truyen ngan

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Lúc nào lão Đợ cũng cởi trần, đóng cái khố một, bằng mảnh bẹ chuối khô quấn đuôi lươn. Ngày trước lão cao lực lưỡng, bây giờ hai hõm vai nhô ra như cái mấu đòn gánh. Người ta hay đùa lão Đợ kiếp trước ông là ông Thiên Lôi phải trời đày xuống trần nên mới khỏe chịu nắng chịu gió thế.

Nghe dễ là gần sáng. Tiếng sấm đầu đông ùn ục như trời sôi bụng. Áp tháng chín, sấm cạn. Thế này là trái tiết, người ta dễ ốm, con cua con ếch thì lo xa tránh rét nghe sấm đã ẩn vào trong hang cả rồi.

Bao nhiêu năm đến giờ chẳng nhớ, chẳng buồn nhớ. Thuở ấy, nhà Đợ có hai cái nan, một nan vợ một nan chồng. Nan vợ thêm thằng con trai mới lên ba. Hai cái nan xuôi ngược, tối đâu ghé đấy, cũng quanh quẩn chẳng xa hơn quãng sông con. Năm kia, chẳng may nhà nó ốm rồi chết. Người chồng lên bờ, xin làng một nấm đất đắp ngôi mộ. Rồi làm túp lều lấn sang bên cạnh. Lại vỡ thêm mảnh đất, vun luống cải, luống rau. Chỗ ấy hõm vào một quãng bờ, như cái đìa nước. Trong vũng nước sinh sôi mọi thứ cá mú, thế là không phải lần hồi ngoài sông nữa.

Chẳng bao lâu, tháng Nhõn đã xốc vác được. Nhõn đi kiếm ăn theo nước lên ngược. Có chuyến đẩy về cả bè củ nâu đem xuống bán dưới bến Nứa ngoài Kẻ Chợ. Từ ngày ấy vẫn nửa lều nửa nhà, với mảnh vườn rách đâu vá đấy, chẳng bao lâu và bây giờ bác Đợ đã thành lão Đợ.

Lão Đợ ngồi dậy, ưỡn lưng vươn vai. Trở trời mưa nắng với con cá, cũng lắm khi bận tới con người. Tiếng sấm muộn này có khi có chuyện đây, lão lấy cái giỏ giắt vào lưng khố. Chiếc nan chân liền của lão vẫn cắm ngoài mép nước. Hai tay như hai cái vây cá ve vẩy đẩy nan lướt ra. Suốt dải bờ, tiếng óc ách, óc ách như dế kêu, nhảy nhảy trong tai. Như đã trông thấy trong bờ có đến hàng trăm, mấy trăm con chạch chấu đương ngoe nguẩy đào bùn làm lỗ ẩn vào hang.

Lão Đợ cúi xuống, nghiêng cái nan vào bờ. Bắt chạch dịp này dễ ăn. Chẳng phải câu kéo, nơm vó, chỉ việc quơ tay. Chốc lát đã được lưng giỏ. Bỗng có tiếng gọi trên bờ, sau cái nan khuất chổng đuôi.

- Bố cu Đợ đấy phải không?

Đứa nào lếu láo dám réo tên cái lão ra. Chắc chỉ lại lão từ Hoả mới dám chớt nhả thế. Lão Đợ quay cái nan, nhìn vào thì đúng ông từ Hoả. Hẳn ông thủ từ ra đình thắp hương. Hôm nay mồng một. Ông thủ từ giữ đình. Khi nào ra đình, ông từ cũng xách đôi guốc mộc gốc tre, ông chỉ xỏ guốc nghiêm chỉnh khi đi vào đình.

Ông từ Hoả ra bờ đầm, ngồi thụp xuống, thì thào:

- Nhích cái nan vào về nhà, nói cái này.

Gì thế, cái này là cái gì, cả năm cả đời lão Đợ chẳng có cái gì phải nói ghé tai, lão chẳng hay nghĩ ngợi loăng quăng. Lão Đợ vẩy tay, quay cái nan vào, thò tay móc lôi ra một con chạch chấu chúi trong bùn.

Lão Đợ làm rốn bắt mấy con chạch nữa rồi lão cũng tạt nan về sớm. Lão Đợ vác ngửa cái nan lên đổ chạch vào thúng sơn, được vừa lưng thúng, có con nhảy cả ra ngoài. Lão chọn mấy con chạch to, đem xuống cầu ao.

Con chạch vàng nhẫy, chỉ mổ moi rồi xiên vào mấy đọt tre tươi. Ông lão vào nhà chất củi rồi cời bếp than, đặt cá lên nướng.

Ông từ Hoả bước tới, kêu:

- Cái giống chạch phải được nước mưa cuối thế này, ăn mới lẳn thịt, thơm điếc mũi!

Một mảnh lá chuối đựng muối với mấy quả ớt vàng chóe. Hũ rượu nút lá chuối đặt cạnh. Hai cái bát đàn ăn cơm uống rượu lẫn lộn, tất cả bày ra mái hiên. Ông Đợ và ông Hoả đều cười nói ồn ào: "Khéo vẽ! Bày ra rồi lại phải dọn. Cứ thế này, ăn xong chỉ việc đứng dậy".

Nhưng ông từ Hoả cẩn thận, xuống cầu ao khoả cái chân, nhưng rồi lại chân đất đi lên. Ông ngồi vào đầu mấu cái ống bương kê làm ghế, trong khi lão Đợ mở nút vò rượu.

Ông từ Hoả chép chép miệng:

- Rượu nhà nấu, cá muốn ăn lúc nào thì đi bắt. "Anh hùng tiếng đã gọi rằng", cái lão này phong lưu đến nơi rồi.

- Phong lưu có hơn thằng mõ không?

Ông Hoả trợn mắt:

- Ấy chết, ai lại ví von giồng cây chuối ngược thế. Phải nói ngay thế này. Sáng hôm qua, tôi ngồi chẻ đóm, tôi nghe rõ ông ổng. Mà các cụ vặc nhau như mổ bò, ngoài cửa đình còn nghe à uôm như đất vào tai. Có cụ bảo, cái lão Đợ mà làm chủ tế thì cả làng này đi ăn mày. Có cụ nói ác nữa: cái thằng chết trôi sông phải lên bờ chôn nhờ đất thiên hạ mà bây giờ làm chủ tế à. Ấy vậy mà các bố ấy cứ bàn quẩn đầu bắt đuôi, có nhẽ phải xuống tận bể Đông hỏi ông Hà Bá thế nào mà vẫn chỉ thấy lão Đợ vẫn chỉ còn lão Đợ làm được chủ tế.

Lão Đợ ngây mặt ra:

- Thế còn ai làm được?

Ông từ Hoả gật gù:

- Chỉ còn lão Đợ thôi. Tính chẻ hoa ra rồi, cấn cái rồi. Đếm mặt năm sáu mươi thì đã xuống lỗ cả. Thế mà lão Đợ dư sáu mươi vẫn lội ao lội sông ùm ùm, được là thế ấy. Bảo rằng lão thằng ngụ cư, thế thì tông tích cả làng này ai chả là tháng ngụ cư, ai chả là ở dưới sông bò lên, chứ cứ đâu cái ông lão Đợ. Có cụ chết cười lại bênh ông. Độ nhà ấy song toàn, trên thuận dưới hoà. Người ta đốp cho, bà lão ấy ngỏm từ đời ông ba mươi, lấy ai ra mà cãi nhau, đánh nhau, làm sao mà chẳng song toàn. Cứ lý sự kéo co cả buổi...

Ông từ Hoả tợp một ngụm rượu, cười khè khè:

- Thế là ông lão được chân chủ tế. Sướng chưa?

Lão Đợ buông sõng:

- Chẳng thấy sướng chỗ chó nào.

Ông từ Hoả uống cạn bát rượu, đứng dậy hét:

- Không được láo, nói thế thánh vật đấy!

Lão Đợ lẳng lặng ra xé mảnh lá chuối, gói nốt mấy con chạch nướng, đưa cho ông từ Hoả. Ông từ vẫn hầm hầm mặt giận lão Đợ báng bổ thần thánh nhưng vẫn cầm gói cá, lập cập bước ra. Hai ông lão này hay dỗi nhau từng lúc, quá trẻ con.

Lão Đợ ngồi lại một mình. Trước mặt, chỉ còn mấy cái que xiên cá nham nhở. Lão Đợ cắn cả nửa quả ớt rồi uống nốt bát rượu, sau lão nằm kềnh ra nền đất. Cái đầu lơ thơ tóc một búi túm đằng gáy gối lên mấu tre vừa ngồi.

Lão không say, cũng không buồn ngủ. Lão đương nghĩ vẩn vơ về cái việc chủ tế, tế chủ không biết ra làm sao.

Xem rước, xem tế thì lão xem rồi, xem nhiều rồi khi sang tháng ba rồi tháng chín, ngoài đình có kỵ thánh đều có lễ, có tế, có năm lại rước chạ. Chốc đã mấy chục năm qua. Đến cái năm Đợ được vào làng được cắt chân đinh vác cái thùng lùng theo bác khán thủ đi tuần, đi hộ đê, đóng hàng giáp, việc làng, lấy phần, đấy mới thật ra trai làng. Xem hội đứa nào làng lạ bắng nhắng, đánh nhau ngay.

Thế mà có điều là đình đám làng này chẳng ra gì Xem hội to thì rủ nhau lên phủ, sang tỉnh khác. Những miền lắm của, voi gỗ ngựa đá thờ, đao đình vảy rồng, cột trụ có con nghê sành. Làng này chỉ có đình cột xoan, cột mít, mái lá cọ. Năm gian đình bày mỗi cái cuốn thư, chiếc kiệu long đình sơn then đã loang lổ trơ gỗ mộc cả bốn chân. Không thấm vào đâu với những cột đình sơn son thếp vàng, những dải y môn buông tua điều quanh long đình kiệu bát cống, lại con ngựa bạch có bánh xe...

Chuyện về của cải những đình chùa nhà hàng xứ người ta thì biết thế nào kể xiết. Thạo đi xem hội thiên hạ rồi. Đi xem hội thiên hạ mà nô nức chen chân, có khi cơm nắm cơm đùm trẩy hội vài ba ngày mới tới mà vẫn nô nức.

Ấy như hội làng thanh bạch mà vẫn có cái nghiêm hội làng. Trong gian ở hậu cung thấy bảo có các đạo sắc phong thần của nhà vua, nhà chúa. Mọi người đều thuộc sự tích ông thánh làng ta. Thánh cũng như người làng, ai cũng cởi trần, đeo giỏ đi bắt ếch. Thánh làng ta thấy bảo cũng thế. Rồi ngài nổi tướng theo vua đi đánh giặc. Gặp giờ linh, ngài hoá.

Ngài thiêng lắm. Đến ngày kị, hàng giáp mổ lợn, mổ trâu, mặc lòng, bao giờ trên bàn thờ, dưới tay ngai cũng phải buộc đôi ếch - phải vào tận chân núi kiếm ếch hương về nuôi vỗ béo hàng tháng. Làng lại kiêng những huý. Con ếch được gọi là "ông ộp", mà phải nói nhẹ nhàng như khấn, sợ to tiếng, ngài quở.

Lão Đợ đương gờ gờ mắt nghĩ lơ mơ về đức thành hoàng. Lão nghĩ cũng lạ: ông thánh cởi trần, ông thánh đeo cái giỏ, thế thì ta là ông chủ tế tế ông thánh là phải rồi. Cứ nghĩ về ông thánh, về ông chủ tế, lão Đợ tan mất cơn buồn ngủ. Lão Đợ đứng lên đậy tàu lá chuối lên mặt cái thúng sơn, ở trong đám chạch chấu đương ngoi lúc nhúc. Lão cắp thúng cá đem ra chợ hôm ngoài bến, như mọi khi đi nan về. Một lúc, lão Đợ bán hết cá, đã úp cái thúng không lên đầu, đội về. Trông thấy ông từ Hoả đang cắm cúi bấm chân gánh thùng nước. Chiếc đòn gánh lắc lư, hai cái thùng tre ghép, mặt đậy hai chiếc lá bàng, nước sóng sánh nhẹ nhẹ. Cơn say ban trưa còn lại hay chân lão vốn chân vòng kiềng cho nên thùng lắc.

Lão Đợ đã quên chuyện bực bội. Lão hỏi bô bô:

- Gánh nước cúng à?

Ông từ Hoả nhìn lên cũng trả lời mau miệng:

- À nước tắm đình.

Rồi lại thì thào:

- Sắp đến rằm.

Chẳng biết quên hay chợt nhớ ra, lão Đợ cười khơ khớ:

- Ờ nhỉ?

Lão Đợ rút trên đầu, cái xâu mấy con chạch nhét trong đít thúng, lại đưa cho ông từ:

- Cầm về tối uống rượu nhé.

Rồi ông tự nhiên chuyển sang chuyện khác, như hỏi giữa giời:

- Chẳng biết làm chủ tế nó ra thế nào...

Ông từ Hoả cầm xâu cá, nói:

- Đã có ông bồi tế giúp một tay. Không thấy mọi khi đấy à.

Ông từ Hoả đã gánh nước vào khuất chân tre cổng đình. Lão Đợ vừa đi vừa gõ ngón tay lên nóc cái thúng sơn trên đầu, bắt chước như đánh trống tế. Đã có ông bồi tế? Đã có ông bồi tế giúp một tay. Lão bước nhấp nhểnh. Cái lạt xâu tiền bán cá buộc bên mép khố kêu róc rách, róc rách.., tế chủ tế chủ..

Một hôm, có mấy cụ hương kéo đến nhà lão Đợ. Bác khán thủ đi với hai trai tuần, một người bưng cái mo cau, trong đựng mấy miếng trầu, một rẻ cau, một be rượu, bác khán hai tay ôm cái tráp gỗ mộc. Ông từ Hoả đã mách cho lão Đợ biết làng đem rượu và trầu cau với áo tế đến, thế là làng đã có lời mời rồi.

Bác khán đặt cái mâm chõng xuống giữa nhà rồi để ra cái tráp, hệt cái hòm thợ mộc. Rồi mở cái mo trầu cau đã têm sẵn lên trên mặt tráp phủ vuông vải điều. Cụ hương hai tay nhấc vuông vải, mở tráp.

Trong tráp, gấp sẵn cái áo tế. Hằng năm, mỗi hôm tế ngoài đình, ông tế chủ được mặc áo tế, làng nước ai cũng biết cả. Áo thụng tế không phải áo nâu da bò, không phải áo lương áo kép nhà giàu đâu, áo thụng của làng là của thần, của thánh chỉ ông tế chủ mới được xỏ tay. Làng chỉ sắm được có một cái. Cụ nào lên lão được kén vào chân chủ tế được lộc mặc. Quanh năm, cái áo tế được cất trong tráp để vào hòm gian ở hậu cung.

Tráp vừa mở, mấy con gián cuống quít bò ra. Anh trai tuần giơ gót chân day con gián. Cụ hương kêu to:

- Ấy chết. Lạy thánh. Không được! Không được làm thế.

Cụ hương nhẹ tay rũ cái áo tế rồi xóc lên. Cái áo thụng the quyến hoa chanh nhuộm lam, đã ngả bạc, nhưng gấu áo, gấu tay còn đứng nếp.

Cụ hương vuốt áo như nói một mình, nhủ khấn:

- Lạy thánh xá cho, áo lễ làng ta lắm nào cũng mới nguyên như năm nào.

Rồi cụ nói với ông Đợ:

- Hôm kị thánh có chạ dưới lên góp lễ, cụ chủ tế mặc áo thụng đứng lên cho chạ anh chạ em người ta trông vào.

"Ối dào, mấy chục năm nay tớ vẫn giữ chân đánh trống tế đến bây giờ mới được lượt chân chủ tế Chẳng lạ gì cái chạ dưới mà phải trông vào trông ra. Bất quá lại khiêng cái long đình gẫy chân, có bó nhang đen, có nải chuối xanh để bàn thờ, với đấu xôi nén, năm nào cũng cỗ chay. Chẳng có gì mà phải lo, được rồi!".

Lão Đợ quen miệng hay nói "được rồi", mà cũng chẳng để ý được cái gì. Khi mọi người đã về, lão Đợ ngồi đờ ra một lúc. Lão cầm cái áo tế đưa lên mũi ngửi, lại nói "được rồi". Lão không để áo ra mặt đất mà trải lên đống lá chuối khô vuốt từng tà áo, gấu áo nhăn nheo. Không biết áo tế đã bao nhiêu đời các cụ xỏ tay có chỗ lồng tay ào. Áo nhẹ như bấc, rộng thênh thang, giơ hai tay lên đỉnh đầu hạ hai tay xuống, những vạt áo lam mờ phất lên như làn gió mát. Lão có cam tưởng như ông quan, lại như ông thần.

Lão Đợ vẫn đứng nghiêm, hai bàn tay đặt trước bụng. Lão đương nhớ lại những lần ra đình xem tế.

Ông từ Hoả ở đâu đến, chưa thấy người đã thấy tiếng.

- Tế một mình à? Lão này tập tế. Rồi có người đến tập cho, ra đình thử mới hệt.

Lúc ông từ Hoả vào đến trước cửa, hấp háy mắt ngắm lại, ông từ kêu choang choác:

- Ối giời ôi, tế cởi truồng. Chết chết, phải tội, phải tội lòi con ngươi ra.

Cái lão nửa đời này chỉ được cái vu vạ. Lão vẫn đóng cái khố đuôi lươn đấy thôi. Nhưng mà nhìn lại, lão Đợ cũng giật thót mình. Lão trông xuống cái vạt áo thụng thưa như mành mành, rõ ra cái cẳng chân, cái đầu gối như gốc tre, cái ống nứa. Thế này thì khác nào chưa mặc quần! Ông từ Hoả ngồi xuống, rút đằng sau lưng ra một cái quần. Ồ cái quần mồi của ông từ vẫn mặc những ngày sóc, ngày vọng lên đình thắp hương. Ông từ nói:

- Phải mặc cái này nước được. Chứ đến chỗ lễ bái mà tô hô ra thế kia thì hàng chả ngả vậ đấy. Mặc thử xem nào.

Cái quần lá toạ của ông từ Hoả, quần vai gốc dấn bùn rồi nhuộm cậy, màu bùn màu cậy như cái mo nang, chó cắn phải gãy răng. Không bước của con cái đùa nào biếu hay là của làng may cho ta năm ông ta giữ chân thủ từ, ông từ Hoả chỉ mặc cái quần này ngày tết nhất và những hôm làng có việc mà thôi. Thế là ông từ tốt bụng với lão Đợ lắm.

Lão Đợ đút ống quần luồn cái khố vào trong, ông từ Hoả toan quát lên, nhưng lão Đợ đã mặc cả quần cả áo thụng rồi lão quat đầu xuống hỏi:

- Tôi mặc mất quần ông rồi, hôm làng vào đám ông mặc quần nào?

- Không phải lo, không lo.

Rồi ông sửa sang cái quần chùng cho ông Đợ. Ông từ Hoả đã vứt cái dây chuối khô làm dải rút. Ông thắt vặn hai lá toạ quần lại. Ông làm thoăn thoắt nhừ bác phó may thử áo. Lão Đợ cứ đứng giơ hai tay áo thụng, có ý kính nể vẻ tháo vát của ông từ Lão thủ từ lo việc lễ bái đã mấy năm, bắt con cá con mú thì lão vụng nhưng việc đèn hương lão co chừng khéo. Đằng nào cũng được được rồi. Lão Đợ cười:

- Đứng ngay lưng lên xem nào?

Lão Đợ đứng ngay người. Hai vai áo thụng nhô ra, cong cong như cánh con dơi. Thành thử trông lão hốc hác to lớn, oai lạ. Lão Đợ không nhận thấy, thế nhưng ông từ Hoả ngắm nghía ông bạn già đóng bộ vào rồi cũng phải nghĩ thầm: ông này đứng chân tế chủ, lạy thánh mớ bái, thánh phù hộ đây.

Lão Đợ sốt ruột:

- Thế nào, xong chưa?

Rồi lão thõng hai bàn tay xương xầu gầy khô xuống cái vạt trước áo lam, nhăn nhó:

- Rặm quá, như có đàn rệp bò trong bẹn.

Ông từ Hoả cười khe khé:

- Cả đời có mặc áo quần đâu mà biết con rận con rệp. Đừng nói nhảm, việc đình chùa nhà thánh không dám khuất mắt đâu, người ta phải đập rồi phơi mấy nắng rồi đấy.

Ông từ Hoả kéo cái quần sồi lão Đợ đứng mặc đem gập lại, đặt cẩn thận xuống dưới cái áo tế trong tráp, lão Đợ cứ đứng trơ ra cho ông từ lột, lát sau như chợt tỉnh, lại hỏi lẩn thẩn:

- Ông từ cũng phải vào hậu cung thắp hương mà không có quần mặc thì...

Ông từ Hoả nhăn nhó vẻ khó chịu:

- Cứ lo con bò trắng răng, đã bảo đâu khắc có đấy rồi.

Cũng chẳng biết "đâu khắc có đấy rồi" là thế nào, lão đâm ra cuống, đến lúc lại nghe yên tâm nói thế, ông Đợ lại yên tâm vu vơ, lại thấy ông từ Hoả mới là tay tháo vát.

Bỗng nhiên lúc này, lão Đợ có ý mong thằng Nhõn. Đã biết là thằng Nhõn đi, năm nào đến kị thánh làng thì Nhõn cũng nhớ về. Nó bảo: "Ông thánh làng ta thiêng lắm phải về lễ tạ thánh mới cho ăn lộc". Chả cứ nó, nhiều người đi làm ăn xa cũng về hội làng. Cái lệ, cái nết làng nước thế. Năm nay, lão Đợ được giữ chân chủ tế, lão càng có ý ngóng con. Mấy lần ra bến, lão Đợ lại nhắn người buôn bè đường ngược. Rồi chiều chiều tha thẩn ra bờ sông. Lão Đợ càng mong.

Cái ngày thằng Nhõn còn bé, ông lão cũng đã đi kiếm ăn trên rừng. Bây giờ Nhõn lại theo nghiệp ông. Vào rừng kéo gỗ mướn, đến vụ thì đẩy bè củ nâu xuôi bến Nứa dưới Kẻ Chợ. Con sông này chỉ lên một ngày đường nước đã sang đồng đất đường rừng. Xẩm tối, từ ngoài bến, hôm ấy Nhõn về. Cái đòn ống buộc cái bu đựng hai con gà trống. Những con gà, gà nhà làng Mường cũng chẳng khác gà rừng, mã tía, đuôi xòe dài như đuôi công, chốc lại cong cổ gáy the thé.

Từ bờ rào ngoài đường cái trông vào nhà, Nhõn đã oang oang:

- Lạy bố. Nhà ta có cái tráp đẹp thế kia.

Lão Đợ ra đến trước mặt Nhõn, thì thào quát khẽ:

- Làm gì mà réo như đánh mõ thế. Cái áo tế, nghe ra chưa, cái áo tế.

- Người lên bến trên ấy đã khoe cả vùng biết bố làm tế chủ rồi. Tối nay thịt gà cúng cụ.

Lão Đợ nói:

- Chỉ thiếu có cái quần, thì ông từ Hoả cho mượn. Phúc đức chưa.

Nhõn nói:

- Được rồi. Mai kia lên Mường nhuộm đôi quần vải chàm, cái quần chàm mới hợp với màu áo lam tế.

Ông lão như khoe, lại như đánh đố con:

- Lại còn đi tập tế, ối cái rắc rối quá.

Nhõn cứ nói dễ như bỡn:

- Không phải đi đâu cả. Tôi biết rồi. Ra ngoài ông đồ Bùn, hỏi các thứ. Trẻ con xem tế cũng đã thuộc cả. Hương.., bái... Cúc cúng bái... Năm nào chẳng thế.

- Lạy thánh, thằng này chỉ bố láo!

Nhõn cười ầm lên. Một mình Nhõn đã nhộn cả nhà.

Lão lại ngồi nhẩm từng thứ. Cứ lỉnh kỉnh mà rối cả ruột. Mà phải đi mượn chứ, ai lại đi sắm để ngày sau làm tế chủ, rõ rồ. Quấn cái khăn lượt, mượn đâu ra cái khăn lượt. Rồi mai kia thằng Nhõn lên ngược, may cho ông đôi quần chàm, à cái thắt lưng chàm nữa.

Còn đôi hia, các cụ tế chủ mọi năm đi hia, nhuộm bùn rơm rồi tết bện lại, như cái chổi lúa, thế thì trông không được mắt, không được. Không, không, ta sẽ làm đôi hia cho ra hồn.

Lão Đợ xuống ngắm nghía dưới bờ tre. Lão chọn một cây tre chết róc đã vàng ửng xác xơ. Lão cúi xuống tận gốc rồi đào bật cả chòm rễ cây tre chết đứng, bửa đôi ra.

Chỉ nửa buổi, đã đẽo xong đôi guốc gộc tre, gọi là đôi guốc, đôi giày, đôi hia gộc tre cũng được. Nó không cần quai, thúc vào mũi nó hùm hụp như cái gáo dừa. Nung cái đinh lên, dùi một bên một lỗ, như hai con mắt trổ ngoài mũi thuyền. Cái gót thì đẽo tròn, để nguyên cả tảng. Thế là được đôi hia vạn đại.

Xong rồi, lão Đợ đem vùi đôi hia gộc tre còn mộc xuống bùn ao.

Hôm ấy, trống đình đánh liên hồi từ sáng sớm. Tế ở đình có chạ dưới lên góp lễ - như mọi năm. Trẻ con các xóm đã nháo nhác từ hôm qua. Các bác hương, bác nhiêu, chú trai tuần mặc áo năm thân, búi tóc chít khăn xúm xít giải chiếu mộc, chiếu hoa khắp các gian trong đình, cả hai bên tả vu hữu vu, vào tận hậu cung. Mái lá tối như hũ nút, chỉ thấy những chấm hương đỏ ngòn, cây hương đen thơm ngào ngạt.

Các bác, các cô cũng ra đông. Cả những chị con mọn cũng vừa xốc con bú vừa chạy te tái. Đàn bà con gái không được vào đình, không được lướn phướn nhòm ngó chổng mông vào cửa đình. Tất cả đứng tụ lại thành đám ngoài gốc đa, xem cái long đình của chạ dưới vừa lên. Những bà già ở các xóm ra, chốc lại lẩm nhẩm chắp tay vái vào trong cánh cửa đình đã mở toang, khói hương lùa ra xanh rờn từng đám.

Ông chủ tế ra ông chủ tế, lão Đợ đã như đồng thuộc. Chả là lão cao lêu nghêu lại to xương, quai hàm, bả vai nhô, cái áo thụng phơ phất như cánh phướn nhà chùa. Lão chít cái khăn lượt vểnh từng vố Cái quần nhuộm cậy buông lửng xuống trên đôi guốc gộc tre lênh khênh như ông lão đi cà kheo. Cả đám tế chỉ mỗi một mình cụ chủ tế được mặc áo thụng. Rõ ra dáng ông tướng, ông quan hầu thánh, quan hầu thành hoàng.

Lão Đợ xách đôi guốc gộc tre vào đến sân đình rồi đặt xuống, đi vài bước làm phép, rồi lại tụt ra bước chân không.

Cái trống cái kê nghiêng đã nổi ba hồi một. Kiệu long đình của chạ dưới rước lên đã đỗ gốc đa ngoài mái hiên.

Nhõn hôm nay ăn mặc bảnh chọe, không như mọi khi cởi trần vác cái đòn ống đẩy bè.

Nhõn chít khăn lượt. Nhõn mặc chiếc áo nâu năm thân đứng ngay sau lưng ông chủ tế. Chẳng phải đã được cắt đặt thế nào, Nhõn cứ tự nhiên đứng lẫn vào với chân ba bốn người bồi tế. Tối qua, Nhõn còn dặn bố. "Bồi tế người ta xướng thế nào thì ông mặc kệ, ông cứ nghe tôi nói sau lưng ông mà làm. Người ta bảo bái thì tôi xướng quỳ xuống. Người ta bảo bình thân thì tôi bảo đúng chắp tay ngay người, người ta lại xướng hương thì nghe tôi bảo đứng lên, ấy cứ thế mà làm...

Người đông xướng: Tiên tước. Nhõn giục: Buộc lên. Lão Đợ ngay người thủng thỉnh bước lên. Người tây xướng: Độc chúc. Nhõn nói sau lưng bố: Đưa văn tế cho nó đọc. Cụ chủ tế cầm một tờ giấy lệnh gấp đôi, vái rồi đưa cho bác đồ Bùn đọc văn tế.

Giọng bác đồ lanh lảnh... Từ Liêm huyện, Hoài Đức phủ...

Trong đình, ngoài đình im phăng phắc. Một hồi trống, một câu xướng: Nghệ ẩm phục vị. Đến câu này, thằng Nhõn chưa giục, ông Đợ đã thuộc. Ông Đợ quỳ xuống. Hai người bồi tế hai tay bưng chén rượu và cơi trầu. âm phúc... Cụ tế chủ nhận chén rượu, vái một vái lên bàn thờ rồi ngửa mặt uống một hơi. Lại vái một vái, cầm miếng trầu ăn. Uống rượu ăn trầu, không biết từ lúc nào, ông Đợ đã thuộc ngay.

Lễ tất. Nhõn nói vào sau lưng ông Đợ: "Xong rồi". Rồi lại nói: "Nhớ đi ra thì phải lùi, không được đi chổng đít vào. Thế thế".

Lão Đợ đã biết rồi, lão Đợ lùi đúng đến chỗ lão xếp đôi guốc gộc tre.

Suốt buổi tế hương đốt nghi ngút trong hậu cung ra ngoài các án thư. Chốc chốc, tiếng trống rền rĩ từng hồi. Tiếng đông xướng tây xướng, tiếng độc văn, giọng kim giọng thổ ồn ào. Người tế, người xem tế từ trong ra ngoài, ai đứng đâu nguyên đấy, có lúc im phăng phắc. Trẻ con thao láo mắt nhìn vào Có tiếng trẻ bỗng khóc thét. Người mẹ bế xốc lên, chạy huỳnh huỵch.

Ông tế chủ đã xong việc đi sang gian bên, ngồi với các quan viên chạ dưới. Mỗi cụ xơi một miếng trầu rồi uống ba tuần rượu chay. Năm ngoái có con gà, ván xôi nhưng năm nay làng dưới đã lên có lời trước, chạ em đuối quá, không lo được, mà lệ làng thì phải giữ, quan anh đánh cho chữ đại xá. Ở đằng sau cái long đình có tiếng gọi:

- Ông tế chủ! Lạy ông tế chủ!

Lão Đợ ngẩn mặt ra nhìn mấy người khiêng kiệu. Lố nhố một bọn chân đất, vai trần, trai kiệu đóng cái khố bao. Lão Đợ nhận ra các quan viên chạ dưới. Lão nhớ mặt cái người già hơn lão, ngày ngày vẫn chỉ đào chuột, đi đơm cá. Những người bạch đinh, chân trắng này vẫn phải đi khiêng kiệu, cũng là giai già mới được cắt đấy. Hôm nào lão Đợ chẳng đụng mặt với các lão ấy cất vó, xách giỏ đi dưới bãi.

Lão nói:

- Cụ được chân tếch, hơn đàn em rồi, sướng nhỉ?

Sướng chứ. Nhưng mà bắt con chạch chấu dễ nhằn hơn, có cái be cay đấy không?

Lão kia cười khì khì, lôi trong đáy long đình ra một vò rượu.

- Lạy cụ, trông khăn áo đi hia gộc tre thế cũng biết là cụ khó nhọc mướt mồ hôi rồi. Cụ làm một ngụm giải cảm.

Lão Đợ, hai tay áo thụng xắn lên, bưng vò, ừng ực liền mấy hơi. Rồi quệt tay chùi mép. Lão kia cú ngóc lên nhìn rồi chắp tay vái: "Trông cụ có tướng lắm!". Lão Đợ nói: "Tướng cướp à?", rồi lại giơ cái ống tay áo lên chùi mép lần nữa rồi mới thủng thỉnh vào đám các chạ trong đình cũng đương tíu tít rượu suông.

Cái long đình bốn người khiêng. Bốn người chân trắng đi túc trực đám rước, lại lõng thõng về làng bên. Tuy năm nay chẳng bày vẽ nhưng chạ nào có cái lễ, thì phải có rượu rồi chẳng biết người ta biện rượu ra ở đâu, cả đến những người khiêng cũng lắc lư, như kiệu bay. Cái long đình gỗ mộc tả tơi như cái võng vong đám ma mà cũng bay, cũng bay. Chốc chốc trống đánh tong tong, tế trong đình rồi, bây giờ người bay kiệu bay.

Lão Đợ bảo ông từ Hoả:

- Đóng cửa đình rồi về vào nhà tôi nhé!

Ông từ Hoả cười khì khì:

- Xong ngay đây.

Ông từ Hoả cầm cái bầu khoá đuôi chuột to bằng quả mướp, đặt vào then rồi rút khoá, buộc thắt lưng. Thằng Nhõn đi trước, hai tay cung kính bưng một xâu những con ếch thờ của cụ tế chủ được phần. Nhưng lúc nãy Nhõn đã bẻ cả xương đùi cho những con ếch mất giãy. Cả mấy người đều chếnh choáng.

Lão Đợ, mỗi tay cầm một chiếc guốc gộc tre. Cái áo thụng đã cởi vắt lên vai. Ông từ Hoả rút cái áo thụng, gấp lại cắp xuống nách, nhưng lão Đợ không biết.

Lão Đợ nhìn mấy con ếch bóng nhãy thằng Nhõn xách trong cái lạt tre. Chốc nữa, những "Ông ộp" này được hoá kiếp đi rồi thành thần. Ông thánh làng ta đi bắt ếch rồi theo vua đi đánh giặc. Thành hoàng làng ta hàng trăm năm hàng nghìn năm có công rồi hiển thánh, bói ra khoa thấy lẫy lừng. Ông thành hoàng làng ta hiển thánh sinh ra cái hèm thịt ông ộp. Hôm hội nhà ai cũng có một giỏ ông ộp, cả làng ăn cỗ om, cỗ rán ông ộp. Ông thành hoàng làng cũng ăn tiệc ông ộp. Vừa hay, gió heo may nổi, con chạch chấu chúi xuống bùn, con ếch vào ngủ trong mà, ếch đi tránh rét nằm ngủ đông như cua, tha hồ nhà nào cũng có cỗ "Ông ộp".

Lão Đợ đã về đến trước đống rơm. Lão ngước mắt lên mới thấy vàng mặt trời. Bỗng dưng lão trông thấy một ông râu quai nón đi vào. Ông lão râu quai nón đóng khố bao, lại đeo cái giỏ bên mông, tay chăm chăm con dao bảy sáng nhoáng ông lão đi nhanh như gió nổi dào dạt qua đống rơm, rồi lại biến mất.

Đích là người về rồi, người về rồi. Lão Đợ giật cái áo tế ở nách lão từ Hoả, cuống quít mặc vội. Lão lúng túng quên cả chít khăn.

Lão Đợ giục Nhõn:

- Nhanh lên! Đèn nhang lên! Ngài về! Ngài về!

Lão Đợ đi guốc gộc tre, mặc áo thụng nằm phủ phục xuống giữa cổng. Ông từ Hoả cũng nghển đầu lên rồi cũng thụp xuống sau lưng lão Đợ. Thằng Nhõn ra rút một nắm hương đen đặt vào đống rấm. Hai ông lão cúi móp xuống đất. Mắt ông lão trừng trừng nhìn lên rồi nhắm lại, hai người cũng nói lẫn lộn, loác choác, như ngủ mê, lại rì rào như khấn:

- Đấy, đấy Ngài cởi trần thắt lưng điều, ngài cầm con dao bảy, ngài chỉ dao về đằng kia, đưa quân ngài trảy về đằng kia. Nhõn ơi! Mày đem thả ngay xâu con ộp xuống sông, cho ngài lấy lương ăn. Ngài đang đánh giặc to lắm. Ông Hoa ơi, trong bếp còn mấy vò rượu ông khuân ra cho tôi. Ngài đi ngoài kia, đấy tiếng tù và, lại tiếng tù và... đấy đấy.

Hai ông già cứ nghi ngóp rót rượu ra bát lồi ừng ực uống, rồi lại ngóc đầu lên. Ông từ Hoa ơi? - Đấy, đấy ngài...

Lúc ấy, Nhõn đi ném cả xâu ếch xuống sông. Nhà tối om, Nhõn nhóm lên một đống củi. Nhõn cũng trông thấy loạn cả mắt trong ánh lửa nhảy nhót. Thánh đã biết ta bẻ hết chân những con ếch thờ rồi. Nhõn quỳ xuống, sợ dựng tóc gáy. Rồi Nhõn rà rà vào bếp cắp một hũ rượu. Nhõn lại chạy xuống bến. Cái bè củ nâu ba cây luồng vẫn nẹp đấy Nhõn cởi chão néo đẩy cái bè băng ra giữa dòng. Không biết Nhõn lại ngược hay xuôi Kẻ Chợ. Xâu ếch chết rồi. Nhõn sợ đánh mất xâu ếch của thánh. Nhõn vẫn thấy quân đi ồn ào trên kia.

Bây giờ thì xung quanh đã im ắng. Ông từ Hoa định về ngoài đình, ông vẫn nhớ đường. Người say bao giờ cũng nhớ đường về nhà, về đến nhà ngủ thiếp đi lúc trở dậy mới không biết ở đâu. Ông Hoả lại vẫn trông thấy cái áo thụng rớt dãi ọe ra ướt hết ngực áo lão Đợ. Thế thì ông phải đem về, giặt ngay. Chẳng có thì cái áo thụng ố ra, nó bị chuột cắn, nó bị gián nhấm, cơ chừng mà thánh vật chết, mà phải làng bị vạ.

Ông từ Hoả lò lồm cồm đến chỗ lão Đợ. Ông run rẩy lần tay cởi cái dải áo.

Lão Đợ nhắm mắt nói khao khao:

- Đứa nào?

- Từ Hoả đây.

- Thằng kẻ trộm à?

Ông từ Hoa rên hừ hừ:

- Áo thụng ố hết rồi phải đem ra ao đình giặt.

Lão Đợ ngồi dựng lên:

- Áo này áo thánh, tôi là chủ tế tôi phải rước áo về đình cho ông từ người ta giặt. Phải thế mới được.

Lão Đợ cởi trần, hai tay bưng cái áo tế lên trước mặt. Lão Đợ cũng không nhận ra ông từ Hoả vẫn đi sau lưng.

Đã ra tới đầu ao làng tối om. Nhưng con đường này, tảng đá, hòn gạch bờ bụi các người đi cả đời đã thuộc nhẵn.

Hai người say vẫn đi. Rồi lão Đợ giơ cái áo nâng lên ngang mặt, đưa cho ông từ Hoa.

Rồi lão Đợ quay về tay không. Hai ông lão đường đi đường về như đi trong đường mê mà ai cũng về được cả.

Đến ngõ, lão Đợ trông thấy cây rơm, cây rơm là đến nơi rồi. Lão lăn ra ngủ dưới chân cây rơm. Mờ sáng hom sau, ngoài đình viếng đập cửa chan chát:

- Từ Hoả ơi, từ Hoả!

Ông từ Hoả mắt nhắm mắt mở ra mở cưa. Nhòm ra, lão Đợ cái mặt rượu bây giờ nhợt nhạt bệch ra. Lão Đợ lơ láo thì thào.

- Mất cái áo tế rồi. Lạy thánh mớ bái hay là quân ngài lấy tôi gọi thằng Nhõn hết hơi. Mất cái áo tế mất...

Ông từ Hoả lẳng lặng vào, lão Đợ bước theo đến chỗ cái mái vảy chỗ cái sân đất bên hậu cung. Ở mảng sáng chỗ sợi mây chăng ra, cái áo thụng vừa được ông từ phơi lên, nước còn nhỏ giọt. Lão Đợ quỳ xuống vái cái áo tế. Ông từ Hoả nói như phân trần, lại như phàn nàn:

- Dớt dãi cả ra áo phải giặt ngay, không có thì phải tội chết.

Lão Đợ thở dài thượt một cái:

- Thế mà lo sốt vó từ gà gáy.

Lão Đợ dửng dưng bước ra, lão nói:

- Tôi phải ra sông bảo thằng Nhõn lấy cái nan xuống đìa kiếm mấy "Ông ộp", hôm nay mới được làm cỗ kị thánh.

<< Vỉa hè |

Nhà nào cũng gói bánh chưng hôm hăm bảy tết. Nồi thịt bò quấn lạt kho chín nục, đã treo lên cột chạn bếp rồi. Những chùm khánh đất trên cây nêu reo leng keng trong gió ngoài vườn.

Năm nào bà cũng đi buổi chợ tết cuối năm - có khi hăm chín bắt làm ba mươi, ngày áp Tết thật túi bụi, tất bật. Hầu như chẳng còn việc gì bận bịu đến chợ búa, bà vẫn đi phiên chợ tất niên. Bà đi với cháu. Thằng bé năm nay đã lên tám.

- Bé lon ton đi sắm Tết với bà. - Bà ơi? Bà lại đi mua cỗ ăn Tết à? Bà mua những gì nữa?

Bà nói:

- Không. Bà chỉ còn đi sắm gậy cho cụ. Đường xa mà mưa phùn lầy lội cả ngày thế này các cụ phải có gậy chống mới về kịp ăn cỗ tối ba mươi được Mai đã ba mươi rồi.

Hai bà cháu đã đi đến cây đa đầu làng. Mới hôm nào, giữa trưa nắng hè, những quả đa chín vàng rụng lộp độp, rơi cả xuống đầu. Nhưng không phải tự dưng có quả đa rơi đâu. Trên cao cao kia, những con chim bồ các đứng len lỏi rúc trong những đám lá đa tìm ăn quả đa chín. Thế mà gió bấc về lúc nào không biết. Cây đa cổ thụ kia đã trơ trọi cả lá chỉ còn nghe tiếng gió à à. Những con quạ phờ phạc trong hốc đa tung cánh bay ra thế là lại đến Tết.

Bà vào hàng mua mía ngay đầu chợ. Cô hàng mía chít khăn vuông kín mít chỉ còn thấy hai con mắt to hó, cô đã đặt gánh xuống hai bó mía. Cô cởi ra từng cây, dựng đứng ngoài tường. Những cây mía mỗi đốt đỏ lựu màu mận, trên ngọn để búp lại như cái bắp ngô xanh xanh. Rõ là cây mía thờ bán chợ Tết.

- Bà ơi? Bà mua mía làm gì?

- Đã bảo mà. Gậy của các cụ chống, các cụ về ăn Tết.

Bà chọn hai cây mía. Cô bán mía lấy cho bà lão hai cây mía mẫm hơn, rồi bó lại. Bà xách đuôi cho cháu vác ngọn mía. Cháu nghênh ngang đi trước. Cái chợ ồn ào đằng sau lưng như không còn gì.

Một quãng xa.

Đã lại về đến gốc đa, gió rét thổi ràn rạt. Chẳng biết vẫn con quạ ban nãy hay những con quạ rét quá vừa ngủ dậy, bấy giờ mới bay ra gió sởn cả lông lên. Bà cháu đã mau chân về đến nhà. Cái mâm chõng làm bàn thờ đã được kê bốn hòn gạch vồ đẩy lên cao. Trên mâm, bên cạnh ống hương, cái mâm bồng ngũ quả nhô ra nải chuối xanh. Nén hương đen dài khói lơ lửng khắp gian nhà cũng được bố thắp từ sáng sớm.

Cháu đã thuộc mọi việc bày bàn thờ Tết. Cháu vác hai cây mía ra chum nước rửa. Bà thắp một tuần hương nữa rồi xếp cây mía vào bức vách hai bên giường thờ.

Bà ngoảnh ra sân mưa phùn rồi bảo cháu: Các cụ phải đi nhanh mới về kịp giao thừa được chiều ba mươi rồi.

Cháu nhìn lên giường thờ, nói:

- Thế thì các cụ đã có cây mía làm gậy đây rồi.

<< Cái áo tế | Con cua tám cẳng...

Ông lão đang ngồi lơ mơ. Bỗng thoáng một cái gì đụng đậy ngoài sân đất. A, con cua, con cua bò lổm ngổm dưới bờ ao lên. Lại một con nữa. Hai con cua, cái càng giơ lêu ngêu. Ngoài đồng bây giờ chẳng có bóng một con cua. Người ta bỏ cái thuốc sâu, như thuốc mối thuốc mọt ấy mà, đến thằng nhện nước loăng quăng cũng chết mất giống. Những con cua sống sót này ranh ma thế. Nó khôn bằng mấy người già đấy, biết chạy chết vào các ao trong làng.

Ông lão cúi ngắm nghía con cua đồng như chưa trông thấy con cua bao giờ. Cái càng cua huơ lên định quắp. Con cua tám cẳng hai càng, một mai hai mắt rõ ràng con cua. Con cua có tám cẳng, con cua đến lắm chân. Cứ đương bò ngang con cua lại bò dọc, hu ríu chẳng chân nào bảo được chân nào. Phải rồi, cho nên người đời mới mắng nhau: Ngang như cua, ngang như cua bò.

Chẳng phải đứa nào đâu xa, bà lão nhà này vẫn nhiếc tớ, tớ chỉ được cái nói ngang, ngang như cua. Chẳng biết bà lão hay lẩm bẩm về tớ như thế từ bao giờ. Ở với nhau cả đời, sao mà cứ ngày lại thấy ra một cái tật, một cái chẳng hay ho ra làm sao. Bà lão bảo lão ngang như cua, lão chỉ thấy cái miệng bà lão nói dối dựng đứng. Nó đi chợ về, nó bảo nó ra bến. Nó ngỡ nếu nói là đi chợ thì lão này lại cho là bà lão đi chợ ăn quà. Không biết lão có nghĩ thế không, nhưng lão đoán có phần có khi đúng, không phải lão ngang như cua.

Thế là lão bực, lão dúi một cái. Bà lão ngã ngồi xuống. Nhưng bà lão đã nhổm lên, đẩy ông lão một cái ông lão lăn chiêng ra, hay là ông lão nằm ăn vạ ông lão quờ quạng như con cua bò thế rồi lại rên phè phè như con rắn hổ mang.

Bà lão lập cập bước ra ngõ, nói trống không:

- Đứt đuôi con nòng nọc, đứt đuôi con nòng nọc, từ đây cơm ai người nấy ăn.

Mấy hôm sắp trở trời hay sao, cái mảnh mìn giắt trong bắp chân làm ông lão lại nhức nhối. Ông lão được trợ cấp thương tật, nhưng có đứa bảo đấy là ngày trước tại lão đi vô ý giẫm phải. Không biết mìn ta hay mìn Tây, ông không cãi lại với ai bao giờ. Chỗ ấy là ven đường thằng Tây qua lại, chỗ nào Tây gài mìn thì đấy là mặt trận, có là du kích cảm tử như tao mới dám ra đấy biết chưa. Bà lão dỗi thật. Cả ngày hôm sau, cái bếp im ắng. Đúng là bà lão dỗi thật rồi. Mặc kệ. Có lúc ông lão muốn lên tỉnh chơi với thằng giáo. Nhưng mới nghĩ đến nó, ông lão đã bực mình. Trẻ con bây giờ hỗn. Đời ông, cầm súng cũng có, cầm cuốc cũng có, ông chẳng phải đi học trường thấp đẳng, cao đẳng gì cả. Nhưng cái gì ông cũng biết, cái gì không đúng "quy lát" cũng không qua được mắt ông. Mày cậy mày có đôi ba chữ, mày cũng bảo ông nói ngang như cua. Mày bảo ông im đi, ông đừng nói nữa. Con nhà láo đâu mà láo thế. Cái con mẹ mày cả đời chỉ biết dựa cột cũng vào hùa với mày. Chúng mày ếch ngồi đáy giếng thì có. Mẹ mày bảo từ giờ mỗi người một niêu. Ông sợ gì. Ông lên nhà thương nhà nước trên huyện ông ở cho mà xem. Ông có sổ ốm, ông đi bệnh viện lúc nào cũng được. Nhưng mà ông cũng nghĩ doạ chúng nó thôi, có bần cùng mới đến cái chỗ chứa người bệnh, người chết cho nó ốm đau sầu não người ra.

Ông cũng có việc của ông. Đến mùa hanh hao, ông đi mua những cây tre chết dóc. Tre ấy chẳng bán thì cũng đẵn bỏ cho măng mọc, người ta bán như cho không. Ông vác tre về, chặt từng đốt, ngâm bùn phơi rồi chẻ ra vót đũa cả, đũa quấy bánh đúc. Cái tre chết dóc, lại tre cật, trông đôi đũa chưa gác bếp đã muốn mua rồi, mà nhà nào cũng phải có đũa, có đũa cả, chưa dùng đến thì cũng cắm vào rọ cho đẹp bếp, đẹp chạn, cho vẻ nllà phong lưu. Nó là cái đũa cả, đũa đầu họ nhà vua bếp. Ông chỉ vót đũa cả. Cả chợ gọi ông là cụ "đũa cả" ông cười.

Chẳng qua ông lão nghĩ ồn ào thế chứ anh giáo có dám láo, hỗn gì với cụ đâu. Anh giáo chỉ ngượng mỗi cái gì ông cũng bảo ông biết, ai cắt nghĩa ông cũng có ý kiến. Cái rađiô, cái truyền hình ấy a, chỉ hơn được là trông thấy cái thằng người chứ nó cũng ở cái galen mà ra. Chỉ được cái không phải dựng cây tre ngoài sân, không lo bị sét đánh, chứ nó cũng eo éo thế thôi, có gì đâu... Hội hè à, ngày trước, ông mà đi hội Lim ấy a, con gái Lim có mà theo ông hàng đàn. Chúng mày bảo tham ô là thế nào, đứa nào cầm tiền trong tay chẳng muốn tiêu, ngày xưa việc vua quan việc thằng Tây cũng vậy thôi. Ông đã bảo mà.., mày thấy tao nói cái gì không đúng. Ông không biết à? ông biết tất... Rồi cả mấy hôm nay không có khói bếp. Cơ mà bà lão bỏ bếp thật. Thế thì ông đi. Ông đi cho mà biết tay cho mà thấy là ông đi đâu cũng được. Nhưng ông không lên nhà anh giáo trên tỉnh. Ông lại lên bệnh viện. Cái sổ ốm của ông lão và cái chân ông đau, cả hàng huyện người ta đã quen mặt, quen bệnh ông rồi. Từ hôm lên đây lão không nhắn thằng giáo, nó không biết mà về thăm ông đã đành, nhưng cũng không thấy mặt bà lão. Thế là ra sao nhỉ, ông mà có thế nào ở đây, ông mà chết ở đây cho chúng mày trắng mắt ra. Ông lão nói quở mình thế, nhưng mấy hôm nay ông lão cũng ê ẩm cái chân thật. Có người thấy ông vắng nhà, hỏi thì bà lão nói: "Ông lão đi ăn cơm hà nước rồi". "Ông ấy đi ăn cơm tù hay sao mà cơm nhà nước ạ?". Biết người ta trêu, nhưng bà lão cũng chửi: "Quân này xấc nào? Nhà nước mời ông ấy lên trên nhà thương, không phải chuyện đùa đâu" - "À ra thế... Thế thì bà cũng lên huyện ăn cơm nhà thương một thể, tội gì!" - "Ăn cơm nhà thương ghê chết được".

Bề ngoài thì cứ như thờ ơ, như đủng đỉnh, chả biết ông bà khinh khỉnh với nhau từ bao giờ. Cái lúc còn trẻ chẳng biết thế nào, mà lúc còn trẻ bao nhiêu chuyện, thì nói làm gì. Vả chăng, ông lão ba hoa cứ ba hoa ông lão vẫn vót đũa bán được tiền, bà lão chỉ để ý có thế. Rồi đôi khi ông lão hay vặc nhau với thằng giáo trên tỉnh về - nhưng thằng giáo mà giảng giải, mà đưa tiền biếu, lão cũng im. Nhiều lần như thế bà lão mới nhận ra quả là ông lão hay nói ba hoa như tướng thế mà cái số ông lão sướng. Ông lão là tướng xó nhà. Nhưng bà lão không như thằng giáo, mà bà lão thấy ông trái mười mươi cũng chẳng biết nói thế nào, bà lão im, bà lão nhịn. Cái khó chịu nhau lịm vào trong từ bao giờ.

Ừ cứ để nằm như con gà rù ở đấy vài hôm cho bớt rác tai. Bà lão bảo thế, nghĩ thế nhưng rồi cũng sốt ruột. Buổi chợ hôm ấy có người dưới bãi đem lên chợ bán cái mía bãi mềm và ngọt. Bà lão mua hai cây.

Chốc nữa tan chợ, tạt sang bệnh viện.

Bấy giờ ông lão vẫn đứng nhìn con cua ở ngoài sân. Ông đi bắt cua từ thuở bé, mà cũng không bao giờ tẩn mẩn nhìn con cua như hôm nay. Những cái chân cua, càng cua líu, ríu xô ngang đằng này, xô dọc đằng kia, tám cái mỗi cái một phách làm cho cái mai cua cứ xoay ngang xoay dọc. Buồn cười đấy Nhưng mà cái thằng giáo bảo ông ngang như cua thì không được. Con cua là con cua, con cua bò ngang con cua bò dọc, thì nó là con cua chứ nó có phải là ông đâu.

Ông lão đã ra ngoài thềm, ngồi xuống, tay cầm cái túi nilông. Con cua bò nghênh càng lên định cắp, ông lão chộp chộp.., hai ngón tay nhón xuống, nhấc mai con cua, ông lão thấy ông vẫn nhanh vẫn thạo chẳng khác ngày trước đi bắt cua ngoài đồng. Ông lão đã nhón được mấy con cua bỏ vào túi. Những chân cua quào quào trong cái giấy bóng mà không leo lên được. Còn ở khe gạch thập thò mấy con cua nữa. Ông nhấc gạch bắt nốt. Chốc nữa, ông xuống nhà bếp. Hái vài cái rau dền cơm, thế là được bát canh cua ngọt. Hay là đem nướng ăn chơi, cua nướng chấm muối nhắm rượu, nghe cũng được đấy

Bên kia bờ ao, thoáng bóng người đi vào. Hình như trên tỉnh người ta sắp về khám, cho nên nhà thương đã đuổi không cho đám người nhà thổi cơm ngoài hiên, lại che mắt cán bộ đem chậu vôi quệt trắng nham nhở lên những góc tường ám khói bếp. Thôi, nghỉ tay cái đã. Ngộ nhỡ các cô y tá vào, thấy ông bắt cua phê bình ông "đau chân mà đi bắt cua, cụ khỏi rồi ạ" rồi bảo ông bác sĩ cho ông đem sổ ốm về thì rầy rà. Ồi, mà cũng phải ngả dưng. Chỉ cúi xuống nhặt con cua mà cái sống lưng đã lục cục tê tê như bị ai dằn xuống.

Ông lão nghiêng đầu nhìn ra. Người nào lù rù đi vào như cái bà lão đụn rạ nhà mình. Không, không phải. Nhận ra người nào, nhận ra ai rồi. Cái bà lão ngày trước ở dưới bãi đây mà, chỉ thoang thoáng cũng nhận nhau ngay. Thuở con gái, ả này mê mình, mê tơi, đã thề không lấy được nhau thì nhảy xuống sông trẫm mình, thì uống dấm thanh thuốc phiện mà chết. Thế rồi mỗi người lại đi một ngả. Cho đến bây giờ, dường như đã quên nhau. Bây giờ làm sao lại biết ta ở đây mà mò vào. Vào đây có việc hay là bà lão thăm ai, nhưng mà ông lão cứ bỗng nhiên thấy mình như ngày xưa, như ngày xưa. Đằng ấy biết tớ ở đây, ư, gái phải hơi trai như thài lài gặp cứt chó, đi đâu cũng đánh hơi được Thánh thiên tử thật. Mà đã bao nhiêu năm nay ai biết ai thế nào, nó đi lấy chồng xa tận đâu, tít tận đâu chẳng biết. Ông lại càng thấy ông đương trở về ngày trước. Mày đến chấp chới tao.

Thế đấy... Thế đấy...

Bà lão đã bước lên thềm.

- Ông đấy à?

Bà lão cất tiếng trước. Ông lão làm như bây giờ mới nhìn ra và im lặng, ông lão thật thấy bà lão nhưng bởi vì cái giọng rè rè của người già lại làm cho cái thuở trẻ mơ hồ kia nhàn nhạt đi. Không phải cái bà lão rồi... Bà lão lại kêu lên trước:

- Ôi giời ôi? Sao lại hom hem mõ ra thế kia?

Tiên sư con quạ mổ, ông chúa ghét cái đứa độc miệng. Đã kêu giời, lại rủa hom hem mõ ra là thế nào. Ông lão bực mình, ông lão lầm lì không hỏi lại một câu. Ông câm như thóc. Nhưng bà lão dường như thương hại ông gầy yếu quá, bà lão tần ngần ngồi ngay xuống đầu giường.

- Ông ốm đến thế cơ à?

Ông lão lại cáu nữa. Bà lão nói:

- Tưởng ông đi đông đi tây ông lên xe xuống ngựa thế nào chứ ông lại co quắp mốc meo thế này à?

Con mẹ này nói đến thế thì ngu quá. Thôi chấp gì cái đứa lú lẫn đến nỗi cái lưng còng như con rùa cả đời nằm trong xó luồn bắt muỗi thế kia mà. Nhớ rồi, con này ngày ấy là cái đứa ăn nói ba toác, bạ gì nói đấy. Đàn bà ti hí mắt lươn, chúa ớ, chỉ khỏe nhìn trộm. Bây giờ mà cái quần vẫn bê bết bùn như lội dưới ao lên. Cái đũng sứt chỉ xuống đến đầu gối mà vẫn để toạc tè he như thế. Mày mới là con mẹ mõ già, mày mới là con mẹ sắp xuống lỗ.

Nghĩ thế, tưởng như đã hả, lão ra ý thương hại. Lão dịu giọng hỏi:

- Làm sao biết ở đây mà vào?

Bà lão cười nhe hai cái lợi nhợt nhạt chẳng còn chiếc răng nào. Ông lão cúi mặt, ghê cả người, không nhìn.

Thì bà lão nói nhỏ:

- Yêu nhau tam tử núi cũng trèo... Nói đùa chứ, nghe ở ngoài chợ họ rủa cái lão "đũa cả" lên nằm nhà thương rồi.

Ở ngoài chợ cũng phải đồn về tớ. Ông lão khoái bởi cái câu bà lão nói, nhưng ông chỉ thích nghe ra cái nửa câu nỉ non véo von Yêu nhau tam tứ núi... ông lại hỏi khe khẽ, đã nhãng những khó chịu từ nãy.

- Người ta nói láo thế à?

- Chúng nó còn bảo nhà lão ấy bây giờ hai niêu. Thế mà lão cứ bốc vụng cơm, bà lão tức không thổi nữa. Đói quát phải lên xin cơm nhà nước. Nghe thế cũng chạnh lòng, thử tạt vào xem thế nào?

Hai tiếng "chạnh lòng" làm cho ông lão nghĩ lại cái đời mình, cũng thấy ngậm ngùi, ông quên cả những lời đồn ác. Nhưng ông lại tỏ ra cứng cựa ngay. Ông hét:

- Xà! Mồm thiên hạ như cái đít trẻ con?

- Nằm chong gọng một xó thế này dễ người ta bêu xấu oan đấy?

Ông lão không nói gì nữa. Chẳng nhẽ lại đi cãi nhau với cái đứa lắm lời này. Bây giờ ông mới tẩn mẩn nhìn mặt bà lão, hai hàm răng rụng tiệt, cái cằm móp dẹt lại, trông như mặt con tườu. Ông lão nhớ ông có cái thú thỉnh thoảng ông ngồi đếm tay xem ngày trước đã có bao nhiêu đứa con gái mê ông, lần nào cũng đếm lẫn, ông thích đếm lẫn. Nhưng mà tớ phải cái tính dễ tặc Lưỡi, gái nào cắn câu cũng tặc lưỡi. Chứ người như con khỉ con tườu thế kia, đâu đã đáng lọt vào đuôi mắt, thì lão phải lòng phải bề nỗi gì. Trong khi lão rủa thầm, lão chê bà lão thì bà lão thở dài:

- Ngỡ những thế nào rồi mà bây giờ ngồi vót đũa...

- Xà Mày thì.., mày thì... Câm đi

- Ờ, cái gì sột soạt... Cái gói kia, cái gói gì đấy>

Ông lão nhìn chiếc túi nilông treo trên đầu giường ngay bên chân bà lão. Ông nói ơ hờ:

- Mấy con cua...

- Đồng áng nước trong như mắt mèo thế này mà bắt được cua, giỏi nhỉ?

- Mày thì biết gì! Cua thằng chủ nhiệm biếu... Người ta biếu?

- Thì vưỡn!

Ông định nói có ăn cua thì mang về. Mỗi con cua bây giờ cũng bạc trăm, mà phải lên chợ, chứ ra bến đâu dễ đã chuốc được. Ông lão định bảo bà lão thế, bởi ông lại nhớ cái tính ông huếch, ngày trước hay đi bẫy con gáy, có khi vác cần đi câu được con cá con chim lại đem cho các cô nhân ngãi. Ôi chao, bây giờ thì ông nói: Của thằng chủ tịch, thằng chủ nhiệm.., nghe cũng oai oai.

Bà lão nói: "Vào cữ này cua đồng ngọt thịt. Ngày trước, chỗ cánh ruộng nào cũng ối cua...". Ông đương nói: "Này có..." thì có một bà lão xách hai cây mía, tò tò vào. Bà lão ở trong vẫn ngồi vắt chân lên đầu giường. Ôi chao, mắt toét nhoẻn mắt quáng gà hay sao.

Bà lão kia chống hai cây mía đứng ngoài hiên. Rồi nói vào như quát:

- Có nuôi được nhau thì đem nhau về.

Rồi vác hai cây mía, cung cúc đi ra. Ngoài cổng, các cô y tá ở ngoài chợ về, thấy bà lão đi xăm xăm, nước mắt nước mũi giàn giụa. Các cô hỏi:

- Cái gì hả bà? Ông ấy làm sao, hả bà?

Bà lão đứng xững lại, không nói. Mấy cô hốt hoảng chạy vào, xem ông lão làm sao

Chẳng nhớ đã mấy năm qua, mùa nước năm ấy đương nửa đêm, sóng ngoạm cả cái xóm bãi xuống sông. May, người còn chạy kịp. Thế là cái xóm tan tác, nhà thì phiêu bạt, nhưng vẫn có người còn bám vào mặt nước. Vợ chồng nhà ấy ôm đứa con đỏ đem nhau xuống ở thuyền. Từ cái đêm nước lên khủng khiếp ấy thế mà chốc đã ba mặt con, ba con vịt giời. Mới chỉ có cái Gái đỡ đần được, hai nhóc ba năm đôi kia thì mới chỉ biết ăn chưa biết gì.

Mấy năm gần đây, cá mú trong sông biến đâu vãn cả. Có hôm bơi lên đến cửa sông Hát, cả buổi mò mẫm chỉ kéo được mấy con thờn bơn. Rồi cái chợ Long Biên mọc lên ngay bên chân cầu Của chìm của nổi các tỉnh xuôi về thành phố lên đậu cả vào chợ. Thì thuở xưa xa đã là vậy. Bởi thế mấy cái phố mép sông mới có tên từ thuở nào là Hàng Khoai, Hàng Đậu, Hàng Nâu và các chợ Gạo, cái bến Nứa mới trên bến dưới thuyền.

Nay vẫn thế. Của rừng đổ về, con người kiếm cái ăn quanh công việc vận chuyển đó. Sông Đà, sông Lô vào sông Thao xuống sông Hồng, rừng đồi đưa các thức về đồng bằng. Sắn khoai, trứng gà, buồng chuối, sọt dứa, xa nữa đến mùa có muỗm châu Yên, mận Bắc Hà và những bè gỗ, bè vầu. Nhưng mà nhà mình xác xơ, chỉ trông thấy của người ta.

Chồng bảo vợ:

- Nhà nó này, tôi lên chợ Phương kiếm cái Tết.

Hôm trước, vợ chồng đã bàn chuyến này lên chợ Phương Lâm tải củ mài về bán. Tết nhất người ta ngán mỡ, chè củ mài hẳn đắt hàng. Ở nhà, mẹ con cái Gái lại như mọi ngày lội xuống bãi đón thuyền, những lái thuyền vào thuê người vác, người đội, người xách hàng lên chợ. Những cuốn lá dong thì vác vai, những giỏ trứng và bu gà thì cõng. Có những cái thùng nhôm, thùng thiếc bọc lá chuối khô, chẳng biết là sơn ta hay thùng mỡ, chủ hàng mặc cả quẩy một lèo không được đỗ.

Chặp tối, vẫn chưa thấy mẹ và chỉ Gái về. Hai đứa thức dậy, khóc váng một lúc mỏi mồm rồi im. Trông lên, ánh điện trên đường đã sáng viền suốt thành đê và trên cầu. Không rõ tiếng nước vỗ óc ách hay tiếng chân người lội. Những cái thuyền to mọi đêm vẫn về đậu trong bóng cầu, bây giờ mờ mịt đã lẫn vào bóng tối. Có lẽ tiếng người, hình như chân mẹ. Nhưng sao mãi không thấy vào. Hay là cứ mong thì tưởng ra như thế. Lúc sau tối hẳn, mẹ và chị mới lên đến chân cầu thật. Nghe tiếng khoả chân nước róc rách.

Đêm ba mươi, ở cái bến chân cầu cũng chẳng khác mọi khi tối om. Lúc nào cũng chỉ nghe tiếng nước nói thì thào. Các thuyền đã đi ngủ cả rồi. Mùi hương ở thuyền nhà ai cúng thơm ngát trong gió heo rào rạt. Ba đứa trẻ vẫn ngồi nhòm sáng điện ở lưng đê hắt xuống. Mẹ bảo:

- Chúng mày ngủ đi chứ.

Cái Gái nói:

- Còn đợi xem pháo bông giao thừa.

Mẹ dỗ:

- Nằm xuống cho ấm chỗ. Lúc nào có pháo bông tao gọi.

Hai đứa em thì nói một câu mọi tối vẫn nói:

- Đợi bố về mới đi ngủ chứ.

Vừa hay, một ánh đuốc lóe lên chân cầu. Rồi trông thấy bóng bố cao cao đi chập chờn tới.

Lũ trẻ đứng cả lên reo to.

Bố hỏi như quát:

- Chưa đứa nào ngủ à?

Lũ trẻ tranh nhau nói:

- Đợi bố! Đợi bố về!

Bố cắm đóm đuốc, buông bịch một buộc sắn xuống đất. Mình bố bóng nhoáng không biết là quần áo ướt hay là bùn ướt.

Bố nói:

- Chẳng mua được chó gì. May quá, được người ta thuê chở đá. Neo dưới bến rồi, đến mùng hai tốt ngày người ta mới ra lấy bấy giờ mới trả công mở hàng nhân thể.

Người vợ làu bàu:

- Nhỡ cái...

- Chẳng nhỡ gì cả. Đá là của mình, mình giữ trên bến rồi.

Bọn trẻ con ngỡ bố chở đá uống nước đá, có đứa thít lên tưởng tượng làm vẻ ghê răng. Mẹ chúng nó đã biết đấy là những tảng đá người ta tải trên ngược về bày ở ngoài chợ Long Biên, để bán cho người chơi cây cảnh.

<< Con cua tám cẳng... | Gấu đi chơi >>

Ngày trước, chỗ này vắng hoe, hoang vắng từ bao giờ hay nghìn xưa vẫn thế, không rõ. Con chích chòe bay vào bên bờ ao cạn, chim nhảy một cái, rún đuôi, hót một tiếng chòe ngân nga giữa buổi chiều lặng im. Con đực gọi con mái về tổ. Chích chòe thịt gầy, mà tanh. Nhưng bẫy được đem chợ bán cũng có người mua chơi. Chích choè khó nuôi, có khi rỉa ăn con châu chấu cũng nghẹn đứt hơi. Đợi phiên chợ, lắm khi chim đã toi bảy đời.

Con chim gáy, con gáy béo nùng nục, chim mùa tháng mười bay vào, là là giữa vòm tre. Ngon mắt quá. Tôi cũng sành bẫy chim gáy. Lại hay nghĩ đùa một mình: sao chỉ có con gáy đực mắc bẫy, con mồi cũng đực rựa, con đàn bà mượn tay ta hại ta. Còn tao lừa cả hai, thằng vào tròng thì bây giờ già rồi tao mới nhớ ra tội tao.

Tôi vót nan, đẽo cột đem gác bếp làm chiếc lồng quả vả. Cái lưới dây đay căng trước nan lồng trên cành duối - Ở trong Nam, cái cầu máy chém này là lưng tàu lá dừa.

Con mồi trong lồng cất giọng, tiếng gọi con cái. Một thằng nhào tới, đậu xuống cái cầu định mệnh, thò ngay mỏ vào đâm tình địch. Lưới bủa xuống, thằng ấy ngã ngửa, giãy lùng nhùng trong lưới. Tôi bóp cái thăn. Cánh đồng đương gặt, lắm thóc rơi rụng, đùi vế con gáy nào cũng nần nẫn. Tôi vặt lông, nướng chim ở vườn tre bên gốc những cây chàng ràng. Con nào ra mẽ, đầu tém, cổ cườm, vẻ tài tử gáy hay, tôi bỏ vào lồng đợi phiên đem lên chợ bán.

Tôi đã sang tuổi thôi chơi nhặt hạt chành ràng vờ làm tiền. Tôi biết bẫy chim có tiền thật. Lại hay nghĩ ngợi lăng băng về anh chàng, chị chàng chim gáy. Tôi cũng như chim và tôi cũng có con mái. Khoảng vườn hoang này cũng là cái cội của tôi, trong Nam gọi nơi thanh vắng chim gáy hú hí nhau gọi là cội. Cái Răm thường ngày vào quét lá tre về đun bếp. Bố nó nói đặt tên Dăm là có ý ước ao lúc nào trong thắt lưng cũng rủng rỉnh dăm ba đồng xèng sai nó đi mua cút rượu, nhưng những quân chết tiệt cứ réo cái Răm, cái Răm. Bọn rỗi miệng lại tán: "Cái rau răm hạ hoả. Nhà chùa thì phải hái răm ăn đêm, chứ ở đời có miếng dồi chó lại kiêng thì có mà dại hơn con chó. Nhưng cái con Răm này thì ăn lại ngon, thế mới chết!".

Cái Răm có hai con mắt lá răm, đuôi mắt dài ươn ướt, nhìn ai cứ như sắp tứa nước ra. Tôi chẳng tha, nó vương bẫy cò ke tôi rồi. Nhưng tôi lại mất của về nó. Răm thích chén thịt chim gáy nướng. Tôi sĩ diện, có hôm không bẫy được, tôi đã đem ra cả con gáy ở nhà định đợi bán chợ. Răm nhanh tay vặt lông chim, mổ moi. Tôi trổ tài nướng chim cả con trên đống than que củi nó vừa kiếm được một bó. Ngày ấy, tôi chưa biết mùi rượu. Mà chỉ nhá thịt chim gáy cũng say. Tôi nhìn cái Răm ăn như đứa chết đói, con mắt lá răm long lanh đầm đìa lên thế kia thì tôi phải say rồi.

Tốn mồi thế mà nào có ăn thua. Cuối năm, Răm lấy chồng. Một thằng ở làng trên chài được nó. Chẳng biết người mối lái hay gặp nhau ở phiên chợ, ở hội hè, ở bờ bụi nào. Thằng ấy làm vat man tầu điện. Làng tôi lam lũ thế này thì thằng vat man lái tàu, thằng sơ vơ bán vé tàu được tiếng đi làm việc Tây ngoài kẻ chợ, có lĩnh lương tháng, có ngày chủ nhật nghỉ, tôi sao địch nổi.

***

Nghề canh cửi làng tôi long đong quá. Tơ Tầu bên Hồng Kông không bán sang nữa, mà tơ tằm thì chết đã lâu. Xưa rày, lụa Hà Đông lái vẫn buôn vào Sài Gòn, bây giờ đường xe lửa bị nhà binh Pháp rồi Nhật sung công. Người làng bỏ đi cao su đất đỏ, sang tận xưởng dệt ở Kampôt bên Cao Miên. Nhiều người chẳng bao giờ về.

Tôi cũng bơ vơ đi. Thoạt đầu vào Sài Gòn. Có người mách trên Bến Cát mới mở Sở Củi đang cần nhiều người vào rừng hạ cây, đốt lò, tải than ra sông xuôi Sài Gòn. Tôi lên Bến Cát, xin được một chân chấm công. Ngày ngày cắp rổ vào rừng, ra các lò than, xuống bến điểm công cho cu li làm cả ngày, nửa ngày, làm đêm.

Xảy ra một chuyện không may chẳng bận gì đến công việc. Ông Tây chủ Sở Củi, lão già bao nhiêu tuổi không đoán được. Đầu tóc, râu xồm tua tủa trổ kín mặt, nhô ra cái mũi nhọn hoắt, đỏ tím. Lúc nào lão cũng kè kè bình toong rượu. Đến khuya, lão xuống nhà dưới chỗ tôi nằm. Lão dựng tôi dậy, kéo tụt quần tôi. Tôi khiếp quá, đẩy lão, biến ra rừng. Sáng hôm sau đã thấy lão ngồi bàn giấy, cái bình toong để trước mặt. Lão đưa quyển sổ chấm công, lão không nhìn tôi, như không phải con dê đêm qua.

Tôi vẫn công việc như thường ngày nhưng đêm đến lại bị lão mò xuống. Tôi lại chạy vào rừng. Hôm sau, lại như mọi ngày bình thường, khi lão cắm cúi sổ sách, khi lão cầm gậy hò hét, đuổi đánh cu li. Và vẫn thản nhiên đưa tôi quyển sổ chấm công. Mấy đêm tôi phải ngồi gốc cây, không dám chợp mắt. Sương rơi xuống lá khô tí tách như hạt mưa, như tiếng con thú, con rắn đương ngoằng tới. Có thể, con sói, con beo rình tha tôi đi.

Tôi ra ngủ nhờ nhà thằng Gạc Rang dưới bến. Gạc Rang hàng ngày chạy thư trên huyện về xã. Ở làng tôi người trạm tráng thường được gọi tôn lên là bác Đội trạm. Đây gọi là gì, nhưng chắc Gạc Rang không phải tên người, không phải tên việc phát thư. Có lẽ trước kia nó gác rừng trên Dầu Tiếng, còn lại cái tên "Gạc Rang" hay là tên gốc Miên thế. Gạc Rang cao lớn, mắt lồi đen như củ gắm. Gạc Rang ở một mình. Một gian nhà che ván như lều chợ. Gạc Rang đeo cái túi dết bao bố, khi cởi trần đi chân không.

Tôi ngủ đêm yên tĩnh ở nhà Gạc Rang, hôm sau vào bàn giấy, lão râu xồm chủ sở lại đưa cho quyển sổ chấm công cu li. Cuối tuần lĩnh lương, ngày ngày uể oải triền miên thế.

Một buổi, tôi vào cửa, lão đứng dậy. Lão hếch râu thở phì phì rồi giơ cái gậy song lên, hét một câu tiếng ta thật sõi:

- Mày vô, tao đập bể sọ, nghe không?

Trong bàn giấy, một người ló ra. Dáng hẳn lão đã mộ thằng này thay tôi. Mặt nó bủng beo, không biết cái mặt bệnh ngã nước hay thằng này bị lão Tây hành cho đến xanh rớt như thế.

Gạc Rang bảo: Thầy ở xứ xa đến, không biết thôi. Vùng này đã khiếp vía thằng Tây dụ khị.

Gạc Rang thật tốt bụng. Có tôi, Gạc Rang hay thổi cơm ở nhà. Tôi chỉ còn vài đồng bạc trong túi nhưng Gạc Rang cũng không bao giờ hỏi tiền. Mấy hòn đá bắc làm ông đầu rau, cái "tay cầm" đất nung... Gạc Rang xách về một ôm bánh mỳ, có hôm ăn trừ bữa cả túi quả bơ, vú sữa.

Tôi nằm khàn cả ngày xem kiến bò, đếm đi đếm lại, tai nghe tiếng chim bay, chim hót. Dưới sông tiếng người í ới qua đò bến Củi. Đứng trông thấy chỏm núi Bà Đen, từ đây lên Tây Ninh rậm rạp, toàn đồn điền cao su. Rừng cao su dày lá, bí hơi, cỏ cũng không mọc được quanh gốc, chim chóc lạc vào thì chết ngạt trong vòm âm u. Thành thử, các dải ven sông Sài Gòn, những rặng tre, cây dừa, cây capốc và mặt nước thảnh thơi, bao nhiêu thứ chim ra tụ hội nhảy nhót tưng bừng. Tiếng chim gáy, chim gù, giọng chuông, giọng thổ ngân rền tối ngày. Tôi bỗng động lòng, bảo Gạc Rang:

- Chim gáy nướng, ăn ngon lắm.

Gạc Rang hỏi: Khoái gác cu à?

- Ngoài quê tôi bẫy chim gáy được cái ăn lại bán được tiền.

Gạc Rang cười hềnh hệch: ở đây mà mần nghề gác cu đất.

Gạc Rang xin ở đâu về mọi đồ nghề bẫy chim. Một chiếc lồng gãy nan, cái nụp gác bếp đã lên nước hồ bóng. Thoáng trông con cu mồi tôi đã ưng. Vừa đặt lồng, chim đã gật gù: cuc cu... cuc cu... Trong tôi như còn hơi hướng bóng vía cu đực, thằng mồi gáy khích nhau chắc? Thế là, cũng chẳng khác quê tôi, dẫu cho lạ nước lạ cái, xa xôi đường đất, tôi đã quen ngay, tôi gánh chiếc lồng bẫy cu ra rừng tìm cội, nơi có chim đôi tụ tập. Cửa lụp mở sẵn, tôi gác lên đầu tầu dừa, mỗi sống lá thành hai cái cầu tự nhiên.

Cu mồi cất tiếng. Lập tức, nghe cánh chim liệng tới. Con cu đực đi đánh nhau đậu xuống kèo, xù lông cổ, dang hai cánh, cà mỏ, xông vào cửa lụp. Khốn nạn, chưa được mỏ nào đã nằm chỏng gọng trong lưới.

Mỗi hôm, tôi quảy về cả chục con cu đất mập ú. Gạc Rang cũng khéo nướng. Gạc Rang giã lá sả với muối ớt hiểm, lại có nước mắm một tĩn ướp thơm rồi cặp cả con lên cái vỉ thép. Củi than hồng rực, mơ cu xèo xèo vàng nhẫy chảy xuống, than càng đượm. Gạc Rang còn ngắt về cả một đống ớt hiểm. Mỗi miếng thịt nhai kèm quả ớt, cay xé lưỡi, ăn ngon lành. Chúng tôi chén cu đất nướng đều đều, nhiều hôm khỏi thổi cơm.

Có lẽ số phận đã bày ra thế, khi tôi có thịt chim gáy ăn thì lại có đàn bà mò đến ám ảnh, gỡ gạc. Cái con Răm ở quê lại hiện ra. ỞBến Củi này, nó là con Bảnh. Bảnh chở đò dưới Bến, cách lều Gạc Rang mấy bước chân. Mọi khi, đôi lúc rỗi, Bảnh ghé vào. Hồi này có thịt cu đất hôm nào Gạc Rang cũng gọi Banh lên.

Bên kia Bến Củi vẫn rừng thưa, nửa ngày đường xe thổ mộ mới ra tới Trảng Bàng, chợ huyện Bến Cát lại ở bên này, có hôm cả buổi chỉ một chuyến đò sang. Cái Bảnh vào xin than trong lò của Sở Củi lên ngồi chầu quanh chiếc vỉ nướng chim.

Gạc Rang nói ghẹo Bảnh: Rồi cho con nhỏ này theo thầy Huế ra Bắc đi gác cu.

Cái Bảnh cười, má phúng phính. May mà bẫy được nhiều, lúc nào cũng có cả chục con gáy trói cẳng treo trên mái. Bảnh ăn tợn hơn cả hai chúng tôi. Thịt nướng vã đẫm nước mắm, nó nhá cả xương cứ răng rắc như con beo xé thịt nai, thịt hươu. Từ hôm có Bảnh ở Bến lên ăn cu nướng, tôi lại thấy say say, thịt chim mà say như rượu. Tôi mơ màng nhìn đôi má bầu bĩnh đỏ dần lên của Bảnh. Nó đã no nê, nó vươn tay nhấc cái bê chèo. Trong ống tay áo cộc, nách nó mây mẩy, trăng trắng, tròn tròn. Có khách đâu mà Bảnh xuống Bến. Đồ chừng no rồi ả cũng say, ả xuống nằm ngủ dưới đò.

Gạc Rang nheo mắt: Tối nay cho thầy Huế xuống Bến ngủ với con Bảnh, nghe không!

Nhưng lẽ nào tôi lại ở đây vùi đời đi bẫy chim gáy. Tôi đã gặp những người phu cao su xưa quê ngoài Hà đông, Thái Bình đi cu li mộ vào rồi trốn đồn điền. Không có thẻ thân, không dám ra đường cái, đã vào làng ở đợ rồi lấy vợ, có vợ con rồi ở luôn trong làng rừng đã mấy chục năm. Nông nỗi tôi rồi cũng thế a? Tôi đi gác cu bị beo vồ, bị bệnh, chết bỏ thây ở xó rừng này?

Hôm tôi đi, Bảnh bỏ buổi đò, lội bộ theo ra tận Trảng Bàng. Tôi nói:

- Anh về Sài Gòn kiếm được việc làm, anh sẽ lên rước em xuống.

Câu hứa vu vơ thế thôi. Những chạy vạy nhốn nháo nơi đô hội thật bộn bề, mà cũng chẳng moi đâu ra việc làm, đến chỗ ở cũng không còn nơi ghé lưng. Thành phố đang kinh hoàng, mỗi hôm lại có máy bay Mỹ đến ném bom. Các phố quanh chợ Bến Thành, ga xe lửa Mỹ đã bị trúng bom, người chết, nhà đổ từng dãy. Chẳng lẽ cứ loanh quanh nơi khủng khiếp thế này? Lần hồi, tôi trở về được quê, nhưng làng tôi cũng đang trong tình cảnh tao loạn, tan tác. Cái vườn tre bị bom chỉ còn lại một gò đất lở lói, những xác người chết đói đem chôn ở đấy. Ai còn sống thì tha phương. Nhiều người bí mật vào Việt Minh đi cướp kho thóc, ra chợ mittinh kêu gọi khởi nghĩa. Tôi vào thành phố theo anh em lập Hội Cứu quốc.

Đôi khi tôi viết thư cho Bảnh. Viết thế, nhưng tôi chẳng bao giờ nghĩ còn trở lại cái Bến Cát, Bến Củi phương trời ấy. Có hôm, nhận được thư, xem dấu bưu điện Bến Cát, đoán thư của Bảnh nhờ ai viết. Chỉ có mấy câu hát cũ, ngậm ngùi:

Rồng chầu ngoài Huế

Ngựa tế Đồng Nai

Nước sông trong chảy lộn sông ngoài

Thương người xa xứ lạc loài đến đây.

Một hôm khác, tôi nhận cái thư, mở phong bì thấy tờ giấy nguệch ngoạc chữ viết liền không dấu. Mấy dòng thật kinh hãi: "Thằng thầy Huế Tây, mày mà viết thơ thọc đ. con Bảnh là vợ tao thì thằng Gạc Rang này ra giết mày không phải hăm mà thiệt đó".

Hơn ba mươi năm sau, tôi trở lại Sài Gòn. Không còn một quang cảnh, một tâm trạng thế nào giống thời ấy nữa, cả tôi và cả thành phố.

Một hôm tôi đi đám cưới với Đoàn Minh Tuấn tại nhà một người bà con anh trong Chợ Lớn. Ăn cỗ, ngồi cạnh một ông bộ đội đứng tuổi đã ngót bốn mười năm đi đánh Pháp, đánh Mỹ, đi nhiệm vụ quốc tế. Chân tóc người lính Nguyên Phong đã lưa thưa bạc trắng. Ông không chơi chim, nhưng kể rạch ròi các chuyện nuôi chim, nghe đến mê. Ở thành phố bây giờ nhộn lên cái thú chơi chim. Người ta ngày càng ép mình trong những vỉ tường cao, tường thấp lại thích nhốt theo con khướu, con chích chòe để nghe chúng nó hót giả như trong bao la.

Tôi hỏi:

- Ông có thấy người ta nuôi chim gáy không?

- Chim cu à? Nhiều chớ.

Ông kể có một ông già treo lồng cu khắp nhà. Tới khuya cu vẫn gáy từng chặp - "Chả đèn điện sáng mà". Không cần đồng hồ, chỉ nghe cu gáy mà biết giờ giấc.

Bỗng tôi lên cơn nhớ con chim gáy, chim cu với từng mảng đời đã qua.

Ông già nuôi một nhà cu ở một hẻm vùng chợ Đũi. Thời trẻ có nghề lái xe tải. Bây giờ thỉnh thoảng vẫn có nơi gọi đi chữa máy. Ông già nuôi rõ nhiều lồng chim. Nhiều hơn cả trong tưởng tượng tôi lúc nghe ông bộ đội kể. Đứng chỗ nào đầu cũng đụng lồng chim. Trong bếp, trong nhà cầu, gầm ván, cả trong cánh cửa. Chim cu còn thính tai hơn con ngỗng, có tiếng giày bên ngoài đi tới, tiếng gõ cửa, con chim treo trong lỗ cửa mắt bò đã cúc cu đánh tiếng. Chốc lại nhộn nhịp cuc cu... cuc cu... như cả tá đồng hồ cùng nổi chuông, tiếng trầm, tiếng dẳng, tiếng thanh. Toàn những cu đực, mấy chục thằng sa bẫy phải về tù ở đây, tiếng gáy dường như u uất, mà hay.

- Sao ông nuôi lắm chim thế này?

- Đến mùa thì về quê đi gác cu, đổi con ốm, con bệnh. Có khi cả tháng nghe khắp rừng ruộng mới gặp được cái cội, những con dữ dằn khó kiếm thì khi nào cũng tốt tiếng. Người ta bảo phải miệt vườn Vĩnh Long mới nhiều chim cu, không đâu, quê tôi, trên rừng cũng cả bầy cu bay rợp trời.

- Quê ông ở đâu?

- Trên gần Bến Cát, gần thôi. Mùa tới, bác về Bến Cát đi gác cu với tôi.

Lúc ấy tôi chẳng nghe ông tài già nói gì cả. Kỷ niệm trong sương mù, cái đò ngang Bến Củi tưởng như mới hôm qua...

- Coi bộ bác cũng giỏi nghề gác cu? Ngoài Bắc đi gác cu nhiều lắm a? Bác cầm mấy con về làm cu mồi.

Tôi xin ông già một con cườm cổ dày long lanh, hai chân đỏ tươi. Tôi xách cái lồng bước đi mà con chim vẫn cuc cu... cuc cu... như ở bụi tre.

Ừ, có khi mùa này tôi theo ông tài về Bến Cát bẫy chim. Rồi qua Bến Củi xem mọi người bây giờ ra sao. Nhưng thằng Gạc Rang đã doạ giết tôi. Có thể lắm, thằng chết dịch ấy. Mà không thì nó bỏ thuốc sâu vào nước mời tôi uống. Tôi ngẩn ngơ nghĩ mọi chuyện như mới đây. Cái yêu và cái ghen chẳng khi nào biết mình già. Gạc Rang mà trời còn để cho chứng sống thì cũng ngấp nghé tuổi ngoài tám, chín mươi. Có thể Bảnh bỏ đi từ lâu rồi. Con cu mái không bao giờ thấy con cu đực vì mình mà bị sa lưới, những người đàn bà thờ ơ và khôn ngoan.

Ừ, một chuyến đi. Tôi cùng ông tài già lên Bến Cát. Đoàn Minh Tuấn sẽ cùng đi với tôi. Tuấn tháo vát, lại khoẻ. Văn võ được cả. Cứ phòng xa. Tôi lại lú lẫn, lại quên tôi rồi. Ấy nghề đời cứ buồn mà ưa quên thế.

Con gáy Bến Cát tôi đem về dạn dĩ, dài giọng và trong hơn những chú chim đực ở cánh đồng ngoài này. Một lần, tôi đi đâu vắng, đến hôm về, nhà tôi bảo: "Con chim gáy của ông chầu trời rồi". Nhìn chiếc lồng trống trơ đầu nhà. Cóng thóc vẫn vàng óng. Cóng nước đầy nhưng đục vẩn. Tôi quên dặn ở nhà hằng ngày thay nước cho chim. Chim gáy uống nước đục thì chết ngay. Đã lâu, tôi nhãng cách thức nuôi chim gáy rồi.

Tôi cũng không trở lại nhà ông tài già chợ Đũi lần nào.

<< Gấu đi chơi | Mõ Bốn >>

Bác Bốn ở tận đâu đến không biết. Có người tình cờ trông thấy bác một mình từ cổng đồng đi vào. Cái khác mắt một chút, đương giữa ngày mùa, xóm làng quảy mạ, vác gầu nhộn nhịp, bác Bốn gánh, một bên hai hòn gạch vồ, một bên cái rọ lót rơm, trong đặt đứa bé độ lên ba. Đứa bé ngồi nhòm nhõm, hai tay víu mép rọ, mắt thao láo tròn xoe nhìn ra.

Đấy là bác Bốn và cái Muống. Bác nhặt được con bé ở gốc cây nào. Hay là vợ bác bỏ bác, hay là vợ bác chết, vợ bác ra làm sao, nào ai biết được ngọn ngành cái người đàn ông quảy đứa bé với hai hòn gạch vồ cho cân, người ấy đi đâu, đến đâu. Người ta ai cũng có cái phận, cái may cái rủi, cái được, cái hẫng, bác Bốn cũng thế. Đầu làng có con sông chảy qua, những gò rác lù lù nhô lên mấy cái cọc cột phơi lưới tôm hay là cái khung mái lều chợ. Thế là bác Bốn thấy được, dẫu sao cũng trông thấy cái sống cái ăn. Bác Bốn dễ tin vậy. Tre pheo bốn bên xanh ngắt. Trong dòng nước, trong bùn có con mài mại, con lươn, con trạch. Thì ta đan cái nơm, cái đó, thì ta vót cái cần câu. Bác Bốn đặt gánh rọ. Bác Bốn ở lại chỗ ngoài cổng đồng. Nơi hoang vắng đầu đồng, trong làng chẳng nhà nào dám ra chỗ trống không ở với ma đói cô hồn. Bác Bốn cắm que như đánh dấu chỗ. Rồi vào tam quan đình tìm chỗ ẩn trong chùm rễ đa xù xì cái đã.

Bác Bốn nhòm vào cửa đình. Thấy ngoài bậc thềm một ông lão búi tóc củ hành chon chỏn, gầy lõm hai xương bả vai. Ông lão đương cắm cúi đan cái lờ cá.

Bác Bốn nói to:

- Lạy cụ từ, cụ cho bố con cháu ngả lưng nhờ gốc đa ngoài kia...

Ông lão vẫn giơ tay giữ cái lạt. Bác Bốn đã trở ra, ông lão mải làm - hay là lão nghễnh ngãng. Bác Bốn cũng chỉ ở tạm gốc đa tam quan một đêm rồi ra gò rác cắm cái cọc và bác đi làm mọi cái bác đã định hàng ngày. Bác đan đó, bác tết ống lươn. Vơ vẩn dần dà rồi cũng kiếm ra miếng ăn. Năm tháng đi qua không đếm được, chỉ biết mới ngày nào cái Muống còn ngồi trong rọ, chẳng bao lâu Muống đã nhỉnh dần, đã đẹp gái. Rồi cứ chập tối cái Muống đi đặt ống lươn trong cửa cống rồi cả ngày Muống ra bờ đìa thả trùm hớt tôm muỗi. Bác Bốn đã thông thuộc các xóm, trong làng, các nhà ở túm tụm vào nhau, cả làng tứ phía vây um tùm những khoanh tre kiên cố chống cướp. Ngoài kia, dọc sông chỉ có cái chợ hôm chốc lát. Không một cái lều giạt đến. Đằng cổng đồng có cái bãi tha ma của làng.

Cứ đến tháng ba, làng cúng thần có hội lệ. Làng thịt trâu chia cho các giáp. Xóm đình có một giáp, chiều hôm trước, trương tuần đã dắt về một con trâu què, đem buộc vào búi rễ đa.

Bác Bốn hỏi:

- Bao giờ thì xóm ngả trâu?

Trương tuần chép miệng:

- Tối mai thui.

- Đã gọi thợ thui chưa?

Trương tuần lại chép miệng:

- Vẽ chuyện, chúng tớ mổ lấy.

Bác Bốn cười, xun xoe nói:

- Cho tớ một tay. Chỉ xin công một cái vó què thôi.

Trương tuần nói:

- Trưa mai vật trâu, thui ngay ở bãi cỏ bờ sông này. Làm được không?

- Đã bảo tớ là đồ tể mà.

Trưa hôm sau, bọn trai làng khuân ra tấm ván, con dao bầu, cái chã đựng tiết, lại cả mấy gánh rơm chất lên. Mọi người xúm lại xem bác Bốn mổ trâu đông như đám trong sân đình đang đào lỗ cắm cờ kỳ, đánh trống ngũ liên giục giã râm ran.

Có một lũ kéo ra bờ sông hóng thuyền phường chèo Bắc.

Bác Bốn buộc tròng lọng trão vào rễ đa, kéo một cái con trâu ngã chỏng bốn vó. Cái rọ buộc mõm khuýp sừng trâu xuống, bác liếc má dao lên cỏ, rồi chọc tiết, con trâu rống ò ò. Giội nước, cạo lông, làm lòng xong đâu đấy, bác Bốn đội cả con trâu đã mổ phanh lên giữa bãi, chất rơm thui. Một mình bác làm tất, gọn như mổ con ếch.

Hàng giáp được chia thịt, ai cũng khen thợ thui khéo, các mảng nách chân, khoeo đùi, khoanh cổ chín vàng đều như nhau. Cỗ trâu các giáp không bao giờ được ngon mã thế.

Một hôm, cụ từ ra bảo bác Bốn:

- Làng đương khuyết chân mõ, cụ chánh cho gọi mày đấy. Bố con sướng rồi, từ giờ được vào ở sau đình, khỏi lo chạy mưa nắng ngoài bãi.

Từ đấy, bác Bốn làm chân mõ làng, mõ Bốn. Mõ Bốn vẫn chạy vạy sấp ngửa đơm đó, chợ búa như mọi khi, chỉ thỉnh thoảng quét rác, mở cửa đình cho cụ từ. Làng có việc thì đánh cái mõ tre đi rao các xóm... Chiềng làng nước... Chiềng làng chiềng chạ... Bác Bốn cũng không nghĩ trong đời lại có khi đi làm, mõ nhưng cũng chẳng sao. Người ta làm gì mà chẳng được.

Có điều Cái Muống đã lớn như thổi. Có hôm bố bận chạy việc làng, Muống xách giỏ cua, mớ ốc, một mình ra chợ chiều, mừng nó đã đỡ đần được. Nhưng bác Bốn có nỗi lo khác. Cái lo âm thầm mà nặng chịu, không như cái lo đói. Trai gái đến tuổi thì bố mẹ phải lo toan dựng vợ gả chồng, làm con người thì phải lần lượt đến những đận như thế.

Nhưng mà cái thân con cua con cáy bây giờ lại cõng cái đời thằng mõ đi hầu thiên hạ thì tính sao được vuông tròn cho thân mình, khi cái con người ta sai đi đâu được đến đấy. Bao nhiêu năm đến ngụ đất này bố con bác Bốn chưa hề được bước chân vào cửa nhà ai.

Nhiều khi, bác Bốn với cái Muống đi chợ - chỉ ở ngoài chợ thì mới không ai biết ai, lại có khi sang tận chợ tổng bên kia. Chợ vãn người hay chợ đông, đi như hóng cái may mà cũng chẳng khi nào thấy gặp phúc bắt được của rơi. Nhưng mà cái Muống thì đã nhớn rồi. Nghĩ vu vơ càng lo. Nhớ những năm 1940, tôi lại nhớ đến Khổng Văn Cu(1) - thật tên cái anh mõ ở làng đồng chiêm thế, đi làm mõ mà có họ với ông Khổng Tử, người mõ cuối cùng làng Nghĩa Đô. Anh Cu đã đứng tuổi, vóc dáng bảnh bao, khoẻ mạnh thế mà cũng chưa bao giờ kiếm được một mủn vợ.

Lại nhớ dạo ấy thường về chơi quê Nam Cao ở làng Đại Hoàng, làng vùng ven sông cuối tỉnh Hà Nam. Chúng tôi nghe chị Nam Cao kể chuyện con gái lão mõ làng này còn dễ trông hơn nhiều cô gái đương thì trong làng. Có hôm tôi ra bờ sông, qua lều nhà mõ, thấy một cô gái mảnh dẻ, trắng trẻo mặc áo cánh chồi vấn khăn nâu non đỏ hoe như con gái làng hay chít khăn đỏ, cô ngồi trước cổng bán mía cây. Chị Nam Cao bảo cô ấy đấy. Đã ngoài ba mươi rồi, chắc là ế, con nhà mõ mà. Truyện ngắn Tư cách mõ của Nam Cao viết bấy giờ không đả động đến người con gái cao số ấy, nhưng rõ ràng anh miêu tả và lý sự về những thân phận người đi làm mõ.

Làng Hạ còn một tối hát chèo ngoài sân đình đêm nay. Dường như các xóm đổ cả đi xem kẻo rồi lại phải đợi sang năm đến dịp mới lại có chèo hát. Nhiều người rốn đứng đến tan chiếu hát gần nửa đêm.

Đương còn trăng cuối tháng. ánh trăng suông quyện sương mờ bàng bạc trên bóng lăn tăn cành tre non mới nở lá. Người từ cánh đồng vào đầu xóm cười nói xôn xao. Chẳng biết trong đám có những bọn ở đám xóc đĩa cuối xóm ra, có những tay đôi từ chặp tối đã lẻn xuống bờ tre bây giờ tan hát mới nhập nhoà lẫn vào đám người về các xóm. Người ta còn đương bàn tán, bắt chước và kể lại những đào kép vừa ra vai. Nàng Châu Long con mắt chín lừ. Chú tiểu đồng cầm roi giả cách dắt ngựa khéo quá. Ông Lưu Bình vinh quy xênh xang bước vào cổng nhà quan huyện họ Dương...

Bỗng nhớn nháo một đám đằng kia chạy lại.

- Những tiếng cười nói, bỗng hoá ra những tiếng kêu hốt hoảng. Cái gì, cái gì thế? Kẻ trộm à?

- Quân ăn sương khéo chõm vào lúc cả làng vắng nhà?

- Không, không...

- Thế thì cái gì?

- Giai gái!

Có một người cất giọng hát tuồng:

- Giai trên gái dưới ra sao nào, quân bay!

Tiếng cười hô hố.

- Không phải! Không phải!

- Thế thì cái chó gì mà ầm làng lên thế?

- Bắt được con nhà hương Sạ với cái Muống.

- Cái Muống nhà mõ Bốn ấy à?

- Lại còn cái Muống nào nữa!

- Thế thì loạn rồi. Đem trôi sông thôi.

Cả xóm người chạy lộn ra ngoài điếm canh. Sau bờ tre đã rừng rực ánh đuốc. Chen vào trong điếm, rõ ràng trông thấy mỗi bên cột trói đứng một ngòi. Thằng Sạ mặt xanh lét, cái Muống tóc bết kín mặt, đứt một bên cổ yếm váy bê bết bùn, hai đứa lấm như vùi chắc chúng nó trốn xuống đìa nước, mới bị lôi lên.

Lệ làng không có điều khoản cấm trai gái son rỗi tằng tịu với nhau. Chỉ ngả vạ đứa lộn chồng, đứa chùa hoang. Những dính với nhà mõ lại là cái điều xấu xa xưa nay không ai dám phạm. Dây đến đồ mõ, đến đứa ngụ cư cha căng chú kiết thì tội nặng tội nhẹ không biết đến thế nào. Tuỳ ở quan làng. Thế nhưng cũng lại trương phiên khán thủ bắt tội bắt vạ thế nào cũng được lắm khi chẳng phải bận đến các quan làng.

Ấy thế vẫn cứ phải hỏi lấy lệ. Ngay lúc ấy khán thủ vào nhà ông chánh. Ông chánh ở cuộc rượu tan hát về vừa ngất ngưởng nằm lên cái tràng kỷ. Ông chánh hờ mắt mơ màng nghe người khán thủ lẩm bẩm "trình cụ". Ông chánh ngóc đầu lên quát:

- Làng này bắt lính còn chưa xong bắt ngay thằng Sạ đi chuyến này. Được được, con đĩ nhà mõ Bốn thì đem trôi sông, tống hẳn đi cho khỏi bẩn làng. Cút về mà làm thế.

Tuần tráng lục đục hối hả suốt đêm.

Bác khán thủ cầm gậy đến ngõ nhà ông hương, đứng ngoài cổng, hét vào:

- Trên huyện truyền thằng Sạ phải lên ngược đi lính chuyến này. Ở nhà lo xống áo lương ăn ba tháng cho kịp ngày đợi lên huyện.

Bác mõ Bốn ở nhà thì chẳng biết gì cả.

Nhà ở sau đình, trước sân có chiếu hát mà bác rượu vào đã đi nằm từ chập tối.

Tuần đinh đẵn tre, chẻ lạt, chặt cả chục cây chuối đóng bè. Phải thả bè cho nó trôi sông từ mờ đất, không được để người nào trông thấy. Mấy ông chức dịch đã chạy ra quát như thế.

Gà gáy sang canh ba. Mấy người tuần trở dậy vào điếm bật hồng đốt đuốc lên. Chỉ thấy hai cái cột chơ vơ. Những nút thừng rơi loằng ngoằng dưới mặt đất. Chúng nó cắn đứt cả dây thừng.

Cái Muống, thằng Sạ đã trốn mất.

***

Nửa đêm kia có hai bóng người len lén vào tam quan trong đình. Nén hương đen cả đêm thơm thoảng như mùi mật. Đĩa đèn dầu lạc đã lụt bấc còn leo lét xanh loè. Cụ từ ngồi tựa lưng vào cột, không biết cụ thức hay cụ vẫn quen ngủ ngồi.

- Lạy cụ từ.

Tiếng rè rè hỏi lại:

- Đứa nào?

- Lạy cụ từ, bố cháu đâu?

- Thằng mõ Bốn hả?

- Vâng ạ.

- Nó ra nằm tha ma ngoài cổng đồng rồi.

Giữa cơn mưa rào ào ạt đầu mùa hạ, thấp thoáng những đốm ma trơi xanh lơ trên các ngôi mả mới ngoài cổng đồng. Hai bóng người quỳ trong cơn mưa nặng hạt, chắp tay vái vào bóng tối bãi tha ma.

Chú thích:

(1) Khổng Văn Cu - Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài - Nhà xuất bản Hà Nội 2000 (trang 132)

<< Kỷ niệm chim gáy | Ngày cuối năm >>

Cõi đất hoang cuối làng Hạ ngay bên bãi tha ma. Chỗ đất trống ấy bỏ um tùm vì nhà nào có mồ mả cũng không muốn để sát vào luỹ tre bên xóm có người ở trong. Chỗ này mọc lên những bụi cây ké, cây lá cối xay, cây dướng và bụi lau. Đôi khi, con trâu đi qua quơ mõm chẳng có cỏ rả nhai được, lại lảng ra.

Thế mà vẫn có người ở. Chỗ tận cùng nào chẳng có người ở. Nhưng trong làng không bao giờ coi đấy là xóm, là ngõ, kẻ đến kẻ đi không biết thế nào. Chỉ những người lưu lạc đến đây ngụ cư, trai tráng không có tên trong sổ đinh, không được đóng hàng giáp. Thằng mõ làng còn được chia phần ngồi một mình ngoài cửa, chứ người ngụ cư thì chưa được bằng cu mõ. Ấy thế nhưng hàng năm khi nước sông Cái lên to, trên phủ sức về lấy đinh đi hộ đê thì ông phó lý lại tróc đến cái xóm hoang này. Mày đến nương nhờ đây, mày uống nước giếng đầu làng đây thì mày phải làm thân con lừa cõng việc quan sai. Lão ta trôi giạt đến bãi hoang từ bao giờ. Người ta gọi lão là lão, tên lão là lão hay đấy là cái tiếng để gọi người già mà lão già từ khi nào lão cũng không nhớ.

Chẳng mấy lúc đã đến ba mươi tháng chạp. Phiên chợ áp Tết, tiếng à à chợ búa nháo nhác đằng cây đa bên kia cánh đồng đã vang động từ sớm. Tiếng vịt cạc cạc, tiếng bò rống, tiếng người chửi nhau... Có xào xạc thế mới ra ngày chợ vét. Bởi vì sớm mai đã mùng một năm mới rồi. Ai dư dả tiền thì chúng họ thong dong đi sắm sửa từ những ngày chợ trong năm. Phiên chợ này của người cố cùng mới chạy được vài tiền, vội nhoáng nhoáng đi vơ cút rượu, thẻ hương, miếng thịt lợn cúng, lẻ gạo nếp... Lão cũng chẳng đào đâu ra đồng nào mà mó đến những thứ sắm sửa ấy. Lão chẳng màng đến phiên chợ. Cái Tết, lại cái Tết, rồi lại cái Tết, những tết nhất thờ Ơ qua đi.

Khốn khổ, ấy thế mà lão, chỉ có lão, lão thuộc tất cả ruộng lúa, ruộng màu, ruộng đồng cao, đồng xa của mọi nhà trong làng. Bởi vì lão quanh năm đi làm thuê đã cày bừa tát nước tháo nước nhẵn các mặt ruộng.

Bây giờ thì lão đi cuốc. Ruộng trồng màu phải cuốc mới kỹ được đất. Để cắm dây khoai lang, khoai nghệ, lại cải thìa.., lắm giống mới quá. Ruộng huệ hoa trắng lôm lốp như đứa chít khăn đại tang. Chúng nó hoá rồ đến nơi, trồng các cái ăn cái uống linh tinh. Chẳng bận đến lão. Lão chỉ biết bổ nhát cuốc, lão mong được có việc làm suốt giêng hai. Nhưng đến năm cùng tháng tận thế này thì cũng chẳng nhà nào còn mướn cuốc ruộng nữa. Lão không làm dối, mà có lẽ bởi lão cuốc chậm. Cái già đã hất miếng cơm của lão. Nhưng chẳng cần, lão có việc khác, lão ối việc, có người thì có việc. Nhà kia gọi sửa bờ rào, đóng cổng ngăn, đào cái rãnh tát nước dưới ao, lại đánh gộc tre và không đi làm thì lão đi đặt đó, đánh lờ, kéo vó tôm, câu ếch, lão không đi chợ, nhưng thấy người ta đi chợ Tết thì lão cũng nghĩ có khi ta nên đi chợ đong lẻ gạo nếp, mua thẻ hương, khốn khó đến thế nào thì cũng phải lo nhớ đến các cụ. Nhưng chỉ nghĩ chứ chưa Tết nào lão đong được bát gạo, mua được thẻ hương, rồi cái nghĩ nhạt dần, rồi thôi, mà cứ mùng một Tết, lão múc bát nước mưa đem vào đặt lên hòn gạch ông đồ rau trong bếp cúng ông vải và vua bếp, lão cúng chay.

Ờ thì cũng phải đi chợ một cái xem làng nước họ chợ búa ra sao. Cái phiên chợ chửi nhau, đánh nhau, cướp giật của nhau cũng vui mắt đấy. Vẫn còn hàng lá dong, lạt giang bởi vì cũng chẳng thiếu nhà tối ba mươi mới luộc được đôi bánh chưng. Bác hàng dừa bày lên mặt gánh một đống gáo dừa có chuôi cả sọ, có cái đã đẽo thành muôi, chỉ một chốc đã bán hết nhẵn. Thiên hạ mua gáo, mua muôi làm gì mà đổ xô vào thế. Tết nhất lắm thứ phải đong, phải múc, phải khảo chăng. Có đứa bảo sọ dừa già gọt làm quân xóc đĩa còn nảy rền trong bát hơn quân vỏ diêm. Chẳng biết thế nào, chỉ biết vào những tháng củ mật tháng ăn chơi thế này thì đâu cũng có đám thò lò, đám xóc đĩa.

Dãy hàng tranh lơ thơ chỉ còn mớ tranh tiền rẻ nhất. Tờ giấy hồng điều đỏ khé in từng chuỗi hình mười đồng tiền. Một chinh Khải Định được lấy mười tờ tranh tiền.

Có năm lão đã mua chơi tranh tiền. Lão dán các cột lều, ngoài cửa, trong bếp. Để bói xem năm mới có tiền vào nhà không. Nhưng không khi nào có tiền vào nhà, cũng không có tiền đội nón ra đi, chẳng thấy gì cả.

Lão vào bãi bán trâu bò. Lúc nãy chắc có nhiều trâu, nhiều bò, bởi cái bãi lầy bùn còn in vết móng trâu, lại lắt nhắt móng dê hay móng chó. Lúc này thì chợ trâu bò vắng tanh, chỉ còn mỗi một người mổ bò thuê đương cọ mấy con dao trong cái xảo thả dưới ao làng. Trong cái xảo còn có bốn cái móng bò đen gồ ghề nổi lơ lửng trên mặt nước.

Lão nói:

- Này đằng ấy cho tớ bốn cái móng bò nhé. Tớ xin cái móng chứ không xin cái vó đâu!

Bác đồ tể mặt còn đỏ lựng. Dáng hẳn lúc nãy vừa mổ, vừa xả thịt vừa nốc rượu. Bác đồ tể nói to:

- Có cái bong bóng nữa. Định đem vứt cho chó gặm, người có tết thì cũng phải cho chó cái tết chứ. Lão giơ hai tay như can đôi bên đánh nhau. Ấy chết. Ấy chết, đừng phí của giời. Cái móng bò ninh lên cũng được nồi nước xuýt. Cái bong bóng thì đem phơi nắng may ra bán cho con mẹ hàng rượu. Một đống tiền cả đấy. Ông ơi!

Người đồ tê cười hề hề:

- Ờ thì cái bong bóng để đấy chốc nữa bán cho con mẹ buôn rượu. Còn cho bố cầm cái guốc bò này về, của thằng con rể sêu tết đấy nhé.

Câu tán dại đâm ra mất cái bong bóng. Phải mau mau kẻo nó không cho cái móng bò nữa thì có mà ăn mày. Lão vơ đâu được cái giỏ mất hom, nhét cả bốn cái móng bò còn dính lầy nhầy lông và bùn lấm. Rồi tất tả đi ngay.

Ra khỏi chợ, lão nhìn lại cài giỏ móng bò mới thực yên tâm. Chẳng có đồng mốc nào, đi chợ cũng được những thứ này. Cái xương, cái móng cứ đun mãi tất phải ra sụn ra nước xuýt. Thế là có tết rồi.

Đến cái quán giữa đồng, lão ngồi buộc lại giỏ. Bà hàng nước đã nghỉ dọn hàng quán trống gió thổi ào ào vào lều. Lão trói vào lại tháo ra, lại cầm từng cái móng bò lên ngắm, ngắm chán rồi lại đâm nghĩ ngợi lấn thẩn. Khốn nạn thân ông, cái móng bò không phải là cái vó bò, cái vó bò thái ra chấm tương gừng, nhai rau ráu, cái móng thì... thôi thôi ông cứ đắp bùn hầm cho mấy ngày mấy đêm thì đến sừng trâu móng trâu cũng phải chảy ra nước xuýt. Thuở xưa thằng vua còn ninh mầm đá ra ăn cơ mà...

Ngoài ruộng, một đàn quạ khoang xúm xít trên một luống đất cày ải. Bọn chim chóc trộm ngày này đương chơi trò tranh nhau cái gì đây. Lũ quạ thoáng thấy người ra bay rào rào lên, lão trông thấy trong luống đất một chiếc bong bóng lợn, à mà không phải bong bóng lợn cái bong bóng trâu mới to ngồn ngộn lên thế. Không biết bọn quạ tha ở đâu về hay là đứa nào ném ra đây.

Thằng mổ bò kia không cho ông thì ông cũng được giời cho, giời cho ông cái bong bóng trâu còn to bằng mấy cái bong bóng bò. Thật là của giời cho.

Những con quạ chết đói lại táp xuống. Có con nhảy vào mổ cái bong bóng. Có con táo tợn đậu xuống vai ông lão, như toan quào vào mặt cái thằng người đến cướp cơm của nhà quạ. Những những con quạ khoang địch sao được lão ông mà túm được con nào thì ông cũng cho chúng mày vào nồi tất. Tết này ông ăn tết thịt bò ông ăn thịt quạ. Lập tức, lão huơ tay lên. Những con quạ khôn ngoan đã đọc được cơn giận nổi đùng đùng trên mặt lão. Cả lũ bay biến đi. Thế là lão nhặt cái bong bóng nhét vào giỏ. Lão nhổ cái cỏ xước tết làm lạt buộc những cái móng bò xách một bên tay.

Lão chợt lắng tai. Tiếng chuột kêu chí chí ở góc tường đất. Không phải tiếng chuột nhắt đuổi nhau. Hình như tiếng chuột nhút nhít mới đẻ chưa mở mắt, đương chen nhau trong ổ, lão rón chân bước lại. Lão nhấc hòn gạch vồ.

Một ổ chuột tý nhau lúc nhúc đỏ hon hỏn. Con chuột mẹ nằm giữa chưa kịp ngoái đầu lên, bàn tay lão đã chít cổ lôi ra. Con chuột mẹ giãy được mấy cái, tắc thở. Thế là cả chuột mẹ chuột con lão dốc tuột vào giỏ. Đã có thịt bò, lại thêm thịt chuột, được quá

Lão về đến những túp lều cái xóm người ngụ cư. Cái lều của lão như đống rạ lởm chởm. Gió rét ngăn ngắt. Tự dưng, lão lẩm bẩm một câu bơ vơ: "À à thế này mới là Tết" lão đương hả hê ta đây. Mấy cái lều ở ngoài chưa thấy hơi hướng ai về. Gió thổi kẽo kẹt như có ma ở các ngôi mộ đằng kia lên đánh đu trên bụi tre.

Người ta đi đâu, lão không biết, lão cũng chẳng để ý Chúng nó trốn tết hay chạy tết, có khi kéo nhau bỏ đi luôn cũng nên. Ở ngoài tha ma có nhà nào đi sửa mộ cuối năm. Gió tạt vào mùi hăng hắc hương đám ma. Nhưng trong đầu lão chỉ đương có những cái mừng. Nước xuýt luộc bò, cho thêm cái bong bóng này vào thì ngon ngọt đứt đuôi rồi. Lại còn xó rượu đấy, rượu nhắm với thịt chuột bao tử nướng.

Lão đã tưởng ra tiếng pháo xa xa, tiếng trống đình, tiếng chuông chùa nối lên. Ba ngày tết qua rồi, đã có người gọi hẹn mừng tuổi lão từ trong năm, mùng bốn vào dọn vườn động thổ. Hôm ấy thì được chén tuỷ luý thẳng thừng rồi.

Lão nhìn cái bờ rào cúc tần. Để những thức ăn sống sít này chỗ cao ráo cho khỏi con kiến bò vào, không khéo thì có khi cả con chó đến ngoạm mất. Nhìn trước nhìn sau, rồi lão gài cái giỏ chuột vào hốc thân cây dướng. Bốn cái móng bò và cái bong bóng trâu thì treo trên cành cây dường ở ngay cửa lều, trông ra thấy ngay.

Lão vào bếp thổi lửa, vơ mấy cái que củi đốt sưởi rồi ngả người xuống ổ rơm.

Lão cứ nghĩ vơ vẩn toàn những cái vui, tưởng như vừa được một buổi sắm sửa bận rộn rồi lại đã cơm no rượu say ngoài chợ. Hai con mắt lão gà gà díp lại trong tiếng pháo lạch tạch đâu đây.

Lão chợp mắt một lúc. Tiếng gió lùa rào rạt trong vòm trời âm u, trở dậy không biết sắp tối hay còn ban ngày. Lão ngồi dậy lò dò ra đem các thứ vào bếp.

Trong hốc cây dướng để cái giỏ chuột. Bốn cái móng bò, cái bong bóng trâu thì treo trên. Nhưng chẳng thấy các thứ ấy đâu cả. Đứa nào đã thón mất. Hay con cầy, con cáo tha rồi.

Lão nhìn quanh xem như còn có cái gì rơi xuống đất. Không thấy. Lão đứng tần ngần, cũng chẳng nghĩ ngợi ra sao.

<< Mõ Bốn | Những thương những giận

Hôm ấy, trời hiu hiu, tôi bỗng nổi máu ăn thịt chó, đã hẹn được một bọn. Nhưng gặp nhau thì việc thịt chó đâm ra hỏng.

- Mát trời, đi đả khuyển kama hay lắm.

(Chữ kama, sáng tạo của hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, trong kháng chiến ở Việt Bắc. Ka ma là bốn chữ đầu: "không ai mời ai", có nghĩa là canh ty tiền đi đánh chén).

Tôi bị hỏi lại:

- Hôm nay ngày mấy, biết không?

- Mùng một dương lịch.

- Âm hay dương, mặc giời, phiên chợ đầu tháng, chẳng ma nào bán cái xúi quẩy ấy đâu.

Nhưng tôi chưa thất vọng. Có bạn nói.

- Ta đi chén thịt rừng.

Cả bọn hoan hô.

Ở chợ Bưởi hay chợ Mơ đôi khi cũng có thịt rừng - thịt rừng rởm. Cánh gà công nghiệp chặt ra, nướng cháy vàng, chủ quán bảo là thịt gà rừng. Cũng chịu. Bởi nó thơm thơm, khen khét, lại rắc đôi chút ngọt mì chính. Cãi với nhà hàng thì không cãi nổi, đánh nhau thì chắc thua, đành ngồi ăn lặng im vậy. Thịt rừng thứ thiệt, ở trên Lương Sơn kia. Hà Nội lên Lương Sơn (Hoà Bình) hơn bốn mươi cây số, áng chừng bằng đi Sơn Tây, chỉ trong ngoài một tiếng xe ôm.

Ở phố huyện này có hai ba quán treo bảng: thịt tươi hươu, nai, gà gô... Nơi địa đầu sơn cước mà nhà hàng khá vui mắt, bàn ghế Xuân Hoà và phòng riêng, rèm trứng sáo. Nghe nói khách thành phố thường ôtô biển trắng, biển xanh dập dìu. Hàng quán ở cạnh rừng và núi đá, có thể tin là thịt thú rừng thật.

Chủ quán mừng rỡ. Các ông may quá, hôm nay có thịt rồi, con rúi mới mua được của phường săn, có tiết canh, rượu tiết. Ngày trước, ở cánh đồng Mường Lò mùa gặt, tôi đã được ăn thịt rúi đào được ở chân đồi thịt nướng thơm như thịt con nhím. Chúng tôi gọi món thịt rúi, nhưng cũng cẩn thận ăn món giả cầy, không gọi thịt luộc. Cái rượu tiết chẳng biết tiết gà hay tiết ngan. Còn giả cầy thì bì dai như da trâu. Con rúi hay con gì, nào biết được. Mới tỉnh ra một điều. Các thứ thịt quen thuộc con gà, con chó, con bò cũng có con béo, con bệnh, có con chết rồi người ta đi bán chui. Mà các bà các cô ở nhà đi chợ mua đều phải nắn lườn, xem chân, xem mỏ chứ đâu phải con nào cũng béo tốt. Huống chi con vật hoang dại trên rừng đâu phải lúc nào cũng ngon thịt cho ta chén.

Mới đây, nhiều báo đăng tin báo động: rừng quốc gia trên núi Tam Đảo người các làng ở quanh kéo vào rừng bắt bướm, từ bướm ma cho đến bướm rồng, bướm nào cũng bắt đem về bán cho khách du lịch người nước ngoài. Có loại bướm quý được trả đến 200 đô la một con. Cho nên, ở bốn phía Tam Đảo từ Vĩnh Phúc sang Thái Nguyên người ta vào rừng bắt bướm nhiều lắm, chẳng ai ngăn cấm như rình bọn trộm gỗ, nhưng thấy bán được nhiều tiền thế cũng đâm sợ, cho nên cứ bán ngay cho Tây đã đợi ở cửa rừng mắt trước mắt sau như bán ma tuý.

Núi Tam Đảo sắp hết giống bướm. Tôi tin ngay như thế. Bởi vì cách đâu đến mười mấy năm tôi đi nghỉ trên Tam Đảo, lần nào cũng gặp có người nước ngoài, người Pháp người Anh, người Nhận họ leo núi tay xách lồng tay cầm vợt với một lũ trẻ con vác sào chạy theo. Thấy bảo đấy là trẻ con đi bắt bướm, mỗi con bướm được Tây cho bao nhiêu tiền đấy.

Việc xảy ra đã từ nhiều năm nay rồi đến bây giờ còn rầm rộ hơn thì bướm chẳng tiệt giống thì cũng sắp mất giống.

Xin trích tình cờ một cái tin vặt về bướm đã đăng trên báo nước ngoài: Bướm họ Tridơ Alôtây (Troide Aliotei) ở quần đảo Salômôn nam Thái Bình Dương được người chơi bướm cho là loại bướm đẹp nhất thế iới. Năm 1966, một con bướm Tridơ ướp hộp kính bán đấu giá ở Paris, những nhà sưu tập bướm các nước đến tranh nhau đặt giá mua, sau cùng, xác con bướm hoa nọ được giá lên tới 9000 phơrăng pháp

Ở trong thành phố bây giờ khó lòng còn nghe tiếng chim hót, chim kêu - không kể mấy con khướu bị giam trong lồng. Nửa đêm về sáng cũng không còn tiếng vạc đi ăn đêm về kêu xa xa tiếng một. Hoạ hoằn chỉ nghe tiếng chim lợn bay kêu éc éc rợn tai- con chim lợn báo điều không tốt lành sắp đến, ai cũng sợ.

Kể ra, người giết chim cũng đã nhiều, nhiều lắm. Mấy năm trước, mùa nào chim ấy, chim được đem bán hàng thúng những con ngói, con sẻ, con nhạn nước đã làm lông, moi bụng sẵn. Chim ngói người ta đặt lưới bắt ở những cánh đồng vừa gặt. Chim sẻ thì bẫy ở cái bãi rác. Con nhạn nước thì chăng lưới các gốc cây ở bờ hồ Hoàn Kiếm và đường Thanh Niên, hai bên hồ Tây, hồ Trúc Bạch, sáng sớm mùa đông sương mù, cả nghìn cả vạn con nhạn nước lượn về mắc lưới.

Lại dạo ấy, thỉnh thoảng thấy cái xe máy buổi chiều chủ nhật đi từ ngoại ô vào, người trên xe, vai khoác khẩu súng săn, trong túi trước mặt quàng một xâu dài các thứ chim và con cò, con diệc, con sâm cầm, con đen con trắng. Họ ra các ven hồ đầm ngoại thành bắn chim về "cải thiện". Mấy năm nay không thấy nữa. Chắc phải đi quá xa, mà đi xa quá thì lại gặp người ở Phủ Lý, ở Sơn Tây cũng đi bắt chim "cải thiện".

Những chìm nổi đời chim ngày một tàn tạ. Đọc cái truyện ngắn của Nguyễn Quốc Trung ở tạp chí Văn nghệ Quân đội thấy đời con chim, con người cứ vui ít buồn nhiều như thế.

Chuyện rằng ở Sài Gòn bây giờ, bà con đi chùa cũng bắt chước bên Nôm Pênh hay mua chim rồi thả phóng sinh lấy khước, lấy phúc. Người nhà giàu nọ đi chùa lễ cầu tài, cũng mua chim thả, lại muốn mua cả cái lồng về cho con chơi. Nhưng ông lão chỉ bán chim, không bán lồng. Người nhà giàu mắng thằng già gàn sắp chết đói lại làm phách. Ông già gàn xách cái lồng về, đi cùng với người viết lại câu chuyện, lên nhà ngồi uống nước trên sân thượng. Mấy con chim vừa bán đã bay về xúm xít vào cái lồng quen thuộc. Sớm mai ông già lại xách cái lồng chim ra ngồi cửa chùa, đàn chim được người mua phóng sinh lại bay về. Mẹo kiếm ăn còm, thì cái lồng chim cũng là cái cần câu cơm của ông lão.

Thuở bé, tôi nuôi chim chào mào, cho con chào mào chén cơm muối, chào mào đâm nghiện thức ăn mặn. Có thả ra, chim cũng chỉ bay quanh quẩn rồi lại vào lồng.

Nhưng những vui buồn cỏn con ấy với con chim cũng tan nát đến nơi rồi, không còn nữa. Mới đây, được tin dữ, mới đây thôi, khủng khiếp quá. Dạo này, ở Cần Thơ, ở Sóc Trăng, tận các thành phố huyện hẻo lánh, thế mà cũng có nhiều nhà hàng bán buôn cò, vạc, diệc và nhiều quán nhậu đặc sản thịt cò, cò ấau bún, cò rán chả, cò nướng nhậu lai rai.

Bẫy được cò nhiều lắm, ấy bởi người ta vừa sáng chế ra cái máy bẫy chim hiệu nghiệm cực kỳ. Máy gồm có: bộ lưới dài có thể úp được cả đàn chim hộp cát xét chạy pin có băng thu được tiếng chim, cò kêu, bìm bịp kêu, cuốc kêu, chim kêu thứ thiệt. Người đánh chim căng bẫy, giăng lưới, rồi mở băng. Trong đêm hay giữa ban ngày, tiếng chim trong loa gọi líu lo, đàn chim đương bay liệng xuống với đàn bạn, thế là toi mạng. Đồng bằng mênh mang cánh đồng, lạch nước và chim sa lưới một mẻ có khi được đến trên năm trăm con vạc, con mồng két, con cò lửa...

Đài tiếng nói Việt Nam, mục "Thị trường giá cả phát lúc 5 giờ sáng kể ở các chợ thị trấn đồng bằng sông Cửu Long bán những bộ máy bẫy chim như thế, cả lưới và cát xét mỗi máy giá 3 triệu. Thế thì sắp tiệt giống chim rồi. Cả những con chim lợn kêu eng éc báo điềm xấu cũng chẳng thoát. Người ta mở băng có tiếng chim lợn mái kêu, mày ngỡ vợ mày gọi, mày sà xuống thì mày bỏ đời.

Ca dao mới:

Con cò con vạc con nông.

Ba con cùng béo vặt lông con nào

Vặt lông tuốt tuột cho tao.

Làng tôi vào đám.

Ngày trước, tháng ba có hội lệ. Thịt con bò, chia phần bốn giáp. Vài ba năm lại có rước chạ, cắt lượt chạ trên chạ dưới. Nhưng các chạ đều nghèo, không làng nào sắm nổi cỗ kiệu, đám rước chỉ khiêng cái long đình gỗ mộc.

Không phải xưa nay đám thứ đều giống nhau. Cứ như tuổi tôi, từ thủa còn để chỏm tới ngày nay đã thấy bể dâu lắm nỗi. Cái năm kháng chiến, ngôi đình bị phá san phẳng theo lệnh tiêu thổ kháng chiến. Chỉ còn ba cây muỗm cổ thụ và một bờ rào duối đằng hậu cung. Đến khi Tây lại đóng đồn, sợ du kích về ẩn nấp, đã chặt nốt bờ rào duối, thế là cái đình cái sân nhẵn nhụi. Chỉ không biết cái long đình biến đi đâu. Có người đã lội xuống ao làng mò, hay là người ta đã giấu xuống đấy. Người không thấy.

Hoà bình lập lại, ngôi đình không dựng lại được nữa. Nhưng rồi làng cũng đóng góp xây lên được ba gian lợp ngói. Không có ông từ, nhưng tuần rằm mùng một, cũng có các cụ ra thắp hương. Đến cái năm cải cách ruộng đất, cái đình con con được cất lại ấy cũng bị bỏ hoang, Mấy người hay ra thắp hương cũng bị quy là mê tín dị đoan. May chỉ là "mấy ông lão lạc hậu" mới kém hiểu biết, mới chậm tiến thế, nên được châm chước chứ nếu còn tuổi trung niên chắc đã bị đem ra đấu ở xóm rồi.

Nhưng bây giờ đã khác, tôi nghe người trong làng ra kể ngôi đình đã được xây lại. Chỉ có cây muỗm cổ thụ thì không thể sống lại được nữa không biết ai có sáng kiến đem về trồng hai cây xà cừ cho chóng có bóng mát.

Làng vào đám năm nay tôi về được trông thấy đình mới. Cũng vẫn trong khuôn khổ ngôi đình ngày trước, nhưng quét vôi vàng và vôi màu đỏ loè loẹt sặc sỡ. Không còn bức tường rêu đằng hậu cung và con nghê sành đắp nổi trên cột trụ ngoài sân đình ngày trước của một bà con gái làng lấy chồng xa, vợ chồng về làng nộp treo, người rể làng có máu mặt đã cung tiến con nghê. Người ta thường nghĩ theo kỷ niệm, chẳng vui chẳng buồn, thế mà cũng nhớ.

Trong đình lúc ấy rộn rã người đi lại, trống đánh từng hồi. sắp tế thần. Cả loạt hơn chục ông, áo thụng xanh lam, mũ phốc, quần lụa mơ gà hoa chanh, đi hia đế trắng xốp mũi hia bọc nhung đỏ. Thoạt trông lạ mắt, nhưng rồi nhìn dần nhận ra, toàn mặt quen. Nhiềt ông trong làng, cũng có nhưng ông người thiên hạ, lấy vợ làng này hay tậu đất ở đây trạc trên sáu mươi, bảy mươi, cán bộ về hưu. Chà chà, xống áo tế lễ đẹp quá, sang quá. Ngày trước, năm ấy ông ngoại tôi đến tuổi đến phiên được làm chủ tế. Cả cỗ tế hơn hai mươi người chỉ có một ông tôi được mặc áo thụng xanh. Mọi người khác đều áo the, khăn lượt chít như thường ngày có việc đi đâu. Cái áo thụng lam ông tôi mặc cũng là của làng, của công, ai đến lượt làm chủ tế thì được mượn.

Ông chủ tế ra tiếp tôi. Ông ấy trước công tác ở bộ Nông nghiệp về hưu. Mấy người nữa xúm xít ra. Tôi lâu ngày mới về làng, chứ đều là quen biết trước kia, có khi còn có họ và tất cả đều là cán bộ là bộ đội về hưu - có anh ở tỉnh có anh trên ngành ở trung ương. Nói đùa có thể hội ý chi bộ hay tổ đảng ở đám tế được.

Hầu hết các ông này vẫn còn thua tuổi tôi. Như tuổi tôi mà còn ở thời ngày trước, hội hè thế này, bấy giờ đương là trai tráng trong làng. Những cuộc tể lễ như hôm nay mới chỉ được các cụ cắt ra những chân cầm cờ, che tán - gươm vàng, bát bửu thì chưa phải mặt, chưa đến lượt được vác. Ngoài ra thì khiêng long đình, kéo xe trống... Còn các anh hôm nay áo thụng đi hia ra bắt tay chào rồi ngồi chơi với tôi đây lúc ấy cũng chỉ khoảng lên mười, đầu để hoa roi, mũi thò lò, cứ ngó nháo nhác đi xem rước và ngồi chầu hẫu xem tế mà thôi.

Tôi hỏi một người ngồi cạnh:

- Các cậu cũng biết tế à? Giỏi nhỉ.

Mấy người cùng cười.

- Mỗi thời một khác. Mời bác ngồi chơi xem, em vào việc thánh.

Trống đánh nhịp, chủ tế ra đứng giữa chiếu hoa, các ông bồi tế bước lên, kẻ đứng ngồi quỳ chắp tay theo thứ tự. Các ông bồi tế lặng yên, kính cẩn. Ở ngoài, hai lên đứng lấp sau cột, xa hai mép chiếu, các ông bồi tế khác lần lượt xướng tế: Hương... Bái... Tiến tước... Quán tẩy sở... Tiết tửu...

Theo lời xướng, các ông bồi tế trong chiếu lóp ngóp quì xuống đứng lên, có lúc cúi đầu, có lúc hai tay bưng hai chén rượu như ông chủ tế, trịnh trọng bước lên.

Các ông đứng ngoài không mặc áo thụng đi hia mà áo sơ mi quần phăng, dép lê như tôi. Mặt mũi còn non lắm, chỉ được cái tiếng hô to. Và vì không mặc quần áo tế, các ông đứng nép vào cột. Ở ngoài của không trông thấy.

Phần nào, tôi đã đoán ra. Tôi hỏi một người ngồi xem bên cạnh:

- Đám thợ tế là các cậu thuê ở đâu?

Người ấy nói:

- Phải vào gọi tận Mễ Trì, xa lắm. Hẹn trước cả tháng đấy mà cơm rượu, lại phần phò, lại tiền nong tốn kém ghê. Dạo này vùng mình hội hè tế lễ nhiều mà.

Đến trưa, vào ngồi ăn việc làng, tôi nói với chủ tế - cái lão trước làm ở bộ Nông nghiệp:

- Làm gì mà khổ thế. Mà bát nháo cả. Làng mình xưa kia chẳng có tế thì đã sao.

Ông chủ tế mặt rượu đỏ lựng:

- Làng nó có làng mình cũng phải có chứ. Ông mà về làng, ông cũng đóng vai chủ tế thuê tế như tôi.

Tôi cười:

- Một chữ nho bẻ đôi không biết, tớ cũng chẳng biết tên cụ thành hoàng làng ta.

Ông chủ tế xua tay:

- Chẳngcần, chẳng cần!

Ngày xửa ngày xưa tôi đã chơi dế mèn. Bây giờ lại chơi con dế mèn với một sự tình cờ và rất thời sự.

Đầu xuân 2001, tết âm lịch năm nay, trẻ con có thêm một đồ chơi mới. Ở cổng vườn Bách Thảo- cả chỗ vào vườn Thủ Lệ, vườn Thống Nhất, đều có cái xe máy đỗ ghếch vỉa hè, sau yên đặt một chiếc thừng gỗ mở nắp. Thoạt trông tưởng người ta bán con tò he nặn bằng bột xanh đỏ ngày trước lại mới mọc ra. Không, đấy là hàng bán dế mèn. Mà dế sống, như dế ở bãi cỏ nhảy vào, không phải dế con bằng nhựa, vặn dây cót, dế nhảy nhảy - đồ chơi Thái Lan, mà tôi cũng có một con như thế đặt trên giá sách. Đằng này là dế thật, dế mèn đàng hoàng. Một đám khách hàng trẻ con xúm lại bên cái thùng gỗ như mặt bàn, trên bày những chiếc lồng dế bằng những bao diêm xếp chồng lên nhau, trong mỗi lồng nhốt một con dế.

Con dế bây giờ hình như nhỏ hơn những con dế thủa xưa, thời tôi còn là trẻ chơi dế. Mình dế dẹp đét, bóng nhoáng, lung lay hai sợi râu dài. Loại dế này dữ lắm đấy. Mỗi hộp dế, mặt trên che một mảnh lưới sắt. Dưới đáy, gài then, đấy là cửa đưa thức ăn, và cũng là cửa đấu võ khi hai mặt hộp áp lại, dế nhảy sang thành cái đấu trường cho hai võ sĩ lên đài tỉ thí.

Trong thùng có tới hàng trăm lồng dế, hộp dế. Người bán dế bảo tôi mua hai hộp và hai con dế lại cắt nghĩa: "Dế chọi phải nuôi đôi cho chọi nhau. Chơi dế phải bắt chứng nó choảng nhau mới khoái chứ". Tôi mua tám hộp, tám con dế. Mỗi hộp dế giá hai nghìn. Tám hộp là bốn bộ, 16 nghìn. Ba đôi tôi cho bọn cháu tôi đương choai choai tuổi chơi cho biết, ở thành phố các cháu chưa biết mặt con dế bao giờ.

Tôi giữ chơi một đôi. Người bán dế đã bảo cách cho dế ăn, tôi mua một củ đậu, thái miếng, đút vào hộp. Trước kia mày ăn cỏ, bây giờ thời mới được ăn bánh mý cơm hộp. Cũng hay.

Tôi ghép hai hộp, mở then cửa cho chúng nó xông sang võ đài. Nhưng hai con dế chỉ đứng im. Có lẽ còn lạ chuồng - tôi nghĩ thế. Tôi đóng cửa lại, đặt hộp lên thành cửa sổ. Cả đêm lặng lẽ. Sáng hôm sau, hai con dế vẫn đứng im. Tảng răng mỗi con ngập trong miếng củ đậu. Chúng nó nhấm nháp củ đậu. Nhưng sao im thế. Hay là chết rồi, chúng nó chết giữa lúc còn đương ngoạm răng vào miếng ăn. Tôi nhớ thằng dế mèn lúc nào cũng hay đụng đậy sợi râu. Tôi lấy chiếc tăm gầy gầy. Cái râu nhúc nhích. Không phải con dế chết. Hai võ sĩ đều khoẻ mạnh, nhưng chẳng con nào hung hăng đánh nhau cả.

Tôi hỏi tụi dế ở nhà cái cháu. Có ba con đã chầu trời ngay đêm ấy. Hôm sau, dế của tôi cũng ngoẻo một con. Nhưng con dế còn lại một mình lại sống dai. Dế nhấm cả ngày hết miếng củ đậu bằng đốt ngón tay, dế là cứt vụn đen như cứt gián. Hôm mới mua dế tôi đã thấy cái đồ chơi dế này chẳng dính mảy may đến chuyện ông dế ngày xưa của tôi đi chu du thiên hạ đến đỗi sang Thái Lan người ta phải lưu luyến làm đồ chơi kỷ niệm. Chẳng phải thế đâu. Bởi tôi đã xem vô tuyến truyền hình thành phố Quảng Châu bên Trung Quốc chiếu phim giới thiệu cái nhà máy làm đồ chơi, có một xưởng nuôi dế hàng chục công nhân săn sóc dế ăn, dế ngủ, dế đẻ, dế lột xác, dế được ở trong nhà hộp, những lồng nan nhựa xanh đỏ sặc sỡ, con dế coi thật bảnh bao công tử. Rồi những chuyến xe tải cả nghìn cái lồng hộp đựng dế đem ra chợ, bày ở các cửa hàng ngoài phố. Người mua dế về cho trẻ con chơi rất đông vui.

Chắc chắn là có người ở trong Chợ Lớn- Sài Gòn đã xem phim Quảng Châu bắt chước làm rồi đem dế từ trong Nam ra bán trong dịp tết này. Tất nhiên, so với cái xưởng sản xuất dế bên Quảng châu thì mình còn cò con, nhếch nhác, mới thấy như cái hòm đựng dế ở công viên Thủ Lệ. Một đêm kia, con dế của tôi bỗng kêu vang. Mùa đông, phòng tôi đóng cửa kính, tiếng dế kêu đinh tai. Không biết dế khóc hay dế cười, nhưng thật chưa bao giờ tôi thấy ở đâu có tiếng dế kêu dữ dội đến thế. Vì, có lẽ con dế ngoài trời xưa nay vẫn tiếng to mà tôi không biết. Cũng như những người làm ruộng nói với nhau ở ngoài đồng không mông quạnh, cũng oang oang, khác người nói nhỏ nhẹ ở trong phố, trong nhà.

Tôi nghĩ rồi cũng đến phải cho con dế này ra ngoài mới hợp. Tôi thả con dế lên giàn hoa kim ngân bên cửa sổ.

Đêm ấy nghe tiếng dế ong ong trên giàn kim ngân, nhưng chỉ xa xa thoang thoảng. Nhà tôi ở đây xưa là cánh đồng làng, nhưng nhiều năm rồi cánh đồng đã thành phố phường, không khi nào còn tiếng giun tiếng dế nữa. Bây giờ trong bóng tối và ánh điện giữa tiếng ôtô, xe máy gầm gừ qua lại, có tiếng con dế ri ri phảng phất, cũng lạ mà cũng buồn. Đêm sau, chẳng nghe tiếng dế nữa. Con dế bò đi đâu. Con dế đi đằng nào giữa những vỉa hè xi măng, những bờ tường bê tông xám mênh mông.

<< Thịt rừng, chim trời và con bướm | Trên sông Hồng >>

O chuột

Tô Hoài

Trong nhà, trừ người, chó và mèo làm chúa tể. Chó giữ về mặt bộ, mặt thuỷ. Hắn có phận sự chạy nhông khắp chốn để đánh hơi, để hỏi han và để mắng những người lạ đi tơ mơ vào trong ngõ. Có khi cao hứng hắn lội xuống ao, tắm; hoặc nếu có ai cầm hòn gạch ném vào nước và huýt mấy tiếng còi, hắn cũng động cỡn mà nhảy tùm xuống. Một đôi bận, sự đùa cợt của hắn cũng được việc. ấy là khi hắn bơi ở trong ao để dồn vịt về chuồng. Chó hay lèm bèn, ủng oẳng, sinh sự nhỏ nhen. Nhưng tính tình hắn lại phổi bò, dễ dãi và thường chóng quên. Con mèo rất khác. Mèo lờ đờ và nghiêm nghị tựa một thầy giáo nhà dòng, trên mình có khoác bộ áo thâm. Hắn có cái cốt cách quí phái và trưởng giả. Lúc nào hắn cũng ra vẻ nghĩ ngợi như sắp mưa toan một việc gì ghe gớm lắm. Có phải thế chăng, hỡi cái gã lừ đừ và nghiêm nghị kia? Gã lại càng làm ra vẻ khó hiểu tợn. Nhưng ngoài cái vỏ ngoài chưa thể đủ để nói rõ được bề trong. Biết đâu, mèo ta không khó chịu như mình tưởng. Mà vốn hắn lại hiền lành cũng nên?

Hôm nay, tôi kể chuyện một gã mèo, một gã mèo trẻ tuổi. Y sống lặng lẽ trong một nếp nhà ngói cổ kính, giữa một vườn cây rộng, ở làng Nghĩa Ðô, cùng một sân với bọn chó, bọn gà ri, bọn ngỗng...

Y là một chàng mèo mướp. Giống đó, nhà quê người ta nuôi nhiều . Cái bộ lông mèo mướp thực là dị kỳ. Nó vừa trắng màu lụa, vừa xám màu tro lại vừa đen xỉn. Khắp mình, ba màu ấy trộn lẫn với nhau, mà trôn rất nhỏ, hoà hợp lại thành một màu đặc biệt như màu cái chăn dạ của các chú lính tập. Chỉ ở dưới bụng mới có một mảng lông trắng mềm mềm. Màu mướp ấy trông bẩn, vì đen ngòm ngòm, nhưng chính ra sạch lắm. Nó sạm như đất, mà không phải là có đất bám. Nó lại mờ mịt như có tro là chỗ ngủ tốt nhất của loài mèo - mà thực ra cái bờm lông xấu xí đó chẳng vấn một chút bụi tro. Ngắm thì không đẹp mắt, nhưng nếu sờ tay vào, nó muốt như sờ tay trên tấm nhung tơ.

Hai mắt mèo tròn và quắc như hai hòn bi ve để dưới ánh mặt trời. Hắn không có môi, song hắn có cái mũi đo đỏ, đẹp như môi son hồng của các cô con gái đương thì. Ðàn bà không ưa cái mũi đỏ ấy. Người ta bảo mèo mũi đỏ là mèo hay ăn vụng. Hai bên mép hắn có hai hàng ria cứng nhắc như ria làm bằng thép nước. Lũ trẻ con, có lúc nghịch, đè ngửa hắn xuống, lấy kéo cắt trụi cả đôi hàng ria xuôm đuột. Nhưng chỉ qua ít ngày, nó lại trổ ra như thường.

Gã mèo mướp ăn ở thì giờ như một người đúng mực. Ban ngày hắn ngủ hoài, cái dáng mèo nằm, dáng êm, dáng thanh, dáng lâng, đẹp biết bao! Lúc bấy giờ, cái thân hắn nhẹ muốt, chỉ như một chút gợn gió phẩy bay một nắm bông gạo nõn.

Mà giá ban ngày hắn có thức cũng không làm gì; hắn chỉ nằm gù gù. Ðể đến đêm, trong cái bóng tối mung lung, hắn mới ra tay hoạt động. Hắn đi rà rà thâu canh như người trương tuần. Gã mèo có cái vẻ đạo mạo như một ông đứng tuổi, đương bắt đầu để râu. Hắn hiền hiền mà lại ang ác. Nghĩa là trông hắn thì không tài nào đoán được trong óc hắn nghĩ ngợi gì. Mà chừng hắn chẳng tư tưởng chi ráo! Hắn chỉ là một người rong chơi lông bông.

Chẳng có những bác trông mặt thì ra dáng đăm chiêu tư lự mà thực ra trong đầu không chứa đựng một ý nhỏ định nào.

Gã ngồi đấy, ở trên mặt dại bể. Hai chân trước đứng thẳng, đôI chân sau gấp lại, y như lối ngồi xổm. Ðôi mắt nhìn xa sôi... Thỉnh thoảng, theo thói quen, hắn đưa cẳng chân phải lên gãi mép, cũng như người ta đưa tay lên vuốt râu cho nó oai vậy. Trời đã xế chiều rồi. Một chiều thu êm ả. Vài gợn nắng vàng nhạt đọng trên những tàu cau rách rưới màu xanh om. Bên nhà ngang, tiếng guồng tơ quay đều đều. Trên đường cái, lũ trẻ con đi học về, vừa chạy thi nhau vừa la, nghe vang động xa vời vợi. Ngoài giếng khơi, người ta kéo nước rào rào. Cái gáo mo lạt sạt đụng vào thành giếng đá. Trong bếp lặng tờ. Bây giờ là sau bữa cơm chiều, người ta không dùng đến bếp nữa. Gã mèo mướp ngồi ngắm trời, ngắm đất mãi thì cũng chán. Gã bèn đứng lên, uốn cong cái lưng và nhuôi bốn chân ra để vươn vai, rồi đi về căn nhà hiu quạnh. Hắn bước từ tốn và uyển chuyển như một con hổ nhỏ. Khi qua gốc cau, chẳng biết ý định sao, hắn leo tót ngay lên, quào quào mấy móng sắc vào cái vỏ cây cau điệp trắng, rồi lại tụt xuống, rồi đi lểu đểu, đạo mạo như trước. Hắn thường có những cử chỉ đột nhiên. Hắn làm bất ngờ như trong lòng đang khoan khoái một điều mà hắn thường nghĩ đến. Luôn luôn gã mèo mang một nét tư lự.

Y ngồi vào thì lì bên bếp tro. y nghiêng mang tai để rũi vào một ông đồ rau, to bằng hòn gạch vồ lớn. Lúc nào y cũng ngứa và cần gãi.

Bỗng y đứng im. Y nghếch đầu lên. Hai cái tai mỏng vểnh ra để nghe ngóng. Hình như có tiếng lịch kịch ở sau đống củi. Nhưng khi bước lại thì không thấy đọng gì nữa. Gã quay đầu ra, ngước mắt nhìn lên đám mạng nhện có mắc bồ hóng đen xạm, bị gió đưa lúc lắc trên trần bếp.

Có tiếng động thực. Lần này gã mèo dúm bốn chân lại, bước từng bước rất nhẹ về phía đống củi. Ðống củi đó người ta để phiền quá, vừa chướng bếp, vừa làm cái rừng bùm tum, chỉ tiện ch quân gian núp náu.

Giống mèo là một giống, đứng ở chỗ nào, không thể chịu có được một tiếng động nhỏ. Ðã có khi gã mèo mướp nằm ngủ suốt đêm ở trên một đống củi. Ðấy là chỗ ra vào của lũ chuột ngày, cái lũ chuột con rất tinh ranh, hễ tha được một hột cơm nhỏ cũng chạy thọt ngay vào đó để nhấm nháp.

Mèo và chuột là đôi loài có thù không đội trời chung với nhau. Mèo ghét chuột quá, ghét kịch liệt. ý giả mèo ta tin rằng giống mình giỏi nhất thiên hạ; những tên chuột, tất cả lò nhà chuột, chỉ đáng đem thân làm nô lệ cho loài mèo thần thánh. Thế mà cái giống thấp hèn ấy không biết điều mà lại hay tắt mắt, táy máy, bặng nhặng làm nghịch mắt và rác tai bề trên.

Hai cái tai mèo mướp hơi động đậy. ấy là khi anh hết sức lắng nghe. Tai mèo mỏng tanh, gần soi bóng qua được, dỏng lên như chiếc tai lừa tý hon. Cái vòng tai rộng mở và loe ra. Chả trách gã nghe rõ lắm.

Gã khum hai chân trước xuống nhìn vào gầm đống củi. Rõ ràng gã trông thấy một chiếc đuôi nhỏ và dài thò lò dưới một mẩu gỗ. Ðúng cái đuôi chuột. Gã nép về một bên, thon người lại. Lúc này trông gã mèo quái ác dị thường, thoát hẳn cái dáng lừ đừ, hiền hậu hàng ngày. Y quời quời cái chân. Sau y biết làm thế hấp tấp quá. Phải chờ cho cái đuôi chuột lùi ra nữa mới được.

Lại có tiếng rúc rích ở trong. à có hai thằng chuột rửng mõ đang đùa nhau. Chúng nó hẳn đến ngày tận số. Ai đời chuột lại dám đánh đu ở miệng mèo!

Tuy cáu nhưng mèo cũng đủ kiên nhẫn để chờ cơ hội tốt đến. Trong kia, hai con chuột vô tình, vẫn đùa cợt vui vẻ. Nhiều lúc, có nhách lại chạy ra tận ngoài. Thò cái mõm nhọn ngửi xung quanh. Lộn tiết, gã mèo đã toan chộp, nhưng chuột lại ngay vào mất. Con mèo lại yên lặng, chịu khó ngồi rình.

Bóng tối chùm xuống mau nhẹ. Vừa với nhọ mặt người, bây giờ đã đêm hẳn. Ðêm nay là đêm rằm. Mặt trăng đã nhô tròn ở đầu đường. Một mảnh sáng nhờn nhợt in trước sân bếp. Trên nhà, người đã quẹt diêm để châm sáng đền cho trẻ học. Tiếng những đứa trẻ ra ao rửa chân, vừa đi vừa khua guốc lóc cóc.

Hai chú chuột ở trong gần đống củi hẳn thấy trời tối rồi thì muốn ra ngoài chơi lắm. Cái thằng mèo mướp ốm bệnh hen cò cửi qunh năm mà không chết ấy, bữa nay chắc đi chơi đâu vắng; nếu nó có nhà tất đã thấy nó rên gừ gừ ở trên đầu ông đầu rau. Chúng mình ra ngoài kia đùa một tí hoặc kiếm chác một cái gì ăn thì hay quá.

Hai cái đầu ló ra. Rồi hai gã chuột bước hẳn ra đống củi đi lần về phía bếp. Chúng vui vẻ cãi nhau choe choé.

Hai cái bóng bé nhỏ quá, chụm lại với nhau chưa bằng một ngón chân người lớn ta. Ðấy là hai con chuộc nhắt. Chuột nhắt bé hơn chuột chù. Nhưng nó nhanh và hoạt bát hơn nhiều . Anh chuột chù có cái mõm dài nghêu - cứ vác cái mõm đã đủ mệt - đi đến đâu cũng rụt rụt, rè rè. Hễ hơi có cái gì đáng sợ là vội hốt hoảng chạy cuống lên, vãi cả đái và kêu rối rít. Ðã thế còn chậm và không biết leo tường, leo cột, chỉ luẩn quẩn sát mặt đất. Thật là một thứ chuột cùng dân, thấp kém nhất trong xã hội chuột. Vậy mà thiên hạ lại ưa thứ chuột đó. Không phải là ưa cái thân hôi hám của nó - chẳng đã có câu mỉa "Hôi như chuột chù" - nhưng người ta chỉ ưa có tiếng kêu "chuúc...chuuuúc...". Các cụ ta nói: " ấy chuột chù bảo: túc, túc, ắt nhà ấy hẳn sắp có việc đại phát tài".

Và đây chỉ là hai con chuột nhắt. Thân chúng nhỏ nhắn, mõm chúng xinh xinh vừa phải. Về sự nhanh nhẹn, phải biết rằng nhờ ở cái thân hình bé bỏng, chúng leo vun vút, chúng chạy nhoăn nhoắt như có phép biến hoá.

Thoạt thấy bón đôi chuột lúi húi ra khỏi đống củi, gã mèo mướp mừng khấp khởi. Nhưng rồi chàng chán đớ ra ngay. Nó tưởng chuột chiếc to tát thế nào, chứ nếu biết chỉ là hai chuột nhắt tép ranh ấy thì nó đã bước từ nãy, không phải tốn công, tốn sức mà rình nấp vô ích. Mèo ta cũng khá đại lượng. Song thực cũng tại cái tính lười nhác cố hữu chả muốn cất đại công trình mà được chỉ có một tí ti kết quả đó thôi.

Nhưng đã thế này thì cứ bắt chơi. Hầy! Ðùa một mảy vậy. Nghĩ vậy, mèo ta co lưng lại để lấy thế rồi vươn hai chân ra chộp cả hai bóng đen ngọ nguậy ở trước mặt. Có tiếng kêu "chí...i...". Một con thoát được, còn một bị nắm lại. Mèo gầm gừ để thị uy và doạ dẫm. Chú chuột khốn nạn bị túm lại, nằm ngất trong hai bàn tay sắt đầy vuốt cong và sắc của ông mèo, y như cái cảnh rúm ró của chị cua nhà quê mà bị cụ ếch đại vương lấy một bàn tay mà vỗ vào vai.

Chú chuột nhắt bị mèo tha ra đến cửa bếp và được thả xuống đấy. Mèo không hề chú ý đến sự nhắm chú chuột nọ. Dễ thường chàng ta ví mình như một người anh hùng cái thế, có thèm sát hại lũ trẻ oắt bao giờ đâu! Sinh phúc cho chúng sống, còn hơn là túm lấy chúng mà nhai. Chưa bõ dính răng. Nhưng vốn mèo vẫn ác tính. Gã không ăn mà gã cũng không thả chuột ra. Cái mùi hôi ở lông chuột khiến cho gã mèo nhớ rằng thịt chuột ngon và loài chuột là loài đáng ghét lắm.

Mèo nhả chú chuột xuống đất, rồi ngồi ngây ra mà nhìn. Con vật khổ sở nằm co ro. Mèo ta đắc chí, lấy một chân vờn vờn vào mặt chuột. Bất tỉnh nhân sự từ nẫy giờ mới lại hoàn hồn, chuột khe khẽ thoi thóp thở. Mèo yên lặng, dáng ngẫm nghĩ. Gã không để ý đến chú chuột đương giương đôi mắt lồi như hai hột chàng ràng ra nhin gã. Chỉ ti hí mắt lương mà ranh thượng hạng.

Bỗng, thoáng một cái, chú chuột chạy vụt vào phía trong. Nhưng chàng mèo vẫn nhanh hơn. Chàng vươn tay ra. Lại chộp liền ngay lấy gáy chú nhỏ. Ôi chao! Chàng ta mới chộp cho chú nhỏ một cái nhá! Chú nhỏ kêu "chíi...chíi..." rầm cả lên.

Có lẽ nhân cuộc chạy trốn ấy, gã mèo bầy ra một trò chơi tiêu khiển qua thì giờ. Gã đem chuột ra chỗ ánh trăng, giả vờ để yên chú ra đấy. Rồi mèo yên lặng. Chú chuột sợ hãi không nhúc nhích.

Nhưng chính ra chuột vẫn rình mèo và mèo cũng lại rình chuột. Ðể hễ khác ý là chuột lại chuồn biến. Còn mèo, mèo cũng chỉ chờ chuột chạy là vồ ngay lấy. Gã mèo giương oai thả lỏng và chắc chắn chẳng khi nào chú chuột chạy thoát nổi đôi bàn chân nanh móng của gã.

Mà cũng thế thật. Chú chuột tưởng bác mèo hấc lờ, cứ xểnh một chút lại chạy. Có đến mươi lần. Nhưng cũng không lần nào khỏi bị tóm lại. Mỗi bận chuột động chân, mèo ta chỉ nhoi lên một tí, đã túm được dễ dàng. Mãi rồi con chuột hoá mệt lử. Nó chạy chậm dần và cuộc chơi cũng dần mất thú vị.

Khi đó, trong đống củi, bõng lại có tiếng rúc rích. Lại có tiếng lao xao của lũ chuột nào khác. Chả biết là chúng đùa nhau hay chúng định chơi cái lối chó cậy gần nhà, đứng trong ấy mà chửi đổng ra. Toan nhảy vào vồ cho chúng chết một mẻ, nhưng mèo vướng có con chuột tù binh ở dưới chân. Ðã thế, phải mắng cho chúng một trận mới được. Mèo liền gầm gừ, gầm gừ làm như sắp lăn ngay vào chiến tranh với những quan thù cỏ rác kia. Lũ chuột nhép câm ngay. Song chúng cũng không câm hẳn. Hễ mèo mà ngắt tiếng là chúng nó lại "chiií ...." rầm rầm. Làm điệu như xỉ vả bác mèo.

Bực mình, mèo ta nhảy một bước. Chú chuột nhắt đang nằm yên như chết vụt vùng chạy. Mèo hoảng hốt thò dài chân ra, nắm lấy nó. Nhưng chỉ nắm hụt được bóng cái lưng của chú chuột in thoáng trên nền đất dài đầy ánh trăng. Hai mắt mèo long lanh, sáng quắc! Cũng không thể đủ sáng để chọc thủng bóng tối dầy ra, mà tìm thấy chú chuột nhắt tí hon.

Gã mèo sục vào đống củi. Giá gã đâm đến vỡ đầu ra cũng chẳng tóm được một nỡm chuột. Mà những tiếng chíi...chíi quái ác, rất khó chịu vẫn văng vẳng đâu hai bên lỗ tai.

Chàng mèo mướp - mà chàng nào cũng thế - không cố ý ăn thịt chuột nhắt bao giờ. Mèo chỉ bắt những con chuột tiểu yêu đó để đùa nghịch và để hả cơn cáu kỉnh; vì loài chuột nhép cứ bặng nhặng, rúc rích trong xó bếp, là chỗ nghỉ ngơi của mèo. Chính những con chuột lớn lại đứng đắn, không ầm ĩ đến thế. Chỉ vì bực mình mà mèo bắt chuột nhắt. Nhưng chú chuột nhỏ khôn ngoan vẫn hay chạy trốn được. Ðời đời, cái giống chuột nhắt tai quái cứ làm rức tai loài mèo.

Suốt đêm hôm đó, gã mèo mướp kia chỉ đi quanh đi quẩn để tìm, để lùng bắt chuột nhắt. Và có những đêm sau, hắn cũng đi tìm chuột, nhưng - vẫn khờ dại như thường - hắn chỉ tìm để đùa chơi một chút. Rồi nó có rông mất, hắn lại khó chịu, bực dọc, hậm hực mà đi lùng bắt những con khác. Cái loài chuột nhãi cứ làm ta rối đầu và ngứa mắt quá.

Cơ chừng gã mèo mướp phải dành tất cả cái hoa niên của mình để mà chỉ luẩn quẩn đi o chuột

Nhà nghèo

Tô Hoài

Họ thường cãi nhau vì những cớ rất nhỏ nhen, không có nghĩa. Cái đó cũng đã thành một thói quen. Lúc nào họ ngứa miệng, muốn to tiếng, là to tiếng liền. Hàng xóm bốn bên bị nghe chán cả tai, không buồn nghe nữa.

Cũng như thế, hôm nay hai vợ chồng anh Duyện cãi nhau làm ầm lên. Ðầu tiên, có gì đâu! Khốn nạn, câu chuyện rắc rối chỉ chớm như thế này:

Anh Duyện thì nằm trong nhà, ghếch hai chân lên cột, ư ử mấy câu Kiều lẩy: Trăm năm trong cõi người ta. Chữ tài chữ mệnh mấy là ghét nhau. Anh ngâm đương có hứng. Cái cột nhà rung lạch cạch với hai bàn chân. Chị Duyện ngồi đụp áo ngoài sân. Bỗng nhiên, không hiểu việc gì, chị ta muốn tìm cái Gái. Trông ngoài đầu ngõ không có. Chị gọi:

- Gái ơi!

Không có tiếng đáp. Chị réo:

- Ơ ơi... Gái ... ơi ơi ... Gái ...

Vẫn im. Chị lại réo:

- Ơ ơi ... Gái ... Cha đẻ mẹ con chết dẫm, ngã xuống ao xuống chuôm nào rồi !

Ðương ngâm vịnh có người làm rầm rĩ, hỏng mất thú. Anh Duyện nói trõ ra:

- Làm cái gì mà nhặng lên thế! Có im đi không?

Chị không im. Chị nói thêm:

- Người ta gọi nó mà cũng cấm hả?

Chưa thôi, chị lại đay:

- Nằm chỏng lên đấy, hát với hỏng, được cái tích sự gì !

Cái chỗ này mới là cái tức. Vợ anh bảo anh nằm chỏng lên đấy, hát với hỏng. Ra ý mỉa anh không đi làm bữa nay, vô tích sự đấy. Này, trời ! thực con đàn bà kia ăn nói những điều phụ công phụ của quá đỗi. Cả năm anh đi làm quần quật. Họa có ngày "đằng ấy" người ta hết việc, mới được nghỉ như hôm nay. Rỗi rãi thì anh nằm một tý, chứ sao. Nó láo quá. Anh ta bèn mắng:

- Tao bảo cho con què biết rằng hai cái bàn tay này mà rời việc ra đọ mươi bữa, thì mẹ con nhà chúng mày rã họng ra! Ðừng có...

Anh cũng không biết "đừng có" thế nào nữa. Anh im. Chị Duyện đáp rằng:

- Người ta làm lắm người ta ăn nhiều chứ! Ðây què thì đây cũng làm sao. Thử sờ lên gáy mà xem.

Thế là người ta đã nói cạnh nhau. Chị Duyện vốn có tật ở chân bên phải từ thuở lọt lòng. Không bước được ngay ngắn chị đi tập tõng, tập tõng như con vịt què. Ðã mang tật lại là con nhà nghèo, nên ngót ba mươi tuổi chị mới lấy chồng. Mà chồng cũng chẳng được ra hồn chồng. Anh Duyện nguyên là người ở đâu đến ngụ cư ở đấy. Ngụ cư đi làm mướn, chứ cũng chẳng danh giá gì, lại thêm lưng có cái bướu. Bướu đi thực ưỡn ngực mà nom vẫn như đeo thè lè chiếc nậm rượu giữa lưng. Khi anh gặp chị, thì đôi bên đã là cảnh xế muộn chợ chiều cả rồi, cũng dư dãi mà lấy nhau tự nhiên. Và họ sinh con đẻ cái với nhau cũng thực là dư dãi và tự nhiên. Hai năm một, ba năm đôi thắm thoát có mấy lứa mà đã ríu rít được những ba đứa. Con Gái, con bé đầu lòng. Rồi thằng Cường, thằng Chân. ấy là bỏ mất hai đứa về sau, nếu không, còn lít nhít những năm đứa. Thêm ba miệng con ăn, cũng đã là khổ lắm rồi. Nhiều khi vợ chồng cãi nhau om sòm lên cũng chỉ vì vấn đề mấy đứa trẻ nhãi ăn không ngồi rồi đó. Con Gái nhớn, đã biết nhiều lần cha mẹ cãi nhau, nó hóc thút thít. Thằng Cẳng thì dắt thằng Chân, xúm lại xem. Chúng nó đứng tây ngây. Mắt nghếch lên, hai tay chắp ngoạt sau mông, ra điều nghe ngóng.

Bữa nay, hai vợ chồng cãi nhau, thì chúng đi chơi vắng. Nhưng đến lúc cơn bão cãi nhau nổi hăng chúng ở đâu lù lù đãn nhau về. Con Gái cõng thằng Chân. Thằng bé ngất ngưởng ngủ, ngoẹo một bên đầu, dãi và nước mũi chẩy lòng thòng. Thằng Cẳng chập chững đi sau lưng chị. Nó giả cách đương làm quan. Cầm cái roi lá nó cứ phết đen đét vào cánh tay chị Gái, và chửi rầm rĩ. Nhưng vào đến trong sân, nghe tiếng bố mẹ nói to, Gái đứng yên mà Cẳng thì tưng hửng, Chỉ có thằng Chân vẫn ngủ khò khè. Lúc ấy, cáu quá anh Duyện vừa nói nặng vợ một câu.

Anh vừa nói xong, thì người vợ vừa trông thấy lũ con dẫn nhau vào, chị ta liền lu luoa:

- Ấy đấy, chúng mày về mà nghe bố chúng mày chửi tao.

Cáu, anh Duyện văng:

- Ừ, ông chửi cha con què đấy.

Lập tức mụ Duyện ôm mặt, khóc tỉ tỉ. Rồi mụ lên điệu kể lể. Nhưng không phải là kể lể với chồng, hay với ba đứa con, mà là kể lể nỉ non với cái bức vách trước mặt. Mụ khóc kể rằng:

- Ối thiên địa trời đất ơi! ối cha ơi! ối mẹ ơi! tôi ăn ở với người ta chẳng gì cũng năm bẩy mặt con, con sống, con chết có, mà nỡ nào người ta réo ông réo cha tôi lên. Cái thân tôi cực nhục trăm đường.

Tôi buộc bụng nuôi con... hu ... hu ...

- Mày đẻ lắm thì mày nuôi nhiều ....

- Ối ông cả bà lớn ơi! ... A bấy lâu tôi nằm (ở) với ... chó đấy a ...

Anh Duyện đùng đùng chạy ra, định thụi.

- Chó này!

Nhưng anh chưa thụi, vợ anh đã lăn kềnh ra. Tay chân múa lên đành đạch. Miệng rền rĩ:

- Anh đánh chết tôi đi! Anh đánh chết tôi đi !

Hai đứa con thấy bố làm dữ, sợ quá ôm díu lấy nhau khóc inh ỏi. Nằm trên vai chị, bị thức giấc, thằng Chân cũng bật khóc theo. Cả một góc xóm vẳng lên những con chó, nằm rồi chẳng biết chuyện gì, cũng hóng mõm cắn xuống. Anh Duyện tức lắm rồi, cơn nóng kéo đến đầu anh. Những chiếc gân xanh ở xung quanh trán và cổ nổi chiếc đũa lên. Giậm hai chân bạch bạch, anh quát:

- Ông giết chết cả lũ! Ông giết chết cả lũ, rồi ông đâm cổ ông xau. Những của nợ kia, ông xửa chúng mày trước, rồi đến con mẹ chúng mày.

Những của nợ khiếp vía, bíu nhau, chạy miết. Chị Duyện cũng lật đật trở dậy, ôm váy lạch đạch ra ngõ. Duyện quay vào bếp, tìm được con dao phay hồng hộc chạy ra, thì cái sân đã không còn ai. Anh quẳng con dao đánh "choeng" một tiếng xuống đất.

- Từ giờ đến chiều ông bắt được đứa nào thì ông giết chết tươi. ối trời ôi! Chúng mày làm khổ ông! Ông mà đến nỗi thân tàn ma dại thế này, cũng vì chúng mày. Chứ một mình ông đâu đến nỗi.

Ngoài ngõ có tiếng nheo nhéo đáp vào:

- Nào tôi ăn tàn phá hại gì của ai? Nào tôi bòn rút của chìm của nổi gì của ai? Một lời nói một đọi máu, ăn nói còn có trời đất, có quỷ thần hai vai chứ!

Thế này thì Duyện uất đến chết đuợc. Nó cứ núp ngoài kia mà dội vào từng tiếng. Anh đuổi, nó lại chạy. Anh uất quá, uất quá. Uất run mười đầu ngón tay bần bật. Anh phải đập một cái gì cho đã. Trong nhà chẳng có thứ gì khả dĩ đập được. Cái giường, cái án thư, cái cột, toàn những đồ gỗ đau tay. Có con dao, thì anh đã đập lên đập xuống nhiều bận rồi.

Ngoài cửa, con mụ lắm điều lại la trời, la đất. Trời ở đâu mà la. Ðất thì giẫm dưới chân đó. Kêu lắm mỏi miệng. Nhưng mà như chọc dao vào trong óc anh. Vụt một ý, anh Duyện cũng kêu rất lớn:

- À, mày đã khỏe to họng, ông đốt nhà cho mà xem.

- Anh đốt nhà thì hàng xóm bắt vạ anh.

- Thì ông đi ngồi tù cho chúng mày đi ăn mày cả lượt....

Mụ vợ đứng ngoài bờ rào, ngó thấy chồng hăm hở, hục hặc đi tì lửa, vội kêu chóe:

- Ối ông cả bà lớn ôi! Nó đốt nhà... Thằng Duyện nó đốt nhà ... Nó ...

Chẳng có ông cả bà lớn nào chạy đến. Ai cũng đi làm muộn, cửa ngõ đóng trở ra. Nhưng rồi loanh quanh mãi vẫn chưa thấy anh Duyện đốt được nhà.

Thì ra, bởi vì nhà không có một chút lửa. Ðã hai năm nay, chưa mua được một bao diêm nhỏ. Mỗi bận thổi cơm, cái Gái vẫn phải ra tận đầu xóm xin lửa. Và tối thì đi ngủ cùng mặt trời. Biết vậy, chị Duyện yên trí, lại sắp hờ trời hờ đất. Xong đã nào thôi.

- Mày tưởng ông sợ? Ông đi xin lửa cho mà xem.

Có lẽ anh toan chạy đi xin lửa thực. Và chị vợ cũng sửa soạn kêu nữa. Nhưng trên không trung, từ ban nẫy, ông trời bao la đương đau bụng, xám xịt lại. Bụng ông sôi ục ục, reo róc róc. Bấy giờ bỗng nổi gió giật, lạnh ngắt, rồi đổ xuống một trận mưa lớn.

Bấy giờ là đầu mùa hè. Trời đất rất ít mưa. Nhũng đã có trận nào thì mưa rõ cho ra chuyện.

Trận mưa đó thực to. Trời đen kịt. Nước xối xuống rào rào, trắng xóa. ở những vườn chuối, nước dội lùng bùng như trống đánh. Từng cơn gió chạy dài rít lên đập đùng đùng. Những mảng sân thấp, nước ngập lưng thềm. Ðược độ một lúc lâu, mưa dần dần ngớt. Những đám mây nước tảng mỏng bay nhanh như biến. Mặt trời ló ra. Trời đát sáng ngời. Mầu lá cây xanh mướt. Nhũng con chim sáo sậu nhanh nhẩu bay linh tinh, hót từng hồi véo von thực dài. Mưa tạnh.

Bấy giờ khắp làng bầy ra một cảnh lạ mắt. ở các ngõ lố nhố chạy ra từng đám người. Ðàn ông thì cởi trần trùng trục, đánh chiếc khố đơn. Ðàn bà phong thanh cái yếm, đội sùm sụp chiếc nón. Còn trẻ con thì trần truồng như những viên đá cuội. Người ta chạy đổ xô ra các ngách cống, các bờ ruộng và các luống vườn. ở tay mỗi người lcầm một cái giỏ. Họ chen nhau, chạy tới tấp.

à, trời vừa mưa xong. ở những mặt sân đất, sôi bong bóng. Trong các lỗ giun ngập nước quằn quại tòi lên. Trong các bụi cây rối và ướt, từng đàn nhái và từng đàn chẫu nhảy ra. Nhờ có trời mưa ngập nước, con giun con sâu nhoi lên, chúng ra kiếm ăn. Những con nhái cốm mình lấm tấm xanh. Những con nhái chỉ dòng dọc trắng chạy suốt lưng. Những ông nhái cụ, to và đen nhũ con cóc, nhẩy oai vệ và chậm chạp. Chẫu cũng đủ các hạng to nhỏ. Nhũng chúng lớn hơn nhái, da dê bóng mỡ, thân hình có chạnh, có góc rõ ràng. Ðôi mắt lồi cườm lơ láo. Vòng chân xếp lại, nhẩy thoăn thoắt, rất nhẹn. Chúng đớp kiến và giun nhanh quá. Cái mồm há ra đỏ hây, tép một cái lại ngậm. Tép, tép, tép. Chúng đớp nhoay nhoáy. Chúng kéo ra kiếm ăn.

Và người ta cũng kéo đi cả đàn cả lũ để bắt nhái và bắt chẫu.

Không hẹn, mà cha, con, chồng, vợ nhà Duyện cũng ặp nhau trong cái đám đông đi bắt nhái bắt chẫu này. Mưa tạnh, chị Duyện chẳng biết trú ở đâu xon xon chạy về lấy giỏ. Thì chị đã thấy khuyết hai cái rỏ treo trên đầu bếp. Anh Duyện và cái Gái đi ra vườn rồi. Thằng Chân và thằng Cẳng đã được con bé nhốt cẩn thận vào bầm phản, bốn bề chắn gỗ kín đáo. hai đứa trẻ loanh quanh cứ bò lấp ló như hai con chó con. Chị và bố chúng đi bắt nhái. Anh Duyện đã quên giận vợ, nghĩ đến bữa cơm chiều nhiều hơn. Bữa cơm mà cái thịt nhái nướng thơm phức, chấm với muối ớt, nhai dòn rau ráu, ngon tuyệt.

Chị Duyện cung cúc vác giỏ chạy. Người ta đã đổ ra nhiều quá không bắt mau, hết mất. Chị gặp chồng. Cái thằng phải gió đó chịu khó vồ nhái ra ráng. Mặt nó không sưng sỉa lên nữa. ấy vậy mà lúc nãy nó đã hùng hổ định giết con, giết vợ và đốt nhà.

Chị Duyện gặp cái Gái. Nó giơ giỏ lên khoe với u. Cái giỏ đã được lưng lửng. ở trong nhái xô nhau oe oé. Con Gái nhe hai hàm răng súu đen xỉn, cười toét. Rồi nó lại lư mư vác giỏ xuống một vệ ao gần đấy. Trong khi mẹ nó tất tả đi ra miệt đầu đình.

Gái rón rén bước. Nó vạch xem từng ngọn cỏ. Những cây cỏ nước xanh om, vươn cao ngọn, lòa xòa cứa vào người, khiến nó ngứa ngáy khó chịu. Nhưng mỗi lần túm hoặc vồ được một chú nhái bẻ gẫy hai chân sau bỏ tót vào giỏ, thì nó lại cười tủm một mình. Nó lần theo vệ ao, khuất sau mấy rặng dứa dại lởm chởm. Nhái nhẩy lõm bõm xuống nước. Những chòm dứa xòe những cẳng tay gai góc ra xung quanh.

Cuộc bắt nhái đã vãn. Ai nấy ra về. Anh Duyện xách giỏ về trước. Thứ đến chị Duyện. Thằng Chân và thằng Cẳng phải tù trong gầm phản đang khóc be be. Chị Duyện đưa cái giỏ nhái của mình cho chồng rồi chạy lại giỡ gạch, bế hai đứa con ra. Chị nựng con cho chúng nín. Anh Duyện ngồi ngẩn ngơ nhìn hai giỏ nhái. Nét mặt anh đờ đẫn. Có lẽ anh đương tưởng tượng đến bữa nhắm thú vị chiều nay. Bỗng chị Duyên nói:

- Này, con Gái chưa về nhỉ? Nhà đi gọi nó xem...

Giọng chị ả dịu lại. Chính anh Duyện cũng không còn tưởng tượng đượct rằng lúc nẫy mình vừa cãi nhau kịch liệt với vợ. Anh đứng dậy, đi ra ngõ. Vừa đi, anh vừa lẩm bẩm: "Tiên nhân con tuyệt tự, đi đâu thì chết dấp ở đáy". Rồi anh gọi:

- Ớ! Gái!....

ở trong sân, vợ anh nói với ra:

- Nó đi về phía ao nhà ông cả Tràng ấy. Ðẻ mẹ con ranh con!

Anh Duyện lội xuống bờ ao nhà ông cả Tràng, về phí có nhiều cây dứa dại, thì anh trông thấy cái Gái. Nhưng anh thấy cái Gái nằm gục trên cỏ, hai tay ôm khư khư cái giỏ nhái. Lũng nó trần xám ngắt. Chân tay nó co queo lại. Vừa lúc ấy, miệng nó ngoáp ngoáp mấy cái; đôi mắt lộn lòng trắng lên mấy lần. Rồi nhắm hẳn. Chân tay nó duỗi ra. Con bé giẫy chết rồi.

Người bố nhìn đứa con giẫy chết rú lên một tiếng quái gở. Tuy cuống lắm, nhưng anh cũng còn nhìn tháy ở ngay bên vệ ao trên lớp bùn phẳng mới nguyên một lối bò dài như cái sào lúa còn hằn lại.

Duyện cúi lay xác con bé. Anh nghĩ chợt rằng bấy lâu nó vào cửa vợ chồng anh, cực khổ trăm đường. Trong người nó có bao nhiêu xương sườn, giơ hết cả ra. Thương ơi! bây giờ nó bỏ nó đi. Hai hàng nước mắt nhỏ ròng ròng. Anh ghé vai, xốc con bé lên. Hai tay nó còn mềm hơi nóng. Nhưng hai chân đã cứng nhẵng. Anh cõng xác con, chạy về.

Tô Hoài, Bến Ray, Tháng Chạp 1942

Tình buồn

Tô Hoài

Ngày trước ai đi lấy chồng như bà Tứ người ta bĩu môi chửi là gái nứng đi theo chồng và khinh ra mặt. Ông Tứ nghề thợ ngõa, quanh năm đeo hòm vác cưa, cầm cân nảy mực đi ăn cơm tứ chiếng. Năm ấy, bỗng dưng đưa về một người con gái. Làng nước thì thào cô này chửa buộm, đứa con trai đầu lòng ấy không phải con phó Tứ. Có người bảo là anh thợ mộc cuỗm con gái chủ nhà. Cô ấy người dưới nam, nghe rõ giọng kẻ bể. Lại người thì nói cái tiếng ấy là người chẳng đâu xa, vùng bên kia sông thôi. Không biết thế nào.

Bà con rồi cũng gọi là thím Tứ, cô Tứ. Dần dà thì sự khinh khi của người ta cũng nhạt đần. Đến khi con cái trong nhà đã lớn và thế sự đã thay đổi nhiều thì cũng chẳng còn ai rỗi hơi bới móc gốc rễ cái người đàn bà ngày trước khăn gói lấy chồng theo không ấy nữa. Thời buổi mới, cho qua.

Vợ chồng phó Tứ có ba người con. Chồng đặt tên con theo cái thú chơi cờ bạc là sáu tên sáu mặt con thò lò thoạt nghe cũng có vẻ buồn cười một tý nhưng rồi sinh có ba con, nên chỉ có được thằng Nhất, cái Nhị, cái Tam. Thế mà đứa con nào cũng khá cả. Thằng Nhất học hết bậc phổ thông, được làm anh giáo trường làng. Cô Nhị, cô Tam lấy chồng làng bên, những con rể có chức vị có máu mặt. Người nào cũng khi chủ tịch, khi chủ nhiệm, khi bí thư...

Một năm kia, ông Tứ ốm. Rồi ông mất bệnh già. Chẳng bao lâu, thấp thoáng đấy mà bà phó Tứ đã lọm khọm lúc nào. Từ khi ông mất, bà không ở hẳn với con nào. Cứ liều liệu ở mỗi nhà ít lâu, nhưng Tết nhất hay giỗ chạp thì bà thế nào cũng về nhà con trai là anh Nhất. Mới năm trước, còn đi ra ruộng làm cỏ lúa. Giữa trưa, nắng chang chang mà xách được giỏ cua dưới đồng sâu về, lấm như vùi. Mấy năm nay thì chịu rồi, chỉ loanh quanh nhặt nhạnh cái rau cái cỏ trong bờ rào. Tính nết đâm ra lẩm cẩm dần, ăn đấy lại quên đấy.

Bà Tứ ngồi rười rượi trông ra ngoài ngõ, có người đi qua, chào hỏi: "Bà đã xơi cơm chưa?". Vừa xong bữa hẳn hoi, mà bà Tứ ngây mặt ra rồi hừ một cái: "Nào đã cơm cháo gì đâu ! ". Người con dâu trưởng đã để ý cái nhẵng tính tai ác đấy của bà mẹ chồng từ lâu. Có lần chị cũng nói trong bữa ăn, nhưng nói vui thôi. Bà buông đũa xuống, đứng lên: "Tôi vu oan giá họa cho ai để tôi chết không nhắm mắt à?".

Các cháu cũng không dám nói cợt bà thế. Tưởng chỉ ở nhà giáo Nhất thì có thể sinh ra chuyện "chó dữ mất láng giềng, dâu dữ mất họ!" bà lão mới hay dở chứng, nhưng cả những khi ở bên nhà các cô Nhị, cô Tam bà cũng vùng vằng, mà trước mặt các con gái, bà còn rủa xả ác khẩu gấp mấy: "Là con chó dại cắn càn thì mới mở mõm ra ăn không nói có thế".

Cả năm nay bà lão ngại đi, chỉ ở nhà giáo Nhất, không sang nhà các con gái. Thỉnh thoảng hai cô em đèo lên anh yến gạo và ít tiền. Được cái anh em nhà này vốn cũng dễ dãi, êm ấm cả. Nhưng mà người ta bảo số tuổi càng gông đeo trĩu cổ thì lại chỉ trái tính hơn. Bao nhiêu nết na, kỹ càng, ý tứ và thời con gái nhanh nhẹn ve vé việc nhà của cô Tứ xưa mà bà lão Tứ bây giờ vẫn còn nhớ vanh vách đấy nhưng bà lão thì hàng ngày chỉ còn làm trò chơi cho lũ trẻ con.

Bà vẫn nói: Người ta trước kia không tuềnh toàng đoảng như chúng mày bây giờ đâu. Nồi cơm bưng lên phải nhớ lót rế, sới cơm thì có đũa cả, đàn bà con gái phải ngồi đầu nồi... Không vét nồi quèn quẹt, vét nồi là điềm năm ấy đói kém, mà cũng là nhà keo kiệt mới thổi ít cơm phải vét nồi thế. Dâu con trong nhà, giá có ăn được ba bát thì cũng chỉ thong thả hai lưng, mà khéo ý tứ đứng lên sớm hơn trước cả nhà. Bà lão vẫn thuộc in những thói phép thế. Bà hay mắng: "Bố chúng mày là thầy giáo mà chúng mày ăn uống hùng hục như lợn thế thì bố chúng mày đi bảo người ta học cái gì! ". Bà rỉa róc thế, các cháu chỉ cười hô hố.

Không phải chúng nó cười những sự cổ tích nhiêu khê của bà đâu. Mà chúng nó cười cái khác, cái hâm của bà. Chả là những răn dạy khuôn phép của bà lão bây giờ lẫn lộn cả với những cái dở hơi. Thói quen trên dưới nhường nhịn vẫn nhớ đời mà con người thì già đi, ít ai nhận ra tuổi đã khác thì cũng sinh lắm tính khác.

Ăn đói thì phải chóng đói. Mà người già ở trong làng, cả đời chưa chắc đã được đủ ngày hai bữa. Bụng còn thòm thèm, nhưng lại nghĩ, bây giờ chẳng còn làm ra của nả cho nhà mày, mắt kèm nhèm đuổi con gà cũng không được, nên bớt mồm bớt miệng lại. Nhưng mà thế thì đói, làm thế nào.

Khi nhà vắng, bà lão Tứ lần xuống bếp. Bà lão sờ soạng các thứ từ cái mâm chõng ăn cơm lên chạn. Có bát tương, bà lão thò hai ngón tay chấm rồi đưa vào hàng móm mút chùn chụt. Chỗ cơm nguội còn đến lưng liễn. Bà lão bốc một nắm to. Mỗi lần bốc rồi, bà lão lại lấy tay san phẳng vun khéo lại như cũ. Hai hàm răng bà lão đã rụng hết, lâu nay chỉ nhai bằng lợi. Hình như của ăn vụng bao giờ cũng ngon hơn hay là bà lão đương đói, lại đứng trong bếp một mình, cho nên cứ việc bốc bải, nhai nuốt, mặc sức mặc nhiên.

Bà lão tưởng thế thôi, chứ không phải lúc ấy có một mình đâu. Hai con mắt bà lão bị nhài quạt, bấy lâu chỉ còn thấy mờ mờ, đi trong nhà đã quen bước chân và người thì chỉ nhìn bóng mà đoán ra. Mấy đứa nhóc tụ tập ngay ngoài hiên. Trẻ con thích nghịch ác, chúng nó bấm lưng nhau im lặng rón rén vào xem bà ăn vụng. Bà mút tương, bà húp nước dưa, bà bốc cơm... Chốc bà lại hốt hoảng nhìn ra. Nhưng chẳng nhìn thấy gì cả.

Có đứa thích quá, thúc cùi tay vào sườn đứa kia. Thằng nọ kêu toáng:

- ối!

Bà lão Tứ giật mình, đặt vội cái liễn vào trạn, khép hai cánh gỗ lại, quay mặt ra hỏi ngay ngắn tự nhiên:

- Đứa nào về đấy?

Bà lão còn lúng túng chưa biết nói thêm thế nào, một đứa đã hét to:

- Một, hai, ba...

Rồi cả lũ ồn ào hét một lượt:

- Bà ăn vụng cơm ? Một, hai , ba. Bà ăn...

- Cha đẻ mẹ chúng bay!

- Mép bà còn dính hạt cơm kia kìa. Cơm lại vãi dưới đất nữa...

- Cha đẻ mẹ chúng mày ? Tao thề có thổ thần hai vai, tao mà nuốt trộm một hột cơm của nhà chúng mày thì giời tru đất diệt tao.

- Ê, ê... Một, hai...

- Tao thề...

Hôm ấy câu chuyện vui, trẻ con khoái quá kể với bố mẹ ngay ở bữa ăn. Bà lão đặt bát cơm ăn dở xuống, run run đứng dậy, nước mắt đổ ròng ròng, ra ngồi ngoài ngõ. Vợ giáo Nhất chỉ tủm tỉm cười, giáo Nhất thì quát chúng nó im. Giáo Nhất vốn người dễ tính, mãi đến chiều mới nói với mẹ:

- Bận sau bà cứ ăn cơm cho no, đừng phải làm thế.

- Tôi thề, tôi thề có quỷ thần hai vai, tôi không...

- Con chỉ xin mẹ thế thôi. Đến bữa cứ ăn đủ, đừng nhường nhịn mà khổ thân, mà để các cháu nói hỗn thế nó sinh hư ra.

Sáng hôm sau, nhà lại vắng như mọi hôm, bà lão Tứ nghe ngóng xung quanh im ả, rồi lần lần vào bếp. Những đứa trẻ lại đến đứng ngoài hiên từ lúc nào, thêm cả mấy đứa hàng xóm cũng sang xem "trò chơi" bà ăn vụng. Mà bà không biết.

Bà lão Tứ bốc cục cơm, móm mém nhai. Thì...

- Một, hai, ba...

- Bà già ăn vụng! Một, hai... bà già...

Bà lão trợn hai con mắt cùi nhãn, lật đật đóng cánh cửa chạn.

- Đẻ mẹ chúng bay?

- Một, hai, ba...

- Có quỷ thần hai vai...

Thường mỗi buổi sáng lại sinh ra trò chơi ấy của trẻ con. Ngồi vào mâm, có hôm quên bố mắng, trẻ em lại lỡ miệng ríu rít kể. Bà lão lại bỏ bát cơm, lần thần ra ngồi ngoài ngõ. Giáo Nhất phải quát: "Không được hỗn!". Rồi những đứa trẻ cũng sợ bố, không dám nói huyên thuyên, bắt chước cả bà bốc cơm, nhưng mỗi buổi sáng chúng nó vẫn rủ nhau rón rén đến đứng xem bà vào bếp ăn vụng. Mẹ chúng nó chép miệng nói trống không: "Cả tối bà cũng lần xuống bếp, chả cứ ban ngày!".

Giáo Nhất lặng im. Nông nỗi nhà này cũng lắm éo le. Vợ giáo Nhất chẳng ưa mẹ chồng, nhưng nể chồng cho nên không bao giờ nói một lời nặng nhẹ như cái câu thế gian mai mỉa: "Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể; con nuôi cha mẹ con kể từng ngày", nhà không hề có tiếng bấc tiếng chì về gánh nặng mẹ già. Nhưng mọi việc phải làm cho mẹ, Nhất cáng đáng tất. Nhất không cho mẹ ra cầu ao, sợ nhỡ bà cụ lẩy bẩy sa chân thì khốn. Nhất tự tay rũ giặt xống áo cho mẹ. Vợ giáo Nhất làm như không để ý.

Cái sự con trẻ xấc xược thì giáo Nhất cũng chỉ coi như một bực mình lặt vặt dẹp đi thì thôi. Nhưng mà việc đời đổi thay như mưa nắng có con kiến và con người vần xoay ở trong, vả chăng, nghĩ hay chẳng nghĩ thì rồi cái việc ấy, cái ngày ấy cũng đến. Mỗi năm mỗi tuổi, bà lão Tứ ngày một yếu. Rồi bà lão Tứ ốm. Việc ấy, ngày ấy đương tới rồi.

Bà lão Tứ không dậy được. Rồi cũng chẳng ăn uống gì nữa. Giáo Nhất che chiếu lên một gian bên, kê cái giường ra phía ngoài cho sáng một chút. Rồi bẻ hai quãng nan giường dưới đặt một thúng tro. Lại cắt thủng cái chiếu để bà cụ nằm lọt một phần lưng vào chỗ giường khoét, cho tiện đái ỉa.

Nhà có người ốm cứ buồn thiu như ngày có mưa dầm, ấy là bà con xóm giềng rồi các thầy cô, học trò trường làng và trường bên đến thăm hỏi, quà bánh, lúc nào cũng có người ra vào.

Nhất bưng bát cháo vào giường mẹ. Mấy hôm nay bà lão không nghiêng người được. Nhất ngồi đút từng thìa cháo cho mẹ. Bà lão ngoẹo cổ ra cố nuốt, trông tội tội như con cá ngáp trên cạn.

Cũng hết được lưng cháo. Nhất đặt cái bát, kéo lại mép chiếu lệch góc trong. Một lúc, bà lão bỗng bảo Nhất:

- Mẹ có việc nhờ anh.

- Có gì thì mẹ bảo.

- Mẹ không phải là người làng này.

- Mẹ cứ lẩn thẩn nghĩ ngợi điều ấy làm gì?

- Không, mẹ có nghĩ đâu. Mẹ chỉ muốn nhờ con.

- Vâng.

- Mẹ quê ở Giang Hạ bến kia sông thôi.

- à làng Giang, làng Hạ.

- Làng Hạ, con ạ. Hôm nào con sang Hạ, con vào xóm Đồng, bây giờ già rồi thì không biết tên là gì, nhưng ngày trước tên là Cõi, anh cả Cõi. Con nói rằng ông Cõi có được thư thả thì mời ông sang chơi.

Nhất còn muốn hỏi thêm mẹ thế nào nữa, nhưng bà lão đã lặng lẽ nghiêng mặt vào vách.

Cái người ngày trước tên là Cõi, cái anh cả Cõi ấy là tôi. Bây giờ tên tôi vẫn là Cõi, bởi tôi vẫn bà cô ông mãnh thế. Có điều, đã tuổi tác, theo tục lệ và thói quen kính nể, ít người réo tên tục người già ra nữa mà làng xóm gọi tôi là ông Ba, cụ Ba - chỉ có mấy con mẹ bán bánh đúc tương ở chợ hay ỡm ờ chớt nhả thỉnh thoảng cứ réo tên cúng cơm gọi đùa lão Cõi, ông mãnh Cõi, bao giờ ông Cõi cưới bà ấy cho chúng cháu được ăn cỗ. Có mà lấy bà sáu tấm. ấy, chúng nó cứ trêu chọc thế. Tôi chẳng chấp.

Anh giáo Nhất chắp tay nói:

- Mẹ cháu có lời thưa với ông...

Chỉ mới nghe thoáng thế thôi, tôi đã như thấy ngay cả rồi. Như là có thần linh cách cảm giao nhau khi người ta cùng nghĩ đến nhau hay là bởi nét mặt người đàn ông này, cái mũi và con mắt sao mà phảng phất cô ấy đến thế.

Mấy chục năm đã qua. Nhưng mấy chục năm ở quãng giữa trống không, người trong cuộc thì ngỡ như chẳng có khoảng cách nào. Cô ấy ngày trước con nhà khá giả vườn trên ao dưới. Mà tôi thì bố mẹ nghèo quá. Dây dợ đâu đâu vương tơ khi trai gái đương thì, cái duyên cái nợ mà gặp nhau thôi. Cô ấy bảo tôi: "Anh về nói với mẹ bỏ cái nghề cắp thúng đi khâu mướn thì...". Tôi bực mình, mát mẻ: "Nếu mẹ không bỏ được cái tội đi khâu mướn ăn cơm nhà người thì giá xem có được ngày nhờ người đến đánh tiếng chắc ông phó lý bố em cho tuần cầm ba toong ra đuổi ông mối, chứ gì! ". Thế là cô ấy lại khóc, chỉ khóc.

Làm sao cho mẹ tôi vứt đi đâu được việc khâu mướn ăn cơm khoán, cho bố con tôi thôi đi bổ củi thuê và các em tôi ngày không cắp cái bị bật quai ra cửa đình nhặt lá đa về phơi lấy cái đun. Chúng tôi như con săn sắt, con mài mài trong ao làm sao bỗng thành con cá hóa rồng được. Làng xóm dần dà cũng biết cuộc dan díu thầm vụng éo le này. Ông phó lý đã đánh cô con gái thừa sống thiếu chết. Có khi xích chân vào cột buồng cả phiên chợ. Nhưng mà dường như cô ấy lại càng bồng bột như điên. Xểnh ra lại đi tìm tôi. Có khi khóc đến hết nước mắt rồi cô bảo tôi hay là bây giờ hai đứa cùng ra cái đầm đầu làng nhảy xuống trẫm mình. Tôi phải chắp tay van lạy níu cô ấy lại.

Thế rồi chỉ một việc nhẹ nhàng, vừa tan hoang lại vừa xong. Bố mẹ cô ấy tìm gả được chồng cho con gái. Đất làng này, nơi môn đăng hộ đối những nhà phó lý, trưởng bạ thường thường bậc trung, trước sân có hàng cau, vườn sau chuồng lợn ao bèo thì cũng chẳng mấy khó khăn. Mà cô ấy cũng chẳng tai tiếng đâu đến nỗi. Những chuyện trai gái phải lòng nhau làng nước coi như chuyện trẻ con mà người ta đồn đại dông dài chứ phải đâu gái chửa hoang, quân giăng há lên tỉnh la liếm hàng cơm quán trọ. Thế nào thì rồi mọi chuyện gả bán cũng xong xuôi như trăm nghìn đám cha mẹ đặt đâu ngồi đấy thôi.

Rồi nhà nọ đi xem mặt, dạm ngõ, ăn hỏi, lại đã qua một cái sêu tết tháng bảy, đến dạo cơm mới tháng mười này thì cưới. Một hôm, cô ấy đi chợ rồi không về nữa. Thế là biệt tăm từ ngày ấy.

Bây giờ anh giáo Nhất mới nhớ lại và nhận ra hình như cả một hồi còn trẻ không khi nào mẹ đi xem hội hè đình đám chèo hát ở đâu, cũng chẳng biết mặt cái chợ huyện, mà quanh năm mẹ chỉ như gái đẻ chít khăn vuông xùm xụp, ra cái chợ hôm lèo tèo mấy mủng cá tép ươn của nhà chài dưới sông đem lên đầu làng lúc xẩm tối. Con người gan liều đến thế. Chẳng được đẹp phận như người ta, thôi thì coi như một đời đành vùi vào chiêm bao, chỉ có một mình mình biết.

Cái lão ba Cõi tôi theo giáo Nhất về bên sông ngay hôm ấy. Hai ông con qua đò ngang. Chiếc đò ngang xưa kia, ừ con đò ngang ngày ấy. Có lẽ như từ bao giờ vẫn thế. Bên này ới bên kia, con đò tai nghễnh ngãng, chểnh mảng, ẽo ợt, lững lờ sang. Năm xưa, đã có những giêng hai, mưa bụi như phấn hoa ngô bay, những chuyến đò đưa đầy người vào xem hội làng trong cánh đồng.

Còn đương bâng khuâng về những ngày nào, thì mũi đò đã đụng bờ cát. Anh giáo Nhất vác cái xe đạp lên trước làm chòng chành con đò ọp ẹp. Ông Cõi đứng dậy, chị nhà đò một tay bế con, một tay giơ chiếc bơi chèo cho ông lão níu lấy, lẩy bẩy lần lên. Rồi tôi lại vẫn đương đi về ngày xưa. Tôi vừa lập cập vừa xăm xăm bước. Anh giáo "mời ông lại lên xe cho con đèo ông đỡ mỏi" nhưng tôi bảo anh cứ để cho tôi đi thanh thả thế này. Xóm nhà anh tôi cũng biết rồi, chỗ khoanh tre quãng sông dưới kia chứ đâu.

Nghĩ thế thì tôi bồi hồi giật mình. Làm sao chỉ vài bước chân mà cả đời tôi không nghĩ được ra, không tìm ra cô ấy ở đâu mà cô ấy dường như vẫn biết tôi, vẫn nhìn thấy tôi.

Nếp nhà ba gian lợp lá mía, dứng tre trát xi-măng xám nhạt. Trước sân, hai cây mít xum xuê lá. Một vườn xoan sau nhà. Cái cổng rong cành rào trống hốc, con chó cũng chui lọt. Nhà tuy ngăn nắp nhưng cũng chẳng có của nả, cũng không cần cửa giả nên hồn. Tôi bỗng ngỡ tôi đương đi về nhà tôi. ừ giá mà ngày ấy chúng tôi lấy được nhau thì nhà cửa, vườn tược, con cái chắc cũng tương tự thế này. Ngày ngày ra sông xuống đồng kiếm cái ăn, cả đời người chẳng có điều phải nghĩ xa nghĩ gần. ở trong làng xóm, ngẩng mặt lên bốn phía khoanh tre mù mịt, quan tâm đâu đến ngoài kia đồng đất thế nào, tôi đương đi về nhà tôi đây. . .

Tôi ngồi xuống chiếc ghế đẩu kê đầu giường bà Tứ. Lũ trẻ lại đã lấp ló ngoài hiên. Từ hôm bà ốm, mỗi buổi sáng trẻ con không còn trò xem bà ăn vụng nữa. Chúng nó cũng buồn. Bây giờ chỉ còn ngóng khách đến chơi thăm bà- nhưng nhiều khi chỉ toàn người làng, nhìn mãi cũng chán mắt, lại tản ra ngoài vườn nhặt quả xoan non đánh chắt, chơi đố lá.

Không, bà lão nằm ốm liệt giường kia không phải là cô ấy. Trong tưởng tượng của tôi chưa bao giờ nghĩ ra nông nỗi buồn thảm này. Tôi ngồi im. Tôi nghĩ thầm, tôi cầu mong không phải. Thì cũng đâu phải cô ấy ngày xưa, cô ấy ngày xưa cơ mà.

Tôi cởi gói bánh lúc nãy đi qua mua ngoài chợ và rồi lại lặng im chẳng biết nên nói thế nào.

- Nhà vẫn ở dưới Hạ, chỗ cái bụi duối to ấy, hả ông?

- Vẫn đấy. Nhưng cây duối thì làng xẻ đóng làm bàn cho trẻ học rồi, bà ạ.

- Ông thứ lỗi cho tôi.

- Làm gì mà phải nặng lời thế. Cố thuốc thang ít lâu cho khỏe rồi còn đi hội làng trong. Tôi vừa qua đò, sắp sang tháng hai rồi đấy.

Trên khuôn mặt méo mó thoảng một nét cười mếu.

- Ông vẫn chúa hay pha trò. Ông ơi, tôi chết không nhắm mắt được, tôi không giữ được lời với ông.

- Đã bảo thôi mà. Ngồi dậy ăn bánh, cái bánh nếp mật ở chợ bây giờ chúng nó làm cũng khá.

- Ông bỏ lỗi cho tôi.

- Thôi mà . . .

- Ông nói đi, ông bỏ lỗi cho tôi.

Tôi run rẩy đưa hai bàn tay lên mặt người con gái năm xưa. Mặt người ốm trắng nhợt nhạt như đá, mà nước mắt thì nóng ấm đầm đìa lòng bàn tay tôi. Tôi sờ đến hai con mắt, hai con mắt mềm mềm nhắm lại, tôi dừng tay. Anh giáo Nhất quỳ xuống, ôm hai đầu gối tôi. "Ông ơi, mẹ cháu đi rồi". Tôi vuốt lại hai con mắt người vừa nhắm. Thôi thế bà ấy đi rồi, cô ấy đi rồi.

Những người con dâu, con gái đứng ở chân giường ôm mặt khóc nức nở. Lũ trẻ con chạy tán loạn ra vườn, tiếng khóc ánh ỏi, léc téc như những con chim sẻ bay vỡ đàn.

Lấy Chồng Khác Làng

Tô Hoài

Một phiên chợ áp Tết, những đứa trẻ phụ việc cho mẹ, chúng lớn lên được hai nhà gả cho nhau, đám cưới trong trận mưa rào đầu mùa, rồi lễ cheo ở đình làng, rồi người đàn ông đi buôn xa bị hổ ăn thịt, người đàn bà vẫn giữ lễ về quê chồng giỗ với đứa con bây giờ "chân nó dài bằng cái sào nứa"... Với bấy nhiêu tình tiết, bấy nhiêu câu chuyện dằng dặc gần cả một đời người, cùng rất nhiều những thói tục của làng Bắc Bộ xưa được gói trong truyện ngắn vẫn thênh thang rất thú vị này.

***

Thật thì cũng làng trên chạ dưới trong hàng huyện, chẳng xa mấy. Đứng gốc cây đề ngoài cổng đồng trông qua bờ đìa, mờ mờ trong lùm cây muỗm cổ thụ nhô lên hai cái cột trụ tam quan đình, những hôm quang trời, bên này cũng thấy được lằn đê chắn ngang tầm mắt. Thế mà ngỡ như đám mây trắng mùa hạ lững thững mãi mới sang đến bên ấy. Nghĩ ra thì là cách trở, cả đời cô Vải cứ tưởng như thế.

Mấy phiên áp Tết, chợ huyện đông như nêm cối. Bà Chồi quảy ống dang ra chợ. Vườn nhà bà có búi dang, tết nào cũng được vài gánh, đỡ tiền chợ. Vừa khéo, vào một chạp, những bụi dang vừa già ống, chẻ lạt được. Tết nhất, mái bếp nhà nào cũng giắt nắm lạt, lắm việc phải cần đến.

Ở chợ, có những mặt hàng chỉ Tết mới có bán. Bác tuần chợ xếp cả ra bãi ngoài. Gánh lá dong, ống dang, những quảy thùng mật, lão hàng gáo dừa, chợ Tết người ta sắm bó đũa, cái gáo, cái muôi mới, mấy con bò buộc tận ngoài rệ sông, bò rống ò ò lẫn tiếng lợn eng éc trong rọ.

Chợ trước, gánh ống dang của bà Chồi đến nửa buổi đã hết tiệt. Cũng đã đào, chặt ống cả trăm cái, nhưng còn phơi nóc chuồng lợn, chưa se mặt. Phiên này phải đi hai gánh dồn một mới có thể đủ bán. Bà Chồi nhấc gánh rồi nói:

- Cái Vải ra quảy đỡ cho tao mấy được.

Vải buộc thành bốn bó dang nặng. Vải quảy, mẹ chỉ phải vác một bó. Chưa đến nửa buổi, cả gánh dang còn có mấy ống điếc, ống lép. Hàng bên kia, bà bán mật đong không ngớt muôi. Hàng ống dang, hàng mật chạy tay, nhà nào chẳng gói bánh, cột bếp lại lủng liểng miếng thịt bò quấn lạt, rồi nồi chè con ong, chè bà cốt ngọt lừ.

Bà hàng mật hấp tấp sang hàng bà Chồi:

- Nhờ bà để mắt trông giúp hàng nhà cháu một mảy. Quái, cái thằng chết toi, chỉ sai đi chặt mấy cái ống nứa đựng mật mà mất mặt từ nãy.

Rồi bà lão chạy qua đám chọi gà đầu bãi thì thấy thằng con dựng đứng ống nứa bên nách, đương chầu hẫu xem đá gà - hay là nó cũng đánh gá, người chăm chú, người tíu tít cá cược. Mấy tay chủ gà loay hoay mặt đỏ lựng hay đỏ cay cú.

Con trai bà bán mật ngồi ngây mặt ra. Bà lão kêu "Chết thật! Chết thật!". Rồi, vào lôi ngật nắm tóc đuôi hoa voi. Thằng con phải chống hai tay xuống như con gọng vó mới khỏi ngã ngửa ra. Rồi nó đứng lên vác bó ống nứa cong cổ chạy.

Chỉ một chốc, những ống dang, những ống nứa đựng mật đã hết sạch. Hai bà lão thong thả ăn trầu, môi cắn chỉ nhai bỏm bẻm. Thằng con trai xách những thùng mật ra bờ sông té nước gột. Cái Vải nhà bà Chồi đã lồng quang gánh để đấy, vào trong chợ, dạo xem hàng tết.

Bà bán mật vuốt quết trầu bám mép hỏi bà Chồi: - Cái cháu quảy dang là thứ mấy nhà ta?

- Cháu thứ ba bà ạ.

Bà bán mật hỏi ngay một câu: - Bà cho tôi nhá?

Bà Chồi còn chưa biết thế nào, bà kia quết vôi lấy miếng trầu mời đon đả: - Cái thằng quảy mật ấy.

Rồi đưa bà Chồi miếng trầu mới têm. Bà Chồi nhổ bã trầu vào gốc cây, quay lại nhón tay lấy miếng trầu mới của bà bạn hàng. Và nói:

- Ối chà, con Vải nhà tôi ấy à, có nhớn mà chẳng có khôn đâu. Bà xem đấy, mặt trời đã lấp bóng đa rồi mà còn lượn chợ, rõ con nhà.

Bà bán mật lại vuốt mép, nhổ quết trầu rồi cũng nói ồi ồi:

- Thì cái thằng hai nhà tôi cũng như cái đụn rạ. Đấy, đi theo đỡ mẹ mà lại rúc vào đám chọi gà.

Câu chuyện qua lại mắng vui mắng yêu giữa hai bà về con cái mà rồi nên duyên chúng nó.

Tháng ba năm ấy, cô Vải lấy chồng bên Lở. Bấy giờ đã có mưa mới. Những trận mưa rào đầu mùa như mưa dứ, chốc ào ào chốc tạnh; con ngòi ngoài đìa có lúc nước ngập đến gối, đến bụng.

Họ nhà trai sang đón dâu, các lão ông lão bà, các cô phù dâu thoạt chỉ xống áo như người đi làm đồng. Người xắn quần, người ôm váy, bì bõm lội. Sang đến đồng Lở, đám rước dâu ghé vào cái quán gốc cây muỗm, như khách đường xa nghỉ chân. Bấy giờ mới lấy trong tay nải ra những buồng cau, những hũ rượu. Rồi thì áo the, khăn vố của ông cầm hương, các bà váy chồi thâm lồng ngoài váy nâu da bò, các cô thì khăn vuông mỏ quạ tua dây hoa đỏ . Chú rể đi lẫn trong đám trai, áo năm thân nhuộm cậy.

Đã tinh tươm ra đám đón dâu. Đi vào đường làng, ông cầm hương áo the khăn lượt chít, vừa lội ngòi quần xắn móng heo, vẫn đi chân không - cả đám rước dâu chân đất, chả cứ một ông cầm hương. Hương đen thơm nghi ngút trước hai người đội mâm cau, mâm rượu phủ vuông lụa điều.

Vào trong xóm, nhấp nhô người lớn trẻ con các ngõ đổ ra. Trẻ con cuống quýt chăng dây, vớ được dây mướp, dây gấc, cái thắt lưng dải yếm cũng chăng ra - chỉ kiêng không được chăng thừng. Chằng chịt như mạng nhện, những cái dây cản bước, như không muốn người con gái đi lấy chồng làng xa. Âậy thế nhưng đã có người nhà trai lo sẵn, xong cả. Trẻ mỏ chỉ khó cho thêm vui. Mỗi cái dây nhận một phong bao giấy điều. Mở ra, thấy mấy đồng chinh, đồng kẽm, đứa nào cũng hí hửng, giựt giây mở đường.

Đám đón dâu có lời nói trước, đôi bên đã thoả thuận từ con lợn, thúng gạo, gánh rượu, quan tiền. Nhà trai nhà gái ăn cỗ mỗi bên, bởi vì đường đất cách trở, hai họ chỉ miếng trầu và chén rượu hả hê rồi lễ tạ xin dâu về.

Đám rước dâu đã ồn ào ra đến đầu ngõ. Bà Chồi đứng trong cổng ném vốc muối theo rồi cúi mặt, quay vào. Còn Vải thì cảm thấy đi đâu chưa biết, nhưng thế là xa nhà từ đây. Nước mắt Vải đẫm cả hai bên má.

Rước dâu về, hai họ lại tay nải đeo vai, xúm xít hỗn độn như đi chợ tết. Mặt trời đã ngả đằng sau chân tre, sương mờ khắp cánh đồng. Hai bên bờ nghe tiếng nhái, tiếng chẫu.

Vải ngước mặt lên, chỉ thấy bóng tối mờ mịt. Mới vài bước đường mà xa, sao mà thật xa.

Lội xuống ngòi, đã nhá nhem tối, tiếng chân bì bõm, nhưng chẳng trông thấy chân ai. Vải quay nhìn lại bóng tối lần nữa.

Được mấy hôm, ăn cỗ lại mặt rồi, vợ chồng Vải về làng ngoại làm lễ nộp cheo. Lấy chồng làng khác, lệ phải có lễ cheo mới được làng nhận rể.

Chồng xách cái rọ mới đan nhốt con gà trống thiến, con gà mái rồi ra cổng đồng, như người đi làm, chỉ khác đầu quấn cái khăn lượt, lại mặc cái áo năm thân nhuộm cậy, như hôm đám cưới. Ra tới cầu ngói thì ngồi đợi vợ. Đến lúc trông thấy Vải trong khoanh tre đi ra thì chồng đứng dậy, lại cung cúc đi. Người đi trước cách quãng người đi sau, vào đến gốc đề đầu xóm Vải mới mở khăn vuông lấy cái áo dài nâu non mặc. Vạt áo thắt quả găng, lất phất bay lẫn hai dải yếm lụa. Áo váy tinh tươm rồi, Vải lại càng đi nán xa. Vải chẳng muốn ai trong làng gặp vợ chồng đi tay đôi. Vào đến cổng ngăn, Vải đã thấy chồng cắt tiết xong cả hai con gà, đương nhấc nồi nước sôi ra cầu ao giội làm lông.

Vải vào bếp. Chẳng đợi mẹ bảo, Vải cầm dao cắt tàu lá chuối lót lên cái nong rồi dỡ chõ xôi. Ngả chiếc mâm gỗ đơm xôi, mùi hương nhà trên quyện khói xôi ngào ngạt. Con gà thiến đã được vớt từ khi nãy để ghếch trên miệng nồi rồi người khía chân, khía cánh với mỏ, đặt nguyên cả con lên đỉnh mâm xôi để ra miệng vại dưới gốc cau. Trên mỏ con gà, từ lúc nào ai đã cài ngậm cái hoa đơn đỏ.

Bây giờ, vợ chồng lại khăn áo chỉnh tề. Vợ đội mâm xôi, chồng hai tay bưng hũ rượu, hai người đem lễ ra đình. Vào tam quan, vợ hạ mâm xôi xuống cửa bên. Chồng ấn lại vành khăn lượt trên đầu cho chặt, vợ từ từ đưa mâm xôi lên. Chồng trịnh trọng đội mâm, một tay nắm cổ hũ rượu nút lá chuối khô.

Vợ bước theo, vào trước bậc cửa đình thì đứng lại đấy, đàn bà con gái xưa rày không được đặt chân vào chốn đình trung. Vợ đứng nhìn bâng quơ ra ao làng. Năm xưa mùa này, những hôm nắng to cả lũ đem sảo ra bắt ốc nhồi nổi lên tránh nóng trong chân bụi cúc tần.

Nghe tiếng người rì rào, không phải tiếng quát lác. Mùi hương đưa ra có lẽ nắm hương chồng vừa thắp thêm. Vải cũng không dám ngoảnh mặt nhìn vào.

Người mõ ở ngoài lều bờ sông tất tưởi bước tới. Đòn gánh xỏ một bên quang có chiếc thúng trong để con dao phay với cái thớt. Chỉ vậy, nhưng bởi vào nơi trang nghiêm phải có ý, không dám khua múa con dao cái thớt.

Chồng hai tay đặt hũ rượu lên hương án cùng với mâm xôi con gà. Rồi quỳ xuống lễ thánh, xong xuôi bước ra vái hai bên các ông chức việc, các quan viên rồi cứ chắp hai tay, cúi đầu so vai lom khom bước lùi qua bậc cửa đình.

Ở nhà, mâm rượu con gà mái đã sẵn sàng. Đám chén mời ông chú, có lão ông cầm hương hôm đưa dâu cháu.

Sáng nắng thế mà giữa trưa đổ cơn mưa. Trận mưa rào đầu mùa ào ạt một lúc lại tạnh. Hai vợ chồng trở về bên Lở.

Có hơi rượu chếnh choáng, chồng chạy cung cúc như ma đuổi. Nước mưa đồng cao dồn về, con ngòi ngập đến thắt lưng. Nhìn lại, chưa thấy vợ, chồng ngồi đợi.

Vải đã ra khỏi cổng đồng. Trông hút đồng sâu, chỉ thấy bóng nước lấp loáng. Chắc là có khi nó lội qua ngòi rồi. Người trong xóm lác đác ra bờ tre bắt cá rô rạch. Gặp Vải, có người chào, có người hỏi chớt nhả: "Thím về bên nhà... Sang báo tin cho mẹ Chồi à... cái bụng trông ngon mắt thế kia rồi...".

Vải đỏ mặt cúi xuống vuốt cái khăn vuông bọc đĩa xôi và cái tỏi gà. Lại nhớ năm ngoái, năm kia, Vải chạy tớn lên theo chúng bạn ra bờ chuôm bắt cá rạch.

Cánh đồng mù mịt trắng những nước. Con ngòi ngập cả lên bờ cỏ. Đàn đỉa trâu, đỉa hẹ lượn lên lượn xuống cung quăng tìm chân tay người thò xuống nước.

Vải đã ra đến bờ ngòi. Chồng đương ngồi úp mặt xuống đầu gối, dáng ngủ. Nhưng không, như anh ả đã đánh hơi thấy vợ. Anh ả ngẩng mặt nhăn nhở cười, hai con mắt rượu vằn vằn đỏ.

Hỏi:

- Nhà mày có lội được không?

Vợ lắc đầu, nhìn lại đằng xa. Chồng cười tủm:

- Cõng nhẻ?

Vợ lại lắc đầu, vẫn tần ngần ngoảnh mặt trở lại. Chồng đứng lên, xoe ống quần, buộc hai dải áo vào bụng. Anh ta đương nghĩ nói thế nào để dỗ, để doạ, để vợ cho cõng. Thì vợ đã bíu tay ôm cổ chồng, rún lên, chân đạp như trẻ con chơi hún đu. Hai tay chồng ôm chặt đít váy vợ rồi lội xuống nước.

Chồng nói lỡm:

- Này này buông xuống cho đỉa cắn nhẻ!

Vợ đá chân xuống mặt nước, như trêu tức. Những đàn đỉa đói nhao nhao lượn theo. Đã thế, ông dìm cho một cái. Nhưng chị ả đã cong chân lên làm anh ả loạng choạng suýt ngã. Thì vừa sang đến bờ bên kia.

Hai con đỉa trâu bám vào bắp chân chồng như hai quả chuối bụt. Máu chảy loã lợi xuống gót, xuống cỏ.

Vải tụt trên lưng chồng xuống. Nhìn hai con đỉa lủng lẳng ở ống chân chồng, ả nguýt một cái.

- Rõ đáng đời!

Chồng nhìn quanh, chỉ thấy bóng nước bóng cỏ. Chẳng nói chẳng rằng, lẳng vợ một cái ngã bệt xuống. Tốc váy vợ, làm một quắn.

Rồi anh chàng ngủ một giấc mê mệt. Đến lúc thấy lạnh bên bả vai mới mở mắt, bốn bên vắng lặng. Ngôi sao hôm lay láy đã lên đằng kia.

Hàng năm, vợ chồng Vải về bên ngoại vào tết nhất hay các dịp góp giỗ. Cẩn thận, giữ lệ. Khi con gà, hũ rượu, lại có khi vác cả bó mía, dựng bên bàn thờ làm gậy cúng các cụ. Khi nào gặp mưa, nước ứ trong ngòi, chồng lại cõng vợ, rồi cõng cả con sang bờ bên kia.

Năm ấy, chỉ có hai mẹ con về bên ngoại góp giỗ. Nguyên vì anh theo bạn buôn lên Mường mua mía về kéo mật bán chợ tết. Khi lên theo đường bộ, về thì cho mía lên bè xuôi sông Đà. Năm nào cũng đi thế. Chuyến ấy ngược, dọc đường cả bọn ngủ lại cửa rừng dốc Cun. Nửa đêm, con hổ ra ăn thịt mất anh ấy.

Năm năm, mẹ con nhà Vải vẫn giữ lệ về góp giỗ. Khi qua ngòi, gặp nước đầy hay nước cạn, mẹ Vải cũng cõng con lội. Cu con đã lên chín, lên mười, "chân nó dài bằng cái sào nứa" - người ta cười thế, mẹ vẫn cõng con lội sang - người ta lại bảo nhà này chiều con quá.

Sống chết mặc bay

Phạm Duy Tốn

Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng... thuộc phủ... xem chừng núng thế

lắm, không khéo thì vỡ mất.

Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức gìn giữ, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ

vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy, ngập quá khuỷu chân, người nào người ấy, lướt thướt như chuột. Tình

cảnh này trông thật là thảm.

Tuy đánh trống liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác, gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai cũng mệt lử cả

rồi. ấy vậy mà trên trời thời mưa vẫn tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người

khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng

mất!...

ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu đuối mà đối với sức mưa to lớn, để bảo thủ

lấy tánh mạng gia tài; thế thời quan cha mẹ ở đâu?

Thưa rằng: Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà

vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì.

Trong đình, đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Trên sập mới kê ở gian giữa, có

một mình quan phụ mẫu, uy nghi chễm chện ngồi. Xung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan, thì

có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất, thầy thông nhì, sau hết, giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng sở tại, cùng

ngồi chầu bài.

Ngoài kia tuy mưa gió ầm ầm dân phu rối rít; nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch nghiêm trang lắm, trừ quan phụ

mẫu ra, mọi người không ai dám to tiếng. So với cảnh trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đoàn sâu lũ

kiến ở trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn nhã, đường bệ, nguy nga: nào quan ngồi trên, nào nha ngồi dưới; người

nhà, lính lệ như khoanh tay sắp hàng, nghi vệ tôn nghiêm, như thần như thánh. Thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ

mẫu gọi: "Điếu, mày!" tiếng tên lính thưa: "Dạ"; tiếng thầy Đề hỏi: "Bẩm, bốc?" tiếng quan lớn truyền "ừ". Kẻ này:

"Bát xách... Ăn", người kia: "Thất văn... Phỗng", lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, khi cười khi nói, vui vẻ dịu

dàng. Thật là tôn kính, xứng đáng với một vì phúc tinh...

Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa

nọ, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang dậy trời đất... Mọi người giật nẩy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le

chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Vì ngài sắp ù to.

Có người khẽ nói:

- Bẩm, đê có khi vỡ!

Ngài cau mặt gắt rằng:

- Mặc kệ.

Rồi ngài xếp lại bài, quay gối dựa sang bên tay phải, nghiêng mình, bảo thầy đề lại:

- Có ăn không thì bốc chứ!

Thầy đề vội vàng:

- Dạ, bẩm bốc.

Vừa lúc đó, thì tiếng người kêu rầm rĩ, càng nghe, càng lớn. Lại có tiếng ào ào như thác chảy xiết; rồi lại có tiếng gà,

tiếng chó, trâu, bò kêu vang tứ phía.

Bấy giờ ai nấy ở trong đình, đều nôn nao sợ hãi. Thốt nhiên một người nhà quê, mình mẩy lấm láp, tất tả chạy xông

vào, thở không ra lời:

- Bẩm... quan lớn... Đê vỡ rồi!

Quan lớn đỏ mặt, tía tai, quay ra, quát rằng:

- Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?... Lính đâu? Sao bay

dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?

- Dạ, bẩm...

- Đuổi cổ nó ra!

Ngài quay vào, hỏi thầy đề:

- Thầy bốc quân gì thế?

- Dạ, bẩm con chưa bốc.

- Thì bốc đi chứ!

Thầy đề, tay run cầm cập, thò vào đĩa nọc, rút một con bài lật ngửa, xướng rằng:

- Chi chi!

Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to:

- Đây rồi!... Thế chứ lại!

Rồi ngài vội vàng xòe bài, miệng vừa cười, vừa nói:

- ù! Thông tôm, chi chi nẩy!... Điếu mày!...

*

* *

ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà

cửa trôi băng lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ,

tình cảnh sầu thảm, kể sao cho xiết!

Tạp chí Nam Phong,

số 18, tháng 12 - 1918

Một vụ bắt rượu lậu

Nguyễn Tuân

Truyện ngắn "Một vụ bắt rượu lậu" về nội dung cũng như hình thức, không quen thuộc lắm với phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Chúng tôi chọn in truyện này vì nó tiêu biểu cho thời kỳ sáng tác đầu tiên của ông, với một loạt truyện ngắn trào phúng có khuynh hướng hiện thực phê phán.

*

* *

Dân cày ở làng Phong Cốc, bây giờ thực không còn lấy cớ gì để phàn nàn với nhau trong lũy tre xanh và với người ngoài, ở giữa đường chợ đông, rằng quan trên không săn sóc tới.

Đấng phụ mẫu của họ là quan phủ Thiệu Hóa - làng Phong Cốc thuộc về Thiệu Hóa phủ, Thanh Hóa tỉnh - những khi hành hạt qua đó thường vẫn không quên bảo với thầy Đề rằng nên tạt vào đấy mươi lăm phút để xem cái "dân khí" vùng đó lâu nay ra sao?

ở đình làng, trong những ngày này, hương chức kỳ cựu đều được quan Phủ khuyến khích họ nên giảng giải cho lũ đàn em về cái đức làm dân đối với bề trên không được tỏ vẻ kháng cự, và cái đạo làm dân trong một nước thái bình, ở một thời yên lặng, phải đóng sưu thuế, theo tạp dịch cho đều đều. Nếu sự phục thiện của dân đã kết quả được một phần thì càng nên gắng nữa cho được mười phần, càng nên cố sức nữa lên mãi mãi. Rồi nhà nước sẽ thương tới, và quan Phủ hứa thêm rằng ngài đã bẩm tỉnh cho, thì tha hồ mà được nhờ...

Nhưng lúc quan phủ gần trẩy đi sang làng khác, ngài vẫn không quên bảo thầy lý mới, như mấy lần trước:

- Thầy nên coi chừng đến công việc của thầy và sự hành động phi pháp của dân làng. Trách nhiệm của thầy nặng lắm đó! Thầy giữ việc làng thay thầy lý trước (bị chết một cách rất thê thảm và chẳng vinh dự gì) trong khi thừa hành công vụ, chắc thầy rõ phận sự của thầy trong lúc này, hơn ai hết thảy.

Thầy Lý run lẩy bẩy, chỉ biết mồm "dạ dạ" đưa mãi hai bàn tay chắp lên khỏi ngực. Thầy không dám nhìn thẳng vào quan và thứ nhất là nhìn vào ông Đề ngồi gần ngang hàng với quan; trong một lúc nhốn nháo ở đình lúc quan mới tới làng, thầy Lý đã dám liếc trộm ông Đề khi ngài này sai bác Cửu châm đóm để ngài hút thuốc lào vào điếu dóng của quan phủ, có cái xe trúc uốn cầu vồng dài đến gần bốn thước ta. Ông Đề cặp mắt sáng như tia lửa, những lúc nheo nheo mí mắt lại, thì không khác gì mắt con vọ lúc ở trên cành gạo chú mục nhìn đống thịt chết ở mặt đất. Thầy Lý tin rằng nếu ngấc mắt lên mà đụng gặp phải nhỡn tuyến của ông Đề già thì sẽ bị thôi miên mất: và thôi miên thuật kia sẽ bắt thầy phải tường tận cung khai gia sản nhà mình ra xem của chìm là bao nhiêu và của nổi là bao nhiêu để ông Đề vui vẻ trả lời bằng ý nghĩ rằng có một ngày rất gần đây, chúng nó sẽ phải thay đổi chủ và thầy thì cố nhiên là sẽ mất quyền sở hữu ấy.

Nghĩ đến đấy, thầy Lý càng không dám giữ đầu mình cho thẳng thắn, chỉ biết cúi mặt xuống đất hết nhìn đôi ủng da tây của quan Phủ, đôi guốc kinh của ông Đề và đôi bàn chân lấm của mình. Thầy Lý lúc này thật là một ông hóa thân của sự sợ hãi. Thầy chỉ biết dạ, dạ mãi, để đáp lại những lời đanh thép mà thầy chỉ hiểu một cách mang máng. Bỗng thầy giật mình khi nghe thấy quan gắt:

- Cái anh Lý này "chướng" quá. Người ta hỏi thầy xem số rượu dân làng uống trung bình trong những ngày thường chênh lệch với những ngày tế lễ như xuân tế, thu tế, hoặc vào đám ăn chạ là độ bao nhiêu, mà thầy cứ dạ là nghĩa lý chi? Vô lý quá!

- Dạ bẩm ông Lớn, về việc dân làng con uống rượu, con cũng không lấy gì cho tường lắm. Dạ, con mới được dân cho con ra thay anh Lý bất hạnh của con được độ mấy tháng.

Câu trả lời của thầy Lý có vẻ đần độn một cách lừng khừng gần giống như lời bướng bỉnh thốt ra ở cửa miệng những dân cứng đầu cứng cổ. Tuy rằng là thật thà, nhưng thầy lý cũng vẫn đủ trí khôn nhận rằng có lẽ nó sẽ làm cho quan Phủ đến phải nổi trận lôi đình. Mà quả nhiên thế thực. Thầy Lý hiền lành kia nghĩ đúng đấy. Vì quan Phủ đã biến sắc mặt, làm om cả đình làng:

- Thầy làm việc quan như thế hỏng, hỏng to. Đừng nói chi đến chuyện nay mai thầy mong được nhà nước cho tưởng lục hay mong điền vào chân chánh phó tổng khuyết. Nếu anh không thay đổi cách làm việc thì cái triện lý trưởng của anh cũng khó lòng mà giắt được lâu đâu. Việc dân trong làng uống rượu mà thầy mù tịt như vậy thì chết thật. Thầy làm việc không được mẫn tiệp rõ quá rồi. Nếu ta không thương anh, đem một việc này mà bẩm tỉnh thì liệu anh có còn giữ được đồng triện không?

ấy thế rồi quan và ông Đề và lính tráng trẩy đi để một lũ kỳ cựu hương chức làng Phong Cốc đưa mắt nhìn nhau và nhìn ông Lý vừa bị quan quở. Thầy Lý đâm mê và toát mồ hôi. Mồ hôi thấm qua cái áo lụa nâu già và làm đẫm cả lưng chiếc áo the dài mầu nước dưa.

Thầy Lý ra khỏi đình làng. Trận gió bấc thổi rụng lá vàng, thổi bay tà áo thầy và lớp mồ hôi gặp gió lạnh càng se đến đâu càng làm cho thầy lạnh "trông thấy" đến đấy. Với không khí lạnh lẽo ở ngoài trời, thầy thấy trong mình bớt bừng bừng và lúc về tới nhà, thì thầy đã lấy lại được sự trật tự hoàn toàn cho bộ óc vừa bị kích thích mạnh.

Vào đến nhà, bỏ khăn áo, thầy nằm vắt tay suy nghĩ. Thầy bỏ bữa cơm ngon có rượu ngâm thuốc, có món nhắm tốt. Trông thấy rượu, thầy sực nhớ ra vì câu chuyện ban nãy mà thầy bị quở ở giữa làng. Thầy điên tiết lên muốn đem lẳng "mẹ nó" cả chai cả nậm ra ngoài ao.

Bà vợ thấy chồng có thái độ lạ lùng khác mọi ngày, dám chê cả món dê bóp tái và bánh tráng vừng bà công phu mua tận chợ bên sông gặp ngày phiên, vội đón hỏi:

- Làm sao thế? Nghe nói quan về làng ta định bắt dân mở trường và khai giếng thêm phải không? Sao lại bỏ bữa rượu? Thằng Kha nhà theo tôi sang chợ ngoan lắm.

- Mở trường, khơi giếng! Ai bảo thế? Đình với giếng gì? Việc triều đình nhà nước, u mày biết gì mà hỏi! Cất rượu đi! Thầy Lý bỏ mặc vợ tưng hửng đang lủi thủi lấy lồng bàn đậy mâm cơm để dành. Thầy đang lo đến cái tiền trình của tên lý trưởng vừa bị quan hạch là không đầy đủ bổn phận. Thầy càng ngẫm kỹ mấy câu quan vừa nói ban nãy thì ra cái chân lý trưởng của thầy là bấp bênh. Nó như cái thế quả trứng bị để ở đầu đẳng sớm tối vỡ lúc nào không hay. Rồi thầy lại lẩn thẩn nghĩ đến chuyện những chức phận ti tiểu lúc quên tạ ơn những vị đỡ đầu thì bị quan thầy báo thù lại như thế nào... Nhưng không, thầy Lý nhớ rõ ràng rằng, thầy đã được quan Phủ ban cho thầy cái vinh dự bắc chiếc ghế đẩu ngồi gần quan trong tư thất, sau khi quan đã rủ lòng thương nhận cho thầy cái phong bì "lễ mọn" mà thầy khom khom cúi dâng lên bề trên bằng sự thành kính của kẻ biết ơn và tạ được ơn. Thầy còn nhớ như in vào ruột những câu của quan giảng dụ hôm đó vồn vã ôn tồn và những cảnh quan coi thầy như là đầy tớ tay chân... Thầy Lý đưa tay qua trán, nhắm mắt lại, tưởng lại những phút ấy mà thầy rạo rực cả người. Sướng quá, thầy tự hỏi mình rằng cái số phận tầm thường của một người lý trưởng được hưởng những phút như phút ấy độ mấy lần trong một đời? Thầy so sánh quan Phủ hôm ấy và quan Phủ hôm nay sao khác hẳn đi? Không, có lẽ quan nhiều việc đến nỗi quên hẳn là mình đã tạ lễ? Phải, phải, không có thể như thế được. Thầy lại cho rằng hay tại mình tạ thiếu. Nhưng không, vì hôm đó, quan đã khen thầy một câu: "Anh Lý người linh lợi lắm. Anh đưa túc số như thế này, tôi tiêu nó được thành món". Nếu thế thì là nghĩa lý gì, và nguy hiểm quá nhỉ! Vì ai còn biết mạch mối đằng nào mà tìm, mà hiểu. Trong ba, bốn ngày liền, thầy Lý cứ ăn kém đi vài bát cơm, ngủ kém đi vài canh dài, với những ý nghĩ ấy nó không tha ám ảnh thầy.

Rồi một buổi trưa già, thầy vừa bỏ mẩu triện đồng vào tráp đen thì thấy lũ trẻ làng đang reo ầm lên ngoài cổng:

- A... a... a... Tây về!... Có Tây về làng ta!

Thầy Lý thấy khác trong người, vì không biết tại sao thầy nghĩ ngay tới sự chẳng lành sẽ xảy ra. Thầy đang sửa lại khăn áo, sắp ra xem là chuyện gì thì con chó mực ở sân gân cổ lên trời sủa váng cả nhà lên. Một tốp người, quần, áo, mũ, giầy vàng khè một màu kaki đã tiến vào nhà, đứng đầy cả sân. Thầy Lý nhìn họ: người nào cũng oai phong lẫm liệt, người cầm thuốn sắt, kẻ đeo túi da đựng súng lục liên. Thầy lẩm bẩm: "Thôi bỏ mẹ, lại lính đoan", và tiến ra sân.

Lính đoan thấy ông Lý ra vội xúm cả lại xung quanh cứ đặc cả lại như là đàn muông săn lúc vây được con sói rừng, đều một loạt nói bô bô:

- Trong làng có rượu lậu! Ông đi ngay! Có cả quan Đoan về đấy!

Bấy giờ thầy Lý mới biết là có cả quan Tây Thương Chính về nữa. Thầy vội vàng chạy ra vái dài quan Đoan. Người Tây tay cầm ba toong song, đứng ở gần cổng; rồi cả bọn kéo đi rất nhanh theo một ông Đội đoan có bộ râu "củ ấu" là người dẫn đường xem có vẻ thông thạo đường lối trong làng lắm. Đến ngõ đình, cả bọn ập vào nhà bác nhiêu Tìn. Thầy Lý trong bụng phấp phỏng vì từ lúc đi đến giờ, thầy chỉ biết theo nhà đoan thôi. Lúc đến nhà nhiêu Tìn, thầy mới hiểu rằng quan Đoan về bắt rượu lậu ở nhà tên nhiêu Tìn, một người mà thỉnh thoảng vẫn đưa lại nhà thầy những chai rượu rất ngon trong những ngày nhà ông Lý có kỵ dùng thứ rượu cúng rất tinh khiết. Thầy Lý than thầm cho nhiêu Tìn đã gặp sự chẳng lành... Cảnh náo nhiệt bầy ra trong nhà người bị Đoan vào khám xét đã chiếm hết cả giác quan thầy Lý. Lính đoan gọi ầm ĩ:

- Chủ nhà là nhiêu Tìn đâu? Nhiêu Tìn đâu?

Bỗng ông đội Đoan vừa reo, vừa chạy:

- Nó đây rồi! Các thầy mau theo bắt lấy! Kia kìa nó đang mang vò cơm chạy! Nó vừa mới vọt ra cổng ngang!

Lính đoan chạy, cả quan Đoan, cả thầy Lý cũng chạy theo một người nhà quê đang ôm một cái chĩnh chạy miết ra phía bờ ao gần đình làng, cách họ độ ba chục bước.

Trẻ con khóc. Chó sủa. Đàn bà kêu, và các ông già bà lão trố mắt chống gậy "càng cua" đứng nhìn theo đám bụi mù bay.

Lúc thầy Lý theo kịp được nhà Đoan đến bờ ao thì thấy thằng cha nhiêu Tìn đang lõm bõm ở giữa ao, hai tay bưng một cái chĩnh có nắp. Chung quanh bờ ao, người đứng vây đen ngòm. Quan Đoan vừa nhìn thầy Lý vừa nhìn ông đội nói một hồi tiếng Tây dài, mặt đầy vẻ tức giận, dẫm chân, múa tay, trông đáng ghê sợ lắm. Ông đội Đoan chỉ thuốn xuống phía ao bèo, nói chõ xuống người bưng chĩnh:

- Mày có muốn sống không? Nhiêu Tìn, mày có chịu lên không? Chúng ông mà xuống tóm được mày thì mày bỏ đời!

Nhiêu Tìn ở giữa ao mếu máo nói lên:

- Con lạy các quan, các quan tha cho con. Các quan đừng giết con.

- Ai giết mày? Mày cứ đưa cái vò lên đây!

- Lạy các quan, con trót dại có làm ít tương để ăn. Lạy các quan, thật con có dám đem bán đâu!

- Tương với mắm gì? Mày không lên, ông mà phải lội xuống thì... thì...

- Con khổ lắm. Các quan tha cho con! ối, mẹ thằng Tìn đâu, tao khổ lắm! Các quan làm tội tao, thì tao đổ tương xuống ao đây này!...

- Này thằng kia, nếu mày đổ vò cơm kia xuống ao, thì quan Đoan sẽ bắn mày! Mày định làm phi tang đi hở?

Quan Đoan đứng ở trên bờ vừa chửi rủa bằng tiếng Tây vừa rút súng lục, tay trỏ bấm sẵn cò, chĩa vào nhiêu Tìn. Ông Đội đoan đứng nói với về phía thầy Lý.

- Này ông Lý, nếu nó dìm chĩnh cơm để mất tang chứng rượu lậu, ông phải chịu một phần trách nhiệm đấy.

Thầy Lý hoảng cả người. Thầy lại càng hoảng nữa khi thấy quan Đoan chĩa súng về phía mình. Rồi liên tưởng, thầy nhớ đến vụ đổ máu vừa xảy ra trong làng cách đây mấy tháng: trong một vụ bắt bớ hàng lậu do quan Đoan Bécnắcđê chỉ huy, ông Lý trước mà mình thế chân bây giờ đã bị đạn Nhà nước nổ chết trong giây lát, giữa một lúc mà người ta bảo rằng nhà Đoan cần phải chân chính tự vệ. Thấy quan Đoan mắt đỏ ngầu, mồm sùi bọt, quát tháo rầm cả góc ao, thầy càng cuống cả lên. Mà dưới ao, thằng cha nhiêu Tìn vẫn cứ mếu máo và van lơn các quan đừng xuống ao, và nếu xuống hắn dọa sẽ đánh chìm cái chĩnh tương mất!

- Thế thì muốn sống mày phải lên ngay!

Tiếp lời ông Đội, thầy Lý cũng bảo nhiêu Tìn:

- Thế mày lên đi! Tao xin mày đấy! Mày làm chuyện phi pháp để lụy cả đến lý trưởng làng này! Mày định cho tao theo ông Lý trước hay sao? Mày không nhớ đấy à?

- Con lạy ông, ông xin cho con, không có các quan giết con mất.

- Thì mày cứ lên đi, tao sẽ xin cho. Mày cầm cho khéo cái vò kia, rồi lên ngay đi! ừ, lên đằng phía quan Đội ấy.

Bao nhiêu cặp mắt đều nhìn vào nhiêu Tìn đang lõm bõm bưng cái vò bước lên bờ ao.

Hắn run lập cập, vì ngâm nước lạnh thì ít mà vì sợ nhà Đoan thì nhiều. Ông Đội giằng lấy tay hắn lôi lại trước mặt quan Tây Đoan, và truyền cho hắn mở ngay nắp chĩnh ra. Hắn sợ khi nhìn quan Tây Đoan, nhìn ông đội, nhìn ông Lý và lập cập mở nắp chĩnh. Thấy quan Tây Đoan đã bớt giận, ông Đội cũng tươi tỉnh được nét mặt, bảo nhiêu Tìn:

- Ông tưởng mày ở cả ngày ở dưới ấy!

Ông lấy làm khoái trá khi nhìn vào trong lòng chiếc chĩnh. Nhưng sao ông lại cau mặt lại và mũi hít mạnh, đánh hơi. Ông sấn sổ hỏi nhiêu Tìn:

- Cái gì ở trong chĩnh?

- Dạ bẩm tương. Con có dám nói bậy đâu, con làm có một ít để kho cá ăn ở nhà chứ thực không dám đem ra chợ bán; ông Đội tỏ vẻ khó chịu trình với quan Tây Đoan rằng đây là một thứ nước chấm của nhà chùa thường ăn chay và người An Nam dùng với cơm. Quan Tây đoan bắt ông Đội nếm và hỏi ông có dám cả quyết như thế không. Ông Đội trả lời nhất định rằng trong chĩnh đó không có chất gì để làm rượu. Thầy Lý thấy câu chuyện khám xét kết cấu một cách ngộ nghĩnh không ngờ như vậy, phải hỏi nhiêu Tìn:

- Thế sao lại bưng vò tương mà chạy? Các quan khám rượu lậu kia mà! Ai bắt tương? Cái lý của anh gian lắm! Anh phải khai cho rõ ràng ra kẻo phiền đến cho tôi lắm đấy!

Nhiêu Tìn hoàn hồn, khai với thầy Lý:

- Con thấy người làng đi chợ về, dạo này đồn rằng Nhà nước đánh thuế cả tương và nước mắm, con thấy tương con làm không có giấy phép nên con sợ, con phải chạy đem vứt đi...

*

* *

Lúc sự yên lặng đã trở lại trong làng và mọi người đã ngặt nghẽo cười khi giải tán - trừ nhà Đoan rời làng Phong Cốc với nỗi tức bực - thì trời đã xế bóng. Bác nhiêu Tìn cũng mỉm cười bưng chĩnh tương về nhà, trong bụng nghĩ thương vợ phải một phen chạy rượu lậu vất vả, và không biết vợ đã đem giấu kín vò cơm ở nơi nào đây. Bác tự nghĩ nếu không có chĩnh tương này thì chỉ có Trời mới gỡ nổi cho bác khỏi ở tù.

Đông Dương tạp chí, số 29 ra ngày 27-11-1937

Một đám bất đắc chí

Nguyễn Tuân

ít bữa nay, Lý Văn buồn bực ra mặt, bỏ nhà ra đi đến hai ba hôm. Nhiều người lạ mặt đến hỏi, vợ con Lý Văn đều không biết thế nào mà trả lời. Những người khách dữ tợn ấy có khi trở lại đến hai ba lần. Không được gặp chủ nhân, họ không lấy thế làm hậm hực. Vợ Lý Văn có hỏi gặng, họ chỉ trả lời nhiều câu nghe rất ngang tai.

- à, anh em chúng tôi cũng chơi bời như ông Lý nhà ta đây. Hễ ông Lý có về, bà nói giùm cho là có bọn Huần ở Kim Sơn ra thăm. Bá Huần, bà nhớ thế cho. Và có tin gì hay, xin ông Lý nhà cho anh em biết sớm.

Bọn Bá Huần Kim Sơn đi chưa khỏi thì lũ chó mẹo ở ngoài cổng lại sủa vang lên một hồi. Lại ba bốn người nữa đến hỏi thăm ông Lý. Người nào cũng quấn khăn đầu rìu, trông rất dị thường.

- Chúng tôi là người Tam Tổng. ở nhà lâu ngày tù chân quá, nhân đi qua đây, ghé thăm ông Lý và hỏi ông xem có công việc gì đáng để anh em đỡ tay hộ không.

Bà Lý Văn chỉ biết dạ và thưa và luôn miệng mời khách hãy ngồi chơi để cho cháu nó đi đun nước.

- Thầy cháu đi lên tỉnh vắng - bà Lý nói.

Mấy ông khách người hạt Tam Tổng không chịu ngồi yên một chỗ để xơi một khẩu trầu. Họ cũng không chịu ngồi yên để chờ đợi ấm nước trà đun sắp sủi. Họ chắp tay ra đằng sau lưng, lững thững dạo quanh nhà một vòng. Đàn chó mẹo tha hồ mà sủa, mà rộ; có lúc chúng chờm vồ lên lưng khách. Khách vẫn thản nhiên để cho đàn chó nhà bà Lý gậm bắp chân. Bà Lý vừa quát lũ chó một cách vô hiệu, vừa để ý ngắm đến những bắp chân tròn trĩnh của mấy ông khách lạ. Thì ở đấy, có cần gì đợi lũ chó nhà bà Lý cắn, trên lần da chân bóng như đồng đen kia, đã loang lổ nhiều vết sẹo rất to, cái thì trắng nõn nước da non đang lên, cái thì đen thẫm màu thịt thối thâm đã lâu ngày.

Đàn chó xem chừng cũng chán mấy người lạ kia nghênh ngang trong nhà chủ mình và có ý coi cái khoảnh sân vườn này như là của họ. Trái với những lần khách thấy những người lạ qua đây có cầm que hay gậy tre gai với sự rụt rè kiêng nể là chúng cắn vồ và đuổi nhiều, lần này đàn chó mẹo, sau một hồi thị oai suông đã lảng xa mấy ông khách người Tam Tổng.

Sau một hồi "nhỏ to" ở giữa sân, họ nói chõ vào trong nhà:

- Thế ông Lý có nói bao giờ về không?

Từ trong nhà thấp, tiếng bà Lý đưa ra:

- Dạ, thầy cháu hôm đi, không thấy dặn gì cả. Xin mời các ông vào xơi nước kẻo nguội.

Ngoài sân mấy ông khách vẫn thì thầm bàn tán. Họ không trả lời mời nước của bà Lý. Trong một lúc gắt gỏng, bà Lý chỉ nghe được một mẩu chuyện lúc họ nói to: "... Chả có nhẽ lão Lý lại đi đánh một tiếng bạc bất thình lình như vậy. Bao giờ lão đi, cũng có anh em mình tả phù hữu bật". Thế rồi họ kéo nhau đi, sau mấy mồi thuốc lào rít đến tụt nõ và sau mấy câu chào hỏi kệch cỡm ngô nghê. Bên chiếc điếu cày dài đến thước rưỡi ta, họ còn để lại một cái hộp tròn đựng thuốc lào. Nắp hộp làm bằng vỏ cam khô. Lúc vỏ cam còn tươi, ở trong khuôn ép, người ta đã tỉ mỉ trổ lên đấy một cái mặt hổ phù.

Cai Xanh - người khách có hộp thuốc lào này và vừa ở đây ra - Cai Xanh là một tay chơi nổi tiếng ở mấy vùng Thanh nội và Thanh ngoại. Những tay anh chị trong đám giang hồ phóng khoáng thường được biết đến tiếng Cai Xanh. Và những tay chơi chưa được gần y thì chỉ thèm muốn có một dịp nào nhập vào đảng y để được biết rõ đến nghệ thuật của một bậc đàn anh. Có mấy lần, Cai Xanh hay bàn với những người thân tín về việc Ông Thám ngoài Yên Thế.

Người ta biết đến Cai Xanh, người ta biết luôn cả đến những đồ vật mà Cai Xanh hay giắt luôn trong mình. Như con dao hai lưỡi, cái hộp thuốc lào, v.v... Con dao hai lưỡi ấy, ít khi cai Xanh phải dùng đến. Khi đã dùng đến thì thế nào cũng có chuyện. Trong những phút rất nguy nan, phải giết kẻ khác để gỡ lấy mạng mình, chưa bao giờ Cai Xanh chịu phóng dao và bỏ dao lại trên chiến địa. Hóa cho nên con dao đó, sau những khi cắm ngập vào thớ thịt còn nóng hổi dòng máu của bao nhiêu tử thi, dao đó lại trở lại nằm trong hầu bao của Cai Xanh. Chung quanh con dao thép sáng ngời, một huyền sử đã bao trùm, cũng như một huyền sử khác đã chạy chung quanh cái hộp đựng thuốc lào của Cai Xanh.

Những lúc nhàn tản, không dự một đám cướp to nào, những lúc nhỡ độ đường không có tiền trả những hàng quán hẻo lánh trên con đường Thanh nội Thanh ngoại, Cai Xanh đã lễ phép nói với bao nhiêu là nhà hàng:

- Tôi lỡ quên không giắt theo tiền trong người, nhà hàng cho tôi gửi tạm vật này làm tin, mai mốt tôi sẽ cho người nhà tới chuộc nó về.

"Nó" đây là cái hộp thuốc lào ở trên nắp vỏ cam có khắc cái mặt hổ phù. Những chủ quán ở rải rác đường Điền Hộ phần nhiều cũng là đầu trộm đuôi cướp cả. Khi nào họ không đi ăn cướp được thì họ là người lương thiện, mỗi ngày rót vào bát đàn vài lượt nước trà xanh nóng hổi cho người đi đường giải khát. Họ vừa rót nước, vừa nheo cặp mắt lại như muốn đếm tách bạch ra từng đồng tiền trong tay nải khách qua đường nghỉ chân. Không biết ai đã nói chuyện cho họ nghe từ bao giờ về cái hộp thuốc lào của Cai Xanh mà mỗi lần thấy người khách ngang tàng kia gửi vật mọn đó làm tin thay cho món tiền thiếu, chủ quán nào cũng đều xoa tay, không dám nhận: "Dạ không dám. Khi nào ông anh sẵn thì cho đàn em xin. Cái đó có là bao mà dám phiền lòng ông anh".

Hôm nay, cùng một vài bạn lợi hại đến thăm Lý Văn mà không được gặp, Cai Xanh có ý vờ bỏ quên lại hộp thuốc lào, để nhắc cho chủ nhân biết y đến không phải là việc phiếm và khi nào về nhà, chủ nhân nên triệu y đến ngay. Vì có việc cần phải bàn. Cái việc lơ đễnh rất hữu ý đó, cái chuyện bỏ quên hộp thuốc lào vẫn là một ám hiệu của Cai Xanh dùng tới mỗi lúc đi tìm bạn để "đánh một tiếng bạc lớn" nghĩa là cướp một đám to.

Thế mà, không hiểu rõ một tí gì, bà Lý Văn cứ phàn nàn cho mấy ông khách Tam Tổng đến chơi đã không được gặp chồng mình lại còn bỏ quên đồ vật. Xa xôi hàng mấy ngày đường, đến bao giờ các ông ấy mới lại trở lại đây để nhận vật bỏ quên. Mà bây giờ các ông ấy đi hẳn đã xa lắm, biết đuổi theo thế nào cho kịp.

Một ngày nữa lại hết.

Vào một sớm thứ hai, một thôi tiếng chó sủa ngoài cổng, mở đầu cho cái ồn ào hàng ngày trong gia đình nhà Lý Văn. Bà Lý ngừng tay dưới bếp, đã tưởng chồng mình về. Té ra chỉ là một ông khách lạ mặt nữa, đến hỏi thăm chồng với sự nóng nảy của một người quen vội vàng. Y tỏ vẻ thất vọng, xin đi ngay. Bà Lý muốn ông khách hấp tấp kia cho mình biết tên. Khách cười. Trên khuôn mặt đen như cột nhà cháy, nẻ ra hai đường răng trắng nhởn. Ông khách chạy vội ra phía đầu chái nhà, vơ lấy cái mai dựng ở tường, móc túi lấy con dao găm, khắc vào cán mai một đường tròn đều như tiện, trao mai cho bà Lý:

- Bà cứ đưa cán mai này cho ông Lý nhà, tự khắc ông sẽ biết. Độ chiều mai tôi lại sang chơi.

Bà Lý Văn cũng chỉ biết vâng dạ cho qua chuyện. Từ ngày bà làm bạn cùng với ông Lý Văn, đến bây giờ đã mấy mụn con, bà chưa từng được biết chồng bà có những người bạn lạ lùng như thế bao giờ.

Lý Văn đã về. Không kịp bỏ khăn áo, Lý Văn đã nằm ềnh ra giữa phản. Từ chối hết cả những lời mời mọc ân cần của vợ hỏi ăn cơm hay là ăn cháo hay là dọn rượu, Lý Văn chỉ nằm ngửa nhìn thượng lương nhà, tay trái vắt lên trán. Trên mặt y, chốc chốc những đường gân lại dăn dúm lại vì giày vò của suy nghĩ.

Bà Lý mon men lại gần chồng.

- Mấy hôm thầy nó đi vắng, có đến dăm bảy ông khách lạ đến hỏi thăm. Các ông ấy đều không nói tên. Có một ông khắc cái gì vào cán mai này và dặn đưa ngay cho thầy nó xem.

Bà đưa cho chồng cái cán mai có tiện một nấc ở đầu cán.

- A, Phó Kình! Thế người ta đến từ bao giờ?

- Sáng qua. Theo lời ông ta hẹn, có lẽ chiều nay ông ta lại trở lại đây.

Lý Văn tự nói một mình: "Mình đang tìm Phó Kình. Thôi, được rồi, có cây "bút chì" này giúp sức, ta không lo gì nữa".

Bỗng Lý Văn ngồi nhỏm dậy. Y vừa nhìn thấy ở mép bàn thờ cái hộp đựng thuốc lào con con. Y vội quờ lấy cái hộp có in mặt hổ phù.

- ấy, của cái bọn ông khách gì nói là người vùng Tam Tổng đấy. Ông ta lúc đi bỏ quên. Tôi bận trẻ không kịp chạy theo để trao trả cho ông ta.

Lý Văn không để ý đến nhời vợ, ngắm nghía hộp thuốc lào sung sướng, lim dim mắt, nói như người mơ ngủ: "Cai Xanh!" "Tiếng bạc" này, thế nào cũng ăn to. Một cây "bút chì" của Phó Kình và một cái lá chắn của Cai Xanh, thế nào đám này cũng lọt. Ta đang lo thiếu hai tay này. Chắc thế nào Phó Kình cũng tới tìm Cai Xanh. Và có lẽ họ đã gặp nhau ở giữa đường rồi cũng nên. Tất thế nào chiều nay hai người cũng có mặt ở đây một lúc.

Thế là Lý Văn đã truyền cho vợ đi lấy độ chục chai rượu ngon và quát tháo người nhà bắc ngay nước sôi để làm lợn. Bà Lý Văn chỉ biết làm theo. Từ những ngày nào, trong cái gia đình này, mỗi một lời nói to của ông Lý là một mệnh lệnh. Một mặt, người nhà chọc tiết lợn, tiếng con vật bị đâm dao bầu vào cuống họng kêu eng éc. Một mặt bà Lý đi ra đầu làng để liệu cho xong cái khoản rượu.

Lý Văn chạy tới tấp như một kẻ chức sắc gặp ngày phải đương cai. Ngồi ở nhà được một chút, y nghĩ thêm được một điều gì, y lại vụt chạy đi rất lâu. Y chạy đi chạy về như thế, tính ra đã được ba lần. Đến lần thứ tư thì y dắt luôn đến năm sáu người cùng về, trong số đó cả Cai Xanh và Phó Kình.

Người ta nói cười oang oang. Lý Văn vào nhà trước, trải vội chiếc chiếu cạp điều phủ mặt ván ngựa.

- Mời các chú vào trong này.

Cả bọn kéo lên giường sau khi rửa chân cạn, hai bàn chân bẩn vỗ vào nhau mươi lượt. Cũng như từ bao giờ, bà Lý đã lẩn đi đâu mất. Ông Lý đã dặn vợ hễ khi nào ông có đông bạn lạ đến uống rượu thì bà nên vắng nhà. Vì thế, dọn xong rượu, lần nào bà cũng đi biệt.

Người ta ngồi vào mâm rượu với sự uể oải của người không đói ăn, với sự nghiêm trọng của một người biết trước bữa rượu này là khơi mào cho một việc quan hệ cần phải giải quyết trong hơi men nồng. Thực khách đều giữ một vẻ mặt bí mật.

Trong số mười chai rượu, thì đến bốn năm cái đã là vỏ thủy tinh không. Chiếc mâm đồng thước rưỡi có lót lá chuối tươi, đựng thịt thủ thái dối đầy tú hụ lên thế, lòng mâm thịt đã vợi đến một phần ba. Một vài người dặng hắng. Đôi ba kẻ vê sẵn những mối thuốc lào, mắt nhìn trừng trừng vào người đang rít điếu cày. Lý Văn khạc mạnh. Y giả vờ gọi đầy tớ thực to. Không có đứa nào thưa, y tủm tỉm:

- Thưa các quan, nhà vắng cả, xin các quan bàn qua lại việc đó. Rồi để phân phát ngay công việc cho anh em và định ngày làm.

- Còn định gì nữa - Cai Xanh ngắt câu chuyện - Nếu có làm thì làm ngay đêm nay đi. Nhân thể đêm nay lại tối trời. "Tiếng bạc" này, em xin thưa để bác Lý biết: nếu đêm nay không mở ngay đi thì "tiếng bạc" đến vỡ mất.

- Cũng được. Vậy thì anh em cắt và nhận công việc luôn đi - Phó Kình bây giờ mới lên tiếng.

- Cứ như lệ cũ mà theo, vẽ vời cắt đặt lại làm chi cho thêm phiền ra. Thì cũng lại cầm lá chắn là anh Cai và đánh "bút chì" là em chứ còn ai vào đây. Nếu có neo người thì anh Lý nhà đỡ cho một cây "bút chùng" kèm sát bên cạnh em cho em vững tay ở những con đường độc đạo. Còn các chú nó đây - Phó Kình xòe tay chỉ mấy người ngồi ăn từ nãy chưa nói gì - thì chia nhau ra mà đỡ lấy việc vặt như thả chông, bật hồng, vân vân. Còn thì mới đến người ngoài. Các ông anh nghe đàn em bàn thế đã tạm ổn chưa?

Phó Kình tu một hớp rượu đánh ực. Cả bọn đều nhao nhao:

- Thôi, thông lắm rồi. Vậy thì nhất định đêm nay hết trống canh hai bắt đầu cất quân. Sang đúng đất bên ấy, vừa vào giữa canh ba.

Cả bọn đều một loạt đánh ngã vài chai lớn nữa. Rồi trong không khí ồn ào, người ta đọc đi đọc lại cái câu: "ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi". Cả bọn đều lấy làm thưởng thức câu đó và mỗi người đều tự đặt ngay mình vào địa vị người dám nghĩ dám làm. Nghèo, cực, khái. Lấy chỗ tiền bạc của bọn bất nghĩa, đem chia cho anh em khác nghèo như mình .

Phó Kình đã nóng mặt, xắn tay áo, ngồi chửi đổng:*

- Này phải biết, một cây "bút chì" của em, em dám chấp cả một ấp người chúng nó.

Nói xong, Phó Kình nhảy xuống đất, quơ trong gầm giường lấy cái mai, tháo cuộn dây thừng quấn trong người thay thắt lưng, buộc một đầu mối dây vào cán mai có tiện đường rãnh từ hôm nọ. Cả bọn đang vui câu chuyện, đều ùa theo Phó Kình ra mặt sau nhà, đứng một loạt đối diện với bụi chuối tiêu phất phơ tàu lá ở bờ rào xa. Phó Kình cuộn mấy vòng dây thừng dài đến mấy sải vào cánh tay trái. Bàn tay trái y nắm chắc cổ cán mai, bàn tay phải y giữ vững đốc ngọn mai, nói to: "Đàn anh thử xem em hạ cây chuối phía bên trái".

Bỗng sau một tiếng phập, thân trên cây chuối đã gục xuống mặt đất, kêu đánh roạt. Và Phó Kình đang cười hề hề, cuốn vòng dây thừng vào cánh tay trái. Được giật về từ lúc nào, cái mai đã ở gọn trong hai bàn tay y.

- Bây giờ đàn anh lại xem em lấy buồng chuối chín cây xuống để chút nữa lễ thánh.

Lưỡi mai xén qua cuống buồng chuối, đi quá đích, chạm cả vào đến quá nửa thân cây chuối. Cả bọn cười vang. Lý Văn dè dặt lời khen:

- Ngón "bút chì" của chú hay đấy. Nhưng cũng còn nặng tay. Chưa được ngọt đòn lắm. Nhiều khi mình chỉ nên đánh dọa người ta thôi. Nếu không cần đến, thì chớ nên làm tổn hại đến nhân mạng.

Sẵn có đàn gà đang đi trong luống khoai lang, Lý Văn mượn Phó Kình đưa cho mình cây "bút chì", buộc thòng lọng múi dây vào cổ tay trái và bảo: "Chú nào ném hộ anh hòn đất đi!".

Tiếng hòn đất đụng đất kêu đánh bộp. Mấy con gà bay tà tà khỏi mặt vườn, đập cánh bồm bộp. Tiếng lưỡi mai ở tay Lý Văn phóng ra kêu đánh vụt. Một tiếng gà kêu oác.

Cả bọn chạy ra luống khoai, giơ cao con gà gãy mất hai chân. Vết thương gọn gàng vừa đúng quãng đầu gối và cặp giò chưa lìa hẳn, vẫn còn dính vào đùi bởi lần da hoen máu.

Lý Văn gác mai, nói với tất cả bọn:

- Nếu mình ném mạnh tay quá và không biết tính sức đi của "bút chì" thì nát mất gà. Các chú không phải đánh những tiếng bạc vào sinh ra tử, các chú không biết, chứ đòn "bút chì" khó khiến lắm. Và một cây "bút chì" ngang tàng như thế mà lại phải lụy một cành tre đấy. Chú nào hay xử cây "bút chùng", ở các đường độc đạo, nên cẩn thận khi thấy bên địch tung cành tre ra để phá "bút chì". Để hôm nào rảnh, anh sẽ dạy cho các chú tập đánh cái lối đòn bơi chèo bằng gỗ cau. Đánh đến đòn hỗn chiến ấy thì đầu người rụng cứ như sung.

Rút từ tập truyện ngắn Vang bóng một thời,

Nxb. Mai Lĩnh, Hà Nội, 1940

Vợ nhặt

Kim Lân

Vợ nhặt

Trước kia mỗi chiều, cứ vào lúc chạng vạng mặt người(1) thì Tràng đi làm về. Hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư(2) vào trong bến.

Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mất nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạch ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhính những ý nghĩ gì vừa lí thú vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm

nhảm than thở những điều hắn nghĩ.

Trẻ con trong xóm, cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn từ dốc chợ đi xuống là ùa cả ra vây lấy hắn, reo cười váng lên:

- A a a... Anh Tràng ! Anh Tràng đã về chúng mày ơi !

- Anh Tràng ơi bế em mấy...

- Anh Tràng ơi đã uống rượu chưa?

- Anh Tràng ơi !...

Đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch.

Cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc.

Nhưng độ này thì trẻ con không đứa nào buồn ra đón Tràng nữa, chúng nó ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích. Trong bóng chiều nhá nhem, Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng(3) vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc

nhẵn chúi về đằng trước. Hình như những lo lắng, chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn.

Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu(4) lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.

Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Người đàn bà đi sau

hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem. Sợ chúng nó đùa như trước, Tràng vội vàng nghiêm

nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng.

Mấy đứa trẻ đứng dừng lại, nhìn Tràng, đột nhiên có đứa gào

lên:

- Anh Tràng ơi ! - Tràng quay đầu lại. Nó cong cổ gào lên lần nữa

- Chồng vợ hài.

Tràng bật cười:

- Bố ranh !

Người đàn bà có vẻ khó chịu lắm. Thị nhíu đôi lông mày lại, đưa tay lên xóc xóc lại tà áo. Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai

bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết.

Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ lắm. Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Hình như họ cũng hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì

lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ. Một người thở dài. Người khác khẽ thì thầm hỏi:

- Ai đấy nhỉ? ... Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên?

- Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ(5) có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.

- Quái nhỉ?

Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc:

- Hay là vợ anh cu Tràng? ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để.

- Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?

Họ cùng nín lặng.

Người đàn bà như cũng biết xung quanh người ta đang nhìn dồn cả về phía mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Hắn cũng biết thế, nhưng hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình. Người đàn bà

càu nhàu câu gì trong miệng. Hắn quay lại hỏi:

- Gì hả?

- Không.

Hắn cũng càu nhàu:

- Làm gì mà họ khỏe nhìn thế không biết? - Hắn bỗng đứng dừng lại nhìn ngang nhìn ngửa.

- Này bác Tràng ! Bác Tràng ! ...

Sau một khuôn cửa tối, một cái đầu trọc thò ra gọi giật giọng.

Tràng lật đật quay lại.

- Về muộn mấy? Hẵng vào chơi cái đã nào.

Tràng đứng lại thoái thác:

- Thôi ông để cho đến hôm khác.

Cái đầu trọc nháy nháy một con mắt, hất hất về phía người đàn bà hóm hỉnh:

- Cánh nào đấy?

- à hà... người quen. Thôi để hôm khác ông nhá.

Hắn quay ngoắt trở ra, lật đật chạy theo người đàn bà, như người xấu hổ chạy trốn. Người đàn bà đã đi đến trước cái miếu cũ. Tràng gọi với:

- ấy rẽ lối này cơ mà.

- Đằng này à?

- ừ.

Hai người lặng lẽ rẽ xuống một con đường nhỏ. Con đường sâu thăm thẳm, luồn giữa hai bờ tre cao vút. ở đây vắng vẻ, thoải mái. Hắn định nói với thị một vài câu rõ tình tứ mà chẳng biết nói

thế nào. Hắn cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia đi bên người đàn bà. Thị cũng không nói gì, hai con mắt tư lự(6) nhìn ra phía trước. Tiếng gió trên bờ tre rì rào và tiếng lá khô kêu sào sạc dưới bàn chân.

Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ

chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.

- Sắp đến chưa? - Người đàn bà chợt hỏi.

- Sắp

- Nhà có ai không?

- Có một mình tôi mấy u.

Thị tủm tỉm cười:

- Đã một mình lại còn mấy u. Bé lắm đấy!

Hắn bật cười:

- à nhỉ.

Câu chuyện xem chừng đã thân thân. Hắn đi sát gần bên thị hơn, ngẫm nghĩ một lúc, chợt hắn giơ cái chai con vẫn cầm lăm lăm một bên tay lên khoe:

- Dầu tối thắp đây này.

- Sang nhỉ.

- Khá thôi. Hai hào đấy, đắt quá, cơ mà thôi chả cần.

- Hoang nó vừa vừa chứ.

Hắn chặc lưỡi:

- Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ chưa tối đã rúc vào ngay, hì hì...

- Khỉ gió.

Thị phát đánh đét vào lưng hắn, khoặm mặt lại.

Hắn thích chí ngửa cổ cười khanh khách.

Mấy con chó giật mình chạy thọt vào trong lũy thò mõm ra sủa váng lên. Tràng nhặt một hòn gạch vung tay ném mạnh một cái:

- Mẹ bố chúng mày cắn gì thế!

- Vẫn chưa đến à?

- Còn chán.

- Khiếp.

Thị cau mặt lại, giẫy lên. Hắn phì ra cười, cúi xuống nhấc cành dong dấp cổng ra reo lên:

- Đây rồồ- ồi !...

Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà, cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài. Tràng xăm xăm bước vào trong nhà, nhấc tấm

phên rách sang một bên, thu dọn những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. Hắn quay lại nhìn thị cười cười:

- Không có người đàn bà, nhà cửa thế đấy!

Thị nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng vỗ vỗ xuống giường đon đả:

- Ngồi đây!... Ngồi xuống đây, tự nhiên...

Người đàn bà theo lời hắn ngồi mớm xuống mép giường. Cả hai bỗng cùng ngượng nghịu. Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ. Chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ, hắn lấm lét bước vội mấy bước ra sân gắt lên:

- Sao hôm nay bà lão về muộn thế không biết!

Hắn loanh quanh hết chạy ra ngõ đứng ngóng, lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà. Thị vẫn ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần.

Hắn nghĩ bụng: "Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?... ồ sao nó lại buồn thế nhỉ?...". Hắn nhổ vu vơ một bãi nước bọt, tủm tỉm cười một mình. Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ

ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà ! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm phơ tầm phào(7) đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng...

ít lâu nay hắn xe thóc Liên đoàn (8) lên tỉnh. Mỗi bận qua cửa nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đây. Hắn đoán họ ngồi đấy nhặt hạt rơi vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì

làm. Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng:

"Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!

Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!"

Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:

- Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!

Thị cong cớn:

- Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?

Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:

- Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!

Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.

- Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ ! - Thị liếc mắt, cười tít.

Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế.

Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:

- Điêu ! Người thế mà điêu !

Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ

còn thấy hai con mắt.

- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.

à, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười:

- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.

- Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.

Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.

- Đây, muốn ăn gì thì ăn.

Hắn vỗ vỗ vào túi:

- Rích bố cu(9), hở!

Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:

- ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì.

Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:

- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.

Hắn cười:

- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.

Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn(10), nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng(11). Sau không

biết nghĩ thế nào hắn chặc lưỡi một cái:

- Chặc, kệ!

Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về...

Tràng chợt đứng dừng lại, lắng tai nghe. Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng.

Thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ, và gọi với vào trong nhà:

- U đã về đấy!

Hắn lật đật chạy ra đón:

- Hôm nay sao u về muộn thế ! Làm tôi đợi nóng cả ruột. Bà cụ Tứ nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp hỏi:

- Có việc gì thế vậy?

- Thì u hẵng cứ vào trong nhà đã nào.

Bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn. Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận

ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.

Tràng tươi cười:

- Thì u hẵng vào ngồi lên giường lên diếc chĩnh chện cái đã nào.

Bà lão lập cập bước vào. Người đàn bà tưởng bà lão già cả, điếc lác, thị cất tiếng chào lần nữa:

- U đã về ạ!

Ô hay, thế là thế nào nhỉ? Bà lão băn khoăn ngồi xuống giường.

Tràng nhắc mẹ:

- Kìa nhà tôi nó chào u.

Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp:

- Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là cái số cả...

Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong

sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?

Bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con... May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này(12) thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu

chứ biết thế nào mà lo cho hết được?

Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với "nàng dâu mới":

- ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...

Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:

- Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.

Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm(13) ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ

đến ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...

- Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.

Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật:

- Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy.

Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...

Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Tràng đứng ngoài thấy vậy, hắn bực mình quá hầm hầm bước vào trong nhà, đánh diêm đốt đèn. Thấy sáng, bà lão vội vàng lau nước mắt ngửng lên:

- Có đèn đấy à? ừ thắp lên một tí cho sáng sủa... Dầu bây giờ đắt gớm lên ấy mày ạ.

Bà lão đứng dậy uể oải sang giường bên kia nằm. Tràng làu bàu trong miệng: "Chán quá, chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc!"

Tiếng bà cụ Tứ bên kia nói với sang:

- Hôm nào nghỉ ở nhà kiếm lấy ít nứa về đan cái phên mà ngăn ra mày ạ.

- Vâng.

Tràng ngoan ngoãn đáp lời mẹ. Hắn toan quay lại bảo thị cởi áo đi nằm, nhưng thấy thị ngồi bần thần dưới chân giường tự nhiên hắn lại không dám. Hắn lẳng lặng ngồi xuống cái ghế bên cạnh, cả hai cùng sượng sùng chả biết nói gì. ánh đèn vàng

đục ở góc nhà tỏa ra ấm áp và kéo dài hai cái bóng trên vách. Bên ngoài gió từ mặt sông thổi lên rì rào như tiếng người thầm thì nói chuyện. Giữa sự im lặng của đôi vợ chồng mới, có tiếng ai hờ khóc(14) ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ. Người đàn bà bỗng thở dài. Tràng quay lại khẽ hỏi:

- Buồn à?

- Không.

- Gớm sao lúc này nói chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột.

Thị lườm hắn không trả lời. Hắn xích lại cười cười:

- Thôi khuya rồi đấy, ngủ đi.

Thị giơ tay củng vào trán hắn:

- Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!

Hắn cười khì khì, vươn cổ thổi tắt phụt ngọn đèn. Trong đêm khuya tiếng hờ khóc tỉ tê nghe càng rõ...

Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.

Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt còn cay xè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà

cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên (15) ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước (16) vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm

ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch.

Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.

Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu:

-Anh ấy dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn.

-Vâng.

Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn(17) như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị tu chí làm

ăn không? Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn(18) thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc

đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.

Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:

-Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...

Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn.

Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:

-Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.

Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:

-Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán(19) đây, ngon đáo để cơ.

Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vãn tươi cười, đon đả:

-Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy.

Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa com từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi

người.

Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hôt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen.

Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:

-Trống gì đấy, u nhỉ?

-Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ... - Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc.

Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lầm bầm:

- ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?

Im lặng một lúc thị lại tiếp:

-Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.

Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lặi, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít... Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật.

Tràng hỏi vội trong miếng ăn:

-Việt Minh phải không?

-ừ, sao nhà biết?

Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đàng trước có lá cờ đỏ to lắm.

Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh động đi lối khác.

à ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu.

Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy.

Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...

Kim LâN

________________

(1) Lúc chạng vạng mặt người: Lúc chiều muộn, nhìn không rõ

mặt người.

(2) Ngụ cư: người quê ở nơi khác đến ngụ trú ngụ.

(3) Tàng: cũ

(4) Đội chiếu: Lấy cái chiếu, cuộn lại, buộc túm một đầu, chụp lấy đầu và cuộn quanh người mà đi để chống rét. Đây là hình ảnh rất phổ biến ở miền Bắc nước ta thời kỳ có nạn đói khủng khiếp giết hại hơn hai triệu người vào mùa đông 1944 và mùa

xuân 1945.

(5) Còn mồ ma ông cụ Tứ: lúc cụ Tứ còn sống.

(6) Tư lự: suy nghĩ và lo lắng.

(7) Chỉ tầm phơ tầm phào: chỉ nói chơi, nói đùa.

(8) Thóc liên đoàn: Liên đoàn là một tổ chức chuyên thu mua thóc cho Nhật hồi trước Cách mạng Tháng Tám 1945.

(9) Rích bố cu: tiền nhiều lắm (Tiếng Pháp phát âm theo lối bình dân).

(10) Chợn: sợ.

(11) Đèo bòng: mang thêm, vướng bận thêm vào một cái gì khó gỡ ra được. "Vì cam cho quýt đèo bòng. Vì em nhan sắc nên lòng nhớ thương..." (Ca dao). "Đôi ta chút nghĩa đèo bòng. Đến nhà, trước liệu nói sòng cho minh" (Truyện Kiều).

(12) Tao đoạn này: Thời buổi này, giai đoạn này.

(13) Đốt đống rấm: đốt cháy âm ỉ (thường là một đống chấu) cốt có khói để xua bớt tử khí.

(14) Hờ khóc: khóc to, vừa khóc vừa kể lể.

(15) Khươm mươi niên: rất lâu rồi.

(16) Cái ang nước: dụng cụ đựng nước bằng gốm, thân tròn, miệng rộng giống như cái vại.

(17)Chỏng lỏn: nói năng đanh đá, xấc xược; trái nghĩa với dịu dàng, lễ phép.

(18) Xăm xắn: mau mắn, hăng hái.

(19) Chè khoán: một thứ chè ngon nấu bằng đỗ xanh đãi sạch vỏ, nấu nhuyễn và đặc, đổ ra đĩa và xắt thành từng miếng. Có lẽ đây là tiếng địa phương vùng quê tác giả (giống như chè khó ở nơi khác

Con Mã Mái

Kim Lân

Mảnh sân đất nhỏ hẹp chạy dài trước ba gian nhà tranh lụp xụp. Bề ngang không đầy hai thước; bề dài chỉ đến tám bước chân là quá. Vậy mà Cả Chuẩn cũng cố bày biện cho nó ra vẻ một cái vườn cảnh. Giàn thiên lí, chính giữa, thấp lè tè, cành lá xum xuê che chiếc bể cạn thả cá vàng và bốn chậu lan đặt trên đôn sứ cũ kĩ, sứt mẻ: hai chậu bạch ngọc và hai chậu nhất điểm. Trong bể, kê một hòn non bộ sần sùi gân guốc; cỏ tóc tiên mọc um tùm giữ một vẻ hoang vu bí mật đối với bọn người sành bé nhỏ, đặt theo điển tích. Nào chùa, tháp, cầu, quán chênh vênh hiểm trở; nào ngư, tiều, canh, độc; nào cầm, kì, thi, tửu; nào Bá Nha ngộ Tử Kì; nào Sào Phủ tẩy nhĩ... Tất cả ngụ một vẻ an nhàn thư thái, gác đường danh lợi ra ngoài như thời Nghiêu Thuấn. Che tất cả hòn non bộ là một cái tán si. Gốc si xù xì, thân uốn éo theo một kiểu nhất định.

Mỗi lần có khách lạ, ông Cả không quên giảng giải kĩ lưỡng về chiếc bể này:

- Có người trả năm chục bạc rồi, tôi không bán đấy nhé. Những người sành này tôi gửi mua tận chợ Đồng Xuân ngoài Hà Nội, toàn sứ tàu cả; lại còn cây si này nữa. Ông thử để ý ngắm kĩ mà xem: kiểu long cuốn thuỷ đấy!... Này nhé, cái gốc là cái đầu vục xuống uống nước này. Hai vấu này là hai con mắt này. Cái thân uốn éo như hình con rồng cuộn khúc này. Cái tán ở trên xoè là cái đuôi này. Còn cây nhỏ dưới gốc là cây tử này. Chơi cây phải có mẫu, có tử mới không sái ông ạ.

Cả Chuẩn khoe khoang hòn non bộ cũng như ông vẫn thường khoe hai cây cau lợn cọ trồng hai bên vại sói trắng. Mấy khóm lan, hai chậu bạch trà hay bất cứ một thứ gì trong sân cảnh đều mang một lịch sử cầu kì, khó khăn.

Khi người ta là một nhà nho - mặc dầu không hay chữ - nhất lại là nhà nho kiết nữa, thì càng sính chơi cái thú thanh tao này. Cả Chuẩn cũng vậy. Ông chơi cây cảnh chẳng qua để đôi lúc rượu say, tức đời đem câu "danh lợi bất như nhàn" hay "bần thanh còn hơn phú trọc" ra mà an ủi mình và để lên mặt khinh đời, nghĩa là khinh mấy bác giàu có trong làng, mà ông cha là những hạng người keo bẩn, thô tục, không bao giờ hiểu biết được cái thú nhàn nhã như ông. Ông thường dè bỉu:

- Hứ! Sống ở trên đời mà bo bo đồng tiền, chẳng biết ăn chơi là cái gì, chết thì cũng hai tay buông xuôi, dễ mang được của đi chắc!

Rồi ông cất giọng sang sảng ngâm:

Ngoài vòng cương toả chân cao thấp,

Trong thú yên hà mặt tỉnh say.

Chính ra, Cả Chuẩn cũng không tha thiết gì với cái vườn cảnh cho lắm. Sở dĩ có nó, chẳng qua vì ông rỗi rãi quá và cũng vì những lẽ trên kia. Thật tâm, ông chỉ thích gà chọi thôi.

Trong cái vườn cảnh bề bộn, nhỏ hẹp ấy, ông cố chen thêm vào một chuồng gà và hai chiếc bu thửa, cao lớn lênh khênh coi rất chướng mắt.

Cả Chuẩn mê thích gà chọi lắm. Suốt ngày chỉ lăn lóc với gà. Ngay từ tờ mờ sáng, chưa dậy được, nằm trên giường, ông đã để ý nghe xem hôm nay con Chuối gáy mấy tiếng, con Bạch Nhạn gáy mấy tiếng. Có được mạnh mẽ không? Ông mê đến nỗi chẳng thiết làm ăn gì cả. Chỉ khổ bà Cả và cô Tưởng. Hai mẹ con đầu tắt mặt tối, ngược xuôi, tần tảo lấy tiền về nuôi gia đình. Thằng cu Trạm lớn rồi vẫn không được đi học. Phải ở nhà hầu hạ bố, nói là hầu hạ gà mới đúng. Lúc nào nó cũng la cà ở ngoài bờ ruộng bắt nhái, hoặc cào cào, châu chấu đem về cho gà ăn. Thằng bé đày nắng đen sạm hẳn đi.

Ông Cả để cu Trạm sống theo vết cũ của mình. Cũng như phần đông trai làng: lớn lên lấy vợ, rồi nhờ vợ sống một cuộc đời ỷ lại vô lo vô lự. Nếu nhờ trời khấm khá có đồng ra đồng vào một chút, ra hương chính, cai đám; hơn nữa, lí, phó tổng chưa biết chừng. Thế là danh phận chán rồi.

Hiện giờ, trong nhà có hai con gà đá được. Cả Chuẩn vẫn chưa vừa ý con nào. Cái Chuối chân vàng "chịu buộc bắt tảng" (1). Dầu hay, mau đòn, nhưng phải cái đá nhẹ. Cái Bạch Nhạn "Cần lập trụ" (2) đòn nặng, gan lì, thì lại chậm chạp; mặt bành xe, dại đần lắm.

Cho nên Cả Chuẩn vẫn để ý tìm tòi một tông gà hay nuôi cho bõ công vần vỗ. Ông thường phàn nàn:

- Nuôi được con gà đi đám, công phu lắm, chứ có phải dễ đâu. Hạng táp nham thì vô thiên lủng ra đấy. Nhưng không bõ.

Một bận, ông sang Tư Méo bên Bính Hạ chơi. Gớm! Ông cứ mê lên về gà của hắn. Ông thuật lại với anh em bằng một giọng vô cùng thèm muốn:

- Chết! Chết! Chơi như người ta mới là chơi, chứ như mình ấy à! Một tay lão ta nuôi hai mươi nhăm con gà, ở trong một cái trại bát ngát. Mà con nào cũng như công như phượng ấy!

Cả Chuẩn còn sang bên Tư Méo bốn năm bận nữa. Ông mày mò muốn mua một con gà mái. Cho rằng: "Chó giống cha, gà giống mẹ". Gà mẹ có hay, gà con mới đá được. Tư Méo có cái Mái Ô sô mặt tông siếc, ông mê thích quá: "Chân tay mặt mỏ ấy, nó đá như vũ như bão chứ chẳng không".

Nhưng khẩn khoản thế nào, Tư Méo vẫn không bán, mà hỏi mượn về "đúc" một lứa, hắn cũng không cho. Càng thế, Cả Chuẩn càng mê mẩn con mái xồm. Ông nhất quyết phải chiếm cho kì được mới yên lòng, nhưng vẫn băn khoăn chưa tìm ra cách nào.

Một buổi tối, người hàng xóm ông mất gà. Mụ xắn váy quá đầu gối, dạo khắp ngõ trong, ngõ ngoài, quai xanh vành mỏ ra sa sả rủa đứa nào đã chấp chiếm con gà mái của mụ.

Nghe vậy, Cả Chuẩn bỗng nảy ra một ý kiến. Ông mỉm cười gật gù khoan khoái, lấy làm đắc sách lắm. Sáng hôm sau, mặc dầu trời lạnh, ông đã lọ mọ xuống xóm dưới vào nhà Cả Cúi chơi. Đôi bên thì thầm bàn tán với nhau có vẻ bí mật lắm. Lúc ra về, ông còn cặn kẽ dặn đi dặn lại:

- Thế nào anh cũng cố lưu tâm giúp tôi nhé!... Nhớ con gà đen và xồm mặt ấy. Tôi không để anh thiệt đâu.

Cả Cúi gật đầu:

- Được! Được! Con nhớ kĩ rồi, ông cứ yên tâm.

Thỉnh thoảng, Cả Cúi lại lên nhà Cả Chuẩn chơi. Có lần hắn còn ở lại uống rượu nữa. Ông cũng chẳng nề hà tai tiếng chơi bời với quân câu gà với làng nước nữa.

Nửa tháng sau. Một đêm tối trời. Cả Chuẩn đã đi nằm từ lâu. Ông đang mơ mơ màng màng đến con gà mái của Tư Méo. Chợt có tiếng Cả Cúi gõ cửa rất gấp, giọng nhỏ và có vẻ sợ sệt:

- Ông Cả ơi! Ông Cả! Ông Cả ơi! Ông Cả!

Đoán chắc thế nào cũng có kết quả tốt đẹp, Cả Chuẩn sướng rơn lên. Ông vùng trở dậy, hấp tấp không kịp thắp đèn, bước thấp bước cao ra mở cửa. Ông hổn hển hỏi bóng người trước mặt:

- Cúi đấy à? Thế nào?

Hắn lách người qua cửa ngõ hé mở, thì thào:

- Được rồi.

Ông Cả vội vã đi thắp đèn, rồi ngồi ngẩn người ra ngắm con gà nghiêng nghé trong ánh sáng vàng kệch, tần ngần chẳng nói chẳng rằng. Cả Cúi sốt ruột cất giọng lè nhè đói thuốc nhắc:

- Ông cho con xin... con về chẳng khuya.

Ông Cả giật mình tỉnh mộng:

- À, nhỉ!

Rồi cứ cầm cả gà trên tay đi vào buồng, nâng đầu vợ gọi:

- Này! Này! Đưa mượn tạm năm đồng.

Bà Cả oặn oại, ậm ờ, giọng khê nồng nặc:

- Bây giờ còn lấy tiền làm gì?

Ông phát bẳn:

- Có việc chứ còn làm gì nữa? Hỏi lẩn thẩn mãi!

Bà Cả đành phải đấu dịu. Bao giờ ông gắt, bà cũng phải đấu dịu như thế:

- Ở cái bao trong bồ hàng ấy. Lấy đúng năm đồng thôi nhé.

Trả tiền Cả Cúi, đưa hắn ra về rồi, ông Cả vẫn còn ngồi mê man ngắm gà đến mãi khuya.

Đêm ấy, Cả Chuẩn trằn trọc không sao ngủ được. Ông cứ nghĩ luẩn quẩn về con gà mới mua, và tưởng tượng đến bao nhiêu chiến công rực rỡ của đàn con nó sau này Mãi gần sáng, mới chợp đi được một lúc. Trong giấc mơ, ông chập chờn thấy toàn những gà là gà.

Hôm sau, ông đi khắp mặt làng chơi trong làng khoe mình mới mua được con gà mái ô đẹp lắm, của anh bán củi gánh qua. Và nhân thể ông đặt luôn nó là cái Mái Củi Tạ.

Con Củi Tạ đá nặng đòn lắm. Ai xem cũng phải thán phục nó có đôi quản đẹp. Cả Chuẩn đã cho thử tài đến năm sáu bận. Không con nào chịu nổi nó đến ba hồ. Lần nào cũng chỉ hai hồ, hai hồ rưỡi đảo về là nó đánh con địch một đòn cứ biệng siệng như người say. Cho đến hết hồ thứ ba là phải chạy. Duy có con Mái Xám của phó Tiệm trên phố phủ, gan liền mới chịu được năm hồ, thì hôm sau ngã gục xuống chuồng lợn chết.

*

* *

Độ rầy, con Củi Tạ mới đổi lông, óng ả, mượt mã và béo tốt ra. Cái mặt đỏ gay lên. Nó dạo hết nhà trước vườn sau, thẫn thờ gọi trống: "Coóc!... Coóc!... Coóc!... Coóc!... Coóc!...".

Cả Chuẩn càng băn khoăn lo nghĩ. Từ ngày có con Củi Tạ, ông vẫn để ý tìm ở vùng này một con gà hay "đúc" (3) một lứa. Ông đem ý này bàn soạn với các bạn:

- Ở ta bây giờ, tôi xem không có một mái gà nào gọi là đá được để "rầy" con mái Củi Tạ, các ông ạ.

- Thiếu gì? Cái Tía khuỳnh ba kì của đồ Thảo thế nào?

- Cái ấy đá thì có gì, ông bảo! Dễ cứ ăn ba kì là gà hay chắc? Chả cứ, ông ạ!

Hương Chế biểu đồng tình:

- Phải! Ông Cả nói phải, có cứ gì ăn giải là gà hay đâu. Chẳng qua là hợp "vở" (4) thì ăn thôi chứ khó gì. Chẳng hạn như gà mình chui, gặp phải con đấm, cứ mạng sườn nó thúc thì hỏi "ông" chui vào đâu? Chỉ ba hồ hương là "ông" sễ cánh buồm xuống, "ông" bước. Nếu biết kháp (5) ra, gặp con đè cần bắt tảng (6) thì ông đã lại tiền bỏ túi.

Con Tía khuỳnh chân sương (7), ông Tư vừa nói, có đòn gì? Tôi chả thấy nó đánh cần cáo bao giờ gọi là có. Độc vị "thông vỉa hai mang" (8), gặp phải con đấm hay, cu cậu đâm ra tháo chái.

"Cần chạy vài nhì" (9) lắm khi còn đánh "sà leo" (10) ngã quật mình xuống đất như trời giáng nữa mới chết chứ.

Gà hay vùng này bây giờ tôi chỉ thấy có ba con thôi: Củi Tía Nồi của Tư Méo là một. Nó đá thì không phải bàn cãi nữa rồi. Cái Ô Chuốt gan liền tướng quân của lang Mão Đồng Kỵ là hai. Với lại cái Bịp Tầm đại (11) của đồ Đán bên Đình Bảng là ba. Thế thôi đấy. Còn ngoại giả tôi không còn ưng ý một con nào nữa.

Hương chế nói rất chí lí. Cả Chuẩn cũng nhận thấy thế. Vùng này xem ra chỉ có ba con gà ấy là xứng đáng rầy (12) cái Mái Củi Tạ thôi. Con Tía Nồi của Tư Méo thì ông Cả không dám màng đến rồi. Con Bịp được cái phủ đòn và cũng có cần cáo đấy. Nhưng ông ghét nó phải cái lớn quá. Chơi gà tầm đại ra đám khó kén được con "đồng cân đồng lạng" mà đá.

Cả Chuẩn nghĩ chán rồi. Ông nhất định lên Đồng Kỵ mượn cái Ô Chuốt. Con này tầm trung vừa chơi. Nó đá nhiều cần cáo lắm; lắm đòn đánh con địch kêu quang quác, bay vù ra ngoài sới. Khốn nỗi lang Mão không cho mượn. Cả Chuẩn cố nàì nẫm khẩn khoản mãi. Nể lời quá, và là chỗ bạn bè thân thiết, lang Mão đành bàn khéo:

- Thật tình tôi không dám tiếc anh em đâu. Ở nhà tôi cũng đang cho rầy mái. Khó nghĩ quá! Hay là thế này. Ông đem con Củi Tạ đế trên này đúc một thể?

Cả Chuẩn không bằng lòng. Ông cười gượng gạo bàn ra cách khác:

- Ừ! Thế cũng được. Nhưng mà... Nhưng mà... Hay thế này tiện hơn. Mỗi hôm tôi sai cháu nó đem lên đây. Ông cho cái Ô Chuốt đạp một lần, có nhẽ tiện hơn.

- Vâng! Thôi thế cũng được. Chỉ khí vất vả cậu em một tí.

Hôm ấy ra về, Cả Chuẩn nghĩ lung lắm. Ông tự nhủ: "Cho đem lên như thế này, ngộ nhỡ gặp Tư Méo thì sao". Trí óc rối ren lên không biết bao nhiêu là ý định. Ông tìm cách này, cách nọ, chưa bề nào ổn cả. Không lẽ cho vào lồng rồi phủ giấy ra ngoài? Hay nhét vào cái bị? Ừ, nhét vào cái bị có nhẽ là tiện. "Nhưng lang Mão thấy mình giấu giấu, giếm giếm như vậy thì có phải lòi cái gian ra không?".

Sau cùng, Cả Chuẩn chặc lưỡi quyết định như thế này: "Cứ đem tự nhiên. Nhưng phải đi vòng cánh đồng. Khí xa thực đấy. Nhưng thôi, chịu khó một tí vậy, cho chắc chắn".

Thế là ngay hôm sau, cơm nước xong, cu Trạm lệch thệch ôm con gà vòng cánh đồng lên Đồng Kỵ lấy giống. Cứ ròng rã như thế hơn nửa tháng trời, cho đến ngày con Củi Tạ rạo rực tìm ổ mới thôi.

Rồi con Củi Tạ đẻ. Mỗi lần nghe nó "cục ta cục tác" hoà với hai con gà trống kêu inh nhà lên, ông Cả lại sung sướng rộn rã. Có bận, chừng chếnh choáng say, ông liếc bà, tủm tỉm nói lỡm:

- Đấy bà mày nghe xem. Có phải con gà mái kêu: "Vừa đau vừa rát! Vừa đau vừa rát!" thì con gà trống ở đâu te tái chạy lại dỗ dành: "Ai cũng thế! Ai cũng thế!" không?

Dứt lời, ông cười ha hả.

Bà Cả nguýt chồng, nguẩy xuống nhà bếp, lẩm bẩm:

- Người đâu khổ là người! Vài ba hớp rượu vào là như trẻ con ấy.

Cả Chuẩn cũng chẳng để ý đến lời vợ: ông còn mải lấy thóc cho gà ăn và đi cất trứng cho cẩn thận. Chẳng nữa chuột tha hoặc rắn nuốt mất. Cái trứng nào ông cũng đánh số nhất, nhị, tam, tứ, thứ tự trước sau.

Thấm thoắt, con Củi Tạ đã ấp. Những lúc nó rời ổ đi ăn, uống, Cả Chuẩn lại vào nhòm xem ổ trứng thiếu đủ ra sao. Ông đoán cái nào tròn là nở ra con đực, cái nào dài là nở ra con mái. Và để ý từ màu sắc thay đổi, từ màu hồng hồng đổi dần sang màu xám. Những công việc tỉ mẩn không đâu ấy cũng đủ khiến ông vui thích mà bận rộn suốt ngày.

Ấp được hai mươi hôm thì nở. Hôm ấy, Cả Chuẩn ở luôn bên ổ săn sóc. Mỗi con gà ráo lông, ông lại bắt ra bấm cái mỏ chấu (13) đi. Việc ấy đối với ông quan hệ lắm. Chả thế mà trứng chưa nở hết, ông phải ngồi chờ quá nửa đêm vẫn chưa đi ngủ. Bà Cả thương chồng vất vả, mấy lần nhắc nhỏm:

- Thì mặc nó có được không? Việc gì mà thức cho mệt người!

Ông bực mình, gắt lên:

- Bà thì có biết cái gì nữa mà cũng cứ nói mãi! Không chờ bóc vỏ chấu về sau này đá độ vài ba hồ đã tuột mỏ của người ta đi à?

Vả lại ông cũng không muốn ngủ, cứ thích ngồi rù trong chăn bông bên ngọn đèn hút thuốc lào vặt và chú trọng nghe tiếng gà con chiêm chiếp, xao xác đến vui tai.

*

* *

Lứa gà ấy của Cả Chuẩn chỉ để lại có hai con: một cái Ô Mã Mái và một cái "nảy nòi" Sám Miến Hồng. Đôi gà này mỗi con đều có một đặc biệt riêng. Ngay từ khi hãy còn lông tơ, con Sám Hồng đã bỏ đàn đi bới sâu ăn riêng một mình rất xa đàn. Còn con Mã Mái ăn no lại nằm chầu hẫu ngay mỏ mẹ, đúng với câu: "Thứ nhất ăn sâu, thứ nhì chầu mỏ". Ông tin chắc thế nào đôi gà ấy cũng có tài xuất chúng.

Bảy, tám tháng sau, đôi gà ấy đã qua thời kì "bóc dò"; rồi gáy căng. Cả Chuẩn đem sửa sang cắt tai, cắt mào; và gọt lông ở bụng ở đùi cho dễ om bóp vần vỗ. Bây giờ, chúng có vẻ con nhà tướng lắm. Mỗi khi nhác thấy nhau là nghển cao cái đầu đỏ chót lên, "cục téc" một tiếng lớn. Rồi vỗ cánh phành phạch, cất tiếng gáy khiêu khích. Chúng nghiêng mình đứng kình, dữ tợn nhìn nhau và bước lên những bước đi đĩnh đạc, chắc chắn, quả quyết cùng nhau một trận thư hùng. Ông Cả phải nhốt riêng mỗi con một nơi.

Tuy rằng cùng đàn với nhau mà đôi gà ấy mỗi con một vẻ, mỗi con đánh một đòn. Con Ô Mã Mái tảng dày, mí trờm làm cho đôi mắt ếch sâu hoắm vào. Mỏ tam sơn, ba múi, quăm quắm như mỏ diếu hâu. Mình củ đậu (14), đuôi lá vả, tỏ ra có sức bền bỉ, gan góc. Nhất là đôi quản đen bóng, rắn cứng như thép nguội. Hai hàng vẩy một song song chạy từ kheo đến bàn. Quản bên phải, sóng ngang với cựa có một chiếc vẩy rất nhỏ cài vào nữa. Theo những tay chơi, đó là chiếc vẩy cáo, lợi hại lắm. Nó chuyên "hầu dọc" (15) rất nhiều cần, cáo (16). Ai cũng phải chịu là con gà hay.

Nhưng đến con Sám Miến Hồng thì mới thực là tài ba có một. Với đôi quản đầy vẩy "khâu dao" (17), chỉ buông không cũng thành cần, cáo. Và nhất là hai ngón "thái" (18) vênh vênh kì quái. Nó đã lấy vừa đúng mười hai con mắt trong mười hai trận đá. Sám Hồng khét tiếng là con gà kì tài. Đến nỗi vần khấu mỏ (19) lấy giẻ quấn chân lại, nó còn "buông" (20) một đòn khiến con Mã Mái giãy lên đành đạch.

Từ đấy táng kệch, không ai còn dám cho gà vần với nó nữa, Vì thế, con Sám Hồng chưa bao giờ đá đến quá hồ rưỡi. Cả Chuẩn vẫn sợ sau này, ra hội, nó không đủ hơi, nên ông đành phải cho vần lồng với con Mã Mái vậy.

Sầy-khách-lai ngoài Hà Nội về đã trả con Sám Hồng tới năm chục bạc. Nhưng Cả Chuẩn nhất định không bán. Ông cười chậm rãi:

- Vâng! Cứ kể ra năm chục thời cũng to đấy! Nhưng cái lòng thích với cái công phu nuôi nó thì nhiều chứ! Ai lại đem bán đi!

Thường thường, Cả Chuẩn vẫn ngâm câu: "Chân chì mắt ếch đếch sợ ai. Quản ngắn đùi dài đá chẳng sai" tả cái gan góc của con Mã Mái và câu: "Đầu công, mình cốc, cánh vỏ chai. Quản ngắn đùi dài đá chẳng sai" tả cái gọn gàng nhanh nhẹn của con Sám Miến Hồng.

Bỗng một hôm tiết trời đổi khác. Gío heo may lạnh lẽo vi vút từng cơn. Cả Chuẩn sổ suýt nói tiếng đằng tai. Ông thấy trơn trởn người; gây gấy sốt, da nổi gai ốc lên. Cái đĩ Biểu cũng ươn người, quấy mẹ suốt đêm. Ông Cả cất giọng ngàn ngạt bảo vợ:

- Trở trời đây mà! Khí tiết này độc lắm đấy, bà nó ạ.

Sáng hôm sau, Cả Chuẩn nằm nghe đôi gà gáy, thấy kém mọi ngày đến mươi mười lăm tiếng và giọng không được mạnh mẽ, xói vào tai như trước.

Đôi gà hôm nay mất hết vẻ hùng dũng. Chúng xù lông ra, rụt đầu vào, thu gọn trong đôi vai cánh nhô lên. Mắt nhắm nghiền, cái mỏ se sẽ vẩy. Thấy động, chúng giật mình te hé cặp mắt đỏ đục nhìn ra, rồi lại từ từ nhắm lại.

Cả Chuẩn như mê sảng, chạy hết đầu hồi bên nọ lại sang đầu hồi bên kia sờ nắn gà. Cuối cùng, ông ngồi thần ra bên bu úp con Sám Hồng. Hai tay ôm má, nâng cái đầu hoa râm rũ rượi. Ông chép miệng nói qua tiếng thở dài ảo não:

- Ối chào ôi! Nuôi với nấng.

Con Mã Mái vốn có sức, không đến nỗi nào. Con Sám Hồng thật hết gỡ. Mới có một đêm mà thịt nhão rào rào, nhẹ thọp hẳn đi. Cái diều đầy cơm không tiêu, rắn chắc. Da dẻ xám ngoẹt và lạnh ngắt. Đờm vướng trong cuống họng, nó khò khè thở. Chốc chốc bị tắc hơi, nó lại vẩy mạnh cái mỏ kêu "quéc" lên một tiếng lớn.

Cả ngày hôm ấy, ruột gan Cả Chuẩn rối bời lên để chạy thuốc cho hai con gà. Đứng không yên, ngồi không yên. Ai mách lối nào ông cũng làm. Giã gừng cho uống, nướng tỏi cho ăn, xoa dầu Nhị Thiên Đường, đốt bồ kết, xương truật, thôi thì đủ thứ. Trong đời ông, từ cha sinh mẹ đẻ đến vợ con đầu gối tay ấp, ông chưa phải hầu hạ ai khổ sở lo lắng đến như thế này. Cả Chuẩn như mất hồn, trông người sút hẳn đi, phờ phạc, xanh xao. Suốt đêm không ngủ, hai mắt cứ chang chang; và đôi tai rất thính nghe không sót một tiếng quéc nào của hai con gà quý báu theo gió lạnh đưa vào.

Thế rồi con Sám Miến Hồng chết rũ ngay đêm hôm thứ hai. Cái mỏ há rộng, đờm rãi xộc cả ra mũi. Một đàn kiến nhỏ tung tăng ở đó kiếm mồi. Cả Chuẩn lặng người đi. Ông trân trân nhìn gà. Nét mặt trơ trơ như chẳng hề mảy may buồn tiếc. Có lẽ ông biết trước số phận con gà ấy rồi. Ông thở dài, từ từ nhấc xác con vật lên ngắm nghía một hồi lâu. Nửa cười nửa mếu, ông nghiến răng cay đắng:

- Rõ công cốc!...

Dứt lời, ông ném phịch xác con gà quý báu xuống đất, đoạn vỗ tay phủi bụi, thong thả đi lên nhà trên, cất tiếng gọi:

- Cu Trạm đâu rồi!... Vứt cổ nó ra Cầu Bò đi cho ông.

Thằng bé ngơ ngẩn hỏi:

- Vứt gì cơ ạ?

Ông chỉ con Sám Hồng, trợn mắt nghiến răng, quát:

- Mù à? Vứt đi. Hỏi mãi!... Hỏi mãi!...

Từ hôm đó, Cả Chuẩn sinh ra khó tính và nóng nảy. Hơi một tí là thét lác inh hàng xóm lên. Thằng cu Trạm sợ len lét không dám dàn mặt bố. Nó lỉnh đi chơi suốt ngày.

Con Mâ Mãi bỏ dài, ông cũng chẳng thiết trông nom. Con Bạch Nhạn và con Chuối cũ, một người em họ và Tư Chuyên mỗi người bắt một. Giá cái Ô Mã Mãi khoẻ khoắn ra thì cũng chẳng còn. Ai cũng như ai, tưởng thế nào nó chẳng chết! Thế mà trái lại, Ô Mã Mái cứ tỉnh dần, rồi khoẻ khoắn bằng cũ. Trong nhà bây giờ không còn con gà nào, cái kiêu hùng của Mã Mãi càng nổi bật lên. Lúc nào nó cũng nghênh ngang đi sóng đôi với một cái cần đỏ chót vươn cao lên đôi cánh phệnh phạng, nhô lên thụt xuống theo bước đi, trông đặc du côn.

Rồi con mẹ nó ấp. Ô Mã Mái sinh ra chơi bời lêu lổng, đi lang thang hết nhà này, nhà khác trong xóm. Đến đâu là đánh bạt gà trống ở đấy để chiếm những con mái tơ giống Ri, giống Pha bé bằng nửa làm vợ. Chán rồi, nó lại đi và đánh nhau như thế mãi... mãi... Lúc nào nó cũng lén lút ở bờ tre, bờ giậu hay bên những đống rơm ve gái. Bộ lông mỡ màng đen láy của nó xơ xác và đỏ kệch ra.

Từ ngày con Sám Hồng chết, Cả Chuẩn chẳng còn thiết nhìn nhõ gì đến gà qué nữa, thì cái vườn cảnh lại được ông săn sóc đến luôn. Cái vườn cảnh có lẽ chỉ để giải buồn cho những người sính là nhà nho trong lúc chán chường thất vọng bất cứ vì lẽ gì.

Một buổi chiều kia, rượu đã ngà ngà, Cả Chuẩn tha thẩn bên vườn cảnh ngắm hòn non bộ, tỉa vài chiếc lá lan, nắn lại cành si cho đúng kiểu. Chốc chốc lại khe khẽ ngâm một vài câu thơ cổ, giọng trầm trầm như len lỏi trong đám lá xanh thì thầm với bóng chiều tàn tạ. Một vẻ buồn cổ kính vương trên nét mặt ưu tư.

Bỗng tiếng gọi choang choang của Tư Chuyên bên hàng xóm phá tan sự tĩnh mịch, êm ả, thơ mộng ấy:

- Ông Cả! Thế này có chết không...

Vừa nói ông vừa giơ con Bạch Nhạn, rũ rượi trên tay cho Cả Chuẩn xem:

- Ông có cho nhốt cái Mã Mái lại không. Hôm nay nó sang đá hỏng cái Bạch Nhạn này rồi.

Cả Chuẩn thong thả hỏi:

- Sao? Chạy à?

- Nào đã chạy ở đâu. Thế này: tôi đi thăm đồng vắng, hai con ở nhà đánh nhau, mãi lúc về mới biết. Bắt ra thì con Bạch Nhạn gãy cần và tuột mỏ.

- À! Hỏng thì thịt! Làm chết gì! Nếu phải gà hay thì đã đánh được con Mã Mái. Ấy, tôi vẫn bỏ dài cho rầy mái hoang đấy.

- Chớ! Chớ! Ông không biết, chớ cái Mã Mái nó đánh như vũ bão ấy. Tôi dám nối quyết rằng cả vùng này từ con Chuối của lang Mão đến con Bịp của đồ Đản, không con nào ăn đứt được nó.

- Đành thế! Nhưng nói cho cùng: hay mấy thì hay cũng không thể bằng cái Sám Miến Hồng được.

- Chuyện! Bì thế nào được với con Sám Miến Hồng. Con Sám Miến Hồng nó là thần gà, thánh gà, đâu có phải gà thường.

Tư Chuyên hắn nói rất phải: con Mã Mái cũng không phải gà thường thật. Cả Chuẩn nhủ thầm: "Giả thử không có con Sám Hồng, xem mình có quý nó không nào?" Càng nghĩ, ông càng thấy hối vì đã bỏ phí cho con Mã Mái rầy mái hoang, không chịu săn sóc.

Hôm sau, xem xét gà, thì tai hại, con Mã Mái bị kén mép và gãy hết cà lông cánh. Cả Chuẩn cắn cảu gắt mình:

- Thế này còn đá đấm gì nữa!

Cà ngày hôm ấy, hai bố con loay hoay cấy cánh cho Mã Mái. Cu Trạm ôm gà, Cả Chuẩn khâu những lông cánh tích được vào những cuống lông gãy. Ông cẩn thận chọn lọc lông vế nào phải hợp vế ấy. Khâu xong, chấm vào chỗ chỉ vàng một ít sơn sống, ông đắc ý mỉm cười:

- Thôi, thế là tha hồ mà chắc!

Còn cái kén ở mép, Cả Chuẩn đã mổ mấy lần mà không khỏi. Sau cùng, ông đành mặc nó vậy. Và lại, cho đá thử mấy trận, Mã Mái vẫn không sao. Thế là ông đặt cho nó danh hiệu Ô Kén Mép.

Dăm tháng nữa thì hội Nhân Thọ. Cả Chuẩn ra công vần vỗ cho Ô Kén Mép. Cứ cách nửa tháng, ông đem đến nhà Hương Chế vần khâu mỏ một lần. Lối vần này không hại gà. Một miếng da khâu tròn, lồng vào mỏ, hơi rộng một chút cho dễ thở. Có hai sợi dây buộc lên mào. Cứ thế, mỗi bên không thể mổ nhau được để đá. Con nọ chen con kia, thỉnh thoảng có buông được đòn nào thì buông thôi.

Trước còn cho vần ba bốn hồ, sau dần năm, sáu hồ, rồi bảy tám hồ. Mỗi bận vần xong, ông lại đem giã nghệ hoà với ngải cứu và một ít củ tam thất đun sôi với nước giải om bóp khắp thân thể. Thịt Mã Mái sắt lại và da dày lên. Dăm bữa nửa tháng, ông lại cho nó ăn một bữa lươn sống. Ăn cái này khoẻ gà lắm.

Các tay chơi gà sành sỏi trong làng, đều tin chắc chắn con Mã Mái ra hội chỉ có phần ăn với hoà chứ không thể nào thua được.

*

* *

Cu Trạm ăn mặc chỉnh tề, sắp sửa phải ôm gà đi hội. Chiếc khăn xếp mốc điểm thêm vài chỗ gián nhấm lốm đốm trắng của bố thải cho rộng sụp xuống gần lông mày, như nuốt bộ mặt choắt chéo, đen sạm. Cái áo dài vải thâm ngắn cẫng, đỏ kệch, may từ năm lên mười. Và chiếc quần vải to hẹp ống, xoăn xoe mặc cao quá bụng chân. Tất cà bộ y phục đầu Ngô mình Sở, cũn cỡn đó làm cho nó thêm ngớ ngẩn.

Nghĩ đến việc được đi hội, cu Trạm lại vui sướng rộn ràng. Nó nóng lòng sốt ruột vì mấy ông khách. "Chuyện đâu mà lắm thế! Đến bực!". Nó đi thung thăng ngoài thềm, chán rồi ra dựa vào bu gà, bần thần ngắm con Mã Mái.

Khách mỗi lúc một thêm đông. Gian nhà vừa lụp xụp vừa chật chội bộn lên những người. Tiếng cười, tiếng nói xôn xao, ầm ĩ. Ánh sáng cửa giữa lọt qua giàn thiên lí xum xuê hắt vào xanh ngắt. Ngọn đèn ăn thuốc bé nhỏ tù mù không đủ làm cho gian nhà sáng sủa lên chút nào. Người nhà quê vẫn quen sống với sự tối tăm như thế.

Vừa uống nước, Hương Chế vừa hỏi:

- Ông Cả đã xem xét gà cẩn thận rồi chứ?

- Đã.

- Thôi, ta đi thôi chứ?

- Hãy thong thả, còn sớm chán. Để kiểm lại tiền đã nào. Ông Tư năm đồng này. Ông Hương mười hai đồng. Ông Đồ mấy nhỉ?... À tám đồng. Tôi mười hai đồng này. Còn ai nữa.

Thơ Bỉnh vội vã:

- Ấy, còn tôi sáu đồng với chú Tư Vo nó bốn đồng nữa.

Cả Chuẩn lẩm nhẩm một lúc, rồi thong thả gói tiền, cẩn thận bỏ vào túi, giao hẹn:

- Thế vị chi là bốn mươi nhăm đồng cả thảy. Sau này đánh chác thế nào, ta sẽ lại tính.

Giữa lúc đó, có tiếng xe tay đổ ngoài cổng ngõ. Hai người khách ăn mặc sang trọng bước xuống, một người mặc ta, một người mặc tây. Họ thong thả đi vào. Đến thềm, người mặc ta cất tiếng gióng giả:

- Thế nào? Ông Cả năm nay có mấy cái ra hội?

Cả Chuẩn trông ra, vội vàng đứng dậy vồn vã:

- A! Ông Hương! Một cái thôi, ông ạ.

Người mặc tây đi sau hấp tấp tiến lên hỏi:

- Sao? Sao lại có một?

- Ồ! Lại cả ông Sầy nữa này! Có một, chứ còn sao nữa? Cái Sám Miến Hồng chết toi rồi.

Sầy sửng sốt kêu:

- Ối trời ôi! Chết toi à? Hoài của! Ngày ấy đã bảo ông để cho tôi thì không để.

Cả Chuẩn cười:

- Chết thì thôi, chứ để thế nào được? Mời hai ông vào trong nhà xơi nước đã.

Hương Thân khôi hài:

- Mặc nước với nôi ấy. Bắt gà xem cái đã.

Cả Chuẩn vội bắt con Ô Mã Mái lại. Vừa nhấc gà lên, Hương Thân đã tấm tắc khen.

- Ái chà! Da thịt rắn đanh này thì phải biết là vần vỗ kĩ càng.

Rồi ông cẩn thận xem cấn, xem tảng, xem mắt; rối xem đến mỏ.

Hương Thân kinh hoàng hỏi:

- Ô, thôi! Chết! Có kén mép hở, ông Cả?

Cả Chuẩn chậm rãi:

- Vâng! Nhưng chả hề gì ông ạ. Đá thử mãi rồi.

Sầy hoạ theo:

- Chân ấy nó vụt thì mấy con chịu nổi ba hồ mà lo!

- Đành rằng thế. Nhưng giá vô bệnh tật vẫn hơn.

Dứt lời, ông lại cúi xuống nâng quản xem, thận trọng ngắm nghía từng li từng tí. Cả mặt trước, lẫn đằng sau quản. Một lúc lâu, ông mới thở nhẹ ra ý tiếc rẻ:

- Ác, thì có đòn ác lắm đấy. Chỉ phải ở hàng vẩy độ (21) có chiếc "chung thân đái tật".

Đồ Thảo lên mặt biết nhiều sách nho bắt bẻ:

- Ông nói vậy thôi, chứ biết đích làm sao được? Ông Đào Công chi phú ngày xưa chỉ làm có Mã Kinh và Khuyển Kinh. Có làm Kê Kinh bao giờ đâu?

Hương Thân tủm tỉm trả lời:

- Không! Kinh nghiệm nhiều, nó quen đi chứ, cứ quen xem mắt gà như các ông, ai cũng bảo con nào đồng tử nhỏ là gan. Như thế là nhầm. Tôi đã nuôi nhiều, tôi biết: mắt con gà nào cũng vậy, sáng ngày ra đồng tử to, càng về trưa đồng tử càng nhỏ dần, nhỏ dâầ rồi chỉ còn bằng một cái chấm đen. Đến chiều lại to. Thế thì các ông bảo tin làm sao được đồng tử nhỏ là gan... Có cứ gì đâu, trăm nghìn lối xem, mỗi người mỗi khác.

Sầy cười lên hềnh hệch:

- Ồ! Thật à, ông Hương? Nếu thế thì y như cách xem giờ bằng mắt mèo của các báo đã đăng. Thần tình nhỉ!

- Chậc! Mắt mèo thế nào thì tôi không biết. Chớ mắt gà, nghiệm ra, hễ cứ râm trời thì đồng tử to mà càng nắng thì đồng tử càng bé. Có thể thôi!

Cả Chuẩn ôn tồn bảo mọi người:

- Ông Hương nói đúng đấy. Cái Mã Mái này thật bệnh tật suốt đời thật. Ngày còn bóc dò thì ốm mốc; khỏi ốm mốc lại bị trận ốm giây "thập tử nhất sinh". Đến lúc khỏi chết giây; thì đâm ra kén mép, chữa thế nào cũng không khỏi.

Rồi như chợt nhớ ra, ông tươi cười bông lơn:

- Ô chết chửa! Mải chuyện gà quá, quên cả uống nước.

Mọi người cất tiếng vui vẻ, kéo nhau vào cả trong nhà. Sau tuần nước, câu chuyện càng thêm giòn giã, nở nang. Hương Thân tấm tắc khen:

- Đẹp! Trông sướng cả mắt.

Sầy trợn trừng trợn trạc:

- Đã thấm đâu. Con Sám Miến Hồng mới thích chứ. Nó đá mười hai con mất mắt trong mười hai trận đá. Chính tôi đã được xem một lần. Chết! Nó đã cứ vun vút "liên chi thanh nguyệt chi công". Nhắc chân lên là thành cần cáo. Đầu công thon thon lé đòn rất tài... Chao bên này!... Chao bên này!... (vừa nói Sầy vừa dựng hai canh tay lên chao bên nọ, bên kia giả làm cổ gà) cứ thoăn thoắt, thoăn thoắt! Coi sướng lạ!

- Hoài của, thế mà chết mất.

Tư Chuyên từ nãy vẫn ngồi lì xì không nói, nghe chừng đã nóng ruột ruột, nhắc nhỏm:

- Dễ thường trưa rồi đấy.

Cả Chuẩn sai cu Trạm cầm gà đi trước. Hương Thân lại gần thân mật hỏi:

- Cánh nhà định đánh bao nhiêu đấy?

- Độ năm chục đổ về thôi, ông ạ.

- Thế nào cũng cho chúng tôi ké với nhé. Đem con gà đi hội, ta phải đánh to to một chút, mới bõ công vần vỗ ông ạ.

Thế là cả bọn lục tục kéo đi.

*

* *

Dưới mái đình những chiếc giải gà buộc lòng thòng. Ba chiếc giải: nhất, nhì, ba; và năm sáu chiếc giải lèo. Những vuông lụa điều uốn éo nhẹ nhàng trong cánh gió. Cu Trạm say sưa nhìn. Nó mơ ước một chiếc thắt lưng, trong khi mọi người chàng màng tìm gà kháp đá. Năm nay rất nhiều gà. Nhưng con thì nhỏ quá, con thì to quá. Hạng bằng trang (22) thì lại hơn xương (23), hơn cựa. Kháp gà phải thận trọng cân nhắc suy bì từng li từng tí. "Hơn một cái lông không chọi" cơ mà!

Cả hội xem ra chỉ có con Hoa Mơ của bác nhà quê ôm khư khư trên tay ngồi thu hình một xó đình là "đồng cân đồng lạng". Nhưng ngữ ấy còn làm gì ra nhiều tiền mà chơi. Vả lại Hương Thân, Cả Chuẩn cũng đã so sánh chán rồi. Chân tay mặt mỏ cái gà ấy cũng không phải vừa. Tuy rằng không có đòn linh (24) bằng Mã Mái, nhưng lại hơn ở cái không có kén mép. Vì thế các ông cũng chẳng thiết.

Họ chán nản ra hàng trầu nước làm vài khói giải buồn. Tư Méo cũng ngồi đấy, ông đon đả hỏi:

- Thế nào cái Mã Mái ông Cả định cho đá với cái nào chưa?

Cả Chuẩn ngửa cổ, thở khói thuốc lào, lắc đầu:

- Chưa, ông ạ. Có mỗi cái Hoa Mơ xem ra cũng lợi hại lắm. Mà gà của tôi thì kén mép.

Hương Thân nói xen:

- Chả chơi được với nó!

Tư Méo xích lại gần thì thầm:

- Được! Đá được mà! Cái gà ấy ở Trung Mầu tôi biết. Nó thì hay lắm đấy. Nhưng gặp phải anh chàng không biết chơi cho đi với gà già "vỡ" rồi (25). Chỉ đánh đến hồ thứ ba là chạy. Các ông có đá cho tôi ké ít nhiều với.

Cả Chuẩn, Hương Thân sung sướng reo khẽ:

- Thật à?

Thế là họ đem Mã Mái sát với Hoa Mơ. Gã nhà quê không dám cho gà đá. Nhất định kêu con Mã Mái to hơn, tuy rằng đôi gà rất bằng phân. Về sau, Lý Khản Trang Liệt phát bực mình gắt:

- Sợ gì mà sợ! Cái nhà bác này! Ta đánh cái kén mép của họ.

Gã nhà quê e dè:

- Đành rằng thế! "Cơ mờ" cháu không có tiền.

Lý Khản cười kha khá. Chừng ông say. Ông hùng hổ nói:

- Bác đánh bao nhiêu thì đánh. Còn mặc tôi. Bao nhiêu cũng cân.

Đôi bên thoả thuận đem gà vào sở tại, xin đánh giải nhất. Mỗi bên cược năm chục bạc. Còn sau này gọi thêm.

Hai ông chủ kê đem gà ra sới. Mọi người xúm đông quây vòng quanh bên ngoài vạch vôi. Hương Thân cầm con Mã Mái. Ông bắt gà, thả gà, chữa gà khéo léo và nhiều mánh lới có tiếng.

Hết giao vào díu (26), Hoa Mơ đánh Mã Mái một đòn cong hẳn cần lại, quay liệng đi nửa vòng, Lý Khản gọi liền:

- Mười đồng ăn tám Hoa Mơ đây.

Sầy giơ tay:

- Bắt!

Hai người vừa trao tiền cho nhau xong, Mã Mái trả một đòn hầu dọc, Hoa Mơ ngằn ra, và tiếp thêm mấy chiếc nữa. Sầy sung sướng reo:

- Tin!... Tin!... Mã Mái năm đồng nữa! Ai bắt không?

Đôi gà cùng lọt quản, mau đòn nên sát phạt nhau dữ lắm. Người xem đểu xuýt xoa khen là "kì phùng địch thủ". Mới nửa hồ đầu mà quản con nào con ấy như trát máu.

Những lúc thả gà, Hương Thân đã để ý bao giờ Mã Mái cũng buông trước một đòn. Cho nên ông thả "lơi" cho đúng tầm chân đá. Người ta thận trọng từng đòn một, trong lúc ăn thua này.

Đôi gà vẫn tranh hùng trả đòn nhau kịch liệt, xô đi đẩy lại sát vào vòng người. Hai ông chủ kê bắt gà của mình ra. Họ xoa nắn chà xát đùi vế và cho uống dấp giọng một tí nước, thấm vào khăn mặt cho tỉnh táo. Rồi cùng lừa lừa xem lối thả của người kia thế nào. Lý Khản cũng sợ cái đòn buông của Mã Mái. Ông đặt giúi Hoa Mơ vào sát. Nhanh nhẹn, Hương Thân nhắc lùi gà mình về phía sau. Được thế rộng, đúng "võ", con Mã Mái buông liền. Hoa Mơ bị đòn rung chuyển cả người, mấp máy cả đuôi tôm. Mã Mái tiếp liền. Nó đánh một đòn rất nặng. Cái đòn di truyền của mẹ nó - con Mái Củi Tạ - khiến Hoa Mơ hoang mang, biệng siệng như say. Chân thấp, chân cao tấp tểnh và bối rối quay "tháo chái"(27).

Lập tức, gã nhà quê lúc nãy ôm phắt gà lên nhất định kêu quản con Mã Mái bôi thuốc độc, nếu không, sao vừa mới thả vào, gà của hắn đã hoa mắt như thế được?

Sầy sừng sộ:

- Anh định cãi bây phỏng? Anh định cãi bây phỏng?

Cả Chuẩn đứng giang tay, phân bua với công chúng:

- Các ông đứng quanh đây thử xem xem! Hai con vẫn ở đây, nào đã đi đâu xa mà bảo cho thuốc với cho men được? Chẳng qua là cái đòn nó như thế. Vậy xin phép các ông hàng hội cho chúng tôi vào lấy giải.

Gã nhà quê nhất định không nghe. Đôi bên cãi nhau ồn ào. Mấy ông sở tại phải ra dàn xếp khéo với Cả Chuẩn:

- Thôi ông ạ! Ta lại cứ cho vào đánh. Gà của mình hay vẫn được. Phải cái người họ quê mùa không biết gì.

Hương Thân cười nhạt:

- Không biết gì! Không biết gì ăn người! Không biết gì đời! Ông bảo bao giờ cái Mã Mái lại đánh được một đòn như thế?

- Thôi! Xin các ông. Chơi vui với nhau ấy mà!

Bàn đi tính lại một lúc lâu nữa, Cả Chuẩn mới bằng lòng. Ông nói với mọi người:

- Tôi chơi thế này là chơi "lép vế" đấy.

Đến lúc cho gà vào đánh, mọi người đều kinh ngạc thấy Tư Méo cầm, thả con Hoa Mơ. Ông cười nháy Hương Thân chống thẹn:

- Gớm! Chơi với bời! Ai lại thả "nhà nghề" thế bao giờ! Mình đành phải cầm giúp Lý Khàn vậy.

Hương Thân giận tím mặt. Bây giờ mới vỡ nhẽ. Thì ra con Hoa Mơ của Tư Méo. Hắn mưu mô quỷ quyệt cho gã nhà quê cầm rồi lại để Lý Khản vờ đánh tiền. Gớm thật. Hương Thân cười khẩy:

- Hừ! Bây giờ ông Tư mới chịu "ra mặt". Màu mãi.

Đồ Thảo thâm hiểm, nói xa xôi:

- Vừa rồi có đám cháy ở đàng kia các ông ạ.

Ông có ý nói xỏ: "Cháy nhà mới ra mặt chuột". Tư Méo gằm mặt không dám nói gì.

Mấy viên thiết đả con Hoa Mơ ăn trong lúc nhếu nháo đã ngấm. Nó đã lại người, tỉnh táo mạnh mẽ như trước. Hương Thân thấy hơi lo lo. Tuy rằng Mã Mái hơn đòn một chút, nhưng cái lối đòn cũng đã "hầu dọc" và "khoá mỏ" ấy rất nguy hiểm cho cái kén mép.

Quả như Hương Thân đoán thật. Sang hồ tư, Mã Mái bị vỡ kén, máu chày rất nhiều, và kém dần dần.

Tư Méo tủm tỉm nói khích:

- Nào đã chắc mèo nào cắn mỉu nào.

Hương Thân cười gằn, nhắc lại:

- Thật đấy, đã chắc mèo nào cắn mỉu nào. Chỉ một đòn lấy giải là thường.

Nói cứng vậy, chứ thật ra Mã Mái nao núng lắm rồi.

Cuối hồ năm, cái kén cương lên đau quá, mổ không được chắc để đá nữa. Đầu Mã Mái dại đi, sưng vù, mọng lên những máu, chúi vào hai đùi Hoa Mơ tránh đòn.

Đồng tiền liền với ruột. Hương Thân chẳng còn nghĩ đến bẩn thỉu, mỗi lần bắt gà ra chữa, ông cho mồm vào hút máu, hút mũi cho nhẹ bớt mặt.

Hồ sáu, hồ bảy, Hoa Mơ đánh toàn đòn riêng (28). Nó nhắc đầu "trao chuông" đánh như gõ vào tảng Mã Mái. Mỗi lần bị đòn, Mã Mái lại lao đao, ngật ngưỡng cái cổ, mổ vu vơ rồi lả dần... lả dần, gục đầu xuống đất. Mỏ tóp tép, máu ở kén chảy ròng ròng đỏ lòm cả sới. Những người đi xem xì xào bàn tán:

- Con Mã Mái ai ngờ bị "ba chân" các ông nhỉ!

Cả Chuẩn thương gà, nói khó với Tư Méo:

- Này, ông Tư này! Xin thua năm phân đấy.

- Thôi, cứ đá cho đến "kì tẩu kì tử".

Hương Thân bĩu môi:

- Ăn lắm mấy! Cặp này hoà cho mà xem. Nếu chạy, con Mã Mái đã chạy rồi. Tôi dám chắc...

Ông vội ngừng bặt và Mã Mái bị một đòn ngã ngửa ra đằng sau. Biệng siệng, giật lùi... giật lùi... Những người đánh con Hoa Mơ reo:

- A chạy! Chạy rồi!

Và mở một đường chờ đón. Con Hoa Mơ được thể đá tiếp dồn dập, thốc tháo. Bỗng con Mã Mái cáu tiết phóng liền một đòn. Hoa Mơ rụt hẳn đầu lại, ngây mặt ra, đuôi phập phổng, người chuyển rung rung. Hăng máu, Mã Mái ngoặp lấy hầu Hoa Mơ đá liền hai chiếc nữa. Hoa Mơ há mỏ kêu "quác" một tiếng lớn, ngã chúi xuống, nằm thẳng cẳng, chân cánh giãy lên đành đạch. Một lúc lâu rồi yếu dần... dần... Máu ở mũi, ở mồm xoẻ ra chan hoà.

Cu Trạm lách qua vòng người chạy ra gọi Đồ Thào khoe rối rít trong khi ông này tưởng Mã Mái thua mười mươi, chán nản ra ngồi hàng nước chẳng buồn nhìn nhỏi đến gà nữa.

- A! Ha! Ha! Ông Đồ ơi! Con Hoa Mơ bị gà nhà đánh chết rồi, ông Đồ ạ.

Đồ Thảo không kịp uống bát nước mới rót, hấp tấp chạy lại sới gà, lắp bắp hỏi:

- Thật không? Thật không?

Vòng người xô hẹp lại. Cả Chuẩn, Sầy vội gạt ra ngoài nói:

- Các ông dẹp xa xa ra một tí, chẳng nữa người ta lại ôm gà lên kêu chúng tôi bỏ thuốc độc.

Con Hoa Mơ bị đánh chết thật. Mà Mã Mái cũng hết gân, không đá được nữa. Nó chỉ lấy chân cào cào, bới bới.

Tư Méo chịu thua. Mặt tái mét, ông run rẩy nhấc gà lên. Hương Thân mát mẻ:

- Đã chắc mèo nào cắn mỉu nào, ông Tư nhỉ!

Tư Méo tức tối, cười nhạt:

- Hừ! Chúng mình còn gặp gỡ nhau nhiều. Đã vội gì...

Hương Thân cười ha hả không trả lời. Ông ôm Mã Mái vào lấy giải.

Tìm trầm

Hoa Ngõ Hạnh

Sau này mỗi lần gặp bất trắc trong đời, tôi luôn nghĩ tới ba tôi.

- Con ạ! Làm thằng đàn ông bản lĩnh không, chưa đủ. Phải biết người biết ta... Lòng người khó đo.

Làng tôi ở một vùng núi hẻo lánh, khỉ ho, cò gáy. Ba tôi trước đây làm nghề thợ rừng. Mười tám tuổi ba đã là thợ gỗ nổi tiếng với những đường đẽo sẵc sảo, với sức mạnh và lòng dũng cảm "Ăn của rừng rưng rưng nước mắt". Thời gian sau có người phất lên nhờ nghề trầm. Ba tôi bỏ nghề gỗ chuyển sang làm trầm. Gỗ hay trầm đều là của rừng cả.

Năm thứ ba ở trường đại học tôi bị kỷ luật vì đi thi giùm đứa bạn. Trở về nằm nhà, sống hoang hoải. Hậu quả của sự càn rỡ vay mượn, bồng bột ngây thơ đã làm tôi buồn đến khánh kiệt. Một bữa ba tôi có ý định cho tôi đi theo lên rừng tìm trầm. "Cho con biết thế nào là lao động đích thực, thế nào là cực nhục" - ba tôi bảo vậy. Đi đợt này có ba người: Ba tôi, tôi, anh Đang - con bác Hai tôi. Đi bộ năm sáu ngày đường mới đến nơi có trầm. Đường đi khó khăn lắm, phải cắt rừng, vượt thác, trèo lên những con dốc đứng đến nỗi mũi chạm đất. Trưa ngày thứ sáu chúng tôi đến ngọn núi có tên là Sương Mãi. ở đây đêm ngày sương mù vây phủ, khái niệm về thời gian mất đi.

Tôi hết sức ngạc nhiên khi phát hiện ra giữa khu rừng heo hút, âm u này một nấm mộ, cỏ đã lên xanh. Trả lời sự thắc mắc của tôi, ba tôi kể:

Câu chuyện thứ nhất:

Hai anh em Phú, Quý quê ở Phú Khánh ra vùng này tìm trầm. Cùng đi trong bầu (1) có hai người nữa tên là Thân và Lương. Trước khi đi họ làm lễ ăn thề, sống chết có nhau, gặp phúc cùng hưởng, gặp nạn cùng chia.

Hơn nửa tháng dạo quanh ngọn Sương Mãi vẫn không tìm được chút trầm nào. Họ bắt đầu nản chí. Lương thực gần cạn. Sang ngày thứ mười bảy, hai anh em Phú, Quý đang ngồi nghỉ chân, hút thuốc bên cạnh một lùm gai mây rậm rạp, tình cờ phát hiện một cây dó mục nằm dài dưới giàn mây. Họ phát cây và dây leo quấn quanh nó, bóc hết lớp gỗ và mối, dần dần những gộc trầm lớn hiện ra đen óng ánh. Hai anh em mừng đến ngạt thở, chất đầy hai ba lô trầm loại dách. ước chừng số trầm bán được khoảng trên bốn trăm cây vàng.

Mang về trại báo cho hai người kia biết xong, bốn người trong bầu quyết định trở (2) sau buổi trưa. Hai anh em Phú, Quý xuống suối xách nước trong khi hai tên Lương, Thân tìm củi bắc bếp. Một thoáng thâm hiểm của hai tên này gặp nhau. Chúng đã hiểu ý. Phú, Quý vừa mang nước từ dưới suối lên liền lãnh trọn hai nhát cúp (3) vào đầu, bổ xuống từ sau gốc cây trên đường xuống suối. Hai anh em chết ngay không kịp kêu lên một tiếng.

Hai tên Lương và Thân khoác hai ba lô trầm đi như bay, bất kể gai rừng. Đi miết đến tối mịt khi nào chúng cũng không hay. Đã thấy đói, chúng dừng chân bắc cơm ăn tạm. Tên Thân vừa lúi húi thổi cơm vừa hỏi:

- Này?

- Gì?

- Đ. mẹ... Hai thằng ấy to con mà rẻ tiền. Mới ăn có một nhát mà vội vàng trẩu (4) liền. Tao thấy mày chơi khá đấy!

- Khá cái con mẹ gì!

- Khoảng một tuần nữa là sống vương giả. Lúc ấy ông có leo lên đái trên đầu thiên hạ chúng vẫn cười. à, còn tao với mày chia chác với nhau bằng trầm hay bằng vàng đây?

- Đây, chia bằng cái này! "Bụp".

Cái cúp phang mạnh vào gáy. Tên Thân kêu lên một tiếng thất thanh rồi ngã dụi. Tiếng kêu rít lên rồi chìm hẳn trong rừng đêm như tiếng đá ném xuống khe núi. Tên Thân ngã úp mặt vào nồi cơm đang sôi dở, tóc bắt lửa cháy khét lẹt, máu từ gáy nhỏ xuống than đỏ kêu xèo xèo. ánh lửa lụi dần, cảnh tượng trông hết sức ma quái.

Một mình tên Lương xốc lại hai ba lô trầm băng rừng đi trong đêm như điên như dại. Sự hưng phấn tột độ, nỗi ám ảnh của ba cái chết và nhất là mấy trăm cây vàng trên vai làm hắn mụ mị. Giữa đêm, hắn bị xịnh (5) vào một khu rừng toàn mây gai không thể nào ra nổi. Những sợi mây to như bắp chân bắt từ ngọn núi này sang sườn núi kia đan vào nhau chằng chịt như trận đồ bát quái. Đến ngày thứ năm hắn hoàn toàn kiệt sức ngã quỵ xuống úp mặt lên hai ba lô trầm mà chết, hai bàn tay hai móng diều hâu bấu chặt lấy miệng ba lô.

Nửa tháng sau một bầu khác xuyên qua rừng mây gặp xác tên Lương đang nằm sấp trong tư thế níu kéo cố giữ lấy hai chiếc ba lô. Đùi và bụng của hắn bị heo rừng và kỳ đà ăn gần hết. Bọn này định lấy hai ba lô trầm nhưng hai bàn tay tên Lương cứ giữ chặt đến nỗi kéo mãi cũng không ra. Sau này chúng dùng rựa chặt đứt lìa hai cổ tay mới lấy được.

Có một bầu nữa gặp xác anh em Phú Quý với hai vết thương trên đầu. Cùng hội cùng thuyền nên cũng dễ hiểu được tình thế. Bầu này chôn hai anh em chung một ngôi mộ và cắm lên đầu một gộc trầm làm bia.

Câu chuyện thứ hai:

Ông Nghệ là người làng Hạ, võ thuật cao cường, nổi tiếng mạo hiểm. Là dân tìm trầm đã tám năm nhưng chưa bao giờ ông chịu chung bầu với người dưng nước lã trong làng.

Có một huyền thoại về cây dó sau trăm tuổi ở trên núi Sương Mãi, toàn bộ phần ruột cây đó biến thành kỳ nam nhưng chưa ai tìm thấy. Nhiều người sành, có cơ may bắt mùi hương của nó nên đoán được loại kỳ nam. Đúng ngọ ngày mùng một và ngày rằm hàng tháng nó mới phát tiết. Hương trầm tỏa thơm nồng cả cánh rừng. Người nào đi vào phạm vi tỏa hương của nó cũng ngơ ngẩn, đầu óc mê muội đi không biết ngày đêm, không biết mình là ai. Đến lúc mùi hương ma quái đó biến mất họ mới sực tỉnh và tiếc nuối. Người mới gặp mùi hương này về nhà sống trong nỗi hoài nhớ mãnh liệt, ba tháng mười ngày sau thì chết. Đúng ngọ thi thể họ hóa ra mùi trầm thơm ngát.

Hai cha con ông Nghệ nhất quyết mạo hiểm tìm cho được cây dó đã thành kỳ nam đó. Ông dọn mình sạch sẽ, ăn chay nằm đất một tháng ông. Dâng lễ cúng, ông Nghệ gieo quẻ âm dương chín lần trên núi Sương Mãi mà vẫn không được. Ông nghĩ bụng: "Tìm không ra bất quá về không. Đã đến là phải tìm".

Một ngày nọ ông dạo dó trên sườn núi, thằng con dạo dưới suối. Đúng ngọ - bữa đó là rằm tháng bảy - ông Nghệ sững người khi bắt đầu nghe mùi trầm lẩn khuất mê mẩn. Ông lần theo mùi hương để tìm cho ra nơi xuất phát nhưng chỗ nào cũng nồng nàn một mùi như nhau. Mùi hương cứ chập chờn quyến rũ, mời gọi, mê hoặc một cách ma quái.

Lúc ông Nghệ hôn mê trong làn hương trầm thần bí cũng là lúc thằng con ông bắt gặp bên cạnh suối một đùi nai bỏ dở, máu còn tươi rói, cạnh đấy là một đống xương nhẵn nhụi. Nó hì hục vác đùi nai về trại.

Ông Nghệ thoát ra khỏi mùi hương bừng tỉnh và tiếc nuối. Lúc mặt trời lặn, ông cắt rừng về trại. Nhìn thấy đùi nai treo lủng lẳng cạnh bếp lửa, ông Nghệ sửng sốt kêu lên một tiếng - tiếng thở than bất lực của người đi rừng kinh nghiệm:

- Trời ơi! Mày giành mồi của Ông Lớn (6) rồi! Chết đến nơi rồi con ơi!

Ông Nghệ biết chắc chắn chiếc đùi nai ấy là mồi thừa của con cọp. Bất hạnh sẽ ập xuống bất cứ lúc nào. Đêm đó ông dỡ sạp xuống đốt một đống lửa lớn giữa trại. Ông nằm mở mắt thao láo, tay cầm chắc cái rựa chờ đợi... Giữa khuya một bóng đen dài vút qua trại, cả căn trại rung lên. Chiếc ba lô đựng lương thực cạnh cửa biến mất.

Hai cha con ông Nghệ ngồi đốt lửa đến sáng. Con cọp mất mồi tưởng chiếc ba lô là cái đùi nai nên lao vào vồ lấy và chạy biến.

Sáng ra ông Nghệ quyết định trở ngay. Ông đi trước, thằng con đi sau. Ra cách trại chừng ba trăm mét bỗng một tiến "ào" vang lên. Quay nhanh lại đằng sau ông nhìn thấy con cọp vằn cắp ngang cổ thằng con ông đang lao xuống vực rậm. Ông đứng nhìn theo nhỏ những giọt nước mắt dài.

Mấy ngày sau đó một mình ông Nghệ vác cây AR 15 cưa nòng trở lại núi Sương Mãi, tìm được bộ xương và cả cái đầu lâu nhẵn sạch trơ hốc bên bờ suối. Gần đó một đống xương thú ngổn ngang. Chỗ này chính là nơi thằng con ông đã lấy đi cái đùi nai. Ông Nghệ đem bộ xương của con táng trên núi Sương Mãi, trên mộ cắm một gốc trầm. Xong xuôi ông bắn ba loạt súng lên trời và quay về. Nghe nói từ đó ông bỏ nghề.

- Thế cái gộc trầm làm bia trên mộ đâu rồi ba? - Tôi hỏi.

- Có một bầu "đói" quá nên nhổ về bán rồi.

Tôi, ba và anh Đang vào sâu hơn, đóng trại ở thung lũng Đá Hang, cạnh suối. Suối có nhiều đá lớn. Anh Đang xuống suối bắt được vô số là ếch đá. ếch trong núi không có mùi tanh. Con nào cũng đen thui, chân dài ngoẵng. Không cần chặt đầu lột da, anh Đang chỉ moi ruột rồi bỏ vào nấu cháo. Cháo chín, những con ếch nổi lềnh bềnh chồng chất trong nồi, ngổn ngang là chân cẳng. Tôi thoáng nhớ đến những người chết trên núi Sương Mãi. Có cái gì đó... Từ hôm ấy tôi không bao giờ ăn thịt ếch nữa.

Mưa rừng. Những cơn mưa dây dưa, buồn, trắc ẩn. Đêm nằm trong rừng nghe gió âm u, tiếng suối chảy ầm ào cả đêm. Nhắm mắt lại cứ ngỡ đấy là tiếng mưa lớn, dai dẳng như mưa trong giấc mơ. Xa xa tiếng những con chim ăn đêm kêu vọng lại: Bóp... Bóp... Bóp... Tiếng kêu nhỏ dần rồi lịm hẳn.

Ai nằm ban đêm trong rừng sâu mới biết, giữa rừng thấy con người thật là nhỏ bé, yếm thế. Tôi chợt thấy mình chỉ là hạt cát nhỏ nhoi, là con sâu cái kiến đớn hèn, bất cứ lúc nào cũng đứng bên bờ vực của sự bất trắc, lãng quên, sẵn sàng tan biến, sẵn sàng vô nghĩa. Vậy mà con người lại đang tâm đi làm những việc tày trời. Phải chăng sự cơ cực đã bắt con người dám giẫm đạp lên các lẽ thường tình.

ở đây sống chết, hạnh phúc, hiểm họa chỉ là sợi tóc mỏng manh, chỉ cần một chút hèn nhát, một chút đê tiện, muối mặt là con người tan tành ra tro bụi. Tự dưng tôi buồn đến phát khóc.

Sau gần một tháng không tìm được chút trầm nào, lương thực cạn. Chúng tôi bò ra được bìa rừng lúc chạng vạng tối của một ngày. Ba tôi vào một cái rẫy hoang nhổ sắn đốt lửa lên nướng. Tôi đã ăn những củ sắn nướng ngon lành, vừa ăn vừa rơi nước mắt.

Ba tôi nói khi nhìn thấy tôi vừa ăn vừa khóc:

- Thiện tâm trên đời này khó kiếm hơn cả trầm. Đừng buồn! Đàn ông phải can đảm lên.

Đêm đó ngủ ở bìa rừng trên những chiếc lá tơi, tôi mơ thấy mình đâm chết con hổ vằn, máu nó phun ra xối xả. Những giọt máu rơi xuống đất bỗng biến thành trầm. Cây trầm đen óng ánh. Rừng trầm chợt phát tiết thơm nồng nàn. Mùi thơm quyến rũ, mê man. Thơm lịm người. Cơ man nào là hương thơm và hương thơm... khôn tả xiết.

Bây giờ tôi là thằng sinh viên bị đuổi học. Cuộc đời phía trước còn dài

Ả Ìa Âu ?

Quế Hương

B ữa ấy bố về và quẳng vào lòng nó một con cún mũm mĩm đen thui.

- Tao chộp nó lúc đang chơi lúc thúc trước cửa. Gọi nó là Chả Chìa. Chà... chưa gì đã nghe thơm điếc mũi! Còn con nữa, nếu túm được, tao đặt Rựa Mận. Cho chúng mày chơi với nó, vỗ béo nó cho tao.

Chả Chìa khát sữa, nhớ mẹ khóc ăng ẳng cả đêm. Ngủ không được bố cáu:

-Bịt mõm con quỉ nhỏ lại kẻo ông ngồi dậy hầm đậu xanh bây giờ. Chó mực con ăn bổ khỏi chê.

Con Mơ lật đật ngồi dậy bế con cún xa mẹ vào lòng. Cún rúc đầu vào ngực nó. Chiếc mõm đen ươn ướt khắc khoải kiếm tìm.

- Ôi nhột quá! Tao đâu phải mẹ mày. Tao không có vú. à cũng có đấy nhưng bé như hạt đỗ, không có sữa.

Con bé hất con cún ra.

- Oẳng... Oẳng... Oẳng - tiếng kêu dài ra van nài tha thiết.

- Im đi! Con Ngổ dậy đấy! Bố dậy đấy! Bố hầm đậu xanh đấy! Thôi cho con nằm tạm một bữa, mai xuống ổ nghe chưa!

Con cún rúc đầu vào lòng con Mợ Nó túm được chéo áo con bé và khát khao mút chùn chụt. Nó nhớ da diết bầu vú căng sữa và bộ lông ấm mềm của mẹ. Nó vừa bú áo vừa ư ư? khóc. Tiếng mút vải của cún làm con Mơ chạnh lòng. Ngày mẹ nó đi mãi không về, đêm ấy con Ngổ cũng khóc ằng ặc vì khát sữa như con cún bây giờ. Nó phải đút ngón tay vào miệng em để cầm cơn khóc.

Mãi đến giờ, nó vẫn không tin mẹ chết. Chết là phải bỏ vào quan tài, đưa ra nghĩa địa. Thế nhưng những điều ấy nó không chứng kiến. Sáng ấy như thường lệ, mẹ đặt gánh lên vai sau khi cho con Ngổ bú nọ Mẹ cho nó tiền mua xôi và dặn ở nhà đút cháo đường cho em khi em khóc. Đến chiều, một bà buôn chai bao hớt hãi đến báo tin mẹ nó bị đụng xe chết, xác để ở nhà thương. Bố nó tất tả ra đi. Từ nhà xác ra luôn nghĩa địa. Đám ma nhà nghèo đơn giản chóng vánh lắm. Người lớn bảo vậy nhưng với nó, mẹ chỉ trốn hai chị em nó ở đâu đó thôi. Thỉnh thoảng bố nó trở về nhà, mặt đỏ gay, không một đồng xu dính túi. Mẹ chậm nước mắt nói dỗi: " Uống đi! ăn đi! Làm mấy ăn mấy cho sướng miệng để vợ con đói khát. Có ngày tui bỏ hai đứa nhỏ cho ông nuôi" . Đúng là mẹ giận bố nhưng sao lâu thế, mẹ không về? Những đêm đầu buồn thảm ấy bố gào lên bên chai rượu đế. Con Ngổ khát sữa khóc đến tắt tiếng. Còn nó khóc lặng lẽ đến khi mắt không mở được nữa. Ba con người khóc ba cách trong căn nhà nát lỏng chỏng chai lọ, sắt rỉ, giấy vụn mẹ chưa kịp thanh toán. Nó lau nước mắt, bắt tay làm mẹ con Ngổ lúc chưa đầy 7 tuổi. Đêm em khóc, nó tha con bé như ếch tha nhái, đi quanh xóm gọi mẹ về. Ông trăng ở trên cao, sáng vằng vặc thế kia có thể biết mẹ chúng trốn ở đâu. Thế nhưng ông không biết nói, chỉ lẽo đẽo theo chúng. Đi đâu cũng đi theo.

Bây giờ nó làm " mẹ" Chả Chìa như đã từng làm mẹ con Ngổ cách đây ba năm. Ngày cún lúc thúc chơi với con Ngổ. Đêm rúc vào lòng con Mơ bú áo. Nó bú ướt nhè vạt áo và thỉnh thoảng vẫn ư ư? khóc vì chẳng có lấy một giọt sữa ngọt ngào.

Được vài tháng, Chả Chìa lại thành vú em con Ngổ. Con bé ra đường. Nó sủa gọi và kéo áo vào. Con bé té khóc, nó liếm chỗ đau vỗ về. Con bé ị, nó dọn sạch... Có lần con bé rớt xuống cái ao nhỏ trước nhà, nó sủa inh ỏi, kêu cứu rồi nhảy xuống cắn áo con nhỏ không cho chìm. Con Mơ nghe tiếng chó sủa chạy ra vớt em lên. Con bé dính đầy bèo tấm, hãi quá đến không thể khóc.

Chả Chìa ngày càng dài ra, gầy gò nhưng vẫn lớn. Toàn thân đen thủi đen thui ngoại trừ một chấm trắng làm duyên ở mũi. Cả ba đứa bữa đói bữa no vì nhà có một người lớn thì người lớn ấy hoa. hoằn mới tỉnh táo. Chúng quấn quít bên nhau, chơi đùa, chia sẻ cực khổ. Con Ngổ đói không khóc nhưng vắng Chả Chìa là mồm méo xệch. Những chiều hạnh phúc là bố trở về không có mùi rượu. Con Ngổ được vài tấm bánh. Con Mơ được cha dốc túi mua gạo và thức ăn. Có lẽ bố nó cũng là người cha tốt nếu ông không mê thịt cầy đến nỗi có tên là Tư Cầy. Nhà nó ai cũng có tên liên quan đến niềm say mê ấy. Mẹ nó có tên là Húng. Cha nó nhân đó đặt tên con là Mơ và Ngổ. Ông xoa tay: " Có Tư Cầy phải có húng quế, lá mơ tam thể, rau ngổ ba lá" . Nó ghét những cái tên đó nhưng đối với mọi người, nó vẫn là con Mơ, em nó là con Ngổ và bây giờ giá gọi Chả Chìa là Mực, nó chả thèm chạy đến. Mấy ai đặt tên hai lần!

Từ ngày mẹ chết, chẳng còn ai ngăn nổi tình yêu " cầy tơ" trong bố phát triển. Ông thường trở về chân thấp chân cao, lè nhè: " Có Tư Cầy, có Mơ, có Ngổ mà không có Húng cũng bỏ... Húng ơi là Húng!" Những lúc đó con Mơ thấy thương chạ Nhưng tình thương ấy biến thành nỗi sợ hãi ngay khi nó bắt gặp ánh mắt bố nhìn Chả Chìa. ánh nhìn ước lượng sức nặng và chứa đầy thèm khát.

Một chiều bố trở về với một ông bạn. Cả hai đều sực nức mùi rượu. Ba đứa vội tránh đi nhưng cái giọng lè nhè quen thuộc đã cất lên:

- Con Mơ tam thể đâu?

- Dạ.

- Con Ngổ ba lá đâu?

- Ngoài sân.

- Chả Chìa đâu?

Nó chỉ tay mơ hồ ra ngoài nhưng Chả Chìa nghe nhắc tên đã nhanh nhẩu xuất hiện. Bố túm lấy nắn nắn cái lườn mịn màng, cái eo thon thả của con chó đang độ tơ.

- Hơi gầy nhưng chắc. Mềm lắm đây. Ngon phải biết! Thơm say mê!

Ông khách hít hà rồi sờ tay lên người con chó. Chả Chìa đớp hụt bàn tay ấy.

- Chả Chìa! Hỗn! Ông chủ quát.

- Chà, nghe tên đã ngửi thấy mùi thơm. Đúng là Tư Cầy đặt!

- Để dành Nôen đấy! Người ta ăn thì mình nhậu. Ba tuần nữa. Mày kiếm rượu đế Gò Đen nghe chưa?

Noel đến gần. Mỗi tờ lịch rụng xuống, trái tim bé nhỏ của con bé cũng lung laỵ Còn mười ngày... tám ngày... năm ngày... Nó thường ngồi sững nhìn em nó và Chả Chìa chơi đùa. Nó không tưởng tượng nổi cuộc sống của hai chị em nó khi không còn Chả Chìa. Trên phố đã xuất hiện những cây thông lấp lánh ánh bạc, nó quyết định thả bạn. Nó cho Chả Chìa ăn no rồi bế em gửi hàng xóm, dắt chóc đi. Thiếu con Ngổ, Chả Chìa cứ bần thần ngoái lại, nửa muốn theo con chị, nửa muốn về với con em. Con Mơ phải bế nó lên. Chả Chìa đã nặng lắm rồi nhưng con bé vẫn cố bế vì đây là lần cuối cùng nó được bế Chả Chìa. Con chó ngạc nhiên liếm những giọt nước mắt nóng hổi rơi trên lưng mình. Giọt này chưa kịp thấm, giọt khác đã trào ra, tròn trịa long lanh như hạt ngọc. Một bà chận chúng lại:

- Bán không mày? Tao trả cho hai xấp.

- Không!

- Bốn đấy!

- Không!

- Chó mực tợ Thôi sáu xập vậy, bán mà mua gạo.

Con bé lắc đầu rảo bước. Chả Chìa nhoài người xuống không chịu bế. Cái mũi xinh xinh hít lấy hít để cái mùi phố thị rõ dần, những mùi thơm ứa nước bọt phả ra từ các hàng quán ven đường. Ngôi chợ nhỏ chỉ đông buổi sáng đã tàn nhưng con Mơ biết ở hàng bún còn cả đống xương móng giò dính những mẩu gân. Thỉnh thoảng đi chợ, nó vẫn ghé vào nhặt làm quà cho Chả Chìa. Con chó mừng quýnh sục mõm vào đống xương. Thế nhưng đang nhai xương rau ráu thấy con Mơ đứng dậy, nó ngoạm vội một cục xương rồi đứng lên sẵn sàng ra về.

- Sao mày khôn thế? Mày không tham ăn bỏ tao phải không? Thế mà tao phải bỏ mày. Không bỏ mày sẽ chết... Hu... hụ.

Chả Chìa cuống quít thả xương xuống, dỗ con Mơ bằng cái cách nó dỗ con Ngổ. Nó đứng trên hai chân sau, đặt hai chân trước lên vai con bé và bắt đầu liếm dỗ. Khi không ngăn nổi những giòng nước mắt nóng hổi trào ra như suối, con chó kêu lên ư ư? buồn rầu. Nó cũng khóc.

- Mày cứ quanh quẩn ở chợ là sẽ có ăn. Còn no hơn ở nhà với tao. Đành xa nhau để cho mày sống. Không biết tao về tao phải làm sao với con Ngổ đây? Hu... hụ.

Cuối cùng con bé cũng lừa được con chó, len lén rời khỏi chợ và cắm đầu chạy. Dọc đường, nó mua một quả bong bóng baỵ Đó là quà đền cho con Ngổ. Ngang ngõ, nó nghe tiếng cha nó:

- Tưởng mất tiêu rồi. Thế mà lại lò dò về tắm nước sôi. Đúng là đồ ngu như chó!

Con bé cảm thấy rờn rợn. Mặt nó tái mét. Hai chân như khuỵu xuống. Chẳng lẽ... chẳng lẽ Chả Chìa về? Nó đang gặm xương ở cái chợ cách đây xa lắm mà!

Nó lê bước vào. Bên bể nước là một con cầy tơ trắng hếu đang nằm nhe răng, những mảng lông đen bết dính lả tả bên cạnh.

* * *

Hai đứa ngồi ở bờ ao. Mặt con Mơ đờ đẫn, mặt con Ngổ nhoè nhoẹt nước mắt, nước mũi. Nó khóc rỉ rả như trời mưa dai, lặp đi lặp lại một câu hỏi ngọng nghịu:

- Ả ìa âu?

- Đó! Con Mơ chỉ tay về phía lò than hồng.

- Hổng phải - con Ngổ lắc đầu quầy quậy- Ả ìa âu?

Bố nó đang trải chiếu bầy cuộc nhậu. Ba người đàn ông hể hả mời nhau.

Cha nó nốc một ngụm rượu dạo đầu: " Nam vô tửu như kỳ vô phong. Tửu vô cầy tơ, tửu như nước lã... "

- Ả ìa âu? Con Ngổ lại kéo áo chị.

- Đó kìa! Con Mơ chỉ vào mâm thịt chó.

- Hổng phải

- Chả Chìa đấy!

- Thế mắt nó âu?

- Ông có râu đang gắp đấy!

- Thế ai nó âu?

- Bố đang nhai đấy!

- Uôi nó âu? Ân nó âu? Nông nó âu?...

Giọng con Ngổ càng lúc càng bồn chồn, vút lên nhọn hoắt.

- Lông nó đây. Con Mơ chỉ vào nhúm lông bèo nhèo bết dính quẳng trên bờ ao.

- Hông. Nông nhiều cơ! Khô cơ! Mịn cơ!Hu... hu... ả ìa âu?

Con Ngổ oà lên khóc. Con Mơ cũng oà lên khóc. Nỗi đau dồn nén từ chiều đến giờ bật thành cơn mưa nước mắt. Chúng khóc thê thảm như ngày mẹ chúng đi mãi không về. Tiếng khóc làm cha chúng dừng đũa, hỏi vọng ra:

- Gì đấy? Đừng làm tao mất ngon. Cho tiền mua kẹo nè. Chó thì giết thịt chứ nuôi làm gì? Vẽ chuyện. Mai tao kiếm con Rựa Mận đền.

Con Mơ bế em ra xóm, bóng Chả Chìa đổ dài bên cạnh. Nó còn quá bé để lường hết tình yêu và sự trung thành của một con chó. Với tình yêu ấy, Chả Chìa của nó sẵn sàng trở về để chết.

Nó thất thểu đi trong thứ ánh sáng lờ mờ, nhập nhoạng, tê tái của những giấc mợ Mẹ trước mặt, Chả Chìa lẽo đẽo sau lưng, thế mà trên vai nó, cái giọng khản đặc vì khóc của con Ngổ vẫn vang lên như điệp khúc: " Ả ìa âu?... ả ìa âu?... ả ìa âu?"

Bệnh Lao chữa bằng mồm

Vũ Trọng Phụng

Chữa khoán bệnh lao, 10 ngày khỏi hẳn , cái giòng chữ đỏ trên vải trắng này trước cửa 1 hiệu thuốc mà các ngài đã biết, chắc hẳn cho đến chết, tôi cũng không quên.

Là vì nhờ đó, tôi đã được đi 1 chầu hát che tàn ba chục bạc. Tiền chi là của thầy lang bất hủ ấy, mà người có công ... chơi sỏ thầy lang, là bạn tôi, anh chàng Cờ.

Ở trọ trên gác nhà thầy lang ấy, Cờ đã vẫn phải chịu cái khổ hình hàng ngày nghe những lời khoác lác bịp khách bệnh của thầy lang. Một hôm Cò nói với anh em: Tức quá, nhà nước sao lại không đánh thuế bằng cách bán vé chợ hay treo môn bài vào mồm những thằng nói phét! Bọn mình không nên bỏ qua mối lợi ấy. Ít ra, nó cũng phải nộp thuế cho anh em chúng mình. Chúng tôi nhất loạt vỗ tay khen. Cờ, đắc chí, thêm: Hèn đến đâu nữa thì nó cũng phải nộp mình chầu hst mới được! Câu nói ba hoa trong 1 phủ hoá dại, ai dám ngờ Cờ làm thành bằng được ra sự thật mới nghe.

Tối hôm ấy, Cờ lại tìm anh em chúng tôi, bảo: Nào, bọn mình anh nao muốn được đi hát thì cứ việc nghe theo cẩm nang của tôi . Sau, anh ta ghé tai tôi thì thào năm phút.

Nửa giờ sau, khi anh Cờ về nhà rồi, hai chúng tôi từ một chiếc xe hơi (xe tắc xi đấy thôi ạ) bước xuống, mạnh bạo tiến thẳng vào hiệu thuốc. Tôi trỏ anh Quyền, giới thiệu với thầy lang:

- Thưa ngài, vì vẫn đi lại với ông Cờ ở trên gác nên tôi rõ cái tài chữa bệnh của ngài. Đây xin giới thiệu với Ngài, ông Tế, thư kí riêng của quan chánh sở liêm phóng.

Thày lang vừa kịp cúi đầu bắt tay kêu Hân hạnh thì Quyền đã hấp tấp:

- Rõ phúc quá Ngài lại có nhà, xin mời ngài ra xe hơi ngay cho.

- Bẩm để đi đâu có việc gì?

- Cô đầm con gái nhà quan chánh tôi mắc bệnh lao, đôsc tờ tây cũng chịu, thật là Thập tử nhất sinh rồi, mời Ngài đến thăm ngay.

Thầy lang tái hẳn mặt, ấp úng:

- Vâng vâng. Xin để chúng tôi dặn 1 việc với người nhà đã.

Thế là thầy lang chạy vội lên gác, phòng anh Cờ. Ngồi chờ dưới, chúng tôi lắng nghe giọng anh Cờ với thầy lang thế này:

- Thế kia à? Thôi thì nhà lang gặp vận tấy rồi! Mề đay kim khánh tới nơi rồi! Giầu to tới nơi rồi! Còn gì bằng được ông Chánh mật thám gọi đến chữa cho con gái nữa.

- Nưng mà ...

- Đi đi thôi

- Nhưng mà ...

- Đi ngay đi chứ còn chờ gì!

- Nhưng mà ...

- Lại còn nhưng mà cái gì?

- Nhưng mà ... Nói bác tha cho, chữa làm sao được mà dám đi!

- Ô lạ! Thế cái quảng cáo to hơn cái mẹt treo ở cửa hiệu...

- Thì bác cũng thừa biết, nhà buôn phải quảng cáo ... phải nói quá...

- Đã đành. Cứ đi xem sao.

- Chết! Đi thế nào được!

- Ô! Thế thì tù rồi! Cạo đầu đến nơi rồi!

- Lạy bác ...

- Hỏng rồi!! Cơm vôi, sàn lim đến nơi rồi!

- Bác làm ơn, lạy bác...

- Ít nhất ba tháng rồi!

- Lạy bác, bác làm ơn nghĩ có cách nào không ...

Một lúc im lặng khá lâu, xong lại thấy tiếng anh Cờ:

- Cũng không khó gì. Cái bọn ấy thì cứ tiền thì êm. Đành chịu thiệt vài chục vậy.

Tiếng giầy xuống gác. Loảng soảng, thìa khoá va nhau trước cái két bạc rồi anh Cờ ra.

- Thưa ngài, nói ngài tha thứ,quảng cáo vẫn phải thế chứ ...

Anh Quyền đứng phắt lên:

- Ấy chết!

- Chính thế ạ. Ngài về thưa với quan trên cho là ông chủ chúng tôi đi chữa bệnh tỉnh xa ba hôm nữa mới về.

- Ooi, ngài làm như là ...

- Thôi, phiền ngài, chúng tôi xin có chút vi thiềng gọi là trả ngài tiền xe.

Quyền, còn ngần ngừ mãi mới trông trước nhìn sau, rồi bỏ túi cuốn giấy bạc.

Tôi không cần thuật lại bao nhiêu cái khoản khoái lạc chúng tôi đã hưởng ở xóm ả đào. Nhưng phải thuật lại 1 chuyện xảy ra ngay hôm sau tại nhà thầy lang thì các ngài mới biết thầy là bất hủ thật.

Chúng tôi muốn ngắm nghía cái bộ mặt tán tài ấy xem nó có những biến chứng ra sao hay không.

Hôm sau, tấm vải quảng cáo bệnh lao đã không thấy treo ra nữa. Nhưng khi vào hiệu, tôi thấy mấy ông già với 1 người trẻ tuổi mặt xanh nhợt xem ý là bọn trọc phú nhà quê.

Cặp kính tắng nghiêm trang trên sống mũi, cái hình thù thì lùn tịt, lắt choắ, thầy lang đi lại trong hiệu, nện gót giầy lộp cộp mà thuyết khách 1 cách oai hùng.

Các ngài có dám đóan thầy lang ấy nói những gì? Đây:

- Các cụ phải biết. Số tiền ấy không to đâu. Mệnh người là trọng.Người làm ra của chứ chẳng phải của làm ra người. Kém 1 đồng cũng không được. Cứ xin các cụ đúng một trăm. Đó là giá đặc biệt cho đồng bào An Nam ta đấy thôi, chứ người Tây, dưới ba trăm tôi không nhận chữa. Không tin các cụ lại hỏi ngay quan chánh mật thám mà xem.! Hôm qua cho gọi tôi mà dưới ba trăm nên tôi không đến chữa cái bệnh lao cho con gái ngài đấy.

Rõ thật khốn khổ thay cho anh Cờ. Bỗng không, được hưởng chầu hát ba chục bạc mà vẫn chưa được hả.

Tay Súng Tay Đàn

O. Henry

1.

Khi chán ngấy cuộc sống buồn tẻ đơn điệu ở nông trại, tôi liền nói với bố tôi:

- Con muốn đi xa bố ạ

- Mày muốn đi đâu? - Bố tôi gắt.

- Con tính về miền Tây. Hiện nay có nhiều dòng người đổ xô về đấy tìm vàng. Con hy vọng....

- Mày điên rồi à? - Bố tôi ngắt lời. - Sao mày không ở nhà mà kế nghiệp tao. Đó chỉ là một nơi hoang dã, vô luật pháp. Người ta chỉ có thể đào được mỏ vàng. Còn mày giỏi lắm chỉ được mấy hòn đá cuội.

Tôi chỉ có ý cho bố tôi biết thế thôi, chứ thực ra thì tôi đã quyết cả rồi. Tuổi trẻ là tuổi bay nhảy, quanh quẩn xó nhà hoài cũng chán. Mà tôi đã hơn 20 tuổi đầu rồi, có phải là con nít đâu (!). Tôi lẳng lặng bỏ vào nhà trong lấy ra hai chiếc túi hành lý trong đựng ít quần áo, vài quyển sách và số tiền tôi dành dụm bấy lâu:

- Mày đi thật à? - Bố tôi nghiến răng.

Rồi chẳng nói chẳng rằng, ông vùng vằng đứng dậy vớ ngay chiếc ghế đang ngồi ném mạnh vào tôi. Nhưng tôi kịp ù té chạy ra ngoài, đầu còn ngoái lại chào:

- Thưa bố, con đi!

2.

Tôi vừa ra được đường cái thì nghe vẳng lại tiếng vó ngựa lóc cóc lẫn tiếng đàn Banjo tình tang. Thong thả tiến lại phía tôi, một cỗ ngựa xe ngựa tàng, chẳng mui mái gì. Chú ngựa chẳng lấy gì làm mập mạp và có vẻ chẳng mấy sung sức. Ngồi bệch trên xe là một thanh niên dong dỏng, áo quần bẩn thỉu, râu tóc bờm xờm. Bộ mặt dàu dàu, gã như đang thất tình hay chán ngán điều gì. Gã vừa đàn vừa nghêu nghao hát:

Một mình từ nơi xa tít xa

Cây đàn xinh xắn vác trên bờ vai

Về nơi đây lang thang phất phơ

Đi tìm cô bé trót yêu lâu rồi....

- Này anh bạn, làm ơn cho tôi quá giang với. Tôi nói lớn.

Gã dừng hát, ngơ ngác nhìn tôi một hồi rồi ra dấu mời tôi. Tôi tức thì nhảy tót lên xe, ngồi đối diện với gã. Lúc này nhìn kỹ hơn tôi thấy bên hông gã còn lù lù một khẩu súng cũ mèm. Cái cổ đầy ghét bẩn đeo một trái tim xinh xắn bằng gỗ màu đen nhánh. Trên quả tim khắc khuôn mặt một thiếu nữ.

- Cậu về đâu thế? - Tôi hỏi

- Tôi về miền Tây - Gã lừ khừ đáp, miệng ngáp ngáp

- Vậy hai ta đồng chí hướng - Tôi hớn hở - Tên tôi là James, James Kelly. Cậu quê quán ở đâu.

- Tôi chỉ là một tên ma cà bông không cha không mẹ, không cửa không nhà - Gã nhún vai - Tôi sống nay đây mai đó với chú ngựa kia và chiếc giày làm bạn. Cứ gọi tôi là John.

Tôi để ý mỗi lần hắn nói, miệng gã lại tỏa ra một mùi hương không lấy gì làm dễ chịu. Có lẽ đã lâu gã chưa hề súc miệng. Thực ra, chỉ cái áo bẩn thỉu của gã cũng phát ra một mùi gần gần thế.

- John này, nếu muốn cậu có thể đọc mấy quấn truyện của tôi giải khuây.

Tôi mở túi hành lý, lấy ra quấn Don Quichotte của Cervantes thân mật đưa cho John

- Truyện này thế nào, cậu kể cho nghe được không. John cầm ngược cuốn sách, lật lật vài trang rồi ra vẻ ngượng nghịu. Thú thực tôi không biết đọc.

- Cậu mù chữ à? - Tôi trố mắt

- Vâng. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, tôi chưa bao giờ cắp sách đến trường. Có lần tôi ráng tự học nhưng đành chịu vì không sao nuốt nổi những nét chữ loằng ngoằng. Tôi thấy học bắn súng còn dễ hơn.

- Cậu bắn súng hẳn cừ lắm. Tôi đăm đăm nhìn khẩu súng của John.

- Tàm tạm - John cười cười.

- À nãy nghe cậu hát hay hết ý - Tôi vỗ vai John - Đề nghị cậu hát lại coi nào.

- Được thôi, John cầm chiếc đàn ôm vào lòng, gảy gảy mấy nốt nhạc êm tai rôi ngêu ngao cất tiếng:

Một mình từ nơi xa tít xa

Cây đàn xinh xắn vác trên bờ vai

Về nơi đây lang thang phất phơ

Đi tìm cô bé trót yêu lâu rồi.

Khi chẳng biết còn bao xa, tôi bùi ngùi vì sắp phải chia tay với người bạn mới quen song đáng mến.

- John này, chẳng mấy chốc anh em mình sẽ phải xa nhau. Tiếc là chú ngựa quèn của cậu không thể đưa chúng ta đi được mãi. Mong còn gặp lại cậu ở miền Tây hoang dã

- Đừng lo, John cười cười, cái cười tinh ma. Thực tình có được người bạn đường học thức như cậu tôi rất thích. Hai ta sẽ bên nhau suốt quãng đường thiên lý. Tôi đã có cách.

Cách gì thì tôi chưa biết. Xe chúng tôi lê thêm quãng nữa thì từ xa phóng đến một cỗ xe trông thật bảnh chọe hai ngựa kéo. Cỗ xe săp tới gần thì, trước sự ngạc nhiên của tôi, John bỗng nhảy xuống chặn đường, rút súng bắn chỉ thiên hai phát.

Đoành ...

Đoành ...

Mấy chú ngựa sợ hãy hí vang rồi đứng im.

- Tất cả xuống xe! - John gầm gừ.

Lời ra lệnh của John tức thì có hiệu nghiệm. Gã đánh xe mặt xám xanh, luống cuống nhảy tót xuống, hai tay giơ lên. Rồi liền đó, trong xe bước xuống một người đàn ông trạc tuổi ngũ tuần, tướng người bệ vệ cùng hai ả tiểu thư đỏnh đảnh trong những bồ xiêm y lộng lẫy. Tất cả đều có bộ mặt nơm nớp trước họng súng dữ dằn như bề ngoài du thủ du thực của John.

- Cảm phiền qúy ông qúy bà đổi hộ cho anh em chúng tôi chiếc xe. John dứ dứ súng vào đầu gã đàn ông bệ vệ. Đường còn xa mà cỗ xe của chúng tôi lại dở chứng.

- Lên xe ngay James - John quay sang tôi - Mang theo cả chiếc Banjo nữa đấy.

- Lẽ nào..... John - Tôi ngập ngừng.

- Chẳng sao đâu - John cười hì hì - Bọn nhà giàu mất cái này đã có khối tiền mua cái khác. Chỉ tội nghiệp cho bọn nghèo chúng mình.

Tôi không còn cách nào khác hơn là nghe theo lời John. Thực ra trong thâm tâm tôi luôn đồng ý những chuyện như thế này. Thế rồi, bỏ mặc chiếc xe cà rịch cà tàng và bọn người kia lại bên đường, chúng tôi phóng ngay lên cỗ xe ác chiến vừa sắm được dông tuốt. Trên cỗ xe mới còn có chiếc rương nhỏ trong đựng ít quần áo, một số nữ trang và vài ngàn đô la. Vì thế trên đường chúng tôi tha hồ ghé lại mua sắm những thứ cần thiết cho một chuyến đi xa. John còn mua thêm đạn dược và hai khẩu súng lục loại tốt nhất.

- Phải sẵn sàng vì có thể gặp những tên vô lại... - John chợt cười lên thoải mái - Cả bọn da đỏ nữa, vớ vẩn là chúng lột da đầu như chơi.

3.

Thay nhau điều khiển chiếc xe, tôi và John cùng nhau chia sẻ những vui buồn trên đường dài ngàn dặm. Với cái thằng tôi lúc ấy, đó là cả cuộc hành trình đầy gian truân mà trước đó tôi không hề lường trước được. Quên sao được những con đường gồ ghề đầy sỏi đá làm chiếc xe cứ xóc lên xóc xuống, khiến mình mẩy tôi muốn rã rời. Quên sao được cái lúc vượt qua sa mạc mênh mông nóng như thiêu đốt, bụi tung mù trời. Họng khô tới nỗi khó nuốt được nước bọt. Mà đâu chỉ một hai tiếng đồng hồ. Phải mất ngót nửa ngày trời dằng dặc mới thoát khỏi cái sa mạc quái qủy ấy. Và còn nhiều cái khổ khác nữa. Nhưng may thay, điều tôi lo lắng nhất đã không xảy ra, vì nếu xảy ra thì giờ này tôi chẳng còn ngồi đây để mà kể chuyện đời cho các bạn (!) Đó là lúc đi vào miền núi đồi, tiến vào đất nước thù nghịch của người da đỏ thích lột da đầu làm kỷ niệm. Suốt đêm tôi chỉ mơ thấy mình là cái xác ghê rợn với chiếc đầu đỏ hỏn đầy máu không một mảnh da. Chỉ John là bình chân như vại. Có lẽ anh đã quá quen thuộc với cảnh chết chóc cũng nên. Vâng, rất may chuyện đó đã không đến với chúng tôi. Phải chăng những truyền thuyết về tính man rợ của thổ dân da đỏ là thêu dệt quá đáng?

Nơi đâu tiên mà cỗ xe mệt mỏi của chúng tôi dừng bánh là thị trấn Bò Vàng. Đó là thị trấn tương đối sầm uất trên một vùng đất rộng lớn, bằng phẳng. Phía xa là con sông tươi mát uốn mình qua những ngọn núi cao hùng vĩ, tạo nên một cảnh thật tuyệt. Bản thân cái tên Bò Vàng cũng đã tạo cho khách xa một ấn tượng thật thoải mái. Hai bên đường chúng tôi đi qua những nhà thờ lớn nhỏ, hầu hết đều cất bằng ván. Quán xá khá nhiều. Phố phường đông kẻ qua lại trong những bộ ỵ phục nhiều màu sắc. Nhìn chung nơi đây cũng dễ chịu, trái với ý nghĩ ngô nghê của tôi trước kia rằng miền Viễn Tây chỉ gồm bọn giang hồ, dân anh chị tứ phương. Tuy nhiên tôi vẫn cảm thấy điều gì không ổn treo lơ lửng dưới bầu trời xanh biếc của thị trấn này.

- Thôi anh em chúng ta uống gì đỡ khát rồi tìm chỗ nghỉ ngơi đi.

John cho xe đỗ lại trước một quán rượu cũng có tên là Bò Vàng. Chắc xưa kia vùng này nhiều bò lắm - tôi nghĩ. Quán khá đông. Từ các bàn cho đến quầy hầu như kín chỗ, ồn ào lời ăn tiếng nói chen lẫn những tiếng cười ngặt nghẽo về đủ mọi chuyện trên đời kể cả chuyện tìm vàng, điều tôi đang theo đuổi.

- Bọn tôi từ phương xa mới đến, không rõ dân tình ở nơi đây thế nào?

Ơ quầy, nốc cạn một hơi mấy cốc bia thật tuyệt, chúng tôi vui vẻ bắt chuyện cùng ông chủ quán, một người có thân hình béo phị nặng nề.

- Thị trấn này có vẻ tươi vui đấy ông nhỉ?

- Ô' vâng, có lẽ thế - Ông ta nhún vai cười đáp - Thực ra thì nơi đâu cũng có những vui buồn của nó.

- Nghĩa là sao ông chủ? - John lại hỏi.

Anh vừa dứt lời thì ông chủ quán chợt sa sầm lại. Vẻ khiếp sợ hiện rõ trên gương mặt của ông.

Tất cả mọi thực khách trong quán cũng thế. Im bặt. Sững sờ. Khiếp sợ ...

John nhìn ra bên ngòai cửa. Có chuyện gì xảy ra vậy???

4.

Anh vừa dứt lời thì ông chủ quán chợt sa sầm lại. Vẻ khiếp sợ hiện rõ trên gương mặt của ông. Tất cả mọi thực khách trong quán cũng thế. Im bặt. Sững sờ. Khiếp sợ ...

John nhìn ra bên ngòai cửa. Chúng tôi cũng quay nhìn ra. Có chuyện gì xảy ra vậy???

Lù lù bước vào một gã đàn ông cao lớn, tướng mạo dữ dằn với đôi mắt cú vọ lạnh như băng, bộ râu hàm lởm chởm, áo quần bạc phếch đầy cát bụi. Vết thẹo dài trên trán và hai khẩu súng đeo hai bên hông càng làm tăng thêm sự dữ dằn của hắn. Hắn xăm xăm bước thẳng đến quầy. Lúc này, tất cả khách khứa, trừ chúng tôi, thảy đều tự động bỏ ra ngoài, vẻ sợ hãi ra mặt.

- Dạ thưa ngài dùng chi? - Ông chủ quán khúm núm thưa với người khách mới.

- À hai thằng ranh kia, sao còn dám đứng đây - Hắn chỉa đôi mắt cú vọ vào chúng tôi - Muốn trêu gan tao hả?

Nói chưa dứt câu, hắn lấy cánh tay vạm vỡ phang mạnh vào người khiến tôi té nhào ra sau, đầu va mạnh vào thành bàn đau tê tái.

- Quân khốn kia, sao mày dám dở trò ngang ngược - John bất bình, mặt anh đỏ gay.

- Cả mày nữa - Hắn cười gằn với John - Mày cũng lo cút khỏi nơi đây ngay. Tao đến đâu thì tất cả ở đó phải cút hết.

- Chính mày mới phải cút khỏi đây - John nhổ toẹt nước bọt vào mặt hắn.

- Ái chà thằng khốn nạn, mày dám hả? - Lấy vai áo chùi chùi mặt, hắn gầm gừ - Tao truyền cho mày phải luồn dưới háng tao ngay, bằng không thì mày sẽ phải đấu súng với tao.

- Đấu thì đấu, ta sợ gì - John vỗ mạnh vào khẩu súng bên hông anh, vẻ đầy tự tin.

- Thôi đừng, John ơi - Tôi vội vàng kéo vai John - Can cậu. Cậu nên nghĩ lại thì hơn. Cậu có mệnh hệ gì thì...

- Mặc tôi James - John vẫn tỉnh bơ - Tôi chơi súng không tồi đâu.

- Cậu cho tôi xin - Cả ông chủ quán cũng chen vào - Cậu còn trẻ người non dạ, lại từ xa mới đến nên chưa biết uy danh ngài Ben đây.

Nhưng mặc ai can ngăn, John vẫn bước theo tên Ben ra ngoài. Tôi có cảm giác đau khổ là trong chốc lát nữa thôi mình sẽ mất đi vĩnh viễn người bạn qúy đã chia sẻ cùng tôi trên bao dặm trường.

- Tao sẽ quăng đồng xu lên - Tên Ben khinh khỉnh bảo John - Đồng xu vừa chạm đất thì rút súng.

- Thằng nhãi này điên rồi - Mọi người tụ tập bên ngoài nhìn John xì xầm - Đấu súng với Ben Thẹo là rước lấy cái chết. Chắc nó mới từ trên trời rơi xuống nên không biết tài bắn nhanh như chớp của Ben Thẹo.

Trước sự lo lắng tột cùng của tôi, John quả quyết bước ra đường, đối mặt cách Ben Thẹo chừng chục bước. Hắn ta lạnh lùng cho tay vào túi áo móc ra một đồng xu. Giây phút này người tôi ướt đẫm mồ hôi, tim tôi cơ hồ muỗn vỡ tung. Một màu không khí bao trùm lên mọi vật. Nhếch mép cười, Ben Thẹo quăng đồng xu lên. Đồng xu vừa rơi xuống chạm đất thì hầu như cùng lúc ấy một tiếng súng chát chúa vang lên.

Đoàng.....

Cả không gian im lặng. Tim tôi tưởng đã vỡ trăm ngàn mảnh. Cả John và Ben Thẹo đều ở trong tư thế chĩa súng vào nhau.

Từ họng súng của John bay ra một làn khói, nhưng súng của đối thủ thì không ...

Thế rồi một tích tắc sau, thân hình to lớn của Ben Thẹo đổ vật xuống. Chuyện ai không ngờ. Từ giữa ngực tên hung bạo, máu phun ra có vòi. Hắn giãy giãy vài cái rồi im hẳn, đầu nghẹo sang một bên. Mắt hắn còn mở trừng trừng như kinh ngạc về điều vừa xảy đến.

Hắn đã chết !

- Trời John ... - Tôi xúc động chạy tới ôm chầm lấy John - Tôi không ngờ ...

- Thì tôi đã bảo cậu là tôi chơi súng không tồi đâu mà - John cười, hồn nhiên như chưa có chuyện gì xảy ra.

- Tôi cứ tưởng cậu sẽ mất mãi mãi. Theo cậu gần tháng nay vậy mà giờ tôi mới biết tài năng trác tuyệt của cậu.

- Tài như cậu ít ai bì kịp - Mọi người cũng hồ hởi xúm quanh John.

- Cậu có biết là cậu vừa hạ được Ben Thẹo, tay súng cự phách của miền Tây không? Hắn đã cướp đi mạng sống bao người. Tài hắn chỉ kém Bill Scott. Tên này và đồng bọn vẫn là mối đe dọa của chúng tôi.

- Thế không có ai coi việc an ninh ở đây sao? - John hỏi

- Có, có chứ - Một người trông có vẻ vai vế vùng này đáp - Nhưng có cũng như không vì ai cũng khiếp sợ chúng. Chính người cầm đầu an ninh trước đây đã bị Ben Thẹo cho sang thế giới bên kia với hàng chục phát đạn vào người.

- Đề nghị cậu giúp chúng tôi thành lập một nhóm dân quân biết sử dụng súng thành thạo - Ông ta khẩn khoản - Chúng tôi xin hứa sẽ chịu mọi phí tổn và tiếp đãi cậu như thượng khách.

Thực ra tôi và John chỉ muốn nghỉ ở đây rồi sau sẽ đi xa hơn để tìm vàng. Song, trước tình cảnh của thị trấn này cùng sự khẩn nài hết lời của dân chúng, John đã không thể từ chối.

Thế là từ đấy chúng tôi trở thành công dân của thị trấn Bò Vàng, nơi con người lãng tử của John sẽ gắn bó suốt quãng đời còn lại của anh.

5.

Việc hạ được Ben Thẹo khiến John từ một người khách vô danh trở nên tiếng tăm khắp vùng. Mọi người khâm phục nhắc đến tên anh. Đến đâu anh cũng được chào đón nồng hậu. Phải nhận rằng nếu John cứ để đầu tóc bờm xờm, mình mẩy hôi hám thì khó mà hấp dẫn được ai. Song từ khi về đây, cách sống của anh đã thay đổi nhiều. Nhờ siêng năng tắm rửa luôn, tóc tai chải chuốt, ăn vận đàng hoàng, trông anh bảnh trai ra phết. Thành thử chẳng bao lâu, thêm với tài đàn hay bắn giỏi đã khiến cho cõi lòng của lắm tiểu thư phải rung động. Nhiều cô tới thăm hỏi anh luôn.

Vậy mà lạ chưa, trước ánh mắt mời mọc đầy tình tứ của các kiều nữ, John vẫn hoàn toàn dửng dưng. Chẳng lẽ anh chàng này lại kén cọ đến thế ư? Song là bạn thân, được ở bên John luôn nên tôi cũng hiểu ra. Nhiều lần tôi thấy anh ngồi một mình, tay nâng niu quả tim gỗ luôn đeo ở ngực không bao giờ rời, mắt đăm đăm nhìn người thiếu nữ khắc trên đó, vẻ mặt u buồn, đôi khi khéo mắt rưng rưng. Thì ra trong anh có một tâm sự buồn.

" Ngày trước tôi có yêu Susan, một thiếu nữ xinh đẹp thùy mị - một ngày kia John thổ lộ với tôi - nhiều chàng trai sang trọng ngỏ lời muốn lấy nàng làm vợ nhưng Susan vẫn một lòng tha thiết yêu tôi, một tên đói rách không cha không mẹ, một chữ bẻ làm đôi không biết. Mối tình chúng tôi đang say đắm thì Susan đột ngột qua đời ...

Nàng yên nghỉ trong một nghĩa trang nhỏ gần dòng sông Missouri êm ả. Từ đó trở đi tôi sống một cuộc đời lang thang và thề không bao giờ còn yêu ai nữa ..."

Sau nhiều tháng trời được sự huấn luyện tận tình của John, thị trấn Bò Vàng có được một đội dân quân khá tinh nhuệ gần ba mươi người. Thảy đều là những thanh niên tình nguyện, trong đó có tôi. Sự có mặt của dân quân làm cướp cạn vùng này giảm đi rõ rệt.

Riêng với John, thấy bóng anh là tên vô lại nào sắp giở trò cũng phải nhanh chân chuồn mất. Cái chết của Ben Thẹo ngày nào vẫn còn là nỗi ám ảnh của bọn chúng. Nhưng có điều John chưa hài lòng là vẫn chạm trán với Bill Scott.

Qua lời kể, được biết băng đảng của chúng gồm sáu tên, đặc điểm: một tên chột mắt, một tên da đỏ, một tên cao lêu nghêu gần hai thước. Mấy tên kia không có gì lạ. Đặc biệt Bill Scott có gương mặt thật đẹp trai, trí thức đến nỗi không ai biết trước không thể ngờ đấy là một tên cướp giết người không gớm tay. Bọn chúng đều là những tay súng thiện nghệ mà trội hơn cả chính là Bill Scott. Có người bảo hắn thừa sức bắn trúng con ruồi bay cách xa trăm thước. Hẳn về khiếp sợ hắn nên thêu dệt thế thôi, nhưng có thể ghi nhận tài cầm súng của Bill Scott chắc phải ngang ngửa với John chứ chẳng chơi (!).

Chúng cướp bóc hết vùng này sang vùng khác, mỗi nơi lâu lâu ghé một lần. Bọn chúng đã thăm viếng nhà nào thì nhà nấy phải mau mau lo nộp đủ yêu cầu của chúng, trái lời thì chỉ có nước hồn lìa khỏi xác. Nói chung, đây là một băng cướp lợi hại, không phải loạt cướp vặt tầm thường.

Cuối cùng John cũng được toại nguyện. Một sáng kia, đúng một năm sau cái chết của Ben Thẹo, có mấy người dân quân và cả ông chủ quán Bò Vàng hối hả chạy đến tìm John hiện băng cướp của Bill Scott đang hiện diện đầy đủ tại quán này và đang cưỡng hiếp Nancy, con gái ông. Oái ăm thay, chính lúc ấy John vừa lên cơn sốt xong. Nước da xanh xao, trông anh sút đi thấy rõ. Vậy mà John vẫn tỏ ra vô cùng hăm hở khi nghe tin ấy. Đang trên giường bệnh, anh ngồi bật dậy ngay. Dù số quân đông hơn hẳn song chúng tôi không dám khinh địch vì đối phương nổi tiếng là những tay súng có hạng. Bởi thế, để tránh thiệt mạng tối đa cho anh em, kế hoạch John đề ra là phải đánh bất ngờ, đánh úp chúng.

Cái khó cho chúng tôi là trong tay bọn cướp còn có Nancy. Chúng có thể dùng nàng làm vật chắn khiến chúng tôi không dám bắn. Tóm lại, một trận đánh ác liệt sắp diễn ra. Trong trận đánh này nhiều người trong chúng tôi phải hy sinh. Đối với nhân dân thị trấn Bò Vàng này, ngày đó đã đi vào lịch sử và sống mãi trong ký ức. Tôi xin kể lại toàn bộ diễn biến trận đánh ấy ...

" Sau khi nhanh chóng bố trí nhiều tay súng mai phục trên các ngả đường, quyết không cho tên cướp nào chạy thoát, John cùng tôi và tám người khác kéo ngay đến ngôi nhà lớn bên kia đường đối diện với quán Bò Vàng, chờ bọn cướp ló ra là giáng đòn phủ đầu. Chúng tôi chưa kịp ổn định vị trí thì từ trong quán, cả sáu tên của băng cướp lục đục kéo ra. Đấy là lần đầu tiên tôi và John thấy tận mắt những tên cướp khét tiếng kia. Thành phần của chúng đúng như lời kể. Tên da đỏ có bộ mặt thật đáng sợ. Chiếc mũi khoằm to xù của hắn dễ làm liên tưởng đến những con kên kên chuyên rỉa xác chết. Bản thân hắn cũng lột da đầu nhiều người cũng nên. Tên chột lại càng chẳng đẹp đẽ gì. Chiếc băng đen bịt kín chiếc mắt hư cùng chiếc môi sứt và những vết thẹo chằng chịt trên mặt hắn làm hắn thật ghê tởm. Kẻ nào yếu bóng vía chẳng tài nào dám nhìn, sợ đêm về mơ. Đó là hai tên có bề ngoài thật khó ưa nhất. Những tên kia tương đối đỡ hơn. Song nói chung đều giống nhau ở điểm là toát ra vẻ sát khí lạnh lùng, ngoại trừ Bill Scott. Trời, người như thế lại là tướng cướp ư? Với vóc người đầy đặn, cân đối mà lại thêm gương mặt vô cùng trí thức, đẹp trai, phải nói hắn thừa sức chinh phục trái tim nhiều phụ nữ. Hắn lại xuất thân từ gia đình danh giá hẳn hoi. Vậy mà.....

Chúng tôi ai nấy đều chuẩn bị vào trận. Nhưng quái ác thay, điều chúng tôi lo ngại đã đến. Kề cạnh Bill Scott chính là cô Nancy xinh đẹp trong bộ quần áo rách tả tơi. Bị tên cướp ôm chặt, nàng khóc sướt mướt. Thì ra cưỡng hiếp nàng xong, chúng vẫn chưa muốn buông tha. Ôi giá không vướng Nancy thì chúng tôi đã khạc vào bọn côn đồ những loạt đạn căm thù ngay tức khắc. Tình thế thật khó xử ...

- Các bạn cứ để tôi. Nhìn bọn cướp chuẩn bị lên ngựa đi - John ra hiệu cho chúng tôi đừng bắn gì.

Thế rồi chĩa ngay súng về phía quân thổ phỉ, John lấy cò.

Đoàng...

Đoàng ...

Hai tiếng súng vang lên ...

Vừa đặt lên mình ngựa, tên cao kều và gã độc nhãn rơi ngay xuống ngựa. Hai phát đạn cực kỳ chính xác của John đã loại khỏi vòng chiến đấu hai tên vô lại. Riêng tên chột bị đạn xuyên qua con mắt lành thành thử hắn phải về chầu trời với đôi mắt mù hoàn toàn!

Bị bắn bất ngờ, mấy tên kia lập tức rút súng bắn xối xả về hướng xuất phát những viên đạn sát hại đồng bọn chúng, khiến chúng tôi vội vàng náu mình. Người qua đường nhốn nháo. Một cụ già bị đạn lạc chết ngay. Thừa lúc ấy, bọn cướp phóng ngựa bỏ chạy. Hai tên chạy một đầu, tên da đỏ chạy đầu khác. Riêng Bill scott siết chặt Nancy lôi vào quán.

Phải công nhận bọn cướp chiến đấu rất ngoan cường. Trên đường đào tẩu chúng đã bị anh em dân quân phục sẵn hai bên đường truy kích liên tiếp. Với hai tên chạy một hướng, những phát đạn đầu của anh em đều trật trong khi đó chúng vẫn bình tĩnh bắn trả, giết chết bốn dân quân. Song ngày tàn của chúng cũng đã đến. Khi chúng cố gắng chạy thoát ra vùng đồi núi thì bắt đầu xơi đạn. Một tên bị lủng sọ bởi viên đạn của Mark Doighs, tay súng khá nhất trong đám dân quân. Tên kia dù không xơi đạn vào đầu nhưng cũng lãnh gần chục phát vào mình. Hắn lì lợm ôm ngựa chạy miết rồi mới chịu gục chết bên bờ sông.

Tên da đỏ thì sao ?

Thực tôi chưa thấy ai ghê ghớm như hắn. Thân hình đẫm máu vì hàng loạt đạn hắn vẫn cố bắn trả, hạ sát ba dân quân. Sau đó hắn còn nhận thêm nhiều phát đạn nữa, đưa tổng số đạn đi vào người hắn hơn hai mươi viên!

Thân thể tên da đỏ chỉ còn là một đống thịt rách nát. Thế mà hắn còn gắng chạy thêm quãng nữa rồi mới chịu buông mình xuống ngựa. Các dân quân tưởng hắn đã chết, tiến lại gần thì hắn dốc hết tàn lực bóp cò, giết thêm một mạng người nữa xong mới chịu chết hẳn. Như vậy, để hạ được ba tên bỏ chạy, chúng tôi đã thiệt hại mất tám người. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Để tiêu diệt trọn ổ bọn chúng, chúng tôi đã phải trả một giá đắt hơn nhiều ..."

Tôi xin quay sang Bill Scott.

" Sau khi kéo Nancy vào lại trong quán, hắn, một mặt lấy nàng làm vật che chắn, mặt khác xả đạn như mưa về phía chúng tôi. Còn chúng tôi lại không làm gì khác hơn là ngồi im chịu trận. Cựa cựa một chút là nát sọ như chơi. Rất may là những viên đạn của tên cướp không chạm vào ai.

- Sớm muộn Bill Scott cũng phải thua - John nói, song có thể kết cục không đơn giản.

Theo tôi, có khả năng xảy ra một trong hai điều: hoặc là Bill Scott buông súng quy hàng, hoặc là hắn sẽ buộc đối phương để hắn cùng Nancy ra đi mà không ai dám bắn theo. Điều thứ nhất khó xảy ra đối với một tên cướp sừng sỏ như hắn. Nhưng đúng như John dự tính, sự việc lại diễn ra theo hướng khác.

- Tao không ngờ vùng này dám trở mặt phản tao - Bill Scott nói lớn, giọng đầy căm giận - Tao sẵn sàng thả con bé ra với điều kiện đứa nào đã xách động bọn bay phải đấu súng với tao. Dưới vòm trời này chỉ nên có một con đại bàng.

- Được rồi - John lẩm bẩm - Năm ngoái cũng ngày này, cũng tại chốn này, Ben Thẹo đã bỏ mạng thì nay đến lượt mày.

- Đừng John! - Sợ John nhận lời đấu súng, tôi vội vàng can ngăn - Đừng quên cậu vừa sốt xong. Bình thường cậu có thể chọi với hắn, song lần này chỉ cần tay cậu kém nhạy đi một chút thôi.

- Đừng lo, James - John vẫn bình tĩnh như ngày nào - Đây cũng là điều hay vì nếu thoát được, hắn sẽ gây lại băng đảng khác và chúng ta chỉ thêm mệt.

- Hay là ... - Biết không thể nào ngăn được John, tôi đề nghị - Hay là khi hai người sắp vào cuộc, chúng tôi sẽ đồng loạt xả đạn vào người hắn.

- Không được đâu - John lắc đầu - Rõ ràng Nancy trong tay hắn, hắn có thể thoát đi dễ dàng. Nhưng hắn không làm thế, nên ta cũng phải tỏ ra là kẻ biết chơi.

Và anh lên tiếng nhận lời đấu súng với Bill Scott. Như lần trước với Ben Thẹo, một lần nữa cả không gian lại đắm chìm trong im lặng. Có thể nghe thấy tiếng ruồi bay. Tất cả nín thở nhìn John và Bill Scott rời vị trí lừng lững bước ra đường. Cả hai đều mang vẻ nghiêm trọng, mắt ghờm ghờm nhau. Dù hoàn toàn tin tưởng vào John tôi vẫn thấy lo. Song như bao người khác, tôi chỉ biết bất lực câm lặng, chờ đợi.

Hai tay súng từ từ bước vào vị trí đối mặt, cách nhau hai mươi bước. Sự căng thẳng đã lên đến tột độ. Trống ngực tôi đập thình thịch.

Thời gian như dừng lại ...

Đất trời như muốn vỡ tung ...

Và rồi nhanh như chớp, hai đối thủ cùng rút súng ra. Đoàng ... Một âm thanh xé tai vang lên, tưởng chừng như tiếng nổ của đất trời.

- Bill Scott đã chết! - Mọi người hét to.

Thực vậy, một giây sau vang lên cái âm thanh xé tai ấy, thân hình Bill Scott đổ nhào xuống. Mặt hắn đầy máu. Hắn đã trúng đạn vào đầu. Còn John vẫn đứng nguyên, tay buông thõng khẩu súng đang nhả khói. Đối thủ của anh hoàn toàn nằm bất động. Thế là tàn đời một kẻ tàn bạo. Thế là xóa sổ một băng cướp sừng sỏ. Mối đe dọa lớn nhất của thị trấn Bò Vàng từ nay không còn nữa. Nụ cười rạng rỡ sung sướng nở rộ trên mặt bao người.

Nhưng niềm vui ấy không trọn vẹn, không bao giờ trọn vẹn. Phải, mọi người vừa đổ bu quanh xác Bill Scott thì John ôm ngực lảo đảo ngã gục.

Trời ơi, anh cũng trúng thương. Thì ra một viên đạn của Bill Scott cũng bay ra cùng lúc với John và trúng đích. Tôi bàng hoàng chạy đến bên John. Từ ngực anh máu tuôn ra như suối. Quả tim John luôn đeo nơi ngực bị thủng một lỗ tròn, viên đạn ác nghiệt của tên cướp đã đi xuyên qua nó và đi vào ngực John. Qua gương mặt nhợt nhạt và hơi thở yếu át của John, tôi biết anh chẳng sống bao lâu nữa.

- Ôi John của tôi - Tôi nức nở.

- Bạn James yêu qúy ... - John thều thào trăn trối - Tôi sắp ra đi... từ lâu tôi muốn gặp lại Susan. Sau khi tôi chết, bạn hãy đem trái tim tôi luôn đeo bên ngực đến đặt lên mộ nàng..., có lẽ tôi đã sống không tồi..., thuở còn sống, Susan luôn mong tôi được rạng rỡ với đời.

6.

Đến nay, John đã an nghỉ ở vùng đất này được 10 năm. Gót chân phiêu lãng của anh mãi mãi đứng lại nơi đây. Những vòng hoa tưởng nhớ thường xuyên được mọi người đặt lên mộ anh.

Mười năm rồi ... Vậy mà tôi cứ ngỡ như ngày hôm qua ...

Trên quãng đời còn lại của tôi có thể sẽ thêm nhiều bạn nữa, có thể sẽ thêm nhiều kỷ niệm. Nhưng tôi tin chắc rằng người bạn tuyệt vời nhất đời tôi là John, những kỷ niệm tuyệt vời nhất đời tôi mãi mãi vẫn là những ngày tháng ngắn ngủi được sống bên cạnh chiếc xe ọp ẹp năm xưa, áo quần bẩn thỉu, tóc tai bù xù, anh cầm ngược cuốn Don Quichotte mà lật lật ...

Giờ đây, khi John đã vĩnh viễn sang thế giới bên kia gặp lại người con gái của lòng mình, tôi tưởng chừng vẫn còn nghe đâu đây giọng ấm áp của anh ngày nào cùng tiếng đàn Banjo réo rắt:

Một mình nơi xa tít xa

Cây đàn xinh xắn vác trên bờ vai

Về nơi đây lang thang phất phơ

Đi tìm cô bé trót yêu lâu rồi....

Theo " THE ADVENTUROUS COWBOY"

Lễ cúng trường

Võ Hồng

Khi những cơn mưa gió cuối cùng của tháng Mười đã qua đi, khi những ngày tháng nắng hanh đầu mùa của tháng Mười một rắc vàng trên cảnh vật, lũ học sinh trường Ngân Sơn bắt đầu háo hức vì nghĩ đến Tết sắp đến. Thằng Sanh báo tin Tết trước nhất. Nhà má nó bán hàng xén nên nó sát với mùa tiết hơn mọi đứa khác. Một buổi sáng nó hớn hở hỏi lũ bạn:

- Đố tụi bay còn mấy ngày nữa tới Tết?

Nhiều đứa nhao lên:

- Còn một tháng mười hai ngày.

Sanh gật đầu:

- Giỏi.

Rồi nó nói tiếp, giọng hơi tự đắc:

- Sao tụi bay cũng biết hả? Ở nhà má tao mới đi Tuy Hòa mua hồng, nho, táo, chà là về bán Tết. Má tao cho mấy trái táo đem theo đây.

Nó vừa nói vừa thò tay vào túi lấy ra hai quả táo. quả táo vỏ đen nhánh, răn reo. Nó để vào giữa răng cắn một miếng lớn, sát ngay hột. Lũ bạn nhìn theo nửa trái táo còn lại trên tay nó. Dấu răng còn in rõ vào thịt táo nhuyễn. Thằng Chữ thằng Tộc ý chừng chưa hề biết quả táo là trái gì, cứ nhìn chòng chọc vào nửa trái táo còn lại. Năm sáu đứa bạn đứng bao quanh. Những vết nhăn làm nhíu đôi chân mày và những cái miệng mở trễ tràng. Vài đứa nhìn vào cái mồm nhai của thằng Sanh, có lẽ là để xem thử nhai một quả táo Tàu thì có khác với việc nhai một món ăn thông thường không, như nhai một củ sắn nước chẳng hạn. Thằng Chơn đi nhanh hơn, nhìn ngay chỗ yết hầu của thằng Sanh để đợi xem thằng này nuốt xuống.

Thằng Số và thằng Lời, quê mùa và thô lỗ hơn hết, nắm ngay bàn tay đang cầm nửa trái táo của thằng Sanh đưa lại gần mắt để xem cho thật kỹ.

Nuốt miếng táo xong, Sanh nói tiếp:

- Má tao nói Tết này má tao đi Tết thầy một cân nho.

Những vẻ mặt tò mò lúc nãy lần lần trở nên nghiêm nghị. Tết thầy là một mối băn khoăn, nhất là đối với những đứa nghèo. Thằng Tộc nhớ lại rằng năm ngoái cha nó quảy từ Đồng Tre xuống một buồng chuối mốc để tết thầy. Một buồng chuối thì nghĩa lý gì so với cân nho, nó nghĩ thế. Thằng Chơn nhớ đến con gà cồ nó ẵm đi theo cha đến tết thầy hôm 27 Tết. Nó không biết một cân nho giá đắt gấp mấy con gà cồ, nhưng nó đoán là đắt lắm vì từ thuở giờ nó chưa thấy trái nho ra thế nào. Có lẽ thằng Chữ xấu hổ hơn cả vì mẹ nó chỉ tết thầy có hai trái dưa leo và một củ khoai mài, mặc dù đó là hai trái dưa sởn sơ nhất mẹ nó đã để dành phần tết thầy từ nửa tháng trước, cấm ngặt không cho ai được hái. Vài đứa bạn im lặng đứng lảng ra. Có lẽ đó là những đứa mà cha mẹ đã quên tết thầy.

Tiếng thằng Sanh hỏi một đứa bạn:

- Mày tết thầy cái gì?

- Một gia. nếp.

- Còn mày?

- Chưa biết. Chắc bốn gói trà "chữ mực" như mọi năm.

- Còn mày...

Tiếng guốc lộp cộp ở bực thềm đi lên. Thầy giáo tới. Lũ trẻ chạy ùa ra sân sau, tán lạn như một bầy chim sẻ.

Khi tiếng trống bãi trường chậm rãi xổ, khi đã đi hết lần dốc xuống đường, bé Trung xóa bỏ trong óc những con số của bài tính đố vừa làm để vấn vương vì cái tin Tết nhất anh em đã trao đổi cho nhau lúc nãy, trước giờ vào lớp. Tết đến, đó là một cái thú, say sưa lạ lùng hơn mọi thú khác vì lâu lắm mới gặp lại được một lần. Năm nay Trung lên mười một tuổi. Soát lại trong óc, hình như nó chỉ có kỷ niệm của ba, bốn cái Tết là cùng. Trước đó, nó lớn như thế nào, nó đã ăn Tết như thế nào, nó không hề biết. Ôi! Ngày Tết! Ngày Tết bắt đầu từ phiên chợ hôm 21 tháng Chạp, phiên chợ họp ở gần nhà nó. Những gánh hàng đều nặng trĩu, làm còng lưng những người đàn ông vạm vỡ. Tiếng người đi chợ nói chuyện, vang vang trong khi đêm chưa hết, trời còn tối đen. Không biết lúc ấy là mấy giờ, nhưng chắc là còn khuya lắm vì tiếng gà lảnh lót gọi nhau, trả lời nhau, nhịp nhàng thứ tự từ xóm trên đến xóm dưới. Ngày Tết, đó là những mâm cỗ cúng ăn không hết, những cuộc đi thăm bà con ở xa, xa mãi sau những dãy núi xanh cao. Ngày Tết... Dòng tư tưởng của bé Trung đến đây đứt quãng vì tiếng chân lộp độp của bầy trâu đi đằng trước đi lại. Trung đứng nép sang bờ cây chim chim để nhường chỗ cho trâu đi. Ba con trâu lớn, mình phủ một lượt bùn ướt lóng lánh, vừa nặng nề bước vừa quơ qua quơ lại đôi sừng cong kềnh càng. Tiếng chân đập xuống mặt đường chẫm rãi đều đặn. Đuôi cũng chẫm rãi đều đặn đập hết sườn bên phải đến sang sườn bên trái, đuổi những đám ruồi muỗi bay vo vọ Trung đưa mắt nhìn xuống nền lá chim chim, thấy bôi bết những vết bùn khô trắng. Đó là những đoạn lầy. Thoang thoảng nghe bốc lên mùi khen khét đặc biệt của bùn trâu. Cả cái con đường làng, đều mang dấu vết của những bầy trâu qua lại hàng ngày. Sự chậm chạp nhẫn nại và kham khổ của bầy trâu thật đã mâu thuẫn hết sức với những ý nghĩ êm đềm về Tết nhất của Trung. Nhưng nó lại cũng đồng thời khơi động nỗi băn khoăn đã nằm nép trong óc Trung từ sáng: đó là việc đi tết thầy. Năm ngoái, cha Trung đi tết thầy một đồng bạc. Cha thằng Tài đi tết đến hai đồng. Trung xấu hổ sợ thầy khinh và lo lắng sợ thầy ghét. Nó về nhà than phiền với cha:

- Sao cha đi tết thầy có một đồng?

Cha nó trả lời chậm chạp theo thói quen:

- Một đồng chớ bấy nhiêu nữa?

- Một đồng ít quá.

- Mày còn muốn bao nhiêu? Một đồng là hai gia. lúa rồi.

- Nhưng cha thằng Tài đi tết tới hai đồng.

- Nhà nó bán hàng xén nhiều tiền, bì sao được? Thầy giáo đã ăn lương của nhà nước rồi chớ đâu phải giống như hồi xưa mà phải đi tết nhiều?

Thế là nó đuối lý mặc dù nó thấy là đi tết hai đồng phải hơn. Đặt vào địa vị cha nó, nó sẽ đi tết thầy hai đồng. Nhưng nó không dám nói mà chỉ len lén nhìn sang vẻ mặt cha đang đăm chiêu.

Nghĩ đến vẻ mặt đăm chiêu của cha, Trung lo trước rằng năm nay việc tết thầy sẽ còn làm cho nó đau khổ. Nó sẽ còn ngầm đem mình so sánh với thằng Tài và thấy mình thua thằng Tài một cách hết sức vô lý và bất công vì nó học giỏi hơn thằng Tài nhiều lắm. Những giờ Toán, giờ Luận, thầy giáo không ngớt lời khen nó, nhưng mỗi lần nghỉ Tết xong, sự học tập tiếp tục trở lại, nó cảm thấy như thầy giáo thờ ơ với nó trong khoảng hai tuần. Sự suy nghĩ này làm nó giận cha, ngầm oán trách cha nữa. Phải sau này, khi lớn lên nó mới biết tại sao cha nó lại thờ ơ trong việc đi tết thầy như thế. Số là hồi còn trẻ cha nó cũng được cho đi học như thầy giáo Hiền, thầy dạy nó bây giờ. Suốt cả phủ Tuy An chỉ có một trường phủ là dạy chữ Quốc ngữ mà chỉ dạy một lớp vì không đủ thầy. Ở khắp các xã các tổng, thầy đồ vẫn y như ngàn năm trước, cao giọng giảng đạo thánh hiền. Sau một năm học ở trường Phủ, lên lớp, cha nó ra học trường Tỉnh ở Sông Cầu. Sông Cầu là tỉnh lỵ , những thú tiêu khiển như hát bội, những đám đình đám lớn như làm chay được tổ chức thường xuyên và có qui mô hấp dẫn đã lôi cuốn cha nó khiến ông bỏ bê học hành. Nhiều lần khuyên răn vô hiệu quả, ông nội không cho học nữa bắt cha nó về làm nghề và cưới vợ. Có lẽ sự cưới vợ sớm đã an ủi cha nó, bù vào sự học hành dở dang. Nhưng đến chừng nó đến tuổi đi học mà thầy giáo nó lại nhằm vào người bạn học hồi xưa thì hình như cha nó không được vui. Dĩ vãng bị khuấy trộn, sự thất bại của tuổi thanh xuân được nhắc đến thường xuyên, công việc làm ăn lam lũ so với nghề thầy giáo thong thả và danh giá khiến cha nó không có thiện cảm với thầy giáo mấy. Sự coi thường những lễ tết thầy cho con, đó là một cách trả thù nhẹ nhàng và vô hại.

Tối hôm đó, dưới ngọn đèn dầu, bé Trung ngồi ê a học bài Cách Trí. Đôi mắt nhìn ra sân, chọc thủng vào bóng đen dày đặc bao trùm khu vườn chuối trước nhà, đôi chân đu đưa dưới gầm bàn, miệng nó lặp lại như một cái máy: "... Bộ máy tuần hoàn gồm có tim, phát huyết quản và hồi huyết quản... gồm có tim, phát huyết quản và hồi huyết quản... gồm có tim phát huyến quản gồm có tim phát huyết quản... " Tụng lảm nhảm một lát, sực nhớ lại nó không biết là mình đã nói gì. Câu thuộc lòng đứt đầu đứt đuôi. Nhìn xuống trang sách, những hàng chữ song song làm nó thấy mỏi mệt và sao hôm nay chữ in như có gai châm vào mắt khiến nó xót xạ Nó nhìn ra khung ánh sáng chiếu qua cửa nằm in xuống sân. Nó thấy lần lượt thằng Chơn ôm con gà trống thiến, mẹ thằng Chữ cặp dưa leo, thằng Sanh hãnh diện cầm cân nhọ Nó quay sang nhìn cha nó đang nằm lơ mơ trên võng treo gần đó, hỏi bằng một giọng tỉnh táo:

- Tết này cha đi tết thầy...

Nó chợt dừng lại, không biết có nên nói tiếp không. Nghĩ tới sự bực mình của cha, nó bỗng mong cha nó đừng nghe câu hỏi vừa rồi thì hơn. Nhưng cha nó cựa mình cọt kẹt trên võng và quay hỏi to:

- Con hỏi gì? Đi tết thầy hả?

- Dạ.

Tiếng "con" dịu dàng thỉnh thoảng lắm cha nó mới dùng để xưng hô làm nó cảm động êm đềm. Cha nó lại hỏi:

- Năm ngoái đi tết thầy bao nhiêu?

- Cha đi tết một đồng.

- Ừ.

Sự im lặng nặng những mong đợi và hồi hộp. Chợt cha nó đằng hắng một tiếng lớn làm nó giật nẩy mình. Tiếp theo, ông ngập ngừng nói:

- Năm nay... con lên lớp Tự Thôi đi tết cho thầy... hai đồng cũng được.

Lời tuyên bố bất ngờ làm nó mừng quýnh. Thế là nó khỏi phải sợ thầy và xấu hổ với bạn. Để sự mừng rỡ khỏi biểu lộ một cách phí phạm, nó cúi xuống học bài Cách trí bỏ dở, giọng đọc rõ ràng lảnh lót. Đêm ấy nó học khuya mà không thấy buồn ngủ. Từng hồi, từng hồi trí óc nó dừng lại giữa những chữ "phát huyết quản... hồi huyết quản" để mường tượng nghe tiếng reo đắc thắng "hai đồng bạc tết thầy"

*

* *

Nỗi vui mừng trong lòng làm Trung nhìn cảnh vật xung quanh với đôi mắt nặng những trìu mến yêu thương. Cái gì cũng đẹp đối với nó hết. Thực tế thì cảnh quả là đẹp thật, cái đẹp rực rỡ sau những ngày Đông mưa gió u sầu. Trưa hôm nay đi học về ngồi đợi đò ở bãi cát Thiện đức, Trung say sưa đẫm mình trong nắng. Thật đẹp là những ngày nắng đầu mùa. Nắng vàng nhẹ, không khí trong suốt khiến cảnh vật sáng tưng bừng. Đứng ở bến đò Thiện đức có thể nhìn thấy rõ bầy bò lội qua bến đò Gạch cách đó hai cây số. Bờ tre ở Hội phú, rặng dương liễu ở Mằng lăng hiện lên thành một giải xanh ngăn ngắt và dãy núi cát ở mãi Vũng Lâm toàn một màu vàng rất nhạt, sáng óng ánh dưới ánh mặt trời. Không khí nhẹ và kích thích. Ở trong nhà nghe hơi lành lạnh nhưng ra đứng giữa nắng một lát thì cảm thấy cái thú ấm áp. Cái nắng e lệ đầu mùa cũng nhẹ như cái lạnh, khác xa với vái nắng gay của ngày hè. Nắng về, nước sông Cái chảy rọt hết khiến con sông chỉ rộng còn mươi thước. Hôm tháng Mười nước lụt, cũng đoạn sông này nước một màu vàng đục chảy cuồn cuộn phả bờ. Con đò phải ghìm đậu mãi giữa xóm. Những ngày cực nhọc ấy, đợi đò phải hàng buổi, đò chống phải hàng giờ. Thật khổ tâm cho Trung khi ngồi bên này bờ nghe tiếng trống trường đánh hồi giục giã. Khi mưa lụt bắt đầu, đập Tam giang chắn ngang sông Cái bị nhổ cứ ở đoạn giữa để cho nước thoát tránh đề đập khỏi vỡ. Do đó, khi nước rọt hết, khi nắng tháng Mười một khởi đầu cho mùa nắng Xuân Hè thì lòng sông hẹp lại hết sức, những bãi cát bên bờ rộng ra vô cùng. Và để chuẩn bị đắp lại đập chắn lại sông, giữ nước đưa về đồng cho kịp mùa cấy tháng Chạp, lệnh đốn độn ban ra. Trên sườn núi A Man nằm sau lưng thôn Quảng đức, đen nghịt những người làng lo chặt chà, đốn độn. Tiếng hò reo, tiếng hát ví, tiếng cười lanh lảnh. Nhiều đứa nhỏ bằng tuổi Trung, sau buổi học, cũng nhập bọn đốn độn. Lũ này đem tới trường những câu hát đố thô tục, những câu chửi sỗ sàng dưới hình thức câu hát, loại hát đặc biệt của lũ trẻ chăn bò, chúng nó học được ở những ngày đốn độn, đếm độn.

Như phụ họa với ý nghĩ của Trung, ở lưng sườn núi vang lên tiếng đứa nào hát:

(Lô lí lô) Tao liều (lô) một nắm (lô) ớt cay (lô)

Tổ cha thằng nhỏ đó (lô... Ô... )

ăn mày (là mày) nhà tao (lô... à... lô... )

Tức thì một giọng khách lật đật đáp liền:

Thầy bày, thầy dạy mày đâu

Lấy cây gắp đất cho thầy mày ăn...

Trung nhìn lên hướng có tiếng hát. Một bầy bò lưng vàng chen trong cát bụi lá xanh rậm. Bên cạnh đó, hai ba dáng người mặc áo đen đang giơ rựa chặt vào bụi cây. Có người đang ràng dây bó độn. Nghe tiếng hát, nó chắc đó là tiếng của thằng Được con ông Câu Mua, chăn bò chuyên môn.

Đò cập bến. Khách đi đò lên xuống đông hơn ngày thường. Lão Nhảy, ông lão chống đò trông cũng vui cười mau mắn không còn u sầu như những ngày thường. Đành rằng nụ cười của ông chỉ tươi đến một mức rất tương đối, đành rằng những cử chỉ quơ sào, uốn mình, bắt tay chèo đều còn rất chậm chạp mực thước, nhưng như thế cũng đã là tiến bộ quá sức trông đợi của lũ học trò qua đò. Vì học trò là lũ khách quá giang bị ngược đãi hơn hết. Đi đò suốt cả năm mới trả cho một gia. lúa, gặp nhà nghèo thì số tiền còn ít hơn, thế mà thỉnh thoảng lão còn nghe có cha mẹ học trò nhắc đến một lệ nào đó hồi xưa, miễn phí cho học trò nhà nước đi đò khỏi phải trả tiền. Đi về một ngày bốn lượt, lên đò xuống đò thì hỗn hào, thường đò chưa cập bến đã nhảy thót xuống đẩy đò chạy ra xa phải mất công lão vừa quơ sào vừa chụp tay chèo để bác đò vào bờ, thế mà một gia. lúa cũng định gạt của lão. Lão vốn nghiện thuốc phiện mà nghề chống đò đâu có dư giả để đủ tiền hút nên lão thường hút xái và nuốt giẻ. Vào những buổi trưa đài thuốc, nằm nấp nắng dưới mui thuyền kê ở bãi cát, nghe tiếng kêu đò lòng thấp thỏm mong rằng đó là khách lạ quá giang, thế mà hé nón nhòm ra thấy lục cục mấy thằng học trò tiểu yêu đứa ngồi thu hình kẹp sách vở vào giữa đùi, đứa vừa cầm mẻ sành ném thia lia trên mặt sông miệng vừa kêu đò ơi ới thì nỗi chán chường của lão thật lên đến cực độ. Lão nằm im một hồi lâu để trả thù những tiếng réo đò nhưng cuối cùng lão cũng phải dậy. Lão bước chầm chậm lên cát, vén quần lội chầm chậm dưới nước rồi nặng nề bước lên đò. Lũ trẻ hớn hở nhìn con đò chòng chành dưới sức nặng của lão nhưng thất vọng liền khi thấy lão ngồi ỳ trên giường sõng. Đợi một lát chúng lại khởi sự réo, đứa trước đứa sau. Sự khác biệt về âm thanh trong mỗi tiếng réo không ngờ nghe lại vui tai nên chúng kêu lại một lượt, hai lượt rồi kêu loạn xạ rồi ôm bụng, cong lưng cười ngặt ngoẽo. Lão Nhảy giận lên vì mình bị làm đầu đề cho một trò chơi mới nhưng cũng phải đứng dậy đạp sào chèo đi vì sợ làng xóm người ta quở. Tiếng kêu đò bao giờ cũng gợi một sự hối hả, đôi khi còn pha màu rùng rợn. Đó là tiếng kêu đò của người nhà ai đi rước bà mụ, người chạy mời thầy thuốc cứu một con bịnh ngặt nhèo, tiếng kêu của lũ "Ma Gia" hiện hình lên trong những đêm lạnh lẽo theo lời người ở ven sông truyền khẩu. Lão Nhảy không muốn những sự rùng rợn ấy được thêu dệt quanh mình lão. Lão lầm lũi chèo qua sông.

Để tránh những lời rủa sả của lão, khi đò cập bến lũ nhỏ làm ra bộ hiền lành cung kính hết sức:

- Để con bỏ dây cho ông nghe?

- Để con bỏ cho.

Lão lại phải nạt lên:

- Ai biểu? Coi, lại nhảy dành đạp lủng mê sõng. Tao nện cây sào cho một cái, u óc. Đồ quỉ phá. Ngồi xuống hết.

Lũ nhỏ riu ríu ngồi thu hình trong lòng con đò . Tiện tay sào, lão đẩy con đò lướt tới rồi khi lườn sõng kề sát chân cọc, lão nhẹ đưa bàn chân đặt lên đầu cọc nhún mình đạp một cái. Con đò vụt tới nhẹ nhàng. Tiếp theo, mái chèo chém xuống nước, xoáy làm con đò lắc lự Mũi đò ngoan ngoãn hướng sang bên kia sông. Lũ trẻ mừng quá, không ngờ lão lại tốt bụng không bắt chúng ngồi chờ như chúng nghĩ. Chúng nhìn lên vẻ mặt lão để tìm xem một nụ cười tha thứ nhưng chúng chỉ thấy vẻ u tối bình nhật.

Nhưng mấy hôm nay, trong không khí ấm áp nhuộm màu Tết nhứt, lão Nhảy vui vẻ ra mặt. Lão nhai trầu, xỉa răng thuốc để thỉnh thoảng nhổ một bãi nước trầu đỏ xuống mặt sông. Lão nói chuyện, pha trò nữa. Ở trên giường sõng nơi chân lão nhịp nhàng rướn tới kéo lui theo nhịp tay chèo, có nhiều gói bằng lá chuối xanh mướt. Nhỏ nhắn vuông vức này, chắc là gói thuốc. Có nước chảy ri rỉ kia, là gói đậu phụ. Gói thịt lòng heo to hơn và dễ biết hơn cả vì có một đoạn ruột heo sổ lòng thòng. Ý chừng đây là những món quà người khách qua sông biếu lão thay tiền. Cũng có thể là lão mua nhưng chắc chắn người bán đã vừa bán vừa biếu. Đi đến bến sông gặp một con đò sắp sửa rời bến, vừa bước lên đò là được ông lái quay mũi sang sông, đó là những điềm may mắn cho người bán hàng, nhất là trong những ngày tháng Một tháng chạp bán chạy lời nhiều. Nghĩ vậy nên không ai từ chối một sự dễ dãi với ông lái đò.

Bé Trung thấy lòng bâng khuâng thương cho ông lão Nhảy. Một gói quà ngon hơn là một lời an ủi. Bé liên tưởng ngay đến thầy giáo của bé. Trên cái khay đặt ở bàn thầy ngồi, rồi sẽ có những gói trà buộc chặt vào nhau, những phong bánh, những gói mứt và cả những tờ giấy bạc mới tinh.

*

* *

Ngày hai mươi tháng Chạp, mỗi học sinh đi học mang theo một cái lồng đèn để treo ở lớp. Thầy không ra kiểu mẫu, không cho cỡ nhưng hầu hết đều làm lồng đèn trái ấu. Chỉ có anh Sô, anh Nhiễu nhà theo đạo Gia tô là làm đèn ngôi sao. Anh Truyền ở Gò Chung qua, tuy cũng theo đạo Gia tô nhưng cái lồng đèn trái ấu anh làm sơ sài đụng đến thì méo. Hai cái lồng đèn của anh Trảy, anh Hự là đẹp nhất. Ở mỗi góc có một chùm tua bằng giấy. Gió thổi lên, những cái tua bay rèn rẹt lăn tăn. Thầy cầm lên một cái lồng đèn trái ấu phất nhiều màu. Chẳng những mỗi góc đều có tua mà ở mỗi mặt đèn tác giả đều dán rất nhiều nhửng mảnh giấy tròn đủ cỡ. Cái lồng đèn trông thành ra bề bộn lẩm cẩm. Thầy hỏi:

- Cái lồng đèn của đứa nào đây bay?

Anh Uớc đứng dậy:

- Thưa thầy của con.

- Sao mày dán từng chấm từng chấm cùng khắp trông như ghẻ vậy mày?

Cả lớp cười rộ lên. Không biết thầy nói "trông như ghẻ vậy" là vô tình hay hữu ý vì khắp mình anh Ước đầy những ghẻ. Cả ngay trên mặt cũng loạn xị những sẹo ghẻ đã lành còn vết thâm tím. Anh đứng cà lăm, lập bập cái miệng vài tiếng vô nghĩa rồi ngồi xuống.

Thầy cho chăng ba đường dây thép tréo nhau suốt từ góc này sang góc kia của lớp rồi sai móc những lồng đèn vào. Gió thổi đu đưa cả đèn cả tua trông vui như ngày hội. Những con chim sẻ chọn chỗ lót ổ ở đầu rui, thảo luận "chi chích" hàng tràng dài rồi đập cánh bay vù đến đậu ở một chỗ khác và bắt đầu chi chích trở lại. Mặc dù thầy giáo Hiền dữ đòn có tiếng nhưng vào những ngày này mà màu sắc, mà âm thanh, mà cử động cứ náo loạn cả lên ở trên đầu như thế kia thì bảo lũ nhỏ học hành chăm chú gì nổi. Đã thế, vào giấc ba giờ chiều, ngọn gió mát ở dưới đồng vùn vụt thổi lên, thổi bay luôn cái linh hồn nhẹ nhàng của lũ nhỏ đang dính vào lời giảng của thầy bằng một sợi tơ tưởng tượng nào rất mảnh. Nhưng mùa Xuân làm cho thầy hiền từ. Một bữa nào đó, thầy dừng lại giữa hai lời giảng rồi nói:

- Hăm sáu tháng Chạp cúng trường.

Học trò nhao nhao lên mừng y như cỗ bàn đã sắp dọn. Cái thước gạch phải đập lạch cạch xuống bàn mới đem lại sự im lặng. Thầy đằng hắng nói tiếp:

- Mỗi trò góp năm xụ Trò nào nhà giàu góp một cắc.

- Thưa thầy bữa nào cúng? Thằng Tộc ngớ ngẩn hỏi.

Sáu bảy tiếng nói ồ lên một moạt:

- Ê! Thằng mớ ngủ. Thầy mới nói hăm sáu.

Cái thước gạch lại giơ lên nhưng chưa kịp gõ xuống mà lũ nhỏ đã lật đật im lặng rồi. Có tiếng lè nhè:

- Thưa thầy trò Lẹ giàu mà trò nói chỉ góp năm xu.

- Không được. Cha nó làm ông Cửu, nhà giàu.

- Thưa thầy như vậy thằng Dĩ cũng phải nạp một cắc. Nó là con bà Xã Tám Chí thạnh...

Những đứa con nhà giàu bị hành hạ liên tiếp mấy buổi học vì ở lớp thì bạn nhất định cho là giàu mà về nhà thì cha mẹ đều bảo là mình nghèo. Nhưng rồi cuối cùng số tiền tom góp cũng đủ. Thầy giao cho ông cai trường lo mua sắm. Ông Tròn quê mùa có biết mua sắm gì đâu? Ông chuyên môn chặt bụi ráy bó chổi để quét trường khỏi tốn tiền muạ Ở góc lớp ông trữ sẵn bảy, tám cây chổi. Ông giỏi gánh nước, leo đường dốc mà cứ chạy kìn kịt. Ông cũng có tài lễ phép. Hễ đứng nói chuyện với thầy thì một tay cung trước ngực, một tay gãi tai và mắt thì ngó xuống đất. Thường thường gãi tai là cử chỉ đối với ông Xã, cung tay là đối với ông Thừa, ông Lại và cúi nhìn xuống đất là khi bẩm quan. Ý chừng ông Tròn không biết xếp thầy ở nấc nào của cái thang chức tước ấy nên khôn ngoan, ông tổng hợp mỗi động tác một ít. Ông Tròn quan niệm cúng trường cũng như cúng các đẳng nhà ông nên món thực phẩm đầu tiên và chót hết mà ông có thể nghĩ đến là món chè nếp đậu ván. Chè thì phải đi với xôi cũng như có vợ có chồng. Xôi chè sắp trơn luột trên bàn thì ngó không được nên ở dãy trước phải một hàng dĩa cốm bột, bánh in. Đèn hương thì khỏi phải tính toán suy nghĩ vì dù hà tiện đến mấy cũng phải ra hàng xén của mụ Lành mua, - mụ này kêu vợ Ông Tròn bằng cô họ,- chứ không giống bụi ráy có thể lên núi mà chặt bao nhiêu cũng có. Khỏi tốn tiền mua hoa. Mấy cây điệp ở trước Ty hàng tha hồ cho ông bẻ.

Thế là đúng xế hôm hăm sáu tháng Chạp cúng trường, ông Tròn gánh một đầu nồi chè to tướng, còn đầu kia thì lổn ngổn chén dĩa, bánh cốm, hương hoa... Cái bàn thầy được khiêng ra để giữa lớp. Xôi được ông xới ra dĩa trước. Học sinh tự nguyện lãnh việc bưng sắp lên bàn rất đông. Tiếp theo, ông múc chè ra từng chén. Công việc này mau hơn đơm xôi vì xôi khó tém cho tròn mà hễ tay đụng vào đâu là xôi bám chặt theo đó. Những chén chè cứ sắp hàng, sắp hàng mãi, ban đầu còn rộng rãi thoải mái, sau phải xếp sít lại gần, sít thêm nữa, đến chật ních cả bàn. Cái bàn thầy ngày thường trang nghiêm, nay phải chở một đám xôi chè trông tầm thường như cái kệ của quán bà Cống. Nhưng khi ông Tròn đặt hai cây đèn thau hai bên, cái lư hương để ở giữa, cái bình hoa sát ở cạnh thì ông đã vô tình trả lại sự trang nghiêm toàn vẹn cho cái bàn thầy. Và khi thầy Hiền, chững chạc trong cái áo dài đen, đầu đội khăn xếp, chân mang giày trắng bước lại trước bàn châm nến và châm hương lầm rầm khấn vái thì tất cả anh chị em học sinh đều khép nép im lặng. Ánh nến lung linh, vòng khói hương bay quyện lên cao có một vẻ gì huyền bí. Những dĩa xôi, những chén chè như đã cởi bỏ cái lốt tầm thường của một món ăn mà khoác lên một vẻ thiêng liêng, xa lạ. Sau khi thầy cúi đầu vái xong ba vái thì đến lượt lũ học sinh lên làm lễ. Thầy sắp cho cứ năm đứa lên lễ một lần, đứng thành ngang hàng trước bàn. Hôm nay đứa nào cũng ăn bận gọn gàng sạch sẽ hơn ngày thường nhiều nhưng sang trọng hơn cả vẫn là Sanh. Bộ quần áo của nó bằng vải tàu bay trắng tinh và may máy nên đường may thẳng và nhỏ như nét kẽ. Khi thầy lùa đủ năm đứa để cùng đứng với thằng Sanh thì đứa nào cũng chực lảng xạ Thằng Ri bị bắt cóc đứng cạnh Sanh cứ lén nhìn xuống bộ quần áo vải tám vàng khè của mình. Thằng Sung bận áo cụt vải ú đen quần trắng giống y như cha nó khi đi tết chủ ruộng. Quê mùa mà bằng lòng vô tư nhất là anh Soi. Hình như anh mồ côi cha, nhà nghèo, ở mãi tận hóc núi Bà. Anh bận áo vải ta trắng may tay, đường may dày cộm, mũi chỉ thưa và không đều. Có nhiều đoạn chắc vì hết chỉ, mẹ anh may bằng sợi gai. Vạt trước cắt nhọn quá, dô ra như cái mái, để lòi một phần da bụng. Áo chỉ có một túi, rất lớn, rất cao dễ có thể chứa được hai tô lúa. Có năm hột nút mà mỗi hột mỗi loại. Hôm nay anh vẫn mặc cái quần cũ, cái quần nhuộm chàm đã xơ cả đáy. Anh bước tới vái và lẩm nhẩm khấn một cách thành kính y như anh quen với công việc này lắm. Bé Trung thì khờ hơn. Nó không biết khấn tên ông gì nhưng nó đoán là ngồi ăn chè trên bàn phải là mấy con ma ở cây cà te trước trường. Cây cà te lớn sum sê, lá xanh quanh năm và gốc to năm đứa ôm không xuể. Mới ngày đầu khai giảng mà lũ bạn ở Thiện đức đã thầm thì truyền lời đồn:

- Cây cà te đó ma nhiều lắm. Ông Gương đi mua kén ở Hòa đa về ngang qua đó nghe tiếng ma đưa võng ru con, sợ chạy gần chết.

- Khuya khuya có những tấm phướn đỏ bay về ngang qua cây cà te rồi ghé vào, biến mất.

- Tấm phướn là cái gì?

- Là tấm vải đỏ rất dài. "Bà" bay về nghỉ ở đó.

Lũ thằng Đời thằng Hỷ mang cơm theo để trưa ở lại trường, nghe nói sợ quá phải xuống xóm nghỉ trọ. Còn tất cả học trò thì đều sợ vì những sự thất kính vô tình của mình trong suốt năm học. Chẳng hạn, nó giỡn mà hét to lên làm kinh động giấc nghỉ của "Bà". Chẳng hạn khoái chí quá, nhặt đá lia vung, lia nhằm cả vào tàn cây cà tẹ Cũng có thể "Bà" đi ngự du ở đâu về, sẵn thấy lũ nhỏ ra đánh mạng đánh đáo ngoài sân trường, "Bà" bắn chơi một mũi tên. Nhưng có điều này đáng sợ hơn hết là sự tiểu bậy của chúng. Đang mê chơi thì gặp chỗ nào cũng có thể vén quần tiểu được. Đánh trống ra chơi, mừng quá nhảy xổ ra thì nhất định bạ hướng nào cũng có thể tiểu. Không nhiều thì ít, đứa nào cũng đã có vén quần tiểu về phía cây cà tẹ Tất cả lũ học trò thành kính vái trước bàn, phần lớn là để xin tha cái lỗi bất cẩn đó.

Lễ cúng xong, ông Tròn đem xôi chè ra sắp từng bàn. Quen với nghề làm cai trường, ông chia đều mỗi bàn năm chén. Khu chén chè đậy vào lỗ dành để gài gô đê mực. Lũ học trò ngồi lắp vào băng, đều đặn như những cái đinh bù long ráp vào máy. Cuộc ăn bắt dầu, thứ tự, trang nghiêm như khi chúng ngồi làm bài hạch tấn ích. Đến lúc chén chè hết, những ngón tay bắt dầu véo mấy dĩa xôi thì cuộc trò chuyện khởi sự và ồn ào ngaỵ Mươi phút sau, chén dĩa hết sạch và ông Tròn ra xổ trống.

Ngót ba mươi năm thấm thoát trôi qua, đến nay bé Trung đã bốn mươi tuổi đầu rồi. Bé Trung đã làm một người cha nghiêm nghị và trưa nay sở dĩ bé ngồi nhớ lại đoạn đời ngây thơ của mình ở ngôi trường Ngân sơn quê mùa xưa là vì đứa con của bé, thằng Nghĩa, vừa đưa cho bé bức thư xin tiền của nhà trường nơi nó học. Bé nhìn xuống tờ thư in ronéo còn nằm dưới tay mình.

Nha trang ngày 30 tháng Giêng năm 1961

Hiệu trưởng trường Tiểu học Tân Phước

Kính gởi phụ huynh trò Phan Đức Nghĩa

Nhân dịp Tết Tân Sửu, trường chúng tôi có tổ chức cây mùa Xuân cho các em học sinh của trường vào 16 giờ ngày 11 tháng 2 năm 1961 tức 26 tháng Chạp Âm Lịch. Chúng tôi rất hân hạnh được nhận những món quà hoặc tiền mặt của Ông, Bà để việc tổ chức cây mùa Xuân được kết quả.

Xin cảm tạ lòng chiếu cố của Ông, Bà.

Lobo-Sói xám vùng Kurumbo

Enexter Xeton Tomson

Kurumbo là một vủng chăn thả gia súc lớn thuộc phần Bắc Niu Mechxich. Đó là vùng chăn thả phì nhiêu, có những đám gia súc lớn, những đồi núi cao và môt số suối trong chảy vắt chảy vào con sông Kurumbo mà ngườì ta dùng ngay cái tên để gọi địa phương này.Vị lãnh chúa của vùng này là một con sói xám già

Con Lobo già đã một thời là thủ lãnh của một đàn sói xám phá phách khắp thung lũng Kurumbo trong nhiều năm trời.Tất cả những gã chăn bò và chăn gia súc đều biết nó rất rõ, và nó cùng bầy đàn trung thành xuất hiện ở nơi nào cũng đều làm cho nơi đó kinh hoàng và những người chủ gia súc vô cùng thất vọng.Con Lobo già là một con sói khổng lồ, và sự ranh mãnh cũng như sức khỏe của nó hết sức cân xứng với tầm vóc của nó.Tất cả cư dân vùng ấy đều khá quen với thuôc với tiếng tru của nó và nhận ra ngay tức thì.Môt con sói bình thường có thể tru hàng giờ gần trại gia súc mà chẳng ai để ý, nhưng khi khe núi vang lên hôì rúc sang sảng của Lobo thì nổi lo lắng lại bao trùm, và họ biết ràng sáng mai thế nào họ cũng phải đón nhận những thiệt hại mới của đàn gia súc

Bầy của Lobo ko lớn lắm .Tôi ko hiểu tại sao lại như vậy.Thường thường xung quanh 1 con đầu đàn nổi tiếng như vậy hay tập trung 1 số tùy tùng đông đảo.Nhưng có lẽ Lobo ko muốn dẫn dắt một đàn lớn, mà cũng có thể hành vi tàn bạo của nó đã hạn chế số đầu sói tròng bầy.Có điều chắc chắn là, trong những năm cuôi đời Lobo đàn của nó chỉ vỏn vẹn có 5 con, nhưng con nào cũng to lớn và nổi tiếng cả.Con sói phụ tá của Lobo là một con sói thực sự khổng lồ nhưng nó vẫn thua xa con đầu đàn về sức khỏe và sự tháo vát

Những con sói khác trong đàn cũng có những đạc điểm riêng.Một con trong số chúng là một con sói trắng tuyệt đẹp, người Mehico gọi là Blanca và người ta cho rằng nó là một con sói cái và là bạn đời của Lobo .Một con khác lông màu vàng, nổi bật về tài chạy nhanh, và nó đã nhiều lần đuổi kịp cả con sơn dương đang chạy

Cuôc đời lũ sói này gắn chặt với đời sống cũa những người chăn thả gia súc, và họ sẽ rất sung sướng nếu như diệt trừ được chúng.bất kỳ người chăn gia súc nào cũng sẵn sàng tặng nhiều bê non cho ai lột được gia đầu của 1 con trong bầy đàn Lobo.Nhưng chẳng một phương cách nào giết nổi chúng.Chúng cười giễu các thợ săn, coi thường bả độc, và chiếm giữ mỗi ngày một con bò trong đàn gia súc Kurumbo trong 5 năm trời

Đàn của Lobo to béo , no đủ và ăn uống rất kén chọn.Chúng ko đụng tới gia súc chết vì bệnh tật hay giả yếu, coi rẻ những con thú do người chăn giết.Thường chúng chọn ăn trưa phần mềm nhất của con bê vừa bị chính chúng giết chết.Chúng khinh miệt bò đực và cái, và rõ rang là ko ua thịt cừu dù thỉnh thoàng giết cừu để tiêu khiển.Một đêm tháng 11 năm 1893 Blanca và con sói vàng đã giết sạch 250 con cừu mà ko đông tới một miếng thịt nào

Cái đầu của Lobo được treo giải rất lớn và khắp nơi người ta rắc bả dụ nó, nhưng nó luôn đoán được sự hiện diện của thuốc đôc và vẫn an toàn.Nó chỉ sợ duy nhất một thứ là súng. Lobo không bao giờ tấn công người và cố tránh chãm trán với con người.Trong đàn của nó hễ con nào phát hiện ra người là bỏ chạy ngay lập tức, dù người ấy còn ở xa đến thế nào

Một lần một gã chăn bò nghe thấy tiếng tru gọi đàn của Lobo, gã bèn náu vào một bên và nhìn thấy bầy sói bao vây một đàn bò không đông lắm

Lobo ngồi trên mô đất bên cạnh còn Blanca và những con khác thì cố xua 1 con bê non mà chúng đã chọn ra khỏi đàn.Nhưng đàn gia súc đã tập trung thành 1 khối và đứng quay đầu chỉa sừng ra ngoài sẵn sàng nghênh chiến.Cuối cùng Lobo hết kiên nhẫn, nó rời mô đất, cất tiếng rống khàn khàn và lao vào đàn gia súc.Mấy con thú nuôi hoảng hốt chạy loạn xạ tứ tung hệt như nhũng mảnh bom bị nổ tung.Con bê lễ vật cũng cắm cổ chạy, nhưng chưa được 20 bước thì Lobo đã đuổi kịp.Nó ngoạm cổ con bê rồi bất ngờ đứng sững lại.Cú giật mạnh đến nỗi con bê ngã chổng vó lên trời, Lobo cũng ngã nhưng nó vùng dậy ngay lập tức.Những con sói khác lao vào kết liễu con bê trong vaì giây . Lobo không dúng tay vào việc này.Khi vật ngã nạn nhân của nó xuông đất rõ ràng nó đã nói với đồng bọn: "TẠi sao trong chúng mày không có ai làm việc này ngay từ trước ,thay vì bỏ phí thời gian một cách vô ích như vậy"

Gã chăn bò vôi kêu thất thanh rồi lao về phía bọn chúng, lũ sói bỏ chạy.Gã chăn bò lôi cái chai đựng Xt'ricnin đổ vào ba chỗ trên xác con bê rồi rút lui.Gã biết lũ sói sẽ trở lại ăn thịt con bê mà chính chúng đã giết.Nhưng sáng hôm sau khi gã đến xem thiệt hại thì thấy lũ sói có ăn thịt bê nhưng đã thận trọng tránh mọi chỗ bị dây thuốc đôc.

Cái đầu Lobo ngày càng được treo giá cao hơn ,cho đến 1000 đô la là cài giá chưa từng có với 1 con soí

Anh thợ săn Tennoray người Texax bị phần thưởng cám dỗ cũng lần đến Kurumbo.Anh trang bị tuệt hảo cho cuôc săn sói, dùng những trang bị tuyệt hảo, những con ngựa tốt nhất và một đàn chó lớn. Ỏ Texax anh và đàn chó đã tiêu diệt ko ít sói nên tin chắc chỉ vài ngày thôi thì mảnh da đầu Lobosẽ treo lủng lẳng trên mỏ yên ngựa của anh.

Và thế là vào một buổi sáng hè, anh đã lên đường từ tờ mờ sáng.Chẳng bao lâu những con sói to bự đã cất tiếng sủa vui vẻ báo hiệu bắt gặp dấu chân con mồi.Chúng chạy được 2 dặm thì thấy phía trước là bầy đàn trứ danh của Lobo và bắt đâùi một cuôc rượt đuổi mãnh liệt dữ dội. Đàn chó chỉ cần giữ chân sói cho đến khi thợ săn đuổi kịp và nổ súng. Ỏ bình nguyên Texax thì điều đó thật dễ dàng, nhưng ở đây thì khác hẳn.Các hẻm đá và nhành sông Kurumbo chia cắt bình nguyên thành nhiều hướng,Con sói giả tức thời chạy tới một khe hảm gần nhất và nhảy qua một nhánh sông. Đàn sói tản ra nhiều hướng và bầy chó cũng bị phân tán theo.Sau đó lũ sói tập hợp lại và đối phó với số chó còn hiện diện. Đến chiều tối khi Tenoray tập hợp lại được đàn chó thì thấy chỉ còn có 6 con trở về trong đó 2 con bị thương nặng.Tuy vậy chàng thợ săn chưa bỏp ý định và còn tiếp tục tổ chức 2 lần săn nữa, nhưng thất bại vẫn hoàn thất bại.Lần cuối cùng anh phải trả giá bằng con ngựa của mình. Nó bị đập vào đá chết nghẻo.Lúc đó Tenorây mới chịu tuyên bố bỏ cuộc và quay về Texax, để mặc Lobo ngự trị tại Kurumbo như cũ

Năm sau lại thêm 2 ngườ thợ săn tới, ngươì nào cũng nghĩ họ sẽ xoay xỏa được với con sói lừng danh đó.Môt người hy vọng vào cách đạt bả đôc và kiểu đạt mồi mới .Người thứ 2 cũng muốn dùng bả, song lại dự tính dùng thêm mấy câu thần chú, bởi vì ông ta tin rằng Lobo đã thành tinh nên ko thể giết nó một cách bình thường.Nhưng chẳng có thứ bả đôc bùa ngaĩ và thấn chú nào có thể khuất phục nổi tên cướp xám. Lobo vẫn tiếp tục các cuôc tiễu phạt của nó và vẫn ăn uống no nê.Cuôi cùng những người thợ săn đành từ bỏ mọi nỗ lực và chuyển sang vùng khác

***

Tôi ko mấy tin các câu chuyện cũa những gã chăn bò cho mãi đến mùa thu năm 1983 là khi mà tôi chưa được làm quen với tên cướp lừng danh đó và còn chưa biết về no hơn mọi người khác.Trước đó mấy năm, khi con Bingo vẫn còn sống tôi vẫn đi săn sói.Nhưng từ dạo ấy đến nay công việc của tôi thay đổi và tôi bị cột chặt vào bàn giấy cùng với cây viết.Và khi một người bạn là chủ trang trại Kurumbo mời tôi tới để thay đổi không khí và tìm cách diệt trừ lũ đạo tặc thì tôi nhận lời ngay lập tức

Tôi dành mấy ngày liền để thăm sóc địa hình và thấy quá rõ giữa vùng đồi và khe núi này ko thể dùng chó săn và ngựa. Cách duy nhất là bẫy và bả độc

Tôi không đi sâu vào chi tiết và mô tả tất thảy những biện pháp tôi dùng để đối phó con sói thành tinh ấy.Ko có thứ hỗn hơp xt'ricnin, thạch tín và xyanuya kali nào mà tôi ko thử dùng làm bả đôc.Không có thứ thịt nào mà tôi không dùng làm mồi nhử nó.Nhưng mỗi buổi sáng tôi đều nhận ra mọi nỗ lực của tôi đều công cốc.Con sói già quá ư láu cá

Theo lời khuyên của 1 thợ săn già tôi nấu chảy một ít pho mát cùng với mỡ thận của 1 con bê non:Pho mát tôi nấu trong bát sứ và cắt bằng dao xương để tránh mùi kim loại.Sau đó tôi cặt thành mấy miếng nhỏ, trên mỗi miếng tôi rạch một đường nhét vào đó Xyanuya đã được bọc kín để không bốc mùi gì. Sau đó tôi dùng phó mát bọc kín lỗ hở lại.Trong khi làm tôi mang găng tay nhúng trong máu con bê, thậm chí còn cố ko thở vào miếng mồi.Làm xong tôi đạt nó vào cái túi' da cũng bôi đầy máu rồi đi vòng quanh mười dặm, cứ mỗi d8ạm tôi rải một miếng mồi, cố tránh ko chạm tay vào nó

Tôi tiến hành công việc vào thứ 2 và ngay chiều hôm đó khi chuẩn bị ra về chúng tôi nghe tiếng tru trầm trầm của Lobo.Sáng hôm sau tôi lên đường thăm bẫy, và gặp ngay tức khắc dấu vết của bầy đàn Lobo.Lũ sói đánh hơi thấy miếng mồi mà tôi xách theo,tôi tin chắc Lobo tiến tới miếng thứ nhất và lập tức nuôt chủng nó.Lúc ấy tôi ko sao giấu được sự vui mừng:

"Cuôi cùng nó cũng bị tóm cổ, chẳng bao lâu ta sẽ thấy nó nằm chết còng queo"

Dấu chân đưa tôi tới món mồi thứ 2 vá tôi thấy nó cũng biến mất rồi

Điều này khiến tôi hoan hỉ xiết bao.Bây giờ nó có chạy đằng trời

Nhưng dấu chân ko hề mất đi và dù tôi có nhổm đứng trên bàn đạp tôi vẫn không tìm thấy dấu vết của một con sói bị chết ở đâu cả.Tôi đi tiếp theo dấu chân và đến miếng mồi thứ 3, nó cũng mất tăm nhưng dấu chân lại đi đến miếng thứ 4.Và đến đó tôi đã khẳng định được Lobo chẳng hề nuôt miếng nào cả, mà chỉ tha chúng gom lại thành một đống xú uế để biểu lộ toàn bộ sự khinh thị của nó với tôi.Làm xong nó dẫn bầy đàn được bảo vệ chu đáo của mình sang hướng khác

Tôi đành gửi mua bẫy và trong lúc chờ đợi tôi đành săn bắn sói cỏ và các con thú khác để thư giản và giết thời giờ.Cuối cùng các bẫy được gởi tới và tôi đã hùng hục làm suốt 2 tuần để đạt tất cả những nơi có thể đạt bẫy. Đạt xong hôm sau tôi đi thăm bẫy và chẳng khó khăn gì qua những vết chân của Lobo tôi đọc được cả hành trình ban đêm của nó.Nó lùng sục trong đêm, và dù các bẫy đc ngụy trang khéo léo, nó vẫn phát hiện ngay lập tức.Nó dừng cả đàn lại rồi cố sức bới đất xung quanh đến khi bật cả bẫy lẫn dây xích và khúc gỗ lên.Sau đó nó đi tiếp và lại làm thế với các bẫy khác.Tôi nhận ra rằng khi nhận ra điều gì khác thường , nó dừng lại và đi tránh sang 1 bên.

Lập tức tôi nghĩ ra 1 kế hoạch mới: Tôi đặt bẫy thành hình chữ H, nghĩa là rãi 2 hàng bẫy và đạt 1 cái nằm ngang chính giữa,nhưng chẳng phải chờ đợi lâu la gì tôi cũng thấy ngay thất bại mới

Lobo đi trên lối mòn và bước tới giữa 2 hàng bậy song song nhau thì phát hiện ra cái bẫy nằm ngang.Nó đã đứng dừng lại kịp thời

Tôi không biết bằng cách nào và tại sao nó lại đoán ra sự thể.Dù sao Lobo cũng ko quay ngang quay ngửa, mà chậm rãi thận trong đi giật lùi, cố đạt từng bàn chân lên vết chân cũ của mình cho đến khi thoát khỏi nơi nguy hiểm.Sau đó nó đi vòng qua cái bẫy rồi lấy chân sau cào sỏi đá cho đến khi bẫy sập hết

Nó củng hành đông tương tự như vậy trong nhiều trường hợp khác, và dù tôi có nghĩ ra đủ loại biện pháp thì nó vẫn luôn thoát được một cách bình yên vô sự.Chác có lẽ cho tới tận bây giờ nó vẫn tiếp tục phá phách nếu như không có một sự ráng buộc bất hạnh đưa nó đến chỗ chết và đã ghi thêm tên nó vào bản danh sách dài những bậc anh hùng mà nếu sống riêng lẻ một mình thì chẳng có gì có thể khuất phục được nhưng đã chết chỉ vì sự thiếu hiểu biết của người bạn tin cây của mình.

***

Căn cứ vào vài dấu hiệu tôi nhận thấy trong đàn của Lobo có sự khác thường.Ví du , chôc chốc các vết chân lại cho biết có một con sói khác không to lắm chạy trước con đầu đàn. Đôi với tôi điều đó quả là khó hiểu, nhưng 1 người chăn bò đã nói với tôi:

"-Hôm nay tôi trông thấy chúng, con Blanca chạy dẫn đầu và tự làm theo ý nó"

Bây giờ tôi đã rõ mọi việc nên nói luôn:

"Như vậy Blanca đích thị là 1 con sói cái bởi vì nếu là sói đực thì Lobo đã trừng trị cái tôi hỗn xược đó rồi"

Sự kiện này làm tôi chợt nảy ra 1 ý định mới.Tôi chọc tiết 1 con bê và đạt cạnh thi thể nó 2 cái bẫy.Sau đó tôi chặt cái đầu bê là một bộ phận chẳng bổ béo gì, rồi đem để nó ở cách xa 1 chút.Xung quanh cái đầu tôi đạt 6 cái bẫy cực mạnh được ngụy trang khéo léo và tẩy sạch mùi.Trong khi làm ngay cả tay, giày lẫn đồ nghề của tôi đếu bôi máu tươi.Tôi vẩy cả máu xuống đất chung quanh làm như máu chảy từ cái đầu bê ra. Khi bẫy đạt xong tôi lấy tấm da sói cỏ khẻ quệt vaò cát phủ trên bẫy và dùng bàn chân sói cỏ in vô số dấu vết xung quanh.

Lũ sói có thói quen lại gần các xác chết khi nó đánh hơi thấy.Tôi không mảy may nghi ngờ Lobo sẽ phát hiện cái bẫy của tôi tại miếng thịt và nó sẽ ko cho bầy lại gần, nhưng tôi hy vọng vào cái đầu nó d8úng là như bị quảng ra như 1 vật vô tích sự.

Sáng hôm sau việc đầu tiên là tôi đi thăm bẩy.Và kìa thật sung sướng biết bao , ở đấy rành rành đấu chân sói và nơi đạt đầu bê với cái bẫy đã trống trơn.Tôi vôi vã xem dấu chân và biết chắc rằng Lobo ko cho bầy lại gần miếng thịt nhưng có 1 con sói đã tới ngửi cái đầu bê và mắc bẫy.

Chúng tôi đi theo 1 dặm đường thì trông thấy con sói bị mắc bẫy đó chính là Blanca.Vừa nhác thấy chúng tôi nó đã cắm đầu chạy trốn và mặc dầu chân vẫn mắc bẫy dính cái đầu bê nhưng nó chạy còn nhanh hơn người bạn tôi đi bộ.Tuy nhiên chúng tôi vẫn đuổi kịp nó bên dốc đá bởi cái đầu bê bị mắc sừng vào đá

Chưa bao giờ tôi gặp 1 con sói đẹp như Blanca .Bô lông phẳng mượt và dày dặn của nó hầu như trắng toát.Nó quay phát lại, sẳn sàng lao vào cuôc chiến với chúng tôi và tru lên. Đó là 1 tiếng tru kêu gọi kéo dài.Và từ ngọn đồi xa vọng đến tiếng của Lobo .Nhưng đó là hồi tru cuối cùng của con sói cái vì chúng tôi đã đến sát bên nó và nó phải thu hết sức lực để tự vệ

Tiếp theo đó là một màn bi kịch không thể tránh khỏi mà sau này nhớ lại tôi vẫn rùng mình.Cả hai chúng tôi cùng ném thòng lọng vào cổ Blanca và phi sang phía bên kia.Máu miệng nó ôc ra, tròng con mắt trợn ngược, chân ruổi dài và rũ xuống bất lực.Chúng tôi trở về mang theo con sói chết, hân hoan vì đã giáng đòn sấm sét đầu tiên xuống đàn của Lobo.

Chôc chốc tôi lại nghe tiếng tru của Lobo.Nó lang thang khắp vùng đồi, có lẽ đang tìm kiếm Blanca.Nó không muốn bỏ rơi con sói này nhưng nó hiểu rằng ko thể giúp gì cho bạn được nữa vì nó ko sao khắc phục được nỗi sợ với cây súng.Cả ngày hôm ấy chúng tôi nghe thấy tiếng tru thảm thiết của Lobo và tôi bảo một người chăn bò:

"Bây giờ thì tôi tin chắc Blanca chính là bạn đời của Lobo"

Đến buổi chiều Lobo mò tới hẻm núi của chúng tôi bởi tiếng tru của nó vang lên mỗi lúc 1 gần hơn.Trong tiếng tru ấy không còn sự oai hùng như trước nữa mà lẫn vào đó sự sầu thảm và ai oán.Dường như nó gọi người bạn đời :"Blanca, Blanca". Và khi nó đến chỗ chúng tôi và chỗ bạn nó bị giết thì nó kêu 1 tiếng xé nát tâm can.Trước đây tôi không nghĩ mình sẽ đau xót đến thế khi nghe tiếng tru ấy, thậm chí những người chăn bò khắc khổ cũng cảm thấy ngạc nhiên trước tiếng tru đó.

Lobo hiểu rõ chuyện gì đã xảy ra vì máu Blanca vẫn tung tóe trên mặt đất.Nó theo dấu chân ngựa đến trang trại của chúng tôi,Nó muốn tìm Blanca hay muốn trả thù tôi cũng không biết nữa.Nhưng ý định của nó đã được thực hiện: nó đuổi kịp con chó canh cửa của chúng tôi ở ngay cổng và xé xác con chó làm nhiều mảnh.Lần đó nó chỉ đến một mình vì tôi chỉ tìm thấy có vết chân của nó thôi.Vết chân đó nói ràng nó đã chay lung tung khắp trại và hoàn toàn quên mất thận trọng.Tôi liền đạt ngay rải rác khắp bãi nhiều bẫy nữa và Lobo đã mắc vào 1 trong số đó.Nhưng nó khỏe tới mức vuôt thoát ra khỏi bẫy

Tôi biết Lobo sẽ không ngừng tìm kiếm xác của Blanca nên tôi đã tận dụng mọi nỗ lực nhằn tóm nó trước khi nó qua cơn xúc động.Lúc đó tôi hiểu rằng mình sai lầm khi giết Blanca, giá như tôi dùng nó làm mồi thì đã tóm được con đực ngay đên đầu tiên.Tôi chọn 130 cái bẫy kiên cố nhất và đạt trên mỗi một khoảng đất trống trên lối mòn 4 cái.Mỗi cái bẫy dc buôc riêng 1 khúc gỗ và mổi khúc gỗ được phủ riêng 1 lớp đất.Khi vùi bẩy tôi bóc cả 1 mãnh đất đạt lên bao nilon để sau khi đạt xong phủ lên lại nhằm xóa hoàn toàn dấu vết bàn tay con người

Sau khi ngụy trang xong tôi đạt con Blanca bất hạnh vào giữa bãi trống, tôi chặt 1 chân của nó và in dấu lên từng chiếc bẫy một.Tôi đã áp dụng mọi phương cách mình biết và mãi tới chiều mới rút được.Ban đên tôi có cảm tưởng nghe tiếng tru của Lobo.Ngày hôm sau tôi lấy ngựa ra đi nhưng trời sụp tối trước khi tôi kịp đi hết 1 vòng khe trống.Sau bữa ăn 1 ngươì chăn bò bảo tôi bẩy gia súc ở hẻm phía bắc có vẻ hoảng sợ, chẳng biết có phải nó đã sụp bẫy ko

Mãi đến chiều hôm sau tôi mới tới được chỗ ấy và khi tới gần tôi thấy cái bóng xám nhổm dậy định chạy trốn nhưng không được.Trước mắt tôi là Lobo, nỗi kinh hoàng của vùng Kurumbo.Mấy cái bẫy đã giữ chặt lấy nó, ôi ngươì hùng già bất hạnh.Mi không ngừng tìm kiếm người bạn đời của mình và khi tìm thấy thì mù quáng lao vào cạm bẫy.Bốn cái ngàm sát đã giữ chặt 4 chân nó

Nó nằm đó hoàn toàn bất lực, vô số vết chân cho thấy đàn gia súc đạ tụ tập định hành hạ kẻ chuyên quyền nay bị lật đổ nhưng rốt lại không dám tới gần nó

Nó nằm đó đã 2 ngày và giờ đây hoàn toàn kiệt sức.Tuy thế khi tôi lại gần nó nhổm dậy và tru lên một hồi dài cuối cùng vang động, rung chuyển ca 2 vách đá để kêu gọi sự giúp sức của bầy đàn.Nhưng chẳng có ai đáp lại nó.Và con vật bị bỏ rơi ấy lao vào tôi trong 1 cố gắng tuyệt vọng cuối cùng nhưng vô ích.Hàm răng nanh của nó nghiến vào sợi dây xích mới đáng sợ làm sao.Và khi tôi thử chạm báng súng vào nó thì nó để lại trên đó những vết răng nanh còn tới tận bây giờ.Mắt nó tối lại vì căm hờn và tức giận khi nó cố đớp tôi và con ngựa.Nhưng nó đuối sức dần và chẳng mấy chôc đã nằm vật xuống.

"Hơĩ tên cươp già lừng danh, kẻ đã gây ra vô số cuôc tàn phá không sao đếm xuể-Tôi nói với nó- vaì phút nữa mày sẽ thành đống thịt chết, nhưng tao không thể làm khác được"

Tôi quang thòng lọng vào đầu nó, nhưng bất ngờ làm sao, nó vẫn không khuất phục,nút dây chưa kịp thát lại thì nó đã há răng đớp gọn sợi dây to tướng và lập tức cắn đứt vất xuống chân.Tôi hoàn toàn có thể bắn chết nó nhưng tôi ko muốn làm hỏng bộ lông tuyệt tác ấy.Tôi bèn goị tới 1 người giúp sức.Chúng tôi quang cho Lobo 1 khúc gỗ mớp và trước khi nó kịp nhả ra thì dây thòng lọng đã rít lên và quấn quanh cổ nó.Khi đôi mắt căm hờn của Lobo đờ ra thì tôi bảo người giúp việc

Khoan đã,ta sẽ không giết nó, hảy đem nó về trại.

Nó yếu tới mức chúng tôi chẳng khó khăn gì tọng khúc gỗ ngang họng nó và buôc hàm nó bằng một sợi dây.Nó vừa cảm thấy hàm bị buôc chặt là thôi không chống cự nữa và cũng không thốt lên tiếng nào.Nó bình thản nhìn chúng tôi tựa hồ muốn nói:

"Được thôi, các người đã bắt được ta, và bây giờ các người cứ làm bất cứ gì các người muốn"

Cũng từ giây phút ấy nó không đếm xỉa gí tới chúng tôi nữa.Nó thở đều đều và dôi mắt nó lại trở nên trong trẻo ,long lanh.Nhưng cặp mắt ấy chẳng hề nhìn chúng tôi mà chúng hướng về phía đồi núi xa xa, nơi mà bầy đàn lừng danh của nó đang chạy tản mát khắp nơi

Chúng tôi thong thả đi về trại. Ở đó tôi buôc nó bằng 1 vòng cổ chắc chắn và một sợi xích to.Sau đó chúng tôi tháo dây buôc hàm nó ra. Lúc đó tôi có thể ngắm nó thật kỹ và nhận thấy rằng thật ít đáng tin tưởng vào những đơm đặt về các vị anh hùng cũng như các bạo chúa trong lúc sinh thời.Mình Lobo không có vệt lông cổ vàng, mà trên vai nó cũng chẳng có thánh giá lật ngược chứng tỏ nó có liên hệ với quỷ dữ.Nhưng trên sườn nó có một vết sẹo to rộng ,dài,vết tích mà con Junon, con chó đầu đàn của Tenoray kịp để lại trong khoảnh khắc trước khi nó quật con chó tắt thở trên mặt đất các khe núi.

Tôi đạt nước và thịt trước mặt Lobo nhưng nó chẳng để mắt tới.Nó nằm sấp bụng, ánh mắt vàng khè vượt qua tôi hướng về phiá lối đi của khe núi và xa hơn nữa tới tận đồng cỏ nơi nó từng tung hoành.Nó thậm chí không đông đây khi tôi chạm vào người nó.Và cho đến khi mặt trời khuất bóng nó vẫn nhìn đăm đam về khe núi ,về đồng cỏ cao.

Tôi chờ tới đêm nó sẽ tiếp tục gọi bầy và đã chuẩn bị sẳn cho cuộc gặp gỡ đó nhằm quét sạch bầy sói Kurumbo.Nhưng trong lúc Lobo tuyệt vọng nhất , nó đã gọi 1 lần và chẳng ai đáp lại, bây giờ nó chẳng buồn gọi nữa.

Người ta nói rằng, khi sư tử bị tước đoạt hết sức khỏe, chim ưng bị tước đi tự do, và chim bồ câu bị chia lìa đôi lứa thì chúng sẽ chết dần vì trái tim quá đau khổ.Và chẳng lẽ trái tim của tên của tên cướp già này có thể chịu một lúc cả ba nỗi đau khổ hay sao.Nó mất cả sức khỏe, tự do và bạn đời.Cho đến khi trời hừng sáng nó vẫn nằm đó thảnh thơi như đang nghĩ.Nhưng đôi mắt đã khép lại, và nó đã tắt thở rồi.Chúng tôi kéo xác nó vào hiên, nơi vẫn còn cái xác con Blanca.Chúng tôi đạt nó cạnh Blanca và thôt lên:

"Mày vẫn đi tìm nó ư. Đấy, bây giờ chúng mày lại được ở bên nhau"

Chó Mèo Hoang

Xuân Diệu

Thà con cọp trên rừng hay đàn cá dưới biển, chúng nó sống như chúng nó sống, cứ tự nhiên, như cỏ nội, hoa đồng. Chúng không cần loài người biết đến, họ có hay không thì chúng cũng chả dính líu gì, có họ mà lại hay hơn! Chứ giống chó, giống mèo, nếu ta không nuôi thì nó biết làm sao? ừ, chúng đi làm gì?

Những chó mèo hoang không thể lại thành chó sói hay mèo rừng. Chúng đành phải thất thơ thất thểu, rách rưới, lang thang. Người ta phải nuôi, có một bổn phận phải nuôi bọn nó, nhưng người ta không nuôi. Vậy thì thôi, ai bắt người ta cho được?

Những con vật ấy đã nhiễm thói ăn cơm với cá, quen tính ở cậy ở nhờ, nương tựa, ỷ lại vào những gia đình, để bắt chước những điều văn minh. Chúng đã qua lại trong nhà cửa, đụng chạm với những bàn ghế, chung chạ với bếp núc. Và không thể tự mình lo đủ, vì đã mất bao nhiêu tài cán trời cho.

Không ai nuôi, bọn nó đi hoang; chúng bơ vơ, cực khổ, chúng đói khát, dơ nhớp, chúng thất nghiệp.

*

* *

A, những con mèo mắt sao, mắt ma, mắt giếng thẳm, bí mật như xứ cổ Ai Cập! Chúng rút mình lại, kêu một tiếng rù rù đâu từ các lỗ chân lông phát ra, lấm chấm nghe như gồm bằng rận nhỏ. Chúng hư thân, mất nết lắm, cái bọn mèo!

Khi Sơn còn học vần quốc ngữ ở nhà, mỗi lúc gần bữa ăn, mẹ Sơn bảo:

- Sơn, đi lấy cơm cho mèo ăn trước, kẻo đến lúc người ta ăn, nó nhảy ngay lên, đứng trên bàn.

Cơm xéo thật rời, chan nước thịt, lại bỏ thêm cá vụn, đựng trong cái chén sắt tây mới tháng trước em Sơn còn bưng ăn. Sơn trông mà bắt thèm đi được. Thế mà con Mun lè cái lưỡi hồng chỉ liếm vài miếng, xơi hết cá rồi thôi. Nó ăn sang! Nó làm bộ! Cho ăn tử tế thì không chịu. Để rồi đi ăn vụng, sướng hơn!

Nó lại còn làm biếng nữa. Trong bốn tháng trời nuôi nó, nó chỉ bắt được có một mẩu chuột tí hon. ấy vậy mà khi xin nó về, mẹ Sơn xách tai nó giơ bổng lên cao thử xem tính nó siêng hay nhác, thì con Mun co mình lại, quắp chân vào, kêu eo éo, ngó sao dễ thương quá! Làm cho cả nhà tưởng nó sẽ siêng.

Sơn cho nó ăn cơm lâu ngày cũng chán. Sơn không chịu nổi công việc ấy nữa. Trước người ta quí nó bao nhiêu, bây giờ nó hư bấy nhiêu. Mặc xác nó! Miễn là giữ gìn các thức ăn, đừng cho nó ăn vụng. Nó muốn đói thì cứ đói, mà muốn no thì bắt chuột lấy mà ăn!

Thế rồi con Mun đi hoang, theo bạn theo bè. Nó đi lúc nào không hay, nhẹ nhẹ bốn chân cao su của nó.

*

* *

Nhưng một sáng sớm cách đó ít lâu, ở đống gỗ đầu hiên, Sơn nghe có cheo chéo những tiếng mèo kêu, nhão ướt và inh ỏi. Thằng Được, một đứa ở nhỏ, kể lại với Sơn, giọng quan hệ bằng chuyện sinh hoàng tử:

- Con mèo bụng to gần sát đất vẫn đến nhà ta; hôm nay đẻ rồi. Năm con! Nó gầy xóp ve, không có sữa nên con nó la nheo nhéo.

Thế có gì hay? Song thằng nhỏ nói giọng rất thầm kín làm cho Sơn tò mò.

Sơn chạy ra xem. Mấy mẹ con ở trong hốc nào, tìm mãi không thấy, chỉ nghe tiếng rên la. Bọn mèo sơ sinh thi nhau réo to, trẻ con khóc không bằng. Sơn thương ngay. Thực lòng Sơn tội nghiệp chúng nó lắm.

Và Sơn liền được dịp che chở: chính trưa hôm ấy con mèo mẹ đến luẩn quẩn dưới bàn ăn cơm. Không biết nghĩ sao nó cứ đụng vào ghế Sơn ngồi. Sơn biết ý, lén bỏ xương cá xuống đất. Cái ấy cấm ngặt. Mẹ Sơn đã dặn: "Đừng bỏ xương xuống, nhớp nhà, và dậm lủng chân". Nhưng con mèo và cả gia đình nó đương đói đây này, quí hóa gì cái xương mà tiếc với nó?

Mẹ Sơn bắt được Sơn bỏ cả nửa con tôm xuống dưới bàn. Bà nhìn theo xuống, thấy con mèo. Bà nói:

- Mày nhịn ăn mà nuôi nó! Làm thế nó quen môi đến hoài, rồi rũ lông vào đồ ăn cho người ta ho lao!

Ăn phải lông mèo thì ho lao! Ghê chưa?

Mẹ Sơn còn giảng với những người khác:

- Không phải vậy là thương chứ. Đồ mèo hoang, chỉ tổ ăn chùng!

Tuy thế, sau bữa ăn trưa, Sơn lén vét một chén cơm cho con mẹ khốn nạn. Sơn lại còn nói mơn nó:

- Ăn đi, ăn mau, về mà cho con mày bú!

Có phải tội nghiệp hay không? Mấy con mèo mới đẻ, nhỏ yếu, khát sữa, rúc miệng nhai nát vú mẹ mà chẳng nước gì. Trách sao bọn nó đừng la. Nghĩa là nó khóc theo tiếng của nó.

*

* *

Tuy mẹ Sơn nói hung hăng, nhưng bà không rầy Sơn tốt bụng của bà nữa. Ngày nào con mèo lạ cũng được no. Bà lại còn vẽ cho Sơn:

- Cho nó vừa vừa, kéo nó bỏ dư, uổng hột ngọc trời. Người ta nói "ăn như mèo ăn ", con lấy chi nhiều cơm vậy?

Rồi thì một hôm - chúng nó vào như mèo chả ai biết mà để ý - toàn chùm mèo con nằm gọn trên cái ghế mây. Chúng lại dỡn nhau, con này nhảy lên con kia, làm dáng, khoe duyên, nằm xuống, đứng lên, ngừng lại, chạy vòng, tưởng đâu nhà của Sơn là nhà của chúng.

Đẹp nhất có con tam thể. Ba màu óng ánh, trắng, đen, vàng. Chao ôi, sao nhỏ nhẻ, mũm mỉm, yếu ớt, dễ thương! Sơn nhịn không được, bồng nó vào tay, vuốt ve, nưng nịu. Chị của Sơn, cô Thư mười hai tuổi, bấy lâu hờ hững, hôm nay lại âu yếm hơn ai. Cô nhỏ bồng lên mà thương, thương lộ rõ nơi bàn tay mơn lông, thương quấn quít nơi hai chân nhảy nhót, thương giòn giã nơi miệng nói, thương, thương!

Mẹ Sơn ban đầu nghìn nghiêm hai chị em:

- "Mèo vào nhà thì khó, chó vào nhà thì giàu". Bay liệu đấy! Cơm đâu mà nuôi sáu cái miệng chỉ giỏi ăn mày?

Chị Sơn nũng nịu:

- Mẹ ạ "chó vào nhà thì nghèo, mèo vào nhà thì giàu" chứ! Có phải không mẹ! Phải không Sơn, câu tục ngữ xuôi hơn, đúng hơn chứ?

Mẹ tát yêu vào mặt chị. Giỏi thực! Chị Thư học đâu mà nhiều tục ngữ thế? ứng đối như trạng Quỳnh.

Rồi nhà lăng xăng lên vì những tiếng "meo... meo..." của năm sáu con mèo và của hai đứa nhỏ gọi mèo. Cho ăn, tắm rửa, chăm sóc, vuốt lông, dỡn, đùa, nhìn, vui quá!

Một lần mèo chạy vào chỗ cát, mũi còn ướt, nên dính cát đầy. Sơn phủi không hết, đem cào rửa, đến nỗi rách da non, thấy cả thịt hồng, Sơn lẻn vào buồng mẹ, lấy ve dầu tăng dót ra bôi.

Thấy mũi mấy con mèo nhỏ vàng khè, chị của Sơn lè lưỡi xuýt xoa, tưởng như mũi mình đương bị rát. Nhưng Sơn giảng nghĩa cho chị:

- Chị ạ, mèo nó không biết rát như ta đâu.

*

* *

... Lòng sốt sắng nguội dần, nhất là trong lòng con trẻ. Mấy con mèo càng ngày càng khuấy nghịch. Chị Sơn ngồi tập khâu vá, thì chúng tung rối cả cuộn chỉ; Sơn học, thì một con nhảy lên nằm gọn trên vở mới, nhớp tờ giấy trắng tinh. Cho ăn chung thì phải lấy cả cái đĩa to, đĩa ấy bận đơm cơm cho người nhà; cho ăn riêng thì phải bốn năm cái chén; mà bỏ cơm giữa đất, thì phải quét nhà.

Và càng lâu, càng lớn, chúng ăn càng tợn; mà thức ăn chúng lại kén chọn như ông hoàng. Nhà Sơn có giàu, có sang đâu!

Đã mấy lần, Sơn nghe thằng Được cau có. Bởi vì mèo ăn hết cơm, hết cá, hết phần của nó đi. Nó ăn sau nên nhà trên ăn còn thừa món gì, thì mèo đã hưởng trước nó, đến lúc bưng xuống thì bao nhiêu đĩa đã sạch bong. Và, hỡi ôi! Mèo lại còn ăn lẫn của nó nữa! Một hôm, mẹ Sơn cho nó một miếng cá - ngon lắm, cá thu - nó chưa ăn, chạy ra giếng xách nước; trở vào: đau đớn chưa mèo phỗng mất của nó rồi!

Té ra bọn mèo này ăn vụng! Rau nào sâu nấy. Chị Sơn đã bắt đầu nghĩ cách người lớn:

- Đồ con chửa hoang, làm sao mà nên được! Hư là phải. Cái giống mèo hoang...

Thấm thoát qua nửa tháng. Bọn mèo hành hung, rối loạn. Giường nào cũng leo, bàn nào cũng trèo, ghế nào cũng ngồi, không còn thứ bậc chi nữa. Nhỡ mình chúng có bọ chét, có phải lây sang người ta không? - Và ăn vụng cũng không chừa; quen môi chúng càng gian giảo gắt. Lại còn la inh ỏi; ban sáng, ban trưa, ban đêm người ta ngủ, lúc nào cũng mè nheo.

Con mèo mẹ ra gương xấu trước nhất. Phải trị. Đầu tiên, mẹ Sơn bảo đánh, Sơn lấy một cái lạt tre mỏng như cái tăm. Lần thứ hai một cái que lớn hơn. Lần thứ ba, cái cán quạt lửa. Lần thứ tư, con mèo lỳ lợm quá. Sơn phải dùng cả đến cái thước gạch. Thế mà mẹ Sơn còn mắng:

- Mày đánh không thấm da nó! Phải đánh mạnh, đánh chết đi cho chừa!

Sơn đánh không nỡ tay. Sao lại bắt Sơn làm công việc trị mèo ấy? thằng Được liền vội vàng bái lĩnh. Nó thi hành ngay với chiếc guốc, với cây củi. Nó cứ đánh bừa, gặp cái gì trong tay, là nắm lấy mà đánh mèo, không biết nó có thù gì to lớn thế. Sơn xin nó đừng đánh, nó không nghe. Sơn bảo nó đánh nhẹ, nó chỉ cười. Thấy mà đau giùm cho mấy con mèo; thằng nhỏ nhẫn tâm quá! Nhưng mèo hư tột bậc, cứ ăn vụng hoài. Sơn không có lý gì để bênh vực. Chị Sơn đã bỏ chúng, chỉ còn Sơn bịn rịn, - sao lòng Sơn lại yếu hơn lòng đàn bà?

Bây giờ ai đánh mèo, Sơn không dám cản, ai đập guốc nhằm chân mèo, Sơn chỉ nói nhỏ trong miệng: "tội chưa" - Bọn mèo ơi, ngoan lên thử nào! Bay hư hỏng thế này thì xấu hổ cho Sơn, người đã rước bay về; bay làm cho Sơn không thể giữ bay ở lại mà nuôi nấng.

*

* *

... Gió nồm bỗng thổi lên: thả diều sướng biết mấy! Sơn không giữ mấy con mèo nữa, ngày độc ác ấy, mẹ Sơn bảo thằng Được bỏ lũ mèo ở miếng đất hoang tận đầu thành phố, rất xa, cho chúng khỏi tìm cách về. Cách giải thoát này hoàn toàn nhất, không còn kế nào hơn. Còn nhớ thằng Được - thằng nhỏ sao nỡ quên rằng nó cũng tập tàng như rau tập tàng, đẻ ở bên ruộng kia, nếu không đẻ nơi đống gỗ - Thằng Được xách một tay hai cái tai, một tay ba cái; bọn mèo van nỉ, nhưng nó thì cười. Và con mẹ thì nó mượn một đứa nào đó ôm theo. Nó còn thêm:

- Tao vứt đủ cả sáu chúng mày hủ hỉ mẹ con với nhau. Đừng mong về ăn vụng nữa?

Tiếng "ăn vụng" kéo Sơn lại với niềm sắt đá; Sơn phải nhớ sự thật; nhớ bao nhiêu điều hại bọn mèo đã gây ra; dầu Sơn có thương đến đâu, cũng không ôm mấy con mèo lại được.

Ngày nay lớn lên. Sơn không chỉ thương sáu con mèo xấu số đã cùng sống với chàng trong một thời hạn, ghi lại nơi tay chàng một cảm giác mịn màng ve vuốt, lưu lại nơi mắt chàng cái ký ức của những con mắt tinh ma.

Chàng nghĩ đến tất cả những con mèo sống trong lối, lút trong đêm, trùm trong bí mật ghê sợ của một cuộc đời vô định, khác xa những con mèo sang trọng trong những gia đình trưởng giả, nằm chuốt lông trên chiếc gối bông êm ấm, hình bóng loáng như hàng lụa bao ghế hay gạch hoa lát nhà.

Nhiều phen Sơn đứng trên gác trọ, nhìn bao nhiêu nóc nhà chen lấn, lúc nhúc, gập ghềnh. Những nét ngớ ngẩn vì rắn rỏi, những đường gãy hẳn một cách thô bạo, mái bằng phẳng hay trồi lên sũm xuống vì lợp kiểu âm dương, vôi mốc rêu, ngói cũ càng, những màu nâu hay đỏ, những sắc xám hay xanh: tất cả làm nên một cảnh tượng kỳ dị, buồn cười, một cảnh tượng riêng khác.

Sơn nói: đó là thế giới của bọn mèo hoang. Chúng chui trong ống khói đen, nằm trong máng khô nước. Chúng đi nhẹ như sự rụt rè, chúng nhảy mau, chúng lượn nhanh, chúng vọt cao, chúng bổ thấp. Chúng khinh luật thăng bằng, chúng không sợ chiều dưới, và không nể chiều trên. Chúng không thể ngã chúng không thể té. Có phải chúng nó sống trong một cái đời ở trên cuộc đời hay không?

Song chúng tìm đâu ra ăn? Bảo là ăn vụng, thì tiện quá; cái hay, cái khó ở nơi cách ăn vụng. Đánh cắp thế nào? Rình mò ra sao? Chờ ban trưa, đợi ban tối? Nào có dễ gì ăn vụng! Người ta không chịu mất một con tôm to hay một miếng thịt nhỏ mà không báo thù bằng một thanh củi nặng làm gãy xương sườn. Có nhiều đêm, Sơn được gặp hai chấm sáng trong bóng đen, thôi miên, ám ảnh. Có những chiều, Sơn bắt gặp một thoáng mèo vụt qua rồi biến không biết nào nơi đâu. Có những trưa, Sơn trố mắt tha hồ trông những con mèo hoang gầy bẹp như không có bề dày, ngủ phơi dưới nắng.

Dầu đói khát, dầu phải tìm vỏ tôm hay xương cá ở nơi thùng rác, dầu phải đánh cắp những bộ ruột gà người ta vứt đi, dầu khổ sở thế nào, nhưng con mèo hoang vẫn giữ lấy vẻ quý phái - quý phái chứ không trưởng giả. Cách đi đứng, cách nhai nuốt, cách nâng nhẹ những vật thừa thãi đều có duyên của những bà hoàng sẩy ngôi hay những cung nữ hết thời. Chúng bước dè dặt, không muốn dính mình vào đất dơ, chúng có cái đặc tài giữ chân cẳng trơn tru, dù phải dậm qua nhớp nhúa. Và hễ thong thả, chúng liền tỉ mỉ tắm gội. Những cơn đói không bắt chúng lành tính sạch sẽ; tuy là mèo hoang, chúng vẫn còn là mèo.

*

* *

Và họ cũng không chừa cắn nhau, những bà tướng có râu mép. Họ không bỏ hẳn cốt hùm beo của giống giòng. Chân gầy của họ khéo dùng những móng trắng mỏng, nhọn quấn lại, giữ bén và kỹ hơn gươm trong chuôi.

Họ bấu nhau thì ít, gừ nhau thực nhiều. Họ gậm gừ, tiếng khô như khát, tiếng xóp như đói. Những tiếng căm giận, uất ức, đen ngòm, mếu máo như tiếng khóc của đứa hài nhi. Chốc chốc hai tiếng kình địch xoắn lại như quặn lấy nhau, nghe sợn sùng giữa đêm tối.

Tiếng gào của bọn mèo hoang, xui ta tưởng đến những bãi tha ma, những quỷ địa ngục. Ta thường gọi "Mèo ma" những thứ mèo tợ hồ không phải là sự thật, những thứ mèo có lẽ là giả, là yêu tinh. Và ý chừng, tuy ta không nói rõ với trí ta, ta vẫn tin mờ mờ rằng đó là yêu tinh hiện hình giả dạng.

Mèo hoang! Chuyện hồ ly thuở xưa chắc hẳn chỉ là bịa đặt; chỉ có các ngươi, chỉ có bọn mèo hoang mới thực là hồ ly tinh!

*

* *

Bọn mèo hoang tuy thế mà còn sướng. Chúng chẳng sinh ra để sống ngoại hạng, sống ngoài biên là gì. Chúng cao, chúng nhẹ, chúng ở thượng tầng như những nóc lầu chúng xem tợ đất bằng, như những chim sẻ chúng bắt ăn. Chúng có thuật tàng hình, biết làm một xứ riêng, ở đó mà meo, mà gào, mà khóc lên những tiếng hãi hùng cho bọn trẻ con - như Sơn khi còn nhỏ.

Bọn chó hoang mới thực khổ.

Bọn nó trung thành quá nên cứ luẩn quẩn chung quanh người. Bọn nó hiền quá, thật thà quá để người ta đánh một cách dễ dàng, rồi kêu những tiếng đau đớn như bị gãy xương và vỡ trái tim. Gồm bằng những con chó nhà nghèo, chủ đói không có ăn, huống chi là chó. Gồm bằng những mẫu chó đẻ bên bụi cỏ, lọt lòng ra rúc hết vú mẹ không được một chút sữa khô. Gồm bằng những con chó người ta quên nuôi, vì một ngày kia trong nhà bỗng có mười con hoàng anh hay một con vẹt. Gồm bằng những con chó người ta không đem đi, lúc đổi chỗ ở: chúng yêu quá, nương mùi tìm chủ, song đường xa thẳm, hơi đã bay theo gió mấy lần.

Gồm bằng những con chó già. Gồm bằng những con chó đau. Và biết đâu? Gồm bằng những con chó cứng đầu, ghê roi vọt và sợ đọa đày, bằng lòng chết khổ để theo tự do, như chó sói.

*

* *

Ban ngày, chúng đi lang thang, không biết dùng mình làm việc gì. Chúng không phải là loài biếng nhác. Nhưng không có sân, không có nhà mà giữ để sủa cho sướng miệng. Bây giờ chúng dám đâu hùng hổ với người ăn mày! Bởi vì chúng cũng đương đi ăn xin. Nhưng chúng chỉ có đôi con mắt để mà trông thôi, chúng không có lời để mà nói. Chúng chỉ có một bộ xương rất rõ, đếm được từng cái một, không hề che lấy bằng mảnh giẻ nào; nhưng chúng không thể van xin: "lạy ông, lạy bà, nhón tay làm phúc". ồ! lắm phen chúng ngứa miệng quá. Song lẽ nào lại quáu lên giữa đường, ở ngoài trời không; loài người sẽ đánh cho im, và chửi như... chửi chó!

Những con chó nhà vẫn thường đến nhập đàn với chúng. Trong đôi giờ, chúng được quên rằng chúng là "hoang". Cả năm sáu con ngửi lông nhau, liếm mặt nhau. Một con theo đuôi một con, khác chi một người theo chân một người để xin tình ái. Chúng đứng hai con với nhau; sau khi đã mơ lẫn nhau rồi, hai bên ngơ ngẩn hai đường, mỗi đằng nghĩ một ý riêng...

Họ không kể đến xã hội loại người; còn giữa bọn họ với nhau, thì họ không biết mắc cỡ. Họ rất tự nhiên. Bởi thế mới bị người ta đến quăng đá, ném đất cho, khuấy phá làm rầy, phạm vào tự do của họ. Bảo họ vào giữa sa mạc mà yêu nhau hay sao?

Cũng rất nhiều lần cắn nhau dữ tợn, ồn ào. Những con yếu - đó là những con "hoang" - bị nhổ cả từng vạt lông, da sùi trắng hay cháy ứa máu hồng. - Nói hồng cho đẹp vậy thôi chứ máu của loại chó khô khan, đói khát, gầy gò, chỉ có thể bầm tím. Và có lẽ họ không còn máu để chảy nữa kia!

Đó còn lúc khá. Lúc này mới chịu không nổi cho bọn vẩn vơ; tới giờ ăn, những con vật mập mạp, đầy đủ, béo tròn liền bỏ chạy về mừng ông chủ cũng béo tròn, đầy đủ mập mạp, đuôi ngoắt lia lịa, đầu quấn quít vào những ống quần. Chủ đánh cái nhẹ vào mỏ ác, và một đứa nhỏ ngoa mồm lên:

- ấy, thưa cha, con Vàng nó chạy ra chơi với chó hoang, bẩn cả bộ lông rồi!

- Thầy ạ, con Vện nó muốn hư như lũ chó hoang.

- Con Ba Tô! Mày không được chạy rông như chúng nó.

"Chúng nó" thì đương ngơ ngác nhìn theo. Đầu chúng cần được cọ vào một bàn chân; sườn của chúng nhớ một bàn tay ve vuốt. Và nhớ nhất, là cái bụng lép đáng thương, rỗng như những ngày trống không ở dọc đường.

Chao ôi đói, đói, đói không rên được, đói đi không nổi, đói lử cả người, đói... Bọn họ lẩn thẩn lơ thơ, tìm những cái xương không thể rớt xuống tự trên trời, kiếm những miếng cơm mà đất không làm cho mọc lên. Trời ơi, được một cái xương to mà giòn, nhai nghe rào rạo! Ôi chao! Mùi thơm ngào ngạt ở trong bếp nhà kia đưa ra cùng với khói ngon lành! Nếu vào được ở dưới một cái bàn ăn, há hờ những hột cơm rớt xuống! Những cậu bé vụng về và hào phóng, mới tập cầm đũa hay ăn quà đã no, các cậu đi đâu vắng cả? Sao không làm mưa cơm xuống đầy đất, những hột cơm có ướt nước cá, nước thịt, nước tôm! Các cậu rất xa xỉ, các cậu đạp cả chén cơm cho đổ ùa, các cậu há miệng rất hẹp, cố ý vãi cho con chó hai phần thìa cơm. Khi suốt ngày xơi bánh đã quá no, các cậu bưng chén cơm ra hè, mượn con chó của các cậu ăn giùm cho, rồi khoe với mẹ rằng các cậu giỏi lắm. Ôi, những cậu bé hay thương người như vậy, sao các cậu chỉ ở trong nhà!

Ước mơ... Nhớ nhung... Thèm thuồng. Và đói!

Húc mũi vào đống rác. Lè lưỡi trên bụi cỏ. Cào đất lên như những con gà. Con chó hoang cũng vẫn nhớ rằng không có gì trong ấy đâu, rác và cỏ, và cả đất nữa đều bị nó lục soát mấy mươi phen rồi. Nhưng tìm để mà tìm, để an ủi này lừa dối cơn đói mà thôi. Vả lại biết đâu ông trời của loài chó lại không rủ lòng thương mà cho gặp gỡ?

Chiều chiều Sơn đi chơi, thỉnh thoảng gặp một con chó ngẩn ngơ giữa đường vắng, kiếm gì ở dưới đất, mùi dư hay hương thừa, vết không thấy của một miếng thịt hay bóng vô hình của một ngày qua?

Gặp Sơn nhiều lần nên con chó quen người; nó đã đi sau, hít hơi của Sơn một cách ngọt ngào mà Sơn không để ý tới. Rồi một bận, nó cứ theo lỳ lấy Sơn, đuôi phe phẩy. Chắc bấy lâu, nó không được mừng ai, đuôi nó cần được dùng vào tình quyến luyến. Ai bảo rằng tâm hồn nó lại không đồng một cảnh khát khao yêu mến, như cô gái hay chàng trai trong tiểu thuyết tình?

Thú thực rằng Sơn có hơi sợ chó. Đứng xa xem thì được; lại gần, nghe con chó giơ hàm răng, thè lưỡi ướt liếm vào hai chân, Sơn nhột và sợ. Khi nhỏ, học bài "Con chó dại", Sơn ghê rợn và hễ gặp con chó nào đuôi bỏ thõng, mắt ngơ ngác, Sơn liền nghĩ ngay rằng nó cắn chết người. Bây giờ, tuy Sơn biết con chó ấy không dại, nó chỉ "hoang" thôi; Sơn cũng đương còn chút sợ thuở xưa; con vật theo chàng, chàng cuốn chân, vội vàng nạt nó một tiếng lớn. Chàng muốn ù té chạy. Nhưng lại e nó rượt theo cắn chàng.

Cái ấy không cấm chàng hết lòng thương con vật bơ vơ. Sơn thấy con chó buồn. Nó buồn lắm. Không ai thương nó hết,- nó biết đâu rằng Sơn không dám vuốt ve nó. Sơn sợ tuy rằng thương. Nó chỉ cúi gầm đầu xuống. Nó đi thất thểu không lanh lợi. Thỉnh thoảng nó ngẩng lên nhìn cái gì đâu đâu. Rồi nó lại cúi xuống đường, vừa theo mãi lấy Sơn.

Nó buồn lắm. Nó đương buồn, hoặc có cớ, hoặc không cớ. Mà chắc trong hồn loài vật, nỗi buồn mới thực là vô căn, không hiểu bởi vì đâu và cũng không rõ là thế nào.

Con chó kia còn biết dùng buổi chiều của nó để làm gì? Nó không biết. Nó không có thú tiêu khiển nữa. Nó một mình, - à không, nó đi theo Sơn.

Và Sơn thì theo những ý nghĩ rất thương xót, đớn đau. Người ta buồn thì có thể đi chơi, ít nữa người ta cũng tự biết, chứ con chó sau chân Sơn, nó chỉ đương ngơ ngẩn, không hiểu cái gì lạ thế đè nặng nó như một lớp. Nó khó chịu, nó ngơ ngác, nó cầu cứu với Sơn.

Nhưng Sơn không thể bồng nó vào tay, nựng nịu, mơn trớn nó. Sơn thương chứ không mến. Sơn tội nghiệp, nhưng lòng chua xót vô vị của Sơn không giùm cho con chó được tý gì.

Rồi Sơn muốn dứt khoát cái dây tình cờ đến buộc lấy chân Sơn. Sơn đi nhanh để con chó hoang không theo kịp. Bấy giờ con vật bèn chạy lúp xúp, ô hay! Sao nó dính vào Sơn như thế!

Nó còn chạy theo chàng một quãng xa, như ai bắn nó, đuôi ngoắt hoài, mũi không thôi ngửi vào chân Sơn, cách tỏ âu yếm giống hệt của loài người: người ta hít hương da thịt của bàn tay, của cánh tay, của đầu với tóc, với má, với cổ họng có những hốc nhỏ chứa mùi thơm...

Con chó hoang đã đứng dừng, ngực lép thở mau mau, cái lưỡi thè ra một chút. Sơn đi nhanh quá, Sơn cũng không thèm quay lại nhìn nó cơ mà. Nó biết người ta ghét nó, nên phải dừng lại và trông dõi người đi.

Nó đã xin lòng thương. Nó được lòng thương nhiều lắm, ngập cả tâm hồn người đã đành tâm bỏ nó. Nhưng nó không được nghe trên lông những ngón tay chạy dài, những ngón tay lượn ngược. Lấy hai chân, lấy một chân đè lên mình nó mà mơn trớn nó cũng được; nhưng không!

Sơn bước đi, nhưng người ta đau đớn ngoảnh mặt tránh một cách thê thảm. Cũng như lòng Sơn, chân Sơn không thể nào nhẹ được, tuy chàng nhất định không ngoảnh lại, sợ gặp đôi mắt thảm thiết của cái linh hồn đầu đường xó chợ kia. Sơn rùng mình, vì chàng thấy mình đương dẫm lên tình của một con chó rách, dẫm lên trái tim tội nghiệp của một con vật tồi tàn. Và Sơn hoa mắt đi, tưởng chân mình dính xương, máu nát tan như xương máu của một con chó chết chẹt ô tô.

Lời nguyền

Trọng Huân

Làng tôi ven sông Đuống. Nếu tính đường chim bay, làng cách trung tâm Hà Nội dăm cây số. Đứng trên đê là nhìn thấy mấy khách sạn liên doanh sừng sững mới xây. Tuy gần thành phố nhưng quê tôi ít ảnh hưởng cuộc sống thị thành, nếp quê vẫn giữ. Phải chăng nét quê sâu đậm mà đình làng còn giữ được. Hồi chiến tranh Tây không đốt sau làng cũng không phá. Nay người làng tôi tự hào lắm, quê mình đình cổ to nhất vùng, Thành hoàng là thượng đẳng thần còn sắc mấy đời Vua phong...

Chẳng phải đến khi dân làng tự hào, ngày bé tôi đã yêu quý ngôi đình, có nhiều kỷ niệm về nó. Dịp nghỉ hè, tuần trăng, chúng tôi sinh hoạt thiếu niên nhi đồng trống gõ lùng tùng suốt đêm. Mấy bận tôi ngủ quên, mẹ ra tận nơi tìm. Còn câu chuyện lời nguyền- chiếc đinh đóng trên cột đình ông nội kể, nhiều lần vào đình tôi tò mò xem nó ở đâu. Sau này lớn, xa nhà, mỗi dịp về quê tôi đều tranh thủ ghé qua, thư thả thì chiều xuống thả bộ mấy vòng quanh sân đình, ngắm dáng cong cong đình đao hay lớp lớp ngói cổ rêu phong. Những lúc ấy, tôi thường suy ngẫm về cuộc đời, về thời gian, về cái ân tình, sự cố hữu của người dân quê... Và rất lạ tôi cứ liên tưởng mái đình kia phủ dày quá khứ, mỗi viên ngói như một giọt thời gian. Đến khi đình chuyển thành nhà kho hợp tác xã, ít khi tôi tới nữa. Chợt lúc nào đó nhớ về quê mình, mái đình cổ kính lại thấp thoáng trong ký ức, cả câu chuyện lời nguyền hư hư, thực thực... Làng quê, nơi ăm ắp những phong tục, cổ lệ, người ta sống trong khuôn mẫu lệ tục. Tục lệ là thứ nhiều khi ruồng rẫy, dồn đẩy dân quê đến chỗ lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, song cũng lại chính là nó, gắn hút họ với mảnh đất quê làng.

Các cụ làng tôi truyền rằng: Xưa, đã lâu lắm rồi, chẳng còn nhớ là năm nào, thầy địa lý Tả Ao qua làng. Cảm động trước tấm lòng của dân làng, thầy Tả Ao chỉ cho chỗ đất quý dựng đình. Theo thầy, ấy là kiểu đất: hổ trục quần dương. Tả hữu có thần Bạch Hổ, thần Thanh Long- hai gò đất cánh đồng bên đình. Hậu trẩm là gò đất cao sau đình. Thầy lại mách dân làng phá bờ cho thông thuông chuỗi ao hồ trước mặt đình và khơi con ngòi ra sông Đuống, long mạch sẽ khai thông, giữ được vượng khí. Về gò Cái Cờ, ngay đầu làng, chính hướng cửa đình, thầy Tả Ao dặn, phải hết sức giữ gìn. Đấy là tiền án không cho tà thần hung khí xâm tới phạm chính đường. Nhớ lời thầy, dân làng tôi xem trọng gò Cái Cờ lắm. Cây cối trên gò um tùm. Trừ việc hương đăng ngôi miếu cổ, chẳng mấy ai dám lai vãng đến gò, kể cả đám trẻ trâu.

Thế mà một năm có chuyện. Ngày ấy không rõ ai tố giác trước quan viên có kẻ giấu diếm táng cốt cha ông vào gò Cái Cờ, nhà nào táng thì kẻ tố không nói rõ. Quan viên được triệu tập gấp ra đình. Hay tin các cụ xôn xao. Người lo xúc phạm chốn tôn nghiêm, chuyến này khốn. Thảo nào trong làng dịch lợn gà rộ lên, bao người đau bụng, đau mắt. Số quan viên khác nói lo cho dân làng nhưng thực bụng họ sợ kẻ táng mả ông mả cha kia, chúng sẽ phát. Mọi bận phàm đã việc làng thế nào quan viên chẳng ngả ra dăm mâm đánh chén, vậy mà lần ấy diễn ra chóng vánh, cụ tiên chỉ quyết ngay. Việc phải nhanh, kẻo lỡ động, chúng biết, nó chuyển đi thì lấy gì làm bằng. Ngay chiều đó ông lý ốp đám lực điền, đích thân cụ tiên chỉ cùng nhiều quan viên giám sát. Trai đinh săm soi thuốn khắp gò, thứ cần tìm đã thấy. Một gã trai đinh thuốn thấy kịch, đúng kiểu gặp gỗ. Người ta xúm vào đào. Cỗ quách vàng tâm mái cong mai rùa lộ ra. Bật nắp tấm thiên, hất gạch đậy tiểu, các cụ sững sờ, trong tiểu bộ cốt "vàng" ươm, đầy ăm ắp. Không thể tưởng tượng nổi! Quan viên tức giận, cụ rủa xả đòi quẳng ra sông, cụ hầm hầm giật mai đòi đập nát. Riêng cụ tiên chỉ chỉ cười nửa miệng tuy sắc mặt có tai tái. Chờ mọi người nói hả cụ mới lành lạnh phán, đưa về làng. Quan viên nhìn nhau chưa rõ ý.

Cỗ quách bị điệu sềnh sệch về sân đình. Theo lệnh cụ tiên chỉ, trai đinh lôi ra đoạn chão thòng lọng cỗ quách lại, trói gô nó vào gốc si. Lúc đó là chập choạng tối, ông Lý vẫn sai mõ đi rao khắp ngõ, dân đinh phải đến tập trung ngay. Tối xuống, sân đình đuốc đốt như đình liệu. Người ta điểm xem chi giáp nào thiếu vắng ai. Đám đông xì xầm: thiếu cánh cháu con ông lý cựu. Lý trưởng trình với cụ tiên chỉ mà giọng oang oang như nói với dân làng:

- Bẩm cụ, cánh con cháu nhà Lý Cựu... ốm, vắng mặt ạ!

Được phép cụ tiên chỉ, ông lý thông báo việc tầy đình vừa xảy ra. Dân làng hồi hộp nín thở nghe. Thật là một tin sét đánh. ồn ào càng ồn ào hơn khi cụ tiên chỉ phán: tất cả dân đinh bước qua cỗ quách, nhổ nước bọt, táng một vồ. Đột lặng im, rồi tiếng lao xao, kẻ tán đồng, người ghê sợ thất đức quá. Ông lý phải quát át đi. Nghi thức rùng rợn đã diễn ra. Từng người từng người một tiến đến. Có gã ráng sức nện vồ đến mức chiếc vồ nảy lên, xương cốt bắn cả ra ngoài. Đa số dân đinh gượng gạo, làm chiếu lệ, nhất là phe cánh nhà Lý Cựu. Tới quá nửa đêm, lúc này bộ cốt nhừ tử cùng mảnh vỡ tiểu sành lộn xộn thành đống trong quách, tưởng đã xong, chỉ còn việc lôi ra sông đổ, dân làng lại nghe cụ tiên chỉ sai. Loáng cái có tay trai nọ, mang chiếc đinh sắt tướng tới khúm núm đưa cụ tiên chỉ.

- Trên có thần linh chứng giám, dưới có dân làng...- tiếng cụ tiên chỉ sắc lạnh, giữa sân đình đêm khuya nghe mà rờn rợn, dân làng như đứng sát vào nhau hơn- Cái đinh này sẽ đóng lên cột đình. Hẹn cho ba hôm, tên láo xược kia chúng bay được phép nhổ, nhổ bằng tay. Bằng không, còn ở cái làng này, truyền rằng con cháu bay, đời đời kiếp kiếp không mọc mũi sủi tăm...

Chúng bay ở đây là ám chỉ ông Lý Cựu, là con cháu và vây cánh nhà Lý Cựu. Bộ cốt kia, lúc này mười phần chắc bảy tám là bộ cốt bố ông Lý Cựu. Ai vào đây nữa! Biết vậy nhưng vô bằng, làng bắt vạ sao được. Thời Lý Cựu còn đương chức, phe cánh ông mạnh nhất làng. Vật đổi sao dời, ông tính sai nước cờ nên tranh trượt cái triện đồng lý trưởng. Sau này làng đình đám, ông vẫn ra dự song ngồi chiếu các ông cựu. Tuy vây cánh chẳng còn bằng trước, nhà ông vẫn giàu nhất làng. Giàu tới mức ngày bố mất, ông chả vẫn tự hào trước hàng tổng, đưa ma bố ra đồng, rước xách đâu thèm nhờ vả qua đất ai. Từ nhà đến nơi hạ huyệt mấy cánh đồng, toàn rước trên đất ruộng tư điền nhà ông. Bố mất đã năm năm, chưa thấy Lý Cựu sang cát. Dân làng biết không phải thiếu tiền, ông đang chọn đất để mả. Một dạo dân làng kháo nhau, nhà Lý Cựu đón thày Tàu về xem đất. Chỉ lạ, mãi không thấy động tĩnh gì. Đến khi chuyện vỡ ra mọi người mới hay...

Sau vụ hành hình bộ cốt cửa đình mở suốt ba đêm. Có người rình xem kẻ vào đình. Rình đâu để bắt. Trước có thù oán với nhà Lý Cựu nay được dịp nhìn cho bõ tức; rình vì tò mò hay rình chỉ để mà rình. Nào ai thấy gì! Sân đình tối om, đèn đuốc có đâu hoặc người rình chán nản không đợi được. Chỉ biết, qua đêm thứ nhất, đêm thứ hai, sáng sớm quan viên lũ lượt ra xem, chiếc đinh vẫn trơ trơ. Chẳng phải tinh mắt cũng nhìn thấy những vệt sẫm xung quanh chiếc cột và cả dưới sàn gỗ. Qua đêm thứ ba các vệt ấy không chỉ sẫm màu mà còn có chỗ nhơm nhớp đỏ. Đã rõ đấy là máu. Có kẻ cố sức nhổ. Đinh dài, cắm sâu vào cột lim, nhổ bằng tay làm sao được!

Câu chuyện nhà Lý Cựu mời thày Tàu, giờ dân làng kháo nhau mỗi người một phách, không rõ thực hư thế nào. Người thì kể: nhà Lý Cựu mời thày Tàu, thày phán được ngôi đất tại gò Cái Cờ, táng mả bố ở đó còn phát nhưng vì không hậu đãi nên thày phản mới ra nông nỗi này. Có người lại bảo, ông Lý đón phải thày Tàu rởm, mắc mưu phe cánh trong làng vốn có thù oán cũ... Chuyện nhiều lắm. Nhưng thôi, kén đất kén cát mả kết phát đâu chưa biết, đã thấy bị quật lên rồi. Kháo mãi rồi câu chuyện cũng nhạt- còn phải làm ăn chứ, việc nhà người góp bàn được lợi lộc gì. Chỉ những kẻ nhớ dai thù sâu vẫn nhắc, rồi xem.... Thế mà có chuyện thật. Vài năm sau tự dưng Lý Cựu đang khoẻ mạnh lăn đùng ra ốm, ốm nặng. Được dịp, ông Lý ốm chưa chết có kẻ đã kháo như chết rồi. Thật trùng hợp sao, Lý Cựu chết cũng nhanh, chết chưa kịp chia tài sản hay lập di chúc. Thế là xảy ra tranh chấp giữa các bà, bà cả, bà hai, bà ba và đàn con trai gần chục đứa. Việc phức tạp phải lên cửa quan kiện tụng, xác ông Lý cứ quàn lại. Lúc ấy vợ con còn đầu óc đâu làm ma. Rồi tài sản chưa phân, phí tổn tang ma ai là người gánh chịu? Vụ kiện cáo đó quan xử giằng dai, lâu qúa. Tranh chấp tài sản xử chưa xong lại tiếp luôn cái án mạng giữa đám con nhà Lý Cựu. Từ lúc ông Lý nằm xuống đến khi ma ra được đồng tròn ba tháng. Xong vụ kiện, dân làng đồn, tài sản nhà Lý Cựu vơi quá nửa. Số còn lại phân chia, kẻ được hưởng thì đang ở tù hay bị đâm chết mất rồi, đám con trai các bà lẽ trắng tay.

Mấy mùa đình đám dân làng thấy cánh con cháu ông Lý Cựu cứ vơi dần. Họ lặng lẽ rời khỏi làng, đến lúc không còn ai nữa. Câu chuyện về lời nguyền cái đinh, lâu quá rồi, qua mỗi người, mỗi đời kể, lại thêm mắm thêm muối nên càng huyền hoặc, không rõ đâu là thực, đâu là hư. Đến mức nhiều người nghĩ chuyện ấy có thật chăng? Đến như vết đinh trên cột đình ai đã chỉ được nó ở đâu ?

Làng tôi bẵng đi mấy chục năm không mở hội. Gần đây, tục xưa được phục hồi. Hội làng năm nay câu chuyện thời sự ồn ào nhất: Trước hôm hội có chiếc xe con chạy về làng. Xe đỗ sân đình. Các cụ làng tôi tiếp ông khách lạ, sang trọng. Khách nhận mình vốn gốc ở làng, nay phiêu bạt nơi phương trời xa. Về thăm quê hương bản quán, ông còn có một nguyện vọng thành kính, xin dân làng rút lời nguyền cái đinh xưa. ồ, ra lời nguyền cái đinh là có thật! Mười mấy chiếc cột đình đen bóng, to vượt vòng tay, được các cụ trong làng và ông khách lạ săm soi. Không một dấu vết. Cho đến tận chiếc cột cuối cùng, tìm mãi vẫn không thấy. Chợt có người nhìn nơi cao cao, hình như có vệt sẫm hơi gợn lên trên thân cột. Khách vừa chạm tay, những vảy tựa gỉ sắt lả tả rơi. Trên gò má ông khách già lăn dài những giọt nước mắt!

1996

Thằng đói

Trọng Huân

Tiếng phanh rít, xe xịch đỗ ngay trước mặt tôi. Còn chưa hoàn hồn, tôi đã nghe tiếng cười hơ hơ. Trước mặt tôi, một người cổ nổi u, nổi múi, bàn tay đẫy đà, chìa phắt về phía tôi... Tôi không quen. Hắn ta vẫn ghếch chân trên chiếc @ trắng toát, nhăn nhở cười, nhìn tôi. Quái lạ, sao tôi vẫn chưa nhận ra là ai nhỉ. Chắc chắn phải là người quen mới có cử chỉ suồng sã vậy.

- Sao? Không nhận ra người quen à? - hắn hỏi và đến lúc này, mới bỏ cặp kính đen sì, trùm gần nửa mặt ra.

- Ông là...

- Hà hà... Hoàng, Hoàng số rách đây...!

Tôi nhớ ra rồi! Hắn, một thuở từng là hàng xóm cùng căn hộ, cùng cơ quan với tôi. Không thể nhận ra nổi, hắn như được lột xác, một thằng cha ngày trước tong teo, nay thành ông kễnh. Nhác nhìn đã thấy sự no nê, thừa đủ. Cái dây chuyền lủng lẳng đến vài cây quanh cổ và bàn tay, vằn vện những chiếc nhẫn, có chiếc gắn hột xoàn to ngật.

Ngày ấy hắn ở cùng căn hộ với tôi. Nhà tập thể, xây sau giải phóng bảy lăm. Tôi ở tầng bốn, căn hộ diện tích ngót nghét 40 mét vuông, gồm cả nơi ăn, ở, hành lang và tuốt tuột công trình phụ, công trình chính. Nếu tính cả 2 khẩu độc thân như tôi, gia đình hắn, cùng một gia đình khác 5 khẩu, lô lốc mười mấy mạng người, vỏn vẹn trong không gian 40 mét vuông ấy. Căn phòng được ngăn ba, mỗi "nhà" đều được chia đầy đủ, gồm diện tích ở, diện tích đi lại, riêng bếp và nhà vệ sinh, thì dùng chung. Không thể hình dung nổi, hơn chục mạng người, nhét trong cái diện tích toen hoẻn vậy, mà vẫn sống.

Sống như vậy cãi cọ, chạnh choẹ nhau như cơm bữa là chuyện thường, nhưng khó chịu nhất vẫn là hắn, cái tính bủn xỉn, hà tiện. Kể ra ngày ấy, lấy đâu ra để hào phóng, song hà tiện như hắn, thì trên đời này có là một. Kể ra, thành kẻ dòm ngó người khác. Nhưng mỗi khi nghĩ lại cái thuở chen chúc ấy, tụi không quên được những chuyện của hắn. Nhiều chuyện cứ như chuyện bịa, như cái chuyện định mức dùng diêm chẳng hạn.

Hắn định mức mỗi ngày nhà hắn chỉ được sử dụng một que diêm. Làm sao nhà người ta có thể sử dụng được như vậy nhỉ? Vì ít ra nhà nào ngày chẳng phải hai, ba lần nổi lửa? Mua bao diêm mới về, mỗi que hắn dùng con dao sắc, tách làm đôi, cả thuốc lẫn thân gỗ. Thế là một bao diêm, tự nhiên thành hẳn hai bao, hắn tự hào khoe bô bô với hàng xóm lỏng giiềng về sáng kiến tuyệt vời đến như vậy. Hắn ra cái luật ở nhà mình, mỗi ngày chỉ được dùng hai que diêm tách đôi này. Hôm nào vợ con hay bản thân trót đánh diêm, lấy lửa không thành, thì miễn, đừng bao giờ được dùng thêm một que diêm tách đôi nữa. Vậy thì lấy lửa ở đâu? Cứ việc đi xin lửa hàng xóm. Đã đi xin thì phải đợi, đợi cho kỳ được gia đình hàng xóm nổi lửa. Có bận, tính trong ngày hôm đó, đã đánh đến que diêm thứ hai, mà nhà hắn vẫn không lấy được lửa. Không may, hôm đó mấy nhà háng xóm đều đi vắng cả, đến tận sáu, bảy giờ, chẳng thấy nhà ai về. Thế là hôm đó, nhà hắn nguội bếp. Điều đó chẳng làm hắn bận tâm, mà lại lấy thế làm hay, tiết kiệm được một bữa cơm chiều. Chỉ có lũ con, oai oái khóc. Sự kẹt xỉ, bủn xỉn là việc riêng của hắn, miễn là không ảnh hưởng đến ai. Nhưng nhiều cái sự bủn xỉn của hắn, còn ảnh hưởng đến mấy nhà trong căn hộ. Một dạo, cứ mỗi lần nhà hắn nổi lửa, nhóm bếp, hàng xóm không ai chịu nổi. Có người phải ra cầu thang đứng. Kỳ cho đến khi nào hết làn khói bếp của nhà hắn, mới dám quay vào. Mọi người kỹ tính, không thông cảm hay khó chơi chăng? Cùng lắm việc đun bếp, khói lửa, thì nó cũng chỉ là các bô níc. Không phải vì khói bếp, mà là cái tính chất khói, nguồn gốc khói. Thứ giấy nổi lửa nhóm bếp của nhà hắn là giấy báo ở cái thùng trong nhà vệ sinh. Sau này, để chống cái làn khói ấy, ai trong căn hộ đi xong, đều giội nước hoặc cho giấy tọt vào lỗ thoát.

ở nhà đã đầy sự khó chịu, đến cơ quan hắn còn gây nhiều thứ khó chịu hơn. Khi còn là công nhân, do tay nghề yếu, tổ này đẩy ra, tổ kia dun lại, cuối cùng hắn được phân cái chân coi kho. Vài tháng sau, nhỏ to thế nào ấy, hắn lên chân giao phát linh kiện, vật tư ở kho. Thủ kho to hơn thủ trưởng, quyền ấy ai chẳng biết. Tự nhiên hắn trở thành một nhân vật quan trọng. Chưa kể, do sự bầu bán, cơ cấu, hắn lại có chân công đoàn. Từ khi sang chức thủ kho, tự dưng hắn hay lý luận. Hắn lý luận mọi nơi, mọi chỗ. Cái anh học vấn, văn hoá thấp, đánh vần chữ đánh máy không dấu còn chật vật, tên các linh kiện tiếng Tây, tiếng Tầu, đánh vần sao nổi, mà lại hay lý luận. Cái lý luận của hắn chung quy như sau: Tiết kiệm, chống lãng phí, quan điểm giai cấp, phe xã hội chủ nghĩa anh em....

Anh em thợ trẻ càng bị nghe nói nhiều, mỗi lần đến lĩnh vật tư, linh kiện, họ tức nổ máu mắt. Có cậu sinh viên thực tập, đến lĩnh thỏi thiếc, ai đời chờ viết, ký sổ, rồi cân, đo, đong đếm đến nửa tiếng. Xong rồi hắn vẫn chưa tha, mà tiếp tục bài giảng chính trị: Cậu còn là sinh viên, thì phải biết học cái đức tính tiết kiệm. Cậu có biết không, đây không chỉ là thỏi thiếc đơn thuần, mà nó còn mang ý nghĩa chính trị, tình đoàn kết giữa phe xã hội chủ nghĩa chúng ta. Vì vậy khi dùng, mỗi mũi hàn, cũng phải biết tiết kiệm... Lần đó tôi có việc đi qua, thoáng nghe cái điệp khúc giảng dạy lệch chỗ này, nóng mặt quá, tôi sấn lại. "Tiết kiệm, tiết kiệm cái gì. Chính cậu, cậu hãy học cách tiết kiệm đi. Bao nhiêu linh kiện, máy móc quý giá trong kho, vì dốt, cậu xếp tịt chúng xuống sàn kia kìa. Đấy chính là lãng phí, phá hoại đấy. "

Rồi không hiểu sao, sau bảy lăm, tự dưng hắn bỏ cơ quan, chuyển nhà. Vốn chẳng ưa nhau, chẳng ai để ý thông tin về hắn. Hôm nay, bất ngờ tôi gặp lại người quen cũ. Hắn hỏi có bận gì không, chẳng thèm nghe ý kiến của tôi, hắn hất hàm về phía ngôi nhà hàng sang trọng gần đó. Ly rượu Tây khai vị và cậu chạy bàn lễ phép đứng bên cạnh. Tôi lúng túng khi hắn e hèm hỏi, chọn món ăn gì. Biết chọn thứ gì, khi mà đến cái tên món ăn, tôi cũng ma tịt. Đến ly rượu thứ hai, hắn nhìn tôi cười, rồi nhẩn nha hỏi: Ông còn nhớ cái bếp ăn tập thể ngày nào chứ? Ông... còn nhớ món canh rau muống chứ? Mặt tôi chợt bừng nóng. Chắc là tại ly rượu ngoại chăng. Hắn cười khùng khục...

Ngày ấy, cách trung tâm thành phố dăm, bảy cây số là cái xưởng sơ tán của chúng tôi. Anh em đa phần từ nội thành, sáng tối đi về, bữa trưa ăn cơm tập thể tại xưởng. Riêng hắn không ăn bếp tập thể, mà nấu ăn một mình. Hắn nói bị bệnh dạ dày, không ăn cơm tập thể được. Tuy là nấu ăn riêng, nhưng thực ra hắn vẫn nấu, vẫn ăn ở cái bếp tập thể đó. Ai cũng biết, hắn chả dạ dày, dạ mỏng gì, nấu và ăn riêng là hắn có ý đồ, mục đích hẳn hoi. Nấu riêng, tiền than củi không mất, cứ đun ké vào bếp than tập thể, mỗi ngày đã nhẹ đi khoản năm, ba xu củi lửa. Bếp chung, mắm muối hắn xin, ai nỡ từ chối. Đất xưởng rộng mênh mông, rau hắn trồng được, thế là hắn chỉ mất tiền gạo. Mấy bà nhà bếp tức lắm, cứ nay tí muối, mai tý mắm, họ chỉ biết xì xầm, thi nhau kể xấu về hắn. Hắn biết, hắn biết quá rõ, biết những ánh mắt tức bực, khinh thị, nhưng hắn vẫn phớt, vẫn nấu và một mình một nồi, một bát, ngồi xổm giữa nhà bếp tập thể, ăn. Từ lâu các bà nấu bếp biết cái trò trộm mỡ, khoắng mì chính của hắn, song chưa ai một lần rình bắt quả tang được. Cũng có người đã cố công rình, những vừa xểnh ra, đến khi quay lại nhìn, thấy xoong canh của hắn lềnh bềnh những mỡ là mỡ. Hôm thì hắn tưng tửng nói, đấy là cái xoong của hắn hôm qua rửa chưa kỹ, nên hôm nay nấu váng quá; hôm thì hắn bảo, sáng nay cô vợ gói cho hắn túi ni lông mỡ tướng, chẳng nhẽ bớt lại nấu bữa sau, chỉ tổ rây rớt, tanh tưởi. Hắn còn ca cẩm, sao cô vợ lãng phí, hoang toàng đến thế không biết.

Hôm ấy tôi đã biết âm mưu của mấy bà nhà bếp và ngấm ngầm quan sát. Từ sáng sớm mấy bà nhà bếp dóng ra dóng vào bảo, nhà bếp mới mua được loại mỡ mới, mỡ hộp viện trợ. Hình như là mỡ cừu của Mông Cổ, nên đặc quánh và trắng phớ. Không như mọi khi, hôm ấy hộp mỡ để chềnh ềnh, gần ngay bệ bếp than, chẳng đậy điệm, giấu diếm, hay phải cho vào chạn khoá như mọi khi. Đến bữa trưa, mấy người cứ diễu qua diễu lại, quanh quẩn chỗ hắn đang ngồi ăn. Có người còn như vô tình, đi sát chỗ hắn ngồi. Hắn vẫn thản nhiên ăn như mọi khi, không nhanh, không chậm, tất nhiên cơm hắn đánh đến tận đáy nồi, cuối bữa kết thúc bằng tiếng húp soàm soạp nồi canh. Chỉ có điều lần này, sau tiếng soàm soạp húp canh của hắn, thấy tiếng của ai đó rinh rích cười - dù đã cố kìm nén. Có bà còn ôm bụng, chạy ra ngoài sân cười sằng sặc.

Thế mà chuyện đã xảy ra gần ba chục năm rồi. Sau khi nhắc lại, hắn khùng khục cười, rồi thong thả rót rượu vào ly tôi, ly hắn. Lưng lửng ly rượu, hắn nhấc lên, hướng về tôi, tôi cũng gượng nhấc ly. Khi hai chiếc ly sắp cụm vào nhau, hắn chợt dừng lại, nghé mắt nhìn tôi:

- Hờ... Tiếng hắn cười - Chắc đến giờ ông vẫn chưa rõ cái món rau nấu của tôi lúc đó nó ra làm sao? Chát, đắng, nhục... nhưng mà đói, mà tiếc của, mà ki bo, kẹt xỉ, thì vẫn phải nuốt cái nồi canh mỡ xà phòng ấy... Nói đến đây hắn cụm cái ly khá mạnh vào ly của tôi, mà cười khẩy. Tôi ấp úng rằng, thế mà tôi không nhớ, không nhớ cảnh một người phải húp cả nồi canh xà phòng.

Người ta bảo rằng, nghèo là hèn. Cái đói là thứ người ta chóng quên nhất và cái giàu là thứ người ta dễ quen nhất. Không nhớ bởi vì bây giờ hắn giàu, rất giàu và tôi thì vẫn nghèo chăng?./.

Nhục cũng không xong

Trọng Huân

Người phụ nữ đang chờ người đàn ông tới.

Thỉnh thoảng nàng lại liếc nhìn đồng hồ và còn thầm nhẩm đếm, như để mong thời gian trôi nhanh hơn. Nàng không còn cảm giác nhục nhã, hay phải hạ mình. Nàng đã vượt qua được chính mình. Cuộc vật lộn không hề đơn giản. Nó trải qua nhiều tháng, nhiều năm, qua những đêm dài mất ngủ. Nhưng cũng cho tận đến lúc này, khi đang đếm thời gian trôi, chờ đợi người đàn ông tới, nàng vẫn còn cảm giác thẹn thùng. Chốc chốc, gò má nàng nóng bừng. May mà dưới ánh đèn dầu và nhà chỉ có một mình, chứ ban ngày, hoặc dưới ánh điện, nàng ngượng lắm. Người ta sẽ nhìn thấy mặt nàng đỏ như gấc, đỏ đến từng chân tóc.

Đã bao tháng ngày nàng phải tự đấu tranh với mình, nên hay không nên. Tất nhiên là nàng rất muốn, muốn tới mức thèm khát. Cái chính là nàng có dám không. Nàng phải hạ mình cầu xin người ta, sẽ nhục nhã, ê chề. Có lẽ nàng không làm nổi. Nàng vốn là người tự trọng. Chỉ cần nghĩ đến ánh mắt tò mò, xoi mói của hàng xóm, những người cũng giống hoàn cảnh nàng, nàng đã không chịu nổi. Huống hồ còn bao kẻ khác.

Nhớ lại hôm hai người đàn bà trong xóm chửi nhau. Nàng thấy việc ấy như của chính mình, nàng xấu hổ quá. Suốt cả cuộc chửi bới kia, nàng không dám ló mặt ra khỏi nhà. Chứ đừng nói như đám đàn bà và lũ trẻ con trong xóm, nhua nhúa ra xem tận nơi. Nguyên nhân của cuộc chửi bới bắt đầu từ hai thằng bé. Mới đầu hai người mẹ lôi ra những chuyện thông thường xỉ vả lẫn nhau. Cuộc cãi lộn mỗi lúc một hăng. Họ moi móc tất cả những điều có và không có để thoá mạ, hạ nhục nhau. Cuối cùng, khi đã hết chuyện, họ lôi ra chuyện ấy. Khởi đầu là người đàn bà nhiều tuổi. Chị ta rủa người đàn bà trẻ là đĩ non, có biết ngủ với đứa nào không. Với lão già đáng tuổi bố mình, để kiếm đứa con.... Nhục! Người đàn bà trẻ không kém, đối lại: Mụ đĩ già, ngủ với thằng trẻ ranh... Nhục! Nàng biết khi hai người đó đấu khẩu, thì cái xóm này, xóm của nàng, tất cả đàn bà trong xóm đều dỏng tai lên nghe. Lâu nay họ vẫn rình mò chuyện ấy, kháo tìm xem "thằng bố" của những đứa con nhà người khác, là ai. Khi hai người đàn bà tự dưng phô ra điều bí mật kia, thật là một dịp hay, họ sẽ chắt lọc, dò tìm trong những thông tin đó, để đoán định xem ông bố của hai đứa trẻ nọ.

Cái xóm nhỏ của nàng xuất hiện được mươi năm rồi. Giờ ở nông trường và quanh vùng, người ta quen gọi là xóm Không chồng, hay xóm Xin con. Thực ra nó không hẳn là cái xóm, mà chỉ là dãy nhà vài mươi gian, nằm hơi biệt lập. Khởi đầu nó là khu tập thể cho các phụ nữ độc thân. Các nhà đều có bếp, có cửa, có sân riêng, mỗi người một gian. Không hiểu sao, ngay sau khi dựng xong và phân phối, người ta cứ đùa đùa thật thật gọi, xóm Không chồng, xóm Xin con. Chuyện những người phụ nữ lỡ thì không con, đâu hiếm, nhất là các nông, lâm trường. Họ, những người một thời phơi phới ra đi, đem sức trẻ biến rừng già thành đồi chè, đồi trẩu... Tuổi xuân đi qua lúc nào không hay. Đến khi tự nhận ra, thì muộn mất rồi. Họ thành những người cô độc. Và nơi sinh sống vẫn heo hút như khi xưa họ tới.

Nhớ ngày vừa chân ướt chân ráo tới đây, nàng đã phải chứng kiến một vụ kiểm điểm hủ hoá. Trong những vòng phê bình, người đàn bà chửa hoang mặt cúi gầm, dấm rức khóc. Hai bàn tay chị ta khư khư đặt trước bụng, như che chở cho đứa con còn trong trứng nước. Chị nhất quyết không nói ra ai là thủ phạm. Giờ mỗi lần đi qua ngọn đồi chơ vơ có ngôi mộ người đàn bà chửa hoang, xót thương nhớ đến người đã khuất, nàng lại không khỏi chạnh nghĩ tới thân phận mình, lỡ thì, cô quạnh...

Xóm Không chồng ở giáp ngay văn phòng đội. Mấy hôm trước, lúc nàng đang hái chè ở khoảng đồi nhận khoán, thì nghe tiếng ông đội trưởng gọi. Ông nhờ nàng về nấu giúp cơm khách. Có toán khách Hà Nội lên công tác. Họ sẽ ăn nghỉ ở văn phòng đội khoảng ba, bốn hôm. Nàng giáp mặt với người đàn ông ấy, khi nàng mang ấm nước lên phòng khách. Lúc ấy mấy người khách đang cười đùa ầm ĩ. Thấy nàng vào, họ ngưng ngay câu chuyện. Trừ người đàn ông kia, còn lại, họ đều rất trẻ. Rót xong phích nước, ngẩng lên, nàng bắt gặp ánh mắt anh ta. Nàng thoáng lúng túng, tránh cái nhìn của người ấy và vội vã rời phòng khách. Nàng biết, phía sau, người đàn ông đang nhìn mình. Lại nghe tiếng cười hi hí của đám thanh niên, nàng thấy ngượng quá. Nàng biết, cái tên xóm Không chồng, Xin con, đâu phải điều bí mật. Nhiều khi nó còn là chuyện được mang ra đùa cợt của đám đàn ông nông trường, hay chuyện làm quà với khách.

Tối ấy, không hiểu sao, ánh mắt người đàn ông cứ chập chờn trong suy nghĩ của nàng. Lúc nàng dọn mâm bát, hình như người ấy lại nhìn nàng. Anh ta bao nhiêu tuổi nhỉ? Nàng đoán, bốn lăm hay hơn một chút. Người đâu mà to, to thế. Khiếp, râu thì quai nón rậm rì. Chợt nàng tự thẹn với ý nghĩ của mình. Dơ quá, sao cứ nghĩ tới người ấy. Mà người ta đến công tác dăm, ba hôm rồi sẽ đi. Những ý nghĩ linh tinh làm nàng không chợp mắt nổi. Tận gà gáy canh hai nàng mới thiếp đi. Hôm sau nàng dậy khá sớm. Nàng rất muốn đi, chợt lại phân vân, còn sớm quá. Nàng nấu nướng xong bữa sáng, mấy người khách vẫn chưa ai dậy. Đã định đi, rồi nàng lại nấn ná đợi. Có tiếng bước chân, nàng đoán là... người ấy. Tự nhiên tim nàng đập thình thình, má nóng bừng. Nàng biết, phía sau anh ta đang nhìn mình. ý nghĩ vậy làm nàng thêm luống cuống. Không còn bình tĩnh, nàng hấp tấp rời khỏi phòng ăn. Bữa cơm chiều, nàng cố gắng tập trung vào công việc bếp núc. Lúc thu dọn mâm bát, không hiểu sao nàng lại đánh mắt nhìn về phía ấy. Không ngờ, chạm ngay vào cái nhìn của người ta.

Tận cho đến lúc này, khi đang chờ người đàn ông tới, nàng vẫn không hiểu nổi, mình can đảm thế. Nàng còn nhớ, lúc đó tim nàng như ngừng đập. Không hiểu nếu người đàn ông từ chối lời cầu xin, sự hạ mình của nàng, nàng sẽ bẽ bàng, xấu hổ đến cỡ nào.

Chiều nay, vì là buổi cuối cùng của chuyến công tác, giám đốc nông trường có bữa cơm mời khách, cả đoàn lên nông trường bộ, nàng không phải nấu cơm giúp nữa. Nhìn đồng hồ mới bảy giờ, thời gian sao trôi đi chậm chạp quá. Chắc phải tám giờ bữa cơm tiếp khách mới xong. Tại sao không mời mấy hôm trước, hôm nay giám đốc mới mời - nàng nghĩ. Lâu nay nàng ước ao và thường tưởng tượng về bữa cơm tiếp người ta. Biết người đàn ông ăn cơm đãi, song nàng vẫn làm mâm cơm để tiếp người ấy. Nàng đã chuẩn bị mâm cơm rất thịnh soạn: đĩa thịt gà luộc, đĩa trứng tráng, bát canh măng. Chập tối, khi nấu nướng, bày dọn xong, nàng chợt nghĩ: cơm thì phải có rượu. Nàng vội kiếm chiếc vỏ chai nửa lít, cẩn thận bỏ vào túi, không thể diễu chai rượu khắp xóm. Nàng ra tận quán nước ngoài cổng nông trường. Ông chủ quán vốn là công nhân nông trường nghỉ một cục, lúc rót rượu, cười cười hỏi nàng:

- Hôm nay có khách quý à?

Nghe câu hỏi đầy hàm ý, nàng xấu hổ, đỏ cả mặt.

Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ làm nàng thêm sốt ruột. Chín giờ rồi, sao họ vẫn chưa về. Hay họ về mà nàng không biết? Không thể. Chẳng lẽ tiếng ô tô ầm ầm nàng không nghe thấy ư. Nhỡ họ đi bộ về thì sao? Vô lý.

Ý nghĩ luẩn quẩn làm nàng không yên tâm. Nàng ra sân, ngó sang văn phòng đội. Các phòng cửa sổ đều tối om. Họ chưa về.

Mười giờ, mười một giờ...

Tiếng con thạch thùng kêu chép chép, làm nàng thêm sốt ruột.

Ăn uống tiễn đưa gì mà lâu thế, nửa đêm chưa xong. Nàng thấy tức ông giám đốc, nàng cũng giận luôn người đàn ông kia, sao quá vô tình. ừ, muộn rồi thì có thể đứng lên xin phép, hoặc nếu mọi người trong đoàn còn ở lại, thì anh ta có thể về một mình.

Mãi quá nửa đêm mới nghe tiếng ô tô rầm rầm, tiếng người say nói cười nhộn nhạo. Tuy rất giận người đàn ông, nàng vẫn thở phào nhẹ nhõm. Cuối cùng người ta đã về. Nàng vội vàng nhóm bếp, hâm lại mấy món ăn đã nguội tanh, nguội ngắt. Năm phút, mười phút trôi qua, nàng lại hồi hộp chờ đợi.

Cánh cửa nhà nàng khép hờ. Chắc là người ta còn rửa ráy, nàng nghĩ và mặt chợt nóng bừng. Thời gian tiếp tục trôi, mười lăm phút, nửa tiếng...

Hay trời tối qúa, người ta không nhận ra gian nào là nhà nàng.

Không, không thể như vậy được. Cửa sổ phòng khách mà người đàn ông nghỉ, đối diện với nhà nàng, nó chỉ cách vài mươi bước chân.

Hay là... anh ta nghĩ lại, không đến nữa? Hay anh ta đùa bỡn nàng?

Nàng chợt thấy hờn tủi quá, nàng cố kìm mà những giọt nước m?t cứ lăn dài trên gò má. Hình như nước mặt làm nàng tĩnh tâm lại. Nàng nghĩ: Không, không thể thế được. Đó là một người đứng đắn, ánh mắt ấy, khuôn mặt ấy...

Nàng mở cửa, ra sân. Cuối tháng trăng hạ tuần vằng vặc sáng. Tiếng gà gáy râm ran. Dãy nhà khách bên kia ánh trăng chiếu dọi. Cửa sổ căn phòng người đàn ông nghỉ mở toang.

Ừ, tại sao đến lúc này nàng mới nghĩ ra, người ta đang say rượu. Chuyện tiếp khách ở nông trường, chủ và khách say bí tỷ, xảy ra như cơm bữa. Hôm nay bữa ăn lại kéo dài, làm gì không say.

Đàn ông say... nàng từng nghe những người đàn bà có chồng và cả những người đàn bà trong xóm kháo nhau về đàn ông say. Những lúc ấy nàng giả vờ như không để ý, nhưng tò mò nghe. Thấy họ rúc rích cười, nàng đoán là chuyện gì. Nàng đỏ mặt.

ý nghĩ đàn ông say làm nàng thêm can đảm, nàng có thể sang với người ta được chứ.

Phòng người đàn ông cửa không khép. Căn phòng ánh trăng hắt sáng. Không buông màn, nguyên quần áo và giày, người ấy ngủ vật trên giường. Căn phòng nồng nặc hơi rượu.

Lần đầu tiên nàng được nhìn một người đàn ông ngủ gần đến thế, miệng há hốc, tiếng ngáy khò khò. Nhìn tư thế nằm ngủ mệt nhọc của người ta, nàng thấy thương thương. Cái thiên chức tự nhiên - làm chị, làm mẹ,... đã điều khiển đôi chân nàng bước về phía người đàn ông. Từ từ ngồi xuống, nàng tháo dây giầy cho người ta.

Kẻ say vẫn ngủ. Bất chợt người ấy lảm nhảm nói gì đó, cánh tay hắn quẫy đập, vắt lên chân nàng. Nàng rùng mình. Phản ứng tự nhiên, nàng suýt hất cánh tay gã đàn ông ra, song nàng đã không làm vậy. Người say lại lảm nhảm và trở mình, gác tiếp chân lên... Da nàng sởn nổi gai ốc, đầu óc bấn loạn. Lúc này nàng tự trách mình, sao lại tới đây.

Sau những quẫy đạp, kẻ say nằm yên, chỉ còn tiếng ngáy khò khò. ánh trăng hắt vào mặt người đàn ông, hắt cả vào bộ ngực hàng cúc không cài, phanh hết cả ra. Nhìn bộ ngực vồng lên của người ta, mà nàng thẹn thùng. Rồi nàng lại nhìn... Bản tính nhút nhát, cả thẹn của nàng lúc này tự dưng biến mất, nàng trở nên bạo dạn thế. ánh mắt nàng mơn man vồng ngực đang phập phồng thở của người ta. Như ma quỷ xui khiến, bàn tay nàng đưa ra, run rẩy chạm nhẹ vào vồng ngực đó. Cảm giác va chạm làm nàng thêm rạo rực. Bàn tay nàng mạnh dạn đặt lên ngực chàng. Từ lúc ấy lý trí không còn điều khiển được nàng nữa, nàng cứ âu yếm vuốt ve, một vồng ngực đàn ông nở nang, bắp cơ rắn đanh... Bàn tay ấy lần đầu tiên được biết da thịt đàn ông, nó rờ rẫm ve vuốt. Mồ hôi rượu nhớp nháp càng làm nó thêm đam mê, kích thích. Rồi cách tay nàng miết mạnh, thân hình nàng gập xuống, di miết da thịt nàng lên da thịt chàng. Cảm giác trong nàng như đốt cháy... Ham muốn đàn bà làm nàng thêm bạo liệt, nàng không còn là mình nữa, chỉ còn sự đòi hỏi đam mê... Lưỡi nàng khô ráp, không gian xung quanh dường như chỉ còn hơi thở gấp gáp và thình th?ch tiếng con tim bấn loạn của nàng. Tai nàng ù đi... Cúc áo nàng đã bật tung tự bao giờ. Nàng cúi xuống nhìn đôi gò ngực mình trắng ngần, lấp loá dưới ánh trăng. Cũng như cơ thể nàng, cái cơ thể đã teo đét, thoát cái đôi bầu ngực và tất cả, tất cả đều như căng rướn, khát khao chờ đợi. Nàng nắm bàn tay to ráp của chàng, đặt lên bầu ngực mình. Cả bầu ngực nàng một cảm giác nóng ran.

Kẻ say vẫn đắm đuối trong cơn say. Khi nàng buông tay, chờ đợi cái thiên chức khai mở của bàn tay kia... Không còn tay nàng nương đỡ, nó tuột tuột và rợi phịch xuống.

Nàng thoáng hụt hẫng, nhưng vẫn không thất vọng.

Khát thèm làm cho nàng thêm cuồng nhiệt. Cặp môi đã tham lam, bàn tay nàng còn tham lam hơn, nó lang thang, lang thang tới những nơi mà trong đời nó chưa một lần được tới...

Ngoài khung cửa bình minh đã hé rạng. Người đàn ông không còn phì phò thở nữa.

Kìa, hắn trở mình... và như là thì thào gì đấy.

Nàng hy vọng, chờ đợi.

Bất chợt đầu người đàn ông rướn... rướn lên. Nàng mừng rỡ, kẻ say đã tỉnh.

Cho đến tận lúc ấy, căn phòng chỉ có hai thân hình loã thể, chỉ có âm thanh háo hức, thèm khát sắp được làm đàn bà.

Bất thần bật ra âm thanh ộc... ộc.

Cái khuôn mặt đang tràn trề hy vọng và ham muốn nhục dục kia, đã không tránh kịp./.

Tây Bắc 2000

Ao làng

Trọng Huân

Tôi đến thăm ông bác ruột. Gõ cửa mãi mới thấy ông lò rò bước ra sân. Nhìn thằng cháu một lúc, mà ông vẫn chưa nhận ra là ai. Mãi tới khi tôi lên tiếng, ông mới chậm chạp mở cổng, húng hắng giải thích: "Dạo này trộm cắp lừa đảo nhiều, hết giả danh tiếp thị, quảng cáo, bán hàng, đến quyền góp tô tượng, đúc chuông. Cứ sểnh ra là không mất cái này, thì mất cái kia. Cứ phải xem kỹ, nhòm kỹ, có đúng người quen không, mới dám mở cổng." Bác cháu tôi ngồi uống nước được một lúc, thì bà bác dâu ở đầu về về. Bà áo dài, cổ đeo lủng lẳng chuỗi ngọc trai to bự. Trái ngượi với ông chồng hom hem, bà phốp pháp, đẫy đà. Gặp thằng cháu chồng, bà chẳng mấy mặn mà. Bà vừa khuất vào phòng trong, ông bác nhát gừng giải thích: " Đi chùa". Nói rồi ông cười ruồi: "Dạo này lắm người thành kính. Không còn thiếu đền, chùa nào không đến. Cúng mà lắm lộc, sạch tội thì....". Ông chưa nói hết câu, từ phòng trong, bà khó chịu bước ra: "Ông... ông thì biết gì mà tham góp. Suốt ngày ru rú trong nhà. Ông không thành kính thì thôi. Đừng có mà báng bổ".

Kéo cái ghế cách xa chồng một quãng, bà bác dâu vắt chân ngồi vắt chân ng ồi và chõ về tôi, hỏi:

- Nâu nay anh có về không? Khiếp, khiếp quḠmất thôi. Tháng trước tôi mới về quê ăn cỗ cưới. Đúng nà quá bằng hành tội. Cỗ bàn gì mà toàn thịt nợn nà thịt nợn. Có đĩa gà nuộc, thì nà anh gà công nghiệp, trắng nhởn.

- Trắng, trắng mà còn có mà ăn là phúc - ông bác tôi đế luôn - Ngày trước ấy à, đói, đói rã họng ra. Đến gộc tre cũng chả có mà ăn.

- Trước... trước.... Ông không còn chuyện gì để nói nữa sao. Suốt ngày... chỉ trước, trước. Nghe mà sốt ruột!

- Trước... trước.... Ông không còn chuyện gì để nói nữa sao. Suốt ngày... chỉ trước, trước. Nghe mà sốt ruột!

Nghe quen nghe cái sự đối đáp của hai bác tôi như vậy, t ôi nín thinh. Bà bác dâu tôi lúc này đã thay bộ đồ khác. Nom kiểu cách ăn vận, chẳng hợp với cái tuổi cña bà. Ở ngữ ngoài sáu mươi, cái áo hở cổ hoác ra, cái quần mỏng dính, trông rõ cả bắp đùi béo nũng. Bà khác người đàn bà thôn quê thuở nào rồi. Đâu còn quê kệch cái khăn nâu mỏ quạ, chiếc quần phin đen thường trực xắn móng lợn và miệng đỏ quết trầu. Gia đình bác tôi chuyển ra phố huyện được mấy năm nay. Nhà này, kiểu cách và cái chất quê, chỉ còn lại ở ông bác. Mấy ông anh và bà bác dâu, họ như là lột xác, lột từ trang phục đến lời ăn tiếng nói, tức là đặc sệt dân phố.

Để tỏ thái độ bất hợp tác với chồng, bà bác dâu chẳng thèm chào thằng cháu chång lấy một câu, lệt bệt dép leo thẳng lên gác. Đúng lúc đó ông anh họ tôi ở đâu xe con láng coãng xịch đỗ trước nhà. Lúc trước nhấm nhẳng với bà vợ già, giờ đến lượt thằng con trai, trong câu chuyện, ông cũng tỏ ra khó chịu. Anh con trai mở miệng câu nào, ông bố chặn họng câu đó. Thái độ của ông bố là vậy, nh¬ng anh họ tôi vẫn thản nhiên như không, cứ nói cười bô bô. Anh còn đưa cho tôi tấm các thơm lừng, trên các in chềnh ềnh chức danh: Tổng giám đốc Tổng công ty cổ phần Hưng Phú. Mặt sau các thì in đến ba, bốn thứ ngoại quốc. Nghe nói anh buôn bán to lắm, hàng toàn xuất sang Đài Loan, Hồng Kông và đi cả Mỹ nữa.

Chuyện gia đình ông bác tôi rời làng ra phố bắt đầu từ việc ông anh họ với cái ao làng. Anh họ tôi mấy năm trước ở quê từng làm chủ tịch xã. Ông chủ tịch xã chỉ đạo khoanh đất, đổ cát cái ao, rồi bán. Trong việc bán chác, mấy vị chức sắc xập xí, xập ngầu tiền nong. Việc vỡ ra, họ bị cách chức ráo. Không chịu được cái nhục đó, ông bác tôi đành phải bỏ làng, lên mảnh đất con trai đã dấm trước ở phố huyện. Ông không thể nào chịu nổi trước những lời ong, tiếng ve của dân làng, con ông là một thằng tham nhũng.

Tôi có nhiều kỷ niệm với cái ao làng. Cái ao rộng lắm, nước trong veo. Mặt n¬ước dập dềnh những đám bèo tây, bèo ta. Đâu đó ven bờ, những bè rau rót, rau muống giăng ra. Ao làng, còn có có tên là ao Bà Phó. Cái tên ao làng thì hiển nhiên rồi. Còn cái tên ao Bà Phó là có gốc rễ của nó. Ông tôi hay kể: Đã lâu lắm rồi, c ái năm trước bốn lăm, có bà Phó goá chồng. Cái tên Phó bắt nguồn từ việc chồng bà mua phó lý, chứ ông có ngày nào ra làm ông lý, ông phó đâu. Bỏ tiền ra mua, khao vọng xong, ông bà nghiễm nhiên được dân làng gọi là ông phó, bà phó. Ông bà giầu có, mà không con cái, chẳng có người hương khói. Tất nhiên hương khói phải theo nghĩa chính tông, chứ còn tiền của như vậy, ở làng, họ hàng dây mơ rễ má, chả khối kẻ chẳng tấp tểnh ăn tự. Ông mất đi, bà bơ vơ trên cõi đời. Bà đã lo người ăn tự råi, nhưng tiền của vẫn nhiều. Người này bàn vào, kẻ kia tán ra, các cụ lại luôn rỉ tai, thế là bà Phó bỏ tiền mua cái ao, cúng cho làng. Thế nên cái ao mới có tên, ao Bà Phó.

Hồi cải cách ruộng đất, những người nhiều ruộng, lắm đất, đều bị quy là địa chủ tuốt. Người gian ác thì bị xử bắn, còn các địa chủ khác, bị tống ra khỏi nhà. Những người ít ruộng, diện phú nông, trung nông, bần nông, sau đổi công, đến thời HTX, đều góp ruộng vào làm ăn tập thể. Tất nhiên cái ao Bà Phó trở thành ao chung. Ao làng là nơi dân làng tắm gội, kín nước về ăn, quanh bờ mấy bà bắt ốc, móc cua, lũ tý nhau bơi lội, tắm táp, còn đêm hôm, trai gái tình tự. Cũng chính cái ao làng này, có đứa trẻ tầm trạc tuổi tôi bị chết đuối. Không biết bơi, chỉ ôm cây chuối tập tững đạp nước quanh bờ, đến khi trượt tay, uống nước no và chìm nghỉm. Lúc vớt được lên, thân xác đã mềm oặt, nhợt nhạt. Người lớn vác ngược, chạy khắp làng, người theo sau la hét, kêu hồn, gọi vía. Vác ngược để nước éc ra miệng, nhưng chẳng ăn thua gì. Chết vẫn hoàn chết. Chuyện tôi biết bơi cũng rất vô tình. Tôi theo đám trẻ ngụp lội quanh bờ. Lũ trẻ đùa nhau, một đứa đẩy tôi ra xa, làm tôi chìm nghỉm, uống no một bụng nước. May được cứu, không thì tôi thành người thiên cổ. Cứu tôi là một ông chú trong họ. Mẹ dắt tôi đến nhà ông cảm ơn và xin cho "cháu" làm con nuôi. Ông cười, không nhận, mà nói rằng, không họ hàng thì cũng người trong làng. Thấy cảnh đó, ai mà chẳng cứu. Sau đận đó, tôi vẫn không hề sợ và tự dưng biết bơi. Lội xuống ao, người cứ nổi lềnh bềnh. Sau này tôi còn dạy bơi cho khối đứa. Có thằng bé hàng xóm thuê tôi dậy bơi cho nó. Giá thuê là mấy củ khoai, nó vụng trộm của nhà. Nhớ buổi trước lúc dạy bơi, tôi bắt con chuồn chuồn ngô râ to, bảo nó cởi trần ra. Nhìn tôi giơ con chuồn chuồn, thằng bé mặt xanh xám. Nhưng trước những lời khích bác của đám trẻ, nó đành cố nhịn. Đến khi tôi gí con chuồn chuồn vào rốn, thằng bé hét toáng. Hôm đó về nhà, tôi bị bữa no đòn, bởi mẹ thằng bé đến mách thầy tôi. Chẳng hiểu có phải và con chuồn chuồn cắn rốn không, mấy hôm sau, thằng bé biết bơi.

Về bà Phó, hồi còn nhỏ, tôi có biết mặt bà. Giầu có là vậy, nhưng vì sang tên, chuyển chủ ruộng đất cho người ăn tự, rồi bao lần cúng tiến làng, cúng tiền chùa, tài sản của bà vơi đi vợi. Đến hồi cải cách ruộng đất, do ruộng đất chẳng còn bao nhiêu, đâm ra may, bà không bị quy là thành phần địa chủ, phú nông gì sất. Hình ảnh về bà Phã tôi còn nhớ, là những lần bà vßng vọng đứng chửi những kẻ trộm chuối, bắt gà của bà. Ngày trước hào phóng bao nhiêu, hiến cả cái ao rộng là thế cho làng, vậy mà nay, chỉ mất có con gà, bà réo rắt chửi cả tháng. Bài chửi của bà có văn có vẻ, cứ thượng tổ, hạ tổ cái đứa trộm cắp mà réo. Cứ như bà chửi, thì nhà chúng nó đến tàn cây, héo lá, mồ mả tổ tiên phải nhảy xếch lên. Không biết có phải vì chửi rủa ngoa ngoắt quá, dù bà đã cúng nhiều của, nhiều ruộng cho chùa, cho làng, nó ám vào số phận của bà, nay lúc về chầu tổ tiên, bà khổ lắm, ngắc ngứ mãi mới nhắm mắt được.

Lại nói về cái ao Bà Phó. Thời HTX, ngoài chức năng tắm rửa, cung cấp nước ăn cho dân làng, cái ao còn là nơi thả cá. Cứ vào cuối năm, HTX tát ao, chia cá cho cả làng. Dịp tát ao, đúng là ngày hội, trai, gái, trẻ, già nhua nhúa tụ tập quanh bờ. Cái máy bơm xình xịch chạy suốt đêm. Nước cạn lưng lửng ao, nước cạn nửa ao, cá trồi lưng. Dân quân gác suốt. Ao cạn rồi thì bắt. Người ta chẳng mấy ai quan tâm đến sản lượng, đến chỗ cá chung bắt được là bao nhiêu, vì kiểu gì thì kiểu, cũng chia, mỗi nhà một suất. Người ta quan tâm nhất là cái khoản hôi tát. Hôm đó tôi chầu trực suốt từ sáng đến quá trưa, bỏ cả cơm, bỏ cả học. Tôi nhớ, ông bác tôi, hồi đó giữ chân đội trưởng đội sản xuất, buổi tát ao, ông rõ là vất vả. Tay cầm cái tay tre đực rất to, ông hết chạy đầu ao đến cuối ao, xua đuổi, dậm doạ đám người quanh bờ. Cứ xểnh dân quân và ông ra, là có người nhanh như cắt, vọt xuống, chộp con mè, con trôi.

Hôm ấy, chưa chờ khẩu lệnh hôi cá phát ra, mọi người đã ào ào kéo xuống. Ông bác tôi chỉ đạo cuộc tát ao, không hiểu sao, lúc đó lại cứ vẫy vẫy tôi. Lúc trước thì ông chạy chỗ này, chỗ kia, lúc gần tháo khoán hôi tát, ông đứng y nguyên một chỗ. Tôi đúng là thằng ngố, mãi mới hiểu ra. Tôi xán lại phía ông, thọc tay nhanh xuống bïn, chỗ chân ông đang đứng, móc lên con sộp to tướng. Người xung quanh sững sờ, sao mà tôi may đến thế. Cả làng kháo, tôi được con cá đến mấy mươi cân. Thực ra thì con cá chỉ suýt soát hai ký lô. Cũng vì con cá sộp ấy mà tình cảm anh em bị một trận sứt mẻ. Con cá mang về, mẹ tôi được bữa mừng suýt chết. Đang còn mừng vui, bà bác dâu đã hớt hải chạy sang. Bà sống chết bảo, con cá này, công lớn là do chồng bà. Không có chồng bà dúi nó xuống chân, thì cái mặt tôi, làm sao bắt được con cá to như thế. Cãi cọ, giằng co nhau mãi, cuối cùng con cá phải chia đôi, bổ dọc từ đầu đến đuôi, mỗi nhà một nửa. Rồi chuyện con cá inh lên, làng trên xóm dưới đều hay, ông đội trưởng dúi con cá cho thằng cháu ruột. Ông bị lôi ra kiểm điểm trước ban quản trị HTX. Cái án cuối cùng là ông bị cắt tuột cái chận đội trưởng. Thật là xót, mỗi vụ bỗng dưng nhà ông mất toi mấy trăm công điểm cái chân đội trưởng đội sản xuất.

Tôi xa làng đã mấy chục năm. Có lúc nhớ về quê nhà, không hiểu sao lại hay nghĩ đến cái ao làng mình. Tôi cứ hay kể chuyện cái ao cho lũ trẻ, đến độ mấy đứa con tôi thuộc lòng, cái ao rộng là bao nhiêu, nước trong đến mức nào, mùa nào thì thả vỏ mít bẫy ốc bưu, tháng nào thì tát ao,...Có dịp về quê, tôi hay tha thẩn ra ao làng. Không hiểu sao cái ao giờ không còn trong veo như thuở xưa nữa. Mấy nhà làm đậu, mấy xưởng nhuộm xả chất thải xuống ao, nên nước đen ngòm, thum thủm. Đám bèo tây, bèo ta cũng xác xơ, bè rau muống, rau rút lơ thơ và chả còn đứa trẻ nào dám tắm táp, lặn ngụp nữa. Cái ao như nhỏ bé lại. Mỗi năm từng quãng, từng quãng, có nhà bung ra cạp ao. Họ xây tường, xây nhà, những cái mái bằng, mái chảy, cái kiểu Ả Rập chóp tròn xoe như củ hành, cái kiểu Gô tích chóp nhọn hoắt, chìa lên giời. Sau khi thực hiện chủ trương lấp ao của chủ tịch xã, tức ông anh họ tôi ấy, cái ao Bà Phó chỉ còn rộng bằng cái bàn tay.

- Giỗ họ vừa rồi sao không thấy bác về - tôi hỏi ông bác.

- Đã định về thì tự dưng lăn đùng ra ốm. Thấy bảo, họ định chặt hàng rào tre trước nhà thờ, xây tường. Sao lại chặt đi thế. Bây giờ về quê hiếm hoi lắm mới có một khóm tre.

Nghe bố nói vậy, ông anh họ tôi nhếch mép:

- Tre pheo mà làm gì. Mấy thằng hội người mù vào đây bán tăm. Thương hại chúng, mua một lần dùng cả năm không hết. Quý.. quý thế đấy. Đất, bây giờ là cây là que...

- Hừ ... cây, cây .... Để đến nỗi anh phải mang tiếng nhục...

- Nhục, nhục gì? Thì cùng lắm bằng cái nhục con cá sộp ngày trước....

- Đồ... đồ bất hiếu!

Ông bác tôi giận tái cả người, còn anh con trai vẫn nhơn nhơn như không. Nhìn cái vẻ nhơn nhơn của anh, tôi chợt nhớ đến cái vẻ ấy của anh, trong lần giỗ họ năm nào - đúng vào cái dịp anh vừa bị cách chức. Năm ấy tôi về hội làng, giỗ họ. Câu chuyện cửa miệng và rôm rả nhất của dân làng là chủ tịch xã và cả ê kíp mất chức. Dân làng còn kháo, các vị đều ẵm cả tiền triệu, tiền tỷ. Chẳng như ông bác tôi ngày xưa, bị cắt chức vì con cá sộp, ông xấu hổ đến mấy năm, không dám bước chân ra đường. Còn nay ông con, chủ tịch xã, bãi chức tháng trước, tháng sau đã nhồng nhỗng phi xe máy khắp làng. Trước đó anh còn kịp mua mấy lô đất trên phố huyện. Hôm gặp tôi ở đám giỗ họ, anh cứ thản nhiên như không. Chìa bao ba số ra mời tôi, anh oang oang tuyên bố, đã quyết cúng cho họ khoản tiền sửa cái hậu cung. Trước lúc cỗ bàn, anh nghênh ngang quẳng ra giữa chiếu, quẳng ngay trước mắt các cụ, bó tiền mới cong hai chục triệu. Tôi thoáng thấy ánh mắt đâu đó, có người vừa tức, lại vừa muốn được như ông anh họ tôi./.

Hà Nội 2005

Bẫy Chim

Đồng Sa Băng

Tháng Chín (trời Quảng Ngãi) thường có những cơn mưa phùn, những hạt mưa li ti bay nghiêng nghiêng theo chiều gió, nhìn xa xa như những sợi tơ trời buông lững lơ trên khắp cánh đồng. Bầu trời dường như thấp lại, và mang theo những luồng mây màu xám tro bao trùm lên những chồi cây trên gò Đồn. Những cây lúa cao nghêu nghễu trên cánh đồng đang run rẫy trước cơn gió Bấc, làm cho cánh đồng gợn thành sóng; Và năm ba con trâu đang cắm đầu gặm những ngọn cỏ, cùn và xơ xác trên gò Đồn.

Hai bóng người nhỏ bé cở chín, mười tuổi, mang trên vai hai chiếc áo tơi rộng lỏng le, vừa đuổi đàn chìm Chà Chiện từ gò Đồn dưới bay về; Ngồi núp bên cạnh gò mã, ngước đầu nhìn chằm chặp vào cái cần cong vòng của chiếc bẫy lồng vừa đặt trên miếng đất mới to bằng miệng cái nón lá. Mưa vẫn bay bay, và cơn gió Bấc thổi nhẹ vào hai chiếc áo tơi làm kêu thành tiếng lật bật. Hai chiếc áo tơi nằm rạp xuống mặt đất và bốn con mắt cắm chặt vào chiếc bẫy. Rặc một cái, cần bẫy bật ngược lại, giựt tung chiếc bẫy lên khỏi mặt đất. Hai bóng người lẹ như chớp, bật người dậy, cắm đầu chạy về chiếc bẫy:

- A! Dính một con!

- Con này của em nhe.

- Hứ, em cái gì. Để đó, lát nữa đem về nhà đả.

- Anh ăn hiếp em hoài, về mắc cha đó.

- Ăn hiếp hồi nào, không cho đi theo nữa bây giờ.

- Đó, ăn hiếp đó. Em đi hái hoa rừng chơi, không thèm đi theo anh nữa.

- Ừ, đi đi. Coi chừng con rắn mái gầm trong rẫy đó.

Nó nhớ có một lần đứa em gái này -Búm, kể lại: một hôm trời trăng sao, Búm chạy nhảy trên con đường trước nhà để lên ngôi trường làng chơi cùng đám bạn; Búm đang tung tăng dưới ánh trăng bất thình lình đụng phải con rắn roi đang bò qua đường, con rắn nhỏ tí bị chạm vào thân nó liền quấn lên cổ chân cô bé xong vuột ra chạy biến mất vào bờ rào. Cái lạnh rợn người từ thân loài bò sát áp vào chân Búm quá đột ngột làm cho nó hoảng sợ đến bấn loạn. Cái cảm giác lạnh rợn tóc gáy đã nhanh chóng ấn sâu vào tâm não của đứa bé ngay khi con rắn vừa rút ra khỏi chân nó, và từ đó, dấu ấn sợ rắn đã nằm vĩnh viễn trong khối óc của Búm. Và cũng sau ngày ấy Búm sợ hết những loài bò sát, kể cả thằng lằn, rắn mối, mà nhất là rắn nó sợ còn hơn sợ cọp! Ngay nghe anh nó nhắc đến rắn nó ghét cay ghét đắng. Nó nói:

- Bang ngày làm gì có rắn ở đây!

- Hôm nọ anh thấy con rắn đen thui, to bằng cổ chưn bò từ đầu rẫy này đến đầu rẫy kia đó.

- Á! Ghê quá, sao ác quá vậy. Đưa chim đây em cầm.

- Nề. Cầm cho cẩn thận nghe hong. Em đi kiếm bãi phân trâu khô đào con sùng đi.

- Còn anh?

- Anh phải lên khu kia làm đất mới để đặt lại chiếc bẫy.

- Nhở gặp rắn mái gầm rồi làm sao. Em không đi một mình đâu, em đi với anh.

- Phải làm lẹ lên chứ lát nữa trời hết mưa giông đâu còn chim đi ăn.

- Ai biểu nhát em chi.

Đứa anh không ngờ lời nhát vừa rồi lại hại chính nó. Nó nói lẩm bẩm những gì trong miệng và không muốn cho đứa em gái biết rằng: con rắn nó thấy hôm nọ là sự thật. Con rắn đã cắn con trâu đang rúc lá bên bờ rẫy đến nhảy nhõm!

Hai chiếc bóng cứ chạy lăng xăng trên gò Đồn trên, lật ngược những bãi phân trâu khô để tìm những con sùng con. Rồi mang chiếc bẫy lồng đến khu đất trống, dùng khúc cây khô bươi đất lên, lấy sạch cỏ bỏ qua một bên, khoải đất bằng phẳng, cắm hai chưn chiếc bẫy lên miếng đất mới. Nó mở nắp bửng chiếc bẫy ra, cột con sùng vào cái chốt mồi nhỏ, xong hoằng cần xuống móc sợi dây giựt cần vào chốt mồi giữ cần cong lại. Hai sợi dây nhỏ còn lại trên đầu cần nó buột vào hai bên nắp bửng được mở ra nằm trên mặt đất. Hai chiếc bóng lấy tay khoải một lớp đất mỏng lên nắp bửng, thế là xong. Bây giờ nó phải đi tìm chim!

Bầy chim lúc nãy bị bẫy đập mất một con nó hoảng sợ bay đi đâu mất rồi! Hai chiếc bóng lại chạy ra cánh đồng, chạy vòng bọc lên đâu trên gò Đồn chạy vô. Đàn chim Chà Chiện khoảng trên mười con đang đi tìm thức ăn, chạy lăng tăng dưới hạt mưa. Hai chiếc bóng tách ra hình cánh cung và đi chầm chậm, đưa cái nón lá lên đuổi bầy chim cho bay về hướng chiếc bẫy. Những con chim khi bay trên cao nhìn xuống thấy khu đất nào mới nó sẽ hạ xuộng kiếm ăn. Nhưng nhiều khi nó cũng làm lơ bay qua luôn. Và lần này cũng vậy, bầy chim không đáp xuống miếng đất nó bươi sẳn mà lượn một vòng rồi bay về gò Đồn dưới. Vậy là hai anh em nó lại chạy theo về gò Đồn dưới tìm chim đuổi cho bay về khu nó đặt bẫy.

Nó đuổi hoài mà chim không chịu đậu ăn bên bẫy mà cứ bay vòng về gò Đồn dưới, bực bội nó cùng đứa em mang bẫy về gò Đồn dưới, làm đất mới rồi đặt bẫy, thì bầy chim lại bay về gò Đồn trên! Hai anh em lại chạy về gò Đồn trên đuổi chim bay về gò Đồn dưới. Cứ như thế hai thân hình nhỏ bé trong hai chiếc áo tơi rộng thình thoàng chạy theo bầy chim Chà Chiện đuổi suốt buổi chiều. Dường như cái đam mê, sự thử thách và lòng bướng bỉnh của những con chim cứng đầu kia đã làm tăng sự chịu đựng của hai con người nhỏ bé dưới cơn mưa phùn.

Rồi buổi chiều cũng qua đi, hai chiếc bóng trải dài trên mặt đất. Đồi bàn chân đã mỏi mệt. Anh em nó ngồi xuống bên bìa gò Đồn:

- Đưa con chim anh xem thử.

Đứa em nhìn vào lồng chim.

- Ý cha! Nó chết rồi! Đứa em buồn thiu, đôi mắt gần như ướm lệ.

- Sao em làm nó chết vậy?

- Em có làm gì đâu, em xách nó trong lồng chạy theo anh thôi mà.

- Em lắc mạnh quá con chim chết rồi.

- Bi giờ làm sao? Hồi nãy anh không chịu cho em bi giờ nó chết rồi, em mắc đền anh đó. Rồi giọt nước mắt chạy dài trên gò má người con gái ngây thơ.

- Thồi nín đi. Ngày mai anh gài con khác đền cho.

- ....

- Mà em nhồi nó chết chứ có phải tại anh đâu mà khóc.

Búm lấy con chim trong lồng ra đặt trên bàn tay:

- ... Em muốn ...giử nó nuôi ...mà ...nó chết rồi, bây giờ làm sao.

Miệng mếu máo với tiếng thút thít, Búm đưa tay lên quẹt ngan con mắt. Anh nó thấy vậy cũng buồn, và nói:

- Mình đem chôn con chim này đi rồi hôm nào anh bắt con khác cho.

Hai anh em đào một cái lỗ nhỏ, đặt con chim xuống, lấy lá cây đắp lên rồi lấp đất lại. Và hạt mưa, vẫn còn mưa bay.

Bán Vợ

Kim Yu-Jong

M ặc dù đã suy đi xét sự việc xảy ra cả ngàn lần trong đầu nhưng tôi vẫn nhất quyết rằng tôi chẳng có gì dính dáng đến vụ đó, cái vụ làm tôi phải có mặt tại cơ quan cảnh sát lúc này.

Nếu thằng Toại có bán vợ của hắn cho tên lái trâu thì đấy là do chính sáng kiến của hắn chứ đâu phải của tôi - điểm này là điểm chính . Tôi cũng chẳng cám dỗ, lôi cuốn vợ hắn vào bãy, tôi cũng lại chẳng âm mưu gì với thằng Toại lúc hắn ta ký giấy bán vợ.

Hơn nữa, thằng Toại đâu phải là loại người dễ dàng bị đánh lừa, điều này thì cả làng, cả xóm này ai mà không biết chứ !. Chúng tôi là hàng xóm với nhau, tất nhiên, ngay cả mày mày tao tao khi xưng hô, nhưng hắn ta chẳng bao giờ thích trò chuyện, khi bàn luận bất kỳ vấn đề gì hắn cũng chỉ tự bằng lòng với câu trả lời duy nhất một, hai, may lắm là ba ... tiếng - không phải chỉ riêng với tôi mà còn đối với tất cả mọi người, ngay cả bè bạn thân thiết của hắn nữa. Là người có tính hay làu bàu, trán hắn lúc nào cũng trũng sâu với những lớp nhăn, nhìn vào người ta có thể nói là hắn tức bực cả làng, cả nước, cả thế giới. Đến nỗi rằng, cách đây không bao lâu, vợ hắn sang nhà tôi vừa khóc vừa kể lể than vãn . Vợ hắn kể rằng, ông chồng to như một con gấu bẩn của cô cứ ì ra hệt như pho tượng đất trong một góc phòng, miệng câm như ngậm hạt thị trong khi cả nhà tìm không ra được một thứ gì để nhét vào bụng. Rằng, ông chồng cục cằn của cô suốt ngày chẳng chịu làm lụng gì, điều này thực đã khó lòng chiụ đựng lại còn thêm cứ lầm lầm lì lì im lặng chẳng nói một tiếng nào!...Rằng, dù cô ta đã làm tất cả những gì mà một người vợ đảm đang phải làm, rằng cô ta vun vén đủ điều ... kết qủa cũng chỉ bữa ăn bữa nhịn, nhiều khi phải van xin, cầu khẩn như ăn mày nơi hàng xóm láng diềng.

Nếu bảo là tôi , trong vụ này, có một chút ảnh hưởng không tốt nơi thằng Toại , thì cứ cho là có thể được đi. Nói cho cùng, điều sai duy nhất của tôi, là đã viết một tờ giấy biên nhận hộ cho hắn .

***

Hôm đó, trong lúc tôi vừa ăn sáng xong và đang ngồi thắt chiếu, thằng Toại lù lù dẫn thân đến, trên tay hắn một tờ giấy trắng phất phới theo chiều gió , hỏi tôi :

- Mày có biết viết một tờ biên nhận không?

- Tờ biên nhận để làm gì ? Tôi hỏi .

- Tao hỏi mày có biết viết hay không ?.

Hắn vặn lại, biểu lộ rằng hắn không muốn trả lời câu hỏi của tôi , cử chỉ hơi lúng túng, có lẽ vào lúc đó trong nhà không phải chỉ có một mình tôi .

Tôi nghĩ ngay việc này chắc có liên quan đến cô vợ hắn vì hắn đã hé lộ một vài điều với tôi mấy ngày hôm trước mà tôi cũng không nhớ rõ lắm. Tôi ngừng tay làm, đứng lên, lôi hắn ra ngoài hỏi nhỏ :

- Về vụ mụ vợ của mày phải không ?

- Ừ.

Hai mắt hắn tròn xoe, vẻ băn khoan suy nghĩ , sau đó tiếp tục :

- Tao quyết định bán nó cho thằng lái trâu, cái thằng cha ở bên kia sông đó. Mụ vợ thằng Sơn (mày biết mà, thằng chủ quán trọ đó) đã làm mai làm mối. Hiện thằng lái trâu đang có mặt ở quán trọ. Nó kèo nài cho bằng được một tờ biên nhận nhưng cả bọn tao đâu có ai biết viết lách gì. Tao bảo với nó là kiên nhẫn đợi tao một chút, thời gian để tao về nhờ mày giúp tao. Mày đã đến trường như thế là mày có thể viết được một tờ biên nhận phải vậy không?

- Nhưng tao lại không có bút, mực gì ở nhà !

- Không sao cả, cứ đi với tao.

Gió cuối thu thổi trên ngọn đồi, quét dồn những chiếc lá héo của chòm cây thích xuống tận giòng suối bên dưới. Hai chúng tôi rảo bước, hắn khép kín mình trong im lặng, tôi, hai tay chắp sau đít đi đằng sau hắn . Tôi cũng đã muốn, nhân danh tình bạn bè, thuyết phục hắn, dù hắn có nghe hay không đi chăng nữa, nhưng tôi lại không dám mở miệng, chẳng phải là tôi không muốn nói khi nghĩ đến thằng Cu Đe, đứa con mới 4 tuổi đầu của hắn, để bảo thẳng với hắn rằng bằng bất cứ với giá nào hắn cũng nên giữ cô vợ lại . Nhưng điều này cũng là điều thật tế nhị cho tôi vì tôi không muốn bị lôi kéo vào chuyện chẳng dính dáng đến mình nhất là tôi lại chẳng thể giúp đỡ được gì cho gia đình hắn ta trong việc mưu sinh thường nhật. Vả lại, nếu vợ chồng hắn cứ ôm khịt lấy nhau mà chết trong cảnh đói khổ thì thôi chẳng thà là cứ để cô vợ của hắn đi nơi khác sống còn hắn thì dù sao cũng có được một số tiền để xoay sở, thoải mái hơn một chút...

Đi sau hắn, tôi lại nghĩ đến hoàn cảnh của tôi hiện tại, cũng chẳng hơn gì hắn với những loay hoay xoay trở suy tính : Vụ gặt trong năm của tôi đã phải dành ra tất cả để trang trả những món nợ bên tả, bên hữu mà tôi vay mượn. Cả nhà chỉ còn lại được ngót nghét gần 15 kí lô thóc. Dẫu thế, dù sao tôi cũng còn đỡ hơn là Toại , vì hắn, hắn không tài nào có thể trả được những món nợ đã vay mượn . Khi tưởng tượng phải chịu đựng hoàn cảnh hiện nay của tôi, tôi có cảm tưởng rằng trời sẽ đổ ụp trên đầu tôi. Tôi tự nhủ rằng tốt hơn là kể từ mùa đông năm nay tôi cũng nên đi xin làm một chân thợ mỏ trong những mỏ vàng, hay thử thời vận cờ bạc đỏ đen - chuyện này thì ở đây chẳng thiếu chỗ. Nhưng muốn cờ bạc thì cũng phải có một chút tiền vốn mà tôi thì lại chẳng có vợ để bán như anh chàng Toại bạn tôi. Nhà tôi, cũng có đàn bà, đó là mẹ tôi, nhưng khổ một nỗi là bà lại đang bị đau ốm. Hơn nữa (tôi thật xấu hổ khi phải nói ra điều này), chẳng những mẹ tôi đã già, mà lại chỉ cha tôi là người có quyền làm gì thì làm với bà ấy còn tôi chẳng chút quyền hành gì .

Đấy, vì thế mà tôi không có thể nói thẳng ra được với thằng bạn của tôi rằng nó đừng bán vợ nó...thú thực dù sao trong tôi cũng có một chút tiếc rẻ là tôi đã không lấy vợ, như hắn : tôi đã có thể, tôi cũng vậy, bán vợ tôi ...

Lúc cả hai đã ra đến đường cái, tôi bảo với thằng Toại :

- Đi trước đi, tao sẽ đến ngay. Tao phải đi mượn thỏi mực và cây bút .

- Nhớ mượn thêm bình mực nữa nghe...Hắn noí để nhắc tôi.

***

Tôi tà tà thả bộ và đến quán trọ, dưới những tàn cây dẻ, bằng ngã sân sau đầy cứt gà. Tôi tò mò muốn biết cái mặt mẹt của tên lái trâu. Nếu hắn có khả năng mua một mụ đàn bà và trâu bò thì chắc hẳn là hắn có đầy đủ phương tiện .

Khi mở cửa bước vào phòng, tôi trông thấy một người chột mắt, má phính và đẫy đà , đáng ghét. Ngồi trước cái bàn đầy những chai rượu, hắn nhìn tôi bằng con mắt không một chút thiện cảm . Quần áo hắn dính đầy những vết mỡ được trang hoàng hình như để làm dáng bằng những dải vải có vẻ giả tạo của quân đội . Ngồi cạnh hắn là vợ Toại, mẹ của thằng Cu Te đang vạch vú cho con bú. Cô ta khép nép khiến người ta nhìn vào có thể nghĩ ra được rằng cô sẽ bằng lòng chấp thuận mọi điều kiện đưa ra về việc này. Dưới mắt nhìn của tôi thì cả hai, nhất quyết không thể xứng đôi vừa lứa . Khi trông thấy tôi, cô vợ Toại đỏ mặt. Cô ta chào tôi :

- À, anh đã đến ?

Dứt lời, cô ta cúi mặt nhìn xuống.

Chính mụ già, chủ quán đã làm công việc giới thiệu mọi người (mụ này là một mụ phù thủy thật sự chứ không phải đùa ) :

- Đây, là người cháu, cháu xa gọi tôi bằng cô; anh ấy là lái trâu , anh ấy không bủn xỉn đâu...

Sau đó, mụ vỗ vào vai tôi bằng bàn tay xương xẩu của mụ rồi nói tiếp :

- Còn anh này, anh Bông , anh ấy biết viết những tờ giấy biên nhận.

- Hân hạnh! Tên lái bò lên tiếng bằng một giọng ồm ồm. Tôi không biết anh nhưng tôi xin tự giới thiệu : Tôi là Hoàng Cô Phòng, cư ngụ bên kia sông.

Tôi, cũng vậy, một cách nghiêm chỉnh tự giới thiệu và trịnh trọng nói với hắn rằng 10 năm trước đây, cha tôi cũng có rất nhiều ruộng đất...nhưng, thay vì nghe tôi nói hắn cướp lời đi ngay vào vấn đề :

- Tôi nhờ anh đến đây để viết một tờ biên nhận. Đáng tiếc rằng tôi đã làm phiền anh việc này song hãy viết cho tôi một tờ biên nhận thật chu đáo.

A, con khỉ một mắt này! hắn dám chận lời tôi như vậy hả ! Tôi có đến đây cũng chỉ vì thằng Toại: chẳng một lý do nào khiến tôi lại phải nghe tên ba trợn này ra lệnh . Tôi tự nhủ rằng hắn đúng là một kẻ thô tục rồi vừa quay đầu đi chỗ khác vừa giận dữ cau mặt lại . Chính ngay vào lúc đó, hắn đưa một ly rượu mời tôi :

- Nào, trước hết chúng ta hãy cụng ly cái đã.

Không cách nào từ chối được; tôi cầm ly rượu một cách lịch sự, bằng hai tay.

Mới chỉ uống được 3 ly thì thằng Toại (mặt hắn lúc đó dài ra như mặt ngựa) đã chực nhào tới cạnh tôi. Để làm hắn bình tĩnh lại, tôi lấy bút (lúc này thì tôi cũng chẳng còn nhìn được rõ cho lắm) và viết nguệch ngoạc điều mà tên lái trâu muốn :

Tờ Biên Nhận

50 Wons

Tôi thừa nhận đã nhận số tiền này

đổi lấy vợ tôi

Ngày 20 tháng 10 năm 1934, năm Hợi

Chu Trương Toại

Để cho Hoàng Cô Phòng

Thằng Toại đã lăn ngón tay cái của hắn vào tờ giấy tôi vừa viết và đưa cho tên lái trâu. Tên này bảo tôi đọc lớn cho mọi người cùng nghe, sau đó hắn nhìn vào tờ giấy biên nhận một lúc lâu, rồi với một vẻ bán tín bán nghi bằng đôi mắt tròn xoe hắn hỏi tôi :

- Mày thấy như thế là đủ rồi hay sao ? Nếu như gia đình hắn kiếm được đủ số tiền mà hắn lại muốn chuộc vợ lại ...?

A, tên lái trâu này nghĩ là hắn đang ở chợ buôn bán trâu bò hay sao nhỉ? Tôi sửng sốt nhìn hắn ta, sau đó Toại bảo tôi là cứ viết thêm vào tờ biên nhận những gì mà tên côn đồ lái trâu muốn :

Dù thế nào đi chăng nữa,

tôi thề rằng tôi sẽ không bao giờ

đòi lại vợ tôi.

Sau khi đã hài lòng với những chữ được tôi viết tiếp, tên lái trâu với tay cởi tuí tiền (cái túi treo bằng một sợi dây cũ kỹ nơi lỗ khuy ở cái áo gi lê hắn đang mặc). Hắn lôi ra một sấp tiền một won, tất cả đều cáu bẩn, rồi đếm từng tờ một, đếm đi đếm lại thật cẩn thận, lật đi lật lại kiểm soát từng đồng. Mỗi lần đếm, hắn đưa những ngón tay lên miệng thấm bằng nước bọt. Những tờ giấy bạc đã ướt đẩm lại một lần nữa đến lượt thằng Toại tẩm thêm nước bọt của hắn để đếm lại lúc nhận tiền. Một ý nghĩ thoáng trong đầu tôi : muốn cho những tờ giấy bạc của ngân hàng trở thành đẹp đẽ chắc có lẽ người ta cần phải tẩm cho thật nhiều nước bọt vào.

Thật đó, tôi chẳng hề đụng đến một cắc tiền cò tiền kiếc gì , nếu tôi nói dối thì " ông bà vặn cổ tôi đi ". Có một người đã nhận được 5 wons từ mỗi phía trong việc trao đổi này: đấy là mụ già chủ quán trọ. Tôi, tôi chỉ được đúng vài ly rượu. Nhất là chính tôi, khi mọi việc xong xuôi, lại phải đưa chân tên lái trâu nữa chứ...không, thực ra tôi đưa mẹ của thằng Cu Te, đến tận đỉnh đèo, nơi nghĩa trang của làng, từ quán trọ đến đó mất hơn hai cây số .

À, tôi chẳng cảm thấy có gì vui khi mọi người đã lên đến đỉnh đèo nhất là lúc nhìn thấy con đường ngoằn nghèo ở mé dưới, dẫn vào rặng núi phía trước mặt. Nói rằng người đàn bà này ở cùng làng với tôi, cô ta đã bị bán đi và sẽ đi sống ở nơi khác...Tôi thực sự ngao ngán, như chính tôi phải ra đi. Lại nữa, cô ta đã làm tôi mủi lòng : khoác trên mình chỉ một chiếc áo đơn mỏng manh, cô ta đang lập cập trong làn gió lạnh.

- Thôi, tạm biệt mẹ thằng Cu Te!

- Chào anh!

Dứt lời, cô tiến lên trước trên con đường quanh co ; tôi nhìn thấy thân hình cô ta nhẹ nhàng đong đưa theo bước chân. Cô ta chẳng có một vẻ gì là luyến tiếc. Cô ấy ra đi như một người đi đến một nơi mà họ đã biết trước. Điều làm tôi bàng hoàng là thằng Toại, nó đứng ngay đằng sau lưng tôi, hắn không nói lời giã từ nào với cô vợ cả. Thằng Toại đứng ì ra đó, giống hệt như một cái tượng vật tổ mà người ta thường thấy dựng ngay ở cổng ra vào các làng quê, hắn như tự hài lòng với những cái nheo mắt của hắn. Đồ chó đẻ! cho dù có ở một ngày với vợ, thì dù sao cũng là vợ mình chứ! Nhưng hắn, suốt 18 năm, hắn xử dụng vợ hắn như người ta xử dụng một con bò, con trâu. Nếu hắn đã không chết đói cũng là nhờ có cô ta, nhờ sự chăm lo, tảo tần của cô ấy chớ...Song, hắn lại chẳng biết thốt ra được một tiếng cám ơn. Trời đất ơi! cái quân thô lỗ này!... thật đáng khinh tởm!

Thằng Cu Te, bấy giờ thì cha nó đang bế nó trong tay, rãy dụa khóc. Thằng bé vừa gào lên gọi mẹ, mẹ nó bây giờ thì đã đi xa, vừa đấm liên hồi trên ngực cha nó. Thế là cha nó, quân thô lỗ, xáng cho nó một cái bợp tai làm nó im, nhưng cũng chỉ được một lát để sau thằng bé lại gào ré lên càng lúc càng dữ dội hơn.

Phần tên lái trâu, dưới hậu quả của rượu đang ngấm lên tận đầu hắn sau khi đã nói vớ vẩn một chập, hắn cáo từ một cách thật trịnh trọng :

- Các bằng hữu, tôi mang ơn các bạn thật nhiều. Tôi sẽ tìm dịp nào đó để hậu tạ các bạn.

Dứt lời, tên lái trâu chệnh choạng xuống dốc . Hắn vấp phải một cục đá và ngã lăn tròn. Phải công nhận là hắn may mắn vì nếu không có những cành cây giữ thân thể hắn lại thì nhất định là hắn đã bị rơi tòm xuống vực thẳm rồi và cái bụng tròn như một cái lọ đựng kẹo bằng thủy tinh của hắn sẽ phải bị nỗ tung ra mất. Tên lái trâu đứng lên, liếm môi, hắn bị một vài cục u, và, khi quay lại nhìn chúng tôi, lộ ra vẻ e thẹn, làm chúng tôi cũng phải bật cười.

Mẹ của thằng Cu Đe lúc này cũng đã mất dạng trên đường, sau một chỗ ngoặt.

***

Thế mà năm ngày sau, cái tên lái trâu vô lại đó quay trở lại để lôi tôi đến cảnh sát. Hắn làm ăn với thằng Toại chứ đâu phải với tôi mà bây giờ hắn lại kèo nài với tôi. Hơn nữa, nếu hắn đến vào lúc tôi rảnh rang thì không nói làm gì, hắn lôi kéo tôi trong lúc tôi đang lo việc chở phân mặc dù tôi đã cố phân giải cho hắn tỉnh táo song hắn chẳng cần biết gì , bực mình tôi xô hắn ra làm hắn ngã bệt trên cỏ thế là hắn túm cổ họng tôi rồi lôi tôi đi như lôi một con bò. Nếu thực sự tôi được ăn một chút tiền huê hồng hoặc nếu tôi là người trung gian mối lái thì cũng đáng đi nhưng đàng này tôi chỉ viết một tờ biên nhận thay cho thằng bạn tôi rồi được uống vài ly rượu do chính hắn mời : như thế đủ để là một thủ phạm hay sao chớ?

Theo lời hắn thuật lại thì mẹ thằng Cu Đe đã biến dạng, vào ban đêm, bốn ngày sau khi về với hắn, nghĩa là mới ngày hôm kia. Hắn nói là hắn không thể chợp mắt và hắn tự nhủ là cô ấy sẽ quay trở lại vào lúc trời sáng. Nhưng chờ đến hừng sáng cũng chẳng thấy tăm hơi. Sáng sớm hôm đó hắn đi tìm. Hắn tin rằng hắn bị lừa vì thế mà hắn trở lại đây. Nếu mà tôi không nói cho hắn biết cô ta đi đâu, hắn dọa tôi (lôi mặt tôi sát vào cái mắt duy nhất của hắn, răng hắn nghiến trèo trẹo) rằng hắn sẽ tự sát ...cùng với tôi!

- Nhưng tôi có phải là người bán cô ta cho anh không chớ ? Anh muốn gì hả ?

- Thằng Toại cũng đã bỏ trốn, nhưng mày, mày biết rõ là nó đi đâu! Hai đứa mày đã toa rặp để lừa tao, quân đểu giả!

- Nhưng tôi có biết nó đi đâu !

- Câm đi, mụ già chủ quán đã kể cho tao rõ tất cả rồi. Mày còn muốn lừa tao nữa hay sao , đồ thối tha!

Thế là hắn quẳng phịch tôi xuống bờ đê , rồi trong khi tôi chưa kịp phủi bụi bậm trên lưng, hắn lôi tôi sềnh sệch. Như vậy là mụ già chủ quán bảo nó đên tìm tôi vì tôi biết thằng Toại đi đâu. Mụ ta chắc sợ là phải trả lại tiền hoa hồng đã nhận nên trút tất cả trách nhiệm cho tôi . Trong cái đầu của tên lái trâu thì chính tôi đã gợi ý cho thằng Toại bán vợ để kín đáo nhận một số tiền cò mồi.

***

Quả thực thì thằng Toại cũng biến mất vào ngày hôm kia, cùng lúc với vợ hắn. Nó đi trốn, nó đi thăm bà con họ hàng của nó, tôi đâu có biết. Tất cả những gì tôi được biết về nó là việc nó đi khắp làng để trả nợ, lúc thì bằng tiền mặt, khi bằng hiện vật, những món nợ mà vợ hắn để lại, nhiều khi món nợ chẳng ra gì. Thử hỏi đấy có phải là là một trọng tội mà nó phạm phải hay không để mà nó phải bỏ làng đi trốn ? Hay là thằng Cu Đe, con nó tối nào cũng la khóc đòi mẹ nên Toại đã bồng con đi gởi cho ông anh cả của nó. Chiều hôm nọ, Toại đến tìm tôi, hoàn toàn trong tình trạng say xỉn. Tôi cũng chẳng biết hắn uống ở đâu nữa. Chệnh choạng đi vào sân nhà tôi rồi đặt xuống trước mặt tôi một chai rượu đế, lè nhè nói :

- Này, phần mày đây .

- Nhưng...đừng làm như vậy. Tao cảm ơn mày, tao bắt đầu đói bụng đây!

Tôi xuống dưới bếp lấy 2 chiếc ly và một chén củ cải muối xong xuôi cả hai ngồi bệt dưới đất uống.

Khi đã uống hết giọt cuối cùng trong chai, Toại khởi sự nói hết chuyện này sang chuyện khác rồi rút trong tuí lấy ra 1 won chìa cho tôi :

- Nè, để cảm ơn mày bữa hôm trước.

- Cảm ơn tao ? Tôi hỏi lại .

Tôi tròn mắt nhìn hán nhưng trong lòng tôi hiểu rằng việc này có liên can đến chuyện tôi đã giúp nó. Tôi cũng ý thức được rằng thật vô lương tâm khi nhận tiền từ một vụ bán vợ mà ra. Tôi bảo với hắn rằng mấy ly rượu uống chung với hắn là đã qúa đủ rồi song hắn nài nỉ :

- Thì mình vẫn uống với nhau có gì đâu...

Sau đó hắn cứ nhét tiền vào túi tôi. Thế là tôi đành phải nhận vả lại tôi cũng có thiếu gì việc phải cần đến đồng tiền! Từ đó, chẳng còn ai gặp thằng Toại hay Cu Đe, thằng bé con hắn; mà cũng chắng một ai nhìn thấy hai cha con nó dẫn nhau bỏ làng ra đi .

***

Đầu đuôi chỉ có thế mà cái thằng lái trâu cộc cằn này lại buộc tôi phải đi tìm cho ra thằng Toại ! Hắn nắm cứng cổ họng tôi rồi cứ thế kéo tôi đi đến nỗi làm tôi muốn nghẹt thở. Người trong làng bắt đầu bu kéo lại nhìn màn kịch của hắn và tôi. Tôi cảm thấy chẳng một chút nào hãnh diện trước cảnh đó, tự nhiên mặt tôi đỏ bừng lên hệt như tôi thật sự là một kẻ phạm tội. Tôi cũng cảm thấy được rằng nếu như tôi kháng cự mạnh thêm một chút nữa thì tên lái trâu này dám nổi nóng làm càn nên tôi đành cứ để mặc nó lôi đi cho đến tận cạnh bờ con suối, lúc này thì nó cũng nhận ra được rằng nó chẳng phải cần cưỡng buộc gì tôi nên bỏ tôi ra, tiếp tục rảo bước vẻ hơi lúng túng. Hắn chỉ muốn tôi đi theo hắn đến đồn công an .

Cả hai chúng tôi đi khoảng 4 cây số, hắn đi trước, tôi lẽo đẽo theo sau, im lặng. Trong caí vùng núi non lạc lõng này, chẳng một bóng người. Rừng cây sặc đốm màu của mù thu, đỏ, vàng và gío, thỉnh thoảng, những trận mưa lá khô ào ạt rơi. Mặt trời đang lặn đỏ trên những chỏm núi xa xa, cả khoảng trời nhuốm màu lửa rực. Những tảng đá lăn từ chỏm núi thẳng đứng rơi lõm bõm dưới những khe suối, đấy là tất cả những gì mà cà hai chúng tôi nghe được. Có một cái gì buổn thảm trong sự yên tĩnh này. Một con chim trĩ đực bay lên bên phiá phải, một con chim trĩ cái bay bên mé trái...Trên đường , tên lái trâu và tôi bước chậm rãi, chẳng một chút nhiệt tâm.

Lúc tôi và hắn với tấm thân béo phì ụch ịch lên đến được tận đỉnh đèo thì cà hai đều đã muốn đứt hơi. Tên lái trâu ngồi bịch xuống cỏ thở dốc như ...trâu. Cơn giận của hắn cũng đã biến mất lúc nào không biết nữa. Thò tay vào túi lấy ra gói thuốc lá, hắn, với giọng thật nhỏ nhẹ bảo tôi :

- Mày chắc cũng mỏi chân lắm phải không ? Ngồi xuống đây, nghỉ thở một chút!

Tôi ngồi xuống, cạnh hắn rồi châm điếu thuốc hắn vừa mời. Còn đến 6 cây số nữa mới đến; chắc chắn là chúng tôi không thể đến kịp trước khi mặt trời lặn rồi.

- Tao thật sự buồn vì việc đã xảy ra lúc nãy.

- Thôi, bỏ chuyện đó đi !

- Nhưng thật sự, mày có biết thằng Toại đi đâu không ?

- Rất có thề là nó đến nhà ông anh cả của nó, ở Phước Ninh.

Khi nghe tôi nói câu này, hắn như thực sự hài lòng đến nỗi làm cho những thớ thịt trên mặt hằn co giật lại đến nỗi làm cả khuôn mặt hắn méo mó, rồi hắn tuôn ra một tràng than thở để giải thích : tất cả không phải là chuyện tiền nong bị mất , mà vì, một người đàn bà như vợ thằng Toại, không bao giờ hắn có thể tìm được người thứ hai. Vì hắn góa vợ, hắn đã đi tìm một người đàn bà bề ngoài đường được, vì hắn muốn giao v quán rượu của hắn cho người đàn bà này trông nom. Trong vài ngày thử thách vừa qua, hắn đã nhận ra được rằng mẹ thằng Cu Đe có khiếu buôn bán, hơn nữa, trong vai trò người vợ, cô ta rất giỏi. Dù rằng chỉ vài ngày với cô ta nhưng cũng đủ cho hắn nhận ra rằng : chưa bao giờ hắn gặp được một người đàn bà dễ thương và gợi cho hắn một sự trìu mến như thế.

Hán thật bằng lòng vì hắn đã sắm sửa cho cô ta những bộ váy lụa và cho cô ăn những miếng sườn bò. Hắn muốn tìm lại được cô - ngay cả là hắn sẽ phải hao tốn tiền bạc thêm nữa - chỉ vì cô đã làm cho hắn thấy một sự thiếu thốn lớn lao. Hắn không có ý định đòi hỏi thằng Toại phải trả tiền lại cho hắn (như thế là thằng bạn tôi chẳng phải lo về chuyện này). Sau đó, tên lái trâu hỏi tôi với một giọng khiến tôi hơi bực mình :

- Nói cho tao biết tất cả những chỗ mà thằng Toại có thể đến đó.

Tôi, tôi chẳng đáp lại gì mà chỉ yên lặng hút thuốc. Rồi hắn tiếp :

- Bộ mày không nghĩ là hai đứa nó đã sắp xếp với nhau à, tụi nó biến mất cùng một ngày mà ?

- Nhưng làm thế nào cách nhau đến cả mười lăm, mười sáu cây số mà tụi nó lại có thể thu xếp được với nhau ?

Mặc dù với cái lối trả lời có vẻ ngang ngang khó chịu của tôi hắn vẫn cứ tiếp tục nói với vẻ thất vọng :

- Đấy chính là vần đề mà tao cũng đã đặt ra. Nếu tao là thằng Toại thì tao sẽ biết được vợ tao đi đâu.

Tên lái trâu nói bằng một giọng màu mè trong âm điệu của một đứa trẻ con thường luôn được nuông chiều nhưng vừa mới bị quở mắng. Cái thằng đãy đà như vậy, bệnh thất tình đã làm cho hắn bé teo lại. Như bị lột hết mọi phương thế, hắn rình đợi từng lời nói của tôi, hy vọng (biết đâu chừng ?) những lời nói của tôi sẽ mang lại cho hắn một chút hy vọng .

- Mày biết nhà anh cả thằng Toại ở đâu không ? ở Phước Ninh à ?

- Tôi có một người chú, ông ấy cũng vậy, cũng ở dưới đó.

- Nếu vậy thì mình đi xuống, uống một chén, ngày mai mình đi Phước Ninh sớm. Thằng lái trâu nhanh nhẩu nói như người đang sắp chết đuối vớ được phao.

- Đồng ý.

Tôi hời hợt trả lời hắn , trái với ý nghĩ của tôi và nhìn về hướng tây.

Mặt trời vừa biến dạng, vùng thung lũng đã bị nhòa sau màn sương đủ màu đủ sắc. Mỏm núi rực chói những tia sáng còn lại của một ngày làm như có vẻ rung rinh vì đang phẫn nộ. Tiếng rì rào thoáng nhẹ của những chiếc lá khô rơi trên đầu chúng tôi.

Tên lái trâu ngồi xổm dạy, suy tính cho những dự định của hắn vào ngày hôm sau.

Nhưng theo tôi suy xét (và tôi cũng đã suy đi xét lại cả ngàn lần trong đầu) thì thằng Toại , không, chắc chắn nó không đến nhà ông anh cả nó ở Phước Ninh đâu.

Troyes 22.8.2007 - Paris 25.8.2007

TỪ VŨ

Con rắn quái gở

Ê-phơ-rê-môp

(Chính là con rắn mà nhà văn Nguyễn Dậu, trong truyện ngắn Mật rắn của mình, đã cho nhân vật Quân Chi sử dụng như một chi tiết khoe tài)

Theo lời mời của Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Mông cổ, trong hai mùa hè liền, tôi đã tiến hành một số công tác trắc địa ở vùng biên giới phía nam nước này.

Công việc còn lại chỉ là xác định hai hay ba điểm thiên văn vùng đông nam biên giới hai nước Mông cổ và Trung hoa.

Tiến hành việc đó giữa một vùng sa mạc chúng tôi gặp khá nhiều khó khăn.

Nếu tổ chức thành một đoàn người cưỡi toàn lạc đà thì mất nhiều thời gian lắm. Vả lại, đã quen đi lại bằng ô-tô nên tôi thấy cái lối vận chuyển cổ lỗ này chậm chạp đến mức không chịu nổi. Từ trước tới nay, chiếc xe Gat nhỏ của tôi vẫn phục vụ tôi một cách trung thành, nhưng lần này thì chẳng ai dám nghĩ đến việc dùng nó để đi liều vào những vùng sa mạc cát khủng khiếp kia.

Ngoài chiếc xe đó, tôi không có chiếc xe nào khác.

Trong khi vị đại diện của Ủy ban khoa học Mông cổ và tôi đang vò đầu tìm cách giải quyết vấn đề thì có một đoàn thám hiểm lớn từ Liên Xô tới U-lan Bato. Dân chúng trong thành phố đều ngạc nhiên trước những chiếc xe tải mới tinh, mang theo đầy đủ khí cụ, bánh lắp bằng những chiếc lốp lớn chuyên dùng để đi trên cát.

Anh lái xe Gờ-ri-sa của tôi là một thanh niên sôi nổi, rất có khiếu về máy móc và rất thích tham dự vào những chuyến du lịch thật xa.

Anh chạy ra chạy vào nhà chứa xe để ngắm nghía những thứ hàng mới lạ kia một cách thèm thuồng. Chính anh ta mách nước là nên lắp cho chiếc xe của chúng tôi những bộ giò mới. Chúng tôi thực hiện ý định đó với sự giúp đỡ của Ủy ban khoa học Mông cổ .

Đó là những chiếc bánh rất nhỏ, nhưng lại được lắp với những chiếc lốp to lớn với tầng cao su thật dày.

Sau những lần đi thử đầu tiên, chúng tôi rất hài lòng. Dù quen đi lại trên những chặng đường xấu, tôi vẫn phải ngạc nhiên khi thấy chiếc xe nhỏ của tôi chuyển vận dễ dàng trên những bãi cát rất mịn và dày. Còn anh chàng Gờ-ri-sa thì cam đoan là xe sẽ đi một mạch qua sa mạc Gô-bi -đen.

Anh em thợ máy đã nhường cho chúng tôi những chiếc lốp đặc biệt ấy còn ân cần dặn dò chúng tôi và chúc chúng tôi đi đường may mắn.

Sau đó, ngôi nhà lưu động của chúng tôi rời U-lan Bato trong một đám mây bụi và phóng thẳng về phía Sét-sec-lít.

Chúng tôi thường đi luôn nên đã quen qui định cho mỗi người và mỗi đồ vật một chỗ không thay đổi.

Tôi ngồi gần người lái, trước một chiếc bàn nhỏ có bản lề, trên bàn đặt quyển vở nhỏ ghi đường đi. Trên bàn còn có một chiếc máy ghi tốc độ và một chiếc la bàn đi biển; nhờ hai chiếc máy đó, tôi xác định được hành trình và độ dài của mỗi chặng đường. Chiếc hòm đằng sau che vải bạt kín như xe chở hàng đựng những chiếc lốp đặc biệt quí giá kia và những bình sắt chứa nước luôn va loảng xoảng vào cái thùng đựng ét-xăng. Còn những chiếc hòm to chứa phụ tùng và giày ủng thì dùng làm chỗ ngồi cho người phụ việc của tôi, chuyên về vô tuyến điện và tính toán, cùng với người dẫn đường kiêm phiên dịch, tên là Đác-khin, một người Mông cổ già rất khôn ngoan và giàu kinh nghiệm.

Ông già Đác-khin ngồi bên trái để có thể ngả người ra đằng trước phía mặt kính xe, chỉ đường cho Gờ-ri-sa. Anh phụ trách vô tuyến, cùng tên với tôi, là một người ham mê săn bắn. Anh ngồi bên phải, luôn có sẵn chiếc ống nhòm và khẩu súng. Anh ta còn có nhiệm vụ bảo vệ chiếc máy đo kinh vĩ tuyến với chiếc máy vạn năng Hin-đơ-bơ-ran...

Phía sau hai người là những chăn và đệm cuộn tròn, một chiếc lều vải, bát đĩa, thức ăn và mọi thứ cần thiết khác, tất cả đều sắp đặt thật ngăn nắp.

Chúng tôi phải đi đến hồ Ô-rốc No rồi xuống miền cực nam của nước này, tức là miền Gôbi, xuyên qua dãy An-tai cách đấy ba trăm kilomet.

Mọi việc đều tốt đẹp.

Lợi dụng đêm lạnh, chúng tôi tiếp tục đi luôn cho đến gần sáng.

Người dẫn đường và Misa lúc nãy ngủ mê mệt, bây giờ đã tỉnh dậy bước xuống xe. Chúng tôi tìm thấy một nơi để cắm trại; chúng tôi đi nhặt củi rồi tất cả cùng ngồi uống trà và bàn công việc trên một tấm thảm dạ trải cạnh xe.

Từ chỗ này, chúng tôi sẽ đi vào một vùng chưa có nhà thám hiểm nào đặt chân tới. Trước hết, tôi muốn quan sát và xác định một điểm thiên văn để có thể kiểm tra những số liệu tôi còn đáng ngờ.anh tài xế muốn kiểm tra và sửa lại thật kĩ chiếc xe tải nhỏ của chúng tôi. Misa thì định đi bắn thú rừng và ông già Đác-khin dự tính đi hỏi thổ dân ở đây về con đường sắp đi.

Tôi liền tuyên bố sẽ nghỉ lại đây 24 giờ.

Tất cả mọi người đều tán thành.

Tôi chợt tỉnh giấc vì nóng quá. Mặt trời đã nuốt mất phần lớn bóng mát và đang thiêu đốt hai bàn chân tôi.

Đến chiều thì chúng tôi sửa xe xong.

Anh chàng phụ trách vô tuyến điện mang về mấy con vịt, trong đó có hai con rất đẹp thuộc loại tôi chưa hề biết.

Anh lái xe chăm lo nồi xúp, trong khi đó thì Misa căng dây ăng ten dã chiến để bắt trong đêm tối những tín hiệu thời gian.

Tôi đi vơ vẩn quanh chỗ tôi cắm trại, cố tìm một vị trí quan sát.

Khi quay trở về chiếc xe, tôi thấy bữa ăn đã sẵn sàng. Người dẫn đường cũng đã về và đang nói chuyện gì đó với các bạn. Thấy tôi, ông âý im lặng, há rộng miệng cười một cách vô tư, Gơ-ri -sa bảo tôi:

- Đác khin vừa kể cho chúng tôi nghe những chuyện đến khiếp. Bác ấy bảo ngày mai chúng ta sẽ rơi vào tay quỷ.

Có việc gì thế, bác Đác-khin, tôi vừa hỏi vừa ngồi xuống cạnh chiếc nồi đặt trên tấm vải bạt rộng thay khăn bàn .

Bác già người Mông cổ lườm anh lái xe và giận dữ lẩm bẩm rằng cái anh chàng ngốc kia không coi cái gì là quan trọng .

Gơ-ri sa lúc nào cũng đùa, cậu ta chẳng biết thế nào là nguy hiểm .

Hai anh thanh niên phá lên cười càng làm người dẫn đường phát cáu. Tôi xin lổi bác ta và hỏi bác về chặng đường ngày mai. Bác bảo tôi rằng bác đã hỏi được những điều rất chặt chẽ. Bác cầm chiếc đũa vạch trên cát những đường cong vẽ dẫy núi Antai Mông cổ. Qua một thung lũng rộng, ở phía tây I-khê -bốc -đô chúng tôi sẽ đi theo một con đường lạc đà dẫn thẳng về phía nam.

Xuyên qua một đồng bằng đầy cát đến cái giếng Sagăng tô lôgôi cách năm mươi ki lô mét. Sau đó, chúng tôi phải đi gần hai trăm năm mươi kilômét trên một con đường khá tồi giữa những bãi đất sét mặn cho đến dẫy Nôin- bốcđô. Bên kia những trái núi này là bắt đầu bãi sa mạc khủng khiếp đô-lông-kha-li-gô-bi ..

Một vùng cát rộng hướng về phía tây và ít nhất cũng rộng bốn mươi kilômét từ bắc sang nam. Cuối cùng chúng tôi sẽ đi đến những vùng cát mênh mông cuả sa mạc Gôbi ở Damga ra kéo dài đến biên giới Trung quốc. Theo lời bác Đắc khin thì những vùng cát này khô khan điêu tàn và được coi như là đât dữ, đi liều vào đó là việc rất nguy hiểm.

Người ta đồn rằng đầu phiá tây của vùng đô-lông-khali -gôbi cũng ác liệt lắm. Tôi cố gắng thuyết phục bác già rằng với tốc độ chúng tôi đi, tốc độ mà chính bác cũng đã rõ ở dọc đường thì chúng tôi chẳng có gì đáng ngại.

Vả chăng tôi cũng không có ý muốn trùng trình ở đây làm gì. Chẳng qua đến đó chỉ để quan sát các ngôi sao một lượt rồi quay về ngay, bác Đác-khin lắc đầu không trả lời nhưng bác vẫn cùng đi với chúng tôi .

Đêm đó trôi qua không xảy ra việc gì.

Sớm hôm sau, trời chưa sáng, bác Đác-khin đã đánh thức, tôi buộc lòng phải dậy. Tiếng động cơ kêu rầm rầm trong yên lặng của ban đêm làm cho các con chim ngái ngủ hoảng hốt. Trời lạnh làm tôi rùng mình, nhưng chui vào xe thấy ấm dần và tôi hạ cửa kính xuống. Đường khấp khểnh nhưng xe vẩn phóng nhanh. Vì quang cảnh không có gì lạ nên chẳng mấy chốc tôi đã ngủ thiếp đi. Một tay dựa thành xe, một tay đỡ đầu làm gối, tôi thiu thiu ngủ một giấc ngon lành. Một lúc sau xe lắc mạnh quá làm tôi tỉnh dậy, tôi lấy la bàn định hướng rồi lại ngủ. Khi anh lái xe đổ lại thì tôi đã tỉnh hẳn, châm thuốc hút.

Chúng tôi đã đến chân núi.

Mặt trời tấn công dữ dội, lốp xe nóng bỏng đến mức không ai dám mó vào mặt talông đen đủi và ngoằn ngoèo của chúng.

Chúng tôi bước ra ngoài cho đỡ mỏi.

Như thường lệ Gơrisa kiểm tra chiếc xe nhỏ nhắn của anh, bác Đác-khin chăm chú nhìn các khe dốc đỏ nhạt, đất đá lở nối nhau đổ xô xuống đồng cỏ trông như cái đuôi dài. Tia sáng mặt trời lướt qua mấy con dốc thoai thoải màu nâu hoặc màu đỏ son mỗi chổ lõm lại đầy bóng tối màu chàm, tất cả tạo thành một bức tranh chạm trổ rất kỳ lạ .

Tôi ngắm bức tranh màu sắc huyền hoặc ấy và nghĩ rằng có lẽ nó là nguồn gốc của hoa văn xanh đỏ in trên những tấm thảm len Mông cổ.

Bác Đác-khin chỉ cho chúng tôi thấy, đằng xa về phía tây có một thung lũng rộng cắt ngang dãy núi. Khi mọi người đã ngồi vào chỗ, anh lái xe liền quành sang phải. Mặt trời hun nóng mái và thùng xe, chiếc động cơ nóng quá bỗng đâm ra yếu đi. Cho nên mỗi khi phải trèo dốc, dù là dốc thoai thoải chúng tôi cũng phải đi với tốc độ số một.

Xe cứ rú đều như vậy, nên Gơrisa đâm mệt và có vẻ chán nản.

Nhiều lần tôi bắt gặp cặp mắt anh lộ vẻ oán trách nhưng tôi lờ đi vì tôi không muốn phí lượng nước trong vắt để làm nguội máy, mà cố chờ tới vũng đầm hay khúc suối nào đấy. Mong đợi cũng đáng công vì chẳng bao lâu về phái trái chúng tôi hiện ra cái dốc của một khe núi sâu thẳm, cỏ mọc dầy đặc.

Xe chúng tôi đi xuống đấy.

Xuống dốc được vài phút Gờrisa hớn hở hãm xe lại trên một bãi cỏ xanh. Cứ nhìn quang cảnh này, thế nào cũng có một con suối ở chân núi dốc thẳng kia.

Bóng núi trùm lên làm chúng tôi dễ chịu.

Chiếc áo quàng màu tím dịu nhạt ấy đã che cho chúng tôi cái nắng gay gắt của mặt trời, tên bạo chúa của sa mạc. Chúng tôi khoan khoái ăn bữa sáng. Khi ánh nắng mặt trời đã bớt, chúng tôi đặt mình làm một giấc ngủ ngày để lấy sức đi đêm.

Tôi ngủ một giấc dài và vừa mở mắt, đã nghe tiếng anh lái xe kêu lên:

-Quái! Cái gì thế này?

Anh phụ trách vô tuyến điện nhảy xuống đất che lấp mắt chúng tôi mất một lúc. Súng lăm lăm trong tay, anh chạy vút về phía một đụn cát lớn, trên một mô đất thấp và bằng phẳng ở giữa hai mô đất khác, một con vật đang chuyển động. Tuy nó không xa chúng tôi mấy nhưng anh lái xe và tôi cũng không nhìn rõ. Nó nhích từng đoạn ngắn, chật vật, lúc thì cuộn lại, lúc giãn mình ra. Có lúc nó lại lăn lông lốc xuống dốc.

- Quả là một con vật kì lạ! Cứ như là một khúc dồi lợn vậy - anh lái xe thì thào nói vào tai tôi như sợ chọc tức con vật bí hiểm kia.

Thực vậy, con vật hình như không có chân, không có mồm, cũng không có mắt; nói đúng ra thì có lẽ ở xa nên chúng tôi không thấy mắt nó.

Cái của ấy trông như một khúc dồi lợn dài độ một mét.

Hai đầu trùi lụi, thành ra không hiểu đâu là đầu, đâu là đuôi.

Con giun khổng lồ bí mật của sa mạc đi quằn quại trên vùng cát tím.

Những cử động vụng về và chậm chạp trông vừa gớm ghiếc vừa thảm hại.

Tuy không cừ lắm về động vật học, tôi cũng nhận được đây là một giống hoàn toàn mới, chưa từng ai biết đến.

Tôi đi du lịch đã nhiều, tôi đã gặp lắm con vật lạ trong giới động vật Mông cổ nhưng tôi chưa hề nghe ai nói đến những con giun ma quái này.

Gờ-ri-sa kêu lớn:

- Bẩn ơi là bẩn ! Tôi sẽ bắt sống nó, nhưng tôi phải đeo bao tay vào đã, tay không mà mó vào nó thì tởm lắm.

- Anh vớ lấy đôi bao tay bằng da và nhảy ra ngoài xe. Thấy anh phụ trách vô tuyến đứng trên đụn cát bên cạnh đang ngắm súng định bắn, Gờ-ri-sa kêu lên:

- Đừng bắn, đừng bắn. Phải bắt sống lấy nó. Mày có thấy là nó hầu như có cử động được đâu!

- Đồng ý! Nhưng có một con bạn nó cũng đến kia kìa-Misa vừa trả lời, vừa đặt súng cẩn thận lên đụn cát.

Một khúc dồi lợn nữa, giống như con trước, tuy có lớn hơn chút ít, đang lăn lông lốc trên dốc cát.

Đúng lúc ấy, bác Đác-khin ở trong xe kêu lên một tiếng lớn.

Có lẽ vì tiếng chân chạy thình thịch và những tiếng kêu của hai người bạn trẻ làm bác giật mình tỉnh dậy.

Bác ta ú ớ những tiếng gì không rõ, nghe như hai tiếng "ôôi-ôôi". Anh lái xe đã trèo lên đụn cát và đang cùng với anh phụ trách vô tuyến điện chạy xuống dốc. Hai người chạy nhanh lắm.

Các sự việc xảy ra rất nhanh.

Tôi chạy vội theo để tham gia vào để tham gia vào việc bắt sống những con vật dị thường kia. Nhưng tôi chưa đi được hai bước thì bác già Mông cổ đã tụt từ trên xe xuống và bám chặt lấy tôi. Mặt bác ta thường ngày bình tĩnh là thế mà bây giờ nhăn nhúm lại. Vì khiếp sợ. Bác kêu hổn hển ..

- Gọi các cậu ấy lại nhanh lên, chết đấy, rồi bác lại kêu lên the thé :- ôôi -ôôi

Trước cái thái độ kỳ cục ấy, tôi ngạc nhiên chứ không sợ hãi, tôi hô lớn gọi các bạn tôi quay về. Nhưng, hoặc vì không nghe thấy, hoặc cố tình lờ đi, họ cứ chạy miết về phía hai con vật lạ lùng. Tôi định nhảy xổ về phiá họ thì bác Đắckhin kéo tôi lại sau. Tôi vừa tìm cách thoát ra khỏi tay bác, vừa chú ý nhìn các con vật kia. Anh lái xe và cậu Mi- sa đã chạy đến gần hai con vật rồi, Misa đến trước anh lái xe một chút. Bỗng nhiên hai con giun cuộn tròn mình lại như xoắn ốc, màu vàng xám của chúng nó đổi sang màu lam xẫm.

Không kịp kêu, anh phụ trách vô tuyến ngã sấp mặt xuống đất và không cựa quậy nữa. Tôi nghe tiếng kêu của anh lái xe lúc ấy đã đuổi kịp người bạn nằm xoài cách hai con quái vật vài mét. Một giây sau, Gờrisa bỗng quặn người lại và ngã nghiêng. Người anh quay ngửa lên rồi lăn xuống chân đồi và biến mất .

Sau nổi khùng, tôi rút súng ra dọa lão. Nghe thấy tiếng tôi lên đạn lách cách, lão buông tay ra. Quỳ lên hai đầu gối, lão giơ hai tay về phía tôi. Từ lồng ngực lão bật ra mấy tiếng kêu khàn khàn: «Chế..! Chết ».

Tôi chạy vun vút lên đụn cát, súng lăm lăm trong tay.

Những con giun kì quái kia đã biến đâu mất.

Hai cái xác cứng đờ của hai người bạn tôi nằm thẳng trên cát còn lằn vệt đi vằn vèo của những con vật kinh khủng kia. Bác già Mông-cổ chạy lên theo tôi. Khi thấy hai con giun không còn đấy nữa, bác gieo mình xuống cạnh các anh bạn của chúng tôi. Lòng tôi quặn đau khi cúi nhìn thân thể nằm im của hai bạn, không còn một dấu hiệu nào của sự sống nữa. Anh phụ trách vô tuyến nằm ngửa đầu lên mắt hé mở, mặt bình tĩnh. Gờ-ri-sa, ngược lại, mặt nhăn nhúm như đột nhiên bị đau đớn dữ dội lắm. Cả hai trông đều xanh nhợt như người bị ngạt thở.

Mọi cố gắng của chúng tôi đều vô hiệu: nào là xoa bóp, nào là thở nhân tạo, bác Đác-khin lại còn cố chích máu cho các anh mà cũng chẳng ăn thua gì.

Chúng tôi thật là sửng sốt, kinh hoàng. Từ khi đi du lịch với nhau, chúng tôi đã thân nhau lắm. đối với tôi, đây là một tổn thất nặng nề. Hơn nữa, tôi thấy hối hận vô cùng; nhẽ ra tôi phải cản không để họ chạy liều lĩnh tới những con quái vật bí hiểm kia. Chán nản, thờ thẫn, tôi im lặng đưa mắt nhìn quanh, mong nhìn thấy hai con vật đáng nguyền rủa kia để gài vào bụng chúng những viên đạn súng lục của tôi. Bác già Đác-khin quì gối bên bãi cát, tấm tức khóc, và lúc đó tôi mới nghĩ đến việc nhờ có bác mà tôi thoát chết.

Chúng tôi khiêng hai cái xác vào chiếc xe ca-mi-ông nhỏ của chúng tôi, để họ lại trên bã sa mạc tím ngắt ghê gớm này thì thật chúng tôi không đành lòng. Và lúc đó, có lẽ, trong thâm tâm chúng tôi còn hy vọng họ chưa chết thật mà chỉ là bị một sức mạnh bí hiểm nào đánh cho choáng váng mà thôi.

Bác Đác-khin và tôi không nói với nhau một tiếng. Bác lo lắng nhìn tôi cho đến khi thấy tôi ngồi vào chỗ của Gờ-ri-sa và cho máy nổ. Lúc đạp chân ga cho xe chạy, tôi đưa mắt nhìn một lần cuối cùng cái nơi này, nó không khác gì các nơi xung quanh, nhưng ở đây tôi đã mất một nửa số người trong đội ngũ của chúng tôi. Lúc nãy, tôi vui vẻ hồn nhiên bao nhiêu thì bây giờ tôi càng cảm thấy cô độc bấy nhiêu... !

Chiếc xe bắt đầu chạy, tôi mở máy số một, các bánh răng cưa rít lên làm tôi không chịu nổi. Ngôi cùng trong buông lái với tôi, bác Đac-khin cứ chăm chú nhìn tôi.

Khi thấy tôi đủ tài lái xe, bác ta mới yên lòng.

Ngày hôm đó, chúng tôi không đi quá nơi cắm trại cũ và chúng tôi đã chôn những người đồng chí gần điểm thiên văn dưới một nấm mộ cao đắp bằng đá, vì hai cái xác đã bắt đầu rữa, chẳng còn hy vọng họ sống lại nữa rồi.

Tôi không khỏi rùng mình mỗi khi tôi nhớ lại cái đêm lặng lẽ trong dãy núi ảm đạm đó. Trời vừa tảng sáng, tôi đã phóng xe thật nhanh trên dam cuội đen.

Khi chúng tôi đã đi khá xa bãi sa mạc khủng khiếp Go-bi Giun-ga-ra, tôi mới cảm thấy bình tĩnh lại. Vùng Bô-lông kha-li gô-bi đầy cát rất khó đi đối với một người lái xe thiếu kinh nghiệm như tôi, tôi phải tập trung chú í vào việc này cho nên tôi tạm quên đi nỗi tang tóc.

Lúc dừng xe bên dãy núi rực lửa, tôi hết sức cám ơn bác già Mông-co.

Cảm động, bác cười nói với tôi:

- Lúc ấy tôi kêu: « Chết đấy ! », thế mà ông vẫn cứ chạy lên phía trước. Lúc ấy tôi nắm lấy ông vì tôi nghĩ nếu thủ trưởng mà chết thì mọi việc đều hỏng cả. Vậy mà suýt nữa ông bắn chết tôi!...

- Tôi định cứu các bạn tôi. Lúc ấy, tôi không nghĩ gì đến tôi cả.

Tôi đã hỏi bác dẫn đường và nhiều người khác hiểu rõ về nước Mông-cô và đây là tất cả lời giải thích tôi đã được nghe:

"Theo một huyền thoại rất cổ của xứ này: có một giống vật tên là « Ôn-goi Khôc-khôi » sinh sống trong tận cùng của sa mạc ảm đạm. Chính bác Bac-khin đã u ớ cái tên này, mà lúc đó tôi cứ tưởng là hai tiếng : « ooi - ôoi .

Con vật này chưa hề rơi vào tay các nhà thám hiểm, trước hết là vì nó sinh sống ở những vùng cát khô cằn, sau là vì nó làm cho người Mông-cổ rất khiếp sợ.

Mà khiếp sợ như vậy là đúng, như tôi đã có dịp chứng kiến : con On-goi Khôc-khôi có thể giết chết kẻ địch từ xa và làm chết ngay tức khắc. Tôi không thể nói được tại sao nó có cái ma lực bí hiểm ấy, có nhẽ nó phóng một luồng điện cực mạnh hoặc nó bắn ra một loại nọc độc.

Nhất định là khoa học sẽ có ngày biết rõ con vật đáng sợ này khi mà có những nhà thám hiểm may mắn hơn, sẽ bắt được nó và nghiên cứu nó kỹ càng hơn.

Bầy én mùa Xuân

Hoàng Công Danh

Ai đã từng sinh ra và lớn lên ở một làng quê hẳn sẽ không thể quên cái trò bẫy én vào mỗi độ xuân về. Ngày xưa tôi là một đứa bé mê chim chóc, mê đến nỗi bây chừ thèm mình là con chim én ấy, để được bay về cánh đồng quê hương và tình nguyện mắc vào một cái bẫy ai đó đã đặt chờ đợi.

Con nít làng tôi lớn lên như thế! Lớn lên từ cánh đồng mỗi mùa ban tặng một thứ sản vật, có cái cầm được có cái không, nhưng tất cả đều đáng yêu đáng nhớ. Mùa hạ cho thóc trảy vỏ bóc ra gạo trắng. Mùa thu toóc rạ đốt lên khói đồng xoáy vào mắt, cay! Mùa đông có lũ cá lội ngược nước chảy vào những chiếc nơm đặt ở cống. Còn mùa xuân thung thăng bầy én về, thung thăng lũ trẻ đi bẫy én... Dường như mùa xuân, cánh đồng dành riêng cho lũ con nít thì phải?

Làng tôi là khuông đất nhỏ, không sông không biển, được bao quanh bởi ba làng khác; chính vì thế mà ngày nhỏ tôi lọt giữa những ngọn lúa bờ đê và không định vị được phương hướng. Đến một hôm mặt trời chỉ cho tôi hướng đông hướng tây ứng với chân trời nó mọc và lặn. Mùa xuân năm ấy bầy chim én bay về giúp tôi biết được hướng bắc hướng nam theo chiều bay của chúng. Tôi cảm ơn loài chim mùa xuân này, én đã dạy cho tôi bài học về sự định hướng quê nhà, để đi xa tôi không đánh mất mình giữa bốn chiều quỹ đạo mông lung. Cũng nhờ cái hướng đàn chim đó mà tôi nhận ra làng mình như một cái bẫy dang tay đón lấy mùa xuân, ôm chặt những đứa con tha hương trở về, như tôi hôm nay.

Nhà tôi hướng ngõ về phương nam và quay lưng về phương bắc. Vào một ngày xuân thuở trước, tôi nghe sau lưng nhà những tiếng sột soạt vờn gió, chạy lui xem thì thấy mấy cánh én nhỏ về đậu trên bờ ruộng. Rồi chúng bay vút theo hướng nam sà xuống cánh đồng trước mặt nhà. Mấy tấm ruộng ngày giêng đang xanh thắm hệt một tấm áo choàng, bỗng nhiên được đơm thêm những chiếc cúc đen nhỏ. Và những chiếc cúc én ấy như muốn báo với người làng một mùa ấm êm sắp tới.

Én đầu mùa bạo dạn, chúng dừng lại rất lâu trên đồng làng, vỗ cánh lượn đi lượn lại trên đám lúa non. Lúc đầu một vài con, sau là từng đàn, cứ thế chúng kéo nhau về làm dạ hội chính giữa đồng làng. Mắt lũ trẻ rói lên theo nắng xuân để chuẩn bị chơi một trò mới mà chỉ độ này mới có.

Cái bẫy én rất đơn giản, đứa nào cũng có thể tự làm được. Lấy đoạn tre ngắn, một đầu chẻ ra rồi nêm vào giữa nét chẻ một hòn đá để tạo thành cái nạng chãng ba. Dùng sợi chỉ buộc qua một cái vòng thòng lọng. Mồi bẫy én là ruồi, ruồi đen nhỏ hoặc ruồi xanh càng tốt. Bắt ruồi xong thì cột vào giữa cái vòng dây chỉ thòng lọng đó. Nhớ là phải dùng chỉ mảnh để én không phát hiện ra. Cắm bẫy giữa đồng, để cái chặng mồi cao hơn ngọn lúa chừng một gang tay. Én về ngang đồng thường bay sà sà thấp ngang mặt ngọn lúa để tìm mồi, thế nên phải đặt bẫy sao cho đánh lừa được chúng. Giữa một cánh đồng mênh mang lúa xanh, tự dưng nổi lên chấm đen con ruồi mồi, lũ én tranh nhau bay đến đớp và cái dây thòng lọng thắt lại.

Hôm thằng Cưng làm bẫy, mấy đứa tôi ngồi quanh xem nó vót tre buộc chỉ, rồi về nhà làm theo. Con nít làng tôi chơi với nhau và học nhau là chính, tất cả những trò chơi hay kinh nghiệm làm đồng đều thế cả, một đứa biết thì tất cả biết, không giữ riêng mình làm gì.

Làm xong bẫy và nơm mồi ruồi, chúng tôi mỗi đứa cầm theo độ dăm cái bẫy ra đồng, chia nhau vùng ruộng và cắm bẫy. Cắm xong thì kéo nhau vào trong ngõ đứng chờ. Nắng rói mấy tia hồng hồng xuyên qua lớp sương mai, đàn chim én bay ngang qua, lượn đi lượn lại trên những chiếc bẫy. Khi một con én mắc vào chiếc bẫy nào đó là cả lũ con nít lại réo toáng lên cùng nhau chạy ra xem.

Chúng tôi lấy bẫy én làm trò để chơi cho vui là chính. Thế nên mỗi khi có én mắc bẫy thì gỡ ra, chuyền tay nhau mỗi đứa nắm giữ một lúc như cầm lấy cái may mắn đầu năm, xong rồi thả ra cho chúng bay đi. Cánh én được trả tự do vút thẳng lên bay lượn mấy vòng mừng rỡ. Cũng nhờ sự độ lượng nhân ái ấy mà năm nào vào mùa xuân én cũng về nhiều; bởi chúng quý con nít làng tôi, chúng biết lũ trẻ sẽ không nhẫn tâm giết hại nên chẳng ngại ngần lấy mình ra làm trò cùng vui.

Những thằng Cưng, thằng Hụ, thằng Tí, con Xíu và tôi ngày ấy giờ lớn cả rồi. Bầy én năm xưa chắc cũng ít về lại, có con đã chết và con nào còn sống chắc cũng già lắm. Nhưng mùa xuân thì cứ trẻ mãi, mỗi năm đúng hẹn lại về. Trong cái miên man suy tưởng ấy, ai như tôi đang khóc!

Có một cánh én vừa vút ra từ ngực tôi, vượt muôn ngàn dặm trở về làng. Và tôi nghe từ phía cánh đồng trước nhà mình những tiếng reo vui của lũ con nít.

Con chó nhứt của làng Xoài Đôi

Nguyễn Minh Sơn

Ông Bốn Kiềng, thợ săn nổi tiếng làng Xoài Đôi nhiều lần năn nỉ ba tôi đổi con chó Siêng lấy một con trâu đực. Ba dứt khoát không đổi. Thỉnh thoảng ba chỉ cho ông Bốn mượn để nhập đàn chó săn trong hội săn đầu năm vào ngày thọ tử. Dù nó không cùng đàn nhưng ông Bốn Kiềng xếp con chó Siêng là chó nhứt. Ở địa vị đó trong đàn, săn được mồi, nó nghiễm nhiên được chia một cái đùi sau.

Hội săn các làng quanh chân núi Cà Tang ngày xưa chuyên săn cọp, săn voi. Về sau chỉ còn săn heo rừng, mang, nai, bò tót... Hội mở vào ngày thọ tử trong thời gian từ mồng một tới mồng sáu tháng giêng, trước ngày khai hạ mồng bảy. Từ dưới làng, nghe tiếng chó sủa vòng quanh trên lưng chừng núi, tiếng xuỵt chó của thợ săn, mọi người biết chắc chắn sắp có thịt rừng. Tiếng ông Bốn Kiềng to, vang, ba làng còn nghe rõ:

- Ô... ô... ô... ô... Siêng! Đó hụi... đó hụi...

Năm mô cũng rứa, nghe cái giọng đó, tôi biết ngay hội săn đã gặp con mồi. Cái giọng sủa của con Siêng đầu đàn không lẫn với bất cứ con chó mô khác. Nhờ con Siêng, hằng năm ngày Tết, cả nhà đều được một đùi thịt rừng ăn lấy hên.

Tôi nhớ cái nghi thức cúng thịt và nghi lễ trả chó đã thành đạo của hội săn lâu đời của các làng. Thợ săn trói hai chân con mồi làm một, xỏ đòn vào giữa khiêng về sân thợ săn chính. Người ta cắt đầu con mồi, lấy mỗi bộ phận của bộ lòng mỗi thứ một chút, thêm một khúc đuôi và bốn móng chân, bỏ vô nồi to nấu cháo với huyết cùng đậu xanh.

Cháo chín, vớt đầu ra để lên mâm, cắm ngọn giáo bên cạnh rồi thắp hương cúng. Sau lễ cúng, cả đàn chó săn tập hợp thành vòng tròn. Con mô con nấy mình mẩy rách bươm, tứa máu, hai bên hông lép xẹp sau cuộc săn dài. Con Siêng đứng giữa đàn, chờ thợ chính múc một thau cháo có cái đầu con thú mới săn được để ra ở giữa. Nó lừng lững tiến tới, từ tốn ăn hết phần của nó. Một cái thau to hơn được bưng ra. Con Siêng đã no nê đứng vòng ngoài, tôn trọng sự công bằng cho từng con trong đàn.

Tôi nhớ con chó Kiếm háu ăn của ông Bốn Kiềng có lần hất mõm con Đớm. Ngay lập tức, con Siêng nhảy vào ngoạm gáy con Kiếm lôi ra khỏi "bữa tiệc". Mặt mày con Kiếm buồn thiu. Nó biết nó đã phạm luật, đành ngồi chồm hổm, hếch mõm lên chờ sự "xét lại" của con Siêng đầu đàn.

Con Siêng của tôi luôn là minh chủ. Nó đem lại miếng ăn, sự công bằng, trật tự, cũng như luôn đi đầu bảo vệ cả đàn khi bị kẻ thù tấn công. Phần thưởng dành cho nó theo nghi lễ của hội săn, suy cho cùng chẳng có chi quá đáng. Hồi mô cũng rứa, theo thứ tự, con chó nhứt ăn đầu tiên, sau đó mới tới cả đàn ăn sau theo thứ tự. Con người xếp ở cuối cùng.

Tôi luôn nhớ cách ông Bốn Kiềng dắt con Siêng trả lại cho nhà tôi. Ông đi trước, đội cái mủng đựng thịt rừng đậy lá chuối lên trên. Tới nhà, ông trịnh trọng chào hỏi ba tôi rồi bày một chai rượu với đĩa trầu cau để thưa chuyện. Chuyện là như ri: Thưa anh, con Siêng bữa ni có công lớn, tui được hội săn cử ra mang kỉnh anh một ký thịt nọng và riêng phần con Siêng một đùi sau.

Để trả lễ, ba sai má xắt ký thịt nọng xào ngay, mở chai rượu mới mời ông Bốn Kiềng cùng uống hết.

Hội săn có đạo của mình, thợ săn mô cũng làm theo đạo bằng niềm tin tuyệt đối được truyền đời.

***

Con Siêng lớn hơn tôi hai tuổi. Lông nó màu trắng, mắt màu vàng, bốn khoeo chân sau, đuôi dài cụp xuống. Dưới cặp mắt bậc thầy về chó săn sành sỏi của ông Bốn Kiềng, ngay từ nhỏ nó đã có phẩm chất một con chó nhứt.

Năm nó lên bốn, tôi lên hai, cả nhà tản cư vô Sơn Phúc. Má bỏ tôi một đầu nó một đầu thêm cục đá, gánh đi. Dưới đất ca-nông từ Đức Dục câu lên, trên đầu máy bay bà già quạt xè xè. Má gánh bọn tôi chạy men theo bờ khe Dô tới được nơi an toàn.

Chỗ tản cư sát núi Hòn Tàu, người đông, lúa gạo không có. Ngày ngày ba đội đạn đội bom về làng cũ gặt lúa gánh vô cho cả nhà ăn. Những năm nớ, gian nan không kể hết. Con Siêng gầy đến trơ cả xương sườn. Những con chó khác ở khu tản cư vẫn mập ú ù. Ba phát hiện ra chuyện đàn chó đêm đêm vẫn lùng sục kiếm ăn quanh những con chó chết vì bom, kể cả thịt người. Riêng một mình con Siêng thì không.

Từ chuyện đó, ba phân chia ra hai loại chó và cầy: chó không bao giờ ăn thịt đồng loại. Hiển nhiên, chó phải thông minh và cao sang hơn hẳn bọn cầy.

Ba có một nguyên tắc, khi vô rừng làm gỗ không hồi mô dắt chó theo. Ba nói, con chó thính giác nhạy gấp mười ngàn lần con người. Vô rừng chó hay lùng sục. Chỉ cần nghe hơi cọp, nó liền chạy về quấn vô chân chủ. Vô tình, nó đưa mãnh thú tới sát hại chủ nhân.

Nhưng với riêng con Siêng thì không. Nó được hưởng ngoại lệ. Chuyến đi rừng mô ba cũng dẫn nó theo. Ba xuống hố đẽo cây, nó chạy loanh quanh vờn những con chuột rừng, cà ngãng, chồn hôi... Ba đi tìm cây, nó ngồi lại tại chỗ canh bộ rìu và mo cau cơm... Ba đi về, nó luôn đi trước sủa vang, đánh hơi xua đuổi ngô công, rắn độc...

Những năm đói, mo cơm đi rừng của ba luôn được chia đôi với nó.

Tôi dắt trâu đi cày ở Hóc Kè, con Siêng tới nằm bên bờ ruộng. Chưa hồi mô tôi thấy nó tự đi săn cheo, săn chồn hay gà rừng, gà nước. Ba nói chó hay không bao giờ bắt thú nhỏ. Đúng thiệt! Hằng năm, hội săn của làng lần mô nó cũng đem về cho nhà tôi toàn thịt thú lớn. Nó là chó nhà tôi nhưng ông Bốn Kiềng vẫn coi trọng nó nhứt bầy.

Mùa cày Hóc Kè năm nớ đi qua. Ba đem cái bừa giấu trong bụi cây kè, phủ thêm lùm hà thủ ô rậm rịt. Buổi tối, tự dưng con Siêng bỏ ăn. Sáng hôm sau, miệng nó sưng to híp cả mắt. Ba hoảng hồn ôm cái đầu nó vạch miệng ra coi. Nó kêu rin rít rồi rên rỉ. Ba chắc lưỡi, nguy to, nó bị rắn hổ mang thổi nọc độc rồi, không cách chi chạy chữa.

Ba nghe hết người ni tới người kia chỉ, lấy lá bướm trắng giã nhỏ vắt nước đổ cho nó uống rồi đắp xác lên miệng. Không hết. Càng ngày mõm nó càng sưng to hơn. Nó bỏ ăn mười một ngày, nước vàng chảy ra hôi không chịu nổi.

Tôi nhớ miết cái đêm tháng mười năm nớ. Cả nhà đang ăn cơm, con Siêng chui dưới gầm bàn. Mùi hôi khủng khiếp bốc lên mâm cơm. Ba cúi xuống nạt nó một câu:

- Siêng! Đi ra ngoài đi! Mi có chết thì chết cho rồi...

Sáng hôm sau, cả nhà không còn thấy con Siêng nữa.

Sáng hôm sau, con chó Siêng khôn ngoan không chịu chết vì đạn bom hay thú dữ đã mãi mãi không còn hình bóng.

Nó đã ra đi biền biệt!

Suốt cả tháng trời, ba lội suốt ngày đi từ gò nọ sang gò kia cố tìm con Siêng.

Ba đi từ hố ruộng xa nhứt tới hố ruộng gần nhứt tìm con Siêng.

Ba đi từ làng Cà Tang Hạ lên làng Xoài Đôi tìm con Siêng...

Ông Bốn Kiềng biết chuyện cứ thở dài thườn thượt.

Đêm đêm, ba uống rượu say mèm rồi cứ lẩm bẩm một mình: Không biết mi sống chết ở đâu hả Siêng? Tau chỉ chửi có một câu, làm chi mi giận tau rồi bỏ đi hả?

Lời sám hối của ba cũng không làm cho đôi tai thính gấp mười ngàn lần con người của con Siêng nghe được.

Ba có uống hết mười một nồi rượu, say hai trăm mười bảy đêm, tự hỏi một ngàn hai trăm hăm mốt câu sám hối thì nó cũng không trở về.

Cuối cùng, tuyệt vọng, ba chỉ còn ước tìm được bộ xương của con Siêng đem về, để chôn cất đàng hoàng như chôn một con người!

***

Đúng tháng mười năm sau, tôi lại dắt trâu vô Hóc Kè cày ruộng. Ba lên chỗ lùm hà thủ ô dưới gốc kè lấy bừa. Trước mắt ba, bộ xương trắng hếu của con Siêng nằm phơi ngay ở chính giữa hai thanh bừa.

Ba bần thần vỗ đầu vỗ trán.

Ba bứt tóc bứt tai tự mắng nhiếc mình.

Ba đứng tần ngần như rứa hết cả buổi chiều. Lệ ba chảy dài trên đôi gò má cháy nắng...

***

Tôi nhớ miết con chó Siêng. Ngày đi tản cư, nó ở một đầu tôi một đầu. Lông nó màu trắng, mắt nó màu vàng, hai chân sau có bốn khoeo...

Nó dẫn đầu đàn chó săn băng lên giồng Hóc Khuấy bắt con heo độc hơn một tạ. Nó chạy như bay thót lên lưng con mồi ngoạm cổ...

Nó chỉ ăn cơm và thịt thú rừng săn được. Không hồi mô nó ăn thịt đồng loại.

Nó là con chó Siêng hạng nhứt của làng tôi.

Yên Thy viên, những ngày nhớ những câu chuyện cũ của ba

Kẻ vô tín ngưỡng

Jack London

Lần đầu tiên tôi gặp hắn trong một trận bão và mặc dầu cùng nhau trải qua trận bão đó trên một chiếc thuyền buồm, mãi tới lúc chiếc thuyền ấy bị vỡ tan ra từng mảnh vụn tôi mới chú ý tới hắn. Tất nhiên tôi có trông thấy hắn cùng với đoàn thủy thủ người Kanaka trên thuyền; nhưng lúc ấy tôi không lưu tâm tới hắn vì chiếc Petite Jeanne chở quá đông người. Ngoài số tám hay mười thủy thủ người Kanaka, viên thuyền trưởng người da trắng, viên phó thuyền trưởng và người quản lý hoá vật cùng sáu hành khách hạng nhất, chiếc Petite Jeanne còn lấy thêm tại Rangiroa chừng 85 hành khách chở trên boong - toàn dân bản xứ Paumotus và Tahiti: đàn ông, đàn bà, lẫn trẻ con. Người nào cũng mang theo một cái rương đồ nghề, đó là chưa kể những bọc mùng màn, chăn chiếu và quần áo của họ.

Mùa mò ngọc trai ở Paumotus đã hết, và mọi người đều trở về Tahiti. Sáu hành khách hạng nhất chúng tôi đều là dân buôn ngọc trai cả. Có hai người Mỹ, một người Trung Hoa trắng nhất tôi chưa từng gặp tên là Ah Choon, một người Đức, một người Do Thái Ba lan, và cả tôi là vừa chẵn nửa tá.

Mùa này thật là toàn hảo. Không một ai trong chúng tôi có điều chi phàn nàn, cả 85 hành khách trên boong cũng vậy. Ai ai cũng đều kiếm được khá và mọi người đều mong được về nghỉ ngơi thoả thích tại Papeete.

Tất nhiên chiếc Petite Jeanne đã chở quá nặng. Trọng tải của nó chỉ có 70 tấn, và nó không được phép chở tới một phần mười số người trên boong. Dưới hầm thuyền chất chứa đầy vỏ trai và dừa khô. Ngay trong phòng máy cũng nhét đầy vỏ trai. Thế mà thủy thủ vẫn còn có chỗ làm việc được, kể cũng là một phép lạ. Ở trên boong, không còn cách nào đi lại được. Mọi nguời chỉ qua lại bằng cách trèo men theo các lan can.

Ban đêm, họ dẫm lên cả những người nằm ngủ chồng chất lên nhau khắp boong tàu như một tấm thảm. Tôi xin thề là tôi nói đúng sự thực. Chao ôi, lại có cả gà, vịt, heo, và những túi khoai mỡ, còn chỗ nào thừa có thể gọi là trống thì lại treo đầy những xâu dừa và những buồng chuối. Ở hai bên sườn, khoảng giữa các dây cột buồm có nhiều sào gác ngang, vừa đủ thấp để chiếc cần mắc buồm xoay trở không bị vướng víu thôi. Và cứ mỗi sào lại có treo lủng lẳng ít nhất là 50 buồng chuối.

Quang cảnh hứa hẹn một cuộc hành trình vô trật tự, dù chỉ trong hai ba ngày nếu gió đông nam thổi đều. Nhưng nào gió có thuận gì đâu. Sau năm giờ đồng hồ đầu tiên, gió yếu dần phựt lên chừng chục bận rồi lặng hẳn. Thế rồi biển lặng suốt đêm đó và sang tới ngày hôm sau, mặt biển phẳng lặng như một tấm kính và phản chiếu ánh nắng chói loà, chỉ mới nghĩ đến hé mắt nhìn cũng đủ phát nhức đầu.

Sang ngày thứ nhì có một người chết - một dân bản xứ đảo Phục Sinh - một trong những thợ lặn giỏi nhất mùa đó trong vùng san hô. Người ấy mắc bệnh đậu mùa, đích thị vậy; mà đậu mùa làm sao lại có thể lan lên thuyền này được khi mà không có một trường hợp nào xảy ra ở Rangiroa lúc thuyền rời bến; đó quả là chuyện ngoài sức hiểu biết của tôi. Vậy mà nay bệnh đậu mùa đã phát sinh, đã có một người chết, và thêm ba người nữa đang nằm liệt.

Không có thể làm gì được. Chúng tôi không thể tách những người đau ốm ra một nơi riêng, mà cũng không thể chữa chạy cho họ. Chúng tôi chen chúc nhau như cá hộp. Không thể làm gì được hơn là cứ đợi thối lên rồi chết cả nút - nghĩa là chúng tôi đành bó tay ngay sau đêm có người chết đầu tiên. Đêm hôm ấy, viên phó thuyền trưởng, người quản lý hàng hoá, người Do Thái Ba Lan và bốn người thợ lặn bản xứ lẻn trốn bằng chiếc xuồng đánh cá voi lớn. Sau đó, chúng tôi không bao giờ nghe nói đến họ nữa. Đến sáng, vị thuyền trưởng vội ra lệnh đục thủng hết những chiếc xuồng còn lại, thế là chúng tôi đành phó mặc may rủi.

Hôm ấy có hai người chết, hôm sau có 3 người, rồi 8 người, cách xử trí của chúng tôi trong hoàn cảnh này kể cũng khá lạ kỳ. Những thổ dân chẳng hạn lo sợ quá thành ra lì. Vị thuyền trưởng người Pháp tên là Oudouse, trở nên nóng như lửa, hay la hét. Ông ta đã sinh ra cả chứng giật gân. Chẳng bao lâu, thân hình to lớn mập mạp, cân nặng ít ra tới 200 bảng (ngót 100 ký) của ông biến thành một khối mỡ run rẩy kỳ lạ.

Người Đức, hai người Mỹ và tôi liền mua hết số rượu uyt-ki trên thuyền và bảo nhau uống cho say. Lý luận của chúng tôi là cứ nốc đầy rượu như vậy thì tất cả mầm mống đậu mùa nào lây sang chúng tôi cũng sẽ bị đốt cháy thiêu thành than. Vậy mà chúng tôi thành công đấy; nhưng tôi cũng phải thú nhận rằng cả thuyền trưởng Oudouse lẫn Ah Choon, chẳng người nào bị nhiễm bệnh cả. Vị thuyền trưởng người Pháp không uống chút rượu nào, còn Ah Choon nhất định giới hạn là mỗi ngày chỉ uống một ly thôi.

Thời tiết khá đẹp. Mặt trời đi nghiêng về hướng Bắc, đang đứng bóng ngay trên đỉnh đầu chúng tôi. Gió không thổi đều, mà chỉ thổi từng cơn dữ dội trong khoảng từ năm phút tới nửa giờ, kéo theo một trận mưa trút nước xuống chúng tôi. Sau mỗi cơn như vậy, mặt trời lại hiện ra nóng bỏng làm cho boong tàu ướt đẫm lại bốc hơi ngùn ngụt.

Hơi đó thật chẳng thích thú chút nào cả. Đó là hơi của tử thần mang theo hàng triệu mầm bệnh. Chúng tôi luôn luôn uống thêm một ly mỗi khi trông thấy làn hơi đó bốc lên từ những thây người chết hay những người đang hấp hối, và thường khi chúng tôi lại uống thêm hai ba ly là khác và pha thật mạnh. Chúng tôi còn đặt một lệ nữa là uống thêm vài ly mỗi khi họ xô một thây ma xuống biển làm mồi cho đàn cá mập đang quẩn quanh thuyền.

Qua được một tuần như thế, chúng tôi hết rượu. Cũng vừa hay, vì nếu không, tôi đã chẳng sống đến nay. Phải tỉnh táo, một người mới có thể qua được các biến cố tiếp theo đó, và các bạn sẽ đồng ý với tôi khi tôi nói là chỉ có được hai người đã qua khỏi được cơn tai biến ấy. Người thứ hai là kẻ vô thần - ít ra tôi cũng đã được nghe thuyền trưởng Oudouse mệnh danh hắn như thế khi tôi mới chợt để ý đến hắn. Nhưng thôi, bây giờ tôi xin kể tiếp câu chuyện đó đã.

Hôm đó là ngày cuối tuần, rượu uyt-ki đã cạn mà bọn buôn ngọc trai chúng tôi đã tỉnh rượu. Tôi chợt nhìn lên chiếc phong vũ biểu treo ở lối đi vào ca bin. Thường thường ở Panmotus nó chỉ 29'90; và vẫn lên xuống giữa khoảng 20'85 và 30'00 hoặc 30'05. Nhưng hôm đó tôi thấy nó sụt xuống tới 29'062. Điều đó đủ làm kẻ buôn hạt trai say sưa nhất đã giết vì trùng đậu mùa bằng rượu uyt-ki phải tỉnh lại.

Tôi chỉ cho thuyền trưởng Oudouse coi, nhưng ông ta cho biết là vẫn theo dõi nó sụt xuống từ mấy giờ đồng hồ rồi. Chẳng có thể làm gì để đối phó với sự việc đó, nhưng thuyền trưởng đã cố gắng rất nhiều. Ông ta cho gỡ các cánh buồm nhẹ, hạ nó thấp hẳn xuống thành những vải che bão, căng giây cấp cứu, rồi đợi gió đến. Cái lỗi lầm của ông là việc đó ông đã thi hành sau khi gió nổi lên. Ông cho thuyền ngừng lại khi buồm hạ xuống ở phía trái, một biện pháp thích ứng khi thuyền ở phía dưới đường xích đạo nếu - đây mới là điều rắc rối - nếu ta không ở vào hướng đi trực tiếp của trận bão biển.

Nhưng chúng tôi lại đang ở ngay đúng hướng bão. Tôi biết thế vì nhận thấy gió thổi dữ dội đều đều và chiếc phong vũ biểu cứ sụt xuống đều đều. Tôi muốn bảo ông ta quay thuyền và cho nó chạy theo hướng gió chếch một phần tư hông thuyền về bên tả, cho tới khi phong vũ biểu không còn sụt xuống nữa mới dừng lại. Chúng tôi cãi nhau mãi làm ông ta nổi cơn thịnh nộ điên cuồng, nhưng ông vẫn không chịu nhượng bộ. Cái khổ hơn nữa là tôi không thể làm cho những tay buôn ngọc trai kia hưởng ứng lời đề nghị của tôi. Vì dù sao, tôi là cái gì mà biết về biển cả với cách đi biển rành hơn một viên thuyền trưởng đã tốt nghiệp đàng hoàng, Tôi biết đó là điều họ đang nghĩ trong óc họ.

Tất nhiên sóng biển dâng lên dữ dội theo trận cuồng phong, và tôi không tài nào quên được ba đợt sóng đầu tiên mà chiếc Petite Jeanne phải chịu đựng. Nó ngừng hẳn lại như các tàu bè khác khi phải đi ngược chiều gió, và đợt sóng đầu tiên dâng tràn hẳn lên thuyền. Những dây cấp cứu chỉ có ích cho người khỏe mạnh, nhưng lần này chúng cũng chẳng hiệu nghiệm mấy khi đàn bà, con nít, chuối dừa, heo và các hành lý cùng những người ốm, người đang hấp hối đã bị sóng đánh dạt đi, xô cả vào nhau thành một khối vừa rên la, vừa kêu khóc.

Đợt sóng thứ hai đánh gẫy hết những lan can tàu, quăng chúng nằm bừa bãi trên boong, và khi mạn đuôi tầu chìm xuống, mũi tàu chổng ngược lên trời thì tất cả đám người khốn nạn và hành lý của họ đều bị tuôn xuống phía lái. Thật là một trận bão người. Thôi thì người nằm ngược, kẻ nằm xuôi, người nằm nghiêng, lăn lộn hàng bao nhiêu vòng, xoắn vào nhau lúc nhúc, loi nhoi, và giãy giụa. Thỉnh thoảng có người nắm được cái cột hay vớ được sợi dây thừng, nhưng sức đầy của khối người phía sau quá mạnh làm họ phải tuột tay.

Tôi thấy một người nhào đầu ngay vào trụ cột dây buồm bên mạn. Đầu hắn dập ra như một quả trứng. Tôi biết chuyện gì đang sắp xẩy tới, nên vội nhảy lên nóc ca bin rồi leo lên cánh buồm lớn. Ah Choon và một người Mỹ định chạy theo tôi, nhưng tôi đã nhảy trước họ một bước. Người Mỹ liền bị lớp sóng người quét về phía đuôi và trôi ra khỏi tàu như một cọng rơm. Ah Choon vớ được một cái tay quay của bánh lái và nấp sau đó. Nhưng một người đàn bà to béo - ít ra mụ ta cũng phải cân nặng tới hai trăm năm mươi bảng (hơn trăm ký), lăn xuống đúng vào người hắn rồi ôm ghì cổ hắn. Hắn liền giơ tay kia bám chặt lấy người tài công, và đúng lúc đó, chiếc Petite Jeanne chim nghiêng về bên hữu.

Cái khối người và nước biển lúc nãy bị xô dồn xuống theo lối đi bên tả giữa chiếc ca bin và bao lơn tàu đột nhiên lại đổ tràn về bên hữu mạn. Cả mụ đàn bà to béo, Ah Choon, và người tài công đều bị trôi tuột xuống biển; và tôi xin thề là tôi trông thấy Ah Choon nhe răng cười, nhìn tôi với vẻ chịu đựng của một triết gia khi hắn lọt qua bao lơn và lăn tủm xuống nước.

Đợt sóng thứ ba - đợt lớn nhất - lại không gây nhiều thiệt hại. Lúc nó ập đến, hầu hết mọi người đã chuẩn bị đề phòng rồi. Trên boong còn khoảng độ mươi, mười hai người xấu số, đang thở rốc, nửa bị ngộp nước, nửa bất tỉnh, lăn lộn hoặc bò lết tìm chỗ trốn. Họ bị hắt qua mạn thuyền xuống biển cùng với những mảnh vỡ của hai chiếc xuồng còn sót lại. Những người buôn ngọc trai và tôi, trong thời gian giữa các đợt sóng, đã cố gắng đưa được chừng 15 người vừa đàn bà vừa con nít vào trong cabin và đóng ập cửa xuống. Nhưng rốt cuộc, họ cũng chẳng được yên.

Gió? Theo kinh nghiệm, tôi không thể tưởng tượng được gió lại có thể thổi mạnh đến thế. Không có bút nào tả xiết được. Bạn có thể nào tả được một cơn ác mộng không? Tả trận gió này cũng thế. Gió xé nát, và tước hết quần áo trên người chúng tôi. Tôi nói tước hết là rất đúng. Tôi không đòi hỏi các bạn phải tin tôi. Tôi chỉ kể lại những gì tôi đã được mục kích và cảm thấy thôi. Có những lúc chính tôi cũng không tin đó là gió nữa. Nhưng tôi đã trải qua những sự kiện đó, và thế cũng đủ. Người ta không thể chịu đựng được gió đó mà sống nổi. Đó là một cái gì kinh khủng và cái kinh khủng nhất là nó cứ tăng mạnh và càng tăng mạnh lên mãi.

Xin các bạn thử hình dung ra hàng triệu triệu tấn cát. Và các bạn lại tưởng tượng luồng cát ấy bay vù đi với tốc độ 90, 100, 120 hải lý một giờ, và còn hơn thế nữa. Rồi các bạn lại thử tưởng tượng chỗ cát ấy vô hình, không sờ thấy được, nhưng vẫn giữ nguyên cái trọng lượng và sức nặng của cát. May ra các bạn sẽ có thể có một ý niệm mơ hồ về trận gió ấy mạnh như thế nào.

Nhưng có lẽ vì gió đó với cát cũng chưa đúng. Xin các bạn hãy thử nghĩ đến bùn, thứ bùn vô hình, không sờ thấy được, nhưng nặng như bùn thật. Hơn thế nữa, bạn thử hình dung sự va chạm của hàng hà sa số bùn đặc như thế. Không, tôi không làm sao tả cho đúng được. Ngôn ngữ chỉ có thể đủ để diễn đạt những trạng thái sinh hoạt thông thường, nhưng không thể diễn đạt bất cứ một tình trạng nào của trận gió vĩ đại kinh khủng ấy. Có lẽ tốt hơn tôi nên cứ giữ ý kiến nguyên thủy là đừng cố tả nó ra làm gì.

Tôi chỉ nói thế này cũng đủ: biển thoạt đầu dâng lên cao bây giờ bị gió đè bẹp xuống. Và hình như toàn thể đại dương đã bị trận cuồng phong hút lên và tung ra ngập đầy cả khoảng không gian bên trên, trước đó còn toàn là khí trời.

Tất nhiên, bao nhiêu buồm trên tàu chúng tôi bị cuốn đi mất từ lâu rồi. Nhưng thuyền trưởng Oudouse có mang theo trên chiếc Petite Jeanne một vật tôi chưa từng thấy bao giờ trên các thuyền buồm ở vùng Nam Hải: một cái neo. Đó là cái túi vải hình nón, có một đai sắt lớn căng miệng túi ra. Cái túi hay cái neo đó có buộc dây như một cái diều, và lúc thả xuống nước, nó hứng nước vào y như cái diều hứng gió trên không trung vậy, nhưng khác ở chỗ là cái neo nằm ngay dưới mặt nước theo hình thước thợ. Rồi một sợi dây dài buộc nó vào chiếc thuyền. Nhờ đó chiếc Petite Jeanne quay đầu thẳng về hướng gió, và đối diện với các luồng sóng to hay nhỏ.

Thực ra, tình hình đáng lẽ được khả quan hơn nếu chúng tôi không đi theo đúng hướng tiến của trận bão. Thật vậy, gió đã thổi bay cả buồm, làm đổ cả cột, long cả bánh lái, nhưng lẽ ra chúng tôi vẫn có thể thoát nạn nếu không nhắm ngay chính hướng mà trung tâm trận bão đang tiến tới. Chúng tôi gặp cảnh tuyệt lộ là vì thế. Tôi điếng người như bị tê liệt vì phải chịu đựng sức tàn phá quá mạnh của trận gió. Tôi cảm thấy sắp sửa phải hàng phục và sẵn sàng chịu chết lúc chính trung tâm trận bão giáng xuống chúng tôi, nhưng sức giáng này lại do một sự yên lặng tuyệt đối, sự yên lặng hình như báo trước một cảnh kinh khủng. Trời không một hơi gió. Ảnh hưởng của trạng thái này thật hãi hùng.

Xin các bạn nhớ là đã bao nhiêu tiếng đồng hồ qua chúng tôi phải vận dụng sức lực một cách kinh khủng để chống lại áp lực ghê hồn của trận gió. Thế rồi, cái áp lực ấy bỗng nhiên tan biến mất. Tôi nhớ lúc đó có cảm giác như người tôi sắp sửa nổ tung ra từng mảnh vụn mà bay ra tứ phía. Hình như mỗi nguyên tử cấu tạo nên thân hình tôi đang ra sức đẩy lui sự tràn lấn của một nguyên tử khác và sắp sửa phát tung trong không gian. Nhưng trạng thái đó chỉ lâu trong khoảng khắc, rồi sự Tàn Phá vồ lấy chúng tôi.

Giữa lúc trời không gió và áp lực tự nhiên biến mất, bỗng nhiên biển dâng lên. Nước trào lên, tung lên, phóng thẳng lên tận mây xanh. Xin các bạn nhớ là từ khắp bốn phương tám hướng, cùng những luồng gió phi thường đó thổi dồn về cái trung tâm yên lặng ấy. Kết quả là sóng biển nổi lên tứ tung, không có gió để trấn áp chúng nữa. Các đợt sóng vọt tung lên như những chiếc nút chai nhận chìm dưới đáy thùng nước rồi buông ra. Các đợt sóng nổi lên hỗn loạn, cuồn cuộn như điên cuồng, tung lên cao ít ra đến ngót ba chục thước, không thể còn gọi là sóng được nữa. Chưa ai từng được mục kích những cây nước cao như vậy.

Đó là những khối nước, những khối nước khổng lồ bị hắt tung lên, thế thôi. Hắt lên cao ngót ba chục thước! Không phải chỉ ba chục thước đâu! Có khi cao hơn thế, vượt quá cả những ngọn cột buồm. Chúng rít lên ầm ầm, như say, như điên, đổ xuống khắp mọi chỗ, và vào nhau đổ ụp lên nhau, hoặc tẽ ra và rơi xuống, như hàng ngàn thác nước cùng dội xuống một lúc. Ở trung tâm trận bão lúc đó, không còn ai tưởng tượng nổi đó là đại dương nữa. Trời, nước, là cả một sự đảo lộn hỗn lọan, một thứ biển ngục nổi cơn cuồng điên giận dữ.

Còn chiếc Petite Jeanne ra sao? Tôi không biết nữa. Về sau kẻ vô thần đó có bảo tôi là hắn cũng không biết nốt. Chiếc thuyền bị vỡ tan ra từng mảnh, xé ra từng miếng, nghiền nát ra như cám, chẻ nhỏ ra như củi nhóm bếp, tóm lại, nó hoàn toàn bị hủy diệt. Khi tỉnh lại, tôi thấy tôi trôi ở dưới nước, tay chân vẫn cố bơi mặc dầu tôi đã chết đuối tới hai phần ba rồi. Tôi không còn nhớ sao lại trôi tới đó được. Tôi chỉ còn nhớ trông thấy chiếc Petite Jeanne tung ra từng mảnh đúng lúc tôi bị ngất đi. Nhưng tôi vẫn còn sống và chẳng biết làm gì hơn là cố bơi, tuy chẳng có mấy hy vọng. Gió lại thổi lên, nhưng sóng đánh nhỏ hơn nhiều và điều hoà hơn, và tôi biết là tôi đã qua khỏi nơi trung tâm bão. May thay quanh đó không có cá mập. Trận bão đã đánh tan tác bầy cá háu đói vẫn vây quanh chiếc thuyền của tử thần và ăn no thịt người chết.

Lúc chiếc thuyền Petite Jeanne bị tan tành là vào khoảng giữa trưa, và cũng phải mất tới hai tiếng đồng hồ sau đó tôi mới vớ được một cái nắp hầm tàu. Lúc đó mưa đổ như trút, và cũng may mà trời khiến nắp hầm đó giạt lại gần tôi. Còn một mẩu dây bám vào, sợi dây thừng làm tay nắm, và tôi biết là ít nhất tôi sẽ cầm cự được một ngày nếu đoàn cá không trở lại. Ba tiếng đồng hồ sau, có lẽ lâu hơn thế, trong khi tôi bám chặt lấy cái nắp hầm, nhắm mắt lại để tập trung tinh thần vào công tác hít lấy đủ khí trời cho khỏi chết ngạt, và đồng thời cố tránh nuốt phải quá nhiều nước để không đến nổi phải chết đuối, bỗng hình như tôi nghe thấy có tiếng người. Mưa đã tạnh, sóng gió đã yên. Cách tôi không đầy sáu thước, có một cái nắp hầm tàu nữa đang trôi, có hai người bám vào nó. Đó là thuyền trưởng Oudouse và kẻ vô thần. Hai người đang tranh nhau tấm ván, hay ít ra thuyền trưởng cũng đang cố tranh lấy tấm ván ấy.

" Đồ mọi đen vô tín ngưỡng!" Tôi nghe thấy ông la lớn, và đồng thời trông thấy ông đạp cho tên Kanaka một cái.

Thuyền trưởng Oudouse mất hết quần áo, chỉ còn đôi giày, loại giày đế đinh nặng. Thật là một cái đạp tàn nhẫn vì nó trúng ngay mồm và cằm kẻ kia, làm y gần ngất lịm đi. Tôi đợi xem y trả miếng như thế nào, nhưng y lại chịu nhẫn nhục, bơi một cách tuyệt vọng ra chừng ba thước. Mỗi khi có đợt sóng nhỏ đưa y lại gần, viên thuyền trưởng, tay vẫn bám lấy tấm ván, lại dùng cả hai chân đạp y ra. Và cứ mỗi cái đạp ông lại gọi hắn là đồ mọi đen vô thần.

"Cứ cho tao hai xu thôi, tao cũng bơi tới dìm chết mày, đồ da trắng man rợ!" Tôi réo lên như vậy.

Lý do độc nhứt của tôi không bơi tới gần hắn vì tôi mệt quá. Nguyên nghĩ đến sự cố bơi lại gần chỗ hai người đó cũng đủ làm tôi nôn mửa rồi. Vì vậy tôi mới gọi tên Kanaka lại phía tôi, và chia sẻ tấm ván với hắn. Hắn xưng tên là Otoo, sanh quản ở Borabora, hòn đảo xa nhất về hướng tây trong quần đảo Société. Về sau hắn cho tôi biết là chính hắn đã vớ được tấm nắp hầm ấy trước tiên, rồi hắn mới gặp thuyền trưởng Oudouse. Hắn đã cho ông ta bám vào với hắn, rồi sau lại bị ông ta đạp đuổi hắn ra.

Otoo và tôi gặp nhau trong trường hợp đó. Hắn không phải là một tay hiếu chiến. Trông hắn hiền lành và rất đáng mến, mặc dầu hắn cao tới gần hai thước và gân guốc như một kẻ giác đấu. Hắn không phải là một tay thích sinh sự, nhưng cũng không phải là một thằng hèn. Hắn rất can đảm, và trong những năm sau này, tôi thấy hắn từng có những cử chỉ liều lĩnh mà chính tôi không hề bao giờ dám mơ tưởng tới. Tôi muốn nói là giả sử hắn không là một kẻ hiếu chiến và hắn luôn luôn tránh sinh sự. thì hắn lại không hề bao giờ trốn tránh nếu có gặp gian nguy. Và một khi hắn đã nhập cuộc thì "Liệu Hồn", như hắn vẫn hô mỗi khi ra tay. Tôi không tài nào quên được câu chuyện xảy ra giữa hắn và tên Bill King trên đảo Samora thuộc Đức. Bill King vẫn thường được tôn làm quán quân về hạng "nặng cân" trong Hải Quân Mỹ. Gã là một thứ súc vật được làm người, một con đười ươi thực sự, một gã hắc búa có đôi cánh tay rất mau lẹ. Gã gây sự, đá Otoo hai cái và thoi hắn một chùy, trước khi Otoo cảm thấy cần phải chiến đấu. Cuộc đánh lộn có lẽ chỉ diễn ra trong bốn phút mà sau đó Bill King đã phải ôm hận vì bị gãy mất bốn xương sườn, một cánh tay và trẹo mất một xương bả vai. Otoo không biết chút gì về quyền anh, hắn chỉ đấm đá lung tung, vậy mà dường như anh chàng Bill King cũng phải mất toi ba tháng điều trị mấy miếng đòn gã được ăn buổi chiều hôm đó ở bờ biển Apia.

Nhưng tôi kể chuyện nhanh quá rồi. Chúng tôi chia cho nhau cái nắp ấy, cứ lần lượt kẻ này nằm lên nghỉ ngơi thì người kia lại xuống nước ngập tới cổ, tay bíu vào tấm ván. Liền trong hai ngày hai đêm, thay phiên nhau, người này trên ván thì người kia dưới nước, chúng tôi trôi dạt trên đại dương. Cuối cùng, tôi hầu như luôn luôn mê sảng và cũng nhiều lần tôi nghe thấy Otoo mê sảng nói lắp bắp bằng thổ ngữ của hắn. Vì chúng tôi luôn dìm mình dưới nước nên không bị chết khát, mặc dầu nước biển và ánh mặt trời làm cho da thịt chúng tôi vừa đỏ rực vừa cháy nắng vừa bạc phếch vì muối đọng trông kỳ quặc không thể tưởng tượng được.

Sau cùng Otoo đã cứu sống tôi, vì lúc tôi tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên bãi biển cách nước chừng 6,7 thước, được hai cái lá dừa phủ lên người để che nắng. Ngoài Otoo ra còn có ai khác để kéo tôi lên đây và lấy lá che cho tôi? Hắn đang nằm bên cạnh tôi. Tôi lại mê thiếp đi, khi tỉnh lại thấy trời về đêm đầy sao và mát mẻ. Otoo đang dốc nước dừa đổ lên miệng tôi.

Chỉ có chúng tôi là những người trên chiếc Petite Jeanne còn sống sót. Thuyền trưởng Oudouse chắc đã chết vì mệt lả, vì nhiều ngày sau, cái nắp hầm tàu của ông ta trôi dạt vào bờ biển mà tôi không thấy ông ta. Otoo và tôi sống trên đảo với thổ dân được một tuần rồi được một chiến hạm Pháp đến cứu đưa về Tahiti. Tuy nhiên trong thời gian đó, chúng tôi có làm lễ kết nghĩa trao đổi tên họ với nhau thân hơn ruột thịt. Sáng kiến đó của tôi, và Otoo đã vô cùng hoan hỉ khi nghe tôi để nghị.

"Tốt lắm" hắn nói bằng tiếng Tahiti, "vì chúng ta từng trải qua hai ngày với nhau trong tay Tử Thần rồi"

"Nhưng Tử Thần đã run tay!" Tôi mỉm cười.

"Thưa thầy, thầy đã có một cử chỉ cao thượng" hắn trả lời, "và Tử Thần đã không nỡ ra tay"

"Tại sao anh lại gọi tôi là thầy?" Tôi tỏ vẻ phật lòng và hỏi hắn. "Chúng ta đã làm lễ kết nghĩa trao đổi tên họ với nhau. Với anh, tôi là Otoo của anh, và với tôi, anh là Charley của tôi rồi. Giữa anh và tôi cho đến muôn đời, anh sẽ là Charley và tôi sẽ là Otoo. Đó là theo tục lệ. Và khi chết, nếu trên Thiên Đường chúng ta còn được gặp nhau thì với tôi, anh vẫn còn là Charley và với anh, tôi vẫn là Otoo của anh".

"Thưa thầy, vâng" hắn trả lời, đôi mắt long lanh đầy vẻ hoan hỉ.

"Đấy, anh lại thề rồi." Tôi gắt.

"Miệng tôi nói thì có nghĩa lý gì" hắn bào chữa. "Đó chỉ là miệng tôi nói, nhưng óc tôi vẫn luôn nghĩ đến Otoo. Mỗi khi tôi nghĩ đến tôi, tôi lại nghĩ đến thầy, Mỗi khi người ta gọi tên tôi, tôi lại nghĩ đến thầy. Và sau này, mãi mãi, dù ở trên trời cao, dù trên các vi tinh đẩu, tôi vẫn luôn nhớ đến thầy là Otoo của tôi. Thầy nghe có được không?"

Tôi dấu một nụ cười và trả lời được.

Chúng tôi chia tay nhau ở Papeete. Tôi nghỉ tại bờ biển để hồi lại sức, còn hắn đáp một chiếc xuồng máy để về Borabora, sanh quán của hắn. Sáu tuần sau, hắn trở lại. Tôi ngạc nhiên vì hắn có kể cho tôi nghe về vợ hắn, và hắn bảo là lần này hắn trở về vui cảnh gia đình không đi biển nữa.

"Thầy đi đâu bây giờ?" hắn hỏi tôi ngay sau khi chào hỏi xong.

Tôi nhún vai. Thật là một câu hỏi hắc búa. "Tôi đi khắp chân trời, góc biển, đến khắp các hòn đảo trên mặt biển này." Tôi trả lời.

"Tôi sẽ đi với thầy." hắn thản nhiên nói, "Vợ tôi mất rồi."

Tôi không có anh, nhưng thấy anh em người ta, tôi không chắc cò người em nào được một người anh tốt với mình bằng Otoo đối với tôi. Hắn đối với tôi như một người anh, một người cha, một người mẹ vậy. Điều này tôi biết lắm, vì có hắn, tôi đã sống thành người ngay thẳng hơn, đức hạnh hơn. Tôi thường ít để ý đến người khác, nhưng đối với Otoo, tôi phải sống cho đúng mực. Vì hắn, tôi phải giữ gìn, không dám làm gì hại đến danh dự tôi cả. Hắn luyện tôi thành con người lý tưởng của hắn, điều hoà tính tình tôi bằng tình thương và lòng ngưỡng mộ của hắn. Có những lúc tôi đã đứng trên bờ vực thẳm và đã sa ngã nếu không có những ý nghĩ về hắn kìm hãm tôi lại. Sự hãnh diện của hắn về tôi như thâm nhập vào tôi cho đến khi ý nghĩ không làm điều gì có thể giảm mất cái hãnh diện của hắn trở thành một điều luật quan trọng trong cách xử thế của tôi.

Dĩ nhiên, tôi không thể biết ngay được hắn đã nghĩ gì về tôi. Hắn không bao giờ chỉ trích, không bao giờ khiển trách tôi cả, và dần dần tôi thông cảm rằng hắn quý trọng tôi, tôi mới bắt đầu hiểu sự phiền muộn mà tôi sẽ gây ra cho hắn nếu tôi làm điều gì hạ nhân phẩm tôi.

Chúng tôi sống với nhau trong 17 năm, và suốt 17 năm ấy, hắn ở bên cạnh tôi, săn sóc tôi từ giấc ngủ, chăm nom tôi những khi đau ốm hay bị thương tích, và lại còn đánh nhau đến nổi bị thương tích vì tôi nữa. Hắn trưng mộ phu lên đi cùng những chuyến tàu với tôi, và chúng tôi cùng ngao du giang hồ với nhau trên Thái Bình Dương, từ Hạ Uy Di xuống tới thành phố Sydney, từ eo biển Torres qua quần đảo Galapazos. Chúng tôi đáp những chuyến tàu chở dân phu da đen đi từ Nouvelle Hebrides đến quần đảo Line ở miền Tây Thái Bình Dương qua dãy Louisiades, New-Britain, New Ireland và New Hanover. Chúng tôi bị ba lần đắm tàu, giữa quần đảo Gilbert, trong vùng Santa Cruz và vùng quần đảo Fijis, và tới chỗ nào thấy kiếm tiền được là hắn lại mua bán ngọc trai, vỏ trai, dừa, hải sản, vỏ đồi mồi, những bộ phận của tàu đắm trôi dạt vào bờ.

Tôi bắt đầu tu tỉnh ngay tại Papeete, sau khi hắn tuyên bố sẽ theo tôi đi khắp chân trời góc biển, đến các quần đảo ở giữa đại dương. Hỏi đó tại Papeete có một hội quán, và thợ mò ngọc trai, lái buôn, những thuyền trưởng và cả bọn giang hồ lưu manh ở Nam Hải thường về tụ lập. Mọi người cờ bạc ăn thua to, rượu chè say sưa bí tỉ và tôi e rằng tôi thường ra về khá trễ lúc những người đàng hoàng tử tế đáng lý về đã lâu rồi. Nhưng mỗi khi tôi rời hội quán là đã có Otoo chực sẵn đó để đưa tôi về nhà yên ổn

Thoạt đầu tôi còn cười, rồi tôi gắt với hắn. Sau tôi nói thẳng với hắn là tôi không cần vú em. Sau đó mỗi khi ra về, tôi không thấy hắn đâu nữa. Rồi tình cờ chừng một tuần lễ sau đó, tôi khám phá ra là hắn vẫn đón tôi về, nhưng âm thầm đứng ở bên kia đường, trong bóng tối của những cây xoài, để canh chừng tôi. Tôi phải làm sao bây giờ? Tôi biết tôi đã làm sao.

Tôi bắt đầu đi về có chừng mực hơn. Vào những đêm mưa gió, giữa cái vui tưng bừng sôi nổi, tôi vẫn cứ nghĩ đến Otoo đang buồn rầu đứng canh chừng tôi, dưới bóng cây xoài. Thật quả hắn đã làm tôi trở thành một người khá. Nhưng chính hắn thì lại không có đạo nghĩa gì cả. Và hắn chẳng biết chút gì về đạo đức thông thường của Thiên Chúa Giáo. Tất cả dân Borabora đều theo đạo Thiên Chúa, nhưng hắn lại là kẻ tà giáo, kẻ vô tín ngưỡng độc nhất trên đảo, một người hết sức duy vật, cho rằng chết là hết. Hắn chỉ tin ở sự đối đãi, ăn ở ngay thẳng với mọi người. Theo hắn những việc tầm thường ở đời cũng quan hệ như một hành động sát nhân, và tôi tin rằng hắn sẽ kính nể một kẻ sát nhân hơn một kẻ có những cử chỉ ti tiện bẩn thỉu.

Còn riêng đối với tôi, hắn phản đối mọi hành động có hại cho tôi. Đánh bạc không sao, Chính hắn đánh bạc rất dữ. Nhưng hắn giải thích là thức khuya có hại cho sức khỏe sau này. Hắn đã thấy có những kẻ vì không giữ mình nên đã chết vì bệnh sốt. Hắn không phải người phản đối tứ dổ tường, và hắn cũng nhấm nháp luôn mỗi khi phải làm việc ướt át trên tàu. Đàng khác, hắn tin vào nguyên tắc điều độ trong việc rượu chè. Hắn đã từng thấy nhiều người chết hay sa đọa vì rượu trắng hoặc uýt ki.

Otoo luôn luôn nghỉ đến lợi ích của tôi. Hắn đi trước các ý tưởng của tôi, cân nhắc, suy tính các chương trình làm việc của tôi và còn lưu tâm đến hơn tôi nữa. Thoạt tiên, khi tôi chưa biết là hắn rất lưu tâm các công việc của tôi, hắn còn phải đoán các ý định của tôi. Ví dụ như lúc ở Papeete, khi tôi dự định công ty với một tên đồng hương gian ngoan trong vụ săn kỳ đà chẳng hạn. Tôi không biết y là một tên gian manh. Cũng chằng một người da trắng nào biết cả. Otoo cũng không. Nhưng hắn thấy chúng tôi quá thân nhau, nên mới tìm hiểu kẻ kia dùm tôi, không cần đợi tôi yêu cầu. Những thủy thủ thổ dân từ khắp bốn phương đổ về Tahiti, và Otoo trà trộn với họ tìm được đủ mọi bằng cớ chứng minh mối hoài nghi của mình. Những đìều người ta kể về tên Randolph Waters đó thật là quái gở. Tôi không thể tin được khi Otoo mới kể cho tôi nghe, nhưng khi tôi hỏi vặn tên Waters, thì gã im thin thít, không hé răng đáp nửa lời và lên ngay chuyến tàu đầu tiên bỏ về Auckland

Thú thực, thoạt tiên, tôi không thể không bực mình vì Otoo cứ xen vào công việc của tôi. Nhưng tôi biết là hắn hoàn toàn vô tư, và sau đó tôi phải công nhận hắn khôn ngoan và kín đáo lắm. Luôn luôn hắn để ý tìm cho tôi những cơ hội tốt, mà hắn lại có cặp mắt tinh đời, nhìn xa thấy rộng. Sau đó, hắn trở thành cố vấn của tôi, cho tới khi hắn biết tỏ tường công việc của tôi hơn chính cả tôi nữa. Quả thật hắn đã để tâm đến quyền lợi của tôi hơn chính tôi. Tôi có tính hoang đàng cẩu thả của tuổi trẻ, vì tôi thích lãng mạn hơn tiền, và thích phiêu lưu mạo hiểm hơn sống cảnh giường êm nệm ấm. Bởi vậy có người lo lắng cho cũng là điều hay. Bây giờ tôi mới biết rằng nếu hồi ấy không có Otoo, tôi chẳng còn ở đây hôm nay.

Tôi xin thuật lại một trong muôn vàn thí dụ. Xưa kia, tôi cũng có chút kinh nghiệm về việc buôn nô lệ da đen trước khi đi buôn ngọc trai ở Paumotus. Tôi và Otoo đang ở trên bờ Samôa - đang lúc chúng tôi không kiếm nổi một việc trên tàu nào cả - thì tôi may mắn được nhận làm người đi mộ phu da đen cho một chiếc thuyền hai buồm đi buôn hắc nô. Otoo đăng tên làm thủy thủ, và trong vòng 6 năm sau đó, luân chuyển trên các tàu, Otoo và tôi đã đặt gót hải hồ khắp vùng Mélanésie hoang dại. Otoo luôn luôn thu xếp để được điều khiển những tay chèo trên thuyền của tôi. Theo tục lệ tuyển lựa nhân công của chúng tôi, người phụ trách việc tuyển mộ được phái lên bờ để giao dịch. Chiếc xuồng hậu vệ thì phải sẵn sàng đợi cách bờ vài chục thước, còn xuồng chở người đi mộ cũng phải sẵn sàng chèo lái chực sẵn ngay trong bờ. Khi tôi buông tay lái xuống để lên bộ, mang theo các thứ hàng hoá để đổi chác, thì Otoo cũng thôi chèo, và chạy về phía sau xuồng, chỗ đặt sẵn khẩu súng Winchester phủ dưới tấm vải dày. Đoàn thủy thủ trên xuồng cũng được võ-trang bằng súng Snider bố trí dưới lằn mép vải căng dọc quanh mạn xuồng, chỗ có lỗ xỏ mài chèo. Trong khi tôi bận bàn cãi và thuyết phục bọn ăn thịt người để chúng đi làm ở các đồn điền tại Queensland, thì Otoo canh chừng cho tôi. Nhiều lần hắn khẽ gọi để báo tôi biết là bọn mọi có những hành động đáng nghi ngờ hay sắp ra tay làm điều gì hiểm độc. Thỉnh thoảng, chính khi phát súng bắn vội của hắn nổ rồi, tôi mới biết là có biến. Và khi tội chạy về xuồng, thì luôn luôn có hắn chia tay kéo tôi lên xuồng. Tôi nhớ có lần đi chiếc tàu Santa Anna, biến cố vừa xảy ra thì chiếc xuồng mắc cạn. Chiếc tàu lớn vội chạy tới yểm hộ chúng tôi, nhưng hàng mấy chục tên mọi có lẽ đã quét sạch chúng tôi trước khi đó, nếu không có Otoo kịp nhảy vút lên bờ, vục cả hai tay vào đống hàng hoá mà vứt tung ra tứ phía nào thuốc lá, rìu, hạt trai, dao và vải vóc.

Bọn mọi đen tóc quăn không cưỡng lại nổi sự thèm muốn. Trong khi chúng đổ xô lại để cướp hàng thì chúng tôi vội vã lên xuống và lẹ làng chuồn ra khỏi bờ hàng mấy chục thước. Bốn tiếng đồng hồ sau, ở chính bờ biển này, tôi lại mộ được ba chục tên hắc nô.

Câu chuyện đặc biệt nhất tôi còn nhớ là ở Malaita, hòn đảo man rợ nhất ở miền đông quần đảo Solomons. Thổ dân ở đây đặc biệt niềm nở, nên chúng tôi làm sao mà biết được rằng cả làng, từ hơn hai năm nay vẫn chung tiền để treo giải mua một cái đầu người da trắng? Bọn ăn xin đó toàn là bọn săn đầu người cả, và chúng đặc biệt đánh giá cao người da trắng. Tên nào lấy được một đầu người da trắng là lãnh trọn số tiền thưởng. Và như tôi đã nói, chúng tỏ ra rất niềm nở. Bữa đó, tôi lên bộ đi cách xa xuồng tới ngót trăm thước Otoo đã dặn dò tôi phải cẩn thận, và như thường lệ, hễ tôi không nghe lời hắn, y như là gặp chuyện rầy rà.

Đầu tiên một loạt giáo mác từ các lùm bụi phóng ra tua tủa về phía tôi. Ít ra cũng có hơn mười mũi găm vào tôi. Tôi bỏ chạy nhưng vấp phải một mũi giáo găm chặt vào bắp chân, và vì thế tôi ngã xoải ra. Bọn tóc xoăn liền hè nhau chạy đến bắt tôi, đứa nào cũng cầm rìu dài cán để chặt đầu tôi. Chúng ham lãnh tiền thưởng đến nổi xô cả vào nhau. Trong lúc lộn xộn ấy, tôi đã tránh được nhiều lưỡi rìu bổ xuống bằng cách lăn sang phải, sang trái trên bãi cát.

Rồi Otoo chạy tới - cái anh chàng đó tay không địch được trăm người. Hắn loay hoay thế nào mà đoạt ngay được một cái trùy nặng; những lúc đánh giáp lá cà, cây trùy lại là thứ võ khí lợi hại hơn cả súng trường. Hắn xông ngay vào giữa đám đông, làm cho chúng không thể dùng dao đâm được, mà sử dụng rìu lại càng khó nữa. Otoo chiến đấu để bảo vệ tôi, và hắn lồng lộn như một con thú dữ. Cách dùng cây trùy của hắn thật là tài tình. Đầu bọn kia cứ vỡ nát như trái cam chín mùi. Đến khi đánh tan bọn chúng, hắn vực tôi lên và cắm đầu chạy về xuồng, hắn mới bị vết thương đầu tiên. Khi về đến xuồng hắn đã bị đâm bốn mũi giáo, nhưng hắn lấy khẩu Winchester ra, và mỗi phát đạn là hạ được một tên. Rồi chúng tôi chèo xuồng về thuyền và được điều trị lành vết thương.

Chúng tôi ở với nhau được 17 năm. Hắn đã đào tạo tôi. Nếu không có hắn, chắc ngày nay, tôi hoặc đang quản đốc hàng hoá trên một tàu nào đó, hoặc vẫn đi mộ phu, hoặc đã chết từ lâu rồi cũng nên.

Một hôm, hắn bảo tôi "Anh cứ làm đến đâu là tiêu đến đó. Bây giờ anh dễ kiếm tiền lắm. Nhưng khi về già, anh tiêu hết tiền rồi, anh không thể đi kiếm được nữa đâu. Tôi biết lắm. Tôi đã quan sát lối sống của người da trắng. Dọc theo các bờ biển, có rất nhiều người già xưa kia đã có một thời thanh xuân kiếm ra tiền như anh bây giờ. Nay họ về già, tay trắng, nên phải ngồi chầu chực bọn trẻ như anh lên bờ để xin vài ly rượu."

"Người da đen làm nô lệ trong các đồn điền, lương bổng hàng năm có 20 mỹ-kim, mà phải làm việc cực nhọc. Còn bọn chủ nhân thì an nhàn; cưỡi ngựa đi trông coi phu làm việc mà lương hàng năm lại tới 1200 mỹ-kim. Tôi là một thủy thủ trên thuyền buồm, mỗi tháng được 15 đồng. Đấy là tôi thủy thủ hạng giỏi, và tôi làm việc cực nhọc. Còn thuyền trưởng có lều hai mái che khỏi nắng, uống rượu bia trong chai dài ngon lành. Chưa hề bao giờ tôi thấy ông ta cuốn một sợi dây thừng hay sờ tới cái mái chèo cả; vậy mà ông ta ăn những 150 đồng một tháng. Đấy vì tôi chỉ là thủy thủ còn ông ta thì lại là nhà hàng hải. Thầy à, tôi thiết tưởng thầy nên biết thêm về hàng hải thì hơn".

Otoo thúc giục tôi. Rồi hắn trở thành phụ tá của tôi trên chiếc thuyền buồm đầu tiên của tôi. Hắn còn hãnh diện hơn chính tôi về tài chỉ huy của tôi. Về sau, hắn lại nói:

"Thầy ạ, làm thuyền trưởng lương cao lắm, nhưng thuyển trưởng phải luôn bận rộn trông coi không được rảnh. Làm chủ thuyền lương cao hơn nữa, và chủ thuyền chỉ việc ngồi trên bờ với nhiều người hầu hạ mà thu tiền thôi."

"Đúng đầy, nhưng một chiếc thuyền buồm giá những 5000 đồng, đó là giá một chiếc cũ," tôi cãi lại. "Đợi đến già đời tôi mới để dành được số tiền đó."

"Người da trắng có cách kiếm tiền nhanh hơn." Hắn vừa nói, vừa chỉ tay về phía dãy dừa mọc dọc theo bờ biển.

Lúc đó chúng tôi đang ở giữa quần đảo Salomons, bận chất lên thuyền một lô hạt ngà ở dọc theo bờ biền phía đông đảo Guadalcanal.

Otoo bảo tôi:" Giải đất giữa vàm sông này và vàm sông kia rộng tới hai dậm, và chạy sâu vào nội địa. Bây giờ nó không có giá trị gì cả, nhưng biết đâu, đến sang năm hay sang năm nữa người ta lại chẳng trả giá cao mà mua. Chỗ này tàu buông neo rất tốt. Các tàu buôn lớn có thể vào gần được. Anh có thể tậu đất của người chủ cũ vào sâu tới 4 dậm với giá mười ngàn điếu xì gà, 10 chai rượu đế, một khẩu Snider, tất cả chỉ đáng trăm bạc. Rồi anh cầm lại cho người mối, và chỉ sang năm hay sang năm nữa, anh bán nó đi là có thể có một chiếc tàu chạy rồi".

Tôi làm theo lời hắn, và quả hắn tiên đoán rất đúng, tuy phải ba năm sau tôi mới bán được đất. Kế đó là vụ cánh đồng cỏ ở Guadalcanal, một cánh đồng cỏ rộng 20 ngàn mẫu, thuê của chính phủ trong 999 năm bằng một số tiền tượng trưng. Tôi thuê được vừa đúng 90 ngày thì nhượng lại cho một công ty để lấy một số tiền bằng nửa gia tài của người ta. Luôn luôn tôi nhờ có Otoo lo xa và biết nhìn thấy cơ hội cho tôi. Chính hắn đã có công trong vụ mua vớt chiếc tàu Doncaster, mua đấu giá lại được với giá 100 Anh kim, và tới lúc sửa chữa xong thì bán lại còn được lời đến 3000 đồng, sau khi đã trừ mọi chi phí. Hắn chỉ cho tôi tậu đồn điền ở Savaii và đi buôn dừa ở Upolu.

Chúng tôi không đi biển nhiều như xưa nữa. Tôi trở nên giàu có. Tôi lập gia đình, mức sống mỗi ngày lên cao, nhưng Otoo vẫn là Otoo của thuở xưa, ngày ngày quanh quẩn trong nhà hay ra nơi văn phòng, miệng phì phà ống điếu, mình mặc một chiếc áo may ô giá chừng một đồng, và vấn một cái chăn giá chừng bốn đồng.. Tôi không tài nào làm cho hắn tiêu tiền được cả. Không có cách nào để trả ơn hắn, ngoại trừ bằng tình thương mến, và đã có Trời chứng cho là chúng tôi thương yêu hắn đến mức nào. Lũ con của tôi tôn sùng hắn, và giả sử hắn được chiều chuộng quá mà hư hỏng đi được, thì vợ tôi đã làm hư hỏng hắn mất rồi.

Còn về lũ con tôi, hắn mới thực là người đã dạy cho chúng biết bước chân vào đời. Hắn bắt đầu bằng dạy chúng bước đi. Hắn thức sáng đêm khi chúng đau ốm. Khi chúng mới biết chập chững vài bước, hắn đã đem từng đứa một ra vũng dạy chúng bơi và chúng bơi giỏi như nhái. Hắn dạy bảo chúng biết rõ hơn tôi về thói quen của loài cá và cách thức bắt cá. Về rừng rú cũng vậy. Mới lên bảy tuổi, thằng Tom đã biết về rừng rú thạo hơn cả tôi. Lên sáu tuổi, con bé Mary đã biết đi trên Hòn Trượt mà không run, trong khi bao người lớn khỏe mạnh đành chịu thua. Rồi khi thằng Frank mới vừa 6 tuổi, nó đã biết lội xuống nước mò được những đồng tiền ở dưới sâu sáu thước

"Dân tôi ở trên đảo Borabora không ưa những người vô tín ngưỡng. Họ toàn theo đạo cả; mà tôi lại không ưa dân Borabora đi đạo" Một hôm Otoo đã bảo tôi như vậy, đó là bữa tôi muốn cho hắn phải tiêu tiền do chính công hắn làm ra: tôi đã cố thúc giục hắn phải lấy một trong bốn chiếc thuyền buồm của chúng tôi để về thăm quê hương một chuyến, một chuyến đi đặc biệt mà tôi mong sẽ phá kỷ lục về việc tiêu tiền xa xỉ.

Tôi gọi nó là thuyền buồm của chúng tôi, mặc dầu theo pháp lý, lúc đó nó là thuyền của tôi. Tôi đã phải thúc giục mãi, hắn mới chịu đứng ra công ty với tôi.

"Chúng ta đã hùn hạp với nhau kể từ ngày chiếc Petite Jeanne chìm rồi," Sau hắn nói "nhưng nếu tâm anh muốn thì được, chúng ta sẽ hùn với nhau trên pháp lý. Tôi không làm việc gì mà ăn xài lại nhiều đấy. Tôi ăn uống, hút rất nhiều, tốn lắm, anh cũng biết. Tôi không phải trả tiền chơi bi da vì tôi chơi trên bàn bi da của anh, nhưng vẫn tốn tiền. Câu cá ngoài ghềnh là thú vui của riêng kẻ giàu có. Tiền lưỡi câu và dây câu cũng tốn lắm. Vâng, chúng ta cần phải là những người hùn hạp với nhau trên pháp lý. Khi tôi cần tiền, tôi sẽ bảo viên quản lý đưa tiền."

Thế là chúng tôi làm giấy tờ. Một năm sau, tôi buộc lòng phải phàn nàn với hắn:

"Anh Charley này, anh thật là một kẻ lường gạt gian ngoan, một anh hà tiện, một con cua đồng khốn khổ nhé - Coi này phần của anh trong năm qua trong công ty chúng ta lên tới hàng ngàn đô la. Viên quản lý đưa cho tôi mảnh giấy này: trong năm qua anh chỉ mới lấy ra có 87 đồng 20 xu!"

" Vậy tôi còn được bao nhiêu?" "Hắn lo ngại hỏi tôi.

"Hàng ngàn đồng!" tôi đáp

Mặt hắn tươi lên, hắn nói:

"Tốt lắm! anh hãy bảo quản lý cứ làm kế toán cho đúng. Khi nào cần là tôi sẽ đòi, tôi sẽ không cho thiếu một xu nào đâu."

Giọng đe dọa, hắn nói tiếp:" Hễ thiếu là tôi cứ trừ vào lương lão quản lý!"

Về sau, tôi được biết là hắn đã lập chúc thư để tôi làm kẻ thừa kế duy nhất của hắn, và tờ chúc thư nằm trong tủ sắt của toà lãnh sự Hoa Kỳ.

Nhưng rồi chúng tôi cũng phải ly biệt, vì luật thiên nhiên đã định rằng có tụ phải có tan. Việc xảy ra ở quần đảo Salomons, nơi mọi công việc khó khăn nhất của chúng tôi đã được tiến hành từ những ngày sơ khởi lao khổ, và lần này chúng tôi vô tình lại tới thăm một lần nữa nhân dịp nghỉ hè, để kiểm soát lại đất đai của chúng tôi ở đảo Florida và để xem có thể kiếm được ngọc trai ở eo biển Mboli không. Chúng tôi neo thuyền ở Savu, lên bộ để kiếm ít đồ vật lạ hiếm có.

Biển Savu đầy cá mập. Tục lệ vứt người chết xuống biển của thổ dân ở đây càng làm loại cá này thích ở lẩn quẩn gần bờ. Tôi không may ngồi một chiếc xuồng của thổ dân, vừa nhỏ, vừa chở quá đông người, nên bị lật. Có bốn thổ dân và tôi bám vào xuồng. Chiếc thuyền của chúng tôi còn đậu cách xa một trăm thước. Tôi vừa lên tiếng hò gọi phái xuồng khác tới thì một thổ dân đang bám ở xuồng chợt thét lên một tiếng lớn. Hắn bám vào đuôi xuồng, và cả người hắn lẫn phần đuôi chiếc xuồng bị nhấn chìm xuống dưới nước nhiều lần. Rồi hắn buông tay ra và chìm lỉm: một chú cá mập vừa đớp hắn xong.

Ba thổ dân kia cố leo lên ngồi trên đáy chiếc xuồng còn nổi trên mặt nước. Tôi là hét và nguyền rủa rồi đấm cho tên bên cạnh tôi một cái, nhưng vô ích, chúng khiếp đảm mất rồi. Chiếc xuồng chỉ có thể chịu được một đứa, cả ba đứa leo lên làm nó lật nghiêng, hất cả ba đứa xuống nước lần nữa.

Tôi rời xuồng và cố bơi về thuyền, hy vọng sẽ gặp xuồng tới đón. Một tện thổ dân cố bơi theo tôi và chúng tôi lặng lẽ bơi bên nhau, thỉnh thoảng lại hụp mặt xuống nước nhìn xung quanh xem có cá mập không. Tiếng kêu của người còn ở lại chiếc xuồng báo cho chúng tôi biết là y vừa bị cá mập đớp. Tôi cố nhìn xuống nước và thấy một con to lớn bơi qua ngay bên dưới tôi. Nó dài tới 5 thước. Tôi nhìn thấy rõ mọi sự xảy ra, nó ngoạm một cái ngang người kẻ bơi cạnh tôi, và hắn vùng vẫy; đầu, vai, tay còn cứ ngoi mãi lên mặt nước, tiếng hắn kêu la thảm thiết. Hắn bị con cá cứ thế lôi đi hàng mấy chục thước rồi chìm mất.

Tôi bơi như điên, hy vọng đó là con cá mập cuối cùng chưa có mồi. Nhưng một con khác đã đến. Không biết có phải con này vừa đớp xong mấy tên thổ dân kia không, hay là nó vừa ăn no mồi ở đâu đến. Nó không vội vàng hấp tấp như những con kia. Lúc này tôi không còn bơi nhanh được nữa, vì phải cố gắng theo dõi nó và đề phòng. Nó tấn công lần thứ nhất. May thay cả hai tay tôi nắm được mũi nó, và mặc dầu sức quẫy của nó gần quất tôi nhào xuống bên dưới, tôi cũng đuổi được nó bơi ra xa tôi. Nó vùng ra xa rồi lại trở lại quanh tôi. Lần thứ nhì này, tôi lại thoát nạn nhờ ngón đòn như trước. Lần thứ ba nó hụt, mà tôi cũng hụt. Nó ngoi ngược lên trong khi hai tay tôi suýt nắm được mũi nó, và đa sườn nó ráp như giấy nhám làm trầy xước hẳn da cánh tay tôi, từ vai tới khuỷu (tôi mặc áo sơ mi ngắn tay).

Lúc đó tôi mệt quá và hết hy vọng rồi. Chiếc thuyền còn ở xa đến hơn 50 thước. Tôi lại hụp mặt xuống nước, đang đợi nó tấn công nữa thì chợt thấy một thân hình nâu nâu bơi qua. Đó là Otoo.

"Thầy hãy bơi nhanh về thuyền đi". Hắn nói và còn tiếp thêm như chuyện chỉ là một trò đùa:" Tôi hiểu cá mập lắm, anh em bà con với tôi đấy."

Tôi nghe lời hắn, từ từ bơi đi, trong khi hắn bơi quanh tôi, trong khoảng giữa tôi và con cá mập, ngăn không cho nó nhào đến, và khuyến khích tôi.

"Những móc sắt treo xuồng đã bị mang đi chỗ khác, họ đang sửa soạn dây trục rồi đấy." Một phút sau hắn giải thích cho tôi biết, rồi lặn xuống để ngăn một cuộc tấn công khác của con cá.

Lúc đó, chiếc thuyền còn cách tôi hơn mười thước và tôi đuối sức quá rồi. Tôi gần như không nhúc nhích được nữa. Trên thuyền quăng dây xuống, nhưng dây cứ bị hụt hoài. Con cá mập thấy không ai làm gì nổi nó, nên bạo dạn hơn. Nhiều lần nó xuýt đớp trúng tôi, nhưng lần nào cũng có Otoo cứu tôi thoát trong gang tấc. Lẽ dĩ nhiên, riêng hắn thì hắn có thể thoát đi lúc nào cũng được. Nhưng hắn đeo sát lấy tôi.

"Thôi Charley ơi, ở lại nhé, tôi chết mất thôi!" Tôi cố bảo hắn qua hơi thở hổn hển.

Tôi biết là cái chết đã đến, và chỉ chút xíu nữa là tôi buông tay để chìm nghỉm.

Nhưng Otoo cười với tôi, nói:

"Để tôi cho anh xem một miếng đòn mới. Tôi sẽ làm cho con cá này ốm đòn."

Hắn bơi về phía sau tôi, chỗ con cá đang lăm le nhào vào tôi.

"Thầy bơi sang bên trái một chút," hắn lại gọi tôi "có sợi dây ở đó, bên trái đó."

Tôi đổi chiều bơi và tung tay ra nắm đại. Lúc đó tôi chỉ còn hơi tỉnh. Khi tay tôi nắm được sợi dây, tôi nghe thấy trên thuyền kêu lớn. Tôi quay lại nhìn thì không thấy bóng Otoo đâu cả. Một lát sau, hắn mới ngoi lên, hai bàn tay hắn đã bị cụt lủn, máu me ở cổ tay phun ra.

"Otoo ơi!" hắn khẽ gọi. Tôi nhìn thấy trong khóe mắt của hắn một tia sáng yêu thương, giọng hắn run lên.

Tới lúc đó, và chỉ lúc đó, lúc chấm dứt bao năm gần gũi, hắn mới chịu gọi tôi bằng cái tên này.

"Otoo ơi! Vĩnh biệt nhé!" Hắn gọi tôi.

Rồi hắn chìm lỉm, và tôi được kéo lên thuyền, ngã ngất đi trong tay viên thuyền trưởng.

Thế là Otoo đã qua đời - Otoo, người đã cứu sống tôi, đã luyện cho tôi thành người, rồi đến phút cuối cùng lại cứu sống tôi lần nữa. Chúng tôi gặp nhau trong giây phút hiểm nghèo của một trận phong ba, và lìa nhau trong hàm răng của một con cá mập, sau mười bảy năm chung sống trong tình bạn, một tình bạn mà tôi dám quả quyết không bao giờ có thể có giữa hai người, một đen, một trắng! Nếu Thượng Đế từ trên ngôi chí tôn nhìn xuống mỗi sinh vật tử biệt, thì ít ra Otoo cũng được gọi về hầu nơi Thiên Đàng của người - Otoo, một kẻ vô thần ở Borabora.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro