truyện ma ngắn P2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Căn Nhà Trên Đường An Địa

Âm Ly là một thị xã nhỏ, khuất nẻo mà một du khách bình thường sẽ không bao giờ để ý đến. Vài năm trước đây còn có con lộ chánh chạy ngang qua, nhưng bây giờ một xa lộ bốn "lanes" đã được xây thêm cho xe chạy với vận tốc nhanh hơn. Con lộ cũ trở nên hoang vắng, hầu như không còn xe nào lui tới con đường nhỏ có tấm bảng phai nhạt vì sương gió đề tên "Lối rẽ vào thị xã Âm Ly".

Ông bạn Huỳnh Hắc mà tôi quen biết vì cùng là hội viên của một câu lạc bộ, đã giới thiệu với tôi về cái địa danh này. Ông ta sau khi chộp được một "cú áp phe" lớn tại thị trường chứng khoán Wall Street mấy năm trước, trở thành giầu có, dư giả tiền bạc nên đã quyết định về hưu non, sống một cuộc đời nhàn tản. Lúc đó tôi còn là một nhà văn vô danh nghèo kiết xác so với ông bạn họ Huỳnh, nhưng không hiểu vì lý do đặc biệt nào đó ông ta tỏ vẻ rất ưa thích và muốn kết thân với tôi.

Chúng tôi thường gặp nhau trong các buổi ăn chiều, đôi lúc ngồi nhâm nhi uống rượu đánh cờ và tán dóc với nhau. Một hôm trong câu chuyện tôi nói về ý định muốn đi nghỉ hè mà không biết đi đâu, ông Huỳnh nêu ý kiến bảo tôi nên đến thị xã Âm Ly thử xem sao. Ông nói một cách lơ đãng, như không để ý đến điều mình nói cho lắm:

-- Âm Ly thật ra cũng chẳng có gì đặc biệt cả, tẻ nữa là đằng khác. Nếu ông muốn đi nghỉ hè ở xa thì chỗ này không thích hợp mấy vì nó chỉ cách đây trên 40 dặm nhưng thật yên tĩnh và thanh bình. Tìm chỗ trọ không khó. Nếu ông không để ý phiền hà thì có thể nhập bọn với tôi trong khi chờ đợi đi tìm chỗ trọ. Tôi có một căn nhà nhỏ ở đó. Hơi chật một tí, nhưng cũng có phòng dành riêng cho khách. Ông và tôi có thể ở tạm trong thời gian chờ ông tìm được chỗ vừa ý.

Hai tuần sau, tôi lái xe theo con đường cũ hoang sơ, quẹo vào nơi có tấm bảng đề chữ "Lối rẽ vào thị xã Âm Ly", đi thêm vài dặm nữa thì đến một tỉnh lỵ nhỏ kiểu như một tỉnh miền Tân Anh Cát Lợi, xinh xắn và mơ màng như cô gái còn trong cơn ngái ngủ. Thị xã này đã may mắn tránh khỏi cái nạn bị đám người "nghỉ hè hằng niên" thường rất ồn ào đến quấy nhiễu.

Cái "căn nhà nhỏ chật chội" của ông Huỳnh thật ra là một căn nhà kiểu Georgian tuyệt đẹp, có cổng vào xây bằng cột kiểu Doric.

Khoảng một giờ sau tôi đã tắm rửa sạch sẽ,ra ngồi với chủ nhân ở sân sau ngó xuốn vườn kiểu Anh-Cát-Lợi có rào che kín chung quanh.

Tôi ngồi xuống, yên vị trong cái ghế bành êm ái, nhâm nhi ly rượu mạnh pha soda. Chỉ một lúc sau cái cảm giác êm đềm dễ chịu từ từ lan ra khắp cơ thể, xâm chiếm từng tế bào trong da thịt, tôi cảm thấy muốn buông xuôi mọi ý chí năng động, thả mình hưởng thụ cái nhàn hạ này. Tôi thấy không còn cần phải đi đâu xa nữa, không cần phải kiếm chỗ trọ nào khác và không còn có ý định vùi đầu vào viết như đã định trước nữa.

Ông Huỳnh như đoán biết cái tâm ý của tôi, bèn nói:

-- Tôi nghĩ rằng, nếu ông chịu được chật chội thì không cần phải đi đâu nữa. Cứ ở đây. Tôi có một bà giúp việc mỗi ngày đến lo cơm nước buổi sáng và buổi trưa, còn buổi chiều thì chúng ta dùng bữa tại quán Hắc Sư. Quán này tuy là nhà hàng duy nhất ở Âm Ly nhưng làm đồ ăn khá lắm.

Tôi thật cảm động trước tấm thạnh tình của ông, vì dù nằm mơ đi nữa tôi cũng không dám nghĩ đến việc ông có thể chấp nhận một việc nhiều phiền hà như vậy. Nhưng một lần nữa như biết được ý nghĩ của tôi, ông nói một cách quả quyết làm tôi yên tâm:

-- Không có gì phiền hà đâu. Trái lại chính ông là người sẽ giúp tôi đấy chứ. Bây giờ tôi chẳng có gì phải lo nghĩ cả, lúc nào cũng dư thì giờ, thành ra cuộc sống đôi lúc cũng không có gì thú vị lắm. Ông ở đây thì tuyệt, chúng ta có thể ngồi đánh với nhau vài ván cờ thật hứng thú mà không phải lo canh đồng hồ!

Rót thêm rượu vào ly cho tôi, ông tiếp:

-- Lẽ dĩ nhiên lúc nào ông muốn ngồi vào bàn viết thì xin cứ tùy nghi. Tôi là người rất tôn trọng nghề văn.

Thế là xong. Tôi hiểu ông sẽ tổn thương tự ái nếu tôi bàn thêm về vấn đề tiền bạc trả cho việc ăn ở này. Tôi nghĩ ra một cách là khi đến ăn tại quán Hắc Sư tôi sẽ dành trả tiền để bù vào đó.

Mùa hè qua thật êm đềm. Thường ngày tôi ngồi viết vài giờ đồng hồ vào buổi sáng sớm và dạo quanh tỉnh vào buổi chiều. Tới giờ, về tắm rửa, ngồi uống một vài ly rượu khai vị, tán gẫu với ông Huỳnh trước khi đi ăn chiều tại quán Hắc Sư.

Sau bữa ăn trưa, tôi thường lang thang đi dạo dọc theo những đường phố nhỏ đầy tàng cây bóng mát của thị xã Âm Ly. Ở đây, cái cảnh sắc an bình, cái không khí trong lành, cái cảm giác bền vững toát ra từ những ngôi nhà cổ lâu đời làm tôi thấy như đang sống đắm mình trong một thế giới mộng ảo nào khác.

Việc viết lách của tôi cũng tiến triển đúng theo chương trình đã ấn định. Da thịt tôi trở nên hồng hào, và tôi thường thắng nhiều hơn trước trong những bàn cờ đánh với ông Huỳnh. May mắn cho tôi, ông ta là người có tinh thần thể thao, tuy thua nhưng không bao giờ nổi tánh xấu. Sự tiến bộ trong các nước cờ tướng của tôi được ông coi như một thách thức mới đầy thú vị, và tôi nhận thấy cả hai chúng tôi đều đạt kỹ thuật cao hơn xưa. Đến bây giờ nghĩ lại, tôi vẫn còn cảm thấy cái thích thú khi nhớ tới những ván cờ sôi nổi kỳ phùng địch thủ này.

Một buổi trưa trời gắt nắng, đang lang thang đi dưới hàng cây rợp bóng mát, tôi bỗng chú ý đến một tấm bảng ghi: Đường An Địa. Cái tên đường là lạ khêu gợi lòng hiếu kỳ của tôi#. Tôi quẹo vào. Con đường này hoàn toàn không giống các đường khác tại Âm Ly. Dọc theo hai bên đường toàn là những ngôi nhà cổ thật yên tĩnh,chung quanh có vườn cây rợp mát với hai hàng cây cổ thụ cành lá xum xê. Con đường vắng lặng, không một bóng người qua lại. Đi gần đến cuối đường, mới thấy đó là một con đường cụt, muốn về, tôi phải quay trở ngược lại. Tôi đi tới cuối đường, băng ngang qua lề bên kia để đi trở về. Đó là lần đầu tiên tôi để ý đến ngôi nhà ở cuối đường. Bề ngoài trông cũng bình thường, chỉ là một ngôi nhà gạch hai tầng, nhưng điều khác là chung quanh nhà mọc lan tràn những loài thảo mộc đủ loại lớn nhỏ, hình dáng ngoại lai xa lạ, không thấy có dấu hiệu được một bàn tay nào chăm sóc cả.

Tôi đặc biệt chú ý đến một loại cây leo trường xuân có cành giây lớn bao phủ gần như toàn diện mặt tiền ngôi nhà, lấp cả cửa sổ . Tất cả như bị phủ kín, chỉ thấy được cửa ra vào. Tôi biết nhiều giống cây leo nhưng chưa bao giờ bao giờ lại thấy có cây leo to như vậy. Lá cây xanh tốt, phản chiếu ánh nắng mặt trời rọi xuống xuyên qua kẽ lá, ánh lên mầu tim tím.

Ngay lúc đứng ngắm nghía cái cây leo bất thường này, tôi chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đầu tóc bạc trắng, từ bên trong khung cửa sổ ở trên lầu đang đưa mắt nhìn ra ngoài. Khung cửa sổ cũng bị dây leo che khuất, trong tích tắc khi tôi nhìn lại, thì khuôn mặt ấy đã biến đâu mất không để một dấu vết nào cả. Tôi bỏ về và đi ngược trở lại ngược theo đường An Địa ra trung tâm Âm Ly.

Buổi chiều vào giờ uống rượu khai vị , tôi nhắc đến chuyện trên thì được ông Huỳnh cho biết:

-- Đó là căn nhà của ông Phạm Minh, một nhà thảo mộc học có tiếng. Ông ta thường đi du hành khắp thế giới mang về các loại cây hiếm. Ông ta có một khu vườn cho khách thăm viếng, nhưng mấy năm gần đây ông bị bịnh và bây giờ như ở ẩn vậy. Ít người gặp ông ta. Ông đóng cửa ở trong nhà để kệ cây cối mọc tùm lum. Tiếc thật.

Ông Huỳnh ngừng nói, nhấp một ngụm martini, một lúc sau như để đắn đo rồi mới tiếp:

-- Ông ấy có họ xa với tôi, cho tôi giữ chìa khóa để vào nhà đó nữa. Nhưng tôi không hề nghĩ đến việc dùng nó. Tôi thích được để yên nên tôi cũng trọng sự riêng tư của người khác.

-- Ông nói đúng, tôi bàn góp, nhưng ông có nghĩ rằng ông ấy đã bỏ bê nhà cửa một cách quá đáng không? Căn nhà này chả mấy chốc sẽ biến mất trong đám rừng cây leo.

Ông Huỳnh nhún vai:

-- Tôi chủ trương là ai cũng có cái quyền điên khùng theo ý riêng của mình, miễn là đừng đụng đến quyền của người khác. Nếu me-sừ Minh muốn sống trong cái rừng của ông ta thì đó là quyền của ông ta.

Tôi biết ý, không đề cập đến vấn đề này nữa, nhưng cứ một hoặc hai ngày tôi lại thấy mình đi lơ vơ về hướng đường An Địa, tôi cũng nghĩ rằng có lẽ cái ông Phạm Minh già đáng thương kia đang nguyền rủa sự phá quấy của tôi, như ruồi thấy mật bu lại, làm phiền rộn ông. Nhưng căn nhà kỳ bí đầy cây phủ kia có hấp lực lôi cuốn tôi như nam châm hút sắt vậy.

Mùa hè nóng bức năm ấy không làm cho cây leo giảm cường độ mọc mạnh thêm. Loại cây leo trường xuân thường kỵ nắng, nhưng vì căn nhà luôn được bóng mát của hai hàng cây du to lớn trồng hai bên đường, nên cây leo này không phải chịu nắng rọi trực tiếp. Các lá cây năm nhánh ngày càng rậm ra, che kín cửa sổ, nên sau lần đầu, tôi chỉ thấy cái bóng đầu bạc trắng một hai lần nữa mà thôi. Tôi rất thích thú theo dõi cây cối thảo mộc tăng trưởng, tôi càng kỳ thú hơn khi thấy một người tự cho phép để mặc cho cây cỏ mọc tự do che khuất nơi mình ở.

Mùa hè đã trôi qua, Ông Huỳnh càng trở nên khó tính hơn, tôi thấy hình như có cái gì làm bận tâm ông. Một đôi lúc tôi bắt gặp ông bẳn gắt và tài nghệ chơi cờ của ông xuống dốc thấy rõ. Cuối cùng một hôm ngồi uống rượu mùi với tôi, ông lại đề cập đến vấn đề:

-- Phiền nhiễu quá sức, ông biết không, tôi hơi lo cho ông Minh này. Mấy người giao hàng chưa gặp ông ấy cả tuần nay rồi. Thơ từ chất cả đống bên ngoài.

Rồi quay sang phía tôi ông hỏi:

-- Ông có dịp đi ngang đường An Địa lúc gần đây không?

Tôi biết rõ là ông cũng biết tôi thường đi xuống phía đó, nên trả lời:

-- Cứ vài ngày là tôi thả bộ ngang. Cửa sổ bị cây leo phủ kín mít, và tôi không thấy bên trong có động tĩnh gì.

Tôi nhấp một hơi rượu rồi tiếp:

-- Lẽ dĩ nhiên là không ai có thể thấy gì trong đó được. Cửa sổ với đám giây leo mọc một cách tham lam che phủ kín mít như vậy thì dù cho bên trong có tiệc tùng đông đảo cả trăm người đi nữa thì bên ngoài cũng chẳng có ai biết đâu.

-- Chữ ông dùng lạ nhỉ.

-- Chữ nào?

-- Chữ tham lam ấy mà.

Ông ngừng ở đó, một lúc sau với tay lấy thêm rượu rót vào ly cho tôi rồi nói:

-- Tôi nghĩ tôi phải làm một cái gì đây.

Tôi gật đầu đồng ý:

-- Tôi cũng nghĩ thế, tôi biết cái ý tưởng xâm phạm đời tư người khác ông không ưa tý nào, nhưng nếu chỉ đến coi ông lão có làm sao không thì có gì là tai hại đâu.

Ông Huỳnh ngả người sau ra miệng ầm ừ:

Vậy thì ngày mai Ông và tôi đến đó,tôi sẽ gọi cửa, nếu không ai trả lời thì tôi sẽ dùng đến cái chìa khóa mà tôi có đây.

Ngày hôm sau, trời vẫn nóng nực như cũ. Sau bữa ăn trưa nhẹ, chúng tôi kéo nhau đến nhà ông Phạm Minh trên đường An Địa.

Mới một ngày qua đi mà tôi có cảm tưởng những lá mầu xanh tím to lớn đã mọc dài thêm ra. Chúng bò tràn lan khắp nơi. Leo theo máng xối, bò lên nóc. Các rễ nhỏ bám chặt vào ống máng, dính vào vách tường gạch, chui vào khung cửa sổ. Cả căn nhà như được gói trong cái bọc dây leo dầy cộm.

Ông Huỳnh nhấn chuông nhưng không ai trả lời. Sau khi đợi mươi phút, ông rút chiếc chìa khóa ra, miệng lầm bầm:

-- Ông biết đấy, tôi không ưa làm như thế này chút nào.

Chiếc cửa kêu lên răng rắc khi bị đẩy vào. Rễ cây leo đã luồn qua khe cửa bít chặt ngay cả các khe nhỏ giữa khung cửa và cánh cửa.

Lối vào xông lên một mùi ẩm mốc rêu phong. Ông Huỳnh gọi lớn: "Minh ơi!". rồi lại tiếp tục gọi sau mỗi lần chờ trả lời, nhưng vẫn im lìm. Ông Huỳnh đưa tay đóng cánh cửa chính lại, bỏ chìa khóa vào túi quần ông bảo:

-- Có lẽ mình phải lên lầu thôi.

Tôi theo sau ông Huỳnh đi lên cầu thang. Một mùi hôi nồng nặc xông lên.Đến tầng trên, ông Huỳnh ngó quanh quất, có vẻ như người lạc đường:

-- Mấy năm rồi chưa đặt chân đến đây. Quên mất cái phòng mà ông Minh ở rồi.

Sau cùng ông chọn căn phòng cuối phía bên phải, nằm ngó ra đường. Ông ta gõ cửa, nhưng vẫn không có ai trả lời. Ông đập cửa đùng đùng kêu lớn tiếng: "Minh! Huỳnh Hắc đây". Im lặng.

Ông vặn nắm cửa, cửa khóa: "Phải phá cửa ra, chứ tôi không có chìa khóa các phòng này!". Sau một phút ngần ngại, ông lùi ra sau lấy trớn, dùng cái vai khổng lồ húc vào cánh cửa. Cánh cửa mở bung ra sau tiếng gỗ và kim khí gẫy bể. Chúng tôi bước vào trong căn phòng nửa sáng nửa tối, không ai thốt lên được lời nào.

Trong đám mầu xanh lục, mờ mờ tranh tối tranh sáng là hình thù một người lọt thỏn trong cái ghế bành cách cửa sổ khoảng một thước tây. Cái hình thù này bị lá cây leo năm cánh khổng lồ bao trùm lấy chỉ thấy lờ mờ cái hình người. Khoảng một phút hay hơn nữa, tôi như bị mọc rễ đứng cứng đơ tại chỗ vì khiếp đảm, cái hình thù đó cũng không nhúc nhích. Rồi tôi thấy nó cử động. Nó đứng lên với một tiếng rít nhỏ thoát ra từ miệng nó.

Các lá cây leo mầu tím xanh giống như mầu da thịt lập tức hướng về phía chúng tôi như bị nam châm hút. Rồi cái hình thù ấy rơi trở lại ghế ngồi, nhưng cái tiếng rít lanh lảnh, không giống tiếng người kia vẫn phát ra không ngừng. Các lá cây leo tiếp tục lao xao. Có thể do đầu óc tôi tưởng tượng, nhưng tôi có cái cảm giác thật rõ rệt là nhánh cây leo rời khỏi ghế, bò xuống dưới sàn, và bắt đầu trườn về phía chúng tôi.

Ông Huỳnh chợt htỉnh, lấy tay xô tôi về phía cửa và hét lên:

-- Đi ra nhanh lên! Chạy ra cửa mau!

Tôi đâm bổ ra cầu thang, ông Huỳnh chạy sát theo sau. Kỳ lạ là ngay trong tình cảnh này, tôi chợt thấy đây không phải là con người ông Huỳnh tôi thường biết, hay nghĩ rằng mình đã biết. Khi ra tới ngoài rồi, tôi quay lại bảo ông:

-- Trời đất ơi, ông Huỳnh ! Ông sắp làm cái quái quỉ gì thế?

-- Rồi ông sẽ thấy.

Tôi đi theo ông vòng ra sau nhà, chật vật với đám lá cây rậm rạp. Ông Huỳnh vừa đi vừa chửi thề, khua tay chân vạch đám lá cây mở đường đi tới một căn nhà nhỏ chứa đồ gì đó . Căn nhà nhỏ bé này cũng bị cây phủ kín chung quanh trông như một hang động. Ông Huỳnh mở cửa lách vào trong. Tôi đứng chờ, ngạt thở trong đám cây cỏ dầy đặc. Một lát sau ông Huỳnh trở ra trong tay cầm cái rìu nặng, tuy lưỡi đã rỉ sét nhưng cái cán trông còn chắc lắm. Chúng tôi vạch đám lá cây trở ra phía trước . Tôi có cảm tưởng như cái đám cây leo xum xê ấy phủ chùm lên chúng tôi. Đến khi trở lại trước cửa nhà, tôi mới hiểu ý của ông Huỳnh. Ông len vào trong, xục xạo tìm cho ra cái thân chính của cây leo. Tôi biết là vô lý nhưng có cảm tưởng cái cây leo như biết được ý đồ của ông Huỳnh. Những lá cây leo to bản như những cái quạt phất vào mặt ông ta. Tôi nhìn thấy rõ ràng một hoặc hai nhánh giây vươn ra cuốn chặt vào vai áo ông Huỳnh. Lập tức ông vung rìu lê chém mạnh vào thân cây. Tôi thấy ông giật bắn người lên, bước lùi ra sau,ông ngó chừng chừng vào cái thân cây bị chém sâu qúa nửa.Chùi mồ hôi đọng trên mắt, tôi nhìn chăm chú hơn vào thân cây. Một giòng chất lỏng đỏ thẫm như máu ứa ra từ thân cây leo Ông Huỳnh tiếp tục vung rìu lên chém tới tấp không ngừng tay.

***

Ở Âm Ly, ông Huỳnh là người quen biết nhiều nên đã dàn xếp tránh hết báo chí phỏng vấn, nhà chức trách , điều tra phiền nhiễu. Chỉ có một mẩu tin ngắn thông báo về cái chết của ông Phạm Minh vì bệnh tim. Đám ma cũng rất đơn giản, chỉ có ít thân nhân tham dự, và nắp quan tài được đóng kín. Ông Huỳnh là người thừa kế gia tài, ông đã thuê người chặt hết cây cỏ quanh nhà cho sạch tận gốc.

Mãi về sau, khi gặp lại tôi tại hội quán, ông Huỳnh mới trở lại đề tài:

-- Ông biết không, mẫu các loại trường xuân khổng lồ đó đã được gửi tới các phòng thí nghiệm thảo mộc học khắp nơi trong nước, nhưng không chỗ nào biết rõ xuất xứ! Có lẽ Phạm Minh đã lấy được nó từ chỗ rừng sâu nước độc nào đó không ai biết. Trông nó giống loại trường xuân bình thường Hedera canariensis, nhưng lại có những cái khác biệt rùng rợn mà chúng ta đã được chứng kiến. Nhánh rễ giây leo chui qua các khe cửa sổ phòng ông Minh. Tôi chỉ đoán vì không biết rõ thứ tự những gì đã xẩy ra. Có lẽ ông ta bị lên cơn đau tim bất thình lình, ngồi sụm ngay vào chiếc ghế bành gần đó, rồi ngồi luôn không đứng dậy được nữa. Cây trường xuân khi len vào trong nhà đã bò về phía ông Minh ngồi và những nhánh giây leo đã bám vào người ông, các rễ giây leo nhỏ như sợi tóc bắt đầu len vào da thịt ông. Lúc đó ông vẫn còn sống,chắc là phải đau đớn lắm.

Ông Huỳnh ngừng nói rót rượu vào ly, nhấm nháp một tý rồi nói tiếp:

-- Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng sự đau đớn này cũng không kéo dài lâu. Ngay cả những cái chính mắt mình nhìn thấy cũng có thể bị sai lầm đi nữa. Lúc chúng ta bước vào thì ông Phạm Minh đã chết rồi.

Tôi lên tiếng phản đối:

-- Nhưng tôi thấy rõ ràng là ông ta đứng dậy từ chiếc ghế bành mà.

Ông Huỳnh nhíu mày lại vẻ mặt không đồng ý:

-- Vâng, tôi có thấy. Nhưng... đúng đấy... ông phải hiểu đó là một loại cộng sinh. Nói khác đi, trên phương diện y học thì Phạm Minh đã chết khi chúng ta đến nơi. Các rễ cây trường xuân đã bò vào tới trong não bộ ông ta, kích thích các giây thần kinh, làm giây thần kinh như sống lại. Nói khác đi, ông ta như một xác chết biết đi, bị điều khiển từ bên ngoài.

Tôi lắc đầu chưa chịu thua:

-- Khó tin những điều ông đang giải thích. Thế còn tiếng kêu rít lên đó ... thì sao?

Ông Huỳnh gật đầu chấp nhận sự kiện tôi nêu ra:

-- Tôi biết. Nhưng ngay cả điều này cũng có thể giải thích được. Cuộc giảo nghiệm tử thi cho thấy các nhánh rễ nhỏ như sợi tóc đã ăn vào tới óc ông ta và có thể kích thích trung tâm phát âm ở đó, mặc dù ông ta đã chết rồi.

--Thế còn cái chất lỏng đỏ như máu ứa ra từ rễ cây?

Ông Huỳnh nhăn mặt :

-- Biết thế nào ông cũng nêu câu hỏi đó. Chúng tôi đã nhờ phòng thí nghiệm phân tích. Vâng, đó là máu, có một phần máu người trong đó.

Tôi biết không thể tiếp tục bàn cãi thêm được nữa. Ông Huỳnh, theo tôi nhận xét, đã kết thúc đề tài này sau câu giải thích vừa rồi.

Tới bây giờ, mỗi lần đến nhà một người quen nào có giây trường xuân leo trên bờ tường,tôi tức khắc thúc chủ nhân phải nhổ bỏ đi. Có lẽ tôi vẫn còn bị ám ảnh về chuyện này quá nhiều. Một số người quen biết đã coi tôi là một người có đầu óc bỡn cợt bất bình thường.

***

Truyện này được chuyển ngữ từ truyện The House on Stillcroft Street của Joseph Payne Brennan trong tập truyện Mad Scientists - An Anthology of Fantasy and Horror do Stuart David Schiff chọn lựa. Joseph P. Brennan là một tác giả mới nhưng rất xuất sắc trong lãnh vực viết truyện kỳ bí. Truyện của ông thật đơn giản nhưng cũng thật lạnh xương sống. Không giống với cách cấu kết của các truyện cùng thời, truyện này viết về những loài thảo mộc, trong đó cỏ cây trò chuyện với người chứ không phải ngừơi nói với cây cỏ.

Căn nhà bỏ hoang

"Anh thấy đấy - nàng vui vẻ nói - đi xem xét việc làm ăn mà đưa em theo cũng có lý. Em mang lại cái hên cho anh, từ lúc khởi hành đến giờ chưa hề bị một trục trặc gì". Khởi từ Normandie nơi họ đã gặp nhiều người bán hàng trong vùng cho hãng, hai người dừng lại ở Chartres, ăn trưa ở Grand Monarque và bây giờ lái xe thẳng theo hướng nam, trực chỉ Châteaudun.

Nhưng câu nói lạc quan mà người vợ trẻ bảo chồng hình như đã làm thay đổi hẳn diễn tiến công việc. Chiếc xe đang khó khăn leo lên cái dốc khá dài, lúc người vợ nhận xét vậy bỗng chạy chậm lại hẳn. Động cơ hực lên vài tiếng rồi dừng. Họ còn đi được thêm hai chục mét trước khi nép xe vào vệ đường.

"Này, anh chồng nói - từ rày về sau thì coi chừng cái miệng mồm đấy". Rồi anh nhìn vợ bằng vẻ mệt mỏi chán nản trông khôi hài đến nỗi cô vợ phá ra cười. Sự vui tươi của người vợ khiến anh chồng cũng phải cười theo. Tình thế có vẻ khôi hài hơn là nghiêm trọng. Dẫu sao anh cũng thử sửa chiếc xe thật nhanh bằng cách mở nắp máy lên. Sau khi rị mọ vài ba thứ anh kêu lên: "Đề máy đi". Người vợ làm theo nhưng không kết quả. Anh chồng lại bắt đầu rờ rẫm, lại kêu nổ máy để đi đến kết luận rằng xăng không được bơm lên và anh chẳng thiết mở tung mớ đồ lạc xoong này, cần phải tìm thợ máy ở xa, phía dưới. Người vợ đứng lên, nhẹ nhàng ngoái đầu lại phía sau, hướng người chồng đã chỉ, nhận ra ngôi làng cách khoảng bảy tám trăm mét mà họ vừa vượt qua không để ý.

Được thôi, nàng sẽ ở lại đây nhưng xin anh đừng để nàng đợi buồn nẫu ra hàng giờ. Nàng quay đầu lại lần nữa để nhìn người chồng đi xa dần. Đầu trần, anh đi giữa lộ những bước dài đăm chiêu bằng cái dáng hay lắc lư vai quen thuộc làm nàng cảm động, chiếc áo khoác thể thao mở tung phập phồng. Nàng quyết định phải bình thản chờ đợi mọi sự diễn tiến.

Mui xe mở ra khiến nàng có thể quan sát được khung cảnh, khắp nơi là những cánh đồng vàng, vì là người thành thị nên nàng không thể phân loại được đất này trồng gì, vả lại mùa xuân cũng chưa cho phép trồng trọt nhiều thứ được. Tuy nhiên nàng cũng nhìn thấy từ xa một nhóm cây nhỏ phủ đầy hoa trắng hay hồng gì đó. Gần chiếc xe, bên vệ đường có một cái nhà tồi tàn với vẻ ngoài không có gì đáng chú ý như bị bỏ hoang.

Người đàn bà trẻ tuổi duỗi chân chìm sâu hơn vào trong ghế như muốn tìm thế nằm thuận lợi cho giấc ngủ. Nàng ngả đầu ra sau để tựa lên lưng ghế, nhưng chiếc mũ, một loại mũ bằng da để đi xa, sạch sẽ và không trang hoàng, lại làm nàng bị cấn. Nhanh nhẹn lột mũ ra, nàng ném nó qua vai vào băng ghế sau. Thế là nàng có thể buông thả gáy mình và cảm thấy qua mái tóc nắng đã đủ thì giờ làm nệm ghế nóng lên. Mơ hồ, bất động, phơi hoàn toàn trong ánh sáng, nàng để mặc cho sức nóng lấn chiếm làn da, thâm nhập vào mình như một thứ đồng cảm với thiên nhiên bao quanh, với khoảng trời bao la mắt nàng ngước nhìn đang âm ấm ve vuốt mặt đất.

Vậy là phải có một sự cố buồn nản mới ép nàng biết đến bầu trời. Chiều sâu khác thường của không trung được nhấn mạnh thêm bởi những đám mây nhỏ hiếm hoi bay uể oải giống như những cây táo hay lê gì đó sủi bọt tăm cũng đang bồng bềnh trên vườn quả xa xa.

Người vợ nghe từ sau lưng tiếng động cơ. Một chiếc xe dáng vẻ đặc biệt vượt qua xe nàng và dừng lại một cách khó hiểu cách nàng vài mét. Khi thấy Georges và người thợ mặc đồ xanh bước xuống, nàng mới nhớ ra rằng hai vợ chồng đã bị hỏng xe và tự hỏi không biết mình có ngủ thiếp đi không. Giọng nói to của người chồng đưa nàng về thực tại trọn vẹn: "Em thấy tụi này cũng đến nhanh đấy chứ!". Cùng lúc đó anh thợ máy mỉm cười với người đàn bà xinh đẹp mà anh vừa đến để giúp qua khỏi cơn rắc rối. Nàng nhỏm dậy và kéo nhanh chiếc váy che đầu gối.

Hai người đàn ông im lặng đắm mình xem xét động cơ. Rồi họ nói chuyện máy móc, rút ra nhiều dụng cụ từ bộ quần áo thợ máy đặt vào chỗ trũng vè bánh xe như những vật chứng tích trước tòa án và lần lượt thử từng cái mà không đạt kết quả cụ thể nào. Có thể bộ phận bơm xăng đã bị hư, phải thay cái đĩa nhỏ. Kết luận như vậy, người thợ máy muốn kéo xe về chỗ xưởng sửa chữa. Mở cuộn dây cáp bằng thép ra để cột vào phía trước chiếc xe hỏng, anh ta bảo người chồng rằng chỉ cần thắng nhè nhẹ lúc xuống dốc một lúc, sau đó chiếc xe sẽ tự trôi một mình. Trong khi anh ta đang chuẩn bị, Georges nhảy qua hố lại gần căn nhà bỏ hoang để đọc hàng chữ trên tấm bảng đá gắn vào tường. Khi trở lại ngồi vào tay lái, anh lơ đãng nói rằng trước kia ở đây đã từng có một trận đánh.

Một lát sau khi họ đã sửa soạn để trở lại làng và việc móc xe đã tiến hành trôi chảy, người chồng nói: "Cái anh chàng này có vẻ không được sáng dạ lắm, không biết có sửa được không. Dẫu sao anh cũng có cảm tưởng rằng chúng mình sẽ phải kiên nhẫn dừng ở đây một lúc lâu trong cái làng vớ vẩn này" - "Miễn là cơn đau cổ họng của thằng Rico con mình không trầm trọng lắm..." - nàng thầm thì, dù việc cơn đau chẳng liên quan gì đến vụ hỏng xe. Nàng cũng không phải loại người dễ mất hồn. Tuy nhiên khi có việc gì xảy ra trái với dự tính, nàng lại nghĩ ngay đến con cái.

Để xe vào gara rồi hai vợ chồng quyết định vào quán cà phê đợi. Những dãy nhà trải dài hai bên con lộ không hợp thành một làng. Trông giống như thị trấn nhỏ ở xa Chartres hơn, với những mái nhà thấp, rải rác đó đây một cửa kính nhợt nhạt không màu sắc bán đồ tạp hóa vùng quê. Hai đứa trẻ chạy đuổi bắt nhau. Có tiếng đập đều đặn trên kim loại trong xưởng kế cận. Hai người bước vào quán cà phê gần nhất. Lúc ấy đã là giờ nghỉ ngơi. Quán vắng tanh. Một con mèo đang ngủ trên quầy. Khắc sau ông chủ mới xuất hiện, lê bước chân như nỗi tiếc nuối. Hai người gọi bất cứ thức uống gì để lấy cớ cho sự hiện diện trong quán.

Trong khi ông chủ đưa nước ra, người vợ móc hộp phấn trong túi, loáng thoáng trang điểm lại. Hơi đau đớn, nàng tê dại người đi như có ai trùm lấy mình trong lớp bông dày và những tiếng động chỉ vang vọng đến yếu ớt. Có thể là nỗi mệt mỏi vì chuyến du hành. Hay đúng hơn, sự dừng lại đột ngột giữa đường đã làm nảy sinh ra hai nàng Hélène, một bị bọc trong bông đến nỗi không đủ can đảm đến nếm ly nước trước mặt, và một nhẹ nhàng sống động, đủ nhẹ nhõm để nói những câu như: "Tôi khỏe mạnh và có ba đứa con xinh xắn, một người chồng tốt bụng có địa vị vững chắc..." và đẩy sự giễu cợt đến độ lang thang đến đây trên con lộ chan hòa ánh nắng.

Nhưng cả hai nàng Hélène đều hòa tan và nhập làm một quá nhanh bởi giọng nói lớn của Georges, to đến nỗi nàng phải vặn bớt chiếc máy thu thanh ông chủ vặn lên từ lúc nãy. Ông chủ thanh thản trả lời tất cả mọi câu hỏi, người chồng quan tâm đến đủ mọi thứ. Không những anh chỉ muốn biết về dân số, nguồn lợi của khu vực, công việc làm ăn mà sự tò mò của anh còn lan đến cả cái lọc cà phê chứa được bao nhiêu, con mèo đực hay cái. Anh muốn kiểm chứng tất cả những điều bàn đến. Mối cảm tình với quán làm anh xoay quanh bàn bia tìm kiếm những thứ đồ vật mới anh có thể rờ mó, thích thú hồi lâu với máy đánh bạc bằng những đồng xu.

Tuy vậy anh cũng không xao lãng vợ, đến bên nàng nhiều lần để hỏi sao có vẻ xa vắng thế, mệt không. Nàng bảo rằng bóng tối và mùi cà phê làm nàng khó chịu, muốn lên đường sớm. Anh quyết định đi xem chiếc xe đã sửa tới đâu rồi và nhanh chóng trở lại, mặt tươi tắn, thông báo sắp xong rồi và họ có thể đến gara. Người chồng lạc quan quá sớm bởi họ phải đợi thêm nửa giờ mới đi được.

"Anh chàng này tính tiền cũng đúng lắm không đắt đâu" - anh nói khi rồ máy, chiếc xe vượt nhanh chóng những dãy nhà, tức thời đã lên dốc và nàng tưởng nó sẽ cũng chẳng khó khăn gì khi leo qua. Nhưng tới nửa chừng, ngay cái chỗ họ bị chết máy lần đầu trước căn nhà bỏ hoang, động cơ yếu rồi dừng lại. Georges giận dữ. Cái gã thợ máy này là một tên đần độn anh đã nhận ra ngay từ cái nhìn đầu tiên, ngu xuẩn và không đủ khả năng. Hắn đã mất một tiếng để sửa cái bơm xăng để rồi kết quả lại về nguyên trạng. Trước hết hắn đã lầm. Không phải bộ phận bơm xăng. Bất cứ người thợ rành nghề nào cũng phải thấy ngay chuyện đó. Xe chết máy vì chỗ khác, nhưng ở đâu? Anh chồng lại đi xuống dốc. Sau khi trút cơn giận vào thợ máy, anh lại đổ bực bội lên chiếc xe anh đang cau có nhìn. Nó có cái gì ở trong bụng, cái của khỉ này? Cúi nhìn dưới nắp máy xe lần nữa anh cũng chẳng tìm được giải pháp nào thỏa đáng. Đây chỉ là chiếc xe bán phế thải, thế thôi, nó ẩn chứa cái tật nào đó khiến không thể lên dốc được, cứ như thế này lần nữa thì chỉ cho nó một mồi lửa hay ném nó vào gốc cây.

Anh chồng đứng lên cạnh vợ và cô nàng tự hỏi không biết anh ta có tìm cách hướng nỗi bất bình về mình không? Nhưng quả thật là một người chồng tốt bụng, bởi với chút giận dữ còn lại, anh chỉ tự trách mình. Anh đã dại dột mua chiếc xe này trong khi mọi người đều ngăn cản. Đúng là một kẻ điên rồ không thể chịu đựng nổi khi anh cứng đầu nhất định đòi mua với lý do đó là chiếc xe mui trần và màu lá cây làm anh ưng ý. Thật ngu si... Tới đây lời tự thú dừng lại hẳn, rối tinh lên và cũng không chắc làm được, anh đã thành công khi cho máy nổ.

"Phải trở lại chỗ sửa thôi"- anh buồn bã nói. Người vợ mở cánh cửa xe. "Em sẽ đi dạo đợi anh, lúc trở lại anh sẽ bốc em lên". Anh chồng gật đầu và nổ máy khó khăn để đổi hướng xe chạy sang đường đất nhỏ kế bên. Sau đó nhìn chồng rời xa, chiếc xe rung lên kỳ quặc với những tiếng nổ như pháo ngày càng to dưới dốc, nàng tự hỏi không biết anh có đi được đến tận làng hay không.

Vụ chết máy xe này cũng không làm nàng ngạc nhiên lắm, dù không thể giải thích tại sao. Chiếc xe đã mang theo cả cái túi và mũ của nàng. Cũng chẳng sao, nàng cũng chẳng cần thứ gì, cảm thấy thoải mái trên con lộ, mái tóc và đôi bàn tay hoàn toàn được tự do, chiếc khăn tay ở túi trên của áo ngoài có mùi giống như hương của đồng nội kia.

Sau một lúc do dự trước không gian bao la, nàng bước vài bước và ngồi xuống triền dốc. Đáng lẽ nàng có thể đi xa hơn nữa, tận dụng kỳ xả hơi ngắn do vụ chết máy xe để làm cuộc dạo chơi thực thụ và dấn sâu vào đồng quê. Rồi tưởng tượng bộ mặt của Georges khi không tìm thấy nàng ngay. Nhưng nàng không muốn làm anh buồn chút nào. Được ngồi lại trên triền dốc cũng là nghỉ ngơi vậy.

Nàng không cần sử dụng sức lực mới biết mình đầy đủ sức khỏe. Cũng như mới đây khi nằm duỗi dài dưới nắng ở trong xe, nàng đã được ban phát nồng hậu một nỗi ngây dại hạnh phúc. Thật là một ngày tuyệt diệu, một trong những ngày đẹp nhất của nàng. Nền cỏ dưới chân hơi ẩm ướt và mơn trớn dễ chịu. Nàng nhổ từ một túm cây mọc kề bên và giữ trong bàn tay những bông hoa trắng nàng không biết tên, tầm thường và vẫn đẹp như tất cả loài hoa. Tầm mắt còn mất hút trong bầu trời rồi thu lại đặt trên những đóa hoa, nàng nghĩ về mình, về con người mà nàng biết rằng đẹp dù với lòng khiêm cung cũng cao.

Chưa bao giờ nàng cảm thấy gần gũi như thế với cái thế giới bao la này, nơi những cánh đồng cho nàng nghe tiếng rì rào. Đó không phải là một thế giới bất trắc. Bằng sự uy nghi sang cả, thế giới ấy cho nàng hiểu sự nhỏ bé của mình.

Nhưng nàng không phải là cái gì thừa thãi, nàng không làm xáo trộn một trật tự nào cả. Trái lại thật là may mắn khi sự tình cờ đã bắt họ dừng lại chốn này, nơi làm nàng ngỡ ngàng trong mối tương quan với bầu trời, bình nguyên và những đóa hoa đang cầm trên tay.

Tất cả những gì trong tầm nhìn dưới ánh nắng ve vuốt đều đã được tạo ra để gây niềm tin tưởng. Nàng ngồi bất động một hồi lâu với ý nghĩ mông lung nhẹ như những gợn mây trắng, như những chùm hoa táo xa xăm kia, và với nỗi bất an nghĩ đến con cái ở nhà.

Khi nghe tiếng xe leo dốc, nàng đứng dậy để nhìn thấy nó đi lên. Và nàng đến gần căn nhà bỏ hoang, đọc dòng chữ khắc trên bảng đá: "Thiếu úy Robert Fontant đã hi sinh tại đây để giải phóng thị trấn Chartres".

Bây giờ chiếc xe đã dừng lại trước mặt nàng, Georges ra dấu: "Lần này anh tin là xong thôi"- anh reo lên vui vẻ. Trước khi đến bên chồng, mặt ưu tư, nàng nhìn lại tấm bảng đá và ngó kỹ quang cảnh có cái tháp nhọn vươn thẳng từ xa trên bầu trời trong vắt.

Câu nói thốt lên trên môi làm nàng ngạc nhiên bởi giọng xa lạ của nó: "Robert - nàng thầm thì dịu dàng - tại sao anh lại giữ chúng tôi lại?". Tất cả đều thanh tĩnh và chan hòa trong nắng. Một cơn gió nhẹ ẩm ướt làm run khẽ mặt cỏ trên triền dốc, chỉ đủ để nâng niu những hạt nhỏ mang mầm sống bay đi.

"Em có định ở lại đây không đấy?"- Georges đùa cợt hỏi, anh nhấn ga vài lần làm máy nổ ầm lên để kiểm tra xem tất cả đã hoàn thiện chưa. Nàng vội vã lên xe và chiếc xe vọt đi

"Cái dốc khỉ gió - người chồng nói- anh đã tưởng không bao giờ qua được. Phải dùng máy bơm hơi để thổi sạch ống dẫn xăng, có lẽ những vụn sắt bẩn đã chui vào. Đó là lý do tại sao máy chết hai lần cùng một chỗ, ở một độ nghiêng nào đó xăng không lên được nữa. Mình cũng sắp đến Châteaudun thôi".

Nàng không có câu gì để trả lời. Khi hai người lên đến đỉnh dốc, nàng quay lại nhưng họ đã đổ nhanh sang triền dốc bên kia trước khi nàng có thể nhìn lại căn nhà tồi tàn.

Im lặng một lúc lâu nàng nói:

- Anh có nhớ chàng trai mà em đã kể với anh lúc mình mới bắt đầu quen nhau... Hồi ấy em tự hỏi không biết anh ấy đã ra sao rồi.

- Ai cơ? - người chồng lơ đãng hỏi

- Anh không nhớ à?

- Hồi đó anh đã ghen vì vụ ấy. Dẫu sao cũng chỉ là một chuyện ngây thơ, mối tình đầu năm em mười sáu tuổi.

Để nói được câu cuối nàng phải hơi ép giọng gượng cười. Người chồng quay lại và thấy vợ cảm động.

- Anh nhớ lại rồi. Rồi sao nữa?

- Tấm bảng đá em mới xem chỗ đó là của anh ấy.

Chiếc áo choàng màu xanh

Tôi gặp hắn khi hắn ra tiễn biệt người bạn gái ở ga xe lửa. Ngờ đâu sau này đời hắn lại liên hệ tới cuộc sống của tôi.

Tôi nhớ hôm đó hắn đã dằn từng tiếng để kết thúc cuộc chia tay bằng lời cuối cùng với cô bạn:

- Vả chăng, tất cả những gì người ta có thể nghĩ về tôi, tôi đều coi như "pha.

Thiếu nữ đối thoại với hắn khoác chiếc áo choàng màu xanh, ve rộng, cổ và túi viền lông thú theo kiểu Nga. Dáng người mảnh dẻ, đầu để trần, nàng có một vẻ đẹp hấp dẫn. Mỗi khi lắc đầu, làn tóc huyền bóng mướt của nàng tung bay mềm mại như mớ bờm ngựa trước gió.

Nàng dậm chân vẻ bực bội, rồi đột nhiên nàng quyết định rời bước. Nàng đi rất mau, thoáng đã lẫn vào trong đám đông hành khách đang chen nhau nơi sân ga.

Hắn vẫn đứng yên gần bên tôi, lơ đãng nhìn theo. Tuy hắn lặng lẽ nhưng có vẻ bối rối. Khi nàng đã khuất dạng, hắn khẽ thở dài.

Hắn thọc tay vào túi, đảo mắt nhìn quanh. Cặp mắt soi mói của hắn chạm ngay vào mắt tôi. Hắn tự thấy ngượng ngùng và kỳ khôi nên gượng mỉm cười, xoa tay nói vu vơ:

- Trông thế đấy!

Hắn rùng mình vì lạnh vì không mặc áo choàng ngoài.

Lúc đó, xe lửa tiến vào sân ga với tiếng rung chuyển của động cơ. Các cửa toa cùng một lúc mở rộng cánh. Làn sóng người, hai dòng ngược xuôi xô đẩy: một lớp tới, một lớp ra đi.

Hắn tới ngồi trên chiếc ghế dài đầy bụi bặm đặt sát vách tường trong phòng đợi, ngay trước mặt sạp bán báo.

Tôi cũng ngồi gần bên hắn. Hắn lơ đãng nhìn những kẻ qua lại. Người hơi cúi về phía trước, hắn có vẻ mơ màng xa vắng. Nhà ga nồng nặc mùi hôi hám ghê tởm. Tôi muốn ngộp thở trong cái bầu không khí ẩm ướt, đầy bụi bặm mà hơi người, hơi nước tiểu xem lẫn mùi da thuộc, rơm rác, men rượu, dầu mỡ, v.v... Tôi ái ngại cho số phận khốn khổ của những ngời phu khuân vác bận đồ xanh kia, suốt đời họ phải sống tại đây như vậy để chờ mang hành lý cho bao kẻ xa lạ, đi đi về về.

Một viên chức mang mũ có gắn phù hiệu ngồi bên chiếc xe chở đồ với bánh bằng sắt, đang thong thả cuốn một điếu thuốc.

Tôi cũng thấy thèm hút và rút hộp thuốc ra, một chiếc hộp cũ kỹ bằng đồng mạ bạc đã phai màu, tôi hỏi hắn để tạo dịp làm quen.

- Thưa, ông có sẵn bật lửa đó không?

Hắn đáp, không nhìn lại:

- Tôi không hút thuốc.

Và khi tôi xin lỗi thì hắn mỉm cười lịch sự:

- Nhưng tôi vẫn luôn luôn có bật lửa đây.

Lúc đó, đoàn xe lửa từ từ lăn bánh, phun khói mù mịt. Hắn và tôi cùng nhìn lên những hành khách đang nghiêng mình ra ngoài, vẫy tay từ biệt. Tôi không thấy bóng dáng người thiếu nữ mặc áo choàng màu xanh trong đám ấy.

Như để giải đáp sự thắc mắc thầm lặng của tôi, hắn lên tiếng:

- Nàng không ló mặt ra đâu. Nàng vốn ghét thói đó vì nó chỉ kéo dài thêm cuộc ra đi một cách vô ích.

Rồi hắn vùng đứng dậy, đột ngột hỏi tôi:

- Ông có bận gì không?

- Không, tôi cũng đang rỗi rãi.

- Vậy thì chúng ta đi uống cà phê cho ấm người một chút. Tôi bị lạnh rồi.

Rồi hắn nhún vai, nói tiếp:

- Đúng là cái lạnh miền Bắc cực!...

Hắn đổ hết sữa vào ly cà phê của mình và vội xin lỗi với cử chỉ nhã nhặn:

- Ồ, tôi làm ẩu rồi! Ta chỉ có một cốc sữa cho cả hai. Để tôi gọi cái khác...

- Thôi, không cần. Tôi chỉ quen uống cà phê đen thôi.

- Vậy thì hay quá!

Hắn cười, để lộ hàm răng có một chiếc bịt vàng. Với giọng nhát gừng, hắn nói rất nhiều, đủ mọi chuyện và luôn luôn kèm theo những lời phê bình dí dỏm. Hắn có óc chỉ trích và hài hước kỳ lạ. Tuỳ theo mỗi thực khách quanh đó, hắn gán cho một nghề tưởng tượng rất dúng với hình dung và cử chỉ của từng người.

Nguồn cảm hứng của hắn thật dồi dào. Hắn kể liên miên những chuyện khôi hài với luận điệu vô hại, chẳng nhằm riêng cá nhân nào nhưng rất tức cười. Hôm đó, tôi vui vẻ suốt cả giờ đồng hồ bên cạnh hắn. Và không thấy hắn nhắc nhở gì tới "người đẹp" đứng bên sân ga nữa. Khi chia tay ra về, hắn để mặc tôi trả tiền, không phản đối. Với giọng đùa bỡn, hắn cười:

- Trông dáng điệu và túi tiền của anh, anh phải là một ông chủ ngân hàng?

Tôi vội chặn lời hắn:

- Tôi là một ký giả, nhưng lại sắp trở thành chủ trại. Tôi đang tính mua lại một nông trại nhỏ của ông chú cách đây chừng một trăm cây số. Nhưng tôi còn công việc phải ở lại tỉnh vài tháng nữa. Anh cứ tới chơi một ngày nào đó. Đây là danh thiếp của tôi. Còn anh, cho phép tôi hỏi anh làm nghề gì?

- Theo anh nghĩ thì tôi làm nghề gì?

Tôi đoán liều:

- Kịch sĩ.

Hắn tỏ vẻ cao hứng, nhìn tôi mỉm cười:

- Không đúng!... Tôi là "thợ khắc ký ức"!

Tôi toan hỏi rõ, nhưng chợt hiểu. Người bạn tôi cũng không thích giải thích dài dòng. Hắn đưa tay dang rộng ra rồi quay mình từ giã, nét mặt hân hoan.

Hôm sau, vừa từ toà báo trở về nhà trọ thì bà quản gia trao cho tôi một bó hoa hồng. Bó hoa gửi đến tên toi, bên trong giấy bóng kính có ghim theo một tấm danh thiếp của Miles. Trên tấm danh thiếp còn ghi thêm hàng chữ viết tay rắn rỏi: "Thợ khắc ký ức!" với dấu chấm than đậm nét.

Và tám ngày sau, chúng tôi trở thành đội bạn thân thiết nhất đời. Hắn yêu cầu tôi gọi tên hắn là Bob, tên ấy do gia đình đặt cho hắn từ hồi nhỏ.

Tôi tuy không thích tục lệ kiểu cách đó, nhưng cũng nhận lời cho hắn đẹp lòng.

Tôi bỏ hy vọng trở thành ký giả nên rất nhàn rỗi. Do đó, tôi đã dành nhiều thời gian để giao du với người bạn mới.

Bob là một thanh niên dịu dàng và lanh lẹ. Hắn tuy có óc châm biếm nhưng luôn giữ một giọng tự nhiên, vui vẻ và lịch sự. Mặc dù lời lẽ hoặc ý tưởng của hắn đôi khi có vẻ cực đoan nhưng không bao giờ gây va chạm huyên náo. Cũng vì hắn cư xử rất tế nhị trong tình bạn nên không một ai mếch lòng.

Về vấn đề phục trang, Bob cũng có những điểm riêng biệt. Mỗi khi bước ra ngoài, hắn đều mặc đồ lớn rất đứng đắn, hắn thường chịu lạnh xanh xám cả người những khi cùng bạn bè đi du ngoạn ven đô vào mùa đông, trong tiết đại hàn. Tôi thấy hắn có tới sáu, bảy bộ đồ lớm màu tươi sáng xám hoặc xám hồng. Bộ nào cũng cắt may rất đẹp. Hắn luôn luôn chỉ thắt một chiếc cà vạt màu đỏ hoa lựu, ghim một viên ngọc trai. Hắn không bao giờ đội mũ. Bob có bộ tóc đen dầy, bóng loáng cắt ngắn và chải chuốt. Ngay giữa trán hắn, dưới chân tóc hằn lên một vết sẹo trắng, kỷ niệm tính hiếu động thời thơ ấu. Gương mặt hắn biến chuyển dễ dàng và mau lẹ, từ một nụ cười tươi dịu sang cái nhếch mép dữ dằn.

Một buổi sáng, khi chúng tôi đang thả bộ trong thành phố cũ, men theo bức tường của vũ đình nay đổi thành khu chợ, bỗng Bob đột ngột hỏi tôi:

- Anh còn nhớ người thiếu nữ bỏ tôi ra đi cái ngày chúng ta mới quen nhau không?

Đây là lần đầu hắn nhắc tới một sự việc khá xa xôi, khiến tôi ngạc nhiên:

- Cô mặc áo choàng màu xanh? Có chứ, tôi đâu đã quên...

Hắn mỉm cười:

- Phải đó! Chiếc áo choàng màu xanh.

Chợt nét mặt Bob trở nên nghiêm trọng nhưng không chút bi thiết:

- Này bạn ơi! Nàng đã "tịch" rồi!

- Chết rồi à?

Tôi kêu lên vì kinh ngạc và xúc động. Tôi không biết có nên chia buồn với hắn hay là đừng nhắc nhở tới nữa. Tôi lưỡng lự và cho rằng khi mà Bob đã đề cập tới vấn đề này một cách giản dị như vậy chắc rồi sau đó sẽ còn tâm sự với tôi khá dài dòng.

Chúng tôi dừng chân trên vỉa hè bừa bãi những lá bắp xú và những mẩu củ cải hư nát. Các bạn hàng rau đang chất lên xe từng chồng giỏ không và thùng gỗ rỗng. Mấy con ngựa lùn, ngực thấp, cúi cổ bới tung những bó rơm khô, quên cả giờ về.

Bob nắm nhẹ cánh tay tôi và nhìn thẳng vào mắt, nói cụt lủn:

- Tôi đã giết nàng!

Thấy vẻ mặt tôi ngơ ngác một cách đần độn, hắn không nhịn được cười.

Hắn dí ngón tay trỏ sát bụng tôi:

- Bạn hãy giữ kín điều này. Đó là điều bí mật, riêng hai đứa mình biết thôi.

Tôi rất bối rối, tỏ ý muốn phản kháng vì ít ra hắn cũng phải cho tôi biết rõ ràng câu chuyện:

- Nhưng tại sao, Bob...

Hắn chặn ngay lời tôi bằng một giọng rất cương quyết khiến tôi không còn có cách phản ứng:

- Hôm nay trời lạnh quá! Tốt hơn hết ta nên chia tay nhau thôi.

Hắn rùng mình, đưa tay ra rất điệu để chào. Tôi nhìn thấy bàn tay hắn trắng bệch có vẻ khác ngày thường. Tôi không bắt. Thế rồi, hắn cúi đầu, vùng quay lưng đi như đứa trẻ con làm nũng và rảo bước...

... Sau sự việc xảy ra như trên, các bạn đều thấy rõ nỗi phiền muộn và lo âu của tôi. Tôi vốn thương mến người bạn tính tình kỳ dị và bí mật kia vô cùng. Do đó, tôi rất đau khổ về vụ này của hắn. Giận dữ hoặc cuồng dại mà lại có thể đi tới việc sát nhân được? Hắn đã hành động trong những trường hợp bí mật nào mà tôi không hay? Riêng việc tôi không tiên đoán được gì về hắn, sau bao nhiêu lần kết giao với nhau, cũng đủ làm cho tôi buồn phiền vô cùng.

Đã ba ngày trôi qua, từ khi Bob tâm sự với tôi tấn thảm kịch, hắn vẫn biệt vô âm tín. Cảnh sát đã mở cuộc điều tra chưa? Họ đã phanh ra manh mối nào chưa? Có lẽ bạn tôi bị bắt giữ chăng? ý nghĩ này làm tôi rất khó chịu. Bạn tôi không phải hạng người có thể sống trong cảnh giam cầm. Hoặc giả... Không! Không thể thế được! Bob là một kẻ rất tự phụ, đâu dễ dàng chịu khuất phục vì hối hận đến nỗi phải tự huỷ hoại hòng thoát sự ám ảnh vẩn vơ. Nhất định không! Nhất định hắn chẳng hối tiếc vì đã hành động.

Vả chăng câu tâm sự của hắn với tôi là tiếng vui chiến thắng hơn là lời tự thú tiếc thương

Mối tình thân hữu của tôi với hắn đã tạo cho tôi nhiều lý lẽ để tha thứ cho bạn mình.

Tôi lại giận mình sao hôm trước đã tỏ ra lãnh đạm và không tìm hiểu bạn lúc hắn đưa tay ra chào từ giã. Có lẽ hành động của tôi như vậy đã khiến cho bạn tưởng rằng tôi chống đối. Giờ đây, tôi hối hận vô cùng. Thật ra lúc đó tôi chỉ ngạc nhiên chứ không hề có một ý tưởng gì phê phán hắn

Trong khi tôi đang nghĩ quanh quẩn như vậy thì có tiếng chuông reo. Tôi vùng dậy khỏi giường, chạy ra mở cửa, chính là Bob. Hắn bước vào nhà rất thanh thản coi như không có gì xảy ra. Hắn đưa bàn tay mảnh dẻ có vẻ đài các lên khẽ chào rồi chỉ vào chiếc áo vắt trên cánh tay trái. Đó là chiếc áo choàng màu xanh, ve rộng, cổ và túi viền lông thú kiểu Nga.

Bob với vẻ đắc thắng:

- Tôi lấy được rồi! Kể ra cũng chẳng sớm sủa gì lắm.

Hắn nói tiếp như để trả lời câu hỏi thầm lặng chỉ biểu lộ bằng dáng điệu của tôi:

- Bạn tha thứ cho, tôi bận quá, không biết bao nhiêu là công chuyện lặt vặt trong khi có đám tang. Tôi phải trông nom đủ thứ. Mà đã rảnh rang đâu. Vừa chôn cất nàng sáng nay đâý.

- Nhưng Bob ạ, lẽ ra bạn nên báo tin cho tôi hay thì phải.

Bob nhìn tôi với vẻ trách móc:

- Thì tôi đã báo trước rồi, còn gì nữa?

Tôi lắc đầu thân mật:

- Phải cho tôi biết rõ xem tôi có thể giúp đỡ gì được bạn.

- Bạn có muốn giúp tôi đâu mà nói. Thì bạn đã từ chối bắt tay tôi kia mà.

Tôi ân hận quá, sẵn sàng làm ngay bất cứ việc gì miễn sao khoả lấp được sự hiểu lầm ác độc kia.

Tôi ôm lấy bạn trong vòng tay vụng về, với giọng rất chân thành:

- Bạn đã hiểu lầm tôi đó! Tôi không giận bạn đâu. Chính tôi phải xin lỗi bạn.

Bob tìm cách gỡ ra rất nhã nhặn để khỏi phật ý tôi, rồi đem chiếc áo choàng đặt cẩn thận lên ghế. Hắn giải thích:

- Tôi lấy lại chiếc áo đã tặng nàng tháng trước.

Hắn đưa tay lơ đãng phủi vai chiếc áo. Tôi lại bàn giấy, lấy thuốc hút. Bob cũng đưa một ngón tay ra hiệu cho hắn một điếu. Tôi ngạc nhiên:

- Sao? Bob bắt đầu hút thuốc à?

- Tôi cũng tập cho quen. Tôi không ưa rượu nên chọn thuốc lá vậy.

Trên khuôn mặt thon gầy chợt nở một nụ cười khó hiểu, hắn nói tiếp:

- Không nên để cho vật tầm thường làm mình đau buồn.

Ngồi xuống ghế của tôi, Bob đốt thuốc một cách ngượng nghịu và hút luôn mấy hơi quá mau, vụng về như mấy bà già thỉnh thoảng tập hút. Sau hắn dụi điếu thuốc vào cái gạt tàn gắn chìm ngay trên tay ghế bành.

Hắn xoa tay rất mạnh có vẻ không được tự nhiên rồi vùng đứng lên đi đi lại lại trong phòng và tò mò nhìn khắp nơi. Chợt hắn dừng bước trước tấm hình nhỏ của hắn mặc bộ đồ kỵ mã do tôi lồng kính treo trên tường. Hắn ngắm tấm kính, thở dài, rồi bước ra đi, không thốt qua một lời.

Ngày hôm sau, người bạn tôi tự ra đầu thú, chẳng một lời nào giải thích cùng tôi. Tôi không xin được phép vào thăm hắn trong nhà lao. Ít lâu sau, theo ý kiến của các nhà phân tâm học danh tiếng, Bob bị tống giam không hề được nghị án.

Sự việc này đã làm tôi buồn rầu cực điểm: Các cuộc vận động mà tôi cố sức lo liệu để cứu bạn ra khỏi bước gian nan đều bị thất bại hoàn toàn.

Tên Miles tức Bob bị sắp vào loại mắc chứng điên quá sớm.

Ngày tháng trôi qua. Sự kiên trì của tôi mong cứu vớt người bạn bất hạnh mang bệnh nan y đó dần dần tiêu tan. Cũng đã đến lúc tôi phải lo xây dựng sự nghiệp để trở thành một phú nông. Tôi tới gặp ông chú. Ông rất vui mừng, đã kéo được tôi ra khỏi cuộc đời anh "thợ viết quèn". Thế rồi, những công việc bề bộn của nông trại đã chiếm hết thời giờ khiến tôi không còn phút nào để lo lắng tới số phận một người bạn mà từ nay thuộc về quá khứ. Tuy nhiên, tôi luôn luôn trung thành giữ vẹn kỷ niệm tình bằng hữu và vẫn mến thương bạn vô cùng. Điều kỳ lạ là không bao giờ tôi muốn rời xa chiếc áo xanh mà Bob đã để quên lại nhà tôi trong chuyến viếng thăm cuối cùng.

Chiếc áo đó đã được dành riêng một chỗ trong tủ áo của tôi. Tôi đã từng đứng bên chiếc áo ấy suy tư trong những giờ hiu quạnh. Một tình cảm quyến luyến kỳ lạ, khó hiểu lẫn lo sợ khiến tôi giữ nó lại, mặc dầu mỗi lần mở cửa tủ nhìn, tôi lại choáng váng khó chịu giữa mùi nước hoa và long não.

Tôi có cảm tưởng mơ hồ trong một ngày nào đó gặp lại Bob. Hắn sẽ đột ngột xuất hiện, nét mặt cứng cỏi mắt sáng ngời, xoa tay một cách nóng nảy.

Cảm tưởng đó quấn quít lấy tôi và tôi tin rằng hắn đã giao tôi trách nhiệm giữ gìn tận tình chiếc áo choàng màu xanh một cách rất kỹ lưỡng. Tôi đem nó ra phơi, rồi chải chuốt để cho khỏi mối xông.

Tôi thấy trên ve áo có một vết máu đã khô nhưng tôi vẫn để nguyên và cố giữ cho khỏi mất.

Một đêm, tôi chợt thức giấc vì tiếng kẹt cửa quen thuộc. Thì ra cánh cửa tủ áo vừa mở tung ra. Chắc hẳn trước khi đi ngủ tôi đã quên không đóng nên phải trở dậy trong bóng tối để khép lại.

Sau đó vài phút, tôi chưa kịp ngủ tiếp thì một tiếng kẹt cửa nữa lại nổi lên. Cánh cửa tủ từ từ mở ra, vẳng theo tiếng gỗ nghiến rền rĩ. Lần này, tôi bật đèn lên định bụng xem lại ổ khoá còn tốt không. Trước hết, tôi đưa mắt một lượt kiểm soát lại y phục treo bên trong thấy đều yên hàng thẳng lối.

Bỗng nhiên, tôi kinh ngạc nhận ra trên ve chiếc áo choàng màu xanh, vết máu kia đã loang rộng. Tôi đưa tay sờ lên để biết chắc mình không bị ảo ảnh huyễn hoặc hay mờ mắt vì bóng tối. Tôi bủn rủn cả người vì vết đó có chất hồ dính nham nháp và âm ấm quyện lấy ngón tay tôi. Thì ra chiếc áo choàng đã rỉ máu...

Tôi kinh hãi lùi lại đóng tủ, khoá hai vòng rồi vội vã rời khỏi phòng ngủ sang phòng khách, nằm gần bên lò sưởi.

Tại đây, củi trong lò luôn luôn cháy sáng và một con chó nằm kề ngay dưới chân tôi. Tuy vậy, những hình ảnh quái đản màu khói biếc vẫn làm tóc gáy tôi dựng ngược. Một dòng mồ hôi lạnh chảy dài theo xương sống, tôi run rẩy chờ cho trời mau sáng...

Sáng hôm sau, người phu trạm trao cho tôi một bức thư của viên giám đốc trí viện, nơi Bob đang bị giam giữ. Bạn tôi qua đời bốn hôm trước vì máu dồn lên óc, mà trước đây bệnh tình của hắn đã thuyên giảm.

Người ta báo cho tôi biết sẽ gửi bưu kiện riêng có những món đồ lặt vặt của Bob mà hắn dành cho tôi. Đó là một lô cà-vạt, một chiếc kim cài ngọc trai, một con dao bấm; những món đồ này đã được lưu giữ ở phòng quản trị từ ngày hắn vào viện.

Tôi hết sức vận động để liên lạc với vị giám đốc dưỡng trí viện. Viên chức cao cấp này có cho tôi biết rõ về cái chết của bạn tôi:

- Bạn ông đã từ trần rất êm ái. Ông ta vốn là một bệnh nhân luôn luôn bình tĩnh... Một con người có giáo dục...

- Thưa bác sĩ, tôi có được phép nhìn mặt bạn tôi lần cuối cùng trước khi chôn không?

- Tôi rất tiếc phải từ chối ông vì luật lệ cấm điều đó.

Người ta sẽ chôn cất Bob vào ngày hôm sau. Vì vậy tôi phải thu xếp xong xuôi mọi công việc ở nông trại trước khi đi đưa ma bạn tôi. Tôi còn nhớ mãi cảnh tượng quái đản nhưng có thật hiển nhiên trước sự chứng kiến của các gia nhân trong nông trại.

Lúc đó vào khoảng ba giờ chiều. Một người cưỡi ngựa không rõ từ đâu tới, đột ngột tiến vào sân. Hắn ngồi trên một con bạch mã, lại dắt theo một con ngựa khác màu hồng, mang giầy ống bóng loáng, thắt một chiếc cà vạt đỏ màu hoa lựu và đội mũ nỉ đen. Hắn đưa mắt nhìn quanh với dáng điệu rất ngạo mạn.

Tôi đang đứng trên thềm nhà. Khi hắn vừa thấy tôi, tức thì tiến thẳng đến, tay vung tròn chiếc roi da, tỏ ý vui mừng. Tôi chợt nhận ra ngay, vừa chạy ra đón vừa la lớn:

- Bob!...

Hắn giơ ngọn roi ngựa lên, ra dấu đáp lễ không nói lời nào. Sắc mặt Bob có vẻ xanh xao và khắc nghiệt. Tôi hiểu ngay, nghẹn ngào hỏi:

- Anh tới kiếm chiếc áo choàng phải không?

Bob gật đầu, đập nhẹ gót ủng, lộ vẻ nóng nảy:

- Tôi đến để lấy lại...

Vài giây sau, tôi trao cho hắn món đồ quý mà lòng vô cùng xúc cảm, không còn hỏi hắn được một lời nào nữa.

Hắn xem xét lại tấm áo coi nó có được giữ kỹ lưỡng không và để tỏ sự hài lòng hắn nhìn tôi mỉm cười, một nụ cười tôi nhận thấy có vẻ dữ dội.

Hắn đưa ngọn roi da lên vành mũ chào, rồi vội vã rảo bước qua sân. Tiếng đinh sắt đóng sau gót ủng của hắn theo nhịp chân, khua vang.

Hắn vắt chiếc áo choàng ngang trên yên con ngựa màu hồng rồi nhảy lên con bạch mã. Hắn tắc lưỡi ra lệnh, tức thì hai con tuấn mã cùng thong thả cất bước.

Tôi đứng nhìn theo, bỗng có cảm tưởng thấy chiếc áo choàng trĩu nặng trên lưng con ngựa màu hồng, rồi sau hiện dần một vóc dáng mềm mại rất linh hoạt với đôi cánh tay và cặp đùi nhấp nhô... Lại thấy cả chiếc đầu lả xuống bên hông ngựa, lắc lứ theo nhịp vó câu.

Tôi liền băng mình chạy theo trên con đường đất, giữa hai hàng cây rậm rạp. Bob ra roi, cho ngựa chạy mau hơn. Hai con ngựa không cùng một nước kiệu, lấn lướt, hông chồm lên nhau. Thế rồi, đột nhiên chúng càng phi nước đại, không đúng nhịp vó, như hai con ngựa bất kham, cùng nhau lẫn lộn.

Tôi đuổi theo đứt hơi và vô cùng thất vọng vì chẳng còn thấy chúng trước mặt nữa. Tôi phải dừng lại để thở. Tôi đưa mặt theo dõi vết chân ngựa hằn trên mặt đất ẩm ướt. Có sự kỳ dị là hai hàng vó ngựa song hành thu hẹp sát vào nhau với nhau dần dần. Dấu chân hai con lẫn lộn rồi nhập vào thành ra chỉ còn dấu chân một con mà thôi. Tiến thêm vài thước nữa, tôi phải công nhận sự thật hiển nhiên là trên mặt đường chỉ có dấu chân của một con ngựa.

Một con ngựa... Chẳng có chứng tích nào xác nhận là còn có một con ngựa thứ hai nữa lạc bước quanh nơi tôi đứng.

Tôi dò theo, hết sức dễ dàng, dấu chân rõ rệt của một con vật. Dấu nó hằn in rành rành trên mặt đất còn mềm vì những trận mưa vừa qua.

Tới gần bên bờ suối, dấu nó lún sâu vì tại nơi đây con ngựa độc hành kia cần phải lấy đà để nhún mình vọt qua dòng nước.

Nhưng ở bờ suối bên kia lại chẳng có chút dấu vết gì...

Chỗ Hẹn

Công ty cố thuyết phục tôi nghỉ một kỳ hè dài sau khi Helen chết đuối. Nhưng rồi họ đồng ý với tôi là tôi cần làm việc hơn là nghỉ ngơi. Sáu tháng sau họ lặp lại đề nghị cũ. Họ yêu cầu tôi tới nghỉ cuối tuần với gia đình Ashtons ở ngoại ô thành phố Luân Đôn. Ngoài tính hiếu khách, Freddy và Paula còn cố thúc đẩy tôi một cách thân hữu nhưng kiên trì. Họ đồng ý là "toa thuốc" của tôi có lẽ hợp lý. Nhưng đồng thời cơ thê cũng như trí não tôi có những giới hạn và tôi đã làm việc quá nặng nhọc, Paula dịu dàng vạch ra là tôi đã hướng về một cái gì chẳng mơ mộng chút nào chỉ là những năm cố tình biến thành vô nghĩa và không ích lợi gì. Dĩ nhiên lúc đó với tôi mọi sự đã thay đổi. Vết thương lòng từng là một điêm yếu đáng ngại nay đã có phần gắn lại. Vết thương này còn nhức nhối nhưng có thê chịu đựng được. Freddy bảo họ đã mua vé cho tôi dự một chuyến du ngoạn mươi ngày bằng tàu biên tới Nam Phi và tôi đã không cưỡng lại ông bạn của mình.

Suốt ngày tôi chìm đắm trong một trạng thái mơ màng mà tôi cố tình suy nghĩ đê khỏi phải quen biết với những hành khách cùng chuyến đi. Từ khi Helen qua đời, tôi chỉ gặp người khác với lý do duy nhất là làm việc. Thật là khó chịu và đáng sợ khi phải nhìn ngắm họ dưới khía cạnh thực tế của mỗi cá nhân riêng biệt: những người có hoặc không có một cá tính, đặc điêm nào đó. Tôi uống khá nhiều rượu, nhưng uống một mình. Chúng tôi chuyên từ vùng biên và mây một màu xám lạnh sang một vùng xanh thẳm, tươi sáng và ấm áp hơn. Và tôi đang ngồi trên một ghế đẩu cao lênh khênh cuối quầy rượu. Đêm nào tôi cũng yên lặng uống và chỉ tỉnh hẳn vào lúc 11 giờ sáng hôm sau. Tôi chẳng buồn lên bờ với những người khác khi tàu ghé bến.

Viên sĩ quan trưởng giao tế nhân sự có khéo léo ngỏ một hai lời gì đó với tôi, kê cho tôi nghe về một vài điều thú vị đáng xem và đáng làm ở Nam Phi, nhưng rồi ông ta bỏ ngay ý định khuyên tôi nên hành động một cách hợp lý như thế. Ông ta ra vẻ đã từng gặp nhiều người như tôi rồi.

Chính trong chuyến trở về tôi gặp Cynthia Parker. Một buổi sáng tôi đang ngồi ở chỗ quen thuộc nơi quầy rượu và vừa đốt điếu thuốc thì một giọng nói cất lên ngay đằng sau. Tôi xoay người lại, tay vẫn cầm que diêm đang cháy đỏ và thấy nàng giật lùi.

- Tôi rất lấy làm tiếc. - Tôi nói.

- Kỳ cục thật! - Giọng nàng thật cứng cỏi, có phần khàn khàn nhưng dê chịu. "Tôi sợ lửa từ lúc còn nhỏ. Ngay cả một que diêm cũng vậy. Tôi muốn hỏi ông có ai ngồi ở chiếc ghế này không!"

Tôi gọi cho nàng một ly rượu gừng và chỉ mười lăm phút sau nàng đã vượt qua bức tường bất hợp tác từng giúp tôi tách khỏi những người khác. Nàng có một lối nói thẳng không ngần ngại của một người tự tin mạnh mẽ. Ngoài ra nàng còn thông minh, có một óc khôi hài bén nhọn - những đức tính ít khi thấy cùng một lúc - và rất ấm áp có thê làm cháy lòng với một nụ cười, của một sắc đẹp tuyệt vời. Vì như đã tiết lộ trong 15 phút đầu tiên đó, nàng đã 66 tuổi.

Bề ngoài thì đây có vẻ là một kết hợp kỳ cục dù theo tiêu chuẩn của những chuyến hải du. Ngoài việc có gần 30 năm ngăn cách thì chúng tôi còn có rất ít điêm giống nhau. Tôi là một nhà doanh nghiệp tầm thường, đã làm việc như điên suốt thời tuổi trẻ và ngoi lên được, như người ta thường nói, nhờ những năm dài cực nhọc. Chỉ với Helen tôi mới biết những thú vui của cuộc sống, nhưng lại không kéo dài được quá ba năm ngắn ngủi. Cynthia ngược lại sinh ra trong nhung lụa và tiếp tục sống giữa giàu sang cho tới bây giờ. Bà ta đã kết hôn ba lần, trong đó có một lần ly dị và hai lần góa chồng. Tôi có cảm giác họ đều là những người giàu có và bà ta cũng là một người đàn bà "tiền rừng bạc bê". Cynthia biết nhiều về tiền bạc. Một tối chúng tôi bàn về thị trường chứng khoán và tôi nhận ra tôi chẳng biết là bao so với bà ta. Cynthia còn là người kê chuyện khá hay và nghe chuyện cũng rất sáng trí. Và cái lối vượt qua mau mắn bức rào ngăn cách do tôi dựng lên kê ra cũng rất đáng kê. Hơn nữa bà ta tượng trưng cho mẫu người đầy nữ tính mà không cần pha thêm tình dục, một người an ủi lý tưởng cho những người đang ở tâm trạng như tôi. Còn vì sao bà ta tìm tới tôi thì khó xác định hơn. Không phải chỉ đê thoát cô đơn với bất cứ giá nào. Bà ta là người đàn bà chưa bao giờ và có lẽ sẽ không bao giờ cô đơn.

Cynthia uống rất khá nhưng không quá nhiều rượu. Bà ta đã tách tôi khỏi quầy rượu và trong nhiều giờ đáng lẽ tôi đã dùng làm bạn với ma men, thì chúng tôi lại nằm trên hai chiếc ghế phơi nắng cạnh nhau, ngắm sóng vỗ và nói chuyện. Hai ngày đầu tôi nói về công việc làm và tuổi niên thiếu của tôi. Ngày thứ ba tôi nói về Helen. Cynthia lắng nghe và sau cùng nói:

- Thì ra như vậy. Tôi đang tự hỏi việc gì đang đè nặng lên ông và tàn phá ông như vậy.

Bà ta nói như một tay y sĩ, có vẻ hài lòng vì đã gỡ rối được một trường hợp khó khăn. Có cái lạ là điều đó và việc bà ta không tỏ ra buồn bã một cách giả tạo như tôi thường gặp lại làm tôi dê chịu. Tỏ ra cảm tình với sự đau khổ là tự kỷ, là tìm cách kết thân. Bà ta thì như phản ứng cho thấy, có lẽ không bao giờ biết đau khổ vì mất một người nào. Điều là một địa ngục với tôi thì với bà ta chỉ là một câu chuyện nhỏ kỳ cục hay một ảo ảnh mà thôi. Cynthia kê cho tôi nghe câu chuyện nhỏ của chính bà ta sau bữa cơm tối hôm đó.

Chúng tôi ra quầy rượu làm một chầu trước khi đi ngủ và bà ta có vẻ rất khỏe khoắn, phê bình chua cay những hành khách cùng chuyến đi lọt vào cặp mắt sắc bén và cay độc của bà. Đối với một người sống hết mình như bà, ý tưởng đào thoát qua một chuyến hải du không thê chấp nhận được. Bà ta không hiêu mà cũng không tha thứ việc bỏ phí thời giờ dù dưới hình thức nào hay vì bất cứ lý do gì đi nữa. Đối với Cynthia những người đàn ông ăn mặc chải chuốt lịch sự chung quanh chúng tôi thì không khác gì những thanh thiếu nữ trong mấy bộ hippy, bụi đời đứng ngồi lê lết ở các quán cà phê, các góc phố. Họ đều là những người sa đọa, đáng khinh.

Tôi nghĩ tôi đã tìm ra một yếu điêm trong lời chỉ trích của Cynthia và tôi chộp ngay lấy. Dù sao bà ta cũng đang ở đây với họ cơ mà. Bà ta đã bảo tôi phần lớn bà ta sống ở Mỹ. Bà vừa đi thăm một người chị có gia đình ở gần Johannesburg và cần trở về Luân Đôn đê dự một buổi họp về vấn đề làm ăn. Tôi bảo như vậy bà ta đâu có cần dự chuyến hải du này. Thay vào đó bà ta có thê dùng máy bay tới Luân Đôn, và chuyến đi sẽ chỉ kéo dài vài giờ thay vì vài ngày.

Cynthia ngưng lại trước khi trả lời, ra hiệu cho người bồi rót thêm rượu. Rồi bà ta nói: "Trong đời tôi, tôi chưa bao giờ đi máy bay và sẽ không bao giờ đi".

Dĩ nhiên chúng ta có thê gặp những bà già không chịu hòa mình với tiến bộ tân kỳ, nhưng bà ta không thê thuộc hạng này. Bà ta đã kê cho tôi nghe là có một chiếc xe Thunderbird ở nhà và rất mê thuyền đua. Sự phủ nhận mạnh mẽ và bình thản phương tiện hàng không này làm tôi ngạc nhiên. Tôi hỏi:

- Tại sao vậy?

Bà ta cầm lấy ly rượu, nâng lên và nhìn tôi qua vành ly.

- Vì sợ. - Bà ta trả lời.

Tôi lắc đầu: "Khó tin quá".

Lại một lúc yên lặng và tôi nghĩ bà ta đang tìm cách đổi đề tài. Nhưng một lát sau bà ta bắt đầu nói với một giọng thật nhỏ nhẹ và tôi lắng nghe.

Thời gian là gần 50 năm về trước, thời mà cuộc Đại chiến thứ nhất đang lê lết kéo dài và chậm chạp tàn lụi dần. Lúc đó bà ta mới là một thiếu nữ mười tám tuổi. Ngay từ thời đi học nàng đã không thiếu người ái mộ và đầy hy vọng bước vào một thời toàn thịnh. Đứng trên quan điêm này thì chiến tranh thật là nản. Nhưng nếu trên khía cạnh khác thì chiến tranh lại là một nguồn cung cấp không bao giờ cạn những chàng trẻ tuổi đẹp trai trong quân phục, và một chút lòng ái quốc trong việc chấp thuận đi chơi và đê họ hiến dâng những giờ phút vui đùa, thoải mái. Những giờ phút thực sự thoải mái vẫn có ngay vào năm 1917 miên là đầy đủ phương tiện.

Có khoảng hàng tá chàng trẻ tuổi, một số nàng buồn hơn khi thấy phải xa rời họ so với kẻ khác, nhưng không người nào tạo cho nàng một cảm giác đặc biệt cho tới khi Tony Anderson xuất hiện. Tôi không tin là nàng yêu anh chàng vì tôi không nghĩ là có một lúc nào nàng lại không tự kiềm chế được mình tới mức đó, nhưng nàng có bị anh chàng mê hoặc thật và sự mê hoặc này sau bốn mươi tám năm vẫn còn biêu hiện rõ trong cách nàng đề cập tới anh chàng.

Chàng là một thanh niên cao lớn, hơi đen với một bộ râu mép rậm rạp sẫm màu, một cái mũi cong và đôi mắt xanh biếc sâu thẳm. Chàng rất khỏe mạnh và quyến rũ: lần đầu khi bắt tay chàng, nàng đã thấy ngay hai ưu điêm đó. Ngoài ra chàng còn nhiều điều đáng kê nữa. Chàng là cháu ngoại một ông quận công, con trai một trong những nhà tỷ phú trong ngành thép. Theo cha mẹ nàng cũng như chính nàng, chàng là người đầy đủ mọi điều kiện nhất. Sáu tuần sau lần gặp nhau họ đính hôn.

Nàng cảm thấy nơi chàng một cái gì man rợ và chính điều này đã lôi cuốn nàng nhưng chỉ tới một mức độ nào đó thôi. Chàng là một người nhiều bốc đồng và muốn thực hiện cho kỳ được chúng mới nghe. Có lần định mua cho nàng một chuỗi vòng đeo tay vào một giờ sáng, chàng liền dựng một ông chủ tiệm ở đường Bond đang ngủ trên giường dậy và kêu ngay một chiếc taxi tới đê đi. Chàng đưa nàng đi pic-nic trên một con sông - chỉ có chàng, nàng, rượu sâm banh ướp đá và một thùng trái cây hiệu Fortnum - nhưng khi đặt chân đến một hòn đảo nhỏ gần một bãi biên hoang vắng, tiếng nhạc êm dịu đã vang vọng lên: cả nhóm đàn dây của dàn nhạc Đại Hòa Tấu Hoàng Gia Luân Đôn đã có mặt đê sẵn sàng giúp vui. Tất cả những trò này thì rất hấp dẫn và kích thích, nhưng cũng nhuốm màu đáng sợ nữa. Vì nếu rất rộng rãi chàng cũng lại rất đòi hỏi. Và đã hiến dâng trọn vẹn cho nàng, chàng cũng đòi hỏi nàng tương tự. Chàng bảo nàng là của chàng cho đến muôn đời.

Nàng rùng mình, mỉm cười và nói:

- Anh à, có lẽ anh hơi mơ mộng quá so với truyền thống dân Anh mình đó. Ngay kinh thánh cũng chỉ nói: tới khi cái chết chia rẽ chúng ta thôi mà.

Cặp mắt màu xanh nhìn nàng chăm chú, chiếc miệng đầy đặn không hé một nụ cười. Chàng bảo nàng:

- Đê anh kê em nghe một câu chuyện này.

- Thơ mộng chứ hả anh!

- Nếu em thích. Chuyện về bà ngoại anh.

Nàng là con gái một nhà quý tộc đính hôn với một vị quận công. Cha nàng được bổ làm Đại Sứ tại triều đình Hoàng Đế thành Vienne và nàng theo cha tới đó. Nàng gặp - không ai biết rõ tại sao - một chàng trai Hungari. Chàng ta thật chẳng có gì hấp dẫn, là một tay cách mạng chàng còn thuộc sắc dân gypsy, một sắc dân thiêu số sống thành bộ lạc và nổi tiếng giang hồ. Cả hai yêu nhau. Và tới gần ngày thành hôn thì nàng đã có bầu. Nàng thổ lộ cùng người tình và anh chàng hân hoan ra mặt. Họ sẽ cùng bỏ trốn và sẽ sống một cách yên lành tại một vùng đất an bình. Nàng là của chàng và chàng là của nàng. Chàng tin tưởng nơi nàng và tình yêu của hai người. Nhưng nàng yếu đuối và lo sợ những gì sẽ xảy ra cho mình. Nàng thú tội cùng cha và ông ta đem chuyện kê lại với vị quận công. Vị này thì vốn rất thực tế. Ông ta quá nghèo dù là quận công, trong khi cha nàng lại rất giàu dù chỉ là một ông bá tước. Của hồi môn đã lớn lao của nàng bây giờ lại càng rộng rãi gấp bội. Hôn lê giữa nàng và ông quận công được cử hành như đã dàn xếp. Và cặp vợ chồng mới cưới đầy hạnh phúc cùng nhau tới sống tại một biệt thự yên tĩnh và hẻo lánh ở Thụy Sĩ. Đứa con chào đời ở đây là một bé gái. Mọi sự tốt đẹp hơn là mong đợi. Tương lai gia đình đã yên ổn và bây giờ tới lượt các cậu con trai.

Phải nói là đã tới lượt nếu nàng còn sống.

Cha nàng vẫn làm Đại Sứ. Hai vợ chồng nàng tới Vienne vào mùa xuân, gần đúng một năm sau khi nàng rời bỏ nơi này với người yêu. Thay vì ở tòa đại sứ, họ ở tại một căn nhà nhỏ dùng đê săn bắn trong rừng. Đây là nơi người tình của nàng đã từng bị gia nhân viên quận công bắt giữ. Giường của đôi vợ chồng kê ngay trong căn phòng nơi chàng trẻ tuổi bị hai người giữ chặt hai tay trong khi vị quận công đâm chàng tới chết. Ông này giấu vợ chuyện giết tình địch, định sáng mai sẽ kê, vì như mọi người thực tế khác, ông ta hãnh diện về óc khôi hài của mình. Bà quận công đi ngủ trước trong lúc ông chồng ngồi lại uống nốt ly rượu nho. Khi ông vào với vợ thì nàng đã chết giữa đám máu đông tuôn ra từ một vết dao găm nơi ngực.

Cynthia ngừng lại và tôi kêu cho bà ta một ly rượu nữa.

- Ghê quá, nhưng có vẻ không thật. Chắc nàng đã tự tử?

- Không. Tại sao nàng lại phải tự tử? Nàng đâu có biết người tình của mình đã chết. Chính trong ngày hôm đó nàng đã nhờ một người tớ gái dò hỏi tin tức của chàng. Yên ổn mọi bề rồi nàng lại muốn thêm một chút mơ mộng. Hơn nữa nàng là người rất sợ máu.

- Vậy chắc ông chồng đã giết nàng.

- Cũng không phải nữa. Vì có một điều khoản về của hồi môn định số tiền được giữ lại cho con gái nàng. Ông ta có bị nghi ngờ một thời gian, nhưng ông cũng thấy, không có dấu vết một con dao găm nào cả.

- Vậy thì...?

- Một vụ ăn trộm, cảnh sát kết luận. Một kẻ vô danh đã lén vào, bất chợt gặp bà quận công trên giường và giết bà ta đê khỏi bị lộ. Rồi bỏ trốn.

Tôi nhấm nháp ly rượu:

- Có vẻ có lý lắm.

- Tôi cũng đã nói như vậy.

- Thế ông ta - vị hôn phu của bà - không đồng ý à?

- Anh ấy là một người có máu gypsy chắc ông còn nhớ. Chính phần nhỏ này của tổ tiên đã ảnh hưởng mạnh tới anh ấy chứ không phải là những phần còn lại. Anh ấy đã sang Hungari tìm ra bộ lạc và sống với họ một thời gian, học biết dần những tín điều của họ. Một trong số đó là cái chết dữ sẽ giữ chặt linh hồn người quá cố tại nơi chết đã xảy ra. Và nếu nguyên do còn là mối tình lớn hay một hận thù vĩ đại, linh hồn đó có thê đòi đền bồi khi người đã gây ra ghé ngang qua đó. Đó là một thứ tin tưởng có một giá trị xã hội nào đó. Trong trường hợp sát nhân, kẻ tình nghi bị trói tại nơi án mạng. Việc sáng hôm sau thấy những tay này chết tại chỗ là chuyện thường tình.

- Cũng không có gì đáng ngạc nhiên lắm. - Tôi nói - Vậy theo ý ông ta thì ông cố tình trở lại trả thù người tình không trung thành? Và đâm chết nàng với một con dao vô hình nào đó?

- Phải. Anh ấy tin như vậy.

- Bà vẫn chưa cho tôi biết là tại sao bà lại sợ đi máy bay?

- Anh ấy là một phi công trong Không Lực Hoàng Gia. Đó là thời của những khinh khí cầu bay trên thành phố Luân Đôn. Một đêm anh ấy tấn công và bắn cháy một chiếc. Đó là một cuộc tấn công gan dạ vượt quá mức can đảm thường tình. Phải nói là liều lĩnh nữa. Anh ấy cũng bị rớt và cháy cùng kinh khí cầu. Họ truy tặng anh ấy huy chương Victoria Cross.

- Đến đây tôi vẫn chưa hiêu.

Bà ta chậm rãi:

- Anh ấy nói với tôi là tôi là của anh ấy, thuộc về anh ấy suốt đời và cả sau khi chết nữa. Khi anh ấy kê cho tôi nghe về ông ngoại và bà ngoại mình là có ý muốn nói sẽ tới tìm tôi nếu tôi phản bội. Và tôi đã phản bội thật.

Cặp mắt vẫn còn tuyệt vời của bà chăm chú nhìn tôi.

- Tôi cũng có thai. Một tháng sau khi anh ấy tử trận, tôi tự hiến mình và đứa con trai của anh ấy cho một người đàn ông khác.

Tôi phản đối:

- Làm sao bà có thê bảo đó là phản bội? Bà có trách nhiệm gì về cái chết của ông ấy đâu.

Bà ta nhún vai:

- Cái chết không thành vấn đề với anh ấy. Quan trọng là tình yêu và danh dự. Anh ấy đã dự phòng trường hợp mình qua đời, và hy vọng tôi sẽ nuôi con, sống như một góa phụ cho tới khi cái chết kết hợp lại hai đứa chúng tôi. Thay vì vậy tôi lại kết hôn và đó chính là một sự phản bội.

Tôi lắc đầu:

- Và bà nghĩ là vì vậy...

- Anh ấy chết trên không. Nên anh ấy có đợi tôi thì chắc là ở trên không. Tôi cũng có thê đối diện cái chết như bất cứ ai, nhưng không phải là trên một chiếc máy bay bốc cháy. Không phải chết đê kết hợp lại với anh ấy.

- Gần năm mươi năm trước - Tôi nói - và dựa trên một truyện truyền kỳ xưa hơn năm mươi năm nữa.

- Năm mươi năm có nghĩa gì? - Bà ta chăm chú nhìn hàng chai sau quầy rượu. - Tôi nhớ anh ấy rõ hơn là tôi nhớ ông sau khi chúng ta rời khỏi chiếc tàu này.

Chúng tôi từ biệt nhau ở Southampton, và không hy vọng gì sẽ gặp lại nhau. Quả vậy. Tôi trở lại làm việc. Thỉnh thoảng tôi có nhớ tới bà ta trong những giờ phút yên lặng ban đêm khi không ngủ được và tôi đi xuống nhà dưới tìm một chai rượu. Chính sự trớ trêu đánh mạnh vào tâm trí tôi nhất. Hai người gặp nhau trên một chuyến tàu chẳng có gì giống nhau trừ nỗi ám ảnh của cái chết. Một thì ước gì những người chết được an nghỉ nhưng sợ họ sống lại. Người kia thì sẵn lòng hy sinh tất cả đê những người đã qua đời được hồi sinh, nhưng lại biết là họ chết thật rồi.

Rồi tình cờ tôi thấy tên Cyathia trên mặt báo và đọc được bài tường thuật về cái chết của bà ta. Bà đã qua đời trong một căn phòng ở khách sạn. Theo bài báo thì có lẽ vì nằm hút thuốc trong giường rồi ngủ quên.

Nhưng Cynthia có hút thuốc bao giờ đâu và bà ta sợ mọi thứ lửa, ngay cả ngọn lửa của một que diêm. Chủ khách sạn chứng minh ngay là không có một sự sơ suất nào về phần họ. Mỗi tầng, mỗi phòng đều được bọc chất kỵ lửa, các đường dây điện không thê nào chê được. Và hơn nữa đây là một khách sạn vừa mới xây xong. Vậy mà bà ta lại chết cháy.

Vì Cynthia đã quên là sau năm mươi năm mặt đất đã cao dần tiến lên gặp gỡ bầu trời. Đó là một khách sạn rất mới, khách sạn Metropolitan Towers, và ngôi nhà này vượt lên hẳn khỏi đám mái ngói dầy đặc của thành phố Luân Đôn. Bốn mươi lăm tầng cả thảy và phòng bà ta ở tầng thứ bốn mươi hai. Khoảng 500 bộ. Tôi kiêm chứng lại trong tờ The Illustrate - London News cũ. Chiếc kinh khí cầu đã bị hạ và mất độ cao khi ông ta quay lại tấn công lần chót. Người ta ước chừng lúc đó vào khoảng 500 bộ...

Hồn Ma Báo Oán

Có lẽ những người ít bị gây ấn tượng nhất đôi lúc cũng cảm thấy những hiện tượng không nhìn thấy, đặc biệt là tại một thời điểm xác định, dường như có thế lực vô hình nào đấy tồn tại chung quanh.

Phải người chết vĩnh viễn rời xa chúng ta, hay họ vẫn ám ảnh cuộc sống chúng ta? Lý giải điều này là không tưởng, nhưng hồn ma người chết có thể lởn vởn quanh ta, và còn hiện hình làm cho chúng ta cảm tưởng như bị bắt quả tang. Họ xuất hiện với mục đích rõ ràng, để phù hộ hoặc đe doạta.

Vợ của Arthur Noakes là Edith, người hay ghen một cách ảo giác. Do chồng cô rất yếu đuối trước phụ nữ nên nàng thường ghen và phải chịu nhiều cay đắng, nhục nhã với những cơn đau tim khi còn sống.

Trước lúc lâm chung nàng thề độc rằng nếu Arthur cứ tiếp tục tán tỉnh phụ nữ và quan hệ chăn gối với họ, nàng sẽ trở về ám ảnh để ông không còn dám nhìn mặt bất cứ một phụ nữ nào. Những gì chưa thực hiện được khi sống cô hy vọng sẽ làm được từ cõi âm.

Arthur Noakes không quan tâm tới lời đe doạ của người vợ quá cố, ông nhanh chóng tìm kiếm một người đàn bà hấp dẫn. Arthur nghĩ rằng lúc này ông đã là người tự do và có thể hưởng thụ cuộc sống tự do đó đến khi cạn sinh lực. Có lẽ ông sẽ cưới vợ lần nữa. Vợ thì có ích, nhưng không kém những giờ phút buồn chán.

Là chủ cửa hàng vải và đồ tạp hoá duy nhất ở thị trấn nhỏ Sussex, Arthur có điều kiện lựa chọn rộng rãi trong số phụ nữ khách hàng, thế nhưng hầu hết người đẹp đều dửng dưng đối với đàn ông. Là người goá vợ nhưng đẹp mã, ông hy vọng sẽ có ngày thành công.

Chẳng bao lâu sau, con mắt thèm khát của ông chạm vào một quả phụ trẻ thường xuyên đến cửa hàng đăng ten và dải lụa, tuy sống cảnh sống goá bụa song nàng không làm mất nét đẹp tự nhiên và niềm tin yêu cuộc sống. Thế nhưng, khi Arthur tìm cách tán tỉnh thì nàng hơi lưỡng lự, nhưng đôi mắt xanh tuyệt đẹp lại cho thấy lời thúc giục chào mời.

"Ông Noakes, việc ông kiếm người đàn bà khác trong khi người vợ tội nghiệp của ông mồ chưa xanh cỏ, ông thấy có vội vã quá không?"

Arthur rùng mình lưỡng lự, nhưng sự nòng lòng chiếm hữu người đẹp đoan trang giả tạo này nhanh chóng xâm chiếm lòng ông. Arthur cũng nhận ra Mabel, nàng vốn xuất thân từ một gia đình nghèo túng điển hình, đơn giản là nàng đang đắn đo trước danh tiết của mình.

"Thưa cô yêu quý, tôi cảm thấy đã yêu cô từ lâu lắm rồi. Tình cảm của tôi lớn đến nổi tôi phải bộc phát, nghĩa là phải nói cho cô biết được. Nếu cô ngại dạo phố bên cạnh tôi - thật ra tôi đánh giá cao sự dè dặt đó - nhưng sao chúng ta không thể hẹn gặp nhau ở một nơi nào đó ngoài thị trấn để không ai nhìn thấy?"

Lúc này Mabel đang ngắm vẻ tao nhã của mình, đôi giày bấm khuy, chân phải đung đưa làm đỏm. Hy vọng càng tăng khiến ông càng sốt ruột khi dán chặt vào hai cổ chân mảnh mai, vào sự run rẩy của đôi gò má và sự bẽn lẽn trong nụ cười của người đàn bà goá.

Nàng ngước mắt nhìn ông. "Thế chúng ta có thể gặp nhau ở đâu để không bị phát hiện?" Nàng giả vờ xấu hổ khi hỏi ông câu ấy.

Arthur đã biết một nơi mà trước đây ông đã từng đến. Sống giữa cộng đồng dân cư ít ỏi này, sự bí mật đôi khi thật hữu ích để việc riêng thành công. Ông kể với Mabel về địa điểm ấy bằng giọng nói mơ màng và nàng đồng ý gặp ông tối hôm sau.

Nơi đấy quả là địa điểm thơ mộng, lý tưởng cho những đôi tình nhân, bên cạnh một chiếc cầu bắt ngang con suối chảy yên bình. Arthur đến trước và người tình mới không để ông phải đợi lâu. Niềm vui của ông được trọn vẹn ngay khi ông nhìn thấy cô gái qua cầu. Trước nay không mấy ai đi bộ qua đây, ngay cả vào những đêm hè mát mẻ này. Họ gặp nhau nhiều lần, hôn nhau, làm tình và không ngại bị quấy rầy.

Tối nọ Mabel đến muộn. Arthur sốt ruột, liên tục nhìn cây cầu chập chờn ánh đèn pha ô tô. Chuyện gì xảy ra nhỉ? Chẳng lẽ nàng cố tình bắt ông chờ để ông hăng hái hơn, hay nàng không đến được tối nay? Vừa lúc ông định đi về thì thấy bóng Mabel vội vã băng qua cầu.

Chợt nghĩ hay là cho cô ta một bài học, Arthur nấp sau gốc cây chờ đến tận khi cô tới nơi hẹn quen thuộc, ông nhẹ nhàng lại gần và đột ngột ôm gọn eo lưng thon thả của người yêu.

Arthur chợt rùng mình. Dường như Mabel tan ra hư ảo, đúng lúc đó cô quay mặt về phía ông. Kinh khủng qua - Arthur không tài nào hình dung được. Thay vì gương mặt tươi cười xinh đẹp, đôi mắt nhí nhảnh, đôi má hồng của Mabel, ông lại thấy gương mặt đã chết của vợ ông - trắng bệt như phấn, đôi mắt đờ đẫn đầy tử khí đang đe doạ ông khiến ông vô cùng sợ hãi. Arthur nhảy bật về phía sau, thét lên khiếp đảm.

Bóng ma chỉ một ngón tay cảnh cáo về phía ông rồi biến mất ngay trước mắt ông. Arthur bỗng nhớ lại lời nguyền trước phút lâm chung của vợ và ông vội vã bỏ chạy khỏi chỗ hẹn bằng đôi chân run rẩy.

Lên đến chân cầu, chạy được quãng ngắn, ông thấy Mabel đang đi về phía mình. Nhưng đó có phải cô gái goá trẻ đẹp hay hồn ma kinh dị giả dạng Mabel? Ông đợi trong nỗi sợ hãi, run lẩy bẩy, thở hổn hển sau cơn vận động quá sức vừa qua. Trong đời chưa bao giờ Arthur chạy nhanh như thế, và giữa bóng tối nhập nhoà ông không dám chắc thật giả cho đến khi cô gái đến gần.

"Anh sốt ruột quá phải không anh yêu?" Mabel cười nhẹ nhàng, hai tay ôm choàng lấy cổ ông, hôn nồng nàn.

Arthur thở phào nhẹ cả người vì thân thể cô gái có ấm ấp và ông ngửi thấy mùi nước hoa huệ quen thuộc của Mabel. Arthur run rẩy gỡ tay cô gái ra, ông chợt nhớ đến mùi mộ người chết và ngón tay cảnh cáo của hồn ma.

"Có chuyện gì thế anh Arthur? Người anh run quá. Anh giận em đến muộn phải không? Hay cái gì đó chụp vồ anh từ sau bụi rậm?"

Arthur cố lùi người ra xa, tránh né câu hỏi bằng cách tỏ vẻ khó chịu vì sự chậm trễ của người yêu. Ông hỏi việc gì đã khiến cô đến muộn.

"Em xin lỗi, Arthur ạ. Bà mẹ nuôi tới thăm nên em không thể nào bỏ bà một mình. Nhưng có gì đâu, giờ em đang ở đây. Chúng ta đến chỗ cũ ngồi đi rồi em sẽ kể cho."

Cử chỉ của người đẹp đầy quyến rũ. Nàng âu yếm ông đến nỗi nếu là ngày thường máu trong người ông sôi lên rồi. Nhưng tối nay ông run rẩy sợ hãi vì phải trở lại nơi đã gặp hồn ma của người vợ quá cố vừa hiện về đe doạ. Arthur đề nghị tối nay họ nên đi nghe hoà nhạc. Ông thích nơi vui vẻ, giải trí và nhất là vài giọt Scotch giúp ông quên đi cơn ác mộng vừa qua.

Nhưng Mabel nhất quyết từ chối đến bất cứ nơi công cộng nào với ông và khi ông không muốn thay đổi ý kiến thì cô nói rằng ông không còn yêu cô nữa. "Nếu anh tới nơi đó anh sẽ gặp bọn đàn bà cũng chỉ lăm le tới đó để tìm bạn tình, Arthur ạ."

Arthur giải thích rằng ông vẫn yêu cô nhưng Mabel mặc cảm và cố chấp, cảnh cáo nếu ông bỏ cô để đến lúc này thì cô sẽ không còn gặp ông nữa, điều này có nghĩa là tình yêu và sự âu yếm của cô không giữ nỗi khát khao và sự cần thiết đối với ông. Thế thì họ nên chấm dứt từ đây.

Nhưng Arthur vẫn sợ hãi, ông không tin là cô sẽ từ chối gặp lại nếu có lời đề nghị. Một việc mà ông chắc chắn nhất - ông sẽ không bao giờ dùng địa điểm trữ tình cạnh bờ sông để làm nơi hẹn hò nữa.

Arthur đến phòng hoà nhạc một mình và sau vài cốc rượu, trong không khí sôi động của âm nhạc, ông chỉ còn nghĩ chuyện vừa qua chỉ là tưởng tượng. Làm sao một người chết có thể hiện về như thế?

Sáng hôm sau Arthur thấy Mabel đến cửa hàng, nhưng lần này bên cạnh nàng là một chàng trai mới và nàng phớt lờ ông. Ồ, thưa bà quả phụ trẻ, nếu bà làm như thế thì tôi cũng sớm tìm người khác, một người hấp dẫn hơn và không sợ bị nhìn thấy ở nơi công cộng như bà.

Sau đó Arthur chọn một cô chồng còn sống nhưng ở trong hải quân, phải xa nhà quanh năm. Tên cô ấy là Alice. Nàng không đẹp nhưng dễ nhìn, có trái tim nồng cháy và thân thể rất khêu gợi. Alice thường mời ông đến nhà chơi.

Alice nấu một bữa ăn ngon, có cả bia và rượu gin. Nàng còn mời ông hút xì gà, có lẽ của chồng nàng, Arthur nghĩ thầm. Alice tự tay châm cho ông hút rất ân cần. Arthur ngã người xuống ghế, cảm thấy rất dễ chịu, khoan khoái. Alice ngồi bên ông, họ vuốt ve, âu yếm và hôn nhau. Lát sau nàng đứng dậy.

"Anh hút nốt điếu xì gà đi, còn em đi thay quần áo đây, Arthur." Mắt nàng nhìn ông khêu gợi, mời mọc. "Lúc nào xong em gọi anh lên nhé. Em biết là anh nóng lòng mà," ông đáp lại, "đừng lâu quá nhé em yêu."

Vài phút sau, Alice quay xuống, quần áo vẫn mặc trên người, nhưng là bộ quần áo khác, xung quanh nàng nhuốm bầu không khí lành lạnh, ghê rợn. Arthur đứng chồm dậy, điếu xì gà rơi xuống thảm, không còn tâm trí đâu để thấy nó đã bắt lửa cháy âm ỉ.

Một nỗi sợ hãi ập đến, không phải Alice đang đứng trước mặt ông, mà là hồn ma của Edith, gương mặt người chết nhợt nhạt nhìn ông. Mới vài phút trước Arthur còn đứng đây lòng tràn ngập hạnh phúc và thèm khát, còn giờ đây hai chân ông chôn chặt xuống sàn, cứng người vì sợ. Chợt hai cánh tay khô khốc, xương xẩu và lạnh lẽo ôm lấy cổ ông, hai con mắt nguyền rủa ông, từ hai vành môi xám xịt phun ra luồng hơi thối của cơ thể người chết đang phân huỷ.

Đúng lúc đó giọng nói nhẹ nhàng từ trên gác vọng xuống: "Anh lên được rồi đấy, Arthur yêu dấu." Bóng ma lại biến mất. Nhưng cảm giác hai cánh tay toàn xương vẫn đè trên cổ Arthur, mùi xì gà không át nổi mùi mộ và cơ thể người chết.

Arthur bị kích động. Ông chạy thoát ra ngoài mặc bóng người mời gọi ông đã xuất hiện trên cầu thang. Alice hốt hoảng thấy ông lao vụt ra, không kịp đóng cửa lại. Arthur chạy như bị ma đuổi sau lưng.

Cuộc tình ngắn ngủi với Alice chấm dứt ở đấy. Suốt cả tuần sau đó Arthur nằm nhà và tự an ủi bằng rượu Scotch. Cửa hàng gặp khó khăn vì ông bỏ bê công việc. Arthur nhận thấy không thể tiếp tục sống ở nơi này được nữa. Ông quyết định đóng cửa hàng và chuyển tới London. Ở thành phố lớn ấy, bóng ma Edith không còn ám ảnh ông và ông có thể bắt đầu cuộc sống mới. Công việc tiến hành thuận lợi khiến Arthur cảm thấy hạnh phúc và thoải mái hơn.

Arthur có hai cô trợ lý và cô nàng Mary Thompson đã nhanh chóng cuốn hút ông. Không bao lâu sau quan hệ của họ đi xa hơn quan hệ bè bạn.

Đôi khi nỗi ám ảnh cũ trở về đe doạ ông. Như cái hôm ông cùng Mary đi xem vở Vụ án mạng ở kho thóc màu đỏ. Đến cảnh người đàn ông rủ bạn gái vào kho thóc rồi giết cô khiến ông giật nảy người; quyển sách đang cầm trên tay tuột rơi xuống nền nhà. Mary đứng cạnh thấy người ông run rẩy. Arthur sợ hãi quay sang nhìn cô. Người bên cạnh có phải là Mary thật không? Hay Edith giả dạng để quấy phá ông?

Arthur nắm chặt bàn tay đang chìa ra, nó ấm và mềm mại. Ông cố gắng trấn tĩnh và an ủi Mary rằng tâm trạng ông đã ổn, có lẽ vừa rồi là do nhiễm lạnh và hơi mệt. Nhưng từ lúc đó ông luôn bị ám ảnh rằng hồn ma đáng ghét vợ ông đã theo ông lên London.

Vở kịch kết thúc, Mary đề nghị đưa Arthur về nhà, trên đường nàng ghé tiệm rượu mua thêm chai whishky.

"Anh cần một cốc rượu nóng và sữa," cô nói. Chừng nào anh uống hết em mới về.

Ngày thường Arthur sẽ vui vẻ chấp nhận, nhưng hôm nay ông sợ và tìm mọi cách xua đuổi nàng.

"Anh hứa là sẽ uống sữa nóng và whishky. Em không cần bận tâm quá, em rất tốt với anh, Mary thân yêu ạ."

Nói thế nhưng Arthur không từ chối mãi được. Ông mở cửa cho Mary vào, không quên quay lại sau lưng nhìn xem có bóng nào không. Ông bật bếp ga đun sữa. Mary thầm cười khi thấy ông hôm nay làm gì cũng vội vã, thậm chí ông quên cả việc hôn nàng từ khi họ vào nhà đến giờ; hiếm khi ông bỏ lỡ chuyện này lúc chỉ có hai người với nhau.

Đang hôn Mary thì Arthur giật mình khi nghe tiếng đập cửa dưới gác. Mary cũng nghe và nói có lẽ ông quên đóng cửa lúc vào nhà.

"Anh xuống khoá cửa lại đi," nàng nói. Arthur lưỡng lự.

Ông thấy ớn lạnh, nổi cả da gà. Chắc chắn ông đã khoá cửa cẩn thận lúc họ vào nhà nhưng làm sao có thể nói với Mary rằng ông sợ bóng tối và sẽ ngất đi nếu ông gặp hồn ma dưới tầng một.

Arthur vội vàng chạy xuống, nhanh chóng cho xong việc. Cửa vẫn đóng, ông run run cài thêm chiếc then cửa.

Bất chợt Arthur ngửi thấy mùi xác chết, ông hoảng hốt quay lại, khiếp sợ vì biết trước sẽ nhìn thấy gì. Vợ ông đứng ngay giữa đường đi, chặn đường lên gác của ông. Mặt nàng chuyển sang màu lục, hai gò má chảy nước nhờn kinh tởm, môi bị gặm gần hết khiến hai hàm răng nhô cả ra ngoài. Lúc hai cánh tay xương xẩu đưa lên cổ ông buộc ông phải nhìn thẳng vào hai hốc mắt sâu hoắm không còn con ngươi, sức chịu đựng của ông đã cạn.

Đúng lúc đó Mary gọi ông trên gác, bóng ma biến mất còn Arthur thì run rẩy đến mức làm cho các cơ thịt méo xệch đi, buồn mửa vì mùi xác thối vừa hít phải. Khi Mary thấy ông thì nàng cũng chết khiếp: thân thể Arthur trắng bệch, run run liên tục.

Việc duy nhất mà Arthur muốn lúc này là rời xa tình nhân ngay lập tức. Nhưng Mary quá sốt sắng, bắt ông phải đến ngồi bên lò sưởi và đưa cho ông sữa nóng cùng rượu whishky. "Chắc anh vừa trải qua một cơn sợ hãi kinh khủng, Arthur thân yêu, vì thế em nghĩ anh nên nằm tịnh dưỡng cả ngày mai cho khoẻ. Tụi em có thể quản lý cửa hàng được, lúc nào rảnh em sẽ đến thăm anh ngay."

Lời đề nghị chân tình của Mary lại khiến Arthur cảnh giác. Edith đời nào chấp nhận chuyện đó! Hồn ma đó trở về doạ ông lần nữa thì ông chết mất. Vậy thì chẳng còn cách nào khác hơn là Mary phải ra đi, nhưng ông chưa biết nói với nàng thế nào.

Cuối cùng Mary cũng ra về, Arthur lên giường nhưng giấc ngủ mệt nhọc đôi khi bị ngắt quãng bởi những cơn ác mộng hãi hùng. Người vợ quá cố cùng ngủ trên giường với ông, mùi xác chết không tan khỏi khứu giác ông. Hai cánh tay xương xẩu nặng nề vắt ngang ngực ông khiến ông thở nặng nhọc. Arthur không thể ngồi dậy dù cố bao nhiêu đi nữa. Một sức nặng vô hình đè chặt không cho ông thoát. Arthur vật lộn mãi với nó, cuối cùng rồi cũng thức dậy, nhưng lúc nào không biết.

Sáng hôm sau Mary khóc sướt mướt khi ông viện đủ lý do để chấm dứt mối quan hệ nửa vời của họ. Arthur thương hại tình nhân nhưng ông không làm khác được. Edith là người thắng cuộc. Lời nguyền của cô ấy trước lúc chết đã trở thành sự thật. Arthur không tránh được hồn ma.

Dạo này ông thường bỏ bê công việc ở cửa hàng, và đến quán rượu liên tục. Arthur hay về muộn, say mèm. Mary cảm thấy ái ngại. Cô gái tốt bụng thuê về một nhân viên trẻ, nhưng hắn tỏ ra không thích hợp. Arthur cũng không quan tâm. Hồn ma Edith cũng không còn về doạ ông nữa nhưng sức khoẻ Arthur yếu đi thấy rõ. Ông ăn ít, uống nhiều.

Một buổi sáng chủ nhật, Arthur đi lang thang rồi lạc bước vào nhà thờ. Nơi đây vắng lặng chỉ có... bóng ma Edith. Một Edith trẻ tuổi như hồi họ mới cưới. Nàng đề nghị ông đi theo ra nghĩa địa. Arthur sốt sắng cất bước xiêu vẹo đến bên mộ Edith.

Đứng cạnh mộ đá ẩm ướt, Edith giang rộng hai tay và Arthur lao vào vòng tay ấy như đứa trẻ sà vào lòng mẹ. Hai cánh tay vừa khép lại thì bộ mặt Edith ông nhìn thấy lần cuối cùng hiện về - vẫn hai gò má chảy rửa, hốc mắt rỗng sâu hoắm. Tim ông co thắt dữ dội, cổ họng bị nghẽn không thở được. Giống như cơn ác mộng ông phải chịu đựng bấy lâu nay, nhưng không phải giấc mơ, vì ông cảm thấy rõ ràng những giọt nước mưa - hay nước mắt - ướt nhoà mặt ông.

Sáng hôm sau, người ta tìm thấy xác Arthur nằm ngang mộ vợ. Họ không nhận ra ông nếu không tìm thấy chiếc ví ở trong túi. Arthur được chôn cất cẩn thận ngay cạnh ngôi mộ của vợ. Bạn bè đều nghĩ ông muốn gần vợ ở thế giới bên kia.

Về sau, nhiều người đồn rằng Arthur hiện về và tổ chức họp mặt, trình bày rõ nguyên nhân cái chết năm xưa. Không ai dám chắc điều đó là sự thật...

Nụ cười của người đã chết

Bert có một tính rất khó chịu, lúc nào cũng cười được, khiến nhiều lúc tôi rất ghét. Trong mười lăm năm chung sống với anh ta, phải có tới mười hai lần tôi tính đến chuyện giết anh ta. Tuy nhiên, tôi chưa thực hiện, bởi cũng không thể giết người nếu không có cớ gì hết. Nhưng rồi Bert đã tạo cho tôi một cái cớ.

Tối hôm ấy, anh ta về đến nhà, mặt cau có:

- Betty, hôm nay anh gặp một chuyện xấu xa. Jack biển thủ một số tiền của Hội! Sáng mai anh sẽ tố cáo với cơ quan cảnh sát.

Tôi giật bắn người. Jack là nhân tình của tôi. Anh là thư ký riêng cho Bert và được Bert trả lương hậu hĩ. Nhưng Jack thích tiêu xài. Nói cho cùng, đây là lỗi của Bert. Nếu như Bert không bủn xỉn thì tôi đã có đủ tiền để cho Jack số anh ấy cần.

- Nếu vậy anh ta sẽ ngồi tù mất - tôi kêu lên - Nhưng chiều chủ nhật anh đã đi Mehicô. Nếu anh làm cho Jack bị bắt ngày mai, thì trong hai tuần anh đi vắng, văn phòng Hội sẽ bàn tán chuyện này và anh lại không có nhà để thanh minh. Tốt nhất là để đến hôm anh về đã.

- Em nói chí lý - Bert nói rồi ôm bụng, nhăn mặt. Từ lâu anh đã bị đau dạ dày vì ăn uống không chịu giữ gìn - Thôi được, để hôm nào đi Mehicô về anh sẽ tố cáo cũng được.

- Từ nay đến hôm đi, anh đừng tỏ vẻ gì để Jack nghi, đúng không, Bert?

- Cũng lại rất chí lý. Em nói bao giờ cũng đúng - Và anh cười toe toét. Bert có thói lúc nào cũng cười được, dù chuyện chẳng đáng cười chút nào hết. - Thôi, anh đi ngủ đây. Tối mai lại có buổi chiêu đãi lớn. Và sẽ có mặt Gordon mới thú chứ!

Gordon là nghệ sĩ hề nổi tiếng, chuyên dẫn chuyện trên đài Tryền hình, chương trình hài hước: "Cứ tìm đi, bạn sẽ thấy!". Bert rất mê ông ta và không bỏ một buổi trình diễn nào của Gordon.

Bert lên gác rồi, tôi ngồi lại một mình trong phòng khách. Ôi, Jack yêu quý! Anh ấy cao lớn, đẹp trai và biết cách đánh thức dậy mọi dây thần kinh, mọi thớ thịt của tôi. Bert lại hay phải đi công việc ở nơi xa, cho nên Jack càng có nhiều dịp bù lại cho tôi những thời gian tôi phải chịu đựng với lão chồng vô duyên. Nếu Jack phải ngồi tù thì tôi mất đi niềm sung sướng tột cùng ấy. Chưa kể rất có thể Jack sẽ nói ra hết mối quan hệ dan díu với tôi để kiếm tìm lòng khoan dung của Bert. Khi ấy, dứt khoát Bert sẽ tống cổ tôi ra vỉa hè và tôi sẽ lại không có đồng xu trong túi y hệt hồi chưa lấy Bert.

Tôi nhấc điện thoại gọi cho Jack:

- Anh yêu - tôi cố nói rất khẽ - Tối mai anh đến em nhé. Bert phải đi dự chiêu đãi. Em có chuyện cần bàn với anh. Không, đừng hỏi em chuyện gì. Chỉ biết là rất hệ trọng. Rất, anh nghe rõ chưa? Rất hệ trọng cho hai chúng ta! Thôi, gặp nhau em sẽ nói.

Tôi đặt máy xuống trước khi Jack kịp hỏi thêm. Sau đấy, tôi ngồi vào bàn ghi ra giấy những suy nghĩ của tôi. Tôi có kinh nghiệm muốn suy nghĩ rành mạch, tốt nhất là ghi ra giấy rồi nhìn vào đó mà cân nhắc. Gạch xóa, thêm bớt một lúc, tôi đã vạch xong kể hoạch mà tôi tính sẽ thi hành vào tối Chủ nhật, là buổi tối theo dự tính, Bert sẽ ra ga để đáp máy bay đi Mehicô.

Tôi xé vụn mảnh giấy vứt vào giỏ giấy lộn rồi đi ngủ.

o0o

Đã đến chủ nhật. Chiều nay Bert sẽ ra ga xe lửa để ra thành phố, đáp máy bay đi Mehicô. Cũng sắp là lúc chấm dứt cuộc đời của anh ta. Tất nhiên Bert chưa biết gì hết, vẫn cười toe toét và đùa giỡn, kể chuyện tiếu lâm cho vợ nghe rồi lại tự mình cười rũ rượi.

Tôi làm bữa ăn tiễn chồng lên đường và Bert mời cả Jack để làm như không có chuyện gì. Tuy thỉnh thoảng Bert ôm bụng đau đớn, nhưng chỉ lát sau, đỡ đau, anh ta lại làm trò và cười vang. Anh ta kể cho tôi và Jack nghe về cuộc gặp với nhà hài hước nổi tiếng Gordon hôm trước cùng những câu nói cực kỳ hóm hỉnh của ông ta.

Jack có vẻ hồi hộp. Mồ hôi đổ trên trán và bàn tay anh nhiều lần run lên. Nhưng Bert không nhận thấy gì hết. Lát sau, Bert nói:

- Tôi xuống lấy xe đem ra đỗ ở cửa nhà nhé? Cẩn thận thế kẻo đến lúc nổ máy lại tắc tịt thì gay.

Anh ta cười lớn và lúc đã ra ngoài, tôi còn nghe thấy anh ta tiếp tục cười. Đúng là mình vớ phải thằng chồng vô duyên! Jack ngồi lại, thấm mồ hôi trán, nói giọng lo lắng:

- Betty! Chẳng lẽ không còn cách giải quyết nào khác nữa à? Ý anh muốn nói là nếu anh ngồi tù thì nhiều lắm cũng chỉ một năm thôi. Mà nếu anh nói khó với Bert thì có khi không phải ra tòa ấy chứ. Bert xưa nay tính tình rộng rãi, dễ tha thứ cho người nào tỏ ra ân hận.

- Anh yêu, em hiểu anh đang băn khoăn. Nhưng anh chưa biết lão chồng em đấy thôi. Lão thâm lắm. Lão không tha thứ đâu. Lão sẽ bắt anh phải chịu hình phạt cao nhất. Và khi anh đã ra tù, lão cũng còn tiếp tục trả thù. Với lại anh phải nghĩ đến em chứ. Dù một năm thôi em cũng không sao chịu nổi.

Tôi ôm anh. Hai đứa hôn nhau một lúc lâu, đê mê. Lúc buông tôi ra, Jack nói:

- Thôi được. Vì em, anh dám làm mọi thứ. Vả lại, cũng không còn cách nào nữa thật.

- Anh yên tâm, anh yêu. Em đã trù tính cặn kẽ cả rồi.

Bert quay lên. Tôi đã tập cách giấu kín tình cảm nên anh ta không biết gì hết.

- Em nhét lọ thuốc dạ dày vào vali của anh rồi chứ, Betty?

Tôi gật đầu và chợt nhìn thấy có vết bẩn trên áo, chắc là lúc ôm tôi hôn, trên tay đang cầm ly, Jack đã làm sánh rượu ra.

- Ôi, em phải thay áo mới được!

Nói xong, tôi chạy lên gác thay áo. Lúc tôi xuống thì Bert và Jack đã ngồi trong xe. Bert đang kể cho Jack nghe về một thư ký của anh ta ngày trước do thụt két đã phải ngồi tù sáu năm. Tôi biết Bert phịa, cốt để dọa Jack. Càng hay! Càng làm Jack quyết tâm giết Bert hơn.

Tôi cầm tay lái. Bert ngồi ghế trước bên cạnh tôi, còn Jack ngồi ghế sau. Dọc đường Bert liên tiếp kể chuyện tiếu lâm và ca ngợi tài hài hước của ông Gordon. Và chỉ mỗi mình anh ta cười ầm lên. Jack chỉ hơi mỉm cười, chắc trong lòng đang rất hồi hộp không còn bụng dạ đâu nghe chuyện hài hước.

Gần đến ga xe lửa, đến một chỗ hai bên là cánh đồng trống trải, tôi đỗ xe lại.

- Xe làm sao à? - Bert ngạc nhiên.

- Không, - tôi đáp - Nhưng hôm nay trời đẹp, ta ngắm phong cảnh một chút. Còn sớm. Cứ bao giờ thấy tàu đến, ta ra ga cũng kịp. Nghe báo tàu bao giờ cũng đến trễ, nửa giờ là ít.

- Em nói đúng, Betty! - Bert nói - Ôi anh nhớ lại một chuyện hài hước. Có một thằng cha chuyên môn nhỡ tàu, một hôm y...

Tôi không nghe. Tôi ngán đến tận cổ cái thói kể chuyện hài hước của anh ta rồi. Bỗng hai luồng sáng lóe lên từ phía xa. Tàu đến.

- Đi đi, em! - Bert giục.

- Đúng. Jack! - Tôi ra hiệu lệnh. Jack liền cầm khúc ống nước bằng kẽm quật mạnh lên đầu Bert. Bert thét lên, quay đầu lại nhìn, nhưng Jack quật luôn một đòn nữa và Bert gục hẳn. Tôi không ngờ chóng vánh đến thế. Đột nhiên, Jack kêu lên hoảng hốt.

- Ông ta chưa chết!

Tôi lắng nghe và đúng là có tiếng khò khè từ cổ họng Bert thoát ra, nhưng tiếng rên đã rất yếu. Tôi nói:

- Nhưng chỉ một lát thôi.

Đúng thế. Chỉ lát sau tiếng khò khè đã hết. Máu chảy xuống nệm, nhưng tôi đã chuẩn bị để sẵn một tấm khăn bông dày. Tôi lấy tấm khăn khác trùm lên đầu Bert, ấn đầu anh ta thấp xuống để người bên ngoài xe có ngó vào cũng không thấy.

- Đến ngôi nhà có ma! - Tôi nói và nổ máy. Vài phút sau, tôi quặt xe xuống con đường nhỏ và đi vào bãi lầy.

Chẳng là ở đây có một ngôi nhà tồi tàn giữa một khu vườn rộng, thuộc sở hữu của Bert. Đã có thời hai vợ chồng sống ở đây. Ngôi nhà có ma cho nên ít lâu sau tôi đòi Bert phải rời nơi đó. Từ đấy, ngôi nhà vẫn bỏ hoang và bây giờ đổ nát rất thảm hại. Trận bão năm ngoái lại làm đổ một cây to, rơi xuống đúng mái nên trông bây giờ càng thảm thương.

- Ta đào hố dưới tầng hầm chôn lão. Em có mang theo thuổng và cả cào để cào cho phẳng nắp mộ rồi.

Tôi đỗ xe, lôi xác Bert ra để tạm ngoài vườn, rồi dẫn Jack vào nhà. Lúc Jack đào xong huyệt, chúng tôi ra định khiêng xác Bert vào thì không thấy anh ta đâu. Chúng tôi hoảng hốt tìm xung quanh. Đột nhiên, Jack kêu lên:

- Nhìn này, Betty!

Tôi cúi xuống, thì ra một vỏ bao thuốc lá.

- Hay vừa có người đến đây và đưa Bert đi? - Jack hốt hoảng nói.

Tôi xem kỹ bao thuốc, bao ẩm và rõ ràng là bị vứt đây đây đã khá lâu.

- Nơi này thỉnh thoảng vẫn có người đến cắm trại chơi vì là hơi vắng vẻ. Nhất là mấy cặp nhân tình, mò đến đây cho kín đáo, có vậy thôi. Không có ai đến hết.

Chúng tôi tiếp tục tìm. Bỗng dưới ánh sáng chiều tà lúc trời sắp tối, tôi thấy một bụi cây động đậy. Tôi vội chạy đến. Bert trong đó, đang bò rất vất vả.

- Betty yêu quý - anh ta nói thều thào - Việc em làm vừa rồi đúng là hài hước. Nhưng anh chưa chết hẳn. Em phải làm lại vậy - rồi anh ta cười nhe cả răng.

Nhưng cũng đúng lúc ấy, anh ta giẫy một cái rồi bất động. Hai mắt nhắm lại, lăn ngửa ra đất. Tôi sờ mạch. Bây giờ thì Bert đã chết hẳn. Chúng tôi khiêng anh ta vào nhà, đưa xuống tầng hầm. Jack run lẩy bẩy. Anh ta rất sợ. Lát sau, chôn Bert xong, chúng tôi ra xe. Jack nhấc chai rượu tu một ngụm. Chúng tôi ra ga. Jack đem gởi va li của Bert và cặp giấy tờ vào ngăn "gửi hành lý". Làm thế, đến khi phát hiện Bert mất tích, cảnh sát sẽ nghĩ rằng Bert ra ga sớm, gửi hành lý để đi uống gì đó và mất tích ngoài phố.

o0o

Hôm đó là Chủ nhật. Mọi sự trót lọt một cách quá đơn giản. Nhưng đến ngày thứ ba, tôi nhận được một lá thư của Bert, đóng dấu bưu điện ngày thứ hai. Chỗ tên người gửi đề:

"Người đã quá cố Bert Willoughby. Tầng hầm. Ngôi nhà có ma."

Vậy là sao? "Quá cố" có nghĩa anh ta đã chết! Tôi luống cuống bóc phong bì. Và đây là nội dung lá thư:

"Betty thân yêu,

Chào em. Thay mặt những người đã chết, anh chào em và khen ngợi vụ giết người đầu tiên của em trên đời. Em là cô gái thông minh và can đảm, nhưng vì là lần đầu, chưa có kinh nghiệm, nên em làm chưa gọn lắm. Anh rất cảm ơn em là đã chấm dứt cho anh nỗi đau đớn liên miên.

Đau đớn gì à? Anh bị ung thư dạ dày và chỉ vài tuần nữa anh sẽ chết. Anh không nói với em vì nghĩ cũng chẳng để làm gì. Anh muốn được chết cho mau để khỏi phải chịu nỗi đau đớn kéo dài, mà đằng nào rồi cũng chết.

Anh biết em với Jack đã phản bội anh từ lâu và nhân dịp này anh tạo điều kiện cho em có cớ để giết anh. Anh phóng đại chuyện cậu ta ăn cắp tiền của Hội. Anh nghe lỏm điện thoại em gọi cho cậu ta. Anh cũng nhặt những mảnh giấy em tính toán kế hoạch giết anh mà em xé vụn và chắp lại để đọc. Anh rất mừng thấy kế hoạch của em chu đáo.

Lúc ra xe, thấy Jack vẫn còn ngập ngừng, anh đã bịa ra câu chuyện tên thư ký của anh biển thủ tiền công quỹ và bị tù sáu năm để khích cậu ta.

Cảm ơn em lần nữa, em yêu quý. Gởi lời hỏi thăm Jack.

Yêu em. Bert."

Tôi đang đọc đi đọc lại lá thư để hiểu hết ý nghĩa thật của nó, thì có tiếng gõ cửa. Cảnh sát vào và yêu cầu tôi đến Tòa án để quan chức ở đó thẩm vấn về cái xác của ông Bert Willoughby. Tôi sửng sốt và kinh hoàng. Tại sao họ lại biết được? Hay Bert, "người quá cố" đã gửi thư cả cho họ?

Thì ra trước hôm đi, Bert đã năn nỉ một quan chức cảnh sát hãy cố gắng xem chương trình "Hãy tìm và bạn sẽ tìm thấy" trên truyền hình vào tối thứ hai. Trong đó, ông Gordon nhà hài hước sẽ kể một câu chuyện tiếu lâm có nói đến một cái xác vô thừa nhận chôn dưới tầng hầm của "ngôi nhà có ma" gần con đường ra ga xe lửa!

Sau này, trước khi ra Tòa chịu án cùng với Jack, tôi còn được biết là chính Bert trước khi "đi Mehicô" đã khẩn khoản yêu cầu nhà hài hước diễn tiết mục đúng như Bert đã viết và đưa vào chương trình của ông tối Thứ hai! Và, tất nhiên lá thư cho tôi anh ta cũng viết từ trước và nhờ ai đó chiều thứ hai mới bỏ vào thùng thư!

Tấm mạng

Vừa điểm sáu giờ, đang ngon giấc tôi trở mình định ngủ thêm, thình lình có chuông reo inh ỏi kèm theo vài tiếng đập cửa nặng nề. Tôi chợt nhớ hôm qua có dặn người lái xe ba bánh đến sớm mang hành lý của tôi xuống tàu đi New York. Lồm cồm bò dậy, chập choạng ra mở then cửa, gió lạnh buốt ùa vào phòng, tôi phải dậm chân cho ấm.

Anh xe ba bánh ngả mũ chào tôi, nói mừng rỡ:

- A, nhà ông đây rồi.

- Chào ông bạn - Tôi đáp lại.

Va ly, rương, cặp của tôi được chuyển vào xe ba bánh. Rửa mặt mũi xong, tôi khoác vội chiếc áo rét lên người rồi cùng anh phu xe đi ra ngoài đường.

Gió lạnh buốt, tôi nâng cổ áo lên che mũi để giữ hơi nóng.

Phố xá còn vắng tanh và ẩm ướt, đèn đường mờ mờ, lác đác ngoài đầu ngõ một xe đưa sữa, cuối hẻm một chị sen ra đổ rác.

Hình ảnh rất quen thuộc với tôi vì tôi luôn nay đây mai đó, sự ẩm ướt của đường phố cũng là ẩm ướt của tâm hồn tôi.

Còi tàu ré lên làm nhức óc, cầu tàu nhộn nhịp xe, hàng quà bánh, tiếng người lào rào. Hành lý đã mang lên xe xong, tôi ngồi hàng ghế sát boong tàu để tiện kiếm xem những ai lần này là người bạn đường của tôi.

Dân đi tàu hau háu nhìn nhau như cú vọ, đầy nghi ngờ vì người nào cũng sợ mất cắp. Rất khó bắt chuyện và cũng rất khó đổi chỗ.

Hết lớp này đến lớp khác, người người lên boong tàu mỗi lúc một thêm chật.

Trầm ngâm về thân thế giang hồ của tôi, khôn ghiểu sao tôi rất ghét ở hoài một chỗ, lúc nào tôi cũng sẵn sàng muốn đi, hình như chẳng bao giờ tôi bắt gặp điều mà tôi muốn theo đuổi.

Chợt một tiếng gọi thật trong trẻo êm nhẹ: "Ba!" là tôi sửng sốt. Tiếng gọi thật rõ ràng ở ngay bên tai tôi, gần lắm, nghe ngọt ngào tràn đầy âm hưởng. Tôi quay ngoắt lại mong thấy người có cái giọng nói kỳ diệu ấy, nhưng chẳng thấy một ai. Bên cạnh tôi là một con mụ mập, từ lúc lên tàu đến giờ, mụ ta ngốn gần hết rổ đậu phộng, mụ cười cúc cúc, dĩ nhiên mụ ta không thể có cái giọng êm đẹp như vậy. Còn mụ ốm o ngồi bên trái tôi, tiếng the thé càng không phải. Vậy ai nói mà tiếng nói ngay bên tai tôi, chẳng lẽ lại là tiếng nói của cô bé má đỏ ửng đang ngồi mơ màng ở gần ca-bin.

Tôi quyết khám phá cho ra. Tôi rời ghế, đứng dậy lững thững đi dọc theo khoảng trống của boong tàu. Qua mặt đám học sinh về nghỉ lễ, tôi bắt gặp một đôi mắt khoằm khoằm của một bà giám học. Mây người đàn bà tụm lại góc này, nhóm đàn ông cười sằng sặc góc kia, tuyệt nhiên chătng thấy dấu vết giai nhân nào đó tiếng êm đềm như suối mát. Nàng ở đâu?

Thằng bé bán báo chạy ngang qua mặt tôi rao lanh lảnh: "Báo mới đây! Báo mới đây!".

Tiếp ngay đó giọng nói êm ái kia lại thì thào bên tai tôi:

- Thưa ông, thưa ông. Ông dẫm lên áo tôi rồi!

Tôi cội chuyển người và lùi lại một bước, thì ra chân tôi dẫm lên áo nàng lúc nào mà tôi không hay.

Má tôi đỏ bừng lên, cúi xuống xin lỗi nhiều lần. Sở dĩ tôi cố cúi thấp xuống là cốt để xem mặt nàng, nhưng không thể nào nhìn thấy vì tấm mạng đen từ chiếc mũ xinh xắn phủ xuống quá chùng che phủ hết.

Nàng khẽ gật đầu đáp lễ. Cả hai đang dùng dằng chưa tiện quay đi thì một ông cụ dáng dấp quý phái đến gần chúng tôi nói:

- Tất cả đã xếp đặt xong đâu đấy rồi. Adela, chúng ta hãy xuống phòng nghỉ ngơi đi.

Vừa nói ông cụ vừa đưa cánh tay cho nàng vịn, vừa ném sang tôi nét nhìn dò xét xem thằng quỷ nào đây. Thế là cả hai bỏ tôi đứng trơ đó.

Tàu chuyển động, máy chạy ầm ầm, neo kéo, sắt va chạm vào nhau kêu loảng xoảng. Theo với sóng nhấp nhô, các khuôn mặt hành khách dài ra, vẻ nôn nao khó chịu nên không còn vui thích cười đùa như trước.

Giọng nói êm nhẹ như có ma lực quyến rũ khiến tôi khắc khoải nôn nóng chạy theo hình bóng nàng. Tôi sục sạo khắp tàu, cuối cùng tôi thấy cặp ấy đang đứng trò chuyện, cả hai tì tay vào thành tàu bụi sóng bay qua đầu. Tôi chăm chú nhìn họ, nhất là nàng để mong có dịp tìm thấy làn da hồng mịn, hay bàn tay nà nuột, nhưng tôi không tài nào tìm nổi. Chiếc mạng quái ác kia vẫn che kín khuôn mặt, gió có bay chỉ thoáng thấy cổ nàng trắng xanh, tay nàng đi găng, chân nàng nằm gọn trong đôi giày nhỏ nhắn. Tôi chỉ có thể nhìn dáng nàng uyển chuyển như hơi sương lay động, nhưng lúc nàng đi lại lộ ra vẻ nặng nề của một người yếu chân, tay ôm chặt cánh tay người quý phái vẫn dìu nàng. Tôi đoán chừng rất có thể người con gái bị hơi thọt chăng. Tôi cho như vậy càng tăng thêm niềm xót xa cho nét kiều diễm của nàng, cũng chẳng sao. Bỗng dưng tôi cảm thấy yêu nàng tha thiết và mong nàng cũng chấp nhận tình yêu của tôi. Tuyệt biết bao nếu đôi mắt ngước lên nhìn tôi tin cẩn, trìu mến, nàng sẽ vịn vào tay tôi, thỏ thẻ nói với tôi bằng một cái giọng êm nhẹ nghe du dương ấy.

Biết đâu hạnh phúc chẳng bất ngờ rơi xuống đầu tôi. Tim óc tôi quay cuồng với những ý nghĩ làm thế nào tôi được ngồi bên nàng qua một bữa ăn điểm tâm, ngẫu nhiên làm thế nào gợi chuyện cho thân mật để nàng tháo tấm mạng che dành cho tôi đặc ân chiêm ngưỡng sắc đẹp cao sang kia. Tôi cảm thấy bây giờ tôi cuồng nhiệt say mê như một chàng trai mê mệt một giai nhân tuyệt thế mà chàng ta đọc ở trong sách, chàng ta lao vào mọi nỗi gian quyết đoạt cho được tình yêu, mãi đến khi tìm thấy thiên đàng thì đã quá muộn.

Chỉ có mộng mới được như vậy, mà bây giờ nó đã biến thành sự thật trước mắt tôi. Với kẻ giang hồ sương gió như tôi, hơn bốn mươi tuổi đời, tôi không khi nào bị huyễn hoặc bởi những giấc mộng hão huyền.

Dày dạn, tôi thường quan niệm cuộc đời này chẳng khác chi một tổ kiến lúc nhúc những con sâu ti tiện bẩn thỉu. Hạnh phúc, mỗi lần ai nhắc tới nó, tôi vẫn cười lên sằng sặc, rồi dùng cái triết lý lịch lãm của tôi để chế giễu. Vậy mà bây giờ, tôi đâm ra yêu đời, tôi không hiểu sự gì đã thúc đẩy tôi có thái độ lệch lạc này. Tôi chỉ biết lòng tôi lâng lâng với thi điệu nhảy múa trong mộng vàng. Mọi vật đều thay đổi màu sắc, mọi người chung quanh mà mấy ngày trước đây tôi coi khinh như cỏ rác thì nay biến thành những hình ảnh đáng yêu. Nàng kiều diễm, thần tượng của tôi, đã có phép màu nhiệm làm thay đổi hết.

Đinh đoong, đinh đoong. Băng! Băng! Băng! Và một chập còi ré lên làm tôi giật mình. Người người nhốn nháo. Tàu đã đến Burlington.

Thuyền trưởng ra lệnh sửa soạn bỏ neo và thông báo cho hành khách.

Lẫn vào đám đông, tôi lẻn đến chỗ nàng đứng giả vờ bận bịu thu xếp hành lý, nhưng thật ra tôi chăm chú nghe giọng nói ngọc rơi tuôn ra từ đôi môi mọng đẹp như nụ hồng của nàng.

- Chúng ta xa nhau ở đây.

Nàng nói hơi run, vẻ cảm động, âm điệu trầm bổng.

- Ba rất ân hận, vì công việc ba không thể thiếu vắng ở New York đêm nay - Người quý phái đứng tuổi buồn rầu đáp.

Ông cụ hơi bực bội khi nhìn thấy tôi nên vội giục nàng:

- Thôi Adela ơi, xuống mau đi kẻo tàu chạy lại nhỡ.

Hai cha con nàng tay mang tay xách chen chúc theo làn sóng người xuống bến. Nàng đi sát qua mặt tôi, chiếc mạng đụng vào môi tôi làm tôi điếng cả người. Qua câu chuyện tôi được biết nàng đến thăm bạn bè ở Burlington, một tỉnh nhỏ ven bờ biển có những ngôi nhà nghỉ mát thơ mộng với mái ngói đỏ chót dưới ánh nắng.

Tôi tặc lưỡi tự nhủ:

- Mình cũng xuống đây luôn, không lẽ mình đã tìm thấy hạnh phúc nơi đây rồi còn bỏ đi đâu nữa.

Tôi trông với theo để ngắm chừng nàng khỏi mất hút, tất tưởi vơ hành lý xuống Burlington, không đi New York nữa.

Dẫy xe ba bánh xếp hàng dưới bến, các phu xe đua nhau co kéo du khách. Một anh mời tôi, tôi bằng lòng ngay. Anh ta xách hành lý của tôi quăng lên xe, ngẫu nhiên cũng chính xe anh này lại chở luôn hành lý của người đàn bà xa lại tôi đem lòng yêu.

Tàu lại rời bến, nàng đứng vẫy tay từ biệt cha cho đến lúc con tàu mỗi lúc một xa chỉ còn là cái chấm nhỏ mà thôi.

Trời nhá nhem tối, rặng cây phi lao rì rào với gió. Nhà nàng không cách xa bến tàu bào nhiêu, quặt vào một ngõ hẹp, tối và khuất, trông hoang vắng. Nhưng căn nhà thì lại rất xinh xắn, nàng bảo anh phu xe bỏ hành lý xuống trước cổng nhà.

Không bỏ lỡ cơ hội, tôi cũng cho người phu xe địa chỉ khách sạn cho anh mang hành lý của tôi tới đó trước.

Giờ đây chỉ còn tôi và nàng và thôi. Tôi bạo dạn tiến đến gần nàng, trống ngực tôi đập mạnh, hơi thở tôi hầu như bị ngắt ra từng khoảng. Nàng vẫn im lặng đứng ở cổng vẻ chờ đợi, những lời tôi bắt chuyện nàng hầu như không nghe. Tôi càng ngạc nhiên vì trong nhà chẳng thấy có bóng người, ngay cả tiếng chó sủa.

Bóng tối chụp đen xuống, sương mù làm nhạt hẳn ánh đèn đường. Bỗng nàng tiến sát hẳn đến bên tôi, khúc khích cười, từ từ đưa tây lên vén tấm mạng che mặt ra. Trời ơi! Suốt cuộc đời sương gió của tôi, chưa lần nào tôi bị kinh sợ đến như thế này. Tóc gáy tôi dựng đứng cả lên, mồ hôi trán vã ra.

Thì ra, phía sau tấm mạng kia là một cái mặt nhăn nheo của một bà già bảy mươi tuổi kèm với mùi hôi tanh muốn mửa xông thẳng vào mũi tôi. Đó là một khuôn mặt xác chết đã lâu ngày.

Tôi quay lưng chạy thục mạng, bên tai còn nghe rõ tiếng cười rít lên ma quái với mấy lời "Thế mà cũng tự cho mình là giang hồ, bà già bảy mươi lại ngỡ là con gái mười sáu!".

Cơn gió lạnh lùa vào xương sống rôi như muốn làm nó cứng lại.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#truyện