lớn, Quế Anh mở mắt ra rồi, như thân cây đổ, cô nàng ngã ngang qua, nằm dài trên bệ thờ! 

- Quế Anh! 

Đức phải nhảy bổ vào đỡ lấy cô nàng, bởi lúc ngã thì thân người nàng nằm trên bát nhang đang cháy! Bế xốc Quế Anh lên, Đức chạy ngay xuống 

xuồng vừa định gọi Kiều Oanh tiếp một tay, nhưng nhìn chẳng thấy cô nàng đâu? 

- Cô Kiều Oanh ơi! 

Kêu mãi chẳng nghe trả lời, mà nhìn Quế Anh trong tình trạng đó Đức không thể chần chừ được, anh vội đẩy xuồng lui ra và bơi nhanh về nhà ông bà Cả. 

Vừa nhìn thấy anh chở con gái về, bà Cả gào lên: 

- Con ơi là con! 

Bà ôm chầm lấy con gái, thấy lạnh ngắt thì càng gào to hơn: 

- Con ơi, con có mệnh hệ nào thì má... 

Ông Cả nạt ngang: 

- Để yên cho người ta cứu nó coi! 

Đức giải thích sơ qua cho mọi người nghe rồi giục: 

- Mau thoa dầu làm ấm cho cô ấy đi! 

Mẹ anh hỏi nhỏ con: 

- Con gặp nó ở miếu mà mình mẩy có ướt không? 

Đức lắc đầu: 

- Không! Con thấy quần áo vẫn bình thường mà, chỉ có điều... 

Bà Phán nói bằng giọng lo lắng: 

- Mấy chiếc xuồng chài quả quyết là họ nhìn thấy Quế Anh lao mình xuống sông rối mất tích luôn! Chuyện ấy xảy ra tối hôm qua lận, giống với thời điểm mà con nói gập nó lạnh run trong vườn nhà mình đó! 

Đức ngẩn ngơ một lúc rồi nhẹ lắc đầu: 

- Không tin được những chuyện lạ lùng như vậy! Có thể là một điềm báo thì đúng hơn... 

Họ không có thì giờ để bàn thêm, vì lúc đó Quế Anh khi được thoa dầu thì có dấu hiệu hồi tỉnh. Cô nói ú ớ gì đó trong miệng không nghe rõ, nhưng mấy tiếng cuối cùng thì hình như có tên của Đức! 

Bà Cả gọi Đức: 

- Con hối nó coi, nói gì? 

Đức ghé sát vào Quế Anh hỏi đủ cho nàng nghe: 

- Em có nghe được anh nói gì không? Có phải em muốn nói gì với anh không, Quế Anh? Anh là Đức đây. 

Quế Anh chớp mắt mấy cái, nhưng vẫn im lặng... 

Nửa giờ sau vẫn như vậy. Quá sốt ruột nên bà Cả phải nhờ Đức: 

- Nó chưa tỉnh, nhưng xem ra chỉ có con là có thể giúp cho nó thôi. Má nhờ con ở lại đây đêm nay. 

Trong lúc nguy cấp này bà mới chịu dịu ngọt với Đức. Thật ra trong lòng Đức cũng không đành lòng nhìn Quế Anh như vậy, nên anh nhận lời ngay: 

- Con sẽ ở lại. Xin phép má để cho con ngồi đây một mình với em nó. Hình như Quế Anh không thích có đông người. 

Tối đó chỉ mình Đức ngồi bên cạnh canh cho Quế Anh ngủ. Thỉnh thoảng anh nghe cô ấy gọi khe khẽ tên mình và hai dòng lệ chảy dài hai khóe mắt. Không thấy ai bên cạnh nên Đức đưa tay nắm lấy nàng như một cách truyền hơi ấm. Đột nhiên Đức phát hiện trong lòng bàn tay của Quế Anh có một vật gì đó giống như đạo bùa chú bằng vải màu vàng. 

- Cái gì vậy? 

Đức hỏi khẽ và tất nhiên là không ai trả lời. Anh tiện tay lấy vật ấy đưa xem và giật mình! Bởi đó thật sự là một loại bùa chú gì đó rất lạ. Anh không suy nghĩ gì thêm, vội cầm vật lạ ấy thuận tay ném thẳng nó vào đĩa đèn dầu đang cháy. Một ánh lửa xanh bùng lên, cùng lúc với một tiếng thét thật to của Quế Anh! 

Vợ chồng ông Cả đang ở nhà trong vội chạy ra hỏi: 

- Chuyện gì vậy? 

Dĩa đèn dầu sau khi bùng cháy đã tắt tối đen, ông Cả giục gia nhân: 

- Tụi bay đốt đèn lên coi! 

Bà Cả thì hỏi lần nữa: 

- Chuyện gì vậy Đức? 

Chẳng nghe Đức lên tiếng, bà hoảng hốt: 

- Có chuyện rồi ông ơi! 

Khi đèn đốt sáng trở lại thì cả hai Quế Anh và Đức không còn đó nữa! 

- Trời ơi! 

Bà Cả chỉ kêu được mấy tiếng rồi ngất xỉu...

° ° °

Kiều Oanh lúc mê lúc tỉnh suốt cả đêm khiến cả nhà lo lắng, sợ hãi. Vào nửa đêm khi vừa tỉnh lại, cô đã chỉ tay qua bên kia sông mà la lên: 

- Đừng hại người ta, họ có làm gì đâu mà ác với họ quá lắm vậy! 

Ông bà Hai Tâm chẳng hiểu chuyện gì nên vội hỏi: 

- Con nói ai, Kiều Oanh? 

Nhưng cô nàng không trả lời, mà lại nằm xuống và rơi vào hôn mê như trước đó. Khoảng nửa giờ sau Kiều Oanh lại tỉnh lần nữa. Nhưng lần này thì giọng điệu khác hẳn: 

- Họ đã chết chưa? Sao không ai qua bên đó xem hai đứa nó ra sao rồi? 

Ông Hai Tâm hỏi: 

- Con nói họ là ai? 

Kiều Oanh chỉ tay qua chỗ ngôi nhà có đèn sáng bên kia sông: 

- Nhà đó đó! 

Bà Hai giật mình nói: 

- Đó là nhà ông Cả Sử, sao con lại... 

Kiều Oanh nghiến răng: 

- Phải để họ chết hết đi! 

Nói xong cô ta lại ngã ra và hầu như không biết gì nữa! Vợ chồng Hai Tâm lo lắng quá đỗi, bà nhớ lại chuyện tối qua, mà càng sợ thêm: 

- Chiều qua đang ăn cơm bỗng nó bỏ đi xuống bến rồi đi đâu chẳng hiểu, đến đêm mới về mình mẩy ướt đẫm, người lạnh cóng rồi sau đó thì mê man luôn! Đây là lần đầu tiên nó bị như vậy. 

Ông Hai thêm: 

- Ngay bữa ở Sài Gòn về nó đã có biểu hiện kỳ kỳ rồi... Cứ hỏi là có thấy thằng Hiếu tới thăm không? Mà thằng Hiếu thì đã chết mấy năm rồi... 

Bà Hai cũng nhớ lại: 

- Nó hầu như không nhớ gì chuyện thằng Hiếu đã chết, mà cứ sợ thằng ấy tới nhà tìm! Hình như nó bị cái gì đó ám hay sao mà tính tình thay đổi, chứ từ nào nó có như vậy đâu? 

Vừa khi ấy từ ngoài sân có người bước vào nhanh và hỏi oang oang: 

- Có chuyện gì vậy anh chị? 

Nhìn ra thì bà Hai reo lên: 

- Cô Tiên! Trời ơi, sao lại bất ngờ vậy? 

Ông Tâm cũng ngạc nhiên không kém: 

- Nghe nói cô ở bên Tây, về hồi nào vậy? 

- Mới về hôm qua. Sáng nay phải hỏi thăm mãi mới nhớ đường qua đây thăm anh chị. Bây giờ xứ mình thay đổi nhiều quá! 

Rồi bà ôm chầm lấy bà Tâm, ràn rụa nước mắt: 

- Sui gia hụt của em đây mà! Phải chi năm đó bên Pháp em không bị bệnh liệt giường và kịp về để lo đám cưới cho thằng Hiếu thì nó đâu có chết oan uổng như vậy! 

Bà Tâm chỉ tay lên bộ ván gỗ nơi Kiều Oanh đang nằm thiêm thiếp, nói: 

- Cũng từ khi thằng Hiếu chết đột ngột thì con nhỏ tôi cũng như người mất hồn, bỏ đi và ở biệt trên Sài Gòn, ít khi về đây. 

Người đàn bà mẹ của chàng trai tên Hiếu nhìn sang, chị thấy Oanh nằm quay mặt vào vách nên nói: 

- Từ ngày thằng Hiếu báo tin là ba nó tìm được cô gái nó ưng ý thì tôi chưa một lần gặp mặt con dâu tương lai, nghe nói con gái chị dễ thương và hiền hậu lắm phải không? 

Bà Tâm chép miệng: 

- Phải chi nó dậy được thì cô sẽ thấy... 

- Cháu nó bệnh gì vậy? 

- Có bệnh hoạn gì đâu. Tối hôm qua... 

Bà do dự một chút rồi kể lại mọi chuyện cho vị khách nghe. Nghe xong, bà ta tắc lưỡi: 

- Tội nghiệp không! Dẫu nó không trở thành con dâu của tôi, nhưng vẫn là người mà con trai tôi thương, nên tôi tính chuyến này về qua gặp anh chị để xin cho nó đi theo tôi qua Pháp. Tôi ở bên đó với đứa con gái đầu, bây giờ nó lấy chồng xa nên tôi ở một mình buồn quá. Con Kiều Oanh này mà chịu theo tôi thì qua bên đó sẽ có nhà giàu cưới nó ngay! 

Bà ta vừa dứt lời thì thật bất ngờ. Kiều Oanh bật dậy la lớn: 

- Đừng nói chuyện đó! 

Vị khách chợt nhìn thấy Oanh, bà ta kinh ngạc: 

- Thì ra là... là cô sao? Là... là... 

Vợ chồng Hai Tâm ngạc nhiên: 

- Cô Sáu biết con Oanh? 

Kiều Oanh cũng vùa nhận ra vị khách: 

- Bà... bà là người trên xe đò? 

Bà khách kêu lên: 

- Hôm qua tôi về cùng chuyến xe với nó mà đâu có biết! Trời ơi, mẹ chồng gặp nàng dâu mà nhìn như người lạ, tức cười chưa! 

Nhưng chợt bà khựng lại, lắp bắp hỏi: 

- Con... con lấy chồng hồi nào? 

Trong lúc Kiều Oanh còn ngơ ngác thì mẹ cô hỏi liền: 

- Cô nói gì vậy cô Sáu? Con gái tôi kể từ khi thằng Hiếu của cô chết, nó có ai đâu! 

- Có... Tôi mới gặp... 

Lời bà chưa dứt thì một lần nữa, Kiều Oanh lại ngã vật ra rồi trở lại trạng thái trước đó. Bà Tâm hốt hoảng: 

- Con! Con! 

Rồi bà quay sang trách: 

- Cô Sáu nói gì để nó mới tỉnh đã lại như vậy rồi! 

Bà mẹ của Hiếu ngập ngừng một lúc mớt nói thẳng: 

- Hôm qua tôi về cùng chuyến xe với nó nó, ngồi băng sau kế tôi với... thằng chồng nó nữa. Giữa đường nó ói tới mật xanh mật vàng, cũng may là có thằng ấy nó lo. Thằng coi bộ được à, hiền hậu, đẹp trai và biết thương vợ nữa! 

Ông Tâm nãy giờ không nói, giờ phải chen vào: 

- Nhà tôi đã nói rồi cô Sáu, con Kiều Oanh chưa có gia đình! 

- Nhưng... 

Bà định nói tiếp thì bỗng ôm lấy đầu rồi phải ngồi xuống ghế mới không bị ngã. Bà ngạc nhiên: 

- Sao khi không tôi lại bị... 

Phải một lúc khá lâu, bà ta mới trở lại bình thường, nhưng lại tỏ ra sợ sệt điều gì đó. Bà kiếu từ: 

- Thôi, để bữa nào tôi trở qua thăm. Bữa nay tôi... tôi... 

Bà vừa nói vừa bước nhanh ra ngoài trước sự ngạc nhiên của vợ chồng Hai Tâm, bà hỏi chồng: 

- Bà ta nói gì hồi nãy vậy? Nói con Kiều Oanh nhà mình đi với ai trên xe? 

Ông Tâm nhìn lại chỗ con gái nằm và thở dài: 

- Ai mà biết... 

Lời ông chưa dứt thì bỗng Kiều Oanh thét to lên: 

- Anh Hiếu, đừng làm vậy! 

Rồi cô từ trên bộ ngựa gỗ nhảy gọn xuống và chẳng nói thêm gì, cắm đầu chạy một mạch ra ngoài! Bà Tâm gào lên: 

- Oanh! Con đi đâu vậy? 

Bà quay sang giục chồng: 

- Ông làm ơn chạy theo bắt nó lại coi, con nhỏ đang bị bệnh mà! 

Hai Tâm chạy khá nhanh, nhưng cũng không kịp, bởi Kiều Oanh đã nhảy xuống xuồng và bơi rất mau hướng qua sông. Chính ông Tâm nhìn theo thấy rõ 

ràng, con gái ông ngồi yên không hề chèo xuồng, vậy mà chiếc xuồng vẫn băng băng lướt tới như có ai đó đẩy hay kéo! 

- Oanh ơi, đừng đi, con mới biết lội, nguy hiểm lắm! 

Ông cũng nhảy xuống một chiếc xuồng khác bơi theo. Nhưng khi qua tới bờ bên kia thì không còn nhìn thấy xuồng của con gái nữa. Mà sông nước vùng này mênh mông, nhiều rạch, kênh chia nhiều hướng, biết đi theo đường nào? Cuối cùng ông cũng bơi đại theo con kênh phía tay phải. 

Trong khi đó thì chiếc xuồng chở Kiều Oanh đang phăng phăng tiến về gần cuối con sông nhỏ, nơi có ngôi miếu thổ thần bữa trước. Lần trước chính Kiều Oanh đã đưa Đức tới đây, nhưng cũng giống như lần này, cô không hề chủ động, cho nên khi nhìn lại cảnh cũ mà cô vẫn tỉnh như không. Cho đến khi cô chậm bước lên nhìn vào trong miếu lúc ấy chợt cô như hoàn hồn, kêu lên: 

- Trời ơi, đừng hại người ta! 

Trước mắt cô là hai người đang nằm dài trong miếu. Đó là Đức và Quế Anh! Cả hai trong tình trạng như say ngủ. 

- Đừng! Em nói đừng mà. Họ vô tội mà! 

Lúc ấy Kiều Oanh như đang giằng co với ai đó. Mặc dù cô đứng đó một mình. Phải đến khi cô lên tiếng rõ hơn: 

- Em lạy anh Hiếu ơi, người con trai này chỉ giúp em lúc em bị ói trên xe đò thôi, chứ anh ta nào phải là bồ hay chồng của em đâu! Anh hiểu lầm rồi... 

Cô nói chưa dứt lời thì đã nghe một cái tát mạnh vào má Kiều Oanh lảo đảo rồi ngã sấp vào chỗ bày nhang đèn cúng trước miếu. Cô gào lên: 

- Anh quá đáng, chết rồi mà vẫn còn ghen tuông vô lý như vậy, bảo người ra chung tình với anh sao được! 

Lời nói này có tác dụng ngay, bởi liền lúc đó bỗng có tiếng rú lên của một người đàn ông và tiếp theo là tất cả những vật dụng, cây cối chung quanh đó đều bị ném tung lên, ngã đổ ngổn ngang. Nhưng tuyệt nhiên không thấy người gây ra chuyện ấy! 

Giữa lúc Kiều Oanh còn chưa kịp ngồi dậy thì có một bóng đen lao vút tới như một cơn giông bão! Chẳng kịp suy nghĩ, thuận tay Oanh chụp ngay chiếc bình bằng sành dùng cắm hoa quơ lên thật mạnh. 

Bốp! 

Một tiếng va đập thật mạnh vang lên, cùng lúc đó một tiếng rú kéo dài... Tiếng rú hình như là của một người đàn ông! Cùng lúc có một vật thật to ngã xuống. Đó là... một người toàn thân đầy máu! 

Kiều Oanh bật dậy và cô cũng kịp kêu lên: 

- Hiếu! 

Người đầy máu kia sau tiếng gọi tên của Kiều Oanh đã từ từ tan biến giống như một khối nước đá để giữa trời nắng! Chỉ nửa phút sau thì nơi đó chỉ còn lại một vũng nước sền sệt, đen ngòm... 

- Hiếu! 

Oanh lại gọi tên Hiếu một lần nữa với nỗi ân hận dữ dội, cô chỉ muốn chạy theo hướng mà cô đoán là Hiếu vừa rời khỏi. Nhưng vừa kịp lúc, nhìn lại, thấy hai người vẫn đang nằm im đó thì Oanh lại la lớn: 

- Hai người hãy đi ngay đi, anh ta có thể trở lại bất cứ lúc nào! Hãy xuống xuồng về ngay nhà đi, mọi việc ở đây để tôi lo! 

Lời cô vừa dứt thì Đức và Quế Anh cũng vừa tỉnh lại. Họ ngơ ngác nhìn quanh, đến khi thấy Kiều Oanh thì Đức hốt hoảng: 

- Cô là... người hay ma? Hôm trước cô đã... 

Kiều Oanh nói nhanh: 

- Đừng hỏi lôi thôi nữa, hay dẫn cô ấy trốn đi. Đúng là hôm trước tôi đã bị Hiếu sai khiến để dẫn dụ anh tới đây và hôm nay cũng thế, chính người yêu tôi vì ghen nên đã khiến tôi cùng tới đây để ra tay sát hại hai người, nhưng tôi không đành như vậy nên vừa rồi tôi đã làm tổn thương anh ấy, để anh ấy đi mà không biết đi đâu. Tuy nhiên, lúc này hai anh chị hãy đi đi, về nhà và lập tức cử hành ngay hôn lễ, động phòng hoa chúc ngay tối nay, như vậy mới có cơ may sống sót! Chứ người yêu tôi, anh Hiếu là một hồn ma ghen dữ dội, sẵn sàng giết cả hai người nếu còn cho anh chị chưa là vợ chồng với nhau. Mau đi đi, anh ta sẽ trở lại đây ngay bây giờ! 

Đức nhìn Quế Anh rồi không chần chừ, anh bế thốc người yêu lên, chạy nhanh xuống chiếc xuồng mà Kiều Oanh vừa mang tới. Ra sức bơi rất nhanh ra giữa dòng... 

Ở trong miếu một mình. Kiều Oanh bất thần chụp lấy mảnh sành bị vỡ lúc nãy và đâm thẳng vào hai mắt của mình, trước khi gục ngã xuống... 

Việc Đức và Quế Anh trở về đột ngột trong đêm đã là một bất ngờ của đôi bên cha mẹ hai người. Nhưng họ chưa bất ngờ bằng lời yêu cầu của chính Quế Anh: 

- Ba má cho tụi con làm lễ cưới ngay trong đêm nay đi, nếu không cả hai đứa con đều phải chết! 

Bà Cả trợn tròn mắt: 

- Con nói gì vậy Quế Anh? Lễ hỏi còn chưa cử hành, làm sao có thể... 

Đức vội giải thích: 

- Tụi con vừa bị nhốt ở miếu thổ địa, suýt chết bởi hồn ma, nếu không nhờ cô gái ấy cứu thì không toàn mạng về đây. Tụi con bị một hồn ma ghen dữ dằn, sẵn sàng giết chết nếu con và Quế Anh không thành vợ chồng trong đêm nay! 

Bà Phán Hòa nghe cũng không xuôi tai, bà hỏi lại: 

- Sao có chuyện kỳ lạ vậy? Mình đâu thể chiều theo... 

Bỗng Quế Anh sụp xuống, cô lạy cả hai bên cha mẹ: 

- Con xin cha mẹ hai bên, hãy cứu tụi con kẻo không kịp! Con lạy ba má... 

Đức cũng sụp xuống lạy y như vậy làm cho bốn ông bà già sững sờ đưa mắt nhìn nhau. Trong lúc họ còn đang lưỡng lự thì Quế Anh sắp sửa trở lại trạng thái cũ, cô co rúm người như sắp hôn mê. 

Ông Cả hốt hoảng: 

- Không xong rồi bà ơi! Mau... mau cho tụi nó... 

Sau khi hội ý chớp nhoáng, hai bên cha mẹ đồng ý cho làm lễ lạy gia tiên ngay trong đêm và âm thầm khấn vái: 

- Ở thế chẳng đặng đừng nên buộc lòng chúng con phải chấp nhận cho tụi nó làm chuyện này... Kể từ bây giờ tụi nó được là vợ chồng của nhau, xin ơn trên độ trì cho mọi điều tốt đẹp... 

Sau khi lễ lạy gia tiên xong, chính Quế Anh giục Đức rất khẽ: 

- Mau đi... 

Nửa đêm hôm đó, có lẽ lúc ấy chuyện động phòng của hai người đã qua, bất chợt ở phía sau vườn có một tiếng gầm rú chẳng khác con mãnh thú bị thương nặng! 

Quế Anh là người run sợ hơn ai hết, cô rúc vào lòng Đức vừa thều thào: 

- Lại nữa rồi! 

Đức cũng hiểu đó là oan hồn, giống như anh và vợ đã gặp lúc ở miếu thổ thần. Nhưng chẳng còn cách nào hơn, anh cố trấn an: 

- Không sao, nếu chết thì cùng chết! 

Nhưng họ chờ rất lâu mà chẳng có việc gì xảy ra... Tiếng hú cũng không vang lên nữa. Cho đến gần sáng, trong lúc mọi người đang ngủ say thì chỉ mình Đức nghe được một tiếng khóc bên ngoài cửa sổ vọng vào. 

- Ai? 

Đức sợ làm cho Quế Anh tỉnh giấc nên anh nhẹ bước một mình, bước đến gần cửa sổ nhìn ra. 

- Kiều Oanh! 

Rõ ràng Kiều Oanh đang ôm ngang đôi mắt đầy máu, nói vọng vào vừa đủ cho Đức nghe: 

- Anh cầm lấy vật này và cùng với quần áo hai người mặc ban chiều hãy đốt ngay, bởi tất cả đã bị ma nhập, mặc vào lại sẽ vong mạng ngay! 

Đức đón lấy vật mà cô gái vừa ném vào, anh nhận ra đó là chiếc lược cài tóc của Quế Anh. Anh chưa kịp hỏi thì nàng ta đã tiếp lời: 

- Trước đây cô Quế Anh làm rơi chiếc khăn quàng và lọt vào tay Hiếu, anh ấy đã dùng vật ấy để khống chế, sai khiến cô Quế Anh, suýt nữa cô ấy đã thành ma rồi! Bây giờ phải giữ kỹ mọi thứ, chờ đến khi nào tôi tới nơi đã, lúc đó mới yên... 

Nàng ta nói dứt lời thì cầm đầu chạy rất nhanh về phía bờ sông, Đức hiểu là cô nàng còn sống, nên quên cả hiểm nguy, vội đuổi theo.

° ° °

Đức rất bất ngờ khi nhìn thấy trước mặt mình là một ngôi nhà khá lớn, nơi mà Kiều Oanh đã chạy vào mấy giây trước đó. Nhà của ai? Đó là câu hỏi 

mà Đức đang hoang mang và chưa có câu trả lời, bởi với anh thì nơi này hoàn toàn xa lạ... 

Anh không định đột nhập vào trong, nhưng nhìn thấy Kiều Oanh ôm mặt đầy máu chạy vào đó trong trạng thái gần như không thấy đường đi, Đức tức tốc đuổi theo nhanh hơn. Anh lọt vào phía sau ngôi nhà lớn như cái dinh thự mà không gặp bất cứ trở ngại nào. Cho đến khi... 

- Thưa bà, những gì bà dặn lâu nay con luôn làm đúng. Ngôi nhà này dẫu không ai ở, nhưng con vẫn hằng ngày quét dọn tươm tất, các phòng ngủ của bà, của các cô cậu ngày trước con vẫn chăm sóc như trước đây. Đặc biệt là phòng cậu Hiếu, mỗi ngày con đều thay bình hoa mới, thay áo gối, thay drap nệm hai ngày một lần. Nhưng lạ quá bà ơi... 

Đó là nhứng lời của Ba Tiền, người quản gia lâu năm của gia đình Phủ Xuân, chủ nhân ngôi nhà đồ sộ này, anh ta nói với một người phụ nữ mà vừa thoạt nhìn thấy Đức đã suýt kêu lên, bởi đó chính là người đàn bà đã mua cho Kiều Oanh lon sữa lúc ở trên xe đò! Nhờ đứng trong bóng tối, nên Đức không bị phát hiện và nhờ vậy anh tiếp tục nghe được câu chuyện giữa hai người. 

Ba Tiền hạ thấp giọng như sợ người ngoài nghe: 

- Từ ngày cậu Hiếu chết, đêm nào con cũng nghe có tiếng hát và thổi kèn Tây từ phòng cậu vọng ra! Rồi áo gối, hay drap trải giường, cứ hai ngày con thay theo lời bà dặn thì đều thấy gối bị dơ, drap nhăn nheo và... có mùi mồ hôi! Riêng cơm nước bà dặn con dọn cho cậu mỗi ngày ở ngoài nhà mồ, con đã làm y như vậy và... hầu như bữa nào cậu ấy cũng ăn sạch! 

Lúc này bà Sáu Anna, tên người phụ nữ, kinh ngạc: 

- Có phải chú quá sợ nên không dám vào nhà mồ rồi để cho chó mèo gì lẻn vào ăn hết chứ gì? 

Ba Tiền cãi liền: 

- Dạ không phải đâu bà? Nhà mồ kín như bưng, một khi đóng cửa lại thì con gián, con ruồi vào cũng không được, làm gì có mèo chó! Chính cậu Hiếu ăn đó bà! 

Tuy Hiếu là con của bà, nhưng bà Sáu Anna nghe nói vậy cũng bắt rùng mình! Bà nhìn sững Ba Tiền rồi run run giọng hỏi lại: 

- Ngoài ra nó có phá phách gì không? 

- Dạ có! Nhất là cách đây mấy ngày, đúng vào lúc bà về đây thì ngày nào cậu ấy cũng... nhậu nhẹt say khướt rồi đập phá nhà mồ lung tung! Con muốn báo cho bà hay nhưng e bà sợ nên chưa dám nói... 

Rồi anh ta lại hạ thấp giọng hơn: 

- Mà hình như cậu ấy ghen hay sao đó! Con nghe cậu cứ kêu tên người con gái nào đó là Kiều Oanh rồi gầm thét dữ dội! Tối nay, lúc con bưng mâm cơm xuống thì cũng vừa lúc cậu ấy tung cửa chạy ra, suýt nữa đã xô con ngã! Không biết giờ này đã về chưa nữa... 

Bà Sáu Anna hơi chùn bước, vừa nói: 

- Lâu ngày tao không về thăm nó, chẳng biết nó còn nhớ không? Lỡ nó lên cơn điên như vậy có sao không? 

Ba Tiền trấn an bà: 

- Bà là mẹ cậu ấy mà, làm sao cậu ấy dám làm gì! 

Nhờ được khích lệ nên bà Anna mới dám theo Ba Tiền bước vào nhà mồ. Anh ta giải thích thêm cho bà nghe về ngôi nhà mồ này: 

- Bà biết không, lúc cậu Hiếu chết thì ông nhà cũng còn khỏe, nên ông quyết định đứng ra tự trông coi việc xây ngôi nhà mồ này! Mà chẳng hiểu sao ông lại cho xây đến hai cái huyệt trong này? Một cái thì đã dành chôn cậu ấy rồi, cái còn lại con có mạo muội hỏi thì ông đã nói một câu rất khó hiểu là "để chôn con vợ nó!", mà làm gì cậu Hiếu có vợ? 

Bà Anna bỗng kêu lên: 

- Con Kiều Oanh! 

Ba Tiền ngơ ngác: 

- Bà nói Kiều Oanh là ai? Sao trùng với cái tên mà cậu Hiếu cứ gọi hoài mấy hôm nay? 

- Con nhỏ đó... thật tội nghiệp! 

- Bà nói ai? 

Bà Anna gạc ngang: 

- Mày không hiểu đâu, đừng hỏi! 

Lúc này hai người đã mở cửa nhà mồ bước hẳn vào trong. Tối đen như mực, cho đến khi Ba Tiền bật đèn pin lên, anh ta nói khẽ: 

- Có cây đèn măng-sông ở chỗ kia, để con đốt lên. 

Đây là lần đầu tiên bà Anna bước vào đây, và mặc dù biết đây là nơi chôn con trai mình nhưng bà cũng nghe lạnh người, đứng yên một chỗ không dám bước tới. Khi đèn măng-sông cháy sáng lên thì Ba Tiền giục: 

- Bà bước đây, mộ của cậu Hiếu kia! 

Anh ta vừa dứt lời thì bỗng thét lên một tiếng, suýt nữa đã làm rơi cây đèn đang cầm trên tay! Trước mắt anh, có một người con gái đang ngồi trong cái huyệt trống. 

- Bà... bà... 

Bà Anna cũng đã thấy, bà chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi ngã người trên sàn! Lúc ấy cô gái tuy không thấy được người chung quanh, nhưng cô vẫn còn tỉnh táo để lên tiếng: 

- Con là Kiều Oanh đây! Con tới với anh Hiếu để cho anh ấy thấy là con không phản bội anh ấy, con vẫn mãi mãi ở bên anh ấy! Con là vợ của anh ấy mà... 

Bà Anna bừng tỉnh, bà kêu lên: 

- Kiều Oanh! Sao... sao cháu như vậy? 

Lúc ấy, bà đã nhìn rõ hai hốc mắt đầy máu của Oanh! 

- Con phải lấy đi đôi mắt của mình trước khi chết theo anh Hiếu, để anh ấy thấy rằng ngoài anh ấy ra con chẳng muốn nhìn một ai nữa! Hãy nói với Hiếu, Kiều Oanh này không bao giờ một dạ hai lòng... 

Lời vừa dứt thì nắp huyệt cũng vừa đóng sập xuống, nhốt trong đó một cô gái tuổi thanh xuân! Cũng đồng thời lúc ấy, bà Anna và Ba Tiền như bị ai đó nhấc bổng lên và ném nhanh ra ngoài. Khi họ chưa kịp bò dậy thì đã nghe rầm một tiếng, nhìn lại đã thấy cánh cửa nặng nề của ngôi nhà mồ bị đóng chặt lại! 

- Trời ơi, Hiếu! 

Bà Anna gào lên, cố gắng dậy và chạy tới nắm chốt cửa kéo ra, nhưng vô vọng, cửa đã bị khóa chặt bên trong! 

Lúc đó đêm đã dần khuya. Vầng trăng trên đỉnh đầu bắt đầu ngả về hướng tây, lạnh lùng soi ánh sáng mê ảo xuống khu nhà mồ, tạo thành một khung cảnh nửa hư nửa thực, khiến cho Ba Tiền vốn lâu nay đã quá quen thuộc với hình ảnh này cũng phải bắt rùng mình! Anh run run giọng hỏi bà chủ: 

- Rồi mình phải làm sao với cô Kiều Oanh đây bà? 

Bà Anna chỉ biết buông một tiếng thở dài và im lặng...

Yêu Người Cõi Chết

Lần thứ hai, khi sợi dây câu chùng xuống thì Phi đã rút kinh nghiệm không giật lên ngay như lần trước, mà để cho đầu cần câu nặng hơn rồi mới giật mạnh! Sức trì rất mạnh, Phi phải lấy lại tư thế để không bị mất thăng bằng, anh buột miệng: 

- Con này to hơn! 

Lúc nãy anh đã bị sẩy một con khi đã giật lên khỏi mặt nước, nên lúc này Phi quyết không để bị hụt lần nữa, anh cố ghì chặt tay một chỗ để cho lưỡi câu bám sâu vào mép con cá. 

Mặc dù vậy, hình như con cá bị mắc câu cũng đáo để lắm, nó kéo sợi dây câu chạy vòng vòng dưới mặt nước. Sức mạnh của nó khiến Phi đôi lần tưởng chừng không giữ nổi con cá. Anh ghì mạnh thêm một chút, và lúc ấy con cá từ dưới mặt nước vọt thẳng lên cao làm cho Phi phải kêu lên: 

- Trời ơi, lớn quá! 

Con cá dính câu lớn đến ngoài sức tưởng tượng của Phi và cả những người đậu ghe gần đó. Họ la lên: 

- Quấn cần câu vào gốc cây chịu nó lại! 

Phi chưa kịp làm thì một lần nữa con cá lại vọt lên như chọc tức anh và rồi... dây câu nhẹ tênh! 

- Sẩy rồi! 

Phi kéo vội sợi dây câu lên và chán nản lầm bầm: 

- Đứt dây rồi! 

Sợi dây câu bị đứt ngang, mất luôn lưỡi câu! Phi vứt luôn cần câu, đứng ngay dậy trước sự tiếc rẻ của mấy người chung quanh, họ bảo: 

- Cậu sát cá lắm, nối lưỡi câu câu tiếp đi! Nói thật, tụi tôi ở xứ này mà câu cả chục năm nay chưa từng có được con cá cắn câu nào lớn đến như vậy! Chỉ tại dây câu nhỏ quá thôi. Hay là cậu đổi dây câu lớn của tôi đây mà câu... 

Nhưng Phi vẫn lắc đầu: 

- Không đến quá tam ba bận đâu, thôi tôi về đây! 

Anh lên xe đạp đi thẳng. Tiếc thì có tiếc hai con cá câu hụt, nhưng đã xác định đi câu chỉ để giết thì giờ, nên vài phút sau thì Phi đã quên chuyện câu cá và 

ghé vào quán nước ven sông mà từ hôm về đây tới nay ngày nào anh cũng ghé qua. Không phải bởi thức uống ngon hay khung cảnh nên thơ, mà chỉ vì cô chủ quán... 

Sống ở thành phố lâu năm, quen nhiều cô gái đẹp, nhưng phải công nhận là chưa bao giờ Phi nhìn thấy một cô gái nào xinh xắn và quyến rũ đến lạ thường như cô gái này! 

Vừa dừng xe lại thì Phi đã nghe từ trong quán có tiếng nói vọng ra: 

- Cậu làm cho người đẹp giận rồi! 

Phi bước vào quán và hỏi ngay: 

- Mỹ Lan đâu? 

Chị chủ quán nghiêm giọng: 

- Nó giận cậu nên từ sáng tới giờ không ra bán. Giận thật đó! 

Phi ngạc nhiên: 

- Em đâu có làm gì mà giận? 

- Chuyện cậu đi câu cá! Hôm qua cậu nói sáng nay đi câu cá là nó giận liền, bỏ bán luôn cả buổi tối! 

Phi phân trần: 

- Đi câu là thú vui của em mà, cô ấy cũng biết, sao lại giận... 

- Nhưng tôi nghe cậu hứa với nó là bỏ câu, nên hôm qua nghe cậu quyết đi câu bữa nay, nó đùng đùng bỏ về luôn, cho tới giờ này vẫn không ra! Con nhỏ này tính khí nó vậy đó, hễ ai làm không vừa lòng là bỏ luôn không nói chuyện nữa. Đặc biệt là cậu... 

Bà chủ quán biết giữa vị khách trẻ này và cô gái phụ bán với mình có cảm tình đặc biệt với nhau, mà ý bà cũng tán đồng chuyện đó, nên ngầm vun quén cho họ. Mỹ Lan là cô gái hiền lành, đẹp người, đẹp nết nên hầu như khách khứa tới quán đều mến mộ cô nàng, trong số đó có không ít những tay chơi, những tay hiếu sắc, nên khi thấy Lan và Phi thích nhau thì bà ngầm hài lòng. Bà thương Mỹ Lan như con nên muốn được một người như anh chàng Phi này để gọi là cháu rể! 

Đã thất vọng vụ con cá, giờ lại thêm nỗi thất vọng lớn hơn, nên Phi không buồn ngồi lâu, anh vừa sửa soạn đứng lên thì bà chủ quán ghé tai nói nhỏ: 

- Cậu đi vòng ra cửa sau, con Mỹ Lan nằm dưỡng bệnh trong đó! 

Phi giật mình: 

- Cô ấy bị sao vậy? 

- Nó bảo giấu, nhưng với cậu thì tôi nói, nó bị ngã dập cái môi hơi nặng! 

Không đợi bà ta nói thêm, Phi đã bỏ xe đạp đó, chạy một mạch vòng ra cửa sau cách đó không xa. Đây là nhà riêng của bà chủ quán nên ngoài bà thì không còn ai, ngoại trừ một người mà bà cho biết đang nằm trong đó. 

- Mỹ Lan ơi! 

Một tiếng thảng thốt từ bên trong: 

- Đừng vào! 

Nhưng Phi đã bước nhanh vào nhà, vừa kịp nhìn thấy Mỹ Lan mới quay mặt vào trong, tay còn che miệng: 

- Em bị sao vậy? 

- Đừng... đừng nhìn! 

Cô nói xong thì bước hẳn vào trong, nói với ra: 

- Anh về đi, để em nghỉ ngơi! 

- Nhưng mà... 

Giọng nàng gắt lên: 

- Anh về đi kiếm mấy con cá của anh đi! 

Cửa phòng bên trong đóng sầm lại. Phi không còn cách nào khác, anh lững thững bước ra. Anh gặp bà chủ quán ở bên ngoài, bà nói khẽ với Phi: 

- Cậu yên tâm về đi, để rồi chị tìm cách nói cho. Con nhỏ coi bộ "kết" cậu lắm rồi đó, vậy liệu mà tính tới đi... Đồng ý không, chị ủng hộ! 

Phi cười nửa muốn gật đầu, nhưng nửa còn ngượng... Hiểu ý, bà chủ quán bảo: 

- Cậu về đi rồi nếu tối nay có rảnh thì mua mấy hộp sữa tới cho con nhỏ bồi dưỡng, nó bỏ ăn từ sáng đến giờ! 

Phi đạp xe về chỗ trọ mà lòng cứ lo lo... Chẳng hiểu Mỹ Lan bị thương tích thế nào mà cô nàng có vẻ khó chịu bẳn gắt? 

Khi về tới nhà rồi, anh nghe người chủ nhà trọ bảo: 

- Lúc nãy có một cô gái trẻ lắm tới đây, cô ấy bảo tôi đưa cậu cái này rồi đi liền. 

Phi tiếp nhận gói giấy và mở ra xem ngay. Anh giật mình kêu lên: 

- Trời ơi! 

Ông chủ nhà ngạc nhiên: 

- Gì vậy cậu? 

- Dạ... dạ không. Mà cô gái đó đi lâu chưa? 

- Lâu rồi. Tôi có để ý xem cô ta đi hướng nào, nhưng bước ra thì cô ta đã biến đâu mất! 

Phi nắm chặt vật trên tay, anh sững sờ. Bởi đó là chiếc lưỡi câu anh vừa bị đứt lúc giật con cá lên! Sao nó lại ở đây? 

Không để lão chủ nhà nhìn thấy, Phi bước hẳn vào phòng mình rồi mới lấy chiếc lưỡi câu còn dính một khúc dây câu ra xem lại. Không thể lầm được, chiếc lưỡi câu do chính Phi giũa lại lưỡi cho nhọn hơn, đúng là chiếc này! 

- Kỳ lạ... 

Phi cứ lầm bầm mãi, cho đến khi trời vừa chập choạng tối thì anh lại đạp xe ra ngoài. Mua năm hộp sữa, một chục trứng gà, Phi mang tới quán ven sông. Nhưng chưa kịp vòng ra sau nhà thì bà chủ quán đã chặn anh lại và bảo: 

- Không biết đi đâu mà nó ra ngoài từ khi trời còn nắng. Đi về hướng chỗ cậu câu cá hồi sáng... 

Phi gửi trứng và sữa ở đó, rồi đạp nhanh theo hướng bà ta chỉ. Chỗ bờ sông mà buổi sáng dân câu cá hay ngồi câu bây giờ vắng lặng, không một bóng người, không một tàu ghe nào neo đậu. Phi vừa muốn trở về thì bất chợt anh nhìn thấy mộc bóng người từ dưới sông bước lên, cái bóng quen quen... 

- Ai mà giờ này... 

Phi có chủ ý nên bám theo mà không gây tiếng động. Người kia sau khi bước từ mé nước lên đã đi thẳng lên bờ và dừng lại giũ quần áo cho khô, trước khi bước đi rất nhanh. Phi bám sát theo và anh thảng thốt kêu lên: 

- Mỹ Lan! 

Tiếng kêu của Phi không lớn lắm, nhưng hình như cô nàng nghe được, bởi vậy rất nhanh, cô ta đi như chạy và chỉ phút chốc là đã biến mất ở phía cuối đường. 

Phi tức tốc đuổi theo và mặc dù anh cố đạp xe khá nhanh, nhưng vẫn không làm sao thấy được nàng ta đi hướng nào? Anh phải quay trở lại quán. Nghe kể lại thì bà chủ quán sau một lúc suy nghĩ đã bảo: 

- Hay là cậu thử đi tìm nhà ba mẹ của nó coi. 

- Ở đâu vậy chị? 

Bà chủ quán lắc đầu: 

- Từ lúc tới quán làm nó chỉ nói là trú ngụ ở làng chài ven biển phía Gò Công, biển Tân Thành thì phải, còn cụ thể thế nào tôi cũng không rõ. Cậu chờ đến mai xem sao rồi hãy đi. 

Không thể chờ qua một đêm, nên ngay tối hôm đó Phi đã ra bến xe đò mua vé đi Gò Công. Xứ này có lần anh đã tới, nên dù trời mới mờ sáng Phi cũng đi ngay ra phía biển... 

Dò hỏi mãi, cuối cùng Phi cũng tới được làng chài ven biển Tân Thành. Chỉ vài trăm nóc nhà, nhưng việc đi hỏi tên một cô gái mà mình mới quen, đã rời xứ đi tha hương là một việc vô cùng khó khăn. Phi đã hỏi trên một chục nơi, nhưng ai cũng lắc đầu bảo: 

- Ở đây đâu có ai tên Mỹ Lan mà cỡ tuổi đó! 

Phi vẫn kiên nhẫn lần dò hỏi thêm, và trời cũng còn thương anh khi một bà lớn tuổi xác nhận: 

- Ở xóm trên có một đứa con gái tuổi đôi mươi tên đó, nhưng hình như không có ở nhà. 

Phi mừng quá hỏi tới: 

- Nhà chỗ nào bác? Ba má cô ấy tên gì? 

Bà lão tốt bụng, sốt sắng chỉ: 

- Cậu đi lên xóm chài phía trên, hỏi nhà Tám Ri làm nghề cào nghêu, đó là nhà cha mẹ con nhỏ tên Mỹ Lan. 

Mừng quýnh, Phi đi nhanh tới đó và gặp ngay một người đàn ông có gương mặt khắc khổ đang đứng trước nhà, anh hỏi: 

- Bác cho cháu hỏi, đây có phải nhà bác Tám Ri không? 

- Tôi là Tám Ri đây. Cậu là ai mà biết tôi? 

- Dạ, may quá, cháu đã đi tìm nhà bác từ sáng tới giờ! Bác cho cháu hỏi thăm, chẳng hay cô Mỹ Lan có về đây không? 

Người đàn ông nhìn sững Phi, môi ông ta mấp máy: 

- Cậu... cậu kiếm... Mỹ Lan? 

- Dạ, cháu là bạn của cô ấy, cháu... 

- Cậu biết nó lâu chưa? 

- Dạ mới đây... 

Ông chụp lấy vai Phi lắc mạnh: 

- Cậu gặp nó ở đâu? Nó còn sống phải không? 

Thấy ông hỏi dồn dập, Phi phải nói rõ ràng hơn: 

- Dạ, chỉ mới hôm qua thôi, cô ấy còn gặp cháu. 

Ông già reo lên: 

- Trời Phật còn thương tôi rồi! Mỹ Lan ơi, ba cứ tưởng... 

Ông chợt kéo tay Phi lôi tuột vào nhà, chỉ tay lên bàn thờ giữa nhà: 

- Tôi thờ nó đó! 

Phi sửng sốt: 

- Sao lại thế này? 

Kéo ghế mời Phi ngồi, giọng ông chủ nhà đầy xúc động: 

- Cách đây gần hai năm, trong lần ngồi xuồng đi cào nghêu với tôi, con Mỹ Lan bị sóng vỗ làm lật xuồng, nó rớt xuống sông rồi mất tích luôn! Sau bao ngày tìm kiếm mà không thấy xác con, tôi cứ nghĩ là nó đã chết chìm và xác đã giạt ra biển, nên về nhà làm lễ cầu siêu cho nó và thờ cho đến nay. Trời ơi, đúng là cậu mang tin lành đến cho gia đình chúng tôi! Vậy cậu hãy nói cho tôi biết, nó đang ở đâu? 

Phi cũng vui lây với ông già, anh bảo: 

- Ở bên Hàm Luông. 

- Bến Tre hả? Đúng rồi, nó rớt xuống nước rồi trôi giạt qua bên đó mà tôi không nghĩ ra, cứ tưởng nó trôi ra biển mất xác! 

Rồi ông chỉ lên tấm ảnh thờ lần nữa và nói: 

- Sinh nó ra được có nửa tháng thì má nó bệnh sản hậu mà chết. Tôi đã ẵm đi cho bú nhờ mà nuôi nó tới khôn lớn. Không ngờ con nhà nghèo mà con nhỏ càng lớn càng đẹp ra, đẹp đến nỗi tôi phải lo... Cậu có nghe người ta nói hồng nhan bạc phận không? Thấy nó đẹp bất thường nên nhiều người trong làng này đã đôi lần quở, sợ e nó khó sống thọ! Tôi thương con nên rất ghét ai nói như vậy, tuy nhiên cũng cứ phập phồng lo sợ hoài. Cho đến khi xảy ra vụ chìm xuồng đó thì tôi lại càng nghĩ thiên hạ nói đúng, tôi khóc hết nước mắt luôn! 

Nhìn ảnh chân dung trên bàn thờ Phi bất giác nói: 

- Chưa chết mà đã được lên đó ngồi rồi, Mỹ Lan sẽ bất tử cho bác coi! 

Ông già cũng vui lây: 

- Chết hụt thì khó mà chết nữa lắm! Cám ơn trời Phật. 

Ông mau mắn bước ra cửa vừa bảo Phi: 

- Cậu ngồi chơi đợi tôi một lát, tôi chạy đi bắt con gà làm thịt mình ăn mừng! 

Tính cản, nhưng trước niềm vui lớn của ông già, Phi phải chấp nhận. Lát sau, khi đã ngồi vào bàn ăn rồi anh mới nói thật: 

- Tuy cháu mới gặp Mỹ Lan hôm trước, nhưng do cô ấy giận cháu nên bỏ nhà trọ đi đâu chưa rõ... 

Ông già vẫn lạc quan: 

- Cũng chẳng đi đâu mà lo. Con gái mà, giận đi quanh quẩn đâu đó rồi sẽ quay về thôi! 

Sẵn đang vui trong lòng, ông buông đũa và bước vào nhà trong lấy ra một cuốn sổ bìa dày, đưa cho Phi xem: 

- Cậu coi, con nhà nghèo, học chỉ mới đệ thất rồi nghỉ, vậy mà nó viết chữ đẹp còn hơn là mấy đứa học tú tài nữa! 

Phi giở từng trang sổ ra, anh thấy tiêu đề là lưu bút thì khá thích thú, bởi ít ra anh cũng hiểu được đôi chút về cô gái này. Anh lật tiếp trang kế và lần này kêu lên: 

- Sao kỳ vậy bác? 

- Chuyện gì vậy cậu? 

Phi ngỡ mắt mình đọc lầm, nên đọc lại lần nữa dòng chữ viết nắn nót: "Nếu người đó có duyên ắt sẽ biết đường mà tới nhà mình! Hãy tới đi Phi ơi!". 

Phi đưa cho ông già xem và hỏi nhanh: 

- Lúc còn đi học cô ấy có quen ai tên Phi không? 

Ông già Tám lắc đầu đáp ngay: 

- Không bao giờ! Con gái tôi từ nhỏ tới lớn, đến chết, chưa bao giờ quen với đứa con trai nào cả! 

- Vậy tại sao... 

Anh đưa cuốn lưu bút cho ông già xem và nói: 

- Cháu cũng tên Phi. Nhưng quyển lưu bút này viết cách đây mấy năm. Lúc đó cháu và Mỹ Lan nào có quen biết nhau? 

Ông Tám vừa nhìn thấy dòng chữ cũng kêu lên kinh ngạc: 

- Sao kỳ lạ vậy? 

Ông lại nhìn Phi và hỏi gặng: 

- Đúng là cậu mới quen với con Mỹ Lan gần đây hả? 

- Dạ đúng, chính xác là chỉ mới gần một tháng nay thôi. Vậy tại sao có chuyện trùng hợp lạ lùng thế này? Bác nhớ kỹ lại coi, trong đám bạn của Mỹ Lan ngày xưa có ai tên Phi không? 

Ông Tám vẫn quả quyết: 

- Hoàn toàn không! 

Phi đánh bạo đề nghị: 

- Bây giờ biết chắc là Mỹ Lan còn sống, vậy có thể nào bác cho con mượn tấm ảnh thờ này được không? Con chỉ mượn thôi, rồi sẽ đem trả lại bác sau này... 

Tám Ri cũng có cảm tình với chàng trai này, nên ông gật đầu ngay: 

- Được, cháu cứ lấy đi. Bây giờ ăn xong mình đi qua Hàm Luông liền. Tôi sẽ lấy ghe đi cho tiện. 

Phi ôm bức ảnh trong lòng mà lâng lâng nhiều cảm xúc...

° ° °

Bà chủ quán lắc đầu nói: 

- Từ hôm cậu đi tới nay tôi không thấy con Mỹ Lan trở về. 

Phi chỉ sang ông Tám, giới thiệu: 

- Đây là bác Tám, cha ruột của Mỹ Lan. 

Bà chủ quán chỉ vào phòng phía trong vừa nói: 

- Mỹ Lan ở đây, được tôi coi như con, nên mặc dù là làm công, nhưng nó muốn làm lúc nào thì làm, nghỉ lúc nào cũng được. Mà con nhỏ dễ thương lắm, được khách hàng thương mến, nên hai bữa nay vắng mặt nó làm cho tôi điên đầu vì khách đòi bỏ đi quán khác. 

Bà đích thân đưa ông Tám vào phòng, coi nơi ăn ngủ của con gái, Phi cũng bước theo. Khi vào trong phòng, vừa nhìn qua mấy món để trên bàn, anh chợt kêu lên: 

- Cuốn sổ y như cuốn ở nhà bác đây, bác Tám! 

Ông Tám Ri cũng vô cùng ngạc nhiên khi thấy đúng quyển sổ lưu bút đang nằm ở đây! Ông cầm lên và xác nhận: 

- Quyển sổ này đây rồi! 

Phi lật ra xem và càng kinh ngạc hơn: 

- Quyển sổ đó, không sai bác Tám ơi! 

Anh lật ra trang có dòng chữ: "Nếu người đó có duyên ắt biết đường mà tới nhà mình. Hãy tới đi Phi ơi!" Phi đưa cho ông già xem: 

- Bác coi, đúng dòng chữ này! 

Họ thuật cho bà chủ quán nghe, bà ta lắc đầu: 

- Từ hôm qua đến giờ nó không trở về đây. Không có Mỹ Lan ở nhà thì tôi luôn khóa cửa sau này lại. Như vậy... 

Ông Tám thừ người ra một lúc rồi bảo Phi: 

- Làm gì thì bác cũng ở lại đây chờ nó... 

Được sự đồng ý của bà chủ quán, tối đó ông Tám và Phi đều ngủ lại đúng trong phòng của Mỹ Lan. Phi trằn trọc mãi không ngủ được, vì mỗi lần nhắm mắt lại thì anh lại thấy hình ảnh của Mỹ Lan từ dưới sông leo lên... 

Bất chợt vào lúc nửa đêm, Phi bật dậy và nói như trong cơn mơ: 

- Đúng rồi! Đúng là Mỹ Lan bị thương ở miệng, cô ấy... 

Bất kể sự có mặt của ông Tám và bà chủ quán đang ở nhà trong, Phi tốc chạy ra ngoài, vừa chạy vừa kêu to: 

- Mỹ Lan! 

Phi chạy một mạch ra bờ sông, chỗ anh câu cá, cũng là nơi anh đã nhìn thấy Mỹ Lan đi từ dưới nước lên, ngồi thấp xuống chỗ bờ kè, ẩn mình trong bóng tối, Phi chờ và hy vọng những gì mình nghĩ trong đầu là đúng... 

Có hơn nửa giờ trôi qua... và cuối cùng điều chờ đợi của Phi không hề hoài công. Anh reo lên khẽ khi người đó từ dưới sông vừa ngoi lên: 

- Mỹ Lan! 

Không sai. Người đi lên bờ trong bộ quần áo ướt đẫm kia chính là Mỹ Lan! Cô không biết là có người theo dõi mình, nên sau khi giũ quần áo cho bớt ướt, cô bước thẳng về phía trước. Phi bám theo và chưa vội ra tay. 

Đợi cho cô nàng bước tới một chỗ tối và vắng thì bất ngờ Phi xuất hiện. Anh chụp ngay cánh tay của nàng, nói đủ nghe: 

- Anh sẽ không để mọi người thấy, nhưng em phải ở lại đây để nghe anh hỏi. 

Mỹ Lan hốt hoảng thấy rõ, nhưng quá bất ngờ, nên cô chỉ quay mặt đi chỗ khác để giấu vết thương trên môi. 

Phi đột ngột hỏi: 

- Có phải miệng em vướng phải lưỡi câu không? 

Câu hỏi đó khiến cho cô co rúm người lại, may mà có tay kéo lại của Phi, chứ nếu không thì cô nàng đã ngã quỵ xuống. 

- Anh đã về nhà em, gặp ba em và đã đọc trang lưu bút do em viết. Như vậy em cần gì phải giấu anh nữa. Chỉ có điều... 

Phi nhìn thẳng vào mắt Mỹ Lan và anh chợt sững sờ, bởi đôi mắt ấy đang đẫm đầy nước mắt và như đang lạc thần, đờ dại như mắt loài cá bị bắt lên khỏi nước! 

- Kìa, em không nên... 

Trong lúc lo nói, anh đã lơi tay ra và chỉ chờ có thế, Mỹ Lan rút tay ra và biến rất nhanh vào trong bóng tối! Phi gọi theo: 

- Ba đang ở quán chờ em! Em phải về thăm ba, anh sẽ không nói gì chuyện của em cả! 

Trong bóng tối vang lên giọng của Mỹ Lan: 

- Em sẽ về đó, nhưng anh phải tới nơi mà em lưu địa chỉ lại trên bàn tay anh đó, nếu còn muốn gặp em! 

Phi bật diêm lên và đọc được mấy chữ nổi rõ trong lòng bàn tay: Gần nhà máy xay lúa An Hòa, Bình Đại. 

Những chữ này có lẽ nàng đã để lại lúc Phi nắm tay nàng siết chặt. Nó không phải viết bằng mực, nhưng hằn rõ và sắc nét. 

Nhưng khi Phi đọc vừa xong thì nhìn lại tất cả chữ đã biến mất! Anh bất chợt rùng mình...

° ° °

Nhà máy An Hòa... 

Vừa bước vào nhà bên cạnh nhà máy xay lúa, Phi phải khựng lại, bởi ở giữa nhà có một bàn thờ khói hương nghi ngút và có hai ông bà già đang ngồi khóc. Chưa biết phải chào hỏi ra sao thì bỗng bà già đã reo lên: 

- Nó tới kìa! Con là Phi phải không? 

Ngạc nhiên quá đỗi, Phi ngập ngừng hỏi lại: 

- Cháu là Phi... nhưng sao bác lại biết cháu? 

Bà mừng rú lên: 

- Vậy là nó nói đúng ông ơi! Con Ngọc Liên nhà mình đã có chồng rồi. Có chồng rồi! 

Phi nghe bà la hoảng như vậy thì giật mình, nhìn quanh cố tìm xem có ai đứng sau lưng mình không. Nhưng tuyệt nhiên không, chỉ có mỗi mình anh đứng đó. Như vậy có nghĩa là bà ấy đang nói... mình! Phi lúng túng: 

- Dạ... dạ cháu... 

Bấy giờ ông già mới lên tiếng: 

- Bà nhà tôi đang mừng cậu đó! Nói để cậu bớt thắc mắc, vợ chồng tôi đang đứng đây để đợi cậu tới. Bởi đêm qua con Ngọc Liên về báo là bữa nay cậu thế nào cũng tới đây! Ngọc tiên là con gái tôi, nó chết đã hơn tuần nay rồi mà đêm nào cũng về kêu khóc, bảo tụi tôi đi tìm xác nó! Nhưng tôi đã tìm khắp vùng này rồi mà chẳng thấy đâu... 

Bà già nói chen vào: 

- Tối qua nó nói rõ, muốn kiếm được xác nó thì chỉ có cậu thôi. Phải tìm cho ra cậu... 

Nhìn lên bàn thờ, Phi giật mình, bởi ảnh thờ đúng là ảnh của... Mỹ Lan! 

- Sao lại... 

Biết ý của Phi, ông già giải thích: 

- Chính vì cái hình này mà vợ chồng tôi khóc hết nước mắt từ nữa khuya đến giờ! Hình của con gái tôi đâu phải hình này, vậy mà tự nhiên khi thức dậy tôi đã thấy sự thể như vậy rồi! Nhà tôi lấy hình này xuống, để ảnh con gái tôi lên, thì chẳng hiểu sao lần nào ảnh con tôi cũng bị giật văng ra, thay ảnh này vào! Đó, cậu nhìn xem, nh con gái tôi đằng kia... 

Ông bước tới lấy tấm ảnh rộng khung kính đàng hoàng, chân dung một cô gái tuy cũng đẹp, nhưng không sắc sảo bằng Mỹ Lan. Phi lẩm bẩm: 

- Ảnh kia là Mỹ Lan mà! 

- Cậu biết cô gái đó? 

Phi thật lòng: 

- Dạ biết. Cô ấy chính là bạn gái của cháu! Chính cô ấy xui cháu tới đây tìm... 

Thật ra thì Mỹ Lan chỉ cho anh địa chỉ và bảo tới tìm mà không biết tìm ai và để làm gì... Bởi vậy Phi còn ngập ngừng. 

Bà già lại reo lên: 

- Đúng rồi! Con Ngọc Liên có nói, nó và cô Mỹ Lan nào đó đang yêu một người tên Phi. Đúng là cậu rồi! 

- Dạ... nhưng mà cháu đâu biết gì về con gái hai bác. Tại sao cô ấy lại như thế này? 

Câu hỏi chạm tới nỗi đau của họ, nên bà già khóc nức nở vừa nghẹn ngào: 

- Con gái tôi nó bơi xuồng qua bên Hàm Luông thăm thân nhân, nửa đường bị gió bão chìm xuồng và mất tích cả tuần nay.

Phi chợt buột miệng: 

- Lại cũng chết chìm! 

- Cậu nói gì? 

Ông già thấy Phi lẩm bẩm thì hỏi. Phi nhẹ lắc đầu: 

- Dạ, không có gì... 

Phi bước tới gần bàn thờ, nhìn bức ảnh anh chợt kêu lên: 

- Tấm ảnh này ở nhà cháu mà? 

Ở góc tấm ảnh của Mỹ Lan mà Phi mượn từ nhà của cô ấy, lúc cầm về khi ngồi trên ghe chính Phi đã dùng bút ký tên lên đó như biểu tỏ quyền sở hữu. Mà bức ảnh đang thờ này lại y như vậy! 

Phi lặp lại lần nữa: 

- Ảnh này của cháu. 

Anh tiện tay lấy bức ảnh xuống và ôm trong lòng. Bà già thấy vậy liền cầm ảnh con gái mình đặt thay vào chỗ trống và hai vợ chồng mừng quá đỗi: 

- Nó ở yên rồi! 

Phi ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: 

- Chuyện này có nhiều uẩn khúc, mà theo cháu nghĩ thì hồn con gái bác và người bạn của cháu đây đang gặp nhau. Cô bạn cháu cũng chết dưới sông... 

Bà già chợt nhắc lại chuyện hồi nãy: 

- Tôi không hiểu tại sao nó hoàn toàn xa lạ với cậu mà lại nói cậu sẽ là... chồng nó? 

Phi kinh ngạc: 

- Bác nói ai? 

- Con Ngọc Liên, con gái tôi! 

Phi xua tay: 

- Không đâu bác! Cháu làm sao có thể. 

Anh định nói thẳng ý mình là từ chối, nhưng lúc ấy bỗng mắt anh chạm vào ánh mắt tứ bức ảnh chân dung của cô gái trên bàn thờ, Phi chợt rùng mình! Đôi mắt của cô nàng hình như là đang long lên, như muốn nói thành lời! 

- Dạ thưa hai bác... 

Phi định nói lời kiếu từ nhưng bỗng bụng anh nhói đau dữ dội! Người lảo đảo như muốn ngã, khiến ông già hốt hoảng: 

- Cậu làm sao vậy? 

Phi tối tăm mặt mũi, vịn vào thành ghế rồi hầu như không con sức nữa, anh ngã khuỵu xuống đất. Trong mơ hồ, anh nghe như có tiếng kêu thảng thốt của chủ nhà, rồi hình như mọi người dìu anh lên...

° ° °

Có lẽ khá lâu Phi mới tỉnh lại. Trời tối đen chung quanh và qua khung cửa sổ, anh có thể nhìn ra bên ngoài và nhận biếr trời đang mưa rất lớn. 

- Mình đang ở đâu? 

Nhớ lại dần mọi việc. Phi sửng sốt kêu khẽ: 

- Nhà cô gái ấy! 

Quơ tay sang bên thì chạm vào cái khung ảnh, Phi cầm lên xem, trong bóng tối lờ mờ nhưng anh vẫn nhận ra trong ảnh là Mỹ Lan. Yên tâm phần nào. Phi định bước xuống giường, nhưng người anh như bị đóng đinh xuống giường, không tài nào xoay sở được. 

Vừa khi ấy, ở tay bên này của Phi như có ai vừa đặt vào đó một khung hình thứ hai. Hai tay hai khung ảnh và Phi chợt hiểu, anh thầm kêu lên: 

- Ảnh hai người! 

Khi nhảy được xuống giường, Phi đốt đèn lên thì rõ ràng hai khung hình của Mỹ Lan và Ngọc Liên đều nằm trên giường anh! Lúc anh còn đang ngơ ngác thì ba má Ngọc Liên đã bước vào, họ hỏi bằng giọng ngạc nhiên: 

- Cậu có hẹn với người nào tới đây không? 

Phi lắc đầu: 

- Dạ đâu có. 

- Cậu ra ngoài coi, có người đang đợi cậu từ nãy giờ. 

Phi hấp tấp bước theo họ ra nhà ngoài thì phải kêu lên: 

- Mỹ Lan! 

Cô gái tên Mỹ Lan đã ngồi ở phòng khách từ lúc nào rồi. Khi thấy Phi bước ra, cô vẫn bình thản đưa tay chỉ về phía bàn thờ: 

- Trên bàn thờ phải thờ đủ hai người chứ sao chỉ có một người? 

Phi nhìn lên thì không còn ảnh của Ngọc Liên, anh nhớ tới hai tấm ảnh đều trong phòng mình thì muốn nói, nhưng đã chậm hơn so với cô nàng. Cô quay sang ông bà già: 

- Ba má cứ để cho anh ấy thờ cả hai ảnh trên bàn thờ, như vậy anh ấy mới yên lòng mà nghe lời ba má. 

Bà già kêu lên: 

- Kìa, sao cô lại kêu tụi tôi bằng ba má? Tôi đâu có... 

Mỹ Lan bỗng sụp xuống lạy dài hai người: 

- Con lạy ba má, hãy để cho anh ấy làm rể nhà này, không thì cả hai đứa con mới được cùng nhau. Bằng không thì... 

Cô quay sang Phi, nói với anh: 

- Sao không lạy ba má đi! 

Phi còn đang chưa biết phải làm sao thì tự dưng đôi chân anh tự động khuỵu xuống trong tư thế quỳ! Chẳng hẹn mà anh và Mỹ Lan cùng quỳ trước ông bà già Ngọc Liên, mà cũng là trước bàn thờ còn khói hương nghi ngút! 

Ba má Ngọc Liên cũng chẳng biết sao, họ đành phải nói: 

- Hai đứa đứng lên đi. 

Đó như một lời công nhận, lúc đó Mỹ Lan mới kéo Phi đứng lên và nói: 

- Con là Ngọc Liên đây, ba má làm như vậy là giải khó cho tụi con rồi! Con xin nói để ba má rõ, con đã chết chìm, hồn con sắp lạc vào mê cung địa phủ thì gặp được người con gái cùng cảnh ngộ với con cũng đang vật vờ sau khi trôi giạt từ xa đến. Cái số ở cỏi âm của tụi con là như vậy, kẻ mất xác, người mất hồn, cuối cùng chỉ còn lại một mà thôi. Hồn con đây, trong xác của chị Mỹ Lan và hai chúng con đều có duyên với chỉ một người... này! 

Nói xong, cô chỉ tay về phía Phi. Anh giật mình: 

- Là tôi? 

Mỹ Lan không trả lời, cô rất tự nhiên đi vào phòng nơi Phi vừa ngủ, khi trở ra trên tay cầm hai khung ảnh. Trịnh trọng đặt cả hai khung ảnh lên bàn thờ, vừa nói: 

- Coi như ba má có hai đứa con gái. Cả hai tuy đã chết, nhưng thực tế thì ngày ngày vẫn sống với ba má tại đây. Còn bây giờ để tụi con, còn phải về thăm cha con bên kia nữa! 

Cô kéo tay Phi: 

- Đi anh, ba đang đợi ở quán bên Hàm Luông! 

Họ đi ra trước sự thảng thốt của hai ông bà: 

- Kìa, rồi ba má làm sao đây? 

Họ vẫn đi thẳng như không có chuyện gì xảy ra. Khi ra tới ngoài rồi Phi mới hỏi: 

- Có phải em là... 

Mỹ Lan đáp tỉnh queo: 

- Là hồn ma! 

Khi đã xuống chiếc xuồng đậu sẵn ở bờ sông rồi, nàng mới nói tiếp: 

- Một hồn ma không biết hại người. Mà trái lại còn bị người hại, suýt chết! 

Nàng đưa tay lên sờ vết thương trên môi vẫn còn chưa lành: 

- Cái lưỡi câu đó nếu em không thoát ra được, không chết vì đau thì cũng chết vì lên bờ không có nước thở! 

Nhớ lại bữa câu cá đó, Phi hỏi: 

- Em là hồn ma sao dính câu được? 

Bấy giờ nàng mới cười: 

- Cái nợ tình nó buộc em phải dính đó thôi. Em nói thật tại cái số của em phải trở thành vợ anh, cho nên anh câu hai lần em đều dính câu và phải đến kết cuộc này... 

Đẩy xuồng ra giữa dòng, chợt Mỹ Lan nói tiếp: 

- Anh về nhanh đi, để ông già đợi ở quán. Còn em... 

Cô vừa dứt lời thì lao nhanh xuống nước. 

- Kìa, Mỹ Lan! 

Phi muốn phóng theo, nhưng chợt khựng lại. Anh lẩm bẩm: 

- Cô ấy trở về với thế giới của mình!

° ° °

Ông Tám Ri đã sốt ruột chờ đợi suốt ba ngày rồi mà vẫn chưa thấy con gái mình trở về. Ông cũng thắc mắc về sự vắng mặt của Phi. Phi chỉ nói với ông là đi có việc riêng và sẽ trở về ngay, vậy mà anh ta vẫn bặt vô âm tín. 

Chiều hôm đó, chị chủ quán trấn an ông Tám: 

- Chú Tám cứ ở đây nghỉ ngơi, thế nào rồi Mỹ Lan cũng trở về thôi. Mấy tháng làm ở đây chưa bao giờ nó đi lâu. Lần này có lẽ có chút chuyện gì đó... 

Ông Tám không an tâm: 

- Tối qua tôi cứ nhắm mắt lại là thấy nó ngồi khóc trên xuồng, miệng nó đầy máu. Tôi lo quá. 

Thật ra chị chủ quán Tư Quắn cũng lo không kém. Chính chị cũng chiêm bao thấy giống như vậy. Chị còn nhìn thấy Mỹ Lan hụp lặn dưới nước mà mỗi khi trồi lên thì mặt cô cũng đầy máu? Chị không dám nói ra điều này sợ làm ông Tám lo thêm... 

Đến bữa cơm chiều, mới đến lần thứ ba thì ông Tám Ri mới chịu ngồi vào bàn ăn, ông chưa kịp gắp thức ăn thì đã thấy trong chén mình có nửa miếng cá rô kho nằm sẵn. Ông ngạc nhiên hỏi: 

- Cô Tư gắp cho tôi hả? 

Tư Quắn lúc đó mới ngồi xuống ghế, cô trả lời: 

- Dạ, đâu có. Con mới vào ngồi mà. 

- Vậy sao... 

Ông Tám nhìn nửa con cá toàn nạc, không lẫn miếng xương, vừa ngạc nhiên vừa thích thú: 

- Tôi vốn rất sợ mắc xương, mà miếng cá này thì rất giống với những miếng cá mà thường ngày con Mỹ Lan vẫn thường hay gắp cho tôi mỗi khi ăn món cá! 

Tuy ngạc nhiên, thắc mắc, nhưng ông Tám vẫn ăn. Ông còn nói: 

- Con Mỹ Lan thích nhất là đọt lang chấm nước cá kho. Bữa nào dẫu trời mưa gió tầm tã nó vẫn đi hái đem về luộc để cha con ăn. Mà đọt lang luộc chấm nước cá kho ăn ngon miệng lắm, cô Tư đã ăn thử chưa? 

Tư Quắn giở chiếc lồng bàn để cạnh bàn ra và nói: 

- Không có đọt lang, cháu luộc đọt bí đây, chú dùng đỡ. 

Nhưng khi chiếc lồng bàn giở ra thì Tư Quắn quá đỗi ngạc nhiên: 

- Ủa, sao như thế này? 

Thay vì dĩa đọt bí, trong đó lại là dĩa... đọt lang! Tư Quắn không tin vào mắt mình, chị cầm lên xem kỹ rồi lẩm bẩm: 

- Chính tôi hái và luộc mà. Sao lại... 

Ông Tám có ngạc nhiên, nhưng lại thích thú: 

- Đúng là hai thứ mà con gái tôi thích. 

Dẫu vẫn ăn, nhưng Tư Quắn vẫn không hết thắc mắc: 

- Bữa nay lạ quá, chẳng khác nào như Mỹ Lan trực tiếp làm bữa cơm hôm nay. 

Ông Tám cũng có cảm giác ấy nhưng ông vốn không nghĩ gì khác mà vẫn cứ ăn ngon lành. Lúc bữa ăn gần chấm dứt thì bỗng ở sau nhà bếp có tiếng va chạm mạnh, khiến Tư Quắn phải buông đũa và chạy xuống xem. Chị quá đỗi ngạc nhiên khi nhìn thấy hai chén chè đậu xanh ai đó đã múc sẵn còn bốc khói để trên chiếc mâm. 

Lúc này Tư Quắn không còn bình tĩnh nữa, chị hỏi: 

- Ai trong này vậy? 

Chị quay tìm khắp nơi mà không thấy ai. Lúc ấy ông Tám cũng bước xuống, ông reo lên khi thấy mấy chén chè: 

- Chè đậu xanh là món cha con tôi ưa thích đây mà. 

Tư Quắn nghe tim mình đập liên hồi, chị đang nghĩ tới Mỹ Lan. Linh tính hình như cho chị biết có điều gì đó. Tuy nhiên nhất thời chị chưa dám nói thẳng ý mình ra... 

Ăn xong bữa cơm, ông Tám có vẻ hài lòng: 

- Lâu lắm rồi tôi mới được ăn một bữa giống như nhà mình. Đúng hơn là giống như cách nấu của con Mỹ Lan. Cô Tư nấu ăn khéo thật! 

Tối đó thì Phi về tới. Vừa thấy anh, ông Tám đã hỏi: 

- Con Mỹ Lan đâu? 

Phi đã suy tính kỹ trên đường về, nên không giấu giếm: 

- Dạ thưa bác, Mỹ Lan chẳng may... 

Anh chưa kịp nói hết lời thì từ trong nhà bếp, một giọng nói quen thuộc đã vang lên: 

- Dạ, con đây ba! 

Mỹ Lan xuất hiện giữa sự ngạc nhiên chẳng riêng gì ông Tám và chủ quán, mà cả Phi cũng tròn mắt: 

- Em... em... 

Từ lúc Mỹ Lan nhào xuống sông thì Phi không nghĩ cô sẽ trở về gặp cha. Nhưng bây giờ cô đã có mặt, khiến Phi lúng túng. Cũng may là anh chỉ mới nói còn chưa rõ ràng và ông Tám cũng không kịp thắc mắc, mà chỉ vui mừng khôn xiết: 

- Ba đã đợi con từ mấy bữa rồi! Mỹ Lan, con nói cho ba nghe coi, hôm con bị chìm xuồng rồi làm sao sống sót và trôi giạt qua tận đây? 

- Dạ... con nhờ người ta cứu. 

Cô hình như muốn né tránh kể lại sự việc, nhưng lúc này ông Tám bị niềm vui trong lòng lấn át cả mọi sự hoài nghi, ông phấn khởi nên nói huyên thuyên: 

- Con đi ăn cơm đi, có cá rô kho tiêu, có cả chè đậu xanh nữa. Cô Tư đây nấu giống y như con vậy, ngon lắm! 

Bất ngờ Mỹ Lan nhăn mặt: 

- Cá rô hả? Con sợ món cá này, ăn dễ mắc xương! Còn chè đậu hả, đó là món con ghét nhất! 

Câu nói làm cho ông Tám quá đỗi ngạc nhiên. Ông không ngờ chỉ một thời gian ngắn xa nhà mà cô con gái cưng của ông đã thay đổi tính tình quá nhiều như vậy. 

Ông trách: 

- Con mới đi có mấy tháng mà sao không còn giống con chút nào hết vậy Lan? 

Chỉ có Phi là hiểu nguyên nhân. Anh không còn muốn nói ra sự thật nữa, nên tìm cách khỏa lấp: 

- Con nghĩ có lẽ xa nhà lâu nên Mỹ Lan có nhiều thay đổi. Hơn nữa, cô ấy mới vừa trải qua một cơn bệnh, cho nên... 

Anh tìm cách kéo Lan vào nhà sau, dặn khẽ: 

- Em bây giờ chỉ có cái xác là của Mỹ Lan, còn phần hồn là Ngọc Liên, do vậy mọi thứ đều sẽ không hợp với ông già. Tất hơn hết là hãy tìm cách tránh tiếp xúc với ông ấy. 

Phi chủ động bàn với ông Tám: 

- Bác Tám đã gặp được Mỹ Lan rồi, nhưng hiện nay cô ấy đang có giao ước làm việc với người ta dài hạn. Vậy bác ở chơi đây ít hôm rồi về bên nhà, Lâu lâu, khi nào rảnh Lan sẽ về thăm bác. Con sẽ... 

Ông Tám bất ngờ nói: 

- Ta có ý này... hay là ta gả con Mỹ Lan cho cậu! Có như vậy thì việc nó xa nhà ta mới yên tâm. Cậu chịu không? 

Phi tuy đã có ý đó, nhưng anh vẫn làm ra vẻ: 

- Dạ... chỉ sợ e... 

Ông Tám gọi Mỹ Lan ra: 

- Đây, có trước mặt cả cô Tư, ba quyết định gả con cho cậu Phi này, con ưng không? 

Mỹ Lan cúi đầu e thẹn. Tư Quắn nói thêm vào: 

- Ông Tám quyết đình như vậy là hợp ý tụi nó rồi. Cậu Phi đây tuy nhà ở xa tới đây trọ, nhưng tôi biết chắc cậu ấy chưa vợ con gì. Mà lâu nay lui tới đây cậu ấy vì Mỹ Lan cũng đã vừa ý nhau, hai đứa lại xứng lứa vừa đôi nữa, còn gì hơn! 

Ông Tám lại có một quyết định gây ngạc nhiên hơn: 

- Không cần lễ tiệc chi cho rườm rà. Ngay sáng mai nhờ cô Tư nấu cho ít món, mời một ít khách quen với cô, quen với con Mỹ Lan và bạn bè cậu Phi đây tới dự, tôi sẽ cho tổ chức một lễ cưới cho hai đứa nó! 

Phi liếc mắt nhìn Mỹ Lan, anh muốn nói gì đó nhưng kịp dừng lại... 

Sáng hôm sau, lễ cưới theo đúng ý ông Tám đã diễn ra. 

Qua ngày hôm sau thì ông Tám được Phi mướn người ngồi cùng ghe đưa về tận nhà. 

Chị chủ quán không hiểu sự tình, nên đề nghị: 

- Hay là tôi nhường phần sau nhà này cho cô cậu ở, tôi dọn ra phần trước ở coi quán luôn? 

Phi tế nhị từ chối: 

- Cám ơn dì Tư, có lẽ để tụi này mướn một chỗ ở riêng cho yên tĩnh. Bởi... cô ấy đã có thai, cần nghỉ ngơi! 

Tư Quắn trố mắt kinh ngạc: 

- Thật vậy sao? 

Trong khi đó thì Mỹ Lan lánh vào trong rất nhanh. Chờ cho Phi bước vào, cô trách: 

- Sao anh ẩu vậy, em có thai hồi nào? 

Phi cười: 

- Phải nói như vậy bà ấy mới cho em nghỉ làm chứ. Bằng không thì làm sao giải thích... 

Mỹ Lan hiểu thực trạng của mình nên nín thinh. Nhờ vậy mọi việc được giữ kín...

° ° °

Chuyện của Mỹ Lan và Phi được giấu kín, không một ai nghi ngờ gì. Bởi họ mướn một căn nhà ở rất xa, nên cũng chẳng mấy ai lui tới thăm viếng. Thực tế thì Phi sống một mình suốt ngày. Chỉ vào ban đêm thì Mỹ Lan mới xuất hiện. 

Một hôm nàng nói: 

- Anh phải về bên nhà ba má em gấp, ông bà sắp hết số rồi. Về đứng ra làm đám cho đúng lễ. 

Phi tưởng mình phải về Gò Công, anh đang chuẩn bị đi thì nàng nhắc: 

- Em nói ba má tức ba má em ở Bình Đại, anh quên rồi sao! 

Lúc này Phi mới nhớ là mình đang làm rể đến hai nhà. Anh ngượng nghịu nói: 

- Ờ, anh biết rồi... 

Từ đó về sau, cứ lâu lâu Phi lại về nhà, khi thì Gò Công, lúc thì Bình Đại. Anh đóng vai chàng rể... ảo một cách đáng khen. 

Một năm sau... 

Bỗng một đêm Mỹ Lan về, cô ẵm về một đứa bé còn trong tháng và nói: 

- Anh hãy nuôi cho kỹ, con chúng ta đó! 

Phi tưởng mình đang mơ: 

- Thật... hả? 

- Sao lại không thật, đã sống với nhau, dẫu là với hồn ma, cũng có con như thường chứ! 

Phi một mình nuôi con rất chu đáo. Nếu có ai cắc cớ hỏi mẹ đứa bé đâu, nó sẽ vô tư trả lời: 

- Hai mẹ của con đi làm ăn xa!

NƯỚC MẮT CÔ HỒN

Vừa bước lên bến tàu, ông Toàn hít sâu không khí đầy lồng ngực rồi mới đưa mắt quan sát một vòng. Mọi thứ không thay đổi nhiều, vẫn là con đường bờ sông tấp nập người, xe và bụi. Cái đặc trưng của thành phố quê hương là thế, nhưng ông Toàn vẫn thấy nhớ và bồi hồi khi nhìn lại nó sau mấy chục năm xa cách. 

- Mời thầy đi xe. 

Một người phu xe dừng ngay trước mặt Toàn lễ phép mời với nụ cười móm mém. Định còn đứng ngắm trời đất thêm chút nữa, nhưng trước lời mời ông Toàn vội gật đầu rồi bước lên xe. Đã lâu lắm rồi ông mới có lại cái cảm giác ngồi trên chiếc xe kéo đi giữa thành phố, nên ông bảo: 

- Anh chạy cho tôi hết một vòng thành phố, rồi sau đó về khu Bến Tắm Ngựa. 

Người phu xe ngạc nhiên: 

- Thầy quen ai ở bến Tắm ngựa? 

- Nhà tôi ở đó. 

Câu nói của ông Toàn khiến cho bác phu xe ngạc nhiên: 

- Thầy ở đó mà sao tui không biết? 

Quay nhìn lại ông ta, Toàn không thể nào nhận ra, ông cười nói: 

- Đã gần hai mươi năm rồi, làm sao bác nhớ được. 

Bác phu xe vừa cố sức kéo lên dốc vừa buông một câu: 

- Vậy là trước năm cháy nhà! 

- Cháy nhà? Mà nhà ai cháy? 

Thấy ông ta quan tâm, bác phu xe nói rõ: 

- Cháy hầu như cả khu. Bộ thầy không hay vụ đó sao? 

Ông Toàn hỏi dồn: 

- Sao cháy vậy bác? Mà thiệt hại thế nào? 

- Một người chong đèn ngủ rồi đèn ngã, bắt vách mùng cháy. Gặp mùa khô nên lửa bắt quá nhanh, chỉ trong phút chốc thì cả một xóm nhà tạm bợ, nhà phố nhỏ đã làm mồi cho thần hỏa, nhà tui cũng nằm trong số đó. 

Toàn nói vội: 

- Bác khỏi chạy vòng nữa, đưa tôi về chỗ đó. Tôi muốn nhìn lại nơi mà… 

Bác phu xe chận lời: 

- Bây giờ người ta xây lại nhà cửa khang trang, đâu còn nhà lá như hồi xưa nữa, chắc gì thầy nhận ra. Mà bao lâu rồi thầy không về đây? 

Toàn thở dài: 

- Ngót hai mươi năm rồi. Mà tôi cũng chẳng nhận được tin tức gì, nên đâu có biết… 

Bác phu xe cũng thở hắt ra một hơi khi lên hết đoạn dốc, rồi có vẻ hứng thú bắt chuyện tiếp: 

- Thầy ở đó ngày xưa, mà tên gì vậy? 

- Thật ra tôi chỉ là người... có người yêu ở xóm đó, chứ chỗ ở của tôi là ở Cầu Kho, gần bờ sông. 

- Thảo nào... 

Đạp thêm một đoạn nữa, bỗng lão ta hỏi: 

- Người yêu của thầy ở đó tên gì vậy? 

Thấy lão ta quá tò mò, Toàn định không trả lời, nhưng nghĩ lại, ông đáp: 

- Tên Kim Thoa. 

Chiếc xe kéo gần như ngừng lại giữa đường, bởi bác phu xe đang quay lại trố mắt nhìn vị khách của mình: 

- Cậu có phải là... cậu Toàn không? Đốc tờ Toàn? 

Đến phiên Toàn ngạc nhiên: 

- Sao bác biết tôi? 

- Tui là Phẩm, anh ruột con Kim Thoa nè! 

- Trời đất! 

Hai người nắm tay nhau mừng rỡ ngay giữa lộ, nên bị mấy xe đi sau bóp kèn inh ỏi thúc giục. Toàn bảo: 

- Anh kéo xe nhanh về nhà đi, rồi nói chuyện. 

Rồi Toàn gật gù tiếp: 

- Hồi đó nhiều lần tôi nghe Kim Thoa nhắc tới anh mà chưa được gặp, bởi khi tôi tới nhà thì anh và bác trai đi làm xa, đâu ngoài Ô Cấp. 

- Đúng rồi, thời đó ba tôi lãnh thầu một công trình ngoài đó, làm suốt mấy năm trời, ít khi về nhà. Cho đến khi... 

Giọng ông chợt trầm xuống khiến cho Toàn ngạc nhiên: 

- Vụ cháy nhà có ảnh hưởng gì tới nhà mình không? 

- Có chớ, ảnh hưởng nặng là đàng khác! 

Đáng lý ông ta kể tiếp, nhưng lúc đó bị kẹt xe nên ông bảo Toàn: 

- Để qua đoạn này rồi tui kể tiếp cho cậu nghe. 

Đến một ngã tư, ông ta lại nói: 

- Cũng gần nhà rồi, ghé qua đó cho cậu biết rồi anh em mình nói chuyện nhiều hơn. 

Nhìn con hẻm hun hút trước mặt, Toàn hơi ngỡ ngàng: 

- Mấy chục năm rồi sao xóm mình vẫn không thay đổi? 

- Đây không phải là xóm cũ. Kể từ sau vụ cháy nhà, tui bán cái nền cũ, chuyển về đây mướn nhà ở. 

Đến một gian nhà nhỏ, vách ván cũ kỹ nằm sát bờ con sông bốc mùi hôi thúi nực mũi, lão có vẻ ngượng: 

- Chắc cậu không quen chỗ tồi tàn này nhưng sáng giờ chưa chạy được cuốc xe nào nên không dám mời cậu ghé quán cà phê. Cậu ngồi tạm đây đi. 

Kéo chiếc ghế đẩu lung lay chân mời khách. Còn mình thì ngồi giữa bộ ván xứt đầu, mẻ cạnh, thấy vậy ông Toàn ái ngại: 

- Anh mệt thì ngồi đi, tôi đứng một chút cho chân đỡ phải co cơ. 

Quá sốt ruột chuyện muốn hỏi nãy giờ mà chưa hỏi được, Toàn nhìn trong nhà không thấy ai nên hỏi ngay: 

- Kim Thoa bây giờ... 

Hình như điều ông Phẩm muốn nói cũng trùng ý của Toàn, nên ông đáp ngay: 

- Tui ở đây một mình. Còn Kim Thoa thì… 

Chỉ tay vô bàn thờ đặt giữa nhà, ông xúc động: 

- Tui thờ nó chung với ông bà già. 

Ông Toàn sững sờ: 

- Trời ơi! Kim Thoa… 

- Tui tưởng do dời nhà khỏi xóm cũ nên cậu có trở lại tìm không gặp, nào ngờ từ nào tới giờ cậu không trở lại xứ này... 

Ông Toàn nói, giọng lạc hẳn đi: 

- Tôi qua Pháp học rồi kẹt mấy năm chiến tranh không về được. Tôi có gởi về cả chục lá thơ mà không thấy hồi âm. Đâu ngờ sự thể thế này! 

Ông Phẩm bước tới bàn thờ đốt nén hương, Toàn cũng theo chân, ông nhìn bức ảnh chân dung của Thoa mà ruột quặn đau. Chính anh đã dẫn Thoa đi tiệm, chụp tấm ảnh này trước ngày anh lên đường đi Pháp du học. 

Không ngờ nó lại là ảnh thờ. 

- Tại sao Thoa mất, anh Phẩm? 

Trên gương mặt sạm đen bởi nắng gió. Ông Phẩm lại làm cho Toàn đau lòng thêm khi bật khóc. Rồi cả Toàn cũng khóc theo. Mãi một lúc sau, giọng nghẹn ngào của Phẩm: 

- Nó chết là vì... tình! Cậu biết chuyện đó mà! 

Ông Toàn ngơ ngác: 

- Em đâu hay biết gì. 

- Vậy chuyện nó yêu cậu, rồi bị gia đình cậu phản đối và còn cô vợ chưa cưới của cậu nữa… Cậu thật sự không biết hay là… 

Toàn như bị điện giật, ông kêu lên: 

- Anh nói gì vậy? Cái gì là vợ chưa cưới của tôi? Anh quên rằng tôi yêu Kim Thoa bằng mối tình trong sáng, bằng lòng tin và nghị lực của mình, chính Thoa đã khuyến khích tôi đi du học, để vài năm sau về chúng tôi sẽ chính thức cưới nhau. Tôi đâu phải... 

Ông Phẩm nhẹ lắc đầu: 

- Bây giờ cậu nói cũng bằng thừa. Thoa cũng đã chết. 

Toàn vẫn còn bị kích động, giọng anh càng run nhiều hơn nữa: 

- Anh Phẩm nói rõ tôi nghe đầu đuôi câu chuyện, tôi sắp nghẹt thở rồi đây. 

Phẩm kể: 

- Cậu đi được mấy năm thì chuyện xảy ra. Một bữa Thoa nhận được lá thư gửi tới, người viết tự xưng là Tuyết Hương, bảo rằng cô ấy được mẹ cậu chính thức hỏi cưới yêu cầu con Thoa buông tha cậu ra. Trong thư còn nói nhiều điều thậm tệ nữa, đến nỗi đọc xong con Thoa đã điên tiết lên. 

- Tuyết Hương? 

Toàn kêu lên với sự ngạc nhiên cao độ. Anh bật dậy khỏi nơi đang ngồi, khiến ông Phẩm phải ngạc nhiên: 

- Cậu sao vậy? 

Toàn như quên sự có mặt của chủ nhà, nói mà không nhìn vào ông Phẩm: 

- Con người này đúng là con quỷ cái! 

- Cậu nói ai vậy? 

Toàn bất thần hỏi: 

- Anh nói rõ hơn xem, người tên là Tuyết Hương đã làm gì Kim Thoa! 

Ông Phẩm lắc đầu: 

- Tôi còn không biết mặt cô ta nữa là... Nghe đâu mẹ cậu và cô ấy đã tìm gặp Thoa khi nó đi chợ về. Còn chuyện gì sau đó thì tui không biết. Chỉ có cái này hơi lạ, mà đến giờ này tui vẫn chưa rõ. 

Ông đi lấy ra một tờ giấy màu vàng cỡ chiếc khăn tay, trên đó chỉ có một dòng chữ duy nhất: 12-6-1942, kèm một mũi tên xuyên qua suốt hàng chữ số. 

- Cái này tui nhặt được lúc chạy ra khỏi nhà, thấy nó bay ra từ phòng con Thoa trên lầu. Tui không định nhặt, nhưng khi thấy Kim Thoa đang đứng ở thành cửa sổ như kêu cứu thì tui quýnh quá nhét vội mảnh vải này vào túi rồi chạy trở lên cứu em mình. Nhưng không còn kịp nữa. Toàn bộ căn gác gỗ đã sụp xuống, kèm theo tiếng thét kinh hoàng mà tui đoán chắc đó là của con Kim Thoa! Nó đã chết cháy lúc đó. 

Toàn nhìn một lúc vào mảnh vải rồi lẩm bẩm: 

- 12-6-1942 là ngày sinh của Kim Thoa! 

Ông Phẩm chợt nhớ ra: 

- Đúng rồi! Vậy mà lâu nay tui không nhớ. Nhưng ai lại viết và làm dấu như vậy? 

Toàn chợt hiểu: 

- Kim Thoa đã bị người ta bỏ bùa làm cho điên loạn. Đây là đạo bùa chú gì đó… 

Anh không suy nghĩ thêm, móc lấy diêm quẹt rồi đốt nhanh mảnh vải… lạ lùng thay, khi ngọn lửa bùng lên cũng là lúc anh cảm giác như có một luồng khí lạnh chạy khắp thân thể mình! Đồng thời người anh không đứng vững, ngã bổ ra trước sự kinh ngạc của ông Phẩm: 

- Cậu Toàn. Cậu sao vậy? 

Nhưng Toàn hầu như không còn nghe thấy được gì. Toàn thân anh bỗng sốt lên thật cao. Mồ hôi vã ra như tắm. 

Người phụ nữ đi thật nhanh tới căn nhà có cánh cổng màu xanh. Sau khi nhìn trước sau không thấy ai thì mới nhẹ đẩy cổng sắt bước vào. 

Bên trong nhà không có ai lên tiếng, cũng chẳng có tiếng chó sủa như hầu hết những ngôi nhà kín cổng cao tường khác. Lẳng lặng, đi thẳng ra nhà sau, nơi cánh cửa chỉ khép hờ. Người phụ nữ lách mình vào, vừa lúc đó mới nghe có người lên tiếng hỏi, giọng yếu ớt: 

- Con Út hả? 

Người được hỏi đáp rất khẽ: 

- Dạ, con đây. 

Đáp xong chị ta vội tới ngồi lên giường bên cạnh một người đang nằm. Giọng lo lắng: 

- Cô Hai thấy trong người thế nào? 

Người kia đáp rất khó khăn: 

- Nó cứ mệt từng cơn... Khó thở… 

- Con đã tìm được tới đó, nhưng không gặp được người cô dặn gặp. 

- Vậy còn… 

- Nhưng con có lấy được thứ ấy về. Cô coi… 

Út đưa ra một vật bọc trong một vuông vải màu vàng. Khi chị vừa mở ra thì người bệnh đã thét lên một tiếng rồi nằm xuôi tay như xác chết. 

Hốt hoảng, Út lay gọi: 

- Cô Hai. Cô Tuyết Hương! 

Người được gọi là Tuyết Hương không động tĩnh gì. Vừa lúc ấy chợt có người lên tiếng ngoài cửa phòng: 

- Kiếp nạn đến nơi rồi còn ở đó mà cô với thầy! 

Út quay lại nhìn thấy người mới tới thì sợ hãi, muốn bật dậy chạy đi, nhưng ông ta đã đưa tay ngăn lại: 

- Cô đã gây ra thì phải ở đó để còn đón hậu quả! 

Út riu ríu ngồi xuống, trong khi người nọ lấy từ trong chiếc túi rơm ra một miếng vải lớn rồi bất thần trùm lên thân thể người phụ nữ. Chỉ một lát sau thì người ấy cử động nhẹ và phát ra tiếng rên khẽ. Người đàn ông lên tiếng: 

- Cô đặt vật đó lên ngực cô ấy nhanh lên. 

Út nghe theo. Vật đó vừa nằm lên ngực Tuyết Hương thì cũng vừa lúc Út không kêu lên được tiếng nào, đã ngã vật xuống sàn nhà, nằm bất động. 

- Không sao rồi, em có thể dậy được. 

Đang rất yếu, rồi lại bị cơn ngất, nhưng sau lời nói của người đàn ông, Tuyết Hương đã ngồi ngay dậy, đưa mắt nhìn quanh, ngơ ngác: 

- Em… vẫn còn sống? 

Đưa tay chỉ vật vừa từ ngực cô ta rơi ra, người đàn ông bảo: 

- Nếu không có vật này thì em đã theo ông bà rồi. 

Tuyết Hương nhìn xuống rồi reo lên: 

- Nó đây rồi! Em cứ ngỡ. 

- Sao em có thể nóng vội và nghi ngờ khi anh chỉ lấy nó để luyện thêm phép cho nó. Em quên là chính anh đã cùng em vượt bao gian khổ để có được nó không! 

Tuyết Hương ôm pho tượng ngọc thạch nhỏ bằng vừa lóng tay vào long, nâng niu như báu vật: 

- Em không nghi ngờ gì hết, mà chỉ bởi vì vắng nó một phút giây nào là y như em bị tình trạng như vừa rồi. Hơn mười lăm năm rồi, em sống là nhờ nó, anh quên rồi sao Tường! 

Tường nhẹ lắc đầu: 

- Lần này em bị đột quỵ không phải do em rời xa pho tượng ngọc bích này, mà nguyên nhân là bởi mảnh vải kia đã bị đốt! 

Tuyết Hương ngơ ngác: 

- Mảnh vải nào? 

Tường với giọng đầy lo lắng: 

- Em làm việc gì cũng xốc nổi rồi lại mau quên. Em không nhớ ngày đó em đem tới đưa cho con Kim Thoa vật gì sao? Vật của ông thầy Tàu… 

Tuyết Hương nhớ ra: 

- Em nhớ rồi mảnh lụa màu vàng có viết ngày tháng năm sinh của con Thoa! Con đó đã phát rồ, phát điên khi cầm vật ấy trong tay và nhờ thế em mới toại nguyện, mới có cơ ngơi này hôm nay. 

Tuyết Hương lặng đi giây lâu, rồi chép miệng: 

- Nghĩ cũng tội cho con nhỏ. Đang trong lúc đời sắp lên hương thì lại chết thảm trong đống lửa. Cũng tội cho nhiều người khác, bởi vụ hỏa hoạn đó mà tiêu tan hết nhà cửa sản nghiệp theo. Cho tới nay em vẫn còn day dứt mãi. 

Tôn Tường nhún vai: 

- Muốn thực hiện tham vọng thì đừng bao giờ hối tiếc cả. Em không làm chuyện ấy thì ngày nay em cũng tiếp tục là con sen của bà chủ tiệm vàng, mẹ của thằng Toàn, chớ đâu có được ngôi biệt thự to đùng và mấy hiệu buôn vải đồ sộ kia! 

Chợt nhìn sang người giúp việc, Tường hơi lo: 

- Nãy giờ anh quên để ý. 

Tuyết Hương bảo: 

- Nó bị ngất, không sao đâu, nó là đứa vô tâm, chẳng phải lo. 

Tường ra dấu: 

- Chúng ta ra ngoài, anh có việc này cần bàn thêm. 

Họ vừa bước ra khỏi phòng thì căn phòng bỗng tối sầm lại có lẽ mất điện. Khoảng nửa giờ sau, khi trở lại thì Tuyết Hương ngạc nhiên quá đỗi: 

- Con Út đâu rồi? 

Tường cũng nghi ngờ. Anh ta tìm khắp nơi, cuối cùng anh ta bảo: 

- Con nhỏ sợ quá bỏ trốn rồi. Sẽ không ổn nếu để nó yên ổn rồi đi nói lại mọi chuyện. 

Tuyết Hương trấn an: 

- Em biết con này, đầu óc nó nghễnh ngãng, sẽ không gì phiền đâu. 

Họ cùng kéo nhau đi ra ngoài và Tường không quên dặn: 

- Em hời hợt lắm, khó mà giữ được pho tượng, tốt hơn là đưa cho anh... 

Tuyết Hương trừng mắt với anh ta: 

- Anh giữ hay là định ém luôn như vừa rồi, nếu em không nhờ con Út đi lấy lại thì anh đã làm gì nó? Có phải anh dự tính... 

Tường cắt ngang lời: 

- Đầu óc em thì lúc nào cũng đa nghi và luôn nghĩ xấu cho người khác, kể cả người đang tiếp tay đắc lực cho sự thành công của em. 

- Lòng tốt của anh đến nỗi chỉ cần con Út đem pho tượng về chậm một chút nữa là em đã không tỉnh lại được nữa! Lúc đó thì mọi chuyện sẽ ra sao? Phải chăng anh đã sẵn sàng để sở hữu những gì em đang có? 

Bị lật tẩy bất ngờ, Tường khựng lại một lúc, rồi đột ngột trở giọng: 

- Em đã nói vậy thì anh cũng không cần giấu giếm nữa. Đúng là anh muốn chiếm luôn pho tượng. Nhưng em biết để làm gì không? 

Tuyết Hương dù đã biết trước ý đồ của gã người yêu lắm mưu nhiều mẹo, nhưng vẫn lúng túng: 

- Lòng dạ anh thì ai còn lạ gì. 

Tường cười gằn: 

- Cũng chỉ vì mạng sống của em đó! 

Một chiếc taxi dừng lại theo lệnh của Tường, nhưng Tuyết Hương đã khoát tay bảo xe chạy đi, vừa chụp vai Tường hỏi lớn: 

- Anh nói rõ hơn coi! 

Tường vẫn bình tĩnh: 

- Em nhìn lại mình xem, có phải em lúc nào cũng cần sự hỗ trợ của pho tượng để tồn tại sau khi đã bị lậm quá nhiều bùa phép của lão thầy Tàu Mã Lục không? 

Tuyết Hương giật mình. Cũng vừa lúc đó một cơn đau nhói ngay giữa ngực làm cho cô ả khó thở. Hiện tượng này đã xảy ra lâu nay và nó luôn báo hiệu cho một cơn đau tồi tệ hơn sau đó. Nỗi sợ hãi khiến cô ả chùn tay, bước lùi xa Tường mấy bước: 

- Anh định lợi dụng nhược điểm này để khống chế tôi phải không? 

Tường cười nửa miệng: 

- Ta đâu lạ gì nhau mà em còn hỏi lôi thôi nữa! Nào, bây giờ chúng ta tới phòng chưởng khế để tiến hành công chứng. Việc chủ quyền hai hiệu buôn vải chớ? Đã trễ giờ rồi. 

Tuyết Hương hết mức chịu đựng, nên quên là mình đang đứng giữa đường: 

- Đồ tồi! Anh là một thằng lưu manh! 

Tường giờ mới hiện nguyên bộ mặt nham hiểm: 

- Bây giờ em mới biết sao? Anh tồi, lưu manh, nhưng thử hỏi không có thằng lưu manh này thì em có được như ngày hôm nay không? Tôi nói thẳng nếu hôm nay em không làm đúng như kịch bản tôi đã dựng thì bây giờ em đi theo con Kim Thoa được rồi đó! Cứ ở đó mà chờ. 

Anh ta nói xong đưa tay đón chiếc taxi vừa trờ tới và không màng nhìn lại. 

Tuyết Hương khựng lại mà lòng tràn đầy căm phẫn. Tuy nhiên khi cơn giận trào lên thì cơn đau như xé lồng ngực lại trỗi dậy. Và như một người bị bắn trúng tim, cô ả ngã vật ra đường, lăn lộn kêu la. 

Người đi đường bu lại xem. Có người giúp đỡ dậy, nhưng khi họ chạm vào người thì cô ả như bị điện giật, lồng lên. Khiến chẳng một ai dám chạm tới. 

Bất chợt, một chiếc taxi ngừng lại. Từ trên xe con Út bước xuống, không nói không rằng, xốc Tuyết Hương dậy, đưa lên xe, trước sự tò mò của mọi người.

° ° °

Sau gần một buổi cân nhắc chọn lựa, chẳng hiểu thế nào, cuối cùng Toàn lại chọn khách sạn gần xóm Tắm Ngựa. Qua một ngày với bao chuyện dồn dập, Toàn hầu như không buồn ăn uống, mà chỉ mong tìm một giấc ngủ. Bởi vậy khi vừa vào phòng, tắm qua loa là anh đã lên giường ngay. Người bồi phòng gõ cửa hỏi xem khách có cần gì thì Toàn căn dặn kỹ: 

- Tôi cần nghỉ ngơi, vậy nếu tôi không gọi thì cậu đừng làm phiền. 

Chỉ nửa giờ sau Toàn đã nóng đầu. Chẳng biết đến bao lâu thì Toàn bị đánh thức bởi một bàn tay của ai đó lay mạnh: 

- Dậy đi chớ, chẳng lẽ về xứ chỉ để ngủ hay sao? 

Toàn cố nhướng mắt lên một cách khó khăn, đến khi nhìn rõ người trước mặt thì anh mới tỉnh hẳn, rồi quá đỗi ngạc nhiên:

- Sao cô vào đây? 

Cô nàng mỉm cười rất tươi trong bóng tối, ngọn đèn ngủ mơ mờ: 

- Cửa phòng không khóa, chẳng phải để mời gọi người ta vào hay sao. 

Toàn không phải loại đàn ông ham của lạ, anh khó chịu về sự đường đột này, nên gắt lên: 

- Yêu cầu cô bước ra khỏi phòng. Nếu không tôi sẽ… 

Cô ta vẫn bình thản: 

- Anh sẽ gọi người tới để người ta xỉ vả anh về tội cưỡng bức một phụ nữ không có gì để tự vệ ư? 

- Nhưng chính cô… 

- Ai tin được một cô gái tự động vào phòng một người đàn ông độc thân. Anh cứ kêu lên xem! 

Bị thách thức, nhưng quả thật Toàn không dám kêu lên. Cuối cùng anh đành phải xuống nước: 

- Tôi đang mệt, xin cô hãy để tôi yên. Cần gì thì để lúc khác. 

Cô nàng cười thành tiếng: 

- Rất vui khi được ông bác sĩ từ nước ngoài về xuống nước năn nỉ! Nhưng lịch sự phương Tây của anh đâu rồi, sao không hỏi cả tên người khách của mình? 

Toàn bực bội lắm, nhưng cũng phải hỏi: 

- Chẳng hay cô là ai? 

Câu nói của Toàn vừa dứt thì cũng thật bất ngờ, đèn trong phòng bật sáng. Vừa lúc nàng lên tiếng: 

- Tôi là Tuyết Hương, người mà anh đang có ý đi tìm! 

Toàn sững người nhìn cô gái. Đúng là Tuyết Hương! Anh nhớ lại cô hầu gái ngày xưa. 

- Có phải lúc trước cô giúp việc cho mẹ tôi? 

Cô nàng cười thật giòn tan: 

- Cậu chủ quả có trí nhớ không tồi! Ngày xưa dù cậu lớn hơn em mấy tuổi, nhưng vì là con nhà giàu nên mỗi lần đi tắm em luôn phải đem đồ tắm vào tận phòng tắm cho cậu. Có lần… 

Toàn thẹn đỏ mặt: 

- Cô… Cô nhắc làm gì chuyện đó! Hồi đó tôi mới mười sáu mười bảy gì đó… 

- Còn em mười bốn! Cậu nhớ ra con Tuyết Hương này rồi phải không? 

Toàn gật đầu, nhưng giọng anh trở nên gay gắt: 

- Tôi nhớ và cũng đang tìm cô đây! Cô trả lời tôi về chuyện cô đã dựng lên để hại tôi. Có phải cô là tác giả lá thơ gửi cho Kim Thoa nói rằng mẹ tôi có ý định đi hỏi vợ cho tôi mà cô dâu chính là cô phải không? 

Sắc mặt không chút thay đổi, cô nàng lại gật đầu giọng tỉnh táo: 

- Em đã thương cậu chủ ngay từ ngày đó. Nhưng em là phận tôi đòi, nên em đâu có cửa để bước vào cuộc đời cậu. Nên đành phải… 

Toàn chặn lời: 

- Cô dùng thủ đoạn hèn hạ đó đến nỗi làm cho Kim Thoa hiểu lầm tôi, rồi chuyện tày trời đã xảy ra, cô có biết không! 

- Em biết! 

Câu trả lời lạnh lùng của Tuyết Hương làm cho Toàn nổi khùng tiếp: 

- Con quỷ cái. Tao sẽ… 

Toàn chưa kịp có hành động gì thì bất thần cô ả đã ra tay trước, chỉ bằng một động tác nhanh và gọn, cô ta giật nhẹ một cái thì cả bộ xiêm y đang mặc trên người đã tuột phăng ra, để lộ nguyên một tòa thiên nhiên trước mặt Toàn. 

Trong hoàn cảnh này ít có người đàn ông nào cưỡng lại được lòng ham muốn. Nhưng Toàn thì khá bản lĩnh, anh gắt lên: 

- Cô làm trò khỉ đó để làm gì? Tôi sẽ la lên đây! 

Và anh la thật… 

- Bớ… 

Tiếng la lớn của Toàn cũng là lúc đèn phòng lại tắt phụp. Nửa phút sau cậu bồi phòng chạy lên và hỏi lớn từ ngoài cửa. 

- Chuyện gì vậy? 

Toàn chạy ra cửa chỉ vào trong phòng. Bồi phòng bật đèn lên thì trong phòng không có ai. Chính Toàn cũng ngơ ngác: 

- Cô... cô ta mới đây mà! 

Hiểu lầm ông khách này lén dẫn gái vào phòng, nên cậu bồi phòng trách nhẹ: 

- Muốn gì ông cứ nói với em, chớ dẫn thứ bậy bạ vào, coi chừng nó lột không còn thứ gì đó nghen! 

Toàn tức tối, chạy đi xục xạo khắp phòng nhưng chẳng thấy dấu hiệu gì của Tuyết Hương. Anh lẩm bẩm: 

- Không thể nào... 

Khi còn lại một mình, Toàn cố tình nói to lên, bởi nghĩ Tuyết Hương vẫn còn trốn ở đâu đó: 

- Cô đừng làm cái trò khỉ đó nữa. Hãy ra đây hoặc là tôi sẽ tìm rồi lôi cổ cô ra. Tôi thề đó, nếu không lột mặt nạ được cô thì tôi sẽ không rời khỏi xứ này. 

Đáp lại lời Toàn là sự im lặng. Nhưng chợt anh kêu sửng sốt: 

- Kìa cô! 

Lúc ấy từ trên trần nhà có một người treo cổ, hai chân thòng xuống lủng lẳng. Đó là Tuyết Hương. 

- Bớ! 

Toàn hét lớn, vừa chạy như bị ma đuổi ra khỏi phòng. Từ dưới cầu thang, anh bồi phòng lại chạy lên. Thấy vẻ hốt hoảng của Toàn, anh ta hỏi dồn: 

- Có chuyện gì nữa vậy? 

Đưa tay chỉ về phía phòng mình, chớ Toàn không thể thốt được lời nào. Đến khi cậu bồi phòng đi lên rồi mà Toàn vẫn còn đứng đó như kẻ mất hồn. Lát sau anh nghe vọng xuống từ trên: 

- Có cái gì đâu cha nội? 

Toàn đợi cậu bồi phòng hỏi lại lần thứ hai thì mới rón rén bước trở lên, anh nhìn vào phòng và kinh ngạc, bởi chỗ trần nhà mà vừa rồi có cái xác thòng xuống giờ chỉ là chùm hoa giấy nhiều màu sắc! 

- Sao cha nội sợ thất thần vậy, có gì đâu? 

Toàn ấp úng: 

- Tôi... tôi thấy…. 

Biết có nói thì chưa chắc cậu ta đã tin, nên Toàn ôm đầu rên rỉ: 

- Tôi điên mất! 

Đêm đó hầu như Toàn không tài nào chợp mắt được.

° ° °

Tiếp Toàn trong ngôi biệt thự là con Út. Nó biết Toàn, trong khi Toàn thì hầu như chẳng nhớ gì về đứa em tưng tửng ngày nào thường hay tới thăm Tuyết Hương. Nó phải gọi… 

- Cậu Hai không nhớ em sao? Em là Út Hường nè? 

Toàn cau mày: 

- Cô là ai? Út Hường nào? 

- Là em bà con của chị Hương, hồi đó lâu lâu em có tới thăm chị Tuyết Hương ở nhà cậu. Có lần cậu cho em chiếc áo lạnh cũ khi thấy em bận có chiếc mỏng te lúc mùa đông đó, cậu nhớ chưa? 

Lúc này chợt Toàn kêu lên: 

- Cô Út đẹt. 

- Hồi đó thì đẹt, nhưng bây giờ hết đẹt rồi. Cậu về hồi nào vậy? 

- Tôi mới về hôm qua. Mà sao bây giờ cô ở đây? Nhà này là... 

Út mau miệng: 

- Nhà này trước kia là của gia đình cô Kim Thoa. Từ ngày xảy ra… 

Cô ta ngập ngừng, Toàn hỏi: 

- Cô ở đây với ai? 

- Dạ, với chị Tuyết Hương. 

Toàn nghe nóng mặt: 

- Tôi đang đi tìm cô ấy! Cô ta đâu, tôi muốn gặp? 

Út Hường không hề biết chuyện đã xảy ra, vội chỉ tay vào trong: 

- Chị ấy đang bị bệnh. 

Toàn theo chân Út vào nhà trong. Vừa trông thấy Tuyết Hương nằm trên giường, anh chỉ thẳng vào mặt, quát to: 

- Cô tưởng làm trò khỉ rồi trốn được sao? 

Quay mặt lại nhìn Toàn, Tuyết Hương ngạc nhiên: 

- Đây là ai vậy? 

- Đây là cậu Hai Toàn con bà chủ ngày trước, chị nhớ chưa? - Út Hường lên tiếng. 

Tuyết Hương kêu lên: 

- Cậu Hai? 

Rồi sợ hãi lùi vào sát tường. Toàn vẫn lớn tiếng: 

- Cô mà biết sợ sao? Sợ mà dám vào phòng tôi làm trò khỉ hả! 

Út quá đỗi ngạc nhiên: 

- Cậu Hai nói gì vậy? Chị Hương làm gì? 

- Cô hỏi cô ta thì rõ! Đồ khốn! Lũ táng tận lương tâm! 

Út quay sang Tuyết Hương: 

- Chị Hương, sao chị lại gây ra chuyện gì nữa, trong khi hôm qua chị đã hứa với em rồi. Em cứu chị về đây và cấm cửa thằng Tường không được lợi dụng chị nữa, chính chị đã thề với em là sẽ không làm bất cứ điều gì xằng bậy nữa kia mà! 

Tuyết Hương bây giờ mới lên tiếng: 

- Chị đâu có làm gì. Như em thấy đó, suốt đêm qua em ở đây với chị, chị thì chỉ có ôm pho tượng vào người để phục hồi sinh lực của mình, đâu hề bước ra khỏi giường này. 

Toàn cười gằn: 

- Giả dối! Vậy chớ ai tới phòng tôi làm trò đồi bại, rồi còn giả trò ma quỷ nữa? 

Tuyết Hương lúc này đã phải bật dậy, với bộ mặt xanh xao, giọng yếu ớt: 

- Cậu Hai, quả là ngày trước tôi có tội với cậu, tôi đã gây ra tội lỗi. Nhưng lần này thì khác, từ mấy hôm nay tự dưng người tôi như mất hết sinh lực, tôi đi còn không nổi, nữa là… 

Út Hường nói thêm: 

- Hôm qua chị ấy suýt bị người ta hại, may mà em cứu kịp đưa về đây. Suốt đêm qua em không rời chị ấy nửa bước, thì đâu thể nào... 

Toàn hơi khựng lại một lúc, nhưng anh vẫn quả quyết: 

- Chính cô ấy đã giả ma, treo cổ trên trần nhà ở phòng tôi. Như vậy là giả sao? 

Toàn thuật sơ lại chuyện xảy ra. Vừa nghe xong thì Út Hường nói ngay: 

- Đúng là cô Kim Thoa rồi! 

Lần này chính Tuyết Hương kinh ngạc: 

- Hồn Kim Thoa hiển linh? Thảo nào… 

Út Hường nhìn chị dò xét: 

- Chị cũng đã...? 

Tuyết Hương nhẹ gật đầu: 

- Đúng là mình sợ điều gì thì nay nó đã tới. 

Toàn quay sang Út: 

- Sao cô biết là hồn Kim Thoa? 

Út Hường sau ít giây im lặng, đã nói: 

- Em đã từng thấy một cảnh như vậy cách đây hai hôm. Điều mà từ lâu rồi, kể từ khi chị Kim Thoa chết em chưa hề gặp. Hôm em bị ngất ở nhà này thì em thấy chị ấy hiện về. Đầu tiên chị ấy trong lốt của chị Tuyết Hương và cũng treo cổ trên sàn nhà như vậy? Và một lần nữa em thấy chị ấy đứng bên đường một mình, khóc nức cũng trong lốt của chị Tuyết Hương. Đến khi em dừng lại hỏi thì mới nhận ra đúng là chị Kim Thoa. Hỏi thì chị ấy không nói gì, chỉ khóc rồi vụt nắm tay em leo lên một chiếc taxi. Chính nhờ chị ấy mà hôm qua em đã cứu được chị Tuyết Hương về đây. 

Toàn chưa thể hiểu được những gì Út nói, anh lẩm bẩm nói: 

- Không thể có chuyện Kim Thoa cứu mạng kẻ thù của mình! Các cô lại dựng chuyện... 

Tuyết Hương vụt ôm mặt khóc nức nở. Hồi lâu cô ta mới nói khá khúc chiết: 

- Chuyện đó là hoàn toàn chính xác! Không phải một lần, mà đã lần thứ ba rồi, tôi đã được chị ấy cứu mạng! 

- Cứu người đã hại chết mình? 

Tuyết Hương hạ thấp giọng như một lời thú tội: 

- Em cũng không ngờ là như vậy. Bởi vậy em mới hiểu được thế nào là tấm lòng của một người cao cả và đáng thương như chị ấy. Và em càng thấy tội lỗi mình gây ra là không thể tha thứ được. 

Toàn càng giận hơn: 

- Toàn là những lời giả dối. Tôi nhất định sẽ lôi cho được các người ra đền tội trước pháp luật. Ngay như việc chiếm đoạt tài sản này đã là một bằng chứng rồi! 

Anh vừa nói xong thì quay bước ra ngay. Tuy nhiên lúc ấy Tuyết Hương đã nói một câu mà Toàn phải khựng lại: 

- Kim Thoa đâu phải chết vì lửa thiêu, mà thật ra… 

Toàn chưa kịp hỏi thì đột nhiên thấy Tuyết Hương đã ngã lăn ra, hai tay ôm ngực lăn lộn, kêu la dữ dội! Út Hường hốt hoảng: 

- Chị Hương! Chị đừng... 

Hai chị em họ ôm nhau, Út Hường lo lắng quay sang bảo Toàn: 

- Cậu hãy tin lời chị ấy. Rồi đây cậu sẽ hiểu... 

Cơn đau dường như mỗi lúc mỗi dữ dội hơn, nên chỉ một lúc sau thì Tuyết Hương ngất đi.

° ° °

Phải dò hỏi mãi cuối cùng Toàn mới tìm được nghĩa trang, nơi chôn Kim Thoa. Khi bước tới gần phần mộ thì lại một lần nữa Toàn kinh ngạc khi thấy có một người đang quỳ gần như bất động ở trước mộ. 

- Tuyết Hương! 

Toàn kêu khẽ, nhưng hình như cô ả nghe được và quay lại. Vừa thấy Toàn bỗng cô ta vụt đứng dậy và chạy biến vào những hàng mộ đá san sát của khu nghĩa trang rộng lớn. Toàn vừa định gọi cô ta thì chợt nhìn thấy một vật lạ bằng kim loại nằm trước đầu mộ. 

- Cái trâm cài tóc! 

Toàn vừa kêu lên vừa nhặt lên xem lại một lần nữa, anh bàng hoàng: 

- Của Kim Thoa! 

Chính Toàn đã mua cây trâm cài tóc này tặng cho Thoa lúc hai người đi mua sắm ở một cửa hiệu nổi tiếng. 

Trên gáy cây trâm còn khắc hai chữ TT lồng vào nhau rất tình tứ. Nhớ đến lời kể của Út Hường, về việc Kim Thoa hiển linh thường đội lốt Tuyết Hương, Toàn tức tốc chạy theo và gọi lớn: 

- Thoa! Kim Thoa! 

Nhưng dẫu tìm khắp nơi mà vẫn không thấy bóng dáng Tuyết Hương đâu. Toàn thất thểu quay trở lại phần mộ. Lần này anh lại một phen kinh ngạc. Ngay đầu mộ có một vòng hoa hồng nhung... mười bông kết chùm với nhau, hình như của ai đó vừa mới đặt vào. Hoa còn tươi nguyên, trên mỗi cánh hoa còn đọng những giọt sương mà thoạt trông chẳng khác những giọt lệ nhỏ lên đó! 

- Kim Thoa! 

Bởi Toàn không lạ gì cách kết chùm hoa hồng mười bông, như thế này. Chính đó là cách của Thoa. Nàng thường nói với Toàn: 

- Em muốn mỗi bông hoa tượng trưng cho mười năm mình yêu nhau. Mười bông hoa là trăm năm hạnh phúc của mình. 

Nâng niu bó hoa hồng trên tay, Toàn nhìn vào bức ảnh chân dung của Thoa và nói rất khẽ khi nhìn vào phần mộ: 

- Anh hiểu tấm lòng em. Nhưng anh muốn biết thêm, em muốn nói điều gì? Tại sao em lại phải hiện về trong lốt của người đã hại mình? Hãy làm cách nào cho anh biết đi Thoa? 

Đã có chuẩn bị trước khi vào thăm mộ, nên Toàn lấy ra nhang, đèn và một bọc trái cây. Toàn đặt tất cả lên đầu mộ, kể cả chùm hoa hồng. Anh đốt nhang và khấn vái nhiều lần: 

- Anh về với em đây Thoa. Em hãy báo cho anh biết. 

Bỗng dưng một cơn gió mạnh thổi qua chỗ Toàn đang ngồi. Như một cơn lốc xoáy, khiến Toàn phải đưa tay bám vào thành mộ bia mới không bị xô ngã. 

Chỉ vài chục giây sau thì cơn lốc đi qua. Khi nhìn lại, Toàn ngạc nhiên kêu lên: 

- Những vật này? 

Anh thấy ngay đầu mộ đất cát bị khoét sâu bởi cơn lốc lúc nãy và hiện ra một dãy ba chiếc cọc sắt đóng thẳng hàng ngay trước mộ bia. Nhìn kỹ thì trên mỗi đầu cọc đều có khắc chữ Tàu ngoằn ngoèo rất khó đọc, mặc dù Toàn biết chữ Hán. Khó khăn lắm, cuối cùng Toàn mới khám phá ra nội dung những dòng chữ trên cọc anh kinh hãi lẩm bẩm: 

- Họ yểm bùa Kim Thoa! 

Thì ra ba cái cọc sắt chính là ba đạo bùa chú mà trên đó ghi những lời nguyền như một cách giam cầm vĩnh viễn hồn phách của người chết dưới mộ! 

Toàn chợt hiểu anh rít lên: 

- Quân dã man? 

Anh thuận tay nhổ phăng cả ba cây cọc và ném ra xa vừa gào lên: 

- Khốn kiếp bọn bây! 

Ba cây cọc vừa vứt đi cũng là lúc Toàn ngã bật ra sau, mặt anh trắng bệt rồi lịm đi. 

Trong mơ hồ, Toàn cảm nhận được những giọt nước ấm nhỏ lên mặt, lên môi mình, vị nước mặn như vị của nước mắt. 

Đồng thời Toàn nghe như có tiếng khóc nức nở của ai đó bên tai. Giọng nghe thật quen. Mà tiếc quá, nếu còn tỉnh anh sẽ kêu lên: 

- Kim Thoa!

° ° °

Liên tiếp ba bốn đêm liền, hễ vừa chợp mắt là hầu như Toàn đều nghe tiếng khóc tỉ tê của ai đó. Khi nghe kỹ thì Toàn phát hiện ra tiếng khóc đó là của Kim Thoa. 

- Kim Thoa! 

Lần nào cũng vậy. Khi Toàn kêu lên và bật dậy thì anh chẳng nhìn thấy gì. Chỉ duy nhất có những giọt nước làm ướt môi, má anh. Những giọt nước mắt của nàng! 

Sau khi bị ngã ở nghĩa trang, lúc được ai đó cứu rồi đưa về tận nhà, Toàn hầu như lúc nào cũng nghe như có ai thỏ thẻ gì đó bên tai mà không rõ họ nói gì. Giờ đây, sau những giấc mơ và những giọt lệ nhỏ trên môi thì Toàn nghiệm ra. Anh quả quyết đó là của Kim Thoa! 

Hình như từ lúc ba cây cọc trước mộ được nhổ bỏ đi thì Kim Thoa luôn gần gũi bên Toàn. Khác với trước kia suốt nhiều năm trời anh không hề mơ thấy nàng lần nào. Phải chăng Toàn đã hóa giải được bùa phép kìm hãm nàng? 

Không nghĩ sâu xa, Toàn chỉ cảm thấy vui, bởi ít ra giờ đây anh cũng đã được gần hơn với người yêu. 

Hôm nay, sau mấy ngày đắn đo, Toàn quyết định thực hiện ý định. Từ sáng sớm anh đã chuẩn bị và trước khi đi anh dặn kỹ người quản lý khách sạn. 

- Tôi đi có việc rất quan trọng. Nếu đến tối mà chưa thấy tôi trở về thì xin giúp liên lạc với người này, bảo họ cứ theo địa chỉ tôi ghi trong tờ giấy kèm theo mà tìm tôi. 

Toàn dặn tìm Phẩm và địa chỉ gặp anh là ngôi biệt thự nơi Tuyết Hương đang ở. Tuy nhiên, lúc đi thì Toàn lại đi về một hướng khác. Nơi anh đến là nhà riêng của một người Tàu tên là Mã Lục. 

Hình ảnh đầu tiên Toàn nhìn thấy khi vừa bước vào ngôi nhà của lão Tàu già là một người đàn ông đứng tuổi đang gục đầu lên một trang thờ đầy những khói hương và các pho tượng đủ màu sắc. Phải chăng chính lão Mã Lục? 

Toàn tự hỏi, trong lúc chưa kịp lên tiếng thì lão chủ nhà đã hỏi mà không quay lại: 

- Ai cho phép anh vào đây? 

Biết chắc là lão hỏi mình, Toàn cũng đáp nhát gừng: 

- Tự vào. 

- Nhà có chuông cửa hay ít ra cũng phải gõ cửa. 

Nghe lão ta nói tiếng Việt rất sỏi. Toàn thấy yên tâm: 

- Ông quên là chuông cửa nhà mình đã bị cắt, còn cửa nhà thì mở toang sao? 

Lão ta giật mình và giờ này mới quay lại, chưa kịp nhìn Toàn ông đã hỏi ngay: 

- Chuông cửa sao lại bị cắt? Và còn cửa cái… 

Thấy cửa đã mở toang, lão gọi to vào trong: 

- A Phúng! Mày đâu rồi? 

Chẳng có ai đáp, lão vừa dợm đứng lên thì đã bị ngã ngồi trở lại. Toàn hơi ngạc nhiên: 

- Ông không nhớ sao thầy bùa? 

Nghe khách hỏi đúng điều mà bấy lâu nay lão ta cố giấu. Mã Lục hỏi giật mình: 

- Anh là... ai vậy? 

- Là người đại diện của... hồn ma! 

Biểu hiện của sự hoảng hốt từ lão ta là động tác làm ngã đổ cái trang thờ phía sau lưng. Giọng lão hơi run: 

- Anh là... 

Toàn cười to: 

- Đã nói rồi, là... hồn ma! Cụ thể, chính là hồn của người mà ông đã yểm ba đạo bùa trước mộ trong nghĩa trang cách đây mấy năm! 

Câu nói của Toàn khiến lão ta giật nẩy người, lại một lần nữa hắn lùi ra sau, tiếp tục làm ngã đổ trang thờ… 

Miệng lão ta lắp bắp: 

- Anh... anh là... 

- Ai xui ông ám hại người con gái đó? 

Câu hỏi càng làm cho lão ta lúng túng thêm: 

- Tôi... tôi không biết. Tôi… tôi... 

- Ông nhớ cô Kim Thoa ở xóm Bến Tắm Ngựa? 

Lần này thì lão ta sụp đổ hoàn toàn. Người co rúm lại giọng thất thần: 

- Chính anh đã phá phép thuật của ta sáng nay? 

Toàn móc trong túi vải ra ba cây cọc sắt nhổ từ đầu mộ của Kim Thoa, đặt ngay trước mặt lão già: 

- Chính những vật này phải không? 

Lão Mã Lục bỗng gào lên: 

- Mày hại tao rồi! 

Rồi lão ta đưa tay chụp lấy những thanh sắt gãy. Nhưng tay lão vừa chạm phải thì đã co rúm lại, rên rỉ: 

- Chết rồi! 

Người lão ta run lên từng chập khiến cho Toàn cũng phải ngạc nhiên. Anh nhìn lão ta một lúc, thấy lão cứ ôm chặt cái cọc sắt chừng nào thì càng đau đớn dữ dội hơn, anh chợt hiểu: 

- Lão ta bị bùa phép của mình tác động ngược? 

Toàn từng nghe nói về chuyện các tay luyện bùa phép hại người, một khi bùa phép bị phá thì lúc đó tác hại sẽ quay lại công phá ngay chính chủ nhân của nó! Bất chợt lão ta xuống giọng: 

- Xin anh tha cho. Tôi cũng chỉ làm theo sai khiến của họ thôi. Tôi vì cần tiền nên... 

Toàn hỏi thẳng: 

- Có phải con Tuyết Hương không? 

Giọng lão ta càng run run: 

- Người này... Người này... 

Thấy lão ta cứ ấp úng mãi, Toàn định làm áp lực mạnh hơn, nhưng chợt có người nói từ phía sau: 

- Lão ta sợ tên ấy lắm. 

Lão Lục như cố bám víu lấy: 

- Cô! Cô giúp tôi với! 

Toàn vừa quay lại đã cau mày: 

- Lại là cô sao. 

Người ấy là Tuyết Hương, cô ả nhìn Toàn ra vẻ rất thân thiện: 

- Cậu Hai đến đúng nơi để sớm hiểu những gì cần thiết. Cậu cứ bảo lão ta đưa ra pho tượng thứ hai đang giữ trong người, lúc đó thủ phạm chính giết hại Kim Thoa sẽ lộ diện ngay! 

Nghe Tuyết Hương nói câu đó, lão Mã Lục như chạm phải lửa, bật ngay dậy rồi lại té ngay xuống sàn. Miệng thì không ngớt nói lí nhí những gì nghe không rõ. Và trong lúc té, từ trong người lão rơi ra một vật nhỏ cỡ đầu ngón chân, màu đỏ như máu. Vừa trông thấy, Tuyết Hương đã reo lên: 

- Pho tượng! 

Cô ả định lao tới chụp lấy thì Toàn đã nhanh hơn, anh cúi xuống nhặt lên. Đó là một pho tượng hình nhân quái dị bằng hồng thạch được chạm khắc khá tinh xảo. 

Vừa chạm tay vào Toàn cảm thấy có luồng khí lạnh truyền từ đó sang người anh, tê buốt. 

Tuyết Hương la lên: 

- Đó là pho tượng luyện bùa của lão ta! Nó được ngâm trong máu tươi suốt nhiều năm và bây giờ vẫn được cho uống máu mỗi ngày. 

Cô ả lấy pho tượng khác giống như vậy trong ngực mình ra: 

- Nó là một cặp với cái này. Nó là vật giữ mạng sống cho ai đã lỡ uống bùa của lão ta. Nhưng nó cũng là... 

Không để cho cô ả nói, lão Mã Lục la lớn: 

- Mày nói ra thì sẽ phải chết ngay đó! 

Nhưng Tuyết Hương vẫn nói: 

- Cứu mạng cũng là nó mà giết người cũng là nó! Bây giờ vật đó rời lão ta thì cậu Hai muốn gì lão cũng làm theo. Nó là vật bảo mạng cho lão đó! Cái của tôi đây, tôi phải tốn gần nửa tài sản mới được lão giao cho, vậy mà có những tên khốn nạn còn định cướp lại nữa. 

Chừng như biết không còn giữ miệng được, lão Lục la lớn lên: 

- Chính thằng Tường sai khiến tôi làm những chuyện ấy! Pho tượng này là vật duy nhất còn có thể giữ được mạng sống cho tôi, đồng thời ngăn không cho tên ấy khống chế cả tôi và cô Tuyết Hương đây. 

Toàn hỏi lại: 

- Tường là ai? 

Câu trả lời của cô ả làm cho Toàn sửng sốt: 

- Là người đã treo cổ Kim Thoa! 

- Cái gì? 

Trước sự sững sờ của Toàn, Tuyết Hương tiếp lời: 

- Ai cũng tưởng Kim Thoa chết thiêu trong ngôi nhà bị cháy. Thật ra chị ấy đã bị tên Tường ép phải treo cổ chết trước khi lửa nổi lên? 

Toàn run lên, anh như không tin vào tai mình, phải hỏi lại: 

- Cô nói chính xác? 

Tuyết Hương bình tĩnh đáp: 

- Em xin thề có trời đất, những gì em nói là sự thật. Đầu dây mối nhợ là do em, nhưng khi bắt đầu thực hiện thì có những người này nhúng tay vào. Tường là một tay vốn đã có thù hằn riêng với gia đình Kim Thoa từ lâu, nên khi nghe em nói ra ý định hại gia đình Thoa thì anh ta chụp lấy. Chính anh ta đã rước tay Mã Lục này từ Đài Loan sang đây để thực hiện ý đồ đen tối. Mà mục đích cuối cùng của hắn ta là sau khi chờ em chiếm xong tài sản của Thoa sẽ ra tay chiếm lại, chiếm hết! Anh hỏi thử lão này xem, hắn ta hứa chia cho lão ấy bao nhiêu? 

Toàn chưa kịp hỏi đã nghe Mã Lục lên tiếng: 

- Chia cho tôi hiệu buôn vải trong chợ Bình Tây và... Cả cô Tuyết Hương này nữa! 

Tuyết Hương quá bất ngờ, ả ta lồng lộn lên: 

- Đồ khốn nạn! 

Và không kiềm chế được, ả lao tới tát tới tấp vào mặt gã thầy Tàu. Tên này hầu như không còn khả năng chống đỡ, nên chỉ trân người chịu đòn. Đánh đến mỏi tay, Tuyết Hương mới nói: 

- Hắn bị mất hết bùa phép kể từ khi anh nhổ bỏ những cọc sắt trong nghĩa địa, nhất là vừa rồi mất luôn cả pho tượng Hồng thạch nữa. 

Toàn đưa pho tượng lên nhìn một lần nữa rồi hỏi: 

- Nó còn có tác dụng gì nữa? 

- Nếu em giữ nó hợp cùng pho tượng đang có thì nó sẽ giúp em chống lại mọi mưu đồ của tên Tường. Nhưng nếu cậu Hai mà có nó thì từ nay có thể giúp cho hồn phách cô Kim Thoa được tự do, thoải mái, khỏi phải sợ sự khống chế của bùa phép. 

- Còn nếu huỷ nó đi thì sao? 

Tuyết Hương chưa kịp đáp thì lão Mã Lục đã kêu lên: 

- Đừng! Xin cậu đừng. 

Thấy lão ta quá đỗi sợ hãi, Toàn tiện tay ném mạnh pho tượng xuống nền gạch. Một tiếng cạch vang lên, rồi pho tượng vỡ vụn ra làm nhiều mảnh, văng tứ tung! Lão Mã Lục thét lên một tiếng kinh hoàng, rồi lăn ra, miệng hộc máu tươi, người run lên bần bật lát sau thì nằm im. 

Tuyết Hương nhìn cảnh tượng đó vừa sợ hãi lại vừa vui. Cô ả lẩm bẩm: 

- Xong đời lão ta rồi, xong luôn thằng khốn nạn! 

Toàn cũng bị ảnh hưởng bởi cú ném pho tượng vừa rồi nên lảo đảo lùi lại sau mấy bước. Anh phải nhắm mắt lại để trấn tỉnh. Và trong phút giây đó anh chợt nghe có giọng nói quen quen bên tai. 

- Anh không sao đâu! 

Toàn kêu lên: 

- Kim Thoa! 

Tuyết Hương nghe đến tên Kim Thoa thì hốt hoảng, lùi lại. Nhưng Toàn đã trấn an. 

- Cô đừng lo. Dẫu sao thì Kim Thoa cũng không phải là người ác tâm. Cô ấy sẽ không trả thù nếu sự thật xảy ra như những gì cô vừa kể. 

Toàn vừa nói vừa bước lùi ra cửa, như theo một mệnh lệnh vô hình nào đó, cho đến khi ra tới cổng ngoài thì giọng nói của Kim Thoa lại rót bên tai: 

- Đi theo em!

° ° °

Cái vong trong xác cô gái mà ông Phẩm tìm và nhờ “Ngồi đồng”, sau một hồi lắc lư, run rẩy, đã lên tiếng, giọng nghe khác lạ: 

- Hãy nắm tay em, anh Toàn! 

Ngồi theo dõi nãy giờ, Toàn hoàn toàn không giới thiệu gì với cô gái lạ này, mà cả Phẩm và vợ của anh cũng không cho cô gái ấy biết anh là ai. Vậy mà lúc này cô ta gọi đúng tên mình, khiến Toàn giật mình, lúng túng: 

- Cô… cô gọi... tôi? 

- Anh hãy nắm tay em đi, như thế em mới về được. 

Toàn hơi rụt rè đưa tay nắm hờ tay cô gái, thì bất ngờ cô ta ghì chặt tay anh vào, rồi òa lên khóc! Những giọt nước mắt của cô ấy vừa rơi xuống chạm vào da tay thì Toàn bất chợt rùng mình, kêu lên khẽ: 

- Thoa! 

Cô gái khóc càng dữ. Mãi một lúc mới lên tiếng được: 

- Họ đã cô lập em không cho hồn phách em trở về. Cũng may kể từ khi anh xé đạo bùa viết trên mảnh vải màu vàng và đập bể ba cây cọc yểm trước mộ em thì từ đó em mới thoát ra được. Số em ngắn, nên không sống chờ anh về được, nhưng giờ đây em có thể mãn nguyện được rồi em sẽ luôn ở bên anh! 

Toàn hỏi luôn những thắc mắc trong lòng: 

- Tại sao mấy lần em đều đội lốt Tuyết Hương để về gặp anh? 

Cô gái chợt cười, giọng của Kim Thoa đầy vẻ hài lòng: 

- Thứ nhất là vì em phải mượn xác của Tuyết Hương, thì mới về gặp anh được bởi lúc ấy lão Mã Lục còn khống chế em. Thứ hai, qua đó em mới thử được lòng dạ chung thủy của anh. Nhất là khi em phải lột đồ Tuyết Hương ra! 

Toàn không còn giữ ý… 

- Nếu lỡ ra anh không cầm lòng được thì sao? 

- Thì... coi như vĩnh viễn em sẽ nằm dưới lòng đất và anh thì... sẽ theo em về bên kia thế giới bởi lúc ấy bùa phép của họ càng phát huy tác dụng, anh vô phương chống lại! 

Đã chứng kiến tận mắt sự tác dụng ngược gây ra cái chết rùng rợn của lão Mã Lục, nên Toàn bất giác rùng mình. Anh tha thiết: 

- Anh có lỗi, để em phải ở lại một mình và bị người ta hãm hại. Chắc em đã hiểu rõ rồi, chuyện bức thư chỉ là giả mạo. Cô Tuyết Hương trước đây chỉ là người giúp việc cho mẹ anh. Cô ta có để ý tới anh và một ý đồ đen tối là do tự cô ta, chớ còn anh... 

- Anh khỏi thanh minh! Nếu không phải như vậy thì hai lần anh bị nguy như lần anh xé lá bùa và lần anh nằm trong nghĩa địa, em đâu có ra tay cứu! Người ta đã hiểu tấm lòng của anh chớ bộ! 

Toàn quên là đang nói chuyện với vong của Kim Thoa và người ngồi thực hiện cuộc trò chuyện thì hoàn toàn xa lạ, anh định chồm tới ôm hôn, thì kịp lúc cô gái đã rút tay về. Khiến cho Toàn té sấp trên chỗ cầu hồn! 

- Xin lỗi… 

Toàn ngượng nghịu nói, trong khi Phẩm thông cảm. 

- Thôi được rồi. Như vậy từ nay tôi cũng yên tâm, mà cậu cũng không phải lo nữa. 

Bữa tiệc mừng hôm đó Toàn chỉ dự có phân nửa. Đến một lúc anh đứng dậy nói với Phẩm: 

- Tôi có chút việc phải đi. Sáng mai tôi sẽ trở lại rồi anh em mình bàn chuyện nơi đặt bàn thờ Thoa. 

Phẩm cười bảo: 

- Thì để ở nhà này chứ đâu nữa! Mẹ tôi thì hiện đã xuất gia rồi, chùa Phước Bửu chỉ là nơi bà ấy làm công quả, đâu phải chỗ thờ cúng được…

° ° °

Việc Toàn bỏ ngang bữa tiệc là để đi tới nhà anh chàng tên Tường, mà mới ban chiều anh đã được Tuyết Hương cho địa chỉ. 

Toàn quyết phải thanh toán tận gốc rễ chuyện này. Mà tên Tường là mắt xích cuối cùng. 

Tuy nhiên khi Toàn tới nơi thì người hàng xóm báo cho biết là từ mấy hôm nay không thấy tên Tường trở về. 

Khi Toàn thất vọng định ra về thì bất ngờ có một người hàng xóm khác gọi anh lại và bảo: 

- Điều này cậu ấy không cho ai biết, nhưng tôi thấy anh có ý muốn gặp nên tôi chỉ cho. Chỉ xin cậu đừng nói là tôi chỉ. Cậu Tường ấy còn có một người mẹ tu tại gia ở gần chùa Phước Bửu, Phú Thọ Hòa. Lâu lâu cậu ấy vẫn hay về đó… 

Toàn cám ơn người hàng xóm rồi định gọi xe về khách sạn, bởi mục đích của Toàn là chỉ cần gặp Tường, xem anh ta có phản ứng gì sau cái chết của lão Mã Lục. 

Mà qua tình hình này thì chắc là anh ta đã không còn hành động gì nữa... nên Toàn thấy không nhất thiết phải tìm tới chùa. 

Tuy nhiên khi ngồi trên xe, thì Toàn mới chợt nhớ tới chùa Phước Bửu. Anh lẩm bẩm: 

- Tại sao cũng là chùa Phước Bửu? 

Anh nhớ lời Phẩm bảo rằng hiện bà mẹ của Kim Thoa cũng ở đó. Toàn hấp tấp bảo tài xế taxi: 

- Anh chạy về hướng Phú Thọ Hòa giùm tôi! 

Phước Bửu tự là một ngôi chùa cổ, diện tích nhỏ, nhưng phía sau vườn có một vài ngôi nhà hình như cất đã lâu đời, có người cư ngụ. Toàn tìm tới và gặp được bà Phước Thịnh, mẹ Kim Thoa một cách không khó. Trông thấy bà trong lốt áo nâu, đang làm cỏ vườn, Toàn lên tiếng gọi: 

- Bác Tám, con là Toàn đây! 

Ngày trước, bà đã từng biết Toàn qua nhiều lần anh cùng Kim Thoa về nhà chơi, nên dù xa cách đã lâu bà vẫn nhớ mặt, nên khi ngẩng lên bà đã vui mừng: 

- Thằng Toàn hả con! Trời ơi, mầy đi biền biệt lâu nay. 

Rồi bà bỗng khóc nức nở! Toàn bước tới nắm tay bà xiết chặt: 

- Con nhớ bác nhiều. Mấy năm nay con ra trường mà chưa kịp về. Nay về đây thì lại... 

Bà Phước Thịnh vốn là người hoạt bát, dân kinh doanh, nhưng nay trong lốt nâu sòng, bà có vẻ ít nói, lại đang nhòa lệ nên bà chỉ vỗ vỗ vai Toàn mà không lên tiếng, hiểu được tâm trạng bà, Toàn nói thay: 

- Con xin chia buồn với Bác. Con về đây đã mấy hôm rồi, con có ghé qua nhà anh Phẩm, nên mới biết bác ở đây. 

- Ờ, bác về đây từ sau vụ cháy nhà... 

Giọng bà nghẹn lại, hình như không muốn nhắc lại cái chết của Kim Thoa. Bất chợt, từ ngôi nhà nhỏ có một cô gái bước ra, lên tiếng nói: 

- Khách nào vậy má? 

Toàn ngẩng lên nhìn và anh sửng sốt kêu lên: 

- Kim Thoa! 

Trước mắt Toàn là một Kim Thoa bằng xương bằng thịt đang ngơ ngác nhìn anh. Giọng Toàn gần như líu lại: 

- Em sao lại... sao lại ở đây? 

Tuy nhiên cô gái lại nhìn Toàn mà không hề có chút xúc cảm nào. Cô ta nhìn sang bà Phước Thịnh và hỏi: 

- Ai vậy má? 

Lúc này bà Thịnh mới giải thích: 

- Đây là anh Toàn người yêu của chị Thoa con. Còn đây, đây là Kim Xuyến, em gái cùng mẹ khác cha của Kim Thoa. Lâu nay chúng nó không sống chung với nhau nên con không gặp. Nay gặp rồi, nhận anh em với nhau đi. 

Cô gái liến thoắng: 

- Em nghe má nhắc tới anh hoài? Nhất là từ khi chị Thoa chết thì ngày nào má cũng biểu em đi tìm hỏi địa chỉ của anh bên Pháp để gởi thơ. Người quen như vậy mà tới bây giờ mới gặp nhau. Suýt tí nữa thì không nhận ra. 

Rồi như chợt nhớ ra chuyện gì, cô quay sang mẹ mình: 

- Má vô coi không biết sao từ đêm qua đến giờ anh Tường về nhà rồi đóng cửa ở miết trong đó. Hồi nãy con gõ cửa kêu ảnh ăn sáng mà chẳng nghe động tĩnh. 

Bà Phước Thịnh lo lắng: 

- Lại có chuyện gì đây hả trời. Quả báo mà. 

Rồi bà quay sang Toàn, giải thích: 

- Đây là thằng anh trai của Xuyến đây. Tiếng là chị em một mẹ khác cha của con Kim Thoa. Hồi nào đến giờ cháu cũng chưa gặp. Nó ở riêng mới về chơi… 

Bà hấp tấp đi vô nhà trong. Ngoài này Kim Xuyến tranh thủ làm thân với Toàn. 

- Anh thấy em có giống với chị Kim Thoa không? Nhiều người bảo rằng em với chị ấy giống nhau như hai giọt nước vậy! 

Toàn khẽ gật đầu: 

- Giống lắm! 

Họ đang vui vẻ trò chuyện thì chợt nghe từ trong nhà vọng ra tiếng bài bãi của bà già: 

- Xuyến ơi, vô đây coi nè! 

Kim Xuyến chạy vô ngay, Toàn cũng chạy theo. Họ đứng khựng lại trước cửa căn phòng nhỏ. Có một người treo lơ lửng giữa nhà! 

Xuyến gào lên: 

- Anh Tường! 

Toàn lao vội tới, anh nhanh tay đỡ người đó xuống, nhưng sau khi sờ tay lên mũi, anh thở dài: 

- Chết rồi! 

Có một lá thư nắm chặt trong tay nạn nhân, Kim Xuyến chụp lấy và đọc. Xong, cô thất thần: 

- Ảnh tự vận chết vì đã... gây ra tội với chị Thoa. 

Toàn như bị điện giật, anh chụp lấy lá thư và đọc thật nhanh: 

“ Kính thưa má! 

Con biết má hay hết chuyện tội lỗi con đã làm. Trước là ám hại Kim Thoa, để chiếm đoạt cái tài sản mà má có ý để lại cho chị ấy. Nhưng không, má không muốn mất lần lượt cả hai đứa con. Con đã lỡ nhúng chàm, để quá tin vào bùa ngãi nên hành động mù quáng. Con cứ tưởng sau khi giết được chị Thoa rồi, thì sẽ khống chế được con Tuyết Hương dễ dàng rồi chiếm hết sản nghiệp, kể cả phần ba mẹ thằng Toàn hứa cho chị Thoa. Nhưng con không ngờ mọi việc hỏng hết từ khi thằng Toàn về. Giờ đây con chẳng còn gì hết, Tuyết Hương đã đem toàn bộ giấy tờ liên quan đến tài sản ký gởi vào ngân hàng và có ý định sẽ trả lại cho Toàn. Phần con thì đã lậm vào bùa phép, sa đà sâu vào nhiều tệ nạn khác, nên suy cho cùng con chỉ còn có con đường này thôi! Con đã gây ra cho Kim Thoa cái chết từ sợi dây thòng lọng, thì bây giờ cũng chính từ đó con sẽ tìm về cõi khác để thoát cái nợ trần này. 

Vĩnh biệt má…” 

Bà Phước Thịnh gào lên mấy tiếng rồi ngất lịm. 

Dẫu không muốn, nhưng suốt những ngày ở lại lo ma chay cho bà mẹ của Kim Thoa và cả cho Tường nữa, Kim Xuyến cứ quấn quít mãi bên cạnh, nên dần dà tình cảm giữa hai người đã phát sinh. 

Khi Toàn chuẩn bị trở qua Pháp để làm thủ tục hồi hương thì tối hôm đó anh cùng Kim Xuyến đốt nhang trước di ảnh của Kim Thoa. Anh khấn: 

- Em có linh thiêng thì chứng cho tấm lòng của anh và Kim Xuyến... 

Kim Xuyến cũng khấn: 

- Em xin lỗi chị. Chẳng qua... 

Lời khấn của hai người vừa dứt thì chẳng biết từ đâu, một chùm hoa hồng mười bông bay tới và tròng gọn vào cổ của Xuyến. Cùng lúc đó Xuyến ngã đầu qua vai Toàn, nói rất khẽ: 

- Hôn em đi! 

Toàn quay sang hỏi: 

- Em vừa nói? 

Xuyến lắc đầu: 

- Em đâu có nói gì? 

Toàn nhắm mắt lại, nói mà không nhìn mặt Xuyến: 

- Anh cảm ơn em, Kim Thoa! 

Mấy giọt nước từ mười cánh hồng nhiễu xuống ướt tay cả hai. Toàn buột miệng nói: 

- Nước mắt của Thoa giúp chúng ta hồi sinh đó. Cám ơn chị ấy đi Xuyến.

HỒN AI DƯỚI MỘ

Bọn họ gồm bốn người: Hà, Hạnh, Tuyết và Hữu, nhân vật nam duy nhất trong nhóm. 

Họ được lời mời của Thiện, bạn cùng khóa, lại là người có quê ở Thủ Dầu Một. Các bạn cứ đi xe đò về tới khỏi chợ Búng 200 mét, thấy cây dầu lớn đầu tiên thì dừng lại, xuống xe đứng đó đợi, mình sẽ ra đón, lúc 2 giờ chiều nhé. 

Thiện là người đúng nguyên tắc, trọng giờ giấc và lời hẹn, nên bọn bốn người cố tranh thủ đi đúng giờ. Từ Sài Gòn lên cũng không xa lắm, vả lại đường quá quen thuộc, bởi họ thường cùng nhau đi vườn trái cây Lái Thiêu gần đó nhiều lần, nên lúc kém 10 phút 3 giờ thì cả bọn đã đến nơi. Hà là cô bạn vui tính nhất bọn, nói đùa: 

- Nếu chút nữa mà ông Thiện cho bọn này leo cây thì bắt ông Hữu này bao cả bọn một chầu bánh bèo bì xứ Búng nhé! 

Hạnh lên tiếng phản đối: 

- Sao ông Thiện lỡ hẹn mà lại bắt Hữu phải gánh chịu? 

Hà, Tuyết đều cười to: 

- Coi người ta bênh nhau kia! 

Ai cũng biết Hạnh và Hữu yêu nhau, nên có dịp là họ trêu chọc. Chỉ có Hữu là xởi lởi: 

- Được rồi, bao ăn cho bể bụng luôn, lúc gặp Thiện bắt đền nó chớ lo gì! 

Nhưng họ không phải chờ lâu, Thiện đã xuất hiện như cái máy thời gian. Anh chàng cười thân thiện: 

- Mình đoán các cậu thế nào cũng đúng giờ, nên đã chuẩn bị đủ thứ ở nhà rồi mới ra đây đón các bạn. Nào, bây giờ ta cuốc bộ một đoạn cho giãn gân nhé! 

Hà kêu lên: 

- Phải đi bộ với đôi giày mới cáu thế này sao? 

Hữu trêu chọc lại: 

- Hà tiểu thư nghe nói về quê Thiện nên đã sắm ngay đôi giày xịn, cưng như cưng trứng từ sáng đến giờ đó nghe! 

Vừa đi bộ vừa đùa giỡn như thế nên chỉ khoảng 15 phút sau cả bọn đã đến nhà Thiện, một ngôi nhà ngói xưa với chung quanh là vườn cây ăn trái khá rộng. 

Bà mẹ của Thiện đã gần 70, chỉ có Thiện là con trai nên rất quý bạn bè của con, bởi vậy khi nhìn thấy một đám đông gồm đủ trai, gái về chơi, bà mừng lắm, cứ nắm lấy tay hết đứa này đến đứa kia vồn vã: 

- Tụi con về chơi má mừng lắm. Sao lâu nay không thấy đứa nào về hết? Đứa nào là thằng Hữu, má nghe thằng Thiện nhắc hoài? 

- Dạ, con đây má. Nhưng hình như thằng Thiện còn nhắc ai khác nhiều hơn, chớ đâu phải con? 

Tuyết đã chủ động nắm tay Hà kéo tới trước mặt bà mẹ. 

- Đây mới là người phải ra mắt má. Làm lễ đi tân nương! 

Hà thẹn đỏ mặt, khác xa với sự lém lỉnh lúc nãy. Được dịp cả bọn còn trêu dữ hơn: 

- Con dâu tương lai của má đó! Coi, con nhỏ không biết lễ phép gì hết sao chưa ra mắt mẹ chồng? 

Thiện cũng phát quýnh: 

- Má, đây là.... 

Cũng may là bà già rất tâm lý: 

- Tụi con làm quá con gái cưng của má ngượng. Được rồi, con dâu của má đâu? Lại đây má coi nào. 

Bà nắm tay Hà kéo lại bộ ván gõ gần đó, ngồi xuống, bà kéo Hà ngồi cùng: 

- Con đừng ngại, tụi nó chọc làm con run, nhưng má còn run hơn, bởi lâu nay má chờ hoài mà có nghe thằng Thiện nói gì đến chuyện vợ con đâu... 

Thật sự tự dưng trong lòng Hà rộn lên cảm xúc lạ thường. Đời con gái mấy ai không rung động trước tình huống này... Nhất là từ lâu nay tình yêu mà cô và Thiện dành cho nhau chỉ giữ riêng cho hai người, chưa dám công khai với ai trong gia đình hai bên. 

Hữu phá tan bầu không khí: 

- Tối nay ta bắt hai cô cậu làm lễ ra mắt cho ra trò đấy nhé! 

Tiếng cười rộn rã trong gian nhà rộng mà bấy lâu nay vốn dĩ âm thầm, lặng lẽ, người vui nhất có lẽ là bà mẹ già, bởi vậy bà Tám hối con: 

- Thiện, con biểu đứa nào đó lo dọn cơm ngay, chắc tụi nó đói lắm rồi. Nấu thêm nồi cháo gà nữa. 

- Dạ, xong rồi má. 

Bà Tám mắng yêu con trai: 

- Tao biết là mày đã lo từ hồi giữa trưa lận. Chính nó làm cá, làm gà, đặc biệt là món cá lóc hấp, nó nói là các con thích lắm. 

Hạnh nói to: 

- Đó là sở thích của chỉ một người thôi má ơi, đó là con dâu tương lai của má đó! 

- Ủa, té ra con thích ăn cá hấp? 

Hà ngượng nghịu thấy mà tội: 

- Dạ, con... Con thích... 

Thiện cứu bồ: 

- Hà khoái cá lóc hấp nên con có hứa, lúc nào về đây con sẽ đãi món đó. Nào, bây giờ mình xuống ăn kẻo nguội hết. 

Cả bọn kéo xuống nhà sau, Tuyết đi gần Hà trêu chọc: 

- Còn bị chọc nữa, cho chừa! 

Tuổi sôi nổi, đùa đó, quên đó, rồi chuyển sang đề tài khác. Suốt bữa ăn họ cười nói, chọc ghẹo nhau đủ thứ chuyện. Thấy vui với cảnh đó, bà Tám dặn Thiện: 

- Con nhớ tối nay cho bạn con ăn thêm món gì đó cho ngon, má đã dành sẵn hơn 10 con gà cho tụi con tha hồ mà nấu nướng. Trái cây thì đầy vườn, muốn ăn gì cứ hái, đứa nào không leo cây được thì bắt thằng Thiện nó leo hái cho ăn.

° ° °

Trăng bắt đầu lên sau rặng tre. Hữu là người hăng hái nhất: 

- Chờ chút nữa cho trăng sáng, mình nấu cháo gà bày ra gốc nhãn vừa ăn vừa thi kể chuyện, ai thua phải uống! 

Mấy cô gái phản đối: 

- Ai dám uống ba thứ cay xè đó mà đố! 

- Uống rượu không được thì ăn. Hễ ai thua thì một là uống một ly, hai là phải ăn một chén cháo! 

Qua phân công của Thiện đi bắt gà, Hữu chuẩn bị bếp dã chiến dưới gốc nhãn, còn ba cô gái thì lo làm gà, nấu cháo và dọn ăn. Vào khoảng gần 10 giờ đêm thì mọi thứ cơ bản đã xong. Hà được cử đi mời mẹ chồng, nhưng lát sau cô trở ra cho biết bà Tám mệt nên không thức khuya được, có nhắn là cả bọn cứ vui chơi thoải mái, nhưng đừng uống nhiều rượu. 

Trong lúc chờ cháo sôi, Hữu gợi ý: 

- Hôm nay mình thi kể chuyện tiếu lâm, mấy bà dám tham gia không? 

Hạnh và Tuyết xua tay quyết liệt: 

- Thôi đi cha, ghê thấy mồ! Kể chuyện vui thôi! 

- Thì chuyện vui mang chất tiếu lâm, có như thế mới lý thú chớ! Chỉ có điều là cấm “Tiếu lâm nặng”. 

Hà cũng lắc dầu: 

- Ai mà cản được mấy ông quá đà, thôi đổi đề tài đi! 

Chợt Thiện đưa ý kiến: 

- Mình có chuyện này, đố ai làm được thì được cả bọn gọi bằng anh, bằng chị. Chỉ tiếc là... 

Anh hơi do dự. Hữu chen vào: 

- Còn điều kiện gì nữa? 

Thiện nhìn ba bạn gái, ái ngại: 

- Phải có thêm vài nam nữa thì vui hơn. Nữ e rằng hơi khó. 

- Sao lại khó, bộ mấy ông chê bọn này hả, phân biệt đối xử hả? 

Đó là phản ứng của Hạnh. Thiện phải nói rõ: 

- Đây là cuộc đánh cược đòi hỏi phải có thần kinh thép và cả sức lực nữa, đó phải là nam giới, chớ nữ thì e không xong. Ở đây chỉ có mỗi mình với Hữu, nên không hứng thú lắm, nhất là sợ Hữu không đủ can đảm… 

Chưa biết nội dung thi ra sao, nhưng bị chê, nên Hữu sung lên: 

- Có hai người cũng chơi, để mấy cô làm trọng tài! 

Thiện hơi ngập ngừng, nhưng rồi cuối cùng cũng nói về cuộc chơi: 

- Cách chỗ mình ngồi khoảng 500 mét là nghĩa địa của làng, nơi đó có nhiều mồ mả, đặc biệt là ngôi mộ bằng đá đỏ lâu đời, được tiếng là có nhiều chuyện bí ẩn, thiên hạ đồn rằng: Đêm đêm thường có ánh sáng lập lòe từ mộ bốc lên, kể cả những tiếng kêu, rú lạ lùng cũng từ phía đó... Ở xứ này từ lâu có lệ đố nếu ai có can đảm vào nửa đêm đến đó rồi quay trở về sẽ được thưởng lớn. Đêm nay mình vừa ra thách đố lại cũng sẵn sàng tham gia nếu không có ai nhập cuộc. 

Các cô vừa nghe xong đã thè lưỡi, kêu lên: 

- Thôi, ghê lắm, đừng chơi dại! 

Nhưng Hữu thì lại khác, anh chàng bình tĩnh lên tiếng: 

- Mình thích cuộc chơi cảm giác mạnh như thế này. Mình nhận lời! 

Tuyết là người ngăn đầu tiên: 

- Không, anh Hữu đừng có điên lên. 

Nhưng Hữu đã trấn tỉnh người yêu: 

- Có gì đâu mà sợ, như đi dạo ấy mà. 

Không cần nghe về giải thưởng nếu thắng cuộc. Hữu đã đứng lên hăng hái: 

- Được, cho mình mượn con dao phay và cây đèn pin, mình sẽ đi ngay ra đó. 

Mặc cho Tuyết cố ngăn lại, Hữu vẫn băng mình vào trong đêm tối. Chỉ năm phút sau, anh đã ra tới khu đất hoang, có nhiều mồ mả. Trong lúc anh còn soi đèn tìm đúng ngôi mộ mà Thiện nói thì đột nhiên một luồng ánh sáng xanh từ ngôi mộ đá bay vọt lên. 

Hữu che mắt lại để tránh luồng sáng, khi mở ra anh giật mình kêu lên: 

- Cô là ai? 

Trước mặt anh, một cô gái mặc y phục toàn trắng, đang đứng dựa người vào mộ bia, mái tóc xõa dài xuống tận lưng đang bay bay theo chiều gió thổi ngược từ sau tới. Nhìn Hữu một lượt rồi cô nàng mới lên tiếng giọng nhỏ nhưng rõ ràng: 

- Là chủ ngôi mộ này! 

Vốn là người dạn dĩ nhất bọn, tánh lại hay ngang tàng, liều mạng, vậy mà sau khi nghe cô gái nói Hữu vẫn còn chưa tin hẳn anh hỏi lại: 

- Cô muốn đùa tôi? 

Không đáp, cô ta bước thẳng tới trước mặt Hữu và bất thần lao thẳng vào người anh! Hữu không kịp tránh, nhưng lạ quá khi người cô ta chạm vào Hữu thì anh không hề có cảm giác gì, mà chỉ nghe như có luồng gió thoảng qua. 

Còn đang ngơ ngác thì Hữu nghe có tiếng cất lên từ sau lưng: 

- Anh tin tôi là người cõi âm chưa? 

Hữu quay lại thì thấy chính cô nàng đứng cách mình vài bước chân. Lần này giọng nàng gay gắt hơn: 

- Anh hăng hái quá mức để bị người ta lợi dụng rồi! 

Hữu cau mày: 

- Lợi dụng việc gì? Ai lợi dụng? 

- Anh bạn thân thiết của anh chớ còn ai. 

- Bạn thân của tôi thì hiện ở đây cũng có vài người... 

- Thiện! 

- Cô quên là Thiện mời chúng tôi về đây. Anh ta là chủ nhà tốt bụng nữa. 

Đột nhiên nàng phá lên cười. Tiếng cười như xé màn đêm bay xa theo gió. Rồi chợt chùng xuống: 

- Các anh chỉ mới quen thằng Thiện đó vài năm nay thôi, khi anh ta lên học ở thành phố. Chớ thời gian anh ta còn ở chốn quê này có biết anh ta ra sao không? 

Câu hỏi cô nàng khiến Hữu lúng túng: 

- Đúng là chúng tôi chỉ mới quen Thiện ở thành phố. Nhưng anh ấy tốt bụng, được lòng mọi người... 

Cô nàng cười gằn: 

- Đặc biệt là tốt bụng với các người đẹp. 

Một cách vô tình Hữu nói: 

- Đúng như vậy! Hôm nay về đây còn có người yêu của Thiện nữa. Cô ấy yêu Thiện, họ có thể làm đám cưới một ngày gần đây nữa. 

- Tôi đang chờ cái đám cưới ấy đây và chờ anh ta nữa! Đồ mặt dày, đồ bội bạc! 

Những lời này cô nàng nói vừa nghiến răng, khiến cho Hữu ngạc nhiên: 

- Cô... cô là gì của Thiện? 

Nàng chỉ vào bia mộ: 

- Anh nhìn xem tôi là gì của anh ta? 

Lúc này Hữu mới để ý. Anh đọc được mấy dòng chữ: 

- Chi Lan, người vợ hiền của tôi, Ngọc Thiện. 

Hữu kêu lên: 

- Thằng Thiện bạn tôi! 

- Làng này chỉ có một người tên Ngọc Thiện mà thôi. Là anh ta đó! 

Hữu lẩm bẩm: 

- Có lẽ nào… 

Nàng nói chậm để Hữu nghe rõ: 

- Tôi là người được anh ta yêu hơn năm năm, cho đến khi tôi báo tin là có thai thì anh ta hốt hoảng xúi tôi đi phá cái thai. Tôi quyết liệt từ chối và buộc anh ta phải làm đám cưới. Chẳng còn cách nào khác, nên anh ta chấp nhận. Đám cưới được tổ chức rình rang, nhưng ngay trong đêm động phòng thì anh ta đã hạ thủ: Cho tôi uống một ly nước có chứa chất hủy thai. Tôi uống xong bị thuốc hành, bị băng huyết và chết khi chưa kịp chuyển đến bệnh viện! Để che miệng thế gian, anh ta lập mộ đàng hoàng, nhưng từ ngày tôi chết, anh ta bỏ đi biệt ở Sài Gòn. Gần đây mỗi lần về nghe người ở đây đồn là oan hồn tôi thường hiện về, anh ta sẽ bị báo thù, cho nên vừa rồi anh ta đi nhờ một tay thầy bùa yếm bùa phép vô con dao phay mà anh đang cầm trên tay. Thâm ý của anh ta khi đưa ra lời thách đố khi nãy là muốn mượn tay anh trừ khử tôi, để anh ta rãnh nợ mà cưới vợ mới! Dẫu anh ta thừa biết là khi anh thực hiện việc này anh có thể bị vong mạng! 

Hữu tái mặt đưa con dao lên xem. Quả nhiên trên bảng dao có viết những chữ màu đỏ ngoằn ngoèo không thể đọc được, theo kiểu bùa chú mà Hữu từng thấy qua. Giọng anh hơi run: 

- Có… có chuyện này sao? 

Cô gái buông một tiếng thở dài: 

- Lòng dạ đàn ông là thế đó! Tôi đã cho anh ta cả cuộc đời con gái, vậy mà kết cuộc như bây giờ đây... 

Nàng bước thẳng tới phần mộ, nói với Hữu: 

- Tôi thừa sức báo thù hắn ta và thừa sức để hại anh, nhưng tôi nghĩ lại, thà cứ để hắn ta tiếp tục thủ đoạn của hắn. Vậy anh cứ cắm con dao xuống đầu mộ đi, tôi sẽ vĩnh viễn biến mất! 

Hữu bất nhẫn, anh ném con dao xuống dòng sông gần đó, nói như lời thề: 

- Tôi không bao giờ làm chuyện vô đạo đức này! 

Anh quay bước đi nhanh trở vào nhà. Thiện và các bạn đang đợi bên nồi cháo gà. Vừa thấy anh về Tuyết đã chạy tới, giọng lo lắng: 

- Em lo quá... 

Riêng Thiện thì quan tâm đặc biệt hơn, anh ta bước tới gần hỏi khẽ: 

- Làm đúng như vậy chớ? 

Hữu nhìn thẳng vào mắt anh ta, gằn giọng: 

- Cô Chi Lan hỏi thăm mày! 

Thiện đang tươi rói, chợt sa sầm mặt, rồi run cả người. Hà kêu lên: 

- Anh Thiện! Sao vậy? 

Hữu vẫn dửng dưng quay đi trong khi Thiện lảo đảo gần ngã xuống đất. 

- Đưa nó rời đây ngay đi, sắp có chuyện đó! 

Chẳng ai hiểu gì, chỉ biết đưa mắt nhìn nhau và chờ câu nói tiếp của Hữu...

° ° °

Thiện đã bỏ nhà đi Sài Gòn ngay sáng hôm sau. Hữu kể hết mọi chuyện cho bà mẹ của Thiện nghe, bà rầy la Thiện một trận dữ dội, rồi đích thân bà sắm lễ vật đem ra mộ của Chi Lan cúng vái rất trọng thể. Bà xin linh hồn của cô con dâu tha cho con trai bà. 

Phần Thiện thì có lẽ đã biết sợ, biết lỗi, nên từ đó anh lánh xa Hà luôn, không hề tính chuyện cưới xin gì nữa. 

Có lẽ oan hồn cũng biết thứ tha, nên từ ấy không ai thấy những hiện tượng lạ quanh ngôi mộ của Chi Lan nữa. Ngày ngày bà mẹ chồng đều ra đốt nhang, ngồi trước mộ nàng dâu mà khóc và van vái cho cô siêu thoát. 

Những bạn bè của Thiện dần dần biết chuyện, họ thành tâm đi theo Hữu thỉnh thoảng về đốt nhang cho Chi Lan. Trong số này có cả Hà. 

Chẳng hề thấy hồn ma làm hại gì Hà cả.

OAN HỒN NGƯỜI VỢ TRẺ 1

Về đây đã hai ngày rồi mà Thiện vẫn chưa bước ra tới đầu ngõ. Suốt ngày anh chỉ quanh quẩn trong khuôn viên ngôi nhà mà người bạn đã có nhã ý cho mượn để Thiện ở trong hai tháng hầu hoàn thành luận án tiến sĩ mà anh sẽ trình trong tháng sau, có nghĩa là sau lễ cưới chưa đầy hai tuần. 

- Cậu gì ơi! 

Thiện quay lại đã thấy một ông lão đang vẫy tay về phía mình. Ngạc nhiên, nhưng Thiện vẫn bước ra cổng lễ phép hỏi: 

- Dạ, bác kêu cháu? 

- Phải. Thấy cậu là người lạ, hình như một tới nơi này sao chưa đi chơi quanh đây, cảnh ở đâu đẹp lắm. 

Thiện hơi bất ngờ về sự quan tâm của ông lão, tuy nhiên anh vẫn thấy thích thú bởi sự quan tâm này: 

- Dạ thưa bác, lúy nữa này cháu còn hơi mệt nên chưa ra ngoài. Có lẽ lát nữa cháu sẽ đi. Cháu cũng nghe nói nơi này cảnh quang đẹp lắm. 

- Nếu cậu có hứng thú thì đi theo lão, lão có biết một nơi lạ lắm, chắc là cậu sẽ thích! 

Tự dưng Thiện đâm ra tò mò và anh cũng bất ngờ với chính mình khi nhận lời: 

- Dạ, cháu sẽ đi với bác. 

Anh định thở vào lấy theo chiếc máy ảnh, nhưng như biết ý ông lão nói: 

- Cậu không nên chụp hình nơi nào mình thấy nó không thích hợp để chụp hình. 

Tuy thắc mắc, nhưng thấy chưa tiện hỏi nên Thiện im lặng đi theo. Chừng hơn mười lăm phút sau, Thiện đã phải ồ lên: 

- Đẹp quá! 

Ông lão cười hiền hòa: 

- Chỉ mới một phần thôi, cái bác này càng bước sâu vào bên trong càng đẹp. Cậu thích ở đây hay còn muốn tới chỗ kia, nơi có một hang động rất ngộ nghĩnh? 

Vừa nghe, Thiện đã thích thú nay: 

- Gần không bác? 

- Cách chỉ chưa đầy hai trăm mét. Nếu muốn cậu có thể theo tôi. 

- Dạ, bác cho cháu đi với! 

Thiện chạy theo được một đoạn thì lại phải reo lên: 

- Đẹp quá! Cái thác nước này quá đẹp nhưng chỉ tiếc là con người chưa biết khai thác nó. Ở Đà Lạt này người ta chưa biết tới nó, chỉ quanh quẩn nào Datanla, Cam Ly, Prenn, Gougah, Pongour. Nó bị bỏ quên cậu ơi! 

- Đây là thác Dambri, nó đẹp nhất trong cái thác ở vùng này vậy mà cho tới năm Tân Hợi này vẫn chưa ai nghĩ tới huyện khai thác nó. Đó, cậu thử nhìn xem. 

Thiện mải mê nhìn ngắm, khi quay lại thì chẳng còn thấy ông lão đâu. 

Anh kêu lên: 

- Bác ơi! 

Không nghe tiếng đáp, Thiện đành phải một mình bước tới. Nghĩ là ông lão ở trong động đá trước mặt, nên Thiện lại gọi: 

- Bác ơi! 

Lần này không có tiếng đáp cha ông cụ, mà chỉ có tiếng dội lại từ tiếng gọi của anh. Thiện bước vào hang động với đầu óc trống rỗng, cho đến khi anh giật mình bởi trước mắt là một tảng đá rất to, chứ chẳng còn lối đi nữa. Thì ra đây chỉ là một hang động rất nông, không thể gọi là một hang động như nhiều hang động sâu hun hút khác. 

Hơi thất vọng bởi lời giới thiệu về hang động của ông lão, anh vừa định quay ra thì chợt thoáng thấy có những dòng chữ trên vách đá chắn ngang. 

Những dòng chữ này lúc mới vào chưa quen nhìn trong bóng tối thì không thể nhìn thấy, còn bây giờ Thiện có thể đọc được từng chữ một... "Một thuở yêu người, ngàn năm không hết nhớ... Nửa tuần trăng mật, suốt kiếp khó phôi pha..."

Bài thơ còn khá dài, nhưng trong bóng tối không thể đọc hết được một lúc, nên Thiện phải mò mẫm khá lâu... 

Cuối cùng anh phải ngừng lại vì ở đoạn sâu do màu đá sậm lên rất khó đọc. Tuy nhiên với hai câu trên Thiện cảm giác thích thú, anh cứ lẩm nhẩm đọc lại nhiều lần, đến thuộc lòng. 

Một thuở yêu người, ngàn năm không hết nhớ... 

Nửa tuần tăng mật, suốt kiếp khó phôi pha... 

Mải mê đọc thơ mà Thiện quên cả thời gian. Khi anh bước ra ngoài thấy mặt trời đã lên khỏi đỉnh đầu. Nhìn đồng đồ tay, Thiện giật mình: 

- Đã hơn ba giờ rồi! 

Thiện tìm ông lão một lần nữa nhưng cũng chẳng thấy đâu. Khi anh về nhà thì chị giúp việc đã đưa một cái túi bằng thổ cẩm và nói rất rõ ràng: 

- Của một cô gái lạ gửi cho cậu. Cô ấy nhắn rằng, cậu đừng mất công tìm hiểu xem cô ấy là ai, bởi rồi đây cô ấy sẽ trở lại gặp cậu. 

Đã nghe chị ấy nói như vậy thì Thiện còn hỏi gì nữa. Anh cầm cái túi định xem bên trong chứa vật gì, nhưng chỉ giúp việc đã nói: 

- Cô ấy dặn cậu chỉ được mở ra khi ờ phòng riêng. 

Thiện về phòng mở chiếc túi ra ngay và thật bất ngờ khi thấy có một bộ quần áo nữ bằng lụa rất đẹp trong đó. Lại là bộ đồ ngủ! 

Hầu như suốt từ đó đến tối Thiện không tài nào nghĩ ra người gửi giỏ đồ cho mình là ai. Có hỏi lại chị người làm Tư Thủy thì cũng chẳng hiểu thêm được thêm chút gì, nên Thiện chỉ biết mang thắc mắc đó cho đến lúc đi ngủ. Mà nào có dễ ngủ đâu, phải đến hơn mười hai giờ thì Thiện mới chợp mắt được...

° ° °

- Người gì mà ngủ như chết, khách vào nhà cũng không hay! 

Lúc đầu tuy có nghe giọng nói đó, nhưng Thiện cứ tưởng mình nằm mơ, nên anh vẫn nằm im. Sau nửa phút thì giọng ấy lại cất lên: 

- Giữ đồ của người ta mà không trả thì làm sao đây? Lạnh lắm! 

Thiện cảm giác như có ai đó chạm vào chân mình, rất nhột, nên phải bật dậy. Và một lần nữa giọng nói lại cất lên, lần này ngay sát tai anh: 

- Trả bộ đồ cho em! 

Thiện lạnh cả người, anh còn đang lúng túng thì bàn tay của một phụ nữ đã chạm vào tay mình, cùng với lời thúc giục: 

- Mau trả lại bộ đồ cho em, em lạnh lắm! 

- Cô... cô là... 

Câu nói của Thiện chưa dứt thì vô tình trong lúc sờ soạng anh đã chạm vào một tấm thân với quần áo đẫm nước, lạnh như băng! 

- Cô... 

Thiện chỉ nói được tới đó, rồi người như bất động, chỉ cử động được khi đã có sự tiếp sức của người con gái lúc ấy gần như đã ghì chặt lấy anh, đầu nàng ta gục vào cổ anh như đang hút máu! Trong khi Thiện như bị điện giật, máu trong người như buôn chảy ra không kiểm soát được thì giọng nàng thân thiết hơn: 

- Lát nữa em lấy lại bộ đồ đó nghe! 

Thiện cố nói cho rõ ràng, bởi lúc ấy anh hầu như không còn kiểm soát được mình: 

- Cô là người gửi tôi cái giỏ? 

- Chứ còn ai dám vào đây khi anh nợ em bộ đồ! 

- Nhưng... cô gửi, chứ nào tôi có ý lấy đâu? 

- Nhưng tại sao em lại gửi cho anh chứ không phải là ai khác? 

- Cái đó... 

Thiện ấp úng đến tội nghiệp, trong lúc cô nàng chủ động đẩy anh nằm xuống và nói một cách cương quyết: 

- Lát nữa chính anh phải mặc đồ lại cho em, nếu không thì em lại... tồng ngồng như lúc đến mà ra về đó. 

Thiện giật mình: 

- Cô tới đây mà không... mặc gì hết? 

Cô gái cười khúc khích: 

- Mặc, nhưng ướt hết rồi! 

- Nhưng... nhưng lỡ có ai thấy thì sao? 

Nàng đáp tỉnh khô: 

- Có người thấy rồi! 

Thiện hốt hoảng: 

- Trời ơi, người ta thấy thì... 

Nàng lại cười ngặt nghẽo: 

- Người duy nhất nếu có thấy thì là anh! Như bây giờ... 

Thiện thở phào: 

- Vậy mà cứ tưởng... 

Thiện không nói thêm được lời nào nữa và hầu như hoàn toàn bất động. 

Cô gái lại nói thì thầm bên tai anh: 

- Anh còn nợ em điều này nữa. Bài thơ mà anh thuộc lòng là của em. 

Thiện reo lên: 

- Em đã viết lên vách đá, thảo nào nét chữ bay bướm quá nhĩ! 

- Thuộc thơ của người ta vậy mà chẳng nghe đọc lại gì hết! Hay là đã quên ngay rồi? 

Thiện buột miệng đọc ngay hai câu thơ thuộc từ vách đá. Xong, anh đột ngột hỏi: 

- Cô là gái đã có chồng? 

Cô nàng chợt thở dài rồi im lặng, chứ không luôn miệng liến thoắng như lúc đầu. Thiện nghĩ có lẽ mình đã chạm vào tự ái cô ta nên lên tiếng: 

- Tôi xin lỗi... 

Anh muốn bật dậy nhưng lúc ấy tuy cô nàng không đè cắn cổ anh nữa, nhưng Thiện cũng không làm sao nhúc nhích được. Anh đành lặp lại câu nói: 

- Tôi xin lỗi... 

- Chỉ xin lỗi suông vậy thôi sao? Nợ người đến hai lần, mà bây giờ... 

- Thế cô muốn tôi phải làm sao nữa? 

- Anh phải cưới em! 

Câu nói đó khiến cho Thiện hốt hoảng: 

- Cô nói sao? 

- Anh phải cưới em để trả hết nợ! 

Nàng vừa nói xong thì nhảy xuống giường liền. Lúc này Thiện mới cử động được, anh nhảy theo. Nhưng thoắt một gái, nàng đã rất nhanh bước ra khỏi phòng. Lúc này Thiện mới hoàn hồn bước theo. Chẳng thấy bóng dáng nàng ta đâu... 

Chợt ngớ đến bộ quần áo trong giỏ xách, Thiện lấy và chạy theo ra tới vườn ngoài. Anh gọi lớn: 

- Cô... cô gì ơi!

° ° °

Sáng hôm sau khi tỉnh dậy, Thiện nhìn thấy chiếc giỏ xách vẫn còn đó, nhưng khi xem lại thì bên trong không có bộ quần áo mà thay vào đó là một đôi dép nữ. Như vậy có nghĩa là lúc anh ngủ cô gái đã trở lại. 

- Cô gì ơi! 

Thiện gọi lần nữa nhưng cũng như lần trước, anh lại thất vọng. Đặt chân xuống giường, tính bước ra ngoài và Thiện phát hiện là toàn thân mình đau nhức như vừa trải qua cơn bạo bệnh. 

Phải đến hơn sáu giờ thì cơn choáng váng trong anh mới đỡ dần, Thiện lại gấp gáp trở ra thác nước. Dưới chân tảng đá bài thơ, có bộ quần áo vứt bừa ra đó, bên cạnh có một chiếc lá to nằm đè lên. Thiện định vứt chiếc lá đi để cầm bộ đồ lên xem thì chợt nhìn thấy trên lá có lòng chữ viết vội: "Giặt sạch rồi mắc trong phòng, em sẽ tới lấy! Cám ơn trước - Yến Vỹ". Thiện giật mình: 

- Cô nàng tên là Yến Vỹ? 

Nhìn kỹ lại bài thơ trên vách đá, bên dưới có hai chữ viết tắt YV. 

- Thơ của cô ấy! 

Thiện còn đang tần ngần thì chợt nghe có tiếng nói phía sau lưng: 

- Sao bây giờ cậu mới ra? 

Quay lại thì thấy ông lão hôm qua đang đứng nhìn mình chăm chú, Thiện reo lên: 

- Kìa bác, cháu đang muốn tìm... 

Ông lão vẫn nụ cười hiền hòa: 

- Bác biết. Nhưng phải để cho cậu gặp cô ấy đã... 

- Cô Yến Vỹ? 

Ông lão nhẹ gật đầu: 

- Phải. 

- Bác biết cô ấy? 

- Chẳng những biết mà còn thân nữa. 

- Bác và cô ấy có quan hệ thế nào? Tại sao... 

Giọng ông lão buồn buồn: 

- Ta chính là... ông ngoại của nó. Tội nghiệp con nhỏ, chỉ một ngần ấy tuổi đầu mà đã vướng bao nhiêu khổ đau cho đến lúc chết vẫn không yên thân! 

Câu nói của ông ta khiến Thiện giật mình: 

- Bác nói sao? Cô... cô ấy đã chết? Cô Yến Vỹ... 

Giọng ông gần như khóc: 

- Nó đã là người cõi âm rồi! 

Thiện nhớ lại cuộc gặp gỡ đêm qua mà bắt rùng mình. Giọng anh run run: 

- Vậy sao cháu và cô ấy mới gặp đêm qua? Cô ấy... 

Ông lão chợt nói: 

- Tốt hơn hết là cậu hãy chấm dứt quan hệ với nó... 

- Nhưng thưa bác, cháu muốn một lần nữa gặp để... 

Xua tay nhanh, ông lão nghiêm giọng: 

- Không nên! Một lần là quá đủ. Cậu đã giúp cháu nó như vậy là coi như cậu đã hy sinh rồi. Tôi không muốn lại có thêm một mạng người nữa... 

Thiện hốt hoảng: 

- Bác nói mạng người nào? 

Ông lão bỗng ôm mặt như đang ân hận điều gì, giọng ông trở nên khó nghe: 

- Tôi chẳng qua là... chiều lòng nó... nó bảo phải tìm cho ra người nhà họ Đoàn... mà cậu là người đầu tiên và chắc cũng là người duy nhất... 

Thiện quá đỗi ngạc nhiên: 

- Người họ Đoàn? Nhưng cháu đâu phải người họ ấy. Cháu họ Dương mà. Cháu là bạn của nhà ấy. 

Ông lão vụt ngẩng lên, sắc mặt biến đổi: 

- Cậu nói... cậu không phải họ Đoàn? 

- Dạ, hoàn toàn không. Cháu chỉ tới ở trọ trong nhà ấy một thời gian thôi. Nhưng có chuyện gì vậy bác? 

Ông lão kêu lên hai tiếng trời ơi, rồi lại ôm lấy đầu: 

- Tôi đã sai rồi! Tôi hại cậu rồi! 

Thiện ngơ ngác: 

- Chuyện gì vậy bác? Bác có làm gì cháu đâu? 

Ông già bất thần chụp tay Thiện, hỏi lớn: 

- Cháu và nó đã có... làm gì với nhau chưa? 

Thiện không định nói, nhưng sau khi nghe ông lặp lại lần thứ hai với vẻ mặt hốt hoảng, anh đành phải gật đầu: 

- Dạ có... 

Ông lão buông tay ra, thảng thốt: 

- Trời ơi! 

Ông như muốn bỏ chạy đi, cũng may là Thiện chụp lại kịp: 

- Bác nói rõ hơn cho cháu nghe. Hại là hại thế nào? 

Ông lão suy sụp hoàn toàn. Người ông co rúm lại, giọng trở nên thều thào: 

- Chỉ vì quá thương cháu, thấy nó chịu cảnh thảm thương đó nên ta mới đành lòng... chứ ta đâu có muốn thêm một mạng người nữa bị chết oan... Một mình nó là đủ rồi... 

- Bác nói gì cháu không hiểu? 

Bất chợt lão đưa tay chỉ vào Thiện và nói: 

- Cậu chính là... người tiếp theo! 

Thiện ngơ ngác: 

- Cháu! Nhưng tiếp theo để làm gì? 

- Để chết! 

Câu trả lời rất rõ ràng, nhưng Thiện cứ nghĩ mình nghe lầm: 

- Bác nói... 

Không để cho Thiện nói thêm, ông lão nói một hơi: 

- Con Yến Vỹ bị người ta hại phải chết oan, hồn phách nó lang thang không nơi nương tựa nên ta phải luôn theo nó, nuôi nó hết chốn này đến chốn khác, cũng chỉ muốn có có cái ăn, cái mặt để không phải làm con ma đói. Nhưng chính ta cũng không ngờ là sự lang thang của vong hồn nó là có ý đồ... Nó muốn tầm thù. Nó muốn trả thù nhà họ Đoàn! 

- Vậy cô ấy đã làm được chưa? 

Lại chỉ vào Thiện một lần nữa: 

- Gặp rồi, là cậu đó! 

Thiện trợn tròn mắt: 

- Sao lại là cháu? 

Ông già thở dài: 

- Có thể do lầm lẫn thôi. Con Yến Vỹ bảo ta đi tìm người nhà họ Đoàn, một nam nhân, khi thấy cậu xuất hiện trong ngôi nhà đó sau hơn hai chục năm không có ai ở, ta cứ tưởng đó chính là người mà cháu ta đang cần tìm, nên ta đã gặp cậu thuyết phác cậu tới nơi này để cho Yến Vỹ tiếp xúc và... 

Chợt hiểu ra, Thiện chép miệng: 

- Cháu bị hiểu lầm. Nhưng cháu nghĩ, rồi cô ấy sẽ nhớ ra, cô ấy đâu nỡ hại cháu! 

Ông lão lại thở dài: 

- Chậm mất rồi. Sau khi cậu và nó có quan hệ thân xác với nhau thì đã chậm quá rồi! 

Thiện giật mình: 

- Cháu đâu có ngờ... vả lại đó là cô ấy chủ động... 

Ông lão gật đầu: 

- Tất nhiên là do nó muốn rồi. Mà cậu có muốn biết tại sao nó lại làm vậy không? 

Ông ngừng một lúc rồi nói tiếp: 

- Vong hồn nó về báo cho ta biết rằng nó muốn được sớm đi đầu thai kiếp khác mà không được. Bởi ở cõi âm chỉ cho phép những người chết bình thường, chết do tuổi già hay đau bệnh được sớm tiêu diêu. Còn những người như nó thì phải kiếm người thế mạng mới được ra đi. Nó chọn nhà họ Đoàn, bởi nhà đó có mối hận thiên thu với nó. Chính họ đã cưỡng bức nó rồi giết chết, thả trôi theo dòng thác này. Chính nó... 

Ông lão hình như không còn sức để nói nữa... Rồi bất thần ông đứng lên, bước đi khập khiễng nhưng vẫn cố bước. Thiện lo sợ: 

- Vậy cháu phải làm sao đây bác? 

Ông nói vọng lại: 

- Để ta cố. Cậu gặp ta ở lầu... lầu... 

Chỉ nói được tới đó rồi ông ta gần như kiệt sức, ngã nằm dài trên đá. 

Thiện hốt hoảng chạy tới đỡ ông dậy: 

- Kìa bác, bác có sao không? 

Ông lão không động đậy nữa. Mắt ông ta nhắm nghiền chẳng khác người đã chết, Thiện hoảng quá, anh không kịp suy nghĩ thêm, đã bế xốc ông lên chạy bay về xóm dân cư gần đó. Đang chạy bỗng có người nhận ra, đã kêu lên: 

- Ông lão lang thang đây mà! 

Thiện dừng lại hỏi: 

- Chị biết ông lão này? 

Người phụ nữ kia đáp: 

- Biết chứ. Ông ấy là ông già cô đơn, không thân nhân, không biết nhà cửa ở đâu, nhưng về xóm này và cư ngụ trong ngôi nhà hoang gần nghĩa địa đằng kia. Ông lão bị sao vậy? 

- Ông bị ngất ở ngoài thác nước, tôi tình cờ... 

Chị nọ nói: 

- Cậu đã làm ơn thì làm ơn cho trót, đưa giùm ông ấy về nhà đi. Ngôi nhà hoang nó người ta hay gọi là lầu ma, gần nghĩa địa! 

Nói xong chị ta đi ngay. Thiện đành phải bế ông lão đi tiếp. Cũng may ngôi nhà gọi là lầu ma đó không xa, nên trước khi kiệt sức thì Thiện cũng đã đưa được ông lão vào nhà, sau khi một cậu bé đánh xe bò đi ngang qua đã xác định ông lão ngụ ở đây. 

Vừa ngẩng lên sau khi đặt ông lão xuống chiếc chõng tre, Thiện đã giật mình kêu lên: 

- Cô nàng? 

Anh thấy ở góc nhà có một chiếc bàn thờ, trên đó có một khung ảnh bán thân của một cô gái mà vừa chợt nhìn thấy Thiện đã kêu lên: 

- Yến Vỹ! 

Tiếng kêu của Thiện rất khẽ, gần như là kêu chỉ mình anh nghe, nhưng chẳng hiểu sao lại làm cho khung ảnh rơi xuống đất và vỡ toang! Hốt hoảng, Thiện vội cúi xuống nhặt nó lên. Trong lúc chạp vội, một ngón tay của anh đã bị cứa đứt khá sâu. Thiện cố nén đau để cầm được bức ảnh lên. Lúc này một bên khung kính đã bị bể, lộ ra một góc ảnh đã bị một vết máu rơi làm nhòe đi. Bằng phản ứng tự nhiên, Thiện lại chạm tay vào đó như để chặn vết máu loang nhiều hơn lên ảnh. Nhưng hành động của Thiện lại khiến cho vết máu loang ra rộng hơn, phút chốc nó loang tới trán và mắt. Chẳng hiểu sao, tự dưng vết máu đó chảy xuôi theo hai khóe mắt cua tấm ảnh và... tạo thành hai giọt nước mắt màu đỏ như máu! 

- Trời ơi! 

Thiện không phải ngạc nhiên mà là sợ! Anh gọi khẽ: 

- Cô Yến Vỹ, tôi xin lỗi... 

Anh định nói nữa, nhưng lúc ấy chẳng hiểu quá xúc động hay tay run vì mất máu, Thiện lại để khung ảnh rớt xuống lần nữa. Nhưng lần này nó không vỡ, trái lại khi vừa chạm đất thì tự nhiên nó bay trở lên và... đứng đúng vị trí ban đầu. Thiện chắp hai tay lại, khấn rất thành tâm: 

- Tôi xin lỗi đã xúc phạm tới cô. Lòng tôi không muốn... 

Lời nói đó của Thiện chưa dứt đã nhận ngay một cái tát vào mặt, mà chẳng thấy người tát là ai? 

Muốn kêu lên, nhưng lúc ấy chợt Thiện nhìn vào đôi mắt của cô gái, sau màu máu hình như hai tròng mắt đang lay động. Anh im lặng, bước lùi như muốn kiếm đường tháo lui! Bỗng phía sau lưng Thiện có người lên tiếng: 

- Cứu người là quan trọng, cớ sao lại để người ta nằm đó chứ? 

Quay lại không thấy ai, chỉ có ông lão nằm im như chết ở đó. Thiện không dám chần chừ, anh định bước ra ngoài để tìm mưa lọ dầu, nhưng thật bất ngờ, anh nhìn thấy ai đó đã để lọ dầu gió và một ly sữa nóng ngay bên cạnh ông lão. 

Thiện xoa dầu, lát sau ông lão tỉnh lại. Vừa nhìn thấy anh, ông đã nhẹ giọng nói: 

- Cậu đã thoát nạn bước đầu. Nhưng tốt hơn hết là đi đi. Cậu nên rời khỏi chỗ này sớm chừng nào tốt chừng ấy! Tôi xin lỗi cậu... 

Thiện vẫn chưa hết thắc mắc: 

- Nhưng bác xin lỗi về chuyện gì? 

- Chuyện tôi nhìn lầm cậu, cứ tưởng cậu là con cái nhà họ Đoàn. Để cậu lâm vào cảnh ngộ này là điều ngoài ý muốn. 

Nhìn thấy vết máu trên ngón tay Thiện, ông lão hốt hoảng nói: 

- Ai làm cậu chảy máu vậy? 

- Dạ, vừa rồi cháu vô tình làm rơi khung hình trên bàn thờ, mảnh kính vở đâm vào cháu... 

Ông lão bật ngồi dậy và nhìn về bức ảnh còn thấm máu, ông kêu lên: 

- Cậu cần phải đi ngay đi, kẻo không kịp nữa! 

Thiện kinh ngạc: 

- Chuyện gì vậy bác? 

- Máu của cậu đã thấm vào hồn ma của nó thì cậu nhập vào nó rồi, nó sẽ... 

Ông nói tới đó thì gần như nghẹt thở, giống như bị ai đó bóp cổ. Thiện phải hỏi to: 

- Bác làm sao vậy? 

Ông lão gần như líu lưỡi: 

- Đi... đi liền đi! Cậu đừng... 

Ông vội kéo mạnh Thiện xuống, khiến cho anh mất thăng bằng ngã nhoài đè lên thân thể ông. Anh chợt nghe một giọng nói rất khẽ từ miệng ông lão: 

- Được rồi, tôi trả nợ cho cậu... Tôi chết để cho cậu được sống... 

Rồi ông ta im lặng, hai tay xuôi xuống... 

Thiện hốt hoảng: 

- Bác! 

Anh đưa tay sờ lên mũi ông lão thì phát hiện ông đã ngừng thở...

° ° °

Từ Bảo Lộc về, Thiện bị bệnh nằm gần hai tuần. Người anh lúc nóng lúc lạnh và hễ cử nhắm mắt thì lại như nghe có ai đó gọi tên mình! Thiện phải uống thuốc an thần liên tục thì tình trạng đó mời chấm dứt. Nhưng có những điều mà Thiện chẳng thể nào hiểu nổi, đó là mỗi khi anh được mẹ nhắc tới ngày cưới thì anh nghe tiếng khóc nức nở ở đâu đó rất gần mà chẳng biết là ai. 

Bởi vậy sáng nay vừa thấy bóng mẹ bước vào phòng, Thiện đã phải lên tiếng trước: 

- Con biết rồi... bữa nay mình phải qua bên nhà Diệu Hương để lo cho lễ cưới. Má đừng nói gì hết, để con chuẩn bị. 

Thiện âm thầm chuẩn bị, thay quần áo và tự mang sính lễ rồi ra dấu cho mẹ cùng đi mà không dám nói gì. Như thế mà yên. Cho đến khi diễn ra cuộc nói chuyện giữa hai bên sui gia thì xảy ra một bất ngờ! Cô chị Diệu Hạnh chạy ra nói với mẹ:

- Con Diệu Hương bỗng nhiên phát sốt rồi bứt tóc bứt tai la hét om sòm trong phòng! 

Bà Hai Phấn kinh hãi chạy vào ngay. Vừa nhìn thấy mẹ, Diệu Hương đã ôm chầm lấy và tiếp tục gào khóc. Bà Phấn lo sợ: 

- Con bị bệnh gì nói má nghe coi, đừng làm má sợ. Có má chồng con và thằng chồng... 

Bà nói tới đó thì Hương đã la lớn: 

- Đuổi anh ta về đi! Bảo anh ta đi đi! 

Bà Năm, mẹ của Thiện cũng có mặt ở ngoài, bà vội lên tiếng: 

- Có má đây con, thằng Thiện nó đang bị bệnh mà cũng ráng qua đây, nếu con bệnh nhiều thì để nó đưa đi khám thầy thuốc. 

Diệu Hương vùng la lớn: 

- Mấy người đi hết đi, tôi sợ mấy người! 

Bà Phấn thất thần: 

- Con sao vậy Hương? 

Bà nhìn sang Thiện cầu cứu: 

- Con coi nó bị sao vậy? 

Thiện nắm lấy tay Diệu Hương, bỗng anh kêu lên: 

- Tay em sao vậy? 

Cảm giác lạnh như băng đang chạy rần khắp thân thể Thiện, đồng thời anh bị đẩy lùi ra xa đến mấy mét! 

Hai bà mẹ đều kêu lên: 

- Sao vậy? 

Bà Năm kịp đỡ con mình, nhưng phải buông tay ra ngay, bởi hơi lạnh từ người Thiện truyền sang khiến bà phải kêu thét lên: 

- Con sao vậy Thiện? 

Thiện đang ngơ ngác nhìn Diệu Hương thì nàng đã lên tiếng: 

- Mấy người đi ra khỏi chỗ này ngay! 

Cả mẹ mình, Hương cũng xua đuổi: 

- Bà cũng đi ra luôn! Tôi bảo đi! 

Nhìn con với vẻ ái ngại, nhưng bà Phấn cũng đành phải kéo tay bà sui gia ra ngoài. Giọng bà run run: 

- Lạy trời lạy Phật, xin cho con tôi bình yên! 

Rồi bà gần như năn nỉ Thiện: 

- Con có cách nào giúp má với! Mẹ sợ quá... 

Thiện có một linh tính hơi lạ, anh lẩm bẩm: 

- Không lẽ... 

Rồi anh nói riêng với mẹ: 

- Má ở dây chờ con một lát. 

Anh bước vội ra ngoài trước sự ngạc nhiên của bà Phấn: 

- Nó đi đâu vậy chị sui? 

Bà Năm lắc đầu: 

- Tôi cũng không biết. 

Thiện bước thật nhanh về phía trước mặt, con đường hoàn toàn xa lạ nhưng như được ai đó đưa lối nên anh đi không chút lúng túng. Lát sau, dừng lại bên một cây to, nhìn xuống có một cái miếu nhỏ nằm dưới gốc cây, Thiện cúi xuống nhặt lên một chiếc khăn tay của ai đó, rồi nhanh tay cho vào túi quần và bước thật nhanh trở lại nhà. 

Bước vào nhà trước sự ngạc nhiên của hai bà mẹ: 

- Con đi đâu vậy? 

Thiện không đáp, anh đi thẳng vào phòng chỗ Diệu Hương đang nằm. 

Nhìn thấy cô nàng nhắm nghiền mắt như đang ngủ, Thiện nhẹ đặt chiếc khăn đó lên mặt cô, rồi bước lui ra khỏi phòng mà chẳng nói lời nào. 

Chừng năm phút sau, bỗng từ trong Diệu Hương bước ra, sắc diện bình thường, tươi tỉnh như chẳng có gì xảy ra. 

Bà Phấn kinh ngạc: 

- Con đây hả, Hương? 

Cô nàng cười tươi: 

- Chứ má tưởng con là ai? 

Chợt nhìn thấy chiếc khăn tay con đang cầm, bà Phấn càng ngạc nhiên hơn: 

- Phải chiếc khăn mà sáng sớm nay con quát ầm lên nói là phơi rồi bị mất đây không? 

Diệu Hương đáp tỉnh táo: 

- Anh Thiện mới vừa đem về cho con! 

Bà Năm hỏi con: 

- Con lấy nó ở đâu vậy? 

Thiện đáp: 

- Nơi người ta cố tình đem giấu. 

Bà Phấn ngạc nhiên: 

- Ai đem giấu? 

Thiện chưa kịp trả lời thì Diệu Hương đã nói: 

- Con cám ơn người đã trả lại cho con vật tưởng đã mất! 

Rồi cô như chẳng có chuyện gì xảy ra, quay sang mẹ: 

- Sao chưa lo đám cưới cho con vậy? 

Bà Phấn mừng khôn tả: 

- Con thật sự không còn... như lúc nãy phải không? Con làm má sợ quá... 

Diệu Hương giục: 

- Ngày mai là rước dâu rồi sao má còn ở đó nói lung tung gì vậy! Con có sao đâu? 

Bà Năm kề tai nói khẽ với bà sui: 

- Chắc nó bị cái gì ám lúc nãy, giờ thì chắc hết rồi. Cám ơn bề trên. 

Bà hỏi khẽ Thiện: 

- Con làm gì mà nó tỉnh lại vậy? 

Thiện lắc đầu: 

- Con đâu biết. Con chỉ đi lấy vật cô ấy mất đem về... 

- Sao con biết nơi chiếc khăn bị giấu? 

Thiện vẫn lắc đầu: 

- Con cũng không biết. 

Mà thật sự Thiện hoàn toàn không biết, bởi anh hành động như bị ai đó sai khiến. Mãi đến khi hai người đứng riêng ra ở một góc sân, Diệu Hương mới nói khẽ với anh: 

- Anh chậm một chút nữa thì đám cưới ngày mai coi như bỏ! 

Giọng nói của Hương nghe hơi lạ, nhưng ngoài Thiện ra khó ai mà hiểu được... 

Bà Phấn bàn tiếp với bà sui trai chuyện đám rước dâu ngày mai: 

- Như mình tính rồi, ngày mai khi bên chị qua thì bên này sẽ theo đưa dâu khoảng hai chục người. Nhưng cái khó cho bên tôi là hiện giờ ông cậu con Diệu Hương, người sẽ giúp đứng ra chủ hôn, đáng lý đã đến từ hôm qua, mà tới giờ này vẫn chưa thấy đến. Vậy nếu giờ chót mà cậu ấy vẫn chưa có mặt thì chắc phải nhờ người khác. Ngặt nỗi con Hương lại không chịu nhờ ai trong dòng họ ở đây cả, nó đòi phải đúng ông cậu đó thôi. Tôi đang lo... 

Vừa lúc ấy, từ ngoài cửa bước vào một người mà vừa trông thấy bà Phấn đã reo lên: 

- Cậu Tư, chờ cậu dài cổ ra, sao bây giờ mới qua? 

Một ông lão mà chẳng riêng bà Phấn ngạc nhiên, sự xuất hiện của ông đã làm cho Thiện trợn tròn mắt, kinh hoảng: 

- Kìa, sao... sao lại là bác? 

Đó là ông ngoại của Yến Vỹ, người đã chết khi bị Thiện ngã đè ở Dambri! Chính Thiện đích thân chôn cất cho ông trước khi về, sao bây giờ lại ở đây và... 

Anh không nghe ông lão nói, liền hỏi lại: 

- Sao bác lại... sống? 

Ông già ngơ ngác: 

- Cậu là ai? Mà sao tôi lại... không sống? 

Cả hai câu hỏi và đáp đó khiến cho hai bà mẹ đều ngơ ngác: 

- Con nói gì vậy Thiện? Con... quen với cậu Tư? 

Thiện không đáp câu hỏi của bà mẹ vợ, mà quay sang hỏi ông lão: 

- Bác thật sự không nhớ cháu? Chính con đã ở Dambri, đã chôn... 

Ông lão quay sang bà Phấn: 

- Phải thằng này là chồng con Diệu Hương không? Nó nói gì mà tôi không hiểu? 

Thiện nghi là ông ta không nhớ, nên cố nói: 

- Bác là ông ngoại của Yến Vỹ mà! Chính bác đã... 

Vừa nói tới đó thì Thiện nghẹn lại, như có ai chặn họng mình. Anh cố nói tiếp, nhưng càng cố thì có cảm giác ngạt thở. Trong khi đó thì giọng ông già vẫn thản nhiên: 

- Trai tráng bây giờ mới ngần này tuổi mà đã lẫn rồi! Tôi có gặp nó bao giờ đâu và tôi có ở Dambri gì đó đâu mà nó cứ cả quyết... 

Bà Năm phải nhắc con: 

- Chắc là con lầm với ai đó rồi. 

Thiện từ phút đó như người mất hồn. Ngồi nói chuyện mà thỉnh thoảng anh cứ liếc nhìn ông lão, khiến cho Diệu Hương cũng phải nói riêng với anh: 

- Để ý làm gì chuyện đó. Chúng ta đi ra sau vẫn đi. Em hái mấy thứ trái cây gửi về cho mấy đứa cháu bên nhà. 

Thiện theo cô ra ngoài mà vẫn không hết thắc mắc về ông lão. Lát sau anh không dừng được, phải nói: 

- Anh không thể lầm dược, ông ấy chính là... 

Lại một lần nữa, cổ họng anh như bị nghẹn lại và đầu óc Thiện quay cuồng! Anh lại nghe có tiếng khóc văng vẳng bên tai. 

Sau buổi sáng rước dâu về nhà, trong lúc cả nhà đang vui vẻ tiệc tùng thì ông cậu Tư, tức ông lão mà Thiện nhìn lầm là ông ngoại của Yến Vỹ đã đột ngột biến mất!

° ° °

Sau bữa tiệc, bà Phấn đã đợi khá lâu rồi mới chịu về, sau khi nhắn lại với Thiện: 

- Có thể cậu ấy già rồi mà còn uống rượu nhiều nên đi đâu đó rồi bị lạc. Nếu cậu có về con nhờ người đưa cậu qua nhà giùm má. 

Thiện không thể nào hiểu nổi con người kỳ lạ này, nên anh quả quyết với vợ: 

- Anh chắc chắn ông cậu này có điều gì đó không bình thường! 

Diệu Hương vẫn dửng dưng: 

- Thì mặc cậu ấy. Bây giờ mình lo chuyện mình. Em muốn đi ngủ thật sớm và anh nhớ dặn má và người nhà không dược đánh thức mình dậy trước chín giờ sáng hôm sau! 

Thiện ngơ ngác: 

- Ngủ tới giờ đó bộ em muốn má chửi cho sao? Con dâu mới về nhà chồng phải dậy sớm chứ! 

Diệu Hương vẫn tỉnh bơ: 

- Con dâu này khác! 

Nói xong, cô đi ngay vào phòng mặc cho tiệc tùng còn đang diễn ra. Bà Năm nhìn thấy, nhưng thương con nên bà cười bảo Thiện: 

- Nó mệt, để cho nó nghỉ ngơi. Má hiểu... 

Bà còn nói thêm: 

- Qua vụ hồi sáng thông qua, má biết nó chưa khỏe hẳn đâu, vậy mà vẫn cố gắng, tội nghiệp con nhỏ. 

Thiện thì không nghĩ vậy anh lặng lẽ bước theo vợ vào phòng. Chỉ sau Diệu Hương có nửa phút, vậy mà khi Thiện vào tới nơi thì cô nàng đã nằm yên trên giường ngủ say. Thử gọi và lay nhưng Hương vẫn chẳng hề hay biết. Đêm tân hôn của Thiện sẽ trọn vẹn nếu vào nửa đêm hôm đó anh không chợt nghe có tiếng thì thầm bên tai: 

- Hưởng rồi bây giờ chán, không thèm nữa phải không? 

Giật mình, toan bật dậy thì Thiện đã bị vợ kéo lại: 

- Muốn trốn trách nhiệm phải không! 

Nghe giọng nói quen quen nhưng khác với giọng của Diệu Hương, Thiện hốt hoảng: 

- Cô là... 

- Người đã hiến thân cho anh rồi, nay anh tính phủ nhận để chiếm đoạt thêm người nữa phải không? 

Tới lúc này thì Thiện không còn lầm lẫn nữa, anh kêu khẽ: 

- Yến Vỹ! 

- Không phải Yến Vỹ nào cả. Là hồn ma được cô ấy nhờ về đây đòi nợ! Vay gì phải trả nấy! 

Thiện định vùng dậy thì nàng ta quát: 

- Yên nào! 

Thiện lo lắng: 

- Diệu Hương đâu? 

Giọng bên tai anh đanh lại: 

- Anh mà còn nhắc tới tên cô nàng lần nữa thì đừng có trách! 

Trong đêm tân hôn mà biết mình đang ngủ với một hồn ma thì còn cảm giác nào rùng rợn hơn! Bởi vậy Thiện nằm xuống mà người cứng đờ, hầu như không có một cử động nào của một người chồng... Nhưng điều đó là về phần anh, chớ cô nàng thì đâu chịu như vậy. Cô ta chủ động hết mọi việc, đưa Thiện trở về với cảm giác bị mất máu như đêm ở Dambri, đến nỗi sau cùng Thiện chỉ còn biết nằm thở dốc, thân thể rả rời... 

Sáng sớm hôm sau... 

Mãi tới hơn chín giờ thì bà Phấn mới cho người vào gọi vợ chồng Thiện dậy. Nhưng gọi mãi mà vẫn không nghe ai trả lời. Phải đích thân bà Phấn gọi lớn: 

- Dậy đi chứ tụi bay? 

Vẫn im lặng. Sau ba lần gọi nửa, bà Phấn bắt đầu lo, đẩy mạnh cửa vào và... 

Trong phòng không thấy Diệu Hương, chỉ có Thiện nằm nửa người trên giường, còn nửa người thòng xuống sàn, sắc mặt tái xanh! 

- Con! 

Bà Phấn kêu to rồi lao tới chạm vào Thiện. Toàn thân anh lạnh như băng và hầu như không còn chút sinh lực nào. 

- Con ơi! 

Thiện được đưa ra ngoài để cấp cứu. Trong khi những người khác thì chạy đi tìm Diệu Hương. Đến chiều hôm đó thì người ta chỉ tìm thấy một đôi guốc của Hương nằm bờ sông gần nhà. Ai cũng nghĩ là Diệu Hương đã bị chết đuối, nên ra sức tìm khắp đoạn sông gần đó. Tuy nhiên tìm cả buổi vẫn chẳng có kết quả. 

Thiện được cấp cứu đã tỉnh, nhưng trong trạng thái như người mất hồn... 

Đến giữa trưa ngày hôm sau thì bên nhà bà Phấn có người qua báo tin là người ta đã tìm thấy xác của Diệu Hương nằm chết ở gốc cây cổ thụ, cạnh miếu cổ, nơi Thiện đã tìm được chiếc khăn tay bữa trước! 

Đang kiệt sức, nhưng vừa nghe điều đó Thiện đã bật dậy đòi đi. Khi sang tới chỗ, Thiện đã bật khóc khi thấy xác vợ được mang về nằm ở nhà mà sắc diện vẫn còn nguyên như khi sống. Bà Phấn vừa khóc vừa kể lại: 

- Má đang ngủ thì nghe có tiếng gọi và khóc ở ngoài, má ra mở cửa thì chỉ thấy một cái bóng vụt chạy nhanh. Nhìn cái bóng đó tự dưng má nghĩ tới con Diệu Hương! Má chạy theo và cuối cùng tới chỗ miếu cô hồn, và... đã thấy xác nó nằm ở đó. 

Bà khóc hết nước mắt, trong lúc Thiện thẫn thờ, anh lẩm bẩm: 

- Người ta đã hại em rồi. 

Bà Phấn nghe loáng thoáng không rõ nên hỏi lại: 

- Ai hại ai? 

Thiện không đáp, anh lặng im bước ra ngoài rồi âm thầm đi về hướng miếu cô hồn. Có điều gì uẩn khúc khiến cho Thiện nghĩ anh có thể tìm ra ở đây... 

Đang lúc còn đang nhìn ngắm, chợt Thiện giật mình khi phát hiện trên vách phía trong tòa miếu cô hồn có hai dòng chữ viết bằng thứ máu đỏ mà lâu ngày đã trở thành màu nâu sẫm. Vừa thấy dòng chữ Thiện đã tái mặt, bởi nó giống y như hai câu thơ trên vách đá ở thác Dambri: 

"Một thuở yêu người, ngàn năm không hết nhớ, 

Nửa tuần trăng mật, suốt kiếp khó phôi pha..." 

- Yến Vỹ! 

Thiện chết điếng. Như vậy mà anh đã không thoát được nàng ấy. Vậy mà khi đè chết ông lão hôm có, chính ông lão cho biết là anh đã thoát được sự báo oán, bởi chính ông đã hy sinh để cứu mạng cho anh, sao bây giờ vẫn còn cuộc tầm thù này? 

- Tại sao giữa chốn quê này và Dambri xa xôi lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên này? Không lẽ nơi này là quê hương của Yến Vỹ mà ngôi miếu này là để thờ nàng? 

Đầu óc Thiện càng lúc càng thêm hoang mang. Anh đứng tần ngần đọc đi đọc lại hai câu thơ mà không để ý có người đang quan sát mình rất lâu, đến khi người đó cất tiếng hỏi: 

- Cậu tìm gì ở đó vậy? 

Ngẩng lên thấy một bà cụ, Thiện vội nói: 

- Thưa bà, cháu thấy lạ vì trong miếu có mấy câu thơ... 

Bà già hình như am hiểu về ngôi miếu hoang: 

- Chuyện chỉ liên quan tới người ta, cậu việc gì phải tò mò... 

Câu nói đó làm cho Thiện càng tò ngò thêm: 

- Bà nói liên quan tới ai? 

- Tại sao cậu muốn biết? 

- Dạ, xin bà cho biết, cháu muốn... 

Bà già vừa quay bước vừa nói: 

- Lâu rồi ta không nói với ai chuyện này, nhưng mấy hôm nay ta cảm thấy trong người gần như không còn sức nữa, ta hiểu rằng cũng nên nói cho ai đó biết chuyện của ngôi miếu này, kẻo rồi chẳng còn ai biết mà kể... 

Thiện bước theo, anh năn nỉ: 

- Bà kể cho cháu nghe đi, cháu cần biết... 

Ra dấu cho Thiện theo mình về một ngôi nhà ngói cũ gần đó, khi về đến nơi bà mới nói tiếp: 

- Cậu là người đầu tiên nghe tôi nói chuyện này, cậu vào nhà đi. 

Thiện ngoan ngoãn bước theo vào. Vào bên trong rồi anh chưa kịp hỏi gì thì đã nghe bà già lên tiếng: 

- Cậu là người xứ nào tới? 

- Dạ... cháu ở xã bên kia sông, cháu tới đây để làm rể nhà Hai Phấn. 

Vừa nghe nói bà già đã trố mắt: 

- Nhà có đứa con gái vừa mới chết? 

- Dạ. 

- Chết bởi dính tới nhà họ Đoàn? 

Thiện hốt hoảng: 

- Bà biết chuyện đó? 

Không nhìn thiện, bà lão đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, giọng trầm buồn: 

- Chuyện này tưởng đã trôi qua rồi, sao bây giờ lại tái diễn nữa, oan oan tương báo đây mà... 

Thiện cố ý lắng nghe, nhưng bà già ngừng nói khá lâu rồi mới tiếp: 

- Tưởng nhà họ Đoàn đó bỏ đi thì hết chuyện, nào ngờ khi cái miếu âm hồn còn đó thì vẫn còn chuyện oán thù... 

- Nhà họ Đoàn ở xứ này sao? 

Chỉ tay ra phía ngôi miếu âm hồn, bà nói: 

- Chính chỗ cây đa cổ thụ đó ngày xưa là cổng nhà của họ. Chính ngôi miếu đó là nguyên nhân khiến họ bỏ nhà đi biệt cho đến nay không nghe tin tức gì! 

- Ai bỏ đi vậy bà? 

- Thì nhà họ Đoàn! Trước kia, khoảng hơn hai mươi năm họ là một bá hộ trong vùng này, có ngôi nhà lớn nhất làng, ngoài ra nghe nói còn vài ngôi nhà nghỉ mát ở những nơi xa xôi nữa... bởi ông chủ họ Đoàn là người làm nghề khai thác gỗ rừng ở vùng cao nguyên, giàu có lớn lắm! 

Thiện thêm tò mò: 

- Giữa chuyện bỏ xứ ra đi của họ Đoàn đó có liên quan gì tới ngôi miếu âm hồn đó vậy bà? 

- Có chứ. Cái miếu đó là do chính họ Đoàn lập nên trước khi trốn đi! 

Rồi không đợi Thiện hỏi, bà nói tiếp: 

- Họ lập miếu vì bị oan hồn phá dữ quá! Nghe nói họ gây tội ác gì đó với một cô trinh nữ ở đâu đó trên miệt rừng, rồi khi trở về đây oan hồn theo về. Hồi đó ở đây đã từng nghe chuyện cả hai đứa con do vợ ông chủ họ Đoàn vừa sinh ra đã bị chết một cách đầy bí ẩn, khiến cho bà vợ sợ quá phải đem đứa con thứ ba vừa sinh ở thành phố gửi đi biệt luôn, chẳng biết là đi đâu, cho đến khi họ rời khỏi làng này. Thiên hạ nói sau đó nhà họ Đoàn chẳng những trốn đi xứ khác mà còn thay họ đổi tên nữa! Có lẽ nhờ vậy mà từ đó nơi này không còn chuyện đêm đêm hồn ra một cô gái hiện về ở miếu âm hồn để kêu khóc, đòi mạng nữa. Vậy mà nay lại xảy ra chuyện con gái Hai Phấn bị hại, xác lại ở ngay miếu đó. Chẳng lẽ... 

Bà già chợt nhìn sững vào Thiện: 

- Cậu có liên quan gì tới họ Đoàn không? 

Thiện hốt hoảng: 

- Dạ không! Cháu họ Dương. 

- Kỳ lạ... 

Bà già ông câu nói rồi im lặng. Hình như bà đang suy nghĩ điều gì đó... 

Hồi lâu, bà chợt hỏi: 

- Sao cậu biết gia đình bà Hai Phấn mà cưới con gái bà ấy? 

- Dạ, do má cháu quen biết. Trước đây nghe nói má cháu có ở xứ này. 

- Má cậu tên gì? 

- Dạ... người ta hay gọi là bà Năm. 

- Phải Năm Hường không? 

Nghe bà hỏi Thiện giật mình, bởi cái tên Hường là tên tục của mẹ mà lâu lắm rồi ít nghe ai gọi. Anh lúng túng: 

- Bà... bà biết má cháu? 

Bà già sừng sốt nhìn Thiện: 

- Chẳng lẽ cậu là...là... 

Bà không nói hết câu đã đứng vụt dậy. Đột ngột hỏi: 

- Cậu là con trai của Đoàn Trung? 

Thiện lắc đầu: 

- Dạ không. Cha cháu là Dương Hòa. 

Sau câu trả lời của Thiện, bà già mới bớt căng thẳng: 

- Vậy là không phải rồi, nhưng cậu về hỏi bà mẹ cậu xem bà có biết ông Đoàn Trung không? Và bà có phải là Năm Hường ngày xưa là con của nghiệp chủ Lợi ở Cần Thơ không? 

Tuy bớt căng thẳng, nhưng bà cụ vẫn không thôi nhìn Thiện với đôi mắt tò tò: 

- Sao mẹ cậu lại là Năm Hường? 

Thiện lắc đầu: 

- Cháu cũng không biết. 

Bà già lẩm bẩm một mình: 

- Chuyện này không lẽ... 

Rồi có lẽ do đã ngồi nhiều, nói nhiều nãy giờ, nên bà già nhẹ lắc đầu bảo Thiện: 

- Thôi, cậu biết bao nhiêu đó đủ rồi. Nếu không phải là người của họ Đoàn thì tôi khuyên cậu không nên tò mò ở cái miếu đó làm gì. Đã có biết bao nhiêu rắc rối xung quanh nó rồi, mà làng này cũng không còn muốn xảy ra thêm những cái chết oan uổng nữa! Thôi, cậu về đi. Nói tôi gửi lời chia buồn với bà Hai Phấn. 

Bà ta nói xong thì lặng lẽ đi vào nhà trong để lại Thiện với những thắc mắc trong lòng...

° ° °

Chôn cất vợ xong thì Thiện trở về nhà ngay. Và việc đầu tiên là anh hỏi ngay mẹ mình: 

- Có phải trước đây má ở Cần Thơ không? Ông ngoại con là nghiệp chủ Lợi? 

Tuy có ngạc nhiên, nhưng mà Năm vẫn nhẹ nhàng đáp: 

- Phải. Con hỏi chi vậy? 

- Tại vì lâu nay con ít có dịp hỏi chuyện dòng họ mình. 

- Cũng bởi ngay từ nhỏ con đã xa nhà, sống tận bên Pháp, nên đâu có dịp nào... 

Thiện chợt hỏi: 

- Sao con phải xa nhà từ lúc con nhỏ xíu vậy má? 

Câu hỏi đó khiến bà Năm phải nhìn sững và con trai, rồi lát sau bà mới đáp: 

- Anh em con thuộc dạng khó nuôi, cho nên bà má phải gửi con cho chú Sáu ở bên Pháp nuôi. 

- Má nói con khó nuôi là sao? Bộ hồi mới sinh ra con bệnh hoạn dữ lắm sao? 

Bà Năm lắc đầu: 

- Không. Trái lại lúc sinh ra con nặng trên ba ký và bụ bẫm lắm, má tính giữ lại, nhưng ba con quyết không cho. Cũng bởi hai anh chị con trước đó đã... 

Bà ngừng nói, nhưng Thiện đã đột ngột hỏi: 

- Anh chị con có phải đã chết hết ngay từ khi mới sinh ra không? 

Bà Năm nhìn con ngạc nhiên: 

- Sao con biết? 

- Vậy là đúng phải không? Nhưng sao từ lâu nay con không nghe má nói? Nếu con không nhờ người ta cho biết thì... 

Rồi bất chợt Thiện hỏi: 

- Mình thật ra là họ gì má? 

Bà Năm hốt hoảng thấy rõ: 

- Con... con hỏi để làm gì? 

- Nhưng má chưa trả lời con. Con có phải thật sự họ Dương không, hay là... họ Đoàn? 

Câu hỏi này đã làm cho bà Năm run lên, biến sắc liền: 

- Con... con đừng hỏi! 

Thiện mới là người hoảng loạn trong lúc này. Anh run giọng nói: 

- Như vậy thật sự là họ Đoàn rồi. 

Rồi như thân cây đỗ xuống, Thiện ngã ngồi xuống sàn nhà trước sự hoảng hốt của bà Năm: 

- Kìa, con làm sao vậy Thiện? 

Thiện nói như người tâm thần: 

- Vậy ra con là người nhà họ Đoàn. Cha con là Đoàn Trung chứ đâu phải là Dương Hòa, phải không má? 

Bà Năm cũng như chiếc bong bóng xì hơi: 

- Con biết hết rồi còn gì phải hỏi má nữa... 

Một sự im lặng đến khó thở... mãi một lúc sau Thiện mới thở dài: 

- Con nhận hậu quả là phải rồi, cớ sao lại bắt vợ con phải chết, hở trời! 

Bà Năm ấp úng: 

- Chuyện ngày xưa đó... đã qua rồi.. ba con cũng đã chết rồi. Hơn hai mươi năm rồi còn gì... 

- Nhưng rõ ràng là chưa hết. Má có biết Diệu Hương chết là do ai không? Do oan hồn người con gái tên là Yến Vỹ! 

Vừa nghe tới cái tên ấy, bà Năm đã kêu thét lên: 

- Sao con biết tên đó? Sao con... 

- Chẳng những biết mà còn gặp nữa. Và còn... 

Anh lặng người đi, rồi lát sau òa lên khóc! Bà Năm sợ hãi: 

- Chuyện gì đến nỗi vậy con? Má nghĩ đây là chuyện do ba con làm ngày xưa. Mà tội ai làm nấy chịu chứ? Vả lại lâu nay má đâu có thấy vong hồn của cô ấy về nữa đâu? 

- Má có biết hai câu thơ này không: Một thuở yêu người ngàn năm không hết nhớ - Nửa tuần trăng mật suốt kiếp khó phôi pha... 

Bà Năm suy sụp hoàn toàn: 

- Vậy là con hiểu hết rồi... 

Bà gục xuống ôm mặt khóc ròng. Thiện dịu giọng: 

- Con muốn biết nhiều hơn về chuyện nhà mình, má đừng giấu con nữa. 

Bà Năm khóc một lúc rồi chợt ngẩng lên hỏi: 

- Ai nói cho con hết chuyện này? 

- Chính con đã gặp cô ấy! 

- Ở đâu? 

- Ở thác Dambri. 

- Trời ơi! 

Bà Năm kêu lên như vậy rồi lại khóc. Hồi lâu sau, bà mới nói qua làn nước mắt: 

- Tội ác của ba con xảy ra ở trên ấy, đúng rồi! 

- Má kể hết cho con nghe đi. 

Bà Năm vụt đứng lên, rồi thay vì bước vào phòng riêng, bà lại đi ra bên hông nhà. Thiện đi theo, hỏi mẹ: 

- Má đi đâu vậy? 

Cầm lấy cây thuổng đào đất dựng bên hông nhà, bà Năm đi thẳng tới gốc cây mít lớn nhất trong vườn rồi bảo con: 

- Má đào không nổi, con giúp má đào nó lên. 

Thiện ngạc nhiên: 

- Cái gì ở dưới? 

- Tất cả sự thật mà con muốn biết! 

Thiện đào từng nhát thuổng mà lòng rối bời. Lát sau, anh phát hiện một chiếc rương sắt nhỏ nằm dưới lớp đất sâu, hơi ngạc nhiên thì bà Năm đã nói: 

- Con lấy nó lên, không có tiền bạc gì hết trong ấy, chỉ có một quyển sổ mà má đã đốt, nhưng đốt năm lần bảy lượt nó vẫn không cháy, nên đành phải chôn, hy vọng thời gian sẽ làm nó tiêu hủy... 

Mở rương sắt ra thì quả nhiên chỉ có đúng một quyển sổ bìa cứng đã khá cũ nằm trong đó. Thiện chưa dám cầm lên thì bà Năm đã nhắc: 

- Con cứ mang đề phòng riêng mà đọc. Đọc rồi tùy con muốn hủy bỏ hay chôn lại cũng được. Má sợ nó lắm rồi! 

Bà quay lưng bỏ đi. Thiện cầm quyển sổ một lúc lâu rồi mới bước về phòng. Mặc dù đã khá mệt sau những gì từ sáng đến giờ, nhưng Thiện vẫn cố mở quyển sổ ra và đọc ngấu nghiến: 

Ngày... tháng... năm... 

Đúng ra hôm nay mình không lên Blao. Nhưng có lẽ duyên số trời định nên mình đột ngột từ Gia Nghĩa đã quay xe về đó qua con đường đi tắt và... đã gặp được nàng! Người con gái hai dòng máu Kinh - Thượng mà sao đẹp đến lạ thường! Khi mình hỏi nàng tên gì, nàng chỉ đáp gọn hỏi chữ: Yến Vỹ! 

Mình tự giải thích: 

- Yến Vỹ là cái đuôi con chim én! Mà con chim én (hay yến) có duyên và đẹp nhất là ở cái đuôi ngúng nguẩy! 

Nàng cười tít mắt rồi đột ngột hỏi lại mình: 

- Anh có muốn nuôi con chim én này trong lồng không? 

Trong lúc ngẫu hứng mình đã đáp nhanh: 

- Muốn quá đi chứ! 

Thế là chỉ trong vòng một buổi ngắn ngủi gặp nhau, mình và Yến Vỹ đã yêu nhau. Mà cũng đâu có gì là sai trái, bởi mình là trai chưa vợ và nàng là gái chưa chồng, cả hai đều có quyền đến với nhau, yêu nhau! 

Hai tháng sau khi mình trở lên Blao lần nữa thì mình đã đi tới một quyết định khá bất ngờ đối với nàng: 

- Anh sẽ cất nhà và ở lại đây lập nghiệp. 

Yến Vỹ ngạc nhiên không tin: 

- Nơi đây đâu có cơ sở làm ăn gì của anh đâu mà anh quyết định ở lại? 

Mình cười đáp: 

- Sao lại không? Cơ sở vững chắc đó là em! Anh sẽ cưới em và vợ chồng mình xây tổ ấm nơi đây, ngay gần cái thác nước này. Anh đã tới thác Cam Ly, thác Prenn, Pongour... nhưng chỉ thấy nơi đây là đẹp hơn cả. Có lẽ tại vì có em! 

Vậy là mình gắn cuộc đời với vùng đất có dòng thác Dambri đẹp mê hồn. 

Thiên tình sử đẹp như trang vẽ đã bắt đầu với lời hứa hẹn của hai đứa bên dòng thác tuôn chảy ì ầm, mình đã hứa với nàng: 

- Suốt đời này anh chị có mình em mà thôi! Dù cho vật đổi sao dời thì vẫn chỉ một cái tên Yến Vỹ trong đời Đoàn Trung này! 

Nàng cũng đã long trọng hứa vào buổi chiều ánh hoàng hôn vắt qua ngọn thác: 

- Trong đời này nếu trời còn, đất còn thì tình của Yến Vỹ dành cho Trung mãi mãi còn! Nếu sai lời thì trời tru đất diệt! 

Mình đã rợn người trước câu thề thốt nặng nề đó, nhưng biết sao khi tình của nàng ấy đối với mình phút chốc đã quá sâu nặng rồi! Và mình cũng đã phải thề lại cho nàng tin: 

- Anh nguyện suốt đời bên em, nếu bội ước thì sẽ phải trả bằng cả tương lai của mình! 

Ngày... tháng... năm... 

Vậy là hai đứa hoàn thành được ước nguyện. Mặc dù cha mẹ mình từ quê nhà nghe tin đã phản đối cuộc tình mà họ cho là trái chiều, không hợp lẽ, bởi theo họ thì người Kinh không thể thành vợ chồng với người con gái Thượng. 

Mà phía gia đình Yến Vỹ cũng phản đối. Họ cho rằng tình yêu mình dành cho Yến Vỹ là không thật, họ nghi ngờ... Chỉ có một người duy nhất là ông ngoại của cô ấy luôn ủng hộ, nhưng ông cũng không có được ảnh hưởng lớn trong nhà. Cho nên cuối cùng tụi mình đã chọn giải pháp tự quyết định tương lai bằng cuộc hôn nhân không có hai bên cha mẹ chứng kiến! Yến Vỹ nhờ có học tiếng Kinh nên cô ấy hiểu biết luật lệ về nếp sống người Kinh, nhờ vậy khi hai đứa sống với nhau trong ngôi nhà mình mới xây, gần khu vực toàn người kinh sinh sống, chẳng một ai biết nàng là người dân tộc. Cái tên Yến Vỹ là một cái tên Việt hoàn toàn do nàng tự đặt khi đi học trường Kinh, chớ tên dân tộc Châu Ro của nàng Th'� Ria. Nàng bảo rằng từ nay nàng chỉ muốn được gọi là Yến Vỹ! 

Ngày... tháng... năm... 

Không ngờ tai nạn ập đến với hai đứa quá sớm! Lại tới từ phía gia đình mình: Khi hay tin mình xây nhà ở riêng với Yến Vỹ, cha mẹ mình đã lên tận nơi tìm và cương quyết phản đối, bắt mình phải bỏ ngay cô ấy! Mình không nghe thì cha mình đã mạnh tay, cắt đứt hết mọi nguồn tiền bạc mà từ lâu cho mình kinh doanh gỗ và lâm sản. Điều này cũng chẳng sao, nếu không thêm việc ba mình cho tổ chức bắt cóc Yến Vỹ đem giấu biệt đến hơn một tháng, khiến mình phát điên lên, tìm kiếm khắp nơi! 

Sau cùng mình giải thoát được cho Yến Vỹ, nhưng khi trở về thì cô ấy bỗng phát bệnh và gần như câm và điên loạn! Mình tìm đủ mọi cách để cứu chữa, nhưng cũng vô hiệu, bởi sau đó mình biết được là ba mình đã nhờ một ông thầy mo, cho Yến Vỹ uống một loại thuốc gì đó mà ông ta nói là khi uống vào, người uống sẽ bị mất hết trí nhớ về những gì xảy ra trước đó. Có nghĩa buộc nàng phải quên mình đi! 

Ngày... tháng... năm... 

Thấy mình vẫn không chịu rời xa nàng, ba mình lại ra tay mạnh hơn. Ông tung tin, vu cho nàng là cô gái ma lai! Với sự giúp sức của một ông thầy mo vô lương tâm, Yến Vỹ bị người trong làng, bản xa lánh, xua đuổi. Kể cả những người xóm Kinh gần ngôi nhà của mình xây cho nàng ở cũng ghét bỏ, tẩy chay, khiến Yến Vỹ càng điên nặng hơn, và một ngày kia nàng biến mất không để lại chút tung tích gì! Mình đã tìm khắp nơi, vào tận buôn làng của nàng để tìm nữa mà vẫn không thấy... 

Ba tháng trôi qua... 

Ngày... tháng... năm... 

Mình trở lại Dambri sau mấy tháng đi khắp nơi tìm kiếm thì thật bất ngờ khi nhìn thấy những câu thơ trên vách đá. Mình biết ngay đó là do chính Yên Vỹ viết, điều đó lại càng khiến lòng mình tan nát. Mình ở lại vách đá đó suốt ba ngày đêm, mong được gặp nàng, nhưng vẫn bặt vô âm tín... Cho đến một buổi chiều kia, mình nghe tin sét đánh: có một xác chết trôi phía hạ nguồn dòng thác là phụ nữ! Khi mình tìm đến nơi thì chính đó là xác của Yến Vỹ! 

Mình đem xác nàng về định chôn ngay trong vườn nhà, nhưng xác nàng đến nửa đêm hôm đó thì đột nhiên biến mất! 

Ngày... tháng... năm...

° ° °

Thiện buông quyển sổ nhật ký xuống, anh thảng thốt kêu lên: 

- Trời ơi! 

Rồi anh ngồi thừ người ra. Làm sao anh có thể tưởng tượng ra câu chuyện lại đến nông nỗi này! Cũng may, khi hồn ma Yến Vỹ gặp anh lần đầu nàng ta chỉ muốn trả thù nên hút máu, chứ không làm chuyện gì đó xằng bậy... 

Thiện quay lại hỏi mẹ: 

- Thời gian đó má đã có quen với ba chưa? 

Bà Năm lắc đầu: 

- Cũng may là chưa. Khi ông ấy bị vụ đó làm cho bấn loạn, bỏ nhà đi đến gần cả năm sau mới về nhà trong tình trạng không ra người ngợm gì cả. Ông nội con nhân cơ hội đó đã đi hỏi cưới má cho ông ấy! Ban đầu ông ấy không chịu, nhưng sau cùng có lẽ quá chán ngán với chuyện giang hồ, cho nên ông ấy đã bằng lòng. Má là gái nhà quê, đâu có biết gì ngoài việc vâng lời cha mẹ. Khi về ở với ba con được hai năm thì má sinh đứa con đầu. Má mừng lắm, nhưng chưa kịp vui trọn vẹn thì vào một đêm khuya, lúc má đang cho con bú thì bỗng có một bóng người đầu tóc rối bời, mình mẩy ướt đẫm, đã từ ngoài cửa sổ nhay xổ vào cướp lấy đứa con trên tay má và chạy mất! Má gào khóc lên, nhưng khi mọi người chạy vào thì chẳng ai biết phải tìm ở đâu? Đến sáng hôm đó thì chính ba con tìm gặp xác chị con nằm chết ở miệng giếng cạnh cây đa cổ thụ trước nhà! Hình như xác chị con mới được vớt lên từ dưới giếng. 

Bà phải ngừng lại mấy lần bởi cơn xúc động cắt ngang lời nói. Hồi lâu mới nói tiếp: 

- Hai năm sau đến lượt anh con. Nó vừa được sinh ra, lúc còn đang nằm trên tay bà mụ sinh thì đã bị cướp đi lần nữa, cũng bởi một bóng trắng xõa tóc! Và sau đó xác thằng bé cũng được tìm thấy ở bờ giếng như lần trước. Mà lần này còn táo tợn hơn, kẻ sát nhân còn lớn tiếng báo cho biết nó sẽ tiếp tục giết bất cứ đứa bé nào chào đời trong nhà họ Đoàn! 

Thiện không dừng được, vội chen vào: 

- Người đó là ai? 

Bà Năm nói trong nước mắt: 

- Ba con đã biết ngay là Yến Vỹ! Chính oan hồn cô ấy còn ngồi dưới gốc cây cổ thụ mấy đêm liền sau đó. Bởi vậy khi má mang thai con thì ba con vì không muốn mất con nên đã quyết định chuyển nhà đi nơi khác, rồi sau khi má sinh con ra, ba má liền quyết định gửi con cho chú Sáu ở bên Pháp nuôi giùm. Rồi cũng từ ấy theo lời khuyên của một ông thầy, ba con thay đổi luôn tên họ, đoạn tuyệt luôn với quá khứ, bỏ luôn quê nhà và không bao giờ còn trở lại những nơi mà trước kia ba con đã từng ở. 

Thiện cắt ngang: 

- Nhưng sao khi con trở về nước và có ý định lên Bảo Lộc má lại không cản? 

Bà Năm lắc đầu: 

- Má nào hay con đi lên đó! 

Thiện nhớ lại khi anh có ý định tìm nơi yên tĩnh để soạn luận án tiến sĩ mà sau khi lấy vợ anh sẽ trở qua Pháp để trình thì có người bà con đã âm thầm cho anh địa chỉ ở Dambri. Thiện cũng không nhớ rõ đó là ai, anh hỏi mẹ: 

- Cái chú gì đem xe chở con lên Bảo Lộc hôm trước, má có nhớ không? 

Bà Năm lại lắc đầu: 

- Má tưởng là bạn con ở bên Pháp cùng về. 

Thiện chép miệng: 

- Con nào có bạn cỡ tuổi đó. Chính ông ta xưng là bà con với nhà mình, tình nguyện đưa con ra Bảo Lộc và còn chỉ cho căn nhà mà ông ta nói là nhà của mình đang bỏ trống, có ý cho con ở miễn phí thời gian dài! 

Bà Năm kêu lên: 

- Con đã bị hồn ma nó dẫn đường đưa lối rồi! Ngôi nhà đó từ khi ba con chết má cũng bỏ luôn, không bao giờ nhắc tới, cũng chẳng biết ra sao nữa. 

Thiện lẩm bẩm: 

- Con mang họ Dương, vậy làm sao oan hồn cô Yến Vỹ lại biết con là họ Đoàn? 

Bà Năm chợt hiểu: 

- Do má chủ quan thôi. Má nghĩ chắc đã quá lâu rồi, vả lại mấy chục năm nay không hề thấy oan hồn cô ấy hiện về quấy phá nữa, nên khi nghe bà Hai Phấn ngỏ ý muốn gả con, má đã vội dẫn con sang bên ấy gặp ngay, mà quên rằng chốn cũ đó là nơi vẫn còn cái miếu âm hồn mà má đã nhờ người ta xây để thờ oan hồn cô Yến Vỹ! Có lẽ việc trả thù của vong hồn cô ấy vẫn chưa dứt. 

Kể xong, bà nói khẽ với con: 

- Quyển sổ nhật ký không hay ho này má đã bao nhiêu lần tìm cách đốt, nhưng không lần nào làm được, dẫu bỏ vào lò lửa nó vẫn không cháy, bởi vậy má mới chôn. Bây giờ con thử đốt lại lần nữa coi, nếu được thì coi như mình hủy nó luôn! 

Thiện làm theo. Anh đốt một đống lửa ngoài vườn và tự tay ném quyển nhật kì vào đó. Anh cứ nghĩ nó sẽ không cháy như lời kể của mẹ. Tuy nhiên, thật bất ngờ, quyển sổ bùng cháy một hơi, ngọn lửa cao hơn bình thường và tỏa ra ngọn khói màu đen kỳ dị. Vài phút sau thì không còn lại gì. Chính bà Năm cũng kinh ngạc: 

- Vậy là sao? 

Thiện nói khẽ: 

- Có lẽ mọi việc đã được hóa giải rồi. Diệu Hương đã chết thay cho con và oan hồn cô Yến Vỹ đã hài lòng, thôi không truy cứu nữa...

° ° °

Ngay chiều hôm đó đích thân Thiện trở qua nhà vợ. Anh thắp nhang cúng Diệu Hương và khóc nức nở trước bàn thờ: 

- Chính anh đã hại chết em và em đã cho anh được sống Hương ơi! Em sống khôn thác thiêng, xin hay phù hộ cho anh được ở lại đây cùng em sống cảnh âm dương chia xa nhưng không cách lòng. Anh xin được mãi mãi ở vậy cùng em tại ngôi nhà này... 

Anh xin phép mẹ vợ để về sống trong căn phòng và Diệu Hương trước khi chết đã sống. Bà Hai Phấn dẫu không muốn nhưng cũng chiều lòng Thiện. 

Từ hôm đó, Thiện sắm vai người ở rể chăm chỉ, cần cù và mẫu mực. Trước sự ngạc nhiên của nhiều người, Thiện một mình tới ngôi miếu âm hồn để quét dọn, sơn phết lại khang trang, sạch sẽ. Anh đã khấn rất thật lòng: 

- Cô Yến Vỹ đã biết rõ rồi, tôi không giấu nữa, tôi là dòng máu của Đoàn gia. Tôi đã hiểu được việc làm của ông cha tôi ngày trước, đó là một tội lỗi khó tha và việc cô tầm thù, trả thù là chính đáng, tôi không trách gì cô cả, chỉ tội cho người con gái vô tội đã vì tôi mà phải mất mạng. Kính mong cô từ bi hỉ xả, tha cho chúng tôi. Từ nay tôi nguyện làm người hầu hạ vong hồn cô, làm ông từ giữ miếu cho cô. Nếu cô chấp nhận thì để tôi sống và làm nhiệm vụ đã hứa. Còn bằng không thì xin cho tôi chết ngay tại nơi này, ngay lúc này! 

Anh quỳ xuống và chờ đợi... 

Nhưng suốt một buổi, trước sự ngạc nhiên của người qua kẻ lại, Thiện vẫn yên ổn. Khi anh xá xong ba xá đứng dậy thì ngôi miếu bỗng nhiên bốc cháy dữ dội! Thiện kinh hoảng định lao vào chữa, nhưng anh không làm kịp, bởi lửa mới chỉ bùng lên là đã thiêu rụi hoàn toàn ngôi miếu có tuổi thọ gần ba mươi năm! 

Thiện lẩm bẩm: 

- Đúng là dứt thật sự rồi. Xin cám ơn và cầu chúc cho hương hồn cô Yến Vỹ sớm siêu thoát... 

Từ hôm ấy, Thiện sống yên lành bên nhà vợ và cũng không giấu giếm mình là người mang họ Đoàn.

OAN HỒN NGƯỜI VỢ TRẺ 2

Rời tiệm uốn tóc mà Ngọc Hà phải giữ chặt chiếc nón trên đầu, tuy không có gió nhưng cô vẫn không dám buông tay ra, chỉ bởi... mái tóc trên đầu bây giờ nếu ai nhìn thấy thì chắc là Hà sẽ... tự tử! 

Một tai nạn từ trên trời rơi xuống ngày hôm qua đã khiến cho Ngọc Hà bị nguyên một thùng sơn rơi từ mấy người thợ sửa nhà xuống đã giội trọn lên đầu, và Hà chỉ còn biết đau khổ lãnh trọn phần sơn đó lên mái tóc dài và mượt mà xưa nay là niềm tự hào của cô! 

Sau khi cật lực dùng dầu hôi và nhiều cách, Ngọc Hà không dám nhìn mặt mình trong gương, bởi mái tóc bây giờ chỉ còn lại là mớ bòng bong xù xì, xơ xác. Đến nỗi sáng nay Hà phải trùm nón và tìm tới tiệm uốn tóc gần nhà để nhờ cứu! Tuy nhiên, sau gần hai giờ cố gắng, người thợ chính của tiệm cũng chỉ làm được một phần. Tóc gốc được cứu, nhưng phải cắt ngắn từng mảng, nham nhở chẳng khác miếng ruộng bị cày xới vô tội vạ! 

- Ủa, con Hà đây mà! Con đi đâu đến giờ này trời tối rồi mà vẫn còn đội nón sùm sụp vậy con? 

Nhìn lại thấy bà dì Hai em họ của mẹ, Ngọc Hà thở phào, bởi cô chỉ ngại gặp phải người lạ. 

- Dạ... con đi uốn tóc... 

Bà dì Hai xuýt xoa: 

- Tóc con đẹp nhất làng này mà sao còn đi uốn chi cho uổng vậy. 

Thấy Hà ấp úng, dì Hai chợt nhớ ra: 

- À, có phải vụ đổ sơn hồi sáng không? Dì quên... 

Rồi bà hỏi nhanh: 

- Con có muốn đội tóc giả không? 

Ngọc Hà nhìn sững dì mình: 

- Tóc giả mua ngoài tiệm hả? 

Bà Hại Dung kéo tay Hà: 

- Con ghé qua dì, tao có tóc đẹp lắm! 

Ngọc Hà miễn cưỡng đi theo bà dì. Khi vào nhà, bà Dung chạy vào buồng lấy ra một cái hộp giấy tuy đã cũ nhưng còn sạch sẽ, đưa cho Hà: 

- Hồi dì còn trẻ, có lần ham muốn tóc dài nên đã ước có được một đầu tóc mượn, và dì được như ý khi người yêu của dì là một thầy giáo dạy tiếng Pháp đã đem tặng cho dì cái đầu tóc này. Đây là đầu tóc giả của tiệm làm tóc lớn của người Tây, nên không sợ tóc xấu, tóc bệnh của người mình... Nhưng rồi sau đó dì lấy chồng, không cần đến nó, nên từ ấy đến nay dì rất trong tủ luôn, chưa dùng lần nào! 

Ngọc Hà vốn không thích dùng tóc giả, nhất là tóc của người khác, nhưng bây giờ, trong tình cảnh này, cô đành phải lấy hộp tóc ra xem thử. Vừa nhìn thấy mái tóc dài chẳng thua gì tóc cũ của mình, cô reo lên: 

- Đẹp quá! 

Dì Dung thật tình: 

- Dì cho con, cứ đội lên trong khi cho tóc ra trở lại! 

Dì còn trấn an: 

- Đây là tóc mua mắc tiền, lại của tiệm lớn nên con yên tâm, không phải tóc của người chết đâu! 

Bà còn moi phía dưới chiếc hộp, lấy ra một tờ giấy đưa cho Hà: 

- Đây là tờ giấy cam kết của tiệm uốn tóc, họ nói rõ tóc này là của một cô gái hai mươi tuổi, sau khi lấy chồng, ở nhà chồng không thích tóc dài nên cô ấy đã nhờ tiệm cắt ngắn giùm và tặng luôn cho tiệm. 

Hà đọc sơ qua tờ giấy rồi có vẻ hài lòng, cô nói: 

- Dì cho con... 

Dì Dung phấn khởi: 

- Có được người dùng thứ mà dì thích là điều dì rất vui. Vậy con có cần mang nó liền bây giờ không, dì biết kết tóc giả, để dì làm giùm cho! 

Hà gật đầu ngay: 

- Dạ, con nhờ dì! 

Dì Dung là người khéo tay nên sau nửa giờ, mớ tóc giả đã được kết nối một cách hài hòa với số tóc nham nhở còn lại trên đầu. Khi nhìn vào gương, chính Hà cũng quá đỗi ngạc nhiên: 

- Giống y như thật dì Hai ơi! 

Nhìn cháu gái mình, dì Dung cũng rất hài lòng: 

- Đúng là của này dành riêng cho con rồi! 

Buổi tối đó về nhà, bà Tú Lệ, mẹ của Hà cũng ngạc nhiên về sự tươi vui của con gái, khác với khi mái tóc bị nạn. Sau khi xem mái tóc giả, bà đã phải kêu lên: 

- Nhìn con như một công chúa! 

Ngọc Hà cảm động ôm vai mẹ, cô nói rất khẽ: 

- Như vậy không phải hoãn đám cưới hả má? 

Bà Lệ phấn khởi: 

- Nó đã giải tỏa được nỗi lo của má từ sáng đến giờ! Cũng may là má chưa báo cho bên kia biết chuyện xin hoãn ngày cưới. Thôi được rồi, sáng mai đích thân mẹ con mình qua bên nhà thằng Tuấn bàn thêm về chuyện đám cưới. 

Nỗi lo sợ Tuấn nhìn thấy cô đầu nham nhở của mình giờ đã tan biến, nên đêm hôm đó Ngọc Hà đã ngủ một giấc thật say đến nửa đêm. Trước khi ngủ, Hà phải gỡ đầu tóc giả ra, mắc cẩn thận trên cao, nên lúc thức giấc Hà phải bước xuống giường nhìn thăm chừng. Sau khi nhìn xong, khi trở lại giường ngủ tiếp, Hà không dám nhìn mặt mình trong gương, bởi cô biết giờ mà nhìn thì chắc chắn cô sẽ phải thất vọng lắm. Nhưng chỉ nằm được trên giường khoảng nửa giờ thì Hà lại bật dậy. Nhìn đồng hồ theo tường thấy mới có hai giờ sáng. Hà không muốn ngủ tiếp, cô mày mò đầu tóc giả rồi bắt chước theo dì Dung, cô tự trùm lên và tỉ mỉ gắn, kết. Tuy có lâu hơn dì mình nhưng cuối cùng Hà cũng hoàn thành được. Điều đó giúp cho cô từ nay sẽ không phải làm phiền dì Dung nữa. 

- Ít ra cũng phải như vậy. 

Ngọc Hà định để nguyên đầu tóc như vậy chờ sáng. Tuy nhiên chỉ được hơn mười phút thì hai mí mắt cô nặng trĩu, cơn buồn ngủ khiến Hà không tài nào cưỡng được, mặc dù lúc ấy đã hơn ba giờ... 

- Hà ơi! Trưa rồi con, dậy để còn đi... 

Nghe tiếng mẹ gọi đến hai lần Hà mới choàng dậy được, cô giật mình khi nhìn thấy đồng hồ chỉ 9 giờ! 

- Sao má không kêu con sớm! 

Bà Lệ ở ngoài nói vọng vào: 

- Kêu rát cổ họng mà cô nương có nghe đâu! Mai mốt về nhà chồng mà ngủ kiểu đó mẹ chồng họ chửi cho! 

Hà bước lại gương trang điểm, cô vừa nhìn vào trong gương đã kêu thét lên: 

- Trời ơi! 

Bà Lệ từ bên ngoài chạy vào, hốt hoảng: 

- Chuyện gì vậy con? 

Rồi chính bà cũng phải thét lên: 

- Trời ơi! 

Trước mặt bà, đứa con gái yêu của mình đang có bộ mặt như quỷ. Da mặt xanh dờn, mái tóc dài dựng đứng như cây chổi sể! 

- Con... con sao vậy Hà? 

Bà Lệ vừa hỏi vừa ước lùi ra: 

- Có phải là con không Hà? 

- Con... con... 

Bà Lệ run đến muốn ngã, trong khi Ngọc Hà thì gần như bị tê liệt, cô lắp bắp không thành lời: 

- Chuyện... chuyện gì vậy... chuyện gì... 

Rồi trước mắt Hà tối sầm lại, cô ngã nhoài tới trước...

° ° °

Nhà lúc ấy không có ai ngoài hai mẹ con, nên khi cả hai tỉnh dậy đã ngơ ngác nhìn nhau, rồi Hà hỏi: 

- Con bị sao vậy má? 

Bà Lệ nhìn con gái mình và mừng rỡ: 

- Ủa, con đâu có gì? 

Gương mặt của Hà giờ đã trở lại bình thường, khi nhìn vào gương chính cô cũng ngạc nhiên: 

- Mặt con đâu có gì hả má? 

Bà Lệ vẫn chưa hết run: 

- Lúc nãy... mà nó lẽ mình hoa mắt... 

Hà cũng nói: 

- Có lẽ con mất ngủ và lo lắng... 

Nhớ lại gương mặt quỷ tối qua, Hà vẫn còn hoài nghi, nên săm soi mặt mình trong gương khá lâu, cho đến khi bà Lệ nhắc:

- Tuy trễ, nhưng mình đã ngắn qua bên đó rồi, phải đi ngay thôi con à! 

Ngọc Hà trang điểm hơn kỹ, bởi cô sợ nét hốc hác lộ ra trước mặt người yêu. Nhất là cô vẫn còn bị ám ảnh về bộ mặt như quỷ của mình! Ra tới đường rồi mà Hà còn khẽ hỏi mẹ mình: 

- Má coi trên mặt con có gì bất thường không? 

Bà Lệ cười tươi: 

- Còn đủ sức hớp hồn thằng Tuấn được mà! 

Vuốt mái tóc giả của con, bà lại khen: 

- Nó còn mượt mà hơn là tóc cũ của con nữa! 

Họ sang nhà Tuấn, trong lúc anh chàng đi ra chợ chưa về thì bà Sương, mẹ Tuấn đã kể liền câu chuyện mà lúc đó vẫn còn chưa lấy lại bình tĩnh: 

- Tối qua nhà này có ma chị ơi! 

Bà Lệ ngạc nhiên: 

- Ma thế nào? 

- Thằng Tuấn gặp ma mới kỳ lạ chứ! Tôi đang ngủ nửa đêm thì nghe nó la hoảng lên. Khi tôi chạy qua gọi nó dậy thì nó chỉ tay ra phía cửa sổ vừa la lớn, tôi hỏi nó thấy gì, nó nói có cô nào đó cứ đòi nó phải đi với cô ta! 

Rồi bà hạ thấp giọng: 

- Nghe thằng Tuấn kể thì cô gái đó có mái tóc dài, nhưng gương mặt khi thì đẹp như tiên nga, lúc lại như quỷ dạ xoa. Từ sáng tới giờ nó vẫn còn chưa hoàn hồn, nên phải đi bác sĩ lấy thuốc uống giờ vẫn chưa về! 

Vừa nghe tới đó bỗng Ngọc Hà hơi run, cô hỏi lại: 

- Anh Tuấn thấy ác mộng đó lúc mấy giờ? 

- Quá nửa đêm, hình như là hơn ba giờ sáng gì đó... 

Bà Lệ chợt kêu lên: 

- Đúng giờ đó! 

Bà Sương ngạc nhiên: 

- Chị nói đúng giờ là sao? 

Ngọc Hà buột miệng nói thay mẹ: 

- Giờ đó con cũng gặp chuyện lạ! 

Bà Sương vừa nhìn sang Hà định hỏi thì lúc ấy Tuấn từ ngoài bước vào. 

Anh chàng khựng lại ngay và nhìn trân trối vào Ngọc Hà, với vẻ bàng hoàng: 

- Chẳng lẽ lại là... em? 

Mọi người chưng hửng, trong lúc Hà kinh ngạc: 

- Anh... nói em? 

Tuấn không rời mắt khỏi Hà, anh lắp bắp: 

- Đúng... đúng là... 

Rồi anh vùng la to: 

- Chính là em... 

Rồi anh bước tới gần hơn, chụp lấy vai Hà lắc mạnh: 

- Em vào phòng anh đêm qua phải không? 

Lúc này bà Lệ không nhịn được, bà la lên: 

- Nè, nó là con gái tôi, không cho phép ai nói xấu nó! Cậu nhìn thấy quỷ ma gì là chuyện của cậu, chứ còn con gái tôi suốt đêm qua ở nhà với tôi, và mới qua đây nãy giờ! 

Bà Sương cũng chen vào: 

- Con đừng trông gà hóa cuốc. Hãy bình tĩnh lại con... 

Tuấn vẫn nhìn Hà như nhìn một người lạ, phải mất một lúc anh mới kéo ghế ngồi xuống và bình tâm lại: 

- Con xin lỗi má, xin lỗi Hà. Chỉ vì đêm qua là một cơn ác mộng mà lần đầu con gặp phải? 

Rồi Tuấn quay sang nhẹ giọng với Hà: 

- Nửa đêm tự dưng anh có cảm giác như có người gọi tên mình, khi anh mở mắt ra thì thấy một dáng người giống hệt như em đang đứng ngay cửa sổ. Anh vừa định cất tiếng gọi thì bỗng người ấy quay lại nhìn, và anh... muốn đứng tim bởi bộ mặt quỷ của cô ta! Anh chưa từng nhìn thấy một gương mặt như vậy nên nhất thời gần như á khẩu không kêu lên được tiếng nào. Cho đến khi anh lấy lại thần hồn, vừa tính mở miệng ra kêu thì chợt người ấy nhìn anh cười và... gương mặt lại trở nên hiền hòa, đẹp như một thiên thần! Có lúc cô ta đẹp y như em, lại có nét của em... 

Tuấn siết chặt tay Hà: 

- Cho anh xin lỗi. 

Ngọc Hà vụt nói: 

- Em cũng thấy gần giống như anh vậy! Cũng một bộ mặt như quỷ... 

Cô kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vừa nghe xong, bà Sương kêu lên: 

- Như vậy là cả hai đứa đều thấy một lượt! 

Bà Lệ cũng nói: 

- Chính mắt tôi cũng nhìn thấy đúng như vậy. 

Tuấn kể lại chuyện mình đi khám thầy thuốc: 

- Ông bác sĩ này giỏi lắm, chuyên trị bệnh tâm thần. Sau khi nghe anh kể, ông ấy bắt mạch, rồi khi nhìn vào mắt anh, ông nói rằng anh đang bị một cái gì đó ám! 

Ngọc Hà ngạc nhiên: 

- Bác sĩ tây y đâu có tin chuyện quỷ ma, sao có chuyện quỷ ám ở đây? 

- Ông bác sĩ này còn kiêm luôn nghiên cứu về tâm linh học, nên ông nói không thể bỏ qua yếu tố duy tâm này. Ông ấy còn dặn anh nếu có người yêu thì nên dẫn tới để ông coi sắc diện, ông có thể kết hợp tây y và tâm linh để tìm ra manh mối chuyện kỳ lạ này. 

Ngọc Hà tuy lo ngại, nhưng cô vẫn muốn được nghe chính ông bác sĩ nói, nên cô nói nhỏ với Tuấn: 

- Lát nữa nếu được thì anh dẫn em tới đó với! 

Tuấn biết nếu đồng ý thì sẽ gặp sự phản đối của hai bà mẹ, nên anh chỉ ngầm nhận lời với Hà. Lát sau khi xong giờ cơm, anh tìm cách rủ Hà ra ngoài: 

- Má cho phép con dẫn Hà đi coi mấy thứ nữ trang một chút. 

Hai bà mẹ ưng thuận ngay và còn dặn: 

- Đi đâu cũng được, miễn là nhớ về trước trời tối để còn về bên nhà cho kịp. 

Vị bác sĩ tiếp Hà với sự có mặt của Tuấn. Khi bắt mạch xong, ông bảo Hà nhìn vào mắt ông và bất chợt ông kêu lên: 

- Nhãn quan cô còn đáng lo ngại hơn cậu Tuấn nữa! 

- Đây là vợ sắp cưới của con, bác sĩ xem kỹ giùm con! 

- Mạch không ổn định, nhưng đáng ngại hơn là ánh mắt thiếu thần, như vừa trải qua một chuyện gì đó dữ lắm! Cô nói thật lòng, cô vừa bị gì? 

Hà không giấu: 

- Dạ, đêm qua con cũng thấy ác mộng như anh Tuấn. Chỉ có điều hình ảnh quỷ quái lại ở chính... gương mặt con. 

Vị bác sĩ trầm ngâm một lúc rồi giở một quyển sách bằng tiếng Pháp, lật ra một đoạn được ông đánh dấu bằng bút đỏ, ông nói: 

- Trường hợp của cô cậu gần giống với trong này, ở châu Âu đã từng xảy ra những hiện tượng như vậy, người ta gọi đó là bị ma ám, mà dân ta gọi nôm na là ma nhập! 

Tuấn hỏi: 

- Nhưng sao ma lại nhập cùng lúc cả hai chúng tôi? 

- Không có gì lạ cả. Khi một cái vong hiện về thì nó tìm đúng cái mà ta gọi là vía hạp với nó nhất để cho vía đó thấy. Vong hồn không phải là vật thể hiện hữu, nên việc cùng lúc cho cả hai người ở hai nơi xa cách nhau nhìn thấy là điều có thể xảy ra. Giữa vong hồn và vía người sống giao lưu với nhau qua thế giới tâm linh chứ không phải hiện thực! 

Ông trấn an: 

- Tuy nhiên cô cậu cũng chớ quá lo lắng. Sẽ không có việc gì nữa, miễn là đừng nghĩ về nó nữa. 

Thật ra trong đầu của hai người có nghĩ gì về ai đó đang làm cho họ bị ám ảnh đâu? Thậm chí Ngọc Hà còn chưa hiểu tại sao mình bị như vậy? Cô dò hỏi Tuấn: 

- Anh có gặp hay bị ám ảnh gì về cô gái nào đó không? 

Tuấn lắc đầu rất dứt khoát: 

- Không hề có! 

Họ trở về nhà thì trời hơi tối, bà Sương bàn: 

- Tối rối, mà đường từ đây về bên nhà cũng khó đi, hay là chị sui với Ngọc Hà cứ ở lại ngủ rồi sáng mai thằng Tuấn nó đưa về sớm. 

Bà Lệ muốn đồng ý, nhưng Hà lại tỏ ra bồn chồn: 

- Có lẽ con xin phép về. Đây về bên đó cũng không xa, chỉ đi chừng nửa tiếng là tới, mà trời cũng chưa tối lắm. Con xin phép. 

Thấy vậy, bà Lệ cũng nói: 

- Thôi, để mẹ con tôi về. Sáng mai con Hà còn phải đi đo áo cưới nữa. Chỉ còn một tuần nữa thôi chứ mấy! 

Bà Sương bảo Tuấn: 

- Vậy con lấy ghe chạy theo, đưa chị sui và Hà về. Con kêu đứa nào đó cùng đi, để lượt về nó chèo cho con. 

Tuấn cười: 

- Con đi một mình được chứ bộ. Đưa vợ về mà cũng cần vệ sĩ nữa sao má! 

Lúc qua, mẹ con bà Lệ đi bằng xe lôi, bây giờ đi bằng ghe an toàn hơn, nên bà nói với Tuấn: 

- Con chèo chậm thôi, lâu lắm má không đi ghe nên muốn nhìn sông nước một chút. 

Tuấn chỉ cái máy đuôi tôm: 

- Ghe chạy bằng máy, nhưng con sẽ chạy chậm để má đủ thời gian ngắm cảnh. 

Ngọc Hà chen vào: 

- Chỉ má ngắm thôi, còn vợ bỏ đâu? 

- Ừ, thì vợ cũng ngắm. Vợ lo ngắm cảnh mà quên cả chồng phải lái ghe! 

Thấy hai đứa đùa vui với nhau mà Lệ hài lòng, bà nhìn chúng với ánh mắt yêu thương. Nhờ vậy suốt quãng đường năm cây số qua mau. Đến nơi, bà bảo Tuấn: 

- Con lên nhà uống nước, nghỉ một lát rồi hãy về. 

Tuấn vội nói: 

- Con phải về kẻo má con trông. 

Anh đưa bà mẹ vợ lên tận nhà, sau đó mới quay xuống ghe đi về. Lúc sửa soạn lui ghe, anh ngạc nhiên khi không thấy Ngọc Hà ra tiễn. Nghĩ có lẽ cô nàng bận việc gì đó nên sau mấy giây tần ngần, Tuấn lui ghe ra giữa dòng, nổ máy chạy nhanh vì trời đã bắt đầu tối. 

Gió hơi mạnh nên Tuấn cho ghe chạy cặp sát bờ, mặt trời vừa khuất sau ngọn tre nên Tuấn phải căng mắt ra mà chạy, không để ý đến một vật đang cử động nhè nhẹ ở phía giữa ghe. Cho đến khi một chuỗi cười khúc khích vang lên khiến cho Tuấn giật mình: 

- Ủa, ai vậy? 

- Mỹ nhân đây! Cho thiếp quá giang một đoạn, thiếp bị lạnh! 

Tuấn định tắt máy cho ghe ngừng lại thì đã bị giọng cô gái ra lệnh: 

- Đang chạy nước ngược mà tắt máy cho ghe trôi sao! Cứ chạy đi! 

Lúc này giọng nói nghe đã rõ ràng hơn, Tuấn kêu lên: 

- Hà! Sao em lại ở đây? Hồi nãy anh thấy em lên rồi, và sau đó anh tìm để từ giã về mà không thấy... 

Nàng lại cười khúc khích: 

- Người ta trốn dưới ghe mà không biết, chắc là tưởng người đẹp nào khác phải không? 

- Trời tối rồi để cho anh về, làm thế này anh phải đưa em trở lại chắc tới khuya mới về tới nhà quá! 

Nàng nũng nịu: 

- Muốn đuổi người ta lên phải hôn? Được người ta nhảy xuống lội vào bờ cho coi! 

Tuấn hốt hoảng: 

- Đừng! Để anh quay ghe lại. 

Ngọc Hà lúc này mới nói nghiêm túc: 

- Không cần đâu, em đã xin phép má rồi, em có việc cần ở ngoài chợ tối nay nên em phải ra đó, rồi sáng mai đi đo áo cưới luôn! 

- Ủa, lúc nãy anh đâu có nghe má cho phép như vậy? 

Hà nheo mắt: 

- Em chỉ cần rỉ tai là má chịu liền! Nhất là khi có anh đi cùng... 

- Nhưng... anh còn phải về nhà mà. Đâu có theo em ra chợ được. Mà anh cũng đâu có nghe em nói có nhà quen ngoài chợ bao giờ đâu? 

Giọng của Tuấn đầy vẻ hoài nghi, đáng lý Hà phải giải thích, đằng này cô lại cố nói: 

- Đâu phải người quen nào cũng phải nói ra hết. Anh không tin em có nhà quen ngoài chợ phải không? Nếu vậy... anh có dám cùng với em tới đó ở qua đêm không? 

Tuấn đâu ngờ cô vợ sắp cưới của mình ăn nói bạo miệng như vậy, nên trố mắt ngạc nhiên: 

- Em nói gì vậy Hà? 

- Thì em nói điều em đang nghĩ trong đầu. Anh không chịu thì thôi, em sẽ đi một mình! 

Hà giận dỗi bò ra mũi ghe ngồi một mình. Tuấn không thể bỏ tay lái ghe nên đành phải xuống nước: 

- Thôi, anh chịu. Để lát bữa anh ghé nhà báo cho má biết, rồi cùng đi với em. 

Hà vẫn còn giận: 

- Không cần đâu! Nếu về nhà báo thì đời nào bà già cho anh đi, và như thế em sẽ biến thành đứa con gái hư hỏng bỏ nhà đi qua đêm với trai! 

- Nhưng... anh là chồng sắp cưới của em chứ phải trai nào đâu! 

Tuy có ngạc nhiên về thái độ, cách ăn nói bạo miệng hơn thường khi, nhưng sợ nàng giận, nên cuối cùng Tuấn cũng chấp nhận cùng đi với Ngọc Hà. 

Họ gửi ghe ở một nơi tại bến chợ, rồi dắt nhau tới một phòng trọ...

° ° °

Sáng ra khi tỉnh giấc, Tuấn ngơ ngác tìm quanh thì không thấy Ngọc Hà. Anh gọi liền mấy tiếng không nghe trả lời nên vội chạy ra ngoài tìm. Lúc đó người chủ nhà trọ ngạc nhiên hỏi Tuấn: 

- Tối qua cậu làm gì uống say dữ vậy? 

Tuấn ngơ ngác: 

- Tôi say hồi nào? Sáng nay ông có thấy cô gái đi chung với tôi không? 

Đến lượt ông chủ ngạc nhiên: 

- Cô nào? 

- Thì cô đi với tôi tối qua? 

- Làm gì có ai. Chính tôi đã tìm thấy cậu say bí tỉ nằm ở trước cửa nhà trọ này. Tôi đã phải vất vả lắm mới kéo cậu vào phòng được, rồi cậu nghỉ mê man tới giờ này... 

Nghĩ tới sự an nguy của Hà, Tuấn hốt hoảng: 

- Chẳng biết nàng ra sao rồi? Rõ ràng lúc tới đây tôi với nàng cùng đi, nàng mặc bộ quần áo màu xanh, giống như màu tấm màn cửa kia kìa! 

Anh đưa tay chỉ thì ông chủ trọ lắc đầu: 

- Tôi đã nói là cậu tới đây chỉ một mình, nằm say khướt ở ngoài kia kìa. 

Tuấn chạy trở vào phòng, anh chợt nhìn thấy nguyên một đầu tóc giả còn nằm trên giường thì cầm lên xem và la lớn: 

- Tóc của Hà đây mà! 

Anh cầm chạy trở ra và hỏi với giọng đầy kích động: 

- Ai đã làm gì vợ tôi? 

Lão chủ nhà ngơ ngác: 

- Làm gì là sao? Tóc này của ai vậy? 

Tuấn hét lớn: 

- Mấy người làm gì vợ tôi mà cắt nguyên đầu tóc của cô ấy bỏ lại đây? Mấy người giết cô ấy rồi phải không? 

Thấy Tuấn lồng lộn, ông chủ điềm tĩnh nói: 

- Cậu không nên nóng nảy nói bừa như vậy! Tôi nghĩ là cậu nên về nhà tìm lại xem, có thể bây giờ vợ cậu cũng đang tìm cậu đó! 

Tuấn quên cả cám ơn ông ta, vội chạy bay về nhà. Bà Sương nhìn thấy con về thì mừng lắm: 

- Trời ơi, con đi đâu mà suốt đêm rồi má kiếm khắp nơi? Cứ tưởng con chạy ghe bị tai nạn, nên má cho người qua bên nhà con Ngọc Hà tìm, thì bên nó cũng ngạc nhiên nói con đã về đây ngay từ chiều tối! 

Tuấn hỏi liền: 

- Ngọc Hà đang ở đâu? 

Bà Sương chỉ tay ra ngoài nói: 

- Kìa, má con nó qua tới kìa! 

Tuấn nhìn ra thì thấy Ngọc Hà đang tất tả đi bên mẹ bước vào nhà. Anh hỏi lớn: 

- Từ đêm đến giờ em đi đâu? 

Hà ngơ ngác: 

- Em ở nhà với má chứ đi đâu? 

Tuấn gay gắt: 

- Sao em bỏ anh mà không nói lời nào hết, làm sáng ra anh lo hết sức! 

Bà Lệ phải chen vào, lên tiếng: 

- Con nói cái gì vậy Ngọc Hà nó ở nhà, ngủ với má từ lúc con chèo ghe về tới sáng. Khi nãy nghe tin con mất tích nó còn giục má qua đây gấp, mà bây giờ con ăn nói gì vậy? 

Tuấn vẫn quả quyết: 

- Tối qua Hà xuống ghe với con, bảo phải ra chợ ngủ để sáng đi đo áo cưới, con sợ Hà ở một mình nên mới đi theo... 

Hà kêu lên: 

- Anh Tuấn điên rồi má ơi! Má coi anh ấy ăn nói như người cõi trên vậy. 

Bà Sương cũng nói: 

- Hồi sáng mấy đứa nó qua nhà báo tin thì còn thấy Ngọc Hà ở bên nhà, con nói gì vậy? 

Tuấn sững sờ hết nhìn Hà rồi nhìn lại mình. Bà Sương bắt đầu hoảng: 

- Từ hôm qua tới nay con toàn làm cho má sợ, sao vậy Tuấn? Trong đầu con có chuyện gì không? 

Tuấn ngồi bệt xuống sàn nhà, thẫn thờ như người mất hồn. Trong lúc giọng bà Lệ vẫn đều đều: 

- Đêm qua tôi sợ nên không cho con Hà ngủ một mình, mà cũng may, nhờ vậy mà chuyện thằng Tuấn nói tôi không nghi ngờ con gái tôi được. Tôi nghĩ, cần phải đưa nó đi khám bệnh lại, không chừng có gì đó không bình thường! 

Ngọc Hà bước tới bên Tuấn, nhẹ giọng nói: 

- Chắc là có chuyện gì đó, anh hãy bình tĩnh nhớ lại xem. 

Tuấn hỏi lại: 

- Có đúng là không phải em không? 

Hà phải khéo léo lắm mới khơi cho Tuấn kể lại đầu đuôi. Khi anh bảo là còn có cái đầu tóc giả ở chỗ nhà trọ thì Hà giật mình: 

- Đầu tóc đó ra sao? 

Cô đưa tay lên sờ tóc mình rồi ái ngại bước lùi một chút, sợ Tuấn sờ lên đầu. Tuấn vụt nói: 

- Để anh đi lấy cái đầu tóc của em về! 

Bà Sương về nói: 

- Tóc nó còn đây mà con nói gì vậy? 

Tuấn khựng lại, nhưng anh vẫn lẩm bẩm: 

- Rõ ràng mình thấy... 

Hà bỗng nói: 

- Cho em đi tìm chỗ đó với! 

Cả hai bà mẹ đều không cho, nên cuối cùng chỉ một mình Tuấn gọi xe lôi đi. Lát sau trở về, trên mặt của Tuấn còn nguyên nét thất vọng: 

- Không có... 

Hà hỏi: 

- Anh nói không có là sao? 

Tuấn bực dọc kể: 

- Rõ ràng lúc nãy anh cầm cái đầu tóc giả ấy trên tay, xem rất kỹ, vậy mà khi trở lại thì chẳng thấy đâu! Lão chủ nhà trọ cũng phủ nhận, nói là không thấy gì. 

Cứ nghe Tuấn nhắc tới tóc giả là Ngọc Hà cảm thấy như mình bị soi mói, cô quay mặt đi, cố tránh ánh mắt nhìn của mọi người. Nhưng thật ra lúc ấy họ nào để ý đến cô... 

Bà Sương bảo con: 

- Con đừng làm má sợ nữa, hãy đi nghỉ đi! 

Khi ra về, chính Hà đã bất ngờ nói với mẹ: 

- Anh Tuấn gặp chuyện gì đó thật, chứ không phải anh ấy bịa chuyện đâu. 

Bà Lệ thắc mắc: 

- Nhưng là chuyện gì? Má thấy thằng này càng lúc càng giống như người cõi trên chứ không phải bình thường. Có khi nào nó bị... ma nhập không? Hay là... nó đi chơi với gái rồi sợ nên bịa chuyện? 

Hà lắc đầu: 

- Con không tin như vậy. Con nghĩ... 

Thấy con gái cứ ngập ngừng hoài, bà Lệ buột miệng: 

- Hay tụi bay có điều gì giấu tao? 

- Làm gì có, má... 

Hà cứ thẫn thờ mãi về chuyện của Tuấn. Những lời nói của vị bác sĩ hôm qua khiến cho Hà càng suy nghĩ nhiều hơn. Cô liên tưởng mọi chuyện xảy ra từ mấy hôm nay, cuối cùng cô nói với mẹ: 

- Con muốn hoãn đám cưới! 

Bà Lệ sửng sốt nhìn con: 

- Con điên rồi hay sao vậy? 

Hà nói thật: 

- Chính con cũng có cảm giác kỳ lắm... nhất là mỗi khi con nhớ tới chuyện cái mặt quỷ của con đêm hôm trước. Hình như... 

Cô sờ lên tóc của mình, lúc đó bà Lệ mới chợt nhớ tới chuyện cái đầu tóc giả mà Tuấn nói: 

- Cái đầu tóc mà nó nói là sao má không hiểu? Chẳng lẽ cũng có người xài tóc giả y như con hay sao? Hay là... nó nghi ngờ gì về con? 

Hà lắc đầu: 

- Không phải vậy đâu. Con nghĩ là Tuấn gặp ai đó thật. Thí dụ như gặp một cô gái giống y như con chẳng hạn... 

Bà Lệ la lên: 

- Nó gặp ma sao chứ? 

Hà hạ thấp giọng: 

- Cũng không chừng... 

Bà Lệ rùng mình: 

- Con đừng nói làm má sợ! Mà sao con biết? 

- Má không nghe anh ấy kể rành rọt đó sao? Không phải ma thì làm sao có một người giống con như đúc xuất hiện trên ghe khi con còn ở nhà với má? 

Bà Lệ gật đầu: 

- Ờ há, hồi nãy nó kể chuyện mà vì mải mê lo hỏi nó chuyện khác nên mình quên không nghĩ đó là ma. Đúng rồi, chỉ có ma mới như vậy! 

Hà trầm ngâm một lúc, bất chợt cô bảo mẹ: 

- Con phải đi gặp dì Dung thôi! 

Bà Lệ ngạc nhiên: 

- Dì Dung con thì dính gì tới chuyện này? 

Hà chỉ lên tóc mình rồi nói: 

- Chính dì ấy cho con mái tóc giả này! 

- Nhưng... đó chỉ là tóc, nó có gì liên quan đâu? 

- Có! Con nghĩ ra rồi, kể từ khi con mang tóc này tới nay đã xảy ra bao nhiêu chuyện rồi. 

Hà quay sang người đạp xe lôi: 

- Anh cho xe chạy về ấp 4, chỗ nhà máy xay lúa Hiệp Thành. 

Bà Lệ hoang mang lắm, nhưng vẫn đi theo con gái...

° ° °

Dì Dung lắng nghe kỹ những lời kể của Hà. Nghe xong, bà mất hẳn sự tự tin như thường lệ, và chợt kêu lên: 

- Vậy là đúng rồi! 

Bà Lệ ngạc nhiên: 

- Dì nói đúng chuyện gì? 

Quay sang Hà, dì nói mà giọng còn hơi run: 

- Đêm qua và mấy đêm trước, đêm nào dì cũng chiêm bao thấy có một đứa con gái với cái đầu trọc lóc, cứ gào khóc, đòi dì phải trả lại tóc cho nó! 

Ngọc Hà tái mặt: 

- Tóc gì? 

- Dì cũng đâu có biết. Chỉ thấy con nhỏ đẹp lắm, nhưng da mặt xanh xao, cái đầu không có tóc lại nham nhở còn hơn cái đầu con bữa trước! Lần nào trong mơ nó cũng khóc và đòi lại tóc, mà dì đâu nhớ ra có thể là mớ tóc mà dì đã cho con! 

- Sao bữa trước dì nói đây là tóc mua từ tiệm, có giấy chứng nhận? 

- Thì đó, dì đã cho con coi giấy chứng nhận hẳn hoi. Mà cái này là của ông hiệu trưởng trường Tây cho dì... 

Nói tới đây, bỗng bà kêu lên: 

- Đúng rồi, ông ta! 

- Dì nói ông nào? 

- Ông Henri, hiệu trưởng... 

- Người cho dì mớ tóc? 

Dì Dung hơi ngại khi nói ra: 

- Ông ấy nghỉ hưu lâu rồi, hiện sống ở Sài Gòn... Vừa rồi dì nghe tin ông ấy bị tố cáo một chuyện động trời lắm, dì không tin, nhưng người ta lại quả quyết chuyện ấy có thật! 

Hà tò mò: 

- Chuyện gì vậy dì? 

- Cưỡng bức một cô gái nhỏ hơn ông ta trên mười tuổi! 

Cả bà Lệ và Ngọc Hà đều kêu lên: 

- Trời ơi! 

Hà còn hỏi: 

- Mới đây hả dì? 

Bà Dung lắc đầu: 

- Chuyện cũ chứ không phải mới đây. Chuyện hồi ông ấy còn làm hiệu trưởng. Nghe nói cô gái là một nữ sinh lớp lớn... 

Bà Lệ tắc lưỡi: 

- Mấy ông Tây già thường sinh tật lắm! 

Dì Dung kể thêm: 

- Mà không chỉ cưỡng hiếp thôi đâu. Ông ta còn còn nhẫn tâm đẩy cô gái ấy vào chỗ quẫn trí rồi đi tìm cái chết nữa! 

Ngọc Hà không thể ngồi yên: 

- Có chuyện đó nữa sao dì? 

Dì Dung nhìn Hà, bà hơi mất tự tin: 

- Nghe câu chuyện đó dì lo. Nhất là mớ tóc này... 

Hà ngơ ngác: 

- Dì nói mớ tóc của con? 

- Ừ... dì sợ e... 

Bà quay sang bà Lệ: 

- Chị không dời đám cưới lại ít tháng được sao? Thí dụ như mình nại lý do con Hà phải né ngày tháng kỵ của ông bà gì đó... Đợi cho tóc nó mọc dài dài một chút... Chứ chị tưởng tượng xem, lỡ trong đêm tân hôn mà thằng chồng con Hà phát hiện vợ mình đội tóc giả thì biết ăn nói ra sao? 

Hà không lo chuyện đó bằng chuyện của ông hiệu trưởng trường Tây. Cô hỏi tới: 

- Dì biết nhà ông ấy không? 

- Chi vậy con? 

- Tự dưng con muốn tìm hiểu chuyện ông ấy bị tố cáo! 

Bà Lệ rầy: 

- Con lo chuyện bao đồng chi cho mệt. Ông ta làm gì thì mặc ông ấy, hơi sức đâu... 

Hà không cãi mẹ, nhưng cô vẫn không thôi suy nghĩ về chuyện ấy. Mãi cho tới chiều hôm đó khi đã trở về nhà rồi mà Hà vẫn còn thắc mắc, cô hỏi mẹ: 

- Mấy người bị chết oan nghe nói linh lắm phải không má? 

- Thì đã chết oan mà, hồn phách đâu siêu thoát được nên linh hiển thôi. 

- Như nạn nhân của ông đốc Tây đó có phải là oan hồn không? 

Sợ con hỏi linh tinh nên bà Lệ gạt ngang: 

- Con quan tâm đến chuyện ấy làm gì? 

Bà giục Hà đi ngủ sớm, cô nghe lời. Nhưng đến sáng hôm sau thì Hà biến mất! 

Bà Lệ hốt hoảng chạy đi tìm kiếm khắp nơi. Cuối cùng bà bắt gặp một phong thư của Hà để lại. Đại khái cô báo cho mẹ biết là có việc phải đi Sài Gòn gấp, xin bà cứ yên tâm, đừng đi tìm và lo lắng! 

Đã biết như vậy rồi, nhưng bà Lệ vẫn như ngồi trên lửa. Bà linh tính chuyện này ắt có liên quan tới vụ ông đốc Tây. 

Cuối cũng vẫn không yên tâm. Bà Lệ tức tốc đi tìm con. 

Rủ cả dì Dung cùng đi, bởi bà Lệ nghi Ngọc Hà sẽ tới chỗ ông đốc Tây nghỉ hưu. Và quả đúng như vậy. Khi hai bà tới nơi thì gặp lúc Hà đang tiếp xúc với chị người làm của ông Henri. Bà Tám Ni, một người giúp việc trung thực, rất bức xúc chuyện đó. Bà kể lại nhà giọng vẫn còn bị kích động: 

- Chuyện xảy ra đã lâu rồi, ai cũng tưởng nó đã chìm vào quên lãng, bỗng gần đây nó lại sống dậy và khiến cho ông Tây ăn ngủ không yên. Mà chính tôi cũng tận mắt... 

Bà hạ thấp giọng như sợ có người nghe: 

- Cách đây không lâu, tôi còn nhìn thấy một cô gái có cái đầu trọc lóc đứng giữa nhà gào khóc! Nhìn kỹ lại tôi nhận ra chính là... nó. 

Hà hỏi lại: 

- Nó là ai? 

- Là đứa con gái, cô ấy là nạn nhân! Cô này là cô thư ký riêng của ông Henri. Ngày đó tôi còn nhớ, cô ấy đẹp lắm và cũng hiền lắm... Bỗng một hôm tôi nghe tin cô ấy mất tích. Ban đầu tôi cứ nghĩ cô ấy yêu ai đó rồi bỏ nhà đi xây tổ ấm. Nhưng hai tháng sau thì một tin động trời đã nổ ra: Cô thư ký Mỹ Dung đó được phát hiện treo cổ chết phía sau ngôi chùa lớn gần nhà ông Henri! Mà chết trong tình trạng thương tâm lắm, ngoài nhan sắc tiều tụy ra, cô ấy còn có cái đầu nhẵn thín, không còn sợi tóc nào! 

Bà Lệ ngơ ngác: 

- Sao vậy? 

Ngọc Hà cũng sững sờ: 

- Ai đã làm gì cô ấy? 

Tám Ni nói như sắp khóc: 

- Cô ấy đã xuống tóc xin quy y cửa Phật trước khi chết. 

Hà bị sốc dữ dội: 

- Trời ơi, đã quy y rồi sao còn tìm cái chết! 

- Đó là điều Làm cho ông Henri hối hận và đau khổ vô cùng! 

Hà buột miệng: 

- Phải chăng ông ta biết trước sự việc mà không ngăn cản được? 

Tám Ni gật đầu: 

- Cô nói đúng. Khi sự việc về mối quan hệ giữa ông ấy và cô Mỹ Dung xảy ra, chính ông ấy đã dàn xếp để cô ấy bỏ việc, lánh đi. Họ thuê một căn nhà để ở và dự tính chờ sau khi ông Henri làm thủ tục ly dị xong với bà vợ đầm xong sẽ chính thức cưới cô Mỹ Dung, thì đùng một cái, chẳng biết có ai tiết lộ, nên bà vợ già của ông Henri đã tìm tới tận nơi và quậy tung lên, làm nhục cô Mỹ Dung, đến nỗi cô ấy phải chạy vào chùa xin tá túc. Rồi đêm hôm đó sau khi xin quy y, cạo mái tóc dài quá lưng của mình, gói nó lại, nhờ nhà chùa gửi lại cho người yêu và sau đó cô lẻn ra ngoài phía sau chùa treo cổ tự tử! 

Ngọc Hà bỗng kêu lên: 

- Mái tóc này! 

Rồi cô quay sang dì Dung: 

- Dì nói chính ông Henri đã tặng cho dì đầu tóc này? 

Dì Dung gật đầu: 

- Đúng vậy. Nhưng ông ấy nó là mua ở một tiệm lớn... 

Tám Ni ngạc nhiên: 

- Tóc gì? 

Hà vuốt lên tóc của mình và nói: 

- Tóc tôi đang mang! 

Nhìn kỹ rồi chị ta kêu lên: 

- Đúng rồi! Hồi trước cô Mỹ Dung có mái tóc giống y như thế này! 

Rồi chị tiết lộ: 

- Tôi nhớ ra rồi, hồi đó có một hôm ông Henri nhờ tôi đem số tóc dài của cô Mỹ Dung ra một tiệm uốn tóc nhờ họ kết lại, rồi cho vào hộp, ông ấy nói để dành kỷ niệm... 

Hà nói mà cảm giác lạnh cả người: 

- Đúng rồi! 

Cô nhìn sang dì Dung, run run giọng: 

- Làm sao bây giờ hả dì? 

Bà Lệ cũng lo sợ: 

- Phải mau lột đầu tóc ra đi! 

Lúc này Tám Ni mới rõ mọi việc, chị nói: 

- Cô đây nếu sợ thì tôi có cách. Ở tiệm uốn tóc gần đây họ có nhiều kiểu tóc giả khác, chi bằng cô tới đó để họ thay, lấy đầu tóc này trả lại cho ông Henri. 

Dì Dung cũng đồng tình: 

- Hay là con làm vậy đi Hà... 

Ngọc Hà đi với Tám Ni tới tiệm uốn tóc, và thật bất ngờ, người chủ tiệm khi vừa thấy Hà bước vào đã nói liền: 

- Có người tới đây nhắn cô Ngọc Hà, rằng nếu cô muốn trả lại tóc thì hãy về ngay nhà chồng, có người đang đợi cô ở đó! 

Hà hỏi lại: 

- Người thân tôi là ai vậy? 

Người chủ tiệm lấy ra một mảnh giấy nhỏ trên đó có ghi mấy chữ. Hà đọc đủ cho mấy người chung quanh cùng nghe: 

- "Mỹ Dung"! 

Tám Ni kêu lên sửng sốt: 

- Cô ấy đây mà! 

Hà lặng người đi trong nỗi sợ hãi... 

Tuy nhiên cô vẫn phải thay tóc khác, bởi cô không tài nào dám mang lại mớ tóc dài mà cô rất thích kia. 

Tuy vẫn còn muốn ở lại, nhưng nhớ đến lời trong mảnh giấy, Hà giục mẹ đi về. 

Hà cùng với mẹ lên xe đò trở về nhà ngay, nhưng xui cho họ, chiếc xe họ đi lại gặp tai nạn, trên xe có đến gần chục người bị thương, trong số đó có Hà và mẹ. Hà lại bị thương ở vùng đầu, nên hôn mê đến hai ngày hai đêm, đến khi tỉnh lại thì cô hoảng sợ vô cùng khi thấy tóc trên đầu mình không còn sợi nào! 

- Trời ơi! 

Cô y tá chăm sóc cô giải thích: 

- Vết thương của cô nặng lắm, nếu không vào kịp bệnh viện thì có thể đã nguy tới tính mạng! Các bác sĩ đã phải làm hết sức mình. Bây giờ thì cô hết nguy hiểm rồi, nhưng phải nằm lại bệnh viện vài tuần để theo dõi. 

Hà chợt nhớ tới mẹ, liền hỏi: 

- Má tôi đâu? 

Cô y tá đáp: 

- Bà không sao, nhưng cũng bị gãy chân, đang nằm ở một phòng khác. 

Và cô ý tá thắc mắc: 

- Theo địa chỉ của má cô cho, bệnh viện đã cho người đi đánh điện tín về nhà, vậy mà đã hai ngày rồi chẳng thấy ai lên nuôi bệnh hết! Kể cả nhà bên chồng cô nữa... 

Hà hoảng hồn: 

- Sao cho bên chồng tôi hay làm gì! Cái đầu tôi... 

Cô đưa tay sờ lên tóc, e ngại. Bỗng cô y tá nói: 

- Khi điều trị vết thương cần phải cạo tóc để dễ phẫu thuật, lúc ấy tụi này mới biết là cô mang tóc giả. Chính tôi đã gở búi tóc của cô, đặt ở đầu giường này, nhưng sáng hôm sau thì chẳng hiểu sao lại biến mất! 

Hà sững sờ một lúc lâu, cho đến khi cô y tá hỏi: 

- Cô có tính làm lại tóc giả không? Nếu cần thì vừa rồi có người đem vào tặng cho cô một hộp tóc giả, tôi để ở đầu giường kìa... 

Chị ta vừa nói vừa lấy chiếc hộp giấy lại. Vừa định mở ra thì Hà đã kêu thét lên: 

- Đừng! 

Trong hộp chứa một đầu tóc giả mà thoạt trông Hà đã nhận ra ngay, chính là đầu tóc mà cô đã gửi lại cho Tám Ni giao cho ông Henri! 

- Sao nó lại ở đây? 

Cô y tá nói: 

- Tôi nghĩ có lẽ ai đó biết cô mất đầu tóc nên đem cho tóc mới. 

- Người mang hộp này tới là ai vậy? 

Cô y tá lắc đầu: 

- Tôi cũng không biết, chỉ thấy nó nằm sẵn ở phòng trực, trên hộp có ghi nhờ chuyển cho bệnh nhân tên Ngọc Hà ở phòng số 3, nên tôi biết là gửi cho cô. 

Hà sợ sệt: 

- Chị làm ơn đem nó ra ngoài giùm, tôi không cần! 

Chợt cô y tá nhìn thấy một mảnh giấy dưới đáy hộp, cô lấy ra đưa cho Hà, có mấy chữ: "Đừng từ chối, hãy mang nó vào khi xuất viện. Không có tóc sẽ mất luôn chồng!"

Ngọc Hà bàng hoàng, cô lẩm bẩm: 

- Ai vậy? 

Nhìn kỹ lần nữa thì rõ ràng đúng là tóc mình đã mang thời gian gần đây. 

Hà còn đang lưỡng lự thì cô y tá giục: 

- Cô nên nhận rồi bỏ vào tủ kia khóa lại, để ngoài coi chừng mất nữa! 

Không còn cách nào khác nên Hà đành phải chấp nhận như vậy và một lần nữa cô lại phải canh cánh bên lòng về cái tên Mỹ Dung. 

Nằm bệnh viện đến mười ngày mà vẫn không thấy ai bên nhà chồng, kể cả Tuấn lên thăm. Chính bà Lệ cũng ngạc nhiên: 

- Má đã nhờ người đi đánh hai lần điện tín rồi mà sao họ vẫn không lên thăm? 

Qua ngày thứ mười hai thì má con bà Lệ được xuất viện. Ngọc Hà ở thế bắt buộc nên lại phải đeo bộ tóc giả... của Mỹ Dung. Bà Lệ lo lắng khi nhớ đã qua ngày đám cưới, bà nói: 

- Không liên lạc được với nhà chồng con, chẳng biết dưới đó họ tính sao, tự nhiên má thấy lo... 

Hà cũng bồn chồn: 

- Linh tính cho con hay hình như có chuyện gì đó... 

Và điều gì đó đã xảy ra! 

Khi họ về tới gì nghe người nhà báo tin: 

- Đám cưới đã diễn ra rồi. Anh Tuấn đã lấy vợ, đám cưới đúng ngày quy định mà sao nhà gái mình không có má, chỉ có tụi con được rước qua bên đó cùng với chị Hà. Mà má nữa, sao ngày hôm đó má không về, để chị Hà một mình, chị ấy buồn lắm! 

Bà Lệ ngơ ngác: 

- Sao có vụ đó? Tao với con Hà bị tai nạn tưởng chết, nằm bệnh viện bữa nay mới về, vậy đám cưới với ai? 

Ngọc Liên, em Hà, cũng ngơ ngác: 

- Bữa đám cưới con thấy chị Hà mặc bộ đồ cưới lộng lẫy, con nghĩ chắc chỉ đi Sài Gòn mua về, chị Hà còn đưa tay vẫy con nữa, má nói gì kỳ vậy? Bên nhà đó còn nói do má đi đâu không biết mà lâu quá, sợ lỡ việc nên họ cử hành lễ cưới luôn. Khi nào má về sẽ tính sau! 

Bà Lệ tức giận quát nên: 

- Đồ quân tráo trở, bạc tình! Lợi dụng lúc người ta bị tai nạn lại đi cưới vợ khác! 

Nhưng đứa em của Hà lại nói: 

- Con thấy đó là chị Hà, chứ có ai khác đâu? 

Hà vùng đứng dậy, cô nói giọng nghiêm trọng: 

- Vụ này không đơn giản nữa rồi! Nó dính tới việc an nguy của con nữa, má để con đi qua bên đó! 

Cô nói xong đi liền, bà Lệ không kịp cản, nên phải giục Ngọc Liên cùng bà đi theo sau. Khi họ qua tới nơi thì thấy nhà sạp che làm đám cưới vẫn còn đó, trong nhà tuy bớt rộn ràng, nhưng vẫn còn đông. Mọi người vừa thấy Hà bước vào đã ngạc nhiên hỏi: 

- Ủa, mợ Ba mới đi hưởng tuần trăng mật sao về nhanh vậy? 

Ngọc Hà trố mắt: 

- Tuần trăng mật của ai? 

- Thì của mợ... 

Vừa lúc ấy bà Sương bước ra, bà chau mày hỏi: 

- Sao con về, còn thằng Tuấn đâu? 

Hà vốn đã bực tức về việc Tuấn làm đám cưới mà cô dâu không phải là cô, nên xẵng giọng: 

- Má còn hỏi được sao? Tuấn đi đâu hẳn má biết rõ hơn ai hết mà? 

Bà Sương ngạc nhiên: 

- Kìa, con sao vậy Hà? 

Hà xổ ra bao nhiêu uất ức: 

- Con không ngờ má là người lớn mà lại xử sự như vậy. Sao chưa hỏi rõ đầu đuôi, trong lúc con vắng nhà có mấy ngày mà má đã đi cưới vợ cho anh Tuấn! Má biết mấy bữa nay con bị tai nạn thập tử nhất sinh, suýt nữa đã không trở về được rồi không! 

Bà Sương ngơ ngác: 

- Con nói gì má không hiểu? Cái gì mà tai nạn, rồi cái gì là má đi cưới vợ khác cho thằng Tuấn? Vậy cho đứa nào làm cô dâu rồi cùng thằng Tuấn đi hưởng tuần trăng mật? 

Ngọc Liên cùng với mẹ chạy vừa tới, cô lên tiếng liền: 

- Chị Hà con nói không phải chị là người trong đám cưới! Chị ấy với má con nằm bệnh viện hơn mười ngày mới về tới đây! 

Bà Sương như từ trên trời rơi xuống, bà lắp bắp: 

- Chuyện... chuyện đó... có chuyện đó sao? 

Rồi bà quay vào nhà hỏi mấy người giúp việc: 

- Tụi bay biết thằng Tuấn đưa vợ nó đi đâu không? 

Một người nói: 

- Dạ, nghe cậu Ba nói đưa mợ Ba đi Sài Gòn ở một tuần! Đây, cậu Ba có để lại địa chỉ, nói đây là nhà quen của mợ Ba. 

Hà chụp lấy mảnh giấy ghi địa chỉ, cô hốt hoảng: 

- Đường Hai Mươi, má có nhớ ngôi chùa Phước Hòa cũng ở đường này không? Nơi đó... cô Mỹ Dung treo cổ tự tử! 

Cả mấy mẹ con đều sững sờ. Sau đó Hà vụt chạy đi trong hoảng loạn, vừa gào lên: 

- Không xong rồi, anh Tuấn... 

Hà chạy ra bến xe đò... 

Cũng may là còn chuyến xe đêm, nên Hà không phải đợi qua sáng hôm sau. 

Chuyến xe tốc hành đó đưa Hà trở lại Sài Gòn rất sớm. Vừa tới bến xe, Hà đã gọi chiếc xe kéo về đường Hai Mươi. Sợ không nhớ chỗ, Hà hỏi người phu xe: 

- Chú biết chùa Phước Hòa ở đường Hai Mươi không? 

Người kéo xe tỏ ra am hiểu: 

- Ngôi chùa có cô gái tự tử chứ gì! Ở đây ai mà không biết chùa đó. Nhất là gần đây thiên hạ lại càng biết nó nhiều hơn, bởi cái hồn ma đêm nào cũng hiện ra nhát người qua lại, khiến ai nấy điếng hồn, thót tim luôn. 

Hà tò mò: 

- Chuyện đó có thật sao chú? 

Người kéo xe rùng mình: 

- Chuyện ma quỷ đâu phải chuyện giỡn đâu mà nói chơi! Mới hôm qua đây thôi, chính mắt tôi đây khi chở khách ngang qua đó còn nhìn thấy một người đàn ông ăn mặc như một chú rể, chạy từ bên ngoài vào sân chùa, rồi từ đó bò lê ra phía sau chùa, là nơi mà trước đây nghe nói có cô gái treo cổ tự tử! Tôi không dám chạy vào coi, nhưng nghe người ta đồn là hễ đàn ông nào mà chạy vào đó thì coi như đi nạp mạng cho oan hồn con ma thắt cổ ấy! Tội nghiệp cho người đàn ông nào đó... 

Hà hốt hoảng: 

- Sao chú không giúp cho người ta? 

Cô xuống xe trước chùa và đầu óc nghĩ tới Tuấn đang gặp nguy! 

Chạy thẳng vào chùa, chẳng nhìn thấy ai, Hà đi luôn ra phía sau chùa. Ở gốc cây cổ thụ, rõ ràng là Tuấn đang quỳ gối một mình! 

Hà bước tới, vừa định lên tiếng gọi thì chợt nhìn thấy trước mặt Tuấn, thòng từ cành cây xuống là thi thể của một người nữ. Nhìn kỹ hơn, Hà phát hiện người đang treo lơ lửng kia có cái đầu hầu như không có sợi tóc nào! 

Tuấn thì như đang ngây dại, đôi mắt nhìn về phía thi thể kia mà như đang nhìn vào một nơi xa xăm nào đó... Thậm chí anh chẳng hề nghe tiếng bước chân rất gần của Hà. Cho đến khi Hà lên tiếng gọi: 

- Anh Tuấn! 

Vẫn như pho tượng gỗ, qua hai lần Hà gọi mà Tuấn chẳng có phản ứng gì. Bỗng nhiên anh ngã chúi về phía trước khi Hà gọi lần thứ ba! Tuấn vừa ngã xong thì thi thể kia cũng từ trên cây rơi xuống đất. 

Hà chưa kịp có phản ứng gì thì trước mắt cô tối sầm lại, người cô lảo đảo...

° ° °

Một người Pháp già nói tiếng Việt rất trôi chảy, reo lên khi thấy Hà và Tuấn tỉnh lại: 

- May quá! 

Tuấn ngơ ngác nhìn ông ta, trong khi Hà thì bật ngồi dậy liền: 

- Ông là... 

Giọng nói quen thuộc của Tám Ni: 

- Đây là ông Henri mà lần trước tôi đã kể. Ông ấy được vong hồn cô Mỹ Dung về báo nên kịp tới đây cứu hai cô cậu đó! 

Hà nhìn ông ta đang ôm khư khư một cái túi thì nghi ngờ: 

- Ông này là thủ phạm gây ra cái chết cho cô Mỹ Dung, thì làm sao hồn ma cô ấy lại để cho ông ấy cứu người được? 

Tám Ni chỉ tay vào chiếc túi ông Henri đang ôm bên mình nói: 

- Ông ấy đã tới kịp và ôm cái xác của cô Mỹ Dung vào trong túi kia, để cô ấy không còn quấy phá ai nữa! 

Chính ông Henri lên tiếng: 

- Mỹ Dung là hồn ma, nhưng không phải lúc nào cô ấy cũng ác hay hại người. Bằng chứng là mới rồi, chính cái hồn thiện trong cô ấy đã không để cho anh này bị chết! 

Hà gay gắt: 

- Nhưng chính cô ta đã giả đóng vai tôi để gạt chồng tôi làm đám cưới với cô ấy và đưa chồng tôi về đây. Nếu tôi tới không kịp thì có phải chồng tôi đã bị cô ấy hại rồi không! 

Giọng ông Henri vẫn nhẹ nhàng: 

- Đúng là cô ấy có làm việc đó. Nhưng đó là cái hồn ác trong Mỹ Dung đã làm. Còn khi đã dẫn cậu này về đây rồi thì chính cái hồn thiện trong cô đã thắng được mặt ác nhờ vậy mà chồng cô mới thoát được chết, chứ nếu không thì anh ấy sẽ là người phải treo cổ trên cành cây, thay cho cô Mỹ Dung. 

Hà nghe lạ, nhưng không thể tin được ngay, cô còn đang tính hỏi lại thì chợt nghe một giọng nói cũng khá quen thuộc vang lên sau lưng: 

- Điều đó là đúng hoàn toàn! 

Quay lại nhìn, cả hai Hà và Tuấn đều kêu lên: 

- Bác sĩ! 

Bác sĩ Thuần khoa tâm thần, người đã điều trị cho Tuấn vừa xuất hiện. 

Ông hướng về Hà giải thích: 

- Cô khó mà tin được lời ông Henri nói, nhưng đó là sự thật. Tôi nghiên cứu sách vở về tâm linh đã có biết những chuyện như ông Henri vừa nói. Trong hồn phách người chết có hai trạng thái, lúc hiện về hay nhập vào ai đó. Có lúc thiện, lúc ác! 

Bây giờ Tuấn mới lên tiếng: 

- Tôi đã trải qua với cô ấy vào những giai đoạn như vậy! Lúc cô ấy hiện ra trong vai của Ngọc Hà vợ tôi, thì cô ấy rất dịu dàng để tôi tin đó là sự thật. Nhưng đến khi cần khống chế tôi dẫn đi thì cô ấy đanh đá, dữ dằn đến đỗi tôi không dám cãi lời! Như lúc về đây, cô ấy bắt tôi quỳ dưới gốc cổ thụ này và bảo rằng cô ấy phải trả thù, phải tìm ra người phải chết để thế mạng cho cô ấy đi đầu thai! Đến khi vợ tôi xuất hiện thì bỗng dưng hồn ma lại biến đổi thái độ rất nhanh, chuyển sang là một oan hồn yếu đuối, ngã ra đất bất động như một người ở cõi trần! 

Ông Henri vuất nhẹ chiếc túi vải bên mình: 

- Nhờ thế mà tôi mới có thể thu hồi hài cốt cô ấy về mai táng lại. Hy vọng từ nay hồn phách cô ấy không còn về quấy phá ai nữa cả. 

Ông nói xong đứng lên bắt tay bác sĩ Thuần: 

- Cám ơn ông bạn già đã không quản ngại đường xa mà tới đây giúp tôi giải tỏa được gánh nặng này. 

Ông ta bước đi xiêu vẹo, ôm cứng chiếc túi như sợ có người giành lấy... 

Bác sĩ Thuần chép miệng: 

- Tội nghiệp họ! Người ta lên án ông ấy là không công bằng. Thật ra ông ấy yêu cô Mỹ Dung tha thiết, yêu chân thành. Và ngược lại cô ấy cũng yêu ông một cách trong sáng, bằng thứ tình yêu mà mãi đến chết vẫn không nguôi! 

Hà chen vào: 

- Nhưng chính ông ấy đã khiến cho cô ấy tự tử! 

Bác sĩ Thuần lắc đầu: 

- Tôi quen ông ta từ lâu, biết rõ mối tình của ông ấy với cô Mỹ Dung. Tôi biết chắc cô Mỹ Dung chết do quá phẫn uất chuyện bị đánh ghen, bị bôi nhọ danh dự nên bồng bột nhất thời mà tìm đến cái chết, chứ thật ra cô ấy vẫn yêu Henri tha thiết, yêu đến bứt không rời, xé không tan! Bằng chứng như chúng ta thấy đó, xác một hồn ma thì làm gì còn, vậy mà vì tình yêu, hồn phách kia đã tích tụ lại còn cho ông lấy được hài cốt kia. Ông ta hy vọng đúng, từ nay hồn phách cô Mỹ Dung sẽ không còn xuất hiện nữa! 

Ông quay sang Tuấn và Hà: 

- Cô cậu cũng mừng đi, từ nay đã thoát được sự quấy nhiễu rồi. Cô cậu có thể yên ổn mà sống bên nhau. 

Tuấn thắc mắc: 

- Tôi vẫn chưa hiểu, tại sao giữa chúng tôi và cô ấy chẳng hề có liên quan gì với nhau, thế tại sao hồn cô ấy lại đeo theo quấy phá? 

Bác sĩ Thuần nhìn Hà và nói: 

- Chính bởi cái đầu tóc giả kia. Tóc này nếu tôi không lầm là của cô Mỹ Dung? Hồn người chết luôn bám theo bất cứ vật gì mà khi chết mình còn để lại dương gian! Đặc biệt là tóc. Bởi tóc có liên quan tới máu của con người. Nó là một phần cơ thể của cô Mỹ Dung khi sống. Nó được cắt ra trước khi cô ấy chết, tức phần sự sống trong tóc đó vẫn còn sống. Đúng hơn là còn cái hồn sống của người đó! Cho nên khi có người khác đeo vào cơ thể họ thì sự giao thoa giữa người sống và người chết lập tức được theo nhau. Có thể gọi đây là hồn của tóc đã giúp cho Mỹ Dung bám theo cô Hà này, và từ cô Hà đã dính đến cậu Tuấn! 

Những lời ông nói làm cho cả Hà và Tuấn rùng mình! Họ nhìn nhau rồi cùng siết chặt tay nhau, như sợ bị chia cắt lần nữa!

Tám Ni cũng lạnh người khi nói: 

- Vậy còn ai dám dùng tóc giả nữa! 

Bác sĩ Thuần lắc đầu bảo: 

- Không đúng đâu. Trường hợp xảy ra hiện tượng như tôi vừa kể là khi nào người để lại tóc mà bị chết oan, bị bức tử! Chứ người chết bình thường thì có sao đâu. 

Trước khi đi khỏi chỗ đó, vị bác sĩ tâm thần vỗ vai Tuấn nói thêm: 

- Là một bác sĩ tây y mà nói chuyện tâm linh, hoang đường, không khéo người ta cười cho! Nhưng tôi còn là một nhà tâm linh học. Tôi nghiên cứu và biết nhiều về linh hồn, về thế giới tâm linh... 

Ông ta đi lâu rồi mà Tuấn và Hà vẫn còn đứng yên. Lát sau chợt nhớ ra, Tuấn nhẹ giọng bảo vợ: 

- Mình về nhà ngay kẻo má ở nhà lo. 

Hà nói rất khẽ: 

- Lấy vợ ma rồi bây giờ bắt người ta thế vai phải không! 

Tuấn ôm chặt Hà vào lòng: 

- Con vợ này tướng tinh còn dữ hơn ma nữa, cho nên hồn ma phải nhường tình yêu lại cho! Bây giờ mời... nương nương!

Họ tay trong tay bước đi mà lòng tràn ngập hạnh phúc. Có lẽ nhờ những gì đã xảy ra mà họ cảm thấy thương yêu nhau hơn...

° ° °

Bà Sương thấy hai con về thì mừng lắm. Có cả bà Lệ và Ngọc Liên ở đó nữa. Họ cùng nói: 

- Hai người đi hưởng tuần trăng mật về có khác! 

Sau đó, hai bà mẹ dè dặt nói đủ cho Hà và Tuấn nghe: 

- Để tránh những rắc rối nữa xảy ra, có lẽ mình phải rước thầy về trừ khử cái vong lâu nay theo quấy phá! 

Hà nghiêm giọng nói: 

- Không cần đâu má! 

Tuấn nói thêm: 

- Chẳng những không cần rước thầy bà gì hết, mà trái lại tụi con sẽ lập một cái trang để thờ vong hồn cô ấy. Một con người đáng thương, đáng quý... 

Hà cũng đồng tình: 

- Con sẽ là người ngày ngày cúng vái cho cô ấy... 

Không ai phản đối. Và kể từ hôm ấy, trong phòng riêng của vợ chồng Tuấn có thêm một trang thờ. Họ không có ảnh của Mỹ Dung, nên thay cho ảnh chân dung, Hà đặt lên trang thờ chính lọn tóc mà cô từng mượn một thời gian... 

Một năm sau thì Hà sinh đứa con đầu lòng. Vào trước ngày sinh, Hà mơ thấy một cô gái với chiếc đầu trọc, gọi cô và nói: 

- Đặt cho đứa con đầu lòng là Mỹ Hạnh, đó là tên đáng lẽ tôi đã có mà chưa kịp. 

Thức dậy, Hà nói cho Tuấn nghe, anh gật đầu đồng ý ngay: 

- Dẫu sao mình cũng còn nợ cô ấy. Vậy thì nên theo ý cô ấy mà lấy tên Mỹ Hạnh cho đứa bé, nếu nó là con gái. 

- Em nghi nó là con gái. Cái bụng nhỏ xíu... 

Quả nhiên Hà sinh một bé gái thật xinh. Con bé mang tên Mỹ Hạnh!

CÔ GÁI CHĂN VỊT

Chờ hoài mà cơn mưa từ chiều vẫn chưa dứt, bà Tư Bường quá sốt ruột nên lấy cái thúng xúc lúa đội lên đầu và bước nhanh ra ngoài. Chú Tư bệnh đang nằm từ trong nhìn thấy, chú kêu lên: 

- Bà đi đâu giữa trời mưa lớn như thế này? 

Bà Tư nói với lại: 

- Tôi đi kiếm con Hai! 

Bà vừa nói vừa cố chạy nhanh, bởi bà biết, nếu chậm chân thì thế nào cũng bị ông ngăn cản. Ông Tư ngồi dậy không nổi, nhưng vẫn cố gượng dậy và bị ngã mấy lượt, trước khi gào được mấy tiếng đứt đoạn: 

- Bà... đừng... đi... 

Hình như ông muốn nói thêm điều gì đó, nhưng sức cạn, nên đành lịm đi... 

Trong khi ấy, bà Tư cố chịu từng cơn gió thổi đưa những hạt mưa như roi quật vào người, trân mình chịu trận và đi nhanh hơn. Bởi bà biết, chậm giây phút nào thì tính mạng con gái bà sẽ nguy thêm. 

Con đường làng thường ngày rất dễ đi, nhưng sao hôm nay bà đi cứ ngã lên ngã xuống và đi mãi mà chưa thấy tới đích đến của bà là cái chòi chăn vịt nằm sâu trong ruộng lúa cách mặt đường hơn năm trăm thước. Con Xinh, con gái bà ở đó chăn vịt mướn từ sáng sớm, đáng lẽ đã về nhà từ trước khi mặt trời lặn, vậy mà bây giờ đã quá nửa đêm rồi... 

Thường khi việc Xinh về nhà trễ cũng vẫn có xảy ra, nhưng trễ một vài tiếng thôi, chứ không cả buổi như thế này. Vả lại lúc chiều tối, trong cơn mưa lớn bà đã nghe như có tiếng khóc thét của ai đó giống như giọng của con gái mình, khiến bà sợ điếng hồn! 

Linh tính như báo cho bà Tư biết con gái mình đang gặp chuyện gì đó bất an. Bà khá hồi hộp khi bước tới gần chòi vịt. Bà hy vọng Xinh đang mắc mưa lạnh cóng trong đó... 

Tuy nhiên, khi bà đưa hẳn đầu vào trong chòi nhìn và lên tiếng gọi: 

- Xinh ơi, má đây con! 

Trong căn chòi vắng tanh, chẳng có tiếng con gái trả lời. Nghĩ là Xinh có thể ngủ quên, bà bước hẳn vào chòi. Căn chòi chỉ có mấy thước vuông, nên chỉ cần quơ tay là có thể đụng vào bất cứ ai trong đó. Trên chiếc sạp tre ọp ẹp trống không! 

- Hai ơi! 

Bà Tư thảng thốt gọi to, rồi lẩm bẩm trong sợ hãi: 

- Con đâu rồi, Xinh ơi! 

Trong cơn hoảng loạn, một tay của bà Tư chạm phải một bộ quần áo vương vãi trên sạp tre, bà hốt hoảng cầm lên, mặc dù không nhìn thấy, nhưng linh tính của người mẹ cho bà biết đó là quần áo của Xinh. 

- Xinh ơi! 

Bà Tư tiếc là mình không mang theo đuốc để soi cho rõ, nhưng quýnh quá bà quơ tay khắp căn chòi, mò luôn dưới cái sạp và sau đó chạy ra ngoài, cứ thế vừa chạy vừa gào hầu như khắp chung quanh căn chòi. Bà lội, lặn xuống mấy cái ao bên cạnh, rồi càng lúc càng mở rộng phạm vi tìm kiếm ra khá xa căn chòi. Vẫn chẳng có tăm hơi gì của Xinh! 

Cho mãi tới rạng sáng... 

Khi mấy người đi bắt cá sớm phát hiện ra bà Tư nằm ngất trên bờ ruộng thì họ giật mình bảo nhau: 

- Vợ của Tư Bường đây mà! 

Họ giúp đưa bà về nhà trong tình trạng lạnh cóng và mê man. Tám Đốt, một trong hai người cứu được bà Tư, nói với Tư Bường lúc ấy đang nằm sốt cao trên giường: 

- Chẳng biết bà ấy đi đâu mà nằm dài trên bờ ruộng gần trại vịt của cai tổng Tài, tôi mà không cứu kịp lát nữa nhập thổ thì toi mạng đó! 

Thấy Tư Bường không dậy nổi, họ đành phải gọi thêm vài chị nữa ở gần qua giúp. Lát sau bà Tư tỉnh lại, đầu tiên bà gào lên: 

- Xinh ơi, con ở đâu? 

Khi thấy có đông người chung quanh, bà lại gào to hơn nữa: 

- Làm ơn kiếm giùm con Xinh, nó mất rồi. Nó bị nguy rồi mà quần áo còn đây... 

Bà gần như kiệt sức, mọi người phải xúm lại cấp cứu lần nữa. Lúc này ông Tư Bường mới gắng gượng nói: 

- Đừng tìm... con Xinh ở nhà ông... 

Ông ta chỉ nói được bấy nhiêu đó rồi cổ bị nghẹn lại, không thốt thành lời nữa... 

Bà Ba Trầu, người làm lâu năm trong nhà cai tổng Tài, đã nhạy cảm, buột miệng nói: 

- Hay là bị thằng Paul, con lão cai tổng? 

Tám Đối cũng ồ lên: 

- Đúng rồi! Có thể lắm... 

Bà Tư hồi tỉnh, nghe vậy bà lại càng sợ hơn: 

- Phải rồi, vậy mà tôi nghĩ không ra. Hồi sáng này trước khi đi làm, con Xinh còn nói là nó muốn xin nghỉ việc mà ông cai không cho, nhất là thằng Paul hăm dọa nếu con Xinh nghỉ thì nó sẽ tới tận nhà cho người khiêng đi! 

Tám Đối là người thẳng tính, nghe vậy nổi nóng liền: 

- Nó là con chủ chứ phải ông trời đâu mà muốn làm gì thì làm! Mà con Xinh làm ăn công, chứ đâu phải ở đợ có mượn nợ nhà nó đâu! 

Chỉ thấy Tư Bường quay mặt đi chỗ khác, nhẹ thở dài... 

- Chị Tư ráng khỏe lại đi, rồi còn tới nhà cai tổng Tài kiếm con Xinh. Vụ này xem ra lành ít dữ nhiều rồi! 

Tất cả đều lo lắng cho số phận Xinh, cô gái mười bảy, tuy làm công ở đợ nhưng nhan sắc hơn người. Tuy vậy họ cũng chẳng làm gì hơn ngoài than vắn thở dài... bởi nhà cai tổng Tài có thế lực nhất ở vùng này, lại ở ác không ai bằng, mà xưa nay làng này chưa ai dám tố cáo hay ra mặt phản đối. Chỉ vì lão ta có được thằng con rể làm mật thám cho Tây, có súng, có quyền bắt người thủ tiêu mà không ai dám chống đối! 

Bà Tư nghĩ quẫn trí, chỉ biết kêu trời: 

- Trời ơi, làm sao cứu con tôi đây! 

Bà gượng đứng dậy, tiện tay chụp cây mác vót ở vách nhà đưa lên cổ, khiến cho mọi người đều hốt hoảng: 

- Đừng, chị Tư! 

Tư Bường cũng tỉnh người, ông ta chồm tới giật cây mác trong tay vợ: 

- Bà có chết thì hãy cho tôi một dao trước đi! Trời ơi... 

Ông ảo não gục xuống. Lát sau, ông thều thào nói chỉ cho vợ nghe thôi: 

- Tội là ở tôi... hôm qua tôi bảo con Xinh tới nhà cai tổng mượn tiền... 

Bà Tư la lên: 

- Sao ông làm chuyện đó! Vậy là ông đem con làm mồi cho sói lang ăn rồi, ông ơi là ông! 

Tư Bường gục mặt trong lòng bàn tay: 

- Chỉ bởi... tiền nợ bên Hai Tửng quá hạn quá lâu rồi, mình không trả thì tới mùa này người ta đâu có cho lấy lúa. Rồi có đâu tiền mua thuốc trị bệnh cho bà... 

Bà Tư gào lên: 

- Ông cứ để cho tôi chết, chứ đâu đem con mình dâng cho hùm beo như vậy! Trời ơi, con gái tôi... 

Bà như điên lên, chụp vội cây mác lần nữa rồi chạy bay ra ngoài. Tám Đối lao theo ngăn lại: 

- Không được đâu chị Tư. Chuyện gì cũng phải từ từ rồi tính. Chị mà tới đó sinh sự thì chưa làm gì được ai đã bị đám đầu trâu mặt ngựa ở đó sát hại chị rồi! 

- Tôi chết cũng được, miễn là cứu được con tôi thôi! 

Tám Đối phải giải thích thêm: 

- Cứu con Xinh thì tôi và bà con đây đều muốn làm như chị vậy, nhưng mình thế cô sức yếu, lại không có bằng chứng gì cả thì làm sao xông vào nhà đó được. Chi bằng nhờ chị Ba Trầu đây... 

Bà Ba Trầu sốt sắng: 

- Để tôi lo cho. Tôi trước đây ở hầu hạ mụ cai tổng, nay tuy nghỉ rồi, nhưng lâu lâu tôi cũng có ghé thăm, đem tặng mụ ta trầu cau, là món mụ ta rất mê. Sẵn tôi vừa hái trầu tươi, cau ngon, lát nữa tôi sẽ giả vờ đem tới và ở chơi lâu lâu.. tiện thể tôi dò la coi thằng Paul có ở nhà không. Nó mà có nhà tức là nó đang làm chuyện mờ ám gì đó... 

Ba Tư nghe lời, nhưng vẫn nói thêm: 

- Nếu con Xinh mà có chuyện gì thì tôi thề là sẽ ăn thua đủ với chúng nó! 

Bà Ba Trầu về nhà lấy theo giỏ trầu cau tươi và ngay trưa hôm đó, bà qua nhà cai tổng Tài. Mụ cai chữ nghĩa không đầy lá mít, nhưng rất khoái nghe chuyện Tàu như Thuyết Đường, Tây Du Ký... do người khác đọc. Khi bà Ba Trầu bước vào thì mụ không ngẩng lên, đã hỏi: 

- Đứa nào tới giờ này vậy bay? 

Ba Trầu vốn đã quen tính mụ ta, nên lên tiếng liền: 

- Dạ, biết giờ ghiền trầu của bà nên kịp thời Ba Trầu này có mặt! 

Con Tám Nỉ đang đọc đến hồi gay cấn, phải ngừng lại để cho bà chủ nói chuyện. Nếu gặp ai khác mà cắt ngang như vậy ắt sẽ bị la cho một trận, nhưng Ba Trầu thì khác. Hôm nay mụ cai có ý đợi không riêng gì trầu, cau tươi, mà còn một chuyện khác nữa, nên bà bật ngồi dậy ngay, xua tay đuổi con Nỉ ra ngoài. Mụ ta kêu Ba Trầu lại gần: 

- Mày lại đây tao hỏi cái này. 

Mụ ta ghé sát tai đứa đầy tớ cũ của mình, hỏi rất khẽ: 

- Mày biết gì về vợ chồng thằng Tư Bường không? 

Được gãi đúng chỗ ngứa, nên Ba Trầu quên giữ ý, la lên suýt nữa đã lộ chuyện: 

- Ồ may quá, đúng rồi! 

Mụ cai ngạc nhiên: 

- Mày nói đúng cái gì? Mày chưa nghe tao hỏi hết mà? 

Ba Trầu kịp sửa lại: 

- Dạ con muốn nói là con có quen với vợ chồng đó. Bà hỏi con mừng quá, vì con có thể... 

- Tao muốn qua nhà gặp tụi đó, mày dẫn tao đi. 

Ba Trầu ngạc nhiên: 

- Để làm gì bà? Nhà họ nghèo rớt mồng tơi, làm sao đủ sức tiếp bà! 

- Thì cứ dẫn tao đi, tao muốn nói chuyện với họ. Mà theo mày thì tụi nó có xứng làm sui gia nhà tao không? 

Câu hỏi làm cho Ba Trầu ngơ ngác: 

- Bà nói... 

Mụ cai nói rõ hơn: 

- Tao muốn làm sui với nhà đó! 

- Thưa bà... chắc con nhỏ Xinh làm bà hài lòng? 

Mụ cai trố mắt nhìn Ba Trầu: 

- Mày nói con Xinh nào? 

- Dạ, con nhỏ con gái của vợ chồng Tư Bường, tức con nhỏ ở chăn vịt cho bà đó! 

Mụ cai như bị phỏng lửa: 

- Mày có điên không Ba Trầu? Tao thế này mà đi cưới con nhỏ chăn vịt hả? 

- Thì... thì con gái của Tư Bường chính là con nhỏ đó! Vợ chồng họ chỉ có một đứa con gái duy nhất đó thôi! 

- Không phải! Thằng Paul đưa về một đứa con gái đẹp như tiên, nói là con gái của Tư Bường nào đó. Con nhỏ đó đâu phải là đứa chăn vịt! 

- Vậy con đó ở đâu? 

Mụ cai có vẻ không hài lòng: 

- Nó là con dâu tương lai của tao, sao mày kêu con này con nọ? 

Rồi mụ ngoe nguẩy bỏ đi vào trong ngay. Ba Trầu quay sang mấy đứa giúp việc hỏi khéo: 

- Mấy bữa nay mấy đứa có thấy ai về nhà này không? Con nhỏ đó đó... 

Sáu Mi là đứa lanh lợi, lắm mồm nhất trong nhà, đã như được khai thông mạch chảy: 

- Chỉ mới sáng nay thôi, chứ đâu phải mấy ngày. Cậu Paul dẫn về một cô gái đẹp mê hồn, lúc đầu là cai tưởng là gái Sài Gòn, nhưng khi hỏi ra thì cậu Paul nói cô ta là người ở xử này, con của Tư Bường! 

- Bộ mấy người không biết con Xinh con gái Tư Bường, đứa chăn vịt cho nhà bà cai lâu nay hay sao? 

Sáu Mi lắc đầu: 

- Mấy năm rồi không gặp mặt nó, nhưng không phải là không nhớ. Đằng này con nhỏ đi với cậu Paul không phải là con Xinh, bởi nó đẹp và sang trọng như một tiểu thư, tôi cứ tưởng Tư Bường còn có đứa con gái khác! 

Ba Trầu lẩm bẩm: 

- Kỳ vậy? Không lẽ... 

Vừa khi ấy bà nghe có tiếng oang oang của Hai Paul: 

- Đứa nào ở đó, lấy cho cô Xinh đôi dép coi! 

Ba Trầu nhìn ra ngoài sân thì thấy một cô gái mặc nguyên bộ đồ màu vàng rực rỡ đang đi cạnh Paul. Bà thốt lên: 

- Con Xinh thật mà! 

Bà là chỗ thân tình với nhà Tư Bường, hầu như gặp mặt Xinh hằng ngày, nên bà đâu có lạ gì con nhỏ... Nhưng sao bữa nay nó lại ăn mặc diêm dúa, lại có cử chỉ thái độ không giống với đứa con chân chất thật thà của Tư Bường chút nào? 

Thấy chưa có ai nghe lời mình, Paul lại hét to: 

- Đứa nào đó, bảo lấy đôi dép cho cô Xinh mang sao còn ở đó! 

Sáu Mi nhanh nhảu lên tiếng: 

- Dạ, cậu Hai để con lấy. 

Lúc này Paul đã ẵm Xinh trên tay bước vào phòng, nơi Ba Trầu và mấy người đang nói chuyện. 

- Xinh! Dì Ba nè... 

Thấy Xinh giương mắt nhìn mình mà không chào hỏi, Ba Trầu lên tiếng, nhưng cô gái vẫn tỉnh như không, trái lại còn hỏi Paul: 

- Ai mà ăn nói trịch thượng vậy? 

Paul có nhớ Ba Trầu, nhưng anh ta muốn lấy oai với người đẹp, nên quát lớn: 

- Bà nhà quê này là ai vậy? 

Ba Trầu đáp ngay: 

- Tôi là Ba Trầu đây cậu Hai, lúc trước nhiều năm tôi ở đây hầu hạ bà... 

- Ai cho bà vào đây ăn nói linh tinh vậy, đi ra. 

Cô gái còn bồi thêm: 

- Nhà anh sang trọng vậy mà cho mấy bà già trầu quê mùa vào chi cho mất giá trị! Nếu bà ấy là người làm thì đuổi cổ đi! 

Bất ngờ quá đỗi, bà Ba Trầu tức nghẹn lên tới cổ, bà run run: 

- Xinh, mày... mày... 

Paul quát một tiếng nữa: 

- Đuổi cổ bà này ra mau, tụi bay đâu! 

Mấy tay vốn bám theo Paul để được cà phê thuốc lá, lúc nào cũng có mặt gần đó, hai tên bước tới hất hàm bảo: 

- Bà già kia, ra chưa! 

Tên đó là Sáu Thẹo, vốn ở sát nhà bà, nên Ba Trần quắc mắt nhìn hắn: 

- Mày hỗn với tao hả Thẹo! 

Nhưng Sáu Thẹo không màng tới bà, hắn bước xốc ngang người bà cùng với tên kia kéo lê bà ra ngoài. Bà Trầu la ầm lên: 

- Mày ăn cơm thừa cá cặn của hắn phải không Thẹo! Đồ côn đồ, đồ... 

Trước sự việc đó, Xinh vẫn bình thản. Ba Trầu tức lắm, nhưng đã bị Sáu Thẹo bụm miệng, nên không còn la lối nữa. Mãi khi ra tới ngoài, bất ngờ bà nghe Thẹo nói khẽ: 

- Dì Ba về đi, chọc giận thằng điên đó nó bắn dì chết mà không ai dám can đâu! 

- Thẹo, mày... 

Thẹo lại nói nhanh: 

- Cả nhà nó đang điên, dì về đi! 

Ba Trầu vẫn cố nhìn Xinh và nói: 

- Còn con Xinh... 

- Con đó cũng điên, dì mặc nó! 

Ba Trầu chẳng còn cách nào hơn, nên tần ngần một lúc rồi mới chịu đi... 

Bà đi thẳng về nhà vợ chồng Tư Bường, vừa tức vừa kể lại mọi việc. 

Tư Bường đang mệt mà nghe bà Ba Trầu kể chuyện ông cũng phải bật dậy: 

- Cô nói sao, con Xinh tôi... 

Chú bị mệt nên ho một tràng dài, rồi thều thào: 

- Nó... nó làm sao? 

- Không phải là nó nữa! Nó nhìn tôi như người lạ... 

Bà Tư tỉnh nãy giờ, nhưng do không còn sức nên bà chỉ im lặng lắng nghe, tới đây bà cũng như ông, không còn chịu đựng nổi, đã lên tiếng: 

- Con gái tôi chưa bao giờ như vậy cả. Chắc nó bị... 

Ba Trầu phải nói rõ hơn: 

- Chính thằng Sáu Thẹo nó nói cả nhà bên đó đều điên hết rồi! Cả con Xinh nữa... 

- Nhưng có đúng là họ bắt cóc con Xinh của tôi không? 

- Thì tôi chạm mặt nó, đúng là nó, nhưng chẳng hiểu sao nó ăn mặc như gái thành thị và thái độ xấc xược chẳng khác đám con nhà giàu hay bọn gái làng chơi. 

Bà Tư la lên: 

- Chị không được nói về con tôi như vậy! 

Nhưng bà Ba Trầu vẫn nói: 

- Tôi nhìn ánh mắt của nó thấy khác thường lắm. Có thể là bị ép buộc hoặc bị... quỷ ám hay ma hớp hồn sao đó! 

Bà Tư hốt hoảng: 

- Còn gì con tôi, trời ơi! 

Ba Trầu hỏi: 

- Nếu bây giờ bên đó qua tính hỏi cười con Xinh cho thằng Hai Paul, chị chịu không? 

- Không! Không đời nào! 

Nhưng chú Tư thì lại nói: 

- Người ta có lòng thì cũng tốt. Nhất là bây giờ mình biết được nó đang an toàn và còn thay đổi đời nữa... 

Bà Tư vẫn la lên: 

- Tôi biết tính con gái tôi, nó không bao giờ chịu sống trong cái nhà đó! 

Ba Trầu bàn thêm: 

- Theo tôi thì trong vụ này không chỉ bên nhà cai tổng Tài muốn, mà hình như con Xinh cũng thuận nữa. Biết đâu chuyện nó biến mất khỏi trại chăn vịt là do chính nó... 

Một lần nữa, bà Tư gào lên: 

- Không phải! Con gái tôi nó bị hại, có thể là... 

Bà định nói nữa, nhưng bất chợt hai mắt trợn trừng, người run lên vì cơn lạnh phát ra đột ngột! 

Bà quá uất ức, nên bất kể tình trạng sức khỏe của mình đã lao ra cửa, miệng thì cứ gào tên con. 

Bà cũng không ngờ người nhà của cai tổng lại hết sức dễ dãi, không hạch hỏi lôi thôi gì khi bà xưng tên mình ra. Họ còn mở cửa cho vào trong một cách nhanh chóng. 

Chỉ có khi bà lên tiếng hỏi Xinh ở đâu thì mọi người chỉ nhìn nhau mà không đáp. Bà phải hỏi lớn tiếng mấy lượt nữa thì mới có tiếng ai đó nói từ trong vọng ra: 

- Cứ cho bà ta vào gặp đi! 

Và bà gặp được con trong căn phòng kín, chẳng một ai chứng kiến. Họ gặp nhau khoảng hơn nửa giờ. Chẳng hiểu đã nói với nhau những gì, chỉ thấy khi trở ra thì bà Tư như người mất hồn... 

Bà chết lên chết xuống bởi thái độ của con. Khi gặp bà, Xinh đã chẳng những không nhìn mà con lớn tiếng xua đuổi. Mà không phải xua đuổi suông, cô còn tỏ ra sợ hãi khi nhìn thấy mẹ mình! 

Bà Tư đau khổ tột cùng, bà bước ra khỏi nhà cai tổng Tài mà bước đi không muốn nổi. Bà không tin sự thể lại như thế. Bởi vậy gần một giờ sau đó, bà đi mà chẳng biết là mình đi đâu. 

- Nè cô... 

Có ai đó gọi, bà Tư cũng chẳng buồn ngoái lại nhìn, đến khi có bàn tay người chạm vào vai mình lúc ấy bà mới dừng bước. Giọng một ông cụ hiền từ: 

- Sắc mặt xanh, bước đi loạng choạng thế này, chẳng phải là người sắp chết ư? 

Bà Tư chợt phá lên cười: 

- Chết? Thì chết chứ còn sống làm gì nữa! Làm cách nào cho tôi chết đi! 

Ông lão rõ ràng không phải người làng này, bằng chứng là ông ta nhìn bà Tư hoàn toàn xa lạ, và ngược lại bà Tư Bường cũng dửng dưng trước ông ta. 

- Bà nói muốn tìm cái chết? 

- Ông có không, cho tôi với! 

Bà Tư vừa dứt lời thì đột nhiên bước nhanh tới như có ai đẩy đi, giọng ông lão vẫn bám theo phía sau: 

- Bà sẽ được toại nguyện ngay thôi! 

Một lát sau, bỗng trước mắt hiện ra căn chòi chăn vịt, khiến bà Tư hoàn hồn, bà ngơ ngác: 

- Sao lại ở đây? 

Ông lão vẫn giọng trầm tĩnh: 

- Có phải bà muốn chết không? 

Lúc này bà Tư đã tỉnh táo hẳn, bà nhớ ra mọi chuyện: 

- Con gái tôi, Xinh ơi! 

Ông lão đứng ngoài cửa bảo bà: 

- Bà bước vào mà gặp con gái! 

Bà Tư reo lên: 

- Con tôi đâu? 

- Bà biết mình mất con là ở chỗ nào? 

Chỉ tay vào chòi, bà đáp ngay: 

- Ở trong này! 

- Vậy sao không vào đó mà tìm nó! 

Lời ông vừa dứt thì bà Tư đã như bị ai xô, ngã nhào vào trong. Người bà đè lên một vật mà vừa chạm phải, bà đã kêu lên: 

- Bộ đồ của con tôi! 

Ông lão lại lên tiếng: 

- Đâu chỉ là bộ quần áo! 

Khi ấy, bỗng bà Tư la lớn: 

- Con... con Xinh! 

Lúc đầu chỉ là bộ quần áo, nhưng sau lời của ông lão, bà Tư cảm giác là mình đang ôm cả thân thể của ai đó! 

Người mẹ đã nuôi con mình từ lúc lọt lòng đến nay nó đã hơn mười bảy tuổi thì làm sao bà lầm thân thể nó với ai khác được, mặc dù lúc ấy trong chòi vịt không có chút ánh sáng nào. 

- Xinh! 

Ông lão vẫn chậm rãi nói: 

- Nó chết rồi, bà có muốn đi theo nó thì cứ nằm xuống đó, lát nữa ắt sẽ toại nguyện. 

Ông dứt lời thì im bặt. Tưởng ông chờ mình trả lời, nên bà Tư vội lên tiếng: 

- Tôi sẽ chết theo con tôi! 

Bà nói xong nằm xuống ngay bên cạnh con. Tay bà sờ sang chỗ lỗ mũi và một lần nữa, bà hét lên: 

- Trời ơi! 

Không còn hơi thở nơi Xinh, có nghĩa là... 

- Ông ơi, cứu con tôi! 

Bà gào lên rát cổ họng mà chẳng nghe ông lão trả lời. Bởi khi ấy ông ta đã đi mất rồi... 

- Ông ơi! Con ơi... 

Bà lịm đi... 

Lúc tỉnh lại thì mặt trời bên ngoài đã lên khá cao. Chợt nghe có người nói chuyện gần đó, bà Tư kêu lớn: 

- Ai ngoài đó, làm ơn giúp con tôi với! 

Mấy người đi cấy lúa nghe kêu thì bâu lại chòi vịt nhìn vào. Họ ngạc nhiên khi thấy bà Tư nằm trong đó, hai tay đang ôm cứng một bộ quần áo. Một người hỏi: 

- Ủa, bà Tư sao lại ngủ trong đó? Bộ được cai tổng mướn làm thay con Xinh hả? 

Nghe hỏi bà Tư mới hoàn hồn, nhìn lại vật mình ôm trong tay. Bà kinh hãi kêu lên: 

- Con tôi đâu? 

Bảy Lý là người ở gần nhà cai tổng Tài, có nghe thoáng qua chuyện của Xinh nên lên tiếng: 

- Nó đang ở nhà bà cai tổng, sao dì ra đây tìm? 

Bà Tư xua tay lia lịa: 

- Không phải! Đừng nói bậy! 

Bỗng người thứ hai cùng đi với Bảy Lý vội lên tiếng: 

- Bộ mấy bà không hay chuyện gì sao? Sáng nay người ta phát hiện ông cai tổng bị giết chết, có lính đang làm ồn ào ngoài đó! 

Bảy Lý kinh ngạc: 

- Sáng nay tôi đi sớm nên đâu có để ý. Mà ai giết ông ta? 

- Con Hai Xinh con Tư Bường! 

Bà Tư đang nằm, vội bật dậy: 

- Lại nói bậy nữa rồi! Con gái tôi nó đang nằm ngủ với tôi ở đây mà. 

Bà vừa nói vừa đưa tay sờ soạng, khi cầm bộ quần áo lên thì lại la lớn: 

- Ai bắt con tôi đi đâu rồi? 

Lúc này trời sáng nên có thể nhìn khắp chòi không sót chỗ nào. Chẳng hề có dấu vết gì của Xinh, Bà Tư lại càng hốt hoảng: 

- Nó đâu rồi? 

Người kia đáp: 

- Nghe nói giết chết ông cai tổng là nó bỏ trốn biệt rồi. Chắc là giờ này làng lính đang tới nhà bà để lục soát, sao bà còn ở đây? Bộ tính trốn hả? 

Bà Tư phớt lờ lời nói của họ, bà cứ tìm kiếm hoài tung tích con mình. 

Đến khi chợt nghe ra chuyện người nọ nói, bà thảng thốt kêu lên: 

- Con Xinh giết ai? 

Khi nghe rõ lại, bà vùng chạy ra ngoài. Bảy Lý nói với theo: 

- Dì chạy về nhà đi, người ta đang đi tìm bắt con Xinh đó! 

Như người bị mộng du, bà Tư nhắm hướng nhà mình, nhưng khi chạy tới nơi mà cũng không nhớ quẹo vào, phải có người kêu lớn: 

- Dì Tư, nhà đây mà! 

Khi bà vào nhà thì quả là có hương quản Lân và cả chục người lính làng đang vây quanh ngôi nhà. Họ vừa thấy bà đã la lên: 

- Bà giấu con Xinh ở đâu? 

Bất ngờ, bà hỏi ngược lại: 

- Mấy người bắt con tôi đem đi đâu? 

Hương quản Lân quát lớn: 

- Con mẹ già mồm! Tôi hỏi bà giấu con nhỏ giết người ở đâu? Không khai báo thì khi về nhà làng, bị kẹp hai bàn tay nát nhừ thì cũng phải khai thôi! 

Ông Tư nãy bị hạch hỏi nãy giờ, bị luôn mấy thoi của Hương quản Lân rồi, nên sợ sệt nói vọng ra: 

- Bà biết nó ở đâu thì chỉ đi, kẻo họ đánh chết bây giờ! 

Làm sao bà biết? Bởi vậy sau đó bọn lính lệ đã trói gô cả hai ông bà già bệnh tật lại, khiêng như khiêng heo về nhà làng. Ở đó chẳng cần hỏi han gì thêm, hương quản Lân đã cho nhốt hai người vào cái nhà kho bít bùng, nóng như lò nung! 

Suốt ngày hôm đó, chỉ một lần vào buổi chiều, họ đưa vào hai tô cơm với hai miếng khô cá nguội ngắt. Quá đói nên ông Tư còn ráng gặm vài miếng, còn bà thì tuyệt nhiên không. Bà đã không ăn mà còn gào khóc, chửi bới om sòm. 

Mà thật ra cũng vô ích thôi, bởi nhà làng giờ đó không còn ai làm việc. 

Chỉ có một anh hương tuần lo việc trật tự, nhưng biết được hai tội phạm là người già, chẳng sợ họ bỏ trốn, nên anh ta cũng bỏ về ngủ với vợ luôn. 

Nửa đêm... 

Trong lúc chập chờn, bỗng bà Tư nghe có tiếng ai đó nói rất khẽ bên tai: 

- Má đưa tay ra đây con đưa cái này! 

Rõ ràng là giọng của Hai Xinh! Bà Tư mừng hơn bắt được vàng: 

- Con hả Hai? Trời ơi, cứu ba má ra với con! 

- Con không thể vào trong đó được, nhưng con sẽ chờ ba má ở khúc sông lớn vào rạng sáng hôm nay. Họ sẽ đưa ba má tới đó... 

Bà Tư hốt hoảng: 

- Họ đưa đi đâu? 

Giọng Xinh nhỏ hơn lúc nãy, chứng tỏ cô đang lùi bước lại: 

- Giải lên tỉnh. Má cứ cầm lấy vật con mới đưa và giấu cho kỹ, đừng để họ thấy. Họ sắp tới rồi đó, con chờ ba má! 

Quả nhiên, sau đó chừng mười lăm phút thì cả lũ làng lính kéo tới. Có giọng oang oang của Hai Paul, anh ta quát: 

- Sao chưa đưa tụi nó ra, còn đợi gì nữa! 

Có tiếng dạ của hương quản Lân. Tên này tuổi đáng cha chú của Paul, vậy mà lại răm rắp nghe lời và còn lễ phép nói: 

- Cậu hai cứ về nghỉ, chuyện này để tôi lo... 

Paul vẫn lớn lối: 

- Tôi phải đích thân tính vụ này mới được. Phải trước tiên thủ tiêu hai con khỉ già này, rồi sau đó truy lùng con quỷ cái kia cho bằng được. 

- Dạ, tụi này sẽ làm ngay. Tôi đã cho đón các ngả đường sông, đường bộ, nó chẳng còn chạy đâu được nữa! 

- Vậy sao cả ngày rồi vẫn chưa bắt được nó? 

Hương quản Lân ấp úng: 

- Dạ... việc này... 

Paul hét lên: 

- Ngày mai lên gặp thằng Ba thì mấy ông liệu mà giữ cái đầu! 

Ba Dữ là anh rể của hắn, tay mật thám nổi tiếng là ác nhân, giết người không gớm tay. Chỉ cần dọa tên hắn ra thì cả lũ đều sợ xanh mặt. Hương quản Lân riu ríu: 

- Dạ, cậu Hai yên tâm... Cậu Hai cứ về nhà nghỉ, tụi này sẽ hoàn thành nhiệm vụ! 

Khi chúng mở cửa nhà kho ra thì đã thấy vợ chồng Tư Bường nằm thẳng cẳng, có lẽ vì kiệt sức, hoặc cũng có thể do quá sợ hãi. Quản Lân hét thuộc hạ: 

- Khiêng tụi nó ném xuống xuồng mau lên! 

Vợ chồng Tư Bường như hai cái xác chết, nên dẫu bị khiêng cũng chằng kêu la gì. Tuy vậy Paul căn dặn: 

- Tụi bây lấy nùi giẻ nhét thêm vào miệng chúng, phòng khi... hành sự chúng la hét lôi thôi. 

Đích thân hương quản Lân lấy hai nùi giẻ dơ nhét vào miệng hai nạn nhân. Chỉ mấy phút sau thì cuộc áp giải bắt đầu. Ban đêm, đường sông vắng vẻ, nên việc chở hai phạm nhân đã bị bịt miệng diễn ra êm xuôi. 

Mười phút sau thì ra tới ngã ba sông lớn. 

Quản Lân nháy mắt cho hai tên thuộc hạ. Bọn này hiểu ý nên chúng đứa chụp hai tay, đứa nắm hai chân của ông Tư trước rồi nhất loạt ném ông xuống dòng sông đang chảy xiết! Rồi tới phiên bà Tư cũng thế. Chỉ trong vòng chưa đầy một phút, bọn ác nhân đã giải quyết xong hai con người vô tội! 

Dòng sông đêm vẫn cuồng nộ chảy xiết, có lẽ đưa hai con người lương thiện kia ra rất xa khi trời sáng... 

Nhưng... 

Khi cả bọn chưa kịp quay xuồng lại, thì chợt một tên đứng đầu mũi la lên: 

- Ai nắm chân tôi vậy? Ai... 

Hắn ta chưa dứt lời thì đã nghe ùm một cái, cả thân thể hắn ngã nhào xuống nước. Hương quản Lân hốt hoảng la lớn: 

- Đưa dầm cho nó nắm mau lên! 

Tên đứng gần vội dưa mái dầm xuống nước, và tới lượt hắn cũng nhào theo luôn! Đoán là có điều chẳng ổn hương quản Lân vội hò hét mấy tên còn lại: 

- Tụi bay mau bơi xuồng vào bờ! Mau lên... 

Hắn còn đang la hét thì tới phiên chân trái của hắn bị một bàn tay của ai tứ dưới nước thò lên, nắm chặt và kéo mạnh! 

Sau hương quản, còn lại hai tên nữa, chúng hốt hoảng bơi xuồng nhanh vào bờ. Nhưng khi xuồng còn cách bờ hơn chục thước thì chiếc xuồng bỗng lật ngang, và chẳng còn thấy tên nào bò lên! 

Dòng sông hình như chảy mạnh hơn, cuồng nộ hơn, và trong phút chốc có một cơn gió mạnh thổi lên. Rồi một tràng cười man dại vang lên bay theo gió đi rất xa...

° ° °

Người tỉnh lại đầu tiên là bà Tư Bường. Nhìn sang thấy chồng mình còn nằm đó, bà hốt hoảng kêu lên: 

- Chúng tôi chết hay sống? 

Một giọng người già cất lên: 

- Bà đâu có sợ chết phải không? Vậy thì bà đã toại nguyện... 

Nghe giọng nói quen quen, bà Tư nhìn lại và vô cùng ngạc nhiên khi thấy đó là ông lão ở chòi vịt hôm trước. 

- Ông... sao lại ở đây? Còn con tôi đâu? 

- Bà chỉ nghĩ đến con mà không cần sự sống chết của chồng? Ông ta đã chết, để cho bà sống đó! 

Bà Tư gào lên: 

- Tôi muốn chết theo con tôi thôi! 

Bà đưa tay sờ lên mũi ông chồng và yên tâm khi biết ông còn thở. Nhìn quanh lần nữa, bất chợt bà nhận ra có một đứa con gái đứng quay lưng lại, nó mặc bộ đồ mà vừa nhìn thấy bà đã nhận ra ngay: 

- Đứa này... nó là con Hai của tôi! 

Cô gái quay lại, và quả nhiên đó là Xinh mà bà Tư đã gặp ở nhà cai tổng Tài. Bà mừng quính: 

- Nó đây mà, Xinh ơi! 

Bà lao tới thì gặp ngay sự ngăn cản của ông lão: 

- Bà chạm vào nó là cả bà và nó đều chết hết! Bà nhận ra nó rồi phải không? Nhưng nó không hề là con bà! 

Bà Tư không chịu nổi cách nói của ông lão, nên la lớn: 

- Hãy để con tôi nó nhìn mẹ. Xinh, con hãy lên tiếng đi! 

Nhưng một lần nữa giống như bữa trước, cô gái lắc đầu: 

- Bà đâu phải là má tôi! 

Rồi cô ta bước thẳng vào nhà trong. Bà Tư gọi với theo: 

- Con Hai, má đây mà! 

Bà định bước theo, nhưng chân vấp phải vật gì đó ngã chúi tới trước. 

Nhìn lại, bà hốt hoảng: 

- Ai nằm đây? 

Ông lão giờ mới cất giọng nghiêm túc: 

- Bà thấy rồi đó, đứa con gái kia không phải là con bà. Nó làm xong việc mà con gái bà muốn nó làm, còn giờ thì nó... chết.

Chưa hiểu sự tình, nên bà Tư kêu lên: 

- Không được để con tôi chết! 

- Bà nhìn kỹ lại xem, có phải con gái bà đây không? 

Lúc này bà Tư mới nhìn xuống xác người nằm dưới chân, rõ ràng đó là Hai Xinh! 

- Con ơi! 

Ông lão thở dài: 

- Nếu vợ chồng bà không nhờ vật trong túi áo kia thì đã chết khi bị chúng nó xô xuống sông rồi. Bà xem nó còn hay không? 

Lúc này bà Tư mới chợt nhớ lại, bà chụp tay lên túi áo và reo lên: 

- Nó còn đây! 

Bà tiện tay móc ra, và sau khi mở lớp vải gói bà không khỏi sững sờ, bởi đó là cái mặt dây chuyền hình Phật làm bằng vỏ gáo dừa mà tự tay bà làm cho con đeo khi nó lên ba tuổi. Nhà người ta giàu có mua cho con dây chuyền vàng bạc, còn bà chỉ có thể cho con đeo thứ như thế này. Nhưng lạ là từ khi đeo vật này, Xinh lại rất thích và không hề rời ra. Và kỳ diệu thay, có lần do lau mình, vướng khăn đứt dây làm tượng Phật rơi ra, thế là Xinh bị bệnh suốt mấy ngày! 

Từ đó nó không bao giờ dám để mặt dây chuyền ấy xa mình. Vậy mà... 

Giọng ông lão như một lời giải thích: 

- Cô ấy buộc phải lột tượng Phật ra, trong khi biết làm như vậy là có thể sẽ không còn giữ được thân xác cho đến khi gặp lại cha mẹ, nhưng vì sự an nguy của ông bà nên cô ấy đã phải mạo hiểm. Cũng may, Phật trời còn thương nên giờ đây... 

Ông nói tới đó thì vội đứng lên, dợm bỏ đi thì bà Tư gọi giật lại: 

- Tôi phải làm sao với con đây? 

Ông lão nhẹ thở dài: 

- Tôi cũng chỉ là người làm giúp cháu nó, chuyện duy nhất là báo tin và đưa cô ấy tới bên ông bà. Còn những gì tiếp theo thì tôi không có quyền biết... Cũng như cô gái lúc nãy, cô ấy cũng chỉ giúp cô Xinh làm xong việc, rồi trở lại với kiếp riêng của mình. Chúng tôi hết nhiệm vụ nên xin phép ông bà, tôi phải đi... 

Ông nói dứt lời thì như làn khói, biến mất. 

Ôm xác con mình, bà Tư gào lên: 

- Con ơi, Hai ơi? 

Ông Tư cũng đã tỉnh hẳn, ông bật dậy khi nhìn thấy xác con và ông kêu thét lên: 

- Ba hại con rồi Hai ơi? 

Bà Tư ngạc nhiên: 

- Ông nói vậy là sao? 

Giọng ông trầm xuống: 

- Bà nhớ đứa sinh đôi với con Xinh ngày trước không? 

Bà Tư giật mình: 

- Nó ra đời chỉ được hơn một tháng thì đã bị người ta ăn cắp mang đi mất, nó là con Đẹp, tên do chính tôi đặt mà! 

- Thật ra... nó không bị bắt cóc! Nó đã... 

Bà Tư như bị điện giật, bà sửng sốt nhìn ông: 

- Chứ nó ở đâu? Mà sao từ nào đến giờ ông không nói cho tôi biết? 

Ông gần như suy sụp: 

- Chỉ vì tôi... hối hận! 

- Ông đã làm gì nó? Bây giờ nó ở đâu? 

- Chính tôi đã... bán nó cho người ta! 

Trời đánh cũng không làm cho bà Tư choáng váng bằng nghe tin này! Bà run lẩy bẩy: 

- Trời ơi... ông ơi là ông! Ông Tư Bường ơi... 

Bà lạnh cả người, trong khi chồng vẫn run giọng kể: 

- Bà có nhớ ngày đó tôi nợ nần quá nhiều do cờ bạc không? Chính từ đó... 

Bà Tư rên rỉ: 

- Tôi đã biết mà... thế nào rồi ông cũng làm chuyện bậy bạ! Nhưng đâu có ngờ... 

Ông Tư chừng như đã hối hận tột cùng, nên giọng ông đầy nước mắt: 

- Tôi bán con cho một người không con, tội thì có tội, nhưng cũng giải quyết được thực tế lúc đó. Bởi bà nghĩ coi, với cái nghèo rớt mồng tơi như vợ chồng mình lúc ấy thì làm sao nuôi nổi một lúc hai đứa con! Chỉ có điều là tội ác của tôi không dừng lại ở đó, đầu năm nay khi nợ lúa của mình với Hai Tửng quá hạn trả đã lâu nếu không trả thì có thể bị người ta thưa ở tù rục xương! Nên tôi đã... 

Bà lại run giọng hỏi: 

- Ông đã làm gì nữa? 

- Thì... 

Ông không dám nói thẳng phải ngập ngừng một lúc: 

- Ông cai tổng gặp tôi nhân chuyến ông ta đi thăm đồng, và cũng xui cho con Hai... 

Chợt hiểu, bà gào lên: 

- Ông bán con Xinh luôn cho nhà đó? 

Ông Tư ôm mặt khóc nức nở: 

- Tôi không bán mà họ ép tôi phải bán! 

- Trời ơi! 

Giọng ông ta vẫn đều đều: 

- Con Xinh ở chăn vịt cho nhà đó từ lâu nhưng cai tổng Tài không hề gặp nó, cho nên bữa đó vừa trông thấy nó, lão ta đã sáng con mắt lên, run giọng hỏi tôi nó là con nhà ai? Sau khi tôi nói nó là con mình thì lão ta vỗ vai tôi bảo: "Nếu mày chịu cho con nhỏ về hầu hạ tao thì tao trả giùm mày món nợ lúa của Hai Tửng!". Lúc đầu tôi không chịu, nhưng sau đó nghĩ con gái mình dẫu sao cũng đã là thân ở đợ rồi thì ở chăn vịt với ở đợ phục vụ trong nhà họ cũng có khác gì đâu! Vậy là tôi chịu. Nhưng dặn con Xinh là không được nói cho bà biết, vẫn cứ ngày ngày ra chòi vịt rồi lén tới nhà cai tổng mà làm việc. Chẳng ngờ cai tổng Tài sinh tâm... 

Bà Tư hốt hoảng: 

- Ông ta đã làm gì con Xinh? 

- Tôi cũng không rõ... nhưng đêm hôm đó tôi đang nằm ngủ thì cái vong của con Xinh hiện về, báo cho biết là nó đã... chết dưới bàn tay thô bạo của cai tổng Tài! Tôi sợ điếng hồn, chạy đi tìm nó thì cai tổng Tài giấu giếm, chối tội. Sợ bà biết chuyện, nên tôi chạy vội qua chỗ mà ngày trước tôi cho con Đẹp, năn nỉ người ta cho tôi mượn con nhỏ mấy bữa. Mục đích của tôi là nhờ con nhỏ đó đóng thế vai con Xinh, vì hai đứa giống nhau như khuôn đúc, để giúp bà yên lòng. Nó sẽ làm được, bởi từ khi lớn lên con đó tâm thần không bình thường lúc tỉnh, lúc điên khùng... Nhưng khi tôi qua tới nơi thì nghe nói con nhỏ đã đi đâu mất. Cho tới khi tôi nghe bà nói nó ở nhà cai tổng Tài. Chẳng hiểu là thế nào? 

Bà Tư đay nghiến: 

- Ông giết con, hết đứa này tới đứa khác, nay ông sắp giết tới tôi nữa rồi! Tôi sẽ chết để cho ông được sống mà tiếp tục lún sâu vào tội lỗi! Sau này có chết ông cũng không còn mặt mũi nào mà gặp con cái nữa! 

Bà nói xong gục xuống ôm xác của Xinh. Bỗng bà bật dậy, kêu lên: 

- Nó... còn sống! 

Cái xác lúc nãy tạnh ngắt, bây giờ tự dưng có hơi ấm trở lại! Tuy nhiên, nó vẫn bất động. Bà Tư nắm lấy tay con lắc mạnh:

- Tỉnh dậy đi con, Xinh ơi! 

Bà gọi lạc cả giọng mà Xinh vẫn trơ trơ. Chợt bà nhìn thấy trong tay con có mảnh giấy nhỏ mà nãy giờ Xinh cầm chặt. Gở mảnh giấy ra, trên đó chỉ có bốn chữ mà bà Tư không đọc được, phải đưa qua cho ông: 

- Ông coi trong này viết cái gì nè! 

Ông Tư Bường đọc nhanh và giật mình: 

- Hãy cứu em Đẹp! 

Ông Tư buông tờ giấy xuống, thất thần: 

- Họ làm gì con nhỏ rồi! 

Chẳng cần nghe vợ hỏi, ông phóng nhanh ra cửa, mặc dù hai chân còn yếu vì bệnh tật lâu ngày, nhưng như có một sức mạnh phi thường nào đó trợ giúp, ông đã chạy một mạch mà không thấy mệt! Khi đến nơi thì đúng vào lúc có cả chục người, trong số đó có Hai Paul và Ba Dữ, con và rể cai tổng Tài, đang nắm đầu tóc của Đẹp vừa hét lớn: 

- Mày giết cha tao phải không? 

Tiếng hét lớn đó là của Ba Dữ, lúc ấy trên tay hắn đang lăm lăm khẩu súng lục với ngón tay đặt trong cò. Paul thì nói thêm vào: 

- Nó chứ còn ai. Khi tôi bước vào phòng thì thấy nó vừa chạy ra, còn ba thì đã gục xuống sàn nhà! 

Ba Dữ lên đạn, vừa hét lần nữa: 

- Tao hỏi lại, mày giết ba tao phải không? 

Đẹp vẫn im lặng với ánh mắt đang lạc thần. Hình như cô không ý thức được là người ta sắp sửa bắn mình, nên dẫu họng súng đang chĩa về mình, cô vẫn xem như không! Tên Ba Dữ thì không như thế, hắn bắt đầu đưa cơn say máu lên đến cao độ và ngón tay của hắn ấn vào cò súng mà đôi mắt không chớp! 

Đoàng! 

Phát súng nổ! Nhưng viên đạn thay vì ghim vào đầu cô gái, đã ghim thẳng vào một bên vai của một người khác: Tư Bường! 

Lão vừa kịp tới và cũng kịp lao vào che ngang trước mặt con gái, đồng thời gào lên: 

- Chính tao đã giết! Chính tao... 

Lão đau đớn bởi viên đạn, nhưng vẫn cố che trước mặt con. Tên Ba Dữ như con thú đang vồ mồi mà bị chặn ngang, hắn hét to: 

- Thằng này là ai? 

Paul đứng cạnh đó vội lên tiếng: 

- Thằng này là ba của con này! 

- Chính nó đã giết ba? 

Tư Bường cố nói thật lớn: 

- Chính tao đã giết tên háo sắc đó! 

Một phát súng thứ hai nổ vang! Và Tư Bường gục xuống, trong lúc cô gái hoảng loạn gào lên, vừa chạy đi. 

Ba Dữ sau khi nổ hai phát súng hạ được người thì có vẻ thỏa mãn: 

- Được rồi, chỉ cần hạ được kẻ đã giết ba là xong! 

Hắn ra lệnh cho thuộc hạ rút lui, không truy đuổi theo cô gái. Trong khi đó thì Paul đứng yên một lúc, rồi anh ta bước theo hướng Đẹp vừa chạy. Quả nhiên chỉ vài trăm bước chân hắn đã bắt gặp cô gái nằm gục ở một bụi cây. 

Đứng nhìn cô gái một lúc, rồi bằng động tác nhẹ nhàng, hắn đỡ cô dậy âu yếm: 

- Tội nghiệp cưng quá... 

Thật tình, từ lúc được cha hứa giao cho riêng con nhỏ này, tuy thấy cô ta khờ khạo, nhưng sắc đẹp mặn mà của cô đã hớp hồn anh ta ngay từ phút đó! Kế xảy ra vụ cha mình bị giết, cả nhà ai cũng đổ vấy cho cô ta giết người, lòng Paul hoang mang... Cho đến lúc nãy, khi nghe Tư Bường nhận là ông ta đã giết người, thì Paul thở phào nhẹ nhõm. Anh tự hỏi, sao mình không lấy cô gái này làm vợ? Thứ nhất, khó tìm nhan sắc nào qua nổi cô gái hoa đồng cỏ nội này, thứ hai anh ta ăn chơi nhiều, gặp và lấy không biết bao nhiêu là gái làng chơi, gái làm tiền và cả những đứa con gái ham tiền, chanh chua đanh đá rồi, thấy chán! 

Cái anh ta cần lúc này là mẫu con gái như thế này... 

Không cần suy nghĩ gì thêm, Paul bế xốc Đẹp lên tay và quyết định đưa về nhà... 

Bà cai tổng tuy có khó chịu, nhưng sau khi nghe cả Paul và Ba Dữ tường thuật chuyện Tư Bường nhận mình là thủ phạm, rồi bị Ba Dữ trừng trị thì bà cũng nguôi giận. 

Bà chỉ nói với Paul: 

- Muốn cười nó thì tao cũng cho, nhưng không được làm đám cưới và cũng không được cho nó có mối liên hệ gì với nhà Tư Bường... 

Paul đồng ý ngay. Anh ta còn nói riêng với mẹ: 

- Con này là đứa con song sinh với đứa ở đợ chăn vịt nhà mình. Mà con nghe nói... 

Anh ta hạ thấp giọng, nói chỉ cho mình mẹ nghe: 

- Con nghe nói chính ba đã... hại chết con nhỏ chăn vịt, cho nên... 

Bà cai tổng lắc đầu ngao ngán: 

- Tao còn lạ gì cái tính của ông ấy. Nhưng mà thôi, mọi việc cũng đã xong rồi. 

Họ chấp nhận cho Đẹp ở lại như trước đó mấy ngày. Lạ một điều là kể từ khi chứng kiến cảnh ông Tư bị bắn chết, hình như cô ta đã thay đổi. Cô đã tỉnh lại, không còn điên khùng như trước đây... Tuy chấp nhận ở lại nhà đó, nhưng cô ta suốt ngày không nói chuyện với ai, cũng không nhắc gì tới chuyện riêng tư. Nhất là chuyện nhà Tư Bường, hầu như cô gái không có chút gì trong đầu... 

Bi kịch nhà Tư Bường là bi kịch lớn, nhưng ở vào thời mà cái ác luôn ngự trị và lộng hành bởi những kẻ có quyền thế thuộc cường hào ác bá nông thôn, thì việc dù lớn đến mấy rồi cũng chìm xuống, qua mau... Sau khi Tư Bường chết thì mấy bữa sau bà Tư cũng chết theo do quá đau buồn, kiệt sức. 

Mà cũng có thể nói là bà đã theo con gái thương yêu nhất của mình: Hai Xinh. 

Hôm đó, sau hơn một đêm ôm xác Xinh gào khóc, sáng hôm sau người ta thấy bà Tư nằm chết bên cạnh xác con và chồng. Chẳng biết ai đã đem xác ông Tư về đây từ lúc nào, đặt nằm song song với vợ... 

Chẳng còn ai trong nhà để chứng kiến việc diễn ra sau đó... Bởi khi người hàng xóm thương tình đem chôn xác họ thì chỉ thấy có xác vợ chồng Tư Bường. 

Còn xác của Xinh thì chẳng thấy đâu, mặc dù khi chết, bà Tư vẫn ôm xác con trong lòng... 

Chỗ cái xác Hai Xinh nằm vẫn còn lại bộ quần áo của cô, và nếu ai nhìn kỹ sẽ thấy dưới đất còn có một tượng Phật làm bằng gáo dừa... Chính cái tượng đó đã làm nên điều kỳ diệu sau này. Sau đêm chôn xác vừa xong ngôi nhà của ông bà Tư chẳng còn một ai, vậy mà vẫn sáng đèn! 

Lúc đầu người quanh xóm tưởng đèn cũ còn lại, nên họ nghĩ khi cháy hết dầu nó sẽ tự động tắt. Nào ngờ sang đêm sau ngọn đèn vẫn cháy. Và nhiều đêm sau nữa, ánh sáng đó vẫn còn trong ngôi nhà bỏ hoang. 

Người ta đồn ngôi nhà ấy có ma!

° ° °

Việc Paul lấy vợ và ở nhà, không đi lăng nhăng nữa đã là một việc lạ. 

Nhưng còn lạ hơn nữa là anh ta tự dưng đâm ra hiền, ngoan, không hung hăng như trước. Chính bà cai tổng cũng phải ngạc nhiên: 

- Mày sao vậy Paul? Bộ con nhỏ đó nó hớp hồn mày rồi hả? 

Paul không giải thích, nhưng rõ ràng anh ta đã thay đổi lớn. Đẹp tuy không đanh đá, dữ dằn, nhưng ánh mắt của cô lúc nào như cũng có thần, có lửa, khiến chẳng riêng gì Paul, mà ngay cả bà cai tổng, vốn tối ngày cái miệng không ngớt la người này mắng người kia mà cũng phải e dè, ít khi dám nhìn vào mắt con dâu! 

Một lần bà hỏi riêng Paul: 

- Con đó nó có cái gì hấp dẫn đâu mà mày mê dữ vậy? 

Câu hỏi đó thường khi thì Paut chỉ ậm ừ hoặc trả lời chiếu lệ, nhưng lần này anh sừng sộ lại mẹ mình: 

- Con không muốn má có ý nghĩ về cô ấy như vậy! 

Bà cai ngạc nhiên: 

- Mày dám ăn nói với tao vậy hả Paul? 

Paul tỉnh bơ: 

- Vợ con thì để con lo, má cứ lo chuyện của mình đi! Mà con cũng cho má biết, từ nay con sẽ dọn ra căn phố ngoài chợ ở, con cũng quản lý luôn dãy phố cho mướn ngoài đó và cái nhà máy bánh kẹo. Má đừng bận tâm tới những thứ đó nữa! 

Bà cai lồng lộn lên: 

- Mày dám vậy hả Paul? Cha mày mới nằm xuống có mấy bữa mà mày đã... đã... 

Bà uất ức đến nghẹn cả họng. Trong lúc Paul vẫn điềm nhiên: 

- Lâu nay con chỉ lo ăn chơi, không dính tới chuyện quản lý tài sản này, bây giờ đã đến lúc con trực tiếp lo cho tương lai của mình. 

- Mày... mày... 

Bà có bệnh tim, nên mỗi khi giận lên là làm bà mệt. Paul không lạ gì chuyện ấy nhưng anh ta vẫn thản nhiên bỏ đi trong khi mẹ mình gục xuống đó, thở hơi lên. Cũng may, có mấy đứa hầu đỡ bà vào phòng cấp cứu. 

Bà ngất đi có lẽ cũng khá lâu, đến khi tỉnh lại thì vô cùng ngạc nhiên khi thấy có một cô gái đang ngồi cạnh giường. Một cô gái lạ. 

- Cô là ai mà sao vào đây? 

Bà cai định gọi mấy đứa ở để hỏi thì cô gái kia đã lên tiếng: 

- Bà đừng hỏi, con là Sáu Na, được cậu Hai mướn về để phục vụ bà. 

Bà cai còn chưa hết giận thằng con, nên xẵng giọng: 

- Nó còn muốn tôi chết chứ thương yêu gì mà chăm sóc! 

Nhưng cô gái đã khéo léo nói: 

- Bà đừng lo, con trai mê vợ trẻ thì có gì lạ đâu. Chừng vài tháng nữa là chán thôi. Nhất là khi chị ta có bầu, treo mỏ thì cậu Hai sẽ quay về thôi. 

- Tôi còn cầu cho nó đi luôn cho đỡ chướng mắt. Mà con vợ nó nữa, thứ bơ vơ, mới được cưng yêu mà đã xúi chồng ra riêng rồi, bất kể đạo lý con dâu! 

Cô gái tên Sáu Na có vẻ sành tâm lý: 

- Trẻ lòng non dạ mà bà. Ai bảo bà cưới cho cậu Hai làm chi, bây giờ phải chịu... 

Bà cai "xí" một tiếng lớn: 

- Ai mà cưới đồ đó! 

Sáu Na tỏ ra sành chuyện: 

- Hồi mấy tuần trước chính bà tuyên bố muốn qua nhà cô ta để hỏi cưới cho cậu Hai mà! 

Chợt giật mình, bà cai hỏi lại: 

- Cô ở đâu mà rành chuyện dữ vậy? 

- Chẳng riêng gì con, mà người ở xứ này ai mà chẳng biết bà muốn làm sui gia với nhà Tư Bường! Bây giờ toại nguyện rồi, sao bà... 

Bà cai chặn ngang: 

- Cô không biết rõ thì đừng xen vào chuyện nhà tôi! 

Nàng ta vẫn nói: 

- Con chỉ muốn giúp bà thôi. Hiện nay cậu Hai đã dẫn vợ ra riêng, còn cô Ba thì theo chồng ở Sài Gòn, vậy nếu không ai chăm sóc thì liệu bà có chống chọi nổi với bệnh tim ngày càng nặng không? Có phải hiện nay mỗi khi giận lên là bà phát mệt không? Và còn nữa, nửa đêm bà thường khó thở, nếu không có người đỡ dậy thì bà có thể chết luôn trong giấc ngủ! 

Thấy cô ta nói đúng hết những bệnh trong người mình, bà cai kinh ngạc: 

- Sao cô biết? 

Sáu Na nhẹ giọng: 

- Thật ra trước khi được cậu Hai mướn, con đã tìm hiểu về nhà này, về bà. Lúc đầu con từ chối, bởi con ngại ông cai và cậu Hai. Nhưng giờ đây cả hai người đó đều không còn ở nhà, cho nên con mới... 

Thật ra trong lòng bà cai lúc này đang hụt hẫng, sau khi thằng con trai duy nhất dám tách ra riêng khi cha nó vừa chết đang làm cho bà đau đớn... Bởi vậy, cô gái này xuất hiện thật là đúng lúc. Bà không ngần ngại nói: 

- Dẫu chưa biết lai lịch cô, nhưng nếu cô thật lòng thì tôi cần có cô giúp đỡ. 

Cô gái nhanh nhảu: 

- Con sẽ làm hết sức mình để bà hài lòng, nhưng tốt nhất là bà đừng để con gặp cậu Hai. Con sợ... 

- Được rồi, tôi sẽ không cho nó biết. Mà con yên tâm, nó ra chợ ở rồi, không về nữa đâu. 

Sự thân thiện nhanh chóng đó chính bà cai tổng cũng không ngờ. Bà cảm thấy gần gũi và tin tưởng cô ta... 

Đêm đó, bà còn gợi ý: 

- Hay là con ngủ lại trong phòng này với ta. Như con biết đó, bệnh của ta lâu nay cứ nửa đêm là phát lên. Ông ấy còn sống tuy không giúp được gì nhiều, nhưng trong những lúc như vậy cũng khiến cho ta yên tâm hơn. 

Bà tha thiết quá nên Sáu Na mới nhận lời. Tuy nhiên cô nói: 

- Cái tật của con khi ngủ hay nghiến răng, e bà ngủ không được. Vậy bà cho phép con ngủ ở gian phòng bên trong kia, con thấy có cánh cửa ăn thông qua... 

Bà cai tổng giật mình! Thật ra đó là phòng chứa tiền, mỗi khi thu tiền lúa ruộng về, mọi thứ đều dồn vào đó rồi kiểm lại từ từ... Tuy lúc này tiền đã được cho vào tủ sắt khóa cẩn thận, nhưng người ngoài làm sao cho vào đó ngủ được! 

Bà hơi ngần ngại: 

- Phòng đó thật ra... 

Bà chưa nói dứt lời thì Sáu Na đã nói: 

- Cũng không sao. Thôi, để con bắc ghế bố ra ngoài cửa ngủ, khi nào bà có cần gì thì con có mặt ngay! 

Sau mấy giây suy nghĩ, bà cai quyết định ngay: 

- Mà cũng không sao, con cứ vào đó ngủ. Chỉ có điều do là phòng cất đồ riêng, nên có hơi chật và không có cửa sổ, e con ngủ sẽ hơi bí. 

Na hí hửng: 

- Con ngủ cực quen rồi, nên có được căn phòng ấy đã là tốt lắm! 

Thấy Na không đem theo quần áo chi, bà ái ngại: 

- Rồi làm sao con có đồ thay? 

Bà bảo mấy đứa ở sang phòng của Paul, tìm được hai bộ đồ ngủ rất mới đem về. Bà ngắm nhìn rồi nói: 

- Có thể thằng Paul mới mua cho con vợ nó. Vậy con lấy mặc tạm đi, rồi mai ra chợ sắm một số đồ mới. 

Sáu Na mặc vào và thật bất ngờ, bộ đồ ngủ vừa y, chẳng khác nào quần áo của mình. Bà cai cũng ngạc nhiên: 

- Vậy ra con với vợ thằng Paul cùng cỡ với nhau. 

Mấy đứa ở khác thấy cô gái lạ được trọng dụng ngay thì có ý so bì. Bọn họ bàn với nhau: 

- Không khéo mai mốt bà chủ cưới luôn cô này cho cậu Hai lắm à! 

Nhờ có Na ngủ với bà cai nên đêm hôm đó, đám tôi tớ khác được yên giấc, chằng phải bị gọi giật dậy lúc nửa đêm như trước đây! Mà bà cai cũng vậy, bà ngủ một giấc ngon lành, mãi đến gần chín giờ sáng hôm sau... 

Việc đầu tiên của bà cai là gọi Sáu Na: 

- Con dậy chưa Sáu? 

Chẳng nghe đáp, đích thân bà cai phải bước vào phòng nhỏ và... bà há hốc mồm ra, điếng hồn khi nhìn thấy một xác người treo lơ lửng giữa phòng! 

- Bớ... 

Bà chỉ kêu được đúng một tiếng rồi đứng chết lặng. 

Phải khá lâu sau, bà mới ráng bò lê ra ngoài và ú ớ la lên. Lúc tôi tớ bâu lại và nhìn kỹ thì có người thảng thốt kêu: 

- Con Hai Xinh đây mà! 

Bà cai kinh hãi: 

- Sao sao nó lại ở đây? 

Một đứa giúp việc rành chuyện: 

- Nó bị mất tích từ trước khi ba má nó chết, mọi người đã kiếm nó tứ tung, không ngờ lại ở đây! Mà sao nó lại... 

Bà cai tổng vẫn chưa tin: 

- Vậy còn con Sáu đâu? 

- Sáu nào? Đây là con Xinh, con Tư Bường, con nhỏ chăn vịt... 

Bà cai nhớ lại chuyện đêm qua, bà vẫn quả quyết: 

- Nó đòi ngủ trong phòng đó, lúc nửa đêm nó còn ra đỡ tao dậy... 

Chợt nghĩ tới cái két sắt trong phòng, bà hối hả chạy vào, nhưng khi nhìn thấy cái xác còn đó thì dội ra, bà giục một đứa làm công: 

- Mày chạy vào coi cái tủ sắt của tao có... có bị gì không? 

Đứa ở chạy vào nhìn rồi hốt hoảng kêu lên: 

- Cửa tủ mở tung bà ơi! 

- Trời ơi! 

Bà cai hét lên và bất kể sợ sệt, bà tung cửa phòng chạy vào và đứng khựng lại trước cái tủ sắt đựng tiền bạc, nữ trang chỉ còn lại tủ trống không! 

Và chẳng hiểu sao, lúc ấy có khá đông người lạ mặt xuất hiện. Một người dõng dạc nói: 

- Chúng tôi nhận được lời tố cáo ở đây có xảy ra án mạng, vậy mọi người hãy bước ra để chúng tôi khám hiện trường! 

Bà cai đã ngất lịm...

° ° °

Dù Ba Dữ có thế lực, nhưng người đứng ra điều tra nội vụ lại là một đối thủ cạnh tranh quyền lực trực tiếp của anh ta, nên vụ việc không thể xếp lại theo như yêu cầu của Ba Dữ. Bà cai là người bị bắt giữ đầu tiên, sau đó tới Hai Paul. 

Ánh Nguyệt, con gái bà cai phải về nhà lo quản lý. Chị ta giống y tính của mẹ, đanh đá, hung ác, nên xưa nay không được ai ưa. Và dù có sợ oai Ba Dữ nhưng lần này mọi người thảy đều tỏ thái độ ra mặt. Họ bảo nhỏ với nhau: 

- Để coi con quỷ cái này nó làm sao trong vụ này! Tôi vái cho... 

Cái xác của Xinh đúng ra phải được quàn lại vài hôm để chờ điều tra, nhưng chỉ đến chiều hôm đó thì nó bốc mùi thối không chịu nổi, nên Ánh Nguyệt yêu cầu cho chôn ngay. Buộc lòng nhà chức trách chấp nhận cho chôn trên mảnh vườn sau nhà, để nếu cần thì có thể bốc mộ lên khám nghiệm lại. 

Xác chôn chưa đầy hai mươi bốn giờ đã phải bốc lên theo yêu cầu của pháp y. Bởi người ta nhận được lời tố cáo là Hai Xinh đã chết do bị bức tử sau khi bị... cưỡng hiếp! 

Kết quả kiểm tra đã minh chứng cho điều đó! 

Mà trong nhà cai tổng Tài lúc xảy ra án mạng đâu có ai là đàn ông ngoài Hai Paul? Cho dù Paul chối tội nói rằng mình dẫn vợ mới cưới về sống ở ngôi nhà ngoài chợ, nhưng khi gọi cô Đẹp ra đối chứng thì chẳng tìm thấy cô nàng. 

Do vậy, nhân viên điều tra đã kết luận: Paul đã dụ dỗ, cưỡng bức nạn nhân, rồi với sự tiếp tay của mẹ, đem xác vào phòng riêng, ngụy tạo cảnh treo cổ tự tử! 

Chi tiết bà cai cung cấp thêm về một cô gái tên Sáu Na vào ở giúp việc lại càng cho thấy là bà ta nói dối, bởi chẳng tìm thấy một chứng cớ nào về sự hiện diện của một người như vậy. 

Hội đủ các yếu tố lại, việc nhóm điều tra kết luận hai thủ phạm chính là Paul và bà cai tổng được sự đồng tình cao. Nhưng những bất lợi cho nhà cai tổng Tài chưa dừng lại ở đó. Sáng hôm sau nữa bỗng thật bất ngờ, người ta bắt gặp Ánh Nguyệt đang cầm cuốc đào ngôi mộ mới chôn của Hai Xinh! Hỏi tại sao làm vậy thì Nguyệt quắc mắt lên, nói khiến ai cũng sửng sốt: 

- Phải diệt nó tận gốc! Tôi phải thiêu đất nó ra thành tro mới hả dạ! 

Dĩ nhiên là nàng ta bị bắt giữ. Như vậy nhà cai tổng Tài cho đến lúc đó toàn bộ đã ở trong tù. Người còn lại duy nhất bên ngoài lại chỉ là chàng rể. Ba Dữ thường khi hét la lửa, bỗng dưng lại xếp vó, co càng. Ai hỏi gì về vụ việc thì anh ta chỉ lắc đầu đáp gọn: 

- Tôi không biết! 

Anh ta nghĩ là mình đứng ngoài cuộc vụ này. Tuy nhiên, đối thủ của anh ta là một tay còn hiểm ác gấp bội, anh ta đã cố moi ra chuyện Ba Dữ bắn chết Tư Bường mà không có một bằng chứng nào. Do vậy, cuối cùng Ba Dữ cũng bị cách chức và nặng nề hơn, còn bị bắt giam về tội giết người! 

- Luật trời chăng? 

Một tháng sau... 

Diễn biến quá đột ngột, đến nỗi những người quen biết với gia đình cai tổng Tài cũng không thể ngờ được! Cái tin cả mấy người nhà cai tổng lúc bị giam trong khám đã chết gần như cùng một lúc, đã làm rúng động thiên hạ! 

Bà cai, Paul và vợ chồng Ánh Nguyệt đều bị giam riêng bốn phòng khác nhau của khám lớn. Đến nửa đêm hôm đó, bạn tù phát hiện là cả bốn người họ đều tự treo cổ và chết tự lúc nào rồi! 

Một dòng họ nổi tiếng, những con người giàu nứt đố đổ vách một thời, lại chết lạ thường, hầu như bị xóa sổ khỏi thế gian này mà không để lại chút hoài nghi nào trong thiên hạ? Điều này là như vậy, và rồi cung phôi pha trong tâm trí mọi người. Chỉ bởi đơn giản, những con người ấy khi sống đã gây quá nhiều tai tiếng, tội ác ngập đầu... Âu cũng là luật đời: Gieo gì gặt nấy!

° ° °

Vào một ngày cuối thu. 

Tại ngôi nhà của vợ chồng Tư Bường. Nhà vốn vắng chủ từ khi chủ nhà chết, bỗng có sự xuất hiện của một người. Người đó là Đẹp, cô em gái song sinh với Hai Xinh. Người mà giờ đây trên danh nghĩa là kẻ duy nhất còn lại của dòng họ cai tổng Tài, để quản lý số tài sản khổng lồ của họ. 

Cô nàng trở về nhà thật lặng lẽ, hầu như chẳng một ai hay biết. Cô đốt hương lên bàn thờ cha mẹ do chính cô mang vật dụng về tạo dựng lên, và khấn rất tôn kính: 

- Con bất hiếu Nguyễn thị Xinh mà cha mẹ vẫn thường gọi là con Hai, con Hai Xinh, xin cúi đầu tạ tội cùng vong linh cha mẹ! Chính vì con mà cha mẹ phải mạng vong, và cũng vì con mà đứa em song sinh của con cũng phải mất mạng để con được ẩn trong lốt nó mà tiếp tục sống. Mạng con giờ đây là của ba người, đúng ra con không được quyền nhận, nhưng số trời như vậy, con xin làm theo... 

Cô khấn vừa xong thì một người nữa xuất hiện. Đó là ông lão mà cha mẹ cô đã gặp trước khi chết. Ông lặng lẽ lạy trước bàn thờ rồi quay sang cô gái: 

- Ta thay mặt người được cha con giao con, đã nuôi con khôn lớn từ khi người ấy qua đời. Ta cũng không biết sự thể ra thế này, chỉ làm theo những gì lương tâm mách bảo. Ta cũng không hề biết chuyện đã làm vừa rồi... Chẳng hiểu ta đã góp một phần vào cái chết của cha mẹ con hay không, khi chính ta đã tới và dẫn dắt họ... 

Cô gái chặn ngang lời ông: 

- Ông không hề có lỗi trong vụ này. Mọi thứ là do con, do Hai Xinh này khiến ông như vậy. Chính ông đã giúp cho con một phần trong việc báo oán. Nếu không có ông thì chưa chắc ngày nay mọi việc được như vậy. Một lần nữa, con cám ơn và xin ông nhận cho một lạy này... 

Cô sụp lạy rồi vái vong linh cha mẹ mình: 

- Thưa ba má, ông lão này tuy với con không cùng chung máu mủ, nhưng ông đã thương con, nuôi dưỡng con khôn lớn, nên con kêu ông bằng ông ngoại, và con xem ông như ông ngoại ruột của mình. Ông không còn ai là thân nhân, do vậy từ nay ông sẽ ở đây cùng hủ hỉ với ba má, và nhờ ông mà con đỡ tủi thân trong những ngày sắp tới...

° ° °

Cũng từ đó, trong ngôi nhà lá rách nát của vợ chồng Tư Bường, có hai người mới tới ở. Mới, nhưng họ không lạ với chòm xóm. Mà trái lại, họ được mọi người yêu thương. 

Thấy Đẹp quá giống chị mình, nên mọi người đều gọi cô là Xinh. Cô chỉ cười và nói: 

- Con chính là Xinh, nhưng từ nay con thích được gọi bằng thứ hơn. Cứ gọi con là con Hai. 

Người ta lại gọi một cách trìu mến hơn: Nàng Hai.

NƯỚC MẮT BA CÔ

Tuy chỉ mới ra khỏi thành phố khoảng năm chục cây số, nhưng tự dưng Hiển buồn ngủ đến nhướng mắt không lên. Anh lại là người lái xe, nên cuối cùng đành phải tấp xe vào lề, nói với mấy người đi chung xe: 

- Tự dưng buồn ngủ quá, có lẽ kiếm ly cà phê uống rồi mới đi tiếp được. 

Một người lên tiếng hỏi: 

- Đây về Gò Công còn bao xa nữa? 

Hiển đáp: 

- Còn khoảng bằng này cây số nữa. 

Người vừa hỏi là Thu Nguyệt, cô em họ vừa thi đậu đại học, là người được thưởng chuyến đi nghỉ mát này. Nghe Hiển đáp, cô ngao ngán: 

- Còn xa mà trời đang chuyển mưa nữa... 

Cô định đề nghị tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng nhìn chung quanh thấy đồng trống nhiều hơn là nhà, nên cô im lặng. Chợt Hiển chỉ tay về phía xa: 

- Có mấy căn nhà ngói ở đằng kia, ta tới đó dừng xe nghỉ một lúc và nếu lỡ trời có đổ mưa thì cũng có nơi mà trú tạm. 

Ai trên xe cũng tán đồng. Hiển cố căng mắt ra, cho xe chạy tới đó cách khoảng non cây số. Tới nơi, anh nhận ra mấy ngôi nhà ngói mà anh nhìn thấy đằng xa là một cụm ba ngôi biệt thự mới cất, mái ngói còn đỏ mới, nhưng cửa cả ba ngôi nhà đều đóng kín, cả cổng ngoài cũng khóa chặt. 

Hơi thất vọng, Hiển bảo: 

- Cũng như không. Chắc nhà vắng chủ... 

Anh định lùi xe ra lộ lớn thì bất chợt trời đổ mưa! 

Cơn mưa lúc đầu tưởng đâu nhỏ, nhưng chỉ chưa đầy năm phút sau thì nặng hạt và mịt mù trời đất! Thu Nguyệt hơi hoảng: 

- Người ta nói trời mưa lớn mà ngồi trong xe hơi đậu giữa đồng trống thế này dễ bị... sét đánh lắm đó. 

Hiển cũng hiểu như vậy, nên anh lên tiếng: 

- Chạy đi tìm nơi khác thì không còn kịp nữa rồi, mà vào nhà này lại cũng không xong. Bây giờ có ai dám leo vào rào không? 

Vinh là anh chàng bám theo Thu Nguyệt chuyến này, cũng muốn chứng tỏ bản chất người hùng của mình nên lên tiếng ngay: 

- Chuyện đó mình làm được. Nhưng chỉ ngại nhà có chó dữ... 

Tuy nói vậy nhưng anh ta cũng mở cửa xe bước xuống. Nguyệt đưa cho cây dù và dặn: 

- Anh che dù cho đỡ ướt, đồng thời dù cũng là phương tiện tự vệ hữu hiệu nữa. Anh nhớ bài học võ Vovinam chứ? 

Được người yêu động viên, nên Vinh không chút ngại ngần, anh che dù và đầu tiên bước tới cổng lắc thật mạnh rồi gọi lớn vào trong: 

- Nhà có ai không cho hỏi thăm? 

Dĩ nhiên là không hề có ai đáp, bởi mưa gió quá lớn, nhà lại thụt xa bên trong, nên tiếng kêu đó dù cho có người trong nhà cũng chẳng ai nghe thấy. 

Bỗng thấy Vinh gỡ ống khóa ra cầm trên tay, sau đó anh mở cánh cổng rộng ra, đủ cho Hiển lái xe hơi vào. Khi mọi người vào trong rồi, Vinh mới giải thích: 

- Cái ống khóa chỉ móc đó chứ không bấm lại, nên chắc là chủ nhà mới đi đâu đó ra ngoài. Lát nữa có gì mình sẽ giải thích là mạo muội vào khi chưa xin phép... 

Thu Nguyệt nói: 

- Trú mưa mà, chắc chẳng ai trách cứ mình đâu! 

Lúc này Hiển mới đưa mắt quan sát một lượt. Chợt anh ngạc nhiên khi thấy sau cánh cửa kính đóng chặt là một... cỗ quan tài nằm giữa nhà! 

- Trời ơi! 

Nghe tiếng kêu sửng sốt của Hiển. Nguyệt quay lại nhìn và tới phiên cô cũng gần như líu lưỡi... 

- Quan... quan tài... 

Cô bám chặt lấy Vinh, khiến anh chàng được dịp chứng tỏ bản chất người hùng của mình: 

- Có gì mà sợ dữ vậy? 

Anh ta nhìn theo ánh mắt của Hiển và Nguyệt, đến khi thấy cỗ quan tài thì cố chứng tỏ là mình không sợ: 

- Thì có gì đâu, chắc nhà mới có người chết... 

Anh ta rời hàng hiên, bước tới bên cánh cửa đóng kín, quan sát kỹ hơn. 

Quanh quan tài không có nhang đèn hay bất cứ đồ lễ nào như các cuộc quàn xác khác, thêm vào đó là sự vắng vẻ đến kỳ lạ... 

- Sao không có ai vậy kìa? 

Hiển nhìn kỹ và nói: 

- Cũng có thể quan tài không có xác ai. Bởi mấy nhà giàu thường hay mua trước áo quan cho người già chưa chết... 

Nguyệt rùng mình: 

- Áo quan mua sẵn thì người ta để ngoài, chứ ai để giữa nhà như vậy! 

Hiển nhìn sang hai tòa nhà gần đó, anh bàn: 

- Hay là ta qua bên kia, đỡ ớn hơn! 

Thu Nguyệt ủng hộ ngay. Cô còn nói: 

- Phải biết nhà có quan tài như vậy thì thà ở ngoài mưa còn hơn. 

Cả ba đội mưa chạy sang ngôi nhà đối diện. Cũng là một biệt thự giống như ngôi nhà kia. Cửa cũng đóng kín... 

Lần này thì Vinh là người vào trong trước tiên, và anh cũng la lên trước nhất: 

- Bên này cũng có nữa! 

Nguyệt không hiểu, hỏi lại: 

- Có cái gì? 

- Cỗ quan tài! 

Hiển nghe nói thì quay lại và nhìn thấy cũng một quan tài giống hệt bên nhà kia! Anh hơi rúng động: 

- Sao kỳ lạ vậy? 

Nguyệt tái xanh mặt mày, cô ôm cứng lấy Vinh, vừa run giọng nói: 

- Mình đi ra đi anh... 

Hiển bước gần cửa kính nhìn vào, lần này anh lại nói khác: 

- Đúng là trong quan tài có xác! 

Anh chỉ tay về phía ngọn đèn dầu đặt dưới quan tài rồi nói: 

- Như thế đó là quan tài có chứa xác. Người ta đốt ngọn đèn để cho xác không thành... ma! 

Nguyệt nghe nói cô càng quýnh lên: 

- Đi mấy ông ơi! 

Cô kéo tay Vinh chạy thẳng ra ngoài mưa, nhắm hướng chiếc xe đậu định mở cửa leo lên, nhưng bỗng cô va phải một ai đó rồi cả hai đều ngã nhào! 

- Trời ơi! 

Vinh không bị ngã, anh đỡ Nguyệt dậy vừa hỏi: 

- Em đụng cái gì vậy? 

Nguyệt bò dậy, chưa kịp trả lời đã nghe ai đó tên tiếng: 

- Mấy người là ai? 

Nghe giọng lạ, Vinh hỏi lại: 

- Ông là ai vậy? 

Giọng kia khó chịu: 

- Mấy người là ai, vào nhà người ta mà còn hỏi nữa là sao? 

Lúc này Hiển đi sau, anh vừa tới nghe được, điềm tĩnh nói: 

- Thưa chú, chúng cháu bị cơn mưa lớn quá không thể đậu xe ngoài kia được, nên mạo muội mở cổng vào. Không ngờ... 

Một người đàn ông đứng tuổi đang lò mò đứng dậy sau cú ngã do bị Thu Nguyệt đụng. Ông nhìn không rõ những người trước mặt mình, nên vừa chạy thẳng vào ngôi nhà thứ ba vừa nói với lại: 

- Mấy anh vào đây! 

Thu Nguyệt đã bị ướt nên nhất quyết không chịu trở vào, cô bảo: 

- Mình ra ngoài đi anh Hiển! 

Vinh cũng chiều theo ý người yêu: 

- Hay là mình đi Hiển ạ! 

Hiển thấy đã có người, nên anh yên tâm, vội bước theo ông già. Lúc ấy người anh cũng đã ướt đẫm, nên vừa bước vào nhà thì đã phải dùng tay vuốt vội nước đọng trên tóc, khắp mặt. Vừa vuốt xong, bỗng anh hốt hoảng khi nhìn vào trong cửa kính. Cũng vẫn là một cỗ quan tài, giống hệt như hai cỗ quan tài ở hai ngôi nhà kia! 

- Sao... sao lại... 

Ông già mở cửa phòng kính và mời: 

- Nếu thật sự cậu muốn trú mưa thì vào đây. 

Thấy Hiển lưỡng lự, ông ta nói: 

- Cậu ngại cỗ quan tài này phải không? Vậy thôi mời cậu sang đây, nơi ở của tôi. 

Nói xong, ông ra đóng cửa lại và dẫn Hiển chạy qua một căn nhà nhỏ gần đó. Chẳng hiểu sao, Hiển ngoan ngoãn chạy theo mà quên cả hai người bạn còn ngoài mưa. 

Cơn mưa càng lúc càng nặng hạt, lúc bước vào gian nhà nhỏ hơn, chưa kịp ngồi xuống thì chợt Hiển nghe có tiếng hét rất lớn từ bên ngoài. Anh hốt hoảng: 

- Tiếng của Thu Nguyệt! 

Anh tuôn chạy ra, phía sau là tiếng hỏi lớn của ông già: 

- Cậu chạy đi đâu vậy? Coi chừng nguy hiểm! 

Hiển chạy trở lại sân, nơi Thu Nguyệt và Vinh còn ở đó. Lờ mờ trong màn mưa, Hiển thấy chiếc xe đậu nhưng không nhìn thấy hai người bạn. Anh lên tiếng gọi lớn: 

- Nguyệt ơi! Vinh ơi! 

Không có tiếng đáp. Chợt khi ấy lại một tiếng thét lớn của Vinh từ phía sau lưng, Hiển hốt hoảng: 

- Họ ở trong đó! 

Nơi phát ra tiếng hét là chỗ ngôi nhà thứ ba mà Hiển vừa rời khỏi. Anh không suy nghĩ thêm, vội chạy bay về hướng đó: 

- Các bạn ở đâu? 

Không có tiếng trả lời và cũng không còn nghe la hét nữa... Lúc này chỉ có tiếng mưa, tiếng gió thổi. 

- Bác ơi! 

Lần này Hiển gọi ông già lúc nãy. Nhưng cũng không nghe tiếng đáp lại. 

Anh phải gọi lớn hơn: 

- Bác ơi, giúp cho mấy người bạn cháu với! 

Lời anh vừa dứt thì cũng là lúc chân anh giẫm lên một xác người, khiến anh bị ngã nhào. Rồi hầu như Hiển không còn biết gì nữa...

° ° °

Khi tỉnh lại, Hiển và hai bạn rất đỗi ngạc nhiên khi thấy mình đang nằm trên xe, mà chiếc xe lúc ấy đang đậu ở giữa đoạn đường vắng. Trời đã hết mưa và mặt trời vừa nhô lên sau rặng tre. Hiển ngạc nhiên kêu lên: 

- Không lẽ mình đã ở đây suốt đêm? 

Nhìn đồng hồ tay, Vinh sững sốt: 

- Đúng là qua một đêm rồi! 

Thu Nguyệt cảm thấy ê ẩm cả người, cô nhớ lại chuyện hôm qua thì cảm giác sợ hãi vẫn còn, nên giọng hơi run: 

- Ngôi nhà đêm qua... Làm sao mình thoát ra được? 

Hiển nhìn lại phía sau, anh kêu lên: 

- Nó ở kia kìa! 

Hai người nhìn theo tay chỉ của Hiển, nhận ra mái ngói của ba ngôi nhà ở cách đó không xa lắm. Thu Nguyệt giục: 

- Mình đi đi Hiển! 

Vinh cũng mất vẻ tự tin: 

- Đúng là không nên ở đây... 

Vừa khi ấy có một người đi ngang, Hiển lên tiếng hỏi: 

- Phiền chị cho hỏi thăm, ba ngôi nhà ngói đằng kia là của ai vậy? 

Chị đàn bà nghe hỏi thì nhìn sững ba người trên xe rồi nhẹ lắc đầu: 

- Tôi cũng... không biết. 

Chị ta định bỏ đi, nhưng chẳng hiểu sao lại quay lại và hỏi: 

- Cậu ở xa đến phải không? 

- Dạ phải. Chúng tôi muốn biết... 

Chị ta đáp thật gọn: 

- Nhà ma! 

Hiển ngạc nhiên thì ít, mà Thu Nguyệt lại nghe lạnh cả người, cô líu lưỡi: 

- Nhà... nhà có... ma là sao? 

Chị nọ lặp lại: 

- Thì nhà của ma! Do ma ở... 

Chị ta bước đi rất nhanh nên Hiển không kịp hỏi thêm. Hiển thẫn thờ nhìn theo, anh lặp lại như không tin: 

- Nhà có ma... phải chăng... 

Nhớ lại ba cỗ quan tài trong ba gian nhà, Hiển lẩm bẩm nói: 

- Phải chăng... đó là nhà mồ? 

Anh thay vì chạy thẳng ra đường lớn, lại rồ ga cho chạy trở lại gần ngôi nhà hơn, Thu Nguyệt la to: 

- Anh chạy tới đó tôi nhảy xuống xe bây giờ! 

Nhưng lúc ấy chiếc xe đã tới cách ba ngôi nhà khoảng chưa đầy trăm thước, Hiển ngừng lại cạnh một người đàn ông đang xách cần câu từ ruộng bước lên và hỏi: 

- Chú ơi cho cháu hỏi thăm... 

Anh đưa tay chỉ vào ngôi nhà ngói, chưa kịp hỏi thì người kia đã lên tiếng trước: 

- Cậu muốn hỏi ngôi nhà ma hả? Ở đây ai mà không biết nó... 

- Nhưng... sao chẳng ai sợ? Hay làm gì để ma không ở... 

Nghe Hiển hỏi ngớ ngẩn, ông ta vừa đưa tay quệt mồ hôi trán vừa nói tiếp: 

- Ma nhưng chưa thấy phá phách gì ai, nên dân ở đây cũng đã quen... 

Tuy ông ta nói thế, nhưng Thu Nguyệt vẫn sợ: 

- Đi đi anh Hiển! 

Người đàn nọ tỏ ra thích thú kể chuyện ma, nên nói một hồi: 

- Ở đây ai mà không biết chuyện hồn ma ba cô! Người ta gọi là tam cô trinh nữ! 

Câu chuyện đã hấp dẫn Hiển, một người khoái chuyện lạ, anh hỏi tới: 

- Bộ họ chết trẻ lắm sao mà gọi là trinh nữ? 

Người nọ nhìn vào xe thấy Thu Nguyệt nên bảo: 

- Có lẽ trẻ hơn cô này và cũng đẹp như vậy! 

Thu Nguyệt nghe mình bị đem so sánh với ma thì la lên oai oái: 

- Tôi không phải là ma! Tôi... tôi... 

Cô đưa cả hai tay ôm lấy mặt, nhích sát vào người Vinh. Người nông dân kia bật cười: 

- Ma mà nhát thì càng trốn nó càng nhát dữ hơn! 

Hiển còn tính hỏi thêm, nhưng cũng như chị lúc nãy, bác nông dân bỏ đi rất nhanh. Hiển rồ ga tới nữa, nhưng lần này Thu Nguyệt quyết liệt hơn: 

- Anh mà tới nữa thì em chết liền cho anh coi! 

Cô mở cửa xe, Hiển hốt hoảng: 

- Thôi thì để anh cho xe quay lại! 

Hiển đành phải chạy ra đường lớn, anh vẫn liếc nhìn về phía ba ngôi nhà ngói, tiếc rẻ: 

- Phải chi mình có thì giờ tìm hiểu thêm, có lẽ thú vị lắm... 

Thu Nguyệt la lên: 

- Anh điên rồi sao cứ nhắc chuyện ma quỷ đó hoài vậy! Ma mà thú vị gì! Cũng may là đêm qua... 

Giờ Vinh mới lên tiếng: 

- Lúc tụi này bước vào nhà thứ ba, vừa nhìn thấy cỗ quan tài trong đó, chưa kịp lùi ra thì như có ai đó ngáng chân, làm cả hai ngã cùng lúc! 

Hiển kể lại: 

- Lúc mình vừa chạy tới thì giẫm phải ai đó, mình cũng ngã! 

Thu Nguyệt càu nhàu: 

- Anh đạp phải em chứ còn ai nữa, người em giờ vẫn còn ê ẩm! 

- Anh cứ tưởng cả hai đang bị nguy... 

Nguyệt làu bàu: 

- Thấy ba cỗ quan tài cùng lúc mà còn gì nữa! Em không tưởng tượng nổi... 

Nghe hai bạn phàn nàn, Hiển không nói gì, bởi lúc đó trong đầu anh đang có một ý nghĩ gì đó chưa tiện nói ra... 

Họ về tới Gò Công vào trưa hôm đó. Đáng lý ra Hiển phải ở lại cùng vui với cô em họ Thu Nguyệt và bà con ở đó, nhưng hơi bất ngờ, anh nói: 

- Anh có một việc rất cần phải về Mỹ Tho. Vậy Nguyệt và Vinh ở lại chơi, ngày mai anh sẽ về đón. 

Thu Nguyệt không vui: 

- Em ở đây mà thiếu anh thì còn gì là vui nữa! Đầu têu mà vắng mặt... 

Hiển đành cười trừ rồi vội vọt xe đi nhanh. Ra ngoài thay vì hướng về Mỹ Tho, Hiển ngược đường về hướng vừa qua. Anh đã quyết định tìm lại ba ngôi nhà... ma! 

Nguyên nhân nào khiến Hiển quyết định như vậy, ngay lúc này anh cũng không thể lý giải được, chỉ thấy trong lòng mình như có sự thôi thúc khó hiểu... 

Gần hai tiếng sau, anh đã có mặt ở trước cổng ba ngôi nhà. Sau một lúc suy tính, cuối cùng Hiển cho xe hơi tới gởi ở sân một ngôi nhà cách đó vài trăm thước, rồi đi bộ trở lại. Trời lúc ấy vừa mới tối, nên việc xuất hiện của Hiển không gây sự chú ý của những người lân cận. Nhờ vậy, khi Hiển lách qua cánh cổng mở hé thì vào bên trong được trót lọt, ở cả ba ngôi nhà đều có ánh đèn chỉ đủ sáng cho ba phòng khách, nơi mà lần trước Hiển đã nhìn thấy ba cỗ quan tài. 

Nép mình vào một bồn hoa, Hiển bỗng giật mình khi nhìn thấy một người đang lom khom trước quan tài. 

- Ông già bữa trước! 

Ông ta đang cúi xuống làm gì đó trước quan tài, lát sau khi ông ta ngẩng lên thì Hiển nhìn rõ là ông vừa đặt một mâm cơm xuống cúng. Đứng cách hơn chục mét, nhưng Hiển cũng nhìn thấy được trong mâm cơm có khá nhiều thức ăn còn bốc khói, chẳng khác gì mâm dọn cho một người còn sống ăn! 

Bất chợt ông già bước ra khỏi phòng, suýt nữa thì Hiển đã bị ông ta nhìn thấy. Anh vội ngồi thụp xuống. Ông già bước qua rất nhanh, hướng về ngôi nhà thứ hai. Hiển tò mò bám sát theo và thật ngạc nhiên, anh thấy ông già ghé lại chỗ một ghế đá, bưng lên một mâm cơm giống như mâm cơm kia. 

- Ông ta làm gì? 

Trả lời cho thắc mắc của Hiển là việc ông già bưng mâm cơm đi thẳng vào phòng, đặt nó xuống trước quan tài giống y như mâm cơm vừa rồi. 

- Ông ta cúng? 

Quả là như vậy, Ông già trịnh trọng cúng vái và đốt một nén hương, Mâm cơm cũng đầy thức ăn ngon và bốc khói! 

Xong rất nhanh, ông già lại bước ra khỏi phòng và hướng về ngôi nhà còn lại. 

- Thì ra ông ta cúng thường nhật! 

Cúng xong trước cỗ quan tài cuối cùng thì ông già bước ra, và lần này đi thẳng về phía ngôi nhà nhỏ, tức chỗ ở của ông mà Hiển đã có dịp biết đêm qua. 

Vừa định bước theo, chợt Hiển kịp nghĩ, anh lưỡng lự một chút rồi lần bước về phía ngôi nhà đầu tiên. Những gì diễn ta đã khiến Hiển trố mắt kinh ngạc! Mâm cơm với thức ăn đầy lúc nãy, giờ đây hầu như hết sạch! 

- Ai ăn? 

Hiển kêu lên khẽ, may mà anh kịp kiềm chế chứ không thì ai đó đứng gần có thể nghe được! 

Chợt nghĩ tới hai mâm cơm còn lại, Hiển bước len qua các bụi cây và hướng về ngôi nhà thứ hai. Cũng giống như mâm cơm vừa rồi, mâm cơm này cũng không còn! Tim Hiển bắt đầu đập mạnh, anh chạy sang ngôi nhà thứ ba và... sững sờ khi thấy mâm này cũng chỉ còn lại những chén đĩa không! 

- Trời ơi! 

Lần này không kìm được, Hiển đã buột miệng thành lời và anh suýt đứng tim khi có ai đó vỗ lên vai mình từ phía sau! 

- Cậu đừng nhìn như vậy sẽ không hay... 

Đó là ông già vừa bưng cơm cúng. Ông ta kéo tay Hiển đi nhanh về phía gian nhà của mình với câu nói: 

- Hôm qua các cô cậu đã mạo hiểm vào đây, nếu tôi không kịp thời đưa ra thì... không biết chuyện gì đã xảy ra! Sao hôm nay cậu lại trở vào nữa? Cậu có biết hành động này sẽ không hay lắm không? 

Khi vào tới nhà riêng của ông ta rồi, Hiển mới đánh bạo hỏi: 

- Những mâm cơm hết sạch vừa rồi có phải do người chết ăn không chú? 

Ông già không đáp ngay mà nhìn ra ngoài bầu trời đêm, một lúc sau mới lên tiếng: 

- Chứ theo cậu thì ai vào đây ăn? 

- Nhưng.. xưa nay cơm cúng cho người chết thì chỉ tượng trưng, chứ làm sao ăn như thật được? 

- Vậy mà được... 

Ông già trả lời xong thì đứng lên đi vào phía trong. Nửa phút sau ông trở ra, trên tay cầm một đĩa trái cây tươi, ngon, vừa bảo Hiển: 

- Cậu cứ ngồi đây chơi chờ tôi một chút, tôi cho các cô tráng miệng xong đã. 

Hiển nói: 

- Cháu muốn đi theo chú... 

Ông già lắc đầu: 

- Để cậu vào đây là quá rồi, làm sao cậu có thể vào trong đó được. 

Ông đi khoảng năm phút. Khi trở lại thì mang về ba cái mâm với chén đĩa dùng xong như Hiển đá thấy lúc nãy. Lúc này ông già mới nói rõ hơn: 

- Ba cô này chẳng khác nào con ruột của tôi. Các cô xem tôi như cha chú, bởi vậy cho nên khi các cô chết thì tôi không nỡ rời xa. Và các cô cũng chỉ để mình tôi gần gũi, chăm sóc... 

- Tại sao họ chết vậy chú? 

Ông già vừa định trả lời, thì có một tiếng động lớn vang ra từ trong nhà. 

Ông thất sắc: 

- Cậu đi đi! 

Hiển chưa hiểu sao mình bị đuổi ngang, anh hỏi lại: 

- Sao vậy chú? 

Lời anh vừa dứt thì có mấy vật gì đó từ trong bay ra rơi xuống ngay trước mặt vỡ toang. Ông già hốt hoảng: 

- Các cô giận lên rồi, cậu đi nhanh đi kẻo không kịp... 

Ông sợ Hiển không đi nên đích thân kéo tay anh dậy và lôi nhanh ra sân, vừa nói trong nỗi sợ hãi: 

- Các cô ấy chưa bao giờ giận đến như vậy cả, không xong rồi! 

Lúc Hiển ra gần tới cổng rồi mà vẫn nghe tiếng rổn rảng từ trong nhà. 

Ông già đẩy anh ra cửa và nói nhanh: 

- Lần tới mà cậu vào đây khi chưa được phép thì tôi không chịu trách nhiệm đâu! 

Hiển ra rồi ông khóa chặt cổng từ bên trong, chứ không bấm hờ khóa từ bên ngoài như hai lần trước. Ông già biến rất nhanh trong khu vườn vắng... 

Hiển hiểu là hôm nay anh chỉ nên chấp nhận những gì ông già khuyên, mặc dù khi trở lại đây anh còn có ý định táo bạo hơn... Khi trở lại xe, vừa mở cửa xe ra anh đã ngạc nhiên khi thấy một nải chuối tươi ngon nằm ở ngay ghế lái xe! 

- Mình đã khóa cửa xe rồi mà! 

Nhìn vào ngôi nhà nhỏ nơi anh gửi xe thì trong nhà chẳng có ai ngoài vài đứa trẻ đang nằm ngủ, mà bọn chúng thì không thể là thủ phạm để chuối vào xe anh được! Hiển lưỡng lự một chút rồi để nải chuối sang một bên, cho xe trở ra lộ lớn. 

Dừng lại một quán cà phê đang vắng khách, Hiển khéo léo hỏi thăm: 

- Cô cho cháu hỏi thăm, ba căn nhà trong kia hiện giờ chủ còn ở không vậy? 

Bà chủ quán nhìn Hiển một lượt rồi chợt nói: 

- Hình như cậu mới từ trong đó ra phải không? Tìm chủ nhà mà không gặp chứ gì? Cậu quen với gia đình ông bà Phạm gia đó như thế nào? 

Vô tình Hiển biết được chủ nhà họ Phạm, nên anh bịa chuyện: 

- Dạ... bác Phạm ngày trước là bạn của ba cháu. Kể từ khi... 

Hiển chưa nói hết lời thì chủ quán đã mau miệng: 

- Chắc kể từ ngày ông bà đó định cư ở nước ngoài cậu không ghé nhà chứ gì! Nhất là từ lúc nhà xây lại và ba cô con gái...

Hiển làm ra vẻ ngớ ngẩn: 

- Ba chị em nhà đó bây giờ chắc lớn lắm rồi? 

Bà chủ quán thở dài: 

- Tội nghiệp, số kiếp hồng nhan... 

Bà ta nói giọng điệu ra vẻ những người xem tuồng kịch cải lương nhiều, nên câu chữ đượm hơi hướm sân khấu lắm: 

- Hồng nhan bạc phận mà. Tội nghiệp, mới hai mươi tuổi đời mà đã rủ nhau chết hết! 

Hiển làm như sửng sốt lắm: 

- Chết cả ba cô? 

Bà gật đầu: 

- Cả ba chết một lượt! 

Rồi hình như thấy chưa đủ, bà chủ quán lại nói thêm chi tiết hơn: 

- Cách đây hơn ba năm, trong một dịp đi chơi Nha Trang bằng xe hơi nhà, ba cô Diệp, Thúy, Nga bị tai nạn đụng xe, chết cả ba người. Đau đớn hơn là khi ấy ba cô đều đã có giấy tờ xuất cảnh đoàn tụ gia đình với cha mẹ ở nước ngoài, tính là sau chuyến đi Nha Trang sẽ lên máy bay... 

- Trời ơi! 

Đó là tiếng kêu xuất phát từ tấm lòng của Hiển. Anh sững sờ thật sự khi nghe kể. Và trong một giây không kiềm chế được, anh thốt lên: 

- Chẳng trách các cô ấy thành ma! 

Câu nói của Hiển tuy nhỏ, nhưng cũng đủ cho bà chủ quán nghe: 

- Cậu cũng biết các cô ấy thành ma? 

- Dạ... 

Bà không giấu giếm: 

- Ông bà Phạm ở nước ngoài về khóc chết lên chết xuống, và sau cùng định thiêu xác các con đem đi đoàn tụ, nhưng hồn các cô không chịu. Hai lần ông bà Phạm tính thiêu xác thì cả hai lần xe chở ba cỗ quan tài đi thiêu đều không thể nổ máy được! Cuối cùng họ phải cầu vong các cô về, và biết được các cô chỉ muốn ở lại trên mảnh đất vườn của ông cha. Do đó mới có chuyện xây ba ngôi nhà rộng cho ba cô... 

Hiển đã nhìn thấy ba cỗ quan tài trong ba ngôi nhà, nên anh reo lên: 

- Đúng là như vậy! 

- Cậu nói đúng cái gì? 

Không muốn để bà ta biết mình đã vào nhà và biết nhiều chuyện, nên Hiển nói lảng sang chuyện khác: 

- Hai ông bà Phạm gần đây có về không cô? 

- Thấy năm nào họ cũng về. Họ thương ba đứa con lắm, nên các cô chết đi thì hầu như bà Phạm chỉ muốn chết theo. Nghe nói năm tới có thể bà ấy sẽ trở về ở luôn đây với các con. 

Rồi bà nói thêm: 

- Tôi cũng chưa từng thấy người đầy tớ nào trung thành và thương con chủ như ông Tư hiện nay ở giữ nhà mồ. 

- Ông ta có bà con gì với gia đình họ không cô? 

- Hoàn toàn không, chỉ có điều là ông ấy ở giúp việc trong nhà từ lúc các cô mới sinh, nên có lẽ vì vậy mà khi ông bà chủ nhờ ông ở lại chăm sóc nhà mồ cho con họ thì ông ta nhận lời liền! Nội chuyện chỉ một người sống ở chung với ba người chết như vậy đã thấy là ông già Tư cản đảm cùng mình rồi! Mà nghe nói là vong hồn ba cô còn linh hiển lắm, chẳng khác nào người sống... 

Bà hạ thấp giọng, ra điều quan trọng: 

- Ông già Tư không kể, nhưng nghe nói bữa nào ông cũng đi chợ nấu ăn thật ngon để cúng vong hồn các cô! Nghe nói họ ăn được thức ăn như khi còn sống vậy! Thiên hạ ở đây đồn đãi dữ lắm, nhưng chưa một ai thấy được tận mắt, bởi đâu có ai lọt được vào trong nhà đó mà an toàn trở ra! 

Hiển tò mò: 

- Sao vậy cô? 

- Ma bắt, ma vặn họng bất cứ ai vào nhìn thấy nhà mồ của họ! Đã có không ít người bị rồi. Chứ nếu không thì làm sao nhà mồ đó yên ổn được với bọn người tham lam gần xa. 

Hiển bất chợt rùng mình. Anh lắp bắp hỏi lại: 

- Chuyện đó có thật sao cô? 

- Sao lại không thật? Bởi vậy cánh cổng sắt tuy có ổ khóa, nhưng không bao giờ bấm ống khóa, vậy mà chẳng một ai lọt vào trong được, ngoại trừ... 

- Ngoại trừ sao cô? 

- Nghe nói chỉ ai đó mà các cô chờ và cho phép thì mới vào được và an toàn trở ra! 

Một lần nữa Hiển rùng mình. Anh cảm thấy lạnh ở sống lưng... 

- Nè cậu... 

Thấy Hiển cứ thừ người ra, bà chủ quán phải gọi giật: 

- Cậu có ý định vào nhà đó không? Nếu có thì thử kêu cửa coi ông già Tư là người quyết định giùm cậu. Nhưng theo tôi nếu chỉ tới thăm thôi thì cậu không nên vào. Tôi ở đây và ngày trước cũng thân thiết với gia đình đó lắm, vậy mà ba năm nay chưa bao giờ tôi bước vào trong ấy! 

Hiển giả vờ: 

- Dạ, có lẽ vậy... 

Anh hỏi thêm vài chi tiết nữa rồi rời nơi ấy. Trong lòng anh còn nhiều hoang mang, nhưng tạm thời anh không muốn quan tâm thêm... 

Trời lúc ấy đã quá xế chiều, đường về Gò Công tương đối vắng vẻ, nên Hiển sau khi đậu xe trên phà rồi, anh mở cửa xe bước xuống ngắm sông nước. 

Mười lăm phút sau, khi đã nhìn thấy bờ bên kia, Hiển trở lại xe và giật mình khi thấy trên xe, chỗ ghế cạnh tài xế có một cô gái đã ngồi sẵn! 

- Cô là... 

Cô gái cười rất tươi: 

- Thấy xe anh ngừng mà không tắt máy, lại không kéo thắng tay, cho nên tôi phải làm giùm. Bộ anh quên là xuống phà không được để xe như vậy sao? 

Hiển ngạc nhiên: 

- Ủa, vừa rồi tôi đã tắt máy rồi mà? 

Chỉ xâu chìa khóa còn ở ổ công tắc, cô gái lắc đầu: 

- Còn trẻ mà mau quên quá. Nếu tắt máy rồi sao chìa khóa còn đây? 

Hiển giật mình: 

- Tôi xin lỗi. Tôi... 

Cô gái bước xuống xe và đi thẳng tới phía sau phà, trước sự ngạc nhiên của Hiển. Anh đinh gọi lại nhưng chỉ nhận được một cái khoát tay và câu nói ngắn của nàng: 

- Anh nên ngồi lên xe, coi chừng tai nạn! 

Hiển còn chưa hiểu nàng ta nói với ý gì thì chợt chiếc phà lắc lư dữ dội, hình như do va chạm với vật gì đó! Nhiều xe xô vào nhau, người ngã và cảnh hỗn loạn diễn ra. Có tiếng hô lớn của tài công: 

- Ai ở đâu ở đó, đừng chạy lung tung, coi chừng phà chìm đó! 

Hành khách sau đó hiểu được phà vừa đụng phải một sà lan chở cát, sà lan bị chìm, còn phà thì chao đảo, vài chiếc xe đậu gần mũi đã lao xuống sông. 

Cũng may, xe của Hiển không sao, bởi lúc đó anh kịp thời giữ thăng bằng, sẵn ngồi trước tay lái nên đã lách được mũi xe vào cột rào chắn, giữ được xe lại, thoát nạn trong đường tơ kẽ tóc! 

- Cô ta... 

Ngầm cám ơn cô gái nên Hiển quay lại tìm, nhưng trong cảnh nhốn nháo của mọi người, anh không tài nào tìm thấy. Mãi đến lúc phà vào tới bến, Hiển tìm lại lần nữa bằng cách đứng ngay thang lên xuống mà cũng chẳng thấy cô nàng đâu! 

Cho đến khi có một đứa bé bán bánh dạo tới đưa cho Hiển mảnh giấy nhỏ: 

- Có người gửi cho chú. 

Hiển cầm và đọc được mấy chữ: 

- Xe sắp tuột thắng, sửa lại trước khi đi! 

Dưới dòng chữ viết không có ký tên, Hiển định hỏi thằng bé xem cô nàng ở đâu thì thằng bé cũng biến mất rất nhanh. Lúc này Hiển mới cho xe ra khỏi khu vực chờ của bến phà, cũng may cách đó không xa có một ga-ra sửa chữa xe, anh ghé vào đó và kêu cần kiểm tra lại thắng. Người thợ vừa nhấp thử vài lần rồi chui xuống gầm xe và kêu lên: 

- Trời ơi! Xe anh chỉ chút xíu nữa thôi là con ốc sắt bộ phận thắng sút ra rồi! 

Hiển ngẩn người ra, anh lẩm bẩm: 

- Sao nàng ta biết? 

Dẫu cô nàng không ký tên dưới dòng chữ, nhưng anh đoán chắc người viết đúng là cô nàng lúc nãy! Anh nhờ sửa lại bộ thắng xong thì vọt xe trở lại bến phà. Cũng kịp lúc anh nhìn thấy dáng một cô gái vừa bước lên chiếc xe đò chạy về hướng Gò Công. Hiển gọi lớn: 

- Cô gì ơi! 

Nhưng chiếc xe đò chạy quá nhanh nên tiếng kêu của Hiển bay theo gió. 

Anh chàng lại nhấn ga, vọt xe theo. Chạy đến hơn chục cây số Hiển mới chặn được chiếc xe lại, tài xế và lơ xe đều bực mình cự nự: 

- Anh làm gì mà chặn xe tụi tôi lại? 

Hiển xin lỗi rồi nhảy lên xe nhìn dáo dác tìm kiếm... Chẳng hề thấy cô gái mà anh thoáng trông thấy lúc nãy? 

- Cô ta... 

Lơ xe giục Hiển: 

- Yêu cầu anh xuống xe cho, tụi tôi còn chạy cho kịp giờ! 

Hiển thẩn thờ bước xuống. Anh quay lại xe mình mà vẫn còn ấm ức... 

Nhưng khi vừa mở cửa xe bước lên thì Hiển đã phải trố mắt: 

- Cô... 

Cô gái chẳng biết ngồi trên xe từ lúc nào rồi! 

- Người gì vô tâm, vẫn chứng nào tật náy, xuống xe mà không tắt máy! Nếu vừa rồi tôi là kẻ gian thì anh còn đâu xe để đi? 

Hiển thật sự lúng túng: 

- Tôi... tôi... 

Giờ cô gái mới nghiêm túc: 

- Tôi cần về Mỹ Tho, anh có thể cho quá giang được hay không? 

Hiển hơi ngập ngừng: 

- Tôi chỉ đi tới Gò Công... Nhưng sao về Mỹ Tho mà cô đi hướng này? Cô lên xe từ đâu? 

Cô gái trả lời rành rọt, chứng tỏ là dân địa phương: 

- Ở giữa đường từ Cần Đước đi Mỹ Tho thì ngoài đường này chỉ còn cách quay lại Chợ Lớn rồi đi ngược xuống. Cự ly đường cũng bằng nhau, nên đi thế nào cũng vậy. Nếu anh không tiện thì thôi, tôi chỉ xin quá giang tới Gò Công, rồi từ đó tôi đi xe đò cũng được. Xin cám ơn trước. 

- Nãy giờ toàn là cô nói, chưa cho phép tôi... 

Cô ta mỉm cười: 

- Vậy tới phiên anh nói. Tôi chờ nghe... 

- Tên cô là gì? 

Cô ta cười xòa: 

- Quên, xin lỗi. Em tên Hà, Thu Hà. 

- Tôi tên Hiển. Được rồi, nếu cô chịu nói rõ hơn cô về Mỹ Tho làm gì thì tôi xin tình nguyện đưa cô về tới chỗ? 

Cô nàng tên Thu Hà vẫn cười rất tươi: 

- Về để... lấy chồng! Thế anh có sẵn lòng cho quá giang không? 

Hiển nhìn sững cô ta: 

- Nhà cô ở đâu? 

- Cần Đước! 

- Kể cũng lạ. Con gái mà phải thân chinh đi lấy chồng, thay vì phải đợi chồng tới nhà mình để cưới! Cô nói như thế mà nghe được sao? 

- Yêu nhau thì sá gì ai tới cưới ai? Xách gói theo trai cũng đâu phải là chuyện lạ! 

Thấy cô nàng vui vẻ, biết nói đùa, Hiển thích thú: 

- Hôm nay tôi hên nên ra đường gặp cô. Có được một người đồng hành vui vẻ như vậy thì đỡ buồn ngủ biết mấy! 

Nàng nghiêm giọng: 

- Anh chưa nói cám ơn về lời nhắc cứu mạng! 

Hiển giật mình: 

- À sao cô biết trước điều mà tưởng chừng như vô phương vậy? 

- Nếu em nói là do... nhìn sắc mặt của anh mà đoán được chuyện sắp xảy ra, anh có tin không? 

Hiển nhìn cô nàng với ánh mắt hoài nghi: 

- Không lẽ cô là thầy bói? 

Thật bất ngờ, cô nàng gật đầu: 

- Em có thể đoán chuyện tương lai, quá khứ được! Bằng chứng là vừa rồi, lúc ở trên phà em nhìn thấy anh cứ thẫn thờ khi từ trên xe bước xuống... 

Hiển lắc đầu: 

- Tôi vẫn chưa tin. Nhưng thôi, chuyện cũng xảy ra rồi và cô đã đoán đúng. Tôi thành thật cám ơn. Nhưng cô thử đoán xem... tôi có vợ chưa? 

Nàng không ngạc nhiên chút nào trước câu hỏi của Hiển và trả lời ngay, không cần suy nghĩ: 

- Có rồi và cũng mất rồi. Hiện nay coi như không có vợ! 

Hiển giật mình: 

- Cô... cô là... 

Nàng cười: 

- Biết tên em rồi mà, sao vẫn là cô này cô nọ? 

Hiển lại một phen lúng túng: 

- Cô... Thu Hà làm tôi bất ngờ... 

- Nhưng anh xác nhận xem em nói có đúng không? 

- Ờ thì... đúng. Nhưng mà... 

- Không cần nhưng nhị gì cả. Em nói không sai là được rồi. Và anh có muốn nghe chuyện tương lai không? 

Hiển trố mắt: 

- Cô dám nói... tôi sắp lấy vợ lắm à? 

Nàng gật đầu: 

- Điều đó không sai. 

Hiển cười to: 

- Lần này cô sai rồi. 

Cô nàng vẫn bình thản: 

- Sai hay không thì đợi chuyện đến mới chứng minh! 

- Nhưng... riêng chuyện lấy vợ lần nữa thì e khó! Cô có biết là với lần dang dở vừa rồi của tôi đã là một vết thương lòng không thể lành được, vậy làm sao có can đảm để bị thương thêm lần nữa! 

Lần này người cười to lại là cô nàng: 

- Vậy mà sẽ xảy ra đó! 

Hiển vừa định nói, chợt nàng la lớn: 

- Tấp vào lề, dừng xe lại! 

Hiển kịp làm theo thì chỉ chưa đầy mười giây sau đã có một chiếc xe tải lớn chạy ngược chiều bị đứt thẳng và đâm sầm vào đường lưu thông của Hiển. 

Nhờ đã tấp kịp vào sát lề và dừng lại, nên anh đã tránh được cú va chạm mạnh! 

Nhiều người đi gần đó hốt hoảng, cứ tưởng xe Hiển đã lãnh đủ. Khi họ chạy tới nhìn thấy thì kêu lên: 

- Đúng là được trời Phật che chở! 

Người khác thì nói: 

- Ông này vừa rồi coi như chết chắc! 

Hiển vẫn chưa hoàn hồn, anh gục đầu xuống tay lái mà lồng ngực hầu như không còn không khí để thở. Mãi tới khi có ai đó bên ngoài nói to lên: 

- Thoát rồi, chạy đi chứ! 

Hiển hoàn hồn ngẩng lên thì lại quá đỗi ngạc nhiên khi tìm không thấy Thu Hà đâu. Anh gọi to: 

- Cô Hà ơi! 

Không nghe tiếng trả lời, Hiển phải mở cửa xe bước xuống. Đó là quãng đường vắng, chung quanh toàn là đồng lúa. Các xe cộ khác thì sau tai nạn hụt đã chạy đi hết. Hiển vẫn cất tiếng gọi: 

- Cô Thu Hà ơi! 

Cô ta biến mất cũng giống như lúc đột ngột hiện ra khiến cho Hiển bàng hoàng: 

- Không lẽ cô ta là... ma? 

Ngoại trừ là ma, chứ người thật thì làm sao ẩn hiện lạ thường như thế?

° ° °

Hiển trở lại Gò Công vào nửa đêm, cả nhà sửng sốt khi thấy anh bước vào. Bà cô anh trố mắt nhìn, vừa hỏi mà giọng run run: 

- Con có bị gì không? 

Hiển ngạc nhiên: 

- Bị gì là sao? 

Thu Nguyệt cũng đang sốt ruột, cô nói chen vào: 

- Cả nhà đang lo cho anh khi nghe tin anh bị đụng xe! 

Hiển ngơ ngác: 

- Đụng hồi nào? 

Cô Tư của Hiển lại nhìn anh từ đầu đến chân, rồi nói mà giọng vẫn chưa hết run: 

- Cô ấy nói con bị đụng xe, không biết sống chết ra sao nên cả nhà lo quá chừng, dượng Tư con đã đi với mấy đứa trong nhà lên trên đó rồi. 

Hiển phải gắt lên: 

- Cô nào nói? 

- Cô... cô gì đó... 

Bà quay sang Thu Nguyệt: 

- Cô ấy nói tên gì? 

Nguyệt đáp: 

- Thu Hà! 

Hiển kêu lên: 

- Thu Hà! Cô ta tới đây sao? 

- Tới hồi đầu hôm. 

- Đâu rồi? 

Cô Tư ngạc nhiên: 

- Con hỏi cái gì đâu rồi? 

Hiển la lớn: 

- Thì cô Thu Hà đó! 

Thu Nguyệt phải đáp thay cô: 

- Đi rồi. Nhưng có nói là sẽ trở lại vào sáng mai, khi nào anh an toàn trở về! 

Hiển muốn điên đầu: 

- Cô này... cô này... 

Anh định nói cô ta là ma! Nhưng kịp ngừng lại... 

- Cô này hơi lạ, em chưa từng gặp. Quen sao với anh vậy anh Hiển, mà lại biết nhà dưới này? 

Hiển không đáp mà lại lẩm bẩm đủ nghe: 

- Cô ta muốn gì nữa đây? 

Nghe không rõ, Thu Nguyệt tò mò: 

- Bạn gái của anh hả? Lúc chiều khi ra tiếp cô ta, anh Vinh đã ngẩn ngơ vì sắc đẹp và quả quyết đó là bạn gái của anh, phải không? 

- Bậy! Ai dám... 

Suýt nữa Hiển đã nói ra ý của mình. Chợt nhớ tới Vinh, anh hỏi: 

- Vinh đâu rồi? 

- Cô ấy nhờ đưa ra bến xe, nói là cần trở về Mỹ Tho gấp lắm! 

Hiển hốt hoảng: 

- Nguy rồi! 

Thu Nguyệt ngạc nhiên: 

- Chuyện gì vậy? 

Hiển quýnh lên: 

- Vinh đi lâu chưa? 

- Khoảng hơn nửa tiếng. 

Cô Tư chợt lo: 

- Đây ra bến xe đâu có xa, mà sao tới giờ này chưa về? Hồi nãy mày cho nó đưa làm gì. Tao thấy con nhỏ đó đẹp quá tao cũng ngại... 

Thu Nguyệt cười: 

- Con cũng biết vậy, nhưng con muốn nhân dịp này thử lòng dạ của chàng ta coi sao? Nếu mê nữ sắc đến nỗi theo tán tỉnh cô ấy thì... con chia tay luôn. 

Hiển phóng ra xe, nói với lại: 

- Em có đi kiếm nó về không, hay là để... lấy xác nó? 

Cô Tư hốt hoảng: 

- Con nói điên gì vậy Hiển? 

Thu Nguyệt nhìn thái độ của Hiển thì đoán biết có chuyện không ổn, cô vọt theo ngay. Khi ngồi trên xe rồi cô hỏi dồn: 

- Chuyện gì vậy anh Hiển? 

- Cô ấy là ma đó! 

Thu Hà tưởng mình nghe lầm: 

- Anh nói cái gì? 

Hiển lặp lại rõ ràng hơn: 

- Anh nói cô Thu Hà đó là hồn ma. Chính anh đã chở cô ấy về, tới chỗ xe suýt bị tai nạn thì cô ấy biến mất! Anh... 

Vừa khi ấy có tiếng từ ngay băng sau xe: 

- Hai anh em lại nói xấu người vắng mặt rồi! Phải chăng hồn ma biết cứu người thoát chết trong đường tơ kẽ tóc trong tai nạn vừa rồi? 

Hiển suýt nữa đã tông xe vào cột đèn đường khi nghe tiếng nói đó! Anh kịp dừng xe lại, quay nhìn ra sau và kêu lên: 

- Cô Thu Hà! 

Thu Nguyệt há hốc mồm, chưa kịp nói gì thì Thu Hà đã lên tiếng: 

- Tôi vội chạy đi ngay lúc chiếc xe tải đâm vào xe anh, rồi leo lên một xe khác là để về nhà báo tin, vậy mà anh lại cho tôi là hồn ma, nghĩ cũng vui! 

- Nhưng vừa rồi... 

- Tôi thấy anh vào nhà, tôi không tiện vào, ngồi lên xe chờ anh ra. Hai người ra không hề để ý có người ngồi phía sau, và... tôi biến thành hồn ma phải không? 

Nghe cô nàng hỏi mắc mỏ, Hiển hơi lúng túng: 

- Thật ta tôi... tôi cũng hoang mang... Ai bảo cô khi ẩn khi hiện làm tôi chẳng biết đâu mà lần! 

Thu Nguyệt vội hỏi: 

- Vậy anh bạn của tôi đâu? 

- Anh ta vừa mới về, bước vào nhà thì cô đi ra, cô còn hỏi gì nữa? 

Nghe thế, Nguyệt bảo Hiển: 

- Anh Hiển cho em trở về nhà, em xem Vinh ra sao! 

Hiển vẫn chưa hoàn hồn, anh còn thừ người ra thì Nguyệt đã nhảy xuống xe, cô bảo: 

- Em đi xe lôi về đây! 

Nguyệt đi một đoạn xa rồi, lúc đó Hiển mới hỏi lại: 

- Thật ra cô... cô là... 

Thu Hà móc trong túi ra một phong thư: 

- Cái này em định đưa cho anh ngay lúc gặp dưới phà, nhưng chưa kịp thì... 

Nhìn nét chữ ngoài phong bì, Hiển giật mình: 

- Của... Diễm Chi? 

Thu Hà cười nhẹ: 

- Vẫn còn nhớ người tình cũ sao? 

- Cô là gì của Diễm Chi? 

- Là em họ. Có lần nào anh nghe chị Chi nói về người em họ học trường mỹ thuật không? 

Hiển chợt nhớ ra: 

- Cô học vẽ tranh lụa? Người có bức tranh lụa vẽ hình thiếu nữ với hoa sen đoạt giải nhất cuộc thi toàn quốc? 

Thu Hà cười thích thú: 

- Trí nhớ anh không tồi chút nào! Và anh còn nhớ có lần chị Diễm Chi nói rằng khi nào chị ấy chết, hoặc anh và chị ấy không lấy nhau được thì chị ấy sẽ làm mai đứa em họ cho anh không? 

- À... có... 

- Và anh cũng đã hứa với chị ấy là suốt đời sẽ yêu thương chẳng những chị ấy, mà còn cả những người thân của chị ấy nữa, đúng không? 

- À... chuyện ấy có... 

- Vậy anh hãy đọc lá thư này đi. 

- Diễm Chi chỉ cho em biết nhà dưới quê của anh? 

- Và cả số xe hơi của anh nữa. Chưa gặp anh lần nào, nhưng qua ảnh trong album của chị Diễm Chi, em đã nhớ mặt anh nên khi gặp trên bến phà em nhận ra ngay. 

Thấy Hiển có vẻ hiểu ra, cô nàng nheo mắt hỏi: 

- Bây giờ còn cho em là... ma nữa thôi? 

Hiển hơi ngượng: 

- Anh xin lỗi... 

Anh bóc thư ra đọc. Trong thư Diễm Chi xin lỗi anh về việc đột ngột bỏ đi mà không nói lý do, cho rằng mình có một lý do đặc biệt khó giải thích, và mong rằng Hiển hãy làm bạn với Thu Hà và coi Hà như là mình. Cô nhấn mạnh đoạn cuối thư: "Thu Hà rất ngoan và có hoàn cảnh tội nghiệp, nó lâu nay cô đơn, nên em mong rằng anh sẽ làm cho nó vui trở lại. Còn riêng em thì anh hãy coi như em đã... chết. Bởi em...". 

Thư không có đoạn cuối. Hiển ngẩng lên hỏi: 

- Diễm Chi đang ở đâu? Cô ấy... 

- Chị ấy... bị bệnh nan y, không bao giờ gặp anh nữa. Và anh cũng đừng hy vọng gặp lại, bởi chị ấy thề nếu để cho anh gặp thì thà chết còn hơn! 

Hiển hốt hoảng: 

- Diễm Chi bệnh gì? 

Hà lắc đầu, giọng buồn bã: 

- Em đã thề với chị ấy rồi, thà anh giết em chết, chứ không bao giờ em chỉ chỗ. Thôi, nếu anh không có ý gì khác thì em xin kiếu... 

Cô mở cửa xe bước xuống, Hiển vội chụp tay lại. 

- Khoan đã! 

Anh không nói gì thêm, nhưng Thu Hà lại ngả người xuống băng ghế xe, rồi ôm mặt khóc nức nở! 

Diễn biến sự việc quá nhanh, khiến cho Hiển chẳng kịp đối phó. Anh lúng túng buông tay cô nàng ra. Cuối cùng, anh đóng hẳn cửa xe lại, nói khẽ: 

- Mình đi rồi sẽ tính! 

Anh thay vì chạy về nhà lại hướng xe về phía bến phà, nơi cách đó khá xa. Đi được một đoạn, Hiển định quay ra sau hỏi chuyện thì thấy Thu Hà đã ngủ ngon lành. Có lẽ cô nàng đã quá mệt với một ngày vất vả, bao nhiêu chuyện... 

Không nở để cô nàng giật mình, nên Hiển lái chậm lại. Một giờ sau thì đến bến phà. Lúc này đã gần sáng nên chuyến phà đầu tiên của ngày rất vắng khách, chỉ có chiếc xe của Hiển và một số khách bộ hành nhưng phà vẫn chạy. 

Qua đến bờ bên kia trời mới sáng hẳn, Hiển muốn dừng xe nghỉ và ăn lót dạ, nhưng nhìn thấy Thư Hà vẫn ngủ say, nên anh quyết định đi tiếp. Và chẳng hiểu vô tình hay số phận, mà khi đi ngang qua chỗ rẽ vào nơi có ba ngôi biệt thự... ma thì xe hết xăng! 

Nghĩ là có thể nhờ ai đó đi mua giúp xăng rồi trả họ thù lao. Nhưng mất gần nửa giờ mà Hiển vẫn không nhờ được chuyện đó. Cuối cùng, anh đành phải bảo Thu Hà lúc đó vừa mới thức dậy: 

- Cô ngồi tạm trên xe, tôi sẽ xách can đi mua xăng, xong rồi mình sẽ đi tiếp. 

Cô nàng uể oải đáp: 

- Được rồi, em tranh thủ ngủ thêm một chút. 

Hiển đi gần một tiếng đồng hồ mới mua được can xăng. Nhưng khi trở lại xe thì chằng còn thấy cô nàng đâu! 

- Lại thế nữa, cô này giỡn mặt với mình chắc? 

Phát hiện một mảnh giấy nhỏ trên băng ghế với mấy chữ viết vội: "Em có bệnh riêng nên phải về nhà gấp mới chữa được. Cám ơn anh đã giúp đở, hẹn gặp lại sớm". 

Hiển càu nhàu rồi châm xăng vào xe. Anh tính sau đó sẽ trở lại Gò Công. 

Nhưng xăng đã có rồi mà xe vẫn chưa chịu nổ máy. Hiển đang bực dọc thì một người đi ngang có vẻ rành về máy móc xe đã bảo: 

- Xe chạy đến hết sạch xăng có thể bị cặn của xăng làm nghẹt bình xăng con rồi! Cậu phải đi ngược lại khoảng vài cây số nhờ thợ tới súc bình xăng cho thì mới nổ máy được. 

Ông ta chạy xe đạp nên Hiển ngỏ ý nhờ gọi thợ giùm, ông gật đầu: 

- Tôi cũng biết về máy, chút nữa có thợ tới tôi cũng có thể giúp cậu một tay! Cậu cứ nghỉ tay đi, hoặc đi ăn uống lót dạ, để tôi lo cái xe cho. 

Bà chủ quán bữa trước cũng ở ngay đó, bà nhớ ra Hiển liền nói: 

- Cậu cứ để xe đó vào trong quán tôi ngồi nghỉ, cần ăn gì tôi làm cho ăn, chú Sáu này là người quen trong xóm, có thể giao xe cho chú được. 

Hiển cũng đã quá mệt rồi nên nghe vậy anh bước ngay vào quán, để chìa khóa công tắc lại. Bà chủ quán hỏi: 

- Cậu đi một mình sao, còn mấy người hôm trước đâu? 

- Cháu đi với một người bạn nữa. Lúc nãy cháu đi mua xăng thì cô ấy còn ở đây, bộ dì không thấy sao? 

Bà chủ quán lắc đầu: 

- Tôi đâu thấy gì. Nãy giờ tôi ngồi đây, chỉ thấy duy nhất có một cô gái lạ đi vào phía ba ngôi nhà trong kia... 

Hiển giật mình: 

- Cô gái lạ nào? 

- Tôi đâu biết. Mà ở đây thỉnh thoảng cũng có vài cô đi vào trong đó, chẳng biết con cái ai trong xóm này, nên tôi cũng không để ý. 

Tự dưng Hiển thoáng có ý nghĩ trở lại ba ngôi nhà ma trong kia. Anh dặn bà chủ quán: 

- Tôi có việc vào trong này một lát, nếu mấy người thợ sửa xe có tới dì nói họ cứ làm, lát nữa tôi sẽ ra thanh toán tiền. 

Hiển đi rất nhanh vào phía trong trước sự tò mò của bà chủ quán, bởi vậy khi ngang qua cổng ba ngôi nhà, anh tạt vào ngay khi thấy cổng chỉ khép chứ không khóa. 

Cũng giống như lần trước, dù giữa ban ngày, nhưng nhà vẫn vắng lặng, không thấy bóng ông già giữ nhà đâu. Thoang thoảng có mùi hương nhang tỏa ra, Hiển đoán chắc là ông già mới vừa đốt nhang xong, đang quanh quẩn đâu đó, nên anh cất tiếng gọi khẽ: 

- Chú Tư ơi? 

Không có tiếng trả lời nên Hiển đi thẳng về phía căn nhà nhỏ, nơi ở của ông. Vẫn chẳng thấy đâu, mà cửa lại khóa, chứng tỏ là ông ta đã đi ra khỏi nhà. 

- À, ông ấy đi chợ mua thức ăn! 

Nhớ lại những mâm cơm dọn lên hằng ngày, Hiển hiểu ra sự vắng mặt của ông ta lúc này. Còn đang cân nhắc xem có nên ở lại trong khi không có mặt ông già hay là đi ra, thì chợt anh nghe có tiếng động phía ngôi nhà bên trái. 

Tiếng động giống như ai đó mở, đập cánh cửa, đồng thời lại như có tiếng bước chân dồn dập nữa. Hiển kêu khẽ: 

- Có thể có kẻ trộm lắm! 

Anh quên cảnh giác, phóng thẳng về hướng ấy. Khi đến trước cửa kính thì mới chợt nhớ, anh khựng lại. Thì ra tiếng động phát ra từ cánh cửa kính khép không chặt, bị gió làm va đập. Mùi nhang từ trong bay ra thơm lừng. Chợt Hiển giật mình khi thấy ngọn đèn dầu để phía dưới quan tài đang bừng cháy lên một cách bất thường, như sắp sém vào phần gỗ cổ áo quan!

- Không khéo nó làm cháy quan tài mất! 

Không nghĩ ngợi thêm, Hiển tung cửa vào và kịp vặn cái bấc đèn xuống. 

Thì ra có lẽ ông già giữ nhà mới châm thêm dầu, dầu nhiều tràn ra, gặp gió làm lửa cháy bùng lên vừa rồi! 

- Để đèn này quanh năm nguy hiểm chết! 

Hiển vừa càu nhàu vừa định bước lui ra ngay, chợt mắt anh nhìn thấy tấm ảnh bán thân đặt trước đầu quan tài, anh tái mặt! 

- Cô ta? 

Cô gái trong ảnh thờ kia giống với Thu Hà vừa rồi như khuôn đúc! Mà ngay phía dưới ảnh còn có dòng chữ đề tên: Đoàn Thị Thu Hà. 

- Trời ơi... 

Hiển kêu lên được mấy tiếng rồi tối tăm mặt mũi, cố quay lưng chạy ra ngoài, nhưng hình như anh chỉ chạy được tới cổng rồi gục ngã...

° ° °

Buộc lòng Hiển phải tìm đến nhà của Diễm Chi, sau khi anh tỉnh lại từ nhà mồ ba cô gái. Theo lời kể của Thu Hà thì cô ta là em họ của Diễm Chi, nên dù đã chia tay và thề không bao giờ gặp lại, nhưng hôm nay Hiển vẫn phải tìm tới. 

Tiếp Hiển là bà mẹ của Diễm Chi, người trước đây từng thương Hiển như con ruột. Bà vừa trông thấy Hiển đã òa lên khóc! Hiển bình tĩnh hỏi: 

- Thưa bác, con muốn gặp Diễm Chi. 

Bà Hằng nhìn Hiển đầy ngạc nhiên: 

- Con thật sự không biết tin gì về con Chi? 

Hiển ngơ ngác: 

- Tin gì về Diễm Chi? Kể từ khi Diễm Chi rời xa con mà không một lời giải thích, con đã tới đây gần chục lần, mà lần nào cũng bị hết Chi rồi tới bác xua đuổi, thì thử hỏi con còn mặt mũi nào để tới nữa. Do đó làm sao con biết được những gì xảy ra chung quanh Chi? 

Bà Hằng thở dài: 

- Nó chết rồi! 

Câu nói khiến Hiển tưởng như mình từ trên trời rơi xuống đất: 

- Bác nói... ai chết? 

- Con Diễm Chi mắc chứng bệnh nan y, biết không qua khỏi nên nó chủ động rời xa con. Sau đó về ở trên đất rẫy của ông bà nội trên Lâm Đồng, tuyệt giao luôn với mọi người... Hôm đó, sau một thời gian bị căn bệnh hành hạ, nó biết sắp lìa đời nên nhắn cho bác hay, bác cho mấy đứa em bà con của nó biết tin, chúng tựu về thăm. Nhưng không còn kịp nữa. Diễm chi chết, có viết lại cho con một lá thư, giao cho con nhỏ em nhờ chuyển tới con. Nhưng... 

Bà nói tới đó thì do quá xúc động, đã khóc ngất rồi không nói được nữa... 

Lát sau Hiển đột ngột hỏi: 

- Phải người chuyển lá thư tên là Thu Hà không? 

Bà Hằng kinh ngạc: 

- Sao con biết? 

- Và cô ấy cũng đã chết? 

Giọng bà Hằng trở nên bi thảm: 

- Chết thật thương tâm! Chúng nó chết cả ba chị em, chỉ vì đi thăm con Diễm Chi! Trời ơi... 

Bà gục xuống khóc và không còn sức ngẩng lên nữa. Hiển phải an ủi: 

- Bác đừng quá xúc động mà ảnh hưởng đến sức khỏe. Hôm nay con đến đây cũng vì chuyện của Diễm Chi và người tên là Thu Hà này. Nhưng trước tiên, xin bác nhận lời tạ lỗi của con, chỉ vì vô tình mà con không biết nỗi khổ của Diễm Chi, để cho cô ấy chịu đựng nỗi đau một mình. 

Chợt nhớ ra, bà Hằng hỏi: 

- Con Thu Hà đã chết chung chuyến xe cùng hai em của nó khi lên Lâm Đồng thăm Diễm Chi trở về, vậy con gặp nó lúc nào mà biết có lá thư? 

Hiển phải kể lại mọi chuyện. Vừa nghe xong, bà Hằng đã hốt hoảng: 

- Như vậy là linh hồn tụi nó hiển linh sao? 

- Con không biết, nhưng rõ ràng một trong ba cô gái đó đã gặp con như một người sống. Vậy giữa họ và Diễm Chi có mối liên hệ thế nào vậy bác? 

- Bà con gần, mà riêng con Thu Hà với con Diễm Chi còn có mối quan hệ mật thiết bởi tụi nó cùng một sở thích, cùng đi học chung trường một thời gian, cùng tuổi và đặc biệt là cùng hẹn ước có phước cùng hưởng, có họa cùng chia, nhất là trong chuyện tình yêu... 

- Thảo nào! 

Hiển kêu lên khiến bà Hằng một lần nữa ngạc nhiên: 

- Là sao vậy con? 

- Trong lá Chi gửi cho con, có dặn con là phải... thương cô Thu Hà! 

Bà Hằng hình như hiểu chuyện đó, bà chỉ nhẹ lắc đầu rồi lặng lẽ đi vào trong, lát sau trở ra, bà đưa Hiển một gói vải nhỏ: 

- Ở đây còn có những gì con và Diễm Chi có với nhau, thời hai đứa con mặn nồng. Đáng lẽ bác giữ lại, nhưng bây giờ thấy không còn cần nữa, nên tốt nhất là con nên giữ. Và biết đâu nó sẽ tốt cho con hơn khi gặp lại Thu Hà... 

Bà nói xong quay vào hẳn trong nhà, không quay ra nữa, Hiển đứng một hồi lâu rồi lẳng lặng rời nơi đó. Khi xe anh chạy đi rồi thì có một đôi mắt nhìn lén qua khe cửa buồng, nhìn theo cho đến khi bóng Hiển khuất hẳn. Lúc này, người có đôi mắt ấy mới bật khóc! 

Giọng của bà Hằng đẫm nước mắt: 

- Xong rồi con. Từ nay con có thể yên tâm ở đây với mẹ. Mẹ sẽ không bao giờ bỏ con, dù con bây giờ chỉ còn là hồn ma bóng quế thì mẹ vẫn cần con bên mình. Và cũng từ nay con đừng mang ý định giành lại thằng Hiển nữa. Những gì con thử thách nó, mượn vong hồn của mấy đứa con gái chết oan giữa đường thử nó thì nào có kết quả gì. Nó vẫn là một đứa con trai tốt. Từ khi xa con nó có ai khác đâu. Kể cả cô gái tên Thu Hà mà con nhờ đóng vai em họ, đẹp như vậy mà nào có mê hoặc được nó. 

Giọng người con gái cũng đầy nước mắt như mẹ: 

- Con cũng đâu có hằn thù gì với anh Hiển. Chỉ vì con giận là khi con nông nổi bỏ đi để mong anh ấy theo cầu cạnh, nào ngờ anh ấy lờ con luôn, con nghĩ chắc lúc đó anh ấy có người khác nên con mới tự tử chết. Chết rồi con mới hối tiếc, mới thấy mình dại. Mà cũng tại mẹ hết, tại sao lúc anh Hiển đi tìm con nhiều lần mà mẹ không cho anh ấy gặp con? 

Bà Hằng thở dài não ruột: 

- Lúc ấy má tưởng giận dỗi và lời nói của con là thật, nên má quyết liệt không cho nó gặp con. Ai ngờ sau đó mới biết là con giả vờ. Biết thì đã muộn! Khi ấy con đã tự tử, còn thằng Hiển thì giận luôn, bỏ đi mất tăm! Con thấy không chỉ một chút hờn giận mà hậu quả không thể tưởng tượng nổi! 

Ngừng một lát bà lại tiếp, giọng có vẻ bùi ngùi: 

- Cho tới bây giờ mẹ vẫn chưa hết hối tiếc, tội nghiệp cho ba đứa con gái vô tội kia. Nó chết oan là phần số của nó, nhưng chuyện mình dựng lên nói nó có bà con với mình, chỉ vì đi thăm mình mà chết, nếu lỡ thằng Hiển nó tin thật, rồi nó bị tai họa gì với những hồn ma ấy thì sao? 

- Con cũng đang suy nghĩ là liệu có nên đưa anh Hiển về đây mãi mãi với con không? 

Bà Hằng hoảng hốt: 

- Con đừng hại người ta! Một mình con lỡ chết rồi thì thôi, nó còn có gia đình, còn có sự nghiệp, đừng gây ra thêm oan nghiệt nữa con! Việc con kéo ba cô gái chết cùng một cái vực ở đường đèo, mẹ đã thấy ăn năn rồi. 

- Không! Con đâu muốn anh Hiển chết theo. Con chỉ muốn làm cho anh ấy về xứ này lập nghiệp, ở lại đây. Dù sau này có lấy người khác con cũng chấp nhận, cũng phù hộ cho anh ấy... 

Bà Hằng chép miệng: 

- Thôi đi con, níu kéo mà làm gì nữa! Âm dương cách trở, có nhớ nhau thì ngầm phù hộ cho nó là đủ rồi. Má vẫn thương thằng đó, nó hiền... 

Im lặng hồi lâu, bỗng giọng của Diễm Chi cất lên: 

- Thôi được rồi, chuyện anh Hiển có còn nhớ tình con mà về thăm con hay không thì để anh ấy tự nguyện. Nhưng con sẽ tác động để sau này anh ấy thường xuyên về chỗ nhà mồ ba cô thăm và cúng vái thường xuyên! Bởi dẫu sao thì cũng tại con mà ba cô ấy mới chết, nay anh Hiển thay con chuộc lỗi với họ. 

Bà Hằng hỏi lại: 

- Lâu nay mẹ không nghe con nói chi tiết này, sao lại do con mà ba cô ấy chết? 

Giọng Diễm Chi chùng xuống: 

- Hôm đó ba cô gái ấy đi xe chung với những người bạn khác, khi đi qua đèo chỗ con tự tử, con đã hiện ra đón xe họ lại, bởi con thoáng thấy có một thanh niên vóc dáng giống y như anh Hiển. Chính vì sự lầm lẫn đó mà tài xế hoảng sợ, mất thăng bằng và để xe lao xuống vực, nên các cô ấy mới chết! Kể từ đó con cứ ân hận hoài, nên tìm cách bù đắp cho họ, mà Hiển là một cách... 

Lại im lặng thêm một lúc... Sau đó, giọng của cô nàng lại càng buồn hơn: 

- Con sẽ trả ơn sòng phẳng. Thôi, mẹ ra ngoài đi, để con được yên. 

Bà Hằng buồn bã bước ra. Đã từ lâu nay bà phải chịu cảnh như vậy. Gần được con chỉ qua tiếng nói với cảnh âm dương cách trở thế này... Mà lần nào Diễm Chi hiện về hầu như cô cũng khóc sướt mướt...

° ° °

Chẳng hiểu Diễm Chi tác động thế nào mà kể từ sau đó không lâu, cứ nửa tháng, một tuần, đã thấy Hiển đích thân lái xe về chỗ nhà mồ ba cô thăm viếng. Về đó chỉ để thắp hương và cúng hoa trái. Có lẽ do được ông già thông tin, Hiển biết được sở thích của từng cô gái nên vật cúng của Hiển luôn khác nhau cho ba cô. Người thì thích ổi, kẻ thích me chua và riêng Thu Hà thì luôn được cúng xoài tượng. 

Ông già Tư cũng chẳng hỏi Hiển tại sao lại làm vậy nhưng hình như ông ngầm chấp nhận việc đó. Và quan trọng là vong hồn các cô gái cũng không phản ứng gì với chàng trai tội nghiệp này. Nên việc Hiển lui tới là việc đương nhiên... 

Với Diễm Chi thì ngôi nhà nhỏ của mẹ cô ở Lâm Đồng đã được Hiển cho xây lại khang trang hơn. Ngoài gian nhà lớn dành cho bà mẹ, Hiển còn xây riêng cho mình một gian nhỏ hơn, xinh xắn và riêng biệt cả về màu sắc lẫn kiểu cách. Thì ra, đó là theo ý thích của Diễm Chi lúc cô còn sống. Hầu như Hiển ở đó suốt, chỉ trừ phi có công việc làm ăn mới về Sài Gòn. 

Cuộc sống của Hiển cứ tiếp diễn như vậy. Không một ai bên ngoài biết câu chuyện và cuộc sống kỳ lạ đó của anh... 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#truyện