Truyen ngan 3-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tầm nầy năm ngoái, lão Hoạch bẫy con rắn chúa bên cánh đồng phía nam rõ to bởi, ông thuộc làu tính cách của nó. Là một con rắn “đàn anh” khá chỉn chu, kín kẽ, luôn đề cao cái tôi của mình trên đồng loại, đi đâu nó cũng ngóc đầu lên, thè lưỡi ra bảo rằng “ta chỉ có 50 bạn thân thôi, tất cả số còn lại đều là rắn tầm thường, hạ lưu, dơ bẩn”. Biết ý nó thế, nên lão làm một con rắn mồi bằng đất sét, giống hệt rắn chúa chỉ khác là quẹt lên trán nó một vẹt lọ nồi đen thùi lùi rồi đặt vào bẫy, thế là “rắn chính chủ” hầm bà làng lao vào quát ngay “thằng nào mà láo thế, dám bôi nhọ Anh Cả mày hử”. Than ôi, nói chưa dứt câu thì bẫy đã sập, thế là nó bị bắt bởi cái bóng quá lớn của mình!

Nhưng khi lão Hoạch đặt rắn lên bàn cân mới phát hiện trọng lượng riêng của nó lên đến 5 lạng 3, mà nhà hàng lại đặt lão đúng 5 lạng trên mỗi con, thừa 0,3 lạng. Một lần nữa rắn chúa bị thịt do sự “thái quá” về chế độ ăn uống của mình, nhưng lão lại không muốn mang tiếng là kẻ sát sinh vốn nấp trong vẻ hiền lành nhân hậu của loài người nên sau khi thả rắn ra lão liền hô hoán nó bị nhiễm vi - rút. Thế là cả làng rủ nhau tìm diệt, mấy ngày sau xác rắn nằm phơi trên cánh đồng nam trắng hếu mà trước đó mỗi chiều nó thường cuộn mình tròn vo trên bờ mương nghe chung quanh mình lũ đàn em tung hô vạn tuế. Lão Hoạch đã lợi dụng được sức dân để diệt rắn thông qua công tác tuyên truyền khá hiệu quả.

 

Đó là câu chuyện của một năm về trước, còn hôm nay lão Hoạch ngồi nhìn con rắn chúa thứ 2 ở cánh đồng phía bắc đang quằn quại trong cái lồng sắt chắc cú của mình đến nao lòng bởi, trước đó không lâu nó rất oai phong lẫm liệt, khác với con rắn đàn anh bên cánh đồng nam là thâu tóm của nã, lương thực thực phẩm về tận hang ổ mình để tận hưởng, rắn đồng bắc có bao nhiêu ban phát bấy nhiêu, thậm chí lấy luôn của dự phòng trong hang mình ra cho đồng bọn song vẫn vui vẻ hỉ xả vì nội lực của nó rất yếu, là kẻ bất tài vô dụng nhưng lại thích làm đại ca, muốn trở thành chính nhân quân tử, lấy vật chất ra mua chuộc quyền lực. Vì thế lão chỉ cần bắt một con rắn cái làm mồi là nó sẵn sàng nhảy vào cứu nguy cho bạn gái. Và, con rắn chúa đồng bắc chết vì cái tội không biết mình là ai, vì thói háo danh vốn dĩ hành hạ loài người tự ngàn xưa. 

 

 

Sau đó lão Hoạch cẩn thận đặt rắn lên bàn cân, than ôi, nó chỉ đạt 4 lạng 7, thiếu 0 phẩy 3 lạng do quá trình nhịn miếng tiếp khách, nên lão phải thả và đương nhiên phải loại nó ra khỏi thế giới loài rắn vì không hiệu quả. Nó phải chết đi để thay vào đó loại rắn hữu dụng hơn, thực tế hơn như dầm rượu, nấu cao, bán cho nhà hàng làm món rắn hầm thuốc bắc, cháo rắn nấu đậu xanh, rắn chiên bơ, rắn xào lăn … và, cũng như năm ngoái, muốn tránh tiếng là người diệt loài bò sát góp phần huỷ hoại môi trường nên trước khi thả ra, lão bày mưu tung tin rằng nó là con “rắn vàng” ai bắt được sẽ trở thành tỉ phú. Thế là cả làng đua nhau lùng sục vây bắt, kết quả nó bị đập tan xác do quá trình giành ăn của loài người, âu cũng là cái giá phải trả cho loài vật khá nham hiểm nầy. 

 

Trên đường về nhà, một bầy rắn con chạy theo sau trả thù cho đàn anh, con cắn lai quần, con gặm quai dép, con chui vào túi áo, con nhảy lên cổ … miệng lí nhí chửi rủa, hăm doạ, mạt sát lão đủ điều. Lão nghe hết, biết hết vì lẻ lão đã ăn với rắn, ngủ cùng rắn, sống chết với rắn hằng mấy chục năm nay rồi. Có điều, lão không thèm phản ứng bởi cái lão cần ở chúng, lão muốn ở chúng là cân nặng, là trọng lượng riêng mỗi con đúng 5 lạng để bán cho hàng đặc sản rắn nam bộ nổi tiếng cơ. Nghĩ thế, lão nhẹ nhàng gỡ từng con đặt xuống cánh đồng cỏ xanh ngát, thỉ thả rằng “tao xin lỗi chúng mày, chúng mày hãy về đi đừng bám theo tao trả thù vô ích nữa, hãy ăn no ngủ kỉ vào cho chóng lớn, ít nhất mỗi con được 5 lạng, sau đó thì biết tay tao. Suy cho cùng chúng mày cũng chỉ là loài bò sát tội nghiệp, đáng thương!” 

Bất giác món đặc sản quen thuộc hiển hiện ra trước mắt lão đến phát thèm, đó là bắt một con rắn chừng 7 lạng đem ra làm thịt rồi chế món hầm sả với nguyên liệu sau đây: sả 6 cọng, củ sen 250gr, sửa đậu nành 1 xị, nấm thơm 100gr rau ăn kèm cải xanh, cải tần ô hoặc cải ngọt, gia vị để nêm đường phèn, bột ngọt, nước mắm, muối, 1 ít nước mắm tôm trong, tiêu xay, củ hành hay gốc hành lá, rau răm, lá chanh non hay ngò gai 1 ít, nước để nấu là nước dừa tươi hay nước súp hoặc nước lạnh. 

 

Cách làm một trong các loại rắn, kể cả rắn mối phải sơ chế sạch, rút ruột chứ không mổ phanh, vì rút ruột thịt mềm và giữ được độ ngọt, hương vị đặc trưng của loài rắn, xong để nguyên con cho vào soong nước dừa tươi dằn 1 ít muối sả độ 2 cọng, đập dập cắt khúc, đun nước dừa sôi luộc rắn chín độ 50-60% vớt ra chặt khúc dài độ 2 đốt tay. Nước dừa luộc rắn lúc nãy hòa thêm 1 ít nước dừa tươi , sả đập dập cắt khúc, gừng thái sợi, sả phi, củ sen gọt bỏ vỏ để nguyên củ luộc riêng trong soong nước có dằn 1 ít giấm muối , củ sen chín vớt ra, thái lát hơi dày, nấm rơm làm sạch ... tất cả cho vào soong nhỏ hay lẩu, đun sôi, cho thịt rắn vào, sữa đậu nành, nêm nếm vừa ăn, rải 1 ít rau răm hành gốc hay hành củ. Ăn nóng. Nước mắm sả tỏi ớt. Thực khách ăn món rắn hầm sả nầy một lần là nhớ suốt đời đó thôi.

 

 

Nhưng trước mắt, lão vừa đi vừa tính, cái đám rắn con này nếu lớn lên mỗi con nặng 5 lạng, 10 con bằng 5 ký, mỗi kí bán được 25.000đ, trừ hao hụt bình quân mỗi ngày lão bỏ túi khoản 200.000đ, vị chi mỗi tháng thu vào gần 6 triệu, xấp xỉ xuất lương cán bộ tầm tầm, ung dung ngồi rung đùi ăn xài bấy chấy, việc chi phải bỏ ra cả trăm triệu đồng chạy việc nhà nước, rồi suốt ngày ngồi cuối mặt xuống gầm bàn nghe thiên hạ chửi “đưa hối lộ” mà không dám hé nửa lời. Nhưng đấy là lão tự khôi hài lấy mình để thụ hưởng niềm vui chiến thắng loài rắn thế thôi, chứ thực ra đối với một nông dân nghèo rách mồng tơi như lão nửa chữ bẽ đôi nõ biết nói chi đến chuyện đi làm công chức. Gần trọn đời lão duy nhất đến trường học 1 lần, duy nhất viết vào vở 1 câu “thứ tư, ngày 3 tháng 2 năm 1930, môn lịch sử” nhưng lại đếch biết đó là ngày thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương, tiền thân của Đảng Cộng Sản Việt Nam bây giờ. Tếu thật! 

LÃO ĐƯỜNG

Vậy là lão Đường đã ra đi, xóm thợ này sẽ vĩnh viễn vắng bóng lão. Lão đi lần này, không còn như những lần trước, chỉ chừng dăm ba tháng là quay lại. Con người kể cũng lạ, mới đấy hồn nhiên nói cười, thoáng cái đã ra người thiên cổ. Lão đâu phải là người xóm thợ. Lão chỉ là người "thấy hay hay thì vào ở nhờ

 

", như lão vẫn thường nói. Vậy mà từ người già đến trẻ nhỏ ở trong xóm đều quý mến, thân thiết với lão, coi lão như người trong nhà, trong cửa. Lão đi vắng là nhớ, lâu ngày không thấy về là mong, là nhắc. Xóm thợ này là thế, người tứ xứ đến đất mỏ làm than đã nhiều đời. Sinh con đẻ cái ở bên bờ moong này, rồi lập nên thành quê, thành quán. Mọi người coi nhau như anh em, thôi thì "bán anh em xa,

 

mua láng giềng gần". Nghèo đấy nhưng không khinh người, trọng của. Cái thời còn thằng Tây, người xóm thợ đã thế rồi.

Quê lão Đường đâu tận vùng Hà Nam, Phủ Lý. Lão bảo:

57

 

đồng đất quê tôi xưa chiêm khê, mùa thối. Danh giá cũng lắm, mà xấu xa cũng nhiều. Làng tôi có tiếng về văn chương. Ngày trước cũng đã có dăm bẩy cụ đỗ đạt làm quan văn, được vua ban mũ cao áo dài. Danh giá là thế, nhưng đời nào cũng lại nẩy nòi ra mấy thằng đầu trộm đuôi cướp...

28

. Lão kể cho tôi nghe nhiều chuyện về quê lão và cả về cuộc đời lão. Thú thực, với cái thời gian dài hơn tám mươi năm lão sống trên thế gian thì có biết bao nhiêu là chuyện. Những lần ra đất mỏ làm ăn, lão đều ở nhờ trong xóm thợ này. Gặp ngày mưa gió dầm dề, không đi làm được là lão lại sang tôi. Được cái công việc của tôi, lắm lúc cũng dư dật thời gian, nên chẳng bao giờ tôi từ chối nghe lão dốc bầu tâm sự.

Mới đầu mùa đông mà đã mưa phùn gió bấc rét ngọt, rét ngào. Thấy tôi mở cửa, lão Đường đội mưa sang chơi. Sau tuần nước đầu, lão rít một hơi thuốc lào rồi phả khói lên trần. Lão nhìn tôi bằng đôi con mắt đờ đẫn vì say thuốc (lão vẫn thế, đã không hút thuốc thì thôi, chứ cứ rít khói thuốc vào là

 

lại say). Lão khoe:

- Tôi có hai vợ đấy bác ạ! - Lão cười móm mém cái mồm, trông đến tội. Tôi tin là lão nói thật. - Bà cả bị Tây bắn chết trong trận càn, năm năm mươi. Khi ấy tôi đóng quân ở Ninh Bình. Nhận được tin, đâm sấp dập ngửa bổ về. Người làng đã đào sâu chôn chặt rồi, nhìn cánh đồng trắng băng những nước mà ngao ngán cả người. Quay lại, thấy sáu đứa con lau nhau đứng xếp hàng bằng chằn chặn. Mặt đứa nào cũng ngơ ngác như gà con phải quạ, tôi đau thắt cả tim. Tôi gạt nước mắt ra đi, để các con lại cho ông bà nội ngoại nuôi. Cái ngày ấy nó thế, tổ quốc trên hết mà. Cảnh nghèo, thôi thì các cụ trông vào củ khoai, củ ráy nuôi lũ trẻ nên người. Năm năm tư, giải phóng Điện Biên, tôi về làng. Thằng cả Bống đã cao lộc ngộc, nhưng gầy như cái cái hình nhân. Con tí Bang có phổng phao ra đôi chút. Còn mấy đứa em thì dặt dẹo như những cái giãi khoai. Nhà vắng bàn tay đàn bà, sao mà nó cơ cực đến vậy hả bác? Tôi phải vừa làm bố, vừa làm mẹ. Thế rồi bạn bè manh mối, tôi lấy bà hai. Thôi thì cũng có cái bóng, cái vía đàn bà trong nhà, mấy lại cũng có người để lũ trẻ gọi là mẹ cho đỡ tủi.

- Cụ làm thế là đúng quá! - tôi xen ngang.

Chậm rãi uống xong chén trà, lão tiếp:

- Những tưởng hết giặc, vợ chồng, cha con yên chí cầy sâu, cuốc bẫm làm ăn. Ai dè năm sáu lăm, tôi tái ngũ vào Nam chiến đấu, để vợ ở lại hậu phương với mười hai đứa con nhỏ. Thằng cả học xong lớp mười, được đi học bên Liên Xô từ năm trước. Cái tí Bang đang học lớp chín. Chả dấu gì bác, lấy bà hai tôi có thêm bảy đứa nữa. Nói bác đừng cười, ngày ấy đâu có biết kế hoạch, kế họt gì. Bà ấy được cái mắn đẻ như gà, đi qua đầu giường, khẽ chạm vào gấu quần cũng chửa, cũng đẻ. May mà tôi có cái nghề gia truyền là làm thợ rèn. Một thời tưởng bỏ nghề vì tiến lên hợp tác xã, công nghiệp hoá nông nghiệp sẽ không cần đến cái cuốc, cái liềm. Ấy vậy mà cái cuốc, cái liềm vẫn còn được trọng dụng. Vợ chồng, cha con chúng tôi tối đến là đỏ lửa bễ, kiếm thêm đồng ra đồng vào cho các cháu ăn học. Tôi đi rồi, những tưởng mẹ con bà ấy ở nhà đập bễ, phá lò. - lão Đường cười, mắt hấp háy nhìn tôi - Bác biết không? ai ngờ bà ấy sắn váy quai cồng, đập búa chan chát. Con út chưa đầy một tuổi, béo tròn như hột mít. Nó ngồi xem mẹ trổ răng liềm, nhưng tay cứ tóm vú mẹ kéo quặt ra bên, mút lấy mút để. Cũng may mà bà ấy vú mướp, chứ vú bánh dầy thì đi đứt. - lão cười - Giải phóng miền Nam tôi trở về, thầm cảm ơn vợ một tay chèo chống với cái lò, cái bễ, nuôi các con khôn lớn. Những đứa lớn đã thành đạt, có công ăn việc làm, có học vị hẳn hoi. Thằng cả Bống đã là phó tiến sĩ, nó không còn mang cái tên tôi đặt cho nữa, tên nó 

là tiến sĩ Đạt Bổng rồi. Cái tí Bang tốt nghiệp đại học nông nghệp, làm ở viện nghiên cứu giống. Nó cũng có cái tên mới - kỹ sư Hải Bằng.

Thằng thứ ba theo đuổi binh nghiệp, đeo lon trung tá. Bác có biết không? bao nhiêu năm tôi xông pha trận mạc, cũng chẳng bằng thằng con tôi mấy năm tu nghiệp ở nước ngoài. Đứng về mặt sao với gạch thì tôi phải gọi nó là thủ trưởng. Ba đứa sau cũng đã là bác sĩ, kĩ sư, cả rồi. Bảy đứa con bà hai, có ba đứa đang học đại học, bốn đứa bé còn học phổ thông ở trường huyện. Vợ tôi bảo:

49

 

Cũng là nhờ cái tiếng của nhà đang chiến đấu ngoài mặt trận, lũ trẻ mới xuôi chèo mát mái như vậy. Tôi muốn chúng nó nên người, không muốn để đứa nào nối cái nghiệp đe búa của cha, của ông. Đinh tai nhức óc cả đời mà vặt mũi đút miệng cũng không xong...".

Bây giờ thì chúng nó lên "ông"

 

lên "bà"

 

cả rồi bác ạ. Đứa nào cũng nhà cao cửa rộng, ăn sung mặc sướng.

- Nhất cụ rồi còn gì, mười mấy người con đều thành đạt - tôi xuýt xoa khen, rồi rót nước mời lão.

- Ở ngoài nhìn vào thì ai cũng thèm bác ạ! người ta bảo "có nằm trong chăn mới biết chăn có rận"

 

quả không sai. Bà ấy nói vậy thôi bác ạ! tôi biết lắm chứ, công bà ấy cả đấy. Thôi thì mình đi vắng, chẳng làm được gì cho vợ, cho con... âu cũng là tại cái thằng Mỹ cả, phải không bác? mình chịu thua thiệt tý chút có sao đâu.

Thấy tôi ngẩn ra không hiểu, lão giảng giải:

- Chả là hồi ấy, tôi có thằng bạn cùng chiến đấu. Hắn không tái ngũ mà ở lại địa phương. Không biết phấn đấu hay chạy chọt thế nào rồi leo được vào Tỉnh uỷ. Cái chân Tỉnh uỷ viên hồi ấy là to lắm, là trọng vọng lắm bác ạ! hét ra lửa đấy, dân kính nể lắm. Chết nỗi, bà lão nhà tôi đẻ đái nhiều như thế, vất vả nhiều như thế mà ngày càng xinh ra. Khối thằng đến ve vãn, tán tỉnh. Ngày ấy, tán tỉnh vợ bộ đội là vi phạm chính sách hậu phương quân đội, lớ ngớ là đi tù. Cái thằng giời đánh ấy lợi dụng danh nghĩa là bạn chiến đấu cũ với tôi. Hắn lần đến ve vãn bà lão nhà tôi, với cái vẻ bề ngoài là quan tâm giúp đỡ vợ con đồng đội cũ. Cũng nhờ có hắn mà cái bễ lò rèn nhà tôi không bị đập, không bị quy kết là làm ăn cá thể. Cũng nhờ có hắn mà các con tôi được học hành đến nơi đến chốn, có công ăn việc làm hẳn hoi. Thôi thì biết làm sao được, cái gì cũng có giá của nó cả. Mà cũng mất gì đâu hả bác, các cụ bảo nó cũng như cái ao bèo tấm ấy mà. À mà thôi, trời hẩng rồi. Tôi phải ra ngõ mài cho nhà bà Tâm béo mấy con dao. Hẹn bác, hôm nào sẽ kể tiếp cho bác nghe.

Lão bước ra cửa, tôi nhìn theo bóng lão thấp thoáng sau giậu cúc tần. Mười ba người con thành đạt, ai cũng có học hành, có địa vị. Vậy mà sao lão lại phải lang thang đi mài con dao, cái kéo cho thiên hạ, để kiếm bữa qua ngày? Tám mươi lăm tuổi đầu rồi mà cứ phải ăn nhờ ở đậu thiên hạ. Nói trộm vong linh, lão chẳng xin ai bao giờ, có chăng là chỉ gửi tiền, gửi gạo nhờ nấu hộ nồi cơm, mua hộ mớ rau, con cá. Nhỡ bữa thì ra ngoài ngõ, sà vào hàng cơm bụi của bà Tâm béo, ăn qua quýt bát cơm, vài con tép với dăm quả cà. Chỗ ngủ thì ở xóm thợ này đâu có nhà ai nỡ lấy tiền trọ của lão. Đất mỏ này than củi thiếu gì, đặt hộ nồi cơm, nồi rau thì có đáng là bao. Một năm lão về ở với xóm thợ khoảng đôi lần, mỗi lần mươi mười lăm ngày chứ đâu có nhiều nhặn gì. Lão nói, lão tuổi con ngựa, đã là ngựa thì hay đi, không đi không chịu được. Lão nói vậy thôi, già từng ấy mà vẫn phải lọ mọ kiếm miếng ăn, nơi đất khách quê người, hẳn phải có căn nguyên. Cả xóm thợ này biết vậy, nhưng không ai gặng hỏi lão, vì biết đâu lại chẳng khứa vào vết đau trong tim lão. Có lần lão hỏi tôi:

- Bác đã đi Nam chưa?

- Con đi rồi cụ ạ!

 

- Thế bác đã đi thăm mười tám thôn vườn trầu chưa?

Biết tôi chưa đi, lão cười bảo:

- Vậy như, tôi đã đi khắp rồi đấy bác ạ! địa đạo Củ Chi, tháp Chàm, quận Năm, quận Mười tôi ở ráo cả rồi.

- Cụ ở trong đó hồi chiến tranh?

- Không, hồi chiến tranh thì không kể làm gì. Ngày ấy mình toàn ở rừng ở rú. Tôi mới vào trong ấy năm kia. Sau cái đợt ra Móng Cái, về là tôi đi Nam luôn. Rong ruổi một mình một xe, một túi đồ nghề là tôi đi - lão cười nhe hai hàm lợi - Mình đâu có nặng gánh gì hả bác. Ở đâu hàng ngày cũng phải đi, vậy thì tôi vào Nam cũng thế phải không bác? Mỗi ngày tôi buộc mình phải đạp ba chục cây số. Chỗ nào gặp phố, gặp nhà thì dừng lại kiếm việc làm. Ở đâu mà không phải dùng đến con dao, cái kéo. Giời còn chưa bắt tội, còn cho khoẻ thì không sợ đói bác ạ!

- Cái nghề của cụ không đói được. Cụ còn mạnh tay, khoẻ chân lắm!

- Ngày tôi phục viên về làng. Mở lại cái lò rèn tính để làm cho đến hết đời, ai ngờ lại không làm mãi được như thế...

Chuyện của lão Đường kể cứ đứt quãng theo từng đợt lão đến xóm thợ. Có những chuyện lão kể đi kể lại đến mấy lần, nhớ chính xác đến từng ngày từng giờ. Ấy vậy mà chuyện vừa kể hôm trước, hôm sau đã kể lại được ngay, cứ như là chuyện chưa nói bao giờ. Tuổi già là như thế, cái tuổi lão nếu ở bên con, bên cháu thì đã làm đến mấy lần thượng thọ rồi.

Buổi chiều, tôi đang lúi húi với mấy gốc cây trong vườn thì nghe tiếng lão Đường gọi:

- Này bác, tý nữa sang tôi, có món này hay lắm!

Chẳng kịp để tôi trả lời, lão đã gò lưng đạp xe lướt đi.

Xong việc, tôi lững thững đến nhà lão. Không biết có chuyện gì, thấy lão đã đứng ngoài ngõ ngóng tôi.

- Vào nhà đi bác, ta làm tý cho ấm bụng.

- Cụ có món gì vậy?

Thực ra là tôi hỏi vậy cho có chuyện, chứ vừa bước vào cửa, tôi đã ngửi thấy mùi mắm tôm chanh ớt, lẫn với mùi thịt chó rồi.

- Nhật Tân bác ạ! cái món thịt cầy Nhật Tân. Chả là chiều nay tôi sang làm bên Giếng Đáy, rẽ vào hàng thịt cầy Nhật Tân, mài mấy con dao. Tay chủ quán đích thực dân Nhật Tân "xịn", nói năng dẻo quẹo. Nghe hắn nói đã ứa nước miếng, chứ chưa kể đến cái mũi mình ngửi mùi mắm tôm chanh đâu bác nhá! làm xong việc, tôi tính mua đĩa luộc về, mời bác sang, ta làm tý cay cay cho vui. Thằng cha chủ quán xem ra cũng khá ra phết. Hắn chẳng lấy tiền của tôi, đưa tôi đủ cả các món, lại còn bảo: "Khuyến mại cụ, vì cụ mài dao rất sắc, mà cái món "mộc tồn" ngon lên là nhờ lát dao cắt sắc ngọt đấy cụ ạ! miếng thịt thái mịn màng, tăng thêm phần hấp dẫn, khách ăn một lại muốn ăn hai..." -

lão cười - thì ra mình cũng không nghĩ tới chuyện ấy, ngon mắt ắt ngon mồm phải không bác?

Chủ nhà đi vắng, hai chúng tôi mặc sức ngồi nhâm nhi cút rượu với đĩa thịt chó. Lão vừa nhấm nháp, vừa kể tiếp câu chuyện bỏ dở khi sáng. Tôi chống đũa lặng nghe.

- Bác biết rồi đấy, tôi xuất ngũ trở về làng với cái ba lô lép kẹp, một cái khung xe đạp, với con búp bê nhựa cho con bé út nó chơi. Trời đất ạ, thoắt cái đã mười năm. Con bé út đã học lớp bốn, cao lớn lộc ngộc. Nhìn con búp bê nhựa tôi đem về, nó cứ rũ ra mà cười. Nó bảo: "

Thầy cứ tưởng con còn bé lắm haysao?".

Tôi thật thà: "Ừ! thầy cứ ngỡ con còn bé tẹo như ngày thầy đi

Nam. Thôi con không chơi thì để lúc nào anh cả về, đem lên Hà Nội cho các cháu chơi cũng được!".

Nó giẫy nẩy: "Chúng nó không chơi loại búp bê này đâu thầy ơi! Anh cả mua hàng đống búp bê ở nước ngoài về, đẹp ơi là

đẹp. Con các anh các chị ấy đều thừa mứa đồ chơi, toàn là của nước ngoài thôi thầy ạ!". Bác tính, mình con nhà lính, suốt mười năm trong rừng, trong rú, tiền nong chẳng có. Mang được cái thân xác về với vợ, với con là may phúc lắm rồi. Tôi lại cố gắng nghề đe búa, kiếm tiền nuôi mấy đứa nhỏ ăn học. Lời ong tiếng ve về bà vợ, bay đến tai tôi nhiều lắm bác ạ! có đứa độc bụng còn đặt vè cho lũ trẻ trong làng đọc:

" Lão Đường có hai cái ... lò...

Lão đi đánh giặc để ... lò... ai trông?

Lão Đường ơi! 

 

có biết không?

Có ông quan Tỉnh vẫn trông hộ ... lò

Ai đem tép gửi miệng cò?

Tôi cũng chẳng cật vấn bà ấy làm gì. Đàn bà xa chồng biền biệt mười năm trời, giữ được là hiếm lắm, đằng này lại một nách hàng đàn, hàng lũ con ăn học. Mấy lại mình cũng già rồi, có cháu nội, cháu ngoại cả rồi, bới ra chuyện cũ chả hay ho gì phải không bác?

 Lão rót rượu:

- Nào cạn đi bác!

- Vâng, xin mời cụ!

- Thế rồi ngày ngày cậm cạch với cái đe, cái búa, tôi thui thủi làm kiếm đồng ra đồng vào, nuôi mấy đứa bé ăn học. Bà ấy thì xoay như cái chong chóng, hết vợ thằng lớn đẻ, vợ thằng bé đẻ, lại đến mấy đứa con gái đẻ. Những đứa nhỏ thì túi bụi học hành, chẳng đứa nào giúp phụ vào với tôi cả. Được cái mình cũng còn mạnh chân khoẻ tay. Cái cuốc, cái liềm mình làm ra, bà con vẫn thích dùng hơn hàng chợ. Năm tôi bảy nhăm tuổi, xem ra gân cốt cũng đã nhão, cầm cái búa nghe chừng đã thấy nặng. Mấy đứa bé cũng đâu vào đấy cả rồi, tôi tính đã đến lúc đập bễ, hạ đe, gác búa. Mấy thằng con trai về, bảo tôi bán cái thổ đất hương hoả để ra Hà Nội ở với chúng nó. Bác tính, ai có phận người ấy, bán nhà bán cửa ra Hà Nội với chúng nó thì hương khói các cụ ở đâu? Tôi bảo: "Ra Hà Nội với các anh, các chị thì ra, nhưng bán nhà, bán đất thì hãy hượm đã..."

 

Bác biết không? mình ở nhà quê nó quen rồi. Ra thành phố ồn ã không chịu được. Bà lão nhà tôi ngày trước lam lũ nhiều, về già ngã bệnh lú lẫn, ỉa di đái dầm suốt ngày. Chúng nó đùn đẩy lẫn nhau, không đứa nào chịu nuôi mẹ. Mấy đứa con bà cả, ngày bé được bà ấy ôm ấp, nuôi nấng là thế, giờ đã lại dè bỉu: "khác máu tanh lòng...". Chúng nó bới cái chuyện lỗi lầm của bà ấy từ cái ngày tôi còn đang chiến đấu trong Nam ra mà nhiếc móc. Thật khốn nạn bác ạ! nếu ngày trước bà ấy không thế thì chúng đâu có được như bây giờ. Tôi không phải mong lấy vợ về để làm đĩ, nhưng chúng phải hiểu hoàn cảnh của bà ấy chứ. Cũng may bà ấy lú lẫn chẳng biết gì, chứ bà ấy mà còn tỉnh táo thì thật là khốn nạn. Bác biết không? chúng đón tôi ra Hà Nội là để tôi phục vụ bà ấy thay chúng nó. Hàng tháng chúng cắt cử nhau nuôi chúng tôi. Tôi cứ phải tha lôi bà ấy như mèo tha chuột, đi ở hết nhà thằng này lại đến nhà thằng khác. Đứa nào cũng có một căn phòng tít tận tầng tư, tầng năm dành riêng cho hai vợ chồng chúng tôi. Chúng sợ tôi không nấu được bếp ga, bếp điện, nên ăn uống thì chỉ có cơm hộp, nước lọc. Đúng giờ tôi xuống lấy cơm lên, hai vợ chồng già cùng ăn. Chẳng bao giờ chúng ngó ngàng, hỏi han xem chúng tôi còn sống hay đã chết. Chỉ đến ngày ba mươi hằng tháng là chúng kéo nhau lên để bàn giao cho đứa khác đem chúng tôi về nuôi. Ở Hà Nội mà tôi chẳng được đi tới đâu, nhìn qua ô cửa sổ chỉ rặt thấy những nóc nhà lô nhô đủ kiểu. Tôi cố gắng chịu cơ cực ở Hà Nội được một năm. Bệnh tình bà ấy không giảm. Tôi quyết định đưa bà ấy về quê, vợ chồng rau cháo có nhau. Ơ này, nhắm đi bác! nguội hết cả rồi (thực ra thức ăn đâu có nóng) - lão ngừng kể, nhìn tôi, hai mắt lão đờ đẫn - Chuyện tôi nó lòng vòng vậy đấy bác ạ! - nhấp hớp rượu, lão tiếp - Cũng may là chưa bán nhà, bán đất, chứ bán rồi thì không biết vợ chồng già sẽ ăn ở vào đâu. Về quê, bà lão nhà tôi như lại khoẻ ra, cũng đã nhúc nhắc đi lại xem cái vườn, cái ngõ, tôi đã thấy mừng. Tay đe, tay búa không còn đủ sức nữa, tôi lang thang quanh vùng mài con dao, cái kéo kiếm tiền thêm vào mua mớ rau, con cá. Mấy đồng trợ cấp chế độ của tôi, chúng cũng giữ chẳng đưa lại cho tôi, thôi thì tôi cũng chẳng thèm đòi. Với cái xe tồng tộc này mà tôi đã đi khắp trong Nam, ngoài Bắc đấy bác ạ! - Lão chỉ chiếc xe đạp dựng ở góc nhà (kỷ vật một thời

 

chinh chiến trở về), rôì nâng chén rượu lên tợp một tợp nhỏ. Tôi gắp vào bát lão miếng thịt luộc:

- Cụ xơi đi, suốt từ nãy tới giờ cụ toàn kể chuyện...

- Bác cứ mặc tôi, chả mấy khi rỗi rãi. Ngồi nhâm nhi chén rượu, xem ra không biết chán phải không bác? Tôi hỏi thật nhá, bác thấy thế nào khi nhìn mấy bà, mấy cô ngồi trong quán thịt cầy?

- Cũng bình thường thôi cụ ạ! còn cụ thấy thế nào?

- Ăn uống, cái thú ẩm thực là không phân biệt đàn ông hay đàn bà phải không bác! miếng ngon thì đàn ông cũng như đàn bà, ai cũng thích.

- Vâng!

- Tôi nói, bác đừng bảo tôi là phong kiến, là lạc hậu.

- Con không dám, cụ cứ dạy ạ!

- Các cụ xưa bảo:

"Nam thực như hổ, nữ thực như miêu". Bây giờ thấy các bà, các cô ăn mặc sang trọng, xống váy đủ kiểu. Họ chồm hỗm ngồi trong quán, nhồm nhoàm gặm đùi chó, uống rượu mật chó. Chén tống quẳng ra, chén ba đổ vào. Dữ tợn hơn cả cánh đàn ông du thủ du thực. Môi son má phấn nhoè nhoẹt, nhem nhuốc, lẫn lộn với màu mắm tôm. Nhìn họ tôi cứ thấy gai cả người. Có bà, có cô còn say bét nhè, nôn thốc nôn tháo ra nữa chứ! thật chẳng còn ra thế nào nữa!

- Thôi thì cũng là thói quen cả mà cụ, cũng chẳng ai ngăn cấm gì!

Lão tròn xoe mắt nhìn tôi:

- Thói quen đẹp đẽ nhỉ! ai cấm gì việc ăn uống, nhưng nó thế nào cho phải. Nam nữ bình đẳng, nào có ai nói gì. Nhưng nó phải thế nào chứ. Có dễ rồi đây mấy bà mấy cô ấy sẽ tay cầm chai rượu, tay cầm đùi chó, cởi trần, ngật ngưỡng đi giữa đường phố như Lỗ Trí Thâm chắc? Nói thật với bác, loạn, loạn hết chỗ nói. Những anh hùng liệt nữ ngày xưa, họ đủ sức chém giặc, trói hổ, nhưng họ đâu có quái đản như bây giờ. Giá mà trong quán thịt chó nào cũng có dăm bẩy cái gương, để các bà, các cô ấy tự ngắm mình nhỉ!

Lão nhìn tôi, cười. Cái mồm móm mém của lão cười như mếu. Lão tợp một hớp hượu rồi khẽ ngâm nga:

-

" Chẳng thơm cũng thể hoa nhài. Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.."

người Tràng An bây giờ cũng bị pha tạp nhiều rồi bác ạ, cũng xô bồ rồi, cũng nhiều cái nhố nhăng lắm...

- Cụ cứ để cụ bà ở nhà mà đi mãi thì ai trông nom?

- Ấy đấy, tôi quên chưa kể bác nghe. Chúng tôi về quê được hơn năm, bà lão nhà tôi có khá hơn lên. Những tưởng khỏi hẳn, ai ngờ bà ấy lại bỏ tôi mà đi. Mấy đứa xe lớn, xe bé kéo về làm ma. Vòng hoa xếp kín sân, câu đối treo rợp cả ngõ xóm. Ai cũng bảo bà ấy chết sướng. Chết rồi thì làm gì còn biết là mình chết sướng hay chết khổ nữa hả bác? chỉ có tôi là hiểu được cái sướng cái khổ của bà ấy thôi bác ạ! Từ ngày bà ấy đi, tôi lủi thủi như cái bóng, ra vào chỉ có một mình. Lo tắm rửa, thay áo cho bà ấy xong, tôi tính đến chuyện phải đi, đi cho khuây khoả, đi mà kiếm cái bỏ vào bụng.

- Một mình cụ thì ăn uống đáng là bao?

- Một miếng cũng là ăn. Công sức mình làm ra, không bấu víu vào con lớn con bé. Không để chúng phải đùn đẩy, ganh tỵ nhau. Mình đỡ khổ tâm bác ạ! Tôi để hai bà vợ nằm bên nhau cho có chị, có em. Chả gì thì cũng là thuyền cập chung một bến, phải không bác?

- Vâng, thưa cụ!

- Tôi đi lang thang cũng đã được hơn năm năm nay rồi đấy bác ạ! lắm lúc nghĩ cũng buồn. Con đàn cháu đống, vậy mà chẳng được cậy nhờ. Thôi thì số kiếp nó thế, cũng may mà còn kiếm được miếng cơm. Nói thật với bác, tôi cố dành dụm lấy ít tiền. Nói dại, chẳng may ngã bệnh ở đâu thì nhờ cậy bà con ở đó bác ạ! Tôi lượng sức mình, năm nay nghe chừng cũng đã khang khác rồi. Tôi cũng không dám đi xa nữa, ngộ nhỡ có làm sao bà con đưa về quê cũng đỡ ngại...

Lão Đường nói chuyện với tôi mới hồi đầu tháng trước. Có lẽ cái cảm giác khang khác trong người lão đã rõ lắm, nên lão mới nói ra. Không ngờ đấy lại là những lời nói cuối cùng của lão với tôi. Tôi vắng nhà ít ngày, trở về thì đã nghe tin lão

"đi"

rồi. Bà con xóm thợ không làm theo ý nguyện của lão được, bởi vì không ai biết quê lão ở đâu cả. Cái điều lão cần nói thì lão lại không nói với ai và cái điều mọi người cần hỏi thì lại không ai hỏi lão. Thôi, ở đâu cũng là đất nước mình. Mà xóm thợ nghèo này cũng đã chả coi lão là người thân từ lâu rồi sao, phải không lão? Ở nơi chín suối, lão có thể "đi mây về gió"

được mà. Có lẽ bây giờ lão đang hàn huyên với hai bà vợ ở quê rồi cũng nên. Chiếc xe đạp cà tàng của lão, để lại cho lũ trẻ con xóm thợ tập đi, vẫn còn đó. Chúng vẫn ngày ngày quấn quýt với chiếc xe, tranh nhau tập, ríu rít như những ngày lão về xóm thợ ./.

CHUYỆN TÌNH XÃ RỚN

Xã Rớn thuộc hạng cùng đinh ở làng Đông. Ông không có tấc đất cắm dùi, quanh năm léo khố. Năm ất Dậu, Xã Rớn chăn vịt thuê cho chủ xới vịt ở Ráng Hẻn. Ngày nào cũng vậy, sáng sáng Xã Rớn lùa vịt ra đồng. Mùa đông giá manh giá muối, lão chỉ léo độc cái khố rách. Trời mưa, Xã Rớn khoác cái áo tơi vào người, đầu gội nón mê, tay khư khư cái gậy tre một đầu buộc túm giẻ, lăng xăng với đàn vịt mò con còng, co tép để đẻ cho đời quả trứng vàng. Tối nhọ mặt người, Xã Rớn mới lùa vịt vào ràng. Hôm nào không phải mò mẫm tìm con vịt lạc đàn, Xã Rớn nằm khểnh trước cửa lều vịt, vắt chân chữ ngũ, tay bóp trán ngẫm sự đời để chờ mo cơm cô chủ, chẳng lo lắng, chẳng buồn vui, cũng chẳng có điều chi phải oán giận ai, kẻ gây cho lão sự khốn cùng?.

 

Xã Rớn không biết mặt cha, không biết mặt mẹ, họ sống hay chết lão chẳng cần quan tâm. Lão sống độc thân. Có điều lạ là chưa bao giờ lão cảm thấy đô độc, khốn khổ và nghĩ đến ngày mai sống ra sao. Lão vô tư đến mức cô chủ mang cơm ra muộn, lão ôm bụng đói lăn ra ngủ, khi tỉnh dậy thấy mo cơm bị lũ chuột đói nẫng mất, lại ôm bụng đói ngủ tiếp.

Nhịn đói một ngày là chuyện thường, lão chẳng xá gì. Lão tưởng chỉ mình lão quen chịu đói, chịu khát, nào ngờ trên đời này còn có một người biết cảnh lão. Người đó đâu có xa lạ gì, vưỡn hàng ngày gặp lão.

Ấy là cô chủ, tên thường gọi là Đĩ Hến. Đĩ Hến tuổi hăm mốt, hăm hai, người đen đúa, chắc khỏe như cái vai cày. Đĩ Hến ít nói, thi thoảng mới rặn ra một tiếng nhưng thường thì cộc lốc, không âm hưởng, khác nào hòn đất ném tõm xuống mặt ao vậy. Đĩ Hến còn hiếm cả nụ cười.

Từ ngày vào làm mướn cho nhà Đĩ Hến, Xã Rớn chưa thấy Đĩ Hến cười, dù chỉ là nụ cười tủm vô duyên. Nhưng Xã Rớn kệ, chẳng quan tâm đến điều đó, bởi vì đối với lão, nụ cười và tiếng nói của Đĩ Hến chả có ý nghĩa gì hết. Ngay cả mo cơm để lão sống, lão còn chả mong, chả thiết nữa là. Tháng 30 ngày, sáng nào Đĩ Hến cũng mang cơm cho lão rồi gánh trứng về, chẳng ai nói với ai lấy nửa lời. Mọi khi, để mo cơm trước cửa lều vịt cho Xã Rớn rồi Đĩ Hến tong tả về ngay, không có thèm ngó nghiêng vào cái ổ rơm trong lều vịt tồi tàn, nhưng hôm ấy không biết ma xui quỷ khiến thế nào, Đĩ Hến lại nán lại, mon men đến gần Xã Rớn. Đĩ Hến lên tiếng:

- Ở đây một mình có hãi ma không?

Xã Rớn đáp:

- Làm gì có ma mà hãi.

Đĩ Hến lại bảo:

- Ở Cầu Cao có ma cụt đầu, đêm đêm nó ngồi ở đầu cầu khóc nỉ non. Tiếng khóc nghe rợn lắm. Nhiều người đã trông thấy nó và nghe tiếng nó khóc. Thật đấy, không tin thì thôi.

Xã Rớn đón lấy mo cơm và chai nước, hỏi:

- Vậy chứ Hến đã thấy ma cụt đầu ở Cầu Cao, đã nghe nó khóc bao giờ chưa?

Đĩ Hến đáp:

- Chửa.

Cô chủ xích lại gần kẻ ở, hỏi:

- Thế có rét không?

Xã Rớn nói ra dáng:

- Không,

Đĩ Hến vặn lại:

- Thế sao hôm qua người ta không đem bao tải ra lại bảo rét bỏ cha?

Xã Rớn bảo:

- Hôm qua rét, hôm nay không rét nữa.

Đĩ Hến ỡm ờ:

- Người ta mang cái ấm ra cho, không biết như?

Xã Rớn ra đò giục:

- Thôi về đi. Tối rồi. Ở đây lâu. Ông đánh chết!

Đĩ Hến cầu cạnh:

- Người ta ở lại một tý không được như?

Xã Rớn chằm chằm nhìn Đĩ Hến:

- Thì ở. Ai bảo không đâu.

Một con chuột cống bự bỗng từ ràng vịt nhảy bổ vào người Đĩ Hến, cô cuống lên, ôm chầm lấy Xã Rớn:

- Eo ơi, con chuột to. Nó. . . nó. . .

Xã Rớn thản nhiên:

- Con chuột mà cũng sợ.

Chưa nói hết câu, Xã Rớn cảm thấy cái nóng hôi hổi từ khuôn ngực nở căng của Đĩ Hến tỏa sang người mình, lại nghe rõ cả tiếng tim Đĩ Hến đập thình thịch. Và, đôi môi như lửa của Đĩ Hến áp mãi, mỗi lúc một sát vào má Xã Rớn, khiến mọi thứ trong người y nổi gân nổi cốt lên cả. Không kìm được, Xã Rớn luồn bàn tay thô ráp của y qua vạt áo ngắn cũn cỡn của Đĩ Hến, lần vào cái chỗ âm ấm. Đĩ Hến mềm nhũn ra, để yên cho Xã Rớn trật hết bốn cái cúc áo. Người Đĩ Hến bồng bềnh, bồng bềnh bởi bàn tay khốn khổ nó xoa xoa nắn nắn cho đến lúc Xã Rớn ruỗi một cẳng chân, tháo cái khố léo háng ra...Những con vịt căng bụng trứng ngoài ràng vịt cũng luồn mỏ vào lườn cánh nhau, lim dim ngủ. Đất trời yên tĩnh. Hai con tim khốn khổ thổn thức cùng nhịp đập quyện vào nhau trong ổ rơm còn thơm mùi lúa chín. Chàng và nàng ôm nhau thiếp đi sau phút ái ân. 

Đó là một đêm thánh thiện đối với họ. Trên nền trời xuất hiện một ngôi sao xanh.

Mối tình trong trắng vụng trộm trong cái lều vịt tồi tàn hôi hám được giữ kín cho đến khi Đĩ Hến rõ bụng, không giấu giếm được thiên hạ nữa, lão chủ xới vịt mới để tâm đến con gái lão. Lão gọi Xã Rớn và Đĩ Hến lại bảo:

- Nội trong đêm nay các con phải rời khỏi nơi này. Sang làng La bên ấy có bác và các anh đỡ đần. Sau này, sự thể thế nào cha sẽ liệu.

Xã Rớn đưa Đĩ Hến trốn khỏi làng Cốc. Đêm đông giá rét như những mũi kim nhọn sắc, châm buốt nhức nhối từ gan bàn chân lên đến tận óc. Gió lạnh làm hai người co rúm lại. Xã Rớn cởi cái bao tải rách ra trùm lên lưng Đĩ Hến. Hai người quàng quấn lấy nhau, bước khập khễnh, lúc ngã dúi, khi té ngửa. Trên cánh đồng trơ gốc rạ, hai con người cần thiết cho nhau, không thể nào khác, đang dấn thân vào cuộc sống mới, cho dù cuộc sống đó có khốn khổ.

Một đốm lửa le lói trong khóm tre đầu làng La khiến Xã Rớn mạnh mẽ hẳn lên và cảm thấy hạnh phúc.

Sáng hôm sau Lý trưởng làng Đông có trát đòi lão chủ xới vịt ra đình. Hắn quắc mắt hoạnh họe:

- Đĩ Hến con gái mày không chồng mà chửa. Đúng không?

Lão chủ xới vịt bình tĩnh, mặt xắt lại, đôi mắt gườm gườm nhìn Lý trưởng:

- Dạ. Đúng, thưa ông.

Lý trưởng đập tay vào mặt tráp, quát:

- Mày đã biết lệ làng?

Lão chủ xới vịt nói như đinh đóng cột:

- Tôi xin nộp khoán cho làng, thưa ông?

Ngay chiều hôm ấy thằng mõ vác mõ đi rao khắp làng:

- Mõ! Mõ! Mõ! Trình làng: Con gái lão xới vịt là Đĩ Hến không chồng mà chửa. Theo lệ làng, lão chủ với vịt phải nộp khoán cho làng. Ông Lý đã có trát lão chủ xới vịt. Lão đã nộp đủ khoán. Ngày mai mời quan viên tứ giáp Đông, Tây, Nam, Bắc ra đình ăn khoán. Mõ! Mõ! Mõ!. . .

Đêm ấy, lão chủ xới vịt khăn gói quả mướp biến khỏi làng Cốc, để lại tất cả ràng 100 vịt đẻ và một sọt trứng đầy. Lý trưởng sai đám dân đinh mổ vịt, luộc trứng mời quan viên tứ giáp ăn khoán. Lý trưởng đứng trước sân đình thề: Bắt được thằng chủ xới vịt, ông cho trói gô cổ nó vào hòn đá tảng này phơi nắng ba ngày. Nó mà không chết, ông cho gọt đầu bôi vôi, thả bè chuối trôi sông. Quan viên tứ giáp uống rượu nhắm thịt vịt luộc và trứng vịt luộc, lạ miệng, tấm tắc khen ngon. Lý trưởng hoạnh thằng mõ:

- Tiên sư mày, ông bảo đánh bát tiết canh đặt mâm cụ chánh, sao mày. . . mày. . . hử?

Thằng mõ cúi rạp mình chịu tội, không dám mở miệng bẩm với cụ lý là nó có đánh bát tiết canh nhưng tiết hẩm, thiếu vị, thành thử không đông, nó sợ không dám dâng.

Lý trưởng nể tình mõ tận tâm hầu hạ các cụ, đây là lần đầu nó mắc lối nên tha cho, chỉ quát mắng mấy câu để lấy cái uy:

- Tiến sư mày, lần sau còn làm thế ông đánh cho tuốt xác!

Thằng mõ lùi ra khỏi ngưỡng cửa thì gặp cụ Hương trưởng, cụ Bá Hộ hai tay túm cạp quần chạy thốc chạy tháo ra cụm ruối ở phía Tây đình. Biết ngay là các cụ bị tào tháo đuổi, sợ liên lụy, chưa biết xử lý thế nào thì nó lại gặp cụ Phó lý ôm bụng, bỏ cả guốc, cũng chạy ra lối bụi ruối. Các cụ gặp nhau ở cả ngoài ấy, vãi cả ra quần, cùng tuồn vội ra sau đình. Người làng có bài vè từ đấy:

Vè vẻ vè ve / tôi kể cái vè / quan viên tứ giáp / an khoán giữa đình/ chén chú chén anh / bị tào tháo đuổi / luồn ra bụi ruối / té cả ra quần. . .

ANH EM KẾT NGHĨA

Cụ thân sinh ra giám đốc về với tổ tiên. Ông cán bộ kỹ thuật mỏ, anh em kết nghĩa với giám đốc về chịu tang cũng mặc áo sô, thắt lưng dây chuối, đội mũ rơm mũ gậy đứng sau con trưởng. Một người nội tộc ngẫm: Quái thật, lúc sinh thời cấm thấy mặt đứa nào, ngoài thằng con trưởng thế mà khi nằm xuống, lại nảy nòi ra một thằng cu. Có lẽ thời trai trẻ cụ nhăng nhít, đẻ ra hắn, nhưng sợ mang tiếng, giấu bặt đi. Em kết nghĩa của giám đốc biết người ta dị nghị, cũng cảm thấy ngượng, nhưng vì đã trót, chả nhẽ...Ông đành nuốt nước miếng, đánh ực một cái rồi về chỗ mình, bên trái hương án, đáp lễ bà con viếng hương hồn cụ cố.

Ông con nhận cũng được bổ đầu chịu ba mươi triệu rưỡi tiền lo việc tang lễ cho người quá cố như những con ruột cụ. Vợ giám đốc bảo đã đạ vào làm anh em với nhau thì bố mẹ là bố mẹ chung, phải có trách nhiệm. Vợ chồng chúng tôi biết chú là người tử tế.

Ông em kết nghĩa cảm động nói bụng em là tấm bánh, em bóc ra cho anh chị xem ngay. Xin anh chị hiểu cho. Sao lại không hiểu? Không hiểu mà khi có chủ trương cấm khai thác than trái phép, trái quy trình công nghệ để lập lại trật tự trong việc khai thác than trên địa bàn, lò "than thổ phỉ" của chú không những không bị đánh mìm sập, mà còn được chiếu cố ký hợp đồng trực tiếp với mỏ. Mỏ giám sát kỹ thuật và thu mua hết sản phẩm tạo điều kiện cho chú nhanh thu hồi vốn. Nhưng cơ hội làm giàu không được bao lâu, em kết nghĩa phải ra sức bòn rút tài nguyên của đất nước bằng cách tranh thủ mở vỉa mới, mộ thêm lao động nông nhàn ở nhà quê với giá công rẻ mạt thì giám đốc lại phù phép cho thằng em kết nghĩa hốt bạc.

Trước kia, ông cán bộ kỹ thuật mỏ trả bọn công nhân đội than dưới lò lên 40.000 đồng một tấn thì bây giờ đánh tụt xuống còn 30.000 đồng. Ông bảo trên ra lệnh cấm. Tôi phải chảy cửa, biếu xén nhiều, chi phí lớn, vì thế anh em cũng phải gánh chịu với tôi, để ta có việc làm. Vả lại, ta còn làm ăn với nhau về lâu về dài. Những người nhà quê nhọc nhằn đói khát, không có việc làm phải dấn thân tìm đường  ra mỏ kiếm miếng cơm manh áo, biết rằng mình bị bóc lột nặng nề, nhưng đồng tiền kiếm được so với ở quê nhà vẫn gấp nhiều lần và thật sự nó có thể cứu cánh khi cơ nhỡ nên đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Một năm, 87 con người cần mẫn đào lò, khoét than không đòi hỏi ở ông điều gì hơn là tháng chỉ trả lương một lần. Họ sẵn sàng ăn bốc ăn bả mang lại cho ông một khoản lợi nhuận 7 tỉ 400 triệu đồng. Khoản lợi nhuận đó, ở vùng mỏ số người kiếm được cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Người ta liệt kê có các quan chức cỡ “bự”, có bà víp rót vốn mở cảng, lập đội tàu vượt phao sốp không, có các chủ mỏ đội lốt nhà nước ăn xuất tận thu than rơi vãi bằng cách cho xe lớn xuống sâu trong lòng đất...

Ông cán bộ kỹ thuật mỏ cũng hiểu là như thế, và ít nhiều lại biết chữ thánh hiền, biết cơ chế thị trường, biết đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết người đã giúp mình trong lúc cấn cái. Chính vì ông biết những việc đó, cho nên ông luôn luôn tâm niệm phải làm một việc gì đó đúng với cái nghĩa của đồng chia ba để báo đáp giám đốc, ông anh kết nghĩa.

***

Ông cán bộ kỹ thuật mỏ đến nhà lão nhà báo ở phường Lãn Ông, số 16, tận trong hẻm 8. Lão nhà báo lịch lãm mời ông chén trà. Ông chiêu một ngụm thưởng thức hương vị đồng nội mà cao sang của thứ trà chính tay chủ nhân sao tẩm, chính tay chủ nhân đun nước, tráng ấm pha trà. Ông thành thật: Thưa ông, ông là người của văn chương. Tôi rất quý trọng những thiên phóng sự điều tra của ông đăng tải trên các báo. Nhưng xin ông tha lỗi về sự đường đột và thất thố này của tôi, vì là...Lão nhà báo ngắt lời khách: Có chuyện gì xin ông cứ nói, tôi sẵn sàng nghe đây, không việc gì phải rào đón, vòng vo. Tính tôi, ông biết rồi đấy, cứ thẳng tuột. Bấy giờ ông cán bộ kỹ thuật mỏ mới chậm rãi thưa: Thưa ông. Tôi biết ông chưa cần tiền, chưa có ý định bán thổ đất ở phố Dã Tượng. Nhưng tôi thì lại rất thích thổ đất của ông vì thế rất nhiều thổ đất ở phố Đông Quan bán, đã đánh tiếng đến tôi với giá bán 2 chỉ một mét vuông. Nhưng tôi quên tuột, mà chỉ kết thổ đất của ông. Tôi xin được chồng 5 chỉ một mét vuông. Nhưng ông biết đấy, 5 chỉ một mét vuông là đắt gấp đôi giá thị trường hiện nay. Xin ông hiểu cho, tôi không phải kẻ hãnh tiến, cậy của mà chỉ vì tôi thích thổ đất của ông.

Lão nhà báo với cái điếu cày rít sòng sọc, rồi lên tiếng: Mạn phép ông, tôi xin được hỏi, ông thích chỗ đất của tôi vì lẽ gì vậy? Ông cán bộ kỹ thuật mỏ đáp: Tôi xin ông cái lộc.

Vốn là người tự trọng, hiểu đời mà lại có một có thế, giàu có ở thị xã đến hạ mình xin lộc, sướng quá đi rồi còn gì. Ông ta đã cất lời khẩn cầu mà mình khước từ, thì còn ra cái quái gì đấng văn chương? Lão nhà báo nói như đinh đóng cột: Tôi đồng ý. Ngày mai ông nộp đủ tiền. Tôi giao đất và làm ngay thủ tục chuyển quyền sử dụng cho ông. Xin ông nhớ cho, công việc này chỉ giải quyết nội ngày mai.

***

Hai hôm sau, ông em nhận đặt trước mặt anh chị nuôi cái bìa đỏ. Chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà chị. Bà chị hỏi: Đây là quà chú tặng tôi? Ông em nhận đáp gọn: Vâng! Ông toan xin cáo từ ân nhân thì giám đốc vỗ vai ông bảo: Tôi có chuyện này cần nói với chú. Giám đốc mời ông một ly rượu mạnh: Kẻ thức thời là kẻ tuấn kiệt, phải không chú. Giám đốc rót rượu vào ly ông. Ta cạn đi chú, rồi anh em vào chuyện. Giám đốc ngả người tựa lưng vào chiếc ghế bành, đôi mắt đăm chiêu: Tôi nghỉ hưu. Ông em nhận giật mình thon thót, hỏi gấp gáp: Anh nghỉ hưu ? Giám đốc gật đầu: Tình thế không cho tôi nán lại được nữa, vì rằng, không sớm thì muộn cấp trên sẽ kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị. Nghe đâu, cấp trên quy kết tôi là “cai than”. Chà, chà... “cai than” là ai ? Là tôi! Là chú! Đã kiểm tra thì chú biết đấy, cấp trên sẽ phát hiện ra những khuyết điểm. Khuyết điểm thì sẽ bị xử lý. Không xử lý thì cấp trên kiểm tra làm gì. Chú biết rồi đấy. Mấy năm vừa rồi, đơn vị mình hợp đồng thời vụ hàng trăm lao động nông nhàn và bộ đội nghĩa vụ. Than họ làm ra, đơn vị mình thu mua đem hoà mạng vào than mỏ sản xuất, đương nhiên là phải đội giá lên để có khoản chi ngoài. Tôi lo là lo ở chỗ ý. Về hưu cho yên chuyện. Hậu hoạ sau này thằng giám đốc thay mình nó gánh chịu. Tránh voi chẳng xấu mặt nào mà chú!  

Nghe giám đốc nói về thân phận mai ngày tai hoạ giáng xuống đầu, khiến ông em nhận, cán bộ kỹ thuật mỏ ngao ngán. Ông thở dài não ruột. Giám đốc được ông chia sẻ nỗi lòng, lôi hết cả ruột gan ra: Năm ngoái công nhân đã thiếu việc làm. Họ phải tự lo liệu kiếm sống. Nhiều thợ lò bậc 4, bậc 5 cũng phải xung vào đội quân “than thổ phỉ.” Chú còn lạ đếch gì. Rồi khoản tài chính rối tung rối mù lên. Khoản lỗ trong hai năm dồn lại. Khoản chi vào việc không đâu do "than thổ phỉ" các chú gây ra. Bao nhiều chuyện đau đầu không thể lý giải được. Do vậy, tôi tính ba mươi sáu chước, chước nghỉ hưu là thượng sách nhất chú ạ! Ông thật sự cảm thấy lòng mình như có lửa, bởi vì, nếu như giám đốc về hữu thì ai là người đỡ đầu ông trong khi cơ nhỡ? Có việc, tiền nhiều cũng không giải quyết được.Tiền là cái đếch gì. Có ai bỏ tiền vào quan tài đem chôn đâu, nhưng tiền thì bỏ mạng sống con người vào áo quan là chuyện thường tình. Cho nên phải thức thời là vì thế. Ông em nhận nói với ông anh kết nghĩa: Bác tính là kín kẽ, nhưng em nói thật nhá, bác doạ em đấy thôi, còn lâu bác mới hạ cánh. Bác Đoành còn thì bác

 

v

ẫn trụ vững.

***

Cấp trên quyết định loại chủ lò “than thổ phỉ.” Mỏ trực tiếp đứng ra hợp đồng thời vụ số lao động ông em nhận giám đốc đang sử dụng và, nhập hết than ông em nhận dồn đống lại. Giám đốc lại để cửa cho ông em nhận về chân chuyên viên kỹ thuật, trực tiếp theo dõi việc khai thác “than thổ phỉ” trái phép, trái quy định kỹ thuật. Ở vị trí công tác mới không chỉ có mầu do các lò “than thổ phỉ” bồi dưỡng mà qua đó, ông còn phát hiện ra 2 vỉa than lớn nục nạc, chất lượng tốt, khai thác thuận lợi hơn các vỉa than khác, để tính kế làm ăn khi có cơ hội. Ông khẩn trương tiến hành khảo sát thiết kế lập quy trình quy hoạch khai thác quý, năm, đồng thời lên hộ chiếu khai thác.

Qua số liệu thu thập được, ông khẳng định các lò trước đây ông tổ chức khai thác đã cạn kiệt, chỉ còn cách mỏ lộ vỉa sang cánh đông và đông nam thực hiện cơ giới hoá bằng máy xúc gầu ngược loại nhỏ xe gạt Nhật 300 - 400 mã lực, xe vận tải chở đất, chở than 10 - 15 tấn và hệ thống quạt hút gió di động có thể vào sâu trong lòng đất từ 200 mét trở lên, trong thời gian 12 tháng, có khả năng khai thác 1 triệu tấn than. Nếu được cấp trên phê duyệt phương án tối ưu này vào ưu ái bao tiêu sản phẩm, không phải bán trôi nổi trên thị trường, thì đã siêu lợi nhuận rồi. Đấy là chưa kể, nếu được cung cấp vật tư chuyên dùng theo định mức như gỗ chống lò, vât liệu nổ cộng với lực lượng lao động nông nhàn, bộ đội nghĩa vụ đảm nhiệm từ khâu đào lò, vận chuyển than trong lò đến sàng lọc cũng như các khâu làm đường, rửa sạch than v.v... và v.v..., thì giá thành một tấn than còn có thể tụt xuống khoảng 25 - 30 phần trăm, lợi nhuận sẽ lớn hơn nhiều. Điều đó càng làm cho ông lo sợ giám đốc về nghỉ hưu.

***

Giám đốc cho gọi ông em nhận đến bảo: Tôi còn ngày nào làm giám đốc thì ngày ấy tôi còn lo cho chú. Hiện nay cơ may đã đến. Chú suy nghĩ kỹ đi. Nếu có khả năng kinh tế thì chú bỏ vốn ra đầu tư cơ giới. Khai thác than lộ vỉa. Bán cho mỏ. Lời ăn lỗ chịu, nhưng vẫn mang danh nghĩa khai trường của mỏ.Quý độc giả kính mến! Bây giờ các mỏ đã được phân chia tài nguyên. Người ta cắm mốc biên giới cho từng đơn vị. Thị trường tiêu thụ đã được thiết lập lại thống nhất một đầu mối không có nguồn tài nguyên nào không có chủ. Một số mỏ dựa vào chủ trương này mời các ông có quyền thế, có tiền bỏ vốn ra đầu tư rồi thuê chủ lò và đám nhân công rẻ mạt khia thác, sản phẩm bán cho mỏ. Các ông vừa đá bóng vừa thổi còi mà thực hiện chủ trương cấp trên, các ông đâu có sai. Nhưng điều đáng nói là, mỏ mua than ngoài kế hoạch đem hoà mạng vào than sản xuất chính của mỏ, cộng chi phí bóc đất, đá mét lò chuẩn bị, để ăn chênh lệch giá. Không ít người nhờ thế mà giàu nhanh. Những biệt thự lộng lẫy ở Vịnh Hạ Long, ở chốn kinh thành mà các ông tạo lập là nhờ những kẽ hở trong khâu quản lý này của nhà nước và sự khốn khổ của những người tha phương cầu thực để đào “than thổ phi” cho các “cai than”. Ông nhà báo họ Ngô, người đầu tiên cảnh báo "than thổ phỉ” là một đại dịch, nó sẽ gây ra những thảm hoạ khôn lường cho đời sống con người, hàng ngày sống với than và chết với than, khi chạm trán "cai than” thì nỗi đau đến xé lòng, khiến ông phải mài sắc ngọn bút để sáng lên những trang báo. Nói trắng phớ ra là chỉ “đào mỏ”và “đào mỏ”mới giàu sụ.

***

Ông cán bộ kỹ thuật mỏ thầm nghĩ đến lão nhà báo “hâm” mới  bán cho ông thổ đất ở phố Dã Tượng năm chục cây vàng mười. Lão máu phiêu lưu, đã một thời gian tham gia đội quân cán thép xây dựng, bị đổ bể, trắng tay. Lão dựng một túp lều ở ngay vệ đường hàng ngày ông Chủ tịch thị xã thường hay qua lại. Vợ chồng, con cái lớn nhỏ, năm mạng người chui rúc vào cái ổ chuột thảm hại. Từ chỗ khốn đốn cùng kiệt ấy, lão gượng dậy nhờ đem chất xám uốn cong ngòi bút phục vụ mấy “ôn” có quyền thế trong mỏ rồi phất lên chễm chệ ngồi trên thổ đất ở phố Dã Tượng, trung tâm thị xã. Ông biết lão nhà báo cả tin, nếu khai đúng huyệt, lão sẵn sàng rút cả gan ruột ra.

Cái gì đến nó sẽ đến. Chỉ một tuần, sau cuộc chạm cốc ở  Biển Mơ, lão nhà báo đưa lại cho ông cán bộ kỹ thuật mỏ nguyên xi năm chục cây vàng ông mua thổ đất ở phố Dã Tượng của lão với lời cam kết miệng: Liên doanh đầu tư khai thác than. Mỗi bên góp vốn năm mươi phần trăm. Lời ăn lỗ chịu. Lão cũng chẳng thèm bảo ông viết giấy biên nhận của lão năm chục cây vàng, vì lão vốn người quân tử. Năm chục cây vàng, to thật, đối với lão là máu, là thịt, nhưng một khi đã tin ông cán bộ kỹ thuật mỏ, không phải tên đốn mạt, lão sẵn sàng hơp tác vô điều kiện.  Lão bảo ông cán bộ kỹ thuật mỏ: Khỏi cần phải nói dài dòng văn tự. Tôi tin ông. Làm ăn với ông. Ông gạt tôi thì trời đánh ông bể đầu. Vậy thôi. Ông cán bộ kỹ thuật mỏ đáp lời lão: Dẫu có bạc vàng ngàn vạn nén, chẳng bằng kinh sử một vài pho. Lão nhà báo vỗ đùi đánh đét một cái: Chí phải! Chí phải!

***

Ông cán bộ kỹ thuật mỏ đem đầy đủ giấy tờ giám đốc chứng nhận cái lò ông liên doanh với lão nhà báo bị cháy khí mê-tan buộc phải đình chỉ sản xuất. Thiết bị trong lò như quạt hút gió, máy bơm, đường điện v.v... không thể lấy ra được bất cứ thứ gì. Đương nhiên, vốn đầu tư của ông cán bộ kỹ thuật mỏ và lão nhà báo “hâm” bỏ ra, cả hai đều mất trắng. Lão giỏi văn chương chứ đâu thông hiểu chuyện hầm lò, nhất là khí cháy mê-tan thì lão chịu, làm sao dám đem cái thân gầy guộc, đen đủi vào lò để chuộc vạ vào thân. Trước khi chung vốn “đào mỏ” lão nhà báo đã tham khảo ý kiến giám đốc, ông anh kết nghĩa của ông cán bộ kỹ thật mỏ. Giám đốc bảo, chúng tôi có trong tay cả một hệ thống kỹ thuật đầy đủ thiết bị đảm bảo an toàn tuyệt đối, ông lo quái gì cái cục vàng năm chục cây “ bọ.” Tôi nghe nói, nạn cháy khí mê -tan lắm. Lão nhà báo lo lắng. Thằng trên cây không sợ , thằng dưới gốc cứ quýnh lên là làm sao? Chúng tôi phải phòng cháy khí mê-tan trưóc đã rồi mới ra quyết định khai thác. Ông giám đốc nói thế. Và, hôm nay không ai khác chính ông  ra quyết định đình chỉ khai thác ở cái lò lão nhà báo liên doanh với ông cán bộ kỹ thuật mỏ.

Cũng phải thôi. Lão nhà báo còn lạ gì những vụ cháy khí mê-tan chết vô thiên lủng cửu vạn đào “than thổ phỉ.” Lão sợ liên luỵ với chủ lò lo cho người chết, cho gia đình người chết lại còn phải lo cho các quan chức đến khám tử thi, đến khám hiện trường để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người sử dụng lao động. Chao ôi, vẫn phải đi tù đi tội nếu không chạy được cửa người ta đỡ cho. Thế là lão nhà báo may mắn lắm rồi, không phải liên luỵ gì hết. Còn 50 cây vàng, là cái đếch gì. Của đi thay người. Lão nhà báo sẽ làm lại từ đầu. Lão nhà báo sẽ lại có thổ đất đẹp hơn thổ đất ở phố Dã Tượng bán cho ông cán bộ kỹ thuật mỏ.

Lão nhà báo tin số lão sướng về cuối đời. Lão nằm khểch đọc thiên phóng sự điều tra về "Cái chết trắng" đăng trên tờ Thời Báo. Lúc này đối với lão nhà báo, thiên phóng sự điều tra về "Cái chết trắng" thật sự là chỗ dựa tinh thần cho lão để lão tiếp tục văn nghiệp. Lão nhà báo đâu biết cái lò lão liên doanh với ông cán bộ kỹ thuật mỏ không phải cháy khí mê-tan, không phải khí độc, không phải bục lò, buộc phải đình chỉ sản xuất mà vì cạn kiệt tài nguyên, khai thác không hiệu qủa người ta bỏ đi. Lão mất trắng 50 cây vàng. Lão đọc đến đoạn kết thiên phóng sự điều tra về: "Cái chết trắng" thì có tiếng chuông điện reo. Lão giương mục kỉnh lên cầm ống nghe. Đầu dây bên kia nói chuyện với lão là người đàn bà. Bà ta bảo lão: Tôi rất hoan nghênh bài báo ông đăng trên tờ Thời Báo. Viết như ông mới là nhà báo. Ông rất gây ấn tượng đối với tôi đây. Ông biết rồi chứ? Nếu ông bằng lòng thì ngay chiều nay, đúng 16 giờ mời ông cùng tôi ra Biển Mơ ta thưởng ngoạn món cá lẩu Tàu. Ông nhận lời rồi đấy nhé. Chào ông! Đúng 16 giờ tôi đón ông ở Bến Tàu. Lão nhà báo đặt máy ngẩn người ra trước sự cám dỗ của người đàn bà mà lão rất nể trọng bấy nay. Lão cố mường tượng lại những ngày lão gặp bà ta với giọng xởi lởi, chân tình. Bà ta khen lão hồi này béo ra, da dẻ hồng hào. Chắc là lão nhà báo viết khoẻ mới được tạng người thế!

Đó là một buổi chiều ghi dấu ấn trong đời làm báo của lão nhà báo.Ngồi vào bàn tiệc rồi, người đàn bà quý phái rút trong cạp quần ra mảnh giấy báo có bài viết của ông về vụ cháy khí mê-tan năm trước ở mỏ X đưa cho lão nhà báo và vặn hỏi, ông đã nói gì? Chính bài báo này mà tôi sạt cơ nghiệp, có con phải từ, có chồng phải bỏ, ông không biết sao?

 ***

Giám đốc đệ đơn xin nghỉ hưu. Ông em nhận bảo: Lúc này, theo em thì bác chưa nên. Giám đốc hỏi lại: Vì sao? Ông em nhận lại bảo: Cấp trên sắp thanh tra đơn vị. Giám đốc thở dài thườn thượt: Nếu có chủ trương nghỉ việc luân phiên cho khoanh các khoản nợ đến hạn, thì mình cũng chẳng báo cáo than tồn kho nhiều, lao động thừa do lịch sử để lại làm gì cho rách việc thêm. Chú biết bao giờ thanh tra về không? Ông em nhận đáp: Nghe đâu đầu tháng sau thì phải. Giám đốc bảo: Tôi định giao cho mấy phó điều hành để mình có thì giờ nghỉ ngơi nhưng không khéo đã muộn phải không chú? Ông em nhận không nói gì thêm, mà chỉ cầm quyết định "giá than" rồi lui ra.

Ngày hôm sau có dư luận giám đốc có biệt thự ở Hà Nội. Nghỉ hưu sẽ lên thủ đô nghỉ cho thanh thản những năm cuối đời. Đúng là như thế. Nhưng cái biệt thự nguy nga của ông ở Hà Nội chưa một ai biết, kể cả lũ con ông, thế thì tại sao lại có thể lọt ra ngoài được. Nếu quả đúng đã có người biết ông xây biệt thự ở thủ đô, thì sớm muộn thế nào dư luận cũng đặt vấn đề. Ông lấy khoản tiền nào để xây biệt thự, nếu không phải là tiền "than thổ phỉ" tiền "cai than” nhà nước ? Bởi vì hiển nhiên, ai cũng biết, lương giám đốc ba cọc ba đồng. Dẫu có tiền thưởng, tiền quà cáp mỗi độ tết đến xuân về cũng chỉ đủ nuôi mấy đưa con học đại học. Vậy lấy đâu ra? Giám đốc sẽ không thể lý giải được tài sản cố định của mình. Một người trong cánh hẩu với giám đốc, hỏi: Ông định bỏ chúng tôi chạy tháo thân à? Ông cứ trả lời chúng tôi về cái biệt thự của ông ở Hà Nội đã, sau đó hãy tính đến chuyện hưu trí. Giám đốc hỏi lại: Thế còn các sếp ở nhà cao cửa rộng ở Hà Nội, sao các ông không hỏi, lại cứ nhè vào tôi, cái anh tép riu. Ông kia cáu sườn vặn lại: Các sếp sẽ có người khác hỏi, còn chúng tôi, chúng tôi phải hỏi ông thì đã sao? Giám đốc không kiềm chế được, cáu nói sằng: Các ông có dám động đến lông chân sếp!

***

 

Hôm ấy, họ không ngồi uống rượu mạnh với nhau như mọi khi. Mỗi người một tâm trạng buồn vui khó tả. Ông cán bộ kỹ thuật mỏ trở về đến Cầu Chẻo thì trời vừa đổ mưa, sấm chớp đùng đùng. Ông phải dừng xe. Một luồng lửa xanh lè quấn lấy người ông. Ông lăn ra bất tỉnh nhân sự. May có  bà cụ ăn xin ông vừa đặt vào cái bàn tay rúm ró tờ giấy bạc 500 đồng hô hoán người dân quanh vùng đưa ông đi bệnh viên cấp cứu. Hôm sau, trên chuyến xe chở công nhân đi công trường, người ta kháo nhau: Ông cán bộ kỹ thuật mỏ cao số giời đánh không chết, không biết có phải lời nguyền của lão nhà báo linh nghiệm không?

 

N

ếu

đúng vậy thì ông “cai than” này nữa là hai ông “cai than” bị giời đánh và  một ông “cai than” bị sập lò.

Sinh thành

Những năm trước, khi còn khỏe, ông già Thước thường đi bộ ra cái quan cách nhà chừng vài trăm mét ngồi uống bia hơi. Ông khỏng uống nhiều chỉ gọi một vại rồi ngồi ngẫm ngợi và ngắm nhìn người và cảnh vật chung quanh. Nơi ông ngồi xế đó có một cây bàng rất lớn, thân to người ôm xuê, cây bàng cao xòe cánh phủ lên kín mái nhà lợp tôn. Mùa hè, lá bàng xum xuê, xanh mượt làm mát rợp cả một khu vực rộng, nhìn lên không thấy mặt trời đang phóng những tia nắng xuống. Thỉnh thoảng có gió mạnh những trái bàng xanh rơi trên mái tôn kêu to như tiếng súng lục, làm giật mình. Về mùa thu sang đông, lá vàng úa đỏ dần khô lại và rụng xuống. Những chiếc lá bàng khô cong queo như bánh đa nướng, có hôm chiếc lá đỏ khẽ rơi sát ngay vại bia đang uống dở của ông cụ. Nhìn chiếc lá khô xám xịt, ông già thấy cả sự tàn lụi của sự vật... Ông về nhà, đêm nằm như thấy chiếc lá bàng khô bên mình. Tết đến rồi tết qua đi, mùa xuân với những cơn mưa phùn làm nhớt nhát lối đi và trong nhà cũng ẩm ướt, hôi hám. Sang xuân, khi có nắng mới, ông già ra ngồi trong quán bia, thấy trên cành bàng trụi lá nhô lên những búp nhỏ như ngón tay đứa bé, màu non tơ. Rồi chỉ một hai ngày sau, những búp non tơ ấy xòe ra thành lá và những cái lá bàng chẳng mấy chốc đã phủ kín cành cây, cây bàng đang hồi sinh trở lại, sức sống đang sinh thành, thay cho sự tàn lụi ngày nào. Cây bàng như chàng trai đang ưỡn bộ ngực tràn trề sức lực trước nàng gió và giông bão... Nửa đêm, ông già tỉnh giấc nghe tiếng mọt nghiến kèn kẹt trong nhà. Chăng cần ngồi lên ông cũng biết đàn mọt đang tàn phá mấy thứ đồ gỗ kê cạnh đấy. Đó là bộ bàn ghế, cái tủ đứng và ngay cả cái giường nằm của ông, những thứ mà cơ quan cấp phát cho ông khi về hưu, toàn những thứ làm bằng gỗ tạp, những thứ người ta cấp phát theo tiêu chuẩn. Hơn hai mươi năm rồi, những đồ gỗ ấy đã xuống cấp, đã quá tuổi thọ, gỗ tạp làm sao bì được với các nhóm gỗ tốt, những sến, hồng sắc hay lim dành cho cán bộ cấp cao... Bây giờ, cứ về đêm là các thứ đồ gỗ ấy nổi lên bài ca của sự tàn lụi, như nhắc nhở ông liều liệu, sẽ có một ngày nào đó chúng sập xuống... Nhưng tất cả chẳng làm cho ông già phiền lòng, dàn đồng ca của đàn mọt gỗ ấy như ru ông đi vào giấc ngủ. Ông chỉ lo ngôi nhà này, vào mùa mưa, trong nhà như ngoài đường. Cái nhà cấp bốn, lợp ngói tây, ngói gác vào những thanh gỗ tạp làm rui mè đã mục, ngói ngấm nước càng nặng, gian nhà đã bị thương tích do nhà bên đào móng, đóng cọc xây nên ba bốn tầng, tường nút toác, nền sụt xuống mỗi ngày một ít. Đó là điều đáng lo nhất. Nhưng ai lo bây giờ. Ông thì ông không lo nổi, bà vợ ông là một người đàn bà đoảng nhất trần gian. Vợ chồng ông tuy ở chung nhà nhưng chẳng bao giờ nói với nhau được điều gì tử tế, đến trông mặt nhau còn chẳng muốn. Bà ấy cứ đi suốt, hết vào nhà này lại sang nhà khác tán chuyện, không có thì ra ngồi một mình ngoài vườn hoa ngắm trời, ngắm đất, đói thì nhai bánh mì. Có tiền là sả vào bàn chắn cạ, tổ tôm tài bàn, khi thua khi được. Tiền lương hưu của ông, ông tiêu riêng, tiền hưu của bà, bà cũng tiêu riêng, thiếu thì bả xin con cái, chúng nó mỗi tháng trợ cấp cho bà, đứa một chục, đứa vài ba nghìn đồng, chúng không đưa nhiều bởi chúng biết có tiền là bà lại vào đám bạc. Bà cũng giống như ông, chẳng bao giờ nấu cơm ăn ở nhà, cứ ra ngoài hàng mua năm trăm bạc cơm với bát canh rau là đủ bữa, có hôm cũng chỉ năm trăm đồng bún với bìa đậu chấm mắm tôm, ăn xong chùi mép đứng lên mò tới đám bạc cho đến tối mới về... Hai vợ chồng sống như vậy đã hàng chục năm rồi. Con cái cũng quen cảnh ấy, kệ cho ông bà sống thế nào tuỳ thích. Cô con dâu ở cùng nhà cũng kệ, có ai nhắc việc nấu cho bà hay ông ăn, nó bảo: “Biết nấu cho ai? Nấu cho bà chẳng lẽ không nấu cho ông, mà nấu tất cả thì cháu không còn hơi sức, với lại đi làm về muộn lại đi chợ, về nấu cơm dọn lên các cụ đã đi ngủ. Cuộc sống của ông già Thước cứ diễn ra như thế... như thế... như ngôi nhà cấp bốn dột nát chỉ chờ ngày đổ sập mà chẳng ai ngó nghiêng tới... Sự tàn lụi diễn ra ngày càng rõ rệt...

Mấy năm gần đây, ông già không đi lại được, đi đâu phải kèm theo cây gậy chống. Quán bia hơi lâu nay ông cũng không tới, nhưng hình ảnh về nó vẫn đọng lại trong ông như những kỷ niệm khó quên. Trước hết là cây bàng xanh lá vào mùa hạ, đỏ lá vào mùa thu, tới mùa đông thì trụi lủi, chỉ còn trơ trọi những cành khẳng khiu giơ lên bầu trời xam xám. Quán bia hơi vẫn rất đông khách tới nhậu, nhất là vào nhùng ngày cuối tháng âm lịch, khách hối hả đến ăn thịt chó, bởi sang ngày mồng một cho tới mồng năm, thịt chó nghỉ bán. Những ngày đông khách, người quây lấy hàng thịt và cô bán hàng thái thịt lia lịa, khách chỉ miếng này miếng khác, miếng nào cô cũng chiều, khách lễ mễ bưng hai đĩa thịt chó đầy tú hụ rồi quay lại lấy rau và một túm sả sống rồi chấm mắm tôm chanh ớt. Có đám khách trưa nào ông cũng gặp, thân thể họ lực lưỡng, mặc toàn đồ thể thao: giầy thể thao, mũ thể thao, ngực phanh ra để lộ sợi dây xích vàng chóe đeo quanh cổ, những cái túi to đùng đựng vợt, bóng, xe máy phòng ào ào. Những đĩa thịt chó được bưng lên và ăn, và văng tục, ý hẳn đó mói là tinh thần thể thao chân chính... Khách đến với bia hơi và thịt chó diễu xe máy qua mặt ông, đó là cán bộ dân sự com lê cà-vát miếng phì phèo thuốc Ba số, là sĩ quan quân đội hoặc công an, anh trung tá, anh đại tá, quân hàm và vành mũ đỏ chót, anh cấp thấp xun xoe đi trước dẫn đường... Xã hội bây giờ có lẽ chỉ có ăn và nhậu là rôm rả, ông già nghĩ bụng, chẳng ai đoái hoài gì đến ông già ngồi lặng lẽ ở đây. Xã hội đang hoạt động như vậy ư? Đấy là ông ngồi trong cái quán nhỏ, còn ở những quán khác sang trọng hơn, lại có các em xinh đẹp phục vụ, thì khách ăn tha hồ ném tiền qua cửa sổ.

Năm nay ông đã quá già, năm ngoái Chi hội Người Cao tuổi đã tổ chức lễ mừng thọ ông tròn tám mươi tuổi, tặng ông cái bảng mầu đỏ to bằng tấm vở học sinh có ghi tên tuổi ông kèm theo lời chúc tụng, lại được chụp ảnh chung với cấp lãnh đạo của phường, của cụm cũng là điều vinh dự, an ủi tuổi già... Sang năm nay, ông quá yếu, không đi lại được như trước, quanh quẩn hết ở nhà lại ra hè phố uống chén nước chè nóng ngắm nhìn thiên hạ đang đi lại như điên như dại mà nuối tiếc thời trai trẻ của mình. Hai mươi năm trước, khỉ về hưu, ông đâu có chịu nghỉ, hết tham gia công tác trên quận lại về phường, cứ chiếc xe đạp được mua cung cấp, kèm thêm cái cặp da cán bộ kẹp vào xe, đi đi về về, nói năng đĩnh đạc, sai bảo vợ con, chẳng ai dám trái lời... Vậy mà giờ đây giá ông có nói cũng chẳng lọt tai đứa nào chẳng ra nghe, chẳng ra không, cứ ngậm tăm đi thẳng. Ôi, tuổi già sao mà đáng ngán... Rồi ông già ít khi ra khỏi nhà, có cô gái bán rượu thường đến đem rượu cho ông, ông uống rượu để giải cơn sầu. Uống buổi tối chẳng cần gì đến sự ăn, chỉ cần uống, và khi uống, ông lại nhớ đến thời trai trẻ của mình, đến các đồng đội của mình. Mà những đồng đội của ông họ đã chết gần hết, thỉnh thoảng lại thấy họ xuất hiện trên màn hình ti vi trong mục Tin buồn, với đầy đủ họ, tên, chức tước với các huân, huy chương, người an táng tại nơi này nơi khác, người được đưa đi hoả táng... Ôi, nỗi buồn cứ trĩu nặng trong trái tim và mỗi lần như thế, ông lại vớ lấy chai rượu rót ra chén, vừa uống vừa ngẫm lại cuộc đời mình... Và ông nức lên khóc như đứa trẻ. Con cháu và bà vợ ông, cá những hàng xóm láng giềng nghe tiếng nức nở của ông, ai cũng nghĩ ông đang say rượu. Người ta cứ rượu vào là la hét, chửi bới, thậm chí còn đập phá, chỉ có ông là khóc. Những giọt rượu nốc vào, những giọt lệ trào ra, đó là sự say cay đắng.

Bây giờ bè bạn chẳng còn ai, hay còn một vài người, ông cũng không thể tới thăm bạn hay bạn cũng không thể tới nhà thăm ông. Bây giờ gọi là bạn của ông chỉ có hai người phụ nữ. Người thứ nhất là cô gái thường đem rượu đến cho ông, cứ tuần một lần vào sáng thứ hai khi cả nhà đi vắng, con cháu đi làm, đi học, bà vợ thì đi đánh bài. Cứ mỗi tuần, cô hàng rượu xách cho ông chiếc can năm lít, sau đó cô nấn ná ở lại dọn dẹp căn phòng bừa bộn và hôi hám của ông. Trước kia, ông nói với cô gái, căn phòng này sạch sẽ, sáng sủa, kê chiếc giường, cái bàn làm việc rồi tủ sách lại một bộ bàn ghế. Rồi bao nhiêu là báo, là tạp chí xếp hàng chồng bên cây đèn bàn. Ông thường ngồi đó nghiên cứu tài liệu với những cuốn sách dày cộp, nào Tự điển Triết học, nào Lịch sử đảng cộng sản Liên Xô, cả Lịch sử Đảng ta, rồi Tuyển tập Lênin, Tuyển tập Hồ Chí Minh v. v... Toàn những cẩm nang để ông đi giảng ở các lớp Tuyên huấn của quận, của phường mà học viên là những đảng viên mới hoặc cảm tình Đảng... Rồi bức tượng nhỏ Hồ chủ tịch bằng thạch cao đặt trên bàn, đối diện với ông. Trên tường treo những tấm lịch tờ từ mấy năm đổ lại, treo cho vui mắt chứ ông chẳng cẩn gì đến chúng, toàn những quà biếu của người ta khi ông còn tham gia công tác. Chính giữa bức tường treo tấm ảnh chân dung ông, ảnh bán thân, mặc quân phục đeo quân hàm đại tá bốn sao với các thứ huân, huy chương vàng chóe. Trông ông lẫm liệt, uy nghi, có lẽ đó là thời kỳ vàng son nhất của đời ông. Vậy mà năm kia, khi ông phải nằm viện mất hai tuần, thằng con trai ông đã thu dọn sạch sẽ, cả tượng Bác Hồ, cả ảnh chân dung ông cùng các tờ lịch, sách báo của ông, nó ấn hết vào cái hòm gỗ đẩy tít vào gầm giường, nên khi từ bệnh viện về nhà, ông cứ đứng sững, tất cả trống trơn, tưởng như ông vào nhà ai đó đâu phải nhà mình. Ông lặng người rồi cơn giận bốc lên đùng đùng, ông nằm vật ra giường, chiếc giường không có chiếu trải, đây bụi. Ông giận nhưng nào làm gì có ai để trút nỗi giận hòn. Cả nhà đi vắng hết, bà vợ sau khi đưa ông vào thoáng cái đã biến mất... Chỉ còn mỗi cách, trút cơn giận vào chén rượu. Thế là ông ngồi uống, vừa uống vừa nhìn ngắm càn phòng trống trơn. Tất cả đều sạch sẽ nhưng là sự sạch sẽ hoang vu... Mãi chiều, hai vợ chồng thằng con trai cùng hai đứa cháu nội mới về nhà. Tức thì cơn giận nung nấu trong ông được dịp bung ra. Ông đứng sững giữa nhà, tay chống cây gậy mà mắng chửi, cứ chúng nó mà mắng chửi, rồi ông đập phá, cây gậy vung lên gạt phăng tất cả. Thằng con chạy ra định nói, ông vụt luôn. Con vợ nó khôn ngoan cứ im thít. Bà vợ vừa thò đến cửa cũng biến luôn. Hai đứa cháu nội coi như không nghe thấy gì cả, đem quần áo ra bể nước tắm dội ào ào xong, chúng nó bật ti vi lên xem... Anh con trai hùng hổ bê mấy chai rượu của ông bày trên bàn: “Đây, ông có thích đập nữa cứ đập...” Và chính anh ta ném luôn chai rượu xuống nền gạch, cái chai vỡ tan, rượu đổ tung tóe và hơi rượu bốc lên nồng nặc... Ông gào lên:

- Chúng bay cút hết đi, mày được cấp nhà chẳng ở, đem cho thuê lấy tiền. Mày dồn cả nhà mày về đây báo hại ông... Đồ chó đểu, nhà này là tiêu chuẩn của ông, mày biết nhưng mày cứ ỳ ra, mày chỉ mong ông chết để mày hưỏng cả. Ông có chết cũng không đến lượt mày...

Cô con dâu từ trong bếp nói ra:

- Được thôi. Ông đuổi thì chúng con đi. Hết tháng này sẽ dọn đi. Sở dĩ là do bác cả bảo phải ở đây để trông nom ông bà.

Bà vợ từ nây vẫn lấp ló ngoài cửa, lúc ấy bước vào:

- Thôi đi chị ơi... Chị đừng có giả bộ nhân bộ nghĩa. Bảo phải ở đây để trông nom bố mẹ già, thử hỏi bao nhiêu năm anh chị trông nom gì chúng tôi. Nói thế không sợ hàng xóm người ta cười cho.

Anh con trai ý chừng xấu hổ mới ngăn bà mẹ lại:

- Con xin bà... Rồi nay mai chung con dọn đi nơi khác trả lại nhà cho ông bà, ông mà muốn cho ai thì cho...

Bà vợ lên nhà trên thấy đức ông chồng ngồi lặng đi trước mấy chai rượu đặt trên mặt bàn. Bà lặng lẽ lấy chổi quét những mảnh vỡ trên nền nhà. Ông già nhìn bà như nhìn một người xa lạ, không ai nói với ai lời nào, như thế cũng là hoà bình thân thiện lắm rồi...

Khi bà vợ đã bỏ vào nhà trong nằm ngủ, ông già vẫn chưa rời chai rượu, nhưng càng uống ông chỉ cảm nhận được mùi vị đắng chát.

Lúc ấy có bóng người đẩy cổng đi vào, nhẹ nhàng đến bên ông, đưa ra gói gì đó bọc giấy báo:

- Bác ăn đi, xôi chả nóng đấy, cháu vừa mua... Bác ăn đi...

Ông già nhìn lên nhận ra đó là người bạn thứ hai của ông, một người đàn bà tật nguyền ở cách nhà ông hai dãy. Một cô gái thì đúng hơn, tuy cô đã vào tuổi năm mươi nhưng chưa hề lấy chồng. Lúc đó ông già mới nhận ra mình đang đói, đói thật sự, ăn cơm buổi trưa ở bệnh viện, chiều về nhà lại sa vào chuyện to tiếng này, ông càng nốc rượu càng xót ruột. Ông nói: “Cảm ơn cô...” Cô gái nói: “Thôi bác đừng uống nữa, bác ăn xong rồi đi nghỉ, cháu về bán hàng...”

Cô gái nhẹ nhàng đi ra, lát nữa cô sẽ đem mẹt thuốc lá ra ngồi bán ở ngã tư đường phố. Mấy năm trước ông còn khỏe đi lại được ông thường gặp bà mẹ cô, một bà cụ già hơn ông đến chục tuổi. Bà cụ lưng còng như gập xuống, chống cây gậy ra ngồi sưởi nắng ngoài hiên, ấy là vào mùa đông. Mùa hè bà cụ cũng chống gậy ra ngồi đó hóng gió. Một bà mẹ già gần chín mươi sống với người con gái không chồng lại tàn tật, bên cánh tay bị teo quắt và bên chân dặt dẹo, mỗi khi bước đi, người cứ ngả nghiêng, cánh tay hất lên và bàn chân cũng hất lên. Hai mẹ con sống trong căn phòng nhỏ chừng chín mét vuông kê vẻn vẹn chiếc giường đôi, mùa đông hai mẹ con nằm chung, đắp chung chăn. Mùa hè, người con gái trải chiếu năm trên nên nhà, nhường giường cho mẹ. Hai mẹ con sống bằng tiền trợ cấp của người con trai, gian nhà ấy, chú ấy chiếm phía ngoài mặt phố, ngăn thành cửa hàng cho thuê, mỗi tháng hai triệu, biếu mẹ và chị gái mỗi tháng năm trăm ngàn, giao hẹn chị phải chăm sóc mẹ chu đáo. Hai năm trước bà mẹ bị ốm liệt, thoạt đầu còn ngồi lên được sau nằm không nhúc nhích, cô gái tận tình săn sóc mẹ cho đến khi bà cụ qua đời. Bây giờ người em trai chỉ đưa cho chị mỗi tháng hai trăm nghìn đủ để chị sống dè sẻn. Cô muốn có thêm tiền chi dùng, đành bê cái mẹt ra ngồi đầu phố bán thuốc lá lẻ nhưng cũng chỉ vào buổi tối nhoạng từ sáu giờ đến chín giờ. Cô gái có hàm ơn với ông già bởi đã một lần ông cho cô vay một trăm nghìn làm vốn. Cô nhớ mãi ân nghĩa ấy nên cô thường hay qua lại giúp đỡ, mua bán cho ông, lúc gói mì, khi gói xôi...

Ông già ngồi lặng lẽ ăn gói xôi chả mà cô gái vừa mua về, ăn mà nước mắt cứ nghèn nghẹn. Ông sống thật cô đơn chẳng biết trò chuyện cùng ai, nói với vợ không xong vì chỉ nói câu trước câu sau là cãi nhau, với con cháu cũng không được, trước hết bao giò chúng nó cũng sẵn ấn tượng ông là người lẩm cẩm, dở hơi, cũng chỉ câu trước câu sau là ông cáu lên với chúng nó... Người con gái lớn của ông thì ở xa, mãi trong thành phố Hồ Chí Minh, năm thì mười hoạ mới viết thư ra hỏi thăm ông bà. Người con trai cả sắp về hưu, sống với vợ con tuy cùng hàng phố nhung cũng ít đến thăm nom, nó đang bận xin đất hay mua đất xây nhà ngôi nhà những ba bốn tầng. Hôm xây xong nhà nó mời ông xuống ở với nó, nhưng ông lắc đầu. Lên sống với nó tất nó sẽ đùn ông lên ở trên tầng ba, sống ngất nghểu trên ấy tuy tiện nghi đầy đủ nhưng sống thế như bị quản thúc. Ông cứ nhà ông ông ở, căn nhà được cấp trước khi nghỉ hưu tuy dột nát, sập sệ nhưng là nhà của ông, bây giờ ông chỉ còn mỗi cái quyền ấy.

Năm trước, thằng con sống với ông gạ ông phá nhà để nó xây lại lên tầng cho đàng hoàng, nhưng ông dứt khoát không nghe. Nó phá nhà cũ làm nhà mới, thì nghiễm nhiên đó là nhà của nó, ông thành kẻ ở nhờ, ong há miệng mắc quai. Vì nếu nó có tử tế thì cũng mời bố trèo lên sống ở tầng ba, nghĩa là cũng quản thúc bố. Trời, chưa bao giờ ông thấy cuộc sống đảo điên như vậy?

Cô gái tật nguyền ngồi bán thuốc lá ở ngã tư đầu phố. Gió từ bốn phía thổi tới lành lạnh, cô gái nghĩ đến ông già ngoài tám mươi tuổi mà cô vừa mua xôi cho ông. Thật tội, cô thấy thương cảm cho ông già, có vợ, có con có cháu hẳn hoi mà như người cô độc, cô quả chẳng khác thân phận cô bây giờ. Mười mấy năm trước, cô nhớ sau khi ông nghỉ hưu trong quân đội, ông tham gia công tác trên quận, sáng sáng ông đạp xe đạp ra đi, quần áo chỉnh tề, giầy đen, âu phục đen đeo ca-vát nghiêm túc như một công chức thực thụ, chẳng ai nghĩ ông đã bảy mươi. Khi ông về qua nhà cô, ông còn dừng xe đứng nói chuyện với mẹ cô, hỏi han thân tình. Bà cụ quý ông lắm vẫn thường răn dạy cô phải biết quý trọng ông, rằng già rồi vẫn say mê công việc cách mạng, rằng gia đình ông là gia đình nề nếp v.v... Vậy mà chỉ chục năm sau, con người biến đổi hoàn toàn, lúc nào cô qua nhà ông cũng thấy ông ngồi uống rượu một mình hoặc ông chống gậy mò mẫm ra mấy hàng phở, hàng mì hoặc hàng rượu. Có hôm say quá, ông không đi được phải bò bốn chân, ngã dúi dụi, may có người vực lên dìu về nhà. Cô gái đi báo với anh con trai, anh ta vẫn coi như không, có lần còn bảo: “Kệ ông ấy, ông ấy ngã thì đứng lên bò về nhà... Ai đỡ được, ngày nào ông ấy chẳng ngã vì rượu...”. Ông già được dìu về nhà, nằm lăn trên giường, tưởng ngủ nhưng ông vẫn thức và la lối kêu rên rồi chửi “chúng nó” chẳng ai hiểu “chúng nó” là ai? Và “chúng nó” làm gì ông? Căn nhà đầy đặc không khí buồn phiền như có thể xắn ra được. Gia đình anh con trai vẫn lặng lẽ trong phòng, người vợ ngồi giặt bên bể nước, hai đứa con ngồi học bài, còn anh thì bó gối giữa nhà, hút thuốc lá, bà mẹ vẫn đi chưa về.

Đã một tuần nay, ỏng già không ra khỏi nhà. Bà vợ sáng mua cho ông bát phở, trưa lại bát phở còn bữa tối, ông ăn bát phở còn lại. Rồi bà ra đi. Nhà bây giờ quá vắng vẻ. Vợ chồng thằng con trai và con cái nó đã dọn nhà đi nơi khác. Chúng nó cũng không thể ở mãi trong cái nhà này bởi ông già cứ rượu và chửi rủa. Hôm nó ra đi, chúng nó có vào chào ông nhưng ông nằm quay mặt vào tường, coi như không nghe tiếng, mặt ông dàn dụa nước mắt, ông không dám quay ra, hơn nữa ông cũng không muốn nhìn mặt chúng nó. Chúng nó dọn sạch, chẳng để sót lại vật gì kể cả chổi cùn rế rách, có con chó nuôi từ chục năm nay, nó cũng đưa đi. Con chó khôn ngoan cứ rúc vào gầm giường không chịu ra, thằng con phải chui vào bế ra xe. Thế là chúng nó đi hết... Còn lại ông bà già ở lại, chúng nó không muốn dính dáng gì đến ông nữa. Nhà ông ông ở, nhà nó nó ở.

Có một đêm, ông già thức giấc, ông lại mơ thấy cây bàng. Về mùa này, cây đã trụi gần hết lá. Chiếc lá khô rời khỏi cành, quay cuồng trong gió và rơi bên cạnh ông, chiếc lá đỏ khé, cong queo. Tiếng lá rơi như một tiếng thở dài nặng nề. Những ngày gần đảy, ông già cảm thấy cái chết đến gần ông. Cái chết ám ảnh ông cả ngày lán đêm, mỗi khi nhắm mắt ông lại cảm thấy cải chết đến mỗi lúc một gần, không phải hình ảnh ông lão Thần chết với bộ xương trắng hếu khoác tấm áo choàng đen cầm lưỡi hái của châu Âu, không phải hình ảnh ấy mà là cây bàng mấy năm trước ông ngồi ngắm nó ở quán bia, cây bàng mùa đông khẳng khiu trụi lá... Đó là sự tàn lụi giống như ông bây giờ.

Khoảng gần sáng ông thấy bên cạnh sườn có cái gì như ngọn dùi nóng xiên vào đau nhói. Đau không ngủ tiếp được, đau đến mức ông bật kêu lên. "Ối mẹ ơi, đau quá, mẹ ơi...". Nước mắt ông dàn ra, tay ôm bụng, cơn đau âm ỉ, chốc chốc lại dội lên. "Mẹ ơi, cứu con, con đau quá, mẹ ơi...”. Con người ta dù là tuổi cao bao nhiêu, những lúc gian nam đều cấ. tiếng gọi mẹ, cầu cứu đến mẹ, chỉ gọi không gọi ai khác, đó là phản ứng tự nhiên của con người... Tiếng gọi mẹ, tiếng kêu la của ông vang trong căn nhà trống, chẳng ai nghe thấy. Bà vợ nằm ngủ gian bên thức giấc càu nhàu: "Rượu lắm, đêm cũng không để cho người ta ngủ...”. Bà cằn nhằn vậy rồi tiếp tục ngủ. Ông cứ la hét như vậy đến khi quá mệt thiếp đi...

Khi ông tỉnh dậy, trời đã gần trưa. Ông ngồi lên thấy ngay cái cặp lồng đựng phở nguội ngắt, ông ra đi giải rồi chống gậy lọm khọm ra cửa. Cánh cửa đóng chặt, luồn tay vào cái lỗ xích ông nhận thấy cái khoá to tướng. Bà ấy đã khoá trái cửa và đi rồi, chẳng biết đi đâu, ra ngồi ngoài công viên hay trong chiếu bạc? Bà đi, sau khi làm xong nhiệm vụ với ông: mua sẵn cho ông bát phở...

Hồi này ông luôn luôn nằm mê, trong cơn mê, ông thấy nhiều người, nhiều chuyện. Có đêm ông mê thấy ông chết, đám ma ông tổ chức ở Nhà tang lễ, vòng hoa chất quanh quan tài và người đi đưa toàn những anh em đồng đội cũ, những người đãhy sinh từ lâu hoặc mới mất. Gia đình chẳng thấy ai, chỉ có bà mẹ ông qua đời từ mấy chục năm đi theo quan tài ông, bà cụ cũng còng lưng gập xuống như bà mẹ cô gái thường vào nhà ông, còn cô gái ông lại thấy cô ngồi bán thuốc lá trước linh cữu. Đột nhiên có luồng gió mạnh những chiếc lá bàng kho đỏ rơi trên nắp quan tài rồi chính ông lại chạy ra nhặt lá vứt xuống đất... Ông tỉnh giấc, người mơ màng như vừa uống hết chai rượu mạnh rồi ông đau cơn đau đột ngột đến âm ỉ và ông bật kêu lên, la lối, gọi mẹ...

Ông đau nặng, người con cả nghe tin vội gọi xe cấp cứu đưa ông vào bệnh viện. Bác sĩ bảo phải mổ vì gan ông đã xưng tấy. Mổ xong, ông kiệt sức qua đời... Sự tàn lụi kết thúc vào mùa đông năm ấy. Ai cũng nói ông chết vì rượu, chỉ có cô gái tàn tật là im lặng không bình luận.

Mùa đông đi qua rất nhanh rồi mùa xuân tới với những đợt mưa phùn. Cây bàng bên quán bia hơi đã mọc lên những chồi lá non, ít ngày sau biến thành những chiếc lá non thay thế đám lá khô còn sót lại. Sang hè, lá bàng xanh mởn xòe kín, cây bàng như hồi sinh trở lại, một sức sinh thành mới khỏe khoắn và tươi tắn đầy sức sống...

Trưa hôm ấy, trời nắng, có hai người đàn ông vào quán uống bia. Một người nhiều tuổi, chừng năm nhăm năm sáu, một người ít tuổi hơn, kém người kia đến chục tuổi. Họ ngồi trước hai cốc bia và đĩa lạc rang. Đó là hai anh em ruột. Người anh nói:

- Hôm nọ trăm ngày ông, chú bảo tôi hôm nay đến để chú bàn việc nhà. Lúc nãy chú nói có bà ở nhà không tiện bàn, bây giờ chú nói đi. Chắc chú muốn bàn về cái nhà phải không?

Người kia gật đầu:

- Vâng, em muốn bàn với anh về cái nhà. Em muốn phá đi xây lại, nhà sập sệ quá rồi, phải làm lại mới ở được. Kỳ này em sẽ phá cả đi xây lên hai tầng rưỡi... ý anh thế nào?

- Chú phá đi xây lên vài tầng nhưng cho chú hay cho bà?

- Tất nhiên là em xây gia đinh em ở... Vợ chồng em đã sống với ông bà mấy chục năm, chịu đựng mọi nỗi, dĩ nhiên cái nhà ấy là thuộc phần em... Anh chị đã có nhà cao cửa rộng, thừa thãi rồi...

- Trước hết tôi hỏi chú, ý định này là của chú hay của vợ chú?

Người em gãi đầu, nói:

- Tất nhiên là em với vợ em...

Người anh uống cạn cốc bia, gọi thêm và nói:

- Thế này nhá: Chú nói là tôi đã có nhà cao cửa rộng nhưng đó là nhà của tôi bỏ tiền ra xây, cơ quan chia cho bốn chục mét đất. Mà chú nói tôi đã có nhà thì vợ chồng cũng có nhà tuy không rộng rãi như nhà tôi nhưng là nhà được cấp, chẳng mất đồng nào. Còn chú nói mấy chục năm vợ chồng chú đã chịu đựng, tôi thật sự thông cảm nhưng chú nên nhớ rằng chú có nhà riêng đem cho thuê và sống với ông bà tất nhiên sao bằng mình sống ở nhà mình. Với lại, vợ chồng chú cần nhỏ rằng vợ chồng con cái chú đã sống chung với ông bà mấy chục năm, của chú chú ăn, của ông bà ông bà ăn không ai ăn nhờ ai, đến khi ông ốm gần chết thì chú dọn nhà đì nơi khác, bỏ ông cụ nằm liệt cho bà cụ hầu hạ. Nếu vợ chồng chú không nhớ thì hàng xóm láng giềng người ta đều nhớ, người ta còn mua cơm, mua phở cho ông cụ...

Người em tự ái vặc lại:

- Thế sao ngày đó vợ chồng anh không nghĩ đến ông cụ, không xuống trông nom ông cụ? Anh là trưởng kia mà...

- Phải, đó là sai lầm lớn nhất trong đời tôi. Tôi quá chủ quan, tôi chỉ nghĩ ông cụ chỉ bệnh rượu thôi, không ngờ...

Hai anh em ngồi im lặng rất lâu, cuối cùng người anh nói:

- Thôi được, tôi tính thế này, nếu vợ chồng chu đồng ý: Ngôi nhà ấy là tài sản duy nhất của ông cụ để lại cho con cháu. Ngoài này chỉ có hai anh em mình. Gia đình cô Tâm thì ở xa. Chú muốn lấy cả nhà rồi phá đi xây lại, tôi chấp nhận nhưng vợ chồng chú phải cam kết giành lại hai phòng ở gác hai, một phòng đặt bàn thờ ông, một phòng để bà ở.

Người em gạt phắt:

- Anh là trưởng, anh phải đặt bàn thờ ông ở nhà anh, còn bà cũng xuống ở với vợ chôgng anh...

Người anh cười gằn:

- Chú tính toán khéo lắm. Tôi là trư ởng thì lẽ ra ngôi nhả ấy thuộc quyền tôi sử dụng. Bàn thờ ông phải đặt ở nhà ông, bà cũng sống ở đây để thờ phụng ông. Tôi biết vợ chồng chú không muốn để bà sống chung, tôi biết. Vậy đó là phương án một còn phương án hai là; ngôi nhà chia đôi ra, tôi cho vợ chồng chú một nửa chú muốn xây bao nhiêu tầng tuỳ còn một nửa tôi cũng xây, nhỏ thôi, để bàn thờ ông và nơi bà sống. Dù nhà tôi có cao to bao nhiêu, bà cũng không đến ở với tôi đâu. Như thế, có hai phương án, vợ chồng chấp nhận phương án nào cũng được chú cứ bàn bạc với vợ chú đi, mà mình chú cũng chẳng quyết định được phải vợ chú kia, sáng mai chú lên trả lời tôi. Chú lấy cả cải nhà ấy thì bà cụ không bao giờ chấp nhận. Ông mất thì nhà thuộc quyền bà, chú quyết định đi, tôi sẽ thuyết phục bà đồng ý. Thế nhá...

Hai người trả tiền rồi đứng lên ra về. Cuộc thương thuyết hai bên chưa ngã ngũ. Gió lại xào xào trên cành bàng, những chiếc lá xanh mướt phe phẩy, vài chú chim sâu giật mình bay vọt lên như những chấm cũng màu xanh, tiếng chim kêu chiêm chiếp, chích chích...

Ba tháng sau, khi mùa thu đến, gió heo may xào xạc, lá bàng sẫm lại và dầy, đã thấy sắc đỏ giữa thân lá, trên ngôi nhà cấp bốn của ông già Thước đã bị phá đi, mọc lên hai ngôi nhà giáp lưng nhau và đối lập nhau về phong cách. Ngôi nhà thú nhất một tầng mái bằng trên có lợp thêm mái tôn Ausnam, ngôi nhà quá khiêm tốn. Đó là ngôi nhà của bà cụ sống với bàn thờ ông cụ ở giữa nhà, dưới tấm chân dung một sĩ quan với đầy đủ quân hàm quân hiệu, huân huy chương vàng chóe nhưng nét mặt người trong ảnh cứ u dột, cau có thế nào?

Ngôi nhà thứ hai là của người em, cuối cùng thì họ chấp nhận phương án hai, thà chật một chút nhưng tự do thoải mái, ngôi nhà ba tầng ngất nghểu, bên ngoài trang trí đầy màu sắc với hai tấm cánh cửa kiểu “chuồng gà” (theo lối gọi của mấy anh thợ nhà quê) nghĩa là những thanh sắt dầy hàn gần sát nhau, chỉ lọt ngón tay, sơn đỏ sẫm. Một ngôi nhà khá đẹp, mọc lên như là sức sinh thành của một thế hệ mới. Chiều chiều, tiếng réo con, tiếng quát mắng cứ vang lên của người vợ nay đã thành bà chủ, xen vào tiếng chuông điện thoại gắt lên khiến người lạ đi qua phải giật mình..

SONG MÃ

                                                                        TỐNG NGỌC HÂN

Tờ mờ sáng, quán thắng cố của vợ chồng Hoạt còn chưa có lửa thì Hoạt đã nghe thấy tiếng hí của một con ngựa lạ ngay gần chuồng ngựa nhà mình. Hoạt bấm vợ ba cái vợ mới tỉnh giấc. Như hiểu sự tình, vợ Hoạt lại hắng giọng mấy cái gọi lão Sếnh. Lão Sếnh vừa là người giúp việc vặt trong nhà vừa là ông chủ nồi thắng cố, vừa là người chuyên giết mổ gia súc, tuổi đã ngoài sáu mươi mà ông vẫn tinh tướng, dẻo dai.

Trời đông đã vào Chạp, rét nhức xương. Lão Sếnh lục đục chui ra khỏi chỗ nằm. Mà cứ gọi luôn là ổ rơm cho bình dân. Nhà Hoạt, ngoài một cái giường to cho hai vợ chồng Hoạt ra, vẫn còn một cái chõng tre cũ nữa. Nhưng lão Sếnh không ưa cái giống chõng tre cho lắm. Vì dù mới hay cũ thì nó cũng kẽo kẹt, rên rẩm cả đêm như thể bị người ta đè gãy lưng đến nơi, nghe như ngày tháng rão ra, như đêm chùng xuống, mãi chả tới sáng, sốt ruột lắm. Lão Sếnh phải nhịn cái chõng tre như già nhịn trẻ vòi quà trước mặt khách. Tức anh ách khi không dám trăn trở, cựa mình, vì ngay lập tức bị cáo tội. Mà khi lão Sếnh nằm im giả chết thì bọn mối mọt thừa thắng phá phách. Tiếng răng của mọt mài vào, cứa vào tre nứa khô keng nghe càng rợn tai hơn. Tốt nhất ổ rơm, vừa êm, vừa ấm, sướng bằng ông hoàng, đố chăn nệm nào sánh được. Mà có trằn trọc, thao thức cũng chả ảnh hưởng đến ai, Tiếng rơm rợn rạo, êm tai và thân thiết dễ chịu biết chừng nào. Xa cái mùi thơm dìu dịu của rơm nếp vàng còn khó ngủ ấy chứ. Quán thì bé, một cái giường của vợ chồng Hoạt biết rên rỉ đã là quá lắm rồi.

Lão Sếnh kéo vạt áo chàm ngay ngắn, đẩy cửa liếp, bước ra sân, đi về phía chuồng ngựa. Trăng buổi sáng như trái đào cuối mùa bổ mỏng để tơ hơ trên cái đĩa men xanh chẳng đậy điệm. Mặt đất còn ngái ngủ. Tiếng vó ngựa khua lộp  khộp đánh thức một vùng đất khiến lão Sếnh nghiệm ra rằng, bình minh có từ mặt đất, có từ hoạt động của vạn vật và con người. Bình minh của bầu trời là thứ ánh sáng ban phát và muộn màng. Chẳng thế mà mặt trời bao giờ cũng dậy sau lửa.

Hoạt đứng ngay sau lão Sếnh, khịt khịt mũi để ra dấu cho sự có mặt chậm trễ đầy tính toán. Giọng lão Sếnh khấp khởi:

- Là một thằng Tía đực. Hai tạ thịt có dư.

Hoạt hỏi, rít qua kẽ răng:

- Đã cho vào chuồng chưa?

Lão Sếnh cười hắt ra:

- Đâu vào đấy cả. Nó mê tít con vàng nhà mình. Đúng là đồ dại gái!

Hoạt ra tận chuồng nhìn cho rõ cái thứ bổng lộc ngon lành bỗng dưng ở đâu lại mò đến cửa nhà mình. Hai con ngựa, một đực một cái quấn quýt lấy nhau như thể hẹn hò từ kiếp trước.

Lão Sếnh vào ổ rồi vẫn thấy tim mình đập mạnh. Dù xứ sở này được coi là xứ sở của ngựa, ra gặp ngựa, vào chạm ngựa, ra nương, ra ruộng, đến chợ, vào bàn nhậu, những ngựa là ngựa, mà lão chẳng khỏi xốn xang. Thằng Tía là một tuấn mã đẹp đẽ quý phái khác thường. Nó không phải là ngựa bản này, phố chợ này. Nhìn là biết ngay. Đến tiếng hý của nó cũng mạnh mẽ, bản lĩnh, đến tiếng vó của nó gõ vào đất cũng rộn ràng khác lạ. Đôi mắt sáng quắc, bộ bờm mượt mà và màu lông tía đậm quyền quý. Ngay cả cái hàm thiếc mà chủ nó gắn cho cũng là thứ kim loại có giá trị. Có thể từ những phiên chợ trước thằng Tía đã được chủ nó đưa đến chợ này giao dịch và nó đã làm quen với con Vàng. Rồi từ sự bất cẩn của chủ mới, nó trốn về đây, mang theo cả thừng và hàm thiếc. Trước khi băng rừng vượt núi về chốn cũ, nó ghé  thăm “cố nhân” chăng? Nếu quả như lão Sếnh phán đoán thì con Vàng cũng là con ngựa cái thật có diễm phúc lớn. Mà con Vàng cũng là con ngựa đẹp được Hoạt mua về từ một bản nhỏ heo hút giáp biên giới. Bộ lông con Vàng được sánh với màu của mật ong, của nhuỵ hoa. Cũng đài các, thanh tao với cái mõm thon thả, cái mũi trắng mịn màng và hai cặp giò yểu điệu. Đặc biệt là đôi mắt, lão Sếnh chưa từng gặp con ngựa cái nào có đôi mắt hiền lành và “có lời” như mắt con Vàng. Cả tiếng hý của nó cũng hiền đến tội nghiệp. Lão Sếnh chưa bao giờ thấy nó tỏ ra giận dữ, cả khi các đầu nậu vây quanh bàn tán. Nó là con ngựa nuôi làm nái cũng được, mà cõng thồ cũng được, chưa kể, nếu mổ lấy thịt, thịt nó cũng ngon.

Nhưng, đẹp rồi cũng chết. Thằng Tía quyền quý là “khách sộp” thì càng phải chết trước, chết nhanh. Chỉ có ba nhát búa vào giữa cái trán thông minh là đủ cho nó chao đảo, gục ngã. Sau ba nhát búa của lão Sếnh là đến cái màn chọc tiết điêu luyện của Hoạt. Cái sự giãy giụa đau đớn cũng chỉ diễn ra chóng vánh thôi... Rồi đến sự lột da, lọc xương, phân loại thịt. Ba phần giao cho mối hàng chợ huyện, phần còn lại vào chảo thắng cố. Còn được giây phút nào bên bạn tình thì cố mà làm tròn trách nhiệm. Cái của quý của thằng Tía sẽ được ngâm chìm trong rượu và bán cho các quý ông bồi bổ với giá vài trăm nghìn đấy. Thằng Tía lực lưỡng thế, của nó thì khỏi phải nói...

Hoạt lâng lâng, hồi hộp trên giường. Cái giường rộng thế mà phần dành cho Hoạt khiêm tốn quá, chỉ chừng phần tư. Vợ Hoạt nằm im thì Hoạt cũng mới có cái chỗ nằm khiêm tốn ấy. Ả mà dang tay, xoạc chân thì vừa hết, thân hình ả sẽ phủ kín cái giường luôn. Hoạt thấp bé, nhỏ thó bên cạnh cô vợ phì nộn, nhìn hơi lệch con mắt. Nhưng hễ ai mà ngứa lưỡi là Hoạt đốp lại ngay: “Con ong bằng nào? Quả bầu bằng nào?". Dần dà, thiên hạ phố núi cũng quen với cái cảnh con ong quả bầu. “ Con ong” giảo hoạt, căn cơ, tính toán, chăm chỉ bao nhiêu thì “Quả bầu” thườn thượt, lười biếng bấy nhiêu. Vợ Hoạt ngáp một cái mặt trời lập tức tròn bóng, ả rời cái muôi múc thắng cố là xoa xoa chân, lên giường. Ả ngáp cái thứ hai là mặt trời lặn, ả đập đập hai bàn chân vào nhau là lại lên giường. Việc quán xá, dọn dẹp, hai thằng đàn ông, một chủ, một tớ, một trẻ, một già cáng đáng, lo liệu hết. Ả ngủ trước con gà và chỉ dậy khi gà dẫn nhau đi nương, đi ruộng hết. Chả thế, thắng Tía hí nghiêng  một góc chợ thì Hoạt cũng phải bấm vào đùi non ba cái ả mới tỉnh đấy thôi. Lão Sếnh và Hoạt đều tính, ả vô tư, vô tâm thế, chắc thượng thọ đôi trăm tuổi.

Mà Hoạt không bồi hồi sao được. Xưa nay, nhỏ như con dúi, con ếch…. Hoạt đều phải bỏ tiền ra mua cả, đã ai cho không ai cái gì bao giờ. Bỗng dưng của lù lù một đống chui vào tận nhà mình, sung sướng ngột ngạt cả người lên ấy chứ. Nó được giá lắm, giá chót vót đấy. Nhưng có mà ngu thì mới bàn đến chuyện bán nó. Lên chợ, người ta bàn tán, mất hay. Lỡ chủ nó thấy thì rắc rối. Tất nhiên là phải chuộc rồi, nhưng chuộc thì chuộc được bao nhiêu? Cái gì chuộc thì không được tự do mang ra mà đấu, chẳng may mà gặp người quen thì có khi còn vài triệu cũng nên... Tốt nhất là là thịt! Da lột rồi thì thịt nào chả là thịt. Người ta đến chợ tìm ngựa, nhận ngựa, chứ đố ai dám nhận thịt, nhận thắng cố là ngựa của mình.

Vợ Hoạt ngủ nối một giấc nữa từ sau mấy cái véo của chồng nên không biết được Hoạt tính toán, suy nghĩ những gì. Đúng là vô duyên. Ấy thế mà bà con dân tộc đổ xô về cái quán thắng cố của Hoạt lại không hẳn đã đã vì sự giỏi chế biến của lão Sếnh hay tài chào mời của Hoạt. Vợ Hoạt chỉ cần một tay chống hông, một tay cầm cái muôi bằng gang to đùng lắc mông vài cái là khách khứa đã khoái rồi. Cái mông to nhưng là cái mông vợ người khác, cái muôi to mới là vấn đề. Đúng thế, vợ Hoạt luôn vục sâu, múc đầy và rót tràn. Mua bao nhiêu cũng múc đầy tràn hết. Tiền nhiều thì nhiều cái, tiền ít thì nhiều nước, còn được khuyến mãi câu nịnh “Khôn ăn nước, dại mò cái” ngược đời, sướng cười tít mắt nữa cơ. Mà đúng thế thật, cái nước thắng cố mới là thứ gây nghiện, mới là cái lí do dẫn rượu vào cõi say. Cái nước thắng cố đen xanh sền sệt, vừa cay nồng, vừa béo ngậy, vừa ngăm đắng, vừa bùi bùi ngọt, khó tả là sự kết hợp của hơn chục loại gia vị lấy ra từ vùng núi này, nơi nổi tiếng với màu trắng tinh khôi hoa mận, hoa mơ và quyến luyến dập dìu phiên chợ ngựa mỗi tuần một lần. Vì thế, chỉ ăn vài lần là nghiện. Đàn ông Mông vùng này đến chợ phiên mà không ghé quán thắng cố thì có cái gì đó thiêu thiếu, không trọn vẹn đàn ông. “Miếng giữa làng hơn cả sàng xó bếp”. Hoạt bảo cái chân lý đồng bằng này bị vùng cao chiếm hữu lâu rồi…

Lão Sếnh cười bảo Hoạt:

- Trong các giống bốn chân, con ngựa tình nghĩa nhất, thế nên thịt  nó, tiết nó cũng đậm đà. Thế nên thắng cố với tôi là món khoái nhất… Thế nên tôi là gã Mông chính hiệu.

Chả biết lão Sếnh có khoái thật không nhưng Hoạt phục cái tài của lão Sếnh. Tiền ở chợ, chầm chậm, lờ đờ theo chân thằng men chếnh choáng chui vào túi vợ chồng Hoạt mỗi chợ mỗi nhiều. Bán trâu, bán ngựa, tiền nhiều, rượu, thắng cố là đương nhiên rồi. Lão bán than, thằng bán măng, con bán gừng, bán rau cũng nghiện thắng cố… Một tháng bốn phiên thắng cố chợ ngựa, bán ngay tại quán chợ, la liệt người, nghiêng ngửa say. Một tháng bốn phiên chợ xa, chợ trâu, cái chảo được khiêng đi… Những ngày còn lại, vợ Hoạt nghỉ, cái chảo nghỉ, chỉ có Hoạt vẫn quay cuồng kiếm tiền và lão Sếnh như Thiên Lôi ôm búa Tầm Sét bị cuốn tít mù vào cái guồng quay lời lãi của Hoạt. Trâu, bò, ngựa, dê nhà nào ốm đau, ngã gãy chân, què cẳng, thậm chí chết bệnh gọi đến Hoạt là Hoạt  “đắt” hết, cấm có từ bao giờ. Và tất nhiên là Hoạt chỉ mua hàng ấy với giá chỉ đắt hơn “cho không” một chút. Hoạt nói với những kẻ chăn dắt, gió sương thế này: “Mua làm phúc, giúp đỡ anh em lúc khó khăn thôi chứ lờ lãi gì, nếu không ưng bụng thì mổ ra mà ăn dần vậy.”. Bố ai mà dám phanh cả con trâu, con ngựa ra mà ăn dần? Bán vừa được tiếng, lại vớt vát được đồng nào tốt đồng ấy.  Què quặt, ốm đau, vào tay Hoạt và lão Sếnh vẫn thịt A hết, lãi ròng, chứ trông đợi gì ở cái thứ bóng bẩy, mã mượt, khỏe khoắn như con Vàng kia. Dạo này rét quá, bệnh nhiều, lão Sếnh làm không hết việc, chỉ là việc lột da, xẻ thịt thôi, chứ cần gì đến búa với những con vật ngắc ngoải ấy, vì thế mà mãi chưa đến lượt con Vàng.

Tiếng hí tình tứ của cặp tuấn mã làm lão Sếnh thức sớm hơn thường lệ. Từ khi nom thấy thằng Tía, lão Sếnh thấy chán cái nghề giết mổ. Thì cũng sắp đến lúc giã từ cái nghề bạc bẽo này về cõng cháu rồi. Thực ra lão Sếnh chẳng phải người Mông, dù hết một đời ở cạnh người Mông. Thằng Hoạt cũng chẳng phải là người Mông nốt. Nhưng các loại Kinh mất gốc, mất rễ ấy mới ẩm ương khó chịu. Hoạt nhận lão Sếnh là đồng hương chỉ vì cái tiếng “khà” giòn tan mỗi khi cạn một cốc rượu đầy bằng một hơi điêu luyện. Đồng hương là cái gì đó vừa thiêng liêng, gần gũi, pha lẫn chút gì đó nhạt nhẽo, giả tạo…Thì đấy, khi say thằng Hoạt gục vào vai gã mà nức nở chẳng biết quê hương bản quán ở chỗ nào, lúc tỉnh thì thơn thớt: “Lương tôi trả ông bằng lương hai đứa giáo viên cắm bản. Đầu chúng nó đầy chữ, còn ông một chữ bẻ đôi cũng chưa có, nói vậy để biết tôi ưu ái ông”. Lão Sếnh cũng thấy mặt dầy lên, mọc lông ngứa ngáy sau câu nói của Hoạt. Nhưng máu chảy trong ngực lão Sếnh không phải là máu của gã đàn ông có tự trọng, thể diện cao ngất trời, nếu không lão Sếnh đã chả ở được với Hoạt cả chục năm ròng.

Nhìn con ngựa cái nằm ngoan ngoãn, tin tưởng bên chân con ngựa đực mà lão Sếnh buốt lòng vì nhớ cảnh đầm ấm vợ con. Chừng ân ái đã thỏa chúng đang nghĩ đến lúc được tự do bên nhau ở một chân trời nào đó chăng? Nhưng nội nhật hôm sau là thằng Tía hết đời, bổng lộc bao nhiêu thằng Hoạt hưởng hết, lão chỉ kiếm chút sái là cái bình rượu “ngẩu pín” thôi. Lão cũng chả uống, bán béng lấy tiền giắt lưng cho kỹ. Vợ lão già rồi, lão cũng đến tuổi nghỉ ngơi rồi, cố vực dậy cái đó làm gì cho mệt. Thằng Hoạt không biết uống thức gì mà khỏe gớm, con vợ nó lúc nào cũng tươi hơn hớn ra. Vợ vừa lười, vừa đần mà thằng Hoạt cấm có ca thán, nhiếc móc bao giờ. Chúng nó hợp nhau đến nỗi chả có kẽ hở nào cho thiên hạ chêm chọc. Lão Sếnh cũng chả thèm chêm chọc, lão chỉ thắc mắc là đứa nào không biết đẻ. Tại thằng Hoạt còm nhom, hay tại con vợ béo tròn lấp lỗ của nó? Lão cứ  ngờ ngợ nghĩ đến cái việc lão và thằng Hoạt làm mỗi ngày có lẽ nào ảnh hưởng tới cái đường con cái của vợ chồng nó. Ngẫm ra, chỉ có thằng Tía với con Vàng kia là đẹp đôi… Mà cũng chả đẹp đôi bằng vợ chồng Hoạt. Cả đôi cứ mở miệng là nói làm ơn, làm phúc như thể cái kiếp này sinh ra để làm phúc. Hay là việc hóa kiếp cho những con vật mỗi ngày cũng là việc phúc? Thoát kiếp trâu ngựa, kiếp sau biết đâu chả được làm người. Vợ chồng Hoạt hợp nhau, cần nhau như thắng cố cần có rượu mới thành say, thành nghiện. Có đêm, cái giường gãy thang, giáng cả hai vợ chồng xuống đất, lão Sếnh phải nhấc cái giường ra để giải cứu cho ông chủ suýt ngạt thở vì cái đùi của vợ mà Hoạt vẫn cười lích khích được. Tính ra cái giường của vợ chồng Hoạt  phải cấy, phải dặm thang đến mấy bận rồi.

Lão Sếnh cố tình không cựa quậy mà Hoạt vẫn biết là lão đã thức. Hoạt nói vóng qua phên liếp:

- Làm thằng Tía luôn sáng nay đi, mai chợ đông người, lắm kẻ soi mói!

Lão Sếnh bàn chùn:

- Chúng nó đang say nhau lắm, cho cô cậu yêu nhau thêm một ngày nữa cũng chả sao, vội gì chứ.

Hoạt đốp luôn:

- Vẽ vời, yêu đương gì! Cứ làm như người với nhau không bằng.

Lão Sếnh miễn cưỡng:

- Làm thì làm, đằng nào chả làm.

*

*     *

Hoạt thoăn thoắt mài dao. Vợ Hoạt vừa ngoác mồm ra ngáp vừa chuẩn bị xô chậu. Lão Sếnh vác cái búa ra chuồng ngựa, vừa ngó nghiêng vừa đăm chiêu. Hành hình con đực trước mặt con cái là việc làm khốn nạn, bỉ ổi nhất, thế mà vẫn phải làm. Lão Sếnh mở cửa chuồng, dắt thằng Tía ra bãi đất trống nham nhở dấu chân trâu, ngựa, buộc chặt nó vào cái cột “hành hình” bằng gỗ tốt chôn sâu dưới đất, chỉ nhô lên trên mặt đất gần một mét.

Tiếng phá phách của con Vàng trong chuồng làm lão Sếnh rợn rạo trong lòng, như thể có ai đó mang rơm khô vào dạ lão mà khoanh, mà trằn trọc. Con Vàng hí lên thảm thiết như chính nó sắp bị chọc tiết. Thằng Tía lồng lộn điên cuồng nhìn về phía con Vàng một cách tuyệt vọng. Lão Sếnh cầm quả búa gần bảy cân lên mà thấy tay mình run run.

 Lão cầm quả búa đi vào sân, đưa cho Hoạt và bảo:

- Chêm lại cái cán, cho chắc ăn.

Hoạt đưa con dao nhọn cho lão Sếnh, cười đầy ẩn ý:

- Xem đã sắc chưa? Có phải mài lại không?

Lão Sếnh cầm cái con dao đi ra chỗ cái cột hành hình, thừa cơ thằng Hoạt không để ý, lão đưa lưỡi dao sắc bén, cứa nhẹ vào sợi dây thừng ở chỗ cuốn quanh cái cột.

Hoạt cầm búa đi trước, vợ Hoạt mang chậu ra sau. Hoạt đổi búa cho lão Sếnh và cầm lấy con dao nhọn. Thằng Tía thấy cảnh ấy, không cam tâm chết, nó chồm lên giằng giật. Sợ dây thừng đứt phựt. Thằng Tía chạy về phía con Vàng. Con Vàng hí liên hồi như thể giục thằng Tía chạy đi.

Hoạt hét lão Sếnh:

- Mở cửa chuồng ra!

Lão Sếnh đủng đỉnh gạt cái chốt gỗ, phanh cánh cửa ra, nhưng thằng Tía không dại dột chui vào như sáng hôm trước. Nó đứng ngoài, hí một tiếng dài tri ân rồi co vó phi vút vào bình minh đang le lói sáng.

Hoạt ngồi phệt xuống cỏ chửi thề. Vợ Hoạt thong thả hiến kế:

- Thế nào nó chả quay về gặp con Vàng mà lo.

Hoạt gắt vợ:

- Nó chả ngu như đàn bà nhà cô đâu.

Lão Sếnh thở dài gượng gạo, bỏ vào nhà.

*

*     *

Con Vàng bỏ cỏ cả bốn ngày rồi, nom nó tiều tụy rõ. Hoạt bảo lão Sếnh thịt nó, có mối dưới thành phố gọi. Cái giống này, ngẫm ra tình nghĩa hơn cả con người. Cái độ thằng Hoạt bị trâu húc lòi ruột rồi phải nằm bệnh viện cả tháng, con vợ nó cấm bỏ bữa nào. Mà bỏ cơm là dại dột, có giải quyết được gì đâu. Vợ Hoạt vốn là đứa con gái lỡ thì nhưng cứ vô tâm để mọi sự cho ông bố giàu có sắp đặt, thế là ông chủ cửa hàng kinh doanh tạp hóa lớn nhất nhì phố huyện này đã tác hợp cho con gái mình với Hoạt. Người ta bảo Hoạt là chuột sa chĩnh gạo kể cũng chả đúng. Hoạt chả ngồi không mà ăn bao giờ. Vì sau khi được bố vợ cho cả trăm triệu làm lưng vốn, cho cả đất mặt đường, Hoạt vẫn ở quán chợ tạm bợ và hùi hụi kiếm tiền. Nhà thì cho thuê, tiền cũng cho thuê nốt. Cái cơ duyên gặp gỡ giữa lão Sếnh và Hoạt cũng là do thắng cố mang lại. Một lão già chuyên dắt trâu ngựa, đóng hàng thuê cho các thương lái, gặp một gã chuyên giết mổ, buôn bán gia súc sau có vài bát rượu là thành anh em, thành đồng hương. Lão Sếnh bàn với Hoạt việc mở quán thắng cố. Hoạt hỏi lão Sếnh về thắng cố, lão Sếnh chỉ cười nhạt: “ Ăn nhiều nên biết làm thôi ”. Thực tế không phải thế. Sau khi “hợp tác” với lão Sếnh rồi, Hoạt đi từ cái ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, lão Sếnh tuy thất học mà lại tài cán khác người. Sau mỗi lần giết mổ trâu ngựa lấy thịt ngon đem giao, số xương thịt còn lại cộng với nội tạng lão cho hết vào chảo thắng cố. Thắng cố nhà Hoạt vừa rẻ vừa ngon lại thêm “đong đầy múc tràn” nên đông khách là phải.

*

 *     *

Sáng hẳn. Con ngựa Vàng bị lão Sếnh dắt ra cọc “hành hình” trên nền đất trống mà nó không buồn cưỡng lại. Đôi mắt hiền lành của nó rầu rĩ nhìn cái chậu nhôm khê vàng vết máu, thi thoảng lại nhìn con dao trong tay Hoạt. Cuối cùng, nó quay về phía mặt trời mọc, giơ vó, tung bờm, hí một tiếng dài giã biệt. Hoạt tiến lại gần cái cọc, kiểm tra lại sợi dây thừng, sau đó hất hàm bảo lão Sếnh:

- Làm đi !

Lão Sếnh cố nuốt khan cái gì đó vướng víu trong cổ họng, tiến lại gần cái cọc. Lão quả quyết vung búa lên, nhưng, tiếng hí quen thuộc ngay sau lưng lão, ngay phía trước cuộc hành hình, khiến lão hồi hộp dừng lại. Cả ba người đều ngoái lại. Thằng Tía đã quay về thật.

Hoạt giơ tay bảo lão Sếnh:

- Khoan đã! Cởi con Vàng ra, dắt nó vào chuồng.

Lão Sếnh răm rắp làm theo.

Con Vàng ở trong chuồng với những cái văng bằng gỗ sa mu chắc nịch. Thằng Tía đứng cách chuồng mấy mét, sốt ruột khua vó xuống đất.

Lão Sếnh vào nhà, ngồi phệt xuống ổ rơm. Thằng Hoạt vào theo, mở cái hòm gỗ, lấy ra một bọc tiền. Hoạt ném bọc tiền xuống ổ rơm và nói rành mạch, chả vương vấn gì:

- Tôi cho lão nghỉ từ hôm nay đấy. Hứa sẽ gửi lão cái của quý thằng Tía để ngâm rượu.

Lão Sếnh cầm tiền, đứng dậy thu xếp mấy manh quần áo còn lành lặn cho vào túi chàm bước ra sân. Lão nghĩ thằng Hoạt đã ngờ lão làm hỏng việc đây mà. Về thì về… Lão Sếnh tấp tểnh bước đi. Tiếng con Vàng lại hí lên. Thằng Tía lúc cúc theo chân lão Sếnh. Hoạt thấy thế vội vàng quát lớn:

- Dừng lại! Dừng lại ngay !

Lão Sếnh chả rõ Hoạt quát người hay quát ngựa nên càng bước nhanh.

Hoạt quát to hơn:

- Tôi bảo ông dừng lại! Ông dẫn nó đi đâu ?

Lão Sếnh ngoan cố bước, lòng dâng đầy tự ái. Lão mà thèm tham cái thứ của phù vân ấy sao.

Hoạt tức tối chạy vào nhà, thò tay xuống gầm giường lôi ra khẩu súng săn, vừa chạy theo thằng Tía vừa nhằm chân nó mà nhả đạn.

- Pàng! Pàng! Pàng!

Thằng Tía nhảy chồm lên hí vang cả buổi bình minh rồi lao vút đi trên con đường sương còn ướt cỏ. Lão Sếnh quằn quại đau đớn. Máu từ chân lão phun ra thành vệt. Lão ngã vật xuống đất.

Hoạt chạy đến sốc lão Sếnh lên mếu máo, hoảng hốt hỏi:

- Có làm sao không?

Rồi Hoạt cuống quýt gọi vợ mang xe, mang ngựa ra để đưa lão Sếnh đi bệnh viện. Lão Sếnh cười nhạt, nói lào phào:

- Không chết được đâu! Cũng phải nếm mùi đau đớn cho biết chứ !

Con Vàng được dắt ra. Nó quỳ hai chân trước xuống để Hoạt đỡ lão Sếnh lên. Nhưng vì bỏ cỏ mấy ngày nên nó rệu rã quỵ xuống. Hoạt cuống quýt khởi động con “min” già, mãi sau cái xe cũng chịu nổ máy và xả khói đen kịt. Nghe tiếng xe nổ như tiếng súng, con Vàng chợt thức tỉnh điều gì nên nó từ từ gượng dậy rồi chạy đi… Thằng Hoạt vớ súng định chạy theo con Vàng, nhưng nhìn lão Sếnh đang giãy giụa dưới đất không đành lòng. Hoạt đực mặt, xót ruột nhìn con Vàng chạy về phía con đường còn in dấu chân thằng Tía.

Sa Pa, tháng 3 năm 2012

                                                                            

 

T.N.H

 

SÓI BIỂN

                                                  Truyện ngắn NGUYỄN NGỌC PHÚ

Cái chết của ông Ngư làm cho cả xóm Vạn Chài xôn xao: đó là con sói biển cuối cùng ra đi. Mặc dù xóm Vạn Chài này không ai có quan hệ huyết thống gì với ông Ngư nhưng họ coi ông như người thân trong gia đình, là niềm tự hào của họ.

Người làng kể lại rằng: ông Ngư là kết quả của cuộc tình vụng trộm của một anh ngư dân xóm Vạn Chài với cô hàng buôn nước mắm. Làng tôi nổi tiếng về nghề làm nước mắm. Cái thứ nước mắm màu cánh gián, sóng sánh như mật ong được nấu từ mắm muối cá cơm: loại cá cơm tươi ròng da thịt còn anh ánh cái màu lân tinh nước biển có một cái sọc trắng kéo dài dọc thân được đánh bằng lưới 10. Ghe, thuyền của dân Cửa Bạng, lạch Quèn đổ về nườm nượp. Làng sệt mùi nước mắm. Nhưng cũng lạ thật, các cô gái buôn thứ hàng này có nước da thật trắng, giọng nói thật duyên. Và đặc biệt mái tóc, trời ơi, mái tóc thật dài. Hình như nước mắm tinh khiết đã làm thay da, đổi thịt, làm tóc xanh lại, làm răng trắng ra, làm con mắt ướt át, đa tình hơn. Các cô gái có một bí quyết mồi chài quyến rũ dân Vạn Chài bằng cách sau khi mua bán ngã giá xong, họ mời các trai làng lên thuyền uống rượu nếp ủ hương thơm nức, uống bằng bát gốm Bát Tràng có in hình cánh buồm, mỏ neo, con thuyền lướt sóng, nhìn đã thấy sóng sánh cả mặt. Sau một chầu rượu ngà ngà say, các cô bưng ra những đĩa bánh cuốn tráng rất mỏng cuộn trong đó: mộc nhĩ, nấm hương, thịt nạc băm trộn với ruột tôm càng và được chấm bằng nước mắm họ mới mua, nhưng chỉ thêm vào một thứ gia vị đặc biệt được đựng trong một ống thủy tinh nhỏ: chỉ vài giọt thôi mà thơm nức, mà nhớ đời, ăn đến đâu thấm đường gân, thớ thịt đến đó. Về sau dân Vạn Chài mới biết cái nước thần kỳ diệu đó là tinh dầu cà cuống. Các trai làng quen ăn sóng, nói gió bỗng trở nên rụt rè, vụng về trước món khoái khẩu này. Dạo ấy bão to thuyền buôn phải nằm lại. Dân Vạn Chài rỗi việc, suốt ngày mui thuyền kéo kín. Con thuyền nhỏ cứ lắc lư, lắc lư theo cái nhịp điệu không phải là của sóng, của gió mà là những cuộc giao hoan cho bõ những ngày ăn đứng, ngủ ngồi hỏm mắt rình rập với con mực ngoài khơi. Cô gái xứ Thanh phải lòng anh trai xứ Nghệ và bẵng đi một thời gian khi thuyền buôn quay lại thì cô gái choáng váng khi biết tin bố của đứa bé đang nằm trong bụng mình sắp đến ngày sinh mà cô cố buộc thật chặt giải chiếc yếm sồi với chiếc quần vải thâm do dân Đồng Môn dệt nhuộm bùn đã chết biển; chết không tìm được xác; chết biển tội lắm: Chim tha, cá rỉa. Cô như người mất hồn đếm lẫn cả tiền mua tháo, bán tháo cho xong rồi một mình bơi cái thuyền thúng tròng trành sang dãy nũi Nam Giới trèo lên cái khe Hao Hao nước trong vắt tìm lại cái tảng đá phẳng như chiếc phản gỗ mà thiên nhiên đã kê rất đẹp. Người xưa bảo đây là bàn cờ tiên khuất sau hai hòn đá chồng lên nhau thật trớ trêu, chênh vênh gọi là đá ông, đá bà. Chính tại đây họ đã dìu nhau lên tột đỉnh của khoái lạc sau khi khỏa thân tắm nước khe mát rượi và nướng cho nhau ăn những con cua lột vỏ bắt trong hốc đá. Lúc mấp mé bên vực sâu của hụt hẫng bỗng chàng trai hít hít mái tóc dài buông xõa của cô gái và khẽ thốt lên: lá sả! Trời ơi, mùi lá sả! Họ mệt lả nằm bên nhau thở dốc...

Cô gái thẫn thờ lấy hai bàn tay vuốt nhẹ mép đá, mặt đá cứ ngỡ đó là da thịt của chàng trai, còn ủ hơi người. Đêm đó cô không trở về xóm Vạn Chài mà cứ ngồi đăm đăm nhìn ra biển. Những đám mây cuộn lên mang dáng chàng trai ngư dân lực lưỡng phút chốc tan ra thành hình con cá mập và cuối cùng đùn lên nấm mộ bông như một bông hoa cúc trắng. Gần sáng cô trở dạ: và đứa bé đỏ hỏn được bọc trong miếng vải buồm mà chàng trai xé tặng cô ngày chia tay. Nhúm rau cô ném xuống biển như muốn báo tin cho chàng trai biết: Con của anh đã ra đời - một chàng trai biển hẳn hoi. Trưa, chiếc thuyền của bố cô rúc tù và, kéo buồm báo cho đám thủy thủ say rượu trên làng xuống thuyền. Cô vội vã giấu đứa bé vào bên bụi rậm gần khe đá rồi xuống chiếc thuyền thúng cứ để cho nó buông trôi. Cô mệt lả, bầu vú căng nhưng nhức. Chiếc thuyền của cha cô vớt cô lên và dong thẳng một mạch về Thanh...

Đứa bé được một chiếc thuyền câu sang lấy nước ngọt phát hiện ra và đem về nuôi. Cứ thế nó lớn dần lên bằng tất cả các bầu vú sữa của đám đàn bà xóm Vạn Chài đang nuôi con nhỏ. Cái xóm Vạn Chài lạ thật; nghe nói ngày xưa họ là dân bộ Lô, bộ Chính dạt từ Quảng Bình ra. Cứ thế họ sinh sôi nảy nở, thuyền đẻ ra thuyền. Những đứa bé bò lổm ngổm trên thuyền như cua, đứa nọ cao hơn đứa kia nửa cái đầu. Chúng được nuôi trên sóng với gan cá nhám cho mắt sáng ra để nhìn tinh luồng cá. Họ ít khi lên bờ, mua bán gì cũng kẻ trên thuyền, người dưới biển chủ yếu bằng phương thức đổi. Bắp chân họ teo lại nhưng bắp tay và lồng ngực thì cuộn lên như những mũi neo. Đặc biệt là đôi mắt nhìn cứ nheo nheo xuyên thủng cả mây núi, sương gió để nhận sao, đoán sóng tìm về cửa lạch không cần la bàn. Và cái tai thật thính nghe được tiếng thở của cá để đoán biết bầy đàn đang đi là loại cá gì. Lên bờ, họ đi như chạy, người dúi về phía trước, hai tay bơi bơi. Thằng bé được xóm Vạn Chài nhận làm con nuôi chung và đặt tên là thằng Ngư, được cái nó thấm cái gien của anh trai làng kia nên nhanh chóng trở thành một con sói con - mới 10 tuổi đã được các bậc kỳ cựu cho cầm lái xuôi về không bao giờ nhầm lạch, 15 tuổi đã một mình đứng đầu mũi thuyền dùng cước số 8 để câu cá cờ, có con nặng hàng tạ, cá cờ bén câu là nhảy thẳng đứng lên như mũi tên; người và cá thường phải vật lộn với nhau hàng giờ. Thằng Ngư lì lợm chưa bao giờ bỏ cuộc. Mưa cũng như nắng, nó chỉ đánh độc chiếc quần đùi may bằng vải buồm, cái mảnh vải ngày xưa mẹ nó bọc tã lót, vải buồm nhuộm nâu thật bền. Tuổi 18 thằng Ngư tập uống rượu và ăn cá gỏi. Dân Vạn Chài chọn cá trích tươi làm gỏi, họ lựa lưỡi dao bén ngọt lóc thân cá ra trộn với các thứ gia vị: chanh, tỏi, nước mắm, hạt tiêu, đường. Ăn cá gỏi khỏe người lắm. Họ chữa bệnh đau dạ dày bằng cách moi cái bao tử cá to lấy trong đó những con cá nhỏ có dính đầy nhớt rán lên rắc hạt tiêu nhắm với rượu. Thằng Ngư khoái nhất là khi câu được con đẻn -  một loài rắn biển. Nó cắt tiết hứng ngay vào bát rượu và khéo léo xẻ lưng lấy cái mật bỏ vào. Hai tay nó bưng bát rượu lên ngang tầm mắt lầm rầm câu gì đó và khẽ rót xuống biển một phần thứ rượu pha huyết đẻn sau đó nó tợp luôn một hơi hết cạn; lấy tay chùi mép, cứ thế lùa gần hết một góc mâm cá gỏi vào miệng. 20 tuổi Ngư trở nên thẫn thờ. Nhiều ngày nó tựa vào cột buồm đăm đăm nhìn những bầy chim kéo đàn tránh bão. Nhìn những đàn cá bạc má lóc bóc búng vây rộ lên như mưa rào. Buồn nhất là khi chiều xuống hải âu từng cặp khàn giọng bay đôi lặn dần vào ráng đỏ cái tổ ấm xa vút vời tầm mắt. Trai, gái xóm Vạn Chài cứ thế khéo đôi, vừa lứa. Ở tuổi Ngư họ đã có một chiếc thuyền câu riêng và một lũ con.

Một chiều nọ Ngư bỏ chuyến đi biển lên làng xem tuồng. Đội tuồng làng tôi nổi tiếng cả một vùng. Họ bôi mặt, đeo râu, gươm oai vệ. Có anh chắt Hóa người gầy đét, ốm yếu thường đi hôi cá. Nhưng bù lại anh có giọng hát tuyệt vời thường được giao đóng Vua. Vua phải độn thêm trong lớp áo những túi giẻ rách cho phồng to lên nom thật oai vệ cũng: “Như ta đây...” xưng danh vung gươm, múa giáo, dân chúng sợ xanh mắt. Khác hẳn với anh chàng nhỏ thó bẽn lẽn như con gái khi xuống thuyền xin cá, xin cũng rất văn nghệ bằng cách anh đặt ra những câu vè đồng dao dạy cho bọn trẻ của xóm Vạn Chài kiểu như:

“Thương vài thằng khố bần

cực vài thằng khố chạc

giọt mưa rơi lác đác

ướt chi được lá môn"

Ngư thường há hốc mồm nuốt chửng những câu vè của anh chắt Hóa và tự mình bịa ra những câu đại loại đúc kết kinh nghiệm đi biển kiểu như: “Tháng bảy, nước chảy lo le” ; “tháng chín, nhịn đi buôn” hay có câu như ca dao nghe thật ai oán: “Tháng ba trong nước em ơi, bớt cơm anh lại mà nuôi mẹ già!”. Chiều đó Ngư rủ anh chắt Hóa ra quán rượu của ông cụ Mày nạp “xăng” cho anh. Rượu vào lời ra, anh chắt Hóa như một cái máy nổ đứng lên lượn vài vòng theo tích tuồng “Lưu Bình, Dương Lễ” làm cho Ngư cười lộn cả ruột. Khi anh chắt Hóa lảo đảo đi về phía sân vận động để hóa trang Ngư thấy buồn thui thủi, len lén đi ra phía cạnh điếm canh bỏ hoang trong vạt phi lao. Đến gần anh bỗng nghe tiếng khóc rấm rứt, thì ra trong đó có một cô gái đang ngồi khóc sưng cả mắt. Cô gái này là dân chợ huyện, chuyên xuống bán rượu cho dân Vạn Chài. Hễ thấy gánh rượu của cô xuống là đám trai làng vây quanh. Cứ thế tiền trao, rượu múc họ ngồi vừa uống vừa tán tỉnh nhưng không có ai sàm sỡ. Có một người quá chén định giở trò bị đám trai làng vứt xuống biển uống một trận nước căng bụng mới được vớt lên, từ đó sợ khiếp hồn. Cô gái đâm nghiện cái mồ hôi nồng nặc pha vị mặn mòi gió biển của đám trai làng, cả cái giọng nói nằng nặc khê đặc pha đôi chút tiếng lóng. Cô thích xem họ ngà ngà say vừa nghêu ngao bá vai, bá cổ hát các bài vè của anh chắt Hóa đặt. Người say rượu thật hồn nhiên, họ đâm ra cởi mở và thật bụng. Họ luôn dành cho cô những món quà nhỏ: khi là một chiếc vỏ ốc đẹp, mấy con mực khô, vài cặp cá thửng nướng. Đáp lại cô gái bao giờ cũng bán vừa phải giá, trả lại số tiền thừa mà họ quên, và đôi lúc cũng liếc mắt đa tình. Trong số họ, Ngư là anh chàng cô mến nhất. Khác với những người khác, Ngư có cặp mắt thật buồn, vui đó, buồn đó và pha chút mộng mơ. Anh Ngư ít nói, mà nói có duyên đáo để, nói thật chí lý ví như: “Không ai làm giàu bằng biển cả, làm giàu bằng biển là có tội” hay “Biển ở trong mắt o đó” làm cho cô gái đỏ mặt, rượu sánh ra ngoài ướt cả vạt cát. Chiều đó cô kể cho Ngư chuyện mình bị bố mẹ ép lấy một thằng chuyên nghề mổ lợn ở chợ huyện. Thằng đó nhà giàu, mắt lúc nào cũng đỏ kè kè, mặt lì ra như cái phản thịt. Và cứ hễ nhìn nó giơ con dao nhọn hua lên mấy vòng như múa trước khi chọc tiết lợn máu phun ra như cần câu cô đã tái mặt. Cô bỏ làng xuống đây chờ đêm xuống ra biển trẫm mình. Bởi cô biết dân biển có tục lệ thiêng liêng: hễ vớt được ai chết đuối cũng làm ma chay, đình đám đàng hoàng, họ xem như đó là một bổn phận, dịp may để họ làm phúc, nhất là vớt được xác đàn bà.

Ngư lựa lời nói mãi cô gái mới yên tâm chịu cùng anh đi xem tuồng. Khi anh chắt Hóa bước ra sân khấu cả đám đông nhốn nháo lặng phắc nghe anh đọc bài vè mới ứng khẩu chiều nay. Bài vè kể về một người chết biển. Tự nhiên Ngư bưng mặt khóc, khẽ thôi, nhưng cô gái biết. Dòng nước mắt nóng hổi chảy xuống tay cô làm người cô run lên như có một luồng điện chạm vào. Hai người dìu nhau rời khỏi đám đông về cái điếm canh. Họ lót lá phi lao làm ổ. Và trong ánh trăng mờ mờ Ngư lần mở từng miếng vải trên người cô. Đây là lần đầu bàn tay chai sần quen kéo neo, kéo lưới của anh chạm vào da thịt đàn bà mát rượi. Đến lúc khuôn ngực với hai núm vú căng mây mẩy như đôi quả đào tiên lộ ra thì tự nhiên Ngư nhủn người xuống. Gân cốt căng như dây đàn lúc nãy bây giờ nhão ra, bao ham muốn trong anh đang ngùn ngụt dâng lên bỗng tắt lịm đi. Trước mắt anh không phải là một cô gái mà là một người đàn bà. Anh thốt lên như mê sảng: Mẹ ơi! Môi anh lướt nhẹ trên khuôn ngực và bập vào núm vú. Anh như một chú cún con ngoan ngoãn trong vòng tay vỗ về của cô gái. Mặc dù cô gái âu yếm bằng mọi cách vẫn không làm cho Ngư nguôi đi được bởi sự ám ảnh về những người đàn bà xóm Vạn Chài cho anh bú thuở xưa. Sự thiếu hụt tình thương người mẹ bỗng trào về day dứt. Họ ôm nhau nằm thiếp đi đến gần sáng lúc gà gáy rộ lên. Xóm Vạn Chài lục đục đã có thuyền về bán cá. Ngư choàng tỉnh dậy và nhận ra bên mình là tấm thân trinh nguyên của cô gái bán rượu mà lâu nay anh vẫn thường nhìn trộm. Bản năng người đàn ông trong Ngư được đánh thức. Anh chồm lên cơ thể cô gái. Sức khỏe cường tráng pha chút hoang dã của Ngư đã tạo ra một cơn bão lốc. Hai xác thịt hút vào nhau đến kiệt cùng. Giống như đôi sam quấn nhau trong mùa hoan lạc mà Ngư thường bắt được cả đôi. Chúng cũng không chịu rời nhau cho đến lúc giội nước nóng vào các cặp chân mới duỗi ra tách rời. Họ nằm lặng bên nhau như biển lắng xuống để chốc lát dông tố bùng lên như gió đổi chiều trong mùa bão.

Ba chục năm sau ở cửa lạch làng tôi có một chàng trai về gác hải đăng. Chàng trai ít khi sang làng. Khi có việc cần mua gạo, củi thì nhờ thuyền bà chắt Hóa. Bà chắt Hóa chính là cô gái bán rượu chợ huyện. Sau đêm gặp nhau Ngư cùng cô gái dạt sang vùng dân làm muối. Họ ở tạm trong góc nhà kho đựng muối. Hàng ngày đi làm thuê cho nhà buôn Phát Đạt -  một ông chủ hãng muối lớn kinh doanh thời đó. Làm muối cực lắm; bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Người ta nói: “muối là máu của đất” không sai. Một đêm, sau khi ân ái, cô gái báo tin cho Ngư biết họ sắp có con. Ngư ôm riết cô vào lòng mình khấp khởi mừng. Nhưng rồi càng ngày cô thấy anh càng thẫn thờ. Anh nhớ biển. Anh như con cá bị vứt lên bờ trói chân, trói tay. Anh thèm cái khoảng không bao la của biển. Anh khao khát trở lại xóm Vạn Chài với một ước vọng: góp tiền mua một con thuyền câu đón hai mẹ con cô về ở với mình. Đêm chia tay họ nằm bên nhau không ai nói gì cả. Ngư đưa bàn tay vuốt ve cái bụng phập phồng theo nhịp đập gấp gáp của trái tim cô gái. Anh thầm thì: Chúng mình sẽ có con! Có con! Có con. Nhưng gần đến ngày sinh thì thuyền anh bị bão dạt trôi vào đảo Hòn Mắt gần một tháng. Cô gái mỏi mòn chờ trông. Đêm trở dạ, cô yếu lắm. Bà chủ nhà đi nhờ bà mụ ở xóm trên xuống cắt rốn cho đứa bé. Cô gái ngất đi chỉ loáng thoáng nghe tiếng khóc của trẻ sơ sinh và tiếng người nói xôn xao, tiếng giành giật nhau. Mấy ngày sau tỉnh lại thì bên người cô là một khoảng trống không lạnh ngắt. Nhà buôn Phát Đạt đã cho người đến bắt trộm đứa con mới sinh để phạt vợ chồng Ngư không thực hiện đúng hợp đồng làm thuê cho họ. Cô gái như một cái xác không hồn vật vờ quay trở lại xóm Vạn Chài và ngã gục ngay trước chiếc lều của anh chắt Hóa.

Họ trở thành vợ chồng khi nghe thuyền Ngư bị nạn đắm biển trôi dạt đâu đó ở ngoài Thanh. Anh chắt Hóa bỏ nghề đi hôi cá cùng vợ làm nghề đóng đáy trên sông - dòng sông chảy ra cửa lạch. Từ ngày có ngọn đèn biển, các vụ tai nạn thuyền, bè vào cửa lạch giảm hẳn đi. Có hôm chàng trai lên cơn sốt, bà chắt Hóa bỏ cả đóng đáy lên chăm sóc, bón từng thìa cháo cho anh. Bà rất thương anh khi nghe nói anh mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Anh tình nguyện về đây gác hải đăng với mong muốn tìm lại người mẹ thuở xưa mà bố nuôi của anh bảo là người làng gần đây...

Sau tháng bão Ngư trở lại xóm Vạn Chài với một lời nguyền trước biển: không bao giờ lên làng nữa, không bao giờ lấy vợ nữa! Không bao giờ! Không bao giờ. Sóng biển lấp đi tiếng gào của anh trong một đêm tối trời...

Ông Ngư thành một con sói biển kỳ cựu nhất xóm Vạn Chài. Chỉ ngửi hơi biển ông đã biết được luồng cá đang chạy ở đâu. Đánh cá như đánh bạc. Có khi cả mẻ cá vào lưới mà kéo lên vẫn trắng tay vì lưới rách hoặc neo đứt. Có những đêm sương mù dày đặc, cây rạo bằng tre trồng ở làn nước sâu 25 sải tay cách bờ gần 50 cây số nhưng ông Ngư vẫn cầm lái chém sóng luồn gió ra đi. Ông huy động tất cả các giác quan linh cảm của mình để tìm rạo nhà. Mắt nhìn sao, tai nghe chiều sóng vỗ thuyền, lưỡi nếm mùi gió. Đến lúc ông cho bỏ neo, đám thủy thủ ngơ ngác vì chưa thấy rạo đâu, ông bảo: “Nó đã ở kề đây rồi, sáng mai sạch mù, khắc thấy”. Quả nhiên lúc mặt trời lên, sương mù tan thì cây rạo đã kề cạnh. Ông Ngư ngày càng lầm lì, lấy rượu giải khuây. Đến một ngày gân cốt đã mỏi, ông truyền nghề cho đám con trai xóm Vạn Chài, đọc cho họ chép lịch thời tiết trong năm, ví dụ như: Ngày 7/2 là có giỗ nhà cụ Bát là ngày đó có bão cả thuyền nhà ấy chết; thời ấy ít có đài, chủ yếu dựa vào các ngày giỗ để tránh bão.

Gần đến con nước 21 tháng 6 là thời điểm mực ăn nhiều nhất trong năm. Ông Ngư quyết định cho thuyền ra rạo Cồn ở làn nước 18 sải. Ở dưới đáy biển vùng này có một cồn cát sóng lượn bồi đắp lên. Mực đóng ổ xây tổ như con ong. Gặp đêm dông mực ăn nhiều nhưng chỉ rộ lên một lúc như tằm ăn rỗi ở một độ sâu nhất định rồi lặn biệt tăm. Ông Ngư bảo đám trai làng: Muốn câu mực phải có mẹo, ông cha đã bảo: “Mực mẹo” mà!. Có lần thuyền ông Ngư đỗ đúng ổ mực cứ thả bất cứ dây gì xuống vòi mực cũng bám vào và kéo lên hàng chục con. Trong khi đó các thuyền đậu xung quanh chỉ có đứng nhìn và ngủ gật. Của biển là của trời cho, không ai gieo mà gặt.

Đêm đó quả nhiên có dông thật, thuyền lắc lư, chao đảo. Ông Ngư bỏ mồi đầu tiên. Bằng sự nhạy cảm đặc biệt ở da tay, ông giật giật sợi cước và thông báo cho các thuyền xung quanh biết mực đang ăn ở làn nước sâu 13 sải tay. Riêng ông cứ rình rập mãi với một con mực chúa. Mọi người rộ lên vì mực ăn nhiều nhưng không thấy ông Ngư giật câu. Ông ngồi như một bức tượng, lưng dựa vào tay lái, trước mặt bát rượu đã cạn, hũ rượu còn non nửa. Đến lúc ông thét to: “Ăn rồi”. Mọi người đổ xô lại. Quả nhiên trong làn nước trong xanh do ánh đèn măng - sông hắt xuống, một con mực ống dài gần một mét mắc lưỡi câu đang trườn lên mặt nước lừ lừ như một con rắn. Gần đến be thuyền nó phụt ra một luồng mực đen mạnh chưa từng thấy vào người ông Ngư bắn tung tóe cả những người đứng cạnh. Ông Ngư lảo đảo, hai mắt tối mù nới lỏng dây câu. Được đà con mực quẫy đuôi trốn thoát. Hai tay ôm mặt, ông Ngư “hực” lên một tiếng và như một cái xác không hồn đổ xuống rũ rượi cạnh hũ rượu và bát lỏng chỏng. Mọi người tản ra mải mê với mực bỗng nghe tiếng rơi bõm, họ quay lại không thấy ông Ngư đâu nữa. Đêm đó tất cả các thuyền trong xóm Vạn Chài quây đi, quây lại như đan lưới vẫn không tìm ra được xác ông Ngư.

Ba ngày sau trời mưa bão, thuyền bè về cả chỉ còn dân đóng đáy trong sông bòn con tôm, con cua thì bỗng nhiên tờ mờ sáng đáy ông chắt Hóa kéo lên thật nặng. Nhưng kéo lên thì trời ơi, một cái xác. Một người đàn ông có mái tóc bạc như cước nằm sấp. Lật người ra ông chắt Hóa rụng rời: đó là ông Ngư. Gương mặt chìm trong nước ba ngày mà vẫn tươi tỉnh như lúc còn sống. Ông chắt Hóa hú hồn khấn mãi và lấy rượu miết vào mí mắt vẫn không chịu khép.

Xác ông Ngư được dân xóm Vạn Chài đưa lên bờ cát ngay dưới chân ngọn hải đăng. Chàng trai gác đèn biển nghe tin chạy xuống. Anh thắp một nén hương rẽ đám đông bước lại gần sát ông Ngư. Mọi người sửng sốt kêu lên: từ mũi và mồm của ông Ngư một dòng máu trào ra, anh con trai sững sờ đăm đăm nhìn xác người chết và nén hương trong tay anh bỗng bùng cháy. Anh ôm lấy xác ông Ngư nấc lên: Bố ơi! Khi những giọt nước mắt nóng hổi của anh nhỏ xuống mí mắt của người chết thì bỗng nhiên đôi mắt của ông Ngư từ từ khép lại, đôi môi hình như giật giật nở một nụ cười mãn nguyện...

Sóng vẫn vỗ vào bờ. Bên kia sông có một người đàn bà hai tay chới với và đổ ập xuống bờ cát, mười ngón tay cào cào vào mặt cát, chỉ còn nghe thấy lũ dã tràng giương mắt đỏ như mũi kim nhức nhối rào rào chạy trốn...

                                                                                  

 

N.N.

 

 

Giọt nước cằn

                                     Truyện ngắn  PHẠM THANH HUYỀN

Bà Thanh dáng người cao lênh khênh, tính khí như đàn ông, ăn to nói lớn chân bước uỳnh uỵch, thế mà khi ông chồng ốm bà chăm khéo ra phết. Bằng chứng là thi thoảng có ai đó ghé qua giường bệnh của ông, thấy bà vừa bón cháo cho ông ăn như con trẻ vừa sát tai ông cười cười thì thầm điều chi đó, sau đó thấy cái mồm méo sệch vẫn dính đầy cháo của ông cố dướn lên trả lời “Ướng ồi! Ướng ắm ồi!”.

- Ông ấy bảo sướng rồi, sướng lắm rồi – Bà Thanh cười khanh khách dịch lại lời ông nói.

- Khổ thân bà ấy – Một vài người tặc lưỡi – Già rồi cũng chẳng hưởng an nhàn. Mà bà ấy cũng thật là tốt.

Khổ là vì thời trẻ bà Thanh không có sắc. Không có sắc lại lấy ông chồng đẹp trai học cao tài rộng. Những ngày đầu xe duyên, bà Thanh luôn phải quay quắt với câu hỏi của đám bạn tai ương:

- Này, sao đức lang quân của mày lại không phải là Chí phèo chứ.

- Hả, nhìn kỹ tao đây, đâu giống thị Nở, lũ chúng mày mắt mũi để đâu hả. Mù. Bọn bạn ghen ăn tức ở.

Cả lũ bạn cười ngả nghiêng ôn lại thời tuổi trẻ yêu đương của bà Thanh. Đúng là ông Thanh yêu bà Thanh say đắm thật. Có lần giữa trời mưa to gió lớn, cả bọn thấy chàng vừa đi vừa cắm cúi đọc một tờ giấy gì đó vừa thánh thót giọt lệ lẫn trong nước mưa, thế là tất cả hiệp lực xông đến cướp tang vật,  hóa ra chàng đang đọc thư tuyệt tình của nàng. Ngày hôm sau hơn chục đứa rủ nhau nấp ngoài cửa chứng kiến cảnh chàng đang rưng rưng lệ quỳ trước nàng xin xe lại duyên trời. Nàng hàng ngày cười hinh hích, nói choang choang, thế mà hôm đó cũng nhỏ nhẹ rơi lệ vì cảm động. Nàng nhận lời:

- Em... đồng ý cưới anh.

- Sao mẹ lấy được bố đẹp trai thế – Lại là mấy đứa trẻ ranh không chịu yên phận, không biết giữ thể diện mẹ cha cứ mồm mép tép nhảy.

-Vì bố yêu mẹ hơn bản thân bố – Bà Thanh ưỡn ngực, tay chống nạnh mặt buông điệu cười thách thức.

Thật khổ, muốn yên mãi chẳng được yên, câu hỏi ấy lặp đi lặp lại nhiều quá làm bà Thanh giật mình nhớ ra ánh mắt chàng sau câu hỏi lần đầu tiên khi gặp nàng:

- Có phải em là con gái ông Thời Tổng giám đốc.

- Vâng.

Hình như mắt chàng lúc đó long lanh sáng như sao đêm.

 Bà Thanh hơi nghi hoặc, nhưng không thể, chàng đâu phải diễn viên hát chèo.

 Khổ hơn khi ông Thanh lên chức giám đốc ở tuổi bốn lăm, người người vây quanh, gái đẹp vây càng nhiều. Ngày chưa có chức giám đốc, nếu có việc gì cần đến bà ông thường nhăn nhó gọi:

- Bà, bà ơi.

Cái từ bà xưng tôi ông dùng với bà sau đó khoảng một năm, tính từ ngày đầu tiên bà bước chân về làm dâu nhà ông. Cứ tôi tôi bà bà chẳng anh em gì sất cho mệt người, yêu đâu mà anh anh với chả em em, càng ngày càng thấy chả thể yêu được (đấy là ông nghĩ thế chứ bà đâu có biết). Được cái bà vô tư nói cười hềnh hệch nên ông càng không thể ngọt ngào anh em. Nhiều lúc thấy bà cười nói vô tư quá, ông bực mình lẩm bẩm:

- Miệng thì ngoác, mắt thì híp, rõ xấu còn cố mà cười.

 Lên chức giám đốc được một năm, bỗng dưng một hôm bà thấy ông đứng giữa sân dài giọng lớn tiếng:

- Em ...yêu...!

 - Hả - Bà chạy đến trước mặt ông mắt tròn mắt dẹt – Có việc gì không hỡi ông.

Ông nhìn bà mặt tái mét, sau đó giả lả:

 -  Thì tôi lên chức giám đốc một năm rồi, nhờ bà ở nhà chuyên tâm dạy dỗ con cái tôi mới phát công danh, tôi phải, tôi phải... thay đổi cách xưng hô, từ nay bà gọi tôi là anh yêu, tôi thì gọi bà là em yêu. Được chưa nào – Nói rồi ông cười đĩ đượi, rồi vuốt má bà, trông đến lẳng lơ. Bà mặt đỏ bừng nguýt dài:

- Rõ là yêu vợ.

Thế rồi ông đi biền biệt. Làm giám đốc đi công tác, đi ngoại giao, đi tiếp khách, đi, đi và đi...

Cho đến một ngày, có người nhìn thấy giữa đêm khuya, bà tay cầm gậy dong ông từ cổng một nhà nghỉ dong về. Đến cửa nhà như không thể chịu nổi bà vụt cho ông que gậy vào mông rồi hét lên:

- Này thì em yêu, này thì em yêu.

Ông đóng chặt cửa nhà. Bà gào thét, bà choáng váng ngất xỉu, bà hung dữ như hổ vồ mồi, còn ông từ đó bị giam lỏng chẳng khác chi như đàn bà trong lãnh cung. Ôi tình yêu! Ôi, chỉ một chữ yêu mà trăm ngàn năm làm đảo điên bao kẻ dại khờ. Khi lấy bà, ông chưa biết hết ma lực của chữ yêu. Làm sao ông biết được, công danh, sự nghiệp bám chặt ông ngay thuở đầu đời làm sao ông kịp nhận ra. Ôi tình yêu, dịu dàng lắm, mỏng mày hay hạt lắm, thần tiên lắm. Ngày xưa Mỵ Châu kiêu sa rạng rỡ thế cũng chết vì yêu. Đến cả Chí phèo khốn khổ khốn nạn thế cũng có những phút giây được yêu. Tuổi ngoài tứ tuần lần đầu tiên biết yêu. Yêu trong vụng trộm còn dữ dội hơn, khao khát hơn, mãnh liệt hơn. Ông ngơ ngẩn như kẻ mất hồn, rồi bà càng cấm ông càng như bị xui. Người ta bảo kẻ đang uống rượu và kẻ đang uống tình thật dễ nhận biết, thế là như không thể đừng, lần thứ hai vào rạng sáng, có người lại nhìn thấy bà dong ông về từ một nhà nghỉ khác. Lần này tay ông bị trói quặt ra sau, vết roi tre của bà lằn lên trên từng thớ bắp, có lẽ không ngoại trừ những chỗ được che đậy bởi áo quần. Sở dĩ ông mặc bà muốn làm gì thì làm, vì tình yêu của ông, vì danh dự của một giám đốc, ông sẵn sàng chịu mọi cực hình đau đớn.

Xóm làng cười chê, ông mặc kệ, bởi vì ông cũng có bảo được cái thân ông đâu. Ông bảo không được nhớ, nhưng trái tim ông vẫn nhớ, nhớ như điên như dại một người con gái trẻ trung. Ông nhớ lời người con gái thỏ thẻ “Anh ơi”. Ông nhớ, nhớ nhiều thứ, nhớ nhất cảm giác của người đàn ông đã qua tuổi tứ tuần, lần đầu tiên được ôm trong vòng tay mình người mình yêu. Lần đầu tiên ông có cảm giác mãn nguyện thăng hoa trong những đêm yêu đương vụng trộm mà hết mình. Lần đầu tiên ông biết rơi nước mắt vì nhớ người mình yêu. Lần đầu tiên khi đã qua tuổi tứ tuần...

Tình yêu nào đâu có tội, thôi thì những người yêu nhau tự gánh lấy tội. Bây giờ thiên hạ có phỉ báng, có cười chê thế nào thì ông vẫn có tình yêu, vẫn có nỗi nhớ đêm ngày an ủi, và cuối cùng ông vẫn yêu.

Thế rồi cho đến một ngày người ta thấy bà đưa ông từ trụ sở cơ quan về. Bà không la hét, không mắng mỏ, chỉ thấy mặt bà tím tái, mặt ông bừng bừng. Đến cửa nhà, bất chợt ông tát bà lia lịa rồi hét to:

- Thấy chưa? Bà thấy hậu quả chưa? Bây giờ bà sướng chưa?

 -  Càng đĩ càng già mồm  - Nhiều người thấy bất công cho bà xúm vào mắng ông. Ông thấy sốc. Thế là ông mất tất cả, mất chức, mất quyền, mất lòng tin xóm làng. Đâu đó toàn lời thương hại dành để an ủi bà.

  Mất chức, mất quyền, mất đi lòng tin ở đời rồi cũng  nguôi, nhưng có một nỗi khao khát không ngừng cháy trong ông, đó là tình yêu. Trời thì cao, đất thì rộng mà sao bà cứ muốn bó hẹp ông trong khoảng không chật chội. Ông không thể nguôi nỗi nhớ. Nỗi nhớ làm tim ông lúc muốn ngừng đập vì cô đơn, lúc dồn dập xô đẩy không phương hướng, người ông khi lạnh ngắt khi lại bừng bừng...

 Rồi một ngày cơn cao huyết áp làm ông liệt giường liệt chiếu.

Ông nằm đó mà miệng đời vẫn không thôi trách chê. Quả báo ư? Tình yêu mà phải chịu quả báo ư! Ông chỉ yêu người ông yêu chứ có làm hại gì ai đâu mà chịu quả báo. Khổ thân cho bà. Nhiều người thấy bực mình vì bà xả thân chăm ông đau ốm. Đấy! Đàn bà thế đấy, vị tha thế đấy. Khi khỏe chồng dùng sức khỏe đó để phản bội tình chồng vợ, khi đau ốm lại lấy sự ràng buộc chồng vợ ra làm chỗ dựa dẫm. Có lẽ người đàn bà yêu chồng thì sẵn sàng vị tha. Có lẽ bà Thanh đã quên hết những chuyện xưa kia ông ấy từng làm. Có lẽ tình thương đã cất giấu cơn ghen khủng khiếp trong lòng người đàn bà. Đấy, Hoạn Thư rồi cũng có ngày phải chết, đâu phải sống tới tận bây giờ.

Một chiều trời vật vã trong lốc gió, xóm làng mải chống chọi trước cơn giận của thiên nhiên chẳng ai tới thăm ông Thanh. Dáng người đàn bà tần tảo quen thuộc vẫn đội trời băng qua chợ. Người ta thấy bà vẫn chọn đồ thật ngon, vẫn những thứ dành cho người ốm thật khéo. Sau đó người đàn bà lại lặng lẽ trở về nhà, lặng lẽ cặm cụi nấu nướng một cách cần mẫn chăm chỉ.  Nấu xong như thường lệ, bà bưng bát cháo thổi phù phù rồi lại ghé tai ông thì thầm. Cơn gió lốc ầm ào làm âm sắc bà tăng vọt. Rồi như thường lệ ông lại méo xệch mồm ngoan ngoãn trả lời: “Uớng ồi, ướng ắm ồi”.

Có tiếng chào nhỏ nhẹ sau lưng làm bà Thanh giật thột. Thì ra là một thiếu phụ và một bé trai. Họ nói là người quen cũ của ông đến thăm ông. Bà Thanh luống cuống đỏ mặt mời khách ngồi mà chẳng để ý tới ông Thanh, mồm lắp bắp điều gì không thành tiếng, khóe mắt rưng rưng những giọt lệ. Thiếu phụ vờ ngồi gần giường bệnh thăm hỏi rồi nhanh tay rút chiếc khăn từ túi áo lau vội vàng những giọt nước già nua cằn cỗi.

- Ông nhà tôi mấy năm trước phải lòng một con bé kém ông ấy hàng chục tuổi. Yêu, yêu lắm mà giờ ốm nằm đây mãi chả thấy bé đâu, thi thoảng thấy mắt ông ấy vẫn long lanh mơ màng nên tôi đùa cho vui ấy mà - Bà Thanh vừa lấy nước mời khách vừa phân bua – Mà hai mẹ con chị sao tới thăm người ốm vào lúc trời đang nổi cơn giông thế này.

- Dạ hai mẹ con cháu ở xa tới, chúng cháu đi từ lúc trời chưa hề có giông bác à - Thiếu phụ vờ như không để ý tới câu phân bua của bà Thanh.

Thiếu phụ không dám dừng mắt lâu trước thần thái nhợt nhạt của ông Thanh. Đâu rồi dáng vẻ hào hoa phong nhã, đâu rồi ánh mắt người trai rực cháy thiêu đốt vào lòng niềm yêu thân thương mãnh liệt đã từng bị tháng ngày vùi chôn chối bỏ, đọng lại vẫn chỉ là những giọt nước từ khóe mắt, càng chảy càng đơn côi cằn cỗi. Và cả chiếc mồm méo xệch kia nữa, mới ngày nào còn oang oang đọc những lời thơ tâm đắc cho người tri kỷ: “Chúng ta sống có lâu gì lắm/ Hãy yêu thương bằng hữu sưởi lòng nhau/ Tim xin chớ bắt tim cóng lạnh/ Có ích gì băng giá giữa đời đâu...  Hãy rộng lượng đừng nên nghiệt ngã/ Trước tài năng và cả sự bất tài/ Sẽ có ngày tất cả giống nhau thôi/ Trên giường bệnh nuối tiếc trời xanh thế...”. Thiếu phụ thấy mình không thể cũng rơi lệ đành vội vã cáo từ ra về vì lý do mong chạy thoát khỏi cơn giông. Cơn giông chiều khiến người ta không thể nhận biết chút hoàng hôn nhỏ nhoi để kịp an ủi trong ánh mắt trước khi đón màn đêm dày quánh đen đặc với bao biến cố không lường.

- Lúc khỏe thì đi với gái, giờ ốm nằm đây để người khác bón cho ăn có thấy sướng không?

  - Ứớng ồi! Ứớng ắm ồi!

Cuộc đối thoại chớp nhoáng của hai con người trong căn nhà lớn thênh thênh mà thiếu phụ vô tình nghe được cứ như những tia sét nóng rẫy nhì nhằng chớp lóe tâm can thiếu phụ. Hấp tấp trên nẻo đường vắng, thiếu phụ một tay quệt nước mắt một tay dắt con chạy  thật nhanh qua cơn lốc. Trời ơi, nếu bà biết được rằng cả hai mẹ con thiếu phụ kia cũng là kết quả tình yêu của ông, nếu bà biết được rằng ông yêu say đắm biết bao người trừ bà, nếu bà biết được rằng ông không chút thật lòng cũng chẳng phút rung động ngay cả lúc quỳ dưới chân bà xin kết lại tình duyên thì hỡi trời, không biết một ngày bà sẽ hỏi ông bao nhiêu lần câu hỏi ấy.

Khu cũ

Mụ Thấn người béo lẳn, mặt đỏ pừng pừng, mụ xềnh xệch lôi lão Thông đang co quắp như con dế từ trong nhà ra sân. Mụ đặt lão lên bể nước, cắp đầu lão vào nách rồi đấm như giã giò, vừa đấm vừa chửi:

-         Chồng con cái đồ bị thịt, mày ở nhà có cái việc trông nhà, mà mấy cái chăn đang phơi,… mà mày để thằng nào con nào rẩy đầy mắm tôm. Bà xử, xử mày… xử mày…

Lão Thông sau mỗi cú xuống đòn của vợ, lại "hự". Chịu đòn được một lúc, lão bắt đầu la:

-         Ối vợ ơi, tha cho con. Ôí vợ ơi… tha cho con.

-         Tha, tha,… tha này.

Đánh lão Thông xong, mụ Thấn quát:

-          Vào nhà! Tí về mà chưa có cơm nước thì đừng trách tao!

Thế rồi mụ đi quanh xóm, mụ bắt đầu chửi:

-         Ới thằng liền ông, ới con liền bà ới đứa già đứa trẻ, 

Đồ ăn chó cả lông, ăn hồng cả hạt. Đồ cái quân không sợ Phật đánh Thánh đâm, đồ cái quân không sợ trời tru đất diệt. 

Chúng mày rẩy mắm tôm vào chăn bà phơi thì bà lôi ông bà ông vải tam đại lục đại nhà mày lên nghe bà chửi... Cao tằng tổ khảo nhà mày có mấy cái đầu lâu, bà cũng đào hết lên đem đựng mắm ròi mắm rục...Nhà mình ở tầng hai của khu nhà tầng. Thằng Bách con mụ Thấn ngay từ lúc mẹ nó đi chợ về đã tót lên nhà mình lánh. Mình với thằng Bách mở hé cửa sổ, ngó xuống.

Mụ Thấn vẫn đang đi chửi, tới vòng này đã là vòng thứ ba.

-         Mày rẩy mắm tôm vào chăn nhà bà, thì bà thí cho mày cái chăn, về mày cắt ra mà may vải liệm dần, vì họ hàng hang hốc nhà mày thằng trước chưa chôn thằng sau đã nghẻo... 

–  

đang chửi, mụ Thấn bỗng ngừng, mụ ngồi thụp xuống lật một chiếc dép lên ngó, mụ cầm chiếc dép ra đống cát, mài mài đập đập, xong mụ chửi – Cha tiên sư thằng nào con nào ỉa thất nhân thất đức…, mày ngồi ỉa đầu ngõ thì đâm xe bò, mày ngồi ỉa cuối ngõ thì đâm xe công nông, Cha tiên nhân đứa nào,… đứa nào ỉa bậy, làm cứt dính dép bà…

Mụ Thấn vẫn tiếp tục đi chửi, nhưng giờ chuyện cái chăn bị rẩy mắm tôm đã nhạt, mụ chuyển đề tài, mụ chửi cái đứa nào ỉa bậy. Mấy con chó quanh khu chạy theo mụ Thấn bắt được hơi cứt, thỉnh thoảng xồ lại dúi mũi vào dép mụ, ngửi ngửi.

Mình nói với thằng Bách:

-         Mẹ mày nghĩ bài chửi nhanh như điện. Mẹ mày hồi xưa mà được đi học, khéo bây giờ thành nhà văn.

Một vài năm trước khi xóa bao cấp, vẫn còn chế độ phân nhà, nhà mình được phân một căn hộ tầng ba ở một khu năm tầng. Mình sống ở đây một quãng thời gian khoảng sáu bảy năm.

Căn nhà năm tầng này được xây những năm tám mươi. Người về đây ở toàn là cán bộ. Căn nhà nằm trên bãi đất cạnh một xóm nhỏ có khoảng ba chục hộ dân vốn đã ở đây từ xưa. Ba chục hộ này đa phần là dân lao động, làm nghề tự do. Từ khi có căn nhà tầng, những hộ trong xóm được gọi là khu dưới, để phân biệt với các hộ ở nhà tầng là khu trên.

Hồi mới dọn về đây, mình và bọn trẻ con khu trên đánh nhau với lũ trẻ con khu dưới mấy chục trận, rồi mới chơi với nhau.

Nhà mụ Thấn ở khu dưới. Mụ Thấn bán cá ngoài chợ. Lão Thông chồng mụ Thấn là công nhân về nghỉ mất sức. Từ hồi lão Thông bị di tinh, mụ Thấn phát bệnh chửi.

Cứ hàng sáng mụ Thấn ra sân chửi, tầm nửa tiếng. Mụ chửi không vấp, chửi như tụng kinh. Chửi xong mụ mới đi chợ. Mọi người trong khu gọi bài chửi này của mụ Thấn là chửi chào cờ.

Mụ Thấn chửi chồng, chửi con, chửi hàng xóm, chửi phường, chửi mấy cô vệ sinh môi trường hôm qua hót rác không sạch, chửi gã nào đó đi xe máy về khuya, làm ồn… vv. Cái lối chửi này giống kiểu điểm tin, cập nhật và tỉ mỉ. Chuyện lão Thông bị di tinh, cũng do mụ Thấn lôi ra chửi, mọi người mới biết.

Mụ Thấn chửi cứ chửi, hàng xóm để ngoài tai. Nhà nào trong khu chẳng may là nạn nhân của mụ cũng chẳng rỗi hơi chửi lại, bởi ai cũng nghĩ hôm nay mụ chửi nhà mình, mai mụ chửi sang nhà khác, so ra nhà mình chẳng lỗ. Có thiệt hại tinh thần một chút thật, nhưng dù sao nó cũng được chia bình quân.

Ở ngoài chợ, hôm nào bán hết cá  mà còn rỗi, mụ Thấn ngồi nán, chửi một lát, rồi mới về. Có lần mấy thằng tây đi ngang, gặp khi mụ Thấn đang chửi, hai tay mụ lúc vỗ vào nhau bộp bộp như đánh phách, lúc lại vung vẩy như vỗ gió chém trời. Bọn tây đứng lại xem, chúng nó khoái, lôi máy ảnh ra chụp. Đầu những năm chín mươi tây sang đây chưa nhiều, bộ dạng mấy thằng này có lẽ như cách gọi bây giờ là tây du lịch bụi, tây ba lô.

Thấy bọn tây giơ máy ảnh chụp, mụ Thấn liền dạng chân, vỗ háng, réo: “Tổ cha thằng Liên Xô, Tổ cha thằng Liên Xô…”.

Mới thoát bao cấp vài năm, Liên Xô vừa tan rã. Mấy chục năm gắn bó với Liên Xô, "tội vạ đâu Liên Xô chịu", nên trong quan niệm của nhiều người mình chứ chả riêng mụ Thấn, cứ tây tức là Liên Xô.

Tuy miệng chửi, nhưng mặt mụ Thấn lại tươi cười. Có lẽ mụ cũng khoái vì lần này mình chửi có khán giả, mà là Liên Xô chứ chả đùa!

Lão Thông bố thằng Bách người lẻo khẻo và đần, mình đương nhiên chả coi ra gì. Mụ Phấn to béo, nặc nô mình cũng chẳng sợ. Mình bảo với thằng Bách:

-         Tao quan hệ với bố mẹ mày là vì tôn trọng mày, chứ bao nhiêu anh hùng hảo hán các lễ vật để được chơi với tao, tao cũng còn chưa xét. Mày phải biết thế mà trung thành với tao!

Thằng Bách bảo:

-         Em đội ơn đại ca!

Khu mình bầu tổ trưởng tổ dân phố mới, có ông Xích và ông Cứ.

Ông Xích người khu trên, nhà tầng một, trước là cán bộ công ty xe điện, nay về hưu. Ông Cứ ở khu dưới, nhà có cửa hàng buôn bán sửa chữa đồng hồ.

Hồi căn nhà tầng chưa xây, hơn ba chục hộ khu dưới là một tổ dân phố, ông Cứ làm tổ trưởng. Căn nhà tầng xây lên, số hộ ở tổ này từ hơn ba chục thành bảy chục. Nhưng ông Cứ vẫn làm tổ trưởng.

Ông Xích chuyển về căn nhà tầng một thời gian, ông liền đi vận động các hộ khu trên ủng hộ mình làm tổ trưởng tổ dân phố, thay ông Cứ. Ông Xích nói: “Hồi trước chưa có khu nhà mình, dân ở đây toàn bọn ngu, nên cái lão Cứ mới làm được tổ trưởng. Chứ lão này trình độ may ra hết lớp bốn, lại không phải đảng viên, không thể để lão ấy cái trị cả khu cán bộ nhà mình được!”

Ông Xích đi vận động từng nhà, bà Vân Đểnh vợ ông đi theo vận động cùng chồng. Đến mỗi nhà bà biếu một túi giấy báo gói nửa lạng chè Phú Thọ. Nhà nào không nhận, bà vẫn để lại.

Bà Vân Đểnh tên trong lý lịch là Đặng Thị Đểnh. Đi làm, bà thấy cái tên Đặng Thị Đểnh nó không sang, phát âm thì lổng chổng, nên thêm vào chữ Vân làm đệm. Hồi đầu người trong khu ai gọi là bà Đểnh, bà không đáp, phải gọi đầy đủ tên là Vân Đểnh bà mới nói chuyện. Tuy về hưu, nhưng bà Vân Đểnh thích đi họp. Ở khu phố có cuộc họp nào bà cũng tham gia, phát biểu hăng và hùng hồn.

Gặp mẹ mình ở cầu thang, bà Vân Đểnh thầm thì: “Làm anh cán bộ ở địa phương nói gì thì nói, cái thành phần là rất quan trọng, như tôi và ông Xích đều là thành phần cơ bản, lí lịch cực sạch, ba đời toàn bần cố nông, đi làm thì là cán bộ nhà nước chứ không phải loại tiểu thương như cái nhà lão Cứ!”. Bà Vân Đểnh đi, mẹ mình bảo: “Đểnh hâm”.

Hôm bầu tổ trưởng, có sáu bảy người khu trên bầu ông Xích, còn người khu dưới tất cả đều bầu ông Cứ. Kết quả ông Cứ tiếp tục làm tổ trưởng. Các gia đình ở hai khu nhất trí lập thêm chức tổ phó, do ông Xích làm.

Bà Vân Đểnh rất cay, bà bảo những kẻ uống chè của bà là bọn xỏ lá, lập trường như cứt, bà mà là nhà nước thì bà xét lại lí lịch hết những kẻ này. Nhưng vài hôm sau bà nói: “Ông Xích nhà tôi tuy là tổ phó, nhưng kiêm nhiệm cả phụ trách an ninh, nên thật ra còn nhiều quyền hơn ông Cứ”.

Tối tối người ta thấy ông Xích cầm cái dùi cui gỗ ra căn chòi ở Trụ sở  ủy ban ngồi đánh bài với mấy anh dân phòng.

Hôm mụ Thấn chửi tây ngoài chợ bà Vân Đểnh chứng kiến. Họp tổ dân phố, có mặt lão Thông, ông Xích liền đem chuyện này ra trong cuộc họp. Ông Xích phê bình mụ Thấn chửi người nước ngoài, làm ảnh hưởng tới đường lối đổi mới là Việt Nam giờ chơi hết với tất cả các nước.

Có một chị khu dưới cũng ở ngoài chợ hôm ấy, nói:

-         Bọn tây nó chả biết tiếng mình. Mà bà Thấn lần vừa rồi tuy chửi, nhưng mặt lại tươi hớn hở lắm, có khi bọn tây nó nghĩ bà này đang hát ý chứ! Mà bọn tây chúng nó còn cười toe toe, còn chụp bao nhiêu ảnh.

Ông Xích bảo:

-         Thế mới chết, vì bọn tây mang ảnh về nước nó, nó đăng báo, thì nhục nước mình!

Bà Vân Đểnh góp thêm:

-         Mà mụ Thấn này còn chửi “tổ cha Liên Xô”, là mất quan điểm, mất lập trường!

Ở dưới có người nói:

-         Liên Xô tan vỡ hai ba năm nay rồi, chửi Liên Xô thì cũng như chửi cái hòm.

Lại có người khác nói:

-        Bọn tây nó đâu có hiểu tiếng mình! Mà chưa biết chừng nếu mấy thằng ấy là tây tư bản, thấy bà Thấn chửi nó, nó lại tưởng là bà ấy thể hiện lập trường xã hội chủ nghĩa ý chứ!

Ông Xích quay sang lão Thông nói:

-         Ông Thông, trước nhà ông là khu toàn cán bộ, sáng nào vợ ông cũng ra đứng chửi, làm hỏng be bét hình ảnh của khu. Ông phải về nghiêm túc góp ý với bà Thấn.

Lão Thông từ đầu buổi đến giờ ai nói gì cũng mặc, lão đang mải thông cái nõ điếu của mấy anh dân phòng. Giờ nghe nhắc đến tên, lão ngước lên bảo:

-         Cả cái khu này ai chả biết, con mụ nhà tôi nó tha không đánh tôi là may, chứ tôi mở mồm nói nó, để nó nhét cứt vào mồm tôi à!

-         Ông là chồng, ông nói hèn thế mà không thấy ngượng à? – Ông Xích bảo.

-         Tôi hèn thì hèn với vợ tôi, chả có gì phải ngượng! Hay ông là cán bộ, ông đến mà góp ý.

-         Nhưng ở đây bác Cứ mới là tổ trưởng, tôi,... chỉ là tổ phó. Việc giáo dục bà Thấn là trách nhiệm của bác Cứ…

Ông Cứ vẫn ngồi im nghe mọi người bàn tán, giờ mới thủng thẳng:

-         Việc nhắc nhở lời ăn tiếng nói ở các gia đình ở phường ta từ trước đến nay là việc của hội phụ nữ phường. Chị Vân Đểnh có chân trong chi hội phụ nữ, hay là chị cứ mạnh dạn góp ý với cô Thấn, là tiện nhất.

Bà Vân Đểnh giãy nảy :

-         Này nhé, ông đừng có mà khôn lỏi, đừng có mà đánh bùn sang ao, tôi tôi,… tôi chả việc gì phải dây dưa với con mẹ ấy!

Cuộc họp giải tán.

Sáng hôm sau, mụ Thấn đột nhiên ra sân chửi sớm và dài hơn thường lệ, mụ réo:

-         Vợ chồng đứa nào ba đời bần nông ở cái khu này, con nào chi hội với chả phụ nữ ở cái khu này thì dảy mái tai gài mái tóc mà nghe: bà chửi Liên Xô, bà chửi chồng... thì can hệ gì đến mồ mà nhà mày. Tổ cha con bần nông tổ cha thằng bần nông, vợ chồng chúng mày quan điểm lập trường thì bà đây có bốn vú hai l… ngồi đợi…

Tận mấy tuần sau, sáng nào mụ Thấn cũng dành thời gian chửi bần nông và hội phụ nữ. Bà Vân Đểnh mấy lần đã định lao ra ăn thua với mụ Thấn. Ông Xích bèn khóa trái cửa lại, rồi ngồi trong nhà bật đài thật to.

Ông Cứ đi thu tiền ủng hộ đồng bào miền Trung bị lũ lụt. Qua nhà Hồng Cối bán bún chả, vợ Hồng Cối nói:

-         Đóng thì cháu chả tiếc – vợ Hồng Cối nhặt ba tờ năm trăm trong ngăn bàn – nhưng chả hiểu mình đóng thế này có đến tay người cần nhận hay không, hay mà lại bị ăn chặn!

-         Tức là mày bảo tao ăn chặn à?

-         Cháu không nói chú, chú ở đây thế nào ai chả biết! Cháu nói là nói cái bọn nhà nước ý, nó ăn bớt!

-         Này này, bọn nào là bọn nhà nước? Mày ngồi bán hàng ở đây, lấn chiếm vỉa hè, lòng đường, nhà nước có thương mày, nên mày mới có chỗ mà ngồi, chứ mà nhà nước làm nghiêm thì vợ chồng mày bắn xới lâu rồi. Mà tiền nhà mày đóng chẳng qua mua được mấy gói mì tôm, nhà nước nào thèm ăn bớt.

-         Thì cháu cứ nói thế! Không đúng thì thôi! – vợ Hồng Cối cười giả lả, kiểu cười trừ.

Hồng Cối mắng vợ:

-         Con đĩ này, câm! Cái loại mày cứ mở mồm là ăn nói bậy bạ, có hôm ông vả cho mấy chưởng, gẫy mẹ nó hàm đừng có kêu! – quay sang ông Cứ, Hồng Cối cười – Cụ tổ trưởng đừng chấp! Con vợ cháu đang mọc răng khôn, nó ngứa, nên hay nói cùn!

-         Tao mà thèm chấp chúng mày!!! Mà mày cũng chừa cái thói vũ phu đi? Mày mà còn tẩn vợ có ngày tao đưa lên phường. Đây, sổ đây, ký đi.

Ông Cứ đi tiếp đến nhà mụ Thấn. Lão Thông nộp một nghìn. Mụ Thấn từ trong nhà loe xoe chạy ra ngó quyển sổ trên tay ông Cứ, rồi quát lão Thông:

-         Đóng thêm một nghìn hai nữa! – mụ Thấn quay sang ông Cứ nói – Bác ghi cho nhà em đóng tổng cộng là hai nghìn hai.

-         Sao hôm nay đóng nhiều thế?

-         Thì nhà cái con mẹ Đểnh đóng hai nghìn, nhà em lại thua nó chắc!

-         Ơ, thế nhà này định đóng tiền ủng hộ đồng bào, hay thi tiền với nhà bà Đểnh? Mà này, đóng vào rồi là không có rút lại đâu nhé!

-         Bác coi thường nhà em thế! Mà tổ sư thằng giời, mày làm mưa bão lũ lụt để nhân dân miền trung phải khổ sở, mày hú hí trong háng vợ nên mới đui mới mù…, giời đánh thánh vật cả họ hàng hang hốc nhà mày…

-         Thôi thôi, thôi! Để dành bài này sáng mai mà chửi! Tôi đi đây!

-         Vâng, nhà bác đi ạ!... Mày cứ rúc đầu hú hí nữa đi, rồi có ngày giời đánh thánh vật họ hàng hang hốc nhà… mày…

Lão Thông ngồi đấy bảo:

-         Hôm nay bà chửi đích danh giời, mà bà lại còn “giời đánh thánh vật”, thì hóa giời đánh giời à?

-         Thì thì… thì… bà nhầm, mà mày biết vợ mày nhầm mà mày không nhắc sơm sớm…, mà giời có tự nó đánh nó thì cũng chẳng phải việc của mày.

Rời nhà mụ Thấn, ông Cứ qua nhà Hoan Xồm. Gã này đóng mười lăm nghìn. Ông Cứ nói:

-         Mai tao tuyên dương mày trên bảng tin của khu.

Hoan Xồm hềnh hệch, bảo:

-         Cháu đéo cần! Cậu đừng ghi tên cháu lên, kẻo lại có đứa ghen ăn tức ở!

Hoan Xồm tuổi khoảng bốn mươi, là cháu gọi vợ ông Cứ bằng cô ruột, nhà cũng ở khu dưới. Vợ ông Cứ mất đã bẩy tám năm, nhưng gã này với ông Cứ vẫn qua lại thân tình.

Ngày trước Hoan Xồm đi tù về, hai vợ chồng nghèo tướp, ông Cứ liền xin cho đi học lái xe. Vài năm gần đây Hoan Xồm lái xe tải chạy mấy tỉnh phía Bắc, xem ra tiền nong rủng rỉnh, xây được nhà. Thỉnh thoảng xe tải của gã dừng trước ngõ để dỡ hàng. Có lúc hàng chất thành đống to, gã hô lũ trẻ con bọn mình bê vào nhà cho gã. Bê xong, gã phát cho mỗi thằng ba nghìn.

Dạo ông Xích đang vận động mọi người trong khu bầu mình làm tổ trưởng, ông Cứ nói với Hoan Xồm:

-         Báu gì cái chức mõ chả ra mõ, lí chả ra lí. Trước là tổ trưởng mỗi khu dưới nó dễ. Dân xóm đành rằng máu chó, nhưng tính từng người mình biết, nói phải là nhà nào cũng nghe. Giờ thêm cả cái khu trên! Mà tao ngại nhất dây với mấy lão về hưu! Hôm tao lên thu tiền làm cỗ trung thu cho bọn trẻ con, mỗi hộ góp năm trăm, có cái lão nhà trên đó bảo tao: xét ở quan điểm của thực hữu luận,… cái con khỉ gì gì,… thì trẻ em là quyền lực của thế hệ thứ ba, nhân loại tiến bộ xác lập những quyền không thể chối cãi của trẻ em là…, tao bảo “Tôi chỉ lên thu mỗi hộ năm trăm”, lão ấy bảo “vấn đề không phải là tiền, mà tôi muốn biết những người sử dụng đồng tiền ấy có hiểu rõ về mục đích hướng trẻ em tới quyền tham gia tới các giá trị cộng đồng hay không”. Thế là tao nói: “Hôm nào tổ chức trung thu cho bọn trẻ, danh sách những hộ nào đóng tiền sẽ có trên bảng tin, nhà bác không đóng thì thôi. Trẻ con ai tốt với nó nó biết!”, rồi về. Nhưng cái lão ấy chập, chứ mà hôm sau lại mang tiền xuống nhà tao nộp.

Hoan Xồm bảo:

-         Cháu lạ gì mấy lão trí thức về hưu, cứ ra điều ta đây cống hiến này nọ, nên giờ làm thì đéo làm, nhưng lý luận đầy mình!

-         Mà lại còn có tay, tao thông báo đi họp tổ dân phố, thế là tay ấy bảo từ trước đến nay hắn chỉ đi họp nếu có giấy mời đàng hoàng, còn không có giấy mời thì miễn dự. Có lộn mề không? Tao nghe cái con mụ Thấn nó chửi ra rả hàng sáng cũng không mệt bằng gặp mấy cái lão cựu cán bộ ấy. Còn cái nhà ông Xích mà thích làm tổ trưởng thì tao nhường ngay, tao còn cảm ơn, chứ việc gì phải đi vận động!

-         Cậu không được nhường.

-         Sao lại không nhường?

-         Cậu làm tổ trưởng lâu năm, ai người ta cũng tin. Ngay cái con mụ Thấn bị động đực kinh niên chửi chả chừa ai, cũng chưa bao giờ chửi cậu. Mà cháu đây đi buôn hàng biên giới, thỉnh thoảng cũng phải đánh xe về qua nhà đổ hàng, cái lão Xích mà làm tổ trưởng, nhỡ nó lên cơn hoắng, nó suốt ngày hoạnh họe xe đỗ sai qui định,… hay hàng mình bốc xuống nó chim cú chim lợn… Sợ thì cháu chả sợ, nhưng rách việc! Mà cái loại người hèn và bẩn như lão Xích, đôi khi nó thèm thấy thằng khác chết còn hơn cả thèm tiền. Nên cậu không nhường được!

-         Hóa ra mày xúi tao tiếp tay cho mày buôn lậu à?

-         Ngày xưa cháu chỉ biết đi tù, giờ mới kiếm được cái nghề đi buôn. Tròn méo gì thì cũng là nghề! Mà thực ra cháu làm việc này là chung tay cùng nhà nước phục vụ đời sống nhân dân. Cậu làm tổ trưởng thì cháu yên tâm phục vụ nhân dân hơn. Cậu phải nghĩ thoáng thoáng thế chứ!

Thế rồi lần ấy ông Cứ ra ứng cử.

Hoan Xồm mang về một cái đầu video hiệu Sharp. Từ buổi chiều, gã đã bày ti vi và đầu video ngoài sân của khu, gặp ai Hoan Xồm cũng sốt sắng mời tối ra xem phim. Ông Xích thì thầm với hàng xóm: “Cái đầu máy video này giá phải một cây, thằng Hoan trừ phi buôn lậu mới nhiều tiền thế chứ! Riêng bọn này phải theo dõi chặt!”.

Buổi tối Hoan Xồm cởi trần, trên lưng xăm hình cô gái khỏa thân ngồi trên đầu con rồng, phía dưới là dòng chữ: “Bạo lực và Cái đẹp”, gã đứng cạnh ti vi, nói:

-         Kính thưa bà con, Hoan tôi bao nhiêu năm tù tội, giờ bỏ dao xuống, cũng chẳng thành phật được, nhưng quyết tâm đưa ánh sáng văn minh về cái khu nhà mình. Trong một tuần tới đây Hoan tôi xin chiếu hầu bà con điện ảnh Á Âu thế giới, gồm phim chưởng Na Tra thái tử, Tây Du Kí, Thủy Hử, phim găng tơ ma phi a… Cứ một tối sẽ chiếu hai phim, chưởng tàu chiếu trước, phim găng tơ chiếu sau. Kính mời bà con thưởng thức.

Lũ trẻ con nhiệt liệt vỗ tay. Hoan Xồm hớn hở, mặt mũi nở toác.

Tối hôm ấy ông Xích không ra trụ sở đánh bài, ông ngồi ở sân xem hết hai phim. Xem xong ông Xích nói: “Chiếu toàn phim nhố nhăng, chả có tính giáo dục, trẻ con xem thể loại này thì hỏng to!”. Nhưng mấy tối sau ông Xích đều cắp ghế nhựa xuống sân từ sớm, ngồi đợi.

Một lần Hoan Xồm gặp ông Xích đang xách ghế đi xuống, Hoan Xồm hồ hởi:

-         Hôm nay nhà cháu tạm nghỉ chiếu phim. Vợ cháu nó vừa đánh tiết canh vịt. Chú qua nhà cháu làm với cháu chén rượu.

Ông Xích chủng chẳng:

-         Tôi còn bận! Dân phòng đợt này nhiều việc, tình hình phức tạp lắm!

-         Cháu có chai rượu Mao Đài, cái dòng này bên tàu chỉ nấu riêng cho toàn cỡ chính phủ. Như ở khu này phi chú ra thì chả ai đủ trình để thưởng thức. Rượu ngon phải có bạn hiền!

Ông Xích nói:

-         Còn phải xem xem lát có rỗi không đã.

-         Làm việc cho dân cho nước thì như chú làm cả đời. Nhưng riêng hôm nay là anh hùng hào kiệt gặp nhau, khác gì Lưu Bị gặp Võ Tòng, không đối được vài chén thì có tội với trời đất!

Hoan Xồm nói xong cầm tay ông Xích lôi đi. Ông Xích “ừm” “ừm”…, rồi theo Hoan Xồm về nhà.

Một buổi trưa mình đi học về, gặp thằng Quân Khỉ, nó nói:

-         Đại ca, vừa nãy chú Hoan rủ bố em vào nhà xem phim, mà bảo phim gì hay dã man!

-         Thế tại sao chú Hoan không để tối chiếu ngoài sân?

-         Chú Hoan bảo là phim này chỉ người lớn xem, còn trẻ con, cấm!

Mình về nhà cất xe đạp, xong, kéo mấy thằng trong khu mò ra nhà Hoan Xồm. Nhà Hoan Xồm đóng kín, khóa cổng ngoài.

-         Có thấy gì đâu?

-         Em nghe rõ chú Hoan nói là chiếu phim trong nhà mà, cả ông Thông bố thằng Bách cũng xem.

Mình ra cửa sổ sau nhà Hoan Xồm, áp tai vào khe cửa, thấy trong nhà có tiếng nhạc, cả tiếng ư ử ư ử. Thằng Quân đưa cho mình một mẩu gỗ, mình liền chèn vào khe cửa sổ, nậy cho rộng, rồi ngó vào. Quả là trong nhà Hoan Xồm đang chiếu phim, trên màn ảnh có cảnh đôi nam nữ tây cởi truồng, lông lá vàng hoe hoe… Mình ra hiệu cho cả lũ, thế rồi thằng ngồi, thằng cúi, thằng kiễng, thằng vặn người, mỗi thằng bám một mắt theo dọc khe cửa sổ vừa nậy.

Nhà thằng Bách có mảnh sân đối diện đầu hồi khu nhà tầng, lão Thông mở  dịch vụ trông xe đạp xe máy. Hôm đấy lão Thông giao việc trông xe cho thằng Bách. Ở nhà, thằng Bách nhấp nhổm không yên, nó nghe tin bọn mình đang xem phim ở cửa sổ nhà Hoan Xồm. Một lát, thằng Bách mò ra.

Thằng Bách vốn nhỏ con, nó lom khom chui dưới háng mình chui lên. Mình liền chổng mông ra sau, mở cho nó một khoảng để nó ngóc đầu trước đũng quần mình.

-         Xe ở nhà mày để ai trông? – mình hỏi.

-         Em lấy xích khóa chằng các xe lại, mà mẹ em cũng sắp về rồi.

Mụ Thấn đi chợ về thấy nhà bỏ trống. Ông khách gửi xe đang ngồi đợi. Chiếc Cub 81 đời chót của ông này có sợi xích khóa chằng bánh, nhưng chiếc công tơ mét (loại kim vàng giọt lệ) bị mất. Mụ Thấn phải khất đền ông khách.

Lũ trẻ con bọn mình đang túm tụm ở cửa sổ nhà Hoan Xồm thì bất ngờ bị mụ Thấn vụt tới tấp bằng sợi xích dùng để chằng bánh xe. Mình bị hai phát vào lưng. Cả bọn dạt như ong. Mụ Thấn xông đến trước cổng nhà Hoan Xồm gào lên chửi:

-         Thằng đĩ Thông. Bà lấy mày nát một đời hoa tàn một cánh bướm. Thời xưa bà đi lâm trường, không có đàn ông, nên mới phải ngủ với cái loại mày, mới chửa. Giờ mày liệt dương, mày còn đua đòi xem phim cởi truồng, làm bà bị đền cái “công ta tép” mất nửa chỉ vàng. Chim người là con công con ó, chim mày còn không bằng cái thứ ri sẻ…, chim mày vứt ngoài chợ cũng không ai thèm mó. Mày ra đây, mày ra đây, hôm nay bà lột truồng mày, cho thiên hạ thấy cái nỗi hận đời của bà…

Mụ Thấn cầm xích liên tiếp vụt vào cổng, rầm rầm, xoảng xoảng. Trong nhà Hoan Xồm lặng ngắt. Rồi đèn tắt phụt.

Bất ngờ cánh cửa phụ nhà Hoan Xồm bật mở. Sáu bảy người cởi trần mặc quần đùi chạy thốc ra, người nào cũng đội trên đầu một hộp bìa các tông, loại hộp mà Hoan Xồm vốn hay dùng đựng hàng. Chẳng thể nhận ra ai với ai. Mụ Thấn túm mấy phát, nhưng trượt. Mụ liền xông vào nhà. Lại có hai người cởi trần, đầu cũng đội hộp các tông từ trong bếp nhà Hoan Xồm phi ra. Lần này mụ Thấn không túm vai nữa, mà túm quần đùi một người, giằng lại, giơ xích vụt. Kẻ bị mụ Thấn túm trúng ngã khuỵu, dẫu ăn đòn rách cả da vẫn im thin thít, tay ôm khư khư hộp các tông che đầu.

Quần đùi của của người này bị mụ Thấn xoắn mạnh, chun đứt phựt, tuột xuống. Người ấy đành buông tay khỏi chiếc hộp trên đầu để chộp quần. Chiếc hộp rơi. Thì hóa ông Xích.

Ông Xích kêu:

-         Úi giời ơi! Đừng đánh nữa, nhầm rồi, thằng Thông nhà bà là thằng chạy cùng tôi, nó thoát mất rồi!

Lũ trẻ con đứng túm tụm xem, hét toáng:

-         Ông Xích lòi chim chúng mày ơi! Chim ông Xích như pháo cao xạ chúng mày ơi!...

Hôm ấy lão Thông bỏ đi cả đêm. Sáng hôm sau rình lúc mụ Thấn đi chợ, lão mới mò về gói ghém quần áo, trốn biệt về quê. Thằng Bách tối ấy chui lên nhà mình ngủ. Nằm cạnh mình, nó nói:

-         Lúc ông Xích với bố em chạy từ trong bếp nhà chú Hoan Xồm ra, tuy đầu đội hộp, nhưng em nhận ra ngay cả hai. Vì bố em thì gầy, mặc quần đùi bộ đội có miếng vá ca rô ở háng, còn ông Xích thì béo, đùi lại có vết chàm. Như mẹ em lạ gì cái quần đùi của bố em, thế mà chả hiểu sao lại đi tóm ông Xích.

-         Hay mẹ mày cố tình nhầm?

-         Có khi thế thật, vì mẹ em cú cái vụ ông Xích bà Đểnh phê bình mẹ em chửi Liên Xô lắm!

Sau hôm bị mụ Thấn hành hung ở nhà Hoan Xồm, vai và người ông Xích chằng chịt lằn đỏ, hai hôm liền ông không ra khỏi nhà. Mấy bữa sau, hễ gặp ai ở chỗ vắng, ông Xích lại thầm thì, điệu bộ rất bí mật:

-         Mình là phụ trách an ninh, nên phải hoạt động tình báo, phải trà trộn vào đám xem phim độc hại để nắm tình hình, có gì mới ngăn chặn được kịp thời!

Người nào nghe ông Xích nói cũng ậm ừ, ông Xích vừa khuất mắt, thì ôm bụng cười.

Ngoài bể nước công cộng, Hoan Xồm oang oang kể:

-         Hôm đấy trong nhà tôi chiếu phim toàn của tây nhá, vàng hoe, trắng nõn nhá… Lúc mụ Thấn xông đến trước nhà chửi, lão Thông liền chui sau cánh cửa trong bếp. Liền sau đó lão Xích cùng chen vào, hai lão đứng úp mặt sát nhau sau cánh cửa. Tôi mới tắt hết đèn. Thế mà chả hiểu lão Thông ở trong đó sờ mó thế nào, rồi kêu: “Ôí giời ơi làng nước ơi, xem được phim tây cởi truồng, nên buồi tôi nó cửng lại được rồi!”. Lão Thông kêu xong thì bị lão Xích thụi, lão Xích bảo: “Ai cho mày sờ buồi tao!”.

Các bà các chị ngồi đấy vục đầu vào lưng nhau cười, có người ngã bổ ngửa. Hoan Xồm về, còn mấy gã đàn ông ngồi ngoài bể nước bàn tán:

-         Thằng Hoan này chắc bịa chuyện, chứ chim mình mình cầm phải biết, chứ làm sao lão Thông nhầm chim lão Xích thành chim mình được!

-         Cái thằng cha này điêu trẹo họng, có dở hơi mà tin!

Lại có người cãi:

-         Biết đâu đấy, nhỡ chim lão Thông bị mụ Thấn túm với vặt suốt ngày, giờ nó nhẽo như dây thun, sờ vào khéo cũng chẳng có cảm giác thật ấy chứ!

Bà Vân Đểnh đi qua, một người nói:

-         Bà Vân Đểnh à, ông Xích nhà bà vì việc an ninh, nên trà trộn vào ổ chiếu phim bậy bạ điều tra, ông Xích thế là làm việc rất có trách nhiệm. Nhưng cái chim ông Xích thì lập trường có vẻ hơi yếu, nên gặp gái tư bản vẫn thèm. Bà nên về quán triệt tư tưởng cho cái chim ông Xích.

Người khác lại nói:

-         Không thể bảo là cái chim ông Xích lập trường yếu được, vì lúc mụ Thấn xấn xổ tấn công, chim ông ấy vẫn hiên ngang chổng lên trời, phải nói lập trường thế là quyết liệt chứ, nhưng mà là lập trường theo gái tây!

Bà Vân Đểnh bơ, làm như không nghe. Lúc về sân, nhìn thấy mụ Thấn, miệng bà sắt lại. Việc phát giác ông Xích trong đám tụ bạ xem phim sex lần này tất cả là tội của mụ Thấn!

uán Cây si

   Quán Cây Si, quán Cây Dừa, quán Vườn Trúc trước đây có đôi ba lần tôi đến với Hoàng Trung Thông. Nếu bây giờ quán nào còn chắc vẫn nhớ ông Hoàng. Còn tôi thì như cái bóng, cái bóng chẳng có gì để người ta nhớ. Tôi cũng hay lượn lờ quán xá vỉa hè thích lai vãng hàng quán, nhưng phải cái tội là ở đâu đông đông thì tôi lẩn dần. Ở quán cóc, ngồi ghế băng cả năm bảy người một dãy, được bạn uống láng giềng hỏi han thì tôi nói tôi về hưu đã lâu, trước làm kế toán ở cơ quan x, y - không hẳn tôi nói dối, vì xưa kia tôi cũng võ vẽ làm phụ kế toán. Như thế, câu chuyện bao giờ cũng tràn lan và tha hồ bốc phét. Nhà phê bình văn học Nguyễn Văn Lưu có tả tôi thường uống một hai chén rồi lủi. Cũng không hẳn như thế. Tôi ngồi quán cóc cốt hóng chuyện thiên hạ, không được thế thì mất cái thú. Tôi nghĩ như nói về tôi thế này thì có thể là tả thực hơn. Ở quán cụ 71 mà gặp những ông nhà văn có tuổi và nhà văn trẻ thì tôi uống và ngồi im. Nhưng đến đấy mà có ông xích lô, mấy ông bác sĩ viện Mắt đi uống rượu vụng mà uống khỏe lắm, mà tôi là lão kế toán về hưu, thì tôi cũng ba hoa chích choè lắm chứ. Chẳng biết thế là thôi quen, là tật hay bệnh mãn tính. Còn như uống, có khi đến năm bảy chén suông rồi biến thì phải kể loại nhất thì tôi biết là hoạ sĩ Dương Bích Liên - cái người lúc nào cũng sợ người, tránh người. Đã lâu mới lại đến quán Cây Si - thật có cây si cây si thả rễ loăn xoăn lòng thòng xuống trước mặt chứ không phải thân già này còn nỡm đời mà trồng cây si trước cửa nhà mụ nào, con nào và mong ngóng ai ai bây giờ.

Nhưng tay long tay hổ đi với tôi hôm nay không phải hai ông bạn văn nhớn nhác giơ tay xin đường qua ngã tư ngã năm hôm trước, cũng không phải cụ Kim Lân mà có hôm được các cháu nhà hàng gọi hỗn đáng yêu mà cụ lại cứ muốn chúng nó gọi láo lếu là "anh Hạc", "anh Hạc" lão Hạc cũng máu phất phơ hàng quán và uống vẫn tợn. Nhưng anh Hạc này mới bị trẹo cái đĩa cột sống ngay trên mông đít đã hay đi đái giắt cứ thình lình không ngóc được lưng lên, còn ông bạn chí cốt Nguyễn Văn Bổng của tôi thì nằm ngửa trên giường đã vài mươi năm nay rồi. Ôi chao, còn ai nữa... Những cái quán cóc vẫn lèm nhèm, lúi húi như thủa trước. Nhưng trong ruột xôm trò hơn xưa nhiều. Có những khách không phải hạng lép túi, nhưng họ thú vị với cái ú ớ xuềnh xoàng thế này. Trước tiên là quốc lủi, cái rượu quốc cấm ngày nào phải đựng trong bong bóng ni lông cất kỹ dưới gầm giường thì bây giờ được bày lên một loạt vò da lươn như những cái vại con, chẳng biết thửa ở Hương Canh hay Phù Lãng. Đậu phụ, đậu nướng thì ê hề. Lại mới thêm mặt hàng đương ăn khách: vó bò và chân gà, ngầu pín, giái dê tương gừng nhà hàng mở tủ lạnh bưng ra cả mẹt, tha hồ chọn. Các thứ mì ăn liền, bò hay gà thì cũng một mùi hăng hắc như nhau, ra đời từ cái ngày giải phóng miền Nam, bây giờ là món ăn cổ điển như là bún. Kể cũng tiện, ngất ngưởng rồi làm một gói vừa bụng và cũng là xong bữa.

Các chủ quán, bà Hai hay ông 71 đã về nhà lạnh cả rồi. Nhùng ánh đèn hoa kỳ lom đom với bó đóm gỗ diêm, và cái ống điếu cày thì vẫn để dưới gầm bàn - chỉ khác nó không còn phải xích vào chân cột. Thì vẫn tích cũ, "con nhà chùa thì quét lá đa” vậy. Bà bán xôi ngô hè phố Nguyễn Du cũng về với các cụ rồi thì con trai con dâu bà mỗi sáng lại ngồi xích lô chở xôi ngô từ phía chợ Mơ đến ngay chỗ ấy và khách hàng ăn quà sáng vẫn chen chúc kẻ đứng người ngồi. Cụ phở Chí đi rồi thì thằng Hải con cụ nói nghiệp "phở gà Chí", dẫu vợ chồng Hải đã tậu nhà đổi đi phố khác, nhưng con người cũng như con mèo, con ngựa giỏi đánh hơi đường cũ vẫn được khách theo. Bãi cỏ cứ đi mãi thành vệt đường, người ta ăn uống cũng theo vết kỷ niệm. Lâu lắm tôi không đến quán Cây Si - có lẽ từ khi ông trạng Thông chầu trời nhưng cái dáng người nho nhỏ dật dờ của tôi bước vào, cũng cho tôi tự cảm thấy tôi đã là người của mọi khi rồi. Tôi cùng đi với một thằng lạ. Nó cao lớn mật sạm nắng gió, trong bóng tối như thằng mắc bệnh gan. Chưa hẳn đã già, mà không thể đoán được tuổi, bảo là gần bằng tôi thì cũng đại khái tương tự. Nó mặc cái áo cộc tay vải đen vằn trắng cũng như mọi người qua đường bây giờ quần áo loạn các kiểu, các màu thế, chẳng đáng để ý.

Nhưng đời nó và cái sự nó đi với tôi thì không ai có thể tượng tượng ra được. Nó ở thành phố Hồ Chí Minh ra. Chưa đến Hà Nội bao giờ. Nó đi khỏi Sài Gòn tháng 4-1975 từ lúc thiếu niên. Chẳng có thân thích nào ở Sài Gòn. Nó xuống Vũng Tàu, chỉ vì ngày trước nghe mẹ nói đã sinh nó ở Vũng Tàu. Nhưng cung chỉ đi trông lại thành phố và bãi biển mà nó không nhớ cái gì cả. Nó là con của chị vợ tôi. Bà chị lang bạt vào Nam từ thời trẻ. Vợ tôi không biết mặt nó, chưa thư từ với nó bao giờ. Nó thình lình đến. Cô và cháu phải xưng tên mới biết nhau. Nó bay ra Hà Nội, xuống máy bay rồi xe tacxi đưa về đâu thì ở đấy. Nó lần ra điện thoại tôi mà nó cũng chỉ ở Hà Nội có hai đêm một ngày, mai về Sài Gòn rồi bay luôn.

Một ngày một mình lang thang đi phố. Chụp mấy cái ảnh đền Ngọc Sơn, ảnh Lăng Bác. Tôi hỏi:

- Mày làm gì ở bên Mỹ?

- Đi bỏ mối nhà ạ.

- Ở Sài Gòn cũng có nghề mối lái nhà.

- Vâng, trên thế giới này đâu chẳng có người bán nhà, người mua nhà, có thế cháu mới sống được.

- Đủ sống không?

- Được mối tốt thì cả năm chỉ việc ăn chơi.

Cách ăn nói thế, chắc nó cũng dân bụi bên Tây. Nó lại biết ông Võ Phiến. Nó chửi ông Phạm Duy chỉ nói phét. Có mấy bài hát khá thì làm khi theo kháng chiến, đến khi về thành ông ta đổi hết lời, thế mà vẫn vênh. Có nghĩa là thằng này cũng biết về văn nghệ văn nghẽo đôi chút. Đưa nó ra cái chỗ bụi lau vào Lương Sơn Bạc này được.

Nó nói, như tuyên bố.

- Cháu không hít, không rượu, không đớp, chỉ có nghiện cái món đàn bà.

Đến quán cây Si, nó hỏi:

- Đi ăn “bittrô” ạ?

- Không phải quán ăn nhanh đâu, ngồi cả đêm được.

Quán còn vắng, khách ngày thì hết rồi mà khách đêm thì chưa tới lúc. Tôi hỏi nó uống gì. Tôi kể có rượu bán chui, gọi là quốc lủi, có lạc luộc, có đậu phụ đậu nghệ mắm tôm, đậu nướng muối ớt, có mực nướng, có thể có cả bia Mỹ- để tôi hỏi. Nó bảo nó sợ mắm tôm, nó ngửi mùi nước mắm thì hắt hơi còn bia Mỹ thì như mùi hôi nách, không chịu được. Nó uống quốc lủi, nhấm nháp hột lạc luộc. Ở gian trong, cố ghế một không ghế băng như ngoài này, khuất cái vách ni lông, chỉ thấy thấp thoáng. Cũng biết có hai cô gái chắc là gái làng chơi ra hóng khách sớm. Thằng này khoe là háu đàn bà nhưng không thấy nó ngó nghiêng gì.

Chúng tôi ngồi im lặng.

Chỗ tôi ngồi chếch vào trong, trông rõ. Loại mắt xanh mỏ đỏ này cũng thường gặp. Nhưng hai ả xanh đỏ này có kỳ quái hơn thường. Đầu tóc mặt mũi cứ tía như đầu con gà chọi. Cái môi vàng nghệ và cái tóc hun rực như lửa, đã thấy ở Karachi, ở Tây Béclin mấy chục năm trước bây giờ mới lan đến đây.

Câu chuyện của hai ả không nói tiếng lóng, nhưng lạ tai. Và họ trò chuyện bô bô như không có chúng tôi ở vách ngoài. Cái mụ chủ quán đầu xù như con chó bông, thinh thoảng lại vào góp mấy câu nhấm nhẳn.

- Cho tao mấy vé Hàn Quốc ấy, bao nhiêu cũng cân.

- Nhưng không bèo như chuyến trước đâu. Đây toàn tay chủ cỡ bự.

- Hôm nào vô trỏng? Chuyến 9 giờ, đêm nay thôi. Thế thì...

Chuyện đến đây, hai ả giơ hai tay ngón tay thoăn thoắt làm hiệu. Như đài truyền hình đến mục phát cho người câm điếc. Rồi cả hai cười rinh rích, đứng lên uống cạn cốc bia Cácbớc. Họ đi ra qua mặt, cũng chẳng thèm để nửa cái đuôi mắt lại. Có thể vì cái mã chúng tôi cũng cú thôi và bọn này không phải những quân đĩ quán, đĩ lường.

Thằng cháu gật gù:

- Bọn chúng nó buôn người.

- Ở Mỹ cũng có à?

- Buôn người, buôn nhà đâu chả có. Nhưng ở đây...

- Ở đây sao?

- Ở Mỹ thì hai con này bị bắt rồi. Chủ quán gọi điện thoại, lính đến tóm ngay chủ quán được tiền thưởng. Tôi toan nói: “Ở đây người còn rẻ, ế nhiều lắm!", nhưng lại thôi và ngồi im. Thằng kia cũng không nói gì nữa. Nó vẫn uống rượu và bóc lạc, rồi lại trầm ngâm. Tôi cũng không hỏi, không gợi chuyện khác. Thằng này hay chuyện. Quả nhiên thế, và lại là câu chuyện mới.

Nó kể:

- Ở Cali có nhiều ông già Việt mắc bệnh mất ngủ, rồi chết, nhiều lắm, như gà chết dịch. Ông ấy đi Mỹ hợp pháp với con cháu ung dung lắm. Nhà bốn buồng. Ở tầng 15. Chúng nó đi làm cả ngày, trẻ con đi học vắng nhà suốt tuần. Một mình ông ăn sáng, ăn trưa đã có thúc ăn sẵn trong tủ lạnh ăn xong, ông ngồi trước ấm chè cho đến tối mới có người về. Một năm, mấy năm, mười năm. Một hôm, các con về thấy ông ngồi trên ghế. chết rồi: trước mặt vẫn cái chén và ấm chè.

- Nhớ nhà quá.

- Nhớ hay không, không rõ. Nhưng cái thang máy không biết xuống, mà xuống thì đi đâu. Cứ ngồi thế cả năm thì cũng chỉ nghĩ mà chết thôi.

Trưa hôm sau, ở sân bay Nội Bài. nó gọi điện về chào chúng tôi. Nó bảo:

- Cháu không muốn mắc bệnh chết ngồi đâu. Cháu sẽ về, về ở Sài Gòn.

- Mày là thằng Mỹ rồi, chết sao được!

- Thằng Mỹ dởm, cũng chết ạ.

Khách ở quê ra

Ngoài trời vẫn mưa. Mưa đã mấy ngày cũng chả còn ai nhớ được nữa.

Chỉ thấy một khối nước trắng lúc nào cũng tuôn rào rào ngoài mảnh sân hẹp và mau hơn, giòn hơn trên mái ngói chi chít của dãy phố. "Cho mày mưa!  Cho mày mưa! - khách nâng chiếc bát lên lại đặt xuống - cứ mưa nữa đi!  Lúa trổ xong rồi. Lạc cũng nhổ rồi. Chỉ còn mấy miếng nếp. Chà, mấy miếng nếp mưa này rồi cũng hơi gay đây. Nhưng cũng chẳng sao!  Cũng chẳng việc quái gì!".

- ... Vậy rồi nó xách một con dao... một con dao quắm hẳn hoi chú à!  - đang nhìn ra ngoài trời, khách thu cả hai con mắt về, nhô nửa người qua mâm cơm - Tôi thấy nó lao như mũi tên từ trong bếp ra. Con dao cầm lăm lăm trong tay. Con dao quắm vừa sáng vừa sắc, tôi vừa mới mài. Con dao thì sáng loáng mà cái mặt nó thì cứ trắng nhợt. Ấy là tôi đang nói cái thằng Dũng - cái thằng con trai đầu của tôi đó chú à!  Nó chạy xồng xộc ra chỗ đầu bờ mương  tôi với  lão chắt Hòe đứng. Tôi biết ngay. Phen này mình không nhanh tay ắt có án mạng. Chứ không còn là chuyện cãi cọ đôi co vì mấy con dê giữa tôi với lão chắt Hòe nữa. Bọn thanh niên nó khác. Chúng nó không thích đôi co đâu!

 

Mà cái lão chắt Hòe thì đằng thẳng ra, cũng đáng chết lắm. Chú tính, cái giống dê, dù rằng mỗi con có bốn chân nhưng chân cẳng của dê làm sao giẫm hết cả mộtMà cái lão chắt Hòe thì đằng thẳng ra, cũng đáng chết lắm. Chú tính, cái giống dê, dù rằng mỗi con có bốn chân nhưng chân cẳng của dê làm sao giẫm hết cả một sào nếp? Đàn dê của tôi có sáu con cả thảy. Nhưng chân dê chứ có phải chân trâu bò đâu?

Tôi cũng có một miếng nếp, nhất định tôi sẽ đền cho bác - Tôi nói với lão chắt Hòe - Cả hai miếng cùng một tràn ruộng, cũng đều một sào cả - Tôi nói ôn tồn. Vậy mà cha con nhà lão cứ chực xông vào đánh tôi. Lại đem tên bố mẹ tôi ra mà réo chửi. Cho nên thằng Dũng nó tức.

May làm sao!  Cái con mẹ Huệ nhà tôi lúc ấy cũng vừa gánh hai thúng đá ngoài ruộng về. Đặt gánh đá xuống, nó lao theo. Nó ôm chặt lấy thằng Dũng, giằng được con dao quắm!  Tôi nghĩ thật hú vía! ... chứ không thì bồ ổ nhà lão chắt Hòe bữa đó... thế nào cũng có đứa biến thành ma ông Cụt. Nói vô phép chú chứ, con cái nhà nó tiếng là đông cũng chỉ có hai mống là lớn, chứ bên nhà tôi có những bốn đứa lớn cơ!

 

***

Trong khi khách nói, Định ngồi ngắm lão. Định ngắm kỹ và lâu nhất hai bàn tay của lão. Chẳng còn là hình thù một cái bàn tay con người nữa!  Hai bàn tay lão đầy những chỗ nỗi u nổi cục, các ngón vặn vẹo và bọc một lớp da giống như một thứ vỏ cây, và cả bàn tay lão giống y như một tòa rễ cây vừa mới đào dưới đất lên. Và Định như đang nhìn thấy một thứ đất đến kỳ cục: cứ lổng chổng đầy những đá. Viên bé chỉ là một hòn đá kỳ lưng, hòn to cũng ngang cái đầu. Và lại còn cơ man là rễ cỏ tranh. Một vùng đất của dân biển lên mở trại lúc nào cũng phả ra chung quanh mùi rễ cỏ tranh ngai ngái, hăng hắc và ai đã đến đấy khi trở về, vẫn cứ phải nghe mãi cái dư âm ken két đầy rền rĩ của những chiếc xe cút kít - mà sự ra đời của nó lại như một phát kiến của loài người: Công việc khẩn đất ở đấy nặng nhất là khâu nhặt đá. Ban đầu từ người lớn đến đứa con nít cũng chỉ dùng tay. Về sau mới tiến lên đan ky, đan sọt để khiêng và gánh. Tiến lên một bước nhảy vọt, người ta đóng xe cút kít để chở đá.

Vùng đất đó là một vùng phía tây của miền trung - cái vùng "chó ăn đá, gà ăn sỏi" - mà giá không có bàn tay của những người như lão Khúng, lão cháu ruột của Định kia thì vẫn mặc sức ngủ kỹ dưới lốt chân hổ báo, dưới gió Lào, dưới giông bão, dưới bom đạn.

Vào một lần cách đây đã mười bốn năm, Định khoác chiếc ba lô cóc nặng gần bốn chục cân - trên đường đi B dài - đến một cung độ từ đấy đâm thẳng xuyên qua đường số Một về phía biển là làng Định. Đoạn đường giao liên vừa bỏ rừng chạy qua những triền đồi trọc. Hình như địch vừa ném bom. Trong cái nắng đến ngột thở có pha lẫn mùi thuốc bom. Hố bom, cái đỏ quạch, cái vàng sẫm. Nhìn ra bốn phía chung quanh nhấp nhô những dãy đồi cứ chạy xô vào nhau như rắn cuộn, thỉnh thoảng y như tận trên trời cắm thẳng xuống một hòn núi đá như một chiếc lưỡi tầm sét.

Trong cái nắng chiều ong ong, ngột ngạt, không lúc nào ngớt tiếng máy bay phản lực Mỹ bay lên từ mạn biển, một dáng người đàn ông cúi khom lưng xuống đẩy một chiếc xe chở đầy đá.

- Anh Định đấy hả?

Định nhận ngay được giọng "kẻ biển" của làng mình - vừa nặng trịch vừa véo von như hát - nhưng phải một lát sau mới có thể nhận ra lão chắt Hòe:

- Bác làm gì tận trên này?

- Tàu bay thằng Mỹ nó vít mất lối ra chỗ có con cá rồi!  - lão chắt Hòe thở hắt ra một tiếng, cái mặt nhuộm muối biển càng đen sắt - Bố con tôi vừa kéo nhau lên đây!

 

Định kéo lão chắt Hòe tới một gốc cây, mở lương khô khoản đãi, đưa thuốc lá cho lão hút, tỷ tê hỏi đủ mọi chuyện dưới làng. Đến lúc sắp đứng dậy lão mới bảo:

- À này anh Định, nhà thằng Khúng cũng đang ở trên này...

- Thằng Khúng nhà tôi hả bác? Nó lên đây một mình hay cả nhà?

- Cả con vợ với ba thằng quỷ sứ.

- Nó lên lâu chưa?

- Nó lên đầu tiên. Bỏ làng lên đã nửa năm nay. Tôi thấy bồ ổ nhà nó sống được nên cũng mới nghe nó rủ, kéo lên theo.

- Nó ở gần đây không?

Định nhìn theo mũi con dao quắm lão chắt Hòe nhứ nhứ về phía khoảng bìa rừng xanh um, từ ở đấy vẳng lên tiếng hót đầy lảnh lói như có cạnh sắc của com chim "bắt tép kho cà".

Gần trọn ngày hôm sau, Định lạc giữa một vùng rừng và đồi trọc, đến chiều tối mới tìm thấy cái gia đình ông cháu chả khác nào một cái ổ gấu chó nằm lọt vào giữa một vùng rừng cỏ tranh cao ngập đầu, đó là một cái túp bằng lá cỏ tranh bện lại, bốn chung quanh xếp đầy đá, dựng trên mấy vạt đất mới vỡ.

Trong cái ổ gấu, mấy chú gấu con đang đánh lộn nhau khi ấy chỉ mới là một phần ba số con cái của Khúng, và người đàn bà đã đẻ ra những đứa trẻ ấy, tuy sống giữa rừng nhưng vẫn trẻ đẹp, còn Khúng, y như một con người vừa từ dưới lỗ lên, vừa đen vừa gầy vừa già vừa xấu.

Bữa đó Định cầm mấy phong lương khô đi theo định làm quà cho mấy đứa cháu gọi Định bằng ông, nhưng đến nơi mới biết, trong túp lều vợ chồng Khúng, dưới cái hầm thùng chất đến những ba thùng lương khô còn mới nguyên. Thì hóa ra cái vùng đồi dân miền biển lên sơ tán và khai hoang để chống đói này cũng không xa các bãi khách của bộ đội đi B là mấy nỗi. Các đơn vị tên lửa và xe pháo đều đóng đầy quanh đây cả, trăm thứ của nả của chiến tranh đều không thiếu.

Trên đường vào nam đánh giặc, Định mới có dịp hiểu biết kỹ hơn ý đồ làm ăn lâu dài của người cháu: Rời làng lên đã nửa năm mà Khúng chưa chịu làm nhà, hắn vẫn để vợ con chui rúc dưới mấy tấm phên cỏ che trên cái hầm thùng. - "Dựng nhà làm khỉ gì - Khúng nói với vợ - làm mục tiêu cho tàu bay nó bắn ư?". Bao nhiêu sức lao động trong "bước đi ban đầu" hắn đem dồn hết vào việc vỡ đất. Hắn tranh chấp với rừng từng bước, không phải chỉ bằng mồ hôi mà cả bằng máu: Ngày mới lên, hắn đã bị thương trong một lần máy bay ném bom đêm - giữa lúc hắn đang vãi lúa lốc.

Chung quanh cái "ổ gấu" dần dần mọc  lên một vành đai sắn ở phía ngoài, sắn  lên xanh ngắt chen chúc cây dại. Đậu xanh, đậu  tương ở sau nhà. Lúa  tẻ,  lúa nếp trước nhà. Chỗ ăn ở tuy chưa được "đầu tư" thế nhưng hôm trời nắng to, vợ hắn lôi ra phơi bên cái bờ mương dẫn nước - trên mấy cây sào nứa hàng đống quần áo, chăn màn; toàn đồ quân trang, quân dụng của anh em bộ đội đi B. Chẳng hề giấu giếm, ông cháu ruột "báo cáo với chú" đã đổi được bằng thịt dê và rượu. Ngày ở dưới làng, vợ chồng con cái rách như tổ đỉa. Bây giờ cả nhà hắn mặc quân phục. Người nào cũng lành lặn. Vào dịp dưới làng có giỗ chạp, Khúng đánh hẳn một bộ tô châu xuất hiện trước mắt những người làng với tư thế của một người đi làm ăn xa về ăn nên làm ra, lại vừa với dáng vẻ một cán bộ trên vùng khai hoang về.

Phú quý sinh lễ nghĩa, hắn mang về cúng hẳn nhà thờ họ một chiếc võng đôi bằng loại vải tê-tờ-rông, để thuê thợ vẽ cây gia hệ. Cả họ năm nào tế tổ cũng cứ bàn nát ra về việc quyên cúng tiền mua mấy mét lụa, bây giờ hắn cúng vào một tấm tê-tờ-rông, thế là xong.

Thậm chí vợ hắn cũng trở lại với những thói quen của một người thành phố đã bỏ quên từ lâu. Từ rất lâu vợ hắn tưởng đã bỏ quên hẳn thói quen mặc áo lót mình.Sau mỗi lứa đẻ, hai bầu vú để thỗn thện, bây giờ "co" người lại trở nên gọn gàng, và chiếc nịt vú của người đàn bà cũng may bằng thứ mặt hàng quân phục. Đêm nằm bên vợ, bây giờ hắn thấy trên khuôn ngực trắng như ngó sen tự nhiên úp vào hai cái vung may bằng thứ vải tô châu mới xanh biếc, như hai con cánh cam to tổ bố, nom đến tức mắt.

***

Về người cháu đích tôn này, có thể nói cứ mỗi bận Định về làng trong những dịp họa hoằn lắm trong đời, không thể không về, như sang tiểu cho bố mẹ, người thân chết - lần nào Định cũng phải đóng vai trò như một chứng nhân của một quãng đời có cái gì khác thường của hắn. Kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, Định bận bịu mãi với đám tù binh, thu xếp cho chúng về nước hết anh mới về thăm làng được. Bị ném bom bao nhiêu lần, làng vẫn nguyên vẹn, vẫn y như hồi Định còn cắp sách đi học trường tiểu học, chỉ thấy cái gì cũng bé lại, từ con sóng ngoài biển cũng bé lại và cũng phủ một lớp bụi cũ kỹ. Cuối kháng chiến, làng được tặng thưởng huân chương vì thành tích tổ chức được một đội thuyền vượt biển đi tiếp tế vũ khí tận trong Khu Năm. Nhưng chiến tranh kết thúc, gần bốn chục cặp thuyền giã khơi chỉ còn lại một mớ xác thuyền nằm gối bãi rải rác dọc con sông nước mặn.

Định gặp Khúng ở ngang cái xóm đạo nhìn sang bên kia sông là mấy mảnh tường đá còn sót lại của một cái nhà đoan Tây ngày xưa. Hắn mặc một chiếc áo vải thô nhuộm vỏ già đã nhùng nhục, hai vạt trước mở phanh, một chiếc nón đan bằng giang cắp bên nách, quần dài cởi vắt vai.

- Chú Định, chú đến là tệ!  - Hắn túm lấy anh, mùi rượu phả sang mặt Định, lẫn mùi thịt chó - nghe nói chú về đã mấy ngày mà cứ ở tịt đâu tận trên Ủy ban...

- Nào đâu có, kìa, tao vừa về đến đây... hồi này có vẻ cậu như đã chuyển sang làm nghề biển rồi?

- Cánh nghề biển đang chạy túa lên các xứ đồng cắp rổ đi mót khoai lang kia kìa!  - Hắn ưỡn ngực ra - Vả lại, mình phải giữ lấy cái nghề gốc của đời ông bà chứ?

- Nếu làm ăn ra... xoay sang nghề biển cũng được chứ có sao?

- Thế là chú mất gốc. Họ nhà mình chỉ nên sống với cái hòn đất.

Khúng giành lấy ba lô, túm áo mũ Định lôi tuột anh về nhà hắn. Ôi, nhà với cửa!  Ngôi nhà của hắn mới thoạt nhìn thấy, Định đã hốt hoảng. Sao mà hắn lại có thể phỉ báng thần linh đến thế cơ chứ? Cả làng có độc một ngôi đền chung cho cả dân đánh cá lẫn dân ruộng nằm thìa lia ra ngoài cửa lạch, nổi tiếng khắp vùng đền làng Khơi  là đền  thiêng. Ngày xưa, hàng xóm nhà Định có một  tay dân đánh cá chẳng hề biết sợ hãi ai cả, nổi  tiếng ốc sạo, ngang bướng, vậy mà một  lần đi qua  trước cổng đền, trông thấy một bãi cứt trâu liền ngồi xuống dùng hai tay hót vứt đi. Ấy vậy mà bây giờ cái thằng Khúng cả gan dám dựng nhà ngay trên cái nền đất cao ngất của ngôi đền làng mà ở. Tiếng rằng ngôi đền đã bị đánh bom nhiều đợt chỉ còn một hàng bậc thềm xây đá Thanh, nhưng làm nhà ở trong khu đất của đền như một vài người khác đã quá lắm, vậy mà hắn lại leo lên đúng ngay chỗ thần linh đứng?

- Xùy, cháu cứ tưởng chú đã đi bộ đội phải nghĩ khác những người làng... - Khúng nói lấp lửng.

- Theo cậu thì nghĩ như mình và bà con trong làng là... lạc hậu ư?

- Cháu ngu dốt, từ nhỏ đi học đã tối dạ, nhưng chú biết đấy, từ nhỏ cháu đã là đứa khoảnh nghịch. Cháu cất cái nhà lên ở đây, người ta đồn đại ghê lắm!  Chẳng phải chỉ có làng này mà tiếng tăm cháu đồn đến tận nhiều làng khác cơ!

- Vậy là cậu nổi tiếng?

- Hì, hì... nổi tiếng thích chứ chú? Chú tưởng chú không thích nổi tiếng đấy hử? Người ta sống ở đời, chưa có miếng ăn thì cúi gò lưng xuống mà kiếm miếng ăn, có miếng ăn rồi thì ngẩng cao mặt lên cho thiên hạ biết mặt. Đến con cua con cáy cũng có lúc nó phải khuơ cái càng lên trời cơ mà!

- Cậu cũng đang khuơ cái càng lên đấy!

- Cháu đã mang tội nhạo báng thần linh thì chú cũng đừng nhạo báng cháu, cho có tội!  À này, tháng trước cháu vào trong chợ Chầu mua cái ách cày, tận tai cháu nghe một mụ hàng nước nói rằng ngoài làng Khơi có một tay làm nhà trên đất đền, nhà cất lên đã cháy đi cháy lại ba bận, nuôi con chó, con lợn đều chết. Vợ ốm, con ốm.

Định phì cười:

- Làm gì cậu đã có vợ mà ốm?

- Có, có... chú đi bộ đội cháu không biết ở đâu cho nên cháu không báo cáo được với chú đó thôi!

 

Miệng nói chân hắn thò xuống phản khua đôi guốc mộc. Tận đến lúc bấy giờ Định mới kịp để ý đến cái ánh lửa rơm cháy phừng phừng có thể soi rõ hình ông Thiện và ông Ác đắp nổi ngoài cổng đền.

Vợ Khúng mặc chiếc áo len xanh cụt tay, rón rén đi theo Khúng lên chào ra mắt Định. Trời đã tối, Khúng châm ngọn đèn. Hắn vừa khêu to bấc đèn vừa lúng búng:

- Chú đấy! ... - rồi quay sang Định - vợ cháu vừa đẻ. Nó tên là Huệ.

Người cháu dâu, vừa thoạt nhìn Định đã thấy chẳng có gì ăn nhập với Khúng, cũng y như cái nền ngôi đền linh thiêng trên đó hắn vừa cất lên túp lều của hắn.

Giữa hai con người có một cái gì quá đỗi khập khiễng, ai mà tin được có thể là hai vợ chồng, khi người vợ như một nữ sinh thành phố đứng bên cạnh Khúng. Chả khác một chiếc cốc pha lê bày bên một chiếc cối giã cua.

- Cháu ở đây... có thấy sợ không? - Câu đầu tiên Định hỏi người cháu dâu.

- Thưa chú... một mình cháu thì cháu không dám ở ạ!

 

- Chắc là cháu ở một thành phố nào ngoài Bắc?

- Thưa vâng ạ. Cháu ở thành phố Nam Định.

- Sao cháu nói pha tiếng trong này?

- Lên năm tuổi, thầy cháu đưa cháu đi theo vào Vinh rồi sang Luông Pra-băng. Thầy cháu là kỹ sư cầu cống. Cháu về Bắc rồi lại vào Vinh một lần nữa, đi học cho đến ngày ta phá thành phố... ngày ta phá thành phố...

Người con gái không nói tiếp. Định cũng không hỏi thêm, anh không dám. Đến hồi đó mới khoảng năm 1947. Khúc đường đời từ đó về sau, trong cảnh kháng chiến chắc hẳn không ít các điều bất ngờ xảy đến. Định chợt nhìn thấy một vẻ chán chường tuy kín đáo hiện ra ở cái nếp nhăn thấp thoáng bên khóe miệng người con gái thành phố. Chẳng lẽ đến đây, như đã là một bước đường cùng, hay một bước đường tạm dừng?

Trong buồng, đứa trẻ đang khóc. Huệ vội vã chạy vào bế đứa trẻ ra trao cho Khúng, để đi dọn cơm.

Đó là một đứa con trai, mới chừng vài tháng. Đột nhiên Định sực nghĩ chắc chắn đứa bé không phải là con Khúng.

Nằm trên đôi cánh tay của Khúng, nó càng khóc ngăn ngắt y như bị đau đớn ở một chỗ nào đó trong người.

Định chìa tay ôm lấy đứa trẻ, bế đến bên cái đèn. Anh hỏi Khúng:

- Đặt tên con là gì?

- Hình như con vợ tôi nó đặt là Dũng - Khúng đáp.

***

- Đã già, mặt mũi lại y như cái nồi đất kho cá, mà... mà cái lão chắt Hòe một bận đang đêm lẻn vào buồng vợ tôi, nấp vào sau cái chum. Nhà Huệ nó biết liền đóng sập cửa lại. Có mà chạy đường trời!  Chẳng xơ múi gì mà từ đó hễ trở trời là lão kêu đau. Tôi chỉ giáng cho một gậy thước vào lưng chứ có nhiều đâu.

- Cậu uống nước đi rồi ăn cơm!  - Định giục ông cháu.

- Tôi không ăn cơm đâu... Từ đó, lão ta đâm ra thù tôi, lão nói với thằng Dũng nhà tôi rằng mày không phải là con lão Khúng. Mẹ nó chứ, không phải là con tôi mà tôi lại nuôi từ lúc mới lọt lòng ra? Mà tôi đã cưới vợ cho nó tốn hết bao của nả? Không phải là con tôi mà trời mưa gió lụt lội thế này, tôi cũng phải cất công tiễn nó ra tận Hà Nội... để cho nó đi bộ đội.

Ông khách nhắc chiếc chai lên, lại xối rượu vào chiếc bát sứ. Nhưng khách vẫn chưa nhấc chiếc bát mà chỉ chun mũi hít hít cái không khí ẩm ướt hơi lành lạnh tan vào trong hơi men. Chẳng còn nhớ gì nữa đến những miếng nếp và khoảnh lạc bao quanh cái ngôi nhà mới xây năm gian tuyền bằng đá, lão Khúng chỉ còn nhớ được cái lúc chuyến tàu hỏa sắp vào ga Hàng Cỏ, tàu lắc mạnh hơn và đi chậm lại. Trong lúc thằng Dũng cùng lũ trẻ mới đi bộ đội thò nửa mặt ra ngoài cửa sổ ngắm phố xá san sát hai bên thì lão mặc dầu chưa ra Hà Nội bao giờ, mặc dầu trăm thứ lạ lùng đang bày ra chung quanh, lão cũng không muốn để con mắt đi đâu ngoài đứa con. Lão nghĩ: hễ đến khi tàu dừng hẳn là mình cũng phải xa nó hẳn. Lão thế mà yếu đuối.

Gần một đêm một ngày ngồi tàu chung với đám thanh niên tòng quân, lão chỉ toàn khoe đứa con. Đến nỗi người chịu chuyện, một đồng chí thượng úy làm nhiệm vụ đưa hai toa tàu chở tân binh từ miền trung ra, cũng phát sốt ruột vì lão. Lão kể lể bao nhiêu thứ chuyện về cái thằng Dũng với một nỗi tuyệt vọng: không bao giờ bộ đội người ta có thể hiểu hết giá trị của con lão, một cái máy cực tốt sản xuất ra bao của nả nhà lão. Thế vậy mà vợ chồng lão đem trao cho bộ đội quách. Thế vậy mà vợ chồng lão lại lấy đó làm điều vinh dự, sung sướng.

Nhưng mà tiếc, nhưng mà nhớ nó lắm!  Chao ôi, từ nay sẽ không bao giờ được trông thấy cái dáng nó đứng trong rừng, ưỡn người về sau, tay nâng lưỡi rìu lên quá đầu, một tiếng "chóc" của lưỡi thép chém ngập vào thân gỗ đã tan đi rất lâu, vậy mà không có gì xóa đi được những khoảng da thịt tươi non ướt đẫm mồ hôi in vào lá cây, in vào cõi im vắng của rừng sâu. Nó là đứa con trai làm việc khỏe lại thành thạo nhất trong bốn đứa con lớn nhất của nhà lão. Là đứa con có mặt ngay bên cạnh lão, khi có đứa hiếp ức lão.

Xì, làm việc gì mình chỉ nên nghe mình là hơn cả!  Sau ngày vợ chồng lão trả miếng đất linh thiêng lại cho thần làng sau cái vụ có đứa đốt nhà lão, một cô y tá đứng trước thềm trạm xá xã phát thuốc ngừa thai cho đám đàn bà đi khai hoang, đã đưa bàn tay vỗ vỗ lên vai vợ lão: "Chị Huệ, chị đẻ ít thôi, ba cháu là đủ rồi!".

Đủ sao được? Dù vợ không muốn, lão cũng bắt vợ phải đẻ. Đẻ rồi nuôi, sợ gì? Cái kho người nằm trong bụng vợ chứ có ở đâu xa? Đã dám bỏ làng bìu ríu nhau lên sống giữa chốn rừng thiêng, hoang vắng, đi hàng nửa ngày không gặp một người, thì phải có thêm người chứ? Không có thật đông người làm sao dọn hết đá? Làm ra con người khó đếch gì?

- Cũng chẳng phải dân đi trang trại mà dân ở làng cũng vậy, chú Định ạ. Cái cô y tá khoa sản ở trạm xá xã ta, hắn nói vậy chứ hắn cũng đẻ khiếp lắm!  Ở nhà quê mình, nhà nào đông con mới có uy thế được...

- Cậu nói cái gì lạ vậy hử? - Tự nhiên ông chú nổi giận - Cậu định phá cái nước này đi đấy hử? Tung ra bao nhiêu cán bộ y tế để vận động sinh đẻ có kế hoạch, nói đến rã bọt mép. Khéo, khéo cậu đang tuyên truyền phá chính sách đấy. Cậu phải thay đổi cái đầu óc đi!

Định hiểu những vấn đề trầm trọng của phát triển dân số trên toàn thế giới và trong nước mà lão Khúng mù tịt. Lão không cãi, chỉ đưa mắt ngắm cái gian nhà bằng cái lỗ mũi của ông chú với một cái gác lửng xếp tú ụ những đống chăn, gối mà đêm qua lão phải ngủ trên đấy, suốt đêm mót đái lại thèm thuốc lào mà cứ phải nằm im, ho khạc một cái cũng sợ làm tỉnh giấc nhà hàng xóm.

Tự nhiên hăng lên, lão xòe năm ngón tay khẽ khàng quắp vào khoảng xương đầu gối ông chú:

- Nhưng cháu xin hỏi: cả một đời chú, đã bao giờ chú phải dọn đá, trồng cây và làm nhà chưa, hay chỉ ăn lương và ở nhà của Nhà nước? Đã bao giờ chú phải chịu những đứa chung quanh cậy đông hà hiếp mà phải cắn răng chịu chưa?

Định cười ha hả:

- Cứ như cái ngày đi B ghé vào chỗ cậu, cũng khó mà tin được vợ chồng có thể trụ lại ở đấy được thực.

- Tôi trụ lại được là nhờ có bầy con sau này lớn lên.

- Cũng phải nói cho thỏa đáng, về sau có thêm nhiều bà con lên nữa chứ? Cũng phải nhờ có cái tập thể dựa vào nhau nữa chứ?

- Cũng có khi tối lửa tắt đèn. Thực là thế. Nhưng đã có thêm người là có thêm ganh ghét nhau, thậm chí thù ghét nhau. Chú có biết tại sao lão Hòe từ ngày lên khai hoang trở thành thù ghét với tôi không? Do là ngay từ ngày đầu, trong bụng lão đã ngầm ức với tôi vì mấy khúc xương của một con lợn lòi bắn được ngoài rừng. Đều muốn nấu một nồi cao toàn tính cả, cả lão và tôi đều muốn lấy. Vì tôi mạnh hơn thế nên tôi lấy được.

- Thì chia nhau có hơn không? - Nói như chú!

 

Chai rượu hết. Khuôn mặt ông khách vẫn như thường, chỉ có hai con mắt hơi gợn những vằn đỏ. Từ đầu bữa đến giờ lão mới nhấc đôi đũa gắp một khúc xương rán cháy cạnh nhưng rồi lại thả xuống, nhón trên đầu đũa một trái ớt đỏ tươi chẻ tư như một bông hoa trong cái thẩu dấm, đưa lên miệng. Lão nhấp ngụm rượu cuối cùng. Vị cay chua truyền đi khắp người lão. Lão cầm chiếc khăn mặt bông trên đầu gối, lau hai con mắt ươn ướt và đến bấy giờ lão mới nhận thấy những câu chuyện với ông chú từ đầu bữa đều là chuyện tào lao cả.

Lão lại trở về với cõi lòng sâu thẳm và mỗi ngày một khép kín của đời lão. Phàm con người ta ở đời, có cái gì hơn người, sướng vì nó mà chuốc lấy cay chua cũng vì nó? Vợ lão đẹp thực. Chả là cái thá gì cả, chẳng phải chủ tịch, bí thư, cũng chẳng phải điển hình chăn nuôi hay vệ sinh, chỉ vì một con vợ đẹp mà suốt đời lão nổi tiếng. Ở dưới làng hay lên trại, lão đều có nhiều người biết tên. Có nhiều công việc phải lên xã hay ra ngoài hợp tác, lão nói rã bọt mép không xong, nhưng mụ Huệ vấn chiếc khăn xanh lên đầu, đi là xong. Trong số chín đứa con - tẻ, nếp lẫn vào cũng có. Lão biết. Nhưng cũng đừng một kẻ nào nên nghĩ rằng có thể dễ bờm xơm được với vợ lão. Giới chức việc chẳng ai lay chuyển được vợ lão, tuy rằng "cái đám dân đi cày ngồi bàn giấy ấy" - như lão thường gọi - cũng "lãng mạn" ra phết. Có một anh theo đuổi vợ lão từ khi còn là một nhân viên coi kho của hợp tác xã cho đến khi leo lên đến cái chân kế toán trưởng, rồi phó chủ nhiệm hợp tác xã, từ khi còn là một anh chưa vợ đến tận khi đã vợ con, gần như vợ lão có tà thuật sai bảo là phải nghe, vậy mà suốt đời chỉ một lần, được nắm cái cổ tay của mụ Huệ chừng một phút.

Chán vạn người quyền thế, chán vạn kẻ phong lưu, đẹp mã, mụ Huệ đều không mắc, trước sau một mực chỉ biết có một người đàn ông là lão; vậy mà một lần, mụ đã mắc với một người, chung chạ và đẻ con với một người khiến cả làng không ai tưởng tượng nổi. Làng nước có thể gọt đầu bôi vôi một người đàn bà khôn ba năm dại một giờ, nhưng lại tha bổng và thậm chí đồng tình với một kẻ đã dám cố ý làm một công việc ngược ngạo.

Mụ Huệ phải lòng thằng Mới thật là ngược ngạo. Từ trước Cách mạng tháng Tám, người ta thấy thằng Mới - vốn là con hoang của một tay làm mõ trong làng - sống vất vưởng ở đầu ghềnh cuối bãi, theo thủy triều lên xuống để kiếm con ngao, con cá và thường nương náu nơi cổng đền làng. Sau Cách mạng, đáng lẽ hắn được đổi đời, nhưng trong khi tổ chức các đội dân quân cũng như các đoàn thể cứu quốc, người ta quên không gọi hắn, vả lại hắn còn nhỏ. Sau kháng chiến, Mới đã hai mươi tuổi, cũng là một điều lạ lùng, trong những năm bom đạn, hắn vẫn bám lấy cửa lạch và cái cổng đền đã bị bom đánh sập, vậy mà không chết. Hắn sắm được một chiếc mảng làm nghề câu biển, cũng có khi chạy sang nghề nông, cứ xam bán, và một lần nữa, trong khi tổ chức hợp tác xã, người ta lại quên hắn, nghĩ rằng cứ để hắn đứng ngoài với một chiếc mảng ghép bằng dăm ba cây bương, hắn chẳng chết đói mà cũng chẳng phát triển lên tư bản chủ nghĩa được.

Ngày cái nhà của Khúng ở dưới quê chưa cháy, có một vài kẻ trong làng thuê Mới đốt cái nhà dựng trên nền đền, nhưng hắn đã không làm mà còn mách với Khúng. Cũng vì cái ơn ấy mà Khúng cho hắn dựng nhờ cây sào, tấm lưới, có khi động biển, hắn còn được phép kéo chiếc mảng lên dựng vào sau túp nhà bếp của Khúng và nấu nhờ một bữa cơm. Không hiểu sao từ khi thoạt nhìn thấy thằng Mới, Huệ đã cảm mến ngay. Huệ có thể ôm con ngồi ngóng ra ngoài cửa lạch suốt buổi, để xem hắn câu, cái mảng lúc vào gần, lúc ra khơi, cứ lững lờ: hoặc là ngồi nghe hắn kể thói quen từng loài cá, tính nết từng đám mây. Hắn thật hiền, có lẽ hiền nhất làng và có một cái gì đó như một tâm hồn nghệ sĩ - một tâm hồn vô cùng thính nhạy nhưng lúc nào cũng khép kín. Đến bấy giờ thì Huệ đã hiểu vì sao trên khuôn mặt bầu bầu và rám nắng của Mới luôn luôn hiện lên một vẻ lơ đễnh đầy trong sạch gần như ngây ngô, giống như lột cái vẻ mặt của Th - bố thằng Dũng - những lúc Th. ngồi trước những mẩu đá.

Khoan, đứa con vụng trộm với Mới là thằng con trai thứ tư của Huệ, lớn lên mặt mũi giống Mới như lột - và Khúng, một người cha vốn quý trọng mọi nguồn lao động, vẫn yêu và quý thằng con trai thứ tư, đứa con đầu tiên sinh ra khi vợ chồng lão vừa lên vùng khai hoang, chả kém gì những đứa khác.

Kể cả cái thằng bé Khoan có khuôn mặt bầu bầu và nổi tiếng hiền lành nhất nhà ấy, dù là gì đi nữa nhưng điều quan trọng là lão đã biết rành rành nó là con thằng Mới, vẫn thuộc dòng máu của một anh dân làng Khơi tầng lớp mạt hạng - nghĩa là, lão đã biết hết cả mọi xuất xứ và nguồn gốc của nó.

Trong đàn con cái đông đúc mà mụ Huệ đã đẻ cho lão như một nguồn lao động trời cho ấy, chỉ có một đứa- là chính cái thằng Dũng - lão không hề biết rõ con cái nhà ai, không được phép hỏi mụ vợ, cũng không được phép  tìm hỏi người khác suốt đời  lão, không hề bao giờ  lão hắt hủi và bằng  tất cả  tấm  lòng  thành  thực,  lão yêu thương nó, nhưng không bao giờ lão thoát ra được cái nỗi ám ảnh rằng nó mang dòng máu xa lạ với lão. Thằng con ấy, nó là đứa đẹp trai nhất nhà, một mình nó một khuôn mặt, từ con mắt, cái mũi đều như được chạm trổ tinh vi hơn. Nhưng đấy lại chẳng là cái vết thương sâu nhất của đời lão - suốt đời lão mang tiếng lấy vợ thừa người khác, chẳng là vì nó?

Trưa hôm qua, chia tay với thằng Dũng rồi lão còn quay lại đoàn tàu hỏa đang còn đậu ở trong sân ga một lần nữa, lão khúm núm trước cái anh bộ đội cấp thượng úy: "Đừng để nó phải khổ, đừng để nó phải đói rét, cái thằng Dũng nhà tôi ấy, việc gì làm cũng được nhưng lại khảnh ăn như một đứa con gái nhà thành phố!" - "Biết rồi bố ạ - anh bộ đội dẫn quân chế nhạo lão - vào bộ đội cũng không phải đi đày đâu. Bố cứ yên tâm!".

Thấy mình phút chốc trở nên y như một mụ đàn bà lẩn thẩn, nhưng lão vẫn cứ quanh quẩn bên cái tàu hỏa có đứa con đang ngồi, hết mua hoa quả lại bánh trái lật đật mang về bắt nó ăn.

Nửa giờ sau mới có một chiếc xe  tải của một đơn vị bộ đội Hà Nội đến đón đám  tân binh miền  trung vừa ra. Trông  thấy  thằng Dũng rời  tàu bước  lên xe,  thế  là  lão Khúng cứ quýnh cả lên. Chẳng biết làm gì trong cái phút chót, lão dúi thêm một mớ giấy bạc vào tay nó khiến thằng bé vừa thương bố lại vừa ngượng với bạn, đến nước nó phải gắt lên với lão trước lúc xe chạy.

Lão đứng lại một mình giữa cái sân ga Hàng Cỏ đầy những người lạ. Đến bây giờ lão mới đưa mắt ngắm nhà cửa, phố xá Hà Nội và lão sực nghĩ đến những lá thư được gửi đi từ đây - mà suốt gần hai mươi năm nay, cứ một vài năm vợ lão lại nhận được một lá. Đó là những lá thư riêng của vợ, mà lão đã đọc trộm. Những bức thư viết trên một thứ giấy thật mỏng, mà mỗi lần đọc xong, suýt nữa lão đã toan lấy làm giấy vấn thuốc. Nhưng lão không dám, lại đem cất lại như cũ, tận dưới đáy một cái trong xó buồng vợ.

Mỗi lần nhận thư, bao giờ đêm ấy vợ lão cũng thức chong, đuổi lão ra nhà ngoài nằm, hai ba ngày sau, cứ như một người câm và đối xử với lão như một người xa lạ.

Dù rằng suốt một đời đã bị lão Khúng biến thành một cái máy đẻ và đến bây giờ đã trở thành một người đàn bà thôn quê thực sự, một bà ké miền rừng thật sự, chắc hẳn Huệ vẫn cất giữ cho riêng mình một chút hình ảnh cuối cùng của cái thời thiếu nữ sống ở thành phố, cùng với một mảnh tình yêu đầu tiên đầy sâu nặng mà thời gian hai mươi năm chỉ có thể càng đào sâu chôn chặt vào tâm khảm.

Suốt gần hai mươi năm nay người đàn bà vừa gần gũi vừa xa lạ với lão Khúng không hề đặt chân đến một thành phố nào cả, kể cả cái thị trấn lâm nghiệp cỏn con, đìu hiu nằm kề sông chỉ cách nhà dăm cây số, cũng ngại đến.

Huệ đã gắn bó ngày một chặt chẽ với nhà cửa, nương rẫy, bởi chính chị đã phải cùng với lão Khúng nát óc tính toán, thức khuya dậy sớm, trút mồ hôi và sức lực đến gần cạn kiệt, để có tất cả ngần ấy của một gia đình nông dân đông con.

Đất đai và cây trái, trong khi con người làm ra nó thì chính nó cũng làm ra con người. Chính Huệ cũng đã trở thành một người đàn bà nông dân với cái tính ky cóp, chắt bóp, tham công tiếc việc, tham của và thậm chí đôi khi còn lắm điều nữa. Hàng xóm, láng giềng sang chơi thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy cặp mắt Huệ nhìn len lén từ trong bóng tối, trong khi trút hàng chục vò rượu giấu trong buồng ra những chiếc bong bóng lợn.

Hoặc vẫn bằng hai bàn tay con gái thành phố - bây giờ đã đen đúa và sứt sẹo - Một tay bưng bát rượu, một tay cầm chiếc đũa cả ghè miệng một con dê bị trói chặt nằm giữa sân, Huệ đổ rượu vào miệng con vật trước khi cắt tiết nó bằng một con dao nhíp với tất cả vẻ thành thạo. nằm giữa sân, Huệ đổ rượu vào miệng con vật trước khi cắt tiết nó bằng một con dao nhíp với tất cả vẻ thành thạo.

Chừng như đấy là một người đàn bà đã quyết tâm đoạn tuyệt với gốc gác thành phố?

Nhưng đời sống đô thị - cái niềm mơ ước thật xa lạ cứ mỗi ngày một hiện ra trong lòng những đứa con của Huệ một cách cụ thể, như một tiếng gọi của thời đại, nhất là vào những tháng cuối năm, mùa cà chua, chúng phải đèo những sọt cà chua chín đỏ xuống bán tận dưới chợ Vinh, sáng đi chiều về. Có khi ruộng cà chua chín rộ, hai ba đứa phải đi từ chiều hôm trước và ngủ đêm lại dưới thành phố.

Những buổi khuya sáng trăng, trong cái im lặng thẳm sâu từ những cánh rừng chung quanh như ùa tràn ra cái sân nề vôi trắng toát trước nhà, đám con  tụ  tập  lại, kháo với nhau bao nhiêu là thứ chuyện đầy hấp dẫn về đời sống ở trong cái quầng sáng điện mà chúng vừa từ đấy trở về. Thế rồi một lần thằng Dũng đã bị lạc trong vùng quầng sáng kia đến những ba ngày. Khi trở về, hắn đã quyến theo về nhà một đứa con gái tóc uốn, Huệ cầm đôi đũa cả quấy cám lợn chạy ra đứng trước hiên nhà bếp, nhìn xuống con đường dốc đất đỏ ối của quả đồi đối diện. Chị nhìn thấy cái đứa con gái ngồi sau gác-ba-ga xe đạp của thằng Dũng, hai chân bỏ lọt vào một bên cái sọt không. Khi thằng con trai thả phanh cho chiếc xe lăn tuồn tuột đến chóng mặt xuống dốc, hắn đã cố ý bắt buộc đứa con gái tuy thẹn đến chết nhưng cũng phải nhắm mắt ôm ghì lấy ngang lưng hắn.

Về đến nhà, thằng Dũng dựng xe trước thềm, cúi xuống một bên sọt nhặt chiếc ba lô khoác lên vai đứa con gái, còn chiếc túi da có in hình chiếc máy bay cũng của cô gái, hắn vẫn xách trên tay. Sau khi biết bố đang còn bận nhặt đá ở trong Khe Đá Dầu với thằng Khoan chưa về, hắn điềm nhiên dẫn cô gái vào trong nhà bếp, giới thiệu như khoe với mẹ:

- Đây là cô Thùy Loan, kỹ sư, bạn mới quen của con!

 

Trời ơi, một thằng thanh niên miền rừng đi bán cà chua ở chợ tỉnh không biết làm thế nào đã tha về được một đứa con gái có bằng cấp cao sang là nhường kia, xét ra tuy không đẹp bằng thằng Dũng nhưng cũng là một cô gái khá xinh xắn và rất lễ phép, và một điều khiến cho người mẹ phải giật mình là mới thoạt nhìn, Huệ đã biết ngay là một đứa con gái sinh ra và lớn lên ở thành phố.

Tuy trong thâm tâm Huệ thấy chua xót và đã nhìn thấy một cái gì khập khiễng giữa hai đứa trẻ, nhưng chiều ấy, Huệ tiếp đãi đứa bạn của con trai đặc biệt trân trọng và ân cần.

Đêm hôm ấy, Loan ngủ với người mẹ ở gian nhà trong, một gian buồng ngủ mà bốn chung quanh cái giường nằm kê đầy những chiếc chum bằng đất nung đựng ngô, đậu, khoai lang khô, những chiếc bong bóng lợn đựng rượu và những lá thư không được trả lời. Nửa đêm về sáng, Loan thức dậy. Trong khi ở nhà ngoài thằng Dũng cũng thức dậy đang tìm điếu hút thuốc lào, Huệ nằm mơ màng chợt nghe thấy chung quanh cái nếp nhà ở miền rừng của mình cứ rộn lên đến chói tai những tiếng kêu rền rĩ của một chiếc xe cút kít đang lên dốc, trong một buổi chiều cách đây gần hai mươi năm...

Khi thằng Dũng đã hơi lớn, vào trạc mười ba, mười bốn, đến cái tuổi đủ sức quàng một đoạn giây chắp bằng vải cáu đen mồ hôi vào sau ót, tay nâng đôi càng đẩy chiếc xe cút kít lăn bánh, dù đang phơi hàng đống quần áo ngoài sân hay đang mắc bận nấu nướng và xua những con dê ra khỏi nhà bếp, bao giờ Huệ cũng nhận ra được đứa con đi vào rừng đẵn củi đã trở về - qua cái tiếng kêu của bánh xe cút kít, cứ rít lên trong cái trục gỗ. Và lần nào chị cũng cứ ngỡ như lại đến lượt thằng Dũng tha về một người đàn bà tóc tai rũ rượi, hai hàm răng trắng lóa nghiến chặt, lúc há to như thể không bao giờ còn khép lại được nữa, và cái bụng người đàn bà y như một quả trứng khổng lồ đang sắp rạn vỡ.

... Lúc bấy giờ mặt  trời đã đứng bóng. Con đường xuyên  rừng vắng heo hút, không hề có một bóng người. Huệ đang cố  lết đi. Quãng đường đèo không dốc  lắm nhưng dài quá sức một người đang đau bụng đẻ. Gắng đi thêm một quãng, Huệ lại tìm một cái cây, đứng tựa lưng vào. Chị nắm thật chặt chiếc khăn vuông hoa gói vài chiếc tã lót và một nắm cơm.

Lên được hai phần ba đèo, thì không đi được nữa. Chị phải ngồi lại bên một gốc cây. Cơn đau mỗi lúc một quặn hơn. Nhìn con đường trườn lên dốc chỉ thấy nắng, từ dưới lên cũng như từ trên phía đầu dốc đổ xuống vẫn chẳng thấy qua một bóng người.

Thậm chí một tiếng động cũng không có.

Nỗi thèm khát được gặp người. Không dám ước ao nhiều, Huệ chỉ dám ước từ trên dốc đi xuống một đứa trẻ, nếu nó là con gái thì càng hay.

Có lẽ mình phải sinh con một mình giữa rừng. Đến cái nước này Huệ chỉ còn ao ước được như người đàn bà trong cổ tích, được một con hổ đỡ cho.

Giữa lúc ấy, có tiếng xe cút kít vẳng lên ngân nga như tiếng sáo. Rồi Huệ ngó ra thấy một người đàn ông cởi trần, đẩy chiếc xe chất đầy những súc gỗ làm nhà, từ dưới chân dốc đi lên.

Ừ cũng lạ, lúc bấy giờ Huệ đã rút thật sâu vào sau cái gốc cây, không phải gốc cây bên đường mà một cái cây to tận trong sâu, lại có hòn đá bên cạnh che khuất hết cả người, vậy mà Khúng cũng nhận thấy có điều gì lạ, đã dừng xe lại.

Khúng liền vứt hết những phiến gỗ súc đã đẽo sơ thành hình kèo, cột xuống vệ đường, để lộ ra trên chiếc mê đan bằng tre một lớp than, có lẽ Khúng vừa đốt trong rừng. Người đàn ông lấy tay san đều những hòn than thành một chỗ nằm hơi trũng xuống rồi mới chạy tới đưa người đàn bà lên xe.

- Đi đâu?

- Đi đâu cũng được. Cho tôi sinh.

- Sắp chưa?

- Ngay bây giờ.

- Không tính được ngày sinh hay sao?

- ...

- Người ở đâu? Sao không có ai đi theo?

- ...

Mới đi được một quãng, mặt mũi chân tay Huệ đã đen nhẻm. Mình đang nằm trên một đống than vừa ra lò - Huệ tự bảo - Vẫn còn nóng. Chị cố nép sát vào cái vành mê phía sau để tránh cái nhìn của người đàn ông đang đẩy xe. Chị xốc lại quần áo và lựa một thế nằm, co mình như con tôm. Lên gần tới đỉnh đèo, những đau thắt lấy ngang người. Và Huệ cảm thấy một cái gì vô cùng riết róng, dữ dội và thảm khốc, trong những vòng quay dưới lưng. Những vòng quay cứ xiết lấy chị, không có cách gì cựa quẫy ra được nữa. Nó là cái gì vậy? Đang giữa nư đau, Huệ không biết cái gì, cũng không nhìn thấy mà chỉ cảm nhận được qua cái âm thanh ken két lúc rộ lên, lúc như nén lại để rồi lại kêu rộ lên to hơn, não nề và riết róng hơn - của chiếc bánh gỗ to kềnh càng quay lử khử trong một cái trục cũng bằng gỗ.

Sang tới bên kia sườn đèo, Huệ nhìn qua vạt áo cánh trùm trên mặt, thấy một nền trời chiều xanh nhạt hiện ra sau một bức thành mầu xanh sậm kết bằng chỏm rừng kéo dài và cứ như đang dâng cao dần lên mãi. Từ trong khoảng cao xanh, lại chập chờn vọng xuống một thứ âm thanh vi vút, bay bổng. Lắng nghe một lát, Huệ mới nhận ra được cái tiếng sáo diều ngân nga vừa chợt nghe, chính nó vẫn là cái tiếng kêu của những vòng quay ở dưới lưng.

Quằn quại mãi trên chiếc xe cút kít như một tên tù binh vừa rơi vào bàn tay tàn bạo của một thổ dân, đến gần tối thì Huệ sinh. Đứa bé ra đời trên dọc đường, trên tay Khúng.

Một tháng sau khi đẻ thằng Dũng, Huệ nhận lời lấy Khúng với một điều kiện: Không bao giờ Khúng được hỏi chị về quãng đời về trước, cũng như bố thằng bé là ai, không được hỏi dò la về người đàn ông ấy - mà Huệ chỉ cho Khúng biết là một người rất tốt, một trí thức vào bộ đội, cho đến giờ chị vừa thương hại vừa căm giận nhưng vẫn yêu và là người quê cùng thành phố với chị.

Cái anh chàng nông dân lêu têu có đầu óc thích nổi tiếng chấp nhận các điều kiện ấy với tất cả sự thất thiệt nặng nề của một anh trai tân, để đánh đổi lấy một cô vợ rõ xinh đẹp, nhất là, một cô gái thành phố chính cống.

Hắn vênh cái mặt lên mà thách thức với cả làng: "Đi suốt mấy làng này, từ dân làm nghề biển cũng như dân trong đồng, thử hỏi có thằng nào lấy được vợ thành phố như tao - cái thằng Khúng ngất ngưởng này?" Hắn đổ hết sức ra làm như trâu, mỗi ngày một chuyến xe than lẫn gỗ súc về bán cho đám dân biển. Bằng mồ hôi của hắn, hắn đã cứu được hai mẹ con Huệ. Cả hai tưởng sẽ chết sau kỳ sinh nở: mẹ bị phù thũng và đứa con vừa sinh ra đã sài đẹn.

Cả làng chửi Khúng chẳng còn thiếu câu gì nữa. Cái thằng dám cả gan đem về cái nơi thờ thần làng một con đĩ chửa hoang hắn nhặt được ở xó rừng nào...

***

Cái lần thằng Dũng đi bán cà chua về, nó đã làm được một việc y như lão Khúng đã làm gần hai mươi năm trước đây, chính Huệ cũng không khỏi sung sướng và tự hào, khi thấy một cô gái có học thức và vốn xuất thân con nhà thành phố đã chịu theo đứa con trai đầu lòng của mình về nhà. Điều đó khiến cho Huệ cũng phải lấy làm lạ lùng, như một sự lặp lại của số phận con người.

Sáng ngày hôm sau, Loan, cô kỹ sư được Dũng và bà mẹ dẫn vào trong Khe Đá Dầu - một khu vực khai hoang thứ hai mà lão Khúng và thằng Khoan đang dựng chòi ở - để đốn cây và nhặt đá.

Lão Khúng đã bắt đầu phải tính toán về đường xa, khi mà những đứa con trai và con gái của lão phần nhiều đều đã lớn, cần hỏi vợ gả chồng, làm nhà riêng và cũng phải tìm đất cho chúng sống. Đầu óc của một người nông dân bao giờ cũng nghĩ đến cuộc đời mai sau của con cái. Chính vì lẽ thế mà cái tay chẳng lúc nào được rảnh, chẳng lúc nào ngơi mó máy trong đất.

Đất trong Khe Đá Dầu còn tốt hơn đất ở ngoài chỗ hiện đang ở - làm lão Khúng cứ mê đi, như đã nhìn thấy trước cái sự thịnh vượng của đời con cái - chỉ hiềm nỗi, lão chẳng biết có ai đem giấu cái gì bên dưới mà sét đánh luôn, hễ có giông là có sét.

Lần ấy, Loan ngủ lại thêm một tối trên chiếc chòi của gia đình Dũng dựng trong Khe Đá Dầu. Sáng ngày hôm sau, Dũng dẫn cô đi tiếp một buổi nữa mới vào đến một dãy lèn đá mà những người khai hoang thường gọi là "lèn địa chất", ở đấy, Loan trình giấy giới thiệu và nhận công tác ở một đội thăm dò địa chất. Hàng trăm công nhân và kỹ sư đã có mặt ở đấy  từ những năm vùng này còn bị máy bay Mỹ đánh phá rát. Công việc  thăm dò càng được ráo riết xúc  tiến khoảng vài ba năm nay - ngoài các kỹ sư người trong nước còn có các kỹ sư nước ngoài.

Trong các bức thư của Th. mà Huệ vẫn trân trọng bí mật cất dưới đáy một cái chum, không có bức nào mà Th. không nói qua về công việc của anh ở Hà Nội - một công việc liên quan mật thiết và có tính quyết định đối với công việc thăm dò đang tiến hành ở đây, cả những chuyến máy bay chụp ảnh thỉnh thoảng bay qua vùng khai hoang cũng nhằm mục đích ấy.

Có thể nói rằng suốt cả đời mình, Huệ sống ở đây để chờ đợi một thành phố sẽ ra đời, không phải một thành phố buôn bán và tiêu thụ, mà là một thành phố công nghiệp của hàng vạn công nhân khai thác mỏ quặng của một thứ kim loại quý. Huệ biết rằng đến lúc đó, đời sống con người và thiên nhiên chỗ này sẽ hoàn toàn khác bây giờ, con người sẽ không còn bị bưng bít bởi sự hẻo lánh nữa và đứng ở đây, người ta có thể nhận được những tin tức của mọi nơi.

Một đời người thật ngắn ngủi, Huệ biết đời mình chưa chắc đã trông thấy mặt mũi cái thành phố tương lai được xây dựng trên vùng đất do bàn tay vợ chồng chị đang khai phá, nhưng chị tin nhất định dù sớm muộn nó phải có, nhất định một thành phố công nghiệp sẽ mọc lên trên mảnh đất hoang dã này. Những đứa con của chị chẳng phải mơ ước và đi tìm kiếm cuộc sống đô thị ở tận đâu xa, mà ở ngay trên miếng đất chúng đang đứng. Vợ chồng Huệ tổ chức đám cưới cho thằng Dũng vào tháng ba thì tháng chín người con trai đi bộ đôị. Có một lá thư của Th. - một bức thư rất quan trọng - vừa gửi về mà lão Khúng chưa được đọc. Huệ nhận được bức thư cuối cùng ấy chỉ trước ngày thằng Dũng bước chân ra đi dăm hôm và chị cứ đắn đo mãi có nên đưa cho con xem hay không? Th. báo tin cho Huệ biết anh đã được Chính phủ chỉ định làm tổng công trình sư của cái công trình công nghiệp đồ sộ sắp bắt tay xây dựng vào đầu sang năm, và nay mai anh sẽ thường xuyên có mặt ở  tại  thị  trấn  lâm nghiệp, cùng với những bộ phận đầu  tiên của bộ máy điều hành của mình. Cũng như những  lá  thư  trước nhưng  lần này bằng giọng  tha  thiết hơn, van nài hơn, Th. xin Huệ hãy quên mọi chuyện cũ và tha thiết đề nghị được gặp Huệ và con. Dù như Huệ nói, bây giờ Huệ đã trở thành một người đàn bà khác hẳn trước kia và đứa con trai không còn là con của anh nữa, thì anh cũng tha thiết xin được gặp.

Khách cầm đứng đôi đũa son gạt hai nhát từ hai bên mép vào giữa rồi buông đũa. Chiếc bát ăn cơm đặt rìa mâm vẫn chỉ bốc lên hơi men.

- Cháu đủ!

Trong lúc chống gối đứng dậy, lão Khúng cúi xuống chiếu nhặt chiếc khăn lau mặt, chợt nhìn thấy khuôn mặt của lão và khuôn mặt Định gần như kề sát nhau, phản chiếu trong cánh cửa gương của chiếc tủ đứng.

Con người ta cùng một dòng máu mủ mà khác nhau biết chừng nào? Cái ý nghĩ như một kết luận không phải hình thành một lúc trong cái đầu óc nông dân bảo thủ đầy sắc sảo của người cháu, mà ban đầu lão thấy khuôn mặt người chú trong gương như một điều chứng thực cho một cái nhận xét bất chợt nhưng rất quan trọng của lão, trên dọc đường chiều hôm qua lão đi một mình từ ngoài ga Hàng Cỏ về nhà Định.

- Những cái anh dân thủ đô Hà Nội này - lão đạp những bước như vồ nện xuống mặt nhựa vừa gật gù nghĩ một mình - sao mà người nào cũng y như ngâm lâu ngày trong bể nước mới vớt lên? Da thịt người đâu mà cứ trắng nhợt, mà người nào người nấy cứ mềm oặt, mềm như sợi bún, từ cái ngón tay đến sợi tóc đều mềm, tiếng nói cũng mềm, dáng đi điệu đứng lại càng mềm, nhất là cái tiếng cười lại mới thật là mềm chứ?

Lão đảo mắt nhìn sang những đứa con của chú ngồi quanh mâm rồi nhìn kỹ vào một bên tai chú: Lão đảo mắt nhìn sang những đứa con của chú ngồi quanh mâm rồi nhìn kỹ vào một bên tai chú:

- Mự này - lão vừa nói vừa giơ tay đón lấy chiếc điếu cày mà vợ Định vừa chạy sang nhà hàng xóm mượn về - mự không biết chứ, chú Định càng về già càng giống nội cháu ngày xưa. Giống lắm cơ!  Cả những sợi lông loăn xoăn từ trong lỗ tai mọc chìa ra. Ông cháu ngày xưa cũng thế, nhưng còn rậm hơn cơ!

Định ngẩng lên. Bất giác Định cũng bắt gặp cái mặt mình bên mặt người cháu - như càng làm nổi bật cái mầu nước da tai tái và rám nâu như da thuộc, với những đường nét gãy khúc đầy khắc khổ, với những khoảng lồi lõm y như những tảng đất cày đắp lên, và từ sau hàng lông mày rậm rì và cứng, lúc nào cũng chiếu ra chung quanh một cái nhìn ngang bướng và đầy ngờ vực.

Tuy chú cháu nhưng so tuổi tác, Định chỉ hơn Khúng vài tuổi. Nhưng cứ nhìn mặt, ai cũng phải nghĩ Khúng già hơn - như một bậc bề trên trong gia tộc. Ngày xưa bố Khúng - ông anh cả của Định - chẳng được học hành mấy, mười lăm tuổi đã phải ở nhà đi cày. Mà cũng nhờ thế Định mới được theo học đến thành chung. Nhưng đến đời Khúng và những đứa con của Định thì cái sự xa cách mới thực là xa cách. Quanh một cái mâm cơm gia đình mà như người từ hai thế giới họp lại.

Chao ôi, có lẽ cho đến nhắm mắt, riêng đời Định vẫn còn mắc một món nợ không bao giờ trả được, là món nợ với Khúng và bố mẹ Khúng, và nói chung, với những người thân thích, ruột rà ở làng. Làng anh, cái làng Khơi nửa biển nửa đồng, sỉa chân từ trên tàu hỏa xuống, phải đi gần chục cây số về phía biển mới thấu và chỉ có một cách cuốc bộ ấy, nó có một sức nhai người ghê gớm. Nó nghiền nát những con người ra rồi vắt nặn theo cái hình thù đã có từ nghìn đời của nó, rồi bắt những con người ấy phải sống theo cái luật cũng đã có từ nghìn đời nhưng không bao giờ viết thành văn của nó.

Hàng chục năm nay cũng như từ nghìn đời, bao nhiêu thứ giặc ngoại xâm đến đây đều bị chết gục trong cái làng quê hiền lành một mầu xanh rì ấy, nhưng cũng hàng chục năm nay, những điều biến đổi của cách mạng đến được đấy cũng mới chật vật, khó khăn làm sao? Vẫn biết rằng trong làng đã có hợp tác, đã có một khu trường cấp hai hai tầng xây trên một khu đất thoáng mát xung quanh trồng phi lao; nhà trạm xá, lại rạp chiếu bóng, một làng mà có cả một rạp chiếu bóng nằm giữa cánh đồng muối bên con đường quan. Tuy vậy, cái  làng nó vẫn  là cái  làng, vẫn  là cái  làng quê  thân yêu và  lâu đời của Định, mà một  lần ban đêm hành quân giữa rừng Trường Sơn, chỉ nghe một giọng nói người làng lên trong hàng quân đi ngược chiều, Định đã phải kêu lên một tiếng xiết bao mừng rỡ, và chính tiếng kêu của anh đã khiến một cái bóng người khoác súng từ hàng quân bên kia nhảy bổ sang với anh.

Nói gì thì nói, trong hàng chục năm nay người cháu đang ngồi trước mặt Định kia và đang xì cả nước điếu ra nhà Định kia, cũng chính là người đã gìn giữ phần mộ của bố mẹ và ông bà Định. Chứ như cái đám con của Định thì đừng hòng, chúng có học thức nhưng rất ít tình cảm họ hàng làng mạc. Mà tình cảm họ hàng làng mạc thì Định không muốn đánh mất.

Và chê trách gì thì chê trách, với bao điều có thể chê trách, Định vẫn quý và khâm phục cái người cháu. Khi Định ở trong B ra, - sáu năm sau - anh đã được nhìn thấy, thay vào cái "ổ gấu chó" là một nếp nhà gỗ rất khang trang đứng giữa một vùng đất bát ngát cứ xanh um lên, không phải mầu xanh hoang dã của rừng nữa, mà là lạc, mía, chè, mít, bầu bí, và xa xa, dưới chân đồi trước nhà là lúa, lúa đang vào chắc... và bộ đội đang mắc võng ngủ đầy nhà trên, anh nuôi nấu cơm trong chiếc chảo gang dưới bếp, trong khi ấy, những đứa con của Khúng lớn vổng lên, còn Khúng thì đã trở thành một ông già, sáu năm ở chiến trường không làm Định già nhanh đến thế.

"Chú!  Vậy mà mấy lần cháu nằm mơ thấy... chú chết!" tình máu mủ khiến Khúng mừng rỡ cứ cuống quít cả lên khi tận mắt trông thấy Định từ trong Nam đã trở ra thực. ***

Định đi sau ông cháu. Định phải trực tiếp sắm vai kẻ hướng dẫn mua bán cho Khúng - y như một vài lần anh phải hướng dẫn khách nước ngoài.

Khốn khổ, công việc này đáng lý Định có thể giao cho lũ con, nhưng Định thấy dù một đứa nào chu đáo đến đâu cũng sẽ để xảy ra sơ xuất, trong cái công việc hướng dẫn Khúng đi thăm thú các thắng cảnh và mua sắm. Cả đời người cháu ruột của Định mới ra chơi Hà Nội, Định không thể để sơ suất, xuất phát từ một tình cảm sâu nặng và cả sự kính trọng của Định đối với người cháu tộc trưởng.

Từ sáng  tới giờ Định đã đưa ông cháu đi dạo qua một số di  tích và  thắng cảnh của  thủ đô, nhưng xem chừng vị khách quý chỉ  thích ngắm nương  ruộng, gia súc, những cái suốt đời chung sống với lão!  Đặc biệt trong khi đứng trước Bờ Hồ, lão đã phát biểu cảm tưởng một cách thực thà. Rằng so với bức tranh treo ở vách nhà lão thì cái tháp Rùa thật không giống cái tháp Rùa vẽ ở nhà lão!

 

Nhưng chỉ khi đến trước cửa chợ Đồng Xuân thì lão Khúng mới cảm thấy thực sự đã đến Hà Nội. Lão tủm tỉm cười một mình trong khi liếc qua một đám con gái mặt hoa da phấn, nhưng cái chúng đang xách trên tay thì vẫn là cái quá tầm thường: hũ nước mắm dúm muốn, mớ rau, con cá... Thì hóa ra cái đám người ẻo lả như ngọn cỏ may này cũng không phải chỉ đi dạo, mà cũng phải ăn uống. "Ấy, ai sinh ra cái ông trời kể cũng tài thực - lão Khúng vẫn tủm tỉm cười và bất giác nghĩ - Ông trời làm ra con người "bách nhân bách tính" nhưng ông trời lại khéo cho con người một cái nết mà ai cũng phải có: Đó là cái việc ăn. Hóa ra cái anh dân Hà Nội này cũng phải ăn. Cho nên mới sinh ra cái chợ Đồng Xuân này to như thế!".

Hai tai lão chẳng mấy chốc đã ù đặc vì tiếng ồn. Mắt lão cũng hoa lên vì trăm thứ hàng hóa chất đống. Đã từng leo hết quả núi này đến quả núi khác, vậy mà mới loanh quanh trong chợ, cặp giò như hai cái trục bánh xe của lão đã mỏi là sao?

Để tránh khỏi mất cắp, Định bắt Khúng trao gói tiền cho mình giữ. Mua thứ gì, anh tự đếm tiền trả. Mà những thứ ông cháu muốn mua  thì nhiều  lắm. Cái gì Khúng trông thấy, là thấy ở nhà mình cần. Mà cái gì cũng rẻ hơn ở nhà một giá. Thế mà nào lão có biết? Suốt đời lão chỉ chúi mũi vào hòn đất.

Khi bước ra trước vòm cuốn cửa chợ, hai chú cháu nhà ấy đã y như hai nhà phi công vũ trụ. Thế mà vẫn thấy còn một đám người chạy theo dúi vào tận ngực họ đủ mọi thứ khiến lão Khúng cứ đứng cười ngất.

Chỉ trong một ngày lão đã khuân về bày lủng ngủng khắp gian nhà "hẹp bằng cái lỗ mũi" của ông chú nào vành, khung và lốp xe đạp, xanh, nồi, hàng mấy yến hành làm giống, hạt cà chua và hạt bắp cải giống, và quần áo cho đứa lớn, đứa bé, cho vợ...

Nhưng đấy cũng chỉ là mấy thứ vặt. Trong chuyến đi ra thủ đô lần này lão đã rắp tâm từ ở nhà một ý đồ lớn hơn nhiều. Lão sẽ tập trung tiền mua một bộ trục, vành và xăm lốp ô tô, để "lên" một cỗ xe trâu!  Việc này lão đã viết thư cho Định biết từ năm ngoái: Nhà lão phải tiến lên vứt bỏ chiếc xe cút kít. Nó là thứ phương tiện chuyên chở quá cổ lỗ, mà tốn sức!  Loài người đã bước sang "thời đại tên lửa" rồi cho nên sau chuyến đi này, nhất định gia đình lão phải có một cỗ xe trâu để chở đá trong Khe Đá Dầu này, chở lúa thóc ra chở phân gio vào trong ấy này, rồi chở gỗ lạt trong rừng ra, hoặc cũng có thể những ngày giỗ tết cả nhà lão leo lên ngồi trong cái thùng xe để về quê...

- Đừng chế nhạo anh, các em ạ!  - Lão nói với lũ con ông chú đang vừa cười nhăn nhở vừa giễu cợt lão - Các em đã từng biết cái tiện lợi của ô tô và tàu bay so với chiếc xe đạp, vậy như anh, suốt đời đẩy xe cút kít, thì một chiếc xe bánh lốp có ổ bi với con trâu kéo, đã là ô tô, tàu bay rồi đấy!

Ba bốn ngày sau, cả mấy bố con Định tỏa ra lùng sục khắp các phố ngóc ngách của Hà Nội. Họ tìm được đầy đủ một bộ đồ để "lên" một cỗ xe trâu, nhưng khi đến giá cả, thì mới thấy là cả một số tiền lớn. Không phải một lúc mà Khúng có thể dứt ra khỏi nương ruộng để đi Hà Nội - Định nghĩ thế cho nên anh bàn với vợ bán chiếc đài cùng vài thứ lặt vặt, đập vào số tiền mua sắm còn lại của Khúng, góp phần "đầu tư vào cuộc cách mạng kỹ thuật" trong nền sản xuất của gia đình người cháu ở trong quê. ***

Vào một buổi chiều ngày chủ nhật, trước khi ra tàu hỏa để trở về, Khúng nói với Định:

- Cháu phải tranh thủ đi đến nơi này...

- Ừ, ừ để chú đưa đi ngay!  - Định đáp.

Khúng nói rằng mình cần phải đi đến "cái nơi này" một mình. Lão mượn bộ quần áo đại cán của Định, mặc vào. Nhưng vừa đi ra đến cửa lão đã quay lại, cởi giả bộ quần áo đại cán cho Định. Vẫn đánh cái bộ quần áo vải thô nhuộm nâu, đi ra ngoài phố được một quãng, lão gọi một chiếc xích lô bảo đưa đến một cái địa chỉ trong thành phố. Đấy là một cái địa chỉ với những con số lẫn hàng chữ viết trên đầu phong bì của những lá thư giấy pơ-luya, trong nhiều năm nay vẫn xếp chồng lên nhau dưới đáy một cái chum.

Đến lúc này, lão Khúng đã quyết định xé bỏ cái thỏa ước đã ký với vợ hai mươi năm trước.

Người xích lô đổ lão xuống trước một ngôi nhà sáu tầng mái bằng ở đầu hồi có chữ B4. Có lẽ đến gần một tiếng đồng hồ, lão Khúng cứ quanh quẩn chung quanh giải bờ hè chân tường, rảo bước đi vòng quanh ngôi nhà hết vòng này đến vòng khác đến mỏi rũ cả chân: " Rõ nhà với cửa, cứ y như một cái hộp sắt tây đậy kín mít, nghe bên trong nhạc xập xình như có đám cưới, lại thấy các tầng quần áo đang phơi, lại thấy cả những cái mặt người ló ra y như một lũ chim bồ câu đang gù trong cái chuồng: có người ở chứ không phải nhà đi vắng hết, vậy mà tìm mãi vẫn chẳng thấy cổng ngõ ở đâu cả!".

Lão lại tốn một tiếng đồng hồ nữa để đi lạc lung tung ở bên trong, hết leo lên tầng thượng đỉnh lại lộn xuống tầng dưới cùng, rồi lại được chỉ dẫn phải leo lên... " Ừ cũng lạ, sống như thế này mà cũng sống được, chẳng có vườn tược, chẳng cây cối, ăn, ở chồng chất lên đầu nhau, chỉ thấy tường và tường, chả trách người nào người nấy cứ trắng nhợt, nói khẽ, cười khẽ, đi khẽ, là phải! ...".

Lão đã bắt đầu ngột thở, khi đứng trước cửa gian phòng đang định tìm. Mới đặt một bàn chân lên tấm cói chùi chân, lão đã chợt nhìn thấy thằng Dũng nhà mình - đến hôm nay đã ăn mặc quần áo bộ đội đang ngồi trong nhà.

Lão sửng sốt, rụng rời cả chân tay.

Có lẽ thằng Dũng cũng như lão, lần đầu tiên đến đây và cũng vừa chợt đến.

Thằng con lão không kịp trông thấy lão, bởi ngay sau đó, tức tốc lão đã quay lưng lại và bổ nhào xuống cầu thang.

Từ bấy giờ cho đến tối, lão đi lạc lung tung trong thành phố. Những bức tường chi chít và những ngõ phố khúc khuỷu như đang bày trò chơi ú tim với lão, chế nhạo lão. Đèn trong các lùm cây và trong các gian nhà đã bật sáng, mà lão vẫn không sao tìm được lối về. Toàn thân lão run lẩy bẩy như người lên cơn sốt và trong tâm hồn lão tự nhiên dâng lên một nỗi niềm cô độc, lão lẩm bẩm gọi tên từng đứa con. Lão cầu xin đàn con đừng bỏ lão mà đi, mà hãy ở lại với lão, hãy ở lại với đất cát.

Mười giờ đêm lão mới tìm về đến nhà người chú giữa lúc cả nhà đã tỏa đi tìm các ngả.

Lão nhất định không kể lại cho Định biết một điều gì. Mặc dầu Định quyết giữ lại ở thêm một ngày nhưng lão Khúng vẫn một mực xin phép vợ chồng ông chú được về.

Lão vội vã gói buộc đồ đạc ra tàu.

Quá nửa đêm, tàu mới bắt đầu lăn bánh.

Khi những luồng gió không có gì cản trở, tự nhiên thổi lồng lên trên nóc và hai bên cửa sổ toa tàu hỏa, trong đêm lão Khúng nhận ra luồng gió man dại quen thuộc, và biết mình đã ra khỏi thành phố, đang trở về với đất cát hồn nhiên và hoang dã...

Nhĩ nằm yên để cho vợ chải những nhát lược cuối cùng. Nhĩ biết mình có một cái đầu tròn trịa, tóc Nhĩ đến bây giờ vẫn đen và không khô. Chẳng biết lúc này trong khi Liên đứng trên đầu phản cẩn thận đưa những nhát lược, Nhĩ nghĩ thầm, “cô ấy” có nhớ mái đầu với bộ tóc đen óng mượt đã khiến cho anh một thời được tiếng là một “Đông Gioăng”? Cho nên trước đây trong cơ quan so với mấy anh em cùng tuổi, anh được tiếng là một người lâu già.

Chải đầu cho chồng xong, Liên đỡ anh ngồi dậy, cúi xuống dưới gầm tủ lấy thêm mấy chiếc gối đem kê sau lưng anh.

Ngoài cửa sổ bấy giờ những bông hoa bằng lăng đã thưa thớt - cái giống hoa ngay khi mới nở, màu sắc đã nhợt nhạt. Hẳn có lẽ vì đã sắp hết mùa, hoa đã vãn trên cành, cho nên mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn. Ừ cũng chả phải, Nhĩ vừa ngồi để cho vợ bón từng thìa thức ăn vừa nghĩ, chính vì thời tiết đã thay đổi, đã sắp lập thu rồi, cái nóng hầm hập ở trong phòng cùng với thứ ánh sáng loa lóa vừa nhìn đã thấy chói cả mắt ở ngoài bờ sông Hồng không biết đã rút đi đâu từ bao giờ.

Bên kia những hàng cây bằng lăng, tiết trời đầu thu đem đến cho con sông Hồng một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Vòm trời cũng như cao hơn. Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi ở bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non - những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ. Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến - cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình.

Nhĩ khó nhọc nâng một cánh tay lên khẽ ẩy cái bát miến trên tay Liên ra. Anh ngửa mặt như một đứa trẻ để cho thằng Tuấn cầm chiếc khăn bông tẩm nước ấm khẽ lau miệng, cằm và hai bên má cho mình.

Anh không dám nhìn vào mặt con. Trong khi lại nghiêng mặt ra ngoài cửa sổ, anh ngạc nhiên nhận thấy những cánh hoa bằng lăng càng thẵm màu hơn - một màu tím thẵm như bóng tối ...

Chờ khi đứa con trai đã bưng thau nước xuống nhà dưới, anh hỏi Liên:

- Đêm qua lúc gần sáng em có nghe thấy tiếng gì không?

Liên giả vờ không nghe câu chồng vừa hỏi. Trước mặt chị hiện ra một cái bờ đất lở dốc đứng của bờ bên này, và đêm đêm cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đổ òa vào giấc ngủ.

- Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ?

Liên vẫn không đáp và biết chồng đang nghĩ gì. Chị đưa những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai chồng:

- Anh cứ yên tâm. Vất vả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được.

Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá.

- Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm ... mà em vẫn nín thinh.

- Có hề sao đâu ... Miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này ...

Ngừng một lát, Liên nói tiếp:

- Anh cứ tập tành và uống thuốc cho đều. Sang tháng mười, nhất định anh đi lại được.

- Vậy thì đầu hoặc giữa tháng mười một, anh sẽ đi Thành phố Hồ Chí Minh một chuyến.

Liên biết chồng nói đùa:

- Đi Thành phố Hồ Chí Minh thì chắc chẳng được nhưng anh có thể chống gậy đi trong nhà. Hoặc tiến triển tốt hơn, em có thể đỡ anh men cầu thang bước xuống một bậc ... hoặc giá anh lại khỏe hơn, chúng mình có thể bước xuống hai bậc.

- Ừ, tưởng gì ... nhất định đầu tháng mười anh sẽ đi ra được đến đầu cầu thang ...

Liên đặt bàn tay vào sau phiến lưng đã có nhiều mảng da thịt vừa chai cứng vừa lở loét của Nhĩ:

- Em đỡ anh nằm xuống nhé?

- Khoan. Em cần ra chợ hay đi đâu thì cứ đi. Khi nào mỏi anh sẽ gọi con.

Một lát sau Nhĩ còn nghe tiếng vợ đi lại dọn dẹp và dặn dò con điều gì đó. Liên hãm nước thuốc ở cái siêu đất ra chiếc bát chiết yêu, Nhĩ đoán thế, nghe tiếng nước rót ra lẫn mùi thuốc bắc bay vào nhà. Rồi Liên xuống thang, vẫn cái tiếng bước chân rón rén quen thuộc suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm.

Chờ Liên xuống tầng dưới rồi Nhĩ mới lên tiếng:

- Tuấn, Tuấn à!

Anh con trai đánh trần ngồi tựa vào bức tường đầu cầu thang, tay nhặt rau muống, mắt cúi xuống một cuốn sách truyện dịch. Nghe bố gọi, Tuấn chạy vào trong tay vẫn cầm quyển sách dảy cộm gập đôi:

- Bố mỏi rồi. Con đỡ bố nằm xuống nhé!

- Chưa ... - đến lúc này Nhĩ mới ngắm kĩ đứa con trai. Nó là đứa thứ hai, gần một năm nay vắng nhà, đi học tận trong một thành phố phía nam và vừa mới trở về đêm qua. Anh thấy càng lớn thằng con anh càng có nhiều nét giống anh.

Người cha sắp từ giã cõi đời đang giấu một tâm sự bí mật gì đó trong cái vẻ lúng túng. Anh ngước nhìn ra ngoài cửa sổ một lần nữa rồi quay vào bất chợt hỏi:

- Đã bao giờ Tuấn ... sang bên kia chưa hả?

- Sang đâu hả bố?

- Bên kia sông ấy!

Anh con trai đáp bằng vẻ hờ hững:

- Chưa ...

Nhĩ tập trung hết sức còn lại để nói ra cái điều ham muốn cuối cùng của đời mình:

- Bây giờ con sang bên kia sông hộ bố ...

- Để làm gì ạ?

- Chẳng để làm gì cả. - Nhĩ có vẻ ngượng nghịu vì cái điều anh sắp nói ra quá ư kì quặc - Con hãy qua đò đặt chân lên bờ bên kia, đi chơi loanh quanh rồi ngồi xuống nghỉ chân ở đâu đó một lát, rồi về ...

Anh con trai cười:

- Bố đang sai con làm cái việc gì lạ thế?

- Hay là thế này nhé. - Nhĩ vẫn không hề thay đổi ý kiến - Con cầm đi mấy đồng bạc xem bên ấy có hàng quán người ta bán bánh trái gì, con mua cho bố.

Anh con trai miễn cưỡng mặc quần áo, đội chiếc mũ nan rộng vành đề phòng đến trưa có thể nắng to - theo lời yêu cầu khẩn khoản của Nhĩ - giắt vào người mấy đồng bạc.    

Vừa nghe Tuấn nện lộp bộp đôi dép sa bô xuống thang, Nhĩ đã thu hết tàn lực lết dần, lết dần trên chiếc phản gỗ. Nhấc mình ra được bên ngoài phiến nệm nằm, anh tưởng như mình vừa bay được nửa vòng trái đất - trong một chuyến đi công tác ở một nước bên Mĩ La-tinh hai năm trước đây. Anh mệt lử. Và đau nhức . Ngồi lại nghỉ một chặng và chỉ muốn có ai đỡ cho để nằm xuống.

Nghe tiếng chân giậm thình thịch đều đặn ở bên kia tường. Nhĩ cúi xuống thở hổn hển để lấy lại sức rồi cất tiếng gọi yếu ớt: “Huệ ơi!”.

Từ phòng bên kia một cô bé rất xinh mặc chiếc áo may ô con trai và vẫn còn cầm thu thu một đoạn dây sau lưng chạy sang. Cô bé bên nhà hàng xóm đã quen với công việc này. Nó lễ phép hỏi Nhĩ: “Bác cần nằm xuống phải không ạ?”. Nhĩ đáp trong hơi thở gấp gáp: “Ừ, ừ ... chào cháu!”. Cô bé nhảy lên phản, vừa mò vào người Nhĩ đã vội vã nhảy xuống, nó chạy ra đầu cầu thang cầm đoạn dây khẽ phất xuống bên dưới và gọi toáng lên:

- Vân ơi, Tam ơi, Hùng ơi!

Một lát sau không phải chỉ có ba đứa mà cả một lũ trẻ ở tầng dưới lần lượt chạy lên:

- Chúng cháu chào bác ạ!

- Chào bác Nhĩ ạ!

Vây bọc bởi đám trẻ con đứng lố nhố chung quanh. Nhĩ nhận thấy hoàn cảnh của mình thật buồn cười, y như một chú bé mới đẻ đang toét miệng cười với tất cả, tận hưởng sự thích thú được chúng chăm sóc và chơi với.

Cả bọn trẻ xúm vào, và rất nương nhẹ, giúp anh đi nốt nửa vòng trái đất - từ mép tấm nệm nằm ra mép tấm phản, khoảng cách ước chừng năm chục phân.

Chúng giúp anh đặt một bàn tay lên bậu cửa sổ, kê cao thêm dưới mông anh bằng cả một chiếc chăn gập lại rồi sau đó mới bê cái chồng gối đặt sau lưng.

Chẳng biết thế nào mà sáng nay tất cả những ngón tay của chúng đều chua lòm mùi nước dừa, nhưng không sao, vì thế anh càng yêu lũ trẻ trong ngôi nhà mình.

Ngay lúc ấy, cái vật mà Nhĩ nhìn thấy trước tiên khi được ngồi sát ngay sau khuôn cửa sổ là một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên. Con đò ngang mỗi ngày chỉ qua lại một chuyến giữa hai bờ ở khúc sông Hồng này vừa mới bắt đầu chống sào ra khỏi chân bãi bồi bên kia, cánh buồm nâu bạc trắng vẫn còn che lấp gần hết cái miền đất mơ ước.

Sát bên bờ của dải đất lở dốc đứng bên này, một đám đông khách đợi đò đứng nhìn sang. Người đi bộ, người dắt xe đạp. Một vài tốp đàn bà đi chợ về đang ngồi kháo chuyện hoặc xổ tóc ra bắt chấy. Nhĩ nhìn mãi đám khách nhưng vẫn không tìm thấy cái mũ cói rộng vành và chiếc sơ mi màu trứng sáo đâu cả.

Thì ra thằng con trai của anh chỉ mới đi được đến hàng cây bằng lăng bên kia đường. Thằng bé vẫn cắp cuốn sách bên nách đang sà vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố. Suốt đời Nhĩ cũng đã từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật là không dứt ra được. Không khéo rồi thằng con trai anh lại trễ mất chuyến đò trong ngày. Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại, nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích hết.

Nhĩ chợt nhớ ngày bố mẹ anh mới cưới Liên từ một làng bên kia sông về làm vợ anh, Liên vẫn đang còn mặc áo nâu và chít khăn mỏ quạ. So với ngày ấy bây giờ Liên đã trở thành một người đàn bà thị thành. Tuy vậy, cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sao nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm  ... Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.

Con đò đã sang quá nửa sông, ngồi đây Nhĩ đã có thể nhìn thấy rõ từng mảnh vá trên lá buồm cánh dơi in bật trên một vùng nước đỏ.

Giữa lúc Nhĩ đang nhìn thấy trong tưởng tượng chính mình trong tấm áo màu xanh trứng sáo và chiếc mũ nan rộng vành, như một nhà thám hiểm đang chậm rãi đặt từng bước chân lên cái mặt đất dấp dính phù sa - chợt nghe sau lưng có tiếng ho. Nhĩ quay lại.

Ông cụ giáo Khuyến tựa trên chiếc gậy song đang đứng bên phản. Đã thành lệ, buổi sáng nào ông cụ già hàng xóm đi xếp hàng mua báo về cũng ghé vào hỏi thăm sức khỏe của Nhĩ.

- Cụ ạ - Nhĩ bắt đầu ra hiệu về phía đầu tấm nệm nằm của mình – cháu Huệ có gửi lại chìa khóa cho cụ.

- Hôm nay ông Nhĩ có vẻ khỏe ra nhỉ?

- Dạ, con cũng thấy như hôm qua ...

Chợt ông cụ già hàng xóm hốt hoảng quá! Ông cụ giáo Khuyến chợt nhận thấy mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai mắt long lanh chứa một nỗi mê say đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy. Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó.

Ngay lúc bấy giờ, chiếc đò ngang mỗi ngày một chuyến chở khách qua lại hai bên sông Hồng vừa chạm mũi vào cái bờ đất lở dốc đứng phía bên này.

Gương chạm chó

Vào giờ này, Lê Chí Viềng đã thấm mệt, anh ngả đầu ra phía sau, tì gáy vào vai ghế vươn vai và ngáp dài một tiếng kêu ú ớ trong cổ họng như muốn xả hết những cái mệt sau hai tiếng đồng hồ cầm bút trên bàn viết. Anh nhìn sang phía tủ kính thấy bóng mình nhập nhoạng trên kính, tuy không rõ như gương soi, nhưng Viềng cũng đủ nhận ra mình đã vào tuổi ngoại tứ tuần. Mái tóc rũ ra che trên vành tai như đống rơm rối, một bộ ria lởm chởm chạy ngang trên cặp môi xám xịt vì thuốc lá. Đôi mắt Viềng vàng đục vì đã thấm rượu nhiều năm say sưa tối ngày. Đôi vai anh nhô ra xương xẩu khô cứng, bộ ngực lép kẹp đỡ lấy cái áo sơ mi rộng thùng thình. Toàn thân Viềng chỉ là một cái giá áo. Viềng bài chí ra một cảnh bận rộn trên bàn làm việc. Anh đặt những chồng hồ sơ ngổn ngang phía trước và một cặp kính gọng nhựa cũ kỹ, một cái bút bi đã cạn mực, ra vẻ việc làm của anh đang bận rộn, sau đó Viềng cầm bút phớt lên bảng phoócmêca treo trên góc tường với những dòng chữ quen thuộc: “Sáng... Viềng đi cơ sở. Chiều... tiếp xúc đối tác...”

Trước khi ra khỏi phòng Viềng rút ví điểm lại tiền của mình, sau nhiều lần đếm, kể cả tiền năm trăm, một nghìn gộp lại, cũng chỉ có ngót nghét mười ngàn đồng, với số tiền này không đủ cho anh nhậu một bữa thịt chó ở quán Phi Trường. Cả cái cơ quan này Viềng đã khét tiếng là một “nhà khảo cứu” thịt chó. Viềng đã dày công lùng khắp trong thành phố, anh từng hy sinh thân mình nếm mỗi hàng mỗi quán một bữa chó rồi tuyển chọn được một quán thịt chó nổi tiếng. Viềng rút ra kết luận quan trọng: Cả cái thành phố văn hiến ẩm thực này, chỉ có lão Phi Trường là đủ tài làm chó. Cũng có lần Chí Viềng khen chủ quán:

- Nếu tôi là nhà vua hoặc hoàng gia gì đó thì chắc chắn trong tay ông sẽ có một bản sắc phong về tài ẩm thực thịt chó của ông.

Viềng đã nghiện thịt chó tới một trình độ công nghệ cao, có thể dẫn ra một động tác nghiện thịt chó của anh để minh chứng rằng Lê Chí Viềng nghiện thịt chó tới mức siêu hạng.

Theo cái tục lệ của riêng anh, trước khi kết thúc một bữa nhậu thịt chó, Viềng gắp riêng ra vài ba lát thịt luộc ba chỉ có nghĩa là phải có đủ da, mỡ, lạc, tạo thành ba đường kẻ song song mềm mại và gợi cảm và chọn ram vài ba miếng rồi chó loại ngon nhất, sau đó lấy những lá húng bánh tẻ, mỗi miếng thịt anh kẹp vào đấy một lát giềng mỏng và gói bên ngoài một lá mơ lông êm như nhung. Viềng cho tất cả những miếng đặc sản vào vỏ bao vina. Khi về nhà Viềng rót ra một chén rượu Kiên Lao, từ từ rút trong bao vina ra và lấy từng miếng thịt chó với đầy đủ lá thơ, giềng, và miếng ba chỉ, anh cuộn lại gọn gàng như một miếng trầu không và há to miêng đưa vào tận răng hàm. Viềng ngửa cổ nhẹ nhàng nghiền nát miếng đặc sản trong mồm, tiếng lá thơm và giềng dập nát và tiếng da chó sần sật êm êm bên tai. Thỉnh thoảng Viềng nhấp một ly rượu, mùi thịt chó trộn với mùi lá thơm và hương rượu phả trong căn phòng chật hẹp. Lúc này Lê Chí Viềng mới thực sự thưởng thức vị ngon của thịt chó. Khi kết thúc một bữa ăn phụ như thế, Viềng không xúc miệng vội mà để cho dư vị thịt chó kéo dài tạo ra một hứng thú để tư duy những tứ thơ mà anh đang nung nấu trong lòng. Thỉnh thoảng Viềng há to mồm, cho tay vào răng hàm, dứt ra những sợi thịt chó rắt kẽ răng rồi nhai lại một lần nữa. Cứ như thế Viềng thưởng thức cho đến những sợi thịt chó cuối cùng.

Viềng xuống thang gác, dắt xe ra sân rồi phóng thẳng đến hiệu thịt chó Phi Trường.

Nghe tiếng xe máy quen thuộc, chủ quán Phi Trường vung lưỡi dao sáng loáng, ông nở ra một nụ cười, cả một bộ răng lởm chởm xám xịt nhe ra thoạt nhìn không được mỹ thuật cho lắm, nhưng ngắm lâu một chút, khách hàng cảm thấy cái duyên của ông chủ quán đọng lại ở nụ cười trìu mến với khách. Phi Trường đon đả mời:

- Mời nhà thơ vào đây, hôm nay tôi dành con chó bánh tẻ tiếp ông.

Vị khách bước vào, ném cái cặp lên mặt bàn ăn, anh chọn một góc ngồi quen thuộc, vị trí của anh mở ra một góc rộng vừa quan sát được đường phố, vừa có thể nói chuyện được với chủ quán Phi Trường. Lê Chí Viềng rút bài thơ trong cặp ra đăm chiêu suy nghĩ. Khi chủ quán bê ra đĩa lá thơm và đĩa thịt chó luộc đặt lên bàn ăn, Lê Chí Viềng kéo tay chủ quán ngồi xuống ghế với một giọng thân mật:

- Tác phẩm mới xịn. Ông phải nghe.

Viềng hạ thấp giọng:

- “Đời anh như gió như mây

Thân em là suối vơi đầy sớm hôm

Con tim bừng cháy muốn chồm vào em”

Chí Viềng nhìn chủ quán vẻ kiêu hãnh hất hàm hỏi:

- Ông thấy thế nào?

Phi Trường nhe răng cười:

- Tôi sợ ông chồm lên thì cái tứ này có bợm quá không?

- Xin ông đừng giết thơ tôi. Thơ bây giờ phải hiện đại, phải mạnh bạo và phải vét hết ý mà tác giả muốn nói. Nếu thơ ngày nay mà e dè, mà thẹn thùng như thời ông Nguyễn Bính tôi e không hợp.

Chợt Lê Chí Viềng sửng sốt như ra lệnh:

- Kìa! Ông Trường, ông quên nhiệm vụ một chủ quán rồi à?

Phi Trường lật đật vào bàn, thái một đĩa dồi chó và quạt những sâu chả nướng, một tay ông bấm máy quạt điện, một tay ông xoay những sâu thịt chó trên bếp tham hồng. Viềng rung mũi ngửi mùi chả nướng, cái cổ họng chuyển động như nó đang phải dùng áp lực để dồn toàn bộ số nước miếng vào dạ dày để xua đi cơn đói đang cồn cào trong bụng.

Lê Chí Viềng bắt đầu khai đũa, anh lấy một lá húng bánh tẻ quận vào một miếng thịt luộc, kẹp thêm một lát giềng mỏng, cho vào miệng ngon lành, mỗi miếng như thế, Viềng phải tợp khoảng hai ba hụm rượu để đưa cái vị ngon của thịt chó vào tận đáy dạ dày.

Không biết Viềng đã nghiện thịt chó từ bao giờ, nhưng cho đến nay thịt chó là một tố chất phải được thực hiện trước khi cầm bút làm thơ hoặc viết một văn bản của cơ quan giao cho anh. Lương của Viềngkhông cao lắm, mỗi tháng anh phải chi rất nhiều khoản nào tiền điện thắp sáng, tiền điện thoại, tiền nước, tiền học cho con nhưng khoản chi nhiều nhất vẫn dành cho thịt chó. Hôm nay là cuối tháng lương, trong ví của anh chỉ còn lại ngót nghét chục nghìn, nếu dốc cả vào bữa chó này thì không còn đủ tiền mua xăng đi lại và đương nhiên vợ anh sẽ rầy la về tội của anh phá tán gia đình, vô trách nhiệm với vợ con. Đôi khi Viềng cũng nhận được một đôi khoản nhuận bút của báo chí trả tiền tác phẩm thơ của anh. Nhưng khổ một nỗi, làm một bài thơ hao tổn biết bao năng lượng thần kinh thức đêm đến rạc người mà cũng chỉ thu về mỗi bài thơ dăm sáu chục nghìn đồng. Mỗi tuần anh đi họp ở một vài cơ quan, cũng gặt hái được chút bổng lộc phong bì. Bây giờ người ta đi họp đâu phải để lĩnh hội những tinh hoa của hội nghị mà để chờ lấy phong bì. Cuộc họp nào không có phong bì, hội nghị thưa thớt người qua lại. Cuộc họp nào phong bì đậm đà, một tờ giấy bạc xanh lá cây thì khách đến họp đông hơn, họ ra vào tíu tít và hớn hở.

Lê Chí Viềng cũng không tránh khỏi những thông lệ của thời cuộc anh đi họp để hái lượn vài ba cái phong bì, đấy là khoản thu Viềng dành riêng cho đặc sản chó, coi như là một ngân khoản mà vợ con bất khả xâm phạm. Viềng đã dầy công khám phá ra quán Phi Trường, anh thích nhất các món ở đây được xem là một nghệ thuật thịt chó siêu hạng, thịt ba chỉ thái mỏng, dồi chó nhồi đỗ xanh Đường Vàng, bên ngoài miếng dồi được nướng trên than hồng có tẩm hợp chất gia vị nước tỏi pha với nước giềng, mỗi một lần quay ống dồi chó trên bếp than, chủ quán lại dùng chổi vẽ, thấm nước tỏi giềng, quét xung quanh những vòng dồi chó. Khi ăn vào, miếng dồi hơi dai, sau đó lại mềm mại đứt ra từng miếng nhỏ, và người ta tiếp tục thưởng thức món đặc sản ấy, vừa mềm, vừa thơm. Lão Phi Trường có tài nướng chả có thể ra khỏi quán mà mùi chả vẫn lưu luyến bay theo như một lời nhắn nhủ: “Đừng quên nhé!".

Mỗi tháng mở đầu cuộc lĩnh lương hoặc mỗi tuần gặt hái được đôi ba cái phong bì, và khi lĩnh nhuận bút bài thơ, Lê Chí Viềng lại ra quán Phi Trường tự chiêu đãi mình những món mà anh ưa nhất. Bữa thịt chó sáng nay Viềng vừa ăn vừa nhìn ra cửa tìm xem trong đám khách qua đường có ai là người quen biết để vời họ vào thưởng thức món thịt chó đặc sản. Nhưng, Viềng ngồi trong quán đã hai tiếng đồng hồ mà chưa thấy một khách quen nào đi qua. Viềng đành phải cầm cự, đó là thủ pháp quen thuộc mà anh đã phát minh từ lâu. Trên bàn ăn các món thực phẩm đã cạn dần. Chỉ còn lại vài ba miếng da chó, một đôi miếng mỡ bùng nhùng trên đĩa thịt luộc. Bên đĩa dồi chó cũng chỉ còn lại đôi ba miếng nhỏ bé quăn lại như vỏ đỗ. Chiếc que sâu chịt chó cũng không còn dính một chút thịt nào. Viềng thu gọn ít lá thơm còn lại ra vẻ cuộc tiệc tùng còn tiếp tục. Chốc chốc, Viềng lại nhoai người ra phía cửa nhìn theo một bóng ai đó như quen, nhưng cũng không có một bóng người quen nào đi qua. Chủ quán Phi Trường nhìn đồng hồ đã gần một giờ trưa, ông ta bắt đầu sốt ruột, biết bao nhiêu toán khách họ đến ăn và họ đã đi, trên dây treo thịt chó, cũng chỉ còn một miếng đùi chó luộc. Và ống dồi chó cũng chỉ còn trơ lại vài khoanh bóng nhẫy những mỡ. Chủ quán sốt ruột, nhà thơ ngồi từ lúc mười giờ sáng cho đến một giờ mà chưa tỏ ra thái độ kết thúc bữa ăn. Thật ra Phi Trường cũng đã quen với vị khách - nhà thơ này rồi, ông biết thóp nhà thơ để lại mấy miếng da chó, mấy lá thơm trên đĩa vừa là để báo hiệu mình còn đang tiếp tục ăn, nhưng đó là những miếng mồi để tìm bạn quen, vời vào quán, mời mọc ân cần, cuối cùng đưa những ông bạn ngây thơ vào chiếc cạm chó. Phi Trường vất cái khăn màu nước dưa khú lên vai, lau những dòng mồ hôi nhễ nhại chảy trên vai bự mỡ, ông ta vờ ra thu dọn bàn ăn, có ý nhắc nhở nhà thơ đã hết giờ:

- Các ông nhà thơ làm việc từ mấy giờ chiều ạ.

Khách vẫn lặng thinh, chủ quán gại giọng:

- Xin lỗi đồng hồ của ông mấy giờ rồi ạ?

Lê Chí Viềng xem đồng hồ tay, đáp cộc lốc:

- Chính ngọ.

Nhưng chợt có một bóng người đội mũ cối gò lưng guồng xe đạp tiến vào phía ngã tư, Viềng bật dậy như một cái lò xo cực mạnh, anh rảo bước ra cửa, tay còn cầm đũa, Viềng vẫy vẫy, gào to:

- Minh Thanh, Minh Thanh, Ơ kìa, đây cơ mà, Viềng đây. Có nhuận bút - Anh lại dõng dạc gọi to một lần nữa để bạn nghe rõ: Nhuận. . . bút . . .

Minh Thanh đạp xe dưới nắng trưa hè từ quê lên, nghe thấy nhà thơ Lê Chí Viềng gọi, Minh Thanh mừng rơn, cho hai chân xuống đất, hãm phanh. Minh Thanh vào quán ngả mũ lau mồ hôi lên trán, mặt đen bóng, hai gò má nhô ra, đôi mắt trũng sâu. Thanh nói:

- Tôi điện cho anh mấy lần để cứu nguy cho tôi mà không gặp, hôm nay tôi phải lên để trực tiếp gặp anh, anh bày cho tôi cách gỡ bí, nếu không vợ chồng tôi đến ly hôn mất.

Lê Chí Viềng thản nhiên hất hàm gọi chủ quán:

- Cho thêm một luộc, một dồi, năm chả, đầy đủ lá thơm đấy nhé, có rượu thuốc đem ra đây.

Phi Trường nhìn khách mời vào với vẻ thương hại, sau đó ông vung dao thái phầm phập trên thớt. Minh Thanh mới quen biết Lê Chí Viềng đầu năm nay. Thanh là cộng tác viên của cơ quan báo chí. Viềng đã giúp Thanh đăng được hai bài thơ, sau đó Viềng giúp Thanh xuất bản một tập thơ. Tác phẩm này Thanh phải tự bỏ tiền ra để in ấn và phải tự phát hành để thu hồi vốn và tự trang trải nhuận bút cho mình. Nhà xuất bản chỉ là cơ quan in thuê cho nhà thơ trẻ Minh Thanh. Gia cảnh của Thanh cũng chẳng phải giầu có gì, vợ anh dạy tiểu học trường làng, Thanh là cán bộ văn hoá xã. Hai vợ chồng sinh được một đứa con trai đầu lòng, anh chị nuôi thêm con lợn nái và năm con lợn thịt. Hàng ngày buổi sáng Thanh phải ra ruộng cấy cầy, chiều đến văn phòng uỷ ban làm việc. Bốn vụ lúa vừa rồi vợ chồng Thanh gặt hái bội thu, tích lại được bẩy tám tấn thóc. Đó là chưa kể những khoản thu về mỗi năm bán hai lứa lợn thịt, một lứa rưỡi lợn con. Với lòng yêu thơ, Thanh đã dốc toàn bộ số tiền bán thóc bán lợn, đầu tư cho cuốn thơ trẻ ra đời. Sau khi in xong, Thanh đã tặng các bạn trong xã tới hai trăm quyển, còn lại ba trăm quyển anh thồ xe đạp đem đến các nhà trường, các cơ quan của tỉnh, huyện đóng ở xã để bán thơ, thu hồi vốn nhưng không một ai mua thơ của anh cả.

Sáng thồ đi, chiều lại thồ về, cuối cùng ba trăm cuốn thơ đắp chiếu ở xó nhà. Dân làng đồn đại lắm chuyện nhỏ to nào là đống thơ đắp chiếu, nào là nhà thơ đắp chiếu. Ngày ngày vợ anh khóc lóc, riếc móc. Minh Thanh đau khổ quá, anh thức đêm suy nghĩ đến rạc người. Cũng đã có lần vợ anh hăm doạ:

- Nếu anh không kiếm đủ tiền trả mẹ con tôi thì tôi lên xã xin từ cái mặt anh.

Mấy tháng qua vợ chồng Thanh mỗi người nằm một giường, đến bữa chồng ăn trước, vợ ăn sau. Những hôm đi họp xã được chén một bữa liên hoan buổi trưa, Thanh ngả lưng trên ghế ở hội trường, không về nhà nữa. Cứ thế vợ chồng nhà thơ trẻ Minh Thanh như mặt trăng, mặt trời.

Hôm nay Minh Thanh lên tỉnh tìm gặp nhà thơ Lê Chí Viềng để giải thoát cho anh. Lần trước Minh Thanh đã gập Viềng nhờ anh tìm kiếm một chút nhuận bút để bù đắp lại chi phí in ấn cuốn thơ, Viềng hứa với Minh Thanh sẽ đòi nhuận bút của nhà xuất bản nếu không anh sẽ đại diện cho tác giả để tung ra một bài phóng sự búa tạ, choảng cho nhà xuất bản biết thế nào là lễ độ.

Viềng cầm đũa vung lên ra hiệu:

- Khai chiến đi!

Không đợi Minh Thanh tỏ thái độ, Viềng liên tục gắp mấy đợt và gật gù nói với bạn - sống ở trên đời có còn gì quý hơn là dồi chó không? Thưởng thức đi!

Minh Thanh mệt mỏi gắp thịt luộc, vừa nhai vừa nói:

- Anh gắng sức lên, tìm cách nào cho em thoát hiểm lúc này, nếu không gia đình em vỡ đến nơi.

Viềng xua tay:

- Đừng lo, mọi việc sẽ đâu vào đấy còn bây giờ đã ngồi vào bàn ăn là chỉ có ăn mà thôi, nào tiếp tục đi chứ!

Hai người lặng lẽ ngồi bên nhau, mỗi người đi theo đuổi một ý định riêng của mình. Tất cả những nỗi băn khoăn của Minh Thanh anh đã nói tuột móng heo ra cả rồi, còn Lê Chí Viềng đang tìm cách thoát hiểm trong bữa ăn sáng nay. Khi đĩa thịt luộc đã vãn dần, Viềng rút vỏ bao thuốc Vina ra để trên mặt bàn, anh sẵn sàng làm thủ tục quen thuộc chỉ có riêng Chí Viềng mới có được mà thôi. Chủ quán Phi Trường nhìn đồng hồ trên tường, đã thấy kim giờ chỉ con số hai, các bàn ăn khách đã về hết, chỉ còn lại hai ông nhà thơ, một trẻ, một ương ương dở dở đang trầm ngâm bên nhau. Phi Trường sốt ruột, dọn bàn báo hiệu cho hai quý khách biết đã hết giờ ăn sáng, nhưng ông nhà thơ vẫn không nhúc nhích, nét mặt lạnh lùng nhìn ra cửa như đang toan tính một mưu mẹo bí hiểm. Phi Trường đánh bạo tiến đến bàn ăn thu dọn ấm chén và gượng gạo nhẹ giọng:

- Hai anh có thể cho quyết toán được chưa?

Hai khách vẫn không trả lời. Phi Trường lại chuyển giọng khác:

- Xin lỗi, buổi làm chiều hai ông làm việc từ mấy giờ ạ, liệu bây giờ các ông về cơ quan có muộn không?

Lê Chí Viềng đột nhiên đứng phắt dậy, Phi Trường tưởng là nhà thơ móc ví trả tiền, nhưng Lê Chí Viềng đập tay vào túi quần, túi ngực và sửng sốt kêu lên:

- Thôi chết? Muộn quá rồi, tôi đang giữ chìa khoá buồng, có lẽ mẹ con nó đi làm về đang ngồi ở đầu hè chờ tôi - Thế này nhé, cậu ngồi tạm đây, tôi về đưa chìa khoá cho vợ tôi rồi tôi đến ngay - Sau đó Viềng sách cặp hối hả ra vỉa hè nổ máy chiếc xe Honda 50 cũ kỹ, lao vội xuống mặt đường rồi lẩn vào đám đông biến mất.

Minh Thanh chốc chốc lại nhìn ra cửa chờ Viềng tới, càng chờ càng mất hút, Thanh sốt ruột, anh móc túi đếm tiền liều mình thanh toán vụ này cho xong chuyện, nhưng chết một nỗi Minh Thanh đếm đi đếm lại cũng chỉ còn gần hai chục nghìn, anh đánh liều hỏi chủ quán:

- Thanh toán ông chủ ơi. Hết bao nhiêu?

Phi Trường đáp:

- Xin anh cho bẩy mươi nhăm nghìn.

Minh Thanh giương đôi mắt mệt mỏi tròn xoe toát ra một ý sợ hãi:

- Sao lại nhiều đến thế?

Phi Trường bấm đốt ngón tay rồi trả lời:

- Thế này anh nhé: Bữa sáng nay kể cả đợt một ông Viềng ăn mà anh chưa đến, và đợt hai là đợt ông Viềng tiếp anh hết năm chục, còn hai mươi nhăm nghìn nữa là tiền ông Viềng cắm quán bữa cuối tuần trước .

Minh Thanh lắc đầu:

- Bữa ăn đợt một và bữa cắm quán tuần trước của ông Viềng đó là việc của ông Viềng, sao ông lại bắt tôi ghé đầu chịu báng thế nhỉ?

Phi Trường mỉm cười:

- Trước lúc ra đi, ông Viềng có ghé vào tôi và dặn: các khoản vừa rồi cứ thanh toán với anh và ông Viềng sẽ xử lý sau này.

Minh Thanh không còn lý gì để cãi nữa vả lại một nhà thơ trẻ như mình ai lại đi cãi vã với một ông hàng thịt chó thì còn ra thể thống gì. Thanh rút nắm tiền trong túi ngực ra với số tiền này không đủ thanh toán bữa cắm quán của Chí Viềng tuần trước. Thanh đành tháo đồng hồ tay đặt lên bàn, nét mặt thiểu não, giọng yếu hẳn đi:

- Rất tiếc tôi không còn đủ tiền để trả thay cho ông Viềng, chỉ còn cái đồng hồ này gọi là của đi thay người, ông vui lòng nhận cho.

Phi Trường cầm cái đồng hồ lật trái, lật phải, giọng nghi ngờ:

- Tàu hay Nhật đấy?

Thành đáp cộc lốc:

 

- Japan.

Phi Trường cười hí hí nhét vội cái đồng hồ vào túi áo tạp dề và thân ái vỗ vào vai vị khách trẻ, ân cần căn dặn:

- Ở đâu cũng thế, bao giờ cũng vậy, tuổi trẻ các anh phải chọn bạn mà chơi. Tôi xin hỏi một câu nếu không quá lời, anh đã chơi thân với ông Viềng lâu chưa?

Minh Thanh xách cặp đứng phắt dậy giọng bực bội:

- Thân thích gì đâu - nói rồi Thanh uể oải bước ra cửa, cưỡi lên chiếc xe đạp cũ, một nhịp đạp chân đầu tiên của anh, tiếng sắt thép rít lên ken két.

Phi Trường nhìn theo thở dài như xót xa:

- Thật là thương tâm.

Một tuần lễ trôi qua, Lê Chí Viềng không đến quán Phi Trường, anh đã thấy nhớ lắm rồi, Viềng thu xếp công việc của cơ quan, anh lục ra đáy túi còn một chiếc phong bì hội nghị, bên trong là tờ giấy bạc năm mươi nghìn. Viềng cười rít:

- Có thế chứ, tưởng là tuần này hết hy vọng, thôi thì ở hiền gặp lành, trời trao bổng lộc, chẳng đi đâu mà lo.

Viềng lại phóng thẳng đến quán Phi Trường, anh tính rằng nếu bữa nay không vồ được một thằng bạn nào thế mạng ở quán Phi Trường thì số tiền ở trong phong bì này cũng đủ trang trải hai bữa thịt chó ngon lành.

Viềng lách qua đám đông nhằm hướng ngã tư quen thuộc lao tới. Anh dừng xe vào quán thịt chó quen thuộc. Chủ quán Phi Trường nhìn thấy vị khách quen, ông ta nhếch mép mỉm cười, và vung dao vẫy khách:

- Con chó này tuyệt lắm, vào loại chó cốm nhiều nạc, mỡ vừa đủ, đây là ba chỉ chính hiệu. Mời ông vào.

Chí Viềng bước vào nhà, dùng bàn chân kéo ghế, ném cặp xuống bàn và anh chiếm một vị trí ngồi ngay bên cửa ra vào để vừa ăn vừa quan sát các bạn quen đi trên đường phố. Viềng hất hàm như ra lệnh:

- Một luộc, một dồi, một chả, lá thơm hoàn chỉnh đấy nhé. Có rượu Tam Xà không nhỉ?

Phi Trường thái thịt, đôi tay nhẹ thoăn thoắt, cái vai bự mỡ rung lên, sau đó ông ta nổi quạt máy, thổi bếp than hồng và đặt lên trên bếp sâu chả chó. Chí Viềng nhìn bàn tay chủ quán nhẹ nhàng vê sâu chả chó quay tròn trên bếp than hồng, mùi thơm quen thuộc bốc ra như có sức lôi cuốn lạ thường. Viềng thầm nghĩ – “Trờí sai lão Phi Trường xuống đây để hầu mình là xứng đáng lắm". Một lát sau chủ quán đã bày đủ những thực vị lên bàn ăn. Chí Viềng cầm đũa gắp miếng ba chỉ và làm một động tác quen thuộc lấy lá mơ lông gói miếng thịt kẹp lát giềng, chấm mắm tôm chanh và thưởng thức. Đôi mắt Chí Viềng sáng lên, vẻ mạt rạng rỡ, một ý nghĩ ngộ nghĩnh thoáng qua: "Ở nước Mỹ giầu có nhất thế giới, nhưng liệu lão tổng thống Mỹ có được ăn thịt chó bao giờ không nhỉ (?)".

Bừa ăn đã dần tàn, trên đĩa cũng chỉ còn lại một vài miếng thịt. Chí Viềng lại móc túi ngọc lấy ra vỏ bao Vina đặt trên bàn và chuẩn bị nạp vào các bao ấy những thứ đặc sản cần thiết. Những miếng còn lại trên đĩa cũng chỉ là da và mỡ bùng nhùng và những miếng cuống dồi chó đen nhèm, quăn lại. Viềng bắt đầu rung đùi chăm chú nhìn ra đường phố tìm bạn quen. Thỉnh thoảng anh lại chồm lên nhìn theo một bóng người nào đó, anh giơ tay lên như muốn vẫy nhưng rồi anh hãm cánh tay mình lại, từ từ đặt tay lên đùi một cách thất vọng. Chủ quán Phi Trường cũng đã quá quen với những động tác của Chí Viềng, ông liếc nhìn đồng hồ trên tường, thấy kim giờ đã chỉ quá con số ba, chủ quán bắt đầu làm những động tác nghề nghiệp để giục khách trả tiền. Phi Trường vừa lau xong bàn, xếp xong ấm chén thì có một người khách thò mặt vào, liếc ngang, liếc dọc như tìm một ai đó. Lê Chí Viềng mắt sáng lên, nhoẻn miệng cười tươi, toàn thân anh bật dậy, Viềng mời khách:

- Anh Vi Lượng, xin chào kịch tác gia, Vi Lượng vào đây, ông Phí Trường đang đợi anh đấy - Viềng quay về phía chủ quán dõng dạc gọi:

- Luộc, dồi, chả, nhựa mận và bún xáo nữa đấy nhé!

Trong lúc chủ quán đang chế tác món đặc sản, trên bàn ăn Chí Viềng và Vi Lượng ngồi bên nhau họ cười nói thân ái như lâu ngày mới gặp nhau. Thật ra chủ và khách họ đã biết từng nhịp trái tim đập của nhau từ lâu rồi, bây giờ họ làm ra vẻ không ai biết gì về quá khứ của nhau, họ lấy câu chuyện kịch và thơ ra để lấp chuyện cũ, làm cho cuộc tiệc tùng ở quán Phi Trường được vui vẻ.

Mới cách đây đầu năm, Vi Lượng cũng đi qua quán này, Lê Chí Viềng cũng mời vào quán, mời anh thưởng thức đặc sản thịt chó, bữa tiệc ấy đáng giá sáu chục nghìn đồng, Lê Chí Viềng cũng đã chơi một vố nhanh gọn, Viềng đã trút gánh nặng bữa tiệc cho Vi Lượng, còn Viềng anh cáo từ về đưa chìa khoá cho vợ mở cửa phòng, nhưng rồi bữa đó Viềng mất hút, đương nhiên Vi Lượng phải đứng vai khổ chủ để thanh toán bữa ăn hôm đó.

Bữa tiệc chó hôm nay Lê Chí Viềng thấy Vi Lượng hồ hởi khoe việc anh mới dựng thành công một vở kịch ngắn cho một công ty Thương Mại dịch vụ, Viềng cũng tưởng rằng nhà kịch sĩ đã quên một quá khứ tưởng là phải cạch mặt nhau, Lượng vui như nổ trời, anh chỉ vào túi ngực của mình và khoe: Vở này nhuận bút cũng nặng túi lắm, phải tiêu vài chục bữa đặc sản chó cũng không hết.

Viềng đưa tay đẩy ra phía trước như kiên quyết từ chối tấm thịnh tình của bạn, anh nói:

- Cái khoản ấy đừng lo, đã có tôi. Hôm nay tôi phải mở tiệc mừng thành tựu kịch ngắn của anh lên sàn diễn.

Lượng xua tay:

- Để tôi!

Viềng lắc đầu:

- Để tôi!

Trong lúc hai người đang giằng co nhường nhau khoản chi bữa việc, chủ quán Phi Trường bưng ra một mâm đầy đủ luộc, dồi, chả, nhựa mận, bún sáo.

Phi Trường cười rung vai:

- Tôi thích nhất là tiếp khách văn nghệ sĩ, anh em họ làm cho quán của tôi sang trọng hẳn lên, thế cũng chưa đủ, mà tôi học khôn được trong văn thơ của các ông nhiều mốt sống, điều hay, lẽ phải. . .

Viềng cầm đũa ra lệnh:

- Khai chiến đi anh - Viềng gắp một miếng thịt luộc làm động tác mẫu ngon lành. Bữa tiệc ấy diễn ra hồ hởi, người ta tưởng như đây là bữa ăn của các tỷ phú. Đã ba bốn lần Viềng hãnh diện gọi chủ quán tiếp thêm những món đặc sản chó. Phi Trường bê ra mấy đợt thức ăn, nhưng rồi ông ta sinh nghi, bụng bảo dạ: "Liệu bữa nay có suôn sẻ hay lại trục trặc kỹ thuật như những bữa trước. Thôi được, trục trặc hay không là việc của họ, vơ tiền là việc của mình, thằng nào đã vào đây liệu có đường nào chạy thoát khỏi quán Phi Trường này. . ."

Cuộc tiệc tùng đã kéo dài hơn một tiếng đồng hồ, Phi Trường lượn quanh bàn ăn nhắc khéo:

- Chóng quá, thời gian như bóng câu qua cửa sổ. . . Mới có ba giờ chiều thôi ạ, các ông dùng gì để em làm thêm.

Vi Lượng liếc mắt nhìn toàn cảnh bàn ăn thấy các món đã thừa mứa, Lượng chỉ vào túi ngực của mình và nói:

- Cứ chén, hết bao nhiêu tôi chịu.

Chí Viềng bổ sung lời lẽ đầy hy vọng:

- Không phải cậu chịu, mà thằng công ty Thương Mại dịch vụ nó chịu.

Vi Lượng vươn mình đập vào vai bạn, cười ha hả:

- Chứ sao!

Trong lúc Chí Viềng mở cặp lấy ra một tờ báo to đặt lên bàn và thu vén những miếng thịt còn lại chuẩn bị cho một cuộc rút lui. Không ngờ Vi Lượng cầm cặp đứng lên và rút ra mấy tờ giấy bạc màu xanh lá cây rối đặt lên bàn ăn và lấy đĩa rau húng đè lên cho khỏi gió bay. Lượng thản nhiên nói:

- Cứ chén đi nhé, mọi việc mình lo đây rồi, bây giờ mình có việc hẹn chiều nay ký hợp đồng với thằng doanh nghiệp xuất khẩu, làm cho nó vở Đi Tây. Vở này cũng đậm đà lắm - Lượng quay về phía chủ quán giơ tay chào:

- Goodbye ông Phi Trường nhé. Khi nào dựng xong vở Đi Tây, hai chúng tôi sẽ tới đây đập phá trận nữa. Bữa nay có gì không phải xin ông đại xá cho nhé.

Nói xong Lượng quay người, bước ra cửa. Chí Viềng liếc nhìn những tờ giấy bạc xanh đặt dưới đĩa rau thơm, bụng bảo dạ:

- Thằng này khá đấy, biết chơi, khoản này thừa chi bữa sáng nay, biết đâu mình còn có lãi dăm chục nữa chứ.

Viềng đứng lên gọi với ra vẻ ân cần:

- Lượng ơi, đứng làm thế, để mình thanh toán, mình có nhuận bút thơ đây rồi!

Nói xong, Viềng thu dọn những miếng thịt, miếng dồi còn lại, gói ghém cẩn thận và cho vào cặp da, anh thận trọng như đang nhét tài liệu quý vào cặp. Viềng hất hàm gọi chủ quán:

- Quyết toán ông Phi Trường ơi.

Chủ quán lật đật chạy ra, cười nói đon đả:

- Các ông thôi thật đấy à, tôi còn đủ lượng phục vụ cho các ông cơ mà, làm gì mà hối hả đến thế, cứ bình tĩnh mà nhậu cho sướng mồm.

Chí Viềng hỏi cộc lốc:

- Hết bao nhiêu?

Chủ quán bấm đầu ngón tay miệng lẩm bẩm:

- Ba đợt gọi vị chi hết một trăm ba mươi nghìn đồng.

Viềng cười khảy:

- Có thế thôi à?

Chí Viềng kéo cái đĩa rau húng sang một bên, gõ gõ đầu ngón tay trỏ trên những tờ giấy bạc xanh ra hiệu thanh toán. Phi Trường vừa cầm đến mấy tờ giấy bạc xanh ông ta đã giật người như phải bỏng và ném tiền xuống mặt bàn:

- Tiền giả. Xin ông đổi cho.

Viềng sửng sốt giương mắt nhìn:

- Sao lại giả nhỉ, đời tôi là chỉ có thật chứ không có giả mà bạn tôi cũng thật như đếm, cái lòng văn nghệ sỹ chúng tôi sáng như gương, cả cái tỉnh này phải nể về cái đức của chúng tôi.

Chủ quán Phi Trường lắc đầu thở dài:

- Thưa ông nhà thơ, đức gì thì đức mà tiêu tiền giả là phạm pháp đấy ạ. Nếu như hôm nay ở kho bạc hoặc ở ngân hàng thì họ đã làm biên bản thu hồi giấy bạc giả, tiền bạc không phải là chuyện chơi đùa với văn thơ đâu ông ạ.

Biết mình đang lâm thế đường cùng, nếu chuyện này mà vỡ ra gây ồn ào, dân phố kẻo đến vòng trong vòng ngoài, người chê, người trách thì cũng chẳng hay gì, Viếng đành rút cái phong bì hội nghị, lấy tờ giấy năm chục nghìn để trả cho chủ quán và nói:

- Thôi thì cũng liều, thằng bạn khốn nạn nó chơi tôi vố này đau như hoạn, ông thông cảm cho, số tiền còn lại ông cứ ghi sổ cắm quán để khi nào tôi thanh toán.

Lê Chí Viếng ngồi phịch xuống ghế, mặt đờ đẫn vì tiếc rẻ, anh thở dài với giọng chua chát:

- Một thằng đểu không hơn không kém!

Phi Trường lấy bút ghi sổ tiền cắm quán và thận trọng đưa cho khách cuốn sổ và bút, ông nói:

- Xin thủ trưởng ký duyệt cho em tiền cắm quán.

Phi Trường ngồi vào ghế giọng trầm trầm như thương cảm cho vị khách của mình:

- Có gì là lạ đâu ông nhà thơ ơi, ma gặp ma, họ dễ nhận ra nhau thôi.

CON MỐC

Truyện ngắn của Đoàn Lê

N

gười ta bảo: chó chết, hết chuyện. Xem ra con Mốc xóm Chùa đã chết cho hết chuyện.

Mốc, tên con chó cái lai của lão kép cải lương. Nó đẻ được ba lứa rồi ốm lay lắt như người đàn bà hậu sản, hôm nay chết còng queo ở xó vườn. Nguyên nhân dẫn đến cái chết có thể do nó bị đói khát kinh niên. Bởi từ dạo bà vợ đi theo tiên tổ, lão kép cải lương sống trơ thân cụ, rất coi khinh cái sự ăn uống. Gặp gì ăn nấy, bốc bải cho xong bữa, chỉ rượu là tài. Lão bảo rượu đích thị tinh gạo, lại chả bổ. Con chó không uống được rượu, không nốc được chút tinh gạo vào ruột, do vậy gầy trơ xương. Giống chó, nó giữ đúng câu: "Chó không chê chủ”. Đói quá không nhịn được, nó lang thang tha thẩn các bãi rác khắp làng xục xạo, rồi lại về phủ phục dưới chân lão già.

Tội nghiệp, thế cũng yên phận. Khi sinh thời nó thường được dùng làm biểu tượng để lão kép ám chỉ những điều chướng tai gai mắt. Ví như muốn chửi khéo cô nhân tình dặt dẹo khiến lão ngứa mắt, lão bô bô mắng con Mốc giữa đám bạn bè tụ bạ:

- Nỡm chửa, mày phải nhớ mẹ mày gốc quê mắt toét chính cống nhá. Ông đã gọi mày là Mốc để mày đừng quên. Giờ mày ra cái điều được dính tí máu Tây, mông to như lồng bàn, váy xẻ ngược xẻ xuôi lấy mẽ, trông lộn ruột lắm!

Cô nhân tình điên tiết, dỗi không cho lão động đến người bữa đó.

- Sao, mày dám chê không ăn hả? Thứ này gọi đúng danh thơ chấm mắm tôm đấy con ạ.

Là lão nói kháy ông bạn thơ rượu ngồi trước mặt. Ai chấp. Lão trái tính, trở mặt như bàn tay, khen đấy, chửi đấy, móc máy văn vẻ tựa con bò cạp độc. Chửi quen miệng rồi. Xưa còn mồ ma vợ lão, bà ta đã phải kêu lên:

- Khiếp, ông được mỗi tài róc rỉa thiên hạ. Ông có biết nghề chính của ông là gì không? Thưa, nghề làm bố thiên hạ đấy ạ. Cấm thấy sờ lên gáy.

Gáy mình lạ gì phải sờ? Bây giờ lão qua ngưỡng thất thập cổ lai hy, càng thích nói cho sướng miệng. Chuyện gì lão cũng có thể nhếch một bên mép, phán tung hoăng. Thiên hạ biết tính lão nên chẳng ai muốn nối lời. Lão lại ngỡ họ… phục sát đất, càng nói tợn!

Sĩ Thái sư, nhân vật nổi tiếng xóm Chùa, thi thoảng vẫn đủng đỉnh xuống cuối làng thăm lão già dở chứng chết ấy. Ông chịu đựng mãi cũng quen đi. Không ai muốn qua lại ngó ngàng đến lão kép hát, song ông vẫn giữ nguyên một lời hứa với người đã khuất. Dạo đó, khi thăm vợ lão kép trước lúc bà ta qua đời, chính bà đã nhìn Sĩ Thái sư với ánh mắt trao gửi rầu rĩ.

- Bác ơi, chỉ có bác chân tình với ông cháu. Sau này tôi đi rồi, mong bác đừng bỏ ông ấy, bác qua lại cho nhà cửa đỡ vắng vẻ.

Ông giữ đúng lời hứa. Bị mọi người gọi "gàn bát sách” ông cũng lờ. Không còn bóng ông ra vào, căn nhà cuối xóm dễ thành nhà hoang.

Hôm nay vừa tới sân, Sĩ Thái sư ngạc nhiên thấy lão kép tề chỉnh quần áo hơn mọi bữa.

- Ông tạo dáng đi đâu mà choáng thế ?

- Tôi đi thăm thú đám khiếu kiện ông ạ. Mình là lãnh đạo, đôi khi cũng phải hé mắt nhìn xuống dân một tí chứ. Nói để ông biết, ngoài nghĩa địa xóm Chùa nhà ta cũng rặt dân khiếu kiện, chật cả sân Diêm Vương đấy.

 

Lão kép vênh cái mặt lên. Gớm chửa, xưa rày lão chỉ thích đóng vai lãnh đạo, càng cao cấp càng hăng. Và Sĩ Thái sư hiểu lão kép nhắc khéo đến vụ kiện tụng đất cát đang rùm beng cả làng kia.

Sĩ Thái sư hùa theo:

- Thưa vâng. Vậy tôi có phải về để "lãnh đạo” đi thị sát tình hình không?

Lúc đó lão kép mới chùng mặt xuống, nhe răng cười nhẹ:

- Ây, đi rồi. Vừa về. Là đi mua đôi dép mới. Phàm cái gì đổi mới cũng tốt cụ ạ.

- Thì vưỡn!

- Mừng đổi mới, tôi pha ấm chè Ô Long cháu nó vừa gửi biếu để hai ta thưởng thức nhá!

Trà Ô Long pha nước mưa hứng tàu cau còn gì sang bằng. Lão kép bày sẵn bàn trà bên thềm ngôi nhà thờ nhỏ rêu phong cho thêm thi vị. Mấy chùm hoa mộc li ti lão kép hái ngay trên cây bỏ vào ấm, giờ phảng phất toả lên thứ hương thật thanh tao quý phái.

Lão kép khơi mào câu chuyện sau tuần trà đầu tiên:

- Giời oái oăm lắm. Người đẻ sòn sòn, đất lại không nở thêm lấy một ly. Giá mà đất cát tự sinh sản như bèo hoa dâu có phải thiên hạ đỡ kiện tụng nhau không.

Trầm ngâm giây lát, Sĩ Thái sư bỗng hỏi:

- Ông đã nghe họ sắp làm lễ khởi công sân gôn chưa?

- Dám khởi công? Còn bao nhiêu đơn từ phản đối, đã ngã ngũ đâu?

- Phản đối ư? Rồi cũng khắc xong tất.

- Đã đành!

Vừa mới nói đến đấy cả hai lão bỗng dỏng tai nghe. Cái gì ầm ĩ thế? Nghe rõ tiếng quát tháo hò hét ghê người. Hai lão ngồi lặng, đưa mắt cho nhau. Đấy, cuộc sống nhốn nháo không còn ra thể thống gì nữa. Sao mà buồn! Cái xóm Chùa êm ả xưa, ra đường gặp nhau chắp tay vái chào đã lui vào sân khấu cổ tích. Giờ ra đường chậm chân không tránh kịp, xe máy nó tông ngã chổng vó. Nó tha chửi là phúc, lại mong nó vái mình cơ. Hoá ra xóm Chùa chỉ giữ mấy chữ Nho đầu cổng làng làm sang thôi. Triều phục thôn!

Thoáng thấy bóng lão Bân đi qua ngõ, roi bò ve vẩy trong tay, Sĩ Thái sư ơi ới gọi:

- Ông Bân, làm chén nước đã!

Lão Bân hơi ngần ngừ, nhưng cái tính bẻo lẻo xui chân lão rẽ luôn vào ngõ.

- Ôi chao, các cụ ngồi bình chân như vại quá nhỉ? Không ra xem người ta sắp giết nhau kia kìa.

- Ai giết ai?

- Anh em thằng chủ tịch Nhì.

- Cứ tưởng anh em nó phe cánh với nhau chứ.

- Phe cũng chẳng bằng tiền. Phen này giết nhau thì có.

Bằng giọng tưng tửng lão Bân kể thành hồi, thành chương như kể Tam quốc diễn nghĩa, mặc dù ai cũng đã lơ mơ ít nhiều biết chuyện. Chuyện rằng đám quan chức xã chắc hẳn vớ bẫm khi giải quyết đất cho làm sân gôn. Chủ tịch Nhì đầu trò vụ này nên rất quyết liệt trấn áp đám dân không chịu nhận tiền đền bù bán đất. Ai ngờ hôm trước lộ ra lão giáo Nhất, anh ruột lão chủ tịch, đứng đầu đơn khiếu nại lên huyện, lên tỉnh chứ ai. Sáng nay bảnh mắt ông em đã đến doạ đưa ông anh ra công an. Lão Nhất điên tiết vớ chày giã cốm đuổi đánh chủ tịch Nhì. Không có người can, khéo chừng anh em họ bữa nay thịt nhau.

- Đấy, đồng tiền đảo lộn nhân tình. Chả trách người ta gọi nó là đồng bạc.

Lão Bân hấp háy đôi mắt ranh mãnh buông một câu kết luận.

Sĩ Thái sư hỏi lấp lửng:

- Thằng Quân nhà ông nghe nói nhận tiền đền bù rồi kia mà?

- Nói làm gì cái thằng ngẩn ngơ ấy. Nghe người ta xui khôn, xui dại nhận tiền buổi sáng, buổi chiều tôi bắt mang trả tắp lự. Định bán đất ra làm xe ôm ngoài tỉnh. Rõ đồ ngu. Tí đất ấy rau cháo cũng nuôi sống cả nhà nó, đời con, đời cháu mãi mãi. Bán đi vài chục triệu mua cái xe ôm, chỉ vắt mũi bỏ miệng được mình thân xác nó thôi. Vài năm xe rã vứt đi là tuyệt đường sinh sống.

Lão kép tư lự:

- Con cháu nó muốn đổi đời ông ạ. Cắm mặt xuống ruộng cũng khổ ngang kiếp con trâu, sung sướng gì?

- Đã đành. Nhưng cha ông tổ tiên mình sống đến giờ đều trông miếng đất ấy cả. Nay lấy đất nông nghiệp làm sân gôn phục vụ mấy thằng cha rửng mỡ, giúp cho mấy thằng đầu cơ hốt tiền, có khác gì bòn nơi khố rách đãi nơi quần hồng kia chứ?

Một khi lão Bân giở món tranh luận ra, cấm ai theo kịp. Mặt lão nổi gân, mắt hiếng nhìn trời, tựa hồ lão không thèm đếm xỉa cái thằng đối thoại kém cỏi trước mặt. Trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, bị mỗi bệnh táo bón kinh niên nên lão hay nổi nóng lý sự thôi.

Nghe tiếng lão Bân nói như quát, con Mốc sợ hãi cố lê từ gầm bàn thờ trong nhà ra ngoài thềm. Khi qua chỗ các lão ngồi, con Mốc lấm lét như người có lỗi. Lão kép nhìn thấy vội gọi:

- Mốc, êu Mốc!

Con chó nghe chủ gọi dừng lại, đứng ì ra đó. Được lão kép vất đến tận mõm một cái bánh rán, nó ngửi qua, không ăn, chỉ ngước đôi mắt rầu rĩ ậng nước, nhìn đăm đắm vào mắt chủ. Ông ơi! Ăn uống bây giờ chẳng được nữa rồi. Miệng đắng ngăn ngắt. Sắp tới sợ rằng con không còn nhìn thấy ông nữa thôi. Con mệnh hệ nào, xin ông tha lỗi cho con đã không hầu hạ bầu bạn cùng ông trọn tình, trọn nghĩa. Nào con có muốn thế. Cũng do cái số phận hẩm hiu xui nên…

 

Con Mốc hức một tiếng rất khẽ, rồi từng bước lê đi, không một lần ngoảnh lại.

Lão kép nhăn mặt nhìn theo con Mốc nghĩ ngợi, lẩm bẩm:

- Quái thật, con Mốc nghe chừng ốm quá.

Hai lão bạn mải tranh luận không để ý.

 

Con chó cái bỗng thèm chút mật ngọt trong chảo nấu kẹo nhà ông giáo Nhất. Nhà ông giáo cách đó một ngõ, nhưng giáp vườn nhà lão kép, bà giáo chuyên sản xuất món kẹo dồi, bánh cốm mật nha. Hai cái chảo đại sau khi nấu mật trộn cốm xong, tầm này chúng được quẳng ra góc sân giếng, ngâm nước, bà giáo chưa rửa vội. Con Mốc thường lân la tới đó liếm láp chút nước ngọt trong chảo cho đỡ xót ruột. Hôm nay nó mệt đứt hơi, nhưng nghĩ đến chảo nước lại thèm cháy gan, cháy ruột, cố liêu xiêu lê đi.

Chưa đến ngõ nhà ông giáo, nó bị đạp bắn vào gốc ruối vì những bàn chân hùng hổ chạy qua. Khốn nạn, vội gì thế không biết? Theo bản năng nó định ngoặc răng vào bắp chân những kẻ thô lỗ, nhưng không còn đủ sức làm việc đó. Nó cố nén đau đớn nép vào bờ rào, vừa rên ư ử. Chao ôi, họ đang giằng xé nhau, hay đúng hơn họ đang giằng xé một bà cụ già áo quần tơi tả. Nếu con Mốc không kịp né ra xa sau cú đạp mạnh, họ giẵm bẹp ruột là cái chắc.

Bởi con Mốc không gặp may, nó mò đến nhà giáo Nhất đúng lúc hai thằng con trai ông ta theo lệnh bố tới…đòi bà nội đang ở nhà chủ tịch Nhì. Xưa rày cụ Cậy vẫn ở nhà ông chủ tịch, được ông phụng dưỡng. Dù sao sự ăn uống của gia đình bên ấy đầy đủ hơn nhiều, thuốc men chu đáo hơn nhiều. Bà cụ Cậy đã tám sáu tuổi, hai lần bệnh nguy kịch nhưng đều thoát chết, cũng nhờ là mẹ chủ tịch. Xe ôtô cấp cứu vào tận làng đón đưa, rồi rước tới bệnh viện Việt-Xô điều trị cái u nách. Cả xóm Chùa mừng cho bà cụ có phúc. Dễ mấy ai được như cụ.

Không hiểu sao sáng nay ông chủ tịch nổi điên quát anh trai:

- Đồ đầu óc bã đậu, chỉ thích cả nòi nhà này làm dân ngu cu đen cơ. Quanh năm đâm sấp đổ ngửa mà nuôi nổi mẹ lấy một ngày chửa? ừ thì ông ăn đút lót. Ông lấy tiền đút lót nuôi mẹ đấy. Kiện cái con c… ông đây này!

Trong lúc ầm ĩ, câu cả nòi nhà này bị nghe thành cả nòi nhà mày, do vậy câu nói trở nên cay độc gấp đôi. Giáo Nhất vác chày giã cốm đuổi đánh em trai. Bị mọi người ngăn cản, anh em họ ai về nhà nấy. Nhưng giáo Nhất uất lắm. Càng nghĩ càng đau. Nó dám rủa cả nòi nhà ông nghèo, không nuôi nổi mẹ ư? Láo. Sở dĩ ông để nó nuôi bà cụ cho nó mát mặt, giờ nó dám kể công nuôi mẹ? Đã vậy ông cho nó biết.

Ngay lập tức ông lùa hai thằng con giai sang cõng bà nội về. Giờ này chắc chủ tịch Nhì ra Uỷ ban, nhà rặt đàn bà con gái, không ai dám cản.

 

Giáo Nhất gặp vợ chủ tịch Nhì đang nhặt rau ngoài thềm.

- Thím cho tôi đón bà về. Chú thím phụng dưỡng bà ngần ấy năm đủ hiếu thảo lắm rồi. Nhưng dám kể công nuôi mẹ thì tôi sổ toẹt tất. No đói bà về bên tôi cho đúng luật đời…Chúng bay đâu, vào đón bà, quần áo đồ dùng, lấy sau!

Cô em dâu quăng rổ rau, chạy vào nhà ôm chặt mẹ chồng, gào lên:

- Anh không được đưa bà đi đâu cả. Anh cứ đợi nhà em về đã. Việc này em không quyết định được…Chúng bay chạy ra Uỷ ban gọi bố chúng bay về nhà ngay cho tao.

- Thím tưởng chú ấy về thì cấm được tôi hả? Nó là em tôi chứ bố tôi đâu. Kìa, hai đứa, vào cõng bà ngay! Tội vạ đâu tao chịu!

Hai đứa thanh niên lực lưỡng tức thì đẩy băng bà thím ra, cõng luôn cụ Cậy đang run như giẽ lên lưng, huỳnh hụych chạy.

Vợ chủ tịch cố níu theo đến thềm rồi lăn đùng xuống đất gào khóc:

- Ơi ông Nhì ơi, người ta bắt mẹ ông đi đây này ông ơi. Ơi làng nước ơi, bảo rằng vợ chồng tôi thất thố với mẹ điều gì cho cam. Ôi nhục nhã quá làng nước ơi…

Bà em dâu làm ra vẻ giáo Nhất mang cụ Cậy đi như cướp mất bảo vật nhà bà. Kỳ tình trong tận cùng gan ruột, bà phập phồng hớn hở. Nhân chuyện này bớt được cái nhọt bọc âm ỉ ngày đêm càng tốt. Mẹ chồng nàng dâu khác máu tanh lòng, hậm hực phải nuốt vào dạ. Đó, cứ rước về cho đây thoát tội. Đây buộc lòng phải vờ gào khóc để lấy tiếng hiếu thảo thôi.

 

Khi đám nhà ông giáo Nhất cõng chiến lợi phẩm về gần tới ngõ thì chiến binh nhà ông chủ tịch Nhì truy đuổi kịp. Ông chủ tịch cùng ba đứa con cũng ngoài hai mươi tuổi, lực lưỡng, xông vào giằng lấy bà cụ Cậy trong vòng tay đối phương. Đó chính là thời điểm con Mốc bị đạp bắn vào bờ rào.

Tuy nhiên, cái thân thể một nhúm thịt xương rệu rão đã kịp lấy sức tàn hổn hển gào lên:

- Ôi làng nước ơi, chúng nó đang xé xác tôi ra đây làng nước ơi. Gẫy tay tôi rồi!

Nghe vậy đám con ông chủ tịch hơi hốt, vội buông tay giằng kéo bà cụ Cậy ra

 

Tức thì bà cụ được cõng thốc qua cổng và cánh cổng đóng sập trước mũi đối phương. Ông chủ tịch liền ngăn các con lại khi chúng sắp lấy sức mạnh phá cổng.

- Thôi được, về đã. Chuyện đâu khắc có đó. Để tao họp cả họ Tạ lại giải quyết dứt điểm chuyện này.

Quân địch rút lui trong lặng lẽ.

Giáo Nhất cắt đặt vợ con thu xếp cái buồng sạch sẽ sáng sủa nhất cho mẹ nằm nghỉ. Bà cụ lúc này còn chưa hết run.

- Tôi biết những thứ thuốc cụ vẫn dùng rồi. Đây, tôi ghi giấy đây. Mẹ nó giao hàng trên phố, nhớ rẽ vào cửa hàng thuốc Khâm Thiên mua cho cụ.

Ông giáo Nhất dặn dò vợ, khi bà giáo quẩy gánh hàng lên vai đi buổi chợ trưa.

Sau khi xếp mấy hộp sữa tươi, dăm quả cam, ấm nước vối ủ sẵn, ông giáo bảo cụ Cậy:

- Cụ nằm nhà nghỉ ngơi. Con đi họp một chốc. Cái Thảo, thằng Tuấn chúng nó học ở nhà ngang cả đấy. Cụ cần gì cứ gọi chúng nó nhá.

Ông đi họp tổ hưu, bà đi chợ kẹo, hai đứa con đều đến xí nghiệp gò đồng, con dâu đi dạy học, tất nhiên ông phải khoá cổng cẩn thận đề phòng đối thủ tập kích.

Chỉ duy con chó Mốc chui qua lỗ hổng vườn sau là ông giáo Nhất không tính đến. Nó chui vào theo đường riêng của nó, lê lết đến bên hai cái chảo nấu mật đang ngâm bên giếng.

Ôi mát ruột làm sao! Con Mốc tưởng chừng được liếm láp thần dược. Kể cả bên bụng đau buốt vì bị đạp giờ cũng dịu hẳn. Nó cứ gục mõm vào thành chảo mà nghỉ thở vừa lim dim mắt thưởng thức. Y như một anh nghiện càphê giờ được một ly nhâm nhi từng ngụm nhỏ, nghe cái vị mê người lưu lại trong miệng cùng với khói của điếu thuốc vừa đốt.

Lúc ấy bà cụ Cậy lần mò ra giếng. Bà vừa sụt sịt lau nước mắt vừa múc gầu nước rửa mặt. Bà cụ sợ. Nhỡ đứa nào về bắt gặp bà khóc chúng lại chả gắt toáng lên cho xem. Sao phải khóc? Hay bà sợ về đây không được ăn sung mặc sướng bằng ở nhà nó? Về đây người ta để bà chết đói chắc? Nó nuôi, nó kể công, thì nó coi bà là mẹ, báo hiếu bà đấy à? Đấm thèm bước vào cái cổng nhà nó nữa. Bà trăm tuổi về già, chúng nó kéo đến người ta chả lót tay lá chuối dắt ra cho nhục chứ đùa!

 

Vậy nên bà cụ biết mình không có quyền khóc. Rồi um nhà lên, rồi thiên hạ chửi cho bọn vô phúc, rồi nhỡ ảnh hưởng đến cái chức chủ tịch của thằng Nhì, rồi vợ nó róc rỉa bà hại con, hại cháu... Nhưng càng nén lòng bao nhiêu bà cụ càng đau đớn, hai hàng nước mắt càng lã chã bấy nhiêu.

- Sao mày lại nằm khổ sở ở đây vậy? Dễ mày nghĩ tao sướng hơn mày đấy. Mày là con chó già, sống chết không bận đến ai, chứ như tao sống cũng khổ, già càng khổ, muốn chết không xong, được như mày thì phúc đức quá.

Là cụ Cậy nghẹn ngào thổ lộ với con Mốc. Nó chỉ hé đôi mắt rầu rầu nhìn bà cụ ý muốn chia sẻ nỗi lòng. Cụ ơi, đã già còn gì có ý nghĩa nữa, dù sống dù chết cũng chẳng đáng bận tâm. Họ bất hiếu đến đâu cụ cũng còn con cháu đầy đàn đầy đống chăm lo, sao cụ lại bảo không sướng hơn con?

Cụ Cậy múc thêm gầu nước nữa làm gì không biết. Có thể vào đúng lúc ấy cụ choáng, có thể đúng lúc ấy mạch máu não tai biến. Ai mà biết được. Chưa dám nói bà cụ muốn tìm điều gì dưới đáy giếng thì sao? Nhưng rút cục cái gầu nước định mệnh đã lôi tuột bà cụ nhẹ như chiếc lá khô xuống đó.

Dù là con vật, con Mốc cũng đoán biết vừa xảy chuyện chẳng lành. Nó ngúc ngoắc đầu sủa một tiếng. Không có người để ý tiếng sủa ấy. Nó nghe ngóng một hồi định cố sủa tiếng nữa để cấp báo, nhưng cổ họng nó đã tắc lại chỉ phát ra những âm thanh ư ử. Nó sợ đến tê dại. Khéo mình chết đến nơi mất. Dù vậy phải cố về nhìn mặt ông chủ già cho phải đạo kẻo mang tiếng đi chết hoang. Cụ Cậy ơi, tha lỗi cho cháu nhá. Bỏ cụ dưới đó lúc này kể cũng nhẫn tâm, nhưng giờ cháu chả làm được gì nữa. Chậc, thương cụ cháu cũng chẳng làm được gì thật đấy. Mà ở lại có phen vạ lây. Cháu cũng còn sức đâu? Giả dụ phải làm nhân chứng, ai bế cháu ra trụ sở được? Chưa biết chừng lại còn ăn cái đạp nữa. Thôi thì mặc kệ, các ông, các bà, đang nhọc đến đứt hơi đây... Nghĩ vậy con Mốc lảo đảo lê lết thân mình ra cái lỗ bờ rào vườn sau trở về.

Con Mốc về góc vườn nhà nằm lại đó, nơi gần khóm tre xum xuê. Nó sắp lịm đi thì con Đốm nhà lão Thắng tha thẩn đi tới. Con Đốm quen mùi tới gần vồn vã hít ngửi Mốc. Đó là anh chó đực tơ lực lưỡng vui tính. Của đáng tội, anh chàng trẻ tuổi này là người tình cuối cùng của Mốc, một người tình thật dễ chịu. Có điều chàng trẻ quá, chưa đáng tuổi lứa con đầu nàng. Nhưng chàng lại rất thắm thiết gắn bó. Có khúc xương to chàng thường chạy thẳng một mạch từ nhà đưa tới trước nàng mời mọc. Và trong lúc nàng gặm gạp ngấu nghiến ngon lành vì thường xuyên bị bỏ đói, chàng nhảy quẩng chung quanh vui sướng. Chàng chưa hề một lần để ý đến tuổi tác nàng, đó là điều khiến Mốc yêu chàng với sự biết ơn tận tuỵ.

Hãy đi đi người tình trẻ tuổi của tôi. Giờ cuộc đời tôi đã hết dành cho chàng rồi. Tôi đang sang một thế giới khác với hành trang ít ỏi là mối tình nồng nàn của chàng đây. Nơi ấy có thể có Thượng Đế của chó và Người sẽ an ủi vỗ về tôi: Ôi Mốc đáng thương, con đã sống trọn đời xứng đáng. Nếu đôi lần đói quá con buộc phải ăn vụng mạch nha nhà ông giáo Nhất ta cũng tha tội cho con. Bởi bù lại con đã xua đuổi lũ chuột nhà ấy không còn một mống. Thôi con hãy lên tầng trời cao hơn để được sinh sang một kiếp luân hồi khác. Ta ban cho linh hồn con được bình an...

Và Mốc cứ thế thiếp đi trong giấc mơ ngọt ngào.

Lần này đến lượt chàng Đốm hốt hoảng bỏ chạy. Nó chạy thẳng về nhà, nằm bẹp ở bên thềm, bỏ luôn bữa cơm. Lão Thắng sợ nó ốm, không hiểu vì sao.

Vào lúc người ta phát hiện cụ Cậy đã chết dưới giếng, hai nhà con cháu đang đánh nhau kêu gào loạn lên, lão kép mới biết con Mốc chết ở góc vườn. Lão bần thần một lúc rồi lặng lẽ đào hố chôn nó dưới gốc khế. Lão thắp cho nó một nén hương. Khói hương bay lên một dải trắng mỏng manh. Có thể linh hồn con Mốc nương vào làn khói ấy cùng bay lên cao, rồi lan toả trong khu vườn yên tĩnh.

Khế ơi, mùa tới mày hãy ra lứa quả thật ngọt ngào khế ơi.

Anh em họ Quách

uách Văn Số sinh ra trong một hoàn cảnh đặc biệt. Cách đây gần nửa thế kỷ, trong một đêm đi “ăn sương” về qua xóm Muỗm, cái xóm nằm chênh vênh bên sườn núi, những mái nhà rạ lúp xúp dưới những khóm trúc già, lão Bội gặp mụ Hả áo xống nhàu nhụa bùn đất, lão chặn lại:

- Đêm hôm khuya khoắt thế này bà còn mò mẫm đi kiếm cái của lạ ở đâu vậy?

- Cái nhà ông phải gió này nữa, ăn nói như cái trôn trẻ. Buông ra. Buông ra.

Lão Bội túm chặt lấy váy mụ Hả lôi xềnh xệch vào bụi ruối cách đấy một cái quăng dao. Mụ Hả chưa biêt thoát ra bằng cách nào, người đã mềm nhũn ra.

- Cái nhà ông phải gió này nữa, có buông ra không tôi kêu lên bây giờ.

- Việc bà kêu bà cứ kêu, tôi có bảo sao đâu, nhưng tôi nói cho bà biết, tôi thích bà, gì thì tôi cũng đụ đứng bà một cái đã. Bà có biết tôi đợi bà ở đây bao lâu rồi không, khổ sở thế nào không?

Lão Bôị đổi tư thế, một tay chặn họng mụ Hả, một tay thốc váy mụ lên. Mụ chỉ còn biết ôm ghì lấy đôi vai vạm vỡ của lão miệng ứ hự như con mèo hen. Kết quả “cuộc tình thổ phỉ” ấy mụ Hả cho ra đời một thằng cún con trắng như cục bột, bụ bẫm, giống lão như hai giọt nước, đó chính là Quách Văn Số như bạn đọc đã rõ.

Thằng cu Số được 2 tuổi thì chồng mụ, lão Lê Trọng Thố không chịu nổi cảnh cơ cực, trút bỏ cái áo phu mỏ trở về làng Hòn Gốc. Người làng Hòn Gốc rỉ tai lão :

- Thằng con ông đang được “nấng như nấng hoa” ấy là con lão Bội đấy.

Lão bỏ ngoài tai. Sáng sáng kiệu thằng cún con trắng như cục bột ấy ra đường cái quan, gặp ai cũng khoe mẽ:

- Hòn vàng của “moa” đấy. Nó giống “moa” như đúc thế mà có kẻ độc mồm độc miệng lại bảo nó là con lão Bội “xe ngựa.”Láo toét hết.

Mụ Hả lên huyện làm giấy khai sinh cho con. Quan huyện bảo:

 - Nộp quan một trăm tiền Đông Dương.

Mụ Hả một tay vén yếm một tay thốc váy lên:

   - Có cái này thì có.

 Mụ quay ra vỗ đít phành phạch.

 

***                                                      

Hôm ấy, Lê Trọng Thố ra Cống Quỳnh thăm một người bà con nội tộc, gặp mụ Vạng đi chắn đọn về:

- Bác Thố đấy hử, tiện đây em biếu bác mớ cá, bác đem về kiếm ít riềng mẻ au lên mà uống rượu.Tối nhớ sang nhà em chơi.

Mớ cá mụ Vạng cho lão Thố lẫn một con cá nóc bằng nắm dựa còn tươi xanh. Lão bảo vợ nấu riêu cho lão uống rượu. Đó là bữa rượu định mệnh.Lão chết ngay bên mâm cơm. Người trương phềnh, tím như quả sim chín. Lão là người thứ mười ba, ăn cá nóc chết thảm chết hại. Cha lão cũng ăn cá nóc chết lúc lão còn đỏ hỏn.

Lý trưởng làng Hòn Gốc sức cả làng ra đưa ma Lê Trọng Thố, ông ta lớn tiếng nói với lũ dân:

- Hỡi dân làng Hòn Gốc. Bài học nhỡn tiền đây chưa đủ để các người tu tỉnh hay sao? Bố lão Thố đã chết vì ăn cá nóc. Hắn lại ăn cá nóc chết thảm chết hại thế này đây. Con số người làng Hòn Gốc chết vì ăn cá nóc ngày càng dài ra. Thật là thảm hại, thảm hại vô cùng. Các người đã hiểu chưa? Hỡi các người, nếu còn là người làng Hòn Gốc thì các người hãy từ bỏ cá nóc. Cá nóc giết người. Các người hãy nhớ lấy!

Từ bấy dến giờ người dân làng Hòn Gốc sợ chết “ cạch” cá nóc là vì có bài học nhãn tiền của cha con Lê Trọng Thố . Người quá cố tốt số được cả làng Hòn Gốc đưa rước linh đình như cha hắn. Không ít người nước mắt ngắn nước mắt dài thương cảm cho số phận con người không có mảnh đất cắm dùi khi nằm xuống trả cho đất, cả làng phải góp tiền mua cho cái áo quan.

Mụ Hả mắt rao hoảnh. Người ta kinh tởm con đàn bà giời đánh kia cắm vào trán chồng mấy cái sừng rồi mà nó cứ nhơn nhơn. Hạng đàn bà ấy cứ phải để cho quạ nó rỉa. Không biết mụ Hả thừa biết người ta khinh mình nhưng cứ tỉnh queo, coi như không có chuyện gì xảy ra với mụ. Mụ bỏ ngoài tai những lời đàm tiếu. Mụ bảo:

- Gà đẻ ổ nhà ai nhà ấy được trứng. Ai bảo tôi chửa hoang thử coi.Tôi gang miệng ra cho mà xem. Mụ đe nẹt thiên hạ.

Nguời ta những tưởng mụ “cửa đóng then cài” thờ chồng nuôi con, nào ngờ chồng chết “mả chưa xanh ngọn cỏ” mụ đã mặc cái áo nâu non cổ tròn với cái yếm sồi, thỗn thễn hai bầu vú mưng mưng, mon men đến nhà lão Bội.

Nhà lão Bội có con khuyển rất dữ, cả xóm sợ xanh mắt bởi nó đánh được hơi người lạ, thế mà mụ Hả thập thò ngoài cổng nó đã nguây nguẩy đuôi, bổ ra mừng, lại còn vờn hai chân trước lên người mụ, thè cái lưỡi chó liếm mặt mụ, nhưng lão Bội vẫn không tin vào con khuyển khôn như bạn đã biết. Lão bỏ ngỏ cổng làm ám hiệu cho mụ Hả biết vợ lão đã xoa hai bàn chân vào nhau mới rúc đầu vào cái mùng bằng lụa tơ tằm đã khò khò ngáy, chả có gì cản trở đối với mụ. Lần nữa, vào đêm cuối tháng, trời tối như mực, mụ đến nhà lão Bội, con khuyển hự một tiếng, lão Bội chạy ra kéo mụ vào thẳng nhà trên để nằm ở cái giường kê đằng tây, gần cửa sổ, chẳng việc gì phải lén lút dưới nhà ngang cho muỗi đói đốt. Dần dần “quen hơi bén tiếng” thích lúc nào mụ mò đến lúc ấy, chẳng sợ đếch con nào. Một hôm trời mới chạng vạng tối, vợ lão Bội còn thức, hai tay hai quạt mo đuổi muỗi phành phạch ở trong buồng, mụ Hả mon men đến, lão Bội bế thốc mụ lên giường rồi quay ra tra thuốc vào lõ điếu, quẹt diêm hút sòng sọc, xong ngửa mặt phả khói mới đứng lên đóng cửa, tăt đèn... Lúc ấy vợ lão đã kéo gỗ ầm ầm, có mà lôi thị, thị cũng không dậy. Rồi mụ “đâm nghiện cái của nợ ấy” của lão. Vợ lão thấy lão hồi này tháng 30 tối ngủ nhà cả 30 tối, cấm sai tối nào thì mãn nguyện lắm. Mụ tin chồng thủy chung, chẳng trai trên gái dưới như người ta đồn đại, có ngờ đâu bọn “mèo mả gà đồng” nó làm ô uế bàn thờ tổ tông ngay trước mặt thị,vậy mà thị cứ nghĩ mình tay hòm chìa khóa có ai chia quyên mình đâu, cả con đĩ Hả kia nữa, găp thị mà chả cúi gằm mặt lạy chị đấy thôi.

Lão Bội hồi này xem ra đã biết điều, tỏ ra săn sóc thị hơn, lão lại còn mua cho thị chiếc váy lĩnh và cái dây xà tích bạc để thị đeo đi lễ chùa, thử hỏi ở làng Hòn Gốc này đã mấy ai làm vợ có quyền ăn nói mà chồng cứ im re.

***

Năm 1954 lão Bội dựng hẳn cho mụ Hả cái nhà một gian hai chái cửa quay ra hướng nam ở ngoài bãi Giếng Chùa, gió mát rượi. Lão lại thửa cái giường gỗ lim thật chắc chắn mà không cần đẹp, miễn là lúc lão “hứng tình” không gẫy là “ao màn.” Ngoài “cái ý” ra, lão Bội còn phải rút hầu bao đổ đầy bịch thóc tám thơm và thả vào chuồng đôi lợn ỷ giống Móng Cái mụ mới chịu yên. Chuyện vỡ lở đến tai vợ lão thì vợ lão đã đổ bệnh hiểm. Cuối năm ấy vợ lão qua đời. Mụ Hả nghiễm nhiên là vợ lão Bội, xếp thứ hạng dâu trưởng chi Quách Văn cũng là dâu trưởng họ Quách. Bội tuyên bố với cả chi Quách Văn nhà lão:

- Thằng Quách Văn Số không chỉ là trưởng chi Quách Văn mà còn là trưởng họ Quách. Nó sẽ làm rạng danh dòng họ mà bố nó là trưởng họ.                                   

Cả chi Lê Trọng Thố ức đổ máu mắt mà không làm gì được lão, bởi vợ lão, mụ Hả đứng sau lão làm hậu thuẫn không úp mở gì hết, đã nói tuột sự thật ra: “Thắng Số là con lão Bội chứ không phải con lão Thố”. Lẽ đời thì “gà đẻ ổ nhà ai nhà ấy được trứng”đương nhiên là lão Bội thắng.

***                                                                        

 

Quách Văn Số tròn 6 tuổi, vợ chồng mụ Hả lo cho con vào học lớp 1 trường phổ thông của thầy giáo Quynh, cha đỡ đầu của Số. Mụ Hả giục chồng làm khai sinh cho con:

- Đi làm khai sinh cho con đi học kẻo nhỡ sau này xảy ra chuyện gì rắc rối biết xoay xở ra sao.

Lão Bội cho là phải. Sáng sớm hôm sau, hai vợ chồng cơm nắm muối vừng rang lên huyện làm khai sinh cho con. Bản khai sinh này được lập thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đề ngày 18 tháng 2 năm 1942. Chủ tịch huyện đã ký tên và đóng dấu đỏ.

Thằng Số lúc nhỏ bị một cơn sốt cao, tay trái bị teo, khoeo một chút, nhưng được cái cơ thể phát triển tốt. Lão Bội mời thầy tướng số về hỏi về hậu vận của con. Thầy tướng số thấy thằng bé tướng mạo gian trá, thể hịên rõ nhất là đôi mắt ti hí, trán vừa thấp vừa dô, hay nhìn trộm, khi nói chuyện với người khác thường cúi mặt lúc ngước lên thì lảng tránh, không bắt ngay vào câu chuyện với đối tác liền phán:

- Thằng con ông không thể làm rạng danh dòng tộc ông.

Lão Bội ức xàu bọt mép tống cổ thầy tướng số ra đường. Nhưng dù vậy lão vẫn canh cánh lo. Nhiều đêm lão mất ngủ, trằn trọc nghĩ về tương lai của con. Nếu trời cho sống sót, ta sẽ sống đi tết chết đi giỗ để tạ tội với thầy tướng số đã chỉ những điều cần phải làm để dạy thằng Số thành người tử tế. Chắc thằng Quách Văn Số sẽ là một người lương thiện, có ích cho đời.

Ba năm sau. Lão Bội bất đắc kỳ tử. Dưới nấm mồ, Quách Văn Bội có biết con mình đang đứng trước phong ba bão táp? Ai sẽ là người cứu con lão?

 

      ***

Lý lịch gốc của Quách Văn Số hiện tại Ban Tổ chức lưu giữ thì Quách Văn Số sinh ngày 18 tháng 2 năm 1942 là thương binh hạng hai trên bốn, hưởng tiêu chuẩn thương binh từ ngày 20 tháng 5 năm 1978. Bố là Quách Văn Bội. Trong kháng chiến 9 năm được Việt Minh cử ra lập tề để hoạt động cach mạng, bảo vệ cơ sở kháng chiến. Quách Văn Bội đã có công gài bẫy Lý Hạ, tên tay sai Pháp để Việt Minh xử bắn vì tối dẫn Tây đồn Cóc về bắt Xã đội Thắng chặt đầu bêu giữa chợ Tổng. Quách Văn Bội còn được tổ chức kháng chiến tổng Hà Nam cử ra tổ chức lực lượng dân công vận chuyển thuốc men, lương thưc, thưc phẩm, đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.

Thời ấy, với bản lý lịch tuyệt vời như vậy là đủ tiêu chuẩn đào tạo cán bộ cốt cán cho địa phương. Trong khi Đảng ủy xã đưa Quách Văn Số vào danh sách “Đỏ” cử đi học cảm tình Đảng thì Quách Văn Số cắt ngón tay lấy máu viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Quách Văn Số đã nêu tấm gương sáng về tinh thần yêu nước. Tổng Hà Nam phát động phong trào”Thóc không thiếu một cân quân không thiếu một người - học tập và làm theo Quách Văn Số” đã động viên ba trăm thanh niên lên đường giết giặc cứu nước. Chuyện kể ba người cha gửi đơn tình nguyện cho người con trai duy nhất tòng quân và năm người mẹ cú ba con trai tại ngũ tặng quà cho Quách Văn Số trong cuộc hội thảo “Phụ nữ ba đảm đang” đã khích lệ giới trẻ “tay cày tay súng” tiễn người thân yêu lên đường diệt giặc. Quách Văn Số được xung vào đơn vị tinh tuyển chi viện cho chiến trường B. Những ngày “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” Quách Văn Số nêu tấm gương sáng về tinh thần vượt khó, vinh dự được đứng trong hàng ngũ những người cộng sản với lời thề son sắt “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.” Quách Văn Số là tia lửa rực sáng trong những đêm quân hành làm ấm lòng chiến sỹ.

***

Trong cuộc đọ sức với đội thám báo Nguỵ uống máu người không tanh, đơn vị Quách Văn Số lọt vào vòng vây địch, một trung đội bị tiêu diệt. Quách Văn Số sống sót là nhờ nhanh trí chui xuống đống xác đồng đội mới qua được mắt những tên khát máu.Những ngày sau đó, vòng vây vẫn xiết chặt, cả đơn vị rơi vào tình huống cực kỳ khú khăn: thương vong, bệnh tật, đói và khát, pháo địch liên tục dội xuống phủ đầu chiến sỹ, trong người Quách Văn Số xuất hiện một con người khác, con người vô hình, ẩn sâu trong tiềm thức như một loài vi rút độc gậm nhấm các tế bào khỏe của cơ thể, chờ môi trường thuận lợi chung sẽ tấn công, chỉ một vết xước cũng đủ giết chết một cơ thể cường tráng. Sau trận pháo kich dữ dội của địch, nằm trong chiến hào, Quách Văn Số biến thành kẻ thù lớn nhất của chính mình. Trong khoảnh khắc đó, Quách Văn Số đó tuốt lưỡi lê sắc chặt đứt hẳn ngón tay từng cắt lấy máu viết đơn tình nguyện ra trận như quý vị bạn đọc đó biết. Máu lần thứ nhất đổ ra, Quách Văn Số là người cộng sản xông lên phía trước. Máu lần thứ hai đổ ra, Quách Văn Số trở thành thương binh quay về hậu cứ. Tờ tin Trung đoàn dùng tít lớn chạy suốt hai trang ngợi ca chiến công Quách Văn Số. Người “dũng sỹ diệt Mỹ” trẻ đầu tiên của đại đội, được phong tặng cho Quách Văn Số.

 

***     

Mặt trận bình yên.

Bản lý lịch “Đỏ” mở ra. Người  chiến sỹ có bản lĩnh chính trị kiên cường Quách Văn Số, người duy nhất được chọn cử dự lớp bồi dưỡng chính trị cấp tốc để bổ sung vào biên chế trung đoàn. Từ cái đà ấy, Quách Văn Số ngoi lên sỹ quan cận vệ. Ở vị trí ấy, khối kẻ sợ, không ít người cầu thân mỗi khi Quách Văn Số giơ cao ngón tay cụt lên. Những lời tụng ca như viên kẹo bọc đường ngấm dần vào tim, vào phổi, Quách Văn Số tự huyễn hoặc mình hơn thiên hạ về tất cả mọi phương diện: trí tuệ và tài năng. Nhưng cũng có những lúc tinh bản thiện trỗi dậy, Quách Văn Số cảm thấy nhục nhã và ân hận. Rồi một hôm, y bị một chiến sỹ tống vào mặt:

- Nếu ông nội mày không sinh ra bố mày, bố mày không sinh ra mày thì mặt trận này không có tên hèn nhát giấu mặt.

Người chiến sỹ ấy ra trận đã anh dũng hi sinh vì Tổ quốc vĩ đại, vì nhân dân anh hùng để vinh quang thuộc về kẻ lùi lại phía sau.

***

Đất nước thống nhất,Tổ quốc sạch bóng quân thù, Quách Văn Số được chuyển ngành về Ủy ban Nông nghiệp nay là Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là chuyên viên ngành địa chính. Khi bộ phận địa chính tách ra thành lập Sở Địa chính thì Quách Văn Số là ứng cử viên giám đốc sáng giá nhất, nhưng hiềm nỗi bấy giờ thực hiện chủ trương trẻ hóa cán bộ chủ chôt, Quách Văn Số vuột ra khỏi tầm ngắm của các vị có trách nhiệm “cầm cân nảy mực”chọn người thừa kế vì đã ở tuổi 52 không nằm trong diện đề bạt giám đốc. Con đường công danh xem như đã bị vật chướng ngại ở phía trước, khó có thể vượt, đã có lúc bi quan, Quách Văn Số có ý định lấy thế thương binh hạng hai trên bốn, xin nghỉ hưu non, nhưng khi đem chuyện đó bàn với người anh nhận đương chức Bi thư Đảng uỷ thì không những không được ủng hộ mà còn bị mắng té tát vào mặt:

- Thôi, đừng có mà dở doí ra nữa, chẳng đựơc gì đâu mà chỉ tổ cho người ta ghét.

Ít lâu sau, Quách Văn Số lại nhà thằng anh nhận tâm sự. Nghe xong đầu đuôi câu chuyện, thằng anh nhận bảo, non cao đã có đường trèo những bệnh hiểm nghèo đã có thuốc tiên. Thằng anh nhận triết lý. Bấy giờ Quách Văn Số mới lọ ra liều thuốc tiên đang ở trong tay Quách Xuân Thưởng, thằng em con chú Quach Văn Số. “Có xa xôi khuất nẻo gì cho cam, nó ở ngay liền kề kẽ mai. Chỉ cần hạ cố mộ chút “tránh voi chẳng xấu mặt nào” là gặp Quách Xuân Thưởng, thằng em “đa mưu túc kế.” Không dựa vào nó còn dựa vào ai luc này? Quách Văn Số tự trách minh.

Sau những đêm thức trắng ngẫm nghĩ tìm phương tính kế, Quách Văn Số gặp Quách Xuân Thưởng. Hai anh em đàm đạo. Quách Văn Số “nói toạc móng heo”:

- Mấy chục năm cống hiến cho cách mạng thế là đổ xuống sông, xuống biển hết, nếu như chú không giúp tôi rút được xuống 5 tuổi. Sự nghiệp của tôi gắn liền với sự vẻ vang của dòng họ Quách chúng ta. Tôi nhờ chú, trông cậy ở chú.

Quách Xuân Thuởng thận trọng quá nên dè dăt ,ý tứ:

- Khó đấy bác ạ.Xóa con số 42 để điền con số 47 vào thì không khó gì mà cái khó của nó là hậu quả xảy ra sau này tôi chịu hay bác chiụ? Quách Xuân Thưởng cài số lùi.

- Chú cứ vòng vo làm quái gì, giúp được tôi thì giúp, không giúp được thì bảo không, để tôi còn liệu. Quách Văn Số khó chịu nói.

- Ây là em nói cho hết nhẽ phải trái để anh em tìm cách gỡ, chứ không phải để từ chối không giúp bác, chưa chi bác đã xẵng. Quách Văn Thưởng trách móc.

-Ý tôi là không phải thế, nhưng nếu chú ngần ngại...

Quách Văn Số giàn hòa:

- Thì bác cắt phéng tình máu mủ chứ gì?

 Quách Xuân Thưởng đặt vấn đề hơi nặng.

- Chú vưỡn coi tôi là chỗ máu mủ ruột rà? Quách Văn Số cảm động.

- Bác nói thế là cạn lời rồi. Là em, em phải có trách nhiệmn đối với anh.Bác yên tâm đi. Quách Xuân Thưởng nắm lấy bàn tay hôi hổi nóng của ông anh họ.

- Cảm ơn chú đã vì tình gia tộc mà cứu tôi. Đây là một việc lớn, quan trọng, nó quyết định sự nghiêp của tôi, quyết định sự vẻ vang của dòng họ Quách chúng ta.

- Em biết phaỉ làm gì và làm thế nào rồi. Bác yên tâm đi.Ông Khoa đã gíup em “đường đi nước bước”. Bác khỏi phải lo. Cái chìa khóa vạn năng đã ở trong tay em.

***                                                  

Quách Văn Số được bổ nhiệm làm giám đốc Sở Địa chính tròn một năm thì tổ chức điều Quách Xuân Thưởng chuyên viên chính của Ban Tổ chức về làm Trưởng phòng Tổ chức Sở Địa chính. Quách Xuân Thưởng là cựu chiến binh, nhập ngũ ngày 17 tháng 3 năm 1968 chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên. Năm 1970 được phong tặng danh hiệu “dũng sỹ diệt Mỹ.” Năm 1976 chuyển ngành về Ban Tổ chức chuyên lo giữ hồ sơ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh quản lý, một việc quan trọng bậc nhất của hệ thống lưu giữ quốc gia. Quách Xuân Thưởng được thủ trưởng tin cậy và dành cho nhiều ưu ái đặc biệt, không có điều kiện như vậy khó có thể làm một vịêc quá qui chuẩn của pháp luật mà người cộng sản không cho phép.

Tháng 6 năm ấy, Quách Văn Số điện cho Trửởng phòng Đô thị cấp cho Quách Xuân Thưởng một lô đất 120 mét vuông, cạnh chợ Trung Tâm như đã thỏa thuận giữa hai người có thế lực cấp đất lúc bấy giờ. Nhận được thông báo cấp đất, Quách Xuân Thưởng điện báo cho Quách Văn Số biết ngay. Quách Văn Số vui vẻ bảo:

-Tiền nộp lệ phí đất của chú, chú để tôi lo.

Quách Văn Số là người tôn trọng lời hứa, không chỉ nộp đủ khoản tiền lệ phí đất mà còn đứng ra làm trung gian giao cho Quách Thị Loan em ruột mình là chuyên viên Cục Thuế bỏ tiền ra xây hai căn hộ ba tầng, mỗi tầng 60 mét vuông sàn, vị chi là 180 mét vuông, cho Quách Văn Thửơng  một căn hộ.

Quách Văn Thưởng “tay không bắt giặc”cũng như nhiều quan chức chỉ một chữ ký roạch vào tờ giấy đã có cả triệu đô la Mỹ, cái nhà ba tầng của Quách Xuân Thưởng do ông anh họ “lăng xê” cho, là cái đinh gỉ. Chợ Trung Tâm mở rộng, nhà Quách Xuân Thưởng ở vị trí trung tâm thuận bán buôn vào thời điểm bấy giờ. Quách Xuân Thưởng nhập đựơc hộ khẩu vợ và hai con vào thành phố trở thành công dân thành phố loại hai cũng là do công lao của Quách Văn Số có cái quyền cấp đất mà người nhập hộ khẩu cho vợ con Quách Xuân Thưởng thì lại đang có nhu càu đất ở. Thôi thì “ông đáp của kia bà chìa của nọ, có đi có lại cho toại lòng nhau.”Quách Xuân Thưởng về nhà mới chỉ làm cái lễ mọn, cúng thổ công rồi hai anh em bù khú vói nhau.Tối đến mới mời ông Khoa, người bật đèn xanh cho Quách Xuân Thưởng đưa sự nghiệp Quách Văn Số “lên mây” để đến nông nỗi anh em nhà họ Quách bây giờ lâm vào thảm họa khôn lường.

Anh em nhà họ Quách đưa ân nhân ra Biển Mơ ngắm trời mây non nước, nghe các cây chèo quan họ hát ca trù sướng lịm người. Ngày Quí Hợi, tháng Canh Thìn, Quách Xuân Thưởng khai trương Công ty tư vấn thiết kế Chung Thương. Công ty tư vấn này do vợ Quách Xuân Thửơng làm giám đốc liên kết với các chủ đầu tư đổi đất lấy cơ sở hạ tầng, đẻ sòn sòn ra những công trình chướng mắt dân quá, làm đau đầu nhiều quan chức thành phố. Ông chủ tịch phải đứng ra xử lý vụ phường 5 xây nhà văn hóa phải xem tuổi chủ tịch mặt trận được hướng nào mới xây theo hứơng ấy, có thế, sự nghiệp mặt trận mới phất len đươc. Cac quan chức bảo, cần quái gì qui họach. Qui hoạch là cai cóc khô gi? Đời cua, cua máy, đời cáy đào. Thế mới có chuyện làm mất mỹ quan phố xá, mới phải mở chiến dịch thao dỡ long trời lở đất. Anh em nhà họ Quách ngồi xơi rượu Tây. Quách Xuân Thưởng nói:

- Anh đã vì em, không chỉ lo cho em  có cơ nghịêp mà còn tạo dựng cho em vị trí xã hội, nhìn lên tuy chẳng bằng ai nhưng nhìn xuống em cũng phải nói thực, như em mơ một giấc mơ vàng.

- Còn công chú đối với tôi mà chả hơn cả trời, hơn cả bể, có phải thế không? Thôi, ta chuyển sang nói chuỵên khác cho vui chứ chuyện ơn huệ nghe nó chán cả tai.

Quách Văn Số rót thêm rựơu vào ly cho Quách Xuân Thưởng rồi bảo: 

 - Nào, anh em ta cạn chỗ này.Tôi còn phải lên gặp ông Khoa xem ông ta cần lô đất nào để còn liệu.

Quách Xuân Thưởng cho anh biết ông Khoa cần lô đất hai mặt đường, gần chợ Trung Tâm. Quách Văn Số lăc đầu nguầy nguậy bảo:

-Thế thì chịu. Đất hai mặt đường, gần chợ Trung tâm bây giờ thì bố tôi sống lại cũng không thể cấp cho ông ta được. Nợ tiền thì trước sau thế nào cũng trả được chứ nợ đời thì chỉ có đem xuống mồ.

Ông Khoa uất lắm, nhưng chịu cứng, vì ông đã được cấp trước sau cả thảy năm  lần, 700 mét vuông đất khu đô thị phố Cảng Cá. Bà Tiễu, vợ ông xỉa xói vào mặt Quách Văn Thưởng “quân ăn cháo đá bát.”

 

                                                          *** 

 

Hôm sau phải đi dự cuộc họp bàn về công tác tổ chức, Quách Văn Số điện báo cho Quách Xuân Thưởng chuẩn bị tài liệu về số cán bộ nằm trong diện luân chyển để thống nhất với Sở Nội vụ. Theo đề án tổ chức mới, Sở Địa chính được tách phòng Tổ chức thành hai phòng, phòng Tổ chức cán bộ và phòng Tổng hợp. Bộ máy ổn định, duy chỉ còn vấn đề tổ chức là chưa ngã ngũ. Được tin này, em trai Quách Văn Số là Quách Văn Như chuyên viên phòng Địa chính huyện X nhẩy bổ lên bảo anh:

-Anh phải điều em về giữ chức Trưởng phòng Tổng hợp lo việc nội vụ cho anh để anh rảnh tay với ra thị trường đất. Đất bây giờ là vàng mười rồi, không thể chia quyền lãnh đạo.

Phương án tổ chức mới do đích thân giám đốc soạn thảo được Ban lãnh đạo nhất trí thông qua. Hội nghị lãnh đạo mở rộng được tổ chức bàn thảo để thống nhất trong nội bộ là ưu tiên phó phòngTổ chức Văn Khôi thôi giữ chức vụ này để đi học chính trị ở trường Đảng. Phó phòng Dư Văn Điền, nhân vật được nhiều người tiến cử giữ chức Trưởng phòng Tổng hợp  có khiếu văn nghệ, chuyển sang bộ phận thi đua để phát huy tài năng. Khuyết chân Trưởng phòng Tổng hợp, rất bí cho lãnh đạo, nhưng chưa biết chọn ai. Lãnh đạo phải hội ý để thống nhất quan điểm chọn ngươì xứng đáng giữ chức vụ quan trọng này. Trong cuộc hội ý chớp nhoáng ấy, sau khi trao đổi kỹ càng, giám đốc Quách Văn Số yêu cầu mọi người hãy cân nhắc cho thật kỹ lưỡng trứơc khi giới thiệu và phải thật sự công tâm, không thiên vị cảm tình cá nhân. Ai cũng biết đó là một ý kiến đúng. Người có quan điểm dung hòa, truớc khi giới thiệu ngừơi làm Trưởng phòng Tổng hợp đã đọc được ý nghĩ giám đốc “Tôi cần anh ủng hộ” đó là Phó Giám đốc Thường trực Vũ Trọng Kha. Ung hộ giám đốc là một mệnh lệnh, làm trái, coi  như anh chống cấp trên.” Phó Giám đốc Thường trực Vũ Trọng Kha không còn con đừơng nào khác, đành “ngậm bồ hòn làm ngọt”:                 

-Tôi xin trân trọng giới thiệu đồng chí Quách Văn Như. Đồng chí Quách Văn Như là người duy nhất có đủ 4 tiêu chuẩn sau đây. Một là, có bằng đại học Địa chính, ngoài ra đồng chí Quách Văn Như còn đựơc đào tạo 1 lớp chính trị chính quy. Hai là, có thâm niên công tác địa chính trên 5 năm. Ba là, tuổi đời dưới 40. Bốn là, thái độ chính trị kiên định,công tác tháo vát, năng động. Tôi cũng xin nói thêm, ở văn phòng chúng ta, không có đồng chí nào có đủ 4 tiêu chuẩn trên.                                            

Giám đốc Quách Văn Số nhìn mọi người, tỏ thiện cảm:

- Đồng chí nào có ý kiến khác, xin mời phát biểu.

Mọi người giơ tay biểu quyết. Cuộc họp tiếp tục trong bầu không khí sôi động, phấn chấn, dù có ai đó nuối tiếc cho người mình đặt niềm tin đã vuột khỏi tầm tay cơ hội tốt, có hai đầu bốn tay cũng không thể cưỡng lại được tâp thể. Giám đốc Quách Văn Số hỏi lại lần nữa xem  ai có ý kiến gì khác, ông dành đựơc một tràng pháo tay dòn dã biểu thị sự nhất trí cao với người lãnh đạo đã biết sử dụng quyền dân chủ để điều hành công việc một cách suôn sẻ.

Chỉ có Dũng, người không được dự cuộc họp quan trọng đó, anh ngồi ở phòng họp chờ sự phán quyết của lãnh đạo là kiên quyết bảo vệ ý kiến phản đối viêc bầu Trửơng phòng Tổng hợp , theo anh đó là một cuộc “bày binh bố trận” vụng về của lãnh đạo và một bầy “ăn theo nói leo” mất hết liêm sỉ. Anh tẩy chay cuộc bỏ phiếu đó bằng cách bỏ hội nghị. Hành vi của anh cũng đã tạo sự nghi ngờ trong dư luận quần chúng, nhiều nguời  đồng tình vói anh, nhưng vì sợ trù đập, trả thù, họ phải im lặng, mặc dù họ biết như vậy là hèn nhát, là bán mình cho quỷ sứ. Những người hiểu anh, tin anh, tin vào công lý hy vọng anh sẽ đem lại sự công bằng, nhưng  con tạo bất công đã cướp mạng sống của anh để lại cho đồng chí, cho bạn bè, cho người thân thiết nỗi đau thương vô hạn mà không gì có thể bù đắp được. Nhưng không ngờ cái chết của anh lại dấy lên sự bất bình. Nhiều người có lương tri và lòng tự trọng đã sám hối...nhưng chưa đủ sức mạnh và chưa đủ điều kiện để làm sáng tỏ chân lý đang bị bao phủ bầu không khí ô nhiễm.

Quách Văn Như được bổ nhiệm chức Trưởng phòng Tổng hợp với số phiếu bầu tuyệt đối. Những người trong cuộc bảo rằng người được tham gia bầu Trưởng phòng Tổng hợp phải viết tên, địa chỉ vào phiếu bầu và chỉ bầu người do hội nghị cán bộ chủ chốt giới thiệu, phiếu bầu hai người, bầu người không được giới thiệu, phiếu trắng coi như phiếu không có giá trị. Qua phiếu bầu, lãnh đạo biết người chống lại chủ trương của mình lập tức anh ta mất béng cái hũ gạo, vì thế ngươì ta muốn yên chuỵên, để làm ăn, không muốn dây vào quân hủi làm gì.

***

Lại nói về Quách Văn Như.

Nhậm chức Trưởng phòng Tổng hợp, mời Vũ Trọng Kha và Quách Xuân Thưởng đánh chén ở nhà hàng Trăng Thanh. Họ ngự trong một phòng sang trọng hướng ra biển, mỗi người ẵm một cô hầu gái trẻ măng, nhưng đã thành đàn bà lúc mới 15,16 tuổi, “đôi gò bồng đảo” đã thâm, phải qua mỹ viện mới hồng lại, nhưng đã nhao nhão, chỉ tiếc các em sợ tốn tiền không đi vá màng trinh, thành thử không được giá gái trinh,tiếc thật. Người hầu bàn dâng thượng đế món tôm hùm nục nạc. Mỗi vị nhón một miếng chấm vào núm vú em rồi đưa lên miệng nhai khau kháu. Chỉ tiếc là tiếc món súp vây cá mập thượng đế không đổ lên rốn em để liếm như mọi khi vì, thượng đế sợ em bị bệnh thời đại đã chuyển sang giai đoạn cuối. No say rồi Quách Văn Như ký vào sổ nợ mới rút hầu bao ra “boa” cho mỗi em năm chục. Em dằn tay ra bảo:

- Rẻ thế thôi như? Em có vẻ hờn dỗi.

Quách Văn Như véo mũi em bảo:

- Chiều mai thượng đế sẽ “boa”cho cưng gấp ba gấp bốn nếu cưng chiều thượng đế ngon hơn nghe chưa? Vừa nói thượng đế vừa thọc tay vào ngực em, đau em, em hắt tay thượng đế ra làm rách mất cái nịt vú mới mua 5000 đồng.

Chức Trưởng phòng Tổng hợp không béo bở như chức giám đốc nhưng cũng có cửa, cửa nào thì cũng từ đất mà ra cả. Ông kia bà nọ thành tỷ phú thử hỏi có ăn đất không? Điều này cũng dể hiểu thôi, nạn “mua quan bán chức” nhan nhản ra kia, đã có tên nào bị phát hiện, mà có bị phát hiện thì cũng lại “giơ cao đánh khẽ”nội bộ phải “đóng cửa bảo nhau”phanh phui nhau ra mà làm to chuyện, nhục cả lũ.

Quách Văn Như nhậm chức Trưởng phòng Tổng hợp chưa được nóng chỗ đã bị tố cáo sử dụng bằng trung học phổ thông giả để nhờ người khác thi đại học. Đỗ đại học nhưng không có kiến thức, học không vào, phải chạy cò mua điểm. Năm thứ hai bị phát hiện sử dụng bằng giả lại phải chạy cò để được về học đại học tại chức ở một trường miền núi phía Bắc. Nếu tổ chức nghiêm minh xử đúng người, đúng tội thì Quách Văn Như đã bị buộc thôi việc, nhưng không biết có ô dù gì không mà không thấy ai đụng đến cái lông chân. Nghe đâu ông Phó Giám đốc Vũ Trọng Kha mà về hưu thì Quách Văn Như sẽ lên kế vị. Chuyện đó rất có thể xảy ra.Ơ thành phố này nhiều chuyện tương tự như thế đã xảy ra đâu phải chuyện lạ. Chỉ khi nào ông Bí thư Thành ủy lấy dũng khí “Anh lính Cụ Hồ”thì mọi sự nghiêng lệch mới được kê bằng, trả lại sự công bằng cho xẫ hội.

Giám đốc Sở Địa chính có địa vị cao sang, có cơ nghiệp lừng lững giữa trời, sống vô tư, dư dả vật chất là nhờ vào ý chí đổi đời ngay từ khi còn trong quân ngũ và kinh nghiệm bôn ba chốn thương trường chứ đâu phải nhờ vào ô to, dù lớn như người ta đồn thổi. Dẫu vậy, Quách Văn Số vẫn còn đầy ắp mộng đăng quang Phó Chủ tịch Uy Ban Nhan dan tỉnh, không chỉ dừng lại đấy mà Quách Văn Số còn mơ đăng quang Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường chứ không chịu bắt cái đinh vít vào ghế Giám đốc Sở Địa chính. Phu nhân Giám đốc Sở  Địa chính không biết chồng mình làm gì và làm thế nào mà nhiều kẻ đưa ngưòi đón, nay ở khach sạn này mai ở khách sạn khác toàn bọn mắt xanh mỏ đỏ ừng ẹo đún rước?

 Ngày xưa, quan bố chính cũng không có cái mầu đó. Thì ra làm quan thời nay, nhiều người sướng hơn quan ngày xưa, chả trách dân người ta mất lòng tin là vì vậy. Đùng một cái tổ chức nhận được 36 lá đơn tố cáo Giám đốc Sở Địa chính khai man lý lịch Đảng.Tổ chức không thể ngờ một cán bộ lãnh đạo cấp sở, có thâm niên công tác mấy chục năm, đã từng vào sinh ra tử nơi chiến địa ác liệt, lại làm cái việc mất nhân cách như vậy. Ông Chủ tịch xã Hà Nam khẳng định:

- Ông Quách Văn Số sinh ngày 18 tháng 2 năm 1942, chứ không phải sinh ngày 18 tháng 2 năm 1947 như lý lịch gốc tổ chức lưu giữ. Quách Văn Số không phải là thương binh. Còn về bố Quách Văn Số là Quách Văn Bội, hồi kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp không phải là người  được Việt Minh cử ra lập tề tổ chức kháng chiến, cũng không phải người được Việt Minh giao tổ chức lực lượng vận chuyển thuốc men, đạn dược, lương thực, thực phẩm phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ mà đích thựcc là một tên tay sai Pháp, y đã chỉ điểm Tây đồn Cóc bắt Xã đội trưởng Thắng đem chặt đầu bêu giữa chợ Tổng .

Tổ chức thành phố lại một phen rối tinh rối mù lên.Trưởng Ban đọc đơn tố cáo Quách Văn Số hoa cả mắt. Người có trách nhiệm về vấn đề Quách Văn Số mời Quách Văn Số lên hỏi:

- Đồng chí thấy đơn tố cáo đồng chí đúng hay sai. Sai thì sai chỗ nào mà đúng thì đúng chỗ nào?

Quách Văn Số bình tĩnh trả lời:

-Tôi không bảo đơn tố cáo tôi là sai mà tôi cũng không thừa nhận đơn tố cáo tôi là sự thực. Đề nghị các đồng chí xem xét, tôi sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Đảng.

 Nói có vẻ cứng đấy, nhưng trước cái nhìn nảy lửa của tổ chức, Quách Văn Số nhận ra rằng, lúc này ô dù tán loạn cả, chẳng ai dại gì đi bôi mỡ vào người cho kiến nó đốt. Quách Văn Số gục mặt xuống bàn, con tim như bị những mũi kim đâm .

 Tổ chức thành phố khẳng định đơn tố cáo giám đốc Sở Địa chính Quách Văn Số là một sự kiện hết sức bức xúc. Nếu không có sự bức xúc ấy thì tổ chức nào người ta lật lại lý lịch gốc của Quách Văn Số làm gì.Thật “bất đắc dĩ,” tổ chức mới phải làm cái việc “vạch áo cho ngừơi xem lưng.” Chuyện bẩn thỉu ấy đã lấp đi mấy chục năm nay rồi bỗng phải đào bới lên cho hoắc thêm, khổ lắm nhưng không còn cách nào khác.

 

***                                        

Một năm sau.

Thành đội gửi báo cáo mật cho Thành uỷ khẳng đinh không có ai tên là Quách Văn Số người làng Hòn Gốc, tổng Hà Nam phủ Thiên Trường là thương binh nặng, mà chỉ có Quách Văn Số gốc người làng Hòn Gốc tổng Hà Nam, phủ Thiên Trường là sỹ quan Quân đội nhân Việt Nam chuyển ngành về Ủy ban Nông nghiêp nay là Sở Nông nghệp và phát triển nông thôn. Đại diện chi Quách Văn dòng họ Quách, ông  Quách Văn Hồ  trình lên Thành ủy gia phả họ Quách nét chữ son còn tươi, ghi rõ Quách Văn Số sinh ngày18 tháng 2 năm 1942, con ông Quách Văn Bội và bà Vũ Thị Hả nhập họ ngày 26 tháng 5 năm 1958, do cụ thiếu tổ Quách Xuân chứng thực. Ông đại tá Quách Phong người làng Hòn Gốc với danh nghĩa đại tá Quân đội nhân dân Viêt Nam cũng khẳng định Quách Văn Bội là tay sai Pháp đã dẫn Tây đồn Cóc về bắt Xã đội Thắng chặt đầu bêu giữa chợ Tổng, ông may mắn được dân cứu thóat, không thì đã sa vào tay giặc. Bí thư Thành ủy đọc xong những tài liệu quí giá trên, đầu đau như búa bổ, nhưng không cách gì khác, sự thật là sự thật, không thể biến trắng thành đen. Quách Văn Số, một trợ thủ đắc lực của ông phải trả giá cho sự man trá, ông cũng khổ tâm lắm, nhưng biết làm gì bây giờ?

Bầu trời vần vụ mây, mưa báo trước sự sinh sôi cho một vùng đất khát. HÀ NAM TỔNG - Tháng Năm -2005

 

Thẹn thùng nghề bút mực

Truyện ngắn: Lưu quốc Hoà

Đang sưả lại cái "chuồng chó" thì cái Nhinh bế con loả toả chạy vào ngõ. Con mẹ mặt mũi như hề, như tranh vẽ hỏng, nhệch cái miệng ra mà khóc mếu, đứa con hơn một tuổi lại nhe cái lợi ra mà cười như trâu sứt. Tôi lé mắt nhìn ngang thấy mẹ con nhà nó mà cám cảnh. Thằng bé bụ như củ khoai chiêm nhưng bẩn ghê người. Mũi lẫn với rãi, mụn nhọt mọc như chông, đầu thì đầy vẩy nến cứt trâu...Cám cảnh! Nhà quê con rau con khoai, chúng lớn lên chẳng khác mèo chó. Chả bù với đám trẻ thành thị thơm tho sạch sẽ đủ đầy vật chất. Quê tôi vẫn nghèo lắm. Cứ nhìn đám trẻ con cũng đủ biết lứa cha mẹ, ông bà nó đang vật vã trong cái bản lề của thời nông dân đang bước vào cơ chế mới.

Cái Nhinh vào sau và cái miệng vào trước, có nghĩa là mồm nó bao giờ cũng đi trước người. Nó là con bé tếch toác nhất cái làng này.

- Ới ông ơi là ông ơi! Ông có làm ơn làm phúc thảo cho con cái đơn! Phen này nhất định con lìa cái thằng chó ấy...

Tôi khề khà:

 

 

 

        - Có nghĩa là mày bảo tao tiếp tay cho vợ chồng mày bỏ nhau! Sư bố nhà chúng mày! Đang yên đang lành lại làm đơn làm từ. Mày tưởng bỏ nhau là dễ lắm à! Cứ nhanh như vẽ dự án ma của bọn tham nhũng à! Cứ như đập cái niêu đất, vất ra hàng rào không bằng à?.

 

         

- Dưng mà con ức nó lắm ông ạ! Nó theo gái! Có mấy con đĩ rạc nó quyến. Nó phụ bạc vợ con...Nó...

          

Tôi cáu tiết :

               

 

- Tao không tin! Thằng Vộc nhà mày mà gái cũng theo! Nó theo chồng mày để lấy cái răng vổ à! Trên thì răng, dưới là dái thối, cái xe đạp gẻ ruồi, cái mũ lá rách...Con điên nó theo chồng mày .

          

 

- Dưng mà mười mươi có thật! Dạo này cái đồ của hùm của khỉ ấy lại động cỡn động rồ...Ông cứ làm cho con lá đơn, phí tổn bao nhiêu con chịu. Con có tiền! Chiều qua mới bán ổ chó đẻ, gớm đàn chó nhà con đẹp như tranh vẽ. Con chó đực nhà Ba Lẫm nó "phủ"! Gớm! Con chó đực ấy như con bê. Nó lại lai bẹc dê, chân cao tai dựng như cái lá đa...lại...

    

Nếu không cả quyết xua tay cắt chương trình, con bé này có lẽ lạc chủ đề chó giao hoan để sinh ra chó. Khổ lắm, cảnh nhà quê là hay chuyện con cà con kê. Đám nạ dòng nhà quê là chúa hay chuyện. Hình như họ càng nói càng thích. Họ sinh ra để hóng chuyện thiên hạ và kể chuyện mình. Cái chuyện buồng the vợ chồng suy cho cùng chỉ kín về ban đêm để ban ngày cũng lộ ra đằng miệng. Cái gì cũng thành chuyện. Thế mới là nhà quê! Nhà quê thì mới thế...

Biết không thể gỡ nổi cái con đỉa đói đang ngoe nguẩy bám vào chân. Tôi bảo nó:

         

 

- Mày kể đi! Ngồi đấy mà kể để yên tao làm! Kể khoẻ vào tao nhớ lại tối tao viết đơn cho! Cấm kể sai đấy! Sai là mày chết với ông.

                

 

Bỏ mặc thằng con lạch bạch, lê la xem tôi sửa chuồng chó, nó chẳng thèm phủi nền, đặt ệch mông xuống và bắt đầu cuốn phim dài tập Việt nam mà kể ! Ôi thôi là nó kể! Nó làm tôi ù tai, chóng mặt. Có trời mới nhớ nó kể cái gì. Tôi không thể kiên trì nữa quay sang hỏi chuyện thằng con nó. Hai ông cháu tủ tỉ với nhau. Nó vẫn kể! Tôi lại chuyển sang hát! Nó vẫn kể! Nó kể, tôi hát! Tôi hát, nó kể. Chán chết! hay nó nghĩ cái lão nhà quê đã viết bao nhiêu chuyện trên trời dưới bể có hai cái đầu. Cứ nói phứa đi ! Cái đầu thứ hai của gã sẽ nhập hết dữ liệu rồi sử lý thông tin! rồi biến thành lá đơn "vợ bỏ chồng, con bỏ cha"! Hỡi trời! Có thứ nghề phụ nào ở chốn nhà quê nó kỳ quái như nghề tôi không! Vừa làm ruộng. Vừa viết văn, làm báo vừa làm đơn ly dỵ, đơn kiện cáo mất gà mất chó. Đơn tố cáo anh em tranh nhau đất hương hoả...Ngàn vạn thứ đơn của vạn ngàn cái rắc rối eo xèo. Thì ra nghề chữ nghĩa thời buổi này cũng "đắt hàng" đáo để.

***************

Nhinh là con thằng bạn tôi từ ngày còn chăn trâu cắt cỏ. Bố nó ham bắt cua bắt cá nên học chưa hết cấp 1 đã bỏ. Nói trắng ngay bây giờ là nó gần như mù chữ. Vợ chồng đẻ xoạch ra 5 con vịt giời, con Nhinh là đứa thứ 3 cũng thất học. Nó lại lấy Cu Vộc ngay giữa làng. Hai vợ chồng nhà quê nồi nào vung ấy trông xứng đôi tệ.

 

            

Cu Vộc lùn tịt. Người nó như chầy vồ gỗ nhãn nên có lẽ bố mẹ nó đặt tên như thế. Vộc hay rượu, rượu vào là bốc phét ta đây lắm. không biết vợ chồng nhà nó ân ái với nhau lúc nào để khai hoa kết nụ chứ quanh năm ngày tháng cãi nhau như vỡ chợ. Được cái cãi nhau nhưng không đánh nhau, mà có đánh nhau cũng không lại được với con vợ khoẻ như trâu lăn.Con Nhinh da bánh mật, cũng lùn và béo thun lút. Cái đận lâu lắm rồi, cu cậu đi đám về say nghiêng say ngả. Về đến sân. Cu cậu đứng nghênh mặt nhìn giời và chửi bâng quơ, móc cái của nợ ra vần vò rồi đi vòng quanh sân mà đái. Cái giống say rượu say bia là khoẻ đái lắm. Nó nhăn mặt khoái trá vẩy tứ tung hình rồng, hình rắn. Con Nhinh cáu tiết vật ngửa thằng chồng tềnh hệnh ra. Nó thụi, nó đạp, nó bóp cổ, bóp cả cái bộ phận vừa thải nước khai mù mù ra sân. Cu cậu kêu oai oái vừa kêu, vừa chửi, vừa đe. Con Nhinh ngồi lên bụng mà cào mà cắn. Cu cậu hút chết. Từ đó nạn bạo hành kỳ quái và gớm giếc kia cũng không sảy ra. Về mặt vũ lực tạm vãn hồi hoà bình thì bù vào đấy là chiến tranh bằng lỗ miệng.

          

Dạo này Cu Vộc lại dùng cả di động nữa mới "chết cha con gà ta" chứ. Chả biết từ ngày đi theo cánh cai xây làm thợ đội bê tông, có ông chủ nhà vứt cái di động lỗi mốt , to thùng lục như củ khoai lang làm đồ chơi cho con. Cu Vộc gạ đổi một cái di động đồ chơi bằng nhựa. Thằng cu con nhà chủ ưng thuận. Thế là cậu ta có di động hẳn hoi. Cũng nhắn tin, cũng gọi choang choác như ai. Cái Sim khuyến mại 50 ngàn thì vật nài xin bà chị gái có chồng ở Đại lý Viêten. Ông anh rể hào phóng bảo: "cậu cứ gọi hết tớ lại cho"..Tội gì không dùng cho oai cái thằng người.

           

 

Cứ say rượu là cu cậu lôi di động ra gọi. Có khi không bật nguồn cũng gọi cho nó sướng. Cậu ta nói chuyện dả lả với ông nảo ông nào là tuỳ cái đầu tưởng ra. Con Nhinh ức lắm! Mẹ cái đồ gàn, cái đồ cứt nhã có chóp, đã khổ như con trâu lại còn sỹ diện. Tiền chó đâu mà gọi lắm thế!

                 

 

Sáng ấy bổ quáng bổ quàng thế nào, cu cậu quên cái di động của nợ ở nhà. Mấy ông mãnh cùng tốp thợ biết thóp, nó cứ nhè số cu Vộc mà giả làm con gái nhắn tin. Bao lời thương yêu ong bướm, hết em này đến em kia. Con vợ ngồi sàng gạo thỉnh thoảng lại thấy cái "của nợ" rung ì ì, giãy đành đạch sốt ruột chạy vào ngó, rồi lại chạy ra, rồi lại chạy vào, cứ thế đến mươi bận thì vừa hay mấy đứa học sinh chuyên nghiệp ở trọ nhà bên ngang qua. Nhinh gọi chúng vào xem cái gì cứ như ma làm. Thỉnh thoảng lại ty ty tút tút...Chúng vô tư mở mục tin nhắn và vô tư đọc. Con bé Nhinh mới giãy lên đành đạch! Chết cha rồi...Thằng của khỉ sinh hư đổ đốn rồi. Sao nó đen hôi như thế mà lắm gái theo ...Tối ấy cả làng được một phen đinh tai nhức óc ...Cái đơn ly dị đẻ ra từ đấy! Cái pha bi hài cũng đẻ ra từ trò chơi nửa người lớn, nửa trẻ con

****************

           

Lại đơn ly dị! Lần này khách hàng của tôi là người giàu có hẳn hoi. Nàng ở nhà hai tầng trong cái chốn nhà quê lổn nhổn nhà cấp 4, vợ một ông quan to mãi tỉnh bên. Ông ta có nhà đẹp nhất làng và cố nhiên có vợ đẹp nhất làng. Nàng còn thua tuổi con bé lớn nhà tôi nhưng gọi tôi bằng anh leo lẻo. Cái loại đã lên ông như tôi nhưng được lũ gái trẻ gọi bằng anh nhiều khi nghe mà sướng lỗ nhĩ. Cứ gãi mái tóc tổ quạ đã ngả màu chó gio mà cảm động.                                                            Nàng còn ngon mắt lắm! Cái gì cũng nở bung nở xoè chọc vào mắt mấy thằng đàn ông nhà quê quanh năm ở với vợ lồi thồi lưng đeo vú thắt. Nàng như một cơn gió mát mơ hồ thổi vào trưa hè oi bức, như làn nước tưới cho những loại cây còi cọc đang hạn hán, háo han...Cái trích ngang lý lịch của nàng cũng thật đơn giản: 29 cái xuân xanh! Nghề nghiệp : Thợ làm đầu kiêm mát sa tẩm quất nhà hàng. Chồng nàng là một quan tỉnh. Qua mấy pha thư giãn sinh tình. Vốn có mối quan hệ rộng. Quan bác "di rời" người tình về làng này mua đất, "quàn" người đẹp tại đây. Nàng cũng mới đọc thông viết thạo nhưng phấn son đua đòi ăn diện ngất trời. Nàng là con oanh con khiếu để mỗi dịp quan bác công cán ngang qua thưởng ngoạn. Ông ấy lắm tiền không xây nhà mua đất thì để tiền nó mục ra à. Cái sổ đỏ đứng tên ông. Cô vợ hờ tình nhân, là nhà thổ có lương nhưng là quản gia không lương và rất trung thành! Quan bác khôn dóc tổ! ...

          

 

Nói của đáng tội. Mấy lão nhà quê có thèm giỏ rãi vãi rớt cũng chỉ liếm mép liếm môi mà thôi. Nàng như chùm khế chua mọng mẩy, vàng ươm lả bên hàng rào trêu ngươi...Nhưng mà khốn khổ. Người ta thơm tho thế kia ai lại phí cái thân mà xà vào lòng mấy lão răng cải mả và hôi như cú vọ. Lúc nào cũng chúm mỏ, tóp má vào điếu cày, phả khói như tàu hoả vào ga. Lúc quan bác chưa về thì có khối quan khác, xe đưa xe đón. Con cú cứ đòi đậu cành mai...Thấy mấy ông chồng thầm thào bàn tán rồi rinh rich cười, các mụ vợ nói vỗ mặt: Này! Nó có mốc ra thì treo gác bếp chứ không đến lượt các ông! Đừng giàu trí tưởng bở nhá! Đừng lượn như ruồi bâu cặc ngựa cho dơ cái mặt.

          

 

Ấy thế mà đùng một cái. Chiều nay nàng tha tấm thân ẩm ướt, óng ả đến nhà tôi đòi viết đơn ly dị. Cái đất nhà quê, bọn ruồi cứ thấy mùi lạ là bâu đến. Có mắm tôm y như rằng là nhặng xanh, ruồi dấm kéo về hôi chợ. Chắc nàng sức nước hoa thơm quá, bọn ruồi ào ạt nghênh đón. Nàng cứ lấy tay hoa lên như nhập đồng mà khoả...Tôi đưa nàng cái quạt nan để làm vũ khí nàng hỏn hẻn cảm ơn. Nàng thè lưới đỏ nhờ nhờ, liếm nhun nhút vào cái môi rất chi là đỏ. Kìm cái khí giận lại mà bảo rằng:

 

        

- Em biết anh là người thạo chữ nghĩa nên đến cửa anh cậy nhờ! Anh cố giúp em! Thích cái gì em chiều. Sao em nghĩ được nhưng cứ động đến giấy bút là chữ nghĩa nó trốn tiệt đâu mất! Ngả chữ ra giấy có khi còn khó hơn ngả chó làm thịt anh nhỉ? .

              

Nàng vén áo bụng và gãi nhanh nhách, vô tư như đang trong nhà tắm. Dù tôi cố làm ra vẻ khách khí nhưng cái bụng trắng như sáp nặn vẫn đập vào mắt. Cái áo trễ cổ thấp tho một thung lũng ma quái hút hồn. Cũng may vợ vắng nhà không thể nào cũng có mấy cái lườm đứt mặt.

          

 

- Nó định bỏ em anh ạ! Nó bỏ em là nó chết! Sư bố cái loại đàn ông chơi hoa bẻ cành. Nó lập mưu cho bạn nó tán tỉnh em ! dẫn em vào nhà nghỉ rồi "ấy" em, chụp ảnh quay phim lén! Nó bảo em là con đĩ trăm thằng nên cuốn xéo ngay khỏi ngôi nhà này, anh nghĩ có ức không! Em cũng chẳng thiết nó! Em cũng chán cái bụng phệ ấy lắm rồi! Anh làm cho em cái đơn ly dị! Ly dị là chia đôi tài sản ...Hí ..Hí..chia đôi tài sản...Em lại tìm anh khác làm chồng cũng chẳng muộn gì...

Tôi thủng thẳng:

            

- Thế anh chị có giấy hôn thú do chính quyền cấp không, tôi xem đã chứ! Đơn từ bút sa gà chết chứ phải chuyện chơi đâu:

           

- Làm gì có! vợ chồng ăn ở với nhau 2 năm nay, đầu gối tay sờ, không đủ hay sao mà hôn với chả thú. Nó hôn em còn rai hơn chiến tranh vùng vịnh. Hôn thế chưa đủ hay sao còn phải giấy má lôi thôi!

       

 

- Không ổn rồi! Không có giá thú thì làm sao ly di, làm sao đi đòi cái không có được cơ chứ.

         

 

- Anh dốt bỏ mẹ! Nó ngủ với em cả vạn lần, nó phá tan tành trinh tiết một cô gái nhà hàng trong trắng thơ ngây như em , không phải là chồng thì là gì! Anh xem cái ông "Bút ông Mực" tổng thống tổng thiếc gì bên Mỹ. Chỉ sớt tý "vi trùng" vào váy cô bưu điện mà còn bị suýt ra toà! đằng này....

        

Gời ơi là giời!Tôi như con ruồi giẫy đạp trong mớ tơ nhện.

•-        

*****************

Bệnh gì cũng có thể lây nhiễm thành đại dịch bùng phát. Có lẽ bệnh kiện cáo trong các chốn quan trường to nhỏ đã lây nhiễm về quê tôi. Dân bây giờ cũng sính đi kiện, hơi một tý là đe "ông đi kiện". Họ cứ làm như đi kiện nhau là đi lễ hội không bằng! Ấy vậy cái thằng tôi là cái thúng đựng tạp phế chuyện nhà quê hay rở. Họ kéo đến nhà tôi để nhờ làm đơn. Tự dưng cái phòng Văn của tôi thành phòng Luật sư bất đắc dỹ và tôi, gã văn chương gàn rở lại được tôn là luật sư mà không thuộc một nửa sợi điều luật nước nhà. Hình như tôi đang trượt dần thành kẻ bất lương. Những bà con quanh tôi đua nhau kiện cáo. Nhất là gần đến phiên bầu cử Hội đồng này nọ là tha hồ viết đơn kiện. Thiếu gì cái kiện, kể cả ông cán bộ nọ hay quên kéo khoá quần khi đi hội nghị. Kể cả hôi nách, hắc lào thối tai cũng có tội...Đấy là các ông ấy kiện nhau, họ thuê, họ kháy khẩm người đi kiện để hạ bệ nhau chứ dân ai rỗi hơi. Họ đến nhà tôi và kể lể dài dòng như mấy vị dân biểu trong xã có bằng tại chức chuyên tu đi tiếp xúc cử tri các làng...Tôi giận họ, tôi giận tôi, tôi thương họ và cũng thương cả tôi lại... chán cho cái nghề bút mực.

 

          

 

Sao mấy ông luật sư cứ phải lập Văn phòng tư vấn luật ngoài phố. Về đây tôi nhường nhà cho mà hành nghề. Đảm bảo tôi không lấy một đồng một cắc...Quê tôi đầy việc kiện cáo, sợ các ông không đủ thời giờ...Tôi không xui dại đâu, có mà giàu bạc ức.

Trước mắt, tôi đóng cũi sắt nhốt 3 con chó vào đấy. Để ra ngoài cổng...Nghe chó sủa là tôi liền đeo kính dâm và thưa với quý khách:

            

 

-Thông cảm! tôi viêm màng bồ đào cả hai mắt rồi! sắp mù tịt rồi...Bố thằng nào mù lại còn viết được chữ.

Tác giả : Lưu Quốc Hoà

Một chuyện bất ngờ

Truyện ngắn

       Cặp con đò nhỏ vào chỗ có cây sung cổ thụ thân vỏ xù xì đổ oam oam ra ngoài sông, ông Tín cắm sào định nghỉ ngơi tí chút rồi mới tiếp tục bủa lưới, đánh mẻ cá cuối cùng trong ngày. Nhưng ông chưa hút xong điếu thuốc, thì đã thấy thằng Hiếu đầu trần chân đất, quần cộc xệ rốn, áo cánh hở bụng từ trong ruộng dâu trên bờ nhào ra, vừa nói vừa khóc tức tưởi:

- Bác ơi! Bác qua xóm... Bùi cứu mẹ... cháu với. Ông Ngạnh đánh... đánh mẹ cháu đau... đau lắm.

- Thím Tần ơi là thím Tần! Lấy ai không lấy lại đi lấy cái thằng một phần người mười phần chó lợn ấy! - Ông Tín thít tha như người đau răng, rồi đánh chiếc cằm đầy râu màu muối tiêu sang thằng Hiếu - Sao cháu biết lão Ngạnh mới đánh mẹ cháu?

- Dạ... trên đường đi... học về, cháu nghe mấy người đi chợ Mới... kháo nhau: “Chị Tần bị... lão Ngạnh đánh cho thừa... sống thiếu... chết”. Tức thì... cháu chạy qua... xóm Bùi...

- Sự việc thế nào?

- Dạ - thằng Hiếu cố nuốt tiếng nấc vào bụng - Cháu đến nơi thì... ông Ngạnh đã... lôi mẹ cháu vào nhà, khóa trái... cửa lại. Rồi ông đấm, ông đá, ông thụi, ông tát làm mẹ cháu không còn khóc được nữa...!

- Trời ơi! Thế hàng xóm láng giềng ở đó không ai can ngăn gì cả sao?

- Dạ, trước đây thì có... nhưng mỗi lần ai đến can ngăn, đều bị ông Ngạnh... chửi tục, nên dần dần đâm ngán, không muốn dây vào ông ấy để khỏi... bẩn mồm - Thằng Hiếu lại cố nuốt tiếng nấc vào bụng - Nào, đi bác. Bác qua ngay bên ấy cứu... mẹ cháu với... không thì... không thì... mẹ cháu... chết mất. Cháu đã mồ côi cha rồi, giờ mất thêm... mẹ nữa thì cháu... sống sao nổi, bác ơi!

Ông Tín có cảm giác tiếng kêu của thằng Hiếu đủ sức làm cho đá cũng phải mềm lòng.

- Thế này nhé - Ông nói - Bác qua xóm Bùi ngay bây giờ về chuyện mẹ cháu. Còn cháu có phận sự chèo đò về xóm Trại, vớt cá dưới khoang đem vào nhà cho bác gái đi chợ. Trong thời gian bác gái đi chợ thì cháu ngồi học bài. Tối nay bác kiểm tra mà cháu chưa thuộc bài thì liệu hồn, nghe chưa?

- Dạ... nhưng... nhưng...

- Còn nhưng cái gì nữa hả? Cháu sợ bác không cho lão Ngạnh được một bài học nhớ đời chứ gì? Đừng lo! Nên nhớ bác Tín của cháu từng là anh lính đặc công nội ô Sài Gòn đấy nhé. Ngoài ra, bác còn đủ sức lôi cổ lão Ngạnh lên ủy ban để họ làm việc với lão.

- Phải bắt ông ấy viết cam đoan từ đây về sau không đánh mẹ cháu nữa!

- Dĩ nhiên! Nói tóm lại, bác đã “xuất chiêu” thì cháu yên tâm - Ông Tín tiếp - Nhiệm vụ nặng nề nhất của cháu là học. Học, học nữa, học mãi. Học cho cháu. Học cho người mẹ khốn khổ của cháu. Học cho người cha bạc mệnh của cháu. Học cho cả chi họ Phan Trung của nhà ta mở mày mở mặt với thiên hạ, rõ chưa?

- Dạ, rõ rồi!

- Rõ rồi thì phải chấp hành. Quân lệnh như sơn! Bắt đầu đi!

Ông Tín trút bỏ bộ áo quần làng chài ra và lấy bộ áo quần lính giải phóng đã cũ mèm nhưng còn lành lặn mặc vào. Ông bỏ áo vào quần. Ông đeo dép cao su đủ bốn quai. Ông ụp chiếc mũ cối bạc phếch lên đầu. Xong xuôi đâu đấy, ông ngoái lại nhìn thằng Hiếu “bác đi nhé”, rồi nhảy phóc lên bờ, mất hút vào ruộng dâu. Thoắt cái, ông đã đi trên con đường liên xã, chân bước huỳnh huỵch, tay đánh xa nhịp nhàng, nom hùng dũng oai phong như một anh lính trẻ trong đội ngũ duyệt binh.

Ông Tín, tên đầy đủ: Phan Trung Tín, là bác ruột thằng Hiếu, từng có trên dưới ba chục năm trong quân ngũ. Vợ ông cũng có trên dưới ba chục năm là thanh niên xung phong. Họ lập gia đình quá muộn, khi cả hai đều đã ngoài tuổi năm mươi. Có lẽ vì thế mà họ không có con.

Bố đẻ thằng Hiếu là một anh lính trấn giữ đảo xa, đã hy sinh trong một trận đánh không cân sức với bọn hải tặc nước ngoài xâm phạm trái phép vùng lãnh thổ nước ta và giở trò cướp bóc đối với bà con trên đảo. Hết tang chồng, chị Tần, mẹ thằng Hiếu đã đi bước nữa với Lê Văn Ngạnh, một gã đàn ông lêu têu không làm được một việc gì cho ra hồn, nhưng cứ đòi ăn ngon, mặc đẹp, nghiện ngập đủ thứ: nghiện trà, nghiện cà phê, nghiện bia rượu, nghiện cờ bạc... Ngược lại, chị Tần là người nhanh nhẹn, tháo vát, chịu thương chịu khó. Ngoài việc lăn lộn từ cày, bừa, cuốc, xới cho đến gặt hái gần mẫu ruộng, chị còn sớm hôm đầu chợ mom sông buôn từng con cá, bó rau, từng lít nước mắm. Học tính mẹ, ngay từ hồi mới lên sáu, lên bảy, thằng Hiếu đã biết xách giỏ ra đồng bắt con cua, con ốc cho mẹ đem ra chợ bán. Hai mẹ con làm lụng quần quật như thế, nhưng đâu có được ăn no, mặc ấm, chỉ vì bao nhiêu thành quả lao động của họ chủ yếu là để cung phụng cho lão Ngạnh ăn chơi xả láng. Cung phụng không đủ, thì lão ấy đánh chửi. Đánh mẹ chưa đã thì lão ấy đánh con. Chửi người sống chưa sướng miệng, lão chửi cả người chết, nghĩa là lão réo tên liệt sỹ Phan Trung Nhân, bố đẻ thằng Hiếu mà chửi. Cứ mỗi lần hàm răng chín sáu ba không của lão Ngạnh nghiền trèo trẹo, khuôn mặt lưỡi cày của lão bầm tím như mào gà dịch, cặp mắt ốc nhồi của lão long lên như mặt chó điên là mẹ con thằng Hiếu phải hứng chịu bao nhiêu cú đấm, cú đá đến nhừ tử. Những trận đòn kiểu đó xảy ra như cơm bữa, trên thân thể hai mẹ con chẳng mấy khi hết những vết tím bầm. Phải nói rằng, ngay từ tuổi ấu thơ, thằng Hiếu đã xem lão Ngạnh như một hung thần, căm thù lão đến tận xương tủy...

Cách đây sáu năm, ông Tín mới được giải ngũ về quê. Thấy hoàn cảnh thằng Hiếu quá tội nghiệp, ông bàn với vợ đem cháu về nuôi. Từ bấy, đường đời của đứa bé côi cút này đã có bước ngoặt đáng kể. Nó chẳng những chấm dứt cảnh thường trực bị đòn roi, bị đói cơm rách áo, mà còn được chăm sóc tận tình từng bữa ăn, giấc ngủ, được vuốt ve chiều chuộng trong tình ruột thịt yêu thương. Nhờ thế, mới từ một đứa bé mặt xanh nanh vàng gầy nhỏm, gây nhom năm trước, năm sau, nó đã phổng phao da dẻ hồng hào, mặt mày khôi ngô tuấn tú, ai nhìn cũng thích. Hồi còn ở với bố dượng, mang tiếng một học sinh lớp ba, nhưng thằng Hiếu vừa đọc vừa đánh vần, vậy mà sau này, nhờ bác thường xuyên nhắc nhở. Từ chỗ “đội sổ thiên hạ”, đến chỗ lần tổng kết học kỳ nào, nó cũng có giấy khen học sinh tiên tiến về khoe với hai bác...

Mãi suy nghĩ miên man, ông Tín đã băng qua cánh đồng rộng thênh thang của xóm Nam lúc nào không biết.

Bỏ con đường liên xã, đi qua chiếc cầu máng mới xây độ hai trăm mét, ông đã nhác thấy cây đa xóm Bùi. “ồ, ai như thím Tần vậy nhỉ?”. Tưởng mình nhìn gà hóa cuốc, ông giơ tay che nắng. Phía trước, một người đàn bà nhỏ nhắn, bước đi ì ạch với một gánh rau muống lặc lè trên vai.

- Thím Tần! Đúng là thím Tần đây rồi.

- Kìa bác Tín. Bác mới qua à? - Người đàn bà dừng lại, trật nón ra khỏi đầu - ấy chết! Có việc gì mà nom bác ngơ ngác vậy nhỉ?

- Không có gì đâu... à này.

- Hay là vào nhà em chơi rồi có gì hẵng nói.

- Khỏi cần, khỏi cần. Tôi rất bận. Tôi tranh thủ sang đây là để hỏi... hỏi thím câu này thôi. - Ông Tín thực sự bối rối.

- Bận gì mà ghê thế? Vậy cần gì, xin bác hỏi đi.

- Tôi hỏi, nhưng thím phải nói cho thật. Sáng nay... gia đình thím... lại có chuyện lộn xộn phải không?

- Đâu có. Hóa ra bác lặn lội qua đây lúc này là chỉ để hỏi em chuyện ấy đấy!

- Thế theo thím thì chuyện ấy không quan trọng sao? - Ông Tín nhìn xoáy vào mặt đứa em dâu - Thím hãy nói cho thật, có phải sáng nay, thím lại bị thằng cha Ngạnh đánh cho lên bờ xuống ruộng không?

- Sao lại có lời đồn bậy bạ vậy nhỉ? Sáng nay, ông Ngạnh suốt buổi đi cày, còn em suốt buổi ngồi ngoài chợ. Về nhà ăn uống nghỉ ngơi được một lát thì ông ấy vác bừa ra đồng, còn em vào xóm rau muống, còn thì giờ đâu nữa mà đánh nhau.

Có lẽ không phải vì nội dung lời nói, mà vì thái độ hồn nhiên vui vẻ của chị Tần lúc nói câu nói đó, đã làm cho ông Tín nghi nghi hoặc hoặc:

- Hóa ra tôi bị nó đánh lừa à?

- Đứa nào nỏ mồm dám đánh lừa bác vậy...?

- Thằng Hiếu con thím chứ ai! Hỏng rồi, hỏng rồi Hiếu ơi! Điều bác mong mỏi tha thiết nhất ở cháu là lớn lên cháu sẽ trở thành một trí thức tài năng trung thực. Trung thực đâu chưa thấy, bác chỉ thấy ở cháu rất có tài năng diễn kịch. Cháu đã hư cấu ra cả một câu chuyện có đầu có đuôi, có xuôi có ngược về mẹ cháu để đánh lừa bác. Đến nước này thì hết thuốc chữa rồi Hiếu ơi!

Ông Tín thở dài thườn thượt. Ông Tín nuốt nước bọt ừng ực. Ông Tín quay tới quay lui. Ông Tín mặt mày đỏ gay đỏ gắt. Ông Tín đùng đùng bỏ ra về mà không thèm chào từ biệt đứa em dâu lấy một câu.

- Kìa bác... khoan đã nào...

- Không khoan đục gì hết. Tôi phải về ngay để cho cậu con quý tử của thím biết thế nào là lễ độ.

Nhưng ông Tín vừa đi đến chiếc cầu máng mới xây thì đã nghe tiếng gọi léo nhéo và tiếng chân chạy lẹt xẹt của chị Tần đuổi theo sau lưng.

- Bác ơi! - Ông chưa kịp dừng chân thì đứa em dâu đã bổ nhào vào ông với đầu tóc rũ rượi và khuôn mặt đầm đìa nước mắt - Xin bác tha thứ cho em... những lời thằng Hiếu nói với bác về em lúc nãy là thật đó. Người nói dối là em cơ.

- Thế có nghĩa là sớm nay thằng cha Ngạnh đã hành hạ thím? - Ông Tín trợn mắt - Đúng không? Đúng hả? Vậy sao vừa rồi thím lại chối đây đẩy?

- Dạ, bác thông cảm... chuyện trong nhà... nên đóng cửa bảo nhau... nói ra... xấu chàng hổ thiếp... Nhưng vừa rồi, em thấy bác cỏ vẻ giận thằng Hiếu quá, em sợ nó bị đòn oan, nên chi...

- Xấu chàng hổ thiếp! - Ông Tín gần như đay nghiến và nhìn đứa em dâu với ánh mắt vừa thương vừa giận - Sáng nay vì lý do gì mà hắn đánh thím?.

Chị Tần kéo vạt áo lau nước mắt:

- Dạ, hôm qua đi đánh bạc bị thua to, sáng nay ông ấy định bắt con lợn nái trong chuồng đi bán, em không cho, nên chi...

- Nên chi hắn đánh thím lên bờ xuống ruộng? Cuối cùng thím vẫn phải để cho hắn bán con lợn nái ấy đi chứ?

- Dạ - Chị Tần lại kéo vạt áo lau nước mắt - Dạ, đất chẳng chịu trời thì trời đành chịu đất, chứ biết làm sao nữa, bác ơi!

- Trời! - Ông Tín gầm lên - Lúc này thằng cha Ngạnh ở đâu?

- Dạ, có tiền nặng túi rồi thì ông ấy đi đánh bạc. Nhưng cụ thể đánh ở nơi đâu thì em chịu.

- Chịu thật hay thím giấu tôi?

- Không, em chịu thật mà.

- Thế bao giờ hắn về nhà? Tối nay hay sáng mai?

- Cái đó tùy thuộc vào số tiền ông ấy mang theo nướng hết vào sòng bạc nhanh hay chậm.

- Nướng hết thì sẽ về nhà tra khảo đánh đập vợ để vòi tiền! - Ông Tín lắc đầu ngao ngán - Đã bảo với thím rồi, vứt ra cái của nợ ấy đi, rồi qua xóm Trại, tôi làm nhà cho hai mẹ con ở với nhau. Thím biết đó, cả nhánh họ Phan Trung đến nay chỉ còn mỗi cái chồi non là thằng Hiếu, thử hỏi vợ chồng tôi không vun vén cho nó thì còn vun vén cho ai? Mà vun vén cho thằng Hiếu là vun vén cho thím. Mười năm nữa, vợ chồng chúng tôi dắt nhau về với ông bà thì cả cơ ngơi bề thế của chúng tôi sẽ là của mẹ con thím. Đấy, đường quang không đi, lại chui quàng bụi rậm, rõ thật là...

- Em cũng biết hai bác rất thương mẹ con em - Chị Tần thỏ thẻ lựa lời - Nhưng... nghĩ đi rồi còn nghĩ lại. Chưa bao nhiêu tuổi mà em đã trải hai đời chồng. Đời trước đã vậy, sang đời sau mà em lại chủ động làm đứt quang gãy gánh, thì tránh sao khỏi miệng đời giễu là “quân trốn chúa lộn chồng”.

- Trời! thím nói như một bà cụ tuổi tám mươi vậy! Tôi nhầm! Tôi nhầm! Hóa ra bệnh của thím cũng trầm kha lắm rồi, không chữa nổi đâu. Từ nay tôi sẽ không nói lại chuyện này nữa kẻo mang tiếng “chia uyên rẽ thúy” người ta.

- Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, xin bác thông cảm!

- Tất nhiên, tất nhiên. Thôi, nói gần nói xa chẳng qua nói thật. Trước lúc ra về, nhờ thím chuyển đến thằng cha Ngạnh mấy lời nhắn của tôi thế này. Thứ nhất - Ông Tín chìa ngón tay trỏ giá lên giá xuống trước mặt chị Tần và cất cao giọng - Từ rày về sau, ở bên đó mà tôi nghe hắn thượng cẳng tay hạ cẳng chân với em dâu tôi, thì liệu hồn. Thím nhớ chưa? Nhớ chưa nào?

- Dạ, nhớ rồi ạ.

- Thứ hai - Ông Tín chìa thêm một ngón tay, giá giá - thằng Hiếu nay đã xem lão Ngạnh như một thứ hung thần. Dăm bảy năm sau, nó khôn lớn và chắc chắn sẽ là một chàng trai đầu đội trời chân đạp đất, mà lão Ngạnh còn hành hạ mẹ nó, réo tên người cha liệt sỹ của nó ra mà chửi tục, thì nó sẽ móc mắt, rút lưỡi lão ra, nhớ chưa? Nhớ chưa nào?

- Dạ nhớ, nhớ ạ! - Chị Tần lí nhí - Phận em như thế đã đành. Em chỉ xin bác thương cháu, nuôi dạy cháu nên người.

- Cái đó thím khỏi lo. Tôi sẽ thay mặt cả chi nhánh họ Phan Trung mà dạy cho thằng Hiếu thành người trung thực, cho nó học hành đến nơi đến chốn. Ra đời, ít ra nó cũng nhận được tấm bằng kỹ sư để chúng ta được mở mày mở mặt với thiên hạ. Thôi, tôi về đây còn thím thì quảy gánh ra chợ đi kẻo muộn.

Hai anh em chia tay nhau, mỗi người đều mang theo bao nhiêu suy nghĩ ngổn ngang.

*

Sau sáu năm...

Đi qua một quãng thời gian không dài không ngắn đó, với lão Ngạnh, chị Tần, ông Tín kể ra chẳng có gì thay đổi cơ bản (lão Ngạnh vẫn bê tha rượu chè, cờ bạc, vẫn đánh vợ như bổ củi. Chị Tần vẫn lao động quần quật, vẫn an phận thủ thường mặc cho người chồng vũ phu tha hồ hành hạ. Ông Tín vẫn chăm lo vườn tược, những lúc rỗi rãi, vẫn ra sông thả lưới tung chài, kiếm con cá con tôm cho bà vợ già đi chợ). Tuy nhiên, với tuổi trẻ của thằng Hiếu, sau sáu năm phải nói là nó đã có những bước tiến khổng lồ. Cụ thể, từ một học sinh bậc tiểu học cơ sở, thằng Hiếu lặng lẽ băng qua bậc trung học phổ thông, tiến thẳng vào trường Đại học. Nó chẳng những không chỉ tiến thẳng vào một trường đại học bình thường mà vào hẳn Đại học Bách Khoa Hà Nội. Hơn thế, nó còn thi đỗ hạng ưu, có bốn môn thi thì nó chiếm luôn ba điểm mười, một điểm chín.

Cái tin thằng Hiếu thi đỗ đại học đến với chị Tần trong lúc chị đang ngồi giữa chợ, khiến chị mừng đến phát điên. Chẳng thiết gì chuyện mua bán, vứt cả gánh hàng lại chợ, rồi đầu trần chân đất, chị chạy một mạch về nhà. Việc đầu tiên chị phải làm ngay là cầm nén hương ra nghĩa trang liệt sỹ đến thắp trước mộ Phan Trung Nhân, báo cho chồng biết tin vui: “Con trai chúng ta sắp trở thành một kỹ sư tài cao đức trọng”. Xong chị hớt hải chạy về nhà, tranh thủ lúc ông Ngạnh đi vắng, chị lục tìm trong một chiếc hòm gỗ cũ mèm, lôi toàn bộ những cuốn sổ tiết kiệm có kỳ hạn ra giường, ngồi tỷ mẫn tính toán. Chẳng là thằng Hiếu thuộc diện con liệt sỹ, hàng tháng được hưởng một số tiền trợ cấp đáng kể. Số tiền đó chị đã định bàn giao cho ông Tín, kể từ khi ông Tín nhận thằng Hiếu về nuôi, nhưng do ông Tín gạt phắt: “Thím giữ nó lại để tiêu pha, vợ chồng tôi đủ sức nuôi cháu ăn học, đừng lo”. Chị Tần không dùng số tiền đó để tiêu pha mà đem xuống ngân hàng huyện gửi tiết kiệm với tâm nguyện thay mặt người chồng quá cố giữ vốn lại cho con. Hơn chục năm tích cốc phòng cơ, lãi mẹ đẻ lãi con, chị Tần đã có một số tiền lớn không ngờ, thừa sức chu cấp cho thằng Hiếu ăn học suốt mấy năm vào đại học. Chị quyết định trao tất cho nó, và bảo nó đem ra Hà Nội gửi vào ngân hàng, rồi rút dần.

Hôm sau chị xuôi về huyện rút tiền tiết kiệm, đồng thời chị nhờ một người bà con cẩn báo cho thằng Hiếu biết ngày nọ giờ kia mẹ con sẽ gặp nhau ở bến đò Cây Sung “vì một việc rất quan trọng”.

Hôm đó chị dậy sớm, giả bộ sửa soạn hàng hóa đi chợ phiên, nhưng cái chính là chị tuồn toàn bộ số tiền nói trên vào một chiếc ruột tượng buộc quanh bụng, phủ áo ấm ra ngoài. Đúng năm giờ sáng chị lên đường với một gánh nặng lặc lè. Trời mưa rả rích. Gió bấc rít từng cơn. Rải rác trên các bờ ruộng những con cò, con diệc đứng co ro vì lạnh. Nhưng chị Tần không thấy lạnh, vì lòng đang tràn ngập niềm vui. Độ nửa tiếng nữa thôi chị sẽ được xoa vai thằng con trai, sẽ được ngắm vuốt đầu tóc rễ tre, vầng trán dô bướng bỉnh, cặp lông mày lưỡi mác giống bố như lột của nó. Chị còn được nó gọi hai tiếng thiết tha “mẹ ơi!”, và nghe hơi thở dồn dập của nó khi nó áp khuôn mặt nóng hổi vào khuôn ngực gầy gò của chị.

Bến đò Cây Sung kia rồi. Một màn sương bàng bạc bay vật vờ xóa nhòa ranh giới giữa bờ lau lách lưa thưa với mặt nước sông phẳng lặng.

- Mẹ, mẹ ơi! Có phải mẹ đó không?

- Mẹ đây! Mẹ đây! - Nhận ra tiếng thằng Hiếu, chị Tần mừng cuống quít. Hóa ra thằng con trai chị đã cặp thuyền vào đấy từ lâu - Con đi một mình thôi à?

- Con đi với bác Tín. Bác kêu thèm thuốc lá chạy lên quán mua, bảo đi độ mươi phút, sao mãi đến giờ chưa về không biết.

- Chắc vì sớm quá, hàng quán chưa mở cửa đó thôi... ồ, bác Tín đã ra rồi kìa. ờ... ờ...

Chị Tần chưa kịp nói cười đon đả, đã lặng câm như bất chợt nuốt mất lưỡi. Hóa ra người đàn ông mới từ trong ruộng dâu ra bến kia không phải ông Tín mà lão Ngạnh - khắc tinh của chị.

- Đi chợ phiên sao lại ra bến đò Cây Sung hả? - Lão hỏi giọng rít qua kẽ răng, và nhìn chị Tần với con mắt của con hổ đói - Mẹ con chúng mày phen này thông đồng với nhau để định phá nát cơ nghiệp nhà tao, đúng không?

Chị Tần cố gắng lấy lại bình tĩnh:

- Trời còn sớm... tôi ra đây thăm con trai tôi chút rồi... ra chợ cũng kịp.

- Chỉ thăm không thôi ư? Hay mày còn định chút hết gia tài của tao sang cho nó.

- Gia tài nào thế? Với lại, tôi ở đây thì làm sao mà trút hết gia tài của ông cho thằng Hiếu được?

- Lý sự gớm nhỉ? - Lão Ngạnh hoác cái miệng loe có cái hàm răng chín sáu ba không ra to hết cỡ, trong lúc cái khuôn mặt ngắn tun tủn kia thì xuất hiện nhiều mảng tím tái rất khó coi - Mày hỏi gia tài nào hả? Có người báo cho tao biết, cách đây vài hôm, mày xuống ngân hàng rút toàn bộ số tiền gửi tiết kiệm chục năm nay đem về, đúng không?

Đã đến lúc này chị Tần thấy mình cần đánh bài ngửa với lão Ngạnh:

- Đúng đó! - Chị nói dõng dạc - Những một trăm năm mươi triệu cơ. Nhưng đó là tiền vong linh cha thằng Hiếu để lại cho nó, thì ông có quyền gì mà hạch sách?

- Cha thằng Hiếu là tao đây, chứ còn cha nào nữa mà bảo để tiền lại cho nó? Hay mày định nói cái anh lính Phan Trung Nhân chồng cũ của mày ấy. Trời hả? Nó đã chết thối thây mười lăm năm trời rồi thì còn làm chi có tiền mà để lại cho con.

Chị Tần rơm rớm nước mắt:

- Tôi van xin ông rồi. Ông muốn đánh tôi bao nhiêu thì đánh, muốn chửi tôi bao nhiêu thì chửi, chứ đừng réo tên cha thằng Hiếu để xỉ vả kẻo tội, vậy mà ông cứ...

- Tội cái đ... gì. Nó là cha thằng Hiếu chứ có là cha đức chúa trời mà thích tao vẫn cứ chửi cho sướng miệng, ha ha... - Lão Ngạnh cười ngất - Một trăm năm mươi triệu. Rõ rồi nhé... đúng là số tiền tao đang cần. Thôi bây giờ muốn tốt thì đưa số tiền đó cho tao. Đừng theo kiểu giống lừa ưa nặng rồi tiền mất tật mang đó. Nào, đưa ngay đi! Đưa ngay đi! Đưa ngay đi!

- Không được! Không được! Không được!

Cứ mỗi lần “đưa ngay đi” lão Ngạnh dẫn lên một bước, và mỗi lần “không được” chị Tần lại lùi một bước. Chu kỳ ấy lặp lại đến lần thứ năm thì chị Tần vướng phải đôi quang gánh, bị trượt chân. Chớp thời cơ, lão Ngạnh lao đến đè lên người chị, thọc tay vào bụng tìm cái ruột tượng đựng tiền. Bí thế, chị Tần ngoạm vào bã vai lão nghiến răng nghiến lợi vừa cắn vừa rỉa, quyết liều mạng với người chồng vũ phu để giữ bằng được số tiền lớn này cho con ăn học. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời lão Ngạnh bị bà vợ “gọi dạ bảo vâng” này dám chống trả lại lão, chẳng những chỉ bằng lời nói mà còn bằng cả vũ lực. Đối với lão, đây là một sự kiện bất ngờ chẳng khác gì nhìn thấy con cá thu cá ngừ bay lên trời, chim sáo chim diều lặn xuống nước. Cơn giận của lão sôi lên. Lão nghiến răng. Lão trợn mắt. Lão vít đầu người vợ tội nghiệp đập vào cái cọc chèo đốp đốp! Đốp đốp! Đốp đốp...

Nãy giờ thằng Hiếu ngồi đằng mũi theo dõi cuộc đôi co giữa mẹ nó với lão Ngạnh. Phải nói rằng, nó đã cắn răng chịu đựng lắm mới khỏi lao đến tống cho lão Ngạnh mấy quả vào mặt những khi nghe lão xúc phạm đến mẹ, cha mình. Nhưng kiên nhẫn chịu đựng mấy rồi cũng có giới hạn. Đến lúc lão Ngạnh đập đầu chị Tần đốp đốp vào cọc chèo, thì thằng Hiếu không thể làm chủ được nữa. Nó đứng vụt lên lao tới lão Ngạnh như một viên đạn bê bốn mươi ra khỏi nòng súng.

- Súc vật này! Súc vật này! Súc vật này!

Cứ mỗi bận “súc vật này”, thằng Hiếu lại cho một quả tống đầy uy lực vào quai hàm, vào mạng sườn lão Ngạnh, khiến lão bật ngửa người ra.

- A thằng Hiếu! Mày dám đánh cả cha mày hả? Thằng con mất dạy! - Vừa nói, lão giơ tay về phía cây dao rựa trong sạp thuyền, nhưng liền bị thằng Hiếu giẫm lên tay.

- Câm mồm! Tôi mà lại là con của loài súc vật như ông à?

Thằng Hiếu kéo cổ lão Ngạnh dựng lão đứng dậy, rồi cho lão một cú đá mạnh đến nỗi khiến lão bật ra khỏi thuyền, đổ nhào xuống nước.

- Đánh hay lắm! Nòi nhà lính có khác. Đánh hay lắm!

Người vừa nói câu đó là ông Tín. Ông chỉ vào quán mua một bao thuốc lá thôi nhưng mất cả tiếng đồng hồ, vì gặp bạn thân nên ngồi tán gẫu. Còn may là ông có mặt ở đây kịp thời, chậm chút nữa có thể gây án mạng. Vì lúc này thằng Hiếu đang cầm cây sào gỗ sồi định vút vào đầu lão Ngạnh trong lúc lão ta đang ngoi ngóp nửa nổi nửa chìm dưới sông.

- Thôi cháu, bỏ sào xuống! Đừng đánh loại ấy nữa cho bẩn tay.

Đối với thằng Hiếu, lời của ông Tín là “quân lệnh như sơn”. Nó nuốt nước bọt ừng ực như cố nuốt cục tức vào bụng, ném cây sào vào thuyền đánh sạt, rồi đứng thở dốc.

- Tên côn đồ kia! - Ông Tín chỉ vào mặt lão Ngạnh - Mày có hiểu vì sao thằng Hiếu đánh mày hôm nay không hả?

Lão Ngạnh hai tay bám chặt vào mạn thuyền, giọng lập cập:

- Thưa bác... vì nó sợ em lấy số tiền mẹ nó cất trong người.

- Đó chỉ là chuyện phụ. Thế nó đánh mày có đau không?

- Dạ, đau lắm ạ. Nó... nó đánh em vãi cả máu mũi ra đây này.

- Thế trước đây, phải kể là nó đã hàng trăm lần, mày đánh em dâu tao đến hộc cả máu mồm máu mũi, mày đánh cháu tao lằn ngang lằn dọc đầy người, thì mày nghĩ họ có đau không? Có đau không?

- Dạ... dạ...

- Họ có đau không? Mày không trả lời hả? Nói ngay, không tao giết! - Ông Tín nhặt cây sào giơ lên. Ba hồn bảy vía lão Ngạnh bay cả lên mây:

- Dạ... dạ... chắc là... chắc là họ cũng đau ạ.

- Đau chứ chắc cái gì nửa hả? Xương thịt con người ai chẳng giống ai. Trước đây nhiều phen tao đã cảnh báo: nếu mày còn đối xử với mẹ con thằng Hiếu theo lối côn đồ như thế, thì sau này lớn lên thằng Hiếu sẽ cho mày biết tay. Bây giờ thì lời cảnh báo ấy đã bắt đầu ứng nghiệm rồi đó - Ông Tín nuốt khan nước bọt, hạ thấp giọng - Nó còn đánh mày là để trả thù cho những năm tháng tuổi thơ của nó bị mày phũ phàng chà đạp. Nó đánh mày là để trả thù cho cuộc đời của mẹ nó bị mày nhẫn tâm biến thành trâu ngựa. Nó đánh mày là để trả thù cho hương hồn người cha liệt sỹ của nó đã nằm yên dưới mộ mười mấy năm trời vẫn bị gọi đúng tên kêu đúng họ chửi bới hàng ngày. Với bao nhiêu hận thù chất chứa đầy lòng của nó như thế, nhưng hôm nay nó chỉ mới cho mày mấy miếng võ, mà tao đã can ngăn, mày có biết vì sao không?

- Dạ, vì bác còn thương em.

- Tao mà lại đi thương một kẻ một phần người mười phần thú như mày à? - Ông Tín bật cười - Căng tai ra mà nghe này. Vì hai lý do: thứ nhất, tao không muốn cháu tao làm điều ác. Thứ hai, thằng Hiếu vừa đỗ đại học, tao không muốn nó có chuyện quá lôi thôi lúc này để khỏi ảnh hưởng xấu đến con đường đi đến tương lai tươi sáng của nó.

- Dạ, vậy bây giờ thì bác tha cho em chứ?

Ông Tín lại bật cười:

- Tha thì tha, nhưng phải có điều kiện. Trước hết, cho mày đi vào bờ cái đã, kẻo ngâm trong nước lạnh quá lâu dễ bị cảm.

Lão Ngạnh mừng cuống quít. Sau vài cú nhoài người, lão đã vào đến bờ, trì trật trèo lên bãi đá, lấm lét ngoái nhìn phía sau. Vốn là đứa lâu nay cứ tưởng mình lúc nào cũng thét ra lửa, vậy mà bây giờ lão Ngạnh như một xác chết trôi mới được dựng lên, mặt mày nhợt nhạt, thân thể co ro cúm rúm trong bộ áo quần nước chảy long tong. Lão hỏi ấp úng:

- Dạ, vừa rồi bác bảo muốn được tha, phải có... điều kiện. Vậy... vậy đó là điều... kiện gì ạ?

- Điều kiện đơn giản thế này thôi. Mày phải quỳ xuống cáo lỗi với thím Tần, với thằng Hiếu về những tội ác của mày đối với họ lâu nay. Đặc biệt, mày phải hứa với thím Tần từ nay về sau này không giở trò vũ phu đối với thím ấy nữa?

- Ông Ngạnh chẳng phải hứa hẹn gì với em nữa đâu ạ - Nãy giờ chị Tần ngồi im nghe cuộc trao đổi giữa ông Tín với lão Ngạnh, lúc này chị mới lên tiếng - Kể từ hôm nay em chấm dứt quan hệ vợ chồng với ông Ngạnh. Em sẽ qua xóm Trại với hai bác, xin hai bác cho một xẻo đất sau vườn để làm nhà cho hai mẹ con em ở với nhau.

- Nếu thím nghĩ được vậy thì phúc đức cho chi họ Phan Trung nhà ta lắm rồi. Thế nào Hiếu, cháu có tin những lời mẹ cháu nói là thật lòng không?

- Tin, bác ạ! - thằng Hiếu đáp - Mẹ cháu đã bàn với cháu chuyện này trước ngày cháu đỗ đại học gần hai tháng cơ.

- Thế thì tốt quá rồi. Này, tên ôn dịch kia - ông Tín quay sang lão Ngạnh - Nếu em dâu tao quyết đoạn tuyệt với cái mặt quỷ của mày, thì tao cũng chẳng bắt mày làm một việc vô ích là cáo lỗi và hứa hẹn với mẹ con thím ấy làm gì nữa. Giờ thì mày hoàn toàn được tha rồi đó. Cút đi! Cút ngay cho khỏi bẩn mắt tao.

Mừng như được tháo cũi sổ lồng, lão Ngạnh bước nhanh về phía gốc sung già. Đúng vào lúc đó thì tình cờ thằng Hiếu nhặt cây sào đi từ đằng mũi đến đằng lái để seo con thuyền ra khỏi bãi đá vì bị mắc cạn. Nhưng lão Ngạnh thần hồn nát thần tính, tưởng đâu thằng Hiếu định vác sào đuổi đánh lão, nên lão vừa chạy vừa kêu cứu làm cho ông Tín được một trận cười vỡ bụng.

Gỏi nhệch

hật ra quê gốc của tôi không phải vùng ven biển Nghĩa Hưng, Nam Định. Quê nội tôi, họ Đỗ sống nhiều đời ở Trực Ninh. Ông nội tôi trong cải cách ruông đất được đội(cải cách) phong là địa chủ cường hào đại gian đại ác. Theo báo Nam Định, tài sản của ông tôi bị tịch thu nhiều đứng thứ ba của tỉnh. Lệnh sửa sai, đã kịp thời cứu sống ông tôi từ nơi trường bắn. Chỉ tội cho ông Phi chủ tịch lâm thời huyện, người đã được ông tôi nuôi giấu khi còn hoạt động trong bóng tối, bị gán cho cái tội quốc dân đảng, ức quá tự mổ bụng, chết tức tưởi trước mặt đồng chí của mình hiện là những ông đội, ông phán.

Quê ngoại tôi họ Đặng làng Hành Thiện, Xuân Trường. Dòng họ khoa bảng rất nhiều người thành đạt trong học vấn, và nhiều người làm quan to ở thời nào, chế độ nào cũng có. Như mẹ tôi chẳng được học hành nhiều, vậy mà khi về già vẫn còn đọc sách tiếng pháp toanh toách tôi nghe ù hết cả tai, chữ viết cứ tròn vành vạnh, tính toán, nữ công gia chánh đâu ra đấy. Không hiểu chế độ thực dân thối nát, nhồi nhét, đào tạo kiểu gì mà tài thế. Ngay bốn ông cậu em ruột mẹ tôi, ông chức vụ bé nhất cũng là vụ trưởng vụ kỹ thuật của một bộ.

Có lẽ tôi không được thừa hưởng tý ti nào gen bên ngoại, nên học hành vào dạng làng nhàng, độn sổ, năm học nào cũng nhận điểm vớt. Học hành đã dốt nát, lớn lên, đi làm chuyên chọc ngoáy cán bộ, nên luôn luôn được xếp vào dạng cá biệt, đã thế tôi còn khắc khẩu với các bác, các cậu bên ngoại. Có lần trong đám giỗ, có bác chức to đùng cùng đoàn tùy tùng, bảo vệ đến tham dự. Tôi dạng con cháu, ngồi mâm dưới. Đang chuyện gia đình, các bác chuyển sang học hành, và chuyện xã hội. Người đã khật khừ, tôi còn can tội nói leo, nói bậy làm phật ý các bác, bị ông cậu thứ hai bịt miệng, túm cổ lôi ra ngoài, bàn giao cho mấy ông cháu áp tải về nhà. Từ lần sau giỗ chạp, nếu tôi lò dò tới, chỉ được phép ngồi mâm các bà.

Ông ngoại tôi là sếp ở sở giây thép Hà Nội, chẳng biết là sếp to hay sếp bé nhưng về khoản cô đầu, cô đít thật sự ông tôi là sếp lớn, nổi tiếng đất Hà Thành. Ngày bà ngoại tôi còn sống hay cằn nhằn, ông ấy ăn chơi như vậy, thế mà Cả Khu ( TBT Trường Chinh) móc nối, rủ đi làm “giặc cỏ” đấy. Yêu cô đầu, con hát còn hơn cả vợ con, làm sao ông ấy bỏ đi được. (Vai vế trong họ, bà ngoại tôi là chị cụ Bốn Đễ thân sinh ra ông Trường Chinh – ngày đó trong họ, và chính quyền Pháp thuộc đều gọi ông Cả Khu là giặc cỏ, vì có ai biết cách mạng cách mẽo gì đâu, chỉ biết ông đang bị chính quyền truy bắt vậy thôi, nói như từ ngữ của ta bây giờ, tội phạm hình sự – Đây là lời kể của bà tôi và cô Đặng Thị Uẩn em kế ông Trường Chinh).

Tôi không nghĩ ông bà ngoại tôi ham giầu, mà cho mẹ tôi từ Hà Nội về làm dâu làng Cát Chử, Trực Ninh. Con nhà giầu ngày xưa làm việc còn cực hơn người ở. Mẹ tôi chửa xắp đến ngày sinh anh cả tôi, trời rét căm căm vẫn phải lội xuống ao vớt bèo, băm cám lợn.

Ông nội tôi mua rất nhiều ruông, đất vùng hạ Nghĩa Hưng. Nơi đây đất mới, ruông đồng mầu mỡ, lại được kẹp giữa hai con sông Ninh Cơ, và sông Đáy nên tôm cá rất nhiều. Từ đây ra biển chỉ một vài cây số, vì vậy hầu như nhà nào cũng có Te để đánh bắt tôm cá ven biển. (Te hình chữ V, mở ra khép vào như chiếc com pa, khung được làm từ hai cây tre khô, thẳng, người ta dùng dây đay đan thành lưới như một cái vợt, dụng cụ nặng nề này chỉ có đàn ông khỏe mạnh sử dụng được, dùng hớt cá ven bờ).

Ông tôi cho bác cả, và ông chú dưới bố tôi về đây trông coi. Nghe tin đội cải cách rục rịch về, ông tôi bắt bố mẹ tôi trốn về Nghĩa Hưng. Vừa tới nơi,chú tôi giật mình bảo, anh chị đưa các cháu về Hà Nội ngay, ở đây có lẽ còn căng hơn ở trên quê đấy. Đêm đó bố mẹ tôi tìm đường ngược về Hà Nội nương nhờ bên ngoại.

Sửa sai được mấy tháng, bà nội tôi tay bị, tay gậy lên Hà nội kêu với trung ương xin lại cái từ đường họ Đỗ vừa để thờ và ở, vì ruộng đất nhà cửa bị tịch thu cả, hiện hai ông bà già đang phải tá túc ở cái chòi ngoài đồng, trước đây là nơi canh lúa. Bà ngoại tôi dẫn bà nội đi tìm cụ Bốn Đễ lúc này đang lang thang ngoài phố, viết câu đối bán. Chẳng hiểu cụ Bốn Đễ nói gì với ông Trường Chinh, hay văn phòng quốc hội, thời gian sau ông bà tôi được chính quyền trả lại cho cái từ đường.

Có lẽ do hoàn cảnh gia đình và Mỹ ném bom Hà Nội, nên mẹ gửi tôi cho ông chú ở vùng biển Nghĩa Hưng. Nhờ vậy tôi có năm tháng tuổi thơ đi qua miền đồng quê sông nước, với những mùa rạm trôi tháng tám, và những cánh đồng vỡ ải, thơm lừng khói bếp quyện mùi rươi rán đầu mùa. Khi mùa nếp đã chín vàng, là từng đàn két tụ về vạt sú ven đê. Mùa này chõ xôi của các bà các cô quê tôi không thể thiếu thịt két hấp béo ngậy, trong se se lạnh chớm đông.

Trong cái se lạnh ấy, lũ trẻ chúng tôi sau những nhận thư hùng bằng những ván bi, ván đáo, thường tụ tập nhau trên những gò giữa đồng đang gặt, tìm bắt những con muôm muỗm béo tròn, đốt lửa lên, chúng tôi nướng. Hương của rơm mới bay đi với mùi thơm chín vàng rộm, bóng mượt của muôm muỗm, cho vào miệng, cảm giác bùi, béo ngọt, man mát như chiếc đòng đòng non khi lúa đương thì con gái, cho đến hôm nay đầu đã hai thứ tóc, nhưng khi nghĩ đến nó, tâm hồn tôi lại như được trở về với tuổi thơ.

Nhà chú tôi nằm chơ vơ giữa cánh đồng, nơi này trước đây là gò đất, bác cả cho dựng nhà tạm làm nơi nghỉ trưa của thợ cấy, thợ gặt. Cải cách, bác cả chạy thoát ra Quảng Yên, còn lại chú tôi nhà cửa, của cải, ruộng vườn bị tịch thu cả. Bị giam mấy tháng, đội đinh trục xuất về trên quê, nhưng chú tôi đã lấy vợ người địa phương, nên tạm thời cho ra ở ngoài này. Sau nhà con mương dẫn nước tưới cho cánh đồng lúa. Khi trời mưa rào, hoặc cống chính ngoài sông Đáy mở, nước lên, cá dưới mương quẫy đẻ nghe ùm ụp sau nhà. Những đêm như thế này, bao giờ đăng, đó của chú cũng đầy tôm, cá.

Chú từ bé đã sống ở thành phố Nam Định vì ông tôi cũng có nhà ở đó. Nhưng chẳng lo học hành, chỉ mải đàn ca, sáo nhị, năm hai mươi tuổi, ông tôi bắt chú về Nghĩa Hưng cho bác cả kèm cặp, và trông nom ruộng vườn. Nhưng chú cũng chẳng bỏ được cái thú chơi bời đó, có khi bỏ nhà đi rong chơi cả tháng, kể cả lúc đã có vợ có con. Ấy vậy mà chú tôi đã thay đổi hẳn tính nết, sau mấy tháng bị đấu tố, giam chung với lợn trong cải cách ruộng đất. Bây giờ nghe tiếng cá quẫy chú đã biết đó là loại cá gì, to hay bé. Chú đã là người sát cá nổi tiếng trong vùng.

Hì họ, giật hầy, dừng ọ…ọ .. con trâu, và chiếc cầy trên tay chú dừng hẳn lại. Quẹt tay lau mồ hôi trên trán, chú bảo tôi, gẫy mấy cái lưỡi cầy 51, mới được như thế này đấy. Chú tôi đã lột xác thành lão nông thật sự, và đang cầy cầy, bừa bừa chính trên mảnh đất của mình. Trước và sau chú đều là chủ, nhưng bản chất quả thật hoàn toàn khác nhau.

Chú tự từ bỏ tất cả mọi thú vui, hay mọi thứ vui đã bỏ chú ra đi, nhưng cái mà chú không thể từ bỏ đó là rượu với gỏi nhệch hay gỏi cá mè, một thứ ăn quê dân dã, dễ tìm, dễ kiếm. Khi đã ngà ngà say chú thường hay ngồi bờ mương sau nhà thổi sáo, hoặc đánh đàn Mandolin hát đến thâu đêm. Tôi còn nhỏ quá nên không hiểu hết những tâm sự, u hoài của chú, nhưng tiếng sáo vọng trong đêm, giữa cánh đồng mênh mông, dưới ánh trăng mờ đục cuối tháng, gió nâng tiếng sáo lên, như tiếng hú gọi hồn làm tôi cứ chờn chờn, rợn rợn. Đàn Mandolin thường đệm, hòa âm cho những bài hát có giai điệu vui rộn ràng, nhưng không hiểu sao khi nghe chú đàn hát, tôi thấy chẳng khi nào vui. Buồn đến nỗi có lần chú đàn hát bài “Tình Đồng Chí” ông chủ tịch xã đi qua tưởng chú hát nhạc vàng, nhạc phản động. Cấm. Chú bảo đó là của ông Chính Hữu, làm tướng tá trong quân đội đấy, ông lên Hà Nội mà bắt.

Khi ông mặt trời đỏ rực lên rồi tắt ngấm ở phía Tây, đâu đó chỉ còn một vài vệt sáng hắt lên từ cuối chân trời, chú tôi vác Te, đi kheo ra hướng biển. Chú đi cà kheo lênh khênh như các diễn viên hề ở đoàn xiếc, nước biển càng sâu, cà kheo thấp dần xuống, khi nước biển đã tới ngang hông người, chiếc sào được cắm xuống, đèn bão được treo lên, một đêm đánh cá bắt đầu. Đứng trên đê nhìn trong đêm ánh đèn như những con đom đóm lập lòe trên mặt biển mênh mông.

Sáng, khi mặt trời tròn như một chiếc thúng bơi lên khỏi những con sóng nhấp nhô, hàng ngàn tia nắng sớm lung linh, muôn mầu như đang rụng xuống biển xanh. Những con còng còng hoa nhớn nhác đi tìm những ụ cát mới để ẩn náu, cũng là lúc những người đánh cá kết thúc một đêm ngâm mình vật lộn với sóng gió. Tôi và thằng Năm (con thứ năm của chú) chạy ra hướng biển. Chú đã buộc Te gọn gẽ, rọ cá đã được mang lên mặt đê như chờ chúng tôi. Nửa dưới người ướt sũng, da bấy nhợt, chú cười hỏi:

_Hai thằng mày ngủ quên hay sao?

Thằng Năm nhìn rọ cá reo lên:

_Hôm nay bố bắt được cả nhệch!

Chú vác Te đi trước, tôi và Năm dùng sào làm đòn khiêng rọ cá lẽo đẽo theo sau. Tới nhà thím tôi chọn những con nhệch cỡ trung bình cho vào chum sành đậy lại, chiều làm gỏi. Còn lại thím mang ra chợ bán. Không hiểu sao chú tôi chỉ thích ăn cá đồng hay cá bắt dưới ao, chứ ít khi tôi thấy chú ăn cá nước mặn, ngoài nhệch ra. Khi bán cá có tiền chú hay dẫn tôi và thằng Năm ra hiệu sách cách nhà cả chục cây số, mua truyện. Truyện chú mua, tôi thích nhất cuốn truyện dịch của nước ngoài “Chú Bé Đánh Trống”.

Hôm nào đẹp trời; nước rút (xuống thấp), bãi biển bồi nơi cửa sông tật (lộ) ra, chú cho tôi và thằng Năm đi theo đào nhệch. Chú mang theo kẹp móc sắt trông như bát xà mâu của ông Trương Phi trong Tam Quốc để làm vũ khí chiến đấu. Nhìn những mà (lỗ) trơn, nhẵn chú đào, còn tôi và thằng Năm chạy loanh quanh nhặt những vỏ ốc được sóng đánh dạt vào bờ, tìm bắt những con còng mầu sắc sặc sỡ đùa nghịch. Lần đầu theo chú, đào được con nhệch to bằng cổ tay, dài ngoằng, chú đã kẹp vào đầu nó, thân và đuôi nó uốn ngược lên, tôi định đè nó xuống, chú hất tay tôi ra bảo, nó cuốn bẻ gẫy tay đó, xương nó cứng lắm.

Xung quanh nhà chú tôi trồng đủ cây có liên quan đến gỏi, từ cây xung, khế, chuối xanh đến đinh lăng, xương sông diếp cá, gừng nghệ, tía tô, mơ, húng, mùi tầu .. .. Và hũ mẻ gác bếp chú cũng chăm sóc kỹ lưỡng. Bình thường ít khi chú vào bếp, nhưng món gỏi nhệch tuyệt đối chú không cho thím, hoặc bất kỳ ai động đến. Chú bảo món này không cầu kỳ nhưng nhệch nhiều nhớt, nên phải dùng lá lúa để tuốt và nước tro để rửa. Lọc thịt phải mỏng, khéo và nhanh tay dùng giấy bản thấm khô, rồi tẩm thính gạo tám thơm, bột đậu xanh, riềng, nước nghệ, bột ngọt, muối tiêu ngay khi thịt còn mầu hồng. Chú dùng mẻ, đường, gừng một chút bột ngọt, ớt… nấu thành một thứ nước sền sệt đó dấm bỗng, sau đó pha thêm hai bát nước chấm, một bát với nước mắm, một bát với mắm tôm, bát nào cũng sóng sánh cùng tiêu gừng, ớt, sả…

Khi thím mang bánh đa vừng ra quạt, chú cho những khúc nhệch còn lại vào nồi canh củ chuối hột thái nhỏ như miến lên bếp, lúc này thằng Năm làm nhiệm vụ đi mời mấy ông bạn trong tổ cầy của chú. Tôi vừa rửa xong rổ rau thơm, đã nghe tiếng í ới ngoài ngõ, vào đến nhà ông nào cũng rút từ trong bụng ra chai rượu quốc lủi nút lá chuối khô, nhìn nhau cười ngất ngưởng.

Lúc đầu tôi sợ, chú tôi lấy những lá rau thơm đặt lên đó một chút da nhệch rán giòn, cho thịt vào rưới thêm một chút dấm bỗng cuộn tròn lại đưa cho tôi, bảo ăn thử. Tôi nhắm mắt lại, cho vào miệng, từ từ cắn, cảm giác thấy bùi bùi, ngọt của thịt, giòn giòn của da, tê tê nơi đầu lưỡi vị chua ngọt, cay cay của dấm như đang chảy vào trong cuống họng. Hương thơm của lá nhẹ nhàng đẩy cao lên cơ quan khứu giác, người thấy nhè nhẹ, như người ốm khỏe lại sau một nồi nước xông vậy. Tôi từ từ mở mắt, thằng Năm hỏi ngon không. Tôi gật đầu. Chú tôi cười khà khà bảo, ngon thì chiến đấu tiếp, xuống mâm dưới thằng Năm dậy cuốn, cái món này tự tay cuốn ăn mới ngon.

Sau này tôi được đi nhiều nơi, được ăn nhiều loại gỏi, trong đó có gỏi nhệch, tuy rằng mỗi vùng, mỗi người có cách chế biến khác nhau một chút, nhưng có lẽ trong đời ai đã một lần ăn gỏi nhệch, thì không bao giờ quên được cái dân dã, “thi vị” tuyệt vời đó. Và mỗi lần ngồi vào bàn ăn, tôi thấy dường như có chú còn đang ngồi đó, cuốn cho tôi chiếc gỏi nhệch đầu tiên.

Ngày nông nhàn, hoặc ngày giỗ, chú bảo tôi và thằng Năm lội xuống ao cầm xào đập để cá chạy, chú dùng vó bắt. Cá mè, chú lấy khúc giữa lọc để làm gỏi, cách làm, gia vị chế biến không khác gì gỏi nhệch. Tất nhiên món này nhiều người cho rằng không ngon bằng gỏi nhệch, nhưng nó được ăn chung với đầu cá mè nấu với hoa chuối, mẻ rất ngon, rất đặc biệt.

Năm sau thím tôi bị bệnh thấp khớp không lội ruộng được nữa, nên chú phải làm việc ngoài đồng nhiều hơn để tính công điểm với hợp tác xã. Mấy năm đó lúa bị sâu bọ nhiều, nên phải phun thuốc sâu, công việc nguy hiểm nặng nhọc này chẳng ai chịu làm, nên chú đảm nhận cả. Vài vụ như vậy, người chú gầy rộc, và ngã bệnh. Khám bệnh viện huyện, tỉnh người ta bảo chú bị nhiễm thuốc sâu, đã cháy các túi đựng oxy của phổi, chứ không phải bị lao phổi, nên không chữa được. Nghe giải thích nôm na như vậy, lúc đó y học chưa phát triển lại chiến tranh nữa, nên tôi cũng chẳng hiểu ra sao cả. Chỉ thấy chú nằm đó ngày một tiều tụy, thở vô cùng khó nhọc. Hiệp định Paris đã được ký kết, chiến tranh có lẽ xắp kết thúc, nhưng người con cả, con thứ của chú ở ngoài chiến trường năm, sáu năm không có tin tức, càng làm cho chú chán nản. Mẹ tôi về, định đưa chú lên Hà Nội khám, chữa, chú dứt khoát không đi. Hàng ngày vẫn có người của trạm xá xã đến tiêm thuốc kháng sinh cho chú. Mấy năm như vậy tấm lưng gầy gò của chú nổi trai từng cục, không còn chỗ để người ta chọc mũi kim vào để bơm thuốc.

Sau này tôi có hỏi mấy người bạn là bác sỹ chuyên gia về bệnh phổi, bảo có thể chú bị ung thư phổi. Có lẽ mấy ông bạn tôi nói đúng vì người con cả của chú, sau khi bị lính VNCH bắt làm tù binh mấy năm, sau năm 1975 lại bị bộ đội bắt tù, ra tù một thời gian bị bệnh ung thư, hình hài của hắn giống hệt chú nằm trên giường trước khi về với thế giới bên kia.

Trong truyện ngắn “Cũng Một Kiếp Người” tôi đã viết về hắn

“Bây giờ hắn nằm đó như một xác mướp khô. Hai chân hắn co quắp, khẳng khưu, đầu gối vồng lên như những mắt tre bị ai đó chém chặt nham nhở. Da của hắn trùng xuống nhăn nheo đeo thêm những cục sẹo trong chiến tranh và bị đánh trong tù, to tướng nặng nề, lệch hẳn sang một bên, đung đưa, đung đưa mỗi khi co chân lên như những hòn đọi của mấy ông thợ xây. Đầu hắn trọc lốc, hai mắt đờ dại sâu hoắm, vô hồn. Miệng hắn chẳng còn cái răng nảo, rúm lại, méo mó. Tiếng thở của hắn phì phà, phì phò, nhiều lúc rít lên như tiếng nhị. Môi hắn tím ngắt, phập phà, phập phùng, nhìn vào như da trống rách của mấy lão thợ cúng gần nhà…..”

Mẹ tôi định đưa tôi về Hà Nội, nhưng chú thím bảo cứ để tôi học hết năm rồi hãy tính. Tôi cũng không muốn xa chú, và thằng Năm trong hoàn cảnh này. Thím tôi đã khỏi bệnh và thay chú đi làm đồng. Mẹ tôi vẫn gửi tiền về, hàng tháng chú thím được lĩnh tiền đi B của hai người con đầu. Tôi và thằng Năm vẫn đi be bờ, đơm đó bắt cá, tôm nên chúng tôi không bị đói và thiếu thốn. Khác chăng chúng tôi không đi đào nhệch, và không còn tiếng sáo trúc réo rắt trong đêm nữa.

Sáng hôm đó chú tỉnh lắm, trước khi tôi và thằng Năm đi học chú còn ngồi trên võng, bảo tôi và thằng Năm đu võng và quạt cho chú một lúc, hình như chú định nói gì với chúng tôi rồi lại thôi. Đến giờ tôi và thằng Năm đi học bình thường. Lúc sau có người đến báo chú tôi sắp mất về ngay. Chúng tôi chạy vội về nhà đã thấy mọi người quây quần bên chú, hỏi chú muốn ăn gì nữa không, chú lắc đầu và bảo chú thèm một hớp bia thôi. Mọi người bảo may ra chỉ phố huyện Liễu Đề mới có, nhưng xa đến gần hai mươi km. Mọi người chưa biết làm thế nào, tôi kéo thằng Năm ra sân bảo, mày ở nhà xem chú thế nào nhé, tao đạp xe lên huyện tìm mua bia, may ra thì kịp. Ngày đó phương tiện đi lại vô cùng khó khăn, cả xóm chỉ tôi có xe đạp của cậu út đi nghiên cứu sinh ở Ba Lan về cho.

Nói là phố huyện nhưng chỉ có mấy nóc nhà, lèo tèo vài ba hàng nước, và sửa chữa xe đạp. Góc đường có cửa hàng bách hóa huyện, nhưng hàng hóa trống trơn. Khi đi luống cuống, tôi quên mang theo tiền. Tôi đánh liều vào mấy quán nước hỏi, nhưng không hàng nào có. Sang cửa hàng bách hóa chị bán hàng bảo chỉ có xy rô thôi chứ không có bia. Tôi đứng tần ngần, nước mắt như muốn trào ra. Thấy lạ bác sửa xe đạp hỏi, cháu còn nhỏ mua bia làm gì thế này. Nghe tôi kể, bác sửa xe có vẻ thông cảm bảo, ngồi vào đây, bác chạy vào hỏi chị này hay lên Nam Định và Hà Nội cất hàng, may ra có. Lúc sau bác mang về một chai bia Trúc Bạch nhỏ. Tôi thú thật với bác quên mang tiền, xin bác trả tiền giúp, tôi có thể tháo một số phụ tùng xe lại để bác làm tin. Do dự một chút rồi bác bảo, thôi đạp nhanh về, xong việc lên trả cũng được, tôi tin ở cậu.

Về đến đầu xóm, mấy thằng bạn học gọi giật tôi lại bảo chú mày đã mất rồi. Chai bia như tuột khỏi tay, ngồi bệt xuống vệ cỏ, nước mắt tôi trào ra. Vậy là chú đã không đợi tôi về. Mấy ông bạn cầy của chú mở chai bia để bên cạnh bát cơm quả trứng.

Chú mất đi để lại một khoáng trống thật mênh mông, những con chim chích chòe, chim sáo dường như chúng cũng nhớ tiếng đàn, tiếng sáo của chú, mấy ngày đầu chúng xà xuống đậu quanh sân, trên nóc nhà, sục sạo, kiếm tìm, rồi bay đi, cứ cách vài ngày tôi lại thấy chúng quay trở lại….

Về nước lần nào tôi cũng về thăm quê thăm mộ của chú. Thằng Năm vẫn ở quê, ngôi nhà cũ của chú nó đã đập đi xây lại, con mương sau nhà nó cạn khô nước, là nơi chứa rác. Những cây họ nhà gỏi nó nhổ sạch, chỉ tay vào những chậu cây cảnh nó bảo toàn tiền triệu trở lên đấy. Mùa hè nhà nó bây giờ cũng phải dùng quạt máy rồi. Nghe kể nó làm đủ nghề, từ buôn gỗ đến mổ lợn bán. Dáng đi của nó như cua bò, bụng chứa toàn bia to như đàn bà chửa. Tôi hỏi còn đi đào nhệch về làm gỏi nữa không, nó bảo thời gian đâu mà đi hở bác, muốn ăn vào mấy quán trong làng, thích đi xa sang Kim Sơn Phát Diệm, hoặc vào Nga Sơn Thanh Hóa, phục vụ tới bến. Nói xong nó kéo tay tôi bảo hôm nay bác thích ăn gỏi nhệch trong làng hay đi xa em chiều bác. Tôi viện cớ bụng không được khỏe, từ chối.

Buổi tối thấy nó cứ mở bia bôm bốp, tu ừng ực, làm tôi nhớ lại chuyện chú tôi thèm một ngụm bia trước khi mất, ngoài trời không có gió mà sao tôi cứ nghe thấy tiếng hát karaoke của quán nào đó đập thình thình bên tai.

Phở Hách

Hiệu phở nằm như một thách thức trong khu phố phần lớn hàng quán là của người Mỹ. Bên ngoài mặt tiền xập xệ, không tô điểm sơn phết gì nhiều, nhưng tấm bảng hiệu viết vài chữ đơn sơ có chọc nọc lắm bạn đồng nghiệp trong vùng:

Phở Hách

Mở 9 giờ sáng, đóng 4 giờ chiều

Chẳng rõ có bí quyết gia truyền gì mà đi tới đâu mở phở hiệu của lão Hách luôn luôn đắt khách. Điều này nếu có ai tò mò cũng vô phương tìm biết. Người ở đây chỉ biết sau ngày hoàng phái rủi thua xích phái, lão Hách cũng bỏ hết cơ ngơi - một xe phở nức tiếng đường Công Lý - chạy giặt sang Mỹ.

Dĩ nhiên sang đây lão không thể tiếp tục chiếm một góc phố, chơi một xe phở, để sáng trưa chiều tối ngụp lặn trong khói phở thơm lừng, vừa đẩy những đường dao thiện nghệ vào khúc thịt bò mềm mại, vừa nhai vài câu Kiều lẩy cho nổi bật thêm phần cá tính; hoặc có lúc tự tin chõ mồm góp vài nhận định thời cuộc với đám thực khách, thường toàn giới cổ cồn cà vạt, thừa quyền lực xã hội đến ho một cái đời lão đã có thể mềm ra như sợi bánh phở.

Điều kiện mở hiệu ăn nơi xứ Mỹ văn minh quả có rất nhiều điểm xâm phạm nghiêm trọng đến quy luật, đến văn phạm phở. Phòng máy lạnh được trần thiết sang trọng, bàn ghế đều và đẹp như lính duyệt binh, thảm trải trong ngoài như dinh quốc khách đều là những thứ vô duyên và thừa nhất trên đời đối với phở. Nó dị như ăn thịt chó chấm với Maggie. Mà thế thật! Trong suốt mười bốn năm qua, điều kiện mở hiệu ăn nơi đây quả có đánh tàn rụi ý chí nhiều tổ sư chính phái phở có tự trọng, muốn trở lại phục vụ khẩu vị người đồng hương.

Riêng lão Hách thì khác. Năm năm đầu lão ngậm miệng lăn lưng vào làm đủ thứ việc để tích luỹ tư bản. Nếu một ông tướng nhất định không chịu sống cảnh vợ đẹp con khôn với nghề sơn nhà xứ người, quyết bỏ tất cả về lập chiến khu cho đúng với tầm vó lịch sử của ông, thì lão Hách cũng nuôi ý chí tương tự. Làm sao một người như lão lại có thể chui mãi dưới sàn tàu, hàn xì quanh năm để miệng lưỡi ăn toàn cứt sắt? Hoặc ngày tám tiếng dúi mũi vào đống hồ sơ, giải quyết mấy chuyện nhảm nhí trong những văn phòng bảo hiểm lừa lọc, hay trên một bàn giấy cán sự xã hội cùn mằn? Nếu ông nhà văn trời đày vắt óc đến chết để cung cấp món ngon bổ cho tim óc con người, thì lão cũng mang nỗi dằn vặt tương tự. Lão mơ ngày nào sẽ trở lại chốn giang hồ, động dao động thớt phục vụ những người đồng hương khốn khổ, đang ngày đêm bị phường hắc đạo đầu độc bằng những thùng nước dùng đầy bột ngọt rẻ tiền.

Sau năm năm tích luỹ được chút vốn tạm đủ, lão Hách sang lại cửa tiệm pizza sắp chết của một anh Ý già nơi góc đường Winona và Õrange, rồi động viên cả nhà vào công tác tu sửa. Không mang trong người căn bệnh bi quan của các đồng nghiệp, lão nghiên cứu kỹ để biến mọi khuyết điểm thành ưu điểm cho hiệu phở tương lai.

Mọi chi tiết trong việc bố trí một hiệu phở đều có quy luật cả. Bạn tưởng đôi ba cánh ruồi vo ve là điều đáng trách? Nhầm, vui tai và mang nhiều đặc trưng dân tộc ra phết đấy! Nó hợp lý hơn việc nhồi nhét vào tai thực khách những bài nhạc rên rỉ của một Sài Gòn vô phúc tiền 75, hay loại nhạc phim bộ kiểu Máu Nhuộm Bãi Thượng Hải của một tập đoàn con buôn mất trí hậu 75.

Còn nhiều tiểu tiết khác cần phải xem xét kỹ. Chẳng hạn loại tăm. Chớ tưởng trong hiệu phở tăm nào cũng dùng được. Phải là tăm tre. Mà sao phải là tăm tre? Thưa vì trong lúc ngồi đợi, rất có thể một thực khách buồn tính lấy tăm xỉa chơi, và như thế tăm gỗ thông vuốt nhọn hai đầu lắm khi thua đấy. Loại này giòn, dễ gãy. Chẳng may ông khách là người khó tính, bị gãy một mẫu tăm trong chân răng, sau một lúc loay hoay mãi không lấy ra được, ai cấm ông bực bội đứng lên bước khỏi hiệu vừa khi bạn khệ nệ bưng bát phở đến phục vụ? Người ta không ăn bắt bò người ta được à? Hiệu phở còn trăm thứ bà lang Trọc khác nữa. Chắc bạn đã đọc tùy bút Phở của Nguyễn Tuân? Tuyệt, nhưng lão Hách bảo rằng nghề phở còn lắm cái tẩn mẩn khác mà cỡ tay chơi họ Nguyễn cũng chẳng biết rành, chẳng hạn cái vịt nước mắm.

Theo lão Hách nước mắm trong hiệu phở phải đựng trong vịt thủy tinh hai mỏ. Đây là loại vịt truyền thống. Đừng dùng loại nào khác. Xịt, rắc, bơm... đều không đúng bí quyết. Tại sao? Lão bảo trong cái bầu không khí ngột ngạt mùi phở, mắt trái bận ngó quanh xem có ai quen, ngóc đầu đảo mắt phải liếc ké hàng tít báo hấp dẫn của thằng cha ngồi kế cận, tay ơ hờ cầm lên vịt nước mắm, tai lơ đãng lắng nghe dòng nước thơm vị mồ hôi công chúa Tiên Dung chảy xuống bát phở bốc khói, chợt như hoảng hốt nhớ ra điều gì, khách dựng phắt vịt nước mắm lên, hai mắt quay về lục lọi trong bát phở. Tâm tư xao xuyến. Tim lỗi đến mấy nhịp đập. Sâu trong thâm tâm khách dâng lên niềm hối hận như vừa phạm một điều cấm kỵ trong đạo phở là sự kém nghiêm chỉnh. Khách thốt lên một tiếng "chết"!, chỉ thế rồi chú mục vào tô phở như nhà khảo cổ tìm một vết nứt trên chiếc trống đồng Ngọc Lũ. Dùng đũa đảo ngược phần bánh phở. Run tay cầm thìa múc tí nước dùng dí trên đầu lưỡi. Khói nước dùng làm tăng độ nặng khiến những giọt mồ hôi trên trán vỡ ra, chảy nhòa vì ba đường nhăn đột ngột biến đi, để lại một vầng trán thảnh thơi vô tư lự. Khách mỉm nhẹ một nụ cười, nói khẽ: "May quá, phúc bảy mươi đời!" Chỉ một tiếng thầm thì như thế nhưng dưới con mắt tinh quái của lão Hách, lão biết chắc vị thực khách khởi sự thành kính bước vào đạo phở.

Không có vịt nước mắm hai mỏ đố cách gì tạo nổi cho khách có một giây phút kỳ thú thế ấy. Nó tương tự như một anh mê vợ, nằm mơ mất vợ và khi choàng dậy vẫn thấy có vợ.

Đối với lão Hách bí quyết phục vụ các tín đồ của lão còn nhiều. Như chuyện tương ớt cũng là điều hệ trọng. Ta phải bỏ nó vào một liễn nhỏ, đừng bỏ vào mấy cái ống bóp. Nhiều lúc thực khách chỉ thích nước dùng có tí màu thẹn thùng trên má con gái; cầm ống tương ớt lên, khách bóp cái phẹt, cả một vòi ớt dài như con giun đỏ lòm rúc vào bát phở, ngoáy một cái, chửi thầm một tiếng, hào khí của khách biến mất năm mươi phần trăm khi bát phở trở màu đỏ au giống một bát riêu cua. Rồi nào còn tiêu, rau mùi, húng, chanh, ớt... Nói tóm mọi thứ đều là vấn đề cần phải được quan tâm, cân nhắc và thực hiện ở mức toàn hảo cả.

Hộ pháp cho đạo phở khổ lắm nhưng mấy ai biết. Bốn mươi năm trong nghề lão thừa kinh nghiệm về sự thưởng thức hời hợt đến vô ơn của người đời. Họ đâu biết trong mớ rau mùi kia không một lá úa, trong những cọng húng kia toàn lá đương thì. Sự tẩn mẩn công khó gần như cướp đi quá bán những giấc ngủ ngon say của cuộc đời lão. Nhưng lão vẫn giữ được kiêu hãnh đắng cay. Ăn hay không ăn, cả đời lão chưa năn nỉ ai cả. Nhưng đã vào ăn, lão muốn các tín đồ phải nghiêm chỉnh ở một mức độ tương kính. Sự săn sóc của lão dựa trên sự tương kính này. Dù sao lão đâu phải là Phật!

Còn nhớ hồi mới khai trương có một vị khách nằng nặc đòi giá sống, lão đã nhỏ nhẹ đến ba lần rằng "Thưa ông bổn hiệu với lối dùng phở cổ truyền không cung cấp giá sống", nhưng lời nhỏ nhẹ không được đáp ứng. Ông khách với tấm thân to lớn ngồi phịch xuống ghế. Giọng như lệnh vỡ, ông đảo cặp mắt lồi tấy đỏ như mới trải qua một trận xập xám thâu đêm, nhìn vào những thực khách chung quanh, giơ một cánh tay lông lá lên rao giảng:

- Ăn phở phải có giá sống, phải có một dzĩa bành ki như dzậy nè. Bóp, bóp, bóp". Ông vừa nói vừa bóp nghiến bàn tay to lớn trên không từng chặp, rồi tiếp: "Bóp như dzậy từng nắm, từng nắm cho đến hết dzĩa giá bỏ vào tô phở.

Lần ấy lão Hách đã nuốt cơn điên vào bụng như nuốt miếng da bò sống. Lão cố bình tĩnh đến gần ông khách, nhỏ nhẹ chỉ ra cửa:

- Ông thứ lỗi cho, thực lòng nhà cháu muốn giới thiệu với ông quán Đào Viên mì gia nằm bên kia đường, họ có món hủ tíu rất khá và có cả giá sống!

Nói xong lão tủm tỉm quay trở lại với dao với thớt, với câu Kiều lẩy ư ử trước nỗi kinh ngạc đến uất người của một tín đồ không rành lẽ đạo.

Thế mà phở Hách vẫn đông như thường. Phường chuyên trị phở đã lắm kẻ gièm pha, thậm chí giả dạng thường dân mon men vào hiệu nghiên cứu đối phương, khi chuồn họ cố đưa ra một phán đoán sao cho ông bằng, rằng phở mình phở lão giỏi lắm một chín một mười, vì đâu lão đông khách như vậy?

Thực mà nói sự phán đoán gọi là công bằng ấy vẫn đầy chất chủ quan, ngoan cố nữa. Cái gì một chín một mười khả bắt khả vượt, chứ phở thì vô phương, khác nào anh gạo Đỏ so với anh gạo Tám. Đó là định phận và thánh cũng khó hoán chuyển. Để lằn phấn không thể xóa bỏ, lão Hách đánh thêm một đòn tối hậu. Đòn này sờ sờ trước mắt mà sao lắm anh chuyên trị phở ở Mỹ không nhìn ra! Lão quyết định bằng mọi giá phải cho khách nhìn bếp phở, nhìn thấy nồi nước dùng bốc khói, nhìn thấy chủ nhân bình thản chững chạc điều dao khiển thớt, với thịt tái chín treo lủng lẳng, với những bó hành hoa xanh tươi. Nói tóm, dù sau một khung kính, phải cho khách sống lại cảm giác đang ngồi trong một hiệu phở thật, không phải là hiệu phở mà mọi thứ đã được làm sẵn đâu từ tuần trước, tháng trước theo cái đạo ẩm thực hết sức phổ thông và sa đọa ở nước này. Phải cho khách đói thắt ruột bằng mắt trước đã.

Lão Hách từng khẳng định yếu tố này đánh tan những khuyết điểm máy lạnh, thảm trải, bàn ghế bóng lộng; vả, theo lão ví von, hiệu phở nom sẽ vô duyên như một cô em suôn đuột nếu không thấy bếp phở!

° ° °

Đừng tưởng cứ phải làm cách mạng giải phóng, hoặc tìm đồng chí lập đảng, tìm chân tay lập chính phủ người ta mới cần tới đôi mắt biết nhìn người. Thành thật mà nói đứng bán phở như lão Hách cũng phải có đôi mắt như vậy. Nhiều khi đôi mắt ấy còn phải biến thành thiên lý nhãn khi cần, đứng một chỗ mà vẫn phải nhìn ra hết những chiêu pháp lén lút của bọn hắc ma giở quẻ hại mình.

Tới đây bạn có thể bỉm môi: Làm cái gì mà ghê thế! Nhưng quả thế đấy bạn ạ. Với vợ con anh em trong nhà, lão Hách thường dặn dò: "Sống trên đời hơn người đã là một cái tội. Ngồi yên không có kẻ thù, nhưng đã vẽ chuyện làm thì phải cẩn thận, vì đó là lúc ta khởi sự có thù trong giặc ngoài. Một anh chủ báo lá cải hẹp bụng có thể đổ mắm tôm vào thanh danh ta nhiều khi chỉ vì ta từ chối một cái quảng cáo. Một tên du đãng nghiện ngập có máu liều có thể nhảy ngang vào hiệu đông khách dí dao xin tì tiền lẻ. Một bạn đồng nghiệp có thể bỏ nhẹ một lượng thuốc xổ vào thùng nước dùng dự trữ của ta trên đường đi xuống nhà cầu. Mọi việc đều cần nhìn thấy trước để kịp hóa giải, kể cả việc phán đoán cho chuẩn xác khi từ chối hay chấp thuận đóng góp tí tiền cho một tổ chức lạc quyên của đồng hương".

Còn nhiều, theo lão Hách còn rất nhiều điều lắt léo mà một chủ hiệu phở, dù bận đến không kịp thở, vẫn phải giương mắt lên nhìn cho xa để tránh họa lỗ nhỏ đắm thuyền.

Nhưng dù sao việc nhìn người cấp thiết vẫn là nhìn đám tín đồ thường ngày.

Ba thằng new wave tóc xanh tóc đỏ, ăn mặc như quỷ sứ yêu tinh, vừa bước vào ngồi bàn 12 coi thế chứ không nguy hiểm. Thứ mặt búng ra xì-ke mà đòi ăn diện thường không dám hỗn giữa ban ngày. Ngữ đó giỏi lắm chỉ dám ban đêm rình rập trong một xó bãi đậu xe, chờ dịp dí súng gỗ lột tí tiền lẻ của một bà già tàn tật không may. Các cậu này đổ nước vo gạo vào bánh phở thiu cho ăn vẫn thấy ngon.

Cái nhà cô phụ giáo bên trường Jackson, không mặc váy mà luôn phải mặc quần vì đi dép gai chống tê thấp, tóc chải kiểu công nương Diana, đang ngồi nơi bàn số 4 gần cửa kính trước quầy, là người khó tính. Ngày đông tìm được một chỗ ngồi đã khó, nhưng cô vẫn lãnh đạm lắc đầu nếu chỗ ấy xét ra không vừa ý. Dù sao lão Hách tha cho cô cái tính khó khăn này. Đàn bà con gái ăn coi nồi ngồi coi hướng vẫn là điều đáng khuyến khích.

Cái ông có bắp thịt không to nhưng đôi kính dâm thì to, ngồi yên như tượng dưới bức tranh lợn gà còn ai ngoài gã Tám Tàng? Gã là một tay anh chị bự. FBI có thừa báo cáo nhưng vô phương vồ được gã thu thuế quả tang. Tám Tàng có thể xấu với cái xã hội bát nháo nhưng chơi được với phở Hách. Bạn chớ vội nghĩ "chơi được" ở đây như là thu thuế nhiều ít. Dân giang hồ thứ thiệt nhiều tay điệu ra phết. Tám Tàng là một tín đồ chính thống của đạo phở, không cúng thì thôi dám mà đến thu thuế thánh địa này. Có thể nói không mấy ai bỏ típ bảnh như Tám Tàng. Ăn tô phở uống ly cà phê sữa đá sáu đô, gã ném trên mười đô và nghiêm chỉnh nói với cô em chạy bàn: "Giữ lấy tiền lẻ, em gái hậu phương!" Típ như thế Mỹ trắng chơi không lại. Nhưng đổi lại tô phở cho Tám Tàng phải toàn hảo. Thịt đừng nhiều quá ít quá, hành tây đừng lộn lõi, nhất là nước phải trong. Tô phở đem ra mà có những loang mỡ béo vẽ địa đồ trên mặt nước dùng là điều gã rất phiền lòng. Lão Hách hách đúng, không hách xì xằng, cho nên lão không tiếc công khi hầu anh bạn này cẩn trọng hơn nhiều người khác. Thường khi ăn xong ra về, gã hay thò đầu vào gian bếp, nhếch môi khen lão một câu thông lệ "Ngày càng tiến bộ đấy, ông chủ!"; rồi như sợ dư chữ, gã khoan thai đi thẳng ra ngoài.

Kìa, đang bước vào là cặp vợ chồng chủ hiệu ăn Con Chim Xanh dưới khu Nam. Ông chồng gầy như que tăm bơi trong bộ com-lê quá khổ, trông thảm như con hạc xệ cánh đứng chịu mưa; ấy vậy mà bà vợ lại béo như cái lu, phủ bên ngoài một bộ đồ màu mè quá đáng. Buồn cười nhất là chính hiệu ăn của họ cũng có nấu phở, nhưng không trưa chủ nhật nào họ không dẫn nhau đến đây làm một chầu. Lão H6ch chưa bắt chuyện với cặp vợ chồng này lần nào, thậm chí chưa biết cả tên thật, nhưng thế hóa hay. Nghề nấu phở, nghề ca sĩ, nghề mở phòng mạch hay nghề báo có khác gì nhau, quen lại đâm khó giấu những hòn đá lúc nào cũng có sẵn trong túi. Với cặp vợ chồng này, bát phở chỉ cần đánh đến sáu phần công lực đã đủ thắng lớn. Không phải họ không biết ăn, nhưng chính vì việc họ làm đã giết chết nhiều phần vị giác và khứu giác của họ. Họ mở hiệu ăn với những món táp nham, mục đích chỉ để moi tiền mấy ông bà Mỹ mà kiến thức về món ăn Việt Nam chỉ có mỗi chữ "chả giò".

Thực khách còn khối loại người trong cộng đồng Việt Nam nơi đây. Chỉ riêng một xế trưa chủ nhật như hôm nay, có muốn lão Hách cũng không đủ thì giờ kể hết tiểu sử từng người. Lão chỉ có thể nói vắn gọn vài người trong tín đồ đã tụ vào hiệu lão và hiện chia làm hai phe rõ rệt. Một phe chiếm được chỗ ngồi, đang xì xụp húp nước phở, hoặc ngâm tăm, hoặc xem báo, hoặc tán gẫu chờ tới lượt được phục vụ; phe kia là đám người lổn ngổn đứng nơi cửa ra vào với những đôi mắt lơ láo, rình rập như những kẻ đang tham dự một cuộc chiến kiểu lấn đất giành dân.

Bất giác lão Hách nhăn mặt, rồi lại thản nhiên trở lại với một nụ cười bí hiểm trên môi.

° ° °

Đó là chuyện công tác mắt. Nhưng nghề phở còn đòi hỏi hơn thế. Mồm, chân tay, mắt mũi đều có công tác tuốt tuột, đặc biệt lỗ tai. Ngoài việc phải nghe khách gọi, cự,mắng, khen... là chuyện dĩ nhiên, lão Hách còn phải nghe cả những chuyện lắm khi chả ăn nhập chi tới việc buôn bán của lão.

Người ta bảo chỉ cần hai cô em với một con cá thối đã đủ họp thành một cái chợ; hoặc chỉ cần ba ông anh với một bát phở đã biến ngay ra một hội đoàn, hai tổ chức và ba võ đài. Khám phá trên được chứng nghiệm nơi phở Hách.

Mỗi ngày, từ sáng tới chiều, trong hiệu phở có mười hai bàn mỗi bàn bốn chỗ ngồi, đổ đồng mười đợt khách thì vị chi lỗ tai lão Hách đã được nghe đến bốn trăm tám mươi đề tài giang hồ đem vào đây mà tranh luận, thậm chí có lúc thượng cẳng chăn hạ cẳng tay với nhau để giành chân lý về phía mình.

Đứng nơi bếp phở lão nghe những gì?

Bàn 4 có hai ông, một bác sĩ và một nha sĩ. Hai ông này lão Hách quen mặt quá. Ông nha sĩ đang cạy miếng gân kẹt trong chân răng, bảo:

- Tờ ấy nó chửi lão ta quá, lôi tới ba đời bốn kiếp ra.

Chắc hẳn ông nha sĩ đang đề cập đến một quan đốc bạn, lâu nay bị một tờ báo địa phương dùng làm thuốc bồi, bắn phá tan nát thành trì một số quan đốc tị nạn vốn có đời sống không được lương thiện lắm ở đủ các mặt gia đình, xã hội và chính trị nữa. Ông bác sĩ mặt lạnh lùng:

- Cháy đứa nào đỡ đứa đó. Phe ta giảm thiểu dân số là vừa. Cứ đà này đến nhân mãn!

Bàn 3 có ba người đẹp. Các cô đều là ca sĩ. Một cô nói về một cô thứ tư vắng mặt. Có lẽ cô thứ tư đang là một tai họa sắp tới cho cả ba cô, nên được nhắc đến với giọng đầy báo động:

- Bả sang tới Bidong rồi đó!

Cô tóc dài nhất vén nhẹ mấy sợi tóc mai, cười khẩy:

- Nhằm nhò gì, đánh một đòn là tiêu ngay khi vừa cặp bến Cờ Hoa!

Hai cô kia nhìn bạn với nét nghi ngờ. Cô tóc dài lại tiếp: "Bả cũng biên thư cho em, hỏi bên này đi show thế nào. Em tình ngay trả lời dạ có năm thước một sô!"

Một cô rú khẽ:

- Trời, tiền mã à?

Cô tóc dài lại cười khẩy:

- Thì thế, cứ sang đây đòi năm thước một sô, đến khi hiểu ra năm bò một sô cũng không ma nào trả là vừa đủ thì giờ đi áp-lai một chức át-xăm-lờ!

- Nước béo hành trần đây chứ!

Tiếng réo từ chiếc bàn gần cửa nhắn vào gây nhiễu âm lớn trong tai lão Hách. Cô em chạy bàn nghe réo vội dừng cặp chân tất bật, ngửa cổ đáp vọng lên trần:

- Nước béo hành trần một bát có ngay!

Tiếng hỏi đáp như vô tình có giá trị giống phát súng lệnh cho một cuộc nổi dậy èo uột cấp làng xã. Đôi ba ông lão lụ khụ ngồi nơi bàn số 6 góp tiếng cự nự sự chậm trễ. Gì chứ dẹp cuộc cách mạng cỡ này là phần vụ của các cô cậu chạy bàn, lão Hách bình chân như vại.

Bàn số 1 có hai đôi thanh niên nam nữ vào ngồi. Họ ăn mặc đồng phục màu xanh dương, ra dáng có tính đoàn tịch chi đó, và còn tha thêm một cây guitar nhét dưới gầm bàn. Một thanh niên đập tờ báo đang đọc xuống bàn, chửi đổng:

-Tiên sư chúng nó, xé rào nhiều quá!

Cô gái có mái tóc dài ngạc nhiên hỏi:

- Xé gì cơ?

Cô bên cạnh huých bạn, gắt khẽ:

- Là về chơi với VC ấy!

Anh thanh niên thứ hai gạt đi:

- Mình sắp dùng phở, lại là phở Hách, xin tạm gác mấy chuyện tởm ấy lại để dùng phở cho ngon.

Chữ được chữ không nhưng lão Hách đã nghe thấy câu "lại là phở Hách", lão nảy một nụ cười y như của Cai Xanh. Nếu Cai Xanh kết thúc tiếng cả cười của gã bằng câu hợm hĩnh "Mấy chú em bán quán ở vùng này cũng đã biết rõ đến ta ư", thì lão Hách lại ngừng tay dao, gõ chiếc thìa vào một cái ly ba tiếng cạch cạch cạch. Đây là ám hiệu triệu hồi khẩn cấp một cô em chạy bàn. Đúng thế, chỉ sau tiếng gõ vài giây một cô bé chạy vào. Lão Hách tay xắt đều như máy trên một miếng nạm giòn, hất mặt ra ngoài bảo:

- Ưu tiên bốn tô đặc biệt cho bàn số 1!

Dư biết đây là một sự đao lộn trật tự bất thường của ông chủ, cô bé dạ ngoan một tiếng và bê phở đi. Lão Hách nhìn theo bốn tô phở vui vui trong bụng: Một câu nói hay cả bầy được thưởng! Còn cô chạy bàn vừa bưng vừa nhìn nội dung bốn tô phở. Cô chắc hẳn bốn cô cậu bàn 1 phải là bà con ruột thịt chi đó của ông chủ tiệm.

Quên ngay bàn số 1, lão Hách nhìn vào thùng nước dùng đã cạn đến lòi xẩu dưới đáy. Lão kéo lên một sô nhỏ đổ ồng ộc vào thùng lớn, xong thò tay điều chỉnh ngọn lửa ga. Vừa cầm dao cạo lớp mùn trên thớt lão vừa nhìn thăm dò phía ngoài một vòng. Lão đếm thật nhanh số thực khách còn lại: "Cân," lão nói khẽ.

Bàn 11 có cặp vợ chồng ăn mặc bảnh như dân địa ốc. Sau màn chụm đầu thầm thì họ buông nhau ra, ngó quanh với khí thế như muốn tiếp tục cuộc nổi dậy ở bàn số 6 ban nãy. Bốn ánh mắt hằn học cùng chiếu vào lão Hách. Nhưng êm ngay. Một cô em đã kịp bưng bến trước mặt họ hai bát "tái nạm gầu gân hành trần nước béo" như họ đã gọi mười phút trước đó.

Thêm một âm mưu nổi dậy bị dập tắt trong hiệu phở Hách!

- Số 5 số 7 tính tiền!

Bà Hách béo trắng ngồi sau quầy tính tiền. Tiếng gầm của bà khiến mấy cô cậu chạy bàn lúng túng, họ hè nhau rống lên:

- 5, 7 tính tiền!

- 5, 7 tính tiền có ngay!

- 5, 7 có bill đây rồi!

Một cậu chạy bàn cầm hai chiếc đĩa nhựa nhỏ đựng giấy tính tiền chạy đến bàn số 5 trước. Ông khách vừa móc bóp phơi, vừa nhìn anh thanh niên, giọng ngạc nhiên hẳn:

- Ủa Tấn, mày ra trường rồi mà?

Anh thanh niên cũng vừa nhận ra người quen. Lưng anh thẳng lên và giọng có lớn hơn một cách khác thường:

- Dạ chú Năm, chú mạnh giỏi? Cháu ra kỹ sư năm rồi, có điều lóng rày xưởng sập nhiều quá, mà cháu thì... trời ơi...

Anh ta khoa cái đĩa thứ hai lên trời rồi chạy tấp tới bàn số 7.

Chiếc đồng hồ quả lắc hiệu Quartz do chính lão Hách mua, nhưng nhờ vận động, từ ngày khai trương nó vẫn mang bên dưới hàng chữ "Phòng Thương Mại Cộng Đồng Thân Tặng" vừa từ tốn buông mấy tiếng điểm ba giờ trưa.

Sắp tới giờ nghỉ, lão nghỉ bụng. Bốn giờ là đóng cửa, lão đã viết rành rẽ trên bảng hiệu. Lão sẽ chẳng sợ mích lòng ai, dù hiện trong hiệu vẫn đày những tiếng húp phở, tiếng kéo ghế, tiếng va chạm xin lỗi nhau, tiếng gọi phở, tiếng thúc giục, tiếng năn nỉ của cô em chạy bàn, tiếng nước sôi, chuyện gửi quà, chuyện bang giao...

Lão Hách vói tay lấy bó hành hoa đặt trên thớt, tay trái giữ chặt bó hành, tay phải ấn mạnh một đường giao, hơn mười củ hành với tóc tai râu ria lăn long lóc như cuộc xử tập thể cải cách ruộng đất. Lão nhìn ra ngoài, nghĩ bụng còn phải làm thêm ít ra mươi tô nữa.

° ° °

Gần bốn giờ, khách tự động ngớt rồi chấm dứt hẳn. Lão Hách cười khẽ. Lão hãnh diện mình có những thực khách khôn ngoan và tự trọng. Nhưng cái me xừ nhà văn kia thì không tự trọng tí nào. Phong thái ông ta có vẻ cũng ăn uống cầu kỳ đấy, nhưng ông luôn luôn là một thực khách muộn màng! Gần như thế, từ ngày mở tiệm đến nay, lão nhớ ông nhà văn gần như chỉ được phục vụ đâu với hai phần ba phần công lực vớt vát. Hôm nay bất giác lão thấy áy náy trong lòng. Nhìn ông nhà văn ngồi khổ hạnh mà ngay ngắn để ăn bát phở cuối cùng của hiệu, lão muốn lân la nói một đôi câu cho lương tâm thảnh thơi nhưng không kịp nữa. Vợ lão đã dọn cơm ra. Mâm cơm gồm một liễn cơm, một đĩa đậu phụ rán, một bát tương Cự Đà "cụ Chí" và một đĩa cải luộc. Giữa khi lão theo dõi đôi bàn tay mập trắng của vợ xới cơm ra bát - bàn tay có những ngón mềm với chiếc nhẫn cưới lẫn vào trong htịt - thì có tiếng hỏi:

- Ủa ông chủ, sẵn phở sao không làm luôn một tô mà lại vẽ vời cơm nước?

Lão ngước lên thấy ông nhà văn đang ngó đăm đăm vào mâm cơm đạm bạc, miệng như phà ra mùi mỡ bò. Lão lắng tai nghe sâu trong bếp. Lão tin đến chín mươi chín phần trăm có cô cậu nào vừa làm mẻ một cái tô. Lão nhìn ông khách, và dường như một ngày mệt ngất đã đủ cho giọng lão đằm xuống, gần với sự hiền hòa, lão nói:

- Từ nào vẫn thế bác ạ, bỏ nước đi mười bốn năm qua chúng tôi nào đã được một bữa phở!

-...!?

- Đành kiếm cơm sống qua ngày.

Như không cho khách chen vào, lão thở dài tiếp ngay:

- Mà bác cứ xem, sang đây quả có thừa mứa đấy, nhưng bánh thì thế kia, thịt thà thế kia, rau rác thế kia, nhất là người, là cảnh thế kia thì thử hỏi làm sao có được tô phở, hưởng được bữa phở cho đúng cái đạo phở?

Ơ hờ tiếp lấy bát cơm từ tay vợ, lão chép miệng:

- Có nhúng tay vào làm mỗi ngày chẳng qua để đỡ nhớ nhà đấy thôi, bác văn sĩ ạ.

Chuyện làng Nậu

                                                        Truyện ngắn của Nguyễn Thị Loan

       Sáng sớm, mặc dù trời lất phất mưa, cổng đình làng Nậu đã tấp nập như hội. Ba bốn nhóm người chụm lại dưới những mái hiên cũ kĩ, cạnh ao sen đã tàn trơ những cuống lá đen sạm. Bên tấm chiếu ẩm mốc lót ni lông cho khỏi thấm nước, cả người lớn và trẻ con say sưa quanh chiếu “tôm cua cá”. Người đàn ông già với bộ quần áo rét to lụ xụ cầm “cái” nheo mắt rít điếu thuốc lá:

- Nào, lật nhé… Hồ lô, cá ăn!

Lão nhanh tay vơ lại nắm tiền đặt trên những ô có hình tôm, cua, gà… rồi trả vài đồng cho người thắng. Bên cạnh, những gã đàn ông nhàu nhĩ vì thiếu ngủ rít lên trên chiếu xóc đĩa, những đôi chân không đeo tất khoanh tròn bầm tím vì tê mỏi và giá rét. Quanh năm người ta chơi bạc chui lủi, riêng đến ngày hội làng thì công khai khắp đường, khắp chợ nên ai cũng rôm rả rủ nhau đi “đánh búng”.

Tiếng xôn xao ăn thua rộ lên của đám đông vẳng vào nhà ông Sáu. Ông chép miệng:

- Vừa mở mắt ra mà chúng nó đã đánh búng sớm quá!

Ngồi trên chiếc sập gụ, ông gọi với xuống bếp nhắc cô con dâu đun nhanh ấm nước pha trà. Trên bàn thờ, khói hương nghi ngút, tỏa mùi thơm dìu dịu. Ông vừa thắp hương, dâng bữa cơm lên tổ tiên. Những ngày lễ, ngày nào cũng cúng cơm hai lần, việc nấu nướng chuẩn bị, do vợ và con dâu lo liệu, ông chỉ việc quần áo cho chỉnh tề mà đứng trước từ đường cầu các cụ phù hộ cho các con, các cháu. Trên bàn thờ, những tấm ảnh vẽ truyền thần của cha, ông nội và cụ cố ông uy nghiêm và trang trọng theo thứ tự lên cao dần, mờ ảo trong làn khói. Cụ cố ông ngày trước làm tổng lý, đến đời ông nội ông, cũng là người có chức sắc trong làng, tiền công chất từng xâu đầy góc nhà, cấm có ai được động đến một xu. Ấy là tiền của làng, của nước. Dòng họ Trần của ông, là dòng họ lâu đời có tiếng tăm ở làng này; con cái trong họ, trai không sợ không lấy được vợ, gái cũng chẳng bao giờ lo không gả được chồng. Ông vẫn lấy làm tự hào vì sự danh giá và uy tín của dòng họ mình. Trong cái làng Nậu cờ bạc ăn sâu làm tan nát bao gia đình, ông vẫn dùng cái uy của mình mà giữ gìn cho con cháu. Lề lối phép tắc mà ông gọi là nếp nhà này tuyệt đối phải giữ, đừng nói gì đến việc sa chân vào cờ bạc.

Thằng con trai của ông đi làm xa về nhà ngồi trầm ngâm hút thuốc. Ông khẽ hắng giọng. Hắn liếc nhìn bố rồi dụi điếu thuốc vào cái gạt tàn bằng sứ. Dù đã có vợ, con nhưng trước mặt bố, hắn vẫn cứ nhất nhất tuân thủ theo ông, từ những cái nhỏ nhất. Hắn ngồi khoanh chân trên trường kỷ đối diện với ông. Giữa hắn và ông từ trước tới nay vẫn ít chuyện để nói. Sau khi đứng sau bố thắp hương khấn vái trước tổ tiên, hắn lại trở về vị trí cũ, vẫn cái vẻ lầm lỳ. Thỉnh thoảng hai cha con nói vu vơ với nhau vài câu rồi lại im lặng, nhâm nhi chén trà hoặc nhìn ra cái sân lớn lát gạch đỏ. Hắn ít nói với cha, nhưng lại rất gần gũi và tình cảm với mẹ. Mọi việc công tác làm ăn xa, những việc hắn cần, những thứ hắn thích, ngoài vợ ra, chỉ mẹ hắn biết rõ. Mặc dù đã là người đàn ông trưởng thành, về đến nhà, hắn vẫn lặng lẽ và nhỏ bé trước cái bóng quá lớn của cha.

Mấy ngày về quê, hắn thay cha đi thăm hỏi họ hàng, rồi chuẩn bị mâm rượu, cỗ bàn. Hết hội làng rồi đến những ngày tổ chức trò chơi như đấu vật, bơi thuyền... Những bữa cơm hội họp được chuẩn bị, hôm ở nhà người này, mai ở nhà người kia trong họ và mọi người kéo tới ăn uống, chuyện trò tới lúc trời tối. Những hũ rượu ở ngoài sân lớn hết lại đầy và không bao giờ thiếu. Đàn bà tấp nập, bù đầu vào bếp núc, rồi lại lặng lẽ thu dọn tàn cuộc đến khuya khi những người đàn ông đã trở vào phòng, chìm trong giấc ngủ và hơi men. Một vài người tỉnh táo còn lại kéo nhau tới một nhà nào đó đánh bạc tới sáng tinh mơ. Công việc thì cứ treo cả đó, làm quanh năm, đến hội làng thì mặc, người làng vẫn cứ phải ăn chơi.

Có lúc, hắn buột miệng nhận xét “làng mình vẫn hủ tục nhiều quá”. Hắn nhận lại cái nguýt dài của ông Sáu, thái độ không bằng lòng của ông:

- Mày sinh ra từ cái hủ tục ấy đấy, mới ra ngoài làm vài năm đã dám về nhà cao giọng nhận xét cả cái làng này à?

Ông Sáu đi vào phòng, ôm theo cái bực thằng con trai đã chạm vào cái nơi thiêng liêng chôn nhau cắt rốn từ đời tổ tiên, ông bà ông đến nay. Những tục lệ bao đời vẫn thế. Mặc dù ông cũng thấy những mặt trái, nhưng làng nào chẳng vậy; không biết giữ mình thì con người ở đâu mà chẳng sa chân vào tệ  nạn. Những lề thói, phong tục lâu đời ở đây, những người như ông không đứng ra bảo vệ nó thì còn ai. Ông Sáu trầm ngâm, bên ngoài cửa sổ, những âm thanh lao xao từ ngoài đình làng vọng vào, nghe như tiếng mấy vị công an xã đang dẹp mấy đám xóc đĩa. Dẹp độ nửa tiếng, những tiếng xúc sắc va vào thành bát, những tiếng rít, vỗ đùi của người được, kẻ mất lại rộ lên.

Ngày hội mùng 3, cả làng ăn có tục lệ ăn cá. Nhà nào cũng dâng cá lên bàn thờ tổ tiên. Nhà giàu thì có cá to, nhà bình thường mua cá nhỏ, còn những nhà nghèo thì cũng phải có lấy nồi cá tép. Từ hôm trước, ông Sáu đã dặn hắn sáng sớm mua lấy ba con chép lớn về dâng lên các cụ. Mờ sáng, hắn men theo con đường ngập ngụa, lầy lội những nước với bùn bởi mưa, nước thải và những đôi ủng cao cổ cày xới xuống mặt đường của dân buôn bán cá. Chợ cá bắt đầu từ lúc một giờ sáng, đông đúc những người buôn cá ở làng và cả dân ở nơi khác tới. Chen chúc giữa những tiếng ồn ào mặc cả, những tiếng the thé của dân buôn, hắn cũng chọn được ba con cá vừa ý. Xách mấy con cá đi dọc đường về, hắn giật mình vì tiếng còi tuýt lên và tiếng động cơ chiếc ô tô màu đen bóng loáng:

- Này, cu Đại.

Trong ánh sáng mờ tối, cánh cửa xe hạ xuống, hắn nhận ra thằng Chiến bạn học cấp 3 với hắn.

- Cũng đi chợ cá à? Lên xe đi, tôi đưa về.

Ngồi trên xe, hắn nhìn một lượt từ đầu tới chân thằng bạn từ thuở nhỏ vá đũng quần, trưa nào cũng trốn ngủ đi bắt cá cờ, giờ đã ra dáng người thành đạt. Gã mặc áo sơ mi vừa vặn, chiếc quần âu mới li thẳng tắp, tựa như còn cứng hồ, dưới chân xỏ đôi giày da sang trọng. Bất ngờ gặp hắn, gã bạn huyên thuyên đủ điều, hết hỏi thăm công việc, gia đình lại kể lại những chuyện hồi cả hai còn đi học. Hắn ngồi yên vị một góc trên chiếc ghế bọc da nâu phía sau, hơi nhấp nhổm sợ ba con cá dây bẩn lên cái ghế và cả cái sàn xe cũng bóng loáng và sạch sẽ. Rồi cũng tới nhà hắn, gã bạn vui vẻ:

- Tôi mua được con cá trắm gần 6 cân, chiều tới tôi uống rượu, tôi đón.

Hắn nhận lời rồi mời gã bạn vào nhà nhưng gã khất lần khác vì có công việc cần phải đi ngay.

Đến chiều, gã bạn đến đón hắn khá sớm. Nhà của gã bạn đúng như kiểu nhà truyền thống của dân làng này, nhưng toàn bộ bằng gỗ đắt tiền bóng loáng; những cánh cửa gỗ gụ quét véc ni màu cánh gián, những cột nhà bằng lim chống đỡ lấy những xà ngang, xà dọc trạm trổ long phượng, bên trên, chính giữa nhà là hai hàng câu đối dát vàng lóng lánh. Hắn chạm tay vào những thứ đồ sứ đắt tiền, thầm ngưỡng mộ gã bạn giờ phất quá. Bên kia là một dãy nhà khác, cửa đóng kín mít, hắn đang lom khom dòm ra thì vợ gã bạn bước vào, trên tay là mâm cơm rượu đãi khách. Chị vợ mỉm cười chào khách rồi lúi húi dọn mâm ra chiếc chiếu đã trải giữa nhà. Chị trắng trẻo, trông hiền dịu với bộ áo cánh gọn gàng. Gã bạn bước vào sau khi thay bộ đồ ở nhà trắng bốp, hai bàn tay vỗ vào nhau:

- Nào chào mừng cậu bạn. Mình vào mâm đi, tí nữa còn hai người bạn tôi đến rồi nhập mâm sau.

Ngồi xuống mâm, hắn hỏi gã bạn:

- Dạo này cậu làm ăn gì mà nghe chừng khá quá.

Gã bạn cười khẩy:

- Có gì, cái khó ló cái khôn thôi. Tôi dạo trước cũng vất vả lắm. Sau đợt vừa rồi cũng có làm ăn, có chút tiền cho anh em vay thôi mà. Nào cạch một ly.

Hai người đàn ông ngửa cổ uống. Gã bạn lại huyên thuyên nhắc lại những chuyện cũ. Quả thực, gặp lại hắn, gã tỏ ra rất quý mến người bạn lâu ngày mới gặp. Gã mở lời, làm ăn mà thiếu vốn cứ tới gặp, gã sẽ ít nhiều giúp đỡ

Uống chừng được dăm chén rượu, thì hai người đàn ông khác tới, cầm theo mấy chai rượu:

- Chào anh Hai, chào bác!

- Ô, các chú, vào đây, vào đây… - gã bạn cười một cách tươi tắn và lịch thiệp, bắt tay hai người khách mời vào rối rít.

Bữa tiệc rôm rả hơn, những chén rượu được nâng lên cạn sạch. Hắn đã hơi bung biêng trong men rượu, cái nóng từ trong dạ dày dội ngược lên lồng ngực và bốc lên khuôn mặt đỏ dần của hắn. Hai người đàn ông mới vào vẫn tiếp tục mời hắn cạn ly. Gã bạn hắn tươi cười “đầu năm mấy dịp mà làng có hội, cậu cứ thoải mái đi, tí đã có tôi đưa về”. Hắn lại uống.

Được một lúc, hắn đứng dậy lần ra phía nhà vệ sinh. Gã bạn ngỏ ý dẫn hắn đi, nhưng hắn từ chối, hắn vẫn có thể làm chủ được mình. Đi qua bậc tam cấp, hắn bước xuống nền sân lát gạch đỏ giống như sân nhà hắn, nhưng khác là phía sau có gian nhà kho và khu bếp, ánh lửa bập bùng. Mẹ gã thường ngồi ở đó, tay đẩy thêm củi vào bếp rồi ngoảnh ra nhìn gã âu yếm. Gã ngoái lại sau, cha hắn ngồi trên sập gụ, nhìn hắn lạnh lùng và hà khắc. Lòng hắn chùng xuống. Từ lúc nhỏ, ông đã phạt nặng những lúc hắn sai; đến khi hắn trưởng thành, ông càng trở nên trịch thượng và khắt khe. Hắn luôn tuân theo những điều ông muốn, nhưng như vậy cũng không làm ông hài lòng. Hắn nhếch môi cười, có lẽ hắn nên vác cái thân nồng nặc mùi men này về nhà để cho cha hắn thấy. Hắn lần qua dãy tường lát đá trắng cảm tưởng như đang lần về nhà, chạm tay vào hàng lan can trắng bao quanh cái hồ sen gần nhà hắn. Đâu đó lao xao tiếng xóc đĩa đầu làng, tiếng những người đàn ông râm ran. Nhưng không phải, hắn đang tới gần khu nhà ngang cửa đóng thin thít. Có những đôi bàn tay dìu hắn bước vào, vài khuôn mặt lạ hoắc ngoái ra nhìn và một người đứng lên nhường chỗ hắn. Hắn nghe thấy tiếng gã bạn:

- Cậu làm tí chứ.

Hắn tặc lưỡi:

- Ừ thì chơi. - Chẳng có gì mà hắn lại không thể.

Mãi cũng tới lúc khuya, hắn mới đứng dậy về nhà. Gã bạn đi đâu mất, hai người khách vẫn tiếp tục chơi ngoái lên chào hắn:

- Hôm nay bác không gặp may rồi, thôi lúc khác anh Hai nói chuyện.

Hắn ư hừ cho xong chuyện, lật khật đi về nhà. Có vài đồng, cháy túi là cùng chứ mấy. Qua quãng ngõ tối, hắn ngẩng đầu lên nhìn đường. Cùng trong một làng mà sao hôm nay con đường hắn phải đi xa thế. Hắn cố gắng bước từng bước đi. Xa xa đâu đó có tiếng động cơ xe, hắn ngoái nhìn lại, đèn xe lóa mắt hắn. Một cú va mạnh, hắn nằm vật ra đường, chìm vào cơn mê man. Mấy đứa thanh niên choai choai vội vã xuống xe dòm vào mặt hắn, thấy trên đầu hắn có máu, chúng sợ hãi nhảy lên xe bỏ chạy.

Ông Sáu ở nhà từ chiều đã bực mình thằng con trai bỏ bữa. Hắn cũng chẳng thèm nói với ai là đi đâu, cứ lẳng lặng lủi khỏi nhà, không còn khuôn phép gì cả. Ông tự nhủ khi hắn về phải nghiêm khắc việc này. Đến tối, cơn bực của ông càng lên cao. Ông không muốn tỏ cho mọi người nhà thấy là ông đang ngóng hắn về, nhưng nằm im thì không chịu được. Thỉnh thoảng ông lại ra nhà ngoài ngồi uống trà và nhìn ra sân, nỗi bực bội xen lẫn lo lắng. Mãi gần đêm, có tiếng gõ cổng dồn dập, ông mừng thầm trong bụng gọi con dâu ra mở cổng. Chắc thằng con hư hỏng đã về, ông lấy lại nét mặt nghiêm nghị. Cậu Thể, em vợ ông hớt hải chạy vào:

- Mau mau, thằng Đại nó bị tai nạn, đang nằm trạm xá, bị thương vào đầu nặng lắm. Khổ quá, nó nằm vật ở ngoài đường, may có người quen đi qua nhìn thấy. Hình như nó đi từ nhà thằng Chiến ra… thế mới chết. Hình như đánh bạc mất ví nữa thì phải.

             (Xem tiếp trang 38)

Ông Sáu bủn rủn cả chân tay, cơn giận trong ông bốc hơi mất nhanh chóng. Con dâu ông bưng mặt khóc, vợ ông cũng vội vã từ phòng chạy ra. Cả nhà ông Sáu xáo trộn.

Thấy nó nằm ở trạm xá, đầu cuốn băng trắng thấm máu, cái áo khoác rách xoạc vai và đôi bàn tay chầy xát, lòng ông Sáu như sát muối. Nghe tiếng vợ và con dâu khóc, ông càng đau lòng, xót gan. Ông nhìn hắn lặng đi. Ông sinh ra 3 người con, chỉ mình hắn là trai. Muốn hắn nên người, ông lạnh lùng, hà khắc với hắn, lấy uy với hắn nhưng nào ông có ghét bỏ gì con. Ông vẫn nhớ cái trạm xá này. Ngày nào, vợ sinh ra hai cô chị nó, đến cả tháng ông cũng không ngó vào buồng vợ lấy một lần. Thế mà khi nghe tin thằng con quý tử ra đời, ông đã vội vã xách cái phích nước nóng chạy từ nhà ra trạm xá. Ôm nựng con, nghĩ không chiều chuộng để nó nên người, ai ngờ… Ông khẽ ngồi xuống giường bệnh, cầm lấy bàn tay hắn như ngày nào, ông nhận được đứa con mới sinh từ tay người hộ lý. Máu thịt của ông… còn gì xót xa hơn thế. Đôi vai người cha khẽ rung lên. Hắn nhúc nhắc cái đầu rồi mở mắt ra.

Ông Sáu mừng rỡ:

- Nó tỉnh lại rồi này.

Khuôn mặt người cha nhòe trước mặt. Hắn thấy bàn tay ông đang nâng vai hắn. Lần đầu tiên, hắn được ở gần cha. Những nếp nhăn trên trán và khóe mắt ông sao mà gần quá, hắn muốn với tay chạm lấy những nét khắc khổ ấy. Hơi ấm của người cha lan tỏa sang hắn, hắn thấy được an ủi và yên tâm phần nào. Bóng người cha làm hắn ấm áp. Hắn chợt nhận thấy một niềm xúc động tới nghẹn ngào, tình cha con mới ấm áp làm sao. Nhớ lại những việc đêm qua, hắn rùng mình trước những việc đã xảy ra, lại cảm thấy có lỗi với cha vô cùng. Lần đầu tiên, hắn thấy mình ân hận.

Ông vỗ vai hắn:

- Không sao rồi, ổn rồi.

- Con xin lỗi, con sai rồi cha ạ.

Ông Sáu gật đầu rồi ngồi trầm ngâm:

- Người làng ta vốn coi trọng lễ nghi, trọng tình cảm. Những phong tục lâu đời của ta, không phải đâu cũng có con ạ. Nhưng làng mình, phải bớt rượu chè mà làm ăn thôi. Rượu chè dẫn người ta tới cờ bạc, rồi lại mang vạ vào thân. Tệ nạn rồi sẽ ăn mòn, phá hủy những truyền thống mất.

Hắn ngậm ngùi trước những lời cha nói, chợt thấy nhớ nhà. Hắn muốn về với ngôi nhà có cái sân gạch đỏ quen thuộc, nhớ cả ô cửa sổ nhìn ra đình làng cổ kính, rêu phong. Hắn giữ chặt lấy tay người cha. Hai cha con cùng im lặng. Ngoài kia, cánh chim mải miết trong ráng chiều bay về tổ. Đình làng Nậu đậm màu rồi lẫn vào màn sương dày đang bao phủ.

Chiều muộn

        Truyện ngắn của Bùi Văn Thành

         Những năm gần đây nhờ chính sách đổi mới, kinh tế phát triển người người giàu lên, nhà nhà giàu lên, nhà cao tầng cứ mọc lên như nấm sau mưa. Con trai ông Hán, nhờ nghề lái xe khách đường dài, làm ăn khấm khá, mua đất làm nhà ba tầng ở phố mới. Gọi là phố mới nhưng thực ra vẫn là một khu dân cư của xã, chẳng qua nó nằm ven đường quốc lộ, gần trường học lại là nơi trung tâm. Từ ngày phố mới có nhiều nhà tầng có nhiều cư dân đến ở, không khí vui hẳn lên. Do lái xe đường trường, thường xuyên vắng nhà, nên ông Hán phải ra trông nhà, trông cháu. Những ngày đầu ông thấy gò bó, có hôm từ sáng đến tối chẳng có việc gì làm, chán uống nước lại xem vô tuyến, chân tay là cứ buồn cả lên. Cũng phải thôi vì khi ở trong quê, sáng nào ngày nào ông cũng ra vườn khi thì cuốc đất khi thì nhổ cỏ, tưới cây lúc rảnh rỗi là mấy ông hàng xóm sang chơi, đủ thứ chuyện được lôi ra. Ra đây gói gọn trong mấy gian nhà, ông cảm thấy khó chịu là phải. Tuổi già có ngủ được mấy, gà gáy canh hai là không ngủ nữa rồi, nằm giường thật nhưng mắt cứ thao lá

o ra, hết nghe chuyện này lại nghĩ chuyện khác. Nhưng ông cứ phải nằm im chỉ sợ mấy đứa cháu ông thức giấc.

Đối diện với nhà con ông bên kia đường là nhà cháu bà Bình. Nào ông có biết bà Bình là ai, ông nghe mấy bà gọi nhau đi tập thể dục buổi sáng, ông đoán thế.

Thấy ông ngày nào cũng tập thể dục, ở sân vào buổi sáng, khi thì vươn vai khi thì đi đi lại lại đứa con dâu ông bảo:

- Bố ơi! Theo con bố đi tập thể dục, rồi đi bộ cùng mấy bà cho khoẻ bố ạ. Ông cười - Các bà ấy tập ở đâu hả con?

Ngoài nhà văn hoá...

để tý con bảo các bà ấy, ngày mai đi tập các bà gọi bố.

Chẳng phải chờ lâu, sáng ngày hôm sau, mới sáng tinh mơ, tiếng bà Bình đã vang lên ở cổng - ông Hán ơi... ông Hán, đi tập thể dục cho vui.

Sau này ông mới biết, tính bà cứ vui nhộn là thế, loe choe loe chóe nhưng chẳng giận ai bao giờ.

Bà Bình cũng không phải chờ, vì ông đứng ngay ở góc sân, bước lại cổng nở lụ cười đôn hậu. - Tôi không biết tập đâu, bà là phải dạy tôi với đấy.

- Gớm... ông mà không biết tập, mấy hôm em nhìn thấy ông tập khéo khéo là...

 

có ông dạy chúng em thì có. Đó là những gì đầu tiên mà hai người làm quen. Kể từ ngày hôm ấy như một cái mốc, để bà và ông có thêm nhiều suy nghĩ mới, niềm - vui mới, ở cái phố mới này.

Do được học và tập các bài thể dục dưỡng sinh từ trong quê, trước khi ra ở trông nhà cho con, nên ông hoà nhập khá nhanh với mọi người cùng  phố. Từng đường đi, từng thế võ, từng cái đưa tay đưa chân, thu vào rồi lại sải ra, như cuốn hút sự chú ý của bà Bình.

Bà Bình người nhỏ nhắn, tiếng nói sang sảng, dáng đi có vẻ vội vàng. ở cái tuổi ngoài 50 bà vẫn còn khá nhanh nhẹn. Tưởng bà ra ở với con hoá ra không phải, bà ra trông cháu, đã nhiều năm nay bà đi trông con cho các cháu bà. Thấy bà khoẻ, sạch sẽ lại không vướng víu gia đình, nên đứa cháu nào cũng muốn lôi, có thời điểm chúng chia nhau từng tuần, từng tháng, như chia một thứ gì đó.

 

Chúng bảo người nhà trông tin tưởng, chứ người ngoài chỉ sợ mất cái nọ mất cái kia, khác máu tanh lòng, khó tin. Là chúng nó nói thế thôi, bà biết thừa, thuê người ngoài chúng phải trả lương cao lại còn tiền thưởng nữa. Lôi bà ra chẳng mất cái gì, ngày mấy lưng cơm, mà bà có ăn được đâu, rượu không, chè không, lúc nào về chúng cho bộ quần áo cũ xin ở đâu bảo là đồ xịn. Bà biết chứ, bà cứ cầm cho xong chuyện. Chuyện đó bà như chẳng để ý, đối với bài mỗi sáng tập thể dục, gặp gỡ các bạn già, nhất là từ ngày biết ông Hán, là bà cảm thấy hạnh phúc nhất trong ngày. Ngoài giờ thể dục ra, bà lại về với các cháu nhỏ, công việc cứ lặp đi lặp lại như thế. ở cái tuổi ngoài 50 nhiều lúc bà vẫn ước mơ có một mái ấm gia đình, như bao người phụ nữ khác, để hết giờ trông trẻ bà lại về với mái ấm đó. Ước mơ không phải là cao xa mà với bà sao khó quá, nhiều lúc bà cảm thấy như mò kim đáy bể vậy. Nhưng khi gặp ông Hán, ước mơ đó lại được sống lại trong bà. Nhưng bà đâu dám thổ lộ với ai, chỉ con tim bà thổn thức từng đêm từng đêm? Rồi lại tan biến đi, như bọt xà phòng, để lại mình bà trong cõi chiêm bao, khi tỉnh dậy thấy mình nằm trơ trên chiếc giường mét hai gần xó bếp của nhà đứa cháu.

Còn với ông Hán, năm nay đã gần 60, vợ ông đi trước đã 2 chục năm. Một tay gà trống nuôi con, đã bao lần có người giới thiệu khuyên ông tìm người bạn mới nhưng ông đều từ chối. Nuôi các con khôn lớn, lấy vợ gả chồng cho các con, giờ lại đi trông cháu, ông nghĩ bao giờ cháu ông lấy vợ, thì ông cũng đi luôn về với tổ tiên. Thế là kết thúc cuộc đời, mà tạo hoá đã ban tặng cho ông.

Còn bây giờ, ông đang vót nan, đan mấy cái rổ, thì bà Bình bế đứa cháu vào, nhìn ông : - Ông làm cái gì thế này?

Ông vội vàng thu xếp, định lấy nước mời bà, thấy thế bà bảo.

- Thôi ông cứ làm đi, nước nôi gì, em bế cháu đi chơi cho nó khỏi quấy, thay đổi không khí dễ chịu ông ạ... mà ông đan cái gì vậy ?

- Hôm nọ về nhà sẵn tre ở vườn đẵn mấy cây, cắt nhỏ đem ra đan cho cháu mấy cái rổ... không có việc gì làm cũng buồn.

Bà Bình reo lên - ôi thế thì may quá, ông đan cho em một cặp cả rổ cả rá, bao giờ về quê em dùng, chứ hàng nhựa nhanh hỏng lắmanh ạ.

Nói đến từ anh bà như biết mình nói hớ hay sao, bèn đưa bàn tay lên che miệng. May mà hình như ông Hán không để ý. Cứ như thế, hôm nào có bà sang chơi, là ông cảm thấy vui vui, khi bà về ông tiễn bà ra cổng, có hôm còn đưa về tận nhà. Hai người thư thả chậm chậm vừa đi vừa ngắm cảnh phố mới. Bà thầm cảm ơn phố mới, nhờ có phố mới mà bà đã gặp ông, chẳng biết ông có biết gì không, có nhận thấy từ ánh mắt của bà không, nhất là từ khi bà biết ông là người góa vợ, nhưng với bà là cả một ước ao, ước ao đến cháy lòng.

Bẵng đi mấy hôm, không thấy bà sang, ông cảm thấy nhớ. Thế là ông mò sang nơi bà đang trông trẻ. Thấy ông bà mừng quá, chào đón ông như chào đón người thân đi xa hàng năm mới về. Do mải nói chuyện, chủ nhà là cháu của bà về mà không hay. Tưởng nó sẽ vui cùng bà, mừng cho bà có người bạn mới, ngược lại nó mặt sưng như cái bị, khách chào mà chủ chẳng nói gì. Biết điều chẳng lành, ông vội đi ra cổng lặng lẽ về nhà, chỉ kịp nhận từ tay bà tờ cáp điện thoại, phía sau có dòng chữ nét được nét không “ông hãy thông cảm cho em, em ra đây trông cháu phải trông cả nhà, vì thế không sang ông được, mọi chuyện em sẽ nói sau”.

Ông về rồi nó mới đay nghiến bà, nào là trẻ còn chẳng ăn ai, bây giờ sắp kề miệng hố...

mà cô ra trông cháu hay là...

Bà như không chịu được, cuối cùng bà cũng phải lên tiếng.

- Mày đừng có nói lắm, lòng ngõa cũng như lòng sung... chị em đàn bà với nhau, đừng có quá đáng như thế.

Thấy bà tỏ thái độ dứt khoát, cháu gái bà liền hạ giọng.

- Là cháu nói thế, nếu cô có nguyện vọng để cháu còn thu xếp.

Nó nói xong, bĩu môi. Bà biết ngay cái bĩu môi của nó không vừa. Bà biết thừa, nó chỉ muốn bà trông con cho nó, chứ nó có muốn bà có bạn đâu. Bà có bạn thì lấy ai trông con, với cái giá trông không thế này.

 

Cháu bà là người như thế, nhưng bà cũng chẳng giận, chẳng vì thế mà bỏ về, bà về đứa khác lại lôi, thôi thì đứa nào lôi cũng thế.

 

Hai nữa bà nghĩ, mình sống vì con vì cháu, nay mai bà nằm xuống cũng chẳng qua tay chúng nó bố chúng nó thì qua tay ai. Mỗi lần như thế, bà chẳng dám trách ai, chỉ biết trách tại cái số mình, giá như mình cũng có con có cháu, như bao người phụ nữ khác, thì chúng nó làm sao mà lôi bà đi được.

Biết được hoàn cảnh của bà, ông Hán cảm thấy thương bà hơn. Mỗi lần như thế, ông lại bước lên sân thượng, để nhìn cho rõ bà đang trông cháu.

Còn với bà, mỗi lần thấy ông xuất hiện, bà lại bế cháu lên sân thượng. Hai người chỉ cách nhau con đường bê tông, một không gian nho nhỏ, bốn mắt nhìn nhau, xuyên qua cánh cổng sắt, mà chẳng ai dám nói với ai một câu.

Nhớ lời nói của ông, đợi lúc cháu bà đi vắng, bà gọi điện thoại sang ông, hai người nói chuyện cho thoả lòng mong nhớ. Nhưng bà có ngờ đâu, hàng tháng bưu điện báo cước phải thanh toán, có nhiều lần gọi sang nhà ông Hán. Đứa cháu như không chịu được, nổi cơn tanh bành, mắng bà xơi xơi. Nào là hồi xuân, dửng mỡ, đã nhịn được mấy chục năm, còn có mấy năm chiều muộn sao không nhịn nốt đi...

Bà tức quá, thế là bà bỏ về quê. Bà về trong giận dỗi, chẳng kịp chào ông lấy một câu, để lại con đường bê tông phố mới vắng bóng bà buồn tanh và một người luôn nhớ về bà, nhất là về những buổi chiều khi  hoàng hôn xuống, những buổi sáng tinh mơ gọi nhau í ới đi tập thể dục. Mỗi lần như thế ông chỉ biết lên sân thượng, nhìn sang nhà đứa cháu như bóng bà còn thấp thoáng đâu đây.

*

*   *

Vào một ngày cuối năm, lần theo địa chỉ ông tìm đến nhà bà. Thật không tin ở mắt mình, bà nằm cỏng keo trên một chiếc chõng tre, ở nhà ngang của ông anh trai, mặt quay vào trong, hơi thở thoi thóp, mà không có người bên cạnh ông đứng lặng hồi lâu, để nhìn bà cho kỹ. Ông thấy bà lảm nhảm, hình như bà đang nghĩ về ông. - Ông Hán ơi ông Hán! Sao ông không đến thăm em, đón em về nhà ông... để em ở đây em sẽ...

Nghe bà nói vậy, ông vô cùng xúc động, khẽ gọi tên bà.- Bà Bình... tôi đây! Rõ là tiếng ông, bà đưa mắt nhìn, mừng rỡ khi thấy ông. Bà chồm dậy, như người không ốm, cầm hai tay ông, chẳng nói lên lời mà nước mắt cứ ứa ra. Ông đưa tay đặt lên trán bà - Bà ốm phải không? Người nhà đâu hết cả? Bà khẽ lắc đầu: - Nó thế đấy, khi còn khoẻ thì đứa này lôi đứa kia lôi, khi yếu chẳng đứa nào ngó đến. Biết hoàn cảnh như vậy, ông liền xin phép gia đình đưa bà ra viện điều trị. Chỉ khi ở viện bà mới khoẻ dần. Được ông phục vụ tận tình chu đáo, lo hết cả mọi khoản viện phí, ăn uống. Thấy bà ngại, như không muốn nhận sự chăm sóc của ông. Nhiều lần ông phải nói khéo nào là bà uống hộ tôi cốc sữa này, ăn hộ tôi cái bánh này, bà thương tôi thì bà phải ăn, ăn cho khoẻ, khi nào khoẻ ra viện, tôi sẽ đưa bà về nhà chơi về thăm lại phố mới. Mấy đứa con cháu tôi nó thích bà lắm, tý nữa nó sẽ đến thăm bà đấy. Bà vui sướng khi nghe ông nói vậy, lần đầu tiên trong đời, bà cảm thấy tình yêu đích thực, cho dù là đã muộn. Ra viện ông đưa bà về quê xin phép họ hàng, nhận bà làm dâu. Ngoài 50 tuổi bà mới đi làm dâu, mặc dù không lên xe hoa, đưa đón dâu đông như các cô gái trẻ, nhưng đổi lại bà đi bằng tắc xi hoa, có ông ngồi bên cạnh, bà cảm thấy mãn nguyện lắm rồi. Mọi người ai cũng mừng cho bà.

Trung tâm mặt trời

                                      Truyện ngắn của Bùi Thuần Mỹ

         Ít bữa nay, sáng, chiều nào người đàn ông ấy cũng xuất hiện cạnh trụ sở phường. Dáng cao, gầy vẻ khắc khổ, nhưng vì ông ta vận bộ com lê đen, thắt cà vạt vàng nên nom vừa nghiêm chỉnh, vừa ngộ nghĩnh. Ông kiên nhẫn nhặt từng chiếc lá rơi, từng mẩu thuốc lá, giấy vụn trên vỉa hè, lòng đường, cho vào thùng rác. Thoạt đầu ai cũng thấy lạ, nhưng lâu dần thành quen. Nên việc nhặt rác của ông cũng trở nên bình thường, hệt như việc xả rác ra đường của mọi người vậy. Có lẽ mọi việc mới, cũ, trên đời này hầu như đều theo quy luật lâu mãi thành quen ấy cả chăng?

Khu phố không ai biết ông là ai, làm việc gì, từ đâu đến, cuộc sống riêng tư thế nào. Chỉ biết nét mặt, vẻ người ông ta toát lên một vẻ thật thà, ngu ngơ khiến người ta tin ông không phải là dân trộm cắp, phá phách, hoặc làm hại người khác. Mặt khác mọi người hầu như ai cũng đều bận bịu, hối hả với công việc của mình. Không nói gì những người trẻ, ngay cả các cụ hưu trí ngỡ là nhàn rỗi, nhưng xem kỹ ra thì lịch sinh hoạt của các cụ cũng kín mít cả sáng, trưa, chiều, tối... Vậy nên, với người đàn ông vận com lê đen có trách nhiệm công dân rất lớn mới xuất hiện kia: Ông A nghĩ ông B biết, ông B lại nghĩ là ông C biết... nên cuối cùng chả ai biết rõ về ông ta cả.

Cho đến một buổi sáng, trời trở rét. Một đôi vợ chồng, ở phường bên có công việc đi ngang qua phường nọ. Họ có vẻ vội vã vì chuẩn bị đi đường xa. Bà vợ mập mạp ngồi sau xe máy của chồng với các túi đồ lủng củng, kèm theo một gói rác đựng trong chiếc túi ni lon đen. Xe chạy chậm, gần đến bãi đất trống gần cửa UBND phường, người vợ vẫn ngồi trên xe tay nâng gói rác, mắt liếc dọc, ngang thận trọng như một người đặt lờ cua, thả nhẹ túi rác xuống vệ đường. Vừa lúc người mặc com lê đen nhô ra.

Người chồng đã không tăng ga cho xe vọt đi, mà đột nhiên giảm hẳn ga dừng xe lại, khiến bà vợ thiếu chút nữa ngã bổ chửng xuống đất. Ông chồng tránh tiếng làu bàu gắt gỏng của vợ, tất tả đi đến bên người đàn ông nọ, giữa lúc ông ta đang cúi xuống vệ đường.

Người dọn rác vẫn thản nhiên như không. Ông ta sờ, nắn túi rác mới, rồi đưa bàn tay lên mũi ngửi, hít. Có lẽ không phải là mùi cam, quýt mà là mùi gì đó rất đặc biệt, nên anh ta nhăn mặt, không hề biết đến chồng người vứt rác trộm đang chăm chú nhìn mình, rồi lò dò đi về phía trụ sở phường.

Không rõ vì việc gì, người đàn ông đi xe máy tái mặt. Ông vội vã trở lại xe và rồ máy, trong tiếng làu bàu của bà vợ:

- Đồ dở người, hâm tỉ độ.

- Ai kia? .

- Cả hai.

Người chồng không nói gì thêm. Trưa hôm đó hai vợ chồng nọ dừng lại vào một quán ăn, vừa ngồi vào bàn ăn bà vợ hỏi ngay:

- Thằng dở người lúc sáng là ai đó? Bạn của anh à?

- Hơn cả bạn nữa.

Người chồng chỉ nói thủng thẳng thế, vừa lúc nhà hàng mang cơm lên. Ông chồng mời vợ và bắt đầu chăm chú ăn.

Thấy chồng không mặn mà lắm với câu chuyện của mình bà vợ bĩu môi, lườm chồng, và cũng bắt đầu nhỏ nhẻ ăn cơm. Bà vừa nghĩ: Có thể chồng mình đang bực vì chiếc ô tô con mới mua xỉ của giám đốc sở S chiều qua tự dưng dở chứng, tắc xăng nên cuộc đi hôm nay ông phải đi bằng xe máy. Hồi này doanh nghiệp tư của chồng bà đang làm ăn phát đạt. Bà bắt đầu chú ý nhiều đến nhan sắc của mình, thứ nhan sắc đang ngày bị tuột dốc bởi các cuộc theo chồng tiếp khách liên miên và bởi những làn thực phẩm quá dư thừa chất đạm. Bởi vậy bà đang tập lắc vòng để giữ eo, nên ăn uống có vẻ kiêng khem lắm. Còn ông chồng thì cứ ngồi đánh chén tì tì.

Bà vợ ăn xong, ngồi xỉa răng đợi chồng. Bà lại nghĩ về cái túi rác và người lượm rác lúc sáng. Rõ ràng là chồng bà có một bí mật gì đó với người đàn ông đó. Vốn cả nghĩ, lo xa, bà đoán non, đoán già mãi. Lúc bà sợ rằng trong túi rác đó chồng bà lỡ giấu giếm vật gì... tài liệu mật, hoặc vốn riêng của ông, hay hàng lậu chẳng hạn.

Bụng áy náy không yên bà lại gặng hỏi lần nữa, khiến ông chồng bực mình phát khùng lên... Nhưng tính khí của ông bà còn lạ gì, đã nhiều bận ông làm bộ thế rồi. Bà biết ông chỉ làm bộ thế, về nhà, lúc lên giường sẽ phun hết cả ra thôi. Nghĩ vậy bà không thèm hỏi nữa.

Chiều hôm đó rét đậm. Tối mịt hai vợ chồng nọ mới về đến nhà. Vừa về đến sân, ông chồng đã vội vã ra đi ngay. Gần mười một giờ đêm ông mới mò về nhà.

 

Bà vợ to béo vẫn kiên nhẫn đợi chồng, bà vừa lắc vòng, vừa uể oải, liếc nhìn cuốn kinh phật mỏng, mầu nâu mới mua. Vừa thấy chồng đẩy cửa, bà để rơi cả chiếc vòng xuống sàn nhà, đè lên cuốn kinh phật. Bà tiến sát đến bên ông, túm áo ông, hỏi:

- Ông đi đâu về thế...

ông làm gì mà cứ thì thụt giấu tôi mãi vậy...

- Hắn chết mất, chết mất...

- Ai, ai chết...

- Giám đốc “Trung tâm mặt trời...”

- Mặt trời gì. Mặt trời nào?...

- Ồ bà không biết được đâu. Ông giám đốc ấy là một nhà vật lý thiên văn tầm cỡ ở nước ta... ông ấy chết mất.

Bà vợ ngẩn người, nghĩ: chắc một người bạn nào đó của chồng mình vừa chết được cáo phó trên ti vi, ông xem ở ngoài phố, nên bà cũng không hỏi nữa. Bà giục ông thay quần áo đi ngủ. Vừa là đêm đã khuya, vừa là đảm bảo sức khoẻ cho ông sau một ngày đi đường, vừa là để hỏi ông người mặc com lê đen lúc sáng có vẻ ông biết rõ, đó là ai.

- Đêm nay ngủ thế quái nào được, hả bà nó ơi.

Ông chồng thở dài sườn sượt, vẻ gần gũi cởi mở với vợ. Bà vợ thấy vậy đi sát đến bên ông, hỏi:

- Ông giấu hàng gì trong cái túi rác buổi sáng đó...

- Không có gì cả, chỉ là rác thôi...

- Không phải. Tôi không tin. Tôi nghi lắm. Rõ ràng ông có ám hiệu nào đó với người mặc com lê đen nhặt rác. Ông nói ngay, nói ngay đi: hắn là ai, và cả ông nữa bấy lâu nay ông cũng là ai?

Bà vợ áp sát cái bụng phì nộn vào ngực chồng, cằm bà banh ra vẻ kiên quyết phải hỏi cho thật rõ. Ông chồng dùng dằng định đánh trống lảng nhưng trước vẻ cứng rắn của bà vợ, đành bặm môi, gật gù nói:

- Lạ thật. Người mặc com lê đen, chính là một nhà thiên văn giỏi hàng đầu của Việt Nam. Tôi đã có may mắn gặp ông ta khi tôi còn là học sinh...

Bà vợ sững sờ, mắt tròn xoe, trán nhăn nhúm nhìn chồng chăm chú. Ông chồng vẻ mệt mỏi, nhỏ nhẻ, kể:

Hồi mới rời công sở do bố ông là giám đốc, võ vẽ bước vào nghề giám đốc công ty tư nhân, chính ông đã may mắn lắm mới được gặp lại nhà thiên văn tại trụ sở bề thế mà nhà thiên văn đang làm giám đốc điều hành. Trước cửa toà nhà đồ sộ treo tấm biển to với hàng chữ đậm “TTMT” mà một người bạn của ông nói: đó là chữ viết tắt của “Trung tâm mặt trời”. Một cơ sở đang làm ăn rất phát đạt. Tiền của đổ về đây nhiều như nước. Nguyên nhân thành công của công ty được cắt nghĩa: Do người đứng đầu công ty là nhà bác học có tầm cỡ thế giới. Tại đó việc sử dụng những người giúp việc có tài năng, am hiểu công việc, có mối quan hệ rộng, sâu, và cao...

Hôm ấy ông đã suýt nữa ngất lịm đi bởi những bức tranh quý hiếm nhất của nhân loại mà công ty đã sở hữu, được treo rất giản dị, tại bức tường của phòng khách công ty. Chẳng phải là một nơi quê mùa, kém hiểu biết vậy mà ông đã choáng váng nửa tỉnh nửa mê khi nhìn thấy những bức tranh đó. Một thời gian dài ông đã tin rằng đó là “Trung tâm mặt Trời” thật, với những chương trình hợp tác vũ trụ quốc tế thực sự lớn lao. Mãi cho đến một hôm người bạn thân của ông nói cho ông biết: “Trung tâm Mặt Trời” chỉ là tên gọi khôi hài (theo nghĩa đen và nghĩa bóng) của giới làm ăn. Tên thật của cơ sở là: Trang trí mỹ thuật. Nhưng trang trí và mỹ thuật chỉ là một mảng nhỏ của công việc làm ăn. Bản chất thực bên trong đây là một công ty môi giới kinh doanh tổng hợp, kể cả môi giới kinh doanh những thông tin làm ăn đắt giá nhất... Đó là nguyên nhân của những luồng của cải khổng lồ cứ tự động cuồn cuộn đổ về công ty. Như mọi điều có thể xảy ra trong cơ chế thị trường. Sau một thời hùng cứ huy hoàng TTMT đã có vấn đề vì các bê bối trong kinh doanh, thất tán các chứng từ, tài liệu gốc, đặc biệt 90% các bức tranh ngàn đô chỉ là tranh “giả cổ” một số ông “mặt trời” cổ đông của rởm...

 

bản thân nhà thiên văn học tầm cỡ đã trở nên con người vận com lê đen trên hè phố.

- Bà nó ạ - ông chồng gật gù hướng mắt về phía bà vợ đang im lặng há hốc mồm theo dõi từng cử chỉ, từng lời nói của mình - lúc nãy tôi vừa thấy ông ta liêu xiêu trên đường phố; đột nhiên ông ta loạng choạng ngã xuống đất. Tôi vội vã chạy tới nơi, thì một người lái tắc-xi đi ngang qua đã đưa ông ta vào viện. Có thể ông ta bị cảm, mong rằng ông ấy sẽ qua cơn hoạn nạn, hồi phục sức khỏe, hồi phục trí nhớ của mình. Ngừng lời, ông lắc đầu, chẹp miệng nói nhỏ đủ cho mình mình nghe, đó là lời tự trách: “Mình thật xấu hổ, cả một đời cứ ngỡ lão ta là nhà bác học lớn, hóa ra chỉ là tay nhặt rác”!

Sao đổi ngôi

                                         Truyện ngắn của Đào Mai

        Chiếc bút bi đỏ lướt đi lướt lại những cái tên quen thuộc trên bản danh sách đệ trình của phòng giáo dục, trong vẻ mặt trầm ngâm của Phó Chủ tịch Thắng. Bỗng anh dừng lại hạ một chấm hỏi rồi nhăn trán, bóp thái dương…

Trưởng phòng giáo dục Hối và chánh thư ký công đoàn giáo dục Thỉnh ngồi đối diện ở cái bàn mêca kê dọc chính giữa trước bàn làm việc  đầy công văn giấy tờ của Phó chủ tịch huyện vẫn ngồi nhấp nước chờ đợi sự phán quyết của vị đại diện Uy ban trong vẻ hồi hộp…

Như để xua đi không khí tĩnh lặng, Thắng đứng dậy thân mật rót chầu nước mới mời khách, nhỏ nhẹ:

- Theo ý tôi, cô Hiến phó phòng chưa nên đưa vào danh sách chiến sỹ thi đua cấp tỉnh lần này. Như thế sẽ có lợi hơn cho cả riêng, chung !

Câu nói bất ngờ của Thắng khác nào sét đánh ngang tai hai vị lãnh đạo phòng Giáo dục. Hối cố giấu cái giật thót mình, vội đưa ánh mắt chiếu thẳng vào Thắng vừa tỏ vẻ ngạc nhiên lại vừa như răn đe: “anh nên nhớ, vừa ngày nào dưới chướng tôi, bao lần anh bướng bỉnh, nhưng vẫn chưa thể vặn cổ được tôi đâu. Vả chăng cái ghế Phó Chủ tịch văn xã  huyện này của anh chưa ấm chỗ, đừng vội lên mặt dạy đời…”. Nghĩ vậy mà lòng Hối như có muối xát. Vì dẫu sao trong sự đối mặt này, mình vẫn là kẻ cấp dưới hắn.

Không thể trốn tránh, đành phải có mặt, là nhục nhã rồi phải “báo cáo anh”, lại bị những lời đòn giáng ấy, Hối càng thêm xót xa, nuối tiếc. Keo vật mình bị “lấm lưng trắng bụng” tranh cái chức Phó Chủ tịch huyện  với Thắng chưa nguôi thì lại đến chuyện này. Tới đây, còn biết bao lần nữa, phải hạ mình đối mặt với hắn trong công việc. Thật  “họa vô đơn chí”, nghĩ thế mà Hối càng tiếc thay cho việc ông anh họ Chủ tịch huyện phải “hạ cánh sớm” sớm vì phi vụ tham nhũng đất đai vừa rồi. Chỉ cần việc ấy xảy ra chậm vài tháng nữa đâu mình đến nông nỗi này.

Đó là ý kiến chủ quan của tôi, có thể chưa sát thực lắm; đề nghị các đồng chí phát biểu, ta bàn thêm. Thắng giục mọi người với thái độ chân thành, cầu thị. Thỉnh lặng người ngượng gạo, bật khóa cặp rút ra một phong bì niêm phong đưa cho Thắng: - Báo cáo đồng chí đây là phiếu bầu tập thể của Hội đồng thi đua. Nếu tôi không nhầm thì cô Hiến là người có số phiếu cao nhất. Chắc đồng chí đủ lòng tin ở chúng tôi.

Chính vì tin các đồng chí, hơn nữa chúng ta còn là chỗ thân tình với nhau nên tôi mới nói thẳng như thế! Thắng nói trong nụ cười ánh lên hai hàm răng trắng bóng thường thấy. Thái độ cởi mở của Thắng phần nào  đã làm dịu lòng Hối - nhưng không thể khoan nhượng, phải làm cho ra lẽ - Hối nghĩ bụng như thế và bật một câu hỏi cứng rắn vẻ bất bình: - Đề nghị đồng chí Phó Chủ tịch cho biết: Dựa vào đâu mà đồng chí bác bỏ những lá phiếu của chúng tôi ?

- Xin hãy bình tĩnh! Không phải là bác bỏ, mà đề nghị chúng ta cùng bàn luận sao cho có lợi, để mọi người phải “tâm phục, khẩu phục”. Nhân đây xin tâm sự thêm với các đồng chí mong chúng ta hiểu nhau hơn. Thắng xoay chiếc ghế bành bọc nỉ mà anh đang ngồi lọt thỏm về phía Hối, ôn tồn:

- Anh Hối ạ! Tôi được ngồi cái ghế phó chủ tịch này, tuy là sự tín nhiệm của Đảng, của dân, nhưng không bao giờ tôi quên công ơn của anh và đồng nghiệp. 15 năm làm giáo viên và Hiệu trưởng ở huyện này, sự trưởng thành của tôi cũng là công bồi dưỡng của anh. Nhưng với trách nhiệm mới được phân công, tôi không thể dối lòng mình, cao hơn không thể lừa dân, dối Đảng. Việc tôi bàn với các đồng chí về danh hiệu của cô Hiến cũng không ngoài suy nghĩ đó. Mong các đồng chí hiểu cho và ủng hộ tôi.

Lời tâm sự của Thắng như phả hơi ấm vào cõi lòng đang lạnh buốt của Hối. Nhưng nghĩ kỹ càng thấy đau điếng trước những lời giáo huấn của một kẻ vừa ngày nào là bề dưới của mình. Hối nhếch mép, cái nhếch mếp quen thuộc  trước kẻ dưới, giọng mỉa mai: - Đồng chí cứ nói thế, nào tôi đã có công gì với đồng chí!

- Bây giờ tôi xin trả lời các đồng chí, vì sao tôi lại đề nghị như vậy. Thắng nói lờ đi câu trả lời của Hối. Sự thật câu chuyện là thế này, Thắng chậm dãi thân mật và cứng rắn: Việc cô Hiến được kéo lên phòng sau khi  không đủ phiếu tín nhiệm làm Hiệu phó trường Trưng Vương những năm trước chắc các đồng chí đã nghe được dư luận. Nhất là chỉ sau vài tháng làm nghiệp vụ, Trưởng phòng phân công cô ấy phụ trách tổ chức, nay lại làm phó phòng thì nhiều người đã lên tiếng, dè bỉu. Một số kẻ ác khẩu thì đồn đại vì cô ấy đẹp, lên bằng “vốn tự có”. Hối như ngồi trên đống kiến lửa sau khi nghe những lời phát ra từ Thắng, đứng bật dậy buông ra một câu nói bâng quơ: - Tôi nghĩ những điều ấy không thuộc phạm trù xét danh hiệu chiến sỹ thi đua của cô Hiến lần này. Lại một cái nhếch mép mỉa mai hiện ra trên miệng Hối. Cái đầu hói của ông ta lại căng lên những mạch xanh, mạch đỏ như muốn vỡ những khi gặp chuyện rắc rối, căng thẳng như thế này.

Biết câu chuyện đã ở thế “cưỡi Hổ”, Thắng càng tỏ ra cứng rắn, anh thủng thẳng dằn mạnh từng tiếng: - Đành rằng tiêu chí quan trọng xét danh hiệu chiến sỹ thi đua phải là thành tích xuất sắc. Nhưng phẩm chất đạo đức vẫn là  tiêu chí số 1. Vì vậy khi có dư luận về phẩm chất, nhân cách của con người ấy, chắc hẳn không thể cho qua, có phải không các đồng chí? Mà chuyện  về cô Hiến không phải chỉ là thế. Thắng trần trừ đánh mắt thăm dò hai vị khách ngồi trước mặt, rồi lại phía tủ, rút ra một tập giấy giơ lên: - Đây là tập đơn của giáo viên tố giác cô Hiến và đồng chí trưởng phòng  về một số vấn đề trù dập, quan hệ, hối lộ trong việc luân chuyển giáo viên đi dạy các xã miền núi và tiếp nhận giáo viên về huyện…

Hai vị khách ngơ ngác nhìn nhau, như không tin vào chuyện ấy là có thật. Thắng lặng lẽ đặt tập giấy trước mặt mình và             tiếp: - cho dù những việc ấy không có thật hay chỉ đúng một vài phần trăm, chắc các đồng chí cũng đồng tình với tôi, chúng ta phải nghiêm túc lắng nghe, nghiên cứu làm rõ thực hư. Việc ấy, tới đây chúng ta sẽ có những buổi làm việc thẳng thắn chân tình. Song do vậy càng thấy việc duyệt danh hiệu chiến sỹ thi đua của cô Hiến thì chưa thể. Tôi nói cái cái lợi chung riêng chính là ở chỗ ấy.

Đến đây Hối linh cảm thấy mình đang bị hắn cho “nốc ao” cú nữa. Mặt Hối tái xám, may nhờ nước da ngăm đen nên không lộ hết cái đau bất ngờ ấy. Hối tự hỏi mình: Ai là kẻ tố giác? Mà tại sao khi Thắng lên Phó chủ tịch mới bục ra những chuyện này! Phải chăng đây là một sự trả thù của Thắng? Đúng là hơn chục năm qua giữa Thắng và mình có nhiều cuộc xô xát về quan điểm, công việc. Sự cứng đầu cứng cổ của hắn đã làm nhiều phen mình bị điêu đứng. Nhất là những khi bàn về đánh giá chuyên môn và tổ chức… may nhờ sự đồng tình của ông anh Chủ tịch huyện, năm ngoái đẩy được hắn sang làm trưởng phòng  Văn hóa nghĩ đã mừng. Ai dè lại tạo cơ hội cho hắn trúng ghế Phó chủ tịch huyện ngon lành đến thế và để bây giờ hắn lại có cơ hội trả thù mình. Thật là chuyện “ngựa tái ông” vẫn còn nhiều trong đời này. Thảo nào, khi hắn trúng ghế Phó chủ tịch, nghe đâu nhiều nhóm giáo viên các trường bạn thân với hắn đã tổ chức ăn mừng ra mặt. Chả những thằng ấy viết đơn tố giác thì  còn ai vào đây… Hối nghĩ và nhớ lại từng hình ảnh những con người ấy, từng sự việc mình đã làm, cả những chuyến đi du lịch cùng Hiến ở trong Nam ngoài Bắc lên ngàn xuống biển như những cuộc lột xác, đổi đời… Hiến quả là đẹp đến mê hồn. Một con người ngồn ngộn lửa tình. Duy cái suối tóc và nước da như trứng gà bóc  của Hiến đã khiến nhiều chàng trai mê mệt… nhưng những chuyện  đó lấy đâu làm quả tang chứng cứ?  Nghĩ thế mà Hối cảm thấy yên lòng. Nhưng nếu không lọt được cửa ải này, đương nhiên việc kế nhiệm chức trưởng phòng của mình sẽ rơi vào tay kẻ khác mà điều ấymình như đã giao kèo với Hiến. Nghĩ vậy Hối càng thêm đau, thêm tiếc cái chức Phó chủ tịch đã tuột khỏi vòng tay một cách quá bất ngờ. Còn những đồng tiền đã bỏ ra chạy chọt cho chức ấy, tuy cũng không thể dễ quên đi, nhưng âu cũng là “mỡ nó rán nó”, “của ruộng đắp bờ”, coi như chả được mà cũng chẳng mất. Trăm triệu là to nhưng cũng thật bé so với những gì mình được hơn chục năm qua. Cái còn lại của cuộc đời sau khi “hạ cánh” cốt làm sao an toàn trên cái “đường băng” đã chuẩn bị sẵn. Đó là khu nhà như biệt thự 5 tầng của mình nhiều người mơ không được, con cái đã sắp chỗ đâu vào đấy cả rồi. Nghĩ thế, Hối tìm đến một “thượng sách”  là bây giờ phải lui, phải đấu dịu với hắn. Hối giả bộ khen Thắng: - mấy nhiệm kỳ trưởng phòng của tôi làm việc với mấy đời Phó chủ tịch huyện, chưa ai như đồng chí, đã nói hết những điều lẽ ra không nên nói trong một buổi làm việc như thế này. Có phải chúng ta vốn là đồng nghiệp có nhiều kỷ niệm đáng nhớ! Tôi xin cảm ơn đồng chí vì sự chân tình ấy.

Thắng bất ngờ với thái độ mềm mỏng xử nhũn hiếm thấy ở Hối khi gặp những cuộc tranh luận kiểu này. Trong thâm tâm, Thắng nghĩ chưa hẳn Hối đã chịu, có thể ông ta còn mẹo gì đây?...

Vin vào câu nói của Hối, Thắng đáp luôn:

- Đồng chí đã nói đến sự chân tình, tôi lại xin tâm sự thêm: Việc đồng chí Hối đã nói với đồng chí Chủ tịch huyện gần đây về việc đề bạt cô Hiến làm trưởng phòng sau khi đồng chí nghỉ hưu, đồng chí Chủ tịch đã tâm sự với tôi. Xem ra danh hiệu chiến sỹ thi đua của cô Hiến ở thời điểm này là bước chuẩn bị cho ý định đó. Vì thế chúng ta càng phải thận trọng. Quần chúng họ tinh lắm. Biết bao con mắt đang nhìn vào chúng ta ở ngoài cuộc họp này, ở những việc ấy. Càng nói Thắng càng đỏ mặt tía tai vì cảm xúc thực sự. Cái cảm xúc vốn thấy ở con người dạy văn của Thắng, cùng với ánh mắt thân tình như chẳng biết giận ai bao giờ của anh, kể cả những khi tranh luận căng thẳng bảo vệ chân lý.

- Hóa ra là thế, Chánh thư ký công đoàn Thỉnh từ nãy ngồi yên như một người quan sát hai con hổ vờn nhau, bỗng cảm thấy có một luồng điện chạy khắp người khi nghe chuyện giật gân ấy. Ấy vậy mà bấy lâu nay Hối vẫn thỉ thỏ với mình: - Tôi nghỉ hưu ngoài anh ra còn ai làm được chức trưởng phòng thay tôi !... tôi đã đôi lần nói với ông anh chủ tịch rồi, ông ấy đồng tình. Vấn đề là chúng ta phải tự thân gắng sức và gìn giữ cho nhau… thế ra “giữ gìn cho nhau” chính là những chuyện như thế này đây! Thật xảo quyệt! Lòng người thật khôn lường!...

Bất chợt, cuộc tiếp xúc sáng nay gợi lên trong Thỉnh suy nghĩ: Sự thay đổi chức quyền ngày nay với một nhân vật có lẽ cũng giống như sao đổi ngôi. Có những ngôi sao, đổi ngôi rồi tắt lịm vào không trung, không bao giờ còn nhìn thấy. Nhưng có những vì sao đổi ngôi lại rực sáng thứ ánh sáng đến lạ kỳ, càng nhìn càng thấy sáng. Và… tại phòng làm việc của Phó Chủ tịch Thắng, Thỉnh đã nhận ra cả hai thứ sao đổi ngôi đó.

Đ.M

Xu

                                   Truyện ngắn của PHẠM NGỌC KIỆM

           Lão biết là cái bản mặt mình không được ưa nhìn lắm, nên rất giữ gìn thường xuyên dùng sữa dưỡng da phụ nữ mỗi sáng, trước khi đến cơ quan. Bây giờ về hưu, thói quen này vẫn không bỏ được, nhưng nước da cũng chẳng cải thiện được mấy, chỉ hơi gọi là trăng trắng hơn ngày xưa tí chút. Nó có màu đáy chảo, mặc áo màu gì cũng không hợp, áo màu sáng thì nước da lại nổi bật với màu quần, thành ra tam khoanh, nếu màu sẫm trông xa xám sịt rất là hãm tài. Người anh tên là Hào, đến lão ông cụ tiện đặt luôn Xu: Trần Tiến Xu. Lão đã nghĩ đến chuyện đổi tên, nhưng thêm dấu, thêm vần gì ở đằng sau cũng không hay hớm hơn được. Âu cũng là số trời, đành chịu. Mồm ai cũng phải co tròn đẩy ra đằng trước một tí khi gọi tên lão. Chỉ khổ cho mấy thằng nhân viên mới biên chế, khi báo, bẩm điều gì với xếp, phải ót miệng để âm thanh phát ra đỡ chua.

Việc đầu tiên khi về hưu là phải làm sân tennit vào khu đất vừa lấn chiếm được. Hai bố con mượn xe cải tiến, xuống lò gạch, mua đống phế thải về đổ bê tông. Lão làm lấy, không thèm thuê thợ. Đường vạch phân ô, đã có sẵn món gạch men, tích được từ hồi lát nền hội trường trung tâm, không cần kẻ vôi hay sơn gì cả.

Lão làm một mâm khánh thành, mời vài ông bạn trong chi hội người cao tuổi đến, tửu nhập ngôn xuất, cái điều lão mong mà không muốn tự mình nói ra, đã được mớm cho một tay lưỡi để ngoài miệng. Cái giọng lè nhè của kẻ say thật đáng gét, bình thường thì lão đã hót ra khỏi cửa, nhưng lúc này thì thật dễ chịu:

- Em là em cứ nói thẳng, bác không nên cho chơi khuyến mại, bao nhiêu công của đổ vào đó... (cái chôn chén lại chổng ngược, kèm theo tiếng khà). Không lấy tiền là thế nào... (đôi đũa như tay cần cẩu cần mẫn, kịp đưa lên miệng miếng đầu cánh, âm thanh của tiếng xương vỡ ròn tan)... cứ lấy bằng thiên hạ, thời buổi kinh tế thị trường... (lại một miếng cánh nữa được cẩu kịp thời)... Chứ bao cấp đâu, thằng nào thối mồm cứ bảo em (lại ráu rau tiếng xương vỡ)...

- Thỉnh thoảng cho các cụ vài tiếng từ thiện, ai còn dám bảo mình thế nọ thế kia nữa (một giọng lè nhè nữa, đế theo)

Những lời nói có cánh, đã được khách dành cho chủ nhà. Ai cũng cố gắng tìm nói điều mà chủ nhà thích. Lão từ chối lấy tấm lòng thơm thảo, nhưng từ đấy, sân ten nít nhà lão đông dần, nhất là bọn choai choai tóc vàng tóc đỏ. Để cầm chân khách, lão thủ sẵn can rượu trắng với bao du lịch, bên nào đánh thắng, lão rót ly gọi là thưởng thành tích, còn bên thua chỉ được điếu thuốc lá. Cà phê, bia, đồ uống tính ngoài, khách tự phục vụ, tự tính tiền, theo niêm yết giá. Hai tay đúc túi quần, đi lại quanh quẩn, nhưng khách nào trả thiếu, là Xu rót ly rượu mời, rỉ tai nhắc nhở. Đôi mắt lươn ti hí đảo nhanh như chớp, không bỏ qua bất kể một tay nào đến quầy để hàng. Xu lắp chiếc camêra thay cho người bán hàng.Chỉ sau một tuần, lão đã phân loại khách đến, có cách đối xử riêng với từng loại người.

 

Ngày nào cũng có thu, thu đều đều. Lão nhẩm tính chỉ trong năm là hoàn lại tiền đổ đất lấn ao làm sân. Ngày nào cũng kiếm, kiếm mà chơi, chơi mà kiếm, hay thật, đúng ngồi mát ăn bát vàng, các cụ nói cấm có bỏ câu nào. Cái chương trình đầu tiên sau khi về hưu đã hoàn tất mĩ mãn, con gà đã bắt đầu đẻ ra quả trứng vàng.

Sau mỗi lần tắt điện, khóa cổng, thọc tay vào túi áo pirama mân mê những tờ giấy bạc thu được sau một ngày, khuôn mặt Xu dãn ra. Lão bốc tiền đưa cho vợ, mắt liếc nhìn những sợi tóc lốm đốm bạc, nơi đỉnh đầu, dấu hiệu chót hết hạn sử dụng của người phụ nữ.

 

Tự nhiên lão cảm thấy xót xa, đến lúc nhàn thì cái thanh xuân cũng hết.

Từ dạo trạm lão phụ trách trở thành trung tâm, con dấu trưởng trạm đổi thành giám đốc, số nhân viên nhiều lên, đi cơ sở liên tục. Những bữa ăn với vợ cũng thưa dần. Em út đưa đi nhà hàng liên tục, hết dê, ngựa, lại bò, chó, lợn cắp nách, cá chiên, nhưng món mà lão khoái khẩu, vẫn là món kê lai chọi độ tuổi thành niên. Cái mồm xưa chuyên nghiền bo bo, nay lên hạng dấn bữa gẩy gẩy gạo dẻo, tám thơm, riết mãi thành quen. Giờ về nghỉ răng lợi cũng có phần yêu yếu, nên cái món chân tay cổ cánh, lão cũng không mộ lắm, chỉ thịt đem kho vừa thì lão vẫn mê. Hưu rồi chẳng còn ai ái mộ, em út cũng lảng dần, vì nó còn phục dịch xếp mới. Lão đã về làm dân, nhưng cái mồm cái miệng đâu có chịu làm dân, buộc lão phải thiết kế chương trình tự cung tự cấp. Dự án gà mò chó dé ra đời từ đây.

Mưu mẹo cộng sự hỗ trợ của đứa cháu làm phó chủ tịch, mà không chiếm được con mương chạy sau nhà.

 

Xu xây bức tường chạy suốt chiều dài, một khu chăn nuôi liên hợp hình thành. Ngăn ra các ô có lỗ, để cho cả gà lẫn chó, có thể chui được từ ngăn nọ sang ngăn kia tự do, có động cựa gì, tự đám lục súc có thể thoát thân được. Mặt tiền Xu dùng lưới B40, vừa thoáng, lại dễ quan sát từ trong nhà, hai lớp phiplôximăng, lợp chịt áp sát lớp rào dây thép, nền đổ bê tông mỏng. Ngồi trong nhà nhìn qua vườn rau, không gì ở khu chuồng trại ngoài tầm mắt cả.

Xu lên mạng xem ngày giờ. Phiên chợ Văn, đích thân lão đi chợ, chọn mua gà và chó. Về thả luôn vào chuồng lấy giờ tốt. Tay chắp sau đít, lão khoan khoái với số tiền lời, so với mua chợ Cầu được những hơn năm mươi ngàn. Nếu không có sự thọc tay vào của mấy thằng lái gà, có lẽ còn được thêm mấy đồng nữa, chó thật.

Hơn tháng đúc ngô xay cám cò, đàn gà nhà Xu trơn lông đỏ da, con nào con nấy nung núc những thịt là thịt. Lão cắt không cho ăn cám cò nữa. Từ nay đến lúc xuất chuồng một lần, phải được hơn hai tạ là cầm chắc. Xu rải thức ăn theo loạt máng đầy, đàn gà vục mỏ vào mổ, Lão thò tay sờ lườn mấy con gà trống, nùng nục đẫm tay, con gà bị Xu luồn tay xuống bụng nhấc lên vẫn mổ ngô canh cách, dễ đến hơn hai kí rồi. Nuôi theo kiểu bóc màu cũng hay, nhẹ nhàng, nhanh ăn. Mỗi lần ra cho gà ăn, nghe tiếng gà cục ta cục tác còn hay hơn nghe mấy bản nhạc vớ vẩn. Xu chùi tay vào quần, rút bao thuốc, cắm một điếu, nhả từng vòng tròn khói vào những tia nắng chiều chiếu qua tán lá xoan. Vài hôm nữa là xuất được rồi. Lại làm thêm trật nữa kế vào đó, cứ kế tiếp nhau, cuối năm là có thể... Gà chọi cũng hay, nhưng tập trung vào món gà thiến, phục vụ cho cầu cúng lễ hội là thắng nhất.

Về quê lão thấy cứ ai làm gì được ăn một chút, là đua nhau làm, đến lúc thất bại, lại thi nhau bỏ. Vậy phải tính ngược lại, khi họ làm ta bỏ, khi họ bỏ ta làm. Xu định nghĩa: Đặc sản quý hiếm là do ít, chứ nhiều thì chả còn quý hiếm nữa. Để độc quyền, thì tất cả mọi kinh nghiệm phải biến thành bí kíp. Người quê thật thà một cách hồn nhiên ngốc ngếch. Ở nhà quê nhiều khi làm chơi ăn thật, mà thắng đậm đằng khác. Lão lại nhả từng cuộn khói vòng tròn lên ngắm nghía. Ngày xưa, Xu phải tập mãi mới có thể ót mồm thành những vòng tròn như vậy được, làm gì cũng phải kì công, nhẫn nại, nhiều khi cả nhẫn tâm nữa. Lão nhớ trong bộ phim Tàu, có nhân vật nói rằng: lương tâm không làm cho người ta giàu có, chỉ có nhẫn tâm mới giúp con người có quyền lực và tiền bạc.

Đợt xuất gà, chó vừa rồi, Xu đút túi dăm triệu, có hơn hai tháng trời. Lão bàn với vợ, chuồng còn rộng, đem toàn bộ số tiền ấy cộng thêm mấy triệu lương hưu, đi các chợ tầm loại sáu bẩy lạng về, dồn khoảng hai tháng xuất tiếp. Lọc món gà sống để lại thiến, để tết bán được giá hơn. Xu để hai ba tải ngô hạt ở dề chuồng, cho ai vào cũng nhìn thấy, còn mấy tải cám cò hắn giấu biến trong bếp.

Cho ăn mới đem ra, đám gà lớn như thổi, hôm nay trông đã khác hôm qua. Lão đem cân thử con nhỏ nhất cũng được cân hai, cân ba. Đợt này phải hơn gấp đôi đợt trước. Xu mua món dây thép gai chăng thêm ba tầng trên mái, bọn kê tặc chỉ còn nước đứng dưới ngậm cười. Sau tết, đói thuốc, bọn nghiện hút xáo đồ ghê quá. Đêm nằm động có tiếng chó là phải bật dậy ngồi rình, bao giờ không còn tiếng động khả nghi nào, Xu mới lại ngủ tiếp.

Tai họa lại không từ phía đó, mà từ những con vi rút H5N1 . Cánh thú y lập chốt kiểm dịch. Lái gà không lấy nữa, mấy trăm con, ăn như rồng hút gió. Cám cò lên giá, ngày đôi bao cứ đi bay. Xu đi ra đi vào sốt ruột, được ba bốn ngày sau, vợ chồng về bên ngoại dự cưới thằng cháu, say rượu không về nổi, đành phải cử thằng út về trông, mãi chiều hôm sau, cả nhà mới về. Bổ ra khu chuồng trại lão cứng người: hầu hết đám gà đều nằm ngon giấc, đầu gác nền xi măng. Những con còn lại ủ rũ, đứng đâu đứng đấy, mào tím tìm tịm. Cả khu hôm trước còn huyên náo thế, mà nay im lìm, không có đến tiếng cục cục. Xu nhặt những con đã chết bỏ bao tải, xẩm tối lén vất xuống sông Hồng. Xót của, cả đêm lão không ngủ nổi, mấy tạ gà đã đến kì xuất chứ có phải ít đâu. Mà không thấy nhà ai kêu bị dịch cả nhỉ? Hay có thằng nào vứt thuốc độc vào, thì mới chết cả loạt như vậy chứ? Nhớ lại mầu tím của mào những con chết, càng nghi ngờ hơn. Thằng nào nhỉ?

Xu bật dậy đi quanh khu trại. Thằng nào có thể ném gì được qua chiều rộng của mái. Chỉ đứng từ đằng sau, tuồn vào chuồng, qua chiều cong phiplôximăng. Chỉ thằng hàng xóm? Nhà nó cũng có gà, sao không nghe thấy kêu chết nhỉ? Mấy con gà trống nhà nó, vẫn đua nhau gáy rinh ran. Phải chơi lại mới được. Lão tính toán phục thù, phải kiếm được con gà chết vì dịch, ném sang vườn nhà nó, dùng chiến tranh vi trùng, có phát hiện ra cũng quá muộn.

Không ổn, phải cho cả chó nhà nó cùng chết nữa. Mấy con chó nhà ấy, cứ béo nung núc, đẹp như tranh vẽ, trông mà ghét. Nghĩ là làm, Xu nhặt hai con gà chết đem vào bếp, băm nhỏ thành từng mảnh, tưới thêm ít thuốc sâu dạng nước, không mùi. Lão cho vào mầu hót rác, hất tung tóe sang vườn hàng xóm. Xu lau dọn trong bếp, rửa tay, lên giường, lúc đó là ba giờ ba mươi phút sáng. Lão chìm vào giấc ngủ một cách hoan hỉ thỏa mãn.

Hơn tám giờ Xu mới dậy, đang trên đường ra chợ thì lão trưởng khu kéo tay: “Bác theo em, cho xem cái này hay lắm”. Không để cho Xu kịp từ chối, trưởng khu cứ xềnh xệch, lôi lão vào nhà hàng xóm. Mặt Xu tái đi, khi thấy những chiếc lông gà, bị chặt thành những đoạn nhỏ, rơi thành vệt từ bên ấy sang bên này.

Mất chức

          Truyện ngắn của Nguyễn Hựu

          Nhà ông giáo Thiện ở mảnh đất ven làng dài, nhưng hẹp. Lúc ông đang nhiệm bà trồng rau, mùa nào thức nấy, quanh năm có tiền tiêu. Lúc về hưu ông phá rau trồng hồng xiêm. Mua phải giống rởm, không có quả, ông chặt bỏ trồng táo. Táo sai trĩu trịt nhưng chẳng biết dơi, chuột, chim chóc từ đâu kéo về, ăn ngày, ăn đêm từ lúc quả bằng hạt xoan, đến lúc chín chỉ còn hạt rơi đầy gốc. Bà phàn nàn, ông chặt táo trồng tre. Bà tròn mắt: “Ai trồng tre đất này?” Ông giải thích: “Đây là tre Bát Độ, trồng lấy măng, không ăn măng thì lấy tre làm vật liệu xây dựng, lá bán cho người ta làm nón, làm bánh nẳng...

cành gọn tha hồ cho bà đun nấu, chẳng sợ mất mùa, chẳng sợ con gì ăn mất...” Bà biết vậy, vài người làng hiếu sự ghé tai nhau: “Đất phù sa màu mỡ thế này mà trồng tre, đúng là giáo dở!”. Nhưng cái dở nào mà chẳng có một chút hay, hay là mấy hôm nắng hạn, nóng cứ như đổ lửa, lại liên tục mất điện. Khu dân cư giữa làng nhà ở san sát, chuồng trâu, chuồng bò, chuồng gà, chuồng lợn...

đến tường rào, đường cái, tất tật đều là gạch, ngói, xi măng cứ nóng hầm hập như là bị rang trong chảo. Các cháu nhỏ rôm sảy mọc đầy người, như vầng cơm cháy, quấy khóc đến khản cổ. Các bà, các mẹ cứ tay quạt, tay xoa mà nào chúng có nằm yên? Lại thêm cái mùi nồng nặc từ các chuồng trại phả ra không thể chịu nổi. Họ kéo nhau ra đoạn đường bê tông trước cửa nhà ông Thiện, có bóng tre trong vườn trùm ra mát suốt ngày. Lại có mương nước chảy qua, cộng với làn gió từ cánh đồng thoảng vào cứ như là ngồi trên bãi biển. Người đem chiếu, người đem ni lông trải khắp đoạn đường, nằm, ngồi la liệt, không chỉ các buổi trưa mà nhất là các tối mất điện lại càng đông. Họ nằm ngồi đến mười một, mười hai giờ đêm có điện mới về ngủ. Nhiều cháu nhầng nhầng cứ ngủ luôn qua đêm.

Một trưa nghe tiếng bà Lương nói trong nhà ông giáo: “Tôi tưởng cậu càng ngày càng khá, ai ngờ ngày càng bệ rạc! Đâu có khó khăn thiếu thốn như cái ngày tôi nuôi cậu ăn học, cậu không nghĩ đến danh dự nhân phẩm... cậu không chỉ là nhà giáo, cậu còn làm được thơ, viết được truyện in báo, in sách...

cao sang là thế mà lại đi làm cái việc hạ đẳng, sao không trông các ông, các bà cùng trà, cùng hội, lúc thì com lê, áo dài đến các câu lạc bộ thơ ca, đàn hát, lúc lại quần áo thể thao vai đeo vợt đến sân chơi cầu lông, bóng bàn, tập dưỡng sinh mà học, lại cứ hùng hục để đến nỗi mất chức mất quyền, thân bại danh liệt...

hỏi có còn cái nhục nào hơn thế nữa không? Bố mẹ ở nơi chín suối tưởng tôi không nuôi được cậu ăn học nên người, tôi còn mặt mũi nào mà gặp tổ tiên lúc xuôi tay nhắm mắt? Hay mợ ấy bắt cậu phải làm, cậu cứ nói để tôi cho mợ ấy một mẻ, đàn ông mà hốt vợ thì...” Bà khóc.

Cánh trẻ ngồi ngoài đường nghe bà chị nói em nhao nhao: “Sao bà Lương lại nặng lời với ông giáo thế nhỉ? Mà không thấy ông giáo nói gì? Đúng là giặc bên Ngô... - Bà Thiện mà có nhà thì nội chiến là cái chắc” - “Nghe đâu hồi con gái, bà ấy đi chợ tề, vào cả bốt với thằng Tây lùn...”. Im lặng một lát, một bà lão cất tiếng: “Đừng nói thế, oan cho người ta mà phải tội! Cả vùng này, ai mà không sợ nó như sợ hung thần? Bà Lương là người nết na xinh đẹp, lại có công với em bởi người cha đi hoạt động cách mạng rồi xung phong Nam tiến ngay sau cách mạng tháng Tám và hy sinh ở trong đó. Lúc ông Thiện mới bảy tuổi, kém chị năm tuổi.

Một trưa mùa hè vào năm bốn bảy, nghe có tiếng nổ là lạ, dân làng chạy cả ra bờ sông nhìn lên trời, thấy một vật lạ, to kềnh càng màu ánh bạc ngược dòng sông bay tới. Một tiếng kêu thất thanh: “Tàu bay! Tàu bay! Tàu càng! Tàu càng!”. Tất cả nhảy xuống giao thông hào đào dọc bờ sông, tiêu thổ kháng chiến. Nhiều người khiếp sợ nằm úp cả mặt xuống đất không dám nhìn lên. Chiếc tàu càng bay là là sát mặt nước, ghịt bờ sông. Con chó nhà ông Thiện thấy lạ lao ra, sủa vang, đuổi theo chiếc tàu càng. Đuổi được một đoạn nghe có tiếng đạn nổ. Con chó nhảy dựng lên, ngã vật ra, chết không kịp giãy. Cũng lúc ấy trong nhà ông Thiện có tiếng kêu khóc. Mọi người chạy vào, thấy chị em ông Thiện ôm mẹ nằm trên một vũng máu. Mọi người hô nhau đi tìm lá nhọ nồi đắp cầm máu. Bỗng bà mẹ mở mắt thều thào: “Con cố nuôi em ăn học...” rồi đầu nghẹo sang một bên, tắt thở! Chị em mồ côi song thân từ đấy.

Ba tháng sau, quân giặc tràn lên, bà Lương đặt em ngồi trên lưng con bò, ôm cái váy buộc túm hai đầu đựng gia tài dắt nhau đi tản cư vào các làng ở chân núi. Chị em cho người dân mượn bò cày, bừa và đi theo cuốc bờ, bốc cỏ kiếm bữa no bữa đói. Ông Thiện lúc ấy còi cọc thấp bé nhưng theo chị không bỏ buổi nào. Sau khi giặc Pháp lập xong đồn bốt trên phòng tuyến sông Đà, làng mình thành vành đai trắng. Giặc thường xuyên hành quân qua lại trên cả hai tuyến đường thuỷ, bộ từ Trung Hà lên La Phù, Tu Vũ đến tận thị xã Hoà Bình. Dân làng ở mãi trong rừng, lương thực ngày càng cạn kiệt: “Chạy mãi lấy gì mà ăn”. Nghĩ vậy mọi người rủ nhau đêm đêm về làng sản xuất, lấy cái ăn và đóng góp cho kháng chiến. Chị em Thiện cũng về theo vừa làm ruộng vừa mò cua, bắt ốc, tìm trứng cò, trứng vạc trong rừng sậy sống qua ngày. Vào đầu năm 51, nghe nói bên Ba Vì, Sơn Tây mở lớp học cho con em cán bộ kháng chiến, Lương vượt sông sang xin học cho em. Một lần mang gạo cho em trở về đến lối rẽ xuống bến đò, thằng Tây lùn nấp trong bãi dâu nhìn thấy cô gái phổng phao xinh đẹp đi một mình nó nhảy ra kéo vào ruộng dâu. Cô gái chống cự quyết liệt, cắn chảy máu tay con thú dâm mà nó không chịu buông còn đánh cô gái đến chết ngất. Lúc tỉnh lại cô chạy ào xuống sông định tự tử. Nước sông trong vắt lạnh giá thấu vào da thịt làm cô bình tĩnh trở lại. Nghĩ đến lời mẹ dặn nghĩ đến em, cô không nỡ chết. Lương thất thểu đi lên lều của bà lão bơi đò rét run cầm cập. Bà lão đốt lửa cho cô sưởi, hong khô quần áo mới cho qua sông. Từ đó Lương trở nên lầm lũi như cái bóng. Nhiều lần cô giắt cái kéo vào bọc, theo người đi chợ tề, mong gặp thằng Tây lùn, sống chết một phen, nhưng không gặp.

Đến khi miền Bắc hoà bình, các chàng trai từ chiến trường trở về, nhiều người đến với cô, cô một mực từ chối, nên người ta mới đổ tiếng xấu cho. Thiện thương chị vất vả cũng thôi học, về làng mở lớp dạy lũ trẻ và thanh toán nạn mù chữ cho bà con. Anh trở thành giáo viên, vốn sáng dạ, lại chịu khó vừa dạy, vừa học thêm. Khi giặc Mỹ bắn phá ra miền Bắc, anh đã hàm thụ xong cấp hai, tình nguyện nhập ngũ, nhưng không đủ sức khoẻ, xin đi thanh niên xung phong vừa lao động, vừa dạy bổ túc cho anh em. Đất nước thống nhất, anh được cử đi học ra dạy cấp ba, rồi trở thành hiệu trưởng nhà trường. Thầy Thiện đã vận dụng tốt phương châm giáo dục của Đảng, tổ chức cho thầy và trò trồng được mấy hec ta cây sơn lấy nhựa, nuôi bèo hoa dâu làm phân, nung vôi khử chua đồng ruộng, lại trồng tre bao quanh cả một quả đồi mấy héc ta cây chè, nuôi bò, làm ruộng tăng

 

 sản...

 

mà tốt nghiệp hàng năm vẫn ở tốp đầu của tỉnh. Trường trở thành đơn vị tiên tiến xuất sắc, các tổ chuyên môn đều được công nhận là tổ lao động XHCN. Thầy được bầu là CSTĐ của ngành hàng chục năm liền, cho đến lúc về hưu. Ai cũng bảo số thầy Thiện sướng. Tuy mồ côi nhưng lúc bé thì có chị lo liệu, sau có vợ - hai người đàn bà hết lòng yêu thương chăm sóc hơn nhiều người đầy đủ mẹ cha...

 

Năm Bắc Nam thống nhất, bà Lương đã tuổi tứ tuần, ông Thiện đã vợ con đề huề, công thành danh toại chẳng còn lí do gì để ở nhà nữa, bà mới chịu làm bạn với ông thương binh ở làng bên, mong có đứa con nương tựa lúc tuổi già, khỏi phải phiền đến em, đến cháu. Nhưng không có con vì bị thằng Tây lùn đổ bệnh. Rồi người chồng chết, giờ chỉ còn trông cậy vào em, vào cháu. Bà có những nỗi đau riêng”.

Bà cụ vừa nói đến đây thì bà Thiện khệ nệ bưng ra xoong nước chè xanh, hương gừng ngào ngạt tuế toá: “Chẳng mấy khi nắng nôi, lại mất điện, các cụ và bà con mới ra đây có nồi nước xin mời các cụ, xin mời bà con!”. Bà múc nước đưa cho từng người. Một thanh niên mạnh dạn:

“Cháu hỏi chẳng phải, ông nhà ta làm gì mà mất chức mất quyền, để bà Lương phàn nàn thế ạ?”. Bà Thiện thật thà: “Chả giấu gì các cụ và bà con, chung quy chỉ tại cái vườn tre này. Chỉ phân hoá học thôi, không được, mà phải có bùn ao và phân chuồng mới cho nhiều măng. Mấy năm đầu mỗi năm mua mấy ô tô, mà phân trâu bò thải đầy đường. Tiếc của tôi mang xẻng ra hót ông ấy không cho làm lại lấy hai cái sọt buộc vào xe đạp. Sáng sáng dậy sớm làm vài động tác thể dục, rồi dắt xe đi hót dọc đường, đến các bãi chăn thả... có hôm ba, bốn xe. Tôi và các cháu ái ngại, cản ngăn thế nào cũng không được, cứ mê say hùng hục suốt cả ngày, buông việc nọ, bắt việc kia, không lúc nào chịu ngồi yên...

 

Đêm đến, lại ngồi hì hục viết. Nói chán không được, tôi đành chịu! Một lần, nghe một ông trong hội cựu giáo chức nói: “Thấy ông ấy là hiệu trưởng cấp 3 chúng mình mới tín nhiệm, nhưng xem ra không kiểu gì. Chủ tịch gì mà suốt ngày đi hót phân, còn gì là danh dự nhà giáo nữa, mà có nghèo túng gì cho cam, các con đều đã phương trưởng. Người đi công nhân, người ở nhà cũng làm trưởng khu dân cư. Ai cũng có nhà cửa, cháu con đề huề, có ai quấy rầy đâu. Ông ấy có lương, bà ấy có ruộng, vậy mà còn tham. Khoá tới ta cho nghỉ”. Nghe được, tôi về nói lại, ông ấy gắt: “Chẳng thấy ai nói, chỉ thấy mẹ con bà?” Tôi đành im. Hôm sắp đại hội, tôi lựa lời: “Mình cao tuổi rồi, hay khoá này xin nghỉ để người trẻ người ta làm!” Ông ấy im lặng. Tôi tưởng nghe ra, ai ngờ hôm duyệt nhân sự, các bác lãnh đạo động viên, cả nể ông ấy lại ứng cử. Chẳng biết do thương tình già cả mà cho nghỉ, hay sợ mất danh dự mà người ta không bầu nên trượt, về nằm dài mấy ngày. Tôi phải dẫn dụ mãi”. Một người chen ngang: “Đến ông nọ bà kia, quyền lợi đầy mình, không trúng cũng phải chịu nữa là cái chức chủ tịch hội cựu giáo chức, lương bổng chẳng có, chỉ “hữu danh vô thực”, béo bở gì mà tiếc” -”Không trúng càng hay, hai cụ cứ chăm sóc vườn tre, măng nhiều, tán rộng, chúng cháu nương nhờ cái bóng, là ích làng, lợi nhà, buồn làm gì cho tổn thọ”. Bà Thiện thở dài: “Nhà tôi buồn vì mất chức thì ít, mà buồn vì chủ quan, không ngờ thì nhiều, sắp xuống lỗ mà chẳng trót đời, còn đeo cái tiếng “tham quyền cố vị”, “cố đấm ăn xôi”. Còn vườn măng cũng có được là bao, mỗi năm được mươi triệu bạc đâu có bằng mọi người trồng trên đất cát bờ ngòi, bờ sông mỗi sào mỗi năm có đến hai chục triệu ấy chứ. Giá nghe tôi làm cái quán tôi bán nước, ông ấy sửa xe mỗi ngày cũng được vài chục, lúc rỗi ngồi mà làm thơ, viết truyện mỗi cái được đăng có đến bạc trăm chứ đâu có ít, lại không nghe, cứ “già lừa ưa nặng”, nên bà chị nói có bao giờ dám cãi, làm tôi cũng bị nghi oan. Còn như các ông quyền cao chức trọng mà tham lam, không vì dân vì nước, dân không bầu thì nói làm gì. Đằng này chỉ vì cái tội hót phân cho sạch đường, tốt vườn mà mất mới ức!”. Ông Thiện từ trong nhà tay xách ấm nhôm trắng đi ra: “Chào các cụ chào bà con? Mời bà con nào không dùng được nước chè, có nước đun sôi để lạnh đây, uống cho mát!” Mọi người đều ngượng bởi đem chuyện của ông giáo bình phẩm. Một trò cũ mạnh dạn: “Xin thầy thứ lỗi, chúng em vừa nói vụng về chuyện của thầy...” Ông Thiện chân thành: “Có gì mà vụng với trộm, chuyện giữa làng tôi đã nghe được cả. Xin cảm ơn thiện ý của mọi người? Tôi thì nghĩ: mất mát nào cũng là đáng tiếc, nhất là mất chức, mất quyền, bởi đa phần nhân dân hoặc người cùng hội, cùng giới không còn tin yêu, tín nhiệm mình nữa, buồn cũng là phải. Tuy tôi không bỏ bê công tác, không tham ô, lãng phí tiền của tập thể, nhưng lại đi hót phân ở đường cái, ở các bãi chăn thả cũng là lấy của công, cũng là tham, lại không cùng các ông, các bà ngày ngày đi sinh hoạt thơ ca, thể dục lại tập một mình, sáng tác một mình, cũng là không hội nhập. Như thế là: “Không tật nọ, cũng nết kia” mất cũng phải. Có điều đây là thất bại đầu tiên trong đời nên lúc đầu cũng có hơi choáng váng, giờ thì ổn rồi, mong bà con thông cảm!”. Ông nở nụ cười ngường ngượng. Tất cả im lặng, một cụ tuổi cao chậm rãi: “ông giáo khiêm tốn nói vậy chứ không đi giao lưu hàng ngày, vẫn sáng tác, vẫn tự tập, dành thời giờ lao động tăng thu nhập, có tiền ủng hộ các cuộc vận động gấp hai, gấp ba người khác, lại vẫn giữ được bản chất người nông dân...

 

chúng tôi phục lắm! Trong khi không ít, những người nông dân thực thụ lại thuê người dọn phân ở nhà mình, bán cho người Hoà Bình mua về trồng mía, mua toàn phân hoá học bón ruộng! Cho nên chân lý không phải bao giờ cũng thuộc về số đông, tôi nói thế có phải không ông giáo?”. Mọi người vỗ tay hoan hô, không biết là hoan hô ông Thiện hay là lời nói chí lí của ông cụ.

N.H

Gan Hai Bạo

                       Truyện ngắn của Trần Như Đắc

        Bây giờ thì Hai Bạo đã trở thành ông chủ. Một ông chủ mới nổi lên ở cái làng Mực nghèo xác nghèo xơ này. Hai Bạo có dáng cao to, lại hồng hào khỏe mạnh, ăn to nói lớn, càng ra dáng ông chủ lắm. Gia tài của vợ chồng Bạo có một tòa nhà ba tầng ở giữa phố làng, tầng một bán bách hóa, tạp phẩm đủ từ cái kim sợi chỉ đến đường, rượu bia, bánh kẹo, nước mắm Chin su, bột giặt Ô mô, dầu gội đầu Rejoice cao cấp… tầng hai là nơi hú hí của vợ chồng, còn tầng ba là thế giới của hai cậu con trai quý tử. Hai Bạo còn có một trang trại rộng tới mười hec ta, trên trồng cây, dưới là ao thả cá, lại còn một đàn dê ngót trăm con, kêu be be suốt ngày đến là vui tai, vui mắt. Công việc nhiều nên vợ chồng Hai Bạo phải thuê người làm. ở nhà thì thuê cái út Hoa, con nhà Minh cụt, vừa phụ bán hàng vừa dọn dẹp nhà cửa, lo cơm nước, ở trại thì thuê hẳn vợ chồng nhà Lâm dọn, trông coi thường xuyên, thỉnh thoảng còn thuê thêm người trồng cây, đánh cá. Nhà Bạo  lại hay tổ chức liên hoan, có đủ khách của Bạo là mấy anh bạn đồng ngũ, hồi còn ở đơn vị xe tăng thiết giáp, chú Lý trưởng thôn, anh Hùng công an xã. Đúng là phú quý sinh lễ nghĩa có khác, có buổi họ nhắc lại cái thuở hàn vi của Hai Bạo rồi cười rung cả quán. Thì có xa xôi gì đâu, mới chưa đầy mười năm, cái năm Hai Bạo xuất ngũ, đầu đội mũ cối, chân giày vải, vai khoác ba lô lộn…

*

*   *

Về đến nhà, nhìn cái cơ ngơi của bố mẹ mà ngán ngẩm, nhà tre vách đất, vườn chuối xác xơ, te tướp, bụi tre kẽo kẹt như ai nghiến răng than vãn, con chó già ve vẩy cái đuôi lười nhác, đàn gà con lăn xả vào chân mẹ tranh nhau tìm mồi…

Còn mấy đồng bạc, Bạo ra quán bia hơi giữa làng, định làm mấy vại để tiêu sầu. Hóa ra chủ quán bia là cô Tý ở xóm Trại. Tý đon đả mời chào:

- ái chà! Anh Hai Bạo về rồi đấy à? Lính xe tăng có khác trông to con quá nhỉ?

Thì Hai Bạo thừa hưởng cái gien to cao của ông bố Tư Báo, cũng vì to khỏe nên mới được tuyển vào lính xe tăng. Ba năm trong quân ngũ, được nuôi dưỡng tốt, rèn luyện nhiều nên anh càng đĩnh đạc. Thấy cô Tý vui vẻ lại được khen nịnh, Bạo cũng thấy vui. Anh làm một hơi bia rồi ngắm nhìn cô gái. Chà, mới xa có mấy năm mà cô Tý đã khác hẳn, không phải là cái Tý bé bang con bà Bèo, nghèo nhất xóm hồi nào. Tý bây giờ phổng phao, đầy đặn, phải nói là đẹp gợi cảm, bộ ngực to, nhưng gọn, núng nính trong làn áo phông bó sát người, mông cũng to, nhưng lưng eo lại nhỏ và cặp đùi dế thì dài, da trắng hồng, lấp ló trong tà váy xẻ. Tý mang thêm đĩa lạc luộc và hỏi trống không:

- Có hút thuốc không?

Bạo phảy tay:

- Không cần, chỉ cần bia thôi, cho vại nữa nhé!

Tý lại cười:

- Tốt, thuốc hại phổi, còn bia thì nên uống.

Bạo nháy mắt:

- Vậy thì uống với anh một vại nào

- Xong ngay - Tý mang hai vại bia đến, chạm cốc vào nhau, rồi đưa Bạo một cốc:

- Chúc mừng người trở về, trăm phần trăm nhé

Tý làm một hơi cạn vại bia, dốc ngược cốc lên, nhìn Bạo vẻ thách thức. Bạo từ từ uống cạn vại bia, rồi đặt mạnh cốc xuống bàn, vẻ thỏa mãn:

- Đã quá! Lấy bia ở đâu mà ngon thế?

Mới gặp lại mà đã có thiện cảm, nếu không có khách đến chắc họ còn ngồi với nhau nữa.

ít lâu sau cả làng Mực rộ lên tin, Hai Bạo sắp lấy Tý. Họ hàng anh em nhà Bạo xúm lại khuyên can anh, ông chú nói thẳng:

- Mày lấy ai không lấy, lại định lấy cái con cave mắt xanh mỏ đỏ ấy à?. Làng này thiếu gì đứa tử tế, mày có phải loại đui què mẻ sứt gì mà lấy nó.

Bạo cũng thẳng thừng nói với chú:

- Việc của cháu, chú cứ để mặc cháu. Mắt xanh mỏ đỏ thì càng đẹp chứ sao, nếu cháu có đui què mẻ sứt thì người ta cũng… ẻo vào.

- A, thằng này láo! Mày không nghe cha chú, thì tao cũng mặc thây mày! Có điều, mày mà lấy cái con cave đó thì tao sẽ từ mày, không có chú cháu gì nữa hết.

Bạo lấy Tý thật. Đám cưới anh đúng là ông chú bà thím không thèm đến. Nhưng thanh niên, phụ nữ làng thì đến đông, lại có cả mấy chục cậu đồng ngũ lính xe tăng đến dự, hát váng lên bài hát tủ của họ:

“Năm anh em trên một chiếc xe tăng

Như năm bông hoa nở cùng một cội

Như năm ngón tay trên một bàn tay

Đã xung trận cả năm người như một…

Hà… há á á á…

Đêm tân hôn tất nhiên vẫn ở nhà chồng. Trước ngày cưới, Bạo nhìn cái buồng nhỏ bé trong ngôi nhà xập xệ của bố mẹ mà lo, nó tối mò, hôi hám. Giường chiếu, chăn màn chẳng ra làm sao. Nhưng Tý thì vẫn cười vui “Anh cứ yên, cứ để đấy cho em”. Rồi cô cho người đến dọn dẹp, trang hoàng, mang đến cả giường, đệm, chăn, gối. Thợ điện đến mắc đèn sáng, đèn mờ đủ cả. Mùi nước hoa cao cấp thơm dịu ngây ngất. Tý bảo “Vợ chồng quan trọng nhất là cái giường, cái giường mà tốt thì hạnh phúc”, rồi cô hát đùa “Này bà Lý toét ơi, con tôi lấy con bà, hai đứa nó cùng yêu nhau, sắm cho nó một cái giường…”. Bạo phì cười, anh ôm ghì lấy Tý, hôn như hút lấy đôi môi mền ấm, ngòn ngọt, rồi hôn xuống cổ, xuống ngực, … Anh định liều lĩnh làm tới nữa thì Tý khẽ đẩy anh ra:

- Gớm lính xe tăng xung trận có khác, để đến tối, ngoài kia người ta đang nhìn vào kia kìa. Bạo đành phải buông tay. Mãi đến tận đêm tân hôn anh mới được mãn nguyện. Đêm ấy, người Bạo nóng rực lên, anh định ôm lấy mà ngấu nghiến cho thỏa cơn thèm khát, nhưng Tý mỉm cười, đưa anh một cốc nước màu vàng chanh, khẽ nói:

- Anh cứ từ từ, bây giờ em đã là của anh uống cốc này cho khỏe đã. Cốc nước mát đã làm anh bình tĩnh lại, anh nhẹ nhàng kéo Tý vào lòng, bàn tay anh vuốt ve đôi má, bờ vai, tấm lưng thon lẳn. Tý rúc mặt vào bộ ngực trần vạm vỡ của Bạo mà hít hà, hai cánh tay cô cũng ôm riết lấy thân hình anh. Hai người cùng nhận cùng cho nhau, âu yếm, nồng nàn cho đến lúc sức nóng của hai thân thể đã hòa quyện với nhau, hai trái tim đập rộn rã, không thể dừng được nữa, họ đã đi tới thiên đường, đê mê, mụ mị. Sau lúc cao trào, người như căng cứng lại, Bạo mệt xoài nhưng mãn nguyện, anh chìm vào giấc ngủ ngon lành bên cạnh vợ.

Tý nhỏm dậy, nhìn chồng ngủ say sưa như một đứa trẻ vô tư. Tự nhiên giọt nước mắt từ từ lăn trên má. Cô không ngờ hạnh phúc lại đến với cô ngọt ngào như vậy. Thực ra trước đêm tân hôn cô rất lo sợ, một nỗi lo sợ mơ hồ. Tý đã nghe chuyện những người chồng, và gia đình nhà chồng thường kiểm tra trinh tiết của vợ, của nàng dâu vào đêm tân hôn và không ít trường hợp, sau đêm đó nhiều cuộc hôn nhân đã tan vỡ. Với Tý, nếu chỉ cần ngườn tinh ý sẽ biết cô là như thế nào. Thế mà Bạo chẳng hề có ý gì, lại ngủ ngon lành vô tư, mãn nguyện thế kia. Tý thấy yêu chồng thêm biết ngần nào, tình yêu thêm cả lòng biết ơn, kính trọng. Cô xót xa nghĩ lại quãng đời đã qua lầm lỗi, đớn đau…

Tý vốn là con nhà nghèo, bà Bèo, mẹ Tý đặt tên con gái là Tý vì đẻ nó vào năm chuột. Là con nhà nghèo nhưng Tý lại ưa sạch sẽ, gọn gàng, âu đó cũng là cái nết của con gái đẹp. Năm 15 tuổi, học lớp 9, Tý như bông hoa hàm tiếu, các nét đẹp dần dần hé lộ. Dịp hè năm ấy, Tý xin mẹ lên thị xã chơi nhà dì Bọt. ở trên phố, nhà nào biết nhà ấy, chẳng ai đến với ai.  ở nhà dì thỉnh thoảng có ông Mạnh, bạn của chồng dì đến chơi. Ông này có vẻ giàu, nhưng vui tính, trông thấy Tý, ông khen luôn: - Chị Bọt có cô cháu gái xinh quá nhỉ! Tý cho đó là câu nói vui nên cũng không để ý. Một hôm nhân ông chú dượng muốn mượn xem tờ báo “An ninh Thế giới”, có bài báo gì hay lắm, liền bảo Tý sang nhà ông Mạnh lấy hộ. Đến nhà ông Mạnh, Tý thấy nhà ông ta thật to và đẹp, trong nhà chẳng thiếu thứ gì. Tòa nhà 5 tầng, bao nhiêu là phòng mà chỉ thấy có một mình ông Mạnh.

- Bác gái và các con bác đang đi du lịch miền Nam, bác bận việc công ty không đi được. Ông Mạnh giải thích. Ông mở đĩa hình cho Tý xem, để trước mặt Tý một đĩa hoa quả, bảo ngồi chờ để ông đi lấy báo. Đĩa hình đang chiếu phim “đồng tiền xương máu” hay quá, Tý mải xem, không biết ông Mạnh đã đến ngồi cạnh từ bao giờ. Từ người ông tỏa ra một mùi thơm thật dễ chịu, ông đưa Tý một hộp sữa Vinamilk đã cắm sẵn ống hút “Uống đi cháu! Sữa để tủ lạnh, mát lắm”. Tý uống từng ngụm sữa ngon lành, ông Mạnh như vô tình đặt tay lên vai Tý, kéo nhẹ về mình. Mắt Tý vẫn dán lên màn hình và tự nhiên cũng xích lại gần ông. Bàn tay ông Mạnh vuốt đi vuốt lại bờ vai và cánh tay Tý, Tý thấy buồn buồn, mỉm cười bâng quơ. Bỗng ông Mạnh đỡ lấy mặt Tý, nói xuýt xoa “Trông cháu xinh quá!” Rồi rất tự nhiên, ông cúi xuống hôn lên môi Tý. Một cảm giác lạ lùng đến với cô bé 15 tuổi, cô thấy mặt nóng bỏng, nửa lo sợ nửa thinh thích, nên chẳng có phản ứng gì. Ông Mạnh bế hẳn Tý ngồi trên đùi, ngả người em ra và cuồng nhiệt hôn lên môi, lên cổ, rồi ông áp cả bộ mặt lên bộ ngực non tơ của cô bé. Vừa lúc ấy trên màn hình có tiếng động mạnh, ông Mạnh giật mình buông vội Tý ra. Tý thẫn thờ đứng dậy, cầm tờ báo mang về nhà.

Từ hôm ấy như có ma ám, thỉnh thoảng Tý lại sang nhà ông Mạnh, ông bà Bọt chẳng hay biết gì, cứ tưởng cháu sang xem đĩa hình nên không để ý. Lần nào sang ông Mạnh cũng mở tivi cho Tý xem, cho Tý ăn đủ thứ ngon vật lạ và tất nhiên ông cũng được ôm ấp, hôn hít thoải mái. Gần hết hè, vợ con ông Mạnh đi du lịch về thì cũng là lúc Tý phải về quê chuẩn bị năm học mới. Chuyện quan hệ giữa Tý với ông Mạnh kín như bưng, chẳng ai hay biết. Cứ tưởng thời gian và khoảng cách sẽ làm chấm dứt cái quan hệ quái gở đó và thực sự nó đã qua đi được ba năm. Thời gian đó Tý cũng lên thị xã chơi nhà dì mấy lần nhưng đều vào dịp vợ con ông Mạnh ở nhà hoặc ông Mạnh đi làm vắng. Mới hay những chuyện không tốt nhiều khi do hoàn cảnh tạo nên.

Nhưng thật trớ trêu, vào cái năm Tý học năm cuối cùng phổ thông trung học, vừa tròn mười tám tuổi, cái tuổi vừa tròn đầy của con gái, Tý càng xinh đẹp. Thi tốt nghiệp xong, Tý lên thị xã ôn thi đại học và lại ở nhà dì Bọt, lại đúng dịp hè. Vợ con ông Mạnh năm nay du lịch lên Sa Pa. Ông Mạnh ở nhà một mình, đến nhà bà Bọt chơi, gặp Tý ông reo vui:

Chà! Cháu càng lớn càng xinh, lúc nào sang chơi bác nhé, bác có mấy cái đĩa hình mới hay lắm, sang mà xem. Tý đã định không đi đâu cả, tập trung vào học ôn, nhưng không hiểu sao, nhiều buổi Tý thẫn thờ không học được. Cảm giác những lần gặp ông Mạnh cứ gọi về. Tý đã có nhiều bạn trai, nhiều đứa yêu thầm nhớ vụng, nhưng chưa đứa nào dám cầm tay chứ chưa nói đến vuốt tóc, sờ vai, cho nên ông Mạnh vẫn là người đàn ông đầu tiên chạm đến những miền nhạy cảm của con gái. Ông Mạnh đã bước vào tuổi già, bằng tuổi cha nó, nhưng chắc là do ông ta có quyền chức, ăn ngon mặc đẹp nên trông vẫn còn phong độ lắm, ông ta lại thành thạo nữa, hiểu biết tâm lý đàn bà, ông không thô bạo, không nóng vội, cứ như con cáo già dụ dỗ thỏ non.

Thế cho nên, nhân một buổi nghỉ luyện thi, Tý đã tiện chân bấm chuông nhà ông Mạnh. Ông Mạnh ra mở cửa trong bộ pijama thơm nức. Vừa khép cửa ông đã ôm chầm lấy Tý “Ôi, nhớ quá!” Tý không kịp phản ứng gì và hình như cũng không muốn phản ứng, cô buông xuôi để mặc ông Mạnh bế thốc lên, vào buồng.

Kỳ thi đại học năm ấy Tý bị trượt. Tý lại lên thị xã ở nhà dì Bọt để tìm việc làm. Ông Mạnh đến chơi thấy vẻ mặt ủ rũ của Tý ông thấy ân hận, thấy phần trách nhiệm của mình. Thực ra ông là người chồng, người cha tốt trong gia đình, hết mực chăm sóc thương yêu vợ con. Nhưng vì tính đàn ông ham của lạ, lại gặp hoàn cảnh thuận lợi nên ông mới đổ đốn ra thế, làm hại cuộc đời một cô gái đẹp. Biết lỗi thì đã muộn. Ông bảo bà Bọt cho Tý vào làm ở công ty của ông. Làm tạp vụ thôi vì Tý chưa có chuyên môn gì cả, rồi ông sẽ tính sau. Làm tạp vụ nhưng ông phải trả lương cũng khá, thỉnh thoảng lại cho thêm. Vì vậy sau một thời gian tích lũy được cái vốn khá, Tý xin ra mở cửa hàng riêng. Ông Mạnh cũng thấy phải, ông tặng Tý một khoản tiền lớn.

Người ta bảo có gan mới làm giàu được. Thì Hai Bạo gan lắm. Việc lấy Tý cũng là có gan, ai cũng sợ Tý là ca ve, là gái đĩ, nhưng Bạo chỉ thấy Tý đẹp, Tý giỏi, Tý có nhiều tiền. Trên đời này không có tiền thì chẳng làm ăn gì được, sức vóc như Bạo có chăng chỉ làm đủ đút mồm. Lấy Bạo, Tý cũng mãn nguyện, vì Bạo khỏe, làm việc gì cũng băng băng mà chuyện chăn gối thì hết chê, vì thế mà hai người rất tâm đầu ý hợp, giá có muốn tát cạn biển Đông họ cũng làm được. Sau đám cưới vợ chồng bàn chuyện làm ăn, Tý bảo “anh nghĩ đi, nghĩ xem làm gì ra được nhiều tiền thì làm, em sẽ lo vốn bao nhiêu cũng sẽ có…”. Bạo nghĩ nát óc, cuối cùng mới nói “Muốn làm giàu phải mạnh bạo, phải có cách đi riêng của mình, anh định lập trang trại nuôi…  lợn rừng”, Tý nhìn Bạo ngạc nhiên, như không tin ở tai mình, cô nhắc lại “Nuôi… lợn rừng?”. Thấy vợ nghi ngờ, Bạo nhắc lại dứt khoát “Phải, nuôi lợn rừng”, Bạo quài tay lên đầu giường lấy ra một tờ báo, anh giở tới trang hai rồi đọc to “… Nhiều năm nay, năm nào gia định cựu chiến binh Hà Văn Cầu, ở xã Tân Phú cũng có trong chuồng hàng chục con lợn, cả lợn thịt và lợn giống, trong đó có cả giống bố mẹ lợn rừng và lợn rừng con để cung cấp con giống cho bà con trong vùng phát triển chăn nuôi lợn rừng lai…” . Bạo nói thêm “Hà Văn Cầu chính là bạn đồng ngũ của anh, là thương binh 4/4 thế mà nay là tỷ phú rồi, mình phải lên Tân Phú gặp hắn mới được, hắn giàu chính là nhờ cái món lợn rừng này đây”. Tý cầm tờ báo lên xem rồi nhìn chồng, cô mỉm cười “Được, chồng em giỏi lắm, thế mới xứng tên Hai Bạo chứ”.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro