Truyen Ma suu Tam(nguoi khan trang)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nguoi Khan TRang

BÓNG NGƯỜI DƯỚI VỰC SÂU

Trong đợt đi công tác tại tỉnh T… khoảng 10 giờ đêm, khi xe của chúng tôi chuẩn bị qua cầu, bất chợt xe bị gẫy láp. Thế là phải dừng lại để sửa. Cư, cậu lái xe ngán ngẩm:

- Xe cũ quá rồi. Lần nào qua cầu sông Mây này cũng bị hư, kỳ lạ thật!

Anh Hồng, người cùng đi với tôi, là dân thổ địa nơi đây cười.

- Xe qua cầu, chở nặng hỏng là thường, có gì lạ đâu. Thôi ta ra khỏi xe hít thở không khí một ít.

Tôi nhảy xuống xe cùng anh, thong thả tản bộ. Trời khuya lạnh lẽo, tiếng chim ăn đêm kêu lảnh lót. Sương mờ mờ, ánh trăng yếu ớt xuyên qua màn sương. Bất chợt tôi nhìn thấy một bóng áo trắng lướt qua. Tôi rùng mình, anh Hồng bảo:

- Cậu lạnh phải không? Mặc thêm áo vào, miền cao này gió lam khí chướng độc lắm đấy.

Tôi run giọng:

- Hình như có bóng áo trắng lướt qua. Kìa! Nó đang ở dưới chân cầu kìa. Anh có thấy không?

Anh Hồng bật cười:

- Cậu khéo tưởng tượng quá. A, mà ở đây có ma quỷ là chuyện bình thường vì ngày xưa đây là bãi chiến trường.

Cư xen vào:

- Chắc là con Hạnh và thằng Tú hiện về chứ gì? Ngày nào chúng nó chẳng nhát tụi em.

Anh Hồng ngạc nhiên:

- Con Hạnh và thằng Tú nhảy cầu chết ấy à? Tớ nghe nói chúng nó chuẩn bị làm đám cưới kia mà.

- Chúng chết lâu chưa?

Cư cười khì:

- Đã ba năm rồi, anh ở trên tỉnh đâu có biết gì? Kia kìa, chúng nó đang cười sằng sặc, múa hát ầm ĩ, ai yếu bóng vía là chết ngay với chúng.

Tôi hỏi:

- Cư có vẻ rành câu chuyện này quá. Cậu kể cho tớ nghe với.

Cư gật đầu:

- Hai đứa nó là hàng xóm với nhau. Yêu nhau tha thiết cha mẹ chúng nó ngăn cấm vì hai bên gia đình có ân oán với nhau, vì chuyện gì thì không biết. Chúng nó lén lút nhau ra rẫy hẹn hò. Bị bắt quả tang. Thế là bị gọt đầu bên suối. Con Hạnh nhục quá ra cầu Mây nhảy xuống tự tử. Thằng Tú cũng vậy linh hồn không siêu thoát nên hiện ra chọc ghẹo mọi người. Cả hai gia đình rất ân hận nhưng muộn quá rồi.

Anh Hồng chép miệng:

- Tội nghiệp chúng nó quá nhỉ. Thế không ai lập cho chúng cái miếu để chúng có chỗ nương thân.

Cư cười:

- Lập miếu, rồi mời cả pháp sư nữa, nửa đêm ra cúng. Nhưng đến hôm sau, lão pháp sư sợ quá, bỏ nghề luôn, bây giờ điên khùng nằm ở nhà.

Tôi bảo:

- Thế ta xuống với chúng nó, thắp nén nhang gọi là lòng thành. Biết đâu gặp người có lòng, chúng sẽ không quậy phá chúng ta nữa.

Cư tròn mắt:

- Anh liều thế. Coi chừng nó dụ anh xưống nước chết chung với chúng nó đấy.

Tôi cười:

- Xưa nay chỉ có ma sợ người, chứ làm gì có người sợ ma. Nào, ta đi!

Cả ba chúng tôi bỏ xe rọi đèn pin xuống cầu. Tôi nghe có tiếng thì thào.

- Nào! Xuống đây với em. Em đang ở đây này.

Tôi như người mất hồn, cứ theo bóng áo trắng là là bay. Nhưng rồi, một cú giật mạnh khiến tôi tỉnh lại. Anh Hồng đang níu chặt tay tôi, nói không ra hơi.

- Cậu nhìn kìa, chút nữa thì rơi xuống vực. Thôi, mau lên ngay.

Tôi tỉnh lại, vội vã nhìn xuống. Trời ơi, chỉ chút nữa là tôi đặt một chân xuống vực. Hú vía, mà cái bóng trắng kia cứ giơ tay vẫy gọi mãi. Tôi lủi thủi bước lên cầu, cả ba chúng tôi ngồi trong xe chờ trời sáng.

ĐÁM MA THÀNH ĐÁM CƯỚI

Nhà ông Lục có đám ma. Con gái ông là Hoa Lê vừa chết. Nàng chết khi vừa tròn mười tám tuổi, cái chết rất thương tâm. Nàng ra suối tắm và bất ngờ bị sóng cuốn trôi đi, ba ngày sau mới tìm thấy xác. Cái xác thật kỳ lạ vẫn còn tươi rói. Hoa Lê như đang ngủ chứ không phải chết. Ai cũng ngậm ngùi thương tiếc cho cô gái tài sắc.... Ông bà Lục đau đớn đến lặng người, không nói nên lời vì Hoa Lê là con gái độc nhất của họ. Cô làm lụng giỏi lại rất có hiếu với cha mẹ.

Mọi người đến chia buồn với ông bà Lục. Bà Hoài chép miệng:

- Tội nghiệp, con bé hiền lành hiếu thảo thế mà trời không thương nó. Nếu mà còn sống có lẽ cũng chuẩn bị đám cưới rồi chớ?

Bà Lục ứa lệ:

- Vâng, nó đã có người dạm hỏi trầu cau rồi. Gia đình nhà trai cũng đã chuẩn bị chu đáo, hôm nay đáng lẽ là ngày cưới của nó đấy....

Nói rồi, bà khóc nấc lên.... ai cũng ngậm ngùi.... Đêm hôm đó, phần vì mệt lả, lo lắng nên nhiều người ngủ quên mất, sáng ra xác của Hoa Lê đã biến mất... Ai cũng kinh hoàng không hiểu ra sao cả?

- Trời ơi! Sao tai họa lại cứ dồn đáp xuống đầu con nhỏ thế này? Hay là nó bị linh cẩu ăn thịt rồi? Linh cẩu là loại chúa chuyên ăn thịt người chết...

Thế là đám ma đành phải chôn cái quan tài không, vì tìm cả buổi mà không thấy xác Hoa Lê đâu cả.... Vụ mất tích xác của Hoa Lê càng trở nên huyền bí, ghê rợn khi có người thấy Hoa Lê giờ đang ở trên phố. Chồng của Hoa Lê chính là Quang Đại.... Chuyện đến tai ông bà Lục, ông bà Lục tìm đến nhà Quang Đại. Quang Đại ra mở cửa, thấy ông bà Lục mừng rỡ:

- Kìa, nhạc phụ, nhạc mẫu, sao đến không báo cho con biết trước, có gì mà cha mẹ hốt hoảng quá?

Bà Lục thắc mắc:

- Tôi nghe nói con Hoa Lê nhà tôi đang ở đây đúng không?

Quang Đại gật đầu:

- Dạ đúng, cô ấy là vợ của con mà? Chính cha mẹ đã gả cô ấy cho con mà...

Ông Lục sửng sốt:

- Cậu nói cái gì tôi thật không hiểu nổi?

Quang Đại sôi nổi:

- Thì cái đêm cách đây ba tuần, cha mẹ chả đem Hoa Lê đến và nói: Từ nay, ta gả Hoa Lê cho con... con hãy chăm sóc nó cho chu đáo.

Hai ông bà Lục nhìn nhau tò mò rồi hỏi lại nhau:

- Cả mấy tuần nay, mình có đi đâu nhỉ? Sao lại có chuyện bí ẩn vậy? Hay là ma đưa lối quỷ dẫn đường mà mình không biết. Thế Hoa Lê đâu?

Quang Đại vội vã:

- Em ơi, có cha mẹ đến chơi này, em mau ra tiếp cha mẹ đi.

Hoa Lê bước ra, ông bà Lục nhìn con sững người, cả hai lắp bắp:

- Hoa Lê! Con còn sống? Có phải con đấy không? Ông trời ơi? Sao lại kỳ diệu thế này?

Ông bà Lục ôm chầm lấy Hoa Lê. Hoa Lê ngạc nhiên:

- Ông bà là ai? Sao lại gọi tôi là con nhỉ? Tôi đâu có quen ông bà...?

Ông bà Lục sững người:

- Cha là cha đẻ của con mà. Mẹ con đây này. Con quên rồi sao?

Hoa Lê lắc đầu:

- Không! Tôi không quen ông bà. Tôi là Hà Nguyên, tôi cũng không biết sao tôi lại ở đây nữa. Chỉ biết có người đưa tôi đến đây và bảo: Cô là vợ ông Quang Đại. Anh ấy hỏi han đủ điều, tôi chỉ ầm ừ vì tôi có biết gì đâu mà nói.

Quang Đại rú lên:

- Em nói vậy là sao? Thế em không phải là Hoa Lê à? Hà Nguyên, cái tên lạ quá. Anh chưa nghe bao giờ?

Ông bà Lục nhìn con gái đăm đăm, rồi nhìn bộ quần áo Hoa Lê mặc. Bộ quần áo cưới màu trắng, trên đó có thêu bông hoa hồng và hai chữ Hà Nguyên... Ông tò mò:

- Áo cưới này con lấy ở đâu?

Hà Nguyên kể:

- Có người con gái cho tôi và bảo tôi đến nhà Quang Đại. Tôi lúc đó như người mất hồn, chỉ biết làm theo... Nào ngờ, anh Quang Đại đối xử với tôi rất tốt.

Quang Đại nhớ ra điều gì, lắp bắp:

- Con nhớ ra rồi. Cách đây ba tuần, con đang ngủ, thấy Hoa Lê xuất hiện nét mặt sầu thảm, con hỏi, cô ấy chỉ khóc, lát sau mới nói: Sau này xác là của em, hồn là bạn em, anh hãy coi như em còn sống. Thế thôi... Con tỉnh dậy, không hiểu ra sao cả, thế có chuyện gì với Hoa Lê à?

Ông Lục càu nhàu:

- Cậu vậy mà cũng đòi làm rể nhà tôi? Nhà vợ có chuyện mà cũng không biết!

Quang Đại gãi đầu:

- Dạ! Con đi công chuyện cả mấy tuần liền, nên có biết gì đâu? Công việc con lu bu quá.... thế có chuyện gì vậy, cha mẹ?

Ông Lục buồn thảm:

- Con Hoa Lê nó chết đuối, xác nó mất tích, ta đi tìm để chôn.

Quang Đại rú lên:

- Cha nói cái gì mà kỳ quái vậy? Rõ ràng là Hoa Lê đang ở trước mặt con, cùng cha mẹ.... sao lại có chuyện kinh hãi thế?

Bà Lục nhìn cô gái, gật đầu:

- Ờ đúng là con gái ta thật. Sao nó lại không nhận ra chúng ta nhỉ. Thế con không phải là Hoa Lê thật à?

Cô gái lắc đầu:

- Con đã nói con là Hà Nguyên. Sao ông bà hỏi gì nhiều thế? Con mệt, xin phép vào nhà nghỉ.

Nói rồi cô bước vào trong, ông bà Lục tần ngần một lát rồi chào Quang Đại ra về. Dọc đường, hai vợ chồng cứ buồn thảm mãi, họ vẫn ngạc nhiên, không hiểu sao lại có chuyện thần bí như vậy.

Đêm đó, bà Lục đang ngủ, thấy có người con gái ngồi cạnh, bà mở mắt thổn thức:

- Hoa Lê, con đấy ư? Tại sao con lại từ chối cha mẹ?

Hoa Lê nức nở:

- Con đã chết rồi, làm ma rồi. Vì nhớ cha mẹ quá nên con về thăm.

Bà Lục tần ngần:

- Thế xác của con đâu? Tại sao con lại mất xác như vậy?

Hoa Lê bùi ngùi:

- Xác con hiện đang ở nhà Quang Đại, anh ấy là chồng của con về mặt thể xác, còn tâm hồn là Hà Nguyên.

Bà Lục tò mò:

- Hà Nguyên là ai nhỉ? Mẹ chưa nghe cái tên đó bao giờ?

Hoa Lê nói:

- Hà Nguyên là một hồn ma lang thang, cô ấy cũng chuẩn bị cưới chồng. Nào ngờ bị tai nạn giao thông. Con gặp cô ấy, cô ấy cùng cảnh ngộ với con, cô ấy đang chuẩn bị đầu thai. Con van nài cô ấy, hãy nhập vào xác con rồi về làm vợ anh Quang Đại vì anh Quang Đại đã hứa hôn với con. Con không muốn thấy anh đau khổ... Cô ấy bằng lòng. Cô ấy nhà ở Nguyên Thái, cách đây khoảng ba trăm cây số.

Bà Lục hỏi:

- Nhưng cha mẹ rất ngạc nhiên, vì sao cha mẹ lại có mặt trong đám cưới của con nhỉ?

Hoa Lê cười:

- Con đã mượn giấc mộng để đưa cha mẹ đi. Từ nay, tuy con không còn sống, nhưng xác thịt vẫn còn, cha mẹ nên đến thăm anh Quang Đại và gặp mặt Hà Nguyên. Rồi đưa cô ấy về cho cha mẹ cô ấy gặp. Nhà cô ấy giàu có, cô ấy cũng rất nết na, cha mẹ cô ấy cưng chiều cô ấy, giống như cha mẹ cưng chiều con vậy... Địa chỉ nhà cô ấy rất dễ tìm cứ đến Nguyên Thái, hỏi ông bà Luật là ai cũng biết.

Bà Lục gật đầu:

- Được rồi, cha mẹ sẽ làm theo ý con. Con nhớ động viên Hà Nguyên, để cha mẹ dù sao cũng an ủi khi gặp con...

Hoa Lê vui vẻ:

- Con sẽ làm vui lòng cha mẹ. Con đi đây.

Nói rồi, Hoa Lê biến mất, bà Lục bàng hoàng tỉnh dậy, thì ra là một giấc mơ... nhưng hình bóng của Hoa Lê vẫn rõ mồn một. Bà gọi ông Lục dậy kể lại tường tận về giấc mơ của bà. Ông Lục chép miệng:

- Có ai ngờ đâu sự thể lại ly kỳ như vậy? Dù sao cũng mừng vì xác con gái chúng ta vẫn còn. Ta sẽ nhận Hà Nguyên làm con.

Hà Nguyên đang ngủ. Hoa Lê xuất hiện. Hà Nguyên tươi cười:

- Hoa Lê, mình đang rất hạnh phúc. Nhưng vẫn chưa quen được là Hoa Lê. Nên luôn miệng nói là Hà Nguyên. Mình nhớ cha mẹ quá...

Hoa Lê vui vẻ:

- Mình đã báo cho cha mẹ mình, ông bà ấy sẽ đưa Hà Nguyên về thăm cha mẹ.

Hà Nguyên cảm động:

- Linh hồn là của mình, còn thể xác vẫn là của cậu. Cậu quá chu toàn với mình. Mình cảm động quá!

Hoa Lê bùi ngùi:

- Hai chúng mình đều cùng hoàn cảnh nghiệt ngã. Người có thể xác, kẻ có linh hồn. Hà Nguyên hãy coi cha mẹ mình như cha mẹ Hà Nguyên nhé. Đó là tâm nguyện của hai cụ, mong Hà Nguyên hiểu cho mình.

Hà Nguyên gật đầu:

- Được rồi, mình hứa mình sẽ làm hai cụ vui lòng. Anh Quang Đại rất tốt. Anh ấy rất yêu Hoa Lê mình thật may mắn được làm vợ anh ấy.

Hoa Lê ứa lệ:

- Số phận mình đã vậy, mình phải cam chịu. Đó là nghiệp chướng. Chúc cậu và anh ấy hạnh phúc... mình đi đây.

Hà Nguyên ôm chặt bạn ứa lệ:

- Đừng. Hoa Lê đừng đi, mình nhớ cậu quá. Hãy ở lại chút nữa.

Chồng Hà Nguyên lay nàng dậy, lo lắng:

- Em có gì mà la dữ vậy, gặp ác mộng à?

Hà Nguyên mở mắt, ngượng nghịu:

- Ơ không em thấy em đang gặp cha mẹ, nên nói chuyện vậy mà, ngủ đi anh...

Quang Đại tò mò:

- Cho đến bây giờ anh vẫn không hiểu em là Hà Nguyên hay Hoa Lê nữa...

Hà Nguyên ôm chồng nũng nịu:

- Là cả hai, hai trong một! Anh có thích vậy không?

Quang Đại hôn vợ nồng ấm:

- Thế thì tuyệt quá. Mình sẽ về thăm ông bà ngoại nghe. Hôm trước, em làm ông bà buồn đó.

Hà Nguyên ngoan ngoãn:

- Vâng anh bảo gì em cũng nghe theo, vì anh là chồng của em mà...

Sáng hôm sau, hai vợ chồng đến nhà ông bà Lục, đường rừng núi đi cả buổi mới tới. Ông bà Lục chạy ra. Hà Nguyên ôm chầm lấy ông bà Lục, nước mắt giàn dụa:

- Cha... mẹ... con yêu cha mẹ... Con xin lỗi hôm trước vì đã làm cha mẹ buồn. Hôm ấy tại con chưa nghĩ ra...

Bà Lục cảm động:

- Hà Nguyên, cha mẹ đã nghe Hoa Lê kể lại hết rồi. Từ nay con mãi mãi là con của cha mẹ. Vài bữa nữa, cha mẹ cùng chồng con sẽ đưa con về Nguyên Thái để thăm cha mẹ đẻ của con... Lúc đó hạnh phúc sẽ nhân đôi.

Hà Nguyên cảm động, cứ rúc mãi vào cánh tay bà Lục, bà Lục cảm giác da thịt con gái mình thấm vào tâm hồn bà. Rõ là Hoa Lê tuy mất nhưng thể xác nó vẫn còn đây, và Hà Nguyên nhận ông bà Lục là cha mẹ.

Ít hôm sau, cả nhà ông Lục, Hà Nguyên, Quang Đại cùng lên xe đò về Nguyên Thái.... Vừa đến đầu cổng, Hà Nguyên đã reo to:

- Cha mẹ. Thanh ơi... con đã về đây, chị đã về đây...

Ông bà Luật từ trong nhà chạy ra, tò mò nhìn mấy người. Hà Nguyên ôm chầm lấy ông bà nói vội.

- Cha mẹ không nhận ra con sao? Con là Hà Nguyên đây mà? Còn đây là cha mẹ nuôi và anh Quang Đại chồng con....

Ông Luật tò mò:

- Cô nói cái gì tôi không hiểu? Con Hà Nguyên nhà tôi nó chết đã lâu rồi. Hôm nay là ngày giỗ đầu của nó.

Hà Nguyên giàn dụa nước mắt:

- Ừ cũng phải thôi, con quả là bây giờ tuy thân xác người khác...

Bà Luật khi nghe cô gái nói, giọng thì y chang giọng của Hà Nguyên, mọi động tác cũng vậy, nhưng thân xác thì lại khác. Bà nức nở:

- Thì con nhớ thử xem, nhà mình có ai nào? Con nói xem nào?

Hà Nguyên tíu tít:

- Em Thanh con đâu? Con chó Lu Lu đâu? Mấy đứa bạn Thuyên, Thịnh..... Con nhớ ông bà nội lắm.

Bà Luật rú lên:

- Trời ơi! Đúng là con Hà Nguyên của má đây rồi!

- Con ơi, con kể lại cho cha mẹ xem nào....

Hà Nguyên kể lại tất cả... ông bà Luật quay sang ông bà Lục cảm động:

- Thật là cuộc trùng phùng kỳ lạ, chúng ta mất con, bây giờ thì hai con lại là một. Nó vừa là con của ông bà vừa là con của chúng tôi...

Quang Đại đứng như trời trồng Hà Nguyên tíu tít:

- Anh Đại, ra mắt cha mẹ vợ đi chứ, sao anh cứ ngẩn người ra như thế kia?

Quang Đại sực tỉnh, cúi đầu lễ phép:

- Con chào hai bác ạ. Hôm nay con rất vui được gặp hai bác, con có nghe Hà Nguyên kể nhiều về hai bác, nay mới được gặp mặt...

Hà Nguyên trách yêu:

- Coi anh kìa! Sao lại gọi cha mẹ vợ là hai bác? Bắt đền anh đó.

Quang Đại đỏ mặt. Ông bà Luật vui vẻ:

- Chàng rể chưa quen đó thôi, sau này đều là con cái trong nhà cả. À, mà hôm nay là giỗ đầu của Hà Nguyên, hay ta thay đám giỗ thành đám cưới nhé!

Mọi người vỗ tay tán thành. Dân làng đến chơi nghe chuyện Hà Nguyên tái sinh ai cũng mừng rỡ và ngạc nhiên. Đám giỗ đầu trở thành đám cưới rất vui vẻ. Bạn bè Hà Nguyên đến rất đông, ai cũng tíu tít trò chuyện. Hà Nguyên kể vanh vách từng kỷ niệm một, ai cũng cảm động...

Ở chơi ít hôm. Hà Nguyên cùng ông bà Lục, Quang Đại ra về. Từ đó, họ trở thành thông gia của nhau. Quang Đại những lúc âu yếm với vợ thường nói:

- Có ai ngờ, lấy một vợ mà được cả hai nhạc gia...

Hà Nguyên nũng nịu:

- Thì em là người vợ hai trong một mà. Anh có thích không?

Quang Đại sảng khoái:

- Thích chứ, thích nhất là em sẽ đẻ cho anh một đàn con để cho hai ông bà ngoại, à quên, bốn ông bà ngoại có cháu bế chứ.

Hà Nguyên dí tay vào trán chồng, trìu mến:

- Anh tham quá hà!

Rồi cả hai cùng cười vang... họ thấy Hoa Lê hiện về, Hoa Lê nói:

- Thế các người có bao giờ nhớ bà mối không nhỉ?

Hà Nguyên cười:

- Thế chị định làm mối với cả em sao? Em là chị mà chị cũng là em mà.

Hoa Lê vui vẻ:

- Thế các người không cho tôi đùa một tí được sao? Tôi chỉ muốn cho các người vui thôi mà... Thôi các người vui vẻ nhé. Hẹn gặp lại kiếp sau.

HÓA THÂN HIỆN HỒN

Vợ chồng anh chị Khảm là người hiền lành hiểu theo ý nghĩa bình thường.

Họ làm ăn chăm chỉ chí cốt. Dạo còn ở trong nước, cả hai anh chị đã quyết chí tìm đủ mọi cách để mong sao thoát ly đời nhọc nhằn gian lao nghèo khó. Vợ chồng anh chị xuất thân từ hai gia đình vừa đủ ăn đủ mặc. Tuy không đến nỗi nghèo khó lắm nhưng so với những hàng phú gia địch quốc mà anh chị có khi chỉ được nghe đồn mà chưa bao giờ được chính mắt trông thấy. Xem ra anh chị rất nôn nao với giấc mộng giàu sang và chưa bao giờ có được một ngày sống trong cảnh phú quý, rạng rỡ vinh hiển như những kẻ lắm bạc nhiều tiền cho nên niềm mơ ước làm cho anh chị luôn luôn nuôi nấng ấp ủ trong tâm tư, bảo nhau quyết thực hiện cho bằng được, bất chấp định luật "Đại phú do thiên, tiểu phú do cần".

Họ lấy nhau vào đúng thời kỳ cả nước đang chìm ngập trong tình trạng kinh tế kiệm ước, việc làm ăn khó khăn, người khôn của khó, không dễ gì kiếm ra được nhiều tiền để cho đời sống anh chị với hai đứa con có được những ngày tháng mát mày nở mặt khỏi phải thiếu trước hụt sau, làm việc gì cũng không thoát được cảnh giật gấu vá vai, đắp đổi qua ngày đoạn tháng, chật vật quá sức.

Anh Khảm lại kẹt cứng với đời sống của một quân nhân sĩ quan cấp nhỏ, rày đây mai đó, trên búa dưới đe. Lúc nào cũng phải lo thủ phận và chu toàn những nghĩa vụ của một thuộc cấp khôn khéo biết an phận thủ thường để khỏi phải ra chiến trường có thể mất chỗ đội nón như chơi, tuy rằng anh không phải ngày đêm tham dự những cuộc hành quân gian khổ chết chóc, nhưng anh vẫn phải chu toàn một lúc hai nhiệm vụ bắt buộc của người quân nhân. Một là tiếp tế quân trang quân dụng cho các đơn vị hành quân trực thuộc, hai là phải tự biết cách để thù tạc đãi đằng những cấp chỉ huy quyền thế không chỉ bằng tiền bạc quà cáp hậu hĩnh, có khi còn đi lùng sục tìm những cô gái non dại, con cái của những người nghèo, anh tung tiền ra khuyến dụ mua chuộc để lén lút hưởng thụ hoặc đem dâng hiến cho thượng cấp, hòng giữ cho được vị trí yên ổn, ngồi mát ăn bát vàng ở hậu cứ và điều này thì chị Khảm là người biết rõ ràng hơn ai hết. Nhưng chị vẫn làm ngơ, để mặc cho chồng tung hoành, tự tung tự tác và tiếp tục ra tay làm hại các cô gái son trẻ con cái nhà nghèo. Chị có những hưởng thụ chẳng bao giờ anh cần lưu ý tới. Đàng khác, để thực hiện được như vậy, anh Khảm chỉ còn cách cắt xén gian lận, hoặc ăn cắp bớt số lượng quân trang quân dụng, những nguồn tiếp liệu then chốt dành cho những đơn vị tác chiến ở trong kho để đem về nhà giao cho chị Khảm tìm manh mối bán tháo ra ngoài, chị mới mong nở mày nở mặt với những người đồng trang lứa và có được một đời sống tàm tạm xa hoa tươm tất và anh cũng được yên ổn vui sống bên vợ con với các cô đào non lúc nào cũng hăm hở sẵn sàng, nhòm ngó túi tiền chi xộp của anh mà tìm đến bán thân, trao đổi.

Anh Khảm vẫn biết làm như vậy là không đúng, là những nguyên nhân gián tiếp đem đến những thất bại ê chề cho những người bạn đồng ngũ ở ngoài tiền tuyến với những cái chết oan khiên tức tưởi của bao nhiêu người ngày đêm phải trực diện trước quân thù vì những nguồn tiếp liệu từ hậu cứ do anh nắm quyền cung ứng đã không được cung ứng đầy đủ. Nhưng anh Khảm không biết và càng cố tình không cần biết đến điều này. Anh thường nhủ để tự trấn an:

- Việc thắng bại chết chóc ngoài trận tuyến đâu phải lỗi tại mình, tại số mạng mà ra. Tụi Việt cộng không hề có nguồn tiếp liệu binh đoàn dồi dào như mình, sao chúng vẫn chiến đấu được. Chẳng qua chỉ tại những chiến hữu đòi hỏi quá đáng chứ việc thắng bại nào có ăn thua gì đến ta. Đối với các cô gái nhẹ dạ, anh đâu có ép buộc các cô phải bán rẻ tấm thân trong trắng. Chẳng qua đó chỉ là sự trao đổi công bằng, ăn cơm trả gạo, ăn cháo trả tiền. Sau đó nếu có hậu quả gì. Các cô phải tự lo liệu lấy. Anh đã giao hẹn trước cả rồi, trách cứ anh sao được.

Tự bào chữa như thế cho nên anh Khảm cảm thấy yên lòng tiếp tục cùng các cô gái son trẻ trao đổi mua bán và ra tay vơ vét, ăn cắp ăn xén tất cả mọi thứ có thể lấy được để chu toàn nhiệm vụ của người sĩ quan tiếp liệu và nhờ đó, anh trở thành một quân nhân khá gương mẫu. Đời binh nghìệp của anh thăng tiến như diều gặp gió với những băng tưởng lục, bằng khen đều đặn và thăng cấp đúng nhiệm kỳ chẳng khác chi mọi người mà trong suốt mười hai năm quân vụ, anh chưa bao giờ phải bắn một viên đạn nào cho đến ngày tan rã hàng ngũ, giống như bao nhiêu người, gia đình của anh chị phải bỏ của chạy lấy người. Nhờ có sự giao du rộng rãi lại thường lo lót từ bấy lâu nay cho nên gia đình vợ chồng con cái của anh chị được ưu đãi cho lên tàu di tản trước tất cả mọi người, tránh được bao nhiêu là sự chà đạp hỗn loạn tranh giành trong lúc tranh tối tranh sáng. Thập tử nhất sinh. Mọi người hối hả đạp lấn nhau lên xác chết của nhau để đi tìm đường lánh nạn.

Chuyến hải trình chạy giặc cập bến an toàn, anh chị thở phào ra nhẹ nhõm. Mỗi khi nghĩ đến những ưu đãi lúc nào anh chị cũng được hơn người nhờ vào sự lanh lợi khôn khéo. Ra được đến nước ngoài với hai bàn tay trắng sau bao nhiêu năm tận tình vơ vét khi xưa với dụng ý làm giàu, giờ đây, cả gia đình anh chị cũng chẳng đem theo được chút gì để làm lại cuộc đời còn phải đối diện với một đời sống mới hoàn toàn xa lạ từ ngôn ngữ cho đến những sinh hoạt khác lạ hàng ngày, nhưng nhờ có khả năng khôn ngoan hoạt bát với ý chí phấn đấu hơn người, lại có sẵn quyết tâm làm giàu được nuôi nấng dài lâu trong tâm khảm, nên khi đến được vùng đất được mệnh danh là cơ hội này, chẳng bao lâu đã trở thành những người tỵ nạn giàu có với những mối làm ăn vĩ đại, bất kể công việc chánh tà với những người dị chủng. Công việc doanh thương buôn bán lúc đầu còn từ từ hạn chế, sau mỗi lúc một thêm phát triển mạnh mẽ bền vững lạ thường, tiền bạc lợi tức như dòng suối chảy xiết đến với anh chị chẳng có khi nào ngừng nghỉ.

Với gia sản tiền rừng bạc biển, nhà cửa xe pháo tiện nghi văn minh cơ khí. Hệ thống làm ăn quy mô đầy đủ, nhân viên thầy thợ phụ tá giúp việc có tới hàng mấy chục người anh chị đều nắm đủ trong tay. Anh chị tỏ ra tự mãn hơn người và lúc nào trong lòng cũng đầy hãnh diện về tài năng thao lược kinh bang tế thế của mình...

Hôm nay, với bề thế cơ ngơi tài sản làm ăn sung túc chắc chắn sẽ chẳng bao giờ anh chị còn sa sút khánh kiệt được, chắc chắn sẽ chẳng bao giờ anh chị phải sống lại những ngày tháng thanh bần đạm bạc như xưa. Anh chị với hai người con nay đã khôn lớn, nay đã trở thành những người Mỹ mũi tẹt da vàng, đã hóa thân từ mọi cung cách nói năng cư xử đã thoát xác hoàn toàn, đã biến đổi và tách biệt khá xa với dòng sinh mệnh truân chuyên của nguồn gốc cũ với mọi sinh hoạt cung cách rập theo những tập quán mới mẻ văn minh. Gia đình anh chị rất biết tôn trọng và đề cao tinh thần tự do tuyệt đối cùng những chủ nghĩa phục vụ cá nhân. Riêng về anh Khảm. Anh đã trở thành một ông chủ lớn, anh có những thú vui cao cấp cầu kỳ hơn của một người có nhiều tiền của, chị Khảm thì cũng vậy... Chị cũng có nhân tình để thực hành việc "ông ăn chả bà ăn nem". Anh Khảm ăn chơi mèo chuột từ trong nước ra đến xứ người thì tại sao chị không thể như vậy. Nhân tình của chị chính là anh tài xế lâu năm vai u thịt bắp, ít ăn ít nói, lái xe vận tải giao hàng, anh ta cũng có gia đình vợ con đàng hoàng tử tế và chỉ quan hệ với chị Khảm vào những lúc anh Khảm phải đi vắng nhà hoặc là những khi chị Khảm nổi hứng bất chợt hai người mới lén lút hò hẹn gặp nhau. Sau đó ai nấy trở về với vai trò cố hữu của mình. Có nhiều lúc anh tài xế cũng nổi chứng ghen tuớng này nọ. Nhưng anh ta biết rõ, ngậm miệng chịu đựng là giải pháp thích hợp nhất để cho anh và chị Khảm còn có cơ hội gặp nhau, để cho mối dây gian díu còn tồn tại được đến bây giờ.

Danh lợi bạc tiền con người tạo dựng nên ở xứ này là một công thức biểu thị sự thành công. Nó được thừa nhận một cách hùng hồn và trở thành cây kim chỉ nam bất di bất dịch, nó như một chất men say khó lòng làm cho con người thức tỉnh, khó lòng mà dứt nó ra một cách dễ dàng. Anh chị Khảm giờ đây có muốn cưỡng chống lại những nguồn lợi tức khổng lồ, có không muốn tiếp tục vun vén tài sản mỗi ngày cứ phát mãi lên trong lúc đã quá dư thừa cũng khó mà thi hành được.

Chính vì vậy, đời sống cá nhân của anh chị trở nên bận rộn và sống rất rời rạc với nhau. Hai người con của anh chị bây giờ đã lớn, họ đã nằm hẳn trong cơn lốc xoáy đến tối tăm mặt mày. Không mấy khi có được một ngày giờ an nhàn rảnh rỗi, không mấy khi cả nhà họ có được một bữa cơm sum họp quây quần với những bữa cơm canh rau đạm bạc ngon lành xưa cũ, cũng không mấy đêm họ đi vào giấc ngủ thanh thản nhẹ nhàng yên ổn, thường bị chi phối bởi những sự toan tính làm ăn, hẹn hò thương vụ đình đám xã giao nói chi đến những vấn đề giải trí giản dị thanh tao, nói chi đến việc vun bồi cho đời sống nội tâm cùng những quan hệ tình cảm trong gia đình hoặc ngay cả với những con người đồng hương thân sơ khác.

Của cải thì mỗi ngày càng trở nên dồi dào phong phú biến dần thành một thông lệ trói buộc một thói quen không thể nào gián đoạn hoặc ngưng nghỉ và thời gian để sống riêng cho nhau cũng theo tỷ lệ thuận mà càng ngày càng trở nên eo hẹp hạn chế hơn. Anh sống theo anh, chị sống theo chị chẳng ai bận tâm đến ai cả...

Việc doanh thương đã được hương thịnh vững bền, chuyện hưởng thụ đã quá nhàm chán đến độ dư thừa trên đất Mỹ. Có lần anh chị Khảm rủ nhau trở về thăm lại quê cũ phố cũ phố xưa. Chị Khảm chỉ chờ đợi có được cơ hội này. Chị lấy cớ phải ở lại Hoa Kỳ để thay anh điều hành công việc làm ăn trong khi anh đi vắng. Anh Khảm chẳng chút nghi ngờ. Anh đồng ý nhanh chóng để chị ở lại Hoa Kỳ. Một mình anh trở về thăm lại cố hương không có điều gì cần thắc mắc với dự tính về nước để nghiên cứu phát triển chuyện làm ăn nhưng bên cạnh đó anh cũng háo hức rạo rực trong lòng khi nghe những người đã đi VN trở về đây kể lại những chuyến du dương cụp lạc bên những cô gái son trẻ ở quê nhà với một số tiền chi ra rất ít.

Quả như lời đồn đại của những người đã từng về Việt Nam du lịch, khi anh về đến quê nhà nghèo nàn rách rưới, cư trú trong một khách sạn đắt tiền chỉ dành cho những du khách có thế lực. Anh đã được người môi giới cho xem hình ảnh những cô gái trẻ đẹp sẵn sàng trao đổi rao bán thân xác và anh Khảm chọn ngay một bức hình của một cô gái khá đẹp trông vẫn còn thơ ngây trong trắng. Anh đã bỏ một số tiền nhỏ chẳng đáng là bao ra mua.

Bạn tình hờ của anh là một cô gái đôi mươi còn nhỏ hơn cả tuổi của hai người con anh đang ở Hoa Kỳ. Cô ta bình thản nhận tiền xong rồi nhờ người trung gian trao ngay lại cho người mẹ của cô đang gặp cơn bệnh hoạn rồi hiến trọn thân xác con gái cho anh. Thời hạn bán thân đã hết, cô gái đáng thương được mẹ của cô lên đến khách sạn chờ để đưa cô về nhà tại văn phòng quản lý. Anh Khảm kể ra cũng là con người nhân ái, anh đích thân đưa cô ta xuống tận nấc thang cuối cùng. Nhưng anh thật không thể ngờ khi anh nhìn thấy diện mạo của người mẹ cô gái. Làm sao anh có thể quên đi khuôn mặt người đàn bà đang chờ đợi đứa con gái vốn là một trong số những người đã có quan hệ tình cảm mật thiết với anh khi trước. Anh từng đã chiếm đoạt xong rồi dâng hiến cho cấp trên và sau cùng tàn nhẫn bỏ rơi trong lúc cô ta đã mang trong thân xác giọt máu của anh. Anh không một lần ngó ngàng thăm hỏi. Người thiếu phụ này chính là mẹ ruột của cô gái anh mới vừa chiếm đoạt tiết trinh. Chính là người hơn hai mươi năm trước đây đã từng cùng anh chắp nối ân tình để rồi sau cùng vì sự ràng buộc của người đã có vợ có con anh phải truyền tay cô ta cho người khác để dễ dàng nói tiếng chia tay người thiếu phụ này với một số tiền nhỏ để bà ta tự tìm đường sanh nở.

Như vậy, đứa con gái vừa cùng anh trao đổi xác thịt chính là đứa con gái ruột thịt mang chính giọt máu của anh năm nào. Sự việc oan khuất đã diễn ra trong hoàn cảnh hết sức bất ngờ như một định mệnh vừa kinh hoàng vừa oan trái khiến hai người lớn trong cuộc chỉ còn biết nhìn nhau mà nghe trong lòng quặn đau chua xót chẳng nói được lời gì.

Người con gái nhỏ tuổi đáng thương vừa là nạn nhân vừa là nhân chứng của một định mệnh an bài ngang trái. Cô cảm thấy quá xấu hổ và đau khổ đến cùng cực, cô vùng khỏi tay người mẹ thảng thốt phóng thẳng ra đường lộ giữa lúc một chiếc xe vô tình từ đâu chạy tới kết liễu mạng sống của cô.

Phần anh Khảm cũng kinh dị không kém, anh ngẩn ngơ đến độ bàng hoàng, cố giữ cho lòng bình tĩnh, nhanh chóng anh bỏ lại cho người tình thiếu phụ lúc xưa một nắm bạc khá lớn để tự lo ma chay cho đứa con gái xấu số rồi anh gấp rút lấy vé máy bay.

Trở về Mỹ sớm hơn dự định đến cả nửa tháng trời. Anh về đến nhà trong một đêm hôm khuya khoắt với tâm trí còn chưa vơi đi những cơn xúc cảm bàng hoàng sau chuyến du lịch Việt Nam để rồi bất ngờ anh phải chứng kiến thêm một hình ảnh không kém đau lòng khác nữa khi người vợ của anh đang công khai âu yếm nằm trong vòng tay của người tài xế giao hàng trong lúc hai người tin chắc anh còn đi vắng chưa về kịp.

Đúng là họa vô đơn chí, phước bất trùng lai. Anh Khảm lầm lũi rút êm ra khỏi nhà để mặc cho đôi gian tình mặc tình tự tung tự tác. Một lần nữa anh lại trốn chạy một thực tế quá đỗi đắng cay. Anh âm thầm bước ra khỏi nhà, đi tìm một khách sạn để trú ngụ tạm trong một thời gian với dụng tâm đợi chờ cho tất cả những xao động kinh hoàng vừa xảy ra lắng xuống rồi anh mới lần lượt giải quyết từ từ, nào ngờ bắt đầu từ giây phút ấy, tâm trí anh như kẻ lạc thần, lúc mê lúc tỉnh lúc giận lúc yên. Tự nhiên trong mìnhh như có một mãnh lực vô hình đốc thúc anh phải thi hành những công việc rồ dại của một gã điên. Biết bao nhiêu ý tưởng oán hận chập chùng cứ dâng lên ngập đầy trong tâm trí rối bời của anh, bất cứ lúc nào những ý nghĩ này cũng khiến xui anh phải mau trở lại căn nhà của anh để tận diệt đôi gian phu dâm phụ. Anh cố gắng trấn tỉnh để khỏi vướng vào những công việc điên rồ tai hại rồi anh đã thiếp đi từ lúc nào.

Đứa con gái bán trinh cho anh ở Sài Gòn hiện ngay ra trong tâm tưởng của anh trong cơn mệt nhoài đồng thiếp. Tấm thân mảnh mai của nó có lúc được che phủ bởi những làn khói sương khi mờ mờ ảo ảo, có lúc hiện ra trần truồng. Anh cố nhắm mắt lại để xua đuổi hình ảnh đó đi nhưng bên tai anh đã có tiếng nói của nó lanh lảnh cất lên:

- Ông không thể trốn chạy được! Những lầm lạc tội lỗi của ông gây ra từ bao lâu nay thấu động tới tận cõi trời ông tưởng ngoài ông ra không còn ai hay biết? Bây giờ là lúc bắt đầu ông phải trả những món nợ đời.

- Tôi... Ba... xin... hãy tha tội chết cho tôi. Tôi vương mắc chuyện đó với cô bằng tất cả sự vô tình. Tôi không cố ý...

Vong linh người con gái bán thân bị xe cán chết bất đắc kỳ tử ở Sàì Gòn cười rít lên nghe ghê rợn:

- Phải! Ông đã vô tình. Ông đã bao nhiêu lần dùng đến mãnh lực đồng tiền để chiếm đoạt niềm an lành và sự trắng trong của bao nhiêu người đàn bà con gái. Vậy mà ông vẫn chưa yên, ông vẫn mải miết thi hành. Tội lỗi của ông không có đất trời nào có thể dung thứ. Ông đã tự tạo nên bao nhiêu nghiệp chướng cho mình, nghiệp báo này đã vận ngay tức thời để ông trở về hãm hại tôi, hãm hại chính đứa con mang máu thịt tội lỗi của ông hơn hai mươi năm về trước. Bây giờ đến lượt chính ông phải đền trả những nghiệp báo đớn đau này. Người vợ của ông giờ đã ra sao thì lúc nãy ông trở về nhà chắc ông đã biết. Chắc chắn ông phải giết chết bà ta để rửa hận cho nỗi đau phản trắc này, vậy ông hãy mau làm điều này trước rồi sau đó mới tới những điều kế tiếp...

Nói xong bóng ma mất hút trong căn phòng khách sạn vắng tanh. Anh Khảm chợt tỉnh táo được đôi chút, trời không mấy nóng nực mà mồ hôi của anh vã ra dầm dề. Anh dáo dác nhìn quanh, mọi vật trong phòng vẫn lặng lẽ tứ bề. Hai bên tai anh bỗng nhiên như có những cơn gió cực kỳ thổi mạnh anh chỉ nghe thấy những tiếng rít gào và chừng như anh đang lạc vào một thế giới hỗn độn nào khác ngoài cõi trần gian, rồi như có một sự thúc đẩy vô hình, anh bật đứng lên khỏi chiếc ghế bành. Anh lái chiếc xe mướn tạm chạy như bay trở về căn nhà, nơi có hai kẻ gian tình đang ngang nhiên tình tự.

Anh không còn đủ bình tĩnh đứng chứng kiến hai kẻ gian dâm, từng nhát dao uất hận, anh chém loạn đả trên thân thể của hai người cho đến khi họ không còn động đậy, anh mới lách mình khóa trái cánh cửa để đi ra.

Ngay bữa sau. Báo chí cùng các cơ quan thông tin đã đồng loạt loan tải nguồn tin thiếu phụ chủ nhân một công ty xuất nhập cảng ngườiÁ châu đã bị giết chết bên cạnh tình nhân cũng bị thương tích trầm trọng nhưng thoát chết trong lúc chồng bà ta vắng nhà với lời bình luận: không tìm ra dấu vết hoặc tông tích của kẻ sát nhân, sự việc còn đang được tiếp tục điều tra.

Đợi cho việc mai táng nạn nhân xấu số lắng dịu đôi chút anh Khảm mới thực sự quay trở về nhà với thái độ im lìm khó hiểu trong lúc người tài xế tình nhân còn đang bị câu lưu để nhà chức trách tìm ra manh mối. Dần đà, sự việc cũng chìm dần vào quên lãng của thời gian, không ai còn dịp để nhắc nhở tới.

Phần anh Khảm thì rất đỗi buồn phiền đến bỏ ăn bỏ ngủ, anh như kẻ mất hồn, không còn chút nghị lực tâm trí nào để dòm ngó đến những công việc kinh doanh thường lệ. Người ta lầm tưởng anh buồn đau u uất bởi cái chết thảm khốc của người vợ ngoại tình. Nhưng không ai biết đích xác được rằng anh đau buồn và tỏ ra dở điên dở dại, bỏ bê tất cả mọi công việc điều hành làm ăn chỉ vì nỗi niềm ăn năn sám hối chính anh đã hãm hại và đưa đến cái chết oan nghiệt của người con gái ruột của anh đã bị bỏ rơi, rồi ma đưa lối quỷ dẫn đường tìm đến đổi chác ăn nằm với cha ruột của mình cùng với những hiện tượng huyền bí sau này diễn ra bởi vong hồn oan khuất đớn nhục của người con gái không bao giờ có thể siêu thoát.

Hai người con của anh chị Khảm tuy đã khôn lớn nhưng chỉ biết tiêu xài. Chưa đủ kinh nghiệm để thay thế người cha đột nhiên dở điên dở dại chẳng còn tha thiết đến bất cứ sự việc gì. Họ không cáng đáng nổi những cơ sở kinh doanh phức tạp đó cho nên chẳng bao lâu trở nên suy sụp và phải lo gấp rút sang nhượng tất cả lại cho những doanh nhân khác cho đến khi cơ ngơi đồ sộ của anh chị Khảm chẳng còn lại được gì. Người ta phải đem anh Khảm ký thác vào trong một y viện tâm thần để mong anh được chữa trị khi bệnh điên đã thực sự hoành hành tâm não của anh. Hoàn cảnh thương tâm của anh chị Khảm, một người tỵ nạn thành công tột bực trên đất Mỹ bỗng nhiên sụp đổ tan tành khiến cho nhiều người không hiểu rõ ngọn nguồn câu chuyện chỉ biết chép miệng thở dài tiếc nuối. Mấy ai hiểu ra rằng ông trời là người cực kỳ tinh tai sáng mắt và rất mực nhân ái công bằng. Thượng Đế đã ban cho gia đình anh chị Khảm có một cuộc đời giàu sang thành vượng, một mệnh số hanh thông may mắn. Nhưng khi đã đạt được mọi thứ một cách khá dễ dàng, con người ta trở nên hợm hĩnh kiêu ngạo, không biết chế ngự lấy những tham vọng vô độ của chính mình, tự nhiên cho rằng mọi sự thành công và những điều khôn ngoan lanh lợi là do chính mình có được hơn người chứ hoàn toàn không phải là những sự may mắn. Những cơ hội thành công, những ưu ái của một đời sống phú quý sang giàu được bắt nguồn từ những phước báu còn lưu lại, còn tích tụ bởi rất nhiều tiền kiếp xa xôi để rồi không còn quan tâm đến phần đạo đức tâm linh, để rồi khinh khi miệt thị tất cả mọi người kém may mắn, mọi điều thuộc về tâm linh huyền nhiệm để rồi nhắm mắt bước càn, lộ ra cái tâm địa đầy dục vọng tham lam, đầy thói hư tật xấu khinh mạn ngất trời để tự mình rước lấy những hậu quả vô cùng đáng tiếc. Khi hiểu được ra thì mọi sự đã rồi, không bao giờ có cơ cứu vãn, uổng phí cả một kiếp người đáng lẽ là một phần thưởng vô cùng cao quý mà Thượng Đế đã ban cho sau hằng bao nhiêu kiếp tu tập mới được diễm phúc làm người, nhất là làm người của một dân tộc thanh cao như dân tộc Việt Nam đang được khắp năm châu ngưỡng phục.

HỒN NGƯỜI KIẾP DÊ

Ông Khôi đang nằm ngủ chợt nghe có tiếng dê kêu: be be..... Ông mở mắt. Ngạc nhiên:

- Lạ nhỉ? Sao lại có tiếng dê kêu. Nhà mình từ xưa đến nay có nuôi dê bao giờ đâu?

Tiếng dê kêu mỗi lúc một rõ, ông lắng tai nghe và hoảng hồn. Vì tiếng dê phát ra từ bụng của ông. Ông vã mồ hôi, lẩm bẩm:

- Chết rồi! Chiều nay ăn thịt dê ở nhà lão Duy, lão ấy mổ con dê mời cả xóm đến dự. Con dê đực màu trắng…

Ông vội nôn ọe ra, nhưng không có cách gì ra được, có lẽ nó đã tiêu hết rồi. ông thấy người nôn nao khó chịu, bụng cứ óc ách.... ông lay vợ dậy. Bà vợ càu nhàu:

- Có chuyện gì thế? Tôi mệt lắm, đừng bắt tôi phải chiều chuộng ông có gì để sáng sớm.

Ông Khôi lập cập:

- Không, tôi đâu có bắt bà làm chuyện ấy. Bà ơi tôi sợ quá!

Bà vợ mở mắt, ngồi nhổm dậy tò mò:

- Có chuyện gì mà ông sợ thế? Ông là tay xưa nay coi trời bằng vung, có biết sợ ai?

Ông Khôi chỉ vào bụng mình và nói:

- Tiếng dê kêu trong bụng của tôi. Nó kê be be nghe rõ mồn một.

Bà vợ cười sặc sụa:

- Ông thần hồn nát thần tính rồi, nốc rượu cho lắm vào. Hồi chưa ăn thịt dê, cái bụng nó óc ách khó chịu là phải, làm gì có tiếng dê nào?

Ông Khôi nói:

- Bà thì chỉ lo ngủ với ngáy, rõ ràng là tôi nghe tiếng dê kêu mà. Đó, bà có nghe không?

Bà vợ ghé tai vào bụng chồng lắng nghe. Bà rụng rời tay chân:

- Quả là có tiếng dê kêu thật. Tiếng kêu rất thảm thiết. Sao kỳ lạ vậy? Hay con dê này là ma quỷ?

Ông Khôi thở dài:

- Tôi làm sao mà biết được. Từ trước đến giờ mình vẫn ăn thịt dê, có sao đâu?

Bà vợ thừ người:

- Như vậy con dê của lão Duy có vấn đề. Sáng mai ông hỏi thử lão ấy xem sao? Con dê lão ấy mua ở đâu? Ông Khôi gật đầu nằm xuống ngủ. Tiếng dê không kêu nữa mà là tiếng người rên rỉ:

- Mau trả lại thân xác cho ta. Tại sao các ngươi lại ăn thịt ta.

Ông Khôi xanh cả mặt.

- Dê kia ngươi vừa nói cái gì? Ngươi nói được tiếng người à?

Tiếng nói cau có:

- Ông đã ăn thịt của ta, ta bắt ông phải trả nợ.... Như ta đã bắt lão Duy đền tội. Hắn cả gan bắt ta đem thịt ta chia cho mọi người. Hễ ai ăn thịt ta phải trả lại cho ta...

Ông Khôi lắp bắp:

- Nhưng đâu phải chỉ có mình tôi ăn, còn mấy người khác mà.... mà tôi biết đền cho ông cái gì bây giờ...?

Tiếng dê gắt: (??)

- Con dê đó, anh Duy bắt được ngoài nghĩa địa. Nó là một con dê trắng. Anh ấy kể lại cho tôi nghe.

Bốn người đàn ông rụng rời:

- Con dê ở nghĩa địa à? Thôi rồi, mình ăn phải thịt con dê ma rồi. Hèn chi nó đòi mạng là phải. Bây giờ phải làm sao đây. Sao ông Duy liều thế nhỉ?

Bà vợ ông Duy ai oán:

- Con dê đó không chỉ là con dê ma. Mà nó chính là con ma hóa thành.

Ông Khôi kinh hãi:

- Ma à? Làm sao mà ma hóa thành dê được?

Vợ ông Duy nức nở:

- Đêm trước, ông Duy nhà tôi từ phía núi Dài về nhà, ông đi dự tiệc cưới của con người bạn. Lúc đó ông đã say chếnh choáng. Lúc qua nghĩa địa, gặp một người áo trắng. Ông Duy cứ tưởng là người. Lúc nói chuyện mới biết là ma, con ma đó đi bắt hồn ai đó. Con ma hỏi ông:

- Thế anh là người hay ma?

Ông Duy bảo:

- Tôi là ma. Con ma mới chết nên còn nặng mùi thịt sống.

Con ma cười lạt lẽo:

- Thì ra là vậy, hèn chi tôi thấy mùi người.

Trò chuyện một lát. ông Duy hỏi:

- Ma quỷ sợ gì nhất?

Con ma trả lời:

- Ma quỷ chỉ sợ nước bọt của người sống. Ngoài ra ma không sợ gì hết.

Thế là ông Duy nhân lúc con ma mải nói chuyện, liền nhổ bãi nước bọt xoa vào đầu nó. Con ma kinh hoàng rú lên rồi biến mất. Lát sau, có tiếng dê kêu. Một con dê trắng, ông khoái quá, liền dắt con dê về nhà.... Tôi nhìn con dê mà kinh khiếp. Mắt nó trợn trừng, lấp lánh sáng ghê rợn. Tôi hỏi con dê đó ông bắt ở đâu, ông kể lại như vậy. Tôi sợ quá:

- Anh ơi! Anh rước ma quỷ về nhà rồi, mau thả nó ra đi, kẻo tai họa đó.

Ông Duy gạt đi:

- Đó là lộc của trời cho, ta phải tận hưởng. Ngày mai, tôi sẽ thịt nó để đãi bạn bè tôi, xem thử dê ma có ngon không?

Tôi can ngăn hết lời nhưng anh ấy đâu có chịu nghe, bây giờ tai họa thảm khốc như vậy mình tôi phải gánh chịu.... Rồi ai nuôi hai con tôi đây ông Duy ơi là ông Duy....

Giọng bà vợ ông Duy nghèn nghẹn, đứt quãng. Ông Khôi bủn rủn tay chân. Mồ hôi vã ra như mưa:

- Trời ơi, như vậy là thịt người chết chứ đâu phải là thịt dê. Ông Duy ơi. Ông làm khổ chúng tôi rồi.

- Tôi phải xẻo thịt để đền cho con ma mất thôi.

Ba ông kia mếu máo:

- Có ai ngờ vì tham miếng ăn, bây giờ phải lãnh hậu quả như vầy. Biết làm sao bây giờ?

Đám ma đã buồn, lại còn thảm hơn, khi bốn người lại ở trong tình thế nguy cấp. Mạng sống của họ bây giờ do ma quyết định.... Chôn cất ông Duy xong, ai về nhà nấy lòng trĩu nặng lo lắng, bồn chồn...

Đêm đó, ông Khôi thao thức khiếp sợ, có hai người đến tìm ông và lôi ông đi. Ông chưa kịp phản ứng gì đã thấy mình ở dưới Diêm Cung. Ông thấy các ông: Hào, Du, Thuật có mặt ở đó. Diêm Vương lạnh lùng:

- Quỷ vô thường, có đúng là bốn tên này đã ăn thịt ông không?

Quỷ vô thường đau khổ:

- Dạ đúng ạ. Cúi xin Điêm Vương bắt chúng đền tội. Chúng đã chọc tiết tôi rồi làm các món nhắm: xào lăn, tái, nướng, chúng nhai rau ráu, nhai đến đâu tôi đau nhức đến đó.....

Diêm Vương quát:

- Khôi, Hào, Du, Thuật. Các ngươi đã nghe rõ rồi chứ? Vì sao dám ăn thịt quỷ vô thường....

Bốn người cúi rạp xuống, lát sau ông Khôi thanh minh:

- Dạ! Tâu Diêm Vương, quả thật chúng tôi không hề biết đó là thịt quỷ. Nếu biết có cho vàng chúng tôi cũng không dám ăn. Ông Duy không nói rõ, chỉ biết mời chúng tôi ăn. Chúng tôi vô tình thôi ạ...

Diêm Vương gật đầu:

- Ta đã hiểu điều đó. Lỗi này tất cả là ở tên Duy. Hắn cả gan bắt quỷ đang làm nhiệm vụ về ăn thịt mà đây cũng có lỗi của quỷ vô thường, tại sao lại để hắn lừa?

Quỷ cúi đầu:

- Dạ, tôi nhận nhiệm vụ của Diêm Vương bắt tên Khôi, nào ngờ bị tên Duy lừa. Hắn nhổ nước bọt xoa đầu tôi, bắt tôi hóa dê và nói rõ để cứu bạn hắn. Tôi chỉ than thầm vì mắc mưu hắn. Cứ ngỡ hắn sẽ thả tôi ra, tôi sẽ đáp đầu vào đá để trở lại kiếp quỷ nào ngờ hắn cả gan ăn thịt tôi, khiến tôi nham nhở thân xác như vầy. Cúi xin Diêm Vương lóc thịt chúng trả lại cho tôi.

Diêm Vương cười nhạt:

- Tội của ngươi ta chưa xử đâu, còn mấy người kia vì lỡ vô tình nên tha cho chúng. Chỉ bắt tên Duy phải đền mạng. Lôi tên Duy ra đây...

Duy bị lôi ra, đóng gông ở cổ, tay chân bị xích chặt. Diêm Vương ra lệnh lóc thịt Duy trả lại cho quỷ vô thường. Duy la ầm lên vì đau đớn. Diêm Vương nói:

- Sao lúc mi thịt dê mi không kêu đau.... Xong hình phạt ở Diêm Cung, ta phạt ngươi phải làm con dê trắng, lang thang nơi nghĩa địa và sẽ có người bắt ngươi về làm thịt. Còn bốn tên kia, ta cho về nhớ lần sau đừng có dại dột như vậy nữa.

Cả bốn người mừng rỡ ra về... Ông Khôi thấy mình tỉnh dậy và lại nghe tiếng dê kêu, nhưng lần này không phải ở trong bụng mà ở ngoài nghĩa địa.

Vì nhà ông cũng ở gần đó, ông sực nhớ lời Diêm Vương phán, vội chạy ra. Quả thấy con dê trắng. Ông nghĩ ông Duy đã có công bắt quỷ cứu mình khỏi chết nên chạy đến ôm con dê vào lòng. Con dê ngoan ngoãn trong tay ông.... Ông đưa con dê trắng về nhà cho vào chuồng rồi chăm sóc chu đáo. Ai hỏi mua ông cũng không bán. Vì ông biết đó là ông Duy hóa thành. Ông tâm sự với dê trắng như với người bạn. Vợ ông thắc mắc:

- Con dê đó bán được khối tiền không bán, lại cho ăn sung mặc sướng. Ông quả là lẩm cẩm.

Ông Khôi trợn mắt:

- Con dê này có ân với tôi đó. Nó là bạn tôi..... Bà có biết nó là ai không?

Bà vợ tò mò:

- Thế con dê trắng đó là ai?

Ông Khôi thì thầm. Bà vợ bủn rủn tay chân, lắp bắp:

- Trời đất, ông nói thật đấy chứ. Để tôi qua nhà ông ấy báo cho vợ ông ấy biết.

Ông Khôi lắc đầu:

- Đừng, làm vậy thì chỉ làm khổ thêm cho bà ấy cứ để ông Duy ở đây sống cho trọn kiếp dê.

Bà vợ đồng ý.

NGÔI MỘ HOANG

Tôi vốn không tin có ma quỷ, lại càng không tin có thế giới cõi âm. Vì con người khi đã chết rồi thì theo khoa học sẽ tự phân hủy theo thời gian. Lúc đó còn gì nữa đâu để mà tồn tại. Dù là tồn tại theo tâm linh.

Ấy vậy mà có một chuyện kỳ lạ hay nói đúng hơn là kỳ bí vô cùng khiến tôi phải suy nghĩ. Đây là câu chuyện chúng tôi chứng kiến. Nghĩ lại đôi lúc còn rởn tóc gáy.

Số là một lần đi công tác ở một huyện miền núi. Tôi được bạn bè rủ đi nhậu thịt rừng. Tôi còn nhớ rõ đó là một đêm tháng sáu năm l982. Tôi vốn ít uống rượu. Nhưng hôm đó vì quá vui nên say túy lúy. Mấy người bạn cũng vậy. Họ rủ tôi ở lại nhà của Đệ một người trong đám chúng tôi, nhưng tôi từ chối. Và rồi người loạng choạng, tôi mò mẫm theo con đường đầy cỏ dại về nhà nghỉ. Và rồi không hiểu sao tôi gục xuống ngay vệ đường thiếp đi.

Tôi thấy tôi bước vào một ngôi nhà rất đẹp. Lối vào treo đầy giỏ phong lan. Có một người con gái tuổi khoảng đôi mươi đang ngồi trên một bộ ghế sang trọng cô ta thật đẹp. Cô ta đứng dậy, nhoẻn miệng cười tươi:

- Em biết thế nào anh cũng đến mà, anh Thắng. Em đợi anh lâu lắm rồi.

Tôi ngạc nhiên:

- Cô là ai, làm sao biết tên tôi? Tôi chưa hề gặp cô bao giờ?

Cô gái đặt tay lên vai tôi, bàn tay buốt giá khiến tôi rùng mình. Cô gái dịu dàng:

- Anh sẽ biết em là ai nhưng em muốn anh cứ nghĩ cho kỹ đi.

Tôi lắc đầu, cố hình dung ra cô ta là ai. Gương mặt cô gái cứ nhòe nhoẹt. Lúc thì trắng toát, lúc thì như một ác thú, lúc lại là một bà già. Tôi hoảng hốt, muốn la lên nhưng tay chân như cứ bị níu chặt. Phải chăng tôi đang gặp ma?

Cô gái tiếp tục:

- Anh quên rồi phải không? Để em nhắc lại cho anh nhé. Em là Hậu.

Tôi kinh ngạc rú lên. Hậu. Nhưng cô ta đã chết lâu rồi mà. Chính cô chết trên tay tôi trong đợt tấn công tiểu khu Long Phước năm 1975. Cô là người vùng đất này. Chúng tôi yêu nhau tha thiết, hẹn sau giải phóng sẽ cưới nhau. Tôi chôn Hậu ngay lối vào thị xã, hẹn sau này sẽ đưa vào nghĩa trang của huyện. Nhưng rồi công việc triền miên. Tôi quên mất lời hứa, chắc là nàng trách tôi! Giọng Hậu trầm buồn:

- Bây giờ thì anh nhớ rồi phải không? Em sống ở đây buồn lắm, vẫn mong ngày anh trở lại. Và em cứ chờ!

Tôi đã qua cơn sửng sốt, bồi hồi:

- Hậu ơi, anh có lỗi. Anh có lỗi với em rất nhiều. Hãy cho anh cơ hội chuộc lỗi.

Hậu vui vẻ:

- Anh đừng tự trách mình làm gì, anh không có lỗi gì cả. Em rất mừng là biết anh vẫn nhớ tới em. Thắng ơi, đêm nay anh ở lại đây với em nhé. Chúng mình sẽ cùng nhau ôn lại kỷ niệm ngày xưa.

Tôi gật đầu. Hậu tung tăng chạy đi pha trà rồi dẫn tôi ra vườn. Chỉ tay vào những chùm phong lan, tiếng cười của nàng giòn tan, trong trẻo làm sao, tôi thấy nhói đau. Hậu hiện lên trong tôi mồn một, y như ngày xưa vậy.

Rồi chúng tôi hôn nhau. Và Hậu biến mất, tôi nghe tiếng người lao xao.

- Thắng, anh Thắng đây rồi. Sao anh lại ở đây?

Tôi mở mắt, thấy mình đang nằm sấp trên một ngôi mộ hoang, môi đang dính đầy đất. Trước mắt tôi thằng Đệ, Vinh đang lo âu hốt hoảng. Tôi ú ớ:

- Hậu ơi, sao em lại bỏ đi, sao em bỏ anh một mình?

Đệ xốc nách tôi dậy người tôi sốt ly bì, cậu ta vội vàng đưa tôi vào bệnh viện huyện miệng cậu ta như mếu:

- Ông này liều thật, dám ngủ ngay tại ngôi mộ hoang. Coi chừng ma nhập.

Sau mấy ngày nằm viện, tôi hồi phục hẳn nhưng cứ bị ám ảnh mãi về Hậu. Tôi hỏi Đệ có biết ngôi mộ của Hậu ở đâu không, cậu ta lắc đầu:

- Ở đây nhiều ngôi mộ hoang lắm, bởi vì trong chiến tranh có rất nhiều người chết. Huyện đang xây dựng lại, nhiều ngôi mộ sẽ được quy tập. Biết đâu trong quá trình quy tập sẽ tìm ra được những đồng đội của anh.

Tôi gật đầu. Đêm đó, tôi nghỉ ở nhà khách. Khoảng 12 giờ đêm, tôi lại thấy Hậu. Cô đưa tay vẫy tôi. Tôi bước đi theo cô như một kẻ mộng du. Và chúng tôi bước vào ngôi nhà.

Tôi không nhớ chuyện gì đã xảy ra nữa. Nhưng khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm ở nhà khách. Thằng Đệ trách:

- Anh bỏ đi không nói ai cả làm tụi tôi kiếm gần chết, may mà kiếm được anh ngay tại ngôi mộ hoang. Anh Thắng, coi chừng anh bị ma nhập đó.

Tôi kể cho thằng Đệ nghe tất cả sự kỳ lạ của đêm trước. Đệ há hốc mồm kinh ngạc nó bảo:

- Như thế là có điềm báo rồi đó, phải chăng cô Hậu muốn chỉ cho anh chỗ chôn cất. Để em lên huyện xin phép đào thử ngôi mộ hoang đó xem sao.

Tôi cảm ơn lòng tốt của Đệ. Ngày hôm sau, việc khai quật ngôi mộ hoang được tiến hành, tôi thực sự kinh ngạc. Người con gái nằm trong ngôi mộ chính là Hậu. Kỷ vật vẫn còn nguyên vẹn. Tôi òa khóc. Mọi người cũng rưng lệ.

Sau khi thắp nhang khấn vái, chúng tôi đưa Hậu vào khu nghĩa trang của huyện. Hậu nằm trong đó bên cạnh bao đồng đội ngày xưa.

Đêm đó tôi thấy Hậu hiện về, tươi tắn, xinh xắn trong bộ bà ba, đôi dép lốp ngày nào, nàng vẫy tay cho tôi. Tôi gào to:

- Hậu ơi, chờ anh với, chờ anh với.

Hậu chỉ cười, bóng dáng nàng khuất hẳn.

NGƯỜI CON GÁI TỈNH BẮC

Vũ đến trọ học ở hàng cơm bà cụ Đỗ đã ba tháng rồi. Nhà chật chội, mái lợp tôn nên mùa hè rất nóng nực. Nhưng Vũ không muốn tìm chỗ trọ khác, bởi bà cụ Đỗ tính giá rẻ, phần vì mọi việc trong nhà cụ làm lấy, ít phải thuê mượn, phần vì chính gian nhà ấy, cụ cũng không phải mất tiền thuê.

Bà cụ Đỗ hồi cư rất sớm, thấy gian nhà bị chiến tranh tàn phá, chỉ còn trơ lại hai bức tường và một gian gác xép đằng sau, nên dựng mái tạm trú. Mãi, chủ nhà chưa thấy về nên cụ yên chí ở, tưởng chừng như đất của mình.

Gian gác xép ấy bỏ không. Có lẽ vì thấy có nhiều chiếc rầm gỗ bị cháy xém, sắp rơi, trần lại nhiều chỗ nứt lở nên chẳng ai dại gì hứng lấy tai nạn. Mùa hè đến, cùng với những kỳ thi Vũ cần phải học nhiều lắm, nhưng không được như ý. Nhà chật chội quá. Khách ăn hàng lại thường đông, ăn uống bi bô rầm rĩ.

Hơn nữa, mái tôn càng làm nắng hè gay gắt. Bởi vậy. Vũ đã nghĩ nhiều đến gian gác xép bỏ hoang ấy. Một chiều chủ nhật. Vũ mượn được thang dựng trèo lên xem. Gác tuy bỏ hoang nhưng không đến nỗi bẩn quá. Sàn vẫn còn nguyên vẹn chỉ có nhiều bụi cát cùng một ít vôi vữa long trên trần xuống.

Tưởng cũng còn khá sạch. Riêng các cánh cửa đều đã mất hết. Gió bên ngoài lùa vào mát rượi. Vũ suy tính nếu mình quét dọn qua loa, mỗi buổi tối trèo lên gác xép này, thắp nến mà học rồi giải (trải) chiếu ngủ thì tốt quá. Vừa yên tĩnh, vừa mát mẻ.

Cẩn thận Vũ hỏi qua bà cụ thì được ưng thuận ngay, bà chỉ dặn thêm rằng:

- Nhưng cậu phải coi chừng, nhà cửa ọp ẹp lắm, khéo mà oan giả.

Ngay buổi chiều. Vũ hì hục quét dọn. Gió lùa vào mát rượi. Gian gác bỏ hoang đã được Vũ đặt cho cái tên văn vẻ: Nghênh Phong Các. Mấy chồng sách, vừa để học, vừa để gối đầu, một ngọn nến, một manh chiếu đó là tất cả đồ đạc cần thiết trong căn gác đón gió này.

Tối đến. Vũ sung sướng trèo lên gác của mình. Lại rút luôn thang lên theo, vì e ngại mấy ông Tổng xã rượu say rồi lén phá quấy.

Thật là tĩnh mịch. Tiếng huyên náo trong hàng cơm vẳng xa hẳn, bên ngọn lửa nến lập lòe Vũ yên chí học.

Nhưng chưa ôn bài được mấy lần. Vũ đã thiu thiu ngủ gục. Cho đến lúc tiếng chuông đồng hồ nhà thờ dóng dả. Vũ mới choàng mở mắt. Trời bạch nhật, có lẽ đã sáu giờ sáng. Cây nến cháy đến gốc còn lưu lại vũng nến đọng. Cuốn sách đêm trước vẫn còn mở ở trang học dở.

Vũ bực mình quá vì thường rất tỉnh táo, có khuya, mệt thì đi ngủ, chứ không bao giờ ngủ gục như vậy.

Vũ cho đó là vì gác mát mẻ quá lại yên tĩnh nên dễ làm cho người ta chợp mắt.

Đêm hôm sau. Vũ đề phòng cẩn thận. Ăn cơm xong. Vũ uống một cốc cà phê thật đặc. Lại mang lên theo một bao thuốc lá nữa. Gió lùa mát rợi. Tiếng cười nói vang vang xa...

Dưới ánh nến, chập chờn theo gìó. Vũ ngồi chăm chú học, nhưng không hơn gì đêm trước chốc lát đã thiu thiu buồn ngủ. Sực nhớ. Vũ với tay cầm lấy bao thuốc lá. Nhưng lại nghĩ: Hãy cố dùng nghị lực chống chọi đã, cùng lắm hãy nhờ đến thuốc lá, dùng ngay e sẽ thành thói quen. Và Vũ không bóc bao thuốc vội để bao lên chồng sách.

Nhưng chỉ một lát sau. Vũ đã ngủ gục cho tới khi tỉnh dậy thì đã thấy cây nến hao quá nửa. Vũ giận mình vô cùng.

Vũ nhất định lấy thuốc lá để chống lại cơn buồn ngủ lạ lùng. Nhưng bao thuốc lúc nãy để trên chồng sách đã không thấy nữa. Có lẽ khi ngả lưng xuống, tôi đã quơ tay làm rơi bao thuốc chăng. Vũ bèn nhìn quanh và quả nhiên thấy bao thuốc lá ở ngay sau lưng mình. Nhưng lạ thay bao thuốc lá đã bị bốc ra tự bao giờ. Một điếu thuốc lại kéo lui ra khỏi bao chút ít như sẵn sàng mời Vũ hút.

Vũ dụi con mắt kinh ngạc! Chàng cố nhớ lại và đinh ninh quả quyết lúc trước chàng chưa hề bóc bao thuốc mà chỉ để bao nguyên lên trên chồng sách. Vừa suy nghĩ Vũ vừa rút điếu thuốc ra ngậm lên môi. Ngay phía sau Vũ, bỗng một que diêm xòe lên. Một bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại đưa que lửa mời Vũ châm thuốc.

Vũ hoảng hốt nhìn lại. Và thấy đó là một nữ lang rất đẹp, tuổi khoảng 16, 17. Có vẻ như một nữ học sinh.

Vũ liếc mắt nhìn cái thang tre, thấy vẫn còn để nằm yên chỗ chân tường. Nữ lang mỉm cười và nhắc:

- Anh châm thuốc.

Tiếng nói nhẹ nhàng như gió thu Vũ ngập ngừng mãi mới thốt ra lời:

- Cô cô đến đây? Đêm khuya...

Nữ lang ngắt lời:

- Nhà em ở gần đây. Nhân nhìn qua cửa sổ, thấy cây nến bị anh quờ tay đổ nghiêng nên vào dựng lại. Vừa toan quay về thì anh chợt tỉnh...

Vũ nhìn lại quả nhiên thấy trên mặt chiếu có vết sáp nến loang. Nếu vậy. Không có nữ lang, lửa nến có thể bén dần qua chồng sách. Nhưng Vũ vẫn tò mò muốn biết:

- Xin cảm ơn cô. Nhưng cô là...

Nữ lang mỉm cười:

- Em tên là Ngọc Bách, nhà ở cạnh đây... Nhân đêm khuya trằn trọc không ngủ được thấy gian gác này trước bỏ không nay có ánh lửa và bóng người nên tò mò nhìn vào... anh tha lỗi cho em nhé!

Vũ hỏi tiếp:

- Nhưng cô làm cách nào mà vào đây được?

Nàng mỉm cười:

- Anh không nên hỏi nhiều. Em là phận gái, lại chưa hề quen anh bao giờ nên đột ngột đến đây thực quá ư trơ trẽn... Chính vì vậy mà em không muốn nói rõ, anh biết nhiều để làm chi.

Ngừng một lát, nàng lại tiếp:

- Chúng ta quả là tình cờ gặp gỡ, thời gian họp mặt chưa thể biết dài ngắn ra sao. Vậy tốt hơn hết là chúng ta cứ vui khi cùng nhau gần gũi.

Vừa nói xong, nàng đến ngồi xuống chiếu sát bên cạnh Vũ. Vốn tính người đứng đắn Vũ nghiêm sắc mặt nói:

- Trai gái gặp gỡ đêm khuya là một sự chẳng hay. Hơn nữa, cô và tôi lại chưa hề quen biết bao giờ. Vả lại tôi đang cần yên tĩnh để học vì kỳ thi đã tới nơi... Nếu cô có lòng mến, xin để trưa mai tôi có thì giờ rỗi rãi tôi sẽ tiếp chuyện với cô.

Nữ lang làm ra bộ hờn dỗi. Nàng đứng dậy, liếc nhìn chồng sách trên chiếu cười nhạt:

- Có lẽ anh tưởng chỉ có anh là học thôi ư? Và anh tưởng những môn hình học không gian. Phân tích hóa học kia của anh là ghê gớm lắm rồi sao? Có lẽ vì thế nên anh mới dám đem so sánh giữa Học với Tình!

Vũ sốt ruột:

- Cô muốn tranh luận gì xin cũng hãy để đến trưa mai.

Nữ lang không nói gì hơn nữa quay ngoắt đi. Vũ xiết nỗi ngạc nhiên khi thấy nàng không xuống lối cầu thang mà lại vượt qua cửa sổ.

Gió đêm khuya càng thêm lạnh lẽo. Vũ bất chợt thấy rùng mình nhưng được cái không buồn ngủ nữa. Đêm ấy chàng học được kỹ càng cho đến ba giờ sáng mới dọn dẹp đi ngủ.

Hôm sau, lúc đi học về, ngồi ăn cơm. Vũ lại lựa lời hỏi bà cụ Đỗ. Nhưng bà cụ cho biết hai bên hàng xóm không hề có một thiếu nữ nào. Và cả quanh đây không có cô con gái nào tên là Ngọc Bách giống như hình dáng của lời Vũ tả. Vũ ngạc nhiên nhưng chưa nói rõ sự thực ý muốn đợi xem trưa nay, người con gái kỳ dị ấy có đến gặp mình như lời đã yêu cầu không. Nhưng không thấy đến.

Buổi tối hôm ấy. Vũ lại lên căn gác của mình ngồi học. Chàng lại thấy thiu thiu buồn ngủ khi gió mát lùa vào. Tuy vậy, chàng đã biết trước việc xảy ra nên ung dung lấy thuốc lá châm hút. Rồi ngồi đợi.

Quả nhiên, chốc lát thấy Ngọc Bách đến. Lần này, Vũ thấy rõ ràng nàng do lối cửa sổ mà bước vào nhẹ nhàng như một cái bóng.

Ra chiều thân mật. Ngọc Bách ngồi ngay xuống cạnh Vũ, rồi lả lơi trách:

- Em hôm nay lại hơi muộn, anh có giận không?

Vũ lặng thinh không nói, chỉ lấy sách vở ra học. Nàng lại nhìn chăm chăm vào mặt Vũ rồi tiếp:

- Có lẽ không giận nhưng ý chừng cũng mong đợi lắm thì phải?

Vũ thẳng lời cự:

- Hôm qua tôi đã nói với cô rằng tôi bận học thi không tiện tiếp chuyện. Tôi đã hẹn buổi trưa muốn nói năng gì sao cô không lại?

Ngọc Bách ra vẻ phụng phịu:

- Anh tưởng con gái muốn gặp đàn ông một cách tự nhiên lúc nào cũng được hay sao? Anh không sợ người ta trông thấy dị nghị ư? Về phần em thì không ngại nhưng lo cho anh bị người chế diễu.

Vũ lắc đầu:

- Tôi không sợ. Việc làm đàng hoàng chẳng sợ ai cười hết, mặc cho có người ngờ vực nhưng lòng mình thẳng thắn thì dư luận sai lạc ấy tôi cũng chẳng quan tâm. Tôi ngại là ngại sự đêm hôm khuya khoắt cô lại đây, nguyên một sự gặp gỡ ấy cũng đã là bất chính rồi. Vậy mong từ sau, cô đừng đến đây nữa, muốn hỏi gì xin đợi ban ngày.

Ngọc Bách rưng rưng ngồi khóc. Một lát sau mới nói:

- Em biết khi người con gái tự tìm đến gặp người con trai, bao giờ cũng bị khinh rẻ. Nhưng em dám đường đột chẳng qua là tưởng anh khoáng đạt, không chấp nê những nhỏ nhặt thường tình. Không ngờ anh cũng chẳng hơn gì người khác...

Vừa nói nàng vừa gục xuống gối Vũ mà khóc nức nở. Nhưng Vũ gạt ra, nghiêm giọng bảo:

- Những lời tôi nói đã đầy đủ. Cô nên hiểu biết và đừng quấy rầy thêm nữa!

Rồi quay sang phía khác mà ngồi học lớn tiếng làm như không có ai ở cạnh mình. Ngọc Bích vùng đứng dậy. Nàng biến sắc nói:

- Số anh sắp chết đến nơi, ta thương tình đến cứu lại không biết thân, còn làm ra bộ kiêu kỳ, vậy hãy coi chừng.

Nói rồi bước ra cửa sổ biến mất.

Vũ vừa ngạc nhiên vừa bâng khuâng. Chàng không hiểu người con gái ấy là ai, ma quỷ chăng, người thực chăng? Trước lời dọa nạt kia chàng không sợ. Những cảnh chinh chiến đã làm cho Vũ tin tưởng ở số mệnh. Sống, chết chẳng phải là những thứ có thể tìm hoặc tránh được dễ dàng...

Vũ vừa toan gác bỏ những ý nghĩ vẩn vơ ấy để chuyên tâm ngồi học thì chợt cơn gió mạnh từ đâu ào ào tới làm cho ngọn nến tắt phụt. Vũ định sờ lấy bao diêm châm nhưng không thấy. Gió như lạnh hơn lúc trước làm cho Vũ chợt rùng mình. Ngoài trời không đến nỗi tối lắm. Những lùm cây rung động như những bóng đen hình dáng to lớn lạ kỳ...

Giữa khung cửa sổ. Vũ bỗng thấy hiện ra một bộ xương người trắng xóa dập dờn đi lại.

Vũ biết lời dọa nạt của người con gái kỳ dị đã thực hiện. Đã suy nghĩ từ trước nên Vũ không lấy làm kinh hoảng. Bộ xương ấy bước vào. Tiến đến trước mặt Vũ. Cái đầu nhe bộ răng trắng nhởn nhơ cười một cách rùng rợn.

Vũ ráng bình tĩnh, vẫn cứ ngồi yên giả bộ học.

Thoáng cái bộ xương đã biến đâu mất. Vũ cười thầm:

- Mi dọa ai thì được, chớ dọa ta sao nổi?

Chưa dứt lời một thanh xương tay bỗng từ trên trần nhà rơi xuống ngay trước mặt Vũ. Tiếp đó là thanh xương mỗi chốc thêm nhiều, đến mấy chiếc xương sườn... Thấy đống xương mỗi chốc thêm nhiều lù lù trước mặt... sẵn lọ mực trên bàn Vũ cầm ném luôn vào bộ xương. Mực đổ tung tóe, bộ xương vụt biến mất.

Vũ tưởng vậy là yên. Không ngờ Ngọc Bách lại hiện ra đứng cạnh chàng. Nghiêm giọng trách:

- Anh thực là tệ! Lại là người đã hấp thụ văn minh Tây Âu sao không biết quý người phái yếu?

Vũ thẳng lời cự lại:

- Người ta chỉ có thể lịch sự đối với người lịch sự. Quấy rầy làm mất tự do của kẻ khác, đó có phải là cách cư xử của hạng người có giáo dục hay không?

Nữ lang không nói lại được, tần ngần đứng lặng người, chốc lát mới thở dài. Vũ thấy sắc mặt nàng vô cùng buồn thảm cũng động lòng, hỏi:

- Cô là ai, xin nói thật. Nếu còn giấu diếm ta không bao giờ muốn nói chuyện.

Ngọc Bách hỏi lại:

- Nói thiệt liệu anh có khỏi sợ hay không?

Vũ cười:

- Hỏi thế là thừa, nếu là kẻ nhút nhát thì ngay từ đêm trước tôi đã không dám lên căn gác này ngồi mà học nữa.

Nữ lang gật đầu:

- Chính đó là một điều mà em lấy làm kính phục. Em không phải là người. Chính là ma.

Vũ thản nhiên:

- Tôi cũng đã đoán biết ngay.

Rồi Vũ lại nói:

- Thường thường tôi nghe thấy nói đến oan hồn song chưa tin là thực: hồn ma còn ẩn hiện lẩn quất nơi đây, ý hẳn cũng có điều oan khuất chứ chẳng không?

Ngọc Bách rơm rớm nước mắt thưa:

- Sự đời man mác nhưng nỗi oan khiên nhiều không kể xiết, nhất là trong thời chiến tranh ly loạn này, chẳng phải là trường hợp riêng em. Có điều kẻ chết đi dù sao cũng mong nắm xương tàn được vùi sâu chôn chặt, thế mà em thì bộc lộ gián nhấm, chuột gặm, thê thảm vô cùng...

Vũ thấy nàng từ nãy giờ vẫn đứng trước mặt mình chứ không dám suồng sã như trước, nên dịu dàng bảo:

- Dù sao nữa cũng xin mời cô ngồi xuống đây. Theo luân lý Khổng Mạnh, trai gái bất tương thân nhưng trộm nghĩ: đã là âm dương cách biệt, thì hai thế giới khác nhau chúng ta là ngay thẳng nói chuyện, tất cũng không ai chê trách vào đâu được!

Nữ lang bùi ngùi nói:

- Nghe lời anh, em chợt nhớ đến ba em ngày xưa. Tuy là người Tây học mà vẫn giữ được nề nếp Đông Phương, quả thực cũng là hiếm có vậy. Càng nhớ lại trong mấy hôm nay có biết bao nhiêu cử chỉ hành động suồng sã, thẹn chết đi một lần nữa được.

Vũ gật gù tán thưởng:

- Nghe lời, thấy rõ ràng là người có học thức. Mong rằng đừng giấu diếm. Xin cô kể rành mạch câu chuyện từ đầu.

Ngọc Bách lau nước mắt thưa:

- Nguyên những lời vàng ngọc ấy cũng đủ an ủi em được ngàn phần. Em tên thật là Ngọc Bách, họ Nguyễn vốn quê ở tỉnh Bắc, con của một ông Tham tá, đã từ trần từ lúc em mới lên 15 tuổi...

Mỉm cười chua chát. Ngọc Bách lại tiếp:

- Năm nay em 18 tuổi! Nói như vậy nghĩa là: khi chết thì em mới 18 tuổi nhưng nếu tính theo người sống, qua mấy năm tao loạn thì hiện nay em đã ngoài 20... già mất rồi.

Vũ nghĩ thầm trong bụng:

- Khi đã là đàn bà, dù chết đi rồi, cũng vẫn còn lo lắng đến sắc đẹp tàn phai.

Nữ lang lại kể tiếp:

- Trong gia đình, tuy em là lớn nhất nhưng vì em theo lời trối trăn của cha em dặn lại, nhất định cho em đi học đến nơi đến chốn. Bởi vậy. sau khi đỗ bằng cơ-thủy ở tỉnh Bắc, em được mẹ em cho về học bậc Trung học tại Hà Nội, cẩn thận mẹ em cho em ăn trọ tại nhà bà Phán Tâm ở ngay liền vách nhà này.

Ngừng lại giây phút. Ngọc Bách lại kể:

- Nếu không có chiến tranh thì không đâu đến nỗi... Khi được lệnh tản cư, bà Phán cùng những trẻ nhỏ đều về quê cả, chỉ còn lại một người con trai lớn, đi làm công sở và em cùng một người vú già ở lại. Bỗng đô thành khói lửa mù trời, căn nhà bên cạnh này (tức là nhà em ở) bị sụp đổ. Người vú già cũng như con trai bà Phán đều bị chết vùi trong đống gạch ngói, riêng có em là may mắn núp dưới chân cầu thang được thoát chết. Nghe tiếng bom đạn rầm rầm, em sợ hãi vô cùng, bò lần sang hàng xóm tức là căn nhà này, lúc đó bỏ không vì người trong nhà đều đã tản cư từ trước. Sợ hãi, em tìm được chiếc thang treo ẩn lên trên trần cái gác này, vì em cho đó là chỗ ẩn náu kín đáo nhất. Thân gái trong thời binh lửa, may ra nhờ đó mà được an toàn chăng. Thường lệ, mỗi khi tìm kiếm thức ăn, nước uống đầy đủ rồi thì em lại trèo lên trần nhà và rút thang lên theo. Em có ngờ đâu chính gian nhà này cũng bị sụp đổ, chiếc thang em vừa trèo lên bị rơi xuống. Thế là bỗng dưng bị giam trọn trên trần gác với một số lượng thức ăn đủ chừng ba ngày. Em chỉ còn một hy vọng có thấy bóng người nào thì kêu cứu, không những trong lúc khói lửa tơi bời, ai cũng lo lẫn trốn nên em ngồi yên trên trần đã bốn ngày liền mà cũng không hề thấy có một bóng người nào... Vừa đói và khát em đành phải chịu cực hình giống hệt như người bị lạc giữa nơi sa mạc. Cho đến khi sức một yếu dần em thở hơi cuối cùng, thiệt oan một đời xuân xanh đầy hứa hẹn.

Vũ nói tiếp:

- Rồi sao nữa, xin cô cứ kể tiếp cho tôi nghe!

Ngọc Bách thở dài:

- Rồi ngày tháng trôi qua. Cảnh đô thành dần dần trở lại đông đúc, vui vẻ hơn xưa. Riêng có tấm oan hồn của em vẫn bị ngậm ngùi, đáng thương hại nhất là một nắm xương tàn rụi vẫn bị bộc lộ trên trần nhà này làm mồi cho gián, chuột.

Vũ ngắt lời:

- Nhưng tại sao thấy tôi lên học trên đây cô lại hiện hình bỡn cợt? Hồn oan đau tủi, há lại còn ưa thích những chuyện cợt đùa...

Ngọc Bách rơm rớm nước mắt:

- Anh quở trách như vậy em xin nhận lỗi nhưng chỉ vì em ngu muội, lóng nghe thấy bọn yêu quái thường bàn nhau rằng nếu chúng tìm được người thế mạng thì sẽ được đầu thai thành kiếp khác! Thoạt đầu thấy anh lên học trên căn gác trống này em dùng tà khí làm cho tinh thần anh bị hôn quyện, rồi sau đó định hiện nguyên hình người con gái đẹp để nhờ nhan sắc mà quyến rũ anh. Nhưng anh không hề vì sắc đẹp mà động tâm. Em lại định tác quái để cho sợ hãi... nhưng kết cục cũng bị thất bạị... Em thực đã đắc tội với anh nhiều lắm.

Vũ ngắt lời hỏi:

- Bây giờ cô muốn gì?

Ngọc Bách gạt nước mắt, thưa:

- Em chỉ mong anh vì thương người bạc phận ra tay tế độ, chôn cất cho yên đẹp nắm xương tàn của em mà thôi. Như vậy em không còn phải oán hận gì nữa...

Vũ nhận lời, Ngọc Bách sụp lạy tạ ơn nhưng Vũ giục nàng hãy ra đi vì âm dương cách biệt, lần lữa lâu dài. Cũng e hại cho cả đôi bên.

Ngay sáng hôm sau. Vũ hỏi thăm những người ở gần đấy họ đều nhận rằng có thực, tại nhà bà Phán Tâm khi xưa có cô con gái tỉnh Bắc trọ học nhưng hình như đã thiệt mạng trong những ngày khói lửa đô thành. Vũ lại tìm thang trèo lên trên trần nhà lục lạo khắp nơi, quả nhiên có một đống xương người, nhện chăng, bụi phủ, riêng lạ một điều là có mấy khúc xương rõ ràng có vấy mực. Sau khi tìm được xương cốt của cô gái Vũ bèn nhờ người chôn cất cho đúng lời hẹn với hồn ai!

NGƯỜI SỐNG CÙNG MA

Chùa Già Lam tọa lạc trên một khu đất rộng, phong cảnh thoáng mát, đầy cây cảnh rất thích hợp cho việc tu hành, kinh kệ. Từ ngày má vợ mất, tôi hay lên chùa để thắp nhang nhất là vào các ngày rằm lớn. Nếu các Chùa khác ở Sài Gòn cũng đều có Bảo Tháp, nơi giữ cất của người đã khuất thì Chùa Già Lam cũng vậy. Tôi hay vào nơi giữ cất vì ở đó có cốt của ông già vợ. Ông mất năm sáu chín, cải táng năm 1980 và đưa về chùa từ năm đó. Ông anh vợ tôi lặn lội từ Sài Gòn ra miền Trung để đưa vào đây cốt của cha vợ tôi để tiện việc nhang khói. Nhà cốt nằm ở phía tay phải của Chùa, chật hẹp, ở đó cất giữ rất nhiều cốt. Đa số là người của miền Trung.... Nhưng ông Tư, người giữ cốt lại là người miền Nam. Ông làm nghề này đã lâu, hoàn toàn tự nguyện vì công quả... Mỗi khi có lễ gì ở Chùa như lễ An cư kiến hạ, cầu siêu, hoặc cúng rằm tháng bảy là ông ở lại Chùa suốt đêm. Còn thường thì ban ngày ông có mặt ở Chùa, tối về nhà ngủ. Nhìn ông hom hem, da sạm đen. Đôi mắt sâu hoắm cứ tưởng ông yếu lắm nhưng ông rất khỏe. Cốt được cất trong một cái lọ, phía ngoài là bức ảnh nhỏ xíu nhà cốt lưu giữ hàng trăm cốt có ghi tên tuổi cụ thể và nhiệm vụ của ông Tư là lo quét dọn nhà cốt rồi thắp nhang mỗi ngày. Thắp chung cho nhà cốt. Ông thuộc vanh vách từng cốt một... cốt ông già vợ tôi ở trên cao, mỗi khi thắp nhang phải bắc thang lên. Không khí rất huyền hoặc kỳ bí đó là thế giới của người chết.... Tôi hỏi:

- Bác làm nghề này có sợ không?

Bác Tư cười móm mém:

- Ban đầu thì sợ nhưng bây giờ quen rồi. Tâm linh mà. Mình cứ sống tốt thì có ai hại mình được đâu. Tôi vào nghề này vì tình cờ thôi. Gọi là nghề nhưng thực ra là làm công quả. Sư trụ trì bảo tôi là ở Chùa thiếu người trông coi giữ cốt, nếu thí chủ làm công quả thì coi giữ giùm Chùa. Tôi gật đầu đồng ý. Hằng ngày ăn cơm chay niệm Phật và ngồi ở đây cho đến hôm nay. Tôi đã ngoài bảy mươi rồi, cũng gần đất xa trời rồi. Coi như là tích đức vậy.... Nhà Chùa là nơi bá tánh đến nghe kinh. Nhiều người đóng góp công quả, thắp nhang lạy phật để xua tà tâm...

Tôi hỏi:

- Bác ở trong này có thấy ma bao giờ không? Nghe nói gần chùa ma quỷ hay đến nghe kinh để sớm siêu thoát.

Bác Tư kể:

- Có chứ bữa đó tôi ở lại hơi trễ một chút vì trời mưa, tôi thấy một loạt bóng trắng ào vào. Tôi ngỡ mình nằm mơ tự nhéo tay thật đau thấy đang tỉnh táo. Tôi hỏi mấy chú tiểu thì chú cho biết: ở Chùa này thấy hoài, các hồn ma đi dạo chơi, bây giờ trở về. Tôi cứ run bần bật cả người vì sợ. Tôi tính xin trụ trì cho nghỉ việc, nhưng ngặt nỗi nhà Chùa không còn ai nên đành ở lại. Tôi thắp nhang cầu các vong linh: Tôi làm nghề giữ cốt, chăm sóc vong hồn các bạn. Xin đừng quấy nhiễu nữa.... Sau đó rồi cũng yên ổn, thỉnh thoảng nghe có tiếng gì đó mơ hồ lắm.... Nói về nghề, thì nghề giữ cốt có khác gì coi nghĩa địa đâu, cũng là thân xác và phần hồn cả thôi. Tôi chỉ sợ mai mốt già cả rồi không ai thay thế thì tội cho các vong linh lắm.... Mà nói thật nghe nếu ngày nào không đến nhà cốt tôi lại thấy áy náy cậu ạ..... Nghề của tôi cũng cô đơn như nghề coi xác ở bệnh viện vậy, nó buồn lắm. Vì đơn độc một mình....

Giọng bác Tư trầm đục. Tôi nhìn bác lặng lẽ, gầy gò đi lau chùi bụi bặm ở các bức di ảnh, mà trào lên bao xúc động sâu xa. Bác đã vượt qua bao nỗi sợ hãi để làm công quả. Nếu như ở xóm nghĩa địa có nhiều người tập họp, còn ở đây bác chỉ có một mình. Tôi nhớ chính tôi có lần say rượu ở Phước Long đã nằm ngủ bên ngôi mộ hoang suốt đêm, khiến bạn bè hoảng hốt và khi tỉnh rượu tôi cũng kinh hoàng vì sự táo tợn của mình. Đó chỉ là một đêm thôi, còn bác Tư thì cả đời gắn bó với người chết, mà những người đó hoàn toàn xa lạ, không thân thích. Bác nói: Phật dạy con người ta từ bi hỉ xả, hưởng phước vô lượng. Gieo nhân nào, gặt quả ấy. Đây cũng là một điều tâm. Tâm trong hồn thanh thản. Tôi hỏi:

- Hồi nhỏ chắc bác gan lắm?

Như gãi đúng chỗ ngứa. Bác kể:

- Hồi nhỏ nhà tôi ở dưới quê, mần ruộng kiếm sống. Tôi hay đi câu cá đêm qua các khu gò mả. Lũ bạn sợ nhát không dám đi. Tôi cứ mặc kệ. Vì tôi nghĩ: ma chết sợ người đấy chứ. Nghĩ vậy nhưng vẫn cứ run vì nghe tiếng gió hú, lửa ma trơi chập chờn, rồi đom đóm bay lập lòe, nhìn đâu như cũng thấy có ma quỷ.... Nhưng tôi chẳng ngán gì cả, cứ đi. Thỉnh thoảng cũng bị ma nhát mấy lần.

Tôi hỏi:

- Ma nhát là nhát làm sao hả bác? Nghe ly kỳ quá. Mà bác có tin có ma quỷ không?

Bác Tư gật đầu:

- Có chứ. Có thế giới dương gian thì cũng có cõi âm ty. Có thờ, có thấy, có kiêng, có lành ông bà đã dạy vậy mà. Người ác sẽ bị trừng trị dù có thoát khỏi cõi dương gian. Lưới trời lồng lộng. Còn ma nhát ấy à lạ nghe. Tôi thấy có ai nhéo tai mình rồi có tiếng cười vang vang. Cứ ngỡ là bạn bè đùa. Khi định thần nhìn kỹ, chỉ có mình với đêm đen, nghĩa địa.... Tôi hoảng sợ nhưng rồi vẫn tiếp tục đi. Về đến nhà, trời đã rạng bình minh. Bạn hỏi: Đêm qua có thấy gì lạ không? Tôi kể lại câu chuyện ai cũng rùng mình. Họ cho tôi là gan cóc tía. Họ bảo: những người bị ma nhát là những người yếu bóng vía. Vậy mà tôi không hề hấn gì. Thế mới lạ chứ....

Tôi hỏi:

- Nghe nói người sống gần âm khí, cốt cách cũng kỳ lạ lắm, bác thấy sao?

Bác Tư cười xuề xòa:

- Chú thấy tôi có vậy không? Mà tôi đôi lúc cũng như bị nhập tâm, nói năng một mình cứ ngỡ như có ai nói chuyện với mình vậy.... Về nhà, vợ bảo: Ông này lẩm cẩm rồi, coi chừng bị ma nhập.

Câu chuyện của chúng tôi kết thúc. Tôi từ giã bác Tư ra về. Rời ngôi Chùa yên tĩnh mà lòng cứ day dứt một câu hỏi: Người làm công quả như bác Tư hiện nay còn lại bao người. Chắc là cũng có. Nhưng để gắn bó một cuộc đời có lẽ rất hiếm. Hiếm lắm.

TRẢ NỢ

Có lần nhân lúc rảnh rỗi. Tôi và mấy người bạn ngồi đàm luận về chuyện ma quỷ.

Tôi nói:

- Theo khoa học thì không có ma quỷ, nhưng duy tâm lại nói có. Vậy các cậu có tin rằng có ma không?

Thành - một nhà nông học ở Bình Chánh lên, trầm ngâm:

- Tại sao lại không có? Vì người chết đã đi sang một thế giới khác, thế giới siêu hình. Tôi kể câu chuyện này thế nào các cậu cũng rợn gáy: Đêm đó, mình đi làm đám giỗ về có uống vài ly rượu. Qua cánh đồng có mấy cái mả thì thấy một cô gái áo trắng chặn đầu mình hỏi: Anh Hai, ngồi tâm sự với em chút đi, em cô đơn lắm. Đang say, mình sáp vô liền. Nào ngờ mình bị mê man nằm thiếp đi ngay cạnh cô gái, cho đến sáng khi mở mắt ra các cậu biết gì không? Mình đang ôm một ngôi mả mới. Mình sợ phát khiếp. Sau này mình mới biết đó là mả một cô gái bị chết oan nên hay chọc người. Từ đó mình không dám đi qua đó vào ban đêm nữa.

Tôi cười:

- Sơn ăn từng mặt, ma bắt từng người, chắc tại cậu nhát quá vậy thôi.

Trung - tài xế xe tải tiếp lời:

- Không biết có phải như vậy không. Tôi cũng thấy ma một lần. Lúc xe tải qua cầu Đố thì thấy một ông lão Tây đen chắn ngang đường, xe mình đang băng băng, thắng không kịp. Mình đinh ninh ông lão chết rồi nên vô cùng hoảng hốt. Nhưng khi nhảy xuống xe thì không thấy ông lão đâu nữa. Dừng xe nơi quán nước mà mồ hôi ra như tắm. Mình hỏi được thì biết ở đó có ông già bị tai nạn xe chết nên hiện hồn về đòi mạng.

Thăng - một kỹ sư cũng xen vào:

- Tôi cũng tin có ma. Một hôm tôi cùng mấy người bạn vào rừng săn chim. Thấy một cô gái áo tím đang ngồi khóc. Mình thấy cô ta khá đẹp, lại hỏi: Tại sao em khóc? Cô ta không nói gì mà chỉ tay về phía cây cao. Mình nghĩ chắc là cô bị cướp của hoặc bị làm nhục. Máu anh hùng nổi dậy, mình theo cô gái đến đó cô chỉ tay vào gốc cây. Các cậu có biết chuyện gì không? Mình bới lên thấy một xác chết. Xác của chính cô gái đó. Tụi mình hoảng quá vội chạy về báo công an.

- Lại nữa, có lần mình đang ngủ để chuẩn bị ngày mai đi công tác thì nghe có tiếng nói nhỏ: Ngày mai con đừng đi, nguy hiểm lắm, sẽ có tai nạn đó. Tiếng của mẹ mình. Bà mất lâu lồi. Mình mở choàng mắt.

Tất cả vẫn yên lặng thế rồi mình xin lùi lại ngày đi công tác lấy lý do là bị bệnh. Thì cùng chiều hôm đó mình nhận được nguồn tin: chuyến xe đó gặp nạn rớt xuống đèo, trước đó mình đã có ý muốn nói vậy mà không ai tin. Họ còn cho là mình ngớ ngẩn nữa. Sau vụ đó mình tin rằng có một lực siêu hình luôn ở quanh ta. Vì vậy ông bà có nói: Có thờ có thiêng, có kiêng có lành.

Tôi nghe họ kể cũng rùng mình. Chợt tôi nhớ ra một chuyện. Tôi kể:

- Người ta bảo ma quỷ là không có bóng. Ở chỗ tớ làm có một tay đang sống phây phẩy đột nhiên lăn ra chết. Khi chuẩn bị liệm thì cậu ta sống dậy. Cậu ta hoàn toàn quên quá khứ của mình và suốt ngày cứ như người ngớ ngẩn vậy. Nói chuyện cứ như ở âm phủ lên. Một điều lạ là cậu ta không có bóng. Đứng giữa trưa hoặc giữa ánh đèn, cậu ta đều không thấy bóng của mình.

Cả bọn đều im lặng. Đúng là một hiện tượng kỳ lạ không thể giải thích được. Con người mà tại sao lại không có bóng? Mà ma thì chỉ có về đêm chứ sao lại có ban ngày? Chúng tôi lập tức cùng đến nhà người bạn mất bóng. Cậu ta ngồi đọc sách, chúng tôi vào cậu ta đứng dậy nói:

- Tớ biết các cậu đến có việc rồi. Tớ đang rất khổ tâm vì không có bóng đây. Người, yếu xìu hà....

Tôi hỏi:

- Nè, lúc cậu hoàn sinh cậu có thấy cảm giác gì không?

Cậu ta uể oải:

- Mình lạc vào một thế giới vô cùng kỳ ảo không thể diễn tả nổi. Còn đang ngơ ngác thì ai đó đánh một cái rất đau vào đầu. Thế là mình tỉnh dậy. Cũng may là dần dần tớ khôi phục lại được trí nhớ.

Trời dần trưa. Cả bọn cùng theo cậu ta ra sân. Đúng là cậu ta không có bóng. Hay là bóng cậu ta đã bị ma bắt rồi. Theo kiếp luân hồi, người nào bị ma bắt bóng sẽ thành ma. Tôi hỏi:

- Này, thế hồi xưa cha cậu làm gì?

Cậu ta trầm ngâm:

- Cha tớ làm nghề ăn cướp. Bàn tay của ông đầy tội lỗi nên khi chết vất vả lắm. Có đêm mình nghe tiếng ông khóc, ông ấy nói bị đánh đau quá. Mình hỏi thầy cúng thì được biết cha mình đang bị tra tấn ở dưới âm phủ. Có lẽ vì thế mà tớ suýt chết đấy. Linh hồn ông cụ có lẽ vẫn lang thang mình không làm sao giúp được.

Chúng tôi đang trò chuyện thì bà đồng bóng từ đâu lừ lừ đi vào. Thì ra cậu ta đang mời bà ấy đến để hỏi. Bà đồng sau khi đốt nhang một hồi chợt phát ra tiếng nói:

- Cha cậu vì gây quá nhiều tội ác nên không siêu thoát được. Cũng may cậu ăn ở hiền lành nên cha cậu sắp được đầu thai. Cha trả lại bóng cho con. Con hãy tha thứ cho cha.

Nói đến đây bà đồng im bặt và cậu ta cũng lăn ra bất tỉnh. Sau một hồi cấp cứu cậu ta tỉnh dậy. Việc đầu tiên. Cậu ta hỏi tôi:

- Tớ vừa trải qua một giấc mộng khủng khiếp. Bây giờ tớ thực sự khỏe mạnh.

Cậu ta bắt tay cảm ơn chúng tôi. Lúc bước ra sân, cậu ta đã thấy được bóng mình. Nếu không có bóng thì chỉ có sống với ma quỷ. Chỉ có người ác là không có bóng mà thôi.

TỰ THÚ CỦA KẺ ÁC

Tôi thi đậu vào đại học. Đó là một niềm vui rất lớn đối với gia đình tôi, một gia đình nông dân ở Tháp Mười. Sau bữa liên hoan ấm cúng, tôi lên Sài Gòn học. Trước mắt phải kiếm một chỗ để ở vì ký túc xá đã chật ních sinh viên. Thế rồi, qua giới thiệu của bạn bè tôi thuê một căn buồng trong ngôi biệt thự sang trọng nằm ở đình Trương Minh Giảng.

Đây là ngôi biệt thự nằm sâu trong con hẻm lầy lội. Tôi ngạc nhiên vô cùng, tại sao ông chủ nào lại can đảm bỏ tiền ra xây biệt thự mà không sử dụng được gì. Sau đó, tôi được giải thích của bạn: do ông chủ nhà thích sống bên bờ sông lộng gió nên khi giải tỏa nghĩa trang ông mua mảnh đất này. Thế rồi qua bao thời kỳ xây dựng nhà nhà lớp lớp mọc lên lấn dần con đường cái lộng thuở trước. Ông chủ nhà đành chịu phép.

Ông chủ nhà năm nay chừng 60 tuổi có vẻ là một người từng trải. Gương mặt ông sắc lạnh, cái mũi khoằm vô như mũi két muốn mở bất cứ cái gì đối diện. Con mắt ông đầy vẻ nghi ngờ dò xét. Anh bạn tôi mau mắn giới thiệu:

- Đây là anh Sắc, bạn của tôi ở tỉnh lên. Biết ông đang cho thuê chỗ ở nên tôi đưa đến giới thiệu cho ông.

Ông chủ nhà lãnh đạm:

- Thế hả, thế thì vào phòng đi. Một tháng 60000 đồng.

Tôi vui vẻ đồng ý ngay. Sau dăm ba câu chuyện xã giao tôi lấy chìa khóa vào phòng. Điều đầu tiên đập vào mắt tôi là căn phòng có cấu trúc đặc biệt. Căn phòng con gái. Tôi hơi ngỡ ngàng. Ông chủ bình thản:

- Đây là căn buồng con gái tôi vẫn ở. Bây giờ nó đi xa rồi.

Giọng ông lành lạnh nghẹn ngào. Tôi nghe như từ cõi âm vang lên. Tôi bất chợt rùng mình. Nhưng vì bản tính của thằng con trai dạn dĩ, tôi mỉm cười.

- Cảm ơn ông rất nhiều. Tôi sẽ ở đây bốn năm.

Hợp đồng nhanh chóng được ký kết. Sau khi tắm rửa xong tôi thay bộ pyjama ra phố dạo mát. Ngoài căn phố lầy lội này thì ở phía kia đường là phồn hoa đô hội. Chợt chân tôi dẫm phải chân ai. Tôi giật mình, một anh thanh niên trạc tuổi tôi. Tôi xin lỗi anh, anh cười xòa:

- Có gì đâu hàng xóm láng giềng mà.

Thế là chúng tôi quen nhau. Anh ta hỏi bâng quơ:

- Ai giới thiệu cho anh thuê nhà ở đây vậy?

Tôi nói rõ tên anh bạn tôi và hỏi anh:

- Tại sao anh có vẻ quan tâm đến ngôi nhà đó quá vậy?

Anh ta cười bí mật:

- À, đó là căn nhà đặc biệt. Anh cứ ở rồi sẽ biết.

Thấy anh ta nói vậy, tôi hơi nghi ngại. Nhưng tiền đã trả rồi. Chẳng lẽ lại bỏ đi. Tôi tặc lưỡi. Được ở trong căn buồng đầy đủ tiện nghi là tốt rồi. Ai nói gì kệ họ.

Đêm đó tôi thao thức không ngủ được. Gần một giờ sáng mới chợp mắt. Hình như có ai nắm chăn tôi đè lên người tôi, khiến tôi nghẹt thở. Tôi ú ớ rồi mở choàng mắt. Trước tôi vẫn là khoảng đêm bao la, yên tĩnh. Và xa xa là tiếng sóng vỗ rì rầm. Tôi tự cho mình huyền hoặc. Lát sau tôi thiếp đi nhưng lại thấy bóng trắng xuất hiện, tôi hỏi:

- Cô là ai? Tại sao lại phá tôi?

Cô ta cười the thé:

- Tại sao anh lại vào phòng tôi, tại sao, đây là nhà của tôi. Anh làm tôi nghẹt thở.

Tôi hoảng quá la ầm lên nhưng không ai nghe thấy cả. Cho đến khi mở mắt ra thì trời sáng bạch rồi.

Đêm hôm sau tôi lại thấy hiện tượng như trên. Tôi thấy người con gái mặc áo trắng toát rất đẹp, cô ta nhìn tôi như vô hồn. Cô nói:

- Tại sao ông lại vào phòng tôi? Tại sao?

Tôi ú ớ:

- Đây là chỗ tôi ở thuê. Cô là ai?

- Tôi à? Cô ta mỉm cười. Tôi là chủ của căn phòng này.

Tôi rú lên:

- Cô là người hay là ma? Cô là người hay là ma?

Cô gái mặt mày ủ đột:

- Là cả hai. Tôi bị chết oan ức lắm. Hãy trả thù cho tôi.

Nói xong cô ta biến mất. Tôi mở mắt ra, mồ hôi ướt đẫm. Thì ra đó là một giấc mơ.

Sáng hôm sau tôi hỏi ông chủ:

- Đêm qua tôi thấy con gái ông đó.

Ông ta mỉm cười:

- Thế hả? Có gì lạ đâu, chắc cậu thấy tấm hình của nó nằm trong khung ảnh kia chứ gì?

Tôi sẵng giọng:

- Cô ta nói chết oan ức lắm.

Ông chủ mặt biến sắc:

- Thật thế ư? Tại sao lại như thế? Tại sao?

Ông ta thở hổn hển thật tội nghiệp. Tôi bỏ ông ở đấy đi ra ngoài. Anh bạn chủ quán cà phê đon đả:

- Thế nào, uống cà phê chứ, sao mặt mày ủ dột vậy?

Tôi hỏi:

- Anh có tin có ma không?

Anh chủ quán cười:

- Chắc là bị ma nhát chứ gì? Nè, cậu nên biết, nhà đó có ma nhiều lắm.

Tôi hoảng hốt đánh rớt cả điếu thuốc trên tay. Tôi định ngay lập tức chuyển đi nơi khác dù có mất trắng số tiền đưa ông chủ nhà. Chứ ở đó không khéo sẽ gặp tai họa.

Đêm đó tôi ngủ một giấc ngon lành. Không thấy gì cả. Tôi đã an tâm. Thế nhưng đêm sau lại thấy cô gái áo trắng. Cô ta ngồi xuống cạnh tôi, rủ rỉ:

- Anh định bỏ đi ư? Tại sao? Hãy trả thù cho em. Em van anh.

Tôi hỏi:

- Kẻ thù của cô là ai?

Cô gái thổn thức:

- Tám Điểu.

Nói xong cô ta biến mất. Sáng hôm sau tôi hỏi ông chủ nhà:

- Ông có biết ai tên là Tám Điểu hay không?

Ông chủ nhà hoảng hốt:

- Tám Điểu. Tại sao cậu lại biết tên đó?

Tôi hỏi:

- Con gái ông nói cho tôi biết. Tám Điểu là kẻ đã hại cô gái. Và nhờ tôi báo thù.

Ông chủ nhà thở dài đánh thượt một cái rồi lẩm bẩm:

- Đúng là trời quả báo rồi.

Tôi thấy ông ngồi im lặng, mồ hôi tứa ra đầy mặt. Lát sau ông hỏi tôi:

- Cậu có biết tôi là ai không? Tôi chính là Tám Điểu đây!

Tôi há hốc mồm kinh ngạc. Ông ta tiếp tục, giọng trầm buồn, xa vắng:

- Tôi xuất thân từ một đạo tặc lừng danh ở vùng đất này. Tuổi trẻ tôi đã từng đâm chém không biết bao nhiêu người. Sau này về già nghĩ lại ân hận vô cùng. Tôi không vợ, không con, có gì nữa đâu. Tôi lập bàn thờ Phật, mong người độ trì cho tôi.

Tôi sốt ruột:

- Thế tại sao ông lại hại con gái ông?

Ông ta chậm rãi:

- Cô ấy không phải là con gái tôi. Mà là vợ tôi. Đó là người vợ mà tôi yêu thương. Tôi sẽ kể cho anh nghe tường tận.

Trong một lần đi ăn cướp ở làng Karen tôi đã gặp cô ấy, lúc đó là một thiếu nữ 17 tuổi. Cô là con gái cưng của chủ làng. Vì muốn được cô ta, được số của cải, tôi đã nhẫn tâm sát hại cả nhà cô ấy rồi mang cô ấy về đây. Tôi đã nâng niu, săn sóc cô ấy suốt mười năm trời. Trong mười năm đó, cô ấy không mở miệng nói với tôi một lời. Tôi biết cô ta hận tôi lắm. Tôi ân ái với cô ấy, cô ấy không muốn nhưng phải phục tùng chấp nhận. Cô ta không đẻ cho tôi một đứa con nào. Tôi nghĩ chắc là do lòng hận thù đã khiến cho cô ấy như thế.

Rồi một hôm tôi đi nhậu về, quá say nên ngủ thiếp đi. Nhưng một nhát dao đã đâm vào ngực tôi, tôi hoảng hốt choàng dậy. Trước mắt tôi là cô ấy, cô rít lên giọng căm thù:

- Mày đã giết hại cả gia đình tao. Cưỡng hiếp tao, tao phải trả thù.

Tôi giằng lấy con dao, tát cho cô ấy mấy bạt tai:

- Mày tưởng muốn giết tao dễ vậy sao? Đừng hòng! Tao sẽ cho mày đi theo cha mày.

Cô ta cười man dại:

- Giết đi. Tao sẽ nguyền rủa mày suốt đời. Ha ha....

Tôi nghe tiếng cười của cô ta mà khiếp hãi quá. Tiếng cười như ma quỷ vậy. Tôi quyết định giam cô ta vào trong căn phòng mà anh đang ở. Một thời gian sau. Cô ta tự tử chết.

Tôi hỏi:

- Thế xác cô ta ở đâu?

Ông ta nói:

- Ở ngay đầu giường anh nằm.

Tôi rùng mình. Trời ơi, bấy lâu nay mình ngủ cạnh người chết, ngủ cạnh ma, thật là khiếp hãi. Nhưng rồi lòng yêu thương cô gái khiến tôi quên cả sợ. Ông chủ nhà nói tiếp:

- Cậu đã biết cả rồi. Tôi rất quý cậu, bây giờ tôi đã 60 tuổi rồi có chết cũng cam lòng.

Nói rồi, ông ta bước đi loạng choạng về phòng của ông.

Tôi bàn với ông chủ nhà nên xây mộ cho cô gái. Ông ta đồng ý.

Khi đào hài cốt lên thì chỉ còn là một nhúm tro xương. Tôi lập bài vị của cô, để lên bàn thờ và dựng chỗ cô chết một tấm bia đá. Thế là hết toi số tiền dành dụm. Nhưng lòng tôi vui vô cùng vì đã làm được việc nghĩa. Nhưng còn việc trả thù cho cô gái thật khó. Tôi với ông chủ nhà không thù, không oán hơn nữa tôi lại đang ở nhà ông, ông đối xử với tôi rất tốt.

Đêm đó tôi lại thấy cô gái hiện về, mặt mày tươi tắn rạng rỡ. Cô nói:

- Cảm ơn anh đã lo chu toàn cho tôi. Dưới suối vàng tôi mãn nguyện lắm rồi.

Tôi hỏi:

- Thế còn mối tử thù?

Cô gái thổn thức:

- Hãy để ông ấy sống cả đời trong dằn vặt đau khổ vì những lỗi lầm ông ta đã gây ra. Cách trả thù tốt nhất là sự cô đơn. Em biết, ông ta đã sám hối nhưng chưa đủ đâu. Nếu để cho ông ta chết thì dễ dàng cho ông ta quá.

Tôi nghe cô gái nói, lòng rưng rưng. Còn ông chủ nhà khi nghe tôi kể lại, nước mắt ứa ra trên khuôn mặt răn reo. Một cuộc đời chỉ chuyên gây cái ác bây giờ sống trong bế tắc, hối hận, dằn vặt. Âu cũng là một sự thức tỉnh. Tin rằng Trời Phật sẽ phù hộ cho ông.

Một tháng sau ông ta qua đời vì bệnh đau tim. Tôi biết ông ấy không chịu đựng nổi sự giày vò quá lớn của tâm linh.

CON TIM CỦA QUỶ - Phần 1

Trước khi đi ngủ Lan Thanh còn dặn kỹ em gái mình:

- Em nhớ đóng cửa sổ, gài chặt chốt bên trong và đừng mở ra lúc ban đêm đấy nhé!

Lan Ngọc cười chế nhạo chị mình:

- Chị trở thành bà cụ tám mươi lúc nào vậy! Sao không cho người lấy dây xích khóa luôn phòng em lại, để em không thoát ra ngoài được cho chắc ăn!

Lan Thanh lườm em:

- Lo cho an toàn của cô mà cô còn nói giọng đó hả! Em biết không, ở vùng này ban đêm hay có những loại chim lạ hay bay vào phòng nếu mình không đóng cửa. Mà những loại chim như vậy em không nghe người ta nói sao, nó chính là... oan hồn từ cõi âm hiện về đó.

Lan Ngọc vốn dĩ bướng bỉnh, cô phá lên cười:

- Em gái chị đang ế chồng, không cho em đón anh chàng đi lang thang nào đó về làm em rể chị sao!

Lan Thanh phát lên vai em mình một cái rõ đau:

- Đồ ăn nói bậy bạ! Thôi, ngủ đi con khỉ. Nhớ đó!

Lan Ngọc làm sao ngủ sớm được, mà lúc này mới có hơn tám giờ. Cô bắt đầu cảm thấy thì giờ qua khá chậm và khoảng trống trước mắt là cả một đêm dài. Ai bảo dành mấy ngày nghỉ ngắn ngủi để về đây, thay vì đi ra biển hay lên Đà Lạt chơi cho thỏa thích. Chỉ vì nhớ bà chị ruột lấy chồng đã hơn một năm rồi, về vùng sông nước đèo heo hút gió này, nên Lan Ngọc quyết định về thăm. Dẫu biết rằng sẽ là chuỗi ngày buồn và tù túng... nhưng kệ, biết đâu sẽ có được những phút giây thú vị khác mà cô sinh viên mới ra trường như Lan Ngọc đang cần nếm trải...

- Ngủ sớm đi Ngọc ơi!

Tiếng của Lan Thanh vọng từ bên phòng riêng sang, Lan Ngọc không đáp, lẳng lặng nằm xuống chong đèn đọc sách. Cái thú đọc sách đêm đã thành một chất gây nghiện đối với Lan Ngọc. Bởi vậy về đây chuyến này, ngoài quần áo, Lan Ngọc còn mang theo cả một nửa va li sách mới. Cô quyết trong một tuần ở lại sẽ nuốt trọn mớ sách kia. Còn hơn là nằm ngáp dài...

Đêm của vùng quê này thật tĩnh lặng. Chỉ thỉnh thoảng mới có vài tiếng kêu của con chim gì đó mà Ngọc nghe như "bắt cô trói cột", nghe xong Ngọc cười một mình vừa nghĩ "thảo nào bà chị yêu quý cứ sợ bị nó "bắt cô trói cột"!

Nằm khá lâu quyển sách đã vơi đi gần một phần tư, chợt Lan Ngọc nghe như có tiếng ai thở ngay bên cửa sổ! Lúc đầu cô còn do dự, bởi nghĩ mình nghe lầm, nhưng đến lần thứ hai lại nghe, thì Ngọc không thể nào nằm yên. Cô nhảy xuống giường, ghé sát mắt vào khe cửa nhìn ra. Bên ngoài có trăng, nên mắt thường Lan Ngọc cũng có thể nhìn thấy có một đứa trẻ còn chập chững đang loay hoay bước như xoay vòng ở đám cỏ non phía ngoài.

Điều đó khiến Lan Ngọc không thể nào rời mắt. Cô nghĩ chắc chắn là đứa bé đi với ai đó. Nhưng cố nhìn mãi mà vẫn không thấy ai khác. Mà đứa bé thì hình như đang khóc thét vì sợ hay sao đó...

Dẫu có vô tâm đến mấy thì trước hình ảnh đó Lan Ngọc cũng phải động lòng, nói gì cô là người thương trẻ con. Nghĩ mình nên gọi chị Lan Thanh, nhưng rồi lại sợ cái bà chị nhát gan, cụ non kia lại sợ và bàn ra, nên Ngọc quyết định lẻn ra ngoài bằng cửa trước. Cô vòng qua chỗ cửa sổ thì vừa lúc thấy đứa bé cắm đầu chạy về hướng cuối vườn cây ăn trái. Lan Ngọc đuổi theo.

Nhờ có ánh trăng mười sáu, nên Lan Ngọc có thể bước đi một cách dễ dàng, dù đây là lần đầu tiên cô đi sâu vào khu vườn cây rậm rạp này. Đứa bé vừa chạy vừa khóc, Lan Ngọc định lên tiếng gọi, nhưng lại sợ nó hoảng rồi vấp té, nên cô chỉ cố chạy cho nhanh hơn để bắt kịp. Nhưng ngoài dự đoán của Lan Ngọc, đứa bé xem ra chưa quá ba tuổi, vậy mà chạy rất nhanh, có lúc nó bỏ xa Lan Ngọc đến hơn hai chục mét.

Trước mặt cách đứa bé không xa có một cái mương lớn, Lan Ngọc vừa nhác thấy đã phải kêu lên:

- Coi chừng té!

Cô lao tới nhanh, bởi đứa bé chừng như chẳng để ý gì, cứ cắm đầu chạy thẳng, có nguy cơ lọt xuống mương! Và nó lọt thật!

Lan Ngọc vừa trờ tới thì cũng vừa lúc cả thân thể bé nhỏ của đứa bé lọt ùm xuống nước! Sợ thất thần, Ngọc chỉ kịp kêu lên một tiếng:

- Trời ơi, cứu!

Rồi cô cũng lao theo. Đến khi tiếp nước rồi, mới nhớ ra mình không biết lội, Lan Ngọc hốt hoảng, chới với, bởi cái mương khá sâu, gần ngập đầu cô. Trong cơn chới với, bỗng như có một cánh tay của ai đó với xuống kéo Ngọc lên. Cô vừa sợ vừa mệt, đã hầu như ngất đi.

Lan Ngọc không còn biết gì nữa và điều đó thật đáng tiếc. Bởi nếu còn tỉnh táo thì cô đã chứng kiến một chuyện mà cô không làm sao tin được. Người vừa kéo cô lên khỏi mương chính là... đứa bé chập chững lúc nãy! Nó có té xuống mương thật, nhưng vừa lúc Lan Ngọc lao theo thì chính nó đã nhảy vọt lên, rồi vươn tay kéo Lan Ngọc đang chới với. Trông nó lúc ấy không có chút gì là một đứa trẻ lên ba!

Đứng nhìn Lan Ngọc một lát, nó lặng lẽ bước đi, dáng điệu chẳng khác một người trưởng thành. Cách trước mặt nó vài chục mét là một khu nghĩa địa với vài chục nấm mộ vừa mộ xây kiên cố vừa mộ đá. Đứa bé không tỏ chút gì là sợ sệt, nó đi thẳng vào nghĩa trang và chỉ thoáng qua là mất hút...

Lan Ngọc vừa bừng tỉnh, cô nhớ lại chuyện mình té mương, nhìn lại bộ đồ vẫn còn ướt, Lan Ngọc tự hỏi:

- Sao mình không chết?

Chợt nhớ tới đứa bé, cô quýnh lên, nghĩ chắc là nó đã chết! Lan Ngọc tự trách mình, phải chi lúc nãy đừng nhảy theo nó, cứ tri hô lên, chắc chắn trong nhà anh chị mình sẽ nghe và họ chạy ra thì may ra còn kịp.

- Phải dì út không?

Tiếng của anh Thông, chồng chị Lan Thanh. Ngọc mừng quá, kêu lên:

- Em đây anh Thông ơi! Anh tới đây ngay đi.

Thông chạy tới, có cả Lan Thanh nữa. Họ hoảng hốt khi thấy Lan Ngọc trong tình trạng đó. Lan Thanh lên tiếng hỏi liền:

- Em đi đâu ngoài này vậy? Tại sao quần áo lại...

Lan Ngọc rối rít:

- Anh Thông nhảy xuống mương vớt giùm đứa bé lên đi! Nó... nó...

Lan Thanh cẩn thận hỏi lại:

- Đứa bé nào? Sao nó lại ở dưới mương?

Lan Ngọc không đáp, đẩy đại Thông xuống, khiến cho anh chàng té gọn xuống nước. Lan Ngọc nói to:

- Đứa bé mới bị té xuống đó, anh vớt nó lên may ra còn kịp.

Thông bơi lội giỏi, nhưng sau hơn mười phút mò tìm vẫn chẳng thấy gì. Anh lắc đầu nói:

- Làm gì có đứa bé nào ở đây?

Lan Ngọc quả quyết:

- Nó mới cùng té với em đây mà!

Tất nhiên cuộc mò tìm tiếp theo sau đó chẳng có kết quả gì. Thông mệt bở hơi tại, còn Lan Ngọc thì vẫn cả quyết:

- Nếu anh mò không được đứa bé thì suốt đêm nay em ở đây, không về!

Lan Thanh biết tánh em, cô nói với chồng:

- Anh ráng tìm xa xa một chút xem thế nào. Mà cũng lạ, mương nước không chảy, vậy té xuống thì đi đâu?

Cô hỏi lại em gái:

- Em nói rõ cho chị nghe coi, chuyện đầu đuôi ra sao?

Lan Ngọc thuật lại, nghe xong Lan Thanh trách em:

- Chị đã dặn rồi, tại sao em còn mở cửa sổ, rồi lại mở cửa đi ra ngoài nữa, lỡ có chuyện gì thì sao!

Cô giải thích việc có mặt của vợ chồng mình:

- Chị đang ngủ thì nghe có tiếng la thất thanh của em. Lúc chị chạy qua thì thấy cửa phòng mở toang, em không có trong đó, khiến chị hoảng quá, chạy đại ra vườn thì may gặp em ở đây.

Lan Ngọc ngạc nhiên:

- Em có la thất thanh bao giờ đâu? Em còn sợ làm chị giật mình nữa mà...

Lan Thanh quay sang hỏi Thông:

- Anh nói cho nó nghe, có phải anh cũng nghe nữa phải không?

Thông quả quyết:

- Tôi nghe tiếng của dì nên nghĩ là có chuyện nguy hiểm xảy ra, nên chưa kịp mặc quần áo đàng hoàng, đã chạy liền qua phòng. Chị Thanh của dì cũng chạy theo và lúc đó vẫn còn nghe dì tiếp tục la như bị ai đó bóp họng!

Lan Ngọc biết có cãi cũng vô ích, nên cô đích thân nhảy xuống mương lần nữa. Lần này cô có thận trọng hơn, nên nhảy xuống đúng chỗ cạn, nước chỉ ngập quá thắt lưng một chút. Nhưng Lan Thanh cũng hốt hoảng:

- Không được, nó không biết lội! Anh Thông...

Không đợi Thông có phản ứng. Lan Thanh đã tức tốc nhảy theo em mình. Ba người họ quậy nát cả một đoạn mương, cho đến khi bỗng Thông reo lên:

- Có bộ quần áo của con nít!

Anh đưa lên một bộ đồ, vừa nhìn thấy Lan Ngọc đã la lên:

- Của đứa bé!

Rõ ràng, lúc nhìn nó chạy, cô đã thấy nó mặc đúng bộ đồ này. Lan Ngọc mếu máo:

- Vậy là không cứu được nó rồi. Cũng tại em...

Cô khóc nức nở, vừa lúc Thông lại đưa lên một vật khác:

- Còn cái này nữa!

Vật mà Thông vừa đưa khỏi mặt nước đã khiến cho Lan Thanh kêu thét lên đầu tiên:

- Trời ơi, cánh tay!

Đúng là một cánh tay còn nguyên, lại là một cánh tay... trẻ con! Lan Ngọc kinh hãi:

- Trời ơi!

Cô chỉ kêu được mấy tiếng đó rồi chìm nghỉm xuống mặt nước. Lan Thanh thét lên:

- Lan Ngọc!

Hai vợ chồng tức tốc đưa cô em gái lên bờ. Lan Ngọc đã ngất đi, toàn thân lạnh như băng...

Bệnh tình tưởng không có gì, vậy mà Lan Ngọc đã phải nằm mê man suốt hai ngày. Lúc tỉnh lại điều cô hỏi đầu tiên là về đứa bé:

- Đã tìm được nó chưa?

Lan Thanh phải trấn an em:

- Em cứ yên tâm nằm nghỉ, dưỡng bệnh. Anh Thông và mọi người đã tát sạch nước ở mương rồi mà vẫn chẳng thấy gì khác. Có thể cánh tay kia là của ai đó chứ không phải của nó. Vả lại cánh tay ấy chỉ vớt lên mặt nước khoảng mấy phút sau thì đã chẳng còn nguyên nữa, nó thành một khúc xương khô!

Lan Ngọc vẫn lẩm nhẩm:

- Phải tìm cho được nó, tội nghiệp quá...

Thông đi tận chợ thị xã rước về một bác sĩ quen, để khám bệnh cho Lan Ngọc. Sau khi chẩn mạch ông bảo:

- Cô nhà chỉ bị hạ huyết áp, có lẽ do bị kích động chuyện gì đó. Giờ thì ổn rồi.

Khi vị bác sĩ này đi rồi thì ở nhà bên cạnh có một người bước sang nói với Lan Thanh:

- Tôi nhìn sắc diện cô này không như ông bác sĩ nói đâu. Năm ngoái đứa cháu gái của tui ở xa tới chơi đây cũng bị giống như vậy, nửa đêm nó chạy ra vườn rồi cũng bị té xuống ao, sau đó thì ngả bệnh luôn, mê man cả mấy tháng trời. Cho đến nay thì trở thành như người mất trí! Theo tui thì cô cậu nên đưa cô ấy qua bên kia cồn, có ông thầy hay lắm, chuyên chữa trị loại bệnh này. Chữa sớm đi, đừng để như đứa em tui mà khổ...

Lan Thanh định không nghe, nhưng nhìn sắc diện em gái cứ mỗi lúc mỗi xấu đi, tuy đã tỉnh, nhưng vẫn nằm thiêm thiếp, không đi đứng bình thường được. Cuối cùng cô phải đồng ý. Người hàng xóm tình nguyện đi cùng, cả vợ chồng Lan Thanh đều cùng đi. Lan Ngọc tuy biết mình được chuyển xuống ghe, nhưng cô chẳng tỏ thái độ ưng thuận hay phản đối.

Từ chỗ nhà Lan Thanh qua tới cồn mất hơn một giờ đi ghe. Trời tối, sông lớn lặng yên không chút sóng. Thím Sáu, người hàng xóm, mừng rỡ nói:

- Bữa nay hên đó, chớ mọi bữa sóng gió nhiều, muốn qua cồn phải đợi cả nửa buổi. Hy vọng ta qua sớm sẽ có thầy Tư ở nhà, để khỏi phải chờ đợi nhiều khi mất cả ngày.

Chiếc ghe do đứa cháu chồng của Lan Thanh chèo khá vững vàng và lướt đi nhanh hơn nhờ gió thuận chiều. Tuy nhiên khi ra tới giữa sông lớn thì bỗng Thông đang đứng ở mũi ghe kêu lên:

- Có sóng lớn kìa!

Từ phía trước mặt cách đó không xa đang có một cuộn sóng bất thường dâng lên khá cao, rồi tiếp theo là một đợt gió mạnh thổi thốc tới. Hợi, anh chàng chèo ghe đầy kinh nghiệm cũng phải kêu lên:

- Ngồi xuống hết, bám chặt mui ghe!

Lời anh ta vừa dứt thì đột nhiên chiếc ghe lồng lên, run lắc dữ dội, rồi mọi người chao đảo, cảm giác như bị hất tung lên! Có lẽ phải mất hơn nửa phút sau thì mới có người nào đó gọi lớn, vang vang giữa dòng sông:

- Mọi người cố bám vào ghe hay bất cứ vật gì đang trôi nổi!

Người vừa lên tiếng là Hợi, anh chàng chèo ghe. Anh ta sau đó kéo được trước nhất là Lan Thanh, rồi một người nữa có lẽ bị thương nên đang chới với. Đó là Thông. Chỉ còn thiếu mình Lan Ngọc.

Lan Thanh định thần lại, cô gào lên:

- Hãy cứu em tôi, nó không biết lội!

Có vài chiếc ghe khác đi gần đó cũng chạy lại tiếp sức. Họ bảo:

- Đây là cơn lốc bất thường. Thỉnh thoảng cũng xảy ra, nhưng mùa này thì rất hiếm.

Họ cùng nhau kéo hết những người bên ghe chìm lên. Lan Thanh năn nỉ họ:

- Làm ơn cứu em gái tôi, nó không biết lội mà. Nó chết mất...

Cô như người mất trí, cứ nhảy dựng trên ghe, khiến cho mấy người kia phải cảnh báo:

- Cô làm quá ghe chìm lần nữa thì nguy lắm đó. Được rồi, để chúng tôi tìm cho.

Họ chia nhau đi tìm khắp mặt sông rộng lớn. Ngót nửa giờ sau vẫn không thấy tăm hơi gì của Lan Ngọc. Thông chết điếng trong lòng, nhưng chưa vội thông báo cho vợ mình biết. Lan Thanh sau một hồi gào thét đã mệt nên nằm bẹp trên sàn ghe. Lúc ngẩng lên cô hỏi lớn:

- Tìm được chưa?

Chẳng nghe ai trả lời, cô quay sang nắm chân chồng hỏi bằng giọng thất thần:

- Con... con Lan Ngọc... sao rồi?

Thấy Thông im lặng, Lan Thanh như thân cây đổ, cô ngã sóng soài và ngất đi!

Cuối cùng đoàn ghe cũng giải tán. Hợi chèo ghe trở về, vừa lắc đầu than:

- Chèo ghe gần chục năm nay, chưa bao giờ tui gặp cơn sóng gió lạ như vầy!

Lan Thanh được xoa dầu, sơ cứu, tuy chưa tỉnh, nhưng cũng không đến nỗi nguy hiểm, Thím Sáu bảo:

- Cũng tại tui, nếu tui không gợi ý đi tìm thầy thì đâu đến nỗi nào...

Mọi người lặng thinh, tuy không ai nỡ trách phiền thím, nhưng nỗi đau lòng đang khiến họ như bất động, chẳng muốn nói gì thêm.

Ghe trở về nhanh hơn lượt đi. Gần nửa giờ sau đã cặp bến. Thông ngạc nhiên khi thấy trên nhà mình có đông người tụ tập, vào ra bất thường. Anh nhảy ngay lên bờ, chạy thẳng vào nhà xem. Trước sự kinh ngạc của Thông, ở bộ ván giữa nhà, Lan Ngọc đang nằm đó!

- Lan Ngọc! Phải Lan Ngọc không?

Một người hàng xóm nói:

- Cách đây gần một giờ, tôi đang ngồi rửa chén dưới bến, bỗng nhìn thấy một người bám vào cây chuối, trôi lềnh bềnh. Tôi tri hô mọi người xuống vớt lên thì mới hay là cô út!

Thông vừa chạy tới thì một người nói:

- Cổ chỉ còn mê thôi, chớ đã thở rồi.

Như được chết đi sống lại, Thông tức tốc chạy ra bến báo tin. Lúc ấy người ta đã khiêng Lan Thanh vô gần tới nhà. Bỗng nhiên Lan Thanh bật dậy, hỏi lớn:

- Em tôi đâu rồi?

Thông quên cả mắc cỡ, vội bế xốc vợ chạy bay vào nhà. Vừa đặt Lan Thanh xuống thì cô đã ôm ngang người em gái:

- Lan Ngọc ơi!

Lan Ngọc từ từ mở mắt ra. Hai chị em ôm chầm lấy nhau, khóc òa lên.

Không ai hiểu tại sao Lan Ngọc ôm được cái bè chuối, mà lại tự trôi về đúng bến nhà?

Trong lúc mọi người còn bàn tán trong nhà, thì ngoài sân có người la lên:

- Cánh tay của ai ở đây?

Mọi người chạy ra xem. Cô Hai Thắng, người đã nhìn thấy Lan Ngọc trôi sông đầu tiên, lên tiếng:

- Chỗ này hồi nãy tụi nó đặt cây chuối mà cô út ôm đây mà, sao bây giờ lại có cánh tay còn tươi của ai đây?

Mấy người nữa cũng xác nhận:

- Chính tui hồi nãy đặt cây chuối tươi ở đó, định sau này mình cúng vái cám ơn nó đã cứu mạng cô út em cô Lan Thanh đây. Sao bây giờ...

Đến khi Thông bước ra, vừa trông thấy cánh tay anh đã nói liền:

- Chính cánh tay này...

Anh muốn nói đó chính là cánh tay mà anh vớt được dưới mương lúc nửa đêm. Nhưng lời anh chưa dứt thì đã nghe từ phía sau tiếng của Lan Ngọc:

- Đừng làm gì cánh tay ấy!

Cô đã tỉnh hẳn, đang cùng với chị mình chạy ra chỗ mọi người. Và thật bất ngờ, Lan Ngọc chụp lấy cánh tay tái xanh, ôm hẳn vào lòng như đang âu yếm một vật cưng!

Nhìn em mình như thế Lan Thanh sững sờ, nhưng có lẽ lúc ấy nghĩ em mình còn yếu, cô không muốn Lan Ngọc bị xúc động mạnh, nên chỉ im lặng đứng nhìn...

Rồi trước sự kinh ngạc của mọi người, Lan Ngọc ôm cánh tay đi thẳng vào nhà. Vài người hiểu chuyện bàn với nhau:

- Có lẽ cô ấy cám ơn vật đã cứu mình. Xem ra cô còn chưa tỉnh lắm, vậy cứ để cho cô ấy như thế, sau đó mình đem chôn cánh tay cũng không muộn. Nghe có lý nên mọi người ai về nhà nấy.

Thông bàn nhỏ với vợ:

- Chờ dì ấy ngủ, anh sẽ đem cánh tay ra nghĩa địa chôn đàng hoàng. Đúng đó là ân nhân cứu mạng cho dì út!

Vợ Chồng Sáu Thạnh ở gần khu nghĩa địa, nên lâu dần họ không còn có cảm giác e ngại gì mỗi khi vào ra nơi đó. Thậm chí có những lúc vào nửa đêm mà thím Sáu còn một mình đi ra đó soi ếch thay cho chồng, những khi Sáu Thạnh bệnh hoạn hay say xỉn. Còn nói gì Sáu Thạnh, ông ta hầu như quen thuộc nghĩa địa như sân vườn nhà mình. Có lần chú nhậu say rồi nằm ngủ ngay trong gò mả ngoài đó. Có ai tỏ ra lo ngại thì chú luôn cười nói:

- Nghĩa địa là nơi yên bình nhất. Nơi của những người nằm đó mà hầu như không sân si, thù hận ai. Vậy giữa nghĩa địa và khu xóm của người sống, nơi nào đáng yêu hơn!

Vậy mà đêm nay lần đầu tiên cả hai ông bà phát sợ! Số là, lúc họ từ dưới nhà đi lên thì phát hiện ở giữa phòng khách có một xác người nằm đó!

Thím Sáu nhanh miệng hỏi lớn:

- Ai vậy ông?

Sáu Thạnh bình tĩnh soi đèn nhìn kỹ rồi kêu lên:

- Một đứa bé!

Nhìn kỹ hơn nữa, bỗng thím Sáu hốt hoảng:

- Nó không còn tay ông ơi!

Thì ra đó là xác của một đứa bé bị mất hai cánh tay. Tuy có hốt hoảng lúc đầu, nhưng sau khi trấn tĩnh lại, vợ chồng Sáu Thạnh bàn nhau:

- Dẫu sao thì sự thể đã như vầy rồi, mình phải có trách nhiệm. Trước tiên, bà cứ ở nhà trông chừng cái xác, để tôi chạy đi báo động cho bà con biết, kẻo họ nghi ngờ.

Mọi việc tính toán của họ đều bằng tấm lòng chân thật, nhưng hậu quả lại là việc chẳng lành! Khi nhiều người tụ tập lại đông, trong số đó có một người hốt hoảng kêu lên:

- Chuyện chẳng lành rồi! Đây là xác của cậu út, con nhà Hội Đồng Thì ở xã An Thới. Từ sáng tới giờ người ta đi tìm kiếm khắp nơi, không ngờ nó lại ở đây! Mà cũng lạ, vợ chồng Sáu Thạnh từ nào giờ thấy hiền lành, không ngờ lại...

Người đang nói vốn là tay đi mua heo dạo, tên hắn ta là Tư Hưng, mồm miệng rất độc địa, nên cả xóm đều không ưa. Nên nay tuy nghe hắn tỏ ý nghi ngờ như vậy, nhưng mọi người ai cũng nghĩ, vợ chồng nhà này chưa bao giờ làm chuyện gì tai tiếng.

Thấy mọi người không chú ý lời nói của mình, Tư Hưng liền quay nhanh đi. Một người thấy vậy nói:

- Anh ta đi báo làng đó!

Sáu Thạnh chất phác, nghĩ đơn giản, mình vô can, nên chẳng việc gì phải lo. Sau đó với sự tiếp tay của nhiều người nữa, họ khiêng cái xác lên giường ở giữa nhà, chuẩn bị làm thủ tục mai táng. Thím Sáu nói:

- Dẫu là ai thì đứa bé này cũng không thể để thế này được. Ta cứ liệm xong rồi đi báo cha mẹ chúng cũng không muộn.

Khoảng nửa giờ sau thì chuyện rắc rối tới. Một đám làng lính đi cùng với cả nhà Hội Đồng Thì, họ rần rần kéo vào nhà Sáu Thạnh. Vừa nhát thấy xác con mình, lão Hội đồng quát như sấm:

- Gông cổ đứa nào giết hại con tao lại!

Ba bốn tên lính bảo an đi theo lão ta chỉ chờ làm nhiệm vụ, hình như được chỉ điểm của Tư Hưng, đã nhào tới chụp tay vợ chồng chủ nhà, trói lại ngay. Sáu Thạnh phản ứng dữ dội:

- Mấy người đừng có hồ đồ! Muốn biết đầu đuôi ra sao thì phải hỏi chòm xóm đã chớ!

Mụ Hội đồng vốn xưa nay hung dữ có tiếng, mụ ta la bài hãi:

- Chòm xóm của lũ giết người thì cũng một giuộc mà thôi, còng đầu hết cho tao!

Mụ òa lên khóc rất dữ, nhưng trong giọng khóc như có cái gì đó không thật. Riêng lão Hội đồng thì không một giọt nước mắt, cứ hùng hổ ra lệnh:

- Tụi bây áp giải nó về nhà việc, kêu Hương quản Hận tới tra xét tụi nó cho tao!

Vợ chồng Sáu Thạnh bị lôi đi, mặc cho sự phản đối của nhiều người. Khi họ ra tới cửa thì có tên Đội xếp la lên:

- Còn xác của cậu út thì sao?

Bà Hội đồng ra lệnh:

- Cứ để đó, lát nữa Hương quản Hận tới làm biên bản.

Nhà vợ chồng Sáu Thạnh vốn chỉ có hai người, nay họ bị bắt đi thì không còn một ai. Giữa nhà họ cái xác nằm im đó, trông quá ghê! Bỗng một tên thủ hạ thân tín của nhà Hội đồng ra lệnh:

- Truyền lệnh của ông Hội đồng, lấy khóa khóa hết cửa trước sau lại, chờ người ta lập ăng-kết!

Dường như họ đã chuẩn bị đâu đó cả rồi, nên sau câu nói ấy tức thời các cửa đều bị khóa chặt.

Khoảng vài giờ sau thì Hương quản Hận dẫn theo khoảng chục lính tới, chúng mang theo cán để khiêng xác. Và dù chúng ra lệnh không ai được đến gần trong lúc chúng mở khóa, nhưng bà con chòm xóm cũng bất tuân, họ bu đông nghẹt, tràn vào tận cửa để xem.

Không làm gì được, nên Hương quản Hận đành phải ra lệnh cho đám lính cứ tiến hành công việc. Vừa mở cửa xong, hai tên xông vào trước và đồng loạt thét lên:

- Trời ơi!

Hương quản Hận bước vào theo và cũng trợn trừng mắt nhìn chỗ xác chết:

- Trời!

Họ kêu trời vừa dứt thì mồ hôi lạnh toát ra, người run lên bần bật. Nhất là Hương quản Hận, anh ta líu cả lưỡi:

- Sao... sao lại thế này?

Trước mắt anh ta không phải xác của đứa bé, mà là xác của một người đàn ông với khuôn mặt bầm tím, đầy máu me, tuy nhiên hắn vẫn nhận ra. Hắn muốn vãi ra trong quần.

- Sao... sao lại là... nó?

Hương quản Hận chỉ nói được có bấy nhiêu rồi thì ngã quỵ xuống. Cả hai tên thủ hạ cũng vậy. Việc diễn ra ngay trước mắt của nhiều người, nên họ la lên:

- Hội đồng Thì vu oan cho người nghèo, bắt oan người lương thiện!

Dẫu lạnh người trước sự việc trước mắt, nhưng vài người vẫn tràn vô nhà để nhìn cho rõ. Trong số này có một người nhận ra xác chết:

- Đây là thằng Năm Nhơn, người làm công cho nhà Hội đồng Thì mà.

Một người khác còn nói thêm:

- Nó chuyên chèo ghe, đi xách va-li cho cô tiểu thơ nhà Hội đồng đó!

Họ nhìn khắp nhà như để tìm kiếm xem xác đứa bé ở đâu. Một người nói:

- Họ khóa cửa lại thì cái xác đứa nhỏ làm sao biến đi đâu được. Mà cái xác thằng Nhơn này chỉ xuất hiện sau khi họ khóa cửa, như vậy chính họ là thủ phạm, chớ vu cho vợ chồng Sáu Thạnh nỗi gì! Mình phải lên nhà làng trình báo vụ này mới được!

Trong lúc họ kéo đi thì đám Hương quản Hận và lính của hắn vẫn còn nằm đó...

Mãi đến xế chiều mới có người của xã kéo tới. Họ không dám đụng vô xác chết, mà phải đợi khi Hương quản Hận tỉnh lại, họ bắt anh ta phải cùng với mấy tên thủ hạ khiêng xác ấy ra nghĩa địa gần đó chôn. Thấy họ định chôn trần cái xác, những người chung quanh thương cảm nên hùn tiền lại, mua được một chiếc quan tài để liệm xác cẩn thận.

Họ mai táng xác xong thì có người đưa ý kiến:

- Tui biết nhà của cha mẹ thằng Năm Nhơn này, để tui qua báo cho họ hay.

Nhưng đi đến tối trở về, người ấy thất vọng nói:

- Chẳng biết sao cả nhà họ đều biến mất cả! Nghe nói cách đây hai ngày họ cũng bị đám Hội đồng Thì tới bắt đi...

Ai cũng thắc mắc, nhưng có người biết chút ít chuyện liên quan nên nói riêng cho nhau nghe:

- Nghe nói giữa thằng Năm Nhơn với cô tiểu thơ nhà Hội đồng có chuyện gì đó... rồi chẳng hiểu sao lại xảy ra cớ sự này?

Mãi nửa khuya hôm đó vợ chồng Sáu Thạnh mới được thả về...

Vừa về họ đã nghe mấy người hàng xóm sang kể chuyện xảy ra chiều nay. Họ chẳng hiểu gì cả, hỏi lại nhưng mấy người kia chỉ thuật lại chuyện thiếu đầu thiếu đuôi, nghe càng thêm rối. Họ chỉ biết là xác chết đã được đem chôn...

Mệt quá, do cả ngày bị hành hạ tinh thần, nên vừa nằm xuống thì thím Sáu đã ngủ ngay. Sáu Thạnh ngồi vấn thuốc hút mà đầu óc để đâu đâu. Người lão nông này vốn chất phác, thật thà, nên chiều nay xảy ra chuyện ông đã hoang mang, suy nghĩ lung tung. Điều thứ nhất, ông không hiểu sao lại có chuyện cái xác đứa bé nằm trong nhà mình, mà lại là xác của đứa con út nhà Hội đồng Thì nữa? Rồi chuyện đó chưa xong thì giữa đêm nay họ lại thả cho về cũng chẳng giải thích tại sao. Mãi khi về nhà mới nghe tin một cái xác nữa trong nhà mình! Xác này thay xác kia, vậy là sao?

Sáu Thạnh ngồi hút hết hai điếu thuốc rồi mà vẫn nghĩ chưa ra. Chú định vấn điếu thuốc thứ ba thì chợt nghe có tiếng rên từ đâu vọng lại. Lúc đầu chú tưởng con gì kêu, đến khi nghe rõ hơn thì chú giật mình: Tiếng rên phát ra từ nghĩa địa sau nhà!

Hay là cái xác chết? Chú định gọi vợ dậy, nhưng sợ bà mệt, nên một mình chú xách cây đèn soi ếch đi ra hướng mấy gò mả. Càng tiến gần thì tiếng rên càng rõ hơn, lại đúng hướng cái mả mới.

Không chút sợ hãi, Sáu Thạnh vừa bước vừa lẩm bẩm:

- Ma cỏ bộ hết người nhát rồi sao lại nhát Sáu Thạnh này? Tao cũng là ma đây, ma đói!

Chú không tiện nói ra hết ý. Mà thật ra chú cũng không tin chuyện ma quỷ, cho nên dặn xong chú bước đi ngay. Dưới ánh trăng, bóng của Lan Ngọc một mình ngồi đó.

Chừng như thỉnh thoảng tận trong nhà Sáu Thạnh vẫn còn nghe những tiếng khóc, tiếng rên. Lúc nãy chú quên không hỏi tiếng rên là của ai? Thím Sáu sau một giấc ngủ say, khi thức dậy thấy chồng còn ngồi hút thuốc, thím ngạc nhiên hỏi:

- Bộ ông không ngủ sao?

Chú muốn nói ra chuyện mình vừa gặp ngoài nghĩa địa, nhưng lo vợ sẽ bị dao động tinh thần, nên chờ đến sáng chú vẫn không nói gì...

Vợ chồng thím đều không hay chuyện cho đến sáng Lan Ngọc vẫn còn ngồi trước ngôi mộ mới...

Phần 2

Hội đồng Thì bàn riêng với vợ:

- Mình phải gởi con Ái Loan lên Sài Gòn ngay thôi, ở nhà tui thấy không ổn.

Bà Hội đồng cũng lo:

- Mấy hôm nay tui cũng lo lo cho con Ái Loan. Chẳng hiểu sao nó cứ gào khóc đòi chết hoài. Chẳng lẽ nó thương thằng kia thiệt hay sao?

Ông Hội đồng gạt ngang:

- Thương gì thứ đó! Mà nó cũng thừa hiểu là thằng ấy đã...

Những tiếng gào thét vọng ra từ trong, bà Hội đồng lắc đầu thở dài:

- Nếu biết trước như vầy tui đã không để chuyện ấy xảy ra. Mà ông có nghe chuyện thằng Hương quản kể về vụ thằng Nhơn?

- Có nghe và tui đã chửi cho nó một trận. Thứ gì làm ăn cẩu thả, sao lại có chuyện xác thằng ấy lọt vô nhà đó?

Giọng bà Hội đồng chùng xuống:

- Tui nghĩ chắc là...

Bà không dám nói hết, nhưng ông hiểu. Điều đó ông đã nghĩ đến trước vợ, tuy nhiên sự sợ hãi đã khiến ông lảng tránh:

- Không đời nào. Chắc là có tụi nào đó nó muốn gây sự với mình, nên canh chỗ thằng Hương quản giấu xác rồi chúng lấy mang tới đó. Tui lo là lo chuyện thằng con út của mình. Sao mình nhìn thấy rõ ràng nó bị thằng Năm Nhơn bóp cổ chết rồi liệng xuống sông, sao lại nằm ở nhà thằng Sáu Thạnh?

Giọng bà vợ càng run hơn:

- Tui nghi quá...

- Sao bữa đó không cho đem xác nó về để nhờ thầy yểm và chôn cất nó. Dẫu sao nó cũng….

- Tui thấy nó bị nạn nên không nói, chớ cỡ như con rơi con rớt đó chết một chục đứa tui cũng không tiếc!

Cuộc đấu khẩu của đôi vợ chồng giàu có này thường không bao giờ chấm dứt sớm, nhưng hôm nay thì chỉ tới đó đã phải ngưng ngang. Bởi có tiếng kêu thất thanh của Hương quản Hận bên ngoài:

- Nguy rồi! Nguy rồi ông Hội đồng ơi!

Hắn ta chạy vô vừa tới cửa thì ngã quỵ, người đầy máu me, giọng hắn thều thào:

- Nó... nó...

Nói được bấy nhiêu đó rồi hắn ngoẹo đầu sang bên, mắt trợn trừng. Hội đồng Thì kinh hãi:

- Sao vậy Hương quản Hận? Mày bị gì vậy?

Những câu hỏi dồn dập của ông ta chỉ vô ích, bởi lúc ấy Hương quản Hận đâu còn nghe thấy gì nữa. Cũng may, khi ấy thì vợ hắn ta chạy ào vô, mặt mày xanh tái, hoảng loạn:

- Ông bà Hội đồng ơi cứu chồng con!

Bà Hội đồng hỏi liền:

- Chuyện gì vậy?

Chị ta chỉ tay ra phía sau, giọng đứt quãng:

- Nó... nó giết... nó giết...

Có lẽ quá sợ hãi, nên chị ta cũng nói không xong, phải đợi đến lúc đứa con gái lớn của Hương quản Hận chạy vào theo, cô ta bình tĩnh hơn, nói rõ:

- Ba con và hai anh lính tuần vừa ra khỏi nhà làng thì gặp ngay... Năm Nhơn!

Hội Đồng Thì vừa nghe nói tới đó đã hoảng hốt:

- Năm Nhơn sao? Nó... nó...

- Năm Nhơn đón đường ba con! Lúc ấy con và má con vừa đi chợ về ngang qua đó, nhìn thấy rõ ràng. Năm Nhơn người đầy máu me, nhưng dữ dằn, hung tợn lắm, anh ta gầm thét trước mặt ba con. Hai anh lính tuần đi theo ba vội nhảy tới định ngăn chận ảnh thì... đều bị anh bóp cổ chết tại chỗ! Sau đó đến phiên ba con cũng bị Năm Nhơn bóp cổ và lôi xềnh xệch xuống bờ sông gần đó. Con thấy ba con giẫy giụa, cố kêu la nhưng không làm sao tới cứu được vì lúc ấy hai con mắt của Năm Nhơn sáng rực lên như hai ngọn đèn pha, miệng anh ta đỏ như có máu trong đó. Anh ta muốn nhấn ba con xuống sông. Ba con chỉ còn nước chờ chết thì cũng may có cô... cô Ái Loan xuất hiện. Cô Ái Loan lên tiếng van xin Năm Nhơn tha mạng cho ba con, cổ nói đừng lấy oán báo oán tội lắm...

Những lời kể của con gái Hương quản Hận khiến bà Hội đồng hoảng lên:

- Con Ái Loan! Nó đâu?

Bà chạy vào trong một lát chạy ra hớt hãi:

- Không xong rồi, con Ái Loan không có trong đó!

- Thì con nói rồi, nhờ chỉ mà ba con mới thoát về đây được. Chị Ái Loan ở ngoài sân nhà làng.

Vợ chồng Hội đồng Thì tức tốc chạy ra đó. Họ không thấy con gái mình đâu. Chỉ thấy một đám đông người đang tụ tập, bàn tán chuyện vừa xảy ra. Một người vừa thấy vợ chồng Hội đồng đã sợ hãi kể lại:

- Thằng Năm Nhơn thề với mọi người là nó sẽ trả thù... ông Hội đồng và Hương quản Hận! Nó nói chỉ bởi hai người mà nó chết, xác bị dìm dưới sông lớn!

Nếu thường khi mà nói câu đó thì lập tức người nọ sẽ bị gông cổ lại và nhừ đòn, nhưng lúc này Hội đồng Thì chỉ thừ người ra, mặt tái mét. Bà Hội đồng quay sang chồng, nói thật khẽ:

- Nó... nó thành ma thật rồi ông ơi!

Người kia còn nói:

- Sau khi buông cho Hương quản Hận chạy thoát thì thằng Năm Nhơn lôi cô Ái Loan đi rồi.

Bà Hội đồng chỉ kịp kêu lên:

- Trời ơi!

Hội đồng Thì như kẻ mất hồn, mãi một lúc sau mới bước xuống bờ sông vừa lẩm bẩm:

- Chuyện ấy tới rồi...

Chẳng hiểu chồng nói gì, nhưng thấy ông đi thẳng xuống sông thì bà Hội đồng hốt hoảng:

- Giữ... giữ ổng lại! Coi chừng...

Nhờ lời kêu thất thanh đó mà Hội đồng Thì không lọt xuống sông, bởi lúc ấy ông ta như không còn biết gì hết, cứ bước như người đi tự sát!

Từ lúc bị giữ lại, Hội đồng Thì đúng là chỉ còn là cái xác biết thở, chớ hồn phách hầu như chẳng còn nữa. Lão ta cứ giương cặp mắt lờ đờ nhìn vợ và mọi người chung quanh rồi im lặng...

Đưa lão ta về nhà rồi mà lão vẫn nghĩ mình còn ở sân nhà làng, nên cứ vùng dậy đòi đi xuống sông. Sợ hãi quá, bà Hội đồng phải ra lệnh cho tôi tớ trong nhà đi ra hết, bà khóa trái cửa lại, nhốt ông trong đó, chờ đi rước thầy về.

Bà Hội đồng rối lên, nên thay vì sai người đi rước ông thầy Tư bên cồn, bà lại đích thân ngồi ghe đi. Lúc ra tới nửa sông rồi thì mới chợt lo, bởi bà không biết lội, lại sợ sông nước. Tuy nhiên, đã lỡ rồi nên bà dặn con hầu đi theo:

- Mày đưa cái thùng đậy kín nắp cho tao. Cột nó vô eo ếch tao đây, để khi có chuyện gì tao còn có chỗ mà bám.

Con Hai Mến vốn đứa lanh lợi, nó nói liền:

- Con lội giỏi, có gì bà ôm chặt con là yên.

Bỗng người chèo ghe phá lên cười lớn:

- Nghe con nhỏ nói chuyện ngu kìa! Ghe chìm mà mày biểu như vậy khác nào mày cùng với bà Hội về bên kia thế giới một lượt!

Nãy giờ không để ý người chèo ghe, nên khi nghe anh ta lên tiếng, bà Hội đồng mới nhìn lại và hỏi:

- Nó là đứa nào vậy?

Hai Mến mau mắn:

- Dạ, ảnh là Sáu Khá, chuyên vác lúa cho bà, bà không nhớ ảnh sao?

Bà Hội đồng chưa kịp đáp thì chợt một tràng cười nữa vang lên. Lúc ấy người chèo ghe giở chiếc nón lá trên đầu ra. Vừa nhìn thấy thì bà Hội đồng và cả Hai Mến đều kêu thét lên một lượt:

- Trời ơi, Năm Nhơn!

Giọng Năm Nhơn vang lên lồng lộng giữa dòng sông đầy gió:

- Cũng tại khúc sông này vợ chồng bà Hội đồng sai thằng Hương quản Hận và hai tên thủ hạ dìm tôi xuống nước cho đến chết. Chắc bà còn nhớ đêm hôm đó chớ?

Bà Hội đồng run như cầy sấy, giọng bà gần như không thoát ra khỏi miệng:

- Tôi... tôi... xin hãy... tha...

Chiếc ghe đột ngột dừng lại giữa dòng, khiến bà Hội đồng tưởng mình sắp bị trả thù đến nơi, thét lên:

- Đừng giết!

Đột nhiên có một giọng nói vang lên từ mũi ghe, mà vừa nghe bà Hội đồng đã bàng hoàng:

- Má bình tĩnh! Nếu giết má thì anh Năm Nhơn đâu đưa má ra tận đây làm gì.

- Ái Loan!

Từ từ bò vô khoang trong, Ái Loan ôm chầm lấy mẹ:

- Má! Con không muốn má chết!

Bà Hội đồng vẫn còn run:

- Nhưng... thằng Năm Nhơn, nó... nó...

- Năm Nhơn này cũng biết đạo lý, sao lại giết mẹ vợ!

Ái Loan nghiêm giọng:

- Anh Nhơn nói thiệt đó. Ảnh không làm gì má chịu nghe ảnh, nói trước mặt ảnh một tiếng... chấp nhận cho ảnh làm rể nhà mình!

Bà Hội quên hoàn cảnh thực tại, giọng bà chanh chua:

- Hứ! Làm gì cái thứ đỉa mà đòi đeo chân hạc!

Năm Nhơn cười gằn:

- Đeo chân thì không được, chỉ đeo cổ thôi!

Ái Loan khóc rưng rức:

- Má còn nói vậy thì anh Năm ảnh nổi cơn thì một chục đứa như con cũng không ngăn được! Má nhớ điều này, con gái má giờ đâu còn trinh tiết gì nữa, thân lại mang bầu với người khác. Anh Nhơn chịu lấy con là chỉ vì thương con, muốn cứu danh dự cho con, chớ sướng ích gì!

Lời nói của con gái làm cho bà Hội đồng sượng sùng, bà nói gần không thành lời:

- Chuyện đó... chuyện đó đáng lẽ con phải giữ chớ...

Ái Loan lắc đầu:

- Còn giữ gì nữa, khi chỉ vì muốn ém nhẹm chuyện con có chửa hoang với thằng Còm Thuần mà ba má đã nỡ gán tội cho anh Nhơn, nói ảnh hãm hiếp con rồi bắt ảnh đem tra tấn, bắt ký giấy nhận tội rồi còn giết ảnh để phi tang nữa. Ba má làm chuyện đó thì có ác không, có đáng bị ảnh trả thù không?

Bà Hội đồng không ngờ con gái cưng của mình lại có giọng điệu như vậy. Bà không tin đó là sự thật, nên hỏi lại:

- Có phải con đã bị ma nhập hay quỷ ám mà trở giọng như vầy, Ái Loan? Con nên nhớ là mục đích của ba má chỉ muốn cứu con qua khỏi tai nạn, rồi còn tính tới tương lai nữa. Má sẽ gởi con đi Pháp, ở bên đó luôn lấy chồng Tây cũng được!

Trả lời bà, Ái Loan chuyển nhanh ra sau lại, ngồi ngay dưới chân Năm Nhơn. Giọng cô cương quyết:

- Con chỉ lấy người này thôi! Bây giờ con mới hiểu ra, tình yêu nó ở ngay bên cạnh mình, chớ không phải đâu xa. Con đỉa nó đeo chân hạc, nhưng con hạc cũng phải sợ con đỉa chớ má! Con không sợ anh Nhơn, mà con thương ảnh.

Có một chiếc xuồng nhỏ từ đâu trôi tới, cặp sát vào ghe, đó là xuồng không có ai trên đó. Ái Loan nói như ra lệnh:

- Má và Hai Mến xuống xuồng và về nhà đi.

Bà Hội còn đang lưỡng lự thì chợt nhìn đôi mắt sáng quắc của Nhơn bà quíu cả tay chân, vội kéo con Mến đi:

- Mày dìu tao xuống!

Hai Mến cũng sợ thất thần, cứ mong thoát nạn cho nhanh, nên nó gần như cõng bà chủ xuống chiếc xuồng nhỏ, rồi chèo bằng tất cả sức bình sinh, ra càng xa càng tốt. Chỉ một lát sau là không còn thấy bóng dáng chiếc ghe nữa. Lúc này bà Hội đồng mới bật khóc. Thấy vậy con Mến an ủi:

- Cô Hai đã nói như vậy rồi bà còn lo gì nữa. Mà con thấy Năm Nhơn cũng đâu có tệ gì, chỉ có cái là nghèo thôi. Nhưng nghèo thì đã có ông bà đây...

Nó nói chưa dứt lời đã nhận ngay một cái tát nảy đom đóm! Bà Hội không quên cái tánh ác của mình:

- Mày không thấy con gái tao còn trong tay thằng ác quỷ đó sao! Nó bị quỷ ám chớ yêu thương gì thằng ấy! Lần... này về tao sẽ cào nhà, cào mả thằng ấy cho tiêu đời luôn!

Lời bà ta nói vừa dứt thì chợt chiếc ghe tròng trành như sắp chìm, Hai Mến sợ chủ rơi xuống nước nên vịn chặt bà, bỗng nó thấy hai mắt bà Hội đồng trợn trừng, miếng trào máu tươi đỏ lòm!

- Kìa, bà! Bà sao vậy?

Cô ta khó khăn lắm mới một tay giữ bà chủ khỏi té, một tay đẩy mái chèo, cố đưa chiếc ghe vô bờ. Đúng ra thì Hai Mến không tài nào chèo được tới, nếu không nhờ có sức đẩy vô hình nào đó. Khi đã tới bến, Hai Mến chỉ còn sức để gọi mấy tiếng lên nhà:

- Đưa... bà lên!

Không ngờ chuyện nhà của Hội đồng Thì lại lâm vào cảnh rối rắm như thế! Hết ông bị nửa tỉnh nửa mê, rồi tới bà Hội đồng cũng bị y như vậy.

Buổi chiều Hai Mến đưa bà Hội đồng về nhà thì cũng là lúc ông Hội đồng lên cơn la hét dữ dội mà chẳng ai biết tại sao. Khi bà vợ được đưa từ dưới xuồng lên thì khi vừa đặt xuống nằm cạnh, ông Hội đồng đã nhảy dựng lên, thét lớn một tiếng:

- Con quỷ cái!

Rồi từ đó lại rơi vào hôn mê sâu luôn...

Hai ông bà nằm trong phòng riêng suốt ba ngày không tỉnh dậy cũng không ăn uống gì. Tôi tớ trong nhà lo sợ cuống cuồng, chạy đi tìm những người thân của họ tới. Nhưng mấy người đó sau khi tới nơi, nhìn thấy cảnh ấy đều lắc đầu ngao ngán, có người còn ngại khó nên bỏ ra về.

Các thầy thuốc Tây y được rước từ thị xã về cũng đành bó tay. Họ đề nghị đưa ngay đi Sài Gòn chữa trị, theo họ thì đây là một chứng bệnh lạ, họ không dám điều trị.

Đến sáng sớm ngày thứ tư thì có một người con gái từ ngoài đi thẳng vào nhà trước sự ngạc nhiên của mấy người canh bệnh. Họ vừa định hỏi thì có Hai Mến ở đó, nhận ra khách, nên ngạc nhiên hỏi:

- Chị Lan Ngọc, chị đi đâu đây?

Lan Ngọc không chào hỏi ai, đi thẳng vào giường bệnh của vợ chồng Hội đồng Thì. Cô nhìn qua rồi nói:

- Chậm nửa ngày nữa thì cả hai đều hết cứu!

Trước sự kinh ngạc của mọi người, Lan Ngọc lấy trong túi ra hai lá xanh mà thoạt nhìn nhiều người đã nhận ngay ra đó là lá bồ đề. Cô đặt lên trán mỗi người một lá, rồi bảo Hai Mến:

- Hãy đóng chặt cửa phòng lại, đừng cho bất cứ ai vào. Ai có gõ cửa, có bắt buộc cũng nhất định không cho. Nếu chị làm trái lại thì ông bà Hội đồng sẽ không toàn mạng! Đây là ý của anh Năm Nhơn. Anh ấy muốn cứu họ. Chị nghe tôi dặn chưa?

Hai Mến đã có gặp qua Lan Ngọc một lần khi cô mới về đây và còn gặp lại lần nữa khi cô bị té sông, lúc đó thấy Lan Ngọc hiền lành, thùy mị... khác với bây giờ, nhìn cô như một vị tướng chỉ huy! Nhưng vì tính chất nghiêm trọng, nên Hai Mến phải gật đầu:

- Tui sẽ làm theo. Nhưng cô vừa nói, tại sao Năm Nhơn lại muốn cứu họ? Năm Nhơn không phải đã thành quỷ rồi sao?

Lan Ngọc xua tay tỏ ý không muốn nói. Cô lại đưa một ra một cái bọc vải, dặn Hai Mến:

- Nếu có ai muốn xông đại vào phòng mà chị không cản được, thì đưa vật này ra trước mặt họ, ắt sẽ đuổi được họ đi!

Hai Mến cầm lấy với bao thắc mắc nhưng không dám hỏi. Bởi cô nhớ những lời nói của bà Hội đồng lúc ở dưới xuồng, chỉ vì đụng chạm đến Năm Nhơn mà bị như vậy...

Thoắt cái Lan Ngọc đã đi ra tới ngoài cổng. Lúc ấy có muốn gọi lại cũng chẳng được, nên Hai Mến đành ngồi đó với cái bọc vải trong tay. Cô thấy bọc nặng nặng nhưng chẳng biết là vật gì bên trong. Muốn xem mà chẳng dám...

Bỗng mọi người nghe có tiếng gọi lớn ngoài cửa sổ:

- Hội đồng Thì, mau ra đây. Còn bao nhiêu nợ nần hãy ra mà trả hết đi!

Hai Mến hết hồn, nhớ lời Lan Ngọc dặn, cô ta nín thinh và ra dấu cho mọi người cũng im lặng theo. Vài phút sau thì tiếng gọi im bặt.

Chưa hoàn hồn thì mọi người ngồi ngay cửa phòng nghe có hơi gió lướt qua, rồi có mùi tanh tưởi khó chịu phả vào mũi, đồng thời như có ai xô mạnh vào cửa đã khóa. Sức xô đẩy mạnh đến nỗi cánh cửa kiên cố mà cũng lung lay như sắp bật tung ra! Hai Mến sợ quá định kêu lên cầu cứu, nhưng chợt nhìn lại cái bọc vải trong tay và lời dặn của Lan Ngọc lúc nãy, cô vội cầm bọc vải ấy đưa đại lên trước mặt!

Lạ thường thay, tiếng xô đẩy chấm dứt ngay. Cùng lúc ấy có vài tiếng thét đau đớn vang lên, rồi thì tiếng bước chân chạy như bị đuổi!

Không khí im lặng trở lại ngay tức khắc. Lúc ấy Hai Mến hồn vía còn chưa bình thường, cô ta run tay, để rơi bọc vải xuống sàn nhà, lớp vải bung ra, lộ nguyên trái tim còn đỏ máu nằm trong đó!

Chưa ai kêu lên được tiếng nào thì từ ngoài cửa Ái Loan bước nhanh vào, reo lên:

- Thành công rồi! Cứu được rồi!

Mọi người quay lại mừng rỡ:

- Cô Hai! Cô về kịp lúc lắm!

Ái Loan nghiêm giọng:

- Tôi về từ nãy giờ nhưng chưa dám vô, bởi biết lũ người kia thế nào cũng kéo tới, phải tránh chạm mặt họ.

Cô vừa nói vừa ngồi xuống nhẹ tay đặt quả tim lại trong miếng vải bọc, gói cẩn thận, vừa nói:

- Đây là trái tim của Năm Nhơn! Anh ấy đã phải dùng chính con tim của mình để đuổi những oan hồn kia đi. Nhờ vậy nên ba má tôi mới được cứu.

Cô chạy ngay vào phòng, cũng vừa lúc ông bà Hội đồng tỉnh lại. Họ ngơ ngác hỏi:

- Tui còn sống hay đã chầu diêm vương rồi?

Ái Loan lên tiếng:

- Ba má không phải lo nữa. Lúc nãy những oan hồn vốn là nạn nhân của ba má trước đây, họ kéo tới đòi trả thù, nếu anh Năm Nhơn không hy sinh trái tim của mình thì ba má không thể thoát chết dưới bàn tay ma của họ.

Bà Hội đồng không tin con mình còn sống, bà chụp lấy tay, nắn tới nắn lui mấy lượt, khiến cho Ái Loan phải lên tiếng xác nhận:

- Con đây mà, chớ phải ma quỷ gì đâu!

Nhớ chuyện dưới ghe ở sông cái, bà ngập ngừng hỏi:

- Nó... tha cho con rồi sao?

Ái Loan chỉ tay ra cửa:

- Anh cùng về với con kìa.

Bà Hội đồng vừa nghe tới đó đã kinh hoàng, nhảy xuống khỏi giường:

- Đừng! Đừng để nó vô đây! Ba mày thấy nó là ông chết liền!

Nhưng thật bất ngờ, ông Hội đồng bỗng bật dậy, lên tiếng:

- Trong cơn mê vừa rồi tôi đã gặp nó. Đúng là nó không hại tôi, chớ nếu muốn thì nó đã giết cả tôi với bà rồi!

Ông nhìn con gái, có hơi thẹn:

- Ba hiểu ra rồi, chính vì ích kỷ, tham lam, nên ba suýt nữa đã hại đời con. Cũng may là khi thằng Năm chết thì con đã tỉnh ngộ. Chớ nếu không...

Ái Loan thú thật:

- Lúc anh Năm Nhơn mới chết, anh đã điên cuồng định tìm giết cả nhà mình. Đầu tiên là thằng út, nó xui nên gặp anh Nhơn lúc ảnh còn hận thù chất ngất, nên bị ảnh giết. Sau đó ảnh tìm con. Gặp con dọc đường, trong lúc con đang ôm bụng bầu định nhảy xuống giếng, Chẳng hiểu sao lúc ấy anh Nhơn lại nhìn con với cặp mắt hiền lành, khác với sát khí khi ảnh hại thằng út! Sau đó chính ảnh đã thú nhận là không thể giết con, bởi con không có tội. Con năn nỉ ảnh đừng hại ba má, lúc đầu ảnh chưa chịu nghe, nhưng đến khi có sự xuất hiện của cô gái tên Lan Ngọc thì mọi việc đổi khác, ảnh đồng ý tha cho nhà mình! Chớ nếu không thì hôm nay xác ba má và con đã nằm dưới đất rồi!

Bà Hội đồng ngạc nhiên khi nghe con mình nhắc tới Lan Ngọc nào đó:

- Lan Ngọc là ai, sao dính tới chuyện này?

Hai Mến nãy giờ ngồi nghe chuyện, vội xen vô:

- Lan Ngọc là em vợ Ba Thông, người bên xóm Dừa. Chính cô ấy lúc nãy đã đem trái tim của Năm Nhơn qua đây để cứu hai ông bà đó!

Ái Loan giải thích thêm:

- Đó là người hoàn toàn xa lạ với nhà mình, con cũng chưa gặp lần nào. Cả anh Nhơn cũng không biết cô ấy...

Ông Hội đồng hỏi:

- Như vậy sao nó chen vô chuyện của mình?

- Không phải vô cớ đâu. Nhà mà cô ấy ngụ ở gần chỗ cái xác anh Nhơn trôi tấp vào, nên đêm đó trong hồn phách của anh Nhơn đang dật dờ không nơi nương tựa thì tình cờ gặp cô Lan Ngọc đó. Tâm trạng chung của những oan hồn mới chết, hễ gặp ai quan tâm tới mình thì muốn được người đó cứu hoặc đem người đó theo mình. Đêm hôm đó anh Nhơn đã dùng hồn thằng út lôi kéo Lan Ngọc ra nghĩa địa vắng tính thực hiện ý đồ, nhưng khi thấy cô Ngọc có lòng nhân đạo, dám nhảy xuống cứu đứa bé té mương, trong khi cô ấy không hề biết lội, do vậy anh Nhơn đã động lòng thiện, thay vì bắt cô ấy theo, anh ấy lại kết bạn với cô và thề là sẽ không hại nữa! Chính cô Lan Ngọc đó, chớ không phải mình con làm cho Năm Nhơn hướng thiện, từ quỷ dữ biến thành oan hồn hiền lành. Những tên thủ hạ của Hương quả Hận chết là do quá sợ, đứng tim mà chết, chớ không phải Năm Nhơn giết. Không tin thì từ nay ba má sống chung với ảnh rồi sẽ thấy.

Bà Hội đồng hốt hoảng:

- Sao sống chung với ma được!

Ái Loan nhẹ giọng:

- Vậy mà má sẽ thấy.

Cô đứng lên đi thẳng lên lầu, lát sau trở xuống bảo:

- Anh Nhơn sẽ ở phòng của con. Từ nay không ai được bước vào đó nếu con không cho phép. Hồn ma không ác, không hại ai chỉ khi nào không ai phạm tới họ. Con tin mọi người hiểu...

Cả nhà im lặng. Họ hồi hộp lắm, nhưng chẳng ai dám hé răng. Ái Loan phải trấn an:

- Anh Nhơn không có thân xác, chỉ có phần hồn, nên chẳng ai có thể gặp được ảnh nếu ảnh không muốn. Mà hồn ma thì chỉ hiện ra khi ai đó làm điều không phải với họ thôi. Còn ngoài ra họ không hiện hữu, đừng sợ.

Có lẽ do sợ bị trừng phạt, cho nên sau đó chẳng một ai nói ra chuyện hồn Năm Nhơn về sống chung nhà Hội đồng Thì. Đặc biệt là Hai Mến, cô ta tỏ ra biết điều, ngoan ngoãn vô cùng. Đích thân cô ngày ngày ba bữa làm cơm, bưng lên cúng ở bàn thờ đặt trong phòng của cô chủ.

Mến cũng chứng kiến sự đổi thay đến ngạc nhiên của Ái Loan. Từ một cô tiểu thơ con nhà giàu đỏng đảnh, khó ưa, nay trở thành một cô chủ dịu dàng, dễ gần.

Gần một năm sau thì Ái Loan sinh con. Biết chắc đó là giọt máu vô thừa nhận, tác phẩm của mối tình vụng trộm giữa Loan và Còm Thuần, nhưng từ khi cô sinh ra thì hầu như chỉ để con trong phòng, mẹ con hủ hỉ cùng nhau. Thỉnh thoảng chính Hai Mến còn nghe những lời vỗ về, nựng nịu con của... một người đàn ông. Giọng của Năm Nhơn! Anh ta đã chấp nhận đứa trẻ ấy như là con mình!

Ngày đầy tháng con, trong số ít khách tới nhà có cả Lan Ngọc. Cô nhận làm mẹ đỡ đầu và hứa sẽ thường xuyên về thăm.

Vợ chồng Hội đồng Thì cũng thay đổi hẳn tánh biết sống có nghĩa tình hơn, hiền lành hơn. Cho đến hôm gia nhân không còn thấy họ xuất hiện trong nhà nữa. Hai Mến biết chuyện, bảo với những người thân cận:

- Ông bà ấy tu tâm dưỡng tánh, muốn lấy lòng nhơn để trả phần nào việc ác ngày trước, nên đã về một vùng quê xa xôi, cất một cái am và ở cùng nhau, tu tâm cho đến cuối đời…

Ái Loan một mình cai quản cái cơ ngơi đồ sộ của cha mẹ một cách trơn tru, tốt đẹp đến người ngoài phải ngạc nhiên. Cô dùng hầu hết tiền bạc kiếm được để làm việc thiện và từ đó ăn chay trường, không sát sinh.

Từ là một ngôi nhà mà người chung quanh mỗi khi đi ngang qua đều không dám nhìn, nay lại là nơi bà con thường lui tới thăm viếng. Đó còn là một địa chỉ mà ai có túng thiếu đều ghé qua nhờ cậy và được đáp ứng vô điều kiện. Không ai hỏi han về hồn ma Năm Nhơn nữa, nhưng trong lòng họ lúc nào cũng nhớ tới anh. Họ hiểu chỉ có anh mới cảm hóa được những con người như nhà Hội đồng Thì…

NÀNG DÂU ÂM PHỦ

Nói tới Hai Lân thì cả làng không ai là không biết. Chỉ cần nghe tiếng bước chân nặng nề, khi đi, khi chạy là người ta đã nói đúng phóc người đó là ai. Bởi Hai Lân tuy còn trẻ, dáng người mảnh khảnh, nhưng có bước chân nặng, lóc chóc đến khó tin.

Nhà Lân nghèo, cha mẹ già lại chỉ có mỗi Lân là con, nên dẫu thấy Lân suốt ngày cứ đi lêu lỏng, chẳng chịu làm việc gì, họ cũng chỉ biết lắc đầu than thở một mình, chớ chẳng nỡ trách mắng.

Có người cắc cớ hỏi Hai Lân:

- Sao mày không lấy vợ, để vợ nó đỡ đần cho bà mẹ tuổi gần đất xa trời?

Thì chỉ nhận được ở Hai Lân một nụ cười hiền lành và câu trả lời tội nghiệp:

- Có ai chịu đâu mà cưới.

Cũng có lần Hai Lân nói đùa:

- Nếu cô nào chịu về nuôi tui thì tui lấy liền!

"Có ma nó nuôi!" Đó là câu nói của hầu hết con gái trong làng khi nghe câu nói đùa của Hai Lân. Họ còn nguyền rủa:

- Thằng đó có ngày chết bờ chết bụi để rồi ma quỷ nó đưa về nuôi!

Kể ra cũng tội cho Hai Lân. Thuở nhỏ anh ta cũng được ông bà Hai Mộc cho đến trường. Cũng học hành giỏi dang, chữ nghĩa đủ dùng, nếu không muốn nói là còn khá hơn nhiều con nhà giàu trong vùng. Chỉ có điều là do nhà nghèo, nên đang học lên cấp cao hơn thì Hai Lân phải bỏ ngang. Bởi vậy, tuy lêu bêu, không việc làm, không có sự nghlệp, nhưng Hai Lân không bao giờ làm gì bậy bạ. Anh sống có nghĩa có tình với làng xóm, nên tuy không trọng anh, nhưng mọi người vẫn không có gì để khinh rẻ.

Bỗng một hôm Hai Lân nói nghiêm túc với mẹ:

- Con đi tìm vợ đây!

Bà Mộc vốn đã quen kiểu nói chuyện tưng tửng của con, nên nghe xong bà vẫn không thèm để ý. Mãi đến lúc thấy Hai Lân mặc áo mới đi ra thì ngạc nhiên hỏi:

- Mày đi đâu?

Hai Lân đáp tỉnh bơ:

- Đi kiếm vợ!

Ông Hai Mộc đang nằm ngủ nghe vậy cũng phải bật dậy:

- Chắc có con vợ hư của ai đó ném bãi rác, nó đi tìm để nhặt về đó!

Hai Lân chẳng nói chẳng rằng, cứ cắm cổ đi một hơi. Bà Mộc gọi với theo:

- Nhớ chiều về ăn cơm rồi còn đi chùa với tui đó!

Ông Hai Lân lắc đầu ngao ngán:

- Nói chơi vậy chớ nếu nó nhặt được con vợ hư bỏ đi của ai đó đem về, thì tui với bà cũng còn có hy vọng kiếm được đứa cháu nội! Hơn là vô vọng mãi như thế này...

Trong khi đó Hai Lân đi bộ khá xa, đến tận đầu làng. Nơi anh chàng ghé lại chính là cơ dinh của ông đại gia giàu nhất làng Dương Sơn. Nơi đó đang có một đám cưới đang cử hành!

Vốn không quen biết gia chủ, lại cũng không phải khách mời, mà còn ăn mặc lôi thôi nữa, nên khi vừa bước vô tới cổng đã bị mấy con chó giữ nhà ào ra sủa dữ dội. Nhưng thay vì sợ hãi, Hai Lân lại cứ tỉnh queo bước sâu vào sân. Một người ra dáng là quản gia, bước chận ngang mặt Hai Lân, hất hàm hỏi:

- Chú mày đi đâu? Bộ muốn chôm chỉa gì trong này phải không? Khôn hồn thì đi ra, không tao cho gông đầu lại bây giờ!

Hai Lân vẫn không ngán:

- Bộ đám cưới đón khách kiểu này hả?

Một bà lớn tuổi có lẽ sợ huyên náo ảnh hưởng tới bữa tiệc, vội bước tới nhỏ nhẹ hỏi:

- Cậu là khách của đàng trai hay đàng gái?

- Cả hai đàng! Nhất là cô dâu!

Vốn cô dâu Thiên Hương trước khi lấy chồng đã có nhiều sự giao du thoải mái, nên bà nọ không nghi ngờ lắm lời nói của Hai Lân, bà ta nói khẽ với gã kia:

- Cũng không chừng nó thuộc đám bạn của con Thiên Hương lúc đi học. Hay là cứ để nó vô đại đi. Con Thiên Hương mà biết mình ngăn cản bạn nó thì phiền hà lắm, ông bà chủ đang muốn xoa dịu nó...

Tay quản gia chỉ cho Hai Lân tới khu vực bàn dành cho khách nghèo của hai họ, một khu vực mà trong các đám cưới lớn cô dâu chú rể ít khi tới nơi chào hỏi.

Không quan tâm tới tiểu tiết đó, Hai Lân vô tư tới ngồi vào một bàn toàn người lạ. Cũng may cho anh ta, trong bàn hầu hết là những người lớn tuổi, có họ hàng xa với cô dâu hoặc chú rể, nên họ cũng không để ý chuyện ăn mặc xuềnh xoàng của Hai Lân. Đúng là đám cưới nhà đại gia có khác! Nguyên cả ngôi nhà đồ sộ, với khu sân vườn rộng thênh thang mà góc nào cũng kê bàn ghế, vậy mà khách còn khó kiếm chỗ trống để ngồi.

Mấy người bàn tán chuyện với nhau, có người nói:

- Con Thiên Hương chưa chịu lấy chồng, bị ba má nó bắt ép nên tưởng đâu đám cưới này không thành rồi.

Một người khác, chừng như là có họ hàng với đàng trai nên giọng điệu hơi bênh bên họ mình:

- Cô dâu này mà được về làm dâu bên nhà đó thì trúng số!

Người bên đàng gái thì không chịu:

- Bộ nhà này không giàu nhứt xứ này sao, cần gì của cải của ai!

Cuộc cãi vã sắp căng thì người ngồi bên cạnh Hai Lân tìm cách lái câu chuyện sang hướng khác, bà ta hỏi lớn:

- Cậu có gia đình chưa?

Hiểu ý bà ta, Hai Lân cũng đáp to, át cả lời đôi co của hai người kia:

- Dạ chưa, bởi chưa gặp người ưng ý. Mà cũng tại cháu, lâu nay ít đi ra ngoài, ít tới những chỗ đông người. Ông bà ta vẫn nói mà, trai khôn tìm vợ chợ đông mà…

Nghe cách nói chuyện ngồ ngộ của Hai Lân, mọi người quay sang anh bắt chuyện:

- Vậy bữa nay tới chốn "chợ đông" này, chắc cậu tìm được vợ?

Hai Lân cười tươi:

- Chắc là vậy! Tui đang tìm…

Nhờ Hai Lân mà không khí trong bàn trở lại thoải mái, vui vẻ hơn. Lát sau, một người nói:

- Đã chấm được ai chưa cậu gì đây…

Hai Lân vẫn giữ nụ cười thân thiện:

- Dạ vẫn chưa. Nhưng cũng sắp rồi. Linh tính báo cho cháu biết như vậy…

Cô dâu chú rể đang tới từng bàn chào hai họ. Phải mất hơn nửa tiếng sau họ mới tới gần khu "nhà nghèo", một người nói vui:

- Khu vực của mình đời nào được tới chào. Bởi họ biết có chào thì tiền mừng cũng chẳng được bao nhiêu!

Câu nói gây sốc, nhưng lúc này không ai lên tiếng phản đối. Đột nhiên cô dâu chú rể hướng về bàn của Hai Lân đang ngồi, mà người chủ động là cô dâu, nàng ta gần như lôi chàng rể đi!

Một người thân với gia đình cô dâu lên tiếng:

- Con nhỏ vậy mà được. Nó tới chào mình đó!

Chợt đôi mắt Hai Lân sáng lên, anh ta lẩm bẩm:

- Đúng là nàng rồi! Đúng là nàng…

Bà ngồi cạnh hỏi nhỏ:

- Cậu tìm được người ưng ý rồi hả?

Hai Lân đáp liền:

- Được rồi!

- Mừng cho cậu! Nhưng là ai vậy, chỉ tui coi được hôn?

Hai Lân không ngại, đưa tay chỉ thẳng vào cô dâu:

- Nàng đây!

Lúc ấy cô dâu đã buông tay chú rể ra, ào tới ôm chầm lấy Hai Lân, trước sự bàng hoàng của đám đông! Dĩ nhiên là vợ chồng chủ gia đã kịp can thiệp, họ kéo tay Thiên Hương ra và sừng sộ với Hai Lân:

- Thằng này là ai vậy?

Hai Lân chưa kịp đáp thì cô dâu một lần nữa nhào tới đứng chận ngang trước mặt cha mẹ:

- Đây mới chính là người con yêu! Ba má mà cản thì con cắn lưỡi chết liền cho coi!

Cô le lưỡi ra đặt giữa hai hàm răng như sắp cắn, khiến cho bà Chủ Lụa phải kêu lên:

- Đừng ép nó. Để tui...

Bà xuống giọng với con gái:

- Có chuyện gì thì con từ từ nói với má. Sao lại làm như vầy hả Thiên Hương. Con có biết thằng này là ai đâu, tại sao...

Bà nói chưa dứt lời thì cô nàng đã quay lại ôm Hai Lân lần nữa:

- Đây mới chính là nhân duyên của con. Cái đám cưới này là thứ mà con bị ép buộc phải lấy, con không đời nào chịu làm vợ anh ta đâu ba má đừng ép!

Chú rể nãy giờ ngỡ ngàng, bấy giờ mới lên tiếng:

- Em điên rồi phải không Thiên Hương! Anh đây mới là chồng em...

Anh ta vừa nói vừa xông tới đấm thẳng vào mặt Hai Lân. Do quá bất ngờ, Hai Lân không hề né kịp, anh chờ để lãnh trọn cú đấm, thì... thật bất ngờ, mọi người nghe một tiếng thét lớn, rồi cô dâu ngã xuống với máu chảy ra từ khóe miệng! Thì ra cú đấm vừa rồi đã rơi thẳng vào mặt Thiên Hương, bởi cô nàng đã đưa má ra lãnh thay cho Hai Lân!

- Trời ơi, chết con tôi!

Bà chủ Lụa cúi xuống ôm con, vừa tru tréo:

- Sao mày đánh nó!

Bà đỡ con dậy, Thiên Hương mở mắt ra, nhìn trừng trừng vào chú rể:

- Mày nhớ nghe! Cú đấm này mày phải trả giá! Tao dứt khoát không lấy mày!

Vừa nói nàng ta vừa vùng dậy, phóng chạy ra ngoài trước sự ngơ ngác của thực khách! Hai Lân cũng lao theo:

- Cô... cô gì ơi! Cô Thiên Hương ơi!

Bóng họ mất hút trong bóng đêm...

Vợ chồng nghiệp chủ Trần Văn Lụa sững sờ rồi sau đó sượng sùng khi mọi quan khách đều nhìn vào họ như để chờ câu trả lời. Nhưng biết nói sao cho phải đây? Nghiệp chủ Lụa lắp bắp:

- Tụi nó... tụi nó điên hết rồi!

Chú rể Tấn Đạt sau một lúc sượng mặt, vội nói giọng yếu xìu:

- Con xin lỗi ba má, thật ra con không muốn làm như vậy. Người mà con nhắm đánh là thằng khốn nạn đó!

Bà chủ Lụa rên rỉ:

- Con có biết là ba má đã tốn bao công sức để dụ nó về và gả cho mày không? Nó đã phản đối bằng cách bỏ nhà đi cả tháng trời, rồi còn uống thuốc độc tự tử nữa, may mà người ta cứu kịp. Khi nó về nhà chính má là người năn nỉ nó suốt mấy đêm liền nó mới chịu thuận tình cho cử hành hôn lễ. Chuyện hồi nãy đúng ra con phải bình tĩnh, nhỏ nhẹ với nó, cộng với sự khuyên lơn của má, chớ đâu nên làm mạnh tay như vậy. Con nhỏ tánh tình ương ngạnh, không dễ để nó tha thứ cho chuyện vừa xảy ra đâu!

Ông chủ Lụa giục gia nhân đuổi theo. Nhưng sau một hồi rất lâu, bọn họ trở về báo lại:

- Dạ, cô chủ đã chạy đằng nào tụi con không tìm thấy.

Đám cưới trở thành một đám giặc. Do nhà trai bắt lỗi chuyện vừa rồi. Sui gia bên trai là một người có thế lực trong thương trường, sự giàu có còn trùm hơn cả nhà chủ Lụa, nên mụ vợ nhà đó lớn tiếng sỉ vả:

- Tưởng con gái mấy người quý lắm sao mà làm nhục con trai tôi! Để rồi coi đứa nào phải lạy đứa nào để xin lỗi! Đi về tụi bây!

Bọn họ rùn rùn bỏ ra về. Các thực khách khác thấy vậy cũng kéo về theo. Những bàn tiệc cỗ cưới mới ăn được vài món, còn bỏ lại ê hề...

Vợ chồng chủ nhà thẫn thờ như kẻ mất hồn... Nhất là bà chủ Lụa, khi bà chợt nhớ lại tánh mạng con gái mình, bà hốt hoảng gào lên:

- Đem xe ra cho tao đi kiếm con Thiên Hương coi! Nhanh lên!

Hình ảnh một Thiên Hương quá quẫn bách nhảy xuống dòng sông nào đó, hay thậm chí lao đầu vào xe đang chạy là điều có thể xảy ra lắm!

- Dạ thưa bà, xe đã chuẩn bị xong rồi.

Bà vụt chạy ra xe, ông chủ Lụa định chạy theo thì bị bà nạt ngang:

- Ông đi làm gì cho rối thêm! Ông ở nhà đó mà đi lạy lục thằng bạn làm ăn của ông, nó mới chửi ông như chửi chó đó chưa đã sao!

Tuổi già trên bảy mươi của ông, lăn lộn thương trường cũng lắm điều trái ngang, nhục nhã, nhưng chưa bao giờ Lụa bị một vố đau điếng, sỉ nhục như thế này. Ông nuốt nhục, chịu đựng một mình bây giờ cũng chỉ vì tự ông gây ra. Việc bắt ép con gái lấy người nó không yêu là bởi ông cần vay bên sui gia một số tiền lớn để kinh doanh, bởi thế họ mới coi thường ông, con gái nó hận ông...

* * *

Bà chủ Lụa lắng nghe người nọ kể:

- Cô Hai có ghé đây ở chơi nửa buổi rồi đi, tui có giữ lại nhưng cô không nghe. Mà lạ lắm, lúc đi tui thấy cô ấy khóc!

- Nó đi với ai chị có biết không?

- Làm gì có ai, cổ đi một mình. Đích thân cổ lái chiếc xe hơi màu đen xì, mà chạy lẹ lắm, suýt chút nữa là đụng gãy hàng rào nhà kế bên rồi!

Bà chủ Lụa nhẹ lắc đầu:

- Cái con này, tối qua tới giờ có ăn uống gì đâu, lại uống rượu nữa, mà lái xe kiểu đó...

Người phụ nữ tên gọi là dì Xinh, vốn bà con xa với bà chủ, hỏi lại:

- Chị mới nói hôm qua mà hôm qua nào? Cô Thiên Hương đâu có ghé đây hôm qua. Tui nói là nói cách đây hơn một tháng. Hôm ấy cổ ghé qua rồi đi, tới nay đâu có trở lại.

Bà chủ Lụa thất vọng:

- Vậy mà tui tưởng dì nói nó mới ghé.

Bà thở dài thườn thượt rồi lên xe đi tiếp, dặn với lại:

- Nếu nó có ghé lại đây lần nữa thì dì làm ơn giữ lại dùm, rồi báo liền cho tôi hay. Tốt nhất là dì biểu ai đó trong nhà xì bánh xe để nó không chạy được, như vậy mới giữ nó được.

Bà bảo tài xế:

- Chạy lẹ lẹ lên Trung Lương, tui ghé nhà người quen nữa, may ra nó có ghé lại đó.

Xe vừa vọt đi thì người ở nhà bên cạnh chạy ra đưa tay ngoắc:

- Bà chủ! Bà chủ!

Tài xế ngừng lại, bà chủ Lụa chưa kịp hỏi thì chú nói:

- Cô gì lái chiếc xe màu đen thỉnh thoảng có ghé đây chơi, là cái gì của bà chủ? Tui là Tư Há, tui có chuyện này muốn hỏi bà...

Bà chủ Lụa đáp:

- Nó là con gái tôi. Nghe nói hôm trước nó xém đụng ngã hàng rào của chú, vậy mà có sao không?

- Dạ không sao. Nhưng sau đó bộ bà không hay chuyện gì về cô ấy?

Bà chủ Lụa ngạc nhiên:

- Bộ nó đụng ai nữa phải không?

- Dạ cũng không. Không đụng vào ai, nhưng đụng vô lan can cầu!

Câu nói của anh ta khiến bà chủ Lụa phải mở cửa xe bước xuống, hốt hoảng hỏi:

- Đụng vô cầu nào? Sao tôi không nghe nó nói gì hết. Con thiệt tệ...

Lại đến phiên người đàn ông kia kinh ngạc:

- Bà nói cô ấy còn... còn... sống?

- Kìa chú! Chú nói...

Bà chủ Lụa thất thần, hỏi tiếng được tiếng mất:

- Chú... chú nói... chú nói... con tôi thế nào? Thì nó... còn sống chớ có chuyện gì...

Người nọ lẩm bẩm:

- Sao kỳ vậy... sao lại có chuyện...

Bà chủ Lụa vẫn còn run:

- Chú nói vậy là sao? Con tôi...

Ông ta quay vào nhà mình, kêu lớn:

- Sáu à, con ra đây ba biểu!

Người được gọi là Sáu, tên là Sáu Đời, từ trong nhà chạy ra ngay.

- Con nói cho bà chủ đây nghe chuyện cô gái lái chiếc xe đen bữa trước đụng gãy lan can cầu rồi rớt xuống sông ra sao?

Anh chàng tuổi cỡ mười lăm mười sáu, khá lanh lợi kể:

- Hôm đó cháu đi trên chợ về, vừa ngang cầu Rạch Gò thì đúng lúc chiếc xe đen đó lao lên lan can, đụng mạnh vô đó và rớt luôn xuống sông! Việc rất nhanh, nhưng con còn kịp nhìn thấy người lái xe là một cô gái, mà con còn nhớ cô ấy chính là cái cô thỉnh thoảng hay ghé đây thăm bà Hai bên cạnh. Con có đứng đó xem người ta mò tìm cô ấy...

Bà chủ Lụa gần muốn xỉu tại chỗ, bà hỏi hầu như không còn nghe rõ:

- Có... có sao không?

Sáu Đời thật tình đáp:

- Dạ, cổ chết tại chỗ!

- Trời ơi!

Chỉ kêu được hai tiếng đó rồi bà ta quỵ xuống, ngất đi. Trong lúc đó bà dì Xinh ở nhà bên vừa chạy ra, bà ngạc nhiên hỏi:

- Chị ấy sao vậy?

Người đàn ông đáp:

- Bà ấy nghe con tui kể chuyện cô gái lái xe hôm đó lọt xuống sông chết, vừa nghe xong bả xỉu liền!

Dì Xinh giật bắn người:

- Ai chết?

Tư Há nhíu mày nhìn sang con, hỏi:

- Bộ từ bữa đó tới nay con chưa báo cho Dì Xinh biết?

Sáu Đời lúng túng:

- Dạ chưa... bởi vì...

Dì Xinh phải giải thích thay:

- Có lẽ nó tránh mặt tui. Số là bữa trước nó theo ghẹo con gái tui, bị tui rầy...

Tư Há ôm đầu kêu lên:

- Trời ơi, con ơi là con! Vậy mà tui tưởng nó báo cho Dì biết rồi.

Chú quay sang giục dì Xinh:

- Phải cứu tỉnh bà chủ lại thôi!

Bà chủ Lụa tỉnh lại sau một lúc được xoa dầu. Vừa mở mắt ra bà gào lên:

- Không phải! Con tôi còn sống!

Bà giục tài xế:

- Chạy ngay lên cầu gì đó...

Chừng như Sáu Đời muốn đoái công nên mau mắn:

- Để con dẫn đường cho!

Cậu ta nhảy lên xe và chỉ đường:

- Chạy khoảng hai cây số thì tới. Cây cầu đó cái lan can tới bữa nay vẫn còn chưa sửa.

Chỉ vài phút sau thì xe chạy tới đầu cầu, rõ ràng lan can cầu còn dấu gãy do bị xe đụng. Sáu Đời nói thêm:

- Chiếc xe hình như vẫn còn kẹt dưới sông chưa được vớt lên. Chỉ có xác chị ấy thì bữa đó hình như người ta đưa vô nhà làng ờ đàng kia...

Bà chủ Lụa tức tốc đi về phía nhà làng. Vì còn trong giờ làm việc nên có mặt hầu như đủ ban hương chức hội tề. Khi nghe bà hỏi vụ việc đó, một người xưng là hương hào Mỹ nói liền:

- Do đương sự không đem theo giấy tờ tùy thân, nên chúng tôi căn cứ theo chiếc lắc đeo ở tay mà biết được tên là Lý Thị Thiên Hương. Đây, ông Hương sư Phẩm còn giữ lại chiếc lắc đó làm bằng. Mời bà gặp ông Hương sư.

Bà ta khỏi hỏi, bởi Hương sư Phẩm vừa bước ra, ông đã cầm sẵn chiếc lắc vàng đưa lên hỏi:

- Bà nhận ra vật này không?

Vừa trông thấy, bà Lụa đã kêu lên:

- Của nó đây mà!

Rồi sợ họ không tin, bà nói luôn:

- Chiếc này do chính tôi đặt làm cho con gái tôi đeo hồi nó mười hai tuổi tới giờ, nặng một lượng vàng y, do tiệm vàng Ngọc Hương làm.

Hương sư Phẩm gật gù:

- Đúng rồi. Vì sợ chôn theo xác bị người tham đào bới lấy trộm, nên tui tạm giữ giùm. Do không biết người chết ở đâu, nên lâu nay tui cũng có ý đợi hoài...

Bà Lụa chết điếng trong lòng, cố hỏi rõ:

- Có thật là xác của nó, một đứa con gái phải không?

- Do ngồi trong xe, khi tai nạn xảy ra do chấn động mạnh nên đầu cô ấy có va đập vào vô lăng, bị thương chớ phần khác của thân thể thì không. Lúc liệm đem chôn tui có nhìn rõ. Mồ mả hiện nay còn ở nghĩa địa làng ở gần đây, bà có thể ra đó thăm, rồi sau đó có nhu cầu thì chúng tôi sẽ giúp bốc mộ giùm.

Những lời nói sau của ông Hương sư hầu như bà chủ Lụa không còn nghe thấy gì. Bà lảo đảo... Ở tại nghĩa địa làng bà Lụa không tiện mở nắp quan tài ra nhìn, chớ thật ra bà chưa tin hẳn trong đó là con gái mình. Mãi đến khi quan tài chuyển về nhà, bà đã bàn với chồng:

- Phải nhờ cái chỗ gì đó của Tây, người ta gọi là... là... cái gì y y đó, để họ khám nghiệm xem sao.

Ông chủ Lụa nói:

- Đó là pháp y, nhưng mà cần gì tới họ. Nó chết do tai nạn xe, chớ có phải ai giết đâu mà nghi ngờ...

Bà tru tréo lên:

- Nhưng tui thì nghi ngờ. Chết sao mới rồi nó còn về nhà làm đám cưới?

Câu nói của vợ làm cho ông chủ Lụa giật mình! Ông lẩm bẩm:

- Ờ há, sao lại có chuyện đó?

Ông hồi nhớ lại và bỗng giật mình:

- Mà cũng có thể lắm! Hôm nó trở về nhà sau thời gian bỏ đi, chẳng biết là đi đâu, bà nhớ không, nó chẳng nói rằng gì với ai hết suốt mấy ngày liền, tánh tình cũng thay đổi nhiều... Cho đến khi bà thuyết phục được nó chịu làm đám cưới với thằng Tấn Đạt. Nó như là người mất hồn... Bà Lụa thì đang nhớ chuyện khác. Bà chưa quên cái cảm giác khi chạm vào thân thể con gái lúc chuẩn bị ngày cưới:

- Tui nhớ ra rồi, thịt da nó lúc ấy sao không có hơi ấm! Tui có hỏi thì nó chỉ lắc đầu không nói, lúc ấy tui cứ nghĩ do quá đau lòng nên nó như vậy. Đâu có ngờ...

- Bà ngờ điều gì? Phải chăng...

Họ lặng người đi, không ai dám nói ra điều mình đang nghĩ...

Cuối cùng quan tài cũng được mở ra, do những gia nhân của nhà chủ Lụa thực hiện. Xác chết trong áo quan đúng là Thiên Hương, bởi dù đã qua gần một tháng, nhưng vẫn còn có thể nhận diện được.

Lúc này nỗi đau trong họ còn có thêm nỗi sợ hãi nữa. Bà Lụa không dám nói lớn, như sợ có người nghe được:

- Như vậy nó là... hồn ma hay sao?

Ông Lụa thừ người ra khá lâu, rồi cũng run giọng nói:

- Nhà mình đến ngày cùng tận rồi hay sao mà xảy ra chuyện này! Tội của ai đây, hở trời!

Lại sắp có cuộc cãi nhau về chuyện ai có tội, thì chợt có đứa người làm chạy vào báo:

- Thưa ông bà, có người ở làng Tân Hội đem lễ vật qua xin ông bà cho... cưới cô Thiên Hương ạ!

Bà chủ Lụa tái mặt:

- Họ là ai?

- Dạ, không biết là ai, nhưng đi theo còn có cái người mà... mà trong đêm cưới đã khiến cho cô Thiên Hương nhận làm chồng đó!

Cả vợ chồng chủ Lụa điếng vía:

- Họ... họ... hả? Mời... mời họ vô!

Họ bước ra cửa thì đã gặp vợ chồng Hai Mộc và Lân bước vào. Họ cố diện quần áo tươm tất hơn, nhưng do nghèo, nên bộ cánh cũng không tỏ rõ được là đi hỏi vợ cho con. Ông Hai Mộc lên tiếng trước:

- Xin thưa với ông bà chủ. Hôm nay vợ chồng tui...

Ông nói chưa dứt lời thì Hai Lân đã chen ngang:

- Nói chi dài dòng ba, hôm nay theo lời dặn của Thiên Hương, tụi tui đem chút lễ vật qua để xin cưới...

Đang bực bội, bà chủ Lụa quát lớn:

- Cưới xin gì, mau cút đi!

Hai Lân hình như đoán biết trước tình hình, anh chàng vẫn bình tĩnh:

- Bớt nóng đi má, con làm theo lời Thiên Hương mà. Đây là những lễ vật mà má thách cưới với bên nhà thằng Tấn Đạt. Giá trị còn có phần hơn!

Anh ta giở cái hộp thiếc ra, ánh sáng chói lòa của những món nữ trang bằng kim cương, ngọc thạch làm lóa cả mắt người nhìn! Bà chủ Lụa líu cả lưỡi:

- Mày... mày có...

Hai Lân cười lớn:

- Nhằm nhò gì ba cái đó! Má cần thì tui còn nữa...

Đang phát hoảng vì những thứ trước mắt, nhưng chợt nhớ lại chuyện con gái, bà bật khóc nức nở, rồi chỉ tay về phía quan tài đang mở nắp:

- Mày tới mà coi, lấy cái xác của nó được thì lấy!

Hai Lân không tới xem, mà lại nói:

- Thiên Hương đang ở nhà con mà, cần gì xem!

Ông chủ Lụa không nhịn được nữa, lớn tiếng:

- Nó chết còn nằm kìa, lải nhải gì nữa!

Đến lượt chú Hai Mộc lên tiếng:

- Vậy hóa ra ông bà nói chúng tôi giết con dâu mình sao? Nó đang ở bên nhà, chờ chúng tôi đem lễ vật sang cho phải lẽ, rồi thì chính thức làm dâu. Xin ông bà nhận sính lễ cho...

Bà chủ Lụa gào lên:

- Cưới xin gì được với cái xác đó thì cưới đi!

Hai Lân lúc này mới bước tới gần quan tài nhìn rồi phá lên cười:

- Ba má quẫn trí rồi, xác gì đâu?

Câu nói của anh ta làm cho cả vợ chồng nghiệp chủ Lụa phải cùng chạy lại nhìn vào quan tài. Họ cùng kêu lên:

- Trời ơi!

Trong quan tài trống không! Ông chủ Lụa quay sang hỏi người nhà:

- Tụi bây đem nó đi đâu?

Mấy người đều rùng mình:

- Tụi con sợ gần chết, ai dám rớ tới!

Hai Lân nói tỉnh bơ:

- Tui đã nói rồi, Thiên Hương đang ở nhà tui mà!

Hai Mộc cũng nói:

- Hôm qua hai đứa nó dẫn nhau về, vợ chồng tui rối hết sức, nay phải qua để xin lỗi ông bà...

Hai Lân lớn tiếng:

- Không lỗi phải gì cả! Thiên Hương là vợ của con, nàng ấy về nhà với con là phải đạo lý, chớ sao lại lỗi phải ở đây! Còn lễ vật hôm nay là Thiên Hương muốn con đem về để cho cha mẹ đem trả lại cho nhà thằng Tấn Đạt!

Lúc ấy bà chủ Lụa nhìn kỹ lại thì đúng những nữ trang kia chính là sính lễ của bên đàng trai đem qua bữa trước, Bà nhìn sang chồng hội ý:

- Bây giờ làm sao?

Hai Lân lại nói:

- Thiên Hương nói nàng ấy không bao giờ về nhà nữa đâu. Ông bà có muốn thăm con thì qua bên đó mà thăm.

Ông chủ Lụa nói yếu xìu:

- Thử qua bên đó xem sao...

Vợ chồng họ đi theo Hai Lân mà lòng dạ hoang mang vô cùng. Họ không hiểu con gái mình mà Hai Lân nói đang ở bên nhà anh ta và cái xác trong quan tài ai mới là Thiên Hương? Họ vừa van vái cho con mình còn sống, nhưng nghĩ tới việc nó sẽ là vợ của một thằng không ra gì thì họ không đành lòng... Còn nếu đúng là Thiên Hương đã chết, thì còn thảm kịch nào hơn!

Trong tâm trạng bấn loạn đó, họ hầu như chẳng còn tỉnh táo, bởi vậy lúc bước vô căn nhà lá tồi tàn, họ không để ý cô con gái rượu của mình đang đứng đợi sẵn. Cho đến khi Thiên Hương lên tiếng:

- Ba, má!

Ngẩng lên nhìn, bà chủ Lụa reo lên trước:

- Con. Con tôi đây mà!

Rồi bà quay sang chồng:

- Ông ơi, con Thiên Hương còn đây, đâu có chết!

Ông chủ Lụa vẫn chưa tin là sự thật, hơi lắp bắp hỏi:

- Con... con thiệt đây sao Thiên Hương?

- Chẳng lẽ con là giả?

- Vậy còn... cái xác chết chìm cùng chiếc xe?

Nàng cười, nhỏ nhẹ đáp, thái độ hơi khác thường với một Thiên Hương đanh đá, nói ngang trước đây:

- Dạ, ba má và mọi người lầm rồi. Xác đó không phải, là của con. Hôm đó một người bạn mượn xe con lái rồi bị nạn, ai cũng tưởng là con.

Nhớ lại chiếc lắc đeo tay, bà hỏi:

- Vậy sao chiếc lắc của con lại ở trong tay người chết?

Thiên Hương ngạc nhiên:

- Chiếc lắc nào? Lắc của con còn trong tay con đây.

Nàng đưa tay lên, quả nhiên vẫn còn chiếc lắc vàng chính bà chủ Lụa sắm cho từ lâu! Bà chủ Lụa hốt hoảng đưa tay sờ vào túi áo mình, tìm chiếc lắc mà ông Hương sư đưa bữa qua, thì bà điếng hồn, bởi nó chẳng còn trong túi!

- Kỳ vậy? Mới đây...

Bà sờ khắp túi cũng không có, lòng hoang mang vô cùng. Vừa lúc đó thì nghe Thiên Hương nói:

- Ba má đã biết con ở đây rồi thì cứ yên tâm mà về. Để tránh tai tiếng và sự làm khó dễ của bên nhà Tấn Đạt, từ nay con sẽ không về thăm ba má.

Nói xong nàng ta quay bước đi vào trong. Ông chủ Lụa phát hiện điều lạ đầu tiên, ông nói khẽ với bà:

- Sao giọng nói của nó là lạ, bà có thấy không?

- Thì... có thể do nó khóc nhiều nên khan tiếng, đổi giọng. Mà thôi, nó còn sống là mừng rồi, để vài bữa nó bình tâm lại mình sẽ tính sau...

Hai Mộc mời:

- Đã tới đây rồi, dẫu nhà nghèo, vợ chồng tui cũng xin mời ông bà ly nước. Và cũng xin ý kiến ông bà về việc hôn nhân của tụi nó?

Bà chủ Lụa thở dài:

- Còn ý kiến ý cò gì nữa. Tụi tui có bắt về nó cũng không về. Vậy mấy người muốn làm sao đó thì làm.

Bà hỏi ông:

- Đi về chớ còn đứng đó làm gì!

Họ ra về rồi thím Hai Mộc mới lo lắng:

- Xem ra họ không vui. Mà tui cũng không hiểu, thằng Hai Lân nhà này ham chi vợ đẹp, vợ giàu, để cho rắc rối thêm!

Thiên Hương bước ra, nói tỉnh rụi:

- Rắc rối gì má lo. Rồi đây chính họ mới cần đến mình đó.

Những câu nói khó hiểu đó làm sao đôi vợ chồng nghèo, chất phác này hiểu được. Nên họ chỉ nhìn nhau rồi im lặng...

Trong khi đó vợ chồng chủ Lụa vừa về tới nhà đã vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy chiếc xe hơi màu đen vốn là của Thiên Hương đang đậu trước sân!

- Xe của con Thiên Hương kìa ông?

Họ chạy lại nhìn vô xe và một lần nữa muốn đứng tim! Bởi ở băng sau xe có một xác người nằm dài trên đó!

- Cái xác... hồi nãy!

Thì ra đó chính là cái xác nằm trong quan tài mà người ta nói là của Thiên Hương.

- Nó biến mất lúc nãy, sao bây giờ ở đây?

Họ còn đang hoang mang thì bất chợt có đôi vợ chồng lạ từ ngoài cổng bước vào. Họ lên tiếng ngay:

- Xác đó là của con gái tôi!

Họ nhào tới ôm lấy xác con, khóc òa lên khiến cho vợ chồng nghiệp chủ Lụa ngơ ngác:

- Kỳ vậy?

Họ không ngại cái xác đã bốc mùi, cứ ôm nó mà gào khóc! Mãi sau đó người chồng mới bình tĩnh lại, nói:

- Con Hoa Lài, con gái tui được một người bạn gái, nghe nói là con của ông bà đây rủ đi chơi bằng xe hơi, để rồi cả tháng nay không thấy về. Tụi tui đã đi tìm kiếm khắp nơi mà không gặp, hôm qua nó về báo mộng là hãy qua đây mà nhận xác về, nên tui mới biết đây mà tới.

- Con ơi là con!

Nhìn họ khóc thảm thiết mà lòng dạ vợ chồng chủ Lụa đau theo. Họ muốn lên tiếng an ủi, nhưng sợ nói ra rồi họ đi tìm Thiên Hương sẽ lôi thôi ra, nên đành nín thinh. Lát sau bà chủ Lụa nói cho qua chuyện:

- Con gái tụi tui cũng chưa thấy về... không biết nó sống chết ra sao?

Bà cũng cố gắng khóc theo, y như thật. Có lẽ do đồng cảnh ngộ với nhau, nên vợ chồng người kia cũng không khó dễ gì, họ được nhận xác con là an lòng, nên vội mướn ghe chở xác về ngay. Còn lại hai vợ chồng, ông chủ Lụa bàn:

- Tui tính như vầy, dẫu sao thì bây giờ con Thiên Hương cũng yên phận bên đó rồi. Mà tánh khí nó bà biết rồi, nếu ép nó lần nữa thì chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Mà như thế cũng ổn, bởi nó mà trở về đây thì dám bên đàng trai đâu để mình yên!

Nhìn thấy chiếc xe hơi còn đậu trước sân, ông chủ Lụa bất nhẫn nói giọng rầu rầu:

- Bây giờ nhìn chiếc xe này tui lại thấy sợ. Xe mà đã lọt xuống sông rồi thì không nên để, hay là bán đi.

Bà thì tính khác:

- Tui tính đưa qua cho con Hương có đi đâu thì đi. Mà nè ông, tui thắc mắc nãy giờ, chẳng hiểu sao chiếc xe đang ở dưới sông tận đó, mà đột nhiên lại nằm ở đây là sao?

- Thì... thì có thể bên đó ai người ta vớt lên giùm rồi đem qua đây cho mình.

Ông gọi mấy đứa gia nhân hỏi:

- Hồi nãy tao đi vắng, có ai tới giao chiếc xe này không?

Mấy gia nhân đều lắc đầu:

- Dạ không có ai hết. Tụi con đang ở nhà sau, khi bước ra thì giựt mình thấy chiếc xe đậu sẵn rồi!

- Không thể như vậy được...

Bà Lụa ra nhìn kỹ chiếc xe, nó còn nguyên vẹn, không có bất cứ dấu vết nào của sự va chạm, nhất là khi bị rơi từ trên cầu xuống sông và nằm dưới đó cả tháng qua...

- Lạ quá ông ạ...

Ông chủ Lụa vốn người không thích suy nghĩ rắc rối, nên nói lảng sang chuyện khác:

- Con mình nó sống là may rồi. Còn mọi chuyện cho qua đi.

Bà gọi con Mẫn, đứa tớ gái thân tín của Thiên Hương và dặn:

- Mày lên phòng cô Hương, lấy hết quần áo của cô cho vô va-ly lớn, sau đó đem qua nhà của Hai Mộc ở xóm Chùa bên xã gần mình đây, nói là gởi cho cô Thiên Hương. Gởi xong thì về ngay, đừng hỏi han lôi thôi gì nữa.

Mẫn nghe lời chạy lên, và ngay lập tức trở xuống báo:

- Dạ, phòng cô Hai không còn bất cứ món gì hết. Ai dọn sạch cả rồi!

Quá đỗi ngạc nhiên, đích thân bà chủ Lụa chạy lên xem và ngẩng người ra, bởi hầu như những thứ thiết yếu đều đã không còn.

- Ở nhà có ai vô dọn đi không?

- Dạ không, tụi con ở nhà không hề mở cửa cho ai vô hết thì làm sao dọn được!

Lại một chuyện mà bà không tài nào hiểu nổi. Bà nhớ lúc nãy ở bên nhà Hai Lân, bà đã nhìn thấy Thiên Hương mặc bộ đồ mát vốn là thứ cô chỉ để riêng trong phòng, khi về nhà mới mặc, mà bữa chạy đi cô nào có đem theo bộ đồ đó?

Lưỡng lự một lúc, sau đó bà bước hẳn vào phòng. Xem xét lại những vật dụng, bà bất ngờ phát hiện ở bàn phấn của Thiên Hương có một chiếc lắc vàng rất lạ, cầm lên xem bà giật mình khi thấy có khắc tên hai chữ rất đẹp: Hoa Lài!

Dằn bên dưới chiếc lắc đó là một mảnh giấy với chữ viết mà bà Lụa nhận ra ngay đó là nét chữ của Thiên Hương: "Sinh ra thì xác hồn đều của cha mẹ, nay thác, xác phải mượn hồn kẻ khác! Con xin đắc tội..."

Bà chủ Lụa chợt hiểu, bà không thốt được lời nào, ngã quỵ và ngất đi...

Thiên Hương quỳ trước mặt cha mẹ chồng, giọng chân thành:

- Con xin ba má hãy giúp cho chuyện này. Số là con và anh Hai Lân có duyên số từ kiếp trước, nhưng do hoàn cảnh không gặp được nhau sớm. Cho đến khi anh ấy đi lang thang nhậu nhẹt với bạn bè rồi nằm ngủ ở nghĩa địa cách đây gần một tháng, mới tình cờ gặp con. Lúc ấy con đã thành người cõi âm sau tai nạn lọt xe xuống nước, hồn phách con đang vô định thì hai đứa gặp nhau và hiểu rằng đã là số kiếp, duyên số thì không làm sao xa rời được nhau. Tuy nhiên, do lúc ấy con đã bị chết rồi, nên dẫu cõi âm có thương tình, muốn tác hợp cũng không còn kịp nữa. Cũng may, đúng khi ấy người bạn tên Hoa Lài của con đi cùng xe cũng cùng chết mà số cô ấy lại chưa tới lúc phải chết, nên phán quan liền cho hồn cô ấy nhập vào xác của con để sống lại, hầu làm trọn duyên phận với anh Lân. Đó là sự thật, xin ba má nghe rồi đừng nói lại với ai, cứ để tụi con sống mà phụng dưỡng cha mẹ.

Bà Hai lo sợ:

- Như vậy lỡ ông bà chủ hỏi tội thì tui biết nói sao?

Thiên Hương quả quyết:

- Má đừng lo, họ sẽ chẳng bao giờ dám lôi thôi nữa. Vả lại, bây giờ con chỉ còn mang cái xác của con gái họ, chứ phần hồn thì là của Hoa Lài rồi. Chuyện bây giờ con muốn nhờ là ba má hãy sang nhà ba má của Hoa Lài, làm con...

Cô đưa cho cha mẹ chồng số tiền khá lớn:

- Ba má đưa giùm họ, nói tiền này là của một người có hàm ơn với Hoa Lài, muốn tặng để họ dưỡng già, bù lại chuyện họ mất đứa con...

Vợ chồng Hai Mộc ngập ngừng không muốn nhận, bởi xưa nay họ không quen nói dối, vả lại mang theo bên mình số tiến lớn họ đâm sợ... nhưng cuối cùng do Thiên Hương quá khẩn thiết nên họ phải làm theo.

Khi họ tìm được nhà của cha mẹ Hoa Lài thì vô cùng ngạc nhiên khi có một cô con gái khá đẹp đang ngồi trong nhà. Thím Hai lên tiếng hỏi:

- Đây có phải là nhà của ba má cô Hoa Lài?

Cô gái cười tươi, lên tiếng đáp:

- Dạ, con là Hoa Lài đây!

Câu nói khiến thím Hai muốn té xỉu! Thím lui nửa bước, nhìn vào cô gái:

- Cô nói lại coi? Cô là...

Vừa khi ấy hai ông bà chủ nhà bước ra, họ đã nghe câu hỏi và trả lời, nên người mẹ lên tiếng ngay:

- Con tui nói đúng, nó chính là Hoa Lài, đứa mà đáng lẽ đã chết cùng với Thiên Hương con ông bà chủ Lụa!

Bà ngừng kể, nhìn sang con gái như đợi sự đồng ý của nó. Hoa Lài gật đầu:

- Má cứ nói đi. Bây giờ chị con dâu của hai bác đây cũng đã nói ra rồi, đâu cần giấu nữa làm gì.

Bà mẹ cô mới tiếp tục:

- Không riêng gì hồn của con tôi được cõi âm cho sống lại nhập vào xác cô Thlên Hương, bởi họ thấu hiểu nỗi đau của cha mẹ có con bị chết oan, mà hồn của cô Thiên Hương cũng đã được nhập vào xác con Hoa Lài đây nè!

Rồi bà nói thêm:

- Dẫu xác là con mình mà hồn là của người khác, nhưng dẫu sao mình cũng cứ nhận nó là con, bởi tui biết chắc con Hoa Lài cũng đang còn sống. Khi sống tụi nó là bạn của nhau, khi chết dùng xác hồn trao đổi nhau là chuyện bình thường.

Thấy bà ta nói như chẳng có chuyện gì, vợ chồng Hai Mộc cũng không biết nói gì thêm, đành đưa số tiền cho họ rồi kiếu ra về. Nhưng họ thẳng thừng từ chối:

- Tụi tui sống đạm bạc quen rồi, đâu cần nhiều tiền làm gì. Tuy nhiên...

Bà nói tới đó chợt nhớ hồn của Hoa Lài bây giờ không có trong xác nó, mà là của cô gái con nhà giàu, nên bà ngập ngừng hỏi:

- Ý con sao?

Hoa Lài xua tay:

- Con bây giờ khác rồi, tuy vẫn là hồn của con gái nhà nghiệp chủ Lụa, nhưng đang sống trong nhà ba má Hoa Lài, thì con phải là... Hoa Lài chớ! Con đâu cần giàu...

Hai Mộc chen vô nói:

- Nhưng tiền này con dâu tui nói là để anh chị dưỡng già...

Hai ông bà cười, chỉ vào Hoa Lài:

- Có đứa con gái này là tụi tui đủ sức sống tới trăm tuổi rồi!

Họ đãi khách một bữa cơm thịnh soạn, sau đó Hoa Lài gọi vợ chồng Hai Mộc ra dặn riêng:

- Hai bác biết chuyện này là để bụng, đừng bao giờ nói lại với bên nhà cha mẹ con. Bởi cho tới giờ này họ vẫn nghĩ con là Thiên Hương còn sống như con dâu hai bác. Mọi việc rồi sẽ qua đi...

Giữ đúng lời, vợ chồng Hai Mộc không hé răng với ai. Mọi sự cứ bình thản trôi qua...

Duy có một điều làm cho nhiều người ngạc nhiên là chẳng hiểu sao từ ngày lấy vợ tự dưng Hai Lân đâm ra thông minh, linh hoạt hẳn. Anh chàng vốn trước đây không chịu học, bây giờ siêng năng đèn sách và vài năm sau đó bất ngờ trở thành người hay chữ nhất vùng. Đặc biệt là ngoài chữ nghĩa giỏi giang ra, Hai Lân còn có biệt tài chữa bệnh! Anh trị bệnh không lấy tiền, chữa được cả những bệnh nan y, khiến danh tiếng được đồn xa, nhiều người nể trọng.

Nếu có ai nghĩ rằng bao nhiêu tài năng của Hai Lân đều do hưởng được từ vợ thì cũng không sai...

QUYỂN SÁCH MA

Cô giáo Sương đưa cho Thoa cả chùm chìa khóa và dặn:

- Tất cả các phòng đều có chìa trong này, em xem cái nào xài được thì dùng, cái nào không được thì để riêng ra. Có những chìa từ rất lâu, đổi ổ khóa mấy lần rồi mà vẫn chưa bỏ.

Thoa nhìn xâu chìa khóa mà ngao ngán:

- Em chỉ dùng mỗi một cái cho phòng của em thôi. Nếu cần thêm thì cũng là chìa mở cổng, mở cửa trước, sau. Chớ lấy chi quá nhiều vậy...

Nhưng cô Sương vẫn đưa:

- Thì em cứ giữ. Bởi nhà này bây giờ trở đi thì chỉ có mình em thôi. Chỉ có điều, chị hỏi thật em, ở một mình có sợ không?

Thoa cười:

- Từ nào đến giờ ở đâu em cũng chỉ một mình, quen rồi. Vả lại chị ở đây đã bao đời rồi, có gì đâu mà sợ, phải không?

Chị Sương gật đầu:

- Nhà này tuy rộng và vắng vẻ, nhưng chưa hề xảy ra chuyện gì bất thường. Vả lại, ban đêm thì ông già Tư Sang sẽ về ngủ canh nhà. Ông ấy là người tốt. Đêm nào ổng cũng thức tới nửa khuya. Có gì cần, em cứ bấm chuông trên đầu giường thì ông ấy sẽ có mặt.

- Dạ, cám ơn chị.

Cô Sương soạn xong va ly thì xách đi ngay:

- Chị phải ra xe lửa cho kịp chuyến. Thôi, em ở nhà ráng giữ gìn sức khỏe nghe!

- Dạ, chị Sương đi cũng chịu khó ăn, ngủ, để khi về còn lên được vài ký chớ!

Hai chị em tuy không bà con, nhưng đã dạy chung trường được vài năm, hiểu tính nết nhau, nên lại càng yêu thương nhau khi về ở chung ngôi nhà này. Đây là nhà của một người bạn chung của hai hgười, anh ta thường được hai cô quen gọi là anh Đức, chớ thật ra tên đầy đủ là Thành Đức, một chủ nhà in kiêm kinh doanh bất động sản có cỡ. Anh ta khá giàu, mua nhiều nhà đất để dành bán lấy lãi. Ngôi nhà này anh ta mua đã khá lâu nhưng chưa sửa sang lại, bởi anh ta còn có nhiều kế hoạch cấp thiết hơn. Sở dĩ anh cho hai chị em ở mà không lấy tiền thuê nhà là có lý do: Anh ta bận đi ra nước ngoài gần hai năm mà không có ai trông nhà. Đức quen với cả Thoa và Sương, bởi hai đứa con của anh ta đều học với hai cô, một người dạy văn, một người dạy toán. Có lần anh ta nói vui:

- Khi nào con gái tôi về đây ở thì khỏi phải thuê người dạy kèm, đã có sẵn hai cô dạy hai môn cơ bản rồi!

Đứa con gái mười bốn tuổi của Đức học hành khá giỏi, nó lại mến hai cô Thoa và Sương, nên trước khi đi ra nước ngoài theo mẹ trong mấy năm, nó còn hứa hẹn:

- Khi trở về thế nào con cũng nhờ hai cô dạy thêm cho!

Về chuyện cô bé Ái Lan này, tuy mới 14 tuổi mà đã khá trưởng thành trong cách suy nghĩ, đôi lần nó nói riêng với cả Thoa và Sương:

- Tại thấy má bệnh nên con mới theo má ra nước ngoài, chữa bệnh cho má lại vừa học, chớ con muốn ở lại với ba hơn.

Thoa biết phần nào về tình cảnh riêng của vợ chồng Đức. Anh ta là một doanh nhân thành đạt giàu có, nhưng cuộc sống vợ chồng thì hình như có nhiều điều âu lo. Bà vợ Ái Liên thì mắc chứng trầm cảm, ít nói, nên nhiều khi cả tháng không nghe hai vợ chồng nói chuyện với nhau.

- Khóa cổng giùm chị, Thoa ơi!

Nghe chị Sương gọi, Thoa vội ra khóa cổng, rồi trở về phòng riêng. Từ ngày dọn về đây hơn ba tháng rồi, Thoa ở trên lầu một, bên cạnh còn ba phòng nữa bỏ không, nhưng chưa bao giờ cô bước qua đó xem. Kể cả có lần Đức tới thăm và có ý bảo cô: nếu không vừa ý phòng đang ở thì có thể chuyển sang bất cứ phòng nào trong các phòng còn lại. Nhưng Thoa cũng chưa có ý đó.

Vừa bước vào phòng, bỗng Thoa nhìn thấy một góc phòng bị thấm nước, có lẽ do đường thoát nước bị hư, nước thấm ướt rất khó chịu. Cô bước lại xem cái rương sách để ở góc phòng và giật mình:

- Ẩm hết rồi!

Thoa là người rất kỹ lưỡng trong việc bảo tồn sách vở, nên một quyển sách bị ẩm là điều tối kỵ của cô. Vừa lấy khăn sạch ra lau vừa lầm bầm:

- Kiểu này sẽ hư hết sách!

Là cô giáo dạy văn, ham đọc sách, nên đối với Thoa sách còn quý hơn cả tiền bạc.

Lúc đầu tưởng chỉ ẩm ướt có vài cuốn, nhưng sau khi xem lại Thoa mới giật mình, hầu như cả rương sách đều chịu chung số phận! Thì ra từ hôm dọn nhà tới nay nó đã bị thấm nước, mà Thoa không để ý.

Đem trải mấy chục cuốn sách ra phơi, chợt Thoa nhớ ra:

- Sao mình không chuyển phòng?

Ý nghĩ đến kịp lúc, hợp thời, nên chỉ sau mấy phút Thoa đã dùng chìa khóa mở căn phòng bên cạnh. Phòng trống, có sẵn một cái tủ, một bàn viết, và lại có cả bàn phấn nữa.

- Hình như... của bà vợ ông Đức trước đây?

Điều đó có thể đúng, trước khi bà ta chuyển về ở ngôi nhà mới rồi đi nước ngoài trị bệnh.

Xem thêm căn phòng bên cạnh nữa, nó cũng giống như phòng kia, tuy nhiên nó không có bàn viết, mà điều đó đối với Thoa nó quan trọng còn hơn là giường nằm. Cô quyết định chọn căn phòng đầu tiên.

Thay vì chờ đến tối có ông quản gia Tư Sang về giúp, Thoa quyết định một mình chuyển dần đồ đạc qua. Cũng may, Thoa không có nhiều đồ, chỉ chiếc rương quần áo, hai rương sách.

Chỉ nửa giờ sau là mọi thứ đâu vào đó. Vừa chuẩn bị đi tắm thì nhìn chiếc tủ gỗ, Thoa có ý định sẽ dùng nó và cho hết sách vào đó. Nghĩ là làm, cô mở được cửa tủ một cách dễ dàng, bởi cửa không khóa. Bên trong còn sót lại một ít sách cũ. Có lẽ là sách không quan trọng nên khi dọn đi bà chủ đã không mang theo.

Có tất cả sáu quyển sách. Đúng là sách đã quá cũ, có cuốn đã sờn gáy, có cuốn chỉ còn lại phân nửa với bìa đã rách nát. Duy nhất có một quyển là còn nguyên, lại không là sách in, mà được viết tay, khá công phu với chữ viết nắn nót, đẹp như người ta viết thư pháp!

Thoa gọi đấy là một quyển sách, bởi tuy nó viết tay, nhưng được đóng gáy khá công phu như một quyển sách in, ở bìa vải có dòng chữ đề tựa mạ vàng: TÌNH HẬN.

Nội cái tựa thôi đã có sức hút để đọc, mà lại còn thêm tên người viết là Ái Liên nữa, bảo sao Thoa không giữ chặt nó trên tay và quên cả việc cho sách của mình vào tủ để cất.

"Viết cho vong hồn người đã vĩnh viễn ra đi..."

Dòng đầu tiên của quyển sách đã khiến cho Thoa quên hết công việc, cô leo lên chiếc nệm vừa trải ra, chưa kịp trải vải phủ, đọc như sợ ai giật mất!

"Nửa đêm 23 tháng 3 năm 1953..."

"Vẫn là những đêm dài chờ đợi, nhưng sao đêm nay đối với Ái Liên nó dài như bất tận. Bởi người mình chờ hầu như không bao giờ tới nữa và hình như có điều gì đó bất an đang rình rập đâu đây!"

"Quân ơi, sao anh lại bỏ em một mình trong thời khắc này! Lúc mà em cần có anh nhất! Sao anh không tới để giữ lại chút hy vọng mong manh trong tay. Nó sắp mất rồi, mà em thì yếu đuối quá, bạc nhược quá, không làm sao giữ được cho chúng mình!"

"Trách anh, nhưng em biết làm sao anh tới được khi mà sáng nay người ta đã âm thầm đưa anh đi cách xa em đến nửa ngàn dặm! Họ đã quyết chia lìa chúng ta bằng thủ đoạn vu khống cho anh tội lỗi rồi đưa đi an trí ở chốn xa xăm đó. Nhưng nó cũng chưa xa bằng chỉ vài giờ nữa thôi, khi trời sáng thì em của anh sẽ bị đem tới một nơi còn xa hơn nữa. Nơi đó không có cự ly nhưng mà còn hơn vạn dặm, nó được gọi là HÔN LỄ! Sáng mai này em sẽ lên xe hoa rồi, Quân ơi! Sao anh không tới để cứu em đi? Chỉ còn quãng thời gian ngắn nữa thôi, mối tình hơn tám năm của mình sẽ tan như bọt nước!"

"Anh biết rồi đó, Ái Liên của anh đã thề rằng: một là ta sống bên nhau, hai là em sẽ biến mất khỏi cõi đời này! Em thề và sẽ giữ lời, tin em đi Quân. Bởi vậy, nếu mai này anh có trở lại và hay tin em chết thì cũng đừng than khóc làm gì. Coi như em đã làm tròn lời nguyện ước. Kiếp này em chỉ có anh là người tình!"

"Vĩnh biệt Quân của em!"

"Đau đớn thay cho em, Quân ơi! Điều em muốn đã không thành! Em đã lao đầu vào xe đang chạy, muốn một cái chết thật đau, vậy mà em lại rơi vào một cơn hôn mê sâu, êm ái, nhẹ nhàng... Để rồi khi tỉnh lại em mới biết rằng mình đã được cứu, bởi chiếc xe mà em lao đầu vào đã kịp thắng lại, chỉ gây thương tích nhẹ cho em mà thôi. Và dù không có mặt trong lễ rước dâu, nhưng hôn lễ của em vẫn được cử hành. Người ta đã đưa em về nhà chồng từ bệnh viện."

"Sáu tháng sau ngày Ái Liên lấy chồng..."

"Người ta đưa về nhà mẹ Quân một cái xác nằm trong quan tài. Đó là Quân! Nơi giam giữ Quân chỉ gửi về một tờ giấy ghi gọn mấy dòng: Chết do bệnh sốt rét trong thời gian thụ án!"

"Lúc nhận được tin dữ thì Ái Liên đang mang thai được hơn năm tháng! Nàng đã ngất đi mấy lượt và từ phút đó cô gái tên Ái Liên không còn là Ái Liên nữa, mà chỉ còn là một Liên tâm thần..."

Đoạn truyện đến đó là kết thúc. Nó là một phần của quyển sách vốn là một tuyển tập gồm nhiều truyện ngắn, nhưng những phần tiếp theo cũng là một điệp khúc, gồm nhiều phân đoạn trong một trường đoạn bi thảm, mà người viết lúc thì tỉnh táo, lúc thì viết như người từ một cõi nào, viết về mình mà như viết chuyện của ai. Khi gọi người tình chung của mình mà như gào thét tên ai trong một thế giới ảo nào đó!

Đọc qua mấy truyện đầu tiên, tự dưng nước mắt của Thoa chảy ướt cả gối. Cô buông quyển sách và buột miệng:

- Tội nghiệp chị ấy!

Thì ra cuộc đời của bà chủ nhà này lại bi thảm đến như thế. Thảo nào trông bà ta như người cõi trên. Thoa nhớ lại ánh mắt xa xôi, buồn bã của cô bé Ái Lan mỗi khi nhắc tới mẹ. Giờ đây Thoa mới hiểu phần nào...

Đặt quyển sách trên đầu nằm, Thoa nhắm mắt lại nhốt hình ảnh người đàn bà đáng thương đó trong đầu. Định nghỉ một lát sẽ dậy đọc tiếp... Nhưng chẳng hiểu sao, Thoa đã ngủ một cách ngon lành. Ngủ mãi đến khi trời tối.

- Cô Thoa! Sao cô ngủ mà không bật đèn, tối lắm rồi!

Nghe tiếng của ông già Tư Sang, Thoa giật mình choàng dậy. Cô hỏi vọng ra:

- Mấy giờ rồi chú Tư?

- Đã hơn 8 giờ rồi. Tôi về hồi 7 giờ, thấy cô ngủ ngon quá nên không kêu. Cô dậy rồi ăn cơm đi, bữa nay tôi nấu luôn cả phần cơm của cô nữa. Cô cứ ăn tự nhiên.

Thoa bước ra vừa phân trần:

- Tại hồi trưa cháu dọn phòng, chuyển qua bên này để không bị thấm nước, nên mệt quá ngủ quên.

Ông già Tư mau mắn:

- Sao cô không chờ tôi về, tôi giúp cho. Đàn bà con gái làm chi chuyện nặng nhọc đó.

- Dạ, cháu làm được mà. Chú Tư cứ ăn cơm đi, cháu không đói.

- Không được. Thấy cô ngủ quên, biết cô không kịp nấu cơm nên tôi đã nấu luôn, đủ cho mấy người ăn lận!

Ông trở xuống bếp, lát sau bưng lên một mâm cơm với ba món thức ăn đang bốc khói:

- Già này sống một mình lâu nay nên tự nấu được nhiều món ăn, ngon không thua gì mấy bà đâu nhé! Không tiện từ chối nên Thoa cùng ăn. Lựa lúc ông già Tư vui chuyện, đột nhiên Thoa hỏi:

- Chú ở trong nhà này lâu lắm rồi phải không, chắc là rành mọi chuyện?

Ông già chừng như từ lâu không được dịp nói chuyện cùng ai, nên tuôn ra một hơi:

- Tôi ở làm cho nhà này từ thời ông chủ đồn điền Thành Công còn cai quản cơ ngơi này, đến khi cậu chủ Thành Đức nối nghiệp tôi cũng ở đây. Tính gọn cũng đã hơn hai chục năm rồi.

- Có nghĩa là chú ở từ khi anh Đức chưa có gia đình?

- Ồ chưa! Hồi đó chính tôi đứng ra lo đám cưới cho cậu Đức, bởi khi ấy ông Thành Công bị bệnh nằm một chỗ, mà bà chủ cũng bị đau không đi đứng được, kể cả việc tôi còn phải đưa cô dâu từ nhà thương về...

Kể tới đây, chừng như biết mình quá lời, ông già Tư ngừng ngang... Biết đây là thời cơ tốt nhất để khai thác chuyện mà mình đang thắc mắc, nên Thoa đánh bạo hỏi:

- Xin cho cháu hỏi, có phải bà chủ bị bệnh gì đó về tâm thần phải không?

- Phải.

Ông già trả lời vừa thở dài, rồi như được dịp tuôn hết ra những điều lâu nay không biết nói với ai, ông ta tiếp:

- V ợ cậu Đức bị tâm thần từ ngày hôn lễ. Có một người đàn ông tên Quân chen vào chuyện của họ. Đó là nguyên do dẫn tới bao rắc rối cho tới bây giờ... Bởi vậy cô thấy đó, con bé Ái Lan lúc nào cũng chỉ muốn sống bên mẹ nó, mặc dù nó cũng rất thương cha. Đấy, gia đình họ rắc rối lắm...

Thoa đột ngột hỏi:

- Có phải người đàn ông tên Quân đã chết rồi không?

Nhìn sững Thoa, phải mất mấy giây ông già Tư mới đáp:

- Đúng, cậu ấy chết rồi!

Thoa thở hắt ra:

- Như vậy đúng rồi!

Già Tư ngạc nhiên:

- Cô nói cái gì đúng?

- Dạ không. Cháu nói... cháu nghĩ đúng như lời chú Tư nói.

Thoa không muốn cho ông ta nghi ngờ chuyện mình đọc được quyển tập ghi chép của bà Ái Liên. Cô ăn xong nhanh bữa cơm khen lấy lòng:

- Chú Tư quả là nấu thức ăn ngon quá!

Tiếp ông già dọn mâm chén bát xuống bếp, Thoa trở lên ngay phòng mình để đọc nốt quyển sách.

Nhưng vừa bật đèn lên, bỗng Thoa kêu lớn:

- Đâu rồi? Quyển sách để ở đầu giường không cánh mà bay mất!

Thoa chạy đi tìm ông già Tư:

- Chú có thấy cuốn sách cháu để trên giường không?

Ông già Tư ngạc nhiên:

- Sách gì? Nãy giờ tôi ngồi ăn cơm với cô mà, có thấy sách vở gì đâu?

Thoa nhớ lúc ông Tư kêu mình dậy, khi bật ngồi lên, tay cô còn chạm quyển sách đúng nơi cô để trước lúc ngủ. Không thể nào...

Ông Tư hỏi lại:

- Mà cô nói quyển sách gì? Trong nhà này chỉ có cô và tôi, mà tôi thì không bao giờ...

Thoa phải nói trớ đi:

- Dạ, chắc cháu nhớ lộn rồi. Có thể cháu còn để ở phòng bên kia...

Đợi ông già Tư ra khỏi nhà xong, Thoa tuần tự mở hết các phòng còn lại. Có một bất ngờ ngoài sức tưởng tượng của Thoa khi cô mở căn phòng nhỏ trên sân thượng. Trong phòng là cả một kho sách cũ!

Và còn lạ lùng hơn, quyển sách TÌNH HẬN đang nằm trang trọng trên chiếc bàn viết duy nhất trong phòng. Ngay bên cạnh quyển sách có bức ảnh chân dung của một người thanh niên, đã khá cũ, ở một góc ảnh đã có dấu hiệu ố vàng.

Tò mò, Thoa cầm tấm ảnh lên và lật phía sau xem, cô càng giật mình khi thấy dòng chữ, đúng là nét chữ của Ái Liên: Ngàn thu chỉ còn lại cái bóng của anh thôi, Quân ơi!

- Thì ra đây là Quân, người tình của Ái Liên.

Thoa suýt buông rơi bức ảnh xuống sàn, khi nghĩ tới việc Quân đã vào phòng mình để lấy quyển sách! Trong khi anh ta là một... hồn ma!

Đáng lý Thoa đã bỏ chạy khỏi phòng ngay lúc ấy, nhưng chẳng hiểu sao sau khi phân vân một chút, cô lại bước tới các kệ sách đặt quanh tường. Toàn là những cuốn sách rất lạ, mà hầu hết là những đề tài huyền bí bằng Anh văn, Pháp văn. Cầm một vài quyển lên xem thử thì cuốn nào cũng có hai chữ ký, một của Ái Liên, còn một là của... Quân!

Đúng nơi đây là thư viện riêng của bà chủ Ái Liên, nhưng tại sao bà ta lại để những quyển sách của mình và người tình ngay trong nhà này, cả bức ảnh chân dung nữa! Vậy còn ông chủ Đức thì sao?

Hơn nửa giờ say mê với kho sách, Thoa chưa muốn rời, nếu không bất chợt nhìn thấy dấu vết bùn in hình một cặp đế giày khá lớn trên sàn nhà. Dấu còn mới, bùn còn ướt!

- Ai vậy? Ông già Tư đâu có đi giày kiểu này?

Nỗi tò mò dậy lên, Thoa không kiềm chế được nên lần theo dấu giày xem thử nó đi đâu? Ra tới khu vườn rộng phía sau nhà, nơi có một lối mòn đất đỏ mà cơn mưa liên tục mấy hôm nay đã làm cho sũng nước. Những dấu giày còn in rõ ràng, đang hướng về phía tường rào cuối vườn. Đến tận cuối vườn thì mất dấu, nhưng cũng không khó khi sau đó Thoa nhìn thấy một cánh cửa sắt cũ dẫn ra ngoài. Thì ra...

Thoa giống như một nhà thám hiểm, nhìn trước sau không thấy ai, cô bước lần theo dấu chân tiếp tục in trên đường đất đỏ. Đó là con đường duy nhất dẫn về một ngôi nhà thấp thoáng phía chân đồi. Ngoài ngôi nhà đó hầu như chung quanh không có nhà nào khác.

Cũng có hơi ngại, nhưng đã trót đi rồi Thoa đành phải bước tiếp. Khoảng năm phút sau thì Thoa đã đặt chân tới trước cửa ngôi nhà. Hình như bên trong có chút khói bay lên, chứng tỏ là nhà có người. Thoa hơi yên dạ, cô rụt rè lên tiếng:

- Có ai trong nhà không, cho tôi hỏi thăm...

Tiếng chân bước đều ra, cửa xịch mở, và...

- Chú Tư!

Trước mặt Thoa là ông già Tư quản gia. Ông hơi ngạc nhiên khi nhìn thấy Thoa, nhưng kịp trấn tĩnh ngay, ông vội hỏi:

- Sao cô biết đây mà tới?

Thoa lúng túng:

- Dạ, cháu... cháu...

- Thôi, đã tới thì vào nhà đi.

Thoa bước theo ông già vào trong và một lần nữa cô giật mình khựng lại, khi nhìn thấy trước mặt mình thay vì là một phòng khách thì lại là... một ngôi mộ đá, ốp đá cẩm thạch đen sì!

- Sao... sao...

Bây giờ Thoa không còn bình tĩnh như lúc đầu nữa, phải vịn tay vào cột nhà mới đứng vững. Ông già Tư giải thích:

- Đây là nhà mồ của cậu Quân!

Thoa kêu lên:

- Quân, người yêu của bà Ái Liên?

Ông già gật đầu, rồi im lặng. Thoa nhìn một lượt chung quanh, không có gì khác ngoài ngôi mộ này. Cô chưa kịp hỏi thêm thì ông Tư đã nói:

- Cô biết rồi đó, Quân chết sau hôn lễ của cô Ái Liên và cậu Đức được sáu tháng. Cậu ấy bị người ta ám hại, mà cụ thể là ông chủ lớn Thành Công. Chỉ bởi ông ta quyết ngăn cản mối tình giữa hai người, nên nhiều lần nói mà Liên và Quân không nghe, nên ông ta đã mượn tay một tên cò mật thám Tây vu cho Quân tội chết, đày đi an trí ở một vùng rừng sâu nước độc. Cậu ấy chết không biết có phải do sốt rét không, nhưng đem xác về đây thì thân thể không còn trọn vẹn...

Thoa bỗng hỏi:

- Chú là sao với Quân?

Ông già Tư giọng trầm hẳn xuống:

- Tôi là cha ruột của nó. Chỉ vì nó là con của một quản gia nghèo như tôi, nên nó phải chết oan như vậy đó cô!

Ông bật khóc sau câu nói! Tlếng khóc của một ông già nghe thảm thiết vô cùng. Thoa cũng phải khóc theo vì xúc động. Một lúc sau, Thoa hỏi:

- Có phải vì muốn cưới Ái Liên bằng được cho con trai mình mà ông chủ đồn điền Thành Công đã quyết hại Quân?

- Điều đó ai mà không biết. Tôi cũng biết ngay từ đầu, nhưng không ngờ ông ra tay độc ác quá như vậy, nên tôi trở tay không kịp, phải đành nhận xác con mà khóc thôi!

Thoa quá bức xúc nên hỏi đại:

- Sao chú không tố cáo chuyện ấy? Mà tại sao vẫn tiếp tục ở lại nơi này?

Ông già Tư nhẹ thở dài:

- Tôi cũng biết hận, biết điên lên vì cái chết của con mình. Tôi đã đôi ba lần định trả thù bằng chính bàn tay mình cho hả. Nhưng rồi khi nhìn thấy Ái Liên đau khổ trong vòng tay người chồng giàu có mà nó không yêu thương, tôi đã nguôi được hận thù. Tôi quyết làm một việc gì đó cho nó, con dâu hụt của tôi.

Thoa hơi rụt rè một chút, rồi lại hỏi:

- Sao nhà họ giàu như vậy mà không chữa cho chị Liên hết bệnh tâm thần? Nghe nói chị ấy cũng chỉ bị hoang tưởng thôi...

Ông già chợt thở hắt ra:

- Chỗ này coi như tôi đã trả được thù rồi!

Thoa ngạc nhiên:

- Chú nói vậy là sao?

- Con Ái Liên đã hết bệnh từ lâu rồi!

Câu nói làm cho Thoa trố mắt nhìn, hỏi lại:

- Chú nói thật? Nhưng sao chị ấy còn phải đi nước ngoài chữa bệnh?

Đột ngột đứng dậy và đi thẳng ra nhà sau, một lát ông già trở lại với một phụ nữ mặc y phục toàn đen. Người đó lặng lẽ đi bên cạnh ông già, tuy im lặng nhưng hoàn toàn tỉnh táo, bước đi khoan thai. Đến gần Thoa, ông Tư lên tiếng:

- Chào cô giáo đi con. Chính cô đây là cô giáo dạy cho Ái Lan. Nó mến cô Thoa này lắm.

Ông quay sang người phụ nữ, giới thiệu:

- Đây là... Ái Liên, con dâu tôi!

Thoa kêu lên:

- Chị Liên mà chú kể nãy giờ?

- Nó đó.

- Thế chị không phải đang ở nước ngoài?

Người phụ nữ không đáp, chỉ nhẹ mỉm cười rồi lắc đầu. Ông già Tư phải nói thay:

- Đi nước ngoài là cách nói của thằng Thành Đức mà thôi. Bởi nó không muốn ai biết vợ chồng nó trong hoàn cảnh này. Đã từ mấy năm nay rồi, con Ái Liên bỏ nhà đi và về đây ở với tôi, với mộ chồng của nó, mà Đức và mọi người không ai biết. Kể cả con Ái Lan cũng chỉ mới biết gần đây thôi...

- Ái Lan? Cháu bây giờ ở đâu?

Từ đằng sau, một cô bé chậm rãi bước vào. Vừa thấy Thoa, nó đã nhào tới ôm chầm lấy:

- Cô! Sao cô biết con ở đây mà tới?

- Cô tưởng con...

Con bé liến thoắng:

- Con ở đây với mẹ chớ có đi nước ngoài đâu! Con nhớ cô lắm, nhưng mẹ nói để tháng sau mới cho về thăm cô, cho giống như mới đi nước ngoài về.

Bấy giờ người phụ nữ mới lên tiếng, giọng dịu dàng, dễ nghe:

- Cháu nó đòi chạy về thăm cô hoài, nhưng tôi chưa cho. Mỗi năm mẹ con mới có dịp ở với nhau mấy tháng hè mà...

- Vậy ra...

- Cháu nó ở đây với tôi từ mấy tuần nay. Tuy thiếu tiện nghi, nhưng nhiều cảnh đẹp, vả lại bên cạnh cháu còn có... cha cháu đây!

Ông già Tư chen vào:

- Lúc đầu khi mới về đây chơi với mẹ nó, con bé sợ nấm mộ này lắm, nhưng lần hồi nó chẳng những không sợ, mà trưa nào cũng ra đây, leo lên mộ nằm chơi.

Thoa không thể tưởng tượng nổi những điều ông già vừa kể. Phải đến khi bé Lan chợt buông cô ra, chạy tới ôm lấy ngôi mộ một cách trìu mến, như ôm một người thân! Ái Liên kéo tay con và nói:

- Sao con không mời cô vào phòng mình chơi. Con lấy tặng cô những con bướm đẹp mà con bắt hổm rày đi!

Bé Ái Lan reo lên:

- Vào đây cô Thoa!

Thoa ngạc nhiên khi nhìn căn phòng phía sau. Nó tuy không rộng lắm, nhưng cũng đầy đủ tiện nghi cho một phụ nữ sinh sống. Bé Ái Lan hồn nhiên chỉ vào một cái lồng đầy những bướm:

- Chính con bắt đó cô. Ban đầu con không biết bắt, nhưng nhờ mẹ chỉ, nên bây giờ con bắt hay lắm rồi! Để lát nữa con dẫn cô ra ngoài kia bắt bướm, hái hoa, nhiều hoa đẹp lắm!

Buổi trưa hôm đó, mặc dù tìm đủ cách để từ chối, nhưng Thoa cũng phải ở lại ăn với họ một bữa cơm. Trong khi ăn, Ái Liên chỉ yêu cầu:

- Cô nhìn thấy cảnh sống của tôi rồi đó. Tôi hoàn toàn tỉnh táo, nhưng tôi không thể trở về cuộc sống kia được nữa. Tôi đã thề là sẽ sống ở đây cho đến ngày chết. Hay ít nhất cũng đến ngày con gái chúng tôi đến tuổi trưởng thành, lập gia đình riêng...

Thoa ngạc nhiên:

- Chị nói... con chúng tôi, nghĩa là sao?

Ái Liên ôm con vào lòng, vừa đáp:

- Nó là giọt máu mà Quân đã để lại trong tôi khi anh ấy bị đưa đi an trí và chết.

Nếu không trực tiếp nghe người phụ nữ này kể thì chắc Thoa khó mà tin được. Cô liếc mắt nhìn sang ông già Tư, ông nhẹ gật đầu như xác nhận điều Ái Liên nói là đúng.

Thoa cảm giác như mình vừa nhận được một tin vui của chính mình. Cô nhìn mẹ con họ mà như muốn ôm họ và chúc mừng thật nồng nhiệt! Biết là không nên ở lâu, Thoa đứng lên kiếu từ:

- Xin phép chú Tư, xin phép chị, em về. Em xin hứa với chị là không bao giờ nói lại chuyện này với ai. Nếu chị cho phép thì thỉnh thoảng em tới đây thăm chị và cháu Lan.

Ái Liên vui lắm:

- Cám ơn cô nhiều. Tôi tin cô.

Tiễn chân Thoa ra tới nửa đoạn đường, ông già Tư mới nói:

- Còn chuyện này nữa, cô có biết tại sao thằng Đức nó cho cô và cô Sương tới ở ngôi nhà đó không?

- Dạ, nghe nói do nhà bỏ trống quá lâu, nên cần có sinh khí...

- Không đúng đâu. Ngôi nhà này là nỗi ám ảnh của nó! Từ mấy năm nay nó có bước về đâu, chỉ vừa rồi khi đưa hai cô tới ở nó mới về. Nhưng sau chuyến đó thì rồi nó sẽ không bao giờ trở lại đây nữa!

Thoa kinh ngạc:

- Sao vậy chú?

- Nó đang bệnh rất nặng! Đó là hậu quả mà nó phải nhận từ thằng Quân.

Thoa càng không hiểu:

- Vậy là sao?

- Hồn ma thằng Quân chớ sao.

Thoa trố mắt:

- Anh Quân thành ma?

- Tôi nói ra điều này cho mình cô biết, đừng nói lại với ai. Ngôi nhà cô đang ở chỉ cô và cô Sương ở được, bởi hai cô là cô giáo của con Ái Lan. Còn ngoài ra không ai bước chân tới được, nhất là thằng Đức. Oan hồn thằng Quân không để cho ai tới đó. Ấy là nguyên nhân lâu nay thằng Đức bỏ hoang ngôi nhà. Nó sợ bị trả thù!

Thoa hơi run:

- Nhưng cháu... cháu...

Ông Tư trấn an:

- Tôi có thể đoan chắc với cô, con trai tôi là ma với ai, chớ với người ơn của nó thì không bao giờ. Trái lại, nó còn là người bảo vệ cho cuộc sống yên lành của cô nữa. Tin tôi đi, đừng sợ.

Thoa gật đầu. Nhưng suốt ngày hôm đó cô cứ ngay ngáy lo... Vậy mà suốt ba tháng hè Thoa vẫn sống yên ổn, vui vẻ trong ngôi nhà đó. Ngày ngày cô vẫn lui tới thăm mẹ con Ái Liên. Nửa tháng sau, cô nghe tin Thành Đức chết vì căn bệnh lạ. Như vậy, phải chăng mọi điều tốt đẹp sẽ tới với Ái Liên, Ái Lan... 

BÓNG MA TRONG NHẠC VIỆN CỔ - Phần 1

Nguyệt Thư sôi nổi rủ rê:

- Đi shop thời trang, Tịnh Đoan ơi!

Tịnh Đoan hưởng ứng ngay:

- Đi siêu thị nữa hả?

Thiên Tùng kêu lên:

- Ôi? Chỉ đi thực tập mà mấy bà rủ nhau đi sắm sửa như sắm tết vậy.

Nguyệt Thư vênh mặt hỏi lại:

- Đi thực tập rồi không sắm sửa ăn mặc hả?

Duy Bảo cười hô hố:

- Trời ơi! Không ăn mặc, có mà thiên hạ mù hết.

Tịnh Đoan cất giọng Huế ngọt lịm:

- Đi mô cũng phải lịch sự. Nhất là sinh viên nhạc viện của bọn mình là đại diện cho cái đẹp đó. Biết chưa hỉ?

Duy Bảo gãi đầu trêu Tịnh Đoan:

- Biết rồi, Tịnh Đoan hì.

Thiên Tùng dặn dò:

- Nè, sắm sửa gì cứ sắm nhưng đừng bê cả siêu thị về nghen!

Đến khi các cô đi sắm sửa về thì Thiên Tùng báo tin:

- Quý vị hay gì chưa? Bọn mình không có thực tập ở thành phố đâu.

Nguyệt Thư hỏi nhanh:

- Vậy thực tập ở đâu.

- Nhạc viện Tây Nguyên…

Nguyệt Thư ngạc nhiên:

- Đi lên Tiếng chày trên sóc Bombo đó hả?

Thiên Tùng hóm hỉnh:

- Đi gặp già làng ở nhà rông và uống rượu cần.

Tố Mẫn than thở:

- Tự nhiên lại đi thực tập ở nhạc viện Tây Nguyên hà.

Các cô sinh viên thở dài ngao ngán. Duy Bảo chọc ghẹo:

- Lên Tây Nguyên quấn xà rông, vận khố, mặc áo thổ cẩm, mấy bà dẹp đầm, váy hoa, váy xoè ở nhà đi nhé. Hì... hì…

Tịnh Đoan sáng suốt:

- Mang theo để biểu diễn.

Biết đi thực tập ở nhạc viện cổ Tây Nguyên, cả nhóm ỉu xìu, nhưng Nguyệt Thư an ủi:

- Xem như chúng ta đi du lịch vậy.

Một người đàn ông chững chạc bước vào lớp:

- Chào các em! Tôi là Việt Thái được nhà trường phân công hướng dẫn các em thực tập ở nhạc viện cổ Tây Nguyên. Chúng ta làm quen nhé!

Ông thầy hướng dẫn lạ hoắc là người Việt gốc Thái mới ở Thái Lan về. Thầy là một nhạc sĩ tài hoa, giảng dạy bên ấy.

Thầy Việt Thái vừa có vẻ sang trọng lịch lãm vừa mang phong thái một nghệ sĩ phóng khoáng hào hoa.

Chuyến xe đưa nhóm sinh viên thực tập lên Tây Nguyên cùng thầy Việt Thái bắt đầu lăn bánh.

Thầy Việt Thái tích cực lo sinh viên từ nước uống đến thuốc chống ói, khiến ai nấy đều rất quý mến.

Không khí trên xe rất vui tươi phấn khởi, nhóm sinh viên bắt đầu ca hát. Những bài ca trữ tình vang lên êm ái.

Thiên Tùng cầm đàn ghita đệm cho Nguyệt Thư, Tố Mẫn hát. Thầy Việt Thái bảo:

- Các em đem đàn theo chứ ở nhạc viện cũng có đủ.

Thiên Tùng cười đáp:

- Em mang theo để đệm cho cả nhóm hát.

Duy Bảo đề nghị:

- Thầy hát "Tiếng chày trên sóc Bombo" đi thầy.

Thầy Việt Thái vui vẻ:

- Các em hát trước, tôi hát theo.

Cả nhóm ồn ào:

- Cắc cùm cum... cắc cùm cum...

Bỗng Nguyệt Thư ngâm nga:

- "Gạo đem vào giã bao đau đớn

Gạo giã xong rồi trắng tựa bông".

Cả nhóm cười phá lên:

- Lạc quẻ rồi Thư ơi!

Nguyệt Thư nghênh mặt giải thích:

- Thơ nhạc giao duyên, lạc quẻ đâu, ông không biết gì hết.

- Thư tưởng Khang không biết gì à?

- Vậy Khang biết gì hả?

Giọng Khang ồm ồm:

- Biết làm... ma.

Nguyệt Thư ré lên.

- Hả!

Để phụ họa cho lời của mình, Nam Khang làm ma ngay. Anh chàng sinh viên nghịch ngợm trợn mắt, nhe răng, hai tay banh hàm, cái lưỡi le dài huơ huơ. Cả bọn cười ngặt nghẽo trước sự biểu diễn của Nam Khang.

Nam Khang lại đổi động tác nữa chứ. Nhe răng đã rồi anh lại cất chuỗi cười dài kinh dị. Tố Mẫn nhăn nhó:

- Thôi đi ông, cười giống ma khóc nghe ớn quá chừng.

Tịnh Đoan giải thích:

- Thì hắn đang làm ma mà.

Duy Bảo cất tiếng hỏi:

- Ma cà bông hay ma lai vậy Khang?

Nam Khang tỉnh giọng:

- Ma... yêu.

Cả nhóm lại cười rộ lên, tiếng cười như những chuỗi âm thanh trong vắt từ trong xe vang ra ngoài.

Bệnh bắt chước lây lan, Thiên Tùng rồi Duy Bảo cũng làm ma: Hai chàng sinh viên cất tiếng hú dài, rồi rên rỉ ai oán:

- Hừ? Hừ... lạnh quá! Đói quá!

- Hu... hu... đói quá!

Duy Bảo còn phe phẩy hai bàn tay rồi làm ra vẻ run lập cập.

Nguyệt Thư nhăn mặt:

- Làm giống ma thật quá mấy ông ơi.

Duy Bảo hỏi tỉnh bơ:

- Ủa! Bộ Thư thấy ma thật rồi hả?

Nguyệt Thư lắc đầu:

- Có thấy bao giờ đâu.

Thiên Tùng trêu chọc:

- Có thấy chắc Thư cũng chạy vắt giò lên cổ rồi.

- Chạy như ma đuổi chứ!

Nam Khang sửa lưng. Thầy Việt Thái ngồi theo dõi nhóm sinh viên vui đùa phá phách, gật đầu khen:

- Các em có khiếu biểu diễn lắm đó.

Nam Khang thích thú:

- Biểu diễn ma hả thầy?

Tịnh Đoan chú thích:

- Rứa mà cũng hỏi! Thầy nói Khang có khiếu diễn hài đấy.

Nam Khang phân trần:

- Mình học ở nhạc viện chứ đâu phải sân khấu.

- Không chừng ông sẽ chuyển ngành.

Cả bọn chọc phá nhau tưng bừng khiến không khí trên xe rất vui nhộn. Và chặng đường xa chừng như rút ngắn lại.

Mãi lo đùa giỡn, xe chạy đến đâu không ai biết.

Bất giác mọi người cảm giác lành lạnh.

Không khí lạnh càng lúc càng ùa về.

Tố Mẫn kêu lên:

- Ôi, lạnh ghê!

Nguyệt Thư trách móc:

- Tại mấy ông nói chuyện ma bây giờ lạnh ngắt thế này?

Duy Bảo dài giọng:

- Sợ ma rồi đổ thừa.

- Ma ai mà không sợ.

Thiên Tùng lý giải:

- Giữa ma và lạnh hổng có liên quan nhau.

- Có chứ!

Thầy Việt Thái giảng hoà:

- Các em đừng cãi nữa! Chúng ta lạnh là do xe đang lên cao nguyên.

Thiên Tùng ngạc nhiên:

- Thầy nói thực tập ở Tây Nguyên mà?

- Cao nguyên chứ, tôi hơi lộn xộn giữa hai từ này.

Quá bất ngờ, cả nhóm sinh viên đều nhìn thầy Việt Thái. Vậy là đi Cao Nguyên à?

Nhạc viện giống như một tòa lâu đài hoang phế rêu phong, giống như cung điện đền đài của vua chúa ngày xưa.

Nhạc viện nằm dài trên quả đồi cao chen giữa sắc hoa đào, hồng thắm, hoa mận trắng muốt và được bao bọc xung quanh là hàng thông bát ngát.

- Đúng là nhạc viện cổ!

Những mảng tường phủ rêu đỏ sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời, những khung cửa sổ trầm mặc như có sức hút đối với các cô cậu sinh viên mới đến.

Nhạc viện thật dài và rộng thênh thang có rất nhiều phòng.

Vừa bước vào, Nguyệt Thư đã kêu lên:

- Ôi, sao nhạc viện chẳng giống nhà hát ở thành phố chút nào!

Thiên Tùng ra vẻ hiểu biết:

- Giống sao được, đây là tòa lâu đài cổ mà.

Thầy Việt Thái giải thích:

- Cái gì càng cổ xưa càng có giá trị các em à.

Nguyệt Thư mỉm cười:

- Em tưởng tòa lâu đài chỉ có trong truyện cổ tích, ai ngờ cũng có thật nơi đây.

Duy Bảo pha trò:

- Đây là cung điện của vua Nguyễn, mỗi khi hoàng đế vào tham quan du lịch Đà Lạt có chỗ ngự đấy.

Tịnh Đoan cất giọng Huế ngay:

- Răng mà Báo tưởng tượng hay rứa!

Duy Bảo cười chọc:

- Có đúng không hỉ, Tịnh Đoan?

- Không đúng, hì…

Nhóm sinh viên được bố trí ở hai phòng cạnh nhau. Thiên Tùng dặn dò đám con gái:

- Các bà có sự cố gì thì đánh trống gõ mõ, thổi tù và la làng báo cho tụi tui biết nha.

Tố Mẫn thắc mắc:

- Sao lại đánh trống gõ mõ?

Thiên Tùng hóm hỉnh:

- Mình đang sống trong nhạc viện cổ thì xài đồ cổ để truyền thống.

Nguyệt Thư nhận định:

- Ở đây không có trống mõ, tù và cho ông đánh và thổi đâu.

Thiên Tùng gãi đầu cười:

- Chắc chắn có nhạc cụ cổ mình thực tập đó.

- Tất nhiên rồi! Nhạc viện cổ mà.

Cả bọn lục đục sắp xếp chỗ ở, chuẩn bị cho những ngày thực tập sắp tới. Buổi tối, thông reo ầm vang từ xa. Giờ vù vù thổi lại. Đêm đen làm cho nhạc viện như chìm trong sự cô tịch, vắng vẻ. Nguyệt Thư đứng nơi cửa sổ nhìn ra. Bóng tối phủ giăng khắp sườn đồi. Một cơn gió rít qua lạnh buốt. Nguyệt Thư co rúm người lại than thở:

- Tại sao lên cao nguyên Lâm Đồng thực tập mà thầy không báo cho bọn mình biết để chuẩn bị áo len? Giờ lạnh thấu xương biết làm sao.

Tố Mẫn tỉnh bơ:

- Thì chịu lạnh chứ biết sao.

Gió lại rít lên nữa. Hàng thông reo mà tưởng chừng tiếng hú dài trong đêm vắng.

Tịnh Đoan rùng mình:

- Ở đây vắng vẻ quá hỉ?

Có cái gì đó khiến cho Nguyệt Thư, Tịnh Đoan, Tố Mẫn thấy sờ sợ. Không ai bảo ai, cả ba đều muốn sang phòng các bạn nam.

Hồi đi xa thật vui nhộn, sao bây giờ đến đây đìu hiu quá chừng. Nguyệt Thư rủ:

- Sang phòng bên rủ mấy hắn đàn ca cho đỡ buồn.

Tịnh Đoan và Tố Mẫn hưởng ứng ngay. Cả ba kéo nhau qua gõ cửa phòng nam.

Nguyệt Thư cất giọng:

- Ra cho hỏi thăm mấy bạn ơi.

Duy Bảo thò đầu ra, pha trò:

- Sao không đánh trống gõ mõ như "Tùng xèng" dặn.

Nguyệt Thư đối ứng:

- Bản thân Tùng là "Tùng xèng" rồi, khỏi gõ.

Tịnh Đoan chú thích thêm:

- Bọn tui gõ cửa cũng là gõ mõ rồi đó.

Thiên Tùng, Duy Bảo, Nam Khang đều kéo ra ngoài. Thiên Tùng hóm hỉnh hỏi:

- Mấy bà báo động chuyện gì hả?

- Ở đây vắng vẻ âm u buồn quá! - Nguyệt Thư nhanh nhảu trả lời.

Thiên Tùng phì cười:

- Vắng vẻ âm u là phải thôi. Cao nguyên chứ đâu phải thành phố mà nhộn nhịp.

Tố Mẫn láu táu:

- Bây giờ mình làm cái gì nhộn nhịp lên đi.

Nam Khang xúi:

- Mấy bà la lên là nhộn nhịp hà. Con gái là cái chợ mà.

Nguyệt Thư nhăn mặt:

- Vô duyên! Khang bảo bọn tôi nói nhiều hả?

Nam Khang gật gù xác nhận:

- Chứ còn gì nữa? Con gái hay buôn dưa lê, làm "bà Tám" suốt ngày.

Nguyệt Thư phàn nàn:

- Tưởng Khang là dân nhạc viện văn hoa thanh lịch, ai ngờ nói năng phi văn hoá.

Duy Bảo hỏi giùm bạn:

- Nam Khang nói đúng chứ phi văn hoá chỗ nào?

Tố Mẫn chống nạnh hai tay:

- Bảo con gái là cái chợ là bà Tám buôn dưa lê mà văn hoá à?

Thiên Tùng bật hỏi:

- Ủa! Các bà sang đây gây sự há?

Tịnh Đoan cười hiền hậu:

- Có gây sự mô? Bọn mình đề nghị các bạn đàn ca cho ấm và đỡ sợ.

Duy Bảo cười hì hì:

- Nãy giờ ông gây sự với Nam Khang cũng hết sợ rồi.

Tịnh Đoan nguýt dài. Thiên Tùng nhanh nhảu vào trong ôm cây đàn ghita ra. Cả bọn ngồi bên nhau trước hành lang đàn hát.

Nguyệt Thư đưa mắt nhìn quanh, cô vừa phát hiện ra đèn đuốc trong toà lâu đài hoang vắng này quá ít. Chỉ có vài bóng đèn leo lét vì thế âm u càng thêm âm u. Nhạc viện gì không ở ngay trung tâm thành phố lại khuất nẻo trên đồi cao.

Nhạc viện gần một dãy toà nhà cổ xưa, quá cũ nên có vẻ huyền bí. Và huyền bí nên Nguyệt Thư và các bạn thấy có cái gì đó ghê ghê.

Thình lình đèn tắt, bóng tối phủ vây.

Tịnh Đoan kêu lên:

- Cúp điện rồi! Ôi, ghê quá!

Nam Khang trấn an:

- Đừng sợ, có tụi tui đây.

Tố Mẫn rên rỉ:

- Đen thui thùi lùi lùi có thấy mấy ông đâu.

Duy Bảo cắc cớ hỏi:

- Vậy mấy bà đang thấy gì hả?

- Thấy ma.

Nguyệt Thư thốt lên tỉnh bơ.

Duy Bảo bật cười khanh khách:

- Ở đây đâu phải "Liêu trai chí dị" đâu mà thấy ma.

Nguyệt Thư giải thích:

- Tại Thư liên tưởng.

Thiên Tùng tò mò:

- Liên tưởng gì hả Thư?

Nguyệt Thư hạ giọng:

- Nơi bóng tối thường có ma.

- Trời đất!

Tố Mẫn phụ hoạ:

- Lại thêm nhạc viện cổ có vẻ huyền bí âm u.

Tịnh Đoan bổ sung thêm:

- Mà nơi nào huyền bí thì nơi đó có ma.

Nam Khang vờ rên rỉ:

- Hừ! Hừ! Lạnh quá!Tốiquá!

Thiên Tùng đập vai Nam Khang:

- Thằng quỷ? Mày làm cho mấy bạn sợ thêm.

Đèn bỗng sáng lên. Duy Bảo cười chọc:

- Có điện rồi kìa! Đừng sợ nữa mấy bạn ơi!

Đèn điện không đủ sáng khắp khu nhạc viện, cuối dãy hành lang tối om om.

Bất chợt trong bóng tối bỗng loé lên những đốm sáng xanh lè bay chờn vờn. Đốm sáng mờ mờ ảo ảo, lúc ẩn lúc hiện. Tịnh Đoan nhắm mắt lại:

- Cái chi mà dị rứa?

Nam Khan doạ:

- Ma lè đó.

Mở mắt ra, Tịnh Đoan thấy đốm sáng đỏ rực đang nhởn nhơ trước mặt như muốn nhào vào người Tịnh Đoan.

Tịnh Đoan sợ hãi hét lên:

- Trời ơi! Ma... ma!

Thiên Tùng trấn an:

- Ma đâu mà ma! Tịnh Đoan nhát như thỏ đế vậy đó.

Tịnh Đoan phồng mặt lên:

- Làm như mấy ông dạn dữ.

Thiên Tùng khẳng định:

- Nam nhi phải dạn chứ sao?

Nguyệt Thư tự ái:

- Thôi về phòng kẻo mấy ổng nói mình chết nhát.

ThiênTùng mỉm cười nhìn theo mấy cô bạn lục đục kéo về phòng.

Các bạn đã ngủ.

Thiên Tùng ngồi bên khung cửa sổ ôm cây ghita vào lòng bắt đầu so dây dạo nhạc.

Bài ca quen thuộc rung lên nhịp điệu êm ái.

"áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc

áo nàng xanh anh mến lá sân trường".

Khu nhạc viện này có hoa cúc không nhỉ, còn lá sân trường xanh chắc là không có rồi.

Thiên Tùng mơ màng, không ngờ nhóm sinh viên lên Đà Lạt thực tập chứ không phải vùng Tây Nguyên có sóc Bombo với tiếng chày giã gạo "cắc cùm cum"

Ơ kìa, có phải tiếng chày? Một cơn gió từ xa thổi đến, Thiên Tùng rùng mình, anh nghe văng vẳng trong gió một âm thanh kỳ quái, không phải tiếng chày giã gạo rồi.

Tiếng gào rú của đêm đen thật hoang dại, thê lương.

Tiếng rú vừa dứt thì Thiên Tùng bỗng nghe tiếng khóc tỉ tê ai oán. Tiếng khóc uất nghẹn như có gì oan ức. Thiên Tùng sợ hãi muốn thét vì anh vừa nhìn thấy một bóng trắng ẻo lả, chập chờn ngoài khung cửa sổ.

Bóng áo trắng tiến sát bên khung cửa sổ, chưa bao giờ Thiên Tùng khiếp đảm đến thế này.

Đôi mắt xanh lè như mắt mèo hoang nhìn Thiên Tùng như thôi miên. Giờ phút này đây, hồn Thiên Tùng như bị treo ngược lên tận mây xanh.

- Ma... ma?

Thiên Tùng sợ đến chết điếng, khi bóng ma đưa bàn tay gầy guộc xương xẩu trắng xanh vẫy vẫy anh, hai ống tay áo của bóng ma rộng thùng thình phất phơ, phất phơ.

Khiếp đảm hồn kinh mà Thiên Tùng vẫn trố mắt nhìn.

Gương mặt ma nữ toát lên vẻ đẹp huyền ảo và gương mặt ấy thật sát mặt Thiên Tùng, chỉ ngăn cách bởi song cửa sổ.

Bàn tay xương xẩu với qua song cửa sổ mơn trớn đầu Thiên Tùng. Thiên Tùng thét lên, nhưng miệng anh tê cứng, tiếng thét chẳng thoát được ra ngoài.

Và Thiên Tùng bỗng nhiên như hóa đá.

Buổi sáng, bò ra khỏi chỗ ngủ trước, Duy Bảo phát hiện ra Thiên Tùng đang ngồi gục bên khung cửa sổ.

Duy B ảo đập vai Thiên Tùng lay gọi:

- Dậy dậy! Bộ mày ngủ gục ở đây hả Tùng?

- Tao…

Thiên Tùng choàng tỉnh dụi mắt ngơ ngác nhìn quanh:

- Trời sáng... rồi à.

- Ừ! Sáng rồi!

Thiên Tùng thẫn thờ vẫn chưa hết bàng hoàng khi nhớ đến hồn ma áo trắng lởn vởn trước mắt.

Thật khôi hài, vừa mới chế nhạo lũ con gái chết nhát sợ ma, rồi chính mình lại gặp... ma.

Giấu nhẹm chuyện này chẳng dám kể cho hai tên bạn chung phòng nghe, cả mấy cô bạn gái nữa. Bọn họ cười có mà không dám ngẩng mặt lên.

Buổi thực tập đầu tiên, nhóm sinh viên được tham quan khu nhạc viện. Thầy Việt Thái ân cần:

- Các em làm quen với nơi chúng ta thực tập trước rồi sau đó vào phòng nhạc cụ, tôi sẽ giới thiệu với các em các loại đàn dân tộc.

Nguyệt Thư reo lên:

- Thầy tâm lý ghê cho tụi mình xem kỹ chỗ mình trú ẩn.

Tố Mẫn cười khúc khích:

- Xem kỹ để đỡ sợ ma đấy.

Cả lớp một lần nữa được dịp bình phẩm nhạc viện. Nguyệt Thư thắc mắc:

- Không biết ai thiết kế nhạc viện nhỉ? Cứ như tòa lâu đài.

Ra vẻ hiểu biết, Duy Bảo đáp:

- Người Pháp thiết kế đấy!

Tịnh Đoan nhận định:

- Nếu ở thành phố nó sẽ biến thành chung cư hay khách sạn rồi.

Tố Mẫn nhìn Tịnh Đoan:

- Nghe nhỏ ni nói chuyện, biết có máu kinh doanh.

Thiên Tùng đi quanh khắp khu nhạc viện ngó quanh quất các khung cửa sổ.

Nhiều phòng nối tiếp nhau. Các dãy hành lang chạy dài. Vẫn chưa nhận ra khung cửa sổ nào là của căn phòng lũ con trai.

Bóng ma áo trắng từ đâu xuất hiện ngay cửa sổ phòng Thiên Tùng nhỉ. Phát hiện ra vẻ thẫn thờ khác lạ của Thiên Tùng, Nguyệt Thư kêu lên:

- Thiên Tùng sao ủ dột vậy?

Duy Bảo châm chọc:

- Nó đang nhớ nhà, nhớ mẹ đấy.

Nguyệt Thư lém lỉnh:

- Phải nhớ nhà, nhớ mẹ hôn, hay nhớ ai ra ngẩn vào ngơ đó?

Thiên Tùng đáp trả:

- Thư đừng có suy bụng Thư ra bụng tui đó nghen.

Nguyệt Thư hồn nhiên:

- Bụng Thư khác bụng Thiên Tùng, làm sao suy được hả?

Cả bọn ôm bụng cười ngặt nghẽo.

Tố Mẫn rủ:

- Mấy bạn ơi, lại xem mận có trái hôn, hái đi!

Thiên Tùng đưa ngón tay lên môi:

- Nội quy nơi thực tập nghiêm ngặt. Hái hoa, hái trái là vi phạm tài sản quốc gia đó nghe.

Tịnh Đoan ngó Thiên Tùng:

- Răng mà lúc mô ông cũng phát huy vai trò lớp trưởng hỉ?

Thiên Tùng gãi đầu:

- Tui lo cho mấy bạn, để khỏi bị trừ điểm nề nếp đạo đức.

Nguyệt Thư căn dặn Thiên Tùng:

- Tốt quá nhỉ! Nhưng nè, ban đêm đừng có lẻn đi hái mận ăn một mình nghen!

Nam Khang cười xía vô:

- Ban đêm, có ai dám ra đây hái mận không hả?

Nguyệt Thư ré lên:

- Ông lại nhát ma nữa hả?

Thiên Tùng gật đầu:

- Ừ! Ban đêm đầy ma.

Nam Khang khẳng định:

- Hì... hì... Đâu cần tui nhát, thằng Tùng cũng công nhận có ma mà.

Tịnh Đoan trề môi:

- Rứa là mấy ông làm bộ để tụi tui không dám ra đây hái mận chứ gì?

Nam Khang cười cười:

- Sự thật thì mấy bà cũng đâu có dám ra.

Duy Bảo phụ họa:

- Chính đêm qua ở trong phòng mà mấy bà còn chạy sang cầu cứu tụi tui đó.

Nguyệt Thư đính chính:

- Tại vì đêm đầu tiên ở chỗ lạ, thấy sợ nên cầu cứu chứ sao?

Cả bọn thong thả đi dạo dưới tán cây mận xanh tươi, những chùm hoa mận trắng muốt đong đưa trong gió.

Nhạc viện rêu phong ẩn mình dưới những tán cây mận, cây hoa anh đào trông thật kỳ bí.

Buổi chiều xúm xít bên giếng nước xách nước lên tắm giặt.

Nguyệt Thư bình luận:

- Giữa thời đại văn minh này mà còn sót lại cái giếng nước cổ kính thì tuyệt thật.

Tố Mẫn nhăn nhó:

- Tuyệt cái gì? Nhìn cái giếng tao sợ muốn chết.

- Mi sợ gì hả?

Tố Mẫn tặc lưỡi:

- Giếng sâu thăm thẳm thấy ghê. Xách lên từng thùng nước lúc nào ta cũng sợ té ùm xuống dưới.

Tịnh Đoan gật gù:

- Ừ, té xuống dưới nó thành ma giếng, không ai vớt lên được, suốt đời ở dưới luôn.

Tố Mẫn rụt cổ:

- Trời ơi, ghê quá!

Nguyệt Thư tỉnh bơ:

- Bởi vậy ai muốn tự tử cứ việc đâm đầu xuống giếng là chết luôn.

Tố Mẫn ré lên:

- Chết ở dưới làm sao xách nước lên xài.

Nam Khang góp lời:

- Làm ma giếng vất vưởng chui lên nhát mọi người.

Nguyệt Thư nhăn nhó:

- Ông lúc nào cũng nhắc ma.

- Tui nói sự thật mà.

Duy Bảo phẩy tay:

- Dẹp chuyện ma đi. Để tôi xách nước lên cho mấy bạn.

Mấy cô gái vỗ tay reo:

- Hoan hô, Duy Bảo tuyệt quá.

Duy Bảo thả chiếc thùng xuống giếng một tiếng ùm vang lên. Kéo thùng nước lên Duy Bảo nghêu ngao hát:

"Tưởng giếng sâu tôi nối sợi dây dài.

Ai ngờ giếng cạn tôi tiếc hoài sợi dây".

- Giếng cạn dễ xách nước nghe ông?

Duy Bảo gật gù:

- Biết rồi, còn người cạn thì... quý vị có biết sao không?

Bọn con gái nheo nheo:

- Thì sao hả?

Duy Bảo phì cười:

- Thì không sâu.

Nam Khang vỗ vai Duy Bảo:

- Giải thích như ông thì có nói lên được gì đâu.

Duy Bảo kéo Thiên Tùng vào cuộc:

- Nói giùm đi ông.

Thiên Tùng cất giọng trịnh trọng: "Giếng nước cây đa, mái đình là tượng trưng là làng quê là nét văn hoá dân tộc".

Duy Bảo ngó Thiên Tùng:

- Nè, ông là sinh viên nhạc viện hay là nhà nghiên cứu văn hoá vậy?

Thiên Tùng tỉnh tỉnh:

- Tôi sẽ nghiên cứu ông đó.

Duy Bảo la lên:

- Thằng quỷ! Chưa đàn hết các nhạc cụ dân tộc đã muốn khùng rồi hả?

Tố Mẫn châm chọc:

- Chắc Bảo có vấn đề gì đó nên Thiên Tùng mới đòi nghiên cứu.

Duy Bảo nhìn Thiên Tùng:

- Nếu mày là bác sĩ hay nhà khoa học, tao dám hy sinh làm vật thí nghiệm cho mày nghiên cứu đó.

Thiên Tùng gật gù:

- Mày nói nhớ giữ lời nghen, tao sẽ chuyển ngành đấy.

Duy Bảo rùn vai:

- Thôi đi ông, tha cho tôi!

Bất chợt Nguyệt Thư thắc mắc cất tiếng hỏi:

- Thầy mình nghỉ ở đâu?

Nam Khang nháy mắt chọc Nguyệt Thư:

- Ái chà! Quan tâm đến thầy hướng dẫn dữ nhỉ?

Nguyệt Thư phân trần:

- Quan tâm chi, mình chỉ biết thầy ở đâu để tránh vậy mà.

Nam Khang truy đến cùng:

- Tránh gì hả?

- Tránh nói bậy, đùa giỡn.

- Bộ Thư hay nói bậy và đùa giỡn lắm hả?

Nguyệt Thư đập lại vai Nam Khang:

- Mình tránh giùm cho Khang đấy.

Nam Khang phấn khởi reo lên:

- Ôi! Chứng tỏ Thư lo cho tui lắm lắm.

Đập vai Nam Khang, Nguyệt Thư phân bua:

- Đừng ham, tui lo cho cả nhóm đó ông.

Nam Khang đùa đùa:

- Vậy thì báo cho Thư biết, thầy đang ở khách sạn đó.

Tố Mẫn lên tiếng phân bì thật trẻ con:

- Tụi mình ở tòa lâu đài hoang, còn thầy ở khách sạn sướng ghê.

Thiên Tùng lên tiếng:

- Thầy bảo cùng ở đây với bọn mình mà.

Tịnh Đoan lại thắc mắc:

- Nhưng có thấy thầy đâu.

- Thầy ở phòng riêng chứ chẳng lẽ ở chung với bọn nam.

Duy Bảo lại phẩy phẩy tay:

- Thầy ở đâu đừng thắc mắc quý vị ơi. Thầy để cho tụi mình tự do quậy thì cứ quậy tưng bừng đi.

Nguyệt Thư ngó Duy Bảo:

- Bảo đòi quậy mà không sợ lớp trưởng hả?

- Sợ gì? Lớp trưởng cũng quậy như tụi mình chứ có thua đâu.

Cả nhóm vừa xách nước vừa đùa giỡn, bỗng có một người đàn ông đi xăm xăm đi tới.

Trông ông ta thật cổ quái. Cái lưng gù bộ râu dài, tóc dài, đội cái nón rộng sùm sụp che kín khuôn mặt.

Nhóm sinh viên lùi ra xa khỏi giếng.

Nguyệt Thư thì thào:

- Giống Ca-si-mô-nô quá!

Thiên Tùng đưa một ngón tay lên ra hiệu:

- Bác Ngàn bảo vệ khu nhạc viện mà dám nói "Thằng gù ở nhà thờ Đức Bà" hả?

Nguyệt Thư đính chính:

- Thư nói giống chứ bộ.

Thiên Tùng nhắc nhở:

- Mấy bạn giặt giũ nhanh lên, trả giếng lại cho bác Ngàn.

Tố Mẫn bắt bẻ:

- Có ai lấy giếng của bác ấy đâu chứ.

- Tui muốn nói là mình tránh để cho bác thoải mái đấy mà.

Bác Ngàn lặng lẽ xách nước tưới cây, siêng năng cần mẫn như con ong, con kiến...

Phần 2

Buổi tối, cả bọn nam nữ hai phòng túm tụm đàn ca thật hào hứng.

Thầy Việt Thái đi ngang qua dặn dò chiếu lệ:

- Các em cứ vui chơi tự nhiên nhưng tới giờ phải đi ngủ sớm phải tuân thủ nội quy nghiêm ngặt và cũng để giữ sức khỏe của các em đó.

Thiên Tùng mạnh dạn đề nghị:

- Thầy ca hát với tụi em đi thầy.

Thầy Việt Thái xua tay:

- Tôi bận lắm, các em cứ sinh hoạt vui chơi.

Duy Bảo nói thêm:

- Bận gì cũng thư giãn chút xíu đi thầy.

Thầy Việt Thái lắc đầu đi thẳng. Cả bọn nhìn nhau. Nguyệt Thư hỏi khẽ:

- Thầy bận gì nhỉ?

Nam Khang nháy mắt:

- Sao không hỏi thầy?

Tịnh Đoan nhận định:

- Tui dám chắc hỏi thầy cũng không nói mô.

Nguyệt Thư thắc mắc:

- Tối thì nghỉ ngơi giải trí chứ thầy bận gì nhỉ?

Thiên Tùng cười đáp cho qua:

- Chắc thầy bận nghiên cứu. Thôi, đừng thắc mắc chi.

Nam Khang tặc lưỡi:

- Thầy có vẻ không hòa đồng với bọn mình.

Duy Bảo phẩy tay:

- Hòa đồng sao được, mình là học trò, thầy là thầy mà.

Nguyệt Thư buột miệng:

- Hết giờ học thì vui chơi chứ có gì đâu, tại thầy ngăn cách quá.

Thiên Tùng bình thản:

- Thầy không thích vui chơi với mình thì thôi.

Cả nhóm bắt đầu đàn hát thật vui rồi chí chóe bàn nhau về các loại đàn. Nam Khang đùa hỏi:

- Ê, Bảo mày biết đàn gì hả?

- Đàn bầu!

- Mày biết đàn bầu hả?

- Biết mặt cây đàn.

- Vậy mà cũng nói.

- Còn mày có biết đàn Tơ Rưng không?

- Biết!

Nguyệt Thư kết luận:

- Tóm lại sinh viên nhạc viện phải biết hết các loại đàn và biết đàn.

Duy Bảo lắc đầu:

- Tui chưa đạt được trình độ của giáo sư Trần Văn Khê đâu.

Cả bọn lại cười ầm ĩ. Trời khuya, tất cả kéo về phòng. Nguyệt Thư chợt hét lên khi thấy một bóng trắng chờn vờn ngoài cửa sổ.

- Trời! Ma... ma!

Gương mặt của bóng trắng thật kinh dị, đen thui dài ngoằng, những chiếc răng nanh trắng nhởn nhô ra, hai chiếc răng nanh cong cong phát ớn.

Cánh tay ma vương dài, bàn tay xương xẩu huơ huơ. Tịnh Đoan lùi lại:

- Gì vậy Thư?

Mặt không còn hột máu, Nguyệt Thư chỉ tay lắp bắp:

- Ma...

Tịnh Đoan nhìn ra cửa sổ:

- Thấy chi mô!

Nguyệt Thư thở không ra hơi:

- Một bóng trắng... răng nanh ghê lắm. Mới đó mà.

Mới đó mà bóng ma đã biến vào đêm tối. Nguyệt Thư lại ngồi trên mép giường, còn Tịnh Đoan vẫn đứng tần ngần nơi cửa sổ.

Nguyệt Thư than thở:

- Đúng là nhạc viện cổ hoang vắng này có ma Đoan ơi.

Tố Mẫn ngồi bật dậy hỏi:

- Phải con ma ở giếng nước hiện về không?

Tịnh Đoan phàn nàn:

- Cũng tại mi đó Thư. Tự nhiên xách nước ngoài giếng xài lại nói giếng nước có ma.

Nguyệt Thư nhăn mặt:

- Mình nghĩ vậy thôi, không ngờ có thật.

Tịnh Đoan đưa ý kiến:

- Ngày mai bọn mình sẽ hỏi bác Ngàn cho rõ.

Tố Mẫn chép môi:

- Nhìn bộ mặt kỳ quái của bác ta chắc chắn nhỏ Thư hết dám hỏi.

Nguyệt Thư gật đầu:

- Đúng vậy! Trông bác ta lạnh lùng, lầm lầm lì lì phát ớn, ai mà dám hỏi.

Bất chợt một tràng cười ma quái vang lên thật ghê rợn.

Chuỗi cười theo gió gào rú từ xa đưa lại nhưng cả ba có cảm giác thật gần.

Nguyệt Thư nắm chặt mép giường. Còn Tố Mẫn, khiếp đảm trùm chăn kín mít. Tịnh Đoan đứng im như trời trồng.

Chưa ai kịp bình tâm tỉnh trí thì từ mái ngói có tiếng động mạnh phát ra. Ầm… Ầm… Rổn… Xoảng… Và cát bụi lẫn gạch ngói tuôn trào xuống chỗ Nguyệt Thư ngồi.

Nguyệt Thư lăn người né vào trong giường. Cái vật thể lạ rơi bạch mềm nhũn dưới chân Tịnh Đoan.

Tịnh Đoan thét lớn:

- Ôi... ma!

Thật bất ngờ tiếng khóc của con nít "oa… oa…" vang lên rùng rợn. Đầu tóc Tịnh Đoan dựng ngược. Đoan ngã nhào xuống người Nguyệt Thư. Cả hai người run lên bần bật trong nỗi kinh hoàng sợ hãi.

Buổi sáng.

Vầng dương đỏ ối trên ngọn đồi cao nguyên.

Cao nguyên như bừng sáng sau một giấc ngủ say nồng.

Nét sợ hãi vẫn còn trên nét mặt Nguyệt Thư dù cô đã tỉnh ngủ. Nguyệt Thư kéo tay Tịnh Đoan:

- Đêm qua ta bị ma nhát, mi có bị không Đoan?

Tịnh Đoan hạ giọng.

- Hình như là ta có nghe tiếng cười, tiếng khóc ma quái, rùng rợn lắm.

Nguyệt Thư khổ sở.

- Vậy là tòa lâu đài cổ này có ma. Làm sao mình ở đây được.

Nghe các bạn nữ xôn xao, Thiên Tùng đồng tình:

- Tui cũng cảm giác thấy ma như các bạn vậy.

Nam Khang cười phá lên:

- Mày bắt chước phe áo dài thấy ma hả Tùng? Đừng có nhi nữ thường tình nghe.

Thiên Tùng gãi đầu:

- Thật đó, tao thấy cái bóng trắng lướt thướt trong gió.

Nam Khang chế nhạo:

- Tóc dài phất phơ nữa chứ.

Thiên Tùng nhăn mặt:

- Thật đó thằng quỷ? Tao không hiểu sao...

Quả thật, Thiên Tùng không hiểu tại sao có cái bóng trắng ma quỷ lởn vởn ngoài khung cửa sổ như muốn chụp lấy Tùng để cào cấu.

Duy Bảo lại bảo:

- Chắc là mày đang chiêm bao.

Rồi Bảo thản nhiên:

- Chiêm bao thấy ma cũng là dễ thương.

Thiên Tùng phân trần:

- Tao thấy mình vẫn còn thức mà.

- Thức thì làm sao thấy ma hả ông?

Thầy Việt Thái lù xù xuất hiện. Cả nhóm chợt im bặt.

Thầy nhìn cả nhóm:

- Ăn sáng đi, rồi hôm nay tôi sẽ hướng dẫn các em tìm hiểu về đàn đá.

Tố Mẫn than thở:

- Ăn mì gói hoài ngán quá thầy ạ.

Nguyệt Thư tiếp lời Tố Mẫn:

- Ngày mai cho tụi em xuống phố mua thức ăn nghe thầy.

Bỗng dưng, Thiên Tùng lên tiếng:

- Tại thầy chưa thấy đó thôi.

Thầy Việt Thái cắc cớ hỏi:

- Bộ em thấy rồi hả?

Nam Khang phì cười:

- Chắc thằng Tùng nó thấy cô ma liêu trai trong chiêm bao quá.

Thầy Việt Thái nghiêm túc:

- Thế các em nam nghĩ sao về ma?

Duy Bảo pha trò:

- Không nghĩ gì cả thầy ơi. Bởi vì nghĩ thì sợ.

Thầy Việt Thái phì cười:

- Phải rồi! Đừng thèm nghĩ, các em. Nghĩ chi rồi sợ, tôi đâu có sợ.

"Đừng nói cứng! Thầy mà thấy ma thầy cũng sợ như mọi người, chứ không à?" Nguyệt Thư nhủ thầm rồi thắc mắc không biết thầy Việt Thái có sợ ma không?

Bác Ngàn vẫn âm thầm quét dọn lá cây quanh khu nhạc viện, bác đốt lửa, khói bay mù trời.

Những làn khói lãng đãng bay lên mờ ảo càng làm cho nhạc viện thêm âm u huyền bí.

Tường rêu xám xịt. Dây leo chằng chịt dường như mấy trăm năm chưa bị chặt phá.

Giếng nước phía sau cũng rêu phủ xám xịt, cỏ gai um tùm.

Nguyệt Thư rùng mình không dám nhìn xuống giếng.

Bây giờ mấy tên con trai phải xách nước hộ cho phe áo dài, cũng may là nước giếng trong vắt nên khi giặt rửa không thấy ớn.

Thấy bác Ngàn lầm lũi đi đến xách nước, cả bọn không tản ra như hôm qua nữa. Nguyệt Thư muốn hỏi chuyện bác Ngàn nhưng còn ngần ngừ vì trông bác quàu quạu phát ngán.

Chiếc nón sùm sụp che mặt, mà gương mặt bác thì chẳng chịu thân thiện với ai.

Cố bấm bụng, Nguyệt Thư hỏi với vẻ thân mật:

- Bác Ngàn ơi! Bác làm ở đây lâu chưa? Cái giếng này chắc đào lâu lắm rồi hả bác? Vậy mà nước vẫn trong vắt?

Bác Ngàn không nói gì cứ gật gật, lắc lắc cái đầu.

Cả bọn nhìn nhau ngơ ngác, chẳng lẽ bác Ngàn không nói được. Bác Ngàn lặng lẽ xách nước.

Nguyệt Thư đưa tay chỉ:

- Giếng sâu, thấy ghê quá bác nhỉ? Ở dưới có gì không bác?

Tố Mẫn hỏi dồn:

- Có ma không bác?

Nam Khang cười khì:

- Ma đầy nhóc ở dưới giếng đó.

Tố Mẫn đập vai Nam Khang:

- Nói bậy không hà!

- Sợ sao còn hỏi. Hỏi xem bác có thấy ma không? Có bị ma nhát không?

Duy Bảo bình luận:

- Bác Ngàn là người quen thân hông bị nhát đâu. Ma chỉ nhát mấy bạn thôi.

- Bảo cũng bị nhát luôn chứ đừng nói giỡn.

Nghe nhóm sinh viên bàn tán, bác Ngàn gừ gừ trong cổ họng rồi khoa tay múa chân, chẳng ai hiểu bác muốn nói gì.

Nguyệt Thư hỏi khẽ:

- Bác nói gì nhỉ?

Nam Khang lém lỉnh giải thích:

- Nói quý cô nương là những kẻ nhát gan.

Nguyệt Thư xí dài:

- Nam Khang gặp ma xem có nhát không thì biết.

Duy Bảo thì giải thích khác:

- Bác Ngàn bảo trả giếng lại cho bác ấy.

Nam Khang bông đùa:

- Ừ phải, trả giếng lại để bác múc mấy con ma lên cho quý vị xem... hự... hự...

Tịnh Đoan ré lên:

- Ôi! Ông rên giống ma, khiếp quá.

Duy Bảo nghi ngờ:

- Không chừng làm ma nhát mấy bạn đây.

Nguyệt Thư bỗng nhìn Nam Khang chăm chú cô vẫn còn nhớ bóng ma áo trắng lướt qua cửa sổ, hình dáng phất phơ mặt quỷ gớm ghiếc răng nanh hãi hùng.

Nguyệt Thư rùng mình lắc đầu.

Hiểu tia nhìn của Nguyệt Thư, Nam Khang chột dạ, phân trần:

- Ê! Tui chỉ làm ma trên xe cho quý vị đỡ buồn ngủ thôi nghen.

Thiên Tùng im lặng nãy giờ, bỗng lên tiếng hỏi:

- Quý vị tin là ở nhạc viện này có ma không?

Nguyệt Thư phát biểu:

- Nhạc viện cổ quái, kỳ bí, âm u chắc chắn là có ma.

Tịnh Đoan đồng tình:

- Không có mới là chuyện lạ, ở đây toàn là âm khí.

Nam Khang cà rỡn:

- Có dương khí tụi tui nữa nghe?

Cả bọn cười rần, phút chốc quên hết mọi chuyện ma quỷ trên đời. Giọng Thầy Việt Thái hào hứng:

- Các em học âm nhạc lại thực tập ở nhạc viện trên cao nguyên này thật thú vị phải không?

Nguyệt Thư than phiền:

- Sợ ma muốn chết chứ có thấy thú vị gì đâu thầy.

Thầy Việt Thái ân cần:

- Dẹp chuyện ma đi! Các em thấy nơi đây cao nguyên đồi núi trập trùng, ngàn thông xanh ngút mắt, hoa dã quỳ mọc rực rỡ sườn đồi đẹp biết bao.

Thiên Tùng hí hửng:

- Không khéo tụi em trở thành nhạc sĩ sáng tác nhạc hết đó thầy.

Thầy Việt Thái vui vẻ:

- Làm nhạc sĩ thì tốt chứ sao?

Duy Bảo lí lắc:

- Mình sẽ sáng tác, ca sĩ nào độc quyền hát đây?

Tố Mẫn chế nhạo:

- Nhạc của Bảo chắc để dành cho các cháu mẫu giáo hát.

Duy Bảo hứ nhẹ:

- Mẫn nói tui không biết sáng tác nhạc tình cảm hả? Nè, bài đầu tiên tui viết cho Mẫn đó.

Cả bọn vỗ tay vang rền. Tố Mẫn thẹn thùng, đỏ mặt rần lên.

Rồi Tố Mẫn kênh mặt lên thách Duy Bảo:

- Ông thử sáng tác xem tui duyệt được không?

Duy Bảo nhe răng cười:

- Chẳng những duyệt được mà Mẫn còn giành hát nữa đó.

Thầy Việt Thái hóm hỉnh:

- Các em tự do sáng tác cho các ca sĩ nữ của mình hát đi.

Cả bọn quay sang Thiên Tùng, nhao nhao:

- Ê! Lớp trưởng sáng tác độc quyền cho ai hát đây?

Thiên Tùng ngẩn ra. Sáng tác cho ai hát? Tất nhiên người phải ngự trị trong tim Thiên Tùng, và đang ngự trị...

Ánh mắt ấm áp hướng sang Nguyệt Thư với tia nhìn dịu dàng, tình tứ và chỉ có Nguyệt Thư mới hiểu và đón nhận tia nhìn thiết tha đó.

Con tim Thiên Tùng đập rộn. Không phải đợi thầy Việt Thái gợi ý đâu. Nhất định chuyến đi thực tập này, Thiên Tùng sẽ viết những bài tình ca nồng nàn trên cao nguyên.

"Ơi cao nguyên vàng cháy hoa dã quỳ

Cao nguyên chập chùng đồi xanh

Núi xanh, sương lam giăng giăng bàng bạc...".

Và nhạc viện trầm mặc cho ai thẫn thờ.

Nam Khang vẫn không tha Thiên Tùng:

- Thiên Tùng im lặng suy tư, chắc đang hình thành nốt nhạc. Xong cả chưa, gảy lên cây ghita đi.

Thiên Tùng đập vai Nam Khang:

- Sáng tác phải im lặng thả hồn. Ào ào như mày nhạc bay hết rồi…

Nam Khang nheo mắt:

- Tao bay thì mày còn. Sao, dành cho quý vị tóc dài nào vậy?

Phần 2

Buổi tối, cả bọn nam nữ hai phòng túm tụm đàn ca thật hào hứng.

Thầy Việt Thái đi ngang qua dặn dò chiếu lệ:

- Các em cứ vui chơi tự nhiên nhưng tới giờ phải đi ngủ sớm phải tuân thủ nội quy nghiêm ngặt và cũng để giữ sức khỏe của các em đó.

Thiên Tùng mạnh dạn đề nghị:

- Thầy ca hát với tụi em đi thầy.

Thầy Việt Thái xua tay:

- Tôi bận lắm, các em cứ sinh hoạt vui chơi.

Duy Bảo nói thêm:

- Bận gì cũng thư giãn chút xíu đi thầy.

Thầy Việt Thái lắc đầu đi thẳng. Cả bọn nhìn nhau. Nguyệt Thư hỏi khẽ:

- Thầy bận gì nhỉ?

Nam Khang nháy mắt:

- Sao không hỏi thầy?

Tịnh Đoan nhận định:

- Tui dám chắc hỏi thầy cũng không nói mô.

Nguyệt Thư thắc mắc:

- Tối thì nghỉ ngơi giải trí chứ thầy bận gì nhỉ?

Thiên Tùng cười đáp cho qua:

- Chắc thầy bận nghiên cứu. Thôi, đừng thắc mắc chi.

Nam Khang tặc lưỡi:

- Thầy có vẻ không hòa đồng với bọn mình.

Duy Bảo phẩy tay:

- Hòa đồng sao được, mình là học trò, thầy là thầy mà.

Nguyệt Thư buột miệng:

- Hết giờ học thì vui chơi chứ có gì đâu, tại thầy ngăn cách quá.

Thiên Tùng bình thản:

- Thầy không thích vui chơi với mình thì thôi.

Cả nhóm bắt đầu đàn hát thật vui rồi chí chóe bàn nhau về các loại đàn. Nam Khang đùa hỏi:

- Ê, Bảo mày biết đàn gì hả?

- Đàn bầu!

- Mày biết đàn bầu hả?

- Biết mặt cây đàn.

- Vậy mà cũng nói.

- Còn mày có biết đàn Tơ Rưng không?

- Biết!

Nguyệt Thư kết luận:

- Tóm lại sinh viên nhạc viện phải biết hết các loại đàn và biết đàn.

Duy Bảo lắc đầu:

- Tui chưa đạt được trình độ của giáo sư Trần Văn Khê đâu.

Cả bọn lại cười ầm ĩ. Trời khuya, tất cả kéo về phòng. Nguyệt Thư chợt hét lên khi thấy một bóng trắng chờn vờn ngoài cửa sổ.

- Trời! Ma... ma!

Gương mặt của bóng trắng thật kinh dị, đen thui dài ngoằng, những chiếc răng nanh trắng nhởn nhô ra, hai chiếc răng nanh cong cong phát ớn.

Cánh tay ma vương dài, bàn tay xương xẩu huơ huơ. Tịnh Đoan lùi lại:

- Gì vậy Thư?

Mặt không còn hột máu, Nguyệt Thư chỉ tay lắp bắp:

- Ma...

Tịnh Đoan nhìn ra cửa sổ:

- Thấy chi mô!

Nguyệt Thư thở không ra hơi:

- Một bóng trắng... răng nanh ghê lắm. Mới đó mà.

Mới đó mà bóng ma đã biến vào đêm tối. Nguyệt Thư lại ngồi trên mép giường, còn Tịnh Đoan vẫn đứng tần ngần nơi cửa sổ.

Nguyệt Thư than thở:

- Đúng là nhạc viện cổ hoang vắng này có ma Đoan ơi.

Tố Mẫn ngồi bật dậy hỏi:

- Phải con ma ở giếng nước hiện về không?

Tịnh Đoan phàn nàn:

- Cũng tại mi đó Thư. Tự nhiên xách nước ngoài giếng xài lại nói giếng nước có ma.

Nguyệt Thư nhăn mặt:

- Mình nghĩ vậy thôi, không ngờ có thật.

Tịnh Đoan đưa ý kiến:

- Ngày mai bọn mình sẽ hỏi bác Ngàn cho rõ.

Tố Mẫn chép môi:

- Nhìn bộ mặt kỳ quái của bác ta chắc chắn nhỏ Thư hết dám hỏi.

Nguyệt Thư gật đầu:

- Đúng vậy! Trông bác ta lạnh lùng, lầm lầm lì lì phát ớn, ai mà dám hỏi.

Bất chợt một tràng cười ma quái vang lên thật ghê rợn.

Chuỗi cười theo gió gào rú từ xa đưa lại nhưng cả ba có cảm giác thật gần.

Nguyệt Thư nắm chặt mép giường. Còn Tố Mẫn, khiếp đảm trùm chăn kín mít. Tịnh Đoan đứng im như trời trồng.

Chưa ai kịp bình tâm tỉnh trí thì từ mái ngói có tiếng động mạnh phát ra. Ầm… Ầm… Rổn… Xoảng… Và cát bụi lẫn gạch ngói tuôn trào xuống chỗ Nguyệt Thư ngồi.

Nguyệt Thư lăn người né vào trong giường. Cái vật thể lạ rơi bạch mềm nhũn dưới chân Tịnh Đoan.

Tịnh Đoan thét lớn:

- Ôi... ma!

Thật bất ngờ tiếng khóc của con nít "oa… oa…" vang lên rùng rợn. Đầu tóc Tịnh Đoan dựng ngược. Đoan ngã nhào xuống người Nguyệt Thư. Cả hai người run lên bần bật trong nỗi kinh hoàng sợ hãi.

Buổi sáng.

Vầng dương đỏ ối trên ngọn đồi cao nguyên.

Cao nguyên như bừng sáng sau một giấc ngủ say nồng.

Nét sợ hãi vẫn còn trên nét mặt Nguyệt Thư dù cô đã tỉnh ngủ. Nguyệt Thư kéo tay Tịnh Đoan:

- Đêm qua ta bị ma nhát, mi có bị không Đoan?

Tịnh Đoan hạ giọng.

- Hình như là ta có nghe tiếng cười, tiếng khóc ma quái, rùng rợn lắm.

Nguyệt Thư khổ sở.

- Vậy là tòa lâu đài cổ này có ma. Làm sao mình ở đây được.

Nghe các bạn nữ xôn xao, Thiên Tùng đồng tình:

- Tui cũng cảm giác thấy ma như các bạn vậy.

Nam Khang cười phá lên:

- Mày bắt chước phe áo dài thấy ma hả Tùng? Đừng có nhi nữ thường tình nghe.

Thiên Tùng gãi đầu:

- Thật đó, tao thấy cái bóng trắng lướt thướt trong gió.

Nam Khang chế nhạo:

- Tóc dài phất phơ nữa chứ.

Thiên Tùng nhăn mặt:

- Thật đó thằng quỷ? Tao không hiểu sao...

Quả thật, Thiên Tùng không hiểu tại sao có cái bóng trắng ma quỷ lởn vởn ngoài khung cửa sổ như muốn chụp lấy Tùng để cào cấu.

Duy Bảo lại bảo:

- Chắc là mày đang chiêm bao.

Rồi Bảo thản nhiên:

- Chiêm bao thấy ma cũng là dễ thương.

Thiên Tùng phân trần:

- Tao thấy mình vẫn còn thức mà.

- Thức thì làm sao thấy ma hả ông?

Thầy Việt Thái lù xù xuất hiện. Cả nhóm chợt im bặt.

Thầy nhìn cả nhóm:

- Ăn sáng đi, rồi hôm nay tôi sẽ hướng dẫn các em tìm hiểu về đàn đá.

Tố Mẫn than thở:

- Ăn mì gói hoài ngán quá thầy ạ.

Nguyệt Thư tiếp lời Tố Mẫn:

- Ngày mai cho tụi em xuống phố mua thức ăn nghe thầy.

Bỗng dưng, Thiên Tùng lên tiếng:

- Tại thầy chưa thấy đó thôi.

Thầy Việt Thái cắc cớ hỏi:

- Bộ em thấy rồi hả?

Nam Khang phì cười:

- Chắc thằng Tùng nó thấy cô ma liêu trai trong chiêm bao quá.

Thầy Việt Thái nghiêm túc:

- Thế các em nam nghĩ sao về ma?

Duy Bảo pha trò:

- Không nghĩ gì cả thầy ơi. Bởi vì nghĩ thì sợ.

Thầy Việt Thái phì cười:

- Phải rồi! Đừng thèm nghĩ, các em. Nghĩ chi rồi sợ, tôi đâu có sợ.

"Đừng nói cứng! Thầy mà thấy ma thầy cũng sợ như mọi người, chứ không à?" Nguyệt Thư nhủ thầm rồi thắc mắc không biết thầy Việt Thái có sợ ma không?

Bác Ngàn vẫn âm thầm quét dọn lá cây quanh khu nhạc viện, bác đốt lửa, khói bay mù trời.

Những làn khói lãng đãng bay lên mờ ảo càng làm cho nhạc viện thêm âm u huyền bí.

Tường rêu xám xịt. Dây leo chằng chịt dường như mấy trăm năm chưa bị chặt phá.

Giếng nước phía sau cũng rêu phủ xám xịt, cỏ gai um tùm.

Nguyệt Thư rùng mình không dám nhìn xuống giếng.

Bây giờ mấy tên con trai phải xách nước hộ cho phe áo dài, cũng may là nước giếng trong vắt nên khi giặt rửa không thấy ớn.

Thấy bác Ngàn lầm lũi đi đến xách nước, cả bọn không tản ra như hôm qua nữa. Nguyệt Thư muốn hỏi chuyện bác Ngàn nhưng còn ngần ngừ vì trông bác quàu quạu phát ngán.

Chiếc nón sùm sụp che mặt, mà gương mặt bác thì chẳng chịu thân thiện với ai.

Cố bấm bụng, Nguyệt Thư hỏi với vẻ thân mật:

- Bác Ngàn ơi! Bác làm ở đây lâu chưa? Cái giếng này chắc đào lâu lắm rồi hả bác? Vậy mà nước vẫn trong vắt?

Bác Ngàn không nói gì cứ gật gật, lắc lắc cái đầu.

Cả bọn nhìn nhau ngơ ngác, chẳng lẽ bác Ngàn không nói được. Bác Ngàn lặng lẽ xách nước.

Nguyệt Thư đưa tay chỉ:

- Giếng sâu, thấy ghê quá bác nhỉ? Ở dưới có gì không bác?

Tố Mẫn hỏi dồn:

- Có ma không bác?

Nam Khang cười khì:

- Ma đầy nhóc ở dưới giếng đó.

Tố Mẫn đập vai Nam Khang:

- Nói bậy không hà!

- Sợ sao còn hỏi. Hỏi xem bác có thấy ma không? Có bị ma nhát không?

Duy Bảo bình luận:

- Bác Ngàn là người quen thân hông bị nhát đâu. Ma chỉ nhát mấy bạn thôi.

- Bảo cũng bị nhát luôn chứ đừng nói giỡn.

Nghe nhóm sinh viên bàn tán, bác Ngàn gừ gừ trong cổ họng rồi khoa tay múa chân, chẳng ai hiểu bác muốn nói gì.

Nguyệt Thư hỏi khẽ:

- Bác nói gì nhỉ?

Nam Khang lém lỉnh giải thích:

- Nói quý cô nương là những kẻ nhát gan.

Nguyệt Thư xí dài:

- Nam Khang gặp ma xem có nhát không thì biết.

Duy Bảo thì giải thích khác:

- Bác Ngàn bảo trả giếng lại cho bác ấy.

Nam Khang bông đùa:

- Ừ phải, trả giếng lại để bác múc mấy con ma lên cho quý vị xem... hự... hự...

Tịnh Đoan ré lên:

- Ôi! Ông rên giống ma, khiếp quá.

Duy Bảo nghi ngờ:

- Không chừng làm ma nhát mấy bạn đây.

Nguyệt Thư bỗng nhìn Nam Khang chăm chú cô vẫn còn nhớ bóng ma áo trắng lướt qua cửa sổ, hình dáng phất phơ mặt quỷ gớm ghiếc răng nanh hãi hùng.

Nguyệt Thư rùng mình lắc đầu.

Hiểu tia nhìn của Nguyệt Thư, Nam Khang chột dạ, phân trần:

- Ê! Tui chỉ làm ma trên xe cho quý vị đỡ buồn ngủ thôi nghen.

Thiên Tùng im lặng nãy giờ, bỗng lên tiếng hỏi:

- Quý vị tin là ở nhạc viện này có ma không?

Nguyệt Thư phát biểu:

- Nhạc viện cổ quái, kỳ bí, âm u chắc chắn là có ma.

Tịnh Đoan đồng tình:

- Không có mới là chuyện lạ, ở đây toàn là âm khí.

Nam Khang cà rỡn:

- Có dương khí tụi tui nữa nghe?

Cả bọn cười rần, phút chốc quên hết mọi chuyện ma quỷ trên đời. Giọng Thầy Việt Thái hào hứng:

- Các em học âm nhạc lại thực tập ở nhạc viện trên cao nguyên này thật thú vị phải không?

Nguyệt Thư than phiền:

- Sợ ma muốn chết chứ có thấy thú vị gì đâu thầy.

Thầy Việt Thái ân cần:

- Dẹp chuyện ma đi! Các em thấy nơi đây cao nguyên đồi núi trập trùng, ngàn thông xanh ngút mắt, hoa dã quỳ mọc rực rỡ sườn đồi đẹp biết bao.

Thiên Tùng hí hửng:

- Không khéo tụi em trở thành nhạc sĩ sáng tác nhạc hết đó thầy.

Thầy Việt Thái vui vẻ:

- Làm nhạc sĩ thì tốt chứ sao?

Duy Bảo lí lắc:

- Mình sẽ sáng tác, ca sĩ nào độc quyền hát đây?

Tố Mẫn chế nhạo:

- Nhạc của Bảo chắc để dành cho các cháu mẫu giáo hát.

Duy Bảo hứ nhẹ:

- Mẫn nói tui không biết sáng tác nhạc tình cảm hả? Nè, bài đầu tiên tui viết cho Mẫn đó.

Cả bọn vỗ tay vang rền. Tố Mẫn thẹn thùng, đỏ mặt rần lên.

Rồi Tố Mẫn kênh mặt lên thách Duy Bảo:

- Ông thử sáng tác xem tui duyệt được không?

Duy Bảo nhe răng cười:

- Chẳng những duyệt được mà Mẫn còn giành hát nữa đó.

Thầy Việt Thái hóm hỉnh:

- Các em tự do sáng tác cho các ca sĩ nữ của mình hát đi.

Cả bọn quay sang Thiên Tùng, nhao nhao:

- Ê! Lớp trưởng sáng tác độc quyền cho ai hát đây?

Thiên Tùng ngẩn ra. Sáng tác cho ai hát? Tất nhiên người phải ngự trị trong tim Thiên Tùng, và đang ngự trị...

Ánh mắt ấm áp hướng sang Nguyệt Thư với tia nhìn dịu dàng, tình tứ và chỉ có Nguyệt Thư mới hiểu và đón nhận tia nhìn thiết tha đó.

Con tim Thiên Tùng đập rộn. Không phải đợi thầy Việt Thái gợi ý đâu. Nhất định chuyến đi thực tập này, Thiên Tùng sẽ viết những bài tình ca nồng nàn trên cao nguyên.

"Ơi cao nguyên vàng cháy hoa dã quỳ

Cao nguyên chập chùng đồi xanh

Núi xanh, sương lam giăng giăng bàng bạc...".

Và nhạc viện trầm mặc cho ai thẫn thờ.

Nam Khang vẫn không tha Thiên Tùng:

- Thiên Tùng im lặng suy tư, chắc đang hình thành nốt nhạc. Xong cả chưa, gảy lên cây ghita đi.

Thiên Tùng đập vai Nam Khang:

- Sáng tác phải im lặng thả hồn. Ào ào như mày nhạc bay hết rồi…

Nam Khang nheo mắt:

- Tao bay thì mày còn. Sao, dành cho quý vị tóc dài nào vậy?

- Dành cho mày đấy.

Nam Khang ré lên:

- Mày mà sáng tác dành cho tao chắc thiên hạ chạy hết.

Thiên Tùng hất hàm:

- Sao chạy?

Nam Khang cười giải thích:

- Hai thằng đực rựa một đàn, một hát là thấy lạ rồi, chưa kể hiện tượng đáng ngờ nữa đó.

- Thằng quỷ!

Cả bọn say sưa trò chuyện. Thầy Việt Thái nói mấy câu đã đi ra ngoài. Nguyệt Thư đề nghị:

- Ở trong phòng ngột ngạt mình ra bên ngoài chơi.

Mọi người lục đục kéo nhau ra tiền sảnh.

Ngoài sân nhạc viện loang loáng ánh trăng non.

Cây cối im lìm, vầng trăng trở nên lạnh lẽo cô đơn.

Nguyệt Thư nhìn quanh, không gian chừng hiu hắt ảm đạm.

Gió bỗng ùa về buốt lạnh.

- Hú... hú... hú...

Trong đêm tối, tiếng hú vang lên thật rùng rợn.

Tiếng hú của thú hoang? Của núi rừng? Của cái gì chẳng ai biết.

Nguyệt Thư khiếp đảm ba chân bốn cẳng chạy về phòng. Tịnh Đoan, Tố Mẫn cũng lục đục chạy theo.

Chẳng biết mấy tên con trai có còn ngồi ở ngoài đó.

Nhảy phóc lên giường, Nguyệt Thư trùm mền kín mít.

Bên ngoài bóng tối rờn rợn. Im lặng hoàn toàn, im lặng đến ghê người.

Nguyệt Thư không muốn nghe, muốn nghĩ gì cả, cô bịt chặt hai tai lại để ngủ. Thế mà Nguyệt Thư vẫn đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài.

Tiếng hú theo gió đến thật gần và một bóng đen lù lù xuất hiện. Bóng đen quần áo rộng thùng thình ẻo lả như lướt trên mây trên gió, mái tóc dài xổ tung bay phần phật.

Hai cánh tay thõng theo quơ quào trong không khí.

Rồi một bóng trắng như làn khói mỏng từ cõi âm bay tới. Cả hai bắt đầu một điệu ca thán rên xiết đầy ai oán.

Nguyệt Thư kinh hoảng muốn thét lên mà miệng cứng đờ, tiếng ú ớ cũng chẳng thốt ra được.

Những cái lưỡi dài ngoằng đỏ ối thật kinh dị cứ quơ quơ trước mặt Nguyệt Thư:

- Đói lắm! Lạnh lắm. Kéo tôi lên khỏi giếng đi!

- Xuống giếng... đi! Cho tôi lên đi!

Cái giọng âm u cứ xoáy mãi vào tai Nguyệt Thư. Khắp người lạnh toát, Nguyện Thư nhìn trừng vào bóng ma kỳ quái. Lòng cô hoang mang tột độ, đầu ốc rối rắm, chơi vơi.

Bỗng bóng đen cười khàn khàn, bàn tay xương xẩu kéo tay Nguyệt Thư.

- Ra giếng chơi! Xuống giếng với ta! Xuống tắm! Mát lắm!

- Ừm!

Vèo… Nước văng tung toé.

Nguyệt Thư kinh hoàng bạt vía, cô có cảm giác bị quăng tõm xuống giếng. Nguyệt Thư chỉ còn biết hét lên:

- Á! Cứu tôi!

- Dậy! Dậy đi! Nguyệt Thư!

Tịnh Đoan cất giọng dịu dàng lay gọi bạn.

Nguyệt Thư giật mình ngơ ngác. Đôi mắt thất thần nhìn lên trần nhà, mếu máo:

- Ma! Ma!

Tố Mẫn lo lắng:

- Mi lại nằm mơ nữa à?

Nguyệt Thư run run:

- Ta đang ở đâu đây?

- Mi ở trong phòng mà.

Đầu óc nhức như búa bổ, nhưng Nguyệt Thư nhớ mang máng:

- Ta thấy bị quăng xuống giếng.

Tịnh Đoan hốt hoảng:

- Ai quăng mi hả Thư?

- Con... ma...

- Lại bị ma nhát. Đêm qua, ta nghe ma con nít khóc lạnh mình luôn.

Nguyệt Thư than thở:

- Ma quỷ lộng hành nhạc viện, làm sao ở đây nổi.

Tố Mẫn lẩm bẩm:

- Phải xin về thôi, ta cũng sợ quá rồi.

Bọn con gái kéo nhau qua phòng nam. Nguyệt Thư nhanh nhảu:

- Xin với thầy về đi Thiên Tùng ơi. Bọn mình không ở đây nữa đâu.

Thiên Tùng nhẹ nhàng:

- Đang thực tập sao về đựợc Thư?

Nguyệt Thư cất giọng ráo hoảnh:

- Mình không thực tập nữa đâu. Nhạc viện hoang tàn vắng vẻ thấy ghê, cứ thấy ma hoài, ớn quá!

Tịnh Đoan phụ hoạ:

- Nhạc viện gì ma quỷ lộng hành phát khiếp.

- Lạ thật! Sao mấy bạn cứ thấy ma hoài vậy?

Tố Mẫn nhận định:

- Lũ ma chỉ biết ăn hiếp con gái.

Duy Bảo nói tỉnh:

- Thì tại các bà sợ ma.

Nguyệt Thư khổ sở:

- Bảo gặp ma thì biết, kinh hoàng luôn. Thư nhất định về không ở đây nữa.

Thiên Tùng nhẹ nhàng:

- Bọn mình đang thực tập xong đợt thì thi tốt nghiệp ra trường. Bỏ dở dang không ổn đâu Thư.

Nguyệt Thư than vãn:

- Vậy phải làm sao hả?

- Tiếp tục ở đây thực tập.

Nguyệt Thư rụt cổ:

- Thư sợ ở đây quá rồi.

Thiên Tùng động viên:

- Cố gắng đi Thư, có bọn mình bên cạnh.

Duy Bảo cà rỡn:

- Dương khí sẽ đánh bại âm khí. Duy đừng lo.

- Thư gặp ma hoài mà bảo đừng lo.

Tịnh Đoan kể:

- Nhỏ Thư mới bị ma xô xuống giếng đó.

Thiên Tùng trấn an:

- Chỉ là giấc mơ thôi mà.

Nguyệt Thư chép môi:

- Mơ hay thật gì mình cũng hồn xiêu phách lạc, thần kinh rất căng thẳng.

Tố Mẫn than oán:

- Ở đây mãi chắc bị bệnh thần kinh quá.

Nam Khang nhe răng cười đưa ý kiến:

- Mấy bà cứ tập sống chung với ma đi.

Nguyệt Thư le lưỡi:

- Eo ôi! Ma mà sống chung với nó à?

- Tức là đừng thèm sợ nó.

Tịnh Đoan nhận định:

- Hễ thấy nó là sợ phát khiếp rồi.

Nam Khang nhẹ giọng khuyên:

- Đừng thèm thấy?

Nguyệt Thư phàn nàn:

- Nó cứ lù lù xuất hiện, chứ ai muốn thấy.

Nam Khang hỏi lại:

- Có phải Thư thấy con ma trong giấc ngủ không?

Nguyệt Thư bồn chồn:

- Dường như là vậy. Thư cũng không biết nữa.

- Tốt nhất là Thư đừng ngủ thì con ma sẽ không tới.

- Vô duyên! Thức hoài hả?

- Đúng vậy.

Nam Khang kết luận:

- Người ta nói đi đêm có ngày gặp ma. Vậy tốt nhất các bạn cứ xem lúc nào cũng là ban ngày và đừng bao giờ ngủ, đố có con ma nào dám nhát.

Duy Bảo cười lớn:

- Ha ha... Hi hi... Đó là bí quyết chống gặp ma đấy.

Nam Khang đắc ý:

- Mấy bạn hãy áp dụng đi. Vô cùng hữu hiệu!

Nguyệt Thư trề môi:

- Tưởng mấy bạn có ý kiến gì hay giúp bọn mình tránh gặp ma, ai ngờ trớt quớt.

Bỗng dưng, Duy Bảo nhận xét:

- Tôi nghĩ con ma thích ai thì nó tìm người đó.

Nguyệt Thư hốt hoảng ré lên:

- Hổng phải vậy đâu!

Duy Bảo cười tỉnh bơ:

- Chứ còn gì nữa, con ma có vẻ thích Nguyệt Thư nhiều nhất, coi chừng nó bắt Thư đi theo luôn.

Nguyệt Thư tá hoả:

- Bảo nói thấy ghê quá!

Thiên Tùng xua tay la Duy Bảo:

- Nguyệt Thư đã sợ mà mi cứ hù.

Duy Bảo gãi đầu:

- Hù cho Nguyệt Thư hết sợ.

Nguyệt Thư phàn nàn:

- Ở nhạc viện âm u này mãi ai cũng sợ phát khiếp.

Thiên Tùng thông báo:

- Hôm nay không ở đây nữa.

Nguyệt Thư mừng rỡ hỏi:

- Chuyển chỗ ở hả? Đi đâu hả?

Thiên Tùng hạ thấp giọng:

- Đi nghiên cứu.

Nguyệt Thư thất vọng:

- Rồi trở về đây hả?

Thiên Tùng cười khì:.

- Chứ đâu có đi luôn, đây là chốn đi về mà.

- Vậy mà cũng nói.

Duy Bảo tài lanh:

- Nói để cho quý vị chuẩn bị chứ.

Tịnh Đoan vô tư:

- Chuẩn bị gì chứ?

- Chuẩn bị... diện.

Tịnh Đoan nguýt mắt:

- Xí!

Duy Bảo tỉnh bơ:

- Hổm nay ở nhạc viện cổ này váy áo chưa có dịp trưng bày.

Tức quá, Tịnh Đoan nói nhanh:

- Hổm nay tui vẫn diện váy áo đó chứ.

Nam Khang chen vô chọc:

- Mấy bà mà diện ở đây cho mấy con ma xem.

Tức thì Nam Khang bị Nguyệt Thư đập một phát lên vai và cự nự:

- Ông khoái nhắc đến ma quá hà.

Nam Khang cười khì khì:

- Đã bảo là sống chung với ma cho thân thiện.

Nguyệt Thư đốp chát:

- Có một ma nữ liêu trai cho ông thân thiện kìa.

Nam Khang vờ hỏi:

- Đâu?

- Ngoài giếng nước đó.

Nam Khang không chừa:

- Ma ngoài giếng nước là bạn của phe tóc dài.

Tưởng chừng như vẫn thấy bóng trắng phất phơ đẩy mình xuống giếng, Nguyệt Thư hoảng hốt hét lên:

- Á! Trời ơi! Ma!

Và Nguyệt Thư ngó ra ngoài lo lắng, như sợ con ma từ dưới nước chui lên. Thiên Tùng cằn nhằn Nam Khang:

- Nguyệt Thư đang sợ mà mày cứ đem mấy con ma về.

Cả bọn cười rộ lên trước câu dí dỏm của Thiên Tùng.

Thiên Tùng dặn dò:

- Thầy bảo chúng ta đi thực tế nghiên cứu về các loại đàn nhạc dân tộc rồi về ghi chép hệ thống lại. Suốt ngày đi thực tế ở bên ngoài rất vui.

Buổi chiều trở về nhạc viện, Nguyệt Thư lại thấy tâm trạng bức bối làm sao. Nguyệt Thư ấn tượng về cái giếng nước.

Trong lúc các bạn xách nước, thì Nguyệt Thư ngồi tránh xa.

- Phải chi có nước máy ở trong nhà thì hay biết mấy.

Tố Mẫn lên tiếng:

- Có nước máy thì phải có nhà vệ sinh, phòng tắm.

Nguyệt Thư gật đầu:

- Đầy đủ tiện nghi chứ sao.

Tịnh Đoan thắc mắc:

- Không hiểu sao trường cho mình thực tập ở nhạc viện này nhỉ?

Nguyệt Thư phàn nàn:

- Nhạc viện cổ quái xuống cấp trầm trọng mà bắt mình chui vào ở.

Tố Mẫn chép môi:

- Làm như ở đây có kho tàng kho báu.

Duy Bảo chen vào:

- Có kho báu đó, mấy phòng chứa toàn nhạc cụ quý hiếm.

Tịnh Đoan trề môi:

- Nhạc cụ chứ có phải bình cổ hay thú rừng quý hiếm đâu.

Duy Bao hỏi lại:

- Đoan nói nhạc cụ không quý hiếm à?

Nguyệt Thư đưa tay chỉ nhạc viện:

- Cả tòa lâu đài sắp đập này cũng quý hiếm.

Nam Khang hăm he:

- Dám nói nhạc viện sắp đập, coi chừng nghe Thư.

Nguyệt Thư đính chính:

- Thư nói sắp trùng tu chớ bộ.

Thiên Tùng chép miệng tiếc rẻ:

- Phải hồi đó mình học thiết kế để giờ đi trùng tu các công trình cổ.

Nguyệt Thư nhìn Thiên Tùng:

- Thôi nha! Đừng có núi này trông núi nọ.

Nam Khang cười diễn giảng:

- Hà hà... Nguyệt Thư nhắc mày chỉ chấm cô nào một cô thôi nghe Tùng. Lộn xộn thì biết tay thư.

Nguyệt Thư đập vai Nam Khang:

- Coi chừng đó!

Nam Khang nhăn nhó:

- Người ta nói hộ giùm, không cám ơn mà còn… dữ.

Tố Mẫn lanh chanh:

- Nam Khang nói Thư dữ chứ anh Tùng thấy hiền khô hà.

Thiên Tùng cười ra vẻ:

- Mấy bạn muốn nói gì cứ nói.

Tố Mẫn tiếp liền:

- Miễn đúng thì thôi.

Phần 3

Buổi tối trong phòng Thiên Tùng ôm cây đàn ghita gảy vu vơ bản nhạc đã hình thành.

Bên ngoài, bóng tối phủ giăng. Không gian u tịch, bỗng dậy lên một mùi hương.

Hương hoa lài nồng nàn thoảng bay trong gió. Tiếp theo đó là một cảm giác rờn rợn khiến mấy tên con trai nhìn nhau. Duy Bảo hỏi Thiên Tùng:

- Mày có tin ở nhạc viện này có ma không Tùng?

Thiên Tùng buông cây đàn xuống:

- Ai biết có hay không.

Nam Khang góp ý:

- Ma là cái gì huyền ảo liêu trai không thật.

Duy Bảo thắc mắc:

- Tại sao các bạn nữ cứ thấy ma nhát hoài vậy?

Nam Khang khẳng định:

- Bởi vậy mới thấy mờ mờ ảo ảo như khói như sương trong giấc ngủ.

Thiên Tùng thú nhận:

- Đêm đầu tiên đến đây, giữa khuya tao ngồi nghe đàn bên cửa sổ, thấy có một bóng trắng chờn vờn.

Duy Bảo kêu lên:

- Ối! Sao mày không kể với tụi tao.

- Tao nghĩ là mình bị ảo giác.

- Cũng có thể, tại thằng Khang giả ma trên xe nên đứa nào cũng ấn tượng.

Thiên Tùng chép môi:

- Không hiểu sao bên phòng nữ thấy ma hoài.

Duy Bảo tiếp lời:

- Tịnh Đoan nói có nghe tiếng con nít khóc ai oán lắm.

Nam Khang phân vân:

- Chuyện này chẳng biết sao, chẳng lẽ ma quỷ lộng hành ở đây.

- Người ta bảo những nơi âm u hoang vắng, điêu tàn thì hay có ma.

Thiên Tùng xua tay rối rít:

- Thôi, đừng tìm hiểu chi cho mệt.

- Tại mấy bạn nữ có bị ma nhát nên mình thấy không yên.

Nam Khang bật hỏi:

- Vậy phải làm gì?

Duy Bảo ôn tồn:

- Khám phá bí mật coi có gì không?

- Có ma!

- Thằng quỷ!

Thiên Tùng bày tỏ:

- Tao lại thích khám phá nhạc viện cổ này xem nó như thế nào?

Duy Bảo bật cười:

- Thì nó như một tòa lâu đài cổ kính.

- Điều quan trọng là tòa lâu đài có nhiều phòng.

- Thằng quỷ! Vậy mà cũng nói.

Duy Bảo phân bua:

- Tao nói không phải sao? Tòa lâu đài nhiều phòng thênh thang như là khách sạn.

Nam Khang đưa ý kiến:

- Tại sao người ta không trùng tu nhạc viện cổ này để làm khách sạn nhỉ. Tao nghĩ là đắt khách lắm đây.

Thiên Tùng cười xúi giục:

- Mày nên đề nghị ông nhà nước.

Duy Bảo lên tiếng:

- Có lẽ người ta không có kinh phí trùng tu nên để nhạc viện âm u, buồn hiu thế này.

Thiên Tùng nói thêm:

- Âm u nên ai cũng thấy kỳ bí có ma.

Cả ba nói chuyện giữa đêm khuya.

Thiên Tùng cầm đàn cất tiếng hát êm đềm:

"Ai vun đồi.

Thông xanh mơ

Ai cao nguyên lạnh.

Gió cô đơn buồn

Ai hồ biếc

Ai khói vương

Ai trăng mộng tưởng

Ai hồn hoang liêu...".

Tiếng ca chưa dứt thì bóng áo trắng chập chờn lướt tới.

Giọng ma quái như từ cõi âm ty vọng lên:

- Em... ở dưới giếng lên... lạnh quá, ca cho em nghe nữa đi.

Tay chân rụng rời, hồn Thiên Tùng như treo người trên cành cây cao. Một bàn tay lay nhẹ vai Thiên Tùng:

- Suốt đêm mày gục ở đây hả Tùng? Sao không vào ngủ?

Thiên Tùng ngơ ngác nhìn Nam Khang và Duy Bảo.

- Tao gục ở đây hả?

Thiên Tùng ngóc đầu dậy vẫn chưa hoàn hồn:

- Vậy là suốt đêm Thiên Tùng đàn hát rồi gục xuống bàn bên khung cửa sổ.

Nam Khang cà rỡn:

- Tao với thằng Bảo đâu có giành hết chỗ ngủ đâu mà mày chẳng chịu vô mùng.

Thiên Tùng thì thào:

- Tao thấy ma rủ ra giếng nước.

Duy Bảo kêu to:

- Trời ạ! Ma rủ đi à?

Nam Khang hỏi dồn:

- Mày có đi không.

- Có! Tao ra ngoài giếng nước, tối om hà. Hồn ma nhảy múa, bảo tao hát.

Duy Bảo lo lắng:

- Không khéo oan hồn ma xô mày xuống giếng thế mạng.

Nam Khang hỏi nhanh:

- Oan hồn ma có xô mày không?

Thiên Tùng bối rối:

- Tao cũng không biết nữa.

- Đi theo hồn ma ra giếng nước, ghê quá.

Duy Bảo nhớ ra:

- Nhưng mà thằng Tùng vẫn nằm gục ở đây mà.

Nam Khang kết luận:

- Vậy là nằm mơ thấy ma nhát, không sợ.

Thiên Tùng khiếp sợ hãi hùng mà Nam Khang tỉnh bơ:

- Mày chưa gặp ma nên nói giỏi.

Nam Khang thắc mắc:

- Ê! Mày thấy ma nam hay nữ vậy?

- Tao đâu có biết.

- Phải biết chứ. Tóc có dài không?

Duy Bảo lý giải tỉnh bơ:

- Chắc chắn ma nữ, vì nữ mới quyến rũ Thiên Tùng.

Duy Bảo cười chọc:

- Vậy là mày gặp oan hồn "trinh nữ" rồi.

Mặt Thiên Tùng nhăn nhó thảm hại:

- Thằng quỷ! Tao đang thắc mắc tại sao lại thấy ma chứ.

- Nhà ở có ma thì thấy ma chứ sao?

- Nhưng thời đại này mà ma quỷ lại lộng hành sao?

- Thời đại nào ma quỷ chẳng lộng hành?

Thiên Tùng nhăn mày:

- Nói chuyện với tụi bây, tao muốn phát khùng lên được.

Thầy Việt Thái trịnh trọng với đám sinh viên:

- Đây là bà Hồ Thúc mẹ vợ tôi. Còn đây là Hồ Thủy vợ sắp cưới của tôi. Hai người đang du lịch Đà Lạt sẵn ghé qua thăm nhạc viện.

Như lũ học trò nhỏ, cả bọn thốt lên:

- Chào bà! Chào cô!

Rồi ngớ người ra, chẳng biết làm gì, nói gì nữa. Cả bọn nhìn nhau thắc mắc, nhưng chỉ biết im lặng.

Như hiểu ý đám sinh viên, thầy Việt Thái mỉm cười:

- Các em cứ tự nhiên nhé. Bà và cô chỉ ghé cho biết nhạc viện, không ảnh hưởng gì đến việc thực tập của các em đâu.

Cô Hồ Thủy liếc nhìn mấy cô sinh viên với vẻ kiêu kỳ ra cái điều ta đây đẹp nhất.

Tố Mẫn nhủ thầm:

- Biết rồi! Gương thần mới bảo cô đẹp chứ gì, nhưng có người đẹp nhất nghe cô.

Khi ba người vừa đi khuất, Nguyệt Thư nhìn Tố Mẫn khẽ hỏi:

- Mi lảm nhảm gì đó Mẫn?

"Ủa! Vậy là mình đã nói ra à?" Tố Mẫn mỉm cười:

- Mi thấy cô Thủy có đẹp không?

- Đẹp! Cô ấy là người mẫu mà.

- Vậy là thầy Việt Thái có vợ sắp cưới.

Tịnh Đoan nhận định:

- Không có mới là chuyện lạ chứ.

Tố Mẫn lại phát biểu:

- Làm bộ nói ghé thăm nhạc viện chứ thực chất là ghé thăm thầy.

Nam Khang pha trò:

- Thăm thầy chẳng lẽ thăm đám thực tập tụi mình à.

Nguyệt Thư thắc mắc:

- Không biết thăm thầy rồi hai người còn làm gì nữa không?

Duy Bảo lém lỉnh hỏi:

- Làm gì là làm gì?

Tịnh Đoan thản nhiên:

- Cô làm gì cũng mô ảnh hưởng đến việc thực tập của mình.

Nam Khang tinh nghịch:

- Nếu thầy cứ mãi đi chơi với cô, thì có ảnh hưởng đó nghen.

Nguyệt Thư tỉnh bơ:

- Ảnh hưởng là mình được đi chơi theo.

Thiên Tùng nhíu mày:

- Ủa! Sao các bạn cứ mải bàn tán chuyện của thầy?

Tịnh Đoan cười bảo:

- Chuyện ni lạ mà không bàn tán sao?

- Có gì lạ đâu?

Tịnh Đoan khẳng định:

- Thầy có bồ đến thăm là lạ chứ còn gì.

Nguyệt Thư thốt lên:

- Nhạc viện huyền bí, âm u mà cô thì rực rỡ sáng chói.

Duy Bảo cười phá lên:

- Trời ạ! Chẳng lẽ Thư bảo cô cũng nên huyền bí âm u như nhạc viện?

Nguyệt Thư phân bua:

- Thư muốn nói là có sự tương phản.

Tố Mẫn thắc mắc:

- Sao mọi người không ở đây sinh hoạt với mình nhỉ?

- Người ta tham quan nhạc viện chứ sinh hoạt với mình làm chi.

- Sinh hoạt cho vui.

Duy Bảo trả lời tỉnh bơ:

- Người lớn có chỗ vui riêng.

Tố Mẫn hỏi tới cùng:

- Chỗ nào hả?

Duy Bảo nheo mắt cho Tố Mẫn:

- Tố Mẫn cứ đi mà hỏi thầy.

- Vô duyên. Ai hỏi bậy vậy?

Cả bọn cười ré lên. Thiên Tùng tặc lưỡi:.

- Mình không biết các bạn thắc mắc chuyện này đến bao giờ mới thôi.

Nguyệt Thư thản nhiên:

- Đến khi nào hết thắc mắc.

Thiên Tùng lắc đầu hết biết. Nguyệt Thư cắc cớ hỏi lại Thiên Tùng:

- Còn Tùng có thắc mắc gì không?

Duy Bảo láu táu đáp thay Thiên Tùng:

- Thiên Tùng thắc mắc về Nguyệt Thư đấy.

- Thắc mắc gì hả?

- Thắc mắc là Nguyệt Thư nằm mơ thấy ma mà sao không thấy Tùng?

Thiên Tùng đập vai Duy Bảo một cái chát:

- Thằng quỷ!

Nguyệt Thư hồn nhiên:

- Thư cũng mong là nằm mơ thấy Tùng chứ đừng thấy ma khiếp quá.

Duy Bảo cười phá lên:

- Vậy là Thư thú nhận rồi nha?

Nguyệt Thư e thẹn:

- Thú nhận gì hả?

Bỗng Thiên Tùng lên tiếng cứu nguy cho Nguyệt Thư:

- Mình cũng vậy đó. Thích chiêm bao thấy Thư hơn thấy ma. Thấy Thư thú vị hơn nhiều.

Nam Khang nháy mắt với Thiên Tùng:

- Hai người công khai cùng một lúc ngộ quá ta.

Thiên Tùng tỉnh bơ:

- Được dịp thì công khai hà.

Không quan tâm lời Thiên Tùng mà Nguyệt Thư hỏi dồn:

- Tùng cũng thấy ma hả?

Nam Khang nhanh nhảu đáp thay:

- Thiên Tùng thấy oan hồn ma về khóc hu hu kéo nó ra giếng nước.

Nguyệt Thư lo lắng:

- Có bị xô xuống giếng nước không hả Tùng?

Thiên Tùng lắc đầu:

- Hồn ma nhảy múa bắt Tùng hát.

Tố Mẫn nhanh miệng:

- Hát xong, nó xô Tùng đấy.

Tịnh Đoan nhìn quanh quất rụt cổ lo sợ:

- Nhạc viện có ma, làm sao dám ở đây.

Duy Bảo nói cứng:

- Đừng sợ, có tụi tui đây mấy bạn khỏi lo.

Tịnh Đoan trề môi:

- Mấy ông làm gì được con ma chứ?

Duy Bảo thản nhiên:

- Khống chế nó làm cho nó sợ.

Tố Mẫn nhìn Duy Bảo:

- Coi chừng, không khống chế được nó mà bị nó vặn cổ lôi đi.

Duy Bảo cắc cớ hỏi:

- Mẫn không tin Bảo trị được ma à?

Tố Mẫn lắc đầu:

- Thầy bùa còn trị không được, nói gì đến Bảo chỉ là tay ngang.

Duy Bảo cười tự tin:

- Tay ngang mà ma sợ đó.

Tố Mẫn không tin:

- Ma sợ Bảo hay Bảo sợ ma đó?

Tịnh Đoan phụ hoạ:

- Đúng rồi, hỏi lại đi. Ai sợ ai?

Duy Bảo gãi đầu:

- Thì mấy bà sợ ma chứ ai.

Nguyệt Thư đưa tay lên môi:

- Đừng nói chuyện ma nữa.

- Vậy nói chuyện quỷ hén?

Nguyệt Thư nguýt mắt:

- Vô duyên!

Duy Bảo cải chính:

- Thư mới vô duyên. Mấy bạn nói chuyện ma trước chứ ai.

Tịnh Đoan phát biểu:

- Ở trong ngôi nhà hoang phế lạnh lẽo này dù không muốn chắc chắn cũng phải nói chuyện mấy con ma.

Thật lạ lùng!

Có cái gì kỳ bí trong nhạc viện này cả bọn không sao hiểu nổi.

Ban ngày mọi người thực tập, làm việc bên nhau, trò chuyện ríu rít. Khi màn đêm buông xuống nhạc viện như chìm trong hoang liêu ghê rợn.

Càng lúc Nguyệt Thư thấy nhạc viện càng đáng sợ. Tường rêu xám xịt, các phòng hoang lạnh.

Chẳng biết bên trong các phòng vắng lặng đó có gì không?

Buổi tối!

Gió thổi ào ào. Cơn giông kéo đến, tia chớp lóe sáng như xé bầu trời đêm. Sấm nổ rền vang.

Mưa ào ạt trút nước.

Ngoài khung cửa sổ có tiếng hú dài ghê rợn, rồi tiếng rên hừ hừ... thê thảm.

Trong phòng, ba cô gái trùm chăn kín đầu nằm im thin thít trên giường. Nguyệt Thư căng thẳng muốn nín thở.

Bỗng Nguyệt Thư thấy một bóng đen chờn vờn bước vào phòng.

Bóng đen đến bên giường cúi sát mặt Nguyệt Thư, huơ huơ chiếc lưỡi đỏ như máu, hai bàn tay xương xẩu chụp vào chiếc mền Nguyệt Thư đang đắp. Hồn Nguyệt Thư như treo ngược trên mây, nỗi khiếp sợ khiến Nguyệt Thư lạnh toát gai ốc nổi khắp người.

- Ối! Ma... má... cứu tôi!

Tiếng thét của Nguyệt Thư rơi vào thinh lặng.

Hồn ma phất phơ, đảo tới đảo lui rồi là là ra khỏi phòng biến mất vào bóng đêm, tưởng chừng như là chưa từng xuất hiện. Oan hồn ma chập chờn lù lù hiện ra trong phòng mấy tên con trai.

Thiên Tùng, Duy Bảo, Nam Khang vẫn chưa ngủ.

Trời mưa, gió thổi vù vù. Điện cúp, ngọn nến cháy le lói không đủ sáng khắp phòng.

Căn phòng vốn đã âm u ẩm mốc, nên càng thêm mờ ảo âm u. Bóng tối như đồng lõa với bóng ma đen ma quái.

Hồn ma dật dờ, cái đầu lâu lúc lắc trên cái cổ ốm tong dài ngoằng.

Bàn tay xương xẩu, móng vuốt nhọn hoắt quơ quào khắp mặt Duy Bảo và như muốn quặp chặt vào vai anh.

Duy Bảo kinh khiếp run lẩy bẩy. Cổ họng khô khốc, Bảo muốn hét lên mà sao chỉ ú ớ.

- Ma... ma....

Bóng đen ma quái rên hự hự:

- Đói lắm! Lạnh... lạnh...

Duy Bảo toát mồ hôi. Hồn vía không còn khi bóng ma chụp vào tay anh:

- Đi! Đi với ta ra giếng!

Như kẻ mộng du, Duy Bảo bước theo bóng ma dật dờ.

Một bóng trắng hai tay vẫy vẫy lù lù hiện ra trước mắt Duy Bảo. Duy Bảo căng mắt nhìn. Bóng tối mịt mù, sự thật hay là hư ảo? Đầu óc chếnh choáng, Duy Bảo không còn biết gì, không nhận định được. Mọi thứ mờ ảo như khói sương giăng.

Bóng trắng nhảy múa bên thành giếng. Tiếng hú dài từ cõi âm ty vọng lại. Giọng ma quái ai oán rủ rê:

- Xuống... giếng... chơi.

Duy Bảo kinh hoảng.

- Trời ơi!

Bảo mà bị xô xuống giếng thì chết mất. Tiếng cười the thé vang lên:

- Hà... hà... xuống chơi!

Nhìn thấy bóng trắng là đà bên thành giếng, Duy Bảo đâm ra mơ hồ, đôi mắt Bảo bắt đầu sinh ảo giác:

Lại một bóng đen chui lên từ giếng.

Miệng Duy Bảo há ra nhưng quai hàm cứng đơ, Bảo không nói gì được. Toàn thân Bảo rã rời, sống lưng lạnh buốt.

Bóng đen ma quái bấu cổ Duy Bảo.

Ôi! Nó sẽ lôi Duy Bảo xuống giếng đây.

Giọng khàn khàn rít lên:

- Ha ha... Có đứa thế mạng rồi.

Cái giọng của cõi âm ty địa ngục khiến Duy Bảo kinh hồn bạt vía. Sợ điếng người, Duy Báo hét lên:

- Đừng... xô!

Và Duy Bảo mở trừng mắt khi thấy bóng đen xô mạnh một người xuống giếng.

- Ối!

Vẫn là tiếng thét của Duy Bảo, phút chốc bóng đen, bóng trắng xẹt nhanh như những con đom đóm.

Duy Bảo thiếp đi chẳng còn biết gì nữa.

Đằng Đông, mặt trời ửng đỏ.

Sương lam giăng giăng trên đồi bắt đầu nhạt dần như những làn khói bay bay.

Những tia nắng hồng xuyên qua khung cửa sổ chiếu vào phòng. Nam Khang kinh dị khi phát hiện Duy Bảo nằm dưới đất nơi cửa ra vào.

- Trời đất! Sao nằm đây hả Bảo? Mày đâu phải con nít mà té khỏi giường rơi bịch xuống đất.

Duy Bảo dụi mắt ngó quanh:

- Tao nằm đây hả?

Thiên Tùng và Nam Khang xúm lại đỡ Bảo lên giường.

Nét hoảng sợ vẫn còn hiện trên gương mặt Duy Bảo:

- Vậy là nằm mơ?

Nam Khang pha trò:

- Mơ thấy em nào hả mậy?

Duy Bảo vỗ vỗ trán:

- Một cơn ác mộng kinh hoàng.

Thiên Tùng thắc mắc:

- Chiêm bao mộng mị gì vẫn nằm trên giường, tao với thằng Khang có xô mày đâu chứ?

Duy Bảo thở đứt quãng kể:

- Tao thấy hồn ma kéo tao ra giếng đòi xô tao xuống giếng.

Nam Khang hồi hộp:

- Mày có bị xô không?

- Tao la quá chừng.

- Vậy là không bị.

- Nhưng tao thấy hồn ma có xô một người thật nhanh rồi biến nhanh.

Thiên Tùng nhận định:

- Chỉ là một giấc mộng.

Duy Bảo bồn chồn:

- Một cơn ác mộng kinh hoàng mày ạ!

Nam Khang thắc mắc:

- Và kinh dị nữa, tại sao mày nằm mơ mà dưới đất?

Duy Bảo lo âu:

- Tao cũng không hiểu nữa, chẳng lẽ ma lôi tao xuống đây.

Nam Khang gật đầu:

- Dám lắm à?

Thiên Tùng có vẻ trầm tư nghĩ ngợi: Có cái gì đó không ổn ở nhạc viện này.

Tại sao đám sinh viên cứ nhìn thấy ma, bị ma nhát, hết người này đến người kia.

Ma quỷ càng lúc càng lộng hành ở nhạc viện. Có ma thật không? Câu hỏi cứ xoay quanh đầu óc Thiên Tùng.

Đưa mắt nhìn Nam Khang và Duy Bảo, Thiên Tùng tặc lưỡi:

- Tao cảm thấy nhạc viện có cái gì đó bí mật.

Nam Khang tuôn một hơi:

- Thì nhạc viện cổ nên có vẻ bí mật, bí hiểm mà có ma.

Thiên Tùng hỏi lại:

- Mày tin là có ma hả?

- Đứa nào cũng nhìn thấy và bị ma nhát.

Thiên Tùng lắc đầu:

- Tao không hiểu tại sao cứ mỗi lần tụi mình nhắc ma hay bàn tán thì nó xuất hiện và càng lúc càng nhiều nữa chứ.

Duy Bảo hoang mang:

- Hổng lẽ oan hồn ma nghe bọn mình nói chuyện?

Nam Khang buông gọn:

- Chắc chắn oan hồn ma vất vưởng khắp nhạc viện.

Thiên Tùng nói một cách quả quyết:

- Tao nhất định sẽ khám phá nhạc viện xem có gì đặc biệt, các oan hồn ma ở đâu.

Nam Khang nhìn Thiên Tùng:

- Hồn ma ở đâu làm sao mày biết?

- Bởi vậy tao phải đi tìm.

Duy Bảo nói mơ hồ:

- Hồn ma từ giếng nước đi lên mày ạ!

Thiên Tùng lẩm bẩm hỏi một mình:

- Tại sao hồn ma kéo thằng Bảo ra nằm dưới đất ngủ?

Nam Khang ra vẻ hiểu biết:

- Tao nghe nói có người bị ma dẫn đi chơi giấu vào lùm cây không biết đường về.

Không quan tâm đến lời của Nam Khang, Thiên Tùng bỗng hỏi:

- Ê, Bảo! Mày có bị té không? Ráng nhớ lại coi?

Duy Bảo nhăn mặt:

- Mày làm như tao là con nít vậy, lăn một vòng rớt xuống đất.

Thiên Tùng kết luận:

- Không té thì bị kéo.

Nam Khang gật gù:

- Đã bảo thằng Bảo bị ma kéo ra giếng nước mà.

- Ma giếng nước, lạ thật.

Vừa lúc đó Nguyệt Thư, Tịnh Đoan và Tố Mẫn lục đục kéo sang. Mặt Nguyệt Thư có vẻ bơ phờ:

- Thư chịu hết nổi rồi. Không ở nhạc viện nữa đâu.

Thiên Tùng quan tâm:

- Chuyện gì vậy Thư?

- Ma!

Tịnh Đoan bổ sung:

- Ma quỷ lộng hành, hãi hùng quá. Không thể ở đây nữa, phải về thôi các bạn ơi.

Nam Khang khôi hài:

- Kể cũng lạ, bọn mình cả đám trẻ khoẻ mà sợ mấy con ma vô hình.

Tố Mẫn nhăn mặt:

- Oan hồn ma ở trong bóng tối mới đáng sợ.

Thiên Tùng bày tỏ:

- Chúng ta không thể vì mấy con ma mà bỏ dở đợt thực tập, công lao học hành vất vả bao năm qua không thể bỏ phí.

Nguyệt Thư thở dài:

- Phải tính sao bây giờ? Thư với mấy bạn sợ quá, Tùng ạ.

Tịnh Đoan nhíu mày:

- Đành bó tay nhìn mấy con ma hoành hành mình mãi sao?

Thiên Tùng mỉm cười:

- Mình sẽ hoành hành lại mấy con ma.

Tịnh Đoan cười hỏi:

- Lớp trưởng nói chuyện tiếu hỉ? Bạn định nhát lại mấy con ma hỉ?

Thiên Tùng gật gù:

- Ừ! Chắc chắn mấy con ma phải sợ mình?

Nam Khang xen vô:

- Nó sợ dữ lắm nên mình phải bỏ chạy thục mạng.

Cả bọn bật cười trước câu pha trò của Nam Khang, tình hình có vẻ bớt căng thẳng.

Thiên Tùng bỗng thốt lên:

- Nhạc viện phải có cái gì đó nên mới có oan hồn ma.

Nguyệt Thư nhìn Thiên Tùng đăm đắm:

- Theo Tùng thì có cái gì hả?

Duy Bảo đáp thay:

- Ai biết cái gì là cái gì! Hì... hì…

Thiên Tùng dứ dứ tay:

- Cái thằng!

- Chứ mày nói cái gì mơ hồ quá!

Nguyệt Thư quả quyết:

- Thư nghĩ là có oan hồn chết dưới giếng nước?

Thiên Tùng phẩy tay:

- Chỉ là do Thư tưởng tượng thôi.

Nguyệt Thư phụng phịu:

- Chắc có mà. Tại hỏi bác Ngàn không chịu nói.

Nam Khang tặc lưỡi:

- Nhạc viện cổ xưa mà bác bảo vệ cũng cổ quái.

Thiên Tùng nhắc nhở:

- Thôi, đừng bình luận về bác Ngàn, coi chừng xúc phạm người lớn đấy.

Nam Khang cà rỡn:

- Có ai gọi là Ca-si-mô-nô nữa đâu mà xúc phạm.

Thiên Tùng phàn nàn:

- Thằng quỷ! Cứ Ca-si-mô-nô hoài. Bác có lưng gù cũng tội lắm.

Nguyệt Thư chép môi:

- Thư cứ tiếc là sao bác Ngàn không nói được.

Duy Bảo nhận định:

- Có lẽ bác bị câm điếc bẩm sinh.

Tịnh Đoan lắc đầu:

- Mô có điếc, bác nghe được mà.

- Vậy là chỉ câm bẩm sinh.

Tố Mẫn lại thắc mắc:

- Câm thì ai mà thuê làm bảo vệ nhỉ?

Duy Bảo trả lời:

- Có lẽ bác ở gần đây, gần gũi gắn bó với nhạc viện nên người ta thuê làm bảo vệ.

Trong khi Thiên Tùng bảo đừng nói đến bác Ngàn mà các bạn lại bàn tán rất sôi nổi. Thiên Tùng cũng lờ luôn.

Anh thấy bác Ngàn cổ quái như các bạn nói nhưng mà không đáng sợ. Đầu tóc râu ria bác hơi dài, lưng gù bởi chiếc bướu nhỏ, bác sống như chiếc bóng ở nhạc viện và âm thầm làm việc không phàn nàn chi ai.

Nhạc viện có bác Ngàn càng tăng thêm vẻ kỳ bí, cô tịch.

Phần 4

Chủ nhật nghỉ, thầy Việt Thái đi chơi cùng vợ và mẹ vợ tương lai.

Nguyệt Thư, Tịnh Đoan, Tố Mẫn rủ nhau đi chơi mua sắm.

Dù thế nào cũng phải hoàn tất đợt thực tập. Tất cả quyết tâm ở lại nhạc viện. Nói theo giọng bông đùa của Nam Khang là phải sống chung với mấy con ma như người ta sống chung với lũ vậy.

Tố Mẫn ân cần hỏi mấy bạn nam:

- Tụi tui đi chợ, mấy ông có gửi mua gì không?

Nam Khang tinh nghịch:

- Mua hết chợ mang về.

Tố Mẫn dài giọng:

- Mua hết chợ thì ông đi mà mua.

- Tụi tui mắc ở nhà quản lý nhạc viện.

Nguyệt Thư cười thật hiền:

- Quản lý kỹ kẻo nhạc viện biến mất đó nghe.

- Chỉ sợ mấy bà đi chợ rồi biến mất thôi.

Nguyệt Thư ré lên:

- Í! Làm gì biến mất hả?

Nam Khang bông đùa:

- Bị... ma giấu mất.

Cả ba cô gái cùng la lên:

- Nói bậy không hà.

- Thì cổ xưa cũ kỹ hoang tàn, lạnh lẽo ma dễ ẩn náu.

Thiên Tùng đề nghị:

- Vậy bọn mình đi tìm xem oan hồn ma đang ẩn náu ở đâu.

Duy Bảo xua tay:

- Bọn ma ở thế giới cõi âm trong bóng tối làm sao mình thấy được.

Thiên Tùng tặc lưỡi:

- Thế giới tâm linh đầy bí mật.

Nam Khang láu táu hỏi:

- Mày có định nghiên cứu không hả?

- Nghiên cứu ma.

- Thôi đi ông!

Cả ba đang trò chuyện vội im bặt khi thấy bác bảo vệ lui cui cầm chổi quét dọn.

Thiên Tùng nói khẽ:

- Nhạc viện mà không có bác bảo vệ chắc trở thành tòa lâu đài hoang.

Duy Bảo đế vô:

- Và chỗ nào mày cũng thấy ma.

Thiên Tùng nhăn mặt:

- Cái thằng, lại nhắc đến!

- Vì đó là sự thật.

Nam Khang bổ sung thêm:

- Có lẽ mấy con ma ở đây đói khát dữ lắm nên nó mới lộng hành.

Thiên Tùng tiến tới chỗ bác bảo vệ, hỏi thật khẽ:

- Bác Ngàn ơi! ở đây có ma không hả bác?

Bác Ngàn trầm tư đưa ánh mắt già nua nhìn khắp chung quanh nhạc viện, lắc đầu một cách quả quyết.

Thiên Tùng lại hỏi nữa:

- Bác có thấy ma không? Bác có bị ma nhát lần nào chưa?

Nam Khang tặc lưỡi:

- Mày hỏi như là phỏng vấn bác Ngàn vậy.

Duy Bảo lên tiếng:

- Tao cũng muốn biết điều đó. Bọn mình bị ma nhát, chẳng biết bác có bị không?

Bác Ngàn vừa lắc đầu vừa tay làm hiệu không có.

Thiên Tùng kết luận:

- Bác Ngàn không bị, vậy là do bọn mình tưởng tượng mà thôi.

Duy Bảo phân vân:

- Cả bọn bị ma nhát mà tưởng tượng cả sao?

Bác Ngàn chăm chú nghe ba chàng sinh viên trò chuyện rồi ra dấu hỏi, môi bác cũng chừng như mấp máy:

- Ma à! Bị ma nhát hả?

Cả ba tranh nhau kể chuyện bị ma nhát cho bác Ngàn nghe.

Bác Ngàn ra chiều nghĩ ngợi rồi bác lại bỏ đi một hơi sang giếng nước, múc nước tưới cây.

Cả bọn ngơ ngác nhìn nhau. Thiên Tùng tặc lưỡi:

- Bác Ngàn lạ ghê.

Nam Khang phì cười:

- Đã nói là bác cổ quái rồi mà.

- Thôi đi mày!

Cả ba đi vào trong nhạc viện. Đến phòng nhạc cụ xem các loại đàn. Thiên Tùng nhận định:

- Công nhận nhạc viện đầy đủ các loại đàn, không thiếu thứ gì.

Duy Bảo giải thích:

- Đầy đủ để cho bọn mình tha hồ thực tập chứ.

Nam Khang ranh mãnh:

- Tao thấy vẫn còn thiếu.

- Thiếu gì hả?

- Thiếu nhạc phụ, nhạc mẫu.

Thiên Tùng cười bảo:

- Nhạc phụ, nhạc mẫu thì mày tự đi tìm đi.

Nam Khang lém lỉnh:

- Tao lo cho mày đấy chứ, ráng mà thực tập được lòng nhạc phụ, nhạc mẫu.

- Thằng quỷ! Nói chuyện khùng!

- Chuyện đại sự của mày mà khùng hả?

Thiên Tùng giải thích:

- Đại sự của tao bây giờ là làm sao cho cả bọn đừng bị nhát ma nữa đó.

Nam Khang la lên:

- Trời đất! Bộ mày định thương lượng với mấy con ma hả?

Thiên Tùng nhăn mặt:

- Thương lượng cái đầu mầy!

- Vậy chớ mà làm sao?

Thiên Tùng lắc đầu:

- Làm sao, tao cũng chẳng biết.

Nam Khang tặc lưỡi:

- Vậy mà cũng nói.

Duy Bảo cảnh báo:

- Coi chừng đến lượt thằng Khang gặp ma.

Nam Khang nói cứng:

- Ma nhát mày chứ hổng dám nhát tao đâu.

- Hừm! Để xem!

Rời khỏi phòng nhạc cụ, cả ba bước sang các phòng khác. Phòng nào bên trong cũng tối om om, chẳng có gì đặc biệt.

Lẽ ra nhạc viện phải có một sân khấu đặc biệt để biểu diễn chứ. Phòng hội trường cũng không có gì đặc biệt.

Cả bọn thường lên hội trường để nghe thầy Việt Thái hướng dẫn sử dụng nhạc cụ, rồi đàn thử. Nhưng Thiên Tùng thấy thầy chỉ hướng dẫn chung chung không cụ thể lắm. Trông thầy cũng không mặn mà với công việc lắm.

Thiên Tùng chợt nêu thắc mắc:

- Tụi bây có thấy lạ không?

Duy Bảo hỏi nhanh:

- Cái gì lạ hả?

- Thầy hướng dẫn tụi mình đó.

Nam Khang bông đùa:

- Lạ là phải! Thầy là người Việt gốc Thái mang hai dòng máu trong người nên cao to đẹp trai vừa giống người Việt vừa giống người Thái.

Thiên Tùng nhăn mặt:

- Tao có nói gốc gác của thầy đâu chứ!

- Vậy mày nói gì hả?

- Thái độ của thầy với bọn mình đó.

Nam Khang láu táu:

- Thì phải chặt mặt ngầu nghiêm nghị với bọn mình mới làm ông thầy hướng dẫn.

Thiên Tùng lắc đầu:

- Tao nói thái độ của thầy kìa. Lúc mới đưa tụi mình lên đây thực tập, thầy vui vẻ lo cho từng đứa, bây giờ thì lạnh lùng bỏ mặc tụi mình tự xoay xở. Tối thì thầy đi biệt không sinh hoạt chung.

Duy Bảo kêu lên:

- Vậy mới là thầy chứ?

Nam Khang bổ sung:

- Lúc này thầy có cô lên thăm cần phải đi chơi nên bỏ bê tụi mình chứ sao?

Thiên Tùng phàn nàn:

- Cái thằng! Tao có đòi thầy chăm tụi mình như con nít đâu.

- Thì mày nói thầy chẳng quan tâm?

- Tao nói là thầy không mấy nhiệt tình với bọn thực tập tụi mình.

Duy Bảo cười, giải thích:

- Thầy nghĩ tụi mình lớn rồi, tự lo cho mình.

Thiên Tùng nhún vai:

- Tự lo, vậy thì tụi mình đi thực tập làm gì hả?

Duy Bảo tỉnh bơ:

- Đi cho biết nhạc viện cổ có ma.

Nam Khang cười khà:

- Đúng quá!

Thiên Tùng cũng bật cười:

- Hai thằng quỷ! Chỉ có đề tài ma nói mãi.

- Chứ nhạc viện cổ thì có đề tài nào khác đâu. Thiên Tùng khẽ đùa:

- Tao sợ chuyến đi thực tập này về bọn mình chỉ giỏi kể chuyện ma chứ đàn ca hát nhạc gì cũng tiêu hết.

- Vậy hổng tốt nghiệp là cái chắc.

Đập vai Duy Bảo, Thiên Tùng kêu ca:

- Thằng quỷ! Đừng có trù ẻo!

- Mày sợ thi hỏng à? Có gì đâu, đậu rớt là chuyện thường.

- Cha mẹ nuôi cho ăn học, tốn kém biết bao, phải thi để đi làm trả ơn cha mẹ nghe mậy.

Duy Bảo nháy mắt:

- Nghe nói tưởng mày có hiếu lắm?

Thiên Tùng nghiêm túc:

- Tao mong là sau đợt thực tập trở về, bọn mình sẽ tự tin hơn.

Nam Khang tinh quái:

- Tin là nhạc viện có ma.

Thiên Tùng hỏi lại:

- Ma... yêu của mày đó hả?

- Ma... giếng của thằng Bảo.

Duy Bảo láu táu:

- Ma giếng của các tiểu thư lớp mình nữa.

Bỗng nhiên Thiên Tùng thốt lên:

- Ma...ơi là ma! Ai sinh ra ma?

Cả ba cười rộ lên.

Nhưng nụ cười vội tắt ngay khi thấy thầy Việt Thái lù lù đi tới. Bất ngờ quá! Thầy ở đâu mà xuất hiện vậy, cứ như là từ dưới đất chui lên. Thiên Tùng nhanh nhẹn ứng phó:

- Thầy ạ!

Thầy Việt Thái cố giấu vẻ khó chịu:

- À… các em làm gì ở đây?

Nam Khang nhanh nhảu:

- Tụi em trò chuyện.

- Không đi chơi hả?

- Dạ, cũng định đi đó thầy.

Bà Hồ Thúc và cô Hồ Thủy từ ngõ ngách nào đi tới. Cô Hồ Thủy đến bên thầy Việt Thái:

- Mình đi anh.

Ba người bước ra ngoài, thầy Việt Thái lầm bầm:

- Phải đối phó với lũ nhóc này, bực quá!

Buổi gặp khá bất ngờ với thầy Việt Thái vẫn còn ám ảnh bộ ba Thiên Tùng, Duy Bảo, Nam Khang.

Nam Khang tặc lưỡi:

- Cứ tưởng thầy dung dăng dung dẻ với cô ở ngoài phố sao lại xuất hiện ở đây nhỉ?

Duy Bảo pha trò:

- Tao tưởng thầy ở dưới đất chui lên ở chỗ tụi mình đứng.

Thiên Tùng ồ lên:

- Mày nói tao chợt nghĩ ra, ở dưới đất chui lên tức là có đường từ dưới đất đi lên, từ trên đi xuống đất.

Duy Bảo vờ rụt cổ:

- Đường đi xuống đất là đi xuống âm ty địa ngục gặp ma đó hả?

Đập vai Duy Bảo, Thiên Tùng la lên:

- Thằng quỷ! Dẹp chuyện ma đi! Tao nói con đường thật, biết đâu là đường ngầm.

Duy Bảo thắc mắc:

- Đường ngầm đi đâu hả?

- Đi xuống một tầng hầm.

- Đến lượt mày tưởng tượng rồi đó.

Nam Khang phát biểu:

- Một tầng hầm, cũng có thể thằng Tùng nói đúng, biết đâu.

Thiên Tùng hào hứng khi có đồng minh:

- Tụi mình đi khám phá tầng hầm.

Duy Bảo lại hỏi:

- Tầng hầm giống như ở địa đạo Củ Chi phải không?

Thiên Tùng mỉm cười:

- Khám phá mới biết chứ?

- Chắc biết ở dưới tầng hầm có gì nhỉ?

- Làm sao tao biết chứ?

Nam Khang nôn nóng:

- Vậy hãy đi khám phá ngay cho biết.

Cả ba vừa bước ra cửa chợt thấy bóng đen là đà lướt tới phía sau, và một bóng trắng phất phơ.

Duy Bảo hét lên trước tiên:

- Ôi! Ma... ma...

Khuôn mặt hồn ma thật kinh dị, chằng chịt, nanh vuốt. Hai hố mắt đỏ lòm như máu và sâu hăm hoắm.

Bóng đen tiến đến ngay Duy Bảo hai cánh tay lõng thõng vươn dài huơ huơ. Duy Bảo càng lùi lại lùi lại.

Hai bàn tay ma xương xẩu với các móng vuốt bấu vào vai Duy Bảo. Duy Bảo chỉ còn biết thét lên và ngã xuống nền nhà rêu phong ẩm ướt. Thiên Tùng và Nam Khang kinh hãi nhìn oan hồn ma đang chụp Duy Bảo.

Bỗng một chuỗi cười man dại cất lên, có lúc lại the thé rờn rợn khiến cả hai sợ điếng ngược hồn như đang treo ngược trên cành cây. Bóng đen rên hừ hừ trong cổ họng rồi bất thình lình quay sang Nam Khang le cái lưỡi dài ngoằng đỏ như máu huơ khắp mặt Nam Khang.

Tay chân Nam Khang rụng rời khắp người lạnh toát.

Khuôn mặt ma quái kinh dị kề sát mặt Nam Khang. Nam Khang khiếp đảm nhắm mắt lại.

Chưa bao giờ Nam Khang trong thấy một gương mặt nào gớm ghiếc đến như vậy. Khuôn mặt ma quỷ chui lên từ địa ngục.

Bóng áo trắng thùng thình, ẻo lả lướt nhẹ đến bên Thiên Tùng. Mái tóc ma nữ liêu trai trắng toát dài chấm gót thật rùng rợn, hai cánh tay áo ma quái phần phật bay bay.

Thiên Tùng kinh hãi khi tiếng khóc ai oán vang bên tai.

Vòng tay ma quái choàng quanh cổ Thiên Tùng, khiến Thiên Tùng sởn da gà. Toàn thân mền nhũn, Tùng không có sức kháng cự nào với bóng ma. Vòng tay ma lạnh ngắt vẫn siết lấy cổ Thiên Tùng. Anh cảm giác như là con rắn quấn quanh.

Con rắn sặc sỡ da trơn, mềm èo đang trườn trên mình Thiên Tùng. Thiên Tùng hoảng loạn tiếng thét chỉ bật ra thành tiếng ú ớ:

- Ối! Ma... rắn...

Cơn hoảng loạn của Thiên Tùng vẫn còn kéo dài khi bên ngoài những cơn gió gào rú rền vang.

Gió từ trên đồi lướt thướt kéo qua hàng thông xanh rít mạnh liên hồi. Tiếng khóc nỉ non vẫn chưa buông tha, Thiên Tùng khiếp đảm thiếp đi. Bóng ma vụt biến mất.

Tất cả chỉ là cơn chiêm bao mộng mị.

Buổi sáng tỉnh dậy, cả ba thấy mình nằm dưới đất.

Sàn gạch ẩm nước lạnh lẽo như có cái gì đó âm u khó chịu. Căn phòng của nhạc viện dường như cả trăm năm không ai dọn dẹp giờ càng thêm vẻ thê lương rờn rợn.

Thiên Tùng dụi mắt nhìn Nam Khang và Duy Bảo đều co ro ở dưới đất như mình.

- Tại sao ba đứa mình nằm ở dưới đất?

Vẫn còn trong trạng thái lơ mơ nhưng Nam Khang cố pha trò:

- Nằm ở dưới đất vì ba đứa mình không thích nằm trên giường.

Thiên Tùng vỗ trán:

- Tao nhớ tụi mình định đi khám phá tầng hầm.

Duy Bảo ngồi bật dậy hỏi:

- Mình có đi xuống tầng hầm không?

Thiên Tùng bực dọc:

- Mới xuống đất đây nè.

Duy Bảo tặc lưỡi:

- Sao kỳ quá nhỉ?

Nam Khang khẽ hỏi:

- Tao thấy oan hồn ma vào phòng mình, hai đứa bây có thấy không?

Thiên Tùng lầm bầm khó chịu:

- Tại sao ma quỷ vào tận phòng mình vậy nhỉ?

Nam Khang cà rỡn:

- Bởi vì ma thích tụi mình.

- Thích mày thì có, chứ ma nó vặn cổ tao.

Nam Khang kể:

- Nó liếm mặt tao, cái lưỡi dài cả thước đỏ như máu. Tao còn sợ chết khiếp đây này.

Thiên Tùng bất ngờ hỏi:

- Mày thì sao có thấy gì không Bảo?

Duy Bảo bồn chồn:

- Tao thấy gương mặt ma quỷ ghớm ghiếc, đáng sợ quá.

Thiên Tùng thắc mắc:

- Ta đang tự hỏi tại sao tụi mình vừa định khám phá tầng hầm thì oan hồn ma lại xuất hiện ngang nhiên như vậy.

Nam Khang bình luận:

- Buổi tối là giờ hoạt động của bọn ma quái mà.

Duy Bảo phẩy tay:

- Thôi, đừng nhắc bọn ma quái nữa. Nhắc đến chúng, tao chỉ mưốn bỏ về thành phố, không thực tập gì cả.

Thiên Tùng trấn an:

- Dù có sợ ma cũng phải trấn tĩnh lại.

Duy Bảo nhún vai:

- Làm như mày không sợ vậy?

- Sợ, nhưng tao vẫn hỏi tại sao?

- Mày biến thành mấy con ma đi rồi biết tại sao hà.

- Thằng quỷ!

Hoàng hôn phủ tím đỉnh đồi xa. Nhạc viện bắt đầu chìm trong bóng tối mờ ảo.

Gió cao nguyên thổi lạnh, càng làm cho nhạc viện hoang vắng nhuốm màu âm u.

Những đốm sáng lập lòe, xẹt tới xẹt lui lấp láy khắp ngoài nhạc viện. Giờ này nhóm sinh viên thực tập chẳng dám bén mảng ra ngoài. Bác Ngàn bảo vệ đi tuần tra khắp khu nhạc viện.

Hồi nào giờ làm bảo vệ ở đây, bác chưa từng thấy ma, cũng đâu có nghe nói nhạc viện có ma.

Vậy mà đám sinh viên về đây thực tập đã gặp ma. Đứa nào cũng hỏi bác ở nhạc viện có ma không, bác chẳng thể trả lời được.

Bác Ngàn lang thang ra giếng nước.

Trời tối om, cái giếng nước dựng đứng nổi bật bên lùm cây chằng chịt cỏ gai.

Ở đây cỏ mọc nhanh kinh khiếp, bác vừa làm xong chỗ này thì chỗ kia cỏ lại mọc lên.

Cái giếng nước vẫn sừng sững trong bóng đêm. Nó là hình ảnh gắn bó của nhạc viện.

Có nhạc viện thì có giếng nước. Theo bác Ngàn biết thì đâu có ai đâm đầu xuống giếng tự tử chết đâu. Bác chưa từng thấy oan hồn ma ở giếng nước, vậy mà lũ sinh viên đến thực tập lại hỏi bác.

Ai thêu dệt đồn đãi với bọn sinh viên về hồn ma giếng nước mà chúng cứ hỏi bác.

Bọn sinh viên còn bị ma giếng nước nhát, bắt xô xuống giếng nữa. Lạ thật! Bác Ngàn đưa mắt nhìn quanh giếng nước. Bác có thấy hình thù con ma nào đâu.

Bác Ngàn tần ngần trở về. Đi ngang cửa sau của nhạc viện, bác chợt phát hiện có những tiếng nói văng vẳng trong lùm cây.

- Anh ơi! Có một tầng hầm thật chứ?

- Mục đích của anh là vì nó. Anh đã tìm ra được tầng hầm đó theo đúng sơ đồ anh đã có. Tầng hầm chứa nhiều báu vật.

Giọng phụ nữ lảnh lót reo vui:

- Ôi! Thật là tuyệt vời!

- Vì vậy, em với mẹ mới cùng với anh đưa báu vật từ từ ra ngoài.

- Em nghĩ trước tiên mình đưa ngọc ngà, châu báu các bình cổ, rồi từ từ đến các nhạc cụ.

- Phải từ từ chứ không thể đưa lên cùng một lúc. Quan trọng là ta phải chuyển được hết các báu vật ra khỏi nhạc viện.

- Có em và mẹ chuyển anh khỏi lo gì cả.

- Có vòng ngọc, dây đeo để mẹ đưa đi thẩm định.

- Con bảo đảm toàn là trân châu, ngọc bích quý.

- Ngọc ngà, châu báu, bình cổ thì dễ chuyển rồi.

- Các thứ đó mình làm nhanh, chỉ có các nhạc cụ cồng kềnh là khó khăn.

- Có khó gì mình cứ công khai chuyển lên khỏi tầng hầm, bảo là đưa đi thẩm định, ai thấy cũng thản nhiên.

- Không qua được bọn sinh viên đâu.

- Thì anh giở ngón nghề ra làm cho chúng kinh hoàng bạt vía.

- Đêm nào cũng phải uy hiếp tinh thần bọn chúng, mình mới được yên thân chứ bộ.

- Lũ trẻ thường tò mò, hay để ý chuyện nhưng đứa nào cũng chết nhát sợ ma.

- Chúng sợ ma mới không dám ra khỏi phòng, mình mới hành động được.

- Vậy anh cứ tiếp tục làm... ma.

- Muốn làm chủ kho báu nên anh phải ráng chứ mệt muốn chết.

- Em sẽ phụ với anh.

- Chúng ta sắp đặt mục đích rồi chỉ cần các con cố gắng.

- Em nghĩ xong việc rồi anh nên chuyển qua ngành biểu diễn.

- Trời đất! Em còn chọc anh nữa!

- Anh biểu diễn còn hay hơn ông thầy dạy nhạc.

- Anh thích làm chủ kho báu chứ có thích dạy nhạc đâu.

- Chuyển hết kho báu lên khỏi tầng hầm thì anh sẽ làm chủ.

- Giá ban ngày chuyển được, anh chuyển quách lên cho lẹ.

- Anh không được lộ bí mật đó.

- Tài giỏi như anh làm sao lộ bí mật được hả cưng?

Tiếng cười thích thú vang lên.

Bác Ngàn đã hiểu tất cả, ba người họ là thầy Việt Thái và hai mẹ con người mẫu Hồ Thủy.

Bọn họ đang âm mưu ăn cắp kho báu của khu nhạc viện, vậy mà bác Ngàn nào hay biết, bác tự trách mình là bảo vệ mà không biết được những âm mưu, toan tính, thấp hèn.

Gã Việt Thái là thầy hướng dẫn thực tập mà lại có mưu đồ chiếm đoạt tài sản.

Thảo nào, làm thầy mà không lo hướng dẫn giảng dạy học sinh, thầy cứ đi vắng hoài, nhất là ban đêm thì biến mất, khiến lũ sinh viên cứ luôn bàn tán.

Ai đời đang hướng dẫn thực tập mà lại đưa vợ và mẹ vợ đến nhạc viện chơi. Bác Ngàn nghiến răng tức tối. Đồ vô lương tâm, xấu xa.

Rồi bác lại ngẩn ra. Một người thầy giáo hướng dẫn giảng dạy học sinh mà lại làm việc xấu như vậy sao?

Ôi! Thật không thể nào hiểu được!

Hết giờ học, Nam Khang láu táu hỏi thầy Việt Thái:

- Theo thầy thì ở nhạc viện này có các đường hầm, hầm ngầm không hả thầy?

Thầy Việt Thái cau mặt:

- Đây đâu phải là khu kháng chiến mà có các hầm ngầm.

- Em thấy nhạc viện cổ nên em ngỡ là có hầm ngầm.

Thiên Tùng đá chân Nam Khang mà anh chàng ta vẫn huyên thuyên. Cái thằng ham nói. Đã bảo để cả bọn khám phá cho biết thôi, vậy mà làm lộ bí mật.

Thầy Việt Thái cau có:

- Các em quan tâm làm chi những chuyện chẳng liên quan gì đến việc thực tập của mình.

Nói xong, thầy bỏ đi ngay, sợ đứng đây lũ sinh viên sẽ hỏi những câu thầy không thể trả lời.

Nam Khang cười khẩy:

- Thầy cũng mù tịt như tụi mình.

Thiên Tùng phàn nàn:

- Ai bảo mày hỏi?

- Không biết thì hỏi chứ sao?

Nguyệt Thư lại thắc mắc:

- Bộ nhạc viện có tầng hầm thiệt hả Khang?

- Ai biết đâu, đó là sản phẩm của Thiên Tùng.

Nguyệt Thư quay sang Thiên Tùng:

- Có tầng hầm hả Tùng?

Thiên Tùng tỉnh bơ:

- Bọn mình định khám phá xem có không vậy mà.

Tố Mẫn thích thú:

- Nếu có tầng hầm, bọn mình chui xuống dưới chơi.

Duy Bảo cắc cớ hỏi:

- Dám không đó Mẫn?

Tố Mẫn hất mặt:

- Sợ gì không dám?

- Sợ ma!

- Vô duyên!

- Tầng hầm có ma đó.

- Tầng hầm để cho mình tham quan chứ bộ.

Tịnh Đoan lên tiếng:

- Tầng hầm là nơi bí mật.

Nam Khang nháy mắt:

- Đoan nói bí mật thì Thiên Tùng càng nổi máu trinh thám.

Thiên Tùng cười hỏi. Tịnh Đoan đáp tỉnh:

- Bí mật gì chỉ có chủ tầng hầm biết thôi.

Nam Khang trề môi:

- Vậy mà cũng nói.

- Đoan nghe nói ở ngoài Huế các cung điện đền đài của hoàng đế đều có hầm ngầm.

- Còn ở nhạc viện?

- "Bất" biết.

Duy Bảo nhận định:

- Bọn mình ở nhạc viện cổ xưa nên cái gì cũng nghĩ ra. Hết giếng nước có ma rồi đến nhạc viện có tầng hầm.

Nam Khang cười khì:

- Cuối cùng thì chẳng có gì hết.

Thiên Tùng nhăn mặt:

- Không có gì hết mà cả bọn thì cứ bị oan hồn ma ám mãi bực muốn chết.

Nam Khang pha trò:

- Đừng bực? Cứ sống chung với ma là ổn.

- Tao thấy có gì không ổn.

- Đừng thấy gì cả.

Nguyệt Thư hỏi lại:

- Khang nhắm có sống chung với ma được không?

- Không được thì chuồn.

Thiên Tùng nhắc nhở:

- Chưa xong đợt thực tập, không được chuồn nghe. Nam Khang đùa đùa giọng:

- Biết rồi lớp trưởng, khổ lắm nói mãi.

Duy Bảo cười châm chọc:

- Xong đợt thực tập, nếu mày còn mê khám phá, cứ ở lại khám phá tầng hầm.

Thiên Tùng kêu ca:

- Một mình tao ở lại khám phá với ai?

- Với Nguyệt Thư!

Nguyệt Thư ré lên:

- Vô duyên!

Duy Bảo gãi đầu nhìn sang Tịnh Đoan:

- Đoan thấy Bảo có duyên hay vô duyên?

Tịnh Đoan khôn ngoan:

- Không thấy gì cả.

- Vậy là Đoan chẳng bao giờ để ý gì đến Bảo. Ôi, đời Bảo sao buồn thế!

Tố Mẫn châm chọc:

- Cho đáng đời Bảo! Bộ mong có người để ý lắm hả. Mong Tịnh Đoan để ý hà.

Cả bọn cười rộ lên. Tịnh Đoan e thẹn mặt đỏ bừng:

- Bảo nói dị rứa!

Nam Khang ra vẻ ân cần:

- Duy Bảo thích thế. Tịnh Đoan hãy để ý nó giùm đi mà.

Tịnh Đoan nhăn mặt:

- Không nói giỡn nữa nha!

Thiên Tùng giơ tay lên:

- Chấm dứt tiết mục giỡn, chuẩn bị đi ăn cơm. Buổi chiều thực hành đó nghe.

Ăn cơm tối xong, ba cô gái định kéo sang phòng các chàng trai thì thình lình điện cúp.

Nguyệt Thư hoảng hốt la lên:

- Ối điện cúp rồi, tối om!

Tố Mẫn giả vờ la:

- Nhỏ này, điện cúp có gì đâu mà cũng la.

- Tối om mà bảo đừng la. Bóng tối rất đáng sợ vì nó đồng lõa với mờ ám.

Nghe Nguyệt Thư triết lý,Tố Mẫn chắp tay:

- Cầu mong có điện nhanh kẻo vấn đề mờ ám xảy ra.

Tịnh Đoan loay hoay tìm cây nến. Chưa thấy đâu thì điện đã sáng lên. Cả bọn mừng rỡ.

Bỗng điện cúp nữa. Bên ngoài có tiếng mèo hoang kêu thật ai oán. Tịnh Đoan kinh hãi. Bữa nọ Đoan và Nguyệt Thư bị một phen kinh hãi bởi con mèo từ đâu phóng vào. Để đề phòng, cả ba nhảy phóc lên giường trùm chăn.

Một bóng trắng lướt thướt vào phòng, dáng ẻo lả, phất phơ, bàn chân không chạm đất.

Mái tóc trắng ma quái xổ tung dài đến gót.

Bóng ma trắng toát lướt đến chỗ ba cô gái, đưa tay quơ quào chiếc mền.

Nguyệt Thư nằm ngoài tim muốn ngừng đập. Đầu óc hoảng loạn muốn đưa tay lên cào cấu mà tay chân Thư chẳng nhúc nhích được.

Gương mặt gớm ghiếc khiến Nguyệt Thư không dám nhìn nhưng vẫn nhìn như bị thôi miên.

Hàm răng trắng nhởn nhô ra những chiếc răng nanh đáng sợ.

Bóng dáng ma quái khiến ăn phòng mang vẻ âm u cô tịch.

Một lát sau, oan hồn ma áo trắng là là ra khỏi phòng.

Sang phòng của các sinh viên nam, bóng trắng cùng bóng đen nhảy múa loạn xạ.

Một lát sau, cả hai oan hồn chập chờn biến vào trong đêm tối mang theo một luồng gió ma quái nồng nặc hương...

Trong căn phòng riêng. Hồ Thủy đang ngồi trong lòng Việt Thái:

- Bật điện lên đi anh!

- Thôi, đốt nến cho lung linh mờ ảo. Vả lại, mình đang cúp điện phòng tụi nó.

- Xong rồi mà anh, bật đèn.

- Cũng phải để tụi nó sợ chết khiếp.

- Chúng ngấm thuốc mê của anh rồi, tới sáng mai cũng chưa thức.

Việt Thái bẹo má Hồ Thủy:

- Mình xuống tầng hầm chuyển đồ nghe cưng.

Hồ Thủy nhìn Việt Thái:

- Công nhận anh làm oan hồn ma giống ghê. Em nhìn thấy cũng phát khiếp.

- Em cũng vậy thôi.

Hồ Thủy nũng nịu:

- Làm ma xấu xí bực muốn chết.

Việt Thái hôn Hồ Thủy đắm đuối:

- Em là ma nữ đáng yêu của anh.

Hồ Thủy lắc đầu õng ẹo:

- Ma nữ... em hổng chịu đâu.

- Vậy làm vợ ma nghe cưng?

Việt Thái giả vờ rên:

- Hừ hừ... hà hà... ma nữ nghe ta đây!

Hồ Thủy cười khúc khích. Việt Thái giục:

- Mình đi em!

- Mẹ đâu anh.

- Mình đi gọi mẹ.

Cả hai chưa kịp đứng lên bất chợt một giọng cười gằn vang lên, tiếp theo là tiếng cười khàn đục kéo dài.

Hồ Thủy sợ hãi, muốn thét lên khi cô vừa nhìn thấy bóng đen ma quỷ lù lù xuất hiện trước mắt.

Khuôn mặt quỷ sứ khiến Hồ Thủy kinh hồn. Cái đầu lâu nhẵn thín, hai hố mắt đen ngòm, miệng há ra toang hoác như muốn ăn tươi nuốt sống Hồ Thủy. Tiếng rên xiết vang lên "hự hự" khiến Hồ Thủy khiếp đảm không nói được lời nào.

Hồn ma rủ rê:

- Đi chơi! Đi... chơi...

Bóng ma chờn vờn trước mặt Hồ Thủy. Mà Hồ Thủy đang ngã đè trên người Việt Thái.

Việt Thái cứng người không cựa quậy được cũng chưa hoàn hồn. Bóng đen ma quái, phải nói là quỷ sứ thì đúng hơn, giơ mười ngón tay đầy móng vuốt như móng diều hâu cào cấu lên cổ, lên mặt Việt Thái.

Việt Thái nhắm mắt kinh hãi. Bóng ma vỗ về:

- Đừng khóc! Ăn bánh nè!

Việt Thái ú ớ.

Và oan hồn ma đã nhét vào mồm việt Thái chiếc bánh ngọt thơm ngon. Cả Hồ Thủy cũng vậy.

Sáng hôm sau, Việt Thái và Hồ Thủy bừng tỉnh dậy. Cả hai ngơ ngác thấy mình nằm dưới đất lạnh lẽo.

Kinh hoàng vì không nói được, cả hai phát hiện ra trong miệng đầy đất đỏ. Nhả ra, ho sặc sụa, Hồ Thủy sợ sệt:

- Mình bị ma rồi anh ơi. Ma cho ăn đất, em thấy ăn bánh rõ ràng mà.

Việt Thái bối rối không sao hiểu được. Lũ sinh viên bị thuốc mê của anh, đêm nào cũng thấy ma rồi mê man đến sáng.

Bây giờ Việt Thái và Hồ Thủy gặp ma. Hai người giấu nhẹm chuyện bị ma cho ăn đất đỏ.

Lát sau, còn phát hiện bà Hồ Trúc bị ma giấu ngoài lùm cây và cho ăn đất đỏ.

Bà Hồ Trúc trải qua cơn bấn loạn, không nói gì được. Hồ Thủy đưa mẹ về phòng chăm sóc. Bà thều thào:

- Về ngay, không ở nhạc viện này nữa con à.

Việt Thái trấn an:

- Xong rồi về, mẹ ạ.

Bà Hồ Trúc lo sợ:

- Mẹ không ở đây nữa con ơi. Con quỷ ghê sợ lắm. Nhạc viện đầy quỷ ma làm sao ở đây được.

Hồ Thủy hoang mang:

- Vậy là nhạc viện này có đầy ma, anh à.

Bà Hồ Trúc kể:

- Con ma giếng nước, nó cho mẹ ăn bánh.

Việt Thái bồn chồn:

- Thôi được rồi, chúng ta tranh thủ đem báu vật lên khỏi tầng hầm nhanh nhanh.

Phần 5

Bà Hồ Trúc canh cửa đã bị oan hồn ma đưa ra ngoài giếng nước cho ăn bánh.

Việt Thái và Hồ Thủy vừa rời khỏi phòng bước đi trong bóng đêm ra phía sau khu nhạc viện, chuẩn bị đến nơi xuống tầng hầm.

Bất chợt, không gian như chuyển động. Gió thổi ầm ầm.

Hàng thông trên đồi cao như cất những chuỗi cười dài thê thiết. Tiếng hú vang rền như tiếng chó tru ghê rợn.

Hồ Thủy sợ hãi ôm chặt Việt Thái:

- Ghê quá anh ơi!

Việt Thái trấn an:

- Đừng sợ, chẳng có gì đâu em.

Chẳng có gì đâu, nhưng chỉ một phút sau, một bóng đen là đà xuất hiện trước mặt hai người.

Khuôn mặt ma quái quằn quện đủ màu sắc thật kinh dị.

Hai cánh tay oan hồn ma buông thõng lõng bỗng giơ lên bấu vào vai Hồ Thủy.

Hồn cô như treo ngược trên cành cây thông.

Điếng người, Hồ Thủy kêu ré lên:

- Ối! Ma...

Và cô ôm chầm lấy Việt Thái nhưng đã bị bóng ma đẩy ra xô xuống đất. Việt Thái bị hai bàn tay ma quái siết chặt cổ.

Trời ơi! Bàn tay xương xẩu mà có một sức mạnh ghê gớm.

Việt Thái cựa quậy không thể bị oan hồn ma bóp cổ chết được.

Oan hồn ma vừa quật Việt Thái, vừa rên hự hự trong cổ họng. Nó lại đưa cái lưỡi dài ngoằng đỏ như máu tươi liếm khắp mặt Việt Thái, lạnh ngắt. Việt Thái khiếp đảm. Toàn thân, sởn gai ốc. Không vùng vẫy nổi với hồn ma, bị nó xô ngã nhào.

Oan hồn ma lấy bánh trong tay nải ra nhét vào miệng Việt Thái và Hồ Thủy.

- Ăn đi, bánh ngon lắm! Ha... ha... Còn nhiều nè.

Như cái máy, hai người cứ há mồm cho hồn ma nhét bánh, mà ánh mắt sửng sốt nhìn trừng vào màn đêm đen thăm thẳm ghê rợn...

Buổi sáng.

Tiếng gà gáy rộ ở phía xa. Chim chóc hót ríu ran trên ngàn cây. Chân trời đằng đông hé lên những vệt hồng.

Ông mặt trời ngạo nghễ hiện ra trên đỉnh đồi.

Nhưng ở nhạc viện vẫn lặng lẽ quạnh vắng.

Sắp đến giờ rồi chẳng thấy thầy đâu, cả bọn nháo lên:

- Hôm nay thầy cho nghỉ.

Nam Khang pha trò:

- Thầy cùng cô đi chơi rồi.

Nguyệt Thư cười hỏi Nam Khang:

- Tụi mình đi chơi luôn hén?

- Hỏi lớp trưởng xem được nghỉ hôn?

Tịnh Đoan tuyên bố:

- Nghỉ là cái chắc! Không có thầy, ai hướng dẫn đây?

Nam Khang dõng dạc:

- Vậy giải tán, ai về nhà nấy hoặc lên đồi thông chơi.

Nguyệt Thư dứ dứ ngón tay:

- Ông không phải là lớp trưởng, đừng tuyên bố ẩu.

Nam Khang cười khì:

- Thế lớp trưởng được hôn?

Tố Mẫn dài giọng châm chọc:

- Chỉ có nhỏ Nguyệt Thư mới có quyền thế lớp trưởng nghe.

Tịnh Đoan buột miệng hỏi:

- Ủa! Lớp trưởng và Duy Bảo đâu mất rồi, sao chưa tập trung ra đây?

Nam Khang gật gù:

- Thấy chưa, hai bằng hữu của chúng ta đã biết là hôm nay nghỉ nên khỏi tập trung.

Vừa lúc đó, Duy Bảo hớt hơ hớt hải chạy vào:

- Khang ơi! Mấy bạn ơi! Ra đây nhanh!

Nguyệt Thư hỏi nhanh:

- Chuyện gì vậy Bảo? Thiên Tùng có sao không?

Duy Bảo gấp gáp:

- Thầy... thầy bị...

Không nói trọn câu, Duy Bảo kéo Nam Khang chạy ra ngoài. Ba cô gái lục đục chạy theo.

Đến cuối nhạc viện, dưới lùm cây rậm rạp cả bọn thấy thầy Việt Thái và cô Hồ Thủy nằm sóng soài trên cỏ.

Gương mặt cả hai đầy vẻ thất thần, ngơ ngác.

Nam Khang ngạc nhiên hỏi nhanh:

- Việc gì xảy ra vậy Tùng? Tại sao thầy lại nằm ở đây?

Giọng cô Hồ Thủy vẫn còn sệt:

- Ma!

Cô không thể nói gì được vì trong miệng đầy đất đỏ. Thiên Tùng giải thích:

- Có lẽ thầy cô bị ma giấu ngoài này, chúng ta mau đưa thầy cô vào trong kẻo bị cảm lạnh.

Nguyệt Thư lo lắng.

- Chẳng lẽ suốt đêm thầy cô ở ngoài trời thế này?

- Cũng chẳng biết.

Ba cô gái xúm xít bên cô Hồ Thủy, cố lấy đất trong miệng cô. Quần áo đầu tóc cô Hồ Thủy cũng đầy cát và ướt đẫm sương đêm.

Thầy Việt Thái cũng thảm hại như vậy.

Thiên Tùng và Duy Bảo giúp thầy lấy cát trong miệng ra. Thầy vẫn còn rùng mình vì những chuyện xảy ra.

Hồn ma cho thầy Việt Thái và cô Hồ Thủy ăn bánh rõ ràng, mà bây giờ hóa ra đất đỏ thế này.

Bải hoải, hai người không tự lấy ra được nên đã ngậm đất suốt cả đêm. Nguyệt Thư, Tố Mẫn, Tịnh Đoan dìu cô Thủy, bọn con trai dìu thầy Việt Thái vào phòng.

Cả bọn chăm sóc cho hai người chu đáo.

Chợt nhớ, Nguyệt Thư hỏi:

- Bà đâu?

Thầy Thái và cô Thủy hoảng hốt, lắc đầu.

Mọi người đổ xô đi tìm thì thấy bà Hồ Trúc nằm gần ngoài giếng nước. Bà cũng đang sợ hãi vì bị ma nhát.

Sau khi giúp bà về phòng trấn tĩnh lại, nhóm sinh viên lục đục nấu cháo, pha sữa cho cả ba người ăn uống hồi sức.

- Mình về cho thầy cô nghỉ ngơi.

Trở về phòng, nhóm sinh viên bàn tán dữ dội.

Nguyệt Thư hoang mang:

- Ma quỷ lộng hành không chừa một ai cả.

Duy Bảo nhận định:

- Cứ tưởng bọn mình bị ma nhát ai ngờ thầy cũng bị luôn.

Tố Mẫn tỉnh bơ:

- Vậy mới công bằng.

Nam Khang chỉ trích:

- Chứng tỏ là Tố Mẫn muốn cho ai cũng bị ma nhát.

- Để mọi người cùng sợ, kể cả thầy.

Tịnh Đoan hạ giọng:

- Thầy mà cũng sợ ma, lạ nhỉ!

Nguyệt Thư rụt cổ:

- Gương mặt ma quái gớm ghiếc ai mà không sợ.

Tố Mẫn nói thêm:

- Thầy cứ cho là bọn mình tưởng tượng, nói chuyện ma nhảm nhí chứ nhạc viện làm gì có ma. Ngay khi vừa đặt chân đến đây mình đã thấy âm u rùng rợn rồi.

Tịnh Đoan hồn nhiên:

- Không chừng bị ma nhát thầy sẽ giải tán tụi mình khỏi thực tập nữa. Chuẩn bị về thành phố các bạn ơi.

Thiên Tùng cau mày:

- Đừng có ham nghen.

Tịnh Đoan nhìn Thiên Tùng trêu chọc:

- Tùng không ham về thì cứ ở lại nhạc viện thực tập.

Tố Mẫn tiếp lời Tịnh Đoan:

- Thế nào nhỏ Nguyệt Thư cũng tình nguyện ở lại hà.

Nguyệt Thư đập vai Tố Mẫn:

- Ê! Ta lặng yên nãy giờ, mà sao mi lại xỏ xiên.

- Ta nói hộ tiếng lòng của mi, chứ có xỏ xiên gì đâu.

Cả bọn cười rộ lên.

Thiên Tùng trầm tư nghĩ ngợi. Vẫn có điều gì quái gở trong chuyện ma quái này.

Nhìn cả nhóm, Thiên Tùng thông báo:

- Hôm nay nghỉ thực tập. Chúng ta tự do, ai muốn tâm tình hay đàn hát thì tuỳ.

Duy Bảo châm chọc:

- Mày chọn tâm tình phải không?

Tố Mẫn lém lỉnh hỏi:

- Mi cũng chọn tâm tình hả Thư?

Nguyệt Thư tinh nghịch:

- Ta lên đồi dạo chơi.

Tịnh Đoan kêu lên:

- Ghê chưa! Nhỏ ni gián tiếp hẹn hò.

Nói xong, Tịnh Đoan né ngay vì bị Nguyệt Thư đuổi theo.

- Mi quá lắm nghe Đoan!

Nhưng Tịnh Đoan đã chạy xa.

Nguyệt Thư và Thiên Tùng ra phía sau nhạc viện:

- Sao lại ra chỗ này hả?

- Mình nghĩ chỗ này có gì đặc biệt.

Nguyệt Thư nhìn quanh, khu đất nơi đây cây cối um tùm, rậm rạp, cỏ gai chằng chịt giăng khắp lối.

Nơi đây cây cối um tùm, bọn mình ít bén mảng tới.

Thiên Tùng nhận định:

- Chính chỗ này làm cho nhạc viện thêm âm u, huyền bí.

Nguyệt Thư chép miệng:

- Sao chỗ này không ai dọn dẹp nhỉ?

- Chỉ một mình bác Ngàn dọn dẹp đâu có xuể.

Nguyệt Thư gật đầu:

- Thật ra, bác dọn dẹp mặt tiền của nhạc viện cũng đủ mệt rồi.

Bác Ngàn đi ngang qua, thấy Thiên Tùng và Nguyệt Thư đứng chỗ lùm cây, bác vội đưa tay chỉ trỏ.

Nguyệt Thư ngơ ngác không hiểu bác nói gì.

Bác Ngàn bỗng kéo Thiên Tùng ra kề tai anh nói nhỏ. Thiên Tùng tròn mắt ngạc nhiên đến sững sờ:

- Ghê vậy sao bác?

Bác Ngàn thấp giọng:

- Bọn chúng định đánh cắp kho báu.

Thiên Tùng bức xúc:

- Phải làm sao ngăn lại hả bác?

- Chúng có nhiều thủ đoạn tinh vi phải theo dõi kỹ, không thể để chúng tẩu tán tài sản quý.

- Con sợ mình làm không kịp bác ạ.

Bác Ngàn căn dặn:

- Phải theo dõi kỹ, đừng bỏ qua mọi chi tiết về bọn chúng.

Thiên Tùng quả quyết:

- Phải báo công an theo dõi bọn họ, bác à.

- Nhớ là không được đánh động.

- Con biết!

Chợt nhớ ra, Thiên Tùng nhìn bác Ngàn đăm đăm:

- Bác nói được hả bác? Con cứ tưởng...

Bác Ngàn giải thích:

- Tại vì bác muốn im lặng để tiện theo dõi hành tung của ông thầy gốc Thái. Bác thấy ông ta có nhiều điều khả nghi. Trước khi đưa đoàn thực tập đến đây, ông ta đã đến nhạc viện quan sát mấy lần.

Thiên Tùng ngạc nhiên:

- Vậy hả bác?

- Khi các cháu đến đây thực tập, bác thấy ông ta cũng kỳ cục lắm. Ban ngày không mấy nhiệt tình hướng dẫn, ban đêm thì đâu mất.

- Bác nhận xét thật đúng.

- Các cháu thì cứ liên tục bị ma nhát, bác thật khó hiểu.

Thiên Tùng chép môi:

- Cháu cứ băn khoăn mãi về chuyện ma.

Bác Ngàn nói nhanh:

- Chẳng có con ma nào cả, cháu phải thật bình tĩnh đối phó. Các cháu bị ma nhát, hoảng loạn sợ sệt nên chẳng đứa nào dám ra ngoài.

Thiên Tùng reo lên:

- A, con đã hiểu vì sao có ma rồi. Sự thật lần hồi được giải đáp, bác ạ.

- Nhớ là đừng sợ ma và hãy thật điềm tĩnh nghe.

- Dạ!

Nói xong, bác Ngàn bỏ đi bình thản làm công việc của người bảo vệ. Nguyệt Thư tròn mắt há miệng khi thấy bác Ngàn trò chuyện với Thiên Tùng đầy vẻ bí mật.

Đợi bác Ngàn đi khuất, Nguyệt Thư nói nhanh:

- Bác Ngàn nói được chứ đâu có á khẩu hả Tùng?

Thiên Tùng tỉnh rụi:

- Bác á khẩu vì muốn á khẩu.

- Nói rõ hơn đi Tùng! Việc gì mà hai người có vẻ bí mật quá.

Thiên Tùng nhìn Nguyệt Thư tha thiết:

- Chuyện này rất bí mật, Tùng chỉ bật mí cho Thư biết thôi.

Nguyệt Thư cười dịu dàng:

- Ưu tiên quá nhỉ. Nói đi!

- Bảo đảm nghe xong, Nguyệt Thư sẽ nhảy nhỏm đấy.

Thiên Tùng kề tai Nguyệt Thư nói khẽ. Nghe xong Nguyệt Thư giật nẩy:

- Ghê vậy à? Báo công an ngay Tùng à. Không ngờ một con người đạo mạo nghiêm túc như vậy mà lại âm mưu ăn cắp.

Thiên Tùng bức xúc:

- Vì mục đích nên ông ta sẵn sàng hại bọn mình với nhiều thủ đoạn.

- Mình nên tố giác ông ta.

- Phải có bằng chứng Thư ạ. Bọn mình phải bình tĩnh theo dõi, không được để mất đi công lao tìm hiểu của bác Ngàn, bác ấy rất lo gìn giữ nhạc viện.

- Vậy nhạc viện có tầng hầm chứa kho báu là có thật.

- Lúc đầu, Tùng chỉ nghĩ là có tầng hầm nên muốn khám phá cho biết rõ thôi. Ai ngờ…

Nguyệt Thư tò mò:

- Sao hả Tùng?

- Ba đứa vừa kéo đi tìm tầng hầm thì bị oan hồn ma hiện ra làm cho hãi hùng mê mệt.

- Tùng có phát hiện ra sự kỳ lạ đó không?

Thiên Tùng gật đầu liên tục:

- Bây giờ Tùng đã biết cái gì cũng có sự sắp đặt cả.

Buổi tối.

Không gian thật yên tĩnh, Thiên Tùng ôm cây ghi ta thản nhiên dạo nhạc. Bỗng bên ngoài gió rít từng cơn gió gào rú vang lên trên hàng thông ven đồi. Cao nguyên thật lạnh, gió rít ào ạt vẫn là chuyện bình thường. Trời về khuya, Thiên Tùng ngưng đàn, quyết định ra ngoài.

Bỗng những tiếng dương cầm huyền hoặc vang lên. Thiên Tùng lắng tai nghe ngóng. Tiếng đàn mỗi lúc một gần, tiếng đàn thật kỳ dị như từ cõi xa xăm đưa tới.

Thiên Tùng bước khẽ khàng nhất định đi tìm tiếng đàn.

Ngang qua phòng nữ thấy im ắng.

Tiếng đàn vẫn vang lên dìu dặt du dương.

Sang phòng để nhạc cụ, Thiên Tùng chẳng thấy ai cả.

Thiên Tùng vào phòng ngồi một lúc. Âm thanh nỉ non, ai oán lại cất lên. Ai đàn? Chẳng thấy, tại sao tiếng đàn cứ vang lên mãi.

Có lúc Thiên Tùng nghĩ thầy Việt Thái đang ngồi đàn ở một phòng nào đó. Ông thầy biệt lập không hoà đồng, nên thích đàn một mình.

Nhưng âm thanh tiếng đàn như vang lên khắp nhạc viện. Tò mò bị lôi cuốn bởi tiếng đàn huyền hoặc liêu trai, Thiên Tùng quên cả nỗi sợ hãi.

Cung đàn huyền hoặc vang lên không người đàn. Thiên Tùng bỗng rùng mình. Cung đàn ma!

Phải rồi, cung đàn ma quái!

Chợt nhớ lời bác Ngàn, Thiên Tùng thắng nỗi sợ hãi và tỏ ra điềm tĩnh. Thiên Tùng trở về phòng, núp vào cánh cửa các phòng.

Đêm tối mịt mù các dãy hành lang sâu hun hút.

Bóng đen từ phòng nam dật dờ đi ra, bóng trắng từ phòng nữ ra lướt thướt đi tới.

Ôi, oan hồn ma!

Bóng đen và bóng trắng bỗng ôm chầm lấy nhau cười rúc rích:

- Phen này cho bọn chúng mê man đến sáng luôn.

Bóng đen thích chí:

- Bọn con trai cũng bất tỉnh đến sáng. Kẻ nào mà chẳng sợ ma.

Thiên Tùng tức khí muốn vạch mặt hai tên xấu xa ăn cắp nhưng phải cố nén, giữ điềm tĩnh để lắng nghe cuộc đối thoại.

- Anh đang tức lộn ruột chẳng hiểu sao bọn mình bị ma nhát lại còn bị cho ăn đất nữa chứ.

- Em sợ muốn chết.

Bóng đen nói cứng:

- Đừng thèm sợ.

Bóng trắng quả quyết:

- Ma thiệt anh à. Nó cho em ăn bánh rõ ràng mà sao sáng ra thành đất cát.

Bóng đen trấn an bóng trắng:

- Thôi, mặc kệ lũ ma! Chúng ta hãy lo công việc của mình. Mình sẽ nhanh chóng về Thái với kho báu khổng lồ này sống ung dung suốt đời.

Hai bàn tay nắm chặt, Thiên Tùng nghiến răng một cách tức giận. Bọn ăn cắp bọn lừa đảo, tài sản quốc gia mà chúng giở thủ đoạn để cướp.

Bác Ngàn bảo: "Ông thầy hướng dẫn của cháu chẳng biết có phải thầy giáo hay không? Thầy giáo thì phải mẫu mực có đạo đức chứ tại sao đi cắp tài sản quốc gia. Dường như ông ta biết trước nhạc viện có tầng hầm cháu ạ".

Thiên Tùng ngẫm nghĩ lời bác Ngàn thật đúng.

Thầy giáo như thầy Việt Thái thì sao được cơ chứ. Lừa đảo mưu toan ăn cắp tài sản quốc gia. Làm công việc tày trời mà còn khủng bố tinh thần sinh viên nữa chứ.

Quá bất mãn, Thiên Tùng dõi theo bóng đen, bóng trắng đổ dài phía trước. Hai "oan hồn ma" tiến đến chỗ lùm cây. Vậy là đã rõ, có lẽ nơi đây là chỗ xuống tầng hầm kho báu.

Bề ngoài rất bình thường chỉ làm một khoảnh đầy cây cỏ rậm rạp, cỏ gai bít lối. Chốn hoang vu của nhạc viện chẳng ai để ý.

Thiên Tùng chỉ đoán thôi, vậy mà đường hầm tầng hầm lại có thật. Có điều tại sao kẻ xấu xa tồi tệ lại bị ma nhát, ma cho ăn đất đầy mồm.

Tức cười thật?

Vậy câu "đi đêm có ngày gặp ma" cũng đúng với bọn họ thật.

Hôm nay có hai người thợ đến nhạc viện đến đào ống nước.

Lý do đưa nước máy vào nhạc viện để sinh viên thực tập có nước xài tiện lợi. Hơn nữa, giếng nước bên ngoài đào đã quá lâu, nguồn nước không còn tốt. Bên trong nhạc viện, các sinh viên thực tập. Bên ngoài, hai người thợ âm thầm đào đất, xác định vị trí.

Thiên Tùng và bác Ngàn rất nôn nóng nhưng đã yên tâm phần nào khi thấy bóng dáng hai anh công nhân đào ống nước.

Thầy Việt Thái lấm la lấm lét không có tâm trí giảng giải. Nói chung, trông thầy rất uể oải.

Sau đó, thầy cho sinh viên giải lao rồi tự mỗi người biểu diễn âm nhạc của phần mình.

Thầy Việt Thái bảo với nhóm sinh viên:

- Tôi có việc bận, chiều mới trở lại.

Nói xong, thầy nhanh chóng đi nhanh sợ nhóm sinh viên thắc mắc. Mà đúng bọn sinh viên thắc mắc ngay. Tịnh Đoan cất tiếng hỏi:

- Thầy bận việc gì nhỉ?

Duy Bảo chọc:

- Sao không chạy theo thầy hỏi?

- Tui hỏi Bảo được không?

- Vô duyên! Hỏi tui sao tui biết mà trả lời hả?

Nam Khang cười khanh khách:

- Tại Đoan thích hỏi Bảo, vậy mà cũng không biết há Đoan.

- Xí! Ai mà thích?

- Vậy sao không hỏi tôi?

- Thì ông cũng chẳng biết gì mà nói, hỏi chi?

Tố Mẫn xen vô:

- Mấy bạn lạ ghê! Thắc mắc chi chuyện của thầy rồi gây.

Nguyệt Thư tiếp lời:

- Thầy có vẻ bí mật quá, không thắc mắc sao được.

Duy Bảo nhận định:

- Thầy là như vậy đó. Bí mật bận rộn và đi hoài, mặc kệ thầy.

Tịnh Đoan nhăn nhó:

- Nhưng có ảnh hưởng đến bọn mình.

- Ảnh hưởng gì đâu.

- Thầy hướng dẫn mình thực tập.

- Thầy bận thì mình nghỉ. Sướng ghê!

Nguyệt Thư nhận định:

- Xong đợt thực tập này về trường chẳng biết gì hết.

Duy Bảo châm chọc:

- Đó là tại Thư thôi.

Nguyệt Thư nhíu mày:

- Tui sao hả?

- Lang thang trên đồi tâm tình cùng ai thì làm sao mà thực tập được hả?

Nguyệt Thư cự nự:

- Cái miệng ông ăn nói sao mà...

Duy Bảo cười khì:

- Đúng quá... "chời" hả?

- Vô duyên thì có.

Tịnh Doan vỗ tay:

- Mi trả thù giùm tao đó Thư.

Mọi người trò chuyện. Tố Mẫn thản nhiên lấy cây đàn ra đánh. Nam Khang kêu lên:

- Phải rồi, Mẫn đàn giống ghê.

- Giống ai hả?

- Giống tiếng đàn Thạch Sanh. "Đàn kêu tích tịch tình tang, ai đem công chúa lên hang mà về".

Duy Bảo nháy mắt chọc:

- Giống tiếng đàn huyền hoặc ai oán thê lương đêm qua.

Tố Mẫn lại hỏi:

- Của ai?

Duy Bảo le lưỡi:

- Tiếng đàn ma?

- Hả!

Tố Mẫn buông cây đàn ra thật thanh, nhưng vẫn nhìn nó đăm đăm:

- Cây đàn này có gì không?

Duy Bảo pha trò:

- Có dấu tay của Mẫn.

- Xí! Vậy mà cũng nói.

Nam Khang cất tiếng hỏi:

- Đêm qua mấy bạn có nghe tiếng đàn không? Kỳ dị lắm!

Nguyệt Thư phát biểu:

- Ở nhạc viện nghe đàn là chuyện bình thường.

Nam Khang vờ rụt cổ:

- Nhưng đây là cung đàn ma quái ghê lắm.

Nguyệt Thư bình thản:

- Oan hồn ma, cung đàn ma, Thư bây giờ hết thèm sợ rồi.

Duy Bảo nhìn Nguyệt Thư cười hỏi:

- Thư gan nhỉ, chịu sống chung với ma hả?

- Sống chung với ma sẽ hết sợ ma.

Tịnh Đoan tố:

- Rứa mà khi nghe oan hồn ma rên rỉ là Thư trùm chăn trước tiên.

Cả bọn cười xoà.

Ban ngày không thấy gì, ai cũng nói mạnh mẽ. Đêm đến, nhạc viện chìm trong cô tịch, hoang lạnh thật đáng sợ. Mọi tiếng động ma quái càng khủng bố tinh thần cả bọn. Chỉ tiếng đàn vang lên thôi cũng phát khiếp.

Cung đàn huyền hoặc như từ cõi âm ty đưa lên, như tiếng khóc nỉ non của hồn ma.

Bóng tối đồng lõa cho ma hiện về.

Một người có thần kinh vững vàng cũng thấy chấn động.

Màn đêm buông phủ, nhạc viện như tòa lâu đài mờ ảo trong truyện thần thoại, liêu trai.

Không ai chiêm bao mộng mị mà vẫn nghe rõ cung đàn huyền hoặc vang lên.

Âm thanh tiếng đàn nức nở, thê lương như tiếng khóc u uất.

Tịnh Đoan nín thở. Cung đàn réo rắt mãi.

Tố Mẫn thắc mắc:

- Ối! Người đàn hay ma?

Nguyệt Thư rủ:

- Muốn biết, chúng ta hãy sang phòng chứa nhạc cụ xem ai đàn, không khéo Nam Khang đàn phá mình đó. Tố Mẫn lắc đầu:

- Không dám đi đâu, phòng bên ấy tối om chẳng có điện.

- Thì mình đốt nến.

- Nến cháy le lói thấy ghê.

Nguyệt Thư trấn an Tố Mẫn:

- Đi hết ba đứa mà sợ gì?

- Bộ ba đứa rồi ma không nhát à?

- Nhát cũng không sợ.

- Chà! Hôm nay mi nói cứng dữ.

Theo lời Thiên Tùng nói Nguyệt Thư cố không sợ ma nữa. Tiếng đàn u uất, ai oán vẫn vang lên. Tố Mẫn rụt cổ:

- Mi đi một mình đi Thư.

Tịnh Đoan e ngại ngăn lại:

- Đừng đi Thư ơi! Rủi ma bắt mi ra ngoài lùm cây bụi cỏ cho ăn đất như thầy Thái thì nguy to.

Tại sao thầy Thái và cô Hồ Thủy cũng bị ma nhát, cả bà Hồ Trúc nữa? Nguyệt Thư vẫn không sao hiểu.

Bây giờ cung đàn huyền hoặc làm cho cả bọn hoang mang.

Nguyệt Thư vừa định sang bên phòng nam rủ Thiên Tùng đi xem tiếng đàn vang lên từ đâu, nhưng Thư chưa kịp bước ra cửa thì cúp điện.

Bóng tối phủ trùm căn phòng thật nhanh chóng.

Tiếng rên xiết hự... hự... vang lên thê thảm.

Tự nhủ phải bình tĩnh nhưng Nguyệt Thư vẫn hét lên khi oan hồn ma lù lù xuất hiện.

- Á! Ma!

Bóng đen với khuôn mặt kinh dị chờn vờn đến bên Nguyệt Thư, đưa bàn tay ma quái run lẩy bẩy vỗ đầu cô.

Nguyệt Thư hốt hoảng té nhào xuống đất.

Bên phòng nam thì bóng ma áo trắng ẻo lả lượn lờ, bóp cổ Nam Khang.

Nam Khang kinh hoàng khi thấy bộ mặt ma quái với mái tóc trắng bệch quấn quanh cổ.

Và bộ mặt ma quái đáng sợ đang kề sát mặt Nam Khang. Bên ngoài bỗng vang lên những tiếng hú dài ghê rợn. Bóng áo trắng chờn vờn lướt ra cửa. Hai oan hồn ma hòa nhập vào bóng đêm với tiếng cười hả hê:

- Nhất định hôm nay phải chuyển hết kho báu lên khỏi tầng hầm.

- Anh chưa có kế hoạch di chuyển mà.

- Phải chuyển nhanh thôi, chứ lũ ma làm cho anh thấy bất ổn.

- Nực cười thật, làm ma khủng bố người ta mà bị ma khủng bố lại.

- Anh đang bực mình đây em đừng nói nữa.

Bỗng một giọng nói đanh gọn vang lên:

- Việt Thái và Hồ Thủy, hai người đã bị bắt!

- Ơ!

Việt Thái và Hồ Thủy chạy về phía trước lại còn cất tiếng cười the thé. Anh công an kêu lên:

- Giờ phút này mà còn giả ma nhát công an nữa à?

Việt Thái bối rối:

- Công an à? Tôi làm gì đâu.

- Anh đừng có giả vờ!

Việt Thái và Hồ Thủy định tháo chạy, cùng lúc đó anh công an cầm đèn pin cùng bác Ngàn, Thiên Tùng tiến lại.

Anh công an nói nhanh:

- Hai người đứng yên không được động đậy, về đồn công an sẽ giải quyết mọi chuyện.

Việt Thái nói cứng:

- Tôi không làm gì cả.

Anh công an dõng dạc:

- Anh đã bị bắt vì làm việc bất chính, đánh cắp cổ vật quý báu.

Việt Thái chột dạ:

- Mấy anh nói gì lạ vậy? Tôi chẳng làm gì cả.

- Chúng tôi có đầy đủ chứng cớ. Anh biết ở nhạc viện cổ này có tầng hầm chứa kho báu nên đã tìm mọi cách xin hướng dẫn sinh viên nhạc viện thực tập tại đây. Anh đã đưa người nhà đến để cùng chuyển các cổ vật lên tẩu tán có đúng không?

Việt Thái đanh mặt:

- Anh đừng vu khống nghe!

Anh công an quả quyết:

- Chúng tôi nói đúng sự thật. Anh về đồn công an lấy lời khai. Tội của anh rành rành giả ma để khống chế các em sinh viên để dễ dàng thực hiện âm mưu của mình.

Một anh công an giật phăng hai chiếc mặt nạ và những thứ hóa trang trên người hai bóng ma giả.

Việt Thái và Hồ Thủy lộ nguyên hình.

Anh công an bực dọc:

- Anh giải thích sao về việc giả ma này.

Mặt Việt Thái lạnh lùng, anh không giải thích gì cả. Anh công an nói tiếp:

- Anh khéo hóa trang lắm. Các em sinh viên sợ khiếp vía hồn kinh, ai cũng bị ma nhát đến bất tỉnh. Có phải anh xông thuốc mê vào phòng các sinh viên không?

Việt Thái chối quanh:

- Tôi không biết.

- Chúng tôi đã ghi âm rõ lời anh và cô Hồ Thủy bàn bạc, anh không chối cãi được. Anh giả ma làm các sinh viên sợ hãi không ra ngoài, anh mới dễ dàng xuống tầng hầm di chuyển tài sản.

Việt Thái phân bua:

- Tôi cũng bị ma nhát mà.

Anh công an nghiêm giọng:

- Chẳng có ma nào cả. Bác Ngàn bảo vệ đã phát hiện hành động bất chính của anh nên giả ma áp chế anh. Bác đã tìm lại tầng hầm, cùng với các em sinh viên theo dõi hành động của anh và báo cho chúng tôi.

Việt Thái cúi đầu không thể chối cãi được. Anh ta đâu ngờ ông bảo vệ biết nói cứ tưởng người câm, anh hơi sơ suất. Thật ra, anh đề phòng cẩn thận dữ lắm. Tại sao bọn này phát hiện được để anh bị tra tay vào còng.

Anh công an nhấn mạnh:

- Anh đã đánh cắp các nữ trang hồng ngọc, trân châu, còn các bình cổ, nhạc cụ quý hiếm, anh đang chuyển đến nơi bí mật trong phòng của mình. Anh có biết đó là tài sản quốc gia, anh ăn cắp là có tội lớn lắm, anh có biết không? Lẽ ra biết có tầng hầm chứa kho báu, anh phải báo chính quyền. Đằng này anh dùng thủ đoạn để chiếm đoạt.

Khi các anh công an làm việc với Việt Thái và Hồ Thủy thì Thiên Tùng chạy về phòng báo cho các bạn.

Nhóm sinh viên đến đúng lúc nghe anh công an kể về tội trạng của thầy Việt Thái.

Cả bọn ồ lên. Thì ra bấy lâu nay bị ma giả nhát mà không biết, cứ hãi hùng, khiếp sợ.

Tố Mẫn trầm trồ:

- Các anh công an hay quá nhỉ, bọn mình chẳng biết gì cả.

Tịnh Đoan nhận định:

- Các anh giả làm người đào ống nước để tìm tầng hầm đó.

Nam Khang bảo:

- Nghiệp vụ của các anh mà.

- Việc này được phát hiện là nhờ bác Ngàn Ca-si-mô-nô đó.

Nam Khang pha trò:

- Bác Ngàn có máu làm công an đó các bạn.

Anh công an nhìn mọi người tuyên bố:

- Cám ơn bác Ngàn bảo vệ nhạc viện và các bạn sinh viên đã phối hợp giúp chúng tôi bắt giữ được tên tội phạm chiếm đoạt tài sản tầm cỡ đang bị truy nã ở Thái Lan về đây, giả danh làm nhạc sĩ hướng dẫn sinh viên thực tập với nhiều thủ đoạn.

Cả bọn nhao nhao:

- Ôi! Vậy không phải nhạc sĩ hả? Thầy ghê thật!

Thiên Tùng thông báo:

- Từ nay, nhạc viện yên ổn rồi các bạn ơi.

Anh công an vui vẻ:

- Tài sản sẽ được giao cho nhà nước.

Thiên Tùng hào hứng:

- Anh công an ơi! Đề nghị chính quyền trùng tu lại nhạc viện đi anh.

Anh công an gật đầu:

- Tôi cũng nghĩ như vậy! Nhạc viện sẽ được trùng tu lại và sẽ tổ chức lại thành nhà hát lớn của cao nguyên.

Thiên Tùng vui vẻ:

- Ra trường, tụi em sẽ về nhạc viện trình diễn phục vụ nhân dân.

Cả bọn vỗ tay đồng tình:

- Bọn em sẽ về đây.

Nguyệt Thư cười hồn nhiên:

- Chắc chắn sẽ không còn một con ma nào dám nhát nữa đâu.

Mọi người cùng cười thú vị.

MA ĐỎ ĐEN - Phần 1

Sòng bạc Đại Thế Giới một chiều cuối năm 1955...

Vì là ngày cuối tháng, lại cận Tết, nên khách chơi ở các bàn trong toàn khu Casino lớn bậc nhất Sài Gòn hơi ít người hơn thường lệ. Đặc biệt là các sòng Roulette, nơi các tay chơi tài tử thường có mặt...

Do đó khi có hai người khách bước tới đặt tiền thì các hồ-lì vui ra mặt. Những tiếng "hối a" vang lên báo hiệu vòng quay Roulette bắt đầu, gây chú ý cho các tay chơi đang còn lưỡng lự chưa biết phải ghé vào bàn chơi nào. Cuối cùng họ cũng tấp vô bàn đang có hai vị khách một nam một nữ đang hào hứng chơi.

Người nữ tuổi trên dưới ba mươi, nhưng trông dáng như gái mười tám đôi mươi. Cô nàng ăn mặc bộ sườn xám bằng gấm Thượng Hải màu vàng anh trông nổi bật, vừa sang trọng quý phái. Còn trang sức trên người cô ta thì bất cứ ai thoạt nhìn cũng phải lóa mắt, bởi hai chiếc vòng tay bằng bạch kim nạm mấy chục viên kim cương sáng óng ánh. Còn hai bên tai thì long lanh đôi hoa tai hồng ngọc lớn cỡ ngón tay cái mà bất cứ dân sành nữ trang nào cũng đều mơ ước, thèm thuồng...

Đặc biệt nàng ta mang theo tiền mặt thật nhiều chứa căng cả chiếc ví tay loại lớn. Đánh thì khiến cho các người bên cạnh tối tăm mặt mũi khi cô ta đặt mỗi cây bài đến cả xấp tiền phỉnh trị giá lớn.

Đã qua bốn vòng Roulette, cô nàng đặt trước sau bốn lần mà lần sau đều gấp đôi lần trước. Cô ta đều thắng. Các "hồ-lì" đã bắt đầu run, họ ngầm đưa mắt cho nhau để báo cho quản lý cuộc chơi đang đứng gần đó. Nhưng hầu như ban quản lý bất lực, bởi luật chơi ở sòng nếu không phát hiện khách có biểu hiện gian lận, thì họ có thắng đến đâu thì cũng không có quyền ngăn họ lại.

Đến ván thứ năm thì vị khách nữ này đặt hết số phỉnh đã thắng từ đầu vào một tụ duy nhất. Các khách chơi khác nãy giờ chứng kiến vận hên của cô nàng nên chẳng ai bảo ai đều nhất loạt đặt đúng vào tụ đó. Số tiền lên quá cao, khiến cho cô hồ-lì hơi chùn tay. Bởi nếu cô nàng tiếp tục thắng ván này nữa thì có nguy cơ phải báo cho giám sát cuộc chơi đưa thêm tiền ra chung. 30 giây... 20giây... 15glây... 10 giây...

Theo quy định thì đúng 30 giây sau khi khách đặt đủ tiền, Roulette phải quay để biết thắng thua. Chỉ còn khoảng 4 giây sau cùng bỗng người khách nam mặc bộ veston mà trắng nãy giờ đứng cạnh người đẹp, vội đặt tay vào tụ bài phía bên kia, từ phía bên số chẵn, ngược với số lẻ mà cô nàng đang đặt tiền. Tổng số tiền mà vị khách nam này bỏ ra ngang bằng với đối thủ.

Khi anh chàng giơ tay lên thì cả sòng ồ lên kinh ngạc!

Có người buột miệng thốt lên:

- Kỳ phùng địch thủ!

Cô hồ-lì thở phào nhẹ nhõm. Bởi như thế có nghĩa là, nếu kết quả vòng Roulette có thế nào thì nhà cái cũng không hề thua đồng nào, ăn bên này chung sang bên kia.

"Hối a" lại vung lên và mọi người nín thở chờ đợi vòng Roulette từ từ dừng lại...

Và ai đó đã kêu lên:

- Bên chẵn!

Vị khách nam điềm tĩnh đưa tay gom hết số tiền cả vốn lẫn lãi về phía mình. Người phụ nữ chẳng quan tâm, lại móc từ túi ra một xấp tiền dày, tiếp tục đặt vào làn số lẻ. Các người chơi khác lúc này đang phân vân chưa biết nên theo ai... có một số thì thấy anh chàng mặc veston trắng đang hên nên theo. Nhưng cũng có nhiều người khoái theo người đẹp nên lại theo về bên số lẻ.

- Hối a!

- Hối a!

- Hối a!

Ba lần vòng Roulette quay rồi ngừng thì đủ ba lần nữa chàng trai lại thắng. Đến lúc này không cần chú ý cũng đã thấy đôi tay người phụ nữ hơi run run khi bàn tay cô từ trong túi móc ra chỉ còn một xấp tiền mỏng.

Nàng ta cởi hết nữ trang đeo trên người ra, bảo cô hồ-lì:

- Ở đây ai đổi những thứ này ra tiền mặt?

Cô hồ-lì đưa tay chỉ về một quầy:

- Ở đàng kia họ sẵn sàng mua hoặc cầm thế.

- Tôi muốn bán đứt và chơi hết!

Giọng cô ta chẳng tỏ vẻ gì nuối tiếc hay mất bình tĩnh. Cô hồ-lì ra hiệu cho một nhân viên ở gần đó:

- Dẫn cô này tới quầy thu đổi!

Chợt chàng trai mặc veston đưa tay ra hiệu:

- Xin phép, tôi có thể đổi cho cô. Được chứ?

Nhìn sang người đang gom hết tiền của mình, thoáng một chút khó chịu, nhưng bỗng cô nàng gật đầu:

- Được!

- Cô muốn lấy bao nhiêu? Đống tiền này khoảng bốn triệu, cộng thêm một chi phiếu sáu triệu nữa, cô đồng ý?

(Đồng tiền thời ấy trị giá khá lớn, có thể lên đến trên 100 lượng vàng).

Một thoáng chau mày, rồi cô nàng gật đầu mà không nhìn vào anh chàng nọ. Anh chàng nói với cô hồ-lì:

- Cô cứ cho chúng tôi đặt bằng tiền này, tôi sẽ chịu trách nhiệm về cuộc chơi này.

Anh ta lẳng lặng móc trong ví ra một tờ chi phiếu ghi sẵn số tiền sáu triệu. Loại chi phiếu chi trả cho người cầm phiếu. Đặt nó vào chung với cả số phỉnh đã thắng từ nãy giờ và vẫn cứ đặt bên số chẵn.

Cô hồ-lì sắp sửa khui thì chợt cô nàng đổi ý:

- Tôi muốn đổi bên, ông đồng ý?

Đây là lần đầu tiên nàng ta nhìn sang đối thủ và nhận ngay một nụ cười và cái gật đầu:

- Tùy cô chọn.

Đống tiền và số nữ trang quý giá hoán đổi cho nhau nhanh gọn.

- Hối a!

Roulette quay nhanh rồi chậm lại và...

- Số lẻ!

Trong khi mọi người đổ dồn vào nhìn anh chàng thắng cuộc thì chẳng ai để ý khi cô nàng thất thểu rời sòng bạc bước thẳng ra cửa.

Đến khi gom xong tiền vào chiếc cặp to mang theo sẵn, anh chàng lao vút theo ra.

Chiếc taxi dừng lại, cô nàng mở cửa sau vừa leo lên thì ở cửa phía ngoài đường cũng có người leo lên theo. Đó là anh chàng vừa thắng canh bạc lớn.

- Ai cho phép ông!

Cô nàng gắt lên vừa định bảo ông tài xế đừng chạy, thì chiếc xe đã chồm lên và lao vút theo đại lộ hướng về phía Đông thành phố. Giọng anh chàng nghe dễ mến:

- Xin lỗi cô, tôi không có ý làm phiền nhưng trong tình thế này tôi cũng không thể đứng chờ xe ở bên vệ đường, sẽ nguy hiểm. Xin cô cho tôi quá giang một đoạn.

Cô nàng hầu như không còn đủ sức để tranh luận, nhẹ khép đôi mắt lại, ngã lưng ra sau như đang tìm giấc ngủ, trước khi dặn tài xế:

- Chạy lên cầu Bình Lợi!

Khi xe chạy ra gần tới chợ Bà Chiểu thì anh chàng mới chợt hiểu: "Cầu Bình Lợi... nơi thiên hạ thường nhảy sông tự tử!"

Nhìn sang cô nàng, thấy cô ta vẫn nhắm nghiền, anh chàng kín đáo ra dấu cho anh tài xế quẹo về hướng khác.

Đến một Hotel hạng sang, anh chàng bảo taxi dừng lại định lay gọi cô nàng dậy, bỗng anh ta giật nảy mình khi phát hiện trên tay cô nàng đang cầm một tuýp thuốc ngủ!

Không nhờ ai giúp, đích thân anh ta bế xốc cô nàng lên và đi thẳng vào khách sạn. Năm phút sau họ đã ở trong một phòng đầy đủ tiện nghi. Lúc ấy cô nàng vẫn ngủ say. Nhìn ống thuốc ngủ còn lại khá nhiều, anh chàng hơi yên tâm nói một mình:

- Cô ta chỉ mới uống đủ để ngủ một giấc thật ngon chớ chưa thể chết được.

Đứng nhìn cô nàng ngủ, anh ta khẽ cười, nụ cười lạ và đầy thỏa mãn. Rồi rất nhẹ nhàng anh ta đặt túi bạc, cả tiền mặt, số nữ trang và cả tấm chi phiếu và một mảnh giấy nhỏ ghi hai chữ Vũ Đạt... bên cạnh cô nàng. Xong xuôi anh nhẹ đưa tay cởi từng nút áo và... cuối cùng thì trên thân thể cô nàng chỉ còn da thịt.

Trong hoàn cảnh này thì mọi người đàn ông đều sẽ hành động giống nhau: Chiếm đoạt thân xác cô nàng đang vô phương chống đỡ kia!

Nhưng thật lạ, anh ta chỉ nhìn ngắm một hồi rồi thốt một câu khó hiểu:

- Sòng phẳng nhé, Kiều Thu!

Rồi anh ta bước ra khỏi phòng, khóa cửa lại, số tài sản khổng lồ vẫn để yên bên cạnh cô nàng...

Sáng hôm sau người ta phát hiện cô nàng tên Kiều Thu nằm chết trên giường với ống thuốc ngủ đã uống đến viên cuối cùng. Tờ giấy có tên Vũ Đạt bị vò nát vứt dưới chân giường...

Ngoài những người trong gia đình nạn nhân thì không còn ai biết điều bí ẩn sau cái chết của Kiều Thu. Cô nàng vốn là con gái rượu của một vị quan đại thần của triều đình. Nhà giàu nổi tiếng của Sài Gòn thời ấy. Từ tấm bé cô nàng đã được cha mẹ hứa gả cho con trai của một vị đồng liêu. Tuy nhiên, khi cả hai lớn lên thì Kiều Thu theo gia đình vào Sài Gòn tiếp tục cuộc sống giàu sang, còn anh chàng Vũ Đạt thì lại không may phải sống trong gia cảnh ngày càng khánh kiệt, đến nỗi phải bỏ xứ tha phương, cầu thực. Khi cả hai lên mười tám tuổi thì bà mẹ già nua thất thế mới bảo con trai tìm đến gia đình người bạn đồng liêu năm xưa để nhắc lại lời hứa thời trước. Hy vọng ít nhất họ cũng còn chút tình nghĩa, giúp đỡ cho Vũ Đạt lập thân.

Nào ngờ khi Vũ Đạt tới đưa phong thư lúc lâm chung cha anh để lại gửi cho người bạn đồng liêu cựu thượng thư bộ lễ Ngô Quý thì bị một gáo nước lạnh vào mặt.

Người ta chẳng những không nhớ lời hứa xưa mà còn nặng lời xua đuổi Vũ Đạt đi như đuổi tà, kèm theo những lời miệt thị nào là nghèo hèn không biết thân phận, nghèo mà còn muốn mơ màng chuyện viễn vông!

Cũng đúng cái ngày Vũ Đạt bị xua đuổi đó, anh chàng đã đau lòng chứng kiến hôn lễ của Kiều Thu, người đáng ra là ý trung nhân của chàng, với một gã nhà giàu lớn.

Kiều Thu chẳng hề biết mặt Vũ Đạt. Cô nàng chỉ nghe kể chuyện nên hôm đó cô ta đã âu yếm ôm eo người chồng giàu đi qua trước mặt người con trai đau khổ...

Vũ Đạt ôm mối hận lòng ra đi với lời thề độc: Sẽ trả thù con người bội bạc kia.

Trong khi đó, sau khi lấy chồng giàu, sống hạnh phúc chỉ được nửa năm, rồi là những ngày trong địa ngục. Chồng Kiều Thu lấy cô ta chỉ là để moi tiền trong nhà vợ và thậm chí đem vợ ra để mồi chài các quan chức quyền thế trong các phi vụ làm ăn bất chính. Kết quả là mặc cho chồng lao vào các vụ làm ăn đen tối, những cuộc tình vụng trộm đầy tội lỗi... Còn Kiều Thu thì buồn chán, nhắm mắt theo những cuộc đỏ đen thâu đêm suốt sáng... Mà kết cục canh bạc Roulette ở Đại Thế Giới hôm đó...

Cuộc trả thù cay độc của Vũ Đạt, lúc ấy đã trở thành một Thần bài từ Ma Cau.

Phần 2

Mười năm sau...

Trong giới tay chơi của Sài Gòn thời đó, Vũ Đạt nổi lên như một đại gia. Làm ăn lớn thành đạt, lại là tay chơi cỡ bự trong các trà đình, tửu điếm. Đặc biệt chủ của nhiều con ngựa đua nổi tiếng. Hôm ấy là chiều chủ nhật...

Buổi đua ngựa "Độ Hội" sẽ diễn ra vào độ thứ ba của độ đua trong chiều này. Dân "tuyệt phích" đều bàn tán xôn xao về Độ Hội khi trong danh sách tám con tuấn mã có tên những con ngựa lừng danh đương thời. Nhưng vẫn có người bàn về con ngựa Bạch Hồ Điệp. Một người bảo:

- Đây là con ngựa què, đã nghỉ đua từ hơn một năm nay nên hầu như dân cá độ quên hẳn tên của nó rồi, nay đem ra đua lại chẳng qua là làm trò cười mà thôi!

Khi cuộc đua chính bắt đầu, thì quả nhiên dân đánh cá đều dồn tiền mua vé những con ngựa lừng danh. Chỉ riêng một người làm ngược lại, ông ta mua hết số vé ở một quầy vé cho cặp 2x8. Số 8 là con ngựa lừng danh, còn số 2 là con Bạch Hồ Điệp. Kết quả là Vũ Đạt trúng lớn chưa từng thấy, bởi chỉ duy nhất ông ta mua tập vé 2x8.

Rời trường đua vào chập tối. Vũ Đạt tự lái chiếc ôtô Peugeot 504 về thẳng nơi nuôi và huấn luyện cho ngựa Bạch Hồ Điệp, ở vùng Bà Điểm, Hóc Môn. Khoảng hơn một giờ sau thì con ngựa vàng cũng được đưa về tới.

Nhìn nét mệt mỏi của con ngựa, Vũ Đạt thương nó vô cùng. Ông vỗ về con ngựa cưng và nói với chú nài ngựa Tư Hơn:

- Chú mày giỏi lắm, cú doping này tao sẽ nhớ đời!

- Đây tiền thưởng cho tài năng của chú.

Ông ta còn nựng nịu con ngựa cưng thêm một lúc nữa rồi mới ra xe đi về.

Nhưng khi vừa mở cửa xe, Vũ Đạt chợt nghe một tiếng hí vang, nghe thảm thiết của chú ngựa ngoài chuồng!

- Chuyện gì vậy Tư Hơn?

Chú nài chạy hớt hãi kêu lớn:

- Con ngựa... ông chủ ơi!

Bước lại chuồng, Vũ Đạt kịp nhìn thấy con ngựa nằm lăn lóc trên nền đất. Và chỉ trong vòng chưa đầy nửa phút, phần thịt da của con ngựa đã nhanh chóng biến mất giống như bị bốc hơi. Cuối cùng nơi nó nằm chỉ còn một bộ xương trắng!

Sự việc diễn ra quá nhanh chóng, bất ngờ, nên từ người quản gia cho tới Vũ Đạt đều sững sờ, ngơ ngác. Là ông chủ thật sự chi tiền nuôi ngựa và làm độ, nhưng đây là lần đầu tiên Vũ Đạt lúng túng và bị động. Mãi sau đó ông ta mới quyết định:

- Các ngươi đừng loan truyền chuyện này ra ngoài.

Nói xong ông ta ra xe chạy ngay về Sài Gòn. Trong lúc bước lên xe do quá vội nên Vũ Đạt đã không để ý gì phía sau, mãi đến lúc xe ra đường lớn thì bất ngờ có một giọng nói làm cho ông ta giật mình:

- Kính chào nhà tỷ phú.

Chưa kịp quay lại thì đã có một bàn tay đặt lên vai như câu nói ra lệnh:

- Nên tập trung lái xe thì hơn, chúng ta sẽ còn thì giờ để nói chuyện.

Giọng phụ nữ này nghe quen quen nhưng nhất thời Vũ Đạt chưa thể nhận ra, ông ta nhìn qua kính chiếu hậu thì chỉ thấy một người mặc trang phục toàn màu đen, đầu và mặt hầu như được che kín bởi chiếc nón rộng vành.

Xe về gần ngã tư Bảy Hiền thì người phụ nữ bảo:

- Chạy thẳng đến trước, chỗ khu vực đất Thánh Tây.

Lúc này Vũ Đạt mới lên tiếng hỏi:

- Cô là ai và tới chỗ đó để làm gì?

Một giọng cười khô và lạnh:

- Biết sớm làm gì để mất thú vị đi. Ông là người có máu lạnh, trầm tĩnh bậc nhất để thắng đối thủ trong các sòng bạc mà, ông Thần bài!

Đã gần mười năm rồi không ai gọi mình bằng hai từ Thần bài, nên khi vừa nghe Vũ Đạt đã không còn tự chủ được, ông ta quay nhanh lại nhìn. Và... mấy tiếng thắng gấp của vài chiếc xe xung quanh bởi do mất tập trung nên suýt nữa Vũ Đạt đã lạc tay lái đâm vào dòng xe đang lưu thông đi ngược chiều.

Giọng người nọ nghiêm khắc hơn:

- Tôi bảo ông phải cẩn thận. Chưa thể chết như thế này đâu!

Khi xe đến ngang đất Thánh Tây người ngồi sau bảo:

- Dừng đây được rồi!

Chiếc xe chưa dừng hẳn thì cửa sau đã mở ra và khi Vũ Đạt quay lại thì đã thấy bóng người áo đen đã rất nhanh bước về phía nghĩa địa và phút chốc mất hút phía trong.

Dù trời đã tối nhưng khu nghĩa địa sang trọng này đèn sáng trưng, nên Vũ Đạt dễ dàng nhìn thấy người phụ nữ vào phía trái, nơi những ngôi mộ của những người quý tộc.

Một chút ái ngại, nhưng chẳng hiểu sao Vũ Đạt lại xuống xe và đi nhanh theo. Người bảo vệ nghĩa trang vẫn còn ngồi ở gần cổng, mà đúng ra ông ta sẽ ngăn không cho khách vào nghĩa địa ban đêm, nhưng thấy đi xe hơi sang trọng nên không chận lại.

Vũ Đạt bước nhanh cố bắt kịp người phụ nữ kỳ lạ phía trước. Tuy nhiên, khi đến dãy mộ thứ ba thì chẳng còn thấy bóng dáng cô ta đâu.

Quay một lượt tìm khắp nơi cũng chẳng thấy gì, ông ta hơi nản, định quay ra, thì chợt phát hiện có một chiếc nón rộng vành. Loại nón dành cho các bà quý tộc đội đang nằm trước một ngôi mộ cẩn đá cẩm thạch. Nhờ ánh đèn soi sáng rõ nên vừa bước đến gần, Vũ Đạt đã đọc được ngay trên mộ bia dòng chữ "Nơi an nghỉ của Ngô thị Kiều Thu"

- Kiều Thu!

Đứng lặng người khá lâu. Vũ Đạt tự dưng nghe lạnh khắp người, ông ta rùng mình lảo đảo...

Câu chuyện truyền miệng liên quan đến độ ngựa về ngược ở trường đua Phú Thọ, mà người trúng tiền triệu đã được ca tụng hết lời. Có người đã tỏ ra rành chuyện đã kể rằng:

- Vũ Đạt là Thần bài, ngày trước đã từng dùng con mắt thôi miên để thắng trận Roulette ở Đại Thế Giới, khiến một mệnh phụ phu nhân phải tự sát vì thua hết sản nghiệp!

Người khác thì thêu dệt đủ điều về cái tên tỷ phú Vũ Đạt. Họ ngạc nhiên về sự đánh đâu thắng đó và cả việc làm ăn cũng thế, hễ bước vào lĩnh vực nào thì hầu như ông ta chỉ có thắng chứ chưa bao giờ thua. Và người ta bắt đầu vừa nể phục vừa sợ con người này.

Cho đến một tuần lễ sau độ ngựa về ngược lịch sử, thì chuyện con chiến mã Bạch Hồ Diệp tự dưng mất tích đã đồn ra ngoài.

Lời đồn không dừng lại ở chuyện con ngựa bị chết bí hiểm. Mà đặc biệt hơn còn có một chuyện kể rằng nhà tỷ phú Vũ Đạt bị quỷ ám nên cứ thỉnh thoảng lại đi vào nghĩa địa đất Thánh Tây hẹn hò với một hồn ma! Chuyện này do chính người bảo vệ nghĩa trang kể cho nhiều người nghe.

Có nhiều người tò mò theo dõi và đã cũng xác nhận lời đồn kia là hoàn toàn đúng. Chính vợ của ông ta đã âm thầm bám theo vào tận nghĩa địa và nhìn tận mắt cảnh Vũ Đạt quỳ gối trước một ngôi mộ có tên mộ bia là Kiều Thu!

Và cũng từ đó việc làm ăn của Vũ Đạt tự dưng sa sút đến khó hiểu. Liên tiếp ba chuyến hàng nhập khẩu của công ty ông ta đều gặp tai họa! Chuyến thứ nhất gồm một nghìn tấn hóa chất chở trên một tàu hàng quốc tế bị chìm khi đang đi trên vùng biển khơi. Chuyến thứ hai gồm máy móc và hàng điện tử trị giá hàng tỷ đồng đã bị thiêu trụi trong một trận hỏa hoạn khi đã bốc lên khỏi tàu chờ chuyển đi. Và chuyến hàng thứ ba gồm hàng gia dụng, đá quý trị giá đến hơn bốn tỷ đồng đã bị đánh cướp khi tàu đi qua eo biển Malacca!

Mà xui xẻo hơn là tất cả số hàng hóa trong các tai nạn đều có vấn đề khai man nhập khẩu nên đã không được bảo hiểm quốc tế bồi thường!

Nhưng tai họa kỳ lạ nhất là chuyện cháy cao ốc mười tầng của ông ta tại Ma Cau. Đó là tòa cao ốc văn phòng một công ty hải ngoại của Vũ Đạt kiêm luôn sòng Casino lớn. Đêm đó có một người nhìn thấy một phụ nữ thua bài đã lên sân thượng của tòa nhà lao mình xuống tự vẫn. Khi người ta la lên báo động thì cũng đúng lúc lửa ở tầng ba phát lên dữ dội, trong phút chốc cả nhà cao ốc đồ sộ đã bị thiêu rụi hoàn toàn. Lạ một điều là sau đó chẳng có ai tìm thấy thi thể của người phụ nữ nhảy lầu.

Vũ Đạt từ ấy gần như là người bị tâm thần. Trái hẳn với một nhà doanh nghiệp trung niên thành đạt, hoạt bát, kênh kiệu trước đây. Bây giờ ông ta trở thành một con người phờ phạc, chán chường và hầu như không muốn nói gì với ai.

Một buổi tối cuối tuần...

Trên tầng năm của một khách sạn sang trọng, tại một bàn ở góc ngoài cùng sát chỗ nhìn xuống đường, có một phụ nữ vận dạ phục màu toàn đen ngồi sẵn đó như chờ đợi ai...

Mười lăm phút sau thì từ cầu thang có một người đàn ông trung niên chậm bước đi lên, tiến lại chiếc bàn đó...

Người phụ nữ không ngẩng lên vẫn biết có người tới, đã lên tiếng:

- Ngồi đi!

Nhưng người mới tới không ngồi vào chiếc ghế trống mà lại bất thần quỳ gối xuống, mặt cúi gằm.

Người phụ nữ lẳng lặng móc trong túi ra một tờ giấy nhỏ đặt lên bàn rồi đứng lên. Trước khi đi bà ta nói một câu ngắn gọn:

- Trả lại ông tờ chi phiếu ngày trước ông có lòng tặng nó cho tôi. Tôi đã không dùng, đúng hơn là không kịp dùng thì đã bị chết. Ông nhận lại nó vì nó là của ông…

Bà ta nói xong bỏ đi và mất bóng rất nhanh sau lùm cây kiểng của tầng thượng...

Sáng ngày hôm sau, hầu hết các báo đều đăng tin về một người đàn ông nhảy từ lầu năm của khách sạn tự tử. Theo giấy tờ tùy thân thì đó là nhà tỷ phú Vũ Đạt...

the ands

by pam phu diep

mylovezin

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#mylovezin