Truyen ngan chon loc-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

GẶT LÚA NON

Cách đây vài ba năm. Lão ta không biết từ đâu đến lánh cư ở cái vùng chó ăn đá gà ăn muối, đèo heo hút gió nầy. Đây là vùng đất khó biến sỏi đá thành cơm, nằm sát lằn ranh biên giới giữa Dak Mil thuộc tỉnh Đắc Lắc và Senmonurum bên Cam Bốt.... Từ cái chòi tranh vách đất của lão ta, cách chân núi Rlúc không xa lắm, lão có thể nhìn thấy dãy núi Nam Lia sừng sững ở bên kia biên giới. Lão sống cô độc một mình ở đây, không vợ con, không  anh em giữa khu rừng già thâm u. Làm bạn với lão chỉ con chó vện rất khôn. Thỉnh thoảng, hắn âm thầm vượt qua bên kia biên giới trong bóng đêm như một bóng ma. Biến mất vài ngày, rồi lão lặng lẽ trở về. Và lần nào cũng vậy, lão đều có mang theo chiến lợi phẩm trộm được ở bên kia biên giới, khi thì vài con trâu, con bò, có khi cả một đàn dê...Lão lùa gia súc đi dọc theo con đường liên tỉnh số 14 để vào các buôn làng người Rađê để buôn bán đổi chác. Đồng bào thiểu số Rađê có khoảng trên trăm ngàn, hầu hết sống trên cao nguyên Đắc Lắc. Nhưng riêng tại vùng nầy, họ sống rải rác thành từng buôn với những dãy nhà sàn cất dọc theo nguồn nước do những con suối từ thác Drây Hơ Linh chảy về. Có dãy nhà sàn dài cả trăm thước, bên trong được ngăn ra cho từng tiểu gia đình ở. Ngoài cái nghề săn bắn ra, dân làng còn trồng rẫy, trồng cây cà phê...họ còn trồng lúa, nên rất cần đến con trâu, con bò để cày bừa.Vì vậy, bao nhiêu trâu bò hắn mang về đây, tiêu thụ thật dễ dàng. Lão dùng gia súc đổi lấy mật gấu, thú rừng, da thú, xương cọp...để chở ra Buôn Ma Thuột bán cho các lái buôn.

Lão khoái nhất là rượu cần của người Rađê cất bằng nếp thơm. Mỗi lần vít cong cái cần trúc xuống, kê môi hút một hơi dài là lão tê tái cả tâm hồn lãng tử, và lần nào hắn cũng không quên mang cả ché về nhà để nhậu cho đã đời.

Cái vẻ độc ác hình như hiện rõ trên gương mặt của lão. Cho nên, mỗi lần thấy lão xuất hiện ở đầu buôn làng là bọn trẻ con đều chạy trốn dưới dãy nhà sàn, lấm lét nhìn theo lão. Mà thật vậy, đôi mắt cú vọ của lão lúc nào cũng đỏ ngầu, gương mặt rám nắng chằng chịt mấy vết sẹo, cái dọc, cái ngang, cái cạn, cái sâu... nên trông lão rất có cô hồn. Khi di chuyển khỏi địa bàn của lão, cái mũ lưỡi trai không bao giờ rời khỏi cái đầu của hắn, cái vành mũ luôn luôn nghiêng về bên phải như cố che đậy cái vành tai bị ai đó chém văng đi hết hai phần ba. Lão chỉ mặc có mỗi một bộ phân phục bằng vải ka ki Nam Định đã bạc màu sương gió. Nhìn lão, ai cũng biết lão xuất thân từ quân đội nhân dân anh hùng. Tuy đã trên lục tuần, nhưng tay chân của lão vẫn còn lanh lẹ. Không một ai biết tên thật của lão, chỉ nghe già làng Hơ Ma Rinh gọi lão là “Lão Đại” vì cái vóc dáng khá cao lớn của lão ta.

Đầu năm vừa qua. Lão Đại biến đi về phía bên kia biên giới. Bẵng đi một thời gian khá lâu, người ta cứ tưởng lão đã chết bờ chết bụi ở một xó xỉnh nào đó bên Cam Bốt. Nào ngờ lần nầy, lão ta đi xa hơn, xuống tận thủ đô Nam Vang, lần mò đến khu  nhà thổ “đèn đỏ” ở làng Toul Kork, một nơi mà hệ thống tội phạm lạm dụng, xâm phạm tình dục trẻ em dưới tuổi vị thành niên được phát triển mạnh mẻ tại xứ Chùa Tháp. Thấy Lão Đại ăn mặc quân phục xềnh xoàng, Vân Hồng - mụ chủ chứa - đón khách tìm hoa với thái độ không niềm nở lắm. Mụ hất hàm, hỏi trổng cho có lệ:

- “Mời đồng chí ngồi sơi nước ạ! Sao, đồng chí muốn “chíp hôi” hay “khui thùng” đây?”

Lão ngẩn ngơ, hỏi:

- “Chíp hôi là gì? Khui thùng là gì nhỉ? Giá đồng hạng cả chứ?”

Mụ tú bà tru tréo:

- “Ối giời ơi! Đồng hạng thế nào được chứ! “Chíp hôi” là mấy con bé đã vào nghề rồi, tuổi từ 14 trở lên. Còn “Khui thùng” là chưa bán trinh đó, bố à!”

- “À, thì ra là thế!” lão cười, hỏi. “Tớ chỉ cần một cô bé “chíp hôi” tuổi từ 14 hoặc 15 là được rồi.”

- “Đồng chí muốn trả bằng tiền Hồ hay đô la đấy nhỉ?”

Lão Đại hỏi, giọng cộc lốc:

- “Bằng vàng được chứ?”

- “Được, giá mỗi lần phục vụ tới bến là một khoẻn vàng 24 nhé! Giá thông cảm rồi đấy đồng chí ạ!”

- “Cho xem mặt hàng trước, rồi giá cả tính sau!”

Mụ ta gật đầu, rồi chu cái mõ tô son đỏ lòm như màu “cờ đỏ” về phía đám bé gái tuổi choai choai đang ngồi chồm hỗm trước cái TV đặt ở một gốc nhà, chăm chú theo dõi một chương trình ca nhạc kịch rẻ tiền của đài Hà Nội trong khi chờ đợi mụ tú bà gọi đi khách:

- “Con Lý đâu rồi?”

Một cô bé với gương mặt còn ngây thơ, đôi má bầu bĩnh trông khá dễ thương, tuổi trạc 15, uể oải đứng dậy, hỏi:

- “Mama San gọi con?”

- “Phải, lại đây cho khách coi mắt đấy!” mụ quay sang Lão Đại, cười vuốt ve, nói. “Cũng nhờ ơn bác Hồ và Đảng ta có công giải phóng Miền Nam Việt Nam, đánh cho “Mỹ cút, Ngụy nhào” mà chị em chúng tôi “gặt lúa non” trúng mùa, giàu to rồi đồng chí ơi!”

- “Cái gì gọi là “gặt lúa non”? Tôi không hiểu gì cả!”

Vừa lúc đó, một chiếc xe van màu xám dừng ngay trước cửa nhà chứa. Tên tài xế và một tên bảo vệ mở cửa, nhảy xuống xe. Chúng đảo cặp mắt tinh ranh quan sát chung quanh khu vực nhà thổ, trước khi bước vội vào nhà. Tên bảo vệ, xem chừng là sĩ quan trong ngành công an hay bộ đội gì đó. Hắn cúi đầu chào mụ tú bà, miệng bô bô nói:

- “Vất vả lắm mới đưa hàng đầy chất lượng, còn “gin” chưa khui thùng, qua giao cho bà chủ đấy nhé!”

Mụ tú bà Vân Hồng mặt hớn hở, ra lệnh:

- “Lùa tất cả vào trong nhà đi! Chị khẩn trương vỗ béo chúng nó vài ngày, chuẩn bị cho khách “sộp” khui thùng!”

Tên cán bảo vệ hất hàm, nhìn tên tài xế, nói:

- “Mi ra mở cửa xe, dẫn tất cả chúng nó vào đây trình diện bà chủ. Nhanh lên nào!”

Một lát sau, khoảng 15 bé gái mặt còn non choẹt, tuổi từ 10 đến 12 tuổi bước vào nhà, đứng thành hàng ngang, lấm lét nhìn mụ tú bà. Vân Hồng nhìn Lão Đại, nói một cách hãnh diện:

- “Chúng là loại “lúa non” thượng hạng đấy, đồng chí ạ!”

Lão Đại nhìn qua một lượt, lắc đầu, nói:

- “Tớ chỉ muốn chuộc con bé tên Lý nầy đấy!”

Mụ Vân Hồng chưng hửng, hỏi lại cho chắc ăn, vì sợ mình nghe nhầm:

- “Đồng chí muốn chuộc con bé Lý ra khỏi nhà chứa ấy à?”

Lão Đại trả lời, giọng chắc nịch:

- “Phải, ra giá đi, tớ bằng lòng chuộc nó mà!”

Vân Hồng nhìn lão như dò xét, rồi nói:

- “Giá hữu nghị, chỉ xin đồng chí 5 cây vàng thôi!”

Lão Đại tru tréo:

- “Ối giời ôi! Gía hữu nghị gì mà đắc thế nhỉ? Bớt xuống vài cây đi nào!”

Mụ Vân Hồng nói:

- “Thôi được, nghĩ tình đồng chí có công với cách mạng! Chắc giá 4 cây, không bớt một phân!”

Lão Đại tiếp tục, trả giá:

- “Thôi, 3 cây nhé!”

- “Trả giá gì mà bèo thế! Nhích lên một tí đi chứ! Đồng chí tìm đâu ra một con bé thơm như múi mít, với giá rẻ như nó chứ!” mụ lên tiếng gọi một tên ma cô. “Thằng Dũng Thọt đâu rồi, đem hết “tít kê” của con Lý trong tháng vừa qua cho tao xem.”

Một lát sau, Dũng Thọt tay cầm một xấp “tít kê” màu xanh xanh, chống gậy đi tới, đưa cho bà chủ. Mụ Vân Hồng giới thiệu thành tích hắn với Lão Đại, luôn tiện để dằn mặt lão ta:

- “Thiếu úy Dũng nguyên là “đặc công thủy” đánh trận bị thương. Nó tình nguyện về phục vụ cho tôi, chuyên trừng trị những con bé cứng đầu, cứng cổ không phục tùng nội qui của nhà chứa. Và đây là “tít kê” của con Lý làm trong tháng qua. Trung bình mỗi ngày, nó tiếp 2 lượt khách ngoại, hái ra trên 800 đô cho tôi.”

Lão Đại cầm ly nước mát ực một hơi, rồi lạnh lùng nói: “Tôi chỉ có chừng đó thôi và cái nầy.” Bất ngờ, Lão Đại móc trong túi quần ra một quả lựu đạn, tay trái rút chốt an toàn, bỏ vào trong cái ly, rồi dằn mạnh xuống bàn một cái cộp, tên tài xế hoảng vía, kéo tên bảo vệ chạy vèo ra xe. Còn mụ tú bà sợ đến thất sắc, giục Dũng Thọt:

- “Mau đưa mấy con bé nầy xuống hầm đi. Nhanh lên, chúng nó chết là tao cụt vốn,” rồi mụ ta lấm lét nhìn Lão Đại xuống giọng. “Thôi được, tôi chịu giá 3 cây vàng. Rõ khổ thì thôi!”

Lão Đại chìa ba cây vàng, đưa cho mụ Vân Hồng, rồi nhìn bé Lý nói:

- “Kể từ hôm nay, mầy thuộc quyền sở hữu của tao. Mau thu xếp quần áo rồi rời ngay đây với tao.”

Lý ấp úng, hỏi:

- “Ông định bán tôi cho động nào nữa đây?”

Lão Đại trấn an, nói:

- “Tao đưa mầy về Việt Nam, chớ không bán cho động nào hết!”

- “Trở về Việt Nam!” Lý mừng rú lên, chạy bay vào trong buồng, gom góp vài ba bộ quần áo, theo Lão Đại rời khỏi chốn thanh lâu hắc ám nầy ngay lập tức.

Khi Lão Đại dẫn bé Lý đi rồi, mụ tú bà Vân Hồng mới hoàn hồn, lật đật cho kiểm tra chất lượng của 3 cây vàng, mới phát giác chỉ có một cây là vàng thật, còn trái lựu đạn cũng là giả nốt, thứ đồ chơi của con nít thì đã quá muộn. Lão Đại đã dẫn Lý cao bay xa chạy rồi...

                                                         *

Một tháng sau đó. Lão Đại dẫn Lý lù lù trở về sào huyệt của hắn, tiếp tục đi theo con đường cũ là đi “trộm trâu”. Mỗi lần vớt được gia súc bên kia biên giới, lão ta đều dẫn Lý theo vào buôn làng để buôn bán đổi chác. Lão rất hãnh diện giới thiệu với người Rađê nàng là vợ lão. Tội nghiệp Lý, sau một cuộc hành trình gian khổ bằng đường bộ, băng rừng, vượt suối, leo núi, trèo đèo từ Cam Bốt về đến nơi nầy làm thân thể Lý gầy gò như que tăm vì mất ăn, mất ngủ. Tưởng trở về Việt Nam là được đoàn tụ với gia đình; nào ngờ, lão ta đưa Lý về đây để làm một con đầy tớ không công, vừa làm nô lệ tình dục cho lão. Mỗi lần nghe lão giới thiệu nàng với dân làng là nàng cúi gầm mặt xuống đất, không dám nhìn thẳng vào mặt ai vì mặc cảm xấu hổ. Nàng cố dấu che thân phận của mình, xuất thân từ gái lầu xanh.

Sống chẳng bao lâu bên cạnh lão già nát rượu, cộc cằn thô lỗ, nếu lão không đi ăn trộm trâu thì ban ngày nằm nhà uống rượu say sưa, la hét từ sáng đến tối. Ngoài cái việc bất đắc dĩ phải lên giường, khi nào lão cần tới cái việc đó...Nàng phải lo hầu hạ cơm nước, gánh nước, chẻ củi. Còn lão cứ ngồi phè ra nút rượu cần.

Mặc dù lũ chó sói thường hay kéo về khu rừng nầy vào lúc ban đêm, nhưng nàng cũng tính nước liều, bằng giá nào cũng phải trốn khỏi cái địa ngục trần gian nầy. Một đêm nọ, thừa lúc Lão Đại ngủ say như chết. Giữa đêm khuya, nàng chuồn ra cửa sau, chạy một mạch thẳng vào trong rừng, nhắm hướng ra đường số 14 để đón xe về Buôn Ma Thuột; nhưng chẳng may, nàng chạy lạc hướng. Ngày hôm sau, lão dắt con vện đi theo dấu chân mới tóm được nàng. Đi rừng là nghề của lão ta nhờ quá trình phục vụ trong lực lượng vũ trang cách mạng: “Đánh Mỹ cứu nước”.

Vừa về đến nhà, lão lột hết quần áo của nàng, rồi dùng dây rừng trói nàng dưới gốc cây sao. Lão ta dùng roi tre quất nàng túi bụi  một cách tàn nhẫn. Lý vừa ngất đi, lão dội nước cho nàng tỉnh lại, rồi tiếp tục quất tới tấp. Vừa đánh, lão vừa đay nghiến:

- “Tao đã bỏ công khó nhọc ngày đêm, lặn lội tới khu nhà thổ Toul Kork ở Nam Vang, dùng trăm mưu ngàn kế để cứu mầy ra khỏi nơi hắc ám đó,” lão phùng mang trợn mắt, nghiến răng trèo trẹo, thét. “Còn ở đây, mầy chỉ có phục vụ có mỗi một mình tao, không sướng hơn ở Toul Kork sao chớ hả? Mầy trả lời tao đi!”

Nàng vẫn kiên cường, cắn răng chịu đựng sự đau đớn tột cùng của thể xác, bởi những lằn roi xé thịt mà không thèm trả lời, làm lão điên tiết lên. Lão Đại giở giọng, hăm dọa:

- “Được rồi! Ngày mai, tao sẽ dẫn mầy trở lại Nam Vang. Bán mầy cho các động mãi dâm ở Svaypart cho mầy bị mấy thằng mắt xanh, mũi lõ dày vò như cái nùi giẽ rách cho mầy biết thân. Rượu thưởng không uống, muốn uống rượu phạt!”

Lão ta đã đánh động đúng tâm lý của nàng. Lão vừa nói dứt lời là Lý đã khóc lóc, van xin:

- “Xin đừng bán tôi cho mấy động mãi dâm ở Nam Vang nữa. Tôi sợ cái địa ngục đó lắm rồi,” nàng chấp nhận số phận hẩm hiu, hứa. “Tôi bằng lòng ở đây với ông suốt kiếp. Tôi không bỏ trốn nữa đâu, ông ơi!”

- “Đấy, tự mầy hứa với ông rồi đó nhé!” hắn nhếch mép cười nham hiểm, tiếp. “Mầy bỏ trốn một lần nữa, tao mà bắt lại được là tao cắt gân chân của mầy đấy nhé!”

Thế rồi, mùa hè năm nay, Tây Nguyên  lâm vào nạn hạn hán kéo dài thật thê thảm. Các tỉnh Lâm Đồng, Gia Lai - Kontum...và riêng tại Đắc Lắc, cả người kinh lẫn đồng bào Thượng phải vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt để cứu lấy nương rẫy của mình. Mặt đất khô cằn, nức nẻ dưới ánh nắng mặt trời nóng như thiêu đốt và những cơn gió Lào nóng hừng hực như thổi lửa. Cỏ dại còn mọc không nổi, đừng nói chi đến cây lúa, cây cà phê...

Cái giếng trước cái chòi của Lão Đại, nằm cạnh bìa rừng, bốc hơi cạn dần chỉ còn một lớp bùn sền sệt dưới đáy, giờ thì đã khô cằn. Lão phải đánh xe trâu đi ngược lên mạn trên, cách đấy mươi cây số để lấy nước từ các nguồn suối chở về. Và càng ngày, lão càng phải đánh xe trâu đi xe hơn vì các dòng suối nhỏ cũng cạn kiệt, lòng suối chỉ còn trơ lại sỏi đá.

Vào một đêm trăng sáng. Nàng chống cái phên cửa sổ, ngồi bó gối, nhìn ra ngoài sân. Mặt trăng tròn và sáng đã vượt khỏi đỉnh núi Nam Lia từ lúc nào. Ánh trăng sáng vằng vặc xuyên qua màn sương đêm trắng đục, tràn ngập cả khu rừng, len qua những cành cây kẽ lá, luồn qua khung cửa sổ, tràn vào trong chòi tranh. Thỉnh thoảng, tiếng chó rừng động cỡn, tru lên từng hồi sau bìa rừng nghe rờn rợn. Trời bỗng dưng nổi gió làm khu rừng xào xạc lá, đánh thức đàn chim rừng dậy tổ kêu ríu rít, gợi nhớ trong lòng Lý những kỹ niệm êm đềm của tuổi ấu thơ bên dòng sông Ba Lai; bỗng dưng, nàng nhớ tía má, nhớ sân chim Vàm Hồ, rồi nàng gục đầu xuống gối khóc thút thít, vì sợ lão thức giấc là nàng lại no đòn.

Cách đây 15 năm. Nàng mở mắt chào đời ở xã Mỹ Hòa, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, quê hương “Đồng khởi”. Tía má nàng đều là công nhân của nông trường mía Quyết Thắng bên dòng sông Ba Lai. Nơi đó có cánh rừng chà là, mọc đan nhau với đước, bốn mùa xanh tươi như tấm thảm xanh mượt mà. Hàng vạn chim cò, vạc, còng cọc, gà nước, vịt trời...từ cồn Ốc, cồn Nhạn bay về xây tổ, tiếp tục sanh sôi nẩy nở từ đời nầy sang đời khác tạo thành sân chim Vàm Hồ. Nàng còn nhớ, vào những chiều gió lộng là bình minh hôm sau, tía má chèo xuồng đưa nàng len lỏi vào khu rừng nầy để lượm trứng chim. Đến năm nàng lên 12 tuổi, tía nàng qua đời vì bệnh lao phổi ngặt nghèo, không tiền thang thuốc. Nghe nói, trong thời kỳ chiến tranh “Chống Mỹ cứu nước”, tía nàng được phong tặng danh hiệu anh hùng: “Dũng sĩ diệt Mỹ”. Trong trận Ấp Bắc gì đó, tía nàng đã anh dũng dùng mã tấu chọi với may bay lên thẳng của “Đế quốc Mỹ”, may mà tía nàng chỉ bị bắn què một chân. Ấy vậy, mà khi tía nàng qua đời, má chẳng có có tiền mua nỗi một cái hòm để liệm xác chồng. Má nàng phải dùng một manh chiếu rách bó xác chồng, đem chôn tại “Nghĩa trang liệt sĩ” ở huyện Ba Tri.

Thế rồi một hôm. Có một tên bộ đội thuộc “Quân đội nhân dân” tìm đến căn nhà lá ọp ẹp của mẹ con nàng bên dòng sông Ba Lai. Hắn tự nhận là đồng chí với tía nàng, cái bớt chàm màu xanh bên má trái của hắn, đã gây thành một ấn tượng trong trí nhớ non nớt của nàng. Vừa thấy nàng đi cấy mướn về, hắn bèn đề nghị giúp đở gia đình bằng cách đưa nàng về thành Hồ, học làm người mẫu để có tương lai hơn. Mẹ nàng quê mùa chất phát, nghe lời ngon, tiếng ngọt của hắn nên ưng thuận liền và bằng lòng để hắn đưa nàng về thành Hồ; mặc dù, lúc đó nàng chỉ còn là một cô bé hơ hớ mới có 12 tuổi đầu. Trước khi đi, hắn biếu má một khoẻn vàng y, tạm sinh sống chờ nàng đi làm người mẫu gởi tiền về.

Nhưng khi, vừa đặt chân tới thành Hồ đầy cạm bẫy, hắn móc ngoặc ngay lập tức với một tên tài phiệt người Đài Loan, bán trinh tiết của nàng với giá 300 đô để hắn xả vận xui. Đêm đó, thân xác bé bỏng của nàng bị tên Tàu Đài Loan mập như cái thùng phuy hành hạ, dày vò nàng như một món đồ chơi, rồi cưỡng hiếp nàng nhiều lần cho đến khi nàng ngất xỉu. Vài ngày sau đó, hắn dẫn nàng qua cửa khẩu Tịnh Biên, Châu Đốc để vào Nam Vang, bán nàng cho một đường dây buôn bán trẻ em do mụ tú bà Ngọc Hằng làm tài phán cho vũ trường Casa ở Nam Vang với giá 250 đô. Và từ đó, nàng bị cưỡng ép làm gái mãi dâm, bắt đầu từ vũ trường Casa, rồi trôi dạt dần về đến khu đèn đỏ Toul Kork...

                                                            *

Trời vừa tờ mờ sáng. Cái chòi của hắn có người đến đập cái phên cửa ầm ầm làm Lão Đại thức giấc, bảo nàng ra mở cửa. Vừa thấy cái vết chàm màu xanh bên má trái của người khách lạ. Nàng rụng rời tay chân, sững sốt, nói:

- “Là mầy!”

Hắn nghe nàng nói cũng giật mình, hỏi lại:

- “Cô biết tôi?”

Một thoáng ngỡ ngàng vì bất ngờ đối diện với oan gia, nàng lấy lại bình tỉnh ngay, nói:

- “Xin lổi, tôi nhìn lầm người quen thân.”

Còn Lão Đại thấy hắn mặc quân phục, lưng đeo ba lô trông cồm cộm, lão lật đật vén mùng đứng dậy, bước ra cửa, vồn vã hỏi:

- “Đồng chí ở đơn vị nào đến nơi nầy vậy?”

- “Sư đoàn 316,” hắn nói. “Nhưng, đã phục viên rồi!”

- “Có phải Sư đoàn 316 có nhiệm vụ tiến công vào Hậu Nghĩa trong chiến dịch Hồ Chí Minh không?”

- “Đúng rồi đấy! Sao bác biết rành mạch thế nhỉ?”

- “Vì Sư đoàn 316 cũng là đơn vị của tớ mà. Lúc đó, tớ đang nằm tại Dầu Tiếng làm lực lượng trừ bị,” Lão Đại cười toe toét, nói. “Chúng mình cùng là đồng chí với nhau cả mà! Mời đồng chí vào nhà sơi nước ạ!”

Lão quay qua bảo Lý:

- “Mau đi lấy nước mời khách.”

Nàng đi rồi, lão mới hỏi hắn:

- “Đồng chí đi ngang qua vùng nầy làm gì?” không đợi hắn trả lời, lão nhe răng cười, nói. “Buôn thuốc phiện hay buôn gái đấy!”

Hắn thản nhiên cười, nói:

- “Không, tớ chỉ đi lạc đường thôi! Định vào Đắc Song, nhưng đi lạc vào đây, làm phiền đồng chí cho tớ hỏi đường: Từ đây ra đường Liên tỉnh số 14 còn xa không?”

Vừa lúc đó, nàng bưng hai ly nước mát ra. Lão nói lảng sang chuyện khác:

- “À nầy, đồng chí tên là gì nhỉ?”

- “Cứ gọi tôi là Hiến Chàm được rồi,” hắn hỏi. “Thế còn đồng chí?”

- “Gọi tôi là Lão Đại được rồi,” lão đẩy ly nước về phía Hiến Chàm, nói. “Mời đồng chí sơi nước ạ!”

Lão cầm ly nước ực một hơi, rồi bắt đầu than thở:

- “Thời đại gì mà lắm thiên tai thế! Hết bão lụt đến hạn hán. Nước uống cũng phải mua mới có. Một khối nước cũng gần 30.000 đồng chớ có rẻ đâu. Dân làng nầy phải vất vả đi tìm nguồn nước, chắt chiu từng thùng để cứu cây cà phê, hoa màu...”

Lão Đại cứ tha hồ nói, còn Hiến Chàm chỉ ừ hử qua loa cho có lệ. Cặp mắt của hắn cứ láo liên, hướng về cái chõng tre kê sát vách, nhìn trộm nàng đang ngồi khâu mấy cái áo rách. Lý cố tình quên cài mấy cái khuy áo bà ba để lộ cặp nhũ hoa no tròn, hớ hênh một cách trữ tình. Hắn nghĩ thầm trong bụng: “Con bé nầy trông xinh đáo để đấy chứ!’ rồi hắn tính nhẩm: “Mình dụ nó theo mình ra chợ tình ở cửa khẩu Móng Cái, bán cho “mẹ mìn” Lã thị, cũng được dăm ba triệu chớ không tệ!” Rồi bất chợt, hắn đột ngột hỏi Lão Đại:

- “Cô bé đó là con hay cháu của đồng chí đấy?” hắn chặc lưỡi, khen nức nở. “Nàng quả là đóa hoa rừng tuyệt sắc. Nếu đồng chí tin tưởng, giao cô ấy cho tôi dẫn ra Hà Nội, theo học một khóa huấn luyện, biểu diễn thời trang nóng bỏng, chẳng bao lâu  cô sẽ trở thành người mẫu nổi tiếng.”

Lão Đại mặt đỏ gay, nói:

- “Ơ hay, đồng chí ăn nói hay nhỉ!” lão xẵng giọng. “Nhà tôi đấy đồng chí ạ!”

Hiến  Chàm chưng hửng, há hốc mồm kinh ngạc, rồi nhanh chóng thay đổi thái độ, thích ứng với hoàn cảnh. Hắn bật cười ha hả, vỗ vai Lão Đại mấy cái, nói:

- “Chúc mừng đồng chí! Già như đồng chí mà còn “gân” thật nay nhé!”

Lão Đại là người từng trải chốn giang hồ, nhìn ánh mắt đầy dục vọng của Hiến Chàm lúc liếc trộm nàng, lão đã đi dép râu vào bụng hắn rồi. Nhưng, lão chú ý vào mục tiêu khác, đó là cái ba lô có trọng lượng trên lưng hắn, rồi tự hỏi: “Cái vật gì cồm cộm ở trong ba lô của nó nhỉ?” rồi lão tự phán đoán: “Nếu không là tiền, cũng là vàng cây hoặc vàng đen (á phiện), mà có thể là cả mấy thứ đó!” Lão đang nghĩ cách giết Hiến Chàm để đoạt của.

Còn Hiến Chàm thì sao? Hắn cũng đâu phải là tay vừa. Hắn đang nghĩ cách chiếm đoạt nàng. Trước hết, phải tìm cách nấn ná ở lại đây vài ngày trước đã, để có thời gian dụ dỗ nàng, bỏ thằng chồng già khú nầy. Hắn làm bộ than thở:

- “Không dấu gì đồng chí, đôi chân của tôi bị bông gân vì vấp phải dây rừng, ngã xuống hố đêm qua,” hắn giả vờ cúi xuống đất, xoa bóp bàn chân, miệng xuýt xoa. “Đau nhức chết đi được! Đồng chí cho phép tôi ở nán lại đây vài ngày chửa thương, được không ạ?”

Lão Đại nghe hắn nói, cười thầm trong bụng: “Mầy muốn nán lại đây vài ngày để chim vợ tao đấy à! Mầy muốn chết, tao xử đẹp với mầy!” Nhưng, Lão Đại tinh ma làm bộ chần chừ, miễn cưỡng, nói:

- “Được, nhưng chỉ vài ba ngày thôi nhé!” lão trở giọng, cười thật vui vẻ thân mật, nói. “Chúng mình cùng là đồng chí với nhau mà lị!”

Còn nàng Lý thì sao? Từ nãy giờ, nàng có khâu vá gì đâu, chỉ chú tâm theo dõi câu chuyện giữa Lão Đại và Hiến Chàm. Và nàng đang nghĩ cách, giết cả hai tên khốn kiếp nầy để trả thù: “Phải làm thế nào cho hai con hổ dữ sinh tử đấu với nhau một trận. Nhất định sẽ một con chết, một con bị trọng thương. Chừng đó, nàng sẽ ra tay diệt gọn...”

Và cuộc chiến âm thầm diễn ra khốc liệt trong căn chòi nhỏ nầy. Một cuộc đấu trí bất tương xứng giữa con chim non và hai con cáo già đầy những thủ đoạn tàn khốc  lọc lừa giết hại lẫn nhau, đạt cho bằng được tham vọng của mình. Một tên vì gái đẹp, một tên vì tiền và một nàng vì muốn trả thù những kẻ đã phá hoại đời nàng. Nhìn cách Lão Đại xuất chiêu thì biết lão đang vận dụng “Mỹ nhân kế” để đưa đồng chí Hiến Chàm vào tử địa để hạ độc thủ. Còn nàng “tương kế tựu kế” giăng bẫy chờ hai con mồi sa lưới để hạ độc chiêu...

Sáng sớm hôm sau. Lão Đại bảo nàng luộc mấy củ sắn để cho lão đãi khách quí lở đường. Ăn qua loa mấy củ sắn. Lão Đại tìm cách đẩy Hiến Chàm ra ngoài sân để bày mưu tính kế với nàng. Lão bảo hắn:

- “Này, nhờ đồng chí bổ củi dùm nhà tôi, để thổi cơm trưa đãi đồng chí đấy nhé!” lão chỉ ra ngoài sân, nói. “Đống củi khô chất dưới gốc cây dầu ở đằng kia kìa!”

Hiến Chàm hỏi:

- “Đồng chí cho tôi mượn cây rìu đi chứ!”

Lão Đại nói:

- “Cây rìu tôi dựng bên cạnh gốc cây dầu đấy!”

Hiến Chàm vất cái ba lô lên vai, bước ra ngoài. Hắn lúc nào cũng cẩn thận, người đâu của đó cho chắc ăn, làm lão càng nổi lòng tham. Chờ hắn đi rồi, lão khép cánh cửa lại, nói nhỏ vừa đủ cho hai người nghe:

- “Mầy có thấy cái ba lô của thằng đó không? Lúc nào nó cũng mang kè kè trên lưng. Nếu tao đoán không lầm, vàng bạc không ít trong cái ba lô nầy,” lão chặc lưỡi. “Ước gì, tao có số của cải nầy để bỏ nghề ăn trộm trâu, rồi đưa mầy về thành phố sống cho an nhàn tấm thân. Vả lại, tuổi tao đã cao rồi, tay chân bắt đầu chậm chạp; rủi ro, chạy không kịp thì bị tụi Miên chém cho, không còn cái đầu đội nón! Mầy nghĩ sao? Có kế gì giúp tao thanh toán thằng Hiến Chàm không?” Nhưng, trong lòng lão lại nghĩ khác. Lão ước gì có số tiền đó để kinh doanh cái nghề tuy thất đức, nhưng hái ra tiền. Đó là cái nghề “gặt lúa non”!

Nàng hững hờ, đáp:

- ‘Thì ông tìm cách giết nó đi! Chuyện đó đối với ông dễ quá mà!”

Lão hỏi:

- “Nhưng giết nó bằng cách nào đây?”

Nàng chỉ cái giếng ngoài bìa rừng, nói:

- “Cái giếng cạn ngoài kia đó!”

- “À, mầy muốn tao xô nó xuống cái giếng cạn đó chứ gì, phải vậy không?”

- “Ông biết rồi, còn phải hỏi.”

Lão kêu trời như bọng:

- “Ối giời ơi! Nó còn trẻ và khỏe thế kia, làm sao tao xô nó xuống giếng cho nổi. Không chừng, người rớt xuống giếng không phải là nó mà là chính tao đấy, mầy ạ!”

- “Thì phải thử mới biết chớ!”

Rồi nàng thì thầm nhỏ to bên tai lão, làm lão khoái chí cười híp cả mắt. Lão khen nàng nức nở:

- “Tao không ngờ mầy cũng giỏi thật đấy chứ!” lão nói. “Được rồi, sáng ngày mai tao sẽ đánh xe trâu đi lấy nước, rồi ghé buôn làng tìm dụng cụ cần thiết cho mầy.”

Đêm đó, Hiến Chàm gối đầu lên cái ba lô nằm ngủ. Hắn còn cẩn thận, buộc dây ba chạc vào cánh tay. Nửa đêm về sáng, hắn nhìn sang cái chõng của vợ chồng lão Đại. Dưới ánh đèn dầu leo lét, cũng đủ cho hắn nhìn thấy đôi mắt của Lý nhìn hắn trừng trừng. Hắn mỉm cười một mình vì đã nghĩ ra cách: “Phải lấy vàng thử nàng trước, dọ ý nó như thế nào trước đã.”

Trời vừa rạng đông. Tiếng gà rừng gáy rân trời là Lão Đại đã thức dậy, đánh xe trâu lên mạn ngược, lấy nước suối theo đúng kế hoạch đã sắp đặt trước với Lý. Chờ cho lão đi xa rồi, Hiến Chàm giở trò dụ dỗ nàng:

- “Này em, em còn trẻ đẹp thế kia mà chịu làm vợ của một tên khứa lão gần đất xa trời, thật phí tuổi thanh xuân! Em chẳng khác gì hoa nhài một đóa, đem cắm bãi phân trâu.”

Thấy nàng vẫn lặng thinh. Hắn bồi thêm một câu nữa, cho cá cắn câu:

- “Trong cái ba lô nầy có cả khối đô la và vàng do anh tích lũy được sau những chuyến đi làm ăn xa. Nếu em bằng lòng theo anh ra thủ đô Hà Nội. Anh hứa sẽ lo cho em một đời sung sướng, có kẻ hầu người hạ, không phải làm lụng vất vả như ở nơi khô cằn sỏi đá như thế nầy đâu. Em bằng lòng theo anh chứ?”

- “Đi theo anh, em cũng muốn lắm chớ! Nhưng, em không dám đâu,” nàng giả vờ lo lắng, nói. “Lão Đại hung dữ lắm, lão hăm em gần mẻ răng, nếu ông ta bắt được em bỏ trốn một lần nữa là lão cắt gân chân của em đó!”

Hiến Chàm trấn an, nói:

- “Hay để anh thủ tiêu lão đi, vậy là xong! Nhưng, giết lão bằng cách nào đây?”

Nàng lấy tay chỉ cái giếng cạn ngoài bìa rừng, rồi chậm rãi nói:

- “Cái giếng cạn ngoài kia sẽ là mồ chôn lão già gian ác đó!”

- “Cái khó là làm sao dụ lão ta ra cái giếng. Đó mới là vấn đề, vì lão nầy cũng khôn ngoan lắm, cưng ạ.”

- “Chuyện dễ như vậy mà anh nghĩ cũng không ra,” nàng dùng đòn ly gián, nói. “Chính lão ta cũng muốn anh đi ra đó để giết anh đoạt cái ba lô! Chính miệng lão nói với em đấy!”

Nghe nàng nói, đôi mắt của hắn long lên dễ sợ. Hắn tức giận, nói:

- “Vây thì, anh phải ra tay trước: “tiên hạ thủ vi cường”! Em tính sao?”

- “Nhưng cái giếng còn cạn lắm,” nàng nói. “Thế nào, tối nay lão cũng đề nghị anh giúp lão đào giếng cho anh xem. Anh đừng có lo, có em đứng sau lưng, trợ thủ đắc lực của anh.”

Đến xế chiều, Lão Đại đánh xe trâu chở theo mấy thùng nước và đồ nghề đào giếng về đến nhà. Mồ hôi của lão đổ ra như tắm, cái áo ka ki ướt đẫm mồ hôi. Lão kéo vạt áo lên lau mặt, rồi than thở:

- “Nếu tình trạng hạn hán nầy còn tiếp tục kéo dài vài tuần nữa, con cá cũng không sống nổi,” lão nói bâng quơ. “Chắc là phải đào lại cái giếng cho sâu hơn để lấy nước uống. Hy vọng đồng chí giúp tôi một tay được chứ!”

Hiến Chàm đáp ứng lời yêu cầu của lão ngay:

- “Bác nói phải đấy! Tôi sẽ giúp đào cái giếng nầy cho sâu thêm nữa, cho đến khi nào cái giếng có nước thì tôi ra đi ngay!”

Tưởng Hiến trúng kế, lão mừng lắm, nói:

- “Thế thì hay quá! Ngày mai bắt đầu được chứ?”

- “Tôi lúc nào cũng sẵn sàng,” hắn nói. “Bác có đủ dụng cụ đào giếng không nhỉ?”

- “Đồng chí đừng có lo! Tôi có đủ cả, còn để ở trên xe trâu. Giờ cảm phiền đồng chí mang mấy thùng nước suối vào nhà. Tớ mệt gần đứt hơi!”

Chờ cho Hiến Chàm  đi ra xe trâu, nàng nói nhỏ với Lão Đại:

- “Trong cái ba lô của nó có cả khối vàng và đô la đó ông ạ!”

- “Thế thì hay quá!” lão nói. “Ngày mai, nó vừa xuống đáy giềng là tao nhảy theo đâm nó vài nhát là xong ngay!”

- “Ông nói sao dễ ăn quá! Thằng đó khỏe như trâu, ông đâm nó một nhát, nó đâm ông ba nhát! Phải kiên nhẫn chờ nó thấm mệt, rồi ra tay mới lấy ăn.”

- “Ừ, mầy nói phải đấy!”

Hiến Chàm là một tay gian hùng, xảo quyệt đâu có mắc mưu lão ta dễ dàng. Vì vậy, nửa đêm hôm đó. Chờ cho Lão Đại và nàng ngủ say như chết, hắn lẻn ra bìa rừng, chôn vàng dưới gốc cây cổ thụ, lấp đất lại. Hắn lấy vài cục đá bỏ vào ba lô, rồi trở vào nhà ngủ tiếp.

Sáng sớm hôm sau, công việc đào giếng bắt đầu. Lão Đại lấy một cái sọt đan bằng tre tầm vông, đường kính khoảng một thước rưởi, bề cao độ một thước. Một thanh gỗ vuông xỏ ngang qua hai cái quai. Trên miệng giếng, một sợi dây thừng khá dài, chạy trên một trục gỗ tròn, một đầu dây buộc vào thanh gỗ trên miệng cái sọt, còn đầu kia buộc vào đằng sau xe trâu. Nàng điều khiển con trâu đi tới, kéo sọt đất lên để Lão Đại bê nó, đổ bên miệng giếng. Nàng đánh xe lùi lại thả cái sọt xuống đáy giếng.

Chuẩn bị xong đâu đấy. Hiến Chàm tay cầm cái xẻng, tay kia nắm chặt sợi dây thừng, đứng trên cái thanh ngang. Cái ba lô lúc nào cũng đeo dính trên lưng hắn như một vật bất ly thân. Nàng đánh con trâu đi lùi lại và hắn được thả từ từ xuống đáy giếng cạn queo. Hắn dùng xẻng xúc đất vào đầy sọt, xe trâu kéo lên để lão đấp chung quanh miệng giếng.

Sau ba ngày đào xới liên tục, cái giếng sâu dần trên 7, 8 thước, nước bắt đầu rịn ra và Hiến Chàm cũng thấm mệt. Tối đêm đó, Lão Đại thì thầm bên tai nàng: “Thằng Hiến đào đất liên tục cả ba ngày nay, tao thấy nó thấm mệt rồi nay! Ngày mai, tao sẽ giắt cái lưỡi lê trong lưng, giả vờ giúp nó đào đất, rồi thừa cơ lụi cho nó chết, đoạt lấy cái ba lô. Mầy kéo tao lên, lấp giếng lại, vùi xác nó dưới đó! Chỉ có trời mà biết.”

Sáng hôm sau, thừa lúc lão đi tiểu tiện. Nàng nói cho Hiến Chàm biết:

- “Hôm nay là ngày Lão Đại ra tay dứt điểm anh đó! Cẩn thận đề phòng nghe!”

Chiến Chàm hỏi:

- “Lão dùng vũ khí gì để giết anh?”

- “Hắn lận lưỡi lê trong người, rồi thừa cơ đâm anh ở dưới đáy giếng, đoạt cái ba lô.”

Lão Đại tiến hành đúng kế hoạch đã vạch sẵn. Sau khi đổ vài ba sọt đất bên miệng giếng. Lão giắt lưỡi lê trong lưng, rồi bảo nàng thả lão xuống giếng. Thấy lão, Hiến cầm cái xẻng trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Lão hơi nhợn, nhưng làm ra vẻ  bình tỉnh nói:

- “Ơ hay, cái anh nầy! Làm gì có vẻ khẩn trương thế nhỉ? Tớ xuống phụ với anh đào giếng thôi mà!”

- “Thế à, xẻng đây, bác cầm lấy! Tớ lên trên đi đồng một tí!”

Lão Đại, một tay cầm lấy cán xẻng, còn tay kia vói ra sau long, định rút cái lưỡi lê đâm hắn. Nhưng, Hiến Chàm phản ứng nhanh hơn, bất ngờ ném bùn vào cặp mắt lão, làm lão có mắt như mù. Lão Đại phải buông xẻng, lấy hai bàn bàn tay vuốt mặt lia lịa, vừa văng tục: “Tiên sư bố anh! Sao lại ném bùn vào mặt tớ thế!” Hiến Chàm xô lão một cái thật mạnh làm lão té chúi nhủi, úp mặt xuống vũng bùn. Hắn nhảy lên đứng trên cái thanh ngang một cách gọn gàng, tay cầm sợi dây thừng, giật mạnh mấy cái làm hiệu, vừa gào to lên: “Em Lý ơi, kéo sọt lên! Nhanh đi!”

Lão Đại nghe tiếng hai cái bánh xe gỗ lăn trên mặt đất gồ ghề và cái sọt đất từ từ kéo lên miệng giếng, làm lão sợ cuống cuồng. Lão thừa biết rằng, Hiến Chàm lên trên đó rồi, sẽ dẫn vợ lão đi mất biệt và sẽ bỏ lão chết thối rữa trong cái vực sâu hun hút nầy. Lão bật ngồi dậy như cái lò xo, hai bàn tay quờ quạng trong vũng bùn lầy lội, vừa chụp được cán xẻng, hắn đứng dậy, quơ cái xẻng vù vù như “Hiệp sĩ mù nghe gió kiếm”. Nhưng chỉ hoài công vô ích, vì lúc nầy Hiến Chàm đã được kéo lên lưng chừng cái giếng, rồi cái sọt bị treo tòn teng, lơ lửng ở đó. Hắn cũng lo sợ, không biết nàng định giở trò gì nữa đây? Hắn ngửa cổ lên định gọi Lý, thấy nàng hai tay chống cằm trên miệng giếng, đang nhìn xuống đáy, gương mặt nàng lạnh lẽo như đồng, không có vẻ gì xúc động cả, làm hắn đâm lo, nói:

- “Lão chết tiệt đang ở dưới đáy giếng, chờ đi ngủ với giun,” hắn giục nàng. “Khẩn trương kéo anh lên nào! Chần chừ gì nữa chứ?”

Nàng vẫn tỉnh bơ, chậm rãi, nói:

- “Này, ông Hiến Chàm! Ông thật sự không nhận ra con Bèo, Nguyễn thị Bèo, cái tên nhà quê của con Lý nầy sao?”

Hắn chối bai bải:

- “Cô nhầm tôi với người nào rồi đấy! Tôi nào có gặp cô bao giờ đâu?”

- “Mới có 3 năm mà ông đã quên hết mọi chuyện! Thôi, để tôi nhắc cho ông nhớ nè,” nàng nói. “Cái con Bèo, quê nhà của nó ở bên dòng sông Ba Lai, thuộc xã Mỹ Hòa, huyện Ba Tri! Sao, ông đã nhớ ra tôi là ai chưa hả?”

Hiến Chàm giọng run run, hỏi:

- “Cô là Nguyễn thị Bèo, con của đồng chí thương binh Nguyễn văn Thép, đúng vậy không?”

Nghe hắn gọi tía mình bằng hai tiếng “đồng chí” thân thương, nàng ngửa mặt lên trời, cười như điên dại mà hai hàng nước chảy ràn rụa trên má. Nàng xót xa nói:

- “Thế ra, mầy vẫn chưa quên được con Bèo nạn nhân của mầy à,” nàng nguyền rủa hắn. “Mầy nhẫn tâm bán trinh tiết của tao cho thằng Tàu Đài Loan cưỡng hiếp để nó xả xui, rồi mầy bán tao cho mụ “tài phán” ở vũ trường Casa. Mầy chỉ vì mấy trăm đô la mà làm tan nát đời tao, đứa con gái duy nhất của đồng chí mầy!”

Đúng là oan gia gặp đường hẹp. Hiến Chàm nắm chặt sơi dây thừng, rồi quỳ xuống trên cái thanh ngang, van xin nàng:

- “Tôi biết tội lổi của tôi rồi! Xin cô dành cho tôi một con đường sống! Đô la và mười mấy cây vàng trong cái ba lô nầy, tôi xin biếu hết cho cô để đền bù thiệt hại,” hắn tháo cái ba lô trên vai, bỏ vào sọt, nói. “Tài sản nầy thuộc về cô rồi đó! Cô kéo tôi lên đi, cô Bèo ơi!”

Nghe hắn nói, nàng càng giận dữ, hét lên:

- “Còn lâu tao mới tha cho mầy! Đồ chết tiệt!”

Bèo chồm người lên, cầm lưỡi rìu giơ lên cao khỏi đầu, trút hết nỗi căm hơn lên hai cánh tay non nớt, rồi giáng mạnh xuống cái trục gỗ. Chỉ một nhát rìu là sợi dây thừng đứt phăng. Cái sọt đất mang theo Hiến Chàm từ trên 4 thước cao, lao xuống đáy giếng, trúng ngay đầu Lão Đại, khiến lão rú lên một tiếng kinh hoàng, buông cái xẻng, ngã vật xuống vũng lầy, giẫy đành đạch mấy cái rồi nằm bất động.

Hiến Chàm ngửa mặt lên miệng giếng, thấy cái lưỡi rìu còn dính chặt trên cái trục gỗ, còn trớn quay thêm mấy vòng nữa trước khi ngừng hẳn. Hắn cầm sợi dây thừng, sợ đến điếng hồn, bủn rủn cả tay chân. Hắn quỳ xuống bên cạnh xác Lão Đại, bụm mặt khóc. Và từng mảng đất từ trên miệng giếng, bắt đầu rơi rào rào trên đầu hắn...

                                                          *

Sau khi nổi lửa đốt cái chòi, nàng bước lên xe trâu. Nhưng con trâu đứng khựng lại vì con chó vện đứng cản đầu xe, sủa ỏm tỏi. Tưởng nó muốn đi theo mình, nàng bước xe định bế nó lên. Nhưng không, con vện cắn cái gấu quần của nàng ghì chặt lại như muốn nàng đi theo nó. Con vện chạy trước dẫn đường, nàng rảo bước theo sau. Đến gốc cây cổ thụ cạnh bìa rừng, nó lấy chân trước cào đất. Nàng thấy một cái túi vải của ai chôn dấu dưới đất, bèn lượm lên mở ra coi. Thì ra, đó là 10 cây vàng của Hiến Chàm chôn dưới đất. Hắn đã lừa cả lão và nàng. Nhưng trời bất dung gian!..

Nàng ôm con chó vện trở lại chiếc xe trâu ra roi. Con trâu già uể oải cất bước. Hai cái bánh xe gỗ nặng nề bắt đầu chuyển bánh, lăn lộc cộc trên con đường mòn quen thuộc lồi lõm ổ gà xuyên qua khu rừng rậm, hướng ra liên tỉnh lộ số 14.

Như một con chim nhỏ sau những năm tháng lưu lạc, bị đọa đày trong tận cùng đáy địa ngục nơi đất khách. Nàng đã tự tháo cũi sổ lồng, tự do tung đôi cánh, bay bổng về sân chim Vàm Hồ để đoàn tụ cùng mẹ già, đang mòn mỏi trông con trở lại từng ngày...

QUẢ BÁO

Nhát dao chém ngang cổ y. Một dòng máu phụt ra như cổ gà bị cắt tiết,phun đầy vào những tờ giấy viết loằng ngoằng,quảng cáo các dịch vụ của ký túc xá,loang lổ thật khủng khiếp....Những bước chân chạy trốn của những sát thủ ình ịch,tiếng xe rồ đi man dại. Y lảo đảo cố bước tiếp lên bậc thang trên,hai tay cào,víu vào tường như muốn hét lên cầu cứu,nhưng không thành tiếng. Y đổ xuống như một khúc chuối,lăn tới chân cuối cùng cầu thang. Để lại những vết máu tím ngắt, đen ngòm, như cuộc đời ngắn ngủi của y đã đi qua. Y đã tắt thở thực sự. Người bảo vệ cư xá hối hả gọi điện cho cảnh sát,cứu thương,hai tay ông run rẩy nói không thành lời.Chỉ mươi, mười lăm phút sau,những xe cảnh sát kéo còi,những xe thùng,rồi những con chó nghiệp vụ v.v…kéo đến, làm náo động cả cái thành phố này. Cảnh sát khám trong người tử thi , thấy có rất nhiều hộ chiếu,và những tên tuổi khác nhau. Vậy kẻ chết là ai ?...         Người cảnh sát,lật đi lật lại những cuốn hộ chiếu, đem so với gương mặt kẻ chết . Những câu hỏi đặt ra với họ , tại sao y lại bị những người đồng hương của mình chém chết ngay ban ngày ,và ở nơi tập thể đông người đến như vây ?..

     Y sinh ra và lớn lên trong một gia đình có quyền thế, ở một tỉnh của miền bắc Việt nam. Bố y là một lãnh đạo đầu tỉnh . Ông ta đã từng khét tiếng là “ xạ thủ “ rồi đến “sát thủ “ ngày ông còn là lính quèn. Ông đã được đảng ,nhà nước ta phong danh hiệu “ dũng sĩ diệt Mỹ “ .Sau ngày 30-4-1975, ông được giải ngũ về địa phương, rồi leo lên cái chức cao nhất nhì tỉnh này.   Y đã được chiều chuộng từ thuở bé, ra đến đường ai cũng phải nể sợ y. Càng lớn y lại ngang tàng hơn. Cũng nhờ cái uy thế của bố, mà y được vào thẳng trường trung học của thị xã, mặc dù y chưa tốt nghiệp cấp hai trường làng. Đang học giở dang,y bị nhà trường đuổi, vì can tội đánh thầy giáo trong giờ học. Sợ mất mặt, và lo sợ y sẽ làm những việc tầy đình tiếp theo, ảnh hưởng đến điạ vị của mình , do đó bố y đã gửi y sang lao động ở nước bạn Cộng hoà dân chủ Đức.

    Y nghĩ , đến Đức y sẽ được tự do, tha hồ càn quấy. Nhưng y đã lầm. Sang đến đây ,y không còn chỗ dựa,cũng chẳng được ai kính nể ,nuông chiều y như những ngày còn ở quê. Do vậy, y cảm thấy uất ức,y căm thù tất cả mọi người xung quanh. Cho nên y đã nung nấu một ý nghĩ , phải tạo dựng cho mình là một đàn anh chị trong cái cộng đồng người Việt ở Đức này. Cho đến ngày thống nhất nước Đức, y đã thành lập đuợc một bang hội cướp giật, xung quanh y đầy rẫy các đàn em. Dọc các thành phố,làng xã vùng Đông Đức cũ,có người Việt sinh sống,không ai là không biết tiếng ,và đều run sợ trước y. Yđi đến đâu ,mọi người đều phải nộp tiền theo yêu cầu của y. Các cửa hàng cửa hiệu của những người cùng mang giống nòi với y , đều phải nộp tiền cho y. Đố ai dám chống lại y. Ai mà phản kháng ,không sớm thì muộn cũng sẽ bị y chém chết,hoặc chặt tay chân cảnh cáo, có nhẹ nhất cũng bị trận đòn không lết đi được ở trong rừng rậm nào đó. Và có lẽ sợ nhất là những người lao động sắp sửa về phép,nếu như y hoặc đàn em của y biết được, ôi thôi số tiền dành dụm bao năm bán sức lao động sẽ đi tong.

           Hắn tung hoành như bố hắn, đang cỡi trên đầu những người dân khốn khổ ở quê. Trong cái cộng đồng bé nhỏ người Việt ở Đức ,y đã đặt ra luật lệ riêng,buộc mọi người phải tuân thủ. Nhiều lúc y thầm so sánh, cuộc sống và quyền lực giữa y và bố y ở quê không biết ai hơn ai ? . Sau những phi vụ trấn lột, sau những chiến công huy hoàng ấy của y, người ta cũng tìm thấy trong hành trang của y ,là những bức thư tin tưởng vào tài năng của cha y đối với y.  Mà quả thật y cũng rất tài . Đố ai , có trong người đến hai, ba cuốn hộ chiếu ,tên tuổi khác nhau,đều được sở ngoại kiều cấp Aufenthaltbefugnis hoặc Aufenthalterlaubnis, nhưng mà y có, chỉ có y mới làm được điều đó. Ừ ! qủa thật y cũng là kẻ thần thông đấy chứ, Y ở đâu cũng chẳng ai rõ.Hiện y đang dùng cuốn hộ chiếu nào ?Mang tên gì cũng chẳng ai hay.Cũng chẳng ai nhớ rõ, y đã trấn lột bao lần,và chém giết bao người. Mọi người chỉ biết rằng y là một đại ca lớn ở vùng phía đông nước Đức. Cứ thấy túi người khác có tiền là y đến rất đúng lúc ,rồi ra đi bất tử. Nếu có câu hỏi ,với tất cả những người Việt sống Đức rằng, có sợ bọn đầu trọc,bọn khủng bố người nước ngoài không ? Có lẽ họ trả lời rằng họ không sợ bằng băng nhóm của y. Vậy đấy ,y sống như một đấng “anh hùng “. Mọi người đi làm,hoặc đi chợ buôn bán ,gom nhặt,ki cóp từng xu từng hào,còn y đi xe đẹp, để “đi hái “ ra hàng ngàn,hàng chục ngàn,từ túi những người cặm cụi, chắt bóp trong lao động.

     Và thực sự cái gì đến sẽ đến,như các cụ thường nói “kẻ gieo gió sẽ gặt bão “con giun xéo lắm phải quằn, đó là sự kết thúc, y đã phải trả bằng mạng sống của mình. Yđã chết. Nhát dao của sự phẫn uất đã chém vào cổ y, cũng là nhát dao mà y đã tự chém vào chính mình. Cái chết của y như một cơ lốc mạnh đang làm chông chênh chiếc ghế của cha y, và cũng là hồi chuông báo tử ngày cận kề của những kẻ đang sống trên đầu trên cổ của những người dân lương thiện.  

Thằng Em Cán Gáo

       Cũng trên dưới mươi năm, tôi được xem chương trình Những Tình Khúc Bất Tử của người trong nước. Máy quay phim ngừng lại ở một khoảng loang lỗ vôi vàng ven lề đường,...ở nơi chốn ấy có cái gương cũ kỹ treo trên tường, cái thùng gỗ cũng là cái bàn phó cạo lạc lõng, cái ghế đẩu chỏng chơ như chờ đợi ai. Những hình ảnh ấy thoáng chốc đẩy đưa tôi về một Hà Nội ngày nào năm 54 vì nếu ống kính nhích qua thêm vài bước nữa, nếu có cái cổng gỗ hai cánh nặng nề thì đúng là căn nhà của ông cụ bà cụ tôi.

Ngày trở về thăm căn nhà cũ ở phố Chợ Đuổi năm 2000, mái ngói đỏ ngày nào đã ngả mầu xanh nâu, rêu phong đọng nước, ngai ngái muì ẩm mốc. Từ ngoài đường nhìn vào qua khe cổng, tôi thoáng bắt gặp những chiếc lá bàng ửng vàng nâu đỏ chơ vơ bên bể nước. Tôi đã chẳng tránh khỏi những giao động cùng những năm tháng của cái tuổi mới lớn, ở nơi chốn này, tôi có thằng em họ chơi đùa nghịch ngợm ở cái sân gạch tầu trong kia. Để rồi bồi hồi cùng cảnh vật qua người muôn năm cũ còm cõi qua một kiếp phù sinh, tôi bâng khuâng về thằng em không biết bây giờ lưu lạc ở phương nao.

                                                       x          x          x

       Và chuyện một nắng hai mưa của tôi với danh xưng là…“nó” như thế này đây:

       Cho đến một ngày đi đâu về, nó cũng không nhớ, thấy ông cụ nó đang tiếp khách ở nhà trên, hai cụ đang râm ran to nhỏ như đăm chiêu với chuyện thời cuộc đang sôi động và thi nhau rít thuốc lào sòng sọc. Hỏi bà cụ thì nó được biết đó là ông chú, chồng bà cô em ông cụ nó, vừa ở Thái Bình lên chơi. Với nó, nhà có khách thì có người đi ra đi vào và ông cụ nó quên bẵng nó được dăm ngày, nó không bị những cái củng biêu đầu, vì cái tội tí tóay với cái bát điếu, rồi ngã bổ chửng ra như…cóc say thuốc lào sáng nay.

       Đến bữa nó lại được sà vào ăn cơm như chẫu chuộc vì bà cụ nó đãi khách, gà luộc lá chanh chấm nước mắm nhĩ, nhưng nó chỉ khoái tỉ với mấy cái chân gà dai nhanh nhách. Mà khách nhà quê được cái dễ tính, dề chiều và tự nhiên như…ruồi, thường ăn dầm ở dề đến cả tháng. Ngày ông cụ nó lãnh “ráp-pen”, bà cụ nó lại được thể xúyt xoa “cơm dưa muối, mời chú sơi”. Cụ bầy hàng cá trắm, cá quả, con nào con nấy bụng béo nần như đang chửa, hết chả cá đến cá ám, nó quên khuấy những bữa cơm cho xong bữa với rau tập tàng, chân giò lợn ỉ, hâm đi, hâm lại đến nhão nhừ từ mấy hôm trước. Ngồi sếp bằng ở góc chiếu, nó lấm lét nhìn trộm…ông khách, ông ở cái tuổi ba mươi nhầng nhầng, chân tay khuềnh khòang, da thịt óp ép, mặt mũi thô gầy góc cạnh, giọng nói thì khào khào, khô rong róc, nhưng cút rượu cổ rụt, lóang một cái là nhẵn thín.

       Cả tháng sau, chú nó về lại tỉnh Thái, và nó thóang nghe được bà cụ xiết pháo xiết với ông cụ: “ôi dào, lại mang vạ cái lão cám hấp, đồ phải gió phải dây…”. Nó cũng chẳng bận tâm chuyện đầu cua tai nheo của người lớn vì đang có tiếng húyt gió ngòai cổng…Nhưng ngay tuần sau thì nhà nó có chuyện. Chuyện là đang đứng dưới gốc cây bàng lui cui chơi bên cạnh cái bể nước, nghe tiếng giật chuông kêu kính coong, kính coong, nó ra mở cổng và nổ con đom đóm mắt nhìn ông chú nó, tay cái thùng gỗ, thêm cái bị, bên cạnh là thằng oắt tì, vai khóac cái tay nải, tay cầm cái giỏ mây, cứ như chạy lọan hay tản cư không bằng. Ông chú chỉ thằng oắt con và gọi là thằng Đạm, bắt khoanh tay cúi đầu chào nó bằng…anh. Nó như thể nhớn phổng phao ra giống như con vịt được thổi ống đu đủ vào lỗ đít và như trên trời rớt xuống, chưa biết nếp tẻ gì thì cũng vừa lúc ông bà cụ bước ra, rồi…bác bác, em em loạn cào cào xí cấu, thằng Đạm lại khoanh cúi rạp người lí nhí chào. Cả ba lên nhà trên, để lại ngòai sân hai thằng nhóc, bây giờ nó như Cao Bồi Hà Nội hồi ấy mới “kên sì-po” thằng em họ từ đầu xuống chân, cái thằng gì mà đầu to tày giành, tóc húi cua gần như trọc lóc như…cái đầu gáo. Ắt hẳn là trạc tuổi nó, nhưng người dài như cây sào lại đen đui đủi, đang đứng tần ngần, miệng như ngậm hột thị, tay vân vê cái vạt áo ngó lơ ngó láo, chân di di xuống mảng đất thô. Ngay lúc này nó mới khám phá ra một điều: Giời ạ, thằng đầu gáo đi…chân đất.

         Từ đấy thằng em họ có tên là thằng đầu gáo.

         Chả là niềm vui của cái tuổi ấu thời là nó có bạn, có điều là thằng em họ ít nói, gần như suốt ngày câm như thóc, nhưng cóc mở miệng thì vừa lắp, vừa ngọng, cứ như đá ngược lên tận mái ngói, đến quặn cả mồm miệng, nhưng lý sự cùn thì vung tít mẹt, chẳng ngọng tí nào. Lại nữa, thằng em họ cao hơn nó cả cái đầu, nhưng lúc nào thằng đầu gáo cũng “đằng ấy” với “tớ” ngọt như mía lùi, thọat tiên nghe thấy chương chướng, diết rồi nó cũng “tớ” với “đằng ấy” ngon ơ. Thế nhưng thằng em họ hình như khắc khẩu với bà cụ nó, nên lâu lâu bà cụ nó vẫn bêu riếu “thằng nhà quê sáng tay ọ, điếc tai cầy”. Mỗi lần như vậy thì nó lại mắt hấp ha hấp háy, vén cặp môi đỉa trâu, nhăn nhăn nhở nhở cười như trêu ngươi, bà cụ nó lại điên tiết: “mới nứt mắt ra đã cốc láo”.

       Nói cho ngay thì không phải vì bà cụ nó đo lọ nước mắm, đếm củ dưa hành gì cho cam, nhưng tính cụ vậy, lâu lâu lại trái nắng trở trời, giận cá chém thớt vậy thôi. Nói thằng đầu gáo là “thằng nhà quê” thì không đúng hẳn, nó cũng gớm chết, ông chú sai đi mua đồ nhắm ngay ngã ba đường Huyền Trân Công Chúa và đường Nhà Thương Chữa Mắt. Lững thững trên đường về, trời lại mưa phùn gío bấc như nhện giăng, tay đĩa thịt chó, tay cút rượu, nó súi thằng cán gáo như súi trẻ ăn cứt gà là vừa đi vừa chấm mút, xương sẩu hai đứa nuốt tuốt tuồn tuột, ngon khóai củ tỉ, về đến nhà thì mỗi thứ còn một nửa. Gần cuối năm, ông chú ngâm bình rượu thuốc, lại đặt ngay giữa nhà, như mỡ trước miệng mèo, nó lại theo chân thằng đầu gáo che đóm ăn tàn, gạn đến đâu, thằng em láu cá lại đổ vào nước lạnh vào, rồi cả hai mặt đó như gà sống thiến, chân nam đá chân siêu. Ông cụ nó dữ đòn, bèn nọc hai đứa ra giường đo chiếu, cứ nhịp một, nhịp hai, như tùng chát gõ trống cô đầu mà ông cụ quất. Nó thì già dái non hột nên nhát đòn, cứ rống lên như lợn bị chọc tiết, còn thằng đầu gáo thì cong đít, dẫy đành đạch như đỉa phải vôi, xong trận đòn, mông hai đứa vằn những vết xe điếu như những con lươn. Riêng ông chú nó, chẳng nói chẳng rằng, bỏ đi đâu mất cả một buổi chiều, tối về uống rượu như sáo tắm. Nó tự hiểu rằng, chú nó thương yêu cả hai đứa và hình như chú nó thương nó nhiều hơn và nó càng ngày càng gần gũi với ông.

       Thằng đầu gáo gọi bố là bằng thầy, sáng sáng thầy nó mang đồ nghề ra cái tường bên hông nhà, treo cái gương, cái phất trần và cái thùng gỗ đồ nghề, dao cạo, kéo tỉa, lược cùng cái ghế sọc sạch, nó mới biết ông chú nó là phó cạo, có tiếng ở phố Lê Lợi tỉnh Thái Bình.Thằng em họ vẫn quanh quẩn bên thầy nó chỗ cắt tóc, lúc thì bưng chậu nước cạo râu, khi thì vò cái khăn lau mặt, sau đó là tất bật quét dọn sạch như ly như lau, để còn thì giờ kéo lũ nhô tì bên kia đường qua đánh đáo, đánh vụ, đánh khăng. Nó trùm về đánh đáo tường, vì tường là tường nhà nó, chỗ cứng chỗ mềm, nó thuộc nhẵn mặt. Còn thằng đầu gáo mả về quay vụ và đánh khăng, con quay của nó tiện bằng gỗ ổi, bóng và cứng như sắt, đầu đinh được mài vạt đi như cái xà beng, nó giữ như giữ mả tổ, đứa nào mượn nó cũng không cho, ngay cả nó nữa.

       Cuối tuần, nó rủ thằng em xoay ra chơi đáo lỗ, đáo đập tường, đáo chấm tương ăn thua bằng nắp chai bia, hay chai “limonade” đập cho tòe ra gọi là “đồng xèng” hay “đồng phéng”. Nó có “đồng cái” là “đồng phăng” (France), có răng cưa hay rãnh chạy chung quanh cạnh, mà dân đánh đáo gọi là đồng “xu mẹt”, tiếng chỉ những đồng xu Khải Định có lỗ vuông trước đó, nhưng vì mỏng và nhẹ hơn nên dân đánh đáo đổi qua “đồng phăng”. Còn thằng ôn con này thủ được đồng cái bằng chì, thứ này vào tay nó chơi đáo chấm tương thì chỉ thua cọp. Và nó lên mặt dân Hà Nội, chỉ cho thằng nhà quê chơi đáo tường, không phải cứ nhắm mắt nhắm mũi, táng binh vào tường là nó bật ra, mà vừa lia, vừa dựt ngược lại, vòng lên như cầu vồng thì “đồng cái” mới đi xa. Mỗi lần nghe giảng thì thằng thằng đầu gáo mặt cứ nghệt ra, vêu hàng răng vẩu lên hỏi: “Đằng ấy nói có đúng không…hở?”. Và nó cũng biết tỏng cái thằng này, nghe như vịt nghe sấm, lâu lâu lại dấm dớ: “Ừ nhẩy…” hoặc giả ỡm ờ:“Thế cơ…”. Mà cái thằng đầu gáo cũng ma bùn, nó nghe như để ngòai tai thật, hỏi cho có vậy thôi, vì quê nó tòan tường vữa, vách đất, nó không quen. Nhưng đến đáo chọi thì nó chì lắm, cứ lạt mềm buộc chặt, cứ cà nhỏng nhử địch thủ rồi mổ cái chóc, khóai chí tử, nó vỗ tay đen đét, phục lăn long lóc thằng đầu gáo.

       Đất có thổ công, sông có hà bá, sang đến đánh quay, đánh vụ thì nó nhường cho dân đồng chua nước mặn, nhưng vẫn nhi nhô khoe thằng em họ con quay sừng của nó, đầu đinh tròn, giây dù nên “quất” một cái là quay tít thò lò, chẳng bao giờ lăn kềnh ra sất, để “câu” những con vụ khác thì nhất xứ, “nhất Bắc Kỳ nhì Đông Dương”. Thằng em cầm con quay của nó, xoay xoay, ngắm nghía và nói như người nhớn: “ Đúng là sừng trâu mộng, sừng cánh ná, mặt gầu dài, tai lá mít, đít lồng bàn”, rồi trả lại, giọng chắc nịch: ”Nhưng hay bị long đinh, thua con vụ của tớ”. Nó cứ ngớ ra với…cái đít lồng bàn vì có hiểu mốc khô gì đâu, mãi sau này gặp lại thằng em nó mới vỡ nhẽ ra.

       Nó cũng chịu đèn con quay gỗ ổi, đinh vẹt của thằng em gồ thật, để “om”, để “mổ” thì như để, nhưng chỉ chướng một cái, giây là cái gỉai rút quần, nhiều khi vừa “mổ” thì đứt giây, con vụ cứ quay lơ ra, lại bị địch bắt làm tù binh, bị om trong vòng tròn đến nát bấy người. Nói thay bằng giây dù, thằng nhà quê ương như ổi, ngang như bứa, sửng cồ gắt nhặng lên: “Đằng ấy làm cái thá đếch gì mà nhắng lên vậy”. Giận nhau cả buổi, bao giờ nó cũng làm hòa trước, dúi vào tay thằng em mấy cái “cạc” Zoro, Tazan hay mấy cái vé ciné cũ của rạp Lửa Hồng phố Hàng Trống, gần Bờ Hồ. Được cái đứa nào ăn gian, gấu hay bắt nạt nó thì thằng em quại ngay “tút-sụyt”, chẳng “oong-đơ” gì sất, ục thẳng tay .

        Riêng trò chơi đánh khăng thì nó chán như cơm nếp nát, vì cái gì mà hì hục đào cái lỗ, “khẩy” con khăng đi, đứa nào chụp được, “quăng” lại rồi “quất” cái vù. Xong, chồm hổm dùng cái khăng cái, lom khom đo như…cua bò. Thấy nó cù nhầy, ngồi bệt xuống như muốn nghỉ chơi, thằng em lân la rủ rê bằng cách kể chuyện, nào là nó theo thầy nó ra ao soi ếch, ra đồng hun chuột…Muốn có cái bong bóng lợn phải chầu chực đợi cắt tiết, mổ bụng, làm lòng. Nào là ra vườn cắt rọc chuối tây, chuối hột, rọc ra làm súng, lấy tay vuốt kêu rẹt rẹt và lang bang đến chuyện khóm rau, thửa khoai thì bao giờ nó cũng chúm môi, chu miệng bắt chước con gà con kêu…Đến đây nó tịt. Nó nhìn thầy nó như xin phép.

       Sau đấy thằng đầu gáo sùi bọt mép, chỉ cho nó đặt cái khăng con nằm dọc theo cái lỗ, nhích đi nhích lại, miệng dặn dò: ”Đằng ấy gõ vào đầu này nhá, đợi cái khăng con bung lên khỏi mặt đất, thì..”. Nó ra hiệu chỉ vào ngang đầu gối, nhổ nước bọt đáng bẹt vào bàn tay, xoa xoa, tiếp: “Rồi đằng ấy cứ nhắm tịt mắt, quất cái vù”. Nó thấy ngon như óc chó…”a-lê-hấp”…vẹo người, nhắm mắt nhắm mũi, phang bừa….Lại…hụt nữa.

       Thằng đầu gáo cáu, vỗ đùi cái đét, chửi đổng: “Mẹ, ngu như lợn”.

       Nó ngán ngẩm cái trò đánh khăng như chó già gậm xương, như chuyện “ông giẳng ông giăng, ông giằng búi tóc, ông khóc ông cười, mười ông một cỗ, đánh nhau vỡ đầu”. Ghét của nào trời trao của ấy, mà vỡ đầu thật, một lần cái khăng con nhè trán no táng một cái bốp, u một cục bằng…hột đậu phụng rang. Nó gào tóang lên, chú nó xanh máu mặt, cuống cuồng lấy muối đắp lên, lấy đũa cả hơ nóng di di, nên nó được thể gào tợn. Ông chú nó dỗ dành, kể chuyện tiếp mà thằng con…tịt ngòi, ấy là chuyện con gà mái bị đạp mái, chạy te te kêu: “Rát rát”, con gà trống gân cổ kêu: “Khổ khổ”, con gà con hỏang hốt kêu: “Khiếp khiếp” và con chó ngơ ngác kêu: “Đâu đâu”. Rồi ông chú cười khục khặc một mình, nó mặt cứ thộn ra vì có hiểu khỉ mốc gì đâu? Sau này lớn lên, nó nghiệm một điều là chú nó và thằng em đều có khiếu kể chuyện, nghe như rót vào tai, kiến trong hang nghe cũng phải bò ra, và nó nghĩ dại: Thế nào sau này thằng đầu gáo cũng phải là…”phó cúi”.

        Cho mãi tận đến ngày di cư vào Nam, nó mới thấy một điều quái là:

        Thằng đầu gáo chưa một ngày…đi học.

                                                       x            x            x

       Gia đình nó vào Nam một tuần trước ngày 20 tháng Tư năm 1954. Đến giữa tháng tám thì người làng nó hay họ hàng bắn “cà-nông” không tới mới lục đục vào bằng máy bay, bằng tầu há mồm. Ngày nào nó cũng ra cửa nhà ngóng thằng em họ, nhưng chẳng thấy tăm hơi gì, nó lại buồn và lủi thủi đi vào. Cứ dăm ba ngày nghe nhắn tin qua mảnh giấy con con, bà cụ và nó lại hớt hải leo lên chiếc taxi con cóc, chạy đôn chạy đáo, vì chữ tác đánh chữ tộ, lạc lung tung xèng, hết khu Phú Thọ Lều đến Khu Dân Sinh, rồi lại hộc tốc từ Nhà Hát Tây đảo ngược về trại Học Sinh Di Cư Phú Thọ. Chiều về nghe ông cụ nó nhiếc bà cụ: “ Rõ ngớ ngẩn, chú cháu nó bao giờ…đi học đâu”.

       Đi học thì mãi đến tận cuối năm 54, thầy giáo là người Nam, trò nghe như vịt nghe sấm, Bắc nói cái “cù-dìa”, Nam nói cái “muỗng”, Bắc nói “gọi”, Nam kêu là…“kêu”, Bắc nói “gầy”, Nam nói “ốm”, Nếu Bắc nói “ốm” thì Nam lại nói “bịnh”. Mà “bịnh” thật vì nó quên béng thằng em họ lúc nào không hay, chỉ những lúc nào đánh đáo, chơi bi thì lóang gió thổi mây bay một tí ti thôi. Nhưng có một lần, nó bò lê bò càng ra cười khi nghe hai đứa học trò trong này nhại nhau: “bắt con cá gô, bỏ trong cái gồ, nó kêu gột gột”. Sau đó nó lại bần thần, nhớ đến thằng “con tâu tắng nằm bờ te tụi”, ngẩn ngơ đến cả nửa buổi. Vả lại nó cũng đã nhớn rồi, mười hai tuổi rồi chứ ít ỏi gì, nó tập tành ngồi ở cái quán cóc trước gần nhà, húp đĩa cà phê “bí tất”, buồn buồn móc túi: Một đồng ba điếu Ruby.

                                                         x            x           x

       “Yêu em đốt cháy cuộc đời – Vàng tay khói thuốc vẫn còn yêu em” và yêu rồi phải lấy  Thế nhưng số gã rưồi, vợ gã lại được Chúa gọi về nước Chúa, thế mới…bịnh. Những ngày cuối tuần, nhà trống vắng như chua Bà Đanh, gã lại ngồi thu lu một mình, rị mọ với mấy băng nhạc tiền chiến cũ xưa. Những âm điệu ủ ê, như gậm nhấm buồn như trấu cắn ấy, gã nghe từ năm này qua năm khác, mãi không chán, cứ như những ngày còn bé đi học về, mò vào xó trạn, thấy cái đít nồi nhẵn như đầu bụt, vét bát cơm nguội chan với nước dưa khú, vậy mà vẫn mát gan mát ruột, ngon đáo để. Chợt màn ảnh hiện lên dẫy tường loang lổ bên góc phố, có treo một cái gương thợ cạo. Trong gã như dấy lên một chuỗi hình ảnh năm nào là cái cổng gỗ hai cánh nặng nề, cái khóa to bản đã hoen rỉ, chỉ to xác như đồ hàng mã, then gài là cái đòn gánh, mỗi lần đẩy cánh cổng, âm thanh rít lên kẽo ca kẽo kẹt, nghe buồn đến nẫu ruột.

       Thời gian như gió thoảng mây bay, như mới ngày nào, năm mươi năm đếm chẳng là bao, nhưng nghe đến nửa thế kỷ thì thời gian có dài thật, nhưng khuôn mặt, dáng dấp của thằng em họ như mới đâu đây, thóang ẩn thóang hiện. Nghe bát nháo thì nó cũng mới vào Sài Gòn. Gã so đo chắc phải về thăm nhà một chuyến, một công đôi chuyện, chuyện của gã thì cũng dễ hiểu thôi, nghe tin nồi chõ vợ gã mất cách đây không lâu, bà chị cùng cha khác mẹ gã đã săm soi chấm được chỗ ấm lòng cho cậu em yên bề gia thất. Sau đó, cứ mè nheo gã mãi, thôi cũng đành chiều bà chị một lần cho biết…cái thú đau thương.

       Về đến Sài Gòn, với người kẹt lại năm 54, gã tòan gặp những chuyện rách chuyện…Nhẩm tính sổ nợ đời thì còn rơi rớt lại thằng anh họ thượng tá và ông chú phó cạo nay cũng là quan chức. Qua chuyện họ hàng hang hốc kể lại, muốn gặp mấy bố cách mạng quan to súng ngắn này thì còn khó hơn gặp người cõi trên. Lại nữa, năm 75, gã bỏ của chạy lấy người, mới lóp ngóp về đây, láo ngáo như người khách lạ trên chính quê hương mình. Không lẽ gõ cửa nhà họ để quấy quả, để nghe nó hát đồng dao, nói chuyện…lịch sử. Mà chuyện này thì trong sách vở đã rạch ròi: Lịch sử là gì?”, và câu trả lời ngắn ngọn dễ hiểu là: “Lịch sử là chuyện kể của kẻ chiến thắng!”. Trang sử cuộc nội chiến Nam Bắc đã lật qua, dù sao cũng là họ hàng, không gặp không xong. Chưa hết, gã vừa mới đi thăm mồ mả tổ tiên ở Bắc xong, hương đèn còn đấy, khói nhang còn mờ mịt gió mây.

       Đùng một cái, vào một ngày không nắng cũng chẳng mưa, gã có mặt ở Sài Gòn, chẳng ai biết chẳng ai hay, ngay đến ông chú gã cũng ngẩn người ra khi nhìn thấy gã bước vào cửa. Gã tự giới thiệu, bắt tay, đến mấy giây sau, qua khuôn mặt lờ đờ, bất động, ông chú gã mới gục gặc cái đầu, buông thõng được một câu hờ hững: “À, cháu mới về…”. Rồi thôi. Đến cái bắt tay như không cảm súc, lạnh lùng xa lạ để gã như hụt hẫng. Gọi người làm lấy nước, ông chú chậm rãi hỏi thăm về ông cụ bà cụ gã, giọng đều đều như muốn giữ một khỏang cách nào đó, tất cả như rơi vào quên lãng, không vồn vã mà cũng chẳng gần gũi với một tên…Ngụy là thằng cháu ông đây. Ông chỉ cành đào Trung Quốc bầy ở bàn thờ và chép miệng là cũng khẩm tiền, gã ngao ngán ậm ừ trả lời, lơ đãng nhìn lên tường, không thấy nhang khói, ngòai bức hình lộng kính ông Hồ, cổ áo đại cán, mắt sâu hoắm, chòm râu ngô lơ thơ. Gã chỉ muốn “liệng cống” ngay cho rồi.

        Hóa ra cành đào chỉ là cái cớ cho dậu đổ bìm leo, khuôn mặt ông chú dịu lại, thóang sáng lên, ông chỉ khéo cái huy chương “Sao Vàng”, giọng như có âm có điệu, khi cao khi thấp về chiến dịch “Trường Sơn Anh Hùng”. Ông hươu gã là chiến trường này, thành quả của ông là dựng được cái cầu tre, xe Molotova chạy như giớ cuốn mây trôi. Gã biết thừa bứa ra là ông chế ra vì chuyện cây cầu bên suối này thì…có khả năng từ thời vạn lý trường chinh của Mao Trạch Đông ở bên…Tầu. Gã lâu lâu lại đẩy đưa một, hai câu hỏi địa danh để thăm dò, từ đó mới biết, ông chú tá công binh, chỉ mới hẻo lánh tới…chân núi, chưa mò đến đỉnh Trường Sơn. Rồi câu chuyện hươu vượn rừng núi nhạt như nước ốc ấy tiếp tục, giọng trầm hẳn xuống, như tiếc nuối cờ đến tay chưa kịp phất vừa mới qua, vì chan tương đổ mẻ, hụt mất cái ghế thứ trưởng thơm như múi mít. Đến đây thì đầu gã như say sóng, lùng bùng, mường tượng đến cái thùng đồ nghề dao, kéo, lược năm xưa, đang bập bềnh nhấp nhô cùng con nước thủy triều…cuốn xa và mất hút.

       Giống như chuyện cái cầu tre ngày đó, nói cho cùng nào có hay ho gì chuyện bá vơ trên, vì gã biết tỏng ông…theo cách mạng cuối mùa thu chết cũng là chuyện gió đánh đò đưa. Số là cuối năm 53, ông hành nghề phó cạo ở Thái Bình, say sỉn tới bến hồi nào không hay, ông cắt tóc cho một ông quan một Bảo Chính Đoàn. Với cái dao cạo, ông hoa tay nhè cái tai sớt một miếng ngon lành, máu đổ thịt rơi, ông quan một nổi hung rút súng ra bắn chỉ thiên “pằng, pằng”. Thế là ông bỏ của chạy lấy người, ông lên Hà Nội…tị nạn. Qua đến năm 54, ông cụ bà cụ gã đeo máy bay vào Nam, ông chậm chân…chạy không kịp nền đành ở lại theo bác. Rõ ra chuyện ông…phấn đấu bản thân để rồi cốc mò cò xơi, mất bu nó mất cái chân thứ trưởng và ông đau hơn hoạn là thế!.

       Vẫn chưa xong cái nợ đời, ông còn khoe mẽ thằng con ông là cán bộ phó biên tập tờ Nhân Dân. Gã nghe thấy cũng hay vì nghĩ lại thưở xa xưa thì rõ ra thằng em họ này chưa một ngày…đi học cơ mà. Buồn tình gã nghĩ đến chuyệm dân gian truyền khẩu cũ rích, chuyện là có một cụ nọ muốn vào thăm tổng bí thư Lê Đức Anh và lệ là muốn vào cửa công quyền thì phải qua người chánh văn phòng. Người hỏi cụ là ai? Cụ đáp là bạn học ông tướng, thế là bị còng. Cụ ngớ ngẩn hỏi tội gi? Người trả lời tỉnh như con ruồi là ông tổng bí thư từ có cắp sách ngày nào đâu mà có…bạn học. Còn tội gì thì ấy là tội…tiết lộ bí mật quốc gia. Đấy là chưa tính đến chuyện Văn Tiến Dũng, theo lý lịch trích ngang là thợ may làng Cổ Nhuế. Dào, chuyện lạ, vì cả làng này từ thời ông bành tổ sống bằng nghê hót phân cả nước ai mà chả biết. Gã bụng bảo dạ, chuyến về thăm quê nhà này để kiếm vợ, vợ đâu chẳng thấy, chỉ thấy chuyện “lịch sử” của kẻ chiến thắng vơi nhất tướng công thành vạn cốt khô qua ông tướng ”Khóac tấm áo bào, giang tay gánh vác thiên hạ - Vung hai thước kiếm, tận thu lòng dạ thế gian” và ông phu cạo mủ đồn điền cao su.

      Gã nhìn trộm ông chú và lắc đầu nhủ thầm nay thằng con ông đổ đốn là…nhà văn. Giời ạ, chuyện gánh bùn sang ao là vậy đấy, cứ tự nhận bá vơ là nhà thơ, nhà văn cho êm, chứ chẳng ai dại nhận mình là…nhà cầu, nhà chuồng xí gì sất cả. Gã lầu bầu trong cổ họng rằng vải thưa che mắt thánh, chạy trời không khỏi nắng, thôi thì con giống cha nhà có phúc, bố là …cán búa, con là…là…cán gáo là hết đất.

      Vì ông chú mà gã mất vui, hình ảnh thằng em của cái tuổi thiếu thời trong gã cứ thế lặng lẽ nhạt dần theo sương khói. Bây giờ thay vào là thằng cán gáo, thằng em xã hội chủ nghĩa, gã mất đi cái hào khí của dòng ngạc họ Trịnh: “Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi không ngừng, Sài Gòn ra Trung, Hà Nội vô Nam, tôi đi chung cuộc mừng và mong sẽ quên…chuyện non nước mình…”. Rời nhà ông chú đến thăm thằng em cán gáo, bụng gã đói meo, và tự hỏi…truyền thống tân tiến của người trong nước lúc này cũng…cực kỳ ra phết, ngày tư ngày Tết vác xác tới giờ ăn trưa chả có khỉ gì để hốc, nghĩ cũng lạ đời. Trong đầu gã vừa bực mình, vừa lấn cấn với khuôn mặt nhăn quéo lại, thô gầy của ông chú, giọng nói bây giờ khô rong róc…Nói cho ngay, bấy lâu nay gã ấm ức ông là chuyện này, số là thằng em ruột gã…được đi cải tạo tốt. Cũng tốt thôi, ông cụ gã gửi tiền về nhờ vả ông em rể đi thăm nuôi thằng cháu. Nghe thằng em kể lại thì ông chú có tới…thăm thật, nhưng chỉ tới nhà thằng nón cối nào đó cách trại cả năm, ba cây số để “hủ hóa” và nhờ tên này mang gói quà đìu hiu hút gió là gói sôi và dăm phong kẹo lạc cho thằng cháu…cưỡi ngựa xem hoa.

        Rời nhà ông chú gã cảm thấy lềnh bềnh như người cưỡi mây, như Từ Thức về trần với những đổi thay. Tuy nhiên, gã không quên dặn dò ông đừng cho nó biết vì gã muốn dành…một bất ngờ cho thằng em. Ngồi trong xe, gã bỗng chán chường, và hình dung vẩn vơ vì sắp gặp lại thằng em con ông chú, và ngại ngùng không lẽ giỏ nhà ai quai nhà ấy. Từ chuyện cái chuồng xí với “tận thu lòng dạ thế gian” thấy bụng dạ cồn cào, gã bèn “lên kế hoạch” là sẽ mời “người anh em xã hội chủ nghĩa” này đi ăn, nếu sau đó có đấm mõm nó thêm tí ti hủ hóa…bia ôm, thì cũng chẳng chết thằng răng đen mã tấu nào, lại được thể nghe nó nói chuyện…văn học. Gã chắc mẩm là vậy! Rồi gã vội lắc đầu sua đuổi ý tưởng eo sèo ấy đi, để nhìn ra ngòai ngắm cảnh, nhà thằng em tận Hóc Môn, Bà Điểm xa tít mù khơi, quẹo trái, quẹo phải mấy cái hương lộ, trời cao, nắng nỏ, thấp thóang đằng sau căn nhà, bụi cây, lúa vàng như duối chín, vàng ưng ửng.

       Thằng em đi ra, che mắt vì tia nắng có vệt lọt qua cửa, mặt mày ngơ ngác vì chẳng biết ông khách nào đây, gã đã định bụng sẵn với…một bất ngờ. Chuyện là gã biết tẩy mấy anh cán bộ…lao động văn hóa cật lực này thường hay sợ hoảng sợ tiều trong thời kỳ…hậu cởi trói văn nghệ và họ sợ nhất bị bạn văn, bạn thơ chụp…cái nón cối.

       Gã hú họa nó:

       - Tôi từ hội nhà văn Hà Nội vào, tôi muốn tìm nhà ông Đạm.

        Mặt thằng em xanh như đít nhái, nó lắp bắp:

       - Tô…i…tôi…l…à…là…

       Thấy khuôn mặt thằng em mà tội nghiệp nên gã thôi:

       - Đạm phải không?

       Ẩn hiện sau bàn tay che nắng, đôi mắt hấp háy như định thần, moi móc trí nhớ một đàn anh văn nghệ nào đó…Gã mỉm cười:

       - Anh Hùng con bác Tư đây.

       Ba giây, gã nhớ đúng ba giây, như chòang tỉnh giấc kê vàng, thằng em chồm tới ôm chầm lấy gã. Giọng đầy súc động:

- Anh Hùng…

       Rồi cứ ghì chặt lấy gã như không muốn buông rơi, như muốn níu kéo, lắng đọng thật lâu, thật dài, dài cả năm mươi năm, cả nửa thế kỷ. Thằng em run run nghẹn ngào:

      - Anh Hùng…

      Gã nhẹ nhàng gỡ tay thằng em ra, thóang lặng nhìn thằng em từ trên xuống dưới, khóe mắt nó hình như ươn ướt, nhìn xuống một chút nữa, như ngày nào, không đổi thay: Giờ ạ! Nó vẫn đi…chân đất. Hai anh em ôm chòang lấy nhau một lần nữa, giọng thằng em thì thào qua tai gã, như trong mơ:

- Em biết thế nào anh cũng về…

      Gã hỏi nó có khỏe không? Nó ghì mạnh gã rồi chợt buông ra, quay lưng đi vào trong nhà. Nó nói vọng lại:

- Em vào thay quần áo. Bình thường thôi anh.

      Nhìn thằng em từ sau lưng qua bờ vai đầy an phận hình như ngấn mắt gã cũng ươn ướt thì phải. Gã lan man thời buổi này được bình thường như nó thì gã chẳng mong đợi gì hơn, không bình thường mới có chuyện. Ngồi xuống cái ghế sần sùi, lần đầu tiên vê thăm quê nhà, qua bề ngoài bình dị của thằng em, gã thấy đầu óc dịu nhẹ với cuộc sống của thằng em thật thanh thản, vô ưu. Gã lơ đãng đảo mắt nhìn vào phía trong, đúng là nhà trống ba gian, không vách ngăn, không cửa nẻo, trống hoác thông nhau ra tới tận cái bếp, cái sân sau. Gã thoáng thấy thằng em vuốt tóc, chải đầu…bằng tay. Và gã bồi hồi nhìn mớ đồ đạc đơn sơ, mộc mạc, nhưng gã cảm thấy thóang đãng ở cái khỏang không gian êm đềm này. Gã cũng cảm thấy nhẹ nhàng và gần gũi hơn, vì nhìn quanh quất trên tường, gã không thấy hình ảnh…cha già dân tộc và mấy cái bằng tưởng lục ruồi bu.

      Chợt thằng em nói vọng ra:

- Bác đợi em đun tí nước nhá.

      Giọng nói có một chút nào rổn rảng, mà cũng quái lạ, nó lại đổi tông qua “bác, bác, em, em”, đúng điệu cán gáo hay Bắc kỳ hương lý, nhà quê nhà mùa. Thằng cán gáo đi ra tay bưng khay nước, tay cài…cúc quần. Gã nghĩ quẩn thấy cái thằng của nợ này cũng nho phong sĩ khí chán, vẫn còn giữ được văn minh, văn vật Hà thành nghìn năm mây bay là phải đóng bộ cho tươm tất để tiếp khách. Nhưng lấn cấn trong đầu gã thằng cán gáo mặc cái quần tây nhàu nát, không mang thắt lưng, chả hiểu nó quên hay chẳng có mà đeo. Rồi hai anh em râm ran, chuyện xưa chuyện nay, chuyện này chuyện kia, nó hỏi gã dồn dập, gã như ngộp thở chóng mặt. Gã kể cho nó nghe vừa ghé thăm ông cụ nó, nghe chuyện huy chương “Sao Vàng” với “Trường Sơn Anh Hùng”.  Nó nhấm nhẳng:

        - Tưởng chuyện gì. Chuyện đó thì bình thường thôi.

        Rồi nó làu nhàu:

- Tốn cả trăm đô để có cái của nợ ấy, bác ạ. Tiền chứ có phải vỏ hến đâu, vả lại thầy em chỉ được cái nước hão, đã có dạo đói vàng mắt ra đấy. Bình thường mà.

        Xong nó tặc lưỡi:

       - Thầy em, chỉ được cái theo voi ăn bã mía, đi sau đổ vỏ cho thằng ăn ốc.

       Có hầu chuyện với ông chú, gã mới u ơ nó là phó biên tập một tờ báo lớn. Dòm kỹ thì bề ngoài chẳng…văn vẻ gì mấy, gã bâng quơ vén môi hỏi bỡn nó:

       - Chú làm gì mà…cây đa cây đề quá thể vậy?

      Thằng cán gáo hâm hâm rằng:

      - Báu gì thưa bác, phó…thì nào có khác gì như tủ lạnh chạy đầy đường. Em học khoa văn, nhẩy sang khâu…kinh tế. Họ không có chó thì bắt mèo ăn cứt vậy thôi bác.

      Cũng qua họ hàng gần xa, nghe nói đột biến thằng em đốc chứng hưu non, ngày ngày đọc sách thánh hiền, nay đóng cửa từ quan đang ôm giấc mộng lớn, mộng con với tề gia trị quốc bình thiên hạ. Gã gặng hỏi cớ sự gì lạ nhẩy, thằng em xao xác:

      - Bình thường thôi bác, để lát nữa em sẽ…kinh qua nhiều hơn.

      Thấy bếp tàn khói lạnh, gã vừa định hỏi chuyện vợ con nó, thì cũng vừa lúc gã đảo mắt xuống cái chum cuối sân. Sợi giây treo quần áo, như oằn xuống vì hai, ba cái sì-líp đàn bà to đùng như cái nồi ba mươi, dình dàng thồn thộn làm gã hãi quá thể. Gã nhẩm chừng, chắc vợ nó cũng tốt tướng phì nhiêu lắm đây, rõ khổ thân cư thê có khác, cơm nhà qua vợ, cơm no bò cưỡi sặc gạch có ngày chứ chẳng bỡn. Gã cười tủm, hỏi thăm vợ con nó đâu cho phải phép.  Nó lấp lửng:

       - Nhà em đi “Mút Cu” sắm ít đồ, mua đầu chợ bán cuối sông ấy mà.

       Gã súyt phì cười vì…mút cu. Vì cũng chẳng là mới đây gã ghé Vũng Tầu…tham quan. Ngay bãi trước, sát bên hông chợ, đập chát vào mắt gã có con đường mang cái tên quái quỷ là…“Bú Cu”. Gã đực mặt ra như ngỗng ỉa, bèn há họng hỏi thằng bạn thổ công đất biển cớ sự gì hay vậy nhẩy. Bạn gã thuyết mình ấy là tên của một ông phi hành gia….người Nga. Gã lại ngáo ra nữa. Quái lạ! Mắc mớ gì mang tên ông phi hành gia có cái tên…thiếu cơ sở văn hóa đến như vậy để đặt tên đường. Gã chả hiểu cớ sự gì mồ cha không khóc lại đi khóc cái tổ mối, khi không rước người Nga này về làm gì chẳng biết nữa. Đang phất phơ đến đây, như có thần giao cách cảm, nó đáp:

       - Nhà em…người Nga.

       Gã chớ phở ra và buột miệng, rút lại không kịp:

       - Chú nói gì! Người Nga?

       Nó cười tóet, nụ cười thật hiền hậu, rổn rảng kể lể:

      - Cũng chẳng vừa đâu bác, nhà em dậy Đại Học Tổng Hợp về Ngôn Ngữ Học đấy .

       Gã lại đớ người ra như cán cuốc, bổ một câu thật ngớ ngẩn:

       - Ngôn ngữ học?

       Gã chưa kịp hòan hồn thì nó đã láu táu:

       - Để em sắp bữa cơm quấy quá mời bác sơi.

       Xong, nó đi vào nhà trong, đến một lúc lâu, gã thấy nó rất…vô tư, gã thấy nó vén quần…tồ tồ ngay ở sân bếp, ngay trước mặt gã. Cái này thì giời ạ, gã thấy thằng cán gáo…không bình thường chút nào

       Rồi nó vừa khệ nệ bê bình rượu thuốc ra, vừa nói: “Mấy năm nay, em có toa thuốc Minh Mạng: Nhất dạ ngũ giao sinh lục tử, kéo cưa lừa xẻ mãi đến giờ chưa có mống nào”. Nó than thở tiếp, chẳng đâu vào đâu: “Vợ chồng em như con cua, cái ốc nơi xó đồng, cả đời duyên nợ với chữ nghĩa, nay nhà em xoay ra sọan tự điển tiếng Nga-Việt”. Như bực bội, nó lấy ra quyển tự điển của người Hòang Phê nào đó, mở ra phân bua: ”Bác xem, họ làm ăn chẳng ra ngô ra khoai gì cả, cứ đổ thóc giống ra mà ăn, họ định nghĩa: “cây” có lá, thân mộc, thẳng. Bác nghĩ mà xem, vậy thì bầu, bí không phải là cây phỏng? Còn “cái ly” ở trong Nam, họ cho là phương ngữ, nó là “cái cốc” ngoài Bắc ta để uống rượu”.

       Nghe “phê” qúa, gã bèn hỏi móc lò:

       - Chú thấy tiếng Việt ngày nay có…

       Chưa nghe hết câu, nó đã gạt ngang:

      - Chuyện này cũng bình thường đây! Tiếng Việt trong sáng ở cái khổ nào, từ trong này dùng thì ngòai kia họ né, như “phản ảnh” đẻ ra  “phản ánh”, “nhắc nhở” đẻ ra “nhắc nhớ”. Rồi cứt trâu hóa bùn, sáng tạo ra từ “năng nỗ”, nỗ ở hai chữ nỗ nực.

       Đột nhiên gã bốc thối:

       - Bình thường thôi mà

       Nó gân cổ cãi:

       - Bình thường sao được! Dân họ nói chệch ra là “năng nổ”…nổ như lựu đạn, mấy ông ngôn ngữ trí tuệ, đành ngồi trơ mắt ếch nhìn nhau.

       Cầm…cái đồ để uống rượu, gã chịu chết chả hiếu nó là cái cốc hay cái ly, chuyện văn học của nó là như vậy, rằng như thế. Để tránh nói chuyện “tự điển” và phải đợi lâu lắm, gã mới chen vào được câu chuyện tình nghĩa giáo khoa thư, gã hỏi là thằng em dạo này còn viết lách gì nữa không? Giọng nó chán chường thấy rõ:

       - Thưa với bác, em tịt bút từ lâu. Ở đây, bác muốn viết gì thì viết, tự do nhân bản mà, nhưng đừng dại viết những gì bác đang có trong đầu.

       Rót thêm rượu đưa cho gã, nó thóang ngậm ngùi:

       - Những giọt rượu được gạn chắt từ mảnh đời da diết.

       Gã thấy thằng em có hơi chuyếnh chóang với….chữ nghĩa, chưa kịp “da diết” với nó, thì gã ngẩn người, nghe thằng em tỉ tê:

       - Nói thực với bác, bình thường thôi, tội vạ gì mình tự làm khổ mình, cứ theo cái nghề thợ cạo xưa kia của thầy em đè đầu đè cổ thiên hạ, thế mà hay…

       Gã nhủ thầm đúng là thằng cán gáo cầm cu cho chó đái bây giờ mới chịu vỡ bọng cứt ra. Hai anh em cứ, lúc rỉ rả, khi rù rì nói chuyện như vậy cho mãi đến sế chiều, nhìn thông qua sân sau, nắng quái chiếu qua tàn cây, song cửa một mầu đỏ tím rịm…Có một lúc gã bụng chộn rộn, nghĩ nung, mãi sau mới chợt nhớ ra, và hỏi thằng em sao lúc này không thấy nó còn “con tâu tắng nằm bờ te tụi” nữa, nó cười bẽn lẽn:

      - Ấy bác ạ, nhờ nhà em sửa mãi, nên đỡ…ngọng rồi. Vậy là bình thường.

      Rồi nó đứng dậy mò mẫm cái tủ sách ngay bên cạnh, nó cúi xuống ngăn kệ cuối cùng lục lọi ra một quyển sách đưa cho gã. Gã liếc thoáng qua thấy sách bìa bọc giấy dầu đã sờn rách, giấy cong queo đen bẩn, chắc đã được đọc qua nhiều lần, Nó ngồi xuống, nó rướn người gần nửa cái bàn về phía gã, mặt mày đăm chiêu chẳng…thỏa mái tí nào, giọng trầm hẳn xuống như thì thầm về quyển sách, mới gần đây, nó thửa được quyển “Hoa Xuyên Tuyết” của Bùi Tín, anh em truyền tay nhau xem, mê lắm.

       Và nó xuống giọng, mặt mày dáo dác, mắt lấm lét, chẳng ra dáng nhân sĩ Bắc Hà tí nào. Nó sì sầm thật nhỏ, như làm như có ai nghe nghe được, mà trong nhà nào còn ai, ngoài hai anh em. Cái thằng rõ rách chuyện, lúng ta lúng túng nói chẳng ra hơi, mãi sau gã mới hiểu có đầu có đũa, hóa ra nó nhờ gã làm cách nào để có quyển “Đêm Giữa Ban Ngày” của Vũ Thư Hiên, sách gối đầu giường của bạn bè nó bây giờ, Theo nó thì họ dấu như dấu mả tổ, nó chỉ nghe nói có nhiều chuyện thâm cung bí sử, rung rinh cả triều chính, như chuyện ông Hồ có ba vợ, có con chẳng hạn. Sợ gã không nghe rõ, thằng em còn bồ bã thếm: “Bác nhớ nhá. Bác làm cách nào gửi cho em nhá”.

       Nhá với nhể, gã lẩm bẩm, vậy mà cũng nhỏ to, mà nó cần quái gì phải đọc, gã nhủ thầm: Cả chặng đường đã qua của thằng em là…đêm giữa ban ngày rồi còn gì nữa! Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng gã biết nói gì với thằng em đây…Hình như cuộc sống đến một lúc nào đó phải chấp nhận những gì…”không bình thường” và cứ xem nó như một cuộc chơi thôi. Chấp nhận những gì mà mình đã có, đang có được hay sẽ có hoặc không, để chịu đựng qua cơn bão, để làm sao để biết tìm nơi trứ ẩn dưới cơn mưa.

     Như dựa dẫm vào dăm bà quyển sách chẳng hạn như thằng em gã bây giờ. Gã nghĩ vậy chẳng hiểu có đúng không?

                                                        x            x           x                                          

     Từ Bắc vào Nam gã không thửa được vợ. Nhưng khuân về được cái chum.

     Cả một chuyến đi, gã cứ động não động tình đến một ông bạn già về Hà Nội thăm người tình cũ và tiếc nuối với gã, nếu biết vậy, thà đừng gặp thì hay hơn, ít nhất còn giữ một hình bóng nào đó. Thế nhưng khác với ông bạn già, trong gã cứ lất phất với hình ảnh thằng đầu gáo, thằng cán gáo nhập nhòa như một mà hai, như hai mà một…

     Về nhà được mấy ngày, nhìn vườn tược mãi cũng ngán ngẩm không ngoài dăm chậu cây nhỏ, cái chum nhỡ bằng đất nung. Riêng cái chum, hay cái vại để đựng gạo hay chứa nước, thật tình gã không rõ. Khi không trong một khoảnh khắc, gã hòa mình vào những hoài niệm của quá khứ. Thế là gã ngồi tủn mủn đẽo, gọt khúc gỗ cả một lúc lâu chẳng ra cái khăng của cái tuổi thiếu thời mà lại giống như cái que,

     Bỏ cưa với dao đấy, gã ra chợ mua về một trái dừa tươi to bằng cái bong bóng lợn, may mà không phải là trái dừa điếc, gã lây lất đến thằng em những ngày ở quê ra ao soi ếch, ra đồng hun chuột. Gã mường tượng qua thầy nó với những tháng ngày nhàn nhã, búng ghét đuổi ruồi kể chuyện gà trống đạp mái, gà con te te kêu khiếp khiếp, con chó thấy vậy kêu đâu đâu. Đâu chẳng thấy, tẩn mẩn lột mớ sơ dừa, gã đong đưa về quê nhà đất Bắc, sơ dừa dùng làm bùi nhùi. Đầu óc gã thêm rối tinh với hình ảnh cô vợ Nga của thằng em có cái mông chành bành như cái lồng bàn, đang cọ nồi cọ chảo bằng mớ bùi nhùi đầy tình tự dân tộc. Vẫn chưa xong, gã lang thang với cùi thân dừa làm “cù dìa”, chữ cù từ cùi, dìa ở dừa mà ra, tiếng Việt khó thế đấy, khó thật chứ chẳng chơi. Như gã đang cưa, cắt, mài, khoan đây, mờ người ra chứ đâu có dễ.

      Ấy là gã đang khoan cái lỗ để nhìn xuyên qua quá khứ… Từ một nơi chốn đi về, quá khứ của gã đang ẩn hiện, xa vắng vời vợi.

      Cuối cùng gã nheo mắt, săm soi đút cái que xuyên qua hai cái lỗ để làm…cái gáo.

      Và gã bâng khuâng…

Nhất Bạch Nhì Vàng Tam Khoang Tứ Đốm

        Cũng cả mấy chục năm mới ló mặt về thăm quê nhà, sau đấy nếu tôi với bác giáo có gặp lại ở đây, rồi thì cứ châu đầu vào nhau rù rì chuyện làng chuyện nước, nghe mãi đến chán như cơm tẻ chiều đông ấy....Vì chẳng gì thì bác giáo cũng thừa bứa biết tôi là người chỉ thích ôm đồm ba mớ chuyện cũ rích, mốc meo, để nếu có dịp là chống gậy quanh quẩn như cái đèn cù đi tìm những hình ảnh nằm trong quá khứ qua các cụ ta xưa. Như cái trõng tre bên vỉa hè đầu đường cuối ngõ, trên đó có mấy lọ kẹo lạc, kẹo vừng, chai rượu trắng, chiếc điếu cầy, ống đóm, ngọn đèn dầu và cái ủ tích lúc nào cũng sẵn sàng rót ra những cốc nước trà nụ vối đặc quánh mầu nâu đất, nghi ngút hương thơm ngào ngạt nồng ấm và chẳng thể thiếu những món ăn mộc mạc chân quê ngày nào trên đất Bắc…Thế nên về đến Hà Nội chuyến này, như thăm người tình cũ đã lỡ tuổi xuân thì, nhưng vẫn son phấn điểm trang, ân cần đon đả, sáng tinh mơ với bún ốc, bún riêu, sế trưa rọng rang hành tỏi với canh cua đồng, chiều tối với cơm tấm chợ làng Hương.

       Chuyện cũ chuyện mới thì nay học thói kim tiền mãi bên trời Tây để có …”cơm chỉ”, nay bàn dân thiên hạ chỉ đâu nhà hàng mau mắn cơm bưng nước xách tới đó. Như cơm cá gỗ, xưa thì có “cơm niêu, nước lọ” ở phố hàng Giầy từ thuở nào chẳng một ai hay. Ngày ấy khách thập phương cứ quẳng ra ba hào chẵn là khuân ra cái mẹt có một niêu cơm nhỏ, kèm theo một cái đũa cả, chỉ một cái thôi, thế mới lạ đời và một đôi đũa ngắn, bốn cái chai nhỏ đậy nút bấc. Niêu cơm có miếng thịt lợn rán có đủ bì, mỡ và nạc, một miếng thịt gà mái có da vàng ngậy, môt dúm trứng cáy, một cánh mộc nhĩ. Còn bốn cái chai thì một chai đựng canh, một chai chứa nước mắm cà cuống, một chai rượu ngang và chai cuối cùng châm nước trà. Khách ăn cầm cái đũa cả đập vào cái niêu của làng gốm Thổ Hà một cái bốp, hóa ra công dụng của cái đũa cả tre gộc là như vậy, như thế.

       Rồi khách ngồi bẹt xuống ghế, khề khà chấm mút bao lâu nhà hàng chẳng ai bận tâm. Trước khi phủi bụi cất bước, lau mồm qua loa thì nhất cử lưỡng tiện là quơ đôi đũa quẹt ngang mồm một cái cho đúng truyền thống, còn sỉa răng ư, xin mời đi chỗ khác chơi. Có muốn súc miệng sòng sọc rồi nhổ đánh tọet xuống đất cho xong bữa thì đã có cái tích trà vối, vốn sẵn nằm chỏng trơ trên cái trõng tre thấp lè tè. Tất cả khởi nguồn cho “cơm niêu”, “cơm chỉ” bây giờ và theo sách vở tam sao thất bản lưu truyền lại, thì thưa đó là món nhà quê, nhà mùa nay đã đi vào quên lãng và có cái tên như con cua con cáy chôn chặt nơi xó đồng là “cơm niêu, cơm lọ” của một thời quá vãng ngút ngàn đấy, thưa bác giáo.

       Lại nữa, Hà Nội một thoáng hương xưa mà thiếu ít lá mơ xanh tím, củ riềng vàng nghệ, thì cũng mất mát đi một phần nào hương sắc của Thăng Long hoài cổ. Thiếu vắng hẳn thi vị trong một ngày gió bấc mưa phùn, chầu chực bên cửa sổ canh cái lò than tầu nổ tí tách, đằng cuối ngõ Hàng Lược, ở đấy có một quán không bảng hiệu. Bốn, năm đời cha truyền con nối, mà khách quen, không ai ngòai những sĩ phu Bắc Hà, nghênh ngang một cõi “Sống trên đời ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ còn có hay không”. Lại nữa, thập niên hai mươi ở phố Hàng Đồng, Hàng Hòm, ngõ Cống chéo, những tao nhân mặc khách, quấn khăn  đầu rìu, quần sắn móng lợn. Chân đất vỗ bèn bẹt ngồi trên sạp gỗ tì tì đánh chén.

       Nói cho ngay áo rách phải giữ lấy lề, ai quên bến lú mặc ai, chứ lu bu cách mấy thì về Hà Nội 36 phố phường chuyến này để đi tìm một chút hương hoa ngày cũ…Đã chót học đòi ăn mặc đầy đặn như người Hà thành bấy lâu, thế nên tôi đã phải cất công mầy mò đi tìm một nơi chốn có cái cái mái che mưa che nắng, ở đấy có một cái quán thịt chó cho ra dáng ra hồn, thưa bác.

       Đã quen với cục phấn, bảng đen thì với bác giáo tôi nói năng có đôi chút trần tục thật đấy, nhưng cũng chẳng dấu gì bác, thịt chó với tôi như một lời mời gọi của tiền nhân cùng những người thân, đi kèm với một quá khứ đầy rẫy nhửng lá mơ, lá ổi. Cuối cùng thì tôi cũng đã có mặt ở ngõ Hàng Lược trong  một ngày cuối năm để sả sui cùng tống cựu nghinh tân, sả sui đâu không thấy, chỉ thấy bàn dân thiên hạ, những cửa hàng đều đóng cửa từ chiều 30 đến mùng bốn. Mới mùng ba Tết, mặt trời mới đứng con sào, tôi đã xuất hành cầu âu để lò dò đến khu Nhật Tân chạy dài hun hút từ đê Yên Phụ đến gần đập đá, hoa nở rực hồng cả một vùng trời nhỏ bé. Và có bao nhiêu cây đào là có bấy nhiêu quán thịt chó, hàng chục, hàng trăm, ngút ngàn xa tắp, nhấp nhô theo đụn cát bờ dốc, hàng hàng lớp lớp như...Vạn Lý Trường Thành. Nhưng tất cả đều đóng cửa im ỉm, chó giắt gì đâu, bỗng thấy một quán vườn hồng có lối, nhưng chưa ai vào. Bèn bồn chồn, náo nức đẩy cửa như Lưu Nguyễn nhập thiên thai. Vậy mà người Thăng Long ngàn năm văn vật cũng có dăm mống, như ngày nào năm cũ cùng anh nhiêu, anh khóa, cũng đẳng cấp tôn ti với chiếu hoa cặp điều, tới trước thì mời quan bác lên trõng trên, chậm chân thì cũng đành để quan anh an vị dưới đất thô, mục hạ vô nhân nhưng cũng  chiếu cói như ai. Đầu năm đầu tháng, tôi ngó quanh ngó quất như thăm chừng, thôi thì thượng điền tích thủy, hạ điền khan, nhắm cái dồi trước đã…

      Mặt mày bác giáo đang nhăn nhúm như gái ngồi phải cọc, đúng là “chó thánh nhai ra chữ”, mắc mớ gì mà phải mang mấy đấng hậu sinh của ông thánh vạn thế sư biểu vào đây quấy hôi bôi nhọ cho nó rối rắm. Ấy vậy mà, bác cứ thử ngẫm lại mà xem, sau một vài chung lếu láo, nếu tôi có nhìn thấy cái đầu chó treo lủng lẳng nhe răng trắng nhởn như chào đón, để tôi nhồi nhét thêm mấy ông hủ nho, hủ nút thì cũng như thêm đũa thêm bát vậy thôi, thưa bác. Cũng như bài tản mạn này, đâu phải ăn không ngồi rồi mà có, cũng tầm chương trích cú trong Tứ Thư Ngũ Kinh cả đấy. Của khôn người khó, vẫn chưa xong, “dậu đổ, bìm leo, chó ỉa dập” lại còn thêm mắm thêm muối với họ hàng gia tộc cùng thông gia, thông điếu để có chuyện “chó đái dắt” mà hàn huyên với bác đây.

       Sự thể tôi cứ dây dưa với nhà không số phố không tên của vỉa hè Hà Nội năm nào, chẳng qua là những ngày bẩy, tám tuổi, trời mưa phùn gió bấc lạnh se người như tháng bẩy mưa Ngâu. Hà tất thành sầu với cỏ cây, ông bác buồn tình bèn sai thằng cháu đi mua thịt chó về làm một cữ cho quên trời quên đất, vì nhìn đâu đâu cũng chỉ tòan một mầu xám chì thảm sâu, thảm thiết đến nẫu người. Trên đường về, một tay cầm cái đĩa thịt luộc mỏng tang, một tay cầm cút rượu bé con con,thằng nhóc tôi dò dẫm bấu năm đầu ngón chân xuống nền đất sét vì chỉ sợ vồ ếch thì rõ…trơ mắt ếch. Thằng cháu rỗi hơi chẳng biết làm gì là nhìn những những hạt mưa bụi lất phất như tuyết bay bay, mặc dù từ lúc cha sinh mẹ đến giờ, chẳng thấy đường mây xứ tuyết là cái chi chi. Để rồi nhởn nhơ về đến nhà, chẳng hiểu cớ sự gì mỗi thứ chỉ còn đúng một nửa, nghĩ hòai không ra, đến cả gần nửa đời người tôi vẫn chịu không hiểu nổi cái…túc duyên ngãu hứng này, thưa bác.

      Sau dăm lát thịt chó luộc béo ngậy, những ngụm rượu trắng đầu đời ấy, bằng đến tuổi này, tôi vẫn nặng nợ với nó, như một cái nghiệp vậy thôi. Thì như nhà Bụt đã dậy chúng sinh: “Đi tu Phật bắt ăn chay – Thịt chó ăn được thịt cầy thì không” nghìn đời mấy ai lỡ quên là vậy đấy, thưa bác giáo. Bác nheo mắt ra ý ngại ngùng như ông nhà văn Hoàng Hải Thủy nghi nghờ làm gì có chuyện nhà chùa nuôi chó, thì đây tôi xin hầu bác một chuyện dân gian nhá:

       Một hôm, có ông sư tu từ trên núi xuống chơi một nhà phú hộ trong làng. Mấy con chó trong nhà chạy ra, chúng sủa ầm ỹ. Nhà sư giả làm như không biết giống chi, hỏi nhà chủ rằng: “Nhà ông nuôi giống chim gì mà nó hót nghe hay quá thể vậy!” Ông phú hộ tuởng nhà sư xưa nay mải mê tụng kinh gõ mõ trong am, trong cốc xa lánh cõi đời trần tục nên…”chẳng biết chó gì” thật, cũng nói chiều ý rằng: “Bạch thầy, giống chim ấy ở dây nhiều lắm. Chúng tôi nuôi nó để lúc khách đến chơi, nó hót cho vui nhà ấy mà”.

       Nhà sư ngồi chuyện trò lúc lâu, rồi nói với nhà chủ rằng:

       - Chúng tôi ở trên chùa am thanh cảnh vắng, xưa nay chưa có giống chim nào như giống chim của nhà ông. Dám xin ông mở lòng từ bi cúng nhà chùa một con. Chúng tôi đem nó về, chúng tôi nuôi để nó hót cho vui chùa thì thật là quý hoá lắm thay.

      Nhà chủ nghi bụng, một con chó cũng chẳng là bao, không lẽ chối từ, mới sai thằng dầy tớ lấy dây buộc một con chó dắt đi theo nhà sư. Ði duợc một quãng, nhà sư bảo thằng đầy tớ rằng:

- Thôi cho anh về, kẻo phiền lòng anh ra. Anh đưa con chim ấy đây, tôi dắt nó về chùa cũng duợc rồi.

     Chó thấy nguời lạ dẫn mình đi nên nó không chịu đi, cứ co dây giằng lại. Nhà su cố sức kéo dây, vừa dỏ mặt tía tai, vừa mắng vốn con chó rằng:

- Có đi không thì ... lá mơ … lá mơ !

       Bác lại nhíu mày ra điều: Dào, tin nhảm gì chuyện xưa tích cũ. Thì tôi lại xin mạo muội thưa với bác chuyện đời nay, chuyện tiệm thịt chó bốn, năm đời ở trên gác xép phố Hàng Lược ấy. Sau cách mạng mùa đông, mùa thu nhảm nhí gì gì đó tiệm này bị cây đà, cây đề cấm tiệt, thế nhưng có người ở chốn Ba Đình tới nói nhỏ với chủ quán rằng ấy là cấm dân ngu cu đen ấy thôi, cuối tuần cứ mở cho quan chức…bồi dưỡng. Từ đấy có giai thoại vê Nguyễn Tuân viết trong Hồi Ký Nguyễn Đăng Mạnh, ông này kể lể lể rằng:

       “Tôi đưa Nguyễn Tuân về viện đại học Vinh ở Thanh Hóa để diễn thuyết, phó viện Trần văn Hối làm tiệc lớn chiêu đãi và thủ một chai rượu lễ tức chai vang ngoại đưa ra để thù tiếp nhưng Nguyễn Tuân làm lơ. Ông có ít cuốc lủi riêng mang đi chứ không uống tạp như Nguyên Hồng, Hoàng Trung hay Đoàn Phú Tứ. Bữa ăn có nhiều rau tươi, xà lách xanh non, cà chua, ớt đỏ, miến gà và có cả…tiết canh chó nữa. Tôi thấy Nguyễn Tuân chẳng mặn mà gì, ông lừng khừng gắp mấy miếng trứng tráng cho có lệ. Ông nói bâng quơ là tiết canh đánh giỏi là “tiết canh xâu lại” như xâu chuỗi hạt, rồi ông giao giảng chữ nghĩa, người công giáo mà bỏ đạo, gọi là “dở ngườ”. Thí dụ “Ông tôi đã dở người”, “Nam Cao đã dở người”. Chỉ chai vang rượu lễ ông nói: “Rượu đàn bà, uống làm gì”. Trần văn Hối cụt hứng, buồn quá.

        Nguyễn Tuân lôi gói cơm nắm trong ba lô, xắt mấy lát mỏng, ăn với ruốc, sau đó lấy bi đông rượu rót ra cái nắp uống. Rồi ông vừa ngó chai rượu lễ nằm chỏng chơ bên đĩa tiết canh và nhởn nha kể chuyện từng được một ông sư đãi một bữa thịt chó độc đáo. Thịt chó ướp gia vị, đặt vào giữa bông sen của nhà chùa, bó lại, đem đồ cho chín dừ. Món ăn vừa tục vừa thanh, vừa có vị chát của nhựa sen, vừa có hương thơm của hoa sen.

       Tôi nhủ thầm trong bụng, thịt chó mà dám cho vào tòa sen, ông sư nào mà hỗn thế, có kể cũng chẳng ai tin. Nhưng vừa ăn vừa nghĩ đến cái tục, cái thanh của nó như Nguyễn Tuân thì ắt hẳn chắc cũng thú….”

       Nghĩ phất phơ chuyện xưa chuyện nay một lát, đảo mắt ra ngoài bờ đê, gió sông Hồng hiu hiu thổi, tôi ung dung tự tại với những lát dồi mỏng, cắt xéo như miếng chuối xanh, ngào ngạt thơm phức. Gắp một miếng chấm muối tiêu chanh, rồi đưa cay một hơi rượu cẩm, thấy cả tiết, sụn, lá thơm, đậu xanh trong miếng dồi như gắn bó với nhau nồng ấm, thân thương. Hết một cút cũng đủ ngất ngây và trong những khoảnh khắc của tang bồng hồ thỉ, tôi chợt rung đùi mời gọi “trời đất mang mang ai người tri kỷ” và hòai cổ một thời cùng rượu làng Ngang, làng Hòang Mơ, để tri giao quái ngã sầu đa mộng với cụ Nguyễn Đăng Cảo của một thời bút nghiên. Mặc nhiên, có thể nói cụ là người đầu tiên có tên trong sử thi, cùng cái thú tiêu dao với ăn thịt chó, trước cả Đọan Trường Tân Thanh với Nguyễn Du, cụ mê mẩn thịt chó đến độ cứ có anh mực, chị vện là đổ vấy cho…tri thiên mệnh tuốt luốt qua bài thơ chữ Hán có cái tên cũng gợi cảm, gợi tình không kém là “Hành Lạc Từ”, trong đó có câu “hữu khuyển khả tu sát” với nghĩa rõ mười mươi là  có chó cứ làm thịt, chạy trời không khỏi nắng là thế đấy, thưa bác.

       Còn cụ Cảo, cụ Hạo gì ấy, cứ như Từ Thức đi tìm Giáng Tiên không bằng. Chuyện nghe như “chuyện chó đá vẫy đuôi”, nhưng lại nằm trong gia phả gia tộc của thằng em rể tôi. Nên cũng chẳng biết làm sao hơn, đành kể lể, như “chó chết thêm đồng riềng” vậy thôi:

       “Cụ Nguyễn Đăng Cảo, còn được gọi là Nguyễn Đăng Hạo, người làng Hòai Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Cụ đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ tam danh khoa Bính Tuất 1646, đời vua Lê Chân Tông, khóa này có 17 tiến sĩ. Thi hương, thi hội, thi đình, ngay cả khoa Đông Các, cụ đều đỗ đầu. Năm Kỷ Mùi, triều Phúc Thái nhà Thanh, thấy sao văn khúc giáng ở phía Nam, bèn cho sứ thần sang nước ta tìm nhân tài và may quá lại gặp được cụ. Sau khi thử tài, vua nhà Thanh phong cụ là lưỡng quốc trạng nguyên và phán: “Địa linh nhân kiệt đời nào cũng có, nhưng vượt trội hơn cả từ nay về sau chỉ có một Đăng Hạo”

       Năm 1659, cụ được bổ làm Đông Các đại học sĩ, nhưng chỉ làm quan chưa đầy ba năm thì bị bãi chức vì tính cương trực nên không được trọng dụng. Cụ là người ngạo mạn, phóng đãng, nên lấy ngao du sơn thủy làm cái thú tiêu dao, vòng kiềm tỏa không ngòai “rượu Hòang Mơ, cờ Mộ Trạch” và thịt cầy. Cụ quy ẩn, một ngày cụ gặp một đạo sĩ râu dài tới rốn ở núi Lan Kha và xin tu tiên, đạo sĩ trả lời:

      - Tu tiên có ba thứ phải ghét, năm thứ phải kiêng, trong những thứ ấy có thịt cầy.

      Cụ gật đầu và chống gậy theo đạo sĩ lên núi học đạo, gần trưa qua một cái chợ, mùi thịt cầy trong quán bay ra sực nức. Cụ thèm rỏ rãi, chịu trời không thấu bèn xin đạo sĩ cho một bữa chót cho…chót đời trước khi thành tiên. Ăn xong lau mặt thì cụ thấy đạo sĩ và chợ búa đều biến mất. Như Lưu Nguyễn lạc thiên thai về lại chốn trần ai, thì ra đây chính là chợ Cầu Lim làng Nội Duệ, chỉ cách núi Lan Kha non dặm đường mà thôi.

       Cụ đứng ngẩn ngơ, buồn rầu một lúc rồi về”.

       Vẩn vơ nhìn ra khoảng đường Nhật Tân buồn tênh và vắng ngắt, mênh mang hiu quạnh thật, lẩn thẩn với ngày là gió tháng là mây, cùng cái tiết hàn của trời cuối đông với tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân, bà già cũng chết cóng. Vậy mà bà già chủ quán vẫn còn tươi tắn, trong một ngày đầu năm vắng vẻ như chùa Bà Đanh, đon đả ra chào khách, dông dài về một thời hòang kim. Kể lể nghề nhà, mấy đời sống bằng nghề thịt chó ở phố Hàng Than. Bà lân la ngồi trước mặt tôi, một chân bó gối trên chõng tre, một chân thòng xuống sàn nhà. Hơn thế nữa, đầu quấn khăn vành giây, bà vẫn giữ hàm răng đen hạt huyền, môi cắn chỉ và mượn miếng trầu là đầu câu chuyện, miệng bòm bèm, tung tẩy:

          “Thầy cháu vẫn thường bảo: “chó tháng ba gà tháng bẩy, gà lọt dậu chó sáu bát”, những anh chị chó đang tuổi hoa niên, lúc ấy đem ra đụng thịt mới ngon. Con chó thui rơm, da nó vàng ươm, lớp bì mỏng tang, cái đuôi ngắn một mẩu, nhọn hoắt, dựng thẳng đơ, thật là ăn miếng nào rõ ra miếng ấy. Khi thui chó, đã đành thầy cháu phải kén rơm sạch, rơm mới, thầy cháu còn rị mọ nhét vào trong bụng nó một nắm lá ổi cho thơm lòng mát thịt. Mà nhà bác biết không, có nằm trong chăn mới biết chăn có rận, có qua nghề nhà mới biết, miếng nạc cắt ra ở đùi ngon một kiểu, miếng thịt cắt ra ở lưng có nhiều bì, lại ngon một cách khác, miếng nầm, tức phần có nhiều sụn ở ức thì nhất. Cháu cũng chả biết con chó có dây mơ rễ má gì với cây đậu xanh không, mà người ta dùng hạt đậu này để đắp vào vết thương bị chó cắn. Nhưng dồi chó thì nhất định phải làm bằng hạt đậu xanh, rang lên, xiết vỡ, thêm ít búp ổi, lá mơ lông, trộn với tiết. Luộc xong, thầy cháu phải hơ qua lửa cho se mịn lại, chứ không thì rỗng tuyềnh tuyệch, cắn nó ngậy, ăn nó bùi nghìn nghịt làm sao.

       Cũng như món rựa mận…Mà nhà bác lầu bầu “dựa mận” với “rượu mận” gì đấy, giời ạ, “rựa mận” từ nhựa mận mầu đỏ tím như trái mận ấy, nói vô phép chứ nhà bác ăn thịt chó mòn răng mà chả biết chó gì sất cả. Cũng chẳng dấu gì chứ lại món này nhiêu khê lắm bác ấy ạ, nấu rất hao thịt và nhiều công, nào là phải bóp thịt kỹ với mắm tôm, mẻ và gừng già. Nhớ là gừng chứ không phải là riềng đâu bác ấy nhá, gừng càng già càng cay là như thế đấy. Xong phải đun liu riu đều lửa trong nồi gang, người Bắc mình gọi là ninh ấy mà, hay hơn cả là đun bằng nổi chả, úp vung vùi tro nóng, đốt rạ ở bên trên. Cho đến khi các miếng thịt đều sậm mầu như mầu mận chín, nước quánh lại sánh sành sanh là đúng cữ. Mấy cụ ở đây vẫn kháo nhau, món này kẹp với bánh đa hoặc ăn với bún thì sướng âm sướng ỉ cả ngày, hôm sau mùi vị vẫn còn lai láng, thịt dắt kẽ răng, sỉa răng sỉa lợi vẫn còn thơm phưng phức mùi gừng”.

       Nghỉ nghơi một chút, bà lại nhởn nha: “Không nói bác ấy cũng biết, đã nói đến thịt chó là phải nói đến riềng, mẻ và mắm tôm. Ấy dạo này già rồi nên hay lẫn, quên không nói cho bác ấy nghe, ăn thịt chó không bị độc là nhờ cái nhà anh riềng đấy, thuốc Nam người mình dùng để chữa chứng đau bụng, dầy hơi, đi lỏng, kiết. Còn được gọi là cây gừng một lá, “láng giềng” của gừng nên còn được gọi là “giềng”. Lại lẩm cẩm nữa, quên khuấy nó đi mất bát mắm tôm chanh, cháu thả vào đấy vài lát ớt tươi, cho vào đấy lưng chén rượu trắng cho bay mùi. Trăm hay không bằng tay quen, chỉ quơ dăm vòng đũa là bát mắm tôm nổi bùng lên ngay, dậy thơm ngào ngạt...Thầy cháu vẫn nói, chả hiểu có đúng không, đã mắm tôm phải là gắt, nó là âm thanh chát chúa của tự nhiên, giống như tiếng chầu gõ vào tang trống gỗ, tiếng phách cật tre già trong dàn hát cô đầu, tiếng ngâm, tiếng hãm… ”. Rồi bà buông một tiếng dài thườn thượt “Rõ mấy cụ lắm chuyện”. Chêm tí vôi vào miếng trầu, bà chậm rãi: “Cụ Cử làng Bưởi sau mấy cút còn bốc nhằng, thịt chó vẫn là âm thanh náo nức của cuộc đời, nó biểu hiện sự sô bồ, tung hòanh và tháo cởi”. Rồi bà tặc lưỡi: “Giời ạ, rõ chán chữ với nghĩa của các cụ, cháu nghe cứ như dùi đục chấm mắm cáy ấy, chả ra làm sao sất cả”.

       Đổi thế ngồi, bà lan man: “Ăn thịt chó phải uống rượu trắng Vân Điển, rượu thuốc hăng hắc mùi táo, tầu cam thảo thì vứt đi cho chó nó tha. Còn rượu nếp cẩm, nếp cái thì chả ra cái thá gì, nhạt thèo lèo như nước ốc. Nhưng có một thứ rất hợp với bia, ấy là món chả chó, món này dậy mùi nhất trong các thứ chả đấy nhà bác ạ, hơn cả thịt chả Nam Định quê cháu. Trước khi nướng đã được ướp riềng già, mẻ, mắm tôm trộn đều với nhau. Thịt chó cắt từng miếng bằng đốt ngón tay, vừa nạc vừa mỡ, xiên vào từng xiên rồi nướng. Mà lúc nào cũng phải là than tầu, than quả bàng lắm khói nên thâm thịt, vớ phải cái giống củi ẩm thì chỉ có mà đi tướt và phải quạt liền tay cho đỏ, thịt xèo xèo cháy, mỡ giỏ xuống than bốc khói thơm quyện vào thịt và đợi chín vàng như nghệ mới tươm tất. Bầy lên đĩa, thầy cháu còn cầu kỳ rắc lên ít sợi riềng khô”. Rồi bà chép miệng, bia và chả chó hợp nhau lạ lùng, thầy cháu vẫn nói vậy, nào cháu có biết mốc khô gì đâu, chắc ở đời này chẳng có thứ nào hợp với bia hơn là thứ chả chó, phải không bác. Mà bác ấy ạ, lạ một cái là ăn thịt chó phải có húng, mà cái húng ấy phải là…húng chó. Khác với húng dũi bò lan mặt đất, húng chó mọc thành cây, ra cành ra lá, lại ra cả hoa nữa, và ngon nhất ở được trồng ở làng Láng nên gọi quen là húng Láng, một đĩa húng chó, có thêm mấy cọng ngổ, mất nhát riềng tươi, một cái bánh đa vừng. Chấm miếng thịt nướng vào bát mắm tôm, làm một hớp bia một cái cho quên đời, nhâm nhi với miếng riềng, cọng húng, miếng bánh đa, thì giời đất ạ, ngon…quên chết đấy! Bác ấy ơi”.

       Quán có khách, bà tất bật lẹt đẹt đi vào. Tôi ngồi nghĩ bâng quơ, một chuyến đò nên duyên, gặp bà chủ quán mau mắn và vui chuyện, đi nhẹ về nặng, nên tôi lại có thêm một mớ chữ nghĩa để sau này làm vốn. Chưa hết, cũng tự lâu lắm rồi, tôi không gặp lại cái khăn mỏ quạ, cái áo cánh nâu, dáng đi lòm khòm, nhai chầu bỏm bẻm, bỗng dưng không đâu lại u hòai về bà hàng thịt chó nào đó ven chợ, ven sông: “Ăn rồi xách nón ra về - Thấy hàng chả chó lại lê chân vào - Chả này bà bán làm sao - Ba đồng một gắp lẽ nào chẳng không”

       Theo hơi hướng mùi chả chó nướng của bà chủ quán, lục lọi ký ức tôi lơ mơ thả hồn về ông cậu chỉ hơn tôi hai, ba tuổi, nhưng cùng một thời đánh khăng, đánh đáo để mạn phép bác giáo, chẳng cần tôn ti để được gọi bằng “nó” cho gần gũi, để tôi tin rằng mỗi người có một cái số như định mệnh đã an bài. Thỉnh thỏang Tết nhất, tôi lại được nghe họ hàng kể chuyện ấy, số là nó ở quê bị ốm thương hàn, tay chân nó đã tính chuyện bắt chuồn chuồn, theo phong tục xưa vì trước kia nó bị đẻ rơi ở bờ ở bụi nên nhà mang nó ra chuồng lợn ủ trấu lấy khí âm, khí dương để nó có nằm xuống thì cũng không đến nỗi lạnh lẽo. Nghe tiếng kêu eng éc, nó bỗng dưng ngóc đầu dậy nhìn con lợn và thều thào muốn ăn tiết canh…chó, đòi gì lại đòi cái thứ yêu ma ấy không biết nữa. Nhưng nghĩ trước sau gì nó cũng về với ông bà ông vải nên các cụ chiều cái thằng ôn vật lần cuối, ăn xong nó không chịu chết nữa mà nhăn răng ra sống để thành thằng bạn thịt chó của tôi.

       Để rồi tôi và nó đi đâu cũng có nhau, lê la hết quán này sang quán khác và được nghe nó luận về cái tên không thôi cũng thấy đầu bù tóc rối không phải là ít, như quán Cờ Tây, quán Cây Còn chẳng hạn, ngược xuôi chung quy cũng ở con cầy mà ra. Nhưng chưa hết, nó còn đào xâu chôn chặt với các cụ ta xưa ở cái thời đồ đồng, đồ đất gì ấy sách giáo, mác vào rừng săn, bắt gặp một con vật có bốn chân, đuôi cong mũi nhọn trông thấy cũng vui mắt. Thế là các cụ hè nhau ra mang về ngả thịt đánh chén, nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch, sau đến màn cây nhà lá vườn để ngả qua con “chấn bốn cho”, lại đến phiên nồi đồng nấu ếch, nồi đất nấu ốc, tiếp đến vì ngại bu nó mè nheo, thế nên các cụ cứ nhập nhằng với chồn, cheo, cáo, nên nói chại đi là….con cầy cho yên nhà yên cửa.

       Với nó, nặng mùi kinh thư kinh điển như mắm tôm, mắm tép, nói có sách mách có chứng thì chẳng qua là vua Càn Long hành phương Nam được nếm qua món một sống hai chết này bèn gọi là “vương nhục”, tức vua của các lòai thịt, cóc nhái cũng vất đi. Dân Quảng Đông vốn sính nói chữ nên gọi là “Xực tam lục”, máy mó với cái bàn tính lách ca lách cách như đổ sí ngầu thì tam, lục cộng lại là “cửu”. Từ mảng chữ nghĩa ấy, người nước Nam ta gọi chại đi là “cẩu” rồi đất lề quê thói bắt qua “con cầy”, chỉ là chuyện méo mó của chữ nghĩa mà ra, thưa bác giáo.      

       Bác là nhà mô phạm cơm nhà quà vợ bấy lâu đã quen hơi, nay nghe thằng lẻo mép nó bàn thêm về “chuyện chó cắn mèo cào” nữa thì khi không ôm rơm rặm bụng. Thế nhưng như trên tôi đã thưa thốt với bác, nói xa chẳng qua nói gần thì thiển nghĩ cũng như thêm mắm thêm muối, động đũa động bát vậy thôì…Như bát bửu với chân gấu, môi đười ươi của bà Từ Hy thái hậu… thái thịt thì cũng chẳng có món nào lại tiếng dữ đồn xa, tiếng lành đồn gần tới âm phủ như “sống trên đời ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ còn có hay không”. Để nó moi móc  thêm…chuyện chó chết sau:

        Có một thằng cẩu sau khi bị bỏ vào nồi nước sôi cạo lông trắng hếu, bèn lấy đó làm oan gia tương báo vì vắn hạn, vắn số nên xuống âm ty khiếu nại. Diêm Vương hỏi rằng chi đó, xong một tiếng “Be”, rồi cẩu ta cứ thẫn thờ thật tình kể lể rằng đầu giây mối nhợ, trăm tội ở cái be rượu làng Ngang, làng ngược của ông Chiêu Lỳ nên cẩu ta bị ngả thịt, nhồi nhét với những món như chả chìa với riềng, gừng già, nướng cho vàng ươm. Rựa mận bóp mẻ với lá mơ, lá ổi, ninh cho đỏ ối. Mắm tôm quậy cho tép chanh, ớt nổi lều bều trên mặt bát, phải đánh cho sủi bọt, sủi tăm bằng cái mắt cua đồng này kia. Nghe tả chưa xong, Diêm Vương cũng thờ thẫn sua tay “Thôi đừng kể nữa, tao thèm lắm rồi. Mà mày chết cũng đáng đời lắm, thằng cẩu”.

       Chó chết chưa phải là hết chuyện, một lần khác nó gân cổ nằng nặc gọi lá mơ là “ngưu bì đống”, vì vậy da trâu qua nước Nam ta cũng hợp lẽ trời, lá mơ tam thể mà đi với tam khoang tứ đốm là đúng quá rồi, húng chó cặp với “nhất vàng nhì vện” thì có sai chạy gì đâu. Xa hơn chút nữa nó kể vung xích chó thì sách Bản Thảo Cương Mục đời Minh tôn vinh “hòang khuyển vi thượng, hắc khuyển, bạch khuyển thứ chi” thì lại được biến thái qua tiếng Nôm là “nhất bạch, nhì vàng, tam khoang, tứ đốm”. Chân quê theo ruộng vườn và thời khí thì thêm bớt với “Trời nắng chó trắng, trời mưa chó vàng – Mưa nắng làng nhàng chó nào cũng được”, để rồi tuyệt cú vẫn là “ngon như óc chó”, thưa bác.

       Rồi nó thong dong mạc luận tiếp “nhất vàng, nhị vện…” thì hợp đạo lý nhân thường hơn là “nhất bạch nhị vàng”, khi không đang vàng, khoang, đốm lại lạc lõng chữ Hán lạch “bạch” vào đây. Hơn nữa cũng ít ai ăn chó trắng vì chó trắng cắn…ma, có kiêng có lành. Chẳng vậy mà các cụ kiêng ăn thịt chó đầu tháng, cuối năm để thành chuyện xưa tích cũ, như người Tầu kiêng ăn thịt chó vào tháng chín “cửu nguyệt vật thực khuyển” vì theo dịch lý tháng chín thuộc chi Tuất, nghe mịt mùng như tối ba mươi, chẳng nghĩa lý nước non gì sất cả. Riêng phần con này ngon hơn con kia là do mấy ông lái chó gọi cho có vần có điệu vậy thôi và nó chắc như bắp luộc “chó nào chẳng ăn cứt, ốc nào chẳng ăn bùn”, cá mè một lứa hết, vậy đấy thưa bác giáo.

       Đột nhiên cái thằng cậu mèo mả gà đồng của tôi biệt tăm biệt tích, nghe phong phanh nó trốn lính ở trại di cư Lạc Dương hẻo lánh và buồn đến nẫu người. Và thề “trèo lên cây ớt rớt xuống bụi hành, ai chẳng lòng thành hành đâm thủng ruột” là cũng năm hết Tết đến, tôi mò tới thăm nó. Trưa hôm sau, hai thằng ngồi ở cái thềm đất cao, ngắm con đường đất đỏ ắng lặng đến ngáo người, có bóng cô hàng quẩy gánh nghiêng ngả theo gió sớm tự đằng xa…Như quen nhau từ kiếp trước, nó tinh nghịch gọi "Lại đây, chó". Cô hàng cũng chẳng vừa, áo chúc bâu quần cháo lòng, vừa đến gần, hất cái nón lá lên chanh chua: "Ai chó đấy". Đúng ra thì mấy chữ này, tôi có đọc qua đâu đó, nay mắt thấy tai nghe mới thấy hay hay  mới đau và rồi thì, như khách quen, đâu cũng vào đó. Ngồi ngay bờ hè, cả đám chuyện trò nắng mưa với cô hàng...bầy hàng đúng theo nghĩa đen. Quanh năm suốt tháng, "Đi gánh đau vai - Nằm dài nhịn đói - Một vác dao bầu - Một xâu  thịt chó", và gánh thịt chó quê mùa có món lòng, nó lại được thể múa rìu qua mắt thợ, làm lòng “dễ như…chó ăn trứng luộc”, mà phải chấm với nước mắm chanh mới đúng điệu. Thế là cô hàng con mắt có đuôi, cong cớn “Trai tơ lấy phải nạ dòng - Như nước mắm thối chấm lòng chó thiu” và tiếp là ngúng nguẩy, lườm với ngúyt. Nó vậy đấy, vì vậy về quê nhà chuyến này, mấy tuần sau ghé thăm nó, đón tôi ở trước cửa, câu đầu tiên nó ồ ề nói với tôi rất ư cụ lý Đình Dù là: “Vợ tớ quê mùa lắm”. Nó thở ra than rằng giầy dép còn có số, số nó là số…“chó bỏ giỏ cua”, vì vợ nó không ai ngòai cô hàng xáo năm nào.

       Thế nhưng từ dạo ấy, nó không chịu đớp thịt chó nữa…Chó thật.

       Gió sông Hồng vẫn hiu hiu lạnh, những cụm lau khô bên bờ dốc, phất phơ lay động như ngọn cỏ gió đùa, đầu năm quán vắng, trong một ngày nhàn hạ tôi vẫn còn lê la ngồi đấy như anh nhiêu, anh khóa  đợi thời nhìn ra ngòai trông ngóng...hoa đào năm ấy còn chờ gió đông. Như đôi lần đã thưa với bác, tôi thường thì, có một chút men nồng đầu óc lâng lâng, lãng đãng phiêu bồng thì lại thích quay về một thuở mịt mùng gió mây, cũng chẳng đội đá vá trời gì cho cam, chỉ tự mường tượng hóa với một Tiêu Sơn, một Phạm Thái "Nào ai tỉnh, nào ai say...". Ai mà chả biết bác là nhà mô phạm với chữ nghĩa bổ làm đôi, sợi tóc chẻ làm tư, thế nên gì cũng phải có đầu có đũa, ăn trông nồi ngồi trông hướng, láo ngáo gì với nào ai tỉnh nào ai say ở cái nơi chốn đồng không mông quạnh này, áo mặc không qua khỏi đầu, bố ai mà tin được. Thì cũng chỉ một chút ngẫu hứng vậy thôi thưa bác, nói cho ngay thì bác có ngồi chênh vênh lửng lơ giữa trời và đất, lắng nghe ngọn gió rù rì qua gầm chõng, nếu không có cái yên sĩ phi lý thuần của cái thú thứ nhất quận công thứ nhì ị đồng thì bác cũng sẽ ngất ngây bồng bềnh với bao la của đất trời, chẳng là Tiêu Sơn, tiêu hóa để nổi trôi thì cũng học thói cụ Nguyễn Công Trứ: “Ôi nhân sinh là thế ấy – Như ngọn đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao – Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào - Vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín”. Ai chẳng có những giây phút thả hồn theo mây khói, thưa bác giáo.

       Thế nhưng say thì chưa say, vừa chợt tỉnh giấc mộng hòang lương, nhìn đồng hồ, cũng cũng đến lúc phải suôi Nam. Vào đến Sài Gòn cũng đã nhá nhem tối, bèn đánh khuèo một giấc. Chuyến về thăm nhà này, lại thêm chuyện họ hàng hang hốc để dông dài với bác giáo, như vừa tỉnh giấc mộng nam kha thì cũng đã sế trưa, bà chị tất tưởi ra chợ Ngã Ba Ông Tạ mang về đĩa thịt luộc lúc nào không hay, rau tươi, bánh tráng. Làm gần hết nửa đĩa nhưng vẫn có một cái  gì lạc lõng, không thấy mềm môi, ngọt ở đầu lưỡi, hoang vắng về chiều...

       “Chó đen quen ngõ”, mấy ngày sau tôi mầy mò tìm ra quán Lá Mơ đầu cầu Thị Nghè, bước vào quán đông nghẹt, đập chát vào mắt là một dàn rượu rắn thật bắt mắt, từ nhất xà đến ngũ xà, con nào con nấy cuộn mình nằm ngủ chèo queo, an giấc nghìn thu đến lạnh người. Đảo mắt một vòng, tôi như lạc vào thế giới của Đồ Phồn, Chí Phèo, bàn ghế thấp lè tè, bát đĩa cốc chai la liệt, ngổn ngang trên bàn dưới đất. Cái không khí xô bồ tuyệch tọac ấy vậy mà nên thơ mới chết người, cùng cái bát nháo của đám sĩ phu Bắc Hà hai nút, nồng nặc trong một cõi ta bà mù mịt khói hương, cùng khói thuốc lá ngập trời như bức tranh vân cẩu. Lững lờ bâng khuâng được một lúc, buồn tình như con thạch thùng ăn đêm, tôi tặc lưỡi một cái tách gọi đĩa trần như nhộng. Lại vẩn vơ đến chuyện kẻ Bắc người Nam, ngòai kia luộc, trong này hấp cách thủy, nhưng cũng đằm thắm ra phết chứ đâu có bỡn, thớ thịt lẳng lặng chui tuốt luốt vào tận chân răng, tê tê và ngưa ngứa. Không cần móc, sỉa, đưa cay một cốc tam xà xà là chui tuốt tuồn tuột xuống cổ họng, thêm một ngũ xà nữa thì lâng lâng và bần thần với những buồn vui lẫn lộn không đâu ùn ùn kéo về như nắng mưa là bệnh của trời, tương tư là bệnh của tôi yêu..thịt chó, thịt cầy, thưa bác.

       Chẳng dấu gì bác giáo, nhìn đám tửu đồ bát nháo mãi cũng chán, tôi đâm lạc lõng, lại dáo dác thả hồn theo mây khói về phố Hàng Hòm, ngõ Cống chéo, ở đấy những hình ảnh cùng mấy thợ ăn thịt chó ngồi bó gối quấn khăn đầu rìu, quần sắn móng lợn như thân quen cùng một cõi đi về. Để rồi gần hơn nữa, cái đầu cám hấp của tôi lại ngọ nguậy về Vũ Bằng, ông họ Vũ này bắn một câu thần tình gì đâu: “Đã định không nói, nhưng không nói không chịu được. Chớ nói đến miếng ngon Hà Nội mà không nói đến thịt chó như thấy thiếu thốn một cái gì khó diễn tả. Như thiếu vắng một người tình cùng những ngày tháng mênh mang hiu quạnh”. Rồi tôi lang thang lếch thếch trở về một thời quá vãng xa xăm với cụ Nguyễn Đăng Cảo, với cụ Nguyễn Du, với Nguyễn Tuân cùng vang bóng một thời với…thịt chó.

     Ấy cũng là nỗi lòng của tôi lúc đó thưa bác, bỗng chợt nhớ ra chỉ còn một, hai ngày nữa là đến ngày về, để thấy hiu quạnh, trống vắng và trong tâm tư tôi lại dở chứng thương vay khóc mướn, món ăn trần tục lưu danh thiên cổ này, rồi ra cũng như cơm niêu, nước lọ, cùng một lứa bên trời lận đận, mai đây theo tôi sẽ đi vào cõi tịch mịch cùng quán vắng bên đường. Qua sông ai nỡ quên đò, thưa bác giáo.

       Rồi ngày về cũng đến, đưa người ta không đưa sang sông, sao có tiếng sóng ở trong lòng... Từ sế chiều đến tối khuya, họ hàng và bạn bè tới thăm hỏi và tiễn đưa, chỉ tội nghiệp bà chị cùng cha  khác mẹ của tôi. Từ ngày hai chị em ra đời, cũng trên  dưới năm mươi năm, chẳng một lần gặp mặt, năm 54, loáng thoáng nghe tên chị ở làng, chị ra Hà Nội thì tôi đu tầu há mồm vào Nam. Tôi đi hết biển thì chị đeo tầu hỏa vào Sài Gòn, sau này chị em cũng chỉ đắm thắm qua thư từ và hình ảnh. Chiều nay ngày cuối, chị tôi lại lẳng lặng dắt chiếc xe đạp, vất vả ngược suôi tận chân cầu Thị Nghè, mang về mấy đĩa cho cậu em tiếp bạn. Chị tôi vẫn chân chất quê mùa của hương đồng cỏ nội, lại thêm một lần đi nhẹ về nặng, gói ghém cho cậu em làm quà mang về. Chị ngồi bệt xuống sàn nhà, đếm từng miếng riềng, nhặt từng lá mơ, gói ghém đóng hộp, cúi đầu dấu nước mắt ngắn dài....”Chị thà coi như là hạt bụi - Em thà coi như hơi rượu say”.

        Về đến phi trường, nhìn thấy cái bảng dọa nạt này kia nên tôi cũng ngại ngùng, bỏ thì thương vương thì tội, thôi cũng đành quẳng gánh lo đi nhẹ lấy mình cùng cỏ xót xa đưa, cỏ xót xa người. Thế nên ngần ngừ moi ra hai "hạt bụi" thả vào thùng rác. Cát bụi lại trở về cát bụi, bồi hồi tiếc nuối, như mất mát một cái gì không tên với một nhớ hai quên...

Thịt hộp và Mercedes

Trong những chuyện nửa đùa nửa thật về chiến tranh, hễ nghe đến chuyện “bộ đội đánh đồn kiếm thịt hộp” là tôi cười cho qua, chuyện lọt vô lỗ tai này cho ra qua lỗ tai kia. Thường, những chuyện như thế, tôi vẫn xếp vào loại nhảm, thứ tuyên truyền ba xu kiểu “3 thằng VC bu cọng đu đủ không gẫy”. Tôi nghĩ: làm sao người ta lại có thể tự rẻ rúng thân mình như thế? Làm sao những con người từng phơi phới câu “xẻ dọc Trường Sơn” băng qua nghìn dặm đường dài gian khó, dài và khó bằng mấy con đường Tây tiến “nghìn thước lên cao nghìn thước xuống” của Quang Dũng thời nào chỉ để liều chết băng qua lửa đạn với những ý nghĩ nhẹ tênh như thế trong đầu?

Mãi như vậy cho đến lúc tôi khám phá ra rằng, có khi, những chuyện đùa như thật lại là chuyện thật như đùa; rằng, có khi, những điều cho là tầm thường phơ phất lại là những bộ phận hữu cơ và mang tính nhân quả nhất của những ý đồ đao to búa lớn tưởng chừng chất chứa toàn điều cao cả và sâu nặng. Chính những ý nghĩ nhẹ tênh kiểu ám ảnh lon thịt hộp ấy lại là sản phẩm không thể tránh khỏi của 1 tiến trình lên gân dài lê thê, lên từ thời chiến lên cho tới thời bình.

Và như thế, những ý nghĩ nhẹ tênh ấy cũng làm nên 1 góc nhìn về những cuộc chiến, đã chấm dứt hay đang tiếp tục, dù là 1 góc nhỏ thôi, rất nhỏ.

Nhỏ như những lon thịt hộp nhỏ làm nên khuyết điểm lớn của người lính GP trong trận đụng độ chính quy Mỹ-Việt đầu tiên ở thung lũng tử thần Ia-Ðrăng năm 1965, cái trận đụng độ mà 35 năm sau vẫn còn... đụng độ. Ðụng qua những trang hồi ký bên này, bên kia. Ðụng qua những thước phim mù khói và toé lửa của Hollywod kiểu We were soldiers và những phản ứng hậm hực hay những lời tiếng chì chiết nặng nề sau đó. [1] Thế nào đi nữa, phía này hay phía nọ, hết thảy cũng chẳng vượt qua những điều khổ quá nói hoài về cuộc chiến là bao khi bên nào cũng chăm chăm tái hiện quá khứ để tự khẳng định mình. Hoặc là những anh hùng chiến thắng vinh quang, thứ người hùng “kẻ thù nào cũng đánh thắng, trở ngại nào cũng vượt qua, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành”. Hoặc là những người hùng “gặp thời thế thời phải thế”, thứ người hùng bi tráng ở đó những ý nghĩa như màu cờ sắc áo, nghĩa khí đồng đội, sự gan góc và bất khuất trước sức mạnh kẻ thù v.v. đã cộng hưởng với nhau để níu lại phần nào chiều nghiêng ở cán cân thua thắng. Gì thì gì, những đặc tính người hùng kiểu nào cũng lấn át những tính cách con người - con người với những gì phàm trần nhất, do đó thực nhất và, có thể nói, nhân bản nhất – để tăm tắp trở thành những cơ phận đơn giản và bền bỉ trong cỗ máy chiến tranh. Chỉ có những chi tiết nhỏ như lon thịt hộp. Nó đủ nhỏ so với 1 trận đánh lớn nên mới vượt qua những kẽ hở của nỗ lực tái hiện quá khứ theo mô thức sử thi hay anh hùng ca để, 1 cách vô tình, níu kéo lại phần nào tính chân thực.

Tôi không bôi nhọ ai. Tôi cũng không hoài công tham gia cái trò phản tuyên truyền nhảm nhí mà chỉ lập lại “những điều trông thấy” của người trong cuộc, thứ người trong cuộc với lập trường đầy mình cỡ ông tướng Ðặng Vũ Hiệp, Chủ nhiệm Chính trị của mặt trận hồi ấy, như đã kể lại trong Ký ức Tây Nguyên: “Khuyết điểm thứ ba, công tác giáo dục và tổ chức cho bộ đội ý thức thu hồi chiến lợi phẩm, nhất là vũ khí trang bị chưa đầy đủ. Chưa tận dụng lấy vũ khí địch để diệt địch, còn nặng về lấy thức ăn. Có đồng chí đang đánh nhau vẫn ngồi ăn. Lại có anh em diệt địch xong, lấy thuốc lá vừa hút vừa xông lên đánh tiếp”. [2]

Kể ra, ông Ðặng Vũ Hiệp có nặng lời kiểm điểm thì cũng phải thôi. Tưởng tượng cảnh anh bộ đội Cụ Hồ nhồm nhoàm cái miệng giữa trận địa, sẵn sàng “bắn bắn bắn vào đầu quân Mỹ” với khẩu AK-47 Nga ở tay bên này, cái lon thiếc Mỹ xanh màu olive và thơm mùi thịt nguội ở phía bên kia. Tưởng tượng cảnh, dưới bóng cờ hồng phấp phới thêu hàng chữ “Quyết chiến Quyết thắng”, người lính GP “cầm gươm, ôm súng, xông tới” với họng súng toé lửa trên tay và đôi mắt “mang hình viên đạn” sáng rực trên mặt. Hãy tưởng tượng: anh siết cò bắn gục hay vung lê đâm gục 1 tên lính Mỹ. Rồi tưởng tượng tiếp: anh cúi xuống loay hoay bên cái xác chết rướm máu và nóng hổi để tìm cái gì đó thơm thơm, rồi anh lóng ngóng tay súng tay diêm, rồi miệng anh bốc khói thơm lừng, rồi anh “cầm gươm, ôm súng, xông tới” tiếp. Cũng dưới 1 bóng cờ hồng phấp phới. Cũng với đôi mắt mang hình viên đạn. Cũng với họng súng toé lửa trên tay. Có thêm chăng là thêm 1 điếu thuốc thơm cháy đỏ trên môi và những cảm giác khoan khoái nào đó tràn ngập trong hai buồng phổi. Có cấp chỉ huy nào muốn đoàn quân oai dũng của mình bị tỳ ố khí hùng? Có cấp chỉ huy nào mà muốn đoàn quân bị cám dỗ vật chất làm giảm đi khí thế tiến công?

Mà, không phải đợi đến trận đánh Mỹ đầu tiên và không phải ngay giữa 1 trận đánh ác liệt mới có những khuyết điểm dây dưa chiến lợi phẩm như thế. Cứ đọc Hồi ký của tướng Trần Ðộ, chương thứ 13 “Lần đầu ra trận”, viết về Chiến dịch Biên giới 1950, sẽ thấy. Nào là “thuốc lá, bánh kẹo, bơ sữa nhiều lắm” trong 1 đồn binh Pháp. Nào là nguyên cả hầm rượu “đủ cho lính đồn của địch uống cả năm”, những giọt rượu chiến trường dễ gợi nhắc tới 1 điển cố Trung Hoa mà Nguyễn Trãi từng đưa vào Bình Ngô Ðại Cáo: Nhân dân bốn cõi 1 nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới / Tướng sĩ 1 lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào. Thì, tướng và quân, hết thảy cũng cùng ngọn cờ phấp phới trên đầu thế nhưng xưa nay sự tình có khác. Tướng xưa được vua ban ly rượu quý không nỡ uống 1 mình nên đổ hết xuống sông để toàn quân cùng hưởng, dù chỉ là hưởng hương hoa, hưởng để lấy tình, để trên dưới 1 lòng. Những thứ chiến lợi phẩm trong bếp kia thì khác. Chúng không được san sẻ kiểu “trên dưới 1 lòng” mà phải dồn về 1 mối, vừa khệnh khạng bề trên mà vừa chi ly bần tiện. Hồi ấy ông Trần Ðộ là chính ủy trung đoàn, là người từng đồng cam cộng khổ với lính nên hiểu và thông cảm với tiếng kêu réo trong con tỳ con vị của họ, cái sự thông cảm đã khiến bậc đàn anh CS Trần Ðăng Ninh, vị Trưởng ban thu dọn chiến trường khư khư và chi ly cái nguyên tắc dồn về 1 mối, cao giọng lên lớp, thậm chí cảnh cáo và đề nghị thi hành kỷ luật. [3]

Tôi không có ý “điển hình hoá” câu chuyện. Tôi cũng không ca ngợi hay chê bai mà chỉ muốn nói lên rằng, với những chuyện không thể tách rời khỏi cuộc chiến như thế, chúng ta có thể gợi nên 1 góc nhìn về cuộc chiến, về vai trò của những lớp người khác nhau trong cuộc chiến; rằng, bên những khung cảnh hoành tráng đầy tính lên gân và vắng hẳn hơi thở con người, vẫn tồn tại những góc khuất tuy chẳng hào hùng gì nhưng lại rất thực, rất ấm áp tình người và, nhất là, chẳng có gì sai quấy hay đáng xấu hổ cả, như chính lời ông Trần Ðộ: “Thực tình tôi rất thương anh em chiến sĩ. Hồi chuẩn bị chiến dịch, cả thời gian dài lương thực thiếu thốn phải vào rừng kiếm các thức ăn thay cơm, phải nói là ai cũng chịu đói khổ. Thấy anh em đụng tới chiến lợi phẩm như những thứ lặt vặt đó, tôi không cho là vi phạm kỷ luật chiến trường, không nỡ nặng lời với họ. Với lời phân tích của ông Trần Ðăng Ninh cho là khuyết điểm thì tôi cũng đành chịu.”

Hồi đó ông Trần Ðộ chịu là phải, cũng như sau này ông đành chịu. Thời chiến, Chính uỷ trung đoàn Trần Ðộ muốn những người lính dưới quyền thoải mái cái bao tử và con tỳ con vị với mấy thứ bánh kẹo lặt lặt lính Pháp bỏ lại sau 1 trận đánh cam go. Thời bình, Thứ trưởng văn hoá Trần Ðộ muốn những “chiến sĩ văn hoá” thoải mái cái đầu sau những gò bó ràng buộc đã chịu đựng suốt thời chiến cam go. [4] Nhưng thời nào cũng vậy: thu dọn những “lợi phẩm” chiến tranh hay hoà bình là phần việc của những bề trên.

Mà kẻ bề trên thì chỉ khư khư cái lý thuyết bề trên. Thứ lý thuyết cho phép họ vĩnh viễn là bề trên. Thứ lý thuyết vĩnh viễn xem bề dưới đơn thuần là những cơ phận ngoan ngoãn trong khuôn khổ của những mệnh lệnh, những nghị quyết và những giáo điều. Cứ nghe giọng điệu của những Trần Ðăng Ninh cũ hay mới, sẽ thấy. Cứ lật những trang viết hay những nghị quyết bốc mùi giáo điều lỡ mùa của những đàn anh CS phụ trách mảng tư tưởng và lý thuyết hôm nay, sẽ thấy. Sẽ thấy rằng, bất chấp những chuyển biến của thế giới, cái cuộc chiến cũ rích mà Marx rồi Lenin phát động hơn gần hai hay hơn 1 thế kỷ trước vẫn tiếp tục. Liên Xô hay Ðông Âu có tan tành thì, chẳng qua, chỉ là 1 sự thoái trào. Ngọn cờ búa liềm vẫn phải giương cao. Thời chiến hay thời bình gì thì, hết thảy, cũng chỉ là những pha nóng pha nguội trong cuộc đấu tranh không ngừng dưới bóng cờ hồng Marx-Lenin năm nào, có khác chăng thì chỉ khác với cái đuôi nheo “Tư tưởng HCM” mới được thêu vào. Mới rợi.

Mới mấy thì cũng chỉ là 1 bóng cờ hồng. Dưới bóng cờ hồng “Quyết chiến quyết thắng”, những chiến sĩ Ia-Ðrang vừa sẵn sàng diệt địch vừa tranh thủ nhai thịt hộp, vừa chĩa lưỡi lê nhọn hoắc xung phong với “sức núi dồn tay” lại vừa phì phà thuốc thơm. Dưới bóng cờ hồng Marx-Lenin với cái đuôi nheo tư sản những chiến sĩ búa liềm bề trên chừng như cũng thế. Cũng vừa chiến đấu vừa tranh thủ nhấm nháp. Cũng vừa chĩa cái lưỡi lê đấu tranh giai cấp tiến lên vừa khoan khoái phì phà. Ngày xưa, những anh lính hồn nhiên nghêu ngao câu “Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ” hay “Ðường ra trận mùa này đẹp lắm” có bất chấp những lần được nắn gân lập trường, những lần nắn gân ý thức tổ chức để ngã lòng trước sức hấp dẫn của miếng bánh cây kẹo hay lon thịt hộp thì cũng là điều dễ hiểu. Họ là con người. Con người bình thường với những nhu cầu bình thường, lặt vặt. Nhưng mấy bề trên búa liềm hôm nay thì khác. Họ đã già nửa đời người đấu tranh, đã già nửa đời người dạy đời bề dưới về ý thức tổ chức hay lập trường đấu tranh và hiện vẫn ngoan cường cái sự tiếp tục đấu tranh, vậy mà họ vẫn không sao cưỡng lại sức thu hút của những nhu cầu vật chất cực kỳ... phản búa liềm. Bất kể trên đầu họ vẫn phấp phới 1 thứ cờ hồng, có thêm chăng là thêm 1 cái đuôi nheo tư sản.

Âu cũng là 1 kiểu cách... bề trên. Chính ủy Trần Ðộ có thể bị cảnh cáo vì cho phép lính tự thưởng mình sau 1 trận đánh lớn. Những chiến sĩ ở Mặt trận B-3 năm 1965 có thể bị kiểm điểm vì tự tiện thưởng mình giữa 1 trận đánh lớn. Nhưng những bề trên cao hơn thì không bao giờ như thế. Ngày trước, sau trận đánh, ông Trần Ðăng Ninh thu gom chiến lợi phẩm về 1 mối để làm gì, có “hoà nước sông chén rượu ngọt ngào” hay không, người CS bề dưới Trần Ðộ đành chịu, không dám hó hé 1 câu, không dám hó hé cả khi không chịu cho mình là quấy. Bây giờ, sau 1 chiến thắng ca ngợi là vĩ đại, chấn động thế giới, những chiến sĩ búa liềm bề trên có tự thưởng mình thì câu chuyện cũng chỉ có thế, khác chăng là khác ở chỗ, so với những “chiến phẩm” của thời bình, so với những tài nguyên quốc gia, những đặc quyền kinh tế – xã hội ngất trời hôm nay thì mấy miếng ăn mà lính Pháp để lại trong bếp cho ông Trần Ðăng Ninh ngày xưa chả thấm tháp vào đâu. Nhưng thấm hay không thấm, cái trò tự thưởng luôn là độc quyền của kẻ bề trên mà bề dưới đành chịu. Chịu như ngày xưa ông Trần Ðộ từng chịu. Như những chiến sĩ Ia-Ðrăng ngày xưa từng chịu. Hay chịu như hôm nay, ông Trương Ðình Anh, chủ bút của tạp chí VnExpress, đang chịu. Bởi, nếu thời chiến có luật kín của thời chiến thì thời bình có luật kín của thời bình. Luật của những quan toà ăn vụng phạt kẻ nhìn mép, như viên chủ bút dám nhìn vào mấy cái mép sáng màu sơn của những lô xe Mercedes mới toanh nhập nóng mượn cớ Hội nghị đối thoại cao cấp Á-Âu (ASEM).

Và như thế, từ miếng thịt hộp mà anh bộ đội xơi nóng ngay giữa trận địa năm xưa cho đến nước sơn của những chiếc Mercedes lộng lẫy dưới màu cờ búa liềm hôm nay cũng bao hàm 1 mối quan hệ biện chứng nào đó. Nhai nóng miếng thịt chiến lợi phẩm là 1 cách tự thưởng mình. Khề khà nhai nguội mấy miếng ấy ở nơi nào đó an toàn, sau khi đã thu về 1 mối, cũng là cách tự thưởng mình. Thừa cơ 1 hội nghị quốc tế để nhớn nhác nhập nóng những lô xe hơi sang trọng cũng là 1 cách thưởng lấy mình. Vấn đề là cái quyền tự thưởng. Nhai nóng giữa chiến trường là cá nhân chủ nghĩa, là vi phạm ý thức tổ chức. Khệnh khạng nhai nguội ở hậu cứ, sau khi tập trung về 1 mối, lại là nhân danh “ý thức tổ chức”. Cái ý thức tổ chức về nguyên tắc tập trung đi suốt thời chiến cho tới cả cả thời bình. Ðể đánh thắng giặc Tây thì phải tập trung hết thức ăn lớn nhỏ trong bếp giặc về 1 mối. Ðể xây dựng nền dân chủ thì phải tập trung hết quyền làm chủ vào 1 mối. Chiến lợi phẩm tập trung và dân chủ tập trung. 1 thứ “ý thức tổ chức” cực kỳ cha chú và cực kỳ bề trên.

Hẳn nhiên, chủ nghĩa búa liềm, trên phương diện khoa học, là 1 thứ chủ nghĩa cha chú và bề trên. Cha chú và bề trên tới mức cực đoan, cuồng tín. Nó bảo thiên hạ sai tất, phản khoa học tất, chỉ mình nó đúng. Nó bắt người ta phải nghe chứ không được cãi. Nó bắt người ta vâng lệnh chứ không được thắc mắc. Nó đội mũ “phản động” cho bất kỳ ai bất đồng và tước quyền làm người của ai bị xem là phản động. Nó bắt người ta phải bịt mắt tiến lên ngay giữa lúc thoái trào. Nó nghênh ngang và nó khệnh khạng, cha chú. Chỉ khi đã cúi đầu thú nhận là đang bị thoái trào và phải loay hoay thêu thêm cái đuôi nheo tự sản, cái sự khệnh khạng cha chú kia mới phần nào xuống nước, vừa khệnh khạng cha chú vừa nhớn nhác dòm trước dòm sau cứ như là quân ăn vụng...

Bắt Chuột Làm Thịt

Ở Mỹ mà nói chuyện ăn thịt chuột thì thấy nó vừa ghê ghê vừa có vẻ hơi mọi rợ thế nào ấy, thú thật nếu bây giờ bảo tôi ăn thịt chuột chưa chắc tôi đã dám ăn. Nhưng ngày còn ở Việt Nam, ngay từ khi còn nhỏ ở ngoài Bắc tôi đã ăn thịt chuột rồi. Vào đến trong Nam lại được ăn thịt chuột nữa, mà ăn một cách đặc biệt ngon lành. Tuy vậy mà vẫn còn thua những ngày còn ở trong trại tù cải tạo nhiều, thịt chuột ở đây, sơn hào hải vị cũng không bằng, còn nếu bắt chước cách nói của mấy “Chú Ba” trong Chợ Lớn thì thịt chuột ở trong trại tù cải tạo là món ăn “hẩu sực lớ!”

Năm nay là năm Mậu Tý nên trong những tờ báo Tết, nhất là mấy tờ Ðặc San hay Giai Phẩm, tờ nào cũng đầy những bài viết về chuột: Chuột lớn, chuột nhỏ, chuột ta, chuột Tây. Không biết các vị ấy lục lọi tài liệu ở đâu ra mà biết nhiều thế, cái này thì Hưng Yên tôi xin chịu thua, chúng tôi chỉ xin viết ra những gì mà chính bản thân mình đã từng kinh qua.

Không biết các vị có nghe câu: “Não nuột như thịt chuột nấu đông” bao giờ chưa? Riêng tôi đã từng nghe nói câu nói này nhiều lần nhưng vẫn không hiểu sao lại “não nuột như thịt chuột nấu đông”? Ngày còn nhỏ nghe Bu tôi nói câu trên, tôi lại cứ tưởng thịt chuột mà nấu đông thì ngon lắm. Dù vậy mà cho tới bây giờ tôi cũng chưa bao giờ thấy hoặc được ăn thịt chuột nấu đông, chỉ thấy và chỉ được ăn thịt heo nấu đông. Ðôi khi thịt heo nấu đông có thêm ít thịt gà hay thịt vịt, chắc là để cho nồi thịt ngon hơn?!

***

Làng tôi là một làng quê, ruộng vườn ít, chỉ thấy toàn ao với ao, ao lớn ao nhỏ, ao nọ nối ao kia bằng những bờ tre vì thế mà chuột ở đây cũng phần lớn là chuột bờ ao. Chuột bờ ao là chuột đào hang ở bờ ao và thức ăn chính của chúng thường là sen, hoặc các thứ củ, các thứ hạt mà chúng kiếm được. Tôi đã chứng kiến một con chuột đang ăn một con cua, một lần thấy mấy con chuột cùng gặm một con cá, còn cảnh chúng kéo nhau vào chuồng heo ăn vụng cám heo cũng đã từng thấy. Như vậy chuột cũng có thể được xếp vào loại ăn tạp. Chuột thì thế còn người nếu có ăn thịt chuột thì cũng chỉ ăn thịt chuột đồng chứ chuột nhà không ai ăn. Một là chuột nhà vừa nhỏ con, vừa ăn dơ, ở dơ, còn nếu là chuột chù thì chẳng những đã nhỏ con lại hôi lắm, ngay đến mèo cũng phải bịt mũi nên đố có người nào dám đụng đến chúng, chỉ có thể đập chết rồi lấy que gắp hoặc lấy lá cây lót tay cầm mà quăng đi, vì thế mà người ta chỉ ăn thịt chuột đồng.

Muốn bắt chuột người ta dùng bẫy, cũng còn gọi là cạm chuột, còn nếu chỉ muốn giết chúng thì dùng bả (thuốc độc). Bẫy chuột có 2 loại là bẫy lồng và bẫy sập. Ngày còn nhỏ ở ngoài Bắc, nhà quê làm gì có bẫy lồng bằng sắt như ta thấy bầy bán bây giờ, chỉ có bẫy sập bằng tre và cũng chẳng thấy ai phải đi mua, người ta chỉ tự làm lấy. Ngay như đám nhóc tụi tôi, mới 11, 12 tuổi cũng đã tự làm lấy bẫy bằng tre để bắt chuột làm thịt. Dò đúng lối đi của chúng mà đặt bẫy, rải rác chỗ này một cái, chỗ kia một cái. Trời chập choạng tối, chỉ cần đặt 5, 6 cái bẫy rồi yên chí về ngủ, sáng hôm sau thế nào cũng có một, hai chú chuột bị dính bẫy, bị bẫy sập đè ngang cổ hoặc ngang người nằm chết cứng đơ. Thế là đem về đun nước sôi làm lông. Làm sạch lông rồi dùng lá nhãn khô, hoặc rơm, hoặc rạ (stubble) đốt lửa thui, cũng như người ta làm thịt “cờ tây” vậy. Thịt cờ tây phải thui ăn mới ngon. Thui rồi thì cắt đầu, 4 chân, đuôi, sau đó mổ bụng moi hết ruột gan phèo phổi, đừng quên moi luôn 4 cục hôi ở nách chuột (chỗ nối chân với mình), tất cả vứt đi kẻo khi ăn thịt bị hôi mùi chuột. Ðâu đó rồi bỏ vào nồi đổ nước luộc cho chín. Thịt chín rồi đem ra, ba bốn thằng chia nhau chấm muối tiêu hay muối ớt mà ăn, hết xẩy! Trẻ con thì ăn thế chứ người lớn họ ăn khác.

Ðặt bẫy bắt lẻ tẻ mỗi đêm một, hai chú chuột làm thịt đó là việc của trẻ con, còn muốn bắt đại trà, bắt nhiều để: Vừa có đồ nhậu, vừa với mục đích diệt chuột thì phải tổ chức hẳn một cuộc săn. Mèo là khắc tinh của chuột, mèo bắt chuột, chuột sợ mèo thì đúng rồi. Nhưng mèo bắt chuột là bản tính tự nhiên và thường chỉ những con chuột nhỏ, chuột nhắt mới sợ mèo chứ chuột cống, chuột bự chưa chắc mèo đã làm gì được. Chính mắt người viết bài này đã thấy cảnh một con mèo đang ngồi rình chuột (hay ngủ gục), thế rồi một con chuột cống bự, bự gần như một con chó con lừng lững đi qua, người viết ngồi rình xem con mèo phản ứng thế nào? Ôi, thật là thất vọng quá sức! Tưởng là mèo ta sẽ “goào” lên một tiếng dữ dằn rồi nhẩy sổ tới vồ, dù có không bắt được con chuột thì cũng làm cho chuột hết hồn mà chạy trối chết, không ngờ mèo ta không làm gì cả, chỉ lặng lẽ quay đầu nhìn đi hướng khác! Mèo cũng không thể huấn luyện để trở thành “mèo săn” được. Muốn tổ chức những cuộc săn chuột người ta phải dùng chó.

Tôi có một ông chú rể chồng của dì tôi (ngoài Bắc ở quê tôi, em trai của bố hay chồng cô, chồng dì cũng đều kêu bằng chú) có 4 người con trai, tuy là vai em nhưng họ đều lớn hơn tôi mấy tuổi. Vì thế mà khi tôi còn là một thằng nhóc thì họ đều đã lớn cồ, có người đã có vợ có con. Nhà chú rể tôi huấn luyện được 3 con chó săn chuột tuyệt vời. Thỉnh thoảng bốn người con chú dẫn chó đi làm một cuộc “đại bố” chuột. Như tôi đã thưa ở phần trên bài viết, làng tôi ruộng, vườn ít mà chỉ toàn ao, ao nọ nối ao kia bằng những bờ tre vì thế mà trong làng ít nhà không có thuyền. Với hai chiếc thuyền nan và ba con chó, trên thuyền còn có cả bổi và mấy chiếc quạt mo (bổi là phần vụn của rơm, rác, bẹ cây, lá cây khô trộn chung với nhau, cho thêm ít trái ớt khô, ít trái bồ kết khô để khi đốt lên khói có mùi cay ngẹt thở), họ đẩy thuyền đi sục sạo khắp các bờ ao. Trong khi họ dùng cây sào để đầy thuyền thọc hoặc đập vào các bụi tre thì ba con chó chạy đi chạy lại và chúi mõm vào từng cái hang chuột sủa lên inh ỏi. Chuột ở trong hang sợ quá có con chạy vọt ra ngoài thì hoặc bị chó vồ, hoặc bị người dùng chĩa ba đâm chết. Chĩa ba chính là cây sào để đẩy thuyền. Người ta chặt những cây tre già vừa tay cầm dài chừng 6, 7 thước Tây, hơ lửa nắn cho thẳng băng, róc cho thật nhẵn làm sào đẩy thuyền. Ðầu nhỏ của cây sào gắn cái chĩa ba rèn bằng thép thật bén. Khi cần đâm hay phóng vào vật gì, người ta chỉ cần xoay cây sào hướng chĩa ba về phía đối phưong rồi phóng mạnh một cái. Khi tập đã quen tay rồi thì con cá đang bơi ở dưới mặt nước phóng cũng trúng.

Chuột ở trong hang, con nào nhát gan sợ quá phóng ra thì hoặc bị chó vồ hoặc bị người đâm chết. Con nào gan liền mật lớn nhất định không chịu ra thì đã có bổi, lửa và quạt mo đây. Chịu khó kiếm xem hang chuột có mấy ngách, tức là có mấy lỗ ra, vô. Thí dụ như có 5 lỗ thì bít đi 3 lỗ, chỉ để 1 lỗ hun khói và 1 lỗ cho chuột chạy ra. Dùng một miếng vải cũ, rách (quần áo rách thiếu gì!) quấn bổi vào trong như ta quấn điếu thuốc rê, nhưng lớn bằng bắp chân sau đó châm lửa đốt. Ðể “điếu thuốc bổi” đã đốt lửa vào miệng hang rồi dùng quạt mo quạt cho khói thổi vào hang. Lỗ hang còn lại, một người cầm cái “đó” chụp lên. “Ðó” là một cái lồng làm bằng tre, cửa “đó” có gắn “hom” nên vào được mà ra không được. Tục ngữ ta có câu: “Chồng như cái đó, vợ như cái hom” ý nói người chồng làm ra tiền nhưng nếu không có người vợ giữ tiền thì tiền cũng sẽ ra hết!

Con chuột gan liền mật lớn cố thủ ở trong hang nhất định không ra, nhưng bị khói thổi vào, vừa cay vừa ngạt không chịu được buộc phải phóng ra, thế là chui vào “đó”. Lần nào có cuộc săn chuột cũng làm náo động cả một khu xóm: Tiếng sào đập vào các bụi tre, tiếng chó sủa, tiếng người la hét, nhất là bọn nhóc tụi tôi thì vui lắm. Ðứa chạy tới, đứa chạy lui, chỉ trỏ la lối om xòm. Có những con chuột đã leo tuốt lên ngọn cây tre, tưởng đã được an toàn, nhưng mà không đâu, bọn nhóc dùng súng cao su (dàng thung) bắn lên tới tấp, rút cuộc chuột cũng phải rơi xuống. Sau một cuộc săn như thế, chuột ở khu ấy tưởng như đã bị tuyệt chủng, mấy chục con lớn, nhỏ bị bắt, bị giết chứ ít gì?! Vậy mà chỉ trong mấy tháng hưởng sự bình yên, chuột ở đâu lại kéo tới, hay những con còn sống sót lại sinh sôi nẩy nở ra. Chưa đầy nửa năm sau, nếu tổ chức một cuộc săn khác thì sẽ lại giết hoặc bắt được vô khối chuột to chuột nhỏ như thường. Ðại nạn của chuột nhưng lại là nguồn vui của người. Những con chuột nhỏ như chuột nhắt thì đem nướng chín để thưởng công cho chó, còn những con lớn thì người làm thịt: Chuột rô ti này, chuột khìa này, chuột bằm nhỏ xào sả ớt xúc bánh đa (bánh tráng) này... Chỉ cần thêm ít rau thơm và vài lít rượu trắng nữa là đã thành một bữa tiệc linh đình, hàng xóm và những người thân trong gia đình như thày tôi là thế nào cũng được mời và đôi khi tôi cũng được đi ăn theo, cũng phải có một mâm cho đám con cháu trong nhà chứ?!

Thày tôi lại “đăng lính” vào Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam (QÐQGVN). Vì đã từng đi lính Pháp, đã dự trận Ðại Chiến Thế Giới Thứ 2 chứ bỡn sao, thế nên khi đăng vào QÐQGVN thày tôi không đến nỗi chỉ là anh đơ dzem cùi bắp. Một độ đơn vị thày tôi đóng ở Bần Yên Nhân, bu con tôi lại có dịp đến sống với thày tôi ở đấy một thời gian. Thế nên cho tới ngày hôm nay, hình ảnh Bần Yên Nhân ngày đó vẫn còn đậm nét trong tôi. Bần Yên Nhân có con đường hai bên rợp bóng những cây bàng với trái chín vàng, nhưng đặc biệt nhất lại là chợ Bần mà không bao giờ tôi quên được. Có lẽ ai cũng biết sản phẩm nổi tiếng nhất của Bần Yên Nhân là tương, rau muống luộc mà chấm với tương Bần thì hết sẩy. Câu ca dao: “Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”, có lẽ tương đây là tương Bần. Còn câu thành ngữ “Nát như tương Bần” nữa! Không hiểu họ làm thế nào mà những hạt đậu nành mềm và nước tương thật sánh chấm rau luộc ăn ngon lắm. Tuy vậy mà mỗi khi nghĩ đến Bần Yên Nhân thì trong đầu tôi lại chỉ tưởng tượng ra một ngôi chợ với những xâu chuột treo lủng lẳng. Không biết bằng cách nào và bắt ở đâu mà được nhiều chuột thế? Mấy sập bán thịt, cá, rau, cải, hiếm có cái nào lại không treo thêm mấy xâu chuột đã làm sẵn. Những con chuột không lớn quá mà cũng không nhỏ quá, cứ nhàng nhàng cỡ cái chuôi dao, đã làm sạch sẽ và luộc chín. Khách nhậu mua về muốn biến chế, nấu nướng lại thì tuỳ, còn không cứ chặt ra mà nhậu cũng chẳng sao. Rất tiếc ngày đó sao tôi không nói thày bu tôi mua về ăn thử nhỉ, để cho đến hôm nay tôi chỉ có thể tả lại những gì mình thấy, chứ còn ăn ngon, dở thế nào thì thực tình không biết!

Thế rồi vì chiến tranh, và cũng còn vì nhiều thứ khác, như để tránh sự quấy nhiễu của Việt Minh chẳng hạn, thày bu tôi cho tôi lên Hà Nội học chứ không ở nhà quê nữa. Lên sống ở Hà Nội rồi thì làm gì có chuột mà ăn. Mà giả thử có bắt được chuột cũng không ai dám làm thịt, bởi chuột Hà Nội là chuột nhà, chuột cống chúng dơ khủng khiếp. Người ta kể chuyện, trong nhà thương, nơi nhà xác có những con chuột lớn gần bằng những con heo con, xác người chết mới để một, hai ngày có khi đã bị chúng gặm mất cả ngón chân, ngón tay. Bởi thế chỉ mới nghĩ tới chuột cống thôi là đã thấy rùng mình, nói gì đến ăn thịt chúng! Bẵng đi mấy năm, cho tới sau 1954 di cư vào Nam mới lại có dịp ăn thịt chuột trở lại.

Ngày đó miền Nam trù phú, nhất là miền Lục Tỉnh, đất đai phì nhiêu, lúa thóc nhiều, ruộng đồng cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi. Cần Thơ, Châu Ðốc thịt cá ê hề. Có nơi, thò tay xuống bờ ruộng quơ quơ mấy cái cũng bắt lên được một con cá lóc, ấy vậy mà người ta vẫn ăn thịt chuột, không phải vì đói mà ăn, mà chính vì thịt chuột nó ngon thật đấy!

Ngày mới vô Nam, đơn vị Thày tôi đóng ở Châu Ðốc, hôm ấy mấy ông binh làm thịt một con chó, lúc thui chó, bà con người Nam kéo tới xem, đông còn hơn người ta xem một đám Sơn Ðông Mãi Võ, rồi nghe những tiếng xầm xì: “Bắc Kỳ ăn thịt chó! Bắc Kỳ ăn thịt chó!” Người Bắc ăn rau muống thì người Nam bảo là: “Bắc Kỳ ăn rau heo” hoặc chế riễu là: “Bắc Kỳ ăn rau muống ỉa c. rớt”. Chỉ có thịt chuột, người Bắc ăn thì người Nam cũng ăn mà còn ăn một cách độc đáo hơn nhiều, ăn chuột bao tử! Ðến sau này thì Bắc Kỳ ăn gì, Nam Kỳ ăn nấy, “cờ tây”, rau muống làm tuốt. Sang đến chế độ xhcn ưu việt thì “rau heo” cũng không có mà ăn!

“Ăn chuột bao tử”! Ðến mùa chuột đẻ, lần theo các bờ ruộng lúa, bờ mương, bờ đìa, một người lớn cầm cái “leng” (leng, mai, thuổng: dụng cụ để đào đất) đi trước, dăm ba chú nhóc theo sau, một thằng còn cầm theo cái lon nhựa to tổ bố. Có lẽ người lớn đã có kinh nghiệm, chỉ nhìn miệng hang là biết hang nào có chuột, hang nào không. Ấn mũi leng xuống, chuột lớn thấy động vọt lẹ ra ngoài, đào thêm mấy leng nữa, đàn chuột con hiện ra dưới đáy lỗ, nếu chúng đã mở mắt, đã bắt đầu mọc lông rồi thì thôi, cứ để đấy cho bố mẹ chúng về lo, người đi tìm hang khác. Còn nếu là chúng mới ra khỏi bụng mẹ, chưa mở mắt, chưa mọc lông thì bắt hết bỏ vào lon. Cứ thế đào vài chục hang, bờ ruộng, bờ mương, bờ đìa nhiều hang lắm! “Thu gom” được gần đầy lon chuột rồi thì thôi.

Về nhà đổ lon “chuột bao tử” ra rổ, xối nước rửa cho sạch hết bụi, đất còn bám trên người chúng rồi để cho ráo nước. Chảo mỡ hay chảo dầu đặt trên bếp lửa, đợi cho mỡ hay dầu nóng bốc khói ngùn ngụt thì đổ cả rổ chuột vô. Con nào còn sống chỉ kêu được một tiếng “chit” rồi thôi, lát sau những con chuột con mới đẻ, lớn bằng chừng hai đốt ngón tay út chín vàng, đem ra cuốn rau sống mà chấm mắm nêm. Cùng với vài món nhậu khác nữa và 1, 2 lít đế, bốn năm ông cởi trần trùng trục gật gù chén chú chén anh. Bà con người Nam rất thảo ăn, đang nhậu tưng bừng mà có bạn bè hay người quen tới chơi là mời vào mâm cho bằng được, chứ không như người Bắc “miệng mời mà bụng khấn giời đừng ăn”! Cũng do người Miền Nam thảo ăn mà người viết được biết qua mùi vị của “chuột bao tử”. Thú thật lúc đầu cũng cảm thấy hơi nhờn nhợn, nhưng chỉ sau một vài miếng thì “ai đi đến đâu, tui đi đến đó”, chỉ tiếc một điều “chuột bao tử” không có nhiều!

***

Tôi xách va li vào Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức ngày 10 tháng 6 năm 1960 - Khoá 10 - Ra trường đi lêu bêu mấy đơn vị, trước 30 tháng Tư đen tôi phục vụ tại Phòng 6 Quân Ðoàn 2 đóng ở Pleiku. Hơn 15 năm làm lính, tôi đãi bạn bè ăn cũng nhiều và được bạn bè mời ăn cũng lắm. Cao lương mỹ vị gì cũng đã hưởng qua riêng chỉ có cái anh “thịt chuột” là tuyệt đối vắng bóng, mà hình như chẳng bao giờ nghĩ đến món ăn này nữa cả. Mãi cho đến ngày được vào học trường cải tạo của chế độ xhcn ưu việt mới lại có dịp được ăn thịt chuột trở lại, mà ăn một cách đặc biệt ngon lành (vì “đọi” quá mà!)

Ngôi trường học tập đầu tiên của chúng tôi là Trại Thanh Hoá, Hố Nai, Biên Hoà. Không rõ lắm, nhưng nghe nói nơi này trước kia là trại gia binh của một Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân QLVNCH. Trường gồm 6 hay 7 dẫy nhà lợp tôn, vách gạch sơ sài. Mỗi dẫy lại chia làm 5 gian, mỗi gian cho một gia đình, mà trại gia binh của lính mình rộng hẹp thế nào, không nói thì hẳn nhiều người cũng đã biết. Vậy mà sau này có người nói vẫn còn bằng vạn lần chỗ ở của dân thủ đô Hà Nội dưới thời Bác và đảng cơ đấy! Nhập trường chúng tôi được chia cho ở cứ 6 người một gian nhà, lúc đầu nằm dưới đất, về sau không biết kiếm đâu được ván cao su, “Kách” mạng cho ván lót xuống mà nằm. Sáu người phòng tôi là các anh: Lê Minh Ðạt, Nguyễn Phước Thành, Lê Ðình Nhuận, Hà Hữu Ðức, Ðắc (anh này tôi chỉ nhớ tên, không nhớ họ) và tôi. Anh Lê Minh Ðạt là người nhiều tuổi nhất mà cũng là người khôn ngoan, tháo vát nhất phòng. Anh người Bến Tre, Công Giáo, cấp bậc Ðại Uý, cán sư y tế phục vụ tại Bệnh Viện Tê Liệt Vũng Tầu. Ngoài Tây Y anh còn biết cả châm cứu, phải nói là sự hiểu biết tổng quát của anh rất rộng. Tôi là một anh chàng gốc nhà quê, lẽ ra sự cần cù và hiểu biết về trồng tỉa phải hơn anh, trái lại chính nhờ anh tôi mới biết được phải làm sao cho dây mướp, dây bầu, dây bí bật nhiều nhánh và sai trái, trồng mít phải làm sao mít mới cho nhiều quả. Năm đầu vào trại cải tạo còn chịu dưới sự quản lý của bộ đội tương đối còn dễ thở, mỗi lần ra ngoài lao động còn kiếm chác được khi thì nắm rau cải trời, khi nắm rau sam, khi nắm đọt chùm bao v.v... chiều về tranh thủ nấu gô canh ăn độn với chén bắp mọt hay chén khoai mì khô, khoai lang khô hoặc mấy củ khoai lang sùng cho đầy bao tử. Tháng đầu tiên nhập trại, còn ăn bằng tiền của mình nên cũng tương đối, từ tháng thứ hai trở đi càng ngày “Kách mạng” càng tỏ ra bệ rạc nên “học viên” đói mờ hai con mắt. Không có chế độ nào vừa bất nhân, vừa bần tiện, lại keo kiệt, bủn xỉn như chế độ Việt Cộng. Lúc nào miệng cũng oang oang cách mạng khoan hồng đại lượng, đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại, nhưng thực tế “kách mạng” còn độc hơn cả loài rắn hổ mang. Ai cũng đinh ninh là chỉ đi học tập một tháng, nửa tháng rồi về, không ngờ mà người 3 năm, người 6 năm, người 12, 13 năm, thậm chí có người trên 2 chục năm! Trong khi chồng ở tù thì vợ con ở nhà bị những tên đầu trâu mặt ngựa mang danh cán bộ cách mạng dụ dỗ, mua chuộc, ép buộc phải bán mình cho chúng khiến cho bao nhiêu gia đình tan nát!

“Lao động là vinh quang”, làm ra của cải nuôi sống xã hội, nhưng vinh quang đâu chẳng thấy chỉ thấy những con người bị đối xử thua loài súc vật! “Làm ra của cải nuôi sống xã hội” đâu chẳng thấy, chỉ thấy nuôi sống bọn cai tù bất nhân, những tên công an ranh con, chưa ráo máu đầu gọi những người tù đáng tuổi ông, tuổi cha, tuổi chú chúng là anh, là thằng này, thằng kia. Tù phá rừng làm rẫy trồng bắp, trồng khoai mỳ, nhưng đến ngày thu hoạch thì tù vẫn ăn bắp mọt hoặc ăn những củ khoai mì đầu thừa đuôi thẹo. Có những người tù đói quá không chịu được đành phải ăn cắp một hai trái bắp, một hai củ khoai mì dắt vào lưng quần, khi nhập trại, bị chúng bắt được thì vô nhà kỷ luật, cùm một chân, hạ mức ăn xuống còn 8 kg một tháng.

Mới nhập “trường” được mấy tháng mà “học viên” đã đói vàng hai con mắt, có ông dược sĩ đã “biết” ăn cả những con ốc ma! Bây giờ thì thằn lằn, rắn mối, con gì còn ngo ngoe mà lọt vào tay mấy ông tù cải tạo thi cũng cứ là bỏ mẹ. Chính mắt tôi thấy có anh tù đã nướng ăn cả con chuồn chuồn. Một con chuột nhắt lớn hơn ngón chân cái một chút, không biết chết từ bao giờ và chết vì lý do gì mà nằm cứng ngắc bên cạnh nhà, một anh tù thấy được cầm bỏ vào bếp lửa nướng, sau đó bóc bỏ lớp da ngoài như ta bóc vỏ củ khoai lang rồi xé thịt ăn ngon lành. Bây giờ thì không còn “kỳ thị” chuột nhà với chuột đồng nữa, cứ có chuột mà làm thịt là phúc rồi!

Ở trại Thanh Hoá Hố Nai được hơn một năm thì chuyển hết về trại Suối Máu Biên Hòa. Ở đây tù chính trị và tù hình sự ở chung một nhà, chung một đội, ông thằng lẫn lộn nên hở ra thứ gì là mất thứ ấy, bởi vậy đã đói lại càng đói thêm. Những anh em cùng phòng, cùng đội với tôi ở trại cũ lên đây bị phân tán tứ tung. Riêng tôi và anh Lê Minh Ðạt may mắn còn được ở chung một nhà lại cùng một đội nên hai anh em vẫn ăn chung với nhau. Kinh nghiệm hơn sáu năm ở tù cải tạo của tôi cho biết những vị được gán cho cái danh là “Ðộc cô cầu bại” thì thường vừa buồn, vừa “đọi”. Ông không biết tới ai, khi có ông ăn một mình thì khi đói, ông cũng sẽ đói một mình. Người ta 2, 3 người, đi lao động quơ quào mỗi người một chút về góp lại nấu được nồi canh, thậm chí có người bắt được mấy con cào cào, đập được một con tắc kè cũng đem về, cào cào thì lặt cánh, lặt chân, bẻ đầu rút ruột bỏ đi, còn tắc kè thì lột da lấy thịt. Sau đó thì cả cào cào lẫn thịt tắc kè đều bỏ vào nồi canh cho nó có thêm chất prồ tê in. Canh nấu rồi bắc lên khói bốc nghi ngút toả mùi thơm ngào ngạt, trong khi người ta ăn thì ông nằm nuốt nước miếng. Anh Lê Minh Ðạt và tôi, thêm một ông “bò tam” nữa kết thành bộ “Tam Ða”, ba chúng tôi bàn nhau bắt chuột làm thịt. Trại Suối Máu gồm những ngôi nhà tôn, vách tôn, nền đất tráng xi măng. Nền mỗi căn nhà cao hơn mặt đất đến hơn 20 phân nên những lỗ hang chuột đục quanh nền nhà lộ ra rõ mồn một. Tối đến những con chuột to như cổ tay người lớn, đen chùi chũi và béo mượt lông chạy ra, chạy vô hấp dẫn lắm. Chẳng cần cạm bẫy gì, chỉ cần một mớ giẻ rách, một miếng cạc tông làm quạt và hai cái bao cát là đủ.

Chuá Nhật không phải đi lao động, trong khi những anh em khác người thì vá quần, vá áo, người vạch mùng, vạch chăn bắt rệp, người nằm chèo queo lim dim nhớ vợ, nhớ con thì ba anh em tôi đi bắt chuột. Trước tiên là tảo thanh chung quanh “nhà mình” ở cái đã. Bít tất cả các lỗ hang lại chỉ chừa 2 lỗ thôi. Anh bạn “bò tam” cầm một bao cát chụp vào miệng lỗ kia, miệng lỗ này phần tôi và anh Lê Minh Ðạt. Anh Ðạt bện mớ quần áo rách lại thành một cái mồi rồi châm lửa đốt, khói bốc um lên khét lẹt, anh kê mồi lửa vào miệng hang. Ðến phiên tôi cầm miếng cạc tông ra sức quạt cho khói lùa vào trong hang. Nếu thấy khói còn thông sang lỗ bên kia thoải mái thì: Một là hang đó không có chuột, hai là con chuột còn nằm ở một cái ngách nào đó chưa chịu ra. Thế rồi cứ tiếp tục quạt cho khoẻ, khi thấy khói đang ra thoải mái tự nhiên nghẹn lại, hoặc là khựng khựng khi ra khi không thì đó là triệu chứng con chuột sắp sửa vọt ra, chỉ cần kiên nhẫn một chút là thế nào cũng có chuột làm thịt. Chuột ở trong hang bị khói làm nghẹt thở không chịu được phải chạy vọt ra, khi một con, khi hai con chui tọt vào bao cát. Lúc đó anh “bò tam” chỉ cần túm miệng bao lại, thẳng tay quật xuống đất 2, 3 cái là chuột gì cũng ngỏm củ tỏi, sau đó ta lại sang làm hang khác. Còn nhớ ngày đầu tiên ra quân, nhóm ba chúng tôi bắt được 4 con chuột, to có, nhỏ có mà con nào cũng béo mượt lông. Gớm, chúng ở cùng nhà với tù mà sao tù đói gầy trơ xương còn chúng thì béo mập thế, mà nào chúng có phải là cai tù để có thể ăn chặn của tù đâu cơ chứ?

Ngày đầu tiên ra quân được 4 con chuột, tôi đề nghị làm thịt bằng cách thay áo (lột da) chúng cho lẹ nhưng anh Ðạt không đồng ý, bảo: Làm như thế uổng bộ da lắm, đun nước sôi làm lông rồi thui đàng hoàng, như thế vừa lợi thịt, vừa ăn ngon hơn! Anh “bò tam” cũng đồng ý với anh Ðạt, thế là tôi thiểu số phải phục tùng đa số. Bữa cơm chiều hôm đó thật là huy hoàng, cơm thì chỉ có mỗi người lưng chén bắp mọt nhưng thức ăn thì ê hề. Này nhé: Phần rau luộc của ba người chung lại nấu thành canh, cho thêm mấy miếng thịt chuột vào thế là ta có nồi canh thịt. Số thịt còn lại chặt ra thành từng miếng lớn hơn 2 đốt ngón tay làm món thịt chuột khìa, như thế là sang quá rồi chứ còn gì nữa? Kỷ niệm ngày sinh nhật bác 19 tháng 5 cả cơ quan nó gần 100 tên mà chỉ thịt có một con chó nhàng nhàng, thế mà cán bộ tên nào tên nấy đi lên, đi xuống tấp nập ra vẻ bận rộn, mặt mũi vênh vênh lên ra cái đều “kách” mạng chơi sang giết chó mừng sinh nhật bác. Ðàng này chỉ ba ông tù mà chơi những 4 con chuột, không hách hơn sao? Nói thế nhưng không phải ba ông tù hưởng một mình đâu, cũng có vài anh bạn thân được “biếu” mỗi người vài miếng ăn lấy thảo!

Rút kinh nghiệm lần đầu thành công, Chúa Nhật sau ba anh em chúng tôi ra quân nữa, thế nhưng mình biết ăn thì người khác cũng biết ăn. Lần trước vì bất ưng không ai để ý nên mình mới ăn một mình được, Chúa Nhật này không phải chỉ có nhóm ba anh em chúng tôi hành quân bắt chuột mà còn thêm tới 4 toán nữa, như thế là có những 5 toán bắt chuột cả thảy. Thế rồi thêm mấy Chúa Nhật sau nữa, khi thì 3 toán, khi thì 5 toán chả mấy chốc mà chuột ở trại tù Suối Máu Biên Hoà bị diệt chủng. Có lần tôi với anh Lê Minh Ðạt thì thào với nhau: Giá trước kia quân đội VNCH mình năng tổ chức hành quân diệt địch và diệt một cách tận tình, hăng say như thế này thì làm gì còn có thằng Việt Cộng nào sống sót để phá hoại miền Nam khiến cho mình phải “xất bất xang bang” như thế này?

Ở trại Suối Máu Biên Hoà được hơn một năm thì một số người bị chuyển trại trong đó có tôi. Chúng tôi bị đưa đến Z 30C Hàm Tân, Thuận Hải. Ðến đây cũng gặp được một vài người quen, nhưng sáu anh em ở chung một phòng trong những ngày đầu nhập trại Thanh Hoá, Hố Nai thì đến đây chỉ có mình tôi. Các anh được về hay bị đưa đi đâu tôi không biết. Giữa năm 1981 tôi ra khỏi tù, về nhà ở Vũng Tầu lêu bêu và làm đủ thứ nghề kể cả đạp xích lô, sang Mỹ theo diện HO (HO4). Lần cuối cùng ăn thịt chuột ở trại Suối Máu Biên Hoà đến nay đã ngoài 30 năm. Nhân đọc mấy bài báo Xuân Mậu Tý nói về chuột, tôi nghĩ: Giá bây giờ mà có thịt chuột chưa chắc mình đã dám ăn!

Bữa thịt dê núi

Những ngày chiến tranh.

Nhóm thiết kế công trình đặc biệt phải sơ tán sâu vào vùng núi để giữ bí mật. Thực ra chỉ là thiết kế những trạm xá dã chiến có thể tháo lắp dễ dàng, chuyên chở gọn trên ô tô dùng cho các đơn vị quân y tiền phương. Chúng tôi được đưa đến một nơi cách biệt với dân chúng. Mọi liên hệ với bên ngoài thông qua một nhân viên bảo mật kiêm tiếp phẩm.

Trời cuối đông, lạnh buốt. Sương mù trắng đục đặc sệt bao phủ khắp vùng, thỉnh thoảng có chỏm núi cố vượt thoát khỏi lớp sương mù với những cây trụi lá khẳng khiu, trông đẹp và buồn như tranh thủy mặc. Một buổi sáng chúng tôi tỉnh giấc vì tiếng reo của Luận :

- Cây trên đỉnh núi đã có lá xanh. Tết đến nơi rồi. Dương béo hôm nay phải cố kiếm món gì cho anh em.

Hơn một tháng nay bữa ăn chỉ có ruốc cá và rau cải trắng. Món ruốc cá của nước ngoài viện trợ, là thứ cá không tên xay dối sấy khô đóng thành bánh cứng như những thỏi gỗ, khi ăn dằm vụn ra. Rau cải mua của dân địa phương là giống rau cải Trung Quốc, bẹ trắng ngắn ngủn trông tươi non mập mạp nhưng ăn thì nhạt phèo. Lúc đầu, ruốc cá là thức ăn ngon và quý hiếm. Nhưng ăn lâu ngày quá thì trở thành môt thứ hình phạt nặng.

Dương béo, gã cấp dưỡng bất đắc dĩ của chúng tôi là một gã to con, chỉ là sơ cấp kỹ thuật nhưng được vào nhóm công tác đặc biệt vì có thể nấu ăn cho nhóm. Ông nội Dương từng là đầu bếp của một hiệu ăn Trung Hoa thời trước, chế biến thông thạo từ những món ăn để các đức ngài “ngự” dùng cho nội cung cho đến các thức phàm dã, nên con cháu cũng được truyền cho ít nghề. Dương đã nghĩ ra đủ mọi trò với những tên gọi theo chữ Hán bịa đặt mà hắn học lỏm từ ông nội.

Cải tàng Ngư: Cải trần tưới “sốt cá”, tức là đun ruốc cá thành một món sền sệt rồi tưới lên đĩa rau cải luộc chưa chín hẳn. Ngư Cải giao hoan: Canh ruốc cá rau cải. Cải Ngư đấu: Rau cải xào ruốc cá. Cải hàm Ngư: Rau cải bọc ruốc cá hấp cách thủy. Dù vậy, bữa nào Luận - một gã có nhiều chữ nghĩa nhất trong bọn, cũng nhìn hai món cười như mếu :

- Thằng cha cung cấp thức ăn cho bọn ta, cái thằng Ruốc-Cá ấy, sáng nào cũng mò ra Cảng từ tờ mờ đất, thấy cái tầu thủy nào đi qua cũng nhảy cỡn lên vẫy khăn rối rít: “Ruốc cá phải không, đem hết vào đây!”

Nhân chêm vào, giọng đanh thép :

- Tội hủ hóa với con gái chủ nhà, tội ăn cắp và các tội nghiêm trọng khác phải chịu mức án cao nhất: Ăn ruốc cá và rau cải cho đến chết.

Hôm ông Táo chầu trời, Dương chế ra một món kinh khủng. Đó “Tam bảo hợp”: Cơm ghế lẫn với ruốc cá và rau cải băm nhỏ, thỉnh thoảng còn để nguyên một cọng rau. Nhân nếm thử, gật gù khen: “Tuyệt!” Rồi bất chợt nó hất tung cả mâm cơm đi, cười phá lên như điên.

Chúng tôi cũng chẳng buồn tiếc mâm cơm. Thậm chí coi việc làm của Nhân còn như một sự giải thoát cho cả bọn. Dương lẳng lặng thu dọn bát đĩa vỡ, lầu bầu:

- Chiều nay, ta sẽ kiếm một con gà mái ghẹ, hầm nhừ, luộc chín tới, quay thật ngậy thật đượm... cho các con tọng một bữa đến bội thực, rồi chết luôn đi, đỡ khổ đời.

Cả bọn nuốt nước miếng. Những gã trai đang lớn ăn uống kham khổ như chúng tôi lúc này mà được một bữa thịt gà thì chết cũng đáng.

Nhưng rồi Dương béo đã cho chúng tôi ăn con gà vẽ. Bữa chiều vẫn rau cải và ruốc cá. Ruốc cá rang qua dầu lạc và rau cải thì luộc. Dương không đặt tên là món gì nữa, và cũng không ăn cơm, nằm ôm bụng nhăn nhó. Hắn bị đi kiết vì ruốc cá. Luận cười thích chí :

- Đáng đời tên béo ị độc ác! - Và Luận cũng bỏ cơm, đi nấu nồi cháo trắng cho cả hắn và Dương.

Sáng hôm sau, trời lạnh buốt. Ngoài cửa sổ, sương muối phủ trắng núi, óng ánh như tuyết, chúng tôi chui đầu vào chăn chờ hửng nắng, dậy làm thông tầm.

Chợt có tiếng “be-be... be-be” vang lên lúc gần lúc xa.

Nhân lẩm bẩm :

- Kèn báo thức của đơn vị bộ đội đêm qua đến đóng quân gần đây.

- Thời chiến bí mật, ai thổi kèn ầm lên làm gì - Luận ngáp to.

Tiếng “be-be... be-be” vẫn vẳng đến. Nhân bật cười :

- Tiếng dê kêu. Có thế mà cũng không biết.

- “Ai uống nuớc này thì hóa ra dê”. Ai ăn ruốc cá nhiều cũng hóa ra dê - Luận nằm phủ phục nhún nhảy chiếc giường tre cót két, miệng kêu lên “be-he-he” - Ước gì tất cả ruốc cá trên đời biến thành thịt dê. Hay là chỉ một mình tên Ruốc-Cá biến thành dê cũng được. Ta sẽ chén thịt hắn.

Giá mà có con dê ở đây nhỉ. Chúng tôi nhao nhao bàn về thịt dê.

Món dê sốt vang hầm nhừ có tra bột nghệ và tưới rượu nho cho dậy mùi. Sườn dê ướp tỏi nướng. Dê thui trên lửa đến độ chín tới. Món bíp-tết dê tươi còn lòng đào. Tay Rô-bin-sơn trên hoang đảo đã uống sữa dê và chế ra món phó mát dê. Hình như anh ta còn làm cả thịt dê sấy khô nữa.

Sách thuốc cũng nói đến món “Dương nhục”, “Dương huyết tửu” và “Dương ngọc hoàn tửu”. Dê là món mỹ vị, là thực dược bổ dương tráng khí tuyệt hảo. Sau này trở thành những người có quyền chức, được thụ hưởng nhiều của ngon vật lạ, chúng tôi đã biết về những gì thuộc về con dê như vậy.

Nhưng, tất cả vứt đi hết chỉ có một món duy nhất: Tái dê.

Còn lúc này, những gã trai bị đi kiết, bị táo bón, bị “lở miệng long móng” vì thứ ruốc cá bã đắng như mùn cưa gỗ mục và những lá rau cải trắng nhạt toẹt, chúng tôi chỉ ước ao món dê luộc chấm muối chanh ớt, khi ăn miếng thịt vẫn bốc khói.

Tiếng dê kêu lại vẳng đến đứt quãng. Tiếng của một con dê non. Chúng tôi im lặng nuốt nước miếng, thưởng thức món thịt dê trong tưởng tượng theo cách của mỗi người.

- Ta ăn món “Tiếng dê kêu” - Nhân nói - Nhưng ăn dè thôi, còn để bữa chiều. Thằng nào nghe nhiều bây giờ, đến chiều phải bịt tai lại, nhịn. Này, Dương béo, món “Tiếng dê kêu” gọi là gì ?

Nhưng Dương không còn nằm trên giường nữa. Chắc bệnh kiết- ruốc-cá lại hành hắn.

Tiếng dê kêu đứt quãng, nghẹn ngào như tiếng trẻ khóc. Tiếng dê không còn gợi cho chúng tôi nỗi thèm khát thực phẩm nữa. Nghe thê thảm như những tiếng kêu của một sinh thể nhỏ bé yếu ớt đang chịu sự đau đớn cùng cực. Chúng tôi nằm im lặng. Tôi nhớ tới con dê trắng nhỏ có tên là Mê.

Trước khi rời sâu vào núi chúng tôi ở nhờ nhà một gia đình người dân tộc Trại, nằm dưới chân núi. Người bố chừng bốn muơi tuổi khuôn mặt vuông vức phúc hậu, nhưng ông bị bệnh chân voi, suốt ngày ngồi im lìm trên tấm phản gỗ duỗi thẳng đơ chiếc chân to quá khổ như cây chuối bất động. Ông chăm chú nhìn chúng tôi vẽ, thỉnh thoảng húng hắng ho rồi nhéch mép mỉm cười vô cớ. Ông góa vợ, có một cô con gái chừng mười bảy tuổi tên là Miên. Cô bé rất xinh đẹp, ngây thơ nhí nhảnh và cũng hay cười như bố. Hàng ngày, Miên lên núi chăn đàn dê của nhà. Chiều về cô hái cho chúng tôi những mớ rau, củ rừng không rõ tên nhưng nấu ăn rất ngon. Có hôm cô còn cho chúng tôi mấy quả trứng gà.

Một lần, Nhân nói với cả bọn, ra vẻ xúc động lắm:

- Sau này, khi nước nhà bình yên, ta sẽ xin về hưu, trở lại đây, cùng nàng vui hưởng tuổi già. Các ngươi có thấy nàng hay cười với ta không ?

- Có. Em cũng rất hay cười với tao - Luận gật. Dương béo cười hi hi:

- Hôm nọ, tao gửi em mua thịt trâu, tao không lấy lại tiền thừa, bảo để cho em mua cái gương soi, em cười rất nhiều với tao. Nói thật, lúc đó tao đã ôm hôn em. Vào má thôi. Nhưng bị em cắn một miếng vào tay.

Không biết Dương có khoác lác không, nhưng chúng tôi thấy có hôm hắn buộc băng ngón tay bảo bị dao cứa.

Miên rất yêu con dê lông trắng bé nhất đàn. Cô đặt tên cho nó là Mê. Mẹ của Mê sa xuống vực chết. Những con dê mẹ khác từ chối không cho Mê bú. Miên vắt sữa của lũ dê mẹ để nuôi Mê. Cô thường hay bế Mê lên lòng nựng nó và khẽ đung đưa như ru em. Con dê con lúc nào cũng quấn quýt bên chân Miên, ăn những búi cỏ non trên tay cô và đứng yên, mắt lim dim để được vuốt ve.

Chúng tôi gọi đó là “Nàng dê của ông Sơ-ganh”, theo một truyện ngắn cổ điển Pháp. Con dê lông trắng của ông chủ trại Sơ-ganh ngày ngày nhìn lên đỉnh núi khao khát những vạt cỏ non ngọt lịm bên kia núi, và mơ đến một chú dê đực tơ. Nó dứt đứt dây buộc, bỏ ngoài tai lời kêu gọi của ông Sơ-ganh, mặc cỏ sắc đá nhọn vực sâu, hăm hở dấn thân vào trong núi. Nó đã thấy những vạt cỏ gặp một con dê đực như mơ ước. Rồi nó đã làm mồi cho chó sói.

Dương béo không văn chương gì cả. Hắn bảo: “Con sói ấy đúng là tay sành ăn. Con Mê này chỉ vài tuần nữa, bắt đầu động hớn mà ngả ra thì ăn xong, chết cũng không ân hận gì”.

*

Những tiếng kêu nghẹn ngào thảm thiết cuối cùng của con dê khốn khổ như tiếng van xin tha mạng. Rồi khu núi im ắng như mọi buổi sớm. Có lẽ con dê đã chết hẳn. Rất lâu sau mới có tiếng chim hót xa lắc, khe khẽ. Lũ muông thú quanh đây đã khiếp đảm vì tiếng kêu của con dê bất hạnh, giờ mới hoàn hồn.

- Hay là con Mê của em Miên? - Nhân hỏi.

Không ai trả lời nhưng chúng tôi cùng có một dự cảm như thế. Cả bọn trở dậy nhóm đống lửa sưởi. Mới bảy giờ sáng. Đêm qua chúng tôi đi nằm từ rất sớm, nghe Luận kể chuyện “Thần hổ” ma quái để tránh khỏi cuộc bàn luận về những món ăn như thường lệ. Bây giờ mấy đứa khoác chăn ngồi sát vào nhau nhớ lại câu chuyện kinh dị về con hổ thành tinh báo oán. Rồi chúng tôi nói đến con dê non kêu gào thảm thiết trong núi đã chết. Có lẽ con dê bị hổ vồ. Vùng này có hổ không nhỉ? Nhân chợt kêu lên:

- Sao Dương béo vẫn chưa về nhỉ?

Nhân hất tấm chăn, chạy ra ngoài rồi trở lại hốt hoảng: Nhà xí không có Dương. Chúng tôi nghĩ đến hổ. Nhưng ngay lúc ấy Dương béo đạp cánh cửa liếp ì ạch bước vào, vai vác một con dê. ánh nắng ùa vào lán. Mặt trời đã mọc. Dương ném con dê đã chết xuống đất và thở hồng hộc :

- Nó bị kẹt vào khe đá, gẫy chân. Ta sẽ làm chầu tái dê thỏa thích. Còn đâu bó giò, kho đông, ăn Tết. Tạm biệt ruốc cá.

Con dê lông màu sữa, ở ức có một vệt đen như chiếc cravat. Chiếc “cravat” đã khiến chúng tôi nhận ra đó chính là “Nàng dê của ông Sơ-ganh”.

- Đây là dê hoang, sơn dương. Sừng con Mê của em Miên chưa cong và nhọn thế này. Chúng mày, nhóm bếp bắc nồi nước lên - Dương bác bỏ sự hoài nghi của chúng tôi. Hắn là đầu bếp có nghề gia truyền, không thể nói sai. Chúng tôi hào hứng nghĩ tới bữa thịt dê gần kề.

Khi món dê tái tỏa mùi thơm, Luận bật cười ha hả :

- Có câu đối này, tên nào đối được, sau này có con gái ta gả cho: “Tết Đinh Mùi, Trần Dương làm tái dê, bếp dậy mùi dê”. Ha-ha “Trần Dương - tái dê”, lại “mùi - dê” nữa thì đến Trạng ngày xưa cũng đầu hàng.

Không ai hưởng ứng trò chữ nghĩa cổ lỗ của Luận vì đầu óc chỉ chăm chăm nghĩ tới món thịt dê, mà cũng chẳng ai biết đối đáp là thế nào.

Rồi cũng đến lúc được ăn. Mâm thịt dê bốc khói đúng như ước muốn lúc nãy của chúng tôi. Cái đầu dê thui qua để trên bàn vẽ, trang trọng như kiểu trưng thành tích của những tay thợ săn, để dành ngày mai làm món hầm.

Nhân vừa nhai vừa hỏi Dương:

- Người ta bảo, phải nện cho con dê thật đau trước khi giết thịt thì ăn mới ngon. Có cái trò dã man ấy không, hả Dương ?

- Dã man cái đếch gì? - Dương, miệng đầy thịt dê, trợn mắt nhìn Luận - Ăn thịt nó thì là đạo đức với nó à? Phải đánh cho ra mồ hôi mới hết mùi hoi chứ. Con này què, không chạy được, tao lấy cành cây giã cho nhừ tử.

Tiếng kêu như van xin một cách tuyệt vọng của con dê non là thế. Chúng tôi dừng đũa. Và đúng lúc ấy có tiếng gọi hốt hoảng lo lắng ngay cạnh lán chúng tôi: “Mê-ê-ê-ê... Mê-ê-ê-ê...ơi...”

Tiếng của Miên, con gái ông chủ nhà người Trại.

Để giữ bí mật, ô tô chở chúng tôi đi loanh quanh trong đêm rồi vòng lại chính ngọn núi cũ ở một phía khác. Miên hiện ra trước cửa lán, xinh đẹp rực rỡ hơn mấy tháng trước, nhưng tóc rối bù, áo quần rách xước.

Suốt đêm qua Miên đã băng núi đi tìm Mê. Con dê tội nghiệp đến tuổi đi theo bạn tình; bị lạc, kẹt kẽ đá, đã kêu cầu cứu chủ. Nhưng cô bé chưa kịp đến thì gã đồ tể trong đám chúng tôi đã đánh chết nó. Và bây giờ Mê đang bị chúng tôi ăn thịt.

Miên chạy bổ vào lán của chúng tôi, đứng sững nhìn chằm chằm mâm thịt dê và hiểu hết.

- Nó trốn đi tìm dê đực. Thế mà các anh lại giết thịt nó.

Miên lao đến bên cái bàn có bày đầu con Mê, ôm chầm lấy cái đầu của Mê khóc òa lên. Chúng tôi buông bát đũa, cúi gầm mặt. Chỉ có Dương béo là bình thản nhai nuốt xong miếng thịt trong miệng rồi đứng lên, móc túi lấy ra xấp tiền, đếm cẩn thận. Hắn đặt tay lên vai Miên vuốt ve như dỗ dành. Nhưng cái cách vuốt ve của hắn lại làm cho chúng tôi không nghĩ là hắn thông cảm với nỗi đau đớn của cô bé. Dương nắm lấy tay Miên, giúi mớ tiền vào lòng bàn tay cô bé. Miên cầm nắm tiền một cách vô ý thức, rồi lại mở bàn tay thả những tờ giấy bạc nhàu nát xuống đất.

Dương cúi nhặt từng tờ giấy bạc nhét vào túi áo ngực của Miên. Động tác của Dương hơi lâu. Thằng đểu, rồi hắn sẽ hi hi cười tự đắc với chúng tôi về chuyện này.

Chợt Miên thét lên: “Mê-ê-ê-ê !...” Tiếng kêu cũng giống như tiếng kêu nghẹn ngào tuyệt vọng của con Mê. Rồi Miên túm lấy tay Dương đưa lên miệng cắn lấy cắn để. Dương thét lên đau đớn.

Chúng tôi vẫn ngồi ngây. Nhưng khi Dương giơ nắm đấm lên cao định giáng xuống đầu cô bé thì Nhân chồm dậy tóm lấy cái nắm đấm đồ tể, bẻ quặt ra sau lưng. Chúng tôi gỡ được Dương ra khỏi Miên. Cô gái chạy vụt ra cửa lao theo con đường mòn hẹp dẫn xuống chân núi. Dương rũ xuống ôm chặt bàn tay trái máu chảy ròng ròng. Không ai nghĩ tới việc tìm bông băng cho hắn.

Luận chửi một câu rất tục tĩu rồi hất tung cả mâm thịt dê đi như trước kia nó đã hất cái món “Tam bảo hợp” quái gở của Dương.

Hai hôm sau, mồng một Tết Đinh Mùi. Dương khoác balô một mình lủi thủi xuống núi. Bàn tay quấn băng trắng của hắn thấp thoáng khuất dần sau đám lá. Lấy cớ Dương cần phải đi khỏi đây để tránh sự căm phẫn có thể còn nữa của Miên và dân bản, chúng tôi đã trục xuất hắn.

Chúng tôi quay về với hai món cổ truyền mà tay Ruốc-Cá lại tiếp tục gửi lên.

Mê - “Nàng dê của ông Sơ-ganh” đã liều mình vì tình yêu và tự do. Chỉ khác một chút ở đoạn kết. Nàng dê trong thiên truyện ngắn kia đã ngoan cường chống trả con sói hung dữ, cố chờ cho đến mặt trời mọc mới chịu gục thân hình với bộ lông trắng đẫm máu xuống làm mồi cho sói. Còn con dê non của cô bé Miên, thì vẫn muốn sống, nhưng khi mặt trời mọc nó đã bị chúng tôi ăn thịt.

Xin Mê và cô bé Miên hãy tha tội cho chúng tôi, những kẻ đói khát đã trở nên tàn nhẫn.

Miếng thịt ba rọi

7 giờ sáng ngày 29 Tết, cán bộ quản giáo trại tay cầm một mảnh giấy, bước vào đứng ngay trước cửa nhà số 2 của trại 3, nói lớn:

- Các anh ổn định nào. Tất cả vào hết trong láng.

Mọi người đang có mặt trong láng đều quay nhìn người cán bô. Một số người đang ở ngoài sân được gọi vào. Im lặng. Chờ lệnh.

Cán bộ cầm mảnh giấy lên vưà nói vừa đọc:

- Anh nào được đọc đến tên, mặc áo vào và bước ra khỏi láng.

Mọi người trong láng bắt đầu xôn xao về chuyện đột xuất này. Cán bộ ra lệnh:

- Các anh giữ trật tự, nghe tôi gọi tên:

- Anh Bùi Tấn Mai, dược sĩ. Anh Nguyễn Anh Hùng, thú y, Anh Võ Đại Ý, y sĩ. Cả ba anh lên Ban Chỉ Huy Trại có việc cần.

Những người được gọi tên lần lượt bước ra khỏi láng, đứng thành hàng một và đi theo cán bộ trại. Nhiều người ở trong láng bàn tán xôn xao:

- Bỏ mẹ, tụi nó bị đem đi xử bắn rồi ! Chết vào ngày 29 Tết xui thật!

- Bị nhốt vào phòng tối rồi. Mất ăn Tết. Xui thật !

- Chắc là chuyển trại.

- Nói bậy bạ ! Lớn tiếng quá, chết cả lũ, nghe mấy cha !

Nghe lời cảnh cáo cuả ai đó, mọi người đều sờ sơ, nên im bặt.

Ba người tù được đưa vào phòng làm việc của anh Tư Trưởng Trại. Anh Tư tỏ ra thân thiện, nói:

-Mời các anh ngồi.

Cả ba người ngồi trên chiếc băng dài, đối diện với anh Tư.

Anh Tư cầm ống điếu thuốc lào bằng tre lên, nhét một cục thuóc vào cái tẩu nhỏ xíu, châm lửa và kề miệng vào đầu ống rít một hơi dài nghe ro ro.. Anh ém khói vào buồng phổi độ vài giầy rồi nhắm mắt mơ màng nhả khói, ngây ngất vài ba phút rồi tươi tỉnh hẳn. Ba người tù nhìn theo làn khói phụt ra từ miệng người trại trưởng, họ ngửi thấy có mùi thơm thơm trong làn khói ấy. Anh Tư đưa tay lên miệng, quẹt nước miếng rồi hỏi:

- Các anh có biết mổ lợn không ?

Anh Võ Đại Ý hỏi:

-Thưa anh Tư, mổ gì ạ?

Anh Tư trả lời ngay:

- Mỗ lợn là giết con heo và xẻ thịt đấy. Người Bắc chúng tôi gọi là mỗ lợn, các anh trong Nam, gọi là làm thịt con heo đấy mà !.

Cả ba người ợ đều lắc đầu nói:

- Thưa anh Tư, không biết.

- Anh gì, làm thú y đấy, cũng không biết à?

Nguyễn Anh Hùng trả lời:

- Thưa anh Tư, không biết.

Anh Tư càu nhàu:

- Ối giời ơi ! Làm thú y mà không biết mổ lợn, thật là quái !

Thôi được rồi, các anh cứ theo vệ binh, xuống nhà bếp anh nuôi sai bảo việc gì cứ làm việc ấy. Hiểu chửa?

Nói xong, anh Tư ra lệnh cho vệ binh dẫn đường đưa ba người xuống nhà bếp. Đến nơi, vệ binh nói với anh nuôi:

- Ba anh này sẽ lãnh phần mổ lợn theo lệnh của anh Tư..

Anh nuôi ra lệnh:

- Các anh đốt lò, đun 3 chảo nước sôi, trước khi mổ lợn nhé !

Ba người tù làm theo lệnh. Họ chất củi vào bếp lò Hoàng Cầm, mồi lửa bằng mảnh cao su cắt ra từ vỏ xe hơi. Khói đen bay lên khét lẹt. Lò Hoàng Cầm được đắp lên bằng đất sét, gồm có 3 miệng lò lớn vừa 3 cái chảo gang có bề ngang gần 1 mét. Bên ngoài là cửa lò để đốt củi. Chỉ cần đốt một nơi, lửa sẽ toả ra đều cả 3 lò nấu cùng một lúc. Ba chảo gang to đã được đổƯ nước vào, cách miệng chảo độ chừng một gang tay. Anh hậu cần ra lệnh:

- Các anh ra chuồng lợn dẫn con lợn đen vào trước, thọc huyết, cạo lông sạch sẽ. Sau đó kéo cổ con lợn trắng vào và cũng làm đúng như thế. Này, các anh cầm lấy con dao thọc cổ lợn, 2 con dao để cạo lông, và 2 con dao để mổ lợn. Các anh phải bảo quản tốt 5 con dao này. Xong việc, phải nạp lại cho tôi ngay lập tức, không được quên. Các anh quên, kỷ luật đấy !

Các anh nghe rõ chưa? Có ý kiến gì phát biểu không?

Ba người cùng trả lời:

- Báo cáo, rõ. Không có ý kiến gì.

- Tốt. Các anh làm việc đi.

Vệ binh dẫn 3 người tù đi giết lợn ra chuồng heo, nằm sát bên cạnh nhà ăn tập thể của ban chỉ huy trại. Con heo màu đen to lớn, ước chừng nặng hơn 1 tạ. Thấy có bóng người, con vật kêu lên ụt ụt, dí mõm vào máng ăn, chạy loanh quanh một lúc rồi bị cột cổ và lôi ra khỏi nhà bếp. Nó cự nự, dùng dằng, la en éc không chịu bước tới theo sức kéo của người sắùp sửa hạ sát nó. Con vật dường như biết mình sắp phải nạp mạng cho con người, nên ù lì không chịu bước, thở khè khè, le cái lưỡi ra ngoài, kêu la dữ dội.

3 sát thủ vừa kéo, vừa thúc, vừa đẩy con vật vào đến thềm xi măng bên ngoài sân của nhà bếp. Họ trói con heo bằng sợi dây dừa dài. Họ quấn chặt cả 4 chân và vật con heo ngã nghiêng xuống nền xi măng, Con vật giẫy giụa, dồn hết hơi sức còn lại để la hét, để cầu cứu, hay để than khóc theo bản năng của nó. Thú Y Nguyễn Anh Hùng được giao nhiệm vụ thọc huyết. Y Sĩ Võ Đại Ý kềm chặt 2 giò trước, còn lại cặp giòsau là nhiệm vụ của Dược Sĩ Bùi Tấn Mai. Anh Hùng cầm lấy con dao nhọn, liếc vài cái xuống bệ xi măng rồi lấy thế, khom người để chuẩn bị giết heo. Hai anh còn lại, sợ con vật giẫy giụa sẽ sút dây nên lấy hết sức mạnh đè chặt con vật xuống, không cho nó giẫy giụa. Anh Hùng hỏi:

- Sẵn sàng chưa hai anh? Đè mạnh xuống, mạnh nữa.

Hai người trả lời:

- Xong rồi. Sẵn sàng rồi. Thọc huyết đi.

Nguyễn Anh Hùng dí mũi dao vào ngay yết hầu của con heo, lấy hết sức mạnh, đâm thẳng vào. Con vật giãy giụa mãnh liệt, la hét inh ỏi. Huyết đỏ phụt ra thành vòi, chảy xuống cái son to và văng toé tứ tung lên áo, mặt của 3 người sát thủ. Tay phải của Nguyễn Anh Hùng đẫm máu heo đỏ loét trông rợn cả người ! Huyết heo ra gần hết, nhưng con vật vẫn còn rên ư ứ và giẫy giụa yếu ớt. Bùi Tấn Mai nhắc tuồng:

- Đâm vàu sâu chút nữa, ngoáy ngoáy cho mũi dao trúng tim, nó mới chết.

Anh Hùng làm theo lời bạn, ấn mạnh lưỡi dao vào sâu, lắc qua, lắc lại, ngoáy tròn được một lúc con heo xuôi chân,và tắt thở. Đợi giọt máu cuối cùng rỉ ra khỏi cổ họng của con vật, 3 anh giết lợn kéo xác con vật đến gần lò bếp, mở trói, tiếp tục đến chuồng heo để dẫn độ tử vật thứ hai.

Con heo màu trắng có vẻ nặng ký hơn con màu đen. Bị áp giải đến đoạn đầu đài, con vật vẫn hiền lành, ngoan ngoãn bước theo ba người sát thủ. Nó chẳng hề kêu la. Nó ngu đần đến nỗi không hề biết giờ phút cuối cùng của đời nó đang đến.Nhưng đến khi hai cặp giò của nó bị trói chặt, nó biết đau, ợ kêu lên ục ục, en ét.. . và giãy giụa 4 cái giò cụt ngủn. Đã có kinh nghiệm, Anh Hùng thọc dao vào ngay yết hầu của con vật, ấn vào lay mạnh ngọn dao. Máu vọt ra và chảy gọn vào cái son đựng huyết. Con vật chỉ kịp kêu lên en ét vài tiếng cuối cùng rồi nhắm mắt, xuôi chân từ giã cõi đời !

Lửa trong lò Hoàng Cầm cháy mạnh, ngọn lửa hồng khè ra bên ngoài miệng lò hừng hực hơi nóng. Ba chảo nước bắt đầu sủi tăm được một lúc đã bùng sôi, bốc hơi nghi ngút. Ba người giết lợn, tuy mới lần đầu làm việc này, nhưng cũng tỏ ra khá gọn gàng và có vẽ nhà nghề. Họ kéo xác con heo lông đen lên bệ xi măng. Nước sôi được tưới khắp cả thi thể con vật và họ bắt đầu cạo lông. Mảng da trắng lộ dần. Lông heo được dồn từ đầu xuống đuôi. Con vật giờ này cứng đơ, đôi mắt nhắm chặt, bị lật qua, lật lại nhiều lần được một lúc, con heo đen giờ đây trắng toát một màu da, đang nằm phơi thây chờ được xẻ thịt.

Con heo trắng được kéo lên bệ xi măng để được cao lông. Lông cuả loại heo này mềm hơn loại heo lông đen. Cạo lông heo xong, ba người thanh niên cũng bắt đầu thấm mệt. Mồ hôi lấm tâm trên lưng và trên trán của mỗi người. Họ tự nghỉ giao lao vài phút, uống nước chè tàu do anh nuôi mang đến và phì phào điếu thuốc Vàm Cỏ khét lẹt.

Trước khi mổ lợn, ba người tù được cán bộ trại căn dặn:

- Các anh nhớ để riêng một cái đầu, hai cái chân trước, 5 lý nạc, 2 ký ba rọi và toàn bộ lòng lợndành cho ban chỉ huy trại, nhé ! Số còn lại, khoảng chừng 2 tạ, các anh căn cứ vào số người của từng trại mà chia đều ra. Ta có tất cả là 4 trại với số nhân khẩu là 1150 người.. À này nhé! Bộ lòng lợn thứ hai còn lại, trại cho cả 3 anh mổ lợn, cùng chia với nhau. Nhớ đấy !

Hai con heo thuộc loại lợn hạch, đã bị thiến mất dịchhoàn, nên cả hai đều mập thịt và nặng khoảng 240 ký lô. Ba người bạn cùng chung sức làm thịt con heo lông đen trước tiên. Họ cắt lìa đầu heo. Huyết ứ còn lại, rỉ ra ướt đẫm nền xi măng. Con vật được lật ngửa. Mũi dao được đặt xuống từ yết hầu, rọc sâu xuống tới bụng. Hai người phanh mạnh hai giò trước của con vật. Lưỡi dao phay chặt xuống nghe phùm phụp, chẻ đôi bộ xương ngực. Mũi dao nhọn được thọc sâu vào trong mạng sườn để tách rời buồng phổi và quả tim heo. Võ Đại Ý đưa hai bàn tay đút xuống bên dưói bộ đồ lòng, kéo lên một khối ruột non, ruột già, gan, tim, phổi, lá lách, bao tử và lớp mỡ bầy nhầy. Nguyễn Anh Hùng, sau khi liếc lưỡi dao xuống nền xi măng, anh vung dao lên cao chặt mạnh xuống thi thể con vật nhiều lần để tách đôi mình heo ra làm hai phần. Cứ vậy, cả 3 chàng sát thủ tiếp tục phanh thây và xẻ thịt con lợn màu đen ra nhiều phần: Xương, sườn, thịt vai. thịt đùi, thịt ba rọi, thịt mông, giò trước, giò sau. Họ tiếp tục chặt nhỏ, cắt mỏng .. cho đến lúc, thi thể con heo trở thành một đống thịt rời rạc.

Đến lúc con lợn hạch lông trắng được đem ra để rã thịt, ba chàng giết lợn có vẻ thành thạo và kinh nghiệm hơn, nên chỉ trong thời gian ngắn, con heo đã được xẻ thành một khối thịt. Theo lệnh của cán bộ, Nguyễn Anh Hùng đã giao cho anh nuôi dầu heo, bộ đồ lòng và số thịt đã yêu cầu. Ngoại trừ bộ lòng ra, số còn lại, bao gồm xương thịt, mỡ, huyết được phân chia đều cho 4 trại. Bốn anh đại diện của 4 trại được gọi lên, báo cáo số nhân khẩu để nhận thịt. Bảng danh sách được cán bộ đọc qua: Trại 1 gồm có 350 người, trại 2 cũng có 350 người, trại 3 có 250 người, trại 4 chỉ có 200 người. Tổng cộng số nhân khẩu là 1150 ngưòi.

Thi thể của hai con heo giờ đây còn lại một khối xương và thịt, ước chừng gần 200 kí lô sẽ được phân chia cho 1150 người. Bốn anh đại diện cùng nhau phân phối số thịt trên nền xi măng.Họ căn cứ vào số người của từng trại để chia ra khẩu phần cho mỗi người chưa được 20 gờ ram, có thể là thịt ba rọi, có thể là thịt nạc, có thể xương sườn, có thể là xương sống, có thể là giò trước, có thể là giò sau.. . không thể đồng đều như chia mỗi người một ổ bánh mì được. Thật là khó phân chia !

Bốn anh đại diện cùng thoả thuận chia khối xương và thịt thành 4 phần đều nhau. Sau đó, tuỳ theo số nhân khẩu của từng trại để lấy bớt phần này, bỏ thêm vào phần kia, theo ước lượng và sự cân đo bằng mắt nhìn của 4 người. Họ cùng đồng ý và số thịt heo được phân phối về các trại. Tại trại, số thịt và xương lại phải được chặt, cắt để phân phối đến từng nhà. Mỗi nhà lại chặt, cắt thành từng miếng nhỏ để chia cho các tổ. Tổ lại chia cho từng người. Do vậy số lượng thịt lãnh về không thể nào chia ra đủ 200 gờợ ram cho mỗi người. Con dao chặt thịt của anh nuôi là loại dao bằng thanh sắt, tự chế, tự mài, nên cắt thịt bị nhầy nát, chặt xương lại vụn vỡ không còn nguyên vẹn.

Thịt heo về đến tổ, không thể chia đồng đều cho mỗi cá nhân, bởi vì, xương, thịt lẫn lộn, miếng to, miếng nhỏ, miếng dở,miếng ngon.. Cuối cùng, tổ được mọi người đồng ý chia làm 10 phần, chỗ thịt, chỗ mỡ, chỗ xương.. .và làm 10 miếng giấy ghi số từ 1 đến 10. Ai rút được số nào sẽ lãnh phần thịt có ghi số đó. Hên xui, may rủi., chẳng ai khiếu nại hay cãi cọ om sòm như những lần trước vì chia chác không đều. Cuối cùng, con lợn hạch chỉ còn lại, là một mãnh sườn hay một khúc xương giò hoặc một miếng thịt ba rọi nhỏ bằng 2 ngón tay cho mỗi người !

Lộc được Trời thương cho rút miếng thịt ba rọi lớn gần bằng hai ngón tay. Anh mừng ríu rít, vì hơn một năm qua, chẳng có ai đến thăm và gởi cho chàng tý thực phẩm nào để cứu đói, cứu thèm. Chàng chưa hề được nếm một miếng thịt nào. Bạn tù cùng trại săn bắt đủ thứ, nào là chuột cống nhum, chuột ghẻ, chuột lắt, chuột chù, nào là cắc ké, rắn mối, rắn lục, rắn hổ, con dế, con sâu.. . . đẻ ăn. Bởi vì cơ thể của họ đòi hỏi phải có chất thịt, chất lipid. Lộc cũng thèm thịt, cũng thiếu chất béo cho cơ thể, nhưng chàng không thể nào ăn các loại thịt từ những độâng vật nhúc nhích ấy được. Ghê quá, làm sao ăn!

Lộc có tánh tự trọng và nhút nhát, dù được các bạn mời một vài miếng thức ăn, trong những dịp có gia đình đến thăm nuôi, nhưng Lộc nhất định từ chối và nuốt nước miếng nhịn thèm. Lần này, sướng quá, chàng được miếng thịt ba rọi để ăn trong ba ngày Tết. Lộc thận trọng bỏ miéng thịt vào cái lon guigoz bằng nhôm, trong trắng ngoài đen. Bởi vì, từ lâu, nó đã trở thành cái nồi nấu nước sôi, nầu cháo và bây giờ dùng để kho miếng thịt ba rọi.. Trải qua nhiều tháng ngày với những va chạm, tuy bị móp vài nơi,nhưng cái lon nhôm vẫn còn được chàng quý trọng và cất giữ cẩn thận. Lộc lấy cái lon từ trong bao cát đang treo lủng lẳng từ trên trần nhà xuống ngay chỗ nằm của chàng. Lộc rửa sạch cái lon và bỏ miếng thịt ba rọi vào, đổ thêm 2 mưỗng muối hột và nước lạnh vào đến phân nửa lon guigoz, đậy nắp và treo vào cái móc sắt gắn vào cái cắn bằng thân cây trúc, rồi đi xuống nhà bếp.

Nhiều người tù đang đứng khá đông trước miệng lò. Mỗi người đều cầm trên tay môt dụng cụ giống hệt như của Lôc. Họ chen nhau một chỗ đứng, vớùi tay đưa chiếc gậy và lon guigoz đang treo lủng lẳng vào trước miệng lò. để hứng ngọn lửa hồng đang khè ra một sức nóng có thể đun sôi một lon guigoz đầy nước trong vài phút đồng hồ. Lộc đứng phía sau lưng vài người bạn, đưa cái lon thịt ba rọi vào ngọn lửa để kho. Vài phút sau, lon thịt của Lộc đã sôi, xì hơi ra khỏi miệng. Chàng rời khỏi nhà bếp, trở lại chỗ nằm, cẩn thận treo lon thịt lủng lẳng trên chỗ ngủ để những con chuột lắt đêm đêm không thể nào cướp mất phần ăn quý giá của mình. Nơi đây, chuột cũng đói như người !

Lon thịt chỉ được đem xuống bếp lò để hâm mỗi ngày một lần.Lộc chưa dám ăn ngay vì nếu ăn hết rồi sáng mùng một Tết còn chút gì để dọn bữa đầu năm? Mỗi bữa ăn, Lộc để chén bo bo luộc trước mặt,chan một chút nước muối pha loãng, nhìn lên chiếc lon guigoz, nghĩ đến miếng thịt ba rọi ... để đưa những hạt bo bo màu vàng nhão nhoẹt vào bao tử. Những người bạn gần bên nhờ được thăm nuôi, họ tự nấu cơm trong lon guigoz để ăn, nên nhường lại đến mấy phần bo bo cho Lộc. Ăn bo bo với nước muối, Lộc chỉ nhắm mắt nuốt trôi phần của mình. Số còn lại, chàng phải đem đổ vào hố rác.

Đêm 30 Tết, lon thịt kho của Lộc vẫn còn nguyên vẹn. Nằm ngửa mặt lên trần nhà, Lộc thấy cái lon guigoz đen thui, đen thủi đang lủng lẳng như mời chàng hãy mau mau thưởng thức miếng thịt ba rọi kẻo ngày Tết sẽ qua và tuổi xuân sẽ tàn ! Chàng đã nhịn thèm được 2 ngày rồi, chỉ còn vài tiếng đồng hồ, sau giấc ngủ cuối năm, sáng hôm sau, mùng một Tết, chàng sẽ ăn ngon hơn bao giờ hết! Bên ngoài láng,trời tối lắm, chỉ có chút ánh sáng lờ mờ ở ngoài hàng rào kẽm gai và trên vọng gác. Mọi người đều vào mùng. Ngọn đèn trong láng cũng vừa tắt vì đã đến giờ ngủ quy định. Bóng đêm mịt mùng quá ! Chàng không còn nhìn thấy rõ cái lon guigoz nữa.

Sáng hôm sau, vừa thức giấc, Lộc đã nhìn thấy cái nắp lon guigoz nằm ngửa mặt trên nóc mùng. Thôi rồi ! Miếng thịt ba rọi còn hay mất? Lộc vén mùng, lết ra ngoài, cầm nắp hộâp lon guigoz trên tay, chàng tháo mùng và vội vàng hạ chiếc lon xuống mặt chiếu. Miếng thịt ba rọi đã biến thành con chuột lắt ! Hết sức kinh hoàng ! Chú chuột nhỏ bằng ngón chân cái, ốm nhách, loay hoay cố gắng vượt thoát ra ngoài, nhưng lòng hộp trơn, cao, ngập nước, chú chuột như bị rơi tõm xuống đáy giếng, đang bị ướt mèm. Chú không thể nào vượt thoát lên được! Lộc nhìn kỹ vào đáy hộp để may ra còn tìm thấy miếng thịt ba rọi. Nhưng ... chú chuột đã ăn Tết trước chàng từ đêm trừ tịch vừa qua !

Rau cải đắng

» Tác giả: Bão Vũ

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 5047

1.

Thực cho ô-tô rẽ vào cổng trang trại rồi lượn quanh nhà chính một vòng. Chiếc xe uốn éo vòng vèo cường điệu như một cô gái cố ý làm duyên. Thực làm thế để khoe khoang với Lâm và Đắc - hai ông bạn cũ, thời sinh viên, về tài lái xe, về cái xe ô-tô đắt tiền và về cơ ngơi của mình. Ngày xưa họ là một bộ ba thân thiết; hơn hai mươi năm sau mới gặp nhau trong cuộc hội thảo ở vùng trung du này.

Dinh cơ của Thực rộng hơn một héc-ta, chỉ cách đường nhựa gần cây số. Ngôi nhà chính kề bên bờ đầm thả sen, có tầng hầm, kiểu nhà của các điền chủ, tư sản thời Pháp đầu thế kỷ trước. Hàng hiên rất rộng. Quanh nhà, bên những lối đi dạo trải sỏi, rải rác những giả sơn, tượng phật, tượng vệ nữ lố nhố ẩn hiện trong những lùm cây. Rồi ghế đu lầu nghỉ chân, những vạt cỏ và hoa đủ loại trồng trong bồn, leo trên dàn. Xa nữa, vườn rau, vườn cây ăn quả lớp lớp như rừng. Nhiều thứ quá; gọi là phong phú cũng được, là tạp nham lộn xộn cũng được. Sân sau là dãy nhà thấp làm kho tàng, bếp núc và nơi ở của gia đình người cháu họ được Thực nuôi để trông nom trang trại.

- Này, đừng có đùa - Thực hả hê trước sự thán phục của hai ông bạn cũ - Rồi tôi sẽ đưa hai ông thăm cơ ngơi trên phố. Một biệt thự sân vườn, bể bơi. Một nhà năm tầng làm văn phòng hãng buôn của phu nhân; ấy là ngụy trang thế, chứ bà vợ tôi quen ăn chơi chứ buôn bán gì. Cái trang trại này chỉ mất vài trăm triệu tiền lẻ, mua đất quê, xây cất, thuê gia đình thằng cháu cai quản. Ngày nghỉ đánh xe trở về với cội nguồn, hít mùi cỏ. Được chứ, các đồng chí?

Thực dừng xe, bấm còi. Gã cháu chừng ba mươi tuổi hối hả chạy ra mở cửa xe rồi khoanh tay, cúi mình:

- Chú ở phố về. Cháu chào hai ông ạ.

- ờ - Thực xuống xe, cố ý khệnh khạng cái thân hình kềnh càng - Hôm nay tao tiếp hai ông đây. Bảo nó làm mấy món quê; cá quả hấp, gà ác bọc đất nướng, canh chua Sài Gòn.

- Thưa, rượu thì vẫn "Mác-tin sương mù" ạ? - Gã cháu lễ phép hỏi.

- Vứt mẹ rượu Tây đi. Cồn chứ báu gì. Lấy rượu thuốc hạ thổ.

Gã cháu cúi mình thấp hơn, "dạ" to, rồi quay đi vội. Lâm và Đắc cùng phì cười vì cảnh thầy trò phường chèo, nhà quê ngày xưa mà chắc là Thực cố ý phô diễn, vây vo với bạn cũ. Chợt Thực gọi giật gã cháu lại:

- à Tạc, tao bảo - Thực ghé tai gã cháu, nhưng vẫn để hai ông bạn nghe rõ - ăn xong, sửa soạn cho chúng tao... Vào làng tìm loại kha khá.

Tạc toét miệng cười, "dạ" lần nữa rồi hớn hở chạy đi. Lâm hỏi Thực:

- âm mưu gì thế, lão chủ trại?

- ông chậm phát triển quá - Đắc bảo Lâm - Để trả thù cho thời gian khổ, tay Nghị Hách tái thế này sẽ đãi cánh ta món... quê, hiểu chửa?

Thực lại vênh vang: "Đừng có đùa!"; cái câu đệm hắn vẫn dùng thời sinh viên trong mọi trường hợp.

Lâm ngồi trên chiếc ghế xích-đu ngoài hiên. Đầm nước loáng ánh chiều đỏ sẫm. Cánh đồng yên tĩnh, gợi buồn.

Lâm nhớ tới những buổi chiều trung du ngày trước. Đồi cỏ gianh nham nhở những mảng đất đỏ như cháy dở. Những tàu lá cọ hình vết mực tung tóe. Trời cao xanh không một vẩn mây mỏng. Mặt trời thả sức trút nhiệt lượng nung nấu những ngọn đồi. Cuối ngày, đám sinh viên trở về, đầu đội những bó cỏ gianh in hình trên nền trời mầu sắt nung đang nguội dần. Bộ ba Đắc, Thực và Lâm ở trong số đó. Khát và đói. Họ cắt cỏ gianh để lợp nhà lớp học sơ tán.

*

Trời tối hẳn. Mâm thức ăn bày trên cái sập gụ lớn. Thằng Tạc đứng hầu. Thực bê bình rượu thuốc lớn rót ra chén, tự đắc:

- Hổ mang, cá ngựa, sơn dương ngọc hoàn, dâm hoắc hương đấy. Đừng có đùa.

Họ ăn uống. Những thức bổ béo và rượu thuốc ngấm râm ran khắp cơ thể. Lâm chống đũa hỏi Thực:

- Nhiều thịt mà ít rau. Sao ở đây ông không trồng rau cải đắng. Về đất này, nhớ rau cải của thôn Sơn Hạ ngày xưa quá.

- Mẹ kiếp, đến ăn mà cũng hồi ký - Đắc cười sự hoài cổ của Lâm.

- ăn đi. Kệ mẹ rau cải Sơn Hạ. Đồ cổ? - Thực mắng Lâm bằng cái câu ngày xưa họ thường dùng để mắng những kẻ hủ lậu, gàn dở.

Trên đường đến trang trại, trong khoang xe mát lạnh, Lâm nhìn lại cảnh trung du. Một cái chợ bên đường với những dãy lều quán có sàn lửng, mái lợp cỏ tranh. Tất cả cũ nát, xiêu vẹo già nua như từ những thời ấy còn sót lại. Trong đám người lam lũ đang mua bán dưới nắng kia có Hạ không? Lâm dừng mắt ở một gánh rau cải tươi non. Những lá cải bẹ mập mạp, non vừa phải, mép lá quăn cầu kỳ như muốn làm dịu cái dáng to dày của tầu lá. Rau cải ở độ ấy, luộc kỹ chấm với nước mắm có dằm quả trứng luộc, ăn vã, bao nhiêu cũng không chán. Còn để thêm trên đồng vài bữa nắng mới hái về; đem muối lẫn với rau dăm, hành hoa nguyên củ, ngâm trong vại chỉ đến mức tai tái hơi ngả mầu vàng chanh, ăn có vị chua non, mà vẫn còn sót chút đăng đắng hăng hăng của cải tươi. Nếu cho ít khẩu mía tía bổ nhỏ lót đáy vại, nước dưa sẽ nổi tăm thoảng hơi men như một loại rượu vang. Thứ dưa ấy ăn kèm với muối vừng lạc thì, như dân Sơn Hạ nói: "Tốn cơm lắm!". Người đàn bà gánh rau ấy, vai áo bạc sờn đầm mồ hôi, dáng nhẫn nhục, cam chịu. Nhưng không phải Hạ.

Liệu hai gã Đắc và Thực có nhớ cái xóm đạo dưới chân núi với cô bé Hạ không? Thực đã từng giả một thày dòng để được Hạ cho rau cải. Thực ăn hàng bát to rau cải chấm nước muối ớt cho đến đầy bụng; rồi ngồi đờ ra, mắt ươn ướt, dại dại. Không hiểu đó là sự thỏa mãn của loài ăn cỏ, hay nỗi đau khổ của kẻ sĩ không có đủ chất ngũ cốc để dung dưỡng cái sức vóc thư sinh.

*

Bây giờ, Thực ngồi trên sập gụ, núc ních như Di Lặc, cười nói và nhai nuốt. Thân hình ùn lên từng u thịt của hắn như được nhét cẩu thả vào bộ pygiama lụa bóng. Có lẽ hắn béo ra từng ngày nên quần áo ngủ cũng chật. Cứ như là từ hồi ra trường đến giờ, hắn chỉ làm mỗi việc nhét thức ăn vào bụng. Trước kia Thực còn được gọi là "máy nghiền thức ăn gia súc"; thường tìm cách ăn hai suất một bữa, dù là thứ cơm ngô vàng khè. Vậy mà hắn vẫn gầy nhất bọn.

- Bụng thế này mới là bụng chứ - Đắc nhìn bụng Thực ra vẻ thán phục.

- Các em bán quán mê lăn mê lóc cái bụng này - Thực tự hào.

- Nhận của đút nhiều hay buôn bán gì mà phất thế - Đắc hỏi Thực - Nhà nọ, nhà kia trên phố rồi trang trại ở đây. Khéo bị tóm, lại nộp trang trại tư để vào nhổ cỏ ở trại công.

- à đầu tư hàng tấn tiền mà không nhận của đút thì bao giờ mới hoàn vốn được. Nhưng thu nhập chính của bản chức là buôn hàng độc. Còn trại công mà ông nói thì chỉ để chứa bọn tép diu. Riêng bản chức, ngoài quyền cao chức trọng uy tín bản thân, còn có kim bài - Thực đập vào túi ngực - Quan quân các xứ nhìn thấy là cúi rạp. Buôn lậu mà để bị bắt thì đích thị là buôn lậu. Còn buôn lậu mà không ai dám bắt thì là làm ăn đàng hoàng.

- Từ đây đến Sơn Hạ chừng ba chục cây số, có bao giờ ông đánh ô-tô trở lại đấy không? - Lâm như không dứt được những kỷ niệm, hỏi Thực.

- Về đấy làm gì. Họ nhớ mình là thằng đếch nào. Trông dáng này, lại xe riêng, dân chúng tưởng quan to, kéo đến khiếu kiện gì thì lôi thôi. Mà ở đấy liệu còn ai. Có khi họ chết cả rồi.

Thực nói đúng. Có thể những người thời ấy đã chết cả - Lâm nghĩ - Sự kham khổ cực nhọc làm tuổi thọ của dân Sơn Hạ rất ngắn. Họ nuôi gà, lợn để bán; còn chỉ ăn một chút vừng, lạc và rất nhiều rau cải. Khắp đồng bãi toàn rau cải. Họ thức dậy rất sớm, cầu kinh trong ngôi nhà thờ nhỏ long lở rêu phong xây dựng từ thời các nhà truyền giáo người Y-pha-nho đến đây. Họ làm lụng quần quật ngoài đồng. Thân hình họ quắt queo, chỉ trên dưới bốn mươi tuổi là suy sụp rồi bị quật ngã bởi những bệnh tật quái gở hiểm hóc như bướu cổ, chân voi, báng, ho lao và hủi. Tuổi thanh xuân của họ ngắn ngủi chỉ đủ để duy trì nòi giống chứ không phải là quãng đời dành cho hoan lạc. Nỗi đói khát nhục thể giày vò họ ngay cả trong giấc ngủ.

Ông già Độc hồi đó còn kém Lâm bây giờ đến gần chục tuổi. Vậy mà trông ông như đã trăm tuổi, thảm hại như một cái xác ướp biết đi. Nhìn ông vừa đáng thương hại, vừa ghê sợ đến phát ghét. Cả thôn chỉ có Hạ, con dâu ông Độc là tươi tắn, dù sự tươi tắn có ghìm dưới một lớp u uẩn khó hiểu thường có ở những nữ tu.

Thôn Sơn Hạ nằm gần chân núi Thằn Lằn, một dãy núi thấp, giống hình con bò sát khổng lồ nằm rình mồi. Bên kia núi là hồ Đại Lải. Sông Cà Lồ lượn qua rìa thôn. Những cái tên nghe như trong truyện truyền kỳ, thần quái. Hôm mới về nơi sơ tán, Lâm đạp xe quanh khu hồ Đại Lải không tìm được lối đến thôn Sơn Hạ. Trời tối dần. Lâm đang lo lắng nghĩ đến cảnh một mình trong đêm, giữa vùng đồi núi hoang, thì gặp ông Độc đi bán củi về. Lâm hỏi đường và được ông đưa về Sơn Hạ.

Sinh viên ở rải rác mấy thôn liền. Ngôi nhà Lâm cùng với Đắc và Thực ở nhờ nằm cạnh sông Cà Lồ. Ba gã sinh viên gày còm cởi trần, đen nhẻm còng lưng leo dốc bờ sông gánh nước bằng những nồi đất nung, như cảnh lấy nước thời trung cổ. Hàng ngày họ tự nấu ăn lấy. Bữa ăn chỉ lạc rang mặn và rau cải luộc thật nhiều ăn độn với cơm. Nước rau thay nước uống.

Một buổi chiều, ba gã sinh viên ra cánh đồng mua rau. Họ đã chọn thửa ruộng của một cô gái xinh đẹp, hy vọng người đẹp không keo kiệt.

- Các anh cứ chọn rau, nhẹ tay hộ em - Giọng cô êm ái, lẫn trong tiếng chim hót quanh đấy, nghe thật dễ chịu. Nhưng khi tính tiền, người đẹp nhìn đống rau, nói một giá tiền làm những hàn sĩ phát hoảng. Đắc bực dọc:

- Đi ruộng khác vậy. Không phải gánh ra chợ, lại bán đắt hơn ở chợ.

Thực để tay lên ngực, ngước nhìn trời, giọng du dương:

- Chúa Giê-su đã nói với người bán rau ở thành Na-da-rét rằng: "Nay, ngươi rao giá cắt cổ với người anh em đói khát của mình; sau này dù có trả giá cao gấp nghìn lần để mua tấm vé vào nơi nước Chúa thì thánh Phê-rô cũng chẳng hề nghe thấy tiếng kêu của ngươi, đặng mở khóa cánh cửa Thiên đàng". Thực đã kịp đọc những cuốn sách đạo của nhà chủ và chế biến theo cách của hắn. Cô gái đứng chết sững. Gã thầy dòng giả hiệu kéo cả bọn bỏ đi. Cô gái hốt hoảng gọi, nhưng Thực cười bí ẩn, không cho hai gã bạn quay lại.

Ngay chiều tối hôm ấy, cô gái đem một rổ rau lớn đến biếu các anh sinh viên và xin lỗi về chuyện nói thách.

Cô gái là Hạ, tên thánh là Anna. Cứ cách hai ba ngày, Hạ đem rau cải đến cho bọn Lâm. Cô không lấy tiền, còn ngồi nhặt rau rồi xuống bến sông rửa hộ. Thực đắc ý: "Rồi ta sẽ đưa người nữ lòng lành này lên Thiên đường cùng ta".

Chồng Hạ đi bộ đội, hy sinh ở miền nam. Hạ sống với bố chồng. Chính là lão Độc. Những hôm Hạ bận, lão Độc đem rau cải đến với vẻ thành kính trước những chú sinh viên học rộng tài cao lại giỏi kinh sách. Ba gã sinh viên trở nên thân thiết với Hạ, chiều chiều họ ra đồng giúp Hạ tưới rau.

Sau lần thuyết giáo để lấy rau cải, người ta đồn Thực đã từng học trường dòng, tinh thông giáo lý. Các ông bà già trong thôn thường đến nhờ Thực giảng giải cho những chỗ khó trong Kinh Thánh. Cái thôn đạo hẻo lánh này, chỉ vào những ngày lễ trọng, giáo dân đến nhà thờ chính cách đấy hơn chục cây số mới được nghe cha xứ giảng đạo. Hàng ngày, họ ê a những bài kinh truyền miệng qua nhiều thế hệ đã sứt mẻ như chính ngôi nhà thờ của họ, mà chẳng hiểu gì mấy.

Từ đấy, Thực chăm tìm đọc sách đạo để giảng cho giáo dân, chỗ nào tắc tị thì bịa. Các cụ chiên già đem theo trứng, vừng, lạc đỗ và các thứ nông phẩm khác thành kính biếu "thầy Thực" . Có lần người ta còn biếu cả một con ngan. Ba gã sinh viên béo lên vì cái nghề phụ của Thực.

Một lần ông Độc đem đến một nồi cá kho. Ông rụt rè hỏi Thực:

- Thưa cậu, tôi thấy trong kinh "Phúc âm" có đoạn Chúa Giê-su nói với Thánh Si-môn lúc còn làm nghề chài lưới, rằng: "Từ nay ngươi không bắt cá nữa. Ta sẽ dạy ngươi cách bắt Người". Thế nghĩa là thế nào? Sao lại "bắt Người", hả cậu?

- Chúa đã có chủ ý chọn ông Si-môn làm tông đồ - Thực cất giọng êm như ru - ông Si-môn trước đó được Chúa làm phép lạ giúp cho đánh được rất nhiều cá trong đó có cả cá lành lẫn cá dữ. Chúa nói thế có ý là "Dù ông Si-môn đánh bắt được nhiều loại cá dữ ngoài biển thì cũng chỉ là làm việc thiện với loài cá nhỏ. Còn con Người thì có rất nhiều kẻ làm điều ác với muôn loài. Chúa sẽ giúp Si-môn bắt những kẻ ác để trị tội.

Ông Độc ra về và tỏ ý rất thán phục, sùng kính "thầy Thực". Lâm bảo Thực: "Mày giảng bố láo như thế thì đáng để tòa pháp đình giáo hội thiêu sống. Chúa nói thế có nghĩa là từ nay ông Si-môn sẽ không làm nghề đánh cá nữa, mà đi theo Chúa làm công việc thu phục lòng người" - "Có lý lắm - Thực bảo - Ta cũng biết thế. Nhưng đầu óc ông Độc không thể hiểu nổi điều phức tạp ấy. Giảng đạo là phải biết sửa kinh sách cho dễ hiểu". Lâm bảo: "Đó cũng như một sự lừa đảo. Từ nay ta sẽ gọi ngươi là Đức Cha Ju-da Thực".

*

Tiệc tàn. Thằng Tạc dọn mâm bát, bày đồ tráng miệng.

Thực đang bàn một chuyện làm ăn với Đắc. Nhìn thấy gã Thực - Đói ngày xưa trở thành tư sản, Đắc đã xin làm tay chân cho Thực, hòng đổi đời.

- Từ biên giới đến hết địa phận quê chú mày, chú mày phải lo - Thực lên mặt ông chủ - Còn tuyến sau, ta giải quyết. Chú mày chỉ lo phần cơ bắp, tức là vận chuyển. Đệ tử của ta sẽ đi theo để giám sát và bôi trơn các nút dọc tuyến.

Đắc chậm chạp ăn xong quả chuối ngự, rồi gật gù:

- Đại ca yên tâm. Luồng lạch xứ ấy trong lòng bàn tay đệ.

- Đừng có đùa. Toàn ô-tô xịn, lại đánh xuống second-hand (dùng rồi). Không có "kim bài" này thì Tôn Hành Giả cũng đừng hòng lọt - Thực lại vỗ vỗ tượng trưng vào túi chiếc áo ngủ chật căng - ta có một lão bảo tiêu, phản ứng cực nhanh, quen biết rộng; cửa nào cũng lọt. Trước, ta chung vốn với một cậu ấm để dựa vào ông già nó. Nhưng thằng nhãi ỷ thế bố, xấc láo, bị hải quan cho bài học; ta phải chạy vỡ mặt mới khỏi mất hàng. Bây giờ, ta chấp hết.

Hai gã bàn về một vụ buôn lậu ô-tô vượt biên giới.

*

Thằng Tạc cho dọn những phòng ngủ, rồi cầm chiếc đèn pin biến vào bóng tối. Chừng mười giờ đêm, Tạc dẫn về ba cô gái trẻ xinh xắn. Những cô bé đứng nép sau Tạc, bám vào nhau khúc khích cười. Đúng gái quê. Thực đã không nói đùa. Lâm phát hoảng. Thực bật cười vì bộ dạng của Lâm:

- Chỉ có ma biết ông đã làm gì ở đây. Mai, về hội nghị, lại lên mặt mô phạm.

- Như tráng miệng một cái bánh sau bữa cơm chứ quan trọng đếch gì. Đừng để phí rượu bổ của sếp Thực - Đắc khích thêm.

Lâm đứng trước cửa màn, cô gái quê nằm chờ sẵn, mình phủ tấm vỏ chăn. Lâm thấy như khó thở, hình dung ra những gì dưới lớp vải mỏng ấy. Dưới ánh đèn ngủ, nét mặt cô bé ngây thơ, cặp mắt trẻ con mở to nhìn Lâm đầy ác cảm như nhìn một kẻ sắp làm hại mình.

- Lần đầu phải không? Lâm hỏi. Cô bé khẽ gật và kéo chăn lên tận cằm.

- Có sợ không? - Lâm lại hỏi. Cô bé lại gật.

Lâm tin cô bé nói thật. Anh ra ghế ngồi, không biết phải làm thế nào.

- Tên là gì? - Câu hỏi vô nghĩa, nhưng cô bé sốt sắng trả lời ngay:

- Cháu tên là Hạ!

Lâm nhói buồn. Hồi ấy Hạ cũng trạc tuổi cô bé này, nhưng không hồn nhiên như thế kia. Lát sau, anh gọi khẽ, cố ý nhắc nhiều đến cái tên "Hạ":

- Hạ! Hạ này... Hạ về đi. Chú không cần đâu.

- Thế... cháu có được tiền không? - Cô bé lo lắng hỏi.

- Có. Chú cho trước một ít. Rồi xuống gặp Tạc lấy nữa, như hai đứa kia.

Cô bé nhét tiền trong áo lót ngực rồi ra khỏi phòng, miệng lí nhí như chào, như cảm ơn. Sáng mai Lâm sẽ ra vẻ hớn hở để cho hai gã kia khỏi chửi là "đồ cổ".

Nửa đêm, mưa rơi trên những tàu lá chuối ngoài vườn, lộp độp âm vang như rơi trên mặt trống. Tiếng mưa ngày xưa ở vùng đồi nghe đanh hơn. Có lẽ vì những giọt mưa rơi xuống mặt đất cằn. Lâm lại nghĩ đến thôn Sơn Hạ, đến Hạ. Giá như không có cái hội nghị ở vùng trung du này, có thể Lâm sẽ dần quên đi những ngày xưa ấy. Nhưng hai gã bạn cũ, những ngọn đồi đầy nắng và cơn mưa đêm đã gợi nhớ.

*

Lâm bị cảm nắng, liệt giường. Hạ đem rau cải đến đúng lúc Lâm nằm ôm đầu khẽ khóc như một đứa trẻ nhớ mẹ. Hạ về nấu nồi cháo đỗ xanh cho Lâm ăn giải cảm.

Đêm mưa, ngột ngạt hơi nước. Tiếng mưa trên mặt đất cằn, trên những tàu lá cọ đanh cứng. Lâm lại nhớ mẹ. Một bàn tay luồn nhẹ vào màn, đặt lên trán Lâm. Tay của Hạ. Lâm giữ bàn tay mềm mại dịu mát ấy rất lâu, rồi áp vào môi. Hạ khẽ rút tay ra, thì thào: "Anh uống thuốc đi". Rồi cô cắn vỡ hai viên thuốc sê-đa đưa cho Lâm.

Đắc có việc về Hà Nội từ chiều. Còn Thực ngủ say như chết.

"Em về đây" - Hạ thì thào. Lâm nài nỉ: "ở lại với anh tí nữa" - "Muộn lắm rồi". Hạ rón rén đi. Thực nằm trên cái chõng ngoài hiên ngáy rất to.

Mùa đông, trong những ngôi nhà tranh trên ngọn đồi hoang hun hút gió, sinh viên co ro trong những áo bông mỏng bạc thếch ngồi nghiền ngẫm lý thuyết về quản lý kinh tế xã hội. Hà Nội bị oanh tạc dữ dội vào ban đêm. Trên đường rút lui, máy bay Mỹ trút những quả bom còn lại xuống những làng quanh Sơn Hạ. Ban đêm, trai trẻ trong thôn rủ nhau ra đồng ngủ để tránh bom, nghĩ rằng máy bay chỉ ném bom vào làng. Họ xếp những tảng đất cứng thành ụ tròn đặt vừa hai tấm phản, trên gác những cây tre, phủ chiếu cói, rồi chui vào đó ngủ. Sinh viên cũng theo dân ra đồng. Dân Sơn Hạ quý các chú sinh viên vui tính đã làm cho cái thôn nghèo hẻo lánh sinh động lên. Và họ cũng biết sau chiến tranh sinh viên học thành tài sẽ có ích hơn những người thường; nên các chú sinh viên được nằm ở giữa, chỗ được coi là ấm và an toàn nhất.

Lâm tìm cách gần gũi Hạ nhiều hơn. Hạ chỉ cười và né tránh. Nụ cười buồn trên khuôn mặt xanh xao nhợt nhạt. Hạ ốm hay nhà Hạ đang túng đói? Trận rét vừa rồi lũ lợn vẫn thả rông trong làng bị dịch nằm khắp bờ bãi. Đàn lợn nhà Hạ chết hết.

Rồi Hạ không đến chỗ ba gã sinh viên nữa. Lâm nghĩ là tại mình, nhưng không thể nói ra với hai gã kia. Thực đã xin đổi đến phân hiệu của trường sơ tán gần Hà Nội hơn, vì mẹ hắn ốm nặng. Bộ ba chỉ còn hai. Một hôm, trong bữa ăn, Đắc bảo Lâm:

- Mày có biết vì sao em Hạ không đến với bọn mình nữa không?

- Vì sao? - Lâm buông bát, nhìn Đắc chằm chằm.

- Em chửa hoang!

- Nói bậy! Chửa với ai? - Lâm choáng váng.

- Tất nhiên không phải là chửa với tao. Tự tao biết. Cũng không phải với mày, vì mày là đồ thỏ đế, dù Ban giám hiệu cho phép, mày cũng không dám. Thằng Thực thì chỉ cần rau cải - Đắc phân tích.

- Vậy Hạ có chửa với ai? - Lâm hỏi dồn.

- Làm gì mà cuống lên thế. Vểnh tai nghe cho thủng đây: Hạ chửa với bố chồng? Cả thôn đang sôi sùng sục lên. Lão Độc có khi bị tù chứ chẳng phơi. Còn em Hạ của chúng ta sẽ được cắt trọc, quét vôi thả trôi sông Cà Lồ.

Lâm kinh ngạc, rồi uất ức. Hôm đầu tiên gặp lão Độc, Lâm thấy lão là người hiền lành, tốt bụng. Sao Chúa không vật chết lão quỷ sứ ấy đi. Nhưng lão Độc chỉ là bố nuôi của chồng Hạ. Điều này gần đây bọn Lâm mới biết.

- Theo môn "Sinh vật học lý thú" thì chuyện này hợp với tư liệu - Đắc vừa nhai rau sồn sột, vừa nói - Lão Độc không phải là quan hoạn, mà em Hạ thì quá hấp dẫn. Tao mà là chủ tịch Sơn Hạ, tao sẽ công nhận cuộc phối kết hợp này. Nhưng tự tao phải kiểm tra xem có đúng là em có chửa không.

Lâm muốn tống vào cái miệng đầy rau cải, vừa nhai vừa nói của Đắc.

Chiều tối, Lâm tìm đến nhà Hạ. Lâm lách qua hàng rào thưa ghép bằng thân cây sắn tàu, rón rén bước lên hiên ngôi nhà nhỏ như túp lều nhìn qua khe cửa. Hạ đang ngồi dựa lưng vào thành chiết giường tre, đắp tấm chăn mỏng mầu nâu đã bạc thếch. Mặt Hạ trắng nhợt, đầu ngoẹo về một bên mệt mỏi, cái bụng tròn nhô lên. Lão Độc bưng bát thuốc kề tận miệng Hạ:

- Chịu khó uống đi con. Uống đi, không thì bố cũng đến chết mất thôi.

Hạ đưa tay bưng mắt, vai run lên. Lão Độc vẫn nài nỉ. Trông chướng như lão chồng già săn sóc cô vợ trẻ, miệng lại "bố, con". Lâm muốn chửi thật to thật tục tĩu, nhưng cố nén, khẽ đặt hộp sữa bò và gói đường xuống bậc thềm đất, rồi len lén giật lùi ra xa.

- Ai? - Tiếng lão Độc quát to. Lâm co cẳng chạy vọt ra phía bờ sông.

- Quân giết người! - Tiếng lão Độc gầm lên như thú dữ. Hộp sữa bay sượt qua vai Lâm rơi tõm xuống sông, gói đường vãi tung tóe trên mặt đất. Lão Độc đã ném gói đường sữa với lòng thù hận ghê gớm. Chắc có nhiều kẻ tò mò thường rình xem cái cảnh đồi bại của nhà lão, khiến lão phát điên lên vì nhục nhã và căm giận. Hay lão nhầm Lâm với kẻ thù nào đó của lão?

Hạ đẻ thiếu tháng, đứa con chết trong bụng mẹ.

Lão Độc bỏ làng đi biệt tích. Có người bảo lão đã nhảy xuống sông Cà Lồ tự tử, dân ở mạn hạ lưu vớt được xác, vùi trên bãi. Sau, lại có người bảo lão trốn lên Yên Bái làm tiều phu rồi chết rấp ở xó rừng nào đó. Đáng đời lão.

Lâm cũng không còn nhìn thấy Hạ ngoài cánh đồng rau nữa. Hình như cô ta làm đồng vào ban đêm. Chẳng một ai bén mảng đến nhà Hạ, như thể đó là nơi ở của một con hủi. Lâm cũng không dám đến từ biệt Hạ khi nhà trường dọn đi nơi khác. "Để cho Hạ được yên" - Lâm đã so vai nghĩ thế. Ra vẻ trí thức, lịch sự lắm; nhưng thật ra, Lâm sợ bị nghi dính líu tới vụ tai tiếng ấy.

*

Đêm trang trại được nghe dế nỉ non trong vườn và tiếng ếch nhái gọi nhau ngoài bờ đầm. Cả tiếng cá quẫy. Có tiếng kêu trong vắt trên cao lắm của một con vạc cô độc. Cho đến khi có tiếng gà gáy, Lâm trở dậy, đầu óc tỉnh táo trong sạch như vừa được qua một sự thanh lọc mầu nhiệm.

Thằng Tạm dọn mâm cháo gà lót dạ. Thực húp soàm soạt hết một bát to. Đắc cũng hào hứng sì sụp ăn; nét mặt thỏa mãn và luôn tỏ ra săn đón, lấy lòng Thực. Đắc đã tự nguyện làm thuộc hạ của Thực trong đường dây buôn ô-tô.

Trên đường trở về hội nghị, ba người im lặng.

Lâm nhìn ra cửa xe. Vẫn trung du, cọ tung tóe những vệt mực xanh trên nền trời không một vẩn mây. Lại những quán chợ cũ kỹ xiêu vẹo như dấu tích của thời cổ. Chợt Thực hỏi Lâm:

- Thế nào, đêm qua, em Hạ phục vụ tốt chứ, sếp Lâm?

- Cũng tàm tạm - Lâm trả lời qua quít, để khỏi bị chê là "đồ cổ".

- Lại còn tàm tạm - Thực cười giễu - Cái tên "Hạ" ấy là do tôi dặn nó khai với ông thế. Cho ông đã đời. Lúc chó nào cũng tơ tưởng về thôn Sơn Hạ với em Hạ.

- Đồ đểu! Lâm buông một câu không ra đùa, không ra thật.

Thực thích trí cười ha hả. Đắc cười theo. Rồi Thực hớn hở:

- Bây giờ, nhân về lại xứ này, ta công bố một bí mật trong hồ sơ lưu trữ hơn hai chục năm nay. Đoạn này phải "mày, tao" mới khoái. Thằng Lâm còn nhớ cái đêm tao với mày áp tải xe chở nứa từ Hà Nội về Sơn Hạ không? Cái chuyến mà em Hạ xin đi nhờ ấy. Tao đưa Hạ xuống ruộng ăn trộm dưa, nhớ chứ? Hồi ấy chúng mày như hai thằng mù, không hề biết tao đã chập với Hạ từ lâu. Ban đầu em làm bộ tí chút, nhưng thoát làm sao được cái giọng thầy dòng lâm ly của tao. Dưới ruộng dưa, tao đã làm cái việc cần làm. Còn cái lần thằng Lâm ốm, Hạ đem thuốc đến, nhớ không? Mày tưởng bở, túm tay em hôn hít theo kiểu Tây cổ điển. Rồi, trong khi mày ngủ ngon với hơi hướng bàn tay của Hạ thì tao và em lại làm cái việc cần phải làm. Cha Thực này đã hứa sẽ đưa em lên Thiên đàng mà. Sau, em thông báo là có chửa. Tao hoảng quá. Đuổi học, ghi lý lịch, đời tàn là cái chắc. Đừng có đùa! Thế là tao "thuốc" em, bảo em cứ mặc kệ điều tiếng, để tao yên ổn học xong, sẽ thu xếp cưới. Em tưởng thật, liền OK. Còn tao, "tẩu vi thượng sách".

Thực cười hô hố. Cái bụng phệ rung lên. Chiếc xe loạng choạng.

Đắc cười theo, cười nịnh:

- Đại ca Thực cao thủ quá. Cuối cùng lão Độc đổ vỏ ốc.

*

Trong phiên cuối hội nghị các chuyên gia kinh tế xã hội. Thực lên diễn đàn bác bỏ mấy ý kiến phản đối những đề xuất không có tính khả thi trong bản dự án của Thực về nâng cao chất lượng sống cho những người có thu nhập thấp. Thực được hoan nghênh vì những lý lẽ xác đáng được trình bày bằng chất giọng thầy dòng bẩm sinh, du dương, thuyết phục.

Bộ ba sinh viên cũ chia tay nhau. Nhìn ngoại hình gầy còm "chậm phát triển" của Lâm, Thực định nhét vào túi bạn xấp tiền "cho lũ trẻ ăn quà". Lâm cười nhạt, ngăn bàn tay béo múp với xấp tiền. Thực lắc đầu: "Đồ cổ! Vẫn sĩ diện như trước. Phải thay đổi tư duy thì mới có ô-tô, trang trại chứ!". Rồi gã quay sang Đắc hạ giọng nhắc lại cái hợp đồng miệng về vụ áp-phe ô-tô: "Nhớ đấy. Chú mày lo phần cơ bắp. Bôi trơn dọc tuyến, ta giải quyết. Mười phần trăm lãi là của chú mày. Đừng có đùa. Bao giờ thực hiện vụ mới, người của ta sẽ đến giao việc".

Lâm một mình tìm về thôn Sơn Hạ.

Buổi chiều trở gió, lành lạnh. Cái thôn nhỏ dưới chân núi có khác trước ít nhiều. Mấy ngôi nhà mái đúc bê-tông quét vôi xanh đỏ khoe ra mặt đường. Vài cây cầu ăng-ten ti vi vươn lên ngất ngư. Người đi làm đồng lác đác trở về thôn. Không một nét mặt quen thuộc ngày xưa. Lâm hỏi một ông già vác bó lá cọ từ trên đồi xuống. Ông ngớ ngẩn lắc đầu khi Lâm nói những tên người. Ông già trông xấu xí khổ hạnh như Lão Độc, nhưng chắc là thuộc thế hệ con cháu lão Độc. Cái buổi chiều lạc đường, giữa vùng núi đầy chướng khí và những chuyện thần quái, Lâm đã gặp lão Độc. Lão Độc khốn khổ ơi! Và Hạ nữa, Anna Hạ khốn khổ ơi!

Lâm thấy lại trong miệng vị đắng của rau cải thôn Sơn Hạ ngày xưa.

Lâm ngồi xuống bờ gạch ngôi mộ cổ, trên có hình thập ác.

Cánh đồng ven sông bây giờ kín đặc những cây mía lá nhọn tua của người ta trồng cho nhà máy đường. Không còn mầu hoa cải vàng r ực vào vụ này. ước gì được gặp lại dù chỉ một khuôn mặt thân thuộc, những người đã nhường cho bọn Lâm chút nông phẩm hiếm hoi, săn sóc bọn Lâm khi ốm đau, dành chỗ ngủ yên ấm và chịu đựng cả những ê chề thay cho bọn Lâm.

Những người ấy đâu rồi...?

Lũ chó xóm thịt cầy

1.   

Nắng chiều dọi lên hiên nhà bà Thảo, con Phúc buồn buồn nằm tắm nắng. Những vết thương lở loét trên khắp thân thể nó như đang lành, ngứa ngáy khó chịu nhưng nó không buồn đưa chân lên gãi. Giờ này mấy đứa con nó đều đang lẩn quẩn trong nhà, không dám ra ngoài này vì sợ thằng Bạo nên chẳng ai quấy phá nó. Nó nằm lim dim không ngủ, hồi tưởng về tất cả những gì xảy ra trong đời nó.

Cuộc đời nó, lẽ ra cũng êm ả, hạnh phúc như bao nhiêu con chó khác vì nó may mắn có được bà chủ tốt bụng. Bà Thảo thương nó lắm. Ngày nó còn trẻ, sạch sẽ, bà dẫn nó đi nhiều nơi lắm. Bà thương nó như những đứa con của bà. Câu chuyện chỉ bắt đầu từ khi cái gã chủ quán thịt cầy dọn tới ở sát bên nhà.

2.

Ngày xưa cái quán thịt cầy Cầy Tửu này nằm sâu trong hẻm, cùng với nhiều quán khác. Ở đó có cả một xóm thịt cầy. Thằng Bạo vẫn thường hay tự hào kể về chủ nó.

Gã chủ quán Cầy Tửu phất lên nhờ gã biết làm nhiều món ngon mà các quán khác không biết làm. Khách của gã đông như hội. Ngày nào gã cũng giết cả chục đứa. Gã giàu lên nhanh nên mua ngay căn nhà mặt tiền rồi dời quán ra sát bên nhà bà Thảo.

Cái xóm yên tĩnh này bỗng trở nên xáo trộn hẳn, và cuộc đời con Phúc cũng chuyển qua một trang mới, một giai đoạn kinh hoàng...

Thằng Bạo không biết nhiều về cuộc đời nó lắm. Nó chỉ biết rằng nó sinh ra trong cái quán Cầy Tửu này lúc cái quán còn trong con hẻm Cầy Tương Tư. Mấy thằng cha ăn nhậu thường gọi con hẻm này bằng cái tên dễ thương đó riết rồi thành tên.

Mẹ nó và cả cha nó được ông chủ quán mua về nuôi để làm công việc dọn dẹp và canh giữ nhà cửa cho ông chủ. Ngoài ra cha mẹ nó và cả nó bây giờ còn có nhiệm vụ theo dõi và trấn áp lũ chó thịt ông chủ nó mua về để bảo đảm bọn này không phá phách chuồng trại hay la lối inh ỏi làm ông chủ và thực khách của quán khó chịu.

Về phần ăn uống, chủ nó dường như không phải lo gì cho chúng nó, chỉ cho chúng nó vài vắt cơm hàng ngày cho có lệ. Nguồn thực phẩm chính của chúng nó là thức ăn dưới gầm bàn.

Chúng nó nhặt nhạnh tất cả những gì có thể ăn được dưới gầm bàn rồi tha hồ mà nhấm nháp, ăn nhậu. Được một cái là chả có ai tranh giành với gia đình nhà nó về cái khoản này. Thỉnh thoảng có thằng nào lén phéng trước cửa quán là cha nó phóng ra quát một tiếng, rồi mẹ nó cũng chạy theo gầm gừ là thằng nhãi quẳng hai chân trước lên vai mà chạy.

Từ ngày cha mẹ nó chết hết, thằng Bạo sướng hơn nhiều. Nó tha hồ ăn nhậu mà chả có ai tranh giành với nó cả. Bao nhiêu món ngon trên đời này có lẽ nó đều được nhấm qua. Mà phải nói, chủ của nó là một tay đầu bếp thiện nghệ. Hắn nấu cái gì, ra trò cái ấy.

Nó còn nhớ hôm cha mẹ nó bị ông chủ cho vào lò, nó được một bữa no nê chưa từng thấy. Thịt của cha nó cứng và dai nên khách quẳng xuống đầy bàn. Nó chén sạch vì với hàm răng của nó, phải dai như thế thì gặm mới đã...

3.

Hôm cái quán Cầy Tửu vừa tái khai trương là lần đầu tiên con Phúc gặp thằng Bạo. Hôm đó trông nó bảnh bao, có lẽ mới được ông chủ cho đi tắm. Con Phúc tưởng bở, lân la đến chào hàng xóm mới liền bị hắn hầm hổ xông đến tấn công. Nàng phải chạy một mạch về nhà mà vẫn không thoát được một cái ngoạm đau điếng vào đùi. Từ đó nàng trốn biệt trong nhà, sợ hắn một phép.

Nhưng rồi cuộc đời nàng vẫn không thoát khỏi bàn tay sắt máu của hắn. Một đêm, mặc dù nàng trốn biệt trong nhà, hắn vẫn xộc vào nhà và tấn công nàng. Hắn cấu xé, dày vò rồi ép buộc nàng phải làm tình với hắn.

Cái thằng chuyên ăn thịt đồng loại, miệng tanh đến muốn ói vẫn cứ dúi đầu vào nàng, làm nàng kinh sợ hơn là sung sướng. Nàng nói với hắn là nàng đã có người yêu nhưng hắn không quan tâm. Hắn vẫn cứ muốn và làm cho bằng được.

Và rồi mấy tháng sau đó nàng đã sinh bốn đứa con cả thảy. Bà chủ đem hai đứa về giữ nhà trong quê, còn hai đứa con Cúc và thằng Mẫn ở lại với nàng cho đến bây giờ.

.... Và thế rồi cứ hàng đêm hắn lại qua, lại cưỡng bức nàng cho bằng được. Hắn là kẻ bạo dâm. Vì ăn nhậu suốt ngày, lại nhấm phải ba cái thứ rượu cường dâm nên hắn cào cấu, cắn xé nàng không thương tiếc. Thân hình nàng cứ ngày càng tiều tuỵ, lở loét vì những móng vuốt của hắn. Nàng già đi nhanh và thân thể suy sụp rất nhanh. Nàng không còn mặt mũi nào để dám tỏ bày tâm sự với người yêu của nàng nữa. Với nàng thì chàng Fox bây giờ chỉ còn là giấc mơ đã qua...

4.

Fox ở bên kia đường. Con đường này khá đông xe cộ qua lại nên chúng chỉ thường hay nhìn nhau từ bên này đường. Đến thật khuya, khi con phố không còn nhiều xe qua lại, Thằng Fox mới thỉnh thoảng dám vượt qua con lộ đến thăm nàng.

Fox là con nhà giàu, chủ nó là một thương gia giàu có. Căn biệt thự bên kia đại lộ là của chủ nó mua để về nghỉ ngơi chứ không buôn bán gì cả. Mặt tiền căn nhà có hai cánh cổng sắt to tướng luôn đóng im ỉm chỉ chừa cho Fox một cái cổng nho nhỏ vừa đủ cho nó ra vào.

Fox thường được chủ cho đi đây đi đó nhiều nơi nên nó tỏ ra rất hiểu biết. Cũng một dòng với thằng Bạo, nhưng khác xa với thằng Bạo vừa dơ dáy vừa hung dữ, Fox có vẻ ngoài thanh lịch, hào hoa mà bất cứ cô nàng nào cũng phải ngỡ ngàng ao ước.

Con Phúc đã yêu thầm nhớ trộm chàng Fox từ lâu lắm rồi, nên một đêm trăng, khi Fox vượt đường qua thăm, Phúc chủ động tỏ tình với chàng. Chúng nó yêu nhau say sưa, và chàng cũng đã thề thốt cùng nàng. Thế nhưng thằng Bạo đã làm thay đổi tất cả.

Nàng không còn mặt mũi nào để nhìn chàng lần nữa. Nàng trốn biệt trong nhà, cho đến khi sinh con và cho đến bây giờ. Hôm nay, nàng mới có dịp ra trước sân tắm nắng.

Đang mơ màng với cuốn phim ngắn về cuộc đời mình, nàng bỗng giật mình vì tiếng kêu vừa yêu thương vừa mừng rỡ của Fox:

– Ôi chà, lâu quá không thấy em. Sao lâu nay em có khoẻ không?

Cái anh chàng đa tình này la toáng lên giữa thiên thanh bạch nhật không biết mắc cỡ, Phúc cười. Nàng chưa kịp trả lời thì bên nhà hàng xóm thằng Bạo từ trong nhà phóng ra:

– Đ.M. thằng kia, mày là ai, dám ve vãn con gái xóm tao hả. Thịt mày coi bộ thơm à nghen.

Rồi nó quay sang Con Phúc làm dữ:

– Cút vô nhà ngay, bộ mày muốn tơ tưởng tới thằng kia hả? Muốn chết hay muốn sống?

Hắn làm một mạch, Con Phúc chưa kịp gì thì hắn nhào tới cắn cho mấy phát. Nàng hoảng quá đành phải chạy rúc vào phía sau, chưa kịp trả lời chàng Fox.

Fox đứng bên kia đường, nhìn rõ tất cả. Vậy là nó hiểu, không cần nàng phải trả lời. Lâu nay Phúc đã chẳng trốn nó như nó nghĩ mà chỉ tại vì thằng chó dữ đang vênh vênh mặt với nó.

Fox đã được dạy rất kỹ những tình huống phải xử trí với bọn vô học này. Nó làm thinh, đếch thèm trả lời, chỉ lẳng lặng quay vô sân nhà nó. Nó nhất quyết đêm nay phải sang thăm nàng...

5.

Đêm trăng thanh gió mát, trời trong veo không một gơn mây. Đến quá nửa đêm thì con đường vắng tanh, Fox chăm chú theo dõi hai đầu đường cho đến khi thật an toàn thì phóng một mạch qua đường. Nó nhanh nhảu chạy ngay đến trước nhà Phúc, hy vọng gặp nàng, nhưng con phố vắng vẻ một cách kỳ lạ. Nó đến trước nhà nàng, khua nhè nhẹ cái cổng chó.

– Phúc ơi, nàng có trong đó không? Fox sang thăm nàng nè!

Con Phúc nghe tiếng chàng mừng quá, chạy ra vừa mừng vừa run:

– Anh Fox đó hả? Mừng quá, lâu nay anh có khoẻ không?

Cặp tình nhân chưa kịp hàn huyên lại bị cắt ngang bởi tay tình địch:

– Đ.M. Thằng kia cút xéo ngay. Không phải chỗ của mày nhé. Léng phéng là ông ngoạm cổ mày về cho chủ ông mần thịt đãi khách.

– Thôi anh Fox về đi. Thằng này nó dữ lắm, không khéo có chuyện.

Con Phúc biết là thế nào cũng có chuyện. Nó không muốn rắc rối cho Fox nên khuyên chàng về, nhưng đã quá muộn

Hai con cẩu nhảy thốc vào nhau, cắn xé dữ dội. Cả hai tuổi tác đều ngang ngửa, đều là chó ta lai bec–giê, cân ký cũng ngang ngửa nên một trận thư hùng diễn ra. Fox ra đòn bài bản hơn nhưng thằng Bạo lại có những cú đòn hiểm hóc hơn. Hắn ta lại lì đòn hơn. Con Phúc không dám can chỉ đứng một bên, miệng luôn khuyên Fox bỏ qua đi. Trong thâm tâm nàng không muốn thằng Bạo cắn xé ngườì yêu của nàng.

– Thôi anh Fox ơi, về đi thôi, bỏ qua, đừng đánh nhau nữa.

Thế nhưng lời khuyên của con Phúc chẳng có tác dụng gì cả. Hai thằng vẫn hì hục chiến đấu cho đến khi Fox không chịu nổi cái lì lợm của thằng Bạo, đành chịu thua, cúp đuôi bỏ chạy.

6.

Từ ngày chiến thắng được thằng Fox, thằng Bạo có vẻ ta đây lên mặt lắm. Từ đây nó muốn làm gì thì làm. Cả xóm này, kể cả bên kia đường trước đây đều phải nể phục thằng Fox, vậy mà Bạo đã chiến thắng nó một cách ngoạn mục.

Tụi chó xóm ngoài nghe tiếng Bạo là lo cao chạy xa bay. Mẹ con con Phúc thì suốt ngày rúc trong nhà. Thỉnh thoảng, ăn no rỡn mỡ, thằng Bạo lại lẻn mò sang. Hắn ra lệnh cho mẹ con con Phúc phải phục tùng hắn.

– Ê Phúc, ra đây tao biểu, tao muốn ... ngay bây giờ!

Con Phúc ghét cái mặt “Thằng Chó” ăn thịt đồng loại này lắm nhưng không có cách nào khác hơn là làm theo chỉ thị của thằng Bạo. Thế nhưng hôm nay, thằng Bạo đổi ý, nó không thèm con Phúc nữa.

Đang ve vãn con Phúc, nó thấy bé Cúc gần đó, liền xấn tới cưỡng bức con bé.

– Em van anh đừng làm thế với con bé. Nó còn nhỏ lắm, chưa biết gì cả. Hơn nữa nó là con em với anh đấy.

Con Phúc ra sức khuyên can nhưng đành phải bỏ chạy sau một cái cắn muốn sứt cả cái mép tai

Thằng Bạo giở trò với con bé Cúc xong bỏ chạy về nhà nó. Bé Cúc ngồi khóc thút thít.

– Thôi con đừng khóc nữa. Mẹ cũng phải chịu số phận như con lâu lắm rồi. Mẹ ghét cái thằng ăn thịt đồng loại đó đến tận tim gan nhưng mẹ chẳng có cách nào hơn phải chịu đựng nó.

– Hồi nãy mẹ nói con là con của nó, có đúng không?

Con Cúc hỏi trong sự lo lắng hoảng loạn. Con Phúc xuống giọng nhỏ nhẹ:

– Không phải đâu. Khi nãy mẹ nói thế là để cho nó tha con nhưng nó vẫn không tha. Cha con là chú Fox chứ không phải cái thằng ăn bẩn đấy đâu. Mẹ và chú Fox quen nhau một thời gian trước khi cái quán thịt cầy oan nghiệt này dọn đến đây. Mẹ đã mang thai tụi con trước khi thằng Bạo cưỡng hiếp mẹ

– Thế thì con cũng đỡ tủi phần nào. Con Cúc vừa nói trong tiếng rên đau đớn. Thế sao mẹ vẫn chấp nhận chịu đựng hắn?

– Mẹ không có cách nào khác cả. Nhiều lần mẹ định trốn sang bên kia với chú Fox nhưng không biết bên đó có ai chịu nhận nuôi mẹ không. Bà Thảo lại quá tốt với mẹ, rồi lại còn các con. Mẹ phải ráng mà chịu đựng hắn mỗi ngày, chờ các con trưởng thành

– Tụi con hôm nay đã lớn cả rồi, thằng Mẫn ở gần đó cũng lên tiếng, con thấy gia đình mình không thể chịu đựng hắn một ngày nào nữa cả.

– Mình không thể thắng nó được con ạ. Hắn còn khoẻ lắm và táo tợn lắm. Con Phúc ôn tồn giải thích.

– Thế sao mình không nhờ chú Fox giúp? Con Cúc hỏi.

– Chú Fox cũng từng bị hắn đánh cho một trận thừa chết thiếu sống. Chú ấy khó mà thắng nổi hắn.

– Nhưng nếu chúng ta cùng đoàn kết, con không nghĩ hắn có thể thắng chúng ta lần này đâu. Phải chiến đấu thôi mẹ. Mẹ phải tin ở các con.

Thằng Mẫn đứng dậy ưỡn vai như người lớn vừa nói với mẹ vừa khoa chân múa tay như chuẩn bị ra đòn.

Con Phúc suy nghĩ hồi lâu, rồi có vẻ đồng tình với các con:

– Thôi được, để tối nay mẹ sang bàn chuyện với chú Fox xem sao.

7.

Đã quá nửa đêm mà tiếng xe trên đường vẫn chưa ngớt. Con Phúc nằm phủ phục đằng sau cánh cửa sắt, vừa lắng nghe tiếng xe chạy ở hai đầu đường, vừa nghe ngóng tiếng ngáy của thằng Bạo bên nhà hàng xóm. Thằng này đêm qua ăn uống hơi nhiều nên ngủ ngáy say sưa.

Vừa nghe tiếng xe ở hai đầu đường vắng đi, con Phúc lao ra khỏi cửa rồi phóng một mạch sang bên kia đường. Thằng Bạo giật mình, sủa vu vơ mấy tiếng rồi nghẹo đầu ngủ tiếp.

Phúc rón rén đến trước cổng biệt thự nhà Fox khua nhè nhẹ cái cổng của Fox.

Fox đang nằm trong sân, giật mình định sủa nhưng kịp nhận ra tiếng con Phúc xì xào:

– Anh Fox ơi, em Phúc đây này!

Fox lao ngay ra cổng mở cửa cho Con Phúc vào:

– Em sang thăm anh, hay có chuyện chi? Fox hơi ngạc nhiên.

– Em qua để nhờ anh giúp. Phúc ngập ngừng hồi lâu rồi mới nói. Sau đó, nàng khóc vùi trong lòng của Fox. Và nàng bắt đầu kể cho Fox nghe hết chuyện kinh hoàng mà nàng đã trải qua...

Fox ôm nàng vào lòng, để cho nàng nói. Fox cảm thấy có lỗi với nàng khi để cho nàng phải chịu đựng sống dưới cái bạo tàn của thằng khốn nạn. Chàng cũng rất vui vì biết rằng đám con của Phúc là con của chàng. Fox muốn sang thăm tụi nó, ngay bây giờ.

– Anh có thể sang thăm con bây giờ không?

– Không anh ạ, thằng Bạo sẽ ăn thịt anh mất. Con Phúc ôn tồn bảo.

– Thế thì mình phải chịu nhục với nó suốt đời sao? Fox không dằn được cơn nóng

– Em tính rồi, mình phải chợp đúng thời cơ, đưa nó vào bẫy thì mới hạ nó được. Rồi Phúc kể cho Fox nghe dự định của mình.

Fox ngồi nghe và hứa với nàng sẽ làm đúng những gì nàng dặn. Đến gần sáng Fox tiễn chân Phúc về nhà không quên hôn từ biệt nàng thắm thiết

8.

Thằng Bạo đang ngáy khò khò sau cánh cổng sắt bổng nghe tiếng con Phúc khua nhè nhẹ:

– Anh Bạo, ra đây em nhờ cái này.

Tiếng Con Phúc nhẹ nhàng đến mức thằng Bạo cũng hơi ngạc nhiên. Vừa ngái ngủ, hắn dụi dụi mắt, hé cái cổng nhỏ xíu của hắn bên dưới tấm cửa sắt.

– Có chuyện gì vậy? Thằng Bạo nghi ngờ hỏi vọng ra.

– Xóm ngoài có một thằng vừa bị xe cán, còn nằm ngáp ngáp bên đường. Ra mà lôi nó về cho ông chủ để lãnh thưởng.

Nghe con Phúc nói vậy mắt hắn sáng trưng. Hắn lách mình ra khỏi canh cổng.

Ngay lập tức con Phúc lao cả thân hình vào trám ngay cái lỗ thoát thân của Thằng Bạo. Miệng nàng ngoạm chặt lấy một chân sau của hắn. Nàng cố hết sức giữ cho thật chặt. Đau điếng người, Thằng Bạo quay lại cắn xả vào mặt nàng hy vọng con Phúc sẽ nhả cái chân sau của hắn. Mặc cho hắn cắn cả đầu và mặt nàng, Phúc vẫn cố ngoạm chặt lấy cái chân sau của hắn. Nàng ráng hết sức chịu đau và cũng ráng hết sức giữ cho cái chân khỏi tuột khỏi miệng nàng.

Hai đứa Cúc và Mẫn chực sẵn lúc nào đến giờ thi nhau tấn công hai bên sườn non của thằng Bạo, mỗi đứa ngoạm cho hắn mấy miếng. Hắn tức điên lên, hết ngoắc sang trái rồi ngoắc sang phải để trả đũa nhưng vì một chân sau dính cứng nơi miệng con Phúc nên hắn không làm gì được hai đứa trẻ. Hắn chưa kịp tìm được cách đối phó với ba mẹ con con Phúc thì cổ họng của hắn bị ai đó ngoạm cứng ngắt. Hắn hết đường cựa quậy.

Hắn kêu ặc ặc vài tiếng rồi đổ xuống. Cả bốn kẻ đánh hội đồng đều giữa vị trí cho đến khi hắn không còn cựa quậy. Hắn đổ vật xuống. Một vũng máu đỏ lòm loang ra từ cổ họng hắn.

Fox lồm cồm đứng đậy. Hai đứa trẻ cũng buông cái xác gã khốn nạn, vươn vai thở một hơi dài sảng khoái. Một chân của thằng Bạo vẫn còn bị ngoạm cứng trong hàm răng của Phúc. Fox lay nàng:

– Buông hắn ra đi, hắn chết rồi.

Phúc vẫn không nhúc nhích, toàn thân nàng bất động, máu me bê bết trên khuôn mặt nàng, nhỏ từng giọt lên hiên nhà của quán Cầy Tửu. Fox sờ tay vào mũi nàng, thì ra Phúc đã tắt thở. Thằng Bạo đã cắn nát khuôn mặt nàng, vào tất cả các hiểm huyệt.

Fox thẫn thờ nhìn hai đứa nhỏ bàng hoàng khiêng xác mẹ nó về bên sân nhà bà Thảo....

Chàng hôn lên xác nàng từ biệt rồi lững thững bước sang đường về nhà

9.

Cả cái xóm Cầy ngày hôm sau không ai biết chuyện gì xảy ra, chỉ biết rằng vừa mới có hai con chó trong xóm chết. Bà Thảo thương con Phúc lắm nên đem xác con Phúc về quê chôn, còn khách của quán Cầy Tửu hôm đó lại nhai phải một bữa thịt vừa dai, vừa tanh không chịu nổi...

Bữa Tiệc Trăn

Tôi ôm chai rượu nằm lăn qua lăn lại trên giường. Hôm nay ông già không có ở nhà. Ông già cũng là dân tứ xứ như tôi. Ổng tên Bần, họ Nguyễn nhưng tôi thích gọi ổng là ông già. Ngược lại ông già cũng chỉ gọi tôi là thằng nhỏ. Nhiều lúc la mắng ổng gọi tôi là thằng chó chết chứ không gọi là thằng quỷ như ông Lạng bán rượu hay gọi. Lâu dần trong xóm ai cũng gọi tôi bằng thằng. Thằng chó chết, thằng quỷ, thằng nhỏ... Riết rồi tôi quên luôn là mình cũng có tên. Cái tên độc nhất một chữ Mì. Mì gì? Bánh mì hay khoai mì? Nhiều thằng hỏi vậy nhưng chưa thằng nào thắc mắc ai là người cho tôi cái tên Mì trơ trọi đó. Chỉ cần nhìn mặt tôi tụi nó cũng dư hiểu. Tôi là một thằng bụi đời. Từ nhỏ đến lớn tôi lân la kiếm ăn ở các bến xe. Kiếm ăn đã cho đến lúc chán hay không còn gì để ăn nữa tôi sẽ nhảy lên xe đò tấp qua bến khác. Khắp các bến xe không ai là không nhẵn mặt thằng Mì đi xe chùa. Mấy thằng lơ vừa thấy mặt tôi leo lên xe là chửi thề. Chúng biết có lột truồng tôi ra cũng chẳng kiếm được một xu tiền xe.

Tôi tới khu xóm này mới được mấy tháng sau cả năm trời đói rã họng ở một bến xe miền lục tỉnh. Hôm mới đến, vừa đi qua cái nhà thờ to tổ bố đầu xóm là tôi đụng ông già. Trong cái chòi lợp tôn sau lưng khu nhà thờ, ông già đang ngồi nhâm nhi bình nước bốc khói. Thấy tôi xơ rơ, ông nghinh mặt hỏi "Bụi đời hả". Rồi chỉ ngay cái ghế bên cạnh "Ngồi đi mày". Tôi ngồi xuống tự tay rót miếng nước vào ly. Đang khát bỏ mẹ, gặp nước là tôi tợp. Mẹ nó, nước gì mà đắng quá. Tôi phun phèo một cái, mấy miếng bã nằm đen mặt đất. Ông già cười sặc sụa: "Trà mao của tao đó, thằng chó chết." Tôi nhìn ổng rồi cũng phá lên cười. Từ hôm đó nhờ bình nước trà tôi và ông già nên tình tứ hải giai huynh đệ. Ổng cho tôi ở ké với ông trong cái chòi đắp tôn mà theo ổng trước kia là chỗ ở của một thằng khùng. Ở được ít lâu tôi theo ông già đi khiêng gạch kiếm sống. Tiền của tôi và ổng kiếm được vừa đủ cho hai người ăn trong ngày. Những ngày không có gạch nhiều khi cả hai phải nhịn đói.

Đời sống bấp bênh như vậy cho tới khi tôi liều mạng vô nghề đi rừng hái mây. Hái mây không bao giờ sợ hết vì mây mọc tràn lan trong mấy cánh rừng quanh con đường đèo. Nhiều mây vậy nhưng chẳng thằng nào dám hái. Tụi nó sợ bị cây đè, sợ bị rắn cắn hay rớt xuống đèo chết mất xác. Tôi cũng sợ nhưng nếu phải chết đói còn thảm hơn nên sau một ngày nằm nhà nhịn đói tôi quyết định chuyển qua nghề hái mây.

Hái mây không giống như hái boòng boong hay hái nhãn hái xoài như hồi tôi đi ăn trộm trái cây ở miệt vườn. Mây coi vậy mà khó nuốt. Bữa đầu tiên trước đi hái mây tôi lôi con dao găm ra mài. Con dao này tôi luôn thủ trong người nhưng ít khi xài tới. Có đôi lần tôi rút dao dọa mấy con chó canh vườn trái cây rồi lại bỏ vào túi. Năm ba năm tôi mang con dao ra phơi nắng một lần cho đỡ rỉ sét và ngọt lại cái đầu, xong xuôi lại cho vào túi. Thấy tôi mang con dao mài thật sắc nói là sẽ dùng nó chặt mây, ông già cười ngất. Cười đã đời ổng dẫn tôi ra sau nhà chỉ cái rựa sắt bự bằng cánh tay của tôi nói tỉnh rụi: "Thằng chó chết, ngu vừa thôi mày. Đốn mây mà mày tính đốn bằng dao găm hả. Mang cây rựa đi họa may mày mới chặt được một dây. Con dao găm của mày mang theo gãi ngứa còn được chứ đốn mây thì đừng hòng." Tôi nhìn ổng ngớ người. Cây mây bự bằng cây mía chứ mấy. Cây mía mỗi lần ăn tôi cầm tay bẻ rộp rộp, tôi nghĩ cây mây cũng vậy. Mang theo con dao găm vì tôi sợ cây mây có gai đâm đau tay chứ đâu bao giờ nghĩ hái mây phải cần dao cần rựa. Nhưng ông già nói chắc không sai. Ổng già quá rồi nên cái gì lại không biết. Từ trước tới giờ chuyện gì ổng cũng rành hơn tôi... trừ chuyện đàn bà... nên lúc nào tôi cũng nghe lời ổng. Cái rựa không biết làm bằng cái gì mà nặng chình chịch. Thấy tôi vác cây rựa lên, ông già chưởi thêm: "Thằng chó chết. Nhìn mày vác cây rựa cứ y như thằng ăn cướp mà không biết võ... Ấy vậy mà rồi ngay buổi đi rừng đầu tiên, tôi cũng kéo được bó mây bựï tổ chảng về xóm. Có bữa bán không được, mây chất đống thối um. Được cái ông già biết đan. Buổi tối rảnh rỗi ổng lấy mây ra đan thành cái rổ cái nong... đưa tôi bán kiếm tiền.

Tiền có khi kiếm không ra, cơm không đủ ăn, nhưng cái món “trà mao” đắng nghét ông già không bao giờ chịu thiếu. Tôi biết con Hạnh khi ông già biểu vô xóm trong mua dùm ổng mấy lạng chè mao. Ông già khó ngủ mà lại nghiền trà, nhất là trà phải làm ra từ nhà thầy giáo Hoạt. Ông già gọi cái ông lùn xỉn, bé loắt choắt ở xóm Chùa là thầy. Mọi người khắp từ xóm trong đến xóm ngoài ai nấy cũng gọi ổng bằng thầy nhưng lại không ai biết ổng dạy cái gì và dạy ở đâu. Tôi thắc mắc, hỏi ông già, ổng giải thích cho qua: "Thời buổi này còn trường lớp, còn sư, còn thầy, còn tôn ti trật tự ráo trọi gì ớ đâu mà mày thắc mắc chi cho mệt xác. Tao thích gọi thằng chả bằng thầy thì tao gọi bằng thầy, tao thích gọi thằng chả bằng quan thì tao gọi bằng quan, mà tao thích gọi bằng vua thì tao gọi bằng vua, sứt mẻ gì đâu mày". Ông già nói chuyện khơi khơi, không lý không lẽ. Vậy mà tôi thấy ông già đúng.

Tuy xóm trong và xóm ngoài chỉ cách nhau một con hẻm nhỏ nhưng hai xóm có hai nghĩa trang riêng biệt. Dân xóm ngoài sống có nhà thờ Chúa, có tiệm rượu ông Lạng, lúc chết đi sẽ được nằm trên đất chúa gần chân núi. Tôi với ông già theo Phật giáo nhưng chẳng hiểu sao lại lạc loài ở xóm ngoài, trong khi đó, xóm trong có ngôi chùa thờ Phật, cư dân lúc chết sẽ được nằm ở cái nghĩa địa Phật giáo. Sát khu nghĩa địa này là nhà ông Hoạt, vừa là tiệm bán trà, vừa là lò ủ trà, xao trà. Một lần tới mua trà, tôi theo thầy Hoạt vô nhà trong lấy lạng trà mới ra lò, thình lình nhìn thấy con Hạnh đạp trà. Nồi trà luộc được đổ tràn trên mặt đất. Con Hạnh tưng tưng nhẩy trên đám trà đã bị luộc nhừ. Da thịt nó ngồn ngộn, căng phồng dưới miếng vải chỉ đụng khẽ là bung, Chân con Hạnh cái thấp cái cao, chân chà chân đạp. Bàn chân nó siết, nó miết, nó vò... Ối chao ôi, giá gì tôi được nằm dưới bàn chân nó. Từ bữa đó, tôi lại càng kính trọng ông Hoạt tột bực, nhất định phải gọi ông bằng Thầy. Mỗi lần được tôi gọi bằng thầy, ông Hoạt lại nheo tít mắt lại và bốc thêm một nhúm trà bỏ vào bao không tính tiền.

Từ ngày thích con Hạnh tôi đâm ra thích luôn ba nó. Lâu rồi, tôi vẫn mơ có bữa trúng mánh sẽ mua cho ba con Hạnh một bình rượu đế. Ông Hoạt có rượu thì cái gì cũng xong. Tôi sẽ tha hồ ngồi coi con Hạnh đạp hay tha hồ đạp trà chung với nó không chừng. “Mày mà cũng mua rượu?” Ông Lạng bán rượu hỏi bằng giọng khinh miệt. “Tiền nè, cha. Tôi lấy chai này.” Tôi đưa nó lên mũi, mở nút. Mùi rượu chua lè làm tôi lợm giọng. Kỳ thiệt, một thằng bụi đời như tôi lại không uống được rượu. Tôi đưa nó lên ngang tai, lắc lắc. Chai rượu đầy nhóc kêu óc ách nghe thật đã. Giấc mơ chai rượu hôm nay thành sự thật là nhờ nó, con trăn xấu số ấy.

Như mọi ngày, hôm nay tôi cũng dậy từ sớm để xuống đèo hái mây. Trong cái bao bố tôi vác trên vai ngoài cái rựa còn có thêm gói cơm rang. Sáng sớm tôi với ông già vét hết gạo rang ăn cho đã. Ăn xong tôi chia chỗ cơm thừa ra hai phần. Một phần cho tôi đi hái mây trong hai ba ngày. Một phần cho ông già đi khiêng gạch ở xóm chợ. Tối nay ổng ngủ luôn ở chợ mà không về chòi.

Phần cơm dành cho hai ba ngày được tôi nuốt trọn lúc ngồi trên xe đò. Vừa ra bến xe tôi đã gặp hên, tìm ngay được thằng Xực Phàn. Gặp được nó tôi khỏi phải đi xin xỏ mấy thằng lơ khác. Thằng Phàn tôi nói gì nó cũng nghe. Nó tin tôi cũng như tôi tin ông già. Thằng này người Tàu. Nó nói nó người Tàu vì tên nó tiếng Tàu có nghĩa là ăn cơm. Chắc nó sinh ra nhằm lúc nước Tàu đói nên tên nó cũng là cơm gạo, củ mì, củ sắn như tên tôi. Thằng Phàn làm lơ xe không được bao lâu. Nó cũng là dân ở xóm ngoài, cũng nghèo, cũng chửi thề, cũng bụi đời như tôi chỉ có điều tôi đẹp trai hơn nó. Chính điểm đó làm thằng Phàn phục tôi sát đất vì đám con gái trong xóm mê tôi như điên. Đứa nào đứa nấy thỉnh thoảng lại kiếm cớ tới gần tôi sờ mó chút đỉnh lấy hơi đàn ông, ngoại trừ con Hạnh. Con Hạnh chắc bị đạp trà trong nhà riết nên nó ngu hơn mấy đứa khác. Tới tuổi này rồi nó vẫn chỉ biết rờ trà chứ chưa biết rờ trai. Chính vì điểm đó làm tôi thích con Hạnh mặc dù đôi lúc nó ngu quá làm tôi phát bực. Thằng Phàn thì thích con Nga con ông Lạng bán rượu nên nó hay theo tôi nhờ tôi giúp nó một tay. Vừa cho tôi lên xe thằng Phàn đã xáp ngay lại hỏi chuyện con Nga. Chuyện cái mông con Nga tròn như trái gì? Chuyện vú con Nga bự như trái gì? Mấy câu hỏi của nó dễ ẹt. Cái gì chứ đàn bà với trái cây tôi rành lắm. Vừa trả lời nó tôi vừa bốc cơm rang nhá. Chưa xuống tới đèo hộp cơm đã hết nhẵn. Nhưng không sao, hôm nay tôi gặp may...

Sáng đi hái mây, chiều tôi đã về chòi nằm thảnh thơi trên giường ôm chai rượu đầy nhóc, thật thích. Nhưng có được chai rượu vẫn chưa thích bằng lúc đi mua rượu. Cái cảnh vừa mua rượu vừa được thối tiền sướng không chịu được. Trong túi tôi mấy đồng bạc cắc kêu leng keng. Sướng quá. Tôi móc túi moi tiền ra đếm. Một, hai, một, hai rồi lại một hai. Hai đồng tiền nguyên với một đống bạc cắc trong tay còn nặng hơn cả cây rựa tôi vác trên vai mỗi lần hái mây. Đếm đã tôi lồm cồm bò dậy. Tối nay tôi phải ra xóm chợ tìm ông già dẫn ổng đi ăn một bữa cháo vịt, hột vịt lộn rồi ngày mai sẽ tới nhà con Hạnh đưa cho ba nó chai rượu đế. Chai rượu này tôi đưa cho ông Hoạt coi như xin ổng cho tôi tán con Hạnh. Mai mốt tìm được chai rượu thứ hai tôi sẽ đưa luôn cho ổng để xin cưới nó. Nghĩ tới đó tôi cười rú lên. "Mày đúng là một thằng quỷ. Cười như vậy chỉ có quỷ mới làm được". Ông Lạng bán rượu không biết vô chòi từ lúc nào. Ổng đứng chàng hảng trước mặt tôi xỉa: "Cỡ mày mà đòi mua rượu của tao. Cái thằng..." Ổng chưa nói dứt câu tôi đã muốn phang cho ông ta cái chai. Nhưng nghĩ tới một hào tiền rượu tôi liền bỏ xuống. Cũng may, chưa kịp ra tay ổng đã tiếp tục nói. "Nhưng chắc Chúa thương xót mày nên cho mày được như ngày hôm nay". Có được ngày hôm nay nhờ Chúa, nhờ Phật, nhờ ai đó không biết nhưng tôi biết chắc một điều không phải nhờ ông Lạng. Vậy mà ông ta vẫn cứ lải nhải tiếp "Chúa không bao giờ bỏ sót ai ngay cả một thằng như mày. Hôm nay mày phải biết ơn ngài vì nhờ ân phúc của ngài mà mày được mời tới nhà tao ăn cơm…”

Cái gì? Tôi có nghe lộn không? Ông Lạng mà mời tôi ăn cơm? Đúng là chuyện khó tin. Từ lúc vô xóm tới giờ tôi chỉ biết ông Lạng pha nước vô rượu kiếm lời, ông Lạng liếm rượu rớt ra bàn để đỡ nghiền mặc dù rượu của ổng đầy hầm, hay ông Lạng chưa bao giờ dám bỏ tiền mua một chén bánh đúc mặc dù thèm nhỏ nước dãi chứ chưa bao giờ nghe ổng mời ai tới nhà ăn ngoại trừ cha cố... Vậy mà bữa nay chuyện khó tin có thật. “Còn cái áo nào tử tế thì tròng đầu vô rồi lại ngay đằng tao. Cha đang đợi mày.” Chưa dứt câu ông Lạng đã lủi mất. Khỏi cần chờ câu trả lời, ông ta biết thế nào tôi cũng tới. Không tới sao được, cơm “chùa” mà. Nhất là bữa cơm nhà ông Lạng bữa nay thế nào cũng có món thịt trăn. Con trăn bự vậy ổng bán làm sao hết. Thôi, bữa cháo vịt với ông già đành hẹn tối mai. Cháo vịt không ăn tối nay còn tối mai chứ mất bữa thịt trăn là bỏ lỡ dịp may cả một đời. Món thịt trăn làm tôi không nghĩ tới bất cứ điều gì khác cho đến lúc tôi tới quán rượu, thấy ông Lạng bà Lạng đang ngồi cạnh cha cố. Bà Lạng tay lần tràng hạt chắc lại đang tụng "Giê Su Ma Lạy Chúa Tôi" còn ông Lạng thì gầm gừ "Có ăn là có mày". Cha cố chỉ cái ghế bên cạnh biểu tôi ngồi xuống.

Đúng như lời tôi đoán, bàn dọn sẵn mấy món nhậu hấp dẫn. Mấy miếng lá ngổ trong cái dĩa xào kia nhất định là trăn xào lăn rồi. Còn mấy miếng thịt có vỏ quýt chắc chắn là chả trăn. Những món này tôi đã được nghe mấy thằng lơ xe nhắc tới nhưng chưa lần nào được nếm. Lần này tôi nhất định ăn cho đã đời nhưng sự có mặt của cha cố bên cạnh lại làm tôi lo lắng. Tôi biết sở dĩ trước đây cha cố hay được mới tới nhà ông Lạng ăn thịt chó là vì bà Lạng yêu kính Chúa và ông Lạng thì sợ vợ. Hôm nay có món thịt trăn đặc biệt, cha cố được mời tới ăn là điều tôi có thể hiểu được. Nhưng tại sao đã mời cha cố lại kêu thêm một thằng bụi đời? Con trăn bắt được dưới đèo tôi bán cho ông Lạng lấy tiền ổng đâu cần biết ơn.

Bữa tiệc thịt trăn nhớ đời ấy có tôi, cha cố, vợ chồng ông Lạng và con Nga. Tôi ngồi giữa cha cố và ông Lạng. Phía đối diện con Nga ngồi chồm hổm bên mẹ nó vẫn lần tràng hạt. Mấy miếng chả trăn trộn vỏ quýt tỏa mùi thơm ngạt mũi. Cha cố khai trương bữa đại tiệc. Ngài trịnh trọng nói: "Vinh danh Chúa đã cho chúng con được bữa ăn ngon như hôm nay. Xin Chúa nhủ lòng thương cậu trai trẻ đang ngồi bên cạnh con và xin ngài soi sáng đường cho cậu ta về với ngài". Cha cố nói tới đó thì tôi hiểu. Té ra ngài muốn nhờ thịt trăn để tôi có thể về với Chúa sớm hơn. Trong lúc tôi còn đang mơ màng về cảnh một ngày nào đó sẽ theo cha cố vào nhà thờ rửa tội và theo ngài phụng sự Chúa thì cả bàn đã ra tay làm dấu thánh giá. Mọi người làm dấu nhanh và gọn trừ con Nga. Dấu thánh giá nó làm, xin lỗi Chúa, sexy lạ kỳ. Mỗi lần tay nó đưa lên đưa xuống tôi lại nín thở chờ coi cặp vú của nó có rớt ra không? Nhưng cho tới lúc bà Lạng trịnh trọng khui chai rượu đổ vào ly cha cố và rượu sắp tràn cả ra ngoài thì ngực con Nga vẫn nằm yên trong áo. Mặc dù nó không mặc xú chiêng và hơn nửa cặp vú đã lộ hẳn ra ngoài tôi vẫn thấy tức tối. Cảm giác tò mò làm tôi khó chịu. Giá nó mặc cái áo choàng có cổ kín bưng như cha cố lại hay hơn.

Cha cố đưa tay gắp một miếng thịt trăn xào lăn bỏ vào chén của tôi, ngài ân cần: "Ăn đi con. Ăn cho no rồi mai mốt theo cha phụng sự chúa". Tôi cảm động đưa tay bốc miếng thịt bỏ vào miệng nuốt không kịp nhai. Ông Lạng đưa tay hích vào hông tôi đau điếng: "Thằng Quỷ thịt trăn chứ có phải nước đâu mà mày nuốt trọng." Đau quá tôi quên mất có cha cố ngồi bên cạnh và bà Lạng đang lần tràng hạt, tôi chửi: "Địt mẹ, miếng thịt trăn nhỏ bằng đầu tăm không đủ dính răng lấy gì nhai?" Phía bên kia con Nga cười khặc khặc ra vẻ ủng hộ còn mẹ nó lại thốt lên: "Giê Su Ma Lạy Chúa Tôi". Cha cố vỗ vào hông tôi: "Ăn từ từ con. Còn nhiều lắm không cần phải nuốt trọng. Nuốt trọng coi chừng chết nghẹn thì nguy". Tôi cố tình đưa tay với miếng thịt lớn nhất bỏ vào bát cha cố để tỏ lòng biết ơn ngài đã lên tiếng bênh vực. Gắp xong tôi dơ tay với miếng chả trăn to nhất để trước mặt mình. Trong bóng tối hai con mắt ông Lạng long lên sòng sọc. Bên cạnh tôi cha cố nhai từ tốn chậm rãi. Con Nga không ăn. Hình như nó cố tình rót rượu đổ đầy tay rồi đưa lên miệng nút chùn chụt. Con quỷ. Người cần được chúa dẫn đường soi sáng là nó chứ không phải là tôi. Bà Lạng ngồi một bên thỉnh thoảng rón rén gắp thịt chêm thêm vào bát cha cố. Bà ấy cũng không ăn vì lần tràng hạt thôi cũng đã đủ no. Chỉ tội nghiệp ông Lạng. Ổng nuốt nước miếng ực ực rình mò đếm từng miếng, tuyệt nhiên không dám động đũa vào bất cứ miếng thịt nào. Tôi cắn một miếng chả trăn nhai ngồm ngoàm. Ngon thiệt.

Đợi tôi nuốt xong miếng chả cha cố lên tiếng:

"Con trai, con nghĩ sao?"

"Thưa cha, rất tuyệt".

Câu trả lời lịch sự duyên dáng của tôi không làm cha hài lòng.

"Không con trai. Cha không hỏi con về thịt trăn. Thịt trăn dĩ nhiên là ngon rồi. Điều đó cha biết. Cha muốn hỏi con chừng nào con mới theo cha vô nhà thờ làm lễ rửa tội?" Cha cố kiên nhẫn hỏi lại lần nữa.

Bà Lạng vừa rót rượu vô ly cha cố vừa căng mắt nhìn tôi chờ câu trả lời trong khi đó tôi đang dòm con Nga. Cái cổ nó vểnh lên, cặp mắt đảo qua đảo lại làm tôi rùng mình nghĩ tới con trăn... "Cây rựa trong tay tôi vung ra những nhát chém liên tiếp vào bụi mây. Bụng no, gặp được bụi mây lớn tôi chặt quên cả mệt mỏi. Những nhát chém chắc nịch, mây ngã rạp trên mặt đất. Cho tới lúc tôi chặt trúng một ổ mối nằm giữa bụi mây. Ổ mối khổng lồ, chiều cao ngang bằng tầm ngực được bụi mây rậm rạp lâu năm che khuất. Mây mọc ngang dọc qua ổ mối. Dây nào dây đó to gấp ba bốn lần dây mây bình thường. Có dây đã ngả sang màu nâu sậm, chứng tỏ bụi mây đã già lắm. Thứ này mà bán cho mấy bà thầu thì khỏi chê. Tôi nhằm tổ mối chặt xuống liên tục. Mây đứt cùng lúc tổ mối cứng như đá cũng bị bể. Mối trong tổ ùa ra nhưng chúng không chạy được xa. Con nào cũng bị tôi chém nát nhừ. Xác mối bê bết trên lưỡi rựa. Cho tới lúc tôi thấy được một dây mây bên trong tổ mối. Trong mấy tháng trời đi hái mây tôi chưa bao giờ thấy được dây mây nào bự như vậy. Đứng ở ngoài nhìn vô cái chỗ hổng của tổ mối tôi vẫn có thể thấy được màu nâu bóng láng của dây mây. Thứ này nhất định là loại mây quý nhất rồi. Giơ cây rựa lên tôi vung hết sức bình sinh giáng xuống. Máu. Máu phọt ra xối xả. Cây rựa dính đầy máu, tôi loạng choạng. Rồi không biết gì nữa, tôi cứ giơ cây rựa lên phang xuống, phang... Phang cho tới lúc tôi dục cây rựa, ôm ngực lùi lại. Máu tràn lan trên mặt đất lổn ngổn mối. Đám mây gãy nát trộn lẫn những miếng thịt bị băm vằm. Thịt con trăn. Xác con trăn đứt đoạn, máu chảy như suối. Mùi tanh tưởi ngập ngụa..."

"Con trai con đang nghĩ gì vậy"

Giữa lúc toát mồ hôi vì nhớ lại chuyện con trăn, tiếng cha cố làm tôi giật mình: "Thưa cha, con đang nghĩ về con trăn".

"Thế à? Con trăn, con trăn làm sao? Làm thế nào con đã bắt được nó, kể cho cha nghe với con".

"Thưa cha, con bắt con trăn bằng hai tay không?"

Cha cố hỏi dồn dập:

"Sao con, con bắt con trăn bằng tay không à? Con trăn bự thế kia".

"Giê Su Ma Lạy Chúa Tôi".

Tiếng kêu thảng thốt của bà Lạng làm tôi lấy lại hứng khởi. Tôi cố tình nói lại một lần nữa để con Nga nghe cho rõ: "Vâng thưa cha, bằng tay."

Tới lúc này ông Lạng cũng chen vô: "Mày bắt con trăn bằng tay sao xác nó bị băm vằm mảy. Mày dám nói láo trước mặt Chúa, Chúa sẽ băm vằm mày ra thành từng khúc. Thằng quỷ".

Nghe ông Lạng nói sẽ bị Chúa băm vằm thành từng khúc tự nhiên tôi cũng thấy sợ, mặc dù tôi nói láo cũng thường như ăn cơm. Nhưng kìa, con Nga đang tròn mắt nhìn tôi thán phục và chờ đợi. Thà bị Chúa bằm còn hơn bị con trăn sống kia nuốt chửng. Tôi vớ lấy ly rượu, nốc một hơi cạn, tiếp tục ba hoa về trận đại chiến với con trăn khổng lồ. Nào là trăn ngước cao đầu đe doạ, tôi phải đấu công lực bằng mắt. Nào con trăn quăng mình lên tấn công tiếng kêu xé gió. “Thằng chó, mày phét lác vừa vừa. Cái gì mà xé gió.” Ông Lạng kê tủ đứng. Ăn thua gì, tôi làm bộ thương hại. “Thì gió chớ sao -tôi quay sang cha cố- thưa cha, cha có nghe nói về giống trăn gió không? Vù một cái, nó quấn quanh mình con. Con phải lấy tay ghìm chặt cái xổ nó. Nó khỏe khủng khiếp nhưng cuối cùng cũng bị con bóp nghẹt thở chết. Xác con trăn to thế kia cha coi không chặt nó thành từng khúc làm sao mang về tới đây được".

Trận đại chiến xà tinh hấp dẫn quá. Bà Lạng không ngừng "Giê Su Ma Lạy Chúa Tôi". Cha cố gật gật, nhai nhai. Rượu tiếp tục tràn ly và tôi tiếp tục nốc cạn. Ông Lạng gầm gừ trong cuống họng. Bên kia con Nga rướn cái cổ càng ngày càng dài... dài, dài hơn nữa. Cái đầu nó in hệt khúc trăn tôi dục lại dưới đáy vực sáng nay. Khúc đầu con trăn. Cái đầu bầy nhầy, chỉ còn vỏn vẹn hai con mắt nguyên vẹn. Hai con mắt nhìn thẳng vào mặt tôi như muốn ăn tươi nuốt sống, hệt như hai con mắt của con Nga đang trợn trừng chiếu thẳng vào tôi.

Tôi gục xuống bàn ói thốc tháo. Thịt trăn theo nhau tuôn ra hôi thối. Đầu óc tôi quay cuồng choáng váng. Trong cơn mê tôi thấy con Nga hiện hình thành một con trăn sống bay thẳng vào tôi. Nó quấn lấy cổ tôi. Quấn xuống ngực. Quấn xuống bụng. Con Nga. Con trăn sống. Nó đang xiết chặt tôi, đòi mạng...

Giúp con. Cứu con. Cha cố ơi! Chúa ơi!

Tôi nghe tiếng kêu “Giê Su Ma, Giê Su Ma” xa dần, xa dần. Không ai giúp tôi hết.

12 câu chuyện của những người chăn vịt.(trích chuyện thứ 1)

Thường thì họ dần trở về vào lúc mặt trời vừa chìm xuống sau rặng dừa phía bên kia sông. Tiếng vịt kêu cạp cạp vang động cả vùng đồng bưng. Nước ngập trắng xóa chỉ sau vài trận mưa lớn. Trước đó vài hôm, họ đã kéo nhau đến đây và bắt tay vào việc cắm lều rải rác trên gò đất khô ráo, rộng chừng một công đất, lổm chổm gốc trâm bầu. Và sau hai tháng họ lại cuốn lều để lùa vịt đến một vùng khác, hứa hẹn có nhiều thức ăn cho lũ vịt của họ hơn.

Đống lửa lớn được đốt lên khi màn đêm vừa buông xuống. Tất cả bọn họ, chừng 12 người, ngồi xung quanh đống lửa, vừa nốc rượu tì tì, vừa nghêu ngao ca mấy câu vọng cổ. Đên khi ngấm rượu, cứ thế, họ ôm nhau nhảy nhót, đầu lắc lư, miệng thì rên rỉ không theo một giai điệu nào. Tiếng ghi ta bập bùng, lan lan trên sóng nước trong cái niểng đầu ngơ ngác của lũ vịt hiếu kỳ, lặng lẽ đón xem những chủ nhân của chúng chơi cái trò gì.

Ca hát, nhảy nhót chán, họ xoay qua chia nhóm chơi tú lơ khơ hoặc đô-mi-nô. Sau những ván bài thường kết thúc bằng những trận cãi vã inh ỏi, thậm chí có đôi lần họ xông vào đánh nhau. Khi ấy viên sĩ quan mới đằng hắng, ậm ừ lên tiếng can thiệp. Ở mỗi cuộc vui, ông đều cố giấu mình vào nơi gốc cây nào đó, ngồi dựa ngửa với bình rượu nhỏ trên tay, âm thầm nhìn đám người kia vui đùa. Trông theo tạng người, hình như ông ta lớn tuổi nhất bọn, cho nên không bầu bán gì, đám người kia lúc nào cũng coi ông là thủ lĩnh của họ. Ông chỉ cần lên tiếng một cái là mọi chuyện đâu lại vào đó. Vả lại, họ cũng nể vì biết ông đã từng tham gia đánh Mỹ và cũng anh hùng ra trò ở biên giới Tây Nam. Còn ngoài ra, giữa họ, họ chẳng biết gì về đời tư của nhau ngoài chút thông tin về anh ấy, quê quán ông ấy ở đâu mà thôi. Họp mặt mỗi năm vào mùa lùa vịt đi ăn đồng xa thường thì có thêm vài gương mặt mới, mất đi vài gương mặt cũ. Chỉ riêng viên sĩ quan là kỳ cựu nhất bởi lẽ ông là người đầu tiên cắm cọc lều trên gò đất hoang này.

Đêm ở đồng bưng toàn gió là gió và chỉ có độc mùi lông vịt phảng phất. Viên sĩ quan húng hắng ho, kéo lại vạt áo choàng vừa bị gió giật tung hàng cúc. Đoạn ông đứng dậy và đến bên bếp lửa để sưởi. Ông liếc qua mấy gương mặt đỏ bừng vì men rượu, những cái nhíu mày của mấy con bạc đang sát phạt nhau, những bàn chân đầy bùn và lông lá đang nằm gác chổng kềnh cùng những tiếng ngáy vang như sấm.

- Vậy hoài không phải là cách tốt đâu - Viên sĩ quan vỗ tay bồm bộp để thu hút sự chú ý của mọi người - Đánh bạc để rồi tự gây nợ nần cho nhau ư? Thế thì tội gì phải lặn lội cho khổ cực tấm thân, ở nhà giặt đồ cho vợ có đúng hơn không?

- Buồn quá mà, thiếu tá ! - Một cái chân đang ngủ bỗng cục cựa.

- Tôi có ý này. Tụi mình xúm lại kể chuyện nghe chơi. Chuyện gì cũng được. Ai kể chuyện gì cũng được, miễn có chữ trong đầu là cứ phun hết ra.

Một cánh tay giơ lên:

- Em xin có ý kiến, thiếu tá !

- Gì ?

- Vừa nghe kể chuyện vừa lai rai được không ?

- Được thôi, nhưng uống cũng phải biết chừa lỗ chui vào mà ngủ.

- Em chưa có vợ, cũng chưa biết đàn bà con gái là sao. Ở đây có anh nào biết rồi thì kể chuyện ở truồng cho em biết với.

Cả bọn cười ầm lên khiến gã trai tơ vừa phát biểu phải sượng đỏ mặt mày. "Cũng được luôn" - Viên sĩ quan cười phụ họa - " Giờ ai xung phong trước? Sáu Bé mở màn cho xôm tụ cái coi! Chưa nghĩ ra chuyện gì à? Hay thằng Út Tía Lia đi, tao thấy mày nói chuyện cũng có duyên đó! Cũng đêm sau à? À, quên. Chuyện của ai được cả chúng ta chọn là đắc địa nhất thì cuối đợt thả vịt, mỗi người còn lại cùng góp tiền tổ chức tiệc để đãi. Giờ ai mở màn đây?

Một bóng người nhỏ con đứng lên. Gương mặt anh ta ẩn trong bóng tối.

*

* *

Chuyện thứ nhất của những người chăn vịt:

"Tôi vừa lợp xong tấm lá cuối cùng trên mái nhà thì trời đổ mưa. Lúc đó vào độ xế chiều, mưa cứ thế rỉ rả suốt mấy ngày liền.

Đó cũng là cái ngày đầu tiên tôi đặt chân đến vùng đồng bằng này lập nghiệp. Trước đó, vợ chồng tôi làm nghề biển ở thị trấn Đất Đỏ. Làm ăn khó quá, vợ chồng tôi gom góp hết vốn liếng rồi nuốt nước mắt từ biệt quê nhà, để ông trời đưa mình tới đâu thì tới."

- Làm ơn nói lớn lên một chút đi, Bảy! - Viên sĩ quan xen vào.

- Vầy mà nhỏ lắm sao? - Bảy húng hắng ho và đưa mắt nhìn xung quanh. Đoạn, anh ta kể tiếp:

"Mấy ngày đầu, những trận mưa dài ở miền Tây khiến tôi buồn thúi ruột. Lúc nào cũng nghe một thứ âm thanh rào rào ấy rơi đều trên mái lá. May mà vợ chồng tôi kịp dựng tạm căn chòi nhỏ để che nắng che mưa chứ nếu không cũng chẳng biết tá túc vào đâu. Xung quanh đó chỉ là một cánh đồng nằm trống lốc, nhìn mút tầm mắt mới thấy thấp thoáng một căn nhà, mà không biết phải nhà thật không hay chỉ là ảo giác do mình sinh ra. Trong cô đơn con người dễ bị ảo giác. Vợ tôi nói: "Kệ, có đất dung thân là sướng rồi. Ai bảo mình nghèo". Rồi cô ấy ra đồng, làm quần quật như một nhà nông thứ thiệt chứ không còn vẻ gì của một người chạy chợ nữa. Năm ấy hả? À, đâu như khoảng 83 hay 84 gì đó.

Tôi sợ nhất những cơn mưa rơi vào lúc xế chiều. Bầu trời ở vào những lúc ấy thường mang vẻ mặt ảm đạm, nặng nề, dường như muốn hút hết không khí đi. Ước mơ duy nhất của vợ chồng tôi ở vào tình cảnh ấy là chỉ cần có gia đình lân cận nào đó để trở thành hàng xóm của nhau. Họ giàu hay nghèo gì mặc kệ, miễn tối lửa tắt đèn có nhau.

Mưa ở vùng đồng hoang dường như có sự rên rỉ của ma quỷ. Nó cứ rên rĩ, rên rĩ như oán than ai đó, khiến đất cũng dần bốc mùi hôi thối, còn đám cỏ năn bị đè bẹp cả xuống nước. Trò chơi của vợ chồng tôi khi đó là bó gối ngồi nhìn đám bong bóng mưa nhảy nhót. Sao hả? Đầu óc thằng em mầy toàn nghĩ chuyện bậy bạ. "Mẹ họ, phương Nam cây trái ngọt lành, đầy tôm cá là vầy đây sao !" - Tôi cằn nhằn trống không, lòng thầm nhớ về quê biển Vũng Tàu. "Đâu phải chỗ nào đất cũng tốt hết đâu, mình phải ráng làm đất mới trả công cho mình chứ. Anh cứ ngồi đó mà than dài thở vắn" - Vợ tôi nói cứng, y như tính khí của cô ấy hồi còn làm quân y ở R.

Cuộc sống bình lặng của vợ chồng tôi cứ thế trôi đi, hết nắng, đến mưa, ra đồng, về nhà, sẫm tối nằm vắt chân nhau nghe thời sự để khỏi lạc hậu tình hình. Nước Mỹ thì ở xa nhưng chất độc màu da cam thì ở rất gần với chúng tôi. Thi thoảng chừng mươi mười ngày, vợ tôi mới cuốc bộ đến chợ xã, cách đó chừng năm cây số, để mua sắm vài thứ dành cho nghề nông hoặc cây kim, sợi chỉ, xoang nồi… Đồng phèn lúa chưa sống nổi nhưng thức ăn thì đầy dưới mặt nước. Đó là hàng đàn cá rô, cá sặt, lia thia, bãi trầu… nhưng là những con cá có bộ dạng quái dị, trông vẫn sợ nhưng rồi thịt cá vẫn là thịt cá, vẫn ngon không làm chết chóc ai.

Nếu không có chuyện tiếng gà cất lên đột ngột vào một buổi trưa cách đây đúng 13 năm thì có lẽ bây giờ tôi vẫn ở chỗ cũ, vui thú chuyện đồng áng chứ không phải sống kiếp theo chân lũ vịt rày đây mai đó như bây giờ.

Mấy anh em đã nghe tôi kể ở đầu câu chuyện rồi đó, nhà tôi ở cheo leo giữa đồng năn, đi bộ chừng hơn một giờ đồng hồ mới gặp một căn nhà khác. Trời ơi, nó hoang vu đến rợn người, thậm chí thèm nghe một tiếng chim, một tiếng chó sủa vu vơ cũng không có mà nghe.

Trở lai chuyện mà tôi muốn kể cách đây 13 năm, thú thật, nhắc lại chuyện này tôi hãy còn rùng mình, rởn óc.

Thoạt đầu, đang nằm trên bộ vạc tre chờ tạnh mưa để ra xem lại đám lúa nếp, bất chợt tôi nghe từ xa vọng lại tiếng gà. Tiếng cục ta, cục tác văng vẳng trên cánh đồng năn nghe thật eo óc. Tôi mừng rỡ ngồi dậy, thầm nghĩ có gia đình nào mới dọn đến ở gần mà tôi không hay. Trong đơn độc, con người thường có nhu cầu tìm đến đồng loại là như vậy đó. Tôi định bụng báo tin vui ấy với vợ nhưng thấy cổ còn ngủ say, nên thôi.

Khoác tấm vải mủ, tôi băng qua khoảng sân váng phèn lần theo hướng tiếng gà phát ra. Đồng hoang phủ màu xám xịt. Đất dưới chân nhơm nhớp sình. Tôi men theo bờ mẫu mọc đầy cây cứt mèo và hoa chùm hôi. Tiếng gà vẫn cục tác, cục tác trôi trong buổi chiều mưa ẩm ướt và lạnh. Tôi căng mắt ra nhìn, nhưng qua màn mưa trắng đục, tiếng gà như còn xa lắm. Đã đi đến đây chẵng lẽ quay về nên tôi liền hăm hở đi tiếp.

Cho đến lúc tôi không còn nghe tiếng gà kêu phía trước mặt mà hình như bây giờ nó lại phát ra phía bên phải tôi. Tôi nghĩ rằng mình đã đi trật hướng do phải bám theo bờ mẫu cho nên tôi quyết định băng qua cánh đồng cỏ. Sự lười biếng cố hữu trong tôi chợt như tan biến khi tôi cho rằng tiếng gà kia như cố tình thách thức tôi. Tôi nhất quyết phải tìm cho ra gia đình có nuôi con gà mái đẻ ấy.

Cái xám xịt của mưa và cái sẫm tối của một ngày chúng hòa quyện nhau tự bao giờ tôi cũng không hay, cho đến khi tôi chợt nảy ra ý nghĩ là mình phải quay về nhà. Màn đêm rắn rết sẽ bắt đầu cho công việc kiếm ăn của chúng. Lúc đó hầu như tôi cũng quên bẵng mục đích của mình là đi tìm ra nơi phát ra tiếng gà. Tôi quay lưng đi, à mà không, tôi chạy thì đúng hơn. Chạy theo thói quen của người đã sống hai, ba năm trên vùng đất quen thuộc, thậm chí nhắm mắt lại tôi chạy cũng không chệch hướng.

Vợ tôi đứng chờ nơi cửa. Gương mặt cô ấy tái nhợt dưới ánh đèn dầu:

"Mưa gió mà anh đi đâu vậy?".

"Gặp người quen ở đằng kia, ông ấy kéo về nhà uống trà chơi. Tuốt bên khu vườn mía phía đồng tranh" - Tôi nói dối, giả vờ giũ giũ tấm vải mũ cho ráo nước.

"Em không thể tưởng tượng là anh có bạn quen ở đây chứ?" - Vợ tôi nheo mắt - "Mà thôi. Ở nhà có chuyện lạ lắm".

"Gì?".

"Em lượm đựơc một cái trứng gà dưới chỗ mình ngủ, dưới bộ vạc ấy".

"Tưởng gì. Chắc là em làm rớt rồi quên chứ gì. Chiều nay cho anh ăn món gì đây?".

"Hơn một năm rồi em đâu có mua trứng gà. Mình chỉ lượm trứng cút về ăn thôi".

"Mấy con cá trê rộng hôm qua em tính chiên hay nướng? Anh nghĩ chiên thì ngon hơn. Hong gió tấm vải mũ giùm anh cái!".

"Chiên? Nhưng cả năm rồi em không mua trứng gà?".

"Rau muống anh lặt sẵn hồi trưa, ngâm trong thau, em luộc chưa?".

"Rồi" - Cô ấy nhăn nhó - "Em không hề mua một cái trứng nào".

"Anh biết…".

Tôi vòng qua chái nhà, dội nước mưa ào ào. Vợ tôi vẫn dai dẳng bám theo, trên tay cầm chiếc khăn lau màu cháo lòng: "Nó toàn là đất, anh à!" - Cô ấy nói nhưng tôi vẫn nghĩ cô ấy nói về cái khăn - "Em đi chợ mà không chịu mua cái khăn khác cho sạch một chút. Em thiệt là…" - Tôi cằn nhằn, đầu lắc qua lắc lại để giũ những giọt nước mưa đọng trên tóc. Cô ấy nhìn tôi lạ lẫm. Hết nhìn tôi cô ấy lại nhìn đến cái khăn, rồi như chợt hiểu cô ấy bật cười: "Em không nói cái khăn. Là em nói về cái trứng gà lượm được dưới bộ vạc kia. Em đập thử, bên trong nó toàn là đất. Thêm cái lạ nữa là hồi trưa em nằm chiêm bao. Em thấy tụi mình về nhà ba má em ở Xuyên Mộc. Ba má mừng lắm, lâu quá rồi tụi mình không về còn gì. Ba má

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro