truyen ma hay

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Price Day

Phép lạ lúc bốn giờ

Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động

Nguồn: http://vnthuquan.net/

Tạo ebook: Nguyễn Kim Vỹ.

MỤC LỤC

Phép lạ lúc bốn giờ

Price Day

Phép lạ lúc bốn giờ

Biên dịch: Kim Lương

Four O’Clock

Những cây kim của cái đồng hồ báo thức để trên bàn trước  mặt ông Grangle đứng ở 3 giờ 47 phút, vào một buổi chiều mùa hè.

- Mi đã sai về điều đó, mi biết chứ? Ông nói, mắt không rời khỏi cái mặt đồng hồ. Mi đã hoàn toàn sai rồi, Pet ạ, như ta đã giải thích cho mi khá nhiều lần trước đây. Cái góc độ đạo đức không trưng ra những sự khó khăn nào cả.

Con két trong cái chuồng treo phía trên ông nghiêng đầu đi và nhìn xuống với một con mắt cứng cỏi, lạnh lùng của loài bò sát, một con mắt cổ xưa, một con mắt qua hết thời đại này tới thời đại khác đã cổ xưa hơn là loài người.

Nó nói:

- Quả hạt.

Ông Grangle, hai mắt vẫn còn nhìn vào cái đồng hồ, lấy một củ lạc trong cái bát nứt rạn ở chỗ khuỷu tay ông và giơ lên bên trên đầu ông, tới những chấn song của cái chuồng. Con Pet quắp lấy củ lạc bằng cái móng dài như da của nó, những cơ - bắp như lò xo bằng thép làm cái mỏ cứng như xương hé ra. Nó xiết chặt củ lạc và bóp vỡ nó ra, trong căn phòng bày biện đồ đạc, âm thanh hòa lẫn với các âm thanh của một thành phố lớn đang ùa vào qua cái cửa sổ mở ngỏ - tiếng còi xe hơi, tiếng bước chân trên vỉa hè, tiếng trẻ con gọi nhau, tiếng máy bay bên trên đầu giống như một con ong cần cù, mãn nguyện.

- Hoàn toàn thật vậy - ông Grangle nói lúc 3 giờ 49 phút. Chỉ có một người nào đứng trên tất cả mọi tình cảm riêng tư, chỉ có một người nào có thể nhìn vào toàn bộ sự việc như thể từ bên ngoài, thì mới có thể được tín nhiệm về mặt đạo đức để đưa ra một quyết định như thế.

Khi cây kim lớn chỉ tới 3 giờ 50, ông cảm thấy một ý thức về quyền lực tràn lên một cách sâu xa trong người ông.

- Hãy suy nghĩ đi, Pet. Trong mười phút. Trong mười phút ngắn ngủi, khi ta nói một lời tất cả những kẻ ác trên toàn thể thế giới sẽ trở thành một nửa cái tầm vóc hiện nay của họ, do đó họ có thể được nhận ra. Tất cả những tên sát nhân chưa bị bắt và những tên bạo chúa, và những kẻ kiêu hãnh và tội lỗi, tất cả những kẻ cuồng hung và những kẻ làm điều sai quấy,  và những kẻ lường gạt bắt bí thiên hạ, và những tên nghiện ngập thuốc sái, và những tên phạm pháp - Cặp mắt ông sáng long lanh với sự toàn năng - Tất cả bọn họ, tất cả mọi người.

Con Pet nói.

- Quả hạt.

Ông Grangle cho nó một củ lạc.

- Ta biết mi không hoàn toàn đồng ý với giải pháp một nửa tầm vóc này - ông nói - nhưng ta tin rằng nó là giải pháp tốt nhất, sau khi mọi việc đã được cứu xét kỹ càng.

Ông đã ngày đêm nghiên cứu về các giải pháp chọn lựa từ cái buổi sáng ba tuần lễ trước đây, khi ông ngồi trên một cái ghế dài trong công viên ngắm nhìn các hình ảnh trong những đám mây phía bên kia cái hồ. Ông có ý nghĩ là ông có quyền lực để làm điều này, là vào lúc này ông đã được ban cho đặc quyền đóng một cái dấu lên tất cả những kẻ gian ác trên đời, để cho mọi người có thể nhận ra chúng.

Sự ý thức này đã không làm ông ngạc nhiên chút nào. Đã có một lần trước đây, một việc như thế đã xảy ra. Đã có lần ông nắm giữ quyền uy để chặn đứng các cuộc chiến tranh. Đó là khi mà đài phát thanh nói về các cuộc không tập lớn vào những thành thị. Trong trường hợp này, điều đặc biệt mà ông có thể làm là lấy chất cứng ra khỏi những cánh quạt của máy bay, để cho vào một buổi sáng nào đó, các nhân viên phi hành đoàn, người mặc bó chặt quần áo giống như lũ trẻ con ăn mặc chống rét lạnh, đi ra để lên máy bay của họ, và họ sẽ thấy những cánh quạt rũ xuống mềm xìu giống như những cái vỏ chuối rỗng ruột vậy.

Bận đó ông đã trì hoãn quá lâu, đợi chờ cho thật đúng thời gian và cho thật đúng kế hoạch, và họ đã đánh lừa ông một cách thiếu công bằng. Họ đã chế ra máy bay phản lực với loại máy bay này thì quyền năng của ông không thi thố được.

Rồi cũng có vấn đề về các bánh xe nữa. Vấn đề các bánh xe tới với ông trong một quán cà phê khi ông đang xem một tấm ảnh trong tờ báo về một tai nạn giao thông tệ hại, ba người bị chết. Có nghĩa là quyền năng để biến đổi tất cả những cái bánh xe trên thế giới từ hình tròn thành hình vuông, hoặc ngay cả thành hình ba góc nếu ông muốn, khiến cho chúng sẽ vướng vào nhựa đường và dừng lại. Nhưng ông đã không được phép nắm giữ quyền năng đó. Trước khi ông có thể hoạch định một kế hoạch và một thời cơ, thì ông đã cảm thấy nó bị lấy đi khỏi ông.

Cái quyền năng đối với bọn gian ác thì vẫn còn ở lại. Mà nó còn mỗi ngày một lớn hơn nữa, nếu cái quyền năng giống như thế có thể lớn mạnh hơn lên. Và lần này ông đã vội vã, mặc dù tất nhiên là vẫn còn một vài vấn đề cần phải nghĩ cho thông suốt.

Một là, ai sẽ là người quyết định xem những kẻ nào là gian ác? Thật sự ra việc này không khó lắm, bất kể những sự nghi ngờ của con Pet. Một người gian ác là một kẻ tỏ ra có vẻ gian ác đối với một người, trong bản thân ông ta đã nắm giữ được sự hiểu biết về thiện và ác, nếu người đó có thể biết được tất cả những điều thầm kín trong tận đáy lòng của mọi người. Một người gian ác là một kẻ sẽ tỏ ra cỏ vẻ gian ác đối với một đấng thần thông quảng đại là ông Grangle.

Rồi thì thực hiện nó thế nào, phương pháp nào? Đánh dấu lên trán họ, thay đổi tất cả bọn họ thành một màu, thí dụ màu đỏ tía được không? Nhưng lúc đó họ sẽ có thể dễ dàng nhận ra nhau một cách chắc chắn hơn, và kéo bè kết đảng với nhau trong sự gian ác của họ.

Cuối cùng, khi ông chợt nảy ra ý kiến về sự biến đổi tầm vóc thì điều tới với ông trước tiên là ý nghĩ về sự tăng gấp đôi chiều cao và tầm vóc của tất cả những kẻ gian ác. Điều này sẽ làm cho họ mất hết hiệu năng. Họ không thể vận dụng các dụng cụ khoa học hoặc các máy đánh chữ, hoặc các máy tính, hoặc các mặt số điện thoại. Tới một lúc nào đó họ sẽ chết vì sự quá to lớn của họ, giống như những con khủng long trong bài báo của tờ báo Chủ nhật. Nhưng thoạt đầu họ sẽ chạy lung tung với trọng lượng và sức lực lớn lao của họ, và sẽ làm tổn thương những người khác. Ông Grangle nhất định không thích việc đó, ông vốn căm thù bạo lực.

Thật sự những người nửa cỡ tầm vóc cũng cỏ đủ khả năng để vận dụng một vài thứ máy. Họ vẫn còn có thể nguy hiểm. Nhưng họ sẽ phải tốn một thời gian dài để làm ra những dụng cụ và võ khí hợp với tầm cỡ của họ, và ta hãy nghĩ xem trong thời gian đó, trông họ sẽ buồn cười như thế nào với những quần áo lớn hơn gấp hai lần và những cái mũ chụp xuống đến tận tai của họ.

Lúc 3 giờ 54 ông Grangle mỉm cười với ý nghĩ là trông họ sẽ lố bịch thế nào.

- Quả hạt - con Pet nói.

Ông với tay lên và cho nó một củ lạc, mắt ông vẫn nhìn vào cái đồng hồ.

- Ta nghĩ rằng - ông nói - nơi thú vị nhất sẽ là một phiên tòa xử vụ sát nhân. Ở đó không ai biết là bị cáo có thật phạm tội hay không. Và rồi tới lúc 4 giờ, nếu y phạm tội...

Hơi thở của ông Grangle trở nên gấp hơn. Những cây kim đồng hồ đứng ở 3 giờ 56.

- Hoặc nhìn một gã say xỉn trong quán rượu - ông nói.

- Quả hạt - con Pet nói.

Và ông cho nó một củ lạc.

- Ồ! ông nói - có rất nhiều nơi, rất nhiều nơi cần tới. Nhưng Pet ạ, ta muốn ở gần mi khi việc đó xảy ra, ở ngay nơi này một mình với mi.

Ông ngồi xuống cái ghế, vẻ khẩn trương, ông có thể trông thấy một cách thực sự cây kim lớn của cái đồng hồ di chuyển, trong những cái nhảy nhỏ li ti, để lại một vệt trắng bằng sợi tóc giữa nó và chấm đen 3:57, và đang di chuyển tới chấm 3:58, thu hẹp khoảng trống lại, cho tới khi nó đứng thẳng ngay vào chỗ đó, rồi lại di chuyển qua khỏi về phía chấm 3:59.

- Thoạt đầu - ông Grangle nói - các báo chí sẽ không tin vào việc này. Ngay cả khi một việc như thế sẽ xảy ra ngay tại các văn phòng của tờ báo, họ cũng vẫn không tin vào chuyện đó. Thoạt đầu thì họ sẽ không tin. Và rồi khi họ bắt đầu hiểu rằng việc đó đã xảy ra cho rất nhiều người mà ai cũng biết là gian ác, lúc đó họ sẽ nhìn thấy ý đồ.

Đồng hồ chỉ 3 giờ 59 phút.

- Một chuyện lớn... - ông Grangle nói. Một chuyện lớn cho báo chí và sẽ không người nào biết là ai đã làm ra việc đó, Pet ạ. Không người nào ngoài mi và ta.

Cái mũi của cây kim lớn đã bò phân nửa đường qua khỏi cãi chấm 3:59. Tim của ông Grangle đập mạnh. Hai mắt ông mở to ra, môi ông hé ra, ông nói thì thào:

- Sẽ không có người nào biết!

Cái mũi cây kim lớn đã chạm tới cái chấm ở trên đỉnh cao của mặt đồng hồ. Chuông đánh thức đổ hồi, ông Grangle cảm thấy một sự trào dâng lớn của sức lực, giống như nước làm vỡ một cái đập, và một sự chấn động lớn, như thể một tiếng sét đánh. Ông nhắm mắt lại.

- Bây giờ! Ông nói nhỏ nhẹ, và năm vật xuống, kiệt sức.

Bằng cách đi tới cửa sổ và nhìn xuống đám đông dưới đường phố, hẳn là ông có thể nhìn xem phép lạ có hiệu lực hay không. Ông đã không đi tới cửa sổ, ông đã không cần làm việc đó, ông đã biết rồi.

Chuông báo thức hết rung.

Con Pet nghiêng cái đầu của nó và nhìn ông với một con mắt giống như cục đá bóng láng.

- Quả hạt - nó nói.

Bàn tay ông khi ông duỗi thẳng nó lên, thì nó còn cách xa tới một bộ rưỡi mới với tới cái chuồng..

HẾT

Lời cuối: Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.

Nguồn:

http://vnthuquan.net

Phát hành:

Nguyễn Kim Vỹ

.

Đánh máy: HanAn

Nguồn: HanAn

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 30 tháng 10 năm 2009

Truyện Ma

Quỷ ám

Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động

Nguồn: http://vnthuquan.net/

Tạo ebook: Nguyễn Kim Vỹ.

MỤC LỤC

Quỷ ám

Truyện Ma

Quỷ ám

    Chuyện Ma này viết theo kiểu phóng sự. Chánh quyền Hồng Kông vào những năm 1980 đến 1994 đã phát giác được nhiều trường hợp kinh hoàng về quỷ ám.

    Một sự kiện có thật xảy ra vào tháng 10 năm 1993, khi một tòa soạn một tạp chí chuyên khảo về hiện tượng siêu linh huyền bí ma quỷ... nhận được điện thoại cầu cứụ Người gọi điện thoại tự sưng là Lý Triệu Quỵ Qua đường dây điện thoại, Quy nói với nhân viên tòa soạn như sau:

    -Xin quý vị hãy giúp chúng tôị Chúng tôi có một người bạn gái bị ma quỷ nhập, tinh thần rối loạn... cô ta tên là Đàm Lệ Sa, cô đã bị một câu trù làm hại.

    Người nghe máy là một ký giả tại tòa soạn. Trong khi nghe tiếng kêu cầu cứu của người thanh niên, ký giả còn nghe được tiếng la thét khủng khiếp của một người con gái ở bên kia đầu giâỵ Người ký giả cảm thấy một luồng ớn lạnh chạy dọc xương sống. Từ lâu ở Hồng Kông đã nghe nói tới hiện tượng kinh dị này nhưng chưa có ai thực sự chứng kiến tận mắt hiện tượng quỷ ám. Có thể đây là một dịp may hiếm có giúp tờ báo chuyên về vấn đề siêu linh huyền bí có được những chứng cớ và hình ảnh thực sự đề điều mà từ lâu dân HK nửa tin nửa ngờ.

    Ở đầu giây bên kia có tiếng người thanh niên đầy vẻ khẩn trương van nài:

    -Yêu cầu quý báo giúp chọ Chúng tôi nghĩ rằng tòa soạn biết được người có khả năng giúp cho cô Lệ San thoát khỏi tình trạng nguy khốn như hiện naỵ Chỉ còn hai ngày nữa thôi nếu không kịp đuổi tà ra khỏi người thì cô sẽ chết một cách thảm thương.

    Người ký giả hỏi:

    - Cô Sa đã bị tình trạng này bao lâu rồi anh có biết không?

    - Cô ấy bị như vậy trong 7 ngày 7 đêm rồi và không ăn uống gì cả.

    - Xin anh cho biết cô Sa có những cử chỉ hành động ra sao trong suốt thời gian qua? 

    - Mặc dù không ăn uống nhưng cô lại có sức mạnh khác thường. Cô vùng vẫy la hét muốn đập phá mọi thứ. Phải 6, 7 người khỏe mạnh mới có thể giữ được cô nằm yên được trên giường.

    Sau đó, người ký giả này đã trình bày mọi sự cho mọi người tại tòa soạn. Viên chủ nhiệm đã đề nghị người ký giả và viên tổng thư ký già hãy lái xe đến gấp địa điểm cô gái đang bị quỷ ám.

    Khi vừa bước xuống xe, họ đã nghe tiếng la hét đập phá phát ra từ căn nhà lụp xụp có khu vườn rộng đầy cây cối.

    Người thanh niên tên Quy bước ra cửa mời họ vào trong. Khi cánh cửa buồng mở ra, mọi người thấy một cô gái đầu tóc bù rối ngồi trên giường. Cô gái trợn trừng đôi mắt nhìn lên và thét to:

    Đi ra! Hãy đi ra khỏi đây ngay!

    Mắt cô gái đỏ rực như có tia lửa. Cô cố vùng vẫy nhưng tay chân đều bị trói chặt trên giường.

    Người ký giả nhìn cô gái với tâm trạng lo âu sợ sệt nhưng viên tổng thư ký tòa soạn thì có vẻ bình tĩnh. Ông quan sát mặt mày, cử chỉ cô gái rồi chậm rãi nói:

    -Trường hợp này giống như trường hợp xảy ra ở quê tôi vào năm 1960. Lúc đó có một cô gái bị quỷ ám, cổ cũng có sức mạnh ghê gớm, tuy bị giây thừng cột chặt nhưng vì giường tre ọp ẹp, yếu ớt nên đã gãy tan trước sức mạnh của cô gái đó.

    Một người bạn của Lý Triệu Quy nghe vậy liền nói:

    -Cô Đàm Lệ Sa cũng có sức mạnh lạ thường. Một điều mà trước đó, khi cô chưa bị chứng lạ thì cô rất yếu ớt, hay đau yếu khiến bạn bè cô thường gọi cô là "người trói gà không chặt" hay là "cây liễu yếu xìu"!

    Lý Triệu Quy kể:

    -Cô Sa thường vùng lên để giật cái cà vạt treo trên tủ quyết tâm thắt cổ mình cho đến chết khiến người nhà phải dấu cái cà vạt cũng như những thứ có thể gây chết người hay thương tích.

    Viên Tổng Thư Ký tòa soạn hỏi:

    -Từ ngày cô gái bị bịnh quái lạ ấy đến nay đã có ai đến cứu giúp cho cô thoát khỏi điều người ta nghi là bị quỷ ám chưa? 

    Lý Triệu Quy nói:

    -Chúng tôi có đi kiếm một số Đạo sĩ, rồi hội của những vị luyện theo phép Mật tông cầu xin họ giúp đỡ, tìm cách trục xuất quỷ ra khỏi thân xác cô Lệ Sa nhưng sau khi đến quan sát tại chỗ, họ đã lắc đầu bảo là năng lực của ma quỷ quá mạnh rất khó trị!

    Nghe đến đây thì hai nhân viên toà soạn tỏ ra thất vọng. Lý triệu Quy tỏ dấu van nài:

    -Chúng tôi xin quý vị giúp đỡ chọ Với phương tiện báo chí trong tay, quý vị có thể kêu gọi sự nhiệt tâm ra tay cứu giúp cô gái đang trong tình trạng quỷ nhập vô cùng nguy ngập, chỉ không hơn hai ngày nữa là không còn cách gì cứu chữạ

    Trước khi ra về, nhân viên toà soạn đã phỏng vấn chớp nhoáng người thân của cô gái và chụp hình.

    Theo tin tức nhận được từ lời kể lại của những người thân túc trực bên giường cô thì trước khi xảy ra sự kiện bị quỷ ám, cô gái này có quen một người tên là Hoàng Khải Quang. Anh này có cách sống khác thường nhưng lại là điều làm quyến rũ cô gáị Anh ta có xâm trên mình hình ảnh một con chim lạ. Sau một thời gian quen biết nhau, đi chơi chung với nhau, Lệ Sa biết được người bạn trai này nằm trong một nhóm ma thuật. Càng ngày cô gái càng bị quyến dụ gia nhập vào hội và cuối cùng sự tò mò đã hối thúc và dẫn dắt Lệ Sa đi sâu vào con đường tối tăm của ma quỷ mà cô không hay. Lệ Sa quyết định đi theo Quang để tới một địa điểm bí mật làm nghi thức nhập môn.

    Trước khi bị mê sảng, Lệ Sa thường kể cho những người bạn thân nghe hôm cô gia nhập hội Ma Quỷ như sau:

    "Đó là một căn hầm mỗi bề rộng khoảng năm thước. Trần hầm thấp không có mùi mốc ẩm vì luôn luôn ngập hương khói và đèn cầy cháy đỏ. Quang dẫn tôi đến trước bàn thờ có để đủ thứ đồ cúng rất lạ lùng dễ sợ. Nào là đầu lâu người và chó, những bình nước, chén nước đen ngòm bốc mùi hôi thối đến lợm giọng. Những thứ đó hòa lẫn với mùi hương trầm, mùi đèn cầy, mùi trong căn hầm làm cho thần kinh tôi như thác loạn. Tôi cảm thấy trong người chao đảo quay cuồng. Trong khi đó, anh Quang cởi áo phơi ra hình xâm con chim lạ trước ánh đèn và lửạ Anh lấy cái bình chứa nước đen ghê rợn đổ vào lòng bàn tay xoa khắp người rồi quỳ trước bàn thờ nhắm nghiền mắt lại rồi như tỉnh lặng trong cái thế giới u ám lạ lùng ma quái đó. Khoảng 8 người khác cũng đang đắm chìm tư tưởng trong cõi giới vô hình nào đó. Một người chạy đến hỏi han tôị Tôi nghe tiếng nói thật xa xăm như đang mơ ngủ:

    -Mừng cô gia nhập Hội Siêu Linh.

    Một người khác chạy lại nắm tay tôi:

    Để tôi giúp cô em ra mắt thần linh.

    Và sau đó tôi được khích lệ uống một loại nước gì đó tôi không rõ và tôi lịm đi từ đó.

    Khi tỉnh dậy tôi thấy mình khỏe hẳn ra và nhiều người đứng bao quanh mỉm cười với tôi khi thấy tôi mở mắt."

    Từ đó trở đi việc học hành của Lệ Sa không còn đều đặn và thuận lợi nữa. Cô không thích học, chỉ thích mau mau được dịp đến với Hội Siêu Linh ma quỷ. Người bạn trai có xâm mình tên Quang thường đến gọi cửa cô vào lúc nửa đêm để ra ngoài dạo chơi hoặc đi dạo dưới ánh trăng. Đôi khi họ đến những bãi tha ma, những cồn mồ hoang ở ngoại ô để đi dạo trong những giờ khắc mà ma quỷ thường xuất hiện. Họ mong gặp ma quỷ để giao lưu, tiếp xúc, chuyện trò...

    Chỉ mấy tháng sau, bạn bè thấy Lệ Sa đổi khác từ tính tình cho đến vóc dáng, sắc mặt. Cô không còn vui đùa, dễ thương, hiền hậu như trước. Nét mặt thường ủ rũ, có khi đăm chiêu, có khi hung dữ. Sắc mặt trắng xanh hay bạc thếch còn thân hình thì ốm hơn trước rất nhiều, có lẽ cô sống phần lớn về đêm và ăn uống lại ít.

    Theo bạn bè thuật lại thì Đàm Lệ Sa đã vì theo những người trong Hội Ma Quỷ dẫn dụ rồi bị ảo giác, bị phù thủy ma thuật đen hãm hại nên trở thành nạn nhân của quỷ.

    Hôm Lệ Sa nổi cơn điên là ngày 8 tháng 10. Lệ Sa tới phòng học, mặt mày xanh lét tự nhiên lấy đồ đạc trên bàn liệng tứ tung, đôi mắt cô long lên sòng sọc, cô đưa tay chỉ vào các bạn rồi thét to:

    -Chúng mày phải chết! Chúng mày phải chết!

    Rồi sau đó cô lại có ý muốn nhảy từ lầu ba xuống đất, may mắn có nhiều người bạn biết ý đã giữ cô lạị

    Khi về nhà cơn mê sảng càng lên caọ Bạn bè phải phụ lực nhau cột chặt cô gái vào giường mới mong cô khỏi phá phách. (Cô Lệ Sa là một cô gái mồ côi trọ học, cô không có cha mẹ, chỉ được người chị nuôi và bà chị này cũng ở rất xa). Từ từ, cứ mỗi lần hoàng hôn, khi nắng chiều đỏ ối nhuộm đầy cây cỏ núi đồi thì Lệ Sa lại chạy ra sân vườn vẽ một vòng tròn trên đất và vào ngồi ngay giữa vòng ấy, hai tay khoanh lại mồm nói toàn những tiếng lạ, kỳ quáị Các bô lão thấy vậy đã sợ sệt bảo rằng, đó là tiếng nói của quỷ.

    Có lần Lệ Sa vào ngồi trong vòng tròn vừa vẽ xong và nói:

    -Ta phải dùng vòng tròn này để giam hãm ma quỷ vào đây (?)!

    Vừa nói, Lệ Sa vừa lấy tay bắt sâu kiến bò trên đất bỏ lên mặt rồi cất tiếng cười the thé rất dễ sợ.  Điều kỳ lạ là lúc chưa bị quỷ ám, nàng rất sợ sâu bọ

    Rồi càng ngày cơn kích động càng tăng, có khi Lệ Sa vùng vẫy thoát được một tay ra khỏi dây nịt hoặc dây chảo cột chặt cô vào thành giường. Bạn bè phải dùng đến cả dây xích sắt có khóa để giữ cô lại. Mỗi khi cô lên cơn hung dữ, cô thường thét lên:

    -Ta là con của Satan. Trước đây có ai biết được rằng ta là một con quỷ và con quỷ ấy đã tồn tại mấy triệu năm qua rồi (?) và nay vẫn còn tồn tạỉ

    Thường sau mỗi câu gào thét như thế Lệ Sa lại ôm mặt khóc nức nở.

    Lúc Lệ Sa bắt đầu bị quỷ ám, cô đã có sức mạnh lạ thường mà trước đó không hề thấy ở cô. Cô dùng tay nâng một lần hai chiếc ghế nặng liệng rất xa và phá phách mọi thứ trong nhà như người điên. Sáu người bạn đã xúm lại giữ chặt lấy tay chân cô mà cô vẫn vùng ra được.

    Hiện nay Lệ Sa đã trải qua 7 ngày bị quỷ ám. Chỉ còn hai ngày nữa là cô lâm nguy. Thân nhân và bạn bè của Lệ Sa năn nỉ hai nhân viên nhà báo đăng tin tức lên báo để xem ai có khả năng cứu được cô. Bài báo đã gây xôn xao dư luận công chúng ở HK, chỉ trong một thời gian ngắn, số báo in ra đã hết sạch phải in lại lần thứ hai. 

    Mười hai giờ khuya hôm đó có tiếng một người đàn ông lớn tuổi gọi điện thoại đến cho toà soạn. Rất may la toà soạn đã cử người trực Tiếng người đàn ông:

    -A lô! Tôi có thể giúp chữa trị cho cô gái nhưng tôi không có phương tiện di chuyển.

    Người trực trả lời:

    - Đạ dạ! Chúng tôi sẵn sàng đem xe lại rước ông bất cứ giờ phút nào. Xin cho biết địa chỉ.

    Ở bên kia đầu giây, người đàn ông này đã chỉ rõ giờ giấc và địa điểm nơi ông sẽ đứng chờ xe chớ không chỉ đúng địa chỉ nơi ông ta ở.

    Một giờ khuya hôm đó, toà soạn đã đề cử người ký giả và viên Tổng thư ký già lên chiếc xe Peugot chạy ngay đến địa điểm hẹn. Tại đây họ gặp một người đàn ông dáng dấp khỏe mạnh trùm đầu bằng một cái khăn màu xám, tay xách một cái vali nhỏ. Khi thấy chiếc xe Peugot chạy chậm và tấp vào lề, ông ta đưa tay ra làm hiệu và đi đến bên chiếc xe:

    -Có phải các anh là nhân viên toà soạn. 

    - Dạ thưa phải, vậy ông thầy là người đã.

    Người đàn ông tỏ ra nôn nóng:

    - Đúng vậy, đúng vậy! Chúng ta cần phải nhanh lên, các anh hãy chở tôi đến nhà cô gái ấy ngay. 

    Chiếc xe lao vút đi trong đêm khuya. Khi xe ngừng ở cửa nhà cô gái, trong nhà vẳng ra tiếng kêu la dữ dội.Người ký giả nhảy xuống xe và gõ cửa. 

    Người thanh niên tên Quy ghé mắt nhìn qua cửa kính rồi mới đi mở cửa. Thấy hai người ở toà soạn trở lại, anh mừng quá nói trong hơi thở:

    -Trời ơi! Các ông tới đúng lúc, chúng tôi hoảng quá không biết làm gì hơn. Cảnh sát yêu cầu chúng tôi đưa cô Sa vào nhà thương điên nhưng chúng tôi không chịu và họ nói sẽ trở lại. 

    Người ký giả giới thiệu:

    - Đây là ông thầy đã liên lạc với chúng tôi hồi tối ngỏ lời muốn giúp cô Lệ Sa để trục xuất quỷ dữ ra khỏi người cô. Chúng tôi hy vọng sẽ có kết quả tốt.

    Người đàn ông được mời vào phòng cô gái. Cánh cửa mở ra, Lệ Sa đang kêu la vùng vẫy, cô ngước mắt nhìn về phía người đàn ông trùm đầu bằng cái khăn màu xám:

    -Hãy ra ngay! Cút đi ngay! Nếu không tao sẽ giết mày, làm cho mày cạn khô dòng máu, mày sẽ phải chết như một cành cây khô mục.

    Người đàn ông, chúng ta hãy gọi là ông thầy , bình tĩnh tiến đến bên giường Lệ Sa đang vùng vẫy. Ông thầy rút cái khăn ra khỏi đầu. Hai mắt ông mở lớn nhìn thẳng vào đôi mắt đầy gân máu của cô gái đồng thời đưa tay bắt ấn rồi nạt lớn:

    -Quỷ dữ! Mi không làm gì được đâu! Hãy mau mau rời khỏi thân xác cô gái vô tội, nếu không ta sẽ cho mi không còn chút năng lực nào để sống ở bất cứ cõi giới nào. 

    Ông thầy vừa nói dứt câu thì Lệ Sa bỗng cười lên khanh khách và vùng mạnh tay chân như cố thoát ra khỏi các dây trói buộc để nhảy tới cấu xé ông thầy. Trong khi đó ông thầy vẫn bình tĩnh cười nhạt, mở nắp vali lấy ra cái bình bằng đồng xưa đưa lên cao và ra sức rảy mạnh. Những làn nước trong bình bằng đồng văng ra rớt vào mặt cô gái.

    Trong lúc đó, ông thầy xấn tới và đọc những câu chú liên hồi.

    Tự nhiên Lệ Sa dịu lại cơn kích động nhưng chỉ mấy phút sau cô gái lại vùng vẫy dữ dội trợn mắt nhìn và thét lên:

    - Mày hãy đi khỏi đây ngay! Tao sẽ giết mày! Mày phải chết.

    Ông thầy lại rảy nước phép, bắt ấn và đọc chú:

    - Mi không thể nào chịu nổi pháp thuật của thần linh quá ba lần. Lần cuối cùng ta cho mi thời gian suy nghĩ lại và sám hối. Đừng để ta phải hạ độc thủ.

    Mặc cho cô gái vùng vẫy la hét, ông thầy chỉ cho hai nhân viên tòa soạn, người thanh niên tên Quy và hai người bạn cùng có mặt ở đó cách làm sao giữ cho tâm thần kiên định, không bị xáo trộn, sợ hãi trước sự đe dọa của quỷ. Ông thầy lấy ra từ vali 4 cái linh phù, những đồ đeo của Salomon treo ngay cửa phòng và cửa ra vào về phía Nam. Ông thầy nói:

    -Những linh phù và những thứ này có công dụng trấn yểm và làm mất hiệu lực của câu trù mà pháp thuật đen đã thư vào trong đầu cô gái. 

    Nói xong, ông lại lấy ra 4 vật lạ khác có buộc dây ngũ sắc và trao cho Quy để đeo vào cổ cô gái. Quy ngần ngừ vì anh lo sợ sẽ bị Lệ Sa phản ứng cắn vào tay anh như mọi lần ( ). Ông thầy biết ý dùng cái khăn trùm đầu trùm lên đầu Lệ Sa rồi mọi người cùng giúp Quy đeo 4 vật gắn linh phù và dây ngũ sắc lên cổ của Lệ Sa. 

    Mọi việc tuy có khó khăn nhưng không ngờ lại diễn tiến tốt đẹp. Trong khi đó, ông thầy lấy muối bột hòa trong nước thánh ở trong bình rồi rải quanh nhàkhắp 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc và ở chính giữa 4 hướng ấy còn để những nhúm muối sạch. Thế là Lệ Sa tự nhiên giảm vùng vẫy, giảm tiếng kêu, rú, gào thét và sau đó ú ớ trong miệng những câu không nghe rõ rồi cuối cùng cô thiếp đị

    Quy nói:

    Đây là lần đầu tiên Lệ Sa chợp mắt ngủ yên lặng, một điều mà 7 ngày trước đây không thể có được.

    Thế rồi ngày 18 tháng 10 Lệ Sa lành hẳn. Tuy nhiên cơ thể cô vô cùng suy yếu, tinh thần suy sụp. Các bác sĩ khám bệnh cho cô đã cho biết là cô bị suy dinh dưỡng trầm trọng, thần kinh lại xáo trộn. Cô đã được chở tới bệnh viện thần kinh. Sau một thời gian dưỡng bệnh cô đã trở nên minh mẫn, vui vẻ và rồi được trở về nhà.

    Cô thường nói: "Những gì đã xảy ra cho tôi cách đây một hai năm đối với tôi như một giấc mộng dữ nhưng có điều lạ lùng là tôi không nhớ những gì đã xảy ra lúc trước. Có lẽ lúc đó tôi không phải là tôi nữa"

    Cô Đàm Lệ Sa sau đó đã gởi thơ cám ơn toà báo Siêu Linh. Ngoài ra cô còn tìm gặp ông thầy đã cứu cô thoát khỏi móng vuốt của quỷ sứ. Ông thầy này là người Quảng Đông, đến sống ở Hồng Kông được 6 năm và lần đầu tiên ông xuất đầu lộ diện để cứu người.

    Ông thầy khuyên Lệ Sa cũng như tất cả mọi người không nên dấn thân vào việc luyện bùa ngải, tiếp xúc với những vong linh, ma quỷ. Bởi vì theo ông, Vu Thuật, Ma Thuật thường là con dao hai lưỡi để quay ngược lại tàn hại chính bản thân người đã có liên hệ gần gũi hoặc xử dụng chúng. Thật sự là có những con quỷ vô thường, những con quỷ bị sa đọa vào địa ngục rồi thoát củi xổ lồng, chúng vất vưởng rất lâu trong cõi tối tăm. Vì thế chúng khao khát được làm người nhưng đồng thời chúng cũng căm giận, oán than, tham lam và kiêu căng. Chúng luôn luôn chờ dịp là nhập vào thân xác người sống. Những phù thủy, những kẻ ma đạo, hắc đạo thường là những kẻ dẫn đường chỉ lối, làm cầu nối cho ma quỷ tức là Satan bước từ cõi u minh giao tiếp đột nhập vào người sống. Điều nguy hiểm đáng sợ là quỷ thường có những năng lực phát huy lời nguyền. Pháp thuật đen hay có những câu Trù, những người bị Tẩu hỏa nhập ma thường thốt ra những câu trù, lời nguyền rất khủng khiếp.

    Hết 

Lời cuối: Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.

Nguồn:

http://vnthuquan.net

Phát hành:

Nguyễn Kim Vỹ

.

Nguồn: Vietfun

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 11 tháng 9 năm 2007

Khuyết Danh

Tình Oan Nghiệp Báo

Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động

Nguồn: http://vnthuquan.net/

Tạo ebook: Nguyễn Kim Vỹ.

MỤC LỤC

Phần I

Phần II

Khuyết Danh

Tình Oan Nghiệp Báo

Phần I

    Người Việt ở ngoại quốc nói chung, ở Hoa Kỳ nói riêng, sau hơn mấy mươi năm lưu lạc đã trở thành một biểu tượng sâu sắc và gương mẫu khiến cho đa số người dị chủng dành cho sự thán phục xen lẫn cảm tình và quan tâm, đến nỗi họ xem những tập quán cố hữu của tiền nhân chúng ta để lại được lưu truyền tại đất này đúng như những tấm gương trong sáng, họ cần tìm hiểu và học hỏi về những đặc tính thông minh đạo hạnh, cầu tiến, cần cù nhẫn nại từ từng cá nhân, gia đình cho đến cộng đồng xã hội.

Tuy vậy, thỉnh thoảng hoặc đôi khi trong cuộc diện sinh hoạt thường hằng của người Việt tỵ nạn, vẫn thường xảy ra những tệ đoan xã hội thật đáng tiếc khiến báo chí hay các cơ quan truyền thông phải đề cập tới bằng những lời lẽ hằn học hoặc công kích phê bình thiếu vô tư dành cho cộng đồng người Việt, mà thực ra, khó có cộng đồng nào có thể tránh khỏi giữa một quốc gia tạp chủng và lại tự do đến độ gần như mù quáng này. Nhưng nếu tỉ mỉ đem so sánh bằng sự công tâm qua mật độ dân số giữa các nước đang cùng sinh sống trên vùng đất này, người ta sẽ nhận ra rằng, những dữ kiện xấu do thiểu số thanh thiếu niên Việt Nam gây ra bởi sự nông cạn nhất htời vẫn chỉ là một tỷ lệ nhỏ. Tuy nhiên, cho dù nhỏ đến thế nào đi nữa, thì thường khi phải chứng kiến một sự kiện không tốt đột ngột xảy ra ở bất cứ nơi đâu, vào bất cứ lúc nào, nếu thấy có tính cách xúc phạm đến thanh danh của dân tộc, thì có thể nói, hầu như mọi người Việt Nam ở đây đều sẵn sàng can thiệp hoặc trợ giúp tức thời những người gặp nạn với một tinh thần hăng hái hoặc bằng những giải pháp hoàn toàn thích hợp và đầy ắp tình người.

Trường hợp của người thanh niên tên Ðức bị một vong hồn thiếu nữ nhập xác, biến anh thành một người dở khùng dở dại, bỏ phế đời sống tươm tất cùng công ăn việc làm ổn định, đêm ngày đi lang thang nơi đầu đường xó chợ, chuyên tìm kiếm bươi móc, ăn uống các loại uế tạp cặn bã dư thừa hư thúi ở các thùng chứa rác rưởi là một thí dụ điển hình về tinh thần đạo hạnh và tình nghĩa nhân ái thâm sâu của các đồng bào ruột thịt.

Là một thanh niên chăm chỉ, có học vấn lại hiền lành khỏe mạnh, nhân dáng chững chạc dễ coi. Nhưng câu chuyện của người thanh niên một thân một mình tên Ðức này vượt biên chung trên một chiếc thuyền nhỏ bé mỏng manh cùng với mấy chục người khác thuộc đủ mọi thành phần nam nữ tuổi tác rồi đã phải nếm trải qua những phút giây cực kỳ kinh hoàng man rợ, diễn ra bởi bọn cướp biển không còn một chút tính người. Chúng hung hăng lục soát chiếc thuyền không chừa một ly tấc, để vơ vét tiền bạc nữ trang của tất cả những người đi trên tàu. Dã man và đau lòng nhất là thủ đoạn lang thú hoang dâm của chúng dành cho những thuyền nhân đàn bà con gái. Chúng thay phiên nhau hành hạ thân xác những cô gái trẻ tuổi có chút ít nhan sắc đến nỗi, trong số những phụ nữ kém may mắn này có một thiếu nữ tuổi ngoài hai mươi với khuôn mặt đẹp như trăng rằm, khiến cho Ðức không thể giữ cho lòng không rung động và thầm yêu cô ngay từ phút đầu tiên khi anh vừa chạm mặt trên con thuyền định mệnh. Sau này, Ðức được biết tên cô gái vượt biên mang dáng dấp quý phái và sắc đẹp tuyệt trần đó là Trâm, con gái của một nhân vật dân sự nổi tiếng thuộc chế độ cộng hòa.

Mười sáu năm về trước, chiếc thuyền nhỏ bé có sự hiện diện của Ðức và cô gái đẹp tên Trâm đã thoát được mạng lưới canh gác nghiêm ngặt của công an ven biển, ra được đến hải phận quốc tế sau ba ngày rời khỏi "bãi đáp" từ một eo biển hoang vắng thuộc thị xã Vũng Tàu. Lúc bấy giờ, thời tiết đang vào giữa tháng tư trời êm sóng lặng mà bỗng nhiên biển cả hậm hực chuyển mình. Từng đám mây nặng nề đột nhiên phủ kín bầu trời không còn vương một tia nắng nhẹ. Mặt biển và không gian mênh mông thoáng chốc chìm đắm trong một thế giới tăm tối mịt mù. Những cơn sóng dữ bắt đầu chuyển động rung chuyển cuồng nộ, thét gào và xô đẩy con thuyền xấu số, có lúc nằm lơ lửng chênh vênh trên đầu ngọn sóng, có lúc bị vùi dập chìm sâu giữa hai vách tường nước đen ngòm. Gió phũ phàng thổi tới từng chập lắc lư, tạt từng đợt nước mưa xối xả lạnh căm lên thân xác những con người vượt chết đi tìm tự do.

Cơn giông bão thịnh nộ đến xế trưa mới chịu nhẹ dần. Biển bắt đầu dịu lại, hiện ra dưới bầu trời loang loáng ánh tà dương, cũng là lúc động cơ ba ngựa của con thuyền nhỏ không còn có thể hoạt động thêm được nữa vì số lượng dầu chứa trong gần hai chục chiếc bình bằng nylon đã bị sóng đánh văng ra trên mặt biển từ lúc nào. Những "can" đựng nước ngọt dự trữ cũng cùng chung một số phận. Con thuyền nhỏ bé bấy giờ chỉ còn có cách để cho thả trôi lênh đênh trên triền sóng, không biết số phận rồi sẽ ra sao. Thời gian kéo dài đến gần giữa khuya thì đột nhiên, trong đêm đen mênh mông u tối, gió rít lạnh người, bỗng hiện ra những ánh neon dập dềnh khi mờ khi tỏ bồng bềnh ẩn hiện theo từng đợt sóng nhẹ lắc lư.

Thoáng chốc những ánh đèn đó từ từ tiến lại thật gần, thật gần cho đến khi mọi người trên chiếc thuyền tỵ nạn khốn khổ nghe thật rõ những âm thanh man rợ của những tên quỷ dữ đội lốt người đang đắc chí nhảy múa reo hò. Mọi người nhận ra được, đó chính là chiếc tàu sắt dềnh dàng to lớn của bọn thảo khấu đại dương (cướp biển). Chúng chiếu ngọn đèn sáng rực xuống chiếc thuyền tỵ nạn, nơi đang lố nhố những con người thất thế tội tình, tự biết rằng đã sa vào tay của bọn quỉ dữ. Họ vừa la vừa khóc kêu gào thảm thiết, vừa đọc kinh vừa niệm Phật và xúm nhau cúi lạy bọn thảo khấu như tế sao. Nhưng chúng dửng dưng chẳng chút quan tâm, đâu cần lưu ý tới những hành động vô tích sự này. Chiếc tàu sắt ngụy trang dưới dạng tàu săn lưới từ từ cập sát vào main chiếc thuyền nhỏ mong manh.

Chúng đứng lố nhố quan sát chiếc thuyền tỵ nạn kỹ càng rồi quăng xuống một chiếc thang dây và bi bô bằng một thứ ngôn ngữ lạ lẫm không ai trên thuyền có thể hiểu được. Chúng ra hiệu bằng tay cho biết, tất cả phải rời bỏ chiếc thuyền để leo lean con tàu của chúng cho đến khi thực sự không còn lại một người nào, chúng mới hạ lệnh cho mọi người tự động chia thành hai nhóm, một nhóm đàn ông bị đẩy tới đứng ngồi riêng biệt ở một góc sàn tàu, nhóm còn lại gồm trẻ em, đàn bà con gái bị xô lùa tới một bên, với từng tràng âm thanh dọa nạt quát tháo đinh tai nhức óc nghe đến rợn người.

Bất thình lình một người đàn ông tỵ nạn dáng người trông khá vạm vỡ chợt nhìn thấy hành động quá tục tằn bỉ ỏi của một tên hải tặc diễn ra với một phụ nữ, có lẽ chính là vợ của ông ta, nên ngay tức thời, ông ta liều lĩnh xấn tới, lao mình vào tên hải tặc, bèn bị ngay tên này dùng chiếc búa đẽo hắn đang cầm sẵn trên tay bổ ngay một phát lên chính giữa đỉnh đầu giống như hắn bổ một trái dừa, khiến cho người đàn ông gục xuống chết tốt không kịp một lời kêu la trăn trối, chiếc đầu của ông ta bị chẻ làm đôi, máu và óc phun ra tung tóe khắp nơi trông đến rợn người.

Thảm cảnh đó diễn ra chưa đầy một phút cũng đủ khiến cho tất cả mọi người bỗng nhiên biến thành những xác thân co rúm tê liệt, không ai còn giữ được chút khả năng chống đối, ngoài những tia mắt cực độ bàng hoàng cùng những tiếng la hét thất thanh hỗ độn. Chúng bắt đầu bộc lộ trắng trợn thú tánh của lũ người súc sanh tội lỗi, ngang nhiên biểu diễn những hình ảnh hành hạ thân xác của những thiếu nữ, đàn bà. Lẽ tự nhiên, người con gái đẹp tên Trâm mà Ðức đã thầm đem lòng yêu thương ước vọng từ mấy ngày qua cũng không thoát khỏi bọn hải tặc dã man khát tình. Nhất là cô lại là một người nhan sắc có sức thu hút mãnh liệt nhất trong số những nữ thuyền nhân này, cho nên cô thật khó tránh khỏi gánh chịu một hậu quả thê thảm hơn tất cả mọi người.

Phần Trâm, ngay từ phút giây thứ nhất khi cô nhận biết đã lọt vào tay của lũ cướp biển man rợ, đến khi bị tên hải tặc biểu lộ nhiều quyền uy nhất, dáng chừng hắn là kẻ chỉ huy, tiến đến lôi phắt cô ra một chỗ trống trên sàn tàu để bắt đầu dở trò tồi bại, cô đã tự biết mình sẽ bị tên lang sói mọi rợ này sẽ dập dùi thân xác của mình. Cô bàng hoàng kinh sợ, miệng khấn nguyện liên hồi, trong khi đôi cánh tay yếu đuối cố sức vùng vẫy chống cự nhưng không đưa đến một kết quả nào, đôi mắt của cô hướng về phía đám đàn ông tỵ nạn, giờ như một đám người vô dụng như van nài một sự ra tay cứu vớt, nhất là nơi đám người đó, có một chàng thanh niêng mà cô cũng rất có cảm tình. Trong giây phút tuyệt vọng tận cùng không còn có thể trông cậy vào phép lạ nào có thể cứu độ cho cô thoát khỏi nhục hình trước tên hải tặc, cùng với giác quan bén nhạy của một người con gái, một mặt cô thành tâm khấn nguyện, sám hối và tụng niệm các bài kinh cứu khổ cứu nạn, khẩn cầu đức Quan Thế Âm Bồ Tát nhủ lòng từ bi hỉ xả ra tay cứu vớt, một mặt cô đã nhận thức được cảm tình của người thanh niên đi chung thuyền mà cô mường tượng được rằng người thanh niên này đã dành cho cô những tình cảm rất chân thành sâu đậm giữa hai người khác phái. Cô hướng tầm mắt van nài về phía người thanh niên tên Ðức, lúc bấy giờ cũng chỉ biết lặng yên thúc thủ, ngồi co ro khúm núm như một con chuột nhắt trước đám mèo rừng đầy nanh vuốt, anh ta trố mắt ra nhìn mà không dám chứng tỏ thái độ phản kháng nào dù thật nhỏ nhoi khiêm tốn. Còn về những ý nghĩ ăn năn sám hối, cầu trời khẩn Phật của Trâm, tuyệt nhiên chỉ như những lời kinh tan vào thinh không vô vọng.

Cuối cùng, việc đen tối phải đến đã đến, cô bị tên hải tặc vật ra hành hạ một cách tàn bạo không chút gượng nhẹ xót thương. Sau khi thỏa mãn thú tính chán chê, một tên khác tiếp tục lao vào, rồi lại một tên khác nữa cũng hăm hở dày vò thân xác của cô lúc bấy giờ đã trở nên quá đỗi bầm dập và đau đớn cho đến khi, cô không còn sức chịu đựng thêm những cực hình nhục thể, thì linh hồn cô đành lìa khỏi xác, trút hơi thở cuối cùng trong màn đêm đen hoang lạnh, văng vẳng bao nhiêu tiếng người gào thét khóc than.

Trước khi vĩnh viễn lìa trần, Trâm - tên người con gái vắn số - không quên để lại một tia nhìn tuy yếu ớt song tràn đầy oán hận về phía người thanh niên tên Ðức khiến cho anh ta luôn luôn bị ám ảnh triền miên mãi cho đến suốt những năm tháng sau này.

Sau khi hả hê cướp bóc, giết chóc dã man và hãm hại những người tỵ nạn xa cơ vô tội, bọn cướp biển xua đuổi những người còn sống sót sau cơn kinh hoàng trở lại con thuyền nhỏ của họ và ném theo cho vài "can" dầu cùng một ít lương khô vặt vãnh, chúng quay mũi tàu phóng đi mất hút trong lòng biển đêm đầy gió lộng.

Ít ngày sau, chiếc thuyền nhỏ bé như chiếc lá lênh đênh của đám người vượt chết ra đi tìm tự do may mắn trôi dạt đến được một dàn khoan dầu, họ được tiếp cứu và được đưa tới một trạm tiếp nhận thuộc phía bắc quần đảo Mã Lai. Khoảng một năm sau, đám người này được phân tán nhận cho đi định cư tại các quốc gia đệ tam. Riêng người thanh niên tên Ðức được một cơ sở thiện nguyện Hoa Kỳ nhận cho anh vào Mỹ.

Bước chân lưu lạc của Ðức nổi trôi theo dòng đời. Anh sớm ý thức được thân phận đơn lẻ của mình nơi xứ lạ quê người, tứ cố vô thân, không một ai là bà con ruột thịt. Ðức vùi đầu vào việc trau dồi Anh ngữ cho đến khi chấm dứt thời hạn thụ hưởng trợ cấp xã hội thì anh cũng vừa vặn học xong nghề điện tử, kiếm được công ăn việc làm với đồng lương khiêm tốn, thăng tiến dần theo năm tháng. Nhờ vậy, Ðức đã sớm ổn định được cuộc sống cá nhân, lại có dư điều kiện để viện trợ kinh tế đều đặn cho gia đình còn ở lại quê nhà.

Những tưởng cuộc đời thường nhật của một thanh niên tỵ nạn mẫu mực như Ðức được vậy kể cũng đã tạm yên nếu thỉnh thoảng anh không bị nỗi ám ảnh kinh hoàng về tấn bi kịch hải tặc diễn ra trên biển đông năm nào với đôi mắt lạc thần van lơn của người con gái tên Trâm cùng cái chết thảm thiết đau lòng, khiến anh không thể nào nguôi ngoai quên lãng. Luôn luôn Ðức cảm thấy vô cùng khiếp sợ bối rối cộng thêm niềm tiếc hận mỗi khi mường tượng lại từng chi tiết trong thảm kịch này. Nhất là ánh mắt đáng thương đầy tuyệt vọng van nài của cô gái đẹp đẽ năm xưa, dường như có một ma lực huyền bí nào đó vẫn cố tình đeo đuổi, ám ảnh và trách cứ trong tâm tư hằng ngày.

Ðã bao đêm từ khi được rời đảo định cư tại xứ này, Ðức chập chờn thao thức hoặc choàng tỉnh giấc sau những cơn ác mộng nặng nề với hình ảnh bi thương quằn quại của người con gái khốn khổ trong đôi tay hoang dại của bầy cướp biển hung bạo cùng với ánh mắt kinh hoàng lạc thần của Trâm đến nỗi, anh có cảm tưởng nàng đang lẩn khuất đâu đây, và chừng như nàng vẫn bám sát theo anh đêm ngày và thường xuất hiện trong anh với những giấc mơ đầy kinh dị, không thể nào tẩy xóa và có thể quên đi trong đời, cho đến một ngày, giống như một người thua cuộc, Ðức không còn đủ nghị lực để duy trì sự bình yên sáng suốt trong tâm não. Anh cảm nhận như thấy có niềm hối hận vô bờ, tâm tư anh mỗi ngày một thêm hoang mang ray rứt và ý thức rõ ràng anh thật đáng tội ươn hèn trước khổ nạn của những đồng bào ruột thịt và của người con gái tên Trâm. Nhưng giờ đây, anh không biết phải làm gì để xua tan nỗi niềm ăn năn tiếc hận của một người thanh niên không chu toàn nghĩa khí đàn ông trước thảm cảnh bi thương.

Ðức hay ngao ngán thở dài, anh lắc đầu xua đuổi những ý nghĩ đen tối quấy nhiễu tâm thức của anh và thường đổ vấy cho số phận đã an bài, rồi âm thầm cầu nguyện cho oan hồn người con gái đẹp mà anh vẫn còn thầm yêu trộm nhớ đã bị uổng tử năm xưa để nàng được sớm siêu thăng tịnh độ trong cõi ta bà.

Nhưng sau cùng, tự nhiên Ðức trở nên một người không còn lý trí. Mọi sinh hoạt của anh trở nên xáo trộn bê trễ rồi anh tự ý bỏ ngang công việc đang làm, đi lang thang như người hành khất, miệng lảm nhảm những lời lẽ vô nghĩa không đâu. Tia mắt của anh dại đi như kẻ mất hồn. Khốn thay! Anh lại không có lấy một người thân thiết để mà nhắc nhở hoặc chạy thày chạy thuốc cho anh, săn sóc giúp đỡ anh có được những bữa cơm độ nhật qua ngày. Tình trạng đó diễn tiễn mỗi ngày một thêm trầm trọng, Ðức đói khát triền miên rồi dần dần mất hết trí khôn. Thân thể của anh sa sút não nề, không còn giữ được chút phong độ khi xưa, sắc khí anh trở nên xanh xao ốm yếu lạ thường. Quần áo tóc tai anh bờm sờm rách rưới tả tơi và hôi hám đến lợm người, không ai chịu nổi mùi xú uế thoát ra từ áo quần thân thể của anh. Ðức thường lom khom lầm lũi bước những bước chân chuệnh choạng yếu ớt lê lết đến những ngõ ngách vắng người và tìm đến nơi có những thùng chứa rác để bươi móc tìm tòi miếng ăn. Gặp được bất cứ cái gì có thể nhai được trong miệng là anh vơ lấy ăn nghiến ngấu không còn biết phân biệt được sạch dơ hay thúi rữa ghê hồn.

Nhiều người cảm thấy rất bất nhẫn khi tình cờ chứng kiến một kẻ đồng hương dở ngây dở dại, lem luốc dơ bẩn, đáng thương như Ðức lê la lam lũ ở lề đường khiến họ động mối từ tâm, cố gắng bịt mũi nín thở tiến lại bên anh để ủy lạo, cho tiền hoặc cho phẩm vật thức ăn và ân cần hỏi han tương trợ. Nhưng đối với Ðức, anh đâu còn lý trí sáng suốt để phân biệt phải quấy ra sao, tâm thức anh dường như đang chịu sự chi phối nặng nề của một kẻ vô hình nào đó chứ không còn thật tính người, anh cũng chẳng còn có thể nhận biết được điều gì, chẳng còn nghe và hiểu được những lời chuyện trò mọi người thăm hỏi. Ngày lại ngày, anh vẫn lầm lũi chân thấp chân cao bước tới những chỗ có rác rến để tìm ăn uống những phế vật hôi hám dư thừa.

May sao có người đồng hương nhận ra được tình trạng đáng thương và khác lạ nơi anh. Ông ta vội vã đưa Ðức đến một ngôi đền, nơi đang có các vị pháp sư cao minh hành đạo, các vị này trong bao nhiêu năm tạm dung trên đất Mỹ, từng khiển dụng âm lực cao cường để làm việc phước đức hoặc thực hành các bí pháp chân truyền nhằm hòa giải những xung đột, bất mãn, nợ nần oan khiên giữa hai miền âm dương cách biệt và chế ngự các tà ma hung hăng ác nghiệt để cứu nhân độ thế.

Ðến ngôi đền, mặc cho người đồng hương xô đẩy trì kéo, oan hồn cô Trâm trong Ðức khăng khăng không chịu bước vào, cho đến khi nhiều người hợp sức lại khiêng anh vào nội thất tôn nghiêm trước bàn thờ khói hương nghi ngút thì bỗng nhiên, Ðức tỉnh táo được phần nào. Tuy vậy, anh trừng mắt láo liên nhìn ngó quanh quẩn, thái độ đầy cao ngạo ngang bướng. Họ cố đẩy anh đến trước bàn thờ, thay vì cung kính nghiêm trang đảnh lễ, trái lại, bằng một thái độ cố tình ngang nhiên trịch thượng, Ðức ngã vật ra giữa nền nhà, tay chân quơ cào loạn đả, miệng lảm nhảm la lối huyên thuyên.

Thốt nhiên, các vị đạo gia thuộc đủ mọi cấp độ hành đạo ở ngôi đền này, thần nhãn cao thâm, đạt tới mức công năng chuyên cần tu tập, nhận biết ngay Ðức mắc phải tình trạng nan giải do một vong hồn nào đó đang hoành hành, lưu trú. Vị pháp sư chủ trì ban rải tâm từ bi đưa mắt hướng nhìn về nơi Ðức đang ngạo nghễ nằm với thái độ bất mãn đầy gây hấn.

Khuyết Danh

Tình Oan Nghiệp Báo

Phần II

  Không cần tìm hiểu sâu xa, thoạt trông thấy dáng điệu và khí sắc bất thường của người thanh niên, ông đã thừa kinh nghiệm để thấu suốt anh ta đang mắc phải căn bệnh tà, ông dụng thần lực bắt ấn, chuyển đạt sức mạnh vô hình nhằm trói thúc tứ chi của hồn ma trong thân xác của Ðức, mục đích chỉ để chế ngự thái độ hung hăng, khiến cho anh phải nằm co quắt rên la và như không thể tiếp tục chịu đựng thêm sự đau đớn càng lúc càng xiết lại như một cực hình, Ðức vật vã gào lên như đang chịu một hình phạt kinh hồn, anh van xin cởi trói. Lúc bấy giờ vị pháp sư chủ trì mới ôn tồn nói chuyện với anh:

- Thì ra... "cô" cũng biết đau đớn như mọi người! Tại sao đứng trước bàn thờ tôn nghiêm mà "cô" không chịu cúi đầu đảnh lễ? Vì sao "cô" tỏ ra quá hỗn hào? "Cô" có biết đó là hành động vô phép và rất thất lễ đối với các đấng bề trên đã khiến cô phải chịu sự trừng phạt? Sự trói buộc và nỗi đau đớn nãy giờ thật ra chưa phải là hình phạt duy nhất, thiêng liêng mới chỉ tạm chế ngự thái độ hung hăng vô lễ để giúp cho "cô" lấy lại tâm trí tỉnh táo yên bình...

Lúc đó, những tín hữu thường đến ngôi đền này để đọc kinh lễ Phật, hiện diện khá đông đảo, nghe vị pháp sư soi rõ tường tận và nói đúng chân tướng hồn ma đang trú ngụ trong thân xác và đang khống chế tinh thần của người thanh niên tên Ðức, họ cảm thấy thất kinh hồn vía, vội đứng nhích ra xa quan sát.

Ngừng nói trong giây lát như có ý dành thời gian để cho "cô" ma nữ lấy lại bình tĩnh cố hữu, vị pháp sư mới ôn tồn đưa ra một đề nghị:

- Bây giờ nếu "cô chịu hứa lễ Phật và nghiêm trang nói chuyện, ta sẽ thỉnh ý chư thần xin mở trói cho cô, để cô được thoải mái tự do như lúc thường! Cô bằng lòng chứ?

Vong linh người con gái tên Trâm chiếm ngụ trong thân xác của Ðức bấy giờ mới chịu nhìn nhận chân tướng và khuất phục trước oai lực vô biên của thiêng liêng qua trung gian huyền bí của vị pháp sư. Chân tay của cô ta vừa thoát khỏi những dây nhợ trói buộc đớn đau, quấn quít vô hình. Cô đã nhận được huyền lực, lấy lại tự do cho thân thể. Cô đứng dậy nghiêm trang lễ Phật, thái độ tỏ ra từ tốn khoan hòa. Ðợi cho hồn ma nữ thi hành xong mọi nghi thức, vị pháp sư bắt đầu hỏi chuyện:

- "Cô" cho ta biết, vì lẽ gì cô không chịu lễ Phật, còn tỏ ra thái độ hung hăng quá khích? Hồn ma nữ (ngụ trong xác thân của Ðức) ngước đôi mắt đáng thương chứa đựng giận hờn nhìn pháp sư. Cô nghiện ngào cho biết:

- Ông không hiểu tại sao tôi tỏ ra như vậy cũng đúng! Tôi vốn là một Phật tử thuần thành biết lễ trên kính dưới chứ đâu phải hạng vô thần ngỗ nghịch như bây giờ, nhưng từ lâu lắm rồi, kể từ sau khi tôi bị hải tặc hãm hại, mặc dù đã chí thiết khấn xin cứu độ mà vẫn bị làm ngơ, trong tâm tư tôi tuyệt nhiên không còn chỗ cho thần linh ngự trị, tiêu tán tất cả mọi niềm tin. Ông biết được tại sao rồi chứ?

Nhìn thái độ còn chất chứa bao nhiêu thống trách dỗi hờn sâu kín tiềm ẩn trong lòng ma nữ, vị pháp sư chậm rãi nói một cách hiền hòa:

- Ðó! Nếu cô không chịu bày tỏ thì không ai có dư thời giờ để có thể biết cô đã phải trải qua những hoàn cảnh rủi ro như thế nào. Hôm nay, chắc chắn nhờ có duyên cơ phước đức, cô đã đến được nơi đây, xem như những tâm sự uẩn khúc của cô sẽ được mọi người chia xẻ và hóa giải hoàn toàn. Trong cương vị của kẻ làm việc đạo, nếu muốn, chúng tôi có thể dễ dàng tìm hiểu được ngọn nguồn câu chuyện cùng những tai nạn hạn họa đã xảy ra trong quá trình bức tử của cô.

Nhưng trước khi chúng tôi thỉnh nguyện ơn trên từ bi cứu độ cho cô trở về với sự bình an nguyên thủy, chúng tôi muốn chính cô nói ra lý do tại sao không giữ lấy đức tin tối cần thiết và sự sùng kính của con người dương thế lẫn những hồn oan đối với các đấng hiển linh?

Giọng nói của pháp sư hàm xúc âm điệu dịu ngọt như an ủi dỗ dành, đã tác động xâu xa trong tâm hồn ma nữ, "cô" bắt đầu kể lại nguồn cơn mất hẳn đức tin, đôi khi cô tinh nghịch biến hóa hiền tượng Phật Bà Thánh Nữ, hiện ra để trêu ghẹo đánh đập phá phách người thanh niên, để cho anh ta cũng nóng giận, mất hẳn đức tin, đâm ra ngang ngược vô lễ với các vị thánh thần. Cô tự chối bỏ đức tin, đồng thời đem thái độ ngang nhiên vô phép ra hành xử trước dung nhan Thượng Ðế. Cô kể bằng giọng nức nở nghẹn ngào:

- ... Lúc bấy giờ chỉ còn hoàn toàn trông cậy vào đức Quan Thế Âm Bồ Tát và niệm bài kinh cứu khổ cứu nạn như thời thơ ấu mẹ tôi thường dạy tôi nên làm như vậy mỗi khi đối diện với những nguy nan, cũng như trước ngày vượt biên, nhiều người thân nhắc nhở cho tôi biết quyền năng linh hiển thường hay ra tay cứu vớt những người vượt biển gặp khổ nạn của Phật Bà và chí thành tụng niệm khi giáp mặt với những nan nguy sẽ được tai qua nạn khỏi.

Tôi giữ nhân đức tin và tha thiết kêu xin với lòng thành tâm khấn nguyện cho tai họa xảy đến cho tôi lúc ở trên tàu sớm chấm dứt để khỏi phải chịu thêm những đau đớn khổ hình trước sức dày vò điên loạn của những tên hải tặc man ri đầy thú tính. Nhưng Phật Trời yên lặng làm ngơ không ra tay cứu vớt để cho tôi, sau đó tôi phải chết thảm, linh hồn tôi bị sa vào thế giới hoang vu đói khổ trăm bề, không trông đợi được bất cứ sự lợi ích nào và mãi kéo dài kiếp đọa đày của loài hồn lang thang đói lạnh. Thử hỏi, tôi còn điều gì để tin tưởng được nữa? Như ông đã biết đó! Trong lúc quá đau đớn kinh hoàng, cầu xin thiêng liêng, thiêng liêng không đoái tưởng linh ứng, tôi quay lại cầu cứu với cả "thằng này".

Cô ta hằn hộc đưa tay chỉ vào ngực của người thanh niên đang bị hồn cô chiếm ngự hoành hành, hậm hực nói tiếp:

- Phải! Chính "thằng này". Tôi biết nó yêu tôi tha thiết. Bù lại, tôi cũng có cảm tình với nó từ khi mới chạm mặt nhau lần đầu. Có lúc tôi đã mơ mộng sẽ có một lần nào đó sau khi đến được bến bờ tự do, tôi sẽ ngỏ cho "nó" biết rằng tôi sẵn sàng đón nhận tình yêu, nếu "nó" dám mở lời tỏ tình.

Lúc gặp nạn ở trên tàu, sau những khẩn cầu tha thiết, đọc những bài kinh vô vọng, tôi nhìn về phía "nó" gào thét lên để mong đợi nó có chút động tâm, hay là can đảm đứng lên cứu tôi ra khỏi những tên hải tặc điên cuồng rồi nếu chẳng may có chết, hai đứa cũng được chết chung cho trọn chữ tình. Ngờ đâu nó còn hèn hạ hơn tất cả những kẻ hèn hạ nhất! Nó co rúm người lại, thu mình ngồi khúm núm dương mắt ra nhìn. Thử hỏi, có ai hiểu được cực hình và niềm tuyệt vọng của tôi đang trông chờ nơi "nó". "Nó" vẫn lặng thinh cho đến khi tôi lịm đi và khốn khổ trút linh hồn ra khỏi xác thân cực kỳ đau đớn trong lúc thằng hải tặc vẫn chưa muốn buông tha.

Vì thế, sau khi trút linh hồn, tôi có ngay quyết định nhất định phải trừng trị "thằng này" và những đứa đã khiến cho đời tôi trở nên bẽ bàng tan nát. Thật ra, sau khi tôi chết thảm, tôi cũng đã trả thù được hai trong ba thằng hải tặc đã thay phiên nhau cưỡng bức tôi đến chết. Một đứa tôi đã "khiến" nó chết thảm khốc vì đụng xe, một đứa làm ăn khánh kiệt thua lỗ đến phải thắt cổ tự vận, còn lại một thằng cũng sắp sửa đền tội. Riêng "thằng này" - cô ta chỉ vào Ðức - tôi cũng sẽ hành hạ nó cho đến ngày thân tàn ma dại chứ lẽ đâu lại để cho nó được an nhiên vui sống, lấy vợ đẹp đẻ con ngoan, hưởng thụ một đời hạnh phúc chẳng chút công bằng, trong khi tôi vẫn phải kéo lê bước phiêu bạt của một hồn mà oan trái vất vưởng đói rách lam lũ khắp nơi trong cõi vô hình...

Vị pháp sư và những người hiện diện chung quanh tỏ ra rất cảm thương cho số phận không may của hồn ma nữ tên Trâm đang rành mạch kể ra hết tâm sự u uẩn của mình. Ðợi cho nỗi ngậm ngùi trong lòng cô gái đầy tội nghiệp lắng xuống, vị pháp sư nhìn cô thương xót, và bày tỏ những cảm nghĩ của ông vừa thoáng hiện trong đầu:

- Cô trả thù và hành hạ người ta như vậy đã quá đủ rồi! Thôi, cô hãy tha cho người ta, nên đem ân báo oán để hồi hướng công đức cho chính mệnh nghiệp của mình.

Ngừng lại trong giây lát như để cho vong hồn ma nữ có đủ thời giờ nhận rõ phải quấy, thực hư. Vị pháp sư nhân ái tiếp lời:

- Ta cần cho cô biết rõ thêm về những điều siêu linh huyền nhiệm để giúp cho cô dễ dàng xóa tan đi những ý định oán thù còn chất đầy một lòng sân hận! Ta chắc cô chưa biết được những tên hải tặc đó là ai? Tại sao chúng trút hết những thảm thương cho cô đến nỗi cô phải chết một cách quá ư là tội nghiệp oan khiên!

Thật ra, chúng là những tiền thân đã bị chính cô từ kiếp trước vốn là một phú hộ giàu có, thường hay ỷ thế hiếp cô, dùng quyền lực bạc tiền mua chuộc và hưởng thụ xác thân trinh tiết những người con gái trẻ tuổi con nhà nghèo rồi nhẫn tâm bỏ rơi để họ phải gánh chịu một đời lầm thanh khốn khổ, có người còn bị chết oan uổng vì đã dám cả gan cưỡng chống lại những dục vọng đen tối của tay phú hộ kiếp xưa.

Nay theo định luật quả báo luân hồi, chúng được cho tái sinh làm lại kiếp người để đòi các món nợ cũ theo ý chỉ của đấng toàn năng, chúng được phép thi hành nghiệp nhân quả, đợi chờ cơ hội để bắt cô phải đền trả nghiệp ác đã gây ra lúc sinh thời. Chúng ra tay tàn nhẫn hãm hại cô trên biển đông chẳng qua là những tiền nghiệp vướng mắc nợ nần mà cô đã tạo ra từ kiếp trước.

Và trong lúc thập tử nhất sinh đó, cô cũng đã khẩn khoản van xin ơn cứu độ của bề trên, nhưng vì hạnh nghiệp của cô xấu xa phải trả, đấng toàn năng đã làm ngơ cho đám quỷ dữ hoành hành, ra tay hãm hại để đòi cô trả nợ cũ thì lẽ đương nhiên, sự van xin khẩn thiết của cô không được thiêng liêng đoái nhậm là đúng lắm rồi, còn kêu ca thống trách vào đâu cho được.

Thật ra, đối với qui luật thuộc thế giới vô hình rất minh bạch và vô cùng chặt chẽ, chứ không mơ hồ hoặc giống như con người thường quan niệm sai lạc về những vong hồn thuộc thế giới siêu linh được tự do hiện ra quấy phá. Nếu không có đấng toàn năng cho phép phù trợ thì không thể có bất kỳ hồn ma ngạ quỷ nào có thể khuấy động được con người, nhất là những người đạo cao đức trọng và sự bình yên trên dương thế. Cô không nên nhân cớ đó mà tạo thêm vô vàn những khổ nghiệp chập chùng, e mãi mãi chìm đắm trong vòng quay của bánh xe luân hồi quả báo. Chỉ nên đem ân đền oán thì nghiệp lực mới mong được giải trừ an nhiên, cứu rỗi.

Giờ đây, nếu cô muốn, ta có thể giúp cô soi tìm lại căn nghiệp xa xưa để cho cô thấu rõ được mọi điều, không còn có sự bán tín bán nghi. Và khi cô đã hiểu tường tận sự huyền nhiệm siêu linh trong tiến trình nhân quả, cô sẽ không còn lý do mang nặng lòng thù hận, đồng thời, chúng tôi sẽ cấp phát cho cô một phiếu công đức (công đức có được nhờ vào kết quả của các công việc hành thiện, tu tập của một hoặc nhiều người trong một nhóm đạo gia) và sẽ cầu xin ơn cao cả giúp cho cô có thể chọn lựa một trong hai con đường, hoặc là được nương náu tu tập trong chùa để tái tạo nghiệp tốt, hoặc là cô sẽ được tái sanh nhận lại kiếp người qua hình thức đầu thai...

Lắng nghe vị pháp sư ôn tồn giải thích, hồn ma người con gái tỏ ra hiền dịu tin tấn hơn nhiều. Tia nhìn của cô bắt đầu nhuộm vẻ từ ái, cử chỉ của cô biến đổi trở thành lễ độ khiêm cung. Cô ngồi đó, lặng yên như đang đắm hồn trong nỗi chiêm nghiệm thâm sâu về những lời nói nhân ái của vị pháp sư chân chất giải bày.

Sau cùng, cô ngước lên nhìn vị pháp sư thay đổi cách xưng hô:

- Con không dám ao ước chọn lựa nghiệp tu. Xin cho con được sớm trở lại đầu thai kiếp người để cho con có cơ hội tìm lại đời sống an vui trên dương gian hạnh phúc như bao nhiêu người khác!

Vị pháp sư hoan hỉ gật đầu:

- Mặc dù nghiệp lực của cô còn trùng điệp chất chồng, oan oan tương báo, rất khó mà đạt được sở nguyện tái sanh. Nhưng với lòng từ bi vô lượng của bề trên, nếu cô thành tâm ăn năn sám hối và hứa sẽ không bao giờ tái phạm những điều chẳng lành, chúng tôi sẽ cấp tặng cho cô một phiếu công đức- giống như việc góp vốn đầu tư - để cho sở nguyện của cô sớm được viên thành. Nếu cô bằng lòng với những điều như vậy và mau mau thoát ra khỏi thân xác của người thanh niên tội nghiệp này để cho anh ta trở lại đời sống bình an vô sự, thì mọi việc sẽ được nghiêm chỉnh tiến hành. Cô nghĩ sao?

Vong linh cô gái tên Trâm sung sướng gật đầu. Cô cúi đầu tiếp nhận phiếu công đức. Sau đó không lâu, cô trả lại trạng thái bình thường cho người thanh niên tên Ðức. Tất cả mọi người chứng kiến đều cảm thấy nhẹ nhõm hân hoan vì biết rằng, kể từ giây phút này, hồn oan cô gái đã không nhập xác để tiếp tục hành hạ người thanh niên tên Ðức, khiến cho thân xác anh ta héo mòn, khiến anh ta hàng ngày phải tìm kiếm ăn uống những đồ dư thừa phế thải ở các thùng rác. Nhất là, đối với vong linh cô gái, từ nay sẽ được đền bù và chờ ngày tái sanh đầu thai kiếp khác.

Về phần Ðức, người thanh niên bị ma nhập, ngay khi đó bỗng tỉnh táo hoàn toàn. Anh có thái độ ngẩn ngơ như vừa trải qua một giấc chiêm bao đầy mộng dữ với vóc dáng, thân thể gầy còm hôi hám đến lợm người.

Chờ cho Ðức thật sự hoàn hồn, những người có mặt ở ngôi đền đem cho anh thức ăn, hoa quả và nước uống. Ðức ăn ngấu nghiến ngon lành và ra chiều muốn lạy Phật để tạ lễ. Mọi người như đoán biết Ðức muốn gì, một người lên tiếng:

- Anh nên tự ý sắm sửa hoa quả nhang đèn cho việc cử hành lễ tạ để biểu lộ tấm lòng thành kính tri ân. Thật ra, chúng tôi có thể giúp anh có thêm tiền bạc để thực hiện lễ tạ ơn tươm tất, nhưng điều đó không thực sự tối cần. Ðiều cần thiết chính là tấm lòng thành khẩn do chính anh tỏ bày. Vậy anh hãy thực hành ngay đi.

Vốn bị mất việc làm đã lâu, lại sống lang thang đầu đừng xó chợ, ăn uống dơ bẩn khác thường, tuy thỉnh thoảng vẫn có người động tâm cho tiền bố thí. Ðức lục hết túi quần áo, gom góp khắp nơi cũng chỉ vỏn vẹn có mười đồng bạc. Anh định tâm dùng hết chẳng ngại ngùng gì, nhưng sau khi mua sắm đầy đủ nào hoa quả nào nhang đèn cũng chỉ tốn vỏn vẹn chín đồng bạc. Không biết do động cơ nào thúc đẩy, Ðức đem một đô la còn lại để mua một tấm vé số, cạo ra anh lại trúng được đúng $10.00, xem như anh đã chẳng mất đồng nào cho việc mua hoa quả nhang đèn tạ lễ vốn chỉ thuần túy mang ý nghĩa của sự bày tỏ chân tâm.

Vài tháng trời sau đó, nhờ lòng tốt bụng của những người đồng hương, có người đưa hẳn anh về nhà, giúp cho anh hàng ngày có miếng ăn chỗ ở tươm tất, Ðức dần dần bình phục, sức khỏe cùng sắc diện của anh ngày thêm hồng hào mạnh mẽ. Nhưng để giải quyết đời sống hàng ngày trước khi xin được việc làm mới, anh làm đơn xin hưởng tiền trợ cấp tàn phế về bệnh thần kinh...

Thời gian sau này, anh đã tìm lại được đầy đủ phong độ năm xưa, lại còn may mắn kiếm được công ăn việc làm với tiền lương vừa khấm khá vừa nhàn hạ, rồi tự mình ổn định được cuộc sống với miếng ăn chỗ ở riêng tư sung túc, xem ra rất khá giả bình thường. Rồi nhờ có diện mạo nhân dáng dễ coi, lại thêm phong cách chân chất thật thà. Chẳng bao lâu, một cô gái trẻ tuổi xinh đẹp mặn mà có đôi mắt long lanh to tròn với dung nhan nhân hậu, làm việc cùng sở với anh, đem lòng yêu thương Ðức, anh đón nhận tình yêu bằng tất cả chân tình của trái tim ngập tràn rung động và cuồng nhiệt ở một thanh niên tươi trẻ yêu đời. Một năm sau, Ðức cùng người con gái yêu anh cử hành hôn lễ trong bối cảnh vui vẻ với rất đông bạn bè quen biết cùng với tất cả những ân nhân cả đạo cả đời, những người đã từng có một tấm lòng đầy bao dung thân ái, đạo hạnh vị tha, đã từng quan tâm săn sóc, giúp đỡ anh trở lại ánh sáng hạnh phúc của một đời sống đầy ắp niềm tin với sắc hồng.

Lời cuối: Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.

Nguồn:

http://vnthuquan.net

Phát hành:

Nguyễn Kim Vỹ

.

Nguồn: VNtruyen.com

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 10 tháng 8 năm 2007

Khuyết Danh

Trường Sinh Bất Tử

Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động

Nguồn: http://vnthuquan.net/

Tạo ebook: Nguyễn Kim Vỹ.

MỤC LỤC

Trường Sinh Bất Tử

Khuyết Danh

Trường Sinh Bất Tử

Tư Âm Nguyễn Ðoài Sĩ, người làng Ðoài Xá, phủ Dạ Trạch tên tục là Nguyễn Lại, con nhà khá giả, được bố mẹ nuông cưng từ nhỏ, rồi cho sang làng bên theo thầy học đạo, vì thế cũng võ vẽ vài ba chữ thánh hiền, bụng thuộc dăm bảy câu thi phú, mà tự biểu là thế. Âu cũng là sính chữ đua đòi gọi hiệu cho sang.

Lớn lên, nhờ vãi tiền khắp trên dưới, vả lại khí chất cũng nhanh nhẹn nên lọt được vào phủ đường làm chân thư lại cỏn con, giúp việc kiện. Năm hai mươi tuổi lấy vợ. Vợ tên là Lý Hòa Liên, người cùng làng, phốp pháp, trắng, xinh xẻo. Trời phú cho thị họ Lý những bộ phận đàn bà có sự hơn người, với lại cũng biết cách chiều chồng, ăn ở mặn mà nên Nguyễn Lại yêu mê mệt. Trừ những lúc lo việc ở phủ đường, thời gian còn lại, chàng quấn quít bên vợ, ân ái say đắm. Ngày tháng qua đi êm ả, no đầy và dễ chịu. Cuộc sống yên vui tưởng như không có đáng lo nữa.

Một ngày nọ, gia đình họ Nguyễn gặp đại tang. Thân sinh chàng trúng cảm, qua đời ở tuổi năm mươi. Làm xong đạo hiếu, chàng vô cùng rẫu rĩ. Buồn vì mất bố là một lẽ. Nhưng chàng còn sợ hãi khi nghĩ rằng một ngày nào đó, đến lượt chàng lại cô lẻ nằm trơ trọi ngoài cánh đồng trống lạnh, mọi phú lộc làm ra, sự sung sướng trời ban đều không được hưởng nữa. Từ đấy chàng đâm ra lo buồn. Ðêm nằm thao thức nghĩ ngợi.

Một tối, người vợ quào chân sang hỏi:

- Chẳng hay chàng có điều gì khó ngủ?

- Ta thấy tạo hóa vô lý quá, hà cớ gì con người cứ phải chết? - chàng rầu rầu hỏi lại.

- Sự ấy có gì lạ. Sinh, lão, bệnh, tử, ai ai cũng phải chịu cái vòng ấy.

Chàng thở dài mà rằng:

- Than ôi, giá mà cứ được sống thế này mãi mãi.

Người vợ cười lớn rồi kéo khuôn mặt thẫn thờ của chàng mà áp vào bộ ngực trần phây phây quá cỡ nóng ran của thị.

- Thiếp nghĩ rằng, đã được sống thế này, có chết cũng thỏa.

Nói rồi, quờ tay tìm vật báu trên người chàng. Nguyễn Lại lịm đi. Nhưng càng hạnh phúc, càng sung sướng, chàng càng sợ chết, càng ham sống.

Tuy ngày ngày đi vợ tiễn, về vợ đón, cơm nóng canh ngọt, ủ ấp hằng đêm, chàng cứ thấy buồn buồn canh cánh một nỗi lo sợ. Ðêm nằm cạnh vợ chàng thường thở dài thườn thượt mà tự hỏi: Tại sao con người không sống mãi để hưởng cho hết lộc trời?

Một hôm, dịp ấy đang là mùa xuân, cây cỏ đâm chồi nẩy lộc khoe sắc, người người hớn hở, rạng rỡ mặt mày, nơi nơi chốn chốn tưng bừng mở hội, chàng vẩn vơ ra phố ngắm cảnh. Chợt, lúc đó có một cụ già râu tóc bạc phơ từ phía trước hớt hải đi tới. Và có lẽ vì vội vã, cụ va phải Nguyễn Lại, đánh rơi cây thiền trượng.

Chàng cúi xuống nhặt lên, lễ phép hỏi:

- Ðang là ngày vui, có việc gì mà cụ phải gấp vậy?

Ông già nói:

- Quí khách không rõ ư? Ta sợ chậm chân. Ðã đến dịp ta phải có mặt để nghe giảng đạo.

Họ Nguyễn bèn hỏi:

- Thưa, xin cụ cho biết cụ người ở đâu tới? Và cụ đi thụ đạo ở nơi nào?

Cụ già nhìn về phía dãy núi xa mờ trước mặt, nói:

- Ta người Thanh Liêm thuộc phủ Ðổng Quốc, hôm nay lên núi Phù Tiên để nghe Ðức Ðồng Chân Nhân Ðại Ðạo truyền thụ phép trường sinh bất tử.

Họ Nguyễn nghe vậy cả mừng, nghĩ rằng phải chăng đã tới lúc trời giúp, liền xoắn xít hỏi:

- Thưa, con hỏi khá đường đột, những người như con muốn thụ đạo trường sinh liệu có được?

Ông già nhìn từ đầu đến chân viên thư lại, rồi nói:

- Ðược! Nhưng quí khách đã nghĩ chín chưa?

Nguyễn Lại đáp ngay:

- Dạ thưa, đó là điều tâm niệm của con bấy lâu nay mà con chưa có dịp - Chàng khẩn khoản - Mong cụ rộng lòng giúp cho, ơn này trời biển, con không dám quên.

Ông già nói:

- Ðạo là việc của trời ban cho mọi người. Ta vân du cùng khắp thiên hạ cũng là đạ thu nạp môn đệ cho Ðức Ðồng Chân Nhân Ðại Ðạo, dám đâu từ chối một ai.

Nguyễn Lại bàn quỳ xuống vái ông già:

- Vạn phúc cho con quá! - Rồi hỏi: Con muốn báo cho vợ con là Thị Liên biết, chẳng hay có tiện?

Ông già nhìn ra xa, nói:

- Còn quyến luyến bụi trần, e rằng khó đắc đạo! Nếu thành tâm, xin đi ngay kẻo chậm.

Nguyễn Lại không chút đắn đo, liền khấp khởi bám gót ông già. Chẳng mấy lúc hai người ra khỏi phố phủ.

Tối ấy Thị Liên không thấy chồng về, chẳng rõ đã xảy ra cơ sự gì, chỉ biết tựa cửa ngóng ra. Ngày một ngày hai vẫn bằn bặt. Thị liền bỏ nhà, cất công dò hỏi. Nhưng tìm kiếm khắp, vẫn chẳng một tung tích của chồng. Thị buồn bã, vật vã khóc lóc, rồi cuối năm ấy, không thể thiếu vắng được đàn ông, bèn đi lấy người khác.

Nói về Nguyễn Lại, sau khi ra khỏi phủ, cảm thấy đôi chân mình nhẹ tênh liền bước gấp theo cụ già như bay. Ðêm hôm đó, hai người đến chân núi Phù Tiên. Ông già dẫn Nguyễn Lại đi men theo con đường mòn. Ðến một cửa hang sau lưng chừng núi thì dừng lại. Họ Nguyễn ngước lên thấy hàng chữ "Ðức Ðồng Ðại Ðạo Tôn miếu" lấp lánh ánh vàng thì mừng lắm. Hai người bước qua cửa, chỉnh đốn lại áo mũ, rồi theo hành lang rộng, đi vào. Phía cuối hành lang, thấy tỏa ra ánh hào quang rực rỡ. Ðến cửa thứ hai, cụ già ra hiệu cho Nguyễn Lại dừng bước. Bốn tiểu đồng nhận ra ông già liền vào trong bẩm báo. Ðức Ðồng truyền cho dẫn hai người vào. Ông già cùng Nguyễn Lại đi sâu vào Tôn miếu. Tới nơi, thấy Ðức Ðồng Chân Nhân Ðại Ðạo đang tọa trên sập vàng. Xung quanh, lung linh ngũ sắc, hương khói thơm lừng. Ông già quỳ xuống, Nguyễn Lại quỳ theo.

Chân Nhân Ðại Ðạo chỉ Nguyễn Lại và hỏi:

- Người này là ai?

Ông già đáp:

- Thưa Ðức Ðồng, đây là họ Nguyễn, phủ Dạ Trạch muốn làm môn đồ theo học pháp trường sinh.

Chân Nhân Ðại Ðạo nói:

- Pháp trường sinh phải dày công tu luyện, người có kiên tâm không?

Viên thư lại vội vàng thưa:

- Con kiên tâm!

- Liệu có quên được chuyện đời?

- Dạ, con quên được, xin Ðức Ðồng cho thụ giáo.

- Ðạo của ta không được vương vấn trần ai, ta thấy ngươi thành tâm, ta chấp nhận.

Nguyễn Lại liền vái tạ.

Từ hôm ấy, họ Nguyễn ăn chay, ngày ngày ngồi cạnh vân sàng của Ðức Ðồng Chân Nhân Ðại Ðạo nghe giảng, tụng kinh... Tháng nọ nối năm kia, chỉ một chu trình: ăn, đọc kinh, buổi chiều đi dạo quanh sườn núi. Thấy công việc lặp đi lặp lại một cách đơn điệu tẻ nhạt, họ Nguyễn đâm ra chán, nhớ nhà, nhớ vợ. Nhưng cũng chỉ là nghĩ trong bụng mà không dám lộ ra. Việc đàn hương đọc kinh vì thế có phần sao nhãng. Ðược thụ pháp trường sinh như mơ ước của chàng, nhưng Nguyễn Lại bắt đầu chán nản. Chàng thấy cuộc sống xưa kia của chàng mới thú vị làm sao! Và vì vậy chàng luôn bị cảnh giường chiếu cùng vợ ám ảnh. Ðêm đêm chàng trở mình, giấc ngủ chập chờn. Rồi chàng nghĩ: thà được sống như trước đây, bên vợ một hôm rồi chết còn hơn "trường sinh" một cách nhàm chán ở chốn này.

Vào một ngày nọ, cũng là tiết xuân, Nguyễn Lại cùng tiểu đồng đi vãn cảnh. Chợt nghe nhiều tiếng cười dưới chân núi vọng lên, liền dừng lại. Dưới đó, hội xuân đang kỳ rộ. Chỗ này kéo co, múa lân. Chỗ nọ đánh vật, quay đu. Náo nức, vui vầy. Nguyễn Lại dừng mắt lâu bên một cây đu. Nơi ấy, một trai một gái, quần nâu váy lĩnh đang quấn lấy nhau mà nhún. Váy người con gái tốc cao, lộ rõ cặp đùi trắng. Nguyễn Lại vội quay mặt, thở dài. Hôm sau, một mình chàng ra chỗ cũ, trông xuống. Ngày trước, mình cũng được sống vui vẻ như họ, chàng chợt nghĩ, và hình ảnh Thị Liên lại hiện ra. Ðêm đó, về đến Tôn miếu chàng bỏ cơm.

Hôm thứ ba, chàng dậy sớm, ăn mặc gọn gàng và xăm xăm lẻn xuống núi. Những tiếng cười trong trẻo của đám con trai con gái và sự trêu đùa của họ khiến chàng vui thú. Chàng lẫn vào đám đông đi hội lúc nào không hay.

Quê nhà cũng đang vào xuân, ta thử về đó một lần xem sao! Nghĩ vậy, chàng liền cất bước.

Quê hương khác xưa nhiều quá! Chàng có rõ đâu rằng một năm trên núi Phù Tiên là mấy chục năm nơi cõi đời - Chàng lạ lẫm như Từ Thức về làng. Chàng dò hỏi mãi, vẫn chẳng một người rõ Thị Liên là ai. Tới một ngôi nhà nọ, gặp bà cụ đã trên bảy mươi tuổi, tóc bạc trắng nhưng lại có những nét quen quen, chàng ngờ ngợ hỏi thăm. Bà lão không trả lời, chăm chú nhìn chàng rồi ngạc nhiên hỏi lại:

- Người là... có phải Thư Âm Nguyễn Ðoài Sĩ... Ngày xưa?

- Thưa, cụ là...

- Tôi là... Lý Hòa Liên.

Nguyễn Lại thất kinh, khuôn mặt méo xệch, liền hét to một tiếng, và chàng choàng tỉnh, trong lòng vô cùng sợ hãi. Thì ra đó là một giấc mơ.

- Có gì khiến chàng run rẩy vậy? - Người vợ bật dậy, ái ngại nhìn chàng và hỏi.

Nguyễn Lại ra khỏi giường, giật khăn thấm mồ hôi đang ướt đầm trán, rồi ngồi xuống, thở, và hổn hển kể lại mọi việc với vợ.

Thị Liên nghe xong cả cười, bèn thốc váy, phủ kín khuôn mặt chàng thư lại...

Lời cuối: Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.

Nguồn:

http://vnthuquan.net

Phát hành:

Nguyễn Kim Vỹ

.

Nguồn:

Được bạn: TSAH đưa lên

vào ngày: 25 tháng 8 năm 2004

Thủy Lâm Synh

Oan Hồn

Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động

Nguồn: http://vnthuquan.net/

Tạo ebook: Nguyễn Kim Vỹ.

MỤC LỤC

Oan Hồn

Thủy Lâm Synh

Oan Hồn

C ơn mưa giông vừa tạnh, chỉ còn lác đác vài hạt thật nhẹ. Xa xa, những tia chớp lóe lên làm sáng rõ ngọn tháp giáo đường. Giờ nầy mọi người trong xóm Xuân Bình đã say ngủ. Khuya lắm rồi, dễ chừng cũng sau nửa đêm. Lão Doanh, bước ra sân quẹo qua phía hè sau, nơi có ba tấm ván dựng thành hình chữ U chứa một đống tro, vắn quần lên tiểu.    “Cho tôi miếng nước...có ai cho tôi miếng nước...trời ơi, tôi khát quá, chết mất...”

Trong bóng đêm dày đặc, lão Doanh rùng mình ngơ ngát, lão nói thầm trong bụng:

“Giờ nầy ai còn xin nước?”

Lại tiếng kêu:

“Cho tôi xin miếng nước...có ai cho tôi miếng nước...trời ơi...”

Tiếng than lúc nầy gần lắm, giọng the thé, khiến người nghe nổi da gà. Lão Doanh ráng sức tiểu cho lẹ, chưa đã, nhưng lão đành cầm ...lắc lắc thật nhanh, thả ống quần ngủ xuống, vội chạy vào nhà, đóng sầm cửa lại. Tiếng xin nước lúc nửa đêm làm toàn thân lão Doanh ớn lạnh.  Sực nhớ câu nói của cha Luông: “Chúa đã từng làm phép đuổi quỷ nhập vào đàn heo để cứu người đàn bà ...”. Lão Doanh mò tìm chiếc hộp quẹt đốt đèn, đến bàn thờ cầm cây thánh giá, tròng xâu chuỗi vào cổ mở cửa mạnh dạn bước ra sân.  Lão Doanh cầm thật chắc cây thánh giá làm như thể nó vụt bay đi. Lão đưa lên trời, đọc một hồi kinh Lạy Cha cho đến đoạn cuối ...nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ...Amen. Lão cố đọc lớn câu sau cùng nhiều lần.

“Quớc, quớc”

Lão Doanh giật bắn mình, một con quạ đâu đó kêu hai tiếng, vỗ cánh sà xuống ngang trước mặt lão rồi vụt bay đi. Lóng ngóng vài giây, tiếng kêu xin nước cũng bặt... “như vậy là tốt lắm rồi”, lão Doanh nghĩ như thế và tự cho mình hưởng cái quyền an ninh. Có thể sau khi đọc kinh, hồn ma được nhập vào con quạ và Chúa đã đem nó đi trấn nước rồi, miệng lão càm ràm, khinh miệt: “ma với cỏ” rồi quày quả bước vô nhà, đóng cửa. Đặt cây thánh giá vào chỗ cũ, cởi xâu chuỗi tròng hai bận vào nó, lão Doanh bưng chiếc đèn hột vịt lên gần miệng thổi cái phụt, để lại xuống bàn. Lòng đôi dép Nhựt dính cát, lão co hai bàn chân xát vào nhau vài lần cho sạch trước khi nằm trở lại. 

Độ tàn điếu thuốc, trí lão Doanh chưa hết bàng hoàng, trong mùng, mắt lão vẫn còn thao láo với màu đen quánh xung quanh. Bỗng tiếng bước chân của ai mỗi lúc nghe một gần. Tiếng chân ngừng hẳn, mấy con gà phát hiện có bóng người la toáng lên, đập cánh đành đạch như muốn phóng ra khỏi chuồng. Lão Doanh ngồi phắt dậy rón rén đi đến cửa sổ nhìn ra vì đinh ninh có kẻ trộm. Một tia chớp lóe lên, lão Doanh giật thót, lạnh xuyên toát xương sống; dáng một người đàn bà gầy đét, đầu bù xù, mớ tóc phủ xuống gương mặt xanh dờn như tàu lá chuối non mà lão chỉ cách bà ta có mấy song cửa sổ. 

Người kia cất tiếng gọi:

“Cho tui xin miếng nước... cho tui xin... xin nước”

Tiếng nói đứt quảng và mang âm thanh cực kỳ rùng rợn. Lúc nầy hồn vía lão Doanh lên mây. Lão á  khẩu phóng lại bộ phản lăn tuốt vào góc trùm mền kín mít. Bà vợ nằm trên chõng tre kê gần bếp, chưa tỉnh ngủ hẳn, nghe thấy tiếng kêu bên ngoài sợ quá đái vãi ra quần, nhào qua phòng thằng Thế, đứa con đang ngủ chung với vợ mới cưới. Bà nhào lên giường chen vào giữa hai vợ chồng nó làm chúng giật mình thức giấc hỏi dồn:

“Chuyện gì vậy, có chuyện gì...?”

“...mờ...mờ...ma...”

Bà  Doanh trả lời ú ớ, hai hàm răng gõ vào nhau nghe lộp cộp. Một góc của chiếc mùng bị đứt dây, phủ xuống như tấm lưới cá làm Thế quờ quạng một lúc mới hất được mùng chui ra. Lúc nầy nó đã nghe tiếng kêu xin nước bên ngoài vọng vào làm tim nó cũng đập thình thịch. 

Nãy giờ toàn thân lão Doanh nằm co quắp như con tôm. Tất cả vốn liếng kinh, kệ lão nhớ câu nào  đọc câu đó, không đầu không đuôi. Lão sờ lên cổ để tìm xâu chuỗi hộ mạng, nhưng chợt nhớ ra đã treo nó lên cây thánh giá rồi.  Trong nhà lão Doanh ai nấy đều run. Thằng Thế làm bạo bước trên mười ngón chân xuống nhà bếp lấy cái rựa. Nó không biết lấy rựa để làm gì, chặt ma ư? nó không có ý định ấy, nhưng nghe nói ma sợ sắt biết có đúng không? Cái rựa không nằm ở vị trí thường lệ, nó mò mẫm trong bóng đêm, bàn tay phải giong ruổi huơ vào lưỡi dao, nó thấy rát biết vừa bị đứt. Thế lấy bàn tay trái bóp mạnh vào vết thương cho cầm máu.

Bên ngoài tiếng xin nước và tiếng móng tay cào lên cánh cửa bằng tole cứ chốc chốc xoáy vào nghe cực kỳ rùng rợn. Thục và mẹ chồng vốn chưa thân nhau lắm, thế mà đêm nay, Thục trùm mền quá đầu quay mặt vào vách run như người bị sốt rét nặng thì sau lưng mẹ chồng cũng ôm chặt lấy vai nàng mà run. Một đêm hãi hùng không tả trùm xuống nhà lão Doanh, một ngôi nhà lẽ loi cách ly xóm đạo Xuân Bình mấy trăm thước.

Nói cho đúng lão Doanh có người con trưởng tên Gia hiện  đang làm việc gì đó trên cơ quan phường Tân Giao. Gia nghĩ mình có quyền nên thấy khoảng đất trống sau khi ai đó hốt cốt mấy ngôi mộ liền nhau, hắn mướn thợ cất lên ngôi nhà cho cha mẹ và hai vợ chồng đứa em mới lấy vợ dọn vào. Còn riêng Gia thì chính quyền đã cấp phát cho căn hộ tịch thu của một gia đình vượt biên để lại trong cư xá Thống Nhất. So bán kính, nhà lão Doanh nằm gần nghĩa địa công giáo hơn là xóm đạo Xuân Bình.

Khoan nói đến tiếng con ma thỉnh thoảng kêu than xin nước uống mà người ta đồn đãi bấy lâu, nay nhà lão Doanh mới biết là có thật. Tiếng gió về đêm thổi mấy cây dương liễu trồng xung quanh nghĩa trang lúc cao vút, lúc ngừng hẳn rồi trầm trầm trước khi hú lên như một cơn suyễn nặng, cộng với tiếng chó tru dài khan khan đâu đó, tự nó đã tạo lên những âm giai ma quái đến rợn người.  

Nghe nói có ma, năm ba thanh niên trong nhóm Thánh thể hiếu kỳ, đem dao, gậy và dĩ nhiên là cây thánh giá to tướng ra nghĩa trang căng mùng nằm chờ. Nhưng lạ lắm, những đêm trăng thanh gió mát hoặc trời khô ráo, không mưa thì lại chưa bao giờ nghe thấy tiếng ma xin nước. Chỉ có khi nào sau cơn mưa và vào lúc nửa đêm thì tiếng kêu xin nước lại xuất hiện. Việc nầy khiến nhiều người đoán mò rằng, trời hành không cho nó uống nước, nên thấy nước hồn ma nó thèm.

Câu chuyện ma xin nước đã tạo cho dân địa phương truyền miệng nhau nhiều huyền thoại. Trong ấy có chuyện một người đàn bà chửa, còn rất trẻ, xin ăn lang thang trên khắp nẻo đường trong thị xã Cam Phương. Cô ta không có nhà cửa, tối đến thì đụng đâu quấn mền đó. Người ta gặp cô ở những góc phố, trong lều chợ, hè trường học, trạm xe búyt v.v... không ai biết chỗ nào chắc chắn.

“Khó khăn như thế thì chửa với  đẻ làm chi cho phiền.” -  Ông đi qua, bà đi lại khó tránh bàn tán như thế.

Nhưng những suy nghĩ rộng lượng hơn thì cho rằng con người là một tổng hợp của hỷ nộ ái ố – có thể sau một bữa ăn no, người ta có quyền nghĩ đến một chút thoải mái bằng phương tiện sẵn có. Người kể chuyện còn cả quyết tiếng xin nước ấy chính là hồn ma chị Thơm, chị đã tự tử trong khám nhân lúc Việt Nam có tổ chức Sea Game năm 2003.

Chính quyền muốn cho thế giới thấy vẻ lành mạnh, văn minh của xã hội nên đã mạnh tay với những người ăn mày khắp cả nước. Không ngờ như mặt trái sần sùi của tấm huy chương, chỉ thị lại ảnh hưởng đến số phận người đàn bà khốn khổ. Chắc buồn lòng thế nào đó mà chị Thơm treo cổ tự tử. Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột – giới chức địa phương không ai buồn điều tra vụ người ăn mày tại sao chết. Hơn nữa, thiên hạ có thói quen cho rằng, người ăn mày vốn trên đời đã bất hạnh, chết đi biết đâu không là một giải thoát khỏi cảnh đọa đày do cơm áo gây nên. 

Không phải ngẫu nhiên mà ông bõ già của nhà  thờ Xuân Bình được nhắn vào phòng giam nhận xác chị Thơm về chôn. Nguyên anh Gia,  làm việc trong phường Tân Giao lúc nầy mới theo công giáo. Mỗi tuần anh về nhà thờ xưng tội, xin lễ rất đều đặn, nên càng quen thân với tín hữu, quen với bõ già. Cha xứ trở nên thân thiện với người có quyền chức thấy rõ. Sau lễ có khi Gia ở lại la cà tâm tình với cha. Khi về Gia thường khuân theo các thứ quà cớm thặng dư do giáo dân mang tới biếu cho cha, đại khái như kết bia, vài chai rượu lễ, thùng nước ngọt, tá áo thun v.v...Thứ gì Gia cũng dễ dãi nhận cho cha vui. Thật ra tặng người cán bộ mấy thứ dư dùng cũng có cái lợi – thứ nhất, bất cứ những lỗi lầm nào từ việc lái xe cán chết người, chở ba, xe lậu, đánh lộn...của con chiên Xuân Bình bị bắt về đồn, chỉ cần cha nói một tiếng là mọi việc đều yên. Thứ nhì, tội gì không làm quen với những người có quyền, họ là thành phần truyền đạo tốt. Tiếng nói của họ mạnh gấp trăm lần mấy ông biện trong giáo xứ gởi ra ngoài gõ cửa những người lương chung quanh để mở mang “xóm” Chúa.

Trước khi bõ già đi nhận xác người ăn mày, họ  đạo Xuân Bình mở một phiên họp bàn xem nên chôn người ấy ở đâu. Hai phần ba số người dự phiên họp đều không tán đồng cho người ăn mày nằm trong khu nghĩa trang công giáo vì họ cho rằng sẽ làm ô uế những linh hồn thánh thiện đang nằm chờ sự trở lại của Chúa Giêsu trong ngày tận thế. Bõ già buộc phải tìm một rẻo đất bên ngoài nghĩa địa công giáo mà chôn người ăn mày.  Ông cắm lên ấy cây thập giá tự chế với hy vọng tình thương Thiên Chúa sẽ ngó ngàng cho con người bạc mệnh. Công việc mai táng hoàn tất, nhưng có một điều chưa bao giờ hoàn tất là hồn ma chị Thơm. Thỉnh thoảng bõ nằm chiêm bao thấy bóng chị Thơm đi vào nhà thờ xin nước. Ông thì không tin chuyện ma quái vì đã có niềm tin mãnh liệt vào Thiên Chúa của ông. Nhưng lạ quá, không tin là một việc, nhưng chiêm bao cứ đến khuấy bõ lại là việc khác. Đôi khi bõ đâm ra hối hận vì đã trót nhận xác chị Thơm về chôn, biết đâu con ma nó lại không theo bõ suốt đời. Sau bao nhiêu lần chiêm bao thấy chị Thơm về báo, bõ già không biết làm gì khác bèn đem tự sự trình lên cha xứ. Cha Luông nói với bõ là từ nay đừng bao giờ nhắc đến chuyện hoang đường ấy nữa, cha không muốn nghe. Bõ riu ríu cáo từ, trong thâm tâm ông cứ băn khoăn về những điềm chiêm bao kỳ lạ. Mới đêm kia đây thôi, vừa đặt lưng xuống giường là bõ đã ngủ khì, trong giấc mơ  ông thấy chị Thơm về đứng ngoài cửa sổ nói với ông như thế nầy:

“Tôi là người con gái mồ côi từ nhỏ, sống bằng tình thương của bá tánh. Mười tháng trước đây, nhân dính vào vụ bán vé số giả, tôi bị công an thị xã bắt nhốt. Trong đêm mưa tầm tả, không còn ai ở cơ quan, Gia - một tên cán bộ đã vào nhà giam giở trò sàm sở, dùng sức mạnh cưỡng hiếp tôi. Hắn đã cướp đisự trong trắng của tôi, làm cho tôi mang bầu, dẫn đến cuộc sống khốn khổ tôi phải đi xin ăn. Thời gian mấy tháng sau, trong đợt Sea Game, nhà nước muốn che đậy bộ mặt nghèo đói của xã hội. Tôi lại bị bắt khi sắp sinh con. Gia muốn che giấu hành động bỉ ổi nên đã vào nhà giam lấy dây siết cổ tôi rồi tạo cho hiện trường được nhìn như một vụ tự tử. Tôi thật sự bị giết, tôi muốn kêu oan”.

“Maria lạy Chúa tôi”! cơn ác mộng hãi hùng, bõ già choàng tỉnh giấc, mồ hôi vã ra như tắm.

Ngày Chủ Nhật sau đó, bõ chăm chú nhìn Gia đang quỳ dưới hàng ghế cuối. Mặt Gia toát ra đường nét ác độc, đê hèn một cách đáng ghét.  Thế mà không biết tại sao từ ngày hắn vào đạo,  cha Luông xem hắn như một tín hữu thân cận. Nhiều khi hai người nói chuyện riêng hàng giờ trong phòng, sau đó khi về hắn còn chở theo những thùng quà nặng trĩu khiến bõ già tiếc hùi hụi. Đôi khi làm việc ngoài vườn khát khô cả cổ, bõ muốn vào nhà kho chôm lon nước ngọt, khui ra tu một hơi cho đã nhưng sợ mang tội ăn cắp.  

Từ  ngày hồn ma báo mộng, bõ rất ghét bộ mặt  đạo đức giả của Gia. Càng gai mắt hơn khi hắn khúm núm quỳ dưới chân Chúa nhân từ và nhận những chiếc bánh Thánh vô nhiễm. Cũng có thể hắn hối hận chăng? Bõ già nghĩ như vậy. Nhưng không, một hôm bõ vô tình đứng ngoài cửa nghe mẫu chuyện giữa cha xứ và hắn.      

“Thưa cha đạo mình khi rửa tội là tất cả tội lỗi đều được Chúa tha hết phải không cha?”

Tiếng cha Luông:

“Giáo hội dạy thì như vậy, nhưng đừng lý tưởng hóa nó.”

“Nghĩa là sao con chưa hiểu.”

“Nghĩa là nói thì như vậy nhưng muốn được tha tội, không phải chỉ có rửa mà còn phải thật sự ăn năn, nếu không ăn năn thì dầu có rửa hết nước một sông cũng không thể nào sạch tội.” Câu chuyện giữa cha xứ và Gia bõ già nghe có thế, nhưng bõ chợt hiểu rằng Gia theo đạo vì hắn muốn cha rửa cho hết tội do hắn gây ra. Bên trong có tiếng đẩy ghế và tiếng Gia cáo từ, bõ già vội bước nhanh ra sân làm bộ lom khom tưới hoa.

Đêm nay trời cũng hâm hấp nóng, khuya lắm rồi mà bõ chưa ngủ  được. Nhìn ra cửa sổ bóng trăng lờ mờ, bõ chợt trông thấy một bóng người đi tới, đi lui, bõ bất giác hỏi:

“Ai đó ?”

Tiếng nói như bị nghẽn trong cổ họng, bóng người trả lời:

“Tôi đây, tôi là Thơm, người được ông nhận về chôn mấy tháng trước.”

Bõ  giật thót người, trong bụng nhũ thầm, “ma”  nhưng không hiểu sao bõ không thấy sợ hãi chút nào, bõ hỏi:

“Cô  đến đây có việc gì?”

“Ông đã chôn xác tôi, chắc ông biết không phải tôi tự tử”

“Tôi có hồ nghi như thế?

“Đúng lắm” 

Khi bóng chị Thơm đến vịn hai tay vào song cửa sổ, một luồng gió mát lạnh hắt vào, người bõ bắt  đầu run, tất cả đều lờ mờ. Trí bõ  già nhớ lại hôm nhận xác gương mặt chị Thơm trắng bạch như người chết đuối, hai con mắt trợn dộc và hai bên mép chảy xuống hai vệt máu khô quánh. Ông lạnh người thụt lùi vào trong, lấy can đảm hỏi:

“Tại sao cô lại đến đây mà không đến chỗ khác?” 

Bóng ma trả lời:

“Tại vì ông là một con người tử tế, có lòng thương người nên tôi đến nhờ ông”.

Trong bóng đêm, bõ già trầm ngâm một giây hỏi:

“Cô nhờ tôi làm việc gì?

“Ông cầu siêu cho tôi đi tái sinh, nếu không tôi sẽ vất vưởng ở đây mãi”

“Tôi không tin vào việc con người chết rồi có thể tái sinh”

Bóng ma xác quyết:

“Lúc còn sống, tôi cũng không biết và cũng không ai nói cho tôi biết về việc con người sau khi chết, phần hồn còn có thể đi tái sinh. Khi chết rồi, hồn tôi lang thang khắp nơi, đã gặp nhiều vong hồn, gặp các nhà ngoại cảm và đặc biệt tiếp xúc với người cõi âm rất nhiều nên mới hiểu.

Bõ  già chống chế:

“Nhưng tín lý của tôi không tin việc ấy là thật.”

“Đây là quy luật luân hồi tự nhiên trong vũ trụ, không dính dáng gì đến tín lý nào cả”

“Như vậy thì tôi làm gì?”

“Ông mua cho được 49 con chim, 49 con cá.”

“Cô biểu tôi nấu cách sao hai thứ ấy?”

“Không, loài vật cũng tham sống  sợ chết như người. Hai loại chim và cá ông mua khi chúng còn sống, ông đem ra mộ của tôi với lòng thành khẩn, ông chỉ nói như thế nầy: ‘98 mạng sống nầy được tự do kể từ hôm nay, để cầu cho vong linh Văn Thị Thơm sinh ngày 16 tháng 3 năm 1980 được đầu thai hóa kiếp’. Sau đó ông thả chim bay lên trời, cá thả xuống sông cho chúng tự do, gọi là phóng sinh”.

Bõ  già phân vân hỏi:

“Làm sao tôi có nhiều tiền như thế?

“Ngày mai, sẽ có người đem tiền tới cho ông”. Sau câu nói ấy, bóng ma ngoài cửa biến mất.

Bõ  già níu kéo:

“B...bao giờ thì tôi làm việc ấy”

Không thấy bóng ma trả lời. Bõ già khệnh khạng bước đến giường, vừa nằm, vừa lần chuỗi mân côi. 

Sáng hôm sau, khi quét lá trước ngõ, lòng bõ già hoang mang vô hạn. Một gã xe ôm chạy xe vào sân, hắn nói có người gởi tiền nầy cho ông, gã xe ôm vụt biến ra khỏi ngõ, bõ già không kịp hỏi một câu, ông lấy thư bọc vào túi, cài ghim cẩn thận, dự trù thực hiện lời hứa.

Giòng tư tưởng bõ già còn bàn bạc trong trí, tiếng xe gắn máy cha Luông vừa về tới, giọng ca vẻ hấp tấp:

“Bõ  ơi! Ra đây phụ cha một tay khuân mấy bình hoa đặt lên bàn thờ. Nhà cụ Doanh vừa mua hoa đem tới để xin lễ cầu hồn cho anh Phạm Oan Gia. Cụ Doanh nói đêm qua anh Gia uống rượu say, chạy xe tung gãy cột đèn phụ ngay hẻm số 35. Trụ đèn ngã, dây chằng cột điện quấn vào cổ anh ấy tắt thở tại chỗ”

Bõ  già thảng thốt kêu lên:

“Maria, Giê-su lạy Chúa tôi” 

Bõ  cùng cha Luông đưa hoa  vào nhà nguyện. Cha Luông trở ra lấy xe gắn máy đi chở thầy phó tế rồi cùng chạy lên nhà lão Doanh xem có thể giúp được gì cho một gia đình tân tòng. Bõ ngồi môt mình nhìn sâu lên tượng Đức Mẹ, lòng chưa hết bàng hoàng, ông nhũ thầm:

“Luân hồi, tái sinh, phóng sinh...” những cụm từ xa lạ tưởng như mơ hồ, sao nay cứ lẫn quẩn đâu đây như một luồng gió nhẹ vừa thổi đến trong đêm hè oi bức.

Apr. 6, 2008

Lời cuối: Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.

Nguồn:

http://vnthuquan.net

Phát hành:

Nguyễn Kim Vỹ

.

Nguồn: Newvietart.com

Được bạn: Thanh Vân đưa lên

vào ngày: 5 tháng 1 năm 2011

Andy Trần

Hai ngả đường đời

Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động

Nguồn: http://vnthuquan.net/

Tạo ebook: Nguyễn Kim Vỹ.

MỤC LỤC

Hai ngả đường đời

Andy Trần

Hai ngả đường đời

    Con đường ngoằn ngoèo dẫn qua khu rừng phong đầy lá vàng rơi rụng . Chiếc xe hơi Toyota màu đỏ sậm đang vượt qua những chiếc xe trước mặt . Tiếng nhạc í a chen lẫn với tiếng cười đùa của đôi trai gái trong xe .

- Mai sinh nhật em , anh nhớ gì không ?

- Có , tặng cho em chục hoa hồng thắm .

- Hi hi , sao lại ít vậy . Anh không nghe câu chuyện một chàng họa sĩ si mê một cô gái , dám bán cả cái lâu đài rồi đi mua những lẵng hoa hồng . Anh biết bao nhiêu đóa không ? Cả triệu đóa hoa hồng đó .

- Được rồi , để khi nào anh tìm được việc sẽ tặng em triệu đóa hoa hồng . Còn bây giờ thì tặng cho em triệu cái hôn nè .

Cô gái lấy tay đẩy miệng anh chàng ra :

- Lo lái xe đi , đường đang đổ dốc . Anh ... anh Bình... coi chừng kìa ! Có xe trước mặt .

Chiếc xe đỏ tránh né và lạc tay lái đâm nhào xuống dốc . Bình nắm chặt vô lăng lượn tránh mấy gốc cây trước mặt , chân đạp thắng gấp . Đèn xe rọi tứ tung và cuối cùng nó ủi vào một gốc cây .

Ầm !

Mui xe bật lên , khói bốc lên mịt mù. Đèn pha chiếu sáng một góc rừng âm u .

Một thời gian thật lâu . Tiếng côn trùng nỉ non trong đêm thâu . Mai ngồi nhỏm dậy , lấy tay dụi mắt . Nàng quay sang Bình , cái đầu Bình nằm vẹo sang một bên . Một vệt máu hồng rỉ ra từ đỉnh đầu Bình .

Nàng hoảng hốt nắm lấy vai Bình lắc mạnh .

- Bình Bình ! Tỉnh dậy đi anh , em sợ quá !

Bình uể oải vươn vai , lấy ngón tay dụi mắt và chăm chăm ngó qua cửa kính xe . Những rặng cây lờ mờ đong đưa theo gió .

- Mấy giờ rồi em , sao trời tối quá vậy . Em tìm xem trong xe còn cây đèn pin nào không ? Dưới hàng ghế đó . Thấy rồi hả , bật đèn lên cho sáng . Ủa sao cánh tay em chảy đầy máu vậy , để anh lấy vải lau cho .

- Bình ơi ! sao kỳ quá vậy . Tay em không cảm thấu đau .

- Có gì lạ đâu , trầy có một chút thôi . Thôi mình ra ngoài xem . Xe không đề máy được , chắc máy hư rồi  .

Hai người bò ra khỏi xe , chập choạng bước về hướng đầu xe . Sao trời chiếu lung linh qua các kẽ cành cây . Ánh đèn pha chiếu băng qua ngọn khói mờ mịt .

- Em còn mang theo phôn tay chớ , cái của anh hết pin rồi .

- Phôn em cũng vậy . Làm sao mình gọi cho cảnh sát tới giúp mình . Khu rừng này chắc không rộng lắm đâu , trông nó có vẻ âm u làm sao . Chúng ta cứ đi thẳng theo hướng này thế nào cũng ra tới đường cái .

- Ừ đi thôi !

Bình nắm tay tay Mai kéo về hướng trước . Ánh đèn pin lấp loáng qua ngọn cỏ mầu xanh đậm . Cứ thế hai người mon men theo các hàng cây , băng rừng mà đi .

- Kìa anh thấy không , đằng kia có ánh đèn xe chiếu sáng . Chắc mình tới bìa rừng rồi , có xe hơi đậu ở đó .

Mai nắm tay Bình giục giã Bình chạy nhanh lên . Trong ánh đèn pin rọi , Mai mở to đôi mắt , không tin rằng hai ngọn đèn sáng chói lại là đèn xe Toyota của Bình . Mai ngờ vực trong lòng , dụi mắt ngó vào số xe 123 YXZ và ngó lên nhìn Bình với vẻ nghi hoặc .

ooo000ooo

Mai sực nhớ ra điều gì , nắm lấy tay Bình cười hớn hở :

- Nè Bình , em nhớ trong cái phôn tay của anh có một cái địa bàn chỉ đường , mình chẳng sợ đi lạc nữa .

Bình vội vàng móc trong túi quần . Một cái địa bàn nhỏ như trái tắc . Bình chăm chú nhìn rồi lắc đầu :

- Trời ơi ! Chắc cái này hư rồi , kim chỉ hướng bắc lại quay về hướng tây . Đúng là đồ made in China . Thiệt dỏm .

Bình tức mình tháo nó ra và quăng xuống đất . Kim chỉ quay tít và dừng lại hướng tây .

- Thì em đã bảo anh rồi , đừng mua đồ dỏm nữa , anh có chịu nghe đâu .

- Thôi đừng để ý tới nó . Em còn giữ cục son môi nào không . Đưa cho anh .

- Làm gì vậy ? Anh định tô môi hồng như em sao .

- Nói dỡn chơi hoài . Đưa đây .

Bình tay nắm lấy tay Ly đi về một ngả khác , tay Bình cẩn thận đánh dấu son hồng từng thân cây mà hai người vừa đi qua .

- Làm cách này mình biết sẽ không đi lại về đường cũ nữa .

Bóng đêm thấp thoáng ánh đèn pin . Hai người mò mẫm , nắm tay nhau qua từng hàng cây . Chừng một hồi lâu hai người mừng rỡ thốt lên :

- Có ánh đèn kìa !

Nhưng chẳng bao lâu vẻ mặt hai người tiu nghỉu vì ánh đèn xe chiếu sáng qua màn đêm kia cũng là ánh đèn xe của Bình .

Mai cau mày nhăn mặt thốt lên :

- Không có lý nào lại trở về nơi đây .

Bình an ủi :

- Anh nghĩ chắc khu rừng quá rộng lớn nên chúng ta chưa tìm được lối ra .

- Em không đi nữa .

- Thôi đừng mà em , dẫu gì chúng ta mới đi có hai lần . Tin anh lần này nhé !

Với vẻ miễn cưỡng , Mai nắm lấy tay Bình :

- Một lần này thôi đó , nhưng mà em mệt bắt anh cõng đó .

Khu rừng vẫn đầy tiếng gió hú xen qua các hàng cây nghiêng ngả .

- Đấy em xem , nãy giờ đâu còn vết phấn son gạch trên thân cây . Có lẽ chúng ta tới gần bìa rừng rồi , anh nghĩ trước khi trời sáng chúng ta sẽ rời khỏi chỗ này .

Mai ngước lên nhìn lên hàng cây cao , chúng xoè ra như những bàn tay khô queo muốn ôm chầm lấy người Mai .

- A ! Em sợ quá . Anh coi kìa ! Em thấy có nhiều bàn tay ma muốn bắt em .

- Đâu có gì , cành cây đong đưa theo gió mà .

Nắm chặt lấy tay Bình , Mai la hoảng lên :

- Á ! Có ai nắm lấy gót chân em .

Bình mau lẹ rọi đèn pin xuống chân . Bóng dáng chập choạng những vết đen sâu thăm thẳm .

- Em lại la hoảng rồi , chân em đi vướng vào rễ cây rừng , có sao đâu . Đừng làm cho mình sợ .

- Anh không cảm thấy khu rừng này có cái gì khủng khiếp dễ sợ à !

- Không , chỉ là rừng thôi .  Lá với cây có gì lạ .

- Thật đó , anh không tin em gì hết . Này nhé ! Địa bàn với cây kim chỉ nam sao lại quay về hướng tây .

Cố lấy giọng an ủi , Bình cầm đôi vai Mai lắc nhẹ .

- Mai nghe anh đi . Cái địa bàn hư mà , tại em quá đa nghi thôi mình đi tiếp .

Một lát sau hai người lần mò qua bãi đất hoang trong rừng , bỗng nhiên Mai vấp ngã , Bình vội vàng giơ tay đón đỡ .

- Có gì không em ?

- Sao tự nhiên ở dưới đất có cái lỗ làm em sái gót chân , đau quá anh .

- Đi được không ?

- Được nếu anh đỡ em đi .

Chân bước đi khập khễnh , Mai chán nản nói :

- Sao mình cứ đi hoài mà không ra khỏi khu rừng này vậy ?

- Em mệt rồi hả . Ngồi nghỉ trên tảng đá một lát đi .

ooo000ooo

Bình ngó dáo dác qua rặng cây tối đen . Một ánh đèn le lói thấp thoáng trong man đêm dầy đặc . Vài tiếng chim quạ quang quác nghe rờn rơn .

- Ở bên kia hình như có ánh đèn . Anh qua thử bên đó xem sao .

Mai nói vói theo :

- Em muốn đi với anh .

- Thôi em cứ lại đây , chân bị trặc như vậy không nên đi lại nhiều .

Lần mò theo vệt đèn mờ ảo , Bình vén vài nhánh cây vắt ngang trán chàng . Trước mặt một căn nhà gỗ có duy nhất một cánh cửa cái . Ánh đèn lờ mờ từ đó hắt ra . Bình giơ tay gõ mạnh vào cửa . Cọc cọc cọc .

- Anybody home ?

Bình nghĩ thầm : " Chắc không có người Mỹ trong nhà ?

- Aiguen esta en casa ?

Cửa vẫn đóng chặt . Bình lại lẩm bẩm :"Nhà này chắc không phải Mễ ".

- Có ai trong nhà không ?

Một bóng đen thấp thoáng trong khung kiếng lờ mờ và vang lên một giọng nói trẻ của một cô gái :

- Chuyện gì đó ?

- Chúng tôi bị lạc trong rừng . Cô có thể cho mượn điện thoại để gọi cảnh sát tới giúp được không ? Điện thoại tôi hết pin rồi . Không dám làm phiền đến cô lâu , chỉ dăm vài phút thôi .

Tiếng cô gái trả lời nhát gừng :

- Ở đây không có phôn phiếc gì cả .

Bình tần ngần , ráng nài nỉ thêm :

- Thế trong nhà có nước uống , cho bạn tôi một chén .

- Cũng không có .

Không kiềm cơn giận đang trào lên , Bình lầm bầm :

- Thật là ích kỷ .

Và lập tức Bình quay gót trở về lối cũ. Cửa cái bỗng mở hé . Thò đầu ra khỏi cửa , một cô gái có gương mặt xanh xao và buồn thảm , Michelle cô bồ cũ của anh đã chết cách đây mấy tháng .

ooo000ooo

Bình bùi ngùi nhìn dáng Michelle thóang mất trong ánh đèn mờ ảo , chầm chậm quay người trở lại đường cũ và giật mình trông thấy Mai đứng sát bên cạnh từ hồi nào  . Chàng bực mình gắt :

- Em làm anh hết hồn.

Mai cau mày hỏi :

- Anh nói chuyện với ai vậỷ

- Anh mới gặp Mi xeo trong căn nhà nàỵ

Vừa nói Bình xoay người chỉ cho Mai xem căn nhà hoang vắng nằm khuất sau rặng cây to . Nhưng chung quanh chỉ có những hàng cây đong đưa theo gió .

- Anh xạo quá. Làm gì có nhà nào ở đây ? Cô Mì xào chết lâu rồi mà , anh cứ tưởng nhớ cô ấy hòai .

- Không phải Mì xào là Mì xèo .

- Xào xèo gì cũng vậy .

- Yên tâm đi , Michelle không hại chúng ta đâu .

- Cái gì ?

- Cô ấy nói chúng ta trước 6 giờ sáng phải ra khỏi khu rừng này .

Bình liếc nhìn đồng hồ , 5 giờ 45 .

- Đi nhanh lên em.

Nắm tay Mai , Bình hối hả dắt Mai băng qua con đường mòn , xuyên qua những tàng cây đầy ma quái .

- Em hỏi thật nhé , có phải anh bị đụng xe nên đầu anh tưởng tượng ra những chuyện quái dị vậy không?

- Không đâu , anh nói thật đấy .  Michelle nói chúng ta nên đi cho kịp giờ .

Mai lắc đầu bướng bỉnh :

- Em biết , cô đó là mối tình đầu của anh mà , lúc nào anh cũng mơ tưởng đến. Cô ấy là ma cần gì phải nghe cô ấy nói .

- Không mà em , em nói gì mà kỳ vậy . Michelle không có ý hại mình đâu .

- Sao lại không ? Cô ấy kiếm người chết thế mà. Em chả dại mà nghe lời cô ấy đâu .

- Xem kìa , trước mặt chúng ta là cái ngả ba .  Bây giờ chúng ta phải lựa một trong hai ngả.

Mai lưỡng lự :

- Không biết đi ngả nào bây giờ .

Bình chợt quay đầu bước về hướng đường bên phải  . Bóng Michelle với áo đầm trắng lung linh trong màn sương mờ ảo , nàng lắc đầu tỏ vẻ sợ hãi và giơ cánh tay chỉ :

- Bên hướng kia .

Bình lôi tay Mai về con đường bên trái .  Mai giựt tay lại , cằn nhằn :

- Cái gì vậy, em muốn đi theo bên này .

Bình chần chờ :

- Đi hướng này Mai .

- Sao anh biết là đi hướng nàỵ

Lưỡng lự một chút Bình đành nói thật :

- Michelle mới nói cho anh . Cô ấy không hại chúng ta đâụ

- Lại là cô Mì xào .  Cô ấy không hại anh , nhưng muốn hại em làm ma thế cô ấỵ

- Mai nghe anh nói . Ai cũng biết là anh chia tay với Michelle rồi mới quen với em.

- Anh không hiểu đàn bà tí nào . Cái mà họ không nắm vào tay , họ cũng không muốn người khác đươc  .

- Mai à , anh quen với Michelle lâu rồi , anh hiểu tính cô ấy lắm.

- Bình ! Cô ấy là ma , là ma đó biết không ! Vậy anh theo ngả đó , còn tôi . Tôi đi hướng nàỵ

Nói xong Mai cương quyết tất tả vụt chạy qua ngả đường bên phải.

- Mai à Mai !

Nhưng bóng Mai đã biến mất qua những hàng cây dầy đặc . Đồng hồ chỉ 5 giờ 58. Bình ngó qua ngả đường bên trái và chạy thật nhanh.

ooo000ooo

Trong phòng cấp cứu bịnh viện , máy đo nhịp tim nhấp nhô theo nhịp tim bệnh nhân. Trên mặt các bác sĩ mồ hôi lấm tấm. Bên ngòai người nhà Bình và Mai bồn chồn lo lắng .  Người đi qua đi lại nhộn nhịp trước cửa phòng hồi sinh.

Cửa phòng bật mở khi ánh đèn đỏ cửa phòng chợt tắt. Bà mẹ Bình hối hả bước tới nắm lấy tay người bác sĩ trẻ tuổi .

- Bác sĩ ơi ! Chúng tôi là người nhà của Nguyễn Bình , bây giờ con tôi thế nào .

Vị bác sĩ bình thản trả lời :

- Ông Bình hả ! Mới đầu đưa ổng vào đây , mất máu quá nhiều  .  Nhưng ý chí cầu sinh của ổng rất là mạnh , bây giờ bịnh trạng của ông được ổn định  .  Ông bà cứ yên tâm.

- Cám ơn bác sĩ nhiều .

- Không có chi .

Bên hành lang gần đó , thân nhân cô Mai cũng lo lắng nóng ruột đợi tin. Đèn đỏ phòng hồi sinh chợt tắt , vị bác sĩ bước ra ngòai . Họ chạy vội đến dò hỏi , mặt đăm chiêu :

- Dạ thưa bác sĩ con Mai nhà tôi thế nào  ?

- Xin lỗi ông bà , vì bệnh nhân mất máu quá nhiều , chúng tôi đã tận sức nhưng không cứu được .

Nói xong vị bác sĩ rảo bước chân đi nhanh về phòng hành chánh nhà thương.

Bà mẹ Mai bật khóc nức nở trong cánh tay của chồng bà.

- Tại sao một người cứu được , một người lại không . Trời ơi ! Mai ơi ! Mai .

Andy Trần

Lời cuối: Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.

Nguồn:

http://vnthuquan.net

Phát hành:

Nguyễn Kim Vỹ

.

Đánh máy: TungSon

Nguồn: TungSon /VNthuquan - Thư viện Online

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 2 tháng 11 năm 2007

Khuyết Danh

Đẹp duyên cầm sắc

Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động

Nguồn:

http://vnthuquan.net/

Tạo ebook: Nguyễn Kim Vỹ.

MỤC LỤC

Đẹp duyên cầm sắc

Khuyết Danh

Đẹp duyên cầm sắc

Hồi ấy, nghĩa là cách đây đúng 56 năm, mùa Xuân năm giáp Thân (1884) ngày 16 tháng 2, thành Bắc Ninh thất thủ, về tay Pháp. Hai đạo binh, dưới quyền chỉ huy của hai thiếu tướng de Négrier và Brière de L’Isle, một mặt qua sông Hồng Hà, theo dọc sông Ðuống một mặt ở Hải Dương, đi tàu tới Phả Lại rồi đổ bộ, cùng men bờ sông Nguyệt Cầu tiến đánh Bắc Ninh.

trận ấy, quân Pháp chỉ mất độ tám tên binh và độ vài chục khẩu súng. Quân Tàu Cờ Ðen, núng thế, rút cả về Yên Thế, còn trơ quân An Nam thế cô, phải cởi giáp lai hàng. Một vị quan binh đứng đầu cai quản đội binh ta hồi ấy trong thành Bắc Ninh là Lãnh binh Lê Vũ Khúc. Ông là dòng dõi cựu thần nhà Lê, tuy không phải tôn thất, song tổ tiên ông đã làm quan tới chức Công Khanh, ba bốn đời nối tiếp nhau trong hàng tứ trụ. Sau bốn năm thế hệ văn quan, trong họ bỗng đổi nghề nghiên bút sang nghề cung kiếm, tổ phụ Lê Lãnh Binh xuất chân cử võ, làm tới Ngũ Quân Ðô thống, thân sinh ông làm Sơn Nam Ðề Ðốc, đến đời ông khí nhuệ nhụt đi chút ít, ông chỉ làm tới Chánh Lãnh Binh thôị

Khi thành Bắc Ninh có cuộc xung đột binh đao, Lê Công đứng trên mặt thành đốc thúc quân sĩ, hợp với quân Cờ Ðen khánh chiến cùng binh Pháp.

Phải một tốp lính phía dưới thành bắn lên, ông bị một phát trúng dưới xương vai, một phát trúng tay phải, rơi mất ba ngón taỵ Biết mình khó lòng chống cự được nữa, Lê Công bèn nhảy vào trong thành, theo đường hầm chạy vào chiến trường, rồi lên ngựa phóng thẳng một mạch về chỗ đất phong ấp của ông, ở cách thành Bắc Ninh hơn một dặm. Gia đình ông ở cả trong ấp đó. Ông vừa phi ngựa tới cửa chưa kịp vào đến sân thì ngã gục xuống, lịm đị Vực vào nhà ông cứ thế thiếp dần, máu chảy ra lênh láng, không trối trăng câu nào cả.

Lê phu nhân hồi đó mới non bốn mươi tuổi; bà sống với hai người con trai đã khôn lớn, một người mười bốn, một người mười haị Cậu cả tên Lê Mạnh Khôi, cậu em là Lê Trọng Việt. Hai anh em được chứng kiến cái chết thảm thương của thân phụ lấy làm đau đớn lắm, tuy còn thơ ấu nhưng cũng đã cảm thấy sự tử biệt sinh ly là một nỗi thương tâm thống thiết nhất trên đờị Hai anh em giúp mẹ tắm rửa cho cha, khâm liệm tử tế và an táng cho người bị chết nạn chiến tranh vì tận tâm báo quốc.

Thành Bắc Ninh bị hạ rồi, khi loạn lạc đã yên, ba mẹ con thu thập đồ đạc, bỏ đất phong ấp ở Bắc Ninh rút về an cư lập nghiệp ở núi Gôi, là quê quán tổ tiên hai anh em Khôi và Việt.

Về đến tổ hương, mẹ dệt cửi vá may để nuôi cho hai con ăn học, theo các trẻ con trong làng. Sang đình thụ giáo của một ông đồ. Hai anh em họ Lê rất nhác, chẳng bao giờ thuộc bài vở sử kinh, chỉ toàn trốn thầy đi với lũ trẻ con du thủ du thực, tìm đến chân đồi chơi đánh trận giả và tập dượt quyền cước. Thầy đồ nhiều phen đánh đòn rất đau, mà hai anh em vần không chừa, cứ ham mê nghề võ hơn nghề văn. Bà từ mầu ngày ngày hết sức khuyên răn, Khôi và Việt thờ mẹ rất hiếu thảo nên lại quỳ xuống xin lỗi mẹ và hẹn sẽ ra công chăm chỉ học, nhưng đến hôm sau, vắng mặt mẫu thân thì chứng nào tật nấy như thường.

Dần dần, bà mẹ biết rằng máu truyền thống chảy trong huyết mạch hai đứa con mình còn sôi nổi hăng hái lắm, nên cũ chỉ bảo ban lấy lệ mà thôi, còn mặc hai anh em Khôi và Việt được tự do luyện tập gân cốt, không ngăn cản nữạ Thành thử đến sáu năm sau, cả hai cùng to lớn khỏe mạnh; rõ ràng một đôi lực sĩ hùng dũng, oai phong. Từ khi góa chồng, Lê mẫu làm lụng chăm chỉ, để dành để dụm, thu xếp tảo tần, khi bỏ ấp ở Bắc ra đi, cứ bao nhiêu của cải thu vén đem cả về Nam Ðịnh; nhờ thế cũng có ít nhiều ruộng nương phong phú, đủ túc dụng một đờị Hai anh em Khôi, Việt, kịp đến tuổi trưởng thành, bà chưa có thì giờ lo bề gia thất cho hai con thì tự nhiên lâm bệnh, rồi lúc khỏi, liệt mất cả hai chân, không làm ăn gì được nữa. Hai anh em phải ở nhà lo liệu công việc giúp đỡ mẹ già. Tuy nói là giúp đỡ, nhưng kỳ thực hai cậu ấm chả được việc gì có lợi, cả bà mẹ ngồi một chỗ mà vẫn phải để tâm coi sóc đến công chuyện hàng ngày. Ruộng nương thì bà ấy cho cấy rẽ, cứ đến vụ là có gia đinh đi thu thóc lúa về, hai cậu ấm chỉ phải trông lũ người nhà, đừng để chúng ăn bớt ăn xén, thế là đủ. Lúc bán lúa cho hàng sáo, thì cũng đã có các vú bõ đếm tiền đong thóc, chả bận gì đến cậu ấm cả và cậu ấm hai.

Những buổi tối không phải coi sóc người nhà, ngoài vụ mùa màng và vụ bán chác, hai anh em lại chia nhau, anh ở nhà với mẹ già ba tháng, em đi ngao du săn bắn nơi xa; rồi em lại trở về nhà ba tháng trong khi anh được tự do đi chơi đây đó. Cậu hai Việt hay vào mạn Ðồng Giao săn bắn, mồi khi cậu đi vắng thì cậu cả có thèm thuồng lắm cũng không dám rời mẹ đi chơi nốt, chỉ quanh quẩn vào chợ Ghềnh lùng hươu nai hay chồn cáo một hai ngày mà thôị Nhưng hễ cậu hai quay gót trở về, lại tha hồ cho cậu ấm Khôi muốn vượt bể băng ngàn được tới đâu mặc sức.

Một buổi sớm, cậu Việt về nhà bỗng thấy vẻ vui mừng tươi tỉnh, song chỉ vui mừng tươi tỉnh được ít hôm đầu. Vui tươi xong, cậu bỗng đâm ra thẫn thờ, vớ vẩn, tựa hồ thần hồn thần trí bị một cái gì ám ảnh; có ngày cậu buồn thỉu buồn thiu chẳng nói một câu nào, bà mẹ có hỏi thì cậu gượng cười chốc lát, nhưng phút sau, lại trầm ngâm mơ tưởng nhớ nhung aị Thấy anh cả đi vắng lâu, cậu lộ ra vẻ sốt ruột lắm, chỉ ngong ngóng ra đứng cửa chầu chực, đợi cậu Khôi về suốt mấy ngày.

Mong ròng rã ba tháng, cũng chả thấy, mãi gần sáu tháng mới gặp cậu ấm anh trở lại, tải về một xe gạc hươu nai và hai ba tấm da báo, một tấm da cọp và một bộ hổ cốt. Anh em chả kịp hàn huyên nữa; cậu hai thấy có anh về thì mừng quýnh vội vàng thu xếp hành lý ra đi ngaỵ Lần này cậu đi chơi có non nửa tháng đã về, đem theo một người con gái mặc tang phục, và một đứa trẻ độ 15 tuổi.

Từ trước tới nay, có nhiều nhà phú hộ và danh giá trong vùng Gôi, thấy hai anh em họ Lê con nhà võ tướng, và rất khôi ngô tuấn tú, có ý muốn gả con cho. Mối lái có đến nhà hai cậu ngỏ lời cho Lê mẫu biết, bà cụ hỏi ý kiến hai con, song cả hai cậu, chẳng cậu nào bằng lòng lập gia đình cả.

Lạy mẹ, anh em chúng con còn ít tuổi có đi đâu mà vội! Mẹ còn trường thọ nữa, vì lão niên đới tật là một số rất tốt. Nếu mẹ cho phép chúng con, thì chúng con sẽ tự chọn lấy người bạn trăm năm chăn gối, như thế sau này chúng con chẳng oán than nỗi gì. Duyên số là một sự tình cờ mà thành, chớ biết thế nào mà chọn lựa.

Lê Mẫu nghe hai con trình bày như vậy, cũng vui lòng chiều ý không có ép uổng nữạ Hai anh em vì trọng võ thuật, cũng chả nghĩ đến sự lấy vợ. Tới khi Việt thình lình đem một người con gái ở đâu về, cả nhà đều kinh ngạc hết sức. Cậu hai đem nàng ấy vào lạy mẹ và lạy anh, rồi đầu đuôi sự thể thế nào, thú thật cả một lượt cho mẹ và anh rõ. Lê mẫu mới hay thiếu nữ đó là nàng Oanh Cơ, quê ở Bàn Thạch tỉnh Thanh Hóa, mồ côi cha mẹ và hiện không còn ai thân thích họ hàng. Bà và cậu ấm cả thấy Oanh Cơ thùy mị dịu dàng lại thướt tha kiều diễm, nên rất vui lòng đẹp ý, nghỉ ngay đến sự cho phép nàng được cùng cậu hai Việt sánh đôị Cậu hai cũng chỉ mong ước có thế thôi, lú nghe mẹ và anh nói trúng tâm can mình, cậu bất giác đỏ mặt tía tai, phần vì thẹn, phần vì mừng, phần vì thương anh thương mẹ đã nghĩ đến hạnh phúc trăm năm của mình, không hề cản trở ý định của mình một chút cỏn con nào cả.

Cậu Việt vội bẩm mẹ là nàng Oanh còn có anh chị nàng bị chết trong khi vào rừng gặp cọp, phải đợi nàng trừ phục đã mới sẽ bàn đến chuyện thành hôn. Từ đó, hai cô cháu Oanh Cơ ở hầu hạ Lê Mẫu như hầu hạ mẹ già, không có lòng muốn đi đâu nữa. Mà cậu ấm hai cũng nhường anh đi xa săn bắn; về phần cậu, cậu chỉ muốn ở nhà thần hôn định tỉnh bên gối huyên đường mà thôi.

Hơn một năm sau, nàng Oanh Cơ mặc áo quần hồng, quấn khăn vành dây, che quạt lượt đỏ, lạy Lê Mẫu hai lạy để trở nên mợ Hai Việt. Lứa uyên ương mới cả ngày chỉ quấn quít lấy nhau, yêu nhau cực điểm, khiến mẹ già trông thấy cũng vui lòng. Trong gia định họ Lê từ đó, càng ngày càng thêm vui, thêm thịnh; Oanh Cơ đã từ lâu, đem về cho Lê Mẫu sự an nhàn thư thái, đem về cho cậu hai sự hạnh phúc êm đềm. Từ ngày có nàng, Lê Mẫu không phải nai lưng cáng đáng công việc trong nhà nữạ Bao nhiêu việc tần tảo thu vén gặt lúa, bán thóc, một tay nàng coi sóc được hoàn hảo, vẹn toàn.

Nàng là người không những có thanh, có sắc, nàng còn khéo léo đủ đường, tề gia nội trợ đảm đang khôn xiết. Nhà họ Lê có nàng thì phòng ốc cửa ngõ ngăn nắp đâu vào đấy; thềm gạch, sân hầu bao giờ cũng sạch sẽ tươm tất; đồ đạc giường chiếu bao giờ cũng ngay ngắn chỉnh tề; cơm bao giờ cũng ngon, canh bao giờ cũng ngọt; trong gia đình bao giờ cũng êm thắm yên vuị Lê Mẫu, nhiều phen ngồi bên ngọn đèn dầu đọc sách xem con dâu dệt cửi, thỉnh thoảng gấp sách ngường đọc trông Oanh Cơ một cách yêu thương âu yếm, bảo nàng rằng:

- Này nhà hai! Mày về làm dâu mẹ, mẹ chả còn có điều gì trách móc được. Mẹ bình sinh không có con gái, nay được con mẹ quý mến biết baọ Nhất là tất cả mọi chuyện trong nhà, con một tay thu xếp gọn gàng yên ổn cả, khiến mẹ được ăn không dưỡng lão, thực mẹ không ân hận oán than gì nữa! Sau này nếu mẹ thác đi, buổi lâm chung anh con chưa có vợ, vợ chồng con chưa có con, nếu hai sự ấy nhất đán nhờ Trời Phật, đều được như lòng mẹ ước, thì mẹ dù nhắm mắt cũng sẽ mãn nguyện đủ trăm bề.

Bà cụ mong như vậy, ai ngờ ước mong của bà có linh hiệu làm saọ Chẳng bao lâu, nàng Oanh thụ thai, khiến bà thiếu chút nữa mừng quá mà chết. Mãn nguyện khai hoa, Oanh cho ra đời một đứa con gái nhỏ giống mẹ như tạc, lại được cái vẻ khảng khái lẫm liệt của chạ Trong gia đình, nhờ có đứa trẻ càng tăng thêm hạnh phúc êm vui; cậu Việt, từ buổi có con, chỉ quấn quít chung quanh mình vợ, hầu hạ con như một ông bõ trung thành tận tụy.

Riêng chỉ có Khôi thì vẫn không quên nghề nguy hiểm, ở nhà không săn bắn tập luyện là thấy bồn chồn khó chịu vô cùng. Chàng thường đi đây đó suốt năm, ở nhà nhiều nhất chỉ được độ vài ba tháng. Mỗi kỳ ở nhà, Khôi lại bắt Việt theo mình ra chân đồi múa võ, sợ em lâu ngày không rèn tập thì gân cốt yếu kém đị Bởi thế, cứ độ nào có Khôi, thì Việt phải tạm xa vợ xa con một ngày hai buổi, cùng anh ra dượt võ ở ngoài đồng. Lâu dần thành một thói quen, hễ cứ anh đi vắng thì thôi, lúc nào anh có ở nhà, Việt lại cùng anh đối thủ. Hai anh em tựa hồ rất có tín ngưỡng trong nghề quyền cước; họ thi nhau trổ tài, không phải để cố ý đánh nhau, cũng không để khoe khoang tài nghệ mình trước mặt công chúng. Công chúng đây là vài ba người nhà quê hiền hậu, chất phác chả hiểu cung kiếm là gì. Lắm khi hai anh em họ Lê rượt nhau chạy bên mình họ, họ cũng thản nhiên điềm tĩnh cày bừa, không buồn để ý đến. Tuy họ không chú ý ngắm nhìn hai cậu ấm luyện võ, mà trong làng, từ trên chí dưới, chẳng ai là người không rõ hai anh em họ Lê là một đôi tráng sĩ hùng dũng, săn bắn rất giỏi, có sức địch nổi muôn người. Tiếng đó đồn đại rất xa, quanh một vùng từ Bình Lục cho đến chợ Ghềnh, Ðồng Giao, rất nhiều tay hào kiệt, rất nhiều đảng lục lâm, đều mộ tiếng cả hai chàng Khôi, Việt.

Hai chàng giỏi võ nghệ gần đến nơi tuyệt đích thế mà không bao giờ dùng sức mạnh của mình để làm một sự gì phạm pháp, hoặc mưu công danh tài lợi trong đờị Hai anh em chỉ an cư ở thôn quê, sinh hoạt bằng vài mươi mẫu ruộng và bằng nghề săn hươu, nai, beo, cọp; họ thờ mẹ chí hiếu, đối với anh em vợ con, thân bằng cố hữu, chí tình, tịnh không có một dục vọng cao kỳ nào cả.

Ai ngờ đâu xử thế đến như vậy mà cả hai đều không tránh khỏi dây oan nghiệt đến chằng vào cổ; một ngày kia, Khôi, Việt cùng bị tình nghi, phải bắt giải lên Tỉnh lỵ, rồi chẳng bao lâu, bị ghép vào tội án tử hình. Thực là vạ gió tai bay, chả ai hiểu vì đâu nên nỗị Có kẻ hiếu sự len lỏi vào gia đình hai cậu ấm, bàn tán rằng chẳng qua chỉ vì Oanh Cơ mà cửa nhà phút chốc tan tành. Họ nói:

Phàm giả những đóa hồng nhan rực rỡ và hoàn hảo quá chỉ toàn là những binh khí giết ngườị Muội Hỉ làm chết vua Kiệt, Ðắc Kỷ làm chết vua Trụ, Tây Thi xui Phù Sai vong quốc diệt thân và Bao Tự khiến U Vương táng mệnh, còn Quí Phi thì làm Minh Hoàng sống cũng như chết, thực quả đàn bà đẹp là cái mầm tai họa cho đời! Ðến vương bá bị những của vưu vật đó còn thiệt thân mất nước nữa huống chi người thường tránh sao khỏi nạn tan cửa nát nhà!

Câu nói ấy, tuy quá độc địa, song cũng có một phần sự thực. Sắc đẹp nàng Oanh Cơ quả là một duyên cớ trọng yếu khiến chồng và anh chồng nàng bị cái nạn đoản đầụ Hai anh em họ Lê bình sinh hay đem nhau ra thí võ ở chân làng Gôi, đều bị đao phủ hành hình tại chỗ đó.

Oan hồn, sau khi lìa khỏi xác trong một trường hợp cực kỳ thảm thiết, vì uất ức nên không tài nào tiêu tán được, nhất là vì hai tráng sĩ, chết rồi, lại không được họ hàng cầu nguyện cho linh hồn nhanh chóng được siêu thoát. Hấp thụ mãi khí thiêng liêng của non sông cây cỏ, hai vong hồn đó lâu dần hóa ra một thứ ma có đủ tư cách hiện hình về được, hiện về chẳng để dọa nạt hay làm hại ai cả, nhưng chỉ để diễn lại một bài quyền xưa kia họ ngày ngày hằng tập luyện ngõ hầu ghi trong cái thế hệ mới mẻ này vết tích một nỗi thương tâm uất ức của thời dĩ vãng, một nỗi đau thương do “oan nghiệt” dệt thành...

Lời cuối: Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.

Nguồn:

http://vnthuquan.net

Phát hành:

Nguyễn Kim Vỹ

.

Nguồn:

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 23 tháng 10 năm 2004

Thái Bá Tân

Ðứa bé ăn mày

Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động

Nguồn: http://vnthuquan.net/

Tạo ebook: Nguyễn Kim Vỹ.

MỤC LỤC

Ðứa bé ăn mày

Thái Bá Tân

Ðứa bé ăn mày

    Nó là thằng bé ăn mày tội nghiệp. Hơn thế, lại mù. Chiếc quần bẩn khó xác định màu rách bươm cả hai ống cho thấy không chỉ người mà lũ chó cũng chẳng thích nó. Hai ống tay áo đen bóng vì luôn được dùng làm khăn lau mũi. Ðầu nó đội chiếc mũ cói méo mó hơi hất về phía sau, để lộ khuôn mặt đói ăn gầy đét, xạm nắng, và nhất là hai hố mắt trắng dã càng làm tăng thêm vẻ thảm hại đáng sợ. Có thể nó chủ ý phô ra thế để người ta thương hại mà cho chút gì chăng? Vì mù, nó phải chống gậy, chiếc gậy trúc già bằng ngón tay cái, trơn nhẵn và cũng gầy đanh như nó. Sau khi thận trọng gõ hai lần xuống đất, nó mới đi một bước. Nó lặng lẽ đi giữa trời nắng chang chang, chiếc bị, cũng bằng cói, đeo sát nách, và hình như còn lép kẹp hơn bụng nó.

Không ai biết nó từ đâu tới. Thứ nhất vì đây là lần đầu tiên nó xuất hiện ở làng Thượng. Thứ hai, đơn giản vì những loại như nó không đáng được người ta quan tâm. Mà rồi lúc ấy đang giữa trưa nắng gắt chẳng có ai gần đấy ngoài một thằng bé khác trạc tuổi nó, cũng nhếch nhác, nhưng vì không ăn mày nên to khỏe hơn và cũng lành lặn hơn. Thằng này đang chổng đít cố búng viên bi thủy tinh vào một lỗ nhỏ trước mặt dưới bóng cây đa cụt đầu làng. Nó đang cáu vì búng mãi không vào đúng lỗ. Ðã thế, viên bi bị búng mạnh quá lăn đi đâu mất. Nó thất vọng định đứng dậy bỏ về nhà ăn trưa thì bất chợt nhìn thấy thằng ăn mày khốn khổ. Nó thấy có cái gì đấy vừa buồn cười vừa khó chịu ở vẻ ngoài và cách dò đường hai cộc một bước của thằng kia. Ðôi mắt trắng dã làm nó, vốn bực mình vì mất viên bi, càng thêm khó chịu. Cứ như viên bi của nó đã bay vào nằm gọn trong hố mắt thằng kia. Một ý nghĩ chợt lóe lên. Nhẹ và rón rén như con mèo săn chuột, nó bước lại gần thằng ăn mày, bất chợt giật lấy chiếc gậy trúc rồi chạy nhanh về phía gốc đa.

Thằng bé ăn mày kêu  ới ới , hai cánh tay khẳng khiu bất lực huơ huơ phía trước.  Ai trả lại chiếc gậy cho tôi đi! Trả lại đi, đừng đùa thế! Trả lại đi!...  Giọng nó yếu lắm, chắc vì đói. Chờ mãi không thấy ai trả lại gậy, nó đành dò dẫm đi tiếp, điệu bộ trông thật buồn cười, cứ như nó đang lấy thăng bằng đi trên dây thép trong rạp xiếc. Bây giờ thay cho gõ gậy, nó thận trọng uớm thử chân hai lần trước mỗi bước đi. Bằng cách ấy nó có thể không vấp ngã, nhưng khốn nỗi điều quan trọng đối với nó là hướng đi chứ không phải đi như thế nào. Mà hướng nó đang đi tới hiện giờ là chiếc giếng thơi sâu rộng đầy nước của làng Thượng.

Ngồi dưới gốc đa, thằng chơi bi thích thú quan sát điều này.

Ở các làng khác, giếng nước ăn luôn có bờ gạch bao quanh, là điều dễ hiểu, thế mà bao đời nay giếng làng Thượng không hề có cái bờ gạch bao quanh ấy, lại sát đường đi, nên nhiều lần trẻ con và cả trâu bò rơi xuống đó, nhưng luôn vào lúc đông người nên được vớt lên kịp. Khốn khổ thằng bé ăn mày. Nó cũng bị sẩy chân ngã xuống giếng và đã chết, vì bờ giếng lát gạch trơn chẳng có gì để bấu víu, vì nó quá yếu do đói ăn, vì xung quanh không có ai để vớt nó lên. Còn thằng bé chơi bi lếu láo kia thì thấy vậy liền hoảng sợ bỏ chạy về nhà...

Chuyện này xảy ra đã mấy chục năm nay, nhưng dân làng Thượng vẫn nhớ. Mà không chỉ có nhớ.

Phải ba ngày sau xác thằng bé mới nổi lên. Người ta chôn nó ở nghĩa địa Ðồng Chùa như chôn nhiều người vô gia cư chết đói trước đấy. Khác chăng, mộ của nó nhỏ hơn một chút, vì nó là con nít. Có điều đáng ngạc nhiên là không hiểu sao cái mộ bé nhỏ ấy của nó cứ mỗi ngày một lớn thêm, đến mức lấn át cả mộ cụ tổ họ Phạm thế lực nhất trong làng. Thường người ta vui với những trường hợp như thế. Phát mả đồng nghĩa với phát tài, phát lộc, nhưng đây lại là mả một thằng bé ăn mày, vậy thì phát gì? Phát nghề ăn mày à? Các vị chức sắc trong làng không giấu nổi vẻ lo lắng mơ hồ về một tai hoạ nào đó đang treo lơ lửng trên đầu. Cuối cùng cái tai họa ấy đã đến.

Sau nhiều năm liền mất mùa vì thiên tai, nhiều người làng Thượng xách bị đi ăn xin xứ người. Lúc đầu người ta không chú ý mấy đến hiện tượng này, vì xưa nay ăn mày chẳng hiếm. Nhưng khi số lượng gia tăng một cách đáng lo ngại, người ta bắt đầu nghĩ đến cái mả ăn mày phát kia. Sao các làng lân cận đói ăn chẳng kém mà chẳng mấy người làm cái nghề nhục nhã ấy? Vậy chắc đây là đòn báo oán của thằng bé nọ. Ðể giảm bớt tai hoạ, người ta xây mộ xi măng cho nó, bây giờ đã được gọi là  Ông . Mấy năm sau xây miếu hẳn hoi, có bàn thờ và được hương khói cẩn thận đúng dịp, đúng quy cách. Dần dần, khi người ta thấy nghề ăn xin cũng không đến nỗi nào cả về thu nhập lẫn quan niệm xã hội (người làng Thượng bỏ nhà đi ăn xin có giấy chứng nhận đàng hoàng của xã, kèm theo chiếc dấu tròn đỏ chói). Tự lúc nào không biết, thằng bé ăn mày tội nghiệp nghiễm nhiên trở thành thành hoàng của làng Thượng, thay chỗ một vị tướng lừng danh thời Lê Mạc. Dần dần trong dân gian, tên làng cũng được gọi khác - Làng Ăn Mày!

                                                         *  

 Chính tôi là thằng bé chơi bi láo lếu ấy đấy, ông ạ , ông M. thở dài nói.

Ông là hàng xóm của tôi. Hàng xóm với nghĩa nhà cạnh nhau chứ giữa  nghề viết lách của tôi và nghề buôn sắt vụn phát đạt của ông chẳng có gì liên quan. Ông quý tôi vì tôi nhiều chữ. Tôi chơi với ông vì ông nhiều tiền mà không hợm mình, và cả vì ông đồng ý để chúng tôi luân phiên nhau trả tiền bia ở quán Gió Mới bên cầu Long Biên. Xưa nay ông nổi tiếng hảo tâm, một nhà từ thiện đích thực. Có lẽ ông đã cúng tới hàng chục, nếu không muốn nói hàng trăm triệu đồng cho mục đích cao cả ấy, mà đối tượng bao giờ cũng là những đứa trẻ mù. Trường Nguyễn Ðình Chiểu coi ông như ân nhân. Một số trường khiếm thị ở các địa phương khác cũng vậy.

 Tất nhiên lúc ấy tôi chẳng dám cho ai biết tôi đã làm thằng bé ăn mày phải chết, - ông nói tiếp sau khi uống một hơi hết sạch vại bia. - Tôi hối hận và sợ lắm. May mà tháng sau bố tôi, một cán bộ cỡ ở Tổng cục Thống kê, đưa cả nhà lên sống hẳn ở Hà Nội. Từ bấy đến nay tôi chẳng một lần dám trở lại làng Thượng. Vì sao thì ông biết. Tuy vậy, tôi biết hết mọi chuyện xảy ra ở làng. Tôi hỏi thật nhé: Ông có mê tín không?

 Không , tôi đáp.

 Ông có tin vào báo ân, báo oán không?

 Tôi không tin. Sao ông hỏi vậy? Ông tin à?

Ông M. trầm ngâm một chốc rồi nói, vẻ bần thần:

 Cả có mà cả không. Nhưng tôi cứ thấy nó thế nào ấy, nhất là thời gian gần đây. Có lẽ tôi già rồi đâm lẩn thẩn. Nói ông đừng cười, đêm nào nằm ngủ tôi cũng nghe tiếng gõ chiếc gậy trúc của thằng bé kia và tiếng kêu yếu ớt  Ai đó trả lại gậy cho tôi, đừng đùa . Tình hình có vẻ như ngày càng tồi tệ. Tôi chẳng biết phải tính sao đây. Ông khuyên tôi làm gì bây giờ?

Tôi ngồi im vì chẳng biết trả lời thế nào.

 Hay ông đi khám bác sĩ thần kinh, - cuối cùng tôi lên tiếng. - Thời này khối người căng thẳng như ông. Tôi cũng chẳng hơn gì. Còn chuyện thằng bé thì chỉ do ông hay nghĩ đến nó mà tưởng tượng ra thôi , tôi an ủi, mặc dù tự biết ở đây có cái gì đó nghiêm trọng và đáng sợ hơn nhiều.

Mấy hôm sau, trước lời năn nỉ của ông M., và cũng vì tò mò, tôi nhận lời cùng đi với ông về làng Thượng, Làng Ăn Mày.

Ông M. thắp hương, lầm rầm khấn vái hồi lâu trước bàn thờ thành hoàng làng mình. Trước đấy tôi cũng thắp một nén, gọi là tưởng nhớ vong linh thằng bé xấu số. Tôi tế nhị bỏ ra ngoài để ông được tự nhiên sám hối, hi vọng sẽ thanh thản hơn đôi chút. Bằng đức tính nhân từ vốn có và những việc làm từ thiện xưa nay, ông xứng đáng được hưởng một tuổi già thanh thản.

Tối hôm ấy chúng tôi ngủ lại nhà một người bà con xa của ông M.. Nhà ngói hẳn hoi, có tivi, có đài, anh con trai chủ nhà còn có cả xe máy, xe Nhật chứ chẳng phải Tàu. Từ lâu dân làng Thượng không còn xách bị đi ăn xin, nhưng người ta vẫn thành kính thờ cúng  ông tổ ăn mày  của làng. Ngôi mộ của  ông  đã phát càng phát thêm, nay gần giống một cái gò nhỏ, trẻ con không dám cho trâu bò dẫm lên.

Nửa đêm, tôi đang ngủ say sau một ngày đi đường vất vả thì bị ông M. túm tay áo giật mạnh. Ông hoảng hốt thì thầm:

 Ông nhìn kìa. Ngài đấy!

 Ngài nào?  tôi ngạc nhiên hỏi vì chẳng thấy gì.

 Thần hoàng làng Thượng! Ðứa bé ăn mày...

Ông M. không nói hết câu, liền sụp xuống đất, vái lạy liên hồi:

 Con xin ngài tha tội. Dạ, con xin ngài tha tội. Con trót dại... Con chỉ đùa... Lúc ấy con còn nhỏ... Con xin ngài tha tội! Con xin ngài...

 Ông làm sao thế? - tôi định đỡ ông dậy nhưng ông không chịu. - Tôi có thấy gì đâu! Ông vái lạy ai đấy?

Quả tôi không thấy gì thật. Nhưng ông M. vẫn tiếp tục cầu khẩn van xin. Dẫu chẳng tin ma quỷ và không thuộc loại nhát gan, tôi vẫn thấy ớn lạnh khắp người.

Lát sau, ông M. im lặng ngồi rũ xuống sàn nhà, thở hổn hển:

 Ngài đi rồi. Ði mà chẳng nói gì cả. Nghĩa là ngài không tha thứ cho tôi. Trời ơi, tôi phải làm gì bây giờ?...

Lúc này tôi mới lọ mọ lại gần chiếc công tắc điện để bật đèn. Ông M. mặt cắt không còn hột máu. Ông ngồi yên trong tư thế ấy rất lâu, cuối cùng, như để xác minh về sự hiện diện có thật của  ngài , ông quay sang tôi, chìa ra một viên bi thủy tinh bóng loáng dưới ánh đèn.

 Ngài để lại đấy!

                                                                *  

Sau đó có việc, tôi đi công tác xa ba tháng. Lúc về thì được tin ông M. đã chết. Người ta kể rằng ông hóa điên, đi đâu cũng ngửa tay xin ăn như thằng ăn mày. Bị con cháu nhốt trong nhà và cả ở bệnh viện tâm thần, gặp ai ông cũng xin. Có người cho hòn đá, ông rối rít cảm ơn, xúc động đến rơi nước mắt.

Một hôm, ông khôn khéo trốn khỏi bệnh viện. Ðến tối thì có người thấy ông nằm chết trong chiếc ao nhỏ cạnh Cầu Chui Gia Lâm. Vì ao hầu như không có nước, chỉ toàn bùn, nên ông không chìm. Ấy thế mà ông chết. Một điều lạ nữa là lúc chết ông đeo chiếc bị cói sát nách, tay giữ chặt chiếc gậy trúc già trơn bóng, những thứ trước đấy chưa ai nhìn thấy bao giờ.

 Một người nhân đức nhường ấy mà phải chết thế thì thật tội nghiệp , ông trưởng dân phố nơi ông M. sống bùi ngùi nói khi người ta liệm ông vào quan tài.

                                                                                                Hà Nội, 26. 4. 2002

Lời cuối: Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.

Nguồn:

http://vnthuquan.net

Phát hành:

Nguyễn Kim Vỹ

.

Nguồn: Thái Bá Tân

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 27 tháng 8 năm 2007

Nguyễn Huy Thiệp

Giọt máu

Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động

Nguồn: http://vnthuquan.net/

Tạo ebook: Nguyễn Kim Vỹ.

MỤC LỤC

Chương 1

Chương 2

Chương 3

Chương 4

Chương 5(hết)

Nguyễn Huy Thiệp

Giọt máu

Chương 1

"Ðem truyện trăm năm giở lại bàn"

(Trần Tế Xương)

Nữa đầu thế kỷ trước, ở Kẻ Noi, huyện Từ Liêm, có ông Phạm Ngọc Liên là bậc đại phú. Ông Liên xây nhà trên miếng đất đầu làng. Miếng đất này bằng phẳng, rộng ba sào hai thước. Có người đi qua bảo rằng: "Ðất này đẹp, hình bút, phát về văn học. Ðã phát về văn học thì nước cạn, tàu ráo, hiếm con trai". Ông Liên nghe xong, níu áo người đó bảo: "Tôi bình sinh là dân cày cuốc, mong con cháu sau này có ít chữ nghĩa mở mặt với đời. Hiếm con cháu cũng được, miễn là có đức, thiên ha, nể trọng". Người đó cười: "Chữ nghĩa có ăn được không?". Ông Liên bảo: "Không ăn được". Người đó bảo: "Thế đa mang chữ nghĩa làm gì?". Ông Liên bảo: "Gì thì gì, nó vẫn hơn cày cuốc". Người đó bảo: "Nhiều chữ nghĩa thì có đức à?". Ông Liên bảo: "Phải". Người đó cả cười, hỏi gì cũng không nói nữa rồi phất áo đi. Ông Liên giận, bảo: "Ðồ cuồng".

Khánh thành nhà, ông Liên mổ hai lợn, một bò, làm lễ tế trời đất, bày la liệt chín mươi mâm cổ. Dinh cơ quả đồ sộ, giữa là nhà thờ ba gian, trạm trổ long, ly, quy, phượng. Nhà tiền tế năm gian, cửa bức bàn, cột tròn, gỗ xoan rừng. Hai nhà ngang hai bên, sân gạch Bát Tràng, bình phong, bể nước, lại xây tường cao ba mét xung quanh, trên cắm mảnh sành. mảnh thủy tinh. Vữa là vôi cát trộn mật, đặc quánh.

Ông Liên ngồi giữa sân. bảo cả họ: "Lấy ngày 12 tháng Giêng làm ngày giỗ tổ. Họ Phạm xưa nay trong làng không kém họ Ðỗ, họ Phan, họ Hoàng. Chỉ hiềm họ Phạm làm ruộng, buôn bán, chưa có ai học hành đỗ đạt. Thiên hạ coi mình là thô lậu. Tức lắm".

Ông Liên gọi năm con trai đến, bảo: "Con cháu chúng mày thằng nào đỗ Thám Hoa, Bảng Nhãn, tao cho ăn tự cả cơ ngơi này, lại cho tất cả của gia bảo. Cốt làm sao thiên hạ phải học cái đức họ Phạm nhà này".

Ông Liên sống đến 80 tuổi. Ông có ba vợ, năm con trai, sáu con gái. Khi ông bệnh nặng, con trưởng là Phạm Ngọc Gia làm nghề mổ thịt lợn, túc trực bên giường gần một tháng trời, mắt sâu hoắm, râu mọc tua tủa. Bên giường ông Liên lúc nào cũng có chuối, cam, thịt giò, ngồn ngộn không thiếu thứ gì. Ông Gia hỏi: "Cha thèm ăn gì không?". Ông Liên bảo thèm ăn cơm rau muống chấm tương với cà. Ông Gia nấu cơm gạo tám vào nồi đất, đánh giấm canh bằng lá chua me, bày đỉa rau với chén tương Bần, tự tay bưng lên cho cha. Ông Liên chỉ húp được một thìa canh rồi xua đi. Ông Gia òa khóc. Ông Liên bảo: "Chẳng ra gì. Chữ mới cần". Nói xong tắt thở. Lúc ấy là giờ Tỵ, ngày 24 tháng Chạp, năm Canh Tí (1840).

Ông Gia bỏ tiền làm ma rất trọng thể. Sau ba ngày làm lễ thành phục, tuần ba mươi nhăm ngày rước linh lên chùa, tuần bốn mươn chín, một trăm ngày thảy đều tươm tất. Dân làng ai cũng khen ngợi là người có hiếu.

Sau đám ma, ông Gia cho sửa lại bàn thờ, xây thêm một gian nữa. Còn toàn bộ cơ ngơi từ đó đến nay vẫn y nguyên. Thời gian có làm cho nó cũ kỹ, múc nát, hư hỏng đi một vài bộ phận nhưng về cơ bản vẫn không thay đổi.

Nguyễn Huy Thiệp

Giọt máu

Chương 2

Ông Gia có một đứa cháu đích tôn là Phạm Ngọc Chiểu tuấn tú lạ thường. Chiểu từ bé đã sáng dạ. Năm tám tuổi, có lần ông Gia cho cháu ra Kẻ Chợ thăm phố phường. Thằng bé về, hí hoáy lấy cát, lấy đất sét xây một khu nhà có tường bao, lại lấy lông gà nhuộm phẩm xanh làm cây, hệt như một cái sa bàn. Trên sa bàn nặn những con rùa đội bia rất sinh động. Ông Gia vỗ tay hỏi: " Cháu nặn gì đấy?". Thằng Chiểu cười, lộ hàm răng sún: "Ðây là Văn Miếu". Ông Gia giật mình nghĩ: "Trời cho họ Phạm phát đường học vấn ở đứa bé này chắc?". Hôm sau ông Gia ra phản thịt nhà mình ở chợ Kẻ Noi lấy cái thủ lợn nặng sáu cân hai, lại bảo con dâu thổi một mâm xôi gấc, luộc thủ lợn đặt lên. đội sang nhà Ðồ Ngoạn.

Ðồ Ngoạn mắt toét, đỗ tú tài năm Mậu Thìn (1868) là người thật thà, nhà nghèo lắm. Thấy ông Gia đội xôi thịt đến, Ðồ Ngoạn giật mình, chạy ra vái hai vái. Ông Gia đặt mâm xôi thịt xuống chân, bảo: "Không dám. Tôi sang rước thày về dạy chữ cho thằng Chiểu đây". Ðồ Ngoạn rước khách vào nhà, mời ngồi, vái lấy vái để: "Không giấu gì bác, tôi thiển học lắm. Tôi gõ đầu trẻ cũng là trò bịt mắt thiên hạ kiếm gạo. Thực ra nhà tôi là nhà nhốt trẻ để chúng đừng lêu lổng, ngã xuống ao, bắt ve sầu, khỏi chó cắn thôi. Bác rước tôi về, sợ thất chí của bác". Ông Gia vừa bực mình, vừa buồn cười, bảo: "Ông nói thế, tôi cũng không ép. Thân phụ tôi mất đi chỉ dặn làm sao cho con cháu học thành tài, cướp cái cờ tiến sĩ về dựng ở sân từ đường". Ðồ Ngoạn rùng mình: "Bác ơi, chữ nghĩa nó ghê gớm lắm. Nó là ma đấy. Yếu bóng vía là nó ám mình, nó làm đau đớn thê thảm mới thôi". Lại ngồi thừ người không nói năng gì. Vợ Ðồ Ngoạn mặc váy đụp, ra lạy ông Gia hai lạy rồi bảo chồng: "Lũ trẻ đói quá, ông xin phép bác Cả đây ra châm Mả Phường rỡ ít khoai lang, lấy rễ về luộc cho chúng ăn". Ông Gia hỏi: "Khoai trồng bao giờ mà thím đã rỡ?". Vợ Ðồ Ngoạn bảo: "Em trồng cuối tháng Hai". Ông Gia nhẩm tính: "Mới được năm mươi ngày, ăn thế nào được mà ăn?" Vợ Ðồ Ngoạn bảo: "Nhà em hết gạo tám ngày rồi". Ông Gia thở dài: "Thím bỏ xôi thịt ra cho các cháu ăn. Dọn mâm ra cho tôi với ông đồ uống rượu". Nói rồi rút trong cạp quần ra cút rượu ngâm tắc kè.

Vợ Ðồ Ngoạn bưng xôi thịt xuống bếp, dọn hai mâm. Ông Gia và Ðồ Ngoạn ngồi trong nhà uống rượu. Ngoài sân, tám đứa con của Ðồ Ngoạn ngồi xúm xít xung quanh mẹ, chờ chia phần.

Ðồ Ngoạn bảo: "Tôi nghe ở Kẻ Lũ có ông Bình Chi, trước là tri phủ Sơn Nam, bị cách chức, về ngồi dạy học, ông này kiến thức uyên thâm mà cốt cách thanh cao lắm. Học được ông Bình Chi thì cờ tiến sĩ về tay họ Phạm là cái chắc". Ông Gia gật đầu. Ăn uống xong, xách cái mâm đồng về, bụng bảo dạ: "Phải đi Kẻ Lũ".

t bữa sau, chọn được ngày tốt, ông Gia dẫn Chiểu tìm đường sang Kẻ Lũ đến nhà ông Bình Chi. Nhà ông Bình Chi ven sông Tô Lịch, cơ ngơi cũng khá. Khi ông Gia đến, ông Bình Chi đang ngồi bình văn với đám học trò. Có khoảng chục đứa con trai ngồi xếp bằng tròn trên chiếu, đều trạc tuổi mười sáu, đứa nào trông cũng thông minh, nhanh nhẹn. Trước mặt mỗi đứa có một quyển văn đóng bằng giấy dó, lại có nghiên mực để ngay bên cạnh.

Ông Bình Chi cho học trò nghỉ, ra sân chơi. Chiểu thích lắm, đứng dựa cột xem. Ông Bình Chi rước ông Gia vào nhà, hỏi nguyện vọng. Ông Gia tự giới thiệu, một diều bẩm, hai điều bẩm, cung kính lắm. Ông Bình Chi hỏi mục đích học hành của Chiểu. Ông Gia chẳng biết trả lời ra sao, chỉ nói: "Tôi thấy văn chương có cái gì từa tựa lẽ phải. Muốn cho cháu học thầy vì thế". Ông Bình Chi bảo: "Văn chương có nhiều thứ lắm. Có thức văn chương hành nghề kiếm sống. Có thứ văn chương sửa mình. Có thứ văn chương trốn đời, trốn việc. Lại có thứ văn chương làm loạn". Ông Gia bảo: "Tôi hiểu rồi. Tôi là nghề đồ tể, tôi biết. Cũng như có thịt mông, thịt thủ, thịt sấn, thịt dọi, Nhưng cũng là thịt cả thôi". Ông Bình Chi bảo: "Ðúng đấy. Thế ông định cho cháu học thứ văn chương nào?". Ông Gia bảo: "Tôi suy rằng thịt dọi là thứ vừa phải, nhiều người mua, chẳng bao giờ ế. Vậy có thứ văn chương nào tương tự như thế không, chỉ vừa phải, nhiều người theo thì cho cháu học". Ông Bình Chi bảo: "Tôi hiểu rồi. Ðấy là thứ văn chương học để làm quan". Ông Gia vỗ tay reo: "Phải". Nói xong, gọi Chiểu vào, bảo lạy ba lạy, lấy ra một xấp lụa Hà Ðông, năm xâu tiền đồng, xin ông Bình Chi thâu nạp học trò.

Ăn cơm xong, ông Gia dặn dò cháu rồi về. Chiểu chạy theo, khóc gọi ông: "Ông ơi, cháu chẳng học đâu. Học phải xa nhà, mất ông, mất cha mẹ thì học làm gì?" Ông Gia gạt nước mắt, bỏ đi như chạy. Ông Bình Chi dỗ Chiểu vào nhà. Thằng bé mơ hồ hiểu rằng học đòi văn chương là nó bước vào một cõi mà ở đấy, nó không thể nương tựa vào bất cứ cái gì, ngoài bản thân nó.

Hàng tháng, ông Gia sang Kẻ Lủ hai lần vào ngày mồng Một, ngày 16 mang tiền, gạo, nuôi cháu ăn học. Chiểu học rất tấn tới, mười tuổi đọc được Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười hai tuổi giảng được sách, các sách "phá đề", "phá thừa", "khởi giảng", "đề tỉ", "trung tỉ" trong kinh nghĩa đều thông thạo. Ông Bình Chi bảo: "Thằng này học như thần, tựa như miếng đất khô, đổ nước đến đâu là thấm". Ông Gia thích lắm, bảo: "Họ nhà này mấy đời nay một chữ cắn đôi không biết, chỉ biết cày ải, gieo mạ, pha thịt lợn. Thằng này rồi mang vinh hạnh cho cả họ đây". Bởi vậy, Chiểu được chiều chuộng không thiếu thứ gì.

Ông Bình Chi có cô con gái tên là Diêu, trạc tuổi Chiểu, hai đứa vẫn chơi thân với nhau, quyến luyến lắm. Chiểu bảo: "Lớn lên, tao lấy mày làm vợ cả". Diêu đỏ bừng mặt, không nói năng gì. Một lần, Chiểu ra đồng chơi, lê la đất cát với trẻ chăn trâu, hạ bộ bị tầm hỏi, dương vật sưng to. Ðầu tiên chỉ thấy khó chịu, không ngồi học được, ông Bình Chi hỏi thế nào cũng không nói, sâu tấy lên, rất đau. Diêu lấy mộảt cọng rơm, đo bằng chiều dài dương vật của Chiểu, gấp ba lại, xòe ra, lấy dao chặt cọng rơm, rồi bảo rửa sạch bằng nước muối. Thế là khỏi, Chiểu cám ơn lắm.

Năm Mậu Tý (1888), Chiểu đỗ tú tài. Ông Gia làm cỗ khao cả làng. Cỗ to lắm, bảy bát, bảy đĩa. Bảy bát là một bát măng, một bát miếng, một bát khoai sọ, hai bát bóng thả, hai bát đậu nhồi. Bảy đĩa là một đĩa thịt gà, một đĩa ngỗng quay, một đĩa thịt lơn, một đĩa giả hạnh nhân, một đĩa nem chạo, một đĩa nộm, một đĩa dưa ghém. Ông Bình Chi sang dự, cứ nức nở khen cơ ngơi đẹp.

Ðến năm sau, ông Gia mất. Khoảng thời gian này trường thi dời xuống Nam Ðịnh, nên Chiểu phải xuống đấy thi. Ông Gia chết mắt mở trừng trừng, vuốt thế nào cũng không nhắm. Có người bảo: "Cụ chờ tin cậu Chiểu". Sau phải lấy đủa cả hơ nóng, day ở trên mắt một lúc mới cụp mi xuống. ™ nhà không dám báo tin cho Chiểu vì sợ Chiểu hỏng thi. Bấy giờ trời mưa phùn, đường phố nhớp nháp, Chiểu trọ học trong nhà một cô đầu ở phố Hàng Thao Nam Ðịnh, suốt ngày văn ôn võ luyện. Cô đầu tên là Thắm, dạy Chiểu đủ các ngón chơi. Kỳ thi ấy, Chiểu đỗ thứ ba nhưng bị đổ bệnh tiêm la, dương vật lúc nào cũng cương đỏ, hạ bộ nhức nhối.

Chịu xong tang ông nội, Chiểu được bổ làm tri huyện Tiên Du. Tiên Du là huyện lớn, thóc gạo nhiều, con gái ở Bịu, Lim hát quan họ rất hay, làm quan ở đấy thật sướng như trời. Chiểu làm quan, nhớ lời thầy học mình dặn rằng: "Làm quan chỉ là nghề kiếm sống, không kiếm được là dại", vì vậy ra sức đục khoét. Sân công đường để một cái cùm gỗ nghiến, trên có một cối đá lỗ rất to chặn lên, có người bị cùm nát cả mắt cá chân, về mưng mủ, vết thương có dòi, lên cơn uốn ván mười ngày thì chết. Dân sợ lắm. Trong huyện ba năm không xảy ra kiện cáo, trộm cướp, có tiếng là yên bình, công sứ Bắc Ninh mấy lần mời Chiểu lên ăn tiệc.

Chiểu có hai vợ. Bà Diêu thấy chồng mình làm nhiều việc thất đức, lo sợ lắm, lại thấy cả mình, cả bà hai đều chẳng sinh nở được mụn con trai nào, đẻ toàn con gái thì đêm ngày cầu Trời khấn Phật, nhà thờ tổ ở Kẻ Noi không lúc nào ngớt khói hương.

Mang bệnh, Chiểu người khó chịu, tính nết thất thường nên nha lại rất sợ. Một hôm, có người bạn học tên là Äm Sắc ở Từ Sơn lên chơi, tạ ơn vì một vụ kiện tranh ruộng đất, Chiểu đã xử cho Äm Sắc được kiện. Äm Sắc bê vào hai nồi gạo nếp, hai nồi gạo tẻ, một nồi đỗ xanh, năm cặp vịt bầu. Chiểu liếc mắt nhìn qua lễ vật rồi bảo: "Bác thật phí tâm". Äm Sắc bảo: "Có gì đâu. Toàn là của nhà lá vườn". Chiểu giữ Äm Sắc ở lại ăn cơm.

Khi ăn cơm, Äm Sắc cứ thấy Chiểu đứng ngồi không yên, mới hỏi: "Bác bị nhọt hạch à?". Chiểu bảo: "Tôi bị bệnh hoa liễu". Äm Sắc bảo: "Tôi quen lang Vòng chữa bệnh thần tình lắm". Chiểu bảo: "Tôi không tin bọn lang vườn, toàn nhảm nhí, nghe họ vừa mất tiền, bệnh lại không khỏi". Äm Sắc bảo: "Lang Vòng kỳ lạ lắm. Có ông Ðồ Thống bị cảm gió, người co lại như con tôm, thuốc thang thế nào cũng không khỏi. Người nhà võng đến lang Vòng. Lang Vòng mời ngồi, không ngồi được, bảo đứng, không đứng được. Lang Vòng đập bàn quát: "Cái lão này, già rồi còn dê cụ, ăn uống vô độ, chơi bời nhiều. Lại cư xử thất đức mới hóa thế này". Ðồ Thống tím mặt, nghĩ mình suốt đời tằn tịu, có biết thế nào là thịt ngon, gái đẹp đâu, bị vu như thế thì uất không nói được. Lang Vòng bất ngờ đứng dậy đạp cho một cái. Ðồ Thống ngã lăn ra, nghe "cục" một cái giữa sống lưng, thế là khỏi bệnh. Bấy giờ mới biết Lang Vòng chữa mẹo, cứ thế phục xuống lạy như tế sao!". Äm Sắc lại kể: "™ dưới Phố Nối có một cô cổ ngoẹo sang bên. Mang đến Lang Vòng, lang bảo quây cót lại, bắt cởi truồng ra, rồi nhìn vào cái gương nhỏ để trước mặt. Bất ngờ, lang Vòng xô cót bước vào. Cô kia hốt hoảng, ngồi thụp ngay xuống, quay cổ lại nhìn. Thế là khỏi bệnh". Chiểu cười: "Các truyện bác kể đều chỉ chữa bệnh gió máy, như tôi là bệnh gió trăng thì chữa thế nào?". Äm Sắc bảo: "Bác đừng lo, lang Vòng chữa được bách bệnh". Chiểu gật đầu, bảo người nhà sắm lễ vật rồi cùng ấm Sắc đi đến nhà lang Vòng.

Nhà lang Vòng ở Diềm, nghe tri huyện Tiên Du đến, lang Vòng cho trải chiếu hoa từ ngõ vào thềm. Chiểu sai lính lệ đưa lễ vật vào, rất hậu. Lang Vòng pha trà mời. Chiểu liếc mắt thấy lang Vòng còn trẻ nhưng tóc bạc phơ, mắt sáng, tai như tai Phật, biết là người có tướng lạ, trong bụng mừng lắm. Khi kể bệnh, Chiểu không dấu diếm tí gì. Lang Vòng bắt mạch, bảo: "Bệnh này có bốn cấp, cấp một thì quy đầu có khe nứt, nước trắng rỉ ra, rất khắm, tiểu tiện thấy buốt, chữa hai tháng là khỏi. Cấp hai thì quy đầu lở loét, người sốt, gáy nóng, ăn không thấy ngon, buồn chân buồn tay, lúc nào cũng bứt rứt, chữa ba tháng là khỏi. Cấp ba là quy đầu mưng mủ, tiểu tiện ra máu, xuất tinh ngày vài lần, không đi đứng được, chữa ba năm thì khỏi, nhưng chữa được cũng khó. Cấp bốn là tay bắt chuồn chuồn, mắt đờ dại, vết lở loét ăn lên bụng, xuống chân, đến cấp này thì đi đóng ván". Chiểu rùng mình, hỏi: "Thầy nói vậy, thế như tôi ở cấp nào?". Lang Vòng bảo: "Cấp hai". Chiểu thở phào. Lang Vòng bảo: "Cấp một, cấp hai cũng bình thường thôi, quan lớn đừng lo".

Chữa khỏi bệnh, Chiểu tính tình cũng có dịu đi đôi chút. Năm ấy cho mở hội Lim rất to, mời lang Vòng về làm thượng khách. Sau hôm giã hội, Chiểu thấy trời về chiều rất đẹp mới sai lính bày tiệc ra sân công đường uống rượu. Dân không ai dám đi qua con đường trước cửa huyện lỵ. Chiểu ngồi ngất ngưởng, sau lưng có hai lính lệ cầm quạt phe phẩy. Chiểu bảo: "Ta là người có học đầu tiên của họ Phạm đây. Chỉ tiếc làm quan xa nhà, chưa làm gì được cho quê cha, đất tổ". Lúc ấy, bỗng nhiên có cái kiệu đi qua trước cổng, Chiểu tức mình, mắng: "Thằng nào láo, qua dinh quan huyện mà không xuống kiệu. Chúng mày ra xem nó là ai lôi cổ vào đây". Lính chạy ra giữ kiệu lại. Hóa ra là cố đạo Tây. Chiểu đang say, sai lính nọc ra đánh ba chục roi. Cố đạo Tây bị đánh, tức lắm. Sau vụ ấy, Chiểu bị thất sủng, cách chức về vườn. Lúc bấy giờ bốn mươi hai tuổi.

Nguyễn Huy Thiệp

Giọt máu

Chương 3

Cố đạo Tây bị Chiểu đánh tên là Jean Puginier rất có thế lực. Ðường công danh của Chiểu thế là đứt gánh giữa đường, Chiểu về nhà, bất đắc chí, suốt ngày nằm phục trong ngôi từ đường ở Kẻ Noi. Dân làng kháo Chiểu có chân trong nhóm văn thân chống Pháp, tri huyện Tiên Du là tướng của ông Ðề Nắm, Ðề Thám trên Yên Thế. Lại đồn Chiểu làm quan thanh liêm, không ăn cánh với triều đình bấy giờ đang vọng ngoại tộc, do đó mới bị bãi chức. Một đồn mười, mười đồn trăm, tên tuổi Chiểu trong vùng bỗng thành danh giá. Chiểu không nói năng gì, nghiễm nhiên coi việc đánh cố đạo Tây là cử chỉ nghĩa khí nhất trong đời làm quan. Bấy giờ ở Kẻ Noi người ta đứng ra quyên góp tiền bạc để xây đường gạch, Chiểu nghĩ mình chưa làm được gì cho thôn xóm, bèn trích một số tiền lớn ra sửa đình và xây toàn bộ cổng làng. Bởi thế người ta nói đến Chiểu như nói đến bậc thánh nhân. Bấy giờ cánh văn thân và hào lý trong vùng đều trọng nể Chiểu. Chiểu ngồi buồn, thỉnh thoảng lại giở bộ thẻ ngà ra coi, thở dài mãi.

Bà Diêu thấy mình không có con trai, rủ Chiểu đi chùa Hương cầu tự. Chiểu nghe lời. Nhằm ngày mồng 1 tháng Hai, hai người dậy từ ga gáy, cơm nước xong, khăn áo ra đi. Qua Hà Ðông, bà Diêu mua năm chục oản, vàng, hương, sớ cầu tự, rồi ra thuê xe ngựa đi. Hôm ấy trời mưa phùn, gió rét lắm. Chủ xe ngựa trạc năm mươi tuổi, trán thấp, tướng mạo bần tiện, mặc cả với bà Diêu hệt như một mụ hàng tôm. Qua Vân Ðình, thấy nhiều người cũng đi chùa Hương, các bà già mắc áo tứ thân, khoác áo tơi, đi thành đoàn, có đoàn đến ba chục vị. Lại có mấy công tử đội khăn xếp, mặc quần ống sớ cũng đi thành nhóm. Lên bờ đê, mưa phùn lất phất, gió thổi mạnh, đoàn người cứ chúi về phía trước hệt như những toán linh hồn lang thang trong tích chèo cổ. Qua một quán rượu ven đường, Chiểu bảo dừng xe lại.

Chiểu vào quán, gọi rượu, thịt chó. Bà Diêu ngăn chồng bảo đi chùa Hương đừng ăn tạp. Chiểu cười: "Xưa nay vẫn nói Phật ở tâm, ai nói Phật ở bụng? Thịt chó Vân Ðình nổi tiếng, không ăn là dại". Bà Diêu không biếu nói sao, giở cơm nắm ra ăn.

Chủ quán bê ra một đĩa thịt chó luộc, mỗi đĩa dồi hấp, một đĩa nhựa mận, một đĩa chả nướng, một bát xáo xương, một bát tiết canh, một ve rượu trắng. Chiểu ăn uống nhồm nhoàm, hệt như một gã trương tuần. Bà Diêu ăn xong, mua một cặp bánh chưng mang cho người đánh xe ngựa rồi ngồi trong xe đợi chồng.

Chiểu đang ăn, thấy một người đội khăn xếp, mặc áo the, cầm ô lục soạn đi vào. Người đó nhìn thấy Chiểu, vội bó ô, chắp tay vái. Chiểu cầm đũa chỉ người đó hỏi: "Ông cần gì tôi?". Người đó bảo: "Quan bác không nhận ra em à? Em là Hàn Soạn, trước ở Tiên Du, quan bác có lần cứu em khỏi tội". Chiều "à" một tiếng rồi mời ngồi. Hàn Soạn bảo: "Hồi đó có bọn trộm ở Cẩm Sơn bị lính huyện bắt, chúng vu cho em cầm đầu chúng nó. Quan bác khám nhà, thấy có đồ ăn trộm nhưng lờ đi cho". Chiểu bảo: "Phải rồi. Sau ông lễ tạ một chục nồi thóc với bộ đỉnh đồng". Hàn Soạn gật đầu.

Hàn huyên một lúc. Hàn Soạn hỏi: "Quan bác đi chùa Hương cầu gì?". Chiểu bảo: "Cầu tự". Hàn Soạn cười: "m thấy bà chị trong xe ngựa rồi. Bà chị cũng đã luống tuổi, có cầu tự thì Phật cũng cho nhưng mà cho ép. Trong chùa Hương có ni cô Huệ Liên là con gái tuần phủ Ninh Bình, xinh đẹp mà nết na lắm. Chán đời không thấy ai đáng mặt nên mới cắt tóc đi tu được nữa năm nay. Trong nửa năm, phép thiền chưa thấm được đâu. Quan bác nên cầu duyên rồi hãy cầu tự". Chiểu là người mê gái, nghe thấy vậy thích lắm, hỏi rằng: "Thế cầu duyên thì phải thế nào?". Hoàn Soạn không trả lời, mắt nhìn vào ve rượu. Chiểu biết ý, gọi thêm một suất ăn nữa.

Hàn Soạn ăn uống xong, bảo Chiểu: "Em vốn có quen ni cô Huệ Liên. Nàng cốt cách thanh cao, rất mê truyện anh hùng nghĩa khí. Trước nàng nghe truyện Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương, cũng đã định cắt tóc cải trang đi theo. Cha nàng biết chuyện, giận lắm, nọc ra đánh. Sau này, vị hôn phu theo ông Ðề Thám, chết ở Phúc Yên, vì vậy mới phẫn chí đi tu. Việc quan bác đánh cố đạo Tây cả nước đều biết, ai cũng cảm phục. Nếu bác ngỏ ý thì việc tất thành". Chiểu mừng lắm, nghĩ một lúc rồi bảo: "Chuyện này khó. Kéo gái ra khỏi buồng khuê thì ta làm nhiều lần rồi, không sợ, nhưng kéo gái ra khỏi buồng Phật thì chịu, chưa làm bao giờ". Hàn Soạn cười: "Việc này có năm bước. Em quen hòa thượng trụ trì ở chùa Thiên Trù là nơi ni cô Huệ Liên ở đó. Ðến đấy, quan bác giả đò đau bụng rồi bảo bà chị cứ đi vào chùa Trong trước, quan bác đưa biếu hòa thượng một lạng vàng, nếu hòa thượng không nhận thì thôi, coi như hỏng việc. Nếu hòa thượng nhận, thế là được một bước. Ðêm đó hòa thượng cho quan bác nghỉ ngơi trong trai phòng, quan bác đưa cho em một lạng vàng để em lo gác bên ngoài, hòa thượng mời cơm chay, có ni cô hầu rượu. Quan bác ép ni cô uống một cốc rượu có pha thuốc mê, nếu ni cô không uống thì thôi, coi như hỏng việc. Nếu ni cô uống, thế là được hai bước. Dọn mâm xong, ni cô say thuốc, hòa thượng quay đi, quan bác bế ni cô lên giường, thế là được ba bước. Quan bác cởi y phục nhà chùa của ni cô ra, muốn làm gì thì làm, thế là bốn bước. Sáng hôm sau, ni cô tỉnh lại, hòa thượng với em vào, chửi mắng quan bác với ni cô làm nhục cửa thiền, bắt quan bác phải ký văn tự nhận ni cô về, quan bác nộp vào hòm công đức một lạng vàng xá tội, thế là năm bước". Chiểu cười: "Ðược, nhưng ông anh nói nhanh quá, thế là mấy lạng vàng?". Hàn Soạn bảo: "Ba lạng". Chiểu nghĩ ngợi: "Ba lạng thì ta có thể mua được sáu bà vợ". Hàn Soạn bảo: "Tùy quan bác, nhưng ni cô Huệ Liên thì chỉ có một". Chiểu bảo: "Ông nói phải". Nói xong, trả tiền rượu, dẫn Hàn Soạn ra xe. Bà Diêu hỏi: "Ai đấy?". Chiểu bảo: "Bạn tôi". Hàn Soạn chào bà Diêu rất cung kính rồi ngồi nép vào một góc xe, cái ô đặt lên đùi, mắt nhìn thẳng, cả chặng đường không nói năng gì.

Ðến bến Ðục vừa đúng giờ Ngọ. Người đi hội rất đông. Thuyền thúng đỗ chụm lại dưới suối Yến đến vài chục cái. Bà Diêu thuê một đò nhỏ có sáu chỗ ngồi, cả lượt đi lượt về màgiá chỉ tương đương với năm đấu gạo. Lái đò là một cô gái rất xinh, mau mồm miệng. Ðò lướt đi trên suối êm như ru, phong cảnh hữu tình. Mái chèo đong đưa rẽ sang hai bên những cây rong và cây lau nước. Và con chuồn chuồn kim, chuồn chuồn nước bay theo đậu cả bên sạp đò. Vào chùa Trình, bà Diêu dâng sớ. Chiểu đứng đằng sau, lầm rầm khấn: "Nếu Phật cho ni cô Huệ Liên, xin hậu tạ một bữa tiệc chay thật hậu".

Hàn Soạn thông thạo vùng này, đi đến đâu kể sự tích dến đấy, bà Diêu rất khâm phục. Thuyền đi ngược, thuyền đi xuôi, ai cũng chào nhau thật lễ độ.. Ði trên suối, con người như thoát tục, tự nhiên thấy cảm động, mới thấy mình sống ở đời thật bụi bặm.

Ðến bến Ðá, lái đò neo lại ngồi chờ. Hàn Soạn đi trước, bà Diêu và Chiểu đi theo. Xung quanh Thiên Trù chật ních người, khói hương ngào ngạt. Người bán hàng ngồi la liệt. Những hàng cơm và lều trọ dựng sơ sài bằng tre nứa nhưng sạch sẽ. Hàn Soạn dẫn Chiểu và bà Diêu vào chào hòa thượng trụ trì. Hòa thượng béo tốt, hồng hào, lông mày như vẽ, đôi mắt lờ đờ trông như mắt cá, không đoán được đấy là hiền hay ác, kiến thức nông hay sâu. Bà Diêu dâng lễ vật. Chiểu thấy hòa thượng gật đầu, thâu lễ vật rất thạo và nhanh, bèn nghĩ bụng: "Việc chắc thành". Ngồi một lát, nói dăm câu chuyện bâng quơ, thấy ni cô Huệ Liên bước ra chào, Chiểu liếc mắt, ngẫm lời Hàn Soạn nói quả không sai, bụng mừng lắm.

Cúng vái xong, Chiểu kêu đau bụng. Bà Diêu là người thật thà, không biết đấy là mưu của Hàn Soạn, cứ cuống quýt lên, Chiểu và Hàn Soạn dỗ mãi, bà Diêu mới để đồ đạc lại rồi vào chùa Trong một mình, vừa đi vừa áy náy không yên.

Chiểu ở lại, cứ y kế Hàn Soạn mà làm. Thương thay cho ni cô Huệ Liên, muốn đi tu để quên sự đời mà không trót được.

Huệ Liên tên thật là Ðỗ Thị Ninh, về làm vợ ba của Chiểu thì một năm sau sinh con trai đặt tên là Phạm Ngọc Phong.

Phạm Ngọc Phong được mười sáu tuổi thì mất cả cha lẫn mẹ. Hôm ấy là ngày tiệc làng 11 tháng Tư. Chiểu ra đình lễ, về nhà thấy người ngây ngất mới vào buồng nằm. Buổi chiều thấy gây gấy sốt, ăn có nữa bát cơm rồi bỏ mứa. Bà Diêu sai cô Ninh đi hái lá hương nhu, lá bưởi, lá tre về nấu nước xông. Chiểu không nghe. Sẵn nước nóng, cô Ninh mang đi tắm. Nữa đêm, thấy vợ ba thơm tho, Chiểu nổi máu phong tình. Sau cuộc mây mưa, người Chiểu cứ lịm đi, đến sáng thì mất. Cô Ninh sợ quá, khóc ầm lên. Bà Diêu giận lắm, mắng rằng: "Ðồ con đĩ. Tu không trót. Bây giờ lại giết chồng". Cô Ninh tủi phận, nghĩ mình bị lừa về làm vợ ba chẳng khác con ở, làm đủ việc nhà, ngủ với chồng cũng phải giấu giếm, bây giờ mang tiếng oan giết chồng, thế là đi tắt qua đê ra sông tự vẫn. ™ nhà đang nhập quan Chiểu thì đám chài ở sông vào báo vớt được xác cô ba. Bà Diêu đập đầu xuống đất than rằng: "Con dâm phụ thật là tiền oan nghiệp chướng". Hai đám tang một lúc, áo quan chàng đi trước, áo quan nàng theo sau. Chuyện này ầm ĩ cả vùng, ba chục năm sau người ta còn kể. Cánh hương lý trong làng thấy cơ hội làm tiền được, đòi khám nghiệm tử thi, coi cô Ninh chết do bức tử. Bà Diêu phải lo lót, bán đi năm mẫu ruộng mới yên chuyện.

Sau lần ấy, bà Diêu ốm nặng, thành người lẫn lộn, dở khôn dở dại.

Phong lớn lên, học chữ quốc ngữ. Tính nết Phong lông bông, ương ngạnh. Phong được ăn tự cả cơ ngơi hơn chục mẫu ruộng nhưng không thiết, tất cả giao cho chị gái quản lý. Chị Phong tên là Cẩm, con bà hai, ở vậy không lấy chồng, tính nết nhu mì, hiền thục.

Phong ra Hà Nội học, thỉnh thoảng mới về nhà. Một hôm, Phong dẫn về một người đàn bà hơn Phong đến chục tuổi, người cao lớn, đen đúa, răng vàng, bụng chửa khệ nệ. Phong bảo bà Cẩm: "Ðây là cô Lan, sinh viên trường thuốc, cháu của ông Tân Dân làm báo ngoài Hà Nội. Chúng em ăn ở với nhau được một năm rồi". Bà Cẩm tái mặt, ngồi im không biết nói sao. Cô Lan cúi đầu, mặt đỏ như gấc, tay mân mê tà áo may bằng thứ vải lụa Bom-bay, cổ khoét rộng, lộ một chuỗi dây chuyền bằng vàng. Bà Cẩm hỏi: "Thế cậu mợ tính sao?". Phong bảo: "Cô Lan ở nhà. Em ra Hà Nội hùn vốn làm báo". Bà Cẩm bảo: "Cậu ơi, nhà ta xưa nay làm ruộng, mổ thịt lợn. Tôi nghiệm những người bỏ quê ra ngoài múa may đều không ra gì. Cái chí của cậu, tôi là đàn bà không biết nói sao, chỉ khuyên cậu nên chừng mực thôi". Phong thọc hai tay vào túi áo vét, mỉm cười: "Merci". Bà Cẩm ngơ ra không hiểu em trai nói gì. Ðến bữa, cô Lan xơi có nữa bát cơm, ngồi gẩy gẩy từng hạt một. Có món canh khế nấu thịt nạc rất ngon, bà Cẩm chan vào bát ép ăn. Phong giãy nảy: "Chết, nhà em kiêng ăn hành". Bà Cẩm đỏ bừng mặt. Cơm xong, Phong phải ra chợ Kẻ Noi mua hai chiếc bánh dày cặp chả cho vợ ăn.

Cô Lan ở nhà một tuần đầu không ra khỏi buồng, chỉ toàn nằm đọc sách. Bà Cẩm sợ Phong, cứ nín nhịn không nói năng gì. Một hôm cô Lan hỏi bà Cẩm: "Nhà ta có bao nhiêu ruộng?". Bà Cẩm bảo: "Hơn chục mẫu. Cậu Phong bán đi tám mẫu mang tiền ra Hà Nội làm ăn. Nhà bây giờ còn ba mẫu. Lại còn một phản thịt lợn ở chợ Kẻ Noi". Cô Lan hỏi: "Phản thịt ai trông?". Bà Cẩm bảo: "Tôi thuê ông Bỉnh là người trong họ. Vốn mình bỏ ra, còn lãi chia đôi". Cô Lan bảo: "Từ mai tôi trông coi phản thịt". Hôm sau ra chợ xem xét, bụng mang dạ chửa nhưng cắt đắt việc đâu vào đấy, tiền nong rạch ròi, bà Cẩm với ông Bỉnh hãi lắm. Ông Bỉnh không dám ăn bớt một xu.

Bà Diêu ngày càng yếu, lẫn lộn, cứ quanh quẫn trong buồng, ỉa đái ngay chỗ nằm. Phong bảo: "Sao con mẹ này sống dai thế?". Cô Lan bảo: "Cho liều thuốc chuột là yên". Phong bảo: "Không cần, cứ để đói vài ngày". Nói xong quay ra bảo bà Cẩm: "Từ hôm nay đừng cho mẹ Cả ăn nữa, tám mươi hai tuổi rồi, sống làm quái gì?". Bà Cẩm sợ hãi: "Cậu ơi, cậu nghĩ lại đi, phải để phúc đức cho con cháu chứ?". Phong trừng mắt, bảo: "Con ác tặc này nó giết mẹ tôi chị có biết không?". Bà Cẩm cứ kêu khổ. Phong khóa cửa lại rồi cất chìa khóa vào túi áo vét.

Bà Diêu bị nhốt trong buồng, đói khát lắm, bốc cả phân ăn. Mỗi ngày một lần, Phong mở cửa khóa xem đã chết chưa. Ðến hơn nữa tháng, bà Diêu vẫn sống nhăn răng. Phong phát hoảng, bảo vợ: "Con mẹ này là phù thủy chắc? Hay nó luyện được thuốc trường sinh?". Cô Lan đến xem, thấy có một hạt cơm rơi ở dưới chân giường, cười nhạt bảo rằng: "Mẹ Cả anh còn sống lâu lắm. Khéo nó còn sống để chôn anh với tôi cơ đấy". Lại hỏi Phong: "Chìa khóa để đâu?". Phong chỉ vào áo vét treo ở tường. Cô Lan bảo: "Thảo nào. Anh đưa đây để tôi phá phép của con phù thủy này cho". Nói rồi cầm chìa khóa cho vào cái ví xách tay.

Khoảng nữa đêm, cô Lan bấu Phong dậy. Cái áo vét Phong treo ở sập gụ gian ngoài. Dưới bóng trăng mờ mờ, thấy một bóng đen đang lần sờ túi áo. Cô Lan cầm tay thước gỗ lim quật thẳng vào đầu bóng đen, chỉ nghe "ối" một tiếng rồi ngã vật xuống. Phong thắp đèn lên thấy bà Cẩm máu me đầm đìa trên trán. Cô Lan bảo: "Khổ quá, tôi cứ tưởng trộm". Phong gắt bà Cẩm: "Chị lần ra đây làm gì?". Bà Cẩm rên hừ hừ, mặt úp vào bát cơm nguội đầy máu trên sập gụ.

Ba ngày sau, bà Diêu mất. Phong làm ma tử tế, đặt tên hiệu là Ðoan Thuận. Còn bà Cẩm, vai trò quản lý lu mờ đi. Cô Lan đứng ra điều hành toàn bộ công việc. Ðứa con gái cô Lan đẻ đặt tên là Huệ. Cô Lan thuê một người vú để trông nom nó. Con bé lớn lên, kháu khỉnh, nhưng mẹ nó không thích nó. Việc nuôi dạy nó được giao hoàn toàn cho người vú và bà Cẩm.

Ông Tân Dân tên thật là Nguyễn Anh Thường. Trong làng báo, làng văn, ông khá nổi tiếng. Người ta cũng có trách ông là hay la liếm, ăn tham như mõ, nhưng việc đó không can hệ gì. Ông Tân Dân bảo Phong: "Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa, đấy là chí thánh". Phong chỉ gật đầu. Ông Tân Dân và Phong hùn vốn làm ăn, nói là làm báo, nhưng thực chỉ buôn giấy.

Một hôm, ông Tân Dân bảo Phong: "Tôi vừa xin được giấy phép buôn muối. Chú ra tay đi. Chú xuống Phát Diệm, ở đấy có cha Tất là người tôi quen. Việc lấy hàng cha Tất lo. Ta lên miền núi bán. Tôi đi Sơn La, tìm lão tri châu Cầm Vĩnh An bàn bạc". Phong gật đầu.

Phong đến Phát Diệm, tìm đến nhà thờ đá. Ðấy là một khu đất rộng đến vài ba mẫu gồm cả một hệ thống vừa công viên, vừa lăng tẩm, vừa nhà thờ, vừa trường dòng, xây cất rất công phu. Phía trước có một hồ bán nguyệt rộng, nước trong văn vắt, nhìn rõ cả những con cá bơi lội tung tăng. Lại có cả những núi đá giả đặt tượng Ðức Mẹ và Chúa Giêsu trắng toát. Phong đứng nhìn, lòng rất thán phục, bèn ngh

thầm: "Mẹ khỉ, cả nước mình có lẽ chỉ có công trình này được gọi là công trình kiến trúc của muôn đời. Ðạo Thiên Chúa là thứ đạo gì ghê gớm vậy?"

Quanh quẫn một lúc, thấy có người bõ già đi ra dẫn Phong đi vào. Cha Tất còn trẻ, trắng trẻo, trán cao, có đôi mắt rất hóm. Ðọc xong thư của ông Tân Dân, cha Tất mời Phong ngồi, đoạn vẫy tay ra phía đằng sau. Có một thiếu niên mặc áo chùng đen bưng trà ra mời. Lại thấy hai thiếu niên cũng mặc áo chùng đen đứng sau lưng hầu quạt. Phong uống nước, thấy trà thơm lừng. Phong hỏi: "Thưa cha, việc chúng con nhờ cậy liệu có thành không?" Cha Tất nhỏ nhẹ: "Kinh Thánh nói: Có ai trong anh em, khi con mình xin bánh lại cho nó hòn đá không? . Con cứ yên tâm, cứ ở đây nghỉ rồi đâu vào đấy". Phong xin phép ra ngoài nhà trọ, Cha Tất bằng lòng.

Phong nằm trên gác nhà trọ, trời mưa tí tách. Kè kè một túi tiền nên Phong không dám đi đâu. Chủ quán trọ suốt ngày cứ ngồi ủ rũ trước hiên nhà trông ra ngoài đường. Phong buồn quá, hết đứng lại ngồi, giở đi giở lại cuốn truyện Trê Cóc in trên giấy bản, đọc đi đọc lại. Phong không biết nhà này có bao nhiêu người mà chẳng có ai đi ra đi vào gì cả. Một hôm, Phong đánh liều hỏi chủ quán: "™ đây có con điếm nào xinh không?". Chủ quán gật đầu. Phong bảo: "Gọi cho tôi một đứa". Chủ quán hỏi: "Ông thích loại còn tân hay đã mất tân?". Phong vỗ đùi đánh đét: "Còn tân thì nói gì nữa?". Chú quán đứng dậy, đi xuống nhà ngang, lát sau dẫn lên đứa con gái trạc mười lăm tuổi. Chủ quán bảo: "Ðây là con gái tôi". Phong uống nước, suýt nữa thì nghẹn.

Ðứa con gái mới lớn, chưa biết gì về chuyện hoa nguyệt, Phong cũng thương thương nhưng rồi tặc lưỡi: "Băn khoăn làm gì, tất cả rồi sẽ qua đi". Phong kéo nó lên gác, con bé vừa đi vừa làm dấu, miệng kêu tên chúa.

Ðược vài ngày, ông bõ già đến gặp Phong bảo: "Chuyện của cậu cha Tất lo xong rồi. Cậu về Hà Nội mà nhận hàng". Phong cầm giấy tờ, giao tiền cho ông bõ già, cứ thầm phục tay cha cố trẻ măng mà làm việc đâu vào đấy.

Phong về Hà Nội, tìm đến nhà ông Tân Dân. Ðây là lần đầu tiên Phong đến nhà riêng của lão. Phong bấm chuông gọi, một con chó Tây lao ra. Một người bồi đi sau gọi: "lu lu". Con chó cụp đuôi đi vào. Người bồi hỏi: "Ông cần gì?". Phong bảo: "Tôi là Phong". Nói rồi đưa danh thiếp rạ Người bồi bảo: "Ông Tân Dân đi Sơn La chưa về, nhưng có thư gửi ông để ở trong nhà. Mời ông vào gặp bà chủ". Phong đi theo người bồi vào nhà, thấy nhà cửa, đồ đặc sang trọng, bài trí rất có gu. Phong nghĩ thầm: "Lão này đểu. Thế mà cứ giả nghèo giả khổ. Lúc nào cũng vay tiền mình". Ngồi một lát, thấy có tiếng dép loẹt quẹt rồi một thiếu phụ trạc ba mươ tuổi đi ra. Phong đứng dậy chào, thấy thiếu phụ đẹp rất đài các. Thiếu phụ bảo: "Chào ông Phong. Tôi là Thiều Hoa. Ông nhà tôi có thư gửi ông". Hai người cùng ngồi, nói dăm câu chuyện bâng quơ, đại để như chuyện thời tiết, giá cả. Phong thấy Thiều Hoa lịch lãm, trong lòng thích lắm. Thiều Hoa khép vạt áo bảo: "Ông đọc thư đi". Nói xong mỉm cười. Phong cầm thư bảo: "Xin lỗi bà". Thư viết:

"Kính gửi ông Phong, bạn armour của tôi. Tôi đi Sơn La từ hôm 16 tháng Junons. Việc bán hàng cho Cầm Vĩnh An đã đâu vào đấy, chỉ chờ hàng lên là lấy tiền. Phiền ông lo giúp việc đưa hàng lên sớm ngày nào hay ngày ấy. Nếu cần thì ông lấy mấy tên người nhà cu/a tôi đi theo. Với trí mẫn tiệp và sự tháo vát của ông, tôi tin vạn sự như ý. Bệnh thấp khớp khiến tôi không về lo việc cùng ông được. Mong gặp ông ở Sơn La. Chúc ông với gia quyến bình an. Rất kính trọng ông. Ký tên: Tân Dân".

Phong đọc thư xong, cười nhạt. Thiều Hoa hỏi: "Thưa ông Phong, ông thấy công việc ra sao?". Phong bảo: "Thưa bà, xin bà đừng bận tâm, chồng bà là một thiên tài". Thiều Hoa đỏ mặt: "Ông quá khen, nhiều khi tôi thấy nhà tôi ích kỷ ghê gớm". Phong cười: "Ðấy cũng là một tính cách thiên tài". Thiều Hoa bảo: "Nhà tôi rất khen ông". Phong hỏi: "Thưa bà, về mặt nào?". Thiều Hoa bảo: "Nhà tôi bảo ông là một gentleman". Phong bảo: "Thư a bà, tôi muốn mời bà một bữa cơm nhạt ở phố Hàng Buồm. Nếu bà từ chối thì tôi không xứng với lời khen ấy". Thiều Hoa lưỡng lự rồi gật đầu.

Phong về nhà ( Phong có một nhà riêng ngoài phố) nghĩ ngợi: "Lão Tân Dân đểu thật, vốn mình bỏ ra, bao nhiêu công việc vất vả cũng mình, lão ấy chỉ ngồi hưởng. Ðược, xem lão ấy hưởng những gì". Bèn đứng dậy, gọi xe tay bảo đưa đến Hàng Buồm đặt tiệc. Ðến hiệu cao lâu, Phong gọi lão hoa kiều Vương Bình đến bảo: "Ngộ làm cho tôi một bữa ăn đặc biệt hai người. Cho nhiều thuốc kích dục vào". Vương Bình gật đầu.

Buổi chiều, Phong đến đón Thiều Hoa. Hai người ăn uống vui vẻ, đầu tiên giữ ý, về sau thuốc ngấm, cứ kề vai nhau lơi lả. Phong dìu Thiều Hoa vào buồng. Lão Vương Bình đóng cửa ngồi canh. Sau lần ấy, họ còn đi lại với nhau vài lần nữa. Thiều Hoa gặp Phong trẻ trung, thật như đại hạn gặp mưa rào. Hai người thề thốt sẽ sống với nhau.

Ðến ngày hẹn, Phong ra bến sông Cái nhận hàng rồi đi Sơn La.

Nguyễn Huy Thiệp

Giọt máu

Chương 4

Ðoàn xe ngựa thồ muối đi hơn nữa tháng mới đến Sơn La. Nhà Cầm Vĩnh An ở dốc Bản Mạt, nhà quan mà cũng chẳng khác gì nhà những người Thái khác, được cái to hơn, gỗ tốt hơn. Ông Tân Dân giới thiệu Cầm Vĩnh An với Phong, An chẳng tỏ vẻ gì ra mặt. Phong liếc nhìn, thấy An tướng ngũ đoản, da dẻ hồng hào, mi mắt sùm sụp, điệu bộ chậm chạp, có vẻ như người suy nghĩ chậm. Phong gầy rộc đi sau chuyến đi vất vả. Thấy ông Tân Dân ngày nào cũng ba bữa rượu rồi vác súng đi săn, ngồi tán nhảm, thì bực lắm. Ông Tân Dân bảo: "Tôi biết chú vất vả, chuyến này thì chú công đầu". Phong chẳng nói năng gì, lát sau hỏi xin Cầm Vĩnh An ít rượu mật gấu để bóp chân tay.

An hỏi: "Có bao nhiêu muối?". Phong bảo: "Tám tấn". Ông Tân Dân giãy nãy: "Chết, ta thỏa thuận với nhau những hai mươi tấn cơ mà". An bảo: "Người Kinh các ông nói một đằng làm một nẻo?". Phong bảo: "Tôi giao đợt đầu tám tấn, giao đến đâu lấy tiền đến đấy, sao bảo nói một đằng làm một nẻo?". An bảo: "Ông Tân Dân đã lấy tiền cả hai mươi tấn". Ông Tân Dân bảo: "Tôi lấy tiền trước, trích phần lãi để mua thuốc phiện mang về Hà Nội". Phong bảo: "Tôi chẳng chơi. Nhà nước cấm buôn thuốc phiện, khéo mà tù. Ông chỉ nên lấy số lãi của ông mà mua thôi". Ông Tân Dân bảo: "Gay thật, tôi trót mua rồi thì sao?". Phong bảo: "Không sao cả, ông ghi cho tôi cái văn tự nợ, có quan tri châu ở đây đứng làm chứng". An bảo: "Phải". Ông Tân Dân tái mặt.

Buổi chiều hôm ấy oi bức. Ông Tân Dân phải hoàn lại số tiền mười hai tấn muối chưa lấy cho Cầm Vĩnh An rồi ghi văn tự nợ với Phong. Phong bắt ghi rõ thời hạn trả tiền là một tháng, nếu không thì gán nhà riêng. Thuốc phiện trót mua rồi, ông Tân Dân cực chẳng đã phải chịu.

Sáng hôm sau, ông Tân Dân vội vã thu xếp về xuôi, bảo Phong cùng đi với mình. Phong bảo: "Ông đi trước đi. Tôi phải ở lại ít ngày mới hoàn sức được". Cầm Vĩnh An bày tiệc tiễn đưa. Phong kêu mệt nằm trong buồn ngủ.

Ông Tân Dân đi rồi, Phong nhỏm dậy, lấy ra hai chục vuông vải đen, ba chục vuông vải đỏ nói với Cầm Vĩnh An: "Tôi được hân hạnh biết quan tri châu. Hôm qua còn mệt dâng quà biếu bất tiện, hôm nay mới có cơ hội". An gật đầu. Phong lại nói: "Số muối ước định với quan tri châu là hai mươi tấn, việc này không làm đơm sai, ba ngày nữa số muốn còn lại sẽ lên đến nơi". An cũng gật đầu. Phong lại nói: "Khi muối đến nơi, chỉ lấy tiền mười tấn, còn hai tấn xin biếu để nhà ăn dần". An cũng gật đầu. Phong lại nói: "Tôi làm ăn với ông Tân Dân nhưng coi như kẻ thù. Ông Tân Dân mang thuốc phiện là việc không hay, xin quan tri châu nên báo với nhà chức trách". An cũng gật đầu.

Hôm sau, Cầm Vĩnh An cưỡi ngựa đi sớm. Buổi chiều An về bảo Phong: "Ông Tân Dân đi đến Yên Châu thì bị tóm rồi". Hai người cùng cười. An lấy ra một túi bạc trắng bảo Phong: "Ðây là tiền thưởng". Phong bảo: "Quan tri châu chia làm ba phần. Một phần để phụ nữ trong nhà sắm quần áo mới". An bảo: "Nhà tôi nhiều đàn bà lắm". Phong bảo:"Thế thì chia bốn".

Ngày hôm sau, đoàn ngựa thồ chở số muối còn lại đến nơi, Phong ra xem xét, thấy không thất thoát gì, mừng lắm, thưởng hậu hĩnh cho bọn phu áp tải. Cầm Vĩnh An hài lòng, tiễn Phong ra về bằng một bữa tiệc rất to, thịt một con trâu. Trong bữa tiệc, An nèo Phong ăn món nậm pịa ( giống như phèo trâu ). Phong ăn nhưng ngậm trong mồm rồi ra đầu quản nhổ toẹt xuống sàn.

Về Hà Nội, Phong báo cho Thiều Hoa biết việc ông Tân Dân bị bắt. Thiều Hoa hỏi: "Liệu tù bao nhiêu năm?". Phong bảo: "Cầm Vĩnh An hứa không dưới mười năm". Thiều Hoa bảo: "Ra tù chết là vừa".

Phong về Kẻ Noi bàn với cô Lan việc cưới Thiều Hoa. Cô Lan tức lắm, nhưng biết Phong nhẫn tâm, lắm thủ đoạn, nếu có gây sự thì chỉ thiệt mình, vì vậy đành nín nhịn. Ðám cưới Phong với Thiều Hoa rất long trọng. Phóng bán cơ ngơi của ông Tân Dân, sau khi ông Tân Dân bị tuyên án vỡ nợ và bị xử mười năm tù. Thiều Hoa có một đứa con với ông Tân Dân, thằng bé tên là Hạnh, đầu to tướng, có tật ở chân, đi đứng cứ nhảy như con cào cào.

Bấy giờ cô Lan đẻ thêm một đứa con gái nữa, đặt tên là Cúc. Còn Huệ, Phong đưa ra Hà Nội ở, sau này lấy chồng tên là Ðiềm. Ðiềm là họa sĩ chuyên vẽ minh họa cho tờ báo mà Phong hùn vốn. Cha mẹ Ðiềm làm nghề bán tạp hóa.

Rằm tháng bảy, Phong đưa Thiều Hoa về Kẻ Noi làm sinh nhật năm mươi tuổi. Phong bàn với cô Lan và Thiều Hoa làm cỗ to mời khách. Hôm ấy trăng sáng, Phong trải chiếu hoa ngồi bên hè nhẩn nha uống nước nụ vãi. Bà Cẩm nằm võng ru con bé Cúc, ru rằng:

"Ông giăng kia ông ở trên trời

Hỏi ông có biết sự đời cho chăng?

Sự đời nhít nhít nhăng nhăng

Nghe ra chẳng biết mà răng nực cười. . ."

Dưới nhà ngang, cô Lan đứng chỉ bảo những người trong họ đến làm giúp. Bà Cẩm lại ru, Ru rằng:

"Cái cô đi đón cơn mưa

Tối tăm mù mịt, ai đưa cô về?

Cô về thăm quán cùng quê

Thăm cha thăm mẹ, cô về thăm ai . . ."

Phong bảo: "Mười năm nữa, giời cho ta sống, làm ăn được, ta lên thượng thọ sẽ khao cả làng". Thiều Hoa bảo: "Gớm! Cứ ăn chơi lắm thì liệu có sống được năm năm không?" . Bà Cẩm lại ru. Ru rằng:

"Làm giai cho đáng nên giai

Phú Xuân cũng trãi, Ðồng Nai cũng từng".

Phong hỏi bà Cẩm: "Cái con bé đang vặt lông gà kia tên là gì, con nhà ai?". Bà Cẩm bảo: "Ðấy là cái Chiêm, con ông Mùa". Phong hỏi: "Có phải ông Mùa hồi trước vẫn cõng tôi ra đê xem diều không?" Bà Cẩm bảo: "Phải". Phong hỏi: "Ông Mùa dạo này thế nào?". Bà Cẩm bảo: "Ông Mùa đông con, cơ cực lắm. Ðậu, tháng ba, ốm suýt chết". Phong nói với con rể: "Mày là họa sĩ, mày thấy con bé Chiêm có đáng là hoa hậu của quê tao không?" Ðiềm bảo:"Con thấy bình thường". Phong bảo: "Mày không biết nhìn. Mày chỉ thấy quần áo. Ðấy là vì mày kém từng trải". Ðiềm gật gù: "Con chịu bố". Thiều Hoa bảo: "Hai bố con, chuyện ấy chẳng ai kém ai".

Ngày hôm sau, khách ở Hà Nội về hơn ba chục vị. Ô tô đậu kín một đoạn đê. Có các quan chức, nhà văn, nhà báo, nhà buôn. Một số bà vợ cũng đi theo chồng. Lễ vật bày ki;n trên tấm sập gụ kê giữa nhà thờ. Phong ra tận cổng đóng khách. Thiều Hoa lộng lẫy đứng bên. Cô Lan tất bật chỉ bảo công việc bếp núc.

Khoảng gần trưa, cánh hương lý trong làng đến chào. Cũng tới hơn hai chục người. Phong mời cả vào trong nhà tiền tế, pháo nổ ầmĩ.

Ông Tô Phương, nhà buôn, đứng lên thay mặt quan khách chúc mừng. Võ tay ran lên. Phong bắt tay ông Tô Phương. bảo: "Cám ơn ông, cám ơn chư vị. Ðứng ở nhà mình, xung quanh có vợ con, hàng xóm, bạn bè, uống một cốc rượu cất bằng thứ gạo cấy trên mảnh ruộng nhà mình, thế là sướng, dẫu rằng biết đời cũng là phù du". Mọi người gật đầu. Ăn uống đến hơn ba tiếng mới xong. Sau tiệc mặn là bánh ga-tô, trên đĩa bánh nào cũng có chữ Phạm Ngọc Phong bằng bơ. Mấy ông ký lục trong làng dùng tay nhón bánh bỏ vào mồm, dây bơ ra cả ngón tay, thấy bẩn lại bôi xuống chiếu.

Sau tiệc, Phong cho Thiều Hoa ra Hà Nội trước, còn mình ở lại Kẻ Noi nghỉ ba tháng. Thời gian nà Phong đi thăm thú trong làng, thấy có một số nhà giàu mới lên nhưng cũng có nhiều nhà nghèo lắm. Nhìn chung, tất cả là sự lam lũ nhếch nhác bao trùm. Có hôm Phong lên bờ đê hóng mát, nằm dài trên bãi cỏ xanh mà nhìn trời cao, thấy những cánh cò thấp thoáng bay về phía xa.

Một hôm, Phong đang ngồi trên đê thì thấy một đám xúm đông xúm đỏ. Ðến gần, thấy ông lão xẩm kéo nhị và đứa bé con đang hát. Phong lắng nghe, thấy lời lẽ mơ hồ nói về nhân, hiếu, lễ, nghĩa. Bên cạnh, có một anh ngồi nặn những con giống tò he xanh đỏ trên mẹt thúng với nắm bột nếp, nặn cả những anh hùng ngày xưa, vị nào cũng quắc thước. Phong thấy cô Chiêm đứng xem, gánh cỏ đằng sau, mắt long lanh sáng, đôi côi cắn chỉ nhay cọng đòng đòng, những giọt mồ hôi đọng ở hai bên thái dương.

Ði về, Lan hỏi Phong: "Ông sao buồn thế? Hay là tương tư con bé nào rồi?". Phong bảo: "Tôi thích con bé Chiêm quá". Cô Lan bảo:"Ðể tôi hỏi làm vợ bé cho ông. Con bé chịu khó. Tôi cũng mến nó". Phong bảo: "Tôi đội ơn bà". Cô Lan bảo: "Ơn huệ gì. Ông tuổi Dần, ông đã để ý đến ai thì trước sau gì ông chẳng ăn thịt người ta". Vài ngày saụ cô Lan cho mối đến nhà ông Mùa đánh tiếng. Ông Mùa sợ lắm. Cô Chiêm giãy nảy, dọa đi tự vẫn. Phong thấy không ổn, mắng rằng: "Thân lừa ưa nặng, ông hỏi han tử tế không xong thì cho cả họ nhà mày khốn nạn". Ông Mùa ra sức ép con, họ hàng xúm vào dỗ dành. Cuối cùng cô Chiêm phải chịu. Ðám cưới tổ chức linh đình, cô Chiêm đi về nhà chồng như người mất hồn. Vài năm sau cô Chiêm đẻ ra hai đứa con trai, đứa đầu đặt tên là Phạm Ngọc Phúc, đứa sau đặt tên là Phạm Ngọc Tâm.

Một thời gian dài, Phong ở Kẻ Noi, công việc ngoài phố giao cho Thiều Hoa và Ðiềm quản lý. Một hôm Thiều Hoa bảo Phong: "Có tay nhà thơ bán tập bản thảo hay hay, tôi định ghi tên cu/a ông rồi cho xuất bản". Phong trừng mắt bảo: "Nhảm nhí! Rõ chuyện đàn bà. Danh hiệu nhà thơ là thứ danh hiệu nỡm người bạc phúc. Thơ chỉ là thứ du dương bất lực. Khi nào nó cui hơn hớn thì chẳng ra gì". Thiều Hoa hỏi: "Thế tôi bảo nó chữa lại rồi ghi tên tôi được không?". Phong bảo: "Ðàn bà không có thơ đâu. Thơ là những tâm sự lớn. Ðàn bà thì tâm sự gì. Thơ phải cao cả. Mỗi tháng các bà hành kinh một lần thì cao cả gì". Thiều Hoa đỏ mặt. Chuyện này bỏ qua, không nói nữa.

Một hôm, trên tờ báo mà Phong hùn vốn có bức tranh vẽ một ông bị vợ cắm cái sừng hươu lên đầu, khách đi vào treo mũ lên đấy, khuôn mặt người này trông rất giống Phong. Phong xem báo, dò hỏi xem ai vẽ tranh. Nhân viên trong báo chối quanh, nói là không biết. Phong bựa mình, dọa đuổi cổ viên tri sự. Người này thú thật có kẻ đến đưa tranh cho in, hứa thưởng cho tiền. Phong hỏi: "Chuyện tôi mọc sừng có à?". Người này bảo: "Nghe phong phanh khi ông ở quê, cậu Ðiềm với bà Thiều Hoa thân mật lắm". Phong cười nhạt bảo: "Cám ơn ông. Ông về làm việc đi. Lần sau nhớ phải vì lợi ích của chủ. Không nhớ điều ấy thì đừng làm báo". Người này băn khoăn: "Tôi tưởng báo chí chỉ phụng sự tự do, bình đẳng, bác ái". Phong bảo: "Ông hay đùa nhỉ. Mời ông đi ra, tôi mà cáu lên thì ông ăn cứt".

Phong về nhà, vô cớ đập tan cái gương treo tường. Thiều Hoa hỏi: "Ông chán cái mặt ông à?". Phong không trả lời. Thiều Hoa bảo: "Ông mệt rồi, nên nghỉ đi". Phong bảo: "Mai tôi về quê".

Hôm sau trời mưa to, bong bóng nước nổi lềnh bềnh trước hiên nha. Phong ngồi gập chiếc thuyền giấy thả theo dòng nước. Bỗng đứng dậy, đòi đi về quê ngay giữa lúc mưa. Thiều Hoa và Ðiềm ngăn lại không được.

Phong lấy ô che đầu đi bộ ra đường. Một lúc ô ướt, nước thấm vào người. Phong tức mình vất cả ô đi. Càng ngày mưa càng to, Phong cứ đầu trần đi giữa lòng đường. Một chiếc xích lô đi ngang qua kêu "Úp, ếp!".

Phong quay lại, không gọi cổng mà lấy chìa khóa riêng mở cửa vào nhà. Thiều Hoa và Ðiềm đang nằm hú hí với nhau, thấy Phong về, mặt cắt không còn hạt máu.

Phong bắt Thiều Hoa ngồi rồi cũng ngồi vào ghế. Ðiềm run như rẽ, đứng ở trước mặt. Phong hỏi: "Hai người ngủ với nhau mấy lần rồi?:. Thiều Hoa bảo: "Thưa, sáu lần". Ðiềm bảo: "Một lần ở vườn hoa Bôn-bo là bảy". Thiều Hoa bảo: "Lần ấy vội vàng thì tính làm gì". Phong bảo: "Bảy lần hay bảy bảy lần? Thằng Ðiềm, tao nuôi dạy mày mà mày trả hiếu thế à? Mày quỳ xuống, liếm chân vợ tao với tao không thì mày chết".

Ðiềm quỳ xuống đất, Thiều Hoa rụt chân vào, liếc mắt thấy Phong trừng mắt lại đưa chân ra. Ðiềm đưa tay đỡ chân Thiều Hoa đưa lên ngang miệng rồi bò sang phía chân Phong. Phong đạp chiếc giầy bết bùn vào giữa mặt Ðiềm rồi bảo: "Cút đi".

Phong bảo Thiều Hoa: "Thằng hèn như thế mà đi hiến thân cho nó". Nói xong lên gác, nằm lăn ra, úp mặt vào gối mà khóc. Chiều hôm ấy sốt li bì. Thiều Hoa một lòng săn sóc Phong, ngày đêm tận tụy bên cạnh không lúc nào rời. Ðược nữa tháng thì Phong khỏe lại, trở nên ít nói, tính tình thay đổi, cư xử với mọi người hết sức lạnh lùng.

Sau đợt ốm, Phong thường ngồi nhà tư lự. Một hôm bà Vân bán hàng khô ở chợ Ðồng Xuân đến thăm, biếu Phong hai cân mứt sen với mấy lạng chè. Phong hỏi: "Chợ búa dạo này thế nào?". Bà Vân bảo: "Thời khó khăn, chúng em làm ăn cơ cực lắm". Phong bảo: " , tiền bạc không biết thương người có tâm". Bà Vân bảo: "Em muốn giật nóng ông bà món tiền, định liều buôn chuyến cành kiến, có người đặt hàng, nhưng em không có đủ tiền". Phong hỏi: "Bà vay bao nhiêu? Bao giờ trả?". Bà Vân bảo: "Vay một tháng, lãi mười phân". Phong bảo: "Dạo này tôi cũng cạn tiền. Thôi được". Rồi thở dài: "Tôi không thích phụ nữ lăn lộn kiếm sống. Phụ nữ phải lành lặn, sạch sẽ". Bà Vân bảo: "Ôi giời, em cũng biết thế, nhưng không lăn lộn thì lấy gì mà ăn. Ông mà cầm quyền thì bọn chúng em được nhờ". Phong bảo: "Chính trị rặt trò mờ ám, bỉ ổi". Bà Vân bảo: "Có bà Tôn Nữ Phương ở Huế ra chơi đang ở nhà em, bà Phương giỏi tướng số, bói toán, để em đưa đến xem hầu ông bà".

Hôm sau bà Vân đưa đến một bà già mặc áo dài màu mỡ gà, trên ngực áo có thêu hoa. Bà Vân bảo: "Ðây là bà Phương, người trong hoàng tộc". Phong gọi Thiều Hoa ra tiếp. Bà Phương bảo: "Xem cho ai trước?". Phong bảo: "Xem nhà tôi trước". Bà Phương ngắm nghía Thiều Hoa, bảo: "Bà vén tóc mai lên xem". Lại bảo: "Bà cho tôi xem tai phải". Lại bảo: "Bà đứng lên đi đi lại lại". Nhìn ngắm một lúc rồi nói: "Thưa bà, bà cốt cách sang quý, mông to, đầu nhỏ, đây là tướng bậc mệnh phụ phu nhân, từ bé đến lớn không vất vả gì, đi đâu cũng được mọi người yêu kính. Bà hai đời chồng. Miệng cười tươi thắm là chuyện thị phi có nhiều. Nhưng dù có tội vẫn được chồng tha. Trên trán có vệt u tối, nhân trung méo xệch, tháng này đại hạn, sợ rằng khó toàn tính mạng". Thiều Hoa giật mình, mặt tái đi, vội hỏi: "Liệu có cách nào giải hạn được không?". Bà Phương bảo: "Thiên cơ bí mật. Biết nói ra sao. Số đã thế nào. Phải ai nấy chịu".

Bà Phương bảo Phong: "Ông cho tôi xem tay trái". Lại bảo: "Ông đứng lên đi đi lại lại". Rồi bảo: "Ông là người cơ mưu, gian hùng, nhưng lòng rộng, trọng nghĩa khinh tài, cả đời không chịu thiếu thốn tiền nong, vinh hoa phú quý đủ cả. Cái gì ông cũng tinh tế. Ông là hổ vàng, người đời theo ông còn mệt. Tháng này ông cũng có hạn, xin ông giữ mình".

Phong gật đầu, cũng không hỏi thêm. Sau đó pha trà, chuyển sang nói về Kinh Dịch. Phong hỏi: "Dịch chủ bốc phệ. Ðiều ấy thế nào?" Bà Phương bảo: "Ðúng đấy. Nhưng xem Kinh Dịch thoát được thì hóa thành thần, không thoát thì hóa ma quỉ. Trong vạn người, có khi cũng không có thần, chỉ có ma quỉ". Phong thấy bà Phương nói năng lưu loát mới hỏi: "Hồi trước bà có học hành gì không?". Bà Phương bảo: "Cũng có học hành đôi chút. Sống ở kinh đô, người tài có nhiều, cũng có cái may, nhưng mà họa nhiều hơn". Phong gật đầu, giữ bà Phương lại ăn cơm, sau đó biếu một số tiền đi đường.

Thiều Hoa từ hôm ấy lo lắng, đứng ngồi không yên. Phong bảo: "Bói toán là trò nhảm nhí. Nghĩ ngợi làm gì". Thiều Hoa bảo: "Tôi sợ lắm. Tôi nghe tin lão Tân Dân mới ra tù. Lão ấy nham hiểm, xin ông cẩn thận". Phong hỏi: "Ai bảo Tân Dân ra tù?". Thiều Hoa bảo: "Ðêm qua tôi nằm mơ thấy lão Tân Dân về gọi thằng Hạnh. Lúc ấy nữa đêm, thấy lão Tân Dân đưa cho thằng Hạnh một thùng sắt tây qua phía hàng rào". Phong bảo: "Mọng mị vớ vẩn". Nói thế nhưng Phong cũng đi xuống nhà ngang, thấy thằng Hạnh đang ngồi trên ghế ngủ gật hệt như mọi ngày, cái đầu to tướng gục ở trước ngực, cái chân què vắt đằng sau, Phong yên tâm đi lên nhà.

Ðêm ấy, Phong đang ngủ say bỗng nghe tiếng kêu. Mở mắt thấy lửa lem lém. Phong đạp cửa, thấy cửa khóa chặt. Sợ quá, Phong phá cửa sổ lao ra, bỗng thấy có một bóng đen nhảy múa như con cào cào, tay cầm can xăng tưới khắp nơi. Nhận ra thằng Hạnh, Phong nhảy bổ đến đè ra bóp cổ. Lửa cháy dữ dội, rát bỏng cả người. Phong bóp chặt cổ thằng bé đến lúc thấy hai mắt nó lồi ra rồi mới buông tay. Phong đứng lên, trông thấy cả căn nhà hai tầng đang cháy bùng bùng. Phong ném xác thằng Hạnh vào lửa rồi chạy ra ngoài thì bị một vật nặng giáng vào đầu, ngã lăn ra, mê man không biết tí gì.

Nguyễn Huy Thiệp

Giọt máu

Chương 5(hết)

Chuyện lão Tân Dân ra tù, đốt nhà Phong để trả thù ầm ĩ cả lên. Nghe nói lão Tân Dân sau đó trốn sang Cao Miên. Thiều Hoa ở trên gác hai, không xuống được, bị chết thiêu. Phong bị bỏng sau lưng, phải nằm chữa bệnh, rất khổ sở.

Bấy giờ ở Kẻ Noi bà Cẩm đã chết. Cô Lan thấy Phong ít về quê nên thậm thụt đi lại với lão Trương cũng làm nghề bán thịt. Thấy Phong bị nạn, cô Lan cũng chẳng ra thăm, chỉ cho người mang tiền và quà ra. Về sau, nghe tin bệnh Phong nặng lắm, lão Trương ngang nhiên đi lại với cô Lan giữa ban ngày ban mặt. Ba mẹ con cô Chiêm sống dưới nhà ngang, không dám hé răng nói gì.

Một hôm có người bà con cũng họ Phạm ở Kẻ Noi đến thăm Phong. Người này bảo: "Họ Phạm thất lộc rồi. Bà Lan với lão Trương chiếm nhà, lão Trương đã cho dọn đồ đạc sang kê giữa gian tiền tế". Phong vùng dậy, khạc ra một bãi máu, bảo: "Tôi chưa chết đâu. Họ Phạm mất nhà thế nào được. Tôi còn thằng Tâm, thằng Phúc cơ mà".

Vài hôm sau, Phong gượng dậy bảo người dìu đến nhà một viên luật sư quen biết. Ông này du học về, rất thạo pháp luật. Phong vào thấy ông luật sư đang ngồi tiếp một bà trạc bốn mươi tuổi. Ông luật sư bảo: "Chào ông Phong. Ông ngồi xơi nước, chời tôi một lát". Phong gật đầu, ngồi nghe chuyện của ông luật sư với người đàn bà. Ðại để hai vợ chồng có đứa con trai mười hai tuổi, thằng bé rất hỗn, người vợ đánh con vô ý quật phải hòn dái thằng bé, thằng bé chết, người chồng vốn có tư tình với một bà khác, nhân thế kiện vợ giết con. Người vợ phân bua vô ý đả thương nên con chết, người chồng bác lại, muốn ghép vợ phải đi tù để ly dị, chia của cải. Người vợ bây giờ tìm đến luật sư giúp đ~.

Phong nghe chuyện, thấy ông luật sư trích dẫn sách vở, đại để như điều 216, 217 thì ngán ngẩm, đứng dậy về. Ông luật sư hỏi: "Sao ông lại về!". Phong bảo: "Tôi có cái nhà ở quê, mấy đứa khốn nạn định chiếm, muốn nhờ ông can thiệp". Ông luật sư bảo: "Ðược thôi, theo điều 318 . . .". Phong bảo: "Cám ơn ông. Chuyện này không có điều luật nào đâu. Tôi xử lấy thôi".

Chiều hôm ấy, Phong cho gọi một tên anh chị khét tiếng tên là Tước sẹo đến bảo: "Việc thế này . . . thế này . . . Bao nhiêu tiền?". Tước sẹo bảo: "Chúng tôi làm việc nghĩa, không mặc cả như bọn tầm thường". Phong bảo: "Tôi hiểu rồi. Ông cứ cầm tạm ít tiền cho tôi yên lòng. Không sao đâu. Tiền bạc là một việc, nghĩa cử là một việc, tôi nhầm lẫn thế nào được". Tước sẹo hài lòng ra về.

Ít bữa sau, lão Trương và cô Lan đang chuẩn bị dọn hàng ở chợ thì có một b.n người không biết ở đâu kéo đến gây sự. Lúc ấy đã chạng vạng tối. Bọn người kia xông vào đánh hai người, cô Lan chết ngay, còn lão Trương đưa về nhà ba hôm sau cũng chết. Khi nhà chức trách đến xem thì bọn người kia đã biến mất tăm.

Cuối năm ấy, Phong sức yếu nhiều, bèn lần lượt rút vốn buôn bán ở các nơi về.

Hai đứa con trai cô Chiêm cách nhau tám tuổi. Thằng Phúc lên mười, thằng Tâm lên hai. Phong có ý định cho Phúc đi học, bèn về nhà bàn với cô Chiêm.

Dịp ấy đầu hè, trời nóng như rang đến hơn chục ngày, bỗng mây vần vũ kéo đến, sấm chớp nhằng nhằng. Thằng Phúc lần đầu được đi xa nhà thích lắm, cứ sốt ruột hỏi: "Ðợi đến hết mưa thì đến bao giờ?". Cô Chiêm không muốn cho con đi học, nhưng sợ Phong, không dám nói. Thằng Phúc hỏi: "Thế tôi đi học ở luôn ngoài Hà Nội à?". Phong bảo: " , tao gửi mày cho ông bạn tao là giáo sư văn chương nuôi dạy". Thằng Phúc đứng lên, đi khắp các phòng một lượt, lên cả nhà thờ, xuống bếp như muốn ghi nhớ tất cả những gì dính líu đến kỷ niệm ấu thơ của nó. Sau đó, nó ngồi ở cửa, mắt nhìn lên trời, ngóng mưa.

Từ phía đằng đông, mây đen kéo đến ùn ùn. Không có tí ti gió nào. Một vài hạt mưa rất to lộp độp rơi xuống mái ngói. Cô Chiêm đang xếp quần áo cho Phúc vào cái hòm gỗ trong nhà. Phong ngồi ở trên sập gụ quạt cho thằng Tâm ngủ. Thằng Phúc reo lên "Mưa đá". Reo xong nó chạy ra ngoài sân. Bỗng lòe một cái, rồi một tiếng sét long trời lở đất vang lên. Khói ở ngoài sân bốc lên một đụn đen ngòm khét lẹt. Cô Chiêm và Phong ngã lăn ra, mái ngói xô ầm ầm.

Lát sau, Phong tỉnh lại, tê dại cả người, thấy cô Chiêm đang gào khóc bên xác thằng Phúc giữa sân. Mưa như trút, nhưng mùi khét lẹt vẫn nồng nặc. Thằng Phúc nằm cong queo, người như bị rút hết nước, đầu nó trọc lốc, khô xém. Một mảng sân gạch Bát Tràng nát vụn.

Phong ốm liệt giường sau khi thằng Phúc bị sét đánh chết. Phong không ăn uống, người sốt rất cao. Ðang nằm, Phong mơ thấy mình lạc vào địa ngục. Một cái vạc to lửa cháy bùng bùng, những con quỷ dạ xoa mặt đen tóc dài đang chụm củi đun. Trong vạc, những người bị xích xiền rên la thảm thiết. Phong thấy một người bảo: "Ta là Phạm Ngọc Liên đây". Lại thấy một người bảo: "Ta là Phạm Ngọc Gia đây". Lại thấy một người bảo: "Ta là Phạm Ngọc Chiểu đây". Lại thấy mấy người đàn bà bảo: "Ta là Diêu đây, là Lan đây, là Thiều Hoa đây". Phong giật mình dậy, thấy những người trong giấc mơ rất giống những người mình vẫn thường gặp, tựa như ông Liên thì giống ông chủ sự dây thép, ông Gia giống ông luật sư, ông Chiểu giống ông bán báo, cô Lan giống cô bán gạo, Thiều Hoa giống cô bán đường.

Cô Chiêm bế thằng tâm ngồi cạnh giường Phong. Phong bảo: "Mình ơi, thằng Tâm là giọt máu cuối cùng của họ Phạm đấy. Chỉ mong giọt máu này đỏ chứ không đen như ông cha nó ". Nói xong thì nấc mấy cái rồi đi. Bấy giờ là giờ Dậu, ngày 13 tháng Ba năm Canh Thìn (1940).

Bấy giờ ai đến Kẻ Noi, huyện Từ Liêm vẫn thấy ngôi từ đường của dòng họ Phạm. Nó cứ trơ trơ trước mọi biến động cuộc đời, thời gian có làm cho nó cũ kỹ, mục nát, hư hỏng đi vài bộ phận nhưng về cơ bản không thay đổi. Nghe nói về sau cô Chiêm ở vậy nuôi Tâm, hai mẹ con chỉ trồng rau, nuôi lợn, làm đậu phụ bán. Tâm lớn lên, tự học, đọc nhiều sách vở, nhưng không thi cử hoặc đi làm gì.

Bà Chiêm mất năm ngoái, tức là năm Bính Dần (1986), thọ chín mươi tuổi. Mộ bà Chiêm để ở cánh đồng Cổ Cò, mộ hướng về phía sông Hồng, nơi có một cây gạo cổ thụ đơn độc. Dưới gốc cây, có ba đống mối đứng chụm vào nhau hơi giống ba ông đầu rau. ™ đấy, vào mùa nước, người ta đồn Hà Bá với các quân tướng ba ba thuồng luồng vẫn lên tụ họp đánh chén, đom đóm thắp đèn sáng rực thâu đêm, ếch kêu ồm ộp lẫn trong tiếng nhạc nghe như tiếng người nức nở.

Nguyễn Huy Thiệp

( trích "Tướng về hưu" -- NXB Trẻ 1988)

Lời cuối: Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.

Nguồn:

http://vnthuquan.net

Phát hành:

Nguyễn Kim Vỹ

.

Nguồn: Hùng

Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên

vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003

Nguyễn Đình Bổn

Độc huyền

Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động

Nguồn: http://vnthuquan.net/

Tạo ebook: Nguyễn Kim Vỹ.

MỤC LỤC

Độc huyền

Nguyễn Đình Bổn

Độc huyền

Làm thân con gái đừng nghe đàn bầu.

(Ca dao).

Ven bờ một dòng sông lớn thuộc ngoại ô thành phố nọ, có một xã cù lao. Dân ở đây phần lớn sống bằng nghề chài lưới, giăng câu và một số canh tác trên những khoảng đất hẹp. Về phía cuối cù lao dân cư thưa thớt, chỉ có dăm bảy nóc nhà nhưng trong ấy có một gia đình khá nổi tiếng. Họ không nổi tiếng về sự giàu có, dân cù lao chẳng mấy ai giàu, mà nổi tiếng vì chủ gia đình vốn là một danh cầm từng theo đàn cho những gánh hát lớn. Nhưng không biết vì sao người nghệ sĩ ấy bỏ gánh hát, ôm cây đàn độc huyền trở về quê. Người thì đồn anh ta thất tình một cô đào thương vốn là nhân tình của bầu gánh, kẻ lại bảo chỉ đơn giản vì chán làm cánh chim lang bạt nên anh ta ôm đàn về quê cưới vợ. Không biết ai đúng, chỉ thấy anh ta cưới vợ thật và sinh được một đứa con trai. Đêm đêm, khi xóm cù lao ngủ sớm, những người làm nghề câu thường nghe vẳng tiếng độc huyền ai oán, nhức nhối mà đầy ma lực từ phía căn nhà ấy vọng ra lan khắp trên mặt sông như một lời nỉ non tiếc nuối về một thuở xa xôi...

Năm tháng dần trôi qua, đứa bé lớn lên như mọi đứa trẻ bình thường khác nhưng lại được người cha mang dòng máu nghệ sỹ dạy đàn rất sớm. Nhưng rồi đứa bé sớm mồ côi mẹ còn cha thì lâm vào cảnh nghiện ngập và cũng mất đi khi nó tròn mười sáu tuổi. Không nghề nghiệp, gia sản chỉ là một mảnh vườn nhỏ và cây đàn một dây, cậu bé đành về sống nương nhờ bên ngoại. Nhưng ông bà ngoại thì quá già còn cậu mợ thì hất hủi nên chỉ được vài năm cậu bé, giờ đã ra dáng thanh niên, đành trở về căn nhà xiêu vẹo của mình, xin học nghề câu ở một ông lão tốt bụng và đêm đêm lại đem đàn ra gảy những khúc bi ai.

Xóm làng đông đúc lên dần, chàng trai cũng trưởng thành nhanh chóng. Rồi cái nòi tình lại xui chàng đem lòng yêu một cô gái duyên dáng, xinh đẹp nhất vùng mà ngày ngày vẫn đi ngang nhà chàng để ra bến đò qua chợ. Đáng buồn thay nàng là con nhà khá giả nhất cù lao trong khi chàng chỉ có túp lều rách với một cây độc huyền. Mà người ta ai còn cần đến cây đàn cổ xưa này nữa? Đám thanh niên trạc tuổi chàng chỉ biết chơi ghi ta và chê tiếng đàn một dây ai oán, không thích hợp với những giai điệu mới. Thậm chí có một vài người có uy thế trong vùng còn hăm dọa sẽ đem ném cây đàn xuống sông vì họ cho rằng tiếng đàn ấy cũng như tiếng tiêu, tiếng sáo sẽ đem lại điều xui xẻo cho cả địa phương!

Trái tim chàng trai sớm mang dòng máu tài hoa như bị bóp nát mỗi khi chàng nhớ về người mà chàng yêu thầm nhớ vụng. Cô gái vẫn vô tình, thậm chí có hôm cô đi cùng với mấy chàng trai hoạt bát, hào phóng và họ thản nhiên đùa giỡn khi đi ngang qua căn nhà lá bé nhỏ đang chứa đựng một linh hồn run rẩy vì tuyệt vọng.

Nhưng dù ôm mối tuyệt tình chàng cũng phải ra đi hàng đêm cùng đi với những chiếc cần câu. Chàng chỉ có một công việc ấy để kiếm sống. Và khuya về, những khuya mùa khô gió bấc non se sẻ thổi, không thể nào ngủ được chàng lại đem đàn ra gảy. Tiếng đàn lại càng tha thiết, bi thương hơn bao giờ hết. Dưới ánh trăng, những tán lá trong vườn cũng run lên bần bật vì những sợi tơ âm thanh như đang cuốn lấy chúng mà dày vò. Những người đi giăng lưới khuya chép miệng: “Thằng nhỏ giống ông già nó. Rồi cũng khổ một đời!”.

Nhưng họ đã lầm. Chính tiếng đàn ấy đã đem đến cho chàng trai những đêm tuyệt diệu trong cơn hoan lạc ái tình. Một đêm kia, khi vầng trăng non sắp lặn, chàng đang chìm đắm trong một khúc nhạc do chính cha chàng sáng tác và truyền lại thì bỗng sững sờ, bàn tay trên cần phím quắp lại cứng đờ và miệng lắp bắp mãi không nói được một câu. Đứng kề bên chàng, không biết tự bao giờ là người mà chàng hằng mơ tưởng, hằng khát khao.

-Sao anh không đàn nữa?

-Tôi... tôi...

-Em hiểu những gì mà anh gởi gắm qua tiếng độc huyền này. Em đến với anh đây!

Cô gái bạo dạn lạ lùng. Thế nhưng chàng trai bất ngờ đến suýt vỡ tim thì không còn chỗ cho lý trí làm việc. Lúc ấy chàng chỉ thiếu điều quỳ xuống ôm lấy chân nàng mà thôi.

-Đàn nữa đi anh! Em thích nghe lắm! Cô gái nhắc, giọng nói thánh thót như một chuỗi nốt nhạc. 

Nhưng với bàn tay run rẩy chàng không còn làm chủ được cả âm thanh lẫn giai điệu nữa. Cô gái cười khúc khích:

-Chắc tại em đến làm anh không đàn được. Thôi em về đây! Cô dợm bước nhưng chàng trai đã nhanh hơn. Họ ngã vào nhau và mê đắm ngay từ phút đầu. Trăng lặn, cây đàn không lên tiếng nữa...

Gần sáng, cô gái vuốt lại tóc, sửa lại quần áo rồi bảo:

- Em dặn anh điều này và anh phải nhớ cho thật kỹ. Cha em không thích anh nên nếu mà ban ngày có gặp nhau ta cũng nên xử sự như hai người xa lạ. Anh nhớ nghen. Rồi em sẽ đến từng đêm!

Chàng đồng ý ngay. Tất cả mọi chuyện quá đột ngột và còn hơn cả trong mơ. Khi nàng đã nhanh nhẹn và uyển chuyển khuất sau con đường nhỏ đã bắt đầu mờ mờ sáng chàng nâng cây đàn lên môi và hôn thắm thiết. Nhờ nó mà chàng đã chinh phục được người mình say mê. Giờ đây chính cây đàn cũng nhuốm một mùi hương ngây ngất.

Cứ vậy, sau khi chàng đi câu về, ngồi đánh một hai bản nhạc là nàng đến. Họ lại đắm đuối như mọi cặp tình nhân mới bắt đầu hưởng vị trái cấm. Nhiều lúc chàng mê man không còn nhớ về bất cứ chuyện gì. Đang sức trai mới lớn nhưng chàng cũng gầy đi vì những đêm hoan lạc còn những người giăng lưới khuya thì kháo nhau: “Quái! Độ rày tiếng đàn thằng nhỏ nghe lạ lùng quá. Hình như là âm u hơn. May mà nó đã ít đi!”.

Gần một năm trôi qua. Mọi chuyện vẫn bình thường đến nỗi không một ai để ý hoặc tò mò gì. Vào buổi sáng, cô gái duyên dáng nhất vùng ấy vẫn đi ngang qua nhà chàng để đến bến đò qua chợ. Đôi khi chạm mặt nhau họ làm ngơ như đã giao ước từ ngày đầu. Nhưng một đêm nàng bảo:

-Vài hôm nữa sẽ có người đến cưới em nhưng mong anh đừng buồn. Em đã lo liệu hết rồi! 

Cả cù lao như sụp xuống đáy sông sâu sau câu nói ấy. Chàng nắm lấy vai nàng lắc mạnh:

-Cưới em? Tại sao em lại bỏ anh?

-Anh! Nàng đáp buồn – Ba em đã hứa gả và bắt buộc phải nghe lời. Nhưng từng đêm em vẫn đến mà. Anh đừng lo!

-Làm sao mà em đến được nếu như em lấy chồng? Chồng em rồi sẽ biết và anh sẽ mất em!

-Em đã lo xong hết rồi! Sẽ không ai biết!

   Nàng đáp với một nụ cười bí ẩn và quyến rũ nhất. Và chàng lại mê man chìm vào đôi gò ngực rắn chắc mà bồng bềnh như sóng cù lao.

  Mấy hôm sau thì đám cưới thật. Đó là cái đám cưới lớn nhất cù lao từ trước đến nay. Nhà trai ở bên kia sông tức là bên thành phố. Cô dâu cười rồi lại khóc nức nở khi con đò rước dâu rời khỏi bến nhưng mọi người chứng kiến đều thấy rõ đó là những dòng lệ chứa chan hạnh phúc!

   Thế nhưng kỳ lạ làm sao, đêm ấy, nghĩa là ngay trong đêm động phòng hoa chúc, khi mà chàng trai ôm đàn gảy những khúc tuyệt vọng thì lá cây lay động ở đầu ngõ rồi nàng hiện ra. Vẫn nóng bỏng, vẫn mềm mại, vẫn ngát thơm...

   Họ lại đắm chìm trong cơn hoan lạc. Và gần sáng, nàng lại vuốt lại mái tóc, sửa quần áo ra về. Và cứ như thế từng đêm...

   Bây giờ chàng không đủ sức để đi câu đêm nữa. Chàng chỉ có thể quanh quẩn nơi bến sông trước nhà dùng chài và lưới mành bắt những con cá nhép sống đắp đổi và đợi chờ đêm đến. Chỉ có màn đêm mới đem lại hạnh phúc cho chàng dù càng ngày chàng càng cảm nhận được rằng đó là một hạnh phúc đầy ắp phù du.

   Thành phố bên kia ngày một đông đúc, chật chội. Rồi chính quyền thành phố công bố một bản quy hoạch mới theo đó xã cù lao sẽ thành một khu dân cư cao cấp dành cho người giàu đến an dưỡng và những nhà cao tầng sẽ xây lên cho người nước ngoài thuê. Người ta làm móng để đúc một chiếc cầu lớn qua sông, nối cù lao và nội thành. Đất trở nên đắt như vàng. Mọi dân cư ở đây đều xôn xao bởi bỗng chốc họ trở thành giàu có tột cùng. Người ta bỏ làm vườn, bỏ nghề câu để bàn về việc bán đất và xây nhà, sắm xe. Chỉ có chàng trai hạnh phúc và bất hạnh kia thì vẫn thờ ơ với mọi biến cố. Thế nhưng một đêm kia nàng đến với khuôn mặt u buồn nhất và bảo:

-Em đến để vĩnh biệt anh!

-Vĩnh biệt? Chàng bàng hoàn.

-Phải. Chúng ta không thể gần nhau được nữa. Em phải đi xa vì bị trục xuất!

-Ai trục xuất em? Em không thể đi! Không thể bỏ anh. Anh sẽ chết vì thiếu em!

   Nàng lại hôn và lại vuốt ve chàng bằng đôi môi nóng bỏng và thành thạo. Thời gian đi rất nhanh. Mới đó mà đã qua đêm...

  - Nghe em dặn đây – Khi từ giã nàng nói: - Và anh đừng bao giờ cãi lời em nếu không thì sẽ là tai họa. Từ đây, nếu có bao giờ gặp lại em thì anh hãy nhớ, bất kỳ trong hoàn cảnh nào, trong thời gian nào đôi ta vẫn là người xa lạ!

   Chàng gật đầu. Mấy năm sau chàng đã quen không cãi nàng dù chỉ nửa lời. Nhưng nước mắt chàng rơi lã chã. Họ chia tay nhau như vậy.

Sáng hôm sau chàng nhìn thấy từng đoàn nhân công xây dựng kéo qua nhà mình. Cây cầu lớn đã hoàn thành. Giờ họ đến đây san nền chuẩn bị xây một tòa nhà lớn trên mảnh đất cách nhà chàng vài trăm mét. Cả ngày hôm ấy họ đào làm móng nhà và phát hiện ra vô số xương nhưng bên dưới. Thì ra đó là một nghĩa địa cũ chắc đã bị bỏ quên từ bao nhiêu năm. Những xương đào lên ấy được bỏ chung vào một cái quách lớn và đem đốt đi theo lệnh những chủ thầu xây dựng.

Đêm ấy tiếng đàn như một lời rên. Những công nhân nằm cạnh ngôi nhà ấy rùng mình ngỡ như có tiếng thở thanh của những linh hồn trong khu nghĩa trang vừa phát hiện đang hiện về ám ảnh. Nhưng nửa đêm tiếng dây đàn đứt “phựt” rồi im bặt!

   Đất cù lao, giờ nhộn nhịp như nội thành và vẫn tiếp tục lên giá đến khó tin. Cái nền nhà và mảnh vườn nhỏ của chàng nếu bán cũng có thể nuôi chàng cả đời. Nhưng chàng không bán, đêm đêm vẫn ngồi chơi đàn trong nỗi chờ đợi tuyệt vọng và tiếng đàn càng ngày càng làm người ta nổi da gà vì mức độ truyền cảm đầy u uất.

Một hôm có một thương gia trẻ đến tìm chàng và trả giá một trăm lượng vàng cho tất cả số đất mà chàng sở hữu. Còn đang kỳ kèo thì vợ người thương gia ấy bước vào. Chàng trai ngây ra và bừng tỉnh. Chàng xông lại ôm cứng lấy người thiếu phụ trong tiếng kêu mê sảng. Đó chính là nàng. Người tình mê đắm vẫn đến hàng đêm. Hai vợ chồng người thương gia trẻ vừa hốt hoảng vừa giận dữ. Cô vợ kêu thét lên và anh chồng xông vào. Khi mọi nhưng xúm lại thì chàng câu cá – chơi đàn đã ngất xỉu vì bị đánh mạnh vào đầu.

-Hắn khùng rồi! Thôi anh chị chấp trách làm gì!

-Chính cây đàn độc huyền này đã hại hắn! Cây đàn như có ma. Phải ném bỏ nó đi!

   Họ đem cây đàn vứt xuống sông. Chàng trai vẫn bằn bặt. Trong cơn mê, chàng thấy nàng hiện ra, vẻ mặt thương cảm:

-Em đã dặn anh rồi! Cô ấy không phải là em. Em chỉ là một linh hồn sống trong nghĩa trang kế bên. Vì yêu tiếng đàn và hiểu anh đang ôm mối tuyệt tình nên mới hiện lên giao duyên bằng hình ảnh ấy. Giờ thì họ đã phá vỡ, đã đốt bỏ nơi trú ngụ của em rồi và em phải ra đi. Hãy quên em!

    Nàng xa dần rồi tan ra như một làm sương.

Người ta cạo gió, giật tóc mai, đổ gừng nóng vào miệng và chàng dần hồi tỉnh. Sau đó vài hôm chàng kêu bán mảnh đất của mình và bỏ đi biệt tăm. Cù lao nhanh chóng thành một nơi sầm uất với phố xá và xe cộ ken dầy. Vợ chồng người thương gia trẻ dọn về đó ở. Họ xây lên một căn nhà đẹp và mở một tiệm cà phê sang trọng. Ở đó họ đặt một dàn máy hát karaokê hiện đại. Và giờ đây hàng ngày có rất nhiều thanh niên nam nữ dắt tay nhau vào vừa hát vừa gào:

“Không, tôi không còn, tôi không còn yêu anh nữa! Không...”

Mấy ai còn nhớ tiếng độc huyền xưa?

9.91.

NĐB 

Lời cuối: Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.

Nguồn:

http://vnthuquan.net

Phát hành:

Nguyễn Kim Vỹ

.

Sưu tầm: khatranac

Nguồn: my.opera.com/nguyendinhbon/blog/

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 16 tháng 5 năm 2007

Người Kể Chuyện Ma phỏng dịch

Hồn ma lỡ độ đường

Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động

Nguồn: http://vnthuquan.net/

Tạo ebook: Nguyễn Kim Vỹ.

MỤC LỤC

Hồn ma lỡ độ đường

Người Kể Chuyện Ma phỏng dịch

Hồn ma lỡ độ đường

     Thông lộ Nữu Ước là một con đường hầu như lúc nào cũng đông đảo, nhưng vào một buổi tối mùa hè năm 1971, thông lộ này lại tự nhiên vắng vẻ một cách bất thường. Trên con đường mênh mông vắng lặng chỉ có ngọn đèn pha rực sáng trên chiếc xe tám máy của Peter xuyên thủng màn đêm khiến Peter có cảm tưởng như đang vượt qua một khoảng không gian của một thế giới vô cùng xa lạ. Betty, vợ Peter, dường như cũng đồng tư tưởng với chồng: - Lạ nhỉ! Lúc này tuy trễ thật nhưng sao mình không thấy một chiếc xe nào sau cả hàng chục cây số thế nhỉ? Cảnh tượng thật là ma quái! Chỉ có hai đứa mình với con đường vắng ngắt và đêm tối mịt mù!

Peter đồng ý:

- Ừ, lạ thật! Thông lộ này là một trong những con đường đông đảo nhất thế giới mà sao đêm nay lại vắng như bãi tha ma thế này! Có xe cộ chạy qua chạy lại còn tỉnh táo chứ đường xá vắng tanh vắng ngắt không có một con ma nào như thế này thì thật là buồn ngủ!

Nghe nói câu "không có một con ma nào", Betty chợt rùng mình liếc nhìn chồng. Thấy Peter vẫn chăm chú vào việc lái xe, Betty không nói gì.

Tuy nhiên chỉ mấy phút sau họ không còn cô đơn nữa. Một bóng trắng đột nhiên xuất hiện bên bờ đường phía trước, một tay giơ cao.

Peter lẩm bẩm trước khi đạp thắng:

- Trông giống như mấy tay hippie choai choai phải không em?

Xe ngừng lại, Peter thò đầu ra cửa sổ:

- Sao ông bạn, muốn quá giang hả?

Bóng trắng, một thanh niên lững thững rời chỗ đứng tiến về phiá chiếc xe.

Vừa theo dõi chàng trai, Betty vừa thầm nghĩ: "Chà, coi bộ cũng bô giai ra phết! Đi dâu mà lang thang lếch thếch một mình giữa xa lộ mênh mông vào giờ này thế này!"

Chàng trai khoảng 18, 19, mặt mày sáng sủa trong chiếc quần jean trắng tinh và chiếc chemise trắng rộng phùng phình. Râu và tóc của chàng rất lợt gần như màu trắng.

Peter với tay mở cửa sau:

- Phóng lên đi ông bạn!

Chàng trai gật đầu mỉm cười bước lên xe. Betty nhận thấy thanh niên tự động cột giây nịt an toàn mà không cần nhắc. Peter hỏi:

- Sao, ông bạn muốn đi đâu?

Chàng trai đáp:

- Dạ, đường của ông cũng là đường của tôi. Tụi mình du hành trên cùng một vương quốc mà.

Betty nghĩ thầm "À! Mình dám nhặt được một đệ tử của Chúa Jesus không chừng", nhưng ngoài miệng lại nói với chàng trai:

- Nếu tôi nhớ không lầm thì chỉ một đoạn đường nữa là chúng ta sẽ tới một xóm nhà ở gần Buffalo. Cậu muốn tới đó phải không?

Chàng trai mỉm cười:

- Dạ, chỗ đó hay chỗ nào cũng vậy. Đối với tôi bốn bể là nhà. Nếu chúng ta tin ở Thượng Đế thì chỗ nào cũng là quê hương, chỗ nào cũng là nhà cả.

Hai vợ chồng Peter chợt có cùng ý nghĩ rằng chàng thanh niên lạ mặt này, tuy ăn mặc bảnh bao nói năng từ tốn, có thể là một kẻ tâm trí bất bình thường. Peter xiết nhẹ tay vợ trấn an; không còn bao lâu nữa họ sẽ tới Buffalo và Peter sẽ cho người khách lạ xuống xe.

Betty cũng bóp tay chồng thông cảm đồng thời nghĩ rằng cách tốt nhất là tìm cách gợi chuyện với chàng trai xem ý nghĩ của mình có đúng không, cho tới khi tới Buffalo.

Xe chạy được một đoạn ngắn, chợt nghĩ được một đề tài, Betty mỉm cười quay lại nhìn chàng trai toan lên tiếng, nhưng... ghế sau hoàn toàn trống trơn, chàng trai lạ đã biến mất!

Hốt hoảng Betty la lên:

- Ngưng lại, ngưng lại! Cậu ta đâu mất rồi? Hay bị té ra ngoài rồi?

Peter đạp thắng thật gấp. Bánh xe rít trên mặt đường. Trên xa lộ vắng lặng, Peter trở đầu xe cho ánh đèn quét một vòng tròn thật rộng. Không hề có một người nào trên đường!

Quan sát phía sau, Peter nói với vợ:

- Cậu ta không thể nào té ra ngoài được. Em coi nè, cửa còn khoá bên trong hẳn hòi.

Nhìn xuống ghế, con tim Peter chợt như chùng đi một nhịp, giọng nói nhẹ như hơi thở:

- Em... em coi nè, giây nịt an toàn vẫn còn cài chặt.

Betty bắt đầu nức nở:

- Nhưng cậu ta đâu rồi? Chắc cậu ta bị té thật rồi.

Trước tiếng khóc của vợ, Peter không còn cách nào khác hơn là lái ngược trở lại đoạn đường vừa đi qua, khoảng chừng mười lăm cây số.

Trên thông lộ vẫn không một ánh đèn.

Peter để đèn pha rực sáng, chạy chầm chậm. Thỉnh thoảng chàng ngừng xe, bước xuống, dùng ngọn đèn pin cực mạnh rọi quanh hai bên lề đường tìm kiếm. Không một dấu vết nào của chàng trai lạ mặt!

Khoảng hơn nửa tiếng đồng hồ, sau khi đi ngược tới tận chỗ chàng trai chờ xin quá giang mà cuộc tìm kiếm vẫn hoàn toàn vô hiệu, hai vợ chồng Peter không biết làm gì hơn là quay đầu xe chạy về Buffalo. Vừa đi, Peter vừa nói với vợ:

- Không thể được! Cậu ta không thể té ra ngoài được. Em thấy đó, chốt cửa vẫn khoá chặt, giây nịt an toàn vẫn cài nguyên! Mà dù cậu ta có phóng ra khỏi xe đi nữa, thì... để làm gì? Không hề có một cái xe thứ nhì nào trên đường thì làm sao cậu ta xin quá giang được? Nhưng ... không ai điên khùng gì mà làm như vậy. Đã đi với mình rồi, cậu ta còn cần gì xin quá giang ai nữa! Nhất là không ai lại nhẩy xuống xe như vậy!

Betty vẫn sụt sùi:

- Em không biết, nhưng em có cảm tưởng... em có linh tính thì đúng hơn, là cậu ta có thể gặp nguy hiểm.

Peter bất đồng ý kiến:

- Không làm gì có chuyện đó. Nếu cậu ta mở cửa phóng ra, chắc chắn anh hoặc em hoặc cả hai đứa phải nghe tiếng cửa mở, và cả tiếng cửa đóng nữa. Không có! Mà như anh đã nói, chốt cửa còn cài nguyên thì làm sao cửa bung ra được! Hơn nữa, cả cái khóa giây nịt an toàn vẫn còn nguyên, chứng tỏ rằng cậu ta không hề rời khỏi ghế... Ừm! Hay cậu ta là... ma không chừng!

Nghe chồng nói, Betty đột nhiên rùng mình, toàn thân nổi gai ốc, nhớ lại câu nói lúc trước của chồng.

Không nghe vợ trả lời, Peter cảm thấy cần phải thố lộ câu chuyện khó hiểu này với một người thứ ba.

Tới trạm thâu tiền gần Buffalo, Peter nói với nhân viên phụ trách:

- Có thể chúng tôi đã đánh rơi một người xin quá giang. Một thanh niên bận đồ trắng, râu dài, tóc dài giống như dân hippiẹ Không biết cậu ta nhẩy ra khỏi xe hay bị té ra ngoài mà chúng tôi không hề hay biết. Chúng tôi không biết phải làm gì bây giờ!

Trước sự kinh ngạc của hai vợ chồng Peter, người thâu tiền mỉm cười:

- Xin ông đừng thắc mắc tới chuyện đó. Trong ngày hôm nay, ông là người thứ ba thông báo với tôi về việc này. Có khi, trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ, chúng tôi nhận được hơn một chục báo cáo tương tự. Trong khi hai vợ chồng Peter há hốc mồm nhìn ông ta không hiểu ông muốn nói gì thì người thâu tiền giải thích:

- Chắc ông bà mới đi trên đoạn đường này lần đầu phải không? Ông bà vừa cho Con Ma trên thông lộ Nữu Ước quá giang. Tôi nói đứng đắn chứ không phải nói đùa đâu. ở đây việc này xẩy ra hàng bữa. Con ma này luôn luôn bận đồ trắng. Quần jean trắng và chemise trắng phải không?

Peter gật đầu. Người thâu tiền hỏi tiếp:

- Cả râu tóc của nó cũng trắng phải không? Peter lại gật đầu.

Bằng một giọng bình thản, người thâu tiền nói thêm một chi tiết mà ông được báo cáo quá nhiều tới độ thuộc lòng:

- Nó luôn luôn lên ngồi phía sau xe, cài giây nịt an toàn cẩn thận trước khi biến mất. Và giây nịt vẫn còn cài chặt.

Betty hỏi với giọng run run:

- Ông muốn nói là chúng tôi vừa cho một hồn ma quá giang?

Người thâu tiền nhún vai:

- Ai biết? Có người cho rằng đó là một thiên thần rảnh rỗi không có việc gì làm trên thượng giới, bèn xuống dưới này chọc ghẹo nhân gian. Người khác thì nói rằng có thể đó là một kẻ từ dĩa bay nhẩy xuống. Tuy nhiên hầu hết cho rằng đó là hồn ma của một người chết trên xa lộ, không biết vì lý do gì, và thường hiện lên xin quá giang.

Chúng tôi chỉ biết một điều là không phải ngày nào hồn ma này cũng hiện lên. Từ sau cuộc gặp gỡ này, Peter và Betty đã nhiều lần chạy xe trên thông lộ Nữu Ước nhưng không bao giờ gặp lại hồn ma trên, trong khi những người lái xe khác thỉnh thoảng vẫn gặp, và điều đáng nói là những người gặp chàng trai trẻ bận bộ đồ trắng xin quá giang là những người không hề biết gì về câu chuyện của hồn ma bị lỡ độ đường.

Những hồ sơ về sự xuất hiện của hồn ma hippie đã được tiến sĩ Lydia M.Fish thuộc viện đại học tiểu bang tại Buffalo, Nữu Ước, đặc trách nghiên cứu. Những báo cáo về việc gặp gỡ hồn ma vừa nói cũng được Phòng Kiểm Soát Tin Đồn của Buffalo thâu thập và phân tích.

Trong khi đó thì Peter và Betty lại có một giả thuyết khác về người khách bí mật của họ. Betty cho biết:

- Chúng tôi nghĩ rằng khi còn sống có lẽ anh ta là một kẻ bỏ nhà đi hoang. Có thể anh ta từ trần trong lúc đang xin quá giang để về với gia đình. Có lẽ vì quá thương nhớ gia đình, hồn anh ta không siêu thoát được nên vẫn tiếp tục xin quá giang để tìm về nhà. Có lẽ chỉ khi nào thực sự về tới nhà, gặp lại những người thân thì hồn anh mới có thể siêu thoát.

Người ta không biết giả thuyết này có đúng hay không mà chỉ biết một điều là lúc sau này hồn ma của thanh niên bận đồ trắng không còn xuất hiện trên thông lộ Nữu Ước nữa.

Không biết có phải vì chàng trai mệnh yểu này đã tìm được về nhà rồi, hay vì lúc sau này xe cộ quá đông đảo, đèn đóm sáng trưng khiến hồn ma không dám hiện lên nữa?

Hy vọng giả thuyết đầu là đúng.

Lời cuối: Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.

Nguồn:

http://vnthuquan.net

Phát hành:

Nguyễn Kim Vỹ

.

Nguồn: http://www.vn.net

Được bạn: Thanh Vân đưa lên

vào ngày: 17 tháng 11 năm 2010

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro